Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi II – Phẩm Tăng Tàn

2. Saṅghādisesakaṇḍaṃ
2. Chương Tăng Tàn

1. Sukkavissaṭṭhisikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải Thích về Điều Học Xuất Tinh

Idāni pārājikasaṃvaṇṇanāsamanantarā yā terasakādisaṃvaṇṇanā samāraddhā, tassāpi –
Bây giờ, ngay sau phần giải thích về các tội Bất Cộng Trụ là phần giải thích về mười ba điều và các điều khác đã được bắt đầu, và đối với phần ấy cũng vậy –

Anākulā asandehā, paripuṇṇavinicchayā;
Không rối rắm, không nghi ngờ, có sự quyết đoán trọn vẹn;

Atthabyañjanasampannā, hoti sāratthadīpanī.
Trọn vẹn về ý nghĩa và văn tự, đó là bộ Sāratthadīpanī.

Terasakassāti terasa sikkhāpadāni parimāṇāni assa kaṇḍassāti terasakaṃ, tassa terasakassa kaṇḍassāti attho.
Của mười ba điều có nghĩa là chương này có số lượng là mười ba điều học, do đó được gọi là ‘mười ba điều,’ (và câu trên có nghĩa là) của chương có mười ba điều ấy.

234.Anabhiratoti aññattha gihibhāvaṃ patthayamāno vuccati, idha pana kāmarāgavasena ukkaṇṭhitatāya vikkhittacittatāya samannāgato adhippetoti āha vikkhittacittotiādi.
234.Không hoan hỷ được nói đến là người đang mong muốn đời sống tại gia ở một nơi khác, tuy nhiên ở đây lại có ý muốn nói đến người có tâm bị phân tán do sự bức bối bởi lòng tham dục. Do đó, (chú giải) đã nói là có tâm bị phân tán và các điều khác.

236-237.Sañcetanikāti ettha saṃ-saddo vijjamānatthatāya sātthakoti dassento āha saṃvijjati cetanā assāti. Tattha cetanāti vītikkamavasappavattā pubbabhāgacetanā. Assāti sukkavissaṭṭhiyā. Imasmiṃ vikappe ika-saddassa visuṃ attho natthīti āha sañcetanāva sañcetanikāti. Idāni saṃ-saddassa atthaṃ anapekkhitvā ika-saddova assatthiatthaṃ pakāsetīti dassento sañcetanā vā assā atthīti sañcetanikāti dutiyavikappamāha. Saṃvijjati cetanā assāti padabhājane vattabbe byañjane ādaraṃ akatvā jānantotiādi vuttaṃ. Upakkamāmīti jānantoti mocanatthaṃ upakkamāmīti jānanto.
236-237.Về từ ‘Có chủ ý,’ ở đây, để chỉ ra rằng tiếp đầu ngữ ‘saṃ-’ có nghĩa là ‘hiện hữu,’ (chú giải) nói rằng: ‘chủ ý hiện hữu ở nơi việc ấy.’ Trong ấy, ‘chủ ý’ là chủ ý ở giai đoạn đầu đã diễn tiến theo sự vi phạm. ‘Của việc ấy’ có nghĩa là của việc xuất tinh. Trong cách giải thích này, do không có ý nghĩa riêng biệt cho hậu tố ‘ika,’ (chú giải) nói rằng: ‘có chủ ý (sañcetanā) chính là có chủ ý (sañcetanikā).’ Bây giờ, để chỉ ra rằng không xét đến ý nghĩa của tiếp đầu ngữ ‘saṃ-,’ chỉ riêng hậu tố ‘ika’ đã biểu thị ý nghĩa ‘sở hữu,’ (chú giải) đã nêu lên cách giải thích thứ hai là: ‘hoặc có chủ ý ở nơi việc ấy, nên gọi là có chủ ý.’ Đáng lẽ trong phần phân tích từ ngữ phải nói là ‘chủ ý hiện hữu ở nơi việc ấy,’ nhưng do không chú trọng đến văn tự nên đã nói là ‘biết rõ’ và các điều khác. ‘Biết rõ rằng ta đang cố gắng’ có nghĩa là biết rõ rằng ta đang cố gắng với mục đích làm cho xuất ra.

Āsayabhedatoti pittādiāsayabhedato. Buddhapaccekabuddhānampi hi raññopi cakkavattissa pittasemhapubbalohitāsayesu catūsu aññataro āsayo hotiyeva, mandapaññānaṃ pana cattāropi āsayā honti. Dhātunānattatoti pathavīdhātuādīnaṃ catunnaṃ dhātūnaṃ, cakkhādīnaṃ vā aṭṭhārasannaṃ dhātūnaṃ, rasasoṇitādīnaṃ vā dhātūnaṃ nānattato.
Do sự khác biệt về nơi chứa có nghĩa là do sự khác biệt về nơi chứa mật và các thứ khác. Thật vậy, ngay cả các đức Phật và các vị Phật Độc Giác, và cả đức vua Chuyển Luân Vương cũng chỉ có một trong bốn nơi chứa là nơi chứa mật, đàm, mủ, và máu. Tuy nhiên, những người kém trí tuệ thì có cả bốn nơi chứa. Do sự khác biệt về các giới có nghĩa là do sự khác biệt của bốn giới là địa đại và các giới khác, hoặc của mười tám giới là nhãn giới và các giới khác, hoặc của các giới là huyết tương, máu, và các giới khác.

Vatthisīsanti vatthipuṭassa abbhantare matthakapassaṃ. ‘‘Rāga…pe… asakkonto’’ti rāgapariyuṭṭhānaṃ sandhāya vuttaṃ. Rājā pana ‘‘sambhavassa sakalakāyo ṭhāna’’nti sutapubbattā vīmaṃsanatthaṃ evamakāsīti vadanti. Dakasotanti muttamaggaṃ, aṅgajātappadesanti vuttaṃ hoti. Dakasotorohaṇato paṭṭhāya pana upādinnato vinimuttatāya sambhave utusamuṭṭhānameva rūpaṃ avasissati, sesaṃ tisamuṭṭhānaṃ natthīti veditabbaṃ. Āpodhātuyā santānavasena pavattamānāya avatthāviseso sambhavo, so catusamuṭṭhāniko aṭṭhakathāyaṃ catusamuṭṭhānikesu sambhavassa vuttattā. So pana soḷasavassakāle uppajjati, tassa rāgavasena ṭhānācāvanaṃ hotīti vadanti, tasmā yaṃ vuttaṃ kathāvatthuaṭṭhakathāyaṃ ‘‘sukkavissaṭṭhi nāma rāgasamuṭṭhānā hotī’’ti, taṃ sambhavassa ṭhānācāvanaṃ sandhāya vuttanti veditabbaṃ, na pana sambhavo cittasamuṭṭhānoyevāti dīpetuṃ, teneva tattha vissaṭṭhiggahaṇaṃ kataṃ. ‘‘Khīṇāsavānaṃ pana brahmānañca sambhavo natthī’’ti ācariyadhammapālattherena vuttaṃ, tasmā yaṃ vuttaṃ kathāvatthuaṭṭhakathāyaṃ (kathā. aṭṭha. 307) ‘‘tāsaṃ devatānaṃ sukkavissaṭṭhi nāma natthī’’ti, tampi ṭhānācāvanaṃ sandhāya vuttanti gahetabbaṃ, na pana devatānaṃ sabbaso sambhavassa abhāvaṃ sandhāya. Channampi pana kāmāvacaradevatānaṃ kāmā pākatikāyeva. Manussā viya hi te dvayaṃdvayasamāpattivaseneva methunaṃ paṭisevanti, kevalaṃ pana nissandābhāvo tesaṃ vattabbo. Taṅkhaṇikapariḷāhavūpasamāvahaṃ samphassasukhameva hi tesaṃ kāmakiccaṃ. Keci pana ‘‘cātumahārājikatāvatiṃsānaṃyeva dvayaṃdvayasamāpattiyā kāmakiccaṃ ijjhati, yāmānaṃ aññamaññaṃ āliṅganamattena, tusitānaṃ hatthāmasanamattena, nimmānaratīnaṃ hasitamattena, paranimmitavasavattīnaṃ olokitamattena kāmakiccaṃ ijjhatī’’ti vadanti, taṃ aṭṭhakathāyaṃ paṭikkhittaṃ tādisassa kāmesu virajjanassa tesu abhāvato kāmānañca uttaruttari paṇītatarapaṇītatamabhāvato.
Phần đầu của bàng quang là phần bên trên ở bên trong của túi bàng quang. Câu ‘Dục… cho đến… không có khả năng’ được nói đến liên quan đến sự ám ảnh của lòng tham ái. Người ta nói rằng, còn đức vua, vì trước đây đã nghe rằng ‘toàn thân là nơi (phát sinh) của tinh dịch’ nên đã làm như vậy với mục đích dò xét. Dòng nước là đường tiểu, có nghĩa là đã nói đến vùng sinh thực khí. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng kể từ khi (tinh dịch) đi xuống theo dòng nước, do đã thoát khỏi sự chấp thủ nên ở trong tinh dịch chỉ còn lại sắc do thời tiết sanh, phần còn lại (sắc) do ba nguồn sanh là không có. Tinh dịch là một trạng thái đặc biệt của thủy đại đang diễn tiến theo dòng tương tục, nó có bốn nguồn sanh vì trong chú giải, tinh dịch đã được nói đến trong nhóm (sắc) có bốn nguồn sanh. Người ta nói rằng nó phát sanh vào lúc mười sáu tuổi và sự di chuyển khỏi vị trí của nó là do lòng tham ái. Do đó, cần phải hiểu rằng điều được nói trong Chú giải Ngữ Tông rằng: “việc xuất tinh gọi là có tham ái là nguồn sanh” là được nói đến liên quan đến sự di chuyển khỏi vị trí của tinh dịch, chứ không phải để chỉ ra rằng tinh dịch chỉ có tâm là nguồn sanh; chính vì vậy, ở đó mới dùng từ ‘xuất.’ Trưởng lão Giáo thọ sư Dhammapāla đã nói rằng: “Còn đối với các vị lậu tận và các vị Phạm thiên thì không có tinh dịch.” Do đó, điều được nói trong Chú giải Ngữ Tông (Kathā. aṭṭha. 307) rằng: “Đối với các vị chư thiên ấy, không có cái gọi là sự xuất tinh,” cũng cần được hiểu là nói đến sự di chuyển khỏi vị trí, chứ không phải nói đến sự hoàn toàn không có tinh dịch ở các vị chư thiên. Tuy nhiên, đối với sáu cõi chư thiên Dục giới, các dục vọng của họ vẫn là tự nhiên. Thật vậy, họ hành dâm theo cách giao hợp đôi lứa giống như loài người, chỉ có điều sự không có việc xuất tinh của họ là điều cần được biết. Thật vậy, hành vi ái dục của họ chỉ là lạc thú do sự tiếp xúc mang lại sự lắng dịu cơn nóng bức nhất thời. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “Chỉ ở cõi Tứ Đại Thiên Vương và Đao Lợi, hành vi ái dục mới được thành tựu bằng cách giao hợp đôi lứa; ở cõi Dạ Ma, chỉ bằng cách ôm nhau; ở cõi Đâu Suất, chỉ bằng cách nắm tay; ở cõi Hóa Lạc, chỉ bằng cách mỉm cười; ở cõi Tha Hóa Tự Tại, chỉ bằng cách nhìn nhau là hành vi ái dục được thành tựu.” Điều này đã bị bác bỏ trong chú giải, vì ở họ không có sự nhàm chán đối với các dục như vậy và vì các dục ngày càng trở nên cao thượng và cao thượng hơn nữa.

Tathevāti ‘‘mocanassādena nimitte upakkamato’’tiādiṃ atidisati. ‘‘Vissaṭṭhīti ṭhānato cāvanā vuccatī’’ti vuttattā dakasotaṃ otiṇṇamatteti kasmā vuttanti āha dakasotorohaṇañcetthātiādi. Etthāti tīsupi vādesu. Adhivāsetvāti nimitte upakkamitvā puna vippaṭisāre uppanne adhivāsetvā. Antarā nivāretunti ṭhānato cutaṃ dakasotaṃ otarituṃ adatvā antarā nivāretuṃ. Tenāha – ṭhānā cutañhi avassaṃ dakasotaṃ otaratīti . Ṭhānācāvanamattenevāti dakasotaṃ anotiṇṇepīti adhippāyo. Ettha ca ‘‘sakalo kāyo ṭhāna’’nti vāde ṭhānācāvanaṃ vadantena sakalasarīrato cutassapi dakasotorohaṇato pubbe appamattakassa antarāḷassa sambhavato vuttaṃ. Sakalasarīre vā tasmiṃ tasmiṃ padese ṭhitassa ṭhānā cutaṃ sandhāya ‘‘ṭhānācāvanamattenevā’’ti vuttaṃ. Nimitte upakkamantassevāti mocanassādena upakkamantassa. Hatthaparikammādīsu satipi mocanassāde nimitte upakkamābhāvato natthi āpattīti āha ‘‘hattaparikamma…pe… anāpattī’’ti. Ayaṃ sabbācariyasādhāraṇavinicchayoti ‘‘dakasotorohaṇañcetthā’’tiādinā vutto tiṇṇampi ācariyānaṃ sādhāraṇo vinicchayo.
Cũng như thế là chỉ cho câu “do sự cố gắng ở nơi tướng với sự thích thú trong việc xuất ra” và các câu khác. Vì đã được nói rằng: “Sự xuất ra được gọi là sự di chuyển khỏi vị trí,” tại sao lại nói là ‘ngay khi đi vào dòng nước’? (Chú giải) nói rằng: ‘và ở đây, việc đi xuống dòng nước’ và các điều khác. Ở đây có nghĩa là trong cả ba thuyết. Chịu đựng có nghĩa là sau khi đã cố gắng ở nơi tướng, khi sự hối hận khởi lên trở lại thì chịu đựng. Ngăn chặn ở khoảng giữa có nghĩa là không cho (tinh dịch) đã rời khỏi vị trí được đi xuống dòng nước mà ngăn chặn ở khoảng giữa. Do đó, (chú giải) nói – Thật vậy, (tinh dịch) đã rời khỏi vị trí thì chắc chắn sẽ đi xuống dòng nước. Chỉ bằng sự di chuyển khỏi vị trí có nghĩa là ý muốn nói rằng dù chưa đi vào dòng nước. Và ở đây, trong thuyết “toàn thân là vị trí,” khi nói đến sự di chuyển khỏi vị trí, điều này được nói do có thể có một khoảng không nhỏ trước khi đi xuống dòng nước của (tinh dịch) đã rời khỏi toàn thân. Hoặc, câu “chỉ bằng sự di chuyển khỏi vị trí” được nói liên quan đến việc rời khỏi vị trí của (tinh dịch) đang nằm ở các vùng khác nhau trong toàn thân. Của người đang cố gắng ở nơi tướng có nghĩa là của người đang cố gắng với sự thích thú trong việc xuất ra. Dù có sự thích thú trong việc xuất ra trong lúc thực hành bằng tay và các việc khác, nhưng do không có sự cố gắng ở nơi tướng nên không có tội. Do đó, (Pāḷi) nói: ‘thực hành bằng tay… cho đến… vô tội.’ Đây là sự quyết đoán chung của tất cả các vị Giáo thọ sư có nghĩa là sự quyết đoán chung cho cả ba vị Giáo thọ sư đã được nói đến bằng câu “và ở đây, việc đi xuống dòng nước” và các câu khác.

Khobhakaraṇapaccayo nāma visabhāgabhesajjasenāsanāhārādipaccayo. Atthakāmatāya vā anatthakāmatāya vāti pasannā atthakāmatāya, kuddhā anatthakāmatāya. Atthāya vā anatthāya vāti sabhāvato bhavitabbāya atthāya vā anatthāya vā. Upasaṃharantīti attano devānubhāvena upanenti. Bodhisattamātā viya puttapaṭilābhanimittanti tadā kira pure puṇṇamāya sattamadivasato paṭṭhāya vigatasurāpānaṃ mālāgandhādivibhūtisampannaṃ nakkhattakīḷaṃ anubhavamānā bodhisattamātā sattame divase pātova uṭṭhāya gandhodakena nhāyitvā sabbālaṅkāravibhūsitā varabhojanaṃ bhuñjitvā uposathaṅgāni adhiṭṭhāya sirigabbhaṃ pavisitvā sirisayane nipannā niddaṃ okkamamānā imaṃ supinaṃ addasa – cattāro kira naṃ mahārājāno sayaneneva saddhiṃ ukkhipitvā anotattadahaṃ netvā nhāpetvā dibbavatthaṃ nivāsetvā dibbagandhehi vilimpetvā dibbapupphāni piḷandhitvā tato avidūre rajatapabbato, tassa anto kanakavimānaṃ atthi, tasmiṃ pācīnato sīsaṃ katvā nipajjāpesuṃ. Atha bodhisatto setavaravāraṇo hutvā tato avidūre eko suvaṇṇapabbato, tattha caritvā tato oruyha rajatapabbataṃ abhiruhitvā kanakavimānaṃ pavisitvā mātaraṃ padakkhiṇaṃ katvā dakkhiṇapassaṃ phāletvā kucchiṃ paviṭṭhasadiso ahosi. Imaṃ supinaṃ sandhāya etaṃ vuttaṃ ‘‘bodhisattamātā viya puttapaṭilābhanimitta’’nti.
Duyên gây kích động được gọi là duyên không tương hợp như thuốc men, chỗ ở, và vật thực, v.v. Vì muốn lợi ích hoặc vì muốn không lợi ích có nghĩa là những người hoan hỷ thì vì muốn lợi ích, những người tức giận thì vì muốn không lợi ích. Cho lợi ích hoặc cho không lợi ích có nghĩa là cho lợi ích hoặc không lợi ích mà phải xảy ra theo tự nhiên. Dâng cúng có nghĩa là họ mang đến bằng oai lực chư thiên của mình. Điềm báo về việc thụ thai con trai giống như thân mẫu của Bồ-tát có nghĩa là: vào lúc ấy, nghe nói rằng thân mẫu của Bồ-tát, từ ngày thứ bảy trước ngày rằm, đã trải qua lễ hội các vì sao với đầy đủ vòng hoa, hương thơm, và các trang sức khác, không uống rượu. Vào ngày thứ bảy, bà thức dậy sớm, tắm bằng nước thơm, trang hoàng với tất cả đồ trang sức, dùng vật thực thượng vị, thọ trì các chi phần của ngày Bố-tát, đi vào long sàng, nằm trên giường báu, và khi đang chìm vào giấc ngủ, bà đã thấy giấc mộng này – nghe nói rằng bốn vị Đại Vương cùng với giường nằm đã nhấc bà lên, đưa đến hồ Anotatta, tắm cho bà, cho mặc y phục chư thiên, thoa hương thơm chư thiên, cài hoa chư thiên, và không xa đó có một ngọn núi bạc, bên trong có một cung điện bằng vàng, họ đặt bà nằm xuống đó với đầu quay về hướng đông. Bấy giờ, Bồ-tát hóa thành một con voi trắng quý phái, không xa đó có một ngọn núi vàng, sau khi đi dạo ở đó, Ngài từ đó đi xuống, leo lên ngọn núi bạc, đi vào cung điện bằng vàng, đi nhiễu quanh thân mẫu, rạch hông bên phải, và dường như đã đi vào trong bụng. Liên quan đến giấc mộng này mà câu này được nói: “điềm báo về việc thụ thai con trai giống như thân mẫu của Bồ-tát.”

Pañcamahāsupineti (a. ni. aṭṭha. 3.5.196) mahantehi purisehi passitabbato mahantānañca atthānaṃ nimittabhāvato mahāsupine. Te pana pañca mahāsupine neva lokiyamahājano passati, na mahārājāno, na cakkavattirājāno, na aggasāvakā, na paccekabuddhā, na sammāsambuddhā, eko sabbaññubodhisattoyeva passati. Tena vuttaṃ ‘‘bodhisatto viya pañca mahāsupine’’ti. Amhākañca pana bodhisatto kadā te supine passīti? ‘‘Sve buddho bhavissāmī’’ti cātuddasiyaṃ pakkhassa rattivibhāyanakāle passi. Kālavasena hi divā diṭṭho supino na sameti, tathā paṭhamayāme majjhimayāme ca. Pacchimayāme balavapaccūse pana asitapītasāyite sammāpariṇāmagate kāyasmiṃ ojāya patiṭṭhitāya aruṇe uggacchamāne diṭṭhasupino sameti. Iṭṭhanimittaṃ supinaṃ passanto iṭṭhaṃ paṭilabhati, aniṭṭhanimittaṃ passanto aniṭṭhaṃ, tasmā bodhisattopi supinaṃ passanto rattivibhāyanakāle passi.
Năm giấc đại mộng (a. ni. aṭṭha. 3.5.196) được gọi là các giấc đại mộng vì chúng được thấy bởi những bậc vĩ nhân và là điềm báo của những lợi ích to lớn. Tuy nhiên, năm giấc đại mộng ấy không được thấy bởi thường dân, không bởi các vị Đại Vương, không bởi các vua Chuyển Luân, không bởi các vị Thượng Thủ Thinh Văn, không bởi các vị Phật Độc Giác, không bởi các vị Chánh Đẳng Giác; chỉ một mình vị Toàn Giác Bồ-tát mới thấy được. Do đó, đã được nói rằng: “giống như Bồ-tát (thấy) năm giấc đại mộng.” Vậy Bồ-tát của chúng ta đã thấy những giấc mộng ấy khi nào? Ngài đã thấy vào lúc đêm tàn ngày mười bốn của tháng, (nghĩ rằng): “Ngày mai ta sẽ thành Phật.” Thật vậy, xét về thời gian, giấc mộng thấy vào ban ngày không thành hiện thực, cũng như (thấy) trong canh đầu và canh giữa. Tuy nhiên, vào canh cuối, lúc rạng đông, khi thức ăn thức uống đã được tiêu hóa hoàn toàn, khi chất bổ dưỡng đã lan khắp cơ thể, giấc mộng thấy lúc bình minh đang lên sẽ thành hiện thực. Người thấy giấc mộng có điềm tốt sẽ nhận được điều tốt, người thấy điềm xấu sẽ nhận được điều xấu, do đó, Bồ-tát cũng đã thấy giấc mộng vào lúc đêm tàn.

Ke pana te pañca mahāsupināti? Tathāgatassa arahato sammāsambuddhassa pubbeva sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato pañca mahāsupinā pāturahesuṃ (a. ni. 5.196) – ayaṃ mahāpathavī mahāsayanaṃ ahosi, himavā pabbatarājā bimbohanaṃ ahosi, puratthime samudde vāmahattho ohito ahosi, pacchime samudde dakkhiṇahattho ohito ahosi, dakkhiṇasamudde ubho pādā ohitā ahesuṃ, ayaṃ paṭhamo mahāsupino pāturahosi.
Vậy năm giấc đại mộng ấy là gì? Năm giấc đại mộng đã xuất hiện với Bồ-tát khi Ngài chưa giác ngộ, trước khi thành bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác (a. ni. 5.196) – Đại địa này trở thành giường lớn, vua núi Hy-mã-lạp trở thành gối, tay trái đặt trên biển đông, tay phải đặt trên biển tây, cả hai chân đặt trên biển nam. Đây là giấc đại mộng thứ nhất đã xuất hiện.

Puna caparaṃ dabbatiṇasaṅkhātā tiriyā nāma tiṇajāti naṅgalamattena rattadaṇḍena nābhito uggantvā tassa passantasseva vidatthimattaṃ ratanamattaṃ byāmamattaṃ yaṭṭhimattaṃ gāvutamattaṃ aḍḍhayojanamattaṃ yojanamattanti evaṃ uggantvā anekayojanasahassaṃ nabhaṃ āhacca ṭhitā ahosi, ayaṃ dutiyo mahāsupino pāturahosi.
Lại nữa, một loại cỏ tên là tiriyā, tức là cỏ tranh, có thân màu đỏ bằng cán cày, mọc lên từ rốn, và trong khi Ngài đang nhìn, nó đã mọc cao một gang tay, một khuỷu tay, một sải tay, một trượng, một gāvuta, nửa do-tuần, một do-tuần, và cứ thế mọc lên hàng ngàn do-tuần, chạm đến bầu trời và đứng yên. Đây là giấc đại mộng thứ hai đã xuất hiện.

Puna caparaṃ setā kimī kaṇhasīsā pādehi ussakkitvā yāva jāṇumaṇḍalā paṭicchādesuṃ, ayaṃ tatiyo mahāsupino pāturahosi.
Lại nữa, những con giòi trắng có đầu đen bò lên từ bàn chân và che phủ đến tận đầu gối. Đây là giấc đại mộng thứ ba đã xuất hiện.

Puna caparaṃ cattāro sakuṇā nānāvaṇṇā catūhi disāhi āgantvā pādamūle nipatitvā sabbasetā sampajjiṃsu, ayaṃ catuttho mahāsupino pāturahosi.
Lại nữa, bốn con chim nhiều màu sắc từ bốn phương bay đến, đậu xuống dưới chân và đều biến thành màu trắng. Đây là giấc đại mộng thứ tư đã xuất hiện.

Puna caparaṃ bodhisatto mahato mīḷhapabbatassa uparūpari caṅkamati alippamāno mīḷhena, ayaṃ pañcamo mahāsupino pāturahosi. Ime pañca mahāsupinā.
Lại nữa, Bồ-tát kinh hành trên một ngọn núi phân vĩ đại mà không bị ô uế bởi phân. Đây là giấc đại mộng thứ năm đã xuất hiện. Đây là năm giấc đại mộng.

Tattha paṭhamo anuttarāya sammāsambodhiyā pubbanimittaṃ, dutiyo ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassa devamanussesu suppakāsitabhāvassa pubbanimittaṃ, tatiyo bahūnaṃ odātavasanānaṃ gihīnaṃ bhagavantaṃ upasaṅkamitvā saraṇagamanassa pubbanimittaṃ, catuttho khattiyādīnaṃ catunnaṃ vaṇṇānaṃ tathāgatappavedite dhammavinaye agārasmā anagāriyaṃ pabbajitvā anuttaravimuttisacchikiriyāya pubbanimittaṃ, pañcamo catunnaṃ paccayānaṃ lābhitāya tesu ca anupalittabhāvassa pubbanimittaṃ.
Trong đó, giấc mộng thứ nhất là điềm báo trước về quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Giấc mộng thứ hai là điềm báo trước về việc Bát Chánh Đạo sẽ được khéo tuyên thuyết cho chư thiên và loài người. Giấc mộng thứ ba là điềm báo trước về việc nhiều người tại gia mặc y trắng sẽ đến quy y với Đức Thế Tôn. Giấc mộng thứ tư là điềm báo trước về việc bốn giai cấp Sát-đế-lỵ và các giai cấp khác sẽ từ bỏ đời sống gia đình, xuất gia trong Giáo pháp và Giới luật do Như Lai tuyên thuyết, và chứng ngộ sự giải thoát vô thượng. Giấc mộng thứ năm là điềm báo trước về việc sẽ nhận được bốn món vật dụng và không bị dính mắc vào chúng.

Apica yaṃ so cakkavāḷamahāpathaviṃ sirisayanabhūtaṃ addasa, taṃ buddhabhāvassa pubbanimittaṃ. Yaṃ himavantaṃ pabbatarājānaṃ bimbohanaṃ addasa, taṃ sabbaññutaññāṇabimbohanassa pubbanimittaṃ. Yaṃ cattāro hatthapāde samuddassa uparūparibhāgena gantvā cakkavāḷamatthake ṭhite addasa, taṃ dhammacakkassa appaṭivattiyabhāve pubbanimittaṃ. Yaṃ attānaṃ uttānakaṃ nipannaṃ addasa, taṃ tīsu bhavesu avakujjānaṃ sattānaṃ uttānamukhabhāvassa pubbanimittaṃ. Yaṃ akkhīni ummīletvā passanto viya ahosi, taṃ dibbacakkhupaṭilābhassa pubbanimittaṃ. Yaṃ yāva bhavaggā ekālokaṃ ahosi, taṃ anāvaraṇañāṇassa pubbanimittaṃ. Sesaṃ vuttanayameva. Iti taṃtaṃvisesādhigamanimittabhūte pañca mahāsupine passi. Tena vuttaṃ ‘‘bodhisatto viya pañca mahāsupine’’ti.
Hơn nữa, việc Ngài thấy toàn thể đại địa của thế giới này trở thành giường báu là điềm báo trước về quả vị Phật. Việc Ngài thấy vua núi Hy-mã-lạp trở thành gối là điềm báo trước về chiếc gối là trí tuệ Toàn Giác. Việc Ngài thấy bốn tay chân vươn ra trên biển và đặt trên đỉnh của thế giới là điềm báo trước về sự không thể xoay chuyển của bánh xe Pháp. Việc Ngài thấy mình nằm ngửa là điềm báo trước về việc các chúng sanh đang úp mặt trong ba cõi sẽ được ngẩng mặt lên. Việc Ngài dường như đang mở mắt nhìn là điềm báo trước về việc chứng đắc thiên nhãn. Việc có một ánh sáng duy nhất cho đến tận cõi hữu đảnh là điềm báo trước về trí tuệ không bị ngăn che. Phần còn lại cũng theo cách đã nói. Như vậy, Ngài đã thấy năm giấc đại mộng là điềm báo cho việc chứng đắc các pháp thù thắng ấy. Do đó đã được nói rằng: “giống như Bồ-tát (thấy) năm giấc đại mộng.”

Kosalarājā viya soḷasa supineti –
Giống như vua nước Kosala (thấy) mười sáu giấc mộng có nghĩa là –

‘‘Usabhā rukkhā gāviyo gavā ca,
Asso kaṃso siṅgālī ca kumbho;
Pokkharaṇī ca apākacandanaṃ,
Lābūni sīdanti silā plavanti.
‘‘Maṇḍūkiyo kaṇhasappe gilanti,
Kākaṃ suvaṇṇā parivārayanti;
Tasā vakā eḷakānaṃ bhayā hī’’ti. (jā. 1.1.77) –
“Bò đực, cây cối, bò cái và bò tơ,
Ngựa, bình đồng, chó rừng cái và ghè nước;
Hồ sen và gỗ chiên đàn chưa chín,
Bầu chìm và đá nổi.
“Ếch cái nuốt chửng rắn hổ mang đen,
Thiên nga vàng hầu hạ quạ;
Sói sợ hãi những con dê.” (jā. 1.1.77) –

Ime soḷasa supine passanto kosalarājā viya.
Giống như vua nước Kosala đã thấy mười sáu giấc mộng này.

1. Ekadivasaṃ kira kosalarājā rattiṃ niddūpagato pacchimayāme soḷasa supine passi (jā. aṭṭha. 1.1.mahāsupinajātakavaṇṇanā). Tattha cattāro añjanavaṇṇā kāḷausabhā ‘‘yujjhissāmā’’ti catūhi disāhi rājaṅgaṇaṃ āgantvā ‘‘usabhayuddhaṃ passissāmā’’ti mahājane sannipatite yujjhanākāraṃ dassetvā naditvā gajjitvā ayujjhitvāva paṭikkantā. Imaṃ paṭhamaṃ supinaṃ addasa.
1. Nghe nói rằng một hôm, vua nước Kosala, khi đang ngủ vào ban đêm, đã thấy mười sáu giấc mộng vào canh cuối (jā. aṭṭha. 1.1.mahāsupinajātakavaṇṇanā). Trong đó, bốn con bò đực đen, màu như thuốc vẽ mắt, từ bốn phương đến sân vua với ý định “chúng ta sẽ đấu nhau.” Khi dân chúng tụ tập lại để “xem bò đấu,” chúng chỉ thể hiện điệu bộ muốn đấu, rống lên, gầm lên, rồi rút lui mà không hề đấu nhau. Ông đã thấy giấc mộng thứ nhất này.

2. Khuddakā rukkhā ceva gacchā ca pathaviṃ bhinditvā vidatthimattampi ratanamattampi anuggantvāva pupphanti ceva phalanti ca. Imaṃ dutiyaṃ addasa.
2. Những cây nhỏ và bụi cây, sau khi xuyên qua mặt đất, thậm chí chưa mọc cao được một gang tay hay một khuỷu tay, đã ra hoa và kết trái. Ông đã thấy giấc mộng thứ hai này.

3. Gāviyo tadahujātānaṃ vacchānaṃ khīraṃ pivantiyo addasa. Ayaṃ tatiyo supino.
3. Ông đã thấy những con bò cái uống sữa của những con bê con do chúng sinh ra trong ngày hôm đó. Đây là giấc mộng thứ ba.

4. Dhuravāhe ārohapariṇāhasampanne mahāgoṇe yugaparamparāya ayojetvā taruṇe godamme dhure yojente addasa, te dhuraṃ vahituṃ asakkontā chaḍḍetvā aṭṭhaṃsu, sakaṭāni nappavattiṃsu. Ayaṃ catuttho supino.
4. Ông đã thấy người ta không att att con bò đực lớn, cao to, khỏe mạnh, có khả năng kéo cày vào ách, mà lại att att những con bò tơ non vào ách. Chúng không thể kéo nổi ách, đã quăng bỏ và đứng yên, những cỗ xe không di chuyển được. Đây là giấc mộng thứ tư.

5. Ekaṃ ubhatomukhaṃ assaṃ addasa, tassa ubhosu passesu yavasīsaṃ denti, so dvīhipi mukhehi khādati. Ayaṃ pañcamo supino.
5. Ông đã thấy một con ngựa có hai đầu. Người ta cho nó ăn cỏ ở cả hai bên, và nó ăn bằng cả hai miệng. Đây là giấc mộng thứ năm.

6. Mahājano satasahassagghanakaṃ suvaṇṇapātiṃ sammajjitvā ‘‘idha passāvaṃ karohī’’ti ekassa jarasiṅgālassa upanāmesi, taṃ tattha passāvaṃ karontaṃ addasa. Ayaṃ chaṭṭho supino.
6. Dân chúng sau khi lau chùi một cái bát bằng vàng trị giá một trăm ngàn, đã đưa nó cho một con chó rừng già và nói: “Hãy đi tiểu vào đây.” Ông đã thấy nó đi tiểu vào đó. Đây là giấc mộng thứ sáu.

7. Eko puriso rajjuṃ vaṭṭetvā pādamūle nikkhipati, tena nisinnapīṭhassa heṭṭhā sayitā chātasiṅgālī tassa ajānantasseva taṃ khādati. Imaṃ sattamaṃ supinaṃ addasa.
7. Một người đàn ông bện một sợi dây thừng và đặt nó dưới chân mình. Một con chó rừng cái đang đói, nằm dưới chiếc ghế ông ta ngồi, đã ăn sợi dây đó mà ông ta không hề hay biết. Ông đã thấy giấc mộng thứ bảy này.

8. Rājadvāre bahūhi tucchakumbhehi parivāretvā ṭhapitaṃ ekaṃ mahantaṃ pūritakumbhaṃ addasa, cattāropi pana vaṇṇā catūhi disāhi catūhi anudisāhi ca ghaṭehi udakaṃ āharitvā pūritakumbhameva pūrenti, pūritapūritaṃ udakaṃ uttaritvā palāyati, tepi punappunaṃ tattheva udakaṃ āsiñcanti, tucchakumbhe olokentāpi natthi. Ayaṃ aṭṭhamo supino.
8. Ông đã thấy một cái ghè lớn đầy nước được đặt ở cổng hoàng cung, xung quanh là nhiều cái ghè rỗng. Tuy nhiên, cả bốn giai cấp từ bốn phương và bốn hướng phụ mang nước bằng các ghè nhỏ đến và chỉ đổ đầy vào cái ghè đã đầy. Nước cứ thế tràn ra ngoài, nhưng họ vẫn cứ đổ nước vào đó, không ai thèm nhìn đến những cái ghè rỗng. Đây là giấc mộng thứ tám.

9. Ekaṃ pañcapadumasañchannaṃ gambhīraṃ sabbatotitthaṃ pokkharaṇiṃ addasa, samantato dvipadacatuppadā otaritvā tattha pānīyaṃ pivanti, tassā majjhe gambhīraṭṭhāne udakaṃ āvilaṃ, tīrappadese dvipadacatuppadānaṃ akkamanaṭṭhāne acchaṃ vippasannaṃ anāvilaṃ. Ayaṃ navamo supino.
9. Ông đã thấy một cái hồ sen sâu, có bến nước ở khắp nơi, được bao phủ bởi năm loại sen. Từ khắp nơi, các loài hai chân và bốn chân xuống đó uống nước. Nước ở giữa hồ, nơi sâu, thì đục ngầu; còn ở ven bờ, nơi các loài hai chân và bốn chân dẫm lên, thì lại trong, thanh tịnh, và không vẩn đục. Đây là giấc mộng thứ chín.

10. Ekissāyeva ca kumbhiyā paccamānaṃ odanaṃ apākaṃ addasa, ‘‘apāka’’nti vicāretvā vibhajitvā ṭhapitaṃ viya tīhākārehi paccamānaṃ ekasmiṃ passe atikilinno hoti, ekasmiṃ uttaṇḍulo, ekasmiṃ supakkoti. Ayaṃ dasamo supino.
10. Ông đã thấy cơm được nấu trong cùng một nồi mà không chín đều. Giống như được chia ra và sắp đặt, nó được nấu theo ba cách: một bên thì quá nhão, một bên thì còn sống sượng, và một bên thì chín kỹ. Đây là giấc mộng thứ mười.

11. Satasahassagghanakaṃ candanasāraṃ pūtitakkena vikkiṇante addasa. Ayaṃ ekādasamo supino.
11. Ông đã thấy người ta đem lõi gỗ chiên đàn trị giá một trăm ngàn để đổi lấy sữa chua đã hỏng. Đây là giấc mộng thứ mười một.

12. Tucchalābūni udake sīdantāni addasa. Ayaṃ dvādasamo supino.
12. Ông đã thấy những quả bầu rỗng ruột chìm trong nước. Đây là giấc mộng thứ mười hai.

13. Mahantamahantā kūṭāgārappamāṇā ghanasilā nāvā viya udake plavamānā addasa. Ayaṃ terasamo supino.
13. Ông đã thấy những tảng đá đặc, to lớn bằng những ngôi nhà có nóc nhọn, nổi trên mặt nước như những chiếc thuyền. Đây là giấc mộng thứ mười ba.

14. Khuddakamadhukapupphappamāṇā maṇḍūkiyo mahante kaṇhasappe vegena anubandhitvā uppalanāḷe viya chinditvā maṃsaṃ khāditvā gilantiyo addasa. Ayaṃ cuddasamo supino.
14. Ông đã thấy những con ếch cái nhỏ bằng bông hoa mahua, đuổi theo những con rắn hổ mang đen to lớn một cách nhanh chóng, cắn đứt chúng ra như cắn cọng sen, ăn thịt và nuốt chửng. Đây là giấc mộng thứ mười bốn.

15. Dasahi asaddhammehi samannāgataṃ gāmagocaraṃ kākaṃ kañcanavaṇṇavaṇṇatāya ‘‘suvaṇṇā’’ti laddhanāme suvaṇṇarājahaṃse parivārente addasa. Ayaṃ pannarasamo supino.
15. Ông đã thấy một con quạ sống trong làng, có mười tính xấu, lại được những con ngỗng chúa hoàng kim, được đặt tên là “suvaṇṇā” (hoàng kim) vì có màu sắc như vàng, đi theo hầu hạ. Đây là giấc mộng thứ mười lăm.

16. Pubbe dīpino eḷake khādanti, te pana eḷake dīpino anubandhitvā murāmurāti khādante addasa, athaññe tasā vakā eḷake dūratova disvā tasitā tāsappattā hutvā eḷakānaṃ bhayā palāyitvā gumbagahanāni pavisitvā nilīyiṃsu. Ayaṃ soḷasamo supino.
16. Trước đây, báo ăn dê, nhưng (trong mộng) ông đã thấy dê đuổi theo báo và ăn thịt chúng một cách ngấu nghiến. Rồi những con sói và các loài ăn thịt khác, từ xa thấy dê đã hoảng sợ, kinh hãi, vì sợ dê nên đã chạy trốn, chui vào bụi rậm và ẩn náu. Đây là giấc mộng thứ mười sáu.

1. Tattha adhammikānaṃ rājūnaṃ adhammikānañca manussānaṃ kāle loke viparivattamāne kusale osanne akusale ussanne lokassa parihīnakāle devo na sammā vassissati, meghapādā chijjissanti, sassāni milāyissanti, dubbhikkhaṃ bhavissati, vassitukāmā viya catūhi disāhi meghā uṭṭhahitvā itthikāhi ātape patthaṭānaṃ vīhiādīnaṃ temanabhayena anto pavesitakāle purisesu kudālapiṭake ādāya āḷibandhanatthāya nikkhantesu vassanākāraṃ dassetvā gajjitvā vijjulatā nicchāretvā usabhā viya ayujjhitvā avassitvāva palāyissanti. Ayaṃ paṭhamassa vipāko.
1. Trong đó, vào thời của những vị vua bất chính và những người bất chính, khi thế gian đang thay đổi, điều thiện suy giảm, điều ác gia tăng, trong thời kỳ suy vong của thế giới, trời sẽ không mưa thuận gió hòa, các đám mây sẽ tan vỡ, mùa màng sẽ khô héo, nạn đói sẽ xảy ra. Mây sẽ kéo lên từ bốn phương như muốn mưa, vào lúc những người phụ nữ vì sợ lúa và các loại hạt đang phơi ngoài nắng bị ướt mà đem vào trong nhà, và vào lúc những người đàn ông mang cuốc và giỏ ra ngoài để đắp bờ, (mây) sẽ thể hiện điệu bộ muốn mưa, gầm lên, phóng ra tia chớp, rồi như những con bò đực, chúng sẽ bỏ đi mà không đấu nhau, không mưa. Đây là quả báo của giấc mộng thứ nhất.

2. Lokassa parihīnakāle manussānaṃ parittāyukakāle sattā tibbarāgā bhavissanti, asampattavayāva kumāriyo purisantaraṃ gantvā utuniyo ceva gabbhiniyo ca hutvā puttadhītāhi vaḍḍhissanti. Khuddakarukkhānaṃ pupphaṃ viya hi tāsaṃ utunibhāvo, phalaṃ viya ca puttadhītaro bhavissanti. Ayaṃ dutiyassa vipāko.
2. Trong thời kỳ suy vong của thế giới, khi tuổi thọ của con người ngắn ngủi, chúng sanh sẽ có lòng tham dục mãnh liệt. Các thiếu nữ, dù chưa đến tuổi trưởng thành, sẽ đi theo đàn ông, có kinh nguyệt và mang thai, rồi sinh con trai, con gái. Thật vậy, việc có kinh nguyệt của họ sẽ giống như hoa của những cây nhỏ, và con trai con gái của họ sẽ giống như quả. Đây là quả báo của giấc mộng thứ hai.

3. Manussānaṃ jeṭṭhāpacāyikakammassa naṭṭhakāle sattā mātāpitūsu vā sassusasuresu vā lajjaṃ anupaṭṭhapetvā sayameva kuṭumbaṃ saṃvidahantāva ghāsacchādanamattampi mahallakānaṃ dātukāmā dassanti, adātukāmā na dassanti, mahallakā anāthā hutvā asayaṃvasī dārake ārādhetvā jīvissanti tadahujātānaṃ vacchānaṃ khīraṃ pivantiyo mahāgāviyo viya. Ayaṃ tatiyassa vipāko.
3. Vào thời kỳ khi việc kính trọng người lớn tuổi của con người bị hủy hoại, chúng sanh sẽ không còn biết hổ thẹn với cha mẹ hay cha mẹ vợ/chồng. Họ sẽ tự mình quản lý gia đình, nếu muốn cho người lớn tuổi những thứ vật thực và áo quần thì họ cho, không muốn thì không cho. Những người lớn tuổi, trở nên không nơi nương tựa, không thể tự lập, sẽ phải nịnh bợ con cái để sống, giống như những con bò cái lớn uống sữa của những con bê con mới sinh trong ngày. Đây là quả báo của giấc mộng thứ ba.

4. Adhammikarājūnaṃ kāle adhammikarājāno paṇḍitānaṃ paveṇikusalānaṃ kammanittharaṇasamatthānaṃ mahāmattānaṃ yasaṃ na dassanti, dhammasabhāyaṃ vinicchayaṭṭhānepi paṇḍite vohārakusale mahallake amacce na ṭhapessanti. Tabbiparītānaṃ pana taruṇataruṇānaṃ yasaṃ dassanti, tathārūpe eva ca vinicchayaṭṭhāne ṭhapessanti, te rājakammāni ceva yuttāyuttañca ajānantā neva taṃ yasaṃ ukkhipituṃ sakkhissanti, na rājakammāni nittharituṃ, te asakkontā kammadhuraṃ chaḍḍessanti, mahallakāpi paṇḍitā amaccā yasaṃ alabhantā kiccāni nittharituṃ samatthāpi ‘‘kiṃ amhākaṃ etehi, mayaṃ bāhirakā jātā, abbhantarikā taruṇadārakā jānissantī’’ti uppannāni kammāni na karissanti, evaṃ sabbathāpi tesaṃ rājūnaṃ hāniyeva bhavissati, dhuraṃ vahituṃ asamatthānaṃ vacchadammānaṃ dhure yojitakālo viya, dhuravāhānañca mahāgoṇānaṃ yugaparamparāya ayojitakālo viya bhavissati. Ayaṃ catutthassa vipāko.
4. Vào thời của những vị vua bất chính, các vị vua bất chính sẽ không ban danh vọng cho các vị đại thần trí tuệ, thông thạo truyền thống, có khả năng hoàn thành công việc. Ngay cả ở tòa án trong công đường, họ cũng sẽ không bổ nhiệm các vị quan lớn tuổi, có trí tuệ, am hiểu luật lệ. Ngược lại, họ sẽ ban danh vọng cho những người rất trẻ tuổi, và sẽ bổ nhiệm những người như vậy vào các vị trí xét xử. Những người này, không biết việc vua và điều gì đúng sai, sẽ không thể gánh vác danh vọng đó, cũng không thể hoàn thành việc vua. Khi không thể, họ sẽ từ bỏ gánh nặng công việc. Ngay cả các vị quan lớn tuổi, có trí tuệ, dù có khả năng hoàn thành nhiệm vụ, nhưng vì không nhận được danh vọng, cũng sẽ không làm các công việc phát sinh, (nghĩ rằng): “Việc này có ích gì cho chúng ta, chúng ta đã trở thành người ngoài, những đứa trẻ bên trong sẽ biết.” Như vậy, về mọi mặt, các vị vua đó sẽ chỉ gặp tổn thất. Sẽ giống như thời kỳ những con bò tơ không có khả năng kéo cày lại được att vào ách, và thời kỳ những con bò đực lớn khỏe mạnh lại không được att vào ách. Đây là quả báo của giấc mộng thứ tư.

5. Adhammikarājakāleyeva adhammikabālarājāno adhammike lolamanusse vinicchaye ṭhapessanti, te pāpapuññesu anādarā bālā sabhāyaṃ nisīditvā vinicchayaṃ dentā ubhinnampi atthapaccatthikānaṃ hatthato lañjaṃ gahetvā khādissanti asso viya dvīhi mukhehi yavasīsaṃ. Ayaṃ pañcamassa vipāko.
5. Cũng vào thời của các vị vua bất chính, các vị vua ngu dốt bất chính sẽ bổ nhiệm những người có tâm tham lam, bất chính vào các vị trí xét xử. Những người ngu dốt đó, không quan tâm đến tội và phước, sẽ ngồi trong công đường đưa ra phán quyết, nhận hối lộ từ tay của cả nguyên đơn và bị đơn rồi ăn, giống như con ngựa ăn cỏ bằng cả hai miệng. Đây là quả báo của giấc mộng thứ năm.

6. Adhammikāyeva vijātirājāno jātisampannānaṃ kulaputtānaṃ āsaṅkāya yasaṃ na dassanti, akulīne vaḍḍhessanti, evaṃ mahākulāni duggatāni bhavissanti, lāmakakulāni issarāni. Te ca kulīnā purisā jīvituṃ asakkontā ‘‘ime nissāya jīvissāmā’’ti akulīnānaṃ dhītaro dassanti, iti tāsaṃ kuladhītānaṃ akulīnehi saddhiṃ saṃvāso jarasiṅgālassa suvaṇṇapātiyaṃ passāvakaraṇasadiso bhavissati. Ayaṃ chaṭṭhassa vipāko.
6. Các vị vua bất chính, thuộc dòng dõi thấp kém, vì nghi ngờ những người con trai của các gia đình danh giá, sẽ không ban cho họ danh vọng mà lại đề bạt những người không thuộc dòng dõi cao quý. Như vậy, các gia đình lớn sẽ trở nên nghèo khó, các gia đình thấp hèn sẽ trở nên quyền thế. Và những người thuộc dòng dõi cao quý đó, không thể sinh sống, sẽ gả con gái của mình cho những người không thuộc dòng dõi cao quý, (nghĩ rằng): “chúng ta sẽ nương tựa vào họ để sống.” Như vậy, việc chung sống của những người con gái thuộc dòng dõi cao quý đó với những người không thuộc dòng dõi cao quý sẽ giống như việc con chó rừng già đi tiểu vào cái bát bằng vàng. Đây là quả báo của giấc mộng thứ sáu.

7. Gacchante gacchante kāle itthiyo purisalolā surālolā alaṅkāralolā visikhālolā āmisalolā bhavissanti dussīlā durācārā. Tā sāmikehi kasigorakkhādīni kammāni katvā kicchena kasirena sambhataṃ dhanaṃ jārehi saddhiṃ suraṃ pivantiyo mālāgandhavilepanaṃ dhārayamānā antogehe accāyikampi kiccaṃ anoloketvā gehaparikkhepassa uparibhāgenapi chiddaṭṭhānehipi jāre upadhārayamānā sve vapitabbayuttakaṃ bījampi koṭṭetvā yāgubhattakhajjakāni sajjetvā khādamānā vilumpissanti heṭṭhāpīṭhakanipannakachātakasiṅgālī viya vaṭṭetvā vaṭṭetvā pādamūle nikkhittarajjuṃ. Ayaṃ sattamassa vipāko.
7. Theo dòng thời gian, phụ nữ sẽ trở nên ham muốn đàn ông, ham muốn rượu, ham muốn trang sức, ham muốn lang thang, ham muốn vật chất; họ sẽ trở nên vô giới hạnh và có hành vi xấu xa. Họ sẽ (lấy) tài sản mà chồng của họ đã khó khăn, vất vả tích cóp được bằng các công việc như cày cấy, chăn bò, v.v., rồi cùng với nhân tình uống rượu, đeo vòng hoa, thoa hương thơm. Họ không quan tâm đến cả những công việc khẩn cấp trong nhà, thậm chí còn trông chừng nhân tình qua cả phần trên của hàng rào nhà và qua những kẽ hở. Họ sẽ giã cả hạt giống thích hợp để gieo vào ngày mai, chuẩn bị cháo, cơm, và các món ăn vặt rồi ăn, phung phí (tài sản) giống như con chó rừng cái đang đói nằm dưới ghế đã ăn sợi dây thừng được bện và đặt dưới chân (người đàn ông). Đây là quả báo của giấc mộng thứ bảy.

8. Gacchante gacchante kāle loko parihāyissati, raṭṭhaṃ nirojaṃ bhavissati, rājāno duggatā kapaṇā bhavissanti. Yo issaro bhavissati, tassa bhaṇḍāgāre satasahassamattā kahāpaṇā bhavissanti, te evaṃ duggatā sabbe janapade attano kammaṃ kārayissanti, upaddutā manussā sake kammante chaḍḍetvā rājūnaṃyeva atthāya pubbaṇṇāparaṇṇāni vapantā rakkhantā lāyantā maddantā pavesentā ucchukhettāni karontā yantāni vāhentā phāṇitādīni pacantā pupphārāme phalārāme ca karontā tattha tattha nipphannāni pupphaphalādīni āharitvā rañño koṭṭhāgārameva pūressanti, attano gehesu tucchakoṭṭhe olokentāpi na bhavissanti, tucchatucchakumbhe anoloketvā pūritakumbhapūraṇasadisameva bhavissati. Ayaṃ aṭṭhamassa vipāko.
8. Theo dòng thời gian, thế giới sẽ suy tàn, đất nước sẽ mất đi sức sống, các vị vua sẽ trở nên nghèo khó, khốn cùng. Vị vua nào có quyền lực, kho báu của vị ấy cũng chỉ có khoảng một trăm ngàn đồng kahāpaṇa. Những vị vua nghèo khó như vậy sẽ bắt dân chúng trong khắp xứ làm việc cho mình. Người dân bị áp bức sẽ từ bỏ công việc của mình để làm lợi cho vua, như trồng, chăm sóc, gặt, đập, và mang vào các loại ngũ cốc sớm và muộn; làm ruộng mía, vận hành máy ép, nấu mật mía, v.v.; làm vườn hoa và vườn cây ăn trái. Họ sẽ mang hoa, quả và các sản phẩm khác được sản xuất ở những nơi đó đến và chỉ đổ đầy kho của vua, không ai thèm nhìn đến những kho rỗng trong nhà của mình. Việc này sẽ giống như việc đổ đầy vào cái ghè đã đầy mà không nhìn đến những cái ghè rỗng. Đây là quả báo của giấc mộng thứ tám.

9. Gacchante gacchante kāle rājāno adhammikā bhavissanti, chandādivasena agatiṃ gacchantā rajjaṃ kāressanti, dhammena vinicchayaṃ nāma na dassanti, lañjavittakā bhavissanti dhanalolā, raṭṭhavāsikesu tesaṃ khantimettānuddayaṃ nāma na bhavissati, kakkhaḷā pharusā ucchuyante ucchugaṇṭhikā viya manusse pīḷentā nānappakāraṃ baliṃ uppādetvā dhanaṃ gaṇhissanti, manussā balipīḷitā kiñci dātuṃ asakkontā gāmanigamādayo chaḍḍetvā paccantaṃ gantvā vāsaṃ kappessanti, majjhimajanapado suñño bhavissati, paccanto ghanavāso seyyathāpi pokkharaṇiyā majjhe udakaṃ āvilaṃ pariyante vippasannaṃ. Ayaṃ navamassa vipāko.
9. Theo dòng thời gian, các vị vua sẽ trở nên bất chính. Họ sẽ cai trị đất nước bằng cách đi theo thiên kiến, v.v., không đưa ra phán quyết theo đúng Pháp, trở nên quen với việc nhận hối lộ và tham lam của cải. Họ sẽ không có sự nhẫn nại, lòng từ, hay lòng bi mẫn đối với dân chúng trong nước; họ sẽ tàn nhẫn, khắc nghiệt, áp bức dân chúng như ép các đốt mía trong máy ép mía, đặt ra nhiều loại thuế và thu lấy của cải. Người dân bị thuế khóa áp bức, không thể đóng góp gì, sẽ từ bỏ làng mạc, thị trấn, v.v., và đi đến vùng biên địa để sinh sống. Vùng trung tâm sẽ trở nên trống rỗng, vùng biên địa sẽ đông dân, giống như nước ở giữa hồ thì đục ngầu, còn ở ven bờ thì trong sạch. Đây là quả báo của giấc mộng thứ chín.
10. Theo dòng thời gian, các vị vua sẽ trở nên bất chính. Dưới thời các vị vua bất chính đó, các quan chức triều đình, Bà-la-môn, gia chủ, thị dân và dân chúng, bao gồm cả Sa-môn và Bà-la-môn, tất cả mọi người sẽ trở nên bất chính. Do đó, các vị chư thiên bảo hộ của họ, các vị chư thiên nhận vật cúng tế, các vị thần cây, các vị chư thiên trú trong không gian, như vậy các vị chư thiên cũng sẽ trở nên bất chính. Trong vương quốc của các vị vua bất chính, gió sẽ thổi bất thường và dữ dội, chúng sẽ làm rung chuyển các cung điện trên không. Khi các cung điện đó bị rung chuyển, các vị chư thiên tức giận sẽ không cho trời mưa. Ngay cả khi mưa, cũng sẽ không mưa đồng đều trên toàn quốc trong cùng một lúc; ngay cả khi mưa, cũng sẽ không mưa để có lợi cho việc cày cấy hay gieo trồng ở khắp mọi nơi. Giống như trong nước, cũng vậy trong xứ, trong làng, ngay cả trong một cái ao, cũng sẽ không mưa đồng đều trong cùng một lúc. Mưa ở phần trên của ao thì sẽ không mưa ở phần dưới, mưa ở phần dưới thì sẽ không mưa ở phần trên. Ở một phần, mùa màng sẽ bị hư hại do mưa quá nhiều; ở một phần khác, sẽ khô héo do không mưa; ở một phần khác, sẽ thành tựu do mưa vừa phải. Như vậy, trong vương quốc của một vị vua, mùa màng nói trên sẽ có ba loại, giống như cơm trong một nồi. Đây là quả báo của giấc mộng thứ mười.

10. Gacchante gacchante kāle rājāno adhammikā bhavissanti, tesu adhammikesu rājayuttāpi brāhmaṇagahapatikāpi negamajānapadāpīti samaṇabrāhmaṇe upādāya sabbe manussā adhammikā bhavissanti, tato tesaṃ ārakkhadevatā balipaṭiggāhikadevatā rukkhadevatā ākāsaṭṭhakadevatāti evaṃ devatāpi adhammikā bhavissanti, adhammikarājūnaṃ rajje vātā visamā kharā vāyissanti, te ākāsaṭṭhakavimānāni kampessanti, tesu kampitesu devatā kupitā devaṃ vassituṃ na dassanti, vassamānopi sakalaraṭṭhe ekappahāreneva na vassissati, vassamānopi sabbattha kasikammassa vā vappakammassa vā upakāro hutvā na vassissati. Yathā ca raṭṭhe, evaṃ janapadepi gāmepi ekataḷākassarepi ekappahāreneva na vassissati, taḷākassa uparibhāge vassanto heṭṭhābhāge na vassissati, heṭṭhā vassanto upari na vassissati, ekasmiṃ bhāge sassaṃ ativassena nassissati, ekasmiṃ avassanto milāyissati, ekasmiṃ sammā vassamāno sampādessati, evaṃ ekassa rañño rajje vuttā sassā tippakārā bhavissanti ekakumbhiyā odano viya. Ayaṃ dasamassa vipāko.
10. Theo dòng thời gian, các vị vua sẽ trở nên bất chính. Dưới thời các vị vua bất chính đó, các quan chức triều đình, Bà-la-môn, gia chủ, thị dân và dân chúng, bao gồm cả Sa-môn và Bà-la-môn, tất cả mọi người sẽ trở nên bất chính. Do đó, các vị chư thiên bảo hộ của họ, các vị chư thiên nhận vật cúng tế, các vị thần cây, các vị chư thiên trú trong không gian, như vậy các vị chư thiên cũng sẽ trở nên bất chính. Trong vương quốc của các vị vua bất chính, gió sẽ thổi bất thường và dữ dội, chúng sẽ làm rung chuyển các cung điện trên không. Khi các cung điện đó bị rung chuyển, các vị chư thiên tức giận sẽ không cho trời mưa. Ngay cả khi mưa, cũng sẽ không mưa đồng đều trên toàn quốc trong cùng một lúc; ngay cả khi mưa, cũng sẽ không mưa để có lợi cho việc cày cấy hay gieo trồng ở khắp mọi nơi. Giống như trong nước, cũng vậy trong xứ, trong làng, ngay cả trong một cái ao, cũng sẽ không mưa đồng đều trong cùng một lúc. Mưa ở phần trên của ao thì sẽ không mưa ở phần dưới, mưa ở phần dưới thì sẽ không mưa ở phần trên. Ở một phần, mùa màng sẽ bị hư hại do mưa quá nhiều; ở một phần khác, sẽ khô héo do không mưa; ở một phần khác, sẽ thành tựu do mưa vừa phải. Như vậy, trong vương quốc của một vị vua, mùa màng nói trên sẽ có ba loại, giống như cơm trong một nồi. Đây là quả báo của giấc mộng thứ mười.

11. Gacchante gacchante kāle sāsane parihāyante paccayalolā alajjikā bahū bhikkhū bhavissanti, te bhagavatā paccayaloluppaṃ nimmathetvā kathitadhammadesanaṃ cīvarādicatupaccayahetu paresaṃ desessanti, paccayehi mucchitvā niratthakapakkhe ṭhitā nibbānābhimukhaṃ katvā desetuṃ na sakkhissanti, kevalaṃ ‘‘padabyañjanasampattiñceva madhurasaddañca sutvā mahagghāni cīvarāni dassanti’’iccevaṃ desessanti. Apare antaravīthicatukkarājadvārādīsu nisīditvā kahāpaṇaaḍḍhakahāpaṇapādamāsakarūpādīnipi nissāya desessanti. Iti bhagavatā nibbānagghanakaṃ katvā desitaṃ dhammaṃ catupaccayatthāya ceva kahāpaṇaaḍḍhakahāpaṇādiatthāya ca vikkiṇitvā desentā satasahassagghanakaṃ candanasāraṃ pūtitakkena vikkiṇantā viya bhavissanti. Ayaṃ ekādasamassa vipāko.
11. Theo dòng thời gian, khi giáo pháp suy tàn, sẽ có nhiều Tỳ-khưu tham lam lợi dưỡng, không biết hổ thẹn. Họ sẽ thuyết giảng cho người khác giáo pháp mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng để loại bỏ sự tham lam lợi dưỡng, chỉ vì bốn món vật dụng như y phục, v.v. Bị mê đắm bởi các vật dụng, đứng về phía vô ích, họ sẽ không thể thuyết giảng hướng đến Niết-bàn. Họ sẽ chỉ thuyết giảng với ý nghĩ rằng: “sau khi nghe văn cú đầy đủ và giọng nói ngọt ngào, người ta sẽ cúng dường những chiếc y quý giá.” Những người khác sẽ ngồi ở các con đường, ngã tư, cổng hoàng cung, v.v., và thuyết giảng chỉ vì những đồng kahāpaṇa, nửa kahāpaṇa, một phần tư, một đồng māsa, v.v. Như vậy, họ thuyết giảng bằng cách bán đi giáo pháp mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng có giá trị bằng Niết-bàn, chỉ vì bốn món vật dụng và vì những đồng kahāpaṇa, nửa kahāpaṇa, v.v., sẽ giống như những người bán lõi gỗ chiên đàn trị giá một trăm ngàn để đổi lấy sữa chua đã hỏng. Đây là quả báo của giấc mộng thứ mười một.

12. Adhammikarājakāle loke viparivattanteyeva rājāno jātisampannānaṃ kulaputtānaṃ yasaṃ na dassanti, akulīnānaññeva dassanti, te issarā bhavissanti, itare daliddā. Rājasammukhepi rājadvārepi amaccasammukhepi vinicchayaṭṭhānepi tucchalābusadisānaṃ akulīnānaṃyeva kathā osīditvā ṭhitā viya niccalā suppatiṭṭhitā bhavissati, saṅghasannipātepi saṅghakammagaṇakammaṭṭhānesu ceva pattacīvarapariveṇādivinicchayaṭṭhānesu ca dussīlānaṃ pāpapuggalānaṃyeva kathā niyyānikā bhavissati, na lajjibhikkhūnanti evaṃ sabbathāpi tucchalābūnaṃ sīdanakālo viya bhavissati. Ayaṃ dvādasamassa vipāko.
12. Vào thời của các vị vua bất chính, khi thế gian đang biến đổi, các vị vua sẽ không ban danh vọng cho những người con trai của các gia đình danh giá mà chỉ ban cho những người không thuộc dòng dõi cao quý. Những người này sẽ trở nên quyền thế, còn những người kia sẽ nghèo khó. Trước mặt vua, ở cổng hoàng cung, trước mặt các quan, và ở tòa án, lời nói của những người không thuộc dòng dõi cao quý, giống như những quả bầu rỗng, sẽ được lắng nghe và trở nên vững chắc, không lay chuyển. Ngay cả trong các cuộc họp của Tăng chúng, ở những nơi thực hiện Tăng sự và các hoạt động của nhóm, và ở những nơi phân xử về y bát, tịnh xá, v.v., lời nói của những người ác, vô giới hạnh sẽ có giá trị, chứ không phải của các Tỳ-khưu biết hổ thẹn. Như vậy, về mọi mặt, sẽ giống như thời kỳ những quả bầu rỗng bị chìm. Đây là quả báo của giấc mộng thứ mười hai.

13. Tādiseyeva kāle adhammikarājāno akulīnānaṃ yasaṃ dassanti, te issarā bhavissanti, kulīnā duggatā. Tesu na keci gāravaṃ karissanti, itaresuyeva karissanti, rājasammukhe vā amaccasammukhe vā vinicchayaṭṭhāne vā vinicchayakusalānaṃ ghanasilāsadisānaṃ kulaputtānaṃ kathā na ogāhitvā patiṭṭhahissati. Tesu kathentesu ‘‘kiṃ ime kathentī’’ti itare parihāsameva karissanti, bhikkhusannipātepi vuttappakāresu ṭhānesu neva pesale bhikkhū garukātabbe maññissanti, nāpi nesaṃ kathā pariyogāhitvā patiṭṭhahissati, silānaṃ plavakālo viya bhavissati. Ayaṃ terasamassa vipāko.
13. Cũng vào thời như vậy, các vị vua bất chính sẽ ban danh vọng cho những người không thuộc dòng dõi cao quý. Họ sẽ trở nên quyền thế, còn những người thuộc dòng dõi cao quý sẽ nghèo khó. Không ai sẽ kính trọng những người (cao quý), mà chỉ kính trọng những người kia. Trước mặt vua, trước mặt các quan, hay ở tòa án, lời nói của những người con trai thuộc dòng dõi cao quý, những người am hiểu việc xét xử, giống như những tảng đá đặc, sẽ không được lắng nghe và không có chỗ đứng. Khi họ nói, những người kia sẽ chỉ chế nhạo: “Những người này đang nói gì vậy?” Ngay cả trong các cuộc họp của Tỳ-khưu, ở những nơi đã được nói đến, người ta sẽ không coi các Tỳ-khưu đức hạnh là đáng kính, lời nói của họ cũng sẽ không được lắng nghe và không có chỗ đứng. Sẽ giống như thời kỳ những tảng đá nổi. Đây là quả báo của giấc mộng thứ mười ba.

14. Loke parihāyanteyeva manussā tibbarāgādijātikā kilesānuvattakā hutvā taruṇataruṇānaṃ attano bhariyānaṃ vase vattissanti, gehe dāsakammakarādayopi gomahiṃsādayopi hiraññasuvaṇṇampi sabbaṃ tāsaṃyeva āyattaṃ bhavissati, ‘‘asukahiraññasuvaṇṇaṃ vā paricchedādijātaṃ vā kaha’’nti vutte ‘‘yattha vā tattha vā hotu, kiṃ tuyhiminā byāpārena, tvaṃ mayhaṃ ghare santaṃ vā asantaṃ vā jānitukāmo jāto’’ti vatvā nānappakārehi akkositvā mukhasattīhi koṭṭetvā dāsaceṭakaṃ viya vase katvā attano issariyaṃ pavattessanti, evaṃ madhukapupphappamāṇamaṇḍūkapotikānaṃ āsīvise kaṇhasappe gilanakālo viya bhavissati. Ayaṃ cuddasamassa vipāko.
14. Khi thế gian suy tàn, con người sẽ trở nên có tham dục mãnh liệt, v.v., bị phiền não chi phối và sống dưới sự kiểm soát của những người vợ trẻ tuổi của mình. Trong nhà, tôi tớ, người làm công, v.v., bò, trâu, v.v., vàng bạc, tất cả sẽ thuộc quyền sở hữu của họ (những người vợ). Khi được hỏi: “vàng bạc hay đồ đạc nào đó ở đâu?”, họ sẽ nói: “Nó ở đâu thì mặc kệ nó, liên quan gì đến ông, ông muốn biết trong nhà tôi có cái gì hay không có cái gì à?”, rồi mắng chửi bằng nhiều cách, dùng lời nói như gươm đâm, và kiểm soát (chồng) như một tên nô lệ, rồi thể hiện quyền lực của mình. Như vậy, sẽ giống như thời kỳ những con ếch cái nhỏ bằng bông hoa mahua nuốt chửng những con rắn hổ mang đen có nọc độc. Đây là quả báo của giấc mộng thứ mười bốn.

15. Dubbalarājakāle rājāno hatthisippādīsu akusalā yuddhesu avisāradā bhavissanti, te attano rājādhipaccaṃ āsaṅkamānā samānajātikānaṃ kulaputtānaṃ issariyaṃ adatvā attano pādamūlikanhāpakakappakādīnaṃ dassanti, jātigottasampannā kulaputtā rājakule patiṭṭhaṃ alabhamānā jīvikaṃ kappetuṃ asamatthā hutvā issariyaṭṭhāne jātigottahīne akulīne upaṭṭhahantā vicarissanti, suvaṇṇarājahaṃsehi kākassa parivāritakālo viya bhavissati. Ayaṃ pannarasamassa vipāko.
15. Vào thời của các vị vua yếu kém, các vị vua sẽ không khéo léo trong các kỹ năng cưỡi voi, v.v., và không giỏi chiến trận. Họ, vì lo sợ cho vương quyền của mình, sẽ không ban quyền lực cho những người con trai của các gia đình cùng dòng dõi, mà ban cho những người hầu hạ dưới chân mình như người tắm rửa, thợ cạo, v.v. Những người con trai của các gia đình có dòng dõi và họ tộc cao quý, không có chỗ đứng trong hoàng tộc, không thể kiếm sống, sẽ đi lại phục vụ những người không thuộc dòng dõi cao quý, thấp kém về dòng dõi và họ tộc ở những nơi quyền thế. Sẽ giống như thời kỳ con quạ được những con ngỗng chúa hoàng kim hầu hạ. Đây là quả báo của giấc mộng thứ mười lăm.

16. Adhammikarājakāleyeva ca akulīnāva rājavallabhā issarā bhavissanti, kulīnā appaññātā duggatā. Te rājavallabhā rājānaṃ attano kathaṃ gāhāpetvā vinicchayaṭṭhānādīsu balavanto hutvā dubbalānaṃ paveṇiāgatāni khettavatthuādīni ‘‘amhākaṃ santakāni etānī’’ti abhiyuñjitvā te ‘‘na tumhākaṃ, amhāka’’nti āgantvā vinicchayaṭṭhānādīsu vivadante vettalatādīhi pahārāpetvā gīvāyaṃ gahetvā apakaḍḍhāpetvā ‘‘attano pamāṇaṃ na jānātha, amhehi saddhiṃ vivadatha, idāni vo rañño kathetvā hatthapādacchedādīni kāressāmā’’ti santajjessanti, te tesaṃ bhayena attano santakāni khettavatthūni ‘‘tumhākaṃyeva tāni, gaṇhathā’’ti niyyātetvā attano gehāni pavisitvā bhītā nipajjissanti. Pāpabhikkhūpi pesale bhikkhū yathāruci viheṭhessanti, pesalā bhikkhū paṭisaraṇaṃ alabhamānā araññaṃ pavisitvā gahanaṭṭhānesu nilīyissanti, evaṃ hīnajaccehi ceva pāpabhikkhūhi ca upaddutānaṃ jātimantakulaputtānañceva pesalabhikkhūnañca eḷakānaṃ bhayena tasavakānaṃ palāyanakālo viya bhavissati . Ayaṃ soḷasamassa vipāko. Evaṃ tassa tassa atthassa pubbanimittabhūte soḷasa supine passi. Tena vuttaṃ – ‘‘kosalarājā viya soḷasa supine’’ti. Ettha ca pubbanimittato attano atthānatthanimittaṃ supinaṃ passanto attano kammānubhāvena passati, kosalarājā viya lokassa atthānatthanimittaṃ supinaṃ passanto pana sabbasattasādhāraṇakammānubhāvena passatīti veditabbaṃ.
16. Và cũng vào thời của các vị vua bất chính, những người không thuộc dòng dõi cao quý, những người được vua yêu mến, sẽ trở nên quyền thế; còn những người thuộc dòng dõi cao quý sẽ vô danh và nghèo khó. Những người được vua yêu mến đó, sau khi khiến vua nghe theo lời mình, sẽ trở nên có thế lực ở tòa án, v.v., và kiện cáo những người yếu thế về ruộng đất, tài sản, v.v., thừa kế từ tổ tiên, nói rằng: “những thứ này là của chúng tôi.” Khi những người kia đến tòa án, v.v., và tranh cãi: “không phải của các người, là của chúng tôi,” (những kẻ quyền thế) sẽ cho người đánh họ bằng roi mây, v.v., nắm cổ lôi đi, và đe dọa: “các người không biết thân phận mình, lại dám tranh cãi với chúng ta, bây giờ chúng ta sẽ tâu với vua để cho chặt tay chân các người.” Những người kia, vì sợ hãi, sẽ giao nộp ruộng đất, tài sản của mình, nói rằng: “chúng là của các người, hãy lấy đi,” rồi trở về nhà và nằm xuống trong sợ hãi. Các Tỳ-khưu ác cũng sẽ quấy nhiễu các Tỳ-khưu đức hạnh theo ý muốn. Các Tỳ-khưu đức hạnh, không tìm được nơi nương tựa, sẽ vào rừng và ẩn náu ở những nơi hiểm trở. Như vậy, đối với những người con trai của các gia đình có dòng dõi và các Tỳ-khưu đức hạnh bị áp bức bởi những người thuộc dòng dõi thấp kém và các Tỳ-khưu ác, sẽ giống như thời kỳ những con sói sợ hãi dê mà bỏ chạy. Đây là quả báo của giấc mộng thứ mười sáu. Như vậy, ông đã thấy mười sáu giấc mộng là điềm báo trước của từng ý nghĩa đó. Do đó đã được nói rằng – “giống như vua nước Kosala (thấy) mười sáu giấc mộng.” Và ở đây, cần phải hiểu rằng người thấy giấc mộng là điềm báo về lợi ích và bất lợi cho bản thân từ một điềm báo trước, là thấy do oai lực nghiệp của chính mình. Còn người thấy giấc mộng là điềm báo về lợi ích và bất lợi cho thế gian, như vua nước Kosala, là thấy do oai lực nghiệp chung của tất cả chúng sanh.

Kuddhā hi devatāti nāgamahāvihāre mahātherassa kuddhā devatā viya. Rohaṇe kira nāgamahāvihāre mahāthero bhikkhusaṅghaṃ anapaloketvāva ekaṃ nāgarukkhaṃ chindāpesi. Rukkhe adhivatthā devatā therassa kuddhā paṭhamameva naṃ saccasupinena palobhetvā pacchā ‘‘ito te sattadivasamatthake upaṭṭhāko rājā marissatī’’ti supine ārocesi. Thero taṃ kathaṃ āharitvā rājorodhānaṃ ācikkhi. Tā ekappahāreneva mahāviravaṃ viraviṃsu. Rājā ‘‘kiṃ eta’’nti pucchi. Tā ‘evaṃ therena vutta’’nti ārocayiṃsu. Rājā divase gaṇāpetvā sattāhe vītivatte therassa hatthapāde chindāpesi. Ekantasaccameva hotīti phalassa saccabhāvato vuttaṃ, dassanaṃ pana vipallatthameva. Teneva pahīnavipallāsā pubbanimittabhūtampi supinaṃ na passanti, dvīhi tīhi vā kāraṇehi kadāci supinaṃ passantīti āha ‘‘saṃsaggabhedato’’ti. ‘‘Asekkhā na passanti pahīnavipallāsattā’’ti vacanato catunnampi kāraṇānaṃ vipallāso eva mūlakāraṇanti daṭṭhabbaṃ.
Thật vậy, do chư thiên tức giận là giống như vị chư thiên đã tức giận vị Đại Trưởng lão ở tu viện Nāgamahāvihāra. Nghe nói rằng, ở tu viện Nāgamahāvihāra tại Rohaṇa, một vị Đại Trưởng lão đã cho đốn một cây sala mà không hỏi ý kiến Tăng chúng. Vị chư thiên trú ngụ trên cây tức giận vị trưởng lão, lúc đầu đã dụ dỗ ông bằng một giấc mộng thật, sau đó báo trong mộng rằng: “sau bảy ngày nữa, vị vua hộ độ của ngài sẽ băng hà.” Vị trưởng lão đã đem câu chuyện đó và kể lại cho các cung phi của vua. Họ đồng thanh khóc lớn. Vua hỏi: “Việc gì vậy?” Họ thưa rằng: “Đã được vị trưởng lão nói như vậy.” Vua cho đếm ngày, và khi bảy ngày trôi qua, ông đã cho chặt tay chân của vị trưởng lão. Câu Chắc chắn là thật được nói do quả báo là thật, tuy nhiên, cái thấy thì lại là sai lầm. Chính vì vậy, những vị đã đoạn trừ sự sai lầm không thấy cả giấc mộng là điềm báo trước. (Chú giải) nói rằng đôi khi họ thấy giấc mộng do hai hoặc ba nguyên nhân, đó là câu “do sự khác biệt trong giao tiếp.” Từ câu nói “Các bậc Vô học không thấy (mộng) vì đã đoạn trừ sự sai lầm,” cần phải hiểu rằng sự sai lầm chính là nguyên nhân gốc rễ của cả bốn nguyên nhân.

Tanti supinakāle pavattaṃ bhavaṅgacittaṃ. Rūpanimittādiārammaṇanti kammanimittagatinimittato aññaṃ rūpanimittādiārammaṇaṃ na hoti. Īdisānīti paccakkhato anubhūtapubbaparikappitarūpādiārammaṇāni ceva rāgādisampayuttāni ca. Sabbohārikacittenāti pakaticittena. Dvīhi antehi muttoti kusalākusalasaṅkhātehi dvīhi antehi mutto. Āvajjanatadārammaṇakkhaṇeti idaṃ yāva tadārammaṇuppatti, tāva pavattaṃ cittavāraṃ sandhāya vuttaṃ. ‘‘Supineneva diṭṭhaṃ viya me, sutaṃ viya meti kathanakāle pana abyākatoyeva āvajjanamattasseva uppajjanato’’ti vadanti. Evaṃ vadantehi pañcadvāre dutiyamoghavāre viya manodvārepi āvajjanaṃ dvattikkhattuṃ uppajjitvā javanaṭṭhāne ṭhatvā bhavaṅgaṃ otaratīti adhippetanti daṭṭhabbaṃ ekacittakkhaṇikassa āvajjanassa uppattiyaṃ ‘‘diṭṭhaṃ viya me, sutaṃ viya me’’ti kappanāya asambhavato.
là tâm hữu phần diễn tiến trong lúc mộng. Đối tượng là tướng sắc, v.v. có nghĩa là không có đối tượng là tướng sắc, v.v. khác với nghiệp tướng và thú tướng. Những thứ như vậy là các đối tượng sắc, v.v., đã được trải nghiệm trực tiếp trước đây và được tưởng tượng ra, và cũng là những thứ tương ưng với tham, v.v. Bằng tâm thông thường có nghĩa là bằng tâm tự nhiên. Thoát khỏi hai cực đoan có nghĩa là thoát khỏi hai cực đoan được gọi là thiện và bất thiện. Vào sát-na hướng tâm và đồng sở duyên, điều này được nói liên quan đến lộ trình tâm diễn tiến cho đến khi tâm đồng sở duyên khởi lên. Người ta nói rằng: “Vào lúc kể lại rằng ‘dường như tôi đã thấy trong mộng, dường như tôi đã nghe,’ thì chỉ có tâm vô ký của sát-na hướng tâm khởi lên mà thôi.” Khi nói như vậy, cần phải hiểu rằng họ có ý nói rằng ở ý môn, cũng giống như lộ trình vô hiệu thứ hai ở năm môn, tâm hướng môn khởi lên hai hoặc ba lần rồi đứng ở vị trí của tốc hành tâm, sau đó chìm vào hữu phần; bởi vì khi tâm hướng môn chỉ có một sát-na tâm khởi lên, thì không thể có sự tưởng tượng rằng “dường như tôi đã thấy, dường như tôi đã nghe.”

Ettha ca ‘‘supinantepi tadārammaṇavacanato paccuppannavasena vā atītavasena vā sabhāvadhammāpi supinante ārammaṇaṃ hontī’’ti vadanti. ‘‘Yadipi supinante vibhūtaṃ hutvā upaṭṭhite rūpādivatthumhi tadārammaṇaṃ vuttaṃ, tathāpi supinante upaṭṭhitanimittassa parikappavasena gahetabbatāya dubbalabhāvato dubbalavatthukattāti vutta’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Keci pana ‘‘karajakāyassa nirussāhasantabhāvappattito tannissitaṃ hadayavatthu na suppasannaṃ hoti, tato tannissitāpi cittuppatti na suppasannā asuppasannavaṭṭinissitadīpappabhā viya, tasmā dubbalavatthukattāti ettha dubbalahadayavatthukattā’’ti atthaṃ vadanti, vīmaṃsitvā yuttataraṃ gahetabbaṃ.
Và ở đây, người ta nói rằng: “do có nói đến tâm đồng sở duyên trong giấc mộng, nên ngay cả các pháp chân đế theo hiện tại hay quá khứ cũng có thể làm đối tượng trong giấc mộng.” Trong cả ba sách lược giải đều nói rằng: “Mặc dù tâm đồng sở duyên được nói đến đối với đối tượng sắc, v.v. đã hiện khởi rõ ràng trong giấc mộng, tuy nhiên, do tướng hiện khởi trong giấc mộng phải được xem là do tưởng tượng, nên nó yếu ớt; do đó đã nói là ‘vì đối tượng yếu ớt.’” Tuy nhiên, một số người nói rằng: “vì thân thể do nghiệp sanh đã trở nên không nỗ lực và yên tĩnh, nên ý vật nương vào nó không được trong sáng, do đó sự sanh khởi của tâm nương vào nó cũng không trong sáng, giống như ánh sáng của ngọn đèn nương vào một cái bấc không trong sáng; do đó, câu ‘vì đối tượng yếu ớt’ ở đây có nghĩa là vì ý vật yếu ớt.” Cần phải xem xét và chọn lấy ý nghĩa hợp lý hơn.

Supinantacetanāti manodvārikajavanavasena pavattā supinante cetanā. Supinañhi passanto manodvārikeneva javanena passati, na pañcadvārikena. Paṭibujjhanto ca manodvārikeneva paṭibujjhati, na pañcadvārikena. Niddāyantassa hi mahāvaṭṭiṃ jāletvā dīpe cakkhusamīpaṃ upanīte paṭhamaṃ cakkhudvārikaṃ āvajjanaṃ bhavaṅgaṃ na āvaṭṭeti, manodvārikameva āvaṭṭeti, atha javanaṃ javitvā bhavaṅgaṃ otarati. Dutiyavāre cakkhudvārikaṃ āvajjanaṃ bhavaṅgaṃ āvaṭṭeti, tato cakkhuviññāṇādīni javanapariyosānāni pavattanti, tadanantaraṃ bhavaṅgaṃ pavattati. Tatiyavāre manodvārikaāvajjanena bhavaṅge āvaṭṭite manodvārikajavanaṃ javati, tena cittena ‘‘kiṃ ayaṃ imasmiṃ ṭhāne āloko’’ti jānāti. Tathā niddāyantassa kaṇṇasamīpe tūriyesu paggahitesu ghānasamīpe sugandhesu vā duggandhesu vā pupphesu upanītesu mukhe sappimhi vā phāṇite vā pakkhitte piṭṭhiyaṃ pāṇinā pahāre dinne paṭhamaṃ sotadvārikādīni āvajjanāni bhavaṅgaṃ na āvaṭṭenti , manodvārikameva āvaṭṭeti, atha javanaṃ javitvā bhavaṅgaṃ otarati. Dutiyavāre sotadvārikādīni āvajjanāni bhavaṅgaṃ āvaṭṭenti, tato sotaghānajivhākāyaviññāṇādīni javanapariyosānāni pavattanti, tadanantaraṃ bhavaṅgaṃ pavattati. Tatiyavāre manodvārikaāvajjanena bhavaṅge āvaṭṭite manodvārikajavanaṃ javati, tena cittena ñatvā ‘‘kiṃ ayaṃ imasmiṃ ṭhāne saddo, saṅkhasaddo bherisaddo’’ti vā ‘‘kiṃ ayaṃ imasmiṃ ṭhāne gandho, mūlagandho sāragandho’’ti vā ‘‘kiṃ idaṃ mayhaṃ mukhe pakkhittaṃ, sappi phāṇita’’nti vā ‘‘kenamhi piṭṭhiyaṃ pahaṭo, atithaddho me pahāro’’ti vā vattā hoti, evaṃ manodvārikajavaneneva paṭibujjhati, na pañcadvārikena. Supinampi teneva passati, na pañcadvārikena.
Tác ý trong giấc mộng là tác ý trong giấc mộng diễn tiến theo tốc hành tâm của ý môn. Thật vậy, người thấy mộng là thấy bằng tốc hành tâm của ý môn, chứ không phải của năm môn. Và người thức dậy cũng thức dậy bằng (tâm của) ý môn, chứ không phải của năm môn. Thật vậy, đối với người đang ngủ, khi một ngọn đèn lớn được thắp sáng và đưa đến gần mắt, lúc đầu, hướng tâm của nhãn môn không làm xoay chuyển tâm hữu phần, chỉ có ý môn mới làm xoay chuyển, sau đó tốc hành tâm chạy rồi chìm vào hữu phần. Ở lộ trình thứ hai, hướng tâm của nhãn môn làm xoay chuyển tâm hữu phần, từ đó nhãn thức, v.v. cho đến cuối tốc hành tâm diễn tiến, sau đó tâm hữu phần diễn tiến. Ở lộ trình thứ ba, khi tâm hữu phần được xoay chuyển bởi hướng tâm của ý môn, tốc hành tâm của ý môn chạy, bằng tâm đó, người ấy biết rằng: “ánh sáng gì ở nơi này vậy?” Tương tự, đối với người đang ngủ, khi các nhạc cụ được chơi gần tai, hoặc khi hoa thơm hay hoa hôi được đưa đến gần mũi, hoặc khi bơ hay mật mía được bỏ vào miệng, hoặc khi bị đánh vào lưng bằng tay, lúc đầu, các hướng tâm của nhĩ môn, v.v. không làm xoay chuyển tâm hữu phần, chỉ có ý môn mới làm xoay chuyển, sau đó tốc hành tâm chạy rồi chìm vào hữu phần. Ở lộ trình thứ hai, các hướng tâm của nhĩ môn, v.v. làm xoay chuyển tâm hữu phần, từ đó nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức, v.v. cho đến cuối tốc hành tâm diễn tiến, sau đó tâm hữu phần diễn tiến. Ở lộ trình thứ ba, khi tâm hữu phần được xoay chuyển bởi hướng tâm của ý môn, tốc hành tâm của ý môn chạy, sau khi biết bằng tâm đó, người ấy có thể nói rằng: “âm thanh gì ở nơi này vậy, tiếng tù và hay tiếng trống?” hoặc “mùi gì ở nơi này vậy, mùi rễ cây hay mùi lõi cây?” hoặc “cái gì được bỏ vào miệng ta vậy, bơ hay mật mía?” hoặc “ai đã đánh vào lưng ta, cú đánh thật mạnh.” Như vậy, người ta thức dậy chỉ bằng tốc hành tâm của ý môn, chứ không phải bằng (tâm của) năm môn. Người ta cũng thấy mộng bằng chính nó, chứ không phải bằng (tâm của) năm môn.

Assāti assa āpattinikāyassa. Nanu ca ayuttoyaṃ niddeso ‘‘saṅgho ādimhi ceva sese ca icchitabbo assā’’ti. Na hi āpattinikāyassa ādimhi ceva sese ca saṅgho icchito, kiñcarahi vuṭṭhānassāti imaṃ codanaṃ manasi sannidhāya yathā na virujjhati, tathā adhippāyaṃ vivaranto ‘‘kiṃ vuttaṃ hotī’’tiādimāha. Āpattito vuṭṭhānassa ādimhi ceva sese ca icchito saṅgho āpattiyāva icchito nāma hotīti ayamettha adhippāyo. Āpattivuṭṭhānanti āpattito vuṭṭhānaṃ, anāpattikabhāvūpagamananti attho. Vacanakāraṇanti ‘‘saṅghādiseso’’ti evaṃ vacane kāraṇaṃ. Samudāye niruḷho nikāya-saddo tadekadese pavattamānopi tāya eva ruḷhiyā pavattatīti āha ruḷīsaddenāti. Atha vā kiñci nimittaṃ gahetvā satipi aññasmiṃ taṃnimittayutte kismiñcideva visaye sammutiyā cirakālatāvasena nimittavirahepi pavattaniruḷho ruḷhī nāma. Yathā mahiyaṃ setīti mahiṃso, gacchatīti goti, evaṃ nikāya-saddassapi ruḷhibhāvo veditabbo. Ekasmimpi visiṭṭhe satipi sāmaññā viya samudāye pavattavohāro avayavepi pavattatīti āha avayave samūhavohārena vāti. Navamassa adhippāyassāti vīmaṃsādhippāyassa.
Của nó có nghĩa là của nhóm tội này. Chẳng phải sự giải thích này là không hợp lý sao: “Tăng chúng là cần thiết ở lúc đầu và lúc cuối của nó”? Thật vậy, Tăng chúng không phải là cần thiết ở lúc đầu và lúc cuối của nhóm tội, mà là của việc xuất tội. Giữ sự chất vấn này trong tâm, để không có sự mâu thuẫn, (chú giải) đã làm rõ ý nghĩa khi nói rằng “Điều gì đã được nói?” và các điều khác. Ở đây, ý nghĩa là: Tăng chúng cần thiết ở lúc đầu và lúc cuối của việc xuất tội khỏi tội lỗi, cũng được gọi là cần thiết cho chính tội lỗi đó. Xuất tội là việc ra khỏi tội lỗi, có nghĩa là đạt đến trạng thái không có tội. Nguyên nhân của cách nói là nguyên nhân của cách nói như thế này: “Tăng Tàn.” (Chú giải) nói rằng từ ‘nikāya’ (nhóm) là một danh từ tập quán, đã trở thành một danh từ thông dụng cho một tập hợp, dù chỉ diễn tiến trong một phần của nó, nó vẫn diễn tiến theo chính sự thông dụng đó. Hoặc, danh từ tập quán là một danh từ thông dụng, sau khi đã lấy một đặc điểm nào đó, dù có những thứ khác cũng có đặc điểm đó, nó vẫn chỉ được dùng cho một đối tượng cụ thể nào đó theo quy ước; và do sự lâu dài, nó vẫn được dùng dù không còn đặc điểm đó nữa. Giống như ‘mahiṃso’ (con trâu) là con vật nằm trên đất, ‘go’ (con bò) là con vật đi, cũng vậy, cần phải hiểu tính chất tập quán của từ ‘nikāya.’ Hoặc, (chú giải) nói rằng bằng cách dùng từ chỉ tập hợp cho một bộ phận, giống như trong trường hợp tổng quát, dù chỉ có một cá thể đặc biệt, cách nói diễn tiến cho tập hợp cũng diễn tiến cho một bộ phận. Của ý nghĩa thứ chín có nghĩa là của ý nghĩa liên quan đến sự dò xét.

238-239. Lomā etesaṃ santīti lomasā, bahulomāti vuttaṃ hoti. Arogo bhavissāmīti rāgapariḷāhavūpasamato nirogo bhavissāmi. Mocanenāti mocanatthāya upakkamakaraṇena. Upakkamakaraṇañhettha mocananti adhippetaṃ moceti etenāti katvā. Bījaṃ bhavissatīti coḷaggahaṇādikammaṃ sandhāya vuttaṃ.
238-239. Lông của những người này có, nên gọi là người có lông; có nghĩa là đã nói người nhiều lông. Ta sẽ không có bệnh có nghĩa là ta sẽ không có bệnh do sự lắng dịu cơn nóng bức của tham ái. Bằng cách làm cho xuất ra có nghĩa là bằng cách thực hiện sự cố gắng với mục đích làm cho xuất ra. Ở đây, việc thực hiện sự cố gắng được hiểu là ‘làm cho xuất ra,’ vì người ta làm cho xuất ra bằng cái đó. Sẽ là hạt giống được nói liên quan đến hành động cầm mảnh vải, v.v.

240.Dveāpattisahassānīti khaṇḍacakkādibhedaṃ anāmasitvā vuttaṃ, icchantena pana khaṇḍacakkādibhedenapi āpattigaṇanā kātabbā. Missakacakkanti ubhatovaḍḍhanakaṃ sandhāya vuttaṃ. Ettha ca nīlañca pītakañcātiādinā ekakkhaṇe anekavaṇṇānaṃ mocanādhippāyavacanaṃ yathādhippāyena mocanaṃ bhavatu vā mā vā, imināpi adhippāyena upakkamitvā mocentassa āpatti hotīti dassanatthaṃ. Na hi ekasmiṃ khaṇe nīlādīnaṃ sabbesampi mutti sambhavati. Aññaṃ vadatīti attano dosaṃ ujuṃ vattuṃ asakkonto puna puṭṭho aññaṃ bhaṇati.
240. Hai ngàn tội được nói mà không đề cập đến sự phân chia của vòng luân hồi từng phần, v.v.; tuy nhiên, người muốn thì cũng nên thực hiện việc đếm tội theo sự phân chia của vòng luân hồi từng phần, v.v. Vòng luân hồi hỗn hợp được nói liên quan đến sự gia tăng của cả hai. Và ở đây, lời nói có ý định làm cho xuất ra nhiều màu trong một sát-na, bằng các từ ‘màu xanh và màu vàng,’ v.v., là để chỉ ra rằng dù việc xuất ra theo ý định có xảy ra hay không, người cố gắng và làm cho xuất ra với ý định này vẫn phạm tội. Thật vậy, sự xuất ra của tất cả các màu xanh, v.v. trong cùng một sát-na là không thể. Nói điều khác có nghĩa là không thể nói thẳng lỗi của mình, khi bị hỏi lại thì nói điều khác.

Mocanassādoti mocanassa pubbabhāge pavattaassādo. Teneva ‘‘mocetuṃ assādo mocanassādo’’ti vuttaṃ. Gehassitapemanti ettha geha-saddena gehe ṭhitā mātubhaginīādayo ajjhattikañātakā gahitā. Tesu mātupemādivasena uppanno sineho gehassitapemaṃ, aññattha pana gehassitapemanti pañcakāmaguṇikarāgo vuccati. Sampayuttaassādasīsenāti rāgasampayuttasukhavedanāmukhena. Ekena padenāti gehassitapema-padena.
Sự thích thú trong việc xuất ra là sự thích thú diễn tiến trong giai đoạn đầu của việc xuất ra. Chính vì vậy đã nói rằng: “sự thích thú để làm cho xuất ra là sự thích thú trong việc xuất ra.” Về tình thương quyến luyến gia đình, ở đây, bằng từ ‘gia đình,’ cần hiểu là những người thân thuộc bên trong như mẹ, chị em, v.v. đang ở trong nhà. Tình thương khởi lên do tình thương mẹ, v.v. đối với họ là tình thương quyến luyến gia đình. Tuy nhiên, ở nơi khác, tình thương quyến luyến gia đình được gọi là lòng tham ái đối với năm dục trưởng dưỡng. Dưới danh nghĩa sự thích thú tương ưng có nghĩa là qua thọ lạc tương ưng với tham. Bằng một từ có nghĩa là bằng từ ‘tình thương quyến luyến gia đình.’

Tathevāti mocanassādacetanāya eva. Pubbabhāge mocanassādavasena katappayogaṃ avijahitvāva sayitattā ‘‘sace pana…pe… saṅghādiseso’’ti vuttaṃ. Puna suddhacitte uppanne tassa payogassa paṭippassaddhattā ‘‘suddhacitto…pe… anāpattī’’ti vuttaṃ. Jagganatthāyāti dhovanatthāya. Anokāsanti aṅgajātappadesaṃ.
Cũng như thế có nghĩa là chỉ bằng tác ý thích thú trong việc xuất ra. Vì đã nằm xuống mà không từ bỏ sự cố gắng đã được thực hiện do sự thích thú trong việc xuất ra ở giai đoạn đầu, nên đã nói rằng: “tuy nhiên, nếu… cho đến… Tăng Tàn.” Khi tâm thanh tịnh khởi lên trở lại, do sự lắng dịu của sự cố gắng đó, nên đã nói rằng: “tâm thanh tịnh… cho đến… vô tội.” Để rửa có nghĩa là để giặt. Chỗ không thích hợp là vùng sinh thực khí.

263-264.Gehassitakāmavitakkanti pañcakāmaguṇasannissitaṃ kāmavitakkaṃ. Vatthiṃ daḷhaṃ gahetvāti aṅgajātassa agge passāvaniggamanaṭṭhāne cammaṃ daḷhaṃ gahetvā. Nimitte upakkamābhāvato ‘‘mocanassādādhippāyassapi mutte anāpattī’’ti vuttaṃ.
263-264. Tầm về dục quyến luyến gia đình là tầm về dục nương theo năm dục trưởng dưỡng. Nắm chặt bàng quang có nghĩa là nắm chặt phần da ở đầu sinh thực khí, nơi nước tiểu thoát ra. Do không có sự cố gắng ở nơi tướng, nên đã nói rằng: “dù có ý định thích thú trong việc xuất ra, khi đã xuất ra thì vô tội.”

265. ‘‘Ehi me tvaṃ, āvuso, sāmaṇerāti āṇattiyā aññena katopi payogo attanāva kato nāma hotīti katvā āpatti vuttā. Yadi pana anāṇatto sayameva karoti, aṅgapāripūriyā abhāvato anāpattī’’ti vadanti. Suttasāmaṇeravatthusmiṃ asucimhi muttepi aṅgajātassa gahaṇapaccayā dukkaṭaṃ vuttaṃ, na pana muttapaccayā.
265. Do việc ra lệnh: “Này hiền giả sa-di, hãy đến đây với tôi,” sự cố gắng dù do người khác thực hiện cũng được xem như chính mình đã làm, vì vậy tội đã được nói đến. Người ta nói rằng: “Tuy nhiên, nếu (sa-di) tự mình làm mà không được ra lệnh, thì vô tội do không đủ các yếu tố.” Trong trường hợp của vị sa-di đang ngủ, dù tinh dịch đã xuất ra, tội Tác Ác đã được nói đến do nguyên nhân là việc nắm lấy sinh thực khí, chứ không phải do nguyên nhân là việc xuất ra.

266.Kāyatthambhanavatthusmiṃ calanavasena yathā aṅgajātepi upakkamo sambhavati, tathāpi vijambhitattā āpatti vuttā. ‘‘Pacchato vā’’ti vacanato ubhosu passesu kaṭiyaṃ ūruppadesopi gahitoyevāti daṭṭhabbaṃ, tasmā ubhosupi passesu ṭhatvā imasmiṃ okāse nimittanti upanijjhāyantassapi āpattiyeva. ‘‘Aṅgajāta’’nti vacanato nimittanti passāvamaggova vutto. Ummīlananimīlanavasena pana na kāretabboti ummīlananimīlanappayogavasaena āpattibhedo na kāretabboti attho. Anekakkhattumpi ummīletvā nimīletvā upanijjhāyantassa ekameva dukkaṭanti vuttaṃ hoti. Akkhīni avipphandetvā abhimukhaṃ sampattassa mātugāmassa nimittolokanepi āpattiyevāti daṭṭhabbaṃ. ‘‘Dārudhītalikalepacittānaṃ aṅgajātupanijjhānepi dukkaṭa’’nti vadanti.
266. Trong trường hợp làm cứng cơ thể, mặc dù sự cố gắng cũng có thể xảy ra ở sinh thực khí do sự cử động, tuy nhiên tội đã được nói đến do sự duỗi người. Từ câu nói “hoặc từ phía sau,” cần phải hiểu rằng vùng hông và đùi ở cả hai bên cũng đã được bao gồm, do đó, ngay cả người đứng ở cả hai bên và nhìn chăm chú vào tướng ở nơi này cũng phạm tội. Do câu nói “sinh thực khí,” nên tướng được nói đến chính là đường tiểu. Tuy nhiên, không nên thực hiện theo cách mở mắt và nhắm mắt có nghĩa là không nên phân chia tội theo cách thực hiện việc mở mắt và nhắm mắt. Có nghĩa là đã nói rằng người nhìn chăm chú bằng cách mở mắt và nhắm mắt nhiều lần cũng chỉ phạm một tội Tác Ác. Cần phải hiểu rằng ngay cả việc nhìn vào tướng của người nữ đến trước mặt mà không chớp mắt cũng phạm tội. Người ta nói rằng: “ngay cả việc nhìn chăm chú vào sinh thực khí của các hình tượng con gái bằng gỗ, bằng bột, hay được vẽ cũng phạm tội Tác Ác.”

267.Pupphāvalīti kīḷāvisesassādhivacanaṃ. Taṃ kīḷantā nadīādīsu chinnataṭaṃ udakena cikkhallaṃ katvā tattha ubho pāde pasāretvā nisinnā papatanti. ‘‘Pupphāvaliya’’ntipi pāṭho. Pavesentassāti dvikammakattā vālikaṃ aṅgajātanti ubhayatthāpi upayogavacanaṃ kataṃ. Vālikanti vālikāyāti attho. Cetanā, upakkamo, muccananti imānettha tīṇi aṅgāni veditabbāni.
267. Pupphāvalī là tên gọi của một trò chơi đặc biệt. Những người chơi trò đó, sau khi làm cho bờ sông, v.v. bị sạt lở trở thành bùn lầy bằng nước, họ ngồi duỗi cả hai chân ở đó rồi trượt xuống. Cũng có cách đọc là “Pupphāvaliyā”. Đối với từ “đưa vào,” do là động từ có hai túc từ, nên cách dùng túc từ đã được áp dụng cho cả hai là ‘cát’ và ‘sinh thực khí.’ Cát có nghĩa là ‘vào trong cát.’ Ở đây, cần phải biết có ba yếu tố này: tác ý, sự cố gắng, và sự xuất ra.

Sukkavissaṭṭhisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học xuất tinh đã kết thúc.

2. Kāyasaṃsaggasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giải Thích về Điều Học Tiếp Xúc Thân Thể

269. Dutiye yesu vivaṭesu andhakāro hoti, tāni vivarantoti brāhmaṇiyā saddhiṃ kāyasaṃsaggaṃ samāpajjitukāmo evamakāsi. Tena katassapi vippakārassa attani katattā ‘‘attano vippakāra’’nti vuttaṃ. Uḷārattatāti uḷāracittatā, paṇītādhimuttatāti vuttaṃ hoti.
269. Trong điều thứ hai, câu “mở những cái mà khi mở ra thì có bóng tối” có nghĩa là (vị Tỳ-khưu) đã làm như vậy vì muốn có sự tiếp xúc thân thể với người nữ Bà-la-môn. Do sự xúc phạm mà người ấy đã làm cũng là làm cho chính mình, nên đã nói là “sự xúc phạm của chính mình.” Tính chất cao thượng là tính chất cao thượng của tâm; có nghĩa là đã nói đến sự hướng tâm cao quý.

270.Otiṇṇoti idaṃ kammasādhanaṃ kattusādhanaṃ vā hotīti tadubhayavasena atthaṃ dassento ‘‘yakkhādīhi viya sattā’’tiādimāha. Asamapekkhitvāti yathāsabhāvaṃ anupaparikkhitvā, yathā te ratijanakā rūpādayo visayā aniccadukkhāsubhānattākārena avatthitā, tathā apassitvāti vuttaṃ hoti.
270. Về từ ‘Bị ám ảnh,’ vì từ này có thể là dạng bị động hoặc chủ động, để chỉ ra ý nghĩa theo cả hai cách đó, (chú giải) nói rằng: “chúng sanh (bị ám ảnh) bởi các loài dã-xoa, v.v.” Không xem xét kỹ có nghĩa là không quán xét theo đúng bản chất, có nghĩa là đã nói rằng không thấy các đối tượng sắc, v.v. gây ra sự thích thú đó đúng như bản chất của chúng là vô thường, khổ, bất tịnh, và vô ngã.

271.Saññamavelanti sīlamariyādaṃ. Ācāroti ācaraṇaṃ hatthagahaṇādikiriyā. Assāti ‘‘kāyasaṃsaggaṃ samāpajjeyyā’’ti padassa.
271. Giới hạn của sự chế ngự là ranh giới của giới hạnh. Hành vi là sự hành động, là việc nắm tay, v.v. Của nó là của câu “nên có sự tiếp xúc thân thể.”

273.Etesaṃ padānaṃ vasenāti āmasanādipadānaṃ vasena. Ito cito ca…pe… sañcopetīti attano hatthaṃ vā kāyaṃ vā tiriyaṃ ito cito ca sañcāreti. ‘‘Kāyato amocetvāvāti vacanato matthakato paṭṭhāya hatthaṃ otārentassa kāyato mocetvā nivatthasāṭakūpari omasantassa thullaccayaṃ, sāṭakato otāretvā jaṅghato paṭṭhāya kāyaṃ omasantassa puna saṅghādiseso’’ti vadanti.
273. Theo các từ này có nghĩa là theo các từ ‘chạm,’ v.v. Qua lại… cho đến… di chuyển có nghĩa là di chuyển tay hoặc thân của mình qua lại theo chiều ngang. Do câu nói “hoặc không rời khỏi thân,” người ta nói rằng: “người đưa tay xuống từ đầu, rời khỏi thân rồi sờ lên trên chiếc y đang mặc thì phạm tội Trọng Tội; sau khi đưa tay xuống khỏi y, rồi sờ vào thân từ bắp chân trở đi thì lại phạm tội Tăng Tàn.”

Dvādasasupi āmasanādippayogesu ekekasmiṃ payoge kāyato amocite ekekāva āpatti hotīti āha ‘‘mūlaggahaṇameva pamāṇa’’nti. Idañca ekena hatthena kāyaṃ gahetvā itarena hatthena kāyaparāmasanaṃ sandhāya vuttaṃ. Ekena pana hatthena kāyapaṭibaddhaṃ gahetvā itarena tattha tattha kāyaṃ parāmasato payogagaṇanāya āpatti. Ayaṃ pana saṅghādiseso na kevalaṃ vatthuvaseneva, apica saññāvasenapīti āha ‘‘itthiyā itthisaññissa saṅghādiseso’’ti. Pāḷiyaṃ tiracchānagato ca hotīti ettha tiracchānagatitthiyā tiracchānagatapurisassa ca gahaṇaṃ veditabbaṃ.
Trong mười hai cách thực hiện việc chạm, v.v., đối với mỗi cách thực hiện, nếu không rời khỏi thân, thì chỉ có một tội duy nhất. Do đó, (chú giải) nói: “việc nắm lấy lúc đầu chính là tiêu chuẩn.” Và điều này được nói liên quan đến việc dùng một tay nắm lấy thân và dùng tay kia để xoa bóp thân. Tuy nhiên, khi dùng một tay nắm lấy vật dính liền với thân và dùng tay kia xoa bóp thân ở nhiều nơi, thì phạm tội theo số lần thực hiện. Tội Tăng Tàn này không chỉ tùy thuộc vào đối tượng, mà còn tùy thuộc vào tưởng. Do đó, (chú giải) nói: “đối với người có tưởng là nữ, (tiếp xúc) người nữ thì phạm tội Tăng Tàn.” Trong Pāḷi, ở câu và là loài bàng sanh, cần phải hiểu là bao gồm cả người nữ là bàng sanh và người nam là bàng sanh.

Samasārāgoti kāyasaṃsaggarāgena ekasadisarāgo. Purimanayenevāti rajjuvatthādīhi parikkhipitvā gahaṇe vuttanayena. Puna purimanayenevāti samasārāgo vutto. Anantaranayenevāti kāyapaṭibaddhaāmasananayena . Veṇiggahaṇena lomānampi saṅgahitattā lomānaṃ phusanepi saṅghādiseso vutto. Idāni vuttamevatthaṃ pakāsetukāmo ‘‘upādinnakena hī’’tiādimāha.
Có lòng tham ái tương đương là có lòng tham ái tương đương với lòng tham ái khi tiếp xúc thân thể. Theo cách trước là theo cách đã được nói về việc nắm lấy sau khi đã quấn bằng dây thừng, vải, v.v. Lại nữa, theo cách trước là nói về việc có lòng tham ái tương đương. Theo cách ngay sau là theo cách chạm vào vật dính liền với thân. Do việc nắm bím tóc cũng bao gồm cả lông, nên tội Tăng Tàn cũng được nói đến khi chạm vào lông. Bây giờ, muốn làm sáng tỏ ý nghĩa đã được nói, (chú giải) nói rằng: “Thật vậy, đối với vật bị chấp thủ” và các điều khác.

Yathāniddiṭṭhaniddeseti yathāvuttakāyasaṃsagganiddese. Tenāti tena yathāvuttakāraṇena. Saññāya virāgitamhīti saññāya viraddhāya. Liṅgabyattayena ‘‘virāgitamhī’’ti vuttaṃ. Imaṃ nāma vatthunti imasmiṃ sikkhāpade āgataṃ sandhāya vadati. Aññampi yaṃ kiñci vatthuṃ sandhāya vadatītipi keci. Sārattanti kāyasaṃsaggarāgena sārattaṃ. Virattanti kāyasaṃsaggarāgarahitaṃ mātubhaginīādiṃ sandhāya vadati. ‘‘Virattaṃ gaṇhissāmī’’ti virattaṃ gaṇhi, dukkaṭanti mātupemādivasena gahaṇe dukkaṭaṃ vuttaṃ.
Trong phần giải thích đã được chỉ ra có nghĩa là trong phần giải thích về sự tiếp xúc thân thể đã được nói đến. Do đó có nghĩa là do nguyên nhân đã được nói đến đó. Khi tưởng bị sai lệch có nghĩa là do tưởng đã sai. Do sự thay đổi về giống (ngữ pháp), nên đã nói là “virāgitamhī”. Đối tượng này là nói đến (đối tượng) đã xuất hiện trong điều học này. Một số người lại cho rằng (vị ấy) cũng nói đến bất kỳ đối tượng nào khác. Bị luyến ái là bị luyến ái bởi lòng tham ái khi tiếp xúc thân thể. Không bị luyến ái là nói đến người mẹ, chị em, v.v., không có lòng tham ái khi tiếp xúc thân thể. Câu “nghĩ rằng ‘ta sẽ nắm lấy người không bị luyến ái’ rồi nắm lấy người không bị luyến ái, phạm tội Tác Ác”, tội Tác Ác được nói đến trong trường hợp nắm lấy do tình thương mẹ, v.v.

Imāya pāḷiyā sametīti sambandho. Kathaṃ sametīti ce? Yadi hi ‘‘itthiyā kāyapaṭibaddhaṃ gaṇhissāmī’’ti citte uppanne itthisaññā virāgitā bhaveyya, kāyapaṭibaddhaggahaṇe thullaccayaṃ vadantena bhagavatā ‘‘itthī ca hoti itthisaññī cā’’ti na vattabbaṃ siyā, vuttañca, tasmā ‘‘itthiyā kāyapaṭibaddhaṃ gaṇhissāmī’’ti kāyaṃ gaṇhantassa itthisaññā virāgitā nāma na hotīti ‘‘kāyapaṭibaddhaṃ gaṇhissāmīti kāyaṃ gaṇhanto yathāvatthukameva āpajjatī’’ti mahāsumattherena vuttavādo imāya pāḷiyā sameti. Yo panettha ‘‘satipi itthisaññāya kāyapaṭibaddhaṃ gaṇhantassa gahaṇasamaye ‘kāyapaṭibaddhaṃ gaṇhissāmī’ti saññaṃ ṭhapetvā ‘itthiṃ gaṇhāmī’ti saññāya abhāvato vatthusaññānaṃ bhinnattā ayutta’’nti vadeyya, so pucchitabbo ‘‘kiṃ kāyapaṭibaddhaṃ vatthādiṃ gaṇhanto itthiyā rāgena gaṇhāti, udāhu vatthādīsu rāgenā’’ti. Yadi ‘‘vatthādīsu rāgena gaṇhātī’’ti vadeyya, itthiyā kāyapaṭibaddhaṃ ahutvā aññattha ṭhitaṃ vatthādiṃ gaṇhantassapi thullaccayaṃ siyā, tasmā itthī itthisaññā sārattabhāvo gahaṇañcāti aṅgapāripūrisabbhāvato mahāsumattheravādova yuttavādo. Aṭṭhakathāvinicchayehi ca sametīti etthāpi ayamadhippāyo – yadi saññāvirāgena virāgitaṃ nāma siyā, ‘‘sambahulā itthiyo bāhāhi parikkhipitvā gaṇhāmī’’ti evaṃsaññissa ‘‘majjhagatitthiyo kāyapaṭibaddhena gaṇhāmī’’ti evarūpāya saññāya abhāvato majjhagatānaṃ vasena thullaccayaṃ na siyā, evaṃ santepi aṭṭhakathāya thullaccayassa vuttattā saññāvirāgena virāgitaṃ nāma na hotīti ayamattho siddhoyevāti. Nīlena duviññeyyasabhāvato kāḷitthī vuttā.
Mối liên hệ là nó phù hợp với câu Pāḷi này. Nếu hỏi rằng phù hợp như thế nào? (Xin thưa rằng:) Nếu khi tâm nghĩ rằng “ta sẽ nắm lấy vật dính liền với thân của người nữ” khởi lên, mà tưởng về người nữ bị sai lệch, thì Đức Thế Tôn, khi nói rằng phạm tội Trọng Tội khi nắm lấy vật dính liền với thân, đã không nên nói rằng “là người nữ và có tưởng là người nữ.” Nhưng Ngài đã nói. Do đó, người nắm lấy thân (người nữ) với ý nghĩ “ta sẽ nắm lấy vật dính liền với thân của người nữ” thì không thể gọi là có tưởng bị sai lệch; cho nên, quan điểm của Trưởng lão Mahāsuma rằng “người nắm lấy thân với ý nghĩ ‘ta sẽ nắm lấy vật dính liền với thân’ thì phạm tội đúng theo đối tượng” là phù hợp với câu Pāḷi này. Bất cứ ai ở đây nói rằng: “điều này không hợp lý vì dù có tưởng là người nữ, nhưng vào lúc nắm lấy vật dính liền với thân, do đã đặt tưởng là ‘ta sẽ nắm lấy vật dính liền với thân’ và không có tưởng là ‘ta đang nắm lấy người nữ,’ nên tưởng về đối tượng đã khác nhau,” người đó nên được hỏi rằng: “khi nắm lấy vật, v.v., dính liền với thân, người ấy nắm lấy với lòng tham ái đối với người nữ, hay với lòng tham ái đối với vật, v.v.?” Nếu nói rằng: “nắm lấy với lòng tham ái đối với vật, v.v.,” thì ngay cả khi nắm lấy vật, v.v. không dính liền với thân người nữ mà ở nơi khác cũng sẽ phạm tội Trọng Tội. Do đó, vì có đầy đủ các yếu tố là: người nữ, tưởng là người nữ, trạng thái luyến ái, và sự nắm lấy, nên quan điểm của Trưởng lão Mahāsuma là quan điểm hợp lý. Và phù hợp với các quyết đoán của chú giải, ở đây cũng có ý nghĩa này – nếu gọi là sai lệch do tưởng bị sai lệch, thì người có tưởng rằng: “ta sẽ nắm lấy nhiều người nữ bằng cách ôm họ bằng tay,” do không có tưởng rằng: “ta sẽ nắm lấy những người nữ ở giữa bằng vật dính liền với thân,” nên sẽ không phạm tội Trọng Tội đối với những người ở giữa. Dù vậy, do chú giải đã nói đến tội Trọng Tội, nên ý nghĩa rằng không thể gọi là sai lệch do tưởng bị sai lệch là đã được chứng minh. Do màu xanh dương có bản chất khó phân biệt, nên đã nói đến người nữ có da đen.

279.Sevanādhippāyoti phassasukhasevanādhippāyo. Itthiyā kāyena bhikkhussa kāyapaṭibaddhāmasanavārepi phassaṃ paṭivijānātīti idaṃ attano kāyapaṭibaddhāmasanepi kāyasambandhasabhāvato vuttaṃ. Etthāti nissaggiyena nissaggiyavāre. Mokkhādhippāyoti ettha paṭhamaṃ kāyasaṃsaggarāge satipi pacchā mokkhādhippāyassa anāpatti.
279. Ý định hưởng thụ là ý định hưởng thụ lạc thú do sự tiếp xúc. Ngay cả trong trường hợp thân của người nữ chạm vào vật dính liền với thân của vị Tỳ-khưu, câu “biết rõ sự tiếp xúc” này được nói do bản chất của sự liên quan đến thân ngay cả khi chạm vào vật dính liền với thân của chính mình. Ở đây là trong trường hợp tội Ưng Xả Đối Trị với vật phải xả. Về ý định giải thoát, ở đây, dù lúc đầu có lòng tham ái khi tiếp xúc thân thể, nhưng sau đó có ý định giải thoát thì vô tội.

281.Pāripanthikāti vilumpanikā, antarāyikāti vuttaṃ hoti. Nadīsotena vuyhamānaṃ mātaranti ukkaṭṭhaparicchedadassanatthaṃ vuttaṃ, aññāsupi pana itthīsu kāruññādhippāyena mātari vuttanayena paṭipajjantassa nevatthi dosoti vadanti. ‘‘Mātara’’nti vuttattā aññāsaṃ na vaṭṭatīti vadantāpi atthi. Tiṇaṇḍupakanti hirīverādimūlehi katacumbaṭakaṃ. Tālapaṇṇamuddikanti tālapaṇṇehi kataaṅgulimuddikaṃ. Parivattetvāti attano nivāsanapārupanabhāvato apanetvā, cīvaratthāya apanāmetvāti vuttaṃ hoti. Cīvaratthāya pādamūle ṭhapeti, vaṭṭatīti idaṃ nidassanamattaṃ, paccattharaṇavitānādiatthampi vaṭṭatiyeva, pūjādiatthaṃ tāvakālikampi gahetuṃ vaṭṭati.
281. Kẻ cướp đường là kẻ cướp giật; có nghĩa là đã nói đến người gây trở ngại. Câu “người mẹ đang bị dòng sông cuốn trôi” được nói để chỉ ra một giới hạn cao nhất. Tuy nhiên, người ta nói rằng đối với những người nữ khác, người thực hành theo cách đã được nói đối với người mẹ với ý định từ bi thì không có lỗi. Cũng có những người nói rằng vì đã nói là “người mẹ,” nên không được phép (chạm) những người nữ khác. Vòng lót cỏ là vòng lót được làm bằng rễ cây hirīvera, v.v. Chiếc nhẫn lá cọ là chiếc nhẫn đeo tay được làm bằng lá cọ. Sau khi thay đổi có nghĩa là sau khi loại bỏ khỏi trạng thái là y nội và y vai, có nghĩa là đã nói rằng dành dụm cho mục đích làm y. Câu “đặt dưới chân với mục đích làm y thì được phép” chỉ là một ví dụ; cho mục đích làm tấm trải, màn che, v.v. cũng được phép. Cũng được phép nhận tạm thời cho mục đích cúng dường, v.v.

Itthisaṇṭhānena katanti ettha heṭṭhimaparicchedato pārājikavatthubhūtatiracchānagatitthīnampi anāmāsabhāvato tādisaṃ itthisaṇṭhānena kataṃ tiracchānagatarūpampi anāmāsanti daṭṭhabbaṃ. ‘‘Bhikkhunīhi paṭimārūpaṃ āmasituṃ vaṭṭatī’’ti vadanti ācariyā. Itthirūpāni dassetvā kataṃ vatthañca paccattharaṇañca bhittiñca itthirūpaṃ anāmasitvā gaṇhituṃ vaṭṭati. Bhinditvāti ettha hatthena aggahetvāva kenacideva daṇḍādinā bhinditabbaṃ. Ettha ca ‘‘anāmāsampi hatthena aparāmasitvā daṇḍādinā kenaci bhindituṃ vaṭṭatī’’ti idha vuttattā ‘‘paṃsukūlaṃ gaṇhantena mātugāmasarīrepi satthādīhi vaṇaṃ katvā gahetabba’’nti vuttattā ca gahitamaṇḍūkasappiniṃ daṇḍādīhi nippīḷetvā maṇḍūkaṃ vissajjāpetuṃ vaṭṭati.
Về câu “được làm theo hình dáng người nữ,” ở đây, do từ giới hạn thấp hơn, ngay cả những người nữ bàng sanh là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ cũng không được chạm vào, nên cần phải hiểu rằng hình tượng bàng sanh được làm theo hình dáng người nữ như vậy cũng không được chạm vào. Các vị Giáo Thọ Sư nói rằng: “Các Tỳ-khưu-ni được phép chạm vào hình tượng (nam).” Vải, tấm trải, và tường được làm có hình người nữ thì được phép nhận nếu không chạm vào hình người nữ. Về câu “sau khi đập vỡ,” ở đây, phải được đập vỡ bằng gậy, v.v. mà không cầm bằng tay. Và ở đây, vì đã được nói rằng “ngay cả vật không được chạm vào cũng được phép đập vỡ bằng gậy, v.v. mà không chạm bằng tay,” và vì đã được nói rằng “người nhặt y phấn tảo, ngay cả trên thân người nữ, cũng phải dùng dao, v.v. rạch một vết thương rồi mới lấy,” nên được phép dùng gậy, v.v. ép con rắn đang ngậm con ếch để nó nhả con ếch ra.

Maggaṃ adhiṭṭhāyāti magge gacchāmīti evaṃ maggasaññī hutvāti attho. Kīḷantenāti idaṃ gihisantakaṃ sandhāya vuttaṃ, bhikkhusantakaṃ pana yena kenaci adhippāyena anāmasitabbameva durupaciṇṇabhāvato. Tālapanasādīnīti cettha ādi-saddena nāḷikeralabujatipusaalābukumbhaṇḍapussaphalaeḷālukaphalānaṃ saṅgaho daṭṭhabbo. ‘‘Yathāvuttaphalānaṃyeva cettha kīḷādhippāyena āmasanaṃ na vaṭṭatī’’ti vuttattā pāsāṇasakkharādīni kīḷādhippāyenapi āmasituṃ vaṭṭati.
Với ý định đi trên đường có nghĩa là có tưởng là đường, (nghĩ rằng) “tôi đang đi trên đường.” Câu “khi đang chơi” được nói liên quan đến tài sản của người tại gia; còn tài sản của Tỳ-khưu thì không được chạm vào với bất kỳ ý định nào, vì đó là hành vi xấu. Về câu “trái thốt nốt, mít, v.v.,” ở đây, bằng từ ‘v.v.,’ cần phải hiểu là bao gồm cả các loại trái dừa, dừa nước, mít, bầu, bí, pussaphala, và dưa chuột. Vì đã được nói rằng “chỉ không được phép chạm vào các loại trái đã nói với ý định chơi đùa,” nên được phép chạm vào đá, sỏi, v.v. ngay cả với ý định chơi đùa.

Muttāti hatthikumbhajādikā aṭṭhavidhā muttā. Tathā hi hatthikumbhaṃ, varāhadāṭhaṃ, bhujaṅgasīsaṃ, valāhakaṃ, veḷu, macchasiro, saṅkho, sippīti aṭṭha muttāyoniyo. Tattha hatthikumbhajā pītavaṇṇā pabhāvihīnā. Varāhadāṭhajā varāhadāṭhavaṇṇāva. Bhujaṅgasīsajā nīlādivaṇṇā suvisuddhā vaṭṭalā. Valāhakajā ābhāsūrā dubbibhāgarūpā rattibhāge andhakāraṃ viddhamantiyo tiṭṭhanti, devūpabhogā eva ca honti. Veḷujā karakaphalasamānavaṇṇā na ābhāsūrā, te ca veḷū amanussagocare eva padese jāyanti. Macchasirajā pāṭhīnapiṭṭhisamaānavaṇṇā vaṭṭalā laghavo ca honti pabhāvihīnā ca, te ca macchā samuddamajjheyeva jāyanti. Saṅkhajā saṅkhaudaracchavivaṇṇā kolaphalappamāṇāpi honti pabhāvihīnāva. Sippijā pabhāvisesayuttā honti nānāsaṇṭhānā. Evaṃ jātito aṭṭhavidhāsu muttāsu yā macchasaṅkhasippijā, tā sāmuddikā. Bhujaṅgajāpi kāci sāmuddikā honti, itarā asāmuddikā. Yasmā bahulaṃ sāmuddikāva muttā loke dissanti, tatthāpi sappijāva, itarā kadāci kāci, tasmā sammohavinodaniyaṃ ‘‘muttāti sāmuddikā muttā’’ti vuttaṃ.
Ngọc trai là tám loại ngọc trai, bắt đầu bằng loại từ đầu voi. Thật vậy, đầu voi, nanh heo rừng, đầu rắn, mây, tre, đầu cá, vỏ ốc, và sò là tám nguồn gốc của ngọc trai. Trong đó, loại từ đầu voi có màu vàng, không có ánh sáng. Loại từ nanh heo rừng có màu như nanh heo rừng. Loại từ đầu rắn có màu xanh, v.v., rất trong và tròn. Loại từ mây có ánh sáng rực rỡ, hình dáng khó phân biệt, đứng yên xua tan bóng tối vào ban đêm, và chỉ là vật trang sức của chư thiên. Loại từ tre có màu giống trái karaka, không có ánh sáng, và những cây tre đó chỉ mọc ở những nơi là địa phận của phi nhân. Loại từ đầu cá có màu giống lưng cá pāṭhīna, tròn và nhẹ, không có ánh sáng, và những con cá đó chỉ sống ở giữa biển. Loại từ vỏ ốc có màu như màu da bên trong vỏ ốc, có thể lớn bằng trái táo, nhưng không có ánh sáng. Loại từ sò có ánh sáng đặc biệt và có nhiều hình dạng. Như vậy, trong tám loại ngọc trai theo nguồn gốc, những loại từ cá, vỏ ốc, và sò là từ biển. Một số loại từ rắn cũng là từ biển, còn lại không phải từ biển. Vì ngọc trai từ biển được thấy nhiều trong đời, và trong số đó lại là loại từ sò, còn các loại khác thỉnh thoảng mới có, do đó, trong bộ Sammohavinodanī, đã nói rằng: “ngọc trai là ngọc trai từ biển.”

Maṇīti ṭhapetvā veḷuriyādike seso jotirasādibhedo sabbopi maṇi. Veḷuriyoti vaṃsavaṇṇamaṇi. Saṅkhoti sāmuddikasaṅkho. Silāti kāḷasilāpaṇḍusilāsetasilādibhedā sabbāpi silā. Rajatanti kahāpaṇādikaṃ vuttāvasesaṃ ratanasammataṃ. Jātarūpanti suvaṇṇaṃ. Lohitaṅkoti rattamaṇi. Masāragallanti kabaramaṇi. Bhaṇḍamūlatthāyāti pattacīvarādibhaṇḍamūlatthāya. Kuṭṭharogassāti nidassanamattaṃ, tāya vūpasametabbassa yassa kassaci rogassatthāyapi vaṭṭatiyeva. ‘‘Bhesajjatthañca adhiṭṭhāyeva muttā vaṭṭatī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Ākaramuttoti ākarato muttamatto. ‘‘Bhaṇḍamūlatthāya sampaṭicchituṃ vaṭṭatī’’ti iminā ca āmasitumpi vaṭṭatīti dasseti. Pacitvā katoti kācakārehi pacitvā kato.
Ngọc là tất cả các loại ngọc khác nhau như jotirasa, v.v., ngoại trừ lưu ly, v.v. Lưu ly là ngọc có màu tre. Vỏ ốc là vỏ ốc biển. Đá là tất cả các loại đá khác nhau như đá đen, đá vàng nhạt, đá trắng, v.v. Bạc là phần còn lại được coi là báu vật đã được nói đến, như đồng kahāpaṇa, v.v. Vàng ròng là vàng. Hồng ngọc là ngọc màu đỏ. Mã não là ngọc có nhiều màu. Cho mục đích làm vốn mua vật dụng là cho mục đích làm vốn mua các vật dụng như y, bát, v.v. Đối với bệnh phong chỉ là một ví dụ, cũng được phép (dùng) cho bất kỳ bệnh nào có thể được chữa trị bằng nó. Trong cả ba sách lược giải đều nói rằng: “ngọc trai chỉ được phép dùng cho mục đích làm thuốc và phải được chú nguyện.” Đã ra khỏi mỏ là vừa mới ra khỏi mỏ. Bằng câu “được phép nhận cho mục đích làm vốn mua vật dụng,” (chú giải) cũng chỉ ra rằng được phép chạm vào. Được làm bằng cách nấu chảy là được làm bởi những người thợ làm kính bằng cách nấu chảy.

Dhotaviddho ca ratanamissoti alaṅkāratthaṃ kañcanalatādiṃ dassetvā kato ratanakhacito dhotaviddho anāmāso. Dhotaviddho ca ratanamisso cāti visuṃ vā padaṃ sambandhitabbaṃ. Pānīyasaṅkhoti iminā ca saṅkhena katapānīyabhājanapidhānādisamaṇaparikkhāropi āmasituṃ vaṭṭatīti siddhaṃ. Sesanti ratanamissaṃ ṭhapetvā avasesaṃ. Muggavaṇṇaṃyeva ratanasammissaṃ karonti, na aññanti āha ‘‘muggavaṇṇāvā’’ti, muggavaṇṇā ratanamissāva na vaṭṭatīti vuttaṃ hoti. Sesāti ratanasammissaṃ ṭhapetvā avasesā muggavaṇṇā nīlasilā.
Được đánh bóng và khảm và được trộn lẫn với đá quý có nghĩa là vật được đánh bóng và khảm, được cẩn đá quý, được làm bằng cách thể hiện dây leo bằng vàng, v.v. cho mục đích trang trí, là không được chạm vào. Hoặc, câu này có thể được kết hợp thành các từ riêng biệt là ‘được đánh bóng và khảm’ và ‘được trộn lẫn với đá quý.’ Vỏ ốc đựng nước uống, bằng điều này, đã được chứng minh rằng các vật dụng của sa-môn như vật chứa nước uống, nắp đậy, v.v. được làm bằng vỏ ốc này cũng được phép chạm vào. Phần còn lại là phần còn lại ngoại trừ phần được trộn lẫn với đá quý. Người ta chỉ làm đá có màu đậu xanh trộn lẫn với đá quý, chứ không phải các loại khác. Do đó, (chú giải) nói rằng “có màu đậu xanh,” có nghĩa là đã nói rằng chỉ có đá màu đậu xanh được trộn lẫn với đá quý là không được phép. Phần còn lại là đá màu xanh dương, đá màu đậu xanh còn lại ngoại trừ phần được trộn lẫn với đá quý.

Bījato paṭṭhāyāti dhātupāsāṇato paṭṭhāya. Suvaṇṇacetiyanti dhātukaraṇḍakaṃ. Paṭikkhipīti ‘‘dhātuṭṭhapanatthāya gaṇhathā’’ti avatvā ‘‘tumhākaṃ gaṇhathā’’ti pesitattā paṭikkhipi. Suvaṇṇabubbuḷakanti suvaṇṇatārakaṃ. ‘‘Keḷāpayitunti ito cito ca sañcārantehi āmasituṃ vaṭṭatī’’ti mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Kacavarameva harituṃ vaṭṭatīti cetiyagopakā vā bhikkhū hontu aññe vā, hatthenapi puñchitvā kacavaraṃ apanetuṃ vaṭṭati, malampi pamajjituṃ vaṭṭatiyeva.
Kể từ hạt giống có nghĩa là kể từ đá kim loại. Bảo tháp bằng vàng là hộp đựng xá-lợi. Đã từ chối có nghĩa là đã từ chối vì (vua) đã gửi đi với lời nhắn “hãy nhận lấy cho các ngài” mà không nói rằng “hãy nhận lấy cho mục đích tôn trí xá-lợi.” Bong bóng vàng là ngôi sao bằng vàng. Trong Mahāaṭṭhakathā đã nói rằng: “Để làm cho lăn có nghĩa là được phép chạm vào khi chúng lăn qua lại.” Chỉ được phép dọn rác có nghĩa là dù người trông coi bảo tháp là Tỳ-khưu hay người khác, cũng được phép quét và dọn rác bằng tay, và cũng được phép lau chùi vết bẩn.

Ārakūṭalohanti kittimalohaṃ. Tīṇi hi kittimalohāni kaṃsalohaṃ, vaṭṭalohaṃ, ārakūṭanti. Tattha tiputambe missetvā kataṃ kaṃsalohaṃ, sīsatambe missetvā kataṃ vaṭṭalohaṃ, pakatirasatambe missetvā kataṃ ārakūṭaṃ. Teneva taṃkaraṇena nibbattattā ‘‘kittimaloha’’nti vuccati. ‘‘Jātarūpagatikamevāti vuttattā ārakūṭaṃ suvaṇṇasadisameva āmasituṃ na vaṭṭati, aññaṃ pana vaṭṭatī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Keci pana ‘‘ārakūṭaṃ anāmasitabbato jātarūpagatikamevāti vuttaṃ, tasmā ubhayampi jātarūpaṃ viya āmasituṃ na vaṭṭatī’’ti vadanti. Paṭhamaṃ vuttoyeva ca attho gaṇṭhipadakārehi adhippeto. Paṭijaggituṃ vaṭṭatīti senāsanapaṭibaddhattā vuttaṃ.
Đồng thau là hợp kim nhân tạo. Thật vậy, có ba loại hợp kim nhân tạo: đồng thiếc, đồng chì, và đồng thau. Trong đó, đồng thiếc được làm bằng cách trộn thiếc và đồng, đồng chì được làm bằng cách trộn chì và đồng, đồng thau được làm bằng cách trộn đồng có vị tự nhiên. Chính vì được tạo ra bằng cách làm đó, nên được gọi là “hợp kim nhân tạo.” Vì đã được nói rằng “có tính chất như vàng ròng,” nên trong cả ba sách lược giải đều nói rằng: “đồng thau, giống như vàng, không được phép chạm vào; còn các loại khác thì được phép.” Tuy nhiên, một số người nói rằng: “đã được nói rằng đồng thau có tính chất như vàng ròng vì nó không được chạm vào; do đó, cả hai (đồng thiếc và đồng chì) cũng giống như vàng ròng, không được phép chạm vào.” Và ý nghĩa được nói đến đầu tiên chính là ý nghĩa mà các vị soạn giả sách lược giải muốn nói. Câu “được phép sửa chữa” được nói do nó gắn liền với chỗ ở.

Sāmikānaṃ pesetabbanti sāmikānaṃ sāsanaṃ pesetabbaṃ. Bhinditvāti hatthena aggahetvā aññena yena kenaci bhinditvā. Bherisaṅghāṭoti saṅghaṭitacammabherī. Vīṇāsaṅghāṭoti saṅghaṭitacammavīṇā. Cammavinaddhānaṃ bherivīṇānametaṃ adhivacanaṃ. Tucchapokkharanti avinaddhacammaṃ bheripokkharaṃ vīṇāpokkharañca. Āropitacammanti bheriādīnaṃ vinaddhanatthāya mukhavaṭṭiyaṃ āropitacammaṃ tato uddharitvā visuṃ ṭhapitacammañca. Onahituṃ vāti bheripokkharādīni cammaṃ āropetvā vinandhituṃ. Onahāpetuṃ vāti tatheva aññehi vinandhāpetuṃ. Pārājikappahonakakāleti akuthitakāle.
Phải gửi cho chủ nhân có nghĩa là phải gửi thông điệp cho chủ nhân. Sau khi đập vỡ có nghĩa là đập vỡ bằng bất cứ thứ gì khác mà không cầm bằng tay. Trống bịt da là trống có da được căng. Đàn tỳ-bà bịt da là đàn tỳ-bà có da được căng. Đây là tên gọi của các loại trống và đàn tỳ-bà được bịt da. Thân rỗng là thân trống và thân đàn tỳ-bà chưa được bịt da. Da đã được căng là da được căng trên vành miệng để bịt trống, v.v., và cũng là da đã được gỡ ra và để riêng. Hoặc bịt da là căng da và bịt vào thân trống, v.v. Hoặc cho người khác bịt da là cho người khác bịt theo cách đó. Vào thời điểm đủ để phạm tội Bất Cộng Trụ là vào thời điểm chưa bị hư hỏng.

282. Saṅkamādi bhūmigatikattā na kāyapaṭibaddhaṭṭhāniyanti dukkaṭaṃ vuttaṃ. Ekapadikasaṅkamoti khuddakasetu. Sakaṭamaggasaṅkamoti sakaṭamaggabhūto mahāsetu. Ṭhānā cāletunti rajjuṃ ṭhānā cāletuṃ. Paṭicchādetabbāti apanetabbā. Manussitthī, itthisaññitā, kāyasaṃsaggarāgo, tena rāgena vāyāmo, hatthaggāhādisamāpajjananti imānettha pañca aṅgāni.
282. Cầu, v.v. do có tính chất thuộc về đất, không được xem là vật dính liền với thân, nên đã nói là tội Tác Ác. Cầu một bước là cây cầu nhỏ. Cầu trên đường xe là cây cầu lớn trên đường dành cho xe. Làm cho di chuyển khỏi vị trí là làm cho sợi dây di chuyển khỏi vị trí. Phải được che đậy là phải được loại bỏ. Người nữ là con người, có tưởng là người nữ, có lòng tham ái khi tiếp xúc thân thể, sự cố gắng với lòng tham ái đó, và sự thực hiện việc nắm tay, v.v. – đây là năm yếu tố ở đây.

Kāyasaṃsaggasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học tiếp xúc thân thể đã kết thúc.

3. Duṭṭhullavācāsikkhāpadavaṇṇanā
3. Giải Thích về Điều Học Lời Nói Thô Tục

283. Tatiye uttarapadalopena chinnaottappā ‘‘chinnikā’’ti vuttāti āha ‘‘chinnikāti chinnaotappā’’ti.
283. Trong điều thứ ba, do sự lược bỏ từ sau, người không còn hổ thẹn được gọi là “chinnikā”. Do đó, (chú giải) nói rằng: “‘chinnikā’ là người không còn hổ thẹn.”

285.Yathā yuvā yuvatinti etena obhāsane nirāsaṅkabhāvaṃ dasseti. Methunupasañhitāhīti idaṃ duṭṭhullavācāya sikhāppattalakkhaṇadassanaṃ. Itthilakkhaṇenāti vuttamatthaṃ vivarituṃ ‘‘subhalakkhaṇenā’’ti vuttaṃ. Na tāva sīsaṃ etīti ‘‘itthilakkhaṇena samannāgatāsī’’tiādinā vaṇṇabhaṇanaṃ saṅghādisesāpattijanakaṃ hutvā matthakaṃ na pāpuṇāti. Vaṇṇabhaṇanañhi yenākārena bhaṇantassa saṅghādiseso hoti, tenākārena bhaṇantassa sikhāppattaṃ nāma hoti. ‘‘Itthilakkhaṇena samannāgatāsītiādikaṃ pana duṭṭhullavācassādarāgavasena bhaṇantassa dukkaṭa’’nti gaṇṭhipadesu vuttaṃ.
285. Giống như chàng trai (nói với) cô gái, bằng câu này, (chú giải) chỉ ra trạng thái không nghi ngờ trong lời nói bóng bẩy. Câu “liên quan đến việc hành dâm” là sự chỉ ra đặc điểm tột đỉnh của lời nói thô tục. Để làm rõ ý nghĩa đã được nói của câu “bằng đặc điểm của người nữ,” (chú giải) đã nói là “bằng đặc điểm tốt đẹp.” Câu “chưa đạt đến tột đỉnh” có nghĩa là việc tán dương bằng các câu như “cô có đặc điểm của người nữ,” v.v., chưa đạt đến tột đỉnh để trở thành nguyên nhân của tội Tăng Tàn. Thật vậy, việc tán dương, khi được nói theo cách mà người nói phạm tội Tăng Tàn, thì được gọi là đã đạt đến tột đỉnh. Trong các sách lược giải đã nói rằng: “tuy nhiên, việc nói câu ‘cô có đặc điểm của người nữ,’ v.v. do lòng tham ái thích thú với lời nói thô tục thì phạm tội Tác Ác.”

Ekādasahi padehi aghaṭite sīsaṃ na etīti ‘‘animittāsī’’tiādīhi ekādasahi padehi aghaṭite avaṇṇabhaṇanaṃ sīsaṃ na eti, avaṇṇabhaṇanaṃ nāma na hotīti vuttaṃ hoti. Ghaṭitepīti ekādasahi padehi avaṇṇabhaṇane ghaṭitepi. Imehi tīhi ghaṭiteyeva saṅghādisesoti ‘‘sikharaṇī’’tiādīhi tīhiyeva padehi avaṇṇabhaṇane ghaṭiteyeva saṅghādiseso passāvamaggassa niyatavacanattā accoḷārikattā ca. Animittāsītiādīhi pana aṭṭhahi padehi ghaṭite kevalaṃ avaṇṇabhaṇanameva sampajjati, na saṅghādiseso, tasmā tāni thullaccayavatthūnīti keci. Akkosanamattattā dukkaṭavatthūnīti apare. Paribbājikāvatthusmiṃ viya thullaccayamevettha yuttataraṃ dissati. Kuñcikapaṇālimattanti kuñcikāchiddamattaṃ.
Câu “khi không được kết hợp với mười một từ thì không đạt đến tột đỉnh” có nghĩa là khi không được kết hợp với mười một từ như “cô không có tướng,” v.v., thì sự chê bai không đạt đến tột đỉnh, có nghĩa là đã nói rằng không được gọi là sự chê bai. Ngay cả khi được kết hợp có nghĩa là ngay cả khi sự chê bai được kết hợp với mười một từ. Câu “chỉ khi được kết hợp với ba từ này mới phạm tội Tăng Tàn” có nghĩa là chỉ khi sự chê bai được kết hợp với ba từ như “người nữ sikharaṇī,” v.v. mới phạm tội Tăng Tàn, vì đó là lời nói chỉ định đến đường tiểu và vì nó quá thô tục. Tuy nhiên, một số người cho rằng khi được kết hợp với tám từ như “cô không có tướng,” v.v., thì chỉ hoàn thành sự chê bai mà không phạm tội Tăng Tàn, do đó, chúng là đối tượng của tội Trọng Tội. Những người khác lại cho rằng chúng là đối tượng của tội Tác Ác vì chỉ là sự mắng nhiếc. Ở đây, tội Trọng Tội dường như hợp lý hơn, giống như trong trường hợp của nữ du sĩ. Chỉ bằng lỗ khóa là chỉ bằng lỗ của chiếc khóa.

286-287.Garukāpattinti bhikkhuniyā kāyasaṃsagge pārājikāpattiṃ sandhāya vadati. Hasanto hasantoti sabhāvadassanatthaṃ vuttaṃ. Ahasantopi vācassādarāgena punappunaṃ vadati, āpattiyeva. Kāyacittatoti hatthamuddāya obhāsantassa kāyacittato samuṭṭhāti.
286-287. Tội nặng là nói đến tội Bất Cộng Trụ khi tiếp xúc thân thể với Tỳ-khưu-ni. Câu “vừa cười vừa cười” được nói để chỉ ra bản chất tự nhiên. Ngay cả người không cười mà nói đi nói lại do lòng tham ái thích thú với lời nói thì cũng phạm tội. Từ thân và tâm có nghĩa là đối với người nói bóng bẩy bằng cử chỉ tay, (tội) khởi lên từ thân và tâm.

288.Tasmā dukkaṭanti appaṭivijānanahetu dukkaṭaṃ, paṭivijānantiyā pana akhettapadattā thullaccayena bhavitabbaṃ. Teneva paribbājikāvatthusmiṃ paṭivijānantiyā thullaccayaṃ vakkhati.
288. Do đó, phạm tội Tác Ác, tội Tác Ác do nguyên nhân là không hiểu rõ. Tuy nhiên, đối với người hiểu rõ, do là từ ngữ không phải ruộng, nên phải phạm tội Trọng Tội. Chính vì vậy, trong trường hợp của nữ du sĩ, (chú giải) sẽ nói đến tội Trọng Tội đối với người hiểu rõ.

289.Asaddhammaṃsandhāyāhāti ‘‘vāpita’’nti imassa bījanikkhepavacanattā vuttaṃ. Saṃsīdatīti vahati pavattati. Atha vā saṃsīdatīti saṃsīdissati. Manussitthī, itthisaññitā, duṭṭhullavācassādarāgo, tena rāgena obhāsanaṃ, taṅkhaṇavijānananti imānettha pañca aṅgāni.
289. Câu “đã nói liên quan đến việc phi pháp” được nói do từ “vāpita” (được gieo) có nghĩa là việc đặt hạt giống vào. Chìm đắm là trôi chảy, diễn tiến. Hoặc, saṃsīdatī là ‘sẽ chìm đắm.’ Người nữ là con người, có tưởng là người nữ, có lòng tham ái thích thú với lời nói thô tục, sự nói bóng bẩy với lòng tham ái đó, và sự hiểu rõ ngay lúc đó – đây là năm yếu tố ở đây.

Duṭṭhullavācāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học lời nói thô tục đã kết thúc.

4. Attakāmapāricariyasikkhāpadavaṇṇanā
4. Giải Thích về Điều Học Phục Vụ Dục Vọng Cá Nhân

290. Catutthe cīvaranti nivāsanādi yaṃ kiñci cīvaraṃ. Piṇḍapātanti yo koci āhāro. So hi piṇḍolyena bhikkhuno patte patanato tattha tattha laddhabhikkhānaṃ piṇḍānaṃ pāto sannipātoti vā piṇḍapātoti vuccati. Senāsananti sayanañca āsanañca. Yattha hi vihārādike seti nipajjati āsati nisīdati, taṃ senāsanaṃ. Pati eti etasmāti paccayoti āha ‘‘patikaraṇaṭṭhena paccayo’’ti. Rogassa patiayanaṭṭhena vā paccayo, paccanīkagamanaṭṭhenāti attho, vūpasamanatthenāti vuttaṃ hoti. Dhātukkhobhalakkhaṇassa hi taṃhetukadukkhavedanālakkhaṇassa vā rogassa paṭipakkhabhāvo patiayanaṭṭho. Yassa kassacīti sappiādīsu yassa kassaci. Sappāyassāti hitassa vikāravūpasamenāti adhippāyo. Bhisakkassa kammaṃ tena vidhātabbato, tenāha ‘‘anuññātattā’’ti. Nagaraparikkhārehīti nagaraṃ parivāretvā rakkhaṇakehi. Āvāṭaparikkhepo parikhā uddāpo pākāro esikā paligho pākāramatthakamaṇḍalanti satta nagaraparikkhārāti vadanti. Setaparikkhāroti suvisuddhasīlālaṅkāro. Ariyamaggo hi idha ‘‘ratho’’ti adhippeto. Tassa ca sammāvācādayo alaṅkāraṭṭhena ‘‘parikkhāro’’ti vuttā. Cakkavīriyoti vīriyacakko. Jīvitaparikkhārāti jīvitassa pavattikāraṇāni. Samudānetabbāti sammā uddhaṃ uddhaṃ ānetabbā pariyesitabbā. Parivāropi hoti antarāyānaṃ parito vāraṇato, tenāha – ‘‘jīvita…pe… rakkhaṇato’’ti. Tattha antaranti vivaraṃ, okāsoti attho. Rakkhaṇatoti verikānaṃ antaraṃ adatvā attano sāmīnaṃ parivāretvā ṭhitasevakā viya rakkhaṇato. Assāti jīvitassa. Kāraṇabhāvatoti cirappavattiyā kāraṇabhāvato. Rasāyanabhūtañhi bhesajjaṃ sucirampi kālaṃ jīvitaṃ pavattetiyeva.
290. Trong điều thứ tư, y phục là bất kỳ y phục nào như y nội, v.v. Vật thực khất thực là bất kỳ loại thực phẩm nào. Thật vậy, nó được gọi là piṇḍapāta vì nó rơi vào bát của vị Tỳ-khưu bằng cách đi khất thực, hoặc là sự tập hợp (pāto) của các món ăn (piṇḍa) nhận được ở nhiều nơi. Chỗ ở là chỗ ngủ và chỗ ngồi. Nơi nào như tu viện, v.v. mà người ta ngủ, nằm, và ngồi, nơi đó là chỗ ở. (Vật gì đó) đến được từ nó, nên nó là duyên. Do đó, (chú giải) nói: “là duyên theo nghĩa là phương tiện.” Hoặc là duyên theo nghĩa là đi đến với bệnh, có nghĩa là đi ngược lại, có nghĩa là đã nói đến sự làm lắng dịu. Thật vậy, trạng thái đối nghịch với bệnh, có đặc điểm là sự rối loạn của các giới hoặc có đặc điểm là cảm thọ đau khổ do nguyên nhân đó, chính là ý nghĩa của việc đi đến. Của bất kỳ thứ gì là của bất kỳ thứ gì trong số bơ, v.v. Của vật thích hợp có nghĩa là bằng cách làm lắng dịu sự bất ổn. Việc của thầy thuốc là do ông ta thực hiện, do đó (chú giải) nói: “vì đã được cho phép.” Bởi những người bảo vệ thành phố là bởi những người bao quanh và bảo vệ thành phố. Người ta nói rằng có bảy thứ bảo vệ thành phố: hàng rào hố, hào nước, ụ đất, tường thành, cọc nhọn, then cài, và lan can trên đỉnh tường thành. Vật trang sức trong sạch là sự trang sức bằng giới hạnh trong sạch. Thật vậy, ở đây, Bát Chánh Đạo được hiểu là “cỗ xe.” Và Chánh ngữ, v.v. của nó, do có tính chất trang trí, nên được gọi là “vật trang sức.” Tinh tấn là bánh xe là bánh xe tinh tấn. Các vật dụng cho sự sống là các nguyên nhân cho sự tồn tại của sự sống. Phải được tìm cầu là phải được tìm cầu một cách đúng đắn, ngày càng cao hơn. Cũng là sự bảo vệ do nó ngăn chặn các chướng ngại từ xung quanh, do đó, (chú giải) nói: “sự sống… cho đến… do sự bảo vệ.” Trong đó, antara là khoảng hở, có nghĩa là cơ hội. Do sự bảo vệ là do sự bảo vệ giống như những người hầu cận đứng bao quanh chủ nhân của mình mà không cho kẻ thù có cơ hội. Của nó là của sự sống. Do là nguyên nhân là do là nguyên nhân cho sự tồn tại lâu dài. Thật vậy, thuốc bổ dưỡng có thể duy trì sự sống trong một thời gian rất dài.

291.Upacāreti yattha ṭhito viññāpetuṃ sakkoti, tādise. Kāmo ceva hetu ca pāricariyā ca attho. Sesaṃ byañjanantiādīsu pāḷiyaṃ ‘‘attakāma’’nti padaṃ uddharitvā attano kāmaṃ, attano hetuṃ, attano adhippāyaṃ, attano pāricariyanti cattāro atthā padabhājane vuttā. Tesu paṭhame atthavikappe kāmo ca hetu ca pāricariyā ca attho, sesaṃ adhippāyapadamekaṃ byañjanaṃ paṭhamaviggahe tadatthassa asambhavabhāvato niratthakattā. Dutiye pana atthavikappe adhippāyo ca pāricariyā ca attho, kāmo ca hetu cāti sesaṃ padadvayaṃ byañjanaṃ tesaṃ tattha atthābhāvatoti evaṃ cattāri padāni dvinnaṃ viggahānaṃ vasena yojitānīti keci vadanti. Gaṇṭhipade ca ayamevattho vutto. Cūḷamajjhimamahāgaṇṭhipadesu pana ‘‘paṭhamasmiṃ atthavikappe kāmo ca hetu ca pāricariyā ca adhippāyattho, sesaṃ methunadhammasaṅkhātena kāmenātiādi viggahavākyaṃ akkharavivaraṇamattato byañjanamattaṃ. Dutiye atthavikappe adhippāyo ca pāricariyā ca adhippāyattho, sesaṃ attanā kāmitā icchitātiādi viggahavākyaṃ akkharavivaraṇamattato byañjanamatta’’nti evamattho vutto . ‘‘Byañjane ādaraṃ akatvā’’ti vacanato ayamevattho idha yuttataroti viññāyati. Byañjane ādaraṃ akatvāti iminā hi aṭṭhakathāyaṃ vuttaviggahavasena byañjane ādaraṃ akatvāti ayamattho dīpito.
291. Trong phạm vi là trong phạm vi mà người ta có thể đứng để thỉnh cầu. Dục vọng vừa là nguyên nhân, sự phục vụ vừa là mục đích. Trong các câu “phần còn lại là văn tự,” v.v., trong Pāḷi, sau khi đã nêu lên từ “attakāma,” bốn ý nghĩa đã được nói trong phần phân tích từ ngữ là: dục vọng của mình, nguyên nhân của mình, ý định của mình, và sự phục vụ của mình. Trong đó, trong cách giải thích ý nghĩa thứ nhất, dục vọng, nguyên nhân, và sự phục vụ là mục đích; phần còn lại, một từ ‘ý định,’ là văn tự vì nó vô nghĩa do ý nghĩa của nó không thể có trong cách giải thích thứ nhất. Tuy nhiên, trong cách giải thích ý nghĩa thứ hai, ý định và sự phục vụ là mục đích; phần còn lại, hai từ ‘dục vọng’ và ‘nguyên nhân,’ là văn tự vì chúng không có ý nghĩa ở đó. Như vậy, một số người nói rằng bốn từ đã được kết hợp theo hai cách giải thích. Và trong sách lược giải, chính ý nghĩa này đã được nói. Tuy nhiên, trong các sách lược giải Nhỏ, Trung, và Lớn, lại nói rằng: “trong cách giải thích ý nghĩa thứ nhất, dục vọng, nguyên nhân, và sự phục vụ là ý định; phần còn lại, câu giải thích như ‘bằng dục vọng được gọi là sự giao hợp,’ v.v. chỉ là sự giải thích văn tự nên chỉ là văn tự. Trong cách giải thích ý nghĩa thứ hai, ý định và sự phục vụ là ý định; phần còn lại, câu giải thích như ‘được ham muốn, được mong muốn bởi chính mình,’ v.v. chỉ là sự giải thích văn tự nên chỉ là văn tự.” Do câu “không chú trọng đến văn tự,” nên có thể thấy rằng chính ý nghĩa này là hợp lý hơn ở đây. Bằng câu “không chú trọng đến văn tự,” ý nghĩa rằng không chú trọng đến văn tự theo cách phân tích từ được nói trong chú giải đã được làm sáng tỏ.

Idāni yathāvuttamevatthaṃ padabhājanena saṃsanditvā dassetuṃ ‘‘attano kāmaṃ attano hetuṃ attano pāricariyanti hi vutte jānissanti paṇḍitā’’tiādi āraddhaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – ‘‘attano hetu’’nti vutte attano atthāyāti ayamattho viññāyati. ‘‘Attano kāmaṃ attano pāricariya’’nti ca vutte kāmena pāricariyāti ayamattho viññāyati. Tasmā attano kāmaṃ attano hetuṃ attano pāricariyanti imehi tīhi padehi attano atthāya kāmena pāricariyā attakāmapāricariyāti ayamatthavikappo vuttoti viññū jānissanti. ‘‘Attano adhippāya’’nti vutte pana adhippāyasaddassa kāmitasaddena samānatthabhāvato attano pāricariyanti imassa ca ubhayaviggahasāmaññato attano icchitakāmitaṭṭhena attakāmapāricariyāti ayamatthavikappo dvīhi padehi dassitoti viññū jānissantīti.
Bây giờ, để đối chiếu và chỉ ra ý nghĩa đã được nói đến bằng phần phân tích từ ngữ, (chú giải) đã bắt đầu bằng câu: “Thật vậy, khi nói rằng ‘dục vọng của mình, nguyên nhân của mình, sự phục vụ của mình,’ những người có trí tuệ sẽ hiểu.” Điều này có nghĩa là: khi nói “nguyên nhân của mình,” ý nghĩa “vì lợi ích của mình” được hiểu. Và khi nói “dục vọng của mình, sự phục vụ của mình,” ý nghĩa “sự phục vụ bằng dục vọng” được hiểu. Do đó, những người thông thái sẽ hiểu rằng bằng ba từ này: “dục vọng của mình, nguyên nhân của mình, sự phục vụ của mình,” cách giải thích ý nghĩa rằng “sự phục vụ dục vọng cá nhân là sự phục vụ bằng dục vọng vì lợi ích của mình” đã được nói đến. Tuy nhiên, khi nói “ý định của mình,” do từ ‘ý định’ có cùng ý nghĩa với từ ‘ham muốn,’ và do sự tương đồng của ‘sự phục vụ của mình’ trong cả hai cách giải thích, nên những người thông thái sẽ hiểu rằng bằng hai từ này, cách giải thích ý nghĩa rằng “sự phục vụ dục vọng cá nhân có ý nghĩa là được ham muốn, được mong muốn bởi chính mình” đã được chỉ ra.

Etadagganti esā aggā. Duṭṭhullavācāsikkhāpade kiñcāpi methunayācanaṃ āgataṃ, tathāpi taṃ duṭṭhullavācassādarāgavasena vuttaṃ, idha pana attano methunassādarāgavasenāti ayaṃ viseso. Vinītavatthūsu ‘‘tena hi bhagini aggadānaṃ dehī’’ti idaṃ attano atthāya vuttanti veditabbaṃ. Manussitthī, itthisaññitā, attakāmapāricariyāya rāgo, tena rāgena vaṇṇabhaṇanaṃ, taṅkhaṇavijānananti imānettha pañca aṅgāni.
Đây là tột đỉnh là cái này là tột đỉnh. Trong điều học về lời nói thô tục, mặc dù việc yêu cầu giao hợp đã được đề cập, tuy nhiên, điều đó được nói theo lòng tham ái thích thú với lời nói thô tục; còn ở đây, lại là theo lòng tham ái thích thú với việc giao hợp của chính mình. Đây là sự khác biệt. Trong các trường hợp đã được xử lý, câu “vậy thì, thưa chị, hãy cho tôi sự bố thí cao thượng nhất” cần phải được hiểu là đã được nói vì lợi ích của chính mình. Người nữ là con người, có tưởng là người nữ, có lòng tham ái đối với sự phục vụ dục vọng cá nhân, sự tán dương với lòng tham ái đó, và sự hiểu rõ ngay lúc đó – đây là năm yếu tố ở đây.

Attakāmapāricariyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học phục vụ dục vọng cá nhân đã kết thúc.

5. Sañcarittasikkhāpadavaṇṇanā
5. Giải Thích về Điều Học Môi Giới

296. Pañcame paṇḍitassa bhāvo paṇḍiccaṃ, ñāṇassetaṃ adhivacanaṃ. Gatimantāti ñāṇagatiyā samannāgatā. Paṇḍitāti iminā sabhāvañāṇena samannāgatatā vuttā, byattāti iminā itthikattabbesu visāradapaññāya. Tenāha ‘‘upāyaññū visāradā’’ti. Medhāvinīti ṭhānuppattipaññāsaṅkhātāya tasmiṃ tasmiṃ atthakicce upaṭṭhite ṭhānaso taṅkhaṇe eva uppajjanapaññāya samannāgatā. Tenāha ‘‘diṭṭhaṃ diṭṭhaṃ karotī’’ti. Chekāti yāgubhattasampādanādīsu nipuṇā. Uṭṭhānavīriyasampannāti kāyikena vīriyena samannāgatā, yathā aññā kusītā nisinnaṭṭhāne nisinnāva honti, ṭhitaṭṭhāne ṭhitāva, evaṃ ahutvā vipphārikena cittena sabbakiccaṃ nipphādetīti vuttaṃ hoti. Kumārikāyāti nimittatthe bhummaṃ, hetumhi vā karaṇavacanaṃ. Tenāha ‘‘kumārikāya kāraṇā’’ti. Āvahanaṃ āvāho, pariggahabhāvena dārikāya gaṇhāpanaṃ, tathā dāpanaṃ vivāho. Tenāha ‘‘dārakassā’’tiādi.
296. Trong điều thứ năm, trạng thái của người có trí tuệ là sự thông thái; đây là tên gọi khác của trí tuệ. Người có trí năng là người có sự thấu hiểu của trí tuệ. Bằng từ “người có trí tuệ,” trạng thái có trí tuệ bẩm sinh đã được nói đến; bằng từ “người khéo léo,” (đã nói đến) trí tuệ sắc bén trong các công việc của phụ nữ. Do đó, (chú giải) nói: “biết phương pháp và sắc bén.” Người có trí mẫn tiệp là người có trí tuệ khởi lên ngay lập tức, đúng lúc, đúng chỗ khi có công việc cần thiết phát sinh, trí tuệ đó được gọi là trí tuệ ứng biến. Do đó, (chú giải) nói: “thấy việc gì là làm việc đó.” Người giỏi giang là người thành thạo trong việc chuẩn bị cháo, cơm, v.v. Người có tinh tấn khởi nghiệp là người có tinh tấn về thân; có nghĩa là đã nói rằng không giống như những người lười biếng khác, ngồi đâu thì ngồi yên đó, đứng đâu thì đứng yên đó, mà hoàn thành mọi công việc với tâm hăng hái. Về từ “của cô gái,” đây là cách dùng sở thuộc cách với ý nghĩa mục đích, hoặc là công cụ cách với ý nghĩa nguyên nhân. Do đó, (chú giải) nói: “vì lý do của cô gái.” Việc cưới (về) là hôn nhân (āvāho), là việc khiến (nhà trai) nhận cô gái với tư cách là vợ; tương tự, việc gả (đi) là hôn nhân (vivāho). Do đó, (chú giải) nói: “của chàng trai,” v.v.

297-298. Bhattapācanaṃ sandhāya randhāpanaṃ vuttaṃ, yassa kassaci pācanaṃ sandhāya pacāpanaṃ vuttaṃ. Duṭṭhuṃ kulaṃ gatā duggatāti imamatthaṃ dassento ‘‘yattha vā gatā’’tiādimāha. Āharaṇaṃ āhāroNa upāhaṭanti na dinnaṃ. Kayo gahaṇaṃ, vikkayo dānaṃ. Tadubhayaṃ saṅgaṇhitvā ‘‘vohāro’’ti vuttaṃ. Maṇḍitapasādhitoti ettha bāhirupakaraṇena alaṅkaraṇaṃ maṇḍanaṃ, ajjhattikānaṃ kesādīnaṃyeva saṇṭhapanaṃ pasādhanaṃ.
297-298. Từ “cho nấu cơm” được nói liên quan đến việc nấu cơm; từ “cho nấu” được nói liên quan đến việc nấu bất cứ thứ gì. Để chỉ ra ý nghĩa “người đã đến một gia đình xấu là người khốn khổ,” (chú giải) nói rằng: “hoặc nơi cô ấy đã đến.” Sự mang lại là sự mang lại. Chưa được mang lại là chưa được cho. Sự mua là sự nhận lấy, sự bán là sự cho đi. Kết hợp cả hai, đã nói là “sự giao dịch.” Về câu “được trang điểm và trang hoàng,” ở đây, sự trang trí bằng các vật dụng bên ngoài là sự trang điểm (maṇḍanaṃ); sự sắp đặt chỉ riêng những thứ bên trong như tóc, v.v. là sự trang hoàng (pasādhanaṃ).

300. ‘‘Abbhutaṃ kātuṃ na vaṭṭatī’’ti iminā dukkaṭaṃ hotīti dīpeti. ‘‘Parājitena dātabba’’nti vuttattā adento dhuranikkhepena kāretabbo. Acirakāle adhikāro etassa atthīti acirakālādhikārikaṃ, sañcarittaṃ. ‘‘Acirakālācārika’’nti vā pāṭho, acirakāle ācāro ajjhācāro etassāti acirakālācārikaṃ.
300. Bằng câu “không được phép làm điều kỳ diệu,” (chú giải) chỉ ra rằng phạm tội Tác Ác. Vì đã được nói rằng “người thua phải đưa,” nên người không đưa phải bị buộc tội bằng cách từ bỏ cuộc tranh luận. Điều có hiệu lực trong thời gian ngắn, là việc môi giới. Hoặc có cách đọc là “acirakālācārikaṃ,” điều có hành vi trong thời gian ngắn là điều có hành vi, sự vi phạm trong thời gian ngắn.

Kiñcāpi ehibhikkhūpasampannā ceva saraṇagamanūpasampannā ca sañcarittādipaṇṇattivajjaṃ āpattiṃ āpajjanti, tesaṃ pana na sabbakālikattā te vajjetvā sabbakālānurūpaṃ tantiṃ ṭhapento bhagavā idhāpi ñatticatuttheneva kammena upasampannaṃ bhikkhuṃ dassetuṃ ‘‘tatra yvāyaṃ bhikkhu…pe… ayaṃ imasmiṃ atthe adhippeto bhikkhū’’ti padabhājanaṃ āha, na pana nesaṃ sañcarittādiāpajjane abhabbabhāvato. Khīṇāsavāpi hi appassutā kiñcāpi lokavajjaṃ nāpajjanti, paṇṇattiyaṃ pana akovidattā vihārakāraṃ kuṭikāraṃ sahāgāraṃ sahaseyyanti evarūpā kāyadvāre āpattiyo āpajjanti, sañcarittaṃ padasodhammaṃ uttarichappañcavācaṃ bhūtārocananti evarūpā vacīdvāre āpattiyo āpajjanti, upanikkhittasādiyanavasena manodvāre rūpiyapaṭiggahaṇāpattiṃ āpajjanti.
Mặc dù những vị đã thọ cụ túc giới bằng cách ‘hãy đến, Tỳ-khưu’ và những vị đã thọ cụ túc giới bằng cách quy y cũng phạm các tội ngoại trừ các điều chế định về môi giới, v.v., tuy nhiên, do họ không phải là trường hợp cho mọi thời, nên sau khi loại trừ họ, Đức Thế Tôn, khi thiết lập giáo lý phù hợp với mọi thời, ở đây cũng đã nói phần phân tích từ ngữ: “trong đó, vị Tỳ-khưu nào… cho đến… đây là vị Tỳ-khưu được đề cập trong ý nghĩa này” để chỉ ra vị Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới bằng Tăng sự tứ pháp, chứ không phải vì họ không có khả năng phạm tội môi giới, v.v. Thật vậy, ngay cả các vị lậu tận ít học, mặc dù không phạm các lỗi bị thế gian chê cười, nhưng do không thông thạo các điều chế định, họ vẫn phạm các tội về thân nghiệp như xây dựng tu viện, tịnh xá, nhà chung, và ngủ chung; và phạm các tội về khẩu nghiệp như môi giới, dò hỏi về các pháp, nói quá sáu bảy lời, và báo cáo về các pháp thượng nhân; và phạm tội nhận vàng bạc về ý nghiệp qua việc chấp nhận vật được ký gửi.

301. Sañcaraṇaṃ sañcaro, so etassa atthīti sañcarī, tassa bhāvo sañcarittaṃ. Tenāha ‘‘sañcaraṇabhāva’’nti, itthipurisānaṃ antare sañcaraṇabhāvanti attho. Jāyattane jārattaneti ca nimittatthe bhummaṃ, jāyabhāvatthaṃ jārabhāvatthanti vuttaṃ hoti. Jāyabhāveti bhariyabhāvāya. Jārabhāveti sāmikabhāvāya. Kiñcāpi imassa padabhājane ‘‘jārī bhavissasī’’ti itthiliṅgavasena padabhājanaṃ vuttaṃ, jārattaneti pana niddesassa ubhayaliṅgasādhāraṇattā purisaliṅgavasenapi yojetvā atthaṃ dassento ‘‘itthiyā matiṃ purisassa ārocento jārattane ārocetī’’tiādimāha. Ettha hi ‘‘jāro bhavissasī’’ti itthiyā matiṃ purisassa ārocento jārattane āroceti nāma. Pāḷiyaṃ pana itthiliṅgavaseneva yojanā katā, tadanusārena purisaliṅgavasenapi sakkā yojetunti.
301. Sự đi lại là sañcara, người có cái đó là sañcarī, trạng thái của người đó là sañcarittaṃ (việc môi giới). Do đó, (chú giải) nói: “trạng thái đi lại,” có nghĩa là trạng thái đi lại giữa người nữ và người nam. Cả hai từ jāyattane và jārattane đều là sở thuộc cách với ý nghĩa mục đích; có nghĩa là đã nói rằng cho mục đích làm vợ và cho mục đích làm người tình. Với tư cách là vợ là để làm vợ. Với tư cách là người tình là để làm chồng (của người tình). Mặc dù trong phần phân tích từ ngữ của từ này, sự phân tích đã được nói theo nữ tính là “cô sẽ là người ngoại tình,” nhưng do sự chỉ định ‘jārattane’ là chung cho cả hai giới tính, nên để chỉ ra ý nghĩa bằng cách kết hợp theo nam tính, (chú giải) nói rằng: “khi báo cáo ý của người nữ cho người nam, là báo cáo với tư cách là người tình,” v.v. Ở đây, khi báo cáo ý của người nữ cho người nam rằng “anh sẽ là người tình,” thì được gọi là báo cáo với tư cách là người tình. Tuy nhiên, trong Pāḷi, sự kết hợp đã được thực hiện theo nữ tính; theo đó, cũng có thể kết hợp theo nam tính.

Idāni pāḷiyaṃ vuttanayenapi atthaṃ dassento ‘‘apicā’’tiādimāha. Pati bhavissasīti vuttamevatthaṃ ‘‘sāmiko bhavissasī’’ti pariyāyavacanena visesetvā dasseti. Idañca jārattaneti niddesassa ubhayaliṅgasādhāraṇattā vuttaṃ. Muhuttikā bhavissasīti asāmikaṃ sandhāya vuttaṃ, jārī bhavissasīti sasāmikaṃ sandhāya. Antamaso taṅkhaṇikāyapīti idaṃ nidassanamattanti āha ‘‘etenevupāyenā’’tiādi.
Bây giờ, để chỉ ra ý nghĩa theo cách đã được nói trong Pāḷi, (chú giải) nói rằng: “Hơn nữa,” v.v. Câu “anh sẽ là chồng” làm rõ ý nghĩa đã được nói bằng một từ đồng nghĩa là “anh sẽ là chủ nhân.” Và điều này được nói do sự chỉ định ‘jārattane’ là chung cho cả hai giới tính. Câu “cô sẽ là người tình nhân tạm thời” được nói liên quan đến người không có chồng; câu “cô sẽ là người ngoại tình” được nói liên quan đến người có chồng. Câu “thậm chí chỉ trong một khoảnh khắc” là một ví dụ. Do đó, (chú giải) nói: “cũng bằng phương pháp này,” v.v.

303.Serivihāranti sacchandacāraṃ. Attano vasanti attano āṇaṃ. Gottanti gotamagottādikaṃ gottaṃ. Dhammoti paṇḍaraṅgaparibbājakādīnaṃ, tesaṃ tesaṃ vā kulānaṃ dhammo. Gottavantesu gottasaddo, dhammacārīsu ca dhammasaddo vattatīti āha ‘‘sagottehī’’tiādi. Tattha sagottehīti samānagottehi, ekavaṃsajātehīti attho. Sahadhammikehīti ekassa satthusāsane sahacaritabbadhammehi, samānakuladhammehi vā. Tenevāha ‘‘ekaṃ satthāra’’ntiādi. Tattha ‘‘ekaṃ satthāraṃ uddissa pabbajitehī’’ti iminā paṇḍaraṅgaparibbājakādayo vuttā, ekagaṇapariyāpannehīti mālākārādiekagaṇapariyāpannehi.
303. Sống tùy ý là đi lại theo ý muốn. Sự kiểm soát của mình là quyền lực của mình. Họ là họ Gotama, v.v. Tập tục là tập tục của các du sĩ mặc đồ trắng, v.v., hoặc tập tục của từng gia đình. (Chú giải) nói rằng từ ‘gotta’ (họ) được dùng cho những người có họ, và từ ‘dhamma’ (tập tục) được dùng cho những người sống theo tập tục, bằng câu “bởi những người cùng họ,” v.v. Trong đó, bởi những người cùng họ là bởi những người cùng họ, có nghĩa là những người sinh ra trong cùng một dòng dõi. Bởi những người cùng tập tục là bởi những người có cùng tập tục phải được thực hành trong giáo pháp của cùng một vị thầy, hoặc có cùng tập tục gia đình. Chính vì vậy, (chú giải) nói: “cùng một vị thầy,” v.v. Trong đó, bằng câu “bởi những người xuất gia hướng đến cùng một vị thầy,” các du sĩ mặc đồ trắng, v.v. đã được nói đến; bằng câu bởi những người thuộc cùng một nhóm, những người thuộc cùng một nhóm như những người làm vòng hoa, v.v. (đã được nói đến).

Sasāmikā sārakkhā. Yassā gamane raññā daṇḍo ṭhapito, sā saparidaṇḍāPacchimānaṃ dvinnanti sārakkhasaparidaṇḍānaṃ micchācāro hoti tāsaṃ sasāmikabhāvato. Na itarāsanti itarāsaṃ māturakkhitādīnaṃ aṭṭhannaṃ purisantaragamane natthi micchācāro tāsaṃ asāmikabhāvato. Yā hi sāmikassa santakaṃ phassaṃ thenetvā paresaṃ abhiratiṃ uppādenti, tāsaṃ micchācāro, na ca mātādayo tāsaṃ phasse issarā. Mātādayo hi na attanā phassānubhavanatthaṃ tā rakkhanti, kevalaṃ anācāraṃ nisedhentā purisantaragamanaṃ tāsaṃ vārenti. Purisassa pana etāsu aṭṭhasupi hotiyeva micchācāro mātādīhi yathā purisena saddhiṃ saṃvāsaṃ na kappeti, tathā rakkhitattā paresaṃ rakkhitagopitaṃ phassaṃ thenetvā phuṭṭhabhāvato.
Người có chồng là người được bảo vệ. Người nữ nào mà khi (nam nhân) đi với cô ta, vua sẽ áp đặt hình phạt, người đó là người có hình phạt đi kèm. Đối với hai loại sau cùng, tức là người được bảo vệ và người có hình phạt đi kèm, (giao hợp) là tà dâm vì họ có chồng. Không phải đối với những người khác, tức là đối với tám loại khác như người được mẹ bảo vệ, v.v., việc đi với người đàn ông khác không phải là tà dâm vì họ không có chồng. Thật vậy, những người nữ nào ăn cắp sự tiếp xúc thuộc về chồng để tạo ra sự thích thú cho người khác, thì việc làm của họ là tà dâm; còn mẹ, v.v. không phải là chủ nhân của sự tiếp xúc của họ. Thật vậy, mẹ, v.v. không bảo vệ họ để tự mình hưởng thụ sự tiếp xúc, mà chỉ ngăn cản hành vi không đúng đắn và cấm họ đi với người đàn ông khác. Tuy nhiên, đối với người đàn ông, đối với cả tám loại này đều là tà dâm, vì đã ăn cắp và tiếp xúc với sự tiếp xúc được người khác bảo vệ và gìn giữ, do họ được mẹ, v.v. bảo vệ để không chung sống với người đàn ông theo cách đó.

Dhanena kītāti bhariyabhāvatthaṃ dhanena kītā. Tenāha ‘‘yasmā panā’’tiādi. Bhogenāti bhogahetu. Bhogatthañhi vasantī ‘‘bhogavāsinī’’ti vuccati. Labhitvāti yo naṃ vāseti, tassa hatthato labhitvā. Udakapattaṃ āmasitvā gahitā odapattakinī. Tenāha ‘‘ubhinna’’ntiādi. Dhajena āhaṭāti ettha dhajayogato senāva dhajasaddena vuttā, ussitaddhajāya senāya āhaṭāti vuttaṃ hoti. Tenāha ‘‘ussitaddhajāyā’’tiādi.
Người được mua bằng tiền là người được mua bằng tiền để làm vợ. Do đó, (chú giải) nói: “tuy nhiên, vì,” v.v. Bằng tài sản là vì lý do tài sản. Thật vậy, người sống chung vì tài sản được gọi là “bhogavāsinī” (người sống chung vì tài sản). Sau khi nhận được là sau khi nhận được từ tay của người cho cô ấy ở chung. Người được nhận sau khi đã chạm vào bát nước là odapattakinī. Do đó, (chú giải) nói: “của cả hai,” v.v. Về câu “người được mang về bằng cờ,” ở đây, do sự liên quan đến cờ, quân đội đã được nói đến bằng từ ‘cờ’; có nghĩa là đã nói rằng người được mang về bởi quân đội có cờ được giương cao. Do đó, (chú giải) nói: “bởi quân đội có cờ được giương cao,” v.v.

305.Bahiddhā vimaṭṭhaṃ nāma hotīti aññattha ārocitaṃ nāma hoti. Taṃ kiriyaṃ sampādessatīti tassā ārocetvā taṃ kiccaṃ sampādetu vā mā vā, taṃkiriyāsampādane yogyataṃ sandhāya vuttaṃ. Dārakaṃ dārikañca ajānāpetvā tesaṃ mātāpituādīhi mātāpituādīnaṃyeva santikaṃ sāsane pesitepi haraṇavīmaṃsanapaccāharaṇasaṅkhātāya tivaṅgasampattiyā saṅghādiseso hotiyevāti daṭṭhabbaṃ. Yaṃ uddissa sāsanaṃ pesitaṃ, taṃyeva sandhāya tassā mātuādīnaṃ ārocite vatthuno ekattā mātuādayopi khettamevāti khettameva otiṇṇabhāvaṃ dassetuṃ ‘‘buddhaṃ paccakkhāmī’’tiādi udāhaṭaṃ. Iminā sametīti etthāyamadhippāyo – yathā sayaṃ anārocetvā aññena antevāsiādinā ārocāpentassa visaṅketo natthi, evaṃ tassā sayaṃ anārocetvā ārocanatthaṃ mātuādīnaṃ vadantassapi natthi visaṅketoti. Gharaṃ nayatīti gharaṇīMūlaṭṭhānañca vasenāti ettha purisassa mātuādayo sāsanapesane mūlabhūtattā ‘‘mūlaṭṭhā’’ti vuccanti. Māturakkhitāya mātā bhikkhuṃ pahiṇatīti ettha attano vā dhītu santikaṃ ‘‘itthannāmassa bhariyā hotū’’ti bhikkhuṃ pahiṇati, purisassa vā santikaṃ ‘‘mama dhītā itthannāmassa bhariyā hotū’’ti pahiṇatīti gahetabbaṃ. Esa nayo sesesupi. Pubbe vuttanayattāti paṭhamasaṅghādisese vuttanayattā.
305. Được gọi là đã dò hỏi bên ngoài có nghĩa là được gọi là đã báo cáo ở nơi khác. Câu “sẽ hoàn thành hành động đó” được nói liên quan đến sự thích hợp để hoàn thành hành động đó, dù có báo cáo cho cô ấy và hoàn thành công việc đó hay không. Cần phải hiểu rằng ngay cả khi không cho chàng trai và cô gái biết, mà gửi thông điệp từ cha mẹ, v.v. của họ đến chính cha mẹ, v.v. (của người kia), thì vẫn phạm tội Tăng Tàn do đã hoàn thành ba yếu tố được gọi là sự mang đi, sự dò hỏi, và sự mang về. Để chỉ ra rằng đã phạm vào chính đối tượng, (chú giải) đã trích dẫn câu “tôi từ bỏ Đức Phật,” v.v., vì khi báo cáo cho mẹ, v.v. của cô ấy liên quan đến chính người mà thông điệp được gửi đến, do đối tượng là một, nên mẹ, v.v. cũng chính là đối tượng. Về câu “phù hợp với điều này,” ở đây ý nghĩa là: giống như người không tự mình báo cáo mà cho người khác như đệ tử, v.v. báo cáo thì không có sự sai lệch, cũng vậy, người không tự mình báo cáo cho cô ấy mà nói với mẹ, v.v. để báo cáo thì cũng không có sự sai lệch. Người dẫn dắt gia đình là người nội trợ. Về câu “và theo vị trí gốc,” ở đây, mẹ, v.v. của người nam được gọi là “vị trí gốc” vì họ là gốc rễ trong việc gửi thông điệp. Về câu “mẹ của người được mẹ bảo vệ gửi vị Tỳ-khưu đi,” ở đây, cần phải hiểu là bà ấy gửi vị Tỳ-khưu đến con gái mình và nói: “hãy làm vợ của người tên là thế này,” hoặc gửi đến người nam và nói: “con gái tôi hãy làm vợ của người tên là thế này.” Cách này cũng áp dụng cho các trường hợp còn lại. Do cách thức đã được nói trước đây là do cách thức đã được nói trong tội Tăng Tàn thứ nhất.

338.Ettova pakkamatīti puna āgantvā āṇāpakassa anārocetvā tatoyeva pakkamati. Aññena karaṇīyenāti gamanahetuvisuddhidassanatthaṃ vuttaṃ. Teneva pana karaṇīyena gantvāpi kiñci anārocento na vīmaṃsati nāma. Anabhinanditvāti idaṃ tathā paṭipajjamānaṃ sandhāya vuttaṃ, satipi abhinandane sāsanaṃ anārocento pana na vīmaṃsati nāma. Tatiyapade vuttanayenāti ‘‘so tassā vacanaṃ anabhinanditvā’’tiādinā vuttanayena. Vatthugaṇanāyāti sambahulānaṃ itthipurisānaṃ samabhāve sati dvinnaṃ dvinnaṃ itthipurisavatthūnaṃ gaṇanāya. Sace pana ekato adhikā honti, adhikānaṃ gaṇanāya āpattibhedo veditabbo.
338. Bỏ đi từ đó có nghĩa là không trở lại báo cáo cho người ra lệnh mà bỏ đi từ chính nơi đó. Câu “vì công việc khác” được nói để chỉ ra sự trong sạch của lý do đi. Ngay cả khi đi vì chính công việc đó mà không báo cáo gì, thì được gọi là không dò hỏi. Câu “không hoan hỷ” được nói liên quan đến người thực hành như vậy; tuy nhiên, ngay cả khi có sự hoan hỷ, người không báo cáo thông điệp thì được gọi là không dò hỏi. Theo cách đã được nói trong từ thứ ba là theo cách đã được nói bằng câu “vị ấy không hoan hỷ với lời nói của cô ta,” v.v. Theo số lượng đối tượng có nghĩa là khi có số lượng người nữ và người nam bằng nhau, thì (phạm tội) theo số lượng đối tượng là từng cặp hai người nữ và người nam. Tuy nhiên, nếu một bên nhiều hơn, thì sự phân chia tội phải được hiểu theo số lượng của bên nhiều hơn.

339-340. Pāḷiyaṃ catutthavāre asatipi ‘‘gacchanto na sampādeti, āgacchanto visaṃvādeti, anāpattī’’ti idaṃ atthato āpannamevāti katvā vuttaṃ ‘‘catutthe anāpattī’’ti. Kārukānanti vaḍḍhakīādīnaṃ. Tacchakaayokāratantavāyarajakanhāpitakā pañca kāravo ‘‘kārukā’’ti vuccanti. Evarūpena…pe… anāpattīti tādisaṃ gihiveyyāvaccampi na hotīti katvā vuttaṃ.
339-340. Trong Pāḷi, ở trường hợp thứ tư, mặc dù không có câu “khi đi thì không hoàn thành, khi về thì báo cáo sai, vô tội,” nhưng điều này đã được bao hàm về mặt ý nghĩa, do đó đã nói là “vô tội trong trường hợp thứ tư.” Của những người thợ là của những người thợ mộc, v.v. Năm loại thợ là thợ mộc, thợ rèn, thợ dệt, thợ nhuộm, và thợ cạo được gọi là “kārukā” (thợ thủ công). Với hình thức như vậy… cho đến… vô tội được nói do cho rằng việc giúp đỡ người tại gia như vậy cũng không xảy ra.

Kāyato samuṭṭhātīti paṇṇattiṃ vā alaṃvacanīyabhāvaṃ vā ajānantassa kāyato samuṭṭhāti. Vācato samuṭṭhātīti etthāpi eseva nayo. Kāyavācato samuṭṭhātīti paṇṇattiṃ jānitvā alaṃvacanīyabhāvaṃ ajānantassapi kāyavācato samuṭṭhātīti veditabbaṃ. Alaṃvacanīyā hontīti desacārittavasena paṇṇadānādinā pariccattā honti. Paṇṇattiṃpana jānitvāti ettha alaṃvacanīyabhāvaṃ vāti ca daṭṭhabbaṃ. Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. sañcarittasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘tadubhayaṃ pana jānitvā eteheva tīhi nayehi samāpajjantassa tāneva tīṇi tadubhayajānanacittena sacittakāni hontī’’ti vuttaṃ. Tasmā paṇṇattijānanacittenāti etthāpi tadubhayajānanaṃ vattabbaṃ. Bhikkhuṃ ajānāpetvā attano adhippāyaṃ paṇṇe likhitvā dinnaṃ harantassapi āpatti hoti, imassa sikkhāpadassa acittakattāti na gahetabbaṃ. Pāḷiyaṃ pana ‘‘ārocetī’’ti vuttattā aṭṭhakathāyañca tattha tattha ārocanasseva dassitattā kāyena vā vācāya vā ārocentasseva āpatti hotīti gahetabbaṃ.
Khởi lên từ thân có nghĩa là đối với người không biết điều chế định hoặc không biết tình trạng có thể nói được, (tội) khởi lên từ thân. Khởi lên từ lời nói, ở đây cách này cũng tương tự. Khởi lên từ thân và lời nói, cần phải hiểu rằng đối với người biết điều chế định nhưng không biết tình trạng có thể nói được, (tội) cũng khởi lên từ thân và lời nói. Là những người có thể nói được là những người được từ bỏ bằng cách cho lá, v.v. theo phong tục của xứ. Tuy nhiên, sau khi biết điều chế định, ở đây cũng cần phải hiểu là “hoặc tình trạng có thể nói được.” Chính vì vậy, trong Mātikāṭṭhakathā (Kaṅkhā. aṭṭha. Sañcarittasikkhāpadavaṇṇanā) đã nói rằng: “tuy nhiên, sau khi biết cả hai điều đó, đối với người phạm tội theo chính ba cách này, ba tội đó trở thành có tâm do tâm biết cả hai điều đó.” Do đó, ở câu “bằng tâm biết điều chế định,” ở đây cũng phải nói là biết cả hai điều đó. Không nên hiểu rằng người mang lá thư đã được viết theo ý mình và đưa đi mà không cho vị Tỳ-khưu biết cũng phạm tội, vì điều học này là không có tâm. Tuy nhiên, trong Pāḷi, vì đã nói là “báo cáo,” và trong chú giải ở nhiều nơi cũng chỉ ra chính sự báo cáo, nên cần phải hiểu rằng chỉ người báo cáo bằng thân hoặc bằng lời nói mới phạm tội.

341.Duṭṭhullādīsupīti ādi-saddena sañcarittampi saṅgaṇhāti. Ettha pana kiñcāpi itthī nāma manussitthī, na yakkhī, na petī, na tiracchānagatā, puriso nāma manussapuriso, na yakkhotiādi na vuttaṃ, tathāpi manussajātikāva itthipurisā idha adhippetā. Tasmā yesu sañcarittaṃ samāpajjati, tesaṃ manussajātikatā, na nālaṃvacanīyatā, paṭiggaṇhanavīmaṃsanapaccāharaṇānīti imānettha pañcaṅgāni.
341. Về câu “ngay cả trong các tội thô tục, v.v.,” bằng từ ‘v.v.,’ (chú giải) cũng bao gồm cả tội môi giới. Tuy nhiên, ở đây, mặc dù không nói rằng người nữ là người nữ thuộc loài người, không phải là dạ-xoa, không phải là ngạ quỷ, không phải là bàng sanh; và người nam là người nam thuộc loài người, không phải là dạ-xoa, v.v., nhưng ở đây chỉ đề cập đến người nữ và người nam thuộc loài người. Do đó, đối với những người mà tội môi giới xảy ra, các yếu tố là: họ thuộc loài người, không phải là người không thể nói chuyện được, sự chấp nhận, sự dò hỏi, và sự mang về – đây là năm yếu tố ở đây.

Sañcarittasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học môi giới đã kết thúc.

6. Kuṭikārasikkhāpadavaṇṇanā
6. Giải Thích về Điều Học Xây Dựng Tịnh Thất

342. Chaṭṭhe ettakenāti ettakena dāruādinā. Aparicchinnappamāṇāyoti aparicchinnadāruādippamāṇāyo. Mūlacchejjāya purisaṃ yācituṃ na vaṭṭatīti parasantakabhāvato mocetvā attanoyeva santakaṃ katvā yācituṃ na vaṭṭati. Evaṃ mūlacchejjāya aññātakaappavāritaṭṭhānato yācantassa aññātakaviññattiyā dukkaṭaṃ. Dāsaṃ attano atthāya sādiyantassapi dukkaṭameva ‘‘dāsidāsapaṭiggahaṇā paṭivirato hotī’’ti (dī. ni. 1.10, 194) vacanato. Ñātakapavāritaṭṭhānato pana dāsaṃ mūlacchejjāya yācantassa sādiyanavasena dukkaṭaṃ. Sakakammaṃ na yācitabbāti pāṇātipātasikkhāpadarakkhaṇatthaṃ vuttaṃ. Aniyametvāpi na yācitabbāti manussānaṃ aññathā gāhassapi sambhavato vuttaṃ, suddhacittena pana hatthakammaṃ yācantassa āpatti nāma natthi.
342. Trong điều thứ sáu, với chừng ấy có nghĩa là với chừng ấy gỗ, v.v. Có kích thước không được xác định là có kích thước gỗ, v.v. không được xác định. Câu “không được phép xin một người để sở hữu vĩnh viễn” có nghĩa là không được phép xin để làm tài sản của chính mình sau khi đã giải thoát người đó khỏi tình trạng là tài sản của người khác. Như vậy, đối với người xin để sở hữu vĩnh viễn từ một nơi không phải là thân quyến hay chưa được cho phép, thì phạm tội Tác Ác do thỉnh cầu người không phải thân quyến. Đối với người chấp nhận một người nô lệ vì lợi ích của mình cũng phạm tội Tác Ác, theo câu (trong kinh): “vị ấy từ bỏ việc nhận tớ gái và tớ trai” (Dī. Ni. 1.10, 194). Tuy nhiên, đối với người xin một người nô lệ để sở hữu vĩnh viễn từ một nơi là thân quyến hay đã được cho phép, thì phạm tội Tác Ác do sự chấp nhận. Câu “không được xin công việc riêng” được nói để giữ gìn điều học về việc tránh sát sanh. Câu “ngay cả khi không xác định cũng không được xin” được nói do con người cũng có thể hiểu theo cách khác; tuy nhiên, đối với người xin công việc tay chân với tâm thanh tịnh thì không có tội.

Sabbakappiyabhāvadīpanatthanti sabbaso kappiyabhāvadīpanatthaṃ. Mūlaṃ dethāti vattuṃ vaṭṭatīti yasmā mūlaṃ dassāmāti tehi paṭhamaṃ vuttattā viññatti na hoti, yasmā ca mūlanti bhaṇitaṃ sāmaññavacanato akappiyavacanaṃ na hoti, tasmā mūlaṃ dethāti vattuṃ vaṭṭati. Anajjhāvutthakanti apariggahitaṃ. Akappiyakahāpaṇādi na dātabbanti kiñcāpi akappiyakahāpaṇādiṃ asādiyantena kappiyavohārato dātuṃ vaṭṭati, tathāpi sāruppaṃ na hoti. Manussā ca etassa santakaṃ kiñci atthīti viheṭhetabbaṃ maññantīti akappiyakahāpaṇādidānaṃ paṭikkhittaṃ. Tatheva pācetvāti hatthakammavaseneva pācetvā. ‘‘Kiṃ, bhante’’ti ettakepi pucchite yadatthāya paviṭṭho, taṃ kathetuṃ vaṭṭati pucchitapañhattā.
Để chỉ ra tính chất hoàn toàn hợp lệ là để chỉ ra tính chất hợp lệ về mọi mặt. Câu “được phép nói rằng ‘hãy cho giá trị’”, vì họ đã nói trước rằng “chúng tôi sẽ cho giá trị,” nên không phải là sự thỉnh cầu; và vì từ ‘giá trị’ là một từ chung, nên không phải là lời nói không hợp lệ; do đó, được phép nói rằng “hãy cho giá trị.” Chưa có người ở là chưa được sở hữu. Câu “không được cho tiền kahāpaṇa, v.v. không hợp lệ” (được nói vì) mặc dù người không nhận tiền kahāpaṇa, v.v. không hợp lệ có thể cho theo cách giao dịch hợp lệ, nhưng điều đó không thích hợp. Và con người có thể nghĩ rằng vị này có tài sản gì đó và sẽ quấy nhiễu, nên việc cho tiền kahāpaṇa, v.v. không hợp lệ đã bị từ chối. Sau khi cho nấu theo cách đó là sau khi cho nấu theo cách làm công việc tay chân. Ngay cả khi chỉ được hỏi: “thưa ngài, việc gì vậy?” cũng được phép nói ra mục đích mà mình đã vào, vì đã có sự hỏi han.

Vattanti cārittaṃ, āpatti pana na hotīti adhippāyo. Kappiyaṃ kārāpetvā paṭiggahetabbānīti sākhāya laggarajasmiṃ patte patitepi sākhaṃ chinditvā khāditukāmatāyapi sati sukhaparibhogatthaṃ vuttaṃ. ‘‘Nadiṃ vā…pe… āharā’’ti vatthuṃ vaṭṭatīti apariggahitattā vuttaṃ. Gehato…pe… paribhuñjitabbanti pariggahitaudakattā viññattiyā dukkaṭaṃ hotīti adhippāyo. Alajjīhi…pe… na kāretabbanti idaṃ uttaribhaṅgādhikārattā ajjhoharaṇīyaṃ sandhāya vuttaṃ. Bāhiraparibhogesu pana alajjīhipi hatthakammaṃ kāretuṃ vaṭṭatīti.
Bổn phận là thông lệ; tuy nhiên, ý nghĩa là không có tội. Câu “phải được nhận sau khi đã cho làm thành vật hợp lệ” được nói vì sự hưởng thụ thoải mái, ngay cả khi có ý muốn chặt cành và ăn khi lá rơi trên y dính vào cành. Câu “‘hãy mang đến sông hoặc…’” được nói vì (nước) chưa được sở hữu. Câu “từ nhà… cho đến… phải được dùng,” ý nghĩa là do nước đã được sở hữu, nên việc thỉnh cầu sẽ phạm tội Tác Ác. Câu “không được cho những người không biết hổ thẹn làm” được nói liên quan đến những thứ cần nuốt vào, vì nó thuộc quyền hạn của tội nói dối về các pháp thượng nhân. Tuy nhiên, đối với các vật dụng bên ngoài, được phép cho cả những người không biết hổ thẹn làm công việc tay chân.

Goṇaṃ pana…pe… āharāpetuṃ na vaṭṭatīti attano atthāya mūlacchejjavasena āharāpetuṃ na vaṭṭati. Āharāpentassa dukkaṭanti aññātakaviññattiyā dukkaṭaṃ. Attano atthāya sādiyanepi dukkaṭameva ‘‘hatthigavāssavaḷavapaṭiggahaṇā paṭivirato hotī’’ti (dī. ni. 1.10, 194) vuttattā. Tenevāha ‘‘ñātakapavāritaṭṭhānatopi mūlacchejjāya yācituṃ na vaṭṭatī’’ti. Rakkhitvāti yathā corā na haranti, evaṃ rakkhitvā. Jaggitvāti tiṇadānādīhi jaggitvā. Na sampaṭicchitabbanti attano atthāya goṇe sādiyanassa paṭikkhittattā vuttaṃ.
Câu “tuy nhiên, không được phép cho mang con bò đến” có nghĩa là không được phép cho mang đến vì lợi ích của mình theo cách sở hữu vĩnh viễn. Người cho mang đến thì phạm tội Tác Ác, tội Tác Ác do thỉnh cầu người không phải thân quyến. Ngay cả khi chấp nhận vì lợi ích của mình cũng phạm tội Tác Ác, vì đã được nói rằng: “vị ấy từ bỏ việc nhận voi, bò, ngựa, ngựa cái” (Dī. Ni. 1.10, 194). Chính vì vậy, (chú giải) nói: “ngay cả từ nơi thân quyến hay đã được cho phép cũng không được xin để sở hữu vĩnh viễn.” Sau khi trông nom là sau khi trông nom để trộm cướp không lấy đi. Sau khi chăm sóc là sau khi chăm sóc bằng cách cho cỏ, v.v. Câu “không được nhận” được nói do đã từ chối việc chấp nhận bò vì lợi ích của mình.

Sakaṭaṃ dethāti…pe… vaṭṭatīti mūlacchejjavasena sakaṭaṃ dethāti vattuṃ na vaṭṭati. Tāvakālikaṃ vaṭṭatīti tāvakālikaṃ katvā sabbattha yācituṃ vaṭṭati. Valliādīsu ca parapariggahitesu eseva nayoti yojetabbaṃ . Garubhaṇḍappahonakesuyeva ca valliādīsūti ettha ādi-saddena veḷumuñjapabbajatiṇamattikānaṃ saṅgaho daṭṭhabbo. Yaṃ pana vatthuvasena appaṃ hutvā agghavasena mahantaṃ haritālahiṅgulakādi, taṃ garubhaṇḍaṃ appahontampi yācituṃ na vaṭṭatīti vadanti.
Câu “hãy cho chiếc xe… được phép” có nghĩa là không được phép nói “hãy cho chiếc xe” theo cách sở hữu vĩnh viễn. Được phép dùng tạm thời có nghĩa là được phép xin ở khắp nơi để dùng tạm thời. Đối với dây leo, v.v. đã được người khác sở hữu, cách này cũng được áp dụng tương tự. Về câu “và chỉ đối với các loại dây leo, v.v. đủ để làm vật nặng,” ở đây, bằng từ ‘v.v.,’ cần phải hiểu là bao gồm cả tre, cỏ muñja, cỏ pabbaja, và đất sét. Tuy nhiên, người ta nói rằng đối với vật tuy nhỏ về khối lượng nhưng lớn về giá trị như hùng hoàng, chu sa, v.v., dù không đủ để làm vật nặng cũng không được phép xin.

ti viññattiṃ parāmasati. Sā ca idha parikathādinā yena kenaci adhippāyaviññāpanaṃ viññattīti gahetabbā. Tenāha ‘‘sabbena sabba’’nti, sabbappakārenāti attho. Tena ‘‘parikathādivasenapi viññāpanaṃ na vaṭṭatī’’ti dīpeti. Parikathobhāsanimittakammampi hi cīvarapiṇḍapātesu dvīsu paccayesu na vaṭṭati. Idāni senāsanapaccaye adhippetaṃ viññattiṃ parikathādīhi visesetvā dassento ‘‘āhara dehīti viññattimattameva na vaṭṭatī’’ti āha. Parikathobhāsanimittakammāni vaṭṭantīti ettha parikathā nāma pariyāyena kathanaṃ bhikkhusaṅghassa senāsanaṃ sambādhantiādivacanaṃ. Obhāso nāma ujukameva akathetvā yathā adhippāyo vibhūto hoti, evaṃ obhāsanaṃ, upāsakā, tumhe kuhiṃ vasathāti? Pāsāde, bhanteti. Bhikkhūnaṃ pana, upāsakā, pāsādo na vaṭṭatītiādivacanaṃ. Nimittakammaṃ nāma paccaye uddissa yathā adhippāyo viññāyati, evaṃ nimittakammaṃ, senāsanatthaṃ bhūmiparikammādīni karontassa ‘‘kiṃ, bhante, karosi, ko kārāpetī’’ti vutte ‘‘na kocī’’tiādivacanaṃ.
là chỉ cho sự thỉnh cầu. Và ở đây, cần phải hiểu `viññatti` là sự biểu lộ ý định bằng bất cứ cách nào như nói vòng vo, v.v. Do đó, (chú giải) nói: “bằng mọi cách,” có nghĩa là bằng tất cả các phương cách. Bằng điều này, (chú giải) chỉ ra rằng “ngay cả việc biểu lộ bằng cách nói vòng vo, v.v. cũng không được phép.” Thật vậy, việc nói vòng vo, ám chỉ, và ra dấu hiệu cũng không được phép đối với hai loại duyên là y phục và vật thực khất thực. Bây giờ, để phân biệt và chỉ ra sự thỉnh cầu được đề cập đến trong duyên chỗ ở bằng cách nói vòng vo, v.v., (chú giải) nói rằng: “chỉ riêng sự thỉnh cầu rằng ‘hãy mang đến, hãy cho đi’ là không được phép.” Về câu “việc nói vòng vo, ám chỉ, và ra dấu hiệu thì được phép,” ở đây, việc nói vòng vo là cách nói một cách gián tiếp, như câu “chỗ ở của Tăng chúng chật chội,” v.v. Việc ám chỉ là không nói thẳng mà ám chỉ để ý định được biểu lộ, như câu “thưa các cư sĩ, quý vị ở đâu? – Thưa ngài, ở trong lâu đài. – Nhưng thưa các cư sĩ, lâu đài không hợp với các Tỳ-khưu,” v.v. Việc ra dấu hiệu là việc ra dấu hiệu để ý định được biết đến liên quan đến các duyên, như khi đang làm các công việc chuẩn bị đất đai cho chỗ ở, v.v., lúc được hỏi: “thưa ngài, ngài đang làm gì, ai cho làm vậy?” thì nói rằng: “không có ai cả,” v.v.

Idāni gilānapaccaye viññattiādikaṃ sabbampi vaṭṭatīti dassento āha ‘‘gilānapaccaye panā’’tiādi. Tathā uppannaṃ pana bhesajjaṃ roge vūpasante paribhuñjituṃ vaṭṭati, na vaṭṭatīti? Tattha vinayadharā ‘‘bhagavatā rogasīsena paribhogassa dvāraṃ dinnaṃ, tasmā arogakālepi paribhuñjituṃ vaṭṭati, āpatti na hotī’’ti vadanti. Suttantikā pana ‘‘kiñcāpi āpatti na hoti, ājīvaṃ pana kopeti, tasmā sallekhappaṭipattiyaṃ ṭhitassa na vaṭṭati, sallekhaṃ kopetī’’ti vadanti. Ukkamantīti apagacchanti.
Bây giờ, để chỉ ra rằng đối với duyên cho người bệnh, tất cả mọi thứ như thỉnh cầu, v.v. đều được phép, (chú giải) nói rằng: “tuy nhiên, đối với duyên cho người bệnh,” v.v. Vậy, thuốc men đã nhận được như vậy, khi bệnh đã hết, có được phép dùng hay không? Về điều này, các vị luật sư nói rằng: “Đức Thế Tôn đã cho phép việc sử dụng dựa trên tình trạng bệnh, do đó, ngay cả khi không có bệnh cũng được phép dùng, không có tội.” Tuy nhiên, các vị kinh sư lại nói rằng: “mặc dù không có tội, nhưng nó làm ô uế đời sống, do đó, đối với người đang thực hành hạnh thiểu dục, điều đó không được phép, nó làm ô uế hạnh thiểu dục.” Rời đi là bỏ đi.

344. Maṇi kaṇṭhe assāti maṇikaṇṭho, maṇinā upalakkhito vā kaṇṭho assāti maṇikaṇṭhoti majjhapadalopīsamāso daṭṭhabbo. Devavaṇṇanti devattabhāvaṃ. Pasannākāranti pasannehi kātabbakiccaṃ, kāyaveyyāvaccasaṅkhātaṃ upaṭṭhānanti vuttaṃ hoti. Maṇiyācanāya tassa anāgamanena attano vaḍḍhi hotīti vuttaṃ ‘‘maṇinā me attho’’ti, mantapadanīhārena vā tathā vuttanti daṭṭhabbaṃ.
344. Người có ngọc ở cổ là Maṇikaṇṭho; hoặc người có cổ được đánh dấu bằng ngọc là Maṇikaṇṭho, cần phải hiểu đây là hợp từ có từ giữa bị lược bỏ. Sắc tướng chư thiên là trạng thái chư thiên. Hành động của người hoan hỷ là công việc phải được làm bởi những người hoan hỷ; có nghĩa là đã nói đến sự hầu hạ được gọi là sự phục vụ bằng thân. Bằng việc xin ngọc, do người đó không đến, nên sự trưởng thành của mình xảy ra. Do đó đã nói là “ta cần viên ngọc,” hoặc cần phải hiểu là đã nói như vậy bằng cách thốt ra lời thần chú.

345.Vattamānasamīpeti vattamānassa samīpe atīte. Evaṃ vattuṃ labbhatīti ‘‘āgatosī’’ti vattabbe vattamānasamīpattā ‘‘āgacchasī’’ti evaṃ vattamānavohārena vattuṃ labbhati. Lakkhaṇaṃ panettha saddasatthānusārato veditabbaṃ. So eva nayoti ‘‘āgatomhī’’ti vattabbe ‘‘āgacchāmī’’ti ayampi vattamānasamīpe vattamānavohāroti dasseti.
345. Ở gần hiện tại là ở quá khứ gần với hiện tại. Được phép nói như vậy có nghĩa là đáng lẽ phải nói “āgatosī” (ngươi đã đến), nhưng do gần với hiện tại nên được phép nói theo cách nói hiện tại là “āgacchasi” (ngươi đang đến). Ở đây, đặc điểm ngữ pháp cần được hiểu theo sách saddasattha. Cách đó cũng tương tự chỉ ra rằng đáng lẽ phải nói “āgatomhī” (tôi đã đến), nhưng đây cũng là cách nói hiện tại ở gần hiện tại là “āgacchāmi” (tôi đang đến).

348-349. Yasmā pana na sakkā kevalaṃ yācanāya kiñci kātuṃ, tasmā ‘‘sayaṃ yācitakehi upakaraṇehī’’ti adhippāyattho vutto. Uddhaṃmukhaṃ littā ullittā, adhomukhaṃ littā avalittā. Yasmā pana uddhaṃmukhaṃ limpantā yebhuyyena anto limpanti, adhomukhaṃ limpantā ca bahi, tasmā vuttaṃ ‘‘ullittāti antolittā, avalittāti bahilittā’’ti. Tattha ullittā nāma ṭhapetvā tulāpiṭṭhasaṅghātavātapānadhūmachiddādibhedaṃ alepokāsaṃ avasese lepokāse kuṭṭehi saddhiṃ ghaṭetvā chadanassa anto sudhāya vā mattikāya vā littā. Avalittā nāma vuttanayeneva chadanassa bahi littā. Ullittāvalittā nāma tatheva chadanassa anto ca bahi ca littā.
348-349. Tuy nhiên, vì không thể làm bất cứ điều gì chỉ bằng cách xin, do đó, ý nghĩa đã được nói là “bằng các vật dụng đã được tự mình xin.” Trét mặt hướng lên là trét trên; trét mặt hướng xuống là trét dưới. Tuy nhiên, vì những người trét mặt hướng lên phần lớn là trét bên trong, và những người trét mặt hướng xuống là trét bên ngoài, do đó đã nói rằng: “‘trét trên’ là trét bên trong, ‘trét dưới’ là trét bên ngoài.” Trong đó, trét trên là, ngoại trừ các chỗ không trét khác nhau như dầm, đỉnh, khớp nối, cửa sổ, và lỗ thoát khói, ở những chỗ trét còn lại, đã được trét bằng vôi hoặc đất sét bên trong của mái nhà, kết hợp với các bức tường. Trét dưới là đã được trét bên ngoài của mái nhà theo cách đã nói. Trét trên và trét dưới là đã được trét cả bên trong và bên ngoài của mái nhà theo cách đó.

Byañjanaṃ sametīti ‘‘kārayamānenā’’ti hetukattuvasena uddiṭṭhapadassa ‘‘kārāpentenā’’ti hetukattuvaseneva niddesassa katattā byañjanaṃ sameti. Yadi evaṃ ‘‘karonto vā kārāpento vā’’ti kasmā tassa padabhājanaṃ vuttanti āha ‘‘yasmā panā’’tiādi. ‘‘Attanā vippakataṃ parehi pariyosāpetī’’tiādivacanato ‘‘karontenapi idha vuttanayeneva paṭipajjitabba’’nti vuttaṃ. Tattha idha vuttanayenevāti imasmiṃ sikkhāpade vuttanayeneva. Ubhopeteti kārakakārāpakā. Kārayamānenāti imināva padena saṅgahitāti kathaṃ saṅgahitā. Na hi kārayamāno karonto nāma hoti, evaṃ panettha adhippāyo veditabbo – yasmā karontenapi kārayamānenapi idha vuttanayeneva paṭipajjitabbaṃ, tasmā kārayamānena evaṃ paṭipajjitabbanti vutte pageva karontenāti idaṃ atthato āgatamevāti ‘‘kārayamānenā’’ti bhagavatā vuttaṃ. Tato ‘‘kārayamānenā’’ti vutte sāmatthiyato labbhamānopi attho teneva saṅgahito nāma hotīti. Byañjanaṃvilomitaṃ bhaveyyāti yasmā ‘‘kārayamānenā’’ti imassa ‘‘karontenā’’ti idaṃ pariyāyavacanaṃ na hoti, tasmā karontena vā kārāpentena vāti padatthavasena niddese kate byañjanaṃ viruddhaṃ bhaveyyāti adhippāyo. Atthamattamevāti padatthato sāmatthiyato ca labbhamānaṃ atthamattameva.
Văn tự phù hợp có nghĩa là văn tự phù hợp vì từ “kārayamānenā” (bởi người đang cho làm) được chỉ định trong thể sai khiến đã được giải thích chính bằng thể sai khiến là “kārāpentenā” (bởi người đang cho làm). Nếu vậy, tại sao phần phân tích từ ngữ của nó lại được nói là “bởi người đang làm hoặc đang cho làm”? (Chú giải) nói rằng: “tuy nhiên, vì,” v.v. Từ câu “tự mình làm dang dở rồi cho người khác hoàn thành,” v.v., đã được nói rằng: “ngay cả người đang làm cũng phải thực hành theo cách đã được nói ở đây.” Trong đó, theo cách đã được nói ở đây là theo cách đã được nói trong điều học này. Cả hai người này là người làm và người cho làm. Được bao gồm trong chính từ ‘kārayamānenā’, được bao gồm như thế nào? Thật vậy, người đang cho làm không thể được gọi là người đang làm. Ở đây, ý nghĩa cần được hiểu như sau: vì cả người đang làm và người đang cho làm đều phải thực hành theo cách đã được nói ở đây, do đó, khi nói rằng “bởi người đang cho làm phải thực hành như vậy,” thì việc “bởi người đang làm” đã được bao hàm về mặt ý nghĩa. Do đó, Đức Thế Tôn đã nói là “kārayamānenā.” Do đó, khi nói là “kārayamānenā,” ý nghĩa có được do năng lực của từ cũng được gọi là đã được bao gồm trong chính từ đó. Văn tự sẽ bị mâu thuẫn, vì từ “karontenā” (bởi người đang làm) không phải là từ đồng nghĩa của “kārayamānenā” (bởi người đang cho làm), do đó, nếu sự giải thích được thực hiện theo nghĩa của từ là “bởi người đang làm hoặc đang cho làm,” thì văn tự sẽ bị mâu thuẫn. Đó là ý nghĩa. Chỉ riêng ý nghĩa là chỉ riêng ý nghĩa có được từ nghĩa của từ và từ năng lực của từ.

Uddesoti uddisitabbo. Abbohārikanti appamāṇaṃ. ‘‘Āyāmato ca vitthārato cā’’ti avatvā vikappatthassa -saddassa vuttattā ekatobhāgena vaḍḍhitepi āpattiyevāti dassento ‘‘yo panā’’tiādimāha. Tihatthāti vaḍḍhakīhatthena tihatthā. Pamāṇayutto mañcoti pakatividatthiyā navavidatthippamāṇo mañco. Pamāṇikā kāretabbāti ukkaṭṭhappamāṇaṃ sandhāya vuttattā ukkaṭṭhappamāṇayuttāva kuṭi adesitavatthukā na vaṭṭati, pamāṇato pana ūnatarā adesitavatthukāpi vaṭṭatīti kassaci sandeho siyāti taṃnivattanatthaṃ ‘‘pamāṇato ūnatarampī’’tiādi vuttaṃ. Tattha pamāṇato ūnataranti pāḷiyaṃ vuttappamāṇato ūnataraṃ. Pacchimena pamāṇena catuhatthato ūnatarā kuṭi nāma na hotīti catuhatthato paṭṭhāya kuṭilakkhaṇappattaṃ kuṭiṃ dassetuṃ ‘‘catuhatthaṃ pañcahatthampī’’ti vuttaṃ. Kalalalepoti kenaci silesena katalepo, tambamattikādikalalalepo vā. Alepo evāti abbohārikāyevāti adhippāyo. Piṭṭhasaṅghāṭo dvārabāhā. Oloketvāpīti apaloketvāpi, apalokanakammavasenapi kātuṃ vaṭṭatīti adhippāyo.
Chỉ định là phải được chỉ định. Không thể áp dụng là không có giới hạn. Để chỉ ra rằng ngay cả khi vượt quá giới hạn về một phía cũng phạm tội, vì đã không nói là “về chiều dài và về chiều rộng” mà đã dùng từ ‘hoặc’ có ý nghĩa lựa chọn, (chú giải) nói rằng: “tuy nhiên, người nào,” v.v. Ba khuỷu tay là ba khuỷu tay theo thước của thợ mộc. Giường đúng kích thước là chiếc giường có kích thước chín gang tay theo gang tay tự nhiên. Để tránh sự nghi ngờ của ai đó rằng vì câu “phải được làm đúng kích thước” được nói liên quan đến kích thước tối đa, nên chỉ tịnh thất có nền đất chưa được chỉ định và có kích thước tối đa là không được phép, còn tịnh thất nhỏ hơn kích thước đó dù có nền đất chưa được chỉ định cũng được phép, (chú giải) đã nói câu “ngay cả nhỏ hơn kích thước,” v.v. Trong đó, nhỏ hơn kích thước là nhỏ hơn kích thước đã được nói trong Pāḷi. Để chỉ ra tịnh thất đạt đến đặc điểm của một tịnh thất kể từ bốn khuỷu tay, vì tịnh thất nhỏ hơn bốn khuỷu tay theo kích thước sau cùng thì không được gọi là tịnh thất, (chú giải) đã nói là “bốn khuỷu tay, ngay cả năm khuỷu tay.” Lớp trét bằng đất sét là lớp trét được làm bằng một loại keo nào đó, hoặc lớp trét bằng đất sét đồng, v.v. Chỉ là không trét, ý nghĩa là không thể áp dụng. Khớp nối đỉnh là hai bên khung cửa. Ngay cả sau khi đã xem xét là ngay cả sau khi đã xin phép; ý nghĩa là cũng được phép làm theo Tăng sự xin phép.

353. Yathā sīhādīnaṃ gocarāya pakkamantānaṃ nibaddhagamanamaggo na vaṭṭati, evaṃ hatthīnampi nibaddhagamanamaggo na vaṭṭati. Etesanti sīhādīnaṃ. Cāribhūmīti gocarabhūmi. Na gahitāti na vāritāti adhippāyo. Ārogyatthāyāti nirupaddavatthāya. Sesānīti pubbaṇṇanissitādīni. Pubbaṇṇanissitanti ettha pubbaṇṇaviruhanaṭṭhānaṃ pubbaṇṇa-saddena gahitaṃ. Tenāha – ‘‘sattannaṃ dhaññānaṃ…pe… ṭhita’’nti. Abhihananti etthāti abbhāghātaṃ. ‘‘Verighara’’nti vuttamevatthaṃ vibhāvetuṃ ‘‘corānaṃ māraṇatthāya kata’’nti vuttaṃ. Dhammagandhikāti hatthapādādichindanagandhikā.
353. Giống như đường đi lại thường xuyên của các loài sư tử, v.v. khi chúng đi kiếm ăn là không được phép, cũng vậy, đường đi lại thường xuyên của voi cũng không được phép. Của chúng là của các loài sư tử, v.v. Vùng đi lại là vùng kiếm ăn. Chưa được lấy đi, ý nghĩa là chưa được ngăn cấm. Vì sự an ổn là vì tình trạng không bị nguy hiểm. Những thứ còn lại là những thứ nương theo ngũ cốc sớm, v.v. Về câu “nương theo ngũ cốc sớm,” ở đây, nơi ngũ cốc sớm mọc lên được hiểu bằng từ ‘ngũ cốc sớm.’ Do đó, (chú giải) nói: “nơi bảy loại lúa… cho đến… đang đứng.” Người ta bị tấn công ở đó, nên gọi là nơi nguy hiểm. Để làm rõ ý nghĩa đã được nói là “nhà của kẻ thù,” đã nói là “được làm để giết trộm.” Kẻ cướp có mùi của Pháp là kẻ cướp chặt tay chân, v.v.

Āvijjituṃna sakkā hotīti chindataṭādisambhavato na sakkā hoti āvijjituṃ. Pācinanti kuṭivatthusāmantā cinitabbaadhiṭṭhānaṃ. Kiñcāpi idha pubbapayogasahapayogānaṃ adinnādāne viya viseso natthi, tathāpi tesaṃ vibhāgena dassanaṃ chinditvā puna kātabbāti ettha kuṭiyā bhedanaparicchedadassanatthaṃ kataṃ. Tadatthāyāti tacchanatthāya. Evaṃ katanti adesitavatthuṃ pamāṇātikkantaṃ vā kataṃ. Dārunā kataṃ kuṭṭaṃ etthāti dārukuṭṭikā, kuṭi. Silākuṭṭikantiādīsupi eseva nayo. Paṇṇasālanti bahi paṇṇehi chādetabbaṃ ullittāvalittaṃ kuṭimeva vadati. Tenevāha ‘‘sabhitticchadanaṃ limpissāmī’’ti.
Không thể đi vòng quanh được là không thể đi vòng quanh được do có bờ sông bị sạt lở, v.v. Ranh giới phía đông là sự chú nguyện phải được xây dựng ở vùng lân cận của nền tịnh thất. Mặc dù ở đây không có sự khác biệt giữa các giai đoạn chuẩn bị trước và thực hiện đồng thời như trong tội trộm cắp, tuy nhiên, việc chỉ ra chúng một cách riêng biệt đã được thực hiện để chỉ ra sự phân chia việc phá dỡ tịnh thất trong câu “phải phá đi rồi làm lại.” Vì mục đích đó là vì mục đích đẽo gọt. Đã được làm như vậy là đã được làm trên nền đất chưa được chỉ định hoặc vượt quá kích thước. Nơi có tường bằng gỗ là tịnh thất có tường gỗ; tịnh thất. Đối với các câu “tịnh thất có tường đá,” v.v. cách này cũng tương tự. Nhà lợp lá là chỉ cho chính tịnh thất được trét trên và dưới, cần phải được lợp bằng lá ở bên ngoài. Chính vì vậy, (chú giải) nói: “tôi sẽ trét tường và mái nhà.”

Antolepeneva niṭṭhāpetukāmaṃ sandhāya ‘‘antolepe vā’’tiādi vuttaṃ. Bahilepe vāti etthāpi eseva nayo. Tasmiṃ dvārabaddhe vā vātapāne vā ṭhapiteti yojetabbaṃ. Tassokāsanti tassa dvārabaddhassa vā vātapānassa vā okāsaṃ. Puna vaḍḍhetvā vāti pubbeva ṭhapitokāsaṃ khuddakaṃ ce, bhedanena puna vaḍḍhetvā. Lepo na ghaṭiyatīti pubbe dinnalepo dvārabaddhena vā vātapānena vā saddhiṃ na ghaṭiyati, ekābaddhaṃ hutvā na tiṭṭhatīti vuttaṃ hoti. Tanti dvārabaddhaṃ vā vātapānaṃ vā. Paṭhamameva saṅghādisesoti lepakiccassa niṭṭhitattā dvārabaddhaṃ vā vātapānaṃ vā ṭhapanato pubbeyeva saṅghādiseso. Aṭṭhaṅgulamattena appattacchadanaṃ katvāti ettha evaṃ me āpatti na siyāti bhittiyaṃ vā chadane vā ekaṅgulamattampi okāsaṃ lepena aghaṭetvā ṭhapeti, vaṭṭatīti vadanti. Mattikākuṭṭameva mattikālepasaṅkhyaṃ gacchatīti āha – ‘‘sace mattikāya kuṭṭaṃ karoti, chadanalepena saddhiṃ ghaṭane āpattī’’ti. Ubhinnaṃ anāpattīti purimassa lepassa aghaṭitattā dutiyassa attuddesikatāsambhavato ubhinnaṃ anāpatti, tasmā vināpi vattasīsena tena anāṇatto tassa karomīti karoti, ubhinnaṃ anāpattiyeva. Sace tena āṇatto karoti, mūlaṭṭhasseva āpatti.
Câu “hoặc ở lớp trét bên trong,” v.v. được nói liên quan đến người muốn hoàn thành chỉ bằng lớp trét bên trong. Về câu “hoặc ở lớp trét bên ngoài,” ở đây cách này cũng tương tự. Cần phải được kết hợp là ‘được đặt ở khung cửa hoặc cửa sổ đó.’ Chỗ của nó là chỗ của khung cửa hoặc khung cửa sổ đó. Hoặc sau khi mở rộng thêm có nghĩa là nếu chỗ đã đặt trước đó nhỏ, thì sau khi phá đi, lại mở rộng thêm. Lớp trét không dính vào có nghĩa là lớp trét đã được trét trước đó không dính vào khung cửa hoặc khung cửa sổ; có nghĩa là đã nói rằng nó không dính thành một khối. là khung cửa hoặc khung cửa sổ. Phạm tội Tăng Tàn ngay từ đầu có nghĩa là vì công việc trét đã hoàn thành, nên phạm tội Tăng Tàn ngay cả trước khi đặt khung cửa hoặc khung cửa sổ. Về câu “làm mái nhà không chạm đến khoảng tám ngón tay,” ở đây, người ta nói rằng: (với ý nghĩ) “như vậy ta sẽ không phạm tội,” nếu để lại một khoảng trống dù chỉ bằng một ngón tay trên tường hoặc trên mái nhà mà không trét dính bằng vữa, thì được phép. Chỉ có tường đất mới được tính là lớp trét bằng đất sét. Do đó, (chú giải) nói: “nếu làm tường bằng đất sét, thì phạm tội khi trét dính với lớp trét của mái nhà.” Cả hai đều vô tội, cả hai đều vô tội vì lớp trét của người trước không dính vào và vì không thể có sự hướng đến bản thân cho người sau. Do đó, dù không có người đứng đầu, người đó không được ra lệnh mà tự làm cho người kia, thì cả hai đều vô tội. Nếu người đó làm theo lệnh, thì chỉ người chủ gốc mới phạm tội.

354.Chattiṃsa catukkāni nāma ‘‘bhikkhu kuṭiṃ karotī’’tiādimhi paṭhamavāre adesitavatthukacatukkaṃ desitavatthukacatukkaṃ pamāṇātikkantacatukkaṃ pamāṇikacatukkaṃ adesitavatthukappamāṇātikkantacatukkaṃ desitavatthukappamāṇikacatukkanti cha catukkāni, evaṃ samādisativārādīsupi pañcasūti chattiṃsa. Āpattibhedadassanatthaṃ vuttānīti ‘‘sārambhe ce bhikkhu vatthusmiṃ aparikkamane’’ti avisesena mātikāya vuttattā sārambhaaparikkamanesupi saṅghādisesova siyāti micchāgāhanivattanatthaṃ sārambhe aparikkamane ca dukkaṭaṃ, adesitavatthukatāya pamāṇātikkantatāya ca saṅghādisesoti evaṃ āpattibhedadassanatthaṃ vuttāni.
354. Ba mươi sáu bộ bốn là: trong trường hợp đầu tiên “vị Tỳ-khưu xây dựng tịnh thất,” v.v., có sáu bộ bốn là bộ bốn về nền đất chưa được chỉ định, bộ bốn về nền đất đã được chỉ định, bộ bốn về việc vượt quá kích thước, bộ bốn về kích thước đúng, bộ bốn về nền đất chưa được chỉ định và vượt quá kích thước, và bộ bốn về nền đất đã được chỉ định và kích thước đúng. Tương tự, trong năm trường hợp còn lại như trường hợp chỉ định, v.v., cũng có sáu bộ bốn, tổng cộng là ba mươi sáu. Câu “được nói để chỉ ra sự phân chia tội” (được nói) để loại bỏ sự hiểu lầm rằng vì trong phần đề mục đã nói một cách không phân biệt rằng “nếu vị Tỳ-khưu có sự tranh chấp, ở nơi không có khoảng trống xung quanh,” có thể phạm tội Tăng Tàn. (Thay vào đó), phạm tội Tác Ác khi có sự tranh chấp và không có khoảng trống xung quanh, và phạm tội Tăng Tàn do nền đất chưa được chỉ định và do vượt quá kích thước. Như vậy, chúng được nói để chỉ ra sự phân chia tội.

355-361. ‘‘Dvīhi saṅghādisesehī’’ti vattabbe vibhattibyattayena ca vacanabyattayena ca dvinnaṃ saṅghādisesenāti vuttanti āha ‘‘dvīhi saṅghādisesehi…pe… attho veditabbo’’ti. ‘‘Aññassa vā dātabbā’’ti vuttattā vippakataṃ kuṭiṃ labhitvā attano atthāya karontassapi ādito paṭṭhāya akatattā anāpattiyevāti vadanti. Apacinitabbāti viddhaṃsetabbā. Bhūmisamaṃ katvāti kuṭivatthusamaṃ katvā.
355-361. Đáng lẽ phải nói là “bởi hai tội Tăng Tàn,” nhưng do sự thay đổi về cách và số, đã được nói là “bởi hai tội Tăng Tàn.” Do đó, (chú giải) nói: “bởi hai tội Tăng Tàn… cho đến… ý nghĩa cần phải được hiểu.” Người ta nói rằng vì đã được nói là “hoặc phải được cho người khác,” nên ngay cả người nhận được tịnh thất đang làm dở và làm vì lợi ích của mình cũng vô tội, vì đã không làm từ đầu. Phải được phá đi là phải được phá hủy. Làm cho bằng với mặt đất là làm cho bằng với nền tịnh thất.

364.Na hettha lepo ghaṭiyatīti chadanalepassa abhāvato vuttaṃ, visuṃyeva anuññātattā pana sacepi leṇassa anto uparibhāge cittakammādikaraṇatthaṃ lepaṃ denti, vaṭṭatiyeva. Lepadānavasena akatā iṭṭhakādiguhā guhā nāmāti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Tiṇehi vā paṇṇehi vā chāditakuṭikāva vuttāti ‘‘kukkuṭacchikagehaṃ vaṭṭatī’’ti vatvā ‘‘chadanaṃ daṇḍakehī’’tiādinā puna taṃ dassentehi tiṇapaṇṇacchadanā kuṭikāva vuttā. Chadanaṃ daṇḍakehi jālabandhaṃ katvāti chadanaṃ dīghato tiriyato ca ṭhapitadaṇḍakehi jālaṃ viya bandhitvā. Ogumphetvāti tiṇādiṃ viddhaṃsetvā. Bhittilepena saddhiṃ lepe ghaṭiteti ettha ullittāvalittabhāvassa chadanaṃ sandhāya vuttattā sacepi bhittilepena anatthiko hoti, chadanalepe samantato bhittiyā appamattakenapi ghaṭite bhittilepena vināpi āpattiyevāti vadanti. Upacikāmocanatthameva heṭṭhā pāsāṇakuṭṭaṃ katvā taṃ alimpitvā upari limpati, lepo na ghaṭiyati nāma, anāpattiyevāti iminā aṭṭhakathāvacanena taṃ na sameti. Tattha keci vadanti ‘‘bhittiṃ alimpitukāmatāya abhāvato chadanalepe pāsāṇakuṭṭena saddhiṃ ghaṭitepi tattha anāpatti vuttā’’ti, tampi na yuttaṃ. ‘‘Upacikāmocanatthamevā’’ti hi vuttattā pāsāṇakuṭṭe puna limpitukāmatāya abhāvoyeva viññāyati, teneva ‘‘taṃ alimpitvā’’ti vuttaṃ. Tasmā ‘‘ullittādibhāvo…pe… chadanameva sandhāya vutto’’ti idaṃ satipi bhittilepe chadanalepena vinā āpatti na hotīti chadanalepassa padhānabhāvadassanatthaṃ vuttaṃ, na pana bhittilepena vināpi āpatti hotīti dassanatthanti vadanti, idameva cettha yuttataranti amhākaṃ khanti. Etthāti tiṇakuṭikāya.
364. Câu “ở đây lớp trét không dính vào” được nói do không có lớp trét mái nhà. Tuy nhiên, vì đã được cho phép một cách riêng biệt, nên nếu có trét vữa ở phần trên bên trong hang động để làm các công việc vẽ tranh, v.v., thì cũng được phép. Trong các sách lược giải đã nói rằng hang động bằng gạch, v.v. không được làm bằng cách trét vữa thì mới được gọi là hang động. Câu “chỉ tịnh thất được lợp bằng cỏ hoặc lá đã được nói đến”, khi nói rằng “nhà mái chóp thì được phép,” rồi lại chỉ ra điều đó bằng câu “mái nhà bằng các thanh gỗ,” v.v., là (các vị soạn giả) đã nói đến tịnh thất lợp bằng cỏ và lá. Làm mái nhà thành một mạng lưới bằng các thanh gỗ là làm mái nhà bằng cách kết các thanh gỗ được đặt theo chiều dài và chiều ngang lại với nhau như một tấm lưới. Sau khi gỡ bỏ là sau khi phá dỡ cỏ, v.v. Về câu “khi lớp trét dính vào lớp trét của tường,” ở đây, vì trạng thái trét trên và dưới được nói liên quan đến mái nhà, nên người ta nói rằng ngay cả khi không có ý định trét tường, nếu lớp trét mái nhà dính vào tường dù chỉ một chút ở xung quanh, thì vẫn phạm tội ngay cả khi không có lớp trét tường. Điều này không phù hợp với lời nói trong chú giải rằng: “chỉ để tránh mối mọt, người ta làm tường đá ở dưới, không trét nó mà trét ở trên, thì lớp trét không được gọi là dính vào, chắc chắn là vô tội.” Về điều đó, một số người nói rằng: “do không có ý định trét tường, nên ngay cả khi lớp trét mái nhà dính vào tường đá, thì ở đó đã được nói là vô tội.” Điều đó cũng không hợp lý. Thật vậy, vì đã nói là “chỉ để tránh mối mọt,” nên có thể biết rằng không có ý định trét lại tường đá, chính vì vậy đã nói là “không trét nó.” Do đó, người ta nói rằng câu “trạng thái trét trên, v.v…. chỉ liên quan đến mái nhà” được nói để chỉ ra tầm quan trọng của lớp trét mái nhà, rằng ngay cả khi có lớp trét tường, nếu không có lớp trét mái nhà thì không có tội, chứ không phải để chỉ ra rằng ngay cả khi không có lớp trét tường cũng có tội. Đây chính là điều hợp lý hơn ở đây, đó là ý kiến của chúng tôi. Ở đây là trong tịnh thất lợp lá.

Ettha ca tiṇakuṭikāya eva sabbathā anāpattibhāvassa dassanaṃ parivārapāḷiṃ ānetvā tiṇakuṭikāya sārambhādipaccayāpi anāpattibhāvo sukhena sakkā sādhetunti kataṃ. Tiṇakuṭikāya ca sabbathā anāpattibhāve sādhite teneva nayena leṇaguhādīsupi sārambhādipaccayāpi anāpattibhāvo sakkā viññātunti. Teneva ‘‘yaṃ panā’’tiādi vuttaṃ. Tathā hi tiṇakuṭikāya sārambhādipaccayāpi anāpattibhāve sādhite teneva nayena aññassatthāya karontassapi sārambhādipaccayāpi anāpattibhāvo atthato dassitoyeva hoti. Evañca sati bhikkhu samādisitvā pakkamati ‘‘kuṭiṃ me karothā’’ti, samādisati ca desitavatthukā ca hotu anārambhā ca saparikkamanā cāti, tassa kuṭiṃ karonti adesitavatthukaṃ sārambhaṃ aparikkamanaṃ. ‘‘Āpatti kārukānaṃ tiṇṇaṃ dukkaṭāna’’nti pāḷiyaṃ aññassatthāya karontassapi sārambhādipaccayāpi dukkaṭaṃ kasmā vuttanti imaṃ codanaṃ manasi nidhāya ‘‘yaṃ pana…pe… akaraṇapaccayā vutta’’nti idaṃ vuttaṃ. Ayañhettha adhippāyo – aññassatthāya karontassapi sārambhādipaccayāpi anāpattiyeva. ‘‘Āpatti kārukānaṃ tiṇṇaṃ dukkaṭāna’’nti idaṃ pana aññassatthāya karontassa na sārambhādipaccayā āpattidassanatthaṃ vuttaṃ, kiñcarahi yathāsamādiṭṭhāya akaraṇapaccayā āpattidassanatthanti. Yasmā bahūsu potthakesu satasodhitasammate ca purāṇapotthake ayameva pāṭhakkamo dissati, tasmā yathādiṭṭhapāṭhānukkamenevettha attho pakāsito. Katthaci potthake pana ‘‘kuṭilakkhaṇappattampi kuṭiṃ…pe… anāpattī’’ti imassānantaraṃ ‘‘yaṃ panā’’tiādipāṭhaṃ likhanti, evañca sati tattha adhippāyo pākaṭoyeva. Anāpattīti vatvāti uposathāgārañca bhavissati, ahañca vasissāmītiādīsu vāsāgāratthāya eva aniyamitattā anāpattīti vatvā.
Và ở đây, việc chỉ ra tình trạng hoàn toàn vô tội đối với tịnh thất lợp lá đã được thực hiện bằng cách trích dẫn Pāḷi trong bộ Parivāra, để có thể dễ dàng chứng minh rằng ngay cả do các duyên như tranh chấp, v.v., đối với tịnh thất lợp lá cũng là vô tội. Và khi tình trạng hoàn toàn vô tội đối với tịnh thất lợp lá đã được chứng minh, thì theo cách đó, cũng có thể biết rằng ngay cả đối với hang động, v.v., dù có các duyên như tranh chấp, v.v. cũng là vô tội. Chính vì vậy, đã nói câu “tuy nhiên, cái gì,” v.v. Thật vậy, khi tình trạng hoàn toàn vô tội đối với tịnh thất lợp lá dù có các duyên như tranh chấp, v.v. đã được chứng minh, thì theo cách đó, tình trạng vô tội của người làm vì lợi ích của người khác dù có các duyên như tranh chấp, v.v. cũng đã được chỉ ra về mặt ý nghĩa. Và như vậy, một vị Tỳ-khưu chỉ định rồi bỏ đi: “hãy làm cho tôi một tịnh thất,” và chỉ định rằng “hãy làm trên nền đất đã được chỉ định, không có tranh chấp, và có khoảng trống xung quanh,” nhưng họ lại làm cho vị ấy một tịnh thất trên nền đất chưa được chỉ định, có tranh chấp, và không có khoảng trống xung quanh. Trong Pāḷi, tại sao lại nói rằng “những người thợ phạm ba tội Tác Ác,” ngay cả người làm vì lợi ích của người khác cũng phạm tội Tác Ác do các duyên như tranh chấp, v.v.? Giữ sự chất vấn này trong tâm, đã nói câu “tuy nhiên, cái gì… được nói do nguyên nhân không làm.” Ở đây, ý nghĩa là: ngay cả người làm vì lợi ích của người khác cũng vô tội dù có các duyên như tranh chấp, v.v. Tuy nhiên, câu “những người thợ phạm ba tội Tác Ác” không được nói để chỉ ra tội do các duyên như tranh chấp, v.v. đối với người làm vì lợi ích của người khác, mà là để chỉ ra tội do nguyên nhân không làm theo như đã được chỉ định. Vì trong nhiều bản kinh, và trong cả bản kinh cổ được cho là đã được hiệu đính hàng trăm lần, đều thấy trình tự Pāḷi này, do đó, ở đây ý nghĩa đã được giải thích theo đúng trình tự Pāḷi đã thấy. Tuy nhiên, trong một số bản kinh, sau câu “ngay cả tịnh thất đạt đến đặc điểm của một tịnh thất… vô tội,” họ viết đoạn Pāḷi “tuy nhiên, cái gì,” v.v. và như vậy, ý nghĩa ở đó đã rõ ràng. Câu “sau khi nói là vô tội”, sau khi nói là vô tội vì không được xác định chỉ để làm nhà ở trong các trường hợp như “(nó) sẽ là nhà Bố-tát và tôi cũng sẽ ở,” v.v.

Pamāṇātikkantakuṭikaraṇalakkhaṇā kiriyāyeva, adesitavatthumūlikāyapi āpattiyā aṅgaṃ hoti pamāṇātikkantamūlikāyapi, tadubhayaṃ ekato katvā ‘‘kiriyākiriyato’’ti vuttaṃ. Vatthuṃ adesāpetvā pamāṇayuttaṃ kuṭiṃ karontassapi vatthuṃ desāpetvā akiriyāya kuṭikaraṇakiriyāya ca samuṭṭhānato kiriyākiriyatova samuṭṭhātīti veditabbaṃ. Acittakanti paṇṇattiajānanacittena acittakaṃ. Ullittādīnaṃ aññataratā, heṭṭhimappamāṇasambhavo, adesitavatthutā, pamāṇātikkantatā, attuddesikatā, vāsāgāratā, lepaghaṭṭanāti imānettha cha vā satta vā aṅgāni.
Chỉ riêng hành động có đặc điểm là làm tịnh thất vượt quá kích thước, cũng là một yếu tố của tội có gốc rễ là nền đất chưa được chỉ định, và cũng là (một yếu tố của tội) có gốc rễ là vượt quá kích thước. Kết hợp cả hai điều đó lại, đã nói là “từ hành động và không hành động.” Cần phải hiểu rằng ngay cả đối với người làm tịnh thất đúng kích thước mà không cho chỉ định nền đất, (tội) cũng khởi lên từ hành động và không hành động, do sự khởi lên từ việc không hành động là cho chỉ định nền đất và từ hành động là làm tịnh thất. Không có tâm là không có tâm do tâm không biết điều chế định. Là một trong các trạng thái trét trên, v.v., có kích thước tối thiểu, nền đất chưa được chỉ định, vượt quá kích thước, hướng đến bản thân, là nhà ở, và sự dính của lớp trét – đây là sáu hoặc bảy yếu tố ở đây.

Kuṭikārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học xây dựng tịnh thất đã kết thúc.

7. Vihārakārasikkhāpadavaṇṇanā
7. Giải Thích về Điều Học Xây Dựng Tu Viện

365. Sattame evaṃnāmake nagareti kosambīnāmake. Tassa kira nagarassa ārāmapokkharaṇīādīsu tesu tesu ṭhānesu kosambarukkhāva ussannā ahesuṃ, tasmā kosambīti saṅkhyaṃ agamāsi. Kusumbassa nāma isino assamato avidūre māpitattāti eke. Idaṃ vuttaṃ hoti – kusumbassa isino nivāsabhūmi kosambī, tassa ca avidūre bhavattā nagaraṃ kosambīti saṅkhyaṃ gatanti. Ghositanāmakena kira seṭṭhinā so kāritoti ettha ko ghositaseṭṭhi, kathañcānena so ārāmo kāritoti? Pubbe kira addilaraṭṭhaṃ nāma ahosi. Tato kotūhalako nāma daliddo chātakabhayena saputtadāro subhikkhaṃ raṭṭhaṃ gacchanto puttaṃ vahituṃ asakkonto chaḍḍetvā agamāsi. Mātā nivattitvā taṃ gahetvā gatā. Te ekaṃ gopālakagāmaṃ pavisiṃsu. Gopālakānañca tadā bahupāyāso paṭiyatto hoti, tato pāyāsaṃ labhitvā bhuñjiṃsu. Atha so puriso bahutaraṃ pāyāsaṃ bhutto jīrāpetuṃ asakkonto rattibhāge kālaṃ katvā tattheva sunakhiyā kucchismiṃ paṭisandhiṃ gahetvā kukkuro jāto, so gopālakassa piyo ahosi. Gopālako ca paccekabuddhaṃ upaṭṭhāti. Paccekabuddhopi bhattakiccakāle kukkurassa ekaṃ piṇḍaṃ deti. So paccekabuddhe sinehaṃ uppādetvā gopālakena saddhiṃ paṇṇasālampi gacchati, gopālake asannihite bhattavelāyaṃ sayameva gantvā kālārocanatthaṃ paṇṇasāladvāre bhussati, antarāmaggepi caṇḍamige disvā bhussitvā palāpeti. So paccekabuddhe mudukena cittena kālaṃ katvā devaloke nibbatti. Tatrāssa ‘‘ghosakadevaputto’’tveva nāmaṃ ahosi.
365. Trong điều thứ bảy, câu “ở thành phố có tên như vậy” là ở thành phố có tên là Kosambī. Nghe nói rằng ở thành phố đó, tại các nơi như tu viện, hồ sen, v.v., cây kosamba mọc rất nhiều, do đó nó có tên là Kosambī. Một số người cho rằng vì nó được xây dựng không xa am của một vị ẩn sĩ tên là Kusumba. Điều này có nghĩa là: vùng đất ở của vị ẩn sĩ Kusumba là Kosambī, và vì ở không xa đó, nên thành phố có tên là Kosambī. Về câu “nghe nói rằng tu viện ấy được xây dựng bởi một vị trưởng giả tên là Ghosita,” ở đây, ai là trưởng giả Ghosita, và làm thế nào vị ấy đã cho xây dựng tu viện đó? Nghe nói rằng trước đây có một xứ tên là Addilaraṭṭha. Từ đó, một người nghèo tên là Kotūhalaka, vì sợ nạn đói, đã cùng vợ con đi đến một xứ sung túc. Trên đường, không thể bế con trai, ông đã bỏ lại và đi tiếp. Người mẹ quay lại, bế con và đi. Họ vào một làng chăn bò. Lúc đó, những người chăn bò đã chuẩn bị rất nhiều sữa cháo, họ nhận được sữa cháo và ăn. Sau đó, người đàn ông đó ăn quá nhiều sữa cháo, không thể tiêu hóa, đã qua đời vào ban đêm và tái sanh ngay tại đó, làm một con chó con trong bụng của một con chó cái. Con chó đó được người chăn bò yêu quý. Người chăn bò đó lại hầu hạ một vị Phật Độc Giác. Vị Phật Độc Giác cũng cho con chó một vắt cơm vào lúc dùng bữa. Con chó đó phát sinh tình thương đối với vị Phật Độc Giác, cùng người chăn bò đi đến cả nhà lợp lá. Khi người chăn bò không có mặt, vào giờ ăn, nó tự mình đi đến và sủa ở cửa nhà lợp lá để báo giờ. Trên đường đi, khi thấy các loài thú dữ, nó cũng sủa và đuổi chúng đi. Nó, với tâm hiền dịu đối với vị Phật Độc Giác, sau khi chết đã tái sanh ở cõi trời. Ở đó, nó có tên là “Ghosaka devaputta” (Thiên tử Ghosaka).

So devalokato cavitvā kosambiyaṃ ekasmiṃ kulaghare nibbatti. Taṃ aputtako kira seṭṭhi tassa mātāpitūnaṃ dhanaṃ datvā puttaṃ katvā aggahesi. Atha attano putte jāte sattakkhattuṃ ghātāpetuṃ upakkami. So puññavantatāya sattasupi ṭhānesu maraṇaṃ appatvā avasāne ekāya seṭṭhidhītāya veyyattiyena laddhajīviko aparabhāge pitu accayena seṭṭhiṭṭhānaṃ patvā ghositaseṭṭhi nāma jāto. Aññepi kosambiyaṃ kukkuṭaseṭṭhi, pāvāriyaseṭṭhīti dve seṭṭhino atthi, iminā saddhiṃ tayo ahesuṃ.
Vị ấy, sau khi chết từ cõi trời, đã tái sanh trong một gia đình ở Kosambī. Nghe nói rằng một vị trưởng giả không có con đã cho cha mẹ của cậu bé tiền và nhận cậu làm con nuôi. Sau đó, khi con ruột của mình ra đời, ông đã bảy lần tìm cách giết (cậu con nuôi). Do có phước báu, cậu đã không chết trong cả bảy lần. Cuối cùng, nhờ sự khéo léo của một cô con gái của vị trưởng giả mà giữ được mạng sống, sau này khi cha qua đời, cậu đã đạt được địa vị trưởng giả và trở thành người có tên là Ghosita-seṭṭhi. Ở Kosambī còn có hai vị trưởng giả khác là Kukkuṭa-seṭṭhi và Pāvāriya-seṭṭhi; cùng với vị này là ba người.

Tena ca samayena tesaṃ sahāyakānaṃ seṭṭhīnaṃ kulūpakā pañcasatā isayo pabbatapāde vasiṃsu. Te kālena kālaṃ loṇambilasevanatthaṃ manussapathaṃ āgacchanti. Athekasmiṃ vāre gimhasamaye manussapathaṃ āgacchantā nirudakaṃ mahākantāraṃ atikkamitvā kantārapariyosāne mahantaṃ nigrodharukkhaṃ disvā cintesuṃ ‘‘yādiso ayaṃ rukkho, addhā ettha mahesakkhāya devatāya bhavitabbaṃ, sādhu vatassa, sace no pānīyaṃ vā paribhojanīyaṃ vā dadeyyā’’ti. Devatā isīnaṃ ajjhāsayaṃ viditvā ‘‘imesaṃ saṅgahaṃ karissāmī’’ti attano ānubhāvena viṭapantarato naṅgalasīsamattaṃ udakadhāraṃ pavattesi. Isigaṇo rajatakkhandhasadisaṃ udakavaṭṭiṃ disvā attano bhājanehi udakaṃ gahetvā paribhogaṃ katvā cintesi ‘‘devatāya amhākaṃ paribhogudakaṃ dinnaṃ, idaṃ pana agāmakaṃ mahāraññaṃ, sādhu vatassa, sace no āhārampi dadeyyā’’ti. Devatā isīnaṃ upakappanavasena dibbāni yāgukhajjakādīni datvā santappesi.
Vào thời đó, năm trăm vị ẩn sĩ là những người thân cận với gia đình của các vị trưởng giả bạn bè đó sống ở chân núi. Họ thỉnh thoảng đến vùng có người ở để dùng muối và các vị chua. Một lần nọ, vào mùa hè, khi đến vùng có người ở, họ đi qua một sa mạc lớn không có nước. Đến cuối sa mạc, họ thấy một cây đa lớn và nghĩ rằng: “cây này như thế này, chắc chắn phải có một vị chư thiên có oai lực lớn ở đây. Lành thay, nếu vị ấy cho chúng tôi nước uống hoặc vật thực.” Vị chư thiên biết được ý định của các vị ẩn sĩ, đã nghĩ rằng: “ta sẽ giúp đỡ những vị này,” và bằng oai lực của mình, đã làm cho một dòng nước lớn bằng đầu lưỡi cày chảy ra từ giữa các cành cây. Đoàn ẩn sĩ thấy dòng nước cuộn tròn như một khối bạc, đã lấy nước bằng các bình của mình và dùng. Sau khi dùng xong, họ nghĩ: “vị chư thiên đã cho chúng ta nước dùng, nhưng đây là một khu rừng lớn không có làng mạc. Lành thay, nếu vị ấy cho chúng tôi cả thức ăn.” Vị chư thiên, theo sự sắp đặt của các vị ẩn sĩ, đã cho họ cháo, bánh, v.v. của chư thiên và làm họ hài lòng.

Isayo cintayiṃsu ‘‘devatāya amhākaṃ paribhogudakampi bhojanampi sabbaṃ dinnaṃ, sādhu vatassa , sace no attānaṃ dasseyyā’’ti. Devatā tesaṃ ajjhāsayaṃ viditvā upaḍḍhakāyaṃ dassesi. Devate mahatī te sampatti, kiṃ kammaṃ katvā imaṃ sampattiṃ adhigatāsīti. Nātimahantaṃ parittakaṃ kammaṃ katvāti. Upaḍḍhuposathakammaṃ nissāya hi devatāya sampatti laddhā. Anāthapiṇḍikassa kira gehe ayaṃ devaputto kammakāro ahosi. Seṭṭhissa hi gehe uposathadivasesu antamaso dāsakammakāre upādāya sabbo jano uposathiko hoti. Ekadivasaṃ ayaṃ kammakāro ekakova pāto uṭṭhāya kammantaṃ gato. Mahāseṭṭhi nivāpaṃ labhamānamanusse sallakkhento etassevekassa araññaṃ gatabhāvaṃ ñatvā assa sāyamāsatthāya nivāpaṃ adāsi. Bhattakāradāsī ekasseva bhattaṃ pacitvā araññato āgatassa bhattaṃ vaḍḍhetvā adāsi. Kammakāro cintayi ‘‘aññesu divasesu imasmiṃ kāle gehaṃ ekasaddaṃ ahosi, ajja ativiya sannisinnaṃ, kiṃ nu kho eta’’nti. Tassa sā ācikkhi ‘‘ajja imasmiṃ gehe sabbe manussā uposathikā, mahāseṭṭhi tuyhevekassa nivāpaṃ adāsī’’ti. Evaṃ ammāti. Āma sāmīti. ‘‘Imasmiṃ kāle uposathaṃ samādinnassa uposathakammaṃ hoti, na hotī’’ti mahāseṭṭhiṃ puccha ammāti. Tāya gantvā pucchito mahāseṭṭhi āha – ‘‘sakalauposathakammaṃ na hoti, upaḍḍhakammaṃ pana hoti, uposathiko hotī’’ti. Kammakāro bhattaṃ abhuñjitvā mukhaṃ vikkhāletvā uposathiko hutvā vasanaṭṭhānaṃ gahetvā nipajji. Tassa āhāraparikkhīṇakāyassa rattiṃ vāto kuppi. So paccūsasamaye kālaṃ katvā upaḍḍhuposathakammanissandena mahāvattaniaṭavidvāre nigrodharukkhadevaputto hutvā nibbatti.
Các vị ẩn sĩ nghĩ rằng: “vị chư thiên đã cho chúng ta cả nước dùng và thức ăn, tất cả mọi thứ. Lành thay, nếu vị ấy cho chúng tôi thấy hình dáng của mình.” Vị chư thiên biết ý định của họ, đã cho thấy nửa thân mình. “Thưa vị chư thiên, tài sản của ngài thật lớn lao, ngài đã làm nghiệp gì mà đạt được tài sản này?” – “Tôi đã làm một nghiệp không lớn lắm, chỉ là một nghiệp nhỏ.” Thật vậy, vị chư thiên đã có được tài sản nhờ vào nghiệp giữ nửa ngày Bố-tát. Nghe nói rằng vị thiên tử này từng là một người làm công trong nhà của Anāthapiṇḍika. Thật vậy, trong nhà của vị trưởng giả, vào những ngày Bố-tát, tất cả mọi người, kể cả tớ gái và người làm công, đều giữ Bố-tát. Một hôm, chỉ một mình người làm công này thức dậy sớm và đi làm. Vị đại trưởng giả, khi kiểm tra những người nhận khẩu phần, biết rằng chỉ một mình người này đã đi vào rừng, nên đã cho khẩu phần của anh ta vào bữa ăn tối. Cô tớ gái nấu ăn đã nấu cơm cho chỉ một người và khi anh ta từ rừng về, đã dọn cơm cho anh ta. Người làm công nghĩ: “những ngày khác, vào giờ này, nhà cửa ồn ào, hôm nay lại quá yên tĩnh, việc gì vậy nhỉ?” Cô ấy kể lại cho anh ta: “hôm nay, trong nhà này, tất cả mọi người đều giữ Bố-tát, vị đại trưởng giả đã cho khẩu phần cho chỉ một mình anh thôi.” – “Vậy sao, thưa cô?” – “Vâng, thưa ông chủ.” – “Hãy hỏi vị đại trưởng giả giúp tôi xem vào giờ này, nếu giữ Bố-tát thì có được nghiệp Bố-tát hay không?” Khi cô ấy đi hỏi, vị đại trưởng giả nói: “không được nghiệp Bố-tát trọn vẹn, nhưng được nửa nghiệp, vẫn là người giữ Bố-tát.” Người làm công không ăn cơm, súc miệng, trở thành người giữ Bố-tát, lấy chỗ ngủ và nằm xuống. Vì thân thể kiệt quệ do thiếu thức ăn, vào ban đêm gió trong người nổi lên. Anh ta qua đời vào lúc rạng đông, do quả báo của nghiệp giữ nửa ngày Bố-tát, đã tái sanh làm vị thần cây đa ở cổng thành Mahāvaṭṭani.

So taṃ pavattiṃ isīnaṃ ārocesi. Isayo pucchiṃsu ‘‘tumhehi mayaṃ ‘buddho dhammo saṅgho’ti assutapubbaṃ sāvitā, uppanno nu kho loke buddho’’ti. Āma, bhante, uppannoti. Idāni kuhiṃ vasatīti. Sāvatthiyaṃ nissāya jetavane, bhanteti. Isayo ‘‘tiṭṭhatha tumhe, mayaṃ satthāraṃ passissāmā’’ti haṭṭhatuṭṭhā nikkhamitvā anupubbena kosambīnagaraṃ sampāpuṇiṃsu. Mahāseṭṭhino ‘‘isayo āgatā’’ti paccuggamanaṃ katvā ‘‘sve amhākaṃ bhikkhaṃ gaṇhatha, bhante’’ti nimantetvā punadivase isigaṇassa mahādānaṃ adaṃsu. Isayo ‘‘bhutvāva gacchāmā’’ti āpucchiṃsu. Bhante, tumhe aññasmiṃ kāle ekampi māsaṃ dvepi tayopi cattāropi māse vasitvā gacchatha, imasmiṃ pana vāre hiyyo āgantvā ‘‘ajjeva gacchāmā’’ti vadatha, kiṃ idanti. Āma gahapatayo buddho loke uppanno, na kho pana sakkā jīvitantarāyo jānituṃ, tena mayaṃ turitā gacchāmāti . Tena hi, bhante, mayampi āgacchāma, amhehi saddhiṃyeva gacchathāti. ‘‘Tumhe agāriyā nāma mahājaṭā, tiṭṭhatha tumhe, mayaṃ puretaraṃ gamissāmā’’ti nikkhamitvā ekaṭṭhāne dve divasāni avasitvā turitagamanena sāvatthiṃ patvā jetavanavihāre satthu santikameva agamaṃsu. Tattha madhuradhammakathaṃ sutvā sabbeva pabbajitvā arahattaṃ pāpuṇiṃsu.
Vị ấy đã kể lại câu chuyện đó cho các vị ẩn sĩ. Các vị ẩn sĩ hỏi: “chúng tôi đã được bà cho nghe điều chưa từng nghe là ‘Phật, Pháp, Tăng’; vậy có phải Đức Phật đã xuất hiện trên đời rồi không?” – “Thưa vâng, thưa các ngài, đã xuất hiện rồi.” – “Bây giờ Ngài ở đâu?” – “Thưa các ngài, ở tại Jetavana, gần Sāvatthī.” Các vị ẩn sĩ, vui mừng hoan hỷ, đã nói: “xin quý vị hãy ở lại, chúng tôi sẽ đi gặp Đức Thế Tôn,” rồi ra đi, theo thứ tự đến thành Kosambī. Các vị đại trưởng giả ra đón và nói: “thưa các ngài, xin hãy nhận bữa ăn của chúng tôi vào ngày mai,” rồi mời họ. Ngày hôm sau, họ đã cúng dường đại thí cho đoàn ẩn sĩ. Các vị ẩn sĩ, sau khi ăn xong, đã xin phép ra đi. “Thưa các ngài, những lần khác, các ngài ở lại một, hai, ba, hoặc bốn tháng rồi mới đi; nhưng lần này, hôm qua mới đến mà hôm nay đã nói ‘chúng tôi đi ngay,’ việc gì vậy ạ?” – “Vâng, thưa các gia chủ, Đức Phật đã xuất hiện trên đời, và không thể biết được chướng ngại cho sự sống, do đó chúng tôi đi gấp.” – “Vậy thì, thưa các ngài, chúng tôi cũng sẽ đến, xin hãy đi cùng chúng tôi.” – “Quý vị là người tại gia, có nhiều vướng bận, xin quý vị hãy ở lại, chúng tôi sẽ đi trước,” rồi ra đi. Sau khi ở lại một nơi trong hai ngày, họ đi gấp đến Sāvatthī và đến thẳng chỗ của Đức Thế Tôn tại tu viện Jetavana. Ở đó, sau khi nghe bài pháp thoại ngọt ngào, tất cả họ đều xuất gia và đắc quả A-la-hán.

Tepi tayo seṭṭhino pañcahi pañcahi sakaṭasatehi sappimadhuphāṇitādīni ceva paṭṭuṇṇadukūlādīni ca ādāya kosambito nikkhamitvā anupubbena sāvatthiṃ patvā jetavanasāmante khandhāvāraṃ bandhitvā satthu santikaṃ gantvā vanditvā paṭisanthāraṃ katvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Satthā tiṇṇampi sahāyānaṃ madhuradhammakathaṃ kathesi. Te balavasomanassajātā satthāraṃ nimantetvā punadivase mahādānaṃ adaṃsu, puna nimantetvā punadivaseti evaṃ aḍḍhamāsaṃ dānaṃ datvā ‘‘bhante, amhākaṃ janapadaṃ āgamanāya paṭiññaṃ dethā’’ti pādamūle nipajjiṃsu. Bhagavā ‘‘suññāgāre kho gahapatayo tathāgatā abhiramantī’’ti āha. ‘‘Ettāvatā paṭiññā dinnā nāma hotī’’ti gahapatayo sallakkhetvā ‘‘dinnā no bhagavatā paṭiññā’’ti pādamūle nipajjitvā dasabalaṃ vanditvā nikkhamitvā antarāmagge yojane yojane vihāraṃ kāretvā anupubbena kosambiṃ patvā ‘‘loke buddho uppanno’’ti kathayiṃsu. Tayo janā attano attano ārāme mahantaṃ dhanapariccāgaṃ katvā bhagavato vihāre kārāpesuṃ. Tattha kukkuṭaseṭṭhinā kārito kukkuṭārāmo nāma ahosi. Pāvārikaseṭṭhinā ambavane kārito pāvārikambavanaṃ nāma. Ghositena kārito ghositārāmo nāma ahosi. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘ghositanāmakena kira seṭṭhinā so kārito’’ti.
Ba vị trưởng giả đó cũng lấy năm trăm cỗ xe mỗi người, chở đầy bơ, mật, đường phèn, v.v. và cả lụa, len, v.v., từ Kosambī ra đi, theo thứ tự đến Sāvatthī, dựng trại gần Jetavana, đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ, thăm hỏi và ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn đã thuyết một bài pháp thoại ngọt ngào cho ba người bạn. Họ, với tâm vô cùng hoan hỷ, đã thỉnh Đức Thế Tôn và ngày hôm sau cúng dường đại thí. Lại thỉnh, và ngày hôm sau lại cúng dường, cứ như vậy cúng dường trong nửa tháng. Sau đó, họ nằm rạp dưới chân (Đức Phật) và nói: “thưa ngài, xin hãy hứa sẽ đến xứ của chúng con.” Đức Thế Tôn nói: “Này các gia chủ, các đấng Như Lai thường hoan hỷ ở những nơi vắng vẻ.” Các gia chủ nhận ra rằng: “chừng đó là đã hứa rồi,” và nghĩ: “Đức Thế Tôn đã hứa với chúng ta,” rồi nằm rạp dưới chân, đảnh lễ Đấng Thập Lực, ra đi. Trên đường về, cứ mỗi do-tuần họ lại cho xây một tu viện. Theo thứ tự, họ về đến Kosambī và nói rằng: “Đức Phật đã xuất hiện trên đời.” Ba người đó, mỗi người ở tu viện của mình, đã bỏ ra một số tiền lớn và cho xây dựng các tu viện cho Đức Thế Tôn. Trong đó, tu viện do Kukkuṭa-seṭṭhi xây dựng có tên là Kukkuṭārāma. Tu viện do Pāvāriya-seṭṭhi xây dựng trong một khu vườn xoài có tên là Pāvārikambavana. Tu viện do Ghosita xây dựng có tên là Ghositārāma. Liên quan đến điều đó đã nói là: “nghe nói rằng tu viện ấy được xây dựng bởi một vị trưởng giả tên là Ghosita.”

Yo abhinikkhamanakāle saddhiṃ nikkhanto, yassa ca satthārā parinibbānakāle brahmadaṇḍo āṇatto, taṃ sandhāyāha ‘‘bodhisattakāle upaṭṭhākachannassā’’ti. Iminā ca yo majjhimanikāye channovādasutte (ma. ni. 3.389 ādayo) gilāno hutvā dhammasenāpatinā ovadiyamānopi māraṇantikavedanaṃ adhivāsetuṃ asakkonto tiṇhena satthena kaṇṭhanāḷiṃ chinditvā maraṇabhaye uppanne gatinimitte ca upaṭṭhite attano puthujjanabhāvaṃ ñatvā saṃviggo vipassanaṃ paṭṭhapetvā saṅkhāre pariggaṇhanto arahattaṃ patvā samasīsī hutvā parinibbāyi, ayaṃ so na hotīti dasseti. Pūjāvacanappayoge kattari sāmivacanassapi icchitattā āha ‘‘gāmassa vā pūjita’’nti. Lakkhaṇaṃ panettha saddasatthānusārato veditabbaṃ. Ekeko koṭṭhāsoti ekeko bhāgo.
Người đã cùng xuất gia vào lúc xuất gia, và người mà Đức Thế Tôn đã ra lệnh phạm hạnh vào lúc sắp nhập Niết-bàn, liên quan đến người đó, (chú giải) nói: “của Channa, người hầu cận vào thời Bồ-tát.” Bằng điều này, (chú giải) chỉ ra rằng đây không phải là vị đã bị bệnh trong kinh Channovādasutta trong Majjhima Nikāya (Ma. Ni. 3.389, v.v.), dù được vị Tướng quân Chánh pháp khuyên răn, cũng không thể chịu đựng được cơn đau đớn đến chết, đã dùng dao bén cắt cổ họng, khi nỗi sợ chết khởi lên và tướng của cõi tái sanh hiện ra, đã biết mình còn là phàm phu, sanh lòng kinh hãi, đã thiết lập minh sát, quán xét các pháp hữu vi, đắc quả A-la-hán và nhập Niết-bàn cùng lúc. Do trong cách dùng từ tôn kính, cách sở hữu cũng được muốn dùng cho chủ thể, nên (chú giải) nói: “hoặc được làng tôn kính.” Ở đây, đặc điểm ngữ pháp cần được hiểu theo sách saddasattha. Mỗi một phần là mỗi một mảng.

366.Kiriyato samuṭṭhānabhāvoti kevalaṃ kiriyāmattato samuṭṭhānabhāvaṃ paṭikkhipati, vatthuno pana adesanāya kuṭikaraṇakiriyāya ca samuṭṭhānato kiriyākiriyato samuṭṭhātīti veditabbaṃ . Imasmiṃ sikkhāpade bhikkhū vā anabhineyyāti ettha -saddo ‘‘ayaṃ vā so mahānāgo’’tiādīsu viya avadhāraṇatthoti daṭṭhabbo.
366. Trạng thái khởi lên từ hành động là bác bỏ trạng thái khởi lên chỉ thuần túy từ hành động. Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng (tội) khởi lên từ hành động và không hành động, do sự khởi lên từ việc không chỉ định nền đất và từ hành động xây dựng tịnh thất. Trong điều học này, ở câu “hoặc các Tỳ-khưu không nên được dẫn đến,” từ ‘hoặc’ cần phải được hiểu là có ý nghĩa nhấn mạnh, giống như trong các câu “đây chính là con voi lớn đó,” v.v.

Vihārakārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học xây dựng tu viện đã kết thúc.

8. Paṭhamaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā
8. Giải Thích về Điều Học Thứ Nhất Về Việc Cố Ý Vu Khống

380. Aṭṭhame pākārena parikkhittanti sambandho. Gopuraṭṭālakayuttanti dvārapāsādena ca tattha tattha pākāramatthake patiṭṭhāpitaaṭṭālakehi ca yuttaṃ. Veḷūhi parikkhittattā abbhantare pupphūpagaphalūpagarukkhasañchannattā ca nīlobhāsaṃ. Chāyūdakasampattiyā bhūmibhāgasampattiyā ca manoramaṃKāḷakavesenāti kalandakarūpena. Nivāpanti bhojanaṃ. Tanti uyyānaṃ. Dabboti tassa therassa nāmanti dabbatthambhe patitattā dabboti tassa therassa nāmaṃ ahosi.
380. Trong điều thứ tám, mối liên hệ là (khu vườn) được bao quanh bởi một bức tường thành. Có cổng thành và tháp canh là có cổng thành và các tháp canh được xây dựng ở nhiều nơi trên đỉnh tường thành. Có ánh sắc xanh vì được bao quanh bởi các rặng tre và được che phủ bởi các cây có hoa và quả ở bên trong. Đẹp đẽ vì có đầy đủ bóng mát và nước, và có phần đất tốt. Với hình dáng của sóc là với hình dạng của con sóc. Khẩu phần là thức ăn. là khu vườn. Tên của vị trưởng lão đó là Dabba có nghĩa là vì đã rơi xuống một cây cột gỗ `dabba`, nên tên của vị trưởng lão đó là Dabba.

Kassapadasabalassa sāsanosakkanakāle kira satta bhikkhū ekacittā hutvā aññe sāsane agāravaṃ karonte disvā ‘‘idha kiṃ karoma, ekamante samaṇadhammaṃ katvā dukkhassantaṃ karissāmā’’ti nisseṇiṃ bandhitvā uccaṃ pabbatasikharaṃ abhiruhitvā attano cittabalaṃ jānantā ‘‘nisseṇiṃ pātentu, jīvite sālayā otarantu, mā pacchānutappino ahuvatthā’’ti vatvā sabbe ekacittā hutvā nisseṇiṃ pātetvā ‘‘appamattā hotha, āvuso’’ti aññamaññaṃ ovaditvā cittaruciyesu ṭhānesu nisīditvā samaṇadhammaṃ kātuṃ ārabhiṃsu.
Nghe nói rằng vào thời giáo pháp của Đấng Thập Lực Kassapa đang suy tàn, bảy vị Tỳ-khưu đồng một lòng, thấy những người khác không kính trọng giáo pháp, đã nghĩ rằng: “chúng ta làm gì ở đây, hãy đến một nơi vắng vẻ tu tập pháp của sa-môn để chấm dứt khổ đau,” rồi làm một cái thang, leo lên một đỉnh núi cao. Biết được sức mạnh tâm của mình, họ nói rằng: “hãy xô ngã thang đi, những ai còn luyến tiếc sự sống hãy đi xuống, đừng để sau này phải hối hận,” rồi tất cả đồng một lòng xô ngã thang. Sau khi khuyên nhủ nhau rằng: “thưa các hiền giả, hãy tinh tấn,” họ ngồi xuống ở những nơi hợp với tâm ý và bắt đầu tu tập pháp của sa-môn.

Tatreko thero pañcame divase arahattaṃ patvā ‘‘mama kiccaṃ nipphannaṃ, ahaṃ imasmiṃ ṭhāne kiṃ karissāmī’’ti iddhiyā uttarakuruto piṇḍapātaṃ āharitvā āha – ‘‘āvuso, imaṃ piṇḍapātaṃ paribhuñjatha, bhikkhācārakiccaṃ mamāyattaṃ hotu, tumhe attano kammaṃ karothā’’ti. Kiṃ nu mayaṃ, āvuso, nisseṇiṃ pātentā evaṃ avacumha ‘‘yo paṭhamaṃ dhammaṃ sacchikaroti, so bhikkhaṃ āharatu, tenābhataṃ sesā paribhuñjitvā samaṇadhammaṃ karissantī’’ti. Natthi, āvusoti. Tumhe attano pubbahetunāva labhittha, mayampi sakkontā vaṭṭassantaṃ karissāma, gacchatha tumheti. Thero te saññāpetuṃ asakkonto phāsukaṭṭhāne piṇḍapātaṃ paribhuñjitvā gato. Aparopi thero sattame divase anāgāmiphalaṃ patvā tato cuto suddhāvāsabrahmaloke nibbatto, itare therā ekaṃ buddhantaraṃ devamanussesu saṃsaritvā tesu tesu kulesu nibbattā. Eko gandhāraraṭṭhe takkasilanagare rājagehe nibbatto, eko paccantimaraṭṭhe paribbājikāya kucchimhi nibbatto, eko bāhiyaraṭṭhe kuṭumbiyagehe nibbatto, eko rājagahe kuṭumbiyagehe nibbatto.
Trong số đó, một vị trưởng lão vào ngày thứ năm đã đắc quả A-la-hán, nghĩ rằng: “phận sự của ta đã xong, ta làm gì ở nơi này,” rồi bằng thần thông, mang vật thực khất thực từ Bắc-câu-lô-châu về và nói: “thưa các hiền giả, xin hãy dùng vật thực khất thực này, phận sự đi khất thực hãy để tôi lo, quý vị hãy làm công việc của mình.” – “Thưa hiền giả, có phải khi chúng ta xô ngã thang, chúng ta đã nói rằng: ‘ai chứng đắc pháp trước, người đó sẽ mang về vật thực, những người còn lại sẽ dùng vật thực do người đó mang về rồi tu tập pháp của sa-môn’ không?” – “Thưa hiền giả, không có.” – “Quý vị đã nhận được do duyên xưa của mình, chúng tôi nếu có thể cũng sẽ chấm dứt vòng luân hồi, xin ngài hãy đi.” Vị trưởng lão không thể thuyết phục được họ, đã dùng vật thực khất thực ở một nơi thích hợp rồi ra đi. Một vị trưởng lão khác vào ngày thứ bảy đã đắc quả A-na-hàm, sau khi chết từ đó đã tái sanh ở cõi trời Tịnh Cư. Các vị trưởng lão còn lại, sau khi luân hồi trong cõi trời và người trong một thời kỳ giữa hai Đức Phật, đã tái sanh trong các gia đình khác nhau. Một vị tái sanh trong hoàng cung ở thành Takkasilā, xứ Gandhāra. Một vị tái sanh trong bụng của một nữ du sĩ ở một xứ biên địa. Một vị tái sanh trong nhà của một gia chủ ở xứ Bāhiya. Một vị tái sanh trong nhà của một gia chủ ở thành Rājagaha.

Ayaṃ pana dabbatthero mallaraṭṭhe anupiyanagare ekassa mallarañño gehe paṭisandhiṃ gaṇhi. Tassa mātā upavijaññā kālamakāsi. Matasarīraṃ susānaṃ netvā dārucitakaṃ āropetvā aggiṃ adaṃsu. Aggivegasantattaṃ udarapaṭalaṃ dvedhā ahosi. Dārako attano puññabalena uppatitvā ekasmiṃ dabbatthambhe nipati, taṃ dārakaṃ gahetvā ayyikāya adaṃsu. Sā tassa nāmaṃ gaṇhantī dabbatthambhe patitvā laddhajīvikattā ‘‘dabbo’’ti tassa nāmaṃ akāsi. Tena vuttaṃ ‘‘dabboti tassa therassa nāma’’nti.
Còn vị trưởng lão Dabba này đã tái sanh trong nhà của một vị vua thuộc dòng họ Malla ở thành phố Anupiya, xứ Malla. Mẹ của ngài đã qua đời khi sắp sinh. Người ta mang thi thể đã chết đến nghĩa địa, đặt lên giàn thiêu bằng củi và châm lửa. Da bụng, bị sức nóng của lửa thiêu đốt, đã vỡ ra làm hai. Đứa bé, do phước lực của mình, đã bay lên và rơi xuống một cây cột gỗ `dabba`. Người ta bế đứa bé đó và đưa cho bà của nó. Bà ấy, khi đặt tên cho nó, vì nó đã giữ được mạng sống do rơi xuống cây cột gỗ `dabba`, nên đã đặt tên cho nó là “Dabba”. Do đó đã nói là “tên của vị trưởng lão đó là Dabba.”

Tassa sattavassikakāle satthā bhikkhusaṅghaparivuto mallaraṭṭhe cārikaṃ caramāno anupiyanigamaṃ patvā anupiyambavane viharati. Dabbakumāro satthāraṃ disvā saha dassaneneva pasīditvā pabbajitukāmo hutvā ‘‘ahaṃ dasabalassa santike pabbajissāmī’’ti ayyikaṃ āpucchi. Sā ‘‘sādhu tātā’’ti dabbakumāraṃ ādāya satthu santikaṃ gantvā ‘‘bhante, imaṃ kumāraṃ pabbājethā’’ti āha. Satthā aññatarassa bhikkhuno saññaṃ adāsi ‘‘bhikkhu imaṃ dārakaṃ pabbājehī’’ti. So thero satthu vacanaṃ sutvā dabbakumāraṃ pabbājento tacapañcakakammaṭṭhānaṃ ācikkhi. Pubbahetusampanno katābhinīhāro paṭhamakesavaṭṭiyā voropanakkhaṇeyeva sotāpattiphale patiṭṭhāsi, dutiyāya kesavaṭṭiyā oropiyamānāya sakadāgāmiphale, tatiyāya anāgāmiphale, sabbakesānaṃ pana oropanañca arahattaphalasacchikiriyā ca apacchā apure ahosi. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘thero kira sattavassikova saṃvegaṃ labhitvā pabbajito khuraggeyeva arahattaṃ pāpuṇīti veditabbo’’ti.
Khi ngài được bảy tuổi, Đức Thế Tôn, cùng với đoàn Tỳ-khưu, du hành ở xứ Malla, đến thị trấn Anupiya và ở tại khu vườn xoài Anupiya. Cậu bé Dabba thấy Đức Thế Tôn, ngay khi thấy đã sanh lòng tịnh tín, muốn xuất gia, đã xin phép bà rằng: “con sẽ xuất gia ở chỗ Đấng Thập Lực.” Bà ấy nói: “lành thay, con trai,” rồi dẫn cậu bé Dabba đến chỗ Đức Thế Tôn và nói: “thưa ngài, xin hãy cho cậu bé này xuất gia.” Đức Thế Tôn đã ra hiệu cho một vị Tỳ-khưu nào đó: “này Tỳ-khưu, hãy cho đứa bé này xuất gia.” Vị trưởng lão đó, nghe lời của Đức Thế Tôn, khi cho cậu bé Dabba xuất gia, đã dạy đề mục nghiệp xứ về năm thể trược. Do có duyên lành từ trước và đã có sự phát nguyện, ngay trong khoảnh khắc lọn tóc đầu tiên được cạo xuống, ngài đã đắc quả Tu-đà-hoàn; khi lọn tóc thứ hai được cạo xuống, đắc quả Tư-đà-hàm; khi lọn tóc thứ ba, đắc quả A-na-hàm; và việc cạo xong tất cả tóc và việc chứng ngộ quả A-la-hán đã xảy ra không trước không sau. Liên quan đến điều đó, cần phải được hiểu là đã nói rằng: “nghe nói rằng vị trưởng lão, sau khi có lòng kinh cảm lúc mới bảy tuổi và xuất gia, đã đắc quả A-la-hán ngay trên lưỡi dao cạo.”

Sāvakena pattabbanti yathupanissayaṃ tena tena sāvakena pattabbaṃ. Tisso vijjātiādi yathāsambhavavasena vuttaṃ. Guṇajātanti ‘‘yañca kiñci sāvakena pattabba’’nti napuṃsakaliṅgasambandhadassanatthaṃ vuttaṃ. Catūsu saccesu catūhi maggehi soḷasavidhassa kiccassa katattāti dukkhasamudayanirodhamaggasaṅkhātesu catūsu saccesu dukkhapariññā samudayappahānaṃ nirodhasacchikiriyā maggabhāvanāti ekekassa maggassa catunnaṃ catunnaṃ kiccānaṃ vasena soḷasavidhassa kiccassa katattā. Tato tato paṭikkamitvāti tato tato kiccato ārammaṇato ca paṭivattitvā. Silāpaṭṭaketi pāsāṇaphalake. Terasāpīti bhattuddesakasenāsanaggāhāpakabhaṇḍāgārikacīvarapaṭiggāhakacīvarabhājanakayāgubhājanakaphalabhājanakakhajjabhājanakaappamattakavissajjakasāṭiyaggāhāpakapattaggāhāpakaārāmikapesakasāmaṇerapesakasammutīnaṃ vasena terasāpi sammutiyo dātuṃ vaṭṭanti.
Điều mà một vị thinh văn có thể đạt được là điều mà vị thinh văn đó có thể đạt được tùy theo căn cơ. Câu “ba minh,” v.v. được nói theo khả năng có thể có. Câu “nhóm các phẩm chất” được nói để chỉ ra sự liên quan đến trung tính của câu “bất cứ điều gì mà một vị thinh văn có thể đạt được.” Do đã thực hiện mười sáu loại phận sự trong bốn chân lý bằng bốn đạo có nghĩa là do đã thực hiện mười sáu loại phận sự, bằng cách quán xét bốn phận sự cho mỗi đạo trong bốn chân lý là khổ, tập, diệt, và đạo: biết rõ khổ, đoạn trừ tập, chứng ngộ diệt, và tu tập đạo. Sau khi quay về từ đó và đó là sau khi quay về từ phận sự đó và từ đối tượng đó. Trên phiến đá là trên phiến đá. Cả mười ba là cả mười ba sự ủy nhiệm đều được phép trao, bao gồm các sự ủy nhiệm: người chỉ định bữa ăn, người nhận chỗ ở, người giữ kho, người nhận y, người chia y, người chia cháo, người chia quả, người chia bánh, người phát vật nhỏ, người nhận y choàng, người nhận bát, người giao việc cho người giữ vườn, và người giao việc cho sa-di.

382.Apisūti ettha ti nipātamattaṃ, api-saddo aṭṭhānappayutto ‘‘vikāle’’ti imassa anantaraṃ daṭṭhabbo, vikālepi āgacchantīti attho. Jānantāti dūrabhāvaṃ jānantā. Evaṃ sabbapadesūti ettha katikasaṇṭhānādīnaṃ nānappakārattā tasmiṃ tasmiṃ vihāre katikavattādīni visuṃ visuṃ kathāpetīti veditabbaṃ. Sabbavihāresu ca gamanamagge samappamāṇe katvā adhiṭṭhātīti vadanti. Ayañhi nimmitānaṃ dhammatāti aniyametvā nimmitānaṃ ayaṃ ‘‘ekasmiṃ bhāsamānasmi’’ntiādi dhammatā. Tathā hi ye vaṇṇavayasarīrāvayavaparikkhārakiriyāvisesādīhi niyamaṃ akatvā nimmitā honti, te aniyametvā nimmitattā iddhimatā sadisāva honti. Ṭhānanisajjādīsu bhāsitatuṇhībhāvādīsu vā yaṃ yaṃ iddhimā karoti, taṃ tadeva karonti. Sace pana nānappakāre kātukāmo hoti, keci paṭhamavaye, keci majjhimavaye, keci pacchimavaye, tathā dīghakese, upaḍḍhamuṇḍe , missakakese, upaḍḍharattacīvare, paṇḍukacīvare, padabhāṇadhammakathāsarabhaññapañhapucchanapañhavissajjanacīvarasibbanadhovanādīni karonte, aparepi vā nānappakārake kātukāmo hoti, tena pādakajjhānato vuṭṭhāya ‘‘ettakā bhikkhū paṭhamavayā hontū’’tiādinā nayena parikammaṃ katvā puna samāpajjitvā vuṭṭhāya adhiṭṭhite adhiṭṭhānacittena saddhiṃ icchiticchitappakārāyeva honti. Avatthukavacanaṃ na hotīti nimmitānaṃ ‘‘ayaṃ mañco’’tiādivacanaṃ avatthukaṃ na hoti sabbattha mañcapīṭhānaṃ sambhavato.
382. Về từ ‘apisū,’ ở đây, ‘sū’ chỉ là một tiểu từ; từ ‘api’ được dùng không đúng chỗ, cần phải được hiểu là đứng sau từ “vikāle” (vào lúc phi thời), có nghĩa là họ cũng đến vào lúc phi thời. Biết rằng là biết rằng ở xa. Như vậy trong tất cả các nơi, ở đây, cần phải hiểu rằng do các quy ước, v.v. có nhiều loại khác nhau, nên ở mỗi tu viện, ngài cho kể lại các bổn phận theo quy ước, v.v. một cách riêng biệt. Người ta nói rằng ở tất cả các tu viện, ngài làm cho các con đường đi có độ dài bằng nhau và chú nguyện. Thật vậy, đây là bản chất của những vật được hóa hiện có nghĩa là đây là bản chất của những vật được hóa hiện mà không có sự xác định, như “khi một người nói,” v.v. Thật vậy, những vị nào được hóa hiện mà không có sự xác định về các đặc điểm như sắc vóc, tuổi tác, các phần của cơ thể, vật dụng, và hành động, v.v., do được hóa hiện mà không có sự xác định, nên họ giống như chính người có thần thông. Trong các tư thế đứng, ngồi, v.v., hoặc trong việc nói năng, im lặng, v.v., bất cứ điều gì người có thần thông làm, họ cũng làm đúng như vậy. Tuy nhiên, nếu muốn làm nhiều loại khác nhau, một số ở tuổi đầu, một số ở tuổi giữa, một số ở tuổi cuối; cũng như tóc dài, đầu cạo nửa, tóc lẫn lộn; y choàng nửa đỏ, y vàng nhạt; đang thuyết pháp, tụng kinh, hỏi đáp, trả lời câu hỏi, may vá, giặt giũ y, v.v.; hoặc nếu muốn làm các loại khác nhau, vị ấy, sau khi xuất khỏi thiền làm nền tảng, thực hiện sự chuẩn bị theo cách “chừng này Tỳ-khưu hãy ở tuổi đầu,” v.v., rồi nhập thiền trở lại, sau khi xuất ra và chú nguyện, thì cùng với tâm chú nguyện, họ trở thành đúng như các loại đã mong muốn. Không phải là lời nói không có đối tượng có nghĩa là lời nói của những vị được hóa hiện như “đây là cái giường” không phải là không có đối tượng, vì ở khắp nơi đều có thể có giường và ghế.

383.Ekacārikabhattanti atimanāpattā visuṃ ṭhitikāya pāpetabbaṃ bhattaṃ. Taddhitavohārenāti cattāri parimāṇamassa catukkanti evaṃ taddhitavohārena. Odanassa pucchāya sādhakatamattā āha – ‘‘karaṇattheyeva karaṇavacana’’nti, odanena karaṇabhūtena pucchantīti vuttaṃ hoti. Ye ca odanena karaṇabhūtena pucchanti, tesaṃ pucchanākāradassanatthaṃ ‘‘kiṃ, bhante, odanaṃ demāti pucchantī’’ti vuttaṃ.
383. Bữa ăn cho người đi một mình là bữa ăn phải được mang đến một cách riêng biệt do nó rất ngon. Bằng cách nói theo taddhita là bằng cách nói theo taddhita như thế này: cái có số lượng là bốn là bộ bốn. Do việc hỏi về cơm là phương tiện hiệu quả nhất, nên (chú giải) nói: “công cụ cách chỉ được dùng với ý nghĩa công cụ,” có nghĩa là đã nói rằng họ hỏi bằng cơm là phương tiện. Và để chỉ ra cách hỏi của những người hỏi bằng cơm là phương tiện, đã nói là “họ hỏi rằng: ‘thưa ngài, chúng con có nên cho cơm không?’”

Bhavoti bhavitabbo. Asamannāharitvāti ābhogaṃ akatvā. Rattiṃ sammantayamānāti kañci kālaṃ supitvā vuṭṭhāya sammantayamānā. Rattiyañhi paṭhamayāmamajjhimayāmesu supitvā pabuddhānaṃ ajjatanakālepi anajjatanābhimāno hoti, tasmā te ‘‘hiyyo’’ti āhaṃsu. Ye pana rattiyaṃ kammappasutā jāgariyamanuyuttā honti, tesaṃ ajjatanābhimānoyeva, tasmā te ‘‘ajja’’icceva voharanti, na ‘‘hiyyo’’ti. Padhūpāyantāti punappunaṃ uppajjanakakodhavasena padhūpāyantā.
(Ngày) mai là (ngày) sẽ đến. Không suy xét là không chú tâm. Bàn bạc vào ban đêm là sau khi đã ngủ một lúc rồi thức dậy bàn bạc. Thật vậy, đối với những người đã ngủ trong canh đầu và canh giữa rồi thức dậy, ngay cả trong ngày hôm nay họ cũng có nhận thức là ngày hôm trước; do đó, họ đã nói là “hôm qua.” Còn những người bận rộn công việc và thức vào ban đêm, họ có nhận thức là ngày hôm nay; do đó, họ chỉ dùng từ “hôm nay,” chứ không phải “hôm qua.” Bị ám khói là bị ám khói do cơn giận liên tục khởi lên.

384.Dabbadabbāti dutiyo dabba-saddo paṇḍitādhivacanoti āha ‘‘dabbā paṇḍitā’’ti. Evaṃ na nibbeṭhentīti sambandho. Nibbeṭhentīti attānaṃ dosato mocenti. Vuṭṭhānalakkhaṇaṃ maññamānāti vuṭṭhānalakkhaṇanti maññamānā. Na ghaṭiyatīti therassa susīlapaṭiññāya tassā dussīlapaṭiññāvacanaṃ na ghaṭiyatīti adhippāyo. Ettha yaṃ vattabbaṃ, taṃ parato āvi bhavissati. Nāsethāti setakaṃ datvā gihibhāvaṃ pāpethāti attho. Liṅganāsanā hettha adhippetā. Imameva ca dassetuṃ ‘‘tisso nāsanā’’tiādi vuttaṃ. Ekakammādisaṃvāsassa akaraṇaṃ saṃvāsanāsanāDaṇḍakammanāsanā nāma vālukādīni okiritvā yāva khamāpeti, tāva daṇḍakammavasena nikkaḍḍhanaṃ. Cara pire vinassāti nikkaḍḍhanākāradassanaṃ. Tattha carāti gaccha, apehīti vuttaṃ hoti. Pireti para amāmaka, amhākaṃ anajjhattikabhūtāti attho. Pireti hi para-saddena samānatthaṃ sambodhanavacanaṃ. Atha vā pireti ‘‘parato’’ti iminā samānatthaṃ nipātapadaṃ, tasmā cara pireti parato gaccha, mā idha tiṭṭhāti attho. Vinassāti adassanaṃ gaccha.
384. Về từ Dabbadabbā, (chú giải) nói rằng từ ‘dabba’ thứ hai là tên gọi khác của người có trí tuệ: “những người có trí tuệ Dabba.” Mối liên hệ là họ không gỡ tội theo cách đó. Gỡ tội là giải thoát mình khỏi lỗi lầm. Tưởng là đặc điểm của sự xuất tội là tưởng rằng đó là đặc điểm của sự xuất tội. Không phù hợp có nghĩa là lời thú nhận về giới hạnh trong sạch của vị trưởng lão không phù hợp với lời thú nhận về sự vô giới hạnh của cô ta. Điều cần nói ở đây sẽ được làm rõ ở phần sau. Hãy trục xuất có nghĩa là hãy cho (cô ấy) đồ trắng và đưa về tình trạng tại gia. Ở đây, sự trục xuất bằng cách tước bỏ giới tướng được đề cập đến. Và để chỉ ra chính điều này, đã nói là “ba loại trục xuất,” v.v. Việc không chung sống theo Tăng sự, v.v. là sự trục xuất khỏi sự chung sống. Sự trục xuất bằng hình phạt là việc đuổi đi bằng hình phạt, bằng cách rải cát, v.v. cho đến khi cô ấy xin tha thứ. Câu “Hãy đi, kẻ kia, hãy biến đi” là sự chỉ ra cách thức đuổi đi. Trong đó, carā là hãy đi, hãy cút đi. Pire là kẻ khác, không thuộc về chúng tôi; có nghĩa là đã trở thành người ngoài đối với chúng tôi. Thật vậy, pire là một từ hô cách có cùng ý nghĩa với từ ‘para’ (khác). Hoặc, pire là một tiểu từ có cùng ý nghĩa với “parato” (từ nơi khác); do đó, cara pire có nghĩa là hãy đi nơi khác, đừng ở đây. Vinassā là hãy biến mất.

Yasmā te bhikkhū attānaṃ appakāsetvā ṭhitā, tasmā anuyuñjathāti imassa gavesatha jānāthāti attho vutto. Kārako hotīti ‘‘ayyenamhi dūsitā’’ti paṭiññātattā tāya paṭiññāya yadi nāsitā, thero kārako hoti, sadosoti attho. Akārako hotīti tāya katapaṭiññaṃ anapekkhitvā yadi bhagavatā pakatidussīlabhāvaṃyeva sandhāya sā nāsitā, thero akārako hotīti adhippāyo. ‘‘Sakāya paṭiññāya nāsethā’’ti vutte ‘‘ayyenamhi dūsitā’’ti tāya katapaṭiññāya bhūtatā āpajjatīti āha – ‘‘bhante, tumhākaṃ vāde thero kārako hoti sadoso’’ti. Bhikkhuniṃ anuddhaṃseti, dukkaṭanti iminā mahāaṭṭhakathāvādo dassito. Musāvāde pācittiyanti vuttanti bhikkhuniṃ anuddhaṃsentassa musāvāde pācittiyanti vuttaṃ.
Vì những vị Tỳ-khưu đó đứng mà không tự bộc lộ, do đó, ý nghĩa của câu “hãy tra hỏi” đã được nói là hãy tìm kiếm, hãy tìm hiểu. Là người gây ra có nghĩa là vì cô ấy đã thú nhận rằng “tôi đã bị ngài làm hại,” nếu cô ấy bị trục xuất do lời thú nhận đó, thì vị trưởng lão là người gây ra, có nghĩa là có lỗi. Không phải là người gây ra có nghĩa là nếu Đức Thế Tôn trục xuất cô ấy chỉ liên quan đến bản chất vô giới hạnh tự nhiên của cô ấy mà không xét đến lời thú nhận của cô ấy, thì vị trưởng lão không phải là người gây ra. Khi được nói rằng “hãy trục xuất theo lời thú nhận của chính cô ấy,” vì lời thú nhận “tôi đã bị ngài làm hại” do cô ấy đã làm trở thành sự thật, nên (vị trưởng lão) nói: “thưa ngài, theo lập luận của ngài, vị trưởng lão là người gây ra, là người có lỗi.” Câu “vu khống một Tỳ-khưu-ni thì phạm tội Tác Ác”, bằng câu này, quan điểm của Mahā-aṭṭhakathā đã được chỉ ra. Câu “đã được nói là phạm tội Ưng Đối Trị khi nói dối” có nghĩa là đã được nói rằng người vu khống một Tỳ-khưu-ni thì phạm tội Ưng Đối Trị khi nói dối.

Tatrāti tesu dukkaṭapācittiyesu. Ito paṭṭhāya ‘‘tasmā pācittiyameva yujjatī’’ti vacanapariyantaṃ dvīsupi aṭṭhakathāsu adhippāyavibhāvanaṃ. Tattha purimanayeti ‘‘bhikkhuniṃ anuddhaṃseti, dukkaṭa’’nti vuttaaṭṭhakathānaye. Dukkaṭameva yujjatīti kasmā vuttanti ce? Tattha kāraṇaṃ dassento ‘‘yathā’’tiādimāha. Bhikkhuno bhikkhusmiṃ saṅghādisesoti bhikkhuṃ amūlakena antimavatthunā anuddhaṃsentassa bhikkhuno saṅghādisesoti attho. Pacchimanayepi ‘‘bhikkhuniṃ anuddhaṃsentassa musāvāde pācittiya’’nti vuttaṃ. Kurundīnayepi musāvādattā pācittiyameva yujjatīti visaṃvādapurekkhatāya pācittiyameva yujjatīti adhippāyo. Yadi evaṃ bhikkhuṃ amūlakena antimavatthunā anuddhaṃsentassa akkosantassa ca musāvādattā pācittiyeneva bhavitabbanti ce? Tattha satipi musāvāde vacanappamāṇato saṅghādisesaomasavādapācittiyeheva bhavitabbaṃ, na sampajānamusāvādapācittiyenāti dassetuṃ ‘‘vacanappamāṇato’’tiādimāha. Tattha vacanappamāṇatoti bhagavatā vuttapāḷivacanappamāṇato. Idāni taṃ vacanaṃ dassetuṃ ‘‘anuddhaṃsanādhippāyenā’’tiādi vuttaṃ. Bhikkhussa pana bhikkhuniyā dukkaṭanti vacanaṃ natthīti bhikkhuniyā anuddhaṃsane bhikkhuno dukkaṭanti vacanaṃ natthi tathā pāḷiyaṃ anāgatattā. Sampajānamusāvāde pācittiyanti vacanamatthīti sāmaññato vuttaṃ sampajānamusāvādasikkhāpadaṃ dasseti.
Trong đó là trong các tội Tác Ác và Ưng Đối Trị đó. Từ đây trở đi, cho đến cuối câu “do đó, chỉ tội Ưng Đối Trị là hợp lý,” là sự phân tích ý nghĩa trong cả hai bộ chú giải. Trong đó, trong cách giải thích trước là trong cách giải thích của bộ chú giải đã nói rằng: “vu khống một Tỳ-khưu-ni thì phạm tội Tác Ác.” Nếu hỏi rằng tại sao lại nói rằng chỉ tội Tác Ác là hợp lý? Để chỉ ra lý do ở đó, (chú giải) nói rằng: “giống như,” v.v. Đối với vị Tỳ-khưu (vu khống) vị Tỳ-khưu thì phạm tội Tăng Tàn có nghĩa là vị Tỳ-khưu nào vu khống một vị Tỳ-khưu khác bằng một tội Bất Cộng Trụ vô căn cứ thì phạm tội Tăng Tàn. Trong cách giải thích sau cũng đã nói rằng: “người vu khống một Tỳ-khưu-ni thì phạm tội Ưng Đối Trị khi nói dối.” Trong cách giải thích của Kurundī cũng vậy, do là nói dối, nên chỉ tội Ưng Đối Trị là hợp lý; ý nghĩa là do có sự cố ý nói sai sự thật, nên chỉ tội Ưng Đối Trị là hợp lý. Nếu vậy, đối với người vu khống một vị Tỳ-khưu bằng một tội Bất Cộng Trụ vô căn cứ và người mắng nhiếc, do là nói dối, nên phải phạm tội Ưng Đối Trị? Để chỉ ra rằng ở đó, dù có sự nói dối, nhưng do quy định của lời dạy, phải phạm tội Tăng Tàn và tội Ưng Đối Trị khi mắng nhiếc, chứ không phải tội Ưng Đối Trị khi cố ý nói dối, (chú giải) nói rằng: “do quy định của lời dạy,” v.v. Trong đó, do quy định của lời dạy là do quy định của lời dạy trong Pāḷi do Đức Thế Tôn đã nói. Bây giờ, để chỉ ra lời dạy đó, đã nói câu “với ý định vu khống,” v.v. Nhưng không có lời dạy nào nói rằng vị Tỳ-khưu (vu khống) Tỳ-khưu-ni thì phạm tội Tác Ác, vì trong Pāḷi không có nói như vậy. Có lời dạy rằng phạm tội Ưng Đối Trị khi cố ý nói dối là chỉ ra điều học về việc cố ý nói dối đã được nói một cách tổng quát.

Idāni dvīsupi aṭṭhakathāvādesu adhippāyaṃ vibhāvetvā tesu pacchimavāde dosaṃ dassetvā purimavādaṃ patiṭṭhapetukāmo ācariyo ‘‘tatra panā’’tiādimāha. Tatrāti ‘‘pācittiyameva yujjatī’’ti vuttavāde. Anuddhaṃsanādhippāye asati pācittiyanti iminā sampajānamusāvāde pācittiyassa okāsaṃ dasseti. Visuṃ pācittiyaṃ vuttanti sampajānamusāvāde pācittiyato visuṃ aññameva pācittiyaṃ vuttaṃ. Etehi nāsanā natthīti sāmaññato vuttaṃ, imissā pana dukkaṭena nāsanā natthīti adhippāyo. Yadi evaṃ kasmā naṃ bhagavā nāsetīti āha ‘‘yasmā panā’’tiādi.
Bây giờ, vị Giáo Thọ Sư, sau khi phân tích ý nghĩa trong cả hai quan điểm của chú giải, muốn chỉ ra lỗi trong quan điểm sau và thiết lập quan điểm trước, đã nói rằng: “tuy nhiên, trong đó,” v.v. Trong đó là trong quan điểm đã nói rằng: “chỉ tội Ưng Đối Trị là hợp lý.” Bằng câu “khi không có ý định vu khống thì phạm tội Ưng Đối Trị,” (chú giải) chỉ ra trường hợp của tội Ưng Đối Trị khi cố ý nói dối. Đã được nói một tội Ưng Đối Trị riêng biệt có nghĩa là đã được nói một tội Ưng Đối Trị khác, riêng biệt với tội Ưng Đối Trị khi cố ý nói dối. Bởi những tội này thì không có sự trục xuất được nói một cách tổng quát; tuy nhiên, ý nghĩa là không có sự trục xuất bằng tội Tác Ác này. Nếu vậy, tại sao Đức Thế Tôn lại trục xuất cô ta? (Chú giải) nói rằng: “tuy nhiên, vì,” v.v.

385-386.Dūsitoti duṭṭhasaddassa kammasādhanataṃ dasseti. Dūsayati paraṃ vināsetīti dūsako. Iminā ‘‘dūsayatīti doso’’ti dosasaddassa kattusādhanatā vuttā. Pakatibhāvaṃ jahāpitoti dusasaddassa vikatiyaṃ paṭhitattā vuttaṃ, pakatiyā sommabhāvaṃ jahāpitoti attho, vikāramāpāditoti vuttaṃ hoti. Ākāranānattenāti dūsitākārassa dūsakākārassa ca nānattena. Anabhiraddhoti atuṭṭho. Yo pana atuṭṭho, so sukhito nāma na hotīti āha ‘‘na sukhito’’ti. ‘‘Ārādhito rājā’’tiādīsu pasāditoti atthasambhavato ‘‘na vā pasādito’’ti vuttaṃ. Khīlasaddo thaddhabhāvavacano kacavarapariyāyo ca hotīti āha – ‘‘cittathaddhabhāvacittakacavarasaṅkhātaṃ paṭighakhīla’’nti. Khīlayati tena cittaṃ thaddhabhāvaṃ āpajjatīti khīlaṃ, cittassa thaddhabhāvo. So ca atthato paṭighoyeva. Cittassa thaddhabhāvalakkhaṇo hi paṭigho, tasmiñca uppanne cittaṃ uklāpajātaṭṭhānaṃ viya amanuññaṃ hoti, tasmā kacavarasadisattāpi paṭighova ‘‘khīla’’nti vutto. Tenāha ‘‘paṭighakhīla’’nti. Cittassa thaddhabhāvattā kacavarasadisattā ca paṭighoyeva khīlaṃ paṭighakhīlaṃNappatītoti pītisukhādīhi na abhigato na anugato, na upetoti attho. Yo ca pītisukhādīhi anupagato, so tehi vajjito nāma hotīti āha ‘‘pītisukhādīhi vajjito’’ti. Yo ca tehi vajjito, na so tena abhisaṭo nāma hotīti āha ‘‘na abhisaṭo’’ti, pītisukhādīhi na patthaṭoti attho.
385-386. Từ “bị làm hại” chỉ ra dạng bị động của từ ‘duṭṭha’. Người làm hại, phá hoại người khác là người làm hại. Bằng điều này, dạng chủ động của từ ‘dosa’ là “làm hại nên là dosa (sự làm hại/sân hận)” đã được nói đến. Bị làm cho từ bỏ trạng thái tự nhiên được nói do từ ‘dus’ được đọc với ý nghĩa biến đổi; có nghĩa là bị làm cho từ bỏ trạng thái hiền dịu tự nhiên; có nghĩa là đã nói rằng bị làm cho biến chất. Do sự khác biệt về hình thức là do sự khác biệt giữa hình thức bị làm hại và hình thức của người làm hại. Không vui lòng là không hài lòng. Người nào không hài lòng thì không được gọi là người có hạnh phúc. Do đó, (chú giải) nói: “không có hạnh phúc.” Vì trong các câu như “vua đã được làm cho hài lòng,” v.v. có ý nghĩa là được làm cho hoan hỷ, nên đã nói là “hoặc không được làm cho hoan hỷ.” Vì từ ‘khīla’ (cái cọc) có nghĩa là trạng thái cứng nhắc và cũng là từ đồng nghĩa với rác rưởi, nên (chú giải) nói: “cái cọc sân hận được gọi là trạng thái cứng nhắc của tâm và rác rưởi của tâm.” Do nó mà tâm trở nên cứng nhắc, nên nó là khīla, là trạng thái cứng nhắc của tâm. Và về mặt ý nghĩa, nó chính là sân hận. Thật vậy, sân hận có đặc điểm là trạng thái cứng nhắc của tâm; và khi nó khởi lên, tâm trở nên khó chịu như một nơi ngập rác, do đó, vì giống như rác rưởi, nên sân hận cũng được gọi là “khīla”. Do đó, (chú giải) nói: “cái cọc sân hận.” Vì là trạng thái cứng nhắc của tâm và giống như rác rưởi, nên sân hận chính là cái cọc, cái cọc sân hận. Không được thấm nhuần có nghĩa là không được thấm nhuần, không được đi theo, không được đến gần bởi hỷ, lạc, v.v. Người nào không được đi theo bởi hỷ, lạc, v.v., thì được gọi là người thiếu vắng chúng. Do đó, (chú giải) nói: “thiếu vắng hỷ, lạc, v.v.” Người nào thiếu vắng chúng, thì không được gọi là người bị chúng xâm chiếm. Do đó, (chú giải) nói: “không bị xâm chiếm,” có nghĩa là không bị bao phủ bởi hỷ, lạc, v.v.

Yenāti yena kopena. Duṭṭhoti mātikāya āgatapadaṃ dasseti, kupitoti padabhājane āgatapadaṃ. Atthato ekattepi ubhinnaṃ padānaṃ vasena ‘‘ubhayampī’’ti vuttaṃ. Evaṃ ‘‘tena ca kopena tena ca dosenā’’ti imesaṃ padānaṃ vasena ‘‘dvīhī’’ti vuttaṃ, atthato pana dosoyeva. So ca saṅkhārakkhandhapariyāpannoti āha ‘‘imehi dvīhi saṅkhārakkhandhameva dassetī’’ti. ‘‘Anattamanatā anabhiraddhī’’ti vacanehi domanassavedanāva vuttāti āha ‘‘imehi dvīhi vedanākkhandhaṃ dassetī’’ti.
Bởi cái đó là bởi cơn giận đó. Từ “sân hận” chỉ ra từ đã xuất hiện trong đề mục; từ “tức giận” là từ đã xuất hiện trong phần phân tích từ ngữ. Mặc dù về mặt ý nghĩa là một, nhưng do có hai từ, nên đã nói là “cả hai.” Như vậy, do các từ “bởi cơn giận đó và bởi sự sân hận đó,” nên đã nói là “bởi hai,” nhưng về mặt ý nghĩa thì chỉ là sự sân hận. Và nó thuộc về hành uẩn. Do đó, (chú giải) nói: “bằng hai từ này, (chú giải) chỉ ra chính hành uẩn.” Bằng các câu “sự không hoan hỷ, sự không vui lòng,” chỉ có thọ ưu đã được nói đến. Do đó, (chú giải) nói: “bằng hai từ này, (chú giải) chỉ ra thọ uẩn.”

Yadā pana codakena adiṭṭhaṃ asutaṃ aparisaṅkitaṃ vā hoti, tadā amūlakaṃ nāma hotīti āha ‘‘taṃ panassa…pe… codakavasena adhippeta’’nti. Yadi cuditakavasena adhippetaṃ siyā, amūlakaṃ nāma anajjhāpannanti padabhājanaṃ vadeyyāti adhippāyo. Yaṃ pārājikanti bhikkhuno anurūpesu ekūnavīsatiyā pārājikesu aññataraṃ. Padabhājane pana pāḷiyaṃ āgatāneva gahetvā ‘‘catunnaṃ aññatarenā’’ti vuttaṃ. Etanti cuditakassa āpannānāpannattaṃ. Idhāti imasmiṃ sikkhāpade.
Tuy nhiên, khi đối với người tố cáo là không thấy, không nghe, hoặc không nghi ngờ, thì được gọi là vô căn cứ. Do đó, (chú giải) nói: “tuy nhiên, đối với người ấy… cho đến… được hiểu theo người tố cáo.” Ý nghĩa là nếu được hiểu theo người bị tố cáo, thì phần phân tích từ ngữ đã có thể nói rằng ‘vô căn cứ là chưa phạm.’ Tội Bất Cộng Trụ nào là một trong mười chín tội Bất Cộng Trụ tương ứng của vị Tỳ-khưu. Tuy nhiên, trong phần phân tích từ ngữ, chỉ lấy những tội đã xuất hiện trong Pāḷi và nói là “một trong bốn tội.” Điều đó là tình trạng phạm hay không phạm của người bị tố cáo. Ở đây là trong điều học này.

Tathevāti pasādasotena dibbasotena vāti imamatthaṃ atidisati. Sutvāva jānitabbato ‘‘sutaṭṭhāneyeva tiṭṭhatī’’ti vuttaṃ. Parisaṅkanaṃ parisaṅkitaṃ, diṭṭhānugataṃ parisaṅkitaṃ diṭṭhaparisaṅkitaṃ. Evaṃ sesesupi. Imesanti kattuatthe sāmivacanaṃ, imehīti attho. Karissanti vāti ettha vibhattipariṇāmaṃ katvā imeti yojetabbaṃ. Diṭṭhaṃ atthi samūlakaṃ, atthi amūlakanti idaṃ ajjhācārassa sabbhāvāsabbhāvaṃ sandhāya vuttaṃ. Atthi saññāsamūlakaṃ, atthi saññāamūlakanti idaṃ pana diṭṭhasaññāya sabbhāvāsabbhāvaṃ sandhāya.
Cũng như thế là chỉ cho ý nghĩa này: bằng thiên nhĩ thông hoặc bằng nhĩ thông thanh tịnh. Do phải biết được sau khi đã nghe, nên đã nói là “chỉ đứng ở chỗ đã nghe.” Sự nghi ngờ là parisaṅkitaṃ; sự nghi ngờ theo sau cái thấy là sự nghi ngờ về cái thấy. Tương tự đối với các trường hợp còn lại. Của những người này là sở hữu cách được dùng với ý nghĩa chủ thể, có nghĩa là ‘bởi những người này.’ Về câu “hoặc sẽ làm,” ở đây cần phải kết hợp từ ‘ime’ sau khi đã thay đổi biến cách. Câu “có cái thấy có căn cứ, có cái thấy vô căn cứ” được nói liên quan đến sự có mặt hay không có mặt của sự vi phạm. Tuy nhiên, câu “có tưởng có căn cứ, có tưởng vô căn cứ” được nói liên quan đến sự có mặt hay không có mặt của tưởng về cái thấy.

Samīpe ṭhatvāti dvādasahatthabbhantare samīpe ṭhatvāti vadantīti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Parato pana ‘‘dūtaṃ vā paṇṇaṃ vā sāsanaṃ pesetvā codentassa sīsaṃ na etī’’ti parammukhācodanāya eva anāpattiyā vuttattā ‘‘samīpe ṭhatvā’’ti idaṃ sammukhabhāvamattadassanatthaṃ vuttanti amhākaṃ khanti . Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. duṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā) aṅgaṃ dassentena ‘‘cāvanādhippāyena sammukhācodanā’’ti vuttaṃ, na ca sammukhabhāvo dvādasahatthabbhantareyevāti niyamo sakkā vatthuṃ. Vinayavinicchayañca patvā garukeyeva ṭhātabbanti vuttaṃ, tasmā upaparikkhitvā yuttataraṃ gahetabbaṃ. Codāpakasseva vācāya vācāya saṅghādisesoti āṇattassa vācāya vācāya codāpakassa saṅghādiseso. Mayāpi diṭṭhaṃ sutaṃ atthīti idaṃ āṇattassapi codakabhāvadassanatthaṃ vuttaṃ, evaṃ pana avatvāpi ‘‘pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpannosī’’ti idameva vacanaṃ parassa vacanaṃ viya akatvā anuddhaṃsanādhippāyena vadantassa saṅghādisesoyeva. Satipi pana anuddhaṃsanādhippāye ‘‘asukena evaṃ vutta’’nti dassetvā vadantassa natthi saṅghādisesoti vadanti.
Câu “đứng ở gần,” trong cả ba sách lược giải đều nói rằng: có nghĩa là đứng ở gần trong khoảng mười hai khuỷu tay. Tuy nhiên, ở phần sau, vì đã nói là vô tội chỉ đối với sự tố cáo vắng mặt rằng: “người tố cáo bằng cách gửi sứ giả, lá thư, hoặc thông điệp thì không đạt đến tột đỉnh,” nên chúng tôi cho rằng câu “đứng ở gần” chỉ được nói để chỉ ra trạng thái đối mặt. Chính vì vậy, trong Mātikāṭṭhakathā (Kaṅkhā. aṭṭha. duṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā), khi chỉ ra các yếu tố, đã nói là “sự tố cáo đối mặt với ý định làm cho rời đi,” và không thể quy định rằng trạng thái đối mặt chỉ có trong khoảng mười hai khuỷu tay. Và khi đã đến phần quyết đoán về luật, đã được nói rằng chỉ nên đứng về phía quan trọng. Do đó, cần phải xem xét và chọn lấy điều hợp lý hơn. Chỉ người ra lệnh mới phạm tội Tăng Tàn theo từng lời nói có nghĩa là người ra lệnh phạm tội Tăng Tàn theo từng lời nói của người được lệnh. Câu “tôi cũng có thấy, có nghe” được nói để chỉ ra trạng thái là người tố cáo của cả người được lệnh. Tuy nhiên, ngay cả khi không nói như vậy, người nói chính câu “ngài đã phạm tội Bất Cộng Trụ” với ý định vu khống mà không làm như thể đó là lời nói của người khác, thì cũng phạm tội Tăng Tàn. Tuy nhiên, người ta nói rằng ngay cả khi có ý định vu khống, người nói bằng cách chỉ ra rằng “người tên là thế này đã nói như vậy” thì không phạm tội Tăng Tàn.

Sambahulā sambahule sambahulehi vatthūhi codentīti ettha sambahuleti bahuttaniddese kāraṇaṃ na dissati. Vatthucodakānaṃyeva hi ekānekavasena idaṃ catukkamāgataṃ, na cuditakassapi ekānekavasena. Tathā hi ekasseva cuditakassa vasena ekavatthuekacodakaekavatthunānācodakanānāvatthuekacodakanānāvatthunānācodakappabhedaṃ idaṃ catukkamāgataṃ, teneva catutthacodanaṃ dassentenapi ‘‘imissā codanāya nānāvatthūni nānācodakā’’ti vuttaṃ, na pana ‘‘nānācuditakā’’ti, tasmā ‘‘sambahule’’ti bahuttaniddese kāraṇaṃ na dissati. Atha vā paṭhamaṃ tīsupi codanāsu ekattena cuditakaṃ niddisitvāpi idha bahuttena niddeso ‘‘na kevalaṃ ekasmiṃyeva cuditake codanā sambhavati, atha kho sambahulesupī’’ti imamatthaṃ dassetuṃ kato.
Về câu “nhiều người tố cáo nhiều người bằng nhiều tội,” ở đây, không thấy có lý do cho sự chỉ định số nhiều “nhiều người (bị tố cáo).” Thật vậy, bộ bốn này đã xuất hiện chỉ dựa trên việc một hay nhiều người tố cáo và một hay nhiều tội, chứ không phải dựa trên việc một hay nhiều người bị tố cáo. Thật vậy, bộ bốn này đã xuất hiện với sự phân chia một tội-một người tố cáo, một tội-nhiều người tố cáo, nhiều tội-một người tố cáo, và nhiều tội-nhiều người tố cáo, chỉ dựa trên một người bị tố cáo duy nhất. Chính vì vậy, ngay cả khi chỉ ra sự tố cáo thứ tư, cũng đã nói là “đối với sự tố cáo này, có nhiều tội và nhiều người tố cáo,” chứ không phải “nhiều người bị tố cáo.” Do đó, không thấy có lý do cho sự chỉ định số nhiều “nhiều người (bị tố cáo).” Hoặc, mặc dù trong ba sự tố cáo đầu tiên, người bị tố cáo được chỉ định ở số ít, nhưng ở đây, sự chỉ định ở số nhiều được thực hiện để chỉ ra ý nghĩa rằng “sự tố cáo không chỉ có thể xảy ra đối với một người bị tố cáo duy nhất, mà còn đối với nhiều người.”

Codetuṃ pana ko labhati, ko na labhatītiādi anuddhaṃsanādhippāyaṃ vināpi codanālakkhaṇaṃ dassetuṃ vuttaṃ. Sīlasampannoti idaṃ dussīlassa vacanaṃ appamāṇanti adhippāyena vuttaṃ. Bhikkhunīnaṃ pana bhikkhuṃ codetuṃ anissarattā ‘‘bhikkhunimevā’’ti vuttaṃ. Satipi bhikkhunīnaṃ bhikkhūsu anissarabhāve tāhi katacodanāpi codanāruhattā codanāyevāti adhippāyena ‘‘pañcapi sahadhammikā labhantī’’ti vuttaṃ. Bhikkhussa sutvā codetītiādinā codako yesaṃ sutvā codeti, tesampi vacanaṃ pamāṇamevāti sampaṭicchitattā tesaṃ codanāpi ruhatevāti dassetuṃ thero suttaṃ nidassesi.
Câu “tuy nhiên, ai được phép tố cáo, ai không được phép,” v.v. được nói để chỉ ra đặc điểm của sự tố cáo ngay cả khi không có ý định vu khống. Câu “người có giới hạnh” được nói với ý nghĩa rằng lời nói của người vô giới hạnh là không có giá trị. Tuy nhiên, vì các Tỳ-khưu-ni không có quyền lực để tố cáo một vị Tỳ-khưu, nên đã nói là “chỉ đối với Tỳ-khưu-ni.” Mặc dù các Tỳ-khưu-ni không có quyền lực đối với các Tỳ-khưu, nhưng với ý nghĩa rằng sự tố cáo do họ thực hiện cũng được xem là một sự tố cáo, nên đã được nói rằng: “cả năm vị đồng pháp đều được phép (tố cáo).” Bằng câu “sau khi nghe vị Tỳ-khưu rồi tố cáo,” v.v., vị trưởng lão đã trích dẫn kinh để chỉ ra rằng vì lời nói của những người mà người tố cáo đã nghe rồi mới tố cáo cũng được chấp nhận là bằng chứng, nên sự tố cáo của họ cũng được xem là hợp lệ.

Dūtaṃvā paṇṇaṃ vā sāsanaṃ vā pesetvāti ‘‘tvaṃyeva gantvā codehī’’ti dūtaṃ vā pesetvā yo taṃ codetuṃ sakkoti, tassa mukhasāsanaṃ vā paṇṇaṃ vā pesetvā. Sīsaṃ na etīti saṅghādiseso na hotīti adhippāyo. Kiñcāpi pāḷiyaṃ ‘‘codeti vā codāpeti vā’’ti sāmaññato vuttattā dūtasāsanādīhi codāpentassapi āpattiyevāti paññāyati, ‘‘sīsaṃ na etī’’ti idaṃ pana aṭṭhakathācariyappamāṇena gahetabbaṃ. Samayenāti pakatiyā saddaṃ sutvā atthavijānanasamayena.
Sau khi gửi một sứ giả, một lá thư, hoặc một thông điệp có nghĩa là sau khi gửi một sứ giả và nói “chính ngươi hãy đi tố cáo,” hoặc sau khi gửi một thông điệp bằng miệng hoặc một lá thư đến người có thể tố cáo người đó. Không đạt đến tột đỉnh, ý nghĩa là không phạm tội Tăng Tàn. Mặc dù trong Pāḷi, vì đã được nói một cách tổng quát là “tố cáo hoặc cho người khác tố cáo,” nên có thể hiểu rằng ngay cả người cho người khác tố cáo bằng sứ giả, thông điệp, v.v. cũng phạm tội; tuy nhiên, câu “không đạt đến tột đỉnh” này phải được hiểu theo tiêu chuẩn của các vị Giáo Thọ Sư soạn chú giải. Theo thời gian là theo thời gian hiểu được ý nghĩa sau khi đã nghe âm thanh một cách tự nhiên.

Garukānaṃ dvinnanti pārājikasaṅghādisesānaṃ. Avasesānaṃ vasenāti pañcalahukāpattīnaṃ vasena. ‘‘Natthi dinna’’ntiādi dasavatthukā micchādiṭṭhi. ‘‘Antavā loko, anantavā loko’’tiādinayappavattā diṭṭhi sassatucchedasaṅkhātaṃ antaṃ gaṇhātīti antaggāhikāĀjīvahetu paññattānaṃ channaṃ sikkhāpadānaṃ vasenāti ājīvahetu ājīvakāraṇā pāpiccho icchāpakato asantaṃ abhūtaṃ uttarimanussadhammaṃ ullapati, āpatti pārājikassa, ājīvahetu ājīvakāraṇā sañcarittaṃ samāpajjati, āpatti saṅghādisesassa, ājīvahetu ājīvakāraṇā yo te vihāre vasati, so bhikkhu arahāti bhaṇati, paṭivijānantassa āpatti thullaccayassa, ājīvahetu ājīvakāraṇā bhikkhu paṇītabhojanāni agilāno attano atthāya viññāpetvā bhuñjati, āpatti pācittiyassa, ājīvahetu ājīvakāraṇā bhikkhunī paṇītabhojanāni agilānā attano atthāya viññāpetvā bhuñjati, āpatti pāṭidesanīyassa, ājīvahetu ājīvakāraṇā bhikkhu sūpaṃ vā odanaṃ vā agilāno attano atthāya viññāpetvā bhuñjati, āpatti dukkaṭassa, ājīvavipattipaccayā imā cha āpattiyo āpajjatīti evaṃ parivārapāḷiyaṃ (pari. 287) dassitānaṃ channaṃ sikkhāpadānaṃ vasena. Diṭṭhivipattiājīvavipattīhi codentopi tammūlikāya āpattiyā eva codeti.
Của hai tội nặng là của các tội Bất Cộng Trụ và Tăng Tàn. Theo các tội còn lại là theo năm loại tội nhẹ. Mười loại tà kiến là “không có quả báo của việc cho đi,” v.v. Quan điểm diễn tiến theo cách “thế giới là thường hằng, thế giới là vô thường,” v.v. được gọi là kiến chấp một bên vì nó chấp vào một trong hai cực đoan là thường kiến và đoạn kiến. Theo sáu điều học được chế định vì lý do sinh kế là: vì lý do sinh kế, vì nguyên nhân sinh kế, người có ước muốn xấu xa, bị ước muốn chế ngự, khoe khoang về pháp thượng nhân không có, không thật, thì phạm tội Bất Cộng Trụ; vì lý do sinh kế, vì nguyên nhân sinh kế, thực hiện việc môi giới, thì phạm tội Tăng Tàn; vì lý do sinh kế, vì nguyên nhân sinh kế, nói rằng: “vị Tỳ-khưu nào ở trong tu viện của ông, vị ấy là A-la-hán,” đối với người hiểu rõ thì phạm tội Trọng Tội; vì lý do sinh kế, vì nguyên nhân sinh kế, vị Tỳ-khưu không bệnh, xin các món ăn ngon vì lợi ích của mình rồi ăn, thì phạm tội Ưng Đối Trị; vì lý do sinh kế, vì nguyên nhân sinh kế, vị Tỳ-khưu-ni không bệnh, xin các món ăn ngon vì lợi ích của mình rồi ăn, thì phạm tội Ưng Phát Lộ; vì lý do sinh kế, vì nguyên nhân sinh kế, vị Tỳ-khưu không bệnh, xin canh hoặc cơm vì lợi ích của mình rồi ăn, thì phạm tội Tác Ác. Do duyên là sự bại hoại về sinh kế mà phạm sáu tội này, theo sáu điều học đã được chỉ ra trong Pāḷi trong bộ Parivāra (Pari. 287). Ngay cả người tố cáo bằng tà kiến và sự bại hoại về sinh kế cũng là tố cáo bằng tội lỗi có gốc rễ từ đó.

‘‘Kasmā maṃ na vandasī’’ti pucchite ‘‘assamaṇosi asakyaputtiyosī’’ti avandanakāraṇassa vuttattā antimavatthuṃ ajjhāpanno na vanditabboti vadanti. Codetukāmatāya eva avanditvā attanā vattabbassa vuttamatthaṃ ṭhapetvā avandiyabhāve taṃ kāraṇaṃ na hotīti cūḷagaṇṭhipade majjhimagaṇṭhipade ca vuttaṃ. Antimavatthuṃ ajjhāpannassa avandanīyesu avuttattā tena saddhiṃ sayantassa sahaseyyāpattiyā abhāvato tassa ca paṭiggahaṇassa ruhanato tadeva yuttataranti viññāyati. Kiñcāpi yāva so bhikkhubhāvaṃ paṭijānāti, tāva vanditabbo. Yadā pana ‘‘assamaṇomhī’’ti paṭijānāti, tadā na vanditabboti ayamettha viseso veditabbo. Antimavatthuṃ ajjhāpannassa hi bhikkhubhāvaṃ paṭijānantasseva bhikkhubhāvo, na tato paraṃ. Bhikkhubhāvaṃ appaṭijānanto hi anupasampannapakkhaṃ bhajati. Yasmā āmisaṃ dento attano icchitaṭṭhāneyeva deti, tasmā paṭipāṭiyā nisinnānaṃ yāgubhattādīni dentena ekassa codetukāmatāya adinnepi codanā nāma na hotīti āha ‘‘na tāvatā codanā hotī’’ti.
Khi được hỏi: “tại sao ngươi không đảnh lễ ta?”, vì lý do không đảnh lễ đã được nói là “ngươi không phải là sa-môn, không phải là con của Thích-ca,” nên người ta nói rằng người đã phạm tội Bất Cộng Trụ thì không cần phải đảnh lễ. Trong sách lược giải Nhỏ và sách lược giải Trung đã nói rằng do chỉ có ý muốn tố cáo, sau khi đã đặt ý định cho điều mình muốn nói, việc không đảnh lễ không phải là lý do cho điều đó. Có thể thấy rằng điều đó hợp lý hơn, vì người đã phạm tội Bất Cộng Trụ không được nói đến trong số những người không cần đảnh lễ, vì không có tội ngủ chung khi ngủ cùng với người đó, và vì việc nhận của người đó được xem là hợp lệ. Mặc dù, chừng nào vị ấy còn tự nhận mình là Tỳ-khưu, thì vẫn phải đảnh lễ. Tuy nhiên, khi vị ấy tự nhận rằng: “tôi không phải là sa-môn,” thì không cần phải đảnh lễ. Ở đây, cần phải hiểu sự khác biệt này. Thật vậy, đối với người đã phạm tội Bất Cộng Trụ, tư cách Tỳ-khưu chỉ tồn tại khi vị ấy còn tự nhận mình là Tỳ-khưu, không hơn. Thật vậy, người không tự nhận mình là Tỳ-khưu thì thuộc về phía người không thọ cụ túc giới. Vì người cho vật thực thì cho ở nơi mình muốn, do đó, khi phân phát cháo, cơm, v.v. cho những người ngồi theo thứ tự, ngay cả khi không cho một người vì có ý muốn tố cáo, thì cũng không được gọi là một sự tố cáo. Do đó, (chú giải) nói: “chừng đó chưa phải là một sự tố cáo.”

Tiṃsānīti tiṃsa etesamatthīti tiṃsāni, tiṃsavantānīti attho, tiṃsādhikānīti vuttaṃ hoti. Guṇavacanattā taddhitalopaṃ katvā ‘‘tiṃsānī’’ti vuttaṃ. Atha vā tiṃsa codanā adhikā etesūti tiṃsāni. Tasmiṃ adhikamiti ḍakārapaccaye sati rūpamidaṃ daṭṭhabbaṃ. Navutānīti etthāpi eseva nayo.
Ba mươi, có ba mươi ở nơi chúng nên là `tiṃsāni`, có nghĩa là có ba mươi, có nghĩa là đã nói là hơn ba mươi. Do là một tính từ, sau khi đã lược bỏ hậu tố taddhita, đã được nói là “tiṃsāni.” Hoặc, ba mươi sự tố cáo là phần hơn ở nơi chúng, nên là `tiṃsāni`. Cần phải hiểu đây là hình thức khi có hậu tố `ḍa` với ý nghĩa ‘hơn trong đó.’ Về từ chín mươi, ở đây cách này cũng tương tự.

Ubbāhikāya taṃ adhikaraṇaṃ vinicchinitabbanti ubbāhikāya sammatehi taṃ adhikaraṇaṃ vinicchinitabbaṃ. Alajjussannāya hi parisāya dasahaṅgehi samannāgato bhikkhu ubbāhikāya sammannitabbo. ‘‘Sīlavā hoti pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno’’tiādinā samathakkhandhake (cūḷava. 231) vuttadasaṅgasampattiyā samannāgatā dve tayo bhikkhū uccinitvā tattheva vuttāya ñattidutiyakammavācāya sammannitabbā. Evaṃ sammatehi pana tehi bhikkhūhi visuṃ vā nisīditvā tassāyeva vā parisāya ‘‘aññehi na kiñci kathetabba’’nti sāvetvā taṃ adhikaraṇaṃ vinicchinitabbaṃ. Tumhākanti cuditakacodake sandhāya vuttaṃ.
Vụ việc đó phải được giải quyết bằng một ủy ban có nghĩa là vụ việc đó phải được giải quyết bởi những người được ủy ban chấp thuận. Thật vậy, trong một hội chúng có nhiều người không biết hổ thẹn, một vị Tỳ-khưu có đủ mười yếu tố phải được chấp thuận vào ủy ban. Hai hoặc ba vị Tỳ-khưu có đủ mười yếu tố đã được nói trong Samathakkhandhaka (Cūḷava. 231) như “có giới hạnh, sống với sự chế ngự của Pātimokkha, có đầy đủ oai nghi và nơi hành xứ,” v.v. phải được chọn ra và chấp thuận bằng một Tăng sự nhị pháp đã được nói đến ở chính nơi đó. Sau đó, những vị Tỳ-khưu đã được chấp thuận như vậy phải ngồi riêng hoặc ngay trong hội chúng đó, sau khi thông báo rằng: “những người khác không được nói gì,” rồi giải quyết vụ việc đó. Của các người được nói liên quan đến người bị tố cáo và người tố cáo.

Kimhīti kismiṃ vatthusmiṃ. Kimhi nampi na jānāsīti kimhi nanti vacanampi na jānāsi. Nāssa anuyogo dātabboti nāssa pucchā paṭipucchā dātabbā. ‘‘Dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāyā’’tiādivacanato ‘‘alajjīniggahatthāya…pe… paññatta’’nti vuttaṃ. Ehitīti āgamissati. Diṭṭhasantānenāti diṭṭhasambandhena, diṭṭhaniyāmenāti vuttaṃ hoti. Vivādavatthusaṅkhāte atthe paccatthikā atthappaccatthikā. Saññaṃ datvāti tesaṃ kathaṃ pacchinditvā attano vacanaṃ sādhetuṃ saññaṃ katvā. Asuddhasaññāya uppannattā ‘‘ananucchaviko’’ti āha. Ekasambhogaparibhogāti idaṃ attano santikā tesaṃ mocanatthaṃ vuttaṃ, na pana tesaṃ aññamaññasambhoge yojanatthaṃ. Vinicchayo na kātabboti ‘‘amhākaṃ vacane aṭṭhātabbasabhāvā ete alajjino’’ti jānantena vinicchayo na kātabbo.
Về việc gì là về đối tượng nào. Ngươi cũng không biết ‘về việc gì’ à có nghĩa là ngươi cũng không biết cả câu nói ‘về việc gì’. Không nên tra hỏi người ấy là không nên hỏi và hỏi lại người ấy. Do câu nói “để khiển trách những người khó dạy,” v.v., nên đã nói là “để khiển trách những người không biết hổ thẹn… cho đến… đã được chế định.” Sẽ đến là sẽ đến. Bằng sự liên quan đã thấy là bằng sự liên hệ đã thấy, có nghĩa là đã nói rằng bằng quy tắc đã thấy. Những người đối nghịch trong một vấn đề tranh cãi được gọi là người đối nghịch trong vấn đề. Sau khi ra dấu hiệu là sau khi đã ra dấu hiệu để cắt ngang lời nói của họ và để xác lập lời nói của mình. Do đã khởi lên với tưởng không trong sạch, nên (chú giải) nói: “không thích hợp.” Câu “có sự hưởng thụ và sử dụng chung” được nói để giải thoát họ khỏi mình, chứ không phải để kết hợp họ trong sự hưởng thụ chung với nhau. Không nên giải quyết có nghĩa là người biết rằng “những người không biết hổ thẹn này có bản chất không đứng vững trên lời nói của chúng ta” thì không nên giải quyết.

Viraddhaṃ hotīti attanā katadosappaṭicchādanatthaṃ kañci musāvādaṃ katvā viraddhaṃ hoti. Paṭiññaṃ na detīti sace mayā katadosaṃ vakkhāmi, mayhaṃ anuvattakā bhijjissantīti ‘‘kataṃ mayā’’ti paṭiññaṃ na deti. Suddho hotūti tesaṃ vacanena suddho nāma hotu, tesaṃ vacanena ekadvevāramassa vinicchayo dātabboti adhippāyo. Ṭhāne na tiṭṭhatīti lajjiṭṭhāne na tiṭṭhati. Vinicchayo na dātabboti alajjibhāvamāpannattā na dātabbo.
Bị mâu thuẫn là bị mâu thuẫn do đã nói dối điều gì đó để che đậy lỗi lầm mình đã làm. Không thú nhận là không thú nhận rằng “tôi đã làm” vì nghĩ rằng: “nếu ta nói ra lỗi lầm ta đã làm, những người theo ta sẽ bị chia rẽ.” Hãy để cho trong sạch có nghĩa là hãy để cho được xem là trong sạch bằng lời nói của họ; ý nghĩa là sự giải quyết của người ấy phải được thực hiện một hoặc hai lần bằng lời nói của họ. Không đứng vững trên lập trường là không đứng vững trên lập trường của người biết hổ thẹn. Không nên giải quyết là không nên giải quyết vì đã trở thành người không biết hổ thẹn.

Amūlakampi samūlakampi mūlaṃ gahetvā vadantīti āha ‘‘dve mūlānī’’ti. Kālena vakkhāmītiādīsu eko ekaṃ okāsaṃ kāretvā codento kālena vadati nāma. Saṅghamajjhe gaṇamajjhe salākaggayāguaggavitakkamāḷakabhikkhācāramaggaāsanasālādīsu upaṭṭhākehi parivāritakkhaṇe vā codento akālena vadati nāma. Tacchena vadanto bhūtena vadati nāma. ‘‘Ambho mahallaka-parisāvacara-paṃsukūlika-dhammakathika-patirūpaṃ tava ida’’nti vadanto pharusena vadati nāma. Kāraṇanissitaṃ pana katvā ‘‘bhante mahallakāttha, parisāvacarā paṃsukūlikā dhammakathikāttha, patirūpaṃ tumhākaṃ ida’’nti vadanto saṇhena vadati nāma. Kāraṇanissitaṃ katvā vadanto atthasañhitena vadati nāma. Mettacitto vakkhāmi, no dosantaroti mettacittaṃ upaṭṭhāpetvā vakkhāmi, na duṭṭhacitto hutvā. Pannarasasu dhammesūti parisuddhakāyasamācāratā, parisuddhavacīsamācāratā, sabrahmacārīsu mettacittatā, bahussutatā, ubhinnaṃ pātimokkhānaṃ vitthārena svāgatasuvibhattasuppavattasuvinicchitatā, ‘‘kālena vakkhāmī’’tiādinā vuttapañcadhammā, kāruññatā, hitesitā, anukampatā, āpattivuṭṭhānatā, vinayapurekkhāratāti imesu pannarasasu dhammesu. Tattha kāruññatāti kāruṇikabhāvo. Iminā karuṇā ca karuṇāpubbabhāgo ca dassito. Hitesitāti hitagavesanatā. Anukampatāti tena hitena saṃyojanā. Dvīhipi mettā ca mettāpubbabhāgo ca dassito. Āpattivuṭṭhānatāti āpattito vuṭṭhāpetvā suddhante patiṭṭhāpanā. Vatthuṃ codetvā sāretvā paṭiññaṃ āropetvā yathāpaṭiññāya kammakaraṇaṃ vinayapurekkhāratā nāma. Sacce ca akuppe cāti vacīsacce ca akuppatāya ca. Cuditakena hi saccañca vattabbaṃ, kopo ca na kātabbo, neva attanā kujjhitabbo, na paro ghaṭṭetabboti attho.
Vì họ nói sau khi đã nắm lấy gốc rễ dù có căn cứ hay vô căn cứ, nên (chú giải) nói: “hai gốc rễ.” Trong các câu “tôi sẽ nói đúng lúc,” v.v., người nào tạo ra một cơ hội và tố cáo thì được gọi là nói đúng lúc. Người nào tố cáo giữa Tăng chúng, giữa nhóm, ở nhà phát phiếu, nhà phát cháo, nơi kinh hành, trên đường đi khất thực, trong giảng đường, v.v., hoặc vào lúc được các người hộ độ vây quanh thì được gọi là nói không đúng lúc. Người nói bằng sự thật thì được gọi là nói bằng sự thật. Người nói rằng: “này ông lớn, người thường lui tới hội chúng, người mặc y phấn tảo, người thuyết pháp, điều này có hợp với ông không?” thì được gọi là nói một cách thô lỗ. Tuy nhiên, người nói sau khi đã dựa vào lý do rằng: “thưa ngài, ngài là người lớn, là người thường lui tới hội chúng, là người mặc y phấn tảo, là người thuyết pháp, điều này có hợp với các ngài không?” thì được gọi là nói một cách nhẹ nhàng. Người nói sau khi đã dựa vào lý do thì được gọi là nói điều có lợi ích. Tôi sẽ nói với tâm từ, không phải với tâm sân là tôi sẽ nói sau khi đã thiết lập tâm từ, không phải với tâm sân hận. Trong mười lăm pháp là trong mười lăm pháp này: có thân hành trong sạch, có khẩu hành trong sạch, có tâm từ đối với các vị đồng phạm hạnh, là người đa văn, thông thạo và phân biệt rõ ràng, thực hành tốt, và quyết đoán chắc chắn về cả hai bộ Pātimokkha một cách rộng rãi, năm pháp đã được nói bằng câu “tôi sẽ nói đúng lúc,” v.v., lòng bi, lòng mong muốn lợi ích, lòng thương xót, khả năng giúp xuất tội, và sự tôn trọng luật. Trong đó, lòng bi là trạng thái có lòng từ bi. Bằng điều này, cả lòng bi và giai đoạn đầu của lòng bi đã được chỉ ra. Lòng mong muốn lợi ích là sự tìm kiếm lợi ích. Lòng thương xót là sự kết hợp với lợi ích đó. Bằng cả hai, cả tâm từ và giai đoạn đầu của tâm từ đã được chỉ ra. Khả năng giúp xuất tội là giúp ra khỏi tội và thiết lập trong sự trong sạch. Việc tố cáo đối tượng, nhắc nhở, khiến cho thú nhận, và thực hiện Tăng sự theo như đã thú nhận được gọi là sự tôn trọng luật. Trong sự thật và trong sự không tức giận là trong sự thật của lời nói và trong sự không tức giận. Thật vậy, người bị tố cáo phải nói sự thật và không được tức giận; ý nghĩa là không được tự mình nổi giận và không được làm tổn thương người khác.

Bhummappattiyāti bhummavacane sampatte, bhummatthe idaṃ upayogavacananti vuttaṃ hoti. Adhikarīyanti etthāti adhikaraṇāni. Ke adhikarīyanti? Samathā. Kathaṃ adhikarīyanti? Samanavasena. Adhikaraṇaṃ samenti vūpasamentīti hi samathā. Atha vā samanatthāya pavattamānehi samathehi adhikātabbānīti adhikaraṇāni. Yathā hi samanavasena samathānaṃ vivādādīsu adhikattubhāvo, evaṃ vivādādīnaṃ tehi adhikattabbatāpi. Tenāha ‘‘samathehi adhikaraṇīyatā’’ti. Iminā adhikaraṇasaddassa kammasādhanatā vuttā. Gāhanti ‘‘asukaṃ codessāmī’’ti manasā codanāya gahaṇaṃ. Cetananti ‘‘codessāmī’’ti uppannacetanaṃ. Akkhantinti cuditake uppannaṃ akkhantiṃ. Vohāranti codanāvasappattavacanaṃ. Paṇṇattinti codanāvasappavattanāmapaṇṇattiṃ. Attādānaṃ gahetvāti codanaṃ manasā gahetvā. Taṃ adhikaraṇanti taṃ gāhalakkhaṇaṃ adhikaraṇaṃ.
Khi sở hữu cách được dùng là khi lời nói ở sở hữu cách được dùng; có nghĩa là đã nói rằng đây là cách dùng chỉ định với ý nghĩa sở thuộc. Chúng được giải quyết ở đó, nên là các vụ việc. Ai giải quyết? Các pháp dàn xếp. Giải quyết như thế nào? Bằng cách làm cho lắng dịu. Thật vậy, chúng làm cho vụ việc lắng dịu, yên ổn, nên là các pháp dàn xếp. Hoặc, chúng phải được giải quyết bởi các pháp dàn xếp được diễn tiến để làm cho lắng dịu, nên là các vụ việc. Thật vậy, giống như các pháp dàn xếp có vai trò là người giải quyết trong các vụ tranh cãi, v.v. bằng cách làm cho lắng dịu, cũng vậy, các vụ tranh cãi, v.v. cũng có tính chất là phải được giải quyết bởi chúng. Do đó, (chú giải) nói: “tính chất phải được giải quyết bởi các pháp dàn xếp.” Bằng điều này, dạng bị động của từ ‘adhikaraṇa’ đã được nói đến. Sự nắm bắt là sự nắm bắt sự tố cáo bằng tâm rằng: “tôi sẽ tố cáo người tên là thế này.” Tác ý là tác ý khởi lên rằng: “tôi sẽ tố cáo.” Sự không kham nhẫn là sự không kham nhẫn khởi lên ở người bị tố cáo. Lời nói là lời nói thuộc về sự tố cáo. Sự chế định là sự chế định tên gọi thuộc về sự tố cáo. Sau khi đã nắm lấy sự tự nhận là sau khi đã nắm lấy sự tố cáo bằng tâm. Vụ việc đó là vụ việc đó có đặc điểm là sự nắm bắt.

Tasmāpaṇṇatti adhikaraṇanti aṭṭhakathāsu katasanniṭṭhānaṃ dassetvā idāni tampi na yuttanti dassetuṃ ‘‘taṃ paneta’’ntiādimāha. Teti aṭṭhakathācariyā. Pārājikadhammoti pārājikāpatti. Accantaakusalattāti lokavajjabhāvato pārājikāpattiyā ekantaakusalattā. Yāya paṇṇattiyāti nāmapaṇṇattiṃ sandhāya vadati. Abhilāpenāti tasseva vevacanaṃ. Paññattoti vohāravasena kathito. Adhikaraṇe pavattattā ca adhikaraṇanti mañcaṭṭhesu mañcavohāro viya. Yasmā amūlakena codento cuditake puggale taṃ adhikaraṇaṃ natthīti sallakkheti, tasmā tassa vacanaṃ abhidheyyasuññanti āha ‘‘sabhāvato natthī’’ti. Tañca kho idhevāti tañca yathāvuttapariyāyena paṇṇattiyā adhikaraṇabhāvo idheva imasmiṃyeva sikkhāpade. ‘‘Mātāpi puttena vivadatī’’tiādinayappavattassa vivādassa adhikaraṇabhāvo na sambhavati samathehi anadhikaraṇīyattāti āha ‘‘idhekacco vivādo’’ti.
Do đó, sự chế định là một vụ việc, sau khi đã chỉ ra kết luận đã được đưa ra trong các bộ chú giải, bây giờ để chỉ ra rằng điều đó cũng không hợp lý, (tác giả) nói rằng: “tuy nhiên, điều đó,” v.v. Họ là các vị Giáo Thọ Sư soạn chú giải. Pháp Bất Cộng Trụ là tội Bất Cộng Trụ. Do hoàn toàn bất thiện là do tội Bất Cộng Trụ hoàn toàn bất thiện vì là điều bị thế gian chê cười. Bởi sự chế định nào là nói liên quan đến sự chế định tên gọi. Bằng lời nói là từ đồng nghĩa của từ đó. Được chế định là được nói đến theo cách nói thông thường. Và là vụ việc do diễn tiến trong một vụ việc, giống như cách nói ‘giường’ đối với các phần của giường. Vì người tố cáo một cách vô căn cứ nhận thấy rằng vụ việc đó không có ở người bị tố cáo, do đó, lời nói của người ấy là trống rỗng về đối tượng được chỉ định. (Chú giải) nói: “về bản chất là không có.” Và điều đó chỉ ở đây có nghĩa là và tính chất là một vụ việc của sự chế định theo cách đã được nói đến chỉ có ở đây, trong chính điều học này. Vì sự tranh cãi diễn tiến theo cách “mẹ cũng tranh cãi với con,” v.v. không thể có tính chất là một vụ việc vì nó không thể được giải quyết bằng các pháp dàn xếp. Do đó, (chú giải) nói: “ở đây, một số sự tranh cãi.”

Aṭṭhārasabhedakaravatthūnīti lakkhaṇavacanametaṃ yathā ‘‘yadi me byādhitā daheyyuṃ, dātabbamidamosadha’’nti, tasmā tesu aññataraññataraṃ nissāya uppanno vivādo ‘‘aṭṭhārasabhedakaravatthūni nissāya uppanno’’ti vuccati. Anuvādoti upavadanā ceva codanā ca. Tattha upavadanā nāma akkoso. Pañcapi āpattikkhandhāti mātikāya āgatā pañca āpattikkhandhā. Sattāti teyeva pañca, vibhaṅge āgatā thullaccayadubbhāsitāpattiyo dveti satta. Kiccayatāti kattabbatā. Karaṇīyatāti tasseva vevacanaṃ. Ubhayenapi apalokanādisaṅghakammaṃyeva dasseti, tenāha ‘‘apalokanakamma’’ntiādi.
Mười tám đối tượng gây chia rẽ, đây là một lời nói có tính chất định nghĩa, giống như “nếu các chứng bệnh của tôi bùng phát, đây là thuốc phải được cho,” do đó, sự tranh cãi khởi lên do nương vào một trong số chúng được gọi là “sự tranh cãi khởi lên do nương vào mười tám đối tượng gây chia rẽ.” Sự khiển trách là sự mắng nhiếc và sự tố cáo. Trong đó, sự mắng nhiếc được gọi là sự chửi rủa. Năm nhóm tội là năm nhóm tội đã xuất hiện trong đề mục. Bảy là chính năm nhóm đó, cộng với hai tội Trọng Tội và Lời Nói Xấu đã xuất hiện trong phần phân tích, thành bảy. Việc cần phải làm là điều phải được làm. Điều phải được làm là từ đồng nghĩa của từ đó. Bằng cả hai, (chú giải) chỉ ra chính Tăng sự như việc xin phép, v.v. Do đó, (chú giải) nói: “Tăng sự xin phép,” v.v.

Āpattādhikaraṇaṃ ṭhapetvā sesādhikaraṇehi codanāyeva natthīti āha ‘‘imasmiṃ panatthe…pe… āpattādhikaraṇameva adhippeta’’nti. Sapadānukkamaniddesassāti padānaṃ anukkamena niddeso padānukkamaniddeso, padabhājanassetaṃ adhivacanaṃ. Tena saha vattamānaṃ sapadānukkamaniddesaṃ, sikkhāpadaṃ, tassa padānukkamaniddesasahitassa sikkhāpadassāti attho, padabhājanasahitassāti vuttaṃ hoti.
Vì không có sự tố cáo đối với các vụ việc còn lại ngoại trừ vụ việc liên quan đến tội, nên (chú giải) nói: “tuy nhiên, trong ý nghĩa này… cho đến… chỉ vụ việc liên quan đến tội mới được đề cập.” Của phần giải thích theo thứ tự từ ngữ, sự giải thích theo thứ tự của các từ là phần giải thích theo thứ tự từ ngữ; đây là tên gọi khác của phần phân tích từ ngữ. Cùng với nó là ‘sapadānukkamaniddesaṃ,’ (tức là) điều học; có nghĩa là của điều học cùng với phần giải thích theo thứ tự từ ngữ của nó; có nghĩa là đã nói rằng cùng với phần phân tích từ ngữ.

Assāti kattuatthe sāmivacanaṃ, anenāti attho. Tenāha ‘‘etena codakenā’’tiādi. Idhāgatesūti imasmiṃ sikkhāpade āgatesu. Aññatra āgatesūti ito aññatra omasavādādisikkhāpadapāḷiyaṃ āgatesu. Dussīloti nissīlo sīlavirahito. Pāpadhammoti dussīlattā eva hīnajjhāsayatāya lāmakasabhāvo. Asucisaṅkassarasamācāroti aparisuddhakāyakammāditāya asuci hutvā saṅkāya saritabbasamācāro. Dussīlo hi kiñcideva asāruppaṃ disvā ‘‘idaṃ asukena kataṃ bhavissatī’’ti paresaṃ āsaṅkanīyo hoti, kenacideva vā karaṇīyena mantayante bhikkhū disvā ‘‘kacci nu kho ime mayā katakammaṃ jānitvā mantentī’’ti attanoyeva saṅkāya saritabbasamācāro. Paṭicchannakammantoti lajjitabbatāya paṭicchādetabbakammanto. Assamaṇoti na samaṇo. Salākaggahaṇādīsu ‘‘ahampi samaṇo’’ti micchāpaṭiññāya samaṇapaṭiñño. Aseṭṭhacāritāya abrahmacārī. Uposathādīsu ‘‘ahampi brahmacārī’’ti micchāpaṭiññāya brahmacāripaṭiñño. Pūtinā kammena sīlavipattiyā anto anupaviṭṭhattā antopūti. Chadvārehi rāgādikilesānuvassanena tintattā avassuto. Sañjātarāgādikacavarattā sīlavantehi chaḍḍetabbattā ca kasambujāto.
Của người ấy là sở hữu cách được dùng với ý nghĩa chủ thể, có nghĩa là ‘bởi người này.’ Do đó, (chú giải) nói: “bởi người tố cáo này,” v.v. Trong những tội đã xuất hiện ở đây là trong những tội đã xuất hiện trong điều học này. Trong những tội đã xuất hiện ở nơi khác là trong những tội đã xuất hiện trong Pāḷi của các điều học khác như điều học về mắng nhiếc, v.v. Người vô giới hạnh là người không có giới, thiếu giới hạnh. Người có pháp ác là người có bản chất thấp hèn do có ý hướng thấp kém vì là người vô giới hạnh. Người có hành vi không trong sạch, đáng nghi ngờ, và đáng nhớ lại là người có hành vi phải được nhớ lại với sự nghi ngờ, do đã không trong sạch vì có thân nghiệp, v.v. không thanh tịnh. Thật vậy, người vô giới hạnh, khi thấy một điều gì đó không thích hợp, sẽ bị người khác nghi ngờ rằng: “việc này chắc là do người tên là thế này đã làm.” Hoặc khi thấy các Tỳ-khưu đang bàn bạc về một công việc nào đó, thì tự mình nghi ngờ và nhớ lại hành vi của mình rằng: “không biết những vị này có biết việc mình đã làm và đang bàn bạc không?” Người có hành động che giấu là người có hành động phải được che giấu vì đáng xấu hổ. Không phải sa-môn là không phải là sa-môn. Trong việc nhận phiếu, v.v., tự nhận một cách sai lầm rằng: “tôi cũng là sa-môn,” nên là người tự nhận là sa-môn. Do có hành vi không cao thượng, nên là người không sống phạm hạnh. Trong các ngày Bố-tát, v.v., tự nhận một cách sai lầm rằng: “tôi cũng là người sống phạm hạnh,” nên là người tự nhận là người sống phạm hạnh. Do đã đi vào bên trong bởi hành vi thối nát, bởi sự bại hoại về giới, nên là người thối nát bên trong. Do đã bị thấm đẫm bởi các phiền não như tham, v.v. chảy ra từ sáu cửa, nên là người bị rỉ chảy. Do đã sinh ra rác rưởi là tham, v.v. và do phải bị những người có giới hạnh vứt bỏ, nên là người sinh ra như rác rưởi.

Idha pāḷiyanti imasmiṃ sikkhāpade pāḷiyaṃ. Jeṭṭhabbatikoti kalidevīvataniyutto. Kalidevī kira sirīdeviyā jeṭṭhā, tasmā tassā vatadharo ‘‘jeṭṭhabbatiko’’ti vuccati. Taṃ pana vataṃ samādiyitvā pūrento sakalasarīre masiṃ makkhetvā kākapattāni muṭṭhiyaṃ katvā kalideviṃ phalake likhāpetvā taṃ kājakoṭiyaṃ bandhitvā thomento vicarati. Yadaggenāti yattakena. Tadaggenāti tattakena. No kappetītiādi vematikabhāvadīpanatthameva vuttanti mahāpadumattherassa adhippāyo. Dutiyatthero pana ‘‘no kappeti, nassarati, pamuṭṭho’’ti etehi vematikabhāvāvatthāya adīpanato añño vematikabhāvo, aññāni no kappanādīnīti catunnampi vibhāgena atthaṃ dasseti, tasmā tassa vādo yuttataroti pacchā vutto. Dassane vematiko hotīti puggale ñātepi tassa kiriyāya sammā adiṭṭhabhāvato cirakālātikkamato vā taṃ kiriyaṃ karonto ‘‘esa mayā diṭṭho vā, na vā’’ti dassane vematiko hoti. Puggale vematiko hotīti tena katakamme ñātepi taṃ kammaṃ karontassa sammā adiṭṭhabhāvato kālantarabhāvato vā ‘‘tassa kammassa kārako ayaṃ vā, no’’ti puggale vematiko hoti.
Ở đây, trong Pāḷi là trong Pāḷi của điều học này. Người giữ hạnh của chị cả là người thực hành hạnh của nữ thần Kalī. Nghe nói rằng nữ thần Kalī là chị cả của nữ thần Sirī, do đó người giữ hạnh của bà được gọi là “jeṭṭhabbatiko”. Người nào nhận và thực hành trọn vẹn hạnh đó thì bôi mực lên khắp cơ thể, cầm một nắm lông quạ trong tay, cho vẽ hình nữ thần Kalī lên một tấm ván, buộc nó vào một cái giỏ đựng đồ trang điểm và đi lại ca tụng. Chừng nào là bao nhiêu. Chừng đó là bấy nhiêu. Ý kiến của Trưởng lão Mahāpaduma là các câu “không tin,” v.v. chỉ được nói để chỉ ra trạng thái nghi ngờ. Tuy nhiên, vị trưởng lão thứ hai lại chỉ ra ý nghĩa bằng cách phân chia cả bốn từ, rằng trạng thái nghi ngờ là một chuyện khác, còn việc không tin, v.v. là những chuyện khác, vì chúng không chỉ ra trạng thái nghi ngờ bằng các từ “không tin, không nhớ, đã quên.” Do đó, quan điểm của vị ấy hợp lý hơn nên đã được nói sau. Nghi ngờ về cái thấy có nghĩa là mặc dù đã biết người đó, nhưng do không thấy rõ hành động của người đó, hoặc do thời gian đã trôi qua lâu, nên khi người đó làm hành động đó, vị ấy nghi ngờ về cái thấy rằng: “người này có phải là người ta đã thấy hay không?” Nghi ngờ về người có nghĩa là mặc dù đã biết hành động do người đó đã làm, nhưng do không thấy rõ người làm hành động đó, hoặc do thời gian khác, nên vị ấy nghi ngờ về người rằng: “người làm hành động đó có phải là người này hay không?”

389. ‘‘Tajjanīyakammādisattavidhampi kammaṃ karissāmā’’ti āpattiyā codentassa adhippāyo kammādhippāyo. ‘‘Āpattito vuṭṭhāpessāmī’’ti adhippāyo vuṭṭhānādhippāyoAnuddhaṃsentassāti iminā cāvanādhippāyaṃ dasseti. Akkosādhippāyena vadantassa pācittiyanti akkosādhippāyena sattahipi āpattikkhandhehi sammukhā vadantassa pācittiyaṃ. Dukkaṭanti akkosādhippāyena vadantassa dukkaṭaṃ.
389. Ý định của người tố cáo về một tội rằng: “chúng ta sẽ thực hiện cả bảy loại Tăng sự như khiển trách, v.v.” là ý định về Tăng sự. Ý định rằng: “tôi sẽ giúp ra khỏi tội” là ý định giúp xuất tội. Bằng câu “của người vu khống,” (chú giải) chỉ ra ý định làm cho rời đi. Đối với người nói với ý định chửi rủa thì phạm tội Ưng Đối Trị là đối với người nói đối mặt bằng cả bảy nhóm tội với ý định chửi rủa thì phạm tội Ưng Đối Trị. Tội Tác Ác là tội Tác Ác đối với người nói với ý định chửi rủa.

‘‘Evaṃ saṃvaddhā hi tassa bhagavato parisā yadidaṃ aññamaññavacanena aññamaññavuṭṭhāpanenā’’ti vacanato kurundaṭṭhakathānayaṃ patiṭṭhapento ‘‘kurundiyaṃpanā’’tiādimāha . Sabbatthevāti sabbaaṭṭhakathāsu. Yya-kāre sampatte re-kāro atikkanto nāma hotīti āha ‘‘re-kāre anatikkante’’ti. Uposathassa ñattikammabhāvato ñattiyā samattāya uposatho kato nāma hotīti āha ‘‘yya-kāre sampatte na labbhatī’’ti.
Do câu nói “Thật vậy, hội chúng của Đức Thế Tôn đó đã tăng trưởng như vậy, đó là bằng cách nói cho nhau nghe, bằng cách giúp nhau đứng dậy,” khi thiết lập cách giải thích của Kurundaṭṭhakathā, (tác giả) nói rằng: “tuy nhiên, trong Kurundī,” v.v. Ở khắp mọi nơi là trong tất cả các bộ chú giải. Khi đã đến mẫu tự `yya`, mẫu tự `re` được gọi là đã bị bỏ qua. Do đó, (chú giải) nói: “khi mẫu tự `re` chưa bị bỏ qua.” Do việc Bố-tát là một Tăng sự nhị pháp, nên khi Tăng sự đã hoàn tất, việc Bố-tát được gọi là đã được làm. Do đó, (chú giải) nói: “khi đã đến mẫu tự `yya` thì không được.”

Idañcidañcāti ‘‘pāṇātipātaṃ adinnādāna’’ntiādiṃ. ‘‘Asuko ca asuko ca assamaṇo anupāsako’’ti akkosādhippāyena parammukhā vadantassa dukkaṭaṃ, sammukhā vadantassa pana pācittiyameva. Yathā ‘‘asūriyaṃ passati kaññā’’ti ettha ‘‘sūriyaṃ na passati kaññā’’ti ayamattho labbhati, evaṃ ‘‘anokāsaṃ kārāpetvā’’ti etthāpi ‘‘okāsaṃ akārāpetvā’’ti ayamattho labbhatīti āha ‘‘yaṃ panā’’tiādi. Yaṃ codeti, tassa upasampannoti saṅkhyūpagamanaṃ, tasmiṃ suddhasaññitā, yena pārājikena codeti, tassa diṭṭhādivasena amūlakatā, cāvanādhippāyena sammukhā codanā, tassa taṅkhaṇavijānananti imānettha pañca aṅgāni.
Điều này và điều này là “việc sát sanh, việc trộm cắp,” v.v. Đối với người nói vắng mặt với ý định chửi rủa rằng: “người tên là thế này và người tên là thế này không phải là sa-môn, không phải là cư sĩ,” thì phạm tội Tác Ác; còn đối với người nói đối mặt thì phạm tội Ưng Đối Trị. Giống như trong câu “cô gái thấy vật không phải mặt trời,” có được ý nghĩa là “cô gái không thấy mặt trời,” cũng vậy, ở câu “sau khi cho làm chỗ không có cơ hội,” cũng có được ý nghĩa là “sau khi không cho làm chỗ có cơ hội.” Do đó, (chú giải) nói: “tuy nhiên, cái gì,” v.v. Đối tượng bị tố cáo là người đã thọ cụ túc giới, có tưởng trong sạch về điều đó, tội Bất Cộng Trụ mà vị ấy tố cáo là vô căn cứ theo cách thấy, v.v., sự tố cáo đối mặt với ý định làm cho rời đi, và sự hiểu rõ ngay lúc đó của người kia – đây là năm yếu tố ở đây.

Paṭhamaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học thứ nhất về việc cố ý vu khống đã kết thúc.

9. Dutiyaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā
9. Giải Thích về Điều Học Thứ Hai Về Việc Cố Ý Vu Khống

391. Navame disvāti ajikāya vippaṭipajjantaṃ chagalakaṃ disvā. Mettiyaṃ bhikkhuninti tassā bhikkhunikālaṃ gahetvā bhūtapubbavohārena voharanti. Veḷuvaneyevāti therassa bhikkhācāravelaṃ aggahetvā tehi vuttabhattuddesavelaṃyeva sandhāya vuttaṃ. Kacci noti kacci nu. Etamatthaṃ ārocesunti aññabhāgiyassa adhikaraṇassa kañcidesaṃ lesamattaṃ upādāya pārājikena dhammena anuddhaṃsitabhāvaṃ ārocesuṃ.
391. Trong điều thứ chín, câu “sau khi thấy” là sau khi thấy con dê đực đang giao phối với con dê cái. Tỳ-khưu-ni Mettiya, người ta dùng cách nói về quá khứ, lấy thời kỳ làm Tỳ-khưu-ni của cô ấy (để gọi tên). Chỉ ở Veḷuvana được nói liên quan đến chính thời điểm chỉ định bữa ăn mà họ đã nói, không xét đến thời gian đi khất thực của vị trưởng lão. Kacci no là kacci nu (có phải chăng). Đã báo cáo việc này có nghĩa là họ đã báo cáo việc đã vu khống bằng một pháp Bất Cộng Trụ, bằng cách lấy một phần nào đó, một cái cớ nhỏ của một vụ việc thuộc phần khác.

Aññabhāgassāti aññakoṭṭhāsassa, therassa manussajātibhikkhubhāvato aññassa tiracchānajātichagalakabhāvasaṅkhātassa koṭṭhāsassāti vuttaṃ hoti. Idanti sāmaññato napuṃsakaniddesena chagalakaṃ niddisati, idaṃ chagalakajātanti attho, ayaṃ chagalakoti vuttaṃ hoti. Adhikaraṇasaddāpekkho vā napuṃsakaniddeso, idaṃ chagalakasaṅkhātaṃ adhikaraṇanti vuttaṃ hoti. Aññabhāgoti yathāvuttatiracchānajātichagalakabhāvasaṅkhāto aññabhāgo, aññakoṭṭhāsoti attho. Assāti chagalakassa. ‘‘Aññabhāgasambandhī aññabhāgiya’’nti paṭhamaviggahassa attho, ‘‘aññabhāgavantaṃ aññabhāgiya’’nti dutiyaviggahassa. Dvīhipi viggahehi aññabhāgiyanti chagalakova vutto. Tiracchānajātichagalakabhāvañca ṭhapetvā paramatthato visuṃ chagalake asatipi ‘‘paṭimāya sarīra’’ntiādīsu viya abhedepi bhedakappanāya pavattalokavohāravasena ‘‘aññabhāgassa idaṃ, aññabhāgo vā assa atthī’’ti vuttaṃ.
Của phần khác là của phần khác; có nghĩa là đã nói rằng của phần được gọi là trạng thái của con dê đực thuộc loài bàng sanh, khác với trạng thái Tỳ-khưu thuộc loài người của vị trưởng lão. Điều này là chỉ cho con dê đực bằng cách chỉ định ở trung tính một cách chung chung, có nghĩa là ‘giống dê đực này,’ có nghĩa là đã nói rằng ‘con dê đực này.’ Hoặc là sự chỉ định ở trung tính phụ thuộc vào từ ‘vụ việc,’ có nghĩa là đã nói rằng ‘vụ việc được gọi là con dê đực này.’ Phần khác là phần khác được gọi là trạng thái của con dê đực thuộc loài bàng sanh như đã nói; có nghĩa là phần khác. Của nó là của con dê đực. Ý nghĩa của cách phân tích thứ nhất là “liên quan đến phần khác là thuộc phần khác”; của cách phân tích thứ hai là “vật có phần khác là thuộc phần khác.” Bằng cả hai cách phân tích, ‘thuộc phần khác’ đều chỉ cho chính con dê đực. Mặc dù về mặt chân đế, ngoài trạng thái là con dê đực thuộc loài bàng sanh ra thì không có con dê đực nào riêng biệt, nhưng đã được nói là “đây là của phần khác, hoặc nó có phần khác” theo cách nói thông thường của thế gian, được diễn tiến bằng cách tưởng tượng ra sự khác biệt ngay cả khi không có sự khác biệt, giống như trong các câu “thân của pho tượng,” v.v.

Idāni dvīhipi viggahehi vuttamatthaṃ vitthāretvā dassento ‘‘yo hi so’’tiādimāha. Soti so chagalako. Tassa ‘‘hotī’’ti iminā sambandho. Tatoti tato manussajātito bhikkhubhāvato ca. So vā aññabhāgoti yathāvuttatiracchānajātichagalakabhāvasaṅkhāto aññabhāgo. Assāti chagalakassa. So chagalako aññabhāgiyasaṅkhātaṃ labhatīti yojetabbaṃ. ‘‘Adhikaraṇanti ādhāro, vatthu adhiṭṭhāna’’nti heṭṭhā vuttamatthaṃ sarūpato dassetuṃ ‘‘yasmā cā’’tiādimāha. Tesanti mettiyabhūmajakānaṃ. Imanti chagalakaṃ. Nāmakaraṇasaññāyāti nāmakaraṇasaṅkhātāya saññāya so chagalako adhikaraṇanti veditabboti yojetabbaṃ. Tañhi sandhāyāti ‘‘avassaṃ tumhehi leso oḍḍito, kiṃ vadatha, kiṃ passitthā’’ti anuyuttehi tehi bhikkhūhi ‘‘chagalakassa vippaṭipattiṃ disvā dabbassa nāmaṃ tassa karimhā’’ti vuttattā tassa nāmakaraṇasaññāya adhiṭṭhānabhūtaṃ taṃ chagalakaṃ sandhāya. Te bhikkhūti te anuyuñjakā bhikkhū. Āpattilesampi puggalasmiṃyeva āropetvā vuttattā ‘‘puggalānaṃyeva lesā’’ti vuttaṃ. Padabhājane pana…pe… veditabbanti iminā nāmakaraṇasaññāya ādhārabhūtassa chagalakasaṅkhātassa adhikaraṇassa avacane kāraṇaṃ vuttaṃ.
Bây giờ, để giải thích rộng ra ý nghĩa đã được nói bằng cả hai cách phân tích, (chú giải) nói rằng: “thật vậy, cái nào,” v.v. là con dê đực đó. Nó có mối liên hệ với từ “là.” Từ đó là từ loài người đó và từ trạng thái Tỳ-khưu đó. Hoặc phần khác đó là phần khác được gọi là trạng thái của con dê đực thuộc loài bàng sanh như đã nói. Của nó là của con dê đực. Cần phải được kết hợp là con dê đực đó nhận được tên gọi là ‘thuộc phần khác.’ Để chỉ ra một cách tóm lược ý nghĩa đã được nói ở dưới rằng: “vụ việc là nền tảng, là đối tượng, là cơ sở,” (chú giải) nói rằng: “và vì,” v.v. Của họ là của các Tỳ-khưu Mettiya và Bhummajaka. Điều này là con dê đực này. Cần phải được kết hợp là con dê đực đó phải được biết là một vụ việc bằng tưởng được gọi là sự đặt tên. Liên quan đến điều đó là liên quan đến con dê đó, là cơ sở cho tưởng về việc đặt tên đó, vì khi bị tra hỏi rằng: “chắc chắn các ngươi đã thêm vào một cái cớ, các ngươi nói gì, đã thấy gì?”, các vị Tỳ-khưu đó đã nói rằng: “sau khi thấy hành vi sai trái của con dê đực, chúng tôi đã đặt tên của Dabba cho nó.” Các vị Tỳ-khưu đó là các vị Tỳ-khưu tra hỏi đó. Vì ngay cả một cái cớ nhỏ của tội cũng được gán cho chính một người, nên đã nói là “các cớ của những người.” Bằng câu “tuy nhiên, trong phần phân tích từ ngữ… cho đến… phải được biết,” lý do cho việc không nói đến vụ việc được gọi là con dê đực, là nền tảng cho tưởng về việc đặt tên, đã được nói đến.

393. ‘‘Aññabhāgiyassa adhikaraṇassā’’ti ettha pāḷiāgataadhikaraṇasaddapatirūpakaṃ aññaṃ adhikaraṇasaddaṃ pāḷiāgatatadaññasādhāraṇatāya ubhayapadatthaṃ uddharitvā ‘‘adhikaraṇaṃ nāma cattāri adhikaraṇānī’’ti vuttaṃ. Atthuddhāravasena hi atthaṃ dassentena pāḷiyaṃ āgatasaddapatirūpako añño saddo ubhayapadattho uddharitabbo, na ca aññaṃ uddharitvā aññassa attho vattabbo, tasmā pāḷiāgataadhikaraṇasaddapatirūpako aññoyeva ubhayapadatthasādhāraṇo adhikaraṇasaddo uddhaṭoti daṭṭhabbaṃ. Tenevāha ‘‘adhikaraṇanti vacanasāmaññato atthuddhāravasena pavattāni cattāri adhikaraṇānī’’ti. Yā ca sā avasāne…pe… codanā vuttāti bhikkhu saṅghādisesaṃ ajjhāpajjanto diṭṭho hoti, saṅghādisese saṅghādisesadiṭṭhī hoti, tañce pārājikena codetītiādicodanaṃ sandhāya vadati.
393. Ở câu “của vụ việc thuộc phần khác,” đã nêu lên từ ‘vụ việc’ khác, tương tự như từ ‘vụ việc’ đã xuất hiện trong Pāḷi, với ý nghĩa chung cho cả từ đó và từ khác đã xuất hiện trong Pāḷi, và đã được nói là “vụ việc được gọi là bốn vụ việc.” Thật vậy, khi chỉ ra ý nghĩa bằng cách trích lục ý nghĩa, một từ khác tương tự như từ đã xuất hiện trong Pāḷi và có ý nghĩa chung cho cả hai từ phải được nêu lên, và không được phép nêu lên một từ khác rồi lại nói ý nghĩa của một từ khác. Do đó, cần phải hiểu rằng một từ ‘vụ việc’ khác, chung cho ý nghĩa của cả hai từ và tương tự như từ ‘vụ việc’ đã xuất hiện trong Pāḷi, đã được nêu lên. Chính vì vậy, (chú giải) nói: “do sự tương đồng về lời nói ‘vụ việc,’ bốn vụ việc đã được diễn tiến bằng cách trích lục ý nghĩa.” Và sự tố cáo nào… cho đến… đã được nói ở cuối là nói liên quan đến sự tố cáo như: một vị Tỳ-khưu được thấy đang phạm tội Tăng Tàn, có sự thấy là Tăng Tàn đối với tội Tăng Tàn, nhưng lại tố cáo vị ấy bằng tội Bất Cộng Trụ, v.v.

Methunavītikkamāpattiyo vatthuto sabhāgā, itarāsaṃ pana adinnādānādiāpattīnaṃ samānepi pārājikāpattibhāve vatthuto visabhāgāti āha ‘‘sabhāgavisabhāgavatthuto’’ti. Sabhāvasarikkhāsarikkhatoti sabhāvena sadisāsadisabhāvato. Paṭhamapārājikañhi paṭhamapārājikāpattiyā methunarāgena sabhāvato sadisaṃ, dosasampayuttamanussaviggahena asadisaṃ. Nanu ca ‘‘āpattādhikaraṇaṃ āpattādhikaraṇassa siyā tabbhāgiyaṃ, siyā aññabhāgiya’’nti vuttattā uddesānukkamena tabbhāgiyataṃ aniddisitvā aññabhāgiyatā paṭhamaṃ kasmā niddiṭṭhāti āha ‘‘ādito paṭṭhāyā’’tiādi. Vuttanayenevāti ‘‘sabhāgavisabhāgavatthuto’’tiādinā vuttanayena.
Các tội vi phạm về việc hành dâm, về đối tượng là cùng loại; còn các tội khác như trộm cắp, v.v., mặc dù cũng là tội Bất Cộng Trụ, nhưng về đối tượng là khác loại. Do đó, (chú giải) nói: “từ đối tượng cùng loại và khác loại.” Từ sự giống và không giống nhau về bản chất là từ trạng thái giống và không giống nhau về bản chất. Thật vậy, tội Bất Cộng Trụ thứ nhất, về lòng tham ái giao hợp, thì giống nhau về bản chất với tội Bất Cộng Trụ thứ nhất; nhưng lại không giống nhau với sự giết người tương ưng với sân. Chẳng phải vì đã được nói rằng: “vụ việc liên quan đến tội có thể là cùng phần hoặc khác phần đối với vụ việc liên quan đến tội,” nên theo thứ tự của phần đề mục, tại sao lại không chỉ ra tính chất cùng phần mà lại chỉ ra tính chất khác phần trước tiên? (Chú giải) nói: “kể từ đầu,” v.v. Theo cách đã được nói là theo cách đã được nói bằng câu “từ đối tượng cùng loại và khác loại,” v.v.

‘‘Saṅghakammāni nissāya uppanna’’nti vuttattā saṅghakammato kiccādhikaraṇaṃ visuṃ viya dissatīti āha ‘‘kiṃ panā’’tiādi. ‘‘Kiccameva kiccādhikaraṇa’’nti vuttattā ‘‘saṅghakammānamevetaṃ adhivacana’’nti vuttaṃ. Yadi evaṃ ‘‘saṅghakammāni nissāya uppanna’’nti kasmā vuttanti āha ‘‘evaṃ santepī’’tiādi. Tassa tassa saṅghakammassa bhagavatā vuttaṃ itikattabbatālakkhaṇaṃyeva tato saṅghakammassa nipphajjanato phalūpacārena saṅghakammanti vattabbataṃ arahatīti āha ‘‘yaṃ kammalakkhaṇaṃ manasi karoti, taṃ nissāya uppajjanato’’ti. Parivāsādisaṅghakammaṃ nissāya mānattādīnaṃ uppajjanato ukkhepanīyakammasīmāsammutikammādīni issāya osāraṇasīmāsamūhananādikammānaṃ uppajjanato ca ‘‘purimaṃ purimaṃ saṅghakamma’’ntiādi vuttaṃ.
Vì đã được nói là “khởi lên do nương vào các Tăng sự,” nên vụ việc liên quan đến phận sự dường như là một thứ riêng biệt với Tăng sự. Do đó, (chú giải) nói: “tuy nhiên, cái gì,” v.v. Vì đã được nói rằng “chính phận sự là vụ việc liên quan đến phận sự,” nên đã được nói là “đây chính là tên gọi khác của các Tăng sự.” Nếu vậy, tại sao lại nói là “khởi lên do nương vào các Tăng sự”? (Chú giải) nói: “dù vậy,” v.v. Vì đặc điểm về việc phải được làm như thế nào đối với từng Tăng sự đã được Đức Thế Tôn nói đến, và từ đó Tăng sự được hoàn thành, nên bằng cách nói ẩn dụ về kết quả, nó đáng được gọi là Tăng sự. Do đó, (chú giải) nói: “do khởi lên nương vào đặc điểm của Tăng sự mà vị ấy tác ý.” Do nương vào các Tăng sự như biệt trú, v.v. mà các Tăng sự như hành ma-na-đỏa, v.v. khởi lên; và do nương vào các Tăng sự như khiển trách, kết giới, v.v. mà các Tăng sự như phục vị, giải giới, v.v. khởi lên, nên đã nói là “Tăng sự trước và trước,” v.v.

395-400.Savatthukaṃ katvāti puggalādhiṭṭhānaṃ katvā. Dīghādinoti dīgharassakāḷaodātādino. Diṭṭhādinoti diṭṭhasutādino. Lohapattasadisoti ayopattasadiso. Aṅgāni paṭhamaduṭṭhadose vuttasadisāni, idha pana kañcidesaṃ lesamattaṃ upādiyanā adhikā.
395-400. Làm cho có đối tượng là làm cho có cơ sở là một người. Của những thứ dài, v.v. là của những thứ dài, ngắn, đen, trắng, v.v. Của những thứ đã thấy, v.v. là của những thứ đã thấy, đã nghe, v.v. Giống như cái bát bằng đồng là giống như cái bát bằng sắt. Các yếu tố thì giống như đã được nói trong tội cố ý vu khống thứ nhất; tuy nhiên, ở đây có thêm việc lấy một phần nào đó, một cái cớ nhỏ.

Dutiyaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học thứ hai về việc cố ý vu khống đã kết thúc.

10. Paṭhamasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā
10. Giải Thích về Điều Học Thứ Nhất Về Việc Chia Rẽ Tăng Chúng

410. Dasame ye dubbalā honti appathāmā, na sakkonti araññakādīni sevantā dukkhassantaṃ kātuṃ, te sandhāyāha ‘‘bahūnaṃ kulaputtānaṃ maggantarāyāya saṃvattantī’’ti. Adhivāsanakhantisampannoti ‘‘khamo hoti sītassā’’tiādinā vuttasītuṇhādisahanalakkhaṇāya khantiyā samannāgato. Byañjanapadameva paramaṃ assāti padaparamo. Yassa hi puggalassa bahumpi suṇato bahumpi bhaṇato bahumpi dhārayato bahumpi vācayato na tāya jātiyā dhammābhisamayo hoti , ayaṃ ‘‘padaparamo’’ti vuccati. Abhisambhuṇitvāti nipphādetvā. Nābhisambhuṇātīti na sampādeti, araññavāsaṃ sampādetuṃ na sakkotīti vuttaṃ hoti. Dhammato apetaṃ uddhammaṃAsabbaññū assāti tesaṃ anurūpassa ajānanato asabbaññū bhaveyya. ‘‘Na, bhikkhave, asenāsanikena vassaṃ upagantabba’’nti (mahāva. 204) vacanato ‘‘cattāro pana…pe… paṭikkhittamevā’’ti vuttaṃ. Idameva vacanaṃ sandhāya pāḷiyampi ‘‘aṭṭha māse kho mayā devadatta rukkhamūlasenāsanaṃ anuññāta’’nti vuttaṃ.
410. Trong điều thứ mười, để nói đến những người yếu đuối, không có sức lực, không thể chấm dứt khổ đau khi sống ở những nơi như rừng, v.v., (chú giải) nói: “trở thành chướng ngại cho đạo quả của nhiều thiện gia nam tử.” Người có đủ sự kham nhẫn chịu đựng là người có đủ sự kham nhẫn có đặc điểm là chịu đựng nóng lạnh, v.v. đã được nói bằng câu “có khả năng chịu đựng lạnh,” v.v. Người nào mà văn tự chỉ là cao nhất thì là người chỉ biết đến văn tự. Thật vậy, người nào dù nghe nhiều, nói nhiều, ghi nhớ nhiều, hay đọc tụng nhiều mà không có sự liễu tri chánh pháp bằng cách đó, người này được gọi là “padaparamo”. Sau khi đã thực hiện được là sau khi đã hoàn thành. Không thực hiện được là không hoàn thành; có nghĩa là đã nói rằng không thể hoàn thành việc sống trong rừng. Pháp không đúng với chánh pháp là phi pháp. Sẽ là người không toàn giác có nghĩa là sẽ trở thành người không toàn giác do không biết điều phù hợp với họ. Do câu nói “Này các Tỳ-khưu, không được an cư mùa mưa mà không có chỗ ở” (Mahāva. 204), nên đã được nói là “tuy nhiên, bốn… cho đến… đã bị từ chối.” Liên quan đến chính câu nói này, trong Pāḷi cũng đã nói là “Này Devadatta, ta đã cho phép sống dưới gốc cây trong tám tháng.”

Tīhi koṭīhīti tīhi ākārehi, tīhi kāraṇehīti attho. Tadubhayavimuttaparisaṅkitanti diṭṭhaṃ sutanti idaṃ ubhayaṃ anissāya ‘‘kiṃ nu kho idaṃ bhikkhuṃ uddissa vadhitvā sampādita’’nti kevalameva parisaṅkitaṃ. Macchabandhanaṃ jālaṃ, vāgurā migabandhanī. Kappatīti yadi tesaṃ vacanena āsaṅkā upacchinnā hoti, vaṭṭati. Pavattamaṃsanti vikkāyikamaṃsaṃ. Maṅgalādīnanti ādi-saddena āhunapāhunādike saṅgaṇhāti. Bhikkhūnaṃyeva atthāyāti ettha aṭṭhānappayutto eva-saddo, bhikkhūnaṃ atthāya akatamevāti sambandhitabbaṃ. Tasmā ‘‘bhikkhūnañca dassāma, maṅgalādīnañca atthāya bhavissatī’’ti missetvā katampi na vaṭṭatīti veditabbaṃ. Keci pana ‘‘bhikkhūnaṃyevāti avadhāraṇena bhikkhūnañca aññesañca atthāya kataṃ vaṭṭatī’’ti vadanti, taṃ na sundaraṃ. Yattha ca nibbematiko hotīti bhikkhūnaṃ atthāya katepi sabbena sabbaṃ parisaṅkitābhāvamāha. Tamevatthaṃ āvikātuṃ ‘‘sace panā’’tiādi vuttaṃ. Itaresaṃ vaṭṭatīti ajānantānaṃ vaṭṭati, jānato evettha āpatti hotīti. Teyevāti ye uddissa kataṃ, teyeva. Uddisakatamaṃsaparibhogato akappiyamaṃsaparibhogassa visesaṃ dassetuṃ ‘‘akappiyamaṃsaṃ panā’’tiādi vuttaṃ. Purimasmiṃ sacittakā āpatti, itarasmiṃ acittakā. Tenāha ‘‘akappiyamaṃsaṃ ajānitvā bhuñjantassapi āpattiyevā’’ti. ‘‘Paribhogakāle pucchitvā paribhuñjissāmīti vā gahetvā pucchitvā paribhuñjitabba’’nti vacanato akappiyamaṃsaṃ ajānitvā gaṇhantassa paṭiggahaṇena anāpatti siyā. Ajānitvāpi bhuñjantasseva hi āpatti vuttā. Vattanti vadantīti iminā āpatti natthīti dasseti.
Bởi ba phương diện có nghĩa là bởi ba hình thức, bởi ba nguyên nhân. Sự nghi ngờ thoát khỏi cả hai điều đó là sự nghi ngờ thuần túy rằng “không biết có phải thịt này được chuẩn bị sau khi đã giết (con vật) nhắm đến vị Tỳ-khưu này không,” mà không nương vào việc đã thấy hoặc đã nghe. Lưới bắt cá là jāla, vāgurā là bẫy bắt thú. Được phép có nghĩa là nếu sự nghi ngờ được dập tắt bằng lời nói của họ, thì được phép. Thịt có sẵn là thịt được bán. Về câu “của các lễ hội, v.v.,” bằng từ ‘v.v.,’ (chú giải) bao gồm cả các lễ cúng tế và đón khách, v.v. Về câu “chỉ vì lợi ích của các Tỳ-khưu,” ở đây, từ ‘chỉ’ được dùng không đúng chỗ; cần phải được kết hợp là ‘chỉ không được làm vì lợi ích của các Tỳ-khưu.’ Do đó, cần phải hiểu rằng ngay cả thịt được làm một cách hỗn hợp rằng: “chúng ta sẽ cho các Tỳ-khưu và cũng sẽ dùng cho các lễ hội, v.v.” cũng không được phép. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “do sự nhấn mạnh ‘chỉ vì các Tỳ-khưu,’ nên thịt được làm vì lợi ích của cả các Tỳ-khưu và những người khác cũng được phép.” Điều đó không hay. Và ở đâu không có sự nghi ngờ là nói đến tình trạng hoàn toàn không có sự nghi ngờ, ngay cả khi thịt được làm vì lợi ích của các Tỳ-khưu. Để làm rõ chính ý nghĩa đó, đã nói câu “tuy nhiên, nếu,” v.v. Đối với những người còn lại thì được phép có nghĩa là được phép đối với những người không biết. Ở đây, tội chỉ phát sinh đối với người biết. Chính họ là chính những người mà thịt được làm nhắm đến. Để chỉ ra sự khác biệt giữa việc dùng thịt được làm nhắm đến và việc dùng thịt không hợp lệ, đã nói câu “tuy nhiên, thịt không hợp lệ,” v.v. Trong trường hợp trước, tội là có tâm; trong trường hợp sau, tội là không có tâm. Do đó, (chú giải) nói: “ngay cả người ăn thịt không hợp lệ mà không biết cũng phạm tội.” Do câu nói “phải hỏi rồi mới ăn trong lúc ăn, hoặc sau khi nhận rồi phải hỏi rồi mới ăn,” nên đối với người nhận thịt không hợp lệ mà không biết, có thể là vô tội khi nhận. Thật vậy, tội chỉ được nói đến đối với người ăn mà không biết. Họ nói là được phép, bằng câu này, (chú giải) chỉ ra rằng không có tội.

Sallekhā vutti etesanti sallekhavuttinoBāhulikoti ekassa la-kārassa lopaṃ katvā vuttaṃ. Kappanti āyukappaṃ. Saṅghabhedako hi ekaṃ kappaṃ asītibhāge katvā tato ekabhāgamattaṃ kālaṃ niraye tiṭṭheyyāti āyukappaṃ sandhāya ‘‘kappaṃ nirayamhi paccatī’’ti vuttaṃ. Kappaṭṭhakathāyaṃ (vibha. aṭṭha. 809) pana ‘‘saṇṭhahante hi kappe kappavemajjhe vā saṅghabhedaṃ katvā kappavināseyeva muccati. Sacepi hi sve kappo vinassissatīti ajja saṅghabhedaṃ karoti, sveva muccati, ekadivasameva niraye paccatī’’ti vuttaṃ. Tatthāpi kappavināseyevāti āyukappavināseyevāti atthe sati natthi virodho. Saṇṭhahanteti idampi ‘‘sve vinassissatī’’ti viya abhūtaparikappanavasena vuttaṃ. ‘‘Ekadivasameva niraye paccatī’’ti etthāpi tato paraṃ kappābhāve āyukappassapi abhāvatoti avirodhato atthayojanā daṭṭhabbā. Brahmaṃ puññanti seṭṭhaṃ puññaṃ. Kappaṃ saggamhi modatīti etthāpi āyukappameva.
Những người có đời sống thiểu dục là những người sống thiểu dục. Người sống sung túc được nói sau khi đã lược bỏ một mẫu tự ‘la’. Một kiếp là một tuổi thọ kiếp. Thật vậy, người chia rẽ Tăng chúng, sau khi chia một kiếp thành tám mươi phần, sẽ phải ở trong địa ngục trong một khoảng thời gian bằng một phần đó. Liên quan đến tuổi thọ kiếp, đã được nói là “bị nấu trong địa ngục một kiếp.” Tuy nhiên, trong Kappaṭṭhakathā (Vibha. aṭṭha. 809) đã nói rằng: “sau khi đã chia rẽ Tăng chúng vào lúc kiếp đang hình thành hoặc giữa kiếp, vị ấy chỉ được giải thoát vào lúc kiếp hoại. Thật vậy, ngay cả nếu ngày mai kiếp sẽ hoại, mà hôm nay vị ấy chia rẽ Tăng chúng, thì ngày mai vị ấy được giải thoát, chỉ bị nấu trong địa ngục một ngày.” Ở đó cũng vậy, nếu có ý nghĩa là chỉ vào lúc kiếp hoại là chỉ vào lúc tuổi thọ kiếp hoại, thì không có sự mâu thuẫn. Câu khi đang hình thành, điều này cũng được nói theo cách giả định điều không thật, giống như “ngày mai sẽ hoại.” Ở câu “chỉ bị nấu trong địa ngục một ngày” cũng vậy, cần phải hiểu sự kết hợp ý nghĩa một cách không mâu thuẫn là do sau đó không có kiếp, nên tuổi thọ kiếp cũng không có. Phước báu Phạm thiên là phước báu cao thượng. Ở câu hoan hỷ ở cõi trời một kiếp, ở đây cũng là chính tuổi thọ kiếp.

411.Laddhinānāsaṃvāsakenāti bhāvappadhānoyaṃ niddeso, laddhinānāsaṃvāsakabhāvenāti attho. Kammanānāsaṃvāsakenāti etthāpi eseva nayo. Aññathā nānāsaṃvāsakena sahitassa samānasaṃvāsakassapi saṅghassa asamānasaṃvāsakattaṃ āpajjeyya. Tattha laddhinānāsaṃvāsako nāma ukkhittānuvattako. So hi attano laddhiyā nānāsaṃvāsako jātoti ‘‘laddhinānāsaṃvāsako’’ti vuccati. Kammanānāsaṃvāsako nāma ukkhepanīyakammakato. So hi ukkhepanīyakammavasena nānāsaṃvāsako hotīti ‘‘kammanānāsaṃvāsako’’ti vuccati. Virahitoti vimutto. Kāyasāmaggīdānaṃ tesu tesu saṅghakammesu hatthapāsūpagamanavasena veditabbaṃ.
411. Bởi sự không chung sống do kiến giải khác nhau, đây là sự chỉ định lấy trạng thái làm chính, có nghĩa là bởi trạng thái không chung sống do kiến giải khác nhau. Về câu bởi sự không chung sống do Tăng sự khác nhau, ở đây cách này cũng tương tự. Nếu không, Tăng chúng của người có sự chung sống đồng nhất cũng sẽ trở thành không đồng nhất về sự chung sống khi ở cùng với người có sự chung sống khác nhau. Trong đó, người không chung sống do kiến giải khác nhau là người theo kẻ bị khiển trách. Thật vậy, vị ấy trở thành người không chung sống do kiến giải của mình, nên được gọi là “người không chung sống do kiến giải khác nhau.” Người không chung sống do Tăng sự khác nhau là người đã bị Tăng sự khiển trách. Thật vậy, vị ấy trở thành người không chung sống do Tăng sự khiển trách, nên được gọi là “người không chung sống do Tăng sự khác nhau.” Tách rời là được giải thoát. Cần phải hiểu sự hòa hợp về thân bằng cách có mặt trong các Tăng sự đó.

‘‘Bhedāya parakkameyyā’’ti visuṃ vuttattā bhedanasaṃvattanikassa adhikaraṇassa samādāya paggaṇhato pubbepi pakkhapariyesanādivasena saṅghabhedāya parakkamantassa samanubhāsanakammaṃ kātabbanti veditabbaṃ. Imāni vatthūnīti aṭṭhārasa bhedakaravatthūni. Kammenāti apalokanādīsu catūsu kammesu aññatarena kammena. Uddesenāti pañcasu pātimokkhuddesesu aññatarena uddesena. Vohārenāti tāhi tāhi upapattīhi ‘‘adhammaṃ dhammo’’tiādiaṭṭhārasabhedakaravatthudīpakena vohārena. Anussāvanāyāti ‘‘nanu tumhe jānātha mayhaṃ uccākulā pabbajitabhāvaṃ bahussutabhāvañca, mādiso nāma uddhammaṃ ubbinayaṃ satthusāsanaṃ gāheyyāti cittampi uppādetuṃ tumhākaṃ yuttaṃ, kiṃ mayhaṃ avīci nīluppalavanaṃ viya sītalo, kimahaṃ apāyato na bhāyāmī’’tiādinā nayena kaṇṇamūle vacībhedaṃ katvā anussāvanena. Salākaggāhenāti evaṃ anussāvetvā tesaṃ cittaṃ upatthambhetvā anivattidhamme katvā ‘‘gaṇhatha imaṃ salāka’’nti salākaggāhena. Pañcahi kāraṇehi saṅghabhedo hotīti ettha kammameva uddeso vā saṅghabhede padhānakāraṇanti veditabbaṃ. Vohārānussāvanasalākaggāhā pana pubbabhāgā. Aṭṭhārasavatthudīpanavasaena hi voharantena tattha rucijananatthaṃ anussāvetvā salākāya gahitāyapi abhinnova hoti saṅgho. Yadā pana evaṃ cattāro vā atirekā vā salākaṃ gahetvā āveṇikakammaṃ vā uddesaṃ vā karonti, tadā saṅgho bhinno nāma hoti. Abbhussitanti abbhuggataṃ. Accheyyāti vihareyya, pavatteyyāti attho.
Vì đã được nói riêng là “nên cố gắng để chia rẽ,” nên cần phải hiểu rằng ngay cả trước khi nhận và chấp giữ một vụ việc có thể dẫn đến sự chia rẽ, đối với người cố gắng chia rẽ Tăng chúng bằng cách tìm kiếm phe phái, v.v., cũng phải thực hiện Tăng sự khuyên răn. Các đối tượng này là mười tám đối tượng gây chia rẽ. Bằng một Tăng sự là bằng một trong bốn Tăng sự như việc xin phép, v.v. Bằng một sự đọc tụng là bằng một trong năm sự đọc tụng Pātimokkha. Bằng một lời tuyên bố là bằng một lời tuyên bố chỉ ra mười tám đối tượng gây chia rẽ như “phi pháp là pháp,” v.v. bằng các lý lẽ đó. Bằng một sự thông báo là bằng một sự thông báo, sau khi đã nói lời chia rẽ vào tai theo cách: “chẳng phải các ngươi biết ta đã xuất gia từ gia đình cao quý và là người đa văn sao? Một người như ta mà lại chấp nhận phi pháp, phi luật, giáo pháp của Đức Thế Tôn, các ngươi có đáng để khởi lên một ý nghĩ như vậy không? Cái gì, địa ngục A-tỳ đối với ta có mát mẻ như một rừng sen xanh không? Ta không sợ địa ngục sao?” v.v. Bằng việc lấy phiếu là sau khi đã thông báo như vậy, củng cố tâm của họ, làm cho họ không còn thoái chuyển, rồi lấy phiếu bằng cách nói: “hãy nhận phiếu này.” Về câu “sự chia rẽ Tăng chúng xảy ra do năm nguyên nhân,” ở đây, cần phải hiểu rằng chỉ có Tăng sự hoặc sự đọc tụng là nguyên nhân chính trong việc chia rẽ Tăng chúng. Còn lời tuyên bố, sự thông báo, và việc lấy phiếu là các giai đoạn đầu. Thật vậy, ngay cả khi đã tuyên bố bằng cách chỉ ra mười tám đối tượng, đã thông báo để tạo ra sự thích thú đối với chúng, và đã lấy phiếu, thì Tăng chúng cũng chỉ mới bị rạn nứt. Tuy nhiên, khi bốn vị hoặc nhiều hơn, sau khi đã lấy phiếu, thực hiện một Tăng sự riêng hoặc một sự đọc tụng riêng, thì khi đó Tăng chúng được gọi là đã bị chia rẽ. Được giương cao là được nâng lên cao. Nên ở có nghĩa là nên sống, nên diễn tiến.

‘‘Lajjī rakkhissatī’’ti vacanato āpattibhayena ārocanaṃ lajjīnaṃyeva bhāroti āha ‘‘lajjīhi bhikkhūhī’’ti. Alajjissapi anārocentassa āpattiyeva ‘‘ye passanti, ye suṇantī’’ti vacanato. Samāgacchatūti ekī bhavatu. Ekībhāvo ca samānaladdhivasena hotīti āha ‘‘ekaladdhiko hotū’’ti. Sampattiyāti sīlādisampattiyā. Paṭinissajjantassa anāpattibhāvato ‘‘sotthibhāvo tassa bhikkhuno’’ti vuttaṃ. Appaṭinissajjato dukkaṭanti visuṃ visuṃ vadantānaṃ gaṇanāya dukkaṭaṃ. Pahontenāti gantuṃ samatthena agilānena. Saṅghabhedassa garukabhāvato avassaṃ kattabbatādassanatthaṃ ‘‘dūrepi bhāroyevā’’ti vuttaṃ, āpatti pana addhayojanabbhantare gantuṃ samatthassa agilānasseva veditabbā.
Do câu nói “người biết hổ thẹn sẽ giữ gìn,” nên việc báo cáo do sợ tội là gánh nặng của chính những người biết hổ thẹn. Do đó, (chú giải) nói: “bởi các Tỳ-khưu biết hổ thẹn.” Ngay cả đối với người không biết hổ thẹn mà không báo cáo cũng phạm tội, theo câu nói “những ai thấy, những ai nghe.” Hãy hòa hợp là hãy trở thành một. Và sự trở thành một là do có cùng kiến giải. Do đó, (chú giải) nói: “hãy có cùng một kiến giải.” Bằng sự thành tựu là bằng sự thành tựu về giới, v.v. Do tình trạng vô tội của người từ bỏ, nên đã được nói là “sự an ổn cho vị Tỳ-khưu đó.” Tội Tác Ác do không từ bỏ là tội Tác Ác theo số lượng những người nói riêng lẻ. Bởi người có thể là bởi người không bệnh, có khả năng đi. Để chỉ ra việc phải làm nhất định do tính chất nghiêm trọng của việc chia rẽ Tăng chúng, đã được nói là “dù ở xa cũng là một gánh nặng.” Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng tội chỉ thuộc về người không bệnh, có khả năng đi trong khoảng nửa do-tuần.

416.Asamanubhāsantassāti kammakārake kattuniddesoti āha ‘‘asamanubhāsiyamānassā’’ti. Tatiyakammavācāya paṭinissajjanto ñattiyā dukkaṭaṃ dvīhi kammavācāhi thullaccaye ca āpajjatiyevāti āha ‘‘paṭinissajjantassa saṅghādisesena anāpattī’’ti. Assāti devadattassa. Katena bhavitabbanti samanubhāsanakammena katena bhavitabbaṃ. Attano rucimattena vadeyyātiādikammikattā appaṭinissajjantassapi anāpattīti adhippāyena vadeyya. Apaññatte sikkhāpade samanubhāsanakammasseva abhāvato ‘‘na hi paññattaṃ sikkhāpadaṃ vītikkamantassā’’ti vuttaṃ. Sikkhāpadaṃ paññapenteneva hi samanubhāsanakammaṃ anuññātaṃ. Uddissa anuññātatoti ‘‘anujānāmi, bhikkhave, romanthakassa romanthana’’ntiādiṃ (cūḷava. 273) uddissa anuññātaṃ sandhāya vadanti. Anāpattiyanti anāpattivāre. Āpattiṃ ropetabboti anissajjanapaccayā āpannapācittiyāpattiṃ ukkhepanīyakammakaraṇatthaṃ āropetabboti attho.
416. Về từ ‘của người không khuyên răn,’ (chú giải) nói rằng đây là sự chỉ định chủ thể ở vị trí của đối tượng: “của người không được khuyên răn.” Người từ bỏ vào lúc lời tuyên ngôn Tăng sự thứ ba thì vẫn phạm tội Tác Ác đối với Tăng sự nhị pháp và tội Trọng Tội đối với hai lời tuyên ngôn Tăng sự. Do đó, (chú giải) nói: “người từ bỏ thì vô tội Tăng Tàn.” Của ông ấy là của Devadatta. Phải được làm là phải được làm bằng Tăng sự khuyên răn. Sẽ nói chỉ theo ý thích của mình là sẽ nói với ý định rằng ngay cả người không từ bỏ cũng vô tội vì là người phạm tội đầu tiên. Vì khi điều học chưa được chế định thì không có Tăng sự khuyên răn, nên đã được nói là “thật vậy, không phải đối với người vi phạm điều học đã được chế định.” Thật vậy, Tăng sự khuyên răn đã được cho phép bởi chính người đã chế định điều học. Do được cho phép nhắm đến, người ta nói liên quan đến sự cho phép nhắm đến như: “Này các Tỳ-khưu, ta cho phép sự nhai lại của người nhai lại,” v.v. (Cūḷava. 273). Trong trường hợp vô tội là trong chương vô tội. Phải bị gán cho tội có nghĩa là phải bị gán cho tội Ưng Đối Trị đã phạm do không từ bỏ, để thực hiện Tăng sự khiển trách.

Āpattiyeva na jātāti saṅghādisesāpatti na jātāyevāti attho. Sā panesāti sā pana esā anāpatti. Tivaṅgikanti kāyavācācittavasena tivaṅgikaṃ, kāyavācācittato samuṭṭhātīti vuttaṃ hoti. ‘‘Nappaṭinissajjāmī’’ti saññāya abhāvena muccanato saññāvimokkhaṃSacittakanti ‘‘nappaṭinissajjāmī’’ti jānanacittena sacittakaṃ. Bhedāya parakkamanaṃ, dhammakammena samanubhāsanaṃ, kammavācāpariyosānaṃ, appaṭinissajjananti imānettha cattāri aṅgāni.
Tội đã không phát sinh có nghĩa là tội Tăng Tàn đã không phát sinh. Tuy nhiên, cái đó là tuy nhiên, sự vô tội đó. Có ba yếu tố là có ba yếu tố theo thân, khẩu, và ý; có nghĩa là đã nói rằng khởi lên từ thân, khẩu, và ý. Do được giải thoát vì không có tưởng “tôi sẽ không từ bỏ,” nên là sự giải thoát do tưởng. Có tâm là có tâm do tâm biết rằng “tôi sẽ không từ bỏ.” Sự cố gắng để chia rẽ, sự khuyên răn bằng một Tăng sự hợp pháp, sự kết thúc của lời tuyên ngôn Tăng sự, và sự không từ bỏ – đây là bốn yếu tố ở đây.

Paṭhamasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học thứ nhất về việc chia rẽ Tăng chúng đã kết thúc.

11. Dutiyasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā
11. Giải Thích về Điều Học Thứ Hai Về Việc Chia Rẽ Tăng Chúng

417-418. Ekādasame yaṃ vacanaṃ samaggepi vagge avayavabhūte karoti bhindati, taṃ kalahakārakavacanaṃ idha vagganti vuccatīti āha ‘‘vaggaṃ asāmaggipakkhiyavacanaṃ vadantī’’ti. Asāmaggipakkhe bhavā asāmaggipakkhiyā, kalahakā. Tesaṃ vacanaṃ asāmaggipakkhiyavacanaṃ, asāmaggipakkhe vā bhavaṃ vacanaṃ asāmaggipakkhiyavacanaṃ. Yasmā ubbāhikādikammaṃ bahūnampi kātuṃ vaṭṭati, tasmā ‘‘na hi saṅgho saṅghassa kammaṃ karotī’’ti idaṃ niggahavasena kattabbakammaṃ sandhāya vuttanti veditabbaṃ. Aṅgāni panettha bhedāya parakkamanaṃ pahāya anuvattanaṃ pakkhipitvā heṭṭhā vuttasadisāneva.
417-418. Trong điều thứ mười một, lời nói nào chia rẽ, làm cho nhóm, dù đang hòa hợp, trở thành các thành phần riêng lẻ, lời nói gây bất hòa đó ở đây được gọi là ‘phe phái’. Do đó, (chú giải) nói: “họ nói lời của phe phái không hòa hợp.” Những người thuộc về phe không hòa hợp là những người thuộc phe không hòa hợp, là những người gây bất hòa. Lời nói của họ là lời nói của phe không hòa hợp; hoặc lời nói thuộc về phe không hòa hợp là lời nói của phe không hòa hợp. Vì Tăng sự như việc chọn ủy ban, v.v. cũng được phép thực hiện cho nhiều người, do đó, cần phải hiểu rằng câu “thật vậy, Tăng chúng không thực hiện Tăng sự cho Tăng chúng” được nói liên quan đến Tăng sự phải được thực hiện với ý nghĩa khiển trách. Các yếu tố ở đây, sau khi đã loại bỏ ‘sự cố gắng để chia rẽ’ và thêm vào ‘sự đi theo,’ thì giống hệt như đã được nói ở dưới.

Dutiyasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học thứ hai về việc chia rẽ Tăng chúng đã kết thúc.

12. Dubbacasikkhāpadavaṇṇanā
12. Giải Thích về Điều Học Khó Khuyên Răn

424. Dvādasame vambhanavacananti garahavacanaṃ. Apasādetukāmoti khipitukāmo, tajjetukāmo vā, ghaṭṭetukāmoti vuttaṃ hoti. Saṭasaddo patitasaddena samānattho. Visesanassa ca paranipātaṃ katvā tiṇakaṭṭhapaṇṇasaṭanti vuttanti āha ‘‘tattha tattha patitaṃ tiṇakaṭṭhapaṇṇa’’nti. Kenāpīti vātasadisena nadīsadisena ca kenāpi.
424. Trong điều thứ mười hai, lời nói khiển trách là lời nói quở trách. Muốn bác bỏ là muốn ném đi, hoặc muốn đe dọa; có nghĩa là đã nói rằng muốn làm tổn thương. Từ saṭa (rác) có cùng ý nghĩa với từ ‘patita’ (rơi rụng). Và do đã đặt tính từ ở sau, nên đã được nói là ‘tiṇakaṭṭhapaṇṇasaṭa’. Do đó, (chú giải) nói: “cỏ, củi, và lá đã rơi rụng ở nơi này nơi kia.” Bởi bất cứ cái gì là bởi bất cứ cái gì giống như gió và giống như sông.

425-426.Vattuṃ asakkuṇeyyoti kismiñci vuccamāne asahanato ovadituṃ asakkuṇeyyo. Dukkhaṃ vaco etasmiṃ vippaṭikūlaggāhe vipaccanīkavāde anādare puggaleti dubbaco. Tenāha ‘‘dukkhena kicchena vaditabbo’’tiādi. Dubbacabhāvakaraṇīyehīti dubbacabhāvakārakehi. Kattuatthe anīyasaddo daṭṭhabbo. Tenevāha ‘‘ye dhammā dubbacaṃ puggalaṃ karontī’’tiādi. Pāpikā icchā etassāti pāpiccho, tassa bhāvo pāpicchatā, asantaguṇasambhāvanatā paṭiggahaṇe ca amattaññutā pāpicchatāti veditabbā. Attukkaṃsakā ca te paravambhakā cāti attukkaṃsakaparavambhakā. Ye attānaṃ ukkaṃsanti ukkhipanti ucce ṭhāne ṭhapenti, parañca vambhenti garahanti nīce ṭhāne ṭhapenti, tesametaṃ adhivacanaṃ. Tesaṃ bhāvo attukkaṃsakaparavambhakatā. Kujjhanasīlo kodhano, tassa bhāvo kodhanatā. Kujjhanalakkhaṇassa kodhassetaṃ adhivacanaṃ.
425-426. Không thể nói được là không thể khuyên răn được do không chịu đựng được khi có điều gì đó được nói đến. Lời nói là khó khăn đối với người này, người có thái độ tiếp thu ngược lại, có lời nói chống đối, không tôn trọng, nên là người khó khuyên răn. Do đó, (chú giải) nói: “phải được nói một cách khó khăn, vất vả,” v.v. Bởi những pháp làm cho khó khuyên răn là bởi những pháp tạo ra tính khó khuyên răn. Cần phải hiểu hậu tố ‘anīya’ ở đây có ý nghĩa chủ động. Chính vì vậy, (chú giải) nói: “những pháp nào làm cho một người trở nên khó khuyên răn,” v.v. Người nào có ước muốn xấu xa thì là người có ước muốn xấu xa; trạng thái của người đó là tính có ước muốn xấu xa. Cần phải biết rằng sự thể hiện các đức tính không có và sự không biết đủ trong việc nhận lãnh chính là tính có ước muốn xấu xa. Họ vừa tự tán dương mình, vừa chê bai người khác, nên là những người tự tán dương và chê bai người khác. Những người nào tự tán dương, tự đề cao, tự đặt mình ở vị trí cao, và chê bai, quở trách người khác, đặt họ ở vị trí thấp, đây là tên gọi khác của họ. Trạng thái của họ là tính tự tán dương và chê bai người khác. Người có tính hay nổi giận là người hay giận; trạng thái của người đó là tính hay giận. Đây là tên gọi khác của sự giận dữ có đặc điểm là sự nổi giận.

Pubbakāle kodho, aparakāle upanāhoti āha ‘‘kodhahetu upanāhitā’’ti. Tattha upanahanasīlo, upanāho vā etassa atthīti upanāhī, tassa bhāvo upanāhitā. Punappunaṃ cittapariyonaddhalakkhaṇassa kodhassevetaṃ adhivacanaṃ. Sakiñhi uppanno kodho kodhoyeva, tatuttari upanāho. Abhisaṅgoti dummocanīyo balavaupanāho. So assa atthīti abhisaṅgī, tassa bhāvo abhisaṅgitā. Dummocanīyassa balavaupanāhassetaṃ adhivacanaṃ. Codakaṃ paṭippharaṇatāti codakassa paṭiviruddhena paccanīkena hutvā avaṭṭhānaṃ. Codakaṃ apasādanatāti ‘‘kiṃ nu kho tuyhaṃ bālassa abyattassa bhaṇitena, tvampi nāma bhaṇitabbaṃ maññissasī’’ti evaṃ codakassa ghaṭṭanā. Codakassa paccāropanatāti ‘‘tvampi khosi itthannāmaṃ āpattiṃ āpanno, taṃ tāva paṭikarohī’’ti evaṃ codakassa upari paṭiāropanatā.
(Chú giải) nói rằng lúc đầu là sự giận dữ, sau đó là sự nuôi giận: “sự nuôi giận do nguyên nhân là sự giận dữ.” Trong đó, người có tính hay nuôi giận, hoặc người có sự nuôi giận là người hay nuôi giận; trạng thái của người đó là tính hay nuôi giận. Đây là tên gọi khác của chính sự giận dữ có đặc điểm là sự trói buộc tâm lặp đi lặp lại. Thật vậy, cơn giận khi mới khởi lên chỉ là sự giận dữ; sau đó nữa là sự nuôi giận. Sự dính mắc là sự nuôi giận mạnh mẽ, khó gỡ bỏ. Người nào có cái đó thì là người hay dính mắc; trạng thái của người đó là tính hay dính mắc. Đây là tên gọi khác của sự nuôi giận mạnh mẽ, khó gỡ bỏ. Sự phản kháng người tố cáo là sự chống đối bằng cách trở nên thù nghịch, đối lập với người tố cáo. Sự bác bỏ người tố cáo là sự làm tổn thương người tố cáo bằng cách nói rằng: “lời nói của một kẻ ngu dốt, không có khả năng như ngươi có ích gì? Ngươi mà cũng nghĩ mình đáng được nói à?” Sự tố cáo ngược lại người tố cáo là sự tố cáo ngược lại người tố cáo bằng cách nói rằng: “chính ngươi cũng đã phạm tội tên là thế này, hãy sửa chữa điều đó trước đi.”

Aññena aññaṃ paṭicaraṇatāti aññena kāraṇena, vacanena vā aññassa kāraṇassa, vacanassa vā paṭicchādanavasena caraṇatā. Paṭicchādanattho eva vā carasaddo anekatthattā dhātūnanti paṭicchādanatāti attho. Tāya samannāgato hi puggalo yaṃ codakena dosavibhāvanakāraṇaṃ, vacanaṃ vā vuttaṃ, taṃ tato aññeneva codanāya amūlikabhāvadīpanena kāraṇena, tadatthabodhakena vacanena vā paṭicchādeti. ‘‘Āpattiṃ āpannosī’’ti vutte ‘‘ko āpanno, kiṃ āpanno, kismiṃ āpanno, kaṃ bhaṇatha, kiṃ bhaṇathā’’ti vā vatvā ‘‘evarūpaṃ kiñci tayā diṭṭha’’nti vutte ‘‘na suṇāmī’’ti sotaṃ vā upanāmetvā vikkhepaṃ karontopi aññenaññaṃ paṭicchādeti. ‘‘Itthannāmaṃ āpattiṃ āpannosī’’ti puṭṭhe ‘‘pāṭaliputtaṃ gatomhī’’ti vatvā puna ‘‘na tava pāṭaliputtagamanaṃ pucchāma, āpattiṃ pucchāmā’’ti vutte tato ‘‘rājagahaṃ gatomhī’’ti vatvā ‘‘rājagahaṃ vā yāhi brāhmaṇagahaṃ vā, āpattiṃ āpannosī’’ti vutte ‘‘tattha me sūkaramaṃsaṃ laddha’’ntiādīni vatvā bahiddhā kathāvikkhipanampi atthato aññenaññaṃ paṭicaraṇamevāti visuṃ na gahitaṃ.
Sự dùng cái này để che đậy cái khác là sự che đậy một lý do hoặc lời nói khác bằng một lý do hoặc lời nói khác. Hoặc từ ‘cara’ có ý nghĩa là sự che đậy, vì các căn có nhiều nghĩa; do đó ý nghĩa là sự che đậy. Thật vậy, người nào có tính này thì sẽ che đậy lý do hoặc lời nói mà người tố cáo đã nói để chỉ ra lỗi lầm, bằng một lý do khác, bằng cách chỉ ra tính vô căn cứ của sự tố cáo, hoặc bằng một lời nói mang ý nghĩa đó. Khi được nói là: “ngài đã phạm tội,” vị ấy nói rằng: “ai phạm, phạm cái gì, phạm ở đâu, các vị nói ai, các vị nói gì?” hoặc khi được nói là: “ngươi đã thấy điều như vậy,” vị ấy lại đưa tai ra và nói: “tôi không nghe,” và làm cho vấn đề bị lạc đi, cũng là dùng cái này để che đậy cái khác. Khi được hỏi: “ngài đã phạm tội tên là thế này,” vị ấy nói rằng: “tôi đã đi đến Pāṭaliputta.” Khi lại được nói: “chúng tôi không hỏi về việc ngài đi Pāṭaliputta, chúng tôi hỏi về tội,” vị ấy lại nói: “tôi đã đi đến Rājagaha.” Khi được nói: “ngài đi Rājagaha hay đi đến nhà Bà-la-môn cũng được, ngài đã phạm tội,” vị ấy lại nói những điều như: “ở đó tôi đã nhận được thịt heo,” v.v. và làm cho câu chuyện lạc ra ngoài đề cũng về mặt ý nghĩa chính là sự dùng cái này để che đậy cái khác, nên không được đề cập riêng.

Apadānenāti attano cariyāya. Apadīyanti hi dosā etena dakkhīyanti, luyanti chijjantīti vā apadānaṃ, sattānaṃ sammā micchā vā vattappayogo. Na sampāyanatāti ‘‘āvuso, tvaṃ kuhiṃ vasasi, kaṃ nissāya vasasī’’ti vā ‘‘yaṃ tvaṃ vadesi ‘mayā esa āpattiṃ āpajjanto diṭṭho’ti, tvaṃ tasmiṃ samaye kiṃ karosi, ayaṃ kiṃ karoti, kattha ca tvaṃ ahosi, kattha aya’’nti vā ādinā nayena cariyaṃ puṭṭhena sampādetvā akathanaṃ.
Bằng tiểu sử là bằng hành vi của mình. Thật vậy, do nó mà các lỗi lầm được phơi bày, được thấy, hoặc bị cắt đứt, nên là tiểu sử; là sự thực hành đúng hoặc sai của chúng sanh. Sự không thẳng thắn là khi được hỏi về hành vi theo cách: “thưa hiền giả, ngài ở đâu, ngài nương vào ai?” hoặc “điều mà ngài nói rằng ‘tôi đã thấy vị này phạm tội,’ vào lúc đó ngài đang làm gì, vị này đang làm gì, và ngài đã ở đâu, vị này ở đâu?” v.v., mà không trình bày, không nói ra.

Makkhipaḷāsitāti ettha paraguṇamakkhanalakkhaṇo makkho, so etassa atthīti makkhī. Tādiso puggalo agāriyo anagāriyo vā samāno paresaṃ sukatakaraṇaṃ vināseti. Agāriyopi hi kenaci anukampakena daliddo samāno uccaṭṭhāne ṭhapito, aparena samayena ‘‘kiṃ tayā mayhaṃ kata’’nti tassa sukatakaraṇaṃ vināseti. Anagāriyopi sāmaṇerakālato pabhuti ācariyena vā upajjhāyena vā catūhi paccayehi uddesaparipucchādīhi ca anuggahetvā dhammakathānayapakaraṇakosallādīni sikkhāpito, aparena samayena rājarājamahāmattādīhi sakkato garukato ācariyupajjhāyesu acittīkato caramāno ‘‘ayaṃ amhehi daharakāle eva anuggahito saṃvaddhito ca, atha ca panidāni nissineho jāto’’ti vuccamāno ‘‘kiṃ mayhaṃ tumhehi kata’’nti tesaṃ sukatakaraṇaṃ vināseti.
Về câu “tính cách khinh miệt và cạnh tranh,” ở đây, sự khinh miệt có đặc điểm là bôi nhọ đức hạnh của người khác; người nào có cái đó thì là người hay khinh miệt. Người như vậy, dù là tại gia hay xuất gia, cũng phá hoại việc làm tốt của người khác. Thật vậy, ngay cả người tại gia, dù nghèo khó, được một người có lòng thương giúp đỡ đặt vào vị trí cao, sau này cũng phá hoại việc làm tốt của người đó bằng cách nói: “ông đã làm gì cho tôi?” Ngay cả người xuất gia, từ lúc còn là sa-di, được thầy hoặc thầy tế độ giúp đỡ bằng bốn món vật dụng và dạy dỗ về các phương pháp thuyết pháp, các bộ luận, và sự khéo léo, v.v., sau này, khi được vua chúa, các đại thần kính trọng, lại tỏ ra không tôn trọng thầy và thầy tế độ. Khi được nói rằng: “vị này đã được chúng ta giúp đỡ và nuôi nấng từ lúc còn nhỏ, vậy mà bây giờ lại trở nên vô ơn,” vị ấy phá hoại việc làm tốt của họ bằng cách nói: “các vị đã làm gì cho tôi?”

‘‘Bahussutepi puggale ajjhottharitvā īdisassa ceva bahussutassa aniyatā gati, tava vā mama vā ko viseso’’tiādinā nayena uppajjamāno yugaggāhalakkhaṇo paḷāso. So paraguṇehi attano guṇānaṃ samakaraṇaraso. Tathā hesa paresaṃ guṇe ḍaṃsitvā viya attano guṇehi same karotīti paḷāsoti vuccati, so etassa atthīti paḷāsī. Makkhī ca paḷāsī ca makkhipaḷāsino, tesaṃ bhāvo makkhipaḷāsitā. Atthato pana makkho ceva paḷāso ca.
Sự cạnh tranh có đặc điểm là sự nắm giữ thế cân bằng, khởi lên theo cách: “ngay cả đối với người đa văn cũng bao trùm, một người như vậy và một người đa văn có số phận không chắc chắn, giữa ngươi và ta có gì khác biệt?” v.v. Nó có tác dụng làm cho đức hạnh của mình ngang bằng với đức hạnh của người khác. Thật vậy, nó được gọi là sự cạnh tranh vì nó như thể cắn xé đức hạnh của người khác và làm cho ngang bằng với đức hạnh của mình. Người nào có cái đó thì là người hay cạnh tranh. Người hay khinh miệt và người hay cạnh tranh là những người hay khinh miệt và cạnh tranh; trạng thái của họ là tính cách khinh miệt và cạnh tranh. Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, đó là sự khinh miệt và sự cạnh tranh.

Issati parasampattiṃ na sahatīti issukī. Maccharāyati attano sampattiṃ nigūhati, paresaṃ sādhāraṇabhāvaṃ na sahati, maccheraṃ vā etassa atthīti maccharī. Saṭhayati na sammā bhāsatīti saṭho, attano avijjamānaguṇappakāsanalakkhaṇena sāṭheyyena samannāgato kerāṭikapuggalo. Kerāṭiko ca ānandamaccho viya hoti. Ānandamaccho nāma kira macchānaṃ naṅguṭṭhaṃ dasseti, sappānaṃ sīsaṃ ‘‘tumhehi sadiso aha’’nti jānāpetuṃ, evameva kerāṭiko puggalo yaṃ yaṃ suttantikaṃ vā ābhidhammikaṃ vā upasaṅkamati, taṃ taṃ evaṃ vadati ‘‘ahaṃ tumhākaṃ antevāsī, tumhe mayhaṃ anukampakā, nāhaṃ tumhe muñcāmī’’ti ‘‘evamete ‘sagāravo ayaṃ amhesu sappatisso’ti maññissantī’’ti. Sāṭheyyena hi samannāgatassa puggalassa asantaguṇasambhāvanena cittānurūpakiriyāviharato ‘‘evaṃcitto evaṃkiriyo’’ti duviññeyyattā kucchiṃ vā piṭṭhiṃ vā jānituṃ na sakkā. Yato so –
Người ganh tị, không chịu đựng được tài sản của người khác là người hay ganh tị. Người keo kiệt, che giấu tài sản của mình, không chịu đựng được việc chia sẻ với người khác, hoặc người có sự bỏn xẻn là người hay keo kiệt. Người lừa dối, không nói đúng sự thật là người gian trá; là người xảo quyệt có tính lừa dối với đặc điểm là thể hiện các đức tính không có. Và người xảo quyệt thì giống như con cá ānanda. Nghe nói rằng con cá ānanda chỉ cho các loài cá thấy đuôi và chỉ cho các loài rắn thấy đầu, để cho chúng biết rằng: “tôi giống như các người.” Cũng vậy, người xảo quyệt, khi đến gần một vị kinh sư hay một vị Vi Diệu Pháp sư nào, cũng nói với vị đó rằng: “con là đệ tử của ngài, ngài là người có lòng thương đối với con, con không rời bỏ ngài đâu,” để họ nghĩ rằng: “người này có lòng tôn trọng và kính phục đối với chúng ta.” Thật vậy, đối với người có tính lừa dối, do sống với hành vi phù hợp với tâm ý bằng cách thể hiện các đức tính không có, nên rất khó biết được tâm địa hay con người thật của họ. Vì người đó –

‘‘Vāmena sūkaro hoti, dakkhiṇena ajāmigo;
Sarena nelako hoti, visāṇena jaraggavo’’ti. (dī. ni. aṭṭha. 2.296; vibha. aṭṭha. 894; mahāni. aṭṭha. 166) –
“Bên trái là heo rừng, bên phải là dê núi;
Giọng nói là chó rừng, sừng là bò già.” (Dī. Ni. aṭṭha. 2.296; Vibha. aṭṭha. 894; Mahāni. aṭṭha. 166) –

Evaṃ vuttayakkhasūkarasadiso hoti. Katapāpapaṭicchādanalakkhaṇā māyā, sā assa atthīti māyāvī.
Trở nên giống như con heo dã-xoa đã được nói đến như vậy. Sự xảo trá có đặc điểm là che giấu tội lỗi đã làm; người nào có cái đó thì là người xảo trá.

Thambhasamaṅgitāya thaddho. Vātabharitabhastāsadisathaddhabhāvapaggahitasiraanivātavuttikārakaroti thambho. Yena samannāgato puggalo gilitanaṅgalasadiso viya ajagaro, vātabharitabhastā viya ca thaddho hutvā garuṭṭhāniye disvā onamitumpi na icchati, pariyanteneva carati. Abbhunnatilakkhaṇo atimāno, so etassa atthīti atimānī.
Do có sự cứng nhắc, nên là người cứng đầu. Sự cứng nhắc là hành vi không khoan nhượng, có thái độ cứng nhắc như một cái ống bễ đầy gió. Người nào có tính này thì giống như con trăn đã nuốt phải cái cày, và trở nên cứng nhắc như một cái ống bễ đầy gió, khi thấy người đáng kính cũng không muốn cúi chào, chỉ đi ở rìa. Sự kiêu mạn có đặc điểm là sự tự đề cao; người nào có cái đó thì là người kiêu mạn.

Saṃ attano diṭṭhiṃ parāmasati sabhāvaṃ atikkamitvā parato āmasatīti sandiṭṭhiparāmāsī. Ādhānaṃ gaṇhātīti ādhānaggāhī. ‘‘Ādhāna’’nti daḷhaṃ vuccati, daḷhaggāhīti attho. Yuttaṃ kāraṇaṃ disvāva laddhiṃ paṭinissajjatīti paṭinissaggī, dukkhena kicchena kasirena bahumpi kāraṇaṃ dassetvā na sakkā paṭinissaggiṃ kātunti duppaṭinissaggī, yo attano diṭṭhiṃ ‘‘idameva sacca’’nti daḷhaṃ gaṇhitvā api buddhādīhi kāraṇaṃ dassetvā vuccamāno na paṭinissajjati, tassetaṃ adhivacanaṃ. Tādiso hi puggalo yaṃ yadeva dhammaṃ vā adhammaṃ vā suṇāti, taṃ sabbaṃ ‘‘evaṃ amhākaṃ ācariyehi kathitaṃ, evaṃ amhehi suta’’nti kummova aṅgāni sake kapāle antoyeva samodahati. Yathā hi kacchapo attano pādādike aṅge kenaci ghaṭṭite sabbāni aṅgāni attano kapāleyeva samodahati, na bahi nīharati, evamayampi ‘‘na sundaro tava gāho, chaḍḍehi na’’nti vutto taṃ na vissajjeti, antoyeva attano hadaye eva ṭhapetvā vicarati. Yathā kumbhīlā gahitaṃ na paṭinissajjanti, evaṃ kumbhīlaggāhaṃ gaṇhāti, na vissajjeti. Makkhipaḷāsitādiyugaḷattayena dassite makkhapaḷāsādayo cha dhamme visuṃ visuṃ gahetvā ‘‘ekūnavīsati dhammā’’ti vuttaṃ. Anumānasuttaṭṭhakathāyaṃ (ma. ni. aṭṭha. 1.181) pana makkhapaḷāsādayopi yugaḷavasena ekaṃ katvā ‘‘soḷasa dhammā’’ti vuttaṃ.
Người bám víu vào quan điểm của mình, bám víu một cách sai lầm, vượt quá bản chất, là người chấp thủ vào quan điểm của mình. Người nắm giữ một cách chắc chắn là người nắm giữ một cách chắc chắn. “Ādhāna” được gọi là sự chắc chắn; có nghĩa là người nắm giữ một cách chắc chắn. Người nào từ bỏ kiến chấp của mình chỉ khi thấy được lý do hợp lý thì là người có thể từ bỏ; người nào không thể bị làm cho từ bỏ kiến chấp dù được chỉ ra nhiều lý do một cách khó khăn, vất vả, là người khó từ bỏ kiến chấp. Đây là tên gọi khác của người nào, sau khi đã nắm giữ chắc chắn quan điểm của mình rằng: “chỉ điều này là sự thật,” dù được cả Đức Phật, v.v. chỉ ra lý do cũng không từ bỏ. Thật vậy, người như vậy, bất cứ pháp hay phi pháp nào mà họ nghe được, họ đều thu vào trong mai rùa của mình rằng: “thầy của chúng tôi đã dạy như vậy, chúng tôi đã nghe như vậy.” Giống như con rùa, khi các chi của nó bị ai đó va chạm, nó thu tất cả các chi vào trong mai của mình, không đưa ra ngoài; cũng vậy, người này, khi được nói rằng: “sự nắm giữ của ngươi không tốt, hãy từ bỏ nó đi,” cũng không từ bỏ nó, mà chỉ giữ trong lòng mình và đi lại. Giống như con cá sấu không từ bỏ những gì đã nắm lấy, cũng vậy, người này nắm giữ như cá sấu, không từ bỏ. Bằng ba cặp từ là tính cách khinh miệt và cạnh tranh, v.v., sáu pháp là sự khinh miệt, sự cạnh tranh, v.v. được lấy riêng lẻ, nên đã được nói là “mười chín pháp.” Tuy nhiên, trong Anumānasuttaṭṭhakathā (Ma. Ni. aṭṭha. 1.181), ngay cả sự khinh miệt, sự cạnh tranh, v.v. cũng được gộp thành một theo từng cặp, nên đã được nói là “mười sáu pháp.”

Pakārehi āvahanaṃ padakkhiṇaṃ, tato padakkhiṇato gahaṇasīlo padakkhiṇaggāhī, na padakkhiṇaggāhī appadakkhiṇaggāhī. Yo vuccamāno ‘‘tumhe maṃ kasmā vadatha, ahaṃ attano kappiyākappiyaṃ sāvajjānavajjaṃ atthānatthaṃ jānāmī’’ti vadati, ayaṃ anusāsaniṃ padakkhiṇato na gaṇhāti, vāmatova gaṇhāti, tasmā ‘‘appadakkhiṇaggāhī’’ti vuccati, tenāha ‘‘yathānusiṭṭha’’ntiādi.
Sự tiếp nhận các loại là sự tiếp nhận một cách trân trọng; người có tính hay tiếp nhận từ đó là người hay tiếp nhận một cách trân trọng; người không hay tiếp nhận một cách trân trọng là người không hay tiếp nhận một cách trân trọng. Người nào khi được nói (khuyên răn) lại nói rằng: “tại sao các người lại nói tôi, tôi biết điều gì hợp lệ, không hợp lệ, có lỗi, không có lỗi, lợi ích, không lợi ích của tôi,” người này không nhận lời khuyên một cách trân trọng, mà chỉ nhận một cách tiêu cực, do đó được gọi là “người không nhận một cách trân trọng.” Do đó, (chú giải) nói: “theo như đã được khuyên bảo,” v.v.

Uddeseti pātimokkhuddese. Atha sabbāneva sikkhāpadāni kathaṃ pātimokkhuddesapariyāpannānīti āha ‘‘yassa siyā āpatti, so āvikareyyāti evaṃ saṅgahitattā’’ti. ‘‘Yassa siyā āpattī’’ti hi iminā sabbāpi āpattiyo nidānuddese saṅgahitāyeva honti. Pañcahi sahadhammikehi sikkhitabbattāti labbhamānavasena vuttaṃ. Sahadhammikena sahakāraṇenātipi attho daṭṭhabbo. ‘‘Vacanāyā’’ti nissakke sampadānavacananti āha ‘‘tato mama vacanato’’ti. Aṅgāni cettha paṭhamasaṅghabhedasadisāni. Ayaṃ pana viseso – yathā tattha bhedāya parakkamanaṃ, evaṃ idha avacanīyakaraṇatā daṭṭhabbā.
Trong lúc đọc tụng là trong lúc đọc tụng Pātimokkha. Vậy, làm thế nào tất cả các điều học đều thuộc về việc đọc tụng Pātimokkha? (Chú giải) nói: “vì được bao gồm như thế này: ‘vị nào có tội, vị ấy hãy phơi bày ra.’” Thật vậy, bằng câu “vị nào có tội,” tất cả các tội đều đã được bao gồm trong phần đề mục duyên khởi. Do phải được học bởi năm vị đồng pháp được nói theo khả năng có được. Cũng cần phải hiểu ý nghĩa là ‘bởi lý do cùng với các vị đồng pháp.’ Về câu “để nói,” (chú giải) nói rằng đây là chỉ định cách được dùng thay thế cho sở hữu cách: “do lời nói của tôi.” Và các yếu tố ở đây thì giống như trong tội chia rẽ Tăng chúng thứ nhất. Tuy nhiên, đây là sự khác biệt: giống như ở đó có sự cố gắng để chia rẽ, cũng vậy, ở đây cần phải hiểu là có sự làm cho mình trở nên không thể bị nói đến.

Dubbacasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học khó khuyên răn đã kết thúc.

13. Kuladūsakasikkhāpadavaṇṇanā
13. Giải Thích về Điều Học Làm Hư Hỏng Gia Đình

431. Terasame kīṭāgirīti tassa nigamassa nāmaṃ. Tañhi sandhāya parato ‘‘na assajipunabbasukehi bhikkhūhi kīṭāgirismiṃ vatthabba’’nti vuttaṃ. Tena pana yogato so janapadopi ‘‘kīṭāgiri’’icceva saṅkhyaṃ gatoti āha ‘‘evaṃnāmake janapade’’ti. Āvāse niyuttā āvāsikā, nibaddhavāsino. Te akataṃ senāsanaṃ karonti, jiṇṇaṃ paṭisaṅkharonti, kate issarā honti. Tenāha ‘‘so yesaṃ āyatto…pe… te āvāsikā’’ti . Nivāso nivāsamattaṃ etesaṃ atthīti nevāsikāti āha ‘‘ye pana kevala’’ntiādi. Teti assajipunabbasukā. Cha janāti paṇḍuko lohitako mettiyo bhūmajako assaji punabbasukoti ime cha janā. Sammāti ālapanavacanametaṃ. Āyamukhabhūtāti āyassa mukhabhūtā. Dhuraṭṭhāneti sāvatthiyā avidūre ṭhāne. Vassāne hemante cāti dvīsu utūsu vassanato ‘‘dvīhi meghehī’’ti vuttaṃ. Diyaḍḍhabhikkhusahassato gaṇācariyānaṃ channaṃ janānaṃ adhikattā ‘‘samadhika’’nti vuttaṃ, sādhikanti attho. Ma-kāro padasandhivasena āgato. Akatavatthunti akatapubbaṃ abhinavavatthuṃ.
431. Trong điều thứ mười ba, Kīṭāgiri là tên của thị trấn đó. Liên quan đến nó, ở phần sau đã nói là: “các Tỳ-khưu Assaji và Punabbasuka không được ở tại Kīṭāgiri.” Tuy nhiên, do sự liên quan đó, xứ đó cũng có tên là “Kīṭāgiri”. Do đó, (chú giải) nói: “ở xứ có tên như vậy.” Những người được bổ nhiệm ở một tu viện là người trú ngụ, những người ở thường xuyên. Họ xây dựng chỗ ở chưa được làm, sửa chữa chỗ đã cũ, và là người có quyền thế đối với những gì đã được làm. Do đó, (chú giải) nói: “nó thuộc quyền của ai… cho đến… họ là những người trú ngụ.” Những người chỉ có nơi ở là người ở trọ. Do đó, (chú giải) nói: “tuy nhiên, những người chỉ,” v.v. Họ là Assaji và Punabbasuka. Sáu người là sáu người này: Paṇḍuka, Lohitaka, Mettiya, Bhummajaka, Assaji, và Punabbasuka. Thưa ngài, đây là một lời gọi. Là nguồn thu nhập là nguồn của thu nhập. Ở một nơi gần là ở một nơi không xa Sāvatthī. Do mưa trong hai mùa là mùa mưa và mùa đông, nên đã được nói là “bởi hai đám mây.” Do sáu người trưởng nhóm đông hơn một ngàn năm trăm Tỳ-khưu, nên đã được nói là “hơn,” có nghĩa là nhiều hơn. Mẫu tự ‘ma’ xuất hiện do sự nối âm. Vật mới là vật mới, chưa từng được làm trước đây.

Kaṇikārādayo puppharukkhā, jātisumanādayo pupphagacchāKoṭṭananti sayaṃ chindanaṃ. Koṭṭāpananti ‘‘imaṃ chinda bhindā’’ti aññehi chedāpanaṃ. Āḷiyā bandhananti yathā gacchamūle udakaṃ santiṭṭhati, tathā samantato bandhanaṃ. Udakassāti akappiyaudakassa. Kappiyaudakasiñcananti imināva siñcāpanampi saṅgahitanti daṭṭhabbaṃ. Nanu ‘‘udakassa secanaṃ secāpana’’nti imināva sāmaññato kappiyākappiyaudakasiñcanādiṃ sakkā saṅgahetuṃ, tasmā kappiyaudakasiñcanādi kasmā visuṃ vuttanti? ‘‘Ārāmādiatthaṃ ropite akappiyavohāresupi kappiyaudakasiñcanādi vaṭṭatī’’ti vakkhamānattā idhāpi vibhāgaṃ katvā kappiyaudakasiñcanādi visuṃ dassitaṃ. Hatthamukhapādadhovananhānodakasiñcananti imināpi pakārantarena kappiyaudakasiñcanameva dasseti. ‘‘Akappiyavohāro’’ti koṭṭanakhaṇanādivasena sayaṃ karaṇassapi kathaṃ saṅgahoti? Akappiyanti voharīyatīti akappiyavohāroti akappiyabhūtaṃ karaṇakārāpanādi sabbameva saṅgahitaṃ, na pana akappiyavacanamattanti daṭṭhabbaṃ. Kappiyavohārepi eseva nayo. Sukkhamātikāya ujukaraṇanti iminā purāṇapaṇṇādiharaṇampi saṅgahitanti daṭṭhabbaṃ. Kudālādīni bhūmiyaṃ ṭhapetvā ṭhānato hatthena gahetvā ṭhānameva pākaṭataranti ‘‘obhāso’’ti vuttaṃ.
Các cây như muồng hoàng yến, v.v. là cây có hoa; các loại như lài, v.v. là bụi có hoa. Sự chặt là tự mình chặt. Sự cho chặt là cho người khác chặt bằng cách nói: “hãy chặt, hãy phá cái này.” Sự đắp bờ là đắp xung quanh để nước có thể đọng lại ở gốc cây. Của nước là của nước không hợp lệ. Cần phải hiểu rằng bằng câu “sự tưới nước hợp lệ,” ngay cả việc cho tưới cũng đã được bao gồm. Chẳng phải bằng câu “sự tưới nước, sự cho tưới nước” một cách chung chung, đã có thể bao gồm cả việc tưới nước hợp lệ và không hợp lệ, v.v. sao? Do đó, tại sao lại nói riêng về sự tưới nước hợp lệ, v.v.? Vì sẽ nói rằng “ngay cả trong các hành vi không hợp lệ, việc tưới nước hợp lệ, v.v. cũng được phép đối với những cây được trồng cho mục đích làm tu viện, v.v.,” nên ở đây cũng đã phân chia và chỉ ra riêng về sự tưới nước hợp lệ, v.v. Bằng câu “sự tưới nước rửa tay, mặt, và chân, và nước tắm,” (chú giải) cũng chỉ ra chính sự tưới nước hợp lệ bằng một cách khác. “Hành vi không hợp lệ,” làm thế nào để bao gồm cả việc tự mình làm bằng cách chặt, đào, v.v.? ‘Akappiyavohāro’ là điều được gọi là không hợp lệ; cần phải hiểu rằng tất cả những việc như tự làm, cho người khác làm, v.v. là không hợp lệ đều được bao gồm, chứ không chỉ là lời nói không hợp lệ. Cách này cũng áp dụng cho hành vi hợp lệ. Cần phải hiểu rằng bằng câu “sự làm thẳng luống khô,” ngay cả việc dọn lá cũ cũng đã được bao gồm. Sau khi đặt cuốc, v.v. xuống đất, việc cầm bằng tay ở một chỗ chỉ làm cho chỗ đó rõ ràng hơn, nên đã được nói là “sự ám chỉ.”

Mahāpaccarivādamhi patiṭṭhapetukāmo pacchā vadati. Vanatthāyāti idaṃ keci ‘‘vatatthāyā’’ti paṭhanti, tesaṃ vatiatthāyāti attho. Akappiyavohārepi ekaccaṃ vaṭṭatīti dassetuṃ ‘‘na kevalañca sesa’’ntiādimāha. Yaṃ kiñci mātikanti sukkhamātikaṃ vā asukkhamātikaṃ vā. ‘‘Kappiyaudakaṃsiñcitu’’nti iminā ‘‘kappiyaudakaṃ siñcathāti vattumpi vaṭṭatī’’ti dasseti. Sayaṃ ropetumpi vaṭṭatīti iminā ‘‘ropehīti vattuṃ vaṭṭatī’’tipi siddhaṃ. Aññatthāya vā karontassāti vatthupūjādiatthaṃ karontassa. Kasmā na anāpattīti vatthupūjanatthāya ganthanādīsu kasmā na anāpatti. Anāpattiyevāti paṭivacanaṃ datvā idāni tameva anāpattibhāvaṃ dassetuṃ ‘‘yathāhī’’tiādi vuttaṃ. Tatthāti ārāmādiatthāya rukkharopane. Tathā vatthupūjanatthāyapi anāpattiyevāti ratanattayapūjanatthāyapi kappiyavohārena pariyāyādīhi ca ganthāpane anāpattiyevāti attho.
Người muốn đứng vững trong quan điểm của Mahāpaccarī thì nói sau. Về từ “vì khu rừng,” một số người đọc là “vatatthāyā,” ý nghĩa của họ là ‘vì hàng rào.’ Để chỉ ra rằng ngay cả trong hành vi không hợp lệ, một số việc vẫn được phép, (chú giải) nói: “và không chỉ những thứ còn lại,” v.v. Bất kỳ luống nào là luống khô hoặc luống không khô. Bằng câu “để tưới nước hợp lệ,” (chú giải) chỉ ra rằng “cũng được phép nói rằng ‘hãy tưới nước hợp lệ.’” Bằng câu “ngay cả tự mình trồng cũng được phép,” cũng đã chứng minh rằng “được phép nói rằng ‘hãy trồng.’” Hoặc của người làm vì mục đích khác là của người làm vì mục đích cúng dường vật báu, v.v. Tại sao không vô tội? là tại sao không vô tội trong việc kết (hoa), v.v. cho mục đích cúng dường vật báu. Sau khi đã trả lời là “chắc chắn là vô tội,” bây giờ để chỉ ra chính tình trạng vô tội đó, đã nói câu “thật vậy, giống như,” v.v. Ở đó là trong việc trồng cây cho mục đích làm tu viện, v.v. Cũng vậy, đối với mục đích cúng dường vật báu cũng chắc chắn là vô tội, có nghĩa là đối với mục đích cúng dường Tam Bảo, việc cho kết (hoa) bằng hành vi hợp lệ và bằng cách nói gián tiếp, v.v. cũng chắc chắn là vô tội.

‘‘Tathā vatthupūjanatthāyā’’ti hi sāmaññato vuttepi ‘‘yathā hi tattha kappiyavohārena pariyāyādīhi cā’’ti vuttattā kappiyavohārādīhi ganthāpane eva anāpatti viññāyati, na sayaṃ ganthane, teneva paro sayaṃ ganthanampi kasmā na vaṭṭatīti codento ‘‘nanu cā’’tiādimāha. Yathā ārāmādiatthaṃ kappiyapathaviyaṃ sayaṃ ropetumpi vaṭṭati, tathā vatthupūjanatthāya sayaṃ ganthanepi kasmā na vaṭṭatīti codakassa adhippāyo. Vuttantiādi ācariyassa parihāro. Atha ‘‘na pana mahāaṭṭhakathāya’’nti kasmā vadati. Mahāpaccariādīsu vuttampi hi pamāṇamevāti nāyaṃ virodho, mahāaṭṭhakathāyaṃ avuttampi tattheva vuttena saṃsanditvā pamāṇamevāti patiṭṭhāpetuṃ vuttattā. Taṃ kathanti maññeyyāsīti sambandho. Mahāaṭṭhakathāyañca kappiyaudakasecanaṃ vuttaṃ, taṃ kathanti etthāyamadhippāyo. Kiñcāpi mahāaṭṭhakathāyaṃ ārāmādiatthāya kappiyapathaviyaṃ sayaṃ ropanaṃ na vuttaṃ, kappiyaudakassa pana sayaṃ siñcanaṃ vuttameva, tasmā yathā ārāmādiatthāya kappiyaudakaṃ sayaṃ siñcitumpi vaṭṭati, tathā vatthupūjanatthāya sayaṃ ganthanampi kasmā na vaṭṭatīti. Tampi na virujjhatīti yadetaṃ ārāmādiatthāya sayaṃ ropanaṃ kappiyaudakasiñcanañca vuttaṃ, tampi na virujjhati. Kathaṃ taṃ na virujjhatīti āha ‘‘tatrahī’’tiādi. Etaṃ vuttanti mālāvacchaṃ ropentipi ropāpentipi siñcantipi siñcāpentipīti etaṃ vuttaṃ. Aññatra pana pariyāyo atthīti ‘‘mālāvacchaṃ ropentipi ropāpentipi siñcantipi siñcāpentipī’’ti kulasaṅgahatthāya ropanasiñcanaṃ sandhāya vuttattā tato aññatra ārāmādiatthāya mālāvaccharopane pariyāyo atthi. Tattha pariyāyaṃ idhaca pariyāyābhāvaṃ ñatvāti tattha ‘‘mālāvacchaṃ ropentī’’tiādīsu ‘‘mālāvaccha’’nti visesavacanasabbhāvato pariyāyaṃ, idha ‘‘ganthentī’’tiādīsu tathāvidhavisesavacanābhāvato pariyāyābhāvañca ñatvā.
Thật vậy, mặc dù đã được nói một cách chung chung là “đối với mục đích cúng dường vật báu,” nhưng vì đã được nói là “thật vậy, giống như ở đó bằng hành vi hợp lệ và bằng cách nói gián tiếp, v.v.,” nên có thể biết rằng sự vô tội chỉ có trong việc cho kết (hoa) bằng hành vi hợp lệ, v.v., chứ không phải trong việc tự mình kết. Chính vì vậy, người chất vấn rằng tại sao ngay cả việc tự mình kết cũng không được phép, đã nói câu “chẳng phải,” v.v. Ý của người chất vấn là: giống như đối với mục đích làm tu viện, v.v. trên đất hợp lệ, ngay cả việc tự mình trồng cũng được phép, vậy tại sao đối với mục đích cúng dường vật báu, ngay cả việc tự mình kết cũng không được phép? Câu “đã được nói,” v.v. là lời giải đáp của vị Giáo Thọ Sư. Vậy tại sao lại nói là “nhưng không phải trong Mahāaṭṭhakathā”? Chẳng phải điều được nói trong Mahāpaccarī, v.v. cũng là bằng chứng sao? Đây không phải là mâu thuẫn, vì đã được nói để thiết lập rằng ngay cả điều không được nói trong Mahāaṭṭhakathā cũng là bằng chứng sau khi đã đối chiếu với điều được nói ở chính nơi đó. Mối liên hệ là ‘ngươi có thể nghĩ rằng điều đó như thế nào?Và trong Mahāaṭṭhakathā, việc tưới nước hợp lệ đã được nói, điều đó như thế nào? Ở đây ý nghĩa là: mặc dù trong Mahāaṭṭhakathā, việc tự mình trồng trên đất hợp lệ cho mục đích làm tu viện, v.v. không được nói, nhưng việc tự mình tưới nước hợp lệ thì đã được nói. Do đó, giống như đối với mục đích làm tu viện, v.v. ngay cả việc tự mình tưới nước hợp lệ cũng được phép, vậy tại sao đối với mục đích cúng dường vật báu, ngay cả việc tự mình kết cũng không được phép? Điều đó cũng không mâu thuẫn, điều đã được nói là việc tự mình trồng và tưới nước hợp lệ cho mục đích làm tu viện, v.v., điều đó cũng không mâu thuẫn. Để hỏi rằng tại sao điều đó không mâu thuẫn, (chú giải) nói: “thật vậy, ở đó,” v.v. Điều này đã được nói là điều này đã được nói: ‘người trồng vườn hoa cũng trồng, cho trồng, tưới, và cho tưới.’ Tuy nhiên, ở nơi khác có cách nói gián tiếp, vì câu “người trồng vườn hoa cũng trồng, cho trồng, tưới, và cho tưới” được nói liên quan đến việc trồng và tưới cho mục đích kết thân với gia đình, nên ở nơi khác, trong việc trồng vườn hoa cho mục đích làm tu viện, v.v., có cách nói gián tiếp. Sau khi đã biết cách nói gián tiếp ở đó và sự không có cách nói gián tiếp ở đây là sau khi đã biết cách nói gián tiếp trong các câu “người trồng vườn hoa,” v.v. do có từ ngữ đặc biệt là “vườn hoa,” và sự không có cách nói gián tiếp ở đây trong các câu “họ kết,” v.v. do không có từ ngữ đặc biệt như vậy.

Nanu ca yathā ‘‘ganthentī’’ti sāmaññato vuttattā pariyāyo na labbhatīti yassa kassaci atthāya sayaṃ ganthanaṃ na vaṭṭati, evaṃ ‘‘ganthāpentī’’ti sāmaññato vuttattā pariyāyena ganthāpanampi na vaṭṭatīti āpajjati. Evañca sati parato ‘‘evaṃ jāna, evaṃ kate sobheyya, yathā etāni pupphāni na vikiriyanti, tathā karohītiādinā kappiyavacanena kāretuṃ vaṭṭatī’’ti idaṃ virujjhatīti? Na virujjhati, pariyāyena hi kārāpanaṃ ganthāpanameva na hoti, tasmā yathāvuttanayena pariyāyato kārāpanaṃ vaṭṭati. Sabbaṃ vuttanayeneva veditabbanti heṭṭhā vuttaṃ vinicchayameva saṅkhepato nigameti. Haraṇādīsu kasmā anāpattīti vatthupūjanatthāya haraṇādīsu kasmā anāpatti. Kulitthiādīnaṃ atthāya haraṇatoti kulitthiādīnaṃ haraṇassa tattha vuttattāti adhippāyo. Tenevāha ‘‘haraṇādhikāre hī’’tiādi. Mālanti pupphadāmaṃ. Mañjarī viyāti kusumamañjarī viya. Hārasadisanti muttāhārasadisaṃ.
Chẳng phải, giống như vì đã được nói một cách chung chung là “họ kết (hoa),” nên không có cách nói gián tiếp, và việc tự mình kết (hoa) vì bất kỳ mục đích nào cũng không được phép sao? Cũng vậy, vì đã được nói một cách chung chung là “họ cho kết (hoa),” nên việc cho kết (hoa) một cách gián tiếp cũng không được phép sao? Và nếu vậy, thì điều sẽ được nói ở phần sau rằng: “được phép cho làm bằng lời nói hợp lệ như: ‘hãy biết như vầy, làm như thế này thì sẽ đẹp, hãy làm sao cho những bông hoa này không bị rơi rớt,’” sẽ bị mâu thuẫn? Không mâu thuẫn. Thật vậy, việc cho làm một cách gián tiếp không phải là chính sự cho kết (hoa). Do đó, việc cho làm một cách gián tiếp theo cách đã được nói là được phép. Tất cả phải được hiểu theo cách đã được nói là tóm tắt lại một cách ngắn gọn quyết đoán đã được nói ở dưới. Tại sao không vô tội trong việc mang đi, v.v.? là tại sao không vô tội trong việc mang đi, v.v. cho mục đích cúng dường vật báu. Do việc mang đi cho các phụ nữ quý tộc, v.v., ý nghĩa là do việc mang đi cho các phụ nữ quý tộc, v.v. đã được nói ở đó. Chính vì vậy, (chú giải) nói: “thật vậy, trong phần về việc mang đi,” v.v. Vòng hoa là tràng hoa. Giống như một chùm hoa là giống như một chùm hoa kusuma. Giống như chuỗi hạt là giống như chuỗi ngọc trai.

Pācittiyañceva dukkaṭañcāti pathavīkhaṇanapaccayā pācittiyaṃ, kulasaṅgahapaccayā dukkaṭaṃ. Akappiyavohārenāti ‘‘idaṃ khaṇa, idaṃ ropehī’’tiādiakappiyavohārena. Dukkaṭamevāti kulasaṅgahapaccayā dukkaṭaṃ. Ubhayatthāti kappiyākappiyapathaviyaṃ. Sabbatthāti kulasaṅgahaparibhogaārāmādiatthāya ropite. Dukkaṭampīti na kevalaṃ pācittiyameva. Kappiyenāti kappiyena udakena. Tesaṃyeva dvinnanti kuladūsanaparibhogānaṃ. Dukkaṭanti kulasaṅgahatthāya sayaṃ siñcane kappiyavohārena akappiyavohārena vā siñcāpane ca dukkaṭaṃ, paribhogatthāya pana sayaṃ siñcane akappiyavohārena siñcāpane ca dukkaṭaṃ. Āpattibahulatā veditabbāti ettha sayaṃ siñcane dhārāpacchedagaṇanāya āpattigaṇanā veditabbā. Siñcāpane pana punappunaṃ āṇāpentassa vācāya vācāya āpatti, sakiṃ āṇattassa bahūnaṃ siñcanepi ekāva.
Tội Ưng Đối Trị và cả tội Tác Ác là phạm tội Ưng Đối Trị do nguyên nhân là đào đất, và tội Tác Ác do nguyên nhân là kết thân với gia đình. Bằng hành vi không hợp lệ là bằng hành vi không hợp lệ như “hãy đào cái này, hãy trồng cái này.” Chắc chắn là tội Tác Ác là tội Tác Ác do nguyên nhân là kết thân với gia đình. Trong cả hai nơi là trên đất hợp lệ và không hợp lệ. Trong tất cả các trường hợp là khi được trồng cho mục đích kết thân với gia đình, hưởng thụ, làm tu viện, v.v. Cả tội Tác Ác là không chỉ tội Ưng Đối Trị. Bằng vật hợp lệ là bằng nước hợp lệ. Của chính hai điều đó là của việc làm hư hỏng gia đình và việc hưởng thụ. Tội Tác Ác là tội Tác Ác trong việc tự mình tưới cho mục đích kết thân với gia đình, và trong việc cho tưới bằng hành vi hợp lệ hoặc không hợp lệ; còn đối với mục đích hưởng thụ, thì phạm tội Tác Ác trong việc tự mình tưới và trong việc cho tưới bằng hành vi không hợp lệ. Phải được biết sự nhiều tội, ở đây, trong việc tự mình tưới, sự đếm tội phải được biết theo số lần ngắt dòng nước. Còn trong việc cho tưới, đối với người ra lệnh nhiều lần thì phạm tội theo từng lời nói; đối với người ra lệnh một lần, dù tưới cho nhiều người, cũng chỉ một tội.

Dukkaṭapācittiyānīti kulasaṅgahapaccayā dukkaṭaṃ, bhūtagāmapātabyatāya pācittiyaṃ. Aññatthāti vatthupūjādiatthāya ocinane. Sakiṃ āṇattoti akappiyavohārena āṇatto. Pācittiyamevāti akappiyavacanena āṇattattā pācittiyaṃ. Kappiyavacanena pana vatthupūjādiatthāya ocināpentassa anāpattiyeva.
Các tội Tác Ác và Ưng Đối Trị là tội Tác Ác do nguyên nhân là kết thân với gia đình, và tội Ưng Đối Trị do làm tổn hại cây cỏ. Ở nơi khác là trong việc hái cho mục đích cúng dường vật báu, v.v. Người được ra lệnh một lần là người được ra lệnh bằng hành vi không hợp lệ. Chắc chắn là tội Ưng Đối Trị là tội Ưng Đối Trị do đã được ra lệnh bằng lời nói không hợp lệ. Còn đối với người cho hái cho mục đích cúng dường vật báu, v.v. bằng lời nói hợp lệ, thì chắc chắn là vô tội.

Ganthanena nibbattaṃ gantimaṃ. Esa nayo sesesupi. Na vaṭṭatīti kulasaṅgahatthāya vatthupūjādiatthāya vā vuttanayena karontassa ca kārāpentassa ca dukkaṭanti attho. Purimanayenevāti ‘‘bhikkhussa vā’’tiādinā vuttanayena. Dhammāsanavitāne baddhakaṇṭakesu pupphāni vijjhitvā ṭhapentīti sambandho. Uparūpari vijjhitvā chattasadisaṃ katvā āvuṇanato ‘‘chattātichattaṃ viyā’’ti vuttaṃ. ‘‘Kadalikkhandhamhī’’tiādinā vuttaṃ sabbameva sandhāya ‘‘taṃ atioḷārikamevā’’ti vuttaṃ, sayaṃ karontassa akappiyavacaneneva kārāpentassa ca dukkaṭamevāti attho. Pupphavijjhanatthanti vuttattā pupphāni vijjhituṃyeva kaṇṭakaṃ bandhituṃ na vaṭṭati, pupphadāmādibandhanatthaṃ pana vaṭṭati. Kaṇṭakampi bandhituṃ na vaṭṭatīti ca idaṃ aṭṭhakathācariyappamāṇena gahetabbaṃ. Pavesetuṃ na vaṭṭatīti vuttattā pupphacchidde apavesetvā uparūpari ṭhapetuṃ vaṭṭati. Jālamayaṃ vitānaṃ jālavitānaṃNāgadantakampi sacchiddakaṃyeva gahetabbaṃ. Pupphapaṭicchakaṃ daṇḍādīhi katapupphādhāraṇaṃ, tampi sacchiddameva idha vuttaṃ. Asokapiṇḍiyāti asokapupphamañjarikāya. ‘‘Dhammarajju nāma cetiyaṃ vā bodhiṃ vā pupphapavesanatthaṃ āvijjhitvā baddharajjū’’ti mahāgaṇṭhipade majjhimagaṇṭhipade ca vuttaṃ, tasmā tathābaddhāya rajjuyā cetiyassa ca antare pupphāni pavesetuṃ vaṭṭatīti viññāyati. Gaṇṭhipade pana ‘‘dhammarajjunti sithilaṃ vaṭṭikaṃ rajjuṃ katvā bodhiṃ vā cetiyaṃ vā parikkhipitvā dhammāsane vā lambitvā tattha pupphāni pavesentī’’ti vuttaṃ, tasmā sithilavaṭṭikāya rajjuyā antarepi pupphāni pavesetuṃ vaṭṭatīti viññāyati, vīmaṃsitvā yuttataraṃ gahetabbaṃ. Ubhayatthāpi panettha nevatthi virodhoti amhākaṃ khanti.
Vật được tạo ra bằng cách kết lại là vật được kết. Cách này cũng áp dụng cho các trường hợp còn lại. Không được phép có nghĩa là người làm và người cho làm theo cách đã được nói vì mục đích kết thân với gia đình hoặc vì mục đích cúng dường vật báu, v.v. thì phạm tội Tác Ác. Theo cách trước là theo cách đã được nói bằng câu “của vị Tỳ-khưu hoặc,” v.v. Mối liên hệ là họ xỏ hoa vào những chiếc gai đã được buộc trên màn che của pháp tòa. Do được xỏ chồng lên nhau và làm giống như một cái lọng, nên đã được nói là “giống như lọng trên lọng.” Bằng câu “trên thân cây chuối,” v.v., đã được nói là “điều đó quá thô tục” liên quan đến tất cả những gì đã được nói; có nghĩa là người tự mình làm và người cho làm chỉ bằng lời nói không hợp lệ đều phạm tội Tác Ác. Vì đã được nói là “cho mục đích xỏ hoa,” nên chỉ không được phép buộc gai để xỏ hoa; còn để buộc tràng hoa, v.v. thì được phép. Và câu “ngay cả buộc gai cũng không được phép” này phải được hiểu theo tiêu chuẩn của các vị Giáo Thọ Sư soạn chú giải. Vì đã được nói là “không được phép đưa vào,” nên được phép đặt lên trên mà không đưa vào lỗ của hoa. Màn che bằng lưới là màn che lưới. Ngà voi cũng phải được hiểu là có lỗ. Vật đỡ hoa là vật đỡ hoa được làm bằng gậy, v.v.; ở đây cũng chỉ nói đến loại có lỗ. Bằng một chùm hoa asoka là bằng một chùm hoa asoka. Trong Mahāgaṇṭhipade và Majjhimagaṇṭhipade đã nói rằng: “dây Pháp là sợi dây được buộc sau khi đã giăng quanh bảo tháp hoặc cây bồ đề để cài hoa.” Do đó, có thể biết rằng được phép cài hoa vào khoảng giữa của sợi dây đã được buộc như vậy và bảo tháp. Tuy nhiên, trong Gaṇṭhipade đã nói rằng: “dây Pháp là họ làm một sợi dây bện lỏng, quấn quanh cây bồ đề hoặc bảo tháp, hoặc treo trên pháp tòa rồi cài hoa vào đó.” Do đó, có thể biết rằng cũng được phép cài hoa vào khoảng giữa của sợi dây bện lỏng, cần phải xem xét và chọn lấy điều hợp lý hơn. Chúng tôi cho rằng ở đây, cả hai đều không có sự mâu thuẫn.

Matthakadāmanti dhammāsanādimatthake lambakadāmaṃ. Pupphehi veṭhentīti pupphadāmena veṭhenti. Tesaṃyevāti uppalādīnaṃyeva. Vākena vā daṇḍakena vāti visuṃ acchinnena pupphasahiteneva vākena vā daṇḍakena vā. Khandhe ṭhapitakāsāvassāti khandhe ṭhapitasaṅghāṭiṃ sandhāya vuttaṃ. Tañhi tathā bandhituṃ sakkā bhaveyya. Imināva aññampi tādisaṃ kāsāvaṃ vā vatthaṃ vā vuttanayena bandhitvā tattha pupphāni pakkhipituṃ vaṭṭatīti siddhaṃ. Aṃsabhaṇḍikaṃ pasibbake pakkhittasadisattā veṭhimaṃ nāma na jātaṃ, tasmā sithilabandhassa antarantarā pakkhipituṃ vaṭṭatīti vadanti.
Tràng hoa trên đỉnh là tràng hoa treo trên đỉnh của pháp tòa, v.v. Họ quấn bằng hoa là họ quấn bằng tràng hoa. Của chính chúng là của chính các loại sen, v.v. Bằng vỏ cây hoặc bằng cành cây là bằng vỏ cây hoặc cành cây cùng với hoa chưa được cắt rời. Của chiếc y cà-sa được đặt trên vai được nói liên quan đến chiếc y tăng-già-lê được đặt trên vai. Thật vậy, có thể buộc nó như vậy. Bằng chính điều này, đã chứng minh rằng cũng được phép buộc một chiếc y cà-sa hoặc một miếng vải khác tương tự theo cách đã được nói rồi bỏ hoa vào đó. Người ta nói rằng túi đựng đồ trên vai không được gọi là vật được quấn vì nó giống như được bỏ vào trong một cái túi; do đó, được phép bỏ vào khoảng giữa của vật được buộc lỏng.

Pupphapaṭeca daṭṭhabbanti pupphapaṭaṃ karontassa dīghato pupphadāmassa haraṇapaccāharaṇavasena pūraṇaṃ sandhāya vuttaṃ. Tiriyato haraṇaṃ pana vāyimaṃ nāma hoti, na pūrimaṃ. Purimaṭṭhānaṃ atikkāmetīti ettha ‘‘aphusāpetvāpi atikkāmentassa āpattiyevā’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. ‘‘Purimaṭṭhānaṃ atikkāmetī’’ti avisesena vuttattā taṃ yuttaṃ. Keci pana ‘‘aññamaññaṃ aphusāpetvā anekakkhattuṃ parikkhipituṃ vaṭṭatī’’ti vadantīti vuttaṃ, tattha kāraṇaṃ na dissati. Bandhituṃ vaṭṭatīti puppharahitāya suttakoṭiyā vākakoṭiyā vā bandhituṃ vaṭṭati. Ekavāraṃ haritvā vā parikkhipitvā vāti idaṃ pubbe vuttacetiyādiparikkhepaṃ pupphapaṭakaraṇañca sandhāya vuttaṃ, tasmā cetiyaṃ vā bodhiṃ vā parikkhipantena ekavāraṃ parikkhipitvā purimaṭṭhānaṃ sampatte aññassa dātabbaṃ, tenapi ekavāraṃ parikkhipitvā tatheva kātabbaṃ. Pupphapaṭaṃ karontena ca ekavāraṃ haritvā aññassa dātabbaṃ, tenapi tatheva kātabbaṃ. Sacepi dveyeva bhikkhū ubhosu passesu ṭhatvā pariyāyena haranti, vaṭṭatiyevāti vadanti.
Phải được xem như tấm vải hoa được nói liên quan đến việc lấp đầy một tấm vải hoa bằng cách đưa đi đưa lại tràng hoa theo chiều dài khi làm một tấm vải hoa. Còn việc đưa qua theo chiều ngang được gọi là sự dệt, không phải là sự lấp đầy. Về câu “làm cho vượt qua chỗ cũ,” ở đây, trong cả ba sách lược giải đều nói rằng: “ngay cả khi làm cho vượt qua mà không chạm vào cũng phạm tội.” Điều đó hợp lý vì đã được nói một cách không phân biệt là “làm cho vượt qua chỗ cũ.” Đã được nói rằng một số người lại nói: “được phép quấn nhiều lần mà không chạm vào nhau,” nhưng không thấy có lý do ở đó. Được phép buộc là được phép buộc bằng đầu sợi chỉ hoặc đầu vỏ cây không có hoa. Sau khi đã đưa qua hoặc quấn một vòng được nói liên quan đến việc quấn quanh bảo tháp, v.v. và việc làm tấm vải hoa đã được nói trước đây. Do đó, người quấn quanh bảo tháp hoặc cây bồ đề, sau khi đã quấn một vòng, khi đến chỗ cũ thì phải đưa cho người khác; người đó cũng quấn một vòng rồi làm tương tự. Và người làm tấm vải hoa, sau khi đã đưa qua một lần thì phải đưa cho người khác; người đó cũng làm tương tự. Người ta nói rằng ngay cả nếu chỉ có hai vị Tỳ-khưu đứng ở hai bên và thay phiên nhau đưa qua, cũng được phép.

Pūritanti dīghato pasāraṇavasena pūritaṃ. Vāyituṃ na labhatīti dīghato pasārite tiriyato haraṇaṃ vāyanaṃ nāma hotīti ekavārampi pupphaguṇaṃ tiriyato harituṃ na vaṭṭati. Pupphāni ṭhapentenāti aganthitāni pākatikapupphāni ṭhapentena. Pupphadāmaṃ pana pūjanatthāya bhūmiyaṃ ṭhapentena phusāpetvā vā aphusāpetvā vā diguṇaṃ katvā ṭhapetuṃ na vaṭṭatīti vadanti. Ghaṭikadāmaolambakoti ante ghaṭikākārayutto yamakadāmaolambako. Ekekaṃ pana dāmaṃ nikkhantasuttakoṭiyāva bandhitvā olambituṃ vaṭṭati, pupphadāmadvayaṃ saṅghaṭitukāmenapi nikkhantasuttakoṭiyāva suttakoṭiṃ saṅghaṭituṃ vaṭṭati. Aḍḍhacandākārena mālāguṇaparikkhepoti aḍḍhacandākārena mālāguṇassa punappunaṃ haraṇapaccāharaṇavasena pūretvā parikkhipanaṃ. Teneva taṃ pūrime paviṭṭhaṃ, tasmā etampi aḍḍhacandākāraṃ punappunaṃ haraṇapaccāharaṇavasena pūritaṃ na vaṭṭati. Ekavāraṃ pana aḍḍhacandākārena mālāguṇaṃ harituṃ vaṭṭatīti vadanti. Pupphadāmakaraṇanti ettha suttakoṭiyaṃ gahetvāpi ekato kātuṃ na vaṭṭatīti vadanti. Geṇḍukakharapattadāmānaṃ paṭikkhittattā celādīhi katadāmampi na vaṭṭati akappiyānulomattāti vadanti.
Được lấp đầy là được lấp đầy bằng cách giăng theo chiều dài. Không được phép dệt là khi đã giăng theo chiều dài, việc đưa qua theo chiều ngang được gọi là sự dệt; do đó, không được phép đưa một sợi hoa qua theo chiều ngang dù chỉ một lần. Bởi người đang đặt hoa là bởi người đang đặt những bông hoa tự nhiên, chưa được kết lại. Tuy nhiên, người ta nói rằng người đặt tràng hoa xuống đất để cúng dường thì không được phép gấp đôi lại để đặt, dù có chạm vào hay không. Vật treo là tràng hoa đôi có hình quả lắc là vật treo là tràng hoa đôi có hình quả lắc ở cuối. Tuy nhiên, được phép treo từng tràng hoa bằng cách buộc bằng chính đầu sợi chỉ thò ra. Người muốn nối hai tràng hoa lại với nhau cũng được phép nối đầu sợi chỉ với đầu sợi chỉ bằng chính đầu sợi chỉ thò ra. Sự trang trí bằng vòng hoa hình bán nguyệt là sự trang trí bằng cách lấp đầy một vòng hoa hình bán nguyệt bằng cách đưa đi đưa lại nhiều lần. Chính vì vậy, nó đã được bao gồm trong sự lấp đầy. Do đó, việc lấp đầy hình bán nguyệt này bằng cách đưa đi đưa lại nhiều lần cũng không được phép. Tuy nhiên, người ta nói rằng được phép đưa vòng hoa thành hình bán nguyệt một lần. Về câu “sự làm tràng hoa,” ở đây, người ta nói rằng ngay cả khi cầm đầu sợi chỉ cũng không được phép làm chung. Vì tràng hoa hình quả bóng và hình lá cọ đã bị từ chối, nên người ta nói rằng ngay cả tràng hoa làm bằng vải, v.v. cũng không được phép, vì nó tương tự như vật không hợp lệ.

‘‘Lāsiyanāṭakaṃnāṭentī’’ti vatvā tameva pariyāyantarena dassetuṃ ‘‘recakaṃ dentī’’ti vuttaṃ, abhinayaṃ dassentīti attho, attano adhippāyaṃ pakāsetvā ‘‘evaṃ naccitabba’’nti paṭhamaṃ uṭṭhahitvā naccanākāraṃ dassentīti vuttaṃ hoti. Keci pana ‘‘mukhe aṅguliyo pakkhipitvā saddaṃ karontā cakkamiva attānaṃ bhamayamānā recakaṃ denti nāmā’’ti vadanti. Ekekāya pantiyā aṭṭha aṭṭha padāni assāti aṭṭhapadaṃ. ‘‘Aṭṭhāpada’’ntipi paṭhanti. Dasapadepi eseva nayo. Padānīti ca sāriādīnaṃ patiṭṭhānaṭṭhānāni. Dasapadaṃ nāma dvīhi pantīhi vīsatiyā padehi kīḷanajūtaṃ. Ākāseyeva kīḷantīti ‘‘ayaṃ sārī asukapadaṃ mayā nītā, ayaṃ asukapada’’nti kevalaṃ mukheneva vadantā ākāseyeva jūtaṃ kīḷanti. Jūtaphalaketi jūtamaṇḍale. Pāsakakīḷāya kīḷantīti pāsakaṃ vuccati chasu passesu ekekaṃ yāva chakkaṃ dassetvā katakīḷanaṃ, taṃ vaḍḍhetvā yathāladdhaekakādivasena sāriyo apanentā upanentā ca kīḷanti. Ghaṭena kīḷā ghaṭikāti eke.
Sau khi đã nói là “họ biểu diễn điệu múa lāsikā,” để chỉ ra chính điều đó bằng một từ đồng nghĩa khác, đã được nói là “họ biểu diễn điệu recaka,” có nghĩa là họ thể hiện cử chỉ; có nghĩa là đã nói rằng họ thể hiện ý định của mình, rồi đứng lên trước và thể hiện điệu bộ múa rằng: “phải múa như thế này.” Tuy nhiên, một số người nói rằng: “họ đặt ngón tay vào miệng và tạo ra âm thanh, xoay mình như một cái bánh xe, đó được gọi là biểu diễn điệu recaka.” Mỗi một hàng có tám ô, nên là bàn cờ tám ô. Cũng có cách đọc là “aṭṭhāpada.” Đối với bàn cờ mười ô, cách này cũng tương tự. Và các ô là những chỗ để đặt các quân cờ, v.v. Bàn cờ mười ô là trò cờ bạc được chơi với hai mươi ô gồm hai hàng. Họ chơi chỉ trong không trung là họ chỉ nói bằng miệng rằng: “quân cờ này đã được tôi đưa đến ô tên là thế này, quân này ở ô tên là thế này,” và chơi cờ bạc chỉ trong không trung. Trên bàn cờ bạc là trên bàn cờ bạc. Họ chơi trò xúc xắc, xúc xắc được gọi là vật được làm để chơi, có sáu mặt được đánh dấu từ một đến sáu. Họ tung nó lên và dựa vào số một, v.v. nhận được mà di chuyển các quân cờ tới lui và chơi. Một số người cho rằng trò chơi với cái ghè là ghaṭikā.

Mañjaṭṭhiyā vāti mañjaṭṭhirukkhasāraṃ gahetvā pakkakasāvaṃ sandhāya vadati. Salākahatthanti tālahīrādīnaṃ kalāpassetaṃ adhivacanaṃ. Bahūsu salākāsu visesarahitaṃ ekaṃ salākaṃ gahetvā tāsu pakkhipitvā puna taṃyeva uddharantā salākahatthena kīḷantīti keci. Paṇṇena vaṃsākārena katā nāḷikā paṇṇanāḷikā. Tenevāha ‘‘taṃ dhamantā’’ti. Pucchantassa mukhāgataṃ akkharaṃ gahetvā naṭṭhamuṭṭhilābhālābhādijānanakīḷā akkharikātipi vadanti. Hatthisminti nimittatthe bhummaṃ, hatthinimittasippeti attho. Assasmintiādīsupi eseva nayo. ‘‘Usseḷenti apphoṭentī’’ti dvinnaṃ padānaṃ attho pākaṭoyevāti na vutto. Tattha usseḷentīti mukhena usseḷanasaddaṃ pamuñcanti, mahantaṃ katvā abyattasaddaṃ pavattentīti attho. ‘‘Ajānaṃ saññaṃ dentā ajapālakā viya mukhena vātaṃ nicchārentā sukhumaṃ abyattanādaṃ pavattentī’’tipi vadanti. Apphoṭentīti bhujahatthasaṅghaṭṭanasaddaṃ pavattenti, vāmahatthaṃ ure ṭhapetvā dakkhiṇena pāṇinā tattha tāḷanena saddaṃ karontīti attho. Mukhaḍiṇḍimanti mukhabheriyā etaṃ adhivacanaṃ.
Hoặc bằng gỗ mañjaṭṭhi là nói liên quan đến nước thuốc sắc được lấy từ lõi cây mañjaṭṭhi. Trò chơi que là tên gọi khác của một bộ môn nghệ thuật về lá thốt nốt, v.v. Một số người nói rằng họ lấy một que không có đặc điểm gì đặc biệt trong số nhiều que, bỏ vào trong đó, rồi lại rút ra đúng que đó và chơi trò chơi que. Ống sáo được làm bằng lá theo hình dạng của cây tre là ống sáo lá. Chính vì vậy, (chú giải) nói: “họ thổi nó.” Người ta cũng nói rằng akkharikā là trò chơi đoán đồ vật bị giấu trong nắm tay, đoán được mất, v.v. bằng cách lấy một chữ cái từ miệng của người hỏi. Trên con voi là sở thuộc cách với ý nghĩa mục đích, có nghĩa là trong kỹ năng về con voi. Đối với các câu trên con ngựa, v.v. cách này cũng tương tự. Ý nghĩa của hai từ “họ la hét, họ vỗ tay” đã rõ ràng nên không được nói đến. Trong đó, họ la hét là họ phát ra tiếng la hét bằng miệng; có nghĩa là họ tạo ra âm thanh lớn, không rõ ràng. Người ta cũng nói rằng: “họ ra hiệu cho dê bằng cách phát ra hơi bằng miệng như những người chăn dê, tạo ra một âm thanh nhỏ, không rõ ràng.” Họ vỗ tay là họ tạo ra âm thanh va chạm giữa cánh tay và bàn tay; có nghĩa là họ đặt tay trái lên ngực và dùng lòng bàn tay phải vỗ vào đó để tạo ra âm thanh. Trống miệng là tên gọi khác của trống phát ra từ miệng.

432.Pasādāvahenāti pasādajananakena. Abhikkamanaṃ abhikkantanti āha ‘‘gamanenā’’ti. Paṭikkamanaṃ paṭikkantaṃNivattanenāti nivattimattaṃ dasseti. Nivattetvā pana gamanaṃ gamanameva. Abhimukhaṃ lokitaṃ ālokitanti āha ‘‘purato dassanenā’’ti. Ito cito ca dassanenāti anudisāpekkhanaṃ dasseti. Yaṃdisābhimukho gacchati tiṭṭhati nisīdati, tadabhimukhaṃ pekkhanaṃ ālokitaṃ, tadanugatadisālokanaṃ ‘‘vilokita’’nti hi vuccati. Aññānipi heṭṭhā upari pacchato pekkhanavasena olokitaullokitāpalokitāni nāma honti. Tāni pana na samaṇasāruppāni appasādāvahāni, tenevettha ālokitavilokitāneva gahitāni. Tesanti samāse guṇībhūtānipi pabbāni parāmasati. ‘‘Pabbasaṅkocanenā’’ti hi vuttattā pabbāni tattha guṇībhūtāni saṅkocanassa padhānattā. Satisampajaññehīti sātthakatādipariggāhikāya satiyā tathāpavattasampajaññena ca samantato pakārehi, pakaṭṭhaṃ vā savisesaṃ jānātīti sampajāno, tassa bhāvo sampajaññaṃ. Tathāpavattañāṇassetaṃ adhivacanaṃ. Abhisaṅkhatattāti sammā pavattitattā. Heṭṭhākhittacakkhūti khandhaṃ anāmetvāva adhokhittacakkhu. Khandhaṃ nāmetvā hi heṭṭhāvalokanaṃ na samaṇasāruppaṃ. ‘‘Okkhittacakkhū’’ti ca iminā yugamattadassitā vuttā.
432. Bằng cách mang lại sự tịnh tín là bằng cách tạo ra sự tịnh tín. Việc đi tới là sự đi tới. Do đó, (chú giải) nói: “bằng sự đi.” Việc đi lui là sự đi lui. Bằng sự quay lại là chỉ ra chỉ riêng sự quay lại. Còn việc đi sau khi đã quay lại thì chỉ là sự đi. Việc nhìn về phía trước là sự nhìn tới. Do đó, (chú giải) nói: “bằng sự nhìn về phía trước.” Bằng sự nhìn qua lại là chỉ ra sự nhìn về các hướng phụ. Thật vậy, việc nhìn về hướng mà mình đang đi, đứng, hoặc ngồi được gọi là ālokitaṃ (sự nhìn tới); việc nhìn về các hướng liên quan đến hướng đó được gọi là vilokitaṃ (sự nhìn quanh). Cũng có những cái gọi là sự nhìn xuống, sự nhìn lên, và sự nhìn lại bằng cách nhìn xuống dưới, lên trên, và về phía sau. Tuy nhiên, chúng không phù hợp với sa-môn và không mang lại sự tịnh tín. Chính vì vậy, ở đây chỉ lấy sự nhìn tới và sự nhìn quanh. Của chúng là chỉ cho các khớp xương, mặc dù chúng là thành phần phụ trong hợp từ. Thật vậy, vì đã được nói là “bằng sự co các khớp xương,” nên các khớp xương ở đó là thành phần phụ, vì sự co là chính. Bằng niệm và tỉnh giác là bằng niệm quán xét sự có lợi ích, v.v. và bằng tỉnh giác diễn tiến như vậy, một cách toàn diện và khác biệt; hoặc người biết một cách ưu việt, một cách đặc biệt là người có tỉnh giác, trạng thái của người đó là sự tỉnh giác. Đây là tên gọi khác của trí tuệ diễn tiến như vậy. Do được thực hiện đúng đắn là do được diễn tiến một cách đúng đắn. Mắt nhìn xuống là mắt nhìn xuống dưới mà không cúi đầu. Thật vậy, việc nhìn xuống dưới bằng cách cúi đầu không phù hợp với sa-môn. Và bằng câu “mắt nhìn xuống,” sự chỉ ra việc nhìn trong khoảng một tầm ách đã được nói đến.

Bondoti lolo mandadhātukoti attho. Bhakuṭiṃ katvāti bhamukabhedaṃ katvā. Sākhalyena yuttāti ‘‘tattha katamaṃ sākhalyaṃ? Yā sā vācā nelā kaṇṇasukhā’’tiādinā (dha. sa. 1350) nayena vuttasākhalyena samannāgatā, muduvacanāti attho. Nelāti elaṃ vuccati doso, nāssā elanti nelā, niddosāti attho. Kaṇṇasukhāti byañjanamadhuratāya kaṇṇānaṃ sukhā, sūcinā vijjhanaṃ viya kaṇṇasūlaṃ na janeti. Dānanibaddhānīti nibaddhadānāni.
Người phù phiếm có nghĩa là người ham muốn, có bản chất thấp kém. Làm mặt nhăn nhó là làm cho lông mày cau lại. Có sự hòa nhã là có sự hòa nhã đã được nói theo cách: “ở đó, sự hòa nhã là gì? Lời nói nào êm ái, dễ nghe tai,” v.v. (Dha. Sa. 1350); có nghĩa là lời nói hiền dịu. Êm ái, ‘ela’ được gọi là lỗi lầm, không có lỗi lầm ở nơi nó nên là ‘nelā,’ có nghĩa là không có lỗi lầm. Dễ nghe tai là dễ nghe tai do sự ngọt ngào của văn tự, không gây đau tai như bị kim đâm. Những sự bố thí thường xuyên là những sự bố thí được thực hiện đều đặn.

‘‘Sāriputtamoggallāne āmantesī’’ti vatvā ‘‘gacchatha tumhe sāriputtā’’ti vacanato ‘‘sāriputtā’’ti idaṃ ekasesanayena vuttanti ayamattho pākaṭoyevāti na vutto. ‘‘Sāriputtā’’ti hi idaṃ ekasesanayena vuttaṃ virūpekasesassapi icchitattā, tenevettha bahuvacananiddeso katoti. Saddhassa pasannassāti ratanattayassa saddhāya samannāgatassa tatoyeva ca pasannassa, kammaphalasaddhāya vā samannāgatattā saddhassa ratanattayappasādabahulatāya pasannassa.
Sau khi đã nói là “ngài đã gọi Sāriputta và Moggallāna,” do câu nói “hãy đi, này các Sāriputta,” nên ý nghĩa rằng “các Sāriputta” được nói theo cách nói lược một phần đã rõ ràng nên không được nói đến. Thật vậy, từ “các Sāriputta” được nói theo cách nói lược một phần, vì ngay cả sự lược bỏ một phần không đồng dạng cũng được chấp nhận. Chính vì vậy, ở đây sự chỉ định ở số nhiều đã được thực hiện. Của người có đức tin, có lòng tịnh tín là của người có đức tin đối với Tam Bảo và do đó mà có lòng tịnh tín; hoặc là người có đức tin do có đức tin vào nghiệp và quả của nghiệp, và có lòng tịnh tín do có nhiều lòng tịnh tín đối với Tam Bảo.

433.Āpattiṃ ropetabbāti kuladūsakakammena āpannāpattiṃ ropetabbā. Tasmiṃ vihāreti bahigāme vihāraṃ sandhāya vuttaṃ. Antogāme vihāro pana ‘‘tasmiṃ gāme na vasitabba’’nti imināva saṅgahito gāmaggahaṇeneva gahitattā. ‘‘Tasmiṃ vihāre’’ti vacanato tassa gāmassa sāmantā aññasmiṃ vihāre vasituṃ vaṭṭati. Sāmantagāme piṇḍāya na caritabbanti tasmiṃ vihāre vāsassa paṭikkhittattā yadi tattha vasati, tena sāmantagāmepi piṇḍāya na caritabbanti adhippāyo. Tasmiṃ gāme piṇḍāya na caritabbanti yasmiṃ gāme kuladūsakakammaṃ kataṃ, tasmiṃ gāme na caritabbaṃ. Yasmiñhi gāme vā nigame vā kuladūsakakammaṃ kataṃ, yasmiñca vihāre vasati, neva tasmiṃ gāme vā nigame vā carituṃ labbhati, na vihāre vasituṃ. Sāmantavihāre vasantena pana sāmantagāme carituṃ vaṭṭati tattha vāsassa appaṭikkhittattā.
433. Phải bị gán cho tội là phải bị gán cho tội đã phạm do Tăng sự làm hư hỏng gia đình. Trong tu viện đó được nói liên quan đến tu viện ở ngoài làng. Còn tu viện ở trong làng thì đã được bao gồm trong câu “không được ở trong làng đó,” vì đã được bao gồm trong từ ‘làng.’ Do câu nói “trong tu viện đó,” nên được phép ở trong một tu viện khác ở vùng lân cận của làng đó. Không được đi khất thực ở làng lân cận, vì việc ở trong tu viện đó đã bị từ chối, nên nếu vị ấy ở đó, thì cũng không được đi khất thực ở làng lân cận. Đó là ý nghĩa. Không được đi khất thực ở làng đó là không được đi khất thực ở làng nào mà Tăng sự làm hư hỏng gia đình đã được thực hiện. Thật vậy, ở làng hay thị trấn nào mà Tăng sự làm hư hỏng gia đình đã được thực hiện, và ở tu viện nào mà vị ấy đang ở, thì không được phép đi khất thực ở làng hay thị trấn đó, cũng không được phép ở trong tu viện đó. Tuy nhiên, người ở trong tu viện lân cận thì được phép đi khất thực ở làng lân cận, vì việc ở đó không bị từ chối.

435.Aṭṭhārasavattānīti ‘‘na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo, na bhikkhunovādakasammuti sāditabbā, sammatena bhikkhuniyo na ovaditabbā, yāya āpattiyā saṅghena pabbājanīyakammaṃ kataṃ hoti, na sā āpatti āpajjitabbā aññā vā tādisikā tato vā pāpiṭṭhatarā, kammaṃ na garahitabbaṃ, kammikā na garahitabbā, na pakatattassa bhikkhuno uposatho ṭhapetabbo, na pavāraṇā ṭhapetabbā, na savacanīyaṃ kātabbaṃ, na anuvādo ṭhapetabbo, na okāso kāretabbo, na codetabbo, na sāretabbo, na bhikkhūhi sampayojetabba’’nti evamāgatāni aṭṭhārasa vattāni.
435. Mười tám bổn phận là mười tám bổn phận đã xuất hiện như sau: “không được cho thọ cụ túc giới, không được cho nương tựa, không được cho sa-di hầu hạ, không được chấp nhận sự ủy nhiệm dạy dỗ Tỳ-khưu-ni, dù đã được chấp thuận cũng không được dạy dỗ các Tỳ-khưu-ni, không được phạm tội nào mà Tăng chúng đã thực hiện Tăng sự trục xuất, hoặc một tội khác tương tự, hoặc nặng hơn thế, không được chê bai Tăng sự, không được chê bai những người thực hiện Tăng sự, không được đình chỉ ngày Bố-tát của vị Tỳ-khưu đã trở lại bình thường, không được đình chỉ lễ Tự tứ, không được làm cho phải nói, không được khởi xướng sự khiển trách, không được cho cơ hội, không được tố cáo, không được nhắc nhở, và không được giao du với các Tỳ-khưu.”

Assajipunabbasukappadhānā assajipunabbasukāti vuttā sahacaraṇañāyena. Anulomapaṭipadaṃ appaṭipajjanatāyāti yathāpaññattasammāvattasaṅkhātaṃ anulomapaṭipadaṃ appaṭipajjanatāya, yena vattena ciṇṇena saṅgho anulomiko hoti, tasmiṃ avattanatoti vuttaṃ hoti. Na pannalomā hontīti patitalomā na honti, anukūlavuttino na hontīti attho. Nittharaṇamaggaṃ na paṭipajjantīti anulomavattasaṅkhātaṃ nittharaṇūpāyaṃ na paṭipajjanti, yena vattena ciṇṇena sāpattikabhāvato nittiṇṇā honti, tasmiṃ nittharaṇakavattasmiṃ na vattanti, āpattivuṭṭhānatthaṃ turitaturitā chandajātā na hontīti vuttaṃ hoti. Dasahi akkosavatthūhīti jātināmagottakammasippaābādhaliṅgakilesaāpattihīnasaṅkhātehidasahi akkosakāraṇehi. Chandagāmitā pāpentītiādīsu ya-kāro ‘‘sayaṃ abhiññā’’tiādīsu viya luttaniddiṭṭhoti āha ‘‘chandagāmitāyapi pāpentī’’tiādi. Tesanti assajipunabbasukānaṃ gaṇapāmokkhānaṃ.
Những người có Assaji và Punabbasuka làm đầu được gọi là những người Assaji và Punabbasuka theo cách nói chỉ những người cùng đi. Do không thực hành theo sự thực hành thuận theo là do không thực hành theo sự thực hành thuận theo được gọi là sự hành xử đúng đắn như đã được chế định; có nghĩa là đã nói rằng do không hành xử theo bổn phận nào mà khi đã thực hành xong, Tăng chúng trở nên thuận theo. Không có lông rũ xuống là không có lông rũ xuống; có nghĩa là không có thái độ thuận theo. Không thực hành theo con đường thoát ra là không thực hành theo phương tiện thoát ra được gọi là bổn phận thuận theo; họ không hành xử theo bổn phận thoát ra nào mà khi đã thực hành xong, họ thoát khỏi tình trạng có tội; có nghĩa là đã nói rằng họ không vội vàng, không có ý muốn thoát ra khỏi tội. Bởi mười đối tượng chửi rủa là bởi mười nguyên nhân chửi rủa được gọi là dòng dõi, tên, họ, nghề nghiệp, kỹ năng, bệnh tật, giới tính, phiền não, tội lỗi, và sự thấp kém. Trong các câu “dẫn đến sự đi theo thiên kiến,” v.v., mẫu tự ‘ya’ được chỉ định là đã bị lược bỏ, giống như trong các câu “tự mình chứng ngộ,” v.v. Do đó, (chú giải) nói: “cũng dẫn đến sự đi theo thiên kiến,” v.v. Của họ là của các vị trưởng nhóm Assaji và Punabbasuka.

436-437. Nigamassa apākaṭattā taṃ dassetuṃ ‘‘tatthā’’tiādimāha. Parasantakaṃ deti, dukkaṭamevāti vissāsaggāhena parasantakaṃ gahetvā dentaṃ sandhāya vuttaṃ. Tañca kho vatthupūjanatthāyāti mātāpitūnampi dentena vatthupūjanatthāya eva dātabbanti dasseti. ‘‘Maṇḍanatthāya pana sivaliṅgādipūjanatthāyāti ettakameva vuttattā imaṃ vikkiṇitvā jīvikampi kappessantīti mātuādīnaṃ dātuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. Kassacipīti ñātakassa aññātakassa vā kassacipi. Ñātisāmaṇerehevāti anucchavikattā vuttaṃ. Sampattānaṃ sāmaṇerānaṃ upaḍḍhabhāgaṃ dātuṃ vaṭṭatīti saṅghikassa lābhassa upacārasīmagatānaṃ sāmaṇerānampi santakattā tesampi upaḍḍhabhāgo labbhatevāti katvā vuttaṃ. Cūḷakanti upaḍḍhabhāgatopi upaḍḍhaṃ. Catutthabhāgassetaṃ adhivacanaṃ.
436-437. Do sự kết thúc không rõ ràng, để chỉ ra điều đó, (chú giải) nói: “ở đó,” v.v. Cho tài sản của người khác thì chắc chắn là tội Tác Ác được nói liên quan đến người lấy tài sản của người khác theo sự thân quen rồi cho đi. Và điều đó là cho mục đích cúng dường vật báu chỉ ra rằng ngay cả khi cho cha mẹ cũng phải cho chỉ vì mục đích cúng dường vật báu. Người ta nói rằng: “tuy nhiên, vì đã chỉ nói chừng đó là ‘cho mục đích trang trí và cho mục đích cúng dường sivaliṅga, v.v.,’ nên được phép cho cha mẹ, v.v. (với ý nghĩ rằng) ‘họ sẽ bán cái này và sống.’” Của bất kỳ ai là của bất kỳ ai, dù là thân quyến hay không phải thân quyến. Chỉ bởi các sa-di là thân quyến được nói do sự thích hợp. Được phép cho các sa-di đã đến một nửa phần được nói do cho rằng phần lợi ích thuộc về Tăng chúng cũng là tài sản của cả các sa-di đã đến trong phạm vi của giới, nên họ cũng nhận được một nửa phần. Phần nhỏ là một nửa của một nửa phần. Đây là tên gọi khác của một phần tư.

‘‘Sāmaṇerā…pe… ṭhapentī’’ti idaṃ vassaggena abhājiyaṃ sandhāya vuttaṃ. Tattha tatthāti magge vā cetiyaṅgaṇe vā. Dāpetuṃ na labhantīti sāmaṇerehi dāpetuṃ ananucchavikattā vuttaṃ. Na hi taṃ pupphadānaṃ nāma siyā. Yadi hi tathā āgatānaṃ tesaṃ dānaṃ pupphadānaṃ bhaveyya, sāmaṇerehipi dātuṃ na labbheyya. Sayamevāti sāmaṇerā sayameva. Yāgubhattādīni ādāyāti idaṃ bhikkhūnaṃ atthāya yāgubhattādisampādanaṃ sandhāya vuttattā ‘‘na vaṭṭatī’’ti avisesena vuttaṃ.
Câu “các sa-di… cho đến… họ đặt” được nói liên quan đến vật không được chia theo số năm an cư. Ở nơi này nơi kia là trên đường hoặc trong sân bảo tháp. Họ không nhận được để cho đi được nói do việc cho các sa-di cho đi là không thích hợp. Thật vậy, sự cho hoa đó không được gọi là một sự bố thí. Thật vậy, nếu sự cho đi đối với những người đã đến như vậy trở thành một sự bố thí hoa, thì ngay cả các sa-di cũng không được phép cho đi. Tự mình là chính các vị sa-di. Sau khi đã lấy cháo, cơm, v.v. được nói liên quan đến việc chuẩn bị cháo, cơm, v.v. cho lợi ích của các Tỳ-khưu, nên đã được nói một cách không phân biệt là “không được phép.”

Vuttanayenevāti mātāpitūnaṃ tāva haritvāpi harāpetvāpi pakkositvāpi pakkosāpetvāpi dātuṃ vaṭṭati, sesañātakānaṃ pakkosāpetvāva. Mātāpitūnañca harāpentena ñātisāmaṇereheva harāpetabbaṃ, itare pana yadi sayameva icchanti, vaṭṭatīti imaṃ pupphe vuttanayaṃ phalepi atidisati, tasmā phalampi mātāpitūnaṃ haraṇaharāpanādinā dātuṃ vaṭṭati, sesañātīnaṃ pakkosāpetvāva. Idāni ‘‘yo haritvā vā harāpetvā vā…pe… issaravatāya dadato thullaccaya’’nti imaṃ pupphe vuttanayaṃ phalepi saṅkhipitvā dassento ‘‘kulasaṅgahatthāya panā’’tiādimāha. Khīṇaparibbayānanti āgantuke sandhāya vuttaṃ. Phalaparicchedena vāti ‘‘ettakāni phalāni dātabbānī’’ti evaṃ phalaparicchedena vā. Rukkhaparicchedena vāti ‘‘imehi rukkhehi dātabbānī’’ti evaṃ rukkhaparicchedena vā. Paricchinnesupi rukkhesu ‘‘idha phalāni sundarāni, ito gaṇhathā’’ti vadantena kulasaṅgaho kato nāma hotīti āha ‘‘evaṃ pana na vattabba’’nti.
Theo cách đã được nói là chỉ cho cách đã được nói về hoa trong câu: “đối với cha mẹ, được phép cho bằng cách mang đi, cho mang đi, gọi đến, và cho gọi đến; đối với các thân quyến khác, chỉ bằng cách cho gọi đến. Và khi cho cha mẹ mang đi, phải cho các sa-di là thân quyến mang đi; còn những người khác, nếu họ tự mình muốn, thì được phép.” Do đó, cũng được phép cho quả cho cha mẹ bằng cách mang đi, cho mang đi, v.v.; đối với các bà con khác, chỉ bằng cách cho gọi đến. Bây giờ, để tóm tắt và chỉ ra cách đã được nói về hoa trong câu: “người nào mang đi hoặc cho mang đi… cho đến… người cho với quyền lực của chủ thì phạm tội Trọng Tội,” cũng áp dụng cho quả, (chú giải) nói: “tuy nhiên, cho mục đích kết thân với gia đình,” v.v. Những người đã hết chi phí được nói liên quan đến khách vãng lai. Hoặc bằng cách giới hạn quả là hoặc bằng cách giới hạn quả như thế này: “chừng này quả phải được cho.” Hoặc bằng cách giới hạn cây là hoặc bằng cách giới hạn cây như thế này: “phải được cho từ những cây này.” Ngay cả trong những cây đã được giới hạn, người nói rằng: “ở đây quả đẹp, hãy lấy từ đây” cũng được gọi là đã kết thân với gia đình. Do đó, (chú giải) nói: “tuy nhiên, không nên nói như vậy.”

Rukkhacchallīti rukkhattaco. Tesaṃ tesaṃ gihīnaṃ gāmantaradesantarādīsu sāsanapaṭisāsanaharaṇaṃ jaṅghapesanikaṃ. Tenāha ‘‘gihīnaṃ dūteyyaṃ sāsanaharaṇakamma’’nti. Dūtassa kammaṃ dūteyyaṃPaṭhamaṃ sāsanaṃ aggahetvāpi…pe… pade pade dukkaṭanti idaṃ tassa sāsanaṃ ārocessāmīti iminā adhippāyena gamanaṃ sandhāya vuttaṃ, tassa pana sāsanaṃ paṭikkhipitvā sayameva kāruññe ṭhito gantvā attano patirūpaṃ sāsanaṃ āroceti, anāpatti. Pubbe vuttappakāranti ‘‘mama vacanena bhagavato pāde vandathā’’tiādinā vuttappakāraṃ sikkhāpade paṭhamaṃ vuttaṃ. Pakkamatāyasmāti idaṃ pabbājanīyakammavasena vuttaṃ. Puna pakkamatāyasmāti idaṃ pana pabbājanīyakammakatassa vattavasena vuttaṃ. Paṭhamasaṅghabhedasadisānevāti ettha aṅgesupi yathā tattha parakkamanaṃ, evaṃ idha chandādīhi pāpanaṃ daṭṭhabbaṃ. Sesaṃ tādisamevāti.
Vỏ cây là vỏ cây. Việc mang thông điệp và thư hồi âm ở các làng khác, xứ khác, v.v. của các gia chủ là việc đưa tin bằng chân. Do đó, (chú giải) nói: “công việc đưa tin, mang thông điệp của người tại gia.” Công việc của sứ giả là sự đưa tin. Câu “ngay cả khi chưa nhận thông điệp đầu tiên… tội Tác Ác ở mỗi bước chân” được nói liên quan đến việc đi với ý định rằng: “tôi sẽ báo cáo thông điệp của người đó.” Tuy nhiên, người nào sau khi đã từ chối thông điệp của người đó, tự mình đứng trên lòng từ bi, đi và báo cáo một thông điệp phù hợp với mình, thì vô tội. Loại đã được nói trước là loại đã được nói bằng câu: “nhờ lời của tôi, hãy đảnh lễ chân Đức Thế Tôn,” v.v., đã được nói đầu tiên trong điều học. Hãy đi đi, thưa hiền giả được nói theo Tăng sự trục xuất. Lại nữa, hãy đi đi, thưa hiền giả được nói theo bổn phận của người đã bị Tăng sự trục xuất. Về câu “giống hệt như trong tội chia rẽ Tăng chúng thứ nhất,” ở đây, về các yếu tố cũng vậy, giống như ở đó có sự cố gắng để chia rẽ, cũng vậy, ở đây cần phải hiểu là có sự dẫn đến bằng thiên kiến, v.v. Phần còn lại cũng tương tự.

Kuladūsakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về điều học làm hư hỏng gia đình đã kết thúc.

Nigamanavaṇṇanā
Phần Kết Luận

442. Paṭhamaṃ āpatti āpajjanaṃ etesanti paṭhamāpattikāTattakāni ahānīti paṭicchāditadivasato paṭṭhāya yāva ārocitadivaso, tāva divasapakkhamāsasaṃvaccharavasena yattako kālo atikkanto, tattakaṃ kālanti attho. Akāmena avasenāti ettha appaṭikammakatāya āpattiyā saggamokkhāvaraṇabhāvato anicchantenapi parivasitabbanti adhippāyo. Avhātabboti abbhānakammavasena pakkositabbo. Te ca bhikkhū gārayhāti ettha ye ūnabhāvaṃ ñatvā abbhenti, te bhikkhū ca garahitabbā sātisārā sadosā, dukkaṭaṃ āpajjantīti ayamattho pākaṭoyevāti na vutto. Sāmīcīti vattaṃ.
442. Những người có sự phạm tội đầu tiên là những người phạm tội lần đầu. Chừng ấy ngày có nghĩa là kể từ ngày che giấu cho đến ngày báo cáo, bao nhiêu thời gian đã trôi qua theo ngày, nửa tháng, tháng, và năm, thì chừng ấy thời gian. Không muốn và không có quyền, ở đây ý nghĩa là vì tội chưa được sám hối là một chướng ngại cho cõi trời và sự giải thoát, nên phải sống biệt trú ngay cả khi không muốn. Phải được gọi đến là phải được gọi đến theo Tăng sự phục vị. Về câu “và các Tỳ-khưu đó đáng bị quở trách,” ở đây, ý nghĩa rằng những vị Tỳ-khưu nào, sau khi biết số lượng không đủ mà vẫn phục vị, thì đáng bị quở trách, có tội, có lỗi, và phạm tội Tác Ác, đã rõ ràng nên không được nói đến. Sự đúng đắn là bổn phận.

Iti samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya sāratthadīpaniyaṃ
Như vậy, trong bộ Sāratthadīpanī, (phần phụ chú giải) của bộ Chú Giải Luật Samantapāsādikā,

Terasakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích về mười ba điều đã kết thúc.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang