Chú giải Tạng Luật – Phẩm Lớn – Chương Về Kosambī (Dịch lần 2)
10. Kosambakakkhandhakaṃ
10. Chương Kosambaka
Kosambakavivādakathā
Câu chuyện về sự tranh cãi ở Kosambi
451. Kosambakakkhandhake – taṃ bhikkhuṃ āpattiyā adassane ukkhipiṃsūti ettha ayamanupubbikathā – dve kira bhikkhū ekasmiṃ āvāse vasanti vinayadharo ca suttantiko ca. Tesu suttantiko bhikkhu ekadivasaṃ vaccakuṭiṃ paviṭṭho ācamanaudakāvasesaṃ bhājane ṭhapetvāva nikkhami. Vinayadharo pacchā paviṭṭho taṃ udakaṃ disvā nikkhamitvā taṃ bhikkhuṃ pucchi – ‘‘āvuso, tayā idaṃ udakaṃ ṭhapita’’nti? ‘‘Āmāvuso’’ti. ‘‘Kiṃ tvaṃ ettha āpattibhāvaṃ na jānāsī’’ti? ‘‘Āma, na jānāmī’’ti. ‘‘Hoti, āvuso ettha āpattī’’ti? ‘‘Sace hoti, desissāmī’’ti. ‘‘Sace pana te, āvuso, asañcicca asatiyā kataṃ, natthi āpattī’’ti. So tassā āpattiyā anāpattidiṭṭhi ahosi.
451. Trong Chương Kosambaka – Về câu ‘Họ đã cử tội biệt trú vị Tỳ khưu ấy vì không thấy tội,’ đây là câu chuyện tuần tự: Nghe nói, có hai vị Tỳ khưu sống trong một trú xứ, một vị thông Luật (Vinayadhara) và một vị thông Kinh (Suttantika). Trong hai vị ấy, vị Tỳ khưu thông Kinh một hôm đi vào nhà xí, đã để lại phần nước rửa còn dư trong đồ đựng rồi đi ra. Vị thông Luật vào sau, thấy nước đó, đi ra hỏi vị Tỳ khưu kia: ‘Thưa Hiền giả, có phải Hiền giả đã để lại nước này không?’ ‘Vâng, thưa Hiền giả.’ ‘Hiền giả không biết rằng có tội trong việc này sao?’ ‘Vâng, tôi không biết.’ ‘Thưa Hiền giả, có tội trong việc này.’ ‘Nếu có tội, tôi sẽ sám hối.’ ‘Nhưng thưa Hiền giả, nếu Hiền giả làm việc ấy không cố ý, không có sự chú tâm, thì không có tội.’ Vị ấy đã có cái nhìn là không có tội đối với tội ấy.
Vinayadharopi attano nissitakānaṃ ‘‘ayaṃ suttantiko āpattiṃ āpajjamānopi na jānātī’’ti ārocesi. Te tassa nissitake disvā ‘‘tumhākaṃ upajjhāyo āpattiṃ āpajjitvāpi āpattibhāvaṃ na jānātī’’ti āhaṃsu. Te gantvā attano upajjhāyassa ārocesuṃ. So evamāha – ‘‘ayaṃ vinayadharo pubbe anāpattī’’ti vatvā ‘‘idāni āpattī’’ti vadati. Musāvādī esoti. Te gantvā ‘‘tumhākaṃ upajjhāyo musāvādī’’ti evaṃ aññamaññaṃ kalahaṃ vaḍḍhayiṃsu. Tato vinayadharo okāsaṃ labhitvā tassa āpattiyā adassane ukkhepanīyakammaṃ akāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘taṃ bhikkhuṃ āpattiyā adassane ukkhipiṃsū’’ti.
Vị thông Luật cũng đã trình báo cho các đệ tử của mình rằng: ‘Vị thông Kinh này dù phạm tội cũng không biết.’ Họ (các đệ tử của vị thông Luật) thấy các đệ tử của vị kia, bèn nói: ‘Thầy của các vị dù đã phạm tội cũng không biết đó là tội.’ Họ (các đệ tử của vị thông Kinh) đi trình báo lại cho thầy của mình. Vị ấy (thông Kinh) nói như vầy: ‘Vị thông Luật này trước kia nói không có tội, bây giờ lại nói có tội. Ông ta là người nói dối.’ Họ (các đệ tử của vị thông Luật) đi (đến nói với các đệ tử của vị thông Kinh): ‘Thầy của các vị là người nói dối.’ Cứ như thế, họ làm cho sự cãi cọ lẫn nhau tăng trưởng. Sau đó, vị thông Luật, khi có cơ hội, đã thực hiện tăng sự cử tội biệt trú đối với vị kia vì không thấy tội. Do đó đã được nói: ‘Họ đã cử tội biệt trú vị Tỳ khưu ấy vì không thấy tội.’
453.Bhinno bhikkhusaṅgho bhinno bhikkhusaṅghoti ettha na tāva bhinno; apica kho yathā deve vuṭṭhe ‘‘idāni sassaṃ nipphanna’’nti vuccati, avassañhi taṃ nipphajjissati, evameva iminā kāraṇena āyatiṃ avassaṃ bhijjissati, so ca kho kalahavasena na saṅghabhedavasena, tasmā ‘‘bhinno’’ti vuttaṃ. Sambhamaatthavasena cettha āmeḍitaṃ veditabbaṃ.
453. Về câu Tăng chúng Tỳ khưu đã bị chia rẽ, Tăng chúng Tỳ khưu đã bị chia rẽ, ở đây (Tăng chúng) vẫn chưa bị chia rẽ; tuy nhiên, giống như khi trời mưa, người ta nói ‘Bây giờ lúa đã thành tựu,’ chắc chắn nó sẽ thành tựu; cũng vậy, do nguyên nhân này, trong tương lai chắc chắn (Tăng chúng) sẽ bị chia rẽ, và sự chia rẽ đó là do cãi cọ chứ không phải do phá hòa hợp Tăng, do đó đã nói là ‘bị chia rẽ’. Và ở đây, sự lặp lại cần được hiểu theo nghĩa nhấn mạnh sự hốt hoảng.
454.Etamatthaṃbhāsitvā uṭṭhāyāsanā pakkāmīti kasmā evaṃ bhāsitvā pakkāmi? Sace hi bhagavā ukkhepake vā ‘‘akāraṇe tumhehi so bhikkhu ukkhitto’’ti vadeyya, ukkhittānuvattake vā ‘‘tumhe āpattiṃ āpannā’’ti vadeyya, ‘‘etesaṃ bhagavā pakkho, etesaṃ bhagavā pakkho’’ti vatvā āghātaṃ bandheyyuṃ, tasmā tantimeva ṭhapetvā etamatthaṃ bhāsitvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
454. Về câu Sau khi nói ý nghĩa này, Ngài đứng dậy khỏi chỗ ngồi và ra đi, tại sao Ngài lại nói như vậy rồi ra đi? Vì nếu Đức Thế Tôn nói với những người cử tội rằng ‘Các ngươi đã cử tội Tỳ khưu ấy không đúng lý do,’ hoặc nói với những người theo phe bị cử tội rằng ‘Các ngươi đã phạm tội,’ thì họ sẽ ôm lòng oán hận mà nói rằng ‘Đức Thế Tôn thiên vị phe này, Đức Thế Tôn thiên vị phe kia,’ do đó, Ngài chỉ thiết lập nguyên tắc rồi nói ý nghĩa đó, đứng dậy khỏi chỗ ngồi và ra đi.
455.Attanā vā attānanti ettha yo saṅghena ukkhepanīyakatānaṃ adhammavādīnaṃ pakkhe nisinno ‘‘tumhe kiṃ bhaṇathā’’ti tesañca itaresañca laddhiṃ sutvā ‘‘ime adhammavādino, itare dhammavādino’’ti cittaṃ uppādeti, ayaṃ tesaṃ majjhe nisinnova tesaṃ nānāsaṃvāsako hoti, kammaṃ kopeti, itaresampi hatthapāsaṃ anāgatattā kopeti. Evaṃ attanā vā attānaṃ nānāsaṃvāsakaṃ karoti. Samānasaṃvāsakanti etthāpi yo adhammavādīnaṃ pakkhe nisinno ‘‘adhammavādino ime, itare dhammavādino’’ti tesaṃ majjhaṃ pavisati, yattha vā tattha vā pana pakkhe nisinno ‘‘ime dhammavādino’’ti gaṇhāti, ayaṃ attanā vā attānaṃ samānasaṃvāsakaṃ karotīti veditabbo.
455. Về câu Tự mình đối với chính mình, ở đây, người nào ngồi trong phe của những người chủ trương phi pháp đã bị Tăng chúng thực hiện tăng sự cử tội biệt trú, sau khi nghe chủ trương của cả họ và những người khác bằng câu hỏi ‘Các vị nói gì?’, rồi khởi tâm nghĩ rằng ‘Những người này là người chủ trương phi pháp, những người kia là người chủ trương đúng pháp,’ người này, ngay khi ngồi giữa họ, đã trở thành người biệt trú đối với họ, làm hỏng tăng sự (của phe đúng pháp), và cũng làm hỏng (tăng sự của phe đúng pháp) đối với những người khác (phe đúng pháp) do không đến trong tầm tay của họ. Như vậy là tự mình làm cho mình thành người biệt trú. Về câu Người đồng trú cũng vậy, ở đây, người nào ngồi trong phe của những người chủ trương phi pháp, đi vào giữa họ (với ý nghĩ) ‘Những người này là người chủ trương phi pháp, những người kia là người chủ trương đúng pháp,’ hoặc ngồi ở bất cứ phe nào mà chấp nhận rằng ‘Những người này là người chủ trương đúng pháp,’ người này cần được hiểu là tự mình làm cho mình thành người đồng trú (với phe mình chọn).
456.Kāyakammaṃ vacīkammanti ettha kāyena paharantā kāyakammaṃ upadaṃsenti, pharusaṃ vadantā vacīkammaṃ upadaṃsentīti veditabbā. Hatthaparāmāsaṃ karontīti kodhavasena hatthehi aññamaññaṃ parāmasanaṃ karonti. Adhammiyāyamāneti adhammiyāni kiccāni kurumāne. Asammodikāvattamānāyāti asammodikāya vattamānāya. Ayameva vā pāṭho. Sammodanakathāya avattamānāyāti attho. Ettāvatā na aññamaññanti ettha dve pantiyo katvā upacāraṃ muñcitvā nisīditabbaṃ, dhammiyāyamāne pana sammodikāya vattamānāya āsanantarikāya nisīditabbaṃ, ekekaṃ āsanaṃ antaraṃ katvā nisīditabbaṃ.
456. Về câu Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ở đây cần được hiểu là những người đánh bằng thân thì biểu lộ thân nghiệp, những người nói lời thô ác thì biểu lộ khẩu nghiệp. Về câu Họ chạm tay vào nhau, nghĩa là do sân hận, họ dùng tay chạm vào nhau. Khi đang hành động phi pháp nghĩa là khi đang làm những việc phi pháp. Khi sự không hòa hảo đang diễn ra nghĩa là khi sự không hòa hảo đang diễn ra. Hoặc chính đây là bản văn. Nghĩa là khi lời nói hòa hảo không diễn ra. Về câu Cho đến chừng đó, không nên (gần gũi) lẫn nhau, ở đây cần phải ngồi thành hai hàng, chừa khoảng cách; còn khi đang hành động đúng pháp, khi sự hòa hảo đang diễn ra, thì nên ngồi cách một chỗ ngồi, tức là ngồi cách nhau mỗi người một chỗ.
457-458.Mā bhaṇḍanantiādīsu ‘‘akatthā’’ti pāṭhasesaṃ gahetvā ‘‘mā bhaṇḍanaṃ akatthā’’ti evamattho daṭṭhabbo. Adhammavādīti ukkhittānuvattakesu aññataro. Ayaṃ pana bhikkhu bhagavato atthakāmo, ayaṃ kirassa adhippāyo ‘‘ime bhikkhū kodhābhibhūtā satthu vacanaṃ na gaṇhanti, mā bhagavā ete ovadanto kilamitthā’’ti tasmā evamāha. Bhagavā pana ‘‘pacchāpi saññaṃ labhitvā oramissantī’’ti tesaṃ anukampāya atītavatthuṃ āharitvā kathesi. Tattha anatthatoti anattho ato; etasmā me purisā anatthoti vuttaṃ hoti. Atha vā anatthatoti anatthado. Sesaṃ pākaṭameva.
457-458. Về câu Đừng cãi cọ v.v…, cần hiểu ý nghĩa là ‘Đừng gây ra sự cãi cọ’ bằng cách lấy phần còn lại của bản văn là ‘đã làm’. Người chủ trương phi pháp là một trong số những người theo phe bị cử tội. Nhưng vị Tỳ khưu này là người mong muốn lợi ích cho Đức Thế Tôn, nghe nói chủ ý của vị ấy là: ‘Các Tỳ khưu này bị sân hận chi phối, không tiếp nhận lời dạy của Bậc Đạo Sư, mong rằng Đức Thế Tôn đừng mệt nhọc khi giáo huấn họ,’ do đó đã nói như vậy. Tuy nhiên, Đức Thế Tôn, do lòng bi mẫn đối với họ, với ý nghĩ ‘Sau này họ có thể nhận thức được và dừng lại,’ đã kể lại câu chuyện quá khứ. Ở đó, từ điều bất lợi nghĩa là điều bất lợi từ đây; nghĩa là đã nói ‘Đối với ta, những người này là điều bất lợi.’ Hoặc ‘anatthato’ nghĩa là người gây ra điều bất lợi. Phần còn lại thì rõ ràng.
464.Puthusaddotiādigāthāsu pana puthu mahā saddo assāti puthusaddo. Samajanoti samāno ekasadiso jano; sabbo cāyaṃ bhaṇḍanakārakojano samantato saddanicchāraṇena puthusaddo ceva sadiso cāti vuttaṃ hoti. Na bālo koci maññathāti tattha koci ekopi ‘‘ahaṃ bālo’’ti na maññittha; sabbepi paṇḍitamāninoyeva. Nāññaṃ bhiyyo amaññarunti koci ekopi ‘‘ahaṃ bālo’’ti ca na maññittha; bhiyyo ca saṅghasmiṃ bhijjamāne aññampi ekaṃ ‘‘mayhaṃ kāraṇā saṅgho bhijjatī’’ti idaṃ kāraṇaṃ na maññitthāti attho.
464. Trong các bài kệ bắt đầu bằng Tiếng ồn lớn v.v…, ‘puthusaddo’ là người có tiếng ồn lớn, vang dội. Người đồng loại nghĩa là người giống nhau, tương tự nhau; nghĩa là tất cả những người gây cãi cọ này, do phát ra tiếng ồn từ mọi phía, được nói là vừa có tiếng ồn lớn vừa giống nhau. Không ai nghĩ mình ngu si nghĩa là ở đó, không một ai nghĩ rằng ‘Tôi ngu si’; tất cả đều là những người tự cho mình là bậc trí. Họ cũng không nghĩ đến điều gì khác hơn nghĩa là không một ai nghĩ rằng ‘Tôi ngu si’; và hơn nữa, khi Tăng chúng đang bị chia rẽ, họ cũng không nghĩ đến một lý do nào khác rằng ‘Vì lý do của tôi mà Tăng chúng bị chia rẽ’.
Parimuṭṭhāti parimuṭṭhassatino. Vācāgocarabhāṇinoti rākārassa rassādeso kato , vācāgocarā na satipaṭṭhānādigocarā. Bhāṇino ca kathaṃ bhāṇino? Yāvicchanti mukhāyāmaṃ yāva mukhaṃ pasāretuṃ icchanti, tāva pasāretvā bhāṇino, ekopi saṅghagāravena mukhasaṅkocaṃ na karotīti attho. Yena nītāti yena kalahena imaṃ nillajjabhāvaṃ nītā. Na taṃ vidūti na taṃ jānanti, ‘‘evaṃ sādīnavo aya’’nti.
Những người thất niệm nghĩa là những người có niệm bị quên lãng. Những người nói năng trong phạm vi lời nói – ở đây, chữ ‘rā’ đã được rút ngắn lại; họ có cảnh giới là lời nói, không phải cảnh giới là Tứ Niệm Xứ v.v… Và những người nói năng ấy nói năng như thế nào? Họ nói năng đến mức muốn há miệng nghĩa là họ nói năng bằng cách há miệng đến mức nào họ muốn, không một ai vì tôn kính Tăng chúng mà khép miệng lại. Bởi cái gì họ bị dẫn dắt nghĩa là bởi sự cãi cọ nào mà họ bị dẫn đến tình trạng không biết hổ thẹn này. Họ không biết điều đó nghĩa là họ không biết rằng ‘Điều này có nguy hại như vậy’.
Dịch lần 2 đoạn này:
“Đã bị mê mờ” nghĩa là tâm đã bị che lấp, không còn chánh niệm.
“Những người chỉ biết nói năng trong phạm vi lời nói” nghĩa là âm “ra” đã được rút gọn (biến âm), tức là những người chỉ hoạt động trong lời nói, không hành trì các pháp như tứ niệm xứ và các pháp hành khác.
Còn “người nói năng” là như thế nào?
“Họ muốn mở miệng đến mức nào” thì cứ mở miệng ra đến mức đó mà nói năng, không một ai vì sự kính trọng Tăng đoàn mà thu nhiếp lời nói của mình – đó là ý nghĩa.
“Bị dẫn dắt bởi điều gì” nghĩa là do bởi sự tranh cãi mà họ bị dẫn đến trạng thái không biết xấu hổ này.
“Không biết điều đó” nghĩa là họ không biết rằng: “Trạng thái này thật là tai hại như vậy.”
Ye ca taṃ upanayhantīti taṃ ‘‘akkocchi maṃ, avadhi ma’’ntiādikaṃ ākāraṃ ye ca upanayhanti. Sanantanoti porāṇo.
Và những ai ôm giữ điều đó nghĩa là những ai ôm giữ thái độ như ‘Hắn đã mắng tôi, hắn đã đánh tôi’ v.v… Xưa cũ nghĩa là cổ xưa.
Pareti paṇḍite ṭhapetvā tato aññe bhaṇḍanakārakā pare nāma. Te ettha saṅghamajjhe kalahaṃ karontā ‘‘mayaṃ yamāmase upayamāma; satataṃ samitaṃ maccusantikaṃ gacchāmā’’ti na jānanti. Ye ca tattha vijānantīti ye tattha paṇḍitā ‘‘mayaṃ maccusamīpaṃ gacchāmā’’ti vijānanti. Tatosammanti medhagāti evañhi te jānantā yonisomanasikāraṃ uppādetvā medhagānaṃ kalahānaṃ vūpasamāya paṭipajjanti.
Những người khác nghĩa là ngoại trừ các bậc trí, những người gây cãi cọ còn lại được gọi là những người khác. Họ, khi đang gây cãi cọ giữa Tăng chúng ở đây, không biết rằng: ‘Chúng ta đang đi đến chỗ chết, đang tiến đến chỗ chết; chúng ta thường xuyên, liên tục đi đến gần cái chết’. Và những ai hiểu biết ở đó nghĩa là những bậc trí ở đó hiểu biết rằng: ‘Chúng ta đang đi đến gần cái chết’. Do đó, các cuộc tranh cãi lắng dịu nghĩa là vì họ biết như vậy, nên sau khi tác ý đúng đắn, họ thực hành để làm lắng dịu các cuộc tranh cãi, các cuộc cãi cọ.
Aṭṭhicchinnāti ayaṃ gāthā brahmadattañca dīghāvukumārañca sandhāya vuttā. Tesampi hoti saṅgati, kasmā tumhākaṃ na hoti, yesaṃ vo neva mātāpitūnaṃ aṭṭhīni chinnāni, na pāṇā hatā, na gavāssadhanāni haṭānīti.
Xương bị chặt – bài kệ này được nói liên hệ đến vua Brahmadatta và hoàng tử Dīghāvu. Ngay cả họ còn có sự hòa giải, tại sao các ngươi lại không có, trong khi xương cốt của cha mẹ các ngươi không hề bị chặt, mạng sống không bị giết hại, tài sản trâu bò ngựa không bị chiếm đoạt?
Sace labhethātiādigāthā paṇḍitasahāyassa ca bālasahāyassa ca vaṇṇāvaṇṇadīpanatthaṃ vuttā. Abhibhuyya sabbāni parissayānīti pākaṭaparissaye ca paṭicchannaparissaye ca abhibhavitvā tena saddhiṃ attamano satimā careyya.
Bài kệ bắt đầu bằng Nếu tìm được v.v… được nói để làm rõ điều đáng tán thán và không đáng tán thán của người bạn trí tuệ và người bạn ngu si. Chế ngự mọi hiểm nguy nghĩa là sau khi đã chế ngự các hiểm nguy rõ ràng và các hiểm nguy che giấu, nên sống cùng với người bạn ấy với tâm hoan hỷ và có chánh niệm.
Rājāvaraṭṭhaṃ vijitanti yathā attano vijitaṃ raṭṭhaṃ mahājanakarājā ca arindamamahārājā ca pahāya ekakā cariṃsu; evaṃ careyyāti attho. Mātaṅgaraññeva nāgoti mātaṅgo araññe nāgova. Mātaṅgoti hatthī vuccati; nāgoti mahantādhivacanametaṃ. Yathā hi mātuposako mātaṅganāgo araññe eko cari, na ca pāpāni akāsi. Yathā ca pālileyyako, evaṃ eko care, na ca pāpāni kayirāti vuttaṃ hoti.
Như vua bỏ quốc độ đã chinh phục nghĩa là giống như vua Mahājanaka và vua Arindama đã từ bỏ quốc độ mình đã chinh phục mà sống một mình; nghĩa là nên sống như vậy. Như voi Mātaṅga trong rừng nghĩa là như con voi đầu đàn trong rừng. Mātaṅga được gọi là con voi; Nāga là thuật ngữ chỉ sự to lớn, vĩ đại. Ví như con voi đầu đàn Mātaṅga nuôi mẹ đã sống một mình trong rừng và không làm các điều ác. Và cũng như voi Pālileyyaka, nghĩa là đã được nói rằng: nên sống một mình như vậy và không làm các điều ác.
Pālileyyakagamanakathā
Câu chuyện đi đến Pālileyyaka
467.Pālileyyake viharati rakkhitavanasaṇḍeti pālileyyakaṃ upanissāya rakkhitavanasaṇḍe viharati. Hatthināgoti mahāhatthī. Hatthikalabhehīti hatthipotakehi. Hatthicchāpehīti khīrūpakehi daharapotakehi. Chinnaggānīti tehi purato purato gacchantehi chinnaggāni khāyitāvasesāni khāṇusadisāni tiṇāni khādati. Obhaggobhagganti tena hatthināgena uccaṭṭhānato bhañjitvā bhañjitvā pātitaṃ. Assa sākhābhaṅganti etassa santakaṃ sākhābhaṅgaṃ te khādanti. Āvilānīti tehi paṭhamataraṃ otaritvā pivantehi ālulitāni kaddamodakāni pivati. Ogāhāti titthato.
467. Trú tại Pālileyyaka, trong khu rừng được bảo vệ nghĩa là trú trong khu rừng được bảo vệ, nương vào (làng) Pālileyyaka. Voi đầu đàn nghĩa là con voi lớn. Bởi các con voi con nghĩa là bởi các con voi con. Bởi các voi con còn bú sữa nghĩa là bởi các con voi con còn nhỏ, còn bú sữa. Cỏ bị ngắt ngọn nghĩa là nó (voi đầu đàn) ăn loại cỏ giống như cọc gỗ, là phần còn sót lại sau khi bị những con voi đi trước ngắt ngọn ăn. Cành lá bị bẻ gãy nghĩa là cành lá bị con voi đầu đàn đó bẻ gãy từ trên cao làm rơi xuống. Cành lá bị bẻ của nó nghĩa là chúng (các voi con) ăn cành lá thuộc về con voi đầu đàn này đã bị bẻ. Nước bị vẩn đục nghĩa là nó (voi đầu đàn) uống thứ nước bùn đã bị khuấy đục bởi những con voi con xuống uống trước. Từ chỗ xuống nước nghĩa là từ bến nước.
Nāgassa nāgenāti hatthināgassa buddhanāgena. Īsādantassāti rathaīsāsadisadantassa. Yadeko ramatī vaneti yasmā buddhanāgo viya ayampi hatthināgo eko pavivitto vane ramati; tasmāssa nāgassa nāgena cittaṃ sameti, ekībhāvaratiyā ekasadisaṃ hotīti attho.
Của voi đầu đàn với bậc Long Tượng nghĩa là của con voi đầu đàn với Đức Phật, bậc Long Tượng. Của con voi có ngà như càng xe nghĩa là của con voi có ngà giống như càng xe. Vì voi sống một mình thích thú trong rừng nghĩa là bởi vì con voi đầu đàn này cũng sống một mình, độc cư, thích thú trong rừng giống như Đức Phật, bậc Long Tượng; do đó, tâm của voi đầu đàn này hòa hợp với tâm của bậc Long Tượng, nghĩa là tương đồng nhau về sự ưa thích sống một mình.
Yathābhirantaṃ viharitvāti ettha temāsaṃ bhagavā tattha vihāsīti veditabbo. Ettāvatā kosambakehi kira ubbāḷho bhagavā temāsaṃ araññaṃ pavisitvā vasīti sabbattha kathā patthaṭā ahosi.
Sau khi trú theo ý thích nghĩa là ở đây cần hiểu rằng Đức Thế Tôn đã trú tại đó ba tháng. Đến lúc đó, câu chuyện đã lan truyền khắp nơi rằng: ‘Nghe nói, Đức Thế Tôn, do bị phiền nhiễu bởi những người ở Kosambi, đã đi vào rừng sống trong ba tháng’.
Atha kho kosambakā upāsakāti atha kho imaṃ kathāsallāpaṃ sutvā kosambivāsino upāsakā.
Bấy giờ, các nam cư sĩ ở Kosambi nghĩa là bấy giờ, các nam cư sĩ trú tại Kosambi, sau khi nghe cuộc nói chuyện này.
Aṭṭhārasavatthukathā
Câu chuyện về mười tám sự việc
468.Adhammaṃ dhammotiādīni aṭṭhārasa bhedakaravatthūni saṅghabhedakakkhandhake vaṇṇayissāma.
468. Mười tám sự việc gây chia rẽ bắt đầu bằng Phi pháp (nói là) pháp v.v… chúng tôi sẽ giải thích trong chương Phá hòa hợp Tăng.
475.Taṃukkhittakaṃ bhikkhuṃ osāretvāti taṃ gahetvā sīmaṃ gantvā āpattiṃ desāpetvā kammavācāya osāretvā. Tāvadeva uposathoti taṃdivasameva uposathakkhandhake vuttanayeneva sāmaggīuposatho kātabbo.
475. Sau khi phục hồi vị Tỳ khưu bị cử tội biệt trú ấy nghĩa là sau khi dẫn vị ấy đến giới trường, cho sám hối tội, rồi phục hồi bằng lời tuyên ngôn. Lễ Bố-tát ngay lúc đó nghĩa là ngay trong ngày đó, cần phải thực hiện lễ Bố-tát hòa hợp theo phương pháp đã được nói trong chương Bố-tát.
476.Amūlā mūlaṃ gantvāti na mūlā mūlaṃ gantvā; taṃ vatthuṃ avinicchinitvāti attho. Ayaṃ vuccati upāli saṅghasāmaggī atthāpetā byañjanūpetāti atthato apagatā, ‘‘saṅghasāmaggī’’ti imaṃ pana byañjanamattaṃ upetā.
476. Từ chỗ không phải gốc đi đến gốc nghĩa là không phải từ gốc đi đến gốc; nghĩa là không phân xử vấn đề đó. Này Upāli, đây được gọi là sự hòa hợp Tăng đã rời xa ý nghĩa, chỉ đạt đến văn tự nghĩa là đã rời xa ý nghĩa, chỉ đạt đến văn tự ‘hòa hợp Tăng’ này mà thôi.
477.Saṅghassa kiccesūti saṅghassa karaṇīyesu uppannesu. Mantanāsūti vinayamantanāsu. Atthesu jātesūti vinayaatthesu uppannesu. Vinicchayesūti tesaṃyeva atthānaṃ vinicchayesu. Mahatthikoti mahāupakāro. Paggahārahoti paggaṇhituṃ vutto.
477. Trong các công việc của Tăng chúng nghĩa là khi các việc cần làm của Tăng chúng phát sinh. Trong các cuộc bàn luận nghĩa là trong các cuộc bàn luận về Luật. Khi các vấn đề phát sinh nghĩa là khi các vấn đề về Luật phát sinh. Trong các sự phân xử nghĩa là trong các sự phân xử chính những vấn đề đó. Có lợi ích lớn nghĩa là có sự hỗ trợ lớn. Xứng đáng được đề cử nghĩa là được nói là nên đề cử.
Anānuvajjo paṭhamena sīlatotiādimhiyeva tāva sīlato na upavajjo. Avekkhitācāroti apekkhitācāro; ālokite vilokite sampajānakārītiādinā nayena upaparikkhitācāro. Aṭṭhakathāsu pana ‘‘appaṭicchannācāro’’ti vuttaṃ.
Không bị khiển trách trước hết về giới nghĩa là trước hết không bị khiển trách về giới. Người có hạnh kiểm được xem xét nghĩa là người có hạnh kiểm được xem xét; người có hạnh kiểm được thẩm tra theo phương pháp như ‘tỉnh giác khi nhìn tới, nhìn lui’ v.v… Tuy nhiên, trong các sách Chú giải, được nói là ‘người có hạnh kiểm không che giấu’.
Visayhāti abhibhavitvā. Anuyyutaṃ bhaṇanti anuññātaṃ anapagataṃ bhaṇanto. Yasmā hi so anuyyutaṃ bhaṇati, usūyāya vā agatigamanavasena vā kāraṇāpagataṃ na bhaṇati, tasmā atthaṃ na hāpeti. Usūyāya pana agatigamanavasena vā bhaṇanto atthaṃ hāpeti, kāraṇaṃ na deti, tasmā so parisagato chambhati ceva vedhati ca. Yo īdiso na hoti, ayaṃ ‘‘paggahāraho’’ti dasseti.
Sau khi chế ngự nghĩa là sau khi vượt qua. Nói điều hợp lý nghĩa là nói điều được chấp nhận, không sai lệch. Vì người ấy nói điều hợp lý, không nói điều sai lệch khỏi lý do do ganh tỵ hay do đi vào đường tà, do đó không làm mất ý nghĩa. Còn người nói do ganh tỵ hay do đi vào đường tà thì làm mất ý nghĩa, không đưa ra lý do, do đó người ấy khi đến giữa hội chúng vừa run sợ vừa rúng động. Người nào không như vậy, người này được trình bày là ‘xứng đáng được đề cử’.
Kiñca bhiyyo ‘‘tatheva pañha’’nti gāthā, tassattho – yathā ca anuyyutaṃ bhaṇanto atthaṃ na hāpeti, tatheva parisāya majjhe pañhaṃ pucchito samāno na ceva pajjhāyati, na ca maṅku hoti. Yo hi atthaṃ na jānāti, so pajjhāyati. Yo vattuṃ na sakkoti, so maṅku hoti. Yo pana atthañca jānāti, vattuñca sakkoti; so na pajjhāyati, na maṅku hoti. Kālāgatanti kathetabbayuttakāle āgataṃ. Byākaraṇārahanti pañhassa atthānulomatāya byākaraṇānucchavikaṃ. Vacoti vadanto; evarūpaṃ vacanaṃ bhaṇantoti attho. Rañjetīti toseti. Viññūparisanti viññūnaṃ parisaṃ.
Hơn nữa, bài kệ ‘Cũng vậy, câu hỏi’ có ý nghĩa là: Giống như người nói điều hợp lý không làm mất ý nghĩa, cũng vậy, khi được hỏi giữa hội chúng, người ấy vừa không bối rối, vừa không rụt rè. Vì người nào không biết ý nghĩa, người ấy bối rối. Người nào không thể nói được, người ấy rụt rè. Còn người nào vừa biết ý nghĩa, vừa có thể nói được; người ấy không bối rối, không rụt rè. Đến đúng lúc nghĩa là đến vào lúc thích hợp để nói. Xứng đáng được giải đáp nghĩa là thích hợp để giải đáp thuận theo ý nghĩa của câu hỏi. Lời nói nghĩa là người đang nói; nghĩa là người nói lời nói như vậy. Làm vui lòng nghĩa là làm hài lòng. Hội chúng những người hiểu biết nghĩa là hội chúng của những người hiểu biết.
Ācerakamhica saketi attano ācariyavāde. Alaṃ pametunti vīmaṃsituṃ taṃ taṃ kāraṇaṃ paññāya tulayituṃ samattho. Paguṇoti kataparicayo laddhāsevano. Kathetaveti kathetabbe. Viraddhikovidoti viraddhaṭṭhānakusalo.
Và trong học thuyết của thầy mình nghĩa là trong chủ trương của thầy mình. Có khả năng thẩm xét nghĩa là có khả năng xem xét, dùng trí tuệ để cân nhắc lý do này, lý do kia. Thuần thục nghĩa là đã làm quen, đã thực hành. Trong điều cần nói nghĩa là trong điều cần phải nói. Thông thạo chỗ sai sót nghĩa là thành thạo về chỗ sai sót.
Paccatthikā yena vajantīti ayaṃ gāthā yādise kathetabbe paguṇo, taṃ dassetuṃ vuttā. Ayañhettha attho – yādisena kathitena paccatthikā ca niggahaṃ gacchanti, mahājano ca saññapanaṃ gacchati; saññattiṃ avabodhanaṃ gacchatīti attho. Yañca kathento sakaṃ ādāyaṃ attano ācariyavādaṃ na hāpeti, yasmiṃ vatthusmiṃ adhikaraṇaṃ uppannaṃ, tadanurūpaṃ anupaghātakaraṃ pañhaṃ byākaramāno tādise kathetabbe paguṇo hotīti.
Bài kệ ‘Bởi điều gì đối phương bị khuất phục’ được nói để trình bày người ấy thuần thục trong những điều cần nói như thế nào. Đây là ý nghĩa ở đây: Bởi lời nói như thế nào mà đối phương bị khuất phục và đại chúng đi đến sự nhận thức; nghĩa là đi đến sự hiểu biết, sự thấu hiểu. Và khi nói, người ấy không làm mất đi chủ trương của mình, học thuyết của thầy mình, giải đáp câu hỏi phù hợp với vấn đề mà vụ việc đã phát sinh, không gây tổn hại; người ấy thuần thục trong những điều cần nói như vậy.
Dūteyyakammesu alanti aṭṭhahi dūtaṅgehi samannāgatattā saṅghassa dūteyyakammesu samattho. Suṭṭhu uggaṇhātīti samuggaho. Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā nāma āhunaṃ āhutipiṇḍaṃ samuggaṇhanti, evaṃ pītisomanassajāteneva cetasā saṅghassa kiccesu samuggaho, saṅghassakiccesu tassa tassa kiccassa paṭiggāhakoti attho. Karaṃ vacoti vacanaṃ karonto. Na tena maññatīti tena vacanakaraṇena ‘‘ahaṃ karomi, saṅghabhāraṃ nittharāmī’’ti na mānātimānaṃ jappeti.
Có khả năng trong công việc làm sứ giả nghĩa là có khả năng trong các công việc làm sứ giả cho Tăng chúng do được phú bẩm tám yếu tố của sứ giả. Người tiếp nhận tốt đẹp được gọi là người tiếp nhận tốt đẹp. Điều này có nghĩa là: Giống như người ta tiếp nhận vật cúng dường, vật thực cúng dường, cũng vậy, người ấy là người tiếp nhận tốt đẹp trong các công việc của Tăng chúng với tâm phát sinh hỷ và ưu, nghĩa là người đảm nhận công việc này, công việc kia trong các công việc của Tăng chúng. Thực hiện lời nói nghĩa là người đang thực hiện lời nói. Không tự mãn vì điều đó nghĩa là không khởi lên sự kiêu mạn và quá mạn rằng ‘Ta đang làm, ta đang gánh vác gánh nặng của Tăng chúng’ do việc thực hiện lời nói đó.
Āpajjati yāvatakesu vatthūsūti yattakesu vatthūsu āpattiṃ āpajjamāno āpajjati. Hoti yathā ca vuṭṭhitīti tassā ca āpattiyā yathā vuṭṭhānaṃ hoti. Ete vibhaṅgāti yesu vatthūsu āpajjati, yathā ca vuṭṭhānaṃ hoti, imesaṃ atthānaṃ jotakā ete vibhaṅgā. Ubhayassāti ubhaye assa. Svāgatāti suṭṭhu āgatā. Āpattivuṭṭhānapadassa kovidoti āpattivuṭṭhānakāraṇakusalo.
Phạm tội trong bao nhiêu vấn đề nghĩa là phạm tội trong bao nhiêu vấn đề mà người ấy phạm tội. Và có sự ra khỏi tội như thế nào nghĩa là và có sự ra khỏi tội ấy như thế nào. Những sự phân tích này nghĩa là những sự phân tích này làm sáng tỏ những ý nghĩa này: trong những vấn đề nào phạm tội, và có sự ra khỏi tội như thế nào. Của cả hai nghĩa là cả hai đối với người ấy. Đã đến tốt đẹp nghĩa là đã đến một cách tốt đẹp. Thông thạo nền tảng của sự phạm tội và sự ra khỏi tội nghĩa là thành thạo về lý do phạm tội và ra khỏi tội.
Yāni cācaranti yāni ca bhaṇḍanakāraṇādīni ācaranto tajjanīyakammādivasena nissāraṇaṃ gacchati. Osāraṇaṃ taṃvusitassa jantunoti taṃ vattaṃ vusitassa jantuno, yā osāraṇā kātabbā, etampi jānāti. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Và những điều thực hành nào nghĩa là và những điều như gây ra cãi cọ v.v… mà người ấy thực hành rồi đi đến sự trục xuất bằng tăng sự khiển trách v.v… Sự phục hồi cho người đã sống hạnh ấy nghĩa là người ấy cũng biết sự phục hồi nào cần phải làm cho người đã sống theo hạnh đó. Phần còn lại ở mọi nơi đều rõ ràng.
Kosambakakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích Chương Kosambaka kết thúc.
Samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāya
Trong bộ Samantapāsādikā, phần giải thích Tạng Luật,
Mahāvaggavaṇṇanā samattā.
Phần giải thích Đại Phẩm đã hoàn tất.
Mahāvagga-aṭṭhakathā niṭṭhitā.
Chú giải Đại Phẩm kết thúc.