Chú giải Tạng Luật – Phẩm Lớn – Chương Nói Về Y Phục (Dịch lần 2)
8. Cīvarakkhandhakaṃ
8. Chương về Y
Jīvakavatthukathā
Câu chuyện về Jīvaka
326. Cīvarakkhandhake – padakkhiṇāti chekā kusalā. Abhisaṭāti abhigatā. Kehi abhigatāti? Atthikehi atthikehi manussehi; karaṇatthe pana sāmivacanaṃ katvā ‘‘atthikānaṃ atthikānaṃ manussāna’’nti vuttaṃ. Paññāsāya ca rattiṃ gacchatīti paññāsa kahāpaṇe gahetvā rattiṃ gacchati. Negamoti kuṭumbiyagaṇo.
326. Trong chương về Y – Người khéo léo nghĩa là những người khéo léo, thiện xảo. Đã đến gần nghĩa là đã đến gần, đã tới. Đã đến gần bởi ai? Bởi những người cần, bởi những người cần thiết; tuy nhiên, trong nghĩa công cụ cách, sở thuộc cách đã được dùng nên nói là ‘của những người cần, của những người cần thiết’. Đi trong đêm với năm mươi (kahāpaṇa) nghĩa là lấy năm mươi kahāpaṇa rồi đi trong đêm. Thương gia nghĩa là tập hợp các gia chủ.
327.Sālavatiṃ kumāriṃ gaṇikaṃ vuṭṭhāpesīti nāgarā dve satasahassāni, rājā satasahassanti tīṇi satasahassāni, aññañca ārāmuyyānavāhanādiparicchedaṃ datvā vuṭṭhāpesuṃ; gaṇikaṭṭhāne ṭhapesunti attho. Paṭisatena ca rattiṃ gacchatīti rattiṃ paṭisatena gacchati. Gilānaṃ paṭivedeyyanti gilānabhāvaṃ jānāpeyyaṃ. Kattarasuppeti jiṇṇasuppe.
327.‘Đã tấn phong nàng thiếu nữ Sālavatī làm kỹ nữ’ nghĩa là: các thị dân (đã cho) hai trăm ngàn, vua (đã cho) một trăm ngàn, (tổng cộng) là ba trăm ngàn, và các vật dụng khác như vườn tược, xe cộ v.v…, (họ) đã cho (nàng) rồi tấn phong; nghĩa là đã đặt (nàng) vào địa vị kỹ nữ. ‘Đi trong đêm với giá một trăm (kahāpaṇa)’ nghĩa là đi trong đêm với giá một trăm (kahāpaṇa). ‘Tôi nên báo bệnh’ nghĩa là tôi nên báo cho biết tình trạng bệnh. ‘Trong cái sàng cũ’ nghĩa là ở trong cái sàng đã cũ.
328.Kā me deva mātā, ko pitāti kasmā pucchi? Taṃ kira aññe rājadārakā kīḷantā kalahe uṭṭhite ‘‘nimmātiko nippitiko’’ti vadanti. Yathā ca aññesaṃ dārakānaṃ chaṇādīsu cuḷamātāmahāmātādayo kiñci paṇṇākāraṃ pesenti, tathā tassa na koci kiñci peseti. Iti so taṃ sabbaṃ cintetvā ‘‘nimmātikoyeva nu kho aha’’nti jānanatthaṃ ‘‘kā me deva mātā, ko pitā’’ti pucchi.
328. Tại sao (Jīvaka) lại hỏi: ‘Thưa ngài, ai là mẹ con, ai là cha con?’? Nghe nói rằng, khi các vương tử khác đang chơi đùa, lúc có cãi vã xảy ra, họ nói (với Jīvaka) là ‘kẻ không mẹ, kẻ không cha’. Và cũng như trong các dịp lễ hội, các bà dì, bà ngoại của những đứa trẻ khác thường gửi quà biếu nào đó, thì đối với cậu bé ấy, không ai gửi bất cứ thứ gì. Vì vậy, sau khi suy nghĩ tất cả những điều đó, để biết rằng ‘có phải thật sự ta là người không có mẹ không?’, cậu đã hỏi: ‘Thưa ngài, ai là mẹ con, ai là cha con?’
Yannūnāhaṃ sippaṃ sikkheyyanti yaṃnūna ahaṃ vejjasippaṃ sikkheyyanti cintesi. Tassa kira etadahosi – ‘‘imāni kho hatthiassasippādīni parūpaghātapaṭisaṃyuttāni, vejjasippaṃ mettāpubbabhāgaṃ sattānaṃ hitapaṭisaṃyutta’’nti. Tasmā vejjasippameva sandhāya ‘‘yaṃnūnāhaṃ sippaṃ sikkheyya’’nti cintesi. Apicāyaṃ ito kappasatasahassassa upari padumuttarassa bhagavato upaṭṭhākaṃ ‘‘buddhupaṭṭhāko aya’’nti catuparisantare patthataguṇaṃ vejjaṃ disvā ‘‘aho vatāhampi evarūpaṃ ṭhānantaraṃ pāpuṇeyya’’nti cintetvā sattāhaṃ buddhappamukhassa saṅghassa dānaṃ datvā bhagavantaṃ vanditvā ‘‘ahampi bhagavā tumhākaṃ upaṭṭhāko asukavejjo viya anāgate buddhupaṭṭhāko bhaveyya’’nti patthanamakāsi. Tāya purimapatthanāya codiyamānopesa vejjasippameva sandhāya ‘‘yaṃnūnāhaṃ sippaṃ sikkheyya’’nti cintesi.
‘Hay là ta nên học một nghề nghiệp nào đó’ nghĩa là cậu đã suy nghĩ: ‘Hay là ta nên học một nghề nghiệp nào đó’, tức là ‘Hay là ta nên học nghề y’. Nghe nói rằng, cậu đã nghĩ như thế này – ‘Những nghề nghiệp như nghề huấn luyện voi, ngựa này quả thật liên quan đến việc làm hại người khác, còn nghề y thì có tâm từ làm phần đầu, liên quan đến lợi ích cho chúng sanh’. Do đó, chính vì nhắm đến nghề y mà cậu đã suy nghĩ: ‘Hay là ta nên học một nghề nghiệp nào đó’. Hơn nữa, vị này, cách đây một trăm ngàn đại kiếp, đã nhìn thấy vị y sĩ thị giả của Đức Thế Tôn Padumuttara, người có phẩm hạnh được tán dương giữa bốn hội chúng rằng ‘đây là vị thị giả của Đức Phật’, rồi đã suy nghĩ: ‘Ôi, mong sao ta cũng đạt được địa vị như vậy’, sau đó đã cúng dường đến Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu trong bảy ngày, đảnh lễ Đức Thế Tôn và đã phát nguyện rằng: ‘Bạch Thế Tôn, con cũng mong trở thành thị giả của Ngài trong tương lai, giống như vị y sĩ tên là… kia, con mong sẽ là thị giả của Đức Phật’. Bị thúc đẩy bởi lời nguyện trước đó, vị ấy đã nhắm đến chính nghề y mà suy nghĩ: ‘Hay là ta nên học một nghề nghiệp nào đó’.
329.Disāpāmokkhoti sabbadisāsu vidito pākaṭo padhāno vāti attho. Tasmiñca samaye takkasīlato vāṇijā abhayarājakumāraṃ dassanāya agamaṃsu. Te jīvako ‘‘kuto tumhe āgatā’’ti pucchi. ‘‘Takkasīlato’’ti vutte ‘‘atthi tattha vejjasippācariyo’’ti pucchi. ‘‘Āma kumāra, takkasīlāyaṃ disāpāmokkho vejjo paṭivasatī’’ti sutvā ‘‘tena hi yadā gacchatha, mayhaṃ āroceyyāthā’’ti āha. Te tathā akaṃsu. So pitaraṃ anāpucchā tehi saddhiṃ takkasīlaṃ agamāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘abhayaṃ rājakumāraṃ anāpucchā’’tiādi.
329.‘Nổi tiếng khắp các phương’ nghĩa là người được biết đến, nổi bật, hoặc đứng đầu ở khắp các phương. Vào lúc ấy, các thương nhân từ Takkasilā đã đến để gặp vương tử Abhaya. Jīvaka hỏi họ: “Các vị đến từ đâu?” Khi họ trả lời “Từ Takkasilā”, (Jīvaka) hỏi: “Ở đó có vị thầy dạy nghề y nào không?” Nghe họ nói: “Vâng, thưa vương tử, ở Takkasilā có một vị y sĩ nổi tiếng khắp các phương đang sống”, (Jīvaka) nói: “Vậy thì, khi nào các vị đi, hãy báo cho tôi biết.” Họ đã làm như vậy. Cậu ấy đã đi đến Takkasilā cùng với họ mà không hỏi ý kiến vua cha. Do đó, có lời nói rằng – “Không hỏi ý kiến vương tử Abhaya” v.v…
Icchāmahaṃ ācariya sippaṃ sikkhitunti taṃ kira upasaṅkamantaṃ disvā so vejjo ‘‘kosi tvaṃ tātā’’ti pucchi. So ‘‘bimbisāramahārājassa nattā abhayakumārassa puttomhī’’ti āha. ‘‘Kasmā pana tvamasi tāta idhāgato’’ti, tato so ‘‘tumhākaṃ santike sippaṃ sikkhitu’’nti vatvā icchāmahaṃ ācariya sippaṃ sikkhitunti āha. Bahuñca gaṇhātīti yathā aññe khattiyakumārādayo ācariyassa dhanaṃ datvā kiñci kammaṃ akatvā sikkhantiyeva, na so evaṃ. So pana kiñci dhanaṃ adatvā dhammantevāsikova hutvā ekaṃ kālaṃ upajjhāyassa kammaṃ karoti, ekaṃ kālaṃ sikkhati. Evaṃ santepi abhinīhārasampanno kulaputto attano medhāvitāya bahuñca gaṇhāti, lahuñca gaṇhāti, suṭṭhu ca upadhāreti, gahitañcassa na sammussati.
‘Thưa thầy, con muốn học nghề’: Nghe nói rằng, khi vị y sĩ ấy thấy (Jīvaka) đang đến gần, ông đã hỏi: “Con là ai, này con?” Cậu ấy đáp: “Con là cháu của Đại vương Bimbisāra, là con của vương tử Abhaya.” (Vị thầy hỏi:) “Vậy tại sao con lại đến đây, này con?”, sau đó cậu ấy nói: “Để học nghề nơi thầy”, rồi thưa: “Thưa thầy, con muốn học nghề.” Tiếp thu được nhiều nghĩa là: không giống như các vương tử Sát-đế-lỵ khác chỉ đưa tiền cho thầy rồi học mà không làm công việc gì, cậu ấy không như vậy. Trái lại, cậu ấy không đưa tiền bạc gì, trở thành một học trò theo đúng pháp (không trả tiền), một thời gian thì làm công việc cho thầy tế độ, một thời gian thì học. Mặc dù như vậy, người thiện nam tử có nguyện lực mạnh mẽ này, nhờ trí tuệ của mình, đã tiếp thu được nhiều, tiếp thu nhanh chóng, ghi nhớ rất kỹ, và những gì đã học thì không quên.
Satta ca me vassāni adhīyantassa nayimassa sippassa anto paññāyatīti ettha ayaṃ kira jīvako yattakaṃ ācariyo jānāti, yaṃ aññe soḷasahi vassehi uggaṇhanti, taṃ sabbaṃ sattahi vassehi uggahesi . Sakkassa pana devarañño etadahosi – ‘‘ayaṃ buddhānaṃ upaṭṭhāko aggavissāsako bhavissati, handa naṃ bhesajjayojanaṃ sikkhāpemī’’ti ācariyassa sarīre ajjhāvasitvā yathā ṭhapetvā kammavipākaṃ avasesarogaṃ ekeneva bhesajjayogena tikicchituṃ sakkoti, tathā naṃ bhesajjayojanaṃ sikkhāpesi. So pana ‘‘ācariyassa santike sikkhāmī’’ti maññati, tasmā ‘‘samattho idāni jīvako tikicchitu’’nti sakkena vissaṭṭhamatte evaṃ cintetvā ācariyaṃ pucchi. Ācariyo pana ‘‘na iminā mamānubhāvena uggahitaṃ, devatānubhāvena uggahita’’nti ñatvāva tena hi bhaṇetiādimāha. Samantā yojanaṃ āhiṇḍantoti divase divase ekekena dvārena nikkhamitvā cattāro divase āhiṇḍanto. Parittaṃ pātheyyaṃ pādāsīti appamattakaṃ adāsi. Kasmā? Tassa kira etadahosi – ‘‘ayaṃ mahākulassa putto gatamattoyeva pitipitāmahānaṃ santikā mahāsakkāraṃ labhissati, tato mayhaṃ vā sippassa vā guṇaṃ na jānissati, antarāmagge pana khīṇapātheyyo sippaṃ payojetvā avassaṃ mayhañca sippassa ca guṇaṃ jānissatī’’ti parittaṃ dāpesi.
‘Con đã học bảy năm mà vẫn chưa thấy được điểm kết thúc của nghề này’: Về câu này, nghe nói rằng Jīvaka này, tất cả những gì vị thầy biết, những điều mà người khác phải học trong mười sáu năm, cậu ấy đã học hết trong bảy năm. Nhưng Thiên đế Sakka đã nghĩ thế này: “Người này sẽ trở thành vị thị giả hàng đầu, người đáng tin cậy nhất của các Đức Phật, thôi ta hãy dạy cho cậu ấy cách phối thuốc”, rồi đã nhập vào thân của vị thầy và dạy cho cậu cách phối thuốc để có thể chữa trị các bệnh còn lại, ngoại trừ bệnh do quả của nghiệp, chỉ bằng một phương thuốc duy nhất. Nhưng cậu ấy lại nghĩ rằng: “Mình đang học từ nơi thầy”, do đó, ngay khi được Thiên đế Sakka cho phép rằng: “Bây giờ Jīvaka đã có khả năng chữa trị”, cậu đã suy nghĩ như vậy rồi hỏi vị thầy. Còn vị thầy, sau khi biết rằng: “Điều này không phải do năng lực của ta mà nó học được, mà là do năng lực của chư thiên”, đã nói: “Vậy thì, này con” v.v… Đi khắp một do-tuần xung quanh nghĩa là mỗi ngày đi ra bằng một cổng khác nhau, đi trong bốn ngày. Đã cho một ít lộ phí nghĩa là đã cho một lượng không đáng kể. Tại sao? Nghe nói rằng ông đã nghĩ thế này: “Người này là con của dòng dõi cao quý, vừa đi khỏi đây là sẽ nhận được sự trọng vọng lớn lao từ cha ông mình, khi đó nó sẽ không biết được giá trị của ta hay của nghề nghiệp này. Nhưng nếu trên đường đi mà hết lộ phí, nó sử dụng nghề nghiệp (để kiếm sống), chắc chắn nó sẽ biết được giá trị của ta và của nghề nghiệp này”, (vì thế) ông đã cho (cậu) một ít (lộ phí).
Seṭṭhibhariyādivatthukathā
Câu chuyện về vợ vị trưởng giả, v.v…
330.Pasatenāti ekahatthapuṭena. Picunāti kappāsapaṭalena. Yatrahi nāmāti yā nāma. Kimpimāyanti kimpi me ayaṃ. Upajānāmetassa saṃyamassāti katassa ca rogūpasamassa ca upakāraṃ jānāmāti adhippāyo.
330.Bằng một nắm tay nghĩa là bằng một vốc tay. Bằng bông gòn nghĩa là bằng một miếng bông gòn. Mà quả thật là nghĩa là mà thật là. Người này đối với tôi thì có gì đâu nghĩa là người này đối với tôi thì là gì. Tôi sẽ biết ơn sự tự chủ này có nghĩa là: tôi sẽ biết ơn sự giúp đỡ đã được làm và sự thuyên giảm bệnh tật.
331.Sabbālaṅkāraṃ tuyhaṃ hotūti rājā kira ‘‘sace imaṃ gaṇhissati, pamāṇayutte ṭhāne naṃ ṭhapessāmi. Sace na gaṇhissati, abbhantarikaṃ naṃ vissāsakaṃ karissāmī’’ti cintetvā evamāha. Abhayakumārassāpi nāṭakānampi cittaṃ uppajji ‘‘aho vata na gaṇheyyā’’ti. Sopi tesaṃ cittaṃ ñatvā viya ‘‘idaṃ me deva ayyikānaṃ ābharaṇaṃ, nayidaṃ mayhaṃ gaṇhituṃ patirūpa’’nti vatvā alaṃ devātiādimāha. Adhikāraṃ me devo saratūti katassa upakāraṃ me devo saratūti attho. Rājā pasanno sabbākārasampannaṃ gehañca ambavanuyyānañca anusaṃvaccharaṃ satasahassauṭṭhānakaṃ gāmañca mahāsakkārañca datvā tena hi bhaṇetiādimāha.
331. Về câu ‘Tất cả trang sức hãy thuộc về khanh’, nghe nói rằng nhà vua đã suy nghĩ: “Nếu người này nhận lấy, ta sẽ đặt nó vào một vị trí tương xứng. Nếu nó không nhận, ta sẽ biến nó thành người thân tín trong nội cung”, rồi nói như vậy. Tâm của vương tử Abhaya và cả của các vũ nữ cũng khởi lên rằng: “Ôi, mong sao nó đừng nhận.” Cậu ấy cũng như biết được tâm của họ, đã nói: “Thưa đức vua, đây là trang sức của các bà của con, con nhận lấy điều này là không thích hợp”, rồi nói: “Thôi đủ rồi, thưa đức vua” v.v… ‘Xin đức vua hãy nhớ đến công lao của con’ nghĩa là xin đức vua hãy nhớ đến sự giúp đỡ mà con đã làm. Nhà vua hài lòng, đã ban cho (Jīvaka) một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi, một vườn xoài, một ngôi làng có thu nhập hàng năm một trăm ngàn (kahāpaṇa), và sự trọng vọng lớn lao, rồi nói: “Vậy thì, này con” v.v…
Rājagahaseṭṭhivatthukathā
Câu chuyện về trưởng giả thành Rājagaha
332.Sakkhissasipana tvaṃ gahapatīti kasmā āha? Iriyāpathasamparivattanena kira matthaluṅgaṃ na saṇṭhāti, assa ca tīhi sattāhehi niccalassa nipannassa matthaluṅgaṃ saṇṭhahissatīti ñatvā appeva nāma sattasattamāse paṭijānitvā sattasattadivasepi nipajjeyyāti naṃ evamāha. Teneva parato vuttaṃ ‘‘api ca paṭikacceva mayā ñāto’’ti. Sīsacchaviṃ uppāṭetvāti sīsacammaṃ apanetvā. Sibbiniṃ vināmetvāti sibbiniṃ vivaritvā. Nāhaṃ ācariya sakkomīti tassa kira sarīre mahāḍāho uppajji, tasmā evamāha. Tīhi sattāhehīti tīhi passehi ekekena sattāhena.
332. Tại sao (Jīvaka) lại nói: ‘Vậy ông có thể làm được không, thưa gia chủ?’ Nghe nói rằng, do việc thay đổi tư thế, não không ổn định được, và biết rằng não của người này sẽ ổn định nếu nằm yên trong ba tuần lễ, (Jīvaka) đã nói như vậy với ông ta (với ý nghĩ): “Biết đâu sau khi cam kết (nằm yên) bảy tháng, ông ấy có thể nằm yên được dù chỉ bảy ngày.” Chính vì thế mà về sau có nói rằng: “Vả lại, ta đã biết trước rồi”. Sau khi rạch da đầu nghĩa là sau khi lột da đầu ra. Sau khi mở đường khâu nghĩa là sau khi mở vết khâu ra. Về câu ‘Thưa thầy, con không thể chịu được’, nghe nói rằng một sự nóng bức dữ dội đã phát sinh trong cơ thể ông ấy, do đó ông đã nói như vậy. Trong ba tuần lễ nghĩa là (nằm) mỗi bên (trái, phải, ngửa) trong một tuần lễ.
333.Janaṃussāretvāti janaṃ nīharāpetvā.
333.Sau khi đuổi dân chúng đi nghĩa là sau khi khiến dân chúng đi ra.
Pajjotarājavatthukathā
Câu chuyện vua Pajjota
334.Jegucchaṃ me sappīti ayaṃ kira rājā vicchikassa jāto, vicchikavisapaṭighātāya ca sappi bhesajjaṃ hoti vicchikānaṃ paṭikūlaṃ, tasmā evamāha. Uddekaṃ dassatīti uggāraṃ dassati. Paññāsa yojanikā hotīti paññāsa yojanāni gantuṃ samatthā hoti. Na kevalañcassa rañño hatthinīyeva, nāḷāgiri nāma hatthī yojanasataṃ gacchati, celakaṇṇo ca muñcakeso cāti dve assā vīsayojanasataṃ gacchanti, kāko dāso saṭṭhiyojanāni gacchati.
334. Về câu ‘Bơ tinh khiến ta ghê tởm’, nghe nói rằng vị vua này bị bệnh vàng da, và bơ tinh là thuốc trị độc của bệnh vàng da, (nhưng) lại là thứ đáng ghê tởm đối với người bệnh vàng da, do đó ông đã nói như vậy. Sẽ gây nôn ọe nghĩa là sẽ gây ợ (hoặc nôn). (Voi cái) đi được năm mươi do-tuần nghĩa là nó có khả năng đi năm mươi do-tuần. Không chỉ voi cái của vị vua này (đi nhanh), mà con voi tên Nāḷāgiri đi được một trăm do-tuần, hai con ngựa tên Celakaṇṇa và Muñcakesa đi được một trăm hai mươi do-tuần, người nô lệ tên Kāka đi được sáu mươi do-tuần.
Ekassa kira kulaputtassa anuppanne buddhe ekadivasaṃ bhuñjituṃ nisinnassa paccekabuddho dvāre ṭhatvā agamāsi, tasseko puriso ‘‘paccekabuddho āgantvā gato’’ti ārocesi. So sutvā ‘‘gaccha, vegena pattaṃ āharā’’ti āharāpetvā attano sajjitaṃ bhattaṃ sabbaṃ datvā pesesi. Itaro taṃ āharitvā paccekabuddhassa hatthe ṭhapetvā ‘‘ahaṃ bhante tumhākaṃ katena iminā kāyaveyyāvatikena yattha yattha nibbattopi vāhanasampanno homī’’ti patthanaṃ akāsi. So ayaṃ etarahi pajjoto nāma rājā jāto, tāya patthanāya ayaṃ vāhanasampatti.
Nghe nói rằng, vào thời không có Đức Phật xuất hiện, có một người thiện nam tử vào một ngày nọ đang ngồi ăn, một vị Phật Độc Giác đã đứng ở cửa rồi bỏ đi. Một người hầu của ông ấy đã báo tin: “Một vị Phật Độc Giác đã đến rồi đi mất.” Nghe vậy, ông ấy bảo (người hầu): “Đi nhanh lên, mang bát lại đây”, rồi cho mang bát đến, lấy tất cả phần cơm đã chuẩn bị cho mình đặt vào đó và gửi đi. Người kia mang bát đó đến đặt vào tay vị Phật Độc Giác và phát nguyện: “Bạch ngài, nhờ công đức phục vụ thân thể này con đã làm cho ngài, dù con tái sinh ở nơi nào, xin cho con cũng được đầy đủ phương tiện đi lại.” Người ấy bây giờ đã sinh làm vua tên là Pajjota, sự đầy đủ phương tiện đi lại này là do lời nguyện đó.
Sappiṃ pāyetvāti sappiñca pāyetvā; paricārikānañca āhārācāre vidhiṃ ācikkhitvā. Nakhena bhesajjaṃ olumpetvāti nakhena bhesajjaṃ odahitvā; pakkhipitvāti attho. Nicchāresīti virecesi.
Sau khi cho uống bơ tinh nghĩa là sau khi cho uống bơ tinh; và sau khi chỉ dẫn phương pháp về thức ăn và cách ứng xử cho các nữ tỳ. Giấu thuốc trong móng tay nghĩa là đặt thuốc vào móng tay; nghĩa là bỏ vào. Đã khiến xổ ra nghĩa là đã cho uống thuốc xổ.
Siveyyakadussayugakathā
Câu chuyện về cặp vải xứ Sivi
335.Siveyyakaṃ nāma uttarakurūsu sivathikaṃ avamaṅgalavatthaṃ. Tattha kira manussā mataṃ tena vatthena veṭhetvā nikkhipanti, taṃ ‘‘maṃsapesī’’ti sallakkhetvā hatthisoṇḍakasakuṇā ukkhipitvā himavantakūṭe ṭhapetvā vatthaṃ apanetvā khādanti. Atha vanacarakā vatthaṃ disvā rañño āharanti. Evamidaṃ pajjotena laddhaṃ. Siviraṭṭhe kusalā itthiyo tīhi aṃsūhi suttaṃ kantanti, tena suttena vāyitavatthaṃ etantipi vadanti.
335. Tấm vải ‘xứ Sivi’ là loại vải không may mắn dùng ở nghĩa địa tại xứ Uttarakuru. Nghe nói rằng ở đó, người ta quấn người chết bằng tấm vải đó rồi vứt đi. Loài chim có vòi giống voi, nhận biết đó là ‘miếng thịt’, tha đi đặt trên đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn, gỡ tấm vải ra rồi ăn (xác chết). Sau đó, những người đi rừng thấy tấm vải liền mang về cho vua. Tấm vải này đã được vua Pajjota nhận lấy như vậy. Người ta cũng nói rằng đây là tấm vải được dệt bằng sợi do những người phụ nữ khéo léo ở vương quốc Sivi kéo từ ba loại sợi.
Samattiṃsavirecanakathā
Câu chuyện về ba mươi lần xổ
336.Sinehethāti kiṃ pana bhagavato kāyo lūkhoti na lūkho? Bhagavato hi āhāre sadā devatā dibbojaṃ pakkhipanti, sinehapānaṃ pana sabbattha dose temeti, sirā mudukā karoti, tenāyaṃ evamāha. Tīṇi uppalahatthānīti ekaṃ oḷārikadosaharaṇatthaṃ, ekaṃ majjhimadosaharaṇatthaṃ, ekaṃ sukhumadosaharaṇatthaṃ. Nacirasseva pakatatto ahosīti evaṃ pakatatte pana kāye nāgarā dānaṃ sampādesuṃ. Jīvako āgantvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘bhagavā ajja nāgarā tumhākaṃ dānaṃ dātukāmā, mā antogāmaṃ piṇḍāya pavisathā’’ti. Mahāmoggallānatthero cintesi – ‘‘kuto nu kho ajja bhagavato paṭhamaṃ piṇḍapāto laddhuṃ vaṭṭatī’’ti. Tato cintesi – ‘‘soṇo seṭṭhiputto khettaparikammato paṭṭhāya aññehi asādhāraṇānaṃ khīrodakasecanasaṃvaddhānaṃ gandhasālīnaṃ odanaṃ bhuñjati, tato bhagavato piṇḍapātaṃ āharissāmī’’ti iddhiyā gantvā tassa pāsādatale attānaṃ dassesi. So therassa pattaṃ gahetvā paṇītaṃ piṇḍapātaṃ adāsi. Therassa ca gamanākāraṃ disvā ‘‘bhuñjatha bhante’’ti āha. Thero tamatthaṃ ārocesi ‘‘bhuñjatha bhante, ahaṃ aññaṃ bhagavato dassāmī’’ti theraṃ bhojetvā gandhehi pattaṃ ubbaṭṭetvā piṇḍapātassa pūretvā adāsi, taṃ thero āharitvā bhagavato adāsi.
336. Về câu ‘Xin hãy làm cho nhuận’, vậy thân của Đức Thế Tôn có khô khan không? Không khô khan. Vì chư thiên luôn đặt dưỡng chất trời vào thức ăn của Đức Thế Tôn. Tuy nhiên, việc uống chất nhờn làm ẩm các thể dịch khắp nơi, làm mềm các mạch máu, do đó ngài (Jīvaka) đã nói như vậy. Ba nắm hoa sen xanh nghĩa là một nắm để loại bỏ thể dịch thô, một nắm để loại bỏ thể dịch trung bình, một nắm để loại bỏ thể dịch vi tế. Về câu ‘Không bao lâu sau đã trở lại bình thường’, khi thân thể đã trở lại bình thường như vậy, các thị dân đã chuẩn bị vật thực cúng dường. Jīvaka đến bạch với Đức Thế Tôn điều này: “Bạch Thế Tôn, hôm nay các thị dân muốn cúng dường đến Ngài, xin Ngài đừng đi vào làng để khất thực.” Đại đức Mahā Moggallāna suy nghĩ: “Hôm nay, vật thực khất thực đầu tiên nên được nhận cho Đức Thế Tôn từ đâu nhỉ?” Sau đó ngài suy nghĩ: “Trưởng giả tử Soṇa ăn cơm nấu từ gạo thơm được trồng bằng cách tưới sữa và nước, một phương pháp đặc biệt không giống ai, bắt đầu từ lúc chuẩn bị ruộng. Ta sẽ mang vật thực khất thực cho Đức Thế Tôn từ đó”, rồi dùng thần thông đi đến và hiện thân ở dưới lầu của vị ấy. Vị ấy lấy bát của Trưởng lão và cúng dường vật thực hảo hạng. Thấy dáng điệu của Trưởng lão, vị ấy nói: “Bạch ngài, xin hãy dùng.” Trưởng lão báo rõ sự việc đó. (Trưởng giả tử nói:) “Bạch ngài, xin hãy dùng, con sẽ dâng phần khác lên Đức Thế Tôn”. Sau khi mời Trưởng lão dùng bữa, vị ấy xông hương bát, đổ đầy vật thực rồi dâng cúng. Trưởng lão mang vật thực đó về dâng lên Đức Thế Tôn.
Rājāpi kho bimbisāro ‘‘ajja bhagavā kiṃ bhuñjissatī’’ti vihāraṃ āgantvā pavisamānova piṇḍapātagandhaṃ ghāyitvā bhuñjitukāmo ahosi . Bhagavato dvīsuyeva piṇḍapātesu bhājanagatesu devatā ojaṃ pakkhipiṃsu – yañca sujātā adāsi; yañca parinibbānakāle cundo kammāraputto; aññesu kabaḷe kabaḷe pakkhipiṃsu, tasmā bhagavā rañño icchaṃ jānitvā apakkhittojameva thokaṃ piṇḍapātaṃ rañño dāpesi. So paribhuñjitvā pucchi – ‘‘kiṃ bhante, uttarakuruto ābhataṃ bhojana’’nti? ‘‘Na mahārāja, uttarakuruto; apica kho taveva raṭṭhavāsino gahapatiputtassa bhojanaṃ eta’’nti vatvā soṇassa sampattiṃ ācikkhi. Taṃ sutvā rājā soṇaṃ daṭṭhukāmo hutvā cammakkhandhake vuttanayena asītiyā kulaputtasahassehi saddhiṃ soṇassa āgamanaṃ akāsi. Te bhagavato dhammadesanaṃ sutvā sotāpannā jātā. Soṇo pana pabbajitvā arahatte patiṭṭhito. Bhagavāpi etadatthameva rañño piṇḍapātaṃ dāpesi.
Cả vua Bimbisāra cũng đến tu viện (tự hỏi): “Hôm nay Đức Thế Tôn sẽ dùng món gì?”. Vừa bước vào, ngửi thấy mùi thơm của vật thực, vua liền muốn dùng. Chư thiên chỉ đặt dưỡng chất trời vào vật thực đã được đặt trong bát của Đức Thế Tôn trong hai trường hợp: phần vật thực do nàng Sujātā dâng cúng; và phần vật thực do Cunda, con người thợ rèn, dâng cúng vào lúc sắp Niết-bàn. Trong những trường hợp khác, họ đặt (dưỡng chất) vào từng miếng cơm. Do đó, Đức Thế Tôn biết được ý muốn của nhà vua, đã cho dâng một ít vật thực chưa được đặt dưỡng chất trời lên nhà vua. Sau khi dùng xong, vua hỏi: “Bạch ngài, có phải thức ăn này được mang từ Uttarakuru đến không?” (Đức Phật đáp:) “Tâu Đại vương, không phải từ Uttarakuru; mà đây là thức ăn của con trai vị gia chủ, một cư dân trong xứ của ngài”, rồi Ngài kể về sự giàu có của Soṇa. Nghe vậy, nhà vua muốn gặp Soṇa, đã cùng với tám mươi ngàn thiện nam tử đến gặp Soṇa theo cách đã nói trong Chương về Da. Họ nghe pháp thoại của Đức Thế Tôn và trở thành bậc Dự Lưu. Còn Soṇa thì xuất gia và chứng đắc A-la-hán. Đức Thế Tôn cũng chính vì mục đích này mà đã cho dâng vật thực lên nhà vua.
Varayācanakathā
Câu chuyện xin ân huệ
337. Evaṃ katabhattakicce bhagavati atha kho jīvako komārabhacco taṃ siveyyakaṃ dussayugaṃ ādāya…pe… etadavoca. Atikkantavarāti ettha vinicchayo mahākhandhake vuttanayeneva veditabbo. Bhagavā bhante paṃsukūliko bhikkhusaṅgho cāti bhagavato hi buddhattaṃ pattato paṭṭhāya yāva idaṃ vatthaṃ, etthantare vīsati vassāni na koci gahapaticīvaraṃ sādiyi, sabbe paṃsukūlikāva ahesuṃ. Tenāyaṃ evamāha. Gahapaticīvaranti gahapatīhi dinnacīvaraṃ. Dhammiyā kathāyāti vatthadānānisaṃsapaṭisaṃyuttāya kathāya. Itarītarenāpīti appagghenapi mahagghenapi; yena kenacīti attho. Pāvāroti salomako kappāsādibhedo. Anujānāmi bhikkhave kojavanti ettha pakatikojavameva vaṭṭati, mahāpiṭṭhiyakojavaṃ na vaṭṭati. Mahāpiṭṭhiyakojavanti uṇṇāmayo pāvārasadiso kojavo.
337. Khi Đức Thế Tôn đã dùng bữa xong như vậy, lúc ấy Jīvaka Komārabhacca mang cặp vải xứ Sivi ấy đến… (như trên)… bạch điều này. Về câu ‘Những ân huệ đã quá hạn’, sự phân định ở đây nên được hiểu theo cách đã nói trong Đại Phẩm. Về câu ‘Bạch Thế Tôn, Đức Thế Tôn và Tăng chúng là những vị mặc y phấn tảo’, vì từ khi Đức Thế Tôn thành đạo cho đến khi có tấm vải này, trong khoảng hai mươi năm đó, không có ai chấp nhận y do gia chủ cúng, tất cả đều chỉ mặc y phấn tảo. Do đó, ông ấy (Jīvaka) đã nói như vậy. ‘Y do gia chủ cúng’ nghĩa là y được các gia chủ dâng tặng. ‘Bằng một bài pháp thoại’ nghĩa là bằng bài pháp liên quan đến phước báu của việc cúng dường vải. ‘Bằng cách này hay cách khác’ nghĩa là bằng (vải) giá thấp hoặc giá cao; nghĩa là bằng bất cứ loại nào. ‘Áo choàng’ (pāvāra) là loại (vải) có lông, thuộc loại bông gòn v.v… Về câu ‘Này các Tỳ khưu, Ta cho phép dùng thảm trải sàn (kojava)’, ở đây chỉ được phép dùng loại thảm trải sàn thông thường, không được phép dùng loại thảm trải sàn lớn có lưng cao. Thảm trải sàn lớn có lưng cao là loại thảm làm bằng len, tương tự như áo choàng (pāvāra).
Kambalānujānanādikathā
Câu chuyện về việc cho phép dùng mền len, v.v…
338.Kāsirājāti kāsīnaṃ rājā; pasenadissa ekapitikabhātā esa. Aḍḍhakāsiyanti ettha kāsīti sahassaṃ vuccati taṃ agghanako kāsiyo . Ayaṃ pana pañcasatāni agghati, tasmā ‘‘aḍḍhakāsiyo’’ti vutto. Tenevāha – ‘‘upaḍḍhakāsīnaṃ khamamāna’’nti.
338.Vua xứ Kāsī nghĩa là vua của xứ Kāsī; vị này là anh em cùng cha với vua Pasenadi. Về từ ‘Nửa Kāsī’, ở đây ‘kāsī’ được gọi là một ngàn (kahāpaṇa), (vải) đáng giá ngần ấy là vải Kāsī. Nhưng tấm này trị giá năm trăm, do đó được gọi là ‘nửa Kāsī’. Chính vì thế Ngài nói – “loại vải thích hợp trị giá nửa Kāsī”.
339.Uccāvacānīti sundarāni ca asundarāni ca. Bhaṅgaṃ nāma khomādīhi pañcahi suttehi missetvā kataṃ; vākamayamevātipi vadanti.
339.Cao thấp khác nhau nghĩa là đẹp và không đẹp. Vải ‘bhaṅga’ là loại được làm bằng cách trộn lẫn năm loại sợi như sợi lanh v.v…; người ta cũng nói rằng nó chỉ làm bằng vỏ cây.
340.Ekaṃyeva bhagavatā cīvaraṃ anuññātaṃ na dveti te kira itarītarena cīvarenāti etassa ‘‘gahapatikena vā paṃsukūlena vā’’ti evaṃ atthaṃ sallakkhiṃsu. Nāgamesunti yāva te susānato āgacchanti, tāva te na acchiṃsu; pakkamiṃsuyeva. Nākāmā bhāgaṃ dātunti na anicchāya dātuṃ; yadi pana icchanti, dātabbo. Āgamesunti upacāre acchiṃsu. Tenāha bhagavā āha – ‘‘anujānāmi bhikkhave āgamentānaṃ akāmā bhāgaṃ dātu’’nti. Yadi pana manussā ‘‘idhāgatā eva gaṇhantū’’ti denti, saññāṇaṃ vā katvā gacchanti ‘‘sampattā gaṇhantū’’ti sampattānaṃ sabbesampi pāpuṇanti. Sace chaḍḍetvā gatā, yena gahitaṃ, so eva sāmī. Sadisā susānaṃ okkamiṃsūti sabbe samaṃ okkamiṃsu; ekadisāya vā okkamiṃsūtipi attho. Te katikaṃ katvāti laddhaṃ paṃsukūlaṃ sabbe bhājetvā gaṇhissāmāti bahimeva katikaṃ katvā.
340. Về câu ‘Đức Thế Tôn chỉ cho phép một loại y, không phải hai’, nghe nói rằng họ đã hiểu ý nghĩa của câu ‘bằng loại y này hay loại y khác’ là “bằng y do gia chủ cúng hoặc bằng y phấn tảo”. Họ đã không chờ đợi nghĩa là trong khi họ (các Tỳ khưu đến trước) đi từ nghĩa địa về, họ (những người ở lại) đã không chờ; họ đã đi mất rồi. Không muốn chia phần nghĩa là không phải chia phần khi không muốn; nhưng nếu họ muốn thì phải chia. Họ đã chờ đợi nghĩa là họ đã chờ ở nơi gần đó. Do đó Đức Thế Tôn nói: “Này các Tỳ khưu, Ta cho phép những người đã chờ đợi không cần phải chia phần (cho những người đến sau mà không chờ) nếu họ không muốn.” Nhưng nếu người ta cúng dường (với ý) rằng: “Chỉ những ai đến đây mới được nhận”, hoặc họ làm dấu hiệu rồi đi (với ý) rằng: “Những ai đến nơi hãy nhận”, thì tất cả những ai đến nơi đều được nhận phần. Nếu họ đã vứt bỏ rồi đi, ai nhặt được thì người đó là chủ sở hữu. Cùng nhau đi xuống nghĩa địa nghĩa là tất cả cùng đi xuống một lúc; cũng có nghĩa là họ cùng đi xuống từ một hướng. Họ đã thỏa thuận trước nghĩa là họ đã thỏa thuận với nhau ngay từ bên ngoài rằng: “Y phấn tảo nhặt được, tất cả chúng ta sẽ chia nhau rồi nhận lấy.”
342. Cīvarapaṭiggāhakanti yo gahapatikehi saṅghassa dīyamānaṃ cīvaraṃ gaṇhāti. Yo na chandāgatiṃ gaccheyyātiādīsu cīvarapaṭiggāhakesu pacchā āgatānampi attano ñātakādīnaṃ paṭhamataraṃ paṭiggaṇhanto vā ekaccasmiṃ pemaṃ dassetvā gaṇhanto vā lobhapakatikatāya attano pariṇāmento vā chandāgatiṃ gacchati nāma. Paṭhamataraṃ āgatassāpi kodhavasena pacchā gaṇhanto vā duggatamanussesu avamaññaṃ katvā gaṇhanto vā ‘‘kiṃ vo ghare ṭhapanokāso natthi, tumhākaṃ santakaṃ gahetvā gacchathā’’ti evaṃ saṅghassa lābhantarāyaṃ karonto vā dosāgatiṃ gacchati nāma. Yo pana muṭṭhassati asampajāno, ayaṃ mohāgatiṃ gacchati nāma. Pacchā āgatānampi issarānampi bhayena paṭhamataraṃ paṭiggaṇhanto vā ‘‘cīvarapaṭiggāhakaṭṭhānaṃ nāmetaṃ bhāriya’’nti santasanto vā bhayāgatiṃ gacchati nāma. ‘‘Mayā idañcidañca gahitaṃ, idañciṃdañca na gahita’’nti evaṃ jānanto gahitāgahitaṃ jānāti nāma. Tasmā yo na chandāgatiādivasena gacchati, ñātakaaññātakaaḍḍhaduggatesu visesaṃ akatvā āgatapaapāṭiyā gaṇhāti, sīlācārapaṭipattiyutto hoti, satimā medhāvī bahussuto, sakkoti dāyakānaṃ vissaṭṭhavācāya parimaṇḍalehi padabyañjanehi anumodanaṃ karonto pasādaṃ janetuṃ, evarūpo sammannitabbo.
342. Người nhận y là người nhận y được các gia chủ dâng cúng cho Tăng chúng. Về câu ‘Người không nên đi đến thiên vị’ v.v…, trong số những người nhận y, người nhận (y) cho người thân của mình v.v… trước, mặc dù họ đến sau, hoặc thể hiện tình cảm với một người nào đó rồi nhận (cho họ), hoặc vì bản tính tham lam mà hướng về (lợi ích) cho mình, thì được gọi là ‘đi đến thiên vị’. Người nhận (y) sau cho người đến trước vì tức giận, hoặc nhận (y) với thái độ coi thường những người nghèo khó, hoặc gây trở ngại cho lợi lộc của Tăng chúng bằng cách nói rằng: “Sao, ở nhà các người không có chỗ để à? Hãy cầm lấy đồ của các người mà đi đi”, thì được gọi là ‘đi đến sân hận’. Còn người thất niệm, không tỉnh giác thì được gọi là ‘đi đến si mê’. Người nhận (y) trước cho cả những người có quyền thế đến sau vì sợ hãi, hoặc sợ hãi (nghĩ rằng): “Nhiệm vụ người nhận y này thật nặng nề”, thì được gọi là ‘đi đến sợ hãi’. Người biết như vầy: “Ta đã nhận cái này và cái này, chưa nhận cái này và cái này” thì được gọi là ‘biết rõ đã nhận và chưa nhận’. Do đó, người nào không đi đến (bốn đường ác) do thiên vị v.v…, không phân biệt đối xử giữa người thân và người không thân, người giàu và người nghèo, nhận theo thứ tự người đến, có giới hạnh và thực hành tốt, có niệm, trí tuệ, nghe nhiều, có khả năng làm phát sinh niềm tin nơi thí chủ bằng lời nói rõ ràng, bằng những câu chữ tròn trịa khi tùy hỷ, thì người như vậy nên được chỉ định (làm người nhận y).
Evañca pana bhikkhave sammannitabboti ettha pana etāya yathāvuttāya kammavācāyapi apalokanenāpi antovihāre sabbasaṅghamajjhepi khaṇḍasīmāyapi sammannituṃ vaṭṭatiyeva. Evaṃ sammatena ca vihārapaccante vā padhānaghare vā na acchitabbaṃ. Yattha pana āgatāgatā manussā sukhaṃ passanti, tādise dhuravihāraṭṭhāne bījaniṃ passe ṭhapetvā sunivatthena supārutena nisīditabbanti.
Về câu ‘Và này các Tỳ khưu, vị ấy nên được chỉ định như thế này’, ở đây, việc chỉ định có thể được thực hiện bằng nghi thức Yết-ma đã nói trên, hoặc bằng cách biểu quyết thông qua, dù ở trong tu viện, giữa toàn thể Tăng chúng, hay trong một khu giới hạn riêng. Người đã được chỉ định như vậy không nên ngồi ở nơi hẻo lánh trong tu viện hoặc trong nhà chính (nơi ít người qua lại). Nên ngồi ở nơi chính yếu của tu viện, nơi mà mọi người qua lại có thể dễ dàng nhìn thấy, đặt quạt ở bên cạnh, mặc y chỉnh tề.
Tattheva ujjhitvāti ‘‘paṭiggahaṇameva amhākaṃ bhāro’’ti vatvā gahitaṭṭhāneyeva chaḍḍetvā gacchanti. Cīvaranidahakanti cīvarapaṭisāmakaṃ. Yo na chandāgatiṃ gaccheyyātiādīsu cettha ito parañca sabbattha vuttanayeneva vinicchayo veditabbo. Sammutivinicchayopi kathitānusāreneva jānitabbo.
Vứt bỏ ngay tại đó nghĩa là họ nói: “Việc nhận (y) này chỉ là gánh nặng cho chúng tôi”, rồi vứt bỏ ngay tại nơi đã nhận và bỏ đi. Người cất giữ y nghĩa là người quản lý y. Về câu ‘Người không nên đi đến thiên vị’ v.v…, ở đây và từ đây về sau, sự phân định nên được hiểu theo cách đã nói ở khắp mọi nơi. Sự phân định về việc chỉ định cũng nên được biết theo như đã trình bày.
Bhaṇḍāgārasammutiādikathā
Câu chuyện về việc chỉ định kho chứa đồ, v.v…
343.Vihāraṃvātiādīsu yo ārāmamajjhe ārāmikasāmaṇerādīhi avivitto sabbesaṃ samosaraṇaṭṭhāne vihāro vā aḍḍhayogo vā hoti, so sammannitabbo. Paccantasenāsanaṃ pana na sammannitabbaṃ. Idaṃ pana bhaṇḍāgāraṃ khaṇḍasīmaṃ gantvā khaṇḍasīmāya nisinnehi sammannituṃ na vaṭṭati, vihāramajjheyeva sammannitabbaṃ.
343. Về câu ‘Hoặc một tu viện’ v.v…, tu viện hoặc nhà nửa mái nào ở giữa khu vườn, không cách biệt với những người giữ vườn, Sa-di v.v…, là nơi tụ họp của tất cả mọi người, thì nơi đó nên được chỉ định (làm kho). Còn chỗ ở nơi biên địa thì không nên được chỉ định. Nhưng kho chứa đồ này không được phép chỉ định bởi những người đã đi đến khu giới hạn riêng và ngồi trong khu giới hạn riêng đó; phải chỉ định ngay giữa tu viện.
Guttāguttañca jāneyyāti ettha yassa tāva chadanādīsu koci doso natthi, taṃ guttaṃ. Yassa pana chadanatiṇaṃ vā chadaniṭṭhakā vā yattha katthaci patitā, yena ovassati vā, mūsikādīnaṃ vā paveso hoti, bhittiādīsu vā katthaci chiddaṃ hoti, upacikā vā uṭṭhahanti, taṃ sabbaṃ aguttaṃ nāma. Taṃ sallakkhetvā paṭisaṅkharitabbaṃ. Sītasamaye dvārañca vātapānañca supihitaṃ kātabbaṃ, sītena hi cīvarāni kaṇṇakitāni honti. Uṇhasamaye antarantarā vātappavesanatthaṃ vivaritabbaṃ. Evaṃ karonto hi guttāguttaṃ jānāti nāma.
Về câu ‘Và nên biết rõ (nơi) được che chắn và không được che chắn’, ở đây, nơi nào không có lỗi gì ở mái che v.v…, nơi đó là được che chắn. Còn nơi nào mà cỏ lợp mái hay ngói lợp mái bị rơi rớt chỗ này chỗ kia, khiến cho (mái) bị dột, hoặc có lối vào cho chuột bọ v.v…, hoặc có lỗ hổng chỗ nào đó ở tường v.v…, hoặc mối mọt phát sinh, tất cả những nơi đó được gọi là không được che chắn. Cần phải xem xét điều đó và sửa chữa lại. Vào mùa lạnh, cần phải đóng kín cửa ra vào và cửa sổ, vì y phục sẽ bị hư hại do lạnh. Vào mùa nóng, thỉnh thoảng nên mở ra để gió lưu thông. Người làm như vậy thì được gọi là biết rõ (nơi) được che chắn và không được che chắn.
Imehi pana cīvarapaṭiggāhakādīhi tīhipi attano vattaṃ jānitabbaṃ. Tattha cīvarapaṭiggāhakena tāva yaṃ yaṃ manussā ‘‘kālacīvara’’nti vā ‘‘akālacīvara’’nti vā ‘‘accekacīvara’’nti vā ‘‘vassikasāṭika’’nti vā ‘‘nisīdana’’nti vā ‘‘paccattharaṇa’’nti vā ‘‘mukhapuñchanacoḷa’’nti vā denti, taṃ sabbaṃ ekarāsiṃ katvā missetvā na gaṇhitabbaṃ, visuṃ visuṃ katvāva gaṇhitvā cīvaranidahakassa tatheva ācikkhitvā dātabbaṃ. Cīvaranidahakenāpi bhaṇḍāgārikassa dadamānena idaṃ kālacīvaraṃ…pe… idaṃ mukhapuñchanacoḷanti ācikkhitvāva dātabbaṃ. Bhaṇḍāgārikenāpi tatheva visuṃ visuṃ viya saññāṇaṃ katvā ṭhapetabbaṃ. Tato saṅghena ‘‘kālacīvaraṃ āharā’’ti vutte kālacīvarameva dātabbaṃ…pe… mukhapuñchanacoḷakaṃ āharāti vutte tadeva dātabbaṃ.
Nhưng cả ba vị này: người nhận y v.v… cần phải biết phận sự của mình. Trong đó, trước tiên, người nhận y không nên nhận tất cả những gì người ta cúng dường, gọi là ‘y đúng thời’, hay ‘y phi thời’, hay ‘y cấp tốc’, hay ‘vải tắm mưa’, hay ‘tọa cụ’, hay ‘khăn trải giường’, hay ‘khăn lau mặt’, bằng cách gộp chung thành một đống và trộn lẫn; mà phải nhận riêng từng loại, rồi báo cho người cất giữ y đúng như vậy mà giao cho. Người cất giữ y cũng vậy, khi giao cho người giữ kho, phải báo rõ rằng đây là y đúng thời… (như trên)… đây là khăn lau mặt, rồi mới giao. Người giữ kho cũng phải làm dấu hiệu riêng từng loại như vậy rồi cất giữ. Sau đó, khi Tăng chúng nói: “Hãy mang y đúng thời đến”, thì chỉ được đưa y đúng thời… (như trên)… khi nói: “Hãy mang khăn lau mặt đến”, thì chỉ được đưa thứ đó.
Iti bhagavatā cīvarapaṭiggāhako anuññāto, cīvaranidahako anuññāto, bhaṇḍāgāraṃ anuññātaṃ, bhaṇḍāgāriko anuññāto, na bāhulikatāya na asantuṭṭhiyā; apica kho saṅghassānuggahāya. Sace hi āhaṭāhaṭaṃ gahetvā bhikkhū bhājeyyuṃ, neva āhaṭaṃ na anāhaṭaṃ na dinnaṃ nādinnaṃ na laddhaṃ nāladdhaṃ jāneyyuṃ, āhaṭāhaṭaṃ therāsane vā dadeyyuṃ, khaṇḍākhaṇḍaṃ vā chinditvā gaṇheyyuṃ; evaṃ sati ayuttaparibhogo ca hoti, na ca sabbesaṃ saṅgaho kato hoti. Bhaṇḍāgāre pana cīvaraṃ ṭhapetvā ussannakāle ekekassa bhikkhuno ticīvaraṃ vā dve dve vā ekekaṃ vā cīvaraṃ dassanti, laddhāladdhaṃ jānissanti, aladdhabhāvaṃ ñatvā saṅgahaṃ kātuṃ maññissantīti.
Như vậy, Đức Thế Tôn đã cho phép có người nhận y, cho phép có người cất giữ y, cho phép có kho chứa đồ, cho phép có người giữ kho, không phải vì sự xa hoa, không phải vì sự không biết đủ; mà là vì lợi ích của Tăng chúng. Vì nếu các Tỳ khưu cứ nhận những gì được mang đến rồi chia nhau, họ sẽ không biết được cái gì đã được mang đến, cái gì chưa được mang đến, cái gì đã được cúng, cái gì chưa được cúng, cái gì đã nhận được, cái gì chưa nhận được; họ có thể đặt những gì được mang đến lên ghế của Trưởng lão, hoặc cắt thành từng mảnh rồi lấy đi; nếu như vậy thì sẽ có sự sử dụng không đúng đắn, và không có sự quan tâm đến tất cả mọi người. Nhưng khi cất giữ y trong kho, vào lúc dồi dào, họ sẽ cấp cho mỗi Tỳ khưu ba y, hoặc hai y, hoặc một y; họ sẽ biết được ai đã nhận, ai chưa nhận; biết được tình trạng chưa nhận, họ sẽ nghĩ đến việc giúp đỡ.
Na bhikkhave bhaṇḍāgāriko vuṭṭhāpetabboti ettha aññepi avuṭṭhāpanīyā jānitabbā. Cattāro hi na vuṭṭhāpetabbā – vuḍḍhataro , bhaṇḍāgāriko, gilāno, saṅghato laddhasenāsanoti. Tattha vuḍḍhataro attano vuḍḍhatāya navakatarena na vuṭṭhāpetabbo, bhaṇḍāgāriko saṅghena sammannitvā bhaṇḍāgārassa dinnatāya, gilāno attano gilānatāya, saṅgho pana bahussutassa uddesaparipucchādīhi bahupakārassa bhāranitthārakassa phāsukaṃ āvāsaṃ anuṭṭhāpanīyaṃ katvā deti, tasmā so upakāratāya ca saṅghato laddhatāya ca na vuṭṭhāpetabboti.
Về câu ‘Này các Tỳ khưu, không được đuổi người giữ kho đi’, ở đây cũng cần biết những người khác không được đuổi đi. Có bốn hạng người không được đuổi đi: vị Trưởng lão hơn, người giữ kho, người bệnh, và người đã nhận chỗ ở từ Tăng chúng. Trong đó, vị Trưởng lão hơn không được Tỳ khưu mới hơn đuổi đi vì sự lớn tuổi của mình; người giữ kho (không được đuổi đi) vì đã được Tăng chúng chỉ định và giao phó kho chứa đồ; người bệnh (không được đuổi đi) vì tình trạng bệnh của mình; còn Tăng chúng thì cấp cho vị nghe nhiều, người có nhiều đóng góp qua việc trùng tuyên, hỏi đạo v.v…, người gánh vác công việc nặng nhọc, một chỗ ở tiện nghi và quy định là không được đuổi đi; do đó, vị ấy không được đuổi đi vì sự đóng góp và vì đã nhận (chỗ ở) từ Tăng chúng.
Ussannaṃhotīti bahu rāsikataṃ hoti, bhaṇḍāgāraṃ na gaṇhāti. Sammukhībhūtenāti antoupacārasīmāyaṃ ṭhitena. Bhājetunti kālaṃ ghosetvā paṭipāṭiyā bhājetuṃ. Kolāhalaṃ akāsīti ‘‘amhākaṃ ācariyassa detha, upajjhāyassa dethā’’ti evaṃ mahāsaddaṃ akāsi. Cīvarabhājanakaṅgesu sabhāgānaṃ bhikkhūnaṃ apāpuṇantampi mahagghaṃ cīvaraṃ dento chandāgatiṃ gacchati nāma. Aññesaṃ vuḍḍhatarānaṃ pāpuṇantampi mahagghaṃ cīvaraṃ adatvā appagghaṃ dento dosāgatiṃ gacchati nāma. Mohamūḷho cīvaradānavattaṃ ajānanto mohāgatiṃ gacchati nāma. Mukharānaṃ navakānampi bhayena apāpuṇantameva mahagghaṃ cīvaraṃ dento bhayāgatiṃ gacchati nāma. Yo evaṃ na gacchati, sabbesaṃ tulābhūto pamāṇabhūto majjhatto hoti, so sammannitabbo. Bhājitābhājitanti ‘‘ettakāni vatthāni bhājitāni, ettakāni abhājitānī’’ti jānanto ‘‘bhājitābhājitañca jāneyyā’’ti vuccati.
Trở nên dồi dào nghĩa là có nhiều, chất thành đống, kho không chứa hết. Người có mặt nghĩa là người đứng trong khu vực gần đó. Hãy chia nghĩa là hãy thông báo thời gian rồi chia theo thứ tự. Đã gây ồn ào nghĩa là đã gây tiếng động lớn như: “Hãy đưa cho thầy của chúng tôi, hãy đưa cho thầy tế độ của chúng tôi”. Trong việc chia y, người đưa tấm y quý giá cho các Tỳ khưu thuộc phe mình dù họ không đáng được nhận thì gọi là đi đến thiên vị. Người không đưa tấm y quý giá cho các vị Trưởng lão khác dù họ đáng được nhận, mà lại đưa tấm y ít giá trị thì gọi là đi đến sân hận. Người si mê, không biết phận sự trong việc cấp y thì gọi là đi đến si mê. Người vì sợ những Tỳ khưu mới mà hay nói lớn tiếng, đưa tấm y quý giá cho họ dù họ không đáng được nhận, thì gọi là đi đến sợ hãi. Người nào không đi đến (bốn đường ác) như vậy, là người công bằng, là thước đo, là người trung lập đối với tất cả, thì người đó nên được chỉ định (làm người chia y). Đã chia và chưa chia nghĩa là người biết rằng: “Bấy nhiêu tấm vải đã được chia, bấy nhiêu tấm vải chưa được chia” thì được gọi là (người) ‘biết rõ đã chia và chưa chia’.
Uccinitvāti ‘‘idaṃ thūlaṃ, idaṃ saṇhaṃ, idaṃ ghanaṃ, idaṃ tanukaṃ, idaṃ paribhuttaṃ, idaṃ aparibhuttaṃ, idaṃ dīghato ettakaṃ puthulato ettaka’’nti evaṃ vatthāni vicinitvā. Tulayitvāti ‘‘idaṃ ettakaṃ agghati, idaṃ ettaka’’nti evaṃ agghaparicchedaṃ katvā. Vaṇṇāvaṇṇaṃ katvāti sace sabbesaṃ ekekameva dasagghanakaṃ pāpuṇāti, iccetaṃ kusalaṃ; no ce pāpuṇāti, yaṃ nava vā aṭṭha vā agghati, taṃ aññena ekaagghanakena ca dviagghanakena ca saddhiṃ bandhitvā etena upāyena same paṭivīse ṭhapetvāti attho. Bhikkhū gaṇetvā vaggaṃ bandhitvāti sace ekekassa diyamāne divaso nappahoti, dasa dasa bhikkhū gaṇetvā dasa dasa cīvarapaṭivīse ekavaggaṃ bandhitvā ekaṃ bhaṇḍikaṃ katvā evaṃ cīvarapaṭivīsaṃ ṭhapetuṃ anujānāmīti attho. Evaṃ ṭhapitesu cīvarapaṭivīsesu kuso pātetabbo. Tehipi bhikkhūhi puna kusapātaṃ katvā bhājetabbaṃ.
Sau khi lựa chọn nghĩa là sau khi xem xét các tấm vải như vầy: “Tấm này thô, tấm này mịn, tấm này dày, tấm này mỏng, tấm này đã dùng, tấm này chưa dùng, tấm này dài bao nhiêu, rộng bao nhiêu”. Sau khi ước lượng giá trị nghĩa là sau khi xác định giá trị như vầy: “Tấm này trị giá bấy nhiêu, tấm này bấy nhiêu”. Sau khi phân loại theo phẩm chất nghĩa là: nếu mỗi người đều nhận được một tấm trị giá mười (kahāpaṇa), thì điều đó tốt; nếu không được như vậy, thì tấm nào trị giá chín hoặc tám, hãy buộc chung với tấm khác trị giá một hoặc hai, bằng cách này để xếp thành những phần bằng nhau. Sau khi đếm Tỳ khưu và xếp thành nhóm nghĩa là: nếu việc cấp phát cho từng người một không đủ thời gian trong ngày, Ta cho phép đếm mười Tỳ khưu một, buộc mười phần y thành một nhóm, làm thành một gói, rồi xếp các phần y như vậy. Đối với các phần y đã được xếp như vậy, cần phải bắt thăm (bằng thẻ kusa). Các Tỳ khưu đó cũng phải bắt thăm lại rồi chia nhau.
Sāmaṇerānaṃ upaḍḍhapaṭivīsanti ettha ye sāmaṇerā attissarā bhikkhusaṅghassa kattabbakammaṃ na karonti, uddesaparipucchāsu yuttā ācariyupajjhāyānaṃyeva vattapaṭipattiṃ karonti, aññesaṃ na karonti, etesaṃyeva upaḍḍhabhāgo dātabbo. Ye pana purebhattañca pacchābhattañca bhikkhusaṅghasseva kattabbakiccaṃ karonti, tesaṃ samako dātabbo. Idañca piṭṭhisamaye uppannena bhaṇḍāgāre ṭhapitena akālacīvareneva kathitaṃ. Kālacīvaraṃ pana samakameva dātabbaṃ. Tatruppādavassāvāsikaṃ sammuñjanībandhanādi saṅghassa phātikammaṃ katvā gahetabbaṃ. Etañhettha sabbesaṃ vattaṃ. Bhaṇḍāgārikacīvarepi sace sāmaṇerā āgantvā ‘‘bhante mayaṃ yāguṃ pacāma, bhattaṃ pacāma, khajjakaṃ pacāma, appaharitakaṃ karoma, dantakaṭṭhaṃ āharāma, raṅgachalliṃ kappiyaṃ katvā dema, kiṃ amhehi na kataṃ nāmā’’ti ukkuṭṭhiṃ karonti, samabhāgova dātabbo. Etaṃ ye ca virajjhitvā karonti, yesañca karaṇabhāvo na paññāyati, te sandhāya vuttaṃ. Kurundiyaṃ pana ‘‘sace sāmaṇerā ‘kasmā mayaṃ bhante saṅghakammaṃ na karoma, karissāmā’ti yācanti, samapaṭivīso dātabbo’’ti vuttaṃ.
Về câu ‘Một nửa phần cho các Sa-di’, ở đây, những Sa-di nào tự chủ, không làm công việc phải làm cho Tăng chúng, chỉ chuyên tâm vào việc trùng tuyên và hỏi đạo, chỉ làm phận sự với thầy và thầy tế độ của mình, không làm cho người khác, thì chỉ nên cấp cho họ một nửa phần. Còn những vị nào làm công việc phải làm cho Tăng chúng cả trước bữa ăn và sau bữa ăn, thì nên cấp cho họ phần bằng nhau (với Tỳ khưu). Điều này được nói liên quan đến y phi thời phát sinh vào lúc đói kém và được cất giữ trong kho. Còn y đúng thời thì phải được cấp bằng nhau. (Vật phẩm) phát sinh tại nơi đó, (vải) an cư mùa mưa, (công việc) làm lợi ích cho Tăng chúng như bó chổi v.v… nên được nhận sau khi đã làm. Đây là phận sự của tất cả mọi người ở đây. Ngay cả đối với y của người giữ kho, nếu các Sa-di đến và la lối rằng: “Bạch ngài, chúng con nấu cháo, nấu cơm, nấu đồ ăn cứng, làm đồ ăn nhẹ, mang tăm xỉa răng, làm vỏ cây nhuộm thành vật thích hợp để dâng, có việc gì mà chúng con không làm đâu?”, thì cũng phải cấp phần bằng nhau. Điều này (việc cấp nửa phần) được nói nhắm đến những vị làm việc một cách miễn cưỡng và những vị mà tình trạng làm việc không rõ ràng. Nhưng trong Chú giải Kurundī có nói: “Nếu các Sa-di thỉnh cầu rằng: ‘Tại sao chúng con không làm công việc của Tăng chúng, bạch ngài? Chúng con sẽ làm’, thì nên cấp phần bằng nhau.”
Uttaritukāmoti nadiṃ vā kantāraṃ vā uttaritukāmo; satthaṃ labhitvā disā pakkamitukāmoti attho. Sakaṃ bhāgaṃ dātunti idaṃ bhaṇḍāgārato cīvarāni nīharitvā puñje kate ghaṇṭiyā pahaṭāya bhikkhusaṅghe sannipatite satthaṃ labhitvā gantukāmo ‘‘satthato mā parihāyī’’ti etamatthaṃ sandhāya vuttaṃ. Tasmā anīhatesu vā cīvaresu appahaṭāya vā ghaṇṭiyā asannipatite vā saṅghe dātuṃ na vaṭṭati. Cīvaresu pana nīhatesu ghaṇṭiṃ paharitvā bhikkhusaṅghe sannipatite cīvarabhājakena ‘‘imassa bhikkhuno koṭṭhāsena ettakena bhavitabba’’nti takketvā nayaggāhena cīvaraṃ dātabbaṃ. Tulāya tulitamiva hi samasamaṃ dātuṃ na sakkā, tasmā ūnaṃ vā hotu adhikaṃ vā, evaṃ takkena nayena dinnaṃ sudinnaṃ. Neva ūnakaṃ puna dātabbaṃ, nātirittaṃ paṭiggaṇhitabbanti.
Muốn vượt qua nghĩa là muốn vượt qua sông hoặc vùng hoang địa; nghĩa là muốn tìm được đoàn lữ hành rồi lên đường đi nơi khác. Về câu ‘Hãy đưa phần của vị ấy’, điều này được nói nhắm đến trường hợp (một Tỳ khưu) muốn đi sau khi tìm được đoàn lữ hành, (nghĩ rằng): “Mong sao mình không bị rớt lại khỏi đoàn lữ hành”, khi y phục đã được mang ra khỏi kho, chất thành đống, chuông đã được đánh lên, và Tăng chúng đã tập hợp. Do đó, không được phép đưa (phần y) khi y phục chưa được mang ra, hoặc chuông chưa được đánh, hoặc Tăng chúng chưa tập hợp. Nhưng khi y phục đã được mang ra, chuông đã được đánh, Tăng chúng đã tập hợp, người chia y nên ước lượng rằng: “Phần của Tỳ khưu này phải là chừng này”, rồi đưa y theo cách ước lượng đó. Vì không thể đưa phần bằng nhau một cách chính xác như cân bằng cân, do đó, dù thiếu hay thừa, việc đưa theo cách ước lượng như vậy là đã đưa tốt đẹp. Không cần phải đưa thêm phần thiếu, cũng không cần nhận lại phần thừa.
Atirekabhāgenāti dasa bhikkhū honti, sāṭakāpi daseva, tesu eko dvādasa agghati, sesā dasagghanakā. Sabbesu dasagghanakavasena kuse pātite yassa bhikkhuno dvādasagghanako kuso pātito, so ‘‘ettakena mama cīvaraṃ pahotī’’ti tena atirekabhāgena gantukāmo hoti. Bhikkhū ‘‘atirekaṃ āvuso saṅghassa santaka’’nti vadanti, taṃ sutvā bhagavā ‘‘saṅghike ca gaṇasantake ca appakaṃ nāma natthi, sabbattha saṃyamo kātabbo, gaṇhantenāpi kukkuccāyitabba’’nti dassetuṃ ‘‘anujānāmi bhikkhave anukkhepe dinne’’ti āha. Tattha anukkhepo nāma yaṃkiñci anukkhipitabbaṃ anuppadātabbaṃ kappiyabhaṇḍaṃ; yattakaṃ tassa paṭivīse adhikaṃ, tattake agghanake yasmiṃ kismiñci kappiyabhaṇḍe dinneti attho.
Về ‘Phần dư ra’, (ví dụ) có mười Tỳ khưu, cũng có mười tấm vải, trong đó một tấm trị giá mười hai, các tấm còn lại trị giá mười. Khi bắt thăm dựa trên cơ sở tất cả đều trị giá mười, Tỳ khưu nào bắt được thăm trúng tấm vải trị giá mười hai, vị ấy muốn lấy phần dư đó đi (nghĩ rằng): “Y phục của ta chỉ cần chừng này là đủ.” Các Tỳ khưu nói: “Thưa hiền giả, phần dư là của Tăng chúng.” Nghe vậy, Đức Thế Tôn, để chỉ rõ rằng: “Đối với tài sản của Tăng chúng và của nhóm, không có cái gì gọi là nhỏ; phải tự chủ trong mọi trường hợp, người nhận cũng phải áy náy”, đã nói: “Này các Tỳ khưu, Ta cho phép (nhận phần dư) nếu vật tương đương được trao đổi.” Ở đây, ‘vật tương đương’ là bất cứ vật dụng thích hợp nào có thể được trao đổi, được cấp thêm; nghĩa là khi một vật dụng thích hợp nào đó có giá trị bằng phần dư trong phần của vị ấy được trao đổi.
Vikalake tosetvāti ettha cīvaravikalakaṃ puggalavikalakanti dve vikalakā. Cīvaravikalakaṃ nāma sabbesaṃ pañca pañca vatthāni pattāni, sesānipi atthi, ekekaṃ pana na pāpuṇāti, chinditvā dātabbāni. Chindantehi ca aḍḍhamaṇḍalādīnaṃ vā upāhanatthavikādīnaṃ vā pahonakāni khaṇḍāni katvā dātabbāni, heṭṭhimaparicchedena caturaṅgulavitthārampi anuvātappahonakāyāmaṃ khaṇḍaṃ katvā dātuṃ vaṭṭati, aparibhogaṃ pana na kātabbanti evamettha cīvarassa appahonakabhāvo cīvaravikalakaṃ. Chinditvā dinne pana taṃ tositaṃ hoti, atha kusapāto kātabbo. Sacepi ekassa bhikkhuno koṭṭhāse ekaṃ vā dve vā vatthāni nappahonti, tattha aññaṃ sāmaṇakaṃ parikkhāraṃ ṭhapetvā yo tena tussati, tassa taṃ bhāgaṃ datvā pacchā kusapāto kātabbo. Idampi cīvaravikalakanti andhakaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ.
Về câu ‘Sau khi bù đắp phần thiếu hụt’, ở đây có hai loại thiếu hụt: thiếu hụt về y và thiếu hụt về người. Thiếu hụt về y là (trường hợp) tất cả mọi người đã nhận được năm tấm vải mỗi người, vẫn còn những tấm khác, nhưng không đủ để mỗi người nhận thêm một tấm, thì phải cắt ra rồi cấp phát. Khi cắt, nên cắt thành những mảnh đủ để làm miếng vá nửa vòng tròn v.v…, hoặc túi đựng giày dép v.v…; giới hạn thấp nhất là được phép cắt thành mảnh rộng bốn ngón tay, dài đủ để làm miếng vá rồi cấp phát; nhưng không được làm thành vật không thể sử dụng. Như vậy, ở đây tình trạng không đủ y là thiếu hụt về y. Khi đã cắt ra và cấp phát thì phần thiếu hụt đó được bù đắp, sau đó mới nên bắt thăm. Nếu trong phần của một Tỳ khưu thiếu một hoặc hai tấm vải, hãy đặt một vật dụng Sa-môn thích hợp khác vào đó, đưa phần đó cho người nào hài lòng với nó, sau đó mới bắt thăm. Điều này cũng được gọi là thiếu hụt về y, theo như nói trong Chú giải Andhaka.
Puggalavikalakaṃ nāma dasa dasa bhikkhū gaṇetvā vaggaṃ karontānaṃ eko vaggo na pūrati, aṭṭha vā nava vā honti, tesaṃ aṭṭha vā nava vā koṭṭhāsā ‘‘tumhe ime gahetvā visuṃ bhājethā’’ti dātabbā. Evamayaṃ puggalānaṃ appahonakabhāvo puggalavikalakaṃ. Visuṃ dinne pana taṃ tositaṃ hoti, evaṃ tosetvā kusapāto kātabboti. Atha vā vikalake tosetvāti yo cīvaravibhāgo ūnako, taṃ aññena parikkhārena samaṃ katvā kusapāto kātabbo.
Thiếu hụt về người là (trường hợp) khi đếm mười Tỳ khưu một để xếp thành nhóm, có một nhóm không đủ (mười người), chỉ có tám hoặc chín vị, thì nên đưa cho họ tám hoặc chín phần (và nói): “Các vị hãy nhận những phần này rồi tự chia riêng với nhau.” Như vậy, tình trạng không đủ người này là thiếu hụt về người. Khi đã đưa riêng thì phần thiếu hụt đó được bù đắp, sau khi bù đắp như vậy mới nên bắt thăm. Hoặc là, ‘sau khi bù đắp phần thiếu hụt’ nghĩa là phần y nào bị thiếu, hãy làm cho nó bằng với (các phần khác) bằng một vật dụng khác rồi mới bắt thăm.
Cīvararajanakathā
Câu chuyện về việc nhuộm y
344.Chakaṇenāti gomayena. Paṇḍumattikāyāti tambamattikāya. Mūlarajanādīsu haliddiṃ ṭhapetvā sabbaṃ mūlarajanaṃ vaṭṭati. Mañjiṭṭhiñca tuṅgahārañca ṭhapetvā sabbaṃ khandharajanaṃ vaṭṭati. Tuṅgahāro nāma eko sakaṇṭakarukkho, tassa haritālavaṇṇaṃ khandharajanaṃ hoti. Loddañca kaṇḍulañca ṭhapetvā sabbaṃ tacarajanaṃ vaṭṭati. Allipattaṃ nīlipattañca ṭhapetvā sabbaṃ pattarajanaṃ vaṭṭati. Gihiparibhuttaṃ pana allipattena ekavāraṃ rajituṃ vaṭṭati. Kiṃsukapupphañca kusumbhapupphañca ṭhapetvā sabbaṃ puppharajanaṃ vaṭṭati. Phalarajane pana na kiñci na vaṭṭati.
344. Bằng phân bò nghĩa là bằng phân bò. Bằng đất sét vàng nghĩa là bằng đất sét màu đồng. Trong các loại thuốc nhuộm từ rễ cây v.v…, ngoại trừ củ nghệ, tất cả thuốc nhuộm từ rễ cây đều được phép. Ngoại trừ cây thiến thảo và cây tuṅgahāra, tất cả thuốc nhuộm từ thân cây đều được phép. Tuṅgahāra là tên một loại cây có gai, thuốc nhuộm từ thân của nó có màu vàng thư hoàng. Ngoại trừ cây lodda và cây kaṇḍula, tất cả thuốc nhuộm từ vỏ cây đều được phép. Ngoại trừ lá alli và lá chàm, tất cả thuốc nhuộm từ lá cây đều được phép. Nhưng (y) đã được gia chủ sử dụng thì được phép nhuộm một lần bằng lá alli. Ngoại trừ hoa gièng gièng và hoa rum, tất cả thuốc nhuộm từ hoa đều được phép. Còn đối với thuốc nhuộm từ quả, không có loại nào là không được phép.
Sītudakāti apakkarajanaṃ vuccati. Uttarāḷumpanti vaṭṭādhārakaṃ, rajanakumbhiyā majjhe ṭhapetvā taṃ ādhārakaṃ parikkhipitvā rajanaṃ pakkhipituṃ anujānāmīti attho. Evañhi kate rajanaṃ na uttarati. Udake vā nakhapiṭṭhikāya vāti sace paripakkaṃ hoti, udakapātiyā dinno thevo sahasā na visarati, nakhapiṭṭhiyampi avisaranto tiṭṭhati. Rajanuḷuṅkanti rajanauḷuṅkaṃ. Daṇḍakathālakanti tameva sadaṇḍakaṃ. Rajanakolambanti rajanakuṇḍaṃ. Omaddantīti sammaddanti. Na ca acchinne theve pakkamitunti yāva rajanabindu gaḷitaṃ na chijjati, tāva na aññatra gantabbaṃ. Patthinnanti atirajitattā thaddhaṃ. Udake osāretunti udake pakkhipitvā ṭhapetuṃ. Rajane pana nikkhante taṃ udakaṃ chaḍḍetvā cīvaraṃ madditabbaṃ. Dantakāsāvānīti ekaṃ vā dve vā vāre rajitvā dantavaṇṇāni dhārenti.
Nước lạnh được gọi là thuốc nhuộm chưa nấu. Vật chống tràn phía trên nghĩa là vật đỡ hình tròn; nghĩa là Ta cho phép đặt vật đỡ đó vào giữa nồi nhuộm, bao quanh vật đỡ đó rồi đổ thuốc nhuộm vào. Làm như vậy thì thuốc nhuộm không bị tràn ra ngoài. Trên nước hoặc trên móng tay nghĩa là: nếu (thuốc nhuộm) đã được nấu kỹ, giọt (thuốc nhuộm) nhỏ vào chậu nước sẽ không tan ra ngay lập tức, và trên mu bàn tay cũng đọng lại mà không tan. Thuyền nhuộm nghĩa là cái máng nhuộm. Chậu có cán nghĩa là chính cái đó có cán. Chum nhuộm nghĩa là cái nồi nhuộm. Nhúng xuống nghĩa là nhúng kỹ. Và không được bỏ đi khi giọt (thuốc nhuộm) chưa ngừng chảy nghĩa là chừng nào giọt thuốc nhuộm nhỏ xuống chưa ngừng, thì không được đi nơi khác. Cứng đơ nghĩa là cứng lại do bị nhuộm quá nhiều. Ngâm vào nước nghĩa là bỏ vào nước rồi để đó. Khi thuốc nhuộm đã ra hết, hãy đổ nước đó đi và vò y. Y màu ngà nghĩa là họ nhuộm một hoặc hai lần rồi mặc (y) có màu ngà.
Chinnakacīvarānujānanakathā
Câu chuyện về việc cho phép dùng y cắt may
345.Acchibaddhanti caturassakedārakabaddhaṃ. Pāḷibaddhanti āyāmato ca vitthārato ca dīghamariyādabaddhaṃ. Mariyādabaddhanti antarantarā rassamariyādabaddhaṃ. Siṅghāṭakabaddhanti mariyādāya mariyādaṃ vinivijjhitvā gataṭṭhāne siṅghāṭakabaddhaṃ; catukkasaṇṭhānanti attho. Saṃvidahitunti kātuṃ. Ussahasi tvaṃ ānandāti sakkosi tvaṃ ānanda. Ussahāmi bhagavāti tumhehi dinnanayena sakkomīti dasseti. Yatra hi nāmāti yo nāma. Kusimpi nāmātiādīsu kusīti āyāmato ca vitthārato ca anuvātādīnaṃ dīghapattānametaṃ adhivacanaṃ. Aḍḍhakusīti antarantarā rassapattānaṃ nāmaṃ. Maṇḍalanti pañcakhaṇḍikacīvarassa ekekasmiṃ khaṇḍe mahāmaṇḍalaṃ. Aḍḍhamaṇḍalanti khuddakamaṇḍalaṃ. Vivaṭṭanti maṇḍalañca aḍḍhamaṇḍalañca ekato katvā sibbitaṃ majjhimakhaṇḍaṃ.
345. Được kết thành hình mắt lưới nghĩa là được kết thành hình thửa ruộng vuông. Được kết thành hàng nghĩa là được kết thành đường bờ dài cả chiều dài và chiều rộng. Được kết thành đường bờ nghĩa là được kết thành đường bờ ngắn ở khoảng giữa. Được kết thành hình tam giác/hình vuông nghĩa là được kết thành hình tam giác/hình vuông ở nơi đường bờ này đâm xuyên qua đường bờ kia; nghĩa là có hình dạng ngã tư. Để sắp đặt nghĩa là để làm. ‘Này Ānanda, thầy có cố gắng được không?’ nghĩa là này Ānanda, thầy có thể làm được không? ‘Bạch Thế Tôn, con cố gắng được’ cho thấy rằng: Con có thể làm được theo phương pháp Ngài đã chỉ dạy. Mà quả thật là nghĩa là mà thật là. Về câu ‘Cũng gọi là kusī’ v.v…, ‘kusī’ là tên gọi của những miếng vải dài như miếng vá v.v… cả về chiều dài và chiều rộng. ‘Aḍḍhakusī’ là tên của những miếng vải ngắn ở khoảng giữa. ‘Maṇḍala’ là miếng lớn trong mỗi mảnh của y năm mảnh. ‘Aḍḍhamaṇḍala’ là miếng nhỏ. ‘Vivaṭṭa’ là mảnh giữa được may bằng cách ghép miếng lớn và miếng nhỏ lại với nhau.
Anuvivaṭṭanti tassa ubhosu passesu dve khaṇḍāni. Gīveyyakanti gīvāveṭhanaṭṭhāne daḷhīkaraṇatthaṃ aññaṃ suttasaṃsibbitaṃ āgantukapattaṃ. Jaṅgheyyakanti jaṅghapāpuṇanaṭṭhāne tatheva saṃsibbitaṃ pattaṃ. Gīvaṭṭhāne ca jaṅghaṭṭhāne ca pattānamevetaṃ nāmantipi vadanti. Bāhantanti anuvivaṭṭānaṃ bahi ekekaṃ khaṇḍaṃ. Iti pañcakhaṇḍikacīvarenetaṃ vicāritanti. Atha vā anuvivaṭṭanti vivaṭṭassa ekapassato dvinnaṃ ekapassato dvinnanti catunnampi khaṇḍānametaṃ nāmaṃ. Bāhantanti suppamāṇaṃ cīvaraṃ pārupantena saṃharitvā bāhāya upari ṭhapitā ubho antā bahimukhā tiṭṭhanti, tesaṃ etaṃ nāmaṃ. Ayameva hi nayo mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttoti.
Anuvivaṭṭa là hai mảnh ở hai bên của miếng đó (vivaṭṭa). Gīveyyaka là miếng vải thêm vào được may bằng chỉ khác để làm cho chắc chắn ở chỗ quấn quanh cổ. Jaṅgheyyaka là miếng vải được may tương tự như vậy ở chỗ phủ đến ống chân. Người ta cũng nói rằng đây chỉ là tên của các miếng vải ở chỗ cổ và chỗ ống chân. Bāhanta là mỗi mảnh ở bên ngoài các miếng kế cận (anuvivaṭṭa). Như vậy, điều này được xem xét đối với y năm mảnh. Hoặc là, anuvivaṭṭa là tên gọi của cả bốn mảnh: hai mảnh ở một bên của miếng trung tâm (vivaṭṭa) và hai mảnh ở bên kia. Bāhanta là tên gọi của hai đầu y hướng ra ngoài được đặt trên cánh tay sau khi đã xếp y có kích thước vừa đủ lại khi đắp. Chính phương pháp này đã được nói trong Đại Chú giải.
Ticīvarānujānanakathā
Câu chuyện về việc cho phép dùng ba y
346.Cīvarehiubbhaṇḍiketi cīvarehi ubbhaṇḍe kate; yathā ukkhittabhaṇḍā honti evaṃ kate; ukkhittabhaṇḍikabhāvaṃ āpāditeti attho. Cīvarabhisinti ettha bhisīti dve tīṇi ekato katvā bhisisaṅkhepena saṃharitacīvarāni vuttāni. Te kira bhikkhū ‘‘dakkhiṇāgirito bhagavā lahuṃ paṭinivattissatī’’ti tattha gacchantā jīvakavatthusmiṃ laddhacīvarāni ṭhapetvā agamaṃsu. Idāni pana cirena āgamissatīti maññamānā ādāya pakkamiṃsu. Antaraṭṭhakāsūti māghassa ca phagguṇassa ca antarā aṭṭhasu. Na bhagavantaṃ sītaṃ ahosīti bhagavato sītaṃ nāhosi. Etadahosi yepi kho te kulaputtāti na bhagavā ajjhokāse anisīditvā etamatthaṃ na jānāti, mahājanasaññāpanatthaṃ pana evamakāsi. Sītālukāti sītapakatikā; ye pakatiyāva sītena kilamanti. Diguṇaṃ saṅghāṭinti dupaṭṭaṃ saṅghāṭiṃ. Ekacciyanti ekapaṭṭaṃ. Iti ‘‘bhagavā attanā catūhi cīvarehi yāpeti, amhākaṃ pana ticīvaraṃ anujānātī’’ti vacanassa okāsaṃ upacchindituṃ diguṇaṃ saṅghāṭiṃ anujānāti, ekaccike itare. Evañhi nesaṃ cattāri bhavissantīti.
346. Với y phục được gói lại nghĩa là khi y phục được làm thành gói đồ; làm như thể chúng là đồ vật được nhấc lên; nghĩa là đã làm cho chúng ở trạng thái được gói lại. Về gói y, ở đây ‘bhisī’ được nói là những y phục được xếp lại thành một gói nhỏ bằng cách gộp hai hoặc ba cái lại với nhau. Nghe nói rằng, các Tỳ khưu đó, khi đi đến đó (Dakkhiṇāgiri), nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn sẽ sớm trở về từ Dakkhiṇāgiri”, đã để lại những y phục nhận được trong câu chuyện về Jīvaka rồi mới đi. Nhưng bây giờ, nghĩ rằng Ngài sẽ về muộn, họ đã mang (y) theo rồi ra đi. Trong tám ngày giữa hai tháng nghĩa là trong tám ngày giữa tháng Māgha (tháng 1-2) và tháng Phagguṇa (tháng 2-3). Đức Thế Tôn không bị lạnh nghĩa là Đức Thế Tôn không có cảm giác lạnh. Về câu ‘Ngài đã nghĩ thế này: Cả những thiện nam tử kia…’, không phải Đức Thế Tôn không biết điều này khi chưa ngồi ngoài trời, mà Ngài đã làm như vậy để cho đại chúng biết rõ. Những người chịu lạnh kém nghĩa là những người có thể tạng dễ bị lạnh; những người tự nhiên đã khổ sở vì lạnh. Y tăng-già-lê hai lớp nghĩa là y tăng-già-lê hai lớp vải. Y một lớp nghĩa là (y) một lớp vải. Như vậy, để cắt đứt cơ hội cho lời nói rằng: “Đức Thế Tôn tự mình dùng bốn y, còn lại cho phép chúng ta ba y”, Ngài cho phép dùng y tăng-già-lê hai lớp, còn các y kia thì một lớp. Vì làm như vậy thì họ cũng sẽ có bốn (lớp vải).
Atirekacīvarādikathā
Câu chuyện về y dư, v.v…
348.Aggaḷaṃ acchupeyyanti chiddaṭṭhāne pilotikakhaṇḍaṃ laggāpeyyaṃ. Ahatakappānanti ekavāraṃ dhotānaṃ. Utuddhaṭānanti ututo dīghakālato uddhaṭānaṃ hatavatthakānaṃ, pilotikānanti vuttaṃ hoti. Pāpaṇiketi antarāpaṇato patitapilotikacīvare. Ussāho karaṇīyoti pariyesanā kātabbā. Paricchedo panettha natthi, paṭṭasatampi vaṭṭati. Sabbamidaṃ sādiyantassa bhikkhuno vasena vuttaṃ. Aggaḷaṃ tunnanti ettha uddharitvā allīyāpanakhaṇḍaṃ aggaḷaṃ, suttena saṃsibbitaṃ tunnaṃ; vaṭṭetvā karaṇaṃ ovaṭṭikaṃ. Kaṇḍusakaṃ vuccati muddikā. Daḷhīkammanti anuddharitvāva upassayaṃ katvā allīyāpanakaṃ vatthakhaṇḍaṃ.
348. Nên đắp miếng vá chốt nghĩa là nên đính một miếng vải vụn vào chỗ rách. (Vải) mới tinh nghĩa là (vải) đã được giặt một lần. (Vải) đã cũ kỹ nghĩa là những tấm vải đã bị hư hỏng do thời tiết, do thời gian dài; được nói là những miếng vải vụn. (Vải) ở chợ nghĩa là y làm từ vải vụn rơi rớt từ trong chợ. Nên cố gắng nghĩa là nên tìm kiếm. Ở đây không có giới hạn, dù một trăm tấm lụa cũng được phép. Tất cả điều này được nói theo trường hợp Tỳ khưu chấp nhận (y dư). Về miếng vá chốt, đường may, ở đây, miếng vá đắp lên được gọi là aggaḷa (vá chốt), việc may lại bằng chỉ là tunna (đường may); việc cuốn lại để may là ovaṭṭika (may cuốn). Kaṇḍusaka được gọi là đường may nổi (như đốt tre). Việc làm cho chắc chắn là miếng vải vá được đắp lên làm chỗ dựa mà không cần may nổi.
349-351. Visākhāvatthu uttānatthaṃ. Tato paraṃ pubbe vinicchitameva. Sovaggikanti saggappattahetukaṃ. Tenevāha ‘‘sovaggika’’nti . Sokaṃ apanetīti sokanudaṃ. Anāmayāti arogā. Saggamhi kāyamhīti saggopapannā.
349-351. Câu chuyện về Visākhā có ý nghĩa rõ ràng. Phần sau đó đã được phân định trước đây. Thuộc về cõi trời nghĩa là nguyên nhân đạt đến cõi trời. Chính vì thế Ngài nói ‘thuộc về cõi trời’. Vì trừ được sầu muộn nên gọi là trừ sầu muộn. Không bệnh nghĩa là không có bệnh. Trong thân ở cõi trời nghĩa là đã tái sinh ở cõi trời.
353.Puthujjanā kāmesu vītarāgāti jhānalābhino.
353.Những phàm nhân đã ly tham trong các dục nghĩa là những người đắc thiền.
356.Sandiṭṭhoti diṭṭhamattakamitto. Sambhattoti ekasambhogo daḷhamitto. Ālapitoti ‘‘mama santakaṃ yaṃ iccheyyāsi, taṃ gaṇhāhī’’ti evaṃ vutto. Etesu tīsu aññataranāmena saddhiṃ jīvati, gahite attamano hotīti imehi gahitavissāso ruhati.
356. Người quen biết nghĩa là người bạn chỉ mới gặp mặt. Người thân thiết nghĩa là người cùng hưởng thụ chung, bạn thân thiết. Người được ngỏ lời nghĩa là người được nói như vầy: “Vật sở hữu của tôi, thầy muốn gì thì cứ lấy.” Sự tin tưởng được gây dựng bởi những người này làm cho (việc gởi y) được thành tựu: (vị Tỳ khưu) sống cùng với một người thuộc một trong ba hạng này, và hài lòng khi (y) được lấy (sử dụng).
Pacchimavikappanupagacīvarādikathā
Câu chuyện về y không thuộc loại tác pháp cuối cùng, v.v…
359.Paṃsukūlakatoti katapaṃsukūlo. Garuko hotīti jiṇṇajiṇṇaṭṭhāne aggaḷāropanena garuko hoti. Suttalūkhaṃ kātunti sutteneva aggaḷaṃ kātunti attho. Vikaṇṇo hotīti suttaṃ acchetvā acchetvā sibbantānaṃ eko saṅghāṭikoṇo dīgho hoti. Vikaṇṇaṃ uddharitunti dīghakoṇaṃ chindituṃ. Okiriyantīti chinnakoṇato gaḷanti. Anuvātaṃ paribhaṇḍanti anuvātañceva paribhaṇḍañca. Pattā lujjantīti mahantesu pattamukhesu dinnāni suttāni gaḷanti, tato pattā lujjanti. Aṭṭhapadakaṃ kātunti aṭṭhapadakacchannena pattamukhaṃ sibbituṃ.
359. Đã làm thành y phấn tảo nghĩa là y phấn tảo đã được làm xong. Trở nên nặng nghĩa là trở nên nặng do việc đắp vá vào những chỗ rất cũ. Vá bằng chỉ một cách thô sơ nghĩa là vá miếng vá chỉ bằng chỉ. Bị lệch góc nghĩa là khi may mà cứ cắt chỉ liên tục, một góc của y tăng-già-lê trở nên dài ra. Để cắt bỏ phần lệch góc nghĩa là để cắt bỏ góc dài. Bị rơi rớt ra nghĩa là (chỉ) bị tuột ra từ góc đã cắt. Miếng vá và đồ dùng thêm nghĩa là miếng vá và đồ dùng thêm. Các miếng vải bị hư nghĩa là các sợi chỉ được may ở những miệng nối lớn bị tuột ra, do đó các miếng vải bị hư. Làm thành hình bàn cờ nghĩa là may miệng nối bằng kiểu (đường may) hình bàn cờ.
360.Anvādhikampi āropetunti āgantukapattampi dātuṃ. Idaṃ pana appahonake āropetabbaṃ. Sace pahoti, āgantukapattaṃ na vaṭṭati, chinditabbameva.
360. Đắp thêm cả miếng vá phụ nghĩa là đắp thêm cả miếng vải thêm vào. Nhưng miếng này chỉ nên đắp vào chỗ không đủ (vải). Nếu đủ (vải) thì không được phép dùng miếng vải thêm vào, phải cắt bỏ đi.
361.Na ca bhikkhave saddhādeyyanti ettha sesañātīnaṃ dento vinipātetiyeva. Mātāpitaro pana sace rajje ṭhitā patthayanti, dātabbaṃ.
361. Về câu ‘Và này các Tỳ khưu, không được (làm mất) tín thí’, ở đây, người đưa (tín thí) cho những người thân khác chắc chắn làm tổn hại (tín thí). Nhưng nếu cha mẹ (đang cần và) mong muốn, thì nên đưa.
362.Gilānoti gilānatāya gahetvā gantuṃ asamattho. Vassikasaṅketanti vassike cattāro māse. Nadīpāranti nadiyā pāre bhattaṃ bhuñjitabbaṃ hoti. Aggaḷaguttivihāroti sabbesveva cetesu gilānavassikasaṅketanadīpāragamanaatthatakathinabhāvesu aggaḷaguttiyeva pamāṇaṃ. Gutte eva hi vihāre etesu kāraṇesu nikkhipitvā bahi gantuṃ vaṭṭati, na agutte. Āraññakassa pana vihāro na sugutto hoti, tena bhaṇḍukkhalikāya pakkhipitvā pāsāṇasusira rukkhasusirādīsu suppaṭicchannesu ṭhapetvā gantabbaṃ.
362. Người bệnh nghĩa là người không thể mang (y) đi được do bệnh tật. Thời hạn mùa mưa nghĩa là bốn tháng mùa mưa. Bờ sông bên kia nghĩa là phải dùng bữa ở bờ sông bên kia. Tu viện được cài chốt chắc chắn nghĩa là trong tất cả các trường hợp này: bệnh tật, thời hạn mùa mưa, đi bờ sông bên kia, không có kaṭhina, thì sự cài chốt chắc chắn là tiêu chuẩn. Chỉ trong tu viện được che chắn chắc chắn thì mới được phép gởi (y) lại trong những trường hợp này rồi đi ra ngoài, không (được phép làm vậy) ở nơi không được che chắn. Nhưng tu viện của vị ở rừng thì không được che chắn kỹ, do đó vị ấy nên bỏ (y) vào túi vải rồi cất vào những nơi được che kín kỹ như hốc đá, hốc cây v.v… rồi mới đi.
Saṅghikacīvaruppādakathā
Câu chuyện về sự phát sinh y của Tăng chúng
363.Tuyheva bhikkhu tāni cīvarānīti aññattha gahetvā haṭānipi tuyheva; na tesaṃ añño koci issaroti. Evañca pana vatvā anāgatepi nikkukkuccā gaṇhissantīti dassetuṃ idha panātiādimāha. Tasseva tāni cīvarāni yāva kathinassa ubbhārāti sace gaṇapūrake bhikkhū labhitvā kathinaṃ atthataṃ hoti, pañcamāse; no ce atthataṃ hoti, ekaṃ cīvaramāsameva. Yaṃ ‘‘saṅghassa demā’’ti vā denti, ‘‘saṅghaṃ uddissa demā’’ti vā denti, ‘‘vassaṃvutthasaṅghassa demā’’ti vā denti, ‘‘vassāvāsikaṃ demā’’ti vā denti, sacepi matakacīvaraṃ avibhajitvā taṃ vihāraṃ pavisanti, taṃ sabbaṃ tasseva bhikkhuno hoti. Yampi so vassāvāsatthāya vaḍḍhiṃ payojetvā ṭhapitaupanikkhepato vā tatruppādato vā vassāvāsikaṃ gaṇhāti, sabbaṃ suggahitameva hoti. Idamettha lakkhaṇaṃ, yena tenākārena saṅghassa uppannaṃ vatthaṃ atthatakathinassa pañcamāse, anatthatakathinassa ekaṃ cīvaramāsaṃ pāpuṇātīti. Yaṃ pana ‘‘idaṃ idha vassaṃvutthasaṅghassa demā’’ti vā ‘‘vassāvāsikaṃ demā’’ti vā vatvā dinnaṃ, taṃ anatthatakathinassāpi pañcamāse pāpuṇāti. Tato paraṃ pana uppannaṃ vassāvāsikaṃ pucchitabbaṃ – ‘‘kiṃ atītavasse idaṃ vassāvāsikaṃ, udāhu anāgatavasse’’ti! Kasmā? Piṭṭhisamaye uppannattā.
363. ‘Này Tỳ khưu, những y phục đó là của thầy’ nghĩa là dù được nhận ở nơi khác rồi mang đi, chúng vẫn là của thầy; không ai khác là chủ sở hữu của chúng. Nhưng sau khi nói như vậy, để chỉ ra rằng trong tương lai họ cũng sẽ nhận mà không áy náy, Ngài đã nói: ‘Nhưng ở đây…’ v.v… ‘Những y phục đó là của vị ấy cho đến khi kaṭhina được dỡ bỏ’ nghĩa là: nếu tìm được các Tỳ khưu đủ túc số và kaṭhina đã được thọ, thì (được giữ trong) năm tháng; nếu kaṭhina không được thọ, thì chỉ trong một tháng y. Những gì họ cúng dường (nói rằng): “Chúng tôi dâng cho Tăng chúng”, hoặc “Chúng tôi dâng hướng đến Tăng chúng”, hoặc “Chúng tôi dâng cho Tăng chúng đã an cư mùa mưa”, hoặc “Chúng tôi dâng vật an cư mùa mưa”; và cả nếu họ vào tu viện đó mà chưa chia y của người đã chết, tất cả những thứ đó đều thuộc về Tỳ khưu ấy. Cả vật an cư mùa mưa mà vị ấy nhận được từ tiền lãi đã đầu tư cho mùa an cư, hoặc từ vật ký gửi đã đặt, hoặc từ (vật phẩm) phát sinh tại nơi đó, tất cả đều được nhận hợp lệ. Đây là đặc điểm ở đây: vải phát sinh cho Tăng chúng dưới bất kỳ hình thức nào thì thuộc về (vị Tỳ khưu) trong năm tháng nếu đã thọ kaṭhina, và trong một tháng y nếu chưa thọ kaṭhina. Nhưng những gì được cúng dường sau khi nói rằng: “Chúng tôi dâng cái này cho Tăng chúng đã an cư mùa mưa ở đây”, hoặc “Chúng tôi dâng vật an cư mùa mưa”, thì vật đó thuộc về (vị Tỳ khưu) trong năm tháng ngay cả khi chưa thọ kaṭhina. Nhưng sau đó, vật an cư mùa mưa phát sinh thì cần phải hỏi: “Vật an cư mùa mưa này là cho mùa mưa đã qua, hay cho mùa mưa sắp tới?” Tại sao? Vì nó phát sinh vào lúc đói kém (hoặc lúc vắng mặt).
Utukālanti vassānato aññaṃ kālaṃ. Tāni cīvarāni ādāya sāvatthiṃ gantvāti ettha tāni cīvarāni gatagataṭṭhāne saṅghikāneva honti, bhikkhūhi diṭṭhamattamevettha pamāṇaṃ. Tasmā sace keci paṭipathaṃ āgacchantā ‘‘kuhiṃ āvuso gacchasī’’ti pucchitvā tamatthaṃ sutvā ‘‘kiṃ āvuso mayaṃ saṅgho na homā’’ti tattheva bhājetvā gaṇhanti, suggahitāni. Sacepi esa maggā okkamitvā kañci vihāraṃ vā āsanasālaṃ vā piṇḍāya caranto ekaṃ gehameva vā pavisati, tatra ca naṃ bhikkhū disvā tamatthaṃ pucchitvā bhājetvā gaṇhanti, suggahitāneva.
Thời tiết khác nghĩa là thời gian khác ngoài mùa mưa. Về câu ‘Mang những y phục đó đi Sāvatthī’, ở đây, những y phục đó, dù đi đến nơi nào, vẫn là của Tăng chúng; việc các Tỳ khưu nhìn thấy chỉ là tiêu chuẩn ở đây. Do đó, nếu có một số vị (Tỳ khưu) đi ngược chiều đến, hỏi rằng: “Thưa hiền giả, thầy đi đâu?”, nghe biết sự việc đó, (nói rằng): “Sao, thưa hiền giả, chúng tôi không phải là Tăng chúng ư?”, rồi chia nhau và nhận lấy ngay tại đó, thì (y phục đó) được nhận hợp lệ. Cả nếu vị này đi lệch khỏi đường, vào một tu viện nào đó, hoặc nhà nghỉ chân, hoặc khi đang đi khất thực mà vào một nhà nào đó, và ở đó các Tỳ khưu thấy vị ấy, hỏi biết sự việc đó, rồi chia nhau và nhận lấy, thì (y phục đó) cũng được nhận hợp lệ.
Adhiṭṭhātunti ettha adhiṭṭhahantena vattaṃ jānitabbaṃ . Tena hi bhikkhunā ghaṇṭiṃ paharitvā kālaṃ ghosetvā thokaṃ āgametvā sace ghaṇṭisaññāya vā kālasaññāya vā bhikkhū āgacchanti, tehi saddhiṃ bhājetabbāni. No ce āgacchanti, ‘‘mayhimāni cīvarāni pāpuṇantī’’ti adhiṭṭhātabbāni. Evaṃ adhiṭṭhite sabbāni tasseva honti, ṭhitikā pana na tiṭṭhati.
Về câu ‘Hãy quyết định’, ở đây người quyết định cần phải biết phận sự. Vị Tỳ khưu ấy nên đánh chuông, thông báo thời gian, chờ đợi một chút; nếu các Tỳ khưu đến do tín hiệu chuông hoặc tín hiệu thời gian, thì nên chia (y) cùng với họ. Nếu họ không đến, thì nên quyết định rằng: “Những y phục này thuộc về tôi.” Khi đã quyết định như vậy, tất cả (y phục) đều thuộc về vị ấy, nhưng thời hạn thì không còn hiệu lực.
Sace ekekaṃ uddharitvā ‘‘ayaṃ paṭhamabhāgo mayhaṃ pāpuṇāti, ayaṃ dutiyabhāgo’’ti evaṃ gaṇhāti, gahitāni ca suggahitāni honti, ṭhitikā ca tiṭṭhati. Evaṃ pāpetvā gaṇhantenāpi adhiṭṭhitameva hoti. Sace pana ghaṇṭiṃ paharitvā vā appaharitvā vā kālampi ghosetvā vā aghosetvā vā ‘‘ahamevettha mayhameva imāni cīvarānī’’ti gaṇhāti, duggahitāni honti. Atha ‘‘añño koci idha natthi, mayhaṃ etāni pāpuṇantī’’ti gaṇhāti, suggahitāni.
Nếu (vị ấy) nhấc lên từng cái một (và nói): “Phần đầu tiên này thuộc về tôi, phần thứ hai này (thuộc về tôi)” và nhận lấy như vậy, thì những (y phục) đã nhận đó được nhận hợp lệ, và thời hạn vẫn còn hiệu lực. Ngay cả người nhận bằng cách làm cho chúng thuộc về mình như vậy cũng được xem là đã quyết định. Nhưng nếu (vị ấy) dù đánh chuông hay không đánh chuông, dù thông báo thời gian hay không thông báo, mà nhận lấy (với ý nghĩ): “Chỉ có ta ở đây, những y phục này là của ta”, thì (chúng) bị nhận không hợp lệ. Còn nếu (vị ấy) nhận lấy (với ý nghĩ): “Không có ai khác ở đây, những thứ này thuộc về tôi”, thì (chúng) được nhận hợp lệ.
Pātite kuseti ekakoṭṭhāse kusadaṇḍake pātitamatte sacepi bhikkhusahassaṃ hoti, gahitameva nāma cīvaraṃ. Nākāmā bhāgo dātabbo. Sace pana attano ruciyā dātukāmā honti, dentu. Anubhāgepi eseva nayo.
Khi thẻ kusa đã được bắt nghĩa là ngay khi thẻ kusa đã được bắt cho một phần, dù có cả ngàn Tỳ khưu, y phục đó cũng được xem là đã được nhận. Không cần phải chia phần nếu không muốn. Nhưng nếu họ muốn đưa theo ý thích của mình, thì hãy đưa. Đối với phần chia thêm, quy tắc cũng tương tự.
Sacīvarānīti ‘‘kālacīvarampi saṅghassa itova dassāma, visuṃ sajjiyamāne aticiraṃ hotī’’ti khippaṃyeva sacīvarāni bhattāni akaṃsu. There āgamma uppannānīti tumhesu pasādena khippaṃ uppannāni.
Cùng với y phục nghĩa là (họ nghĩ): “Chúng tôi sẽ dâng cả y đúng thời cho Tăng chúng từ đây, nếu chuẩn bị riêng thì sẽ rất lâu”, nên họ đã nhanh chóng làm các phần vật thực cùng với y phục. Phát sinh nhờ các Trưởng lão nghĩa là phát sinh nhanh chóng nhờ niềm tin nơi các ngài.
Saṅghassa demāti cīvarāni dentīti sakalampi cīvarakālaṃ saṇikaṃ saṇikaṃ dentiyeva. Purimesu pana dvīsu vatthūsu pacchinnadānattā adaṃsūti vuttaṃ. Sambahulā therāti vinayadharapāmokkhatherā. Idaṃ pana vatthuṃ saddhiṃ purimena dvebhātikavatthunā parinibbute bhagavati uppannaṃ, ime ca therā diṭṭhapubbā tathāgataṃ, tasmā purimesu vatthūsu tathāgatena paññattanayeneva kathesuṃ.
Họ dâng y phục (nói rằng): Chúng tôi dâng cho Tăng chúng nghĩa là họ cứ dâng từ từ trong suốt cả thời gian nhận y. Nhưng trong hai câu chuyện trước, có nói là ‘họ đã không dâng’ vì việc cúng dường đã bị cắt đứt. Nhiều vị Trưởng lão nghĩa là các vị Trưởng lão tinh thông Luật tạng làm người dẫn đầu. Câu chuyện này cùng với câu chuyện về hai anh em trước đó đã phát sinh sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, và các vị Trưởng lão này đã từng diện kiến Đức Như Lai, do đó họ đã nói theo phương pháp Đức Như Lai đã quy định trong các câu chuyện trước.
Upanandasakyaputtavatthukathā
Câu chuyện về Upananda, con trai dòng họ Sakya
364.Gāmakāvāsaṃagamāsīti appeva nāma cīvarāni bhājentā mayhampi saṅgahaṃ kareyyunti cīvarabhājanakālaṃ sallakkhetvāva agamāsi. Sādiyissasīti gaṇhissasi. Ettha ca kiñcāpi tassa bhāgo na pāpuṇāti. Atha kho ‘‘nagaravāsiko ayaṃ mukharo dhammakathiko’’ti te bhikkhū ‘‘sādiyissasī’’ti āhaṃsu. Yo sādiyeyya āpatti dukkaṭassāti ettha pana kiñcāpi lahukā āpatti, atha kho gahitāni gahitaṭṭhāne dātabbāni. Sacepi naṭṭhāni vā jiṇṇāni vā honti, tasseva gīvā. Dehīti vutte adento dhuranikkhepe bhaṇḍagghena kāretabbo.
364. Đã đến trú xứ ở làng nghĩa là đã đến sau khi xem xét đúng vào thời điểm chia y, (với ý nghĩ): “Biết đâu khi họ chia y, họ cũng sẽ giúp đỡ cả mình.” Thầy sẽ chấp nhận chứ? nghĩa là thầy sẽ nhận lấy chứ? Và ở đây, mặc dù phần (y) không thuộc về vị ấy, nhưng vì (nghĩ rằng): “Vị này là người ở thành thị, nói nhiều, là một pháp sư”, nên các Tỳ khưu đó đã nói: “Thầy sẽ chấp nhận chứ?” Về câu ‘Người nào chấp nhận thì phạm tội Tác ác’, ở đây, mặc dù là tội nhẹ, nhưng những gì đã nhận phải được trả lại tại nơi đã nhận. Cả nếu chúng bị mất hoặc bị cũ rách, thì đó là trách nhiệm của vị ấy. Khi được bảo: “Hãy trả lại”, nếu không trả, thì phải bị bắt đền bù giá trị của vật phẩm khi từ bỏ trách nhiệm.
Ekādhippāyanti ekaṃ adhippāyaṃ; ekaṃ puggalapaṭivīsameva dethāti attho. Idāni yathā so dātabbo, taṃ dassetuṃ tantiṃ ṭhapento idha panātiādimāha. Tattha sace amutra upaḍḍhaṃ amutra upaḍḍhanti ekekasmiṃ ekāhamekāhaṃ vā sattāhaṃ sattāhaṃ vā sace vasati, ekekasmiṃ vihāre yaṃ eko puggalo labhati, tato tato upaḍḍhaṃ upaḍḍhaṃ dātabbaṃ. Evaṃ ekādhippāyo dinno hoti. Yattha vā pana bahutaranti sace ekasmiṃ vihāre vasanto itarasmiṃ sattāhavārena aruṇameva uṭṭhāpeti, evaṃ purimasmiṃ bahutaraṃ vasati nāma. Tasmā tato bahutaraṃ vasitavihārato tassa paṭivīso dātabbo. Evampi ekādhippāyo dinno hoti. Idañca nānālābhehi nānūpacārehi ekasīmavihārehi kathitaṃ, nānāsīmavihāre pana senāsanaggāho paṭippassambhati. Tasmā tattha cīvarapaṭivīso na pāpuṇāti. Sesaṃ pana āmisabhesajjādi sabbaṃ sabbattha antosīmagatassa pāpuṇāti.
Một phần ý muốn nghĩa là một ý muốn; nghĩa là hãy chỉ đưa một phần cá nhân. Bây giờ, để chỉ ra cách thức phần đó nên được đưa, Ngài đặt ra nguyên tắc và nói: ‘Nhưng ở đây…’ v.v… Về câu ‘Nếu một nửa ở nơi kia, một nửa ở nơi này’, nếu (vị ấy) ở mỗi nơi một ngày hoặc mỗi nơi một tuần, thì từ mỗi tu viện, nên đưa một nửa phần mà một cá nhân nhận được ở đó. Như vậy là một phần ý muốn đã được đưa. ‘Hoặc là ở nơi nào nhiều hơn’ nghĩa là: nếu trong khi ở một tu viện, vị ấy chỉ đón bình minh ở tu viện kia trong một tuần lễ, thì như vậy được gọi là ở tu viện trước nhiều hơn. Do đó, phần của vị ấy nên được đưa từ tu viện đã ở nhiều hơn đó. Như vậy cũng là một phần ý muốn đã được đưa. Điều này được nói đối với các tu viện trong cùng một giới hạn, có lợi lộc khác nhau, phạm vi gần khác nhau. Nhưng đối với các tu viện có giới hạn khác nhau, việc nhận chỗ ở bị gián đoạn. Do đó, phần y không thuộc về (vị ấy) ở đó. Nhưng các thứ khác như vật thực, thuốc men v.v… thì tất cả đều thuộc về người đã đi vào trong giới hạn ở khắp mọi nơi.
Gilānavatthukathā
Câu chuyện về người bệnh
365.Mañcake nipātesunti evaṃ dhovitvā aññaṃ kāsāvaṃ nivāsetvā mañcake nipajjāpesuṃ; nipajjāpetvā ca panāyasmā ānando muttakarīsakiliṭṭhaṃ kāsāvaṃ dhovitvā bhūmiyaṃ paribhaṇḍaṃ akāsi. Yo bhikkhave maṃ upaṭṭhaheyya, so gilānaṃ upaṭṭhaheyyāti yo maṃ ovādānusāsanīkaraṇena upaṭṭhaheyya, so gilānaṃ upaṭṭhaheyya; mama ovādakārakena gilāno upaṭṭhātabboti ayamevettha attho. Bhagavato ca gilānassa ca upaṭṭhānaṃ ekasadisanti evaṃ panettha attho na gahetabbo. Saṅghena upaṭṭhātabboti yassete upajjhādayo tasmiṃ vihāre natthi, āgantuko hoti ekacāriko bhikkhu, so saṅghassa bhāro, tasmā saṅghena upaṭṭhātabbo. No ce upaṭṭhaheyya, sakalassa saṅghassa āpatti. Vāraṃ ṭhapetvā jaggantesu pana yo attano vāre na jaggati, tasseva āpatti. Saṅghattheropi vārako na muccati. Sace sakalo saṅgho ekassa bhāraṃ karoti, eko vā vattasampanno bhikkhu ahameva jaggissāmīti paṭijaggati, saṅgho āpattito muccati.
365. Đã đặt nằm trên giường nghĩa là sau khi tắm rửa như vậy, mặc cho một chiếc y cà-sa khác rồi đặt nằm trên giường; và sau khi đặt nằm xuống, Tôn giả Ānanda đã giặt chiếc y cà-sa dính đầy nước tiểu và phân, rồi làm đồ dùng phụ trên mặt đất. ‘Này các Tỳ khưu, người nào muốn chăm sóc Như Lai, hãy chăm sóc người bệnh’ nghĩa là: người nào chăm sóc Như Lai bằng cách thực hành theo lời giáo huấn khuyên dạy, thì người ấy hãy chăm sóc người bệnh; người thực hành lời dạy của Như Lai thì nên chăm sóc người bệnh, đây chính là ý nghĩa ở đây. Không nên hiểu ý nghĩa ở đây là việc chăm sóc Đức Thế Tôn và chăm sóc người bệnh là hoàn toàn giống nhau. Nên được Tăng chúng chăm sóc nghĩa là: người nào mà không có thầy tế độ v.v… ở trong tu viện đó, là khách Tăng, là Tỳ khưu độc cư, thì người đó là gánh nặng của Tăng chúng, do đó nên được Tăng chúng chăm sóc. Nếu không chăm sóc, toàn thể Tăng chúng đều phạm tội. Nhưng trong số những người thay phiên nhau chăm sóc, người nào không chăm sóc trong phiên của mình, thì chỉ người đó phạm tội. Cả vị Trưởng lão Tăng chúng cũng không được miễn phiên trực. Nếu toàn thể Tăng chúng giao trách nhiệm cho một người, hoặc một Tỳ khưu có hạnh kiểm tốt tự nguyện rằng: “Chỉ mình tôi sẽ chăm sóc”, thì Tăng chúng được thoát khỏi tội.
366.Abhikkamantaṃ vā abhikkamatītiādīsu vaḍḍhantaṃ vā ābādhaṃ ‘‘idaṃ nāma me paribhuñjantassa vaḍḍhati, idaṃ paribhuñjantassa parihāyati, idaṃ paribhuñjantassa tiṭṭhatī’’ti yathābhūtaṃ nāvikarotīti evamattho daṭṭhabbo. Nālanti na patirūpo, na yutto upaṭṭhātuṃ. Bhesajjaṃ saṃvidhātunti bhesajjaṃ yojetuṃ asamattho hoti. Āmisantaroti āmisaṃ assa antaranti āmisantaro. Antaranti kāraṇaṃ vuccati; āmisakāraṇā yāgubhattapattacīvarāni patthento upaṭṭhātīti attho.
366. Về câu ‘Hoặc khi (bệnh) đang tăng tiến, lại làm cho tăng tiến’ v.v…, nên hiểu ý nghĩa như vầy: không cho biết đúng sự thật về căn bệnh đang tăng nặng rằng: “Khi tôi dùng thứ này thì bệnh tăng, khi dùng thứ này thì bệnh giảm, khi dùng thứ này thì bệnh dừng lại.” Không có khả năng nghĩa là không thích hợp, không xứng đáng để chăm sóc. Để chuẩn bị thuốc nghĩa là không có khả năng phối thuốc. Người có lợi dưỡng bên trong nghĩa là người có lợi dưỡng là động cơ bên trong. Antara (bên trong/động cơ) được gọi là lý do; nghĩa là chăm sóc vì lý do lợi dưỡng, mong muốn cháo, cơm, bát, y.
Matasantakakathā
Câu chuyện về tài sản của người đã chết
367.Kālaṅkateti kālakiriyāya. Gilānupaṭṭhākānaṃ dātunti ettha anantaraṃ vuttāya kammavācāya dinnampi apaloketvā dinnampi dinnameva hoti, vaṭṭati.
367. Khi đã mệnh chung nghĩa là do sự mệnh chung. Về câu ‘Hãy đưa cho những người chăm sóc bệnh’, ở đây, dù được đưa bằng nghi thức Yết-ma được nói ngay sau đó, hay được đưa bằng cách biểu quyết thông qua, thì cũng đều là đã đưa hợp lệ, được phép.
369.Yaṃ tattha lahubhaṇḍaṃ yaṃ tattha garubhaṇḍanti ettha lahubhaṇḍagarubhaṇḍānaṃ nānākaraṇaṃ parato vaṇṇayissāma. Gilānupaṭṭhākalābhe pana ayaṃ ādito paṭṭhāya vinicchayo –
369. Về câu ‘Vật dụng nhẹ nào ở đó, vật dụng nặng nào ở đó’, ở đây, sự phân biệt giữa vật dụng nhẹ và vật dụng nặng chúng tôi sẽ giải thích sau. Nhưng về phần lợi lộc của người chăm sóc bệnh, đây là sự phân định từ đầu –
Sace sakale bhikkhusaṅghe upaṭṭhahante kālaṃ karoti, sabbepi sāmikā. Atha ekaccehi vāre kate ekaccehi akateyeva kālaṃ karoti, tattha ekacce ācariyā vadanti – ‘‘sabbepi attano vāre sampatte kareyyuṃ, tasmā sabbepi sāmino’’ti. Ekacce vadanti – ‘‘yehi jaggito te eva labhanti, itare na labhantī’’ti. Sāmaṇere kālaṅkate sace cīvaraṃ atthi, gilānupaṭṭhākānaṃ dātabbaṃ. No ce atthi yaṃ atthi, taṃ dātabbaṃ. Aññasmiṃ parikkhāre sati cīvarabhāgaṃ katvā dātabbaṃ.
Nếu (người bệnh) mệnh chung trong khi toàn thể Tăng chúng đang chăm sóc, thì tất cả (những người chăm sóc) đều là chủ sở hữu (tài sản). Còn nếu (người bệnh) mệnh chung khi một số vị đã làm xong phiên của mình, một số vị chưa làm xong, thì ở đây một số vị thầy nói: “Tất cả đều sẽ làm khi đến phiên của mình, do đó tất cả đều là chủ sở hữu.” Một số vị nói: “Những ai đã chăm sóc thì mới nhận được, những người khác không nhận được.” Khi Sa-di mệnh chung, nếu có y phục, thì nên đưa cho những người chăm sóc bệnh. Nếu không có (y phục), thì có gì thì đưa cái đó. Nếu có vật dụng khác, thì nên định ra phần y (tương đương) rồi đưa.
Bhikkhu ca sāmaṇero ca sace samaṃ upaṭṭhahiṃsu, samako bhāgo dātabbo. Atha sāmaṇerova upaṭṭhahati, bhikkhussa saṃvidahanamattameva hoti, sāmaṇerassa jeṭṭhakabhāgo dātabbo. Sace sāmaṇero bhikkhunā ānītaudakena yāguṃ pacitvā paṭiggāhāpanamattameva karoti, bhikkhu upaṭṭhahati, bhikkhussa jeṭṭhakabhāgo dātabbo.
Nếu Tỳ khưu và Sa-di cùng chăm sóc như nhau, thì nên đưa phần bằng nhau. Còn nếu chỉ có Sa-di chăm sóc, Tỳ khưu chỉ tham gia sắp xếp, thì nên đưa phần lớn hơn cho Sa-di. Nếu Sa-di chỉ nấu cháo bằng nước do Tỳ khưu mang đến và chỉ đưa cho nhận, còn Tỳ khưu (làm các việc) chăm sóc (khác), thì nên đưa phần lớn hơn cho Tỳ khưu.
Bahū bhikkhū samaggā hutvā upaṭṭhahanti, sabbesaṃ samako bhāgo dātabbo. Yo panettha visesena upaṭṭhahati, tassa viseso kātabbo. Yena pana ekadivasampi gilānupaṭṭhākavasena yāgubhattaṃ vā pacitvā dinnaṃ, nahānaṃ vā paṭiyāditaṃ, sopi gilānupaṭṭhākova. Yo samīpaṃ anāgantvā bhesajjataṇḍulādīni peseti, ayaṃ gilānupaṭṭhāko na hoti. Yo pariyesitvā gāhāpetvā āgacchati, ayaṃ gilānupaṭṭhākova.
Nhiều Tỳ khưu hòa hợp cùng nhau chăm sóc, nên đưa phần bằng nhau cho tất cả. Người nào trong số họ chăm sóc đặc biệt hơn, thì nên dành cho vị ấy phần đặc biệt. Nhưng người nào, dù chỉ một ngày, với tư cách là người chăm sóc bệnh, đã nấu cháo hoặc cơm rồi đưa, hoặc chuẩn bị nước tắm, thì vị ấy cũng là người chăm sóc bệnh. Người không đến gần mà (chỉ) gửi thuốc men, gạo v.v…, thì người này không phải là người chăm sóc bệnh. Người tìm kiếm, nhờ người khác mang đến rồi (tự mình) đến, thì người này chính là người chăm sóc bệnh.
Eko vattasīsena jaggati; eko paccāsāya, matakāle ubhopi paccāsīsanti, ubhinnampi dātabbaṃ. Eko upaṭṭhahitvā gilānassa vā kammena attano vā kammena katthaci gato ‘‘puna āgantvā jaggissāmī’’ti, etassapi dātabbaṃ. Eko ciraṃ upaṭṭhahitvā ‘‘idāni na sakkomī’’ti dhuraṃ nikkhipitvā gacchati, sacepi taṃdivasameva gilāno kālaṃkaroti, upaṭṭhākabhāgo na dātabbo.
Một người chăm sóc vì phận sự; một người (chăm sóc) vì hy vọng (nhận tài sản), lúc (người bệnh) chết cả hai đều hy vọng, nên đưa (phần tài sản) cho cả hai. Một người sau khi chăm sóc, đã đi đâu đó vì công việc của người bệnh hoặc vì công việc của mình (nghĩ rằng): “Ta sẽ quay lại chăm sóc sau”, thì cũng nên đưa (phần tài sản) cho người này. Một người sau khi chăm sóc một thời gian dài, (nói rằng): “Bây giờ tôi không thể (làm được nữa)” rồi từ bỏ trách nhiệm và ra đi, dù người bệnh mệnh chung ngay trong ngày đó, cũng không nên đưa phần của người chăm sóc (cho vị ấy).
Gilānupaṭṭhāko nāma gihi vā hotu pabbajito vā, antamaso mātugāmopi, sabbe bhāgaṃ labhanti. Sace tassa bhikkhuno pattacīvaramattameva hoti, aññaṃ natthi; sabbaṃ gilānupaṭṭhākānaṃyeva dātabbaṃ. Sacepi sahassaṃ agghati, aññaṃ pana bahumpi parikkhāraṃ te na labhanti; saṅghasseva hoti. Avasesaṃ bhaṇḍaṃ bahukañceva mahagghañca, ticīvaraṃ appagghaṃ; tato gahetvā ticīvaraparikkhāro dātabbo. Sabbañcetaṃ saṅghikatova labbhati.
Người chăm sóc bệnh, dù là gia chủ hay người xuất gia, thậm chí là phụ nữ, tất cả đều nhận được phần. Nếu Tỳ khưu đó chỉ có bát và y, không có gì khác; thì tất cả nên được đưa cho những người chăm sóc bệnh. Dù (bát y đó) trị giá một ngàn (kahāpaṇa), nhưng họ không nhận được các vật dụng khác dù rất nhiều; (những vật dụng khác đó) thuộc về Tăng chúng. Nếu tài sản còn lại vừa nhiều vừa quý giá, còn ba y (của người chết) thì ít giá trị; nên lấy từ (tài sản còn lại) đó để bù vào vật dụng ba y (cho người chăm sóc). Tất cả những thứ này đều được nhận từ tài sản của Tăng chúng.
Sace pana so jīvamānoyeva sabbaṃ attano parikkhāraṃ nissajjitvā kassaci adāsi, koci vā vissāsaṃ aggahesi, yassa dinnaṃ, yena ca gahitaṃ, tasseva hoti. Tassa ruciyā eva gilānupaṭṭhākā labhanti, aññesaṃ adatvā dūre ṭhapitaparikkhārāpi tattha tattha saṅghasseva honti. Dvinnaṃ santakaṃ hoti avibhattaṃ, ekasmiṃ kālaṅkate itaro sāmī . Bahūnampi santake eseva nayo. Sabbesu matesu saṅghikaṃ hoti. Sacepi avibhajitvā saddhivihārikādīnaṃ denti adinnameva hoti. Vibhajitvā dinnaṃ pana sudinnaṃ. Taṃ tesu matesupi saddhivihārikādīnaṃyeva hoti, na saṅghassa.
Nhưng nếu khi còn sống, vị ấy đã từ bỏ tất cả vật dụng của mình và cho ai đó, hoặc ai đó đã nhận lấy với sự tin tưởng, thì (vật dụng đó) thuộc về người được cho và người đã nhận. Những người chăm sóc bệnh chỉ nhận được (tài sản) theo ý muốn của vị ấy (người chết). Những vật dụng được cất giữ ở xa mà không đưa cho người khác cũng thuộc về Tăng chúng ở nơi đó. (Tài sản) là của chung hai người chưa phân chia, khi một người mệnh chung, người kia là chủ sở hữu. Đối với tài sản của nhiều người cũng theo quy tắc này. Khi tất cả đều chết, (tài sản) thuộc về Tăng chúng. Cả nếu họ đưa cho đệ tử cùng ở chung v.v… mà chưa phân chia, thì cũng coi như chưa đưa. Nhưng nếu đã phân chia rồi mới đưa, thì là đưa hợp lệ. Tài sản đó, dù họ (những người chủ sở hữu ban đầu) đã chết, vẫn thuộc về các đệ tử cùng ở chung v.v…, không thuộc về Tăng chúng.
Kusacīrādipaṭikkhepakathā
Câu chuyện về việc từ bỏ y bằng cỏ kusa, v.v…
371. Kusacīrādīsu akkanāḷanti akkanāḷamayaṃ. Potthakoti makacimayo vuccati. Sesāni paṭhamapārājikavaṇṇanāyaṃ vuttāni. Tesu potthake eva dukkaṭaṃ. Sesesu thullaccayānīti. Akkadussakadalidussaerakadussāni pana potthakagatikāneva.
371. Trong các loại y bằng cỏ kusa v.v…, akkanāḷa nghĩa là làm bằng thân cây akkanaḷa. Potthaka được gọi là làm bằng vỏ cây. Các loại còn lại đã được nói trong phần giải thích về tội Bất Cộng Trụ thứ nhất. Trong số đó, chỉ có (mặc y) potthaka là phạm tội Tác ác. Đối với các loại còn lại thì phạm tội Thâu-lan-giá. Nhưng các loại vải akka, vải kadali, vải eraka thì cũng giống như potthaka.
372. Sabbanīlakādīni rajanaṃ dhovitvā puna rajitvā dhāretabbāni. Na sakkā ce honti dhovituṃ, paccattharaṇāni vā kātabbāni. Dupaṭṭacīvarassa vā majjhe dātabbāni. Tesaṃ vaṇṇanānattaṃ upāhanāsu vuttanayameva. Acchinnadasadīghadasāni dasā chinditvā dhāretabbāni. Kañcukaṃ labhitvā phāletvā rajitvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Veṭhanepi eseva nayo. Tirīṭakaṃ pana rukkhachallimayaṃ; taṃ pādapuñchanaṃ kātuṃ vaṭṭati.
372. (Y phục) toàn màu xanh dương v.v… nên được giặt sạch thuốc nhuộm, nhuộm lại rồi mới mặc. Nếu không thể giặt sạch, thì nên làm thành khăn trải giường. Hoặc nên đặt vào giữa y hai lớp. Sự khác biệt về màu sắc của chúng cũng theo cách đã nói trong (phần về) giày dép. (Y) có tua không cắt và tua dài thì nên cắt bỏ tua rồi mặc. Nhận được áo dài tay, được phép xé ra, nhuộm rồi sử dụng. Đối với khăn quấn đầu cũng theo quy tắc này. Còn tirīṭaka thì làm bằng vỏ cây; được phép dùng nó làm đồ chùi chân.
374.Patirūpe gāhaketi sace koci bhikkhu ‘‘ahaṃ tassa gaṇhāmī’’ti gaṇhāti, dātabbanti attho. Evametesu tevīsatiyā puggalesu soḷasa janā na labhanti, satta janā labhantīti.
374. Người nhận thích hợp nghĩa là: nếu có Tỳ khưu nào nhận (thay cho người vắng mặt, nói rằng): “Tôi nhận cho vị ấy”, thì nên đưa. Như vậy, trong hai mươi ba hạng người này, mười sáu hạng người không nhận được, bảy hạng người nhận được.
Saṅghebhinnecīvaruppādakathā
Câu chuyện về sự phát sinh y khi Tăng chúng bị chia rẽ
376.Saṅgho bhijjatīti bhijjitvā kosambakabhikkhū viya dve koṭṭhāsā honti. Ekasmiṃ pakkheti ekasmiṃ koṭṭhāse dakkhiṇodakañca gandhādīni ca denti, ekasmiṃ cīvarāni. Saṅghassevetanti sakalassa saṅghassa dvinnampi koṭṭhāsānaṃ etaṃ hoti, ghaṇṭiṃ paharitvā dvīhipi pakkhehi ekato bhājetabbaṃ. Pakkhassevetanti evaṃ dinne yassa koṭṭhāsassa udakaṃ dinnaṃ, tassa udakameva hoti; yassa cīvaraṃ dinnaṃ, tasseva cīvaraṃ. Yattha pana dakkhiṇodakaṃ pamāṇaṃ hoti, tattha eko pakkho dakkhiṇodakassa laddhattā cīvarāni labhati, eko cīvarānameva laddhattāti ubhohipi ekato hutvā yathāvuḍḍhaṃ bhājetabbaṃ. Idaṃ kira parasamudde lakkhaṇanti mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Tasmiṃyeva pakkheti ettha pana itaro pakkho anissaroyeva. Cīvarapesanavatthūni pākaṭāneva.
376. Tăng chúng bị chia rẽ nghĩa là bị chia rẽ thành hai phe giống như các Tỳ khưu ở Kosambī. Trong một phe nghĩa là: họ dâng nước hồi hướng, hương liệu v.v… cho một phe, và dâng y phục cho phe kia. Vật này là của Tăng chúng nghĩa là vật này thuộc về toàn thể Tăng chúng của cả hai phe, nên đánh chuông rồi cả hai phe cùng nhau chia. Vật này là của phe (đó) nghĩa là: khi được dâng như vậy, phe nào được dâng nước thì chỉ có nước thuộc về phe đó; phe nào được dâng y phục thì chỉ có y phục thuộc về phe đó. Nhưng ở nơi nào mà nước hồi hướng là tiêu chuẩn, thì ở đó một phe nhận được y phục vì đã nhận nước hồi hướng, còn phe kia (cũng nhận được y phục) vì đã nhận chính y phục; (do đó,) cả hai phe nên tập hợp lại rồi chia theo hạ lạp. Nghe nói rằng đây là đặc điểm ở nước ngoài, theo như nói trong Đại Chú giải. Về câu Trong chính phe đó, ở đây, phe kia không có quyền sở hữu. Các câu chuyện về việc gửi y thì rõ ràng rồi.
Aṭṭhacīvaramātikākathā
Câu chuyện về tám đề mục y
379. Idāni ādito paṭṭhāya vuttacīvarānaṃ paṭilābhakhettaṃ dassetuṃ ‘‘aṭṭhimā bhikkhave mātikā’’tiādimāha. Sīmāya detītiādi puggalādhiṭṭhānanayena vuttaṃ. Ettha pana sīmāya dānaṃ ekā mātikā, katikāya dānaṃ dutiyā…pe… puggalassa dānaṃ aṭṭhamā. Tattha sīmāya dammīti evaṃ sīmaṃ parāmasitvā dento sīmāya deti nāma. Esa nayo sabbattha.
379. Bây giờ, để chỉ ra phạm vi nhận được các loại y đã nói từ đầu, Ngài nói: ‘Này các Tỳ khưu, có tám đề mục này’ v.v… Câu ‘Dâng trong giới hạn’ v.v… được nói theo cách nhắm đến cá nhân. Ở đây, việc dâng trong giới hạn là đề mục thứ nhất, việc dâng theo thỏa thuận là thứ hai… (như trên)… việc dâng cho cá nhân là thứ tám. Trong đó, người dâng sau khi đề cập đến giới hạn rằng: “Tôi dâng trong giới hạn”, thì được gọi là ‘dâng trong giới hạn’. Quy tắc này cũng áp dụng cho tất cả (các trường hợp còn lại).
Sīmāya deti, yāvatikā bhikkhū antosīmagatā tehi bhājetabbantiādimhi pana mātikāniddese sīmāya detīti ettha tāva khaṇḍasīmā, upacārasīmā, samānasaṃvāsasīmā, avippavāsasīmā, lābhasīmā, gāmasīmā, nigamasīmā, nagarasīmā, abbhantarasīmā, udakukkhepasīmā, janapadasīmā, raṭṭhasīmā, rajjasīmā, dīpasīmā, cakkavāḷasīmāti pannarasa sīmā veditabbā.
Nhưng trong phần giải thích các đề mục bắt đầu bằng câu ‘Dâng trong giới hạn, cần phải chia cho tất cả Tỳ khưu nào đã đi vào trong giới hạn’, về câu ‘dâng trong giới hạn’, ở đây trước tiên cần biết có mười lăm loại giới hạn: giới hạn riêng, giới hạn gần, giới hạn cùng sống chung, giới hạn không biệt trú, giới hạn lợi lộc, giới hạn làng, giới hạn thị trấn, giới hạn thành phố, giới hạn bên trong, giới hạn khoảng nước bắn tung tóe, giới hạn địa phương, giới hạn xứ, giới hạn vương quốc, giới hạn đảo, giới hạn thế giới.
Tattha khaṇḍasīmā sīmākathāyaṃ vuttāva. Upacārasīmā parikkhittassa vihārassa parikkhepena aparikkhittassa parikkhepārahaṭṭhānena paricchinnā hoti. Apica bhikkhūnaṃ dhuvasannipātaṭṭhānato vā pariyante ṭhitabhojanasālato vā nibaddhavasanakaāvāsato vā thāmamajjhimassa purisassa dvinnaṃ leḍḍupātānaṃ anto upacārasīmā veditabbā, sā pana āvāsesu vaḍḍhantesu vaḍḍhati, parihāyantesu parihāyati. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘bhikkhūsupi vaḍḍhantesu vaḍḍhatī’’ti vuttaṃ. Tasmā sace vihāre sannipatitabhikkhūhi saddhiṃ ekābaddhā hutvā yojanasatampi pūretvā nisīdanti, yojanasatampi upacārasīmāva hoti, sabbesaṃ lābho pāpuṇāti. Samānasaṃvāsaavippavāsasīmādvayampi vuttameva.
Trong đó, giới hạn riêng đã được nói trong phần bàn về giới hạn. Giới hạn gần được xác định bởi hàng rào đối với tu viện có hàng rào, và bởi vị trí thích hợp để làm hàng rào đối với (tu viện) không có hàng rào. Hơn nữa, nên biết giới hạn gần là (khu vực) bên trong hai tầm ném cục đất của một người đàn ông sức lực trung bình, tính từ nơi hội họp thường xuyên của các Tỳ khưu, hoặc từ nhà ăn nằm ở biên, hoặc từ nơi ở thường trú; giới hạn này mở rộng khi các nơi ở tăng lên, và thu hẹp khi chúng giảm đi. Nhưng trong (chú giải) Mahāpaccarī có nói: “Nó cũng mở rộng khi số Tỳ khưu tăng lên.” Do đó, nếu trong tu viện, (các Tỳ khưu) ngồi liên kết thành một khối cùng với các Tỳ khưu đã tập hợp, dù chiếm đầy cả trăm do-tuần, thì cả trăm do-tuần đó cũng là giới hạn gần, lợi lộc thuộc về tất cả. Hai loại giới hạn cùng sống chung và không biệt trú cũng đã được nói đến.
Lābhasīmā nāma neva sammāsambuddhena anuññātā, na dhammasaṅgāhakattherehi ṭhapitā; apica kho rājarājamahāmattā vihāraṃ kāretvā gāvutaṃ vā aḍḍhayojanaṃ vā yojanaṃ vā samantato paricchinditvā ‘‘ayaṃ amhākaṃ vihārassa lābhasīmā’’ti nāmalikhitake thambhe nikhaṇitvā ‘‘yaṃ etthantare uppajjati, sabbaṃ taṃ amhākaṃ vihārassa demā’’ti sīmaṃ ṭhapenti, ayaṃ lābhasīmā nāma. Gāmanigamanagaraabbhantaraudakukkhepasīmāpi vuttā eva. Janapadasīmā nāma – kāsikosalaraṭṭhādīnaṃ anto bahū janapadā honti, tattha ekeko janapadaparicchedo janapadasīmā. Raṭṭhasīmā nāma kāsikosalādiraṭṭhaparicchedo. Rajjasīmā nāma ‘‘coḷabhogo keraḷabhogo’’ti evaṃ ekekassa rañño āṇāpavattiṭṭhānaṃ. Dīpasīmā nāma samuddantena paricchinnamahādīpā ca antaradīpā ca. Cakkavāḷasīmā nāma cakkavāḷapabbateneva paricchinnā.
Giới hạn lợi lộc không phải do Đức Chánh Đẳng Giác cho phép, cũng không phải do các vị Trưởng lão Kết tập Pháp tạng thiết lập; mà là do các vua chúa, đại thần sau khi xây dựng tu viện, đã phân định một khoảng cách một gāvuta, hoặc nửa do-tuần, hoặc một do-tuần xung quanh, chôn các cột mốc có ghi tên rằng: “Đây là giới hạn lợi lộc của tu viện chúng tôi”, rồi thiết lập giới hạn (nói rằng): “Những gì phát sinh trong khoảng này, tất cả chúng tôi xin dâng cho tu viện của chúng tôi”, đây được gọi là giới hạn lợi lộc. Các giới hạn làng, thị trấn, thành phố, bên trong, khoảng nước bắn tung tóe cũng đã được nói đến. Giới hạn địa phương là – bên trong các xứ như Kāsī, Kosala v.v… có nhiều địa phương, sự phân định mỗi địa phương ở đó là giới hạn địa phương. Giới hạn xứ là sự phân định các xứ như Kāsī, Kosala v.v… Giới hạn vương quốc là nơi quyền lực của mỗi vị vua được thi hành, như ‘lãnh thổ Coḷa’, ‘lãnh thổ Keraḷa’. Giới hạn đảo là các đại lục và các đảo nhỏ được phân định bởi biển cả. Giới hạn thế giới là (khu vực) được phân định bởi dãy núi Chuyển Luân.
Evametāsu sīmāsu khaṇḍasīmāya kenaci kammena sannipatitaṃ saṅghaṃ disvā ‘‘ettheva sīmāya saṅghassa demī’’ti vutte yāvatikā bhikkhū antokhaṇḍasīmagatā, tehi bhājetabbaṃ. Tesaṃyeva hi taṃ pāpuṇāti. Aññesaṃ sīmantarikāya vā upacārasīmāya vā ṭhitānampi na pāpuṇāti. Khaṇḍasīmāya ṭhite pana rukkhe vā pabbate vā ṭhitassa heṭṭhā vā pathavīvemajjhagatassa pāpuṇātiyeva. ‘‘Imissā upacārasīmāya saṅghassa dammī’’ti dinnaṃ pana khaṇḍasīmāsīmantarikāsu ṭhitānampi pāpuṇāti. ‘‘Samānasaṃvāsasīmāya dammī’’ti dinnaṃ pana khaṇḍasīmāsīmantarikāsu ṭhitānaṃ na pāpuṇāti. Avippavāsasīmālābhasīmāsu dinnaṃ tāsu sīmāsu antogatānaṃ pāpuṇāti. Gāmasīmādīsu dinnaṃ tāsaṃ sīmānaṃ abbhantare baddhasīmāya ṭhitānampi pāpuṇāti. Abbhantarasīmāudakukkhepasīmāsu dinnaṃ tattha antogatānaṃyeva pāpuṇāti. Janapadaraṭṭharajjadīpacakkavāḷasīmāsupi gāmasīmādīsu vuttasadisoyeva vinicchayo.
Như vậy, trong các loại giới hạn này, khi thấy Tăng chúng tập hợp trong giới hạn riêng vì một công việc nào đó, nếu (người dâng) nói: “Tôi dâng cho Tăng chúng ngay trong giới hạn này”, thì cần phải chia cho tất cả Tỳ khưu nào đã đi vào trong giới hạn riêng. Vì (vật dâng) đó chỉ thuộc về họ. Không thuộc về những người khác dù đang đứng ở khoảng giữa các giới hạn hoặc trong giới hạn gần. Nhưng (vật dâng) vẫn thuộc về người đang đứng trên cây hoặc trên núi nằm trong giới hạn riêng, hoặc người đang ở dưới lòng đất. Nhưng vật được dâng (với lời): “Tôi dâng cho Tăng chúng trong giới hạn gần này” thì cũng thuộc về cả những người đang đứng ở giới hạn riêng và khoảng giữa các giới hạn. Nhưng vật được dâng (với lời): “Tôi dâng trong giới hạn cùng sống chung” thì không thuộc về những người đang đứng ở giới hạn riêng và khoảng giữa các giới hạn. Vật được dâng trong giới hạn không biệt trú và giới hạn lợi lộc thì thuộc về những người đã đi vào trong các giới hạn đó. Vật được dâng trong giới hạn làng v.v… thì cũng thuộc về những người đang ở trong giới hạn đã kết bên trong các giới hạn đó. Vật được dâng trong giới hạn bên trong và giới hạn khoảng nước bắn tung tóe thì chỉ thuộc về những người đã đi vào trong đó. Đối với các giới hạn địa phương, xứ, vương quốc, đảo, thế giới, sự phân định cũng tương tự như đã nói đối với giới hạn làng v.v…
Sace pana jambudīpe ṭhito ‘‘tambapaṇṇidīpe saṅghassa dammī’’ti deti, tambapaṇṇidīpato ekopi gantvā sabbesaṃ gaṇhituṃ labhati. Sacepi tatreva eko sabhāgabhikkhu sabhāgānaṃ bhāgaṃ gaṇhāti, na vāretabbo. Evaṃ tāva yo sīmaṃ parāmasitvā deti, tassa dāne vinicchayo veditabbo.
Nhưng nếu người đang ở Ấn Độ dâng (vật, nói rằng): “Tôi dâng cho Tăng chúng ở đảo Tambapaṇṇi (Sri Lanka)”, thì dù chỉ một người từ đảo Tambapaṇṇi đi đến cũng được phép nhận thay cho tất cả. Cả nếu ngay tại đó (Ấn Độ), một Tỳ khưu cùng phe nhận phần của những người cùng phe (ở Tambapaṇṇi), thì cũng không nên ngăn cản. Như vậy, trước tiên cần phải hiểu sự phân định về việc cúng dường của người dâng sau khi đề cập đến giới hạn.
Yo pana asukasīmāyāti vattuṃ na jānāti, kevalaṃ sīmāti vacanamattameva jānanto vihāraṃ gantvā ‘‘sīmāya dammī’’ti vā ‘‘sīmaṭṭhakasaṅghassa dammī’’ti vā bhaṇati, so pucchitabbo – ‘‘sīmā nāma bahuvidhā, katarasīmaṃ sandhāya bhaṇasī’’ti ? Sace vadati – ‘‘ahaṃ asukasīmāti na jānāmi, sīmaṭṭhakasaṅgho bhājetvā gaṇhātū’’ti katarasīmāya bhājetabbaṃ? Mahāsīvatthero kirāha – ‘‘avippavāsasīmāyā’’ti. Tato naṃ āhaṃsu – ‘‘avippavāsasīmā nāma tiyojanāpi hoti, evaṃ sante tiyojane ṭhitā lābhaṃ gaṇhissanti, tiyojane ṭhatvā āgantukavattaṃ pūretvā ārāmaṃ pavisitabbaṃ bhavissati, gamiko tiyojanaṃ gantvā senāsanaṃ āpucchissati, nissayapaṭipannassa tiyojanātikkame nissayo paṭippassambhissati, pārivāsikena tiyojanaṃ atikkamitvā aruṇaṃ uṭṭhāpetabbaṃ bhavissati, bhikkhuniyā tiyojane ṭhatvā ārāmappavesanaṃ āpucchitabbaṃ bhavissati, sabbampetaṃ upacārasīmāya paricchedavaseneva kātuṃ vaṭṭati. Tasmā upacārasīmāyameva bhājetabba’’nti.
Còn người nào không biết nói ‘trong giới hạn này hay giới hạn kia’, chỉ biết mỗi từ ‘giới hạn’, đi đến tu viện rồi nói: “Tôi dâng trong giới hạn”, hoặc “Tôi dâng cho Tăng chúng trong giới hạn”, thì nên hỏi vị ấy: “Giới hạn có nhiều loại, ông nói nhắm đến giới hạn nào?” Nếu vị ấy nói: “Tôi không biết giới hạn này hay giới hạn kia, Tăng chúng trong giới hạn hãy chia nhau mà nhận”, thì nên chia trong giới hạn nào? Nghe nói rằng Trưởng lão Mahāsīva nói: “Trong giới hạn không biệt trú.” Sau đó, họ nói với ngài: “Giới hạn không biệt trú có khi lên đến ba do-tuần, nếu vậy thì những người ở cách ba do-tuần cũng sẽ nhận được lợi lộc; (như vậy) sẽ phải đi ba do-tuần rồi làm phận sự của khách Tăng mới được vào tu viện; người bộ hành sẽ phải đi ba do-tuần để hỏi xin chỗ ở; đối với người đang nương tựa, sự nương tựa sẽ bị gián đoạn khi vượt quá ba do-tuần; vị đang chịu biệt trú sẽ phải vượt quá ba do-tuần để đón bình minh; Tỳ khưu-ni sẽ phải đứng ở khoảng cách ba do-tuần để hỏi xin vào tu viện. Tất cả những điều này chỉ nên làm trong phạm vi giới hạn gần. Do đó, chỉ nên chia trong giới hạn gần.”
Katikāyāti samānalābhakatikāya. Tenevāha – ‘‘sambahulā āvāsā samānalābhā hontī’’ti. Tatrevaṃ katikā kātabbā, ekasmiṃ vihāre sannipatitehi bhikkhūhi yaṃ vihāraṃ saṅgaṇhitukāmā samānalābhaṃ kātuṃ icchanti, tassa nāmaṃ gahetvā asuko nāma vihāro porāṇakoti vā buddhādhivutthoti vā appalābhoti vā yaṃkiñci kāraṇaṃ vatvā taṃ vihāraṃ iminā vihārena saddhiṃ ekalābhaṃ kātuṃ saṅghassa ruccatīti tikkhattuṃ sāvetabbaṃ. Ettāvatā tasmiṃ vihāre nisinnopi idha nisinnova hoti, tasmiṃ vihārepi saṅghena evameva kātabbaṃ. Ettāvatā idha nisinnopi tasmiṃ nisinnova hoti. Ekasmiṃ lābhe bhājiyamāne itarasmiṃ ṭhitassa bhāgaṃ gahetuṃ vaṭṭati. Evaṃ ekena vihārena saddhiṃ bahūpi āvāsā ekalābhā kātabbā.
Bằng thỏa thuận nghĩa là bằng thỏa thuận về lợi lộc chung. Chính vì thế Ngài nói: “Nhiều trú xứ có lợi lộc chung.” Ở đó, thỏa thuận nên được thực hiện như vầy: các Tỳ khưu tập hợp tại một tu viện, muốn gộp chung tu viện nào, muốn làm cho có lợi lộc chung, thì nên nêu tên tu viện đó, nói một lý do nào đó như: “Tu viện tên là… này là tu viện cổ”, hoặc “là nơi Đức Phật đã từng ở”, hoặc “ít lợi lộc”, rồi thông báo ba lần rằng: “Tăng chúng có hài lòng việc làm cho tu viện đó có lợi lộc chung với tu viện này không?” Chỉ cần như vậy, người ngồi ở tu viện kia cũng như ngồi ở đây; Tăng chúng ở tu viện kia cũng nên làm tương tự như vậy. Chỉ cần như vậy, người ngồi ở đây cũng như ngồi ở kia. Khi lợi lộc ở một nơi được chia, được phép nhận phần cho người đang ở nơi kia. Như vậy, nhiều trú xứ cũng có thể được làm thành nơi có lợi lộc chung với một tu viện.
Bhikkhāpaññattiyāti attano pariccāgapaññāpanaṭṭhāne. Tenevāha – ‘‘yattha saṅghassa dhuvakārā kariyantī’’ti. Tassattho – yasmiṃ vihāre imassa cīvaradāyakassa santakaṃ saṅghassa pākavaṭṭaṃ vā vattati, yasmiṃ vā vihāre bhikkhū attano bhāraṃ katvā sadā gehe bhojeti, yattha vā anena āvāso kārito, salākabhattādīni vā nibaddhāni, yena pana sakalopi vihāro patiṭṭhāpito, tattha vattabbameva natthi, ime dhuvakārā nāma. Tasmā sace so ‘‘yattha mayhaṃ dhuvakārā karīyanti, tattha dammī’’ti vā ‘‘tattha dethā’’ti vā bhaṇati, bahūsu cepi ṭhānesu dhuvakārā honti, sabbattha dinnameva hoti.
Tại nơi chỉ định vật thực nghĩa là tại nơi chỉ định sự dâng cúng của mình. Chính vì thế Ngài nói: “Ở nơi nào các phận sự thường xuyên đối với Tăng chúng được thực hiện.” Ý nghĩa của câu đó là: tu viện nào có bếp nấu thường xuyên của người thí chủ dâng y này cho Tăng chúng, hoặc tu viện nào mà các Tỳ khưu coi là trách nhiệm của mình và thường xuyên đến nhà (thí chủ) dùng bữa, hoặc nơi nào trú xứ đã được vị này xây cất, hoặc nơi vật thực bắt thăm v.v… được thiết lập thường xuyên; còn người đã thiết lập toàn bộ tu viện thì không cần phải nói đến nữa; những điều này được gọi là các phận sự thường xuyên. Do đó, nếu vị ấy nói: “Tôi dâng ở nơi nào các phận sự thường xuyên của tôi được thực hiện”, hoặc “Hãy dâng ở đó”, thì dù có nhiều nơi có phận sự thường xuyên, cũng đều coi như đã dâng ở khắp mọi nơi.
Sace pana ekasmiṃ vihāre bhikkhū bahutarā honti, tehi vattabbaṃ – ‘‘tumhākaṃ dhuvakāre ekattha bhikkhū bahū ekattha appakā’’ti. Sace ‘‘bhikkhugaṇanāya gaṇhathā’’ti bhaṇati, tathā bhājetvā gaṇhituṃ vaṭṭati. Ettha ca vatthabhesajjādi appakampi sukhena bhājiyati. Yadi pana mañco vā pīṭhakaṃ vā ekameva hoti, taṃ pucchitvā yassa vā vihārassa ekavihārepi vā yassa senāsanassa so vicāreti, tattha dātabbaṃ. Sace ‘‘asukabhikkhu gaṇhātū’’ti vadati, vaṭṭati. Atha ‘‘mayhaṃ dhuvakāre dethā’’ti vatvā avicāretvāva gacchati, saṅghassāpi vicāretuṃ vaṭṭati. Evaṃ pana vicāretabbaṃ – ‘‘saṅghattherassa vasanaṭṭhāne dethā’’ti vattabbaṃ. Sace tassa senāsanaṃ paripuṇṇaṃ hoti, yattha nappahoti, tattha dātabbaṃ. Sace eko bhikkhu ‘‘mayhaṃ vasanaṭṭhāne senāsanaparibhogabhaṇḍaṃ natthī’’ti vadati, tattha dātabbaṃ.
Nhưng nếu ở một tu viện có nhiều Tỳ khưu hơn, thì họ nên nói (với thí chủ): “Trong các nơi phận sự thường xuyên của ông, một nơi có nhiều Tỳ khưu, một nơi có ít.” Nếu (thí chủ) nói: “Hãy nhận theo số lượng Tỳ khưu”, thì được phép chia rồi nhận như vậy. Và ở đây, dù vải, thuốc men v.v… có ít cũng dễ dàng chia được. Nhưng nếu chỉ có một cái giường hoặc một cái ghế, thì nên hỏi (thí chủ) rồi đưa đến tu viện nào, hoặc dù chỉ trong một tu viện thì đưa đến chỗ ở nào mà vị ấy quản lý. Nếu (thí chủ) nói: “Hãy để Tỳ khưu tên là… nhận lấy”, thì được phép. Còn nếu (thí chủ) nói: “Hãy dâng ở nơi phận sự thường xuyên của tôi” rồi bỏ đi mà không quyết định, thì Tăng chúng cũng được phép quyết định. Nên quyết định như vầy – nên nói: “Hãy đưa đến chỗ ở của vị Trưởng lão Tăng chúng.” Nếu chỗ ở của vị ấy đã đầy đủ, thì nên đưa đến nơi nào chưa đủ. Nếu có Tỳ khưu nói: “Chỗ ở của tôi không có đồ dùng cho chỗ ở”, thì nên đưa đến đó.
Saṅghassa detīti vihāraṃ pavisitvā ‘‘imāni cīvarāni saṅghassa dammī’’ti deti. Sammukhībhūtenāti upacārasīmāya ṭhitena saṅghena ghaṇṭiṃ paharitvā kālaṃ ghosetvā bhājetabbaṃ. Sīmaṭṭhassa asampattassāpi bhāgaṃ gaṇhanto na vāretabbo. Vihāro mahā hoti, therāsanato paṭṭhāya vatthesu diyyamānesu alasajātikā mahātherā pacchā āgacchanti, ‘‘bhante vīsativassānaṃ diyyati, tumhākaṃ ṭhitikā atikkantā’’ti na vattabbā, ṭhitikaṃ ṭhapetvā tesaṃ datvā pacchā ṭhitikāya dātabbaṃ.
Dâng cho Tăng chúng nghĩa là vào tu viện rồi dâng (với lời): “Tôi dâng những y phục này cho Tăng chúng.” Bởi (Tăng chúng) có mặt nghĩa là Tăng chúng đang ở trong giới hạn gần nên đánh chuông, thông báo thời gian rồi chia. Người nhận phần cho vị ở trong giới hạn mà chưa đến cũng không nên bị ngăn cản. (Nếu) tu viện lớn, khi y phục đang được cấp phát bắt đầu từ ghế Trưởng lão, các vị Đại Trưởng lão lười biếng đến sau, không nên nói rằng: “(Y) đang được cấp cho những vị hai mươi tuổi hạ, thời hạn của các ngài đã qua rồi”; nên gác lại thời hạn, đưa cho họ trước rồi sau đó mới đưa theo thời hạn.
Asukavihāre kira bahuṃ cīvaraṃ uppannanti sutvā yojanantarikavihāratopi bhikkhū āgacchanti, sampattasampattānaṃ ṭhitaṭṭhānato paṭṭhāya dātabbaṃ. Asampattānampi upacārasīmaṃ paviṭṭhānaṃ antevāsikādīsu gaṇhantesu dātabbameva. ‘‘Bahiupacārasīmāya ṭhitānaṃ dethā’’ti vadanti, na dātabbaṃ. Sace pana upacārasīmaṃ okkantehi ekābaddhā hutvā attano vihāradvāre vā antovihāreyeva vā honti, parisavasena vaḍḍhitā nāma hoti sīmā , tasmā dātabbaṃ. Saṅghanavakassa dinnepi pacchā āgatānaṃ dātabbameva. Dutiyabhāge pana therāsanaṃ āruḷhe āgatānaṃ paṭhamabhāgo na pāpuṇāti, dutiyabhāgato vassaggena dātabbaṃ.
Nghe nói rằng: “Nhiều y phục đã phát sinh ở tu viện kia”, các Tỳ khưu từ tu viện cách đó một do-tuần cũng đến, nên cấp phát bắt đầu từ chỗ đứng của những người đã đến. Cả đối với những người chưa đến nhưng đã vào giới hạn gần, nếu đệ tử v.v… nhận (thay), thì cũng phải đưa. Nếu họ nói: “Hãy đưa cho những người đang đứng ngoài giới hạn gần”, thì không nên đưa. Nhưng nếu họ liên kết thành một khối với những người đã vào trong giới hạn gần, và đang ở tại cổng tu viện của mình hoặc ngay trong tu viện, thì giới hạn được gọi là mở rộng do sự tập trung của hội chúng, do đó nên đưa. Dù đã đưa cho vị Tỳ khưu mới nhất của Tăng chúng, cũng vẫn phải đưa cho những người đến sau. Nhưng trong phần thứ hai, những người đến khi (thứ tự chia) đã lên đến ghế Trưởng lão thì không nhận được phần thứ nhất, nên đưa (phần thứ hai) theo tuổi hạ.
Ekasmiṃ vihāre dasa bhikkhū honti, ‘‘dasa vatthāni saṅghassa demā’’ti denti, pāṭekkaṃ bhājetabbāni . Sace ‘‘sabbāneva amhākaṃ pāpuṇantī’’ti gahetvā gacchanti, duppāpitāni ceva duggahitāni ca gatagataṭṭhāne saṅghikāneva honti. Ekaṃ pana uddharitvā ‘‘idaṃ tumhākaṃ pāpuṇātī’’ti saṅghattherassa datvā ‘‘sesāni amhākaṃ pāpuṇantī’’ti gahetuṃ vaṭṭati.
Trong một tu viện có mười Tỳ khưu, (người ta) dâng (nói rằng): “Chúng tôi dâng mười tấm vải cho Tăng chúng”, thì cần phải chia riêng cho từng người. Nếu họ nhận lấy (với ý nghĩ): “Tất cả đều thuộc về chúng tôi” rồi mang đi, thì (y phục đó) vừa bị làm cho thuộc về (họ) không đúng cách, vừa bị nhận không đúng cách, và dù đi đến nơi nào cũng vẫn là của Tăng chúng. Nhưng được phép nhấc một tấm lên, đưa cho vị Trưởng lão Tăng chúng (nói rằng): “Tấm này thuộc về các ngài”, rồi nhận lấy những tấm còn lại (nói rằng): “Những tấm còn lại thuộc về chúng tôi.”
Ekameva vatthaṃ saṅghassa demāti āharanti, abhājetvāva amhākaṃ pāpuṇantīti gaṇhanti, duppāpitañceva duggahitañca. Satthakena pana haliddiādinā vā lekhaṃ katvā ekaṃ koṭṭhāsaṃ ‘‘imaṃ ṭhānaṃ tumhākaṃ pāpuṇātī’’ti saṅghattherassa pāpetvā ‘‘sesaṃ amhākaṃ pāpuṇātī’’ti gahetuṃ vaṭṭati. Yaṃ pana vatthasseva pupphaṃ vā vali vā, tena paricchedaṃ kātuṃ na vaṭṭati. Sace ekaṃ tantaṃ uddharitvā ‘‘idaṃ ṭhānaṃ tumhākaṃ pāpuṇātī’’ti saṅghattherassa datvā ‘‘sesaṃ amhākaṃ pāpuṇātī’’ti gaṇhanti, vaṭṭati. Khaṇḍaṃ khaṇḍaṃ chinditvā bhājiyamānaṃ vaṭṭatiyeva.
Họ mang đến chỉ một tấm vải (nói rằng): “Chúng tôi dâng cho Tăng chúng”, (nếu) họ nhận lấy mà không chia (với ý nghĩ): “(Tấm này) thuộc về chúng tôi”, thì (tấm vải đó) vừa bị làm cho thuộc về (họ) không đúng cách, vừa bị nhận không đúng cách. Nhưng được phép dùng dao hoặc nghệ v.v… vẽ một đường, làm cho một phần thuộc về vị Trưởng lão Tăng chúng (nói rằng): “Phần này thuộc về các ngài”, rồi nhận lấy phần còn lại (nói rằng): “Phần còn lại thuộc về chúng tôi.” Nhưng không được phép dùng hoa văn hay nếp gấp của chính tấm vải đó để phân định. Nếu rút một sợi chỉ ra, đưa cho vị Trưởng lão Tăng chúng (nói rằng): “Chỗ này thuộc về các ngài”, rồi nhận lấy phần còn lại (nói rằng): “Phần còn lại thuộc về chúng tôi”, thì được phép. Việc cắt thành từng mảnh rồi chia thì đương nhiên là được phép.
Ekabhikkhuke vihāre saṅghassa cīvaresu uppannesu sace pubbe vuttanayeneva so bhikkhu ‘‘sabbāni mayhaṃ pāpuṇantī’’ti gaṇhāti, suggahitāni, ṭhitikā pana na tiṭṭhati. Sace ekekaṃ uddharitvā ‘‘idaṃ mayhaṃ pāpuṇātī’’ti gaṇhāti, ṭhitikā tiṭṭhati. Tattha aṭṭhitāya ṭhitikāya puna aññasmiṃ cīvare uppanne sace eko bhikkhu āgacchati, majjhe chinditvā dvīhipi gahetabbaṃ. Ṭhitāya ṭhitikāya puna aññasmiṃ cīvare uppanne sace navakataro āgacchati, ṭhitikā heṭṭhā orohati. Sace vuḍḍhataro āgacchati, ṭhitikā uddhaṃ ārohati. Athañño natthi, puna attano pāpetvā gahetabbaṃ.
Trong tu viện chỉ có một Tỳ khưu, khi y phục của Tăng chúng phát sinh, nếu Tỳ khưu đó nhận lấy theo cách đã nói trước đây (nghĩ rằng): “Tất cả đều thuộc về tôi”, thì (chúng) được nhận hợp lệ, nhưng thời hạn thì không còn hiệu lực. Nếu (vị ấy) nhấc lên từng cái một (và nói): “Cái này thuộc về tôi” và nhận lấy, thì thời hạn vẫn còn hiệu lực. Ở đó, khi thời hạn không còn hiệu lực, nếu lại có y phục khác phát sinh và có một Tỳ khưu đến, thì nên cắt đôi rồi cả hai cùng nhận. Khi thời hạn còn hiệu lực, nếu lại có y phục khác phát sinh và có Tỳ khưu mới hơn đến, thì thời hạn hạ xuống. Nếu Tỳ khưu lớn tuổi hơn đến, thì thời hạn nâng lên. Nếu không có ai khác, thì nên làm cho (y) thuộc về mình rồi nhận lấy.
‘‘Saṅghassa demā’’ti vā ‘‘bhikkhusaṅghassa demā’’ti vā yena kenaci ākārena saṅghaṃ āmasitvā dinnaṃ pana paṃsukūlikānaṃ na vaṭṭati, ‘‘gahapaticīvaraṃ paṭikkhipāmi paṃsukūlikaṅgaṃ samādiyāmī’’ti vuttattā, na pana akappiyattā . Bhikkhusaṅghena apaloketvā dinnampi na gahetabbaṃ. Yaṃ pana bhikkhu attano santakaṃ deti, taṃ bhikkhudattiyaṃ nāma vaṭṭati, paṃsukūlaṃ pana na hoti. Evaṃ santepi dhutaṅgaṃ na bhijjati. ‘‘Bhikkhūnaṃ dema, therānaṃ demā’’ti vutte pana paṃsukūlikānampi vaṭṭati. ‘‘Idaṃ vatthaṃ saṅghassa dema, iminā upāhanatthavikapattatthavikaāyogaaṃsabaddhakādīni karontū’’ti dinnampi vaṭṭati.
Nhưng vật được dâng sau khi đề cập đến Tăng chúng bằng bất kỳ cách nào, như: “Chúng tôi dâng cho Tăng chúng”, hoặc “Chúng tôi dâng cho Tỳ khưu Tăng”, thì không được phép đối với những vị mặc y phấn tảo, vì đã nói rằng: “Tôi từ bỏ y do gia chủ cúng, tôi thực hành hạnh phấn tảo”, chứ không phải vì (y đó) không thích hợp. Dù được Tỳ khưu Tăng đưa cho sau khi biểu quyết thông qua cũng không nên nhận. Nhưng vật gì mà Tỳ khưu đưa vật sở hữu của mình, thì vật đó được gọi là vật Tỳ khưu cho, được phép (nhận), nhưng không phải là y phấn tảo. Mặc dù vậy, hạnh đầu-đà không bị phá vỡ. Nhưng nếu (người ta) nói: “Chúng tôi dâng cho các Tỳ khưu, chúng tôi dâng cho các Trưởng lão”, thì cũng được phép đối với những vị mặc y phấn tảo. Cả khi (người ta) dâng (với lời): “Chúng tôi dâng tấm vải này cho Tăng chúng, mong Tăng chúng dùng nó làm túi đựng giày dép, túi đựng bát, đai lưng, dây đeo vai v.v…” cũng được phép (cho vị phấn tảo nhận để làm các vật dụng đó).
Pattatthavikādīnaṃ atthāya dinnāni bahūnipi honti, cīvaratthāyapi pahonti, tato cīvaraṃ katvā pārupituṃ vaṭṭati. Sace pana saṅgho bhājitātirittāni vatthāni chinditvā upāhanatthavikādīnaṃ atthāya bhājeti, tato gahetuṃ na vaṭṭati. Sāmikehi vicāritameva hi vaṭṭati, na itaraṃ.
(Vải) được dâng để làm túi đựng bát v.v…, dù có nhiều và cũng đủ để làm y, thì cũng được phép làm y từ đó rồi đắp. Nhưng nếu Tăng chúng cắt những tấm vải dư thừa sau khi chia, rồi chia để làm túi đựng giày dép v.v…, thì không được phép nhận từ đó (để làm y). Vì chỉ có (vải) do chủ sở hữu quyết định (cho mục đích làm y) mới được phép, không phải loại khác.
‘‘Paṃsukūlikasaṅghassa dhamakaraṇapaṭādīnaṃ atthāya demā’’ti vuttepi gahetuṃ vaṭṭati, parikkhāro nāma paṃsukūlikānampi icchitabbo. Yaṃ tattha atirekaṃ hoti, taṃ cīvarepi upanetuṃ vaṭṭati. Suttaṃ saṅghassa denti, paṃsukūlikehipi gahetabbaṃ. Ayaṃ tāva vihāraṃ pavisitvā ‘‘imāni cīvarāni saṅghassa dammī’’ti dinnesu vinicchayo.
Cả khi (người ta) nói: “Chúng tôi dâng cho Tăng chúng mặc y phấn tảo để làm vải lọc nước v.v…”, cũng được phép nhận, vì vật dụng là thứ cần thiết ngay cả đối với những vị mặc y phấn tảo. Phần nào dư thừa ở đó, cũng được phép dùng làm y. Họ dâng chỉ cho Tăng chúng, những vị mặc y phấn tảo cũng nên nhận. Đây trước tiên là sự phân định đối với những (y phục) được dâng sau khi vào tu viện (nói rằng): “Tôi dâng những y phục này cho Tăng chúng.”
Sace pana bahiupacārasīmāyaṃ addhānappaṭipanne bhikkhū disvā ‘‘saṅghassa dammī’’ti saṅghattherassa vā saṅghanavakassa vā āroceti, sacepi yojanaṃ pharitvā parisā ṭhitā hoti, ekabaddhā ce, sabbesaṃ pāpuṇāti. Ye pana dvādasahi hatthehi parisaṃ asampattā, tesaṃ na pāpuṇāti.
Nhưng nếu (người dâng) ở ngoài giới hạn gần, thấy các Tỳ khưu đang đi đường, báo cho vị Trưởng lão Tăng chúng hoặc vị Tỳ khưu mới nhất của Tăng chúng rằng: “Tôi dâng cho Tăng chúng”, thì dù hội chúng đứng trải dài cả do-tuần, nếu liên kết thành một khối, (vật dâng) cũng thuộc về tất cả. Nhưng những vị nào cách hội chúng mười hai khuỷu tay mà chưa đến kịp, thì không thuộc về họ.
Ubhatosaṅghassa detīti ettha ‘‘ubhatosaṅghassa dammī’’ti vuttepi ‘‘dvidhā saṅghassa dammi, dvinnaṃ saṅghānaṃ dammi, bhikkhusaṅghassa ca bhikkhunisaṅghassa ca dammī’’ti vuttepi ubhatosaṅghassa dinnameva hoti. Upaḍḍhaṃ dātabbanti dvebhāge same katvā eko dātabbo. ‘‘Ubhatosaṅghassa ca tuyhañca dammī’’ti vutte sace dasa dasa bhikkhū ca bhikkhuniyo ca honti, ekavīsati paṭivīse katvā eko puggalassa dātabbo, dasa bhikkhusaṅghassa, dasa bhikkhunisaṅghassa yena puggaliko laddho so saṅghatopi attano vassaggena gahetuṃ labhati. Kasmā? Ubhatosaṅghaggahaṇena gahitattā.
Dâng cho cả hai Tăng chúng: Ở đây, dù nói: “Tôi dâng cho cả hai Tăng chúng”, hay nói: “Tôi dâng cho Tăng chúng làm hai phần, tôi dâng cho hai Tăng chúng, tôi dâng cho Tỳ khưu Tăng và Tỳ khưu-ni Tăng”, thì cũng đều là đã dâng cho cả hai Tăng chúng. Nên đưa một nửa nghĩa là chia làm hai phần bằng nhau rồi đưa một phần. Nếu (người dâng) nói: “Tôi dâng cho cả hai Tăng chúng và cho thầy”, và nếu có mười Tỳ khưu và mười Tỳ khưu-ni, thì nên chia làm hai mươi mốt phần, một phần đưa cho cá nhân (vị được chỉ định), mười phần cho Tỳ khưu Tăng, mười phần cho Tỳ khưu-ni Tăng. Người nào đã nhận phần cá nhân thì cũng được phép nhận (phần) từ Tăng chúng theo tuổi hạ của mình. Tại sao? Vì đã được bao gồm trong việc nhận của cả hai Tăng chúng.
‘‘Ubhatosaṅghassa ca cetiyassa ca dammī’’ti vuttepi eseva nayo. Idha pana cetiyassa saṅghato pāpuṇanakoṭṭhāso nāma natthi, ekapuggalassa pattakoṭṭhāsasamova koṭṭhāso hoti.
Cả khi nói: “Tôi dâng cho cả hai Tăng chúng và cho bảo tháp”, quy tắc cũng tương tự. Nhưng ở đây, không có phần nào thuộc về bảo tháp từ (phần của) Tăng chúng, (bảo tháp) chỉ có phần bằng với phần thuộc về một cá nhân.
‘‘Ubhatosaṅghassa ca tuyhañca cetiyassa cā’’ti vutte pana dvāvīsati koṭṭhāse katvā dasa bhikkhūnaṃ, dasa bhikkhunīnaṃ, eko puggalassa, eko cetiyassa dātabbo. Tattha puggalo saṅghatopi attano vassaggena puna gahetuṃ labhati, cetiyassa ekoyeva.
Nhưng khi nói: “Tôi dâng cho cả hai Tăng chúng, cho thầy và cho bảo tháp”, thì nên chia làm hai mươi hai phần, mười phần cho các Tỳ khưu, mười phần cho các Tỳ khưu-ni, một phần cho cá nhân (thầy), một phần cho bảo tháp. Ở đó, cá nhân (thầy) cũng được phép nhận lại (phần) từ Tăng chúng theo tuổi hạ của mình, (còn) bảo tháp thì chỉ (nhận) một (phần).
‘‘Bhikkhusaṅghassa ca bhikkhunīnañca dammī’’ti vutte pana na majjhe bhinditvā dātabbaṃ, bhikkhū ca bhikkhuniyo ca gaṇetvā dātabbaṃ. ‘‘Bhikkhusaṅghassa ca bhikkhunīnañca tuyhañcā’’ti vutte pana puggalo visuṃ na labhati, pāpuṇanaṭṭhānato ekameva labhati. Kasmā? Bhikkhusaṅghaggahaṇena gahitattā. ‘‘Bhikkhusaṅghassa ca bhikkhunīnañca tuyhañca cetiyassa cā’’ti vuttepi cetiyassa ekapuggalapaṭivīso labbhati, puggalassa visuṃ na labbhati, tasmā ekaṃ cetiyassa datvā avasesaṃ bhikkhū ca bhikkhuniyo ca gaṇetvā bhājetabbaṃ.
Nhưng khi nói: “Tôi dâng cho Tỳ khưu Tăng và cho các Tỳ khưu-ni”, thì không nên chia đôi ở giữa mà đưa, phải đếm số Tỳ khưu và Tỳ khưu-ni rồi đưa (chia theo đầu người). Nhưng khi nói: “Tôi dâng cho Tỳ khưu Tăng, cho các Tỳ khưu-ni và cho thầy”, thì cá nhân (thầy) không nhận được phần riêng, chỉ nhận được một phần từ nơi đáng được nhận (tức là phần theo tuổi hạ trong Tỳ khưu Tăng). Tại sao? Vì đã được bao gồm trong việc nhận của Tỳ khưu Tăng. Cả khi nói: “Tôi dâng cho Tỳ khưu Tăng, cho các Tỳ khưu-ni, cho thầy và cho bảo tháp”, bảo tháp cũng nhận được một phần cá nhân, cá nhân (thầy) không nhận được phần riêng; do đó, nên đưa một phần cho bảo tháp, phần còn lại thì đếm số Tỳ khưu và Tỳ khưu-ni rồi chia.
‘‘Bhikkhūnañca bhikkhunīnañca dammī’’ti vuttepi majjhe bhinditvā na dātabbaṃ, puggalagaṇanāya eva vibhajitabbaṃ. ‘‘Bhikkhūnañca bhikkhunīnañca tuyhañca cetiyassa cā’’ti evaṃ vuttepi cetiyassa ekapuggalapaṭivīso labbhati, puggalassa visuṃ natthi, bhikkhū ca bhikkhuniyo ca gaṇetvā eva bhājetabbaṃ. Yathā ca bhikkhusaṅghaṃ ādiṃ katvā nayo nīto, evaṃ bhikkhunisaṅghaṃ ādiṃ katvāpi netabbo. ‘‘Bhikkhusaṅghassa ca tuyhañcā’’ti vutte puggalassa visuṃ na labbhati, vassaggeneva gahetabbaṃ. ‘‘Bhikkhusaṅghassa ca cetiyassa cā’’ti vutte pana cetiyassa visuṃ paṭivīso labbhati. ‘‘Bhikkhusaṅghassa ca tuyhañca cetiyassa cā’’ti vuttepi cetiyasseva labbhati, na puggalassa.
Cả khi nói: “Tôi dâng cho các Tỳ khưu và các Tỳ khưu-ni”, cũng không nên chia đôi ở giữa mà đưa, phải chia theo số lượng cá nhân. Cả khi nói như vầy: “Tôi dâng cho các Tỳ khưu, các Tỳ khưu-ni, cho thầy và cho bảo tháp”, bảo tháp cũng nhận được một phần cá nhân, cá nhân (thầy) không có phần riêng, phải đếm số Tỳ khưu và Tỳ khưu-ni rồi chia. Như quy tắc đã được trình bày bắt đầu với Tỳ khưu Tăng, thì cũng nên trình bày tương tự bắt đầu với Tỳ khưu-ni Tăng. Khi nói: “Tôi dâng cho Tỳ khưu Tăng và cho thầy”, cá nhân (thầy) không nhận được phần riêng, phải nhận theo tuổi hạ. Nhưng khi nói: “Tôi dâng cho Tỳ khưu Tăng và cho bảo tháp”, thì bảo tháp nhận được phần riêng. Cả khi nói: “Tôi dâng cho Tỳ khưu Tăng, cho thầy và cho bảo tháp”, cũng chỉ bảo tháp nhận được (phần riêng), không phải cá nhân (thầy).
‘‘Bhikkhūnañca tuyhañcā’’ti vuttepi visuṃ na labbhati. ‘‘Bhikkhūnañca cetiyassa cā’’ti vutte pana cetiyassa labbhati. ‘‘Bhikkhūnañca tuyhañca cetiyassa cā’’ti vuttepi cetiyasseva visuṃ labbhati, na puggalassa. Bhikkhunisaṅghaṃ ādiṃ katvāpi evameva yojetabbaṃ.
Cả khi nói: “Tôi dâng cho các Tỳ khưu và cho thầy”, (thầy) cũng không nhận được phần riêng. Nhưng khi nói: “Tôi dâng cho các Tỳ khưu và cho bảo tháp”, thì bảo tháp nhận được (phần riêng). Cả khi nói: “Tôi dâng cho các Tỳ khưu, cho thầy và cho bảo tháp”, cũng chỉ bảo tháp nhận được phần riêng, không phải cá nhân (thầy). Bắt đầu với Tỳ khưu-ni Tăng cũng nên áp dụng tương tự như vậy.
Pubbe buddhappamukhassa ubhatosaṅghassa dānaṃ denti, bhagavā majjhe nisīdati, dakkhiṇato bhikkhū vāmato bhikkhuniyo nisīdanti, bhagavā ubhinnaṃ saṅghatthero , tadā bhagavā attanā laddhapaccaye attanāpi paribhuñjati, bhikkhūnampi dāpeti. Etarahi pana paṇḍitamanussā sadhātukaṃ paṭimaṃ vā cetiyaṃ vā ṭhapetvā buddhappamukhassa ubhatosaṅghassa dānaṃ denti. Paṭimāya vā cetiyassa vā purato ādhārake pattaṃ ṭhapetvā dakkhiṇodakaṃ datvā buddhānaṃ demāti, tattha yaṃ paṭhamaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ denti, vihāraṃ vā āharitvā idaṃ cetiyassa demāti piṇḍapātañca mālāgandhādīni ca denti, tattha kathaṃ paṭipajjitabbanti? Mālāgandhādīni tāva cetiye āropetabbāni, vatthehi paṭākā, telena padīpā kātabbā, piṇḍapātamadhuphāṇitādīni pana yo nibaddhacetiyajaggako hoti pabbajito vā gahaṭṭho vā, tasseva dātabbāni. Nibaddhajaggake asati āhaṭabhattaṃ ṭhapetvā vattaṃ katvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Upakaṭṭhe kāle bhuñjitvā pacchāpi vattaṃ kātuṃ vaṭṭatiyeva.
Trước kia, họ dâng cúng cho cả hai Tăng chúng do Đức Phật dẫn đầu; Đức Thế Tôn ngồi ở giữa, các Tỳ khưu ngồi bên phải, các Tỳ khưu-ni ngồi bên trái; Đức Thế Tôn là Trưởng lão Tăng chúng của cả hai; khi đó, Đức Thế Tôn tự mình dùng các vật dụng đã nhận được, và cũng cho các Tỳ khưu dùng. Nhưng ngày nay, những người trí thức đặt tượng có xá lợi hoặc bảo tháp rồi dâng cúng cho cả hai Tăng chúng do Đức Phật (tượng trưng) dẫn đầu. Họ đặt bát trên vật đỡ trước tượng hoặc bảo tháp, dâng nước hồi hướng (nói rằng): “Chúng con dâng lên các Đức Phật”; ở đó, họ dâng đồ ăn cứng, đồ ăn mềm nào trước tiên; hoặc mang đến tu viện (nói rằng): “Chúng con dâng cái này cho bảo tháp”, và dâng vật thực, vòng hoa, hương liệu v.v…; ở đó nên thực hành như thế nào? Trước tiên, vòng hoa, hương liệu v.v… nên được dâng lên bảo tháp; nên làm cờ phướn bằng vải, thắp đèn bằng dầu; còn vật thực, mật ong, đường phèn v.v… thì nên đưa cho người thường xuyên trông coi bảo tháp, dù là người xuất gia hay gia chủ. Nếu không có người trông coi thường xuyên, thì được phép đặt vật thực đã mang đến, làm phận sự (cúng dường) rồi dùng. Cũng được phép dùng (vật thực) vào lúc gần đến giờ rồi làm phận sự sau.
Mālāgandhādīsu ca yaṃ kiñci ‘‘idaṃ haritvā cetiyassapūjaṃ karothā’’ti vutte dūrampi haritvā pūjetabbaṃ. ‘‘Bhikkhaṃ saṅghassa harā’’ti vuttepi haritabbaṃ. Sace pana ‘‘ahaṃ piṇḍāya carāmi, āsanasālāya bhikkhū atthi, te āharissantī’’ti vutte ‘‘bhante tuyhaṃyeva dammī’’ti vadati, bhuñjituṃ vaṭṭati. Atha pana ‘‘bhikkhusaṅghassa dassāmī’’ti harantassa gacchato antarāva kālo upakaṭṭho hoti, attano pāpetvā bhuñjituṃ vaṭṭati.
Và đối với vòng hoa, hương liệu v.v…, bất cứ thứ gì (được dâng với lời): “Hãy mang cái này đi cúng dường bảo tháp”, thì dù xa cũng phải mang đi cúng dường. Cả khi (người ta) nói: “Hãy mang vật thực đến cho Tăng chúng”, cũng phải mang đi. Nhưng nếu (vị Tỳ khưu nói): “Tôi đang đi khất thực, có các Tỳ khưu ở nhà nghỉ chân, họ sẽ mang đến”, (và người dâng) nói: “Bạch ngài, tôi chỉ dâng cho ngài thôi”, thì được phép dùng. Còn nếu khi (vị Tỳ khưu) đang mang đi (với ý nghĩ): “Tôi sẽ dâng cho Tỳ khưu Tăng”, mà giờ (ngọ) đã gần kề ngay trên đường, thì được phép làm cho (vật thực đó) thuộc về mình rồi dùng.
Vassaṃvuṭṭhasaṅghassa detīti vihāraṃ pavisitvā ‘‘imāni cīvarāni vassaṃvuṭṭhasaṅghassa dammī’’ti deti. Yāvatikā bhikkhū tasmiṃ āvāse vassaṃvuṭṭhāti yattakā vassacchedaṃ akatvā purimavassaṃvuṭṭhā, tehi bhājetabbaṃ, aññesaṃ na pāpuṇāti. Disāpakkantassāpi sati paṭiggāhake yāva kathinassubbhārā dātabbaṃ, anatthate pana kathine antohemante evañca vatvā dinnaṃ, pacchimavassaṃvuṭṭhānampi pāpuṇātīti lakkhaṇaññū vadanti. Aṭṭhakathāsu panetaṃ na vicāritaṃ.
Dâng cho Tăng chúng đã an cư mùa mưa nghĩa là vào tu viện rồi dâng (nói rằng): “Tôi dâng những y phục này cho Tăng chúng đã an cư mùa mưa.” Tất cả Tỳ khưu nào đã an cư mùa mưa tại trú xứ đó nghĩa là: bao nhiêu vị đã an cư mùa mưa trước mà không bị gián đoạn mùa mưa, cần phải chia cho họ, không thuộc về những người khác. Cả đối với người đã đi nơi khác, nếu có người nhận thay, thì nên đưa (phần) cho đến khi kaṭhina được dỡ bỏ. Nhưng khi kaṭhina chưa được thọ, (vật) được dâng trong mùa đông và nói như vậy (dâng cho Tăng đã an cư), thì cũng thuộc về cả những vị đã an cư mùa mưa sau – các vị thông hiểu đặc tính nói vậy. Nhưng điều này không được bàn luận trong các Chú giải.
Sace pana bahiupacārasīmāyaṃ ṭhito ‘‘vassaṃvuṭṭhasaṅghassa dammī’’ti vadati, sampattānaṃ sabbesaṃ pāpuṇāti. Atha ‘‘asukavihāre vassaṃvuṭṭhasaṅghassā’’ti vadati, tatra vassaṃvuṭṭhānameva yāva kathinassubbhārā pāpuṇāti. Sace pana gimhānaṃ paṭhamadivasato paṭṭhāya evaṃ vadati, tatra sammukhībhūtānaṃ sabbesaṃ pāpuṇāti. Kasmā? Piṭṭhisamaye uppannattā. Antovasseyeva ‘‘vassaṃ vasantānaṃ dammī’’ti vutte chinnavassā na labhanti, vassaṃ vasantāva labhanti. Cīvaramāse pana ‘‘vassaṃ vasantānaṃ dammī’’ti vutte pacchimikāya vassūpagatānaṃyeva pāpuṇāti, purimikāya vassūpagatānañca chinnavassānañca na pāpuṇāti.
Nhưng nếu (người dâng) đứng ngoài giới hạn gần mà nói: “Tôi dâng cho Tăng chúng đã an cư mùa mưa”, thì (vật dâng) thuộc về tất cả những người có mặt. Còn nếu nói: “Cho Tăng chúng đã an cư mùa mưa tại tu viện kia”, thì ở đó (vật dâng) chỉ thuộc về những vị đã an cư mùa mưa cho đến khi kaṭhina được dỡ bỏ. Nhưng nếu nói như vậy bắt đầu từ ngày đầu tiên của mùa hè, thì ở đó (vật dâng) thuộc về tất cả những người có mặt. Tại sao? Vì nó phát sinh vào lúc đói kém (hoặc lúc vắng mặt). Ngay trong mùa mưa, nếu nói: “Tôi dâng cho những vị đang an cư mùa mưa”, thì những vị bị gián đoạn mùa mưa không nhận được, chỉ những vị đang an cư mùa mưa mới nhận được. Nhưng trong tháng y, nếu nói: “Tôi dâng cho những vị đang an cư mùa mưa”, thì chỉ thuộc về những vị đã vào an cư mùa mưa sau; không thuộc về những vị đã vào an cư mùa mưa trước và những vị bị gián đoạn mùa mưa.
Cīvaramāsato paṭṭhāya yāva hemantassa pacchimo divaso, tāva vassāvāsikaṃ demāti vutte kathinaṃ atthataṃ vā hotu anatthataṃ vā atītavassaṃvuṭṭhānameva pāpuṇāti. Gimhānaṃ paṭhamadivasato paṭṭhāya vutte pana mātikā āropetabbā – ‘‘atītavassāvāsassa pañca māsā atikkantā, anāgato catumāsaccayena bhavissati, kataravassāvāsassa detī’’ti? Sace ‘‘atītavassaṃvuṭṭhānaṃ dammī’’ti vadati, taṃantovassaṃvuṭṭhānameva pāpuṇāti, disāpakkantānampi sabhāgā gaṇhituṃ labhanti.
Bắt đầu từ tháng y cho đến ngày cuối cùng của mùa đông, nếu nói: “Chúng tôi dâng vật an cư mùa mưa”, thì dù kaṭhina đã được thọ hay chưa, (vật dâng) chỉ thuộc về những vị đã an cư mùa mưa đã qua. Nhưng nếu nói (như vậy) bắt đầu từ ngày đầu tiên của mùa hè, thì cần phải đặt ra đề mục (để hỏi): “Năm tháng của mùa an cư đã qua đã trôi qua, (mùa an cư) sắp tới sẽ đến sau bốn tháng nữa, ông dâng cho mùa an cư nào?” Nếu vị ấy nói: “Tôi dâng cho những vị đã an cư mùa mưa đã qua”, thì (vật dâng) đó chỉ thuộc về những vị đã an cư trong mùa mưa đó; cả những người cùng phe (ở nơi khác) cũng được phép nhận (thay) cho những vị đã đi nơi khác.
Sace ‘‘anāgate vassāvāsikaṃ dammī’’ti vadati, taṃ ṭhapetvā vassūpanāyikadivase gahetabbaṃ. Atha ‘‘agutto vihāro, corabhayaṃ atthi, na sakkā ṭhapetuṃ, gaṇhitvā vā āhiṇḍitu’’nti vutte ‘‘sampattānaṃ dammī’’ti vadati, bhājetvā gahetabbaṃ. Sace vadati ‘‘ito me bhante tatiye vasse vassāvāsikaṃ na dinnaṃ, taṃ dammī’’ti, tasmiṃ antovasse vuṭṭhabhikkhūnaṃ pāpuṇāti. Sace te disā pakkantā, añño vissāsiko gaṇhāti, dātabbaṃ. Atha ekoyeva avasiṭṭho, sesā kālaṅkatā, sabbaṃ ekasseva pāpuṇāti. Sace ekopi natthi, saṅghikaṃ hoti, sammukhībhūtehi bhājetabbaṃ.
Nếu vị ấy nói: “Tôi dâng vật an cư mùa mưa cho (mùa mưa) sắp tới”, thì nên để đó và nhận vào ngày vào hạ. Còn nếu (người trông coi nói): “Tu viện không được che chắn, có nạn trộm cướp, không thể để đó được, hoặc (phải) mang đi đây đi đó”, (và người dâng) nói: “Tôi dâng cho những người có mặt”, thì nên chia ra rồi nhận. Nếu vị ấy nói: “Bạch ngài, cách đây ba năm, tôi đã không dâng vật an cư mùa mưa, (nay) tôi xin dâng vật đó”, thì (vật dâng) đó thuộc về các Tỳ khưu đã an cư trong mùa mưa năm ấy. Nếu họ đã đi nơi khác, người đáng tin cậy khác nhận (thay), thì nên đưa. Còn nếu chỉ còn lại một người, những người còn lại đã mệnh chung, thì tất cả thuộc về một mình vị ấy. Nếu không còn một ai, thì (vật dâng) thuộc về Tăng chúng, nên chia cho những người có mặt.
Ādissa detīti ādisitvā paricchinditvā deti; yāguyā vātiādīsu ayamattho – yāguyā vā…pe… bhesajje vā ādissa deti. Tatrāyaṃ yojanā – bhikkhū ajjatanāya vā svātanāya vā yāguyā nimantetvā tesaṃ gharaṃ paviṭṭhānaṃ yāguṃ deti, yāguṃ datvā pītāya yāguyā ‘‘imāni cīvarāni, yehi mayhaṃ yāgu pītā, tesaṃ dammī’’ti deti, yehi nimantitehi yāgu pītā, tesaṃyeva pāpuṇāti. Yehi pana bhikkhācāravattena gharadvārena gacchantehi vā gharaṃ paviṭṭhehi vā yāgu laddhā, yesaṃ vā āsanasālato pattaṃ āharitvā manussehi nītā, yesaṃ vā therehi pesitā, tesaṃ na pāpuṇāti. Sace pana nimantitabhikkhūhi saddhiṃ aññepi bahū āgantvā antogehañca bahigehañca pūretvā nisinnā, dāyako ca evaṃ vadati – ‘‘nimantitā vā hontu animantitā vā, yesaṃ mayā yāgu dinnā, sabbesaṃ imāni vatthāni hontū’’ti sabbesaṃ pāpuṇanti. Yehi pana therānaṃ hatthato yāgu laddhā , tesaṃ na pāpuṇanti. Atha so ‘‘yehi mayhaṃ yāgu pītā, sabbesaṃ hontū’’ti vadati, sabbesaṃ pāpuṇanti. Bhattakhādanīyesupi eseva nayo.
Dâng chỉ định nghĩa là dâng sau khi đã chỉ định, phân định; ý nghĩa của câu hoặc bằng cháo v.v… là – dâng chỉ định hoặc bằng cháo… (như trên)… hoặc bằng thuốc men. Cách áp dụng ở đó là: (người thí chủ) mời các Tỳ khưu dùng cháo hôm nay hoặc ngày mai, rồi dâng cháo cho họ khi họ vào nhà; sau khi dâng cháo, khi cháo đã được dùng xong, (thí chủ) dâng (nói rằng): “Những y phục này, tôi dâng cho những vị nào đã dùng cháo của tôi”; (y phục đó) chỉ thuộc về những vị đã được mời và đã dùng cháo. Còn những vị nào nhận được cháo khi đi ngang qua cửa nhà theo phận sự khất thực, hoặc khi vào nhà; hoặc những vị mà người ta mang bát từ nhà nghỉ chân đến (rồi đổ cháo vào và) mang đi (cho họ); hoặc những vị được các Trưởng lão gửi (cháo) cho, thì không thuộc về họ. Nhưng nếu cùng với các Tỳ khưu đã được mời, nhiều vị khác cũng đến ngồi đầy cả trong nhà lẫn ngoài nhà, và người thí chủ nói như vầy: “Dù là người được mời hay không được mời, những ai đã được tôi dâng cháo, xin những tấm vải này hãy thuộc về tất cả các vị ấy”, thì (vải đó) thuộc về tất cả. Nhưng những vị nào nhận được cháo từ tay các Trưởng lão thì không thuộc về họ. Còn nếu vị ấy nói: “Những ai đã dùng cháo của tôi, xin (vải này) hãy thuộc về tất cả”, thì (vải đó) thuộc về tất cả. Đối với cơm và đồ ăn cứng, quy tắc cũng tương tự.
Cīvare vāti pubbepi yena vassaṃ vāsetvā bhikkhūnaṃ cīvaraṃ dinnapubbaṃ hoti, so ce bhikkhū bhojetvā vadati – ‘‘yesaṃ mayā pubbe cīvaraṃ dinnaṃ, tesaṃyeva imaṃ cīvaraṃ vā suttaṃ vā sappimadhuphāṇitādīni vā hontū’’ti, sabbaṃ tesaṃyeva pāpuṇāti. Senāsane vāti yo mayā kārite vihāre vā pariveṇe vā vasati, tassidaṃ hotū’’ti vutte tasseva hoti. Bhesajje vāti ‘‘mayaṃ kālena kālaṃ therānaṃ sappiādīni bhesajjāni dema, yehi tāni laddhāni, tesaṃyevidaṃ hotū’’ti vutte tesaṃyeva hoti.
Hoặc bằng y phục nghĩa là: người nào trước đây đã mời các Tỳ khưu an cư mùa mưa và đã từng dâng y, nếu vị ấy mời các Tỳ khưu dùng bữa rồi nói: “Những vị nào trước đây đã được tôi dâng y, xin y phục này, hoặc chỉ này, hoặc bơ tinh, mật ong, đường phèn v.v… này hãy thuộc về chính các vị ấy”, thì tất cả đều thuộc về chính họ. Hoặc bằng chỗ ở nghĩa là: khi nói: “Vị nào ở trong tu viện hoặc tăng xá do tôi xây cất, xin vật này hãy thuộc về vị ấy”, thì (vật đó) thuộc về chính vị ấy. Hoặc bằng thuốc men nghĩa là: khi nói: “Chúng tôi thường xuyên dâng thuốc men như bơ tinh v.v… cho các Trưởng lão, những vị nào đã nhận những thứ đó, xin vật này hãy thuộc về chính các vị ấy”, thì (vật đó) thuộc về chính họ.
Puggalassa detīti ‘‘imaṃ cīvaraṃ itthannāmassa dammī’’ti evaṃ parammukhā vā pādamūle ṭhapetvā ‘‘imaṃ bhante tumhākaṃ dammī’’ti evaṃ sammukhā vā deti. Sace pana ‘‘idaṃ tumhākañca tumhākaṃ antevāsikānañca dammī’’ti evaṃ vadati, therassa ca antevāsikānañca pāpuṇāti. Uddesaṃ gahetuṃ āgato gahetvā gacchanto ca atthi, tassāpi pāpuṇāti. ‘‘Tumhehi saddhiṃ nibaddhacārikabhikkhūnaṃ dammī’’ti vutte uddesantevāsikānaṃ vattaṃ katvā uddesaparipucchādīni gahetvā vicarantānaṃ sabbesaṃ pāpuṇāti. Ayaṃ puggalassa detīti imasmiṃ pade vinicchayo. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Dâng cho cá nhân nghĩa là dâng khi vắng mặt (người nhận), nói rằng: “Tôi dâng y phục này cho vị tên là…”; hoặc dâng khi có mặt, đặt dưới chân (nói rằng): “Bạch ngài, tôi dâng cái này cho ngài.” Nhưng nếu vị ấy nói như vầy: “Tôi dâng cái này cho ngài và cho các đệ tử của ngài”, thì (vật dâng) thuộc về vị Trưởng lão và các đệ tử. Có người đến để nhận sự trùng tuyên rồi mang đi, cũng thuộc về người đó. Khi nói: “Tôi dâng cho các Tỳ khưu thường xuyên đi cùng với ngài”, thì (vật dâng) thuộc về tất cả những người làm phận sự với các đệ tử học trùng tuyên, nhận lấy sự trùng tuyên, hỏi đạo v.v… rồi đi hành đạo. Đây là sự phân định trong cụm từ ‘dâng cho cá nhân’. Phần còn lại ở khắp mọi nơi đều rõ ràng rồi.
Cīvarakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích Chương về Y đến đây là kết thúc.