Chú Giải Tạng Luật – Phẩm Pācittiya – Chương Ưng Đối Trị

Mục lục

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa

Kính lễ Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Chánh Giác

Vinayapiṭake

Trong Tạng Luật

Pācittiya-aṭṭhakathā

Sớ giải các điều Ưng Đối Trị

5. Pācittiyakaṇḍaṃ

5. Phẩm Ưng Đối Trị

1. Musāvādavaggo

1. Phẩm Nói Dối

1. Musāvādasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích học giới nói dối

Yesaṃ navahi vaggehi, saṅgaho suppatiṭṭhito;
Khuddakānaṃ ayaṃ dāni, tesaṃ bhavati vaṇṇanā.
Của những điều nhỏ nhặt, đã được khéo sắp xếp,
Thành chín phẩm; đây là phần giải thích của chúng.

1. Tattha musāvādavaggassa tāva paṭhamasikkhāpade hatthakoti tassa therassa nāmaṃ. Sakyānaṃ puttoti sakyaputto. Buddhakāle kira sakyakulato asīti purisasahassāni pabbajiṃsu, tesaṃ so aññataroti. Vādakkhittoti ‘‘vādaṃ karissāmī’’ti evaṃ parivitakkitena vādena paravādisantikaṃ khitto pakkhitto pahito pesitoti attho. Vādamhi vā sakena cittena khitto. Yatra yatra vādo tatra tatreva sandissatītipi vādakkhitto. Avajānitvā avajānātīti attano vāde kañci dosaṃ sallakkhento ‘‘nāyaṃ mama vādo’’ti avajānitvā puna kathento kathento niddosataṃ sallakkhetvā ‘‘mameva ayaṃ vādo’’ti paṭijānāti. Paṭijānitvā avajānātīti kismiñcideva vacane ānisaṃsaṃ sallakkhento ‘‘ayaṃ mama vādo’’ti paṭijānitvā puna kathento kathento tattha dosaṃ sallakkhetvā ‘‘nāyaṃ mama vādo’’ti avajānāti. Aññenaññaṃ paṭicaratīti aññena kāraṇena aññaṃ kāraṇaṃ paṭicarati paṭicchādeti ajjhottharati, ‘‘rūpaṃ aniccaṃ jānitabbato’’ti vatvā puna ‘‘jātidhammato’’tiādīni vadati. Kurundiyaṃ pana ‘‘etassa paṭicchādanahetuṃ aññaṃ bahuṃ kathetī’’ti vuttaṃ. Tatrāyaṃ adhippāyo – yaṃ taṃ paṭijānanañca avajānanañca, tassa paṭicchādanatthaṃ ‘‘ko āha , kiṃ āha, kismiṃ āhā’’ti evamādi bahuṃ bhāsatīti. Puna mahāaṭṭhakathāyaṃ ‘‘avajānitvā paṭijānanto paṭijānitvā avajānanto eva ca aññenaññaṃ paṭicaratī’’ti vuttaṃ. Sampajānamusā bhāsatīti jānanto musā bhāsati. Saṅketaṃ katvā visaṃvādetīti purebhattādīsu ‘‘asukasmiṃ nāma kāle asukasmiṃ nāma padese vādo hotū’’ti saṅketaṃ katvā saṅketato pure vā pacchā vā gantvā ‘‘passatha bho, titthiyā na āgatā parājitā’’ti pakkamati.
1. Trong đó, ở học giới đầu tiên của Phẩm Nói Dối, Hatthaka là tên của vị trưởng lão ấy. Là con trai của dòng họ Thích Ca nên gọi là Thích tử. Tương truyền, vào thời Đức Phật, tám mươi ngàn người từ dòng họ Thích Ca đã xuất gia, ông là một trong số đó. Người bị lôi cuốn vào tranh luận có nghĩa là người bị xô đẩy, bị cuốn vào, bị sai khiến, bị đưa đến gần đối phương bởi cuộc tranh luận đã được suy tính trước rằng “ta sẽ tranh luận”. Hoặc là người bị chính tâm mình xô đẩy vào cuộc tranh luận. Cũng có thể hiểu “người bị lôi cuốn vào tranh luận” là người mà hễ ở đâu có tranh luận thì ở đó đều thấy mặt. Từ chối rồi lại từ chối có nghĩa là khi nhận thấy lỗi nào đó trong luận điểm của mình, người ấy từ chối “đây không phải là luận điểm của tôi”, rồi sau khi nói đi nói lại, nhận thấy sự không có lỗi, lại thừa nhận “đây chính là luận điểm của tôi”. Thừa nhận rồi lại từ chối có nghĩa là khi nhận thấy lợi ích nào đó trong một lời nói nào đó, người ấy thừa nhận “đây là luận điểm của tôi”, rồi sau khi nói đi nói lại, nhận thấy lỗi ở đó, lại từ chối “đây không phải là luận điểm của tôi”. Dùng cái khác để che đậy cái khác có nghĩa là dùng một lý do khác để đối phó, che đậy, bao phủ một lý do khác; ví dụ, sau khi nói “sắc là vô thường vì cần được biết đến”, lại nói những điều như “vì có bản chất là sanh”. Tuy nhiên, trong sách Kurundī có nói: “Người ấy nói nhiều điều khác để che đậy điều này”. Ý nghĩa ở đây là: để che đậy việc thừa nhận rồi từ chối, hoặc từ chối rồi thừa nhận ấy, người đó nói nhiều điều như “ai nói, nói gì, nói ở đâu”. Lại nữa, trong Đại Sớ Giải có nói: “Người từ chối rồi thừa nhận, và người thừa nhận rồi từ chối, chính là dùng cái khác để che đậy cái khác”. Cố ý nói dối có nghĩa là biết mà nói dối. Hẹn rồi thất hứa có nghĩa là sau khi đã hẹn ước trong các buổi trước bữa ăn v.v… rằng “cuộc tranh luận sẽ diễn ra vào thời điểm này, tại địa điểm này”, rồi đến trước hoặc sau thời gian đã hẹn, nói rằng “này quý vị xem, các ngoại đạo không đến, họ đã thua cuộc” rồi bỏ đi.

2.Sampajānamusāvādeti jānitvā jānantassa ca musā bhaṇane.
2. Trong sự cố ý nói dối là khi biết và đối với người cũng biết (sự thật) mà nói lời dối trá.

3.Visaṃvādanapurekkhārassāti visaṃvādanacittaṃ purato katvā vadantassa. Vācāti micchāvācāpariyāpannavacanasamuṭṭhāpikā cetanā. Girāti tāya cetanāya samuṭṭhāpitasaddaṃ dasseti. Byappathoti vacanapatho; vācāyeva hi aññesampi diṭṭhānugatimāpajjantānaṃ pathabhūtato byappathoti vuccati. Vacībhedoti vacīsaññitāya vācāya bhedo; pabhedagatā vācā eva evaṃ vuccati. Vācasikā viññattīti vacīviññatti. Evaṃ paṭhamapadena suddhacetanā, majjhe tīhi taṃsamuṭṭhāpitasaddasahitā cetanā, ante ekena viññattisahitā cetanā ‘‘kathitā’’ti veditabbā. Anariyavohārāti anariyānaṃ bālaputhujjanānaṃ vohārā.
3. Của người có ý định lừa dối đi trước là của người nói với tâm lừa dối đặt lên trước. Lời nói là tác ý làm phát sinh lời nói thuộc về tà ngữ. Ngôn ngữ chỉ âm thanh được phát sinh bởi tác ý đó. Lối nói là đường lối của lời nói; vì chính lời nói là con đường cho cả những người khác noi theo thấy biết, nên được gọi là lối nói. Sự phân biệt lời nói là sự phân biệt của lời nói được gọi là lời; hoặc lời nói đã đi đến sự phân biệt thì được gọi như vậy. Biểu hiện bằng lờithân biểu ngữ. Như vậy, cần hiểu rằng: với từ đầu tiên (lời nói) là tác ý thuần túy được nói đến; với ba từ ở giữa (ngôn ngữ, lối nói, sự phân biệt lời nói) là tác ý cùng với âm thanh do nó phát sinh; và với từ cuối cùng (biểu hiện bằng lời) là tác ý cùng với sự biểu hiện được nói đến. Cách nói không thánh thiện là cách nói của những kẻ ngu phàm phu không phải bậc Thánh.

Evaṃ sampajānamusāvādaṃ dassetvā idāni ante vuttānaṃ sampajānamusāvādasaṅkhātānaṃ anariyavohārānaṃ lakkhaṇaṃ dassento ‘‘adiṭṭhaṃ diṭṭhaṃ me’’tiādimāha. Tattha adiṭṭhaṃ diṭṭhaṃ meti evaṃ vadato vacanaṃ taṃsamuṭṭhāpikā vā cetanā eko anariyavohāroti iminā nayena attho veditabbo. Apicettha cakkhuvasena aggahitārammaṇaṃ adiṭṭhaṃ, sotavasena aggahitaṃ asutaṃ, ghānādivasena munitvā tīhi indriyehi ekābaddhaṃ viya katvā patvā aggahitaṃ amutaṃ, aññatra pañcahi indriyehi suddhena viññāṇeneva aggahitaṃ aviññātanti veditabbaṃ. Pāḷiyaṃ pana ‘‘adiṭṭhaṃ nāma na cakkhunā diṭṭha’’nti evaṃ oḷārikeneva nayena desanā katāti. Diṭṭhādīsu ca attanāpi parenapi diṭṭhaṃ diṭṭhameva. Evaṃ sutamutaviññātānīti ayameko pariyāyo. Aparo nayo yaṃ attanā diṭṭhaṃ diṭṭhameva taṃ. Esa nayo sutādīsu. Yaṃ pana parena diṭṭhaṃ, taṃ attanā sutaṭṭhāne tiṭṭhati. Evaṃ mutādīnipi.
Sau khi đã trình bày về sự cố ý nói dối như vậy, bây giờ, để trình bày đặc điểm của những cách nói không thánh thiện, được gọi là cố ý nói dối, đã được đề cập ở cuối, Ngài nói “cái không thấy (mà nói) là tôi thấy” v.v… Trong đó, lời nói của người nói rằng “cái không thấy là tôi thấy”, hoặc tác ý làm phát sinh lời nói đó, là một cách nói không thánh thiện – ý nghĩa cần được hiểu theo phương pháp này. Hơn nữa, ở đây cần hiểu rằng: đối tượng không được nắm bắt bởi mắt là không thấy, không được nắm bắt bởi tai là không nghe, không được nắm bắt, sau khi đã nhận biết bằng mũi v.v…, bằng ba căn được hợp lại như một, là không cảm nhận, ngoài năm căn đó, cái không được nắm bắt chỉ bằng ý thức thuần túy là không biết – cần hiểu như vậy. Tuy nhiên, trong Pāḷi, bài giảng được thực hiện theo phương pháp thô thiển hơn, rằng: “Cái gọi là không thấy là không được thấy bằng mắt”. Và trong “thấy” v.v…, cái được thấy bởi chính mình hoặc bởi người khác đều là “thấy”. Tương tự như vậy đối với “nghe”, “cảm nhận”, “biết” – đây là một cách giải thích. Một phương pháp khác: cái gì được thấy bởi chính mình thì đó chính là “thấy”. Phương pháp này cũng áp dụng cho “nghe” v.v… Còn cái gì được người khác thấy, thì đối với mình nó ở vị trí của “nghe”. Tương tự như vậy đối với “cảm nhận” v.v…

4. Idāni tesaṃ anariyavohārānaṃ vasena āpattiṃ āropetvā dassento ‘‘tīhākārehī’’tiādimāha. Tassattho ‘‘tīhi ākārehi paṭhamaṃ jhānaṃ samāpajjinti sampajānamusā bhaṇantassa āpatti pārājikassā’’ti evamādicatutthapārājikapāḷivaṇṇanāyaṃ vuttanayeneva veditabbo. Kevalañhi tattha ‘‘paṭhamaṃ jhānaṃ samāpajji’’nti idha ‘‘adiṭṭhaṃ diṭṭhaṃ me’’ti, tattha ca ‘‘āpatti pārājikassā’’ti ‘‘idha āpatti pācittiyassā’’ti evaṃ vatthumatte āpattimatte ca viseso, sesaṃ ekalakkhaṇamevāti.
4. Bây giờ, để trình bày bằng cách quy tội dựa vào những cách nói không thánh thiện ấy, Ngài nói bắt đầu bằng “bởi ba trường hợp“. Ý nghĩa của điều đó cần được hiểu theo phương pháp đã được nói trong phần giải thích Pāḷi về điều Bất Cộng Trụ thứ tư v.v…, rằng: “Người cố ý nói dối rằng ‘tôi chứng đắc sơ thiền bằng ba cách’ phạm tội Bất Cộng Trụ”. Chỉ là, ở đó (trong luật Bất Cộng Trụ) là “chứng đắc sơ thiền”, còn ở đây (trong luật Ưng Đối Trị) là “cái không thấy (mà nói) là tôi thấy”; và ở đó là “phạm tội Bất Cộng Trụ”, còn ở đây là “phạm tội Ưng Đối Trị”; như vậy chỉ có sự khác biệt về đối tượng và về loại tội, phần còn lại thì có cùng một đặc điểm.

9.Tīhākārehi diṭṭhe vematikotiādīnampi attho ‘‘diṭṭhassa hoti pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpajjanto diṭṭhe vematiko’’ti evamādiduṭṭhadosapāḷivaṇṇanāyaṃ vuttanayeneva veditabbo. Pāḷimattameva hi ettha viseso, atthe pana satheravāde kiñci nānākaraṇaṃ natthi.
9. Ý nghĩa của những câu như “nghi ngờ về điều đã thấy do ba trường hợp” v.v… cũng cần được hiểu theo phương pháp đã được nói trong phần giải thích Pāḷi về tội ác ý, v.v…, rằng: “Người nghi ngờ về điều đã thấy khi phạm phải pháp Bất Cộng Trụ thì (vẫn) phạm tội Bất Cộng Trụ”. Chỉ có sự khác biệt về văn Pāḷi ở đây; còn về ý nghĩa, trong Thượng tọa bộ, không có gì khác biệt cả.

11.Sahasā bhaṇatīti avīmaṃsitvā anupadhāretvā vā vegena diṭṭhampi ‘‘adiṭṭhaṃ me’’ti bhaṇati. Aññaṃ bhaṇissāmīti aññaṃ bhaṇatīti mandattā jaḷattā pakkhalanto ‘‘cīvara’’nti vattabbe ‘‘cīra’’nti ādiṃ bhaṇati. Yo pana sāmaṇerena ‘‘api bhante mayhaṃ upajjhāyaṃ passitthā’’ti vutto keḷiṃ kurumāno ‘‘tava upajjhāyo dārusakaṭaṃ yojetvā gato bhavissatī’’ti vā siṅgālasaddaṃ sutvā ‘‘kassāyaṃ bhante saddo’’ti vutto ‘‘mātuyā te yānena gacchantiyā kaddame laggacakkaṃ uddharantānaṃ ayaṃ saddo’’ti vā evaṃ neva davā na ravā aññaṃ bhaṇati, so āpattiṃ āpajjatiyeva. Aññā pūraṇakathā nāma hoti, eko gāme thokaṃ telaṃ labhitvā vihāraṃ āgato sāmaṇeraṃ bhaṇati – ‘‘tvaṃ ajja kuhiṃ gato, gāmo ekatelo ahosī’’ti vā pacchikāya ṭhapitaṃ pūvakhaṇḍaṃ labhitvā ‘‘ajja gāme pacchikāhi pūve cāresu’’nti vā, ayaṃ musāvādova hoti. Sesaṃ uttānamevāti.
11. “Nói năng hấp tấp” có nghĩa là không suy xét, không cân nhắc, hoặc do quá nhanh mà nói cả điều đã thấy thành “tôi không thấy”. “Định nói điều này lại nói điều khác” có nghĩa là do đần độn, ngớ ngẩn, nói vấp, đáng lẽ nói “y” thì lại nói “vỏ cây” v.v… Còn người nào, khi được vị sa-di hỏi: “Bạch Đại đức, ngài có thấy thầy tế độ của con không?” mà nói đùa rằng: “Thầy tế độ của thầy chắc là thắng xe bò chở củi đi rồi”, hoặc khi nghe tiếng chó rừng, được hỏi: “Bạch Đại đức, đó là tiếng gì vậy?” (mà đáp rằng) “Đó là tiếng mẹ thầy đi xe, khi bánh xe bị kẹt trong bùn, người ta đang kéo lên”, cứ như vậy nói điều khác, không phải đùa giỡn cũng không phải la lối, người đó chắc chắn phạm tội. Lại có câu chuyện thêm thắt như sau: một người vào làng xin được ít dầu, về chùa nói với vị sa-di: “Hôm nay con đi đâu mà cả làng chỉ có một chút dầu thế này?”, hoặc nhận được một miếng bánh để trong giỏ rồi nói: “Hôm nay trong làng người ta dùng giỏ để chia bánh”, đây chính là nói dối. Phần còn lại thì ý nghĩa đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, tivedananti.
(Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, bị đời chê bai, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (do) tâm bất thiện, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Musāvādasikkhāpadaṃ paṭhamaṃ.

Học giới nói dối, điều thứ nhất.

2. Omasavādasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích học giới nói lời miệt thị

12. Dutiyasikkhāpade omasantīti ovijjhanti. Khuṃsentīti akkosanti. Vambhentīti padhaṃsenti.
12. Trong học giới thứ hai, “Miệt thị” có nghĩa là chạm đến, nói móc xỉa. “Mắng nhiếc” có nghĩa là chửi rủa. “Khinh miệt” có nghĩa là lăng mạ, xỉ vả.

13.Bhūtapubbanti idaṃ vatthuṃ bhagavā omasavādagarahaṇatthaṃ āhari. Nandivisālo nāmāti nandīti tassa balībaddassa nāmaṃ, visāṇāni panassa visālāni, tasmā ‘‘nandivisālo’’ti vuccati. Bodhisatto tena samayena nandivisālo nāma hoti. Brāhmaṇo taṃ yāgubhattādīhi ativiya posesi. Atha so brāhmaṇaṃ anukampamāno ‘‘gaccha tva’’ntiādimāha. Tattheva aṭṭhāsīti ahetukapaṭisandhikālepi parakhuṃsanaṃ amanāpatoyeva paccesi, tasmā brāhmaṇassa dosaṃ dassetukāmo aṭṭhāsi. Sakaṭasataṃ atibaddhaṃ pavaṭṭesīti paṭipāṭiyā ṭhapetvā heṭṭhārukkhe datvā ekābaddhaṃ katvā muggamāsavālukādīhi puṇṇaṃ sakaṭasataṃ pavaṭṭento, kiñcāpi pubbe patiṭṭhitārappadesaṃ puna are patte pavaṭṭitaṃ hoti, bodhisatto pana purimasakaṭena patiṭṭhitaṭṭhāne pacchimasakaṭaṃ patiṭṭhāpetuṃ sakaṭasatappamāṇaṃ padesaṃ pavaṭṭesi. Bodhisattānañhi sithilakaraṇaṃ nāma natthi. Tena cattamano ahūti tena brāhmaṇassa dhanalābhena attano kammena ca so nandivisālo attamano ahosi.
13. Chuyện đã từng xảy ra: Đức Thế Tôn đã kể câu chuyện này để khiển trách việc nói lời miệt thị. Tên là Nandivisāla: Nandī là tên của con bò đực ấy, còn sừng của nó thì to lớn, do đó nó được gọi là “Nandivisāla“. Vào thời ấy, Bồ-tát chính là con bò tên Nandivisāla. Vị Bà-la-môn đã nuôi nó rất kỹ lưỡng bằng cháo, cơm v.v… Rồi nó, vì thương xót vị Bà-la-môn, đã nói rằng: “Ông hãy đi” v.v… “Nó đã đứng yên tại đó” có nghĩa là: ngay cả khi không có lý do rõ ràng để bắt đầu kéo, nó cũng nhận thấy sự mắng nhiếc của người khác là điều không vừa ý; do đó, muốn chỉ ra lỗi của vị Bà-la-môn, nó đã đứng lại. “Nó đã kéo một trăm chiếc xe được buộc chặt” có nghĩa là: sau khi sắp xếp các xe theo thứ tự, đặt ách vào cổ, buộc lại thành một dãy, nó kéo một trăm chiếc xe đầy đậu xanh, đậu đen, cát v.v…; mặc dù (thường thì) một nơi đã được bánh xe trước lăn qua thì bánh xe sau mới lăn tới, nhưng Bồ-tát đã kéo cả đoàn xe, dài bằng một trăm chiếc xe, đi một quãng đường như vậy. Vì quả thật, đối với các vị Bồ-tát, không có chuyện nới lỏng (cố gắng). “Nó lấy làm mãn nguyện vì điều đó” có nghĩa là: do việc vị Bà-la-môn được của cải và do hành động của chính mình, con bò Nandivisāla ấy đã lấy làm hài lòng.

15.Akkosenapīti ettha pana yasmā parato ‘‘dve akkosā – hīno ca akkoso ukkaṭṭho ca akkoso’’ti vibhajitukāmo, tasmā yathā pubbe ‘‘hīnenapi akkosena khuṃsentī’’ti vuttaṃ; evaṃ avatvā ‘‘akkosena’’ iccevamāha. Venajātīti tacchakajāti; veṇukārajātītipi vadanti. Nesādajātīti migaluddakādijāti.
15. Còn ở đây, trong câu “Cả bằng lời mắng nhiếc“, vì ở phần sau, Ngài muốn phân chia “có hai loại mắng nhiếc: mắng nhiếc hạ tiện và mắng nhiếc thậm tệ”, do đó, Ngài không nói như trước là “mắng nhiếc cả bằng lời mắng nhiếc hạ tiện”, mà chỉ nói là “bằng lời mắng nhiếc”. “Giai cấp thợ tiện” là giai cấp thợ mộc; cũng có người nói là giai cấp thợ làm đồ tre. “Giai cấp thợ săn” là giai cấp thợ săn thú rừng v.v…

Rathakārajātīti cammakārajāti. Pukkusajātīti pupphachaḍḍakajāti. Avakaṇṇakādi dāsānaṃ nāmaṃ hoti; tasmā hīnaṃ. Oññātanti avaññātaṃ; ‘‘uññāta’’ntipi paṭhanti. Avaññātanti vambhetvā ñātaṃ. Hīḷitanti jigucchitaṃ . Paribhūtanti kimetenātiti paribhavakataṃ. Acittīkatanti na garukataṃ.
Giai cấp thợ làm xe” là giai cấp thợ thuộc da. “Giai cấp người đổ rác hoa” là giai cấp người vứt bỏ hoa. “Tai cụp” v.v… là tên gọi của hạng nô lệ; do đó là hạ tiện. “Bị coi thường” là bị khinh rẻ; cũng có người đọc là “uññātaṃ”. “Bị khinh rẻ” là được biết đến qua sự khinh miệt. “Bị ghê tởm” là bị kinh tởm. “Bị xem thường” là bị đối xử khinh thường với ý nghĩ “kẻ này thì có gì đâu”. “Không được tôn trọng” là không được coi trọng.

Koṭṭhakakammanti tacchakakammaṃ. Muddāti hatthamuddāgaṇanā. Gaṇanāti acchiddakādiavasesagaṇanā. Lekhāti akkharalekhā. Madhumehābādho vedanāya abhāvato ‘‘ukkaṭṭho’’ti vutto. Pāṭikaṅkhāti icchitabbā. Yakārena vā bhakārena vāti yakārabhakāre yojetvā yo akkoso. Kāṭakoṭacikāya vāti ‘‘kāṭa’’nti purisanimittaṃ, ‘‘koṭacikā’’ti itthinimittaṃ; etehi vā yo akkoso, eso hīno nāma akkosoti.
Nghề thợ tiện/đục” là nghề thợ mộc. “Ấn tín” là cách đếm bằng ấn tay. “Sự tính toán” là các cách tính toán còn lại như tính không sai sót v.v… “Chữ viết” là chữ cái được viết. Bệnh tiểu đường, do không có cảm giác đau đớn, nên được gọi là “thậm tệ”. “Cần được mong đợi” là cần được ước muốn. “Bằng chữ ‘ya’ hoặc bằng chữ ‘bha’” có nghĩa là lời mắng nhiếc nào dùng đến chữ ‘ya’ và chữ ‘bha’. “Bằng kāṭa hoặc koṭacikā” có nghĩa là: “kāṭa” là bộ phận sinh dục nam, “koṭacikā” là bộ phận sinh dục nữ; lời mắng nhiếc nào dùng những từ này, đó gọi là lời mắng nhiếc hạ tiện.

16. Idāni tesaṃ jātiādīnaṃ pabhedavasena āpattiṃ āropetvā dassento ‘‘upasampanno upasampanna’’ntiādimāha. Tattha khuṃsetukāmo vambhetukāmo maṅkukattukāmoti akkositukāmo padhaṃsitukāmo garahitukāmo nittejaṃ kattukāmoti attho. Hīnena hīnanti hīnena jātivacanena hīnajātikaṃ. Etena upāyena sabbapadesu attho veditabbo.
16. Bây giờ, để trình bày bằng cách quy tội dựa theo sự phân biệt về giai cấp v.v… của họ, Ngài nói bắt đầu bằng “người đã thọ cụ túc giới (mắng nhiếc) người đã thọ cụ túc giới“. Trong đó, “muốn mắng nhiếc, muốn khinh miệt, muốn làm cho hổ thẹn” có nghĩa là muốn chửi rủa, muốn lăng mạ, muốn khiển trách, muốn làm cho mất uy tín. “Bằng (lời) hạ tiện đối với người hạ tiện” có nghĩa là dùng lời nói về giai cấp hạ tiện để (mắng) người thuộc giai cấp hạ tiện. Ý nghĩa trong tất cả các trường hợp cần được hiểu theo phương pháp này.

Ettha ca hīnena hīnaṃ vadanto kiñcāpi saccaṃ vadati, omasitukāmatāya panassa vācāya vācāya pācittiyaṃ. Ukkaṭṭhena hīnaṃ vadanto ca kiñcāpi alikaṃ bhaṇati, omasitukāmatāya pana imināva sikkhāpadena pācittiyaṃ āpajjati, na purimena. Yopi ‘‘aticaṇḍālosi, atibrāhmaṇosi, duṭṭhacaṇḍālosi, duṭṭhabrāhmaṇosī’’tiādīni vadati, sopi āpattiyā kāretabbo.
Và ở đây, người nói lời hạ tiện với người hạ tiện, dù nói đúng sự thật, nhưng do có ý muốn miệt thị, mỗi lời nói đều phạm tội Ưng Đối Trị. Còn người nói lời thậm tệ với người hạ tiện, dù nói sai sự thật, nhưng do có ý muốn miệt thị, cũng phạm tội Ưng Đối Trị theo học giới này, chứ không phải theo học giới trước. Người nào nói những lời như “ngươi là kẻ quá tiện dân, ngươi là kẻ quá Bà-la-môn, ngươi là kẻ tiện dân xấu xa, ngươi là kẻ Bà-la-môn xấu xa” v.v…, người đó cũng phải bị xử tội.

26.Santiidhekacceti vāre pana pariharitvā vuttabhāvena dukkaṭaṃ. Eseva nayo ye nūna…pe… na mayanti vāresupi. Anupasampanne pana catūsupi vāresu dukkaṭameva. Corosi gaṇṭhibhedakosītiādivacanehi pana upasampannepi anupampannepi sabbavāresu dukkaṭameva. Davakamyatāya pana upasampannepi anupasampannepi sabbavāresu dubbhāsitaṃ. Davakamyatā nāma keḷihasādhippāyatā. Imasmiñca sikkhāpade ṭhapetvā bhikkhuṃ bhikkhunīādayo sabbasattā anupasampannaṭṭhāne ṭhitāti veditabbā.
26. Còn trong trường hợp “Có một số người ở đây“, do nói tránh đi, phạm tội Tác Ác. Phương pháp này cũng áp dụng cho các trường hợp “Những ai quả thật… (v.v.)… không phải chúng tôi“. Còn đối với người chưa thọ cụ túc giới, trong cả bốn trường hợp đều phạm tội Tác Ác. Nhưng với những lời như “ngươi là kẻ trộm, ngươi là kẻ phá nhà”, dù đối với người đã thọ cụ túc giới hay chưa thọ cụ túc giới, trong tất cả các trường hợp đều phạm tội Tác Ác. Còn do ý muốn đùa giỡn, dù đối với người đã thọ cụ túc giới hay chưa thọ cụ túc giới, trong tất cả các trường hợp đều là lời nói ác khẩu. Ý muốn đùa giỡn có nghĩa là có ý định trêu chọc, cười cợt. Và trong học giới này, ngoại trừ tỳ-kheo, cần hiểu rằng tỳ-kheo-ni v.v…, tất cả chúng sanh, đều được xem như ở vị trí người chưa thọ cụ túc giới.

35.Atthapurekkhārassātiādīsu pāḷiyā atthaṃ vaṇṇayanto atthapurekkhāro; pāḷiṃ vācento dhammapurekkhāro; anusiṭṭhiyaṃ ṭhatvā ‘‘idānipi caṇḍālosi, pāpaṃ mā akāsi, mā tamo tamaparāyaṇo ahosī’’tiādinā nayena kathento anusāsanīpurekkhāro nāmāti veditabbo. Sesaṃ uttānameva.
35. Trong những câu như “của người lấy ý nghĩa làm đầu” v.v…, người giải thích ý nghĩa của Pāḷi là người lấy ý nghĩa làm đầu; người đọc tụng Pāḷi là người lấy Pháp làm đầu; đứng trên lập trường giáo huấn, người nói theo cách “dù bây giờ ngươi là tiện dân, đừng làm điều ác, đừng đi từ bóng tối vào bóng tối hơn” v.v…, cần được hiểu là người lấy sự giáo huấn làm đầu. Phần còn lại thì ý nghĩa đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti. Kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti. Dubbhāsitāpatti panettha vācācittato samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, akusalacittaṃ, dvivedanaṃ sukhā ca majjhattā cāti.
(Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, bị đời chê bai, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (do) tâm bất thiện, (và có) cảm thọ khổ (đi kèm). Còn tội Ác khẩu ở đây thì phát sinh từ khẩu và tâm, là hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, (do) tâm bất thiện, (và có) hai cảm thọ (đi kèm): lạc và xả.

Omasavādasikkhāpadaṃ dutiyaṃ.

Học giới nói lời miệt thị, điều thứ hai.

3. Pesuññasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích học giới nói lời đâm thọc

36. Tatiyasikkhāpade – bhaṇḍanajātānanti sañjātabhaṇḍanānaṃ. Bhaṇḍananti kalahassa pubbabhāgo, ‘‘iminā ca iminā ca idaṃ kataṃ; evaṃ vutte evaṃ vakkhāmā’’tiādikaṃ sakasakapakkhe sammantanaṃ. Kalahoti āpattigāmiko kāyavācāvītikkamo. Vivādoti viggāhikakathā. Taṃ vivādaṃ āpannānaṃ vivādāpannānaṃPesuññanti pisuṇavācaṃ, piyabhāvassa suññakaraṇavācanti vuttaṃ hoti.
36. Trong học giới thứ ba, “Của những người đã sinh sự cãi vã” có nghĩa là của những người đã phát sinh sự cãi vã. “Sự cãi vã” là giai đoạn trước của sự tranh chấp, là sự bàn bạc trong phe nhóm của mình như “người này và người kia đã làm điều này; nếu bị nói thế này, chúng ta sẽ nói thế kia” v.v… “Sự tranh chấp” là sự vi phạm qua thân và lời nói dẫn đến tội. “Sự tranh luận” là lời nói mang tính tranh cãi. “Của những người đã rơi vào sự tranh luận đó“. “Lời đâm thọc” là lời nói chia rẽ, được nói là lời nói làm cho tình thân ái trở nên trống rỗng.

37.Bhikkhupesuññeti bhikkhūnaṃ pesuññe; bhikkhuto sutvā bhikkhunā bhikkhussa upasaṃhaṭapesuññeti attho.
37. “Trong việc đâm thọc Tỳ-khưu” là sự đâm thọc của các Tỳ-khưu; có nghĩa là lời đâm thọc được một Tỳ-khưu nghe từ một Tỳ-khưu (khác) rồi đem đến cho một Tỳ-khưu (thứ ba).

38.Dvīhākārehīti dvīhi kāraṇehi. Piyakamyassa vāti ‘‘evaṃ ahaṃ etassa piyo bhavissāmī’’ti attano piyabhāvaṃ patthayamānassa vā. Bhedādhippāyassa vāti ‘‘evamayaṃ etena saddhiṃ bhijjissatī’’ti parassa parena bhedaṃ icchantassa vā. Jātitopītiādi sabbaṃ purimasikkhāpade vuttanayameva. Idhāpi bhikkhuniṃ ādiṃ katvā sabbe anupasampannā nāma.
38. “Bởi hai trường hợp” có nghĩa là bởi hai lý do. “Hoặc của người muốn được yêu mến” có nghĩa là hoặc của người mong muốn mình được người kia yêu mến rằng “làm như vậy ta sẽ được người này yêu mến”. “Hoặc của người có ý định chia rẽ” có nghĩa là hoặc của người muốn người khác chia rẽ với người nọ rằng “làm như vậy người này sẽ chia rẽ với người kia”. “Cả từ giai cấp” v.v…, tất cả đều theo phương pháp đã được nói trong học giới trước. Ở đây cũng vậy, Tỳ-khưu-ni v.v…, tất cả (những người khác ngoài Tỳ-khưu) đều gọi là người chưa thọ cụ túc giới.

Na piyakamyassa na bhedādhippāyassāti ekaṃ akkosantaṃ ekañca khamantaṃ disvā ‘‘aho nillajjo, īdisampi nāma bhavantaṃ puna vattabbaṃ maññissatī’’ti evaṃ kevalaṃ pāpagarahitāya bhaṇantassa anāpatti. Sesaṃ uttānatthameva. Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti , kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, tivedananti.
Không phải của người muốn được yêu mến, không phải của người có ý định chia rẽ” có nghĩa là: khi thấy một người đang chửi mắng và một người đang nhẫn nhịn, người nói chỉ với ý khiển trách điều ác rằng “Ôi, thật không biết hổ thẹn, hạng người như ngài mà lại còn nghĩ đến việc nói lại những điều như vậy nữa ư!”, thì không phạm tội. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng. (Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, bị đời chê bai, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (do) tâm bất thiện, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Pesuññasikkhāpadaṃ tatiyaṃ.

Học giới nói lời đâm thọc, điều thứ ba.

4. Padasodhammasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích học giới dạy Pháp từng câu

44. Catutthasikkhāpade – appatissāti appatissavā. Upāsakāti vutte vacanampi na sotukāmā; anādarāti attho. Appatissayā vā anīcavuttinoti attho. Asabhāgavuttikāti visabhāgajīvikā, yathā bhikkhūsu vattitabbaṃ; evaṃ appavattavuttinoti attho.
44. Trong học giới thứ tư, “Không kính trọng” có nghĩa là không vâng lời. Khi được gọi là “cư sĩ”, cũng không muốn nghe lời; có nghĩa là không tôn kính. Hoặc “không kính trọng” có nghĩa là có thái độ không khiêm hạ. “Người có cách sống không tương đồng” là người có đời sống không phù hợp, có nghĩa là người không hành xử theo cách mà lẽ ra phải hành xử đối với các Tỳ-khưu.

45.Padaso dhammaṃ vāceyyāti ekato padaṃ padaṃ dhammaṃ vāceyya; koṭṭhāsaṃ koṭṭhāsaṃ vāceyyāti attho. Yasmā pana taṃ koṭṭhāsanāmakaṃ padaṃ catubbidhaṃ hoti, tasmā taṃ dassetuṃ ‘‘padaṃ anupadaṃ anvakkharaṃ anubyañjana’’nti padabhājanaṃ vuttaṃ. Tattha padanti eko gāthāpādo adhippeto. Anupadanti dutiyapādo. Anvakkharanti ekekamakkharaṃ. Anubyañjananti purimabyañjanena sadisaṃ pacchābyañjanaṃ. Yaṃ kiñci vā ekamakkharaṃ anvakkharaṃ, akkharasamūho anubyañjanaṃ, akkharānubyañjanasamūho padaṃ. Paṭhamapadaṃ padameva, dutiyaṃ anupadanti evamettha nānākaraṇaṃ veditabbaṃ.
45. “Nên dạy Pháp từng câu” có nghĩa là cùng nhau dạy Pháp từng câu từng câu; có nghĩa là dạy từng phần từng phần. Nhưng vì “câu” được gọi là “phần” đó có bốn loại, do đó, để trình bày điều đó, sự phân chia câu được nói là “câu, câu theo sau, theo từng chữ, theo cụm chữ”. Trong đó, “câu” được hiểu là một dòng kệ. “Câu theo sau” là dòng kệ thứ hai. “Theo từng chữ” là mỗi một chữ cái. “Theo cụm chữ” là cụm chữ sau giống với cụm chữ trước. Hoặc bất kỳ một chữ cái nào là “theo từng chữ”, tập hợp các chữ cái là “theo cụm chữ”, tập hợp các chữ và cụm chữ là “câu”. Câu đầu tiên chính là “câu”, câu thứ hai là “câu theo sau”; sự khác biệt ở đây cần được hiểu như vậy.

Idāni padaṃ nāma ekato paṭṭhapetvā ekato osāpentīti gāthābandhaṃ dhammaṃ vācento ‘‘manopubbaṅgamā dhammā’’ti ekamekaṃ padaṃ sāmaṇerena saddhiṃ ekato ārabhitvā ekatoyeva niṭṭhāpeti. Evaṃ vācentassa padagaṇanāya pācittiyā veditabbā. Anupadaṃ nāma pāṭekkaṃ paṭṭhapetvā ekato osāpentīti therena ‘‘manopubbaṅgamā dhammā’’ti vutte sāmaṇero taṃ padaṃ apāpuṇitvā ‘‘manoseṭṭhā manomayā’’ti dutiyapadaṃ ekato bhaṇati, ime pāṭekkaṃ paṭṭhapetvā ekato osāpenti nāma. Evaṃ vācentassāpi anupadagaṇanāya pācittiyā. Anvakkharaṃ nāma rūpaṃ aniccantivuccamāno ‘‘rū’’ti opātetīti ‘‘rūpaṃ aniccanti bhaṇa sāmaṇerā’’ti vuccamāno rūkāramattameva ekato vatvā tiṭṭhati. Evaṃ vācentassāpi anvakkharagaṇanāya pācittiyā. Gāthābandhepi ca esa nayo labbhatiyeva. Anubyañjanaṃ nāma rūpaṃ aniccanti vuccamāno vedanā aniccāti saddaṃ nicchāretīti ‘‘rūpaṃ, bhikkhave, aniccaṃ, vedanā aniccā’’ti imaṃ suttaṃ vācayamāno therena ‘‘rūpaṃ anicca’’nti vuccamāno sāmaṇero sīghapaññatāya ‘‘vedanā aniccā’’ti imaṃ aniccapadaṃ therassa ‘‘rūpaṃ anicca’’nti etena aniccapadena saddhiṃ ekato bhaṇanto vācaṃ nicchāreti. Evaṃ vācentassāpi anubyañjanagaṇanāya pācittiyā. Ayaṃ panettha saṅkhepo – imesu padādīsu yaṃ yaṃ ekato bhaṇati tena tena āpattiṃ āpajjatīti.
Bây giờ, “gọi là câu khi bắt đầu cùng nhau và kết thúc cùng nhau” có nghĩa là: khi dạy Pháp dưới dạng kệ, vị ấy cùng với vị sa-di bắt đầu mỗi một câu như “Ý dẫn đầu các pháp” cùng một lúc và kết thúc cũng cùng một lúc. Người dạy như vậy cần biết là phạm tội Ưng Đối Trị theo số lượng câu. “Gọi là câu theo sau khi mỗi người bắt đầu riêng nhưng kết thúc cùng nhau” có nghĩa là: khi vị trưởng lão nói “Ý dẫn đầu các pháp”, vị sa-di không kịp theo câu đó, mà đọc chung câu thứ hai “Ý làm chủ, ý tạo tác”. Đây gọi là mỗi người bắt đầu riêng nhưng kết thúc cùng nhau. Người dạy như vậy cũng phạm tội Ưng Đối Trị theo số lượng câu theo sau. “Gọi là theo từng chữ khi được bảo ‘sắc là vô thường’ mà chỉ xen vào ‘sắc’” có nghĩa là: khi được bảo “Này sa-di, hãy đọc ‘sắc là vô thường'”, vị ấy chỉ đọc chung mỗi chữ “sắc” rồi dừng lại. Người dạy như vậy cũng phạm tội Ưng Đối Trị theo số lượng chữ. Và phương pháp này cũng được áp dụng cả trong trường hợp Pháp dưới dạng kệ. “Gọi là theo cụm chữ khi được bảo ‘sắc là vô thường’ mà lại phát ra tiếng ‘thọ là vô thường’” có nghĩa là: khi đang dạy kinh này “Này các Tỳ-khưu, sắc là vô thường, thọ là vô thường”, lúc vị trưởng lão nói “sắc là vô thường”, vị sa-di do trí tuệ nhanh nhạy, đã phát âm đọc chung cụm từ “thọ là vô thường” này cùng với cụm từ “vô thường” trong câu “sắc là vô thường” của vị trưởng lão. Người dạy như vậy cũng phạm tội Ưng Đối Trị theo số lượng cụm chữ. Đây là tóm tắt ở đây: trong những trường hợp câu v.v… này, hễ đọc chung phần nào thì phạm tội theo phần đó.

Buddhabhāsitoti sakalaṃ vinayapiṭakaṃ abhidhammapiṭakaṃ dhammapadaṃ cariyāpiṭakaṃ udānaṃ itivuttakaṃ jātakaṃ suttanipāto vimānavatthu petavatthu brahmajālādīni ca suttāni. Sāvakabhāsitoti catuparisapariyāpannehi sāvakehi bhāsito anaṅgaṇasammādiṭṭhianumānasuttacuḷavedallamahāvedallādiko. Isibhāsitoti bāhiraparibbājakehi bhāsito sakalo paribbājakavaggo, bāvariyassa antevāsikānaṃ soḷasannaṃ brāhmaṇānaṃ pucchāti evamādi. Devatābhāsitoti devatāhi bhāsito; so devatāsaṃyuttadevaputtasaṃyuttamārasaṃyuttabrahmasaṃyuttasakkasaṃyuttādivasena veditabbo.
Lời Phật dạy” là toàn bộ Tạng Luật, Tạng Vi Diệu Pháp, kinh Pháp Cú, Hạnh Tạng, Phật Tự Thuyết, Phật Thuyết Như Vậy, Bổn Sanh, Kinh Tập, Chuyện Thiên Cung, Chuyện Ngạ Quỷ, và các kinh như Phạm Võng v.v… “Lời Thánh đệ tử dạy” là lời dạy của các vị Thánh đệ tử thuộc bốn chúng, như kinh Vô Cấu, kinh Chánh Tri Kiến, kinh Suy Xét, kinh Tiểu Phân Biệt, kinh Đại Phân Biệt v.v… “Lời tiên nhân dạy” là lời dạy của các du sĩ ngoại đạo, toàn bộ Phẩm Du Sĩ, những câu hỏi của mười sáu vị Bà-la-môn đệ tử của Bāvari v.v… “Lời chư thiên dạy” là lời dạy của chư thiên; điều đó cần được hiểu qua Tương Ưng Chư Thiên, Tương Ưng Thiên Tử, Tương Ưng Ma, Tương Ưng Phạm Thiên, Tương Ưng Đế Thích v.v…

Atthūpasañhitoti aṭṭhakathānissito. Dhammūpasañhitoti pāḷinissito; ubhayenāpi vivaṭṭūpanissitameva vadati. Kiñcāpi vivaṭṭūpanissitaṃ vadati, tisso saṅgītiyo āruḷhadhammaṃyeva pana padaso vācentassa āpatti . Vivaṭṭūpanissitepi nānābhāsāvasena gāthāsilokabandhādīhi abhisaṅkhate anāpatti. Tisso saṅgītiyo anāruḷhepi kulumbasuttaṃ rājovādasuttaṃ tikkhindriyaṃ catuparivaṭṭaṃ nandopanandanti īdise āpattiyeva. Apalāladamanampi vuttaṃ, mahāpaccariyampana paṭisiddhaṃ. Meṇḍakamilindapañhesu therassa sakapaṭibhāne anāpatti, yaṃ rañño saññāpanatthaṃ āharitvā vuttaṃ, tattha āpatti. Vaṇṇapiṭakaaṅgulimālapiṭakaraṭṭhapālagaajataāḷavakagajjitaguḷhamaggaguḷhavessantaraguḷhavinayavedallapiṭakāni pana abuddhavacanāniyevāti vuttaṃ. Sīlūpadeso nāma dhammasenāpatinā vuttoti vadanti, tasmiṃ āpattiyeva. Aññānipi maggakathāārammaṇakathābuddhikadaṇḍaka ñāṇavatthuasubhakathādīni atthi, tesu sattatiṃsa bodhipakkhiyadhammā vibhattā, dhutaṅgapañhe paṭipadā vibhattā; tasmā tesu āpattīti vuttaṃ. Mahāpaccariyādīsu pana saṅgītiṃ anāruḷhesu rājovādatikkhindriyacatuparivaṭṭanandopanandakulumbasuttesuyeva āpattīti vatvā avasesesu yaṃ buddhavacanato āharitvā vuttaṃ, tadeva āpattivatthu hoti, na itaranti ayamattho pariggahito.
Liên hệ đến ý nghĩa” là dựa vào sớ giải. “Liên hệ đến Pháp” là dựa vào Pāḷi; cả hai đều nói về những gì liên hệ đến giải thoát. Dù nói về những gì liên hệ đến giải thoát, nhưng chỉ khi dạy từng câu Pháp đã được đưa vào ba kỳ kết tập thì mới phạm tội. Ngay cả đối với những gì liên hệ đến giải thoát, nếu được soạn bằng các ngôn ngữ khác nhau, dưới dạng kệ, thi kệ v.v…, thì không phạm tội. Dù không được đưa vào ba kỳ kết tập, nhưng đối với những kinh như kinh Kulumba, kinh Rājovāda, kinh Tikkhindriya, Catuparivaṭṭa, Nandopananda, thì vẫn phạm tội. (Kinh) Apalāladamana cũng được đề cập, nhưng trong Mahāpaccari thì bị cấm. Trong các câu hỏi Meṇḍaka và Milinda, nếu do trí tuệ biện tài riêng của vị trưởng lão thì không phạm tội; phần nào được trích dẫn để làm cho nhà vua hiểu rõ, thì ở đó phạm tội. Còn các tạng như Vaṇṇapiṭaka, Aṅgulimālapiṭaka, Raṭṭhapālapiṭaka, Āḷavakagajjita, Guḷhamagga, Guḷhavessantara, Guḷhavinaya, Vedallapiṭaka thì được nói là hoàn toàn không phải lời Phật dạy. (Tác phẩm) Sīlūpadesa được cho là do vị Tướng quân Chánh pháp nói, đối với tác phẩm đó vẫn phạm tội. Cũng có những tác phẩm khác như Luận về đạo lộ, Luận về đối tượng, Buddhikadaṇḍaka, Ñāṇavatthu, Luận về sự bất tịnh v.v…, trong đó ba mươi bảy phẩm trợ đạo được phân tích, trong Dhutaṅgapañha, con đường thực hành được phân tích; do đó, được nói là phạm tội đối với những tác phẩm đó. Còn trong các sớ giải như Mahāpaccari v.v…, sau khi nói rằng chỉ phạm tội đối với những kinh không được đưa vào kỳ kết tập như kinh Rājovāda, kinh Tikkhindriya, Catuparivaṭṭa, Nandopananda, kinh Kulumba, thì đối với phần còn lại, ý này được chấp nhận rằng: phần nào được trích dẫn từ lời Phật dạy thì đó mới là đối tượng phạm tội, chứ không phải phần khác.

48.Ekato uddisāpentoti anupasampannena saddhiṃ ekato uddesaṃ gaṇhantopi ekato vadati anāpattīti attho.
48. “Khi cùng nhau chỉ dạy” có nghĩa là ngay cả khi cùng người chưa thọ cụ túc giới tiếp nhận sự chỉ dạy, nếu đọc chung với người đó thì không phạm tội.

Tatrāyaṃ vinicchayo – upasampanno ca anupasampanno ca nisīditvā uddisāpenti. Ācariyo nisinnānaṃ bhaṇāmīti tehi saddhiṃ ekato vadati, ācariyassa āpatti. Anupasampannena saddhiṃ gaṇhantassa anāpatti. Dvepi ṭhitā gaṇhanti, eseva nayo. Daharabhikkhu nisinno, sāmaṇero ṭhito, nisinnassa bhaṇāmīti bhaṇato anāpatti. Sace daharo tiṭṭhati, itaro nisīdati, ṭhitassa bhaṇāmīti bhaṇatopi anāpatti. Sace bahūnaṃ bhikkhūnaṃ antare eko sāmaṇero nisinno hoti, tasmiṃ nisinne padaso dhammaṃ vācentassa ācariyassa acittakāpatti. Sace sāmaṇero upacāraṃ muñcitvā ṭhito vā nisinno vā hoti, yesaṃ vāceti, tesu apariyāpannattā ekena disābhāgena palāyanakaganthaṃ nāma gaṇhātīti saṅkhyaṃ gacchati , tasmā anāpatti. Ekato sajjhāyaṃ karontopi anupasampannena saddhiṃ upasampanno ekato sajjhāyaṃ karonto  tena saddhiṃyeva bhaṇati, anāpatti. Anupasampannassa santike uddesaṃ gaṇhantassapi tena saddhiṃ ekato bhaṇantassa anāpatti. Ayampi hi ekato sajjhāyaṃ karoticceva saṅkhyaṃ gacchati .
Đây là phần quyết định về điều đó: người đã thọ cụ túc giới và người chưa thọ cụ túc giới cùng ngồi xuống để được chỉ dạy. Vị thầy nói “Tôi sẽ dạy cho những người đang ngồi”, rồi đọc chung với họ, vị thầy phạm tội. Người học chung với người chưa thọ cụ túc giới thì không phạm tội. Cả hai cùng đứng học, cũng theo phương pháp này. Tỳ-khưu trẻ tuổi ngồi, vị sa-di đứng, nếu (vị thầy) nói “Tôi sẽ dạy cho người đang ngồi” rồi đọc (chung với vị ấy), thì không phạm tội. Nếu Tỳ-khưu trẻ đứng, người kia (sa-di) ngồi, nếu (vị thầy) nói “Tôi sẽ dạy cho người đang đứng” rồi đọc (chung với vị ấy), cũng không phạm tội. Nếu giữa nhiều Tỳ-khưu có một vị sa-di ngồi, khi vị thầy dạy Pháp từng câu trong lúc vị sa-di đó đang ngồi, vị thầy phạm tội vô ý. Nếu vị sa-di đứng hoặc ngồi ngoài phạm vi, do không thuộc vào nhóm những người đang được dạy, vị ấy được kể là đang học theo kiểu “bắt bài lén ở một phía”, do đó không phạm tội. Ngay cả khi cùng nhau đọc tụng, người đã thọ cụ túc giới cùng đọc tụng với người chưa thọ cụ túc giới, nếu đọc chung với người đó, thì không phạm tội. Ngay cả người học bài từ một người chưa thọ cụ túc giới, nếu đọc chung với người đó, cũng không phạm tội. Vì trường hợp này cũng được kể là cùng nhau đọc tụng.

Yebhuyyena paguṇaṃ ganthaṃ bhaṇantaṃ opātetīti sace ekagāthāya eko pādo na āgacchati, sesaṃ āgacchati, ayaṃ yebhuyyena paguṇagantho nāma. Etena nayena suttepi veditabbo. Taṃ opātentassa evaṃ bhaṇāhīti ekatopi bhaṇantassa anāpatti. Osārentaṃ opātetīti suttaṃ uccārentaṃ parisamajjhe parisaṅkamānaṃ evaṃ vadehīti tena saddhiṃ ekatopi vadantassa anāpatti. Yaṃ pana mahāpaccariyādīsu ‘‘mayā saddhiṃ mā vadā’’ti vutto yadi vadati, ‘‘anāpattī’’ti vuttaṃ, taṃ mahāaṭṭhakathāyaṃ natthi, natthibhāvoyeva cassa yutto . Kasmā? Kiriyasamuṭṭhānattā. Itarathā hi kiriyākiriyaṃ bhaveyya. Sesaṃ uttānatthameva.
Xen vào khi người kia đang đọc một đoạn kinh đã thuộc phần lớn” có nghĩa là: nếu trong một bài kệ, có một dòng không thuộc, phần còn lại thì thuộc, đây gọi là đoạn kinh đã thuộc phần lớn. Đối với kinh văn cũng cần được hiểu theo phương pháp này. Người xen vào để nhắc “hãy đọc như thế này”, dù đọc chung, cũng không phạm tội. “Xen vào khi người kia đang trình bày” có nghĩa là: khi người kia đang đọc lớn kinh, đi lại giữa hội chúng, nếu xen vào nói “hãy nói như thế này” rồi đọc chung với người đó, cũng không phạm tội. Còn điều được nói trong Mahāpaccari v.v… rằng: nếu người kia được bảo “đừng đọc chung với tôi” mà vẫn đọc, thì “không phạm tội”, điều đó không có trong Đại Sớ Giải, và việc nó không có (trong Đại Sớ Giải) là hợp lý. Tại sao? Vì (tội này) phát sinh từ hành động. Nếu không thì sẽ thành ra hành động (mà lại) không phải hành động. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Padasodhammasamuṭṭhānaṃ – vācato ca vācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Cách phát sinh của (tội trong) học giới dạy Pháp từng câu là: phát sinh từ lời nói, và từ lời nói cùng với tâm; là hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Padasodhammasikkhāpadaṃ catutthaṃ.

Học giới dạy Pháp từng câu, điều thứ tư.

5. Sahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích học giới ngủ chung

49. Pañcamasikkhāpade – muṭṭhassatī asampajānāti pubbabhāge satisampajaññassa akaraṇavasenetaṃ vuttaṃ, bhavaṅgotiṇṇakāle pana kuto satisampajaññanti! Vikūjamānāti vippalapamānā . Kākacchamānāti nāsāya kākasaddaṃ viya niratthakasaddaṃ muñcamānā. Upāsakāti paṭhamataraṃ uṭṭhitaupāsakā.
49. Trong học giới thứ năm, “Thất niệm, không tỉnh giác” – điều này được nói do không thực hành chánh niệm và tỉnh giác ở giai đoạn trước (khi ngủ), chứ khi đã rơi vào trạng thái hữu phần, thì làm sao có chánh niệm và tỉnh giác được! “Nói mê” có nghĩa là nói lảm nhảm. “Ngáy” có nghĩa là phát ra âm thanh vô nghĩa qua mũi giống như tiếng quạ kêu. “Các vị cư sĩ” là những vị cư sĩ đã thức dậy sớm hơn.

50.Etadavocunti ‘‘bhagavatā āvuso rāhula sikkhāpadaṃ paññatta’’nti bhikkhū sikkhāpadagāraveneva etaṃ avocuṃ. Pakatiyā pana te bhagavati ca gāravena āyasmato ca rāhulassa sikkhākāmatāya tassa āyasmato vasanaṭṭhānaṃ āgatassa cūḷamañcakaṃ vā apassenaṃ vā yaṃ atthi taṃ paññapetvā cīvaraṃ vā uttarāsaṅgaṃ vā ussīsakaraṇatthāya denti . Tatridaṃ tassāyasmato sikkhākāmatāya – bhikkhū kira taṃ dūratova āgacchantaṃ disvā muṭṭhisammuñjaniñca kacavarachaḍḍanakañca bahi khipanti. Athaññehi ‘‘āvuso kenidaṃ pātita’’nti vutte aññe evaṃ vadanti – ‘‘bhante, rāhulo imasmiṃ padese sañcari, tena nu kho pātita’’nti. So panāyasmā ‘‘na mayhaṃ bhante idaṃ kamma’’nti ekadivasampi avatvā taṃ paṭisāmetvā bhikkhū khamāpetvā gacchati Vaccakuṭiyā seyyaṃ kappesīti taṃyeva sikkhākāmataṃ anubrūhanto dhammasenāpatimahāmoggallānaānandattherādīnaṃ santikaṃ agantvā bhagavato vaḷañjanakavaccakuṭiyaṃ seyyaṃ kappesi. Sā kira kuṭi kavāṭabaddhā gandhaparibhaṇḍakatā samosaritapupphadāmā cetiyaṭṭhānamiva tiṭṭhati, aparibhogā aññesaṃ.
50. “Họ đã nói điều này” có nghĩa là: các Tỳ-khưu, do tôn kính học giới, đã nói điều này rằng: “Này hiền giả Rāhula, Đức Thế Tôn đã chế định học giới”. Nhưng thường lệ, họ (các Tỳ-khưu), do lòng tôn kính đối với Đức Thế Tôn và do sự ham học của Tôn giả Rāhula, khi Tôn giả ấy đến nơi ở của họ, đã sắp đặt giường nhỏ hoặc ghế dựa, hoặc bất cứ thứ gì có sẵn, và dâng y hoặc thượng y để làm gối. Đây là (ví dụ) về sự ham học của Tôn giả ấy: tương truyền, các Tỳ-khưu khi thấy ngài từ xa đi đến, liền ném chổi và đồ hốt rác ra ngoài. Rồi khi những người khác hỏi: “Này hiền giả, ai làm rơi cái này?”, những người khác (nữa) nói rằng: “Bạch Đại đức, (Tôn giả) Rāhula đã đi qua vùng này, có lẽ ngài ấy đã làm rơi chăng?”. Nhưng Tôn giả ấy, không một ngày nào nói rằng: “Bạch Đại đức, đây không phải là việc của con”, mà ngài dọn dẹp chúng, xin lỗi các Tỳ-khưu rồi mới đi. “Ngài đã ngủ trong nhà vệ sinh” có nghĩa là: để phát huy chính sự ham học ấy, ngài đã không đến gần các vị Trưởng lão như Dhammasenāpati, Mahāmoggallāna, Ānanda, mà đã ngủ trong nhà vệ sinh thường dùng của Đức Thế Tôn. Tương truyền, nhà vệ sinh ấy có cửa đóng then cài, được xông hương, treo những vòng hoa kết lại, trông giống như một nơi thờ tự, những người khác không sử dụng.

51.Uttaridirattatirattanti bhagavā sāmaṇerānaṃ saṅgahakaraṇatthāya tirattaṃ parihāraṃ adāsi. Na hi yuttaṃ kuladārake pabbājetvā nānuggahetunti. Sahaseyyanti ekato seyyaṃ. Seyyāti kāyappasāraṇasaṅkhātaṃ sayanampi vuccati, yasmiṃ senāsane sayanti, tampi. Tattha senāsanaṃ tāva dassetuṃ ‘‘seyyā nāma sabbacchannā’’tiādi vuttaṃ. Kāyappasāraṇaṃ dassetuṃ anupasampanne nipanne bhikkhu nipajjatī’’tiādi vuttaṃ. Tasmā ayamettha attho – ‘‘senāsanasaṅkhātaṃ seyyaṃ pavisitvā kāyappasāraṇasaṅkhātaṃ seyyaṃ kappeyya vidaheyya sampādeyyā’’ti. Sabbacchannātiādinā pana tassā senāsanasaṅkhātāya seyyāya lakkhaṇaṃ vuttaṃ. Tasmā yaṃ senāsanaṃ upari pañcahi chadanehi aññena vā kenaci sabbameva paṭicchannaṃ, ayaṃ sabbacchannā nāma seyyā. Aṭṭhakathāsu pana pākaṭavohāraṃ gahetvā vācuggatavasena ‘‘sabbacchannā nāma pañcahi chadanehi channā’’ti vuttaṃ. Kiñcāpi vuttaṃ? Atha kho dussakuṭiyaṃ vasantassāpi na sakkā anāpatti kātuṃ, tasmā yaṃ kiñci paṭicchādanasamatthaṃ idha chadanañca paricchannañca veditabbaṃ. Pañcavidhacchadaneyeva hi gayhamāne padaracchannepi sahaseyyā na bhaveyya. Yaṃ pana senāsanaṃ bhūmito paṭṭhāya yāva chadanaṃ āhacca pākārena vā aññena vā kenaci antamaso vatthenāpi parikkhittaṃ, ayaṃ sabbaparicchannā nāma seyyā. Chadanaṃ anāhacca sabbantimena pariyāyena diyaḍḍhahatthubbedhena pākārādinā parikkhittāpi sabbaparicchannāyevāti kurundaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Yassā pana upari bahutaraṃ ṭhānaṃ channaṃ, appaṃ acchannaṃ, samantato vā bahutaraṃ parikkhittaṃ, appaṃ aparikkhittaṃ, ayaṃ yebhuyyena channā yebhuyyena paricchannā nāma. Iminā hi lakkhaṇena samannāgato sacepi sattabhūmako pāsādo ekūpacāro hoti, satagabbhaṃ vā catussālaṃ vā, ekaseyyāicceva saṅkhyaṃ gacchati . Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘catutthe divase atthaṅgate sūriye anupasampanne nipanne bhikkhu nipajjati, āpatti pācittiyassā’’tiādi.
51. “Quá hai hoặc ba đêm” – Đức Thế Tôn, để nhiếp hóa các vị sa-di, đã cho phép (ngủ chung) ba đêm. Vì quả thật, không hợp lý khi cho con cái nhà lành xuất gia rồi lại không giúp đỡ. “Ngủ chung” là ngủ cùng một chỗ. “Chỗ ngủ” được gọi là sự nằm duỗi thân, và cũng là sàng tọa mà người ta nằm ngủ trên đó. Trong đó, để chỉ về sàng tọa, đã nói rằng “Chỗ ngủ gọi là được che hoàn toàn” v.v… Để chỉ về sự nằm duỗi thân, đã nói rằng “Khi người chưa thọ cụ túc giới nằm, Tỳ-khưu nằm xuống” v.v… Do đó, ý nghĩa ở đây là: “Sau khi vào chỗ ngủ được gọi là sàng tọa, nên thực hiện, sắp đặt, chuẩn bị chỗ ngủ được gọi là sự nằm duỗi thân”. Còn bằng những từ như “Được che hoàn toàn” v.v…, đặc điểm của chỗ ngủ được gọi là sàng tọa ấy đã được nói đến. Do đó, sàng tọa nào ở phía trên được che hoàn toàn bằng năm loại mái che hoặc bằng bất cứ thứ gì khác, đây gọi là chỗ ngủ được che hoàn toàn. Nhưng trong các sớ giải, do dựa theo cách nói thông thường, theo lối truyền khẩu, đã nói rằng “Chỗ ngủ được che hoàn toàn là được che bằng năm loại mái che”. Dù đã nói như vậy, nhưng ngay cả người ở trong lều vải cũng không thể không phạm tội, do đó, ở đây cần hiểu bất cứ thứ gì có khả năng che đậy đều là “mái che” và “được bao quanh”. Vì nếu chỉ chấp nhận năm loại mái che, thì việc ngủ chung ngay cả ở nơi có mái lợp bằng ván gỗ cũng sẽ không (phạm tội). Còn sàng tọa nào, từ mặt đất cho đến chạm mái che, được bao quanh bằng tường rào hoặc bằng bất cứ thứ gì khác, cho đến cả bằng vải, đây gọi là chỗ ngủ được bao quanh hoàn toàn. Ngay cả khi không chạm đến mái che, theo cách giải thích cuối cùng nhất, (nếu) được bao quanh bằng tường rào cao một thước rưỡi, cũng vẫn là được bao quanh hoàn toàn, theo như sách Kurundaṭṭhakathā nói. Còn (sàng tọa) nào mà phần lớn phía trên được che, một phần nhỏ không được che, hoặc phần lớn xung quanh được bao quanh, một phần nhỏ không được bao quanh, đây gọi là được che phần lớn, được bao quanh phần lớn. Nếu một tòa lâu đài bảy tầng có cùng một phạm vi, hoặc một ngôi nhà trăm phòng hay một nhà có bốn gian, mà hội đủ đặc điểm này, thì vẫn được kể là một chỗ ngủ duy nhất. Nhắm đến điều đó mà nói rằng: “Vào ngày thứ tư, sau khi mặt trời lặn, nếu người chưa thọ cụ túc giới nằm xuống, Tỳ-khưu nằm xuống (chung), phạm tội Ưng Đối Trị” v.v…

Tattha ca nipajjanamatteneva pācittiyaṃ. Sace pana sambahulā sāmaṇerā, eko bhikkhu, sāmaṇeragaṇanāya pācittiyā. Te ce uṭṭhāyuṭṭhāya nipajjanti, tesaṃ payoge payoge bhikkhussa āpatti. Bhikkhussa uṭṭhāyuṭṭhāya nipajjane pana bhikkhusseva payogena bhikkhussa āpatti. Sace pana sambahulā bhikkhū eko sāmaṇero sabbesaṃ āpattiṃ karoti, tassa uṭṭhāyuṭṭhāya nipajjanenapi bhikkhūnaṃ āpattiyeva. Ubhayesaṃ sambahulabhāvepi eseva nayo.
Và trong trường hợp đó, chỉ cần nằm xuống là phạm tội Ưng Đối Trị. Nhưng nếu có nhiều vị sa-di, (và) một Tỳ-khưu, (Tỳ-khưu) phạm (nhiều) tội Ưng Đối Trị theo số lượng sa-di. Nếu họ (các sa-di) cứ thức dậy rồi lại nằm xuống, mỗi lần họ làm như vậy, Tỳ-khưu đều phạm tội. Còn nếu Tỳ-khưu cứ thức dậy rồi lại nằm xuống, thì Tỳ-khưu phạm tội do chính hành động của Tỳ-khưu. Nhưng nếu có nhiều Tỳ-khưu, (và) một vị sa-di, (vị sa-di đó) làm cho tất cả (các Tỳ-khưu) phạm tội. Ngay cả khi vị sa-di đó cứ thức dậy rồi lại nằm xuống, các Tỳ-khưu vẫn phạm tội. Ngay cả khi cả hai bên đều đông, cũng theo phương pháp này.

Apicettha ekāvāsādikampi catukkaṃ veditabbaṃ. Yo hi ekasmiṃ āvāse ekeneva anupasampannena saddhiṃ tirattaṃ sahaseyyaṃ kappeti, tassa catutthadivasato paṭṭhāya devasikā āpatti. Yopi ekasmiṃyeva āvāse nānāanupasampannehi saddhiṃ tirattaṃ sahaseyyaṃ kappeti, tassapi. Yopi nānāāvāsesu ekeneva anupasampannena saddhiṃ tirattaṃ sahaseyyaṃ kappeti, tassapi. Yopi nānāāvāsesu nānāanupasampannehi saddhiṃ yojanasatampi gantvā sahaseyyaṃ kappeti, tassapi catutthadivasato paṭṭhāya devasikā āpatti.
Hơn nữa, ở đây, cũng cần biết đến bốn trường hợp liên quan đến một trú xứ v.v… Người nào ngủ chung ba đêm tại một trú xứ với chỉ một người chưa thọ cụ túc giới, kể từ ngày thứ tư, người đó mỗi ngày đều phạm tội. Người nào ngủ chung ba đêm tại cùng một trú xứ với nhiều người chưa thọ cụ túc giới khác nhau, cũng vậy (phạm tội). Người nào ngủ chung ba đêm tại nhiều trú xứ khác nhau với chỉ một người chưa thọ cụ túc giới, cũng vậy. Người nào ngủ chung tại nhiều trú xứ khác nhau với nhiều người chưa thọ cụ túc giới khác nhau, dù đi cả trăm do-tuần, người đó cũng kể từ ngày thứ tư, mỗi ngày đều phạm tội.

Ayañca sahaseyyāpatti nāma ‘‘bhikkhuṃ ṭhapetvā avaseso anupasampanno nāmā’’ti vacanato tiracchānagatenapi saddhiṃ hoti, tatra tiracchānagatassa paricchedo methunadhammāpattiyā vuttanayeneva veditabbo. Tasmā sacepi godhābiḷālamaṅgusādīsu koci pavisitvā bhikkhuno vasanasenāsane ekūpacāraṭṭhāne sayati, sahaseyyāva hoti.
Và tội ngủ chung này, theo nguyên tắc “ngoại trừ Tỳ-khưu, phần còn lại đều gọi là người chưa thọ cụ túc giới”, cũng xảy ra khi (ngủ chung) với cả loài bàng sanh. Ở đó, sự xác định loài bàng sanh (có thể phạm tội cùng) cần được hiểu theo phương pháp đã được nói trong tội liên quan đến hành vi tính dục. Do đó, nếu một con kỳ đà, mèo, chồn mang mongoose, v.v… nào đó vào và ngủ tại nơi ở của Tỳ-khưu, trong cùng một phạm vi, thì đó vẫn là ngủ chung (và phạm tội).

Yadi pana thambhānaṃ upari katapāsādassa uparimatalena saddhiṃ asambaddhabhittikassa bhittiyā upari ṭhitasusiratulāsīsassa susirena pavisitvā tulāya abbhantare sayitvā teneva susirena nikkhamitvā gacchati  , heṭṭhāpāsāde sayitabhikkhussa anāpatti. Sace chadane chiddaṃ hoti, tena pavisitvā antochadane vasitvā teneva pakkamati, nānūpacāre uparimatale chadanabbhantare sayitassa āpatti, heṭṭhimatale sayitassa anāpatti. Sace antopāsādeneva ārohitvā sabbatalāni paribhuñjanti, ekūpacārāni honti, tesu yattha katthaci sayitassa āpatti.
Nhưng nếu một tòa nhà được xây trên các cột, có tường không nối liền với tầng trên, (một con vật) vào qua lỗ hổng của rui mái nhà có lỗ hổng nằm trên tường, ngủ bên trong rui đó rồi đi ra bằng chính lỗ hổng đó, Tỳ-khưu ngủ ở tầng dưới của tòa nhà đó không phạm tội. Nếu mái nhà có lỗ thủng, (con vật) vào qua đó, ở bên trong mái che rồi đi ra bằng chính lỗ đó; Tỳ-khưu ngủ ở tầng trên, bên trong mái che (nơi con vật có thể vào), thì phạm tội; người ngủ ở tầng dưới không phạm tội. Nếu (người/vật) đi lên từ bên trong tòa nhà và sử dụng tất cả các tầng, thì tất cả các tầng đó là một phạm vi duy nhất, người ngủ ở bất kỳ đâu trong đó đều phạm tội (nếu ngủ chung).

Sabhāsaṅkhepena kate aḍḍhakuṭṭakasenāsane sayitassa vāḷasaṅghāṭādīsu kapotādayo pavisitvā sayanti, āpattiyeva. Parikkhepassa bahigate nibbakosabbhantare sayanti, anāpatti. Parimaṇḍalaṃ vā caturassaṃ vā ekacchadanāya gabbhamālāya satagabbhaṃ cepi senāsanaṃ hoti, tatra ce ekena sādhāraṇadvārena pavisitvā visuṃ pākārena aparicchinnagabbhūpacāre sabbagabbhe pavisanti, ekagabbhepi anupasampanne nipanne sabbagabbhesu nipannānaṃ āpatti. Sace sapamukhā gabbhā honti, pamukhassa upari acchannaṃ uccavatthukaṃ cepi hoti, pamukhe sayito gabbhe sayitānaṃ āpattiṃ na karoti. Sace pana gabbhacchadaneneva saddhiṃ sambaddhacchadanaṃ hoti, tatra sayito sabbesaṃ āpattiṃ karoti. Kasmā? Sabbacchannattā sabbaparicchannattā ca, gabbhaparikkhepoyeva hissa parikkhepoti. Eteneva hi nayena aṭṭhakathāsu lohapāsādaparikkhepassa catūsu dvārakoṭṭhakesu āpatti vuttā.
Khi (Tỳ-khưu) ngủ trong một sàng tọa có vách lửng được làm tạm bợ như một nhà hội, nếu chim bồ câu v.v… vào ngủ trong các khe hở của vì kèo v.v…, vẫn phạm tội. Nếu chúng ngủ bên ngoài hàng rào, bên trong một nơi không có tường bao, thì không phạm tội. Dù là một sàng tọa hình tròn hay vuông, có một trăm phòng, một dãy phòng dưới một mái che chung, nếu (người ta) vào qua một cửa chung và đi vào tất cả các phòng mà phạm vi của các phòng đó không được ngăn cách bằng tường riêng, chỉ cần một người chưa thọ cụ túc giới nằm trong một phòng, thì những người nằm trong tất cả các phòng khác đều phạm tội. Nếu các phòng có hiên phía trước, dù hiên đó không có mái che ở trên và có nền cao, người ngủ ở hiên không làm cho những người ngủ trong phòng phạm tội. Nhưng nếu hiên đó có mái che nối liền với mái che của phòng, người ngủ ở đó làm cho tất cả (những người trong phòng) phạm tội. Tại sao? Vì (nơi đó) được che hoàn toàn và được bao quanh hoàn toàn, và hàng rào của phòng cũng chính là hàng rào của nó (hiên). Chính theo phương pháp này mà trong các sớ giải, tội đã được nói đến đối với bốn cổng thành của khuôn viên Lohapāsāda.

Yaṃ pana andhakaṭṭhakathāyaṃ ‘‘aparikkhitte pamukhe anāpattīti bhūmiyaṃ vinā jagatiyā pamukhaṃ sandhāya kathina’’nti vuttaṃ, taṃ andhakaraṭṭhe pāṭekkasannivesā ekacchadanā gabbhapāḷiyo sandhāya vuttaṃ. Yañca tattha ‘‘bhūmiyaṃ vinā jagatiyā’’ti vuttaṃ, taṃ neva aṭṭhakathāsu atthi; na pāḷiyā sameti. Dasahatthubbedhāpi hi jagati parikkhepasaṅkhyaṃ na gacchati . Tasmā yampi tattha dutiyasikkhāpade jagatiyā pamāṇaṃ vatvā ‘‘etaṃ ekūpacāraṃ paricchannaṃ nāma hotī’’ti vuttaṃ, taṃ na gahetabbaṃ. Yepi ekasāladvisālatisālacatussālasannivesā mahāpāsādā ekasmiṃ okāse pāde dhovitvā paviṭṭhena sakkā honti sabbattha anuparigantuṃ , tesupi sahaseyyāpattiyā na muccati. Sace tasmiṃ tasmiṃ ṭhāne upacāraṃ paricchinditvā katā honti, ekūpacāraṭṭhāneyeva āpatti.
Còn điều được nói trong Andhakaṭṭhakathā rằng: “Ở hiên không có tường bao quanh thì không phạm tội”, (và rằng) “khó mà nói đến hiên không có nền đất trên mặt đất”, điều đó được nói nhắm đến những dãy phòng riêng lẻ có một mái che chung ở xứ Andhaka. Và điều được nói ở đó là “không có nền đất”, điều đó không có trong các sớ giải (khác); cũng không phù hợp với Pāḷi. Vì nền đất dù cao mười thước cũng không được kể là hàng rào bao quanh. Do đó, ngay cả điều được nói trong học giới thứ hai (của một phẩm khác?), sau khi nói về kích thước của nền đất, rằng “đây gọi là được bao quanh trong một phạm vi duy nhất”, điều đó không nên chấp nhận. Ngay cả những tòa nhà lớn có cấu trúc một gian, hai gian, ba gian, bốn gian, mà người ta có thể đi khắp nơi sau khi rửa chân ở một chỗ rồi đi vào, ở những nơi đó cũng không thoát khỏi tội ngủ chung. Nếu phạm vi được xác định và làm riêng cho từng nơi, thì chỉ phạm tội ở nơi có một phạm vi duy nhất (mà có ngủ chung).

Dvīhi dvārehi yuttassa sudhāchadanamaṇḍapassa majjhe pākāraṃ karonti, ekena dvārena pavisitvā ekasmiṃ paricchede anupasampanno sayati, ekasmiṃ bhikkhu, anāpatti. Pākāre godhādīnaṃ pavisanamattampi chiddaṃ hoti, ekasmiñca paricchede godhā sayanti, anāpattiyeva. Na hi chiddena gehaṃ ekūpacāraṃ nāma hoti. Sace pākāramajjhe chinditvā dvāraṃ yojenti, ekūpacāratāya āpatti. Taṃ dvāraṃ kavāṭena pidahitvā sayanti, āpattiyeva. Na hi dvārapidahanena gehaṃ nānūpacāraṃ nāma hoti, dvāraṃ vā advāraṃ. Kavāṭañhi saṃvaraṇavivaraṇehi yathāsukhaṃ vaḷañjanatthāya kataṃ, na vaḷañjanūpacchedanatthāya. Sace pana taṃ dvāraṃ puna iṭṭhakāhi pidahanti, advāraṃ hoti, purime nānūpacārabhāveyeva tiṭṭhati. Dīghapamukhaṃ cetiyagharaṃ hoti. Ekaṃ kavāṭaṃ anto, ekaṃ bahi, dvinnaṃ kavāṭānaṃ antare anupasampanno antocetiyaghare sayantassa āpattiṃ karoti, ekūpacārattā.
Nếu người ta xây một bức tường ở giữa một nhà có mái che bằng vôi trắng, có hai cửa, (một người) vào bằng một cửa, người chưa thọ cụ túc giới ngủ ở một khu riêng, Tỳ-khưu (ngủ) ở một khu riêng (khác), thì không phạm tội. Nếu trong tường có lỗ thủng chỉ đủ cho kỳ đà v.v… chui vào, và kỳ đà ngủ ở một khu riêng, vẫn không phạm tội. Vì một ngôi nhà không thể gọi là có một phạm vi duy nhất chỉ vì có lỗ thủng. Nếu người ta đục giữa tường để làm cửa, do trở thành một phạm vi duy nhất, sẽ phạm tội. Nếu đóng cửa đó bằng cánh cửa rồi ngủ, vẫn phạm tội. Vì việc đóng cửa không làm cho ngôi nhà trở thành nhiều phạm vi khác nhau, dù có cửa hay không có cửa. Vì cánh cửa được làm để đóng mở tùy ý cho việc sử dụng thuận tiện, chứ không phải để cắt đứt việc sử dụng (không gian chung). Nhưng nếu người ta lại xây gạch bít cửa đó lại, nó trở thành không có cửa, và vẫn ở trong tình trạng nhiều phạm vi khác nhau như trước. Có một nhà tháp với hiên dài. Một cánh cửa ở trong, một cánh cửa ở ngoài. Người chưa thọ cụ túc giới (ngủ) ở giữa hai cánh cửa đó, làm cho người ngủ bên trong nhà tháp phạm tội, vì đó là một phạm vi duy nhất.

Tatra yassa ‘‘siyā ayaṃ ekūpacāranānūpacāratā nāma udositasikkhāpade vuttā, idha pana ‘seyyā nāma sabbacchannā sabbaparicchannā yebhuyyena channā yebhuyyena paricchannā’ti ettakameva vuttaṃ, pihitadvāro ca gabbho sabbaparicchannova hoti. Tasmā tattha anto sayiteneva saddhiṃ āpatti, bahi sayitena anāpattī’’ti. So evaṃ vattabbo – ‘‘apihitadvāre pana kasmā bahi sayitena āpattī’’ti? Pamukhassa gabbhena saddhiṃ sabbacchannattā. ‘‘Kiṃ pana gabbhe pihite chadanaṃ viddhastaṃ hotī’’ti? Na viddhastaṃ, gabbhena saddhiṃ pamukhassa sabbaparicchannatā na hoti. ‘‘Kiṃ parikkhepo viddhasto’’ti? Addhā vakkhati ‘‘na viddhasto, kavāṭena upacāro paricchanno’’ti. Evaṃ dūrampi gantvā puna ekūpacāranānūpacārataṃyeva paccāgamissati.
Đối với người nào (cho rằng): “Việc một phạm vi hay nhiều phạm vi này có lẽ đã được nói trong học giới Udosita, còn ở đây chỉ nói rằng ‘Chỗ ngủ là được che hoàn toàn, được bao quanh hoàn toàn, được che phần lớn, được bao quanh phần lớn’; và phòng có cửa đóng thì được bao quanh hoàn toàn. Do đó, ở đó (chỉ) phạm tội khi ngủ chung với người ở bên trong, không phạm tội với người ở bên ngoài”. Vậy, người đó nên được hỏi như sau: “Vậy tại sao khi cửa không đóng, lại phạm tội với người ngủ bên ngoài?” (Đáp): Do hiên cùng với phòng được che hoàn toàn. (Hỏi lại): “Vậy khi phòng được đóng cửa, mái che có bị hư hỏng không?” (Đáp): Không hư hỏng, (nhưng) hiên cùng với phòng không còn được bao quanh hoàn toàn (như một thể thống nhất nữa). (Hỏi lại): “Vậy hàng rào bao quanh có bị hư hỏng không?” Chắc chắn người ấy sẽ nói: “Không hư hỏng, phạm vi được ngăn cách bởi cánh cửa”. Dù đi xa đến đâu (trong lập luận), cuối cùng cũng sẽ quay trở lại vấn đề một phạm vi hay nhiều phạm vi.

Apica yadi byañjanamatteyeva attho suviññeyyo siyā, sabbacchannāti vacanato pañcannaṃ aññatarena chadanena channā eva seyyā siyā, na aññena. Evañca sati padaracchannādīsu anāpatti siyā. Tato yadatthaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ, sveva attho parihāyeyya . Parihāyatu vā mā vā, kathaṃ avuttaṃ gahetabbanti; ko vā vadati ‘‘avuttaṃ gahetabba’’nti? Vuttañhetaṃ aniyatesu – ‘‘paṭicchannaṃ nāma āsanaṃ kuṭṭena vā kavāṭena vā kilañjena vā sāṇipākārena vā rukkhena vā thambhena vā koṭṭhalikāya vā yena kenaci paṭicchannaṃ hotī’’ti. Tasmā yathā tattha yena kenaci paṭicchannaṃ paṭicchannameva, evamidhāpi gahetabbaṃ. Tasmā senāsanaṃ khuddakaṃ vā hotu mahantaṃ vā aññena saddhiṃ sambaddhaṃ vā asambaddhaṃ vā dīghaṃ vā vaṭṭaṃ vā caturassaṃ vā ekabhūmakaṃ vā, anekabhūmakaṃ vā, yaṃ yaṃ ekūpacāraṃ sabbattha yena kenaci paṭicchādanena sabbacchanne sabbaparicchanne yebhuyyena vā channe yebhuyyena vā paricchanne sahaseyyāpatti hotīti.
Hơn nữa, nếu ý nghĩa có thể được hiểu dễ dàng chỉ qua văn tự, thì theo câu “được che hoàn toàn”, chỗ ngủ phải là chỉ được che bằng một trong năm loại mái che, chứ không phải bằng loại khác. Và nếu như vậy, thì (ngủ ở nơi) có mái lợp bằng ván gỗ v.v… sẽ không phạm tội. Khi đó, mục đích mà học giới được chế định sẽ bị suy giảm. Dù suy giảm hay không, làm sao có thể chấp nhận điều không được nói rõ? Hay ai nói rằng “nên chấp nhận điều không được nói rõ”? Điều này đã được nói trong các điều Bất Định: “Chỗ ngồi kín đáo là chỗ ngồi được che bằng tường, hoặc cửa, hoặc chiếu, hoặc hàng rào vải, hoặc cây, hoặc cột, hoặc nhà kho, hoặc bằng bất cứ thứ gì che được”. Do đó, cũng như ở đó, bất cứ thứ gì che được đều là “được che”, ở đây cũng nên hiểu như vậy. Do đó, dù sàng tọa nhỏ hay lớn, nối liền hay không nối liền với chỗ khác, dài hay tròn hay vuông, một tầng hay nhiều tầng, bất cứ nơi nào là một phạm vi duy nhất, ở khắp mọi nơi, bằng bất cứ vật che đậy nào, (nếu) được che hoàn toàn, được bao quanh hoàn toàn, hoặc được che phần lớn, hoặc được bao quanh phần lớn, thì đều phạm tội ngủ chung.

53.Upaḍḍhacchanne upaḍḍhaparicchanne āpatti dukkaṭassāti ettha sabbacchanne upaḍḍhaparicchanneti evamādīsupi mahāpaccariyaṃ dukkaṭamevāti vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘sabbacchanne yebhuyyenaparicchanne pācittiyaṃ, sabbacchanne upaḍḍhaparicchanne pācittiyaṃ, yebhuyyenachanne upaḍḍhaparicchanne pācittiyaṃ, sabbaparicchanne yebhuyyenachanne pācittiyaṃ, sabbaparichanne upaḍḍhacchanne pācittiyaṃ, yebhuyyenaparicchanne upaḍḍhacchanne pācittiyaṃ, pāḷiyaṃ vuttapācittiyena saddhiṃ satta pācittiyānī’’ti vuttaṃ. ‘‘Sabbacchanne cūḷakaparicchanne dukkaṭaṃ, yebhuyyenachanne cūḷakaparicchanne dukkaṭaṃ, sabbaparicchanne cūḷakacchanne dukkaṭaṃ, yebhuyyenaparicchanne cūḷakacchanne dukkaṭaṃ, pāḷiyaṃ dukkaṭena saha pañca dukkaṭānī’’ti vuttaṃ.
53. Ở đây, câu “Khi được che một nửa, được bao quanh một nửa, phạm tội Tác Ác“, và cả trong các trường hợp như “được che hoàn toàn, được bao quanh một nửa” v.v…, trong Mahāpaccari cũng nói là chỉ phạm tội Tác Ác. Nhưng trong Đại Sớ Giải thì nói: “Khi được che hoàn toàn, được bao quanh phần lớn, phạm tội Ưng Đối Trị; khi được che hoàn toàn, được bao quanh một nửa, phạm tội Ưng Đối Trị; khi được che phần lớn, được bao quanh một nửa, phạm tội Ưng Đối Trị; khi được bao quanh hoàn toàn, được che phần lớn, phạm tội Ưng Đối Trị; khi được bao quanh hoàn toàn, được che một nửa, phạm tội Ưng Đối Trị; khi được bao quanh phần lớn, được che một nửa, phạm tội Ưng Đối Trị; cùng với tội Ưng Đối Trị đã nói trong Pāḷi, là bảy tội Ưng Đối Trị”. (Và cũng nói): “Khi được che hoàn toàn, được bao quanh một phần nhỏ, phạm tội Tác Ác; khi được che phần lớn, được bao quanh một phần nhỏ, phạm tội Tác Ác; khi được bao quanh hoàn toàn, được che một phần nhỏ, phạm tội Tác Ác; khi được bao quanh phần lớn, được che một phần nhỏ, phạm tội Tác Ác; cùng với tội Tác Ác (đã nói) trong Pāḷi, là năm tội Tác Ác”.

‘‘Upaḍḍhacchanne cūḷakaparicchanne anāpatti, upaḍḍhaparicchanne cūḷakacchanne anāpatti, cūḷakacchanne cūḷakaparicchanne anāpatti, sabbacchanne sabbaaparicchanneti ca ettha senambamaṇḍapavaṇṇaṃ hotī’’ti vuttaṃ. Imināpetaṃ veditabbaṃ – ‘‘yathā jagati parikkhepasaṅkhaya na gacchatī’’ti. Sesaṃ uttānatthameva.
(Và cũng nói): “Khi được che một nửa, được bao quanh một phần nhỏ, không phạm tội; khi được bao quanh một nửa, được che một phần nhỏ, không phạm tội; khi được che một phần nhỏ, được bao quanh một phần nhỏ, không phạm tội; và ở đây, trường hợp “được che hoàn toàn, hoàn toàn không được bao quanh” thì giống như trường hợp nhà lều bằng vải”. Qua đây cũng cần hiểu rằng: “giống như nền đất không được kể là hàng rào bao quanh”. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kāyato ca kāyacittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Cách phát sinh (của tội này, được ví như) lông cừu là: phát sinh từ thân, và từ thân cùng với tâm; là hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Sahaseyyasikkhāpadaṃ pañcamaṃ.

Học giới ngủ chung, điều thứ năm.

6. Dutiyasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích học giới ngủ chung thứ hai

55. Dutiyasahaseyyasikkhāpade – āvasathāgāranti āgantukānaṃ vasanāgāraṃ. Paññattaṃ hotīti puññakāmatāya katvā ṭhapitaṃ hoti. Yena sā itthī tenupasaṅkamīti asukasmiṃ nāma ṭhāne āvasathāgāraṃ paññattaṃ atthīti manussānaṃ sutvā upasaṅkami. Gandhagandhinīti agarukuṅkumādīnaṃ gandhānaṃ gandho gandhagandho, so assā atthīti gandhagandhinī. Sāṭakaṃ nikkhipitvāti appeva nāmassa imampi vippakāraṃ passantassa rāgo uppajjeyyāti cintetvā evamakāsi. Okkhipitvāti adho khipitvā. Accayoti aparādho. Maṃ accagamāti maṃ atikkamma abhibhavitvā pavatto. Sesaṃ paṭhamasikkhāpade vuttanayeneva veditabbaṃ. Ayameva hi viseso – paṭhamasikkhāpade catutthadivase āpatti idha paṭhamadivasepi. Yakkhīpetīhi dissamānakarūpāhi tiracchānagatitthiyā ca methunadhammavatthubhūtāya eva dukkaṭaṃ. Sesāhi anāpatti. Samuṭṭhānādīni paṭhamasadisānevāti.
55. Trong học giới ngủ chung thứ hai, “Nhà khách” là nhà ở cho khách vãng lai. “Đã được chuẩn bị” có nghĩa là đã được làm và để sẵn do lòng mong muốn phước báu. “Người phụ nữ ấy đã đến đó” có nghĩa là sau khi nghe người ta nói rằng có nhà khách đã được chuẩn bị ở một nơi nào đó, (cô ấy) đã đến. “Người có mùi hương quyến rũ” có nghĩa là mùi của các loại hương như trầm, nghệ tây v.v… là mùi hương quyến rũ, cô ấy có mùi hương đó, nên gọi là người có mùi hương quyến rũ. “Sau khi cởi áo choàng” có nghĩa là cô ấy đã làm như vậy với ý nghĩ rằng: “Mong sao khi thấy cả hành vi này của ta, lòng ham muốn của vị ấy sẽ khởi lên”. “Vứt xuống” là ném xuống dưới. “Sự sai lầm” là lỗi lầm. “Đã xâm phạm đến tôi” có nghĩa là đã vượt qua, lấn át và xảy đến với tôi. Phần còn lại cần được hiểu theo phương pháp đã được nói trong học giới thứ nhất (của phẩm Sahaseyya). Đây chính là điểm khác biệt: trong học giới thứ nhất, phạm tội vào ngày thứ tư, ở đây (trong học giới này) phạm tội ngay cả vào ngày đầu tiên. Đối với các nữ dạ-xoa, ngạ quỷ nữ có hình tướng thấy được, và đối với nữ bàng sanh là đối tượng của hành vi tính dục, chỉ phạm tội Tác Ác. Đối với những trường hợp khác thì không phạm tội. Cách phát sinh tội v.v… cũng giống như học giới thứ nhất.

Dutiyasahaseyyasikkhāpadaṃ chaṭṭhaṃ.

Học giới ngủ chung thứ hai, điều thứ sáu.

7. Dhammadesanāsikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích học giới thuyết Pháp

60. Sattamasikkhāpade – gharaṇīti gharasāminī. Nivesanadvāreti nivesanassa mahādvāre. Gharasuṇhāti tasmiṃ ghare suṇhā. Āvasathadvāreti ovarakadvāre. Vissaṭṭhenāti suniggatena saddena. Vivaṭenāti suṭṭhu pakāsena asaṃvutena. Dhammo desetabboti ayaṃ saraṇasīlādibhedo dhammo kathetabbo. Aññātunti ājānituṃ. Viññunā purisaviggahenāti viññunā purisena, purisaviggahaṃ gahetvāpi ṭhitena na yakkhena na petena na tiracchānagatena.
60. Trong học giới thứ bảy, “Nữ gia chủ” là người vợ chủ nhà. “Tại cửa nhà ở” là tại cửa chính của nhà ở. “Nàng dâu trong nhà” là con dâu trong nhà đó. “Tại cửa phòng riêng” là tại cửa phòng nhỏ. “Bằng giọng rõ ràng” là bằng âm thanh phát ra rõ ràng. “Một cách cởi mở” là một cách hoàn toàn sáng tỏ, không che giấu. “Pháp cần được thuyết giảng” là Pháp này, bao gồm quy y, giới v.v…, cần được nói đến. “Để biết” là để hiểu rõ. “Với một người nam có trí hiểu biết” có nghĩa là với một người nam có trí, dù có hình dạng người nam, nhưng không phải là dạ-xoa, không phải là ngạ quỷ, không phải là loài bàng sanh.

66.Anāpatti viññunā purisaviggahenāti viññunā purisaviggahena saddhiṃ ṭhitāya bahumpi dhammaṃ desentassa anāpatti. Chappañcavācāhīti chahi pañcahi vācāhi yo deseti, tassapi anāpatti. Tattha eko gāthāpādo ekavācāti evaṃ sabbattha vācāpamāṇaṃ veditabbaṃ. Sace aṭṭhakathaṃ dhammapadaṃ jātakādivatthuṃ vā kathetukāmo hoti, chappañcapadamattameva kathetuṃ vaṭṭati. Pāḷiyā saddhiṃ kathentena ekapadaṃ pāḷito pañca aṭṭhakathātoti evaṃ cha padāni anatikkāmetvāva kathetabbo. Padasodhamme vuttappabhedo hi idhāpi sabbo dhammoyeva. Tasmiṃ desetīti tasmiṃ khaṇe deseti. Sampadānatthe vā etaṃ bhummavacanaṃ. Tassā desetīti attho. Aññissā mātugāmassāti ekissā desetvā puna āgatāgatāya aññissāpi desetīti evaṃ ekāsane nisinno mātugāmasatasahassannampi desetīti attho. Mahāpaccariyaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ samaṃ nisinnānaṃ mātugāmānaṃ ‘‘tumhākaṃ ekekissā ekekaṃ gāthaṃ desessāmi, taṃ suṇāthāti deseti, anāpatti. Paṭhamaṃ ekekissā ekekaṃ gāthaṃ kathessāmīti ābhogaṃ katvā jānāpetvā kathetuṃ vaṭṭati, na pacchāti. Pañhaṃ pucchati pañhaṃ puṭṭho kathetīti mātugāmo ‘‘dīghanikāyo nāma bhante kimatthaṃ dīpetī’’ti pucchati. Evaṃ pañhaṃ puṭṭho bhikkhu sabbaṃ cepi dīghanikāyaṃ katheti, anāpatti. Sesamettha uttānatthameva.
66. “Không phạm tội khi có người nam có trí hiểu biết” có nghĩa là khi thuyết nhiều Pháp cho người nữ đang đứng cùng với một người nam có trí hiểu biết, thì không phạm tội. “Bằng sáu hay năm lời” có nghĩa là người nào thuyết bằng sáu hay năm lời, người đó cũng không phạm tội. Trong đó, một dòng kệ là một lời; lượng lời nói ở khắp nơi cần được hiểu như vậy. Nếu muốn nói sớ giải, kinh Pháp Cú, hay truyện Bổn Sanh v.v…, chỉ được phép nói khoảng sáu hay năm câu. Khi nói cùng với Pāḷi, cần phải nói không quá sáu câu, ví dụ một câu từ Pāḷi, năm câu từ sớ giải. Vì sự phân loại đã được nói trong học giới Dạy Pháp Từng Câu, ở đây cũng đều là Pháp cả. “Thuyết cho người ấy” là thuyết vào lúc đó. Hoặc từ ở cách địa điểm này mang ý nghĩa chỉ định cách. Có nghĩa là thuyết cho người nữ ấy. “Cho người nữ khác” có nghĩa là sau khi thuyết cho một người, rồi lại thuyết cho những người nữ khác lần lượt đến, như vậy, ngồi ở một chỗ mà thuyết cho cả trăm ngàn người nữ cũng được. Trong Sớ giải Mahāpaccari có nói: Đối với những người nữ đang ngồi chung, nếu thuyết rằng: “Ta sẽ thuyết cho mỗi người trong các vị một bài kệ, hãy lắng nghe”, thì không phạm tội. Trước tiên, cần phải hướng tâm và cho biết rằng: “Tôi sẽ nói cho mỗi người một bài kệ” rồi mới nói thì được phép, không phải sau đó. “Người nữ hỏi câu hỏi, (Tỳ-khưu) được hỏi câu hỏi thì trả lời” có nghĩa là: người nữ hỏi: “Bạch Đại đức, Trường Bộ Kinh giảng giải về điều gì?”. Tỳ-khưu được hỏi câu hỏi như vậy, dù nói toàn bộ Trường Bộ Kinh cũng không phạm tội. Phần còn lại ở đây ý nghĩa đã rõ ràng.

Padasodhammasamuṭṭhānaṃ – vācato ca vācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyākiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Cách phát sinh của (tội trong) học giới dạy Pháp từng câu là: phát sinh từ lời nói, và từ lời nói cùng với tâm; là hành vi và không phải hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Dhammadesanāsikkhāpadaṃ sattamaṃ.

Học giới thuyết Pháp, điều thứ bảy.

8. Bhūtārocanasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích học giới nói về (thành tựu) có thật

67. Aṭṭhamasikkhāpade – vatthukathāya tāva yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ catutthapārājikavaṇṇanāyaṃ vuttanayameva. Ayameva hi viseso – tattha abhūtaṃ ārocesuṃ, idha bhūtaṃ. Bhūtampi puthujjanā ārocesuṃ, na ariyā. Ariyānañhi payuttavācā nāma natthi, attano guṇe ārocayamāne pana aññe na paṭisedhesuṃ, tathāuppanne ca paccaye sādiyiṃsu, tathāuppannabhāvaṃ ajānantā.
67. Trong học giới thứ tám, về phần câu chuyện làm duyên khởi, những gì cần nói, tất cả đều theo phương pháp đã được nói trong phần giải thích điều Bất Cộng Trụ thứ tư. Đây chính là điểm khác biệt: ở đó (trong điều Bất Cộng Trụ thứ tư) họ đã nói về (điều) không có thật, ở đây (họ nói về điều) có thật. Ngay cả (điều) có thật, cũng là các phàm phu đã nói ra, không phải các bậc Thánh. Vì quả thật, các bậc Thánh không có lời nói có chủ ý (để khoe khoang). Nhưng khi người khác nói về phẩm chất của mình, các ngài không ngăn cản, và khi có duyên sự như vậy xảy ra, các ngài đã chấp nhận (vật cúng dường), do không biết việc (cúng dường) đó xảy ra như vậy.

‘‘Atha kho te bhikkhū bhagavato etamatthaṃ ārocesu’’ntiādimhi pana ye uttarimanussadhammassa vaṇṇaṃ bhāsiṃsu, te ārocesunti veditabbaṃ. ‘‘Kacci pana vo bhikkhave bhūta’’nti pucchite pana sabbepi ‘‘bhūtaṃ bhagavā’’ti paṭijāniṃsu. Ariyānampi hi abbhantare bhūto uttarimanussadhammoti. Atha bhagavā ariyamissakattā ‘‘moghapurisā’’ti avatvā ‘‘kathañhi nāma tumhe bhikkhave’’ti vatvā ‘‘udarassa kāraṇā’’tiādimāha. Tattha yasmā ariyā aññesaṃ sutvā ‘‘ayyo kira, bhante, sotāpanno’’tiādinā nayena pasannehi manussehi pucchiyamānā apaññatte sikkhāpade anādīnavadassino suddhacittatāya attano ca paresañca visesādhigamaṃ paṭijāniṃsu. Evaṃ paṭijānantehi ca tehi yaṃ aññe udarassa kāraṇā uttarimanussadhammassa vaṇṇaṃ bhāsitvā piṇḍapātaṃ uppādesuṃ, taṃ suddhacittatāya sādiyantehipi udarassa kāraṇā uttarimanussadhammassa vaṇṇo bhāsito viya hoti. Tasmā sabbasaṅgāhikeneva nayena ‘‘kathañhi nāma tumhe, bhikkhave, udarassa kāraṇā gihīnaṃ aññamaññaṃ uttarimanussadhammassa vaṇṇaṃ bhāsissathā’’ti āha. Sesaṃ catutthapārājikavatthusadisameva. Sikkhāpadavibhaṅgepi kevalaṃ tattha pārājikañceva thullaccayañca idha bhūtattā pācittiyañceva dukkaṭañca ayaṃ viseso. Sesaṃ vuttanayameva.
Còn trong câu “Khi ấy, các Tỳ-khưu ấy đã trình bày việc này lên Đức Thế Tôn” v.v…, cần hiểu rằng những người đã nói về sự tán thán pháp thượng nhân là những người đã trình bày. Nhưng khi được hỏi: “Này các Tỳ-khưu, có thật như vậy không?“, tất cả đều thừa nhận: “Bạch Đức Thế Tôn, là có thật“. Vì quả thật, pháp thượng nhân là có thật bên trong các bậc Thánh. Khi ấy, Đức Thế Tôn, do (trong nhóm đó) có lẫn các bậc Thánh, đã không nói “Này các kẻ ngu kia”, mà Ngài nói: “Này các Tỳ-khưu, làm sao các ngươi lại…” rồi nói tiếp “vì miếng ăn” v.v… Ở đó, vì các bậc Thánh, khi nghe người khác (đồn) và được những người có lòng tin hỏi theo cách “Bạch Đại đức, nghe nói ngài là bậc Tu-đà-hoàn” v.v…, lúc học giới chưa được chế định, do không thấy có lỗi và với tâm thanh tịnh, đã thừa nhận sự chứng đắc đặc biệt của mình và của người khác. Và khi các ngài thừa nhận như vậy, việc những người khác vì miếng ăn mà nói lời tán thán pháp thượng nhân để kiếm vật thực cúng dường, thì việc các ngài (bậc Thánh) với tâm thanh tịnh chấp nhận vật thực đó, cũng giống như là đã nói lời tán thán pháp thượng nhân vì miếng ăn vậy. Do đó, bằng phương pháp bao gồm tất cả, Ngài đã nói: “Này các Tỳ-khưu, làm sao các ngươi lại vì miếng ăn mà nói lời tán thán pháp thượng nhân của nhau cho các cư sĩ nghe?”. Phần còn lại thì giống như câu chuyện làm duyên khởi của điều Bất Cộng Trụ thứ tư. Cả trong phần phân tích học giới, chỉ có điều ở đó (là tội) Bất Cộng Trụ và Thâu-lan-giá, còn ở đây, do (nói điều) có thật, (là tội) Ưng Đối Trị và Tác Ác – đây là điểm khác biệt. Phần còn lại theo phương pháp đã nói.

77.‘‘Upasampannassa bhūtaṃ ārocetī’’ti uttarimanussadhammameva sandhāya vuttaṃ. Parinibbānakāle hi antarā vā atikaḍḍhiyamānena upasampannassa bhūtaṃ ārocetuṃ vaṭṭati. Sutapariyattisīlaguṇaṃ pana anupasampannassāpi ārocetuṃ vaṭṭati. Ādikammikassa anāpatti. ‘‘Ummattakassā’’ti idaṃ pana idha na vuttaṃ. Kasmā? Diṭṭhisampannānaṃ ummādassa vā cittakkhepassa vā abhāvāti. Mahāpaccariyampi hi vicāritaṃ ‘‘jhānalābhī pana parihīne jhāne ummattako bhaveyya, tassapi bhūtārocanapaccayā anāpatti na vattabbā, bhūtasseva abhāvato’’ti. Sesaṃ uttānameva.
77. Câu “Nói (điều) có thật cho người đã thọ cụ túc giới” được nói nhắm đến chính pháp thượng nhân. Vì vào lúc sắp nhập Niết-bàn, hoặc khi bị ép buộc quá mức, được phép nói (điều) có thật cho người đã thọ cụ túc giới. Nhưng phẩm chất về văn, học thuộc, giới thì được phép nói cho cả người chưa thọ cụ túc giới. Người sơ phạm thì không phạm tội. Nhưng điều “đối với người điên” thì ở đây không được nói đến. Tại sao? Vì những người có chánh kiến thì không bị điên cuồng hay loạn tâm. Trong Mahāpaccari cũng đã được xem xét rằng: “Người chứng thiền, khi thiền bị suy giảm, có thể trở nên điên cuồng, đối với người đó cũng không thể nói là không phạm tội do nói (điều) có thật, vì (lúc đó pháp thượng nhân) có thật đã không còn nữa”. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Bhūtārocanaṃ nāmetaṃ pubbe avuttehi tīhi samuṭṭhānehi samuṭṭhāti – kāyato vācato kāyavācato cāti. Kiriyaṃ , nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, kusalābyākatacittehi dvicittaṃ, sukhamajjhattavedanāhi dvivedananti.
Việc nói (điều) có thật này phát sinh từ ba cách phát sinh chưa được nói trước đây: từ thân, từ lời, và từ thân và lời. Là hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) hai loại tâm: tâm thiện và tâm vô ký, (và có) hai cảm thọ (đi kèm): lạc và xả.

Bhūtārocanasikkhāpadaṃ aṭṭhamaṃ.

Học giới nói về (thành tựu) có thật, điều thứ tám.

9. Duṭṭhullārocanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích học giới nói về tội trọng

78. Navamasikkhāpade – duṭṭhullā nāma āpatti cattāri ca pārājikāni terasa ca saṅghādisesāti imissā pāḷiyā ‘‘pārājikāni duṭṭhullasaddatthadassanatthaṃ vuttāni, saṅghādisesaṃ pana idha adhippeta’’nti aṭṭhakathāsu vuttaṃ. Tatrāyaṃ vicāraṇā – sace pārājikaṃ ārocentassa pācittiyaṃ na bhaveyya, yathā samānepi bhikkhu-bhikkhunīnaṃ upasampannasadde yattha bhikkhunī anadhippetā hoti, tattha bhikkhuṃ ṭhapetvā avaseso anupasampannoti vuccati; evamidha samānepi pārājikasaṅghādisesānaṃ duṭṭhullasadde yadi pārājikaṃ anadhippetaṃ, ‘‘duṭṭhullā nāma āpatti terasa saṅghādisesā’’ti etadeva vattabbaṃ siyā. Tattha bhaveyya ‘‘yo pārājikaṃ āpanno, so bhikkhubhāvato cuto, tasmā tassa āpattiṃ ārocento dukkaṭaṃ āpajjatī’’ti. Evaṃ sati akkosantopi dukkaṭaṃ āpajjeyya, pācittiyameva ca āpajjati. Vuttañhetaṃ – ‘‘asuddho hoti puggalo aññataraṃ pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpanno, tañce asuddhadiṭṭhi samāno okāsaṃ kārāpetvā akkosādhippāyo vadati, āpatti omasavādassā’’ti (pārā. 389). Evaṃ pāḷiyā vicāriyamānāya pārājikaṃ ārocentassāpi pācittiyameva dissati. Kiñcāpi dissati, atha kho sabbaaṭṭhakathāsu vuttattā aṭṭhakathācariyāva ettha pamāṇaṃ, na aññā vicāraṇā. Pubbepi ca āvocumha – ‘‘buddhena dhammo vinayo ca vutto, yo tassa puttehi tatheva ñāto’’tiādi (pārā. aṭṭha. 1.ganthārambhakathā ). Aṭṭhakathācariyā hi buddhassa adhippāyaṃ jānanti.
78. Trong học giới thứ chín, đối với câu Pāḷi này: “Tội trọng là bốn tội Bất Cộng Trụ và mười ba tội Tăng Tàn“, trong các sớ giải có nói: “(Các tội) Bất Cộng Trụ được nói đến để cho thấy ý nghĩa của từ ‘tội trọng’, còn (tội) Tăng Tàn mới là điều được nhắm đến ở đây”. Đây là phần xem xét về điều đó: nếu người nói về tội Bất Cộng Trụ mà không phạm tội Ưng Đối Trị, cũng như dù từ “người đã thọ cụ túc giới” dùng chung cho Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni, nhưng ở chỗ nào Tỳ-khưu-ni không được nhắm đến, thì ở đó (người ta) nói “ngoại trừ Tỳ-khưu, phần còn lại là người chưa thọ cụ túc giới”; tương tự ở đây, dù từ “tội trọng” dùng chung cho tội Bất Cộng Trụ và Tăng Tàn, nếu tội Bất Cộng Trụ không được nhắm đến, thì lẽ ra chỉ nên nói: “Tội trọng là mười ba tội Tăng Tàn”. Khi ấy, có thể (lập luận) rằng: “Người nào phạm tội Bất Cộng Trụ, người đó mất tư cách Tỳ-khưu, do đó người nói về tội của vị ấy thì phạm tội Tác Ác”. Nếu vậy, ngay cả người mắng nhiếc cũng sẽ phạm tội Tác Ác, (trong khi thực tế) lại phạm tội Ưng Đối Trị. Điều này đã được nói: “Một người không thanh tịnh là người đã phạm một trong các pháp Bất Cộng Trụ; nếu một người có tà kiến, sau khi tạo cơ hội, nói với ý định mắng nhiếc người đó, thì phạm tội nói lời miệt thị” (pārā. 389). Như vậy, khi xem xét Pāḷi, người nói về tội Bất Cộng Trụ cũng thấy là phạm tội Ưng Đối Trị. Dù thấy như vậy, nhưng vì đã được nói trong tất cả các sớ giải, nên các vị soạn sớ giải là tiêu chuẩn ở đây, chứ không phải sự xem xét nào khác. Trước đây chúng tôi cũng đã nói: “Pháp và Luật đã được Đức Phật thuyết giảng, và đã được các con của Ngài hiểu đúng như vậy” v.v… (pārā. aṭṭha. 1.ganthārambhakathā ). Vì các vị soạn sớ giải biết rõ ý của Đức Phật.

Imināpi cetaṃ pariyāyena veditabbaṃ. Aññatra bhikkhusammutiyāti hi vuttaṃ. Bhikkhusammutiyā ca ārocanaṃ āyatiṃ saṃvaratthāya puna tathārūpaṃ āpattiṃ anāpajjanatthāya bhagavatā anuññātaṃ, na tassa bhikkhuno avaṇṇamattappakāsanatthāya, sāsane cassa patiṭṭhānisedhanatthāya , na ca pārājikaṃ āpannassa puna tathārūpāya āpattiyā anāpajjanena bhikkhubhāvo nāma atthi. Tasmā ‘‘pārājikāni duṭṭhullasaddatthadassanatthaṃ vuttāni, saṅghādisesaṃ pana idhādhippeta’’nti yaṃ aṭṭhakathāsu vuttaṃ, taṃ suvuttameva.
Điều này cũng cần được hiểu theo phương pháp sau. Vì đã nói: “Ngoại trừ trường hợp được Tăng chúng đồng thuận cho phép”. Và việc nói ra (tội của Tỳ-khưu khác) khi được Tăng chúng đồng thuận cho phép, đã được Đức Thế Tôn cho phép nhằm mục đích thu thúc trong tương lai, để không tái phạm tội như vậy nữa, chứ không phải chỉ để công bố lỗi xấu của Tỳ-khưu đó, hay để ngăn cản sự tồn tại của vị ấy trong giáo pháp. Và đối với người đã phạm tội Bất Cộng Trụ, thì không còn gọi là có tư cách Tỳ-khưu nhờ vào việc không tái phạm tội như vậy nữa. Do đó, điều được nói trong các sớ giải rằng: “(Các tội) Bất Cộng Trụ được nói đến để cho thấy ý nghĩa của từ ‘tội trọng’, còn (tội) Tăng Tàn mới là điều được nhắm đến ở đây”, điều đó đã được nói rất đúng.

80.Atthibhikkhusammuti āpattipariyantātiādīsu pana yā ayaṃ bhikkhusammuti vuttā, sā na katthaci āgatā, idha vuttattāyeva pana abhiṇhāpattikaṃ bhikkhuṃ disvā evamesa paresu hirottappenāpi āyatiṃ saṃvaraṃ āpajjissatīti tassa bhikkhuno hitesitāya tikkhattuṃ apaloketvā saṅghena kātabbāti veditabbāti.
80. Còn trong những câu như “Có sự đồng thuận của Tăng chúng, giới hạn trong (việc nói) tội” v.v…, sự đồng thuận của Tăng chúng được nói đến này, điều đó không xuất hiện ở đâu khác, nhưng do đã được nói ở đây, cần hiểu rằng khi thấy một Tỳ-khưu thường xuyên phạm tội, với lòng mong muốn lợi ích cho Tỳ-khưu đó rằng “làm như vậy, vị này có thể nhờ lòng tàm quý đối với người khác mà đạt được sự thu thúc trong tương lai”, Tăng chúng cần phải thực hiện (sự đồng thuận đó) sau khi đã thông báo ba lần.

82.Aduṭṭhullaṃ āpattiṃ āroceti āpatti dukkaṭassāti pañcapi āpattikkhandhe ārocentassa dukkaṭaṃ. Mahāpaccariyaṃ pana pārājikaṃ ārocentassāpi dukkaṭameva vuttaṃ. Anupasampannassa duṭṭhullaṃ vā aduṭṭhullaṃ vā ajjhācāranti ettha ādito pañca sikkhāpadāni duṭṭhullo nāma ajjhācāro, sesāni aduṭṭhullo. Sukkavissaṭṭhikāyasaṃsaggaduṭṭhullaattakāmā panassa ajjhācāro nāmāti vuttaṃ.
82. “Nói về tội không phải tội trọng, phạm tội Tác Ác” có nghĩa là người nói về cả năm nhóm tội (không phải tội trọng) đều phạm tội Tác Ác. Nhưng trong Mahāpaccari, ngay cả người nói về tội Bất Cộng Trụ cũng được nói là chỉ phạm tội Tác Ác. Ở đây, trong câu “Sự vi phạm của người chưa thọ cụ túc giới, dù là tội trọng hay không phải tội trọng“, năm học giới đầu tiên gọi là sự vi phạm trọng, những điều còn lại là không phải trọng. Còn việc xuất tinh, thân chạm, (phạm) tội trọng, và tự thỏa mãn dục vọng của người ấy thì được gọi là sự vi phạm.

83.Vatthuṃ ārocetīti ‘‘ayaṃ sukkavissaṭṭhiṃ āpanno, duṭṭhullaṃ āpanno, attakāmaṃ āpanno’’ kāyasaṃsaggaṃ āpannoti evaṃ vadantassa anāpatti. Āpattiṃ ārocetīti ettha ‘‘ayaṃ pārājikaṃ āpanno, saṅghādisesaṃ thullaccayaṃ pācittiyaṃ pāṭidesanīyaṃ dukkaṭaṃ dubbhāsitaṃ āpanno’’ti vadati anāpatti. ‘‘Ayaṃ asuciṃ mocetvā saṅghādisesaṃ āpanno’’tiādinā pana nayena vatthunā saddhiṃ āpattiṃ ghaṭetvā ārocentasseva āpatti. Sesamettha uttānameva.
83. “Nói về sự việc” có nghĩa là: người nói rằng “người này đã xuất tinh, đã phạm tội trọng, đã tự thỏa mãn dục vọng, đã thân chạm” thì không phạm tội (nếu chỉ nói sự việc mà không gán tên tội). Ở đây, “Nói về tội” là nói “người này đã phạm tội Bất Cộng Trụ, Tăng Tàn, Thâu-lan-giá, Ưng Đối Trị, Ưng Phát Lộ, Tác Ác, Ác khẩu”, (nếu chỉ nêu tên tội chung chung) thì không phạm tội. Nhưng theo cách nói như “Người này do xuất tinh mà phạm tội Tăng Tàn” v.v…, chỉ người nào nói bằng cách kết hợp sự việc với tội danh cụ thể mới phạm tội. Phần còn lại ở đây ý nghĩa đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
(Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, bị đời chê bai, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (do) tâm bất thiện, (và có) cảm thọ khổ (đi kèm).

Duṭṭhullārocanasikkhāpadaṃ navamaṃ.

Học giới nói về tội trọng, điều thứ chín.

10. Pathavīkhaṇanasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích học giới đào đất

86. Dasamasikkhāpade – jātā ca pathavī ajātā ca pathavīti imehi padehi jātapathaviñca ajātapathaviñca dasseti. Appapāsāṇādīsu appā pāsāṇā etthāti appapāsāṇāti evamattho daṭṭhabbo. Tattha muṭṭhippamāṇato upari pāsāṇāti veditabbā, muṭṭhippamāṇā sakkharā. Kathalāti kapālakhaṇḍāni. Marumbāti kaṭasakkharā. Vālikāti vālukāyeva. Yebhuyyena paṃsukāti tīsu koṭṭhāsesu dve koṭṭhāsā paṃsu, eko pāsāṇādīsu aññataro. Adaḍḍhāpīti uddhanapattapacanakumbhakārāvāpādivasena tathā tathā adaḍḍhā. Sā pana visuṃ natthi, suddhapaṃsuādīsu aññatarāva veditabbā. Yebhuyyenasakkharāti bahutarā sakkharā. Hatthikucchiyaṃ kira ekapacchipūraṃ āharāpetvā doṇiyaṃ dhovitvā pathaviyā yebhuyyena sakkharabhāvaṃ ñatvā sayaṃ bhikkhū pokkharaṇiṃ khaṇiṃsu. Yāni pana majjhe ‘‘appapaṃsu appamattikā’’ti dve padāni, tāni yebhuyyenapāsāṇādipañcakameva pavisanti tesaṃyeva hi dvinnaṃ pabhedadassanametaṃ. Sayaṃ khaṇati āpatti pācittiyassāti ettha pahāre pahāre pācittiyaṃ veditabbaṃ. Sakiṃ āṇatto bahukampi khaṇatīti sacepi sakaladivasaṃ khaṇati, āṇāpakassa ekaṃyeva pācittiyaṃ. Sace pana kusito hoti, punappunaṃ āṇāpetabbo. Taṃ āṇāpetvā khaṇāpentassa vācāya vācāya pācittiyaṃ. Ayaṃ tāva pāḷivaṇṇanā.
86. Trong học giới thứ mười, bằng những từ “đất đã sinh” và “đất chưa sinh” này, (Pāḷi) chỉ ra đất đã sinh và đất chưa sinh. Trong những từ như “ít đá” v.v…, cần thấy ý nghĩa là “ở đây có ít đá” nên gọi là “ít đá”. Ở đó, cần biết rằng (những viên) lớn hơn nắm tay là đá, (những viên) bằng nắm tay là sỏi. “Mảnh sành” là những mảnh gốm vỡ. “Sỏi vụn” là sỏi đá vụn. “Cát” chính là cát. “Phần lớn là đất bụi” có nghĩa là trong ba phần thì hai phần là đất bụi, một phần là một trong các thứ như đá v.v… “Cả đất chưa nung” là đất chưa được nung theo cách này cách khác như ở lò, nồi, lò gốm v.v… Nhưng loại đất đó không riêng biệt, cần được hiểu là một trong các loại như đất bụi thuần túy v.v… “Phần lớn là sỏi” là nhiều sỏi hơn. Tương truyền, ở Hatthikucchi, sau khi cho mang đến một giỏ đầy (đất), rửa trong máng nước, biết rằng đất đó phần lớn là sỏi, các Tỳ-khưu đã tự mình đào hồ. Còn hai từ ở giữa là “ít đất bụi, ít đất sét“, chúng chỉ thuộc về nhóm năm loại “phần lớn là đá” v.v…, vì đây chính là sự trình bày về sự phân loại của hai loại (đất bụi và đất sét) đó. Ở đây, câu “Tự mình đào, phạm tội Ưng Đối Trị“, cần hiểu là mỗi nhát cuốc đều phạm tội Ưng Đối Trị. “Người được ra lệnh một lần mà đào nhiều” – dù (người được lệnh) đào cả ngày, người ra lệnh chỉ phạm một tội Ưng Đối Trị. Nhưng nếu người đó lười biếng, cần phải ra lệnh nhiều lần. Người ra lệnh cho đào như vậy, mỗi lời ra lệnh đều phạm tội Ưng Đối Trị. Đây trước hết là phần giải thích Pāḷi.

Ayaṃ pana pāḷimuttakavinicchayo – ‘‘pokkharaṇiṃ khaṇā’’ti vadati, vaṭṭati. Khatāyeva hi pokkharaṇī nāma hoti, tasmā ayaṃ kappiyavohāro. Esa nayo ‘‘vāpiṃ taḷākaṃ āvāṭaṃ khaṇā’’tiādīsupi. ‘‘Imaṃ okāsaṃ khaṇa, imasmiṃ okāse pokkharaṇiṃ khaṇā’’ti vattuṃ pana na vaṭṭati. ‘‘Kandaṃ khaṇa, mūlaṃ khaṇā’’ti aniyāmetvā vattuṃ vaṭṭati. ‘‘Imaṃ valliṃ khaṇa, imasmiṃ okāse kandaṃ vā mūlaṃ vā khaṇā’’ti vattuṃ na vaṭṭati. Pokkharaṇiṃ sodhentehi yo kuṭehi ussiñcituṃ sakkā hoti tanukakaddamo, taṃ apanetuṃ vaṭṭati, bahalaṃ na vaṭṭati. Ātapena sukkhakaddamo phalati, tatra yo heṭṭhā pathaviyā asambaddho, tameva apanetuṃ vaṭṭati. Udakena gataṭṭhāne udakapappaṭako nāma hoti, vātappahārena calati, taṃ apanetuṃ vaṭṭati.
Còn đây là phần quyết định ngoài Pāḷi: Nếu nói: “Hãy đào hồ sen”, thì được phép. Vì hồ sen chỉ được gọi là hồ sen khi đã được đào, do đó đây là cách nói hợp lệ. Phương pháp này cũng áp dụng cho những trường hợp như “Hãy đào hồ chứa nước, ao, hố” v.v… Nhưng không được phép nói: “Hãy đào chỗ này, hãy đào hồ sen ở chỗ này”. Được phép nói không chỉ định: “Hãy đào củ, hãy đào rễ”. Không được phép nói: “Hãy đào dây leo này, hãy đào củ hoặc rễ ở chỗ này”. Khi làm sạch hồ sen, lớp bùn loãng nào có thể dùng gàu tát đi được, thì được phép loại bỏ, (bùn) đặc thì không được phép. Bùn khô nứt ra do nắng, ở đó phần nào không dính với đất ở dưới, chỉ phần đó được phép loại bỏ. Ở nơi nước chảy qua, có thứ gọi là váng nước, nó di chuyển do gió thổi, được phép loại bỏ thứ đó.

Pokkharaṇīādīnaṃ taṭaṃ bhijjitvā udakasāmantā patati, sace omakacātumāsaṃ ovaṭṭhaṃ, chindituṃ vā bhindituṃ vā vaṭṭati, cātumāsato uddhaṃ na vaṭṭati. Sace pana udakeyeva patati, deve atirekacātumāsaṃ ovaṭṭhepi udakeyeva udakassa patitattā vaṭṭati. Pāsāṇapiṭṭhiyaṃ soṇḍiṃ khaṇanti, sace tattha paṭhamameva sukhumarajaṃ patati, tañce devena ovaṭṭhaṃ hoti, cātumāsaccayena akappiyapathavīsaṅkhyaṃ gacchati . Udake pariyādiṇṇe soṇḍiṃ sodhentehi taṃ vikopetuṃ na vaṭṭati. Sace paṭhamameva udakena pūrati, pacchā rajaṃ patati, taṃ vikopetuṃ vaṭṭati. Tattha hi deve vassantepi udakeyeva udakaṃ patatīti. Piṭṭhipāsāṇe sukhumarajaṃ hoti, deve phusāyante allīyati, tampi cātumāsaccayena vikopetuṃ na vaṭṭati. Sace pana akatapabbhāre vammiko uṭṭhito hoti, yathāsukhaṃ vikopetuṃ vaṭṭati. Sace abbhokāse uṭṭhahati, omakacātumāsaṃ ovaṭṭhoyeva vaṭṭati. Rukkhādīsu āruḷhaupacikāmattikāyapi eseva nayo. Gaṇḍuppādagūthamūsikukkaragokaṇṭakādīsupi eseva nayo.
Bờ hồ sen v.v… bị vỡ và sạt lở xuống gần mép nước, nếu (đất đó) đã bị mưa thấm ướt dưới bốn tháng, thì được phép cắt hoặc phá đi, quá bốn tháng thì không được phép. Nhưng nếu nó sạt lở thẳng xuống nước, dù trời đã mưa thấm ướt quá bốn tháng, cũng được phép (xử lý) vì đất đã rơi xuống chính trong nước. Người ta đào một cái máng trên nền đá, nếu ngay từ đầu bụi mịn rơi vào đó, và nếu nó bị mưa thấm ướt, thì sau bốn tháng nó trở thành đất không hợp lệ (để đào xới). Khi nước đã cạn, lúc làm sạch máng, không được phép làm xáo trộn lớp bụi đó. Nếu ngay từ đầu máng đầy nước, sau đó bụi mới rơi vào, thì được phép làm xáo trộn lớp bụi đó. Vì ở đó, dù trời mưa, nước cũng chỉ rơi vào nước. Trên mặt đá có bụi mịn, khi trời mưa phùn, nó dính lại, sau bốn tháng cũng không được phép làm xáo trộn lớp bụi đó. Nhưng nếu tổ mối nổi lên ở nơi chưa từng được làm thành gò đất, thì được phép phá đi tùy ý. Nếu nó nổi lên ở ngoài trời, chỉ được phép (phá) khi đã bị mưa thấm ướt dưới bốn tháng. Đối với đất mối bám trên cây cối v.v…, cũng theo phương pháp này. Đối với phân giun, phân chuột, phân bò bị móng chân bò cắt ra v.v…, cũng theo phương pháp này.

Gokaṇṭako nāma gāvīnaṃ khuracchinnakaddamo vuccati. Sace pana heṭṭhimatalena bhūmisambandho hoti, ekadivasampi na vaṭṭati. Kasitaṭṭhānepi naṅgalacchinnamattikāpiṇḍaṃ gaṇhantassa eseva nayo. Purāṇasenāsanaṃ hoti acchadanaṃ vā vinaṭṭhacchadanaṃ vā, atirekacātumāsaṃ ovaṭṭhaṃ jātapathavīsaṅkhyameva gacchati . Tato avasesaṃ chadaniṭṭhakaṃ vā gopānasīādikaṃ upakaraṇaṃ vā ‘‘iṭṭhakaṃ gaṇhāmi gopanasiṃ bhittipādaṃ padarattharaṇaṃ pāsāṇatthambhaṃ gaṇhāmī’’ti saññāya gaṇhituṃ vaṭṭati. Tena saddhiṃ mattikā patati, anāpatti. Bhittimattikaṃ gaṇhantassa pana āpatti. Sace yā yā atintā taṃ taṃ gaṇhāti, anāpatti.
“Gokaṇṭaka” được gọi là bùn bị móng chân bò cắt ra. Nhưng nếu nó dính liền với lớp đất bên dưới, thì dù chỉ một ngày cũng không được phép (xê dịch). Ở nơi đã cày, người lấy cục đất bị lưỡi cày cắt ra cũng theo phương pháp này. Nếu có một sàng tọa cũ không có mái che hoặc mái che đã hỏng, (nếu) đã bị mưa thấm ướt quá bốn tháng, nó trở thành đất đã sinh. Từ đó, phần còn lại như gạch lợp mái, rui mè v.v…, hoặc các vật liệu khác, được phép lấy với ý nghĩ rằng: “Tôi lấy gạch, lấy rui mè, lấy chân tường, lấy ván lót sàn, lấy cột đá”. Nếu đất rơi xuống cùng với những thứ đó, thì không phạm tội. Nhưng người lấy đất tường thì phạm tội. Nếu lấy những phần nào chưa bị thấm ướt, thì không phạm tội.

Antogehe mattikāpuñjo hoti, tasmiṃ ekadivasaṃ ovaṭṭhe gehaṃ chādenti, sace sabbo tinto cātumāsaccayena jātapathavīyeva. Athassa uparibhāgoyeva tinto, anto atinto, yattakaṃ tintaṃ taṃ kappiyakārakehi kappiyavohārena apanāmetvā sesaṃ yathāsukhaṃ vaḷañjetuṃ vaṭṭati. Udakena temetvā ekābaddhāyeva hi jātapathavī hoti, na itarāti.
Nếu có một đống đất trong nhà, khi nó bị mưa thấm ướt một ngày rồi người ta lợp nhà, nếu toàn bộ (đống đất) bị thấm ướt, thì sau bốn tháng nó trở thành đất đã sinh. Nếu chỉ phần trên của nó bị thấm ướt, bên trong không bị thấm ướt, thì phần nào bị thấm ướt, hãy nhờ người tịnh nhân dùng cách nói hợp lệ để dời đi, phần còn lại được phép sử dụng tùy ý. Vì chỉ đất bị nước làm thấm ướt và kết lại mới là đất đã sinh, chứ không phải loại khác.

Abbhokāse mattikāpākāro hoti, atirekacātumāsaṃ ce ovaṭṭho jātapathavīsaṅkhyaṃ gacchati . Tattha laggapaṃsuṃ pana allahatthena chupitvā gahetuṃ vaṭṭati. Sace iṭṭhakapākāro hoti, yebhuyyenakathalaṭṭhāne tiṭṭhati, yathāsukhaṃ vikopetuṃ vaṭṭati. Abbhokāse ṭhitamaṇḍapatthambhaṃ ito cito ca sañcāletvā pathaviṃ vikopentena gahetuṃ na vaṭṭati, ujukameva uddharituṃ vaṭṭati. Aññampi sukkharukkhaṃ vā sukkhakhāṇukaṃ vā gaṇhantassa eseva nayo. Navakammatthaṃ pāsāṇaṃ vā rukkhaṃ vā daṇḍakehi uccāletvā pavaṭṭentā gacchanti, tattha pathavī bhijjati, sace suddhacittā pavaṭṭenti, anāpatti. Atha pana tena apadesena pathaviṃ bhinditukāmāyeva honti, āpatti. Sākhādīni kaḍḍhantānampi pathaviyaṃ dārūni phālentānampi eseva nayo.
Nếu có một bức tường đất ở ngoài trời, nếu nó bị mưa thấm ướt quá bốn tháng, nó trở thành đất đã sinh. Nhưng được phép dùng tay ướt chạm vào và lấy đi lớp đất bụi bám trên đó. Nếu là tường gạch, nó ở trong tình trạng phần lớn là mảnh sành, thì được phép phá đi tùy ý. Cột nhà tạm dựng ở ngoài trời, không được phép lấy bằng cách lay qua lay lại làm xáo trộn đất, chỉ được phép nhổ thẳng lên. Người lấy cây khô hoặc gốc cây khô khác cũng theo phương pháp này. Khi người ta dùng đòn bẩy nâng đá hoặc cây để làm công trình mới rồi di chuyển đi, đất ở đó bị vỡ ra, nếu họ di chuyển với tâm thanh tịnh, thì không phạm tội. Nhưng nếu họ chỉ mượn cớ đó mà thực sự muốn phá đất, thì phạm tội. Người kéo cành cây v.v… và người chẻ củi trên đất cũng theo phương pháp này.

Pathaviyaṃ aṭṭhisūcikaṇṭakādīsupi yaṃkiñci ākoṭetuṃ vā pavesetuṃ vā na vaṭṭati. Passāvadhārāya vegena pathaviṃ bhindissāmīti evaṃ passāvampi kātuṃ na vaṭṭati, karontassa bhijjati, āpatti. Visamabhūmiṃ samaṃ karissāmīti sammuñjaniyā ghaṃsitumpi na vaṭṭati, vattasīseneva hi sammajjitabbaṃ. Keci kattarayaṭṭhiyā bhūmiṃ koṭṭenti, pādaṅguṭṭhakena vilikhanti, ‘‘caṅkamitaṭṭhānaṃ dassessāmā’’ti punappunaṃ bhūmiṃ bhindantā caṅkamanti, sabbaṃ na vaṭṭati. Vīriyasampaggahatthaṃ pana samaṇadhammaṃ karontena suddhacittena caṅkamituṃ vaṭṭati, ‘‘hatthaṃ dhovissāmā’’ti pathaviyaṃ ghaṃsanti, na vaṭṭati. Aghaṃsantena pana allahatthaṃ pathaviyaṃ ṭhapetvā rajaṃ gahetuṃ vaṭṭati. Keci kaṇḍukacchuādīhi ābādhikā chinnataṭādīsu aṅgapaccaṅgāni ghaṃsanti na vaṭṭati.
Không được phép đóng hoặc cắm bất cứ thứ gì như xương, kim, gai v.v… vào đất. Không được phép đi tiểu với ý nghĩ “Ta sẽ dùng sức mạnh của dòng nước tiểu để phá đất”; nếu làm mà đất bị vỡ, thì phạm tội. Không được phép dùng chổi chà xát đất không bằng phẳng với ý nghĩ “Ta sẽ làm cho bằng phẳng”; chỉ nên quét bằng đầu chổi theo phận sự. Một số người dùng gậy chống đập đất, dùng ngón chân cái vạch đất, kinh hành làm vỡ đất nhiều lần với ý nghĩ “Ta sẽ đánh dấu nơi kinh hành”, tất cả đều không được phép. Nhưng người đang thực hành pháp sa-môn với sự tinh tấn, được phép kinh hành với tâm thanh tịnh, (dù tay có nắm chặt). Chà tay xuống đất với ý nghĩ “Ta sẽ rửa tay”, không được phép. Nhưng được phép đặt tay ướt xuống đất rồi lấy bụi (để lau) mà không chà xát. Một số người bệnh bị ngứa ngáy do ghẻ lở v.v…, chà xát chân tay vào bờ đất bị lở v.v…, không được phép.

87.Khaṇati vā khaṇāpeti vāti antamaso pādaṅguṭṭhakenapi sammajjanīsalākāyapi sayaṃ vā khaṇati, aññena vā khaṇāpeti. Bhindati vā bhedāpeti vāti antamaso udakampi chaḍḍento sayaṃ vā bhindati, aññena vā bhindāpeti. Dahati vā dahāpeti vāti antamaso pattampi pacanto sayaṃ vā dahati, aññena vā dahāpeti. Yattakesu ṭhānesu aggiṃ deti vā dāpeti vā tattakāni pācittiyāni. Pattaṃ pacantenapi hi pubbe pakkaṭṭhāneyeva hi pacitabbo. Adaḍḍhāya pathaviyā aggiṃ ṭhapetuṃ na vaṭṭati. Pattapacanakapālassa pana upari aggiṃ ṭhapetuṃ vaṭṭati. Dārūnaṃ upari ṭhapeti , so aggi tāni dahanto gantvā pathaviṃ dahati, na vaṭṭati. Iṭṭhakakapālādīsupi eseva nayo.
87. “Đào hoặc sai người khác đào” có nghĩa là dù chỉ bằng ngón chân cái hay que tăm xỉa răng, tự mình đào hoặc sai người khác đào. “Phá hoặc sai người khác phá” có nghĩa là dù chỉ đổ nước, tự mình làm vỡ (đất) hoặc sai người khác làm vỡ. “Đốt hoặc sai người khác đốt” có nghĩa là dù chỉ nung bình bát, tự mình đốt (đất) hoặc sai người khác đốt. Đặt lửa hoặc sai người khác đặt lửa ở bao nhiêu chỗ thì phạm bấy nhiêu tội Ưng Đối Trị. Ngay cả khi nung bình bát, cũng chỉ nên nung ở nơi đã từng nung trước đó. Không được phép đặt lửa trên đất chưa nung. Nhưng được phép đặt lửa trên mảnh gốm dùng để nung bình bát. Đặt lửa trên củi, lửa đó cháy lan sang củi rồi đốt cháy đất, không được phép. Đối với gạch, mảnh gốm v.v… cũng theo phương pháp này.

Tatrāpi hi iṭṭhakādīnaṃyeva upari ṭhapetuṃ vaṭṭati. Kasmā? Tesaṃ anupādānattā. Na hi tāni aggissa upādānasaṅkhyaṃ gacchanti. Sukkhakhāṇusukkharukkhādīsupi aggiṃ dātuṃ na vaṭṭati. Sace pana pathaviṃ appattameva nibbāpetvā gamissāmīti deti, vaṭṭati. Pacchā nibbāpetuṃ na sakkoti, avisayattā anāpatti. Tiṇukkaṃ gahetvā gacchanto hatthe ḍayhamāne bhūmiyaṃ pāteti, anāpatti. Patitaṭṭhāneyeva upādānaṃ datvā aggiṃ kātuṃ vaṭṭatīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Daḍḍhapathaviyā ca yattakaṃ ṭhānaṃ usumāya anugataṃ, sabbaṃ vikopetuṃ vaṭṭatīti tattheva vuttaṃ. Yo pana ajānanako bhikkhu araṇīsahitena aggiṃ nibbattetvā hatthena ukkhipitvā ‘‘kiṃ karomī’’ti vadati, ‘‘jālehī’’ti vattabbo, ‘‘hattho ḍayhatī’’ti vadati, ‘‘yathā na ḍayhati tathā karohī’’ti vattabbo. ‘‘Bhūmiyaṃ pātehī’’ti pana na vattabbo. Sace hatthe ḍayhamāne pāteti ‘‘pathaviṃ dahissāmī’’ti apātitattā anāpatti. Patitaṭṭhāne pana aggiṃ kātuṃ vaṭṭatīti kurundiyaṃ vuttaṃ.
Ngay cả ở đó, cũng chỉ được phép đặt (lửa) trên gạch v.v… Tại sao? Vì chúng không phải là vật liệu cháy. Vì chúng không được kể là vật liệu cháy cho lửa. Không được phép đặt lửa trên cả gốc cây khô, cây khô v.v… Nhưng nếu đặt (lửa) với ý nghĩ “Ta sẽ dập tắt nó trước khi chạm đất rồi mới đi”, thì được phép. Nếu sau đó không thể dập tắt được, do ngoài tầm kiểm soát, thì không phạm tội. Người cầm bó đuốc đi, khi tay bị bỏng, làm rơi xuống đất, thì không phạm tội. Được phép đặt vật liệu cháy và đốt lửa ngay tại chỗ rơi đó, theo như sách Mahāpaccari nói. Và ở nơi đất đã cháy, chỗ nào còn hơi nóng lan tỏa, tất cả đều được phép làm xáo trộn, cũng theo như sách ấy nói. Còn Tỳ-khưu nào không biết, sau khi tạo ra lửa bằng cách cọ cây, cầm lửa trên tay rồi hỏi: “Con làm gì đây?”, (nên được bảo là): “Hãy đốt lên đi”, (nếu) vị ấy nói: “Tay con bị bỏng”, (nên được bảo là): “Hãy làm sao cho không bị bỏng”. Nhưng không (nên được bảo là): “Hãy ném xuống đất”. Nếu làm rơi khi tay bị bỏng, do không có ý định “Ta sẽ đốt đất”, thì không phạm tội. Nhưng được phép đốt lửa tại chỗ rơi đó, theo như sách Kurundī nói.

88.Anāpatti imaṃ jānātiādīsu ‘‘imassa thambhassa āvāṭaṃ jāna, mahāmattikaṃ jāna, thusamattikaṃ jāna, mahāmattikaṃ dehi, thusamattikaṃ dehi, mattikaṃ āhara, paṃsuṃ āhara, mattikāya attho, paṃsunā attho, imassa thambhassa āvāṭaṃ kappiyaṃ karohi, imaṃ mattikaṃ kappiyaṃ karohi, imaṃ paṃsuṃ kappiyaṃ karohī’’ti evamattho veditabbo.
88. Trong những trường hợp “Không phạm tội khi nói ‘Hãy biết cái này’” v.v…, cần hiểu ý nghĩa như sau: “Hãy biết hố cho cột này, hãy biết đất sét lớn, hãy biết đất trấu, hãy đưa đất sét lớn, hãy đưa đất trấu, hãy mang đất đến, hãy mang bụi đến, cần dùng đất, cần dùng bụi, hãy làm cho hố của cột này thành hợp lệ, hãy làm cho đất này thành hợp lệ, hãy làm cho bụi này thành hợp lệ”.

Asañciccāti pāsāṇarukkhādīni vā pavaṭṭentassa kattaradaṇḍena vā āhacca āhacca gacchantassa pathavī bhijjati, sā ‘‘tena bhindissāmī’’ti evaṃ sañcicca abhinnattā asañcicca bhinnā nāma hoti. Iti asañcicca bhindantassa anāpatti. Asatiyāti aññavihito kenaci saddhiṃ kiñci kathento pādaṅguṭṭhakena vā kattarayaṭṭhiyā vā pathaviṃ vilikhanto tiṭṭhati, evaṃ asatiyā vilikhantassa vā bhindantassa vā anāpatti. Ajānantassāti antogehe ovaṭṭhaṃ channaṃ pathaviṃ ‘‘akappiyapathavī’’ti na jānāti, ‘‘kappiyapathavī’’ti saññāya vikopeti, ‘‘khaṇāmi bhindāmi dahāmī’’ti vā na jānāti , kevalaṃ saṅgopanatthāya khaṇittādīni vā ṭhapeti, ḍayhamānahattho vā aggiṃ pāteti, evaṃ ajānantassa anāpatti. Sesaṃ uttānameva.
Không cố ý” có nghĩa là: khi người đang di chuyển đá, cây v.v…, hoặc người đi tới đi lui dùng gậy chống mà làm vỡ đất, đất đó, do không bị phá với ý cố ý “Ta sẽ phá nó bằng cái này”, nên gọi là bị vỡ không do cố ý. Như vậy, người phá (đất) không do cố ý thì không phạm tội. “Do thất niệm” có nghĩa là: người đang lơ đãng, nói chuyện gì đó với ai đó, đứng vạch đất bằng ngón chân cái hoặc bằng gậy chống, người vạch hoặc phá (đất) do thất niệm như vậy thì không phạm tội. “Do không biết” có nghĩa là: không biết đất trong nhà đã bị mưa thấm ướt và được che là “đất không hợp lệ (để đào xới)”, mà làm xáo trộn với ý nghĩ đó là “đất hợp lệ”; hoặc không biết rằng mình đang “đào, phá, đốt”, mà chỉ đặt cuốc xẻng v.v… để cất giữ, hoặc làm rơi lửa do tay bị bỏng, người không biết như vậy thì không phạm tội. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti. Kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Pathavīkhaṇanasikkhāpadaṃ dasamaṃ.

Học giới đào đất, điều thứ mười.

Samatto vaṇṇanākkamena musāvādavaggo paṭhamo .

Phẩm Nói Dối, phẩm thứ nhất, đã hoàn tất theo thứ tự giải thích.

2. Bhūtagāmavaggo

2. Phẩm Cây Cỏ

1. Bhūtagāmasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích học giới về cây cỏ

89. Senāsanavaggassa paṭhamasikkhāpade – anādiyantoti tassā vacanaṃ agaṇhanto. Dārakassa bāhuṃ ākoṭesīti ukkhittaṃ pharasuṃ niggahetuṃ asakkonto manussānaṃ cakkhuvisayātīte mahārājasantikā laddhe rukkhaṭṭhakadibbavimāne nipannassa dārakassa bāhuṃ thanamūleyeva chindi. Na kho metaṃ patirūpantiādimhi ayaṃ saṅkhepavaṇṇanā – himavante kira pakkhadivasesu devatāsannipāto hoti, tattha rukkhadhammaṃ pucchanti – ‘‘tvaṃ rukkhadhamme ṭhitā na ṭhitā’’ti? Rukkhadhammo nāma rukkhe chijjamāne rukkhadevatāya manopadosassa akaraṇaṃ. Tattha yā devatā rukkhadhamme aṭṭhitā hoti, sā devatāsannipātaṃ pavisituṃ na labhati. Iti sā devatā imañca rukkhadhamme aṭṭhānapaccayaṃ ādīnavaṃ addasa, bhagavato ca sammukhā sutapubbadhammadesanānusārena tathāgatassa chaddantādikāle pubbacaritaṃ anussari. Tenassā etadahosi – ‘‘na kho metaṃ patirūpaṃ…pe… voropeyya’’nti. Yaṃnūnāhaṃ bhagavato etamatthaṃ āroceyyanti idaṃ panassā ‘‘ayaṃ bhikkhu sapitiko putto, addhā bhagavā imaṃ imassa ajjhācāraṃ sutvā mariyādaṃ bandhissati, sikkhāpadaṃ paññapessatī’’ti paṭisañcikkhantiyā ahosi. Sacajja tvaṃ devateti sace ajja tvaṃ devate. Pasaveyyāsīti janeyyāsi uppādeyyāsi. Evañca pana vatvā bhagavā taṃ devataṃ saññāpento –
89. Trong học giới thứ nhất của Phẩm Sàng Tọa, “Không để ý” là không coi trọng lời của vị ấy (nữ thần cây). “Đã chặt vào cánh tay của đứa bé” có nghĩa là: do không thể kìm giữ được chiếc rìu đã giơ lên, đã chặt ngay sát nách vào cánh tay của đứa bé đang nằm trong thiên cung bằng gỗ cây (mà vị Tỳ-khưu) nhận được từ đức vua, (thiên cung đó) vượt ngoài tầm mắt của con người. Trong câu “Điều này quả thật không thích hợp với ta” v.v…, đây là phần giải thích tóm tắt: tương truyền, ở Hy-mã-lạp sơn, vào những ngày lễ nửa tháng, có cuộc hội họp của chư thiên, ở đó họ hỏi về pháp của thần cây: “Ngươi có giữ pháp của thần cây không?”. Pháp của thần cây là việc vị thần cây không khởi tâm sân hận khi cây bị chặt. Ở đó, vị thần nào không giữ pháp của thần cây thì không được phép vào cuộc hội họp của chư thiên. Như vậy, vị nữ thần cây đó đã thấy sự nguy hại này do không giữ pháp của thần cây, và theo bài Pháp thoại đã từng nghe trước Đức Thế Tôn, vị ấy đã nhớ lại tiền thân của Đức Như Lai vào thời Chaddanta v.v… Do đó, vị ấy đã nghĩ rằng: “Điều này quả thật không thích hợp với ta… (v.v.)… nên làm hại đến sự sống (của Tỳ-khưu)”. “Chắc chắn ta nên trình bày việc này lên Đức Thế Tôn” – ý nghĩ này của vị ấy đã khởi lên khi suy xét rằng: “Vị Tỳ-khưu này là con của người cha (tức là người có cha mẹ, dòng dõi), chắc chắn Đức Thế Tôn sau khi nghe về sự vi phạm này của vị ấy, sẽ đặt ra giới hạn, sẽ chế định học giới”. “Này nữ thần, nếu hôm nay ngươi” là “nếu hôm nay ngươi, này nữ thần”. “Gây ra” là sinh ra, làm phát sinh. Và sau khi nói như vậy, Đức Thế Tôn, để làm cho vị nữ thần đó hiểu rõ, đã nói bài kệ này:

‘‘Yo  ve uppatitaṃ kodhaṃ, rathaṃ bhantaṃva vāraye;
“Người nào quả thật ngăn được cơn giận đã nổi lên, như (hãm) cỗ xe đang chạy loạn;”

Tamahaṃ sārathiṃ brūmi, rasmiggāho itaro jano’’ti. (dha. pa. 222);
“Ta gọi người ấy là người đánh xe thực sự, kẻ khác chỉ là người cầm cương mà thôi.” (dha. pa. 222);

Imaṃ gāthamabhāsi. Gāthāpariyosāne sā devatā sotāpattiphale patiṭṭhāsi. Puna bhagavā sampattaparisāya dhammaṃ desento –
(Đức Thế Tôn) đã nói bài kệ này. Khi bài kệ kết thúc, vị nữ thần đó đã chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Lại nữa, Đức Thế Tôn, khi thuyết Pháp cho hội chúng đã vân tập, (đã nói): –

‘‘Yo uppatitaṃ vineti kodhaṃ, visaṭaṃ sappavisaṃva osadhehi;
“Người nào chế ngự cơn giận đã khởi lên, như (dùng) thuốc chữa nọc rắn đã lan truyền;”

So bhikkhu jahāti orapāraṃ, urago jiṇṇamivattacaṃ purāṇa’’nti. (su. ni. 1);
“Tỳ-khưu ấy từ bỏ bờ này bờ kia, như rắn lột da cũ.” (su. ni. 1);

Imaṃ gāthamabhāsi. Tatra paṭhamagāthā dhammapade saṅgahaṃ āruḷhā, dutiyā suttanipāte, vatthu pana vinayeti. Atha bhagavā dhammaṃ desentoyeva tassā devatāya vasanaṭṭhānaṃ āvajjanto patirūpaṃ ṭhānaṃ disvā ‘‘gaccha, devate, asukasmiṃ okāse rukkho vivitto, tasmiṃ upagacchā’’ti āha. So kira rukkho na āḷaviraṭṭhe, jetavanassa antoparikkhepe, yassa devaputtassa pariggaho ahosi, so cuto; tasmā ‘‘vivitto’’ti vutto. Tato paṭṭhāya ca pana sā devatā sammāsambuddhato laddhaparihārā buddhupaṭṭhāyikā ahosi. Yadā devatāsamāgamo hoti, tadā mahesakkhadevatāsu āgacchantīsu aññā appesakkhā devatā yāva mahāsamuddacakkavāḷapabbatā tāva paṭikkamanti. Ayaṃ pana attano vasanaṭṭhāne nisīditvāva dhammaṃ suṇāti. Yampi paṭhamayāme bhikkhū pañhaṃ pucchanti, majjhimayāme devatā, taṃ sabbaṃ tattheva nisīditvā suṇāti. Cattāro ca mahārājānopi bhagavato upaṭṭhānaṃ āgantvā gacchantā taṃ devataṃ disvāva gacchanti.
(Đức Thế Tôn) đã nói bài kệ này. Trong đó, bài kệ thứ nhất được đưa vào tuyển tập trong kinh Pháp Cú, bài thứ hai (được đưa vào) Kinh Tập, còn câu chuyện (làm duyên khởi) thì ở trong Tạng Luật. Khi ấy, Đức Thế Tôn, trong khi đang thuyết Pháp, đã hướng tâm đến nơi ở của vị nữ thần đó, thấy một nơi thích hợp, rồi nói: “Này nữ thần, hãy đi, ở nơi kia có một cái cây thanh vắng, hãy đến ở đó”. Tương truyền, cây đó không ở xứ Āḷavi, mà ở trong khuôn viên của tu viện Jetavana. Vị thiên tử nào đã từng sở hữu (cây đó) thì đã mệnh chung; do đó (cây đó) được gọi là “thanh vắng”. Và kể từ đó, vị nữ thần đó, được sự chăm sóc từ Đức Chánh Đẳng Chánh Giác, đã trở thành người hầu cận Đức Phật. Khi có cuộc hội họp của chư thiên, lúc các vị thiên thần có đại thần lực đến, các vị thiên thần khác có ít thần lực hơn phải lui ra xa cho đến tận biển lớn và núi Thiết圍. Còn vị nữ thần này thì ngồi ngay tại nơi ở của mình mà nghe Pháp. Ngay cả khi các Tỳ-khưu hỏi đạo vào canh một, chư thiên (hỏi đạo) vào canh giữa, vị ấy đều ngồi ngay tại đó mà nghe tất cả. Và cả Tứ Đại Thiên Vương, khi đến hầu cận Đức Thế Tôn rồi ra về, cũng đều nhìn thấy vị nữ thần đó rồi mới đi.

90.Bhūtagāmapātabyatāyāti ettha bhavanti ahuvuñcāti bhūtā; jāyanti vaḍḍhanti jātā vaḍḍhitā cāti attho. Gāmoti rāsi; bhūtānaṃ gāmoti bhūtagāmo; bhūtā eva vā gāmo bhūtagāmo; patiṭṭhitaharitatiṇarukkhādīnametaṃ adhivacanaṃ. Pātabyassa bhāvo pātabyatā; chedanabhedanādīhi yathāruci paribhuñjitabbatāti attho. Tassā bhūtagāmapātabyatāya; nimittatthe bhummavacanaṃ, bhūtagāmapātabyatāhetu, bhūtagāmassa chedanādipaccayā pācittiyanti attho.
90. Ở đây, trong từ “Do việc làm tổn hại cây cỏ“, “Chúng sanh” (trong ngữ cảnh này là thực vật) là những gì đang hiện hữu và đã từng hiện hữu; có nghĩa là những gì sinh ra, lớn lên, đã sinh ra và đã lớn lên. “Quần thể” là một tập hợp; quần thể của các loài thực vật là “cây cỏ“; hoặc chính các loài thực vật là một quần thể, (nên gọi là) “cây cỏ”; đây là tên gọi chung cho các loại cỏ cây xanh tươi đã mọc lên. “Sự làm tổn hại” là tình trạng có thể bị làm tổn hại; có nghĩa là có thể bị sử dụng (làm hại) tùy ý bằng cách chặt, phá v.v… “Do việc làm tổn hại cây cỏ ấy“; (đây là) từ ở cách địa điểm mang ý nghĩa chỉ nguyên nhân, (nghĩa là) do nguyên nhân làm tổn hại cây cỏ, do duyên chặt phá cây cỏ v.v… mà phạm tội Ưng Đối Trị – đó là ý nghĩa.

91. Idāni taṃ bhūtagāmaṃ vibhajitvā dassento bhūtagāmo nāma pañca bījajātānītiādimāha. Tattha bhūtagāmo nāmāti bhūtagāmaṃ uddharitvā yasmiṃ sati bhūtagāmo hoti, taṃ dassetuṃ ‘‘pañca bījajātānī’’ti āhāti aṭṭhakathāsu vuttaṃ. Evaṃ santepi ‘‘yāni vā panaññānipi atthi mūle jāyantī’’tiādīni na samenti. Na hi mūlabījādīni mūlādīsu jāyanti, mūlādīsu jāyamānāni pana tāni bījākatāni, tasmā evamettha vaṇṇanā veditabbā – bhūtagāmo nāmāti vibhajitabbapadaṃ. Pañcāti tassa vibhāgaparicchedo. Bījajātānīti paricchinnadhammanidassanaṃ. Tassattho – bījehi jātāni bījajātāni; rukkhādīnametaṃ adhivacanaṃ. Aparo nayo – bījāni ca tāni vijātāni ca pasūtāni nibbattapaṇṇamūlānīti bījajātāni. Etena allavālikādīsu ṭhapitānaṃ nibbattapaṇṇamūlānaṃ siṅgiverādīnaṃ saṅgaho kato hoti.
91. Bây giờ, để trình bày bằng cách phân loại cây cỏ đó, Ngài nói bắt đầu bằng “Cây cỏ là năm loại sinh từ hạt giống“. Ở đó, câu “Cây cỏ là” – trong các sớ giải được nói là: sau khi nêu lên (thuật ngữ) “cây cỏ”, để chỉ ra những gì hiện hữu mà được gọi là cây cỏ, Ngài đã nói “năm loại sinh từ hạt giống”. Dù vậy, những câu như “Hoặc những loại nào khác hiện hữu, sinh từ rễ” v.v… lại không phù hợp (với cách giải thích đó). Vì các loại hạt giống từ rễ v.v… không phải sinh ra từ rễ v.v…, nhưng những gì sinh ra từ rễ v.v… thì mới được xem là hạt giống (của chúng). Do đó, phần giải thích ở đây cần được hiểu như sau: “Cây cỏ là” là thuật ngữ cần được phân loại. “Năm” là sự phân định các loại của nó. “Loại sinh từ hạt giống” là sự chỉ ra các pháp đã được phân định. Ý nghĩa của nó là: những gì sinh ra từ hạt giống là “loại sinh từ hạt giống”; đây là tên gọi chung cho cây cối v.v… Một phương pháp khác: chúng là hạt giống, và chúng cũng đã nảy mầm, đã sinh trưởng, đã phát sinh lá và rễ, nên gọi là “loại (đã) sinh từ hạt giống”. Bằng cách này, bao gồm cả những loại như gừng v.v… đã phát sinh lá và rễ, được trồng trong cát ẩm v.v…

Idāni yehi bījehi jātattā rukkhādīni bījajātānīti vuttāni, tāni dassento ‘‘mūlabīja’’ntiādimāha. Tesaṃ uddeso pākaṭo eva. Niddese yāni vā panaññānipi atthi mūle jāyanti mūle sañjāyantīti ettha bījato nibbattena bījaṃ dassitaṃ , tasmā evamettha attho daṭṭhabbo, yāni vā panaññānipi atthi āluvakaserukamaluppalapuṇḍarīkakuvalayakandapāṭalimūlādibhede mūle gacchavallirukkhādīni jāyanti sañjāyanti, tāni yamhi mūle jāyanti ceva sañjāyanti ca tañca, pāḷiyaṃ vuttaṃ haliddādi ca sabbampi etaṃ mūlabījaṃ nāma. Eseva nayo khandhabījādīsu. Yevāpanakakhandhabījesu panettha ambāṭakaindasālanuhīpāḷibhaddakaṇikārādīni khandhabījāni, amūlavalli caturassavallikaṇavīrādīni phaḷubījāni makacisumanajayasumanādīni aggabījāni, ambajambūpanasaṭṭhiādīni bījabījānīti daṭṭhabbāni.
Bây giờ, để trình bày những hạt giống mà do sinh từ chúng, cây cối v.v… được gọi là “loại sinh từ hạt giống”, (Pāḷi) nói bắt đầu bằng “hạt giống từ rễ“. Sự liệt kê của chúng thì đã rõ ràng. Trong phần giải thích chi tiết, ở câu “Hoặc những loại nào khác hiện hữu, sinh từ rễ, phát triển từ rễ“, hạt giống được chỉ ra bằng (cái) đã sinh ra từ hạt giống, do đó, ý nghĩa ở đây cần được hiểu như sau: hoặc những loại nào khác hiện hữu, như các loại cây bụi, dây leo, cây thân gỗ v.v… sinh ra, phát triển từ các loại rễ như củ khoai sọ, củ năng, sen, súng, sen trắng, súng xanh, củ, rễ cây bạch hoa xà v.v…, những rễ mà từ đó chúng sinh ra và phát triển, và những thứ như nghệ v.v… đã được nói trong Pāḷi – tất cả những thứ đó gọi là hạt giống từ rễ. Phương pháp này cũng áp dụng cho hạt giống từ thân v.v… Còn ở đây, trong các loại hạt giống từ thân có thể trồng lại, những loại như cóc, cây indasāla, xương rồng, cây pāḷibhadda, sử quân tử v.v… là hạt giống từ thân; các loại dây leo không rễ, dây leo bốn cạnh, trúc đào v.v… là hạt giống từ đốt; các loại như hoa lài, hoa lài tây, cỏ tranh v.v… là hạt giống từ ngọn; các loại như xoài, điều, mít, hạt v.v… cần được xem là hạt giống từ hạt.

92. Idāni yaṃ vuttaṃ ‘‘bhūtagāmapātabyatāya pācittiya’’nti tattha saññāvasena āpattānāpattibhedaṃ pātabyatābhedañca dassento bīje bījasaññītiādimāha. Tattha yathā ‘‘sālīnaṃ cepi odanaṃ bhuñjatī’’tiādīsu (ma. ni. 1.76) sālitaṇḍulānaṃ odano ‘‘sālīnaṃ odano’’ti vuccati, evaṃ bījato sambhūto bhūtagāmo ‘‘bīja’’nti vuttoti veditabbo. Yaṃ  pana ‘‘bījagāmabhūtagāmasamārambhā paṭivirato’’tiādīsu (dī. ni. 1.10) vuttaṃ bhūtagāmaparimocanaṃ katvā ṭhapitaṃ bījaṃ, taṃ dukkaṭavatthu. Atha vā yadetaṃ ‘‘bhūtagāmo nāmā’’ti sikkhāpadavibhaṅgassa ādipadaṃ, tena saddhiṃ yojetvā yaṃ bījaṃ bhūtagāmo nāma hoti, tasmiṃ bīje bījasaññī satthakādīni gahetvā sayaṃ vā chindati aññena vā chedāpeti, pāsāṇādīni gahetvā sayaṃ vā bhindati aññena vā bhedāpeti, aggiṃ upasaṃharitvā sayaṃ vā pacati aññena vā pacāpeti, āpatti pācittiyassāti evamettha attho veditabbo. Yathārutaṃ pana gahetvā bhūtagāmavinimuttassa bījassa chindanādibhedāya pātabyatāya pācittiyaṃ na vattabbaṃ.
92. Bây giờ, đối với điều đã nói “Do việc làm tổn hại cây cỏ, phạm tội Ưng Đối Trị”, để trình bày sự phân biệt phạm tội và không phạm tội dựa vào tưởng, và sự phân biệt về việc làm tổn hại, (Pāḷi) nói bắt đầu bằng “Có tưởng là hạt giống đối với hạt giống“. Ở đó, cũng như trong những câu như “Dù ăn cơm nấu từ gạo sāli” v.v… (ma. ni. 1.76), cơm nấu từ gạo sāli được gọi là “cơm gạo sāli”, tương tự, cần hiểu rằng cây cỏ sinh ra từ hạt giống được gọi là “hạt giống” (trong ngữ cảnh này của học giới). Còn hạt giống được nói đến trong những câu như “Từ bỏ việc làm hại đến các loại hạt giống và cây cỏ” v.v… (dī. ni. 1.10), tức là hạt giống đã được tách ra khỏi cây cỏ và cất giữ, (làm hại) đến hạt giống đó là đối tượng của tội Tác Ác. Hoặc là, đối với thuật ngữ đầu tiên của phần phân tích học giới là “Cây cỏ là”, kết hợp với điều đó, hạt giống nào được gọi là cây cỏ, ý nghĩa ở đây cần được hiểu như sau: đối với hạt giống đó, (Tỳ-khưu) có tưởng là hạt giống, lấy dao v.v…, tự mình cắt hoặc sai người khác cắt, lấy đá v.v…, tự mình phá hoặc sai người khác phá, mang lửa đến, tự mình đốt hoặc sai người khác đốt, thì phạm tội Ưng Đối Trị. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa đen, thì không nên nói rằng việc làm tổn hại bằng cách cắt, phá v.v… đối với hạt giống đã tách rời khỏi cây cỏ là phạm tội Ưng Đối Trị.

Ayañhettha vinicchayakathā – bhūtagāmaṃ vikopentassa pācittiyaṃ bhūtagāmaparimocitaṃ pañcavidhampi bījagāmaṃ vikopentassa dukkaṭaṃ. Bījagāmabhūtagāmo nāmesa atthi udakaṭṭho, atthi thalaṭṭho . Tattha udakaṭṭho sāsapamattikā tilabījakādibhedā sapaṇṇikā apaṇṇikā ca sabbā sevālajāti antamaso udakapappaṭakaṃ upādāya ‘‘bhūtagāmo’’ti veditabbo. Udakapappaṭako nāma upari thaddho pharusavaṇṇo, heṭṭhā mudu nīlavaṇṇo hoti. Tattha yassa sevālassa mūlaṃ orūhitvā pathaviyaṃ patiṭṭhitaṃ, tassa pathavī ṭhānaṃ. Yo udake sañcarati, tassa udakaṃ. Pathaviyaṃ patiṭṭhitaṃ yattha katthaci vikopentassa uddharitvā vā ṭhānantaraṃ saṅkāmentassa pācittiyaṃ. Udake sañcarantaṃ vikopentasseva pācittiyaṃ. Hatthehi pana ito cito ca viyūhitvā nhāyituṃ vaṭṭati, sakalañhi udakaṃ tassa ṭhānaṃ. Tasmā na so ettāvatā ṭhānantaraṃ saṅkāmito hoti. Udakato pana udakena vinā sañcicca ukkhipituṃ na vaṭṭati, udakena saddhiṃ ukkhipitvā puna udake pakkhipituṃ vaṭṭati. Parissāvanantarena nikkhamati, kappiyaṃ kārāpetvāva udakaṃ paribhuñjitabbaṃ. Uppalinīpaduminīādīni jalajavallitiṇāni udakato uddharantassa vā tattheva vikopentassa vā pācittiyaṃ. Parehi uppāṭitāni vikopentassa dukkaṭaṃ. Tāni hi bījagāme saṅgahaṃ gacchanti. Tilabījakasāsapamattakasevālopi udakato uddhato amilāto aggabījasaṅgahaṃ gacchati . Mahāpaccariyādīsu ‘‘anantakatilabījakaudakapappaṭakādīni dukkaṭavatthukānī’’ti vuttaṃ, tattha kāraṇaṃ na dissati. Andhakaṭṭhakathāyaṃ ‘‘sampuṇṇabhūtagāmo na hoti, tasmā dukkaṭa’’nti vuttaṃ, tampi na sameti, bhūtagāme hi pācittiyaṃ, bījagāme dukkaṭaṃ vuttaṃ. Asampuṇṇabhūtagāmo nāma tatiyo koṭṭhāso neva pāḷiyaṃ na aṭṭhakathāsu āgato. Atha etaṃ bījagāmasaṅgahaṃ gacchissatīti , tampi na yuttaṃ, abhūtagāmamūlattā tādisassa bījagāmassāti. Apica ‘‘garukalahukesu garuke ṭhātabba’’nti etaṃ vinayalakkhaṇaṃ.
Đây là phần quyết định về điều đó: người làm xáo trộn/hư hại cây cỏ thì phạm tội Ưng Đối Trị, người làm xáo trộn/hư hại cả năm loại hạt giống đã được tách rời khỏi cây cỏ thì phạm tội Tác Ác. Cây cỏ sinh từ hạt giống này có loại sống dưới nước, có loại sống trên cạn. Trong đó, loại sống dưới nước, như các loại rong rêu nhỏ như hạt cải, hạt mè, tất cả các loài rong rêu có lá và không có lá, cho đến cả váng nước, cần được hiểu là “cây cỏ”. Váng nước là loại phía trên cứng, màu xù xì, phía dưới mềm, màu xanh lam. Ở đó, loại rong rêu nào có rễ đâm xuống và bám vào đất, thì đất là nơi ở của nó. Loại nào trôi nổi trong nước, thì nước là (nơi ở của nó). Đối với loại bám vào đất, người làm xáo trộn ở bất cứ đâu, hoặc nhổ lên hay di chuyển sang chỗ khác, đều phạm tội Ưng Đối Trị. Đối với loại trôi nổi trong nước, chỉ cần làm xáo trộn là phạm tội Ưng Đối Trị. Nhưng được phép dùng tay gạt qua gạt lại để tắm, vì toàn bộ nước là nơi ở của nó. Do đó, chỉ với hành động đó, nó không bị xem là di chuyển sang chỗ khác. Nhưng không được phép cố ý vớt nó ra khỏi nước mà không kèm theo nước; được phép vớt lên cùng với nước rồi lại bỏ vào nước. Nếu nó trôi ra qua đồ lọc nước, cần phải nhờ người làm cho hợp lệ rồi mới được dùng nước đó. Người vớt các loại dây leo, cỏ mọc dưới nước như súng, sen v.v… ra khỏi nước, hoặc làm xáo trộn chúng ngay tại đó, đều phạm tội Ưng Đối Trị. Người làm xáo trộn những thứ đã được người khác nhổ lên thì phạm tội Tác Ác. Vì những thứ đó được xếp vào loại hạt giống. Rong rêu nhỏ như hạt mè, hạt cải, nếu được vớt ra khỏi nước mà chưa héo, thì được xếp vào loại hạt giống từ ngọn. Trong Mahāpaccari v.v… có nói: “Rong rêu nhỏ như hạt mè chưa kết lại, váng nước v.v… là đối tượng của tội Tác Ác”, nhưng lý do ở đó không thấy rõ. Trong Andhakaṭṭhakathāyaṃ có nói: “Vì không phải là cây cỏ hoàn chỉnh, do đó phạm tội Tác Ác”, điều đó cũng không phù hợp, vì đối với cây cỏ thì phạm tội Ưng Đối Trị, đối với hạt giống thì phạm tội Tác Ác đã được nói rõ. Loại thứ ba gọi là “cây cỏ chưa hoàn chỉnh” thì không xuất hiện trong Pāḷi cũng như trong các sớ giải. Nếu nói rằng nó được xếp vào loại hạt giống, điều đó cũng không hợp lý, vì loại hạt giống như vậy không có gốc là cây cỏ (tức là nó chính là cây cỏ). Hơn nữa, “Trong các trường hợp nặng nhẹ, cần phải giữ theo trường hợp nặng” – đó là đặc điểm của Luật.

Thalaṭṭhe – chinnarukkhānaṃ avasiṭṭho haritakhāṇu nāma hoti. Tattha kakudhakarañjapiyaṅgupanasādīnaṃ khāṇu uddhaṃ vaḍḍhati, so bhūtagāmena saṅgahito. Tālanāḷikerādīnaṃ khāṇu uddhaṃ na vaḍḍhati, so bījagāmena saṅgahito. Kadaliyā pana aphalitāya khāṇu bhūtagāmena saṅgahito, phalitāya bījagāmena. Kadalī pana phalitā yāva nīlapaṇṇā, tāva bhūtagāmeneva saṅgahitā, tathā phalito veḷu. Yadā pana aggato paṭṭhāya sussati, tadā bījagāmena saṅgahaṃ gacchati . Katarabījagāmena? Phaḷubījagāmena. Kiṃ tato nibbattati? Na kiñci. Yadi hi nibbatteyya, bhūtagāmeneva saṅgahaṃ gaccheyya. Indasālādirukkhe chinditvā rāsiṃ karonti, kiñcāpi rāsikatadaṇḍakehi ratanappamāṇāpi sākhā nikkhamanti, bījagāmeneva saṅgahaṃ gacchanti. Tattha maṇḍapatthāya vā vatiatthāya vā valliāropanatthāya vā bhūmiyaṃ nikhaṇanti, mūlesu ceva paṇṇesu ca niggatesu puna bhūtagāmasaṅkhyaṃ gacchanti. Mūlamattesu pana paṇṇamattesu vā niggatesu bījagāmena saṅgahitā eva.
Đối với loại sống trên cạn – phần còn lại của cây đã bị chặt, nếu còn xanh tươi, thì gọi là gốc cây sống. Ở đó, gốc của các cây như kakudha, karañja, piyaṅgu, mít v.v… mọc lên trên, nó được xếp vào loại cây cỏ. Gốc của các cây như thốt nốt, dừa v.v… không mọc lên trên, nó được xếp vào loại hạt giống. Còn đối với cây chuối, gốc của cây chưa ra quả thì được xếp vào loại cây cỏ, (gốc của cây) đã ra quả thì (xếp vào loại) hạt giống. Nhưng cây chuối đã ra quả, chừng nào lá còn xanh, thì vẫn được xếp vào loại cây cỏ; cây tre đã ra quả cũng vậy. Nhưng khi nó bắt đầu khô từ ngọn, thì được xếp vào loại hạt giống. Loại hạt giống nào? Hạt giống từ đốt. Cái gì sinh ra từ đó? Không có gì cả. Vì nếu có sinh ra, thì đã được xếp vào loại cây cỏ rồi. Người ta chặt các cây như indasāla v.v… rồi chất thành đống, dù từ những thân cây đã chất đống đó có những cành dài cả một cubit (ratana) mọc ra, chúng vẫn được xếp vào loại hạt giống. Ở đó, nếu người ta đào xuống đất để làm nhà tạm, hoặc làm hàng rào, hoặc để trồng dây leo, khi rễ và lá mọc ra, chúng lại trở thành cây cỏ. Nhưng khi chỉ mới có rễ hoặc chỉ mới có lá mọc ra, chúng vẫn được xếp vào loại hạt giống.

Yāni kānici bījāni pathaviyaṃ vā udakena siñcitvā ṭhapitāni, kapālādīsu vā allapaṃsuṃ pakkhipitvā nikkhittāni honti, sabbāni mūlamatte paṇṇamatte vā niggatepi bījāniyeva. Sacepi mūlāni ca upari aṅkuro ca niggacchati, yāva aṅkuro harito na hoti, tāva bījāniyeva. Muggādīnaṃ pana paṇṇesu uṭṭhitesu vīhiādīnaṃ vā aṅkure harite nīlapaṇṇavaṇṇe jāte bhūtagāmasaṅgahaṃ gacchanti. Tālaṭṭhīnaṃ paṭhamaṃ sūkaradāṭhā viya mūlaṃ niggacchati. Niggatepi yāva upari pattavaṭṭi na niggacchati, tāva bījagāmoyeva. Nāḷikerassa tacaṃ bhinditvā dantasūci viya aṅkuro niggacchati , yāva migasiṅgasadisā nīlapattavaṭṭi na hoti, tāva bījagāmoyeva. Mūle aniggatepi tādisāya pattavaṭṭiyā jātāya amūlakabhūtagāme saṅgahaṃ gacchati .
Bất kỳ hạt giống nào được gieo xuống đất hoặc được tưới nước và để đó, hoặc được đặt trong chậu sành v.v… có bỏ đất ẩm vào, tất cả chúng, dù chỉ mới ra rễ hoặc ra lá, vẫn là hạt giống. Ngay cả khi rễ và mầm ở trên đã mọc ra, chừng nào mầm chưa có màu xanh, thì vẫn là hạt giống. Nhưng đối với các loại đậu v.v… khi lá đã mọc lên, hoặc đối với lúa v.v… khi mầm đã có màu xanh, màu lá xanh biếc, thì được xếp vào loại cây cỏ. Đối với hạt thốt nốt, đầu tiên rễ mọc ra giống như nanh heo. Dù (rễ) đã mọc, chừng nào búp lá ở trên chưa mọc ra, thì vẫn là hạt giống. Đối với trái dừa, mầm xuyên qua vỏ mọc ra giống như cây tăm xỉa răng, chừng nào chưa có búp lá xanh giống như sừng nai, thì vẫn là hạt giống. Ngay cả khi rễ chưa mọc, nếu búp lá như vậy đã mọc ra, thì được xếp vào loại cây cỏ không rễ.

Ambaṭṭhiādīni vīhiādīhi vinicchinitabbāni. Vandākā vā aññā vā yā kāci rukkhe jāyitvā rukkhaṃ ottharati, rukkhova tassā ṭhānaṃ, taṃ vikopentassa vā tato uddharantassa vā pācittiyaṃ. Ekā amūlikā latā hoti, aṅguliveṭhako viya vanappagumbadaṇḍake veṭheti, tassāpi ayameva vinicchayo. Gehamukhapākāravedikācetiyādīsu nīlavaṇṇo sevālo hoti, yāva dve tīṇi pattāni na sañjāyanti tāva aggabījasaṅgahaṃ gacchati  . Pattesu jātesu pācittiyavatthu. Tasmā tādisesu ṭhānesu sudhālepampi dātuṃ na vaṭṭati. Anupasampannena littassa uparisnehalepo dātuṃ vaṭṭati. Sace nidāghasamaye sukkhasevālo tiṭṭhati, taṃ sammuñjanīādīhi ghaṃsitvā apanetuṃ vaṭṭati. Pānīyaghaṭādīnaṃ bahi sevālo dukkaṭavatthu, anto abbohāriko. Dantakaṭṭhapūvādīsu kaṇṇakampi abbohārikameva. Vuttañhetaṃ – ‘‘sace gerukaparikammakatā bhitti kaṇṇakitā hoti, coḷakaṃ temetvā pīḷetvā pamajjitabbā’’ti (mahāva. 66).
Hạt xoài v.v… cần được xác định (tương tự như) lúa v.v… Tầm gửi hoặc bất kỳ loài nào khác mọc trên cây và bao phủ cây, thì cây đó chính là nơi ở của nó; người làm xáo trộn hoặc nhổ nó khỏi đó thì phạm tội Ưng Đối Trị. Có một loại dây leo không rễ, nó quấn quanh các bụi cây, thân cây trong rừng như vòng quấn ngón tay, đối với nó cũng quyết định tương tự. Rong rêu màu xanh mọc trên hiên nhà, tường rào, bệ thờ, tháp miếu v.v…, chừng nào chưa mọc ra hai ba lá, thì được xếp vào loại hạt giống từ ngọn. Khi lá đã mọc, nó là đối tượng của tội Ưng Đối Trị. Do đó, ở những nơi như vậy, không được phép trát cả vôi. Được phép trát một lớp hồ mịn lên trên lớp (vôi) đã được người chưa thọ cụ túc giới trát. Nếu vào mùa khô có rong rêu khô bám lại, được phép dùng chổi v.v… chà xát để loại bỏ. Rong rêu (mọc) bên ngoài chum nước v.v… là đối tượng của tội Tác Ác, (rong rêu) bên trong thì không thành vấn đề. Nấm mốc trên tăm xỉa răng, bánh v.v… cũng không thành vấn đề. Điều này đã được nói: “Nếu bức tường đã được trang trí bằng đất son mà bị mốc, cần phải thấm ướt miếng vải, vắt khô rồi lau đi” (mahāva. 66).

Pāsāṇajātipāsāṇadaddusevālaseleyyakādīni aharitavaṇṇāni apattakāni ca dukkaṭavatthukāni. Ahicchattakaṃ yāva makuḷaṃ hoti, tāva dukkaṭavatthu. Pupphitakālato paṭṭhāya abbohārikaṃ. Allarukkhato pana ahicchattakaṃ gaṇhanto rukkhattacaṃ vikopeti, tasmā tattha pācittiyaṃ. Rukkhapappaṭikāyapi eseva nayo. Yā pana indasālakakudhādīnaṃ pappaṭikā rukkhato muccitvā tiṭṭhati, taṃ gaṇhantassa anāpatti. Niyyāsampi rukkhato muccitvā ṭhitaṃ sukkharukkhe vā laggaṃ gaṇhituṃ vaṭṭati. Allarukkhato na vaṭṭati. Lākhāyapi eseva nayo. Rukkhaṃ cāletvā paṇḍupalāsaṃ vā pariṇatakaṇikārādipupphaṃ vā pātentassa pācittiyameva. Hatthakukkuccena mudukesu indasālanuhīkhandhādīsu vā tatthajātakatālapaṇṇādīsu vā akkharaṃ chindantassāpi eseva nayo.
Các loại địa y trên đá, nấm đá, rong rêu đá v.v… không có màu xanh và không có lá, là đối tượng của tội Tác Ác. Nấm rắn, chừng nào còn là búp, thì là đối tượng của tội Tác Ác. Kể từ lúc nở ra thì không thành vấn đề. Nhưng người lấy nấm rắn từ cây tươi mà làm xáo trộn vỏ cây, do đó ở đó phạm tội Ưng Đối Trị. Đối với vỏ cây mỏng cũng theo phương pháp này. Nhưng vỏ mỏng của các cây như indasāla, kakudha v.v… đã tự bong ra khỏi cây và nằm đó, người lấy nó thì không phạm tội. Nhựa cây đã tự chảy ra khỏi cây và nằm đó, hoặc bám vào cây khô, cũng được phép lấy. (Lấy nhựa) từ cây tươi thì không được phép. Đối với cánh kiến cũng theo phương pháp này. Người rung cây làm rụng lá vàng hoặc hoa sử quân tử đã chín muồi v.v… thì phạm tội Ưng Đối Trị. Người do ngứa tay mà bẻ gãy chữ (khắc) trên thân cây mềm như indasāla, xương rồng v.v…, hoặc trên lá thốt nốt mọc ở đó, cũng theo phương pháp này (phạm tội).

Sāmaṇerānaṃ pupphaṃ ocinantānaṃ sākhaṃ onāmetvā dātuṃ vaṭṭati. Tehi pana pupphehi pānīyaṃ na vāsetabbaṃ. Pānīyavāsatthikena sāmaṇeraṃ ukkhipitvā ocināpetabbāni. Phalasākhāpi attanā khāditukāmena na onāmetabbā. Sāmaṇeraṃ ukkhipitvā phalaṃ gāhāpetabbaṃ. Yaṃkiñci gacchaṃ vā lataṃ vā uppāṭentehi sāmaṇerehi saddhiṃ gahetvā ākaḍḍhituṃ na vaṭṭati. Tesaṃ pana ussāhajananatthaṃ anākaḍḍhantena kaḍḍhanākāraṃ dassentena viya agge gahetuṃ vaṭṭati. Yesaṃ rukkhānaṃ sākhā ruhati, tesaṃ sākhaṃ makkhikābījanādīnaṃ atthāya kappiyaṃ akārāpetvā gahitaṃ tace vā patte vā antamaso nakhenapi vilikhantassa dukkaṭaṃ. Allasiṅgiverādīsupi eseva nayo. Sace pana kappiyaṃ kārāpetvā sītale padese ṭhapitassa mūlaṃ sañjāyati, uparibhāge chindituṃ vaṭṭati. Sace aṅkuro jāyati, heṭṭhābhāge chindituṃ vaṭṭati. Mūle ca nīlaṅkure ca jāte na vaṭṭati.
Được phép kéo cành xuống đưa cho các vị sa-di đang hái hoa. Nhưng không được dùng những hoa đó để ướp hương nước uống. Người muốn ướp hương nước uống cần phải nhấc vị sa-di lên để hái hoa. Cành có quả, nếu tự mình muốn ăn, cũng không được kéo xuống. Cần phải nhấc vị sa-di lên để hái quả. Không được phép cùng với các vị sa-di nắm và kéo khi họ đang nhổ bất kỳ cây bụi hay dây leo nào. Nhưng để khuyến khích họ, được phép nắm vào ngọn (cây) như thể đang làm động tác kéo mà không thực sự kéo. Đối với những cây mà cành có thể mọc (thành cây mới), nếu lấy cành đó vì mục đích (làm) hạt giống cho ong v.v… mà không nhờ người làm cho hợp lệ, người làm trầy vỏ hoặc lá, cho đến cả bằng móng tay, cũng phạm tội Tác Ác. Đối với gừng tươi v.v… cũng theo phương pháp này. Nhưng nếu đã nhờ người làm cho hợp lệ rồi để ở nơi mát mẻ mà rễ mọc ra, thì được phép cắt phần trên. Nếu mầm mọc ra, thì được phép cắt phần dưới. Khi cả rễ và mầm xanh đều đã mọc, thì không được phép (cắt).

Chindati vā chedāpeti vāti antamaso sammuñjanosalākāyapi tiṇāni chindissāmīti bhūmiṃ sammajjanto sayaṃ vā chindati, aññena vā chedāpeti. Bhindati vā bhedāpeti vāti antamaso caṅkamantopi chijjanakaṃ chijjatu, bhijjanakaṃ bhijjatu, caṅkamitaṭṭhānaṃ dassessāmīti sañcicca pādehi akkamanto tiṇavalliādīni sayaṃ vā bhindati aññena vā bhedāpeti. Sacepi hi tiṇaṃ vā lataṃ vā gaṇṭhiṃ karontassa bhijjati, gaṇṭhipi na kātabbo. Tālarukkhādīsu pana corānaṃ anāruhanatthāya dārumakkaṭakaṃ ākoṭenti, kaṇṭake bandhanti, bhikkhussa evaṃ kātuṃ na vaṭṭati. Sace dārumakkaṭako rukkhe allīnamattova hoti, rukkhaṃ na pīḷeti, vaṭṭati. ‘‘Rukkhaṃ chinda, lataṃ chinda, kandaṃ vā mūlaṃ vā uppāṭehī’’ti vattumpi vaṭṭati, aniyāmitattā. Niyāmetvā pana ‘‘imaṃ rukkhaṃ chindā’’tiādi vattuṃ na vaṭṭati. Nāmaṃ gahetvāpi ‘‘ambarukkhaṃ caturassavalliṃ āluvakandaṃ muñjatiṇaṃ asukarukkhacchalliṃ chinda bhinda uppāṭehī’’tiādivacanampi aniyāmitameva hoti. ‘‘Imaṃ ambarukkha’’ntiādivacanameva hi niyāmitaṃ nāma, taṃ na vaṭṭati.
Cắt hoặc sai người khác cắt” có nghĩa là dù chỉ bằng que tăm xỉa răng, khi quét đất với ý nghĩ “Ta sẽ cắt cỏ”, tự mình cắt hoặc sai người khác cắt. “Phá hoặc sai người khác phá” có nghĩa là dù chỉ khi đang kinh hành, (với ý nghĩ) “cái gì đáng cắt thì cứ cắt, cái gì đáng phá thì cứ phá, ta sẽ đánh dấu nơi kinh hành”, rồi cố ý dùng chân dẫm đạp lên cỏ, dây leo v.v…, tự mình phá hoặc sai người khác phá. Ngay cả khi làm nút thắt cho cỏ hoặc dây leo mà nó bị gãy, nút thắt đó cũng không được làm. Nhưng đối với cây thốt nốt v.v…, để ngăn trộm không leo lên, người ta đóng khỉ gỗ, buộc gai, Tỳ-khưu không được phép làm như vậy. Nếu khỉ gỗ chỉ bám vào cây mà không làm hại cây, thì được phép. Được phép nói: “Hãy chặt cây, hãy cắt dây leo, hãy nhổ củ hoặc rễ”, vì không chỉ định cụ thể. Nhưng không được phép nói chỉ định cụ thể như: “Hãy chặt cây này”. Ngay cả khi gọi tên (loài) như “Hãy chặt, phá, nhổ cây xoài, dây leo bốn cạnh, củ khoai sọ, cỏ muñja, vỏ cây asuka”, những lời nói đó vẫn là không chỉ định cụ thể (cây nào). Chỉ những lời nói như “cây xoài này” v.v… mới gọi là chỉ định cụ thể, điều đó không được phép.

Pacati vā pacāpeti vāti antamaso pattampi pacitukāmo tiṇādīnaṃ upari sañcicca aggiṃ karonto sayaṃ vā pacati, aññena vā pacāpetīti sabbaṃ pathavīkhaṇanasikkhāpade vuttanayena veditabbaṃ. Aniyāmetvā pana ‘‘mugge paca, māse pacā’’tiādi vattuṃ vaṭṭati. ‘‘Ime mugge paca, ime māse pacā’’ti evaṃ vattuṃ na vaṭṭati.
Đốt hoặc sai người khác đốt” có nghĩa là dù chỉ muốn nung bình bát, (nếu) cố ý đốt lửa trên cỏ v.v…, tự mình đốt hoặc sai người khác đốt – tất cả cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong học giới đào đất. Nhưng được phép nói không chỉ định cụ thể như: “Hãy nấu đậu xanh, hãy nấu đậu đen”. Không được phép nói như vầy: “Hãy nấu (chỗ) đậu xanh này, hãy nấu (chỗ) đậu đen này”.

Anāpatti imaṃ jānātiādīsu ‘‘imaṃ mūlabhesajjaṃ jāna, imaṃ mūlaṃ vā paṇṇaṃ vā dehi, imaṃ rukkhaṃ vā lataṃ vā āhara, iminā pupphena vā phalena vā paṇṇena vā attho, imaṃ rukkhaṃ vā lataṃ vā phalaṃ vā kappiyaṃ karohī’’ti evamattho daṭṭhabbo. Ettāvatā bhūtagāmaparimocanaṃ kataṃ hoti. Paribhuñjantena pana bījagāmaparimocanatthaṃ puna kappiyaṃ kāretabbaṃ.
Trong những trường hợp “Không phạm tội khi nói ‘Hãy biết cái này’” v.v…, cần hiểu ý nghĩa như sau: “Hãy biết thuốc từ rễ này, hãy đưa rễ hoặc lá này, hãy mang cây hoặc dây leo này đến, cần dùng hoa hoặc quả hoặc lá này, hãy làm cho cây hoặc dây leo hoặc quả này thành hợp lệ”. Chỉ với chừng đó, việc làm cho cây cỏ được tách rời (khỏi sự cấm đoán) đã được thực hiện. Nhưng người sử dụng cần phải nhờ làm cho hợp lệ một lần nữa để hạt giống được tách rời (khỏi sự cấm đoán).

Kappiyakaraṇañcettha iminā suttānusārena veditabbaṃ – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, pañcahi samaṇakappehi phalaṃ paribhuñjituṃ aggiparijitaṃ satthaparijitaṃ nakhaparijitaṃ abījaṃ nibbaṭṭabījameva pañcama’’nti. Tattha ‘‘aggiparijita’’nti agginā parijitaṃ adhibhūtaṃ daḍḍhaṃ phuṭṭhanti attho. ‘‘Satthaparijita’’nti satthena parijitaṃ adhibhūtaṃ chinnaṃ viddhaṃ vāti attho. Esa nayo nakhaparijite. Abījanibbaṭṭabījāni sayameva kappiyāni. Agginā kappiyaṃ karontena kaṭṭhaggigomayaggiādīsu yena kenaci antamaso lohakhaṇḍenapi ādittena kappiyaṃ kātabbaṃ. Tañca kho ekadese phusantena ‘‘kappiya’’nti vatvāva kātabbaṃ. Satthena karontena yassa kassaci lohamayasatthassa antamaso sūcinakhacchedanānampi tuṇḍena vā dhārāya vā chedaṃ vā vedhaṃ vā dassentena ‘‘kappiya’’nti vatvāva kātabbaṃ. Nakhena kappiyaṃ karontena pūtinakhena na kātabbaṃ. Manussānaṃ pana sīhabyagghadīpimakkaṭādīnaṃ sakuntānañca nakhā tikhiṇā honti, tehi kātabbaṃ. Assamahiṃsasūkaramigagorūpādīnaṃ khurā atikhiṇā, tehi na kātabbaṃ, katampi akataṃ hoti. Hatthinakhā pana khurā na honti, tehi vaṭṭati. Yehi pana kātuṃ vaṭṭati, tehi tatthajātakehipi uddharitvā gahitakehipi chedaṃ vā vedhaṃ vā dassentena ‘‘kappiya’’nti vatvāva kātabbaṃ.
Và việc làm cho hợp lệ ở đây cần được hiểu theo kinh này: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng quả cây theo năm cách hợp với sa-môn: (1) đã bị lửa làm chín (tổn thương), (2) đã bị dao làm (tổn thương), (3) đã bị móng tay làm (tổn thương), (4) không có hạt giống, và thứ năm là (5) đã được loại bỏ hạt giống”. Ở đó, “đã bị lửa làm chín (tổn thương)” có nghĩa là đã bị lửa làm cho chín, xâm nhập, đốt cháy, chạm vào. “Đã bị dao làm (tổn thương)” có nghĩa là đã bị dao làm cho (tổn thương), xâm nhập, cắt đứt, hoặc đâm thủng. Đối với “đã bị móng tay làm (tổn thương)” cũng theo phương pháp này. Còn (quả) không có hạt giống và (quả) đã được loại bỏ hạt giống thì ở đây là hợp lệ. Người làm cho hợp lệ bằng lửa, cần phải làm cho hợp lệ bằng bất cứ loại lửa nào như lửa củi, lửa phân bò v.v…, cho đến cả bằng một miếng sắt đã nung đỏ. Và điều đó cần được thực hiện bằng cách chạm vào một phần (của vật) và phải nói “kappiyaṃ” (hợp lệ). Người làm (cho hợp lệ) bằng dao, cần phải làm bằng bất cứ loại dao bằng kim loại nào, cho đến cả bằng mũi hoặc lưỡi của kim, đồ cắt móng tay, bằng cách tạo một vết cắt hoặc vết đâm, và phải nói “kappiyaṃ”. Người làm cho hợp lệ bằng móng tay, không được làm bằng móng tay bị hư. Nhưng móng của người, sư tử, cọp, beo, khỉ v.v…, và của các loài chim thì sắc bén, được phép làm bằng những thứ đó. Móng guốc của ngựa, trâu, heo, nai, bò v.v… thì quá sắc (cứng), không được làm bằng những thứ đó; dù đã làm cũng như chưa làm. Nhưng móng voi thì không phải là móng guốc, được phép làm bằng móng voi. Còn những thứ được phép dùng để làm (cho hợp lệ), dù là những thứ mọc tự nhiên tại chỗ hay những thứ đã được nhổ lên và lấy đi, cũng cần phải tạo một vết cắt hoặc vết đâm và phải nói “kappiyaṃ”.

Tattha sacepi bījānaṃ pabbatamatto rāsi rukkhasahassaṃ vā chinditvā ekābaddhaṃ katvā ucchūnaṃ vā mahābhāro bandhitvā ṭhapito hoti, ekasmiṃ bīje vā rukkhasākhāya vā ucchumhi vā kappiye kate sabbaṃ kataṃ hoti. Ucchū ca dārūni ca ekato baddhāni honti, ucchuṃ kappiyaṃ karissāmīti dāruṃ vijjhati, vaṭṭatiyeva. Sace pana yāya rajjuyā vā valliyā vā baddhāni, taṃ vijjhati, na vaṭṭati. Ucchukhaṇḍānaṃ pacchiṃ pūretvā āharanti, ekasmiṃ khaṇḍe kappiye kate sabbaṃ katameva hoti. Maricapakkādīhi missetvā bhattaṃ āharanti, ‘‘kappiyaṃ karohī’’ti vutte sacepi bhattasitthe vijjhati, vaṭṭatiyeva. Tilataṇḍulādīsupi eseva nayo. Yāguyā pakkhittāni pana ekābaddhāni hutvā na santiṭṭhanti, tattha ekamekaṃ vijjhitvā kappiyaṃ kātabbameva. Kapitthaphalādīnaṃ anto miñjaṃ kaṭāhaṃ muñcitvā sañcarati, bhindāpetvā kappiyaṃ kārāpetabbaṃ. Ekābaddhaṃ hoti, kaṭāhepi kātuṃ vaṭṭati.
Ở đó, dù có một đống hạt giống lớn như núi, hoặc một ngàn cây đã được chặt và buộc lại thành một bó, hoặc một bó mía lớn đã được buộc và để đó, chỉ cần làm cho một hạt giống, hoặc một cành cây, hoặc một cây mía trở nên hợp lệ, thì tất cả đều trở thành hợp lệ. Nếu mía và củi được buộc chung với nhau, (nếu) nói “Tôi sẽ làm cho mía hợp lệ” rồi đâm vào củi, vẫn được phép. Nhưng nếu đâm vào dây thừng hoặc dây leo dùng để buộc, thì không được phép. Người ta mang đến một giỏ đầy những khúc mía, chỉ cần làm cho một khúc trở nên hợp lệ, thì tất cả đều trở thành hợp lệ. Người ta mang đến cơm trộn với tiêu, ớt v.v…, khi được bảo “Hãy làm cho hợp lệ”, dù đâm vào hạt cơm, vẫn được phép. Đối với mè, gạo v.v… cũng theo phương pháp này. Nhưng những thứ bỏ vào cháo thì không dính liền với nhau, ở đó cần phải đâm vào từng thứ một để làm cho hợp lệ. Ruột của quả kapittha v.v… sau khi tách khỏi vỏ cứng thì di chuyển (lỏng lẻo), cần phải nhờ người đập vỡ (vỏ) rồi làm cho hợp lệ. Nếu nó dính liền (thành một khối), thì được phép làm (cho hợp lệ) ngay cả khi còn trong vỏ cứng.

Asañciccāti pāsāṇarukkhādīni vā pavaṭṭentassa sākhaṃ vā kaḍḍhantassa kattaradaṇḍena vā bhūmiṃ paharitvā gacchantassa tiṇāni chijjanti, tāni tena chindissāmīti evaṃ sañcicca acchinnattā asañcicca chinnāni nāma honti. Iti asañcicca chindantassa anāpatti.
Không cố ý” có nghĩa là: khi người đang di chuyển đá, cây v.v…, hoặc kéo cành cây, hoặc dùng gậy chống đập xuống đất khi đi mà làm đứt cỏ, cỏ đó, do không bị cắt với ý cố ý “Ta sẽ cắt nó bằng cái này”, nên gọi là bị cắt không do cố ý. Như vậy, người cắt (cỏ) không do cố ý thì không phạm tội.

Asatiyāti aññavihito kenaci saddhiṃ kiñci kathento pādaṅguṭṭhakena vā hatthena vā tiṇaṃ vā lataṃ vā chindanto tiṭṭhati, evaṃ asatiyā chindantassa anāpatti.
Do thất niệm” có nghĩa là: người đang lơ đãng, nói chuyện gì đó với ai đó, đứng dùng ngón chân cái hoặc tay làm đứt cỏ hoặc dây leo, người làm đứt (cỏ, dây leo) do thất niệm như vậy thì không phạm tội.

Ajānantassāti etthabbhantare bījagāmoti vā bhūtagāmoti vā na jānāti, chindāmītipi na jānāti, kevalaṃ vatiyā vā palālapuñje vā nikhādanaṃ vā khaṇittiṃ vā kudālaṃ vā saṅgopanatthāya ṭhapeti, ḍayhamānahattho vā aggiṃ pāteti, tatra ce tiṇāni chijjanti vā ḍayhanti vā anāpatti. Manussaviggahapārājikavaṇṇanāyaṃ pana sabbaaṭṭhakathāsu ‘‘sace bhikkhu rukkhena vā ajjhotthaṭo hoti, opāte vā patito sakkā ca hoti rukkhaṃ chinditvā bhūmiṃ vā khaṇitvā nikkhamituṃ, jīvitahetupi attanā na kātabbaṃ. Aññena pana bhikkhunā bhūmiṃ vā khaṇitvā rukkhaṃ vā chinditvā allarukkhato vā daṇḍakaṃ chinditvā taṃ rukkhaṃ pavaṭṭetvā nikkhāmetuṃ vaṭṭati, anāpattī’’ti vuttaṃ. Tattha kāraṇaṃ na dissati – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, davaḍāhe ḍayhamāne paṭaggiṃ dātuṃ, parittaṃ kātu’’nti (cūḷava. 283) idaṃ pana ekameva suttaṃ dissati. Sace etassa anulomaṃ ‘‘attano na vaṭṭati, aññassa vaṭṭatī’’ti idaṃ nānākaraṇaṃ na sakkā laddhuṃ. Attano atthāya karonto attasinehena akusalacitteneva karoti, paro pana kāruññena, tasmā anāpattīti ce. Etampi akāraṇaṃ. Kusalacittenāpi hi imaṃ āpattiṃ āpajjati. Sabbaaṭṭhakathāsu pana vuttattā na sakkā paṭisedhetuṃ. Gavesitabbā ettha yutti. Aṭṭhakathācariyānaṃ vā saddhāya gantabbanti. Sesaṃ uttānameva.
Do không biết” có nghĩa là: không biết rằng bên trong đó có hạt giống hay cây cỏ, cũng không biết rằng mình đang cắt, chỉ đặt mai, cuốc, xẻng v.v… vào hàng rào hoặc đống rơm để cất giữ, hoặc làm rơi lửa do tay bị bỏng, nếu ở đó cỏ bị cắt hoặc bị cháy, thì không phạm tội. Nhưng trong phần giải thích điều Bất Cộng Trụ về hình người (giết người?), trong tất cả các sớ giải có nói: “Nếu Tỳ-khưu bị cây đè lên, hoặc rơi xuống hố, và có thể thoát ra bằng cách chặt cây hoặc đào đất, dù vì mạng sống cũng không được tự mình làm. Nhưng một Tỳ-khưu khác thì được phép đào đất hoặc chặt cây, hoặc cắt một cây gậy từ cây tươi rồi đẩy cây đó (đang đè) để cứu (Tỳ-khưu kia) ra, không phạm tội”. Ở đó không thấy rõ lý do – chỉ thấy một kinh duy nhất này: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép đốt lửa đối ứng khi bị cháy rừng bao vây, để tạo sự bảo vệ” (cūḷava. 283). Nếu theo sự tương ứng của kinh này, thì không thể có được sự phân biệt rằng “tự mình làm thì không được phép, người khác làm thì được phép”. Nếu nói rằng: người làm vì lợi ích của chính mình thì làm với tâm bất thiện do lòng yêu quý bản thân, còn người khác thì làm với lòng từ bi, do đó không phạm tội. Điều này cũng không phải là lý do. Vì ngay cả với tâm thiện cũng có thể phạm tội này. Nhưng vì đã được nói trong tất cả các sớ giải, nên không thể bác bỏ. Cần phải tìm kiếm lý lẽ ở đây. Hoặc là nên theo đức tin đối với các vị soạn sớ giải. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti. Kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Bhūtagāmasikkhāpadaṃ paṭhamaṃ.

Học giới về cây cỏ, điều thứ nhất.

2. Aññavādakasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích học giới nói lời quanh co

94. Dutiyasikkhāpade – anācāraṃ ācaritvāti akātabbaṃ katvā; kāyavacīdvāresu āpattiṃ āpajjitvāti vuttaṃ hoti. Aññenaññaṃ paṭicaratīti aññena vacanena aññaṃ vacanaṃ paṭicarati paṭicchādeti ajjhottharati; idāni taṃ paṭicaraṇavidhiṃ dassento ‘‘ko āpanno’’tiādimāha. Tatrāyaṃ vacanasambandho – so kira kiñci vītikkamaṃ disvā ‘‘āvuso, āpattiṃ āpannosī’’ti saṅghamajjhe āpattiyā anuyuñjiyamāno ‘‘ko āpanno’’ti vadati. ‘‘Tato tva’’nti vutte ‘‘ahaṃ kiṃ āpanno’’ti vadati. Atha ‘‘pācittiyaṃ vā dukkaṭaṃ vā’’ti vutte vatthuṃ pucchanto ‘‘ahaṃ kismiṃ āpanno’’ti vadati. Tato ‘‘asukasmiṃ nāma vatthusmi’’nti vutte ‘‘ahaṃ kathaṃ āpanno, kiṃ karonto āpannomhī’’ti pucchati. Atha ‘‘idaṃ nāma karonto āpanno’’ti vutte ‘‘kaṃ bhaṇathā’’ti vadati. Tato ‘‘taṃ bhaṇāmā’’ti vutte ‘‘kiṃ bhaṇathā’’ti vadati.
94. Trong học giới thứ hai (của phẩm này), “Sau khi làm điều không đúng đắn” là làm điều không nên làm; được nói là đã phạm tội qua thân hoặc lời. “Dùng lời khác để đối phó với lời khác” có nghĩa là dùng một lời nói khác để đối phó, che đậy, bao phủ một lời nói khác; bây giờ, để trình bày phương pháp đối phó đó, (Pāḷi) nói bắt đầu bằng “Ai phạm?“. Đây là sự liên kết của các lời nói: vị ấy, tương truyền, khi bị chất vấn về tội giữa Tăng chúng vì một sự vi phạm nào đó rằng: “Này hiền giả, thầy đã phạm tội”, liền nói: “Ai phạm?”. Khi được nói: “Là thầy đó”, vị ấy nói: “Tôi phạm tội gì?”. Rồi khi được nói: “Tội Ưng Đối Trị hoặc Tác Ác”, vị ấy hỏi về sự việc: “Tôi phạm trong trường hợp nào?”. Sau đó, khi được nói: “Trong sự việc này, sự việc kia”, vị ấy hỏi: “Tôi phạm như thế nào, làm gì mà tôi phạm?”. Rồi khi được nói: “Thầy làm điều này mà phạm”, vị ấy nói: “Các vị nói ai?”. Sau đó, khi được nói: “Chúng tôi nói thầy”, vị ấy nói: “Các vị nói gì?”.

Apicettha ayaṃ pāḷimuttakopi aññenaññaṃ paṭicaraṇavidhi – bhikkhūhi ‘‘tava sipāṭikāya kahāpaṇo diṭṭho, kissevamasāruppaṃ karosī’’ti vutto ‘‘sudiṭṭhaṃ, bhante, na paneso kahāpaṇo; tipumaṇḍalaṃ eta’’nti bhaṇanto vā ‘‘tvaṃ suraṃ pivanto diṭṭho, kissevaṃ karosī’’ti vutto ‘‘sudiṭṭho , bhante, na panesā surā, bhesajjatthāya sampāditaṃ ariṭṭha’’nti bhaṇanto vā ‘‘tvaṃ paṭicchanne āsane mātugāmena saddhiṃ nisinno diṭṭho, kissevamasāruppaṃ karosī’’ti vutto ‘‘yena diṭṭhaṃ sudiṭṭhaṃ, viññū panettha dutiyo atthi, so kissa na diṭṭho’’ti bhaṇanto vā, ‘‘īdisaṃ tayā kiñci diṭṭha’’nti puṭṭho ‘‘na suṇāmī’’ti sotamupanento vā, sotadvāre pucchantānaṃ cakkhuṃ upanento vā, aññenaññaṃ paṭicaratīti veditabbo. Aññavādakaṃ ropetūti aññavādakaṃ āropetu; patiṭṭhāpetūti attho. Vihesakaṃ ropetūti etasmimpi eseva nayo.
Hơn nữa, ở đây cũng có phương pháp dùng lời khác để đối phó với lời khác ngoài Pāḷi như sau: Khi bị các Tỳ-khưu nói: “Đã thấy tiền kahāpaṇa trong túi của thầy, tại sao thầy lại làm điều không thích hợp như vậy?”, (vị ấy) nói: “Thấy rõ lắm, bạch Đại đức, nhưng đó không phải là tiền kahāpaṇa; đó là một miếng thiếc tròn”; hoặc khi bị nói: “Đã thấy thầy uống rượu, tại sao thầy lại làm vậy?”, (vị ấy) nói: “Thấy rõ lắm, bạch Đại đức, nhưng đó không phải là rượu, đó là thuốc ariṭṭha được pha chế để chữa bệnh”; hoặc khi bị nói: “Đã thấy thầy ngồi cùng với người nữ ở chỗ ngồi kín đáo, tại sao thầy lại làm điều không thích hợp như vậy?”, (vị ấy) nói: “Người nào thấy thì thấy rõ lắm, nhưng có người nam thứ hai có trí hiểu biết ở đó, tại sao người đó không được thấy?”; hoặc khi được hỏi: “Thầy có thấy điều gì như vậy không?”, (vị ấy) đưa tai ra (giả điếc) nói “Tôi không nghe”, hoặc khi bị hỏi ở cửa tai thì lại đưa mắt ra (giả mù) – cần hiểu là đang dùng lời khác để đối phó với lời khác. “Hãy gán cho tội nói quanh co” là hãy gán tội nói quanh co; có nghĩa là hãy xác lập (tội đó). “Hãy gán cho tội làm phiền nhiễu“, đối với điều này cũng theo phương pháp tương tự.

98.Aññavādake vihesake pācittiyanti ettha aññaṃ vadatīti aññavādakaṃ; aññenaññaṃ paṭicaraṇassetaṃ nāmaṃ. Vihesetīti vihesakaṃ; tuṇhībhūtassetaṃ nāmaṃ, tasmiṃ aññavādake vihesakePācittiyanti vatthudvaye pācittiyadvayaṃ vuttaṃ.
98. Ở đây, trong câu “Khi nói quanh co, khi làm phiền nhiễu, phạm tội Ưng Đối Trị“, nói điều khác gọi là “nói quanh co”; đây là tên gọi của việc dùng lời khác để đối phó với lời khác. Làm phiền nhiễu gọi là “làm phiền nhiễu”; đây là tên gọi của việc giữ im lặng (khi bị chất vấn). Trong trường hợp nói quanh co, làm phiền nhiễu đó. “Phạm tội Ưng Đối Trị” – hai tội Ưng Đối Trị được nói cho hai trường hợp.

100.Aropite aññavādaketi kammavācāya anāropite aññavādake. Aropite vihesaketi etasmimpi eseva nayo.
100. “Khi (tội) nói quanh co được gán” (ám chỉ trường hợp) khi tội nói quanh co chưa được gán bằng một lời tác bạch chính thức. “Khi (tội) làm phiền nhiễu được gán“, đối với điều này cũng theo phương pháp tương tự.

101.Dhammakamme dhammakammasaññītiādīsu yaṃ taṃ aññavādakavihesakaropanakammaṃ kataṃ, tañce dhammakammaṃ hoti, so ca bhikkhu tasmiṃ dhammakammasaññī aññavādakañca vihesakañca karoti, athassa tasmiṃ aññavādake ca vihesake ca āpatti pācittiyassāti iminā nayena attho veditabbo.
101. Trong những câu như “Có tưởng là hành động hợp pháp đối với hành động hợp pháp” v.v…, nếu hành động gán tội nói quanh co và làm phiền nhiễu đã được thực hiện đó là một hành động hợp pháp, và Tỳ-khưu đó có tưởng rằng đó là hành động hợp pháp, rồi (vẫn) nói quanh co và làm phiền nhiễu, thì khi ấy, đối với việc nói quanh co và làm phiền nhiễu đó, vị ấy phạm tội Ưng Đối Trị – ý nghĩa cần được hiểu theo phương pháp này.

102.Ajānanto pucchatīti āpattiṃ vā āpannabhāvaṃ ajānantoyeva ‘‘kiṃ tumhe bhaṇatha, ahaṃ na jānāmī’’ti pucchati. Gilāno vā na kathetīti mukhe tādiso byādhi hoti, yena kathetuṃ na sakkoti. Saṅghassa bhaṇḍanaṃ vātiādīsu saṅghamajjhe kathite tappaccayā saṅghassa bhaṇḍanaṃ vā kalaho vā vivādo vā bhavissati, so mā ahosīti maññamāno na kathetīti iminā nayena attho veditabbo. Sesaṃ uttānamevāti.
102. “Hỏi do không biết” có nghĩa là do không biết về tội hoặc tình trạng đã phạm tội, vị ấy hỏi: “Các vị nói gì, tôi không biết”. “Hoặc bị bệnh không nói được” có nghĩa là trong miệng có bệnh như vậy khiến không thể nói được. Trong những trường hợp như “Hoặc (sợ) Tăng chúng cãi vã” v.v…, (nghĩ rằng) nếu nói ra giữa Tăng chúng, do duyên đó Tăng chúng sẽ cãi vã, hoặc tranh chấp, hoặc tranh luận, nghĩ rằng “mong sao điều đó đừng xảy ra” rồi không nói – ý nghĩa cần được hiểu theo phương pháp này. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, siyā kiriyaṃ , siyā akiriyaṃ, aññenaññaṃ paṭicarantassa hi kiriyaṃ hoti, tuṇhībhāvena vihesantassa akiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
(Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm; có thể là hành động, có thể là không hành động; vì đối với người dùng lời khác để đối phó với lời khác thì là hành động, đối với người làm phiền nhiễu bằng cách im lặng thì là không hành động. (Có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, bị đời chê bai, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (do) tâm bất thiện, (và có) cảm thọ khổ (đi kèm).

Aññavādakasikkhāpadaṃ dutiyaṃ.

Học giới nói lời quanh co, điều thứ hai.

3. Ujjhāpanakasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích học giới kích động sự bất mãn (nói xấu)

103. Tatiyasikkhāpade – dabbaṃ mallaputtaṃ bhikkhū ujjhāpentīti ‘‘chandāya dabbo mallaputto’’tiādīni vadantā taṃ āyasmantaṃ tehi bhikkhūhi avajānāpenti, avaññāya olokāpenti, lāmakato vā cintāpentī’’ti attho. Lakkhaṇaṃ panettha saddasatthānusārena veditabbaṃ. Ojjhāpentītipi pāṭho. Ayamevattho . Chandāyāti chandena pakkhapātena; attano attano sandiṭṭhasambhattānaṃ paṇītāni paññapetīti adhippāyo. Khiyyantīti ‘‘chandāya dabbo mallaputto’’tiādīni vadantā pakāsenti.
103. Trong học giới thứ ba (của phẩm này), “Các Tỳ-khưu kích động sự bất mãn (đối với) Dabba Mallaputta” có nghĩa là (họ) nói những lời như “Dabba Mallaputta (hành động) theo thiên vị” v.v…, làm cho Tôn giả ấy bị các Tỳ-khưu kia coi thường, nhìn với vẻ khinh miệt, hoặc nghĩ xấu – đó là ý nghĩa. Còn đặc điểm ở đây cần được hiểu theo văn phạm. Cũng có bản đọc là “ojjhāpenti”. Ý nghĩa cũng tương tự. “Theo thiên vị” là do ý muốn, do thiên vị; ý muốn nói là (vị ấy) sắp đặt những thứ tốt đẹp cho những người thân thiết, quen biết của mình. “Chê bai” có nghĩa là (họ) công khai nói những lời như “Dabba Mallaputta (hành động) theo thiên vị” v.v…

105.Ujjhāpanake khiyyanake pācittiyanti ettha yena vacanena ujjhāpenti, taṃ ujjhāpanakaṃ. Yena ca khiyyanti taṃ khiyyanakaṃ. Tasmiṃ ujjhāpanake khiyyanake. Pācittiyanti vatthudvaye pācittiyadvayaṃ vuttaṃ.
105. Ở đây, trong câu “Khi kích động sự bất mãn, khi chê bai, phạm tội Ưng Đối Trị“, lời nói nào dùng để kích động sự bất mãn, đó là “việc kích động sự bất mãn”. Lời nói nào dùng để chê bai, đó là “việc chê bai”. Trong việc kích động sự bất mãn, việc chê bai đó. “Phạm tội Ưng Đối Trị” – hai tội Ưng Đối Trị được nói cho hai trường hợp.

106.Ujjhāpanakaṃ nāma upasampannaṃ saṅghena sammataṃ senāsanapaññāpakaṃ vā…pe… appamattakavissajjanakaṃ vāti etesaṃ padānaṃ ‘‘maṅkukattukāmo’’ti iminā sambandho. Avaṇṇaṃ kattukāmo ayasaṃ kattukāmoti imesaṃ pana vasena upasampannantiādīsu ‘‘upasampannassā’’ti evaṃ vibhattivipariṇāmo kātabbo. Ujjhāpeti vā khiyyati vā āpatti pācittiyassāti ettha pana yasmā ‘‘khiyyanakaṃ nāmā’’ti evaṃ mātikāpadaṃ uddharitvāpi ‘‘ujjhāpanakaṃ nāmā’’ti imassa padassa vuttavibhaṅgoyeva vattabbo hoti, aññavādakasikkhāpade viya añño viseso natthi, tasmā taṃ visuṃ anuddharitvā avibhajitvā nigamanameva ekato katanti veditabbaṃ. Dhammakamme dhammakammasaññītiādīsu yaṃ tassa upasampannassa sammutikammaṃ kataṃ tañce dhammakammaṃ hoti, so ca bhikkhu tasmiṃ dhammakammasaññī ujjhāpanakañca khiyyanakañca karoti, athassa tasmiṃ ujjhāpanake ca khiyyanake ca āpatti pācittiyassāti iminā nayena attho veditabbo.
106. “Việc kích động sự bất mãn” (đối với) một vị đã thọ cụ túc giới được Tăng chúng chấp thuận làm người sắp đặt sàng tọa, hoặc… (v.v.)… hoặc người phân phát vật phẩm nhỏ nhặt – những thuật ngữ này có liên quan đến ý muốn “làm cho hổ thẹn“. Còn dựa vào ý muốn “làm cho mất tiếng tốt, làm cho mất danh dự“, trong các từ như “người đã thọ cụ túc giới” v.v…, cần phải thay đổi cách ngữ pháp (thành sở hữu cách) là “của người đã thọ cụ túc giới”. Còn ở đây, trong câu “Kích động sự bất mãn hoặc chê bai, phạm tội Ưng Đối Trị“, vì dù có nêu lên đề mục “Việc chê bai là”, thì phần phân tích đã nói cho thuật ngữ “Việc kích động sự bất mãn là” cũng được áp dụng, không có sự khác biệt nào khác như trong học giới nói lời quanh co, do đó, cần hiểu rằng phần kết luận đã được gộp chung lại mà không cần nêu lên và phân tích riêng (thuật ngữ “khiyyanakaṃ”). Trong những câu như “Có tưởng là hành động hợp pháp đối với hành động hợp pháp” v.v…, nếu hành động chấp thuận (bổ nhiệm) vị Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới đó đã được thực hiện là một hành động hợp pháp, và Tỳ-khưu (khác) có tưởng rằng đó là hành động hợp pháp, rồi (vẫn) kích động sự bất mãn và chê bai, thì khi ấy, đối với việc kích động sự bất mãn và chê bai đó, vị ấy phạm tội Ưng Đối Trị – ý nghĩa cần được hiểu theo phương pháp này.

Anupasampannaṃujjhāpeti vā khiyyati vāti ettha upasampannaṃ saṅghena sammataṃ aññaṃ anupasampannaṃ ujjhāpeti avajānāpeti, tassa vā taṃ santike khiyyatīti attho. Upasampannaṃ saṅghena asammatanti kammavācāya asammataṃ kevalaṃ ‘‘taveso bhāro’’ti saṅghena āropitabhāraṃ bhikkhūnaṃ vā phāsuvihāratthāya sayameva taṃ bhāraṃ vahantaṃ, yatra vā dve tayo bhikkhū viharanti, tatra vā tādisaṃ kammaṃ karontanti adhippāyo. Anupasampannaṃ saṅghena sammataṃ vā asammataṃ vāti ettha pana kiñcāpi anupasampannassa terasa sammutiyo dātuṃ na vaṭṭanti. Atha kho upasampannakāle laddhasammutiko pacchā anupasampannabhāve ṭhito, taṃ sandhāya ‘‘saṅghena sammataṃ vā’’ti vuttaṃ. Yassa pana byattassa sāmaṇerassa kevalaṃ saṅghena vā sammatena vā bhikkhunā ‘‘tvaṃ idaṃ kammaṃ karohī’’ti bhāro kato, tādisaṃ sandhāya ‘‘asammataṃ vā’’ti vuttaṃ. Sesamettha uttānamevāti.
Ở đây, trong câu “Kích động sự bất mãn hoặc chê bai người chưa thọ cụ túc giới“, có nghĩa là (một Tỳ-khưu) kích động sự bất mãn, làm cho coi thường một người chưa thọ cụ túc giới khác (đang giữ một chức vụ mà lẽ ra dành cho) người đã thọ cụ túc giới được Tăng chúng chấp thuận, hoặc chê bai người đó (người chưa thọ cụ túc giới) trước mặt vị (Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới) đó – đó là ý nghĩa. “Người đã thọ cụ túc giới không được Tăng chúng chấp thuận” có nghĩa là không được chấp thuận bằng Yết-ma tác bạch, chỉ là người được Tăng chúng giao phó trách nhiệm với lời nói “đây là gánh nặng của thầy”, hoặc là người tự mình gánh vác trách nhiệm đó để các Tỳ-khưu được sống thoải mái, hoặc ở nơi có hai ba Tỳ-khưu trú ngụ, vị ấy làm công việc tương tự – đó là ý muốn nói. Còn ở đây, trong câu “Người chưa thọ cụ túc giới được Tăng chúng chấp thuận hoặc không chấp thuận“, dù rằng không được phép trao mười ba sự chấp thuận cho người chưa thọ cụ túc giới. Tuy nhiên, có người đã nhận được sự chấp thuận khi còn là người đã thọ cụ túc giới, sau đó lại ở trong tình trạng chưa thọ cụ túc giới (ví dụ, hoàn tục rồi làm lại giới tử), nhắm đến trường hợp đó mà nói “hoặc được Tăng chúng chấp thuận”. Còn đối với vị sa-di có khả năng nào đó, chỉ được Tăng chúng hoặc một Tỳ-khưu được chấp thuận giao phó trách nhiệm rằng “Con hãy làm công việc này”, nhắm đến trường hợp như vậy mà nói “hoặc không được chấp thuận”. Phần còn lại ở đây ý nghĩa đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
(Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, bị đời chê bai, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (do) tâm bất thiện, (và có) cảm thọ khổ (đi kèm).

Ujjhāpanakasikkhāpadaṃ tatiyaṃ.

Học giới kích động sự bất mãn (nói xấu), điều thứ ba.

4. Paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích học giới về sàng tọa thứ nhất

108. Catutthasikkhāpade – hemantike kāleti hemantakāle himapātasamaye. Kāyaṃ otāpentāti mañcapīṭhādīsu nisinnā bālātapena kāyaṃ otāpentā. Kāle ārociteti yāgubhattādīsu yassa kassaci kāle ārocite. Ovaṭṭhaṃ hotīti himavassena ovaṭṭhaṃ tintaṃ hoti.
108. Trong học giới thứ tư (của phẩm này), “Vào mùa đông” là vào mùa đông, vào thời điểm sương giá rơi. “Đang sưởi ấm thân” có nghĩa là ngồi trên giường, ghế v.v…, đang sưởi ấm thân bằng nắng ban mai. “Khi thời gian được thông báo” là khi thời gian của bất kỳ việc gì như cháo, cơm v.v… được thông báo. “Bị ướt” là bị ướt, thấm đẫm bởi mưa sương.

110.Avassikasaṅketeti vassikavassānamāsāti evaṃ apaññatte cattāro hemantike cattāro ca gimhike aṭṭha māseti attho. Maṇḍape vāti sākhāmaṇḍape vā padaramaṇḍape vā. Rukkhamūle vāti yassa kassaci rukkhassa heṭṭhā. Yattha kākā vā kulalā vā na ūhadantīti yattha dhuvanivāsena kulāvake katvā vasamānā ete kākakulalā vā aññe vā sakuntā taṃ senāsanaṃ na ūhadanti, tādise rukkhamūle nikkhipituṃ anujānāmīti. Tasmā yattha gocarappasutā sakuntā vissamitvā gacchanti, tassa rukkhassa mūle nikkhipituṃ vaṭṭati. Yasmiṃ pana dhuvanivāsena kulāvake katvā vasanti, tassa rukkhassa mūle na nikkhipitabbaṃ. ‘‘Aṭṭha māse’’ti vacanato yesu janapadesu vassakāle na vassati, tesupi cattāro māse nikkhipituṃ na vaṭṭatiyeva. ‘‘Avassikasaṅkete’’ti vacanato yattha hemante devo vassati, tattha hemantepi ajjhokāse nikkhipituṃ na vaṭṭati. Gimhe pana sabbattha vigatavalāhakaṃ visuddhaṃ nabhaṃ hoti, evarūpe kāle kenacideva karaṇīyena ajjhokāse mañcapīṭhaṃ nikkhipituṃ vaṭṭati.
110. “Trong thời kỳ không phải mùa mưa đã quy định” có nghĩa là khi các tháng mùa mưa chưa được quy định như vậy, (thì đó là) bốn tháng mùa đông và bốn tháng mùa hè, (tổng cộng) tám tháng – đó là ý nghĩa. “Hoặc trong nhà tạm” là trong nhà tạm bằng cành cây hoặc nhà tạm bằng ván gỗ. “Hoặc dưới gốc cây” là dưới gốc của bất kỳ cây nào. “Nơi mà quạ hoặc diều hâu không làm ô uế” có nghĩa là nơi mà những con quạ, diều hâu này, hoặc các loài chim khác, làm tổ và ở thường xuyên, không làm ô uế sàng tọa đó, Ta cho phép để (sàng tọa) dưới gốc cây như vậy. Do đó, nơi mà các loài chim bay đi kiếm ăn rồi đậu nghỉ và bay đi, được phép để (sàng tọa) dưới gốc cây đó. Nhưng cây nào mà chúng làm tổ và ở thường xuyên, thì không được để (sàng tọa) dưới gốc cây đó. Theo quy định “tám tháng”, ở những xứ sở nào mà vào mùa mưa lại không có mưa, ở những nơi đó cũng không được phép để (sàng tọa ngoài trời) suốt bốn tháng (mùa mưa theo lịch). Theo quy định “trong thời kỳ không phải mùa mưa đã quy định”, nơi nào trời mưa vào mùa đông, thì ngay cả trong mùa đông cũng không được phép để (sàng tọa) ngoài trời. Nhưng vào mùa hè, khắp nơi trời quang mây tạnh, bầu trời trong sáng, vào thời điểm như vậy, nếu có công việc gì cần thiết, được phép để giường ghế ngoài trời.

Abbhokāsikenāpi vattaṃ jānitabbaṃ, tassa hi sace puggalikamañcako atthi, tattheva sayitabbaṃ. Saṅghikaṃ gaṇhantena vettena vā vākena vā vītamañcako gahetabbo. Tasmiṃ asati purāṇamañcako gahetabbo. Tasmimpi asati navavāyimo vā onaddhako vā gahetabbo. Gahetvā ca pana ‘‘ahaṃ ukkaṭṭharukkhamūliko ukkaṭṭhaabbhokāsiko’’ti cīvarakuṭimpi akatvā asamaye ajjhokāse rukkhamūle vā paññapetvā nipajjituṃ na vaṭṭati. Sace pana catugguṇenapi cīvarena katakuṭi atementaṃ rakkhituṃ na sakkoti, sattāhavaddalikādīni bhavanti, bhikkhuno kāyānugatikattā vaṭṭati.
Người ở ngoài trời cũng cần biết phận sự; vị ấy nếu có giường cá nhân, thì nên ngủ trên đó. Nếu lấy (giường) của Tăng chúng, nên lấy giường đan bằng mây hoặc bằng vỏ cây. Nếu không có giường đó, nên lấy giường cũ. Nếu cả giường đó cũng không có, nên lấy giường mới đan hoặc giường có dây chằng. Và sau khi lấy (giường), không được phép không làm cả lều bằng y, rồi vào lúc không thích hợp lại trải (giường) ra ngủ ngoài trời hoặc dưới gốc cây với ý nghĩ “ta là người sống khổ hạnh dưới gốc cây, ta là người sống khổ hạnh ngoài trời”. Nhưng nếu lều làm bằng y gấp bốn lớp cũng không thể che chở khỏi bị ướt, (và nếu) có mưa dầm bảy ngày v.v…, thì được phép (ngủ như vậy) vì phù hợp với thân thể của Tỳ-khưu.

Araññe paṇṇakuṭīsu vasantānaṃ sīlasampadāya pasannacittā manussā navaṃ mañcapīṭhaṃ denti ‘‘saṅghikaparibhogena paribhuñjathā’’ti vasitvā gacchantehi sāmantavihāre sabhāgabhikkhūnaṃ pesetvā gantabbaṃ, sabhāgānaṃ abhāve anovassake nikkhipitvā gantabbaṃ, anovassake asati rukkhe laggetvā gantabbaṃ. Cetiyaṅgaṇe sammajjaniṃ gahetvā bhojanasālaṅgaṇaṃ vā uposathāgāraṅgaṇaṃ vā pariveṇadivāṭṭhānaaggisālādīsu vā aññataraṃ sammajjitvā dhovitvā puna sammajjanīmāḷakeyeva ṭhapetabbā. Uposathāgārādīsu aññatarasmiṃ gahetvā avasesāni sammajjantassāpi eseva nayo.
Đối với những vị ở trong lều lá trong rừng, những người có tâm hoan hỷ do giới hạnh đầy đủ của các vị ấy, cúng dường giường ghế mới với lời nói “Xin quý ngài hãy dùng làm của chung cho Tăng chúng”. Khi ở xong và ra đi, cần phải gửi (những vật đó) đến các Tỳ-khưu đồng sự ở tu viện lân cận rồi mới đi. Nếu không có Tỳ-khưu đồng sự, cần phải cất giữ ở nơi không bị mưa tạt rồi mới đi. Nếu không có nơi không bị mưa tạt, cần phải treo lên cây rồi mới đi. Lấy chổi ở sân tháp, sau khi quét và rửa sân nhà ăn, hoặc sân nhà bố-tát, hoặc một trong những nơi như sân cốc riêng, nơi ở ban ngày, nhà bếp v.v…, cần phải đặt lại chính ở giá để chổi. Người lấy (chổi) ở một trong những nơi như nhà bố-tát v.v… rồi quét những nơi còn lại, cũng theo phương pháp này.

Yo  pana bhikkhācāramaggaṃ sammajjantova gantukāmo hoti, tena sammajjitvā sace antarāmagge sālā atthi, tattha ṭhapetabbā. Sace natthi, valāhakānaṃ anuṭṭhitabhāvaṃ sallakkhetvā ‘‘yāvāhaṃ gāmato nikkhamāmi, tāva na vassissatī’’ti jānantena yattha katthaci nikkhipitvā puna paccāgacchantena pākatikaṭṭhāne ṭhapetabbā. Sace vassissatīti jānanto ajjhokāse ṭhapeti, dukkaṭanti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Sace pana tatra tatreva sammajjanatthāya sammajjanī nikkhittā hoti, taṃ taṃ ṭhānaṃ sammajjitvā tatra tatreva nikkhipituṃ vaṭṭati. Āsanasālaṃ sammajjantena vattaṃ jānitabbaṃ. Tatridaṃ vattaṃ – majjhato paṭṭhāya pādaṭṭhānābhimukhā vālikā haritabbā. Kacavaraṃ hatthehi gahetvā bahi chaḍḍetabbaṃ.
Còn Tỳ-khưu nào muốn vừa quét đường khất thực vừa đi, vị ấy sau khi quét, nếu trên đường có nhà nghỉ, cần phải đặt (chổi) ở đó. Nếu không có, sau khi nhận thấy mây chưa kéo đến, biết rằng “cho đến khi ta ra khỏi làng, trời sẽ không mưa”, vị ấy để (chổi) ở một nơi nào đó, rồi khi quay lại cần phải đặt ở chỗ cũ. Nếu biết trời sẽ mưa mà vẫn để ngoài trời, thì phạm tội Tác Ác, theo như sách Mahāpaccari nói. Nhưng nếu chổi được để sẵn ở từng nơi để quét chính nơi đó, thì sau khi quét nơi đó, được phép để lại chính nơi đó. Người quét nhà hội cần biết phận sự. Đây là phận sự ở đó: cần phải gom cát từ giữa ra phía chỗ để chân. Rác cần được lấy bằng tay rồi vứt ra ngoài.

111.Masārakoti mañcapāde vijjhitvā tattha aṭaniyo pavesetvā kato. Bundikābaddhoti aṭanīhi mañcapāde ḍaṃsāpetvā pallaṅkasaṅkhepena kato. Kuḷīrapādakoti assameṇḍakādīnaṃ pādasadisehi pādehi kato. Yo vā pana koci vaṅkapādako, ayaṃ vuccati kuḷīrapādako. Āhaccapādakoti ayaṃ pana ‘‘āhaccapādako nāma mañco aṅge vijjhitvā kato hotī’’ti evaṃ parato pāḷiyaṃyeva vutto, tasmā aṭaniyo vijjhitvā tattha pādasikhaṃ pavesetvā upari āṇiṃ datvā katamañco ‘‘āhaccapādako’’ti veditabbo. Pīṭhepi eseva nayo. Anto saṃveṭhetvā baddhaṃ hotīti heṭṭhā ca upari ca vitthataṃ majjhe saṅkhittaṃ paṇavasaṇṭhānaṃ katvā baddhaṃ hoti, taṃ kira majjhe sīhabyagghacammaparikkhittampi karonti. Akappiyacammaṃ nāmettha natthi. Senāsanañhi sovaṇṇamayampi vaṭṭati, tasmā taṃ mahagghaṃ hoti. Anupasampannaṃ santharāpeti tassa palibodhoti yena santharāpitaṃ, tassa palibodho. Leḍḍupātaṃ atikkamantassa āpatti pācittiyassāti thāmamajjhimassa purisassa leḍḍupātaṃ atikkamantassa pācittiyaṃ.
111. “Giường masāraka” là giường được làm bằng cách khoan lỗ ở chân giường rồi lồng các thanh ngang vào đó. “Giường bundikābaddha” là giường được làm bằng cách dùng các thanh ngang kẹp chặt vào chân giường, theo kiểu giường xếp. “Giường chân cua” là giường được làm với các chân giống như chân ngựa, cừu v.v… Hoặc bất kỳ giường nào có chân cong, đều được gọi là giường chân cua. “Giường chân đóng vào” – điều này đã được nói rõ trong Pāḷi ở phần sau rằng: “Giường chân đóng vào là giường được làm bằng cách khoan lỗ ở các bộ phận (khung giường) rồi (đóng chân vào)”, do đó, cần hiểu giường được làm bằng cách khoan lỗ ở các thanh ngang, lồng đầu chân giường vào đó rồi đóng chốt ở trên là “giường chân đóng vào”. Đối với ghế cũng theo phương pháp này. “Được bện cuộn vào trong” có nghĩa là được bện theo hình trống cơm, rộng ở hai đầu và thắt lại ở giữa. Tương truyền, ở giữa người ta còn bọc da sư tử, da cọp. Ở đây không có loại da nào là không hợp lệ. Vì sàng tọa dù làm bằng vàng cũng được phép, do đó nó (giường có bọc da quý) là vật có giá trị lớn. “Nhờ người chưa thọ cụ túc giới trải (giường), đó là sự ràng buộc của vị ấy” có nghĩa là người nào nhờ trải, đó là sự ràng buộc của người đó. “Khi đi quá tầm ném cục đất, phạm tội Ưng Đối Trị” có nghĩa là khi đi quá tầm ném cục đất của một người đàn ông có sức khỏe trung bình thì phạm tội Ưng Đối Trị.

Ayaṃ panettha vinicchayo – thero bhojanasālāyaṃ bhattakiccaṃ katvā daharaṃ āṇāpeti ‘‘gaccha divāṭṭhāne mañcapīṭhaṃ paññapehī’’ti. So tathā katvā nisinno. Thero yathāruciṃ vicaritvā tattha gantvā thavikaṃ vā uttarāsaṅgaṃ vā ṭhapeti, tato paṭṭhāya therassa palibodho. Nisīditvā sayaṃ gacchanto neva uddharati, na uddharāpeti, leḍḍupātātikkame pācittiyaṃ. Sace pana thero tattha thavikaṃ vā uttarāsaṅgaṃ vā aṭṭhapetvā caṅkamantova daharaṃ ‘‘gaccha tva’’nti bhaṇati, tena ‘‘idaṃ bhante mañcapīṭha’’nti ācikkhitabbaṃ. Sace thero vattaṃ jānāti ‘‘tvaṃ gaccha, ahaṃ pākatikaṃ karissāmī’’ti vattabbaṃ. Sace bālo hoti anuggahitavatto ‘‘gaccha, mā idha tiṭṭha, neva nisīdituṃ na nipajjituṃ demī’’ti daharaṃ tajjetiyeva. Daharena ‘‘bhante sukhaṃ sayathā’’ti kappaṃ labhitvā vanditvā gantabbaṃ. Tasmiṃ gate therasseva palibodho. Purimanayeneva cassa āpatti veditabbā.
Còn đây là phần quyết định về điều đó: vị trưởng lão sau khi dùng bữa ở nhà ăn, sai vị Tỳ-khưu trẻ: “Con hãy đi dọn giường ghế ở nơi nghỉ ban ngày”. Vị ấy làm như vậy rồi ngồi đó. Vị trưởng lão sau khi đi dạo tùy ý, đến đó đặt túi đựng đồ hoặc thượng y lên, kể từ đó là sự ràng buộc của vị trưởng lão. Sau khi ngồi, nếu tự mình ra đi mà không dọn đi cũng không nhờ người khác dọn đi, khi đi quá tầm ném cục đất thì phạm tội Ưng Đối Trị. Nhưng nếu vị trưởng lão không đặt túi đựng đồ hay thượng y ở đó, mà trong khi đang kinh hành lại bảo vị Tỳ-khưu trẻ: “Con đi đi”, thì vị Tỳ-khưu trẻ đó cần phải thưa: “Bạch Đại đức, đây là giường ghế (của ngài)”. Nếu vị trưởng lão biết phận sự, cần phải nói: “Con cứ đi, ta sẽ làm cho đúng như cũ”. Nếu là người ngu dốt, không giữ phận sự, thì chỉ la mắng vị Tỳ-khưu trẻ: “Đi đi, đừng đứng đây, ta không cho ngồi cũng không cho nằm đâu”. Vị Tỳ-khưu trẻ, sau khi được phép (nói) “Bạch Đại đức, xin ngài hãy nghỉ ngơi thoải mái”, cần phải đảnh lễ rồi ra đi. Khi vị ấy đi rồi, đó là sự ràng buộc của chính vị trưởng lão. Và tội của vị ấy cần được hiểu theo phương pháp đã nói trước.

Atha pana āṇattikkhaṇeyeva daharo ‘‘mayhaṃ bhante bhaṇḍakadhovanādi kiñci karaṇīyaṃ atthī’’ti vadati, thero ca naṃ ‘‘tvaṃ paññapetvā gacchāhī’’ti vatvā bhojanasālato nikkhamitvā aññattha gacchati , pāduddhārena kāretabbo. Sace tattheva gantvā nisīdati purimanayeneva cassa leḍḍupātātikkame āpatti. Sace pana thero sāmaṇeraṃ āṇāpeti , sāmaṇere tattha mañcapīṭhaṃ paññapetvā nisinnepi bhojanasālato aññattha gacchanto pāduddhārena kāretabbo. Gantvā nisinno puna gamanakāle leḍḍupātātikkame āpattiyā kāretabbo. Sace pana āṇāpento mañcapīṭhaṃ paññapetvā tattheva nisīdāti āṇāpeti, yatricchati tatra gantvā āgantuṃ labhati. Sayaṃ pana pākatikaṃ akatvā gacchantassa leḍḍupātātikkame pācittiyaṃ. Antarasannipāte mañcapīṭhāni paññapetvā nisinnehi gamanakāle ārāmikānaṃ imaṃ paṭisāmethāti vattabbaṃ, avatvā gacchantānaṃ leḍḍupātātikkame āpatti.
Còn nếu ngay lúc được sai, vị Tỳ-khưu trẻ nói: “Bạch Đại đức, con có chút việc phải làm như giặt đồ dùng v.v…”, và vị trưởng lão sau khi bảo vị ấy: “Con cứ dọn rồi đi”, rồi rời nhà ăn đi nơi khác, thì (vị trưởng lão) phải chịu trách nhiệm dọn dẹp khi ngài rời đi. Nếu (vị trưởng lão) đến đó rồi ngồi, thì khi đi quá tầm ném cục đất (mà không dọn), vị ấy phạm tội theo phương pháp đã nói trước. Còn nếu vị trưởng lão sai vị sa-di, dù vị sa-di đã dọn giường ghế ở đó và ngồi, (vị trưởng lão) khi rời nhà ăn đi nơi khác, cũng phải chịu trách nhiệm dọn dẹp khi ngài rời đi. (Vị trưởng lão) đến đó ngồi, rồi khi ra đi, nếu đi quá tầm ném cục đất (mà không dọn), phải bị xử tội. Nhưng nếu người sai (vị Tỳ-khưu trẻ hoặc sa-di) dọn giường ghế rồi bảo (người được sai) ngồi chính tại đó, thì (người sai) được phép đi đâu tùy ý rồi quay lại. Còn nếu tự mình không làm cho đúng như cũ mà ra đi, khi đi quá tầm ném cục đất thì phạm tội Ưng Đối Trị. Tại cuộc họp giữa chừng, những người đã dọn giường ghế và ngồi, khi ra về cần phải nói với người phục vụ trong chùa: “Hãy dọn dẹp cái này”; nếu không nói mà ra đi, khi đi quá tầm ném cục đất thì phạm tội.

Mahādhammasavanaṃ nāma hoti tattha uposathāgāratopi bhojanasālatopi āharitvā mañcapīṭhāni paññapenti. Āvāsikānaṃyeva palibodho. Sace āgantukā ‘‘idaṃ amhākaṃ upajjhāyassa idaṃ ācariyassā’’ti gaṇhanti, tato paṭṭhāya tesaṃyeva palibodho. Gamanakāle pākatikaṃ akatvā leḍḍupātaṃ atikkamantānaṃ āpatti. Mahāpaccariyaṃ puna vuttaṃ – ‘‘yāva aññe na nisīdanti, tāva yehi paññattaṃ, tesaṃ bhāro. Aññesu āgantvā nisinnesu nisinnakānaṃ bhāro. Sace te anuddharitvā vā anuddharāpetvā vā gacchanti, dukkaṭaṃ. Kasmā? Anāṇattiyā paññapitattā’’ti. Dhammāsane paññatte yāva ussārako vā dhammakathiko vā nāgacchati, tāva paññāpakānaṃ palibodho, tasmiṃ āgantvā nisinne tassa palibodho. Sakalaṃ ahorattaṃ dhammasavanaṃ hoti, añño ussārako vā dhammakathiko vā uṭṭhahati, añño nisīdati, yo yo āgantvā nisīdati, tassa tassa bhāro. Uṭṭhahantena pana ‘‘idamāsanaṃ tumhākaṃ bhāro’’ti vatvā gantabbaṃ. Sacepi itarasmiṃ anāgateyeva paṭhamaṃ nisinno uṭṭhāya gacchati , tasmiñca antoupacāraṭṭheyeva itaro āgantvā nisīdati, uṭṭhāya gato āpattiyā na kāretabbo. Sace pana itarasmiṃ anāgateyeva paṭhamaṃ nisinno uṭṭhāyāsanā leḍḍupātaṃ atikkamati, āpattiyā kāretabbo. Sabbattha ca ‘‘leḍḍupātātikkame paṭhamapāde dukkaṭaṃ, dutiye pācittiya’’nti ayaṃ nayo mahāpaccariyaṃ vutto.
Khi có buổi nghe Pháp lớn, người ta mang giường ghế từ nhà bố-tát, từ nhà ăn đến để sắp đặt. Đó là sự ràng buộc của chính các vị Tỳ-khưu trú tại chùa. Nếu các vị khách (Tỳ-khưu) lấy (giường ghế) với ý nghĩ “Cái này cho thầy tế độ của chúng ta, cái này cho thầy giáo thọ của chúng ta”, thì kể từ đó là sự ràng buộc của chính họ. Khi ra về, nếu không làm cho đúng như cũ mà đi quá tầm ném cục đất, thì phạm tội. Trong Mahāpaccari lại nói: “Chừng nào người khác chưa ngồi xuống, thì đó là gánh nặng của những người đã sắp đặt. Khi những người khác đến và ngồi xuống, đó là gánh nặng của những người đang ngồi.” Nếu họ ra đi mà không dọn hoặc không nhờ người khác dọn, thì phạm tội Tác Ác. Tại sao? Vì đã sắp đặt mà không có sự sai bảo (từ người khác). Khi pháp tòa đã được sắp đặt, chừng nào người hướng dẫn hoặc vị giảng sư chưa đến, đó là sự ràng buộc của những người đã sắp đặt; khi vị ấy đến và ngồi xuống, đó là sự ràng buộc của vị ấy. Buổi nghe Pháp diễn ra suốt ngày đêm, một người hướng dẫn hoặc vị giảng sư đứng dậy, người khác ngồi xuống; người nào đến và ngồi xuống, đó là gánh nặng của người đó. Nhưng người đứng dậy cần phải nói: “Chỗ ngồi này là gánh nặng của quý vị” rồi mới đi. Ngay cả khi người ngồi trước đứng dậy và ra đi trước khi người khác đến, và trong khi (người đi) còn ở trong phạm vi, người khác đến và ngồi xuống, thì người đã đứng dậy ra đi không bị xử tội. Nhưng nếu người ngồi trước đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi quá tầm ném cục đất trước khi người khác đến, thì phải bị xử tội. Và ở khắp nơi, “Khi đi quá tầm ném cục đất, bước chân đầu tiên phạm tội Tác Ác, bước chân thứ hai phạm tội Ưng Đối Trị” – phương pháp này đã được nói trong Mahāpaccari.

112.Cimilikaṃ vātiādīsu cimilikā nāma sudhādiparikammakatāya bhūmiyā vaṇṇānurakkhaṇatthaṃ katā hoti , taṃ heṭṭhā pattharitvā upari kaṭasārakaṃ pattharanti. Uttarattharaṇaṃ nāma mañcapīṭhānaṃ upari attharitabbakaṃ paccattharaṇaṃ. Bhūmattharaṇaṃ nāma bhūmiyaṃ attharitabbā kaṭasārakādivikati. Taṭṭikaṃ nāma tālapaṇṇehi vā vākehi vā katataṭṭikā. Cammakhaṇḍo nāma sīhabyagghadīpitaracchacammādīsupi yaṃkiñci cammaṃ. Aṭṭhakathāsu hi senāsanaparibhoge paṭikkhittacammaṃ nāma na dissati, tasmā sīhacammādīnaṃ pariharaṇeyeva paṭikkhepo veditabbo. Pādapuñchanī nāma rajjukehi vā pilotikāhi vā pādapuñchanatthaṃ katā. Phalakapīṭhaṃ nāma phalakamayaṃ pīṭhaṃ. Atha vā phalakañceva dārumayapīṭhañca; etena sabbampi dārubhaṇḍādi saṅgahitaṃ. Mahāpaccariyaṃ pana vitthāreneva vuttaṃ – ‘‘ādhārakaṃ pattapidhānaṃ pādakathalikaṃ tālavaṇṭaṃ bījanīpattakaṃ yaṃkiñci dārubhaṇḍaṃ antamaso pānīyauḷuṅkaṃ pānīyasaṅkhaṃ ajjhokāse nikkhipitvā gacchantassa dukkaṭa’’nti. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana esa nayo dutiyasikkhāpade dassito. Ajjhokāse rajanaṃ pacitvā rajanabhājanaṃ rajanauḷuṅko rajanadoṇikāti sabbaṃ aggisālāya paṭisāmetabbaṃ. Sace aggisālā natthi, anovassake pabbhāre nikkhipitabbaṃ. Tasmimpi asati yattha olokentā bhikkhū passanti, tādise ṭhāne ṭhapetvāpi gantuṃ vaṭṭati.
112. Trong những từ như “Hoặc tấm trải cimilikā” v.v…, “cimilikā” là tấm trải được làm để bảo vệ màu sắc của nền đất đã được trát vôi v.v…, người ta trải nó ở dưới rồi trải chiếu thô lên trên. “Tấm trải phủ” là tấm trải để trải lên trên giường ghế. “Tấm trải nền” là các loại chiếu thô v.v… để trải trên nền đất. “Mành” là mành làm bằng lá thốt nốt hoặc bằng vỏ cây. “Mảnh da” là bất kỳ loại da nào, kể cả da sư tử, cọp, beo, linh cẩu v.v… Vì trong các sớ giải, không thấy nói đến loại da bị cấm dùng cho sàng tọa, do đó cần hiểu sự cấm đoán chỉ liên quan đến việc mang theo da sư tử v.v… “Thảm chùi chân” là thảm được làm bằng dây thừng hoặc bằng vải vụn để chùi chân. “Ghế bằng ván” là ghế làm bằng ván gỗ. Hoặc là tấm ván và ghế bằng gỗ; bằng từ này, tất cả các đồ dùng bằng gỗ v.v… đều được bao gồm. Nhưng trong Mahāpaccari đã nói một cách chi tiết: “Giá đỡ, nắp đậy bình bát, dép đi chân, quạt lá thốt nốt, quạt lông, bất kỳ đồ dùng bằng gỗ nào, cho đến cả gáo múc nước, vỏ ốc đựng nước, nếu để ngoài trời rồi bỏ đi, thì phạm tội Tác Ác”. Nhưng trong Đại Sớ Giải (Mahāaṭṭhakathā), phương pháp này đã được trình bày ở học giới thứ hai (của một phẩm khác?). Sau khi nấu thuốc nhuộm ở ngoài trời, tất cả các dụng cụ như nồi nhuộm, gáo nhuộm, máng nhuộm cần phải được cất giữ trong nhà bếp. Nếu không có nhà bếp, cần phải cất giữ ở nơi sườn núi không bị mưa tạt. Nếu cả nơi đó cũng không có, cũng được phép để ở một nơi nào đó mà các Tỳ-khưu nhìn thấy rồi mới đi.

Aññassapuggaliketi yasmiṃ vissāsaggāho na ruhati, tassa santake dukkaṭaṃ. Yasmiṃ pana vissāso ruhati, tassa santakaṃ attano puggalikamiva hotīti mahāpaccariyādīsu vuttaṃ.
Đối với đồ cá nhân của người khác” có nghĩa là đối với đồ sở hữu của người mà mình không có được sự tin cậy thân thiết, (nếu để bừa bãi) thì phạm tội Tác Ác. Còn đối với người mà mình có được sự tin cậy thân thiết, đồ sở hữu của người đó cũng giống như đồ cá nhân của mình, theo như sách Mahāpaccari v.v… nói.

113.Āpucchaṃ gacchatīti yo bhikkhu vā sāmaṇero vā ārāmiko vā lajjī hoti, attano palibodhaṃ viya maññati, yo tathārūpaṃ āpucchitvā gacchati , tassa anāpatti. Otāpento gacchatīti ātape otāpento āgantvā uddharissāmīti gacchati ; evaṃ gacchato anāpatti. Kenaci palibuddhaṃ hotīti senāsanaṃ kenaci upaddutaṃ hotīti attho. Sacepi hi vuḍḍhataro bhikkhu uṭṭhāpetvā gaṇhāti, sacepi yakkho vā peto vā āgantvā nisīdati, koci vā issaro āgantvā gaṇhāti, senāsanaṃ palibuddhaṃ hoti, sīhabyagghādīsu vā pana taṃ padesaṃ āgantvā ṭhitesupi senāsanaṃ palibuddhaṃ hotiyeva. Evaṃ kenaci palibuddhe anuddharitvāpi gacchato anāpatti. Āpadāsūti jīvitabrahmacariyantarāyesu. Sesaṃ uttānamevāti.
113. “Ra đi sau khi hỏi ý kiến” có nghĩa là Tỳ-khưu, hoặc sa-di, hoặc người phục vụ trong chùa nào có lòng hổ thẹn, xem (việc dọn dẹp) như là sự ràng buộc của chính mình, người nào ra đi sau khi hỏi ý kiến người như vậy, thì không phạm tội. “Ra đi trong khi đang phơi nắng” có nghĩa là đang phơi nắng (đồ vật) rồi ra đi với ý nghĩ “Ta sẽ quay lại dọn đi”; người ra đi như vậy thì không phạm tội. “Bị ai đó cản trở” có nghĩa là sàng tọa bị ai đó gây trở ngại. Vì ngay cả khi một Tỳ-khưu lớn tuổi hơn đứng dậy và lấy (sàng tọa đó), ngay cả khi một dạ-xoa hoặc ngạ quỷ đến và ngồi xuống, hoặc một người có quyền thế nào đó đến và lấy, thì sàng tọa đó là bị cản trở. Hoặc ngay cả khi sư tử, cọp v.v… đến và ở tại nơi đó, sàng tọa đó cũng vẫn là bị cản trở. Như vậy, khi bị ai đó cản trở, dù không dọn đi mà ra đi, cũng không phạm tội. “Trong các trường hợp nguy hiểm” là những nguy hiểm đến tính mạng hoặc đời sống phạm hạnh. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Kathinasamuṭṭhānaṃ – kāyavācato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyākiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Cách phát sinh (của tội này, được gọi là) Kaṭhinasamuṭṭhāna là: phát sinh từ thân và lời, và từ thân, lời cùng với tâm; là hành động và không phải hành động, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Paṭhamasenāsanasikkhāpadaṃ catutthaṃ.

Học giới về sàng tọa thứ nhất, điều thứ tư.

5. Dutiyasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích học giới về sàng tọa thứ hai

116. Dutiyasenāsanasikkhāpade – bhisīti mañcakabhisi vā pīṭhakabhisi vā. Cimilikādīnipi purimasikkhāpade vuttappakārāniyeva. Nisīdananti sadasaṃ veditabbaṃ. Paccattharaṇanti pāvāro kojavoti ettakameva vuttaṃ. Tiṇasanthāroti yesaṃ kesañci tiṇānaṃ santhāro . Esa nayo paṇṇasanthāre. Parikkhepaṃ atikkamantassāti ettha paṭhamapādaṃ atikkāmentassa dukkaṭaṃ, dutiyātikkame pācittiyaṃ. Aparikkhittassa upacāro nāma senāsanato dve leḍḍupātā.
116. Trong học giới về sàng tọa thứ hai, “Nệm” là nệm giường hoặc nệm ghế. “Cimilikā” v.v… cũng là những loại đã được nói trong học giới trước. “Tấm lót ngồi” cần được hiểu là tấm lót ngồi. “Tấm trải phủ” – chỉ chừng đó được nói là: tấm choàng hoặc thảm len. “Tấm trải bằng cỏ” là tấm trải bằng bất kỳ loại cỏ nào. Đối với tấm trải bằng lá cũng theo phương pháp này. Ở đây, trong câu “Khi đi quá hàng rào bao quanh“, khi đi quá bước chân đầu tiên thì phạm tội Tác Ác, khi đi quá (bước chân) thứ hai thì phạm tội Ưng Đối Trị. Đối với (sàng tọa) không có hàng rào bao quanh, phạm vi là hai tầm ném cục đất tính từ sàng tọa.

Anāpucchaṃvā gaccheyyāti ettha bhikkhumhi sati bhikkhu āpucchitabbo. Tasmiṃ asati sāmaṇero, tasmiṃ asati ārāmiko, tasmimpi asati yena vihāro kārito so vihārasāmiko, tassa vā kule yo koci āpucchitabbo. Tasmimpi asati catūsu pāsāṇesu mañcaṃ ṭhapetvā mañce avasesamañcapīṭhāni āropetvā upari bhisiādikaṃ dasavidhampi seyyaṃ rāsiṃ karitvā dārubhaṇḍaṃ mattikābhaṇḍaṃ paṭisāmetvā dvāravātapānāni pidahitvā gamiyavattaṃ pūretvā gantabbaṃ. Sace pana senāsanaṃ ovassati, chadanatthañca tiṇaṃ vā iṭṭhakā vā ānītā honti, sace ussahati, chādetabbaṃ. No ce sakkoti, yo okāso anovassako, tattha mañcapīṭhādīni nikkhipitvā gantabbaṃ. Sace sabbampi ovassati, ussahantena antogāme upāsakānaṃ ghare ṭhapetabbaṃ. Sace tepi ‘‘saṅghikaṃ nāma bhante bhāriyaṃ, aggidāhādīnaṃ bhāyāmā’’ti na sampaṭicchanti, ajjhokāsepi pāsāṇānaṃ upari mañcaṃ ṭhapetvā sesaṃ pubbe vuttanayeneva nikkhipitvā tiṇehi ca paṇṇehi ca paṭicchādetvā gantuṃ vaṭṭati. Yañhi tattha aṅgamattampi avasissati, taṃ aññesaṃ tattha āgatānaṃ bhikkhūnaṃ upakāraṃ bhavissatīti .
Ở đây, trong câu “Hoặc ra đi mà không hỏi ý kiến“, nếu có Tỳ-khưu, cần phải hỏi ý kiến Tỳ-khưu. Nếu không có Tỳ-khưu thì (hỏi) sa-di, nếu không có sa-di thì (hỏi) người phục vụ trong chùa, nếu cả người đó cũng không có, thì người chủ tu viện là người đã cho xây dựng tu viện, hoặc bất kỳ ai trong gia đình của vị ấy, cần phải được hỏi ý kiến. Nếu cả người đó cũng không có, cần phải đặt giường lên bốn tảng đá, chất giường ghế còn lại lên giường, chất đống cả mười loại đồ ngủ như nệm v.v… lên trên, dọn dẹp đồ dùng bằng gỗ, đồ dùng bằng đất, đóng cửa chính, cửa sổ, hoàn tất phận sự khi ra đi rồi mới đi. Nhưng nếu sàng tọa bị mưa dột, và đã mang cỏ hoặc gạch đến để lợp mái, nếu có khả năng, cần phải lợp lại. Nếu không thể, cần phải cất giường ghế v.v… ở nơi nào không bị mưa tạt rồi mới đi. Nếu tất cả (chỗ ở) đều bị mưa dột, người có khả năng cần phải gửi (đồ đạc) ở nhà của các vị cư sĩ trong làng. Nếu họ không nhận với lý do: “Bạch Đại đức, đồ của Tăng chúng là vật nặng nề, chúng con sợ hỏa hoạn v.v…”, thì cũng được phép đặt giường lên các tảng đá ở ngoài trời, cất giữ phần còn lại theo phương pháp đã nói trước, rồi lấy cỏ và lá che đậy lại rồi mới đi. Vì dù chỉ một phần nhỏ nào còn lại ở đó, cũng sẽ hữu ích cho các Tỳ-khưu khác đến sau.

117.Vihārassa upacāretiādīsu vihārassūpacāro nāma pariveṇaṃ. Upaṭṭhānasālāti pariveṇabhojanasālā. Maṇḍapoti pariveṇamaṇḍapo. Rukkhamūlanti pariveṇarukkhamūlaṃ. Ayaṃ tāva nayo kurundaṭṭhakathāyaṃ vutto. Kiñcāpi vutto, atha kho vihāroti antogabbho vā aññaṃ vā sabbaparicchannaṃ guttasenāsanaṃ veditabbaṃ. Vihārassa upacāreti tassa bahi āsanne okāse. Upaṭṭhānasālāyaṃ vāti bhojanasālāyaṃ vā. Maṇḍape vāti aparicchanne paricchanne vāpi bahūnaṃ sannipātamaṇḍape. Rukkhamūle vattabbaṃ natthi. Āpatti dukkaṭassāti vuttappakārañhi dasavidhaṃ seyyaṃ antogabbhādimhi guttaṭṭhāne paññapetvā gacchantassa yasmā seyyāpi senāsanampi upacikāhi palujjati, vammikarāsiyeva hoti, tasmā pācittiyaṃ vuttaṃ. Bahi pana upaṭṭhānasālādīsu paññapetvā gacchantassa seyyāmattameva nasseyya, ṭhānassa aguttatāya na senāsanaṃ, tasmā ettha dukkaṭaṃ vuttaṃ. Mañcaṃ vā pīṭhaṃ vāti ettha yasmā na sakkā mañcapīṭhaṃ sahasā upacikāhi khāyituṃ, tasmā taṃ vihārepi santharitvā gacchantassa dukkaṭaṃ vuttaṃ. Vihārūpacāre pana taṃ vihāracārikaṃ āhiṇḍantāpi disvā paṭisāmessanti.
117. Trong những câu như “Trong phạm vi của tu viện” v.v…, phạm vi của tu viện là khuôn viên riêng. “Nhà phục vụ” là nhà ăn của khuôn viên riêng. “Nhà tạm” là nhà tạm của khuôn viên riêng. “Gốc cây” là gốc cây của khuôn viên riêng. Đây là phương pháp đã được nói trong Kurundaṭṭhakathā. Dù đã nói như vậy, nhưng “tu viện” cần được hiểu là phòng ở bên trong hoặc một sàng tọa kín đáo nào khác được bao quanh hoàn toàn. “Trong phạm vi của tu viện” là ở một nơi gần bên ngoài tu viện đó. “Hoặc trong nhà phục vụ” là hoặc trong nhà ăn. “Hoặc trong nhà tạm” là trong nhà tạm dùng để hội họp đông người, dù có được bao quanh hay không. Về gốc cây thì không cần phải nói (thêm). “Phạm tội Tác Ác” – vì người trải mười loại đồ ngủ đã nói ở nơi kín đáo như phòng ở bên trong v.v… rồi ra đi, do cả đồ ngủ và sàng tọa đều bị mối mọt làm hư hỏng, chỉ còn lại như đống đất mối, do đó (trường hợp để đồ trong phòng kín đáo rồi đi không cất) đã nói là phạm tội Ưng Đối Trị. Còn người trải (đồ ngủ) ở bên ngoài, tại nhà phục vụ v.v… rồi ra đi, chỉ có đồ ngủ bị hư hỏng, chứ không phải sàng tọa (bị hư) do nơi đó không kín đáo, do đó ở đây nói là phạm tội Tác Ác. Ở đây, trong câu “Giường hoặc ghế“, vì mối mọt không thể ăn giường ghế ngay lập tức được, do đó, người trải chúng ngay cả trong tu viện rồi ra đi cũng được nói là phạm tội Tác Ác. Còn ở trong phạm vi tu viện, những người đi tuần trong tu viện khi thấy chúng cũng sẽ dọn dẹp.

118.Uddharitvāgacchatīti ettha uddharitvā gacchantena mañcapīṭhakavāṭaṃ sabbaṃ apanetvā saṃharitvā cīvaravaṃse laggetvā gantabbaṃ. Pacchā āgantvā vasanakabhikkhunāpi puna mañcapīṭhaṃ vā paññapetvā sayitvā gacchantena tatheva kātabbaṃ. Antokuṭṭato seyyaṃ bahikuṭṭe paññapetvā vasantena gamanakāle gahitaṭṭhāneyeva paṭisāmetabbaṃ. Uparipāsādato oropetvā heṭṭhāpāsāde vasantassapi eseva nayo. Rattiṭṭhānadivāṭṭhānesu mañcapīṭhaṃ paññapetvāpi gamanakāle puna gahitaṭṭhāneyeva ṭhapetabbaṃ.
118. Ở đây, trong câu “Dọn đi rồi mới ra đi“, người dọn đi rồi mới ra đi cần phải tháo dỡ, thu gom tất cả giường, ghế, cánh cửa, rồi treo lên sào phơi y rồi mới đi. Sau đó, Tỳ-khưu đến ở, khi trải giường ghế ra ngủ rồi lại ra đi, cũng cần phải làm như vậy. Người mang đồ ngủ từ trong phòng có vách ra trải ở ngoài phòng có vách để ở, khi ra đi cần phải dọn dẹp lại chính nơi đã lấy. Người mang (đồ) từ lầu trên xuống ở lầu dưới cũng theo phương pháp này. Ngay cả khi trải giường ghế ở nơi ở ban đêm và nơi ở ban ngày, khi ra đi cũng cần phải đặt lại chính nơi đã lấy.

Āpucchaṃ gacchatīti etthāyaṃ āpucchitabbānāpucchitabbavinicchayo – yā tāva bhūmiyaṃ dīghasālā vā paṇṇasālā vā hoti, yaṃ vā rukkhatthambhesu, katagehaṃ upacikānaṃ uṭṭhānaṭṭhānaṃ hoti, tato pakkamantena tāva āpucchitvāva pakkamitabbaṃ. Tasmiñhi katipayāni divasāni ajaggiyamāne vammikāva santiṭṭhanti. Yaṃ pana pāsāṇapiṭṭhiyaṃ vā pāsāṇatthambhesu vā katasenāsanaṃ siluccayaleṇaṃ vā sudhālittasenāsanaṃ vā yattha upacikāsaṅkā natthi, tato pakkamantassa āpucchitvāpi anāpucchitvāpi gantuṃ vaṭṭati, āpucchanaṃ pana vattaṃ. Sace tādisepi senāsane ekena passena upacikā ārohanti, āpucchitvāva gantabbaṃ. Yo pana āgantuko bhikkhu saṅghikaṃ senāsanaṃ gahetvā vasantaṃ bhikkhuṃ anuvattanto attano senāsanaṃ aggahetvā vasati, yāva so na gaṇhāti, tāva taṃ senāsanaṃ purimabhikkhusseva palibodho. Yadā pana so senāsanaṃ gahetvā attano issariyena vasati, tato paṭṭhāya āgantukasseva palibodho. Sace ubhopi vibhajitvā gaṇhanti, ubhinnampi palibodho. Mahāpaccariyaṃ pana vuttaṃ – ‘‘sace dve tayo ekato hutvā paññapenti, gamanakāle sabbehipi āpucchitabbaṃ. Tesu ce paṭhamaṃ gacchanto ‘pacchimo jaggissatī’ti ābhogaṃ katvā gacchati vaṭṭati. Pacchimassa ābhogena mutti natthi. Bahū ekaṃ pesetvā santharāpenti, gamanakāle sabbehi vā āpucchitabbaṃ , ekaṃ vā pesetvā āpucchitabbaṃ. Aññato mañcapīṭhādīni ānetvā aññatra vasitvāpi gamanakāle tattheva netabbāni. Sace aññāvāsato ānetvā vasamānassa añño vuḍḍhataro āgacchati, na paṭibāhitabbo, ‘mayā bhante aññāvāsato ānītaṃ, pākatikaṃ kareyyāthā’ti vattabbaṃ. Tena ‘evaṃ karissāmī’ti sampaṭicchite itarassa gantuṃ vaṭṭati. Evamaññattha haritvāpi saṅghikaparibhogena paribhuñjantassa naṭṭhaṃ vā jiṇṇaṃ vā corehi vā haṭaṃ gīvā na hoti, puggalikaparibhogena paribhuñjantassa pana gīvā hoti. Aññassa mañcapīṭhaṃ pana saṅghikaparibhogena vā puggalikaparibhogena vā paribhuñjantassa naṭṭhaṃ gīvāyeva’’.
Ở đây, trong câu “Ra đi sau khi hỏi ý kiến“, đây là phần quyết định về việc cần hỏi ý kiến và không cần hỏi ý kiến: Đối với nhà dài hoặc nhà lá trên mặt đất, hoặc nhà làm trên các cột cây, là nơi mối mọt có thể phát sinh, khi rời khỏi đó, trước hết cần phải hỏi ý kiến rồi mới rời đi. Vì ở nơi đó, nếu không được trông coi vài ngày, thì tổ mối sẽ hình thành. Còn sàng tọa làm trên nền đá hoặc trên cột đá, hang động trên núi đá, hoặc sàng tọa trát vôi, nơi không có nguy cơ mối mọt, khi rời khỏi đó, được phép ra đi dù có hỏi ý kiến hay không, nhưng hỏi ý kiến là phận sự. Ngay cả ở sàng tọa như vậy, nếu mối mọt có thể xâm nhập từ một phía, cũng cần phải hỏi ý kiến rồi mới đi. Còn Tỳ-khưu khách nào, khi theo hầu một Tỳ-khưu đang ở trong sàng tọa của Tăng chúng đã được lấy (sử dụng), mà ở đó không lấy sàng tọa riêng cho mình, chừng nào vị ấy (Tỳ-khưu khách) chưa lấy (sàng tọa riêng), thì sàng tọa đó vẫn là sự ràng buộc của Tỳ-khưu ở trước. Nhưng khi vị ấy (Tỳ-khưu khách) đã lấy sàng tọa và ở theo quyền của mình, thì kể từ đó là sự ràng buộc của chính vị Tỳ-khưu khách. Nếu cả hai cùng chia nhau lấy (sàng tọa), thì đó là sự ràng buộc của cả hai. Nhưng trong Mahāpaccari có nói: “Nếu hai ba vị cùng nhau sắp đặt, khi ra đi tất cả đều phải hỏi ý kiến. Trong số đó, nếu người đi trước, sau khi hướng tâm nghĩ rằng ‘người đi sau sẽ trông coi’ rồi ra đi, thì được phép. Người đi sau không được miễn trừ (trách nhiệm) nhờ sự hướng tâm (của người đi trước). Nhiều người sai một người trải (sàng tọa), khi ra đi tất cả đều phải hỏi ý kiến, hoặc sai một người đi hỏi ý kiến. Dù mang giường ghế v.v… từ nơi khác đến ở một nơi khác, khi ra đi cũng cần phải mang trả lại chính nơi đó. Nếu một người đang ở (dùng đồ) mang từ trú xứ khác đến, mà có một vị lớn tuổi hơn đến, không được ngăn cản, cần phải nói: ‘Bạch Đại đức, con đã mang (đồ này) từ trú xứ khác đến, xin ngài hãy làm cho đúng như cũ (khi dùng xong)’. Khi vị ấy đã nhận lời: ‘Ta sẽ làm như vậy’, thì người kia được phép ra đi. Như vậy, người mang (đồ của Tăng) đi nơi khác và dùng làm của chung cho Tăng chúng, nếu bị mất, hoặc cũ hỏng, hoặc bị trộm lấy đi, thì không phải đền; nhưng người dùng làm của cá nhân thì phải đền. Còn giường ghế của người khác, dù dùng làm của chung cho Tăng chúng hay dùng làm của cá nhân, nếu bị mất thì phải đền.”

Kenaci palibuddhaṃ hotīti vuḍḍhatarabhikkhūissariyayakkhasīhavāḷamigakaṇhasappādīsu yena kenaci senāsanaṃ palibuddhaṃ hoti. Sāpekkho gantvā tattha ṭhito āpucchati, kenaci palibuddho hotīti ajjeva āgantvā paṭijaggissāmīti evaṃ sāpekkho nadīpāraṃ vā gāmantaraṃ vā gantvā yatthassa gamanacittaṃ uppannaṃ, tattheva ṭhito kañci pesetvā āpucchati, nadīpūrarājacorādīsu vā kenaci palibuddho hoti upadduto, na sakkoti paccāgantuṃ, evaṃbhūtassapi anāpatti. Sesaṃ paṭhamasikkhāpade vuttanayameva saddhiṃ samuṭṭhānādīhīti.
Bị ai đó cản trở” có nghĩa là sàng tọa bị cản trở bởi bất kỳ ai hoặc bất kỳ thứ gì như Tỳ-khưu lớn tuổi hơn, người có quyền thế, dạ-xoa, sư tử, thú dữ, rắn độc v.v… “Người có ý định (quay lại) đã ra đi, rồi đứng ở đó hỏi ý kiến, hoặc bị ai đó cản trở” có nghĩa là: người có ý định rằng “Ngay hôm nay ta sẽ quay lại và trông coi”, đã đi qua bờ sông bên kia hoặc sang làng khác, rồi khi ý muốn ra đi (khỏi nơi đó) đã khởi lên, vị ấy đứng ngay tại đó sai người đi hỏi ý kiến (về việc dọn dẹp sàng tọa); hoặc bị cản trở, gặp trở ngại bởi bất kỳ ai hoặc bất kỳ thứ gì như nước sông dâng cao, vua chúa, trộm cướp v.v…, không thể quay lại được, người như vậy cũng không phạm tội. Phần còn lại, cùng với cách phát sinh tội v.v…, đều theo phương pháp đã được nói trong học giới thứ nhất (của phẩm này).

Dutiyasenāsanasikkhāpadaṃ pañcamaṃ.

Học giới về sàng tọa thứ hai, điều thứ năm.

6. Anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích học giới xâm phạm (chỗ ở)

119. Chaṭṭhasikkhāpade – palibundhentīti paṭhamataraṃ gantvā pattacīvaraṃ atiharitvā rumbhitvā tiṭṭhanti. Therā bhikkhū vuṭṭhāpentīti ‘‘amhākaṃ āvuso pāpuṇātī’’ti vassaggena gahetvā vuṭṭhāpenti. Anupakhajja seyyaṃ kappentīti ‘‘tumhākaṃ bhante mañcaṭṭhānaṃyeva pāpuṇāti, na sabbo vihāro. Amhākaṃ dāni idaṃ ṭhānaṃ pāpuṇātī’’ti anupavisitvā mañcapīṭhaṃ paññapetvā nisīdantipi nipajjantipi sajjhāyampi karonti.
119. Trong học giới thứ sáu (của phẩm này), “Cản trở” có nghĩa là (một số Tỳ-khưu) đến trước, mang y bát (của người khác) đi, rồi đứng chặn lại. “Các Tỳ-khưu trưởng lão đuổi (các Tỳ-khưu trẻ) dậy” có nghĩa là (họ) nắm lấy (các Tỳ-khưu trẻ) theo tuổi hạ rồi đuổi dậy với lời nói: “Này hiền giả, (chỗ này) thuộc về chúng tôi”. “Xâm phạm rồi sắp đặt chỗ ngủ” có nghĩa là (họ) đi vào rồi nói: “Bạch Đại đức, chỗ để giường của quý ngài chỉ đến đó thôi, không phải toàn bộ tu viện. Bây giờ chỗ này thuộc về chúng tôi”, rồi trải giường ghế, ngồi, nằm, hoặc đọc tụng.

120.Jānanti ‘‘anuṭṭhāpanīyo aya’’nti jānanto; tenevassa vibhaṅge ‘‘vuḍḍhoti jānātī’’tiādi vuttaṃ. Vuḍḍho hi attano vuḍḍhatāya anuṭṭhāpanīyo , gilāno gilānatāya, saṅgho pana bhaṇḍāgārikassa vā dhammakathikavinayadharādīnaṃ vā gaṇavācakaācariyassa vā bahūpakārataṃ guṇavisiṭṭhatañca sallakkhento dhuvavāsatthāya vihāraṃ sammannitvā deti, tasmā yassa saṅghena dinno, sopi anuṭṭhāpanīyo. Kāmañcettha gilānassāpi saṅghoyeva anucchavikaṃ senāsanaṃ deti, gilāno pana ‘‘apaloketvā saṅghena adinnasenāsanopi na pīḷetabbo anukampitabbo’’ti dassetuṃ visuṃ vutto.
120. “Biết” có nghĩa là biết rằng: “Người này không nên bị đuổi dậy”; do đó, trong phần phân tích của học giới này, đã nói: “Biết là vị trưởng thượng” v.v… Vị trưởng thượng thì không nên bị đuổi dậy do sự trưởng thượng của mình, người bệnh thì (không nên bị đuổi dậy) do bệnh tật của mình. Còn Tăng chúng, khi nhận thấy sự giúp đỡ nhiều và phẩm chất đặc biệt của vị quản lý kho tàng, hoặc vị thuyết pháp, trì luật v.v…, hoặc vị thầy dạy chúng, đã đồng thuận và trao tu viện cho (vị ấy) để ở thường xuyên, do đó, người nào đã được Tăng chúng trao (tu viện), vị ấy cũng không nên bị đuổi dậy. Dù rằng ở đây, chính Tăng chúng cũng trao sàng tọa thích hợp cho người bệnh, nhưng trường hợp người bệnh được nói riêng để chỉ ra rằng: “Ngay cả người (bệnh) ở trong sàng tọa chưa được Tăng chúng trao sau khi đã thông báo, cũng không nên bị làm phiền, cần được thương xót”.

121.Upacāreti ettha mañcapīṭhānaṃ tāva mahallake vihāre samantā diyaḍḍho hattho upacāro, khuddake yato pahoti tato diyaḍḍho hattho, pāde dhovitvā pavisantassa passāvatthāya nikkhamantassa ca yāva dvāre nikkhittapādadhovanapāsāṇato passāvaṭṭhānato ca mañcapīṭhaṃ, tāva diyaḍḍhahatthavitthāro maggo upacāro nāma. Tasmiṃ mañcassa vā pīṭhassa vā upacāre ṭhitassa vā bhikkhuno pavisantassa vā nikkhamantassa vā upacāre yo anupakhajja seyyaṃ kappetukāmo seyyaṃ santharati vā santharāpeti vā, āpatti dukkaṭassa.
121. Ở đây, trong từ “Trong phạm vi“, đối với giường ghế, trong một tu viện lớn, phạm vi là một thước rưỡi xung quanh; trong (tu viện) nhỏ, phạm vi là một thước rưỡi tính từ nơi có thể (đặt giường ghế). Và đối với người rửa chân rồi đi vào, và người đi ra để đi vệ sinh, khoảng cách từ tảng đá rửa chân đặt ở cửa hoặc từ nơi đi vệ sinh đến giường ghế, con đường rộng một thước rưỡi đó gọi là phạm vi. Trong phạm vi của giường hoặc ghế đó, hoặc trong phạm vi của Tỳ-khưu đang đứng, hoặc trong phạm vi của (Tỳ-khưu) đang đi vào hay đi ra, người nào muốn xâm phạm rồi sắp đặt chỗ ngủ, mà trải chỗ ngủ hoặc sai người khác trải, thì phạm tội Tác Ác.

Abhinisīdativā abhinipajjati vāti ettha abhinisīdanamattena abhinipajjanamatteneva vā pācittiyaṃ. Sace pana dvepi karoti, dve pācittiyāni. Uṭṭhāyuṭṭhāya nisīdato vā nipajjato vā payoge payoge pācittiyaṃ.
Ở đây, trong câu “Hoặc ngồi xuống sát bên, hoặc nằm xuống sát bên“, chỉ cần ngồi xuống sát bên hoặc chỉ cần nằm xuống sát bên là phạm tội Ưng Đối Trị. Nhưng nếu làm cả hai, thì phạm hai tội Ưng Đối Trị. Người cứ đứng dậy rồi lại ngồi xuống, hoặc (đứng dậy rồi lại) nằm xuống, mỗi lần làm như vậy đều phạm tội Ưng Đối Trị.

122.Upacāraṃ ṭhapetvā seyyaṃ santharati vā santharāpeti vāti imasmiṃ ito pare ca ‘‘vihārassa upacāre’’tiādike dukkaṭavārepi yathā idha abhinisīdanamatte abhinipajjanamatte ubhayakaraṇe payogabhede ca pācittiyappabhedo vutto, evaṃ dukkaṭappabhedo veditabbo. Evarūpena hi visabhāgapuggalena ekavihāre vā ekapariveṇe vā vasantena attho natthi, tasmā sabbatthevassa nivāso vārito. Aññassa puggaliketi idhāpi vissāsikassa puggalikaṃ attano puggalikasadisameva, tattha anāpatti.
122. “Trải chỗ ngủ hoặc sai người khác trải, ngoại trừ phạm vi” – trong trường hợp này và cả trong các trường hợp Tác Ác sau đây như “trong phạm vi của tu viện” v.v…, cũng như ở đây, sự phân loại tội Ưng Đối Trị đã được nói cho trường hợp chỉ ngồi xuống sát bên, chỉ nằm xuống sát bên, làm cả hai, và các cách làm khác nhau, thì sự phân loại tội Tác Ác cũng cần được hiểu như vậy. Vì quả thật, không có lợi ích gì khi một người không tương hợp như vậy lại ở trong cùng một tu viện hoặc cùng một khuôn viên riêng, do đó, chỗ ở của vị ấy ở khắp mọi nơi đều bị ngăn cản. Ở đây cũng vậy, trong câu “Đối với đồ cá nhân của người khác“, đồ cá nhân của người thân tín thì giống như đồ cá nhân của mình, ở đó không phạm tội.

123.Āpadāsūti sace bahi vasantassa jīvitabrahmacariyantarāyo hoti, evarūpāsu āpadāsu yo pavisati, tassāpi anāpatti. Sesaṃ uttānamevāti. Paṭhamapārājikasamuṭṭhānaṃ, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
123. “Trong các trường hợp nguy hiểm” có nghĩa là nếu người ở bên ngoài gặp nguy hiểm đến tính mạng hoặc đời sống phạm hạnh, người nào đi vào (chỗ ở của người khác) trong những trường hợp nguy hiểm như vậy, người đó cũng không phạm tội. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng. Cách phát sinh (của tội này giống như của) điều Bất Cộng Trụ thứ nhất. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, bị đời chê bai, là nghiệp thân, (do) tâm bất thiện, (và có) cảm thọ khổ (đi kèm).

Anupakhajjasikkhāpadaṃ chaṭṭhaṃ.

Học giới xâm phạm (chỗ ở), điều thứ sáu.

7. Nikkaḍḍhanasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích học giới đuổi (Tỳ-khưu)

126. Sattamasikkhāpade – ekena payogena bahukepi dvāre atikkāmetīti ye catubhūmakapañcabhūmakā pāsādā chasattakoṭṭhakāni vā catussālāni, tādisesu senāsanesu hatthesu vā gīvāya vā gahetvā antarā aṭṭhapento ekena payogena atikkāmeti, ekameva pācittiyaṃ. Ṭhapetvā ṭhapetvā nānāpayogehi atikkāmentassa dvāragaṇanāya pācittiyāni. Hatthena anāmasitvā ‘‘nikkhamā’’ti vatvā vācāya nikkaḍḍhantassāpi eseva nayo.
126. Trong học giới thứ bảy (của phẩm này), “Bằng một hành động mà (kéo/đuổi) qua nhiều cửa” có nghĩa là: đối với những tòa nhà bốn năm tầng, hoặc những ngôi nhà có sáu bảy phòng, hoặc nhà có bốn gian, trong những sàng tọa như vậy, nếu nắm tay hoặc cổ (của Tỳ-khưu kia) mà không dừng lại ở giữa, kéo qua (nhiều cửa) bằng một hành động duy nhất, thì chỉ phạm một tội Ưng Đối Trị. Người kéo qua (nhiều cửa) bằng nhiều hành động khác nhau, có dừng lại rồi lại kéo, thì phạm (nhiều) tội Ưng Đối Trị theo số lượng cửa. Ngay cả người không chạm tay mà chỉ nói “Hãy ra khỏi đây” rồi dùng lời nói để đuổi, cũng theo phương pháp này.

Aññaṃ āṇāpetīti ettha ‘‘imaṃ nikkaḍḍhā’’ti āṇattimatte dukkaṭaṃ. Sace so sakiṃ āṇatto bahukepi dvāre atikkāmeti, ekaṃ pācittiyaṃ. Sace pana ‘‘ettakāni dvārāni nikkaḍḍhāhī’’ti vā ‘‘yāva mahādvāraṃ tāva nikkaḍḍhāhī’’ti vā evaṃ niyāmetvā āṇatto hoti, dvāragaṇanāya pācittiyāni.
Ở đây, trong câu “Sai người khác (đuổi)“, chỉ cần ra lệnh “Hãy đuổi người này ra”, là phạm tội Tác Ác. Nếu người đó, được lệnh một lần, mà (đuổi/kéo người kia) qua nhiều cửa, (người ra lệnh) phạm một tội Ưng Đối Trị. Nhưng nếu ra lệnh một cách chỉ định cụ thể như: “Hãy đuổi qua chừng này cửa” hoặc “Hãy đuổi cho đến tận cửa lớn”, thì (người ra lệnh) phạm (nhiều) tội Ưng Đối Trị theo số lượng cửa.

Tassaparikkhāranti yaṃkiñci tassa santakaṃ pattacīvaraparissāvanadhamakaraṇamañcapīṭhabhisibimbohanādibhedaṃ, antamaso rajanachallimpi; yo nikkaḍḍhati vā nikkaḍḍhāpeti vā; tassa vatthugaṇanāya dukkaṭāni . Gāḷhaṃ bandhitvā ṭhapitesu pana ekāva āpattīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ.
Đồ dùng của vị ấy” là bất kỳ vật sở hữu nào của vị ấy, như y bát, đồ lọc nước, bình đựng nước, giường, ghế, nệm, gối v.v…, cho đến cả vỏ cây dùng để nhuộm; người nào kéo (những thứ đó) ra hoặc sai người khác kéo ra; vị ấy phạm (nhiều) tội Tác Ác theo số lượng vật dụng. Nhưng đối với những vật đã được buộc chặt và để chung, chỉ phạm một tội, theo như sách Mahāpaccari nói.

127.Aññassa puggaliketi idhāpi vissāsikapuggalikaṃ attano puggalikasadisameva. Yathā ca idha; evaṃ sabbattha. Yatra pana viseso bhavissati, tatra vakkhāma.
127. Ở đây cũng vậy, trong câu “Đối với đồ cá nhân của người khác“, đồ cá nhân của người thân tín thì giống như đồ cá nhân của mình. Như ở đây; cũng như ở khắp mọi nơi. Nhưng ở đâu có sự khác biệt, chúng tôi sẽ nói (sau).

128.Alajjiṃ nikkaḍḍhati vātiādīsu bhaṇḍanakārakakalahakārakameva sakalasaṅghārāmato nikkaḍḍhituṃ labhati, so hi pakkhaṃ labhitvā saṅghampi bhindeyya. Alajjīādayo pana attano vasanaṭṭhānatoyeva nikkaḍḍhitabbā, sakalasaṅghārāmato nikkaḍḍhituṃ na vaṭṭati. Ummattakassāti sayaṃ ummattakassa anāpatti. Sesaṃ uttānamevāti.
128. Trong những trường hợp như “Hoặc đuổi người không biết hổ thẹn” v.v…, chỉ được phép đuổi người gây cãi vã, gây tranh chấp ra khỏi toàn bộ tu viện của Tăng chúng, vì người đó, nếu có được phe nhóm, cũng có thể làm chia rẽ Tăng chúng. Còn những người không biết hổ thẹn v.v… thì chỉ nên bị đuổi ra khỏi nơi ở của chính họ, không được phép đuổi ra khỏi toàn bộ tu viện của Tăng chúng. “Đối với người điên” – nếu người (Tỳ-khưu) đuổi bị điên thì không phạm tội. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
(Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, bị đời chê bai, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (do) tâm bất thiện, (và có) cảm thọ khổ (đi kèm).

Nikkaḍḍhanasikkhāpadaṃ sattamaṃ.

Học giới đuổi (Tỳ-khưu), điều thứ bảy.

8. Vehāsakuṭisikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích học giới về cốc ở tầng trên

129. Aṭṭhamasikkhāpade – uparivehāsakuṭiyāti upari acchannatalāya dvibhūmikakuṭiyā vā tibhūmikādikuṭiyā vā. Mañcaṃ sahasā abhinisīdīti mañcaṃ sahasā abhibhavitvā ajjhottharitvā nisīdi. Bhummatthe vā etaṃ upayogavacanaṃ; mañce nisīdīti attho. Abhīti idaṃ pana padasobhanatthaṃ upasaggamattameva. Nippatitvāti nipatitvā nikkhamitvā vā. Tassa hi upari āṇīpi na dinnā, tasmā nikkhanto. Vissaramakāsīti virūpaṃ āturassaramakāsi.
129. Trong học giới thứ tám (của phẩm này), “Trong cốc ở tầng trên” là trong cốc hai tầng hoặc cốc ba tầng v.v… có sàn ở trên không được lợp (chắc chắn). “Đã ngồi mạnh xuống giường” có nghĩa là đã ngồi mạnh xuống, đè nặng lên, bao trùm lên giường. Hoặc đây là từ dùng ở cách địa điểm mang ý nghĩa công cụ cách; có nghĩa là ngồi trên giường. Còn “abhi” này chỉ là một tiếp đầu ngữ để làm đẹp từ mà thôi. “Bị bật ra” là bị rơi ra, hoặc bị tuột ra. Vì ở trên đó, chốt cũng không được đóng, do đó nó bị tuột ra. “Đã la hét” là đã phát ra tiếng la đau đớn, kỳ dị.

131.Vehāsakuṭi nāma majjhimassa purisassa asīsaghaṭṭāti yā pamāṇamajjhimassa purisassa sabbaheṭṭhimāhi tulāhi sīsaṃ na ghaṭṭeti, etena idha adhippetā vehāsakuṭi dassitā hoti, na vehāsakuṭilakkhaṇaṃ. Yā hi kāci upari acchinnatalā dvibhūmikā kuṭi tibhūmikādikuṭi vā ‘‘vehāsakuṭī’’ti vuccati. Idha pana asīsaghaṭṭā adhippetā. Abhinisīdanādīsu pubbe vuttanayeneva payogavasena āpattibhedo veditabbo.
131. “Cốc ở tầng trên là (loại) mà đầu của người đàn ông tầm thước không chạm vào (rui mái)” – (cốc) nào mà đầu của người đàn ông có chiều cao trung bình không chạm vào các rui mái thấp nhất, bằng điều này, loại cốc ở tầng trên được nhắm đến ở đây được chỉ ra, chứ không phải là đặc điểm (chung) của cốc ở tầng trên. Vì bất kỳ cốc hai tầng hoặc cốc ba tầng v.v… nào có sàn ở trên không được lợp (chắc chắn) đều được gọi là “cốc ở tầng trên”. Nhưng ở đây, loại (mà đầu) không chạm (rui mái) được nhắm đến. Trong các trường hợp ngồi xuống sát bên v.v…, sự phân biệt tội cần được hiểu theo các cách thực hiện đã được nói trước đây.

133.Avehāsakuṭiyāti bhūmiyaṃ katapaṇṇasālādīsu anāpatti. Na hi sakkā tattha parassa pīḷā kātuṃ. Sīsaghaṭṭāyāti yāyaṃ sīsaghaṭṭā hoti, tatthāpi anāpatti. Na hi sakkā tattha heṭṭhāpāsāde anoṇatena vicarituṃ, tasmā asañcaraṇaṭṭhānattā parapīḷā na bhavissati . Heṭṭhā aparibhogaṃ hotīti yassā heṭṭhā dabbasambhārādīnaṃ nikkhittattā aparibhogaṃ hoti, tatthāpi anāpatti. Padarasañcitaṃ hotīti yassā uparimatalaṃ dāruphalakehi vā ghanasanthataṃ hoti, sudhādiparikammakataṃ vā tatthāpi anāpatti. Paṭāṇi dinnā hotīti mañcapīṭhānaṃ pādasikhāsu āṇī dinnā hoti, yattha nisīdantepi na nippatanti, tādise mañcapīṭhe nisīdatopi anāpatti. Tasmiṃ ṭhitoti āhaccapādake mañce vā pīṭhe vā ṭhito upari nāgadantakādīsu laggitakaṃ cīvaraṃ vā kiñci vā gaṇhāti vā, aññaṃ vā laggeti, tassāpi anāpatti. Sesaṃ uttānameva. Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kāyato ca kāyacittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
133. “Trong cốc không phải ở tầng trên” – trong nhà lá v.v… làm trên mặt đất, không phạm tội. Vì ở đó không thể gây phiền hà cho người khác (ở tầng dưới). “Đối với (cốc) mà đầu chạm (rui mái)” – (cốc) nào mà đầu chạm (rui mái), ở đó cũng không phạm tội. Vì ở đó, người ở tầng dưới không thể đi lại mà không cúi đầu, do đó, vì là nơi không thể đi lại (bình thường), sẽ không có sự phiền hà cho người khác. “Tầng dưới không được sử dụng” có nghĩa là (cốc) nào mà tầng dưới không được sử dụng do để đồ đạc vật liệu v.v…, ở đó cũng không phạm tội. “Được lót bằng ván dày” có nghĩa là (cốc) nào mà sàn trên được lót bằng ván gỗ dày đặc, hoặc được trát vôi v.v…, ở đó cũng không phạm tội. “Đã được đóng chốt” có nghĩa là ở đầu chân giường ghế đã được đóng chốt, nơi mà dù có ngồi xuống cũng không bị bật ra, người ngồi trên giường ghế như vậy cũng không phạm tội. “Đứng trên đó” có nghĩa là đứng trên giường hoặc ghế có chân đóng vào, để lấy y hoặc vật gì đó treo ở trên mắc áo hình ngà voi v.v…, hoặc để treo vật khác lên, người đó cũng không phạm tội. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng. Cách phát sinh (của tội này, được ví như) lông cừu là: phát sinh từ thân, và từ thân cùng với tâm; (Nó là) hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Vehāsakuṭisikkhāpadaṃ aṭṭhamaṃ.

Học giới về cốc ở tầng trên, điều thứ tám.

9. Mahallakavihārasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích học giới về tu viện lớn

135. Navamasikkhāpade – yāva dvārakosāti ettha dvārakoso nāma piṭṭhasaṅghāṭassa samantā kavāṭavitthārappamāṇo okāso. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘dvārabāhato paṭṭhāya diyaḍḍho hattho’’ti vuttaṃ. Kurundiyaṃ pana ‘‘dvārassa ubhosu passesu kavāṭappamāṇa’’nti. Mahāaṭṭhakathāyaṃ ‘‘kavāṭaṃ nāma diyaḍḍhahatthampi hoti dvihatthampi aḍḍhateyyahatthampī’’ti vuttaṃ, taṃ suvuttaṃ. Tadeva hi sandhāya bhagavatāpi ‘‘piṭṭhasaṅghāṭassa samantā hatthapāsā’’ti ayaṃ ukkaṭṭhaniddeso kato. Aggaḷaṭṭhapanāyāti sakavāṭakadvārabandhaṭṭhapanāya; sakavāṭakassa dvārabandhassa niccalabhāvatthāyāti attho. Dvāraṭṭhapanāyāti idampi hi padabhājanaṃ imamevatthaṃ sandhāya bhāsitaṃ. Ayaṃ panettha adhippāyo – kavāṭañhi lahuparivaṭṭakaṃ vivaraṇakāle bhittiṃ āhanati, pidahanakāle dvārabandhaṃ. Tena āhananena bhitti kampati, tato mattikā calati, calitvā sithilā vā hoti patati vā. Tenāha bhagavā ‘‘yāva dvārakosā aggaḷaṭṭhapanāyā’’ti. Tattha kiñcāpi ‘‘idaṃ nāma kattabba’’nti neva mātikāyaṃ na padabhājane vuttaṃ, aṭṭhuppattiyaṃ pana ‘‘punappunaṃ chādāpesi punappunaṃ lepāpesī’’ti adhikārato yāva dvārakosā aggaḷaṭṭhapanāya punappunaṃ limpitabbo vā lepāpetabbo vāti evamattho daṭṭhabbo.
135. Trong học giới thứ chín (của phẩm này), ở đây, trong câu “Cho đến khung cửa“, “khung cửa” là khoảng không gian xung quanh khung cửa chính có chiều rộng bằng chiều rộng của cánh cửa. Nhưng trong Mahāpaccari có nói: “Tính từ thanh ngang cửa ra là một thước rưỡi”. Còn trong Kurundī thì nói: “Ở cả hai bên cửa, (rộng) bằng kích thước cánh cửa”. Trong Đại Sớ Giải (Mahāaṭṭhakathā) có nói: “Cánh cửa có khi rộng một thước rưỡi, có khi hai thước, có khi hai thước rưỡi”, điều đó đã được nói rất đúng. Chính nhắm đến điều đó mà Đức Thế Tôn cũng đã đưa ra sự chỉ dẫn tối đa này: “Xung quanh khung cửa chính, (rộng) một tầm tay”. “Để đặt then cài” là để đặt khung cửa có cánh cửa; có nghĩa là để cho khung cửa có cánh cửa được vững chắc. “Để đặt cửa” – phần phân tích từ này cũng được nói nhắm đến chính ý nghĩa này. Còn ý muốn nói ở đây là: cánh cửa khi xoay nhanh, lúc mở thì đập vào tường, lúc đóng thì đập vào khung cửa. Do sự va đập đó, tường rung chuyển, rồi đất (trát tường) bị xê dịch, sau khi xê dịch thì nó bị lỏng ra hoặc rơi xuống. Do đó Đức Thế Tôn đã nói: “Cho đến khung cửa, để đặt then cài”. Ở đó, dù trong đề mục hay trong phần phân tích từ không nói “cần phải làm điều này”, nhưng trong phần duyên khởi, dựa vào thẩm quyền của câu “đã cho lợp đi lợp lại, đã cho trát đi trát lại”, cần hiểu ý nghĩa như sau: cho đến khung cửa, để đặt then cài, cần phải trát đi trát lại hoặc sai người khác trát đi trát lại.

Yaṃ  pana padabhājane ‘‘piṭṭhasaṅghāṭassa samantā hatthapāsā’’ti vuttaṃ. Tattha yassa vemajjhe dvāraṃ hoti, uparibhāge uccā bhitti, tassa tīsu disāsu samantā hatthapāsā upacāro hoti, khuddakassa vihārassa dvīsu disāsu upacāro hoti. Tatrāpi yaṃ bhittiṃ vivariyamānaṃ kavāṭaṃ āhanati, sā aparipūraupacārāpi hoti. Ukkaṭṭhaparicchedena pana tīsu disāsu samantā hatthapāsā dvārassa niccalabhāvatthāya lepo anuññāto. Sace panassa dvārassa adhobhāgepi lepokāso atthi, tampi limpituṃ vaṭṭati. Ālokasandhiparikammāyāti ettha ālokasandhīti vātapānakavāṭakā vuccanti, tepi vivaraṇakāle vidatthimattampi atirekampi bhittippadesaṃ paharanti. Upacāro panettha sabbadisāsu labbhati, tasmā sabbadisāsu kavāṭavitthārappamāṇo okāso ālokasandhiparikammatthāya limpitabbo vā lepāpetabbo vāti ayamettha adhippāyo.
Còn điều được nói trong phần phân tích từ là “xung quanh khung cửa chính, (rộng) một tầm tay”. Ở đó, (tu viện) nào có cửa ở giữa, tường ở trên cao, thì phạm vi của nó là một tầm tay xung quanh ở ba hướng; đối với tu viện nhỏ, phạm vi là ở hai hướng. Ngay cả ở đó, bức tường nào bị cánh cửa đập vào khi mở ra, thì (phạm vi của) nó cũng không trọn vẹn. Nhưng theo sự phân định tối đa, lớp trát được cho phép ở ba hướng xung quanh, (rộng) một tầm tay, để cho cửa được vững chắc. Nhưng nếu ở phần dưới của cửa đó cũng có chỗ để trát, thì cũng được phép trát chỗ đó. Ở đây, trong câu “Để sửa chữa khung cửa sổ“, “khung cửa sổ” được gọi là cánh cửa sổ; chúng cũng khi mở ra thì đập vào một vùng tường rộng một gang tay hoặc hơn. Còn phạm vi ở đây thì được tính ở tất cả các hướng, do đó, ý muốn nói ở đây là: ở tất cả các hướng, một khoảng không gian có chiều rộng bằng chiều rộng cánh cửa cần phải được trát hoặc sai người khác trát để sửa chữa khung cửa sổ.

Setavaṇṇantiādikaṃ na mātikāya padabhājanaṃ. Iminā hi vihārassa bhārikattaṃ nāma natthīti padabhājaneyeva anuññātaṃ, tasmā sabbametaṃ yathāsukhaṃ kattabbaṃ.
Màu trắng” v.v… không phải là phần phân tích từ của đề mục. Bằng điều này, chính trong phần phân tích từ đã cho phép rằng tu viện không có sự nặng nề (về màu sắc), do đó, tất cả những điều này được phép làm tùy ý.

Evaṃ lepakamme yaṃ kattabbaṃ, taṃ dassetvā puna chadane kattabbaṃ dassetuṃ ‘‘dvatticchadanassā’’tiādi vuttaṃ. Tattha dvatticchadanassa pariyāyanti chadanassa dvattipariyāyaṃ; pariyāyo vuccati parikkhepo, parikkhepadvayaṃ vā parikkhepattayaṃ vā adhiṭṭhātabbanti attho. Appaharite ṭhitenāti aharite ṭhitena. Haritanti cettha sattadhaññabhedaṃ pubbaṇṇaṃ muggamāsatilakulatthaalābukumbhaṇḍādibhedañca aparaṇṇaṃ adhippetaṃ. Tenevāha – ‘‘haritaṃ nāma pubbaṇṇaṃ aparaṇṇa’’nti.
Sau khi trình bày những gì cần làm trong công việc trát vữa như vậy, để trình bày tiếp những gì cần làm ở mái che, (Pāḷi) nói bắt đầu bằng “Đối với việc lợp hai hoặc ba lớp“. Ở đó, “lớp của việc lợp hai hoặc ba lớp” là hai hoặc ba lớp của mái che; “lớp” được gọi là một vòng, có nghĩa là cần phải giám sát hai vòng hoặc ba vòng (lợp). “Khi đứng ở nơi không có cây cỏ xanh” là khi đứng ở nơi không có cây cỏ xanh. Và ở đây, “cây cỏ xanh” được hiểu là bảy loại ngũ cốc, các loại hạt đậu như đậu xanh, đậu đen, mè, đậu kulattha, các loại bầu bí, và các loại hoa màu khác. Do đó đã nói: “Cây cỏ xanh là ngũ cốc và hoa màu”.

Sace harite ṭhitoadhiṭṭhāti, āpatti dukkaṭassāti ettha pana yasmimpi khette vuttaṃ bījaṃ na tāva sampajjati, vasse vā pana patite sampajjissati, tampi haritasaṅkhyameva gacchati . Tasmā evarūpe khettepi ṭhitena na adhiṭṭhātabbaṃ, ahariteyeva ṭhitena adhiṭṭhātabbaṃ. Tatrāpi ayaṃ paricchedo, piṭṭhivaṃsassa vā kūṭāgārakaṇṇikāya vā upari thupikāya vā passe nisinno chadanamukhavaṭṭiantena olokento yasmiṃ bhūmibhāge ṭhitaṃ passati, yasmiñca bhūmibhāge ṭhito, taṃ upari nisinnakaṃ passati, tasmiṃ ṭhāne adhiṭṭhātabbaṃ. Tassa anto aharitepi ṭhatvā adhiṭṭhātuṃ na labbhati. Kasmā? Vihārassa hi patantassa ayaṃ patanokāsoti.
Còn ở đây, trong câu “Nếu đứng trên cây cỏ xanh mà giám sát, phạm tội Tác Ác“, thửa ruộng nào hạt giống đã gieo chưa kịp mọc, nhưng nếu mưa xuống thì sẽ mọc, thửa ruộng đó cũng được kể là (nơi có) cây cỏ xanh. Do đó, không được đứng trên thửa ruộng như vậy để giám sát, chỉ được đứng trên nơi không có cây cỏ xanh để giám sát. Ngay cả ở đó, đây là sự phân định: người ngồi trên đòn nóc, hoặc nóc nhà chóp, hoặc bên cạnh tháp nhỏ, nhìn qua mép mái che mà thấy (công việc) đang được thực hiện ở phần đất nào, và đứng ở phần đất nào mà thấy được người đang ngồi ở trên, thì cần phải giám sát ở nơi đó. Không được phép đứng giám sát ở bên trong (khu vực đó), dù là nơi không có cây cỏ xanh. Tại sao? Vì đó là nơi tu viện có thể sụp đổ xuống.

136.Maggena chādentassāti ettha maggena chādanaṃ nāma aparikkhipitvā ujukameva chādanaṃ; taṃ iṭṭhakasilāsudhāhi labbhati. Dve magge adhiṭṭhahitvāti dve maggā sace ducchannā honti, apanetvāpi punappunaṃ chādetuṃ labbhati, tasmā yathā icchati; tathā dve magge adhiṭṭhahitvā tatiyaṃmaggaṃ ‘‘idāni evaṃ chādehī’’ti āṇāpetvā pakkamitabbaṃ. Pariyāyenāti parikkhepena. Evaṃchadanaṃ pana tiṇapaṇṇehi labbhati. Tasmā idhāpi yathā icchati tathā dve pariyāye adhiṭṭhahitvā tatiyaṃ pariyāyaṃ ‘‘idāni evaṃ chādehī’’ti āṇāpetvā pakkamitabbaṃ. Sace na pakkamati, tuṇhībhūtena ṭhātabbaṃ. Sabbampi cetaṃ chadanaṃ chadanūpari veditabbaṃ. Uparūparicchanno hi vihāro ciraṃ anovassako hotīti maññamānā evaṃ chādenti. Tato ce uttarinti tiṇṇaṃ maggānaṃ vā pariyāyānaṃ vā upari catutthe magge vā pariyāye vā.
136. Ở đây, trong câu “Đối với người lợp theo hàng thẳng“, “lợp theo hàng thẳng” là lợp thẳng một mạch mà không theo vòng; điều đó được thực hiện bằng gạch, đá, vôi vữa. “Sau khi giám sát hai hàng (lợp)” – nếu hai hàng lợp không tốt, được phép dỡ ra rồi lợp lại nhiều lần, do đó, tùy theo ý muốn, sau khi giám sát hai hàng, cần phải sai (người thợ) lợp hàng thứ ba rằng: “Bây giờ hãy lợp như thế này” rồi rời đi. “Theo vòng” là theo chu vi. Còn việc lợp như vậy thì được thực hiện bằng cỏ, lá. Do đó, ở đây cũng vậy, tùy theo ý muốn, sau khi giám sát hai vòng, cần phải sai (người thợ) lợp vòng thứ ba rằng: “Bây giờ hãy lợp như thế này” rồi rời đi. Nếu không rời đi, cần phải đứng im lặng. Và tất cả việc lợp này cần được hiểu là lợp trên mái che (đã có sẵn). Vì họ cho rằng tu viện được lợp chồng nhiều lớp lên trên thì sẽ không bị dột lâu dài, nên họ lợp như vậy. “Nếu quá mức đó” là trên ba hàng hoặc ba vòng, tức là ở hàng hoặc vòng thứ tư.

137.Karaḷe karaḷeti tiṇamuṭṭhiyaṃ tiṇamuṭṭhiyaṃ. Sesamettha uttānamevāti. Chasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
137. “Từng bó, từng bó” là từng nắm cỏ, từng nắm cỏ. Phần còn lại ở đây ý nghĩa đã rõ ràng. (Tội này có) sáu cách phát sinh: là hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Mahallakavihārasikkhāpadaṃ navamaṃ.

Học giới về tu viện lớn, điều thứ chín.

10. Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích học giới về (nước) có chúng sanh

140. Dasamasikkhāpade – jānaṃ sappāṇakanti sappāṇakaṃ etanti yathā tathā vā jānanto. Siñceyya vā siñcāpeyya vāti tena udakena sayaṃ vā siñceyya, aññaṃ vā āṇāpetvā siñcāpeyya. Pāḷiyaṃ pana ‘‘siñceyyāti sayaṃ siñcatī’’ti īdisānaṃ vacanānaṃ attho pubbe vuttanayeneva veditabbo.
140. Trong học giới thứ mười (của phẩm này), “Biết (nước) có chúng sanh” có nghĩa là biết rằng (nước) này có chúng sanh, hoặc biết (điều đó) như thế nào đó. “Hoặc tưới, hoặc sai người khác tưới” có nghĩa là tự mình dùng nước đó để tưới, hoặc sai người khác rồi bảo họ tưới. Còn trong Pāḷi, ý nghĩa của những lời nói như “Tưới là tự mình tưới” cần được hiểu theo phương pháp đã nói trước đây.

Tattha dhāraṃ avicchinditvā siñcantassa ekasmiṃ udakaghaṭe ekāva āpatti. Esa nayo sabbabhājanesu. Dhāraṃ vicchindantassa pana payoge payoge āpatti . Mātikaṃ sammukhaṃ karoti, divasampi sandatu, ekāva āpatti. Sace tattha tattha bandhitvā aññato aññato neti, payoge payoge āpatti. Sakaṭabhāramattañcepi tiṇaṃ ekapayogena udake pakkhipati, ekāva āpatti. Ekekaṃ tiṇaṃ vā paṇṇaṃ vā pakkhipantassa payoge payoge āpatti. Mattikāyapi aññesupi kaṭṭhagomayādīsu eseva nayo. Idaṃ pana mahāudakaṃ sandhāya na vuttaṃ, yaṃ tiṇe vā mattikāya vā pakkhittāya pariyādānaṃ gacchati , āvilaṃ vā hoti, yattha pāṇakā maranti, tādisaṃ udakaṃ sandhāya vuttanti veditabbaṃ. Sesamettha uttānamevāti.
Ở đó, người tưới nước từ một bình nước mà không làm gián đoạn dòng chảy, thì chỉ phạm một tội. Phương pháp này cũng áp dụng cho tất cả các đồ đựng (nước). Nhưng người làm gián đoạn dòng chảy, mỗi lần (tưới) đều phạm tội. Nếu làm một rãnh dẫn nước hướng về phía trước, dù nước chảy cả ngày, cũng chỉ phạm một tội. Nếu chặn lại ở từng nơi rồi dẫn nước đi từ chỗ này sang chỗ khác, mỗi lần (dẫn) đều phạm tội. Ngay cả nếu bỏ một xe cỏ vào nước bằng một hành động duy nhất, cũng chỉ phạm một tội. Người bỏ từng cọng cỏ hoặc từng chiếc lá vào (nước), mỗi lần bỏ đều phạm tội. Đối với đất, và các thứ khác như củi, phân bò v.v… cũng theo phương pháp này. Nhưng điều này không được nói nhắm đến lượng nước lớn (như sông, hồ), mà cần hiểu là được nói nhắm đến loại nước nào mà khi bỏ cỏ hoặc đất vào thì bị cạn đi, hoặc bị đục, nơi mà các chúng sanh (nhỏ) bị chết. Phần còn lại ở đây ý nghĩa đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ tivedananti.
(Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Sappāṇakasikkhāpadaṃ dasamaṃ.

Học giới về (nước) có chúng sanh, điều thứ mười.

Samatto vaṇṇanākkamena senāsanavaggo dutiyo.

Phẩm Sàng Tọa (Senāsanavagga), phẩm thứ hai, đã hoàn tất theo thứ tự giải thích.

3. Ovādavaggo

3. Phẩm Giáo Giới

1. Ovādasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích học giới về sự giáo giới

141-144. Bhikkhunivaggassa paṭhamasikkhāpade – lābhino hontīti ettha na tesaṃ bhikkhuniyo denti, na dāpenti, mahākulehi pabbajitā pana kuladhītaro attano santikaṃ āgatānaṃ ñātimanussānaṃ ‘‘kuto ayye ovādaṃ uddesaṃ paripucchaṃ labhathā’’ti pucchantānaṃ ‘‘asuko ca asuko ca thero ovadatī’’ti asītimahāsāvake uddisitvā kathānusārena tesaṃ sīlasutācārajātigottādibhedaṃ vijjamānaguṇaṃ kathayanti. Evarūpā hi vijjamānaguṇā kathetuṃ vaṭṭanti. Tato pasannacittā manussā therānaṃ cīvarādibhedaṃ mahantaṃ lābhasakkāraṃ abhihariṃsu. Tena vuttaṃ – ‘‘lābhino honti cīvara…pe… parikkhārāna’’nti.
141-144. Trong học giới thứ nhất của Phẩm Tỳ-khưu-ni, ở đây, trong câu “Họ trở thành những người có nhiều lợi lộc“, không phải các Tỳ-khưu-ni cúng dường cho họ, cũng không phải (các Tỳ-khưu-ni) khiến người khác cúng dường, mà là các thiếu nữ con nhà dòng dõi, xuất gia từ các gia đình danh giá, khi những người thân quen đến gần các vị ấy và hỏi: “Thưa quý ni sư, quý vị nhận được sự giáo giới, sự chỉ dạy, sự hỏi đạo từ đâu?”, (các Tỳ-khưu-ni ấy) kể tên tám mươi vị Đại Thánh đệ tử rằng “Vị trưởng lão này, vị trưởng lão kia giáo giới”, rồi theo mạch câu chuyện mà kể về những phẩm chất có thật của các vị ấy, phân biệt theo giới hạnh, sự học rộng, hạnh kiểm (ācāra), dòng dõi, gia tộc v.v… Vì những phẩm chất có thật như vậy thì được phép nói đến. Do đó, những người có tâm hoan hỷ đã dâng cúng các vị trưởng lão nhiều lợi lộc và sự tôn kính lớn lao, gồm y phục v.v… Vì vậy đã nói: “Họ trở thành những người có nhiều lợi lộc về y phục… (v.v.)… các vật dụng”.

Bhikkhuniyoupasaṅkamitvāti tesaṃ kira santike tāsu ekā bhikkhunīpi na āgacchati, lābhataṇhāya pana ākaḍḍhiyamānahadayā tāsaṃ upassayaṃ agamaṃsu. Taṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘bhikkhuniyo upasaṅkamitvā’’ti. Tāpi bhikkhuniyo calacittatāya tesaṃ vacanaṃ akaṃsuyeva . Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho tā bhikkhuniyo…pe… nisīdiṃsū’’ti. Tiracchānakathanti saggamaggagamanepi tiracchānabhūtaṃ rājakathādimanekavidhaṃ niratthakakathaṃ. Iddhoti samiddho, sahitattho gambhīro bahuraso lakkhaṇapaṭivedhasaṃyuttoti adhippāyo.
Sau khi đến gần các Tỳ-khưu-ni” – tương truyền, không một Tỳ-khưu-ni nào trong số đó đến gần các vị (Tỳ-khưu) ấy, nhưng do lòng tham lợi lộc lôi kéo, (các Tỳ-khưu ấy) đã đến trú xứ của các Tỳ-khưu-ni. Nhắm đến điều đó mà nói: “Sau khi đến gần các Tỳ-khưu-ni”. Các Tỳ-khưu-ni ấy cũng do tâm dao động mà đã (nghe theo) lời của các vị (Tỳ-khưu) đó. Vì vậy đã nói: “Khi ấy, các Tỳ-khưu-ni đó… (v.v.)… đã ngồi xuống”. “Câu chuyện thế gian” là nhiều loại câu chuyện vô ích như chuyện vua chúa v.v…, là những chuyện đi ngược lại ngay cả với con đường đến cõi trời và đạo quả. “Thành tựu” là thịnh vượng, sung mãn; ý muốn nói là (bài pháp) có ý nghĩa lợi ích, sâu sắc, nhiều hương vị, liên hệ đến sự thấu hiểu đặc tướng.

145-147.Anujānāmi bhikkhaveti ettha yasmā te bhikkhū ‘‘mā tumhe bhikkhave bhikkhuniyo ovaditthā’’ti vuccamānā adiṭṭhasaccattā tathāgate āghātaṃ bandhitvā apāyupagā bhaveyyuṃ, tasmā nesaṃ taṃ apāyupagataṃ pariharanto bhagavā aññeneva upāyena te bhikkhunovādato paribāhire kattukāmo imaṃ bhikkhunovādakasammutiṃ anujānīti veditabbo. Evaṃ idha paribāhire kattukāmatāya anujānitvā parato karontova ‘‘anujānāmi bhikkhave aṭṭhahaṅgehi samannāgata’’ntiādimāha. Imāni hi aṭṭhaṅgāni chabbaggiyānaṃ supinantenapi na bhūtapubbānīti.
145-147. Ở đây, trong câu “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép“, vì nếu các Tỳ-khưu đó, khi được bảo “Này các Tỳ-khưu, các ngươi không được giáo giới Tỳ-khưu-ni”, do không thấy chân lý, có thể ôm lòng oán hận đối với Như Lai và rơi vào đường ác, do đó, cần hiểu rằng Đức Thế Tôn, để tránh cho họ khỏi rơi vào đường ác đó, muốn loại trừ các Tỳ-khưu đó khỏi việc giáo giới (một cách tùy tiện) bằng một phương tiện khác, nên đã cho phép sự chấp thuận (bổ nhiệm) người giáo giới Tỳ-khưu-ni này. Như vậy, ở đây sau khi cho phép với ý muốn loại trừ (khỏi việc giáo giới tùy tiện), rồi sau đó mới thực hiện (việc đặt ra điều kiện), Ngài nói bắt đầu bằng: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép (người) hội đủ tám yếu tố…“. Vì tám yếu tố này, ngay cả trong giấc mơ cũng chưa từng có đối với nhóm Lục quần Tỳ-khưu (Chabbaggiyā).
*Soṇa Thiện Kim giải thích thêm Chabbaggiyā:
– Không có danh sách chính thức nào trong Chánh Kinh, Chú Giải ghi rõ 6 người trong Lục quần Tỳ-kheo.
– Danh xưng “Chabbaggiyā” là biểu tượng trong Luật Tạng để minh họa các hành vi sai trái, qua đó Đức Phật thiết lập giới luật cho Tăng đoàn thanh tịnh hơn.

Tattha sīlamassa atthīti sīlavā. Idāni yañca taṃ sīlaṃ, yathā ca taṃ tassa atthi nāma hoti, taṃ dassento ‘‘pātimokkhasaṃvarasaṃvuto’’tiādimāha. Tattha pātimokkhova saṃvaro pātimokkhasaṃvaro. Pātimokkhasaṃvarena saṃvuto samannāgatoti pātimokkhasaṃvarasaṃvutāe.
Ở đó, “người có giới” là “người đức hạnh“. Bây giờ, để trình bày giới đó là gì, và làm thế nào mà giới đó được gọi là hiện hữu nơi vị ấy, (Pāḷi) nói bắt đầu bằng “người được thu thúc trong sự thu thúc của Pātimokkha“. Ở đó, sự thu thúc của Pātimokkha chính là sự thu thúc Pātimokkha. Người được thu thúc, hội đủ sự thu thúc Pātimokkha, (gọi là) “người được thu thúc trong sự thu thúc của Pātimokkha“.

Viharatīti vattati. Vuttañhetaṃ vibhaṅge –
‘‘Pātimokkhanti sīlaṃ patiṭṭhā ādi caraṇaṃ saṃyamo saṃvaro mokkhaṃ pamokkhaṃ kusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyā; saṃvaroti kāyiko avītikkamo vācasiko avītikkamo kāyikavācasiko avītikkamo. Saṃvutoti iminā pātimokkhasaṃvarena upeto hoti samupeto upagato samupagato upapanno samupapanno sampanno samannāgato, tena vuccati ‘pātimokkhasaṃvarasaṃvuto’ti. Viharatīti iriyati vattati pāleti yapeti yāpeti carati viharati, tena vuccati ‘viharatī’’’ti (vibha. 511-512).
Trú” là hành xử, sống. Điều này đã được nói trong Phân Tích Bộ (Vibhaṅga):
“Pātimokkha là giới, là nền tảng, là khởi đầu, là sự hành trì, là sự chế ngự, là sự thu thúc, là sự giải thoát, là sự giải thoát tối thượng, để chứng đắc các thiện pháp; sự thu thúc là không vi phạm qua thân, không vi phạm qua lời, không vi phạm qua thân và lời. ‘Người được thu thúc’ là người đã đạt đến, hoàn toàn đạt đến, đã đến gần, hoàn toàn đến gần, đã sinh khởi, hoàn toàn sinh khởi, đã thành tựu, đã hội đủ sự thu thúc Pātimokkha này, do đó được gọi là ‘người được thu thúc trong sự thu thúc của Pātimokkha’. ‘Trú’ là đi, hành xử, duy trì, nuôi sống, tiếp tục sống, thực hành, an trú, do đó được gọi là ‘trú’.” (vibha. 511-512).

Ācāragocarasampannoti micchājīvapaṭisedhakena na veḷudānādinā ācārena, vesiyādiagocaraṃ pahāya saddhāsampannakulādinā ca gocarena sampanno. Aṇumattesu vajjesu bhayadassāvīti appamattakesu vajjesu bhayadassāvī, tāni vajjāni bhayato dassanasīloti vuttaṃ hoti. Samādāya sikkhati sikkhāpadesūti adhisīlasikkhādibhāvena tidhā ṭhitesu sikkhāpadesu taṃ taṃ sikkhāpadaṃ samādāya sammā ādāya sādhukaṃ gahetvā avijahanto sikkhatīti attho. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana yo icchati, tena visuddhimaggato gahetabbo.
Thành tựu về hạnh kiểm và cảnh giới hành xứ” có nghĩa là thành tựu về hạnh kiểm ngăn ngừa tà mạng, không phải hạnh kiểm (liên quan đến việc) cho tre v.v…, và thành tựu về cảnh giới hành xứ bằng cách từ bỏ cảnh giới (lui tới) của gái điếm v.v…, (mà lui tới) các gia đình có đức tin v.v… “Thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt” là thấy sự nguy hiểm trong những lỗi không đáng kể, được nói là người có thói quen thấy những lỗi đó là đáng sợ. “Thọ trì và học tập trong các học giới” có nghĩa là trong các học giới được chia làm ba loại theo tăng thượng giới học v.v…, vị ấy thọ trì, tiếp nhận đúng đắn, nắm giữ kỹ lưỡng từng học giới đó mà không từ bỏ, rồi học tập – đó là ý nghĩa. Đây là phần tóm tắt ở đây; còn ai muốn (biết) chi tiết, thì nên tìm hiểu từ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga).

Bahu sutamassāti bahussuto. Sutaṃ dhāretīti sutadharo; yadassa taṃ bahu sutaṃ nāma, taṃ na sutamattameva; atha kho naṃ dhāretīti attho. Mañjūsāyaṃ viya ratanaṃ sutaṃ sannicitamasminti sutasannicayo. Etena yaṃ so sutaṃ dhāreti, tassa mañjūsāya gopetvā sannicitaratanasseva cirakālenāpi avināsanaṃ dasseti. Idāni taṃ sutaṃ sarūpato dassento ‘‘ye te dhammā’’tiādimāha, taṃ verañjakaṇḍe vuttanayameva. Idaṃ panettha nigamanaṃ – tathārūpāssa dhammā bahussutā honti, tasmā bahussuto. Dhātā, tasmā sutadharo. Vacasā paricitā manasānupekkhitā, diṭṭhiyā suppaṭividdhā; tasmā sutasannicayo. Tattha vacasā paricitāti vācāya paguṇā katā. Manasānupekkhitāti manasā anupekkhitā, āvajjantassa dīpasahassena obhāsitā viya honti. Diṭṭhiyā suppaṭividdhāti atthato ca kāraṇato ca paññāya suṭṭhu paṭividdhā supaccakkhakatā honti.
“Người có nghe nhiều” là “người học rộng“. “Người ghi nhớ những gì đã nghe” là “người trì pháp“; cái gọi là nghe nhiều của vị ấy, không phải chỉ là nghe suông; mà còn ghi nhớ điều đó – đó là ý nghĩa. “Người đã tích lũy những gì đã nghe như châu báu trong rương” là “người tích lũy sở học“. Bằng điều này, (cho thấy rằng) những gì vị ấy đã nghe và ghi nhớ, thì giống như châu báu được cất giữ và tích lũy trong rương, dù trải qua thời gian dài cũng không bị mất đi. Bây giờ, để trình bày những gì đã nghe đó về mặt bản chất, (Pāḷi) nói bắt đầu bằng “Những pháp nào mà…“, điều đó theo phương pháp đã nói trong Phẩm Verañja. Còn đây là phần kết luận: những pháp như vậy của vị ấy là đã được nghe nhiều, do đó (gọi là) người học rộng. Đã ghi nhớ, do đó (gọi là) người trì pháp. Đã quen thuộc qua lời nói, đã quán xét bằng ý, đã thấu triệt bằng trí tuệ; do đó (gọi là) người tích lũy sở học. Ở đó, “quen thuộc qua lời nói” là đã được làm cho thuần thục bằng lời nói. “Đã quán xét bằng ý” là đã được quán xét bằng ý, đối với người hướng tâm (đến chúng), chúng giống như được chiếu sáng bằng ngàn ngọn đèn. “Đã thấu triệt bằng trí tuệ” là đã được thấu triệt, làm cho sáng tỏ một cách tốt đẹp bằng trí tuệ về mặt ý nghĩa và nguyên nhân.

Ayaṃ pana bahussuto nāma tividho hoti – nissayamuccanako, parisupaṭṭhāpako, bhikkhunovādakoti. Tattha nissayamuccanakena upasampadāya pañcavassena sabbantimena paricchedena dve mātikā paguṇā vācuggatā kātabbā pakkhadivasesu dhammasāvanatthāya suttantato cattāro bhāṇavārā, sampattānaṃ parikathanatthāya andhakavindamahārāhulovādaambaṭṭhasadiso eko kathāmaggo, saṅghabhattamaṅgalāmaṅgalesu anumodanatthāya tisso anumodanā, uposathapavāraṇādijānanatthaṃ kammākammavinicchayo , samaṇadhammakaraṇatthaṃ samādhivasena vā vipassanāvasena vā arahattapariyosānamekaṃ kammaṭṭhānaṃ, ettakaṃ uggahetabbaṃ. Ettāvatā hi ayaṃ bahussuto hoti cātuddiso, yattha katthaci attano issariyena vasituṃ labhati.
Người học rộng này có ba loại: người có thể thoát khỏi sự y chỉ, người có thể phục vụ hội chúng, và người có thể giáo giới Tỳ-khưu-ni. Trong đó, đối với người có thể thoát khỏi sự y chỉ, sau năm hạ kể từ khi thọ cụ túc giới, theo sự phân định tối thiểu nhất, cần phải thuộc lòng và thông suốt hai bộ đề mục, bốn phẩm đọc từ Kinh Tạng để nghe Pháp vào những ngày nửa tháng, một bài giảng tương tự như kinh Andhakavinda, Đại kinh Giáo giới Rāhula, kinh Ambaṭṭha, để thuyết giảng cho những người đã đến, ba bài tùy hỷ để nói trong các bữa ăn của Tăng chúng, các dịp lễ tốt lành và không tốt lành, sự phân định về nghiệp và phi nghiệp để biết về lễ Bố-tát, Tự tứ v.v…, một đề mục thiền định, hoặc theo cách định hoặc theo cách quán, cho đến tận quả A-la-hán, để thực hành pháp sa-môn – chừng đó cần phải học thuộc. Với chừng đó, vị này trở thành người học rộng, thuộc về bốn phương, được phép ở bất cứ đâu theo quyền của mình.

Parisupaṭṭhāpakena upasampadāya dasavassena sabbantimena paricchedena parisaṃ abhivinaye vinetuṃ dve vibhaṅgā paguṇā vācuggatā kātabbā, asakkontena tīhi janehi saddhiṃ parivattanakkhamā kātabbā, kammākammañca khandhakavattañca uggahetabbaṃ. Parisāya pana abhidhamme vinayanatthaṃ sace majjhimabhāṇako hoti mūlapaṇṇāsako uggahetabbo, dīghabhāṇakena mahāvaggo, saṃyuttabhāṇakena heṭṭhimā vā tayo vaggā mahāvaggo vā, aṅguttarabhāṇakena heṭṭhā vā upari vā upaḍḍhanikāyo uggahetabbo, asakkontena tikanipātato paṭṭhāya heṭṭhā uggahetumpi vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘ekaṃ uggaṇhantena catukkanipātaṃ vā pañcakanipātaṃ vā gahetuṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Jātakabhāṇakena sāṭṭhakathaṃ jātakaṃ uggahetabbaṃ, tato oraṃ na vaṭṭati. Dhammapadampi saha vatthunā uggahetuṃ vaṭṭatīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Tato tato samuccayaṃ katvā mūlapaṇṇāsakamattaṃ vaṭṭati, na vaṭṭatīti? ‘‘Na vaṭṭatī’’ti kurundaṭṭhakathāyaṃ paṭikkhittaṃ, itarāsu vicāraṇāyeva natthi. Abhidhamme kiñci uggahetabbanti na vuttaṃ. Yassa pana sāṭṭhakathampi vinayapiṭakaṃ abhidhammapiṭakañca paguṇaṃ, suttante ca vuttappakāro gantho natthi, parisaṃ upaṭṭhāpetuṃ na labhati. Yena pana suttantato vinayato ca vuttappamāṇo gantho uggahito, ayaṃ parisupaṭṭhāpako bahussuto hoti disāpāmokkho yenakāmaṅgamo, parisaṃ upaṭṭhāpetuṃ labhati.
Đối với người có thể phục vụ hội chúng, sau mười hạ kể từ khi thọ cụ túc giới, theo sự phân định tối thiểu nhất, để giáo huấn hội chúng về Thắng Luật, cần phải thuộc lòng và thông suốt hai bộ Phân Tích, người không thể (thuộc hết) thì cần phải có khả năng luân phiên (tụng đọc) cùng với ba người khác, và cần phải học thuộc phần nghiệp và phi nghiệp, và các phận sự trong các Thiên. Còn để giáo huấn hội chúng về Vi Diệu Pháp, nếu là người tụng Trung Bộ Kinh, cần phải học thuộc Năm Mươi Kinh Căn Bản; người tụng Trường Bộ Kinh thì (học thuộc) Đại Phẩm; người tụng Tương Ưng Bộ Kinh thì (học thuộc) ba phẩm đầu hoặc Đại Phẩm; người tụng Tăng Chi Bộ Kinh thì (học thuộc) nửa bộ kinh ở phần đầu hoặc phần sau; người không thể (học hết) thì cũng được phép học thuộc từ Phẩm Ba Pháp trở xuống. Nhưng trong Mahāpaccari có nói: “Người học một (bộ), được phép học Phẩm Bốn Pháp hoặc Phẩm Năm Pháp”. Người tụng Bổn Sanh cần phải học thuộc bộ Bổn Sanh cùng với sớ giải, ít hơn thế thì không được. Cũng được phép học thuộc kinh Pháp Cú cùng với câu chuyện (duyên khởi), theo như sách Mahāpaccari nói. Tuyển chọn từ chỗ này chỗ kia (các bài kinh) để được một lượng tương đương Năm Mươi Kinh Căn Bản, có được phép không? “Không được phép” – điều này đã bị bác bỏ trong Kurundaṭṭhakathā; trong các (sớ giải) khác thì không có sự xem xét nào cả. Không có nói rằng cần phải học thuộc điều gì đó trong Vi Diệu Pháp. Nhưng người nào dù thông suốt Tạng Luật và Tạng Vi Diệu Pháp cùng với sớ giải, mà không có kinh điển thuộc Kinh Tạng theo loại đã nói, thì không được phép phục vụ hội chúng. Còn người nào đã học thuộc kinh điển với số lượng đã nói từ Kinh Tạng và Luật Tạng, vị này là người học rộng có thể phục vụ hội chúng, là người nổi tiếng khắp nơi, đi đâu tùy ý, được phép phục vụ hội chúng.

Bhikkhunovādakena pana sāṭṭhakathāni tīṇi piṭakāni uggahetabbāni, asakkontena catūsu nikāyesu ekassa aṭṭhakathā paguṇā kātabbā, ekanikāyena hi sesanikāyesupi pañhaṃ kathetuṃ sakkhissati. Sattasu pakaraṇesu catuppakaraṇassa aṭṭhakathā paguṇā kātabbā, tattha laddhanayena hi sesapakaraṇesu pañhaṃ kathetuṃ sakkhissati. Vinayapiṭakaṃ pana nānatthaṃ nānākāraṇaṃ, tasmā taṃ saddhiṃ aṭṭhakathāya paguṇaṃ kātabbameva. Ettāvatā hi bhikkhunovādako bahussuto nāma hotīti.
Còn đối với người giáo giới Tỳ-khưu-ni, cần phải học thuộc ba Tạng cùng với sớ giải; người không thể (học hết) thì cần phải thông suốt sớ giải của một trong bốn bộ Nikāya, vì (nếu thông suốt) một bộ Nikāya, vị ấy sẽ có thể nói về vấn đề trong các bộ Nikāya còn lại. Trong bảy bộ Luận, cần phải thông suốt sớ giải của bốn bộ Luận; vì theo phương pháp đã học được ở đó, vị ấy sẽ có thể nói về vấn đề trong các bộ Luận còn lại. Còn Tạng Luật thì có nhiều ý nghĩa, nhiều nguyên nhân, do đó nhất định cần phải thông suốt tạng đó cùng với sớ giải. Với chừng đó, vị ấy được gọi là người học rộng có thể giáo giới Tỳ-khưu-ni.

Ubhayānikho panassātiādi pana yasmā aññasmiṃ sakale navaṅgepi bāhussacce sati sāṭṭhakathaṃ vinayapiṭakaṃ vinā na vaṭṭatiyeva, tasmā visuṃ vuttaṃ. Tattha vitthārenāti ubhatovibhaṅgena saddhiṃ. Svāgatānīti suṭṭhu āgatāni. Yathā āgatāni pana svāgatāni honti, taṃ dassetuṃ ‘‘suvibhattānī’’tiādi vuttaṃ. Tattha suvibhattānīti suṭṭhu vibhattāni padapaccābhaṭṭhasaṅkaradosavirahitāni. Suppavattīnīti paguṇāni vācuggatāni. Suvinicchitāni suttasoti khandhakaparivārato āharitabbasuttavasena suṭṭhu vinicchitāni. Anubyañjanasoti akkharapadapāripūriyā ca suvinicchitāni akhaṇḍāni aviparītakkharāni. Etena aṭṭhakathā dīpitā, aṭṭhakathāto hi esa vinicchayo hotīti.
Còn trong những câu như “Cả hai (phần Phân Tích) của vị ấy…” v.v…, vì dù có sự học rộng trong toàn bộ chín phần giáo pháp khác, nếu không có Tạng Luật cùng với sớ giải thì vẫn không được phép (giáo giới Tỳ-khưu-ni), do đó (Tạng Luật) được nói riêng. Ở đó, “một cách rộng rãi” là cùng với cả hai phần Phân Tích. “Đã được tiếp nhận tốt đẹp” là đã được tiếp nhận một cách tốt đẹp. Còn để trình bày làm thế nào mà những gì đã tiếp nhận trở thành được tiếp nhận tốt đẹp, (Pāḷi) nói bắt đầu bằng “đã được phân tích kỹ lưỡng“. Ở đó, “đã được phân tích kỹ lưỡng” là đã được phân tích một cách tốt đẹp, không có lỗi nhầm lẫn từ ngữ, từ trái nghĩa. “Lưu loát” là thông suốt, thuộc lòng. “Đã được quyết định rõ ràng theo kinh” là đã được quyết định rõ ràng một cách tốt đẹp theo các kinh cần được trích dẫn từ các Thiên và Tập Yếu. “Theo từng chi tiết phụ” là đã được quyết định rõ ràng về sự đầy đủ của chữ và từ, không bị thiếu sót, không bị sai lạc chữ nghĩa. Bằng điều này, sớ giải được làm sáng tỏ; vì sự quyết định này là từ sớ giải.

Kalyāṇavācoti sithiladhanitādīnaṃ yathāvidhānavacanena parimaṇḍalapadabyañjanāya poriyā vācāya samannāgato vissaṭṭhāya anelagaḷāya atthassa viññāpaniyā. Kalyāṇavākkaraṇoti madhurassaro, mātugāmo hi sarasampattirato, tasmā parimaṇḍalapadabyañjanampi vacanaṃ sarasampattirahitaṃ hīḷeti. Yebhuyyena bhikkhunīnaṃ piyo hoti manāpoti sabbāsaṃ piyo nāma dullabho, bahutarānaṃ pana paṇḍitānaṃ bhikkhunīnaṃ sīlācārasampattiyā piyo hoti manavaḍḍhanako. Paṭibalo hoti bhikkhuniyo ovaditunti suttañca kāraṇañca dassento vaṭṭabhayena tajjetvā bhikkhuniyo ovadituṃ tādisaṃ dhammaṃ desetuṃ samattho hoti. Kāsāyavatthavasanāyāti kāsāyavatthanivatthāya. Garudhammanti gihikāle bhikkhuniyā kāyasaṃsaggaṃ vā sikkhamānāsāmaṇerīsu methunadhammaṃ vā anajjhāpannapubbo hoti. Mātugāmo hi pubbe katamanussaranto saṃvare ṭhitassāpi dhammadesanāya gāravaṃ na karoti. Atha vā tasmiyeva asaddhamme cittaṃ uppādeti. Vīsativasso vāti upasampadāya vīsativasso tato atirekavasso vā. Evarūpo hi visabhāgehi vatthūhi punappunaṃ samāgacchantopi daharo viya sahasā sīlavināsaṃ na pāpuṇāti, attano vayaṃ paccavekkhitvā ayuttaṭṭhāne chandarāgaṃ vinetuṃ paṭibalo hoti, tena vuttaṃ – ‘‘vīsativasso vā hoti atirekavīsativasso vā’’ti.
Người có lời nói tốt đẹp” là người nói đúng phương pháp về các âm lơi, âm tắc v.v…, hội đủ lời nói thành thị, có từ và chi tiết phụ tròn trịa, (lời nói) rõ ràng, không lắp bắp, có khả năng làm cho hiểu rõ ý nghĩa. “Người có giọng nói hay” là người có giọng nói ngọt ngào; vì người nữ thường thích giọng nói hay, do đó ngay cả lời nói có từ và chi tiết phụ tròn trịa mà không có giọng nói hay thì họ cũng chê bai. “Được phần lớn các Tỳ-khưu-ni quý mến, hài lòng” có nghĩa là người được tất cả quý mến thì khó tìm, nhưng (vị ấy) được phần lớn các Tỳ-khưu-ni có trí tuệ quý mến, làm tăng trưởng sự hài lòng của họ, do sự thành tựu về giới hạnh và hạnh kiểm. “Có khả năng giáo giới Tỳ-khưu-ni” có nghĩa là có khả năng trình bày kinh và lý lẽ, răn đe bằng sự sợ hãi trong vòng luân hồi, để giáo giới các Tỳ-khưu-ni, thuyết giảng Pháp như vậy. “Đối với người mặc y kāsuāya” là đối với người đã mặc y kāsuāya. “Không phạm Bát Kỉnh Pháp” (ở đây chỉ hạnh kiểm trong quá khứ của Tỳ-khưu) có nghĩa là khi còn là cư sĩ, vị ấy chưa từng thân cận với Tỳ-khưu-ni, hoặc chưa từng phạm vào hành vi tính dục đối với các vị Sa-di-ni đang học giới. Vì người nữ, khi nhớ lại việc đã làm trước đây, có thể không tôn kính sự thuyết Pháp của ngay cả người đang giữ gìn sự thu thúc. Hoặc là (người nữ) có thể khởi tâm về việc không đúng Pháp đó. “Hoặc hai mươi tuổi hạ” là hai mươi tuổi hạ kể từ khi thọ cụ túc giới, hoặc hơn hai mươi tuổi hạ. Vì người như vậy, dù thường xuyên gặp gỡ những đối tượng không tương hợp, cũng không dễ dàng bị hủy hoại giới hạnh như người trẻ tuổi, (vị ấy) có khả năng tự quán xét tuổi tác của mình để chế ngự lòng tham muốn dục vọng ở nơi không thích hợp, do đó đã nói: “Hoặc là người hai mươi tuổi hạ, hoặc hơn hai mươi tuổi hạ”.

Ettha ca ‘‘sīlavā’’tiādi ekamaṅgaṃ, ‘‘bahussuto hotī’’tiādi dutiyaṃ, ‘‘ubhayāni kho panassā’’tiādi tatiyaṃ, ‘‘kalyāṇavāco hoti kalyāṇavākkaraṇo’’ti catutthaṃ, ‘‘yebhuyyena bhikkhunīnaṃ piyo hoti manāpo’’ti pañcamaṃ, ‘‘paṭibalo hoti bhikkhuniyo ovaditu’’nti chaṭṭhaṃ, ‘‘na kho paneta’’ntiādi sattamaṃ, ‘‘vīsativasso’’tiādi aṭṭhamanti veditabbaṃ.
Và ở đây, cần hiểu rằng: “người đức hạnh” v.v… là yếu tố thứ nhất, “là người học rộng” v.v… là thứ hai, “cả hai (phần Phân Tích) của vị ấy…” v.v… là thứ ba, “có lời nói tốt đẹp, có giọng nói hay” là thứ tư, “được phần lớn các Tỳ-khưu-ni quý mến, hài lòng” là thứ năm, “có khả năng giáo giới Tỳ-khưu-ni” là thứ sáu, “nhưng không phải là người…” (chưa từng phạm Bát Kỉnh Pháp) v.v… là thứ bảy, “hai mươi tuổi hạ” v.v… là thứ tám.

148.Ñatticatutthenāti pubbe vatthusmiṃ vutteneva. Garudhammehīti garukehi dhammehi, te hi gāravaṃ katvā bhikkhunīhi sampaṭicchitabbattā garudhammāti vuccanti. Ekatoupasampannāyāti ettha bhikkhunīnaṃ santike ekatoupasampannāya, yo garudhammena ovadati, tassa dukkaṭaṃ. Bhikkhūnaṃ santike upasampannāya pana yathāvatthukameva.
148. “Bằng Yết-ma tứ bạch” là như đã nói trong câu chuyện (duyên khởi) trước đây. “Bằng các Bát Kỉnh Pháp” là bằng các pháp nặng; chúng được gọi là Bát Kỉnh Pháp vì các Tỳ-khưu-ni cần phải tôn kính và chấp nhận chúng. Ở đây, trong câu “Đối với người nữ đã thọ cụ túc giới một bên“, (nghĩa là) đối với người nữ đã thọ cụ túc giới chỉ từ phía Tỳ-khưu-ni, người nào giáo giới bằng Bát Kỉnh Pháp, vị ấy phạm tội Tác Ác. Còn đối với người nữ đã thọ cụ túc giới (cả) từ phía Tỳ-khưu, thì (áp dụng tội) theo đúng sự việc.

149.Pariveṇaṃ sammajjitvāti sace pāto asammaṭṭhaṃ sammaṭṭhampi vā puna tiṇapaṇṇādīhi uklāpaṃ pādappahārehi ca vikiṇṇavālikaṃ jātaṃ, sammajjitabbaṃ. Asammaṭṭhañhi taṃ disvā ‘‘ayyo attano nissitake daharabhikkhūpi vattapaṭipattiyaṃ na yojeti, dhammaṃyeva kathetī’’ti tā bhikkhuniyo asotukāmā viya bhaveyyuṃ. Tena vuttaṃ – ‘‘pariveṇaṃ sammajjitvā’’ti. Antogāmato pana bhikkhuniyo āgacchantiyo pipāsitā ca kilantā ca honti, tā pānīyañca hatthapādamukhasītalakaraṇañca paccāsīsanti, tasmiñca asati purimanayeneva agāravaṃ janetvā asotukāmāpi honti . Tena vuttaṃ – ‘‘pānīyaṃ paribhojanīyaṃ upaṭṭhapetvā’’ti.
149. “Sau khi quét dọn khuôn viên riêng” có nghĩa là nếu buổi sáng (nơi đó) chưa được quét, hoặc dù đã quét mà lại bị dơ bẩn do cỏ lá v.v… và cát bị tung tóe do dấu chân, thì cần phải quét dọn. Vì khi thấy nơi đó chưa được quét dọn, các Tỳ-khưu-ni ấy có thể sẽ không muốn nghe (Pháp) với ý nghĩ: “Vị Thầy này ngay cả các Tỳ-khưu trẻ nương tựa mình mà cũng không hướng dẫn thực hành phận sự, chỉ biết thuyết Pháp mà thôi”. Do đó đã nói: “Sau khi quét dọn khuôn viên riêng”. Còn các Tỳ-khưu-ni từ trong làng đến thì bị khát và mệt mỏi, các vị ấy mong đợi có nước uống và nước để làm mát tay, chân, mặt. Và nếu không có những thứ đó, các vị ấy cũng có thể sinh lòng không tôn kính theo cách đã nói trước và không muốn nghe. Do đó đã nói: “Sau khi chuẩn bị nước uống, nước dùng“.

Āsananti nīcapīṭhakaphalakataṭṭikakaṭasārakādibhedaṃ antamaso sākhābhaṅgampi ‘‘idaṃ tāsaṃ āsanaṃ bhavissatī’’ti evaṃ āsanaṃ paññapetvā. Dhammadesanāpattimocanatthaṃ pana dutiyo icchitabbo. Tena vuttaṃ – ‘‘dutiyaṃ gahetvā nisīditabba’’nti. Nisīditabbanti na vihārapaccante, atha kho vihāramajjhe uposathāgārassa vā bhojanasālāya vā dvāre sabbesaṃ osaraṇaṭṭhāne nisīditabbaṃ. Samaggātthāti sabbā āgatatthāti attho. Vattantīti āgacchanti; paguṇā vācuggatāti attho. Niyyādetabboti appetabbo. Osāretabboti pāḷi vattabbā. Vassasatūpasampannāyātiādi vattabbapāḷidassanaṃ.
Chỗ ngồi” là các loại như ghế thấp, ván gỗ, mành, chiếu thô v.v…, cho đến cả cành cây gãy, sau khi sắp đặt chỗ ngồi như vậy với ý nghĩ: “Đây sẽ là chỗ ngồi cho các vị ấy”. Nhưng để thoát khỏi tội (liên quan đến việc) thuyết Pháp (một mình cho nữ giới), cần phải có người thứ hai. Do đó đã nói: “Cần phải có người thứ hai cùng ngồi“. “Cần phải ngồi” – không phải ở nơi hẻo lánh của tu viện, mà cần phải ngồi ở giữa tu viện, tại cửa nhà bố-tát hoặc nhà ăn, ở nơi mọi người qua lại. “Khi (các Tỳ-khưu-ni) đã tập hợp đông đủ” có nghĩa là khi tất cả đã đến. “Đang đến” là đang đi đến. “Cần phải giao phó” là cần phải trao. “Cần phải trình bày” là cần phải nói Pāḷi. (Câu) “Đối với người nữ đã thọ cụ túc giới một trăm năm” v.v… là sự chỉ ra Pāḷi cần phải nói.

Tattha sāmīcikammanti maggasampadānabījanapānīyāpucchanādikaṃ anucchavikavattaṃ. Ettha ca bhikkhuniyā bhikkhussa abhivādanaṃ nāma antogāme vā bahigāme vā antovihāre vā bahivihāre vā antaraghare vā rathikāya vā antamaso rājussāraṇāyapi vattamānāya deve vassamāne sakaddamāya bhūmiyā chattapattahatthāyapi hatthiassādīhi anubaddhāyapi kātabbameva. Ekābaddhāya pāḷiyā bhikkhācāraṃ pavisante disvā ekasmiṃ ṭhāne ‘‘vandāmi ayyā’’ti vandituṃ vaṭṭati. Sace antarantarā dvādasahatthe muñcitvā gacchanti, visuṃ visuṃ vanditabbā. Mahāsannipāte nisinne ekasmiṃyeva ṭhāne vandituṃ vaṭṭati. Esa nayo añjalikammepi. Yattha katthaci nisinnāya pana paccuṭṭhānaṃ kātabbaṃ, tassa tassa sāmīcikammassa anurūpe padese ca kāle ca taṃ taṃ kātabbaṃ.
Ở đó, “hành động tôn kính” là phận sự thích hợp như nhường đường, dâng quạt, dâng nước, hỏi ý kiến v.v… Và ở đây, việc Tỳ-khưu-ni đảnh lễ Tỳ-khưu, dù ở trong làng hay ngoài làng, trong tu viện hay ngoài tu viện, trong nhà hay ngoài đường, cho đến cả khi đang ở trong đám rước của vua, trời đang mưa, đất lầy lội, dù đang cầm dù che bát, dù bị voi ngựa v.v… đuổi theo, cũng nhất định phải làm. Khi thấy (một nhóm Tỳ-khưu) đi khất thực thành một hàng dài liên tục, được phép đứng ở một chỗ đảnh lễ rằng: “Con xin đảnh lễ quý ngài”. Nếu các vị đi cách nhau mười hai thước, cần phải đảnh lễ riêng từng vị. Khi (các Tỳ-khưu) đang ngồi trong một đại hội, được phép đứng ở một chỗ mà đảnh lễ. Đối với việc chắp tay cũng theo phương pháp này. Nhưng (Tỳ-khưu-ni) dù đang ngồi ở đâu cũng cần phải đứng dậy (khi thấy Tỳ-khưu); mỗi một hành động tôn kính đó cần được thực hiện ở nơi thích hợp và vào lúc thích hợp, tùy theo từng trường hợp.

Sakkatvāti yathā kato sukato hoti, evaṃ katvā. Garuṃkatvāti tattha gāravaṃ janetvā. Mānetvāti manena piyaṃ katvā. Pūjetvāti imesaṃyeva tiṇṇaṃ kiccānaṃ karaṇena pūjetvā. Anatikkamanīyoti na atikkamitabbo.
Sau khi cung kính” là sau khi làm theo cách mà được xem là làm tốt đẹp. “Sau khi tôn trọng” là sau khi thể hiện sự tôn kính ở đó. “Sau khi quý mến” là sau khi thể hiện sự quý mến bằng tâm. “Sau khi cúng dường/tôn thờ” là sau khi cúng dường/tôn thờ bằng cách thực hiện ba việc này. “Không thể vượt qua” là không được vượt qua.

Abhikkhuke āvāseti ettha sace bhikkhunupassayato aḍḍhayojanabbhantare ovādadāyakā bhikkhū na vasanti, ayaṃ abhikkhuko āvāso nāma. Ettha vassaṃ na vasitabbaṃ. Vuttañhetaṃ – ‘‘abhikkhuko nāma āvāso na sakkā hoti ovādāya vā saṃvāsāya vā gantu’’nti (pāci. 1048). Na ca sakkā tato paraṃ pacchābhattaṃ gantvā dhammaṃ sutvā āgantuṃ. Sace tattha vassaṃ vasituṃ anicchamānā bhikkhuniyo ñātakā vā upaṭṭhākā vā evaṃvadanti – ‘‘vasatha, ayye, mayaṃ bhikkhū ānessāmā’’ti vaṭṭati. Sace pana vuttappamāṇe padese vassaṃ upagantukāmā bhikkhū āgantvā sākhāmaṇḍapepi ekarattaṃ vutthā honti; na nimantitā hutvā gantukāmā. Ettāvatāpi sabhikkhuko āvāso hoti, ettha vassaṃ upagantuṃ vaṭṭati. Upagacchantīhi ca pakkhassa terasiyaṃyeva bhikkhū yācitabbā – ‘‘mayaṃ ayyā tumhākaṃ ovādena vasissāmā’’ti. Yato pana ujunā maggena aḍḍhayojane bhikkhūnaṃ vasanaṭṭhānaṃ, tena pana maggena gacchantīnaṃ jīvitantarāyo vā brahmacariyantarāyo vā hoti, aññena maggena gacchantīnaṃ atirekaḍḍhayojanaṃ hoti, ayaṃ abhikkhukāvāsaṭṭhāneyeva tiṭṭhati. Sace pana tato gāvutamatte añño bhikkhunupassayo khemaṭṭhāne hoti, tāhi bhikkhunīhi tā bhikkhuniyo yācitvā puna gantvā bhikkhū yācitabbā ‘‘ayyā amhākaṃ ujumagge antarāyo atthi, aññena maggena atirekaḍḍhayojanaṃ hoti. Antarāmagge pana amhākaṃ upassayato gāvutamatte añño bhikkhunupassayo atthi, ayyānaṃ santikā tattha āgataovādena vasissāmā’’ti. Tehi bhikkhūhi sampaṭicchitabbaṃ. Tato tāhi bhikkhunīhi taṃ bhikkhunupassayaṃ āgantvā uposatho kātabbo, tā vā bhikkhuniyo disvā attano upassayameva gantvā kātumpi vaṭṭati.
Ở đây, trong câu “Trong trú xứ không có Tỳ-khưu“, nếu trong vòng hai do-tuần rưỡi tính từ trú xứ của Tỳ-khưu-ni mà không có các Tỳ-khưu giáo giới ở, thì đây gọi là trú xứ không có Tỳ-khưu. Không được an cư mùa mưa ở đây. Điều này đã được nói: “Trú xứ không có Tỳ-khưu là (nơi mà Tỳ-khưu-ni) không thể đi đến để nhận sự giáo giới hoặc để sống chung (với Tỳ-khưu)” (pāci. 1048). Và cũng không thể từ đó đi sau bữa ăn để nghe Pháp rồi quay về. Nếu các Tỳ-khưu-ni không muốn an cư mùa mưa ở đó, mà những người thân hoặc thí chủ nói rằng: “Xin quý ni sư cứ ở, chúng tôi sẽ mời các Tỳ-khưu đến”, thì được phép (ở). Nhưng nếu các Tỳ-khưu muốn đến an cư mùa mưa ở nơi có khoảng cách đã nói, (dù chỉ) đến và ở lại một đêm trong nhà tạm bằng cành cây, (và họ) không phải là những người được mời rồi muốn ra đi, chỉ với chừng đó, trú xứ đó trở thành có Tỳ-khưu, được phép an cư mùa mưa ở đó. Và các Tỳ-khưu-ni đến (an cư) cần phải thỉnh cầu các Tỳ-khưu vào ngày mười ba của mỗi nửa tháng rằng: “Thưa quý ngài, chúng con sẽ sống theo sự giáo giới của quý ngài”. Nhưng nếu nơi ở của các Tỳ-khưu cách hai do-tuần rưỡi theo đường thẳng, nhưng khi đi theo con đường đó, (các Tỳ-khưu-ni) gặp nguy hiểm đến tính mạng hoặc đời sống phạm hạnh, còn nếu đi theo con đường khác thì lại quá hai do-tuần rưỡi, nơi này vẫn được xem là trú xứ không có Tỳ-khưu. Nhưng nếu cách đó khoảng một gāvuta có một trú xứ Tỳ-khưu-ni khác ở nơi an toàn, các Tỳ-khưu-ni này cần phải thỉnh cầu các Tỳ-khưu-ni kia (cho ở nhờ), rồi lại đi thỉnh cầu các Tỳ-khưu rằng: “Thưa quý ngài, đường thẳng của chúng con có trở ngại, còn đường khác thì quá hai do-tuần rưỡi. Nhưng trên đường đi, cách trú xứ của chúng con khoảng một gāvuta có một trú xứ Tỳ-khưu-ni khác, chúng con sẽ sống theo sự giáo giới nhận được từ quý ngài khi quý ngài đến đó”. Các Tỳ-khưu đó cần phải chấp nhận. Sau đó, các Tỳ-khưu-ni này cần phải đến trú xứ Tỳ-khưu-ni đó để làm lễ Bố-tát, hoặc sau khi gặp các Tỳ-khưu-ni kia, cũng được phép trở về trú xứ của mình để làm lễ.

Sace pana vassaṃ upagantukāmā bhikkhū cātuddase vihāraṃ āgacchanti, bhikkhunīhi ca ‘‘idha ayyā vassaṃ vasissathā’’ti pucchitā ‘‘āmā’’ti vatvā puna tāhi ‘‘tenahi ayyā mayampi tumhākaṃ ovādaṃ anujīvantiyo vasissāmā’’ti vuttā dutiyadivase gāme bhikkhācārasampadaṃ apassantā ‘‘na sakkā idha vasitu’’nti pakkamanti. Atha tā bhikkhuniyo uposathadivase vihāraṃ gantvā bhikkhū na passanti, ettha kiṃ kātabbanti? Yattha bhikkhū vasanti, tattha gantvā pacchimikāya vassaṃ upagantabbaṃ. ‘‘Pacchimikāya vassaṃ upagantuṃ āgamissantī’’ti vā ābhogaṃ katvā āgatānaṃ santike ovādena vasitabbaṃ. Sace pana pacchimikāyapi na keci āgacchanti, antarāmagge ca rājabhayaṃ vā corabhayaṃ vā dubbhikkhaṃ vā hoti, abhikkhukāvāse vasantiyā āpatti, vassacchedaṃ katvā gacchantiyāpi āpatti, sā rakkhitabbā. Āpadāsu hi abhikkhuke āvāse vasantiyā anāpatti vuttā. Sace āgantvā vassaṃ upagatā bhikkhū puna kenaci kāraṇena pakkamanti, vasitabbameva. Vuttañhetaṃ – ‘‘anāpatti vassūpagatā bhikkhū pakkantā vā honti vibbhantā vā kālaṅkatā vā pakkhasaṅkantā vā āpadāsu ummattikāya ādikammikāyā’’ti. Pavārentiyā pana yattha bhikkhū atthi, tattha gantvā pavāretabbaṃ.
Nhưng nếu các Tỳ-khưu muốn đến an cư mùa mưa, vào ngày mười bốn (của tháng) đến tu viện, và khi được các Tỳ-khưu-ni hỏi: “Thưa quý ngài, quý ngài sẽ an cư mùa mưa ở đây chứ?”, (các Tỳ-khưu) đáp “Vâng”, rồi lại được các Tỳ-khưu-ni ấy nói: “Vậy thì, thưa quý ngài, chúng con cũng sẽ sống theo sự giáo giới của quý ngài”, (nhưng) vào ngày thứ hai, do không thấy sự thuận lợi về việc khất thực trong làng, (các Tỳ-khưu) nghĩ “Không thể ở đây được” rồi bỏ đi. Khi ấy, các Tỳ-khưu-ni vào ngày Bố-tát đến tu viện mà không thấy Tỳ-khưu nào, ở đây phải làm gì? Cần phải đến nơi các Tỳ-khưu đang ở, rồi an cư mùa mưa theo kỳ an cư sau. Hoặc sau khi hướng tâm rằng: “Các vị ấy sẽ đến để an cư mùa mưa theo kỳ an cư sau”, thì sống theo sự giáo giới của những vị đã đến. Nhưng nếu ngay cả trong kỳ an cư sau cũng không có ai đến, và trên đường đi có sự nguy hiểm từ vua chúa, hoặc trộm cướp, hoặc nạn đói, Tỳ-khưu-ni ở trong trú xứ không có Tỳ-khưu thì phạm tội, người bỏ dở mùa an cư mà đi cũng phạm tội; vị ấy cần được bảo vệ. Vì trong các trường hợp nguy hiểm, Tỳ-khưu-ni ở trong trú xứ không có Tỳ-khưu thì không phạm tội đã được nói đến. Nếu các Tỳ-khưu đã đến và bắt đầu an cư mùa mưa, rồi lại vì một lý do nào đó mà bỏ đi, (các Tỳ-khưu-ni) vẫn phải ở lại (và hoàn tất mùa an cư). Điều này đã được nói: “Không phạm tội (nếu) các Tỳ-khưu đã an cư mùa mưa rồi bỏ đi, hoặc bị hoàn tục, hoặc mệnh chung, hoặc theo một phe phái khác; (cũng không phạm tội) trong các trường hợp nguy hiểm, đối với người điên, đối với người sơ phạm”. Nhưng khi làm lễ Tự tứ, cần phải đến nơi có Tỳ-khưu để làm lễ Tự tứ.

Anvaddhamāsanti addhamāse addhamāse. Dve dhammā paccāsīsitabbāti dve dhammā icchitabbā. Uposathapucchakanti uposathapucchanaṃ, tattha pannarasike uposathe pakkhassa cātuddasiyaṃ cātuddasike terasiyaṃ gantvā uposatho pucchitabbo. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘pakkhassa terasiyaṃyeva gantvā ‘ayaṃ uposatho cātuddasiko pannarasiko’ti pucchitabba’’nti vuttaṃ. Uposathadivase ovādatthāya upasaṅkamitabbaṃ. Pāṭipadadivasato pana paṭṭhāya dhammasavanatthāya gantabbaṃ. Iti bhagavā aññassa kammassa okāsaṃ adatvā nirantaraṃ bhikkhunīnaṃ bhikkhūnaṃ santike gamanameva paññapesi. Kasmā? Mandapaññattā mātugāmassa. Mandapañño hi mātugāmo, tasmā niccaṃ dhammasavanaṃ bahūpakāraṃ. Evañca sati ‘‘yaṃ mayaṃ jānāma, tameva ayyā jānantī’’ti mānaṃ akatvā bhikkhusaṅghaṃ payirūpāsamānā sātthikaṃ pabbajjaṃ karissanti, tasmā bhagavā evamakāsi. Bhikkhuniyopi ‘‘yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjissāmā’’ti sabbāyeva nirantaraṃ vihāraṃ upasaṅkamiṃsu. Vuttañhetaṃ –
Mỗi nửa tháng” là mỗi nửa tháng một lần. “Cần phải mong đợi hai pháp” là cần phải ước muốn hai pháp. “Việc hỏi về ngày Bố-tát” là sự hỏi về ngày Bố-tát. Ở đó, đối với ngày Bố-tát mười lăm ngày, cần phải đi hỏi vào ngày mười bốn của nửa tháng; đối với (ngày Bố-tát) mười bốn ngày, (cần phải đi hỏi) vào ngày mười ba. Nhưng trong Mahāpaccari có nói: “Cần phải đi hỏi ngay vào ngày mười ba của nửa tháng rằng: ‘Ngày Bố-tát này là ngày mười bốn hay mười lăm?'”. Vào ngày Bố-tát, cần phải đến gần để nhận sự giáo giới. Còn kể từ ngày đầu tiên (sau Bố-tát), cần phải đi để nghe Pháp. Như vậy, Đức Thế Tôn, không cho cơ hội làm việc khác, đã chế định việc các Tỳ-khưu-ni phải liên tục đến gần các Tỳ-khưu. Tại sao? Vì trí tuệ của người nữ có hạn. Quả thật, người nữ có trí tuệ hạn chế, do đó việc thường xuyên nghe Pháp có nhiều lợi ích. Và nếu như vậy, (các Tỳ-khưu-ni) sẽ không khởi tâm kiêu mạn rằng “Điều gì chúng tôi biết, quý ngài (Tỳ-khưu) cũng chỉ biết chừng đó”, mà sẽ gần gũi Tăng chúng Tỳ-khưu, thực hành đời sống xuất gia có ý nghĩa; do đó Đức Thế Tôn đã làm như vậy. Các Tỳ-khưu-ni cũng (nghĩ rằng): “Chúng con sẽ thực hành theo như đã được chỉ dạy”, rồi tất cả đều liên tục đến gần tu viện (của Tỳ-khưu). Điều này đã được nói: –

‘‘Tena kho pana samayena sabbo bhikkhunisaṅgho ovādaṃ gacchati . Manussā ujjhāyanti khiyyanti vipācenti ‘jāyāyo imā imesaṃ, jāriyo imā imesaṃ, idānime imāhi saddhiṃ abhiramissantī’ti. Bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ – ‘na, bhikkhave, sabbena bhikkhunisaṅghena ovādo gantabbo, gaccheyya ce, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi bhikkhave catūhi pañcahi bhikkhunīhi ovādaṃ gantu’nti. Punapi tatheva ujjhāyiṃsu. Puna bhagavā ‘anujānāmi, bhikkhave, dve tisso bhikkhuniyo ovādaṃ gantu’’’nti āha.
“Vào lúc bấy giờ, toàn thể Tăng chúng Tỳ-khưu-ni đều đi (nhận) sự giáo giới. Người đời phàn nàn, chê bai, chỉ trích rằng: ‘Đây là vợ của họ, đây là nhân tình của họ, bây giờ họ sẽ vui vẻ với những người nữ này’. Họ đã trình bày việc này lên Đức Thế Tôn. (Đức Thế Tôn nói): ‘Này các Tỳ-khưu, không phải toàn thể Tăng chúng Tỳ-khưu-ni đều nên đi (nhận) sự giáo giới; nếu đi, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép bốn hoặc năm Tỳ-khưu-ni đi (nhận) sự giáo giới’. Lại nữa, người đời vẫn phàn nàn như vậy. Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: ‘Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép hai hoặc ba Tỳ-khưu-ni đi (nhận) sự giáo giới'”.

Tasmā bhikkhunisaṅghena dve tisso bhikkhuniyo yācitvā pesetabbā – ‘‘ethayye, bhikkhusaṅghaṃ ovādūpasaṅkamanaṃ yācatha, bhikkhunisaṅgho ayyā…pe… ovādūpasaṅkamana’’nti (cūḷava. 413). Tāhi bhikkhunīhi ārāmaṃ gantabbaṃ. Tato ovādapaṭiggāhakaṃ ekaṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā vanditvā so bhikkhu ekāya bhikkhuniyā evamassa vacanīyo ‘‘bhikkhunisaṅgho, ayya, bhikkhusaṅghassa pāde vandati, ovādūpasaṅkamanañca yācati, labhatu kira ayya bhikkhunisaṅgho ovādūpasaṅkamana’’nti. Tena bhikkhunā pātimokkhuddesako bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo ‘‘bhikkhunisaṅgho bhante bhikkhusaṅghassa pāde vandati, ovādūpasaṅkamanañca yācati, labhatu kira bhante bhikkhunisaṅgho ovādūpasaṅkamana’’nti. Pātimokkhuddesakena vattabbo ‘‘atthi koci bhikkhu bhikkhunovādako sammato’’ti. Sace hoti koci bhikkhu bhikkhunovādako sammato, pātimokkhuddesakena vattabbo ‘‘itthannāmo bhikkhu bhikkhunovādako sammato, taṃ bhikkhunisaṅgho upasaṅkamatū’’ti.
Do đó, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni cần phải thỉnh cầu và cử hai hoặc ba Tỳ-khưu-ni đi (với lời dặn): “Này quý ni sư, hãy đến xin Tăng chúng Tỳ-khưu cho phép đến gần để nhận sự giáo giới; (nói rằng): Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, thưa quý ngài… (v.v.)… xin đến gần để nhận sự giáo giới” (cūḷava. 413). Các Tỳ-khưu-ni đó cần phải đi đến tu viện (của Tỳ-khưu). Sau đó, (các Tỳ-khưu-ni) cần đến gần một Tỳ-khưu nhận lời giáo giới, đảnh lễ, rồi một Tỳ-khưu-ni cần phải thưa với Tỳ-khưu đó như sau: “Thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân Tăng chúng Tỳ-khưu, và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni được phép đến gần để nhận sự giáo giới”. Tỳ-khưu đó cần đến gần vị Tỳ-khưu tụng Pātimokkha rồi thưa như sau: “Bạch Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân Tăng chúng Tỳ-khưu, và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, bạch Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni được phép đến gần để nhận sự giáo giới”. Vị Tỳ-khưu tụng Pātimokkha cần phải hỏi: “Có Tỳ-khưu nào được chấp thuận làm người giáo giới Tỳ-khưu-ni không?”. Nếu có Tỳ-khưu nào được chấp thuận làm người giáo giới Tỳ-khưu-ni, vị Tỳ-khưu tụng Pātimokkha cần phải nói: “Tỳ-khưu tên là X được chấp thuận làm người giáo giới Tỳ-khưu-ni, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni hãy đến gần vị ấy”.

Sace na hoti koci bhikkhu bhikkhunovādako sammato, pātimokkhuddesakena vattabbo – ‘‘ko āyasmā ussahati bhikkhuniyo ovaditu’’nti. Sace koci bhikkhu ussahati bhikkhuniyo ovadituṃ, so ca hoti aṭṭhahaṅgehi samannāgato, sammannitvā vattabbo – ‘‘itthannāmo bhikkhu bhikkhunovādako sammato, taṃ bhikkhunisaṅgho upasaṅkamatū’’ti.
Nếu không có Tỳ-khưu nào được chấp thuận làm người giáo giới Tỳ-khưu-ni, vị Tỳ-khưu tụng Pātimokkha cần phải hỏi: “Có Tôn giả nào cố gắng giáo giới các Tỳ-khưu-ni không?”. Nếu có Tỳ-khưu nào cố gắng giáo giới các Tỳ-khưu-ni, và vị ấy hội đủ tám yếu tố, sau khi (Tăng chúng) chấp thuận, cần phải nói: “Tỳ-khưu tên là X được chấp thuận làm người giáo giới Tỳ-khưu-ni, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni hãy đến gần vị ấy”.

Sace pana koci na ussahati bhikkhuniyo ovadituṃ, pātimokkhuddesakena vattabbo – ‘‘natthi koci bhikkhu bhikkhunovādako sammato, pāsādikena bhikkhunisaṅgho sampādetū’’ti. Ettāvatā hi sakalaṃ sikkhattayasaṅgahaṃ sāsanamārocitaṃ hoti. Tena bhikkhunā ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā pāṭipade bhikkhunīnaṃ ārocetabbaṃ. Bhikkhunisaṅghenapi tā bhikkhuniyo pesetabbā ‘‘gacchathayye, pucchatha ‘kiṃ ayya labhati bhikkhunisaṅgho ovādūpasaṅkamana’’’nti. Tāhi ‘‘sādhu ayye’’ti sampaṭicchitvā ārāmaṃ gantvā taṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā evaṃ vattabbaṃ – ‘‘kiṃ ayya labhati bhikkhunisaṅgho ovādūpasaṅkamana’’nti. Tena vattabbaṃ – ‘‘natthi koci bhikkhu bhikkhunovādako sammato, pāsādikena bhikkhunisaṅgho sampādetū’’ti. Tāhi ‘‘sādhu ayyā’’ti sampaṭicchitabbaṃ. Ekato āgatānaṃ vasena cetaṃ vuttaṃ, tāsu pana ekāya bhikkhuniyā vattabbañca sampaṭicchitabbañca, itarā tassā sahāyikā.
Nhưng nếu không có ai cố gắng giáo giới các Tỳ-khưu-ni, vị Tỳ-khưu tụng Pātimokkha cần phải nói: “Không có Tỳ-khưu nào được chấp thuận làm người giáo giới Tỳ-khưu-ni, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni hãy tự mình thực hành một cách tốt đẹp”. Với chừng đó, toàn bộ giáo huấn bao gồm ba học (Giới, Định, Tuệ) đã được thông báo. Tỳ-khưu-ni đó (được cử đi) cần phải chấp nhận “Lành thay” rồi vào ngày đầu tiên (sau Bố-tát) thông báo lại cho các Tỳ-khưu-ni (khác). Tăng chúng Tỳ-khưu-ni cũng cần phải cử các Tỳ-khưu-ni đó đi (với lời dặn): “Này quý ni sư, hãy đi hỏi: ‘Thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni có được phép đến gần để nhận sự giáo giới không?'”. Các vị ấy cần phải chấp nhận “Lành thay, thưa quý ni sư”, rồi đi đến tu viện (của Tỳ-khưu), đến gần Tỳ-khưu đó và thưa như sau: “Thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni có được phép đến gần để nhận sự giáo giới không?”. Vị ấy (Tỳ-khưu tụng Pātimokkha, hoặc Tỳ-khưu được hỏi) cần phải nói: “Không có Tỳ-khưu nào được chấp thuận làm người giáo giới Tỳ-khưu-ni, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni hãy tự mình thực hành một cách tốt đẹp”. Các vị ấy (Tỳ-khưu-ni) cần phải chấp nhận “Lành thay, thưa Đại đức”. Điều này được nói dựa trên trường hợp (các Tỳ-khưu-ni) cùng nhau đến; nhưng trong số đó, một Tỳ-khưu-ni cần phải nói và chấp nhận, những vị khác là bạn đồng hành của vị ấy.

Sace pana bhikkhunisaṅgho vā bhikkhusaṅgho vā na pūrati, ubhayatopi vā gaṇamattameva puggalamattaṃ vā hoti, ekā bhikkhunī vā bahūhi bhikkhunupassayehi ovādatthāya pesitā hoti, tatrāyaṃ vacanakkamo – ‘‘bhikkhuniyo ayya bhikkhusaṅghassa pāde vandanti, ovādūpasaṅkamanañca yācanti, labhantu kira ayya bhikkhuniyo ovādūpasaṅkamana’’nti. ‘‘Ahaṃ ayya bhikkhusaṅghassa pāde vandāmi; ovādūpasaṅkamanañca yācāmi, labhāmahaṃ ayya ovādūpasaṅkamana’’nti.
Nhưng nếu Tăng chúng Tỳ-khưu-ni hoặc Tăng chúng Tỳ-khưu không đủ số lượng, hoặc cả hai bên chỉ là một nhóm hay một cá nhân, hoặc một Tỳ-khưu-ni được cử đi từ nhiều trú xứ Tỳ-khưu-ni để xin giáo giới, thì đây là thứ tự lời nói: “Thưa Đại đức, các Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân Tăng chúng Tỳ-khưu, và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, thưa Đại đức, các Tỳ-khưu-ni được phép đến gần để nhận sự giáo giới.” “Thưa Đại đức, con xin đảnh lễ chân Tăng chúng Tỳ-khưu; và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, thưa Đại đức, con được phép đến gần để nhận sự giáo giới.”

‘‘Bhikkhunisaṅgho ayya ayyānaṃ pāde vandati, ovādūpasaṅkamanañca yācati, labhatu kira ayya bhikkhunīsaṅgho ovādūpasaṅkamana’’nti. ‘‘Bhikkhuniyo ayya ayyānaṃ pāde vandanti, ovādūpasaṅkamanañca yācanti, labhantu kira ayya bhikkhuniyo ovādūpasaṅkamana’’nti. ‘‘Ahaṃ ayya ayyānaṃ pāde vandāmi, ovādūpasaṅkamanañca yācāmi, labhāmahaṃ ayya ovādūpasaṅkamana’’nti.
“Thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân quý ngài (nhiều Tỳ-khưu), và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni được phép đến gần để nhận sự giáo giới.” “Thưa Đại đức, các Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân quý ngài, và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, thưa Đại đức, các Tỳ-khưu-ni được phép đến gần để nhận sự giáo giới.” “Thưa Đại đức, con xin đảnh lễ chân quý ngài, và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, thưa Đại đức, con được phép đến gần để nhận sự giáo giới.”

‘‘Bhikkhunisaṅgho ayya ayyassa pāde vandati, ovādūpasaṅkamanañca yācati, labhatu kira ayya bhikkhunisaṅgho ovādūpasaṅkamana’’nti. ‘‘Bhikkhuniyo ayya ayyassa pāde vandanti ; ovādūpasaṅkamanañca yācanti, labhantu kira ayya bhikkhuniyo ovādūpasaṅkamana’’nti. ‘‘Ahaṃ ayya ayyassa pāde vandāmi, ovādūpasaṅkamanañca yācāmi, labhāmahaṃ ayya ovādūpasaṅkamana’’nti.
“Thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân ngài (một Tỳ-khưu), và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni được phép đến gần để nhận sự giáo giới.” “Thưa Đại đức, các Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân ngài; và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, thưa Đại đức, các Tỳ-khưu-ni được phép đến gần để nhận sự giáo giới.” “Thưa Đại đức, con xin đảnh lễ chân ngài, và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, thưa Đại đức, con được phép đến gần để nhận sự giáo giới.”

‘‘Bhikkhunisaṅgho ca ayya bhikkhuniyo ca bhikkhunī ca bhikkhusaṅghassa ayyānaṃ ayyassa pāde vandati vandanti vandati, ovādūpasaṅkamanañca yācati yācanti yācati, labhatu kira labhantu kira labhatu kira ayya bhikkhunisaṅgho ca bhikkhuniyo ca bhikkhunī ca ovādūpasaṅkamana’’nti.
“Thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, và các Tỳ-khưu-ni, và (một) Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân Tăng chúng Tỳ-khưu, (hoặc) quý ngài, (hoặc) ngài, và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, và các Tỳ-khưu-ni, và (một) Tỳ-khưu-ni được phép đến gần để nhận sự giáo giới.”

Tenapi bhikkhunā uposathakāle evaṃ vattabbaṃ – ‘‘bhikkhuniyo bhante bhikkhusaṅghassa pāde vandanti, ovādūpasaṅkamanañca yācanti, labhantu kira bhante bhikkhuniyo ovādūpasaṅkamana’’nti. ‘‘Bhikkhunī bhante bhikkhusaṅghassa pāde vandati, ovādūpasaṅkamanañca yācati, labhatu kira bhante bhikkhunī ovādūpasaṅkamana’’nti.
Tỳ-khưu đó cũng cần phải thưa vào lúc Bố-tát như sau: “Bạch Đại đức, các Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân Tăng chúng Tỳ-khưu, và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, bạch Đại đức, các Tỳ-khưu-ni được phép đến gần để nhận sự giáo giới.” “Bạch Đại đức, (một) Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân Tăng chúng Tỳ-khưu, và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, bạch Đại đức, Tỳ-khưu-ni (ấy) được phép đến gần để nhận sự giáo giới.”

‘‘Bhikkhunisaṅgho bhante, bhikkhuniyo bhante, bhikkhunī bhante āyasmantānaṃ pāde vandati, ovādūpasaṅkamanañca yācati, labhatu kira bhante bhikkhunī ovādūpasaṅkamana’’nti.
“Bạch Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, (hoặc) các Tỳ-khưu-ni, (hoặc một) Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân quý Tôn giả, và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, bạch Đại đức, Tỳ-khưu-ni (ấy) được phép đến gần để nhận sự giáo giới.”

‘‘Bhikkhunisaṅgho ca bhante, bhikkhuniyo ca bhikkhunī ca bhikkhusaṅghassa āyasmantānaṃ pāde vandati vandanti vandati, ovādūpasaṅkamanañca yācati yācanti yācati, labhatu kira labhantu kira labhatu kira bhante bhikkhunisaṅgho ca bhikkhuniyo ca bhikkhunī ca ovādūpasaṅkamana’’nti.
“Bạch Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, và các Tỳ-khưu-ni, và (một) Tỳ-khưu-ni xin đảnh lễ chân Tăng chúng Tỳ-khưu (và) quý Tôn giả, và xin được đến gần để nhận sự giáo giới; mong sao, bạch Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, và các Tỳ-khưu-ni, và (một) Tỳ-khưu-ni được phép đến gần để nhận sự giáo giới.”

Pātimokkhuddesakenāpi sace sammato bhikkhu atthi, purimanayeneva taṃ bhikkhuniyo, taṃ bhikkhunī, taṃ bhikkhunisaṅgho ca bhikkhuniyo ca bhikkhunī ca upasaṅkamantu upasaṅkamatu upasaṅkamatūti vattabbaṃ. Sace natthi, pāsādikena bhikkhunisaṅgho ca bhikkhuniyo ca bhikkhunī ca sampādetu sampādentu sampādetūti vattabbaṃ.
Vị Tỳ-khưu tụng Pātimokkha cũng vậy, nếu có Tỳ-khưu được chấp thuận, cần phải nói theo phương pháp đã trình bày trước rằng: “Các Tỳ-khưu-ni ấy, Tỳ-khưu-ni ấy, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni và các Tỳ-khưu-ni và Tỳ-khưu-ni ấy hãy đến gần vị đó”. Nếu không có, cần phải nói: “Tăng chúng Tỳ-khưu-ni và các Tỳ-khưu-ni và Tỳ-khưu-ni ấy hãy tự mình thực hành một cách tốt đẹp”.

Ovādapaṭiggāhakena pāṭipade paccāharitvā tatheva vattabbaṃ. Ovādaṃ pana bālagilānagamike ṭhapetvā añño sacepi āraññako hoti, appaṭiggahetuṃ na labhati. Vuttañhetaṃ bhagavatā –
Vị Tỳ-khưu nhận lời giáo giới, vào ngày đầu tiên (sau Bố-tát) cần phải báo lại (cho các Tỳ-khưu-ni) đúng như vậy. Còn việc giáo giới, ngoại trừ người ngu dốt, người bệnh, người bộ hành, Tỳ-khưu khác dù là vị ở rừng cũng không được từ chối. Đức Thế Tôn đã dạy điều này:

‘‘Anujānāmi , bhikkhave, ṭhapetvā bālaṃ ṭhapetvā gilānaṃ ṭhapetvā gamikaṃ avasesehi ovādaṃ gahetu’’nti (cūḷava. 414).
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép (các Tỳ-khưu-ni) nhận sự giáo giới từ các vị (Tỳ-khưu) còn lại, ngoại trừ người ngu dốt, ngoại trừ người bệnh, ngoại trừ người bộ hành.” (cūḷava. 414).

Tattha yo cātuddasikapannarasikesu vā uposathesu pāṭipade vā gantukāmo, so gamiko dutiyapakkhadivase gacchantopi aggahetuṃ na labhati, ‘‘na, bhikkhave, ovādo na gahetabbo, yo na gaṇheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 414) vuttaṃ āpattiṃ āpajjatiyeva. Ovādaṃ gahetvā ca uposathagge anārocetuṃ vā pāṭipade bhikkhunīnaṃ apaccāharituṃ vā na vaṭṭati. Vuttañhetaṃ –
Ở đó, Tỳ-khưu nào muốn đi (vào những ngày Bố-tát) mười bốn hoặc mười lăm, hoặc vào ngày đầu tiên (sau Bố-tát), vị ấy là người bộ hành, dù đi vào ngày thứ hai của nửa tháng cũng không được phép không nhận (lời giáo giới cho Tỳ-khưu-ni, nếu được yêu cầu); vị ấy chắc chắn phạm tội đã được nói đến: “Này các Tỳ-khưu, không được không nhận lời giáo giới; ai không nhận, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 414). Và sau khi nhận lời giáo giới, không được phép không thông báo lại trong buổi họp Bố-tát, hoặc không báo lại cho các Tỳ-khưu-ni vào ngày đầu tiên (sau Bố-tát). Điều này đã được nói: –

‘‘Na, bhikkhave, ovādo na ārocetabbo. Yo na āroceyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 415).
“Này các Tỳ-khưu, không được không thông báo lời giáo giới. Ai không thông báo, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 415).

Aparampi vuttaṃ –
Lại cũng được nói: –

‘‘Na, bhikkhave, ovādo na paccāharitabbo. Yo na paccāhareyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 415).
“Này các Tỳ-khưu, không được không báo lại lời giáo giới. Ai không báo lại, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 415).

Tattha āraññakena paccāharaṇatthaṃ saṅketo kātabbo. Vuttañhetaṃ – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, āraññakena bhikkhunā ovādaṃ gahetuṃ, saṅketañca kātuṃ, atra paṭiharissāmī’’ti. Tasmā āraññako bhikkhu sace bhikkhunīnaṃ vasanagāme bhikkhaṃ labhati, tattheva caritvā bhikkhuniyo disvā ārocetvā gantabbaṃ. No cassa tattha bhikkhā sulabhā hoti, sāmantagāme caritvā bhikkhunīnaṃ gāmaṃ āgamma tatheva kātabbaṃ. Sace dūraṃ gantabbaṃ hoti, saṅketo kātabbo – ‘‘ahaṃ amukaṃ nāma tumhākaṃ gāmadvāre sabhaṃ vā maṇḍapaṃ vā rukkhamūlaṃ vā upasaṅkamissāmi, tattha āgaccheyyāthā’’ti . Bhikkhunīhi tattha gantabbaṃ, agantuṃ na labbhati. Vuttañhetaṃ – ‘‘na, bhikkhave, bhikkhuniyā saṅketaṃ na gantabbaṃ. Yā na gaccheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 415).
Ở đó, Tỳ-khưu ở rừng cần phải hẹn một nơi để báo lại. Điều này đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép Tỳ-khưu ở rừng nhận lời giáo giới, và hẹn một nơi rằng: ‘Tôi sẽ báo lại ở đây'”. Do đó, Tỳ-khưu ở rừng nếu nhận được vật thực ở làng nơi các Tỳ-khưu-ni ở, cần phải đi khất thực chính tại đó, gặp các Tỳ-khưu-ni, thông báo rồi mới đi. Nếu vị ấy không dễ dàng nhận được vật thực ở đó, cần phải đi khất thực ở làng lân cận, rồi đến làng của các Tỳ-khưu-ni và làm như vậy. Nếu phải đi xa, cần phải hẹn: “Tôi sẽ đến nhà hội, hoặc nhà tạm, hoặc gốc cây nào đó ở đầu làng của quý vị, quý vị hãy đến đó”. Các Tỳ-khưu-ni cần phải đến đó, không được phép không đến. Điều này đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni không được không đến nơi đã hẹn. Vị nào không đến, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 415).

Ubhatosaṅghe tīhi ṭhānehi pavāretabbanti ettha bhikkhunīhi cātuddase attanā pavāretvā uposathe bhikkhusaṅghe pavāretabbaṃ. Vuttañhetaṃ –
Ở đây, trong câu “Cần phải Tự tứ với cả hai Tăng chúng qua ba trường hợp“, các Tỳ-khưu-ni vào ngày mười bốn cần phải tự mình làm lễ Tự tứ, rồi vào ngày Bố-tát (của Tỳ-khưu) cần phải Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu. Điều này đã được nói: –

‘‘Anujānāmi , bhikkhave, ajjatanāya pavāretvā aparajju bhikkhusaṅghaṃ pavāretu’’nti (cūḷava. 427).
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép (Tỳ-khưu-ni) sau khi Tự tứ hôm nay, ngày mai Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu” (cūḷava. 427).

Bhikkhunikhandhake vuttanayeneva cettha vinicchayo veditabbo. Vuttañhetaṃ –
Ở đây, sự quyết định cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong Thiên Tỳ-khưu-ni (Bhikkhunikhandhaka). Điều này đã được nói: –

‘‘Tena kho pana samayena sabbo bhikkhunisaṅgho pavārento kolāhalamakāsi. Bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ. Anujānāmi, bhikkhave, ekaṃ bhikkhuniṃ byattaṃ paṭibalaṃ sammannituṃ bhikkhunisaṅghassa atthāya bhikkhusaṅghaṃ pavāretuṃ. Evañca pana, bhikkhave, sammannitabbā. Paṭhamaṃ bhikkhunī yācitabbā, yācitvā byattāya bhikkhuniyā paṭibalāya saṅgho ñāpetabbo –
“Vào lúc bấy giờ, toàn thể Tăng chúng Tỳ-khưu-ni khi làm lễ Tự tứ đã gây ồn ào. Họ đã trình bày việc này lên Đức Thế Tôn. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép chấp thuận một Tỳ-khưu-ni có khả năng, có năng lực, để thay mặt Tăng chúng Tỳ-khưu-ni làm lễ Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu. Và này các Tỳ-khưu, cần phải chấp thuận như sau: Trước tiên, cần phải thỉnh cầu Tỳ-khưu-ni (đó); sau khi thỉnh cầu, Tăng chúng (Tỳ-khưu-ni) cần được thông báo bởi Tỳ-khưu-ni có khả năng, có năng lực (để thực hiện Yết-ma):

‘‘Suṇātu me, ayye saṅgho, yadi saṅghassa pattakallaṃ, saṅgho itthannāmaṃ bhikkhuniṃ sammanneyya bhikkhunisaṅghassa atthāya bhikkhusaṅghaṃ pavāretuṃ. Esā ñatti.
“Kính bạch Ni chúng, xin Ni chúng lắng nghe. Nếu thời điểm thích hợp đã đến với Ni chúng, Ni chúng hãy chấp thuận Tỳ-khưu-ni tên là X thay mặt Tăng chúng Tỳ-khưu-ni làm lễ Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu. Đây là lời tác bạch.

‘‘Suṇātu me, ayye saṅgho, saṅgho itthannāmaṃ bhikkhuniṃ sammanneyya bhikkhunisaṅghassa atthāya bhikkhusaṅghaṃ pavāretuṃ. Yassā ayyāya khamati itthannāmāya bhikkhuniyā sammuti bhikkhunisaṅghassa atthāya bhikkhusaṅghaṃ pavāretuṃ, sā tuṇhassa; yassā nakkhamati, sā bhāseyya.
“Kính bạch Ni chúng, xin Ni chúng lắng nghe. Ni chúng chấp thuận Tỳ-khưu-ni tên là X thay mặt Tăng chúng Tỳ-khưu-ni làm lễ Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu. Vị ni sư nào chấp thuận sự chấp thuận Tỳ-khưu-ni tên là X thay mặt Tăng chúng Tỳ-khưu-ni làm lễ Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu, xin hãy im lặng; vị nào không chấp thuận, xin hãy nói.

‘‘Sammatā saṅghena itthannāmā bhikkhunī bhikkhunisaṅghassa atthāya bhikkhusaṅghaṃ pavāretuṃ. Khamati saṅghassa, tasmā tuṇhī, evametaṃ dhārayāmī’’ti (cūḷava. 427).
“Tỳ-khưu-ni tên là X đã được Tăng chúng chấp thuận thay mặt Tăng chúng Tỳ-khưu-ni làm lễ Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu. (Điều này) hợp với Tăng chúng, do đó (Tăng chúng) im lặng. Tôi xin ghi nhận điều này như vậy.” (cūḷava. 427).

Tāya sammatāya bhikkhuniyā bhikkhunisaṅghaṃ ādāya bhikkhusaṅghaṃ upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo – ‘‘bhikkhunisaṅgho ayya, bhikkhusaṅghaṃ pavāreti – diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā. Vadatayya bhikkhusaṅgho bhikkhunisaṅghaṃ anukampaṃ upādāya, passanto paṭikarissati. Dutiyampi ayya, tatiyampi ayya, bhikkhunisaṅgho…pe… paṭikarissatī’’ti.
Tỳ-khưu-ni đã được chấp thuận đó, dẫn theo Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, đến gần Tăng chúng Tỳ-khưu, vắt thượng y qua một bên vai, chắp tay, rồi cần phải thưa như sau: “Thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu – qua điều đã thấy, hoặc đã nghe, hoặc đã nghi. Xin Tăng chúng Tỳ-khưu vì lòng thương xót mà chỉ dạy Tăng chúng Tỳ-khưu-ni; khi thấy (lỗi), (Tăng chúng Tỳ-khưu-ni) sẽ sám hối. Lần thứ hai cũng vậy, thưa Đại đức, lần thứ ba cũng vậy, thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni… (v.v.)… sẽ sám hối.”

Sace bhikkhunisaṅgho na pūrati, ‘‘bhikkhuniyo ayya bhikkhusaṅghaṃ pavārenti – diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadatayya bhikkhusaṅgho bhikkhuniyo anukampaṃ upādāya, passantiyo paṭikarissantī’’ti ca, ‘‘ahaṃ ayya bhikkhusaṅghaṃ pavāremi – diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadatu maṃ ayya bhikkhusaṅgho anukampaṃ upādāya, passantī paṭikarissāmī’’ti ca evaṃ tikkhattuṃ vattabbaṃ.
Nếu Tăng chúng Tỳ-khưu-ni không đủ số lượng, (thì nói) “Thưa Đại đức, các Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu – qua điều đã thấy, hoặc đã nghe, hoặc đã nghi; xin Tăng chúng Tỳ-khưu vì lòng thương xót mà chỉ dạy các Tỳ-khưu-ni; khi thấy (lỗi), (các Tỳ-khưu-ni) sẽ sám hối”, và (nếu là một Tỳ-khưu-ni) “Thưa Đại đức, con xin Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu – qua điều đã thấy, hoặc đã nghe, hoặc đã nghi; xin Tăng chúng Tỳ-khưu vì lòng thương xót mà chỉ dạy con; khi thấy (lỗi), con sẽ sám hối” – cần phải nói như vậy ba lần.

Sace bhikkhusaṅgho na pūrati, ‘‘bhikkhunisaṅgho ayyā ayye pavāreti – diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadantayyā bhikkhunisaṅghaṃ anukampaṃ upādāya, passanto paṭikarissatī’’ti ca, ‘‘bhikkhunisaṅgho ayya ayyaṃ pavāreti – diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadatayyo bhikkhunisaṅghaṃ anukampaṃ upādāya, passanto paṭikarissatī’’ti ca evaṃ tikkhattuṃ vattabbaṃ.
Nếu Tăng chúng Tỳ-khưu không đủ số lượng, (thì Tăng chúng Tỳ-khưu-ni nói với một nhóm Tỳ-khưu) “Thưa quý ngài, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với quý ngài – qua điều đã thấy, hoặc đã nghe, hoặc đã nghi; xin quý ngài vì lòng thương xót mà chỉ dạy Tăng chúng Tỳ-khưu-ni; khi thấy (lỗi), (Tăng chúng Tỳ-khưu-ni) sẽ sám hối”, và (Tăng chúng Tỳ-khưu-ni nói với một Tỳ-khưu) “Thưa Đại đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với ngài – qua điều đã thấy, hoặc đã nghe, hoặc đã nghi; xin ngài vì lòng thương xót mà chỉ dạy Tăng chúng Tỳ-khưu-ni; khi thấy (lỗi), (Tăng chúng Tỳ-khưu-ni) sẽ sám hối” – cần phải nói như vậy ba lần.

Ubhinnaṃ apāripūriyā ‘‘bhikkhuniyo ayyā ayye pavārenti – diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadantayyā bhikkhuniyo anukampaṃ upādāya, passantiyo paṭikarissantī’’ti ca, ‘‘bhikkhuniyo ayya ayyaṃ pavārenti – diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadatayyo bhikkhuniyo anukampaṃ upādāya, passantiyo paṭikarissantī’’ti ca, ‘‘ahaṃ ayyā ayye pavāremi – diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadantu maṃ ayyā anukampaṃ upādāya, passantī paṭikarissāmī’’ti ca, ‘‘ahaṃ ayya ayyaṃ pavāremi – diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadatu maṃ ayyo anukampaṃ upādāya, passantī paṭikarissāmī’’ti ca evaṃ tikkhattuṃ vattabbaṃ.
Khi cả hai Tăng chúng (Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni) đều không đủ số lượng, (cần phải nói ba lần như sau): (1) “Thưa quý ngài, các Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với quý ngài – qua điều đã thấy, hoặc đã nghe, hoặc đã nghi; xin quý ngài vì lòng thương xót mà chỉ dạy các Tỳ-khưu-ni; khi thấy (lỗi), (các Tỳ-khưu-ni) sẽ sám hối”; (2) và “Thưa Đại đức, các Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với ngài – qua điều đã thấy, hoặc đã nghe, hoặc đã nghi; xin ngài vì lòng thương xót mà chỉ dạy các Tỳ-khưu-ni; khi thấy (lỗi), (các Tỳ-khưu-ni) sẽ sám hối”; (3) và (nếu một Tỳ-khưu-ni) “Thưa quý ngài, con xin Tự tứ với quý ngài – qua điều đã thấy, hoặc đã nghe, hoặc đã nghi; xin quý ngài vì lòng thương xót mà chỉ dạy con; khi thấy (lỗi), con sẽ sám hối”; (4) và “Thưa Đại đức, con xin Tự tứ với ngài – qua điều đã thấy, hoặc đã nghe, hoặc đã nghi; xin ngài vì lòng thương xót mà chỉ dạy con; khi thấy (lỗi), con sẽ sám hối”.

Mānattacaraṇañca upasampadāpariyesanā ca yathāṭhāneyeva āvi bhavissati.
Việc thực hành mānatta và việc tìm cầu sự thọ cụ túc giới sẽ được làm rõ ở những chỗ thích hợp.

Nabhikkhuniyā kenaci pariyāyenāti dasahi vā akkosavatthūhi aññena vā kenaci pariyāyena bhikkhu neva akkositabbo, na paribhāsitabbo, na bhayena tajjetabbo. Ovaṭoti pihito vārito paṭikkhitto. Vacanayeva vacanapatho. Anovaṭoti apihito avārito appaṭikkhitto. Tasmā bhikkhuniyā ādhipaccaṭṭhāne jeṭṭhakaṭṭhāne ṭhatvā ‘‘evaṃ abhikkama, evaṃ paṭikkama, evaṃ nivāsehi, evaṃ pārupāhī’’ti kenaci pariyāyena neva bhikkhu ovaditabbo, na anusāsitabbo. Dosaṃ pana disvā ‘‘pubbe mahātherā na evaṃ abhikkamanti, na paṭikkamanti, na nivāsenti, na pārupanti, īdisaṃ kāsāvampi na dhārenti, na evaṃ akkhīni añjentī’’tiādinā nayena vijjamānadosaṃ dassetuṃ vaṭṭati. Bhikkhūhi pana ‘‘ayaṃ vuḍḍhasamaṇī evaṃ nivāseti, evaṃ pārupati, mā evaṃ nivāsehi, mā evaṃ pārupāhi, mā tilakammapaṇṇakammādīni karohī’’ti yathāsukhaṃ bhikkhuniṃ ovadituṃ anusāsituṃ vaṭṭati.
Tỳ-khưu-ni không được (làm phiền Tỳ-khưu) bằng bất kỳ cách nào” có nghĩa là Tỳ-khưu không được bị mắng nhiếc, không được bị phỉ báng, không được bị hăm dọa bằng mười điều mắng nhiếc hoặc bằng bất kỳ cách nào khác bởi Tỳ-khưu-ni. “Bị che đậy/ngăn cản” là bị đóng lại, bị ngăn lại, bị từ chối. “Con đường lời nói” chính là lời nói. “Không bị che đậy/ngăn cản” là không bị đóng lại, không bị ngăn lại, không bị từ chối. Do đó, Tỳ-khưu-ni, dù đứng ở vị trí chủ quyền hay vị trí bậc trưởng thượng, cũng không được giáo giới Tỳ-khưu, không được khuyên dạy Tỳ-khưu bằng bất kỳ cách nào như: “Hãy đi tới như thế này, hãy đi lui như thế này, hãy mặc y như thế này, hãy đắp y như thế này”. Nhưng khi thấy lỗi, được phép chỉ ra lỗi có thật theo cách: “Trước đây các vị Đại Trưởng lão không đi tới như vậy, không đi lui như vậy, không mặc y như vậy, không đắp y như vậy, cũng không mặc loại y kāsuāya như thế này, không trang điểm mắt như thế này” v.v… Còn các Tỳ-khưu thì được phép giáo giới, khuyên dạy Tỳ-khưu-ni tùy ý như: “Vị sa-môn-ni lớn tuổi này mặc y như thế này, đắp y như thế này; đừng mặc y như vậy, đừng đắp y như vậy, đừng làm các việc trang điểm như chấm nốt ruồi, vẽ lá cây v.v…”.

Samaggamhayyāti bhaṇantanti ‘‘samaggā amha ayya’’ iti bhaṇantaṃ bhikkhunisaṅghaṃ. Aññaṃ dhammaṃ bhaṇatīti aññaṃ suttantaṃ vā abhidhammaṃ vā. Samaggamhayyāti vacanena hi ovādaṃ paccāsīsanti, tasmā ṭhapetvā ovādaṃ aññaṃ dhammaṃ bhaṇantassa dukkaṭaṃ. Ovādaṃ aniyyādetvāti eso bhaginiyo ovādoti avatvā.
Khi Tăng chúng Tỳ-khưu-ni nói ‘Thưa Đại đức, chúng con đã hòa hợp’” là Tăng chúng Tỳ-khưu-ni đang nói “Thưa Đại đức, chúng con hòa hợp”. “Nói pháp khác” là nói Kinh tạng khác hoặc Vi Diệu Pháp khác. Vì bằng lời nói “Chúng con đã hòa hợp”, họ mong đợi sự giáo giới, do đó người nói pháp khác ngoài sự giáo giới thì phạm tội Tác Ác. “Không giao phó sự giáo giới” là không nói rằng “Này các chị em, đây là lời giáo giới”.

150.Adhammakammetiādīsu bhikkhunovādakasammutikammaṃ kammanti veditabbaṃ. Tattha adhammakamme dvinnaṃ navakānaṃ vasena aṭṭhārasa pācittiyāni. Dhammakamme dutiyassa navakassa avasānapade anāpatti, sesesu sattarasa dukkaṭāni.
150.Trong những câu như “Đối với hành động không hợp pháp” v.v…, cần hiểu Yết-ma chấp thuận người giáo giới Tỳ-khưu-ni là “hành động”. Ở đó, đối với hành động không hợp pháp, dựa theo hai nhóm chín trường hợp, có mười tám tội Ưng Đối Trị. Đối với hành động hợp pháp, ở trường hợp cuối cùng của nhóm chín thứ hai thì không phạm tội, trong mười bảy trường hợp còn lại thì phạm tội Tác Ác.

152.Uddesaṃ dentoti aṭṭhannaṃ garudhammānaṃ pāḷiṃ uddisanto. Paripucchaṃ dentoti tassāyeva paguṇāya garudhammapāḷiyā aṭṭhakathaṃ kathentoti attho. Osārehi ayyāti vuccamāno osāretīti evaṃ vuccamāno aṭṭhagarudhammapāḷiṃ osāretīti attho. Evaṃ uddesaṃ dento, paripucchaṃ dento, yo ca osārehīti vuccamāno aṭṭha garudhamme bhaṇati, tassa pācittiyena anāpatti. Aññaṃ dhammaṃ bhaṇantassa dukkaṭena anāpatti. Pañhaṃ pucchati, pañhaṃ puṭṭho kathetīti bhikkhunī garudhammanissitaṃ vā khandhādinissitaṃ vā pañhaṃ pucchati, taṃ yo bhikkhu katheti, tassāpi anāpatti. Aññassatthāya bhaṇantanti catuparisatiṃ dhammaṃ desentaṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā bhikkhuniyo suṇanti, tatrāpi bhikkhussa anāpatti. Sikkhamānāya sāmaṇeriyāti etāsaṃ desentassāpi anāpatti. Sesaṃ uttānatthameva.
152.”Khi đang chỉ dạy (đề mục)” là đang chỉ dạy Pāḷi của tám Bát Kỉnh Pháp. “Khi đang giải đáp thắc mắc” có nghĩa là đang nói sớ giải của chính bản Pāḷi Bát Kỉnh Pháp đã thông suốt đó. “Khi được nói ‘Thưa Đại đức, xin hãy trình bày’, vị ấy trình bày” có nghĩa là khi được nói như vậy, vị ấy trình bày Pāḷi tám Bát Kỉnh Pháp – đó là ý nghĩa. Như vậy, người đang chỉ dạy (đề mục), đang giải đáp thắc mắc, và người nào khi được nói “Xin hãy trình bày” mà nói về tám Bát Kỉnh Pháp, vị ấy không phạm tội Ưng Đối Trị. Người nói pháp khác thì không phạm tội Tác Ác (trong trường hợp này). “Tỳ-khưu-ni hỏi câu hỏi, (Tỳ-khưu) được hỏi câu hỏi thì trả lời” có nghĩa là Tỳ-khưu-ni hỏi câu hỏi liên quan đến Bát Kỉnh Pháp hoặc liên quan đến các uẩn v.v…, Tỳ-khưu nào trả lời câu hỏi đó, vị ấy cũng không phạm tội. “Khi đang nói vì lợi ích của người khác” có nghĩa là các Tỳ-khưu-ni đến gần một Tỳ-khưu đang thuyết Pháp cho bốn chúng rồi lắng nghe, ở đó Tỳ-khưu cũng không phạm tội. “Đối với Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni” – người thuyết (Pháp) cho các vị này cũng không phạm tội. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Padasodhammasamuṭṭhānaṃ – vācato ca vācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ tivedananti.
Cách phát sinh (của tội trong học giới này, tương tự) học giới dạy Pháp từng câu là: phát sinh từ lời nói, và từ lời nói cùng với tâm; là hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Ovādasikkhāpadaṃ paṭhamaṃ.

Học giới về sự giáo giới, điều thứ nhất.

2. Atthaṅgatasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích học giới (giáo giới Tỳ-khưu-ni) sau khi mặt trời lặn

153. Dutiyasikkhāpade – pariyāyenāti vārena, paṭipāṭiyāti attho. Adhicetasoti adhicittavato , sabbacittānaṃ adhikena arahattaphalacittena samannāgatassāti attho. Appamajjatoti nappamajjato, appamādena kusalānaṃ dhammānaṃ sātaccakiriyāya samannāgatassāti vuttaṃ hoti. Muninoti ‘‘yo munāti ubho loke, muni tena pavuccatī’’ti (dha. pa. 269) evaṃ ubhayalokamunanena vā, monaṃ vuccati ñāṇaṃ, tena ñāṇena samannāgatattā vā khīṇāsavo muni nāma vuccati, tassa munino. Monapathesu sikkhatoti arahattañāṇasaṅkhātassa monassa pathesu sattatiṃsabodhipakkhiyadhammesu tīsu vā sikkhāsu sikkhato. Idañca pubbabhāgapaṭipadaṃ gahetvā vuttaṃ, tasmā evaṃ pubbabhāge sikkhato imāya sikkhāya munibhāvaṃ pattassa muninoti evamettha attho daṭṭhabbo. Sokā na bhavanti tādinoti tādisassa khīṇāsavamunino abbhantare iṭṭhaviyogādivatthukā sokā na santi. Atha vā tādinoti tādilakkhaṇasamannāgatassa evarūpassa munino sokā na bhavantīti ayamettha attho. Upasantassāti rāgādīnaṃ upasamena upasantassa. Sadā satīmatoti sativepullappattattā niccakālaṃ satiyā avirahitassa . Ākāse antalikkheti antalikkhasaṅkhāte ākāse, na kasiṇugghāṭime, na pana rūpaparicchede. Caṅkamatipi tiṭṭhatipīti tāsaṃ bhikkhunīnaṃ kathaṃ sutvā ‘‘imā bhikkhuniyo maṃ ‘ettakameva ayaṃ jānātī’ti avamaññanti, handa dāni etāsaṃ attano ānubhāvaṃ dassemī’’ti dhammabahumānaṃ uppādetvā abhiññāpādakaṃ catutthajjhānaṃ samāpajjitvā vuṭṭhāya evarūpaṃ iddhipāṭihāriyaṃ dassesi – ‘‘ākāse antalikkhe caṅkamatipi…pe… antaradhāyatipī’’ti. Tattha antaradhāyatipīti antaradhāyatipi adassanampi gacchatīti attho. Tañceva udānaṃ bhaṇati aññañca bahuṃ buddhavacananti thero kira attano bhātutherassa santike –
153. Trong học giới thứ hai (của phẩm này), “Theo phiên” là theo lượt, có nghĩa là theo thứ tự. “Của người có tâm cao thượng” là của người có tâm vượt trội, có nghĩa là của người hội đủ tâm quả A-la-hán, là tâm cao hơn tất cả các tâm. “Của người không dễ duôi” là của người không buông lung, được nói là của người hội đủ sự thực hành liên tục các thiện pháp với sự không dễ duôi. “Của bậc Mâu-ni” – hoặc do biết cả hai thế giới như câu “Người nào biết cả hai thế giới, do đó được gọi là bậc Mâu-ni” (dha. pa. 269), hoặc vì “mona” được gọi là trí tuệ, do hội đủ trí tuệ đó, bậc lậu tận được gọi là Mâu-ni – (đây là) của bậc Mâu-ni ấy. “Của người học tập trên các con đường Mâu-ni” là của người học tập trong ba học hoặc trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, là những con đường của sự tĩnh lặng (mona) được gọi là trí tuệ A-la-hán. Và điều này được nói dựa vào con đường thực hành ở giai đoạn đầu; do đó, ý nghĩa ở đây cần được hiểu là: của bậc Mâu-ni đã đạt đến trạng thái Mâu-ni nhờ sự học tập này, sau khi đã học tập ở giai đoạn đầu như vậy. “Đối với bậc Như Nhiên ấy, không có sầu muộn” – bên trong bậc Mâu-ni lậu tận như vậy, không có những sầu muộn do duyên như sự chia lìa người thân yêu v.v… Hoặc là, “bậc Như Nhiên” là bậc Mâu-ni như vậy, hội đủ đặc tính Như Nhiên, không có sầu muộn – đây là ý nghĩa ở đây. “Của người đã tịch tịnh” là của người đã tịch tịnh do sự lắng dịu của tham ái v.v… “Của người luôn chánh niệm” là của người không rời xa chánh niệm trong mọi lúc, do đã đạt đến sự sung mãn của chánh niệm. “Trong hư không, trong không trung” là trong hư không được gọi là không trung, không phải trong Kasina đã được mở ra, cũng không phải trong sự phân định về sắc. “Cũng kinh hành, cũng đứng lại” – sau khi nghe lời nói của các Tỳ-khưu-ni ấy, (vị Tỳ-khưu nghĩ rằng): “Các Tỳ-khưu-ni này coi thường ta rằng ‘Vị này chỉ biết chừng đó thôi’, thôi thì bây giờ ta sẽ cho họ thấy thần lực của mình”, rồi khởi lòng kính trọng Pháp sâu sắc, nhập vào thiền thứ tư làm nền tảng cho thắng trí, xuất thiền rồi đã thị hiện thần thông như vầy: “Cũng kinh hành trong hư không, trong không trung… (v.v.)… cũng biến mất”. Ở đó, “cũng biến mất” có nghĩa là cũng biến mất, cũng đi đến chỗ không nhìn thấy được. “Và nói lên lời cảm hứng đó cùng nhiều lời Phật dạy khác” – tương truyền, vị trưởng lão (ấy), trước mặt vị trưởng lão sư huynh của mình (đã nói):

‘‘Padumaṃ yathā kokanudaṃ sugandhaṃ,
Pāto siyā phullamavītagandhaṃ;
Aṅgīrasaṃ passa virocamānaṃ,
Tapantamādiccamivantalikkhe’’ti. (saṃ. ni. 1.123);
“Như hoa sen kokanuda thơm ngát, Buổi sáng nở ra, hương chẳng phai; Hãy xem bậc Aṅgīrasa (Đức Phật) chiếu sáng rực rỡ, Như mặt trời chói lọi giữa không trung.” (saṃ. ni. 1.123);

Imaṃ gāthaṃ uddisāpetvā cattāro māse sajjhāyi. Na ca paguṇaṃ kattumasakkhi. Tato naṃ thero ‘‘abhabbo tvaṃ imasmiṃ sāsane’’ti vihārā nikkaḍḍhāpesi, so rodamāno dvārakoṭṭhake aṭṭhāsi. Atha bhagavā buddhacakkhunā veneyyasatte olokento taṃ disvā vihāracārikaṃ caramāno viya tassa santikaṃ gantvā ‘‘cūḷapanthaka, kasmā rodasī’’ti āha. So tamatthaṃ ārocesi. Athassa bhagavā suddhaṃ pilotikakhaṇḍaṃ datvā ‘‘idaṃ ‘rajoharaṇaṃ rajoharaṇa’nti parimajjāhī’’ti āha. So ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā attano nivāsaṭṭhāne nisīditvā tassa ekamantaṃ parimajji, parimajjitaṭṭhānaṃ kāḷakamahosi. So ‘‘evaṃ parisuddhampi nāma vatthaṃ imaṃ attabhāvaṃ nissāya kāḷakaṃ jāta’’nti saṃvegaṃ paṭilabhitvā vipassanaṃ ārabhi. Athassa bhagavā āraddhavīriyabhāvaṃ ñatvā ‘‘adhicetaso’’ti imaṃ obhāsagāthaṃ abhāsi. Thero gāthāpariyosāne arahattaṃ pāpuṇi. Tasmā thero pakatiyāva imaṃ gāthaṃ mamāyati, so taṃ imissā gāthāya mamāyanabhāvaṃ jānāpetuṃ taṃyeva bhaṇati. Aññañca antarantarā āharitvā bahuṃ buddhavacanaṃ. Tena vuttaṃ – ‘‘tañceva udānaṃ bhaṇati, aññañca bahuṃ buddhavacana’’nti.
Sau khi được chỉ dạy bài kệ này, (Cūḷapanthaka) đã đọc tụng suốt bốn tháng. Nhưng vẫn không thể làm cho thuần thục được. Do đó, vị trưởng lão (sư huynh) đã đuổi vị ấy ra khỏi tu viện với lời nói: “Ngươi không có khả năng trong giáo pháp này”; vị ấy khóc lóc và đứng ở cổng thành. Khi ấy, Đức Thế Tôn, bằng Phật nhãn nhìn thấy chúng sanh đáng được độ, thấy vị ấy, rồi như thể đang đi kinh hành trong tu viện, Ngài đến gần và hỏi: “Cūḷapanthaka, tại sao con khóc?”. Vị ấy đã trình bày sự việc đó (lên Đức Thế Tôn). Rồi Đức Thế Tôn đưa cho vị ấy một miếng vải cũ sạch và nói: “Con hãy lau miếng vải này và niệm ‘lau sạch bụi, lau sạch bụi'”. Vị ấy chấp nhận “Lành thay”, rồi ngồi ở nơi ở của mình, lau một góc của miếng vải đó; chỗ được lau trở nên đen đủi. Vị ấy, sau khi có được sự nhàm chán (saṃvega) rằng: “Miếng vải vốn thanh tịnh như vậy mà do nương vào thân này lại trở nên đen đủi”, đã bắt đầu thực hành minh sát (vipassanā). Khi ấy, Đức Thế Tôn, biết được tình trạng tinh tấn đã khởi của vị ấy, đã nói bài kệ chiếu sáng này, (bắt đầu bằng) “Của người có tâm cao thượng”. Vị trưởng lão (Cūḷapanthaka) khi bài kệ kết thúc đã chứng đắc quả A-la-hán. Do đó, vị trưởng lão ấy thường hay yêu thích bài kệ này; vị ấy, để cho biết sự yêu thích của mình đối với bài kệ này, đã nói chính bài kệ đó. Và thỉnh thoảng lại dẫn ra nhiều lời Phật dạy khác. Vì vậy đã nói: “Và nói lên lời cảm hứng đó cùng nhiều lời Phật dạy khác”.

156.Ekato upasampannāyāti bhikkhunisaṅghe upasampannāya, bhikkhusaṅghe pana upasampannaṃ ovadantassa pācittiyaṃ. Sesamettha uttānameva. Idampi ca padasodhammasamuṭṭhānameva.
156. “Đối với người nữ đã thọ cụ túc giới một bên” (ám chỉ người nữ đã thọ giới trong Tăng chúng Tỳ-khưu-ni); còn đối với Tỳ-khưu nào giáo giới một vị (Tỳ-khưu-ni) đã thọ cụ túc giới (cũng) trong Tăng chúng Tỳ-khưu (tức là thọ giới hợp lệ hai bên), thì (vị Tỳ-khưu đó, nếu giáo giới sai quy cách như sau khi mặt trời lặn mà không được bổ nhiệm) phạm tội Ưng Đối Trị. Phần còn lại ở đây ý nghĩa đã rõ ràng. Và cách phát sinh tội này cũng giống như (của học giới) dạy Pháp từng câu.

Atthaṅgatasikkhāpadaṃ dutiyaṃ.

Học giới (giáo giới Tỳ-khưu-ni) sau khi mặt trời lặn, điều thứ hai.

3. Bhikkhunupassayasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích học giới về (việc đến) trú xứ Tỳ-khưu-ni

162. Tatiyasikkhāpade – aññatra samayā ovadati āpatti pācittiyassātiādīsu aṭṭhahi garudhammehi ovadantasseva pācittiyaṃ, aññena dhammena dukkaṭanti veditabbaṃ. Ekatoupasampannāyāti bhikkhunisaṅghe upasampannāya, bhikkhusaṅghe upasampannāya pana ovadato pācittiyameva. Ito parampi yattha yattha ‘‘ekatoupasampannā’’ti vuccati, sabbattha ayameva attho daṭṭhabbo. Sesaṃ uttānameva.
162. Trong học giới thứ ba (của phẩm này), trong những câu như “Ngoại trừ trường hợp (thích hợp), nếu giáo giới thì phạm tội Ưng Đối Trị” v.v…, cần hiểu rằng chỉ người giáo giới bằng tám Bát Kỉnh Pháp mới phạm tội Ưng Đối Trị, (giáo giới) bằng pháp khác thì (phạm tội) Tác Ác. “Đối với người nữ đã thọ cụ túc giới một bên” là người nữ đã thọ cụ túc giới (chỉ) trong Tăng chúng Tỳ-khưu-ni; còn đối với người giáo giới cho người nữ đã thọ cụ túc giới (cũng) trong Tăng chúng Tỳ-khưu (tức là thọ giới hợp lệ hai bên), thì (nếu giáo giới sai quy cách) vẫn phạm tội Ưng Đối Trị. Từ đây trở đi, ở bất cứ đâu nói “người nữ đã thọ cụ túc giới một bên”, ở khắp mọi nơi đều cần hiểu ý nghĩa này. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Kathinasamuṭṭhānaṃ – kāyavācato, kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Cách phát sinh (của tội này, được gọi là) Kaṭhinasamuṭṭhāna là: phát sinh từ thân và lời, và từ thân, lời cùng với tâm; là hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Bhikkhunupassayasikkhāpadaṃ tatiyaṃ.

Học giới về (việc đến) trú xứ Tỳ-khưu-ni, điều thứ ba.

Idaṃ panettha mahāpaccariyaṃ vuttaṃ pakiṇṇakaṃ – asammato ce bhikkhu atthaṅgate sūriye bhikkhunupassayaṃ upasaṅkamitvā aṭṭhahi garudhammehi ovadati, tīṇi pācittiyāni. Aññena dhammena ovadato dve dukkaṭāni, ekaṃ pācittiyaṃ. Kathaṃ? Asammatamūlakaṃ dukkaṭaṃ, upassayaṃ gantvā aññena dhammena ovadanamūlakaṃ dukkaṭaṃ, atthaṅgate sūriye ovadanamūlakaṃ pācittiyanti. Sammatassa atthaṅgate sūriye tattha gantvā aṭṭhahi garudhammehi ovadantassa ekā anāpatti, dve pācittiyāni. Kathaṃ? Sammatattā anāpatti, atthaṅgate sūriye ovadanamūlakaṃ ekaṃ, gantvā garudhammehi ovadanamūlakaṃ ekanti dve pācittiyāni. Tasseva aññena dhammena ovadato ekā anāpatti, ekaṃ dukkaṭaṃ, ekaṃ pācittiyaṃ. Kathaṃ? Sammatattā anāpatti, gantvā aññena dhammena ovadanamūlakaṃ dukkaṭaṃ, atthaṅgate sūriye ovadanamūlakaṃ pācittiyanti. Divā pana gantvā ovadato sammatassa ca asammatassa ca rattiṃ ovadanamūlakaṃ ekaṃ pācittiyaṃ apanetvā avasesā āpattānāpattiyo veditabbāti.
Còn đây là phần tạp thoại được nói trong Mahāpaccari: Nếu Tỳ-khưu chưa được chấp thuận (để giáo giới), sau khi mặt trời lặn, đến trú xứ Tỳ-khưu-ni rồi giáo giới bằng tám Bát Kỉnh Pháp, thì phạm ba tội Ưng Đối Trị. Nếu giáo giới bằng pháp khác, thì phạm hai tội Tác Ác, một tội Ưng Đối Trị. Như thế nào? (1) Tội Tác Ác do chưa được chấp thuận; (2) tội Tác Ác do đến trú xứ (Tỳ-khưu-ni) rồi giáo giới bằng pháp khác; (3) tội Ưng Đối Trị do giáo giới sau khi mặt trời lặn. Đối với Tỳ-khưu đã được chấp thuận, sau khi mặt trời lặn, đến đó rồi giáo giới bằng tám Bát Kỉnh Pháp, thì có một trường hợp không phạm tội, (và) hai tội Ưng Đối Trị. Như thế nào? (1) Không phạm tội do đã được chấp thuận (để giáo giới nói chung); (2) một tội Ưng Đối Trị do giáo giới sau khi mặt trời lặn; (3) một tội Ưng Đối Trị do đến (trú xứ Tỳ-khưu-ni) rồi giáo giới bằng Bát Kỉnh Pháp (thay vì pháp khác) – (tổng cộng) là hai tội Ưng Đối Trị. Cũng vị ấy (đã được chấp thuận), nếu giáo giới bằng pháp khác, thì có một trường hợp không phạm tội, một tội Tác Ác, một tội Ưng Đối Trị. Như thế nào? (1) Không phạm tội do đã được chấp thuận; (2) tội Tác Ác do đến (trú xứ Tỳ-khưu-ni) rồi giáo giới bằng pháp khác; (3) tội Ưng Đối Trị do giáo giới sau khi mặt trời lặn. Còn đối với người (Tỳ-khưu) đã được chấp thuận và chưa được chấp thuận, nếu đến và giáo giới vào ban ngày, thì loại bỏ một tội Ưng Đối Trị do giáo giới vào ban đêm, các trường hợp phạm tội và không phạm tội còn lại cần được hiểu (tương tự).

Pakiṇṇakakathā niṭṭhitā.

Phần tạp thoại kết thúc.

4. Āmisasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích học giới về (giáo giới vì) vật thực

164. Catutthasikkhāpade – na bahukatāti na katabahumānā, na dhamme bahumānaṃ katvā ovadantīti adhippāyo. ‘‘Bhikkhunovādakaṃ avaṇṇaṃ kattukāmo’’tiādīnaṃ ujjhāpanake vuttanayenevattho veditabbo.
164. Trong học giới thứ tư (của phẩm này), “Không được coi trọng” là không được tỏ lòng kính trọng nhiều, ý muốn nói là (các Tỳ-khưu-ni) không giáo giới (Tỳ-khưu) với lòng kính trọng Pháp nhiều. Ý nghĩa của những câu như “Muốn nói xấu người giáo giới Tỳ-khưu-ni” v.v… cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong học giới Ujjhāpanaka (kích động sự bất mãn).

Upasampannaṃ saṅghena asammatanti ettha asammato nāma sammatena vā saṅghena vā bhāraṃ katvā ṭhapito veditabbo. Anupasampannaṃ sammataṃ vā asammataṃ vāti ettha pana bhikkhukāle sammutiṃ labhitvā sāmaṇerabhūmiyaṃ ṭhito sammato, sammatena vā saṅghena vā ṭhapito bahussuto sāmaṇero asammatoti veditabbo. Sesaṃ vuttanayattā uttānameva.
Ở đây, trong câu “Người đã thọ cụ túc giới không được Tăng chúng chấp thuận“, “người không được chấp thuận” cần được hiểu là người đã được một vị (Tỳ-khưu) được chấp thuận hoặc Tăng chúng giao phó trách nhiệm. Còn ở đây, trong câu “Người chưa thọ cụ túc giới được chấp thuận hoặc không được chấp thuận“, người đã nhận được sự chấp thuận khi còn là Tỳ-khưu rồi sau đó ở bậc sa-di, (vị ấy) là người “được chấp thuận”; vị sa-di học rộng được một vị (Tỳ-khưu) được chấp thuận hoặc Tăng chúng bổ nhiệm, cần được hiểu là người “không được chấp thuận” (theo cách chính thức của Tỳ-khưu nhưng vẫn được giao việc). Phần còn lại do đã theo phương pháp đã nói nên ý nghĩa đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
(Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, bị đời chê bai, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (do) tâm bất thiện, (và có) cảm thọ khổ (đi kèm).

Āmisasikkhāpadaṃ catutthaṃ.

Học giới về (giáo giới vì) vật thực, điều thứ tư.

5. Cīvaradānasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích học giới về việc cho y

169. Pañcamasikkhāpade – visikhāyāti rathikāya. Piṇḍāya caratīti nibaddhacāravasena abhiṇhaṃ carati. Sandiṭṭhāti sandiṭṭhamittā ahesuṃ. Sesamettha padato uttānatthaṃ, vinicchayato cīvarapaṭiggahaṇasikkhāpade vuttanayeneva veditabbaṃ saddhiṃ samuṭṭhānādīhi. Tatra hi bhikkhu paṭiggāhako, idha bhikkhunī, ayaṃ viseso. Sesaṃ tādisamevāti.
169. Trong học giới thứ năm (của phẩm này), “Trên đường phố” là trên đường đi. “Đi khất thực” là thường xuyên đi theo lộ trình khất thực cố định. “Người quen biết” là những người bạn quen biết. Phần còn lại ở đây, về mặt từ ngữ, ý nghĩa đã rõ ràng; về mặt quyết định, cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong học giới về việc nhận y, cùng với cách phát sinh tội v.v… Ở đó (trong học giới kia) Tỳ-khưu là người nhận, ở đây (trong học giới này) là Tỳ-khưu-ni (là người cho y cho Tỳ-khưu không phải bà con), đây là điểm khác biệt. Phần còn lại thì tương tự như vậy.

Cīvaradānasikkhāpadaṃ pañcamaṃ.

Học giới về việc cho y, điều thứ năm.

6. Cīvarasibbanasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích học giới về việc may y

175. Chaṭṭhasikkhāpade – udāyīti lāḷudāyī. Paṭṭhoti paṭibalo, nipuṇo ceva samattho cāti vuttaṃ hoti. Aññatarā bhikkhunīti tasseva purāṇadutiyikā. Paṭibhānacittanti attano paṭibhānena katacittaṃ, so kira cīvaraṃ rajitvā tassa majjhe nānāvaṇṇehi vippakatamethunaṃ itthipurisarūpamakāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘majjhe paṭibhānacittaṃ vuṭṭhāpetvā’’ti. Yathāsaṃhaṭanti yathāsaṃharitameva.
175. Trong học giới thứ sáu (của phẩm này), “Udāyī” là Lāḷudāyī. “Khéo léo” là có khả năng, được nói là vừa khéo léo vừa có năng lực. “Một Tỳ-khưu-ni nào đó” là người vợ cũ của chính vị ấy (Lāḷudāyī). “Hình vẽ do trí lanh lợi (sáng tạo)” là hình vẽ được làm bằng trí lanh lợi của mình; tương truyền, vị ấy sau khi nhuộm y, đã vẽ ở giữa y đó hình ảnh nam nữ giao cấu rải rác bằng nhiều màu sắc khác nhau. Do đó đã nói: “Sau khi tạo ra hình vẽ do trí lanh lợi (sáng tạo) ở giữa”. “Như đã cuộn lại” là như đã được cuộn lại thực sự.

176.Cīvaranti yaṃ nivāsituṃ vā pārupituṃ vā sakkā hoti, evañhi mahāpaccariyādīsu vuttaṃ. Sayaṃ sibbatīti ettha sibbissāmīti vicārentassāpi chindantassāpi dukkaṭaṃ, sibbantassa pana pācittiyaṃ. Ārāpathe ārāpatheti sūciṃ pavesetvā pavesetvā nīharaṇe. Sace pana sakalasūciṃ anīharanto dīghasuttappavesanatthaṃ satakkhattumpi vijjhitvā nīharati, ekameva pācittiyaṃ. Sakiṃ āṇattoti sakiṃ ‘‘cīvaraṃ sibbā’’ti vutto. Bahukampi sibbatīti sacepi sabbaṃ sūcikammaṃ pariyosāpetvā cīvaraṃ niṭṭhāpeti, ekameva pācittiyaṃ. Atha pana ‘‘imasmiṃ cīvare kattabbakammaṃ tava bhāro’’ti vutto karoti, āṇattassa ārāpathe ārāpathe ekamekaṃ pācittiyaṃ, āṇāpakassa ekavācāya sambahulānipi. Punappunaṃ āṇattiyaṃ pana vattabbameva natthi.
176. “Y” là cái gì có thể dùng để mặc hoặc để đắp, như đã được nói trong Mahāpaccari v.v… Ở đây, trong câu “Tự mình may“, người chỉ mới suy nghĩ “Ta sẽ may” hoặc người đang cắt (vải) cũng phạm tội Tác Ác, còn người đang may thì phạm tội Ưng Đối Trị. “Mỗi mũi kim, mỗi mũi kim” là mỗi lần xỏ kim vào rồi rút ra. Nhưng nếu không rút toàn bộ cây kim ra, mà để luồn sợi chỉ dài, dù có xỏ vào rồi rút ra cả trăm lần, cũng chỉ phạm một tội Ưng Đối Trị. “Được lệnh một lần” là được bảo một lần: “Hãy may y”. “Dù may nhiều” – dù có hoàn tất tất cả công việc may vá và làm xong chiếc y, (người ra lệnh) cũng chỉ phạm một tội Ưng Đối Trị. Còn nếu (người được sai) làm sau khi được bảo: “Công việc cần làm trên chiếc y này là gánh nặng của thầy”, thì người được lệnh mỗi mũi kim phạm một tội Ưng Đối Trị, người ra lệnh với một lời nói (mà người kia may nhiều mũi) cũng phạm nhiều tội (tương ứng). Còn trong trường hợp ra lệnh nhiều lần, thì không cần phải nói gì thêm (cũng phạm tội theo mỗi lần ra lệnh).

Yepi sace ācariyupajjhāyesu attano ñātikānaṃ cīvaraṃ sibbantesu tesaṃ nissitakā ‘‘ācariyupajjhāyavattaṃ vā kathinavattaṃ vā karomā’’ti sibbanti, tesampi ārāpathagaṇanāya āpattiyo. Ācariyupajjhāyā attano ñātikānaṃ cīvaraṃ antevāsikehi sibbāpenti, ācariyupajjhāyānaṃ dukkaṭaṃ, antevāsikānaṃ pācittiyaṃ. Antevāsikā attano ñātikānaṃ ācariyupajjhāyehi sibbāpenti, tatrāpi eseva nayo. Antevāsikānampi ācariyupajjhāyānampi ñātikāya cīvaraṃ hoti, ācariyupajjhāyā pana antevāsike vañcetvā sibbāpenti, ubhinnampi dukkaṭaṃ. Kasmā? Antevāsikānaṃ aññātikasaññāya sibbitattā , itaresaṃ akappiye niyojitattā. Tasmā ‘‘idaṃ te mātu cīvaraṃ, idaṃ bhaginiyā’’ti ācikkhitvā sibbāpetabbaṃ.
Ngay cả khi các vị thầy giáo thọ, thầy tế độ đang may y cho người thân của mình, nếu những người nương tựa các vị ấy may (phụ) với ý nghĩ “Chúng ta làm phận sự đối với thầy giáo thọ, thầy tế độ, hoặc làm phận sự Kaṭhina”, họ cũng phạm tội theo số lượng mũi kim. Các vị thầy giáo thọ, thầy tế độ nhờ đệ tử may y cho người thân của mình, thì các vị thầy giáo thọ, thầy tế độ phạm tội Tác Ác, các đệ tử phạm tội Ưng Đối Trị. Đệ tử nhờ thầy giáo thọ, thầy tế độ may y cho người thân của mình, ở đó cũng theo phương pháp này. Nếu có chiếc y của người thân của cả đệ tử và thầy giáo thọ, thầy tế độ, nhưng các vị thầy giáo thọ, thầy tế độ lại lừa dối đệ tử mà nhờ may, thì cả hai đều phạm tội Tác Ác. Tại sao? Vì các đệ tử may với tưởng đó là (y của người) không phải thân quyến, còn những vị kia thì đã sai bảo (đệ tử) làm việc không hợp lệ. Do đó, cần phải nói rõ: “Đây là y của mẹ thầy, đây là (y) của chị/em gái thầy” rồi mới nhờ may.

179.Aññaṃparikkhāranti yaṃkiñci upāhanatthavikādiṃ. Sesaṃ uttānameva. Chasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
179. “Vật dụng khác” là bất cứ thứ gì như giày dép, túi đựng đồ v.v… Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng. (Tội này có) sáu cách phát sinh: là hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Cīvarasibbanasikkhāpadaṃ chaṭṭhaṃ.

Học giới về việc may y, điều thứ sáu.

7. Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích học giới về việc cùng hẹn (đi đường)

181. Sattamasikkhāpade – pacchā gacchantīnaṃ corā acchindiṃsūti pacchā gacchantīnaṃ pattacīvaraṃ corā hariṃsu. Dūsesunti tā bhikkhuniyo corā dūsayiṃsu, sīlavināsaṃ pāpayiṃsūti attho .
181. Trong học giới thứ bảy (của phẩm này), “Khi các Tỳ-khưu-ni đang đi phía sau, bọn cướp đã cướp đoạt” có nghĩa là bọn cướp đã cướp lấy y bát của các Tỳ-khưu-ni đang đi phía sau. “Đã làm hại” có nghĩa là bọn cướp đã làm hại các Tỳ-khưu-ni ấy, tức là đã làm cho các vị ấy bị hủy hoại giới hạnh – đó là ý nghĩa.

182-3.Saṃvidhāyāti saṃvidahitvā, gamanakāle saṅketaṃ katvāti attho. Kukkuṭasampādeti ettha yasmā gāmā nikkhamitvā kukkuṭo padasāva aññaṃ gāmaṃ gacchati , ayaṃ kukkuṭasampādoti vuccati. Tatrāyaṃ vacanattho – sampadanti etthāti sampādo. Ke sampadanti? Kukkuṭā. Kukkuṭānaṃ sampādo kukkuṭasampādo. Atha vā sampādoti gamanaṃ, kukkuṭānaṃ sampādo ettha atthītipi kukkuṭasampādo. Kukkuṭasampāte itipi pāṭho, tattha yassa gāmassa gehacchadanapiṭṭhito kukkuṭo uppatitvā aññassa gehacchadanapiṭṭhiyaṃ patati, ayaṃ kukkuṭasampātoti vuccati. Vacanattho panettha vuttanayeneva veditabbo. Dvidhā vuttappakāropi cesa gāmo accāsanno hoti, upacāro na labbhati. Yasmiṃ pana gāme paccūse vassantassa kukkuṭassa saddo anantare gāme suyyati, tādisehi gāmehi sampuṇṇaraṭṭhe gāmantare gāmantare pācittiyanti aṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Kiñcāpi vuttaṃ, ‘‘gāmantare gāmantare āpatti pācittiyassā’’ti vacanato pana sacepi ratanamattantaro gāmo hoti, yo tassa manussehi ṭhapitaupacāro, taṃ okkamantassa āpattiyeva.
182-3. “Sau khi cùng hẹn” là sau khi đã cùng nhau sắp đặt, có nghĩa là đã hẹn ước vào lúc đi. Ở đây, trong từ “Nơi gà gáy vang tới“, vì con gà trống sau khi ra khỏi làng, đi bộ đến một làng khác, (khoảng cách đó) được gọi là “nơi gà gáy vang tới”. Đây là ý nghĩa của từ đó: “nơi chúng đến” là “sampādo“. Ai đến? Gà trống. Nơi gà trống đến là “kukkuṭasampādo“. Hoặc “sampādo” là sự đi đến, “nơi có sự đi đến của gà trống” cũng là “kukkuṭasampādo”. Cũng có bản đọc là “kukkuṭasampāte”, ở đó (nghĩa là) con gà trống từ trên mái nhà của một làng bay lên rồi đáp xuống mái nhà của một làng khác, (khoảng cách đó) được gọi là “kukkuṭasampāta” (nơi gà bay tới). Ý nghĩa của từ ở đây cần được hiểu theo phương pháp đã nói. Dù làng đó rất gần theo cả hai cách nói trên, cũng không được phép (xem đó là cùng) một phạm vi. Nhưng trong sớ giải có nói: ở xứ sở nào có những làng mà tiếng gà trống gáy lúc rạng đông ở một làng có thể nghe thấy ở làng kế bên, thì (đi) giữa các làng (như vậy) đều phạm tội Ưng Đối Trị. Dù đã nói như vậy, nhưng theo câu “Giữa các làng, giữa các làng, phạm tội Ưng Đối Trị”, nếu một làng dù chỉ cách (làng kia) một cubit, khi đi vào phạm vi do người đời quy định của làng đó, vẫn phạm tội.

Tatrāyaṃ āpattivinicchayo – saṃvidhānakāle hi sace ubhopi bhikkhunupassaye vā antarārāme vā āsanasālāya vā titthiyaseyyāya vā ṭhatvā saṃvidahanti, anāpatti kappiyabhūmi kirāyaṃ. Tasmā ettha saṃvidahanapaccayā dukkaṭāpattiṃ na vadanti, gacchantassa yathāvatthukameva. Sace pana antogāme bhikkhunupassayadvāre rathikāya aññesu vā catukkasiṅghāṭakahatthisālādīsu saṃvidahanti, bhikkhuno āpatti dukkaṭassa. Evaṃ saṃvidahitvā gāmato nikkhamanti, nikkhamane anāpatti, anantaragāmassa upacārokkamane pana bhikkhuno pācittiyaṃ. Tatrāpi ‘‘paṭhamapāde dukkaṭaṃ, dutiyapāde pācittiya’’nti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Gāmato nikkhamitvā pana yāva anantaragāmassa upacāraṃ na okkamanti , etthantare saṃvidahitepi bhikkhuno dukkaṭaṃ, anantaragāmassa upacārokkamane purimanayeneva āpatti. Sace dūraṃ gantukāmā honti, gāmūpacāragaṇanāya okkamane okkamane āpatti, tassa tassa pana gāmassa atikkamane anāpatti. Sace pana bhikkhunī ‘‘asukaṃ nāma gāmaṃ gamissāmī’’ti upassayato nikkhamati, bhikkhupi tameva gāmaṃ sandhāya ‘‘asukaṃ nāma gāmaṃ gamissāmī’’ti vihārato nikkhamati. Atha dvepi gāmadvāre samāgantvā ‘‘tumhe kuhiṃ gacchatha, asukaṃ nāma gāmaṃ tumhe kuhinti, mayampi tatthevā’’ti vatvā ‘‘ehi dāni, gacchāmā’’ti saṃvidhāya gacchanti, anāpatti. Kasmā? Pubbameva gamissāmāti nikkhantattāti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Taṃ neva pāḷiyā na sesaaṭṭhakathāya sameti.
Đây là phần quyết định về tội: vào lúc cùng hẹn, nếu cả hai (Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni) đứng ở trú xứ Tỳ-khưu-ni, hoặc trong tu viện (của Tỳ-khưu), hoặc ở nhà hội, hoặc ở chỗ ở của ngoại đạo để cùng hẹn, thì không phạm tội, vì đây là nơi hợp lệ. Do đó, ở đây người ta không nói đến tội Tác Ác do duyên cùng hẹn, (mà tội của) người đi thì (xét) theo đúng sự việc. Nhưng nếu họ cùng hẹn ở trong làng, tại cửa trú xứ Tỳ-khưu-ni, trên đường đi, hoặc ở những nơi khác như ngã tư, ngã ba, nhà để voi v.v…, thì Tỳ-khưu phạm tội Tác Ác. Sau khi cùng hẹn như vậy rồi ra khỏi làng, lúc ra khỏi thì không phạm tội, nhưng khi đi vào phạm vi của làng kế tiếp, Tỳ-khưu phạm tội Ưng Đối Trị. Ngay cả ở đó, trong Mahāpaccari có nói: “Bước chân đầu tiên (vào phạm vi) phạm tội Tác Ác, bước chân thứ hai phạm tội Ưng Đối Trị”. Nhưng sau khi ra khỏi làng, chừng nào chưa đi vào phạm vi của làng kế tiếp, nếu cùng hẹn ở khoảng giữa đó, Tỳ-khưu (vẫn) phạm tội Tác Ác; khi đi vào phạm vi của làng kế tiếp thì phạm tội theo phương pháp đã nói trước. Nếu họ muốn đi xa, mỗi lần đi vào phạm vi của từng làng thì phạm tội (tính) theo số lượng phạm vi làng; nhưng khi đi qua khỏi từng làng đó thì không phạm tội. Nhưng nếu Tỳ-khưu-ni ra khỏi trú xứ với ý định “Tôi sẽ đi đến làng X”, Tỳ-khưu cũng nhắm đến chính làng đó mà ra khỏi tu viện với ý định “Tôi sẽ đi đến làng X”. Rồi cả hai gặp nhau ở đầu làng, (Tỳ-khưu hỏi Tỳ-khưu-ni): “Cô đi đâu?”, (Tỳ-khưu-ni đáp): “Làng X”. (Tỳ-khưu-ni hỏi Tỳ-khưu): “Thầy đi đâu?”, (Tỳ-khưu đáp): “Tôi cũng đến đó”. Rồi (họ) nói: “Vậy thì chúng ta hãy cùng đi” rồi cùng hẹn mà đi, thì không phạm tội. Tại sao? Vì đã ra đi với ý định sẽ đi từ trước, theo như sách Mahāpaccari nói. Điều đó không phù hợp với Pāḷi cũng như với các sớ giải khác.

Addhayojane addhayojaneti ekamekaṃ addhayojanaṃ atikkamantassa idāni atikkamissatīti paṭhamapāde dukkaṭaṃ, dutiyapāde pācittiyaṃ. Imasmiñhi naye atikkamane āpatti, okkamane anāpatti.
Mỗi nửa do-tuần, mỗi nửa do-tuần” – đối với người đi qua mỗi nửa do-tuần, khi sắp đi qua, bước chân đầu tiên (vào đoạn nửa do-tuần tiếp theo) phạm tội Tác Ác, bước chân thứ hai phạm tội Ưng Đối Trị. Theo phương pháp này, khi đi qua (ranh giới nửa do-tuần) thì phạm tội, khi đi vào (mà chưa qua) thì không phạm tội.

184.Bhikkhu saṃvidahatīti nagaradvāre vā rathikāya vā bhikkhuniṃ disvā ‘‘asukaṃ gāmaṃ nāma gatapubbatthā’’ti vadati, ‘‘nāmhi ayya gatapubbā’’ti ‘‘ehi gacchāmā’’ti vā ‘‘sve ahaṃ gamissāmi, tvampi āgaccheyyāsī’’ti vā vadati. Bhikkhunī saṃvidahatīti gāmantare cetiyavandanatthaṃ gāmato nikkhamantaṃ bhikkhuṃ disvā ‘‘ayya kuhiṃ gacchathā’’ti vadati. ‘‘Asukaṃ nāma gāmaṃ cetiyavandanattha’’nti. ‘‘Ahampi ayya āgacchāmī’’ti evaṃ bhikkhunīyeva saṃvidahati, na bhikkhu.
184. “Tỳ-khưu cùng hẹn” có nghĩa là sau khi thấy Tỳ-khưu-ni ở cổng thành hoặc trên đường đi, (Tỳ-khưu) hỏi: “Cô đã từng đến làng X chưa?”, (Tỳ-khưu-ni đáp): “Bạch Đại đức, con chưa từng đến”, (Tỳ-khưu) nói: “Vậy chúng ta hãy cùng đi” hoặc “Ngày mai tôi sẽ đi, cô cũng nên đến”. “Tỳ-khưu-ni cùng hẹn” có nghĩa là sau khi thấy Tỳ-khưu đang ra khỏi làng để đi đến một làng khác đảnh lễ tháp, (Tỳ-khưu-ni) hỏi: “Bạch Đại đức, ngài đi đâu?”. (Tỳ-khưu đáp): “Đến làng X để đảnh lễ tháp”. (Tỳ-khưu-ni nói): “Bạch Đại đức, con cũng sẽ đến”. Như vậy, chính Tỳ-khưu-ni cùng hẹn, không phải Tỳ-khưu.

185.Visaṅketenāti ettha ‘‘purebhattaṃ gacchissāmā’’ti vatvā pacchābhattaṃ gacchanti, ‘‘ajja vā gamissāmā’’ti vatvā sve gacchanti. Evaṃ kālavisaṅketeyeva anāpatti, dvāravisaṅkete pana maggavisaṅkete vā satipi āpattiyeva. Āpadāsūti raṭṭhabhede cakkasamāruḷhā janapadā pariyāyanti evarūpāsu āpadāsu anāpatti. Sesaṃ uttānamevāti.
185. Ở đây, trong câu “Do sai hẹn“, (ví dụ) sau khi nói “Chúng ta sẽ đi trước bữa ăn” rồi lại đi sau bữa ăn, hoặc sau khi nói “Chúng ta sẽ đi hôm nay” rồi lại đi vào ngày mai. Như vậy, chỉ khi sai hẹn về thời gian thì không phạm tội; còn nếu sai hẹn về cổng (ra vào làng) hoặc sai hẹn về con đường, dù có (sai hẹn về thời gian) cũng vẫn phạm tội. “Trong các trường hợp nguy hiểm” – khi đất nước bị chia cắt, các xứ sở bị bao vây bởi quân đội, người ta đi lại (tìm nơi ẩn náu) – trong những trường hợp nguy hiểm như vậy, không phạm tội. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Catusamuṭṭhānaṃ – kāyato kāyavācato kāyacittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Tội này có) bốn cách phát sinh: phát sinh từ thân; từ thân và lời; từ thân và tâm; và từ thân, lời cùng với tâm. (Nó là) hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Saṃvidhānasikkhāpadaṃ sattamaṃ.

Học giới về việc cùng hẹn (đi đường), điều thứ bảy.

8. Nāvābhiruhanasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích học giới về việc lên thuyền

188. Aṭṭhamasikkhāpade – saṃvidhāyāti lokassādamittasanthavavasena kīḷāpurekkhārā saṃvidahitvā. Uddhaṃgāmininti uddhaṃ nadiyā paṭisotaṃ gacchantiṃ. Yasmā pana yo uddhaṃ javanato ujjavanikāya nāvāya kīḷati, so ‘‘uddhaṃgāminiṃ abhiruhatī’’ti vuccati. Tenassa padabhājane atthameva dassetuṃ ‘‘ujjavanikāyā’’ti vuttaṃ. Adhogāmininti adho anusotaṃ gacchantiṃ. Yasmā pana yo adho javanato ojavanikāya nāvāya kīḷati, so ‘‘adhogāminiṃ abhiruhatī’’ti vuccati. Tenassāpi padabhājane atthameva dassetuṃ ‘‘ojavanikāyā’’ti vuttaṃ. Tattha yaṃ titthasampaṭipādanatthaṃ uddhaṃ vā adho vā haranti, ettha anāpatti. Tiriyaṃ taraṇāyāti upayogatthe nissakkavacanaṃ.
188. Trong học giới thứ tám (của phẩm này), “Sau khi cùng hẹn” là sau khi cùng hẹn với mục đích vui chơi, do sự quen biết thân mật với người không phải là bạn tốt (người thế tục). “(Thuyền) đi ngược dòng” là (thuyền) đi ngược dòng sông. Vì người nào vui chơi trên thuyền đi ngược dòng do sức đẩy ngược, người đó được gọi là “lên thuyền đi ngược dòng”. Do đó, trong phần phân tích từ của học giới này, để chỉ rõ ý nghĩa, đã nói là “bằng thuyền đi ngược”. “(Thuyền) đi xuôi dòng” là (thuyền) đi xuôi theo dòng nước. Vì người nào vui chơi trên thuyền đi xuôi dòng do sức đẩy xuôi, người đó được gọi là “lên thuyền đi xuôi dòng”. Do đó, trong phần phân tích từ của học giới đó cũng vậy, để chỉ rõ ý nghĩa, đã nói là “bằng thuyền đi xuôi”. Ở đó, (thuyền) nào người ta dùng để đi ngược dòng hoặc xuôi dòng nhằm mục đích đến bến đò, ở đây không phạm tội. “Để qua ngang” là một từ bất biến cách mang ý nghĩa mục đích sử dụng.

189.Gāmantare gāmantareti ettha yassā nadiyā ekaṃ tīraṃ kukkuṭasampādagāmehi nirantaraṃ, ekaṃ agāmakaṃ araññaṃ, tassā sagāmakatīrapassena gamanakāle gāmantaragaṇanāya pācittiyāni, agāmakatīrapassena gamanakāle addhayojanagaṇanāya. Yā pana yojanavitthatā hoti, tassā majjhena gamanepi addhayojanagaṇanāya pācittiyāni veditabbāni. Anāpatti tiriyaṃ taraṇāyāti ettha na kevalaṃ nadiyā, yopi mahātitthapaṭṭanato tāmalittiṃ vā suvaṇṇabhūmiṃ vā gacchati , tassāpi anāpatti. Sabbaaṭṭhakathāsu hi nadiyaṃyeva āpatti vicāritā, na samudde.
189. Ở đây, trong câu “Giữa các làng, giữa các làng“, đối với con sông nào mà một bờ có các làng nằm sát nhau trong tầm gà gáy vang tới, còn một bờ là rừng không có làng, khi đi dọc theo bờ có làng, (phạm nhiều) tội Ưng Đối Trị theo số lượng khoảng cách giữa các làng, khi đi dọc theo bờ không có làng, (phạm tội) theo số lượng nửa do-tuần. Còn (sông) nào rộng một do-tuần, ngay cả khi đi giữa dòng, cũng cần biết là (phạm nhiều) tội Ưng Đối Trị theo số lượng nửa do-tuần. Ở đây, trong câu “Không phạm tội khi qua ngang“, không chỉ (qua ngang) sông, mà ngay cả người đi từ bến cảng lớn đến Tāmalitti hoặc Suvaṇṇabhūmi, vị ấy cũng không phạm tội. Vì trong tất cả các sớ giải, tội chỉ được xem xét đối với (việc đi thuyền) trên sông, không phải trên biển.

191.Visaṅketenāti idhāpi kālavisaṅketeneva anāpatti, titthavisaṅketena pana nāvāvisaṅketena vā gacchantassa āpattiyeva. Sesaṃ paṭhamasikkhāpadasadisameva saddhiṃ samuṭṭhānādīhīti.
191. Ở đây cũng vậy, trong câu “Do sai hẹn“, chỉ khi sai hẹn về thời gian thì không phạm tội, còn người đi do sai hẹn về bến đò hoặc sai hẹn về thuyền thì vẫn phạm tội. Phần còn lại thì giống như học giới thứ nhất (của phẩm này, tức Saṃvidhāna), cùng với cách phát sinh tội v.v…

Nāvābhiruhanasikkhāpadaṃ aṭṭhamaṃ.

Học giới về việc lên thuyền, điều thứ tám.

9. Paripācitasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích học giới về (vật thực) được xúi giục

192. Navamasikkhāpade – mahānāge tiṭṭhamāneti bhummatthe upayogavacanaṃ, mahānāgesu tiṭṭhamānesūti attho. Atha vā mahānāge tiṭṭhamāne ‘‘adisvā’’ti ayamettha pāṭhaseso daṭṭhabbo. Itarathā hi attho na yujjati. Antarākathāti avasānaṃ appatvā ārambhassa ca avasānassa ca vemajjhaṭṭhānaṃ pattakathā. Vippakatāti kayiramānā hoti. Saccaṃ mahānāgā kho tayā gahapatīti addhacchikena olokayamānā there pavisante disvā tehi sutabhāvaṃ ñatvā evamāha.
192. Trong học giới thứ chín (của phẩm này), “Khi các bậc đại long tượng đang đứng” – đây là từ dùng ở cách địa điểm mang ý nghĩa công cụ cách, có nghĩa là “trong lúc các bậc đại long tượng đang đứng”. Hoặc là, “khi các bậc đại long tượng đang đứng, (cô ấy đã nói) ‘không thấy'” – phần đọc còn thiếu ở đây cần được hiểu như vậy. Nếu không thì ý nghĩa không phù hợp. “Câu chuyện giữa chừng” là câu chuyện chưa đến hồi kết, đã đạt đến điểm giữa của phần mở đầu và phần kết thúc. “Đang được thực hiện” là đang được làm. (Cô ấy nói): “Thưa gia chủ, quả thật ngài (đã cúng dường) cho các bậc đại long tượng“, (cô ấy đã nói như vậy) sau khi liếc nhìn thấy các vị trưởng lão đi vào và biết rằng họ đã nghe thấy.

194.Bhikkhuniparipācitanti bhikkhuniyā paripācitaṃ, guṇappakāsanena nipphāditaṃ; laddhabbaṃ katanti attho. Padabhājane panassa bhikkhuniñca tassā paripācanākārañca dassetuṃ ‘‘bhikkhunī nāma ubhatosaṅghe upasampannā, paripāceti nāma pubbe adātukāmāna’’ntiādi vuttaṃ. Pubbe gihisamārambhāti ettha pubbeti paṭhamaṃ. Samārambhoti samāraddhaṃ vuccati, paṭiyāditassetaṃ adhivacanaṃ. Gihīnaṃ samārambho gihisamārambho. Bhikkhuniyā paripācanato paṭhamameva yaṃ gihīnaṃ paṭiyāditaṃ bhattaṃ, tato aññatra taṃ piṇḍapātaṃ ṭhapetvā aññaṃ bhuñjantassa āpatti, taṃ pana bhuñjantassa anāpattīti vuttaṃ hoti. Padabhājane pana yasmā ñātakapavāritehi bhikkhussatthāya asamāraddhopi piṇḍapāto atthato samāraddhova hoti, yathāsukhaṃ āharāpetabbato, tasmā byañjanaṃ anādiyitvā atthameva dassetuṃ ‘‘gihisamārambho nāma ñātakā vā honti pavāritā vā’’ti vuttaṃ.
194. “(Vật thực) được Tỳ-khưu-ni xúi giục” là (vật thực) được Tỳ-khưu-ni làm cho được chuẩn bị, được thành tựu bằng cách tuyên dương phẩm chất (của Tỳ-khưu); có nghĩa là đã làm cho (Tỳ-khưu) nhận được. Còn trong phần phân tích từ, để chỉ ra Tỳ-khưu-ni và cách xúi giục của vị ấy, đã nói bắt đầu bằng: “Tỳ-khưu-ni là người đã thọ cụ túc giới từ cả hai Tăng chúng, ‘xúi giục’ là (làm cho) những người trước đây không muốn cho…”. Ở đây, trong câu “Trước sự chuẩn bị của cư sĩ“, “trước” là đầu tiên. “Sự chuẩn bị” được gọi là “đã bắt đầu làm”; đây là tên gọi của cái đã được sửa soạn. Sự chuẩn bị của cư sĩ là “gihisamārambho”. Vật thực nào đã được các cư sĩ sửa soạn ngay từ trước khi Tỳ-khưu-ni xúi giục, người dùng vật thực khất thực khác ngoài vật thực đó thì phạm tội; còn người dùng chính vật thực đó thì không phạm tội – được nói như vậy. Còn trong phần phân tích từ, vì vật thực khất thực dù chưa được chuẩn bị vì lợi ích của Tỳ-khưu bởi những người thân hoặc những người đã thỉnh mời, về mặt ý nghĩa cũng là đã được chuẩn bị, do có thể nhờ mang đến tùy ý, do đó, không chấp vào văn tự mà chỉ trình bày ý nghĩa, đã nói rằng: “Sự chuẩn bị của cư sĩ là (sự chuẩn bị của) những người thân hoặc những người đã thỉnh mời”.

195.Pakatipaṭiyattanti pakatiyā tasseva bhikkhuno atthāya paṭiyāditaṃ hoti ‘‘therassa dassāmā’’ti. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘tassa aññassā’’ti avatvā ‘‘bhikkhūnaṃ dassāmāti paṭiyattaṃ hotī’’ti avisesena vuttaṃ.
195. “Được sửa soạn theo thường lệ” là (vật thực) thường được sửa soạn vì lợi ích của chính Tỳ-khưu đó với ý nghĩ “Chúng ta sẽ dâng cho vị trưởng lão”. Nhưng trong Mahāpaccari, không nói “cho vị này, cho vị kia” mà nói một cách không phân biệt rằng: “(Vật thực) được sửa soạn với ý nghĩ ‘Chúng ta sẽ dâng cho các Tỳ-khưu'”.

197.Pañca bhojanāni ṭhapetvā sabbattha anāpattīti yāgukhajjakaphalāphale sabbattha bhikkhuniparipācitepi anāpatti. Sesaṃ uttānameva. Paṭhamapārājikasamuṭṭhānaṃ – kāyacittato samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
197. “Ngoại trừ năm loại vật thực chính, ở khắp mọi nơi đều không phạm tội” có nghĩa là đối với cháo, bánh, các loại quả lớn, quả nhỏ, ở khắp mọi nơi, dù được Tỳ-khưu-ni xúi giục, cũng không phạm tội. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng. Cách phát sinh (của tội này giống như của) điều Bất Cộng Trụ thứ nhất: phát sinh từ thân và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, là tội do chế định, là nghiệp thân, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Paripācitasikkhāpadaṃ navamaṃ.

Học giới về (vật thực) được xúi giục, điều thứ chín.

10. Rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích học giới về việc ngồi ở nơi kín đáo

198. Dasamasikkhāpade – sabbo pāḷiattho ca vinicchayo ca dutiyaaniyate vuttanayeneva veditabbo. Idañhi sikkhāpadaṃ dutiyāniyatena ca upari upanandhassa catutthasikkhāpadena ca saddhiṃ ekaparicchedaṃ, aṭṭhuppattivasena pana visuṃ paññattanti.
198. Trong học giới thứ mười (của phẩm này), toàn bộ ý nghĩa Pāḷi và phần quyết định cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong điều Bất Định thứ hai. Vì học giới này cùng với điều Bất Định thứ hai và học giới thứ tư của (Tỳ-khưu) Upananda ở trên là một phần (cùng nội dung), nhưng do duyên khởi khác nhau mà được chế định riêng biệt.

Rahonisajjasikkhāpadaṃ dasamaṃ.

Học giới về việc ngồi ở nơi kín đáo, điều thứ mười.

Samatto vaṇṇanākkamena bhikkhunivaggo tatiyo.

Phẩm Tỳ-khưu-ni (Bhikkhunivaggo), phẩm thứ ba, đã hoàn tất theo thứ tự giải thích.

4. Bhojanavaggo

4. Phẩm Vật Thực

1. Āvasathapiṇḍasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích học giới về vật thực khất thực ở nhà nghỉ công cộng

203. Bhojanavaggassa paṭhamasikkhāpade – āvasathapiṇḍoti āvasathe piṇḍo. Samantā parikkhittaṃ addhikagilānagabbhinipabbajitānaṃ yathānurūpaṃ paññattamañcapīṭhaṃ anekagabbhapamukhaparicchedaṃ āvasathaṃ katvā tattha puññakāmatāya piṇḍo paññatto hoti, yāgubhattabhesajjādi sabbaṃ tesaṃ tesaṃ dānatthāya ṭhapitaṃ hotīti attho. Hiyyopīti svepi. Apasakkantīti apagacchanti. Manussā ujjhāyantīti titthiye apassantā ‘‘titthiyā kuhiṃ gatā’’‘‘ime passitvā pakkantā’’ti sutvā ujjhāyanti. Kukkuccāyantoti kukkuccaṃ karonto , akappiyasaññaṃ uppādentoti attho.
203. Trong học giới thứ nhất của Phẩm Vật Thực, “Vật thực khất thực ở nhà nghỉ công cộng” là vật thực khất thực ở nhà nghỉ công cộng. Sau khi đã làm một nhà nghỉ công cộng được bao quanh tứ phía, có nhiều phòng, nhiều hiên, có giường ghế được sắp đặt phù hợp cho khách bộ hành, người bệnh, phụ nữ mang thai, và người xuất gia, ở đó vật thực khất thực được chuẩn bị do lòng mong muốn phước báu, có nghĩa là tất cả cháo, cơm, thuốc men v.v… được để sẵn để bố thí cho những người đó. “Cả ngày hôm qua” cũng có nghĩa là cả ngày mai. “Rút lui” là đi khỏi. “Người đời phàn nàn” – khi không thấy các ngoại đạo, (họ hỏi) “Các ngoại đạo đi đâu rồi?”, (rồi) sau khi nghe (người khác nói) “Họ thấy những vị này (Tỳ-khưu) nên đã bỏ đi”, họ bèn phàn nàn. “Hối hận/lo lắng” là đang có sự hối hận/lo lắng, có nghĩa là đang khởi lên tưởng về điều không hợp lệ.

206.Sakkoti tamhā āvasathā pakkamitunti addhayojanaṃ vā yojanaṃ vā gantuṃ sakkoti. Na sakkotīti ettakameva na sakkoti. Anodissāti imesaṃyeva vā ettakānaṃyeva vāti ekaṃ pāsaṇḍaṃ anuddisitvā sabbesaṃ paññatto hoti. Yāvadatthoti bhojanampi ettakanti aparicchinditvā yāvadattho paññatto hoti. Sakiṃ bhuñjitabbanti ekadivasaṃ bhuñjitabbaṃ, dutiyadivasato paṭṭhāya paṭiggahaṇe dukkaṭaṃ, ajjhohāre ajjhohāre pācittiyaṃ.
206. “Có thể rời khỏi nhà nghỉ công cộng đó” có nghĩa là có thể đi được nửa do-tuần hoặc một do-tuần. “Không thể” là không thể đi được chừng đó. “Không chỉ định riêng” là (vật thực) được chuẩn bị cho tất cả mọi người, không chỉ định riêng cho một giáo phái nào, (không nói) “chỉ cho những người này” hoặc “chỉ cho chừng này người”. “Tùy theo nhu cầu” là (vật thực) được chuẩn bị tùy theo nhu cầu, không giới hạn rằng “vật thực chỉ chừng này”. “Chỉ được dùng một lần” là chỉ được dùng một ngày, kể từ ngày thứ hai, khi nhận thì phạm tội Tác Ác, mỗi khi ăn vào thì phạm tội Ưng Đối Trị.

Ayaṃ panettha vinicchayo – ekakulena vā nānākulehi vā ekato hutvā ekasmiṃ ṭhāne vā nānāṭhānesu vā ‘‘ajja ekasmiṃ; sve ekasmi’’nti evaṃ aniyamitaṭṭhāne vā paññattaṃ ekasmiṃ ṭhāne ekadivasaṃ bhuñjitvā dutiyadivase tasmiṃ ṭhāne aññasmiṃ vā bhuñjituṃ na vaṭṭati. Nānākulehi pana nānāṭhānesu paññattaṃ ekasmiṃ ṭhāne ekadivasaṃ bhuñjitvā dutiyadivase aññattha bhuñjituṃ vaṭṭati. Paṭipāṭiṃ pana khepetvā puna ādito paṭṭhāya bhuñjituṃ na vaṭṭatīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Ekapūganānāpūgaekagāmanānāgāmesupi eseva nayo. Yopi ekakulassa vā nānākulānaṃ vā ekato paññatto taṇḍulādīnaṃ abhāvena antarantarā chijjati, sopi na bhuñjitabbo. Sace pana ‘‘na sakkoma dātu’’nti upacchinditvā puna kalyāṇacitte uppanne dātuṃ ārabhanti, etaṃ puna ekadivasaṃ bhuñjituṃ vaṭṭatīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ.
Còn đây là phần quyết định về điều đó: (vật thực) được chuẩn bị bởi một gia đình hoặc nhiều gia đình cùng nhau, tại một nơi hoặc nhiều nơi, hoặc ở nơi không cố định theo kiểu “hôm nay ở một nơi, ngày mai ở một nơi khác” – (nếu đã) dùng một ngày tại một nơi, thì vào ngày thứ hai không được phép dùng tại nơi đó hoặc ở nơi khác (trong cùng một đợt cúng dường liên tục đó). Nhưng (vật thực) được chuẩn bị bởi nhiều gia đình khác nhau tại nhiều nơi khác nhau, sau khi đã dùng một ngày tại một nơi, thì vào ngày thứ hai được phép dùng ở nơi khác (của một gia đình/đợt cúng dường khác). Nhưng sau khi đã bỏ qua thứ tự (cúng dường), không được phép bắt đầu dùng lại từ đầu, theo như sách Mahāpaccari nói. Đối với một hội chúng, nhiều hội chúng, một làng, nhiều làng cũng theo phương pháp này. Ngay cả vật thực được chuẩn bị chung bởi một gia đình hoặc nhiều gia đình, nếu bị gián đoạn do thiếu gạo v.v…, cũng không được dùng (khi nó được tiếp tục lại như thể là cùng một đợt). Nhưng nếu sau khi họ ngưng lại với lời nói “Chúng tôi không thể cúng dường được nữa”, rồi sau đó lại khởi tâm tốt lành và bắt đầu cúng dường trở lại, thì được phép dùng (vật thực) đó thêm một ngày nữa, theo như sách Mahāpaccari nói.

208.Anāpatti gilānassāti gilānassa anuvasitvā bhuñjantassa anāpatti. Gacchanto vāti yo gacchanto antarāmagge ekadivasaṃ gataṭṭhāne ca ekadivasaṃ bhuñjati, tassāpi anāpatti. Āgacchantepi eseva nayo. Gantvā paccāgacchantopi antarāmagge ekadivasaṃ āgataṭṭhāne ca ekadivasaṃ bhuñjituṃ labhati. Gacchissāmīti bhuñjitvā nikkhantassa nadī vā pūrati corādibhayaṃ vā hoti, so nivattitvā khemabhāvaṃ ñatvā gacchanto puna ekadivasaṃ bhuñjituṃ labhatīti sabbamidaṃ mahāpaccariyādīsu vuttaṃ . Odissa paññatto hotīti bhikkhūnaṃyeva atthāya uddisitvā paññatto hoti. Na yāvadatthoti yāvadatthaṃ paññatto na hoti, thokaṃ thokaṃ labbhati, tādisaṃ niccampi bhuñjituṃ vaṭṭati. Pañca bhojanāni ṭhapetvā sabbatthāti yāgukhajjakaphalāphalādibhede sabbattha anāpatti. Yāguādīni hi niccampi bhuñjituṃ vaṭṭati. Sesaṃ uttānameva. Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kāyato ca kāyacittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ ticittaṃ, tivedananti.
208. “Không phạm tội đối với người bệnh” có nghĩa là người bệnh ở lại (thêm ngày) và dùng (vật thực đó) thì không phạm tội. “Hoặc người đang đi” – người nào đang đi, dùng một ngày ở dọc đường và một ngày ở nơi đã đến, vị ấy cũng không phạm tội. Đối với người đang trở về cũng theo phương pháp này. Người đi rồi quay lại cũng được phép dùng một ngày ở dọc đường và một ngày ở nơi đã đến (lúc quay về). Người sau khi dùng (vật thực) với ý định “Ta sẽ đi” rồi đã ra đi, (nhưng) sông bị ngập lụt hoặc có nguy hiểm từ trộm cướp v.v…, vị ấy quay lại, rồi khi biết đã an toàn lại ra đi, thì được phép dùng thêm một ngày nữa – tất cả những điều này đã được nói trong Mahāpaccari v.v… “Được chuẩn bị chỉ định riêng” là được chuẩn bị sau khi đã chỉ định riêng vì lợi ích của chính các Tỳ-khưu. “Không phải tùy theo nhu cầu” là không phải được chuẩn bị tùy theo nhu cầu, (mà) chỉ nhận được một chút một chút; (vật thực) như vậy được phép dùng thường xuyên. “Ngoại trừ năm loại vật thực chính, ở khắp mọi nơi” (đều không phạm tội) có nghĩa là đối với các loại cháo, bánh, quả lớn, quả nhỏ v.v…, ở khắp mọi nơi đều không phạm tội. Vì cháo v.v… được phép dùng thường xuyên. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng. Cách phát sinh (của tội này, được ví như) lông cừu là: phát sinh từ thân, và từ thân cùng với tâm; (Nó là) hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Āvasathapiṇḍasikkhāpadaṃ paṭhamaṃ.

Học giới về vật thực khất thực ở nhà nghỉ công cộng, điều thứ nhất.

2. Gaṇabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích học giới về việc ăn theo nhóm

209. Dutiyasikkhāpade – parihīnalābhasakkāroti so kira ajātasattunā rājānaṃ mārāpetvāpi abhimāre yojetvāpi ruhiruppādaṃ katvāpi guḷhapaṭicchanno ahosi. Yadā pana divāyeva dhanapālakaṃ payojesi, tadā pākaṭo jāto. ‘‘Kathaṃ devadatto hatthiṃ payojesī’’ti parikathāya uppannāya ‘‘na kevalaṃ hatthiṃ payojesi, rājānampi mārāpesi, abhimārepi pesesi, silampi pavijjhi, pāpo devadatto’’ti pākaṭo ahosi. ‘‘Kena saddhiṃ idaṃ kammamakāsī’’ti ca vutte ‘‘raññā ajātasattunā’’ti āhaṃsu. Tato nāgarā ‘‘kathañhi nāma rājā evarūpaṃ coraṃ sāsanakaṇṭakaṃ gahetvā vicarissatī’’ti uṭṭhahiṃsu. Rājā nagarasaṅkhobhaṃ ñatvā devadattaṃ nīhari. Tato paṭṭhāya cassa pañcathālipākasatāni upacchindi, upaṭṭhānampissa na agamāsi, aññepissa manussā na kiñci dātabbaṃ vā kātabbaṃ vā maññiṃsu. Tena vuttaṃ – ‘‘parihīnalābhasakkāro’’ti. Kulesu viññāpetvā viññāpetvā bhuñjatīti ‘‘mā me gaṇo bhijjī’’ti parisaṃ posento ‘‘tvaṃ ekassa bhikkhuno bhattaṃ dehi, tvaṃ dvinna’’nti evaṃ viññāpetvā sapariso kulesu bhuñjati.
209. Trong học giới thứ hai (của phẩm này), “Bị suy giảm lợi lộc và sự tôn kính” – tương truyền, vị ấy (Devadatta), dù đã xúi giục Ajātasattu giết vua (cha), dù đã sai cung thủ (ám sát Phật), dù đã làm chảy máu (Đức Phật), vẫn còn che giấu kín đáo. Nhưng khi vị ấy thả voi Dhanapālaka (để hại Phật) ngay giữa ban ngày, thì (việc làm của vị ấy) bị lộ ra. Khi câu chuyện “Devadatta đã thả voi như thế nào?” nổi lên, (sự thật) rằng “Không chỉ thả voi, (Devadatta) còn xúi giết vua, sai cung thủ, lăn đá, Devadatta thật độc ác” đã bị lộ ra. Và khi được hỏi: “(Devadatta) đã làm việc này cùng với ai?”, họ đáp: “Cùng với vua Ajātasattu”. Do đó, dân chúng trong thành nổi dậy (phản đối): “Làm sao nhà vua lại có thể dung dưỡng một kẻ gian ác, một cái gai của giáo pháp như vậy mà đi lại (tự do)?”. Nhà vua, biết được sự xáo trộn trong thành, đã trục xuất Devadatta. Kể từ đó, năm trăm nồi cơm cúng dường cho vị ấy bị cắt đứt, nhà vua cũng không đến hầu cận vị ấy nữa, những người khác cũng không nghĩ đến việc cúng dường hay làm gì cho vị ấy. Do đó đã nói: “Bị suy giảm lợi lộc và sự tôn kính”. “Sau khi xin đi xin lại ở các gia đình rồi dùng bữa” có nghĩa là để nuôi dưỡng đồ chúng với ý nghĩ “Mong sao nhóm của ta không bị tan rã”, vị ấy cùng đồ chúng của mình dùng bữa ở các gia đình sau khi đã xin rằng: “Bà hãy cúng dường vật thực cho một Tỳ-khưu, bà hãy (cúng dường) cho hai vị”.

211.Cīvaraṃ parittaṃ uppajjatīti bhattaṃ agaṇhantānaṃ cīvaraṃ na denti, tasmā parittaṃ uppajjati.
211. “Y phục phát sinh ít ỏi” có nghĩa là (người ta) không cúng dường y cho những người không nhận vật thực (từ họ), do đó (y phục) phát sinh ít ỏi.

212.Cīvarakārakebhikkhū bhattena nimantentīti gāme piṇḍāya caritvā cirena cīvaraṃ niṭṭhāpente disvā ‘‘evaṃ lahuṃ niṭṭhāpetvā cīvaraṃ paribhuñjissantī’’ti puññakāmatāya nimantenti.
212. “Họ mời các Tỳ-khưu đang làm y dùng bữa” có nghĩa là sau khi thấy các Tỳ-khưu đi khất thực trong làng rồi phải mất nhiều thời gian mới làm xong y, (người ta) mời do lòng mong muốn phước báu với ý nghĩ: “Làm như vậy, các vị ấy sẽ nhanh chóng làm xong y rồi sử dụng”.

215.Nānāverajjaketi nānāvidhehi aññarajjehi āgate. ‘‘Nānāvirajjake’’tipi pāṭho, ayamevattho.
215. “Những người từ các xứ khác nhau” là những người đến từ nhiều xứ sở khác nhau. Cũng có bản đọc là “nānāvirajjake”, ý nghĩa cũng như vậy.

217-8.Gaṇabhojaneti gaṇassa bhojane. Idha ca gaṇo nāma cattāro bhikkhū ādiṃ katvā tatuttariṃ bhikkhū adhippetā, teneva sabbantimaṃ paricchedaṃ dassento āha ‘‘yattha cattāro bhikkhū…pe… etaṃ gaṇabhojanaṃ nāmā’’ti. Taṃ panetaṃ gaṇabhojanaṃ dvīhākārehi pasavati nimantanato vā viññattito vā. Kathaṃ nimantanato pasavati? Cattāro bhikkhū upasaṅkamitvā ‘‘tumhe, bhante, odanena nimantemi, odanaṃ me gaṇhatha ākaṅkhatha oloketha adhivāsetha paṭimānethā’’ti evaṃ yena kenaci vevacanena vā bhāsantarena vā pañcannaṃ bhojanānaṃ nāmaṃ gahetvā nimanteti. Evaṃ ekato nimantitā paricchinnakālavasena ajjatanāya vā svātanāya vā ekato gacchanti, ekato gaṇhanti, ekato bhuñjanti, gaṇabhojanaṃ hoti, sabbesaṃ āpatti. Ekato nimantitā ekato vā nānato vā gacchanti, ekato gaṇhanti, nānato bhuñjanti , āpattiyeva. Paṭiggahaṇameva hi ettha pamāṇaṃ. Ekato nimantitā ekato vā nānato vā gacchanti, nānato gaṇhanti, ekato vā nānato vā bhuñjanti, anāpatti. Cattāri pariveṇāni vā vihāre vā gantvā nānato nimantitā ekaṭṭhāne ṭhitesuyeva vā eko puttena eko pitarāti evampi nānato nimantitā ekato vā nānato vā gacchantu, ekato vā nānato vā bhuñjantu, sace ekato gaṇhanti, gaṇabhojanaṃ hoti, sabbesaṃ āpatti. Evaṃ tāva nimantanato pasavati.
217-8. “Trong bữa ăn theo nhóm” là trong bữa ăn của nhóm. Và ở đây, “nhóm” được hiểu là từ bốn Tỳ-khưu trở lên, do đó, để chỉ ra sự phân định tối thiểu nhất, (Pāḷi) nói: “Nơi nào có bốn Tỳ-khưu… (v.v.)… đó gọi là bữa ăn theo nhóm”. Bữa ăn theo nhóm đó phát sinh do hai cách: do sự mời hoặc do sự xin. Phát sinh do sự mời như thế nào? (Một người) đến gần bốn Tỳ-khưu rồi mời bằng cách gọi tên một trong năm loại vật thực chính, bằng bất kỳ từ đồng nghĩa nào hoặc bằng ngôn ngữ khác, như: “Bạch Đại đức, con xin mời quý ngài dùng cơm; xin quý ngài hãy nhận, mong muốn, xem xét, chấp nhận, chờ đợi cơm của con”. Được mời chung như vậy, (nếu họ) đi chung, nhận chung, dùng chung, trong một thời gian nhất định là hôm nay hoặc ngày mai, thì đó là bữa ăn theo nhóm, tất cả đều phạm tội. Được mời chung, (nếu họ) đi chung hoặc đi riêng, (nhưng) nhận chung, rồi dùng riêng, vẫn phạm tội. Vì việc nhận chung chính là tiêu chuẩn ở đây. Được mời chung, (nếu họ) đi chung hoặc đi riêng, (nhưng) nhận riêng, rồi dùng chung hoặc dùng riêng, thì không phạm tội. (Dù người mời) đi đến bốn khuôn viên riêng hoặc (nhiều) tu viện để mời riêng từng người, hoặc (mời riêng) những vị đang ở cùng một chỗ, ví dụ một người (mời) con, một người (mời) cha; dù được mời riêng như vậy, (nếu các Tỳ-khưu) đi chung hoặc đi riêng, dùng chung hoặc dùng riêng, nhưng nếu nhận chung, thì đó là bữa ăn theo nhóm, tất cả đều phạm tội. Như vậy là (bữa ăn theo nhóm) phát sinh do sự mời.

Kathaṃ viññattito? Cattāro bhikkhū ekato ṭhitā vā nisinnā vā upāsakaṃ disvā ‘‘amhākaṃ catunnampi bhattaṃ dehī’’ti vā viññāpeyyuṃ, pāṭekkaṃ vā passitvā ‘‘mayhaṃ dehi, mayhaṃ dehī’’ti evaṃ ekato vā nānato vā viññāpetvā ekato vā gacchantu nānato vā, bhattaṃ gahetvāpi ekato vā bhuñjantu nānato vā, sace ekato gaṇhanti, gaṇabhojanaṃ hoti, sabbesaṃ āpatti. Evaṃ viññattito pasavati.
(Phát sinh) do sự xin như thế nào? Bốn Tỳ-khưu đang đứng chung hoặc ngồi chung, thấy một vị cư sĩ rồi cùng nhau xin rằng: “Xin hãy cúng dường vật thực cho cả bốn chúng tôi”, hoặc (từng vị) gặp riêng (vị cư sĩ đó) rồi xin chung hoặc xin riêng rằng: “Xin hãy cúng dường cho tôi, xin hãy cúng dường cho tôi”, (sau đó) dù họ đi chung hay đi riêng, sau khi nhận vật thực dù dùng chung hay dùng riêng, nhưng nếu nhận chung, thì đó là bữa ăn theo nhóm, tất cả đều phạm tội. Như vậy là (bữa ăn theo nhóm) phát sinh do sự xin.

Pādāpiphalitāti yathā mahācammassa parato maṃsaṃ dissati; evaṃ phālitā, vālikāya vā sakkharāya vā pahaṭamatte dukkhaṃ uppādenti, na sakkā hoti antogāme piṇḍāya carituṃ. Īdise gelaññe gilānasamayoti bhuñjitabbaṃ, na lesakappiyaṃ kātabbaṃ.
Chân cũng bị nứt nẻ” là nứt nẻ đến mức thấy được thịt bên dưới lớp da lớn; chỉ cần chạm phải cát hoặc sỏi là phát sinh đau đớn, không thể đi khất thực trong làng được. Trong trường hợp bệnh như vậy, cần phải dùng (bữa ăn theo nhóm) với lý do “thời bệnh”, không được tìm cách làm cho hợp lệ bằng mánh khóe.

Cīvare kayiramāneti yadā sāṭakañca suttañca labhitvā cīvaraṃ karonti tadā; visuñhi cīvarakārasamayo nāma natthi. Tasmā yo tattha cīvare kattabbaṃ yaṃkiñci kammaṃ karoti, mahāpaccariyañhi ‘‘antamaso sūcivedhanako’’tipi vuttaṃ, tena cīvarakārasamayoti bhuñjitabbaṃ. Kurundiyaṃ pana vitthāreneva vuttaṃ. Yo cīvaraṃ vicāreti, chindati, moghasuttaṃ ṭhapeti, āgantukapaṭṭaṃ ṭhapeti, paccāgataṃ sibbati, āgantukapaṭṭaṃ bandhati, anuvātaṃ chindati ghaṭṭeti āropeti, tattha paccāgataṃ sibbati, suttaṃ karoti valeti, pipphalikaṃ niseti, parivattanaṃ karoti, sabbopi cīvaraṃ karotiyevāti vuccati. Yo pana samīpe nisinno jātakaṃ vā dhammapadaṃ vā katheti, ayaṃ na cīvarakārako. Etaṃ ṭhapetvā sesānaṃ gaṇabhojane anāpattīti.
Khi đang làm y” là khi nhận được vải và chỉ rồi làm y; vì không có thời điểm làm y nào riêng biệt cả. Do đó, người nào làm bất cứ công việc gì cần làm trên chiếc y ở đó – trong Mahāpaccari còn nói “cho đến cả người xỏ kim” – vị ấy cần phải dùng (bữa ăn theo nhóm) với lý do “thời làm y”. Còn trong Kurundī thì đã nói một cách chi tiết. Người nào xem xét y, cắt, đặt chỉ đánh dấu, đặt miếng vá khách, may đường gấp lại, buộc miếng vá khách, cắt, chà xát, đắp miếng đáp, ở đó may đường gấp lại, làm chỉ, xe chỉ, ngồi vá lỗ thủng, lật qua lật lại (y), tất cả đều được gọi là đang làm y. Còn người ngồi gần kể chuyện Bổn Sanh hoặc kinh Pháp Cú, vị này không phải là người làm y. Ngoại trừ vị này, những người còn lại (tham gia làm y) dùng bữa ăn theo nhóm thì không phạm tội.

Addhayojananti ettakampi addhānaṃ gantukāmena. Yo pana dūraṃ gantukāmo, tattha vattabbameva natthi. Gacchantenāti addhānaṃ gacchantena, addhayojanabbhantare gāvutepi bhuñjituṃ vaṭṭati. Gatena bhuñjitabbanti gatena ekadivasaṃ bhuñjitabbaṃ. Nāvābhiruhanepi eseva nayo. Ayaṃ pana viseso – abhiruḷhena icchitaṭṭhānaṃ gantvāpi yāva na orohati tāva bhuñjitabbanti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Catutthe āgateti ayaṃ antimaparicchedo, catutthepi āgate yattha na yāpenti; so mahāsamayo. Yattha pana sataṃ vā sahassaṃ vā sannipatanti, tattha vattabbameva natthi. Tasmā tādise kāle ‘‘mahāsamayo’’ti adhiṭṭhahitvā bhuñjitabbaṃ. Yo koci paribbājakasamāpannoti sahadhammikesu vā titthiyesu vā aññataro, etesañhi yena kenaci kate bhatte ‘‘samaṇabhattasamayo’’ti bhuñjitabbaṃ.
Nửa do-tuần” là (dành cho) người muốn đi một quãng đường chừng đó. Còn người muốn đi xa, thì không cần phải nói gì thêm (cũng được phép dùng). “Bởi người đang đi” là bởi người đang đi đường; trong vòng nửa do-tuần, dù chỉ một gāvuta cũng được phép dùng (bữa ăn theo nhóm). “Sau khi đã đi thì được dùng” là sau khi đã đi thì được dùng một ngày. Trong trường hợp lên thuyền cũng theo phương pháp này. Nhưng đây là điểm khác biệt: người đã lên thuyền, dù đã đến nơi mong muốn, chừng nào chưa xuống (thuyền) thì vẫn được dùng (bữa ăn theo nhóm), theo như sách Mahāpaccari nói. “Khi người thứ tư đến” – đây là sự phân định tối thiểu, ngay cả khi người thứ tư đến mà (vẫn) không đủ (vật thực để duy trì), đó là thời đại hội lớn. Còn nơi nào có trăm hoặc ngàn người tụ họp, thì không cần phải nói gì thêm (cũng là đại hội lớn). Do đó, vào thời điểm như vậy, cần phải quyết định (rằng đó là) “thời đại hội lớn” rồi mới dùng (bữa ăn theo nhóm). “Bất kỳ người nào là du sĩ” là một trong những người đồng pháp hoặc ngoại đạo; đối với bữa ăn do bất kỳ ai trong số họ chuẩn bị, cần phải dùng với lý do “thời vật thực của sa-môn”.

220.Anāpatti samayeti sattasu samayesu aññatarasmiṃ anāpatti. Dve tayo ekatoti yepi akappiyanimantanaṃ sādiyitvā dve vā tayo vā ekato gahetvā bhuñjanti, tesampi anāpatti.
220. “Không phạm tội trong (bảy) trường hợp” có nghĩa là không phạm tội trong một trong bảy trường hợp (được cho phép). “Hai ba vị cùng nhau” – ngay cả những vị nào, sau khi chấp nhận lời mời không hợp lệ, mà (chỉ có) hai hoặc ba vị cùng nhau nhận và dùng bữa, các vị ấy cũng không phạm tội.

Tattha animantitacatutthaṃ, piṇḍapātikacatutthaṃ, anupasampannacatutthaṃ, pattacatutthaṃ, gilānacatutthanti pañcannaṃ catukkānaṃ vasena vinicchayo veditabbo . Kathaṃ? Idhekacco cattāro bhikkhū ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti nimanteti. Tesu tayo gatā, eko na gato. Upāsako ‘‘eko bhante thero kuhi’’nti pucchati. Nāgato upāsakāti. So aññaṃ taṅkhaṇappattaṃ kañci ‘‘ehi bhante’’ti pavesetvā catunnampi bhattaṃ deti, sabbesaṃ anāpatti. Kasmā? Gaṇapūrakassa animantitattā. Tayo eva hi tattha nimantitā gaṇhiṃsu, tehi gaṇo na pūrati, gaṇapūrako ca animantito, tena gaṇo bhijjatīti idaṃ animantitacatutthaṃ.
Ở đó, sự quyết định cần được hiểu dựa theo năm loại “bộ bốn”: bộ bốn có người không được mời, bộ bốn có người đi khất thực, bộ bốn có người chưa thọ cụ túc giới, bộ bốn có người gửi bát, bộ bốn có người bệnh. Như thế nào? Ở đây, một người nào đó mời bốn Tỳ-khưu: “Xin quý ngài hãy nhận vật thực”. Trong số đó, ba vị đã đi, một vị không đi. Vị cư sĩ hỏi: “Bạch Đại đức, một vị trưởng lão ở đâu?”. (Đáp): “Thưa cư sĩ, vị ấy không đến”. Vị ấy (cư sĩ) mời một vị nào đó khác vừa đến lúc đó vào rằng: “Xin mời Đại đức”, rồi cúng dường vật thực cho cả bốn vị, tất cả đều không phạm tội. Tại sao? Vì người làm đủ số nhóm (thứ tư) là người không được mời. Vì ở đó, chỉ có ba vị được mời đã nhận, với ba vị đó thì nhóm không đủ số; còn người làm đủ số nhóm lại không được mời, do đó nhóm bị phá vỡ – đây là “bộ bốn có người không được mời”.

Piṇḍapātikacatutthe – nimantanakāle eko piṇḍapātiko hoti, so nādhivāseti. Gamanavelāya pana ‘‘ehi bhante’’ti vutte anadhivāsitattā anāgacchantampi ‘‘etha bhikkhaṃ lacchathā’’ti gahetvā gacchanti, so taṃ gaṇaṃ bhindati. Tasmā sabbesaṃ anāpatti.
Trong “bộ bốn có người đi khất thực” – vào lúc mời, có một vị là người đi khất thực, vị ấy không nhận lời. Nhưng vào lúc đi, khi được nói “Xin mời Đại đức”, dù vị ấy không đến do không nhận lời, (những người khác) vẫn dẫn vị ấy đi với lời nói “Hãy đến, thầy sẽ nhận được vật thực”, vị ấy làm phá vỡ nhóm đó. Do đó, tất cả đều không phạm tội.

Anupasampannacatutthe – sāmaṇerena saddhiṃ nimantitā honti, sopi gaṇaṃ bhindati.
Trong “bộ bốn có người chưa thọ cụ túc giới” – (nếu bốn Tỳ-khưu) được mời cùng với một vị sa-di, vị sa-di đó cũng làm phá vỡ nhóm.

Pattacatutthe – eko sayaṃ agantvā pattaṃ peseti; evampi gaṇo bhijjati. Tasmā sabbesaṃ anāpatti.
Trong “bộ bốn có người gửi bát” – một vị không tự mình đến mà gửi bát đi; như vậy nhóm cũng bị phá vỡ. Do đó, tất cả đều không phạm tội.

Gilānacatutthe – gilānena saddhiṃ nimantitā honti, tattha gilānasseva anāpatti, itaresaṃ pana gaṇapūrako hoti. Na hi gilānena gaṇo bhijjati. Tasmā tesaṃ āpattiyeva. Mahāpaccariyaṃ pana avisesena vuttaṃ.
Trong “bộ bốn có người bệnh” – (nếu bốn Tỳ-khưu) được mời cùng với một người bệnh, ở đó chỉ người bệnh không phạm tội, còn (ba) người kia thì (người bệnh đó) là người làm đủ số nhóm. Vì nhóm không bị phá vỡ bởi người bệnh. Do đó, (ba) vị kia vẫn phạm tội. Nhưng trong Mahāpaccari thì nói một cách không phân biệt.

Samayaladdhako sayameva muccati, sesānaṃ gaṇapūrakattā āpattikaro hoti. Tasmā cīvaradānasamayaladdhakādīnampi vasena catukkāni veditabbāni. Sace pana adhivāsetvā gatesupi catūsu janesu eko paṇḍito bhikkhu ‘‘ahaṃ tumhākaṃ gaṇaṃ bhindissāmi, nimantanaṃ sādiyathā’’ti vatvā yāgukhajjakāvasāne bhattatthāya pattaṃ gaṇhantānaṃ adatvā ‘‘ime tāva bhikkhū bhojetvā vissajjetha, ahaṃ pacchā anumodanaṃ katvā gamissāmī’’ti nisinno. Tesu bhutvā gatesu ‘‘detha bhante patta’’nti upāsakena pattaṃ gahetvā bhatte dinne bhuñjitvā anumodanaṃ katvā gacchati , sabbesaṃ anāpatti. Pañcannañhi bhojanānaṃyeva vasena gaṇabhojane visaṅketaṃ natthi. Odanena nimantitā kummāsaṃ gaṇhantāpi āpattiṃ āpajjanti. Tāni ca tehi ekato na gahitāni. Yāguādīsu pana visaṅketaṃ hoti, tāni tehi ekato gahitānīti. Evaṃ eko paṇḍito aññesampi anāpattiṃ karoti.
Còn người nhận (vật thực) vào thời điểm được phép thì được miễn (tội), (nhưng nếu vị ấy) là người làm đủ số nhóm cho những người còn lại (ăn ngoài thời điểm được phép), thì vị ấy làm cho (họ) phạm tội. Do đó, cũng cần hiểu các “bộ bốn” dựa theo những người nhận (vật thực) vào thời cúng dường y v.v… Nhưng nếu trong bốn người đã nhận lời mời và đã đến, có một Tỳ-khưu có trí tuệ nói rằng: “Tôi sẽ làm phá vỡ nhóm của quý vị, quý vị cứ nhận lời mời”, rồi sau khi (họ) dùng cháo và bánh xong, khi (họ) lấy bát để nhận vật thực chính, vị ấy không đưa (bát mình) ra mà ngồi lại với ý nghĩ: “Trước hết hãy để các Tỳ-khưu này dùng bữa rồi cho họ đi, tôi sẽ tùy hỷ sau rồi đi”. Sau khi họ dùng bữa và ra đi, (nếu vị Tỳ-khưu có trí đó nói): “Bạch Đại đức, xin hãy đưa bát”, rồi vị cư sĩ lấy bát và dâng vật thực, vị ấy dùng xong, làm lễ tùy hỷ rồi ra đi, thì tất cả đều không phạm tội. Vì đối với năm loại vật thực chính, không có sự sai hẹn trong bữa ăn theo nhóm. (Tuy nhiên) những người được mời cơm mà lại nhận bánh kummāsa thì vẫn phạm tội. Và những (năm loại vật thực chính) đó không được họ nhận chung. Còn đối với cháo v.v…, thì có sự sai hẹn (nếu được mời một thứ mà nhận thứ khác), và (nếu) chúng được họ nhận chung (thì thành gaṇabhojana). Như vậy, một Tỳ-khưu có trí tuệ cũng làm cho những người khác không phạm tội.
* Soṇa Thiện Kim giải thích thêm: Một số giới luật liên quan đến Gaṇabhojana:
Có những điều giới nhắc đến việc không được tổ chức các bữa ăn theo nhóm có tính chất phô trương hoặc bất kính, ví dụ:
“Lục quần Tỳ-kheo thường tụ tập ăn chung, cười nói ồn ào, chọn lọc thức ăn ngon – Đức Phật quở trách và chế giới.”

Tasmā sace koci saṅghabhattaṃ kattukāmena nimantanatthāya pesito vihāraṃ āgamma ‘‘bhante, sve amhākaṃ ghare bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti avatvā ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti vā ‘‘saṅghabhattaṃ gaṇhathā’’ti vā ‘‘saṅgho bhattaṃ gaṇhātū’’ti vā vadati, bhattuddesakena paṇḍitena bhavitabbaṃ, nemantanikā gaṇabhojanato piṇḍapātikā ca dhutaṅgabhedato mocetabbā. Kathaṃ? Evaṃ tāva vattabbaṃ – ‘‘sve na sakkā upāsakā’’ti. ‘‘Punadivase, bhante’’ti. ‘‘Punadivasepi na sakkā’’ti. Evaṃ yāva addhamāsampi haritvā puna vattabbo – ‘‘tvaṃ kiṃ avacā’’ti? Sace punapi ‘‘saṅghabhattaṃ gaṇhathā’’ti vadati, tato ‘‘imaṃ tāva upāsaka pupphaṃ kappiyaṃ karohi, imaṃ tiṇa’’nti evaṃ vikkhepaṃ katvā puna ‘‘kiṃ kathayitthā’’ti pucchitabbo. Sace punapi tatheva vadati, ‘‘āvuso, tvaṃ piṇḍapātike vā mahāthere vā na lacchasi, sāmaṇere lacchasī’’ti vattabbo. ‘‘Nanu, bhante asukasmiñca asukasmiñca gāme bhadante bhojesuṃ, ahaṃ kasmā na labhāmī’’ti ca vutte ‘‘te nimantetuṃ jānanti, tvaṃ na jānāsī’’ti. Te kathaṃ nimantesuṃ bhanteti? Te evamāhaṃsu – ‘‘amhākaṃ, bhante, bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti. Sace sopi tatheva vadati, vaṭṭati. Atha punapi ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti vadati, ‘‘na dāni tvaṃ, āvuso, bahū bhikkhū lacchasi, tayo eva lacchasī’’ti vattabbo. ‘‘Nanu, bhante, asukasmiñca asukasmiñca gāme sakalaṃ bhikkhusaṅghaṃ bhojesuṃ, ahaṃ kasmā na labhāmī’’ti? ‘‘Tvaṃ nimantetuṃ na jānāsī’’ti. ‘‘Te kathaṃ nimantesu’’nti? Te ‘‘bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti āhaṃsūti. Sace sopi ‘‘bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti vadati, vaṭṭati. Atha punapi ‘‘bhattamevā’’ti vadati, tato vattabbo – ‘‘gaccha tvaṃ, natthamhākaṃ tava bhattenattho, nibaddhagocaro esa amhākaṃ, mayamettha piṇḍāya carissāmā’’ti. Taṃ ‘‘caratha, bhante’’ti vatvā āgataṃ pucchanti – ‘‘kiṃ bho laddhā bhikkhū’’ti . ‘‘Kiṃ etena bahu ettha vattabbaṃ, ‘therā sve piṇḍāya carissāmā’ti āhaṃsu. Mā dāni tumhe pamajjitthā’’ti. Dutiyadivase cetiyavattaṃ katvā ṭhitā bhikkhū saṅghattherena vattabbā – ‘‘āvuso, dhuragāme saṅghabhattaṃ apaṇḍitamanusso pana agamāsi , gacchāma dhuragāme piṇḍāya carissāmā’’ti. Bhikkhūhi therassa vacanaṃ kātabbaṃ, na dubbacehi bhavitabbaṃ, gāmadvāre aṭṭhatvāva piṇḍāya caritabbaṃ. Tesu pattāni gahetvā nisīdāpetvā bhojentesu bhuñjitabbaṃ. Sace āsanasālāya bhattaṃ ṭhapetvā rathikāsu āhiṇḍantā ārocenti – ‘‘āsanasālāya, bhante, bhattaṃ gaṇhathā’’ti na vaṭṭati.
Do đó, nếu người nào được người muốn cúng dường bữa ăn cho Tăng chúng sai đến để mời, đến tu viện mà không nói: “Bạch Đại đức, ngày mai xin quý ngài hãy nhận vật thực khất thực tại nhà chúng con”, mà lại nói: “Xin quý ngài hãy nhận vật thực (bhatta)”, hoặc “Xin quý ngài hãy nhận bữa ăn của Tăng chúng”, hoặc “Xin Tăng chúng hãy nhận vật thực”, thì vị Tỳ-khưu chia vật thực cần phải có trí tuệ, (để) những người được mời được thoát khỏi (tội) ăn theo nhóm, và những người đi khất thực (cũng) được thoát khỏi (việc) phá hạnh đầu-đà. Như thế nào? Trước hết cần phải nói như vầy: “Thưa cư sĩ, ngày mai không thể được”. (Nếu người đó nói): “Vậy ngày kia, bạch Đại đức?”. (Đáp): “Ngày kia cũng không thể được”. Cứ như vậy kéo dài cho đến cả nửa tháng, rồi lại hỏi: “Ông đã nói gì?”. Nếu người đó lại nói: “Xin quý ngài hãy nhận bữa ăn của Tăng chúng”, khi đó, sau khi làm cho (người đó) xao lãng bằng cách nói: “Này cư sĩ, trước hết hãy làm cho hoa này thành hợp lệ, (hãy làm cho) cỏ này (thành hợp lệ)”, rồi lại hỏi: “Ông đã nói gì?”. Nếu người đó lại nói như cũ, (thì nên) nói: “Này hiền giả, ông sẽ không nhận được (sự chấp thuận cho) những vị đi khất thực hay các vị Đại Trưởng lão đâu, (có lẽ) ông sẽ nhận được (sự chấp thuận cho) các vị sa-di thôi”. Và khi người đó nói: “Bạch Đại đức, ở làng X, làng Y, các vị tôn giả đã được (người ta) cúng dường, tại sao con lại không được?”, (thì đáp): “Họ biết cách mời, còn ông thì không”. (Hỏi): “Bạch Đại đức, họ đã mời như thế nào?”. (Đáp): “Họ đã nói như vầy: ‘Bạch Đại đức, xin quý ngài hãy nhận vật thực khất thực của chúng con'”. Nếu người đó cũng nói như vậy, thì được phép. Nếu lại nói: “Xin quý ngài hãy nhận vật thực (bhatta)”, (thì nên) nói: “Này hiền giả, bây giờ ông sẽ không nhận được (sự chấp thuận cho) nhiều Tỳ-khưu đâu, ông chỉ nhận được (sự chấp thuận cho) ba vị thôi”. (Hỏi): “Bạch Đại đức, ở làng X, làng Y, người ta đã cúng dường toàn thể Tăng chúng Tỳ-khưu, tại sao con lại không được?”. (Đáp): “Vì ông không biết cách mời”. (Hỏi): “Họ đã mời như thế nào?”. (Đáp): “Họ đã nói: ‘Xin quý ngài hãy nhận vật thực khất thực'”. Nếu người đó cũng nói: “Xin quý ngài hãy nhận vật thực khất thực”, thì được phép. Nếu lại chỉ nói “vật thực (bhatta)”, khi đó (nên) nói: “Ông đi đi, chúng tôi không cần dùng vật thực của ông, đây là vùng khất thực cố định của chúng tôi, chúng tôi sẽ đi khất thực ở đây”. Người đó, sau khi nói “Xin mời quý ngài cứ đi (khất thực)”, rồi quay về, (người nhà) hỏi: “Này ông, có nhận được (sự chấp thuận của) các Tỳ-khưu không?”. (Đáp): “Cần gì phải nói nhiều về việc này, các vị trưởng lão đã nói: ‘Ngày mai chúng tôi sẽ đi khất thực’. Bây giờ các vị đừng dễ duôi (trong việc chuẩn bị)”. Vào ngày thứ hai, các Tỳ-khưu sau khi làm phận sự ở tháp, vị Tăng trưởng lão cần phải nói: “Này chư hiền, ở làng đầu (gần nhất) có bữa ăn của Tăng chúng, nhưng một người không khôn khéo đã đến (mời), chúng ta hãy đi khất thực ở làng đầu đó”. Các Tỳ-khưu cần phải vâng lời vị trưởng lão, không được khó bảo, cần phải đứng ở đầu làng rồi mới đi khất thực. Trong số họ (dân làng), nếu có người lấy bát, mời ngồi rồi cúng dường, thì nên dùng. Nếu (dân làng) để vật thực ở nhà hội rồi đi loanh quanh trên đường phố thông báo: “Bạch Đại đức, xin quý ngài hãy nhận vật thực ở nhà hội”, thì không được phép (nhận theo cách đó).

Atha pana bhattaṃ ādāya tattha tattha gantvā ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti vadanti, paṭikacceva vā vihāraṃ abhiharitvā patirūpe ṭhāne ṭhapetvā āgatāgatānaṃ denti, ayaṃ abhihaṭabhikkhā nāma vaṭṭati. Sace pana bhattasālāya dānaṃ sajjetvā taṃ taṃ pariveṇaṃ pahiṇanti ‘‘bhattasālāya bhattaṃ gaṇhathā’’ti, na vaṭṭati. Ye pana manussā piṇḍacārike bhikkhū disvā āsanasālaṃ sammajjitvā tattha nisīdāpetvā bhojenti, na te paṭikkhipitabbā. Ye pana gāme bhikkhaṃ alabhitvā gāmato nikkhamante bhikkhū disvā ‘‘bhante bhattaṃ gaṇhathā’’ti vadanti, te paṭikkhipitabbā, na vā nivattitabbaṃ. Sace ‘‘nivattatha, bhante, bhattaṃ gaṇhathā’’ti vadanti, ‘‘nivattathā’’ti vuttapade nivattituṃ vaṭṭati. ‘‘Nivattatha bhante, ghare bhattaṃ kataṃ, gāme bhattaṃ kata’’nti vadanti, gehe ca gāme ca bhattaṃ nāma yassa kassaci hotīti nivattituṃ vaṭṭati. ‘‘Nivattatha, bhattaṃ gaṇhathā’’ti sambandhaṃ katvā vadanti, nivattituṃ na vaṭṭati. Āsanasālato piṇḍāya carituṃ nikkhamante disvā ‘‘nisīdatha bhante bhattaṃ gaṇhathā’’ti vuttepi eseva nayo. Niccabhattanti dhuvabhattaṃ vuccati. ‘‘Niccabhattaṃ gaṇhathā’’ti vadanti, bahūnampi ekato gahetuṃ vaṭṭati. Salākabhattādīsupi eseva nayo. Sesamettha uttānameva.
Còn nếu (dân làng) mang vật thực đi đến từng nơi rồi nói: “Xin quý ngài hãy nhận vật thực”, hoặc mang thẳng vật thực đến tu viện từ trước, để ở nơi thích hợp rồi cúng dường cho những vị lần lượt đến, đây gọi là vật thực khất thực được mang đến, thì được phép. Nhưng nếu (dân làng) sửa soạn vật cúng dường ở nhà ăn rồi sai người đến từng khuôn viên riêng (của Tỳ-khưu) nói: “Xin quý ngài hãy đến nhà ăn nhận vật thực”, thì không được phép. Còn những người nào thấy các Tỳ-khưu đi khất thực, liền quét dọn nhà hội, mời các vị ấy ngồi đó rồi cúng dường, thì không nên từ chối họ. Còn những người nào thấy các Tỳ-khưu không nhận được vật thực trong làng đang đi ra khỏi làng, rồi nói: “Bạch Đại đức, xin quý ngài hãy nhận vật thực”, thì nên từ chối họ, hoặc không nên quay lại. Nếu họ nói: “Xin quý ngài hãy quay lại, bạch Đại đức, xin hãy nhận vật thực”, khi nghe từ “hãy quay lại”, thì được phép quay lại. Nếu họ nói: “Xin quý ngài hãy quay lại, bạch Đại đức, vật thực đã được làm ở nhà, vật thực đã được làm ở làng”, vì vật thực ở nhà và ở làng là của bất kỳ ai (cũng có thể có), nên được phép quay lại. Nếu họ nói gộp lại: “Xin quý ngài hãy quay lại, hãy nhận vật thực”, thì không được phép quay lại. Ngay cả khi thấy (các Tỳ-khưu) từ nhà hội đi ra để khất thực, rồi được nói: “Xin quý ngài hãy ngồi xuống, bạch Đại đức, xin hãy nhận vật thực”, cũng theo phương pháp này. “Vật thực thường xuyên” được gọi là vật thực cố định. Nếu họ nói: “Xin quý ngài hãy nhận vật thực thường xuyên”, thì nhiều vị cùng nhau nhận cũng được phép. Đối với vật thực theo thẻ v.v… cũng theo phương pháp này. Phần còn lại ở đây ý nghĩa đã rõ ràng.

Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Cách phát sinh (của tội này, được ví như) lông cừu là: là hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Gaṇabhojanasikkhāpadaṃ dutiyaṃ.

Học giới về việc ăn theo nhóm, điều thứ hai.

3. Paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích học giới về việc ăn nối bữa

221. Tatiyasikkhāpade – na kho idaṃ orakaṃ bhavissati, yathayime manussā sakkaccaṃ bhattaṃ karontīti, yena niyāmena ime manussā sakkaccaṃ bhattaṃ karonti, tena ñāyati – ‘‘idaṃ sāsanaṃ idaṃ vā buddhappamukhe saṅghe dānaṃ na kho orakaṃ bhavissati, parittaṃ lāmakaṃ neva bhavissatī’’ti. Kirapatikoti ettha ‘‘kiro’’ti tassa kulaputtassa nāmaṃ; adhipaccaṭṭhena pana ‘‘kirapatiko’’ti vuccati. So kira issaro adhipati māsautusaṃvaccharaniyāmena vetanaṃ datvā kammakārake kammaṃ kāreti. Badarā paṭiyattāti upacāravasena vadati. Badaramissenāti badarasāḷavena.
221. Trong học giới thứ ba (của phẩm này), “Chắc chắn điều này sẽ không phải là tầm thường, khi những người này chuẩn bị vật thực một cách kính cẩn như vậy” – theo cách thức mà những người này chuẩn bị vật thực một cách kính cẩn, người ta biết rằng: “Giáo pháp này, hoặc sự cúng dường này đến Tăng chúng do Đức Phật dẫn đầu, chắc chắn sẽ không phải là tầm thường, sẽ không bao giờ ít ỏi hay thấp kém”. Ở đây, trong từ “Kirapatika“, “Kira” là tên của vị thiện nam tử đó; còn “Kirapatika” được gọi theo ý nghĩa là người chủ. Tương truyền, vị ấy là người giàu có, là chủ, trả lương theo quy định hàng tháng, hàng mùa, hàng năm rồi sai người làm công làm việc. “Táo đã được chuẩn bị” – (ngài) nói theo cách lịch sự. “Với (cơm) trộn táo” là với cơm canh có táo.

222.Ussūre āhariyitthāti atidivā āhariyittha.
222. “Các vị đã mang đến quá muộn” là các vị đã mang đến quá trưa.

226.Mayhaṃ bhattapaccāsaṃ itthannāmassa dammīti ayaṃ bhattavikappanā nāma sammukhāpi parammukhāpi vaṭṭati. Sammukhā disvā ‘‘tuyhaṃ vikappemī’’ti vatvā bhuñjitabbaṃ, adisvā pañcasu sahadhammikesu ‘‘itthannāmassa vikappemī’’ti vatvā bhuñjitabbaṃ. Mahāpaccariyādīsu pana parammukhāvikappanāva vuttā. Sā cāyaṃ yasmā vinayakammena saṅgahitā, tasmā bhagavato vikappetuṃ na vaṭṭati. Bhagavati hi gandhakuṭiyaṃ nisinnepi saṅghamajjhe nisinnepi saṅghena gaṇappahonake bhikkhū gahetvā taṃ taṃ kammaṃ kataṃ sukatameva hoti, bhagavā neva kammaṃ kopeti; na sampādeti. Na kopeti dhammissarattā, na sampādeti agaṇapūrakattā.
226. “Tôi xin nhường phần vật thực của tôi cho vị tên X” – việc từ bỏ vật thực này được phép thực hiện cả khi có mặt (người nhận) lẫn khi vắng mặt. Khi thấy (người nhận) có mặt, cần phải nói “Tôi xin nhường cho thầy” rồi mới dùng (bữa ăn khác); khi không thấy, cần phải nói với một trong năm người đồng pháp rằng “Tôi xin nhường cho vị tên X” rồi mới dùng. Nhưng trong Mahāpaccari v.v… chỉ nói đến việc từ bỏ khi vắng mặt. Và việc này, vì được bao gồm trong các hành động của Luật, do đó không được phép từ bỏ (vật thực) cho Đức Thế Tôn. Vì dù Đức Thế Tôn đang ngồi trong hương thất hay giữa Tăng chúng, Tăng chúng sau khi chọn những Tỳ-khưu đủ số để thực hiện các Yết-ma, những Yết-ma đó đã được làm thì đều là đã làm tốt đẹp; Đức Thế Tôn không làm hỏng Yết-ma, cũng không làm cho Yết-ma thành tựu (với tư cách là thành viên của Tăng chúng làm Yết-ma). (Ngài) không làm hỏng (Yết-ma) vì là bậc Pháp Vương, không làm cho (Yết-ma) thành tựu vì không phải là người làm đủ số nhóm (cho Yết-ma).

229.Dve tayo nimantane ekato bhuñjatīti dve tīṇi nimantanāni ekapatte pakkhipitvā missetvā ekaṃ katvā bhuñjatīti attho. Dve tīṇi kulāni nimantetvā ekasmiṃ ṭhāne nisīdāpetvā ito cito ca āharitvā bhattaṃ ākiranti, sūpabyañjanaṃ ākiranti, ekamissakaṃ hoti, ettha anāpattīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Sace pana mūlanimantanaṃ heṭṭhā hoti, pacchimaṃ pacchimaṃ upari, taṃ uparito paṭṭhāya bhuñjantassa āpatti. Hatthaṃ pana anto pavesetvā paṭhamanimantanato ekampi kabaḷaṃ uddharitvā bhuttakālato paṭṭhāya yathā tathā vā bhuñjantassa anāpatti. Sacepi tattha khīraṃ vā rasaṃ vā ākiranti, yena ajjhotthataṃ bhattaṃ ekarasaṃ hoti, koṭito paṭṭhāya bhuñjantassa anāpattīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana vuttaṃ – ‘‘khīrabhattaṃ vā rasabhattaṃ vā labhitvā nisinnassa tattheva aññepi khīrabhattaṃ vā rasabhattaṃ vā ākiranti, khīraṃ vā rasaṃ vā pivato anāpatti. Bhuñjantena pana paṭhamaṃ laddhamaṃsakhaṇḍaṃ vā bhattapiṇḍaṃ vā mukhe pakkhipitvā koṭito paṭṭhāya bhuñjituṃ vaṭṭati. Sappipāyāsepi eseva nayo’’ti.
229. “Dùng chung hai ba (phần vật thực từ các lời mời khác nhau)” có nghĩa là bỏ vật thực từ hai ba lời mời vào chung một bát, trộn lại thành một rồi dùng – đó là ý nghĩa. (Nếu) hai ba gia đình mời rồi cho (các Tỳ-khưu) ngồi ở một chỗ, rồi họ mang vật thực từ chỗ này chỗ kia đến dọn lên, dọn canh rau lên, (tất cả) trộn lẫn làm một, ở đây không phạm tội, theo như sách Mahāpaccari nói. Nhưng nếu vật thực từ lời mời ban đầu ở dưới, (vật thực từ) những lời mời sau ở trên, người dùng bắt đầu từ trên xuống thì phạm tội. Nhưng nếu đưa tay vào trong, lấy lên dù chỉ một miếng từ vật thực của lời mời đầu tiên, rồi kể từ lúc đã dùng (miếng đó), dùng (phần còn lại) như thế nào cũng không phạm tội. Ngay cả khi người ta chan sữa hoặc nước canh vào đó, làm cho vật thực bị phủ lên đó trở thành một vị duy nhất, người dùng bắt đầu từ mép (bát) cũng không phạm tội, theo như sách Mahāpaccari nói. Nhưng trong Đại Sớ Giải có nói: “Người đã nhận cơm sữa hoặc cơm canh rồi đang ngồi, nếu những người khác lại chan thêm cơm sữa hoặc cơm canh vào chính chỗ đó, thì người uống sữa hoặc nước canh không phạm tội. Còn người dùng (cơm), sau khi bỏ miếng thịt hoặc vắt cơm đã nhận trước tiên vào miệng, thì được phép dùng bắt đầu từ mép (bát). Đối với cháo sữa bơ cũng theo phương pháp này”.

Mahāupāsako bhikkhuṃ nimanteti, tassa kulaṃ upagatassa upāsakopi tassa puttadārabhātikabhaginiādayopi attano attano koṭṭhāsaṃ āharitvā patte pakkhipanti, upāsakena paṭhamaṃ dinnaṃ abhuñjitvā pacchā laddhaṃ bhuñjantassa ‘‘anāpattī’’ti mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Kurundaṭṭhakathāyaṃ pana vaṭṭatīti vuttaṃ. Mahāpaccariyaṃ ‘‘sace pāṭekkaṃ pacanti, attano attano pakkabhattato āharitvā denti, tattha pacchā āhaṭaṃ paṭhamaṃ bhuñjantassa pācittiyaṃ. Yadi pana sabbesaṃ ekova pāko hoti, paramparabhojanaṃ na hotī’’ti vuttaṃ. Mahāupāsako nimantetvā nisīdāpeti, añño manusso pattaṃ gaṇhāti, na dātabbaṃ. Kiṃ bhante na dethāti? Nanu upāsaka tayā nimantitamhāti! Hotu bhante, laddhaṃ laddhaṃ bhuñjathāti vadati, bhuñjituṃ vaṭṭati. Aññena āharitvā bhatte dinne āpucchitvāpi bhuñjituṃ vaṭṭatīti kurundiyaṃ vuttaṃ.
Một vị đại cư sĩ mời Tỳ-khưu; khi Tỳ-khưu đến gia đình vị ấy, cả vị cư sĩ, con cái, vợ, anh chị em của vị ấy v.v… đều mang phần của mình đến bỏ vào bát; người dùng phần nhận được sau mà không dùng phần do vị cư sĩ (chủ nhà) cúng dường trước tiên, thì “không phạm tội”, theo như Đại Sớ Giải nói. Nhưng trong Kurundaṭṭhakathāyaṃ thì nói là được phép. Trong Mahāpaccari có nói: “Nếu họ nấu riêng, rồi mang vật thực đã nấu của riêng mình đến cúng dường, ở đó người dùng phần mang đến sau trước tiên thì phạm tội Ưng Đối Trị. Nhưng nếu tất cả họ chỉ có một nồi nấu chung, thì không phải là ăn nối bữa”. Vị đại cư sĩ mời rồi cho (Tỳ-khưu) ngồi xuống, (nếu) một người khác (muốn) lấy bát (để cúng dường), không nên đưa. (Nếu người đó hỏi): “Bạch Đại đức, tại sao không đưa?”. (Đáp): “Này cư sĩ, chẳng phải ông đã mời chúng tôi rồi sao!”. Nếu người đó nói: “Thôi được, bạch Đại đức, nhận được gì thì xin quý ngài cứ dùng nấy”, thì được phép dùng. Khi vật thực được người khác mang đến cúng dường, sau khi hỏi ý kiến (người mời ban đầu) rồi dùng cũng được phép, theo như sách Kurundī nói.

Anumodanaṃ katvā gacchantaṃ dhammaṃ sotukāmā ‘‘svepi bhante āgaccheyyāthā’’ti sabbe nimantenti, punadivase āgantvā laddhaṃ laddhaṃ bhuñjituṃ vaṭṭati. Kasmā? Sabbehi nimantitattā. Eko bhikkhu piṇḍāya caranto bhattaṃ labhati, tamañño upāsako nimantetvā ghare nisīdāpeti, na ca tāva bhattaṃ sampajjati. Sace so bhikkhu piṇḍāya caritvā laddhabhattaṃ bhuñjati, āpatti. Abhutvā nisinne ‘‘kiṃ bhante na bhuñjasī’’ti vutte ‘‘tayā nimantitattā’’ti vatvā laddhaṃ laddhaṃ bhuñjatha bhante’’ti vutto bhuñjati, vaṭṭati.
(Tỳ-khưu) sau khi làm lễ tùy hỷ rồi ra đi, những người muốn nghe Pháp mời tất cả (các Tỳ-khưu): “Ngày mai cũng xin mời quý ngài đến”; vào ngày hôm sau, khi đến, nhận được gì thì dùng nấy, đều được phép. Tại sao? Vì đã được tất cả (những người đó) mời. Một Tỳ-khưu đi khất thực nhận được vật thực, một vị cư sĩ khác mời vị ấy rồi cho ngồi ở nhà, nhưng vật thực (do vị cư sĩ đó cúng) vẫn chưa xong. Nếu Tỳ-khưu đó dùng vật thực đã nhận được khi đi khất thực, thì phạm tội. Khi (Tỳ-khưu) ngồi đó mà chưa dùng, được hỏi: “Bạch Đại đức, tại sao không dùng?”, (Tỳ-khưu) đáp: “Vì ông đã mời”, (nếu vị cư sĩ) nói: “Bạch Đại đức, nhận được gì thì xin quý ngài cứ dùng nấy”, rồi (Tỳ-khưu) dùng, thì được phép.

Sakalena gāmenāti sakalena gāmena ekato hutvā nimantitasseva yattha katthaci bhuñjato anāpatti. Pūgepi eseva nayo. Nimantiyamāno bhikkhaṃ gahessāmīti bhaṇatīti ‘‘bhattaṃ gaṇhā’’ti nimantiyamāno ‘‘na mayhaṃ tava bhattenattho, bhikkhaṃ gaṇhissāmī’’ti vadati. Ettha pana mahāpadumatthero āha – ‘‘evaṃ vadanto imasmiṃ sikkhāpade animantanaṃ kātuṃ sakkoti, bhuñjanatthāya pana okāso kato hotīti neva gaṇabhojanato na cārittato muccatī’’ti. Mahāsumatthero āha – ‘‘yadaggena animantanaṃ kātuṃ sakkoti, tadaggena neva gaṇabhojanaṃ na cārittaṃ hotī’’ti. Sesaṃ uttānameva.
Bởi toàn thể làng” – chỉ người được toàn thể làng cùng nhau mời, dùng ở bất cứ đâu cũng không phạm tội. Đối với hội chúng cũng theo phương pháp này. “Khi được mời, nói rằng ‘Tôi sẽ nhận vật thực khất thực’” có nghĩa là khi được mời “Xin hãy nhận vật thực”, vị ấy nói: “Tôi không cần dùng vật thực của ông, tôi sẽ nhận vật thực khất thực”. Nhưng ở đây, Đại Trưởng lão Mahāpaduma nói: “Người nói như vậy, trong học giới này, có thể làm cho (lời mời đó) thành không phải là lời mời (ăn theo nhóm), nhưng cơ hội để dùng bữa thì đã được tạo ra, do đó không thoát khỏi (tội) ăn theo nhóm cũng như (tội) ăn sai thời”. Đại Trưởng lão Mahāsuma nói: “Đến mức độ nào có thể làm cho (lời mời đó) thành không phải là lời mời (ăn theo nhóm), thì đến mức độ đó cũng không phải là ăn theo nhóm hay ăn sai thời”. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Kathinasamuṭṭhānaṃ – kāyavācato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyākiriyaṃ ettha hi bhojanaṃ kiriyā, avikappanaṃ akiriyā, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Cách phát sinh (của tội này, được gọi là) Kaṭhinasamuṭṭhāna là: phát sinh từ thân và lời, và từ thân, lời cùng với tâm; là hành động và không hành động – ở đây việc dùng bữa là hành động, việc không từ bỏ (bữa ăn trước) là không hành động; không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Paramparabhojanasikkhāpadaṃ tatiyaṃ.

Học giới về việc ăn nối bữa, điều thứ ba.

4. Kāṇamātāsikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích học giới về (bà) Kāṇamātā

230. Catutthasikkhāpade – kāṇamātāti kāṇāya mātā. Sā kirassā dhītā abhirūpā ahosi, ye ye taṃ passanti, te te rāgena kāṇā honti, rāgandhā hontīti attho. Tasmā paresaṃ kāṇabhāvakaraṇato ‘‘kāṇā’’ti vissutā ahosi. Tassā vasena mātāpissā ‘‘kāṇamātā’’ti pākaṭā jātā. Āgatanti āgamanaṃ. Kismiṃ viyāti kīdisaṃ viya; lajjanakaṃ viya hotīti adhippāyo. Rittahatthaṃ gantunti rittā hatthā asmiṃ gamane tadidaṃ rittahatthaṃ, taṃ rittahatthaṃ gamanaṃ gantuṃ lajjanakaṃ viya hotīti vuttaṃ hoti. Parikkhayaṃ agamāsīti upāsikā ariyasāvikā bhikkhū disvā santaṃ adātuṃ na sakkoti, tasmā tāva dāpesi, yāva sabbaṃ parikkhayaṃ agamāsi. Dhammiyā kathāyāti ettha kāṇāpi mātu atthāya desiyamānaṃ dhammaṃ suṇantī desanāpariyosāne sotāpannā ahosi. Uṭṭhāyāsanā pakkāmīti āsanato uṭṭhahitvā gato. Sopi puriso ‘‘satthā kira kāṇamātāya nivesanaṃ agamāsī’’ti sutvā kāṇaṃ ānetvā pakatiṭṭhāneyeva ṭhapesi.
230. Trong học giới thứ tư (của phẩm này), “Kāṇamātā” là mẹ của (cô) Kāṇā. Tương truyền, người con gái của bà ấy rất xinh đẹp; những ai nhìn thấy cô ấy, đều bị lòng tham ái làm cho mờ mắt, có nghĩa là bị mù quáng vì tham ái. Do đó, vì làm cho người khác bị mờ mắt, cô ấy nổi tiếng với tên gọi “Kāṇā” (Người làm cho mờ mắt). Do cô ấy mà mẹ của cô cũng trở nên nổi tiếng với tên gọi “Kāṇamātā” (Mẹ của Kāṇā). “Sự đến” là việc đến. “Giống như thế nào?” là giống như cái gì; ý muốn nói là giống như điều đáng xấu hổ. “Đi tay không” – tay không trong chuyến đi này, đó là “tay không”; được nói là việc đi tay không đó giống như điều đáng xấu hổ. “Đã đi đến chỗ cạn kiệt” – vị nữ cư sĩ, vị Thánh đệ tử nữ, khi thấy các Tỳ-khưu, không thể không cúng dường những gì mình có, do đó bà đã cho cúng dường cho đến khi tất cả đều cạn kiệt. Ở đây, trong câu “Bằng pháp thoại“, (cô) Kāṇā cũng, khi nghe Pháp được thuyết vì lợi ích của mẹ, lúc pháp thoại kết thúc đã là bậc Tu-đà-hoàn. “Đứng dậy khỏi chỗ ngồi rồi ra đi” là sau khi đứng dậy khỏi chỗ ngồi rồi đi. Người đàn ông đó cũng, sau khi nghe “Tương truyền, Đức Đạo Sư đã đến nhà của Kāṇamātā”, đã mang (vật phẩm) bị chột đến rồi đặt lại chính ở chỗ cũ.

231. Imasmiṃ pana vatthusmiṃ uppannamatte appaññatteyeva sikkhāpade pātheyyavatthu udapādi, tasmā anantarameva cetaṃ dassetuṃ ‘‘tena kho pana samayenā’’tiādi vuttaṃ. Sopi ca upāsako ariyasāvakattā sabbameva dāpesi. Tena vuttaṃ – ‘‘parikkhayaṃ agamāsī’’ti.
231. Nhưng ngay khi câu chuyện này vừa khởi lên, lúc học giới chưa được chế định, câu chuyện về vật thực dùng đường đã phát sinh, do đó, để trình bày ngay điều này, (Pāḷi) nói bắt đầu bằng “Vào lúc bấy giờ“. Vị cư sĩ đó cũng, do là Thánh đệ tử, đã cho cúng dường tất cả. Do đó đã nói: “Đã đi đến chỗ cạn kiệt”.

233.Yaṃkiñci paheṇakatthāyāti paṇṇākāratthāya paṭiyattaṃ yaṃkiñci atirasakamodakasakkhalikādi sabbaṃ idha pūvotveva saṅkhyaṃ gacchati Yaṃkiñcipātheyyatthāyāti maggaṃ gacchantānaṃ antarāmaggatthāya paṭiyattaṃ yaṃkiñci baddhasattuabaddhasattutilataṇḍulādi sabbaṃ idha manthotveva saṅkhyaṃ gacchati Tato ce uttarinti sacepi tatiyaṃ pattaṃ thūpīkataṃ gaṇhāti, pūvagaṇanāya pācittiyaṃ.
233. “Bất cứ thứ gì để làm quà gửi đi” – bất cứ thứ gì như bánh ngọt đặc biệt, bánh modaka, bánh sakkhalikā v.v… được chuẩn bị để làm quà biếu, tất cả ở đây đều được kể là “bánh”. “Bất cứ thứ gì để làm vật thực dùng đường” – bất cứ thứ gì như bột rang đã nắm, bột rang chưa nắm, mè, gạo v.v… được chuẩn bị để (ăn) dọc đường cho những người đi đường, tất cả ở đây đều được kể là “bột rang”. “Nếu quá mức đó” – nếu nhận đến bát thứ ba đầy vun ngọn, thì phạm tội Ưng Đối Trị theo số lượng bánh (đã nhận quá mức).

Dvattipattapūre paṭiggahetvāti mukhavaṭṭiyā heṭṭhimalekhāya samapūre patte gahetvā. Amutra mayā dvattipattapūrāti ettha sace dve gahitā, ‘‘atra mayā dve pattapūrā paṭiggahitā, tvaṃ ekaṃ gaṇheyyāsī’’ti vattabbaṃ. Tenāpi aññaṃ passitvā ‘‘paṭhamaṃ āgatena dve pattapūrā gahitā, mayā eko, mā tvaṃ gaṇhī’’ti vattabbaṃ. Yena paṭhamaṃ eko gahito, tassāpi paramparārocane eseva nayo. Yena pana sayameva tayo gahitā, tena aññaṃ disvā ‘‘mā kho ettha paṭiggaṇhi’’ cceva vattabbaṃ. Paṭikkamanaṃ nīharitvāti āsanasālaṃ haritvā, āsanasālaṃ gacchantena ca chaḍḍitasālā na gantabbā. Yattha mahā bhikkhusaṅgho nisīdati, tattha gantabbaṃ. Mahāpaccariyaṃ pana vuttaṃ ‘‘yā laddhaṭṭhānato āsannā āsanasālā, tattha gantabbaṃ. Attano ‘sandiṭṭhānaṃ vā sambhattānaṃ vā ekanikāyikānaṃ vā dassāmī’ti aññattha gantuṃ na labbhati. Sace panassa nibaddhanisīdanaṭṭhānaṃ hoti, dūrampi gantuṃ vaṭṭatī’’ti.
Sau khi nhận hai ba bát đầy” có nghĩa là sau khi nhận những bát đầy ngang với vạch dưới của vành miệng bát. Ở đây, trong câu “Ở đó, tôi đã (nhận) hai ba bát đầy“, nếu đã nhận hai (bát), cần phải nói: “Ở đây, tôi đã nhận hai bát đầy, thầy hãy nhận một bát”. Vị ấy cũng, sau khi thấy người khác, cần phải nói: “Người đến trước đã nhận hai bát đầy, tôi (nhận) một, thầy đừng nhận nữa”. Người nào trước tiên nhận một (bát), đối với việc thông báo nối tiếp của vị ấy cũng theo phương pháp này. Còn người nào đã nhận ba (bát) như vậy, vị ấy sau khi thấy người khác, chỉ cần nói: “Xin đừng nhận ở đây nữa”. “Sau khi mang về nơi nghỉ” là sau khi mang đến nhà hội, và người đi đến nhà hội thì không được đến nhà hội đã bị bỏ trống. Cần phải đến nơi Tăng chúng đông đảo ngồi. Nhưng trong Mahāpaccari có nói: “Nhà hội nào gần nơi đã nhận (vật thực), cần phải đến đó. Không được phép đi nơi khác với ý nghĩ ‘Tôi sẽ cho những người quen biết, hoặc bạn bè, hoặc những người cùng bộ phái của mình’. Nhưng nếu vị ấy có chỗ ngồi cố định, dù xa cũng được phép đi”.

Saṃvibhajitabbanti sace tayo pattapūrā gahitā, ekaṃ attano ṭhapetvā dve bhikkhusaṅghassa dātabbā. Sacce dve gahitā, ekaṃ attano ṭhapetvā eko saṅghassa dātabbo, yathāmittaṃ pana dātuṃ na labbhati. Yena eko gahito, na tena kiñci akāmā dātabbaṃ, yathāruci kātabbaṃ.
Cần phải chia sớt” – nếu đã nhận ba bát đầy, cần phải giữ lại một phần cho mình, hai phần dâng cho Tăng chúng. Nếu đã nhận hai (bát), cần phải giữ lại một phần cho mình, một phần dâng cho Tăng chúng; nhưng không được phép cho theo tình bạn. Người nào nhận một (bát), vị ấy không cần phải cho bất cứ thứ gì nếu không muốn, có thể làm tùy ý.

235.Gamane paṭippassaddheti antarāmagge upaddavaṃ vā disvā anatthikatāya vā ‘‘mayaṃ idāni na pesissāma, na gamissāmā’’ti evaṃ gamane paṭippassaddhe upacchinne. Ñātakānaṃ pavāritānanti etesaṃ bahumpi dentānaṃ paṭiggaṇhantassa anāpatti. Aṭṭhakathāsu pana ‘‘tesampi pātheyyapaheṇakatthāya paṭiyattato pamāṇameva vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Sesaṃ uttānameva.
235. “Khi chuyến đi bị đình chỉ” có nghĩa là khi thấy có trở ngại trên đường, hoặc do không có nhu cầu, chuyến đi bị đình chỉ, bị hủy bỏ với ý nghĩ “Bây giờ chúng ta sẽ không gửi (quà), sẽ không đi”. “Của những người thân, những người đã thỉnh mời” – người nhận dù (họ) cúng dường nhiều cũng không phạm tội. Nhưng trong các sớ giải có nói: “Đối với họ cũng vậy, từ những gì được chuẩn bị để làm vật thực dùng đường hoặc quà gửi đi, chỉ được phép (nhận) đúng số lượng (quy định)”. Phần còn lại ý nghĩa đã rõ ràng.

Chasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Tội này có) sáu cách phát sinh: là hành vi, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Kāṇamātāsikkhāpadaṃ catutthaṃ.

Học giới về (bà) Kāṇamātā, điều thứ tư.

5. Paṭhamapavāraṇasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích học giới về sự từ chối (vật thực) thứ nhất

236. Pañcamasikkhāpade – bhikkhū bhuttāvī pavāritāti brāhmaṇena ‘‘gaṇhatha, bhante, yāva icchathā’’ti evaṃ yāvadatthapavāraṇāya, sayañca ‘‘alaṃ, āvuso, thokaṃ thokaṃ dehī’’ti evaṃ paṭikkhepapavāraṇāya pavāritā. Paṭivissaketi sāmantagharavāsike.
236. Trong học giới thứ năm (của phẩm này), “Các Tỳ-khưu đã dùng bữa và đã từ chối” – (họ) đã được vị Bà-la-môn cho phép dùng tùy theo nhu cầu rằng: “Bạch Đại đức, xin quý ngài hãy dùng cho đến khi nào muốn”, và tự mình cũng đã từ chối bằng cách khước từ rằng: “Đủ rồi, thưa hiền giả, xin hãy cho một chút một chút thôi”. “Người láng giềng” là người ở nhà gần bên.

237.Kākoravasaddanti kākānaṃ oravasaddaṃ; sannipatitvā viravantānaṃ saddaṃ. Alametaṃ sabbanti ettha tikāraṃ avatvāva ‘‘alametaṃ sabbaṃ’’ ettakaṃ vattuṃ vaṭṭati.
237. “Tiếng kêu của quạ” là tiếng kêu thấp của quạ; tiếng kêu của chúng khi tụ tập lại. Ở đây, trong câu “Tất cả cái này là đủ“, được phép chỉ nói chừng đó “Tất cả cái này là đủ” mà không cần nói đến chữ “ti”.

238-9.Bhuttāvīti bhuttavā. Tattha ca yasmā yena ekampi sitthaṃ saṅkhāditvā vā asaṅkhāditvā vā ajjhoharitaṃ hoti, so ‘‘bhuttāvī’’ti saṅkhyaṃ gacchati , tenassa padabhājane ‘‘bhuttāvī nāma pañcannaṃ bhojanāna’’ntiādi vuttaṃ. Pavāritoti katapavāraṇo, katapaṭikkhepo. Sopi ca yasmā na paṭikkhepamattena, atha kho pañcaṅgavasena, tenassa padabhājane ‘‘pavārito nāma asanaṃ paññāyatī’’tiādi vuttaṃ. Tattha yasmā ‘‘asanaṃ paññāyatī’’ti iminā vippakatabhojano, ‘‘pavārito’’ti vutto. Yo ca vippakatabhojano, tena kiñci bhuttaṃ, kiñci abhuttaṃ, yañca bhuttaṃ; taṃ sandhāya ‘‘bhuttāvī’’tipi saṅkhyaṃ gacchati , tasmā bhuttāvīvacanena visuṃ kañci atthasiddhiṃ na passāma. ‘‘Dirattatirattaṃ, chappañcavācāhī’’tiādīsu (pāci. 61-62) pana dirattādivacanaṃ viya pavāritapadassa parivārakabhāvena byañjanasiliṭṭhatāya cetaṃ vuttanti veditabbaṃ.
238-9. “Người đã dùng bữa” là người đã ăn. Và ở đó, vì người nào đã nuốt vào dù chỉ một hạt cơm, dù nhai hay không nhai, cũng được kể là “người đã dùng bữa”, do đó, trong phần phân tích từ của học giới này, đã nói bắt đầu bằng: “Người đã dùng bữa là (người đã dùng một trong) năm loại vật thực chính…”. “Người đã từ chối” là người đã thực hiện sự từ chối, đã thực hiện sự khước từ. Và người đó cũng vậy, vì (sự từ chối) không chỉ đơn thuần là khước từ, mà là theo năm yếu tố, do đó, trong phần phân tích từ của học giới này, đã nói bắt đầu bằng: “Người đã từ chối là (khi) thức ăn được bày ra…”. Ở đó, vì bằng câu “thức ăn được bày ra”, (người đó là) người đang dùng bữa dở dang, nên được gọi là “người đã từ chối”. Và người đang dùng bữa dở dang, vị ấy đã dùng một ít, chưa dùng một ít; và phần đã dùng đó, nhắm đến điều đó mà cũng được kể là “người đã dùng bữa”; do đó, chúng tôi không thấy có sự thành tựu ý nghĩa nào riêng biệt qua từ “người đã dùng bữa” (ngoài ý nghĩa đã được bao hàm trong “người đã từ chối” theo năm yếu tố). Nhưng trong những trường hợp như “hai ba đêm”, “bằng sáu hay năm lời” v.v… (pāci. 61-62), cần hiểu rằng từ “người đã dùng bữa” này được nói đến như là từ phụ thuộc vào từ “người đã từ chối” và để cho văn tự được trôi chảy, giống như các từ “hai đêm” v.v…

Asanaṃ paññāyatītiādīsu vippakatabhojanaṃ dissati, bhuñjamāno ceso puggalo hotīti attho. Bhojanaṃ paññāyatīti pavāraṇappahonakabhojanaṃ dissati. Odanādīnaṃ ce aññataraṃ paṭikkhipitabbaṃ bhojanaṃ hotīti attho. Hatthapāse ṭhitoti pavāraṇappahonakaṃ bhojanaṃ gaṇhitvā dāyako aḍḍhateyyahatthappamāṇe okāse hotīti attho. Abhiharatīti so ce dāyako tassa taṃ bhattaṃ kāyena abhiharatīti attho. Paṭikkhepo paññāyatīti paṭikkhepo dissati; tañce abhihaṭaṃ so bhikkhu kāyena vā vācāya vā paṭikkhipatīti attho. Evaṃ pañcannaṃ aṅgānaṃ vasena pavārito nāma hotīti. Vuttampi cetaṃ –
Trong những câu như “Thức ăn được bày ra” v.v…, có nghĩa là thấy có bữa ăn đang dở dang, và người đó là người đang dùng bữa. “Vật thực được bày ra” có nghĩa là thấy có vật thực đủ để từ chối. Có nghĩa là đó là một trong các loại vật thực như cơm v.v… có thể từ chối được. “Người (thí chủ) đứng trong tầm tay” có nghĩa là người thí chủ cầm vật thực đủ để từ chối, đứng ở trong khoảng cách chừng hai thước rưỡi. “Đang dâng đến” có nghĩa là nếu người thí chủ đó đang dùng thân để dâng vật thực đó cho vị ấy (Tỳ-khưu). “Sự khước từ được thấy rõ” có nghĩa là sự khước từ được thấy rõ; có nghĩa là nếu Tỳ-khưu đó dùng thân hoặc lời để khước từ vật thực đang được dâng đến đó. Như vậy, do năm yếu tố đó mà gọi là người đã từ chối. Điều này cũng đã được nói:

‘‘Pañcahi upāli ākārehi pavāraṇā paññāyati – asanaṃ paññāyati, bhojanaṃ paññāyati, hatthapāse ṭhito, abhiharati, paṭikkhepo paññāyatī’’ti (pari. 428).
“Này Upāli, sự từ chối được biết đến qua năm cách: thức ăn được bày ra, vật thực được bày ra, người (thí chủ) đứng trong tầm tay, đang dâng đến, sự khước từ được thấy rõ.” (pari. 428).

Tatrāyaṃ vinicchayo – ‘‘asana’’ntiādīsu tāva yañca asnāti yañca bhojanaṃ hatthapāse ṭhitena abhihaṭaṃ paṭikkhipati, taṃ ‘‘odano, kummāso, sattu, maccho, maṃsa’’nti imesaṃ aññatarameva veditabbaṃ. Tattha odano nāma – sāli, vīhi, yavo, godhumo, kaṅgu, varako, kudrūsakoti sattannaṃ dhaññānaṃ taṇḍulehi nibbatto. Tattha ‘‘sālī’’ti antamaso nīvāraṃ upādāya sabbāpi sālijāti. ‘‘Vīhī’’ti sabbāpi vīhijāti. ‘‘Yavagodhumesu’’ bhedo natthi. ‘‘Kaṅgū’’ti setarattakāḷabhedā sabbāpi kaṅgujāti. ‘‘Varako’’ti antamaso varakacorakaṃ upādāya sabbā setavaṇṇā varakajāti. ‘‘Kudrūsako’’ti kāḷako dravo ceva sāmākādibhedā ca sabbāpi tiṇadhaññajāti.
Đây là phần quyết định về điều đó: trong những từ như “thức ăn” v.v…, trước hết, cái mà vị ấy ăn và vật thực mà vị ấy khước từ khi được người đứng trong tầm tay dâng đến, cần được hiểu chính là một trong những thứ này: “cơm, bánh kummāsa, bột rang, cá, thịt”. Ở đó, cơm là (cơm) được nấu từ gạo của bảy loại ngũ cốc: gạo sāli, gạo vīhi, đại mạch, tiểu mạch, kê kaṅgu, kê varaka, kê kudrūsaka. Ở đó, “gạo sāli” là tất cả các loại gạo sāli, cho đến cả lúa hoang. “Gạo vīhi” là tất cả các loại gạo vīhi. “Trong đại mạch và tiểu mạch” không có sự phân biệt (nhiều loại). “Kê kaṅgu” là tất cả các loại kê kaṅgu, phân biệt theo màu trắng, đỏ, đen. “Kê varaka” là tất cả các loại kê varaka có màu trắng, cho đến cả cỏ varakacoraka. “Kê kudrūsaka” là loại lúa nước màu đen và các loại như lúa sāmāka v.v…, tất cả các loại ngũ cốc từ cỏ.

Nīvāravarakacorakā cettha ‘‘dhaññānulomā’’ti vadanti. Dhaññāni vā hontu dhaññānulomāni vā, etesaṃ vuttappabhedānaṃ sattannaṃ dhaññānaṃ taṇḍule gahetvā ‘‘bhattaṃ pacissāmā’’ti vā ‘‘yāguṃ pacissāmā’’ti vā ‘‘ambilapāyāsādīsu aññataraṃ pacissāmā’’ti vā yaṃkiñci sandhāya pacantu, sace uṇhaṃ sītalaṃ vā bhuñjantānaṃ bhojanakāle gahitagahitaṭṭhāne odhi paññāyati, odanasaṅgahameva gacchati , pavāraṇaṃ janeti. Sace odhi na paññāyati, yāgusaṅgahaṃ gacchati , pavāraṇaṃ na janeti.
Ở đây, lúa hoang, cỏ varakacoraka được gọi là “tương tự ngũ cốc”. Dù là ngũ cốc hay tương tự ngũ cốc, người ta lấy gạo của bảy loại ngũ cốc đã nói trên, rồi nấu nhắm đến bất cứ thứ gì, dù với ý nghĩ “Chúng ta sẽ nấu cơm”, hoặc “Chúng ta sẽ nấu cháo”, hoặc “Chúng ta sẽ nấu một trong các món như cháo chua, cháo sữa v.v…”, nếu vào lúc dùng bữa, dù nóng hay nguội, ở chỗ nào lấy lên cũng thấy có phần đặc, thì nó được xếp vào loại cơm, và làm phát sinh sự từ chối. Nếu không thấy có phần đặc, thì nó được xếp vào loại cháo, và không làm phát sinh sự từ chối.

Yopi pāyāso vā paṇṇaphalakaḷīramissakā ambilayāgu vā uddhanato otāritamattā abbhuṇhā hoti, āvajjitvā pivituṃ sakkā, hatthena gahitokāsepi odhiṃ na dasseti, pavāraṇaṃ na janeti. Sace pana usumāya vigatāya sītalībhūtā ghanabhāvaṃ gacchati , odhiṃ dasseti, puna pavāraṇaṃ janeti. Pubbe tanubhāvo na rakkhati. Sacepi dadhitakkādīni āropetvā bahupaṇṇaphalakaḷīre pakkhipitvā muṭṭhimattāpi taṇḍulā pakkhittā honti, bhojanakāle ce odhi paññāyati, pavāraṇaṃ janeti. Ayāguke nimantane ‘‘yāguṃ dassāmā’’ti bhatte udakakañjikakhīrādīni ākiritvā ‘‘yāguṃ gaṇhathā’’ti denti. Kiñcāpi tanukā honti, pavāraṇaṃ janetiyeva . Sace pana pakkuthitesu udakādīsu pakkhipitvā pacitvā denti, yāgusaṅgahameva gacchati . Yāgusaṅgahaṃ gatepi tasmiṃ vā aññasmiṃ vā yattha macchamaṃsaṃ pakkhipanti, sace sāsapamattampi macchamaṃsakhaṇḍaṃ vā nhāru vā paññāyati, pavāraṇaṃ janeti.
Ngay cả cháo sữa, hoặc cháo chua trộn lá, quả, măng, vừa mới nhắc xuống khỏi bếp còn rất nóng, có thể nghiêng (bát) để uống được, và ngay cả ở chỗ lấy bằng tay cũng không thấy có phần đặc, thì không làm phát sinh sự từ chối. Nhưng nếu sau khi hết hơi nóng, nó nguội đi rồi trở nên đặc lại, thấy có phần đặc, thì lại làm phát sinh sự từ chối. Tình trạng loãng trước đó không giữ được (tính chất không gây pavāraṇā). Ngay cả khi cho sữa chua, sữa bơ v.v… vào, bỏ nhiều lá, quả, măng, và dù chỉ bỏ vào một nắm gạo, nếu vào lúc dùng bữa mà thấy có phần đặc, thì làm phát sinh sự từ chối. Trong lời mời không phải cháo, (nếu người ta) nói “Chúng tôi sẽ dâng cháo” rồi chan nước, nước cơm, sữa v.v… vào cơm rồi dâng với lời “Xin quý ngài hãy dùng cháo”. Dù (món đó) loãng, vẫn làm phát sinh sự từ chối. Nhưng nếu họ bỏ (gạo) vào nước v.v… đang sôi rồi nấu và dâng, thì nó được xếp vào loại cháo. Ngay cả khi đã được xếp vào loại cháo, nếu người ta bỏ cá thịt vào món đó hoặc món khác, nếu thấy dù chỉ một miếng cá, thịt hoặc gân nhỏ như hạt cải, thì làm phát sinh sự từ chối.

Suddharasako pana rasakayāgu vā na janeti. Ṭhapetvā vuttadhaññānaṃ taṇḍule aññehi veṇutaṇḍulādīhi vā kandamūlaphalehi vā yehi kehici kataṃ bhattampi pavāraṇaṃ na janeti, pageva ghanayāgu. Sace panettha macchamaṃsaṃ pakkhipanti, janeti. Mahāpaccariyaṃ ‘‘pupphaatthāya bhattampi pavāraṇaṃ janetī’’ti vuttaṃ. Pupphiatthāya bhattaṃ nāma pupphikhajjakatthāya kuthitatūdake pakkhipitvā seditataṇḍulā vuccanti. Sace pana te taṇḍule sukkhāpetvā khādanti, vaṭṭati; neva sattusaṅkhyaṃ na bhattasaṅkhyaṃ gacchanti. Puna tehi katabhattaṃ pavāretiyeva. Te taṇḍule sappitelādīsu vā pacanti, pūvaṃ vā karonti, na pavārenti. Puthukā vā tāhi katasattubhattādīni vā na pavārenti.
Nhưng nước cốt thịt thuần túy hoặc cháo nấu bằng nước cốt thịt thì không làm phát sinh sự từ chối. Ngoại trừ gạo của các loại ngũ cốc đã nói, cơm nấu bằng những thứ khác như gạo tre v.v…, hoặc bằng củ, rễ, quả, bất cứ thứ gì, cũng không làm phát sinh sự từ chối, huống nữa là cháo đặc. Nhưng nếu ở đây người ta bỏ cá thịt vào, thì làm phát sinh (sự từ chối). Trong Mahāpaccari có nói: “Cơm làm từ gạo để làm bánh hoa cũng làm phát sinh sự từ chối”. “Cơm làm từ gạo để làm bánh hoa” được gọi là gạo đã được ngâm trong nước sôi rồi hấp chín để làm bánh hoa. Nhưng nếu người ta phơi khô gạo đó rồi ăn, thì được phép; chúng không được xếp vào loại bột rang cũng không vào loại cơm. Cơm nấu lại bằng gạo đó thì vẫn làm phát sinh sự từ chối. (Nếu) người ta nấu gạo đó với bơ, dầu v.v…, hoặc làm bánh, thì không làm phát sinh sự từ chối. Cốm, hoặc bột rang, cơm v.v… làm bằng những thứ đó (gạo đã hấp rồi phơi khô?) thì không làm phát sinh sự từ chối.

Kummāso nāma yavehi katakummāso. Aññehi pana muggādīhi katakummāso pavāraṇaṃ na janeti. Sattu nāma sālivīhiyavehi katasattu. Kaṅguvarakakudrūsakasīsānipi bhajjitvā īsakaṃ koṭṭetvā thuse palāpetvā puna daḷhaṃ koṭṭetvā cuṇṇaṃ karonti. Sacepi taṃ allattā ekābaddhaṃ hoti, sattusaṅgahameva gacchati . Kharapākabhajjitānaṃ vīhīnaṃ taṇḍule koṭṭetvā denti, tampi cuṇṇaṃ sattusaṅgahameva gacchati . Samapākabhajjitānaṃ pana vīhīnaṃ vā vīhipalāpānaṃ vā taṇḍulā bhajjitataṇḍulā eva vā na pavārenti. Tesaṃ pana taṇḍulādīnaṃ cuṇṇaṃ pavāreti. Kharapākabhajjitānaṃ vīhīnaṃ kuṇḍakampi pavāreti. Samapākabhajjitānaṃ pana ātapasukkhānaṃ vā kuṇḍakaṃ na pavāreti. Lājā vā tehi katabhattasattuādīni vā na pavārenti. Bhajjitapiṭṭhaṃ vā yaṃkiñci suddhakhajjakaṃ vā na pavāreti. Macchamaṃsapūritakhajjakaṃ pana sattumodako vā pavāreti. Maccho maṃsañca pākaṭameva. Ayaṃ pana viseso – sacepi yāguṃ pivantassa yāgusitthamattāneva dve macchakhaṇḍāni vā maṃsakhaṇḍāni vā ekabhājane vā nānābhājane vā denti, tāni ce akhādanto aññaṃ yaṃkiñci pavāraṇappahonakaṃ paṭikkhipati , na pavāreti. Tato ekaṃ khāditaṃ, ekaṃ hatthe vā patte vā hoti, so ce aññaṃ paṭikkhipati, pavāreti. Dvepi khāditāni honti, mukhe sāsapamattampi avasiṭṭhaṃ natthi, sacepi aññaṃ paṭikkhipati, na pavāreti.
Bánh kummāsa” là bánh kummāsa làm bằng đại mạch. Còn bánh kummāsa làm bằng các loại đậu xanh v.v… khác thì không làm phát sinh sự từ chối. “Bột rang” là bột rang làm bằng gạo sāli, gạo vīhi, đại mạch. Đầu của các loại kê kaṅgu, varaka, kudrūsaka cũng được rang lên, giã sơ, sàng sảy trấu, rồi lại giã kỹ và làm thành bột. Ngay cả khi bột đó do còn ẩm mà kết lại thành một khối, nó vẫn được xếp vào loại bột rang. Người ta giã gạo của lúa đã rang kỹ rồi dâng, bột đó cũng được xếp vào loại bột rang. Nhưng gạo của lúa đã rang vừa chín, hoặc trấu lúa, hoặc chính gạo rang thì không làm phát sinh sự từ chối. Nhưng bột của các loại gạo đó v.v… thì làm phát sinh sự từ chối. Tấm cám của lúa đã rang kỹ cũng làm phát sinh sự từ chối. Nhưng tấm cám của (lúa) đã rang vừa chín hoặc phơi nắng khô thì không làm phát sinh sự từ chối. Bỏng, hoặc cơm, bột rang v.v… làm bằng bỏng thì không làm phát sinh sự từ chối. Bột đã rang hoặc bất kỳ loại bánh thuần túy nào cũng không làm phát sinh sự từ chối. Nhưng bánh có nhân cá thịt, hoặc bánh modaka bằng bột rang thì làm phát sinh sự từ chối. Cá và thịt thì đã rõ ràng. Nhưng đây là điểm khác biệt: ngay cả khi người ta dâng cho người đang uống cháo chỉ hai miếng cá hoặc hai miếng thịt nhỏ như hạt cơm lẫn trong cháo, dù trong một bát hay nhiều bát, nếu vị ấy không ăn những miếng đó mà khước từ một vật gì khác đủ để từ chối, thì không (phát sinh sự) từ chối. Sau đó, nếu đã ăn một miếng, còn một miếng ở trên tay hoặc trong bát, nếu vị ấy khước từ một vật khác, thì (phát sinh sự) từ chối. Nếu cả hai miếng đều đã được ăn, trong miệng không còn sót lại dù chỉ bằng hạt cải, ngay cả khi vị ấy khước từ một vật khác, cũng không (phát sinh sự) từ chối.

Kappiyamaṃsaṃ khādanto kappiyamaṃsaṃ paṭikkhipati, pavāreti. Kappiyamaṃsaṃ khādanto akappiyamaṃsaṃ paṭikkhipati, na pavāreti. Kasmā? Avatthutāya. Yañhi bhikkhuno khādituṃ vaṭṭati, taṃyeva paṭikkhipato pavāraṇā hoti. Idaṃ pana jānanto akappiyattā paṭikkhipati, ajānantopi paṭikkhipitabbaṭṭhāne ṭhitameva paṭikkhipati nāma, tasmā na pavāreti. Sace pana akappiyamaṃsaṃ khādanto kappiyamaṃsaṃ paṭikkhipati, pavāreti. Kasmā? Vatthutāya. Yañhi tena paṭikkhittaṃ, taṃ pavāraṇāya vatthu. Yaṃ pana khādati, taṃ kiñcāpi paṭikkhipitabbaṭṭhāne ṭhitaṃ, khādiyamānaṃ pana maṃsabhāvaṃ na jahati, tasmā pavāreti. Akappiyamaṃsaṃ khādanto akappiyamaṃsaṃ paṭikkhipati, purimanayeneva na pavāreti. Kappiyamaṃsaṃ vā akappiyamaṃsaṃ vā khādanto pañcannaṃ bhojanānaṃ yaṃkiñci kappiyabhojanaṃ paṭikkhipati, pavāreti. Kuladūsakavejjakammauttarimanussadhammārocanasāditarūpiyādīhi nibbattaṃ buddhapaṭikuṭṭhaṃ anesanāya uppannaṃ akappiyabhojanaṃ paṭikkhipati, na pavāreti. Kappiyabhojanaṃ vā akappiyabhojanaṃ vā bhuñjantopi kappiyabhojanaṃ paṭikkhipati, pavāreti. Akappiyabhojanaṃ paṭikkhipati, na pavāretīti sabbattha vuttanayeneva kāraṇaṃ veditabbaṃ.
Người đang ăn thịt hợp lệ (kappiyamaṃsa) mà khước từ thịt hợp lệ, thì (phát sinh sự) từ chối (pavāraṇā). Người đang ăn thịt hợp lệ mà khước từ thịt không hợp lệ (akappiyamaṃsa), thì không (phát sinh sự) từ chối. Tại sao? Vì không phải là đối tượng (để từ chối hợp lệ). Vì Tỳ-khưu chỉ được phép ăn thứ gì, thì việc khước từ chính thứ đó mới (làm phát sinh sự) từ chối. Còn thứ này (thịt không hợp lệ), (nếu) biết là không hợp lệ mà khước từ, hoặc dù không biết cũng là khước từ cái vốn nằm trong trường hợp phải bị khước từ, do đó không (phát sinh sự) từ chối. Nhưng nếu đang ăn thịt không hợp lệ mà khước từ thịt hợp lệ, thì (phát sinh sự) từ chối. Tại sao? Vì là đối tượng (để từ chối hợp lệ). Vì cái mà vị ấy đã khước từ, đó là đối tượng của sự từ chối. Còn cái mà vị ấy đang ăn, dù nó nằm trong trường hợp phải bị khước từ, nhưng khi đang được ăn thì nó không mất đi bản chất là thịt (có thể là đối tượng của bữa ăn), do đó (việc khước từ thịt hợp lệ kia vẫn làm phát sinh sự) từ chối. Người đang ăn thịt không hợp lệ mà khước từ thịt không hợp lệ, thì theo phương pháp đã nói trước, không (phát sinh sự) từ chối. Người đang ăn thịt hợp lệ hoặc thịt không hợp lệ, nếu khước từ bất kỳ vật thực hợp lệ nào trong năm loại vật thực chính, thì (phát sinh sự) từ chối. (Nếu) khước từ vật thực không hợp lệ, là vật bị Đức Phật quở trách, phát sinh do tìm cầu bất chánh, được tạo ra từ (việc làm) như phá hoại gia đình (người khác), làm nghề y, nói về pháp thượng nhân (không thật), nhận tiền bạc v.v…, thì không (phát sinh sự) từ chối. Ngay cả người đang dùng vật thực hợp lệ hoặc vật thực không hợp lệ, nếu khước từ vật thực hợp lệ, thì (phát sinh sự) từ chối. (Nếu) khước từ vật thực không hợp lệ, thì không (phát sinh sự) từ chối – ở khắp mọi nơi, lý do cần được hiểu theo phương pháp đã nói.

Evaṃ ‘‘asana’’ntiādīsu yañca asnāti, yañca bhojanaṃ hatthapāse ṭhitena abhihaṭaṃ paṭikkhipanto pavāraṇaṃ āpajjati, taṃ ñatvā idāni yathā āpajjati, tassa jānanatthaṃ ayaṃ vinicchayo – ‘‘‘asanaṃ bhojana’nti ettha tāva yena ekasitthampi ajjhohaṭaṃ hoti, so sace pattamukhahatthānaṃ yattha katthaci pañcasu bhojanesu ekasmimpi sati aññaṃ pañcasu bhojanesu ekampi paṭikkhipati, pavāreti. Katthaci bhojanaṃ natthi, āmisagandhamattaṃ paññāyati, na pavāreti. Mukhe ca hatthe ca bhojanaṃ natthi, patte atthi, tasmiṃ pana āsane na bhuñjitukāmo, vihāraṃ pavisitvā bhuñjitukāmo, aññassa vā dātukāmo, tasmiṃ ce antare bhojanaṃ paṭikkhipati, na pavāreti. Kasmā? Vippakatabhojanabhāvassa upacchinnattā. Yopi aññatra gantvā bhuñjitukāmo mukhe bhattaṃ gilitvā sesaṃ ādāya gacchanto antarāmagge aññaṃ bhojanaṃ paṭikkhipati, tassāpi pavāraṇā na hotī’’ti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Yathā ca patte; evaṃ hatthepi. Mukhepi vā vijjamānabhojanaṃ sace anajjhoharitukāmo hoti, tasmiñca khaṇe aññaṃ paṭikkhipati, na pavāreti. Ekasmiñhi pade vuttalakkhaṇaṃ sabbattha veditabbaṃ hoti. Apica kurundiyaṃ esa nayo dassitoyeva. Vuttañhi tattha ‘‘mukhe bhattaṃ gilitaṃ, hatthe bhattaṃ vighāsādassa dātukāmo, patte bhattaṃ bhikkhussa dātukāmo, sace tasmiṃ khaṇe paṭikkhipati, na pavāretī’’ti. Hatthapāse ṭhitoti ettha pana sace bhikkhu nisinno hoti, āsanassa pacchimantato paṭṭhāya, sace ṭhito, paṇhiantato paṭṭhāya, sace nipanno, yena passena nipanno, tassa pārimantato paṭṭhāya, dāyakassa nisinnassa vā ṭhitassa vā nipannassa vā ṭhapetvā pasāritahatthaṃ yaṃ āsannataraṃ aṅgaṃ, tassa orimantena paricchinditvā aḍḍhateyyahattho ‘‘hatthapāso’’ti veditabbo. Tasmiṃ ṭhatvā abhihaṭaṃ paṭikkhipantasseva pavāraṇā hoti, na tato paraṃ.
Như vậy, trong những từ như “thức ăn” v.v…, sau khi biết được cái gì vị ấy ăn và vật thực nào mà khi khước từ lúc được người đứng trong tầm tay dâng đến thì phạm vào sự từ chối, bây giờ, để biết làm thế nào mà phạm vào (sự từ chối đó), đây là phần quyết định: “Ở đây, trong (các yếu tố) ‘thức ăn, vật thực’, trước hết, người nào đã nuốt vào dù chỉ một hạt cơm, nếu ở bất cứ đâu trên bát, miệng, tay, đang có dù chỉ một trong năm loại vật thực chính, mà lại khước từ dù chỉ một trong năm loại vật thực chính khác, thì (phát sinh sự) từ chối. Nếu ở đâu đó không có vật thực, chỉ cảm nhận được mùi vị vật thực, thì không (phát sinh sự) từ chối. Trong miệng và trên tay không có vật thực, (nhưng) trong bát có, nhưng vị ấy không muốn dùng tại chỗ ngồi đó, mà muốn vào tu viện rồi mới dùng, hoặc muốn cho người khác, nếu trong khoảng thời gian đó vị ấy khước từ vật thực (khác), thì không (phát sinh sự) từ chối. Tại sao? Vì tình trạng bữa ăn đang dở dang đã bị gián đoạn. Cả người nào muốn đi nơi khác rồi mới dùng, sau khi nuốt vật thực trong miệng, mang phần còn lại đi, rồi dọc đường khước từ vật thực khác, đối với vị ấy cũng không (phát sinh sự) từ chối”, theo như sách Mahāpaccari nói. Như trong bát, cũng như trên tay. Hoặc ngay cả khi có vật thực trong miệng, nếu không muốn nuốt vào, và ngay lúc đó lại khước từ vật thực khác, thì không (phát sinh sự) từ chối. Vì đặc điểm đã nói trong một trường hợp cần được hiểu cho tất cả các trường hợp. Hơn nữa, trong Kurundī, phương pháp này cũng đã được trình bày. Vì ở đó đã nói: “Vật thực trong miệng đã nuốt, vật thực trên tay muốn cho người ăn đồ thừa, vật thực trong bát muốn cho Tỳ-khưu (khác), nếu ngay lúc đó khước từ (vật thực khác), thì không (phát sinh sự) từ chối”. Còn ở đây, “Người (thí chủ) đứng trong tầm tay” – nếu Tỳ-khưu đang ngồi, thì tính từ mép sau của chỗ ngồi; nếu đang đứng, thì tính từ gót chân; nếu đang nằm, thì tính từ mép bên mà vị ấy nằm; đối với người thí chủ đang ngồi, hoặc đứng, hoặc nằm, trừ bàn tay đang duỗi ra, lấy bộ phận nào gần nhất, giới hạn bằng mép trong của bộ phận đó, (khoảng cách) hai thước rưỡi cần được hiểu là “tầm tay”. Chỉ khi (thí chủ) đứng trong khoảng đó mà dâng đến, người khước từ mới (phát sinh sự) từ chối, ngoài khoảng đó thì không.

Abhiharatīti hatthapāsabbhantare ṭhito gahaṇatthaṃ upanāmeti. Sace pana anantaranisinnopi bhikkhu hatthe vā ūrūsu vā ādhārake vā ṭhitapattaṃ anabhiharitvāva ‘‘bhattaṃ gaṇhā’’ti vadati, taṃ paṭikkhipato pavāraṇā natthi. Bhattapacchiṃ ānetvā purato bhūmiyaṃ ṭhapetvā ‘‘gaṇhāhī’’ti vuttepi eseva nayo. Īsakaṃ pana uddharitvā vā apanāmetvā vā ‘‘gaṇhathā’’ti vutte paṭikkhipato pavāraṇā hoti. Therāsane nisinno thero dūre nisinnassa daharabhikkhussa pattaṃ pesetvā ‘‘ito odanaṃ gaṇhāhī’’ti vadati, gaṇhitvā pana gato tuṇhī tiṭṭhati, daharo ‘‘alaṃ mayha’’nti paṭikkhipati, na pavāreti. Kasmā? Therassa dūrabhāvato dūtassa ca anabhiharaṇatoti. Sace pana gahetvā āgato bhikkhu ‘‘idaṃ bhattaṃ gaṇhā’’ti vadati, taṃ paṭikkhipato pavāraṇā hoti.
Đang dâng đến” là (thí chủ) đứng trong tầm tay rồi đưa đến để (Tỳ-khưu) nhận. Nhưng nếu ngay cả Tỳ-khưu ngồi kế bên, (thí chủ) không dâng đến bát đang để trên tay, hoặc trên đùi, hoặc trên giá đỡ, mà chỉ nói “Xin hãy nhận vật thực”, người khước từ đó thì không (phát sinh sự) từ chối. Ngay cả khi mang giỏ cơm đến đặt trước mặt trên đất rồi nói “Xin hãy nhận”, cũng theo phương pháp này. Nhưng nếu (thí chủ) nhấc lên một chút hoặc đưa ra một chút rồi nói “Xin quý ngài hãy nhận”, người khước từ thì (phát sinh sự) từ chối. Vị trưởng lão ngồi trên ghế trưởng lão, sai (người mang) bát đến cho Tỳ-khưu trẻ đang ngồi ở xa rồi nói: “Hãy nhận cơm từ đây”; người (được sai) mang đến rồi đứng im, Tỳ-khưu trẻ nói “Đủ cho tôi rồi” mà khước từ, thì không (phát sinh sự) từ chối. Tại sao? Vì vị trưởng lão ở xa, và người đưa tin thì không phải là đang dâng đến (trực tiếp). Nhưng nếu Tỳ-khưu (được sai) mang (bát cơm) đến nói: “Xin hãy nhận vật thực này”, người khước từ đó thì (phát sinh sự) từ chối.

Parivesanāya eko ekena hatthena odanapacchiṃ ekena kaṭacchuṃ gahetvā bhikkhū parivisati, tatra ce añño āgantvā ‘‘ahaṃ pacchiṃ dhāressāmi, tvaṃ odanaṃ dehī’’ti vatvā gahitamattakameva karoti, parivesako eva pana taṃ dhāreti, tasmā sā abhihaṭāva hoti. Tato dātukāmatāya gaṇhantaṃ paṭikkhipantassa pavāraṇā hoti. Sace pana parivisakena phuṭṭhamattāva hoti, itarova naṃ dhāreti, tato dātukāmatāya gaṇhantaṃ paṭikkhipantassa pavāraṇā na hoti. Kaṭacchunā uddhaṭabhatte pana hoti. Kaṭacchuabhihāroyeva hi tassa abhihāro. Dvinnaṃ samabhārepi paṭikkhipanto pavāretiyevāti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Anantarassa bhikkhuno bhatte diyyamāne itaro pattaṃ hatthehi pidahati, pavāraṇā natthi. Kasmā? Aññassa abhihaṭe paṭikkhittattā.
Để phục vụ, một người một tay cầm giỏ cơm, một tay cầm vá múc, phục vụ các Tỳ-khưu; ở đó nếu người khác đến nói: “Tôi sẽ giữ giỏ, ông hãy múc cơm” rồi chỉ làm động tác cầm lấy, nhưng người phục vụ chính vẫn giữ giỏ đó, do đó nó vẫn được xem là đang được dâng đến. Từ đó, người khước từ khi (Tỳ-khưu) muốn nhận do (người phục vụ) muốn cho, thì (phát sinh sự) từ chối. Nhưng nếu (giỏ cơm) chỉ được người phục vụ chạm vào, còn người kia (người phụ giữ) mới là người giữ nó, từ đó người khước từ khi (Tỳ-khưu) muốn nhận do (người phục vụ) muốn cho, thì không (phát sinh sự) từ chối. Nhưng đối với vật thực đã được múc bằng vá, thì (phát sinh sự từ chối). Vì việc dâng đến bằng vá chính là sự dâng đến của nó. Ngay cả khi hai người cùng gánh vác (việc dâng), người khước từ vẫn (phát sinh sự) từ chối, theo như sách Mahāpaccari nói. Khi vật thực đang được dâng cho Tỳ-khưu kế bên, Tỳ-khưu khác (ngồi cạnh Tỳ-khưu đó) dùng tay che bát lại, thì không (phát sinh sự) từ chối. Tại sao? Vì đã khước từ khi (vật thực) đang được dâng đến cho người khác.

Paṭikkhepo paññāyatīti ettha vācāya abhihaṭaṃ paṭikkhipato pavāraṇā natthi. Kāyena abhihaṭaṃ pana kāyena vā vācāya vā paṭikkhipantassa pavāraṇā hotīti veditabbo.
Ở đây, “Sự khước từ được thấy rõ” – người khước từ vật thực được dâng đến bằng lời nói (ví dụ, mời từ xa bằng lời) thì không (phát sinh sự) từ chối. Nhưng vật thực được dâng đến bằng thân, người khước từ bằng thân hoặc bằng lời, cần hiểu là (phát sinh sự) từ chối.

Tattha kāyena paṭikkhepo nāma aṅguliṃ vā hatthaṃ vā macchikabījaniṃ vā cīvarakaṇṇaṃ vā cāleti, bhamukāya vā ākāraṃ karoti, kuddho vā oloketi, vācāya paṭikkhepo nāma ‘‘ala’’nti vā, ‘‘na gaṇhāmī’’ti vā, ‘‘mā ākirā’’ti vā, ‘‘apagacchā’’ti vā vadati; evaṃ yena kenaci ākārena kāyena vā vācāya vā paṭikkhitte pavāraṇā hoti.
Ở đó, sự khước từ bằng thân là cử động ngón tay, hoặc bàn tay, hoặc quạt đuổi cá, hoặc vạt y, hoặc làm điệu bộ bằng lông mày, hoặc nhìn với vẻ giận dữ; sự khước từ bằng lời là nói “Đủ rồi”, hoặc “Tôi không nhận”, hoặc “Đừng bỏ vào”, hoặc “Hãy đi đi”; như vậy, khi khước từ bằng thân hoặc bằng lời, bằng bất kỳ cách nào, thì (phát sinh sự) từ chối.

Eko abhihaṭe bhatte pavāraṇāya bhīto hattha apanetvā punappunaṃ patte odanaṃ ākirantaṃ ‘‘ākira ākira koṭṭetvā pūrehī’’ti vadati, ettha kathanti? Mahāsumatthero tāva ‘‘anākiraṇatthāya vuttattā pavāraṇā hotī’’ti āha. Mahāpadumatthero pana ‘‘‘ākira pūrehī’ti vadantassa nāma ‘kassaci pavāraṇā atthī’ti vatvā ‘na pavāretī’’’ti āha. Aparo bhattaṃ abhiharantaṃ bhikkhuṃ sallakkhetvā ‘‘kiṃ āvuso itopi kiñci gaṇhissasi, dammi te kiñcī’’ti āha. Tatrāpi ‘‘‘evaṃ nāgamissatī’ti vuttattā ‘pavāraṇā hotī’’’ti mahāsumatthero āha. Mahāpadumatthero pana ‘‘‘gaṇhissasī’ti vadantassa nāma ‘kassaci pavāraṇā atthī’ti vatvā ‘na pavāretī’’’ti āha.
Một người, khi vật thực được dâng đến, do sợ (phạm vào sự) từ chối, đã rụt tay lại, rồi lại nói với người đang liên tục bỏ cơm vào bát: “Cứ bỏ vào, cứ bỏ vào, hãy giã cho đầy”, ở đây thì thế nào? Đại Trưởng lão Mahāsumatthera trước hết nói: “Vì nói với ý không muốn người ta bỏ thêm vào, nên (phát sinh sự) từ chối”. Nhưng Đại Trưởng lão Mahāpaduma lại nói: “Người nói ‘Cứ bỏ vào, hãy làm cho đầy’, làm sao có thể nói là (phát sinh sự) từ chối đối với ai được?”, rồi nói “Không (phát sinh sự) từ chối”. Một người khác, sau khi thấy Tỳ-khưu đang được dâng vật thực, liền nói: “Này hiền giả, thầy có nhận thêm gì nữa không, tôi cho thầy một ít?”. Ngay cả ở đó, Đại Trưởng lão Mahāsumatthero cũng nói: “Vì nói với ý ‘Làm như vậy người ta sẽ không đến (dâng thêm)’, nên (phát sinh sự) từ chối”. Nhưng Đại Trưởng lão Mahāpaduma lại nói: “Người nói ‘Thầy có nhận không?’, làm sao có thể nói là (phát sinh sự) từ chối đối với ai được?”, rồi nói “Không (phát sinh sự) từ chối”.

Eko samaṃsakaṃ rasaṃ abhiharitvā ‘‘rasaṃ gaṇhathā’’ti vadati, taṃ sutvā paṭikkhipato pavāraṇā natthi. ‘‘Maccharasaṃ maṃsarasa’’nti vutte paṭikkhipato hoti, ‘‘idaṃ gaṇhathā’’ti vuttepi hotiyeva. Maṃsaṃ visuṃ katvā ‘‘maṃsarasaṃ gaṇhathā’’ti vadati, tattha ce sāsapamattampi maṃsakhaṇḍaṃ atthi , taṃ paṭikkhipato pavāraṇā hoti. Sace pana parissāvito hoti, ‘‘vaṭṭatī’’ti abhayatthero āha.
Một người dâng nước canh có thịt rồi nói: “Xin hãy dùng nước canh”, người nghe thấy vậy mà khước từ thì không (phát sinh sự) từ chối. Khi được nói “Nước canh cá, nước canh thịt”, người khước từ thì (phát sinh sự từ chối); ngay cả khi được nói “Xin hãy dùng cái này”, cũng (phát sinh sự từ chối). (Nếu) tách riêng thịt ra rồi nói: “Xin hãy dùng nước canh thịt”, nếu ở đó có dù chỉ một miếng thịt nhỏ như hạt cải, người khước từ đó thì (phát sinh sự) từ chối. Nhưng nếu đã được lọc kỹ, thì “Được phép”, theo lời Trưởng lão Abhayatthera.

Maṃsarasena āpucchantaṃ mahāthero ‘‘muhuttaṃ āgamehī’’ti vatvā ‘‘thālakaṃ āvuso āharā’’ti āha. Ettha kathanti? Mahāsumatthero tāva ‘‘abhihārakassa gamanaṃ paṭhamaṃ upacchinnaṃ, tasmā pavāretī’’ti āha. Mahāpadumatthero pana ‘‘ayaṃ kuhiṃ gacchati , kīdisaṃ etassa gamanaṃ, gaṇhantassāpi nāma pavāraṇā atthī’’ti vatvā ‘‘na pavāretī’’ti āha. Kaḷīrapanasādīhi missetvā maṃsaṃ pacanti, taṃ gahetvā ‘‘kaḷīrasūpaṃ gaṇhatha, panasabyañjanaṃ gaṇhathā’’ti vadanti, evampi na pavāreti. Kasmā? Apavāraṇārahassa nāmena vuttattā. Sace pana ‘‘macchasūpaṃ maṃsasūpa’’nti vā ‘‘imaṃ gaṇhathā’’ti vā vadanti, pavāreti. Maṃsakarambako nāma hoti, taṃ dātukāmopi ‘‘karambakaṃ gaṇhathā’’ti vadati, vaṭṭati; na pavāreti. ‘‘Maṃsakarambaka’’nti vā ‘‘ida’’nti vā vutte pana pavāreti. Eseva nayo sabbesu macchamaṃsamissakesu.
Khi người đang hỏi mời dùng nước canh thịt, vị Đại Trưởng lão nói: “Hãy chờ một chút” rồi nói: “Này hiền giả, hãy mang đĩa lại đây”. Ở đây thì thế nào? Đại Trưởng lão Mahāsumatthera trước hết nói: “Việc dâng đến của người dâng đã bị gián đoạn trước, do đó (phát sinh sự) từ chối”. Nhưng Đại Trưởng lão Mahāpaduma lại nói: “Người này đi đâu, việc đi này của người ấy là như thế nào? Ngay cả người nhận cũng làm gì có sự từ chối?”, rồi nói “Không (phát sinh sự) từ chối”. Người ta nấu thịt trộn với măng, mít v.v…, rồi lấy đó nói: “Xin hãy dùng canh măng, xin hãy dùng món mít”, như vậy cũng không (phát sinh sự) từ chối. Tại sao? Vì đã được nói bằng tên của món không phải là đối tượng của sự từ chối. Nhưng nếu họ nói “Canh cá, canh thịt” hoặc “Xin hãy dùng món này”, thì (phát sinh sự) từ chối. Có món gọi là karambaka thịt, người muốn cho món đó cũng nói: “Xin hãy dùng karambaka”, thì được phép; không (phát sinh sự) từ chối. Nhưng nếu được nói “Karambaka thịt” hoặc “Món này”, thì (phát sinh sự) từ chối. Đối với tất cả các món trộn cá thịt cũng theo phương pháp này.

Yo pana nimantane bhuñjamāno maṃsaṃ abhihaṭaṃ ‘‘uddissa kata’’nti maññamāno paṭikkhipati, pavāritova hotīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Missakakathā pana kurundiyaṃ suṭṭhu vuttā. Evañhi tattha vuttaṃ – piṇḍapātacāriko bhikkhu bhattamissakaṃ yāguṃ āharitvā ‘‘yāguṃ gaṇhathā’’ti vadati, na pavāreti. ‘‘Bhattaṃ gaṇhathā’’ti vutte pavāreti. Kasmā? Yenāpucchito, tassa atthitāya. Ayamettha adhippāyo – ‘‘yāgumissakaṃ gaṇhathā’’ti vadati, tatra ce yāgu bahutarā vā hoti samasamā vā, na pavāreti. Yāgu mandā, bhattaṃ bahutaraṃ, pavāreti. Idañca sabbaaṭṭhakathāsu vuttattā na sakkā paṭikkhipituṃ, kāraṇaṃ panettha duddasaṃ. ‘‘Bhattamissakaṃ gaṇhathā’’ti vadati, bhattaṃ bahukaṃ vā samaṃ vā appataraṃ vā hoti, pavāretiyeva. Bhattaṃ vā yāguṃ vā anāmasitvā ‘‘missakaṃ gaṇhathā’’ti vadati, tatra ce bhattaṃ bahutaraṃ vā samakaṃ vā hoti, pavāreti. Appataraṃ na pavāreti. Idañca karambakena na samānetabbaṃ. Karambako hi maṃsamissakopi hoti amaṃsamissakopi, tasmā ‘‘karambaka’’nti vutte pavāraṇā natthi. Idaṃ pana bhattamissakameva. Ettha vuttanayeneva pavāraṇā hoti. Bahurase bhatte rasaṃ, bahukhīre khīraṃ bahusappimhi ca pāyāse sappiṃ gaṇhathāti visuṃ katvā deti, taṃ paṭikkhipato pavāraṇā natthi.
Còn người nào đang dùng bữa theo lời mời, khi thịt được dâng đến, nghĩ rằng “(thịt này) được làm riêng (cho mình)” rồi khước từ, thì được xem là đã từ chối, theo như sách Mahāpaccari nói. Còn phần nói về món trộn thì trong Kurundī đã nói rất rõ. Vì ở đó đã nói như vầy: Tỳ-khưu đi khất thực mang về cháo trộn cơm rồi nói: “Xin hãy dùng cháo”, thì không (phát sinh sự) từ chối. Nếu được nói “Xin hãy dùng cơm”, thì (phát sinh sự) từ chối. Tại sao? Vì sự hiện hữu của cái mà vị ấy được hỏi mời. Ý muốn nói ở đây là: (nếu) nói “Xin hãy dùng món cháo trộn”, nếu ở đó cháo nhiều hơn hoặc bằng (cơm), thì không (phát sinh sự) từ chối. (Nếu) cháo ít, cơm nhiều hơn, thì (phát sinh sự) từ chối. Và điều này, vì đã được nói trong tất cả các sớ giải, nên không thể bác bỏ; nhưng lý do ở đây thì khó thấy. (Nếu) nói “Xin hãy dùng món cơm trộn”, dù cơm nhiều, hay bằng, hay ít hơn (cháo), vẫn (phát sinh sự) từ chối. (Nếu) không gọi tên cơm hay cháo mà nói “Xin hãy dùng món trộn”, nếu ở đó cơm nhiều hơn hoặc bằng (cháo), thì (phát sinh sự) từ chối. (Nếu cơm) ít hơn, thì không (phát sinh sự) từ chối. Và điều này không nên so sánh với karambaka. Vì karambaka có khi trộn thịt, có khi không trộn thịt, do đó khi được nói “karambaka” thì không (phát sinh sự) từ chối. Còn đây chỉ là món cơm trộn. Ở đây, (sự) từ chối phát sinh theo phương pháp đã nói. Trong cơm nhiều nước canh, (nếu thí chủ) tách riêng nước canh rồi nói “Xin hãy dùng nước canh”; trong (cơm) nhiều sữa, (tách riêng) sữa; và trong cháo sữa nhiều bơ, (tách riêng) bơ rồi nói “Xin hãy dùng”, người khước từ đó thì không (phát sinh sự) từ chối.

Yo pana gacchanto pavāreti, so gacchantova bhuñjituṃ labhati. Kaddamaṃ vā udakaṃ vā patvā ṭhitena atirittaṃ kāretabbaṃ. Sace antarā nadī pūrā hoti, nadītīre gumbaṃ anupariyāyantena bhuñjitabbaṃ. Atha nāvā vā setu vā atthi, taṃ abhiruhitvāpi caṅkamantenava bhuñjitabbaṃ, gamanaṃ na upacchinditabbaṃ. Yāne vā hatthiassapiṭṭhe vā candamaṇḍale vā sūriyamaṇḍale vā nisīditvā pavāritena yāva majjhanhikaṃ, tāva tesu gacchantesupi nisinneneva bhuñjitabbaṃ. Yo ṭhito pavāreti, ṭhiteneva, yo nisinno pavāreti, nisinneneva bhuñjitabbaṃ. Taṃ taṃ iriyāpathaṃ kopentena atirittaṃ kāretabbaṃ. Yo ukkuṭiko nisīditvā pavāreti, tena ukkuṭikeneva bhuñjitabbaṃ. Tassa pana heṭṭhā palālapīṭhaṃ vā kiñci vā nisīdanakaṃ dātabbaṃ. Pīṭhake nisīditvā pavāritena āsanaṃ acāletvāva catasso disā parivattantena bhuñjituṃ labbhati. Mañce nisīditvā pavāritena ito vā etto vā saṃsarituṃ na labbhati. Sace pana naṃ saha mañcena ukkhipitvā aññatra nenti, vaṭṭati. Nipajjitvā pavāritena nipanneneva bhuñjitabbaṃ. Parivattantena yena passena nipanno, tassa ṭhānaṃ nātikkametabbaṃ.
Còn người nào từ chối khi đang đi, vị ấy được phép dùng bữa trong khi vẫn đang đi. Người đứng lại sau khi đến chỗ bùn hoặc nước, cần phải làm cho (vật thực đó) thành đồ ăn thừa. Nếu giữa đường sông bị ngập lụt, cần phải đi vòng quanh bụi cây ở bờ sông rồi dùng bữa. Nếu có thuyền hoặc cầu, ngay cả khi đã lên đó, cũng cần phải dùng bữa trong khi vẫn đang kinh hành, không được làm gián đoạn việc đi. Người đã từ chối khi đang ngồi trên xe, hoặc trên lưng voi ngựa, hoặc trên vòng tròn mặt trăng, hoặc trên vòng tròn mặt trời, chừng nào chưa đến giữa trưa, thì dù chúng đang di chuyển, cũng cần phải dùng bữa trong khi vẫn đang ngồi. Người nào từ chối khi đang đứng, thì phải dùng bữa trong khi đang đứng; người nào từ chối khi đang ngồi, thì phải dùng bữa trong khi đang ngồi. Người làm thay đổi oai nghi đó, cần phải làm cho (vật thực) thành đồ ăn thừa. Người nào từ chối khi đang ngồi xổm, vị ấy cần phải dùng bữa trong khi vẫn đang ngồi xổm. Nhưng cần phải đặt ở dưới vị ấy một cái ghế bằng rơm hoặc một vật gì đó để ngồi. Người đã từ chối khi đang ngồi trên ghế, được phép dùng bữa trong khi xoay người về bốn hướng mà không làm xê dịch chỗ ngồi. Người đã từ chối khi đang ngồi trên giường, không được phép di chuyển qua lại chỗ này chỗ kia. Nhưng nếu người ta nhấc cả giường cùng với vị ấy mang đi nơi khác, thì được phép. Người đã từ chối khi đang nằm, cần phải dùng bữa trong khi vẫn đang nằm. Khi xoay người, không được vượt qua khỏi vị trí của bên mà mình đang nằm.

Anatirittanti na atirittaṃ; na adhikanti attho. Taṃ pana yasmā kappiyakatādīhi sattahi vinayakammākārehi akataṃ vā gilānassa anadhikaṃ vā hoti, tasmā padabhājane ‘‘akappiyakata’’ntiādi vuttaṃ. Tattha akappiyakatanti yaṃ tattha phalaṃ vā kandamūlādi vā pañcahi samaṇakappehi kappiyaṃ akataṃ; yañca akappiyamaṃsaṃ vā akappiyabhojanaṃ vā, etaṃ akappiyaṃ nāma. Taṃ akappiyaṃ ‘‘alametaṃ sabba’’nti evaṃ atirittaṃ katampi akappiyakatanti veditabbaṃ. Appaṭiggahitakatanti bhikkhunā appaṭiggahitaṃyeva purimanayeneva atirittaṃ kataṃ. Anuccāritakatanti kappiyaṃ kārāpetuṃ āgatena bhikkhunā īsakampi anukkhittaṃ vā anapanāmitaṃ vā kataṃ. Ahatthapāse katanti kappiyaṃ kārāpetuṃ āgatassa hatthapāsato bahi ṭhitena kataṃ. Abhuttāvinā katanti yo ‘‘alametaṃ sabba’’nti atirittaṃ karoti, tena pavāraṇappahonakaṃ bhojanaṃ abhuttena kataṃ. Bhuttāvinā pavāritena āsanā vuṭṭhitena katanti idaṃ uttānameva. Alametaṃ sabbanti avuttanti vacībhedaṃ katvā evaṃ avuttaṃ hoti. Iti imehi sattahi vinayakammākārehi yaṃ atirittaṃ kappiyaṃ akataṃ, yañca na gilānātirittaṃ, tadubhayampi anatirittanti veditabbaṃ.
Không phải đồ ăn thừa” là không phải đồ ăn thừa; có nghĩa là không phải dư. Nhưng vì đó là (vật thực) chưa được làm (cho hợp lệ) bằng bảy cách làm theo Luật như làm cho hợp lệ v.v…, hoặc không phải là phần dư của người bệnh, do đó, trong phần phân tích từ, đã nói bắt đầu bằng “chưa được làm cho hợp lệ”. Ở đó, “chưa được làm cho hợp lệ” là quả cây hoặc củ rễ v.v… ở đó chưa được làm cho hợp lệ bằng năm cách hợp với sa-môn; và thịt không hợp lệ hoặc vật thực không hợp lệ, đó gọi là không hợp lệ. Vật thực không hợp lệ đó, dù đã được làm thành đồ ăn thừa bằng cách nói “Tất cả cái này là đủ”, cũng cần được hiểu là “chưa được làm cho hợp lệ”. “Chưa được làm (thành đồ ăn thừa) sau khi đã nhận” là (vật thực) chưa được Tỳ-khưu nhận, (nhưng) đã được làm thành đồ ăn thừa theo phương pháp đã nói trước. “Chưa được làm (thành đồ ăn thừa) sau khi đã xướng lên” là (vật thực) được Tỳ-khưu đến để nhờ làm cho hợp lệ, (nhưng) chưa được nhấc lên dù chỉ một chút hoặc chưa được dời đi dù chỉ một chút mà đã được làm (thành đồ ăn thừa). “Được làm ngoài tầm tay” là (vật thực) được người đứng ngoài tầm tay của (Tỳ-khưu) đến để nhờ làm cho hợp lệ, làm (thành đồ ăn thừa). “Được làm bởi người chưa dùng bữa” là người nào làm (vật thực) thành đồ ăn thừa bằng cách nói “Tất cả cái này là đủ”, (nhưng) vật thực đủ để từ chối đó lại được làm (thành đồ ăn thừa) bởi người chưa dùng bữa. “Được làm bởi người đã dùng bữa, đã từ chối, (nhưng) đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi” – điều này ý nghĩa đã rõ ràng. “Chưa nói ‘Tất cả cái này là đủ’” là sau khi đã phân biệt lời nói, mà chưa nói như vậy. Như vậy, bằng bảy cách làm theo Luật này, vật thực thừa nào chưa được làm cho hợp lệ, và vật thực nào không phải là đồ ăn thừa của người bệnh, cả hai thứ đó đều cần được hiểu là “không phải đồ ăn thừa (hợp lệ để dùng lại)”.

Atirittaṃ pana tasseva paṭipakkhanayena veditabbaṃ. Apicettha bhuttāvinā kataṃ hotīti anantare nisinnassa sabhāgassa bhikkhuno pattato ekampi sitthaṃ vā maṃsahīraṃ vā khāditvā katampi bhuttāvināva kataṃ hotīti veditabbaṃ. Āsanā avuṭṭhitenāti ettha pana asammohatthaṃ ayaṃ vinicchayo – dve bhikkhū pātova bhuñjamānā pavāritā honti – ekena tattheva nisīditabbaṃ, itarena niccabhattaṃ vā salākabhattaṃ vā ānetvā upaḍḍhaṃ tassa bhikkhuno patte ākiritvā hatthaṃ dhovitvā sesaṃ tena bhikkhunā kappiyaṃ kārāpetvā bhuñjitabbaṃ. Kasmā? Yañhi tassa hatthe laggaṃ, taṃ akappiyaṃ hoti. Sace pana paṭhamaṃ nisinno bhikkhu sayameva tassa pattato hatthena gaṇhāti, hatthadhovanakiccaṃ natthi. Sace pana evaṃ kappiyaṃ kārāpetvā bhuñjantassa puna kiñci byañjanaṃ vā khādanīyaṃ vā patte ākiranti, yena paṭhamaṃ kappiyaṃ kataṃ, so puna kātuṃ na labhati. Yena akataṃ, tena kātabbaṃ. Yañca akataṃ, taṃ kātabbaṃ. ‘‘Yena akata’’nti aññena bhikkhunā yena paṭhamaṃ na kataṃ, tena kātabbaṃ. ‘‘Yañca akata’’nti yena paṭhamaṃ kappiyaṃ kataṃ, tenāpi yaṃ akataṃ taṃ kātabbaṃ. Paṭhamabhājane pana kātuṃ na labbhati. Tattha hi kariyamānaṃ paṭhamaṃ katena saddhiṃ kataṃ hoti, tasmā aññasmiṃ bhājane kātuṃ vaṭṭatīti adhippāyo. Evaṃ kataṃ pana tena bhikkhunā paṭhamaṃ katena saddhiṃ bhuñjituṃ vaṭṭati.
Còn “đồ ăn thừa (hợp lệ)” thì cần được hiểu theo cách đối lập với chính những điều đó. Hơn nữa, ở đây, “được làm bởi người đã dùng bữa” – cần hiểu rằng ngay cả (đồ ăn thừa) được làm sau khi đã ăn dù chỉ một hạt cơm hoặc một miếng thịt nhỏ từ bát của Tỳ-khưu đồng sự ngồi kế bên, cũng là được làm bởi người đã dùng bữa. Còn ở đây, trong câu “Bởi người chưa đứng dậy khỏi chỗ ngồi“, để tránh nhầm lẫn, đây là phần quyết định: hai Tỳ-khưu đang dùng bữa từ sáng sớm và đã từ chối – một vị cần phải ngồi nguyên tại đó, vị kia mang vật thực thường xuyên hoặc vật thực theo thẻ đến, chan một nửa vào bát của Tỳ-khưu đó, rửa tay, rồi phần còn lại cần phải nhờ Tỳ-khưu đó làm cho hợp lệ rồi mới dùng. Tại sao? Vì những gì dính trên tay vị ấy (người mang đến) là không hợp lệ (nếu tự mình làm cho phần còn lại). Nhưng nếu Tỳ-khưu ngồi trước tự mình dùng tay lấy từ bát của vị kia, thì không cần phải rửa tay. Nhưng nếu người đang dùng (vật thực) đã được làm cho hợp lệ như vậy, mà người ta lại chan thêm món ăn phụ hoặc đồ ăn cứng nào đó vào bát, thì người nào đã làm cho hợp lệ trước tiên, vị ấy không được phép làm lại. Người nào chưa làm, thì người đó cần phải làm. Và cái gì chưa được làm (cho hợp lệ), thì cái đó cần phải được làm. “Bởi người chưa làm” là bởi một Tỳ-khưu khác, người mà trước đó chưa làm, vị ấy cần phải làm. “Và cái gì chưa được làm” là người nào trước đó đã làm cho hợp lệ, vị ấy cũng cần phải làm (cho hợp lệ) cái gì chưa được làm (nếu nhận thêm). Nhưng không được phép làm (cho hợp lệ) trong đồ đựng ban đầu (nếu đã có đồ ăn thừa chưa làm hợp lệ trong đó). Vì ở đó, nếu làm (trong đồ đựng cũ), nó sẽ bị xem là đã được làm cùng với cái đã làm trước đó; do đó, ý muốn nói là được phép làm (cho hợp lệ) trong một đồ đựng khác. Nhưng (vật thực) đã được làm (cho hợp lệ) như vậy, Tỳ-khưu đó được phép dùng chung với (vật thực) đã được làm (cho hợp lệ) trước tiên.

Kappiyaṃ karontena ca na kevalaṃ patteyeva, kuṇḍepi pacchiyampi yattha katthaci purato ṭhapetvā onāmitabhājane kātabbaṃ. Taṃ sacepi bhikkhusataṃ pavāritaṃ hoti, sabbesaṃ bhuñjituṃ vaṭṭati, appavāritānampi vaṭṭati. Yena pana kappiyaṃ kataṃ, tassa na vaṭṭati. Sacepi pavāretvā piṇḍāya paviṭṭhaṃ bhikkhuṃ pattaṃ gahetvā avassaṃ bhuñjanake maṅgalanimantane nisīdāpenti, atirittaṃ kāretvāva bhuñjitabbaṃ. Sace tattha añño bhikkhu natthi, āsanasālaṃ vā vihāraṃ vā pattaṃ pesetvā kāretabbaṃ. Kappiyaṃ karontena pana anupasampannassa hatthe ṭhitaṃ na kātabbaṃ. Sace āsanasālāyaṃ abyatto bhikkhu hoti, sayaṃ gantvā kappiyaṃ kārāpetvā ānetvā bhuñjitabbaṃ.
Và người làm cho hợp lệ, không chỉ làm trong bát, mà cũng cần phải làm trong chậu, trong giỏ, ở bất cứ đâu, sau khi đặt đồ đựng đã nghiêng xuống ở phía trước. Vật thực đó, dù có một trăm Tỳ-khưu đã từ chối, tất cả đều được phép dùng, ngay cả những vị chưa từ chối cũng được phép dùng. Nhưng người nào đã làm cho hợp lệ, vị ấy không được phép (dùng phần đó nếu đã từ chối trước đó). Ngay cả khi một Tỳ-khưu đã từ chối rồi đi khất thực, (nếu thí chủ) lấy bát của vị ấy rồi mời ngồi trong một buổi tiệc hỷ hay lời mời mà nhất định phải dùng, cũng cần phải làm cho (vật thực) thành đồ ăn thừa rồi mới dùng. Nếu ở đó không có Tỳ-khưu nào khác, cần phải gửi bát đến nhà hội hoặc tu viện để (nhờ người khác) làm (cho hợp lệ). Nhưng người làm cho hợp lệ, không được làm (cho hợp lệ) vật thực đang ở trên tay của người chưa thọ cụ túc giới. Nếu ở nhà hội có Tỳ-khưu không rành rẽ (về việc này), (vị Tỳ-khưu muốn dùng) cần phải tự mình đến nhờ làm cho hợp lệ, rồi mang về dùng.

Gilānātirittanti ettha na kevalaṃ yaṃ gilānassa bhuttāvasesaṃ hoti, taṃ gilānātirittaṃ; atha kho yaṃkiñci gilānaṃ uddissa ajja vā sve vā yadā vā icchati, tadā khādissatīti āhaṭaṃ, taṃ sabbaṃ ‘‘gilānātiritta’’nti veditabbaṃ. Yaṃ yāmakālikādīsu ajjhohāre ajjhohāre dukkaṭaṃ, taṃ asaṃsaṭṭhavasena vuttaṃ. Sace pana āmisasaṃsaṭṭhāni honti, āhāratthāyapi anāhāratthāyapi paṭiggahetvā ajjhoharantassa pācittiyameva.
Đồ ăn thừa của người bệnh” – ở đây, không chỉ những gì là phần ăn còn lại của người bệnh mới là đồ ăn thừa của người bệnh; mà bất cứ thứ gì được mang đến chỉ định riêng cho người bệnh với ý nghĩ “Hôm nay, hoặc ngày mai, hoặc khi nào muốn, (người bệnh) sẽ ăn”, tất cả những thứ đó cần được hiểu là “đồ ăn thừa của người bệnh”. (Đối với) vật thực được phép dùng trong một buổi, khi có sự khát nước, (nếu dùng) để làm dịu cơn khát; và (đối với) vật thực được phép dùng trong bảy ngày và trọn đời, khi có bệnh cần được làm dịu bằng những thứ đó, người dùng để làm dịu bệnh đó thì không phạm tội.

241.Sati paccayeti yāmakālikaṃ pipāsāya sati pipāsacchedanatthaṃ, sattāhakālikaṃ yāvajīvikañca tena tena upasametabbake ābādhe sati tassa upasamanatthaṃ paribhuñjato anāpatti. Sesamettha uttānameva.
241. “Khi có duyên sự” – (nghĩa là, đối với) vật thực được phép dùng trong một buổi, khi có sự khát nước, (nếu dùng) để làm dịu cơn khát; và (đối với) vật thực được phép dùng trong bảy ngày và trọn đời, khi có bệnh cần được làm dịu bằng những thứ đó, người dùng để làm dịu bệnh đó thì không phạm tội. Phần còn lại ở đây ý nghĩa đã rõ ràng.

Kathinasamuṭṭhānaṃ – kāyavācato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyākiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Cách phát sinh (của tội này, được gọi là) Kaṭhinasamuṭṭhāna là: phát sinh từ thân và lời, và từ thân, lời cùng với tâm; là hành động và không phải hành động, không giải thoát nhờ tưởng, (có thể) không chủ ý (vẫn phạm), là tội do chế định, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (liên quan đến) ba loại tâm, (và có) ba cảm thọ (đi kèm).

Paṭhamapavāraṇasikkhāpadaṃ pañcamaṃ.

Học giới về sự từ chối (vật thực) thứ nhất, điều thứ năm.

6. Dutiyapavāraṇasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích học giới về sự từ chối (vật thực) thứ hai

242. Chaṭṭhasikkhāpade – anācāraṃ ācaratīti paṇṇattivītikkamaṃ karoti. Upanandhīti upanāhaṃ janento tasmiṃ puggale attano kodhaṃ bandhi; punappunaṃ āghātaṃ janesīti attho. Upanaddho bhikkhūti so janitaupanāho bhikkhu.
242. Trong học giới thứ sáu (của phẩm này), “Làm điều không đúng đắn” là vi phạm điều chế định. “(Tỳ-khưu) Upananda” – (có nghĩa là) khi đang sinh lòng oán hận, vị ấy đã buộc chặt cơn giận của mình vào người đó; có nghĩa là đã làm phát sinh sự oán hận nhiều lần. “Tỳ-khưu bị oán hận” là Tỳ-khưu mà sự oán hận đã được phát sinh (nhắm đến).

243.Abhihaṭṭhuṃ pavāreyyāti abhiharitvā ‘‘handa bhikkhu khāda vā bhuñja vā’’ti evaṃ pavāreyya. Padabhājane pana ‘‘handa bhikkhū’’tiādiṃ anuddharitvā sādhāraṇameva abhihaṭṭhuṃ pavāraṇāya atthaṃ dassetuṃ ‘‘yāvatakaṃ icchasi tāvatakaṃ gaṇhāhī’’ti vuttaṃ. Jānanti pavāritabhāvaṃ jānanto. Taṃ panassa jānanaṃ yasmā tīhākārehi hoti, tasmā ‘‘jānāti nāma sāmaṃ vā jānātī’’tiādinā nayena padabhājanaṃ vuttaṃ. Āsādanāpekkhoti āsādanaṃ codanaṃ maṅkukaraṇabhāvaṃ apekkhamāno.
243. “Sau khi mang đến, lại mời dùng” có nghĩa là sau khi mang (vật thực) đến, rồi mời như vầy: “Này Tỳ-khưu, hãy ăn hoặc hãy dùng”. Nhưng trong phần phân tích từ, không nêu lên (câu) “Này các Tỳ-khưu” v.v…, mà để chỉ ra ý nghĩa chung của việc mời dùng sau khi đã mang đến, đã nói: “Thầy muốn bao nhiêu, hãy nhận bấy nhiêu”. “Biết” là biết tình trạng đã từ chối. Nhưng vì sự biết đó của vị ấy có qua ba cách, do đó phần phân tích từ được nói theo phương pháp bắt đầu bằng: “Biết là tự mình biết…”. “Mong muốn chế nhạo” là mong muốn sự chế nhạo, sự khiển trách, tình trạng làm cho hổ thẹn.

Paṭiggaṇhātiāpatti dukkaṭassāti yassa abhihaṭaṃ tasmiṃ paṭiggaṇhante abhihārakassa bhikkhuno dukkaṭaṃ. Itarassa pana sabbo āpattibhedo paṭhamasikkhāpade vutto, imasmiṃ pana sikkhāpade sabbā āpattiyo abhihārakasseva veditabbā. Sesaṃ paṭhamasikkhāpade vuttanayattā pākaṭameva.
Nếu (vị kia) nhận, (người mời) phạm tội Tác Ác” – khi người mà vật thực được dâng đến đó nhận lấy, Tỳ-khưu dâng đến phạm tội Tác Ác. Còn đối với người kia (người nhận), tất cả sự phân biệt tội đã được nói trong học giới thứ nhất (Paṭhamapavāraṇasikkhāpada); nhưng trong học giới này, cần hiểu rằng tất cả các tội đều thuộc về chính người dâng đến. Phần còn lại do theo phương pháp đã nói trong học giới thứ nhất nên đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
(Tội này có) ba cách phát sinh: phát sinh từ thân và tâm, từ khẩu và tâm, hoặc từ thân, khẩu và tâm. (Nó là) hành vi, (có thể) giải thoát nhờ tưởng, có chủ ý, bị đời chê bai, là nghiệp thân, là nghiệp lời, (do) tâm bất thiện, (và có) cảm thọ khổ (đi kèm).

Dutiyapavāraṇasikkhāpadaṃ chaṭṭhaṃ.

Học giới về sự từ chối (vật thực) thứ hai, điều thứ sáu.

7. Vikālabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích học giới về việc ăn phi thời

247. Sattamasikkhāpade – giraggasamajjoti girimhi aggasamajjo, girissa vā aggadese samajjo. So kira sattame divase bhavissatīti nagare ghosanā kariyati, nagarassa bahiddhā same bhūmibhāge pabbatacchāyāya mahājanakāyo sannipatati, anekappakārāni naṭanāṭakāni pavattanti, tesaṃ dassanatthaṃ mañcātimañce bandhanti. Sattarasavaggiyā apaññatte sikkhāpade daharāva upasampannā, te ‘‘nāṭakāni āvuso passissāmā’’ti tattha agamaṃsu. Atha nesaṃ ñātakā ‘‘amhākaṃ ayyā āgatā’’ti tuṭṭhacittā nhāpetvā vilimpetvā bhojetvā aññampi pūvakhādanīyādiṃ hatthe adaṃsu. Te sandhāya vuttaṃ – ‘‘manussā sattarasavaggiye bhikkhū passitvā’’tiādi.
247. Trong học giới thứ bảy (của phẩm này), “Lễ hội trên đỉnh núi” là lễ hội lớn trên núi, hoặc lễ hội ở vùng đỉnh núi. Tương truyền, (lễ hội) đó sẽ diễn ra vào ngày thứ bảy, (tin này) được loan báo trong thành; ở bên ngoài thành, trên một vùng đất bằng phẳng, dưới bóng núi, một đám đông lớn tụ tập, nhiều loại hình múa hát kịch nghệ diễn ra, người ta dựng khán đài chồng lên khán đài để xem chúng. Nhóm mười bảy Tỳ-khưu (Sattarasavaggiyā), lúc học giới chưa được chế định, vừa mới thọ cụ túc giới khi còn trẻ tuổi, họ đã đến đó với ý nghĩ: “Này chư hiền, chúng ta hãy đi xem kịch”. Khi ấy, những người thân của họ, với tâm vui mừng (nghĩ rằng): “Các thầy của chúng ta đã đến”, đã tắm rửa, xoa dầu thơm, cho họ ăn, rồi còn đưa thêm bánh và các đồ ăn khác vào tay họ. Nhắm đến họ mà đã nói: “Người đời sau khi thấy nhóm mười bảy Tỳ-khưu…” v.v…

248-9.Vikāleti vigate kāle. Kāloti bhikkhūnaṃ bhojanakālo adhippeto, so ca sabbantimena paricchedena majjhanhiko, tasmiṃ vītivatteti adhippāyo. Tenevassa padabhājane ‘‘vikālo nāma majjhanhike vītivatte yāva aruṇuggamanā’’ti vuttaṃ, ṭhitamajjhanhikopi kālasaṅgahaṃ gacchati . Tato paṭṭhāya pana khādituṃ vā bhuñjituṃ vā na sakkā, sahasā pivituṃ sakkā bhaveyya, kukkuccakena pana na kattabbaṃ. Kālaparicchedajānanatthañca kālatthambho yojetabbo, kālantareva bhattakiccaṃ kātabbaṃ.
248-9. “Phi thời” là thời gian đã qua. “Thời” ở đây được hiểu là thời gian dùng bữa của các Tỳ-khưu, và thời gian đó, theo sự phân định cuối cùng nhất, là giữa trưa, (phi thời là) khi thời gian đó đã trôi qua – đó là ý muốn nói. Do đó, trong phần phân tích từ của học giới này, đã nói: “Phi thời là từ sau khi giữa trưa đã qua cho đến khi rạng đông lên”; (thời điểm) đứng bóng giữa trưa cũng được bao gồm trong “thời”. Kể từ đó (sau đứng bóng) trở đi, không thể ăn (đồ cứng) hoặc dùng (vật thực chính); có thể uống vội được, nhưng không nên làm do có sự áy náy. Và để biết sự phân định thời gian, cần phải dựng cột đo thời gian; việc dùng bữa chỉ nên được thực hiện trong “thời”.

Avasesaṃkhādanīyaṃ nāmāti ettha yaṃ tāva sakkhalimodakādipubbaṇṇāparaṇṇamayaṃ, tattha vattabbameva natthi. Yampi vanamūlādippabhedaṃ āmisagatikaṃ hoti, seyyathidaṃ – mūlakhādanīyaṃ kandakhādanīyaṃ mūḷālakhādanīyaṃ matthakakhādanīyaṃ khandhakhādanīyaṃ tacakhādanīyaṃ pattakhādanīyaṃ pupphakhādanīyaṃ phalakhādanīyaṃ aṭṭhikhādanīyaṃ piṭṭhakhādanīyaṃ niyyāsakhādanīyanti, idampi khādanīyasaṅkhyameva gacchati .
Đồ ăn cứng còn lại là” – ở đây, những gì thuộc về ngũ cốc, hoa màu như bánh sakkhalikā, bánh modaka v.v…, thì không cần phải nói gì thêm (đó là đồ ăn cứng). Ngay cả những loại như rễ cây rừng v.v… thuộc về vật thực, ví dụ như: đồ ăn từ rễ, đồ ăn từ củ, đồ ăn từ ngó, đồ ăn từ đầu (ngọn non), đồ ăn từ thân, đồ ăn từ vỏ, đồ ăn từ lá, đồ ăn từ hoa, đồ ăn từ quả, đồ ăn từ hạt, đồ ăn từ bột, đồ ăn từ nhựa cây – những thứ này cũng được kể là đồ ăn cứng.

Tattha pana āmisagatikasallakkhaṇatthaṃ idaṃ mukhamattanidassanaṃ – mūlakhādanīye tāva mūlakamūlaṃ khārakamūlaṃ caccumūlaṃ tambakamūlaṃ taṇḍuleyyakamūlaṃ vatthuleyyakamūlaṃ vajakalimūlaṃ jajjharīmūlanti evamādīni sūpeyyapaṇṇamūlāni āmisagatikāni. Ettha ca vajakalimūle jaraṭṭhaṃ chinditvā chaḍḍenti, taṃ yāvajīvikaṃ hoti. Aññampi evarūpaṃ eteneva nayena veditabbaṃ. Mūlakakhārakajajjharīmūlānaṃ pana jaraṭṭhānipi āmisagatikānevāti vuttaṃ. Yāni pana pāḷiyaṃ –
Nhưng ở đó, để nhận biết những gì thuộc về vật thực, đây là sự chỉ dẫn sơ lược: trước hết, trong đồ ăn từ rễ, các loại rễ của rau làm canh như rễ củ cải, rễ khāraka, rễ caccu, rễ tambaka, rễ rau dền, rễ vatthuleyyaka, rễ vajakali, rễ jajjharī v.v… là những thứ thuộc về vật thực. Ở đây, đối với rễ vajakali, người ta cắt bỏ phần già, phần đó là (thuốc) dùng trọn đời. Những loại khác tương tự cũng cần được hiểu theo phương pháp này. Nhưng đối với rễ củ cải, khāraka, jajjharī, ngay cả phần già cũng được nói là thuộc về vật thực. Còn những gì (được nói) trong Pāḷi: –

‘‘Anujānāmi , bhikkhave, mūlāni bhesajjāni haliddiṃ siṅgiveraṃ vacaṃ vacattaṃ ativisaṃ kaṭukarohiṇiṃ usīraṃ bhaddamuttakaṃ, yāni vā panaññānipi atthi mūlāni bhesajjāni neva khādanīye khādanīyatthaṃ pharanti, na bhojanīye bhojanīyatthaṃ pharantī’’ti (mahāva. 263) –
(Đức Phật dạy): “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép (dùng) các loại rễ làm thuốc: nghệ, gừng, thủy xương bồ, vỏ cây thủy xương bồ, ô đầu, hoàng liên, hương bài, củ gấu, và bất kỳ loại rễ nào khác hiện có làm thuốc, mà không dùng làm đồ ăn cứng cũng không dùng làm vật thực chính” (mahāva. 263) –

Vuttāni, tāni yāvajīvikāni. Tesaṃ cūḷapañcamūlaṃ mahāpañcamūlantiādinā nayena gaṇiyamānānaṃ gaṇanāya anto natthi. Khādanīyatthaṃ bhojanīyatthañca pharaṇābhāvoyeva pana tesaṃ lakkhaṇaṃ. Tasmā yaṃkiñci mūlaṃ tesu tesu janapadesu pakatiāhāravasena manussānaṃ khādanīyatthaṃ bhojanīyatthañca pharati, taṃ yāvakālikaṃ; itaraṃ yāvajīvikanti veditabbaṃ. Tesu bahuṃ vatvāpi hi imasmiṃyeva lakkhaṇe ṭhātabbaṃ. Nāmasaññāsu pana vuccamānāsu taṃ taṃ nāmaṃ ajānantānaṃ sammohoyeva hoti, tasmā nāmasaññāya ādaraṃ akatvā lakkhaṇameva dassitaṃ.
Những gì đã được nói (trong Pāḷi đó), những thứ đó là (thuốc) dùng trọn đời. Chúng, khi được đếm theo cách như “tiểu ngũ căn”, “đại ngũ căn” v.v…, thì không có giới hạn về số lượng. Nhưng đặc điểm của chúng chính là việc không được dùng làm đồ ăn cứng và vật thực chính. Do đó, bất kỳ rễ nào, ở các xứ sở đó đó, được người đời dùng làm thức ăn thông thường, làm đồ ăn cứng và vật thực chính, thì đó là (vật thực) dùng trong thời hạn; loại khác thì cần được hiểu là (thuốc) dùng trọn đời. Vì dù nói nhiều về chúng, cũng cần phải dựa vào chính đặc điểm này. Còn khi nói về tên gọi, đối với những người không biết tên gọi đó đó, chắc chắn sẽ có sự nhầm lẫn, do đó, không chú trọng vào tên gọi mà chỉ trình bày đặc điểm.

Yathā ca mūle; evaṃ kandādīsupi yaṃ lakkhaṇaṃ dassitaṃ, tasseva vasena vinicchayo veditabbo. Yañca taṃ pāḷiyaṃ haliddādi aṭṭhavidhaṃ vuttaṃ, tassa khandhatacapupphaphalampi sabbaṃ yāvajīvikanti vuttaṃ.
Và như đối với rễ; cũng vậy, đối với củ v.v…, đặc điểm nào đã được trình bày, sự quyết định cần được hiểu dựa vào chính đặc điểm đó. Và tám loại như nghệ v.v… đã được nói trong Pāḷi, thì thân, vỏ, hoa, quả của chúng, tất cả đều được nói là (thuốc) dùng trọn đời.

Kandakhādanīye duvidho kando – dīgho ca rasso ca bhisakiṃsukakandādi vaṭṭo uppalakaserukakandādi, yaṃ ‘‘gaṇṭhī’’tipi vadanti. Tattha sabbesaṃ kandānaṃ jiṇṇajaraṭṭhānañca challi ca sukhumamūlāni ca yāvajīvikāni. Taruṇo pana sukhakhādanīyo, sālakalyāṇīpotakakando kiṃsukapotakakando ambāṭakakando ketakakando māluvakando bhisasaṅkhāto padumapuṇḍarīkakando piṇḍālumasāluādayo ca khīravallikando āluvakando siggukando tālakando nīluppalarattuppalakumudasogandhikānaṃ kandā kadalikando veḷukando kaserukakandoti evamādayo tesu tesu janapadesu pakatiāhāravasena manussānaṃ khādanīyatthañca bhojanīyatthañca pharaṇakakandā yāvakālikā.
Trong đồ ăn từ củ, có hai loại củ: củ dài và củ ngắn như củ sen, củ kiṃsuka v.v…; củ tròn như củ súng, củ năng v.v…, cũng được gọi là “củ”. Ở đó, phần già, vỏ, và rễ con của tất cả các loại củ là (thuốc) dùng trọn đời. Còn phần non, dễ ăn, (như) củ cây sālakalyāṇī non, củ cây kiṃsuka non, củ cóc, củ dứa dại, củ māluva, củ sen (gọi là bhisa), củ sen trắng, các loại như khoai sọ, khoai mỡ, củ khīravalli, củ khoai, củ chùm ngây, củ thốt nốt, củ của các loại súng xanh, súng đỏ, súng trắng, súng thơm, củ chuối, măng tre, củ năng – những loại củ như vậy, ở các xứ sở đó đó, được người đời dùng làm thức ăn thông thường, làm đồ ăn cứng và vật thực chính, là (vật thực) dùng trong thời hạn.

Khīravallikando adhoto yāvajīviko, dhoto yāvakāliko. Khīrakākolījīvikausabhakalasuṇādikandā pana yāvajīvikā. Te pāḷiyaṃ – ‘‘yāni vā panaññānipi atthi mūlāni bhesajjānī’’ti evaṃ mūlabhesajjasaṅgaheneva saṅgahitā.
Củ khīravalli chưa rửa thì (là thuốc) dùng trọn đời, đã rửa thì (là vật thực) dùng trong thời hạn. Còn các loại củ như khīrakākoli, jīvika, usabha, kalasuṇa v.v… là (thuốc) dùng trọn đời. Chúng, trong Pāḷi, đã được bao gồm trong nhóm thuốc từ rễ bằng câu “Hoặc những loại rễ nào khác hiện có làm thuốc”.

Mūḷālakhādanīye pana padumamūḷālaṃ puṇḍarīkamuḷālasadisameva. Erakamūlaṃ kandulamūlanti evamādi tesu tesu janapadesu pakatiāhāravasena manussānaṃ khādanīyatthañca bhojanīyatthañca pharaṇakamuḷālaṃ yāvakālikaṃ. Haliddisiṅgiveramakacicaturassavalliketakatālahintālakuntālanāḷikerapūgarukkhādimuḷālaṃ pana yāvajīvikaṃ, taṃ sabbampi pāḷiyaṃ – ‘‘yāni vā panaññānipi atthi mūlāni bhesajjānī’’ti (mahāva. 263) evaṃ mūlabhesajjasaṅgaheneva saṅgahitaṃ.
Còn trong đồ ăn từ ngó, ngó sen thì giống như ngó sen trắng. Ngó lau, ngó kandula v.v… – những loại ngó như vậy, ở các xứ sở đó đó, được người đời dùng làm thức ăn thông thường, làm đồ ăn cứng và vật thực chính, là (vật thực) dùng trong thời hạn. Còn ngó của các loại như nghệ, gừng, cỏ tranh, dây leo bốn cạnh, dứa dại, thốt nốt, chà là, kuntala, dừa, cau v.v… là (thuốc) dùng trọn đời; tất cả những thứ đó, trong Pāḷi, đã được bao gồm trong nhóm thuốc từ rễ bằng câu “Hoặc những loại rễ nào khác hiện có làm thuốc” (mahāva. 263).

Matthakakhādanīye tālahintālakuntālaketakanāḷikerapūgarukkhakhajjūrīvettaerakakadalīnaṃ kaḷīrasaṅkhātā matthakā veṇukaḷīro naḷakaḷīro ucchukaḷīro mūlakakaḷīro sāsapakaḷīro satāvarikaḷīro sattannaṃ dhaññānaṃ kaḷīrāti evamādi tesu tesu janapadesu pakatiāhāravasena manussānaṃ khādanīyatthaṃ bhojanīyatthañca pharaṇako rukkhavalliādīnaṃ matthako yāvakāliko. Haliddisiṅgiveravacamakacilasuṇānaṃkaḷīrā tālahintālakuntālanāḷikerakaḷīrānañca chinditvā pātito jaraṭṭhabundo yāvajīviko.
Trong đồ ăn từ đầu (ngọn non/củ hủ), các phần đầu được gọi là măng của cây thốt nốt, chà là, kuntala, dứa dại, dừa, cau, khajjūrī, mây, lau, chuối; măng tre, măng sậy, ngọn mía, ngồng cải, ngồng cải, măng tây, ngồng của bảy loại ngũ cốc – những loại như vậy, ở các xứ sở đó đó, phần đầu của cây thân gỗ, dây leo v.v… được người đời dùng làm thức ăn thông thường, làm đồ ăn cứng và vật thực chính, là (vật thực) dùng trong thời hạn. Măng của nghệ, gừng, thủy xương bồ, cỏ tranh, tỏi; và gốc già còn lại sau khi đã cắt và làm rụng măng của cây thốt nốt, chà là, kuntala, dừa, là (thuốc) dùng trọn đời.

Khandhakhādanīye antopathavīgato sālakalyāṇīkhandho ucchukhandho nīluppalarattuppalakumudasogandhikānaṃ khandhakāti evamādi tesu tesu janapadesu pakatiāhāravasena manussānaṃ khādanīyatthaṃ bhojanīyatthañca pharaṇako khandho yāvakāliko. Uppalajātīnaṃ paṇṇadaṇḍako padumajātīnaṃ sabbopi daṇḍako kāravindakadaṇḍādayo ca avasesasabbakhandhā yāvajīvikā.
Trong đồ ăn từ thân, thân cây sālakalyāṇī mọc ngầm dưới đất, thân mía, thân (cọng) của các loại súng xanh, súng đỏ, súng trắng, súng thơm – những loại như vậy, ở các xứ sở đó đó, phần thân được người đời dùng làm thức ăn thông thường, làm đồ ăn cứng và vật thực chính, là (vật thực) dùng trong thời hạn. Cọng lá của các loại súng, tất cả cọng của các loại sen, cọng cây kāravindaka v.v…, và tất cả các loại thân còn lại là (thuốc) dùng trọn đời.

Tacakhādanīye ucchutacova eko yāvakāliko, sopi saraso. Seso sabbo yāvajīviko. Tesaṃ pana matthakakhandhatacānaṃ tiṇṇaṃ pāḷiyaṃ kasāvabhesajjena saṅgaho veditabbo. Vuttañhetaṃ –
Trong đồ ăn từ vỏ, chỉ có vỏ mía là (vật thực) dùng trong thời hạn, đó cũng là (khi) có nước. Tất cả các loại vỏ còn lại là (thuốc) dùng trọn đời. Nhưng ba thứ: đầu (ngọn non), thân, và vỏ của chúng, cần được hiểu là được bao gồm trong thuốc có vị chát trong Pāḷi. Điều này đã được nói: –

‘‘Anujānāmi, bhikkhave, kasāvāni bhesajjāni nimbakasāvaṃ, kuṭajakasāvaṃ, paṭolakasāvaṃ, phaggavakasāvaṃ nattamālakasāvaṃ, yāni vā panaññānipi atthi kasāvāni bhesajjāni neva khādanīye khādanīyatthaṃ pharanti, na bhojanīye bhojanīyatthaṃ pharantī’’ti (mahāva. 263).
(Đức Phật dạy): “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép (dùng) các vị thuốc chát: vị chát của cây nimba, vị chát của cây kuṭaja, vị chát của cây paṭola, vị chát của cây phaggava, vị chát của cây nattamāla, và bất kỳ vị thuốc chát nào khác hiện có, mà không dùng làm đồ ăn cứng cũng không dùng làm vật thực chính” (mahāva. 263).

Ettha hi etesampi saṅgaho sijjhati. Vuttakasāvāni ca sabbāni kappiyānīti veditabbāni.
Ở đây, quả thật sự bao gồm của cả những thứ này cũng được thành tựu (trong nhóm thuốc chát này). Và tất cả các vị thuốc chát đã được nói đến cần được hiểu là hợp lệ (để dùng làm thuốc).

Pattakhādanīye mūlakaṃ khārako caccu tambako taṇḍuleyyako papunnāgo vatthuleyyako vajakali jajjharī sellu siggu kāsamaddako ummā cīnamuggo māso rājamāso ṭhapetvā mahānipphāvaṃ avasesanipphāvo aggimantho sunisannako setavaraṇo nāḷikā bhūmiyaṃ jātaloṇīti etesaṃ pattāni aññāni ca evarūpāni tesu tesu janapadesu pakatiāhāravasena manussānaṃ khādanīyatthaṃ bhojanīyatthañca pharaṇakāni pattāni ekaṃsena yāvakālikāni. Yā panaññā mahānakhapiṭṭhimattā paṇṇaloṇi rukkhe ca gacche ca ārohati, tassā pattaṃ yāvajīvikaṃ. Brahmīpattañca yāvakālikanti dīpavāsino vadanti. Ambapallavaṃ yāvakālikaṃ, asokapallavaṃ pana yāvajīvikaṃ.
Trong đồ ăn từ lá, lá của các loại (cây như) củ cải, khāraka, caccu, tambaka, rau dền, papunnāga, vatthuleyyaka, vajakali, jajjharī, sellu, chùm ngây, muồng trâu, ummā, đậu Trung Quốc, đậu đen, đậu rựa, ngoại trừ đậu rồng lớn thì các loại đậu rồng còn lại, cây mò lửa, rau sam, cây màn màn trắng, nāḷikā, rau sam đất – và các loại lá khác tương tự, ở các xứ sở đó đó, được người đời dùng làm thức ăn thông thường, làm đồ ăn cứng và vật thực chính, thì nhất định là (vật thực) dùng trong thời hạn. Còn loại rau sam lá khác, (lá) lớn bằng lưng móng tay, leo trên cây và bụi rậm, lá của nó là (thuốc) dùng trọn đời. Người dân đảo Lanka nói rằng lá rau má cũng là (vật thực) dùng trong thời hạn. Chồi xoài là (vật thực) dùng trong thời hạn, còn chồi cây asoka là (thuốc) dùng trọn đời.

Yāni vā panaññāni pāḷiyaṃ –
Hoặc những loại nào khác (được nói) trong Pāḷi: –

‘‘Anujānāmi, bhikkhave, paṇṇāni bhesajjāni nimbapaṇṇaṃ kuṭajapaṇṇaṃ paṭolapaṇṇaṃ sulasipaṇṇaṃ kappāsakapaṇṇaṃ yāni vā panaññānipi atthi paṇṇāni bhesajjāni neva khādanīye khādanīyatthaṃ pharanti na bhojanīye bhojanīyatthaṃ pharantī’’ti (mahāva. 263) –
(Đức Phật dạy): “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép (dùng) các loại lá làm thuốc: lá nimba, lá kuṭaja, lá paṭola, lá hương nhu, lá bông gòn, và bất kỳ loại lá nào khác hiện có làm thuốc, mà không dùng làm đồ ăn cứng cũng không dùng làm vật thực chính” (mahāva. 263) –

Vuttāni, tāni yāvajīvikāni. Na kevalañca paṇṇāniyeva tesaṃ pupphaphalādīnipi yāvajīvikāni. Paṇṇānaṃ phaggavapaṇṇaṃ ajjukapaṇṇaṃ phaṇijjakapaṇṇaṃ paṭolapaṇṇaṃ tambūlapaṇṇaṃ paduminipaṇṇanti evaṃ gaṇanavasena anto natthi.
Những gì đã được nói (trong Pāḷi đó), những thứ đó là (thuốc) dùng trọn đời. Không chỉ lá của chúng, mà cả hoa, quả v.v… của chúng cũng là (thuốc) dùng trọn đời. Đối với các loại lá như lá phaggava, lá ajjukā, lá phaṇijjaka, lá paṭola, lá trầu không, lá sen – như vậy về mặt số lượng thì không có giới hạn (cho các loại lá thuốc).

Pupphakhādanīye mūlakapupphaṃ khārakapupphaṃ caccupupphaṃ tambakapupphaṃ vajakalipupphaṃ jajjharīpupphaṃ cūḷanipphāvapupphaṃ mahānipphāvapupphaṃ kaserukapupphaṃ nāḷikeratālaketakānaṃ taruṇapupphāni setavaraṇapupphaṃ siggupupphaṃ uppalapadumajātikānaṃ pupphāni kaṇṇikamattaṃ agandhikapupphaṃ kaḷīrapupphaṃ jīvantīpupphanti evamādi tesu tesu janapadesu pakatiāhāravasena manussānaṃ khādanīyatthaṃ bhojanīyatthañca pharaṇakapupphaṃ yāvakālikaṃ. Asokabakulakuyyakapunnāgacampakajātikaṇavīrakaṇikārakundanavamālikamallikādīnaṃ pana pupphaṃ yāvajīvikaṃ tassa gaṇanāya anto natthi. Pāḷiyaṃ panassa kasāvabhesajjeneva saṅgaho veditabbo.
Trong đồ ăn từ hoa, hoa củ cải, hoa khāraka, hoa caccu, hoa tambaka, hoa vajakali, hoa jajjharī, hoa đậu rồng nhỏ, hoa đậu rồng lớn, hoa củ năng, hoa non của dừa, thốt nốt, dứa dại, hoa màn màn trắng, hoa chùm ngây, hoa của các loại súng, sen, chỉ riêng hoa kaṇṇikā không có mùi thơm, hoa măng, hoa jīvantī – những loại như vậy, ở các xứ sở đó đó, hoa được người đời dùng làm thức ăn thông thường, làm đồ ăn cứng và vật thực chính, là (vật thực) dùng trong thời hạn. Còn hoa của các loại như asoka, bakula, kuyyaka, punnāga, champaka, hoa lài, trúc đào, sử quân tử, hoa kunda, hoa navamālikā, hoa mallikā v.v… là (thuốc) dùng trọn đời, không có giới hạn về số lượng của chúng. Nhưng trong Pāḷi, chúng cần được hiểu là được bao gồm trong nhóm thuốc có vị chát.

Phalakhādanīye panasalabujatālanāḷikeraambajambūambāṭakatintiṇikamātuluṅgakapitthalābukumbhaṇḍapussaphalatimbarūsakatipusavātiṅgaṇacocamocamadhukādīnaṃ phalāni yāni loke tesu tesu janapadesu pakatiāhāravasena manussānaṃ khādanīyatthaṃ bhojanīyatthañca pharanti, sabbāni tāni yāvakālikāni. Nāmagaṇanavasena nesaṃ na sakkā pariyantaṃ dassetuṃ. Yāni pana pāḷiyaṃ –
Trong đồ ăn từ quả, quả của các loại như mít, labuja, thốt nốt, dừa, xoài, điều, cóc, me, thanh yên, thị, bầu, bí, pussaphala, timbarūsaka, dưa chuột, cà tím, chuối, madhuka v.v…, những quả nào trên đời, ở các xứ sở đó đó, được người đời dùng làm thức ăn thông thường, làm đồ ăn cứng và vật thực chính, tất cả những quả đó là (vật thực) dùng trong thời hạn. Về mặt kể tên, không thể chỉ ra hết giới hạn của chúng. Còn những loại nào (được nói) trong Pāḷi: –

‘‘Anujānāmi, bhikkhave, phalāni bhesajjāni – bilaṅgaṃ, pipphaliṃ, maricaṃ, harītakaṃ, vibhītakaṃ, āmalakaṃ, goṭṭhaphalaṃ, yāni vā panaññānipi atthi phalāni bhesajjāni neva khādanīye khādanīyatthaṃ pharanti na bhojanīye bhojanīyatthaṃ pharantī’’ti (mahāva. 263) –
(Đức Phật dạy): “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép (dùng) các loại quả làm thuốc: bilaṅga, tiêu lốt, tiêu, kha tử, bàng hôi, me rừng, goṭṭhaphala, và bất kỳ loại quả nào khác hiện có làm thuốc, mà không dùng làm đồ ăn cứng cũng không dùng làm vật thực chính” (mahāva. 263) –

Vuttāni, tāni yāvajīvikāni. Tesampi aparipakkāni acchiva bimbavaraṇaketakakāsmarīādīnaṃ phalāni jātiphalaṃ kaṭukaphalaṃ eḷā takkolanti evaṃ nāmavasena na sakkā pariyantaṃ dassetuṃ.
Những thứ được nói đến đó là dược phẩm trọn đời. Trong số đó, những quả chưa chín của cây bình bát dây, dứa dại, gòn nem, vân vân, và các loại quả như đậu khấu, tiêu lốt, bạch đậu khấu, một loại hồ tiêu, không thể liệt kê hết tên gọi.

Aṭṭhikhādanīye labujaṭṭhi panasaṭṭhi ambāṭakaṭṭhi sālaṭṭhi khajjūrīketakatimbarūsakānaṃ taruṇaphalaṭṭhi tintiṇikaṭṭhi bimbaphalaṭṭhi uppala padumajātīnaṃ pokkharaṭṭhīti evamādīni tesu tesu janapadesu manussānaṃ pakatiāhāravasena khādanīyatthaṃ bhojanīyatthañca pharaṇakāni aṭṭhīni yāvakālikāni. Madhukaṭṭhi punnāgaṭṭhi harītakādīnaṃ aṭṭhīni siddhatthakaṭṭhi rājikaṭṭhīti evamādīni aṭṭhīni yāvajīvikāni. Tesaṃ pāḷiyaṃ phalabhesajjeneva saṅgaho veditabbo.
Đối với các loại hạt có thể ăn được: hạt mít, hạt mít tố nữ, hạt cóc, hạt sala, hạt chà là non của cây chà là, dứa dại, thị rừng, hạt me, hạt trái bình bát, hạt sen, hạt súng các loại, và các loại tương tự ở những vùng khác nhau, được con người dùng làm thực phẩm thường ngày để ăn và nhai, là những loại hạt dược phẩm theo mùa. Hạt cam thảo dây, hạt mù u, hạt kha tử, vân vân, hạt cải trắng, hạt cải, và các loại tương tự, là những loại hạt dược phẩm trọn đời. Trong kinh điển Pāḷi, chúng được kể vào nhóm dược phẩm từ quả.

Piṭṭhakhādanīye sattannaṃ tāva dhaññānaṃ dhaññānulomānaṃ aparaṇṇānañca piṭṭhaṃ panasapiṭṭhaṃ labujapiṭṭhaṃ ambāṭakapiṭṭhaṃ sālapiṭṭhaṃ dhotakatālapiṭṭhañca khīravallipiṭṭhañcāti evamādīni tesu tesu janapadesu pakatiāhāravasena manussānaṃ khādanīyatthaṃ bhojanīyatthañca pharaṇakāni piṭṭhāni yāvakālikāni. Adhotakaṃ tālapiṭṭhaṃ khīravallipiṭṭhaṃ assagandhādipiṭṭhāni ca yāvajīvikāni. Tesaṃ pāḷiyaṃ kasāvehi ca mūlaphalehi ca saṅghaho veditabbo.
Đối với các loại bột có thể ăn được: bột của bảy loại ngũ cốc, các loại ngũ cốc phụ, và các loại đậu; bột mít, bột mít, bột cóc, bột sala, bột thốt nốt đã rửa, và bột khoai mì, và các loại tương tự ở những vùng khác nhau, được con người dùng làm thực phẩm thường ngày để ăn và nhai, là những loại bột dược phẩm theo mùa. Bột thốt nốt chưa rửa, bột khoai mì, và bột nhân sâm Ấn Độ, vân vân, là những loại dược phẩm trọn đời. Trong kinh điển Pāḷi, chúng được kể vào nhóm dược phẩm từ chất chát và từ rễ và quả.

Niyyāsakhādanīye eko ucchuniyyāsova sattāhakāliko. Sesā ‘‘anujānāmi, bhikkhave, jatūni bhesajjāni – hiṅguṃ hiṅgujatuṃ hiṅgusipāṭikaṃ takaṃ takapattiṃ takapaṇṇiṃ sajjulasaṃ yāni vā panaññānipi atthi jatūni bhesajjānī’’ti (mahāva. 263) evaṃ pāḷiyaṃ vuttaniyyāsā yāvajīvikā. Tattha yevāpanakavasena saṅgahitānaṃ ambaniyyāso kaṇikāraniyyāsoti evaṃ nāmavasena na sakkā pariyantaṃ dassetuṃ. Evaṃ imesu mūlakhādanīyādīsu yaṃkiñci yāvakālikaṃ, sabbampi imasmiṃ atthe ‘‘avasesaṃ khādanīyaṃ nāmā’’ti saṅgahitaṃ .
Đối với các loại nhựa cây có thể ăn được, chỉ có nhựa mía là (dược phẩm) dùng trong bảy ngày. Các loại nhựa còn lại được đề cập trong Pāḷi: “Này các Tỳ khưu, Ta cho phép các loại nhựa cây làm thuốc – nhựa cây a ngùy, nhựa cây a ngùy (loại tốt), vỏ cây a ngùy, nhựa cây taka, lá cây taka, lá cây taka (loại khác), nhựa thông, hoặc bất kỳ loại nhựa cây nào khác có thể dùng làm thuốc” (Đại Phẩm 263), là những (dược phẩm) trọn đời. Trong đó, những loại được thu thập bằng cách nấu luyện như nhựa xoài, nhựa cây thành ngạnh, không thể liệt kê hết tên gọi. Như vậy, trong các loại rễ cây có thể ăn được này, bất cứ thứ gì là (dược phẩm) theo mùa, tất cả trong trường hợp này được gộp chung là “các loại thức ăn còn lại”.

Bhojanīyaṃ nāma pañca bhojanānītiādimhi yaṃ vattabbaṃ taṃ vuttameva. Khādissāmi bhuñjissāmīti, paṭiggaṇhātīti yo bhikkhu vikāle etaṃ khādanīyaṃ bhojanīyañca paṭiggaṇhāti, tassa paṭiggahaṇe tāva āpatti dukkaṭassa. Sesamettha uttānameva.
Năm loại thực phẩm chính được gọi là đồ ăn, những gì cần nói về điều này đã được nói rồi. “Tôi sẽ nhai, tôi sẽ ăn”, và nhận lấy: vị Tỳ khưu nào nhận lấy đồ nhai và đồ ăn này vào lúc phi thời, thì khi nhận lấy, vị ấy phạm tội Tác ác (dukkata). Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kāyato ca kāyacittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Phát sinh từ lông cừu – phát sinh từ thân và từ thân-tâm, là hành động, không phải giải thoát qua tưởng, không có tâm, là tội do quy định, là hành động của thân, thuộc ba tâm, thuộc ba cảm thọ.

Vikālabhojanasikkhāpadaṃ sattamaṃ.

Điều Học Về Ăn Sai Giờ là thứ bảy.

8. Sannidhikārakasikkhāpadavaṇṇanā

8. Chú Giải Điều Học Về Việc Cất Giữ (Thực Phẩm)

252. Aṭṭhamasikkhāpade – belaṭṭhasīso nāma jaṭilasahassabbhantaro mahāthero. Araññe viharatīti jetavanassa avidūre padhānaghare ekasmiṃ āvāse vasati. Sukkhakuranti asūpabyañjanaṃ odanaṃ. So kira antogāme bhuñjitvā pacchā piṇḍāya caritvā tādisaṃ odanaṃ āharati, tañca kho appicchatāya, na paccayagiddhatāya. Thero kira sattāhaṃ nirodhasamāpattiyā vītināmetvā samāpattito vuṭṭhāya taṃ piṇḍapātaṃ udakena temetvā bhuñjati, tato puna sattāhaṃ samāpattiyā nisīdati. Evaṃ dvepi tīṇipi cattāripi sattāhāni vītināmetvā gāmaṃ piṇḍāya pavisati. Tena vuttaṃ – ‘‘cirena gāmaṃ piṇḍāya pavisatī’’ti.
252. Trong điều học thứ tám – Belaṭṭhasīsa là một vị Đại Trưởng Lão trong số một ngàn vị tu sĩ khổ hạnh tóc bện. Vị ấy sống trong rừng nghĩa là vị ấy cư ngụ tại một trú xứ trong một ngôi nhà chuyên tu hành gần Kỳ Viên. Cơm khô nghĩa là cơm không có canh hoặc thức ăn kèm. Vị ấy thường sau khi ăn trong làng rồi mới đi khất thực sau đó và mang về loại cơm như vậy, và điều đó là do lòng ít ham muốn, chứ không phải do tham đắm vật thực. Vị Trưởng Lão thường trải qua bảy ngày trong trạng thái nhập diệt thọ tưởng định, sau khi xuất định, ngài dùng nước làm ẩm vật thực khất thực đó rồi ăn, sau đó lại nhập định bảy ngày nữa. Cứ như thế, ngài trải qua hai, ba, hoặc bốn lần bảy ngày rồi mới vào làng khất thực. Do đó có câu nói – “Rất lâu sau ngài mới vào làng khất thực”.

253. Kāro karaṇaṃ kiriyāti atthato ekaṃ, sannidhikāro assāti sannidhikāraṃ; sannidhikārameva sannidhikārakaṃ. Paṭiggahetvā ekarattaṃ vītināmitassetaṃ adhivacanaṃ. Tenevassa padabhājane vuttaṃ – ‘‘sannidhikārakaṃ nāma ajja paṭiggahitaṃ aparajjū’’ti.
253. Việc làm, sự thực hiện, hành động về mặt ý nghĩa là một; có sự cất giữ là (thực phẩm) được cất giữ; chính sự cất giữ là hành vi cất giữ. Đây là tên gọi cho (thực phẩm) đã được nhận và trải qua một đêm. Do đó, trong phần phân tích từ ngữ của nó có nói – “Hành vi cất giữ có nghĩa là (thực phẩm) được nhận hôm nay (để dùng) vào ngày hôm sau”.

Paṭiggaṇhāti āpatti dukkaṭassāti evaṃ sannidhikataṃ yaṃkiñci yāvakālikaṃ vā yāmakālikaṃ vā ajjhoharitukāmatāya gaṇhantassa paṭiggahaṇe tāva āpatti dukkaṭassa. Ajjhoharato pana ekamekasmiṃ ajjhohāre pācittiyaṃ. Sacepi patto duddhoto hoti, yaṃ aṅguliyā ghaṃsantassa lekhā paññāyati, gaṇṭhikapattassa vā gaṇṭhikantare sneho paviṭṭho hoti, so uṇhe otāpentassa paggharati, uṇhayāguyā vā gahitāya sandissati, tādise pattepi punadivase bhuñjantassa pācittiyaṃ. Tasmā pattaṃ dhovitvā puna tattha acchodakaṃ vā āsiñcitvā aṅguliyā vā ghaṃsitvā nisnehabhāvo jānitabbo. Sace hi udake vā snehabhāvo patte vā aṅgulilekhā paññāyati, duddhoto hoti. Telavaṇṇapatte pana aṅgulilekhā paññāyati, sā abbohārikā. Yaṃ bhikkhū nirapekkhā sāmaṇerānaṃ pariccajanti, tañce sāmaṇerā nidahitvā denti, sabbaṃ vaṭṭati. Sayaṃ paṭiggahetvā apariccattameva hi dutiyadivase na vaṭṭati. Tato hi ekasitthampi ajjhoharato pācittiyameva.
Nhận lấy thì phạm tội tác ác có nghĩa là khi một vị Tỳ khưu, với ý muốn dùng, nhận lấy bất kỳ loại (dược phẩm) nào đã được cất giữ như vậy, dù là loại dùng theo mùa hay loại dùng theo canh, thì ngay khi nhận lấy, vị ấy phạm tội tác ác. Còn khi dùng, với mỗi miếng ăn, vị ấy phạm tội Ưng Đối Trị (pācittiya). Ngay cả khi bát đã được rửa sạch, nhưng nếu khi cọ bằng ngón tay vẫn thấy có vệt, hoặc đối với bát có quai, nếu chất nhờn đã thấm vào giữa quai, và chất nhờn đó chảy ra khi bát được hơ nóng, hoặc lộ ra khi nhận cháo nóng, thì khi ăn bằng chiếc bát như vậy vào ngày hôm sau, vị ấy vẫn phạm tội Ưng Đối Trị. Do đó, sau khi rửa bát, nên đổ thêm nước trong vào đó hoặc cọ bằng ngón tay để biết chắc rằng không còn chất nhờn. Vì nếu trong nước có chất nhờn hoặc trên bát có vệt do ngón tay thì bát đó chưa được rửa sạch. Tuy nhiên, đối với bát có màu dầu, nếu có vệt ngón tay hiện ra, thì đó không phải là đối tượng (để xét tội). Những gì các Tỳ khưu không còn luyến tiếc mà từ bỏ cho các Sa di, nếu các Sa di cất giữ rồi dâng lại, tất cả đều được phép dùng. Chỉ những gì tự mình nhận lấy mà chưa từ bỏ thì không được phép dùng vào ngày thứ hai. Bởi vì từ đó, dù chỉ dùng một hạt cơm cũng phạm tội Ưng Đối Trị.

Akappiyamaṃsesu manussamaṃse thullaccayena sadviṃ pācittiyaṃ, avasesesu dukkaṭena saddhiṃ. Yāmakālikaṃ sati paccaye ajjhoharato pācittiyaṃ. Āhāratthāya ajjhoharato dukkaṭena saddhiṃ pācittiyaṃ. Sace pavārito hutvā anatirittakataṃ ajjhoharati, pakatiāmise dve pācittiyāni, manussamaṃse thullaccayena saddhiṃ dve, sesaakappiyamaṃse dukkaṭena saddhiṃ, yāmakālikaṃ sati paccaye sāmisena mukhena ajjhoharato dve, nirāmisena ekameva. Āhāratthāya ajjhoharato vikappadvayepi dukkaṭaṃ vaḍḍhati. Sace vikāle ajjhoharati, pakatibhojane sannidhipaccayā ca vikālabhojanapaccayā ca dve pācittiyāni, akappiyamaṃsesu thullaccayañca dukkaṭañca vaḍḍhati. Yāmakālikesu vikālapaccayā anāpatti, anatirittapaccayā pana vikāle sabbavikappesu anāpatti.
Trong các loại thịt không hợp lệ, đối với thịt người thì phạm tội Thâu Lan Giá cùng với hai tội Ưng Đối Trị; đối với các loại còn lại thì phạm tội Tác Ác cùng với (tội Ưng Đối Trị). Khi dùng (dược phẩm) theo canh nếu có duyên sự, phạm tội Ưng Đối Trị. Nếu dùng với mục đích làm thức ăn, phạm tội Tác Ác cùng với tội Ưng Đối Trị. Nếu đã được mời dùng rồi mà lại dùng phần không phải là đồ ăn thừa, đối với thức ăn thông thường, phạm hai tội Ưng Đối Trị; đối với thịt người, phạm tội Thâu Lan Giá cùng với hai tội (Ưng Đối Trị); đối với các loại thịt không hợp lệ khác, phạm tội Tác Ác cùng với (tội Ưng Đối Trị); đối với (dược phẩm) theo canh, nếu có duyên sự mà dùng với miệng còn dính thức ăn, phạm hai tội (Ưng Đối Trị); nếu miệng không dính thức ăn, chỉ phạm một tội. Nếu dùng với mục đích làm thức ăn, trong cả hai trường hợp đều tăng thêm tội Tác Ác. Nếu dùng vào lúc phi thời, đối với thực phẩm thông thường, do duyên cất giữ và duyên ăn phi thời, phạm hai tội Ưng Đối Trị; đối với các loại thịt không hợp lệ, tăng thêm tội Thâu Lan Giá và tội Tác Ác. Đối với các loại (dược phẩm) theo canh, do duyên phi thời thì không phạm tội; còn do duyên không phải đồ ăn thừa vào lúc phi thời, trong tất cả các trường hợp đều không phạm tội.

255.Sattāhakālikaṃ yāvajīvikaṃ āhāratthāyāti āhāratthāya paṭiggaṇhato paṭiggahaṇapaccayā tāva dukkaṭaṃ, ajjhoharato pana sace nirāmisaṃ hoti, ajjhohāre ajjhohāre dukkaṭaṃ. Atha āmisasaṃsaṭṭhaṃ paṭiggahetvā ṭhapitaṃ hoti, yathāvatthukaṃ pācittiyameva.
255. (Dược phẩm) dùng trong bảy ngày, (dược phẩm) trọn đời, dùng với mục đích làm thức ăn: khi nhận lấy với mục đích làm thức ăn, do duyên nhận lấy, phạm tội Tác Ác trước. Còn khi dùng, nếu không có thức ăn kèm, mỗi miếng ăn phạm tội Tác Ác. Nếu đã nhận và cất giữ (dược phẩm) có trộn lẫn thức ăn, thì phạm tội Ưng Đối Trị tùy theo trường hợp.

256.Anāpatti yāvakālikantiādimhi vikālabhojanasikkhāpade niddiṭṭhaṃ khādanīyabhojanīyaṃ yāva majjhantikasaṅkhāto kālo, tāva bhuñjitabbato yāvakālikaṃ. Saddhiṃ anulomapānehi aṭṭhavidhaṃ pānaṃ yāva rattiyā pacchimayāmasaṅkhāto yāmo, tāva paribhuñjitabbato yāmo kālo assāti yāmakālikaṃ. Sappiādi pañcavidhaṃ bhesajjaṃ sattāhaṃ nidhetabbato sattāho kālo assāti sattāhakālikaṃ. Ṭhapetvā udakaṃ avasesaṃ sabbampi yāvajīvaṃ pariharitvā sati paccaye paribhuñjitabbato yāvajīvakanti vuccati .
256. Không phạm tội đối với (dược phẩm) dùng theo mùa, vân vân: trong điều học về ăn phi thời, đồ nhai và đồ ăn được chỉ định, vì được dùng cho đến thời điểm được gọi là quá trưa, nên gọi là (dược phẩm) dùng theo mùa. Tám loại nước uống cùng với các loại nước uống phụ trợ, vì được dùng cho đến canh cuối cùng của đêm, nên gọi là (dược phẩm) dùng theo canh, vì canh là thời gian của nó. Năm loại thuốc như bơ lỏng, vì được cất giữ trong bảy ngày, nên gọi là (dược phẩm) dùng trong bảy ngày, vì bảy ngày là thời gian của nó. Ngoại trừ nước, tất cả những thứ còn lại, vì được mang theo và dùng khi có duyên sự suốt đời, nên được gọi là (dược phẩm) trọn đời.

Tattha aruṇodayeva paṭiggahitaṃ yāvakālikaṃ satakkhattumpi nidahitvā yāvakālo nātikkamati tāva, yāmakālikaṃ ekaṃ ahorattaṃ, sattāhakālikaṃ sattarattaṃ, itaraṃ sati paccaye, yāvajīvampi paribhuñjantassa anāpatti. Sesamettha uttānameva. Aṭṭhakathāsu pana imasmiṃ ṭhāne pānakathā kappiyānulomakathā ‘‘kappati nu kho yāvakālikena yāmakālika’’ntiādikathā ca kappiyabhūmikathā ca vitthāritā, taṃ mayaṃ āgataṭṭhāneyeva kathayissāma.
Trong đó, (dược phẩm) dùng theo mùa được nhận vào lúc rạng đông, dù cất giữ cả trăm lần, miễn là thời gian (cho phép dùng) chưa qua, thì không phạm tội khi dùng. (Dược phẩm) dùng theo canh (được dùng trong) một ngày một đêm, (dược phẩm) dùng trong bảy ngày (được dùng trong) bảy đêm, các loại khác khi có duyên sự, ngay cả (dược phẩm) trọn đời, khi dùng cũng không phạm tội. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Tuy nhiên, trong các sách Chú Giải, ở chỗ này, phần nói về nước uống, phần nói về những thứ hợp lệ và tương tự, phần nói về “Liệu (dược phẩm) dùng theo mùa có hợp với (dược phẩm) dùng theo canh không?” và các vấn đề tương tự, cùng với phần nói về nền tảng của những gì hợp lệ, đã được trình bày chi tiết, chúng tôi sẽ nói về điều đó ở những chỗ đã đề cập.

Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kāyato ca kāyacittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Phát sinh từ lông cừu – phát sinh từ thân và từ thân-tâm, là hành động, không phải giải thoát qua tưởng, không có tâm, là tội do quy định, là hành động của thân, thuộc ba tâm, thuộc ba cảm thọ.

Sannidhikārakasikkhāpadaṃ aṭṭhamaṃ.

Điều Học Về Việc Cất Giữ (Thực Phẩm) là thứ tám.

9. Paṇītabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Chú Giải Điều Học Về Thực Phẩm Thượng Hạng

257. Navamasikkhāpade – paṇītabhojanānīti uttamabhojanāni. Kassa sampannaṃ na manāpanti sampattiyuttaṃ kassa na piyaṃ. Sādunti surasaṃ.
257. Trong điều học thứ chín – Thực phẩm thượng hạng nghĩa là những món ăn hảo hạng. Thứ đã hoàn hảo thì ai lại không thích nghĩa là thứ đã đầy đủ phẩm chất thì ai lại không ưa thích. Ngon nghĩa là có vị ngon.

259.Yo pana bhikkhu evarūpāni paṇītabhojanāni agilāno attano atthāya viññāpetvā bhuñjeyyāti ettha suddhāni sappiādīni viññāpetvā bhuñjanto pācittiyaṃ nāpajjati, sekhiyesu sūpodanaviññattidukkaṭaṃ āpajjati, odanasaṃsaṭṭhāni pana viññāpetvā bhuñjanto pācittiyaṃ āpajjatīti veditabbo, ayaṃ kirettha adhippāyo. Teneva ca ‘‘paṇītānī’’ti avatvā ‘‘paṇītabhojanānī’’ti sutte vuttaṃ. ‘‘Paṇītānī’’ti hi vutte sappiādīnaṃyeva gahaṇaṃ hoti, ‘‘paṇītabhojanānī’’ti vutte pana paṇītasaṃsaṭṭhāni sattadhaññanibbattāni bhojanāni paṇītabhojanānīti ayamattho paññāyati.
259. Vị Tỳ khưu nào không bệnh mà xin những thực phẩm thượng hạng như vậy cho bản thân rồi ăn: ở đây, nếu xin các loại thuần túy như bơ lỏng rồi ăn thì không phạm tội Ưng Đối Trị, nhưng phạm tội Tác Ác do xin canh và cơm trong các điều học thuộc nhóm Tu Học Pháp (Sekhiya); còn nếu xin những thứ đã trộn lẫn với cơm rồi ăn thì phải hiểu là phạm tội Ưng Đối Trị, đây được cho là ý nghĩa chính ở đây. Chính vì vậy mà trong kinh văn, thay vì nói “những thứ thượng hạng”, lại nói “những thực phẩm thượng hạng”. Bởi nếu nói “những thứ thượng hạng” thì chỉ bao gồm bơ lỏng và các thứ tương tự; còn khi nói “những thực phẩm thượng hạng” thì ý nghĩa được hiểu là những thực phẩm làm từ bảy loại ngũ cốc đã được trộn lẫn với những thứ thượng hạng thì gọi là thực phẩm thượng hạng.

Idāni viññāpeti payoge dukkaṭantiādīsu ayaṃ vinicchayo – ‘‘sappinā bhattaṃ dehi, sappiṃ ākiritvā dehi, sappimissakaṃ katvā dehi, sahasappinā dehi, sappiñca bhattañca dehī’’ti viññāpentassa viññattiyā dukkaṭaṃ, paṭiggahaṇe dukkaṭaṃ, ajjhohāre pācittiyaṃ. ‘‘Sappibhattaṃ dehī’’ti vutte pana yasmā sālibhattaṃ viya sappibhattaṃ nāma natthi; tasmā sūpodanaviññattidukkaṭameva veditabbaṃ.
Bây giờ, trong các câu như xin thì trong lúc cố gắng (xin) phạm tội tác ác, đây là sự phân xử: Khi xin rằng “Hãy cho cơm với bơ lỏng, hãy cho (cơm) có rưới bơ lỏng lên, hãy cho (cơm) đã trộn với bơ lỏng, hãy cho cùng với bơ lỏng, hãy cho cả bơ lỏng và cơm”, thì khi xin phạm tội Tác Ác, khi nhận lấy phạm tội Tác Ác, khi ăn phạm tội Ưng Đối Trị. Còn khi nói “Hãy cho cơm bơ lỏng”, vì không có loại cơm nào gọi là “cơm bơ lỏng” giống như “cơm gạo Sāli”; do đó, phải hiểu đó chỉ là tội Tác Ác do xin canh và cơm.

Sace pana ‘‘sappinā bhattaṃ dehī’’ti vutte bhattaṃ datvā ‘‘sappiṃ katvā bhuñjā’’ti navanītaṃ vā khīraṃ vā dadhiṃ vā deti, mūlaṃ vā pana deti, ‘‘iminā sappiṃ gahetvā bhuñjā’’ti yathāvatthukameva. ‘‘Gosappinā bhattaṃ dehī’’ti vutte pana gosappinā vā detu, gosappimhi asati, purimanayeneva gonavanītādīni vā gāviṃyeva vā detu ‘‘ito sappinā bhuñjā’’ti yathāvatthukameva. Sace pana gosappinā yācito ajiyā sappiādīhi deti, visaṅketaṃ. Evañhi sati aññaṃ yācitena aññaṃ dinnaṃ nāma hoti, tasmā anāpatti. Esa nayo ajiyā sappinā dehīti ādīsupi.
Tuy nhiên, nếu khi được yêu cầu “Hãy cho cơm với bơ lỏng”, người ta cho cơm rồi nói “Hãy làm bơ lỏng mà ăn” và cho bơ sữa bò tươi, hoặc sữa, hoặc sữa chua, hoặc cho vật gốc (để đổi lấy bơ lỏng) rằng “Hãy lấy bơ lỏng bằng thứ này mà ăn”, thì (phạm tội) tùy theo từng trường hợp. Còn khi được yêu cầu “Hãy cho cơm với bơ lỏng của bò”, dù người ta cho (cơm) với bơ lỏng của bò, hoặc nếu không có bơ lỏng của bò, họ cho bơ sữa bò tươi của bò v.v. theo cách đã nói ở trên, hoặc cho cả con bò cái với ý “Hãy lấy bơ lỏng từ con bò này mà ăn”, thì (phạm tội) tùy theo từng trường hợp. Nhưng nếu khi được yêu cầu bơ lỏng của bò mà người ta lại cho bơ lỏng của dê v.v., đó là sự nhầm lẫn (không đúng với yêu cầu). Vì như vậy, điều được yêu cầu là một đằng mà thứ được cho lại là một nẻo, do đó không phạm tội. Cách này cũng áp dụng cho các trường hợp như “Hãy cho (cơm) với bơ lỏng của dê” v.v.

‘‘Kappiyasappinā dehī’’ti vutte akappiyasappinā deti, visaṅketameva. ‘‘Akappiyasappināti vutte akappiyasappinā deti, paṭiggahaṇepi paribhogepi dukkaṭameva. Akappiyasappimhi asati purimanayeneva akappiyanavanītādīni deti ‘‘sappiṃ katvā bhuñjā’’ti akappiyasappināva dinnaṃ hoti. ‘‘Akappiyasappinā’’ti vutte kappiyena deti, visaṅketaṃ. ‘‘Sappinā’’ti vutte sesesu navanītādīsu aññatarena deti, visaṅketameva. Esa nayo navanītena dehītiādīsupi. Yena yena hi viññatti hoti, tasmiṃ vā tassa mūle vā laddhe, taṃ taṃ laddhameva hoti.
Khi được yêu cầu “Hãy cho (cơm) với bơ lỏng hợp lệ”, mà người ta cho bơ lỏng không hợp lệ, đó chính là sự nhầm lẫn. Khi nói “Bơ lỏng không hợp lệ” mà người ta cho bơ lỏng không hợp lệ, thì cả khi nhận lẫn khi dùng đều phạm tội Tác Ác. Nếu không có bơ lỏng không hợp lệ, người ta cho bơ sữa bò tươi không hợp lệ v.v. theo cách đã nói ở trên với ý “Hãy làm bơ lỏng mà ăn”, thì coi như đã cho bằng bơ lỏng không hợp lệ. Khi nói “Bơ lỏng không hợp lệ” mà người ta cho loại hợp lệ, đó là sự nhầm lẫn. Khi nói “Bơ lỏng” mà người ta cho một trong các thứ còn lại như bơ sữa bò tươi v.v., đó chính là sự nhầm lẫn. Cách này cũng áp dụng cho các trường hợp như “Hãy cho (cơm) với bơ sữa bò tươi” v.v. Bởi vì, bất cứ thứ gì đã được xin, nếu nhận được chính thứ đó hoặc vật gốc của nó, thì coi như đã nhận được chính thứ đó.

Sace pana aññaṃ pāḷiyā āgataṃ vā anāgataṃ vā denti, visaṅketaṃ. Pāḷiyaṃ āgatanavanītādīni ṭhapetvā aññehi navanītādīhi viññāpentassa dukkaṭaṃ. Yathā ca ‘‘sappibhattaṃ dehī’’ti vutte sālibhattassa viya sappibhattassa abhāvā sūpodanaviññattidukkaṭameva hotīti vuttaṃ. Evaṃ navanītabhattaṃ dehītiādīsupi. Paṭipāṭiyā ekamekaṃ vitthāretvā vuccamānepi hi ayamevattho vattabbo siyā, so ca saṅkhepenapi sakkā ñātuṃ, kiṃ tattha vitthārena? Tena vuttaṃ – ‘‘esa nayo navanītena dehītiādīsupī’’ti.
Tuy nhiên, nếu người ta cho một thứ khác, dù có được đề cập trong Pāḷi hay không, đó là sự nhầm lẫn. Trừ những thứ như bơ sữa bò tươi được đề cập trong Pāḷi, nếu xin các loại bơ sữa bò tươi khác, phạm tội Tác Ác. Và như đã nói, khi yêu cầu “Hãy cho cơm bơ lỏng”, vì không có loại cơm bơ lỏng như cơm gạo Sāli, nên chỉ phạm tội Tác Ác do xin canh và cơm. Tương tự như vậy đối với các trường hợp “Hãy cho cơm bơ sữa bò tươi” v.v. Ngay cả khi trình bày chi tiết từng trường hợp theo thứ tự, ý nghĩa cũng chỉ là như vậy mà thôi, và điều đó có thể hiểu được một cách ngắn gọn, cần gì phải trình bày chi tiết ở đó? Do đó có câu nói – “Cách này cũng áp dụng cho các trường hợp như ‘Hãy cho (cơm) với bơ sữa bò tươi’ v.v.”.

Sace pana sabbehipi sappiādīhi ekaṭṭhāne vā nānāṭṭhāne vā viññāpetvā paṭiladdhaṃ ekabhājane ākiritvā ekarasaṃ katvā tato kusaggenāpi jivhagge binduṃ ṭhapetvā ajjhoharati, nava pācittiyāni āpajjati. Vuttampi cetaṃ parivāre –
Tuy nhiên, nếu sau khi đã xin tất cả các loại bơ lỏng v.v. ở cùng một nơi hoặc ở nhiều nơi khác nhau, rồi nhận được, đổ chung vào một vật chứa, trộn thành một vị, rồi từ đó dù chỉ lấy một giọt đặt lên đầu lưỡi bằng đầu ngọn cỏ kusa mà ăn, thì phạm chín tội Ưng Đối Trị. Điều này cũng đã được nói trong Tập Yếu Luật:

‘‘Kāyikāni na vācasikāni,
Sabbāni nānāvatthukāni;
Apubbaṃ acarimaṃ āpajjeyya ekato,
Pañhāmesā kusalehi cintitā’’ti. (pari. 481);
“Những tội thuộc về thân, không thuộc về lời nói,
Tất cả đều có đối tượng khác nhau;
Nếu phạm cùng một lúc, không trước không sau,
Vấn đề này do người trí đã suy xét.” (pari. 481);

261.Agilānogilānasaññīti ettha sace gilānasaññīpi hutvā bhesajjatthāya pañca bhesajjāni viññāpeti, mahānāmasikkhāpadena kāretabbo . Nava paṇītabhojanāni viññāpento pana iminā sikkhāpadena kāretabbo. Bhikkhunīnaṃ pana etāni pāṭidesanīyavatthūni honti, sūpodanaviññattiyaṃ ubhayesampi sekhapaṇṇattidukkaṭameva. Sesamettha uttānameva.
261. Người không bệnh nhưng tưởng mình bệnh: ở đây, nếu có người tưởng mình bệnh rồi xin năm loại thuốc với mục đích chữa bệnh, thì phải xử theo điều học Mahānāma. Còn nếu xin chín loại thực phẩm thượng hạng thì phải xử theo điều học này. Tuy nhiên, đối với các Tỳ khưu ni, những trường hợp này là đối tượng của tội Ưng Phát Lộ (pāṭidesanīya); trong trường hợp xin canh và cơm, cả hai (Tỳ khưu và Tỳ khưu ni) đều phạm tội Tác Ác theo quy định của Tu Học Pháp. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Catusamuṭṭhānaṃ – kāyato kāyavācato kāyacittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti,

Phát sinh từ bốn nguồn – phát sinh từ thân, từ thân-lời, từ thân-tâm, và từ thân-lời-tâm (thân-khẩu-ý),

Kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇativajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Là hành động, không phải giải thoát qua tưởng, không có tâm, là tội do quy định, là hành động của thân, hành động của lời, thuộc ba tâm, thuộc ba cảm thọ.

Paṇītabhojanasikkhāpadaṃ navamaṃ.

Điều Học Về Thực Phẩm Thượng Hạng là thứ chín.

10. Dantaponasikkhāpadavaṇṇanā

10. Chú Giải Điều Học Về Tăm Xỉa Răng (và Nước)

263. Dasamasikkhāpade – catūsu paccayesu antamaso dantakaṭṭhampi sabbaṃ paṃsukūlameva assāti sabbapaṃsukūliko. So kira susāne chaḍḍitabhājanameva pattaṃ katvā tattha chaḍḍitacoḷakeheva cīvaraṃ katvā tattha chaḍḍitamañcapīṭhakāniyeva gahetvā paribhuñjati. Ayyavosāṭitakānīti ettha ayyā vuccanti kālaṅkatā pitipitāmahā. Vosāṭitakāni vuccanti tesaṃ atthāya susānādīsu chaḍḍitakāni khādanīyabhojanīyāni; manussā kira kālaṅkate ñātake uddissa yaṃ tesaṃ sajīvakāle piyaṃ hoti, taṃ etesu susānādīsu piṇḍaṃ piṇḍaṃ katvā ‘‘ñātakā no paribhuñjantūti ṭhapenti. So bhikkhu taṃ gahetvā bhuñjati, aññaṃ paṇītampi diyyamānaṃ na icchati. Tena vuttaṃ – ‘‘susānepi rukkhamūlepi ummārepi ayyavosāṭitakāni sāmaṃ gahetvā paribhuñjatī’’ti. Theroti thiro ghanabaddho. Vaṭharoti thūlo; thūlo ca ghanasarīro cāyaṃ bhikkhūti vuttaṃ hoti. Manussamaṃsaṃ maññe khādatīti manussamaṃsaṃ khādatīti naṃ sallakkhema; manussamaṃsaṃ khādantā hi īdisā bhavantīti ayaṃ tesaṃ adhippāyo.
263. Trong điều học thứ mười – Người chỉ dùng vật phấn tảo trong mọi thứ nghĩa là người mà trong bốn thứ vật dụng, ngay cả đến tăm xỉa răng, tất cả đều là đồ phấn tảo (nhặt từ đống rác). Vị ấy được cho là đã lấy một cái bát bị vứt bỏ ở nghĩa địa làm bát của mình, dùng những miếng vải vụn bị vứt ở đó làm y, và lấy những giường ghế bị vứt bỏ ở đó để sử dụng. Những thứ do các bậc trưởng thượng từ bỏ: ở đây, các bậc trưởng thượng được gọi là ông bà cha mẹ đã quá cố. Những thứ được từ bỏ được gọi là đồ ăn thức uống bị bỏ lại ở nghĩa địa v.v. cho họ; người ta thường nhân danh những người thân đã qua đời, lấy những thứ mà lúc họ còn sống họ ưa thích, làm thành từng nắm đặt ở nghĩa địa v.v. với ý nghĩ “Mong người thân của chúng ta dùng những thứ này”. Vị Tỳ khưu đó lấy những thứ ấy mà ăn, dù được dâng cúng những vật thực ngon lành khác cũng không muốn. Do đó có câu nói – “Dù ở nghĩa địa, gốc cây hay ngưỡng cửa, vị ấy tự mình lấy những thứ do các bậc trưởng thượng từ bỏ mà dùng”. Trưởng lão nghĩa là người vững vàng, chắc chắn. To béo nghĩa là mập mạp; ý nói vị Tỳ khưu này vừa mập mạp vừa có thân hình rắn chắc. Chúng tôi nghĩ rằng vị ấy ăn thịt người nghĩa là chúng tôi cho rằng vị ấy ăn thịt người; ý của họ là những người ăn thịt người thì trông giống như vậy.

264.Udakadantapone kukkuccāyantīti ettha te bhikkhū ‘‘adinnaṃ mukhadvāraṃ āhāraṃ āhareyyā’’ti padassa sammā atthaṃ asallakkhetvā kukkuccāyisuṃ, bhagavā pana yathāuppannassa vatthussa vasena pitā viya dārake te bhikkhū saññāpento anupaññattiṃ ṭhapesi.
264. Ngần ngại về nước và tăm xỉa răng: ở đây, các vị Tỳ khưu đó đã ngần ngại do không hiểu rõ ý nghĩa của câu “đưa thức ăn chưa được cho vào miệng”. Tuy nhiên, Đức Thế Tôn, như một người cha dạy dỗ con cái, đã tùy theo sự việc phát sinh mà chỉ dạy các vị Tỳ khưu đó và đặt ra một điều luật bổ sung.

265.Adinnanti kāyena vā kāyapaṭibaddhena vā gaṇhantassa kāyakāyapaṭibaddhanissaggiyānaṃ aññataravasena na dinnaṃ. Etadeva hi sandhāya padabhājane ‘‘adinnaṃ nāma appaṭiggahitakaṃ vuccatī’’ti vuttaṃ. Dutiyapārājike pana ‘‘adinnaṃ nāma parapariggahitakaṃ vuccatī’’ti vuttaṃ. Dinnanti idaṃ pana tasseva adinnassa paṭipakkhavasena lakkhaṇadassanatthaṃ uddhaṭaṃ. Niddese cassa ‘‘kāyena vā kāyapaṭibaddhena vā nissaggiyena vā dente’’ti evaṃ aññasmiṃ dadamāne ‘‘hatthapāse ṭhito kāyena vā kāyapaṭibaddhena vā paṭiggaṇhātīti taṃ evaṃ diyyamānaṃ antamaso rathareṇumpi sace pubbe vuttalakkhaṇe hatthapāse ṭhito kāyena vā kāyapaṭibaddhena vā paṭiggaṇhāti, etaṃ evaṃ paṭiggahitaṃ dinnaṃ nāma vuccati. Na ‘‘idaṃ gaṇha, idaṃ tava hotū’’tiādivacanena nissaṭṭhaṃ.
265. Chưa được cho nghĩa là chưa được cho theo một trong các cách: bằng thân, bằng vật liên thuộc với thân, hoặc bằng cách xả thí vật thuộc thân hay vật liên thuộc với thân của người cho. Chính vì điều này mà trong phần phân tích từ ngữ có nói: “Chưa được cho được gọi là vật chưa được nhận”. Còn trong điều bất cộng trụ thứ hai thì nói: “Chưa được cho được gọi là vật đã thuộc sở hữu của người khác”. Còn từ được cho này được nêu ra để chỉ rõ đặc điểm đối lập của chính cái chưa được cho đó. Và trong phần định nghĩa của nó, khi nói “Khi người khác cho bằng thân, hoặc bằng vật liên thuộc với thân, hoặc bằng cách xả thí”, và “người nhận đứng trong tầm tay với, nhận bằng thân hoặc bằng vật liên thuộc với thân”, thì vật được cho như vậy, dù chỉ là một hạt bụi xe, nếu người nhận đứng trong tầm tay với đã được định nghĩa ở trên mà nhận bằng thân hoặc bằng vật liên thuộc với thân, thì vật được nhận như vậy được gọi là đã được cho. Chứ không phải là vật được xả bỏ bằng lời nói như “Hãy lấy cái này, cái này là của ông” v.v.

Tattha kāyenāti hatthādīsu yena kenaci sarīrāvayavena; antamaso pādaṅguliyāpi diyyamānaṃ kāyena dinnaṃ nāma hoti, paṭiggahaṇepi eseva nayo. Yena kenaci hi sarīrāvayavena gahitaṃ kāyena gahitameva hoti. Sacepi natthukaraṇiyā diyyamānaṃ nāsāpuṭena akallako vā mukhena paṭiggaṇhāti. Ābhogamattameva hi ettha pamāṇanti ayaṃ nayo mahāpaccariyaṃ vutto. Kāyapaṭibaddhenāti kaṭacchuādīsu yena kenaci upakaraṇena dinnaṃ kāyapaṭibaddhena dinnaṃ nāma hoti. Paṭiggahaṇepi eseva nayo. Yena kenaci sarīrapaṭibaddhena pattathālakādinā gahitaṃ kāyapaṭibaddhena gahitameva hoti. Nissaggiyenāti kāyato ca kāyapaṭibaddhato ca mocetvā hatthapāse ṭhitassa kāyena vā kāyapaṭibaddhena vā pātiyamānampi nissaggiyena payogena dinnaṃ nāma hoti. Ayaṃ tāva pāḷivaṇṇanā.
Trong đó, bằng thân nghĩa là bằng bất kỳ bộ phận nào của cơ thể như tay v.v.; dù cho bằng ngón chân thì cũng gọi là cho bằng thân, và khi nhận cũng theo cách đó. Bởi vì nhận bằng bất kỳ bộ phận nào của cơ thể thì đều là nhận bằng thân. Ngay cả khi người nhận không có tay chân mà nhận vật được cho để ngửi bằng lỗ mũi hoặc bằng miệng. Cách giải thích này, rằng chỉ cần có sự chủ ý là đủ, đã được nói trong Đại Chú Giải (Mahāpaccariya). Bằng vật liên thuộc với thân nghĩa là vật được cho bằng bất kỳ dụng cụ nào như vá, muỗng v.v. thì gọi là cho bằng vật liên thuộc với thân. Khi nhận cũng theo cách đó. Vật được nhận bằng bất cứ thứ gì liên thuộc với thân như bát, đĩa v.v. thì đều là nhận bằng vật liên thuộc với thân. Bằng cách xả thí nghĩa là sau khi tách rời khỏi thân và vật liên thuộc với thân, vật được đặt xuống trong tầm tay với của người nhận, để người đó lấy bằng thân hoặc bằng vật liên thuộc với thân, thì gọi là cho bằng cách xả thí. Đây là phần giải thích theo Pāḷi.

Ayaṃ panettha pāḷimuttakavinicchayo – pañcaṅgehi paṭiggahaṇaṃ ruhati – thāmamajjhimassa purisassa uccāraṇamattaṃ hoti, hatthapāso paññāyati, abhihāro paññāyati, devo vā manusso vā tiracchānagato vā kāyena vā kāyapaṭibaddhena vā nissaggiyena vā deti, taṃ ce bhikkhu kāyena vā kāyapaṭibaddhena vā paṭiggaṇhāti. Evaṃ pañcahaṅgehi paṭiggahaṇaṃ ruhati.
Đây là quyết định ngoài Pāḷi trong trường hợp này – sự nhận lãnh được thành tựu nhờ năm yếu tố: vật đó đủ nhẹ để một người có sức khỏe trung bình có thể nâng lên, tầm tay với được xác định, sự dâng đến được xác định, người cho là chư thiên, người hoặc loài vật cho bằng thân, bằng vật liên thuộc với thân, hoặc bằng cách xả thí, và vị Tỳ khưu đó nhận bằng thân hoặc bằng vật liên thuộc với thân. Như vậy, sự nhận lãnh được thành tựu nhờ năm yếu tố này.

Tattha ṭhitanisinnanipannānaṃ pavāraṇasikkhāpade vuttanayeneva hatthapāso veditabbo. Sace pana dāyakapaṭiggāhakesu eko ākāse hoti, eko bhūmiyaṃ, bhūmaṭṭhassa ca sīsena ākāsaṭṭhassa ca ṭhapetvā dātuṃ vā gahetuṃ vā pasāritahatthaṃ, yaṃ āsannataraṃ aṅgaṃ, tassa orimantena hatthapāsappamāṇaṃ paricchinditabbaṃ. Sacepi eko kūpe hoti, eko kūpataṭe, eko vā pana rukkhe, eko pathaviyaṃ, vuttanayeneva hatthapāsappamāṇaṃ paricchinditabbaṃ. Evarūpe hatthapāse ṭhatvā sacepi pakkhī mukhatuṇḍakena vā hatthī vā soṇḍāya gahetvā pupphaṃ vā phalaṃ vā deti, paṭiggahaṇaṃ ruhati. Sace pana addhaṭṭhamaratanassāpi hatthino khandhe nisinno, tena soṇḍāya diyyamānaṃ gaṇhāti, vaṭṭatiyeva.
Trong đó, tầm tay với của người đứng, ngồi, hay nằm phải được hiểu theo cách đã nói trong điều học về việc được mời dùng. Tuy nhiên, nếu trong số người cho và người nhận, một người ở trên không, một người ở dưới đất, thì đối với người ở dưới đất là đầu của họ, và đối với người ở trên không là bàn tay dang ra để cho hoặc nhận, khoảng cách tầm tay với phải được xác định bằng giới hạn gần nhất của bộ phận nào gần hơn. Ngay cả khi một người ở trong giếng, một người ở trên bờ giếng, hoặc một người ở trên cây, một người ở dưới đất, khoảng cách tầm tay với cũng phải được xác định theo cách đã nói. Đứng trong tầm tay với như vậy, nếu một con chim dùng mỏ hoặc một con voi dùng vòi lấy hoa hoặc quả để cho, sự nhận lãnh vẫn thành tựu. Tuy nhiên, nếu một người ngồi trên lưng con voi cao đến bảy rưỡi ratana (đơn vị đo chiều dài cổ), rồi nhận vật do con voi đó dùng vòi đưa cho, thì vẫn được phép.

Eko bahūni bhattabyañjanabhājanāni sīse katvā bhikkhussa santikaṃ āgantvā ṭhitakova gaṇhathāti vadati, na tāva abhihāro paññāyati, tasmā na gahetabbaṃ. Sace pana īsakampi onamati, bhikkhunā hatthaṃ pasāretvā heṭṭhimabhājanaṃ ekadesenāpi sampaṭicchitabbaṃ. Ettāvatā sabbabhājanāni paṭiggahitāni honti, tato paṭṭhāya oropetvā vā ugghāṭetvā vā yaṃ icchati, taṃ gahetvā bhuñjituṃ vaṭṭati. Sabhattapacchiādimhi pana ekabhājane vattabbameva natthi, kājena bhattaṃ harantopi sace kājaṃ onāmetvā deti, vaṭṭati. Tiṃsahattho veṇu hoti, ekasmiṃ ante guḷakumbho baddho, ekasmiṃ sappikumbho, tañce paṭiggaṇhāti, sabbaṃ paṭiggahitameva. Ucchuyantadoṇito paggharantameva rasaṃ gaṇhathāti vadati, abhihāro na paññāyatīti na gahetabbo. Sace pana kasaṭaṃ chaḍḍetvā hatthena ussiñcitvā ussiñcitvā deti, vaṭṭati.
Một người đội nhiều vật chứa cơm và thức ăn trên đầu, đến gần vị Tỳ khưu và đứng nói “Hãy nhận lấy”, thì sự dâng đến chưa được xác định, do đó không nên nhận. Nhưng nếu người đó cúi xuống dù chỉ một chút, vị Tỳ khưu nên đưa tay ra và chạm vào dù chỉ một phần của vật chứa thấp nhất. Bằng cách đó, tất cả các vật chứa đều được coi là đã nhận, từ đó trở đi, dù đặt xuống hay mở ra, muốn lấy thứ gì ăn cũng được phép. Còn đối với một vật chứa duy nhất như một cái túi đựng cơm v.v., thì không cần phải nói gì thêm. Ngay cả người mang cơm bằng đòn gánh, nếu hạ đòn gánh xuống mà cho, cũng được phép. Một cây sào tre dài ba mươi hắc tay, một đầu buộc một hũ mật đường, một đầu buộc một hũ bơ lỏng, nếu nhận lấy cây sào đó, thì tất cả đều được coi là đã nhận. Nếu người ta nói “Hãy nhận lấy nước mía đang chảy ra từ máng ép mía”, vì sự dâng đến chưa được xác định, nên không được nhận. Nhưng nếu người ta bỏ bã mía đi rồi dùng tay múc từng chút một mà cho, thì được phép.

Bahū pattā mañce vā pīṭhe vā kaṭasārake vā doṇiyaṃ vā phalake vā ṭhapitā honti, yattha ṭhitassa dāyako hatthapāse hoti, tattha ṭhatvā paṭiggahaṇasaññāya mañcādīni aṅguliyāpi phusitvā ṭhitena vā nisinnena vā nipannena vā yaṃ tesu pattesu diyyati, taṃ sabbaṃ paṭiggahitaṃ hoti. Sacepi paṭiggahessāmīti mañcādīni āruhitvā nisīdati, vaṭṭatiyeva . Sace pana mañcādīni hatthena gahetvā mañce nisīdati, vattabbameva natthi.
Nhiều cái bát được đặt trên giường, ghế, chiếu, máng nước, hoặc tấm ván; nếu người cho ở trong tầm tay với của người đứng ở đó, thì người đứng, ngồi, hoặc nằm, với ý định nhận lãnh, dù chỉ chạm ngón tay vào giường v.v., thì tất cả những gì được dâng cúng vào những cái bát đó đều được coi là đã nhận. Ngay cả khi với ý định “Tôi sẽ nhận”, người đó leo lên giường v.v. rồi ngồi, cũng vẫn được phép. Còn nếu người đó cầm tay vào giường v.v. rồi ngồi trên giường, thì không cần phải nói gì thêm.

Pathaviyaṃ pana sacepi kucchiyā kucchiṃ āhacca ṭhitā honti, yaṃ yaṃ aṅguliyā vā sūciyā vā phusitvā nisinno hoti, tattha tattha diyyamānameva paṭiggahitaṃ hoti. ‘‘Yattha katthaci mahākaṭasārahatthattharaṇādīsu ṭhapitapatte paṭiggahaṇaṃ na ruhatī’’ti vuttaṃ, taṃ hatthapāsātikkamaṃ sandhāya vuttanti veditabbaṃ. Hatthapāse pana sati yattha katthaci vaṭṭati aññatra tatthajātakā.
Còn đối với những vật đặt trên mặt đất, dù chúng chạm sát vào nhau, nếu người nhận ngồi đó mà chạm vào từng vật bằng ngón tay hoặc que tăm, thì chỉ những vật được dâng cúng ngay tại đó mới được coi là đã nhận. Điều đã nói rằng “Sự nhận lãnh không thành tựu đối với bát được đặt trên chiếu lớn, tấm trải tay v.v. ở bất kỳ đâu”, phải hiểu rằng điều đó được nói đến trường hợp vượt quá tầm tay với. Còn nếu ở trong tầm tay với, thì ở bất kỳ đâu cũng được phép, trừ những thứ mọc ngay tại chỗ đó.

Tatthajātake pana paduminipaṇṇe vā kiṃsukapaṇṇādimhi vā na vaṭṭati. Na hi taṃ kāyapaṭibaddhasaṅkhyaṃ gacchati . Yathā ca tatthajātake; evaṃ khāṇuke bandhitvā ṭhapitamañcādimhi asaṃhārime phalake vā pāsāṇe vā na ruhatiyeva, tepi hi tatthajātakasaṅkhepupagā honti. Bhūmiyaṃ atthatesu sukhumesu tintiṇikādipaṇṇesupi paṭiggahaṇaṃ na ruhati, na hi tāni sandhāretuṃ samatthānīti. Mahantesu pana paduminipaṇṇādīsu ruhati. Sace hatthapāsaṃ atikkamma ṭhito dīghadaṇḍakena uḷuṅkena deti, āgantvā dehīti vattabbo. Vacanaṃ asutvā vā anādiyitvā vā patte ākiratiyeva, puna paṭiggahetabbaṃ. Dūre ṭhatvā bhattapiṇḍaṃ khipantepi eseva nayo.
Tuy nhiên, đối với những thứ mọc ngay tại chỗ đó như lá sen, lá cây hồng mai v.v., thì không được phép (nhận trên đó). Vì chúng không được kể là vật liên thuộc với thân. Và cũng như đối với những thứ mọc ngay tại chỗ đó; tương tự, đối với giường v.v. được buộc vào cọc, hoặc trên tấm ván hay tảng đá không thể di chuyển, sự nhận lãnh cũng không thành tựu, vì chúng cũng được xếp vào loại mọc ngay tại chỗ đó. Sự nhận lãnh cũng không thành tựu trên những lá cây nhỏ như lá me v.v. được trải trên mặt đất, vì chúng không đủ sức để giữ (vật thực). Nhưng trên những lá lớn như lá sen v.v., thì sự nhận lãnh thành tựu. Nếu người cho đứng quá tầm tay với mà dùng một cây gậy dài có gắn vá để dâng cúng, người nhận nên nói “Hãy đến gần mà cho”. Nếu người cho không nghe hoặc không để ý mà cứ đổ (thức ăn) vào bát, thì phải nhận lại. Trường hợp người cho đứng xa mà ném vắt cơm vào, cũng theo cách đó.

Sace pattatthavikato nīhariyamāne patte rajanacuṇṇāni honti, sati udake dhovitabbo, asati rajanacuṇṇaṃ pucchitvā paṭiggahetvā vā piṇḍāya caritabbaṃ. Sace piṇḍāya carantassa rajaṃ patati, paṭiggahetvā bhikkhā gaṇhitabbā. Appaṭiggahetvā gaṇhato vinayadukkaṭaṃ. Taṃ pana puna paṭiggahetvā bhuñjato anāpatti. Sace pana ‘‘paṭiggahetvā dethā’’ti vutte vacanaṃ asutvā vā anādiyitvā vā bhikkhaṃ dentiyeva, vinayadukkaṭaṃ natthi, puna paṭiggahetvā aññā bhikkhā gahetabbā.
Nếu trong bát được lấy ra từ túi đựng bát có dính bột màu, nếu có nước thì phải rửa, nếu không có nước thì phải lau sạch bột màu rồi mới nhận hoặc đi khất thực. Nếu trong lúc đi khất thực mà bụi rơi vào, phải nhận (bát) rồi mới xin vật thực. Nếu chưa nhận (bát) mà xin thì phạm tội Tác Ác theo Luật. Nhưng nếu nhận lại rồi ăn thì không phạm tội. Tuy nhiên, nếu khi được yêu cầu “Hãy nhận rồi hãy cho”, người cho không nghe hoặc không để ý mà cứ cho vật thực, thì không phạm tội Tác Ác theo Luật, nhưng phải nhận lại rồi mới xin vật thực khác.

Sace mahāvāto tato tato rajaṃ pāteti, na sakkā hoti bhikkhaṃ gahetuṃ, ‘‘anupasampannassa dassāmī’’ti suddhacittena ābhogaṃ katvā gaṇhituṃ vaṭṭati. Evaṃ piṇḍāya caritvā vihāraṃ vā āsanasālaṃ vā gantvā taṃ anupasampannassa datvā puna tena dinnaṃ vā tassa vissāsena vā paṭiggahetvā bhuñjituṃ vaṭṭati.
Nếu gió lớn thổi bụi từ khắp nơi bay vào, không thể xin vật thực được, thì với tâm trong sạch, khởi ý “Tôi sẽ cho người chưa thọ giới Cụ Túc”, rồi xin thì được phép. Sau khi đi khất thực như vậy, đến tinh xá hoặc nhà hội họp, đưa vật thực đó cho người chưa thọ giới Cụ Túc, rồi nhận lại vật do người đó cho hoặc với sự tin tưởng của người đó mà ăn thì được phép.

Sace bhikkhācāre sarajaṃ pattaṃ bhikkhussa deti, so vattabbo – ‘‘imaṃ paṭiggahetvā bhikkhaṃ vā gaṇheyyāsi, paribhuñjeyyāsi vā’’ti tena tathā kātabbaṃ. Sace rajaṃ upari uppilavati, kañjikaṃ pavāhetvā sesaṃ bhuñjitabbaṃ. Sace anto paviṭṭhaṃ hoti, paṭiggahetabbaṃ. Anupasampanne asati hatthato amocentena, yattha anupasampanno atthi tattha netvā paṭiggahetabbaṃ . Sukkhabhatte patitarajaṃ apanetvā bhuñjituṃ vaṭṭati. Sace atisukhumaṃ hoti, uparibhattena saddhiṃ apanetabbaṃ, paṭiggahetvā vā bhuñjitabbaṃ. Yāguṃ vā sūpaṃ vā purato ṭhapetvā ālulentānaṃ bhājanato phusitāni uggantvā patte patanti, patto paṭiggahetabbo.
Nếu trong lúc đi khất thực, một người đưa cho Tỳ khưu chiếc bát có dính bụi, vị Tỳ khưu đó nên nói – “Hãy nhận lấy cái này rồi xin vật thực hoặc dùng đi”, và người kia nên làm như vậy. Nếu bụi nổi lên trên, hãy gạn bỏ phần nước cháo rồi dùng phần còn lại. Nếu bụi đã chìm vào trong, phải nhận (lại bát). Nếu không có người chưa thọ giới Cụ Túc, thì không được rời tay khỏi bát, mang đến nơi có người chưa thọ giới Cụ Túc rồi mới nhận (lại bát). Đối với cơm khô bị bụi rơi vào, phủi bụi đi rồi ăn thì được phép. Nếu bụi quá mịn, phải gạt bỏ cùng với lớp cơm trên cùng, hoặc nhận (lại bát) rồi ăn. Nếu cháo hoặc canh được đặt phía trước, và trong lúc khuấy, các mảnh vụn từ vật chứa bay lên rơi vào bát, thì phải nhận (lại bát).

Uḷuṅkena āharitvā dentānaṃ paṭhamataraṃ uḷuṅkato thevā patte patanti, supatitā, abhihaṭattā doso natthi. Sacepi carukena bhatte ākiriyamāne carukato masi vā chārikā vā patati, abhihaṭattā nevatthi doso. Anantarassa bhikkhuno diyyamānaṃ pattato uppatitvā itarassa patte patati, supatitaṃ. Paṭiggahitameva hi taṃ hoti.
Khi người ta dùng vá múc dâng cúng, những giọt đầu tiên từ vá rơi vào bát, đó là rơi đúng cách, do đã được dâng đến nên không có lỗi. Ngay cả khi đang đổ cơm bằng nồi đất, nếu muội than hoặc tro từ nồi rơi vào, do đã được dâng đến nên không có lỗi. Vật thực được dâng cho Tỳ khưu bên cạnh, nếu từ bát của vị ấy bay sang rơi vào bát của vị khác, đó là rơi đúng cách. Vì vật đó đã được nhận rồi.

Sace jajjharisākhādiṃ phāletvā ekassa bhikkhuno dentānaṃ sākhato phusitāni aññassa patte patanti, patto paṭiggahetabbo. Yassa pattassa upari phālenti, tassa patte patitesu dātukāmatāya abhihaṭattā doso natthi. Pāyāsassa pūretvā pattaṃ denti, uṇhattā heṭṭhā gahetuṃ na sakkoti, mukhavaṭṭiyāpi gahetuṃ vaṭṭati. Sace tathāpi na sakkoti, ādhārakena gaṇhitabbo.
Nếu người ta bẻ cành cây có gai v.v. để cho một Tỳ khưu, và các mảnh vụn từ cành cây rơi vào bát của vị khác, thì phải nhận (lại bát). Đối với bát mà người ta bẻ cành cây ngay phía trên, nếu mảnh vụn rơi vào bát đó, do ý muốn cho và đã dâng đến nên không có lỗi. Người ta dâng một bát đầy cháo sữa, do nóng nên không thể cầm ở phía dưới, cầm ở miệng bát cũng được phép. Nếu như vậy cũng không được, thì phải dùng đồ lót để nhận.

Āsanasālāya pattaṃ gahetvā nisinno bhikkhu niddaṃ okkanto hoti, neva āhariyamānaṃ na diyyamānaṃ jānāti, appaṭiggahitaṃ hoti. Sace pana ābhogaṃ katvā nisinno hoti, vaṭṭati. Sacepi so hatthena ādhārakaṃ muñcitvā pādena pelletvā niddāyati, vaṭṭatiyeva. Pādena ādhārakaṃ akkamitvā paṭiggaṇhantassa pana jāgarantassapi anādarapaṭiggahaṇaṃ hoti, tasmā na kātabbaṃ. Keci evaṃ ādhārakena paṭiggahaṇaṃ kāyapaṭibaddhapaṭibaddhena paṭiggahaṇaṃ nāma hoti, tasmā na vaṭṭatīti vadanti. Taṃ tesaṃ vacanamattameva. Atthato pana sabbampetaṃ kāyapaṭibaddhameva hoti. Kāyasaṃsaggepi cesa nayo dassitova. Yampi bhikkhussa diyyamānaṃ patati, tampi sāmaṃ gahetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Tatridaṃ suttaṃ –
Một Tỳ khưu ngồi trong nhà hội họp, cầm bát mà ngủ gật, không biết gì về việc vật thực đang được mang đến hay đang được dâng cúng, thì vật thực đó chưa được nhận. Nhưng nếu vị ấy ngồi với sự chủ ý (để nhận), thì được phép. Ngay cả khi vị ấy buông tay khỏi đồ lót bát mà dùng chân đẩy rồi ngủ, cũng vẫn được phép. Tuy nhiên, người dùng chân giữ đồ lót bát mà nhận, dù đang thức, cũng là nhận một cách thiếu tôn kính, do đó không nên làm. Một số người nói rằng việc nhận bằng đồ lót bát như vậy là nhận bằng vật liên thuộc với vật liên thuộc với thân, do đó không được phép. Đó chỉ là lời nói của họ. Thực ra, tất cả những trường hợp này đều là nhận bằng vật liên thuộc với thân. Và cách này cũng đã được chỉ ra trong trường hợp tiếp xúc với thân. Cả những gì rơi xuống trong khi đang được dâng cho Tỳ khưu, vị ấy cũng được phép tự mình nhặt lấy mà dùng. Về điều này có kinh văn như sau –

‘‘Anujānāmi, bhikkhave, yaṃ diyyamānaṃ patati, taṃ sāmaṃ gahetvā paribhuñjituṃ pariccattaṃ taṃ, bhikkhave, dāyakehī’’ti (cūḷava. 273).
“Này các Tỳ khưu, Ta cho phép các con tự mình nhặt lấy những gì rơi xuống trong khi đang được dâng cúng mà dùng, vì này các Tỳ khưu, những thứ đó đã được người thí chủ từ bỏ rồi.” (cūḷava. 273).

Idañca pana suttaṃ neyyatthaṃ. Tasmā evamettha adhippāyo veditabbo – yaṃ diyyamānaṃ dāyakassa hatthato parigaḷitvā suddhāya vā bhūmiyā paduminipaṇṇavatthakaṭasārakādīsu vā patati, taṃ sāmaṃ gahetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Yaṃ pana sarajāya bhūmiyā patati, taṃ rajaṃ puñchitvā vā dhovitvā vā paṭiggahetvā vā paribhuñjitabbaṃ. Sace pana pavaṭṭantaṃ aññassa bhikkhuno santikaṃ gacchati , tena āharāpetumpi vaṭṭati. Sace taṃ bhikkhuṃ vadati ‘‘tvaṃyeva khādā’’ti tassāpi khādituṃ vaṭṭati. Anāṇattena pana tena na gahetabbaṃ. Anāṇattenāpi ‘‘itarassa dassāmī’’ti gahetuṃ vaṭṭatīti kurundiyaṃ vuttaṃ. Kasmā panetaṃ itarassa bhikkhuno gahetuṃ na vaṭṭatīti? Bhagavatā ananuññātattā. Bhagavatā hi ‘‘sāmaṃ gahetvā paribhuñjitu’’nti vadantena yasseva taṃ diyyamānaṃ patati, tassa appaṭiggahitakampi taṃ gahetvā paribhogo anuññāto. ‘‘Pariccattaṃ taṃ bhikkhave dāyakehī’’ti vacanena panettha parasantakābhāvo dīpito. Tasmā aññassa sāmaṃ gahetvā paribhuñjituṃ na vaṭṭati, tassa pana āṇattiyā vaṭṭatīti ayaṃ kirettha adhippāyo.
Và kinh này cần được giải thích ý nghĩa. Do đó, ý nghĩa ở đây phải được hiểu như sau: vật thực nào đang được dâng cúng mà tuột khỏi tay người thí chủ rồi rơi xuống đất sạch, hoặc trên lá sen, vải, chiếu, v.v., thì (Tỳ khưu) được phép tự mình nhặt lấy mà dùng. Còn vật thực nào rơi xuống đất có bụi, thì phải phủi bụi hoặc rửa sạch, hoặc nhận lại rồi mới được dùng. Nếu vật thực đó lăn đến gần một Tỳ khưu khác, vị Tỳ khưu này cũng được phép nhờ mang đến. Nếu vị Tỳ khưu (có vật thực bị rơi) nói với vị Tỳ khưu kia: “Chính ông hãy ăn đi”, thì vị kia cũng được phép ăn. Tuy nhiên, nếu không có sự cho phép (của vị Tỳ khưu có vật thực bị rơi), vị Tỳ khưu kia không được tự ý lấy. Trong Chú giải Kurundī có nói rằng, dù không có sự cho phép, (vị Tỳ khưu kia) cũng được phép lấy với ý định “Tôi sẽ đưa cho vị khác”. Tại sao vị Tỳ khưu khác này lại không được phép tự lấy? Vì Đức Thế Tôn không cho phép. Bởi vì Đức Thế Tôn, khi nói “tự mình nhặt lấy mà dùng”, đã cho phép chính vị Tỳ khưu nào có vật thực đang được dâng cúng bị rơi đó, dù vật đó chưa được nhận, cũng được nhặt lấy mà dùng. Qua câu nói “Này các Tỳ khưu, vật đó đã được người thí chủ từ bỏ rồi”, ở đây ý muốn chỉ rõ rằng vật đó không còn là của người khác nữa. Do đó, người khác không được phép tự mình nhặt lấy mà dùng, nhưng nếu có sự cho phép của vị Tỳ khưu kia thì được, đây được cho là ý nghĩa chính ở đây.

Yasmā ca taṃ appaṭiggahitakattā anuññātaṃ, tasmā yathāṭhitaṃyeva anāmasitvā kenaci pidahitvā ṭhapitaṃ dutiyadivasepi paribhuñcituṃ vaṭṭati, sannidhipaccayā anāpatti. Paṭiggahetvā pana paribhuñjitabbaṃ. Taṃdivasaṃyeva hi tassa sāmaṃ gahetvā paribhogo anuññāto, na tato paranti ayampi kirettha adhippāyo.
Và bởi vì vật đó được cho phép (dùng) do chưa được nhận, cho nên nếu để nguyên như vậy không chạm đến, dùng vật gì đó đậy lại rồi cất giữ, thì ngày hôm sau dùng cũng được phép, không phạm tội do duyên cất giữ. Tuy nhiên, phải nhận lại rồi mới được dùng. Bởi vì việc tự mình nhặt lấy mà dùng chỉ được cho phép trong ngày hôm đó, chứ không phải sau đó, đây cũng được cho là ý nghĩa chính ở đây.

Idāni abbohārikanayo vuccati – bhuñjantānañhi dantā khiyyanti, nakhā khiyyanti, pattassa vaṇṇo khiyyati, sabbaṃ abbohārikaṃ. Yampi satthakena ucchuādīsu phālitesu malaṃ paññāyati, etaṃ navasamuṭṭhitaṃ nāma paṭiggahetvā paribhuñjitabbaṃ. Satthakaṃ dhovitvā phālitesu malaṃ na paññāyati, lohagandhamattaṃ hoti, taṃ abbohārikaṃ. Yampi satthakaṃ gahetvā pariharanti, tena phālitepi eseva nayo. Na hi taṃ paribhogatthāya pariharantīti. Mūlabhesajjādīni pisantānaṃ vā koṭṭentānaṃ vā nisadanisadapotakaudukkhalamusalādīni khiyyanti, pariharaṇakavāsiṃ tāpetvā bhesajjatthāya takke vā khīre vā pakkhipanti, tattha nīlikā paññāyati. Satthake vuttasadisova vinicchayo. Āmakatakkādīsu pana sayaṃ na pakkhipitabbā. Pakkhipati ce, sāmapākato na muccati.
Bây giờ nói về phương pháp xử lý những thứ không phải là đối tượng sử dụng (không liên quan đến giới luật). Khi các vị ăn, răng bị mòn, móng tay bị mòn, màu sắc của bát bị phai, tất cả đều không phải là đối tượng sử dụng. Cả những gì dơ bẩn thấy rõ khi dùng dao róc mía v.v., nếu đó là thứ mới phát sinh, thì phải nhận lại rồi mới được dùng. Nếu dao đã được rửa sạch rồi róc mà không thấy dơ bẩn, chỉ có mùi sắt, thì đó không phải là đối tượng sử dụng. Cả trường hợp mang theo dao để dùng, khi róc (mía v.v.) cũng theo cách này. Vì người ta không mang theo dao với mục đích sử dụng (theo nghĩa vi phạm giới). Khi các vị nghiền hoặc giã các loại thuốc từ rễ cây v.v., thì đá mài, vải lót đá mài, cối, chày v.v. bị mòn; khi các vị nung nóng rìu mang theo để dùng làm thuốc rồi nhúng vào nước sữa bơ hoặc sữa, nếu thấy có màu xanh lam, thì cách xử lý cũng tương tự như đã nói về dao. Tuy nhiên, đối với nước sữa bơ còn sống v.v., thì không được tự mình cho (màu xanh lam) vào. Nếu cho vào, thì không thoát khỏi tội tự nấu.

Deve vassante piṇḍāya carantassa sarīrato vā cīvarato vā kiliṭṭhaudakaṃ patte patati, taṃ paṭiggahetabbaṃ. Rukkhamūlādīsu bhuñjantassa patitepi eseva nayo. Sace pana sattāhaṃ vassante deve suddhaṃ udakaṃ hoti, abbhokāsato vā patati, vaṭṭati. Sāmaṇerassa odanaṃ dentena tassa pattagataṃ acchupanteneva dātabbo. Patto vāssa paṭiggahetabbo. Appaṭiggahite odanaṃ chupitvā puna attano patte odanaṃ gaṇhantassa uggahitako hoti.
Khi trời mưa, lúc đi khất thực, nếu nước bẩn từ thân hoặc y rơi vào bát, thì phải nhận (lại bát). Khi ngồi ăn ở gốc cây v.v., nếu (nước bẩn) rơi vào, cũng theo cách này. Nhưng nếu trời mưa suốt bảy ngày mà nước đó là nước sạch, hoặc rơi từ ngoài trời vào, thì được phép. Khi cho cơm Sa di, phải cho mà không chạm vào vật thực đã có trong bát của Sa di. Hoặc phải nhận lại bát của Sa di đó. Nếu chưa nhận lại bát mà chạm vào cơm (của Sa di) rồi lại lấy cơm vào bát của mình, thì phạm tội cầm giữ (thực phẩm đã cho đi).

Sace pana dātukāmo hutvā ‘‘āhara sāmaṇera pattaṃ, odanaṃ gaṇhā’’ti vadati, itaro ca ‘‘alaṃ mayha’’nti paṭikkhipati, puna tavevetaṃ mayā pariccatta’’nti ca vuttepi ‘‘na mayhaṃ etenattho’’ti vadati. Satakkhattumpi pariccajatu, yāva attano hatthagataṃ paṭiggahitameva hoti.
Tuy nhiên, nếu (Tỳ khưu) muốn cho và nói: “Sa di, mang bát lại đây, nhận cơm này”, và người kia từ chối: “Con đủ rồi”, và ngay cả khi (Tỳ khưu) nói thêm: “Cái này tôi đã từ bỏ cho ông rồi đó”, mà người kia vẫn nói: “Con không cần thứ này”, thì dù (Tỳ khưu) có từ bỏ cả trăm lần, miễn là vật đó còn trong tay mình, thì vẫn được coi là đã nhận.

Sace pana ādhārake ṭhitaṃ nirapekkho ‘‘gaṇhā’’ti vadati, puna paṭiggahetabbaṃ. Sāpekkho ādhārake pattaṃ ṭhapetvā ‘‘etto pūvaṃ vā bhattaṃ vā gaṇhā’’ti sāmaṇeraṃ vadati, sāmaṇero hatthaṃ dhovitvā sacepi satakkhattuṃ gahetvā attano pattagataṃ aphusantova attano patte pakkhipati, puna paṭiggahaṇakiccaṃ natthi. Yadi pana attano pattagataṃ phusitvā tato gaṇhāti, sāmaṇerasantakena saṃsaṭṭhaṃ hoti, puna paṭiggahetabbaṃ. Keci pana ‘‘sacepi gayhamānaṃ chijjitvā tattha patati, puna paṭiggahetabba’’nti vadanti. Taṃ ‘‘ekaṃ bhattapiṇḍaṃ gaṇha, ekaṃ pūvaṃ gaṇha, imassa guḷapiṇḍassa ettakaṃ padesaṃ gaṇhā’’ti evaṃ paricchinditvā vutte veditabbaṃ. Idha pana paricchedo natthi. Tasmā yaṃ sāmaṇerassa patte patati, tadeva paṭiggahaṇaṃ vijahati. Hatthagataṃ pana yāva sāmaṇero vā ‘‘ala’’nti na oramati, bhikkhu vā na vāreti, tāva bhikkhusseva santakaṃ, tasmā paṭiggahaṇaṃ na vijahati.
Tuy nhiên, nếu vật thực đặt trên đồ đựng mà (Tỳ khưu) không còn luyến tiếc nói: “Hãy nhận lấy”, thì phải nhận lại. Nếu còn luyến tiếc, đặt bát trên đồ đựng rồi nói với Sa di: “Hãy lấy bánh hoặc cơm từ đây”, Sa di rửa tay, dù có lấy cả trăm lần mà không chạm vào vật thực đã có trong bát của mình rồi bỏ vào bát của mình, thì không cần phải nhận lại. Nhưng nếu Sa di chạm vào vật thực đã có trong bát của mình rồi mới lấy từ đó, thì vật đó đã bị trộn lẫn với vật sở hữu của Sa di, nên phải nhận lại. Một số vị lại nói: “Dù vật đang được lấy mà bị đứt lìa rơi vào đó, cũng phải nhận lại”. Điều đó phải được hiểu là khi nói phân định rõ ràng rằng: “Hãy lấy một nắm cơm này, hãy lấy một cái bánh này, hãy lấy chừng này phần của cục đường này”. Nhưng ở đây không có sự phân định. Do đó, chỉ vật gì rơi vào bát của Sa di mới không còn là đã nhận (đối với Tỳ khưu). Còn vật trong tay (Tỳ khưu) thì vẫn là của Tỳ khưu cho đến khi Sa di nói “Đủ rồi” hoặc Tỳ khưu không cho nữa, do đó sự nhận lãnh không mất đi.

Sace attano vā bhikkhūnaṃ vā yāgupacanakabhājane kesañci atthāya odanaṃ pakkhipati, ‘‘sāmaṇera, bhājanassa upari hatthaṃ karohī’’ti vatvā tassa hatthe pakkhipitabbaṃ, tassa hatthato bhājane patitañhi dutiyadivase bhājanassa akappiyabhāvaṃ na karoti, pariccattattā. Sace evaṃ akatvā pakkhipati, pattamiva bhājanaṃ nirāmisaṃ katvā paribhuñjitabbaṃ. Dāyakā yāgukuṭaṃ ṭhapetvā gatā, taṃ daharasāmaṇero paṭiggaṇhāpetuṃ na sakkoti, bhikkhu pattaṃ upanāmeti, sāmaṇero kuṭassa gīvaṃ pattassa mukhavaṭṭiyaṃ ṭhapetvā āvajjeti, pattagatā yāgu paṭiggahitāva hoti. Atha vā bhikkhu bhūmiyaṃ hatthaṃ ṭhapeti, sāmaṇero pavaṭṭetvā tattha āropeti, vaṭṭati. Pūvapacchibhattapacchiucchubhārādīsupi eseva nayo.
Nếu (Tỳ khưu) bỏ cơm vào nồi nấu cháo của mình hoặc của các Tỳ khưu khác cho một người nào đó, thì phải nói: “Sa di, hãy đưa tay lên trên miệng nồi”, rồi bỏ (cơm) vào tay Sa di đó. Vì cơm rơi từ tay Sa di đó vào nồi thì không làm cho nồi trở thành vật không hợp lệ vào ngày hôm sau, do đã được từ bỏ. Nếu không làm như vậy mà bỏ (cơm) vào, thì phải làm cho nồi không còn dính thức ăn giống như bát rồi mới được dùng. Các thí chủ đặt nồi cháo rồi đi, một Sa di nhỏ không thể làm cho Tỳ khưu nhận được, Tỳ khưu đưa bát đến gần, Sa di đặt cổ nồi lên miệng bát rồi nghiêng xuống, cháo trong bát được coi là đã nhận. Hoặc là, Tỳ khưu đặt tay xuống đất, Sa di lăn (nồi) đến đặt lên đó, cũng được phép. Đối với các giỏ bánh, giỏ cơm, bó mía v.v. cũng theo cách này.

Sace paṭiggahaṇūpagaṃ bhāraṃ dve tayo sāmaṇerā denti, ekena vā balavatā ukkhittaṃ dve tayo bhikkhū gaṇhanti, vaṭṭati. Mañcassa vā pīṭhassa vā pāde telaghaṭaṃ vā phāṇitaghaṭaṃ vā navanītaghaṭaṃ vā laggenti, bhikkhussa mañcepi pīṭhepi nisīdituṃ vaṭṭati. Uggahitakaṃ nāma na hoti.
Nếu hai ba Sa di cùng cho một vật nặng cần phải nhận, hoặc một Sa di khỏe mạnh nhấc lên rồi hai ba Tỳ khưu cùng nhận, thì được phép. Nếu người ta đặt hũ dầu, hũ đường mật, hoặc hũ bơ tươi chạm vào chân giường hoặc ghế của Tỳ khưu, Tỳ khưu ngồi trên giường hay ghế đó cũng được phép. Không bị coi là đã cầm giữ (vật cất trữ).

Nāgadantake vā aṅkusake vā dve telaghaṭā laggitā honti, upari paṭiggahitako heṭṭhā appaṭiggahitako, uparimaṃ gahetuṃ vaṭṭati. Heṭṭhā paṭiggahitako upari appaṭiggahitako, uparimaṃ gahetvā itaraṃ gaṇhato uparimo uggahitako hoti. Heṭṭhāmañce appaṭiggahitakaṃ telathālakaṃ hoti, taṃ ce sammajjanto sammuñjaniyā ghaṭṭeti, uggahitakaṃ na hoti. Paṭiggahitakaṃ gaṇhissāmīti appaṭiggahitakaṃ gahetvā ñatvā puna ṭhapeti, uggahitakaṃ na hoti. Bahi nīharitvā sañjānāti, bahi aṭṭhapetvā haritvā tattheva ṭhapetabbaṃ, natthi doso. Sace pana pubbe vivaritvā ṭhapitaṃ na pidahitabbaṃ; yathā pubbe ṭhitaṃ tatheva ṭhapetabbaṃ. Sace bahi ṭhapeti, puna na chupitabbaṃ.
Hai hũ dầu được treo trên một cái móc hình răng rắn hoặc một cái móc dùng để điều khiển voi (móc câu voi). Nếu hũ ở trên đã được nhận, hũ ở dưới chưa được nhận, thì được phép lấy hũ ở trên. Nếu hũ ở dưới đã được nhận, hũ ở trên chưa được nhận, khi lấy hũ ở trên rồi mới lấy hũ kia, thì hũ ở trên trở thành vật đã được cất giữ (sau khi cho đi rồi nhận lại). Nếu dưới gầm giường có một đĩa dầu chưa được nhận, và nếu khi quét dọn, người quét dùng chổi chạm vào đó, thì vật đó không trở thành vật đã được cất giữ. Nếu (một người) với ý định “Tôi sẽ lấy vật đã được nhận” mà cầm lấy một vật chưa được nhận, rồi khi biết ra, đặt lại chỗ cũ, thì vật đó không trở thành vật đã được cất giữ. Nếu mang ra ngoài rồi mới nhận ra, thì phải mang ra ngoài, không đặt xuống, rồi mang trở lại đặt vào chính chỗ cũ, không có lỗi. Tuy nhiên, nếu trước đó vật được để mở thì không được đậy lại; phải đặt lại y như trạng thái ban đầu. Nếu đặt ở ngoài thì không được chạm vào nữa.

Heṭṭhāpāsādaṃ orohanto nisseṇimajjhe sañjānāti, anokāsattā uddhaṃ vā adho vā haritvā ṭhapetabbaṃ. Paṭiggahitake telādimhi kaṇṇakaṃ uṭṭheti, siṅgiverādimhi ghanacuṇṇaṃ, taṃsamuṭṭhānameva nāmetaṃ, puna paṭiggahaṇakiccaṃ natthi.
Khi đi xuống từ lầu dưới, nếu nhận ra (một vật chưa được nhận) ở giữa cầu thang, do không có chỗ (để xử lý), phải mang lên trên hoặc xuống dưới rồi đặt lại. Nếu trong dầu v.v. đã được nhận có nổi váng, hoặc trong gừng v.v. có bột đặc, đó chỉ là sự phát sinh tự nhiên của chính vật đó, không cần phải nhận lại.

Tālaṃ vā nāḷikeraṃ vā āruḷho yottena phalapiṇḍiṃ otāretvā upari ṭhitova gaṇhathāti vadati, na gahetabbaṃ. Sace añño bhūmiyaṃ ṭhito yottapāsake gahetvā ukkhipitvā deti, vaṭṭati. Saphalaṃ mahāsākhaṃ kappiyaṃ kāretvā paṭiggaṇhāti, phalāni paṭiggahitāneva honti, yathāsukhaṃ paribhuñjituṃ vaṭṭati.
Một người đã trèo lên cây thốt nốt hoặc cây dừa, dùng dây thòng một buồng quả xuống rồi vẫn ở trên cây nói: “Hãy nhận lấy”, thì không được nhận. Nếu một người khác đứng dưới đất cầm lấy phần dây thừng rồi đưa lên cho, thì được phép. Nếu một cành lớn có quả đã được làm cho hợp lệ rồi nhận lấy, thì các quả đó được coi là đã nhận, được phép dùng tùy thích.

Antovatiyaṃ ṭhatvā vatiṃ chinditvā ucchuṃ vā timbarūsakaṃ vā denti, hatthapāse sati vaṭṭati. Vatidaṇḍakesu appaharitvā niggataṃ gaṇhantassa vaṭṭati. Paharitvā niggate aṭṭhakathāsu doso na dassito. Mayaṃ pana yaṃ  ṭhānaṃ pahaṭaṃ, tato sayaṃpatitameva hotīti takkayāma. Tasmimpi aṭṭhatvā gacchante yujjati, suṅkaghātato pavaṭṭetvā bahipatitabhaṇḍaṃ viya. Vatiṃ vā pākāraṃ vā laṅghāpetvā denti, sace pana na puthulo pākāro, antopākāre ca bahipākāre ca ṭhitassa hatthapāso pahoti, hatthasatampi uddhaṃ gantvā sampattaṃ gahetuṃ vaṭṭati.
Nếu đứng bên trong hàng rào, chặt cây ở hàng rào rồi đưa mía hoặc quả thị rừng, nếu ở trong tầm tay với thì được phép. Nếu lấy những cây đã nhổ khỏi cọc rào mà chưa bị đập giập, thì được phép. Đối với những cây đã nhổ khỏi cọc rào sau khi bị đập giập, trong các sách Chú Giải không chỉ ra có lỗi. Nhưng chúng tôi cho rằng, nơi nào đã bị đập, thì vật từ đó tự rơi xuống. Nếu vật đó không ở yên một chỗ mà lăn đi, thì hợp lệ, giống như hàng hóa rơi ra ngoài sau khi đã qua trạm thuế. Nếu người ta đưa (vật phẩm) qua hàng rào hoặc tường thành, và nếu tường thành không quá dày, người đứng bên trong và bên ngoài tường thành có thể với tới tay nhau, thì dù vật có đi lên cao cả trăm gang tay mà đến được, cũng được phép nhận.

Bhikkhu gilānaṃ sāmaṇeraṃ khandhena vahati, so phalāphalaṃ disvā gahetvā khandhe nisinnova deti, vaṭṭati. Aparo bhikkhuṃ vahanto khandhe nisinnassa bhikkhuno deti, vaṭṭatiyeva.
Một Tỳ khưu cõng một Sa di bị bệnh trên vai. Sa di đó thấy hoa quả, hái lấy rồi vẫn ngồi trên vai (Tỳ khưu) mà đưa cho, thì được phép. Một người khác cõng một Tỳ khưu, rồi đưa (vật phẩm) cho Tỳ khưu đang ngồi trên vai mình, cũng được phép.

Bhikkhu phaliniṃ sākhaṃ chāyatthāya gahetvā gacchati , phalāni khādituṃ citte uppanne paṭiggahāpetvā khādituṃ vaṭṭati. Macchikavāraṇatthaṃ kappiyaṃ kāretvā paṭiggaṇhāti, khāditukāmo ce hoti, mūlapaṭiggahaṇameva vaṭṭati, khādantassa natthi doso.
Một Tỳ khưu cầm một cành cây có quả để lấy bóng mát rồi đi. Khi khởi tâm muốn ăn quả, (vị ấy) phải nhờ người khác dâng cho mình nhận rồi mới được ăn thì hợp lệ. Nếu nhận một cành cây đã được làm cho hợp lệ để ngăn cá, và nếu muốn ăn (quả trên cành đó), thì sự nhận ban đầu là đủ, người ăn không có lỗi.

Bhikkhu paṭiggahaṇārahaṃ bhaṇḍaṃ manussānaṃ yāne ṭhapetvā maggaṃ gacchati , yānaṃ kaddame laggati, daharo cakkaṃ gahetvā ukkhipati, vaṭṭati, uggahitakaṃ nāma na hoti. Nāvāya ṭhapetvā nāvaṃ arittena vā pājeti, hatthena vā kaḍḍhati, vaṭṭati. Uḷumpepi eseva nayo. Cāṭiyaṃ kuṇḍake vā ṭhapetvāpi taṃ anupasampannena gāhāpetvā anupasampannaṃ bāhāyaṃ gahetvā tarituṃ vaṭṭati. Tasmimpi asati anupasampannaṃ gāhāpetvā taṃ bāhāyaṃ gahetvā tarituṃ vaṭṭati.
Một Tỳ khưu đặt vật phẩm cần phải nhận lên xe của người khác rồi đi đường. Nếu xe bị lún trong bùn, một người trẻ tuổi cầm bánh xe nhấc lên, thì được phép, vật phẩm đó không bị coi là đã được cất giữ (một cách sai trái). Nếu đặt (vật phẩm) trên thuyền rồi chèo thuyền bằng mái chèo hoặc dùng tay kéo, thì được phép. Đối với bè mảng cũng theo cách này. Ngay cả khi đặt (vật phẩm) trong chum hoặc ghè, rồi nhờ một người chưa thọ giới Cụ Túc mang giúp, rồi (Tỳ khưu) vịn vào cánh tay người chưa thọ giới Cụ Túc đó để qua sông, cũng được phép. Nếu không có người đó (mang giúp), thì nhờ một người chưa thọ giới Cụ Túc cầm (vật phẩm), rồi (Tỳ khưu) vịn vào cánh tay người đó để qua sông cũng được phép.

Upāsakā gamikabhikkhūnaṃ pātheyyataṇḍule denti. Sāmaṇerā bhikkhūnaṃ taṇḍule gahetvā attano taṇḍule gahetuṃ na sakkonti, bhikkhū tesaṃ taṇḍule gaṇhanti. Sāmaṇerā attanā gahitataṇḍulesu khīṇesu itarehi taṇḍulehi yāguṃ pacitvā sabbesaṃ pattāni paṭipāṭiyā ṭhapetvā yāguṃ ākiranti. Paṇḍito sāmaṇero attano pattaṃ gahetvā therassa deti, therassa pattaṃ anutherassāti evaṃ sabbāni parivatteti, sabbehi sāmaṇerassa santakaṃ bhuttaṃ hoti, vaṭṭati.
Các cư sĩ tại gia dâng gạo lộ trình cho các Tỳ khưu đi đường. Các Sa di nhận gạo cho các Tỳ khưu nhưng không thể nhận gạo cho chính mình. Các Tỳ khưu nhận gạo của các Sa di đó. Khi gạo do chính các Sa di nhận đã hết, họ dùng số gạo kia nấu cháo, sắp xếp bát của tất cả mọi người theo thứ tự rồi múc cháo vào. Một Sa di thông minh lấy bát của mình đưa cho vị Trưởng lão, lấy bát của vị Trưởng lão đưa cho vị kế tiếp Trưởng lão, cứ như vậy đổi hết tất cả các bát. Tất cả mọi người đều được coi là đã dùng vật sở hữu của Sa di, điều này được phép.

Sacepi sāmaṇero apaṇḍito hoti, attano patte yāguṃ sayameva pātuṃ ārabhati, ‘‘āvuso tuyhaṃ yāguṃ mayhaṃ dehī’’ti evaṃ therehi paṭipāṭiyā yācitvāpi pivituṃ vaṭṭati, sabbehi sāmaṇerassa santakameva bhuttaṃ hoti, neva uggahitapaccayā na sannidhipaccayā vajjaṃ phusanti. Ettha pana mātāpitūnaṃ telādīni chāyādīnaṃ atthāya sākhādīni ca harantānaṃ imesañca viseso na dissati. Tasmā kāraṇaṃ upaparikkhitabbaṃ.
Ngay cả khi Sa di không thông minh, tự mình bắt đầu uống cháo trong bát của mình, các vị Trưởng lão cũng được phép lần lượt xin: “Này đạo hữu, hãy cho tôi cháo của ông” rồi uống, tất cả mọi người đều được coi là đã dùng vật sở hữu của Sa di, không phạm lỗi do duyên cầm giữ (sai cách) hay duyên cất trữ. Tuy nhiên, ở đây, dường như không có sự khác biệt giữa những trường hợp này với việc cha mẹ mang dầu v.v. cho con cái hoặc mang cành cây v.v. để lấy bóng mát. Do đó, cần phải xem xét lý do.

Sāmaṇero bhattaṃ pacitukāmo taṇḍule dhovitvā niccāletuṃ na sakkoti. Bhikkhunā taṇḍule ca bhājanañca paṭiggahetvā taṇḍule dhovitvā niccāletvā bhājanaṃ uddhanaṃ āropetabbaṃ, aggi na kātabbo, pakkakāle vivaritvā pakkabhāvo jānitabbo. Sace duppakkaṃ hoti, pākatthāya pidahituṃ na vaṭṭati. Rajassa vā chārikāya vā apatanatthāya vaṭṭati, pakkakāle āropetumpi bhuñjitumpi vaṭṭati, puna paṭiggahaṇakiccaṃ natthi.
Một Sa di muốn nấu cơm nhưng không thể tự vo gạo và làm ráo nước. Vị Tỳ khưu phải nhận gạo và nồi, vo gạo và làm ráo nước, rồi đặt nồi lên bếp, không được nhóm lửa. Đến khi cơm chín, (vị Tỳ khưu) phải mở nắp ra xem cơm đã chín chưa. Nếu cơm chưa chín kỹ, không được phép đậy nắp lại để nấu tiếp cho chín. Được phép đậy nắp để ngăn bụi hoặc tro rơi vào. Khi cơm đã chín, được phép đặt xuống (để dùng) và được phép ăn, không cần phải nhận lại.

Sāmaṇero paṭibalo pacituṃ, khaṇo panassa natthi, katthaci gantukāmo. Bhikkhunā sataṇḍulodakabhājanaṃ paṭiggahetvā uddhanaṃ āropetvā aggiṃ jāletvā gacchāhīti vattabbo. Tato paraṃ purimanayeneva sabbaṃ kātuṃ vaṭṭati.
Một Sa di có khả năng nấu nướng, nhưng không có thời gian, muốn đi đâu đó. Vị Tỳ khưu phải nhận nồi có gạo và nước, đặt lên bếp, nhóm lửa rồi nói (với Sa di): “Con đi đi”. Sau đó, mọi việc còn lại được phép thực hiện theo cách đã trình bày ở trước.

Bhikkhu yāguatthāya suddhaṃ bhājanaṃ āropetvā udakaṃ tāpeti, vaṭṭati. Tatte udake sāmaṇero taṇḍule pakkhipati, tato paṭṭhāya bhikkhunā aggi na kātabbo. Pakkayāguṃ paṭiggahetvā pātuṃ vaṭṭati.
Một Tỳ khưu đặt một cái nồi sạch lên bếp rồi đun nước để nấu cháo, điều này được phép. Khi nước đã nóng, Sa di bỏ gạo vào, từ lúc đó trở đi, Tỳ khưu không được nhóm thêm lửa. Được phép nhận cháo đã nấu chín rồi uống.

Sāmaṇero yāguṃ pacati, hatthakukkuccako bhikkhu kīḷanto bhājanaṃ āmasati, pidhānaṃ āmasati , uggataṃ pheṇaṃ chinditvā harati, tasseva pātuṃ na vaṭṭati, durupaciṇṇaṃ nāma hoti. Sace pana dabbiṃ vā uḷuṅkaṃ vā gahetvā anukkhipanto āluḷeti, sabbesaṃ na vaṭṭati, sāmapākañceva hoti durupaciṇṇañca. Sace ukkhipati, uggahitakampi hoti.
Một Sa di đang nấu cháo. Một Tỳ khưu có tính táy máy tay chân, nô đùa chạm vào nồi, chạm vào nắp nồi, hoặc vớt bọt nổi lên rồi mang đi. Chính vị Tỳ khưu đó không được phép uống (cháo đó), việc này gọi là đã xử sự không đúng cách. Nếu vị ấy lấy vá hoặc muỗng múc lên khuấy đảo, thì tất cả mọi người đều không được phép dùng, việc đó vừa là tự nấu, vừa là xử sự không đúng cách. Nếu vị ấy nhấc (nồi) lên, thì còn phạm cả tội cầm giữ (vật đã cất giữ không đúng cách).

Bhikkhunā piṇḍāya caritvā ādhārake patto ṭhapito hoti, tatra ce añño lolabhikkhu kīḷanto pattaṃ āmasati, pattapidhānaṃ āmasati, tasseva tato laddhaṃ bhattaṃ na vaṭṭati. Sace pana pattaṃ ukkhipitvā ṭhapeti, sabbesaṃ na vaṭṭati. Tatthajātakaphalāni sākhāya vā valliyā vā gahetvā cāleti, tasseva tato laddhaṃ phalaṃ na vaṭṭati, durupaciṇṇadukkaṭañca āpajjati. Phalarukkhaṃ pana apassayituṃ vā tattha kaṇḍake vā bandhituṃ vaṭṭati, durupaciṇṇaṃ na hotīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ.
Một Tỳ khưu sau khi đi khất thực về đã đặt bát trên đồ để bát. Nếu một Tỳ khưu tham ăn khác nô đùa chạm vào bát, chạm vào nắp bát, thì chính vị Tỳ khưu đó không được dùng cơm nhận được từ bát đó. Nếu vị ấy nhấc bát lên rồi đặt xuống, thì tất cả mọi người đều không được dùng. Nếu ai đó cầm cành cây hoặc dây leo có quả mọc tự nhiên trên đó mà rung lắc, thì quả nhận được từ đó không được phép dùng cho chính người đó, và người đó phạm tội Tác Ác vì xử sự không đúng cách. Tuy nhiên, được phép đẩy cây có quả qua một bên hoặc buộc gai trên đó lại, như vậy không phải là xử sự không đúng cách, theo như đã nói trong Đại Chú Giải.

Araññe patitaṃ pana ambaphalādiṃ disvā sāmaṇerassa dassāmīti āharitvā dātuṃ vaṭṭati. Sīhavighāsādiṃ disvāpi sāmaṇerassa dassāmīti paṭiggahetvā vā appaṭiggahetvā vā āharitvā dātuṃ vaṭṭati. Sace pana sakkoti vitakkaṃ sodhetuṃ, tato laddhaṃ khāditumpi vaṭṭati, neva āmakamaṃsapaṭiggahaṇapaccayā na uggahitakapaccayā vajjaṃ phusati.
Tuy nhiên, nếu thấy quả xoài v.v. rụng trong rừng, được phép mang về với ý định cho Sa di. Ngay cả khi thấy thức ăn thừa của sư tử v.v., cũng được phép mang về, dù đã nhận (cho mình trước) hay chưa nhận, với ý định cho Sa di. Nếu có thể thanh lọc được ý nghĩ của mình (không tham lam), thì cũng được phép ăn những gì nhận được từ đó, không phạm lỗi do duyên nhận thịt sống hay do duyên cầm giữ (không đúng cách).

Mātāpitūnaṃ atthāya telādīni gahetvā gacchato antarāmagge byādhi uppajjati, tato yaṃ icchati, taṃ paṭiggahetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Sace pana mūlepi paṭiggahitaṃ hoti, puna paṭiggahaṇakiccaṃ natthi. Mātāpitūnaṃ taṇḍule āharitvā deti, te tatoyeva yāguādīni sampādetvā tassa denti, vaṭṭati sannidhipaccayā vā uggahitakapaccayā vā doso natthi.
Một người mang dầu v.v. cho cha mẹ, giữa đường bị bệnh. Vị ấy được phép nhận và dùng bất cứ thứ gì mình muốn từ số dầu đó. Nếu những thứ đó đã được nhận ngay từ đầu, thì không cần phải nhận lại. Nếu mang gạo cho cha mẹ, họ dùng chính số gạo đó nấu cháo v.v. rồi đưa cho vị ấy, thì được phép, không có lỗi do duyên cất trữ hay duyên cầm giữ (không đúng cách).

Bhikkhu pidahitvā udakaṃ tāpeti, yāva parikkhayā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Sace panettha chārikā patati, paṭiggahetabbaṃ. Dīghasaṇḍāsena thālakaṃ gahetvā telaṃ pacantassa chārikā patati, hatthena amuñcanteneva pacitvā otāretvā paṭiggahetabbaṃ. Sace aṅgārāpi dārūni vā paṭiggahetvā ṭhapitāni, mūlapaṭiggahaṇameva vaṭṭati.
Một Tỳ khưu đậy nắp nồi nước rồi đun, được phép dùng cho đến khi hết. Nếu tro rơi vào đó, phải nhận (lại nước đó). Một người dùng cặp dài giữ chảo để nấu dầu, nếu tro rơi vào, phải tiếp tục nấu mà không buông tay, sau đó bắc xuống rồi nhận (lại dầu đó). Nếu than hoặc củi đã được nhận và cất giữ, thì sự nhận ban đầu là đủ.

Bhikkhu ucchuṃ khādati, sāmaṇero ‘‘mayhampi dethā’’ti vadati. ‘‘Ito chinditvā gaṇhā’’ti vutto gaṇhāti, avasese puna paṭiggahaṇakiccaṃ natthi. Guḷapiṇḍakaṃ khādantassāpi eseva nayo. Vuttokāsato chinditvā gahitāvasesañhi ajahitapaṭiggahaṇameva hoti.
Một Tỳ khưu đang ăn mía, một Sa di nói: “Xin hãy cho con nữa”. Nếu được bảo: “Con hãy bẻ từ đây mà lấy”, rồi Sa di lấy, thì phần còn lại không cần phải nhận lại nữa. Đối với người đang ăn một cục đường mật cũng theo cách này. Vì phần còn lại sau khi đã bẻ lấy từ chỗ được chỉ định thì vẫn thuộc sự nhận ban đầu, chưa mất đi.

Bhikkhu guḷaṃ bhājento paṭiggahetvā koṭṭhāse karoti, bhikkhūpi sāmaṇerāpi āgantvā ekagahaṇeneva ekamekaṃ koṭṭhāsaṃ gaṇhanti , gahitāvasesaṃ paṭiggahitameva hoti. Sace lolasāmaṇero gaṇhitvā gaṇhitvā puna ṭhapeti, tassa gahitāvasesaṃ appaṭiggahitakaṃ hoti.
Một Tỳ khưu chia đường mật, sau khi nhận, vị ấy chia thành nhiều phần. Các Tỳ khưu và Sa di khác đến, chỉ với một lần lấy, mỗi người lấy một phần. Phần còn lại vẫn được coi là đã được nhận (bởi vị Tỳ khưu đầu tiên). Nếu một Sa di tham lam lấy đi lấy lại rồi đặt xuống một phần, thì phần còn lại do Sa di đó cầm lấy trở thành chưa được nhận.

Bhikkhu dhūmavaṭṭiṃ paṭiggahetvā dhūmaṃ pivati, mukhañca kaṇṭho ca manosilāya litto viya hoti, yāvakālikaṃ bhuñjituṃ vaṭṭati, yāvakālikena yāvajīvikasaṃsagge doso natthi.
Một Tỳ khưu nhận một điếu thuốc xông rồi hút khói. Miệng và cổ họng trở nên như thể bị bôi bột hùng hoàng. Vị ấy được phép dùng vật thực theo mùa (yāvakālika), không có lỗi trong việc trộn lẫn vật thực theo mùa với vật phẩm trọn đời (yāvajīvika).

Pattaṃ vā rajanaṃ vā pacantassa kaṇṇanāsamukhacchiddehi dhūmo pavisati, byādhipaccayā pupphaṃ vā phalaṃ vā upasiṅghati, abbohārikattā vaṭṭati. Bhattuggāro tāluṃ āhacca antoyeva pavisati, avisayattā vaṭṭati. Mukhaṃ paviṭṭhaṃ pana ajjhoharato vikāle āpatti. Dantantare laggassa āmisassa raso pavisati, āpattiyeva. Sace sukhumaṃ āmisaṃ hoti, raso na paññāyati, abbohārikapakkhaṃ bhajati.
Khi đang nấu bát hoặc thuốc nhuộm, khói bay vào lỗ tai, lỗ mũi, miệng. Nếu vì bệnh mà ngửi hoa hoặc quả, thì được phép vì đó không phải là đối tượng sử dụng (theo giới luật). Cơm ợ lên chạm vào vòm miệng rồi trôi vào lại bên trong, thì được phép vì không thuộc phạm vi (cấm). Nhưng nếu vật từ bên ngoài vào miệng mà nuốt vào lúc phi thời thì phạm tội. Nếu vị của thức ăn dính ở kẽ răng trôi vào (cổ họng) thì phạm tội. Nếu thức ăn đó rất nhỏ, không nhận ra vị, thì được xếp vào loại không phải là đối tượng sử dụng.

Upakaṭṭhe kāle nirudakaṭṭhāne bhattaṃ bhuñjitvā kakkhāretvā dve tayo kheḷapiṇḍe pātetvā udakaṭṭhānaṃ gantvā mukhaṃ vikkhāletabbaṃ. Paṭiggahetvā ṭhapitasiṅgiverādīnaṃ aṅkurā nikkhamanti, puna paṭiggahaṇakiccaṃ natthi. Loṇe asati samuddodakena loṇakiccaṃ kātuṃ vaṭṭati. Paṭiggahetvā ṭhapitaṃ loṇodakaṃ loṇaṃ hoti, loṇaṃ vā udakaṃ hoti, raso vā phāṇitaṃ hoti, phāṇitaṃ vā raso hoti, mūlapaṭiggahaṇameva vaṭṭati. Himakarakā udakagatikā eva. Parihārikena katakaṭṭhinā udakaṃ pasādenti, taṃ abbohārikaṃ, āmisena saddhiṃ vaṭṭati. Āmisagatikehi kapitthaphalādīhi pasāditaṃ purebhattameva vaṭṭati.
Khi gần đến giờ (không được ăn nữa), ở nơi không có nước, sau khi ăn cơm xong, phải khạc hắng cổ rồi nhổ ra hai ba miếng đờm dãi, sau đó đến chỗ có nước để súc miệng. Nếu gừng v.v. đã nhận và cất giữ mà mọc mầm, không cần phải nhận lại. Nếu không có muối, được phép dùng nước biển thay cho muối. Nước muối đã nhận và cất giữ thì trở thành muối, hoặc muối trở thành nước (nếu tan ra), hoặc nước cốt (trái cây) trở thành đường mật, hoặc đường mật trở thành nước cốt, thì sự nhận ban đầu vẫn có giá trị. Nước đá cục cũng được coi như nước. Nếu dùng hột lọc nước mang theo người để lọc nước, nước đó không phải là đối tượng sử dụng (theo giới luật), được phép dùng chung với thức ăn. Nước được lọc bằng quả lim v.v. là những thứ liên quan đến thức ăn, thì chỉ được phép dùng trước giờ ngọ.

Pokkharaṇīādīsu udakaṃ bahalaṃ hoti, vaṭṭati. Sace pana mukhe ca hatthe ca laggati, na vaṭṭati, paṭiggahetvā paribhuñjitabbaṃ. Khettesu kasitaṭṭhāne bahalaṃ udakaṃ hoti, paṭiggahetabbaṃ. Sace sanditvā kandarādīni pavisitvā nadiṃ pūreti, vaṭṭati. Kakudhasobbhādayo honti, rukkhato patitehi pupphehi sañchannodakā, sace puppharaso na paññāyati, paṭiggahaṇakiccaṃ natthi. Parittaṃ udakaṃ hoti, raso paññāyati, paṭiggahetabbaṃ. Pabbatakandarādīsu kāḷavaṇṇapaṇṇasañchannaudakepi eseva nayo.
Nước trong ao hồ v.v. nếu đặc (sệt, bùn), thì được phép dùng. Nhưng nếu dính vào miệng và tay, thì không được phép (dùng ngay), phải nhận rồi mới được dùng. Nước đặc ở những nơi đã cày trong ruộng, phải nhận (rồi mới dùng). Nếu nước đó chảy vào khe suối v.v. rồi đổ đầy sông, thì được phép dùng. Có những ao hồ Kakudha v.v., nước bị che phủ bởi hoa rụng từ cây, nếu không nhận ra vị của hoa, thì không cần phải nhận. Nếu nước ít, nhận ra vị, thì phải nhận. Đối với nước trong hang núi v.v. bị che phủ bởi lá cây màu đen, cũng theo cách này.

Pānīyaghaṭe sareṇukāni vā savaṇṭakhīrāni vā pupphāni pakkhittāni honti, paṭiggahetabbaṃ. Pupphāni vā paṭiggahetvā pakkhipitabbāni. Pāṭalicampakamallikā pakkhittā honti , vāsamattaṃ tiṭṭhati taṃ abbohārikaṃ, dutiyadivasepi āmisena saddhiṃ vaṭṭati. Bhikkhunā ṭhapitapupphavāsitakapānīyato sāmaṇero pānīyaṃ gahetvā pītāvasesaṃ tattheva ākirati, paṭiggahetabbaṃ. Padumasarādīsu udakaṃ santharitvā ṭhitaṃ pupphareṇuṃ ghaṭena vikkhambhetvā udakaṃ gahetuṃ vaṭṭati. Kappiyaṃ kārāpetvā paṭiggahetvā ṭhapitaṃ dantakaṭṭhaṃ hoti, sace tassa rasaṃ pivitukāmo, mūlapaṭiggahaṇameva vaṭṭati. Appaṭiggahetvā ṭhapitaṃ paṭiggahetabbaṃ. Ajānantassa rase paviṭṭhepi āpattiyeva. Acittakañhi idaṃ sikkhāpadaṃ.
Nếu trong ghè nước có bỏ phấn hoa, hoặc hoa còn cuống có mủ, thì phải nhận (lại nước đó). Hoặc phải nhận hoa rồi mới bỏ vào. Nếu bỏ hoa lài, hoa sứ, hoa ngọc lan vào, chỉ còn lại mùi hương, thì nước đó không phải là đối tượng sử dụng (theo giới luật), ngày hôm sau dùng chung với thức ăn cũng được phép. Nếu Sa di lấy nước từ bình nước do Tỳ khưu ướp hoa để đó, uống còn thừa rồi đổ lại vào chính bình đó, thì (nước đó) phải được nhận lại. Ở các hồ sen v.v., được phép dùng ghè gạt lớp phấn hoa phủ trên mặt nước rồi lấy nước. Nếu có tăm xỉa răng đã được làm cho hợp lệ, đã nhận và cất giữ, và nếu muốn nuốt vị của nó, thì sự nhận ban đầu là đủ. Nếu cất giữ mà chưa nhận, thì phải nhận. Ngay cả khi vô ý nuốt phải vị (của tăm chưa nhận), vẫn phạm tội. Vì điều học này không đòi hỏi phải có tác ý.

Mahābhūtesu kiṃ vaṭṭati, kiṃ na vaṭṭatīti? Khīraṃ tāva vaṭṭati, kappiyamaṃsakhīraṃ vā akappiyamaṃsakhīraṃ vā hotu, pivantassa anāpatti. Assu kheḷo siṅghāṇikā muttaṃ karīsaṃ semhaṃ dantamalaṃ akkhigūthako kaṇṇagūthako sarīre uṭṭhitaloṇanti idaṃ sabbaṃ vaṭṭati. Yaṃ panettha ṭhānato cavitvā patte vā hatthe vā patati, taṃ paṭiggahetabbaṃ. Aṅgalaggaṃ paṭiggahitakameva. Uṇhaṃpāyāsaṃ bhuñjantassa sedo aṅgulianusārena ekābaddhova hutvā pāyāse santiṭṭhati, piṇḍāya vā carantassa hatthato pattassa mukhavaṭṭiṃto vā pattatalaṃ orohati, ettha paṭiggahaṇakiccaṃ natthi. Jhāmamahābhūtesu idaṃ nāma na vaṭṭatīti natthi, dujjhāpitaṃ pana na vaṭṭati. Sujjhāpitaṃ manussaṭṭhimpi cuṇṇaṃ katvā lehe upanetuṃ vaṭṭati.
Trong các đại chủng (ở đây chỉ các chất tiết ra từ cơ thể), thứ gì được phép, thứ gì không được phép? Sữa thì được phép, dù là sữa của động vật hợp lệ hay không hợp lệ, người uống không phạm tội. Nước mắt, nước bọt, nước mũi, nước tiểu, phân, đờm, bựa răng, ghèn mắt, ráy tai, và muối kết tinh trên cơ thể, tất cả những thứ này đều được phép. Nếu những thứ này từ chỗ của nó rơi vào bát hoặc vào tay, thì phải nhận (lại). Vật dính ở ngón tay thì coi như đã được nhận. Khi đang ăn cháo nóng, mồ hôi theo ngón tay chảy thành dòng liên tục xuống đọng lại trong cháo, hoặc khi đang đi khất thực, (mồ hôi) từ tay hoặc từ miệng bát chảy xuống đáy bát, trong những trường hợp này không cần phải nhận lại. Trong các đại chủng đã bị cháy (tro cốt), không có gì gọi là không được phép, nhưng nếu bị đốt không đúng cách thì không được phép. Ngay cả xương người được đốt đúng cách, nếu tán thành bột, cũng được phép dùng làm thuốc liếm.

Cattāri mahāvikaṭāni asati kappiyakārake sāmampi gahetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Ettha ca dubbacopi asamatthopi kappiyakārako asantapakkheyeva tiṭṭhati. Chārikāya asati sukkhadāruṃ jhāpetvā chārikā gahetabbā. Sukkhadārumhi asati alladāruṃ rukkhato chinditvāpi kātuṃ vaṭṭati. Idaṃ pana catubbidhampi mahāvikaṭaṃ kālodissaṃ nāma sappadaṭṭhakkhaṇeyeva vaṭṭati. Sesamettha uttānameva.
Bốn loại thuốc mạnh chính (mahāvikaṭa), nếu không có người phục vụ hợp lệ (kappiyakāraka), (Tỳ khưu) được phép tự mình lấy mà dùng. Và ở đây, người phục vụ hợp lệ dù khó bảo hay không có khả năng, cũng được coi như không có. Nếu không có tro, phải đốt củi khô để lấy tro. Nếu không có củi khô, cũng được phép chặt cả củi tươi từ cây để làm. Tuy nhiên, bốn loại thuốc mạnh chính này là những thứ dùng theo thời điểm nhất định, nghĩa là chỉ được phép dùng ngay khi bị rắn cắn. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kāyato ca kāyacittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, ticittaṃ , tivedananti.
Phát sinh từ lông cừu – phát sinh từ thân và từ thân-tâm, là hành động, không phải giải thoát qua tưởng, không có tác ý, là tội do quy định, là hành động của thân, thuộc ba tâm, thuộc ba cảm thọ.

Dantaponasikkhāpadaṃ dasamaṃ.

Điều Học Về Tăm Xỉa Răng là thứ mười.

Samatto vaṇṇanākkamena bhojanavaggo catuttho.

Phẩm về Thực Phẩm là thứ tư, đã hoàn tất theo thứ tự giải thích.

5. Acelakavaggo

5. Phẩm Về Các Du Sĩ Lõa Thể

1. Acelakasikkhāpadavaṇṇanā

1. Chú Giải Điều Học Về Các Du Sĩ Lõa Thể

269. Acelakavaggassa 9 paṭhamasikkhāpade – parivesananti parivisanaṭṭhānaṃ. Paribbājakasamāpannoti pabbajjaṃ samāpanno. Deti āpatti pācittiyassāti samatittikaṃ yāgupattaṃ ekapayogena deti, ekaṃ pācittiyaṃ. Avacchinditvā avacchinditvā deti, payoge payoge pācittiyaṃ. Eseva nayo pūvabhattādīsu. Titthiye atitthiyasaññīti mātā vā pitā vā titthiyesu pabbajati, tesaṃ mātāpitusaññāya dentassāpi pācittiyameva hoti. Dāpetīti anupasampannena dāpeti.
269. Trong điều học đầu tiên của Phẩm Về Các Du Sĩ Lõa Thể – Nơi phục vụ (parivesanaṃ) nghĩa là chỗ phân phát (thực phẩm). Người đã xuất gia theo hạnh của người tu khổ hạnh nghĩa là người đã xuất gia. Cho thì phạm tội Ưng Đối Trị (pācittiya) nghĩa là nếu cho một bát cháo vừa đủ no với một lần đưa, thì phạm một tội Ưng Đối Trị. Nếu cho nhiều lần cách khoảng, thì mỗi lần cho phạm một tội Ưng Đối Trị. Cách này cũng áp dụng cho bánh, cơm, v.v. Tưởng người ngoại đạo không phải là ngoại đạo nghĩa là nếu cha hoặc mẹ đã xuất gia theo ngoại đạo, dù cho họ với tâm tưởng là cha mẹ mình, cũng vẫn phạm tội Ưng Đối Trị. Khiến người khác cho nghĩa là nhờ người chưa thọ giới Cụ Túc cho.

273.Upanikkhipitvā detīti tathārūpe bhājane ṭhapetvā taṃ bhājanaṃ tesaṃ santike bhūmiyaṃ nikkhipitvā deti, tesaṃ vā bhājanaṃ nikkhipāpetvā tattha deti, pattaṃ ādhārake vā bhūmiyaṃ vā ṭhapetvāpi ‘‘ito gaṇhathā’’ti vattuṃ vaṭṭati. Sace titthiyo vadati ‘‘mayhaṃ nāma idaṃ santakaṃ, idha na ākirathā’’ti ākiritabbaṃ. Tassa santakattā sahatthā dānaṃ nāma na hoti. Sesamettha uttānameva.
273. Đặt xuống rồi cho nghĩa là đặt (thực phẩm) vào một vật đựng thích hợp, rồi đặt vật đựng đó xuống đất gần họ mà cho, hoặc bảo họ đặt vật đựng của họ xuống rồi cho vào đó. Cũng được phép đặt bát của mình trên đồ để bát hoặc dưới đất rồi nói: “Hãy lấy từ đây”. Nếu người ngoại đạo nói: “Đây là vật sở hữu của tôi, đừng đổ vào đây”, thì nên đổ vào đó. Vì đó là vật sở hữu của họ, nên không bị coi là cho bằng chính tay mình. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Phát sinh từ lông cừu – là hành động, không phải giải thoát qua tưởng, không có tác ý, là tội do quy định, là hành động của thân, thuộc ba tâm, thuộc ba cảm thọ.

Acelakasikkhāpadaṃ paṭhamaṃ.

Điều Học Về Các Du Sĩ Lõa Thể là thứ nhất.

2. Uyyojanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Chú Giải Điều Học Về Việc Đuổi Đi

274. Dutiyasikkhāpade – paṭikkamanepīti āsanasālāyampi. Bhattavissagganti bhattakiccaṃ. Na sambhāvesīti na pāpuṇi.
274. Trong điều học thứ hai – Cả khi lui về cũng có nghĩa là cả ở trong nhà hội. Việc xong bữa ăn nghĩa là phận sự về bữa ăn đã xong. Đã không đạt được nghĩa là đã không tới nơi, không nhận được.

276.Anācāranti vuttāvasesaṃ kāyavacīdvāravītikkamaṃ. Dassanūpacāraṃ vā savanūpacāraṃ vāvijahantassāti ettha yadi ṭhito vā nisinno vā uyyojeti; yo uyyojito, so vijahati, tassa ca āpatti nāma natthi. Tasmiṃ pana vijahantepi atthato itarena vijahitameva hoti. Tasmā yo uyyojeti, tassevāyaṃ āpatti. Tattha sace upacārabbhantare eko pādo hoti, dukkaṭaṃ. Sīmātikkame pācittiyaṃ. Ettha ca dassanūpacārassa abbhokāse dvādasahatthappamāṇaṃ, tathā savanūpacārassa. Sace pana antarā kuṭṭadvārapākārādayo honti, tehi antaritabhāvo dassanūpacārātikkamo, tassa vasena āpatti veditabbā. Na añño koci paccayo hotīti ṭhapetvā vuttappakāramanācāraṃ aññaṃ kiñci kāraṇaṃ na hoti.
276. Hành vi không đúng đắn nghĩa là sự vi phạm còn lại qua cửa thân và cửa lời ngoài những gì đã nói. Của người rời khỏi tầm nhìn thấy hoặc tầm nghe thấy nghĩa là ở đây, nếu người đứng hoặc ngồi mà đuổi ai đó đi; người bị đuổi đó rời đi, đối với người đó thì không có tội. Nhưng khi người đó rời đi, thì về thực chất, chính người kia đã khiến họ rời đi. Do đó, tội này thuộc về người đuổi đi. Trong đó, nếu một chân còn ở trong phạm vi nghe thấy hoặc nhìn thấy, thì phạm tội Tác Ác. Khi vượt qua ranh giới, thì phạm tội Ưng Đối Trị. Và ở đây, tầm nhìn thấy ở ngoài trời có khoảng cách là mười hai gang tay, tầm nghe thấy cũng vậy. Tuy nhiên, nếu ở giữa có tường, cửa, rào v.v. chắn ngang, thì việc bị những thứ đó che khuất là vượt qua tầm nhìn thấy, tội phải được hiểu dựa trên điều đó. Không có duyên cớ nào khác nghĩa là ngoài hành vi không đúng đắn đã nói, không có nguyên nhân nào khác.

277.Kalisāsanaṃ āropetīti ‘‘kalī’’ti kodho; tassa sāsanaṃ āropeti; kodhassa āṇaṃ āropeti; kodhavasena ṭhānanisajjādīsu dosaṃ dassetvā ‘‘passatha bho imassa ṭhānaṃ, nisajjaṃ ālokitaṃ vilokitaṃ khāṇuko viya tiṭṭhati, sunakho viya nisīdati, makkaṭo viya ito cito ca viloketī’’ti evaṃ amanāpavacanaṃ vadati ‘‘appeva nāma imināpi ubbāḷho pakkameyyā’’ti. Sesaṃ uttānameva.
277. Gieo rắc giáo lệnh của sự bất hòa nghĩa là “bất hòa” là sự tức giận; gieo rắc giáo lệnh của nó; gieo rắc mệnh lệnh của sự tức giận; do tức giận mà chỉ trích lỗi trong việc đi đứng, ngồi nằm v.v. rằng: “Này quý vị, hãy xem cách đứng, cách ngồi, cách nhìn ngang liếc dọc của người này kìa! Đứng như khúc cây, ngồi như con chó, nhìn ngang liếc dọc như con khỉ vậy!” rồi nói những lời khó nghe như vậy với ý nghĩ: “Mong sao do việc này mà nó bực tức bỏ đi”. Phần còn lại đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, tivedananti.
Phát sinh từ ba nguồn – phát sinh từ thân-tâm, từ lời-tâm, và từ thân-lời-tâm; là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc tâm bất thiện, thuộc ba cảm thọ.

Uyyojanasikkhāpadaṃ dutiyaṃ.

Điều Học Về Việc Đuổi Đi là thứ hai.

3. Sabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Chú Giải Điều Học Về Việc Ở Cùng Một Đôi Nam Nữ

279. Tatiyasikkhāpade – sayanighareti sayaniyaghare. Yato ayyassa bhikkhā dinnāti yasmā bhikkhā dinnā, yaṃ āgatena laddhabbaṃ taṃ vo laddhaṃ; gacchathāti adhippāyo. Pariyuṭṭhitoti rāgapariyuṭṭhito; methunādhippāyoti attho.
279. Trong điều học thứ ba – Trong nhà ngủ nghĩa là trong nhà để ngủ. Vì vật thực đã được dâng cho thầy rồi nghĩa là vì vật thực đã được dâng cho thầy, những gì thầy đến để nhận thì đã nhận được rồi; ý là xin mời thầy đi. Bị lôi cuốn nghĩa là bị tham ái lôi cuốn; nghĩa là có ý định hành dâm.

280. Saha ubhohi janehīti sabhojanaṃ; tasmiṃ sabhojane. Atha vā sabhojaneti sabhoge. Rāgapariyuṭṭhitassa hi purisassa itthī bhogo itthiyā ca puriso. Tenevassa padabhājane – ‘‘itthī ceva hoti puriso cā’’tiādi vuttaṃ. Mahallake ghareti mahallake sayanighare. Piṭṭhasaṅghāṭassa hatthapāsaṃ vijahitvāti tassa sayanighare gabbhassa yo piṭṭhasaṅghāṭo, tassa hatthapāsaṃ vijahitvā; antosayanassa āsanne ṭhāne nisīdatīti attho. Īdisañca sayanigharaṃ mahācatussālādīsu hoti. Piṭṭhivaṃsaṃ atikkamitvāti iminā majjhātikkamaṃ dasseti. Tasmā yathā vā tathā vā katassa khuddakassa sayanigharassa majjhātikkame āpatti veditabbā. Sesamettha uttānameva.
280. Cùng với cả hai người một nam một nữ là một đôi; trong trường hợp một đôi đó. Hoặc là, một đôi nghĩa là những người đang hưởng thụ tình dục. Vì đối với người nam bị tham ái lôi cuốn, người nữ là đối tượng hưởng thụ, và đối với người nữ, người nam là đối tượng hưởng thụ. Chính vì vậy mà trong phần phân tích từ ngữ của nó có nói: “Có cả người nữ và người nam” v.v. Trong nhà lớn nghĩa là trong nhà ngủ lớn. Rời khỏi tầm tay với của khung cửa nghĩa là rời khỏi tầm tay với của khung cửa của phòng trong của nhà ngủ đó; nghĩa là ngồi ở một nơi gần khu vực ngủ bên trong. Và một nhà ngủ như vậy thường có ở trong các sảnh lớn có bốn gian v.v. Vượt qua đòn nóc, bằng cụm từ này, chỉ sự vượt qua khoảng giữa. Do đó, phải hiểu là phạm tội khi vượt qua khoảng giữa của một nhà ngủ nhỏ, dù được làm theo cách nào đi nữa. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Paṭhamapārājikasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, akusalacittaṃ, dvivedananti.
Phát sinh từ nguồn giống như tội Ba La Di thứ nhất – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, thuộc tâm bất thiện, thuộc hai cảm thọ.

Sabhojanasikkhāpadaṃ tatiyaṃ.

Điều Học Về Việc Ở Cùng Một Đôi Nam Nữ là thứ ba.

284. Catutthapañcamasikkhāpadesu yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ aniyatadvaye vuttanayameva. Yathā ca sabhojanasikkhāpadaṃ , evametānipi paṭhamapārājikasamuṭṭhānānevāti.
284. Những gì cần nói trong điều học thứ tư và thứ năm, tất cả đều theo cách đã nói trong hai điều Bất Định. Và cũng như điều học về việc ở cùng một đôi nam nữ, những điều này cũng phát sinh từ nguồn giống như tội Ba La Di thứ nhất.

Rahopaṭicchannasikkhāpadaṃ catutthaṃ, rahonisajjasikkhāpadaṃ pañcamaṃ.

Điều Học Về Nơi Kín Đáo Che Khuất là thứ tư, Điều Học Về Việc Ngồi Ở Nơi Kín Đáo là thứ năm.

6. Cārittasikkhāpadavaṇṇanā

6. Chú Giải Điều Học Về Thông Lệ (Đi Khất Thực)

294. Chaṭṭhasikkhāpade – dethāvuso bhattanti ettha taṃ kira bhattaṃ abhihaṭaṃ ahosi, tasmā evamāhaṃsu. Anabhihaṭe pana evaṃ vattuṃ na labbhati, payuttavācā hoti.
294. Trong điều học thứ sáu – Này các đạo hữu, hãy dâng cơm, ở đây, cơm đó dường như đã được dâng đến (một cách hợp lệ), do đó họ đã nói như vậy. Nhưng nếu (cơm) chưa được dâng đến, thì không được phép nói như thế, vì đó trở thành lời nói yêu cầu (phạm giới).

295.Tena hi bhikkhave paṭiggahetvā nikkhipathāti idaṃ pana bhagavā kulassa saddhānurakkhaṇatthāya āha. Yadi ‘‘bhājetvā khādathā’’ti vadeyya, manussānaṃ pasādaññathattaṃ siyā. Ussāriyitthāti paṭihariyittha; gharaṃyeva naṃ gahetvā agamaṃsūti vuttaṃ hoti.
295. Vậy thì, này các Tỳ khưu, hãy nhận lấy rồi để sang một bên, điều này Đức Thế Tôn nói nhằm bảo vệ đức tin của các gia đình. Nếu Ngài nói: “Hãy chia nhau mà ăn”, thì lòng tín thành của mọi người có thể bị thay đổi. Họ đã mang đi nghĩa là họ đã mang về; ý nói rằng họ đã mang thẳng về nhà của họ.

298.Santaṃ bhikkhunti ettha kittāvatā santo hoti, kittāvatā asantoti? Antovihāre yattha ṭhitassa kulāni payirupāsanacittaṃ uppannaṃ, tato paṭṭhāya yaṃ passe vā abhimukhe vā passati, yassa sakkā hoti pakativacanena ārocetuṃ, ayaṃ santo nāma. Ito cito ca pariyesitvā ārocanakiccaṃ nāma natthi. Yo hi evaṃ pariyesitabbo, so asantoyeva. Apica antoupacārasīmāya bhikkhuṃ disvā āpucchissāmīti gantvā tattha yaṃ passati, so āpucchitabbo. No ce passati, asantaṃ bhikkhuṃ anāpucchā paviṭṭho nāma hoti.
298. Vị Tỳ khưu có mặt, ở đây, thế nào là có mặt, thế nào là không có mặt? Trong nội vi tu viện, từ nơi một vị đứng mà khởi tâm muốn đến thăm các gia đình, bắt đầu từ đó, vị nào mà vị ấy thấy ở bên cạnh hoặc ở phía trước, người mà có thể thông báo bằng lời nói thông thường, vị đó được gọi là có mặt. Không có phận sự phải đi tìm kiếm đây đó để thông báo. Vì người nào phải tìm kiếm như vậy, thì chính là người không có mặt. Hơn nữa, sau khi thấy một Tỳ khưu trong giới hạn phụ cận của tu viện rồi đi đến với ý định xin phép, vị nào mà thấy ở đó, thì phải xin phép vị đó. Nếu không thấy ai, thì gọi là đã vào (làng) mà không xin phép vị Tỳ khưu (được coi là) không có mặt.

302.Antarārāmanti antogāme vihāro hoti, taṃ gacchati Bhattiyagharanti nimantitagharaṃ vā salākabhattādidāyakānaṃ vā gharaṃ. Āpadāsūti jīvitabrahmacariyantarāyesu sati gantuṃ vaṭṭati. Sesamettha uttānameva.
302. Tu viện ở trong làng nghĩa là có một tu viện ở trong làng, vị ấy đi đến đó. Nhà có vật thực nghĩa là nhà đã mời hoặc nhà của những người dâng cúng phiếu cơm v.v. Trong các trường hợp nguy hiểm nghĩa là nếu có những nguy hiểm đến tính mạng hoặc đời sống phạm hạnh, thì được phép đi. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Kathinasamuṭṭhānaṃ – kāyavācato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyākirayaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Phát sinh từ Kathina – phát sinh từ thân-lời và từ thân-lời-tâm; là hành động và không hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Cārittasikkhāpadaṃ chaṭṭhaṃ.

Điều Học Về Thông Lệ (Đi Khất Thực) là thứ sáu.

7. Mahānāmasikkhāpadavaṇṇanā

7. Chú Giải Điều Học Về Ngài Mahānāma

303. Sattamasikkhāpade – mahānāmo nāma bhagavato cūḷapituputto māsamattena mahallakataro dvīsu phalesu patiṭṭhito ariyasāvako. Bhesajjaṃ ussannaṃ hotīti vajato āharitvā ṭhapitasappi bahu hoti.
303. Trong điều học thứ bảy – Mahānāma là con trai của em út vua cha của Đức Thế Tôn, lớn hơn (Đức Thế Tôn) khoảng một tháng, một vị Thánh đệ tử đã chứng hai Thánh quả. Dược phẩm có nhiều nghĩa là có nhiều bơ lỏng được mang từ xứ Vajji về cất giữ.

306.Sāditabbāti tasmiṃ samaye rogo natthīti na paṭikkhipitabbā; roge sati viññāpessāmīti adhivāsetabbā. Ettakehi bhesajjehi pavāremīti nāmavasena sappitelādīsu dvīhi tīhi vā parimāṇavasena patthena nāḷiyā āḷhakenāti vā.Aññaṃ bhesajjaṃ viññāpetīti sappinā pavārito telaṃ viññāpeti, āḷhakena pavārito doṇaṃ. Na bhesajjena karaṇīyenāti missakabhattenapi ce yāpetuṃ sakkoti, na bhesajjakaraṇīyaṃ nāma hoti.
306. Nên nhận lấy nghĩa là không nên từ chối với lý do “lúc này không có bệnh”; nên nhận với ý nghĩ “nếu có bệnh, tôi sẽ xin dùng”. Tôi xin dâng cúng chừng này dược phẩm nghĩa là kể theo tên, như hai hoặc ba thứ gồm bơ lỏng, dầu, v.v., hoặc kể theo lượng, như bằng một đấu (pattha), một ống (nāḷi), hay một đấu lớn (āḷhaka). Xin dược phẩm khác nghĩa là đã được mời dùng bơ lỏng rồi lại xin dầu, đã được mời dùng một đấu lớn rồi lại xin một đấu to (doṇa). Không phải là thứ cần dùng làm thuốc nghĩa là nếu có thể duy trì được sự sống ngay cả bằng cơm trộn (thức ăn thông thường), thì không gọi là thứ cần dùng làm thuốc.

310.Pavāritānanti ye attano puggalikāya pavāraṇāya pavāritā; tesaṃ pavāritānurūpena viññattiyā anāpatti. Saṅghavasena pavāritesu pana pamāṇaṃ sallakkhetabbamevāti. Sesaṃ uttānameva.
310. Của những người đã được mời nghĩa là những ai đã được mời bằng lời mời cá nhân; đối với họ, việc xin (dược phẩm) tương ứng với lời mời đó thì không phạm tội. Nhưng đối với những người được mời nhân danh Tăng đoàn, thì quả thực phải lưu ý đến số lượng. Phần còn lại đã rõ ràng.

Chasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Phát sinh từ sáu nguồn – là hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Mahānāmasikkhāpadaṃ sattamaṃ.

Điều Học Về Ngài Mahānāma là thứ bảy.

8. Uyyuttasenāsikkhāpadavaṇṇanā

8. Chú Giải Điều Học Về Việc Đi Xem Quân Đội Dàn Trận

311. Aṭṭhame – abbhuyyātoti abhiuyyāto; parasenaṃ abhimukho gamissāmīti nagarato niggatoti attho. Uyyuttanti katauyyogaṃ; gāmato nikkhantanti attho.
311. Trong điều học thứ tám – Đã xuất quân đối đầu nghĩa là đã xuất quân để giao chiến; nghĩa là đã ra khỏi thành với ý định đối mặt với quân địch. Dàn trận nghĩa là đã chuẩn bị tác chiến; nghĩa là đã ra khỏi làng.

314.Dvādasapuriso hatthīti cattāro ārohakā ekekapādarakkhakā dve dveti evaṃ dvādasapuriso hoti. Tipuriso assoti eko ārohako dve pādarakkhakāti evaṃ tipuriso hoti. Catupuriso rathoti eko sārathi eko yodho dve āṇirakkhakāti evaṃ catupuriso hoti. Cattāro purisā sarahatthāti āvudhahatthā cattāro purisāti ayaṃ pacchimakoṭiyā caturaṅgasamannāgatā senā nāma. Īdisaṃ senaṃ dassanāya gacchato pade pade dukkaṭaṃ. Dassanūpacāraṃ vijahitvāti kenaci antaritā vā ninnaṃ oruḷhā vā na dissati; idha ṭhatvā na sakkā daṭṭhunti aññaṃ ṭhānaṃ gantvā passato payoge payoge pācittiyanti attho.
314. Con voi có mười hai người nghĩa là có bốn người điều khiển/chiến đấu trên lưng voi, và mỗi chân voi có hai người bảo vệ, như vậy là có mười hai người. Con ngựa có ba người nghĩa là có một người cưỡi và hai người bảo vệ chân ngựa, như vậy là có ba người. Cỗ xe có bốn người nghĩa là có một người đánh xe, một chiến binh, và hai người bảo vệ trục xe (hoặc bánh xe), như vậy là có bốn người. Bốn người mang cung tên nghĩa là bốn người mang vũ khí trong tay; đây được gọi là một đạo quân gồm bốn binh chủng ở đội hình tối thiểu. Nếu đi xem một đạo quân như vậy, mỗi bước đi phạm tội Tác Ác. Rời khỏi tầm nhìn thấy nghĩa là (đạo quân) không còn thấy được nữa do bị vật gì đó che khuất hoặc đã đi xuống vùng đất thấp; nghĩa là nếu một người, nghĩ rằng “đứng ở đây không thể thấy được” rồi đi đến một nơi khác để xem, thì mỗi lần đi như vậy phạm tội Ưng Đối Trị.

315.Ekamekanti hatthiādīsu catūsu aṅgesu ekamekaṃ; antamaso ekapurisāruḷhakahatthimpi ekampi sarahatthaṃ purisaṃ. Anuyyuttā nāma rājā uyyānaṃ vā nadiṃ vā gacchati ; evaṃ anuyyuttā hoti.
315. Mỗi một nghĩa là mỗi một trong bốn binh chủng như voi, v.v.; tối thiểu là ngay cả một con voi chỉ có một người cưỡi, hoặc ngay cả một người lính mang cung tên. Không phải đi tác chiến là khi vua đi đến công viên hoặc bờ sông; như vậy gọi là không phải đi tác chiến.

316.Āpadāsūti jīvitabrahmacariyantarāyesu sati ettha gato muñcissāmīti gacchato anāpatti. Sesamettha uttānameva. Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, akusalacittaṃ, tivedananti.
316. Trong các trường hợp nguy hiểm nghĩa là nếu có những nguy hiểm đến tính mạng hoặc đời sống phạm hạnh, người đi với ý nghĩ “đến đó tôi sẽ được an toàn” thì không phạm tội. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ lông cừu – là hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là lỗi thế gian; là nghiệp của thân; thuộc tâm bất thiện; thuộc ba cảm thọ.

Uyyuttasenāsikkhāpadaṃ aṭṭhamaṃ.

Điều Học Về Việc Đi Xem Quân Đội Dàn Trận là thứ tám.

9. Senāvāsasikkhāpadavaṇṇanā

9. Chú Giải Điều Học Về Việc Trú Ngụ Trong Doanh Trại Quân Đội

319. Navame – atthaṅgate sūriye senāya vasatīti tiṭṭhatu vā nisīdatu vā sayatu vā sacepi ākāse iddhiyā kañci iriyāpathaṃ kappeti, pācittiyameva. Senā vā paṭisenāya ruddhā hotīti yathā sañcāro chijjati; evaṃ ruddhā hoti. Palibuddhoti verikena vā issarena vā ruddho. Sesaṃ uttānameva. Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
319. Trong điều học thứ chín – Trú ngụ trong doanh trại quân đội sau khi mặt trời lặn nghĩa là dù đứng, ngồi, nằm, hay ngay cả khi duy trì bất kỳ oai nghi nào trên không trung bằng thần lực, cũng đều phạm tội Ưng Đối Trị. Hoặc quân đội bị quân địch bao vây nghĩa là bị bao vây đến mức đường đi lối lại bị cắt đứt. Bị cản trở/nguy hiểm nghĩa là bị kẻ thù hoặc người có quyền thế cản trở. Phần còn lại đã rõ ràng. Phát sinh từ lông cừu – là hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Senāvāsasikkhāpadaṃ navamaṃ.

Điều Học Về Việc Trú Ngụ Trong Doanh Trại Quân Đội là thứ chín.

10. Uyyodhikasikkhāpadavaṇṇanā

10. Chú Giải Điều Học Về Việc Đi Xem Diễn Binh/Trận Giả

322. Dasame – uggantvā uggantvā ettha yujjhantīti uyyodhikaṃ; sampahāraṭṭhānassetaṃ adhivacanaṃ. Balassa aggaṃ jānanti etthāti balaggaṃ; balagaṇanaṭṭhānanti attho. Senāya viyūhaṃ senābyūhaṃ; senānivesassetaṃ adhivacanaṃ. Tayo hatthī pacchimaṃ hatthānīkanti yo pubbe vutto dvādasapuriso hatthīti tena hatthinā tayo hatthī. Sesesupi eseva nayo. Sesaṃ uyyuttasenāsikkhāpade vuttanayeneva veditabbaṃ saddhiṃ samuṭṭhānādīhīti.
322. Trong điều học thứ mười – Nơi người ta xông tới xông lui mà chiến đấu gọi là trận giả/nơi diễn binh; đây là tên gọi của nơi giao chiến hoặc diễn tập quân sự. Nơi người ta biết được sức mạnh tinh nhuệ của quân đội gọi là nơi duyệt binh; nghĩa là nơi điểm quân số. Sự dàn trận của quân đội gọi là sự dàn quân; đây là tên gọi của nơi đóng quân hoặc đội hình quân đội. Ba con voi là đội hình voi tối thiểu nghĩa là ba con voi thuộc loại đã nói ở trước là “con voi có mười hai người”. Đối với các binh chủng khác cũng theo cách này. Phần còn lại phải được hiểu theo cách đã nói trong điều học về việc đi xem quân đội dàn trận, cùng với các nguồn gốc phát sinh tội v.v.

Uyyodhikasikkhāpadaṃ dasamaṃ.

Điều Học Về Việc Đi Xem Diễn Binh/Trận Giả là thứ mười.

Samatto vaṇṇanākkamena acelakavaggo pañcamo.

Phẩm Về Các Du Sĩ Lõa Thể là thứ năm, đã hoàn tất theo thứ tự giải thích.

6. Surāpānavaggo

6. Phẩm Về Việc Uống Rượu (Surāpānavaggo)

1. Surāpānasikkhāpadavaṇṇanā

1. Chú Giải Điều Học Về Việc Uống Rượu (Surāpānasikkhāpadavaṇṇanā)

326. Surāpānavaggassa paṭhamasikkhāpade – bhaddavatikāti eko gāmo, so bhaddikāya vatiyā samannāgatattā etaṃ nāma labhi. Pathāvinoti addhikā. Tejasā tejanti attano tejasā ānubhāvena nāgassa tejaṃ. Kāpotikāti kapotapādasamavaṇṇarattobhāsā. Pasannāti surāmaṇḍassetaṃ adhivacanaṃ. Ananucchaviyaṃ bhikkhave sāgatassāti pañcābhiññassa sato majjapānaṃ nāma na anucchaviyanti vuttaṃ hoti.
326. Trong điều học đầu tiên của Phẩm Về Việc Uống Rượu – Bhaddavatikā là một ngôi làng; làng ấy có tên này vì được bao bọc bởi một hàng rào tốt đẹp. Những người đi đường nghĩa là những khách bộ hành. (Chế ngự) sức mạnh (của rồng) bằng sức mạnh (của mình) nghĩa là (ngài Sāgata đã chế ngự) sức mạnh của con rồng bằng năng lực và uy đức của chính mình. Màu hồng chim câu nghĩa là có màu đỏ hồng giống như màu chân chim bồ câu. Nước cốt trong là tên gọi của phần nước cốt rượu trong lắng ở trên. Này các Tỳ khưu, điều đó không xứng đáng với Sāgata nghĩa là điều được nói là: đối với một người đã có năm loại thần thông mà lại uống rượu thì quả là không xứng đáng.

328.Pupphāsavo nāma madhukapupphādīnaṃ rasena kato. Phalāsavo nāma muddikaphalādīni madditvā tesaṃ rasena kato. Madhvāsavo nāma muddikānaṃ jātirasena kato; makkhikamadhunāpi kariyatīti vadanti. Guḷāsavo nāma ucchurasādīhi kariyati. Surā nāma piṭṭhakiṇṇapakkhittā; nāḷikerādīnampi rasena katā surātveva saṅkhyaṃ gacchati , tassāyeva kiṇṇapakkhittāya maṇḍe gahite merayotveva saṅkhyaṃ gacchatīti vadanti. Antamaso kusaggenapi pivatīti etaṃ suraṃ vā merayaṃ vā bījato paṭṭhāya kusaggena pivatopi pācittiyanti attho. Ekena pana payogena bahumpi pivantassa ekā āpatti. Vicchinditvā vicchinditvā pivato payogagaṇanāya āpattiyo.
328. Rượu hoa là loại rượu được làm từ nước cốt của hoa thành ngạnh (madhuka) v.v. Rượu quả là loại rượu được làm bằng cách nghiền nát quả nho v.v. rồi lấy nước cốt của chúng. Rượu mật/rượu nho là loại rượu được làm từ nước cốt tự nhiên của quả nho; người ta nói rằng nó cũng được làm bằng mật ong. Rượu đường mật là loại rượu được làm từ nước mía v.v. Rượu là loại được làm bằng cách bỏ bột và men vào; rượu làm từ nước cốt dừa v.v. cũng được kể là rượu. Người ta nói rằng khi lấy phần nước cốt trong của chính loại rượu đã bỏ men đó, thì được kể là rượu mạnh (meraya). Uống dù chỉ bằng đầu ngọn cỏ kusa nghĩa là dù uống loại rượu thường hay rượu mạnh này bằng đầu ngọn cỏ kusa, bắt đầu từ (ý định làm cho có) mầm mống (say sưa), cũng phạm tội Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, nếu một người uống nhiều trong một lần, thì phạm một tội. Nếu uống nhiều lần cách khoảng, thì số tội phạm tùy theo số lần uống.

329.Amajjañca hoti majjavaṇṇaṃ majjagandhaṃ majjarasanti loṇasovīrakaṃ vā suttaṃ vā hoti. Sūpasampāketi vāsagāhāpanatthaṃ īsakaṃ majjaṃ pakkhipitvā sūpaṃ pacanti, tasmiṃ anāpatti. Maṃsasampākepi eseva nayo. Telaṃ pana vātabhesajjatthaṃ majjena saddhiṃ pacanti, tasmimpi anatikkhittamajjeyeva anāpatti, yaṃ pana atikkhittamajjaṃ hoti, ettha majjassa vaṇṇagandharasā paññāyanti, tasmiṃ āpattiyeva. Amajjaṃ ariṭṭhanti yo ariṭṭho majjaṃ na hoti, tasmiṃ anāpatti. Āmalakādīnaṃyeva kira rasena ariṭṭhaṃ karonti, so majjavaṇṇagandharasoyeva hoti, na ca majjaṃ; taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Yo pana sambhārapakkhitto, so majjaṃ hoti, bījato paṭṭhāya na vaṭṭati. Sesamettha uttānameva. Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ akusalacittaṃ, tivedananti. Vatthuajānanatāya cettha acittakatā veditabbā, akusaleneva pātabbatāya lokavajjatāti.
329. Không phải là chất say nhưng có màu sắc, mùi vị, hương vị của chất say nghĩa là đó là nước cháo gạo chua mặn hoặc dấm. Trong việc nêm nấu canh nghĩa là người ta nấu canh bằng cách cho một ít chất say vào để tạo mùi vị, trong trường hợp đó không phạm tội. Trong việc nêm nấu thịt cũng theo cách này. Còn nếu dầu được nấu chung với chất say để làm thuốc trị bệnh phong thấp, trong trường hợp đó cũng không phạm tội chỉ khi chất say không quá nhiều (không còn tính chất gây say). Nhưng nếu đó là một lượng chất say quá nhiều, mà màu sắc, mùi vị, hương vị của chất say còn nhận biết được, thì trong trường hợp đó phạm tội. Thuốc giải độc không phải là chất say nghĩa là loại thuốc giải độc nào không phải là chất say, thì dùng loại đó không phạm tội. Dường như người ta làm thuốc giải độc từ nước cốt của quả kha tử v.v.; nó có màu sắc, mùi vị, hương vị của chất say, nhưng không phải là chất say; điều này được nói đến là nhắm vào loại đó. Còn loại nào được làm bằng cách bỏ thêm các thành phần (gây lên men), thì đó trở thành chất say, không được phép dùng kể từ khi (bỏ) mầm mống (gây lên men). Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ lông cừu – là hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là lỗi thế gian; là nghiệp của thân; thuộc tâm bất thiện; thuộc ba cảm thọ. Và ở đây, (tính chất) không có tác ý được hiểu là do không biết vật đó (là chất say); (còn tính chất) là lỗi thế gian là vì (nếu biết mà vẫn cố uống thì) chỉ có thể uống với (tâm) bất thiện.

Surāpānasikkhāpadaṃ paṭhamaṃ.

Điều Học Về Việc Uống Rượu là thứ nhất.

2. Aṅgulipatodakasikkhāpadavaṇṇanā

2. Chú Giải Điều Học Về Việc Thọc Léc Bằng Ngón Tay

330. Dutiye – aṅgulipatodakenāti aṅgulīhi upakacchakādighaṭṭanaṃ vuccati. Uttasantoti atihāsena kilamanto. Anassāsakoti upacchinnaassāsapassāsasañcāro hutvā. Anupasampannaṃ kāyena kāyanti ettha bhikkhunīpi anupasampannaṭṭhāne ṭhitā, tampi khiḍḍādhippāyena phusantassa dukkaṭaṃ. Sesamettha uttānameva.
330. Trong điều học thứ hai – Bằng việc thọc léc bằng ngón tay được gọi là việc dùng ngón tay chạm vào nách v.v. Cười ngặt nghẽo nghĩa là mệt lả do cười quá nhiều. Nín thở nghĩa là sự lưu thông của hơi thở ra vào bị cắt đứt. Đối với người chưa thọ giới Cụ Túc, thân chạm thân: ở đây, ngay cả Tỳ khưu ni cũng được xem như người chưa thọ giới Cụ Túc; nếu chạm vào vị ấy với ý định nô đùa, cũng phạm tội Tác Ác. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Paṭhamapārājikasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, akusalacittaṃ, dvivedananti.
Phát sinh từ nguồn giống như tội Ba La Di thứ nhất – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, thuộc tâm bất thiện, thuộc hai cảm thọ.

Aṅgulipatodakasikkhāpadaṃ dutiyaṃ.

Điều Học Về Việc Thọc Léc Bằng Ngón Tay là thứ hai.

3. Hasadhammasikkhāpadavaṇṇanā

3. Chú Giải Điều Học Về Việc Đùa Giỡn

335. Tatiye – appakataññunoti yaṃ bhagavatā pakataṃ paññattaṃ, taṃ na jānantīti attho.
335. Trong điều học thứ ba – Những người không biết những gì đã được làm nghĩa là họ không biết những gì đã được Đức Thế Tôn thực hiện và quy định.

336.Udake hasadhammeti udakakīḷikā vuccati. Uparigopphaketi gopphakānaṃ uparibhāgappamāṇe. Hasādhippāyoti kīḷādhippāyo. Nimujjati vātiādīsu nimujjanatthāya orohantassa padavāre padavāre dukkaṭaṃ. Nimujjanummujjanesu payoge payoge pācittiyaṃ. Nimujjitvā antoudakeyeva gacchantassa hatthavārapadavāresu sabbattha pācittiyaṃ. Palavatīti tarati. Hatthehi tarantassa hatthavāre hatthavāre pācittiyaṃ. Pādesupi eseva nayo. Yena yena aṅgena tarati, tassa tassa payoge payoge pācittiyaṃ. Tīrato vā rukkhato vā udake patati, pācittiyameva. Nāvāya kīḷatīti phiyārittādīhi nāvaṃ pājento vā tīre ussārento vā nāvāya kīḷati, dukkaṭaṃ.
336. Đùa giỡn trong nước được gọi là trò chơi dưới nước. Trên mắt cá chân nghĩa là đến mức phần trên của mắt cá chân. Ý định đùa giỡn nghĩa là ý định chơi đùa. Lặn xuống v.v.: đối với người đi xuống với mục đích lặn, mỗi bước chân phạm tội Tác Ác. Trong việc lặn xuống và trồi lên, mỗi lần thực hiện phạm tội Ưng Đối Trị. Đối với người lặn xuống rồi di chuyển ở dưới nước, mỗi cử động của tay và chân đều phạm tội Ưng Đối Trị. Bơi nghĩa là lướt đi trên mặt nước. Đối với người bơi bằng tay, mỗi một quạt tay phạm tội Ưng Đối Trị. Đối với chân cũng theo cách này. Dùng bất kỳ bộ phận nào để bơi, mỗi lần cử động của bộ phận đó phạm tội Ưng Đối Trị. Nếu rơi xuống nước từ bờ hoặc từ trên cây, cũng phạm tội Ưng Đối Trị. Chơi đùa trên thuyền nghĩa là nếu chơi đùa trên thuyền bằng cách đẩy thuyền bằng mái chèo, bánh lái v.v., hoặc đẩy thuyền dọc theo bờ, thì phạm tội Tác Ác.

Hatthena vātiādīsupi payoge payoge dukkaṭaṃ. Keci hatthena udake khittāya kathalāya patanuppatanavāresu dukkaṭaṃ vadanti, taṃ na gahetabbaṃ. Tattha hi ekapayogattā ekameva dukkaṭaṃ, apica uparigopphake vuttāni ummujjanādīni ṭhapetvā aññena yena kenaci ākārena udakaṃ otaritvā vā anotaritvā vā yattha katthaci ṭhitaṃ udakaṃ antamaso binduṃ gahetvā khipanakīḷāyapi kīḷantassa dukkaṭameva, atthajotakaṃ pana akkharaṃ likhituṃ vaṭṭati, ayamettha vinicchayo. Sesamettha uttānameva.
Bằng tay v.v.: trong những trường hợp này, mỗi lần thực hiện cũng phạm tội Tác Ác. Một số vị nói rằng đối với mỗi lần rơi xuống và nảy lên của mảnh sành được ném xuống nước bằng tay, đều phạm tội Tác Ác; điều đó không nên chấp nhận. Vì ở đó, do là một lần thực hiện duy nhất nên chỉ phạm một tội Tác Ác. Hơn nữa, trừ việc lặn xuống trồi lên trên mắt cá chân đã nói, nếu chơi đùa bằng bất kỳ cách nào khác, dù xuống nước hay không xuống nước, dù lấy một giọt nước ở bất cứ đâu rồi chơi trò té nước, cũng đều phạm tội Tác Ác. Tuy nhiên, được phép viết chữ để diễn đạt ý nghĩa (ví dụ: viết trên bảng đá bằng nước); đây là quyết định ở đây. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Paṭhamapārājikasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, akusalacittaṃ, tivedananti.
Phát sinh từ nguồn giống như tội Ba La Di thứ nhất – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, thuộc tâm bất thiện, thuộc ba cảm thọ.

Hasadhammasikkhāpadaṃ tatiyaṃ.

Điều Học Về Việc Đùa Giỡn là thứ ba.

4. Anādariyasikkhāpadavaṇṇanā

4. Chú Giải Điều Học Về Sự Không Tôn Kính

342. Catutthe – kathāyaṃ nasseyyāti kathaṃ ayaṃ dhammo tanti paveṇī nasseyya. Taṃ vā na sikkhitukāmoti yena paññattena vuccati, taṃ paññattaṃ na sikkhitukāmo. Apaññattenāti sutte vā abhidhamme vā āgatena.
342. Trong điều học thứ tư – Làm sao (điều này) có thể mất đi? nghĩa là làm sao Pháp này, truyền thống kinh điển này có thể mất đi. Hoặc không muốn học điều đó nghĩa là không muốn học điều đã được quy định đó. Bằng điều không phải là quy định nghĩa là bằng những gì có trong Kinh hoặc Luận.

344.Evaṃamhākaṃ ācariyānaṃ uggahoti ettha gārayho ācariyuggaho na gahetabbo; paveṇiyā āgato ācariyuggahova gahetabbo. Kurundiyaṃ pana ‘‘lokavajje ācariyuggaho na vaṭṭati, paṇṇattivajje pana vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Mahāpaccariyaṃ ‘‘suttaṃ suttānulomañca uggahitakānaṃyeva ācariyānaṃ uggaho pamāṇaṃ, ajānantānaṃ kathā appamāṇanti vuttaṃ. Taṃ sabbaṃ paveṇiyā āgatesamodhānaṃ gacchati . Sesaṃ uttānamevāti.
344. Đây là sự học hỏi của các vị thầy của chúng tôi: ở đây, không nên theo sự học hỏi đáng chê trách của các vị thầy; chỉ nên theo sự học hỏi của các vị thầy đã được truyền lại theo truyền thống. Tuy nhiên, trong Chú giải Kurundī có nói: “Đối với lỗi thế gian, sự học hỏi của các vị thầy không có giá trị; nhưng đối với tội do quy định, thì có giá trị”. Trong Đại Chú Giải có nói: “Kinh và những gì phù hợp với Kinh, sự học hỏi của chỉ những vị thầy nào đã nắm vững những điều này mới là tiêu chuẩn; lời nói của những người không biết thì không phải là tiêu chuẩn”. Tất cả những điều đó đều phù hợp với những gì đã được truyền lại theo truyền thống. Phần còn lại đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
Phát sinh từ ba nguồn – phát sinh từ thân-tâm, từ lời-tâm, và từ thân-lời-tâm; là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc tâm bất thiện, thuộc cảm thọ khổ.

Anādariyasikkhāpadaṃ catutthaṃ.

Điều Học Về Sự Không Tôn Kính là thứ tư.

5. Bhiṃsāpanasikkhāpadavaṇṇanā

5. Chú Giải Điều Học Về Việc Hù Dọa

345. Pañcame – rūpūpahārādayo manussaviggahe vuttanayeneva veditabbā. Sesaṃ uttānameva. Samuṭṭhānādīni anādariyasadisānevāti.
345. Trong điều học thứ năm – Việc đưa ra các hình sắc v.v. phải được hiểu theo cách đã nói trong (điều học liên quan đến) hình nộm người. Phần còn lại đã rõ ràng. Các nguồn gốc phát sinh tội v.v. cũng tương tự như điều học về sự không tôn kính.

Bhiṃsāpanasikkhāpadaṃ pañcamaṃ.

Điều Học Về Việc Hù Dọa là thứ năm.

6. Jotisikkhāpadavaṇṇanā

6. Chú Giải Điều Học Về Lửa

350. Chaṭṭhe – bhaggāti janapadassa nāmaṃ. Saṃsumāragiranti nagarassa. Bhesakaḷāvananti tannissitavanassa. Taṃ pana migānaṃ phāsuvihāratthāya dinnattā migadāyoti vuccati. Samādahitvāti jāletvā. Paripātesīti anubandhi.
350. Trong điều học thứ sáu – Bhaggā là tên của một xứ. Saṃsumāragira là tên của một thành phố. Bhesakaḷāvana là tên của khu rừng thuộc thành phố đó. Nhưng vì khu rừng đó được dâng cúng để các loài thú được sống thoải mái, nên được gọi là Lộc Uyển (vườn nai/khu bảo tồn nai). Đốt lên nghĩa là nhóm lên. Đuổi theo nghĩa là rượt theo.

352.Padīpepīti padīpujjalanepi. Jotikepīti pattapacanasedakammādīsu jotikaraṇe. Tathārūpapaccayāti padīpādipaccayā.
352. Cả đối với đèn nghĩa là cả trong việc thắp đèn. Cả đối với lửa nghĩa là trong việc đốt lửa để nấu bát, xông thuốc, v.v. Do duyên cớ như vậy nghĩa là do duyên cớ như (cần) đèn, v.v.

354-5.Sayaṃ samādahatīti ettha jotiṃ samādahitukāmatāya araṇisaṇṭhapanato paṭṭhāya yāva jālā na uṭṭhahati, tāva sabbapayogesu dukkaṭaṃ. Paṭilātaṃ ukkhipatīti dayhamānaṃ alātaṃ patitaṃ ukkhipati, puna yathāṭhāne ṭhapetīti attho. Evaṃ avijjhātaṃ ukkhipitvā pakkhipantasseva dukkaṭaṃ, vijjhātaṃ puna jālāpentassa pācittiyameva.
354-5. Tự mình nhóm (lửa): ở đây, với ý muốn nhóm lửa, từ lúc chuẩn bị các que cọ xát để tạo lửa cho đến khi ngọn lửa chưa bùng lên, trong tất cả các cố gắng đều phạm tội Tác Ác. Nhặt đóm lửa bị rơi lên nghĩa là nhặt một que củi đang cháy bị rơi xuống, rồi đặt lại vào chỗ cũ. Như vậy, người nhặt một (que củi) chưa tắt lửa rồi đặt lại (vào bếp) thì phạm tội Tác Ác; người làm cho (que củi) đã tắt lửa bùng cháy trở lại thì phạm tội Ưng Đối Trị.

356.Tathārūpapaccayāti ṭhapetvā padīpādīni aññenapi tathārūpena paccayena samādahantassa anāpatti. Āpadāsūti duṭṭhavāḷamigaamanussehi upaddavo hoti, tattha samādahantassāpi anāpatti. Sesaṃ uttānamevāti. Chasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
356. Do duyên cớ như vậy nghĩa là ngoài (việc cần) đèn v.v., nếu người nào nhóm lửa do một duyên cớ tương tự khác, thì không phạm tội. Trong các trường hợp nguy hiểm nghĩa là nếu có sự nguy hiểm do thú dữ hung ác hoặc người xấu gây ra, người nhóm lửa trong trường hợp đó cũng không phạm tội. Phần còn lại đã rõ ràng. Phát sinh từ sáu nguồn – là hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Jotisikkhāpadaṃ chaṭṭhaṃ.

Điều Học Về Lửa là thứ sáu.

7. Nahānasikkhāpadavaṇṇanā

7. Chú Giải Điều Học Về Việc Tắm

364. Sattame – cuṇṇena vā mattikāya vāti ettha cuṇṇamattikānaṃ abhisaṅkharaṇakālato paṭṭhāya sabbapayogesu dukkaṭaṃ.
364. Trong điều học thứ bảy – Bằng bột thơm hay bằng đất sét: ở đây, từ lúc chuẩn bị bột thơm và đất sét, trong tất cả các hành vi (sử dụng chúng để tắm nhiều hơn mức cho phép) đều phạm tội Tác Ác.

366.Pāraṃ gacchanto nhāyatīti ettha sukkhāya nadiyā vālikaṃ ukkiritvā kataāvāṭakesupi nhāyituṃ vaṭṭati. Āpadāsūti bhamarādīhi anubaddhassa udake nimujjituṃ vaṭṭatīti. Sesamettha uttānameva. Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
366. Tắm trong khi đi sang bờ bên kia: ở đây, được phép tắm ngay cả trong những hố được đào bằng cách xúc cát ở lòng sông đã khô cạn. Trong các trường hợp nguy hiểm nghĩa là nếu bị ong vò vẽ v.v. đuổi theo, thì được phép dìm mình xuống nước. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ lông cừu – là hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Nahānasikkhāpadaṃ sattamaṃ.

Điều Học Về Việc Tắm là thứ bảy.

8. Dubbaṇṇakaraṇasikkhāpadavaṇṇanā

8. Chú Giải Điều Học Về Việc Làm Dấu Cho Y

368-9. Aṭṭhame – navaṃ pana bhikkhunā cīvaralābhenāti ettha alabhīti labho; labhoyeva lābho. Kiṃ alabhi? Cīvaraṃ. Kīdisaṃ? Navaṃ. Iti ‘‘navacīvaralābhenā’’ti vattabbe anunāsikalopaṃ akatvā ‘‘navacīvaralābhenā’’ti vuttaṃ; paṭiladdhanavacīvarenāti attho. Majjhe ṭhitapadadvaye panāti nipāto. Bhikkhunāti yena laddhaṃ tassa nidassanaṃ. Padabhājane pana byañjanaṃ anādiyitvā yaṃ laddhaṃ taṃ dassetuṃ ‘‘cīvaraṃ nāma channaṃ cīvarāna’’ntiādi vuttaṃ. Cīvaranti ettha yaṃ nivāsetuṃ vā pārupituṃ vā sakkā hoti, tadeva veditabbaṃ. Teneva ‘‘vikappanupagapacchima’’nti na vuttaṃ. Kaṃsanīlanti cammakāranīlaṃ. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘ayomalaṃ lohamalaṃ etaṃ kaṃsanīlaṃ nāmā’’ti vuttaṃ. Palāsanīlanti yo koci nīlavaṇṇo paṇṇaraso. Dubbaṇṇakaraṇaṃ ādātabbanti etaṃ kappabinduṃ sandhāya vuttaṃ; na nīlādīhi sakalacīvarassa dubbaṇṇakaraṇaṃ. Tañca pana kappaṃ ādiyantena cīvaraṃ rajitvā catūsu vā koṇesu tīsu vā dvīsu vā ekasmiṃ vā koṇe morassa akkhimaṇḍalamattaṃ vā maṅkulapiṭṭhimattaṃ vā ādātabbaṃ. Mahāpaccariyaṃ ‘‘patte vā gaṇṭhiyaṃ vā na vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘vaṭṭatiyevā’’ti vuttaṃ. Pāḷikappakaṇṇikakappādayo pana sabbattha paṭisiddhā, tasmā ṭhapetvā ekaṃ vaṭṭabinduṃ aññena kenacipi vikārena kappo na kātabbo.
368-9. Trong điều học thứ tám – Khi một Tỳ khưu nhận được y mới: ở đây, “nhận được” là sự nhận được; chính sự nhận được là sự nhận được. Nhận được cái gì? Y. Y như thế nào? Mới. Như vậy, đáng lẽ phải nói “do việc nhận được y mới”, thì lại nói “navacīvaralābhenā” mà không lược bỏ âm mũi; nghĩa là “với chiếc y mới vừa nhận được”. Trong hai từ đứng giữa, pana là một tiểu từ. Bởi Tỳ khưu là chỉ người đã nhận được. Nhưng trong phần phân tích từ ngữ, không xét đến hình thức chữ viết, để chỉ rõ vật đã nhận được, người ta nói: “Y có nghĩa là một trong sáu loại y” v.v. Y: ở đây, chỉ nên hiểu là loại y có thể dùng làm y nội hoặc y vai trái. Do đó, không nói “loại cuối cùng thích hợp để làm phép ủy thác”. Màu xanh đen/xanh thẫm nghĩa là màu xanh đen của thợ nhuộm da. Nhưng trong Đại Chú Giải có nói: “Gỉ sắt, gỉ kim loại, đó gọi là màu xanh đen/xanh thẫm”. Màu xanh lá cây nghĩa là bất kỳ loại nước cốt lá cây nào có màu xanh. Phải làm một dấu biến sắc: điều này được nói đến là nhắm vào dấu tròn cho hợp lệ; chứ không phải việc làm biến sắc toàn bộ chiếc y bằng màu xanh v.v. Và khi làm dấu hợp lệ đó, sau khi nhuộm y, phải làm một dấu bằng tròng mắt con công hoặc bằng lưng con rệp ở một, hai, ba, hoặc bốn góc y. Trong Đại Chú Giải có nói: “Không được phép làm dấu trên bát hoặc trên chỗ buộc”. Nhưng trong Đại Chú Giải Chính lại nói: “Quả thực là được phép”. Tuy nhiên, các kiểu làm dấu như chữ Pāḷi, hình tai v.v. đều bị cấm ở mọi nơi; do đó, ngoài một dấu chấm tròn, không được làm dấu hợp lệ bằng bất kỳ hình dạng nào khác.

371.Aggaḷetiādīsu etāni aggaḷādīni kappakatacīvare pacchā āropetvā kappakaraṇakiccaṃ natthi. Sesaṃ uttānameva. Eḷakalomasamuṭṭhānaṃ – kiriyākiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ; kāyakammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
371. Trên then cài cửa v.v.: không cần phải làm dấu hợp lệ bằng cách sau này gắn thêm những then cài cửa v.v. này vào chiếc y đã được làm dấu hợp lệ. Phần còn lại đã rõ ràng. Phát sinh từ lông cừu – là hành động và không hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Dubbaṇṇakaraṇasikkhāpadaṃ aṭṭhamaṃ.

Điều Học Về Việc Làm Dấu Cho Y là thứ tám.

9. Vikappanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Chú Giải Điều Học Về Phép Ủy Thác

374. Navame – tassa vā adinnanti cīvarasāmikassa ‘‘paribhuñja vā vissajjehi vā yathāpaccayaṃ vā karohī’’ti evaṃ vatvā adinnaṃ. Tassa vā avissasantoti yena vinayakammaṃ kataṃ, tassa avissāsena vā. Tena pana dinnaṃ vā tassa vissāsena vā paribhuñjantassa anāpatti. Sesamettha tiṃsakavaṇṇanāyaṃ vuttanayattā uttānamevāti. Kathinasamuṭṭhānaṃ – kāyavācato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyākiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
374. Trong điều học thứ chín – Hoặc không được người đó cho nghĩa là không được chủ nhân của chiếc y cho sau khi đã nói: “Hãy dùng, hoặc hãy xả bỏ, hoặc hãy làm tùy theo duyên”. Hoặc không tin tưởng người đó nghĩa là không tin tưởng người đã làm phép ủy thác theo Luật. Nhưng nếu người đó đã cho hoặc với sự tin tưởng người đó mà dùng, thì không phạm tội. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng vì theo cách đã nói trong phần chú giải về ba mươi điều Ưng Xả Đối Trị. Phát sinh từ Kathina – phát sinh từ thân-lời và từ thân-lời-tâm; là hành động và không hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Vikappanasikkhāpadaṃ navamaṃ.

Điều Học Về Phép Ủy Thác là thứ chín.

10. Cīvarāpanidhānasikkhāpadavaṇṇanā

10. Chú Giải Điều Học Về Việc Giấu Y

377-81. Dasame – apanidhentīti apanetvā nidhenti. Hasāpekkhoti hasādhippāyo. Aññaṃ parikkhāranti pāḷiyā anāgataṃ pattatthavikādiṃ. Dhammiṃ kathaṃ katvāti ‘‘samaṇena nāma anihitaparikkhārena bhavituṃ na vaṭṭatī’’ti evaṃ dhammakathaṃ kathetvā dassāmīti nikkhipato anāpatti. Sesamettha uttānameva. Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, tivedananti.
377-81. Trong điều học thứ mười – Họ giấu đi nghĩa là lấy đi rồi cất giấu. Mong muốn đùa giỡn nghĩa là có ý định đùa giỡn. Đồ dùng khác nghĩa là túi đựng bát v.v. không được nói đến trong Pāḷi. Sau khi nói một bài pháp nghĩa là nếu người nào cất vật đó với ý định sẽ đưa sau khi thuyết một bài pháp như: “Một Sa môn không nên không cất giữ đồ dùng của mình”, thì không phạm tội. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc tâm bất thiện, thuộc ba cảm thọ.

Cīvarāpanidhānasikkhāpadaṃ dasamaṃ.

Điều Học Về Việc Giấu Y là thứ mười.

Samatto vaṇṇanākkamena surāpānavaggo chaṭṭho.

Phẩm Về Việc Uống Rượu là thứ sáu, đã hoàn tất theo thứ tự giải thích.

7. Sappāṇakavaggo

7. Phẩm Về (Nước) Có Chúng Sinh

1. Sañciccapāṇasikkhāpadavaṇṇanā

1. Chú Giải Điều Học Về Việc Cố Ý (Giết) Chúng Sinh

382. Sappāṇakavaggassa paṭhamasikkhāpade – issāso hotīti gihikāle dhanuggahācariyo hoti. Jīvitā voropitāti jīvitā viyojitā.
382. Trong điều học đầu tiên của Phẩm Về (Nước) Có Chúng Sinh – Là một cung thủ nghĩa là khi còn là người tại gia, vị ấy là một thầy dạy bắn cung. Bị đoạt mạng sống nghĩa là bị tách lìa khỏi sự sống.

Sikkhāpadepi voropeyyāti viyojeyya. Yasmā pana vohāramattamevetaṃ; na hettha kiñci viyojite sīsālaṅkāre sīsaṃ viya jīvitā voropite pāṇepi jīvitaṃ nāma visuṃ tiṭṭhati, aññadatthu antaradhānameva gacchati , tasmā tamatthaṃ dassetuṃ padabhājane ‘‘jīvitindriyaṃ upacchindatī’’tiādi vuttaṃ. Imasmiñca sikkhāpade tiracchānagatoyeva ‘‘pāṇo’’ti veditabbo. Taṃ khuddakampi mahantampi mārentassa āpattinānākaraṇaṃ natthi. Mahante pana upakkamamahantattā akusalamahattaṃ hoti. Pāṇe pāṇasaññīti antamaso mañcapīṭhaṃ sodhento maṅgulabījakepi pāṇasaññī nikkāruṇikatāya taṃ bhindanto apaneti, pācittiyaṃ. Tasmā evarūpesu ṭhānesu kāruññaṃ upaṭṭhapetvā appamattena vattaṃ kātabbaṃ. Sesaṃ manussaviggahe vuttanayeneva veditabbaṃ saddhiṃ samuṭṭhānādīhīti.
Trong điều học này, đoạt mạng nghĩa là tách lìa. Nhưng vì đây chỉ là cách nói theo quy ước; vì ở đây, cũng như khi một đồ trang sức trên đầu bị tháo ra thì đầu không bị tháo rời, cũng vậy, khi một chúng sinh bị đoạt mạng sống, thì mạng sống không đứng riêng biệt để bị đoạt đi, mà nó chỉ biến mất; do đó, để chỉ rõ ý nghĩa này, trong phần phân tích từ ngữ có nói: “cắt đứt mạng căn” v.v. Và trong điều học này, “chúng sinh” chỉ nên hiểu là loài vật. Người giết nó, dù nhỏ hay lớn, không có sự khác biệt về tội. Nhưng đối với việc giết con vật lớn, do sự nỗ lực lớn hơn, nên bất thiện cũng lớn hơn. Biết là chúng sinh trong một chúng sinh nghĩa là ngay cả khi đang lau dọn giường ghế, nếu biết trứng rệp là chúng sinh, rồi do không có lòng từ bi mà nghiền nát và loại bỏ chúng, thì phạm tội Ưng Đối Trị. Do đó, trong những trường hợp như vậy, phải phát khởi lòng từ bi và hành động một cách cẩn trọng. Phần còn lại phải được hiểu theo cách đã nói trong điều học liên quan đến hình nộm người, cùng với các nguồn gốc phát sinh tội v.v.

Sañciccapāṇasikkhāpadaṃ paṭhamaṃ.

Điều Học Về Việc Cố Ý (Giết) Chúng Sinh là thứ nhất.

2. Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā

2. Chú Giải Điều Học Về (Nước) Có Chúng Sinh

387. Dutiye – sappāṇakanti ye pāṇakā paribhogena maranti, tehi pāṇakehi sappāṇakaṃ, tādisañhi jānaṃ paribhuñjato payoge payoge pācittiyaṃ. Pattapūrampi avicchinditvā ekapayogena pivato ekā āpatti. Tādisena udakena sāmisaṃ pattaṃ āviñchitvā dhovatopi tādise udake uṇhayāgupattaṃ nibbāpayatopi taṃ udakaṃ hatthena vā uḷuṅkena vā gahetvā nhāyatopi payoge payoge pācittiyaṃ. Udakasoṇḍiṃ vā pokkharaṇiṃ vā pavisitvā bahinikkhamanatthāya vīciṃ uṭṭhāpayatopi. Soṇḍiṃ vā pokkharaṇiṃ vā sodhentehi tato gahitaudakaṃ udakeyeva āsiñcitabbaṃ. Samīpamhi udake asati kappiyaudakassa aṭṭha vā dasa vā ghaṭe udakasaṇṭhānakappadese āsiñcitvā tattha āsiñcitabbaṃ. ‘‘Pavaṭṭitvā udake patissatī’’ti uṇhapāsāṇe udakaṃ nāsiñcitabbaṃ. Kappiyaudakena pana pāsāṇaṃ nibbāpetvā āsiñcituṃ vaṭṭati. Sesamettha uttānameva.
387. Trong điều học thứ hai – Có chúng sinh nghĩa là nước có những chúng sinh mà khi dùng nước đó chúng sẽ chết; nếu biết như vậy mà dùng, mỗi lần dùng phạm tội Ưng Đối Trị. Ngay cả khi uống một bát đầy trong một lần không gián đoạn, cũng phạm một tội. Dùng nước như vậy để tráng rửa bát còn dính thức ăn, hoặc làm nguội bát cháo nóng trong nước như vậy, hoặc lấy nước đó bằng tay hay bằng gàu rồi tắm, mỗi lần thực hiện phạm tội Ưng Đối Trị. Ngay cả khi vào máng nước hoặc ao hồ rồi làm gợn sóng để đi ra. Những người dọn dẹp máng nước hoặc ao hồ, nước lấy từ đó phải được đổ lại vào nước. Nếu gần đó không có nước, sau khi đổ tám hoặc mười ghè nước hợp lệ vào một chỗ trũng có thể chứa nước một cách hợp lệ, thì nước có chúng sinh phải được đổ vào đó. Không được đổ nước lên đá nóng với ý nghĩ “nó sẽ chảy đi rồi rơi vào nước”. Nhưng được phép làm nguội đá bằng nước hợp lệ rồi mới đổ nước có chúng sinh. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ,

Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là tội do quy định, là nghiệp của thân,

Vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti. Ettha ca paṭaṅgapāṇakānaṃ patanaṃ ñatvāpi suddhacittatāya dīpajālane viya sappāṇakabhāvaṃ ñatvāpi udakasaññāya paribhuñjitabbato paṇṇattivajjatā veditabbāti.
nghiệp của lời, thuộc ba tâm, thuộc ba cảm thọ. Và ở đây, cũng như trong việc thắp đèn với tâm trong sạch dù biết rằng các con thiêu thân sẽ lao vào, thì ở đây cũng vậy, tính chất là tội do quy định phải được hiểu là do sử dụng với tâm niệm đó là nước, dù biết rằng có chúng sinh trong đó.

Sappāṇakasikkhāpadaṃ dutiyaṃ.

Điều Học Về (Nước) Có Chúng Sinh là thứ hai.

3. Ukkoṭanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Chú Giải Điều Học Về Việc Lật Lại (Vấn Đề Đã Giải Quyết)

392. Tatiyasikkhāpade – ukkoṭentīti tassa tassa bhikkhuno santikaṃ gantvā ‘‘akataṃ kamma’’ntiādīni vadantā uccālenti; yathāpatiṭṭhitabhāvena patiṭṭhātuṃ na denti.
392. Trong điều học thứ ba – Họ lật lại nghĩa là đi đến Tỳ khưu này, Tỳ khưu nọ rồi xúi giục bằng cách nói: “Việc đó làm không đúng” v.v.; họ không để cho việc đó được ổn định như đã được thiết lập.

393.Yathādhammanti yo yassa adhikaraṇassa vūpasamanāya dhammo vutto, teneva dhammenāti attho. Nihatādhikaraṇanti nihataṃ adhikaraṇaṃ; satthārā vuttadhammeneva vūpasamitaṃ adhikaraṇanti attho.
393. Đúng Pháp nghĩa là bằng chính Pháp nào đã được tuyên bố để giải quyết một vụ tranh chấp nào đó. Vụ tranh chấp đã được giải quyết nghĩa là một vụ tranh chấp đã được dập tắt; nghĩa là một vụ tranh chấp đã được giải quyết bằng chính Pháp do bậc Đạo Sư đã dạy.

395.Dhammakamme dhammakammasaññīti yena kammena taṃ adhikaraṇaṃ vūpasamitaṃ, tañce dhammakammaṃ hoti, tasmiṃ dhammakamme ayampi dhammakammasaññī hutvā yadi ukkoṭeti, pācittiyaṃ āpajjatīti attho. Etena nayena sesapadānipi veditabbāni. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana ‘‘imesaṃ catunnaṃ adhikaraṇānaṃ kati ukkoṭanā’’tiādinā nayena parivāre vutto. Aṭṭhakathāsu taṃ sabbaṃ āharitvā tassevattho vaṇṇito. Mayaṃ pana taṃ tattheva vaṇṇayissāma. Idha āharitvā vaṇṇiyamāne hi suṭṭhutaraṃ sammoho bhaveyyāti na vaṇṇayimha. Sesamettha uttānameva. Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
395. Biết đó là một hành sự đúng Pháp trong một hành sự đúng Pháp nghĩa là nếu vụ tranh chấp đó đã được giải quyết bằng một hành sự nào đó, và nếu đó là một hành sự đúng Pháp, và nếu vị này, biết hành sự đúng Pháp đó là như vậy, mà lại lật lại, thì phạm tội Ưng Đối Trị. Theo cách này, các thuật ngữ khác cũng phải được hiểu như vậy. Đây là phần tóm tắt ở đây, còn phần chi tiết thì đã được nói trong tập Yếu Luật theo phương pháp bắt đầu bằng: “Đối với bốn loại tranh chấp này, có bao nhiêu cách lật lại?” v.v. Trong các sách Chú Giải, tất cả những điều đó đã được dẫn ra và ý nghĩa của nó đã được giải thích. Nhưng chúng tôi sẽ giải thích điều đó ở chính nơi đó. Vì nếu mang ra đây giải thích thì sẽ càng thêm rối rắm, nên chúng tôi đã không giải thích. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc tâm bất thiện, thuộc cảm thọ khổ.

Ukkoṭanasikkhāpadaṃ tatiyaṃ.

Điều Học Về Việc Lật Lại (Vấn Đề Đã Giải Quyết) là thứ ba.

4. Duṭṭhullasikkhāpadavaṇṇanā

4. Chú Giải Điều Học Về Tội Nặng

399. Catutthe – duṭṭhullā nāma āpattīti ettha cattāri pārājikāni atthuddhāravasena dassitāni, saṅghādisesāpatti pana adhippetā, taṃ chādentassa pācittiyaṃ. Dhuraṃ nikkhittamatteti dhure nikkhittamatte. Sacepi dhuraṃ nikkhipitvā pacchā āroceti, na rakkhati; dhuraṃ nikkhittamatteyeva pācittiyanti vuttaṃ hoti. Sace pana evaṃ dhuraṃ nikkhipitvā paṭicchādanatthameva aññassa āroceti, sopi aññassāti etenupāyena samaṇasatampi samaṇasahassampi āpattiṃ āpajjatiyeva tāva, yāva koṭi na chijjati. Kadā pana koṭi chijjatīti? Mahāsumatthero tāva vadati – ‘‘āpattiṃ āpanno ekassa āroceti, so paṭinivattitvā tasseva āroceti; evaṃ koṭi chijjatī’’ti. Mahāpadumatthero panāha – ‘‘ayañhi vatthupuggaloyeva. Āpattiṃ āpanno pana ekassa bhikkhuno āroceti, ayaṃ aññassa āroceti, so paṭinivattitvā yenassa ārocitaṃ, tasseva āroceti; evaṃ tatiyena puggalena dutiyassa ārocite koṭi chinnā hotī’’ti.
399. Trong điều học thứ tư – Tội nặng: ở đây, bốn tội Ba La Di được chỉ ra bằng cách nêu bật bản chất của chúng, nhưng ý muốn nói đến tội Tăng Tàn; người che giấu tội đó thì phạm tội Ưng Đối Trị. Ngay khi vừa đặt gánh nặng xuống nghĩa là ngay khi vừa từ bỏ trách nhiệm. Dù đặt gánh nặng xuống rồi sau đó mới thông báo, cũng không cứu được; ý nói rằng phạm tội Ưng Đối Trị ngay khi vừa đặt gánh nặng xuống. Nhưng nếu sau khi đặt gánh nặng xuống như vậy, lại thông báo cho người khác chỉ với mục đích che giấu, rồi người đó lại thông báo cho người khác nữa, bằng cách đó, dù một trăm hay một ngàn Sa môn cũng đều phạm tội, cho đến khi chuỗi liên hệ chưa bị cắt đứt. Vậy khi nào chuỗi liên hệ bị cắt đứt? Trưởng lão Đại Sumatta thì nói: “Người phạm tội thông báo cho một người, người đó quay lại thông báo cho chính người ấy; như vậy chuỗi liên hệ bị cắt đứt”. Nhưng Trưởng lão Đại Paduma lại nói: “Điều này quả thực liên quan đến cá nhân trong sự việc đó. Người phạm tội thông báo cho một Tỳ khưu, vị này thông báo cho người khác, người đó quay lại thông báo cho chính người đã thông báo cho mình; như vậy, khi người thứ ba thông báo cho người thứ hai, thì chuỗi liên hệ đã bị cắt đứt”.

400.Aduṭṭhullaṃ āpattinti avasese pañcāpattikkhandhe. Anupasampannassa duṭṭhullaṃ vā aduṭṭhullaṃ vā ajjhācāranti ettha anupasampannassa sukkavissaṭṭhi ca kāyasaṃsaggo cāti ayaṃ duṭṭhullaajjhācāro nāma. Sesamettha uttānamevāti. Dhuranikkhepasamuṭṭhānaṃ – kāyavācācittato samuṭṭhāti, akiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ , dukkhavedananti.
400. Tội không nặng nghĩa là năm nhóm tội còn lại. Sự vi phạm nặng hay không nặng của người chưa thọ giới Cụ Túc: ở đây, đối với người chưa thọ giới Cụ Túc, việc xuất tinh và việc thân thể tiếp xúc là sự vi phạm nặng. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ việc đặt gánh nặng xuống – phát sinh từ thân-lời-tâm; là không hành động; là sự giải thoát qua tưởng; có tác ý; là lỗi thế gian; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc tâm bất thiện; thuộc cảm thọ khổ.

Duṭṭhullasikkhāpadaṃ catutthaṃ.

Điều Học Về Tội Nặng là thứ tư.

5. Ūnavīsativassasikkhāpadavaṇṇanā

5. Chú Giải Điều Học Về (Việc Thọ Giới Cho Người) Dưới Hai Mươi Tuổi

402. Pañcamasikkhāpade – aṅguliyo dukkhā bhavissantīti akkharāni likhantassa aṅguliyo dukkhā bhavissantīti cintesuṃ. Urassa dukkhoti gaṇanaṃ sikkhantena bahuṃ cintetabbaṃ hoti, tenassa uro dukkho bhavissatīti maññiṃsu. Akkhīni dukkhā bhavissantīti rūpasuttaṃ sikkhantena kahāpaṇā parivattetvā parivattetvā passitabbā honti, tenassa akkhīni dukkhāni bhavissantīti maññiṃsu. Ḍaṃsādīsu ḍaṃsāti piṅgalamakkhikāyo. Dukkhānanti dukkhamānaṃ. Tibbānanti bahalānaṃ. Kharānanti tikhiṇānaṃ. Kaṭukānanti pharusānaṃ; amanāpatāya vā kaṭukarasasadisānaṃ. Asātānanti amadhurānaṃ. Pāṇaharānanti jīvitaharānaṃ.
402. Trong điều học thứ năm – Các ngón tay sẽ bị đau: họ nghĩ rằng các ngón tay của người viết chữ sẽ bị đau. Ngực bị đau: họ cho rằng người học tính toán phải suy nghĩ nhiều, do đó ngực của người ấy sẽ bị đau. Mắt sẽ bị đau: họ cho rằng người học về các hình dạng tiền tệ phải lật qua lật lại các đồng tiền để xem xét, do đó mắt của người ấy sẽ bị đau. Trong các loại (côn trùng gây hại) như ruồi trâu v.v. – ruồi trâu là những con ruồi vàng. Gây đau đớn nghĩa là làm cho đau khổ. Dữ dội nghĩa là nhiều, dày đặc. Gay gắt nghĩa là sắc bén. Khó chịu nghĩa là thô kệch; hoặc có vị khó chịu tương tự như vị đắng cay do không vừa ý. Không ngọt ngào nghĩa là không êm dịu. Đoạt mạng nghĩa là lấy đi sự sống.

404.Sīmaṃ sammannatīti navaṃ sīmaṃ bandhati. Kurundiyaṃ pana udakukkhepaparicchindanepi dukkaṭaṃ vuttaṃ. Paripuṇṇavīsativassoti paṭisandhiggahaṇato paṭṭhāya paripuṇṇavīsativasso; gabbhavīsopi hi paripuṇṇavīsativassotveva saṅkhye gacchati . Yathāha –
404. Kiết giới nghĩa là thiết lập một giới trường mới. Tuy nhiên, trong Chú giải Kurundī có nói rằng ngay cả việc xác định ranh giới bằng cách tung nước cũng phạm tội Tác Ác. Người đủ hai mươi tuổi nghĩa là người đã đủ hai mươi tuổi kể từ lúc thọ thai; vì người đã ở trong bụng mẹ hai mươi năm (tính cả thời gian mang thai để đủ tuổi) cũng được kể là người đủ hai mươi tuổi. Như có lời dạy:

‘‘Tena kho pana samayena āyasmā kumārakassapo gabbhavīso upasampanno hoti. Atha kho āyasmato kumārakassapassa etadahosi – ‘bhagavatā paññattaṃ, na ūnavīsativasso puggalo upasampādetabboti. Ahañcamhi gabbhavīso upasampanno. Upasampanno nukhomhi, nanu kho upasampanno’ti. Bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ. Yaṃ bhikkhave mātukucchimhi paṭhamaṃ cittaṃ uppannaṃ, paṭhamaṃ viññāṇaṃ pātubhūtaṃ tadupādāya sāvassa jāti. Anujānāmi, bhikkhave, gabbhavīsaṃ upasampādetu’’nti (mahāva. 124).
“Khi ấy, Đại đức Kumārakassapa đã thọ giới Cụ Túc khi tính cả tuổi trong thai mẹ là hai mươi. Bấy giờ, Đại đức Kumārakassapa khởi lên ý nghĩ: ‘Đức Thế Tôn đã quy định rằng không được thọ giới Cụ Túc cho người dưới hai mươi tuổi. Còn ta thì đã thọ giới Cụ Túc khi tính cả tuổi trong thai mẹ là hai mươi. Vậy ta đã thọ giới Cụ Túc hay chưa thọ giới Cụ Túc?’ (Các Tỳ khưu) đã trình bày việc này lên Đức Thế Tôn. (Đức Thế Tôn dạy): ‘Này các Tỳ khưu, tâm đầu tiên khởi lên trong bụng mẹ, thức đầu tiên xuất hiện, kể từ đó là đời sống của người ấy. Này các Tỳ khưu, Ta cho phép thọ giới Cụ Túc cho người đã đủ hai mươi tuổi tính cả thời gian trong thai mẹ.’” (mahāva. 124).

Tattha yo dvādasamāse mātukucchismiṃ vasitvā mahāpavāraṇāya jāto, so tato paṭṭhāya yāva ekūnavīsatime vasse mahāpavāraṇā, taṃ atikkamitvā pāṭipade upasampādetabbo. Etenupāyena hāyanavaḍḍhanaṃ veditabbaṃ.
Trong đó, người nào đã ở trong bụng mẹ mười hai tháng rồi sinh ra vào ngày Đại Tự Tứ, thì kể từ đó cho đến ngày Đại Tự Tứ của năm thứ mười chín, sau khi qua ngày đó, vào ngày đầu tiên của tháng kế tiếp thì được phép cho thọ giới Cụ Túc. Theo phương cách này mà biết sự tăng giảm của năm.

Porāṇakattherā pana ekūnavīsativassaṃ sāmaṇeraṃ nikkhamanīyapuṇṇamāsiṃ atikkamma pāṭipadadivase upasampādenti, taṃ kasmāti? Vuccate – ekasmiṃ vasse cha cātuddasikauposathā honti. Iti vīsatiyā vassesu cattāro māsā parihāyanti. Rājāno tatiye tatiye vasse vassaṃ ukkaḍḍhanti. Iti aṭṭhārasasu vassesu cha māsā vaḍḍhanti, tato uposathavasena parihīne cattāro māse apanetvā dve māsā avasesā honti, te dve māse gahetvā vīsativassāni paripuṇṇāni hontīti nikkaṅkhā hutvā nikkhamanīyapuṇṇamāsiṃ atikkamma pāṭipade upasampādenti. Ettha pana yo pavāretvā vīsativasso bhavissati, taṃ sandhāya ‘‘ekūnavīsativassa’’nti vuttaṃ. Tasmā yo mātukucchismiṃ dvādasamāse vasi, so ekavīsativasso hoti. Yo sattamāse vasi, so sattamāsādhikavīsativasso. Chamāsajāto pana na jīvati.
Tuy nhiên, các vị Trưởng lão xưa thường cho Sa di mười chín tuổi thọ giới Cụ Túc vào ngày đầu tháng sau khi đã qua ngày rằm Xuất Gia Niệm Xứ (ngày rằm tháng Āsāḷha hoặc Kattika tùy theo truyền thống). Tại sao lại như vậy? Xin thưa – trong một năm có sáu ngày Bố tát nhằm ngày mười bốn. Như vậy, trong hai mươi năm sẽ thiếu mất bốn tháng. Các vị vua cứ mỗi ba năm lại thêm một tháng nhuận. Như vậy, trong mười tám năm sẽ tăng thêm sáu tháng. Từ đó, trừ đi bốn tháng đã bị thiếu do các ngày Bố tát, còn lại hai tháng. Lấy hai tháng đó cộng vào thì đủ hai mươi năm, do đó, các ngài không còn nghi ngờ gì nữa mà cho thọ giới Cụ Túc vào ngày đầu tháng sau khi đã qua ngày rằm Xuất Gia Niệm Xứ. Tuy nhiên, ở đây, khi nói “mười chín tuổi” là nhắm đến người nào sau khi Tự tứ sẽ đủ hai mươi tuổi. Do đó, người nào đã ở trong bụng mẹ mười hai tháng, thì (khi sinh ra) là một tuổi (theo cách tính này để đủ hai mươi). Người nào ở (trong bụng mẹ) bảy tháng, thì là hai mươi tuổi bảy tháng (khi thọ giới). Còn người sinh sáu tháng thì không sống được.

406.Anāpatti ūnavīsativassaṃ paripuṇṇavīsativassasaññīti ettha kiñcāpi upasampādentassa anāpatti, puggalo pana anupasampannova hoti. Sace pana so dasavassaccayena aññaṃ upasampādeti, tañce muñcitvā gaṇo pūrati, sūpasampanno. Sopi ca yāva na jānāti, tāvassa neva saggantarāyo na mokkhantarāyo, ñatvā pana puna upasampajjitabbaṃ. Sesaṃ uttānameva.
406. Không phạm tội khi (cho thọ giới) người dưới hai mươi tuổi mà tưởng là đã đủ hai mươi tuổi: ở đây, dù người cho thọ giới không phạm tội, nhưng cá nhân đó vẫn chưa phải là người đã thọ giới Cụ Túc. Tuy nhiên, nếu sau mười năm, người đó lại cho người khác thọ giới, và nếu không kể người đó mà Tăng số vẫn đủ, thì người được thọ giới sau là đã thọ giới Cụ Túc hợp lệ. Và cả người (thọ giới dưới tuổi) đó, cho đến khi chưa biết (sự thật), thì cũng không bị ngăn cản đường lên cõi trời hay đường giải thoát. Nhưng sau khi biết, phải thọ giới Cụ Túc lại. Phần còn lại đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ,

Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là tội do quy định, là nghiệp của thân,

Vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
nghiệp của lời, thuộc ba tâm, thuộc ba cảm thọ.

Ūnavīsativassasikkhāpadaṃ pañcamaṃ.

Điều Học Về (Việc Thọ Giới Cho Người) Dưới Hai Mươi Tuổi là thứ năm.

6. Theyyasatthasikkhāpadavaṇṇanā

6. Chú Giải Điều Học Về Đoàn Lữ Hành Trộm Cắp

407. Chaṭṭhe – paṭiyālokanti sūriyālokassa paṭimukhaṃ; pacchimadisanti attho. Kammiyāti suṅkaṭṭhāne kammikā.
407. Trong điều học thứ sáu – Ngược hướng mặt trời nghĩa là đối diện với ánh sáng mặt trời; nghĩa là hướng Tây. Những người làm việc nghĩa là những nhân viên ở trạm thuế.

409.Rājānaṃ vā theyyaṃ gacchantīti rājānaṃ vā thenetvā vañcetvā rañño santakaṃ kiñci gahetvā idāni na tassa dassāmāti gacchanti.
409. Hoặc đi trộm cắp của vua nghĩa là hoặc đã trộm cắp, lừa gạt vua, lấy một thứ gì đó của vua rồi bỏ đi với ý định không trả lại cho vua nữa.

411.Visaṅketenāti kālavisaṅketena divasavisaṅketena ca gacchato anāpatti. Maggavisaṅketena pana aṭavivisaṅketena vā āpattiyeva. Sesamettha bhikkhunivagge vuttanayattā uttānatthameva. Theyyasatthasamuṭṭhānaṃ – kāyacittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
411. Do nhầm lẫn: nếu đi do nhầm lẫn về thời gian hoặc nhầm lẫn về ngày thì không phạm tội. Nhưng nếu nhầm lẫn về đường đi hoặc nhầm lẫn về vùng rừng núi (mà đoàn đi qua) thì phạm tội. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng vì theo cách đã nói trong Phẩm Về Tỳ Khưu Ni. Phát sinh từ việc đi cùng đoàn lữ hành trộm cắp – phát sinh từ thân-tâm và từ thân-lời-tâm; là hành động; là sự giải thoát qua tưởng; có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Theyyasatthasikkhāpadaṃ chaṭṭhaṃ.

Điều Học Về Đoàn Lữ Hành Trộm Cắp là thứ sáu.

7. Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā

7. Chú Giải Điều Học Về Việc Hẹn Ước

412. Sattame – padhūpento nisīdīti pajjhāyanto attānaṃyeva paribhāsanto nisīdi. Nāyyo so bhikkhu maṃ nippātesīti ayyo ayaṃ bhikkhu maṃ na nikkhāmesi; na maṃ gahetvā agamāsīti attho. Sesamettha bhikkhuniyā saddhiṃ saṃvidhānasikkhāpade vuttanayeneva veditabbaṃ saddhiṃ samuṭṭhānādīhīti.
412. Trong điều học thứ bảy – Ngồi bực bội nghĩa là ngồi bực tức, tự trách mình. Vị Tỳ khưu khả kính đó đã không tiễn tôi nghĩa là vị Tỳ khưu khả kính này đã không đưa tôi ra khỏi (nơi hẹn); nghĩa là đã không đi cùng tôi. Phần còn lại ở đây phải được hiểu theo cách đã nói trong điều học về việc hẹn ước cùng Tỳ khưu ni, cùng với các nguồn gốc phát sinh tội v.v.

Saṃvidhānasikkhāpadaṃ sattamaṃ.

Điều Học Về Việc Hẹn Ước là thứ bảy.

8. Ariṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā

8. Chú Giải Điều Học Về Tỳ Khưu Ariṭṭha

417. Aṭṭhame – gaddhe bādhayiṃsūti gaddhabādhino; gaddhabādhino pubbapurisā assāti gaddhabādhipubbo, tassa gaddhabādhipubbassa gijjhaghātakakulappasutassāti attho.
417. Trong điều học thứ tám – Họ làm hại/bẫy những con kên kên nên gọi là những người bẫy kên kên; có tổ tiên là những người bẫy kên kên nên gọi là người có tổ tiên bẫy kên kên; nghĩa là người xuất thân từ dòng dõi chuyên giết kên kên của vị tổ tiên bẫy kên kên đó.

Saggamokkhānaṃ antarāyaṃ karontīti antarāyikā. Te kammakilesavipākaupavādaāṇāvītikkamavasena pañcavidhā. Tattha pañcānantariyakammā kammantarāyikā nāma. Tathā bhikkhunīdūsakakammaṃ, taṃ pana mokkhasseva antarāyaṃ karoti, na saggassa. Niyatamicchādiṭṭhidhammā kilesantarāyikā nāma. Paṇḍakatiracchānagataubhatobyañjanakānaṃ paṭisandhidhammā vipākantarāyikā nāma. Ariyūpavādā upavādantarāyikā nāma, te pana yāva ariye na khamāpenti tāvadeva, na tato paraṃ. Sañcicca āpannā āpattiyo āṇāvītikkamantarāyikā nāma, tāpi yāva bhikkhubhāvaṃ vā paṭijānāti, na vuṭṭhāti vā na deseti vā tāvadeva, na tato paraṃ.
Những gì gây trở ngại cho (việc tái sinh lên) cõi trời và (việc chứng đắc) giải thoát được gọi là những điều gây trở ngại. Chúng có năm loại dựa trên nghiệp, phiền não, quả báo, sự phỉ báng, và sự vi phạm mệnh lệnh. Trong đó, năm nghiệp vô gián được gọi là những điều gây trở ngại do nghiệp. Tương tự, nghiệp làm hại Tỳ khưu ni, nhưng nghiệp đó chỉ gây trở ngại cho giải thoát, không gây trở ngại cho cõi trời. Những pháp thuộc tà kiến cố định được gọi là những điều gây trở ngại do phiền não. Những pháp liên quan đến sự tái sanh của người ái nam ái nữ, loài vật, và người có cả hai giới tính được gọi là những điều gây trở ngại do quả báo. Sự phỉ báng các bậc Thánh được gọi là những điều gây trở ngại do phỉ báng, nhưng chúng (chỉ gây trở ngại) cho đến khi chưa xin lỗi các bậc Thánh, không phải sau đó. Những tội cố ý phạm phải được gọi là những điều gây trở ngại do vi phạm mệnh lệnh, những tội đó cũng (chỉ gây trở ngại) cho đến khi còn thừa nhận thân phận Tỳ khưu, hoặc chưa từ bỏ (tà kiến), hoặc chưa sám hối, không phải sau đó.

Tatrāyaṃ bhikkhu bahussuto dhammakathiko sesantarāyike jānāti, vinaye pana akovidattā paṇṇattivītikkamantarāyike na jānāti, tasmā rahogato evaṃ cintesi – ‘‘ime āgārikā pañca kāmaguṇe paribhuñjantā sotāpannāpi sakadāgāminopi anāgāminopi honti, bhikkhūpi manāpikāni cakkhuviññeyyāni rūpāni passanti…pe… kāyaviññeyye phoṭṭhabbe phusanti, mudukāni attharaṇapāvuraṇādīni paribhuñjanti, etaṃ sabbaṃ vaṭṭati. Kasmā itthirūpā…pe… itthiphoṭṭhabbā eva na vaṭṭanti, etepi vaṭṭantī’’ti. Evaṃ rasena rasaṃ saṃsanditvā sacchandarāgaparibhogañca nicchandarāgaparibhogañca ekaṃ katvā thūlavākehi saddhiṃ atisukhumasuttaṃ ghaṭento viya sāsapena saddhiṃ sineruṃ upasaṃharanto viya pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppādetvā ‘‘kiṃ bhagavatā mahāsamuddaṃ bandhantena viya mahatā ussāhena paṭhamapārājikaṃ paññattaṃ, natthi ettha doso’’ti sabbaññutaññāṇena saddhiṃ paṭivirujjhanto bhabbapuggalānaṃ āsaṃ chindanto jinassa āṇācakke pahāramadāsi. Tenāha – ‘‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī’’tiādi.
Trong trường hợp này, Tỳ khưu này (Ariṭṭha) là người đa văn, một vị giảng sư, biết rõ các điều gây trở ngại khác, nhưng do không rành về Luật nên không biết những điều gây trở ngại do vi phạm điều luật đã quy định. Do đó, khi ở một mình, vị ấy đã suy nghĩ như sau: “Những người tại gia này hưởng thụ năm dục công đức mà vẫn có thể là bậc Dự Lưu, bậc Nhất Lai, bậc Bất Lai. Các Tỳ khưu cũng thấy những sắc do mắt nhận biết đẹp đẽ… (vân vân)… chạm vào những xúc chạm do thân nhận biết, dùng những vật trải giường, khăn đắp mềm mại v.v., tất cả những điều đó đều được phép. Tại sao hình sắc của người nữ… (vân vân)… xúc chạm của người nữ lại không được phép? Những điều đó cũng phải được phép chứ”. Cứ như vậy, so sánh vị này với vị kia, gộp chung sự hưởng thụ có tham ái tự do với sự hưởng thụ không có tham ái tự do làm một, giống như người cố gắng nối sợi chỉ thô với sợi chỉ cực mịn, hay như người cố đặt hạt cải ngang hàng với núi Tu Di, vị ấy đã phát sinh tà kiến xấu xa rồi nghĩ rằng: “Cớ gì Đức Thế Tôn, với sự nỗ lực to lớn như thể ngăn biển lớn, lại quy định tội Ba La Di thứ nhất? Ở đây chẳng có lỗi gì cả”, rồi chống đối lại trí tuệ toàn giác (của Đức Phật), cắt đứt hy vọng của những người có khả năng (tu chứng), và tấn công vào vòng quay mệnh lệnh của bậc Chiến Thắng. Do đó, vị ấy đã nói: “Tôi hiểu Pháp do Đức Thế Tôn thuyết giảng như thế này” v.v.

Aṭṭhikaṅkalūpamātiādimhi aṭṭhikaṅkalūpamā appassādaṭṭhena. Maṃsapesūpamā bahusādhāraṇaṭṭhena. Tiṇukkūpamā anudahanaṭṭhena. Aṅgārakāsūpamā mahābhitāpanaṭṭhena. Supinakūpamā ittarapaccupaṭṭhānaṭṭhena. Yācitakūpamā tāvakālikaṭṭhena. Rukkhaphalūpamā sabbaṅgapaccaṅgapalibhañjanaṭṭhena. Asisūnūpamā adhikuṭṭanaṭṭhena. Sattisūlūpamā vinivijjhanaṭṭhena. Sappasirūpamā sāsaṅkasappaṭibhayaṭṭhenāti ayamettha saṅkhepo. Vitthāro pana papañcasūdaniyaṃ majjhimaṭṭhakathāyaṃ (ma. ni. 1.234 ādayo; 2.42 ādayo) gahetabbo. Evaṃ byākhoti evaṃ viya kho. Sesamettha pubbe vuttanayattā uttānameva.
Ví như bộ xương khô v.v.: trong đó, ví như bộ xương khô là vì ý nghĩa ít thỏa mãn. Ví như miếng thịt là vì ý nghĩa có nhiều người cùng tranh giành. Ví như bó đuốc cỏ là vì ý nghĩa thiêu đốt (người cầm). Ví như hầm than lửa là vì ý nghĩa gây thống khổ lớn. Ví như giấc mộng là vì ý nghĩa hiện hữu ngắn ngủi. Ví như đồ đi mượn là vì ý nghĩa chỉ dùng được tạm thời. Ví như quả trên cây là vì ý nghĩa làm tổn hại tất cả các chi phần lớn nhỏ. Ví như thớt của người đồ tể là vì ý nghĩa bị chặt băm nhiều. Ví như giáo và cọc nhọn là vì ý nghĩa đâm xuyên. Ví như đầu rắn là vì ý nghĩa có hiểm họa và đáng sợ. Đây là phần tóm tắt ở đây. Còn phần chi tiết thì nên xem trong bộ Papañcasūdanī, là Chú giải Trung Bộ Kinh (ma. ni. 1.234 trở đi; 2.42 trở đi). Như vậy quả thực nghĩa là ví như vậy, quả thực là. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng vì theo cách đã nói ở trước.

Samanubhāsanasamuṭṭhānaṃ – kāyavācācittato samuṭṭhāti, akiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
Phát sinh từ sự khiển trách – phát sinh từ thân-lời-tâm; là không hành động; là sự giải thoát qua tưởng; có tác ý; là lỗi thế gian; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc tâm bất thiện; thuộc cảm thọ khổ.

Ariṭṭhasikkhāpadaṃ aṭṭhamaṃ.

Điều Học Về Tỳ Khưu Ariṭṭha là thứ tám.

9. Ukkhittasambhogasikkhāpadavaṇṇanā

9. Chú Giải Điều Học Về Việc Giao Tiếp Với Người Bị Tẩn Xuất (Treo Y Bát)

424-5. Navame – akaṭānudhammenāti anudhammo vuccati āpattiyā adassane vā appaṭikamme vā pāpikāya diṭṭhiyā appaṭinissagge vā dhammena vinayena satthusāsanena ukkhittakassa anulomavattaṃ disvā katā osāraṇā; so osāraṇasaṅkhāto anudhammo yassa na kato, ayaṃ akaṭānudhammo nāma, tādisena saddhinti attho. Tenevassa padabhājane ‘‘akaṭānudhammo nāma ukkhitto anosārito’’ti vuttaṃ.
424-5. Trong điều học thứ chín – Với người chưa được thực hiện đúng thủ tục phục hồi: thủ tục đúng theo Pháp được gọi là sự phục hồi được thực hiện sau khi thấy người bị tẩn xuất (treo y bát) theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo Sư đã có hành vi thuận theo (để được phục hồi) đối với việc không thấy tội, không chịu sửa lỗi, hoặc không từ bỏ tà kiến; thủ tục đúng theo Pháp được gọi là sự phục hồi đó, người nào chưa được thực hiện thủ tục này, thì gọi là người chưa được thực hiện đúng thủ tục phục hồi; nghĩa là cùng với người như vậy. Chính vì vậy mà trong phần phân tích từ ngữ của nó có nói: “Người chưa được thực hiện đúng thủ tục phục hồi nghĩa là người bị tẩn xuất mà chưa được phục hồi”.

Deti vā paṭiggaṇhāti vāti ekapayogena bahumpi dadato vā gaṇhato vā ekaṃ pācittiyaṃ. Vicchinditvā vicchinditvā dentassa ca gaṇhantassa ca payogagaṇanāya pācittiyāni . Sesamettha uttānameva. Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Cho hoặc nhận: nếu cho nhiều hoặc nhận nhiều trong một lần, thì phạm một tội Ưng Đối Trị. Nếu cho và nhận nhiều lần cách khoảng, thì số tội Ưng Đối Trị tùy theo số lần thực hiện. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là tội do quy định, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc ba tâm, thuộc ba cảm thọ.

Ukkhittasambhogasikkhāpadaṃ navamaṃ.

Điều Học Về Việc Giao Tiếp Với Người Bị Tẩn Xuất là thứ chín.

10. Kaṇṭakasikkhāpadavaṇṇanā

10. Chú Giải Điều Học Về Tỳ Khưu Kaṇṭaka (Người Như Cái Gai)

428. Dasame – diṭṭhigataṃ uppannanti ariṭṭhassa viya etassāpi ayoniso ummujjantassa uppannaṃ. Nāsetūti ettha tividhā nāsanā – saṃvāsanāsanā, liṅganāsanā, daṇḍakammanāsanāti. Tattha āpattiyā adassanādīsu ukkhepanā saṃvāsanāsanā nāma. ‘‘Dūsako nāsetabbo (pārā. 66) mettiyaṃ bhikkhuniṃ nāsethā’’ti (pārā. 384) ayaṃ liṅganāsanā nāma. ‘‘Ajjatagge te āvuso samaṇuddesa na ceva so bhagavā satthā apadisitabbo’’ti ayaṃ daṇḍakammanāsanā nāma. Ayaṃ idha adhippetā. Tenāha – ‘‘evañca pana bhikkhave nāsetabbo…pe… vinassā’’ti. Tattha carāti gaccha. Pireti para amāmaka. Vinassāti nassa; yattha te na passāma, tattha gacchāti.
428. Trong điều học thứ mười – Tà kiến đã khởi lên: giống như trường hợp của Tỳ khưu Ariṭṭha, đối với vị này tà kiến cũng khởi lên do sự nhận thức sai lầm không hợp lý. Hãy trục xuất hắn: ở đây, có ba loại trục xuất – trục xuất khỏi sự chung sống, trục xuất khỏi hình tướng (Sa môn, tức lột y), và trục xuất bằng hình phạt. Trong đó, việc tẩn xuất (treo y bát) do không thấy tội v.v. được gọi là trục xuất khỏi sự chung sống. (Các câu) “Kẻ làm ô uế phải bị trục xuất” (pārā. 66) và “Hãy trục xuất Tỳ khưu ni Mettiyā” (pārā. 384) là chỉ sự trục xuất khỏi hình tướng này. (Câu) “Này đạo hữu Sa di, từ hôm nay ngươi không được gọi Đức Thế Tôn đó là bậc Đạo Sư của ngươi nữa” là chỉ sự trục xuất bằng hình phạt này. Đây là ý muốn nói ở đây. Do đó, Ngài đã dạy: “Và này các Tỳ khưu, phải trục xuất như thế này… (vân vân)… hãy cút đi”. Trong đó, đi đi nghĩa là hãy đi. Cút đi nghĩa là kẻ khác, không phải của ta/không liên quan đến chúng ta. Hãy biến mất nghĩa là hãy cút đi; hãy đi đến nơi nào mà chúng tôi không thấy ngươi nữa.

429.Upalāpeyyāti saṅgaṇheyya. Upaṭṭhāpeyyāti tena attano upaṭṭhānaṃ kārāpeyya. Sesaṃ ariṭṭhasikkhāpade vuttanayeneva veditabbaṃ saddhiṃ samuṭṭhānādīhīti.
429. Nên thuyết phục/kết giao nghĩa là nên thu phục, kết giao. Nên cho hầu hạ nghĩa là nên để người đó hầu hạ mình. Phần còn lại phải được hiểu theo cách đã nói trong điều học về Tỳ khưu Ariṭṭha, cùng với các nguồn gốc phát sinh tội v.v.

Kaṇṭakasikkhāpadaṃ dasamaṃ.

Điều Học Về Tỳ Khưu Kaṇṭaka là thứ mười.

Samatto vaṇṇanākkamena sappāṇakavaggo sattamo.

Phẩm Về (Nước) Có Chúng Sinh là thứ bảy, đã hoàn tất theo thứ tự giải thích.

8. Sahadhammikavaggo

8. Phẩm Về (Hành Động) Theo Đúng Pháp

1. Sahadhammikasikkhāpadavaṇṇanā

1. Chú Giải Điều Học Về (Nói) Đúng Pháp

434. Sahadhammikavaggassa paṭhamasikkhāpade – etasmiṃ sikkhāpadeti etasmiṃ sikkhāpade yaṃ vuttaṃ, taṃ na tāva sikkhissāmi. Āpatti pācittiyassāti ettha pana vācāya vācāya āpatti veditabbā. Sikkhamānena bhikkhave bhikkhunāti ovādaṃ sirasā sampaṭicchitvā sikkhitukāmeneva hutvā ājānitabbañceva pucchitabbañca upaparikkhitabbañca. Sesamettha dubbacasikkhāpade vuttanayeneva padatthato veditabbaṃ. Vinicchayato uttānameva.
434. Trong điều học đầu tiên của Phẩm Về (Hành Động) Theo Đúng Pháp – Trong điều học này nghĩa là điều gì đã được nói trong điều học này, tôi sẽ chưa học điều đó vội. Phạm tội Ưng Đối Trị: ở đây, phải hiểu là phạm tội với mỗi lời nói. Này các Tỳ khưu, Tỳ khưu đang học nghĩa là phải thành tâm vâng nhận lời dạy bảo, có ý muốn học hỏi, rồi phải tìm hiểu, phải hỏi han, và phải thẩm xét. Phần còn lại ở đây phải được hiểu về mặt ý nghĩa của từ theo cách đã nói trong điều học về sự khó dạy. Về mặt phân xử thì đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc tâm bất thiện, thuộc cảm thọ khổ.

Sahadhammikasikkhāpadaṃ paṭhamaṃ.

Điều Học Về (Nói) Đúng Pháp là thứ nhất.

2. Vilekhanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Chú Giải Điều Học Về Việc Chê Bỏ/Từ Chối (Học Giới Luật)

438. Dutiye – vinayakathaṃ kathetīti vinayakathā nāma kappiyākappiyaāpattānāpattisaṃvarapahānapaṭisaṃyuttakathā, taṃ katheti. Vinayassa vaṇṇaṃ bhāsatīti vinayassa vaṇṇo nāma pañcannampi sattannampi āpattikkhandhānaṃ vasena mātikaṃ nikkhipitvā padabhājanena vaṇṇanā, taṃ bhāsati. Vinayapariyattiyā vaṇṇaṃ bhāsatīti vinayaṃ pariyāpuṇantānaṃ vinayapariyattimūlakaṃ vaṇṇaṃ guṇaṃ ānisaṃsaṃ bhāsati. Vinayadharo hi vinayapariyattimūlake pañcānisaṃse chānisaṃse sattānisaṃse aṭṭhānisaṃse navānisaṃse dasānisaṃse ekādasānisaṃse ca labhati te sabbe bhāsatīti attho. Katame pañcānisaṃse labhatīti? Attano sīlakkhandhasuguttiādike . Vuttañhetaṃ –
438. Trong điều học thứ hai – Nói chuyện về Luật: Chuyện về Luật là những câu chuyện liên quan đến những điều hợp lệ, không hợp lệ, tội, không tội, sự thu thúc, sự từ bỏ; vị ấy nói những chuyện đó. Tán dương Giới Luật: Tán dương Giới Luật là việc trình bày đề mục theo năm hoặc bảy nhóm tội rồi giải thích bằng cách phân tích từ ngữ; vị ấy nói những điều đó. Tán dương sự học thuộc Giới Luật: Vị ấy nói về sự tán dương, phẩm chất, lợi ích bắt nguồn từ việc học thuộc Giới Luật của những người học thuộc Giới Luật. Người trì Luật quả thực nhận được năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, và mười một lợi ích bắt nguồn từ việc học thuộc Giới Luật; ý nói là vị ấy nói về tất cả những lợi ích đó. Nhận được năm lợi ích nào? Sự khéo gìn giữ giới uẩn của mình, v.v. Điều này đã được nói:

‘‘Pañcime, bhikkhave, ānisaṃsā vinayadhare puggale – attano sīlakkhandho sugutto hoti surakkhito, kukkuccapakatānaṃ paṭisaraṇaṃ hoti, visārado saṅghamajjhe voharati, paccatthike sahadhammena suniggahitaṃ niggaṇhāti, saddhammaṭṭhitiyā paṭipanno hotī’’ti (pari. 325).
“Này các Tỳ khưu, có năm lợi ích này nơi người trì Luật – giới uẩn của tự thân được khéo gìn giữ, khéo bảo vệ; là nơi nương tựa cho những người hay hối hận; tự tin xử sự giữa Tăng chúng; khéo nhiếp phục những kẻ đối nghịch bằng Chánh Pháp; là người thực hành để Chánh Pháp được vững bền.” (pari. 325).

Kathamassa attano sīlakkhandho sugutto hoti surakkhito? Idhekacco bhikkhu āpattiṃ āpajjanto chahākārehi āpajjati – alajjitā, aññāṇatā, kukkuccapakatatā, akappiye kappiyasaññitā, kappiye akappiyasaññitā, satisammosāti.
Làm thế nào giới uẩn của tự thân được khéo gìn giữ, khéo bảo vệ? Ở đây, một Tỳ khưu nào đó khi phạm tội thì phạm do sáu cách – không hổ thẹn, do không biết, do hay hối hận, tưởng điều không hợp lệ là hợp lệ, tưởng điều hợp lệ là không hợp lệ, do thất niệm.

Kathaṃ alajjitāya āpattiṃ āpajjati? Akappiyabhāvaṃ jānantoyeva madditvā vītikkamaṃ karoti. Vuttampi cetaṃ –
Làm thế nào phạm tội do không hổ thẹn? Dù biết đó là điều không hợp lệ, vẫn cố ý vi phạm. Điều này cũng đã được nói:

‘‘Sañcicca āpattiṃ āpajjati, āpattiṃ parigūhati;
Agatigamanañca gacchati , ediso vuccati alajjipuggalo’’ti. (pari. 359);
“Cố ý phạm tội, che giấu tội;
Và đi đến chỗ không nên đi, người như vậy được gọi là người không hổ thẹn.” (pari. 359);

Kathaṃ aññāṇatāya āpajjati? Aññāṇapuggalo hi mando momūho kattabbākattabbaṃ ajānanto akattabbaṃ karoti, kattabbaṃ virādheti; evaṃ aññāṇatāya āpajjati.
Làm thế nào phạm tội do không biết? Người không biết thì ngu dốt, mê muội, không biết điều nên làm và không nên làm, nên làm điều không nên làm, bỏ sót điều nên làm; như vậy là phạm tội do không biết.

Kathaṃ kukkuccapakatatāya āpajjati? Kappiyākappiyaṃ nissāya kukkucce uppanne vinayadharaṃ pucchitvā kappiyañce kattabbaṃ siyā, akappiyañce na kattabbaṃ, ayaṃ pana ‘‘vaṭṭatī’’ti madditvā vītikkamatiyeva; evaṃ kukkuccapakatatāya āpajjati.
Làm thế nào phạm tội do hay hối hận? Khi sự hối hận khởi lên liên quan đến điều hợp lệ hay không hợp lệ, đáng lẽ phải hỏi người trì Luật, nếu là hợp lệ thì nên làm, nếu không hợp lệ thì không nên làm, nhưng người này lại nghĩ “được phép” rồi cố ý vi phạm; như vậy là phạm tội do hay hối hận.

Kathaṃ akappiye kappiyasaññitāya āpajjati? Acchamaṃsaṃ sūkaramaṃsanti khādati, dīpimaṃsaṃ migamaṃsanti khādati, akappiyabhojanaṃ kappiyabhojananti bhuñjati, vikāle kālasaññāya bhuñjati, akappiyapānakaṃ kappiyapānakanti pivati; evaṃ akappiye kappiyasaññitāya āpajjati.
Làm thế nào phạm tội do tưởng điều không hợp lệ là hợp lệ? Ăn thịt gấu mà tưởng là thịt heo, ăn thịt báo mà tưởng là thịt nai, ăn thực phẩm không hợp lệ mà tưởng là thực phẩm hợp lệ, ăn vào lúc phi thời mà tưởng là đúng thời, uống thức uống không hợp lệ mà tưởng là thức uống hợp lệ; như vậy là phạm tội do tưởng điều không hợp lệ là hợp lệ.

Kathaṃ kappiye akappiyasaññitāya āpajjati? Sūkaramaṃsaṃ acchamaṃsanti khādati, migamaṃsaṃ dīpimaṃsanti khādati, kappiyabhojanaṃ akappiyabhojananti bhuñjati, kāle vikālasaññāya bhuñjati, kappiyapānakaṃ akappiyapānakanti pivati; evaṃ kappiye akappiyasaññitāya āpajjati.
Làm thế nào phạm tội do tưởng điều hợp lệ là không hợp lệ? Ăn thịt heo mà tưởng là thịt gấu, ăn thịt nai mà tưởng là thịt báo, ăn thực phẩm hợp lệ mà tưởng là thực phẩm không hợp lệ, ăn vào đúng thời mà tưởng là phi thời, uống thức uống hợp lệ mà tưởng là thức uống không hợp lệ; như vậy là phạm tội do tưởng điều hợp lệ là không hợp lệ.

Kathaṃ satisammosāya āpajjati? Sahaseyyacīvaravippavāsabhesajjacīvarakālātikkamanapaccayā āpattiñca satisammosāya āpajjati; evamidhekacco bhikkhu imehi chahākārehi āpattiṃ āpajjati.
Làm thế nào phạm tội do thất niệm? Do duyên ngủ chung, xa lìa y, thuốc men, quá thời hạn giữ y, và phạm tội do thất niệm; như vậy, một Tỳ khưu nào đó phạm tội do sáu cách này.

Vinayadharo pana imehi chahākārehi āpattiṃ nāpajjati. Kathaṃ lajjitāya nāpajjati? So hi ‘‘passatha bho, ayaṃ kappiyākappiyaṃ jānantoyeva paṇṇattivītikkamaṃ karotī’’ti imaṃ parūpavādaṃ rakkhantopi nāpajjati; evaṃ lajjitāya nāpajjati. Sahasā āpannampi desanāgāminiṃ desetvā vuṭṭhānagāminiyā vuṭṭhahitvā suddhante patiṭṭhāti. Tato –
Tuy nhiên, người trì Luật thì không phạm tội do sáu cách này. Làm thế nào không phạm tội do có hổ thẹn? Vị ấy, ngay cả khi giữ gìn để tránh lời chê bai của người khác rằng: “Này quý vị, hãy xem kìa, người này biết rõ điều hợp lệ và không hợp lệ mà vẫn cố ý vi phạm điều luật đã quy định”, cũng không phạm tội; như vậy là không phạm tội do có hổ thẹn. Dù bất ngờ phạm phải tội có thể sám hối, vị ấy cũng sám hối; đối với tội có thể ra khỏi bằng cách xuất tội, vị ấy cũng xuất tội rồi an trú trong sự trong sạch. Do đó –

‘‘Sañcicca āpattiṃ na āpajjati, āpattiṃ na parigūhati;
Agatigamanañca na gacchati , ediso vuccati lajjipuggalo’’ti. (pari. 359)
“Không cố ý phạm tội, không che giấu tội;
Và không đi đến chỗ không nên đi, người như vậy được gọi là người có hổ thẹn.” (pari. 359)

Imasmiṃ lajjibhāve patiṭṭhitova hoti.
Vị ấy an trú trong phẩm chất hổ thẹn này.

Kathaṃ ñāṇatāya nāpajjati? So hi kappiyākappiyaṃ jānāti, tasmā kappiyameva karoti, akappiyaṃ na karoti; evaṃ ñāṇatāya nāpajjati.
Làm thế nào không phạm tội do có trí tuệ? Vị ấy biết rõ điều hợp lệ và không hợp lệ, do đó chỉ làm điều hợp lệ, không làm điều không hợp lệ; như vậy là không phạm tội do có trí tuệ.

Kathaṃ akukkuccapakatatāya nāpajjati? So hi kappiyākappiyaṃ nissāya kukkucce uppanne vatthuṃ oloketvā mātikaṃ padabhājanaṃ antarāpattiṃ āpattiṃ anāpattiñca oloketvā kappiyañce hoti karoti, akappiyañce na karoti; evaṃ akukkuccapakatatāya nāpajjati.
Làm thế nào không phạm tội do không hay hối hận? Vị ấy, khi sự hối hận khởi lên liên quan đến điều hợp lệ hay không hợp lệ, liền xem xét sự việc, xem xét đề mục, cách phân tích từ ngữ, tội trung gian, tội và không tội, nếu là hợp lệ thì làm, nếu không hợp lệ thì không làm; như vậy là không phạm tội do không hay hối hận.

Kathaṃ akappiyādisaññitāya nāpajjati? So hi kappiyākappiyaṃ jānāti, tasmā akappiye kappiyasaññī na hoti, kappiye akappiyasaññī na hoti; suppatiṭṭhitā cassa sati hoti, adhiṭṭhātabbaṃ adhiṭṭheti, vikappetabbaṃ vikappeti. Iti imehi chahākārehi āpattiṃ nāpajjati. Āpattiṃ anāpajjanto akhaṇḍasīlo hoti parisuddhasīlo; evamassa attano sīlakkhandho sugutto hoti surakkhito.
Làm thế nào không phạm tội do (không) tưởng lầm điều không hợp lệ v.v.? Vị ấy biết rõ điều hợp lệ và không hợp lệ, do đó không tưởng điều không hợp lệ là hợp lệ, không tưởng điều hợp lệ là không hợp lệ; niệm của vị ấy được thiết lập vững chắc, điều cần chú nguyện thì chú nguyện, điều cần làm phép ủy thác thì làm phép ủy thác. Như vậy, vị ấy không phạm tội do sáu cách này. Người không phạm tội thì có giới không bị sứt mẻ, có giới trong sạch; như vậy, giới uẩn của tự thân vị ấy được khéo gìn giữ, khéo bảo vệ.

Kathaṃ kukkuccapakatānaṃ paṭisaraṇaṃ hoti? Tiroraṭṭhesu tirojanapadesu ca uppannakukkuccā bhikkhū ‘‘asukasmiṃ kira vihāre vinayadharo vasatī’’ti dūratopi tassa santikaṃ āgantvā kukkuccaṃ pucchanti, so tehi katassa kammassa vatthuṃ oloketvā āpattānāpattigarukalahukādibhedaṃ sallakkhetvā desanāgāminiṃ desāpetvā vuṭṭhānagāminiyā vuṭṭhāpetvā suddhante patiṭṭhāpeti; evaṃ kukkuccapakatānaṃ paṭisaraṇaṃ hoti.
Làm thế nào là nơi nương tựa cho những người hay hối hận? Các Tỳ khưu ở các quốc độ xa xôi, các xứ sở xa xôi, khi có sự hối hận khởi lên, nghe rằng: “Hình như ở tu viện kia có một vị trì Luật đang ở”, dù ở xa cũng tìm đến vị ấy để hỏi về sự hối hận. Vị ấy xem xét sự việc của hành động mà họ đã làm, nhận rõ sự khác biệt về tội, không tội, tội nặng, tội nhẹ v.v., rồi cho họ sám hối đối với tội có thể sám hối, cho họ xuất tội đối với tội có thể ra khỏi bằng cách xuất tội, và giúp họ an trú trong sự trong sạch; như vậy là nơi nương tựa cho những người hay hối hận.

Visārado saṅghamajjhe voharatīti avinayadharassa hi saṅghamajjhe kathentassa bhayaṃ sārajjaṃ okkamati, vinayadharassa taṃ na hoti. Kasmā? ‘‘Evaṃ kathentassa doso hoti; evaṃ na doso’’ti ñatvā kathanato.
Tự tin xử sự giữa Tăng chúng: người không trì Luật khi nói năng giữa Tăng chúng thì sự sợ hãi, rụt rè xâm chiếm, còn người trì Luật thì không bị như vậy. Tại sao? Vì biết rõ “nói như thế này thì có lỗi; nói như thế này thì không có lỗi” rồi mới nói.

Paccatthike sahadhammena suniggahitaṃ niggaṇhātīti ettha dvidhā paccatthikā nāma – attapaccatthikā ca sāsanapaccatthikā ca. Tattha mettiyabhummajakā ca bhikkhū vaḍḍho ca licchavī amūlakena antimavatthunā codesuṃ, ime attapaccatthikā nāma. Ye vā panaññepi dussīlā pāpadhammā, sabbe te attapaccatthikā. Viparītadassanā pana ariṭṭhabhikkhukaṇṭakasāmaṇeravesālikavajjiputtakā parūpahāraaññāṇakaṅkhāparavitaraṇādivādā mahāsaṅghikādayo ca abuddhasāsanaṃ ‘‘buddhasāsana’’nti vatvā katapaggahā sāsanapaccatthikā nāma. Te sabbepi sahadhammena sakāraṇena vacanena yathā taṃ asaddhammaṃ patiṭṭhāpetuṃ na sakkonti, evaṃ suniggahitaṃ katvā niggaṇhāti.
Khéo nhiếp phục những kẻ đối nghịch bằng Chánh Pháp: ở đây, có hai loại người đối nghịch – người đối nghịch với cá nhân và người đối nghịch với giáo pháp. Trong đó, các Tỳ khưu thuộc nhóm Mettiya và Bhummajaka cùng với Vaddha người Licchavi đã tố cáo (Đức Phật) bằng tội nặng nhất một cách vô căn cứ, những người này được gọi là người đối nghịch với cá nhân. Hoặc bất kỳ những người nào khác có giới hạnh xấu xa, theo ác pháp, tất cả họ đều là người đối nghịch với cá nhân. Còn những người có tà kiến như Tỳ khưu Ariṭṭha, Sa di Kaṇṭaka, các Tỳ khưu Vajiputtaka ở Vesāli, những người theo các học thuyết như bác bỏ sự hiến tặng của người khác, chủ trương sự không biết, sự nghi ngờ, sự truyền bá sai lạc v.v., và những người thuộc phái Đại Chúng Bộ v.v., những người gọi giáo pháp không phải của Phật là “giáo pháp của Phật” rồi nắm giữ lấy, thì được gọi là người đối nghịch với giáo pháp. Vị ấy nhiếp phục tất cả những người đó bằng Chánh Pháp, bằng lời nói có lý lẽ, khiến họ không thể nào thiết lập được tà pháp đó, làm cho họ bị khuất phục hoàn toàn.

Saddhammaṭṭhitiyāpaṭipanno hotīti ettha pana tividho saddhammo pariyattipaṭipattiadhigamavasena. Tattha tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ pariyattisaddhammo nāma. Terasa dhutaṅgaguṇā cuddasa khandhakavattāni dveasīti mahāvattānīti ayaṃ paṭipattisaddhammo nāma. Cattāro maggā ca phalāni cāti ayaṃ adhigamasaddhammo nāma.
Là người thực hành để Chánh Pháp được vững bền: ở đây, Chánh Pháp có ba loại dựa trên phương diện học hiểu, thực hành và chứng ngộ. Trong đó, Tam Tạng kinh điển, lời Phật dạy, được gọi là Chánh Pháp học hiểu. Mười ba phẩm hạnh đầu đà, mười bốn phận sự của các thiên trong Luật tạng, tám mươi hai đại oai nghi, đây được gọi là Chánh Pháp thực hành. Bốn đạo và bốn quả, đây được gọi là Chánh Pháp chứng ngộ.

Tattha keci therā ‘‘yo vo, ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññatto, so vo mamaccayena satthā’’ti (dī. ni. 2.216) iminā suttena ‘‘sāsanassa pariyatti mūla’’nti vadanti. Keci therā ‘‘ime ca subhadda bhikkhū sammā vihareyyuṃ, asuñño loko arahantehi assā’’ti (dī. ni. 2.214) iminā suttena ‘‘sāsanassa paṭipattimūla’’nti vatvā ‘‘yāva pañca bhikkhū sammā paṭipannā saṃvijjanti, tāva sāsanaṃ ṭhitaṃ hotī’’ti āhaṃsu. Itare pana therā pariyattiyā antarahitāya suppaṭipannassapi dhammābhisamayo natthī’’ti āhaṃsu. Sace pañca bhikkhū cattāri pārājikāni rakkhaṇakā honti, te saddhe kulaputte pabbājetvā paccantime janapade upasampādetvā dasavaggaṃ gaṇaṃ pūretvā majjhime janapadepi upasampadaṃ karissanti, etenupāyena vīsativaggagaṇaṃ saṅghaṃ pūretvā attanopi abbhānakammaṃ katvā sāsanaṃ vuḍḍhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ gamayissanti. Evamayaṃ vinayadharo tividhassāpi saddhammassa ciraṭṭhitiyā paṭipanno hotīti evamayaṃ vinayadharo ime tāva pañcānisaṃse paṭilabhatīti veditabbo.
Trong đó, một số vị Trưởng lão dựa vào kinh này: “Này Ānanda, Pháp và Luật nào đã được Ta thuyết giảng và quy định, sau khi Ta diệt độ, đó sẽ là Thầy của các ngươi.” (dī. ni. 2.216) mà nói rằng “Học hiểu là gốc rễ của giáo pháp”. Một số vị Trưởng lão khác, dựa vào kinh này: “Và nếu các Tỳ khưu Subhadda này sống đúng Chánh Pháp, thế gian sẽ không trống rỗng các bậc A La Hán.” (dī. ni. 2.214) mà nói rằng “Thực hành là gốc rễ của giáo pháp”, rồi nói thêm: “Chừng nào còn có năm vị Tỳ khưu thực hành đúng Chánh Pháp, chừng đó giáo pháp còn tồn tại”. Tuy nhiên, các vị Trưởng lão khác lại nói: “Khi sự học hiểu đã biến mất, thì dù có thực hành tốt đến đâu cũng không thể chứng ngộ Pháp”. Nếu có năm vị Tỳ khưu giữ gìn được bốn tội Ba La Di, các vị ấy cho những người con trai nhà lành có đức tin xuất gia, cho thọ giới Cụ Túc ở các xứ biên địa, làm cho đủ số mười vị Tăng, rồi cũng sẽ tiến hành lễ thọ giới Cụ Túc ở các xứ trung tâm, bằng cách đó làm cho đủ số hai mươi vị Tăng, rồi tự mình cũng làm lễ phục hồi (quyền Tăng sự), và sẽ làm cho giáo pháp được tăng trưởng, phát triển, lan rộng. Như vậy, người trì Luật này là người thực hành vì sự trường tồn của cả ba phương diện Chánh Pháp, do đó, phải hiểu rằng người trì Luật này nhận được năm lợi ích kể trên.

Katame cha ānisaṃse labhatīti? Tassādheyyo uposatho, pavāraṇā, saṅghakammaṃ, pabbajjā, upasampadā, nissayaṃ deti sāmaṇeraṃ upaṭṭhāpeti.
Nhận được sáu lợi ích nào? Buổi lễ Bố tát, lễ Tự tứ, các Tăng sự, việc cho xuất gia, lễ thọ giới Cụ Túc đều thuộc thẩm quyền của vị ấy; vị ấy cho y chỉ, và có Sa di hầu cận.

Ye ime cātuddasiko, pannarasiko, sāmaggiuposatho, saṅghe uposatho, gaṇe puggale uposatho, suttuddeso, pārisuddhi, adhiṭṭhānauposathoti nava uposathā, sabbe te vinayadharāyattā.
Chín loại lễ Bố tát này: Bố tát ngày mười bốn, ngày rằm, Bố tát trong sự hòa hợp, Bố tát của Tăng chúng, Bố tát của nhóm Tỳ khưu, của cá nhân, tụng đọc kinh điển, lễ Bố tát thanh tịnh, lễ Bố tát chú nguyện, tất cả những lễ ấy đều tùy thuộc vào người trì Luật.

Yāpi ca imā cātuddasikā pannarasikā, sāmaggipavāraṇā, saṅghe pavāraṇā gaṇe puggale pavāraṇā, tevācikā, dvevācikā, samānavassikā pavāraṇāti nava pavāraṇāyo, tāpi vinayadharāyattā eva, tassa santakā, so tāsaṃ sāmī.
Và chín loại lễ Tự tứ này: Tự tứ ngày mười bốn, ngày rằm, Tự tứ trong sự hòa hợp, Tự tứ của Tăng chúng, của nhóm Tỳ khưu, của cá nhân, Tự tứ với ba lần yêu cầu, với hai lần yêu cầu, Tự tứ của những người cùng hạ lạp, những lễ ấy cũng đều tùy thuộc vào người trì Luật, là của vị ấy, vị ấy là chủ của những lễ đó.

Yānipi imāni apalokanakammaṃ ñattikammaṃ ñattidutiyakammaṃ ñatticatutthakammanti cattāri saṅghakammāni, tāni vinayadharāyattāni.
Và bốn Tăng sự này: Tăng sự thông báo, Tăng sự chỉ có lời tác bạch, Tăng sự có lời tác bạch và một lần hỏi Tăng, Tăng sự có lời tác bạch và ba lần hỏi Tăng, những Tăng sự ấy cũng tùy thuộc vào người trì Luật.

Yāpi cāyaṃ upajjhāyena hutvā kulaputtānaṃ pabbajjā ca upasampadā ca kātabbā, ayampi vinayadharāyattāva. Na hi añño dvipiṭakadharopi etaṃ kātuṃ labhati. So eva nissayaṃ deti, sāmaṇeraṃ upaṭṭhāpeti. Añño neva nissayaṃ dātuṃ labhati, na sāmaṇeraṃ upaṭṭhāpetuṃ. Sāmaṇerūpaṭṭhānaṃ paccāsīsanto pana vinayadharassa santike upajjhaṃ gāhāpetvā vattapaṭipattiṃ sādituṃ labhati. Ettha ca nissayadānañceva sāmaṇerūpaṭṭhānañca ekamaṅgaṃ.
Và việc một vị thầy tế độ phải thực hiện nghi thức cho xuất gia và thọ giới Cụ Túc cho các thiện nam tử, việc này cũng tùy thuộc vào người trì Luật. Ngay cả một vị khác thông thuộc hai tạng kinh điển cũng không được phép làm việc này. Chỉ vị ấy mới cho y chỉ, mới có Sa di hầu cận. Người khác không được phép cho y chỉ, không được có Sa di hầu cận. Tuy nhiên, người mong muốn sự hầu cận của Sa di thì được phép nhờ Sa di đó thọ giáo với một vị thầy tế độ thuộc hàng trì Luật rồi chu toàn các phận sự và thực hành. Và ở đây, việc cho y chỉ và việc có Sa di hầu cận là một yếu tố (trong sáu lợi ích).

Iti imesu chasu ānisaṃsesu ekena saddhiṃ purimā pañca cha honti, dvīhi saddhiṃ satta, tīhi saddhiṃ aṭṭha, catūhi saddhiṃ nava, pañcahi saddhiṃ dasa, sabbehi petehi saddhiṃ ekādasāti evaṃ vinayadharo puggalo pañca cha satta aṭṭha nava dasa ekādasa ca ānisaṃse labhatīti veditabbo. Evaṃ bhagavā ime ānisaṃse dassento vinayapariyattiyā vaṇṇaṃ bhāsatīti veditabbo.
Như vậy, trong sáu lợi ích này, cộng với một (trong các yếu tố Bố tát, Tự tứ, Tăng sự) thì năm lợi ích ban đầu trở thành sáu; cộng với hai thì thành bảy; cộng với ba thì thành tám; cộng với bốn thì thành chín; cộng với năm thì thành mười; cộng với tất cả những yếu tố đó thì thành mười một. Như vậy, phải hiểu rằng người trì Luật nhận được năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, và mười một lợi ích. Như vậy, phải hiểu rằng Đức Thế Tôn, khi chỉ ra những lợi ích này, là đang tán dương sự học thuộc Giới Luật.

Ādissaādissāti punappunaṃ vavatthapetvā visuṃ visuṃ katvā. Āyasmato upālissa vaṇṇaṃ bhāsatīti vinayapariyattiṃ nissāya upālittherassa guṇaṃ bhāsati thometi pasaṃsati. Kasmā? Appeva nāma mama vaṇṇanaṃ sutvāpi bhikkhū upālissa santike vinayaṃ uggahetabbaṃ pariyāpuṇitabbaṃ maññeyyuṃ, evamidaṃ sāsanaṃ addhaniyaṃ bhavissati, pañcavassasahassāni pavattissatīti.
Chỉ định riêng biệt, nhiều lần nghĩa là nhiều lần xác lập rồi phân chia riêng biệt. Tán dương Đại đức Upāli nghĩa là dựa vào sự học thuộc Giới Luật mà nói về phẩm chất, ca ngợi, tán thán Trưởng lão Upāli. Tại sao? (Vì nghĩ rằng): “Mong sao sau khi nghe lời tán dương của ta, các Tỳ khưu cũng sẽ nghĩ rằng nên học hỏi, nên thông thuộc Giới Luật nơi Đại đức Upāli; như vậy giáo pháp này sẽ được trường tồn, sẽ được duy trì trong năm ngàn năm.”

Tedha bahū bhikkhūti te imaṃ bhagavato vaṇṇanaṃ sutvā ‘‘ime kirānisaṃse neva suttantikā na ābhidhammikā labhantī’’ti yathāparikittitānisaṃsādhigame ussāhajātā bahū bhikkhū therā ca navā ca majjhimā ca āyasmato upālissa santike vinayaṃ pariyāpuṇantīti ayamettha attho. Idhāti nipātamattameva.
Khi đó, nhiều Tỳ khưu: ý ở đây là những vị Tỳ khưu đó – cả Thượng tọa, Tỳ khưu mới thọ giới, và Tỳ khưu trung bình – sau khi nghe lời tán dương này của Đức Thế Tôn, và nghĩ rằng: “Quả thực, những lợi ích này thì các vị chuyên về Kinh tạng hay Luận tạng đều không đạt được”, liền phát tâm hăng hái trong việc thành tựu những lợi ích đã được kể ra, rồi thông thuộc Giới Luật nơi Đại đức Upāli. Ở đây chỉ là một tiểu từ.

439-40.Uddissamāneti ācariyena antevāsikassa uddissamāne, so pana yasmā ācariye attano ruciyā uddisante vā ācariyaṃ yācitvā antevāsikena uddisāpente vā yo naṃ dhāreti, tasmiṃ sajjhāyaṃ karonte vā uddissamāno nāma hoti, tasmā ‘‘uddisante vā uddisāpente vā sajjhāyaṃ vā karonte’’ti padabhājanaṃ vuttaṃ. Khuddānukhuddakehīti khuddakehi ca anukhuddakehi ca. Yāvadevāti tesaṃ saṃvattanamariyādaparicchedavacanaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – etāni hi ye uddisanti, uddisāpenti sajjhāyanti vā, tesaṃ tāva saṃvattanti yāva ‘‘kappati nu kho, na kappati nu kho’’ti kukkuccasaṅkhāto vippaṭisāro vihesā vicikicchāsaṅkhāto manovilekho ca uppajjatiyeva. Atha vā yāvadevāti atisayavavatthāpanaṃ; tassa saṃvattantīti iminā sambandho, kukkuccāya vihesāya vilekhāya ativiya saṃvattantiyevāti vuttaṃ hoti. Upasampannassa vinayaṃ vivaṇṇetīti upasampannassa santike tassa tasmiṃ vimatiṃ uppādetukāmo vinayaṃ vivaṇṇeti nindati garahati. Sesamettha uttānameva.
439-40. Khi được đọc tụng nghĩa là khi được thầy đọc cho đệ tử nghe. Nhưng vì người nào ghi nhớ được khi thầy đọc theo ý thích của mình, hoặc khi đệ tử thỉnh cầu thầy rồi được thầy đọc cho nghe, hoặc khi người đó đang tự mình trì tụng, thì đều được gọi là người đang được đọc tụng cho nghe, do đó trong phần phân tích từ ngữ có nói: “khi đọc, hoặc bảo người khác đọc, hoặc khi tự mình trì tụng”. Bởi những điều nhỏ nhặt và rất nhỏ nhặt nghĩa là bởi những điều nhỏ nhặt và bởi những điều rất nhỏ nhặt. Cho đến khi nào là lời nói giới hạn, xác định phạm vi ảnh hưởng của chúng. Điều muốn nói là – đối với những ai đọc tụng, bảo người khác đọc tụng, hoặc tự mình trì tụng những điều này, chúng sẽ dẫn đến tình trạng mà sự hối hận được gọi là “có được phép hay không được phép?”, sự phiền não, và sự ô nhiễm tâm trí được gọi là nghi ngờ, chắc chắn sẽ khởi lên. Hoặc là, cho đến khi nào là sự xác lập mức độ thái quá; nó liên quan đến ý “chúng dẫn đến điều đó”; ý muốn nói rằng chúng dẫn đến sự hối hận, phiền não, ô nhiễm một cách thái quá. Chê bai Giới Luật với người đã thọ giới Cụ Túc nghĩa là ở gần một người đã thọ giới Cụ Túc, với ý muốn làm cho người đó khởi lên sự nghi ngờ về Giới Luật, vị ấy chê bai, khiển trách, chỉ trích Giới Luật. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc tâm bất thiện, thuộc cảm thọ khổ.

Vilekhanasikkhāpadaṃ dutiyaṃ.

Điều Học Về Việc Chê Bỏ/Từ Chối (Học Giới Luật) là thứ hai.

3. Mohanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Chú Giải Điều Học Về Việc Gây Hoang Mang/Lầm Lẫn

444. Tatiye – anvaddhamāsanti anupaṭipāṭiyā addhamāse addhamāse; yasmā pana so uposathadivase uddisiyati, tasmā ‘‘anuposathika’’nti padabhājane vuttaṃ. Uddissamāneti uddisiyamāne . Yasmā pana so pātimokkhuddesake uddisante uddisiyamāno nāma hoti, tasmā ‘‘uddisante’’ti padabhājane vuttaṃ. Yañca tattha āpattiṃ āpannoti tasmiṃ anācāre ciṇṇe yaṃ āpattiṃ āpanno. Yathādhammo kāretabboti aññāṇena āpannattā tassā āpattiyā mokkho natthi, yathā pana dhammo ca vinayo ca ṭhito, tathā kāretabbo. Desanāgāminiñce āpanno hoti, desāpetabbo, vuṭṭhānagāminiñce, vuṭṭhāpetabboti attho. Sādhukanti suṭṭhu. Aṭṭhiṃkatvāti atthikabhāvaṃ katvā; atthiko hutvāti vuttaṃ hoti.
444. Trong điều học thứ ba – Mỗi nửa tháng nghĩa là theo thứ tự liên tục, mỗi nửa tháng một lần; nhưng vì Giới Bổn được tụng vào ngày Bố tát, do đó trong phần phân tích từ ngữ có nói là “theo mỗi kỳ Bố tát”. Khi được đọc tụng nghĩa là khi đang được đọc lên. Nhưng vì Giới Bổn được xem là đang được đọc lên khi vị Tỳ khưu tụng đọc Giới Bổn, do đó trong phần phân tích từ ngữ có nói là “khi đang đọc”. Và tội nào đã phạm trong đó nghĩa là tội nào đã phạm khi thực hành hành vi không đúng đắn đó. Phải được xử lý đúng theo Pháp nghĩa là do phạm vì không biết nên không thoát khỏi tội đó, mà phải được xử lý theo đúng như Pháp và Luật đã quy định. Nghĩa là nếu phạm tội có thể sám hối thì phải cho sám hối, nếu phạm tội có thể xuất tội thì phải cho xuất tội. Kỹ càng, cẩn thận nghĩa là tốt đẹp, chu đáo. Quan tâm, chú ý nghĩa là làm cho thành việc quan trọng; ý nói là người có quan tâm, chú ý.

447.Dhammakammetiādīsu mohāropanakammaṃ adhippetaṃ. Sesamettha uttānameva. Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
447. Trong Tăng sự đúng Pháp v.v.: ở đây ý muốn nói đến Tăng sự áp đặt sự hoang mang cho rằng không có tội. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc tâm bất thiện, thuộc cảm thọ khổ.

Mohanasikkhāpadaṃ tatiyaṃ.

Điều Học Về Việc Gây Hoang Mang/Lầm Lẫn là thứ ba.

4. Pahārasikkhāpadavaṇṇanā

4. Chú Giải Điều Học Về Việc Đánh Người

449. Catutthe – pahāraṃ dentīti ‘‘āvuso pīṭhakaṃ paññapetha, pādadhovanaṃ āharathā’’tiādīni vatvā tathā akarontānaṃ pahāraṃ denti.
449. Trong điều học thứ tư – Họ đánh nghĩa là sau khi nói: “Này các đạo hữu, hãy soạn ghế ngồi, hãy mang nước rửa chân đến” v.v., rồi họ đánh những người không làm theo.

451.Pahāraṃ deti āpatti pācittiyassāti ettha paharitukāmatāya pahāre dinne sacepi marati pācittiyameva. Pahārena hattho vā pādo vā bhijjati, sīsaṃ vā bhinnaṃ hoti, pācittiyameva. ‘‘Yathāyaṃ saṅghamajjhe na virocati, tathā naṃ karomī’’ti evaṃ virūpakaraṇādhippāyena kaṇṇaṃ vā nāsaṃ vā chindati, dukkaṭaṃ.
451. Đánh thì phạm tội Ưng Đối Trị: ở đây, nếu đánh với ý muốn đánh, dù người bị đánh có chết, cũng chỉ phạm tội Ưng Đối Trị. Nếu do cú đánh mà tay hoặc chân bị gãy, hoặc đầu bị vỡ, cũng chỉ phạm tội Ưng Đối Trị. Nếu với ý định làm cho biến dạng như “Ta sẽ làm cho nó không còn sáng chói giữa Tăng chúng nữa” mà cắt tai hoặc mũi, thì phạm tội Tác Ác.

452.Anupasampannassāti gahaṭṭhassa vā pabbajitassa vā itthiyā vā purisassa vā antamaso tiracchānagatassāpi pahāraṃ deti, dukkaṭaṃ. Sace pana rattacitto itthiṃ paharati, saṅghādiseso.
452. Đối với người chưa thọ giới Cụ Túc: nếu đánh người tại gia hay người xuất gia không phải Tỳ khưu, nam hay nữ, thậm chí cả loài vật, cũng phạm tội Tác Ác. Nhưng nếu với tâm tham ái mà đánh người nữ, thì phạm tội Tăng Tàn.

453.Kenaciviheṭhiyamānoti manussena vā tiracchānagatena vā viheṭhiyamāno. Mokkhādhippāyoti tato attano mokkhaṃ patthayamāno. Pahāraṃ detīti kāyakāyapaṭibaddhanissaggiyānaṃ aññatarena pahāraṃ deti, anāpatti. Sacepi antarāmagge coraṃ vā paccatthikaṃ vā viheṭhetukāmaṃ disvā ‘‘upāsaka, ettheva tiṭṭha, mā āgamī’’ti vatvā vacanaṃ anādiyitvā āgacchantaṃ ‘‘gaccha re’’ti muggarena vā satthakena vā paharitvā yāti, so ce tena pahārena marati, anāpattiyeva. Vāḷamigesupi eseva nayo. Sesamettha uttānameva. Samuṭṭhānādīni panassa paṭhamapārājikasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
453. Bị ai đó làm hại nghĩa là bị người hoặc loài vật làm hại. Với ý muốn giải thoát nghĩa là mong muốn tự mình thoát khỏi sự làm hại đó. Đánh: nếu đánh bằng thân, vật liên thuộc với thân, hoặc vật có thể xả bỏ, thì không phạm tội. Ngay cả khi giữa đường thấy kẻ trộm hoặc kẻ địch muốn làm hại, rồi nói: “Này cư sĩ, hãy đứng yên đó, đừng đến gần”, nhưng nếu người đó không nghe lời mà vẫn tiến đến, rồi Tỳ khưu dùng gậy hoặc dao đánh mà hét “đi đi!”, nếu người đó chết do cú đánh đó, cũng không phạm tội. Đối với thú dữ cũng theo cách này. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Nguồn gốc phát sinh tội v.v. của điều này thì tương tự như tội Ba La Di thứ nhất, nhưng điều này chỉ thuộc cảm thọ khổ.

Pahārasikkhāpadaṃ catutthaṃ.

Điều Học Về Việc Đánh Người là thứ tư.

5. Talasattikasikkhāpadavaṇṇanā

5. Chú Giải Điều Học Về Việc Giơ Tay Hăm Dọa (Như Cầm Dao Lá Thốt Nốt)

454. Pañcame – talasattikaṃ uggirantīti pahāradānākāraṃ dassetvā kāyampi kāyapaṭibaddhampi uccārenti. Te pahārasamuccitā rodantīti te pahāraparicitā pubbepi laddhapahārattā idāni ca pahāraṃ dassantīti maññamānā rodantīti attho. ‘‘Pahārassa muccitā’’tipi sajjhāyanti, tattha ‘‘pahārassa bhītā’’ti attho.
454. Trong điều học thứ năm – Giơ tay hăm dọa (như cầm dao lá thốt nốt) nghĩa là biểu lộ dáng vẻ muốn đánh rồi giơ cả thân hoặc vật liên thuộc với thân lên. Họ, đã từng bị đánh nhiều, khóc lóc nghĩa là họ, đã quen với việc bị đánh, vì trước đây đã từng bị đánh, và bây giờ cũng nghĩ rằng Tỳ khưu sẽ đánh nữa, nên khóc lóc. Cũng có bản đọc là “được thoát khỏi việc bị đánh”, ở đó nghĩa là “sợ bị đánh”.

457.Uggirati āpatti pācittiyassāti ettha sace uggiritvā viraddho pahāraṃ deti, avassaṃ dhāretuṃ asakkontassa pahāro sahasā patati, na paharitukāmatāya dinnattā dukkaṭaṃ. Tena pahārena hatthādīsu yaṃkiñci bhijjati, dukkaṭameva.
457. Giơ tay hăm dọa thì phạm tội Ưng Đối Trị: ở đây, nếu sau khi giơ tay hăm dọa mà không đánh được, rồi lại đánh, hoặc nếu không thể kiềm chế được mà cú đánh bất ngờ xảy ra, thì do không phải đánh với ý muốn đánh nên phạm tội Tác Ác. Nếu do cú đánh đó mà bất cứ thứ gì ở tay v.v. bị gãy, cũng chỉ phạm tội Tác Ác.

458.Mokkhādhippāyo talasattikaṃ uggiratīti ettha pubbe vuttesu vatthūsu purimanayeneva talasattikaṃ uggirantassa anāpatti. Sacepi virajjhitvā pahāraṃ deti, anāpattiyeva. Sesaṃ purimasadisameva saddhiṃ samuṭṭhānādīhīti.
458. Với ý muốn giải thoát mà giơ tay hăm dọa: ở đây, nếu giơ tay hăm dọa trong những trường hợp đã nói ở trước theo cách cũ, thì không phạm tội. Ngay cả khi sau khi không thành công trong việc hăm dọa mà đánh, cũng không phạm tội. Phần còn lại thì tương tự như điều trước, cùng với nguồn gốc phát sinh tội v.v.

Talasattikasikkhāpadaṃ pañcamaṃ.

Điều Học Về Việc Giơ Tay Hăm Dọa là thứ năm.

6. Amūlakasikkhāpadavaṇṇanā

6. Chú Giải Điều Học Về Việc (Tố Cáo) Vô Căn Cứ

459. Chaṭṭhe – anuddhaṃsentīti te kira sayaṃ ākiṇṇadosattā ‘‘evaṃ bhikkhū amhe neva codessanti, na sāressantī’’ti attaparittāṇaṃ karontā paṭikacceva bhikkhū amūlakena saṅghādisesena codenti. Sesamettha terasakamhi amūlakasikkhāpade vuttanayattā uttānameva.
459. Trong điều học thứ sáu – Họ vu khống: Dường như họ, vì tự mình có nhiều lỗi, nên để tự bảo vệ mình, nghĩ rằng “Làm như vậy thì các Tỳ khưu sẽ không khiển trách, không nhắc nhở chúng ta nữa”, liền đi trước mà tố cáo các Tỳ khưu một cách vô căn cứ bằng tội Tăng Tàn. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng vì theo cách đã nói trong điều học về việc tố cáo vô căn cứ trong mười ba điều Tăng Tàn.

Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc tâm bất thiện, thuộc cảm thọ khổ.

Amūlakasikkhāpadaṃ chaṭṭhaṃ.

Điều Học Về Việc (Tố Cáo) Vô Căn Cứ là thứ sáu.

7. Sañciccasikkhāpadavaṇṇanā

7. Chú Giải Điều Học Về Việc Cố Ý (Gây Phiền Não)

464. Sattame – upadahantīti uppādenti. Kukkuccaṃ upadahati āpatti pācittiyassāti vācāya vācāya āpatti. Anupasampannassāti sāmaṇerassa . Mātugāmena saddhiṃ raho maññe tayā nisinnaṃ nipannaṃ bhuttaṃ pītaṃ, saṅghamajjhe idañcidañca katantiādinā nayena kukkuccaṃ upadahati, vācāya vācāya dukkaṭaṃ. Sesamettha uttānameva. Samuṭṭhānādīnipi amūlakasadisānevāti.
464. Trong điều học thứ bảy – Họ gây ra nghĩa là họ làm phát sinh. Gây sự hối hận thì phạm tội Ưng Đối Trị: mỗi lời nói phạm một tội. Đối với người chưa thọ giới Cụ Túc nghĩa là đối với Sa di. Gây sự hối hận bằng cách nói: “Tôi nghĩ rằng ông đã ngồi, nằm, ăn, uống một cách kín đáo với người nữ; giữa Tăng chúng ông đã làm điều này điều kia” v.v., mỗi lời nói phạm tội Tác Ác. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Nguồn gốc phát sinh tội v.v. cũng tương tự như điều học về việc (tố cáo) vô căn cứ.

Sañciccasikkhāpadaṃ sattamaṃ.

Điều Học Về Việc Cố Ý (Gây Phiền Não) là thứ bảy.

8. Upassutisikkhāpadavaṇṇanā

8. Chú Giải Điều Học Về Việc Nghe Lén

471. Aṭṭhame – adhikaraṇajātānanti etehi bhaṇḍanādīhi uppannavivādādhikaraṇānaṃ. Upassutinti sutisamīpaṃ; yattha ṭhatvā sakkā hoti tesaṃ vacanaṃ sotuṃ, tatthāti attho. Gacchati āpatti dukkaṭassāti ettha padavāre padavāre dukkaṭaṃ. Mantentanti aññena saddhiṃ aññasmiṃ mantayamāne; ‘‘mantente’’ti vā pāṭho, ayamevattho.
471. Trong điều học thứ tám – Của những vụ tranh chấp đã phát sinh nghĩa là của những vụ tranh chấp cãi cọ phát sinh từ những sự xung đột này. Nghe lén nghĩa là gần chỗ nghe; nghĩa là ở nơi nào mà đứng đó có thể nghe được lời nói của họ. Đi thì phạm tội Tác Ác: ở đây, mỗi bước chân phạm tội Tác Ác. Khi họ đang bàn bạc nghĩa là khi người khác đang bàn bạc với một người khác nữa; hoặc có bản đọc là “mantente”, ý nghĩa cũng như vậy.

473.Vūpasamissāmīti upasamaṃ gamissāmi, kalahaṃ na karissāmi. Attānaṃ parimocessāmīti mama akārakabhāvaṃ kathetvā attānaṃ mocessāmi. Sesamettha uttānameva.
473. Tôi sẽ giải quyết nghĩa là tôi sẽ đi đến sự hòa giải, tôi sẽ không cãi cọ. Tôi sẽ tự giải thoát cho mình nghĩa là tôi sẽ nói rõ tình trạng không phải là người gây ra của mình rồi tự giải thoát cho mình. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Theyyasatthasamuṭṭhānaṃ – kāyacittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, siyā kiriyaṃ sotukāmatāya gamanavasena, siyā akiriyaṃ ṭhitaṭṭhānaṃ āgantvā mantayamānānaṃ ajānāpanavasena, rūpiyaṃ aññavādakaṃ upassutīti imāni hi tīṇi sikkhāpadāni ekaparicchedāni, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
Phát sinh từ việc đi cùng đoàn lữ hành trộm cắp – phát sinh từ thân-tâm và từ thân-lời-tâm; có thể là hành động do đi với ý muốn nghe, có thể là không hành động do không cho những người đến chỗ mình đứng bàn bạc biết; việc nghe lén người khác nói về tiền bạc – ba điều học này quả thực là cùng một loại; là sự giải thoát qua tưởng; có tác ý; là lỗi thế gian; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc tâm bất thiện; thuộc cảm thọ khổ.

Upassutisikkhāpadaṃ aṭṭhamaṃ.

Điều Học Về Việc Nghe Lén là thứ tám.

9. Kammapaṭibāhanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Chú Giải Điều Học Về Việc Cản Trở Tăng Sự

474. Navame – sace ca mayaṃ jāneyyāmāti sace mayaṃ jāneyyāma; cakāro pana nipātamattameva. Dhammikānanti dhammena vinayena satthusāsanena katattā dhammā etesu atthīti dhammikāni; tesaṃ dhammikānaṃ catunnaṃ saṅghakammānaṃ. Khiyyati āpatti pācittiyassāti ettha vācāya vācāya pācittiyaṃ . Sesaṃ uttānameva. Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
474. Trong điều học thứ chín – Và nếu chúng tôi biết nghĩa là nếu chúng tôi biết; còn chữ “ca” chỉ là một tiểu từ. Của những (Tăng sự) đúng Pháp: vì được thực hiện theo Pháp, theo Luật, theo lời dạy của bậc Đạo Sư, nên Pháp có trong những Tăng sự này, do đó chúng được gọi là đúng Pháp; (ám chỉ) bốn Tăng sự đúng Pháp đó. Chê bai thì phạm tội Ưng Đối Trị: ở đây, mỗi lời nói phạm một tội Ưng Đối Trị. Phần còn lại đã rõ ràng. Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc tâm bất thiện, thuộc cảm thọ khổ.

Kammapaṭibāhanasikkhāpadaṃ navamaṃ.

Điều Học Về Việc Cản Trở Tăng Sự là thứ chín.

10. Chandaṃadatvāgamanasikkhāpadavaṇṇanā

10. Chú Giải Điều Học Về Việc Ra Đi Mà Không Trao Sự Đồng Thuận

481. Dasame – vatthu vā ārocitanti codakena ca cuditakena ca attano kathā kathitā, anuvijjako sammato, ettāvatāpi vatthumeva ārocitaṃ hoti. Sesamettha uttānameva.
481. Trong điều học thứ mười – Hoặc sự việc đã được trình bày nghĩa là cả người tố cáo và người bị tố cáo đã trình bày câu chuyện của mình, người điều tra đã được chấp thuận, chừng đó cũng là sự việc đã được trình bày. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Dhuranikkhepasamuṭṭhānaṃ – kāyavācācittato samuṭṭhāti, kiriyākiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ , akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
Phát sinh từ việc đặt gánh nặng xuống – phát sinh từ thân-lời-tâm; là hành động và không hành động; là sự giải thoát qua tưởng; có tác ý; là lỗi thế gian; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc tâm bất thiện; thuộc cảm thọ khổ.

Chandaṃ adatvā gamanasikkhāpadaṃ dasamaṃ.

Điều Học Về Việc Ra Đi Mà Không Trao Sự Đồng Thuận là thứ mười.

11. Dubbalasikkhāpadavaṇṇanā

11. Chú Giải Điều Học Về Sự Yếu Đuối/Thiên Vị

484. Ekādasame – yathāmittatāti yathāmittatāya; yo yo mitto, tassa tassa detīti vuttaṃ hoti. Esa nayo sabbapadesu. Sesaṃ ujjhāpanakādīsu vuttanayattā uttānatthameva.
484. Trong điều học thứ mười một – Tùy theo tình bạn nghĩa là do tình bạn; ý nói là ai là bạn thì cho người đó. Cách này cũng áp dụng cho tất cả các trường hợp. Phần còn lại có ý nghĩa rõ ràng vì theo cách đã nói trong các điều học về việc làm cho phật ý v.v.

Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc tâm bất thiện, thuộc cảm thọ khổ.

Dubbalasikkhāpadaṃ ekādasamaṃ.

Điều Học Về Sự Yếu Đuối/Thiên Vị là thứ mười một.

12. Pariṇāmanasikkhāpadavaṇṇanā

12. Chú Giải Điều Học Về Việc Chuyển Hướng (Vật Dâng Cúng)

489. Dvādasame – yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ tiṃsake pariṇāmanasikkhāpade vuttanayameva. Ayameva hi viseso – tattha attano pariṇāmitattā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ, idha puggalassa pariṇāmitattā suddhikapācittiyanti.
489. Trong điều học thứ mười hai – những gì cần nói, tất cả đều theo cách đã nói trong điều học về việc chuyển hướng (vật dâng cúng) trong ba mươi điều Ưng Xả Đối Trị. Chỉ có sự khác biệt này – ở đó, do tự mình chuyển hướng nên phạm tội Ưng Xả Đối Trị, ở đây, do chuyển hướng cho cá nhân nên chỉ phạm tội Ưng Đối Trị thuần túy.

Tisamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, tivedananti.
Phát sinh từ ba nguồn – là hành động, là sự giải thoát qua tưởng, có tác ý, là lỗi thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời, thuộc tâm bất thiện, thuộc ba cảm thọ.

Pariṇāmanasikkhāpadaṃ dvādasamaṃ.

Điều Học Về Việc Chuyển Hướng (Vật Dâng Cúng) là thứ mười hai.

Samatto vaṇṇanākkamena sahadhammikavaggo aṭṭhamo.

Phẩm Về (Hành Động) Theo Đúng Pháp là thứ tám, đã hoàn tất theo thứ tự giải thích.

9. Ratanavaggo

9. Phẩm Về Bảo Vật

1. Antepurasikkhāpadavaṇṇanā

1. Chú Giải Điều Học Về Nội Cung

494. Rājavaggassa paṭhamasikkhāpade – orakoti parittako. Uparipāsādavaragatoti pāsādavarassa uparigato. Ayyānaṃ vāhasāti ayyānaṃ kāraṇā; tehi jānāpitattā jānāmīti vuttaṃ hoti.
494. Trong điều học đầu tiên của Phẩm Về Nhà Vua – Ít ỏi/nhỏ mọn nghĩa là không đáng kể. Lên trên lầu đài tốt đẹp nghĩa là đã đi lên trên lầu đài tốt đẹp. Do các bà chủ mách bảo nghĩa là vì lý do các bà chủ; ý nói là vì được các bà ấy cho biết nên tôi biết.

497.Pitaraṃ patthetīti antaraṃ passitvā ghātetuṃ icchati. Rājantepuraṃ hatthisammaddantiādīsu hatthīhi sammaddo etthāti hatthisammaddaṃ; hatthisambādhanti attho. Assarathasammaddapadepi eseva nayo. ‘‘Sammatta’’nti keci paṭhanti, taṃ na gahetabbaṃ. ‘‘Rañño antepure hatthisammadda’’ntipi pāṭho, tattha hatthīnaṃ sammaddaṃ hatthisammaddanti attho, rañño antepure hatthisammaddo atthīti vuttaṃ hoti. Esa nayo sesapadesupi. Rajanīyānīti tasmiṃ antepure edisāni rūpādīni.
497. Mong muốn (ám hại) vua cha nghĩa là thấy có cơ hội liền muốn giết. Trong nội cung của vua, (nơi) voi chen chúc v.v.: nơi voi chen chúc nghĩa là nơi voi chen chúc nhau ở đó; nghĩa là chỗ voi đông đúc. Đối với trường hợp ngựa và xe chen chúc cũng theo cách này. Một số người đọc là ‘sammattaṃ’, điều đó không nên chấp nhận. Cũng có bản đọc là “trong nội cung của vua, (nơi) voi chen chúc”, ở đó nghĩa là sự chen chúc của voi là nơi voi chen chúc; ý nói là trong nội cung của vua có sự chen chúc của voi. Cách này cũng áp dụng cho các trường hợp còn lại. Những thứ làm khởi lòng ham muốn nghĩa là những sắc v.v. như vậy ở trong nội cung đó.

498.Muddhāvasittassāti muddhani avasittassa. Anikkhanto rājā itoti anikkhantarājakaṃ, tasmiṃ anikkhantarājake; sayanighareti attho. Ratanaṃ vuccati mahesī, niggatanti nikkhantaṃ, aniggataṃ ratanaṃ itoti aniggataratanakaṃ, tasmiṃ aniggataratanake; sayanighareti attho. Sesamettha uttānameva.
498. Của vị đã làm lễ quán đảnh nghĩa là của vị đã được rưới nước lên đầu. Vua chưa đi ra khỏi đây nên gọi là nơi vua chưa đi khỏi, trong nơi vua chưa đi khỏi; nghĩa là trong phòng ngủ của vua. Bảo vật được gọi là hoàng hậu, đi ra gọi là xuất, bảo vật chưa đi ra khỏi đây nên gọi là nơi bảo vật chưa đi khỏi, trong nơi bảo vật chưa đi khỏi; nghĩa là trong phòng ngủ của hoàng hậu. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Kathinasamuṭṭhānaṃ – kāyavācato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyākiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Phát sinh từ Kathina – phát sinh từ thân-lời và từ thân-lời-tâm; là hành động và không hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Antepurasikkhāpadaṃ paṭhamaṃ.

Điều Học Về Nội Cung là thứ nhất.

2. Ratanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Chú Giải Điều Học Về Bảo Vật

502-3. Dutiye – vissaritvāti pamussitvā. Puṇṇapattaṃ nāma satato pañca kahāpaṇā. Kyāhaṃ karissāmīti kiṃ ahaṃ karissāmi. Ābharaṇaṃ omuñcitvāti mahālataṃ nāma navakoṭiagghanakaṃ alaṅkāraṃ apanetvā.
502-3. Trong điều học thứ hai – Đã quên nghĩa là đã đãng trí. Một túi đầy tiền là một trăm lẻ năm đồng kahāpaṇa. Tôi sẽ làm gì đây? nghĩa là tôi sẽ làm gì? Tháo đồ trang sức ra nghĩa là tháo bỏ đồ trang sức tên là Mahālatā trị giá chín mươi triệu.

504.Antevāsīti paricārako.
504. Đệ tử/người hầu cận nghĩa là người phục vụ.

506.Aparikkhittassa upacāroti ettha upacāro nāma ārāmassa dve leḍḍupātā – ‘‘āvasathassa pana suppapāto vā musalapāto vā’’ti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Uggaṇhāti āpatti pācittiyassāti ettha jātarūparajataṃ attano atthāya uggaṇhantassa vā uggaṇhāpentassa vā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ, saṅghagaṇapuggalacetiyanavakammānaṃ atthāya dukkaṭaṃ, avasesaṃ muttādiratanaṃ attano vā saṅghādīnaṃ vā atthāya uggaṇhantassa vā uggaṇhāpentassa vā dukkaṭaṃ. Kappiyavatthu vā akappiyavatthu vā hotu, antamaso mātu kaṇṇapiḷandhanatāḷapaṇṇampi gihisantakaṃ bhaṇḍāgārikasīsena paṭisāmentassa pācittiyameva.
506. Phạm vi phụ cận của nơi không có rào: ở đây, phạm vi phụ cận của một tu viện là khoảng cách bằng hai lần ném cục đất – trong Đại Chú Giải có nói: “còn đối với nhà ở thì là khoảng cách bằng một lần rơi của cái nia hoặc một lần rơi của cái chày”. Nhặt lên thì phạm tội Ưng Đối Trị: ở đây, nếu nhặt vàng bạc vì lợi ích của bản thân hoặc bảo người khác nhặt, thì phạm tội Ưng Xả Đối Trị; nếu vì lợi ích của Tăng chúng, nhóm Tỳ khưu, cá nhân, bảo tháp, công trình mới, thì phạm tội Tác Ác; đối với các bảo vật còn lại như ngọc trai v.v., nếu nhặt hoặc bảo người khác nhặt vì lợi ích của bản thân hoặc của Tăng chúng v.v., thì phạm tội Tác Ác. Dù là vật hợp lệ hay không hợp lệ, thậm chí là chiếc hoa tai bằng lá thốt nốt của mẹ, nếu là vật sở hữu của người tại gia mà Tỳ khưu cất giữ với tư cách người quản lý kho tàng, cũng phạm tội Ưng Đối Trị.

Sace pana mātāpitūnaṃ santakaṃ avassaṃ paṭisāmetabbaṃ kappiyabhaṇḍaṃ hoti, attano atthāya gahetvā paṭisāmetabbaṃ. ‘‘Idaṃ paṭisāmetvā dehī’’ti vutte pana ‘‘na vaṭṭatī’’ti paṭikkhipitabbaṃ. Sace ‘‘paṭisāmehī’’ti pātetvā gacchanti, palibodho nāma hoti, paṭisāmetuṃ vaṭṭati. Vihāre kammaṃ karontā vaḍḍhakīādayo vā rājavallabhā vā attano upakaraṇabhaṇḍaṃ vā sayanabhaṇḍaṃ vā ‘‘paṭisāmetvā dethā’’ti vadanti, chandenapi bhayenapi na kātabbameva, guttaṭṭhānaṃ pana dassetuṃ vaṭṭati. Balakkārena pātetvā gatesu ca paṭisāmetuṃ vaṭṭati.
Tuy nhiên, nếu vật sở hữu của cha mẹ là đồ dùng hợp lệ cần phải được cất giữ, thì nên tự mình nhận lấy rồi cất giữ. Nhưng nếu được yêu cầu: “Hãy cất giữ vật này giùm”, thì nên từ chối rằng: “Không được phép”. Nếu họ đặt xuống rồi bỏ đi với lời nhắn: “Hãy cất giữ giùm”, thì đó trở thành sự ràng buộc, được phép cất giữ. Nếu những người thợ mộc v.v. đang làm việc trong tu viện hoặc những người thân cận với vua nói: “Xin hãy cất giữ giùm đồ dùng hoặc giường ghế của chúng tôi”, thì dù do muốn hay do sợ hãi cũng không nên làm; tuy nhiên, được phép chỉ cho họ một nơi cất giữ an toàn. Và trong trường hợp họ đặt xuống rồi bỏ đi một cách ép buộc, thì được phép cất giữ.

Ajjhārāme vā ajjhāvasathe vāti ettha sace mahāvihārasadiso mahārāmo hoti, tattha pākāraparikkhitte pariveṇe yattha bhikkhūhi vā sāmaṇerehi vā gahitaṃ bhavissatīti saṅkā uppajjati, tādise eva ṭhāne uggaṇhitvā vā uggaṇhāpetvā vā ṭhapetabbaṃ. Mahābodhidvārakoṭṭhakaambaṅgaṇasadisesu pana mahājanasañcaraṇaṭṭhānesu na gahetabbaṃ, palibodho na hoti. Kurundiyaṃ pana vuttaṃ ‘‘eko maggaṃ gacchanto nimanussaṭṭhāne kiñci bhaṇḍaṃ passati, ākiṇṇamanussepi jāte manussā tameva bhikkhuṃ āsaṅkanti, tasmā maggā okkamma nisīditabbaṃ. Sāmikesu āgatesu taṃ ācikkhitabbaṃ. Sace sāmike na passati patirūpaṃ karissatī’’ti.
Trong tu viện hoặc trong nhà ở: ở đây, nếu là một tu viện lớn như Đại Tự, trong khuôn viên có tường rào bao quanh, nơi nào có nghi ngờ rằng các Tỳ khưu hoặc Sa di có thể đã nhặt rồi, thì chỉ ở những nơi như vậy mới được nhặt lên hoặc bảo người khác nhặt rồi cất giữ. Còn ở những nơi có nhiều người qua lại như cổng chùa Đại Bồ Đề, sân xoài, thì không nên nhặt, không có sự ràng buộc. Nhưng trong Chú giải Kurundī có nói: “Một người đi đường thấy một vật gì đó ở nơi không có người, nhưng khi có đông người qua lại, người ta sẽ nghi ngờ chính Tỳ khưu đó, do đó nên tránh khỏi đường mà ngồi xuống. Khi chủ nhân đến thì báo cho họ biết. Nếu không thấy chủ nhân thì sẽ xử lý một cách thích hợp.”

Rūpena vā nimittena vā saññāṇaṃ katvāti ettha rūpaṃ nāma antobhaṇḍikāya bhaṇḍaṃ; tasmā bhaṇḍikaṃ muñcitvā gaṇetvā ettakā kahāpaṇā vā jātarūparajataṃ vāti sallakkhetabbaṃ. Nimittanti lañchanādi; tasmā lañchitāya bhaṇḍikāya mattikālañchananti vā lākhālañchananti vā nīlapilotikāya bhaṇḍikā katāti vā setapilotikāya katāti vā evamādi sabbaṃ sallakkhetabbaṃ.
Làm dấu bằng hình dạng hoặc bằng đặc điểm: ở đây, “hình dạng” là vật ở bên trong gói đồ; do đó, phải mở gói đồ ra, đếm xem có bao nhiêu đồng kahāpaṇa hoặc vàng bạc rồi ghi nhớ. Đặc điểm là dấu niêm phong v.v.; do đó, phải ghi nhớ tất cả như: gói đồ được niêm phong bằng đất sét hay bằng cánh kiến, gói đồ được làm bằng vải xanh hay bằng vải trắng, v.v.

Bhikkhū patirūpāti lajjino kukkuccakā. Lolajātikānañhi hatthe ṭhapetuṃ na labhati. Yo pana neva tamhā āvāsā pakkamati, na sāmike passati, tenāpi attano cīvarādimūlaṃ na kātabbaṃ; thāvaraṃ pana senāsanaṃ vā cetiyaṃ vā pokkharaṇī vā kāretabbā. Sace dīghassa addhuno accayena sāmiko āgacchati, ‘‘upāsaka tava santakena idaṃ nāma kataṃ, anumodāhī’’ti vattabbo. Sace anumodati, iccetaṃ kusalaṃ; no ce anumodati, ‘‘mama dhanaṃ dethā’’ti codetiyeva, aññaṃ samādapetvā dātabbaṃ.
Các Tỳ khưu thích hợp nghĩa là những người có hổ thẹn, hay hối lỗi. Quả thực không được phép đặt vào tay những người có tính tham lam. Còn người nào không rời khỏi trú xứ đó, cũng không thấy chủ nhân, thì cũng không được dùng vật đó làm vốn cho y v.v. của mình; nhưng có thể dùng để làm những thứ cố định như chỗ ở, bảo tháp, hoặc hồ nước. Nếu sau một thời gian dài chủ nhân đến, phải nói: “Này cư sĩ, vật này đã được làm bằng của cải của ông, xin hãy tùy hỷ”. Nếu người đó tùy hỷ, thì đó là điều tốt; nếu không tùy hỷ mà cứ đòi: “Hãy trả lại tiền cho tôi”, thì phải tìm cách khác đền bù lại.

507.Ratanasammataṃvissāsaṃ gaṇhātītiādīsu āmāsameva sandhāya vuttaṃ. Anāmāsaṃ na vaṭṭatiyeva. Sesamettha uttānameva. Chasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
507. Nhận lấy vật được coi là bảo vật với sự tin cậy v.v.: điều này được nói nhắm đến trường hợp có thể chạm vào. Trường hợp không thể chạm vào thì hoàn toàn không được phép. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ sáu nguồn – là hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Ratanasikkhāpadaṃ dutiyaṃ.

Điều Học Về Bảo Vật là thứ hai.

3. Vikālagāmappavisanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Chú Giải Điều Học Về Việc Vào Làng Phi Thời

508. Tatiye – tiracchānakathanti ariyamaggassa tiracchānabhūtaṃ kathaṃ. Rājakathanti rājapaṭisaṃyutta kathaṃ. Corakathādīsupi eseva nayo.
508. Trong điều học thứ ba – Chuyện thế gian/ngang trái nghĩa là câu chuyện làm chướng ngại cho Thánh đạo. Chuyện vua chúa nghĩa là câu chuyện liên quan đến vua chúa. Đối với chuyện trộm cướp v.v. cũng theo cách này.

512.Santaṃ bhikkhunti ettha yaṃ vattabbaṃ , taṃ cārittasikkhāpade vuttameva. Sace sambahulā kenaci kammena gāmaṃ pavisanti, ‘‘vikāle gāmappavesanaṃ āpucchāmī’’ti sabbehi aññamaññaṃ āpucchitabbaṃ. Tasmiṃ gāme taṃ kammaṃ na sampajjatīti aññaṃ gāmaṃ gacchanti, gāmasatampi hotu, puna āpucchanakiccaṃ natthi. Sace pana ussāhaṃ paṭippassambhetvā vihāraṃ gacchantā antarā aññaṃ gāmaṃ pavisitukāmā honti, puna āpucchitabbameva.
512. Vị Tỳ khưu có mặt: ở đây, những gì cần nói thì đã được nói trong điều học về thông lệ (đi khất thực). Nếu nhiều Tỳ khưu cùng vào làng vì một Tăng sự nào đó, tất cả phải hỏi xin phép lẫn nhau rằng: “Tôi xin phép vào làng phi thời”. Nếu Tăng sự đó không thành tựu ở làng ấy, họ đi đến làng khác, dù có đến cả trăm làng, cũng không cần phải xin phép lại. Nhưng nếu sau khi đã từ bỏ nỗ lực (làm Tăng sự đó) mà trở về tu viện, rồi giữa đường lại muốn vào một làng khác, thì phải xin phép lại.

Kulaghare vā āsanasālāya vā bhattakiccaṃ katvā telabhikkhāya vā sappibhikkhāya vā caritukāmo hoti, sace passe bhikkhu atthi, āpucchitvā gantabbaṃ. Asante natthīti gantabbaṃ. Vīthiṃ otaritvā bhikkhuṃ passati, āpucchanakiccaṃ natthi, anāpucchitvāpi caritabbameva. Gāmamajjhena maggo hoti, tena gacchantassa telādibhikkhāya carissāmīti citte uppanne sace passe bhikkhu atthi, āpucchitvā caritabbaṃ. Maggā anokkamma bhikkhāya carantassa pana āpucchanakiccaṃ natthi, aparikkhittassa gāmassa upacāro adinnādāne vuttanayeneva veditabbo.
Sau khi đã làm xong phận sự về bữa ăn ở nhà cư sĩ hoặc nhà hội, nếu muốn đi xin dầu hoặc bơ lỏng, nếu có Tỳ khưu ở bên cạnh, phải xin phép rồi mới đi. Nếu không có ai thì cứ đi, không cần (xin phép). Sau khi đã xuống đường mà thấy một Tỳ khưu, không cần phải xin phép, dù không xin phép cũng được phép đi. Nếu có con đường đi xuyên qua giữa làng, người đang đi trên đó mà khởi tâm “tôi sẽ đi xin dầu v.v.”, nếu có Tỳ khưu ở bên cạnh, phải xin phép rồi mới đi. Còn người đi khất thực mà không rẽ khỏi đường thì không cần phải xin phép; phạm vi phụ cận của một ngôi làng không có rào phải được hiểu theo cách đã nói trong điều học về việc lấy của không cho.

515.Antarārāmantiādīsu na kevalaṃ anāpucchā kāyabandhanaṃ abandhitvā saṅghāṭiṃ apārupitvā gacchantassapi anāpatti. Āpadāsūti sīho vā byaggho vā āgacchati, megho vā uṭṭheti, añño vā koci upaddavo uppajjati, anāpatti. Evarūpāsu āpadāsu bahigāmato antogāmaṃ pavisituṃ vaṭṭati. Sesamettha uttānameva.
515. Tu viện ở trong (làng) v.v.: không chỉ không xin phép, mà ngay cả người đi không thắt dây lưng, không đắp y Tăng-già-lê cũng không phạm tội. Trong các trường hợp nguy hiểm: nếu sư tử hoặc cọp đến, hoặc trời nổi mây (báo mưa), hoặc có một sự nguy hiểm nào khác phát sinh, thì không phạm tội. Trong những trường hợp nguy hiểm như vậy, được phép đi từ ngoài làng vào trong làng. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Kathinasamuṭṭhānaṃ – kāyavācato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyākiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Phát sinh từ Kathina – phát sinh từ thân-lời và từ thân-lời-tâm; là hành động và không hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Vikālagāmappavisanasikkhāpadaṃ tatiyaṃ.

Điều Học Về Việc Vào Làng Phi Thời là thứ ba.

4. Sūcigharasikkhāpadavaṇṇanā

4. Chú Giải Điều Học Về Hộp Kim

517-20. Catutthe – bhedanameva bhedanakaṃ; taṃ assa atthīti bhedanakameva. Araṇiketi araṇidhanuke. Vidheti vedhake. Sesamettha uttānameva. Chasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
517-20. Trong điều học thứ tư – Việc làm vỡ chính là vật làm vỡ; vật đó có tính chất làm vỡ nên chính là vật làm vỡ. Trong ống đựng kim nghĩa là trong ống đựng kim hình cung tên làm bằng que tạo lửa. Cái xuyên nghĩa là vật để xỏ/xuyên. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ sáu nguồn – là hành động; không phải giải thoát qua tưởng; không có tác ý; là tội do quy định; là nghiệp của thân; nghiệp của lời; thuộc ba tâm; thuộc ba cảm thọ.

Sūcigharasikkhāpadaṃ catutthaṃ.

Điều Học Về Hộp Kim là thứ tư.

5. Mañcasikkhāpadavaṇṇanā

5. Chú Giải Điều Học Về Giường

522. Pañcame – chedanakaṃ vuttanayameva.
522. Trong điều học thứ năm – Việc cắt thì theo cách đã nói.

525.Chinditvā paribhuñjatīti ettha sace na chinditukāmo hoti, bhūmiyaṃ nikhaṇitvā pamāṇaṃ upari dasseti, uttānaṃ vā katvā paribhuñjati, ukkhipitvā vā tulāsaṅghāṭe ṭhapetvā aṭṭaṃ katvā paribhuñjati, sabbaṃ vaṭṭati. Sesamettha uttānameva. Chasamuṭṭhānaṃ.
525. Cắt rồi dùng: ở đây, nếu không muốn cắt, thì đào xuống đất rồi để lộ phần trên đúng kích thước, hoặc lật ngửa lên mà dùng, hoặc nhấc lên đặt trên các thanh ngang của khung giường rồi làm thành cái sàn mà dùng, tất cả đều được phép. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ sáu nguồn.

Mañcasikkhāpadaṃ pañcamaṃ.

Điều Học Về Giường là thứ năm.

6. Tūlonaddhasikkhāpadavaṇṇanā

6. Chú Giải Điều Học Về (Giường/Ghế) Nhồi Bông Gòn

526. Chaṭṭhe – tūlaṃ onaddhametthāti tūlonaddhaṃ; tūlaṃ pakkhipitvā upari cimilikāya onaddhanti vuttaṃ hoti. Sesamettha uttānameva. Chasamuṭṭhānaṃ.
526. Trong điều học thứ sáu – Bông gòn được nhồi vào đây nên gọi là (giường/ghế) nhồi bông gòn; ý nói là bỏ bông gòn vào rồi dùng vải bọc phủ lên trên. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ sáu nguồn.

Tūlonaddhasikkhāpadaṃ chaṭṭhaṃ.

Điều Học Về (Giường/Ghế) Nhồi Bông Gòn là thứ sáu.

7. Nisīdanasikkhāpadavaṇṇanā

7. Chú Giải Điều Học Về Tấm Lót Ngồi

531-4. Sattame – nisīdanaṃ anuññātaṃ hotīti kattha anuññātaṃ? Cīvarakkhandhake paṇītabhojanavatthusmiṃ. Vuttañhi tattha – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, kāyaguttiyā cīvaraguttiyā senāsanaguttiyā nisīdana’’nti (mahāva. 353). Seyyathāpi purāṇāsikoṭṭhoti yathā nāma purāṇacammakāroti attho. Yathā hi cammakāro cammaṃ vitthataṃ karissāmīti ito cito ca samañchati, kaḍḍhati; evaṃ sopi taṃ nisīdanaṃ. Tena taṃ bhagavā evamāha – ‘‘nisīdanaṃ nāma sadasaṃ vuccatī’’ti santhatasadisaṃ santharitvā ekasmiṃ ante sugatavidatthiyā vidatthimatte padese dvīsu ṭhānesu phāletvā tisso dasā kariyanti, tāhi dasāhi sadasaṃ nāma vuccati. Sesamettha uttānameva. Chasamuṭṭhānaṃ.
531-4. Trong điều học thứ bảy – Tấm lót ngồi đã được cho phép: Được cho phép ở đâu? Trong Chương Về Y, trong sự việc liên quan đến thực phẩm thượng hạng. Vì ở đó đã nói: “Này các Tỳ khưu, Ta cho phép dùng tấm lót ngồi để bảo vệ thân, bảo vệ y, bảo vệ chỗ ở.” (mahāva. 353). Ví như người thợ da cũ kỹ nghĩa là ví như một người thợ da cũ. Ví như người thợ da muốn làm cho tấm da được phẳng rộng ra liền kéo căng, giằng qua giằng lại; vị ấy cũng làm như vậy với tấm lót ngồi đó. Do đó, Đức Thế Tôn đã nói về tấm lót ngồi đó như sau: “Tấm lót ngồi được gọi là có tua rua” nghĩa là tấm lót được trải ra giống như tấm thảm, ở một đầu, tại một chỗ có chiều ngang bằng một gang tay của Đức Phật, người ta rạch làm hai đường để tạo thành ba tua rua; do có những tua rua đó mà nó được gọi là có tua rua. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ sáu nguồn.

Nisīdanasikkhāpadaṃ sattamaṃ.

Điều Học Về Tấm Lót Ngồi là thứ bảy.

8. Kaṇḍupaṭicchādisikkhāpadavaṇṇanā

8. Chú Giải Điều Học Về Khăn Che Ghẻ Ngứa

537. Aṭṭhame – kaṇḍupaṭicchādi anuññātā hotīti kattha anuññātā? Cīvarakkhandhake belaṭṭhasīsavatthusmiṃ. Vuttañhi tattha – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, yassa kaṇḍu vā piḷakā vā assāvo vā thullakacchu vā ābādho tassa kaṇḍupaṭicchādi’’nti (mahāva. 354).
537. Trong điều học thứ tám – Khăn che ghẻ ngứa đã được cho phép: Được cho phép ở đâu? Trong Chương Về Y, trong sự việc liên quan đến Trưởng lão Belaṭṭhasīsa. Vì ở đó đã nói: “Này các Tỳ khưu, Ta cho phép dùng khăn che ghẻ ngứa cho người nào bị ngứa, hoặc có mụn nhọt, hoặc có mủ chảy ra, hoặc bị ghẻ lở nặng, hoặc có bệnh.” (mahāva. 354).

539.Yassa adhonābhi ubbhajāṇumaṇḍalanti yassa bhikkhuno nābhiyā heṭṭhā jāṇumaṇḍalānaṃ upari. Kaṇḍūti kacchu. Piḷakāti lohitatuṇḍikā sukhumapiḷakā. Assāvoti arisabhagandaramadhumehādīnaṃ vasena asucipaggharaṇakaṃ. Thullakacchu vā ābādhoti mahāpiḷakābādho vuccati. Sesamettha uttānameva. Chasamuṭṭhānaṃ.
539. Của người nào (bị bệnh) từ dưới rốn đến trên đầu gối nghĩa là của Tỳ khưu nào (bị bệnh) ở phần dưới rốn và trên hai đầu gối. Ngứa là ghẻ. Mụn nhọt là mụn đầu đỏ, mụn nhọt nhỏ. Mủ chảy ra là sự chảy mủ do bệnh trĩ, bệnh rò hậu môn, bệnh tiểu đường, v.v. Ghẻ lở nặng hoặc bệnh được gọi là bệnh mụn nhọt lớn. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ sáu nguồn.

Kaṇḍupaṭicchādisikkhāpadaṃ aṭṭhamaṃ.

Điều Học Về Khăn Che Ghẻ Ngứa là thứ tám.

9. Vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā

9. Chú Giải Điều Học Về Y Đi Mưa

542. Navame – vassikasāṭikā anuññātā hotīti kattha anuññātā? Cīvarakkhandhake visākhāvatthusmiṃ. Vuttañhi tattha – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, vassikasāṭika’’nti (mahāva. 352). Sesamettha uttānameva. Chasamuṭṭhānaṃ.
542. Trong điều học thứ chín – Y đi mưa đã được cho phép: Được cho phép ở đâu? Trong Chương Về Y, trong sự việc liên quan đến bà Visākhā. Vì ở đó đã nói: “Này các Tỳ khưu, Ta cho phép dùng y đi mưa.” (mahāva. 352). Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Phát sinh từ sáu nguồn.

Vassikasāṭikasikkhāpadaṃ navamaṃ.

Điều Học Về Y Đi Mưa là thứ chín.

10. Nandattherasikkhāpadavaṇṇanā

10. Chú Giải Điều Học Về Trưởng Lão Nanda

547. Dasame – caturaṅgulomakoti catūhi aṅgulehi ūnakappamāṇo. Sesaṃ uttānameva. Chasamuṭṭhānaṃ.
547. Trong điều học thứ mười – Thiếu bốn lóng tay nghĩa là thiếu bốn lóng tay so với kích thước hợp lệ. Phần còn lại đã rõ ràng. Phát sinh từ sáu nguồn.

Nandattherasikkhāpadaṃ dasamaṃ.

Điều Học Về Trưởng Lão Nanda là thứ mười.

Samatto vaṇṇanākkamena ratanavaggo navamo.

Phẩm Về Bảo Vật là thứ chín, đã hoàn tất theo thứ tự giải thích.

Uddiṭṭhā khotiādi vuttanayamevāti.
(Đầu đề) Đã được tụng đọc v.v. là theo cách đã nói.

Samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāya

Trong bộ Samantapāsādikā, Chú Giải Luật Tạng

Khuddakavaṇṇanā samattā.

Phần Chú Giải Tiểu Phẩm đã hoàn tất.

Pācittiyakaṇḍaṃ niṭṭhitaṃ.

Phần Tội Ưng Đối Trị đã kết thúc.

Exit mobile version