Chú giải Tạng Luật

Chú Giải Tạng Luật – Phẩm Pācittiya – Chương Ưng Học Pháp

7. Sekhiyakaṇḍaṃ

7. Chương Ưng Học Pháp

1. Parimaṇḍalavaggavaṇṇanā

1. Giải Thích Phẩm Vận Y Kín Đáo

Yāni sikkhitasikkhena, sekhiyānīti tādinā;
Bhāsitāni ayaṃ dāni, tesampi vaṇṇanākkamo.
Những điều nào được gọi là các pháp cần học, do bậc đã thuần thục các học giới, bậc Như Lai, thuyết giảng;
nay đây là thứ tự giải thích của chính những pháp ấy.

576. Tattha parimaṇḍalanti samantato maṇḍalaṃ. Nābhimaṇḍalaṃ jāṇumaṇḍalanti uddhaṃ nābhimaṇḍalaṃ adho jāṇumaṇḍalaṃ paṭicchādentena jāṇumaṇḍalassa heṭṭhā jaṅghaṭṭhikato paṭṭhāya aṭṭhaṅgulamattaṃ nivāsanaṃ otāretvā nivāsetabbaṃ, tato paraṃ otārentassa dukkaṭanti vuttaṃ. Yathā nisinnassa jāṇumaṇḍalato heṭṭhā caturaṅgulamattaṃ paṭicchannaṃ hotīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ; evaṃ nivāsentassa pana nivāsanaṃ pamāṇikaṃ vaṭṭati. Tatridaṃ pamāṇaṃ – dīghato muṭṭhipañcakaṃ, tiriyaṃ aḍḍhateyyahatthaṃ. Tādisassa pana alābhe tiriyaṃ dvihatthapamāṇampi vaṭṭati jāṇumaṇḍalapaṭicchādanatthaṃ, nābhimaṇḍalaṃ pana cīvarenāpi sakkā paṭicchādetunti. Tattha ekapaṭṭacīvaraṃ evaṃ nivatthampi nivatthaṭṭhāne na tiṭṭhati, dupaṭṭaṃ pana tiṭṭhati.
576. Trong ấy, vận y kín đáo nghĩa là tròn đều khắp xung quanh. Câu vùng rốn và vùng đầu gối nghĩa là phải mặc y nội sao cho phía trên che vùng rốn, phía dưới che vùng đầu gối, và y nội phải được để rũ xuống khoảng tám ngón tay kể từ xương ống chân bên dưới vùng đầu gối. Người mặc y rũ xuống quá mức đó thì được nói là phạm tội tác ác. Trong Đại Chú Giải có nói rằng, khi ngồi xuống, phần dưới đầu gối phải được che khoảng bốn ngón tay; đối với người mặc như vậy, y nội được xem là đúng kích thước. Kích thước của y đó là: chiều dài năm nắm tay, chiều rộng hai thước rưỡi. Nhưng nếu không có y như vậy, y có chiều rộng hai thước cũng được phép dùng để che vùng đầu gối, còn vùng rốn thì có thể che bằng thượng y. Trong trường hợp đó, y một lớp dù được mặc như thế cũng không giữ nguyên vị trí, nhưng y hai lớp thì giữ nguyên.

Olambento nivāseti āpatti dukkaṭassāti ettha na kevalaṃ purato ca pacchato ca olambetvā nivāsentasseva dukkaṭaṃ, ye panaññe ‘‘tena kho pana samayena chabbaggiyā bhikkhū gihinivatthaṃ nivāsenti hatthisoṇḍakaṃ macchavālakaṃ catukkaṇṇakaṃ tālavaṇṭakaṃ satavalikaṃ nivāsentī’’tiādinā (cūḷava. 280) nayena khandhake nivāsanadosā vuttā, tathā nivāsentassāpi dukkaṭameva. Te sabbe vuttanayena parimaṇḍalaṃ nivāsentassa na honti. Ayamettha saṅkhepo, vitthārato pana tattheva āvi bhavissati.
Về câu Mặc y trễ xuống thì phạm tội tác ác, không chỉ người mặc y trễ xuống phía trước và phía sau mới phạm tội tác ác, mà cả những ai mặc y theo các kiểu sai quy cách khác đã được nêu trong các thiên của Tiểu Phẩm (280), như: ‘Lúc bấy giờ, nhóm sáu vị tỳ khưu mặc y theo kiểu người thế tục: kiểu vòi voi, kiểu đuôi cá, kiểu bốn góc, kiểu lá cọ, kiểu trăm nếp gấp,’ thì cũng đều phạm tội tác ác. Tất cả những lỗi ấy sẽ không xảy ra đối với người mặc y kín đáo theo cách đã được trình bày. Đây là phần tóm lược, còn phần chi tiết sẽ được làm rõ ở chính đoạn văn đó (trong Tiểu Phẩm).

Asañciccāti purato vā pacchato vā olambetvā nivāsessāmīti evaṃ asañcicca; atha kho parimaṇḍalaṃyeva nivāsessāmīti virajjhitvā aparimaṇḍalaṃ nivāsentassa anāpatti. Assatiyāti aññavihitassāpi tathā nivāsentassa anāpatti. Ajānantassāti ettha nivāsanavattaṃ ajānantassa mokkho natthi. Nivāsanavattañhi sādhukaṃ uggahetabbaṃ, tassa anuggahaṇamevassa anādariyaṃ. Taṃ pana sañcicca anuggaṇhantassa yujjati, tasmā uggahitavattopi yo āruḷhabhāvaṃ vā oruḷhabhāvaṃ vā na jānāti, tassa anāpatti. Kurundiyaṃ pana ‘‘parimaṇḍalaṃ nivāsetuṃ ajānantassa anāpattī’’ti vuttaṃ. Yo pana sukkhajaṅgho vā mahāpiṇḍikamaṃso vā hoti, tassa sāruppatthāya jāṇumaṇḍalato aṭṭhaṅgulādhikampi otāretvā nivāsetuṃ vaṭṭati.
Không cố ý nghĩa là không có ý định ‘Ta sẽ mặc y trễ xuống ở phía trước hoặc phía sau’; mà là, người đã cố gắng mặc y cho kín đáo nhưng không được, rồi mặc y không kín đáo (do sơ suất), thì không phạm tội. Do thất niệm nghĩa là người đang bận tâm việc khác mà mặc y như vậy (không kín đáo) cũng không phạm tội. Về trường hợp Do không biết, người không biết phận sự về cách mặc y thì không được miễn trừ phạm tội. Phận sự về cách mặc y phải được học hỏi kỹ lưỡng, việc không học hỏi điều đó chính là sự xem thường. Việc phạm tội đó là hợp lý đối với người cố ý không học hỏi. Do đó, ngay cả người đã học phận sự về cách mặc y, nhưng không biết (không nhận ra) y bị (vô ý) kéo lên hay tuột xuống, thì không phạm tội. Tuy nhiên, trong Chú giải Kurundī có nói: ‘Người không biết cách mặc y cho kín đáo thì không phạm tội’. Còn người nào có ống chân khẳng khiu hoặc bắp chân to, để cho thích hợp, vị ấy được phép mặc y rũ xuống hơn tám ngón tay tính từ dưới đầu gối.

Gilānassāti jaṅghāya vā pāde vā vaṇo hoti, ukkhipitvā vā otāretvā vā nivāsetuṃ vaṭṭati. Āpadāsūti vāḷamigā vā corā vā anubandhanti, evarūpāsu āpadāsu anāpatti. Sesamettha uttānameva.
Đối với người bệnh: nếu có vết thương ở ống chân hoặc ở bàn chân, vị ấy được phép mặc y kéo lên hoặc rũ xuống (hơn mức quy định). Trong các trường hợp nguy hiểm: ví như bị thú dữ hoặc trộm cướp rượt đuổi, trong những trường hợp nguy hiểm như vậy thì không phạm tội (nếu mặc y không đúng cách). Các điểm còn lại ở đây đã rõ ràng.

Paṭhamapārājikasamuṭṭhānaṃ – kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti. Phussadevatthero ‘‘acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, tivedana’’nti āha. Upatissatthero pana ‘‘anādariyaṃ paṭiccā’’ti vuttattā ‘‘lokavajjaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedana’’nti āha.
Sự phát sinh của tội này giống như tội Bất Cộng Trụ đầu tiên: là hành động, được miễn trừ do nhận thức sai (nếu có), có tâm cố ý, bị thế gian chê cười, là hành động của thân, với tâm bất thiện, và cảm giác khó chịu. Trưởng lão Phussadeva nói: ‘Không cần có tâm (vẫn phạm), là tội do chế định, và có ba loại cảm thọ (khi phạm).’ Còn Trưởng lão Upatissa, vì có nói ‘do sự coi thường’, nên ngài cho rằng: ‘Là tội bị thế gian chê cười, với tâm bất thiện, và cảm giác khó chịu’.

577.Parimaṇḍalaṃ pārupitabbanti ‘‘tena kho pana samayena chabbaggiyā bhikkhū gihipārutaṃ pārupantī’’ti (cūḷava. 280) evaṃ vuttaṃ anekappakāraṃ gihipārupanaṃ apārupitvā idha vuttanayeneva ubho kaṇṇe samaṃ katvā pārupanavattaṃ pūrentena parimaṇḍalaṃ pārupitabbaṃ. Imāni ca dve sikkhāpadāni avisesena vuttāni. Tasmā vihārepi antaragharepi parimaṇḍalameva nivāsetabbañca pārupitabbañcāti. Samuṭṭhānādīni paṭhamasikkhāpade vuttanayeneva veditabbāni saddhiṃ theravādena.
577. Câu Phải đắp y cho kín đáo nghĩa là: không được đắp y theo nhiều kiểu của người thế tục như đã được đề cập (trong Tiểu Phẩm, 280): ‘Lúc bấy giờ, nhóm sáu vị tỳ khưu đắp y theo kiểu người thế tục,’ mà phải đắp y cho kín đáo theo cách đã được trình bày ở đây, tức là làm cho hai mép y bằng nhau, hoàn thành phận sự về cách đắp y. Hai học giới này được nói đến một cách không phân biệt (hoàn cảnh, tức áp dụng chung cho mọi nơi). Do đó, dù ở trong tu viện hay trong nhà dân (khi đi khất thực), đều phải mặc y nội và đắp y cho thật kín đáo. Các vấn đề về sự phát sinh tội và những điểm khác cần được hiểu theo cách đã trình bày ở học giới thứ nhất, cùng với các quan điểm của các vị Trưởng lão.

578.Kāyaṃ vivaritvāti jattumpi urampi vivaritvā. Suppaṭicchannenāti na sasīsaṃ pārutena; atha kho gaṇṭhikaṃ paṭimuñcitvā anuvātantena gīvaṃ paṭicchādetvā ubho kaṇṇe samaṃ katvā paṭisaṃharitvā yāva maṇibandhaṃ paṭicchādetvā antaraghare gantabbaṃ. Dutiyasikkhāpade – galavāṭakato paṭṭhāya sīsaṃ maṇibandhato paṭṭhāya hatthe piṇḍikamaṃsato ca paṭṭhāya pāde vivaritvā nisīditabbaṃ.
578. Câu Để hở thân nghĩa là để hở cả xương đòn (vai) và ngực. Câu Phải che đậy kỹ lưỡng nghĩa là: không phải đắp y trùm đầu; mà là, phải cài nút giữ y, để y xuôi theo chiều gió (không để bay phất phơ), che cổ, làm cho hai mép y bằng nhau, kéo y lại cho gọn gàng, che cho đến cổ tay, rồi mới đi vào nhà dân. Trong học giới thứ hai (về việc ngồi trong nhà dân phải che đậy kỹ lưỡng): khi ngồi, đầu kể từ vòng cổ trở lên, tay kể từ cổ tay trở ra, và bàn chân kể từ bắp chân trở xuống, (những phần này) có thể để hở.

579.Vāsūpagatassāti vāsatthāya upagatassa rattibhāge vā divasabhāge vā kāyaṃ vivaritvāpi nisīdato anāpatti.
579. (Trường hợp) người đã đến nơi ở (hoặc đang ở tại trú xứ) nghĩa là: người đã đến để ở, dù vào ban đêm hay ban ngày, nếu ngồi để hở thân (tại nơi riêng tư của mình) cũng không phạm tội.

580.Susaṃvutoti hatthaṃ vā pādaṃ vā akīḷāpento; suvinītoti attho.
580. (Từ) khéo thu thúc nghĩa là không vung vẩy tay hoặc chân; nghĩa là khéo chế ngự (các giác quan).

582.Okkhittacakkhūti heṭṭhā khittacakkhu hutvā. Yugamattaṃ pekkhamānoti yugayuttako hi danto ājāneyyo yugamattaṃ pekkhati, purato catuhatthappamāṇaṃ bhūmibhāgaṃ; imināpi ettakaṃ pekkhantena gantabbaṃ. Yo anādariyaṃ paṭicca tahaṃ tahaṃ olokentoti yo taṃtaṃdisābhāgaṃ pāsādaṃ kūṭāgāraṃ vīthiṃ olokento gacchati, āpatti dukkaṭassa. Ekasmiṃ pana ṭhāne ṭhatvā hatthiassādiparissayābhāvaṃ oloketuṃ vaṭṭati. Nisīdantenāpi okkhittacakkhunāva nisīditabbaṃ.
582. (Cụm từ) mắt nhìn xuống nghĩa là có mắt hướng xuống dưới. (Cụm từ) nhìn khoảng một tầm ách nghĩa là: con ngựa hay đã được huấn luyện thuần thục, khi được attelage (gắn vào ách), chỉ nhìn khoảng một tầm ách, tức là một khoảng đất dài bốn thước tay ở phía trước; vị này cũng nên đi trong khi nhìn một khoảng chừng ấy. (Câu) Người nào do không tôn trọng (giới) mà nhìn ngó Đông Tây nghĩa là: người nào đi mà nhìn ngó các hướng khác nhau, nhìn lâu đài, nóc nhà cao, đường phố, thì phạm tội tác ác. Nhưng khi đứng yên một chỗ, được phép nhìn để xem có voi, ngựa hay các hiểm nguy khác không. Khi ngồi cũng phải có mắt nhìn xuống.

584.Ukkhittakāyāti ukkhepena; itthambhūtalakkhaṇe karaṇavacanaṃ ekato vā ubhato vā ukkhittacīvaro hutvāti attho. Antoindakhīlato paṭṭhāya na evaṃ gantabbaṃ. Nisinnakāle pana dhamakaraṇaṃ nīharantenāpi cīvaraṃ anukkhipitvāva nīharitabbanti.
584. (Từ) vừa đi vừa tốc y lên (hoặc để y tốc lên) nghĩa là bằng sự tốc y lên; (đây là) cách dùng công cụ cách trong trường hợp mô tả trạng thái, nghĩa là trở thành người có y bị tốc lên một bên hoặc cả hai bên. Kể từ bên trong trụ cửa (khi vào làng), không được đi như vậy. Nhưng khi ngồi, ngay cả khi lấy đãy lọc nước ra, cũng phải lấy ra mà không tốc y lên.

Paṭhamo vaggo.

Phẩm thứ nhất.

2. Ujjagghikavaggavaṇṇanā

2. Giải Thích Phẩm Cười Lớn

586.Ujjagghikāyāti mahāhasitaṃ hasanto. Vuttanayenevettha karaṇavacanaṃ.
586. (Hành vi) cười lớn (hoặc cười ngặt nghẽo) nghĩa là người đang cười một trận lớn. Ở đây, (đây là) cách dùng công cụ cách theo như đã nói.

588.Appasaddo antaraghareti ettha kittāvatā appasaddo hoti? Dvādasahatthe gehe ādimhi saṅghatthero, majjhe dutiyatthero, ante tatiyattheroti evaṃ nisinnesu saṅghatthero dutiyena saddhiṃ manteti, dutiyatthero tassa saddañceva suṇāti, kathañca vavatthapeti. Tatiyatthero pana saddameva suṇāti, kathaṃ na vavatthapeti. Ettāvatā appasaddo hoti. Sace pana tatiyatthero kathaṃ vavatthapeti, mahāsaddo nāma hoti.
588. Ở đây, (câu) nói tiếng nhỏ trong nhà dân, đến mức nào thì gọi là tiếng nhỏ? Trong một ngôi nhà dài mười hai thước tay, khi vị Trưởng lão của Tăng chúng ngồi ở đầu nhà, vị Trưởng lão thứ hai ngồi ở giữa, và vị Trưởng lão thứ ba ngồi ở cuối nhà; nếu vị Trưởng lão của Tăng chúng nói chuyện với vị thứ hai, và vị Trưởng lão thứ hai vừa nghe được tiếng của vị kia, vừa hiểu rõ câu chuyện, trong khi vị Trưởng lão thứ ba thì chỉ nghe được tiếng mà không hiểu rõ câu chuyện, chừng ấy gọi là tiếng nhỏ. Nhưng nếu vị Trưởng lão thứ ba cũng hiểu rõ câu chuyện, thì đó gọi là tiếng lớn.

590.Kāyaṃpaggahetvāti niccalaṃ katvā ujukena kāyena samena iriyāpathena gantabbañceva nisīditabbañca.
590. (Cụm từ) Giữ thân vững vàng nghĩa là làm cho thân không lay động, phải đi và ngồi với thân thẳng, với oai nghi đều đặn.

592.Bāhuṃ paggahetvāti niccalaṃ katvā.
592. (Cụm từ) Giữ tay vững vàng nghĩa là làm cho không lay động.

594.Sīsaṃ paggahetvāti niccalaṃ ujuṃ ṭhapayitvā.
594. (Cụm từ) Giữ đầu vững vàng nghĩa là giữ cho ngay thẳng, không lay động.

Dutiyo vaggo.

Phẩm thứ hai.

3. Khambhakatavaggavaṇṇanā

3. Giải Thích Phẩm Chống Nạnh

596-8.Khambhakato nāma kaṭiyaṃ hatthaṃ ṭhapetvā katakhambho. Oguṇṭhitoti sasīsaṃ pāruto.
596-8. (Từ) chống nạnh có nghĩa là người chống tay lên hông. (Từ) trùm đầu nghĩa là người đắp y trùm cả đầu.

600.Ukkuṭikāyāti ettha ukkuṭikā vuccati paṇhiyo ukkhipitvā aggapādehi vā, aggapāde vā ukkhipitvā paṇhīhiyeva vā bhūmiṃ phusantassa gamanaṃ. Karaṇavacanaṃ panettha vuttalakkhaṇameva.
600. Ở đây, (từ) đi nhón gót (hoặc đi kiễng chân): được gọi là đi nhón gót là việc đi bằng các đầu ngón chân sau khi nhấc gót lên, hoặc đi bằng gót chân sau khi nhấc các đầu ngón chân lên mà gót vẫn chạm đất. Ở đây, (đây là) cách dùng công cụ cách theo như đặc điểm đã nói.

601.Dussapallatthikāyāti ettha āyogapallatthikāpi dussapallatthikā eva.
601. Ở đây, (cụm từ) ngồi chéo chân bằng vải: thế ngồi chéo chân bằng dây vải (āyoga) cũng chính là thế ngồi chéo chân bằng vải.

602.Sakkaccanti satiṃ upaṭṭhapetvā.
602. (Từ) một cách cẩn trọng nghĩa là thiết lập chánh niệm.

603.Ākirantepīti piṇḍapātaṃ dentepi. Pattasaññīti patte saññaṃ katvā.
603. (Cụm từ) ngay cả khi họ đang đổ vào (thức ăn) nghĩa là ngay cả khi họ đang dâng cúng vật thực. (Cụm từ) ý thức về bát nghĩa là có sự chú ý vào cái bát.

604.Samasūpako nāma yattha bhattassa catutthabhāgappamāṇo sūpo hoti. Muggasūpo māsasūpoti ettha kulatthādīhi katasūpāpi saṅgahaṃ gacchantiyevāti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Rasaraseti ettha ṭhapetvā dve sūpe avasesāni oloṇīsākasūpeyyamaccharasamaṃsarasādīni rasarasāti veditabbāni. Taṃ rasarasaṃ bahumpi gaṇhantassa anāpatti.
604. (Món ăn) có lượng canh vừa đủ có nghĩa là nơi mà lượng canh bằng một phần tư lượng cơm. Ở đây, (các loại) canh đậu xanh, canh đậu đen, trong Đại Chú Giải có nói rằng các loại canh làm từ đậu ngựa (kulattha) v.v. cũng được bao gồm. Ở đây, (cụm từ) trong các loại vị ngon, ngoại trừ hai loại canh (đã kể trên), các thứ còn lại như canh rau suông, các loại canh rau, vị cá, vị thịt v.v. cần được hiểu là các vị ngon. Người nhận nhiều các vị ngon đó cũng không phạm tội.

605.Samatittikanti samapuṇṇaṃ samabharitaṃ. Thūpīkataṃ piṇḍapātaṃ paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassāti ettha thūpīkato nāma pattassa antomukhavaṭṭilekhaṃ atikkamitvā kato; patte pakkhitto racito pūritoti attho. Evaṃ kataṃ agahetvā antomukhavaṭṭilekhāsamappamāṇo gahetabbo.
605. (Từ) vừa bằng miệng bát nghĩa là đầy bằng, đầy ngang. Ở đây, (câu) Nhận vật thực vun ngọn như bảo tháp, phạm tội tác ác, (vật thực) vun ngọn như bảo tháp có nghĩa là được làm cho vượt quá vạch tròn miệng bát bên trong; nghĩa là được bỏ vào, sắp xếp, làm đầy trong bát (cho vun lên). Không nhận (vật thực) làm theo cách ấy, chỉ nên nhận với lượng vừa bằng vạch tròn miệng bát bên trong.

Tattha thūpīkataṃ nāma ‘‘pañcahi bhojanehi kata’’nti abhayatthero āha. Tipiṭakacūḷanāgatthero pana ‘‘piṇḍapāto nāma yāgupi bhattampi khādanīyampi cuṇṇapiṇḍopi dantakaṭṭhampi dasikasuttampī’’ti idaṃ suttaṃ vatvā dasikasuttampi thūpīkataṃ na vaṭṭatīti āha. Tesaṃ vādaṃ sutvā bhikkhū rohaṇaṃ gantvā cūḷasumanattheraṃ pucchiṃsu – ‘‘bhante thūpīkatapiṇḍapāto kena paricchinno’’ti? Tesañca therānaṃ vādaṃ ārocesuṃ. Thero sutvā āha – ‘‘aho, cūḷanāgo sāsanato bhaṭṭho, ahaṃ etassa sattakkhattuṃ vinayaṃ vācento na kadāci evaṃ avacaṃ, ayaṃ kuto labhitvā evaṃ vadasī’’ti. Bhikkhū theraṃ yāciṃsu – ‘‘kathetha dāni, bhante, kena paricchinno’’ti? ‘‘Yāvakālikenāvuso’’ti thero āha. Tasmā yaṃkiñci yāgubhattaṃ vā phalāphalaṃ vā āmisajātikaṃ samatittikameva gahetabbaṃ. Tañca kho adhiṭṭhānupagena pattena, itarena pana thūpīkatampi vaṭṭati. Yāmakālikasattāhakālikayāvajīvikāni pana adhiṭṭhānupagapattepi thūpīkatāni vaṭṭanti. Dvīsu pattesu bhattaṃ gahetvā ekasmiṃ pūretvā vihāraṃ pesetuṃ vaṭṭatīti mahāpaccariyaṃ pana vuttaṃ. Yaṃ patte pakkhipiyamānaṃ pūvaucchukhaṇḍaphalāphalādi heṭṭhā orohati, taṃ thūpīkataṃ nāma na hoti. Pūvavaṭaṃsakaṃ ṭhapetvā piṇḍapātaṃ denti, thūpīkatameva hoti. Pupphavaṭaṃsakatakkolakaṭukaphalādivaṭaṃsake pana ṭhapetvā dinnaṃ thūpīkataṃ na hoti. Bhattassa upari thālakaṃ vā pattaṃ vā ṭhapetvā pūretvā gaṇhāti, thūpīkataṃ nāma na hoti. Kurundiyampi vuttaṃ – ‘‘thālake vā paṇṇe vā pakkhipitvā taṃ pattamatthake ṭhapetvā denti, pāṭekkabhājanaṃ vaṭṭatī’’ti.
Về điều đó, Trưởng lão Abhaya nói: ‘Vun ngọn là làm với năm loại thực phẩm (chính).’ Còn Trưởng lão Tipiṭaka Cūḷanāga, sau khi trích dẫn đoạn này: ‘Vật thực khất thực là cháo, cơm, đồ ăn cứng, bột viên, tăm xỉa răng, và chỉ khâu’, đã nói rằng ngay cả chỉ khâu vun ngọn cũng không được phép. Nghe các quan điểm đó, các tỳ khưu đến Rohaṇa hỏi Trưởng lão Cūḷasumana: ‘Thưa ngài, vật thực khất thực vun ngọn được giới hạn bởi điều gì?’ Và họ đã trình bày các quan điểm của các Trưởng lão ấy. Trưởng lão nghe xong nói: ‘Ôi, Cūḷanāga đã lạc khỏi giáo pháp rồi! Ta đã giảng Luật cho vị ấy bảy lần mà chưa bao giờ nói như vậy. Vị ấy lấy điều này từ đâu mà nói thế?’ Các tỳ khưu thỉnh cầu Trưởng lão: ‘Vậy xin ngài hãy nói rõ, nó được giới hạn bởi điều gì?’ Trưởng lão nói: ‘Này chư hiền, bởi các vật thực dùng trong thời hạn cho phép.’ Do đó, bất cứ cháo, cơm, trái cây hay vật thực nào thuộc loại đồ ăn, chỉ nên nhận vừa bằng miệng bát. Điều này (áp dụng) đối với bát đã được chú nguyện sử dụng thường xuyên; còn đối với bát khác (không thường dùng), thì vun ngọn cũng được phép. Tuy nhiên, các vật thực dùng trong một buổi, các vật thực dùng trong bảy ngày, hoặc các vật thực dùng trọn đời thì dù trong bát đã chú nguyện cũng được phép nhận vun ngọn. Nhưng trong Đại Chú Giải có nói: ‘Được phép nhận cơm vào hai bát, rồi dồn đầy vào một bát để gửi về tu viện.’ Những thứ như bánh, miếng mía, trái cây v.v. mà khi bỏ vào bát tự xẹp xuống, thì không gọi là vun ngọn. Nếu người ta đặt một vòng bánh lên trên rồi dâng vật thực, đó chính là vun ngọn. Nhưng nếu đặt một vòng hoa, quả takkola, quả cay v.v. lên trên rồi dâng cúng, thì không phải là vun ngọn. Nếu đặt một cái đĩa hoặc một cái bát khác lên trên cơm rồi làm cho đầy và nhận lấy, thì không gọi là vun ngọn. Trong Chú giải Kurundī cũng nói: ‘Nếu họ bỏ (thức ăn) vào đĩa hoặc lá, rồi đặt lên trên miệng bát mà dâng cúng, thì đó là vật chứa riêng biệt, được phép.’

Idha anāpattiyaṃ gilāno na āgato, tasmā gilānassapi thūpīkataṃ na vaṭṭati. Sabbattha pana paṭiggahetumeva na vaṭṭati. Paṭiggahitaṃ pana supaṭiggahitameva hoti, paribhuñjituṃ vaṭṭatīti.
Ở đây, trong các trường hợp không phạm tội, người bệnh không được đề cập đến; do đó, đối với người bệnh, việc nhận vật thực vun ngọn cũng không được phép. Tuy nhiên, ở mọi nơi, chính việc nhận (vun ngọn) là không được phép. Nhưng (nếu đã lỡ) nhận rồi, thì đó vẫn là vật thực đã được nhận hợp lệ, và được phép dùng.

Tatiyo vaggo.

Phẩm thứ ba.

4. Sakkaccavaggavaṇṇanā

4. Giải Thích Phẩm Cẩn Trọng

606.Sakkaccanti etthāpi asakkaccaṃ paṭiggahaṇeyeva āpatti, paṭiggahitaṃ pana supaṭiggahitameva. Sakkaccanti ca pattasaññīti cāti ubhayaṃ vuttanayameva.
606. Ở đây cũng vậy, (về từ) cẩn trọng, chỉ khi nhận một cách không cẩn trọng mới phạm tội, còn vật đã nhận thì vẫn là vật đã được nhận hợp lệ. Cả hai (điều) “cẩn trọng” và “ý thức về bát” đều theo như cách đã nói.

608.Sapadānanti tattha tattha odhiṃ akatvā anupaṭipāṭiyā. Samasūpake vattabbaṃ vuttameva.
608. (Từ) tuần tự từng nhà nghĩa là không phân biệt chỗ này chỗ kia (không chọn lựa), (mà đi) theo thứ tự liên tục. Điều cần nói về (việc nhận) canh vừa đủ thì đã được nói rồi.

610.Thūpakatoti matthakato; vemajjhatoti attho.
610. (Từ) vun ngọn (khi ăn) nghĩa là làm cho thành chóp (lấy từ trên đỉnh); nghĩa là (lấy thức ăn) từ giữa.

611.Paṭicchādetvādentīti māghātasamayādīsu paṭicchannaṃ byañjanaṃ katvā denti. Viññattiyaṃ vattabbaṃ natthi.
611. (Cụm từ) họ che đậy rồi cho nghĩa là vào những dịp lễ hội Māgha v.v., họ làm món ăn được che đậy rồi dâng cúng. Không có gì để nói về việc gợi ý (xin xỏ trong trường hợp này).

614.Ujjhānasaññīsikkhāpadepi gilāno na muccati.
614. Ngay cả trong học giới về việc có ý muốn khiển trách, người bệnh cũng không được miễn trừ.

615.Nātimahanto kabaḷoti mayūraṇḍaṃ atimahantaṃ, kukkuṭaṇḍaṃ atikhuddakaṃ, tesaṃ vemajjhappamāṇo. Khajjaketi ettha mūlakhādanīyādi sabbaṃ gahetabbaṃ.
615. (Cụm từ) miếng cơm không quá lớn nghĩa là: trứng công thì quá lớn, trứng gà thì quá nhỏ, (miếng cơm) có kích thước trung bình giữa hai loại đó. Ở đây, (trong từ) đồ ăn cứng, tất cả các loại như củ ăn được v.v. đều được bao gồm.

Catuttho vaggo.

Phẩm thứ tư.

5. Kabaḷavaggavaṇṇanā

5. Giải Thích Phẩm Miếng Ăn

617.Anāhaṭeti anāharite; mukhadvāraṃ asampāpiteti attho.
617. (Khi miếng cơm) chưa được đưa đến (miệng) nghĩa là chưa được mang đến; nghĩa là chưa đến cửa miệng.

618.Sabbaṃ hatthanti sakalahatthaṃ.
618. (Cụm từ) toàn bộ bàn tay nghĩa là cả bàn tay.

619.Sakabaḷenāti ettha dhammaṃ kathento harītakaṃ vā laṭṭhimadhukaṃ vā mukhe pakkhipitvā katheti. Yattakena vacanaṃ aparipuṇṇaṃ na hoti, tattake mukhamhi sante kathetuṃ vaṭṭati.
619. Ở đây, (về việc nói pháp) khi có miếng ăn trong miệng: khi đang thuyết pháp, (nếu) bỏ trái kha tử hoặc cam thảo vào miệng rồi nói. Chừng nào mà lời nói không bị ngọng nghịu, chừng ấy (vật) còn trong miệng thì được phép nói.

620.Piṇḍukkhepakanti piṇḍaṃ ukkhipitvā ukkhipitvā.
620. (Hành vi) tung miếng cơm lên nghĩa là tung miếng cơm lên rồi lại tung lên.

621.Kabaḷāvacchedakanti kabaḷaṃ avacchinditvā avacchinditvā.
621. (Hành vi) ngắt nhỏ miếng cơm nghĩa là ngắt miếng cơm ra rồi lại ngắt ra.

622.Avagaṇḍakārakanti makkaṭo viya gaṇḍe katvā katvā.
622. (Hành vi) phồng má nghĩa là làm phồng má lên rồi lại làm phồng má lên như khỉ.

623.Hatthaniddhunakanti hatthaṃ niddhunitvā niddhunitvā.
623. (Hành vi) vẩy tay nghĩa là vẩy tay rồi lại vẩy tay.

624.Sitthāvakārakanti sitthāni avakiritvā avakiritvā.
624. (Hành vi) làm rơi vãi cơm nghĩa là làm rơi vãi hạt cơm rồi lại làm rơi vãi.

625.Jivhānicchārakanti jivhaṃ nicchāretvā nicchāretvā.
625. (Hành vi) thè lưỡi nghĩa là thè lưỡi ra rồi lại thè lưỡi ra.

626.Capucapukārakanti capu capūti evaṃ saddaṃ katvā katvā.
626. (Hành vi) ăn chóp chép nghĩa là làm ra tiếng “chóp chóp” như vậy rồi lại làm ra tiếng.

Pañcamo vaggo.

Phẩm thứ năm.

6. Surusuruvaggavaṇṇanā

6. Giải Thích Phẩm Ăn Sột Soạt

627.Surusurukārakanti surusurūti evaṃ saddaṃ katvā katvā. Davoti parihāsavacanaṃ; taṃ yena kenaci pariyāyena ‘‘kiṃ buddho , silakabuddho, paṭibuddho; kiṃ dhammo, godhammo, ajadhammo; kiṃ saṅgho, migasaṅgho, pasusaṅgho’’tiādinā nayena tīṇi ratanāni ārabbha na kātabbanti attho.
627. (Hành vi) ăn sột soạt nghĩa là làm ra tiếng “sột soạt” như vậy rồi lại làm ra tiếng. (Từ) đùa giỡn là lời nói chế giễu, đùa cợt; nghĩa là không được làm điều đó liên quan đến Ba Ngôi Báu bằng bất cứ cách nào, theo kiểu như: “Phật là gì, Phật bằng đá, Phật đã giác ngộ (mỉa mai); Pháp là gì, pháp của bò, pháp của dê; Tăng là gì, tăng đoàn của nai, tăng đoàn của thú vật”.

628.Hatthanillehakanti hatthaṃ nillehitvā nillehitvā. Bhuñjantena hi aṅgulimattampi nillehituṃ na vaṭṭati. Ghanayāguphāṇitapāyāsādike pana aṅgulīhi gahetvā aṅguliyo mukhe pavesetvā bhuñjituṃ vaṭṭati. Pattanillehakaoṭṭhanillehakesupi eseva nayo. Tasmā ekaṅguliyāpi patto na nillehitabbo, ekaoṭṭhopi jivhāya na nillehitabbo, oṭṭhamaṃsehi eva pana gahetvā anto pavesetuṃ vaṭṭati.
628. (Hành vi) liếm tay nghĩa là liếm tay rồi lại liếm tay. Khi đang ăn, không được phép liếm dù chỉ một ngón tay. Nhưng đối với cháo đặc, mật mía, sữa đặc v.v., được phép lấy bằng ngón tay, đưa ngón tay vào miệng rồi ăn. Trong (trường hợp) liếm bát, liếm môi cũng theo cách này. Do đó, không được liếm bát dù chỉ bằng một ngón tay, không được liếm môi dù chỉ một bên môi bằng lưỡi, nhưng được phép dùng chính thịt môi mím lại rồi đưa vào trong (để làm sạch môi).

631.Kokanadeti evaṃnāmake. Kokanadanti padumaṃ vuccati, so ca pāsādo padumasaṇṭhāno, tenassa kokanadotveva nāmaṃ akaṃsu. Na sāmisena hatthena pānīyathālakanti etaṃ paṭikkūlavasena paṭikkhittaṃ, tasmā saṅghikampi puggalikampi gihisantakampi attano santakampi saṅkhampi sarāvampi thālakampi na gahetabbameva, gaṇhantassa dukkaṭaṃ. Sace pana hatthassa ekadeso āmisamakkhito na hoti, tena padesena gahetuṃ vaṭṭati.
631. (Tại lâu đài) tên là Kokanada: có tên như vậy. Hoa sen được gọi là Kokanada (sen hồng), và lâu đài đó có hình hoa sen, do đó họ đặt tên cho nó là Kokanada. (Câu) Không được dùng tay dính thức ăn mà cầm đồ đựng nước uống, điều này bị cấm vì (gây) sự ghê tởm; do đó, dù là đồ của Tăng chúng, của cá nhân, của người thế tục, hay của chính mình, dù là vỏ ốc, đồ gốm hay đĩa kim loại, đều không được cầm; người cầm thì phạm tội tác ác. Nhưng nếu một phần của bàn tay không bị dính thức ăn, thì được phép cầm bằng phần đó.

632.Uddharitvā vāti sitthāni udakato uddharitvā ekasmiṃ ṭhāne rāsiṃ katvā udakaṃ chaḍḍeti. Bhinditvā vāti sitthāni bhinditvā udakagatikāni katvā chaḍḍeti. Paṭiggahe vāti paṭiggahena paṭicchanto naṃ paṭiggahe chaḍḍeti. Nīharitvāti bahi nīharitvā chaḍḍeti; evaṃ chaḍḍentassa anāpatti.
632. (Câu) Hoặc vớt lên nghĩa là vớt các hạt cơm ra khỏi nước, gom lại một chỗ rồi đổ nước đi. (Câu) Hoặc làm tan ra nghĩa là làm tan các hạt cơm cho trôi theo nước rồi đổ đi. (Câu) Hoặc (đổ) vào đồ đựng nước rửa tay nghĩa là người đó hứng (nước có cơm thừa) bằng đồ đựng nước rửa tay rồi đổ vào đồ đựng đó. (Câu) Đem ra ngoài nghĩa là đem ra ngoài rồi đổ đi; người đổ đi như vậy thì không phạm tội.

634.Setacchattanti vatthapaliguṇṭhitaṃ paṇḍaracchattaṃ. Kilañjacchattanti vilīvacchattaṃ. Paṇṇacchattanti tālapaṇṇādīhi yehi kehici kataṃ. Maṇḍalabaddhaṃ salākabaddhanti idaṃ pana tiṇṇampi chattānaṃ pañjaradassanatthaṃ vuttaṃ. Tāni hi maṇḍalabaddhāni ceva honti salākabaddhāni ca. Yampi tatthajātakadaṇḍakena kataṃ ekapaṇṇacchattaṃ hoti, tampi chattameva. Etesu yaṃkiñci chattaṃ pāṇimhi assāti chattapāṇi. So taṃ chattaṃ dhārayamāno vā aṃse vā katvā ūrumhi vā ṭhapetvā yāva hatthena na muccati, tāvassa dhammaṃ desetuṃ na vaṭṭati, desentassa vuttanayena dukkaṭaṃ. Sace panassa añño chattaṃ dhāreti, chattapādukāya vā ṭhitaṃ hoti, hatthato apagatamatte chattapāṇi nāma na hoti. Tassa dhammaṃ desetuṃ vaṭṭati. Dhammaparicchedo panettha padasodhamme vuttanayeneva veditabbo.
634. (Từ) lọng trắng là lọng màu trắng được bọc vải. (Từ) lọng bằng chiếu là lọng làm bằng tre. (Từ) lọng lá là lọng làm bằng lá cọ v.v., bằng bất cứ thứ gì. (Cụm từ) có khung tròn, có nan, điều này được nói để chỉ khung của cả ba loại lọng. Vì chúng vừa có khung tròn, vừa có nan. Ngay cả lọng một lá làm bằng cây gậy mọc ở đó cũng là lọng. Trong số này, bất cứ lọng nào ở trong tay thì (người đó) là người cầm lọng. Người đó đang cầm lọng, hoặc đặt trên vai, hoặc đặt trên đùi, chừng nào lọng chưa rời khỏi tay, chừng đó không được phép thuyết pháp cho người ấy; người thuyết pháp (cho người như vậy) thì phạm tội tác ác theo cách đã nói. Nhưng nếu người khác cầm lọng cho vị ấy, hoặc lọng được đặt trên đế cắm lọng, ngay khi lọng rời khỏi tay, thì không còn gọi là người cầm lọng nữa. Được phép thuyết pháp cho người đó. Sự phân định về Pháp ở đây cần được hiểu theo cách đã nói trong Chú giải từng từ về Pháp.

635.Daṇḍapāṇissāti ettha daṇḍo nāma majjhimassa purisassa catuhatthappamāṇo daṇḍapāṇibhāvo panassa chattapāṇimhi vuttanayeneva veditabbo.
635. Ở đây, (về trường hợp) người cầm gậy, cây gậy có nghĩa là (gậy) dài bốn thước tay của người trung bình; còn tình trạng là người cầm gậy của vị ấy thì cần được hiểu theo cách đã nói về người cầm lọng.

636.Satthapāṇimhipi eseva nayo. Asiṃ sannahitvā ṭhitopi hi satthapāṇisaṅkhyaṃ na gacchati.
636. Trong (trường hợp) người cầm đao kiếm cũng theo cách này. Vì người đứng mà chỉ đeo kiếm (chưa rút ra) thì không được kể là người cầm đao kiếm.

637.Āvudhapāṇissāti ettha kiñcāpi vuttaṃ – ‘‘āvudhaṃ nāma cāpo kodaṇḍo’’ti, atha kho sabbāpi dhanuvikati saddhiṃ saravikatiyā āvudhanti veditabbaṃ. Tasmā saddhiṃ vā sarena dhanuṃ gahetvā suddhadhanuṃ vā suddhasaraṃ vā sajiyadhanuṃ vā nijjiyadhanuṃ vā gahetvā ṭhitassa vā nisinnassa vā dhammo desetuṃ na vaṭṭati. Sace panassa dhanuṃ kaṇṭhepi paṭimukkaṃ hoti, yāva hatthena na gaṇhāti, tāva dhammaṃ desetuṃ vaṭṭatiyevāti.
637. Ở đây, (về trường hợp) người cầm vũ khí, mặc dù có nói: “Vũ khí là cung, là nỏ”, tuy nhiên, tất cả các loại cung cùng với các loại tên cần được hiểu là vũ khí. Do đó, (người) cầm cung cùng với tên, hoặc (chỉ) cung không, hoặc (chỉ) tên không, hoặc cung đã giương dây, hoặc cung chưa giương dây, (nếu) đang cầm mà đứng hoặc ngồi, thì không được phép thuyết pháp (cho người đó). Nhưng nếu cung của vị ấy chỉ được đeo ở cổ, chừng nào chưa cầm bằng tay, chừng đó vẫn được phép thuyết pháp.

Chaṭṭho vaggo.

Phẩm thứ sáu.

7. Pādukavaggavaṇṇanā

7. Giải Thích Phẩm Giày Dép

638.Akkantassāti chattadaṇḍake aṅgulantaraṃ appavesetvā kevalaṃ pādukaṃ akkamitvā ṭhitassa. Paṭimukkassāti paṭimuñcitvā ṭhitassa. Upāhanāyapi eseva nayo. Omukkoti panettha paṇhikabaddhaṃ omuñcitvā ṭhito vuccati.
638. (Trường hợp người) đang mang (giày dép) nghĩa là người không nhét (quai dép) vào giữa các ngón chân mà chỉ đứng đạp lên trên giày dép. (Trường hợp người) đã xỏ vào (giày dép) nghĩa là người đã xỏ (giày dép) rồi đứng. Đối với dép (upāhanā) cũng theo cách này. Ở đây, (từ) đã cởi ra được gọi là người đã cởi (dây) buộc ở gót chân rồi đứng.

640.Yānagatassāti ettha sacepi dvīhi janehi hatthasaṅghāṭena gahito, sāṭake vā ṭhapetvā vaṃsena vayhati, ayutte vā vayhādike yāne , visaṅkharitvā vā ṭhapite cakkamattepi nisinno yānagatotveva saṅkhyaṃ gacchati. Sace pana dvepi ekayāne nisinnā honti, vaṭṭati. Visuṃ nisinnesupi ucce yāne nisinnena nīce nisinnassa desetuṃ vaṭṭati, samappamāṇepi vaṭṭati. Purime yāne nisinnena pacchime nisinnassa vaṭṭati. Pacchime pana uccatarepi nisinnena desetuṃ na vaṭṭati.
640. Ở đây, (về trường hợp) người ngồi trên xe, dù là được hai người nắm tay khiêng đi (như kiệu tay), hoặc được đặt trên tấm vải rồi dùng đòn tre khiêng đi, hoặc trên các loại xe không ngựa kéo hay các phương tiện di chuyển khác, hoặc thậm chí ngồi trên chỉ một bánh xe đã tháo rời đặt đó, cũng được kể là người ngồi trên xe. Nhưng nếu cả hai người cùng ngồi trên một xe, thì được phép (thuyết pháp). Ngay cả khi ngồi riêng (trên các xe khác nhau), người ngồi trên xe cao hơn được phép thuyết pháp cho người ngồi (xe) thấp hơn, (ngồi trên xe) ngang bằng cũng được phép. Người ngồi trên xe phía trước (được phép thuyết pháp) cho người ngồi (xe) phía sau. Nhưng người ngồi (xe) phía sau, dù (xe) cao hơn, cũng không được phép thuyết pháp (cho người ngồi xe trước).

641.Sayanagatassāti antamaso kaṭasārakepi pakatibhūmiyampi nipannassa uccepi mañcapīṭhe vā bhūmipadese vā ṭhitena nisinnena vā desetuṃ na vaṭṭati. Sayanagatena pana sayanagatassa uccatare vā samappamāṇe vā nipannena desetuṃ vaṭṭati. Nipannena ca ṭhitassa vā nisinnassa vā desetuṃ vaṭṭati, nisinnenāpi ṭhitassa vā nisinnassa vā vaṭṭati. Ṭhitena ṭhitasseva vaṭṭati.
641. (Trường hợp) người đang nằm: người nằm dù chỉ trên chiếu trải hoặc trên đất thường, (người khác) dù đứng hay ngồi trên giường ghế cao hơn hoặc trên nền đất cao hơn cũng không được phép thuyết pháp (cho người đang nằm). Nhưng người đang nằm (được phép thuyết pháp) cho người đang nằm khác, nếu (người thuyết pháp) nằm ở chỗ cao hơn hoặc ngang bằng. Người đang nằm cũng được phép thuyết pháp cho người đang đứng hoặc đang ngồi; người đang ngồi cũng được phép (thuyết pháp) cho người đang đứng hoặc đang ngồi. Người đang đứng chỉ được phép (thuyết pháp) cho người đang đứng.

642.Pallatthikāyāti āyogapallatthikāya vā hatthapallatthikāya vā dussapallatthikāya vā yāya kāyaci pallatthikāya nisinnassa agilānassa desetuṃ na vaṭṭati.
642. (Trường hợp người) ngồi chéo chân (theo kiểu du sĩ): dù là ngồi chéo chân bằng dây vải, bằng tay (ôm gối), hay bằng vải, người ngồi bằng bất cứ kiểu chéo chân nào, không được phép thuyết pháp cho người không bệnh (mà ngồi như vậy).

643.Veṭhitasīsassāti dussaveṭhanena vā moḷiādīhi vā yathā kesanto na dissati; evaṃ veṭhitasīsassa.
643. (Trường hợp người) có đầu quấn khăn: người có đầu quấn bằng khăn vải hoặc bằng búi tóc v.v., sao cho không nhìn thấy phần cuối của tóc (chân tóc).

644.Oguṇṭhitasīsassāti sasīsaṃ pārutassa.
644. (Trường hợp người) có đầu trùm kín nghĩa là người đắp y trùm cả đầu.

645.Chamāyaṃ nisinnenāti bhūmiyaṃ nisinnena. Āsane nisinnassāti antamaso vatthampi tiṇānipi santharitvā nisinnassa.
645. (Trường hợp người thuyết pháp) ngồi trên đất nghĩa là người ngồi trên mặt đất. (Trường hợp người nghe) ngồi trên ghế nghĩa là người ngồi dù chỉ trên tấm vải hay cỏ đã được trải ra.

647.Chapakassāti caṇḍālassa. Chapakīti caṇḍālī. Nilīnoti paṭicchanno hutvā. Yatra hi nāmāti yo hi nāma. Sabbamidaṃ carimaṃ katanti tattheva paripatīti ‘‘sabbo ayaṃ loko saṅkaraṃ gato nimmariyādo’’ti imaṃ vacanaṃ vatvā tattheva tesaṃ dvinnampi antarā rukkhato patito. Patitvā ca pana ubhinnampi purato ṭhatvā imaṃ gāthaṃ abhāsi –
647. (Từ) cho người hạ tiện nghĩa là cho người Chiên-đà-la (người cùng khổ). (Từ) người nữ hạ tiện là người nữ Chiên-đà-la. (Từ) ẩn núp nghĩa là trở nên che khuất. (Cụm từ) nơi nào mà nghĩa là người nào mà. (Câu) Tất cả điều này đã đến hồi cuối cùng, ngay tại đó liền rơi xuống nghĩa là: sau khi nói lời này: “Tất cả thế gian này đã trở nên hỗn loạn, không còn giới hạn (đạo đức)”, ngay tại đó, (vị ấy) từ trên cây rơi xuống giữa hai người kia. Và sau khi rơi xuống, đứng trước mặt cả hai, vị ấy nói bài kệ này –

‘‘Ubho atthaṃ na jānanti…pe… asmā kumbhamivābhidā’’ti.
“Cả hai không biết nghĩa… (cho đến câu)… bể tan như cái ghè này.”

Tattha ubho atthaṃ na jānantīti dvepi janā pāḷiyā atthaṃ na jānanti. Dhammaṃ na passareti pāḷiṃ na passanti. Katame te ubhoti? ‘‘Yo cāyaṃ mantaṃvāceti, yo cādhammenadhīyatī’’ti. Evaṃ brāhmaṇañca rājānañca ubhopi adhammikabhāve ṭhapesi.
Ở đó, (câu) Cả hai không biết nghĩa nghĩa là cả hai người đều không biết nghĩa của kinh điển Pāḷi. (Câu) Không thấy Pháp nghĩa là không thấy Pāḷi. Ai là hai người đó? (Đó là) “Người đọc tụng thần chú, và người được dạy một cách phi pháp”. Như vậy, (vị ấy) đã đặt cả Bà-la-môn và nhà vua vào tình trạng phi pháp.

Tato brāhmaṇo sālīnanti gāthamāha. Tassattho – jānāmahaṃ bho ‘‘ayaṃ adhammo’’ti; api ca kho mayā dīgharattaṃ saputtadāraparijanena rañño santako sālīnaṃ odano bhutto. Sucimaṃsūpasecanoti nānappakāravikatisampāditaṃ sucimaṃsūpasecanaṃ missīkaraṇamassāti sucimaṃsūpasecano. Tasmā dhamme na vattāmīti yasmā evaṃ mayā rañño odano bhutto, aññe ca bahū lābhā laddhā, tasmā dhamme ahaṃ na vattāmi udare baddho hutvā, na dhammaṃ ajānanto. Ayañhi dhammo ariyehi vaṇṇito pasattho thomitoti jānāmi.
Sau đó, vị Bà-la-môn nói bài kệ (bắt đầu bằng từ) cơm gạo Sāli. Nghĩa của bài kệ đó là: “Thưa ngài, tôi biết rằng đây là phi pháp; nhưng quả thật, trong một thời gian dài, tôi cùng với vợ con và người hầu đã ăn cơm gạo Sāli của nhà vua.” (Từ) với canh thịt thơm ngon nghĩa là (cơm đó) có canh thịt thơm ngon được chế biến theo nhiều cách khác nhau trộn lẫn vào, nên gọi là “với canh thịt thơm ngon”. (Câu) Vì thế tôi không hành theo Pháp nghĩa là: “Vì tôi đã ăn cơm của nhà vua như vậy, và đã nhận được nhiều lợi lộc khác, cho nên tôi không hành theo Pháp, vì bị ràng buộc bởi cái bụng, chứ không phải vì không biết Pháp. Tôi biết rằng Pháp này được các bậc Thánh ca ngợi, tán thán, tán dương.”

Atha naṃ chapako ‘‘dhiratthū’’tiādinā gāthādvayena ajjhabhāsi. Tassattho – yo tayā dhanalābho ca yasalābho ca laddho, dhiratthu taṃ dhanalābhaṃ yasalābhañca brāhmaṇa. Kasmā? Yasmā ayaṃ tayā laddho lābho āyatiṃ apāyesu vinipātanahetunā sampati ca adhammacaraṇena vutti nāma hoti. Evarūpā yā vutti āyatiṃ vinipātena idha adhammacaraṇena vā nippajjati, kiṃ tāya vuttiyā? Tena vuttaṃ –
Lúc đó, người hạ tiện nói với vị ấy bằng hai bài kệ bắt đầu bằng (từ) “Đáng khinh thay!” Nghĩa của những bài kệ đó là: “Này Bà-la-môn, lợi lộc về của cải và danh vọng mà ông đã nhận được, đáng khinh thay lợi lộc về của cải và danh vọng đó!” Tại sao? “Vì lợi lộc mà ông nhận được này, trong tương lai là nguyên nhân sa đọa vào các cõi ác, còn hiện tại thì gọi là sự sống bằng cách hành xử phi pháp.” Sự sống nào mà được tạo ra bằng sự sa đọa trong tương lai hoặc bằng cách hành xử phi pháp ở hiện tại như vậy, thì sự sống đó có ích gì? Do đó, có nói rằng –

‘‘Dhiratthu taṃ dhanalābhaṃ, yasalābhañca brāhmaṇa;
Yā vutti vinipātena, adhammacaraṇena vā’’ti.
“Đáng khinh thay lợi lộc về của cải đó, và lợi lộc về danh vọng đó, này Bà-la-môn;
Sự sống nào (có được) bằng sự sa đọa, hoặc bằng cách hành xử phi pháp.”

Paribbaja mahābrahmeti mahābrāhmaṇa ito disā sīghaṃ palāyassu. Pacantaññepi pāṇinoti aññepi sattā pacanti ceva bhuñjanti ca; na kevalaṃ tvañceva rājā ca. Mā tvaṃ adhammo ācarito asmā kumbhamivābhidāti sace hi tvaṃ ito aparibbajitvā imaṃ adhammaṃ ācarissasi , tato tvaṃ so adhammo evaṃ ācarito yathā udakakumbhaṃ pāsāṇo bhindeyya; evaṃ bhecchati, tena mayaṃ taṃ vadāma –
(Câu) Hãy ra đi, này Đại Phạm Thiên nghĩa là: “Này Đại Bà-la-môn, hãy mau trốn khỏi phương này.” (Câu) Các chúng sinh khác cũng nấu nướng (và ăn) nghĩa là: “Các chúng sinh khác cũng nấu nướng và ăn uống; không chỉ riêng ông và nhà vua.” (Câu) Mong rằng ông, người đã hành xử phi pháp, đừng bị vỡ tan như cái ghè này nghĩa là: “Nếu ông không rời khỏi đây mà tiếp tục hành xử phi pháp này, thì chính sự phi pháp mà ông đã hành xử như vậy sẽ làm ông tan vỡ, giống như hòn đá làm vỡ cái ghè nước; do đó chúng tôi nói với ông –

‘‘Paribbaja mahābrahme, pacantaññepi pāṇino;
Mā tvaṃ adhammo ācarito, asmā kumbhamivābhidā’’ti.
“Hãy ra đi, này Đại Phạm Thiên, các chúng sinh khác cũng nấu nướng;
Mong rằng ông, người đã hành xử phi pháp, đừng bị vỡ tan như cái ghè này.”

Ucce āsaneti antamaso bhūmippadesepi unnataṭṭhāne nisinnassa desetuṃ na vaṭṭati.
(Ngồi) trên ghế cao nghĩa là không được phép thuyết pháp cho người ngồi dù chỉ ở chỗ đất cao hơn (so với người thuyết pháp ngồi thấp).

648.Naṭhito nisinnassāti sacepi therupaṭṭhānaṃ gantvā ṭhitaṃ daharabhikkhuṃ āsane nisinno mahāthero pañhaṃ pucchati, na kathetabbaṃ. Gāravena pana theraṃ uṭṭhahitvā pucchathāti vattuṃ na sakkā, passe ṭhitabhikkhussa kathemīti kathetuṃ vaṭṭati.
648. (Câu) Người đứng không (thuyết pháp) cho người ngồi nghĩa là: nếu một tỳ khưu trẻ đang đứng sau khi đến hầu hạ Trưởng lão, mà vị Đại Trưởng lão đang ngồi trên ghế hỏi một câu hỏi, thì không nên trả lời (thuyết pháp). Nhưng do lòng tôn kính, không thể nói với Trưởng lão: “Xin ngài hãy đứng dậy rồi hỏi.” Được phép nói (theo kiểu): “Tôi nói với vị tỳ khưu đang đứng bên cạnh.”

649.Na pacchato gacchantenāti ettha sace purato gacchanto pacchato gacchantaṃ pañhaṃ pucchati, na kathetabbaṃ. Pacchimassa bhikkhuno kathemīti kathetuṃ vaṭṭati. Saddhiṃ uggahitadhammaṃ pana sajjhāyituṃ vaṭṭati. Samadhurena gacchantassa kathetuṃ vaṭṭati.
649. Ở đây, (câu) Người đi sau không (thuyết pháp cho người đi trước): nếu người đi trước hỏi người đi sau một câu hỏi, không nên trả lời. Được phép nói (theo kiểu): “Tôi nói với vị tỳ khưu đi sau (cùng).” Nhưng được phép cùng nhau tụng đọc Pháp đã học. (Nếu) đi ngang bằng nhau, được phép thuyết giảng.

650.Na uppathenāti etthāpi sace dvepi sakaṭapathe ekekacakkapathena vā uppathena vā samadhuraṃ gacchanti, vaṭṭati.
650. Ở đây cũng vậy, (câu) Không (đi) ngoài đường (mà thuyết pháp cho người đi trong đường): nếu cả hai người cùng đi ngang bằng nhau trên đường xe, hoặc mỗi người trên một vệt bánh xe, hoặc ngoài đường, thì được phép (thuyết pháp).

651.Asañciccāti paṭicchannaṭṭhānaṃ gacchantassa sahasā uccāro vā passāvo vā nikkhamati, asañcicca kato nāma anāpatti.
651. (Trường hợp) không cố ý nghĩa là: khi đang đi đến nơi kín đáo, phân hoặc nước tiểu bất ngờ thoát ra, gọi là làm không cố ý, không phạm tội.

652.Na hariteti ettha yampi jīvarukkhassa mūlaṃ pathaviyaṃ dissamānaṃ gacchati, sākhā vā bhūmilaggā gacchati, sabbaṃ haritasaṅkhātameva. Khandhe nisīditvā appaharitaṭṭhāne pātetuṃ vaṭṭati. Appaharitaṭṭhānaṃ olokentasseva sahasā nikkhamati, gilānaṭṭhāne ṭhito hoti, vaṭṭati. Appaharite katoti appaharitaṃ alabhantena tiṇaṇḍupakaṃ vā palālaṇḍupakaṃ vā ṭhapetvā katopi pacchā haritaṃ ottharati, vaṭṭatiyeva. Kheḷena cettha siṅghāṇikāpi saṅgahitāti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ.
652. Ở đây, (câu) Không (đại tiểu tiện) trên cỏ xanh, ngay cả rễ cây còn sống lộ ra trên mặt đất, hoặc cành cây chạm đất, tất cả đều được kể là cỏ xanh (vật tươi). Được phép ngồi trên thân cây (khô) rồi (đại tiểu tiện) xuống chỗ không có cỏ xanh. Khi đang tìm chỗ không có cỏ xanh mà (phân, nước tiểu) bất ngờ thoát ra, hoặc đang ở nơi dành cho người bệnh, thì được phép. (Câu) Làm ở nơi ít cỏ xanh nghĩa là: người không tìm được chỗ không có cỏ xanh, sau khi đặt một bó cỏ hoặc một bó rơm xuống rồi làm (đại tiểu tiện), nếu sau đó cỏ xanh mọc lan ra, vẫn được phép. Trong Đại Chú Giải có nói rằng nước bọt và nước mũi cũng được bao gồm ở đây (trong những thứ không nên thải bừa bãi trên cỏ xanh).

653.Na udaketi etaṃ paribhogaudakameva sandhāya vuttaṃ, vaccakuṭisamuddādiudakesu pana aparibhogesu anāpatti. Deve vassante samantato udakogho hoti, anudakaṭṭhānaṃ olokentasseva nikkhamati, vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ vuttaṃ – ‘‘etādise kāle anudakaṭṭhānaṃ alabhantena kātuṃ vaṭṭatī’’ti. Sesaṃ sabbasikkhāpadesu uttānatthameva.
653. (Câu) Không (đại tiểu tiện, khạc nhổ) trong nước, điều này được nói liên quan đến nước dùng, còn đối với nước không dùng đến như nước trong nhà vệ sinh, biển cả v.v., thì không phạm tội. Khi trời mưa, khắp nơi đều là dòng nước lũ, (nếu) khi đang tìm chỗ không có nước mà (phân, nước tiểu) bất ngờ thoát ra, thì được phép. Trong Đại Chú Giải có nói: “Vào thời điểm như vậy, người không tìm được chỗ không có nước thì được phép làm (đại tiểu tiện).” Phần còn lại trong tất cả các học giới thì nghĩa đã rõ ràng.

Sattamo vaggo.

Phẩm thứ bảy.

Samuṭṭhānādidīpanatthāya panettha idaṃ pakiṇṇakaṃ – ujjagghikauccāsaddapaṭisaṃyuttāni cattāri, sakabaḷena mukhena byāharaṇaṃ ekaṃ, chamānīcāsanaṭhānapacchatogamanauppathagamanapaṭisaṃyuttāni pañcāti imāni dasa sikkhāpadāni samanubhāsanasamuṭṭhānāni kāyavācācittato samuṭṭhahanti, kiriyāni, saññāvimokkhāni , sacittakāni, lokavajjāni, kāyakammavacīkammāni, akusalacittāni, dukkhavedanānīti.
Để làm sáng tỏ sự phát sinh tội v.v., đây là phần tạp集: Bốn (học giới) liên quan đến cười lớn và nói lớn tiếng, một (học giới) về việc nói khi có miếng ăn trong miệng, năm (học giới) liên quan đến (thuyết pháp cho người) ngồi trên đất, ngồi chỗ thấp, đứng, đi sau, đi ngoài đường – mười học giới này có sự phát sinh tội giống như tội Samanubhāsana (hạch hỏi), phát sinh từ thân, khẩu, ý; là hành động, được miễn trừ do nhận thức sai (nếu có), có tâm cố ý, bị thế gian chê cười, là hành động của thân và lời nói, với tâm bất thiện, và cảm giác khó chịu.

Sūpodanaviññattisikkhāpadaṃ theyyasatthasamuṭṭhānaṃ kāyacittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
Học giới về việc gợi ý xin canh và cơm có sự phát sinh tội giống như tội trộm cắp và (liên quan đến) hung khí, phát sinh từ thân-ý và từ thân-khẩu-ý; là hành động, được miễn trừ do nhận thức sai, có tâm cố ý, bị thế gian chê cười, là hành động của thân, là lời nói, với tâm bất thiện, và cảm giác khó chịu.

Chattapāṇidaṇḍapāṇisatthapāṇiāvudhapāṇipādukaupāhanayānasayanapallatthikaveṭhitaoguṇṭhitanāmakāni ekādasa sikkhāpadāni dhammadesanasamuṭṭhānāni vācācittato samuṭṭhahanti, kiriyākiriyāni, saññāvimokkhāni, sacittakāni, lokavajjāni, vacīkammāni, akusalacittāni, dukkhavedanānīti.
Mười một học giới gọi là (thuyết pháp cho người) cầm lọng, cầm gậy, cầm đao kiếm, cầm vũ khí, mang giày, mang dép, ngồi trên xe, đang nằm, ngồi chéo chân, quấn đầu, trùm đầu, có sự phát sinh tội giống như (các tội liên quan đến) thuyết pháp, phát sinh từ khẩu-ý; vừa là hành động vừa không phải là hành động (tùy trường hợp), được miễn trừ do nhận thức sai, có tâm cố ý, bị thế gian chê cười, là hành động của lời nói, với tâm bất thiện, và cảm giác khó chịu.

Avasesāni tepaṇṇāsa sikkhāpadāni paṭhamapārājikasamuṭṭhānānīti.
Năm mươi ba học giới còn lại có sự phát sinh tội giống như tội Bất Cộng Trụ thứ nhất.

Sabbasekhiyesu ābādhapaccayā anāpatti, thūpīkatapiṇḍapāte sūpabyañjanena paṭicchādane ujjhānasaññimhīti tīsu sikkhāpadesu gilāno natthīti.
Trong tất cả các ưng học pháp, (nếu vi phạm) do duyên bệnh tật thì không phạm tội. (Nhưng) trong ba học giới: nhận vật thực vun ngọn, che đậy (cơm bằng canh hoặc ngược lại), và có ý muốn khiển trách, thì (trường hợp) người bệnh không được (miễn trừ).

Sekhiyavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích Ưng Học Pháp đã hoàn tất.

Sekhiyakaṇḍaṃ niṭṭhitaṃ.

Chương Ưng Học Pháp đã hoàn tất.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang