Chú giải Tạng Luật

Chú Giải Tạng Luật – Phẩm Pārājika – Chương Bất Cộng Trụ

1. Pārājikakaṇḍaṃ

1. Phẩm Bất Cộng Trụ

1. Paṭhamapārājikaṃ

1. Điều Bất Cộng Trụ Thứ Nhất

Sudinnabhāṇavāravaṇṇanā

Tường Giải Phần về Ngài Sudinna

24. Ito paraṃ tena kho pana samayena vesāliyā avidūretiādi yebhuyyena uttānatthaṃ. Tasmā anupadavaṇṇanaṃ pahāya yattha yattha vattabbaṃ atthi, taṃ tadeva vaṇṇayissāma. Kalandagāmoti kalandakā vuccanti kāḷakā, tesaṃ vasena laddhanāmo gāmo. Kalandaputtoti gāmavasena laddhanāmassa rājasammatassa cattālīsakoṭivibhavassa kalandaseṭṭhino putto. Yasmā pana tasmiṃ gāme aññepi kalandanāmakā manussā atthi, tasmā kalandaputtoti vatvā puna seṭṭhiputtoti vuttaṃ. Sambahulehīti bahukehi. Sahāyakehīti sukhadukkhāni saha āyanti upagacchantīti sahāyā, sahāyā eva sahāyakā, tehi sahāyakehi. Saddhinti ekato. Kenacideva karaṇīyenāti kenacideva bhaṇḍappayojanauddhārasāraṇādinā kiccena; kattikanakkhattakīḷākiccenātipi vadanti. Bhagavā hi kattikajuṇhapakkhe vesāliṃ sampāpuṇi. Kattikanakkhattakīḷā cettha uḷārā hoti. Tadatthaṃ gatoti veditabbo.
24. Kể từ đây, đoạn “vào lúc bấy giờ, không xa thành Vesālī” và các đoạn tương tự, phần lớn có nghĩa rõ ràng. Do đó, bỏ qua phần giải thích từng chữ, ở những chỗ nào cần nói đến thì chúng tôi sẽ giải thích ngay tại chỗ đó. Về làng Kalandaka: ‘kalandakā’ (còn gọi là ‘kāḷakā’) là tên gọi loài sóc, ngôi làng này được đặt tên dựa theo chúng. Con trai của Kalandaka có nghĩa là con trai của trưởng giả Kalandaka, người được vua công nhận, có tài sản bốn mươi triệu, và được đặt tên theo làng. Vì trong làng ấy cũng có những người khác tên Kalandaka, cho nên sau khi nói con trai của Kalandaka, lại nói thêm là con trai của trưởng giả. Với nhiều người có nghĩa là với nhiều người. Với các bạn bè (sahāyakehi) có nghĩa là: những người cùng đến, cùng trải qua vui buồn được gọi là bạn (sahāyā); bạn chính là bạn hữu (sahāyakā); (ý nói) với các bạn hữu ấy. Cùng nhau có nghĩa là cùng một chỗ. Vì một công việc nào đó có nghĩa là vì một công việc nào đó như vay mượn hàng hóa, giải quyết công việc; người ta cũng nói là vì công việc vui chơi trong lễ hội Kattika. Vì quả thật, Thế Tôn đã đến thành Vesālī vào thượng tuần tháng Kattika. Và lễ hội Kattika ở đây rất lớn. Nên hiểu rằng (Sudinna) đã đi vì mục đích đó.

Addasa khoti kathaṃ addasa? So kira nagarato bhuttapātarāsaṃ suddhuttarāsaṅgaṃ mālāgandhavilepanahatthaṃ buddhadassanatthaṃ dhammasavanatthañca nikkhamantaṃ mahājanaṃ disvā ‘‘kva gacchathā’’ti pucchi. ‘‘Buddhadassanatthaṃ dhammasavanatthañcā’’ti. Tena hi ‘‘ahampi gacchāmī’’ti gantvā catubbidhāya parisāya parivutaṃ brahmassarena dhammaṃ desentaṃ bhagavantaṃ addasa. Tena vuttaṃ – ‘‘addasa kho…pe… desenta’’nti. Disvānassāti disvāna assa. Etadahosīti pubbe katapuññatāya codiyamānassa bhabbakulaputtassa etaṃ ahosi. Kiṃ ahosi? Yaṃnūnāhampi dhammaṃ suṇeyyanti . Tattha yannūnāti parivitakkadassanametaṃ. Evaṃ kirassa parivitakko uppanno ‘‘yamayaṃ parisā ekaggacittā dhammaṃ suṇāti, aho vatāhampi taṃ suṇeyya’’nti.
Đã thấy có nghĩa là thấy như thế nào? Chuyện kể rằng, sau khi dùng bữa sáng xong, vị ấy khoác y chỉnh tề, tay cầm vòng hoa, hương liệu và thuốc xoa, thấy đám đông dân chúng từ thành đi ra để đến yết kiến đức Phật và nghe Pháp, liền hỏi: “Quý vị đi đâu vậy?” “Để yết kiến đức Phật và nghe Pháp.” Khi ấy, vị ấy nói: “Vậy thì tôi cũng đi”, rồi đi đến và đã thấy Thế Tôn đang thuyết Pháp bằng Phạm âm, được bốn chúng vây quanh. Do đó có lời dạy rằng – “đã thấy… (cho đến)… đang thuyết Pháp.” Sau khi thấy vị ấy có nghĩa là sau khi thấy, đối với vị ấy. Điều này đã xảy ra có nghĩa là điều này đã xảy ra với người thiện gia nam tử có khả năng, được thúc đẩy bởi công đức đã làm từ trước. Điều gì đã xảy ra? “Ước gì tôi cũng được nghe Pháp.” Trong đó, ước gì là sự biểu thị của suy tư. Chuyện kể rằng, suy tư như vầy đã khởi lên trong vị ấy: “Hội chúng này đang nhất tâm nghe Pháp, ồ, ước gì tôi cũng được nghe Pháp ấy.”

Athakho sudinno kalandaputto yena sā parisāti idha kasmā ‘‘yena bhagavā’’ti avatvā ‘‘yena sā parisā’’ti vuttanti ce. Bhagavantañhi parivāretvā uḷāruḷārajanā mahatī parisā nisinnā, tatra na sakkā iminā pacchā āgatena bhagavantaṃ upasaṅkamitvā nisīdituṃ. Parisāya pana ekasmiṃ padese sakkāti so taṃ parisaṃyeva upasaṅkamanto. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho sudinno kalandaputto yena sā parisā’’ti. Ekamantaṃ nisinnassa kho sudinnassa kalandaputtassa etadahosīti na nisinnamattasseva ahosi, atha kho bhagavato sittayūpasaṃhitaṃ thokaṃ dhammakathaṃ sutvā; taṃ panassa yasmā ekamantaṃ nisinnasseva ahosi. Tena vuttaṃ – ‘‘ekamantaṃ nisinnassa kho sudinnassa kalandaputtassa etadahosī’’ti. Kiṃ ahosīti? Yathā yathā khotiādi.
Khi ấy Sudinna, con trai của Kalandaka, đến chỗ hội chúng ấy. Ở đây, nếu hỏi tại sao không nói “đến chỗ Thế Tôn” mà lại nói “đến chỗ hội chúng ấy”? Vì hội chúng đông đảo gồm những người danh tiếng đã ngồi vây quanh Thế Tôn, ở đó người đến sau này không thể đến gần Thế Tôn mà ngồi được. Nhưng có thể (ngồi) ở một góc của hội chúng, nên vị ấy đã đến gần chính hội chúng đó. Do đó có lời dạy rằng – “Khi ấy Sudinna, con trai của Kalandaka, đến chỗ hội chúng ấy.” Khi Sudinna, con trai của Kalandaka, ngồi xuống một bên, điều này đã xảy ra. Không phải chỉ vừa ngồi xuống là điều ấy xảy ra, mà là sau khi nghe một ít pháp thoại của Thế Tôn, có nội dung liên quan đến (ví dụ về) sự gieo trồng và kết quả; nhưng vì điều ấy xảy ra với vị ấy khi đang ngồi một bên. Do đó có lời dạy rằng – “Khi Sudinna, con trai của Kalandaka, ngồi xuống một bên, điều này đã xảy ra.” Điều gì đã xảy ra? Chính là điều bắt đầu bằng: “Theo như tôi hiểu…”

Tatrāyaṃ saṅkhepakathā – ahaṃ kho yena yena ākārena bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi, tena tena me upaparikkhato evaṃ hoti yadetaṃ sittayabrahmacariyaṃ ekampi divasaṃ akhaṇḍaṃ katvā carimakacittaṃ pāpetabbatāya ekantaparipuṇṇaṃ caritabbaṃ, ekadivasampi ca kilesamalena amalīnaṃ katvā carimakacittaṃ pāpetabbatāya ekantaparisuddhaṃ. Saṅkhalikhitaṃ likhitasaṅkhasadisaṃ dhotasaṅkhasappaṭibhāgaṃ caritabbaṃ. Idaṃ na sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā agāramajjhe vasantena ekantaparipuṇṇaṃ…pe… carituṃ. Yaṃnūnāhaṃ kese ca massuñca ohāretvā kasāyarasapītatāya kāsāyāni brahmacariyaṃ carantānaṃ anucchavikāni vatthāni acchādetvā paridahitvā agārasmā nikkhamitvā anagāriyaṃ pabbajeyyanti. Ettha ca yasmā agārassa hitaṃ kasivāṇijjādikammaṃ agāriyanti vuccati, tañca pabbajjāya natthi; tasmā pabbajjā ‘‘anagāriyā’’ti ñātabbā. Taṃ anagāriyaṃ pabbajjaṃ. Pabbajeyyanti paribbajeyyaṃ.
Đây là lời tóm tắt – Theo như tôi hiểu được Giáo Pháp mà Thế Tôn đã thuyết giảng, bằng những phương diện nào, thì khi tôi suy xét kỹ lưỡng theo những phương diện ấy, sự việc là như vầy: đời sống phạm hạnh này, được ví như hạt giống đã gieo, cần phải được thực hành một cách hoàn toàn trọn vẹn để đạt đến tâm cuối cùng (chứng ngộ), không để gián đoạn dù chỉ một ngày, và cần phải được thực hành một cách hoàn toàn thanh tịnh để đạt đến tâm cuối cùng, không để ô nhiễm bởi bụi bẩn phiền não dù chỉ một ngày. Cần phải được thực hành (trong sạch) như vỏ ốc xà cừ được mài bóng, giống như vỏ ốc xà cừ được chạm trổ, sánh ngang với vỏ ốc xà cừ được rửa sạch. Điều này không dễ cho người sống tại gia, ở giữa đời sống gia đình, để có thể thực hành (đời sống phạm hạnh ấy) một cách hoàn toàn trọn vẹn (và hoàn toàn thanh tịnh, v.v…). Ước gì tôi cạo bỏ râu tóc, mặc vào mình y phục màu cà sa, loại y phục thích hợp cho những người sống đời phạm hạnh, đã được nhuộm bằng chất có vị chát (tượng trưng cho sự từ bỏ), từ bỏ gia đình, sống đời không gia đình, xuất gia tu học.” Ở đây, vì những công việc lợi ích cho gia đình như nông nghiệp, thương mại v.v… được gọi là việc tại gia (agāriya), và những việc ấy không có trong đời sống xuất gia; cho nên đời sống xuất gia được biết đến là “không gia đình” (anagāriyā). Đời sống xuất gia không gia đình ấy. “Tôi sẽ xuất gia” có nghĩa là tôi sẽ đi tu.

25.Aciravuṭṭhitāya parisāya yena bhagavā tenupasaṅkamīti sudinno avuṭṭhitāya parisāya na bhagavantaṃ pabbajjaṃ yāci. Kasmā? Tatrassa bahū ñātisālohitā mittāmaccā santi, te ‘‘‘tvaṃ mātāpitūnaṃ ekaputtako, na labbhā tayā pabbajitu’nti bāhāyampi gahetvā ākaḍḍheyyuṃ, tato pabbajjāya antarāyo bhavissatī’’ti saheva parisāya uṭṭhahitvā thokaṃ gantvā puna kenaci sarīrakiccalesena nivattitvā bhagavantaṃ upasaṅkamma pabbajjaṃ yāci. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho sudinno kalandaputto aciravuṭṭhitāya parisāya…pe… pabbājetu maṃ bhagavā’’ti.
25. Khi hội chúng vừa giải tán không lâu, (Sudinna) đến gặp Thế Tôn có nghĩa là Sudinna đã không xin Thế Tôn xuất gia khi hội chúng chưa giải tán. Tại sao? Vì ở đó có nhiều bà con quyến thuộc, bạn bè và những người thân cận của vị ấy, họ có thể nắm tay kéo lại và nói: ‘Anh là con một của cha mẹ, anh không thể xuất gia được đâu’, từ đó việc xuất gia sẽ bị ngăn trở. Vì vậy, sau khi cùng hội chúng đứng dậy đi một đoạn, rồi lấy cớ có việc riêng cần giải quyết quay lại, vị ấy đã đến gặp Thế Tôn và xin xuất gia. Do đó có lời dạy rằng – “Khi ấy Sudinna, con trai của Kalandaka, khi hội chúng vừa giải tán không lâu… (cho đến)… xin Thế Tôn cho con xuất gia.”

Bhagavā pana yasmā rāhulakumārassa pabbajitato pabhuti mātāpitūhi ananuññātaṃ puttaṃ na pabbājeti, tasmā naṃ pucchi – ‘‘anuññātosi pana tvaṃ sudinna mātāpitūhi…pe… pabbajjāyā’’ti.
Nhưng vì Thế Tôn, kể từ khi cho Rāhulakumāra xuất gia, không cho phép con cái xuất gia nếu chưa được cha mẹ đồng ý, cho nên Ngài đã hỏi vị ấy – “Này Sudinna, con đã được cha mẹ cho phép… (cho đến)… xuất gia chưa?”

26. Ito paraṃ pāṭhānusāreneva gantvā taṃ karaṇīyaṃ tīretvāti ettha evamattho veditabbo – dhuranikkhepeneva taṃ karaṇīyaṃ niṭṭhāpetvāti; na hi pabbajjāya tibbacchandassa bhaṇḍappayojanauddhārasāraṇādīsu vā nakkhattakīḷāyaṃ vā cittaṃ namati. Amma tātāti ettha pana ammāti mātaraṃ ālapati; tātāti pitaraṃ. Tvaṃ khosīti tvaṃ kho asi. Ekaputtakoti ekova puttako; añño te jeṭṭho vā kaniṭṭho vā natthi. Ettha ca ‘‘ekaputto’’ti vattabbe anukampāvasena ‘‘ekaputtako’’ti vuttaṃ. Piyoti pītijananako. Manāpoti manavaḍḍhanako. Sukhedhitoti sukhena edhito; sukhasaṃvaḍḍhitoti attho. Sukhaparihatoti sukhena parihato; jātakālato pabhuti dhātīhi aṅkato aṅkaṃ haritvā dhāriyamāno assakarathakādīhi bālakīḷanakehi kīḷamāno sādurasabhojanaṃ bhojiyamāno sukhena parihato.
26. Kể từ đây, đi theo thứ tự của bài học, cụm từ “sau khi hoàn thành công việc ấy” ở đây cần được hiểu nghĩa như sau – có nghĩa là đã hoàn tất công việc ấy bằng cách từ bỏ trách nhiệm (đối với nó); vì người có ước muốn xuất gia mãnh liệt thì tâm không còn hướng về việc vay mượn hàng hóa, giải quyết công việc, hay vui chơi lễ hội nữa. Trong cụm từ “Mẹ ơi, Cha ơi”, thì “Mẹ” là gọi mẹ; “Cha” là gọi cha. “Con là” có nghĩa là con thật là. Con một có nghĩa là chỉ một người con trai; con không có anh trai hay em trai nào khác. Ở đây, đáng lẽ nên nói là “ekaputto” (con một), nhưng vì lòng thương mến nên đã được nói là “ekaputtako” (đứa con một). Thương yêu có nghĩa là người mang lại niềm vui. Quý mến có nghĩa là người làm tăng trưởng niềm vui trong lòng. Được nuôi nấng trong sung sướng có nghĩa là được lớn lên trong sung sướng; có nghĩa là được nuôi dưỡng trong hạnh phúc. Được chăm sóc trong nhung lụa có nghĩa là được chăm sóc trong sung sướng; kể từ khi sinh ra, được các vú nuôi ẵm bồng chuyền tay, được vui chơi với ngựa, xe đồ chơi và các trò chơi trẻ con khác, được cho ăn những món ngon vật lạ, được chăm sóc trong sung sướng.

Na tvaṃ, tāta sudinna, kiñci dukkhassa jānāsīti tvaṃ tāta sudinna kiñci appamattakampi kalabhāgaṃ dukkhassa na jānāsi; atha vā kiñci dukkhena nānubhosīti attho. Karaṇatthe sāmivacanaṃ, anubhavanatthe ca jānanā; atha vā kiñci dukkhaṃ nassarasīti attho. Upayogatthe sāmivacanaṃ, saraṇatthe ca jānanā. Vikappadvayepi purimapadassa uttarapadena samānavibhattilopo daṭṭhabbo. Taṃ sabbaṃ saddasatthānusārena ñātabbaṃ. Maraṇenapi mayaṃ te akāmakā vinā bhavissāmāti sacepi tava amhesu jīvamānesu maraṇaṃ bhaveyya, tena te maraṇenapi mayaṃ akāmakā anicchakā na attano ruciyā, vinā bhavissāma; tayā viyogaṃ vā pāpuṇissāmāti attho. Kiṃ pana mayaṃ tanti evaṃ sante kiṃ pana kiṃ nāma taṃ kāraṇaṃ yena mayaṃ taṃ jīvantaṃ anujānissāma; atha vā kiṃ pana mayaṃ tanti kena pana kāraṇena mayaṃ taṃ jīvantaṃ anujānissāmāti evamettha attho daṭṭhabbo.
Câu ‘Này con Sudinna, con không biết gì về khổ cả’ có nghĩa là: Này con Sudinna, con không biết dù chỉ một chút nhỏ nào, một phần nhỏ nào của khổ; hoặc có nghĩa là con không trải qua bất kỳ khổ nào. Ở đây, sở thuộc cách được dùng với nghĩa công cụ, và sự biết được dùng với nghĩa kinh nghiệm; hoặc có nghĩa là con không nhớ gì về khổ. Ở đây, sở thuộc cách được dùng với nghĩa sử dụng, và sự biết được dùng với nghĩa nhớ lại. Trong cả hai trường hợp phân tích, cần thấy sự lược bỏ biến cách tương đồng của từ đứng trước với từ đứng sau. Tất cả điều đó cần được hiểu theo ngữ pháp học. Câu ‘Dù cho con có chết đi, chúng ta cũng không muốn phải xa lìa con’ có nghĩa là: nếu như con chết trong khi chúng ta còn sống, thì dù con có chết đi, chúng ta cũng không muốn, không mong ước, không phải theo ý thích của mình mà phải xa lìa con; hoặc có nghĩa là chúng ta sẽ phải chịu cảnh chia lìa với con. Câu ‘Huống nữa là chúng ta’ có nghĩa là: trong trường hợp như vậy, huống nữa là có lý do gì mà chúng ta lại cho phép con (xuất gia) khi con còn sống; hoặc ‘Huống nữa là chúng ta’ nên được hiểu ở đây là: vì lý do gì mà chúng ta lại cho phép con (xuất gia) khi con còn sống.

27.Tatthevāti yattha naṃ ṭhitaṃ mātāpitaro nānujāniṃsu, tattheva ṭhāne. Anantarahitāyāti kenaci attharaṇena anatthatāya.
27. ‘Ngay tại nơi đó’ nghĩa là: ngay tại nơi mà cha mẹ đã không cho phép nó (Sudinna) đang đứng đó. ‘Không có gì trải ở giữa’ nghĩa là: không được trải bằng bất kỳ vật liệu trải nào.

28.Paricārehīti gandhabbanaṭanāṭakādīni paccupaṭṭhāpetvā tattha sahāyakehi saddhiṃ yathāsukhaṃ indriyāni cārehi sañcārehi; ito cito ca upanehīti vuttaṃ hoti. Atha vā paricārehīti gandhabbanaṭanāṭakādīni paccupaṭṭhāpetvā tattha sahāyakehi saddhiṃ laḷa, upalaḷa, rama, kīḷassūtipi vuttaṃ hoti. Kāme paribhuñjantoti attano puttadārehi saddhiṃ bhoge bhuñjanto. Puññāni karontoti buddhañca dhammañca saṅghañca ārabbha dānappadānādīni sugatimaggasodhakāni kusalakammāni karontoTuṇhī ahosīti kathānuppabandhavicchedanatthaṃ nirālāpasallāpo ahosi. Athassa mātāpitaro tikkhattuṃ vatvā paṭivacanampi alabhamānā sahāyake pakkosāpetvā ‘‘esa vo sahāyako pabbajitukāmo, nivāretha na’’nti āhaṃsu. Tepi taṃ upasaṅkamitvā tikkhattuṃ avocuṃ, tesampi tuṇhī ahosi. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho sudinnassa kalandaputtassa sahāyakā…pe… tuṇhī ahosī’’ti.
28. ‘Hãy hưởng thụ’ nghĩa là: sau khi cho chuẩn bị ca nhạc, múa hát, kịch nghệ v.v…, hãy cùng với bạn bè hưởng thụ các giác quan một cách thoải mái tại đó, hãy để chúng rong chơi; được nói là hãy mang từ đây đến đó. Hoặc ‘hãy hưởng thụ’ cũng được nói là: sau khi cho chuẩn bị ca nhạc, múa hát, kịch nghệ v.v…, hãy cùng với bạn bè vui chơi, đùa giỡn, tận hưởng, giải trí tại đó. ‘Trong khi hưởng thụ các dục lạc’ nghĩa là: trong khi hưởng thụ của cải cùng với vợ con của mình. ‘Trong khi làm các việc phước thiện’ nghĩa là: trong khi làm các thiện nghiệp như bố thí v.v… liên quan đến Phật, Pháp và Tăng, những việc thanh lọc con đường đến cõi lành. ‘Đã im lặng’ nghĩa là: đã không nói chuyện, không trò chuyện để cắt đứt dòng chảy của câu chuyện. Khi ấy, cha mẹ của anh ta sau khi nói ba lần mà không nhận được lời đáp, đã cho gọi bạn bè đến và nói: ‘Người bạn này của các con muốn xuất gia, hãy khuyên can nó.’ Họ cũng đến gặp anh ta và nói ba lần, nhưng anh ta vẫn im lặng với họ. Do đó đã được nói rằng – ‘Khi ấy, bạn bè của Sudinna, con trai của Kalanda…cho đến… đã im lặng.’

29. Athassa sahāyakānaṃ etadahosi – ‘‘sace ayaṃ pabbajjaṃ alabhamāno marissati na koci guṇo bhavissati. Pabbajitaṃ pana naṃ mātāpitaropi kālena kālaṃ passissanti. Mayampi passissāma. Pabbajjāpi ca nāmesā bhāriyā, divase divase mattikāpattaṃ gahetvā piṇḍāya caritabbaṃ. Ekaseyyaṃ ekabhattaṃ brahmacariyaṃ atidukkaraṃ. Ayañca sukhumālo nāgarikajātiyo, so taṃ carituṃ asakkonto puna idheva āgamissati. Handassa mātāpitaro anujānāpessāmā’’ti. Te tathā akaṃsu. Mātāpitaropi naṃ anujāniṃsu. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho sudinnassa kalandaputtassa sahāyakā yena sudinnassa kalandaputtassa mātāpitaro…pe… anuññātosi mātāpitūhi agārasmā anagāriyaṃ pabbajjāyā’’ti.
29. Khi ấy, các bạn của anh ta nghĩ rằng: ‘Nếu người này không được xuất gia mà chết đi thì sẽ không có lợi ích gì. Nhưng nếu nó xuất gia, cha mẹ cũng thỉnh thoảng sẽ được gặp nó. Chúng ta cũng sẽ được gặp. Vả lại, việc xuất gia này thật nặng nề, ngày ngày phải mang bát đất đi khất thực. Việc ngủ một mình, ăn một bữa, đời sống phạm hạnh thật vô cùng khó khăn. Người này lại là người tinh tế, thuộc dòng dõi thị dân, anh ta sẽ không thể thực hành được điều đó và sẽ quay trở lại đây thôi. Thôi, chúng ta hãy xin cha mẹ cho phép nó (xuất gia).’ Họ đã làm như vậy. Cha mẹ cũng đã cho phép nó. Do đó đã được nói rằng – ‘Khi ấy, bạn bè của Sudinna, con trai của Kalanda, đến chỗ cha mẹ của Sudinna, con trai của Kalanda…cho đến… con đã được cha mẹ cho phép từ bỏ đời sống gia đình, sống đời không gia đình để xuất gia.’

30.Haṭṭhoti tuṭṭho. Udaggoti pītivasena abbhunnatakāyacitto. Katipāhanti katipayāni divasāni. Balaṃ gāhetvāti sappāyabhojanāni bhuñjanto, ucchādananhāpanādīhi ca kāyaṃ pariharanto, kāyabalaṃ janetvā mātāpitaro vanditvā assumukhaṃ ñātiparivaṭṭaṃ pahāya yena bhagavā tenupasaṅkami…pe… pabbājetu maṃ bhante bhagavāti. Bhagavā samīpe ṭhitaṃ aññataraṃ piṇḍacārikaṃ bhikkhuṃ āmantesi – ‘‘tena hi bhikkhu sudinnaṃ pabbājehi ceva upasampādehi cā’’ti. ‘‘Sādhu, bhante’’ti kho so bhikkhu bhagavato paṭissuṇitvā sudinnaṃ kalandaputtaṃ jinadattiyaṃ saddhivihārikaṃ laddhā pabbājesi ceva upasampādesi ca. Tena vuttaṃ – ‘‘alattha khosudinno kalandaputto bhagavato santike pabbajjaṃ, alattha upasampada’’nti.
30. ‘Hân hoan’ nghĩa là: vui mừng. ‘Phấn khởi’ nghĩa là: với tâm và thân phấn chấn do niềm vui. ‘Vài ngày’ nghĩa là: một số ngày. ‘Sau khi lấy lại sức’ nghĩa là: sau khi dùng các món ăn thích hợp, chăm sóc thân thể bằng cách xoa bóp, tắm rửa v.v…, và làm cho thân thể có sức mạnh; rồi đảnh lễ cha mẹ, từ bỏ quyến thuộc mặt đẫm lệ, đã đi đến nơi Thế Tôn ở…cho đến… ‘Bạch Thế Tôn, xin hãy cho con xuất gia.’ Thế Tôn gọi một vị Tỳ khưu khất thực nào đó đang đứng gần: ‘Này Tỳ khưu, vậy hãy cho Sudinna xuất gia và thọ cụ túc giới.’ ‘Lành thay, bạch Thế Tôn’, vị Tỳ khưu ấy vâng lời Thế Tôn, sau khi nhận Sudinna, con trai của Kalanda, (người) được Đấng Chiến Thắng ban cho, làm đệ tử cùng ở, đã cho xuất gia và thọ cụ túc giới. Do đó đã được nói rằng – ‘Sudinna, con trai của Kalanda, đã được xuất gia nơi Thế Tôn, đã được thọ cụ túc giới.’

Ettha pana ṭhatvā sabbaaṭṭhakathāsu pabbajjā ca upasampadā ca kathitā. Mayaṃ pana yathāṭhitapāḷivaseneva khandhake kathayissāma. Na kevalañcetaṃ, aññampi yaṃ khandhake vā parivāre vā kathetabbaṃ aṭṭhakathācariyehi vibhaṅgekathitaṃ, taṃ sabbaṃ tattha tattheva kathayissāma. Evañhi kathiyamāne pāḷikkameneva vaṇṇanā katā hoti. Tato tena tena vinicchayena atthikānaṃ pāḷikkameneva imaṃ vinayasaṃvaṇṇanaṃ oloketvā so so vinicchayo suviññeyyo bhavissatīti.
Tuy nhiên, ở đây, trong tất cả các sách Chú giải, việc xuất gia và thọ cụ túc giới đã được trình bày. Nhưng chúng tôi, chỉ theo như Thánh điển Pāḷi đã được xác lập, sẽ trình bày (điều đó) trong phần Hợp phần. Không chỉ vậy, những điều khác đáng lẽ phải được trình bày trong phần Hợp phần hay phần Tập Yếu, nhưng đã được các vị Luận sư Chú giải nói đến trong phần Phân Tích, thì tất cả những điều đó chúng tôi sẽ trình bày lại đúng vị trí của chúng. Khi được trình bày như vậy, sự giải thích được thực hiện theo đúng trình tự của Thánh điển Pāḷi. Do đó, đối với những ai quan tâm đến các quyết định (phân xử Luật), sau khi xem xét bản Chú giải Luật này theo đúng trình tự của Thánh điển Pāḷi, các quyết định ấy sẽ trở nên dễ hiểu.

Acirūpasampannoti aciraṃ upasampanno hutvā; upasampadato nacirakāleyevāti vuttaṃ hoti. Evarūpeti evaṃvidhe evaṃjātike. Dhutaguṇeti kilesaniddhunanake guṇe. Samādāya vattatīti samādiyitvā gaṇhitvā vattati carati viharati. Āraññiko hotīti gāmantasenāsanaṃ paṭikkhipitvā āraññikadhutaṅgavasena araññavāsiko hoti. Piṇḍapātikoti atirekalābhapaṭikkhepena cuddasa bhattāni paṭikkhipitvā piṇḍapātikadhutaṅgavasena piṇḍapātiko hoti. Paṃsukūlikoti gahapaticīvaraṃ paṭikkhipitvā paṃsukūlikadhutaṅgavasena paṃsukūliko hoti. Sapadānacārikoti loluppacāraṃ paṭikkhipitvā sapadānacārikadhutaṅgavasena sapadānacāriko hoti; gharapaṭipāṭiyā bhikkhāya pavisati. Vajjigāmanti vajjīnaṃ gāmaṃ vajjīsu vā gāmaṃ.
Vừa mới thọ Cụ túc giới’ nghĩa là: sau khi thọ Cụ túc giới chưa lâu; được nói là chỉ trong một thời gian không lâu kể từ khi thọ Cụ túc giới. ‘Như vậy’ nghĩa là: loại như vậy, hạng như vậy. ‘Các phẩm hạnh đầu đà’ nghĩa là: các phẩm hạnh rũ bỏ phiền não. ‘Thọ trì và thực hành’ nghĩa là: sau khi thọ trì, chấp nhận, thực hành, đi theo, sống theo. ‘Là người ở rừng’ nghĩa là: sau khi từ bỏ trú xứ gần làng, vị ấy sống trong rừng theo hạnh đầu đà ở rừng. ‘Là người chỉ dùng vật thực khất thực’ nghĩa là: sau khi từ bỏ các lợi phẩm dư thừa, từ bỏ mười bốn loại vật thực (không được chấp nhận theo hạnh này), vị ấy chỉ dùng vật thực khất thực theo hạnh đầu đà khất thực. ‘Là người chỉ mặc y phấn tảo’ nghĩa là: sau khi từ bỏ y phục do gia chủ cúng dường, vị ấy chỉ mặc y phấn tảo theo hạnh đầu đà mặc y phấn tảo. ‘Là người khất thực theo thứ tự’ nghĩa là: sau khi từ bỏ việc khất thực tham lam (chọn lựa nhà giàu nghèo), vị ấy khất thực theo thứ tự từng nhà theo hạnh đầu đà khất thực theo thứ tự; vị ấy vào khất thực theo thứ tự nhà cửa. ‘Làng của người Vajjī’ nghĩa là: làng của những người Vajjī, hoặc một làng trong xứ Vajjī.

Aḍḍhā mahaddhanātiādīsu upabhogaparibhogūpakaraṇamahantatāya aḍḍhā; ye hi tesaṃ upabhogā yāni ca upabhogūpakaraṇāni, tāni mahantāni bahulāni sārakānīti vuttaṃ hoti. Nidhetvā ṭhapitadhanamahantatāya mahaddhanā. Mahābhogāti divasaparibbayasaṅkhātabhogamahantatāya mahābhogā. Aññehi upabhogehi jātarūparajatasseva pahūtatāya pahūtajātarūparajatā. Alaṅkārabhūtassa vittūpakaraṇassa pītipāmojjakaraṇassa pahūtatāya pahūtavittūpakaraṇā. Vohāravasena parivattentassa dhanadhaññassa pahūtatāya pahūtadhanadhaññāti veditabbā.
Trong các cụm từ như ‘Giàu có, nhiều của cải’ v.v…, ‘Giàu có’ là do sự to lớn của các phương tiện tiêu dùng và hưởng thụ; thật vậy, những vật dụng và phương tiện hưởng thụ của họ, được nói là to lớn, nhiều và có giá trị. ‘Nhiều của cải’ là do sự to lớn của tài sản được cất giữ. ‘Nhiều tài sản hưởng dùng’ nghĩa là: nhiều tài sản hưởng dùng do sự to lớn của tài sản được tính bằng chi tiêu hàng ngày. ‘Nhiều vàng bạc’ là do sự dồi dào của vàng bạc cùng với các vật dụng khác. ‘Nhiều vật dụng trang hoàng’ là do sự dồi dào của các vật dụng trang trí, các phương tiện tài sản mang lại niềm vui và sự hân hoan. Cần phải hiểu ‘Nhiều tiền của thóc lúa’ là do sự dồi dào của tiền của và thóc lúa được dùng trong giao dịch thương mại.

Senāsanaṃsaṃsāmetvāti senāsanaṃ paṭisāmetvā; yathā na vinassati tathā naṃ suṭṭhu ṭhapetvāti attho. Saṭṭhimatte thālipāketi gaṇanaparicchedato saṭṭhithālipāke. Ekameko cettha thālipāko dasannaṃ bhikkhūnaṃ bhattaṃ gaṇhāti. Taṃ sabbampi channaṃ bhikkhusatānaṃ bhattaṃ hoti. Bhattābhihāraṃ abhihariṃsūti ettha abhiharīyatīti abhihāro. Kiṃ abhiharīyati? Bhattaṃ. Bhattameva abhihāro bhattābhihāro, taṃ bhattābhihāraṃ. Abhihariṃsūti abhimukhā hariṃsu. Tassa santikaṃ gahetvā āgamaṃsūti attho. Etassa kiṃ pamāṇanti? Saṭṭhi thālipākā. Tena vuttaṃ – ‘‘saṭṭhimatte thālipāke bhattābhihāraṃ abhihariṃsū’’ti. Bhikkhūnaṃ vissajjetvāti sayaṃ ukkaṭṭhapiṇḍapātikattā sapadānacāraṃ caritukāmo bhikkhūnaṃ paribhogatthāya pariccajitvā datvā. Ayaṃ hi āyasmā ‘‘bhikkhū ca lābhaṃ lacchanti ahañca piṇḍakena na kilamissāmī’’ti etadatthameva āgato. Tasmā attano āgamanānurūpaṃ karonto bhikkhūnaṃ vissajjetvā sayaṃ piṇḍāya pāvisi.
Sau khi dọn dẹp sàng tọa’ nghĩa là: sau khi thu dọn sàng tọa; có nghĩa là cất giữ nó cẩn thận để không bị hư hỏng. ‘Khoảng sáu mươi phần cơm nấu trong nồi’ nghĩa là: theo số lượng ước tính là sáu mươi phần cơm nấu trong nồi. Mỗi một phần cơm nấu trong nồi ở đây đủ làm vật thực cho mười vị Tỳ khưu. Tất cả số đó là vật thực cho sáu trăm vị Tỳ khưu. ‘Họ đã mang vật thực đến’: ở đây, ‘sự mang đến’ là cái được mang đến. Cái gì được mang đến? Vật thực. Chính vật thực là sự mang đến, (gọi là) sự mang vật thực đến; (họ mang) sự mang vật thực đó đến. ‘Họ đã mang đến’ nghĩa là họ mang đến tận nơi. Có nghĩa là họ mang đến gần vị ấy. Số lượng của cái đó là bao nhiêu? Sáu mươi phần cơm nấu trong nồi. Do đó đã được nói rằng – ‘Họ đã mang đến khoảng sáu mươi phần cơm nấu trong nồi làm vật thực.’ ‘Sau khi phân phát cho các Tỳ khưu’ nghĩa là: vì bản thân là người thực hành hạnh đầu đà khất thực một cách nghiêm ngặt và muốn đi khất thực theo thứ tự, nên đã từ bỏ (phần của mình) và cho các Tỳ khưu để họ dùng. Vị Trưởng lão này (nghĩ rằng) ‘các Tỳ khưu sẽ nhận được lợi phẩm, còn ta sẽ không mệt nhọc vì (việc tìm) vật thực khất thực nữa’ đã đến chỉ vì mục đích đó. Do đó, làm theo đúng mục đích đến của mình, sau khi phân phát cho các Tỳ khưu, bản thân vị ấy đã vào (làng) để khất thực.

So pana gahapati dukkhābhitunnatāya etamatthaṃ paripuṇṇaṃ katvā vattumasakkonto ‘‘atthi nāma, tāta sudinna, ābhidosikaṃ kummāsaṃ paribhuñjissasī’’ti ettakameva avoca. Akkharacintakā panettha imaṃ lakkhaṇaṃ vadanti – anokappanāmarisanatthavasena etaṃ atthināmasadde upapade ‘‘paribhuñjissasī’’ti anāgatavacanaṃ kataṃ. Tassāyamattho – atthi nāma…pe… paribhuñjissasi, idaṃ paccakkhampi ahaṃ na saddahāmi na marisayāmīti. Tatāyaṃ ābhidosikoti tato tava gehato ayaṃ ābhidosiko kummāso laddhoti attho. Tatoyantipi pāṭho. Tadāyantipi paṭhanti, taṃ na sundaraṃ. Yena sakapitu nivesananti yena sakassa pitu attano pitu nivesananti attho; thero pitari pemeneva subbaco hutvā agamāsi. Adhivāsesīti thero ukkaṭṭhapiṇḍapātikopi samāno ‘‘sace ekabhattampi na gahessāmi, ativiya nesaṃ domanassaṃ bhavissatī’’ti ñātīnaṃ anukampāya adhivāsesi.
Nhưng vị gia chủ ấy, do bị phiền muộn lấn át, không thể nói đầy đủ ý này, chỉ nói chừng ấy thôi: ‘Này con Sudinna, lẽ nào con lại dùng cháo cám thừa từ tối qua sao?’ Ở đây, các nhà ngữ pháp nói về đặc điểm này như sau: với ý nghĩa không tin nổi, không thể chịu đựng nổi, khi có từ ‘atthi nāma’ (lẽ nào) đi trước, thì động từ ở thì tương lai ‘con sẽ dùng’ đã được dùng. Ý nghĩa của nó là thế này: Lẽ nào… cho đến… con sẽ dùng, điều này dù thấy rõ ràng ta cũng không tin, không thể chịu đựng nổi. ‘Do đó, đây là (cháo) thừa từ tối qua’ có nghĩa là: do đó, cháo cám thừa từ tối qua này được nhận từ nhà của con. Cũng có bản đọc là ‘tatoyanti’. Cũng có người đọc là ‘tadāyanti’, (cách đọc) đó không hay. ‘Đến nhà của cha mình’ có nghĩa là: đến nhà của cha mình, nhà của cha ruột mình; vị Trưởng lão vì lòng thương cha nên đã dễ bảo mà đi đến. ‘Đã nhận lời’ nghĩa là: vị Trưởng lão dù là người thực hành hạnh đầu đà khất thực một cách nghiêm ngặt, (nhưng nghĩ rằng) ‘Nếu ta không nhận dù chỉ một bữa ăn, họ sẽ vô cùng đau khổ’, nên vì lòng thương xót quyến thuộc mà đã nhận lời.

33.Opuñjāpetvāti upalimpāpetvā. Ekaṃ hiraññassāti ettha hiraññanti kahāpaṇo veditabbo. Purisoti nātidīgho nātirasso majjhimappamāṇo veditabbo. Tirokaraṇīyanti karaṇatthe bhummaṃ; sāṇipākārena parikkhipitvāti attho. Atha vā tiro karonti etenāti tirokaraṇīyaṃ, taṃ parikkhipitvā; samantato katvāti attho. Tena hīti yasmā ajja sudinno āgamissati tena kāraṇena. Hi iti padapūraṇamatte nipāto. Tenāti ayampi vā uyyojanatthe nipātoyeva.
33. ‘Cho chất thành đống’ nghĩa là: cho trát lên, đắp lên. ‘Một (đống) vàng’ thì ở đây, ‘vàng’ cần được hiểu là đồng tiền kahāpaṇa. ‘(Chiều cao) một người’ cần được hiểu là không quá cao, không quá thấp, mà là chiều cao trung bình. ‘Bằng một cái màn che’ thì (ở đây) vị trí cách dùng với nghĩa công cụ cách; có nghĩa là bao quanh bằng một bức rèm vải gai. Hoặc, ‘cái màn che’ là cái mà người ta dùng để che khuất, sau khi bao quanh bằng cái đó; có nghĩa là làm (bao quanh) khắp bốn phía. ‘Vậy thì’ nghĩa là: vì hôm nay Sudinna sẽ đến, do lý do đó. ‘Hi’ là một tiểu từ chỉ dùng để điền đầy câu. ‘Tenā’ này cũng là một tiểu từ dùng với nghĩa thúc giục.

34.Pubbaṇhasamayanti ettha kiñcāpi pāḷiyaṃ kālārocanaṃ na vuttaṃ, atha kho ārociteyeva kāle agamāsīti veditabbo. Idaṃ te tātāti dve puñje dassento āha. Mātūti janettiyā. Mattikanti mātito āgataṃ; idaṃ te mātāmahiyā mātu imaṃ gehaṃ āgacchantiyā dinnadhananti attho. Itthikāya itthidhananti hīḷento āha . Itthikāya nāma itthiparibhogānaṃyeva nhānacuṇṇādīnaṃ atthāya laddhaṃ dhanaṃ kittakaṃ bhaveyya. Tassāpi tāva parimāṇaṃ passa. Atha vā idaṃ te tāta sudinna mātu dhanaṃ, tañca kho mattikaṃ, na mayā dinnaṃ, tava mātuyeva santakanti vuttaṃ hoti. Taṃ panetaṃ na kasiyā na vaṇijjāya sambhūtaṃ, apica kho itthikāya itthidhanaṃ. Yaṃ itthikāya ñātikulato sāmikakulaṃ gacchantiyā laddhabbaṃ nhānacuṇṇādīnaṃ atthāya itthidhanaṃ, taṃ tāva ettakanti evamettha attho daṭṭhabbo.
34. ‘Vào buổi sáng’: ở đây, mặc dù trong Thánh điển Pāḷi không nói đến việc báo giờ, nhưng cần hiểu rằng vị ấy đã đến vào lúc đã được báo giờ. ‘Này con, đây là của con’ (là lời) ông nói trong khi chỉ vào hai đống (của cải). ‘Của mẹ’ nghĩa là: của người mẹ đã sinh ra. ‘Thuộc về mẹ’ nghĩa là: từ mẹ mà có; có nghĩa là đây là tài sản của con do bà ngoại của con, mẹ của mẹ con, đã cho khi bà về nhà này. Ông nói ‘Của một người đàn bà, tài sản của đàn bà’ với ý chế giễu. Tài sản của một người đàn bà, tức là tài sản nhận được chỉ để dùng cho các vật dụng của phụ nữ như phấn thơm, đồ tắm gội v.v…, thì được bao nhiêu chứ. Ngay cả số lượng của nó, con hãy xem đi. Hoặc là: Này con Sudinna, đây là tài sản của mẹ con, và nó thuộc về mẹ, không phải do ta cho, mà là của riêng mẹ con thôi; ý được nói là như vậy. Nhưng cái đó không phải do cày cấy hay buôn bán mà có, mà chỉ là của một người đàn bà, tài sản của đàn bà. Tài sản của đàn bà mà một người phụ nữ khi từ nhà cha mẹ về nhà chồng được nhận để dùng cho phấn thơm, đồ tắm gội v.v…, thì chỉ chừng ấy thôi; ở đây cần hiểu ý là như vậy.

Aññaṃ pettikaṃ aññaṃ pitāmahanti yaṃ pana te pitu ca pitāmahānañca santakaṃ, taṃ aññaṃyeva. Nihitañca payuttañca ativiya bahu; ettha ca pitāmahanti taddhitalopaṃ katvā veditabbaṃ. Petāmahanti vā pāṭho. Labbhā tāta sudinna hīnāyāvattitvāti tāta, sudinna, uttamaṃ ariyaddhajaṃ pabbajitaliṅgaṃ pahāya hīnāya gihibhāvāya āvattitvā labbhā bhogā bhuñjituṃ, nālabbhā bhuñjituṃ, na tvaṃ rājabhīto pabbajito, na iṇāyikehi palibuddho hutvāti. Tāta na ussahāmīti ettha pana tātāti vacanaṃ gehasitapemena āha, na samaṇatejena. Na ussahāmīti na sakkomi. Na visahāmīti nappahomi, na samatthomhi.
Phần khác là của cha, phần khác là của ông nội’ nghĩa là: còn cái gì thuộc về cha con và các ông nội của con, thì đó lại là phần khác nữa. (Tài sản) được cất giữ và được cho vay thì vô cùng nhiều; ở đây, ‘của ông nội’ cần được hiểu là đã lược bỏ hậu tố taddhita. Hoặc có bản đọc là ‘petāmahanti’ (của ông cố). ‘Này con Sudinna, có thể sau khi hoàn tục’ nghĩa là: Này con Sudinna, sau khi từ bỏ ngọn cờ cao thượng của bậc Thánh, tướng mạo xuất gia, quay về đời sống tại gia thấp hèn, có thể hưởng thụ của cải, (hay là) không thể hưởng thụ? Con xuất gia không phải vì sợ vua, không phải vì bị chủ nợ làm phiền. ‘Thưa cha, con không thể’: ở đây, lời ‘Thưa cha’ là do tình thương quyến luyến gia đình mà nói, không phải do uy lực của Sa môn. ‘Con không thể’ nghĩa là: con không làm được. ‘Con không chịu nổi’ nghĩa là: con không đủ sức, con không có khả năng.

‘‘Vadeyyāma kho taṃ gahapatī’’ti idaṃ pana vacanaṃ samaṇatejenāha. Nātikaḍḍheyyāsīti yaṃ te mayi pemaṃ patiṭṭhitaṃ, taṃ kodhavasena na atikaḍḍheyyāsi; sace na kujjheyyāsīti vuttaṃ hoti. Tato seṭṭhi ‘‘putto me saṅgahaṃ maññe kattukāmo’’ti udaggacitto āha – ‘‘vadehi tāta sudinnā’’ti. Tenahīti uyyojanatthe vibhattipatirūpako nipāto. Tatonidānanti taṃnidānaṃ taṃhetukanti paccattavacanassa to-ādeso veditabbo; samāse cassa lopābhāvo. Bhayaṃ vāti ‘‘kinti me bhoge neva rājāno hareyyu’’ntiādinā nayena vuttaṃ rājādibhayaṃ; cittutrāsoti attho. Chambhitattanti rājūhi vā corehi vā ‘‘dhanaṃ dehī’’ti kammakāraṇaṃ kāriyamānassa kāyiñjanaṃ kāyakampo hadayamaṃsacalanaṃ. Lomahaṃsoti uppanne bhaye lomānaṃ haṃsanaṃ uddhaggabhāvo. Ārakkhoti anto ca bahi ca rattiñca divā ca ārakkhaṇaṃ.
Thưa gia chủ, chúng tôi có điều muốn nói với ông’ – lời này thì (vị ấy) nói với uy lực của Sa môn. ‘Xin ông đừng quá kéo căng’ nghĩa là: tình thương mà ông dành cho tôi, xin đừng vì sân hận mà kéo căng quá; được nói là: nếu ông không tức giận. Khi đó, vị trưởng giả với tâm phấn khởi nghĩ rằng ‘Con trai ta chắc muốn nhận lấy (gia sản)’, liền nói: ‘Này con Sudinna, con cứ nói đi.’ ‘Vậy thì’ là một tiểu từ tương tự biến cách, dùng với nghĩa thúc giục. ‘Do đó làm nhân’ nghĩa là: do đó làm nhân, do đó làm duyên; cần hiểu ‘to’ là sự biến đổi của từ chỉ sở hữu cách; và trong hợp từ thì nó không bị lược bỏ. ‘Hay sự sợ hãi’ nghĩa là: sự sợ hãi vua chúa v.v… được nói theo cách như ‘Làm sao để của cải của ta không bị vua chúa chiếm đoạt?’; có nghĩa là sự hoảng sợ trong tâm. ‘Sự kinh hoàng’ nghĩa là: khi bị vua chúa hoặc trộm cướp bắt làm việc khổ sai (để tra khảo) rằng ‘Hãy nộp của cải!’, thì thân bị dao động, thân run rẩy, tim đập mạnh. ‘Sự dựng tóc gáy’ nghĩa là: khi sợ hãi phát sinh, lông tóc dựng đứng, trạng thái dựng ngược. ‘Sự bảo vệ’ nghĩa là: sự canh giữ bên trong và bên ngoài, cả đêm lẫn ngày.

35.Tena hi vadhūti seṭṭhi gahapati dhanaṃ dassetvā puttaṃ attanā gihibhāvatthāya palobhetuṃ asakkonto ‘‘mātugāmasadisaṃ dāni purisānaṃ bandhanaṃ natthī’’ti maññitvā tassa purāṇadutiyikaṃ āmantesi – ‘‘tena hi vadhū’’ti. Purāṇadutiyikanti purāṇaṃ dutiyikaṃ pubbe gihikāle dutiyikaṃ, gehasitasukhupabhogasahāyikaṃ bhūtapubbabhariyanti attho. Tena hīti yena kāraṇena mātugāmasadisaṃ bandhanaṃ natthi. Pādesu gahetvāti pāde gahetvā; upayogatthe bhummavacanaṃ, pādesu vā taṃ gahetvā. ‘‘Kīdisā nāma tā ayyaputta accharāyo’’ti kasmā evamāha? Tadā kira sambahule khattiyakumārepi brāhmaṇakumārepi seṭṭhiputtepi mahāsampattiyo pahāya pabbajante disvā pabbajjāguṇaṃ ajānantā kathaṃ samuṭṭhāpenti – ‘‘kasmā ete pabbajantī’’ti. Athaññe vadanti – ‘‘devaccharānaṃ devanāṭakānaṃ kāraṇā’’ti. Sā kathā vitthārikā ahosi. Taṃ gahetvā ayaṃ evamāhāti. Thero taṃ paṭikkhipanto na kho ahaṃ bhaginīti āha. Samudācaratīti voharati vadeti. Tattheva mucchitā papatāti naṃ bhaginivādena samudācarantaṃ disvā ‘‘anatthiko dāni mayā ayaṃ yo maṃ pajāpatiṃ samānaṃ attanā saddhiṃ ekamātukucchiyā sayitadārikaṃ viya maññatī’’ti samuppannabalavasokā hutvā tasmiṃyeva padese mucchitā papatā; patitāti attho.
35. ‘Vậy thì, này con dâu’: vị trưởng giả gia chủ sau khi cho xem của cải mà không thể tự mình dụ dỗ con trai trở về đời sống tại gia, nghĩ rằng ‘Đối với đàn ông, không có sự ràng buộc nào bằng người nữ’, liền gọi người vợ cũ của con trai đến và nói: ‘Vậy thì, này con dâu’. ‘Người vợ cũ’ nghĩa là: người bạn đời cũ, người bạn đời thời còn là gia chủ trước kia, có nghĩa là người vợ trước đây, người bạn cùng hưởng lạc thú gia đình. ‘Vậy thì’ (dùng ở đây) là vì lý do không có sự ràng buộc nào bằng người nữ. ‘Nắm lấy chân’ nghĩa là: nắm lấy (hai) chân; (ở đây) vị trí cách dùng với nghĩa sử dụng cách, hoặc là nắm lấy vị ấy ở (hai) chân. ‘Thưa huynh trưởng, các tiên nữ ấy trông như thế nào?’ – tại sao (cô ấy) lại nói như vậy? Nghe nói khi ấy, thấy nhiều thanh niên dòng Sát Đế Lợi, dòng Bà La Môn, và con nhà trưởng giả từ bỏ tài sản lớn lao để xuất gia, những người không biết đức hạnh của đời sống xuất gia đã đặt ra câu hỏi: ‘Tại sao những người này lại xuất gia?’ Rồi những người khác nói: ‘Vì các tiên nữ trên trời, vì các vũ điệu của thiên nữ.’ Câu chuyện đó đã được lan truyền rộng rãi. Dựa vào đó mà cô này đã nói như vậy. Vị Trưởng lão bác bỏ điều đó và nói: ‘Này hiền muội, ta (xuất gia) không phải vì (lý do đó).’ ‘Xưng hô’ nghĩa là: nói chuyện, gọi. ‘Ngay tại đó, cô ấy ngất xỉu và ngã xuống’ nghĩa là: thấy vị ấy xưng hô với mình bằng từ ‘hiền muội’, (cô nghĩ) ‘Người này giờ đây không còn cần đến ta nữa rồi, người mà xem ta, vợ của mình, như một đứa bé gái cùng nằm trong bụng một mẹ với mình vậy’, vì nỗi sầu muộn mãnh liệt nổi lên, cô ấy đã ngất xỉu và ngã xuống ngay tại chỗ đó; có nghĩa là đã ngã xuống.

Mā no viheṭhayitthāti mā amhe dhanaṃ dassetvā mātugāmañca uyyojetvā viheṭhayittha; vihesā hesā pabbajitānanti. Tena hi tāta sudinna bījakampi dehīti ettha tena hīti abhiratiyaṃ uyyojeti. Sace tvaṃ abhirato brahmacariyaṃ carasi, caritvā ākāse nisīditvā parinibbāyitā hohi, amhākaṃ pana kulavaṃsabījakaṃ ekaṃ puttaṃ dehi. Mā no aputtakaṃ sāpateyyaṃ licchavayo atiharāpesunti mayañhi licchavīnaṃ gaṇarājūnaṃ rajje vasāma, te te pituno accayena imaṃ sāpateyyaṃ evaṃ mahantaṃ amhākaṃ vibhavaṃ aputtakaṃ kuladhanarakkhakena puttena virahitaṃ attano rājantepuraṃ atiharāpeyyunti, taṃ te mā atiharāpesuṃ, mā atiharāpentūti.
Xin đừng làm phiền chúng tôi nữa’ nghĩa là: xin đừng làm phiền chúng tôi bằng cách cho xem của cải và xúi giục người nữ; đây là sự phiền nhiễu đối với những người đã xuất gia. ‘Vậy thì, này con Sudinna, hãy cho (chúng ta) một hạt giống’ thì ở đây, ‘vậy thì’ là (lời) khuyến khích trong sự ái luyến. Nếu con ưa thích đời sống phạm hạnh, sau khi thực hành, (dù có) ngồi trên hư không rồi nhập Niết Bàn, thì cũng hãy cho chúng ta một đứa con trai làm hạt giống nối dõi dòng tộc. ‘Đừng để những người Licchavi chiếm đoạt tài sản không có người thừa kế của chúng ta’ nghĩa là: chúng ta sống trong lãnh thổ của các vua cộng hòa Licchavi, sau khi cha con qua đời, họ sẽ cho mang gia tài này, sản nghiệp lớn lao này của chúng ta, vốn không có người thừa kế, không có con trai bảo vệ của cải dòng tộc, vào hoàng cung của họ, đừng để họ cho mang đi, đừng để họ mang đi.

Etaṃ kho me, amma, sakkā kātunti kasmā evamāha? So kira cintesi – ‘‘etesaṃ sāpateyyassa ahameva sāmī, añño natthi. Te maṃ sāpateyyarakkhaṇatthāya niccaṃ anubandhissanti; tenāhaṃ na lacchāmi appossukko samaṇadhammaṃ kātuṃ, puttakaṃ pana labhitvā oramissanti, tato ahaṃ yathāsukhaṃ samaṇadhammaṃ karissāmī’’ti imaṃ nayaṃ passanto evamāhāti.
Thưa mẹ, việc này con có thể làm được’ – tại sao (vị ấy) lại nói như vậy? Nghe nói vị ấy đã suy nghĩ: ‘Ta là người chủ của gia tài này, không có ai khác. Họ sẽ luôn đeo bám ta để bảo vệ gia tài; do đó ta sẽ không thể thực hành Sa môn pháp một cách ít bận rộn, nhưng sau khi có được đứa con, họ sẽ thôi (đeo bám), khi đó ta sẽ thực hành Sa môn pháp một cách thoải mái.’ Thấy được phương cách này, (vị ấy) đã nói như vậy.

36.Pupphanti utukāle uppannalohitassa nāmaṃ. Mātugāmassa hi utukāle gabbhapatiṭṭhānaṭṭhāne lohitavaṇṇā piḷakā saṇṭhahitvā satta divasāni vaḍḍhitvā bhijjanti, tato lohitaṃ paggharati, tassetaṃ nāmaṃ ‘‘puppha’’nti. Taṃ pana yāva balavaṃ hoti bahu paggharati, tāva dinnāpi paṭisandhi na tiṭṭhati, doseneva saddhiṃ paggharati; dose pana paggharite suddhe vatthumhi dinnā paṭisandhi khippaṃ patiṭṭhāti. Pupphaṃsā uppajjīti pupphaṃ assā uppajji; akāralopena sandhi purāṇadutiyikāya bāhāyaṃ gahetvāti purāṇadutiyikāya yā bāhā, tatra naṃ gahetvāti attho.
36. ‘Kinh nguyệt’ là tên gọi của máu phát sinh vào kỳ kinh. Thật vậy, ở người nữ, vào kỳ kinh, tại nơi thai nhi thành hình, những mụn nhỏ màu đỏ hình thành, phát triển trong bảy ngày rồi vỡ ra, từ đó máu chảy ra, đó được gọi là ‘kinh nguyệt’. Nhưng khi nó (kinh nguyệt) mạnh, chảy ra nhiều, thì dù sự tái sanh (sự thụ thai) đã được tạo ra cũng không đứng vững, nó chảy ra cùng với máu xấu (kinh nguyệt); nhưng khi máu xấu đã chảy hết, sự tái sanh được tạo ra trong cơ sở (tử cung) thanh tịnh sẽ nhanh chóng đứng vững. ‘Kinh nguyệt của cô ấy đã phát sinh’ nghĩa là: kinh nguyệt của cô ấy đã phát sinh; (đây là) sự nối âm bằng cách lược bỏ âm ‘a’. ‘Nắm lấy cánh tay của người vợ cũ’ có nghĩa là: cánh tay nào của người vợ cũ, (vị ấy) đã nắm lấy cô ấy ở đó.

Apaññatte sikkhāpadeti paṭhamapārājikasikkhāpade aṭṭhapite. Bhagavato kira paṭhamabodhiyaṃ vīsati vassāni bhikkhū cittaṃ ārādhayiṃsu, na evarūpaṃ ajjhācāramakaṃsu. Taṃ sandhāyeva idaṃ suttamāha – ‘‘ārādhayiṃsu vata me, bhikkhave, bhikkhū ekaṃ samayaṃ citta’’nti (ma. ni. 1.225). Atha bhagavā ajjhācāraṃ apassanto pārājikaṃ vā saṅghādisesaṃ vā na paññapesi. Tasmiṃ tasmiṃ pana vatthusmiṃ avasese pañca khuddakāpattikkhandhe eva paññapesi. Tena vuttaṃ – ‘‘apaññatte sikkhāpade’’ti.
Khi học giới chưa được chế định’ nghĩa là: khi học giới Bất Cộng Trụ thứ nhất chưa được thiết lập. Nghe nói, trong hai mươi năm đầu sau khi Đức Thế Tôn giác ngộ, các Tỳ khưu đã làm hài lòng tâm (Ngài), (họ) không phạm lỗi lầm như vậy. Chính nhắm đến điều đó mà (Đức Thế Tôn) đã nói kinh này: ‘Này các Tỳ khưu, đã có một thời các Tỳ khưu thật sự làm hài lòng tâm ta’ (Trung Bộ Kinh 1.225). Khi ấy, Đức Thế Tôn không thấy có sự phạm lỗi, nên đã không chế định (giới) Bất Cộng Trụ hay Tăng Tàn. Nhưng trong mỗi trường hợp (phạm lỗi nhỏ) đó, (Ngài) chỉ chế định năm nhóm tội nhỏ còn lại. Do đó đã được nói – ‘Khi học giới chưa được chế định’.

Anādīnavadassoti yaṃ bhagavā idāni sikkhāpadaṃ paññapento ādīnavaṃ dassessati, taṃ apassanto anavajjasaññī hutvā. Sace hi ‘‘ayaṃ idaṃ na karaṇīyanti vā mūlacchejjāya vā saṃvattatī’’ti jāneyya, saddhāpabbajito kulaputto tatonidānaṃ jīvitakkhayaṃ pāpuṇantopi na kareyya. Ettha pana ādīnavaṃ apassanto niddosasaññī ahosi. Tena vuttaṃ – ‘‘anādīnavadasso’’ti. Purāṇadutiyikāyāti bhummavacanaṃ. Abhiviññāpesīti pavattesi; pavattanāpi hi kāyaviññatticopanato ‘‘viññāpanā’’ti vuccati. Tikkhattuṃ abhiviññāpanañcesa gabbhasaṇṭhānasanniṭṭhānatthamakāsīti veditabbo.
Không thấy sự nguy hại’ nghĩa là: không thấy sự nguy hại mà Đức Thế Tôn bây giờ sẽ chỉ ra khi chế định học giới, nên đã có ý nghĩ rằng (việc đó) không có tội. Thật vậy, nếu (vị ấy) biết rằng ‘Điều này không nên làm’ hoặc ‘Nó dẫn đến sự đoạn tuyệt gốc rễ (phạm hạnh)’, thì một thiện gia nam tử đã xuất gia với đức tin, dù có phải mất mạng vì lý do đó, cũng sẽ không làm. Nhưng ở đây, không thấy sự nguy hại, (vị ấy) đã có ý nghĩ rằng không có lỗi. Do đó đã được nói – ‘Không thấy sự nguy hại’. ‘Với người vợ cũ’ là vị trí cách. ‘Đã giao hợp’ nghĩa là: đã thực hiện; thật vậy, sự thực hiện cũng được gọi là ‘sự biểu lộ’ do sự thúc đẩy của thân biểu tri. Cần hiểu rằng việc giao hợp ba lần này đã được thực hiện với mục đích hoàn thành việc thụ thai.

Sā tena gabbhaṃ gaṇhīti sā ca teneva ajjhācārena gabbhaṃ gaṇhi, na aññathā. Kiṃ pana aññathāpi gabbhaggahaṇaṃ hotīti ? Hoti. Kathaṃ? Kāyasaṃsaggena , coḷaggahaṇena, asucipānena, nābhiparāmasanena, rūpadassanena, saddena, gandhena. Itthiyo hi ekaccā utusamaye chandarāgarattā purisānaṃ hatthaggāha-veṇiggāha-aṅgapaccaṅgaparāmasanaṃ sādiyantiyopi gabbhaṃ gaṇhanti. Evaṃ kāyasaṃsaggena gabbhaggahaṇaṃ hoti.
Cô ấy đã thụ thai do việc đó’ nghĩa là: cô ấy đã thụ thai chính do sự giao hợp đó, không phải cách khác. Nhưng sự thụ thai có thể xảy ra bằng cách khác không? Có. Bằng cách nào? Do sự tiếp xúc thân thể, do việc nhận y phục (dính tinh khí), do việc uống vật bất tịnh, do việc chạm vào rốn, do việc nhìn thấy hình sắc, do âm thanh, do mùi hương. Thật vậy, một số phụ nữ vào kỳ kinh, bị dục vọng chi phối, ngay cả khi chấp nhận việc nam giới nắm tay, nắm bím tóc, chạm vào các bộ phận cơ thể, cũng thụ thai. Như vậy, sự thụ thai xảy ra do sự tiếp xúc thân thể.

Udāyittherassa pana purāṇadutiyikā bhikkhunī taṃ asuciṃ ekadesaṃ mukhena aggahesi, ekadesaṃ coḷakeneva saddhiṃ aṅgajāte pakkhipi. Sā tena gabbhaṃ gaṇhi. Evaṃ coḷaggahaṇena gabbhaggahaṇaṃ hoti.
Nhưng vị Tỳ khưu ni, vợ cũ của Trưởng lão Udāyi, đã ngậm một phần tinh khí bất tịnh đó bằng miệng, một phần cùng với miếng vải đã đặt vào bộ phận sinh dục. Cô ấy đã thụ thai do việc đó. Như vậy, sự thụ thai xảy ra do việc nhận y phục (dính tinh khí).

Migasiṅgatāpasassa mātā migī utusamaye tāpasassa passāvaṭṭhānaṃ āgantvā sasambhavaṃ passāvaṃ pivi. Sā tena gabbhaṃ gaṇhitvā migasiṅgaṃ vijāyi. Evaṃ asucipānena gabbhaggahaṇaṃ hoti.
Con nai mẹ của đạo sĩ Migasiṅga, vào kỳ động dục, đã đến chỗ đi tiểu của vị đạo sĩ, và uống nước tiểu có lẫn tinh khí. Nó đã thụ thai do việc đó và sinh ra Migasiṅga. Như vậy, sự thụ thai xảy ra do việc uống vật bất tịnh.

Sāmassa pana bodhisattassa mātāpitūnaṃ cakkhuparihāniṃ ñatvā sakko puttaṃ dātukāmo dukūlapaṇḍitaṃ āha – ‘‘vaṭṭati tumhākaṃ methunadhammo’’ti? ‘‘Anatthikā mayaṃ etena, isipabbajjaṃ pabbajitāmhā’’ti. ‘‘Tena hi imissā utusamaye aṅguṭṭhena nābhiṃ parāmaseyyāthā’’ti. So tathā akāsi. Sā tena gabbhaṃ gaṇhitvā sāmaṃ tāpasadārakaṃ vijāyi. Evaṃ nābhiparāmasanena gabbhaggahaṇaṃ hoti. Eteneva nayena maṇḍabyassa ca caṇḍapajjotassa ca vatthu veditabbaṃ.
Nhưng khi biết cha mẹ của Bồ tát Sāma bị mù mắt, Đế Thích muốn ban cho họ một người con, đã hỏi vị ẩn sĩ Dukūla: ‘Ông bà có hành dâm pháp không?’ (Ông đáp): ‘Chúng tôi không cần điều đó, chúng tôi đã xuất gia theo đời sống ẩn sĩ.’ (Đế Thích nói): ‘Vậy thì, vào kỳ kinh của bà ấy, ông hãy dùng ngón tay cái chạm vào rốn của bà ấy.’ Ông đã làm như vậy. Bà ấy đã thụ thai do việc đó và sinh ra cậu bé ẩn sĩ Sāma. Như vậy, sự thụ thai xảy ra do việc chạm vào rốn. Theo phương cách này, cần hiểu câu chuyện của Maṇḍabya và Caṇḍapajjota.

Kathaṃ rūpadassanena hoti? Idhekaccā itthī utusamaye purisasaṃsaggaṃ alabhamānā chandarāgavasena antogehagatāva purisaṃ upanijjhāyati rājorodhā viya, sā tena gabbhaṃ gaṇhāti. Evaṃ rūpadassanena gabbhaggahaṇaṃ hoti.
Sự thụ thai xảy ra do việc nhìn thấy hình sắc như thế nào? Ở đây, một người phụ nữ nào đó vào kỳ kinh, không được tiếp xúc với nam giới, do dục vọng, ở trong nhà nhìn chăm chú một người đàn ông, như các cung nữ trong hậu cung của vua, cô ấy thụ thai do việc đó. Như vậy, sự thụ thai xảy ra do việc nhìn thấy hình sắc.

Balākāsu pana puriso nāma natthi, tā utusamaye meghasaddaṃ sutvā gabbhaṃ gaṇhanti. Kukkuṭiyopi kadāci ekassa kukkuṭassa saddaṃ sutvā bahukāpi gabbhaṃ gaṇhanti. Tathā gāvī usabhassa. Evaṃ saddena gabbhaggahaṇaṃ hoti.
Nhưng ở loài cò trắng thì không có con trống, chúng vào mùa sinh sản, nghe tiếng sấm mà thụ thai. Gà mái cũng có khi nghe tiếng gáy của một con gà trống mà nhiều con thụ thai. Bò cái cũng vậy (thụ thai) do (tiếng rống của) bò đực. Như vậy, sự thụ thai xảy ra do âm thanh.

Gāvī eva ca kadāci usabhagandhena gabbhaṃ gaṇhanti. Evaṃ gandhena gabbhaggahaṇaṃ hoti.
Và bò cái cũng có khi thụ thai do mùi của bò đực. Như vậy, sự thụ thai xảy ra do mùi hương.

Idha panāyaṃ ajjhācārena gabbhaṃ gaṇhi. Yaṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘mātāpitaro ca sannipatitā honti, mātā ca utunī hoti, gandhabbo ca paccupaṭṭhito hoti, evaṃ tiṇṇaṃ sannipātā gabbhassāvakkanti hotī’’ti (ma. ni. 1.408).
Nhưng ở đây, cô này đã thụ thai do sự giao hợp. Nhắm đến điều này mà đã được nói rằng: ‘Cha mẹ có giao hợp, người mẹ trong kỳ kinh, và hương ấm (thần thức đầu thai) có mặt, do sự hội đủ của ba yếu tố như vậy mà sự thụ thai xảy ra’ (ma. ni. 1.408).

Bhummādevā saddamanussāvesunti yasmā natthi loke raho nāma pāpakammaṃ pakubbato. Sabbapaṭhamaṃ hissa taṃ pāpaṃ attanā jānāti, tato ārakkhadevatā, athaññāpi paracittaviduniyo devatā. Tasmāssa paracittavidū sakalavanasaṇḍanissitā bhummā devā taṃ ajjhācāraṃ disvā saddaṃ anussāvesuṃ. Yathā aññepi devā suṇanti, tathā nicchāresuṃ. Kinti ? Nirabbudo vata, bho…pe… ādīnavo uppāditoti. Tassattho verañjakaṇḍe vuttanayeneva veditabbo.
Các vị Địa thiên đã loan truyền âm thanh’ nghĩa là: vì trên đời không có nơi nào gọi là kín đáo đối với người làm việc ác. Trước hết, chính người đó tự biết việc ác ấy, sau đó là vị thiên thần hộ mệnh, rồi đến các vị thiên khác có tha tâm thông. Do đó, các vị Địa thiên có tha tâm thông, trú ngụ trong toàn bộ khu rừng, thấy sự phạm lỗi đó đã loan truyền âm thanh. (Họ) đã phát ra âm thanh để các vị thiên khác cũng nghe thấy. Như thế nào? ‘Ôi thôi, không còn nghi ngờ gì nữa… cho đến… sự nguy hại đã phát sinh.’ Ý nghĩa của nó cần được hiểu theo cách đã nói trong phẩm Verañja.

Bhummānaṃ devānaṃ saddaṃ sutvā cātumahārājikāti ettha pana bhummānaṃ devānaṃ saddaṃ ākāsaṭṭhadevatā assosuṃ; ākāsaṭṭhānaṃ cātumahārājikāti ayamanukkamo veditabbo. Brahmakāyikāti asaññasatte ca arūpāvacare ca ṭhapetvā sabbepi brahmāno assosuṃ; sutvā ca saddamanussāvesunti veditabbo. Itiha tena khaṇenāti evaṃ tena sudinnassa ajjhācārakkhaṇena. Tena muhuttenāti ajjhācāramuhutteneva. Yāva brahmalokāti yāva akaniṭṭhabrahmalokā. Abbhuggacchīti abhiuggacchi abbhuṭṭhāsi ekakolāhalamahosīti.
Sau khi nghe âm thanh của các vị Địa thiên, các vị trời Tứ Đại Thiên Vương’: ở đây, các vị Hư không thiên đã nghe âm thanh của các vị Địa thiên; sau các vị Hư không thiên là các vị trời Tứ Đại Thiên Vương; cần hiểu thứ tự là như vậy. ‘Các vị Phạm thiên’ nghĩa là: trừ các chúng sinh Vô Tưởng và các chúng sinh cõi Vô Sắc, tất cả các vị Phạm thiên đều nghe thấy; và cần hiểu rằng sau khi nghe, họ đã loan truyền âm thanh. ‘Như vậy, trong khoảnh khắc đó’ nghĩa là: như vậy, trong khoảnh khắc Sudinna phạm lỗi. ‘Trong chốc lát đó’ nghĩa là: chính trong chốc lát phạm lỗi. ‘Cho đến Phạm thiên giới’ nghĩa là: cho đến cõi trời Sắc Cứu Cánh. ‘Đã vang dội lên’ nghĩa là: đã dấy lên, đã nổi lên, trở thành một tiếng ồn ào lớn.

Puttaṃ vijāyīti suvaṇṇabimbasadisaṃ pacchimabhavikasattaṃ janesi. Bījakoti nāmamakaṃsūti na aññaṃ nāmaṃ kātumadaṃsu, ‘‘bījakampi dehī’’ti mātāmahiyā vuttabhāvassa pākaṭattā ‘‘bījako tvevassa nāmaṃ hotū’’ti ‘‘bījako’’ti nāmamakaṃsu. Puttassa pana nāmavaseneva ca mātāpitūnampissa nāmamakaṃsu. Te aparena samayenāti bījakañca bījakamātarañca sandhāya vuttaṃ. Bījakassa kira sattaṭṭhavassakāle tassa mātā bhikkhunīsu so ca bhikkhūsu pabbajitvā kalyāṇamitte upanissāya arahatte patiṭṭhahiṃsu. Tena vuttaṃ – ‘‘ubho agārasmā anagāriyaṃ pabbajitvā arahattaṃ sacchākaṃsū’’ti.
Đã sinh một người con trai’ nghĩa là: đã sinh ra một chúng sinh ở đời chót giống như pho tượng vàng. ‘Họ đặt tên là Bījaka’ nghĩa là: họ không đặt tên nào khác, vì việc bà ngoại nói ‘Hãy cho một hạt giống’ đã rõ ràng, (họ nghĩ) ‘Tên của nó hãy là Bījaka (Hạt giống)’ nên đã đặt tên là ‘Bījaka’. Và cũng theo tên của người con trai mà họ cũng đặt tên cho cha mẹ của đứa bé ấy. ‘Về sau này, họ’ là nói về Bījaka và mẹ của Bījaka. Nghe nói, khi Bījaka được bảy tám tuổi, mẹ của cậu xuất gia trong hàng Tỳ khưu ni, còn cậu thì xuất gia trong hàng Tỳ khưu, nương tựa bạn lành, cả hai đã chứng đắc A la hán. Do đó đã được nói rằng – ‘Cả hai từ bỏ đời sống gia đình, sống đời không gia đình, xuất gia và đã chứng ngộ A la hán.’

37. Evaṃ mātāputtānaṃ pabbajjā saphalā ahosi. Pitā pana vippaṭisārābhibhūto vihāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho āyasmato sudinnassaahudeva kukkucca’’ntiādi. Tattha ahudevāti ahu eva, dakāro padasandhikaro. Ahosiyevāti attho. Kukkuccanti ajjhācārahetuko pacchānutāpo. Vippaṭisārotipi tasseva nāmaṃ. So hi viññūhi akattabbatāya kucchitakiriyabhāvato kukkuccaṃ. Kataṃ ajjhācāraṃ nivattetuṃ asamatthatāya taṃ paṭicca virūpaṃ saraṇabhāvato vippaṭisāroti vuccati. Alābhā vata meti mayhaṃ vata alābhā; ye jhānādīnaṃ guṇānaṃ alābhā nāma, te mayhaṃ, na aññassāti adhippāyo. Na vata me lābhāti yepi me paṭiladdhā pabbajjasaraṇagamanasikkhāsamādānaguṇā, tepi neva mayhaṃ lābhā ajjhācāramalīnattā. Dulladdhaṃ vata meti idaṃ sāsanaṃ laddhampi me dulladdhaṃ. Na vata me suladdhanti yathā aññesaṃ kulaputtānaṃ, evaṃ na vata me suladdhaṃ. Kasmā? Yamahaṃ evaṃ svākkhātedhammavinaye…pe… brahmacariyaṃ caritunti. Brahmacariyanti sikkhattayasaṅgahitaṃ maggabrahmacariyaṃ. Kiso ahosīti khādituṃ vā bhuñjituṃ vā asakkonto tanuko ahosi appamaṃsalohito . Uppaṇḍuppaṇḍukajātoti sañjātuppaṇḍuppaṇḍukabhāvo paṇḍupalāsappaṭibhāgo. Dhamanisanthatagattoti pariyādinnamaṃsalohitattā sirājāleneva santharitagatto. Antomanoti anusocanavasena abbhantareyeva ṭhitacitto. Hadayavatthuṃ nissāya pavattanavasena pana sabbepi antomanāyeva. Līnamanoti uddese paripucchāya kammaṭṭhāne adhisīle adhicitte adhipaññāya vattapaṭipattipūraṇe ca nikkhittadhuro avipphāriko aññadatthu kosajjavaseneva līno saṅkucito mano assāti līnamano. Dukkhīti cetodukkhena dukkhī. Dummanoti dosena duṭṭhamano, virūpamano vā domanassābhibhūtatāya. Pajjhāyīti vippaṭisāravasena vahacchinno viya gadrabho taṃ taṃ cintayi.
37. Như vậy, việc xuất gia của hai mẹ con đã có kết quả. Nhưng người cha thì sống trong sự hối hận bao trùm. Do đó đã được nói rằng – ‘Khi ấy, Tôn giả Sudinna đã có sự hối hận’ v.v… Ở đó, ‘ahudevā’ (đã có) nghĩa là: ‘ahu eva’ (đã có); âm ‘da’ là để nối âm. Có nghĩa là ‘ahosi eva’ (đã có thật sự). ‘Sự hối hận’ (Kukkucca) là sự ăn năn sau này do việc phạm lỗi. ‘Sự ân hận’ (Vippaṭisāro) cũng là tên gọi của nó. Thật vậy, nó là ‘sự hối hận’ (kukkuccaṃ) vì là hành động đáng chê trách, không nên làm đối với người có trí. Nó được gọi là ‘sự ân hận’ (vippaṭisāro) vì không thể làm cho việc phạm lỗi đã gây ra trở lại (như cũ), do đó có sự nhớ lại một cách sai khác (ân hận). ‘Ôi, bất lợi cho ta thay’ nghĩa là: ôi, bất lợi cho ta; những gì gọi là sự không được các phẩm chất như thiền định v.v…, thì đó là của ta, không phải của ai khác; ý là vậy. ‘Ôi, không phải là lợi ích cho ta’ nghĩa là: ngay cả những phẩm chất mà ta đã đạt được như sự xuất gia, sự quy y, sự thọ trì học giới, thì chúng cũng không phải là lợi ích cho ta nữa vì đã bị ô uế bởi sự phạm lỗi. ‘Ôi, ta đã được một cách khó khăn thay’ nghĩa là: giáo pháp này dù ta đã được, cũng là được một cách khó khăn. ‘Ôi, ta đã không được một cách tốt đẹp’ nghĩa là: như các thiện gia nam tử khác, ta đã không được một cách tốt đẹp. Tại sao? Vì ta, trong Pháp và Luật đã được khéo thuyết giảng như vậy, (đã xuất gia mà) đã không thể thực hành đời sống phạm hạnh một cách trọn vẹn, thanh tịnh. ‘Đời sống phạm hạnh’ nghĩa là: đời sống phạm hạnh của Thánh đạo, bao gồm ba học (Giới, Định, Tuệ). ‘Đã trở nên gầy gò’ nghĩa là: không thể ăn hay uống, đã trở nên ốm yếu, ít thịt và máu. ‘Trở nên xanh xao vàng vọt’ nghĩa là: trạng thái trở nên xanh xao vàng vọt, giống như lá úa. ‘Thân thể nổi đầy gân’ nghĩa là: do thịt và máu đã tiêu hao, thân thể chỉ còn toàn là mạng lưới gân. ‘Buồn rầu trong lòng’ nghĩa là: do sự hối tiếc, tâm trí chỉ ở bên trong. Nhưng theo nghĩa là phát sinh dựa vào tâm sở, thì tất cả (các trạng thái tâm) đều là ở bên trong tâm. ‘Tâm trí co rút’ nghĩa là: buông bỏ trách nhiệm, không nỗ lực trong việc học hỏi, thực hành đề mục thiền định, tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ, và trong việc hoàn thành các phận sự và thực hành, trái lại, tâm trí bị co rút, thu hẹp lại do sự lười biếng; đó là tâm trí co rút. ‘Đau khổ’ nghĩa là: đau khổ do tâm khổ. ‘Ưu phiền’ nghĩa là: tâm bị hư hỏng do sân, hoặc tâm bị biến dạng do bị ưu phiền bao trùm. ‘Suy tư sầu muộn’ nghĩa là: do sự ân hận, suy nghĩ vẩn vơ hết chuyện này đến chuyện khác, giống như con lừa bị cắt mất sức kéo.

38.Sahāyakā bhikkhūti taṃ evaṃbhūtaṃ gaṇasaṅgaṇikāpapañcena vītināmentaṃ disvā yassa vissāsikā kathāphāsukā bhikkhū te naṃ etadavocuṃ. Pīṇindriyoti pasādapatiṭṭhānokāsassa sampuṇṇattā paripuṇṇacakkhuādiindriyo. So dāni tvanti ettha dānīti nipāto, so pana tvanti vuttaṃ hoti. Kaccino tvanti kacci nu tvaṃ . Anabhiratoti ukkaṇṭhito; gihibhāvaṃ patthayamānoti attho. Tasmā tameva anabhiratiṃ paṭikkhipanto āha – ‘‘na kho ahaṃ, āvuso, anabhirato’’ti. Adhikusalānaṃ pana dhammānaṃ bhāvanāya abhiratova ahanti . Atthi me pāpakammaṃ katanti mayā kataṃ ekaṃ pāpakammaṃ atthi upalabbhati saṃvijjati, niccakālaṃ abhimukhaṃ viya me tiṭṭhati. Atha naṃ pakāsento ‘‘purāṇadutiyikāyā’’tiādimāha.
38. ‘Các Tỳ khưu bạn’ nghĩa là: thấy vị ấy như vậy, sống qua ngày với sự giao du hội chúng và hí luận, các Tỳ khưu bạn thân thiết, dễ nói chuyện với vị ấy, đã nói với vị ấy điều này. ‘Các căn đầy đặn’ nghĩa là: do nơi phát sinh sự trong sáng (của các căn) được sung mãn, nên các căn như mắt v.v… được đầy đặn. ‘Vậy nay thầy’ thì ở đây, ‘dāni’ (nay) là một tiểu từ; được nói là: ‘Vậy thầy thì sao’. ‘Phải chăng thầy’ nghĩa là: phải chăng thầy. ‘Không ưa thích’ nghĩa là: chán nản; có nghĩa là mong muốn đời sống tại gia. Do đó, bác bỏ chính sự không ưa thích đó, (Sudinna) nói: ‘Thưa các hiền giả, tôi không phải là không ưa thích.’ (Ý là) tôi ưa thích việc tu tập các pháp thiện cao thượng hơn. ‘Tôi có một việc ác đã làm’ nghĩa là: có một việc ác do tôi đã làm, nó hiện hữu, nó tồn tại, nó luôn luôn như ở trước mặt tôi. Rồi, khi trình bày điều đó, (Sudinna) đã nói: ‘Với người vợ cũ’ v.v…

Alañhi te, āvuso sudinna, kukkuccāyāti āvuso sudinna, tuyhetaṃ pāpakammaṃ alaṃ samatthaṃ kukkuccāya; paṭibalaṃ kukkuccaṃ uppādetunti vuttaṃ hoti. Yaṃ tvanti ādimhi yena pāpena tvaṃ na sakkhissasi brahmacariyaṃ carituṃ, taṃ te pāpaṃ alaṃ kukkuccāyāti evaṃ sambandho veditabbo. Atha naṃ anusāsantā ‘‘nanu āvuso bhagavatā’’tiādimāhaṃsu. Tattha nanūti anumatiggahaṇatthe nipāto. Anekapariyāyenāti anekakāraṇena. Virāgāyāti virāgatthāya. No sarāgāyāti no rāgena rajjanatthāya. Bhagavatā hi ‘‘imaṃ me dhammaṃ sutvā sattā sabbabhavabhogesu virajjissanti, no rajjissantī’’ etadatthāya dhammo desitoti adhippāyo. Esa nayo sabbapadesu. Idaṃ panettha pariyāyavacanamattaṃ. Visaṃyogāyāti kilesehi visaṃyujjanatthāya. No saṃyogāyāti na saṃyujjanatthāya. Anupādānāyāti aggahaṇatthāya. Nosaupādānāyāti na saṅgahaṇatthāya.
Này hiền giả Sudinna, việc (ác) của thầy đủ để hối hận rồi’ nghĩa là: Này hiền giả Sudinna, việc ác đó của thầy đủ, có khả năng (gây ra) sự hối hận; được nói là: có đủ sức mạnh để làm phát sinh sự hối hận. Ở đoạn bắt đầu bằng ‘Điều mà thầy’, cần hiểu mối liên hệ như sau: việc ác nào mà do đó thầy sẽ không thể thực hành đời sống phạm hạnh, việc ác đó của thầy đủ để hối hận. Rồi, khi khuyên dạy vị ấy, họ đã nói: ‘Chẳng phải, thưa hiền giả, Đức Thế Tôn đã’ v.v… Ở đó, ‘nanu’ (chẳng phải) là một tiểu từ dùng với nghĩa chấp thuận, thừa nhận. ‘Bằng nhiều phương tiện’ nghĩa là: bằng nhiều lý do. ‘Để ly tham’ nghĩa là: với mục đích ly tham. ‘Không phải để tham ái’ nghĩa là: không phải để nhiễm đắm bởi tham ái. Thật vậy, Đức Thế Tôn đã thuyết Pháp với mục đích này: ‘Sau khi nghe Pháp này của ta, các chúng sinh sẽ ly tham đối với tất cả các cõi và các sự hưởng thụ, chứ không tham đắm’; ý là vậy. Đây là phương pháp (hiểu) trong tất cả các trường hợp. Ở đây, đây chỉ là cách nói khác. ‘Để ly hệ’ nghĩa là: với mục đích tách rời khỏi các phiền não. ‘Không phải để hệ phược’ nghĩa là: không phải để bị trói buộc. ‘Để không chấp thủ’ nghĩa là: với mục đích không nắm giữ. ‘Không phải để chấp thủ’ nghĩa là: không phải để thu gom, nắm giữ.

Tatthanāma tvanti tasmiṃ nāma tvaṃ. Sarāgāya cetessasīti saha rāgena vattamānāya methunadhammāya cetessasi kappessasi pakappessasi; etadatthaṃ vāyamissasīti attho. Esa nayo sabbattha. Puna rāgavirāgādīni nava padāni nibbattitalokuttaranibbānameva sandhāya vuttāni. Tasmā rāgavirāgāyāti vā madanimmadanāyāti vā vuttepi ‘‘nibbānatthāyā’’ti evameva attho daṭṭhabbo. Nibbānañhi yasmā taṃ āgamma ārabbha paṭicca rāgo virajjati na hoti, tasmā rāgavirāgoti vuccati. Yasmā pana taṃ āgamma mānamada-purisamadādayo madā nimmadā amadā honti vinassanti, tasmā madanimmadananti vuccati. Yasmā ca taṃ āgamma sabbāpi kāmapipāsā vinayaṃ abbhatthaṃ yāti, tasmā pipāsavinayoti vuccati. Yasmā pana taṃ āgamma pañca kāmaguṇālayā samugghātaṃ gacchanti, tasmā ālayasamugghātoti vuccati. Yasmā ca taṃ āgamma tebhūmakavaṭṭaṃ upacchijjati, tasmā vaṭṭupacchedoti vuccati. Yasmā pana taṃ āgamma sabbaso taṇhā khayaṃ gacchati virajjati nirujjhati ca, tasmā taṇhakkhayo virāgo nirodhoti vuccati. Yasmā panetaṃ catasso yoniyo, pañca gatiyo, satta viññāṇaṭṭhitiyo, nava ca sattāvāse, aparāparabhāvāya vinanato ābandhanato saṃsibbanato vānanti laddhavohārāya taṇhāya nikkhantaṃ nissaṭaṃ visaṃyuttaṃ, tasmā nibbānanti vuccatīti.
Lẽ nào thầy lại ở trong đó’ nghĩa là: lẽ nào thầy lại ở trong (Pháp và Luật) đó. ‘Thầy sẽ có ý muốn tham ái’ nghĩa là: thầy sẽ có ý muốn, sẽ sắp đặt, sẽ toan tính đến việc dâm dục đang diễn ra cùng với tham ái; có nghĩa là thầy sẽ cố gắng vì mục đích đó. Đây là phương pháp (hiểu) trong tất cả các trường hợp. Lại nữa, chín thuật ngữ như ly tham v.v…, đã được nói nhắm đến chính Niết Bàn siêu thế đã được thành tựu. Do đó, dù nói là ‘để ly tham’ hay ‘để diệt trừ kiêu mạn’, cũng cần hiểu ý nghĩa chính là ‘với mục đích Niết Bàn’. Thật vậy, Niết Bàn, vì nương vào đó, hướng đến đó, duyên vào đó mà tham ái được ly trừ, không còn nữa, nên được gọi là ‘sự ly tham’. Nhưng vì nương vào đó mà các thứ kiêu mạn như ngã mạn, kiêu mạn của nam giới v.v… được diệt trừ, không còn kiêu mạn, bị tiêu diệt, nên được gọi là ‘sự diệt trừ kiêu mạn’. Và vì nương vào đó mà tất cả mọi khát ái dục lạc được điều phục, đi đến chỗ chấm dứt, nên được gọi là ‘sự điều phục khát ái’. Nhưng vì nương vào đó mà sự quyến luyến năm dục công đức bị nhổ bật gốc rễ, nên được gọi là ‘sự nhổ bật gốc rễ quyến luyến’. Và vì nương vào đó mà vòng luân hồi trong ba cõi bị cắt đứt, nên được gọi là ‘sự cắt đứt vòng luân hồi’. Nhưng vì nương vào đó mà tất cả ái dục đều đi đến chỗ đoạn tận, ly trừ và chấm dứt, nên được gọi là ‘sự đoạn tận ái dục, sự ly tham, sự chấm dứt’. Nhưng vì (Niết Bàn) này đã thoát ra khỏi, đã lìa khỏi, đã không còn liên hệ với ái dục, vốn được gọi là ‘sự đan kết’ (vāna) do nó đan kết, trói buộc, khâu vá (chúng sinh) vào bốn loài sanh, năm đường thú, bảy thức trú và chín chúng sinh trú, để có đời này đời khác, nên được gọi là Niết Bàn.

Kāmānaṃ pahānaṃ akkhātanti vatthukāmānaṃ, kilesakāmānañca pahānaṃ vuttaṃ. Kāmasaññānaṃ pariññāti sabbāsampi kāmasaññānaṃ ñātatīraṇapahānavasena tividhā pariññā akkhātā. Kāmapipāsānanti kāmesu pātabyatānaṃ kāme vā pātumicchānaṃ. Kāmavitakkānanti kāmupasañhitānaṃvitakkānaṃ. Kāmapariḷāhānanti pañcakāmaguṇikarāgavasena uppannapariḷāhānaṃ antodāhānaṃ. Imesu pañcasu ṭhānesu kilesakkhayakaro lokuttaramaggova kathito. Sabbapaṭhamesu pana tīsu ṭhānesu lokiyalokuttaramissako maggo kathitoti veditabbo.
Sự đoạn trừ các dục đã được nói rõ’ nghĩa là: sự đoạn trừ các dục đối tượng và các dục phiền não đã được nói đến. ‘Sự liễu tri các tưởng về dục’ nghĩa là: sự liễu tri ba loại đối với tất cả các tưởng về dục, tức là liễu tri bằng cách biết rõ, thẩm xét và đoạn trừ, đã được nói rõ. ‘(Sự đoạn tận) các khát ái về dục’ nghĩa là: (sự đoạn tận) những ham muốn đáng uống trong các dục, hoặc những ý muốn uống các dục. ‘(Sự đoạn tận) các tầm về dục’ nghĩa là: (sự đoạn tận) các tầm liên quan đến dục. ‘(Sự đoạn tận) các nhiệt não về dục’ nghĩa là: (sự đoạn tận) các nhiệt não, các sự thiêu đốt bên trong, phát sinh do tham ái đối với năm dục công đức. Trong năm trường hợp này, chỉ có Thánh đạo siêu thế, có khả năng đoạn trừ phiền não, được nói đến. Nhưng trong ba trường hợp đầu tiên, cần hiểu rằng đạo lộ bao gồm cả thế gian và siêu thế đã được nói đến.

Netaṃ āvusoti na etaṃ āvuso, tava pāpakammaṃ appasannānañca pasādāya evarūpānaṃ pasādatthāya na hoti. Atha khvetanti atha kho etaṃ. Atha kho tantipi pāṭho. Aññathattāyāti pasādaññathābhāvāya vippaṭisārāya hoti. Ye maggena anāgatasaddhā, tesaṃ vippaṭisāraṃ karoti – ‘‘īdisepi nāma dhammavinaye mayaṃ pasannā, yatthevaṃ duppaṭipannā bhikkhū’’ti. Ye pana maggenāgatasaddhā, tesaṃ sineru viya vātehi acalo pasādo īdisehi vatthūhi ito vā dāruṇatarehi. Tena vuttaṃ – ‘‘ekaccānaṃ aññathattāyā’’ti.
Này hiền giả, điều này không’ nghĩa là: Này hiền giả, việc ác này của thầy không làm cho những người chưa có đức tin phát sinh đức tin, và không làm cho đức tin của những người (đã có đức tin) như vậy được tăng trưởng. ‘Mà trái lại, điều này’ nghĩa là: mà trái lại, điều này. Cũng có bản đọc là ‘atha kho tanti’. ‘Để làm thay đổi khác đi’ nghĩa là: làm cho đức tin bị thay đổi khác đi, làm cho hối hận. Đối với những người chưa có đức tin vào Thánh đạo, (việc này) làm cho họ hối hận: ‘Lẽ nào chúng ta lại có đức tin vào một Pháp và Luật như thế này, nơi có những Tỳ khưu thực hành sai trái như vậy.’ Còn những người đã có đức tin vào Thánh đạo, đức tin của họ vững chắc như núi Sineru không lay chuyển bởi gió, (không lay chuyển) bởi những sự việc như thế này hay những sự việc tồi tệ hơn nữa. Do đó đã được nói – ‘Để làm thay đổi khác đi đối với một số người’.

39.Bhagavato etamatthaṃ ārocesunti bhagavato etaṃ atthaṃ ācikkhiṃsu paṭivedayiṃsu. Ārocayamānā ca neva piyakamyatāya na bhedapurekkhāratāya , na tassāyasmato avaṇṇapakāsanatthāya, na kalisāsanāropanatthāya, nāpi ‘‘idaṃ sutvā bhagavā imassa sāsane patiṭṭhaṃ na dassati, nikkaḍḍhāpessati na’’nti maññamānā ārocesuṃ. Atha kho ‘‘imaṃ sāsane uppannaṃ abbudaṃ ñatvā bhagavā sikkhāpadaṃ paññapessati, velaṃ mariyādaṃ āṇaṃ ṭhapessatī’’ti ārocesuṃ.
39. ‘Họ đã trình bày việc này lên Đức Thế Tôn’ nghĩa là: họ đã kể, đã báo cáo việc này lên Đức Thế Tôn. Và khi trình bày, không phải vì muốn được yêu mến, không phải với ý định chia rẽ, không phải với mục đích công khai lỗi lầm của vị Tôn giả đó, không phải với mục đích gán ghép tội lỗi, cũng không phải trình bày vì nghĩ rằng ‘Sau khi nghe điều này, Đức Thế Tôn sẽ không cho người này có chỗ đứng trong giáo pháp, sẽ đuổi người này đi’. Mà họ trình bày vì (nghĩ rằng) ‘Sau khi biết được ung nhọt này đã phát sinh trong giáo pháp, Đức Thế Tôn sẽ chế định học giới, sẽ thiết lập giới hạn, quy tắc, mệnh lệnh.’

Etasmiṃ nidāne etasmiṃ pakaraṇeti ettha sudinnassa ajjhācāravītikkamo sikkhāpadapaññattiyā kāraṇattā nidānañceva pakaraṇañcāti vuttoti veditabbo. Kāraṇañhi yasmā nideti attano phalaṃ ‘‘gaṇhātha na’’nti dassentaṃ viya appeti, pakaroti ca naṃ kattuṃ ārabhati, karotiyeva vā; tasmā nidānañceva pakaraṇañcāti vuccati. Vigarahi buddho bhagavāti buddho bhagavā vigarahi nindi; yathā taṃ vaṇṇāvaṇṇārahānaṃ vaṇṇañca avaṇṇañca bhaṇantesu aggapuggalo. Na hi bhagavato sīlavītikkamakaraṃ puggalaṃ disvā ‘‘ayaṃ jātiyā vā gottena vā kolaputtiyena vā ganthena vā dhutaṅgena vā ñāto yasassī īdisaṃ puggalaṃ rakkhituṃ vaṭṭatī’’ti cittaṃ uppajjati, nāpi pesalaṃ guṇavantaṃ disvā tassa guṇaṃ paṭicchādetuṃ cittaṃ uppajjati. Atha kho garahitabbaṃ garahati eva, pasaṃsitabbañca pasaṃsati eva, ayañca garahitabbo; tasmā taṃ tādilakkhaṇe ṭhito avikampamānena cittena vigarahi buddho bhagavā ‘‘ananucchavika’’ntiādīhi vacanehi.
Trong nhân duyên này, trong trường hợp này’: ở đây, cần hiểu rằng sự phạm lỗi của Sudinna, vì là nguyên nhân cho việc chế định học giới, nên được gọi là ‘nhân duyên’ và ‘trường hợp’. Thật vậy, nguyên nhân, vì nó chỉ ra, trình bày kết quả của nó như thể đang nói ‘Hãy nhận lấy nó’, và nó tạo ra, bắt đầu làm ra, hoặc thực sự làm ra (kết quả đó); do đó được gọi là ‘nhân duyên’ và ‘trường hợp’. ‘Đức Phật, Đức Thế Tôn đã khiển trách’ nghĩa là: Đức Phật, Đức Thế Tôn đã khiển trách, đã quở mắng; như một bậc tối thượng giữa những người nói lời tán thán và chê bai đối với những ai đáng được tán thán và đáng bị chê bai. Thật vậy, khi thấy một người phạm giới, tâm của Đức Thế Tôn không phát sinh ý nghĩ rằng: ‘Người này nổi tiếng, có danh tiếng do dòng dõi, gia tộc, sự uyên bác, hay hạnh đầu đà, nên che chở một người như vậy là điều nên làm’, cũng không, khi thấy một người hiền thiện, có đức hạnh, tâm (Ngài) lại phát sinh ý muốn che giấu đức hạnh của người đó. Mà trái lại, (Ngài) khiển trách người đáng bị khiển trách, và tán thán người đáng được tán thán, và người này (Sudinna) là người đáng bị khiển trách; do đó, Đức Phật, Đức Thế Tôn, đứng vững trong đặc tính như vậy, với tâm không lay động, đã khiển trách người đó bằng những lời như ‘Không thích hợp’ v.v…

Tatthāyaṃ atthavaṇṇanā – yadidaṃ tayā, moghapurisa, tucchamanussa kammaṃ kataṃ, taṃ samaṇakaraṇānaṃ dhammānaṃ maggaphalanibbānasāsanānaṃ vā na anucchavikaṃ, tesaṃ chaviṃ chāyaṃ sundarabhāvaṃ na anveti nānugacchati, atha kho ārakāva tehi dhammehi. Ananucchavikattā eva ca ananulomikaṃ, tesaṃ na anulometi; atha kho vilomaṃ paccanīkabhāve ṭhitaṃ. Ananulomikattā eva ca appatirūpaṃ, patirūpaṃ sadisaṃ paṭibhāgaṃ na hoti, atha kho asadisaṃ appaṭibhāgameva. Appatirūpattā eva ca assāmaṇakaṃ, samaṇānaṃ kammaṃ na hoti. Assāmaṇakattā akappiyaṃ. Yañhi samaṇakammaṃ na hoti, taṃ tesaṃ na kappati. Akappiyattā akaraṇīyaṃ. Na hi samaṇā yaṃ na kappati, taṃ karonti. Tañcetaṃ tayā kataṃ, tasmā ananucchavikaṃ te, moghapurisa, kataṃ…pe… akaraṇīyanti. Kathañhi nāmāti kena nāma kāraṇena, kiṃ nāma kāraṇaṃ passantoti vuttaṃ hoti. Tato kāraṇābhāvaṃ dassento parato ‘‘nanu mayā moghapurisā’’tiādimāha. Taṃ sabbaṃ vuttatthameva.
Ở đó, đây là sự giải thích ý nghĩa: việc này mà ngươi, kẻ ngu si, người trống rỗng, đã làm, nó không thích hợp với các pháp làm nên Sa môn, hay với giáo pháp về Đạo, Quả, Niết Bàn, nó không theo, không thuận với vẻ đẹp, hình ảnh, sự tốt đẹp của các pháp đó, mà trái lại, nó xa lìa các pháp đó. Và chính vì không thích hợp nên không tương thuận, nó không tương thuận với các pháp đó; mà trái lại, nó ở trong trạng thái đối nghịch, chống trái. Và chính vì không tương thuận nên không xứng đáng, nó không xứng đáng, không tương tự, không thích hợp, mà trái lại, nó không tương tự, không thích hợp. Và chính vì không xứng đáng nên không phải của Sa môn, không phải là việc làm của các Sa môn. Vì không phải của Sa môn nên không được phép. Thật vậy, việc gì không phải là của Sa môn thì việc đó không được phép đối với họ. Vì không được phép nên không nên làm. Thật vậy, các Sa môn không làm điều gì không được phép. Và điều đó ngươi đã làm, do đó, việc ngươi làm, hỡi kẻ ngu si, là không thích hợp… cho đến… không nên làm. ‘Làm sao mà’ nghĩa là: vì lý do gì, thấy lý do gì mà (làm vậy); ý được nói là như vậy. Sau đó, để chỉ ra sự không có lý do, (Đức Phật) đã nói ở phần tiếp theo: ‘Chẳng phải Ta đã, hỡi kẻ ngu si’ v.v… Tất cả điều đó đều có ý nghĩa như đã nói.

Idāni yasmā yaṃ tena pāpakammaṃ kataṃ, taṃ vipaccamānaṃ ativiya dukkhavipākaṃ hoti, tasmāssa taṃ vipākaṃ dassetuṃ katāparādhaṃ viya puttaṃ anukampakā mātāpitaro dayālukena cittena sudinnaṃ paribhāsanto ‘‘varaṃ te moghapurisā’’tiādimāha. Tattha āsu sīghaṃ etassa visaṃ āgacchatīti āsīviso. Ghoraṃ caṇḍamassa visanti ghoraviso, tassa āsīvisassa ghoravisassa. ‘‘Pakkhitta’’nti etassa ‘‘vara’’nti iminā sambandho . Īdisassa āsīvisassa ghoravisassa mukhe aṅgajātaṃ varaṃ pakkhittaṃ; sace pakkhittaṃ bhaveyya, varaṃ siyā; sundaraṃ sādhu suṭṭhu siyāti attho. Na tvevāti na tu eva varaṃ na sundarameva na sādhumeva na suṭṭhumeva. Esa nayo sabbattha. Kaṇhasappassāti kāḷasappassa. Aṅgārakāsuyāti aṅgārapuṇṇakūpe, aṅgārarāsimhi vā. Ādittāyāti padittāya gahitaaggivaṇṇāya. Sampajjalitāyāti samantato pajjalitāya acciyo muccantiyā. Sajotibhūtāyāti sappabhāya. Samantato uṭṭhitāhi jālāhi ekappabhāsamudayabhūtāyāti vuttaṃ hoti.
Bây giờ, vì việc ác mà người đó đã làm, khi trổ quả, sẽ có quả báo vô cùng đau khổ, do đó, để chỉ ra quả báo đó cho người ấy, (Đức Phật) khiển trách Sudinna với tâm từ bi, như cha mẹ thương xót đứa con đã phạm lỗi, và nói: ‘Thà rằng ngươi, hỡi kẻ ngu si’ v.v… Ở đó, ‘āsīviso’ (rắn độc) là loài có nọc độc đến nhanh chóng, mau lẹ. ‘Ghoraviso’ (nọc độc khủng khiếp) là loài có nọc độc ghê gớm, hung dữ; (của) loài rắn độc có nọc độc khủng khiếp đó. Từ ‘đặt vào’ này có liên hệ với từ ‘thà rằng’. Thà rằng bộ phận sinh dục được đặt vào miệng của loài rắn độc có nọc độc khủng khiếp như vậy; nếu được đặt vào, thì thà rằng như vậy; có nghĩa là (điều đó) còn tốt hơn, hay hơn, phải hơn. ‘Chứ không bao giờ’ nghĩa là: chứ không hề tốt hơn, không hề hay hơn, không hề phải hơn. Đây là phương pháp (hiểu) trong tất cả các trường hợp. ‘Của rắn hổ mang đen’ nghĩa là: của rắn đen. ‘Trong hầm than’ nghĩa là: trong hố đầy than hồng, hoặc trong đống than hồng. ‘Đang cháy rực’ nghĩa là: đang bốc cháy, có màu của lửa đang cháy. ‘Bừng cháy dữ dội’ nghĩa là: đang cháy bừng khắp nơi, ngọn lửa đang bốc lên. ‘Rực sáng’ nghĩa là: có ánh sáng. Được nói là: trở thành một khối ánh sáng đồng nhất do các ngọn lửa bốc lên từ khắp nơi.

Taṃ kissa hetūti yaṃ mayā vuttaṃ ‘‘vara’’nti taṃ kissa hetu, katarena kāraṇenāti ce? Maraṇaṃ vā nigaccheyyāti yo tattha aṅgajātaṃ pakkhipeyya, so maraṇaṃ vā nigaccheyya maraṇamattaṃ vā dukkhaṃ. Itonidānañca kho…pe… upapajjeyyāti yaṃ idaṃ mātugāmassa aṅgajāte aṅgajātapakkhipanaṃ, itonidānaṃ tassa kārako puggalo nirayaṃ upapajjeyya; evaṃ kammassa mahāsāvajjataṃ passanto taṃ garahi, na tassa dukkhāgamaṃ icchamāno. Tattha nāma tvanti tasmiṃ nāma evarūpe kamme evaṃ mahāsāvajje samānepi tvaṃ. Yaṃ tvanti ettha yanti hīḷanatthe nipāto. Tvanti taṃ-saddassa vevacanaṃ; dvīhipi yaṃ vā taṃ vā hīḷitamavaññātanti vuttaṃ hoti. Asaddhammanti asataṃ nīcajanānaṃ dhammaṃ; tehi sevitabbanti attho. Gāmadhammanti gāmānaṃ dhammaṃ; gāmavāsikamanussānaṃ dhammanti vuttaṃ hoti. Vasaladhammanti pāpadhamme vasanti paggharantīti vasalā, tesaṃ vasalānaṃ hīnapurisānaṃ dhammaṃ, vasalaṃ vā kilesapaggharaṇakaṃ dhammaṃ. Duṭṭhullanti duṭṭhu ca kilesadūsitaṃ thūlañca asukhumaṃ, anipuṇanti vuttaṃ hoti. Odakantikanti udakakiccaṃ antikaṃ avasānaṃ assāti odakantiko, taṃ odakantikaṃ. Rahassanti rahobhavaṃ, paṭicchanne okāse uppajjanakaṃ. Ayañhi dhammo jigucchanīyattā na sakkā āvi aññesaṃ dassanavisaye kātuṃ, tena vuttaṃ – ‘‘rahassa’’nti. Dvayaṃdvayasamāpattinti dvīhi dvīhi samāpajjitabbaṃ, dvayaṃ dvayaṃ samāpattintipi pāṭho. Dayaṃ dayaṃ samāpattintipi paṭhanti, taṃ na sundaraṃ. Samāpajjissasīti etaṃ ‘‘tattha nāma tva’’nti ettha vuttanāmasaddena yojetabbaṃ ‘‘samāpajjissasi nāmā’’ti.
Điều đó do nhân gì?’ nghĩa là: nếu hỏi rằng điều Ta đã nói ‘thà rằng’ đó, do nhân gì, do lý do nào? ‘Hoặc sẽ đi đến cái chết’ nghĩa là: người nào đặt bộ phận sinh dục vào đó, người đó hoặc sẽ đi đến cái chết, hoặc (chịu) đau khổ tương đương cái chết. ‘Và do nhân này… cho đến… sẽ sanh vào (địa ngục)’ nghĩa là: việc đặt bộ phận sinh dục vào bộ phận sinh dục của người nữ này, do nhân này mà người thực hiện việc đó sẽ sanh vào địa ngục; thấy được tính chất vô cùng tội lỗi của hành vi như vậy, (Đức Phật) đã khiển trách điều đó, chứ không phải mong muốn sự đau khổ đến với người ấy. ‘Lẽ nào thầy lại ở trong đó’ nghĩa là: lẽ nào thầy, ngay cả khi ở trong một hành vi như vậy, một hành vi vô cùng tội lỗi như vậy. ‘Điều mà thầy’ thì ở đây, ‘ya’ là một tiểu từ dùng với nghĩa chế giễu. ‘Tva’ (thầy) là một từ đồng nghĩa của ‘taṃ’ (ngươi); được nói là: cả hai, dù là ‘ya’ hay ‘taṃ’, đều có ý chế giễu, khinh miệt. ‘Phi pháp’ nghĩa là: pháp của những người xấu, những kẻ thấp hèn; có nghĩa là (pháp) được họ thực hành. ‘Pháp của làng xóm’ nghĩa là: pháp của các làng; được nói là: pháp của những người sống ở làng. ‘Pháp của kẻ hạ tiện’ nghĩa là: những người sống trong các pháp ác, tuôn chảy (các pháp ác) là những kẻ hạ tiện (vasalā), (đây là) pháp của những kẻ hạ tiện, những người thấp hèn đó; hoặc là pháp hạ tiện, pháp làm tuôn chảy phiền não. ‘Thô lậu’ nghĩa là: vừa xấu xa, bị phiền não làm ô uế, vừa thô thiển, không vi tế, không khéo léo; ý được nói là như vậy. ‘Kết thúc bằng nước’ nghĩa là: việc làm liên quan đến nước là gần gũi, là kết thúc của nó, (nên gọi là) ‘odakantiko’; (pháp) kết thúc bằng nước đó. ‘Kín đáo’ nghĩa là: việc xảy ra ở nơi kín đáo, việc phát sinh ở nơi che khuất. Thật vậy, pháp này do đáng ghê tởm nên không thể làm một cách công khai trong tầm nhìn của người khác, do đó đã được nói – ‘kín đáo’. ‘Sự giao hợp của hai người’ nghĩa là: việc phải được thực hiện bởi hai người; cũng có bản đọc là ‘dvayaṃ dvayaṃ samāpatti’. Cũng có người đọc là ‘dayaṃ dayaṃ samāpatti’, (cách đọc) đó không hay. ‘Thầy sẽ giao hợp’ – từ này cần được kết hợp với từ ‘nāma’ (lẽ nào) đã nói ở đoạn ‘tattha nāma tvaṃ’ (lẽ nào thầy lại ở trong đó) thành ‘samāpajjissasi nāmā’ (lẽ nào thầy sẽ giao hợp).

Bahūnaṃkho…pe… ādikattā pubbaṅgamoti sāsanaṃ sandhāya vadati. Imasmiṃ sāsane tvaṃ bahūnaṃ puggalānaṃ akusalānaṃ dhammānaṃ ādikattā, sabbapaṭhamaṃ karaṇato; pubbaṅgamo sabbapaṭhamaṃ etaṃ maggaṃ paṭipannattā; dvāraṃdado, upāyadassakoti vuttaṃ hoti. Imañhi lesaṃ laddhā tava anusikkhamānā bahū puggalā nānappakārake makkaṭiyā methunapaṭisevanādike akusaladhamme karissantīti ayamettha adhippāyo.
Đối với nhiều người… cho đến… là người khởi đầu, là người đi trước’ – (Đức Phật) nói nhắm đến giáo pháp. Trong giáo pháp này, thầy là người khởi đầu các pháp bất thiện cho nhiều người, do làm điều đó đầu tiên; là người đi trước do đi vào con đường này đầu tiên; được nói là: người mở đường, người chỉ bày phương tiện. Thật vậy, sau khi có được cái cớ này, nhiều người bắt chước thầy, sẽ làm các pháp bất thiện khác nhau như việc thực hành dâm dục như loài khỉ v.v…; đây là ý nghĩa ở đây.

Anekapariyāyenāti imehi ‘‘ananucchavika’’ntiādinā nayena vuttehi, bahūhi kāraṇehi. Dubbharatāya…pe… kosajjassa avaṇṇaṃ bhāsitvāti dubbharatādīnaṃ vatthubhūtassa asaṃvarassa avaṇṇaṃ nindaṃ garahaṃ bhāsitvāti attho. Yasmā hi asaṃvare ṭhitassa puggalassa attā dubbharatañceva dupposatañca āpajjati, tasmā asaṃvaro ‘‘dubbharatā, dupposatā’’ti ca vuccati. Yasmā pana asaṃvare ṭhitassa attā catūsu paccayesu mahicchataṃ sineruppamāṇepi ca paccaye laddhā asantuṭṭhitaṃ āpajjati, tasmā asaṃvaro ‘‘mahicchatā, asantuṭṭhitā’’ti ca vuccati. Yasmā ca asaṃvare ṭhitassa attā gaṇasaṅgaṇikāya ceva kilesasaṅgaṇikāya ca saṃvattati, kosajjānugato ca hoti aṭṭhakusītavatthupāripūriyā saṃvattati, tasmā asaṃvaro ‘‘saṅgaṇikā, ceva kosajjañcā’’ti vuccati.
Bằng nhiều phương tiện’ nghĩa là: bằng những (lời) này đã được nói theo cách như ‘Không thích hợp’ v.v…, bằng nhiều lý do. ‘Sau khi nói lời chê bai sự khó nuôi dưỡng… cho đến… sự lười biếng’ có nghĩa là: sau khi nói lời chê bai, quở trách, khiển trách sự không thu thúc, vốn là cơ sở của sự khó nuôi dưỡng v.v… Thật vậy, vì người sống không thu thúc tự mình trở nên khó nuôi dưỡng và khó chăm sóc, do đó sự không thu thúc cũng được gọi là ‘sự khó nuôi dưỡng, sự khó chăm sóc’. Nhưng vì người sống không thu thúc tự mình trở nên có nhiều ham muốn đối với bốn món vật dụng, và dù nhận được vật dụng lớn như núi Sineru cũng không hài lòng, do đó sự không thu thúc cũng được gọi là ‘sự nhiều ham muốn, sự không biết đủ’. Và vì người sống không thu thúc tự mình đi đến chỗ giao du hội chúng và giao du phiền não, và trở nên lười biếng, đi đến chỗ hoàn thành tám cơ sở của sự lười biếng, do đó sự không thu thúc cũng được gọi là ‘sự giao du và sự lười biếng’.

Subharatāya…pe… vīriyārambhassa vaṇṇaṃ bhāsitvāti subharatādīnaṃ vatthubhūtassa saṃvarassa vaṇṇaṃ bhāsitvāti attho. Yasmā hi asaṃvaraṃ pahāya saṃvare ṭhitassa attā subharo hoti suposo, catūsu ca paccayesu appicchataṃ nittaṇhabhāvaṃ āpajjati, ekamekasmiñca paccaye yathālābha-yathābala-yathāsāruppavasena tippabhedāya santuṭṭhiyā saṃvattati, tasmā saṃvaro ‘‘subharatā ceva suposatā ca appiccho ca santuṭṭho cā’’ti vuccati.
Sau khi nói lời tán thán sự dễ nuôi dưỡng… cho đến… sự tinh tấn nỗ lực’ có nghĩa là: sau khi nói lời tán thán sự thu thúc, vốn là cơ sở của sự dễ nuôi dưỡng v.v… Thật vậy, vì người từ bỏ sự không thu thúc, sống trong sự thu thúc, tự mình trở nên dễ nuôi dưỡng, dễ chăm sóc, và đối với bốn món vật dụng, (người ấy) trở nên ít ham muốn, không có ái dục, và đối với mỗi một vật dụng, (người ấy) đạt đến sự biết đủ theo ba phương diện: tùy theo sở được, tùy theo sức khỏe, tùy theo sự thích hợp, do đó sự thu thúc được gọi là ‘sự dễ nuôi dưỡng, sự dễ chăm sóc, sự ít ham muốn, và sự biết đủ’.

Yasmā pana asaṃvaraṃ pahāya saṃvare ṭhitassa attā kilesasallekhanatāya ceva niddhunanatāya ca saṃvattati, tasmā saṃvaro ‘‘sallekho ca dhuto cā’’ti vuccati.
Nhưng vì người từ bỏ sự không thu thúc, sống trong sự thu thúc, tự mình đi đến chỗ làm giảm thiểu phiền não và rũ bỏ phiền não, do đó sự thu thúc được gọi là ‘sự giảm thiểu (phiền não) và sự rũ bỏ (phiền não)’.

Yasmā ca asaṃvaraṃ pahāya saṃvare ṭhitassa attā kāyavācānaṃ appāsādikaṃ appasādanīyaṃ asantaṃ asāruppaṃ kāyavacīduccaritaṃ cittassa appāsādikaṃ appasādanīyaṃ asantaṃ asāruppaṃ akusalavitakkattayañca anupagamma tabbiparītassa kāyavacīsucaritassa ceva kusalavitakkattayassa ca pāsādikassa pasādanīyassa santassa sāruppassa pāripūriyā saṃvattati, tasmā saṃvaro ‘‘pāsādiko’’ti vuccati.
Và vì người từ bỏ sự không thu thúc, sống trong sự thu thúc, tự mình không đi đến các hành vi xấu ác không đáng ưa thích, không đáng kính, không thiện, không thích hợp của thân và lời nói, và không đi đến ba loại tầm bất thiện không đáng ưa thích, không đáng kính, không thiện, không thích hợp của ý, mà đi đến sự hoàn thiện các hành vi tốt đẹp của thân và lời nói, và ba loại tầm thiện đáng ưa thích, đáng kính, thiện, thích hợp, vốn đối nghịch với những điều đó, do đó sự thu thúc được gọi là ‘đáng kính’.

Yasmā pana asaṃvaraṃ pahāya saṃvare ṭhitassa attā sabbakilesāpacayabhūtāya, vivaṭṭāya, aṭṭhavīriyārambhavatthupāripūriyā ca saṃvattati, tasmā saṃvaro ‘‘apacayo ceva vīriyārambho cā’’ti vuccatīti.
Nhưng vì người từ bỏ sự không thu thúc, sống trong sự thu thúc, tự mình đi đến chỗ tích lũy tất cả các thiện pháp (ngược lại với phiền não), đi đến chỗ thoát khỏi luân hồi, và đi đến chỗ hoàn thành tám cơ sở của sự tinh tấn nỗ lực, do đó sự thu thúc được gọi là ‘sự tích lũy (thiện pháp) và sự tinh tấn nỗ lực’.

Bhikkhūnaṃ tadanucchavikaṃ tadanulomikanti tattha sannipatitānaṃ bhikkhūnaṃ yaṃ idāni sikkhāpadaṃ paññapessati, tassa anucchavikañceva anulomikañca. Yo vā ayaṃ subharatādīhi saṃvaro vutto, tassa anucchavikañceva anulomikañca saṃvarappahānapaṭisaṃyuttaṃ asuttantavinibaddhaṃ pāḷivinimuttaṃ okkantikadhammadesanaṃ katvāti attho. Bhagavā kira īdisesu ṭhānesu pañcavaṇṇakusumamālaṃ karonto viya, ratanadāmaṃ sajjento viya, ca ye paṭikkhipanādhippāyā asaṃvarābhiratā te samparāyikena vaṭṭabhayena tajjento anekappakāraṃ ādīnavaṃ dassento, ye sikkhākāmā saṃvare ṭhitā te appekacce arahatte patiṭṭhapento appekacce anāgāmi-sakadāgāmi-sotāpattiphalesu upanissayavirahitepi saggamagge patiṭṭhapento dīghanikāyappamāṇampi majjhimanikāyappamāṇampi dhammadesanaṃ karoti. Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ – ‘‘bhikkhūnaṃ tadanucchavikaṃ tadanulomikaṃ dhammiṃ kathaṃ katvā’’ti.
(Bài pháp) thích hợp và tương thuận với các Tỳ khưu’ nghĩa là: (bài pháp) thích hợp và tương thuận với học giới mà (Đức Phật) bây giờ sẽ chế định cho các Tỳ khưu đã tụ họp ở đó. Hoặc (bài pháp) thích hợp và tương thuận với sự thu thúc này đã được nói đến qua sự dễ nuôi dưỡng v.v…, có nghĩa là (Đức Phật) đã thuyết một bài pháp có tính cách thâm nhập, liên quan đến sự thu thúc và sự đoạn trừ (các pháp bất thiện), không ràng buộc vào Kinh tạng hay Luật tạng, vượt ngoài Thánh điển Pāḷi. Nghe nói, Đức Thế Tôn, trong những trường hợp như vậy, giống như đang kết một tràng hoa năm màu, giống như đang trang hoàng một chuỗi ngọc, và đối với những người có ý định từ bỏ (giáo pháp), ưa thích sự không thu thúc, (Ngài) răn đe họ bằng sự sợ hãi vòng luân hồi trong tương lai, chỉ ra nhiều loại nguy hại, còn những người ham học, sống trong sự thu thúc, (Ngài) giúp một số người trong họ chứng đắc A la hán, một số người (chứng đắc) quả Bất Lai, Nhất Lai, Dự Lưu, ngay cả những người không có duyên (chứng Thánh quả) cũng giúp họ đứng vững trên con đường lên cõi trời, (Ngài) thuyết một bài pháp dài bằng cả Trường Bộ Kinh hay Trung Bộ Kinh. Nhắm đến điều đó mà đã được nói – ‘Sau khi thuyết một bài pháp thích hợp và tương thuận với các Tỳ khưu’.

Tena hīti tena sudinnassa ajjhācārena kāraṇabhūtena. Sikkhāpadanti ettha sikkhitabbāti sikkhā, pajjate imināti padaṃ, sikkhāya padaṃ sikkhāpadaṃ; sikkhāya adhigamupāyoti attho. Atha vā mūlaṃ nissayo patiṭṭhāti vuttaṃ hoti. Methunaviratiyā methunasaṃvarassetaṃ adhivacanaṃ. Methunasaṃvaro hi tadaññesaṃ sikkhāsaṅkhātānaṃ sīlavipassanājhānamaggadhammānaṃ vuttatthavasena padattā idha ‘‘sikkhāpada’’nti adhippeto. Ayañca attho sikkhāpadavibhaṅge vuttanayeneva veditabbo. Apica tassatthassa dīpakaṃ vacanampi ‘‘sikkhāpada’’nti veditabbaṃ. Vuttampi cetaṃ – ‘‘sikkhāpadanti yo tattha nāmakāyo padakāyo niruttikāyo byañjanakāyo’’ti. Atha vā yathā ‘‘anabhijjhā dhammapada’’nti vutte anabhijjhā eko dhammakoṭṭhāsoti attho hoti, evamidhāpi ‘‘sikkhāpada’’nti sikkhākoṭṭhāso sikkhāya eko padesotipi attho veditabbo.
Vậy thì’ nghĩa là: do sự phạm lỗi của Sudinna làm nguyên nhân. ‘Học giới’ (Sikkhāpada): ở đây, ‘sikkhā’ (học) là điều cần phải học; ‘padaṃ’ (nền tảng, bước) là cái mà nhờ đó người ta tiến bước; ‘sikkhāpadaṃ’ là nền tảng của sự học; có nghĩa là phương tiện để chứng đắc sự học. Hoặc được nói là: gốc rễ, nơi nương tựa, nền tảng. Đây là tên gọi khác của sự từ bỏ dâm dục, sự thu thúc trong dâm dục. Thật vậy, sự thu thúc trong dâm dục, vì là nền tảng theo ý nghĩa đã nói cho các pháp học khác như giới, tuệ quán, thiền định, đạo, nên ở đây được hiểu là ‘học giới’. Và ý nghĩa này cần được hiểu theo cách đã nói trong phần Phân tích học giới. Hơn nữa, lời nói làm sáng tỏ ý nghĩa đó cũng cần được hiểu là ‘học giới’. Và điều này cũng đã được nói: ‘Học giới là những gì ở đó gồm nhóm danh từ, nhóm từ, nhóm ngữ nguyên, nhóm văn tự.’ Hoặc, cũng như khi nói ‘Không tham lam là một pháp cú (dhammapada)’, có nghĩa là không tham lam là một phần của Pháp, thì ở đây cũng vậy, ‘học giới’ cần được hiểu là một phần của sự học, một phạm vi của sự học.

Dasaatthavase paṭiccāti dasa kāraṇavase sikkhāpadapaññattihetu adhigamanīye hitavisese paṭicca āgamma ārabbha, dasannaṃ hitavisesānaṃ nipphattiṃ sampassamānoti vuttaṃ hoti. Idāni te dasa atthavase dassento ‘‘saṅghasuṭṭhutāyā’’tiādimāha. Tattha saṅghasuṭṭhutā nāma saṅghassa suṭṭhubhāvo, ‘‘suṭṭhu devā’’ti āgataṭṭhāne viya ‘‘suṭṭhu, bhante’’ti vacanasampaṭicchanabhāvo . Yo ca tathāgatassa vacanaṃ sampaṭicchati , tassa taṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya hoti, tasmā saṅghassa ‘‘suṭṭhu, bhante’’ti mama vacanasampaṭicchanatthaṃ paññapessāmi, asampaṭicchane ādīnavaṃ sampaṭicchane ca ānisaṃsaṃ dassetvā, na balakkārena abhibhavitvāti etamatthaṃ āvikaronto āha – ‘‘saṅghasuṭṭhutāyā’’ti. Saṅghaphāsutāyāti saṅghassa phāsubhāvāya; sahajīvitāya sukhavihāratthāyāti attho.
Dựa vào mười lợi ích’ nghĩa là: dựa vào, nương vào, nhắm đến mười lợi ích đặc biệt cần phải đạt được, vốn là lý do, là nhân duyên cho việc chế định học giới, được nói là: thấy rõ sự thành tựu của mười lợi ích đặc biệt đó. Bây giờ, để chỉ ra mười lợi ích đó, (Đức Phật) nói: ‘Vì sự tốt đẹp của Tăng đoàn’ v.v… Ở đó, ‘sự tốt đẹp của Tăng đoàn’ (saṅghasuṭṭhutā) là trạng thái tốt đẹp của Tăng đoàn, giống như ở chỗ có câu ‘Lành thay, thưa ngài’, (đây là) trạng thái chấp nhận lời nói ‘Lành thay, bạch Thế Tôn’. Và người nào chấp nhận lời dạy của Như Lai, điều đó sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc cho người ấy trong thời gian dài, do đó, Ta sẽ chế định (học giới) để Tăng đoàn chấp nhận lời dạy của Ta rằng ‘Lành thay, bạch Thế Tôn’, sau khi chỉ ra sự nguy hại trong việc không chấp nhận và lợi ích trong việc chấp nhận, chứ không phải dùng sức mạnh để áp đảo; làm rõ ý này, (Đức Phật) nói: ‘Vì sự tốt đẹp của Tăng đoàn’. ‘Vì sự thoải mái của Tăng đoàn’ nghĩa là: vì trạng thái thoải mái của Tăng đoàn; có nghĩa là để sống chung một cách an vui.

Dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāyāti dummaṅkū nāma dussīlapuggalā; ye maṅkutaṃ āpādiyamānāpi dukkhena āpajjanti, vītikkamaṃ karontā vā katvā vā na lajjanti, tesaṃ niggahatthāya; te hi sikkhāpade asati ‘‘kiṃ tumhehi diṭṭhaṃ, kiṃ sutaṃ – kiṃ amhehi kataṃ; katarasmiṃ vatthusmiṃ katamaṃ āpattiṃ āropetvā amhe niggaṇhathā’’ti saṅghaṃ viheṭhessanti, sikkhāpade pana sati te saṅgho sikkhāpadaṃ dassetvā dhammena vinayena satthusāsanena niggahessati. Tena vuttaṃ – ‘‘dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāyā’’ti.
Để chế ngự những người khó bảo’ nghĩa là: những người khó bảo là những người ác giới; những người dù bị làm cho bối rối, hổ thẹn cũng khó mà đạt đến (sự hổ thẹn), hoặc những người khi đang phạm lỗi hay đã phạm lỗi mà không biết xấu hổ; (học giới được chế định) để chế ngự họ; thật vậy, khi học giới chưa có, họ sẽ làm phiền Tăng đoàn (bằng cách nói): ‘Các vị đã thấy gì, đã nghe gì – chúng tôi đã làm gì? Các vị gán tội nào trong trường hợp nào để chế ngự chúng tôi?’ nhưng khi học giới đã có, Tăng đoàn sẽ chỉ ra học giới đó và chế ngự họ bằng Pháp, bằng Luật, bằng giáo huấn của Bậc Đạo Sư. Do đó đã được nói – ‘Để chế ngự những người khó bảo’.

Pesalānaṃ bhikkhūnaṃ phāsuvihārāyāti pesalānaṃ piyasīlānaṃ bhikkhūnaṃ phāsuvihāratthāya. Piyasīlā hi bhikkhū kattabbākattabbaṃ sāvajjānavajjaṃ velaṃ mariyādaṃ ajānantā sikkhattayapāripūriyā ghaṭamānā kilamanti, sandiṭṭhamānā ubbāḷhā honti. Kattabbākattabbaṃ pana sāvajjānavajjaṃ velaṃ mariyādaṃ ñatvā sikkhattayapāripūriyā ghaṭamānā na kilamanti, sandiṭṭhamānā na ubbāḷhā honti. Tena nesaṃ sikkhāpadapaññāpanā phāsuvihārāya saṃvattati. Yo vā dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggaho, sveva etesaṃ phāsuvihāro. Dussīlapuggale nissāya hi uposatho na tiṭṭhati , pavāraṇā na tiṭṭhati, saṅghakammāni nappavattanti, sāmaggī na hoti, bhikkhū anekaggā uddesaparipucchākammaṭṭhānādīni anuyuñjituṃ na sakkonti. Dussīlesu pana niggahitesu sabbopi ayaṃ upaddavo na hoti. Tato pesalā bhikkhū phāsu viharanti. Evaṃ ‘‘pesalānaṃ bhikkhūnaṃ phāsu vihārāyā’’ti ettha dvidhā attho veditabbo.
Vì sự an vui của các Tỳ khưu hiền thiện’ nghĩa là: vì mục đích an vui của các Tỳ khưu hiền thiện, có giới hạnh đáng mến. Thật vậy, các Tỳ khưu có giới hạnh đáng mến, khi không biết việc nên làm và không nên làm, việc có tội và không có tội, thời gian, giới hạn, thì khi cố gắng hoàn thiện ba học (Giới, Định, Tuệ) sẽ bị mệt mỏi, và khi bị thấy (phạm lỗi) sẽ bị phiền não. Nhưng khi biết việc nên làm và không nên làm, việc có tội và không có tội, thời gian, giới hạn, thì khi cố gắng hoàn thiện ba học sẽ không bị mệt mỏi, và khi bị thấy (phạm lỗi) cũng không bị phiền não. Do đó, việc chế định học giới đối với họ đưa đến sự an vui. Hoặc, sự chế ngự những người khó bảo chính là sự an vui của những vị (hiền thiện) này. Thật vậy, do nương vào những người ác giới mà lễ Bố tát không thể tiến hành, lễ Tự tứ không thể tiến hành, các Tăng sự không thể thực hiện, sự hòa hợp không có, các Tỳ khưu tâm không chuyên nhất, không thể thực hành việc học hỏi, nghiên cứu đề mục thiền định v.v… Nhưng khi những người ác giới bị chế ngự, tất cả những tai họa này đều không xảy ra. Do đó, các Tỳ khưu hiền thiện sống được an vui. Như vậy, ở đây, câu ‘Vì sự an vui của các Tỳ khưu hiền thiện’ cần được hiểu theo hai cách.

Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāyāti diṭṭhadhammikā āsavā nāma asaṃvare ṭhitena tasmiññeva attabhāve pattabbā pāṇippahāra-daṇḍappahāra-hatthaccheda-pādaccheda-akitti-ayasavippaṭisārādayo dukkhavisesā. Iti imesaṃ diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya pidhānāya āgamanamaggathakanāyāti attho.
Vì sự ngăn ngừa các lậu hoặc hiện tại’ nghĩa là: các lậu hoặc hiện tại là những khổ đau đặc biệt mà người sống không thu thúc phải gánh chịu ngay trong chính đời này, như bị đánh đập bằng tay, bị đánh đập bằng gậy, bị chặt tay, bị chặt chân, bị tiếng xấu, bị tai tiếng, bị hối hận v.v… Như vậy, có nghĩa là để ngăn ngừa, để che đậy, để chặn đứng con đường phát sinh của các lậu hoặc hiện tại này.

Samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāyāti samparāyikā āsavā nāma asaṃvare ṭhitena katapāpakammamūlakā samparāye narakādīsu pattabbā dukkhavisesā, tesaṃ paṭighātatthāya paṭippassambhanatthāya vūpasamatthāyāti vuttaṃ hoti.
Vì sự đoạn trừ các lậu hoặc tương lai’ nghĩa là: các lậu hoặc tương lai là những khổ đau đặc biệt mà người sống không thu thúc, do việc ác đã làm làm gốc rễ, phải gánh chịu trong đời sau ở các cõi địa ngục v.v…, được nói là: với mục đích đoạn trừ, làm lắng dịu, làm chấm dứt những (khổ đau) đó.

Appasannānaṃ pasādāyāti sikkhāpadapaññattiyā hi sati sikkhāpadapaññattiṃ ñatvā vā yathāpaññattaṃ paṭipajjamāne bhikkhū disvā vā yepi appasannā paṇḍitamanussā, te ‘‘yāni vata loke mahājanassa rajjana-dussana-muyhanaṭṭhānāni, tehi ime samaṇā sakyaputtiyā ārakā viratā viharanti, dukkaraṃ vata karonti, bhāriyaṃ vata karontī’’ti pasādaṃ āpajjanti, vinayapiṭake potthakaṃ disvā micchādiṭṭhika-tivedī brāhmaṇo viya. Tena vuttaṃ – ‘‘appasannānaṃ pasādāyā’’ti.
Để làm cho những người chưa có đức tin phát sinh đức tin’ nghĩa là: thật vậy, khi việc chế định học giới đã có, hoặc là sau khi biết việc chế định học giới, hoặc là sau khi thấy các Tỳ khưu thực hành theo như đã chế định, ngay cả những người trí thức chưa có đức tin, họ (nghĩ rằng): ‘Ôi, những gì trên đời là nơi khiến cho đa số quần chúng tham đắm, sân hận, si mê, thì các Sa môn Thích tử này sống xa lìa, từ bỏ những điều đó, họ làm điều khó làm thay, họ làm điều nặng nề thay’, (do đó) họ phát sinh đức tin, giống như vị Bà la môn tà kiến thông Tam Vệ Đà sau khi thấy sách Luật tạng. Do đó đã được nói – ‘Để làm cho những người chưa có đức tin phát sinh đức tin’.

Pasannānaṃ bhiyyobhāvāyāti yepi sāsane pasannā kulaputtā tepi sikkhāpadapaññattiṃ ñatvā yathāpaññattaṃ paṭipajjamāne bhikkhū vā disvā ‘‘aho ayyā dukkarakārino, ye yāvajīvaṃ ekabhattaṃ brahmacariyaṃ vinayasaṃvaraṃ anupālentī’’ti bhiyyo bhiyyo pasīdanti. Tena vuttaṃ – ‘‘pasannānaṃ bhiyyobhāvāyā’’ti.
Để làm cho đức tin của những người đã có đức tin được tăng trưởng’ nghĩa là: ngay cả những thiện gia nam tử đã có đức tin vào giáo pháp, họ cũng, sau khi biết việc chế định học giới, hoặc sau khi thấy các Tỳ khưu thực hành theo như đã chế định, (nghĩ rằng) ‘Ôi, các Tôn giả làm điều khó làm thay, các vị ấy suốt đời giữ gìn đời sống phạm hạnh một bữa, sự thu thúc trong Luật’, (do đó) họ càng ngày càng thêm đức tin. Do đó đã được nói – ‘Để làm cho đức tin của những người đã có đức tin được tăng trưởng’.

Saddhammaṭṭhitiyāti tividho saddhammo – pariyattisaddhammo, paṭipattisaddhammo, adhigamasaddhammoti. Tattha piṭakattayasaṅgahitaṃ sabbampi buddhavacanaṃ ‘‘pariyattisaddhammo’’ nāma. Terasa dhutaguṇā, cuddasa khandhakavattāni, dveasīti mahāvattāni, sīlasamādhivipassanāti ayaṃ ‘‘paṭipattisaddhammo’’ nāma. Cattāro ariyamaggā cattāri ca sāmaññaphalāni nibbānañcāti ayaṃ ‘‘adhigamasaddhammo’’ nāma. So sabbopi yasmā sikkhāpadapaññattiyā sati bhikkhū sikkhāpadañca tassa vibhaṅgañca tadatthajotanatthaṃ aññañca buddhavacanaṃ pariyāpuṇanti, yathāpaññattañca paṭipajjamānā paṭipattiṃ pūretvā paṭipattiyā adhigantabbaṃ lokuttaradhammaṃ adhigacchanti, tasmā sikkhāpadapaññattiyā ciraṭṭhitiko hoti. Tena vuttaṃ – ‘‘saddhammaṭṭhitiyā’’ti.
Vì sự trường tồn của Diệu Pháp’ nghĩa là: Diệu Pháp có ba loại – Pháp học, Pháp hành, và Pháp thành. Trong đó, toàn bộ lời Phật dạy được thu thập trong Tam Tạng được gọi là ‘Pháp học’. Mười ba phẩm hạnh đầu đà, mười bốn phận sự trong các Hợp phần, tám mươi hai Đại phận sự, Giới, Định, Tuệ – đây được gọi là ‘Pháp hành’. Bốn Thánh đạo, bốn Sa môn quả, và Niết Bàn – đây được gọi là ‘Pháp thành’. Tất cả (Diệu Pháp) đó, vì khi việc chế định học giới đã có, các Tỳ khưu học thuộc học giới, sự phân tích của nó, và các lời Phật dạy khác để làm sáng tỏ ý nghĩa đó, và khi thực hành theo như đã chế định, hoàn thiện sự thực hành, (họ) chứng đắc Pháp siêu thế cần phải đạt được bằng sự thực hành, do đó, nhờ việc chế định học giới mà (Diệu Pháp) được trường tồn. Do đó đã được nói – ‘Vì sự trường tồn của Diệu Pháp’.

Vinayānuggahāyāti sikkhāpadapaññattiyā hi sati saṃvaravinayo ca pahānavinayo ca samathavinayo ca paññattivinayo cāti catubbidhopi vinayo anuggahito hoti upatthambhito sūpatthambhito. Tena vuttaṃ – ‘‘vinayānuggahāyā’’ti.
Vì sự hỗ trợ Luật’ nghĩa là: thật vậy, khi việc chế định học giới đã có, cả bốn loại Luật – Luật phòng hộ, Luật đoạn trừ, Luật chỉ tịnh, và Luật chế định – đều được hỗ trợ, được nâng đỡ, được nâng đỡ một cách tốt đẹp. Do đó đã được nói – ‘Vì sự hỗ trợ Luật’.

Sabbāneva cetāni padāni ‘‘sikkhāpadaṃ paññapessāmī’’ti iminā vacanena saddhiṃ yojetabbāni . Tatrāyaṃ paṭhamapacchimapadayojanā – ‘‘saṅghasuṭṭhutāya sikkhāpadaṃ paññapessāmi, vinayānuggahāya sikkhāpadaṃ paññapessāmī’’ti.
Tất cả các thuật ngữ này cần được kết hợp với lời nói này: ‘Ta sẽ chế định học giới’. Ở đó, đây là sự kết hợp của thuật ngữ đầu tiên và cuối cùng: ‘Ta sẽ chế định học giới vì sự tốt đẹp của Tăng đoàn, Ta sẽ chế định học giới vì sự hỗ trợ Luật’.

Api cettha yaṃ saṅghasuṭṭhu taṃ saṅghaphāsu, yaṃ saṅghaphāsu taṃ dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāyāti evaṃ saṅkhalikanayaṃ; yaṃ saṅghasuṭṭhu taṃ saṅghaphāsu, yaṃ saṅghasuṭṭhu taṃ dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāyāti evañca ekekapadamūlikaṃ dasakkhattuṃ yojanaṃ katvā yaṃ vuttaṃ parivāre (pari. 334) –
Hơn nữa, ở đây, phương pháp liên kết (saṅkhalikanayaṃ) như sau: cái gì là sự tốt đẹp của Tăng đoàn, cái đó là sự thoải mái của Tăng đoàn; cái gì là sự thoải mái của Tăng đoàn, cái đó là để chế ngự những người khó bảo; và (cũng có) sự kết hợp mười lần lấy mỗi thuật ngữ làm gốc, như: cái gì là sự tốt đẹp của Tăng đoàn, cái đó là sự thoải mái của Tăng đoàn; cái gì là sự tốt đẹp của Tăng đoàn, cái đó là để chế ngự những người khó bảo; điều đã được nói trong phần Tập Yếu (pari. 334) –

‘‘Atthasataṃ dhammasataṃ, dve ca niruttisatāni;
Cattāri ñāṇasatāni, atthavase pakaraṇe’’ti.
‘Một trăm ý nghĩa, một trăm pháp, và hai trăm ngữ nguyên;
Bốn trăm trí tuệ, trong trường hợp các lợi ích.’

Taṃ sabbaṃ veditabbaṃ. Taṃ panetaṃ yasmā parivāreyeva āvi bhavissati, tasmā idha na vaṇṇitanti.
Tất cả điều đó cần được biết. Nhưng điều đó, vì sẽ được làm rõ trong chính phần Tập Yếu, do đó ở đây không được giải thích.

Evaṃ sikkhāpadapaññattiyā ānisaṃsaṃ dassetvā tasmiṃ sikkhāpade bhikkhūhi kattabbakiccaṃ dīpento ‘‘evañca pana, bhikkhave, imaṃ sikkhāpadaṃ uddiseyyāthā’’ti āha. Kiṃ vuttaṃ hoti? Bhikkhave, imaṃ pana mayā iti sandassitānisaṃsaṃ sikkhāpadaṃ evaṃ pātimokkhuddese uddiseyyātha ca pariyāpuṇeyyātha ca dhāreyyātha ca aññesañca vāceyyāthāti. Atirekānayanattho hi ettha ca saddo, tenāyamattho ānīto hotīti.
Sau khi chỉ ra lợi ích của việc chế định học giới như vậy, để làm sáng tỏ phận sự cần làm của các Tỳ khưu đối với học giới đó, (Đức Phật) nói: ‘Và này các Tỳ khưu, các thầy hãy tuyên đọc học giới này như vầy’. Điều gì đã được nói? Này các Tỳ khưu, học giới này mà Ta đã chỉ rõ lợi ích như vậy, các thầy hãy tuyên đọc như vầy trong buổi tụng đọc Giới Bổn Pātimokkha (Giới Bổn), và hãy học thuộc, và hãy ghi nhớ, và hãy đọc cho người khác nghe. Thật vậy, ở đây từ ‘ca’ (và) có ý nghĩa bao hàm thêm, do đó ý nghĩa này đã được mang đến.

Idāni yaṃ vuttaṃ ‘‘imaṃ sikkhāpada’’nti taṃ dassento ‘‘yo pana bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyya, pārājiko hoti asaṃvāso’’ti āha. Evaṃ mūlacchejjavasena daḷhaṃ katvā paṭhamapārājike paññatte aparampi anupaññattatthāya makkaṭīvatthu udapādi. Tassuppattidīpanatthametaṃ vuttaṃ – evañcidaṃ bhagavatā bhikkhūnaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ hotīti. Tassattho – bhagavatā bhikkhūnaṃ idaṃ sikkhāpadaṃ evaṃ paññattaṃ hoti ca, idañca aññaṃ vatthu udapādīti.

Bây giờ, để chỉ ra điều đã được nói là ‘học giới này’, (Đức Phật) nói: ‘Vị Tỳ khưu nào thực hành dâm pháp, thì phạm tội Bất Cộng Trụ, không được sống chung’. Sau khi giới Bất Cộng Trụ thứ nhất được chế định một cách vững chắc theo cách đoạn tuyệt gốc rễ như vậy, một trường hợp khác về con khỉ lại phát sinh để có sự chế định bổ sung. Để làm sáng tỏ sự phát sinh của trường hợp đó, điều này đã được nói: ‘Như vậy, học giới này đã được Đức Thế Tôn chế định cho các Tỳ khưu’. Ý nghĩa của nó là: học giới này đã được Đức Thế Tôn chế định cho các Tỳ khưu như vậy, và trường hợp khác này đã phát sinh.

Paṭhamapaññattikathā niṭṭhitā.

Phần kể về sự chế định đầu tiên đã kết thúc.

Sudinnabhāṇavāraṃ niṭṭhitaṃ.

Phẩm tụng về Sudinna đã kết thúc.

Makkaṭīvatthukathā

Câu chuyện về trường hợp con khỉ

40. Idāni yaṃ taṃ aññaṃ vatthu uppannaṃ, taṃ dassetuṃ ‘‘tena kho pana samayenā’’tiādimāha. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā – makkaṭiṃ āmisenāti mahāvane bhikkhūnaṃ khantimettādiguṇānubhāvena nirāsaṅkacittā bahū migamorakukkuṭamakkaṭādayo tiracchānā padhānāgāraṭṭhānesu vicaranti. Tatra ekaṃ makkaṭiṃ āmisena yāgubhattakhajjakādinā upalāpetvā, saṅgaṇhitvāti vuttaṃ hoti. Tassāti bhummavacanaṃ. Paṭisevatīti pacurapaṭisevano hoti; pacuratthe hi vattamānavacanaṃ. So bhikkhūti so methunadhammapaṭisevanako bhikkhu. Senāsanacārikaṃ āhiṇḍantāti te bhikkhū āgantukā buddhadassanāya āgatā pātova āgantukabhattāni labhitvā katabhattakiccā bhikkhūnaṃ nivāsanaṭṭhānāni passissāmāti vicariṃsu. Tena vuttaṃ – ‘‘senāsanacārikaṃ āhiṇḍantā’’ti. Yena te bhikkhū tenupasaṅkamīti tiracchānagatā nāma ekabhikkhunā saddhiṃ vissāsaṃ katvā aññesupi tādisaññeva cittaṃ uppādenti. Tasmā sā makkaṭī yena te bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ca attano vissāsikabhikkhusseva tesampi taṃ vikāraṃ dassesi.
40. Bây giờ, để chỉ ra trường hợp khác đã phát sinh đó, (Đức Phật) nói: ‘Vào lúc bấy giờ’ v.v… Ở đó, đây là sự giải thích các từ không rõ nghĩa: ‘(Dụ dỗ) con khỉ bằng mồi’ nghĩa là: trong khu rừng lớn, do uy lực của các đức tính như nhẫn nại, từ ái v.v… của các Tỳ khưu, nhiều loài thú như nai, công, gà, khỉ v.v… đi lại trong các nơi thiền phòng với tâm không nghi ngờ. Ở đó, (một Tỳ khưu) đã dụ dỗ một con khỉ bằng mồi như cháo, cơm, đồ ăn vặt v.v…, được nói là: đã thu phục (nó). ‘Với nó’ (tassā) là vị trí cách. ‘Thường hay giao cấu’ nghĩa là: là người thường xuyên giao cấu; thật vậy, (đây là) hiện tại cách dùng với nghĩa thường xuyên. ‘Vị Tỳ khưu đó’ nghĩa là: vị Tỳ khưu thực hành dâm pháp đó. ‘Đi kinh hành xem xét các sàng tọa’ nghĩa là: các Tỳ khưu khách đó, đến để yết kiến Đức Phật, vào buổi sáng sớm, sau khi nhận được vật thực dành cho khách và đã dùng bữa xong, đã đi dạo với ý định xem xét nơi ở của các Tỳ khưu. Do đó đã được nói – ‘Đi kinh hành xem xét các sàng tọa’. ‘Nó đến gần các Tỳ khưu đó’ nghĩa là: các loài bàng sanh, sau khi thân cận với một Tỳ khưu, cũng phát sinh tâm tương tự đối với những vị khác. Do đó, con khỉ đó đã đến gần các Tỳ khưu ấy; và sau khi đến gần, nó đã biểu lộ hành vi không bình thường đó cho họ, cũng như đã làm với vị Tỳ khưu thân thiết của nó.

Cheppanti naṅguṭṭhaṃ. Oḍḍīti abhimukhaṃ ṭhapesi. Nimittampi akāsīti yena niyāmena yāya kiriyāya methunādhippāyaṃ te jānanti taṃ akāsīti attho . So bhikkhūti yassāyaṃ vihāro. Ekamantaṃ nilīyiṃsūti ekasmiṃ okāse paṭicchannā acchiṃsu.
Cái đuôi’ (cheppa) nghĩa là: cái đuôi. ‘Đã chìa ra’ nghĩa là: đã đặt ra phía trước. ‘Cũng đã làm dấu hiệu’ có nghĩa là: nó đã làm cái dấu hiệu, cái hành vi mà qua đó họ biết được ý muốn giao cấu. ‘Vị Tỳ khưu đó’ nghĩa là: vị Tỳ khưu mà đây là trú xứ của vị ấy. ‘Đã ẩn núp một bên’ nghĩa là: họ đã ở một nơi kín đáo.

41.Saccaṃ, āvusoti sahoḍḍhaggahito coro viya paccakkhaṃ disvā coditattā ‘‘kiṃ vā mayā kata’’ntiādīni vattuṃ asakkonto ‘‘saccaṃ, āvuso’’ti āha. Nanu, āvuso, tatheva taṃ hotīti āvuso yathā manussitthiyā, nanu tiracchānagatitthiyāpi taṃ sikkhāpadaṃ tatheva hoti. Manussitthiyāpi hi dassanampi gahaṇampi āmasanampi phusanampi ghaṭṭanampi duṭṭhullameva. Tiracchānagatitthiyāpi taṃ sabbaṃ duṭṭhullameva. Ko ettha viseso? Alesaṭṭhāne tvaṃ lesaṃ oḍḍesīti.
41. ‘Thật vậy, thưa hiền giả’: vì bị chất vấn sau khi bị thấy tận mắt, giống như tên trộm bị bắt quả tang, không thể nói những lời như ‘Tôi đã làm gì đâu?’, (vị ấy) đã nói: ‘Thật vậy, thưa hiền giả’. ‘Chẳng phải, thưa hiền giả, điều đó cũng giống như vậy sao?’ nghĩa là: Thưa hiền giả, cũng như đối với người nữ, chẳng phải học giới đó đối với con thú cái cũng giống như vậy sao? Thật vậy, đối với người nữ, cả việc nhìn, việc nắm, việc chạm, việc tiếp xúc, việc cọ xát cũng đều là tội thô. Đối với con thú cái, tất cả những điều đó cũng đều là tội thô. Ở đây có gì khác biệt? Thầy đã viện cớ ở chỗ không có cớ.

42.Antamaso tiracchānagatāyapi pārājiko hoti asaṃvāsoti tiracchānagatāyapi methunaṃ dhammaṃ paṭisevitvā pārājiko yeva hotīti daḷhataraṃ sikkhāpadamakāsi. Duvidhañhi sikkhāpadaṃ – lokavajjaṃ, paṇṇattivajjañca. Tattha yassa sacittakapakkhe cittaṃ akusalameva hoti, taṃ lokavajjaṃ nāma. Sesaṃ paṇṇattivajjaṃ. Tattha lokavajje anupaññatti uppajjamānā rundhantī dvāraṃ pidahantī sotaṃ pacchindamānā gāḷhataraṃ karontī uppajjati, aññatra adhimānā, aññatra supinantāti ayaṃ pana vītikkamābhāvā abbohārikattā ca vuttā. Paṇṇattivajje akate vītikkame uppajjamānā sithilaṃ karontī mocentī dvāraṃ dadamānā aparāparampi anāpattiṃ kurumānā uppajjati, gaṇabhojanaparamparabhojanādīsu anupaññattiyo viya. ‘‘Antamaso taṅkhaṇikāyapī’’ti evarūpā pana kate vītikkame uppannattā paññattigatikāva hoti. Idaṃ pana paṭhamasikkhāpadaṃ yasmā lokavajjaṃ, na paṇṇattivajjaṃ; tasmā ayamanupaññatti rundhantī dvāraṃ pidahantī sotaṃ pacchindamānā gāḷhataraṃ karontī uppajji.
42. ‘Ngay cả với con thú cái cũng phạm tội Bất Cộng Trụ, không được sống chung’ nghĩa là: (Đức Phật) đã chế định học giới một cách nghiêm ngặt hơn rằng: ngay cả khi thực hành dâm pháp với con thú cái cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Thật vậy, học giới có hai loại – lỗi thế gian và lỗi do chế định. Trong đó, trường hợp nào mà trong khi có chủ ý, tâm chỉ là bất thiện, thì đó gọi là lỗi thế gian. Phần còn lại là lỗi do chế định. Ở đó, đối với lỗi thế gian, sự chế định bổ sung khi phát sinh thì làm ngăn chặn, đóng cửa, cắt đứt dòng chảy, làm cho (giới luật) trở nên nghiêm ngặt hơn, nhưng câu ‘trừ trường hợp tăng thượng mạn, trừ trường hợp trong giấc mơ’ này đã được nói do không có sự phạm lỗi và do không thuộc phạm vi ứng xử. Đối với lỗi do chế định, khi chưa có sự phạm lỗi, (sự chế định bổ sung) khi phát sinh thì làm cho (giới luật) lỏng lẻo hơn, giải thoát, mở đường, làm cho hết lần này đến lần khác không phạm tội, giống như các sự chế định bổ sung trong trường hợp ăn theo nhóm, ăn liên tiếp v.v… Nhưng những (sự chế định bổ sung) như ‘Ngay cả đối với (việc phạm tội) trong khoảnh khắc đó’ thì do phát sinh sau khi đã có sự phạm lỗi, nên chỉ thuộc về phạm vi chế định. Nhưng học giới thứ nhất này, vì là lỗi thế gian, không phải lỗi do chế định; do đó, sự chế định bổ sung này đã phát sinh làm ngăn chặn, đóng cửa, cắt đứt dòng chảy, làm cho (giới luật) trở nên nghiêm ngặt hơn.

Evaṃ dvepi vatthūni sampiṇḍetvā mūlacchejjavasena daḷhataraṃ katvā paṭhamapārājike paññatte aparampi anupaññattatthāya vajjiputtakavatthu udapādi. Tassuppattidassanatthametaṃ vuttaṃ – ‘‘evañcidaṃ bhagavatā bhikkhūnaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ hotī’’ti . Tassattho – bhagavatā bhikkhūnaṃ idaṃ sikkhāpadaṃ evaṃ paññattaṃ hoti ca idañca aññampi vatthu udapādīti.
Như vậy, sau khi gộp cả hai trường hợp lại, và sau khi giới Bất Cộng Trụ thứ nhất được chế định một cách nghiêm ngặt hơn theo cách đoạn tuyệt gốc rễ, một trường hợp khác về người Vajjiputtaka lại phát sinh để có sự chế định bổ sung. Để chỉ ra sự phát sinh của trường hợp đó, điều này đã được nói: ‘Như vậy, học giới này đã được Đức Thế Tôn chế định cho các Tỳ khưu’. Ý nghĩa của nó là: học giới này đã được Đức Thế Tôn chế định cho các Tỳ khưu như vậy, và trường hợp khác này nữa cũng đã phát sinh.

Makkaṭīvatthukathā niṭṭhitā.

Câu chuyện về trường hợp con khỉ đã kết thúc.

Santhatabhāṇavāro

Phẩm Tụng Santhata

Vajjiputtakavatthuvaṇṇanā

Phần Giải Thích Câu Chuyện Về Các Vajjiputtaka

43-44. Idāni yaṃ taṃ aññampi vatthu uppannaṃ, taṃ dassetuṃ ‘‘tena kho pana samayenā’’tiādimāha. Tatrāpi ayamanuttānapadavaṇṇanā – vesālikāti vesālivāsino. Vajjiputtakāti vajjiraṭṭhe vesāliyaṃ kulānaṃ puttā. Sāsane kira yo yo upaddavo ādīnavo abbudamuppajji, sabbaṃ taṃ vajjiputtake nissāya. Tathā hi devadattopi vajjiputtake pakkhe labhitvā saṅghaṃ bhindi. Vajjiputtakā eva ca vassasataparinibbute bhagavati uddhammaṃ ubbinayaṃ satthusāsanaṃ dīpesuṃ. Imepi tesaṃ yeva ekacce evaṃ paññattepi sikkhāpade yāvadatthaṃ bhuñjiṃsu…pe… methunaṃ dhammaṃ paṭiseviṃsūti.
43-44. Bây giờ, để chỉ ra trường hợp khác nữa đã phát sinh đó, (Đức Phật) nói: ‘Vào lúc bấy giờ’ v.v… Ở đó cũng vậy, đây là sự giải thích các từ không rõ nghĩa: ‘Người Vesālī’ nghĩa là: những người ở Vesālī. ‘Các Vajjiputtaka’ nghĩa là: con trai của các gia tộc ở Vesālī trong xứ Vajjī. Nghe nói, trong giáo pháp, bất cứ tai họa, nguy hại, ung nhọt nào phát sinh, tất cả đều do nương vào các Vajjiputtaka. Thật vậy, Devadatta cũng đã được các Vajjiputtaka về phe mình mà chia rẽ Tăng đoàn. Và chính các Vajjiputtaka, một trăm năm sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, đã làm hiển lộ phi pháp, phi luật, (chống lại) giáo huấn của Bậc Đạo Sư. Những người này cũng là một số trong bọn họ, ngay cả khi học giới đã được chế định như vậy, (họ) đã hưởng thụ thỏa thích… cho đến… đã thực hành dâm pháp.

Ñātibyasanenapīti ettha asanaṃ byasanaṃ vikkhepo viddhaṃsanaṃ vināsoti sabbametaṃ ekatthaṃ. Ñātīnaṃ byasanaṃ ñātibyasanaṃ, tena ñātibyasanena, rājadaṇḍabyādhimaraṇavippavāsanimittena ñātivināsenāti attho. Esa nayo dutiyapadepi. Tatiyapade pana ārogyavināsako rogo eva rogabyasanaṃ. So hi ārogyaṃ byasati vikkhipati vināsetīti byasanaṃ. Rogova byasanaṃ rogabyasanaṃ, tena rogabyasanena. Phuṭṭhāti adhipannā abhibhūtā samannāgatāti attho.
Cũng do tai họa đối với quyến thuộc’: ở đây, ‘asanaṃ’ (sự phá hủy), ‘byasanaṃ’ (tai họa), ‘vikkhepo’ (sự tán loạn), ‘viddhaṃsanaṃ’ (sự hủy diệt), ‘vināso’ (sự tiêu vong) – tất cả những từ này đều có cùng một nghĩa. Tai họa của quyến thuộc là ‘tai họa đối với quyến thuộc’ (ñātibyasanaṃ), do tai họa đối với quyến thuộc đó; có nghĩa là: do sự mất mát quyến thuộc vì hình phạt của vua, bệnh tật, cái chết, sự biệt xứ. Đây cũng là phương pháp (hiểu) đối với thuật ngữ thứ hai. Nhưng trong thuật ngữ thứ ba, bệnh tật phá hủy sức khỏe chính là ‘tai họa bệnh tật’ (rogabyasanaṃ). Thật vậy, nó (bệnh tật) phá hủy, làm tán loạn, tiêu diệt sức khỏe, nên (gọi là) tai họa. Chính bệnh tật là tai họa, (gọi là) tai họa bệnh tật; do tai họa bệnh tật đó. ‘Bị tác động’ có nghĩa là: bị xâm chiếm, bị bao trùm, bị ảnh hưởng.

Na mayaṃ, bhante ānanda, buddhagarahinoti bhante ānanda, mayaṃ na buddhaṃ garahāma, na buddhassa dosaṃ dema. Na dhammagarahino, na saṅghagarahino. Attagarahino mayanti attānameva mayaṃ garahāma, attano dosaṃ dema. Alakkhikāti nissirikā. Appapuññāti parittapuññā. Vipassakā kusalānaṃ dhammānanti ye aṭṭhatiṃsārammaṇesu vibhattā kusalā dhammā, tesaṃ vipassakā; tato tato ārammaṇato vuṭṭhāya teva dhamme vipassamānāti attho. Pubbarattāpararattanti rattiyā pubbaṃ pubbarattaṃ, rattiyā aparaṃ apararattaṃ, paṭhamayāmañca pacchimayāmañcāti vuttaṃ hoti. Bodhipakkhikānanti bodhissa pakkhe bhavānaṃ, arahattamaggañāṇassa upakārakānanti attho. Bhāvanānuyoganti vaḍḍhanānuyogaṃ. Anuyuttā vihareyyāmāti gihipalibodhaṃ āvāsapalibodhañca pahāya vivittesu senāsanesu yuttapayuttā anaññakiccā vihareyyāma.
Bạch Đại đức Ānanda, chúng con không phải là người chê bai Đức Phật’ nghĩa là: Bạch Đại đức Ānanda, chúng con không chê bai Đức Phật, không đổ lỗi cho Đức Phật. (Chúng con) không phải là người chê bai Pháp, không phải là người chê bai Tăng. ‘Chúng con là người tự chê bai mình’ nghĩa là: chúng con chỉ chê bai chính mình, đổ lỗi cho chính mình. ‘Vô phúc’ nghĩa là: không có phước đức. ‘Ít phước’ nghĩa là: phước đức nhỏ bé. ‘Quán xét các pháp thiện’ nghĩa là: những pháp thiện được phân chia trong ba mươi tám đề mục, (chúng con) là người quán xét những pháp đó; có nghĩa là: sau khi xuất khỏi đề mục này hay đề mục kia, (chúng con) quán xét chính những pháp đó. ‘Đầu đêm và cuối đêm’ nghĩa là: phần đầu của đêm là đầu đêm, phần sau của đêm là cuối đêm; được nói là: canh đầu và canh cuối. ‘Các pháp trợ Bồ đề’ nghĩa là: các pháp thuộc về phần giác ngộ, có nghĩa là các pháp hỗ trợ cho trí tuệ Thánh đạo A la hán. ‘Sự chuyên tâm tu tập’ nghĩa là: sự chuyên tâm phát triển. ‘Chúng con sẽ sống chuyên tâm’ nghĩa là: chúng con sẽ từ bỏ sự ràng buộc của đời tại gia và sự ràng buộc của trú xứ, sống chuyên cần, nỗ lực, không làm việc gì khác, tại các sàng tọa vắng vẻ.

Evamāvusoti thero etesaṃ āsayaṃ ajānanto idaṃ nesaṃ mahāgajjitaṃ sutvā ‘‘sace ime īdisā bhavissanti, sādhū’’ti maññamāno ‘‘evamāvuso’’ti sampaṭicchi. Aṭṭhānametaṃ anavakāsoti ubhayampetaṃ kāraṇapaṭikkhepavacanaṃ. Kāraṇañhi yasmā tattha tadāyattavuttibhāvena phalaṃ tiṭṭhati. Yasmā cassa taṃ okāso hoti tadāyattavuttibhāvena, tasmā ‘‘ṭhānañca avakāso cā’’ti vuccati, taṃ paṭikkhipanto āha – ‘‘aṭṭhānametaṃ, ānanda , anavakāso’’ti. Etaṃ ṭhānaṃ vā okāso vā natthi. Yaṃ tathāgatoti yena tathāgato vajjīnaṃ vā…pe… samūhaneyya, taṃ kāraṇaṃ natthīti attho. Yadi hi bhagavā etesaṃ ‘‘labheyyāma upasampada’’nti yācantānaṃ upasampadaṃ dadeyya, evaṃ sante ‘‘pārājiko hoti asaṃvāso’’ti paññattaṃ samūhaneyya. Yasmā panetaṃ na samūhanati, tasmā ‘‘aṭṭhānameta’’ntiādimāha.
Như vậy, thưa các hiền giả’: vị Trưởng lão (Ānanda) không biết ý định của họ, sau khi nghe lời tuyên bố hùng hồn này của họ, nghĩ rằng ‘Nếu những người này là như vậy thì tốt thay’, đã chấp nhận rằng: ‘Như vậy, thưa các hiền giả’. ‘Điều này không phải là trường hợp, không phải là cơ hội’ – cả hai đều là lời bác bỏ nguyên nhân. Thật vậy, nguyên nhân, vì ở đó kết quả tồn tại do sự hiện hữu phụ thuộc vào nó. Và vì nó là cơ hội cho (kết quả đó) do sự hiện hữu phụ thuộc vào nó, do đó được gọi là ‘trường hợp và cơ hội’, bác bỏ điều đó, (Đức Phật) nói: ‘Này Ānanda, điều này không phải là trường hợp, không phải là cơ hội’. Trường hợp đó hay cơ hội đó không có. ‘Mà Như Lai’ có nghĩa là: nguyên nhân nào mà do đó Như Lai sẽ hủy bỏ (điều đã chế định) đối với các Tỳ khưu người Vajjī… cho đến… nguyên nhân đó không có. Thật vậy, nếu Đức Thế Tôn cho những người này, những người đang xin ‘Chúng con mong được thọ Cụ túc giới’, được thọ Cụ túc giới, trong trường hợp như vậy, (Ngài) sẽ hủy bỏ điều đã chế định ‘Phạm tội Bất Cộng Trụ, không được sống chung’. Nhưng vì (Ngài) không hủy bỏ điều đó, do đó (Ngài) đã nói: ‘Điều này không phải là trường hợp’ v.v…

So āgato na upasampādetabboti ‘‘yadi hi evaṃ āgato upasampadaṃ labheyya, sāsane agāravo bhaveyya. Sāmaṇerabhūmiyaṃ pana ṭhito sagāravo ca bhavissati, attatthañca karissatī’’ti ñatvā anukampamāno bhagavā āha – ‘‘so āgato na upasampādetabbo’’ti. So āgato upasampādetabboti evaṃ āgato bhikkhubhāve ṭhatvā avipannasīlatāya sāsane sagāravo bhavissati, so sati upanissaye nacirasseva uttamatthaṃ pāpuṇissatīti ñatvā upasampādetabboti āha.
Người đến như vậy không được cho thọ Cụ túc giới’ nghĩa là: (Đức Phật nghĩ rằng) ‘Thật vậy, nếu người đến như vậy mà được thọ Cụ túc giới, thì sẽ có sự không tôn kính trong giáo pháp. Nhưng nếu ở trong địa vị Sa di, người đó sẽ có sự tôn kính và cũng sẽ làm lợi ích cho bản thân mình’; biết như vậy, Đức Thế Tôn vì lòng thương xót đã nói: ‘Người đến như vậy không được cho thọ Cụ túc giới’. ‘Người đến như vậy được cho thọ Cụ túc giới’ nghĩa là: người đến như vậy, sau khi ở trong địa vị Tỳ khưu, với giới hạnh không bị hư hoại, sẽ có sự tôn kính trong giáo pháp, biết rằng người đó, nếu có duyên lành, không bao lâu sẽ đạt đến mục đích tối thượng, (Đức Phật) đã nói: ‘Được cho thọ Cụ túc giới’.

Evaṃ methunaṃ dhammaṃ paṭisevitvā āgatesu anupasampādetabbañca upasampādetabbañca dassetvā tīṇipi vatthūni samodhānetvā paripuṇṇaṃ katvā sikkhāpadaṃ paññapetukāmo ‘‘evañca pana, bhikkhave, imaṃ sikkhāpadaṃ uddiseyyāthā’’ti vatvā ‘‘yo pana bhikkhu…pe… asaṃvāso’’ti paripuṇṇaṃ sikkhāpadaṃ paññapesi.
Như vậy, đối với những người đã thực hành dâm pháp rồi đến (xin xuất gia), sau khi chỉ ra trường hợp không được cho thọ Cụ túc giới và trường hợp được cho thọ Cụ túc giới, gộp cả ba trường hợp lại, muốn chế định học giới một cách trọn vẹn, sau khi nói: ‘Và này các Tỳ khưu, các thầy hãy tuyên đọc học giới này như vầy’, (Đức Phật) đã chế định học giới một cách trọn vẹn: ‘Vị Tỳ khưu nào… cho đến… không được sống chung’.

Vajjiputtakavatthuvaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Câu Chuyện Về Các Vajjiputtaka đã kết thúc.

Catubbidhavinayakathā

Phần Thuyết Về Bốn Loại Luật

45. Idānissa atthaṃ vibhajanto ‘‘yo panāti, yo yādiso’’tiādimāha. Tasmiṃ pana sikkhāpade ca sikkhāpadavibhaṅge ca sakale ca vinayavinicchaye kosallaṃ patthayantena catubbidho vinayo jānitabbo –
45. Bây giờ, khi phân tích ý nghĩa của nó (học giới), (Ngài) nói: ‘Vị nào, thì (có nghĩa là) vị nào, loại nào’ v.v… Nhưng đối với người mong muốn sự thiện xảo trong học giới đó, trong sự phân tích học giới, và trong toàn bộ sự quyết đoán về Luật, cần phải biết bốn loại Luật

Catubbidhañhi vinayaṃ, mahātherā mahiddhikā;
Nīharitvā pakāsesuṃ, dhammasaṅgāhakā purā.
Thật vậy, bốn loại Luật, các vị Đại Trưởng lão có đại thần lực;
đã rút ra và tuyên thuyết, các vị kết tập Pháp ngày xưa.

Katamaṃ catubbidhaṃ? Suttaṃ, suttānulomaṃ, ācariyavādaṃ, attanomatinti. Yaṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘āhaccapadena rasena ācariyavaṃsena adhippāyā’’ti, ettha hi āhaccapadanti suttaṃ adhippetaṃ, rasoti suttānulomaṃ, ācariyavaṃsoti ācariyavādo, adhippāyoti attanomati.
Bốn loại đó là gì? (Đó là) Kinh (Sutta), Tùy thuận Kinh (Suttānuloma), Luận của các vị Thầy (Ācariyavāda), và Ý kiến riêng (Attanomati). Nhắm đến điều đó mà đã được nói: ‘Bằng câu cú trực tiếp, bằng tinh túy, bằng dòng truyền thừa của các vị Thầy, bằng ý định riêng’, ở đây, ‘câu cú trực tiếp’ (āhaccapada) được hiểu là Kinh, ‘tinh túy’ (raso) là Tùy thuận Kinh, ‘dòng truyền thừa của các vị Thầy’ (ācariyavaṃso) là Luận của các vị Thầy, ‘ý định riêng’ (adhippāyo) là Ý kiến riêng.

Tattha suttaṃnāma sakale vinayapiṭake pāḷi.
Trong đó, ‘Kinh’ là Thánh điển Pāḷi trong toàn bộ Luật tạng.

Suttānulomaṃ nāma cattāro mahāpadesā; ye bhagavatā evaṃ vuttā – ‘‘yaṃ, bhikkhave , mayā ‘idaṃ na kappatī’ti appaṭikkhittaṃ, taṃ ce akappiyaṃ anulometi; kappiyaṃ paṭibāhati, taṃ vo na kappati. Yaṃ, bhikkhave, mayā ‘idaṃ na kappatī’ti appaṭikkhittaṃ, taṃ ce kappiyaṃ anulometi; akappiyaṃ paṭibāhati, taṃ vo kappati. Yaṃ, bhikkhave , mayā ‘idaṃ kappatī’ti ananuññātaṃ, taṃ ce akappiyaṃ anulometi, kappiyaṃ paṭibāhati; taṃ vo na kappati. Yaṃ, bhikkhave, mayā ‘idaṃ kappatī’ti ananuññātaṃ, taṃ ce kappiyaṃ anulometi, akappiyaṃ paṭibāhati; taṃ vo kappatī’’ti (mahāva. 305).
Tùy thuận Kinh’ là bốn Đại Giáo Pháp (Mahāpadesa); những điều mà Đức Thế Tôn đã nói như vầy: ‘Này các Tỳ khưu, điều gì Ta không bác bỏ rằng ‘Điều này không được phép’, nếu điều đó tùy thuận với cái không được phép, ngăn cản cái được phép, thì điều đó không được phép đối với các thầy. Điều gì, này các Tỳ khưu, Ta không bác bỏ rằng ‘Điều này không được phép’, nếu điều đó tùy thuận với cái được phép, ngăn cản cái không được phép, thì điều đó được phép đối với các thầy. Điều gì, này các Tỳ khưu, Ta không cho phép rằng ‘Điều này được phép’, nếu điều đó tùy thuận với cái không được phép, ngăn cản cái được phép; thì điều đó không được phép đối với các thầy. Điều gì, này các Tỳ khưu, Ta không cho phép rằng ‘Điều này được phép’, nếu điều đó tùy thuận với cái được phép, ngăn cản cái không được phép; thì điều đó được phép đối với các thầy’ (mahāva. 305).

Ācariyavādo nāma dhammasaṅgāhakehi pañcahi arahantasatehi ṭhapitā pāḷivinimuttā okkantavinicchayappavattā aṭṭhakathātanti.
Luận của các vị Thầy’ là truyền thống Chú giải do năm trăm vị A la hán, những người kết tập Pháp, đã thiết lập, (truyền thống này) không nằm trong Thánh điển Pāḷi, (nhưng) trình bày sự quyết đoán có tính cách thâm nhập.

Attanomati nāma sutta-suttānuloma-ācariyavāde muñcitvā anumānena attano anubuddhiyā nayaggāhena upaṭṭhitākārakathanaṃ.
Ý kiến riêng’ là sự trình bày một quan điểm được hình thành bằng cách bỏ qua Kinh, Tùy thuận Kinh, Luận của các vị Thầy, (và được hình thành) bằng sự suy luận, bằng sự hiểu biết cá nhân, bằng cách nắm bắt lập luận của riêng mình.

Apica suttantābhidhammavinayaṭṭhakathāsu āgato sabbopi theravādo ‘‘attanomati’’ nāma. Taṃ pana attanomatiṃ gahetvā kathentena na daḷhaggāhaṃ gahetvā voharitabbaṃ. Kāraṇaṃ sallakkhetvā atthena pāḷiṃ, pāḷiyā ca atthaṃ saṃsanditvā kathetabbaṃ. Attanomati ācariyavāde otāretabbā. Sace tattha otarati ceva sameti ca, gahetabbā. Sace neva otarati na sameti, na gahetabbā. Ayañhi attanomati nāma sabbadubbalā. Attanomatito ācariyavādo balavataro.
Hơn nữa, tất cả Thượng tọa bộ (Theravāda) xuất hiện trong các Chú giải Kinh, Thắng Pháp và Luật cũng được gọi là ‘Ý kiến riêng’. Nhưng người nào trình bày bằng cách dựa vào Ý kiến riêng đó thì không nên chấp giữ một cách cố chấp mà tuyên bố. Cần phải xem xét lý do, đối chiếu Thánh điển Pāḷi với ý nghĩa, và ý nghĩa với Thánh điển Pāḷi, rồi mới trình bày. Ý kiến riêng cần được đưa vào đối chiếu với Luận của các vị Thầy. Nếu nó phù hợp và tương đồng ở đó, thì nên chấp nhận. Nếu nó không phù hợp và không tương đồng, thì không nên chấp nhận. Thật vậy, Ý kiến riêng này là yếu nhất trong tất cả. Luận của các vị Thầy mạnh hơn Ý kiến riêng.

Ācariyavādopi suttānulome otāretabbo. Tattha otaranto samentoyeva gahetabbo, itaro na gahetabbo. Ācariyavādato hi suttānulomaṃ balavataraṃ.
Luận của các vị Thầy cũng cần được đưa vào đối chiếu với Tùy thuận Kinh. Nếu nó phù hợp và tương đồng ở đó, thì nên chấp nhận; (nếu) khác thì không nên chấp nhận. Thật vậy, Tùy thuận Kinh mạnh hơn Luận của các vị Thầy.

Suttānulomampi sutte otāretabbaṃ. Tattha otarantaṃ samentameva gahetabbaṃ, itaraṃ na gahetabbaṃ. Suttānulomato hi suttameva balavataraṃ. Suttañhi appaṭivattiyaṃ kārakasaṅghasadisaṃ buddhānaṃ ṭhitakālasadisaṃ. Tasmā yadā dve bhikkhū sākacchanti, sakavādī suttaṃ gahetvā katheti, paravādī suttānulomaṃ. Tehi aññamaññaṃ khepaṃ vā garahaṃ vā akatvā suttānulomaṃ sutte otāretabbaṃ. Sace otarati sameti, gahetabbaṃ. No ce, na gahetabbaṃ; suttasmiṃyeva ṭhātabbaṃ. Athāyaṃ suttaṃ gahetvā katheti, paro ācariyavādaṃ. Tehipi aññamaññaṃ khepaṃ vā garahaṃ vā akatvā ācariyavādo sutte otāretabbo. Sace otarati sameti, gahetabbo. Anotaranto asamento ca gārayhācariyavādo na gahetabbo; suttasmiṃyeva ṭhātabbaṃ.
Tùy thuận Kinh cũng cần được đưa vào đối chiếu với Kinh. Nếu nó phù hợp và tương đồng ở đó, thì nên chấp nhận; (nếu) khác thì không nên chấp nhận. Thật vậy, Kinh mạnh hơn Tùy thuận Kinh. Thật vậy, Kinh là không thể bác bỏ, giống như Tăng đoàn tác thành (Tăng sự), giống như thời kỳ các Đức Phật còn tại thế. Do đó, khi hai Tỳ khưu thảo luận, người chủ trương của mình dựa vào Kinh mà nói, người chủ trương của đối phương dựa vào Tùy thuận Kinh. Họ không nên khinh chê hay khiển trách lẫn nhau, (mà) cần đưa Tùy thuận Kinh vào đối chiếu với Kinh. Nếu nó phù hợp và tương đồng, thì nên chấp nhận. Nếu không, thì không nên chấp nhận; cần phải đứng vững trên Kinh. Hoặc nếu người này dựa vào Kinh mà nói, người kia dựa vào Luận của các vị Thầy. Họ cũng không nên khinh chê hay khiển trách lẫn nhau, (mà) cần đưa Luận của các vị Thầy vào đối chiếu với Kinh. Nếu nó phù hợp và tương đồng, thì nên chấp nhận. Luận của các vị Thầy nào không phù hợp, không tương đồng và đáng chê trách thì không nên chấp nhận; cần phải đứng vững trên Kinh.

Athāyaṃ suttaṃ gahetvā katheti, paro attanomatiṃ. Tehipi aññamaññaṃ khepaṃ vā garahaṃ vā akatvā attanomati sutte otāretabbā. Sace otarati sameti, gahetabbā. No ce, na gahetabbā. Suttasmiṃ yeva ṭhātabbaṃ.
Hoặc nếu người này dựa vào Kinh mà nói, người kia dựa vào Ý kiến riêng. Họ cũng không nên khinh chê hay khiển trách lẫn nhau, (mà) cần đưa Ý kiến riêng vào đối chiếu với Kinh. Nếu nó phù hợp và tương đồng, thì nên chấp nhận. Nếu không, thì không nên chấp nhận. Cần phải đứng vững trên Kinh.

Atha panāyaṃ suttānulomaṃ gahetvā katheti, paro suttaṃ. Suttaṃ suttānulome otāretabbaṃ. Sace otarati sameti, tisso saṅgītiyo ārūḷhaṃ pāḷiāgataṃ paññāyati, gahetabbaṃ. No ce tathā paññāyati na otarati na sameti, bāhirakasuttaṃ vā hoti siloko vā aññaṃ vā gārayhasuttaṃ guḷhavessantaraguḷhavinayavedallādīnaṃ aññatarato āgataṃ, na gahetabbaṃ. Suttānulomasmiṃyeva ṭhātabbaṃ.
Nhưng nếu người này dựa vào Tùy thuận Kinh mà nói, người kia dựa vào Kinh. Cần đưa Kinh vào đối chiếu với Tùy thuận Kinh. Nếu nó phù hợp và tương đồng, được biết là Thánh điển Pāḷi đã được đưa vào ba lần kết tập, thì nên chấp nhận. Nếu không được biết như vậy, không phù hợp, không tương đồng, (mà) là kinh ngoại đạo, hoặc kệ tụng, hoặc kinh đáng chê trách khác xuất phát từ một trong các tạng ẩn Vessantara, Luật ẩn, Vô Tỷ Pháp ẩn v.v…, thì không nên chấp nhận. Cần phải đứng vững trên Tùy thuận Kinh.

Athāyaṃ suttānulomaṃ gahetvā katheti, paro ācariyavādaṃ. Ācariyavādo suttānulome otāretabbo. Sace otarati sameti, gahetabbo. No ce, na gahetabbo. Suttānulomeyeva ṭhātabbaṃ.
Hoặc nếu người này dựa vào Tùy thuận Kinh mà nói, người kia dựa vào Luận của các vị Thầy. Cần đưa Luận của các vị Thầy vào đối chiếu với Tùy thuận Kinh. Nếu nó phù hợp và tương đồng, thì nên chấp nhận. Nếu không, thì không nên chấp nhận. Cần phải đứng vững trên Tùy thuận Kinh.

Athāyaṃ suttānulomaṃ gahetvā katheti, paro attanomatiṃ. Attanomati suttānulome otāretabbā. Sace otarati sameti, gahetabbā. No ce, na gahetabbā. Suttānulomeyeva ṭhātabbaṃ.
Hoặc nếu người này dựa vào Tùy thuận Kinh mà nói, người kia dựa vào Ý kiến riêng. Cần đưa Ý kiến riêng vào đối chiếu với Tùy thuận Kinh. Nếu nó phù hợp và tương đồng, thì nên chấp nhận. Nếu không, thì không nên chấp nhận. Cần phải đứng vững trên Tùy thuận Kinh.

Atha panāyaṃ ācariyavādaṃ gahetvā katheti, paro suttaṃ. Suttaṃ ācariyavāde otāretabbaṃ. Sace otarati sameti, gahetabbaṃ. Itaraṃ gārayhasuttaṃ na gahetabbaṃ. Ācariyavādeyeva ṭhātabbaṃ.
Nhưng nếu người này dựa vào Luận của các vị Thầy mà nói, người kia dựa vào Kinh. Cần đưa Kinh vào đối chiếu với Luận của các vị Thầy. Nếu nó phù hợp và tương đồng, thì nên chấp nhận. Kinh đáng chê trách khác thì không nên chấp nhận. Cần phải đứng vững trên Luận của các vị Thầy.

Athāyaṃ ācariyavādaṃ gahetvā katheti, paro suttānulomaṃ. Suttānulomaṃ ācariyavāde otāretabbaṃ. Otarantaṃ samentameva gahetabbaṃ, itaraṃ na gahetabbaṃ. Ācariyavādeyeva ṭhātabbaṃ.
Hoặc nếu người này dựa vào Luận của các vị Thầy mà nói, người kia dựa vào Tùy thuận Kinh. Cần đưa Tùy thuận Kinh vào đối chiếu với Luận của các vị Thầy. (Nếu) nó phù hợp và tương đồng thì nên chấp nhận; (nếu) khác thì không nên chấp nhận. Cần phải đứng vững trên Luận của các vị Thầy.

Athāyaṃ ācariyavādaṃ gahetvā katheti, paro attanomatiṃ. Attanomati ācariyavāde otāretabbā. Sace otarati sameti, gahetabbā. No ce, na gahetabbā. Ācariyavādeyeva ṭhātabbaṃ.
Hoặc nếu người này dựa vào Luận của các vị Thầy mà nói, người kia dựa vào Ý kiến riêng. Cần đưa Ý kiến riêng vào đối chiếu với Luận của các vị Thầy. Nếu nó phù hợp và tương đồng, thì nên chấp nhận. Nếu không, thì không nên chấp nhận. Cần phải đứng vững trên Luận của các vị Thầy.

Atha panāyaṃ attanomatiṃ gahetvā katheti, paro suttaṃ. Suttaṃ attanomatiyaṃ otāretabbaṃ. Sace otarati sameti, gahetabbaṃ. Itaraṃ gārayhasuttaṃ na gahetabbaṃ. Attanomatiyameva ṭhātabbaṃ.
Nhưng nếu người này dựa vào Ý kiến riêng mà nói, người kia dựa vào Kinh. Cần đưa Kinh vào đối chiếu với Ý kiến riêng. Nếu nó phù hợp và tương đồng, thì nên chấp nhận. Kinh đáng chê trách khác thì không nên chấp nhận. Cần phải đứng vững trên Ý kiến riêng.

Athāyaṃ attanomatiṃ gahetvā katheti, paro suttānulomaṃ. Suttānulomaṃ attanomatiyaṃ otāretabbaṃ. Otarantaṃ samentameva gahetabbaṃ, itaraṃ na gahetabbaṃ. Attanomatiyameva ṭhātabbaṃ.
Hoặc nếu người này dựa vào Ý kiến riêng mà nói, người kia dựa vào Tùy thuận Kinh. Cần đưa Tùy thuận Kinh vào đối chiếu với Ý kiến riêng. (Nếu) nó phù hợp và tương đồng thì nên chấp nhận; (nếu) khác thì không nên chấp nhận. Cần phải đứng vững trên Ý kiến riêng.

Athāyaṃ attanomatiṃ gahetvā katheti, paro ācariyavādaṃ. Ācariyavādo attanomatiyaṃ otāretabbo. Sace otarati sameti, gahetabbo; itaro gārayhācariyavādo na gahetabbo. Attanomatiyameva ṭhātabbaṃ. Attano gahaṇameva baliyaṃ kātabbaṃ. Sabbaṭṭhānesu ca khepo vā garahā vā na kātabbāti.
Hoặc nếu người này dựa vào Ý kiến riêng mà nói, người kia dựa vào Luận của các vị Thầy. Cần đưa Luận của các vị Thầy vào đối chiếu với Ý kiến riêng. Nếu nó phù hợp và tương đồng, thì nên chấp nhận; Luận của các vị Thầy nào khác đáng chê trách thì không nên chấp nhận. Cần phải đứng vững trên Ý kiến riêng. Cần phải làm cho sự chấp nhận của mình trở nên mạnh mẽ. Và trong tất cả các trường hợp, không nên khinh chê hay khiển trách.

Atha panāyaṃ ‘‘kappiya’’nti gahetvā katheti, paro ‘‘akappiya’’nti. Sutte ca suttānulome ca otāretabbaṃ. Sace kappiyaṃ hoti, kappiye ṭhātabbaṃ. Sace akappiyaṃ, akappiye ṭhātabbaṃ.
Nhưng nếu người này dựa vào (quan điểm) ‘được phép’ mà nói, người kia (dựa vào quan điểm) ‘không được phép’. Cần đưa vào đối chiếu với Kinh và Tùy thuận Kinh. Nếu là được phép, thì nên đứng vững trên (quan điểm) được phép. Nếu là không được phép, thì nên đứng vững trên (quan điểm) không được phép.

Athāyaṃ tassa kappiyabhāvasādhakaṃ suttato bahuṃ kāraṇañca vinicchayañca dasseti, paro kāraṇaṃ na vindati. Kappiyeva ṭhātabbaṃ. Atha paro tassa akappiyabhāvasādhakaṃ suttato bahuṃ kāraṇañca vinicchayañca dasseti, anena attano gahaṇanti katvā daḷhaṃ ādāya na ṭhātabbaṃ. ‘‘Sādhū’’ti sampaṭicchitvā akappiyeva ṭhātabbaṃ. Atha dvinnampi kāraṇacchāyā dissati, paṭikkhittabhāvoyeva sādhu, akappiye ṭhātabbaṃ. Vinayañhi patvā kappiyākappiyavicāraṇamāgamma rundhitabbaṃ, gāḷhaṃ kattabbaṃ, sotaṃ pacchinditabbaṃ, garukabhāveyeva ṭhātabbaṃ.
Hoặc nếu người này chỉ ra nhiều lý do và sự quyết đoán từ Kinh để chứng minh tính chất được phép của điều đó, còn người kia không tìm thấy lý do (để phản bác). Cần phải đứng vững trên (quan điểm) được phép. Hoặc nếu người kia chỉ ra nhiều lý do và sự quyết đoán từ Kinh để chứng minh tính chất không được phép của điều đó, thì người này không nên cố chấp giữ lấy quan điểm của mình. Sau khi chấp nhận rằng ‘Lành thay’, cần phải đứng vững trên (quan điểm) không được phép. Hoặc nếu thấy có bóng dáng lý do ở cả hai (quan điểm), thì trạng thái bị bác bỏ (tức là không được phép) là tốt hơn, cần phải đứng vững trên (quan điểm) không được phép. Thật vậy, đối với Luật, khi xem xét điều được phép và không được phép, cần phải ngăn chặn, cần phải làm cho nghiêm ngặt, cần phải cắt đứt dòng chảy (của sự dễ duôi), cần phải đứng vững trên trạng thái tôn trọng (Luật).

Atha panāyaṃ ‘‘akappiya’’nti gahetvā katheti, paro ‘‘kappiya’’nti. Sutte ca suttānulome ca otāretabbaṃ. Sace kappiyaṃ hoti, kappiye ṭhātabbaṃ. Sace akappiyaṃ, akappiye ṭhātabbaṃ.
Nhưng nếu người này dựa vào (quan điểm) ‘không được phép’ mà nói, người kia (dựa vào quan điểm) ‘được phép’. Cần đưa vào đối chiếu với Kinh và Tùy thuận Kinh. Nếu là được phép, thì nên đứng vững trên (quan điểm) được phép. Nếu là không được phép, thì nên đứng vững trên (quan điểm) không được phép.

Athāyaṃ bahūhi suttavinicchayakāraṇehi akappiyabhāvaṃ dasseti, paro kāraṇaṃ na vindati, akappiye ṭhātabbaṃ. Atha paro bahūhi suttavinicchayakāraṇehi kappiyabhāvaṃ dasseti, ayaṃ kāraṇaṃ na vindati, kappiye ṭhātabbaṃ. Atha dvinnampi kāraṇacchāyā dissati, attano gahaṇaṃ na vissajjetabbaṃ. Yathā cāyaṃ kappiyākappiye akappiyakappiye ca vinicchayo vutto; evaṃ anāpattiāpattivāde āpattānāpattivāde ca, lahukagarukāpattivāde garukalahukāpattivāde cāpi vinicchayo veditabbo. Nāmamattaṃyeva hi ettha nānaṃ, yojanānaye nānaṃ natthi, tasmā na vitthāritaṃ.
Hoặc nếu người này chỉ ra tính chất không được phép bằng nhiều lý do và sự quyết đoán từ Kinh, người kia không tìm thấy lý do (để phản bác), thì nên đứng vững trên (quan điểm) không được phép. Hoặc nếu người kia chỉ ra tính chất được phép bằng nhiều lý do và sự quyết đoán từ Kinh, người này không tìm thấy lý do (để phản bác), thì nên đứng vững trên (quan điểm) được phép. Hoặc nếu thấy có bóng dáng lý do ở cả hai (quan điểm), thì không nên từ bỏ quan điểm của mình. Và cũng như sự quyết đoán này đã được nói về (quan điểm) được phép và không được phép, (quan điểm) không được phép và được phép; thì cũng cần hiểu sự quyết đoán như vậy trong trường hợp tranh luận về không phạm tội và phạm tội, phạm tội và không phạm tội, và trong trường hợp tranh luận về tội nhẹ và tội nặng, tội nặng và tội nhẹ. Thật vậy, ở đây chỉ có tên gọi là khác nhau, trong phương pháp kết hợp thì không có gì khác, do đó không được giải thích chi tiết.

Evaṃ kappiyākappiyādivinicchaye uppanne yo sutta-suttānulomaācariyavādaattanomatīsu atirekakāraṇaṃ labhati, tassa vāde ṭhātabbaṃ. Sabbaso pana kāraṇaṃ vinicchayaṃ alabhantena suttaṃ na jahitabbaṃ, suttasmiṃyeva ṭhātabbanti. Evaṃ tasmiṃ sikkhāpade ca sikkhāpadavibhaṅge ca sakale ca vinayavinicchaye kosallaṃ patthayantena ayaṃ catubbidho vinayo jānitabbo.
Như vậy, khi sự quyết đoán về điều được phép, không được phép v.v… phát sinh, người nào tìm thấy lý do vượt trội hơn trong Kinh, Tùy thuận Kinh, Luận của các vị Thầy, hay Ý kiến riêng, thì nên đứng vững trên luận điểm của người đó. Nhưng người nào hoàn toàn không tìm thấy lý do hay sự quyết đoán, thì không nên từ bỏ Kinh, (mà) cần phải đứng vững trên Kinh. Như vậy, đối với người mong muốn sự thiện xảo trong học giới đó, trong sự phân tích học giới, và trong toàn bộ sự quyết đoán về Luật, bốn loại Luật này cần phải được biết.

Imañca pana catubbidhaṃ vinayaṃ ñatvāpi vinayadharena puggalena tilakkhaṇasamannāgatena bhavitabbaṃ. Tīṇi hi vinayadharassa lakkhaṇāni icchitabbāni. Katamāni tīṇi? ‘‘Suttañcassa svāgataṃ hoti suppavatti suvinicchitaṃ suttato anubyañjanato’’ti idamekaṃ lakkhaṇaṃ. ‘‘Vinaye kho pana ṭhito hoti asaṃhīro’’ti idaṃ dutiyaṃ. ‘‘Ācariyaparamparā kho panassa suggahitā hoti sumanasikatā sūpadhāritā’’ti idaṃ tatiyaṃ.
Nhưng ngay cả sau khi biết bốn loại Luật này, người trì Luật cũng cần phải có ba đặc điểm. Thật vậy, ba đặc điểm của người trì Luật là điều đáng mong muốn. Ba đặc điểm đó là gì? ‘Kinh đối với vị ấy phải được tiếp thu tốt đẹp, thực hành tốt đẹp, quyết đoán tốt đẹp từ Kinh và từ văn tự phụ chú’ – đây là một đặc điểm. ‘Nhưng phải đứng vững trong Luật, không dao động’ – đây là đặc điểm thứ hai. ‘Nhưng dòng truyền thừa của các vị Thầy đối với vị ấy phải được nắm giữ tốt đẹp, ghi nhớ tốt đẹp, thẩm xét tốt đẹp’ – đây là đặc điểm thứ ba.

Tattha suttaṃ nāma sakalaṃ vinayapiṭakaṃ. Tañcassa svāgataṃ hotīti suṭṭhu āgataṃ. Suppavattīti suṭṭhu pavattaṃ paguṇaṃ vācuggataṃ suvinicchitaṃ. Suttato anubyañjanatoti pāḷito ca paripucchato ca aṭṭhakathāto ca suvinicchitaṃ hoti, kaṅkhacchedaṃ katvā uggahitaṃ.
Ở đó, ‘Kinh’ là toàn bộ Luật tạng. Và (Kinh) đó đối với vị ấy ‘được tiếp thu tốt đẹp’ nghĩa là: được tiếp thu một cách tốt đẹp. ‘Thực hành tốt đẹp’ nghĩa là: được thực hành tốt đẹp, thông thạo, thuộc lòng, quyết đoán tốt đẹp. ‘Từ Kinh và từ văn tự phụ chú’ nghĩa là: được quyết đoán tốt đẹp từ Thánh điển Pāḷi, từ sự tra hỏi, và từ Chú giải, được học thuộc sau khi đã đoạn trừ sự nghi ngờ.

Vinaye kho pana ṭhito hotīti vinaye lajjībhāvena patiṭṭhito hoti. Alajjī hi bahussutopi samāno lābhagarutāya tantiṃ visaṃvādetvā uddhammaṃ ubbinayaṃ satthusāsanaṃ dīpetvā sāsane mahantaṃ upaddavaṃ karoti. Saṅghabhedampi saṅgharājimpi uppādeti. Lajjī pana kukkuccako sikkhākāmo jīvitahetupi tantiṃ avisaṃvādetvā dhammameva vinayameva ca dīpeti, satthusāsanaṃ garuṃ katvā ṭhapeti. Tathā hi pubbe mahātherā tikkhattuṃ vācaṃ nicchāresuṃ – ‘‘anāgate lajjī rakkhissati, lajjī rakkhissati, lajjī rakkhissatī’’ti. Evaṃ yo lajjī, so vinayaṃ avijahanto avokkamanto lajjībhāvena vinaye ṭhito hoti suppatiṭṭhitoti. Asaṃhīroti saṃhīro nāma yo pāḷiyaṃ vā aṭṭhakathāyaṃ vā heṭṭhato vā uparito vā padapaṭipāṭiyā vā pucchiyamāno vitthunati vipphandati santiṭṭhituṃ na sakkoti; yaṃ yaṃ parena vuccati taṃ taṃ anujānāti; sakavādaṃ chaḍḍetvā paravādaṃ gaṇhāti. Yo pana pāḷiyaṃ vā aṭṭhakathāya vā heṭṭhupariyena vā padapaṭipāṭiyā vā pucchiyamāno na vitthunati na vipphandati, ekekalomaṃ saṇḍāsena gaṇhanto viya ‘‘evaṃ mayaṃ vadāma; evaṃ no ācariyā vadantī’’ti vissajjeti; yamhi pāḷi ca pāḷivinicchayo ca suvaṇṇabhājane pakkhittasīhavasā viya parikkhayaṃ pariyādānaṃ agacchanto tiṭṭhati, ayaṃ vuccati ‘‘asaṃhīro’’ti.
‘Nhưng phải đứng vững trong Luật’ nghĩa là: đứng vững trong Luật bằng trạng thái hổ thẹn (tàm quý). Thật vậy, người không có hổ thẹn, dù là người đa văn, do tôn trọng lợi dưỡng, đã làm sai lệch Thánh giáo, làm hiển lộ phi pháp, phi luật, (chống lại) giáo huấn của Bậc Đạo Sư, và gây ra tai họa lớn trong giáo pháp. (Người đó) cũng gây ra sự chia rẽ Tăng đoàn và sự tranh chấp trong Tăng đoàn. Nhưng người có hổ thẹn, biết ân hận, ham học, dù vì mạng sống cũng không làm sai lệch Thánh giáo, mà chỉ làm hiển lộ Pháp và Luật, và tôn trọng, giữ gìn giáo huấn của Bậc Đạo Sư. Thật vậy, ngày xưa các vị Đại Trưởng lão đã ba lần phát ra lời nói: ‘Trong tương lai, người có hổ thẹn sẽ bảo vệ (giáo pháp), người có hổ thẹn sẽ bảo vệ, người có hổ thẹn sẽ bảo vệ’. Như vậy, người nào có hổ thẹn, người đó không từ bỏ Luật, không vi phạm Luật, đứng vững trong Luật bằng trạng thái hổ thẹn, được đứng vững một cách tốt đẹp. ‘Không dao động’ nghĩa là: người dao động là người khi bị hỏi về Thánh điển Pāḷi hay Chú giải, từ dưới lên hay từ trên xuống, hay theo thứ tự từ, thì run rẩy, dao động, không thể đứng vững; điều gì người khác nói, người đó đều chấp nhận; từ bỏ luận điểm của mình, chấp nhận luận điểm của người khác. Nhưng người nào khi bị hỏi về Thánh điển Pāḷi hay Chú giải, từ dưới lên trên hay theo thứ tự từ, mà không run rẩy, không dao động, giống như nhổ từng sợi lông bằng cái kẹp, (mà) giải thích rằng: ‘Chúng tôi nói như vầy; các vị Thầy của chúng tôi nói như vầy’; người nào mà Thánh điển Pāḷi và sự quyết đoán Pāḷi ở nơi người đó đứng vững, không bị tiêu hao, không bị cạn kiệt, giống như mỡ sư tử được đặt trong bình vàng, người đó được gọi là ‘không dao động’.

Ācariyaparamparā kho panassa suggahitā hotīti theraparamparā vaṃsaparamparā cassa suu gahitā hoti. Sumanasikatāti suṭṭhu manasikatā; āvajjitamatte ujjalitapadīpo viya hoti. Sūpadhāritāti suṭṭhu upadhāritā pubbāparānusandhito atthato kāraṇato ca upadhāritā; attano matiṃ pahāya ācariyasuddhiyā vattā hoti ‘‘mayhaṃ ācariyo asukācariyassa santike uggaṇhi, so asukassā’’ti evaṃ sabbaṃ ācariyaparamparaṃ theravādaṅgaṃ āharitvā yāva upālitthero sammāsambuddhassa santike uggaṇhīti pāpetvā ṭhapeti. Tatopi āharitvā upālitthero sammāsambuddhassa santike uggaṇhi, dāsakatthero attano upajjhāyassa upālittherassa, soṇakatthero attano upajjhāyassa dāsakattherassa, siggavatthero attano upajjhāyassa soṇakattherassa, moggaliputtatissatthero attano upajjhāyassa siggavattherassa caṇḍavajjittherassa cāti. Evaṃ sabbaṃ ācariyaparamparaṃ theravādaṅgaṃ āharitvā attano ācariyaṃ pāpetvā ṭhapeti. Evaṃ uggahitā hi ācariyaparamparā suggahitā hoti. Evaṃ asakkontena pana avassaṃ dve tayo parivaṭṭā uggahetabbā. Sabbapacchimena hi nayena yathā ācariyo ca ācariyācariyo ca pāḷiñca paripucchañca vadanti, tathā ñātuṃ vaṭṭati.
Nhưng dòng truyền thừa của các vị Thầy đối với vị ấy phải được nắm giữ tốt đẹp’ nghĩa là: dòng truyền thừa các Trưởng lão và dòng truyền thừa theo dõi của vị ấy phải được nắm giữ một cách tốt đẹp. ‘Ghi nhớ tốt đẹp’ nghĩa là: ghi nhớ một cách tốt đẹp; ngay khi hướng tâm đến, (nó) giống như ngọn đèn được thắp sáng. ‘Thẩm xét tốt đẹp’ nghĩa là: được thẩm xét một cách tốt đẹp; được thẩm xét từ sự liên kết trước sau, từ ý nghĩa, và từ lý do; (người đó) từ bỏ ý kiến riêng của mình, nói theo sự trong sạch của các vị Thầy (rằng): ‘Thầy của tôi đã học nơi vị Thầy A, vị Thầy A đã học nơi vị Thầy B’, như vậy, sau khi trình bày toàn bộ dòng truyền thừa của các vị Thầy, một phần của Thượng tọa bộ, (vị ấy) đưa đến và xác lập cho đến khi (nói rằng) Trưởng lão Upāli đã học nơi Đức Chánh Đẳng Chánh Giác. Kể từ đó, (vị ấy trình bày rằng): Trưởng lão Upāli đã học nơi Đức Chánh Đẳng Chánh Giác, Trưởng lão Dāsaka (đã học nơi) thầy của mình là Trưởng lão Upāli, Trưởng lão Soṇaka (đã học nơi) thầy của mình là Trưởng lão Dāsaka, Trưởng lão Siggava (đã học nơi) thầy của mình là Trưởng lão Soṇaka, và Trưởng lão Moggaliputtatissa (đã học nơi) thầy của mình là Trưởng lão Siggava và Trưởng lão Caṇḍavajji. Như vậy, sau khi trình bày toàn bộ dòng truyền thừa của các vị Thầy, một phần của Thượng tọa bộ, (vị ấy) đưa đến và xác lập thầy của mình. Thật vậy, dòng truyền thừa của các vị Thầy được học thuộc như vậy là được nắm giữ tốt đẹp. Nhưng người nào không thể làm như vậy thì nhất định phải học thuộc hai ba vòng (thế hệ thầy trò). Thật vậy, theo phương pháp cuối cùng nhất, cần phải biết Thánh điển Pāḷi và sự tra hỏi như thế nào mà vị thầy và vị thầy của thầy đã nói.

Imehi ca pana tīhi lakkhaṇehi samannāgatena vinayadharena vatthuvinicchayatthaṃ sannipatite saṅghe otiṇṇe vatthusmiṃ codakena ca cuditakena ca vutte vattabbe sahasā avinicchinitvāva cha ṭhānāni oloketabbāni. Katamāni cha? Vatthu oloketabbaṃ, mātikā oloketabbā, padabhājanīyaṃ oloketabbaṃ, tikaparicchedo oloketabbo, antarāpatti oloketabbā, anāpatti oloketabbāti.
Nhưng người trì Luật có đủ ba đặc điểm này, khi Tăng đoàn đã tụ họp để quyết đoán một trường hợp, khi trường hợp đó đã được đưa ra, và khi người tố cáo và người bị tố cáo đã nói điều cần nói, không nên quyết đoán vội vàng, (mà) cần phải xem xét sáu điểm. Sáu điểm đó là gì? (Đó là) cần xem xét trường hợp (vatthu), cần xem xét đề mục (mātikā), cần xem xét sự phân tích từ (padabhājanīya), cần xem xét sự phân chia theo ba (tikapariccheda), cần xem xét tội trung gian (antarāpatti), và cần xem xét trường hợp không phạm tội (anāpatti).

Vatthuṃ olokentopi hi ‘‘tiṇena vā paṇṇena vā paṭicchādetvā āgantabbaṃ, na tveva naggena āgantabbaṃ; yo āgaccheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (pārā. 517) evaṃ ekaccaṃ āpattiṃ passati. So taṃ suttaṃ ānetvā taṃ adhikaraṇaṃ vūpasamessati.
Thật vậy, ngay cả khi xem xét trường hợp, (vị ấy) thấy một tội nào đó như: ‘Cần phải che thân bằng cỏ hoặc lá rồi mới đến, chứ không được đến trần truồng; người nào đến (trần truồng) thì phạm tội Tác Ác (Đột-kiết-la)’ (pārā. 517). Vị ấy sẽ mang Kinh đó ra và giải quyết tranh cãi đó.

Mātikaṃ olokentopi ‘‘sampajānamusāvāde pācittiya’’ntiādinā (pāci. 2) nayena pañcannaṃ āpattīnaṃ aññataraṃ āpattiṃ passati, so taṃ suttaṃ ānetvā taṃ adhikaraṇaṃ vūpasamessati.
Ngay cả khi xem xét đề mục, theo phương pháp (như câu) ‘Cố ý nói dối thì phạm tội Ưng Đối Trị’ v.v… (pāci. 2), (vị ấy) thấy một tội nào đó trong năm loại tội, vị ấy sẽ mang Kinh đó ra và giải quyết tranh cãi đó.

Padabhājanīyaṃ olokentopi ‘‘akkhayite sarīre methunaṃ dhammaṃ paṭisevati, āpatti pārājikassa. Yebhuyyena khayite sarīre methunaṃ dhammaṃ paṭisevati, āpatti thullaccayassā’’tiādinā (pārā. 59 ādayo, atthato samānaṃ) nayena sattannaṃ āpattīnaṃ aññataraṃ āpattiṃ passati, so padabhājanīyato suttaṃ ānetvā taṃ adhikaraṇaṃ vūpasamessati.
Ngay cả khi xem xét sự phân tích từ, (vị ấy thấy): ‘Thực hành dâm pháp với thân thể chưa bị tổn thương, phạm tội Bất Cộng Trụ. Thực hành dâm pháp với thân thể phần lớn đã bị tổn thương, phạm tội Trọng tội (Thâu-lan-giá)’ v.v… (pārā. 59 trở đi, ý nghĩa tương tự), theo phương pháp này, (vị ấy) thấy một tội nào đó trong bảy loại tội, vị ấy sẽ mang Kinh từ phần Phân tích từ ra và giải quyết tranh cãi đó.

Tikaparicchedaṃ olokentopi tikasaṅghādisesaṃ vā tikapācittiyaṃ vā tikadukkaṭaṃ vā aññataraṃ vā āpattiṃ tikaparicchede passati, so tato suttaṃ ānetvā taṃ adhikaraṇaṃ vūpasamessati.
Ngay cả khi xem xét sự phân chia theo ba, (vị ấy) thấy tội Tăng Tàn theo ba, hoặc tội Ưng Đối Trị theo ba, hoặc tội Tác Ác theo ba, hoặc một tội nào đó trong sự phân chia theo ba, vị ấy sẽ mang Kinh từ đó ra và giải quyết tranh cãi đó.

Antarāpattiṃ olokentopi ‘‘paṭilātaṃ ukkhipati, āpatti dukkaṭassā’’ti (pāci. 355) evaṃ yā sikkhāpadantaresu antarāpatti hoti taṃ passati, so taṃ suttaṃ ānetvā taṃ adhikaraṇaṃ vūpasamessati.
Ngay cả khi xem xét tội trung gian, (vị ấy thấy) như: ‘Nhấc vật đã nhận lại, phạm tội Tác Ác’ (pāci. 355), (vị ấy) thấy tội trung gian nào có mặt giữa các học giới như vậy, vị ấy sẽ mang Kinh đó ra và giải quyết tranh cãi đó.

Anāpattiṃ olokentopi ‘‘anāpatti bhikkhu asādiyantassa, atheyyacittassa, na maraṇādhippāyassa, anullapanādhippāyassa, na mocanādhippāyassa, asañcicca, assatiyā, ajānantassā’’ti (pārā. 72 ādayo) evaṃ tasmiṃ tasmiṃ sikkhāpade niddiṭṭhaṃ anāpattiṃ passati, so taṃ suttaṃ ānetvā taṃ adhikaraṇaṃ vūpasamessati.
Ngay cả khi xem xét trường hợp không phạm tội, (vị ấy thấy) như: ‘Không phạm tội đối với Tỳ khưu không chấp nhận, không có tâm trộm cắp, không có ý định giết, không có ý định nói khoác, không có ý định giải thoát (khỏi tội), không cố ý, do thất niệm, do không biết’ (pārā. 72 trở đi), (vị ấy) thấy trường hợp không phạm tội đã được chỉ rõ trong mỗi học giới như vậy, vị ấy sẽ mang Kinh đó ra và giải quyết tranh cãi đó.

Yo hi bhikkhu catubbidhavinayakovido tilakkhaṇasampanno imāni cha ṭhānāni oloketvā adhikaraṇaṃ vūpasamessati, tassa vinicchayo appaṭivattiyo, buddhena sayaṃ nisīditvā vinicchitasadiso hoti. Taṃ cevaṃ vinicchayakusalaṃ bhikkhuṃ koci katasikkhāpadavītikkamo bhikkhu upasaṅkamitvā attano kukkuccaṃ puccheyya; tena sādhukaṃ sallakkhetvā sace anāpatti hoti, ‘‘anāpattī’’ti vattabbaṃ. Sace pana āpatti hoti, ‘‘āpattī’’ti vattabbaṃ. Sā desanāgāminī ce, ‘‘desanāgāminī’’ti vattabbaṃ. Vuṭṭhānagāminī ce, ‘‘vuṭṭhānagāminī’’ti vattabbaṃ. Athassa pārājikacchāyā dissati, ‘‘pārājikāpattī’’ti na tāva vattabbaṃ. Kasmā? Methunadhammavītikkamo hi uttarimanussadhammavītikkamo ca oḷāriko. Adinnādānamanussaviggahavītikkamā pana sukhumā cittalahukā. Te sukhumeneva āpajjati , sukhumena rakkhati, tasmā visesena taṃvatthukaṃ kukkuccaṃ pucchiyamāno ‘‘āpattī’’ti avatvā sacassa ācariyo dharati, tato tena so bhikkhu ‘‘amhākaṃ ācariyaṃ pucchā’’ti pesetabbo. Sace so puna āgantvā ‘‘tumhākaṃ ācariyo suttato nayato oloketvā ‘satekiccho’ti maṃ āhā’’ti vadati, tato anena so ‘‘sādhu suṭṭhu yaṃ ācariyo bhaṇati taṃ karohī’’ti vattabbo. Atha panassa ācariyo natthi, saddhiṃ uggahitatthero pana atthi, tassa santikaṃ pesetabbo – ‘‘amhehi saha uggahitatthero gaṇapāmokkho, taṃ gantvā pucchā’’ti. Tenāpi ‘‘satekiccho’’ti vinicchite ‘‘sādhu suṭṭhu tassa vacanaṃ karohī’’ti vattabbo. Atha saddhiṃ uggahitattheropi natthi, antevāsiko paṇḍito atthi, tassa santikaṃ pesetabbo – ‘‘asukadaharaṃ gantvā pucchā’’ti. Tenāpi ‘‘satekiccho’’ti vinicchite ‘‘sādhu suṭṭhu tassa vacanaṃ karohī’’ti vattabbo. Atha daharassāpi pārājikacchāyāva upaṭṭhāti, tenāpi ‘‘pārājikosī’’ti na vattabbo. Dullabho hi buddhuppādo, tato dullabhatarā pabbajjā ca upasampadā ca. Evaṃ pana vattabbo – ‘‘vivittaṃ okāsaṃ sammajjitvā divāvihāraṃ nisīditvā sīlāni sodhetvā dvattiṃsākāraṃ tāva manasi karohī’’ti. Sace tassa arogaṃ sīlaṃ kammaṭṭhānaṃ ghaṭayati, saṅkhārā pākaṭā hutvā upaṭṭhahanti, upacārappanāppattaṃ viya cittampi ekaggaṃ hoti, divasaṃ atikkantampi na jānāti. So divasātikkame upaṭṭhānaṃ āgato evaṃ vattabbo – ‘‘kīdisā te cittappavattī’’ti. Ārocitāya cittappavattiyā vattabbo – ‘‘pabbajjā nāma cittavisuddhatthāya, appamatto samaṇadhammaṃ karohī’’ti.
Thật vậy, vị Tỳ khưu nào thông thạo bốn loại Luật, có đủ ba đặc điểm, sau khi xem xét sáu điểm này mà giải quyết tranh cãi, sự quyết đoán của vị ấy là không thể bác bỏ, giống như sự quyết đoán do chính Đức Phật ngự xuống mà quyết đoán. Nếu một Tỳ khưu nào đó đã vi phạm học giới đến gặp vị Tỳ khưu thiện xảo trong việc quyết đoán như vậy và hỏi về sự hối hận của mình; vị ấy (Tỳ khưu trì Luật) sau khi xem xét kỹ lưỡng, nếu là không phạm tội, thì nên nói: ‘Không phạm tội’. Nhưng nếu là phạm tội, thì nên nói: ‘Phạm tội’. Nếu tội đó thuộc loại cần phải sám hối, thì nên nói: ‘Cần phải sám hối’. Nếu tội đó thuộc loại cần phải xuất tội, thì nên nói: ‘Cần phải xuất tội’. Hoặc nếu thấy có bóng dáng của tội Bất Cộng Trụ nơi vị ấy, thì chưa nên nói vội: ‘Phạm tội Bất Cộng Trụ’. Tại sao? Thật vậy, sự vi phạm dâm pháp và sự vi phạm pháp thượng nhân là thô trọng. Nhưng sự vi phạm (giới) trộm cắp và giết người thì vi tế, dễ dao động trong tâm. Những (tội) đó phạm một cách vi tế, giữ gìn (cũng) một cách vi tế, do đó, đặc biệt khi được hỏi về sự hối hận liên quan đến trường hợp đó, không nên nói ‘Phạm tội’, nếu vị ấy có thầy còn tại thế, thì vị Tỳ khưu đó nên được gửi đi (với lời nhắn): ‘Hãy hỏi thầy của chúng tôi’. Nếu vị đó trở lại và nói: ‘Thầy của các ngài sau khi xem xét từ Kinh và từ phương pháp, đã nói với tôi rằng ‘Cần phải chữa trị’’, thì khi đó, vị này (Tỳ khưu trì Luật) nên nói với vị đó: ‘Lành thay, tốt thay, thầy hãy làm theo điều vị Thầy nói’. Hoặc nếu vị ấy không có thầy, nhưng có vị Trưởng lão đã cùng học, thì nên gửi đến vị đó (với lời nhắn): ‘Vị Trưởng lão đã cùng học với chúng tôi là người đứng đầu nhóm, hãy đến hỏi vị ấy’. Nếu vị đó cũng quyết đoán rằng ‘Cần phải chữa trị’, thì nên nói: ‘Lành thay, tốt thay, thầy hãy làm theo lời của vị ấy’. Hoặc nếu cũng không có vị Trưởng lão đã cùng học, nhưng có vị đệ tử thông thái, thì nên gửi đến vị đó (với lời nhắn): ‘Hãy đến hỏi vị Sa di trẻ A’. Nếu vị đó cũng quyết đoán rằng ‘Cần phải chữa trị’, thì nên nói: ‘Lành thay, tốt thay, thầy hãy làm theo lời của vị ấy’. Hoặc nếu ngay cả đối với vị Sa di trẻ cũng hiện rõ bóng dáng của tội Bất Cộng Trụ, thì vị đó cũng không nên nói: ‘Thầy phạm tội Bất Cộng Trụ’. Thật vậy, sự xuất hiện của Đức Phật là hiếm có, việc xuất gia và thọ Cụ túc giới còn hiếm có hơn thế nữa. Nhưng nên nói như vầy: ‘Hãy quét dọn một nơi vắng vẻ, ngồi thiền vào ban ngày, thanh lọc giới hạnh, và trước hết hãy tác ý đến ba mươi hai thể trược’. Nếu giới hạnh của vị ấy không bệnh hoạn, đề mục thiền định được thực hành tốt, các hành hiện rõ và có mặt, tâm cũng trở nên nhất tâm như đã đạt đến cận hành định và an chỉ định, (đến nỗi) không biết ngày đã trôi qua. Vị đó, sau khi ngày đã trôi qua, đến hầu, nên được nói như vầy: ‘Diễn biến tâm của thầy thế nào?’ Sau khi diễn biến tâm đã được trình bày, nên được nói: ‘Sự xuất gia là để thanh tịnh tâm, hãy không phóng dật mà thực hành Sa môn pháp’.

Yassa pana sīlaṃ bhinnaṃ hoti, tassa kammaṭṭhānaṃ na ghaṭayati, patodābhitunnaṃ viya cittaṃ vikampati, vippaṭisāragginā ḍayhati, tattapāsāṇe nisinno viya taṅkhaṇaññeva vuṭṭhāti. So āgato ‘‘kā te cittappavattī’’ti pucchitabbo. Ārocitāya cittappavattiyā ‘‘natthi loke raho nāma pāpakammaṃ pakubbato. Sabbapaṭhamañhi pāpaṃ karonto attanā jānāti, athassa ārakkhadevatā paracittavidū samaṇabrāhmaṇā aññā ca devatā jānanti, tvaṃyeva dāni tava sotthiṃ pariyesāhī’’ti vattabbo.
Nhưng đối với người nào giới hạnh bị phá vỡ, đề mục thiền định của người đó không được thực hành tốt, tâm dao động như bị roi thúc, bị lửa hối hận thiêu đốt, giống như người ngồi trên tảng đá nóng, liền đứng dậy ngay lập tức. Vị đó đến, cần phải được hỏi: ‘Diễn biến tâm của thầy thế nào?’ Sau khi diễn biến tâm đã được trình bày, nên được nói: ‘Trên đời không có nơi nào gọi là kín đáo đối với người làm việc ác. Thật vậy, trước hết, người làm ác tự biết điều đó, sau đó, vị thiên thần hộ mệnh của người đó, các vị Sa môn, Bà la môn có tha tâm thông, và các vị thiên khác cũng biết, nay thầy hãy tự tìm lấy sự an ổn cho mình’.

Niṭṭhitā catubbidhavinayakathā

Phần Thuyết Về Bốn Loại Luật Đã Kết Thúc

Vinayadharassa ca lakkhaṇādikathā.

Phần Thuyết Về Các Đặc Điểm v.v… của Người Trì Luật.

Bhikkhupadabhājanīyavaṇṇanā

Phần Giải Thích Về Phân Tích Từ “Tỳ Khưu”

Idāni sikkhāpadavibhaṅgassa atthaṃ vaṇṇayissāma. Yaṃ vuttaṃ yo panāti yo yādisotiādi. Ettha yo panāti vibhajitabbapadaṃ; yo yādisotiādīni tassa vibhajanapadāni. Ettha ca yasmā panāti nipātamattaṃ; yoti atthapadaṃ; tañca aniyamena puggalaṃ dīpeti, tasmā tassa atthaṃ dassento aniyamena puggaladīpakaṃ yo saddameva āha. Tasmā ettha evamattho veditabbo – yo panāti yo yokocīti vuttaṃ hoti. Yasmā pana yo yokoci nāma, so avassaṃ liṅga-yutta-jāti-nāma-gotta-sīla-vihāra-gocaravayesu ekenākārena paññāyati, tasmā taṃ tathā ñāpetuṃ taṃ pabhedaṃ pakāsento ‘‘yādiso’’tiādimāha. Tattha yādisoti liṅgavasena yādiso vā tādiso vā hotu; dīgho vā rasso vā kāḷo vā odāto vā maṅguracchavi vā kiso vā thūlo vāti attho. Yathāyuttoti yogavasena yena vā tena vā yutto hotu; navakammayutto vā uddesayutto vā vāsadhurayutto vāti attho. Yathājaccoti jātivasena yaṃjacco vā taṃjacco vā hotu; khattiyo vā brāhmaṇo vā vesso vā suddo vāti attho. Yathānāmoti nāmavasena yathānāmo vā tathānāmo vā hotu; buddharakkhito vā dhammarakkhito vā saṅgharakkhito vāti attho. Yathāgottoti gottavasena yathāgotto vā tathāgotto vā yena vā tena vā gottena hotu; kaccāyano vā vāsiṭṭho vā kosiyo vāti attho. Yathāsīloti sīlesu yathāsīlo vā tathāsīlo vā hotu; navakammasīlo vā uddesasīlo vā vāsadhurasīlo vāti attho. Yathāvihārīti vihāresupi yathāvihārī vā tathāvihārī vā hotu; navakammavihārī vā uddesavihārī vā vāsadhuravihārī vāti attho. Yathāgocaroti gocaresupi yathāgocaro vā tathāgocaro vā hotu; navakammagocaro vā uddesagocaro vā vāsadhuragocaro vāti attho. Thero vāti ādīsu vayovuḍḍhādīsu yo vā so vā hotu; paripuṇṇadasavassatāya thero vā ūnapañcavassatāya navo vā atirekapañcavassatāya majjhimo vāti attho. Atha kho sabbova imasmiṃ atthe eso vuccati ‘‘yo panā’’ti.
Bây giờ, chúng ta sẽ giải thích ý nghĩa của phần Phân tích học giới. Điều đã được nói: ‘Vị nào, thì (nghĩa là) vị nào, loại nào’ v.v… Ở đây, ‘yo panā’ (vị nào) là từ cần được phân tích; ‘yo yādiso’ (vị nào, loại nào) v.v… là các từ phân tích của nó. Và ở đây, vì ‘panā’ (thì) chỉ là một tiểu từ; ‘yo’ (vị nào) là từ có nghĩa; và nó chỉ một người không xác định, do đó, khi chỉ ra ý nghĩa của nó, (Kinh) đã nói chính từ ‘yo’ (vị nào) để chỉ một người không xác định. Do đó, ở đây cần hiểu ý nghĩa như vầy: ‘yo panā’ (vị nào) được nói là: bất cứ ai. Nhưng vì bất cứ ai, người đó nhất định được biết đến qua một hình thức nào đó về giới tính, sự liên kết, dòng dõi, tên, họ, giới hạnh, trú xứ, nơi hành hoạt, tuổi tác, do đó, để làm cho biết như vậy, khi công bố sự phân loại đó, (Kinh) nói: ‘loại nào’ v.v… Ở đó, ‘loại nào’ nghĩa là: về phương diện giới tính, dù là loại này hay loại kia; có nghĩa là: dù cao hay thấp, dù đen hay trắng, dù da vàng sậm, dù ốm hay mập. ‘Liên kết như thế nào’ nghĩa là: về phương diện sự liên kết, dù liên kết với cái này hay cái kia; có nghĩa là: dù liên kết với công việc mới, hay liên kết với việc học thuộc, hay liên kết với trách nhiệm ở trú xứ. ‘Dòng dõi như thế nào’ nghĩa là: về phương diện dòng dõi, dù là dòng dõi này hay dòng dõi kia; có nghĩa là: dù là Sát-đế-lợi, hay Bà-la-môn, hay Phệ-xá, hay Thủ-đà-la. ‘Tên như thế nào’ nghĩa là: về phương diện tên, dù là tên này hay tên kia; có nghĩa là: dù là Buddharakkhita, hay Dhammarakkhita, hay Saṅgharakkhita. ‘Họ như thế nào’ nghĩa là: về phương diện họ, dù là họ này hay họ kia, dù là họ nào đi nữa; có nghĩa là: dù là Kaccāyana, hay Vāsiṭṭha, hay Kosiya. ‘Giới hạnh như thế nào’ nghĩa là: về giới hạnh, dù là giới hạnh này hay giới hạnh kia; có nghĩa là: dù là giới của người làm công việc mới, hay giới của người học thuộc, hay giới của người có trách nhiệm ở trú xứ. ‘Trú như thế nào’ nghĩa là: về trú xứ, dù là trú xứ này hay trú xứ kia; có nghĩa là: dù là người ở trú xứ làm công việc mới, hay người ở trú xứ học thuộc, hay người ở trú xứ có trách nhiệm. ‘Nơi hành hoạt như thế nào’ nghĩa là: về nơi hành hoạt, dù là nơi hành hoạt này hay nơi hành hoạt kia; có nghĩa là: dù là nơi hành hoạt của người làm công việc mới, hay nơi hành hoạt của người học thuộc, hay nơi hành hoạt của người có trách nhiệm. ‘Hay là Trưởng lão’ v.v… nghĩa là: về tuổi tác v.v…, dù là người nào đi nữa; có nghĩa là: dù là Trưởng lão do đủ mười tuổi hạ, hay là vị mới do dưới năm tuổi hạ, hay là vị trung bình do trên năm tuổi hạ. Nhưng tất cả (những người đó) trong ý nghĩa này đều được gọi là ‘vị nào’.

Bhikkhuniddese bhikkhatīti bhikkhako; labhanto vā alabhanto vā ariyāya yācanāya yācatīti attho. Buddhādīhi ajjhupagataṃ bhikkhācariyaṃ ajjhupagatattā bhikkhācariyaṃ ajjhupagato nāma. Yo hi koci appaṃ vā mahantaṃ vā bhogakkhandhaṃ pahāya agārasmā anagāriyaṃ pabbajito, so kasigorakkhādīhi jīvikakappanaṃ hitvā liṅgasampaṭicchaneneva bhikkhācariyaṃ ajjhupagatoti bhikkhu. Parapaṭibaddhajīvikattā vā vihāramajjhe kājabhattaṃ bhuñjamānopi bhikkhācariyaṃ ajjhupagatoti bhikkhu; piṇḍiyālopabhojanaṃ nissāya pabbajjāya ussāhajātattā vā bhikkhācariyaṃ ajjhupagatoti bhikkhu. Agghaphassavaṇṇabhedena bhinnaṃ paṭaṃ dhāretīti bhinnapaṭadharo. Tattha satthakacchedanena agghabhedo veditabbo. Sahassagghanakopi hi paṭo satthakena khaṇḍākhaṇḍikaṃ chinno bhinnaggho hoti. Purimagghato upaḍḍhampi na agghati. Suttasaṃsibbanena phassabhedo veditabbo. Sukhasamphassopi hi paṭo suttehi saṃsibbito bhinnaphasso hoti. Kharasamphassataṃ pāpuṇāti. Sūcimalādīhi vaṇṇabhedo veditabbo. Suparisuddhopi hi paṭo sūcikammato paṭṭhāya sūcimalena, hatthasedamalajallikāhi, avasāne rajanakappakaraṇehi ca bhinnavaṇṇo hoti; pakativaṇṇaṃ vijahati. Evaṃ tīhākārehi bhinnapaṭadhāraṇato bhinnapaṭadharoti bhikkhu. Gihivatthavisabhāgānaṃ vā kāsāvānaṃ dhāraṇamatteneva bhinnapaṭadharoti bhikkhu.
Trong phần chỉ dẫn về Tỳ khưu, ‘người khất thực’ (bhikkhako) là người xin; có nghĩa là: dù nhận được hay không nhận được, (vẫn) xin bằng sự khẩn cầu cao thượng. Do đã chấp nhận đời sống khất thực mà các Đức Phật v.v… đã chấp nhận, nên gọi là ‘người đã chấp nhận đời sống khất thực’. Thật vậy, bất cứ ai từ bỏ khối tài sản dù ít hay nhiều, xuất gia từ đời sống gia đình vào đời sống không gia đình, người đó, sau khi từ bỏ việc mưu sinh bằng cách cày cấy, chăn nuôi v.v…, chỉ bằng việc chấp nhận tướng mạo (xuất gia) đã là người chấp nhận đời sống khất thực, (nên gọi là) Tỳ khưu. Hoặc do đời sống phụ thuộc vào người khác, ngay cả khi dùng cháo và cơm trong tịnh xá cũng là người chấp nhận đời sống khất thực, (nên gọi là) Tỳ khưu; hoặc do nương vào việc dùng vật thực khất thực từng miếng mà có sự tinh tấn trong đời sống xuất gia, (nên) là người chấp nhận đời sống khất thực, (gọi là) Tỳ khưu. Người mặc y phục đã bị hư hỏng về giá trị, sự xúc chạm, và màu sắc, (gọi là) ‘người mặc y phấn tảo’. Ở đó, sự hư hỏng về giá trị cần được hiểu là do việc cắt bằng dao. Thật vậy, tấm y dù đáng giá ngàn (đồng) cũng trở thành hư hỏng về giá trị khi bị cắt thành từng mảnh bằng dao. (Nó) không còn đáng giá dù chỉ một nửa so với giá trị ban đầu. Sự hư hỏng về sự xúc chạm cần được hiểu là do việc may vá bằng chỉ. Thật vậy, tấm y dù có sự xúc chạm dễ chịu cũng trở thành hư hỏng về sự xúc chạm khi được may vá bằng chỉ. (Nó) trở nên có sự xúc chạm thô ráp. Sự hư hỏng về màu sắc cần được hiểu là do vết bẩn từ kim v.v… Thật vậy, tấm y dù rất sạch sẽ cũng trở thành hư hỏng về màu sắc do vết bẩn từ kim kể từ khi may vá, do mồ hôi tay và vết dơ, và cuối cùng là do các chất liệu dùng để nhuộm và cắt may; (nó) mất đi màu sắc tự nhiên. Như vậy, do mặc y phục đã bị hư hỏng theo ba cách đó, (nên gọi là) ‘người mặc y phấn tảo’, (đó là) Tỳ khưu. Hoặc chỉ bằng việc mặc y cà sa, vốn khác với y phục của người tại gia, (cũng gọi là) ‘người mặc y phấn tảo’, (đó là) Tỳ khưu.

Samaññāyāti paññattiyā vohārenāti attho. Samaññāya eva hi ekacco ‘‘bhikkhū’’ti paññāyati. Tathā hi nimantanādimhi bhikkhūsu gaṇiyamānesu sāmaṇerepi gahetvā ‘‘sataṃ bhikkhū sahassaṃ bhikkhū’’ti vadanti. Paṭiññāyāti attano paṭijānanena paṭiññāyapi hi ekacco ‘‘bhikkhū’’ti paññāyati. Tassa ‘‘ko etthāti? Ahaṃ, āvuso, bhikkhū’’ti (a. ni. 10.96) evamādīsu sambhavo daṭṭhabbo . Ayaṃ pana ānandattherena vuttā dhammikā paṭiññā. Rattibhāge pana dussīlāpi paṭipathaṃ āgacchantā ‘‘ko etthā’’ti vutte adhammikāya paṭiññāya abhūtāya ‘‘mayaṃ bhikkhū’’ti vadanti.
Do danh xưng’ có nghĩa là: do sự chế định, do cách gọi thông thường. Thật vậy, chỉ do danh xưng mà một người nào đó được biết là ‘Tỳ khưu’. Thật vậy, ví như trong việc mời thỉnh v.v…, khi đếm số Tỳ khưu, người ta cũng tính cả Sa di vào và nói: ‘Một trăm Tỳ khưu, một ngàn Tỳ khưu’. ‘Do sự tự nhận’ nghĩa là: thật vậy, cũng do sự tự nhận, do sự tuyên bố của chính mình mà một người nào đó được biết là ‘Tỳ khưu’. Trường hợp đó cần được thấy trong các (kinh) như: ‘Có ai ở đó không? Thưa hiền giả, tôi là Tỳ khưu’ (a. ni. 10.96) v.v… Nhưng đây là sự tự nhận hợp pháp đã được Trưởng lão Ānanda nói. Nhưng vào ban đêm, ngay cả những người ác giới khi đi ngược đường, lúc bị hỏi ‘Có ai ở đó không?’, cũng tự nhận một cách phi pháp, không thật rằng: ‘Chúng tôi là Tỳ khưu’.

Ehi bhikkhūti ehi bhikkhu nāma bhagavato ‘‘ehi bhikkhū’’ti vacanamattena bhikkhubhāvaṃ ehibhikkhūpasampadaṃ patto. Bhagavā hi ehibhikkhubhāvāya upanissayasampannaṃ puggalaṃ disvā rattapaṃsukūlantarato suvaṇṇavaṇṇaṃ dakkhiṇahatthaṃ nīharitvā brahmaghosaṃ nicchārento ‘‘ehi, bhikkhu, cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāyā’’ti vadati. Tassa saheva bhagavato vacanena gihiliṅgaṃ antaradhāyati, pabbajjā ca upasampadā ca ruhati. Bhaṇḍu kāsāyavasano hoti. Ekaṃ nivāsetvā ekaṃ pārupitvā ekaṃ aṃse ṭhapetvā vāmaṃsakūṭe āsattanīluppalavaṇṇamattikāpatto –
Tỳ khưu Thiện Lai’ (Ehi bhikkhu) nghĩa là: vị Tỳ khưu Thiện Lai là người chỉ bằng lời nói ‘Hãy đến, Tỳ khưu’ của Đức Thế Tôn mà đạt đến trạng thái Tỳ khưu, (tức là) sự thọ Cụ túc giới bằng cách ‘Hãy đến, Tỳ khưu’. Thật vậy, Đức Thế Tôn, khi thấy một người có đầy đủ duyên lành để trở thành Tỳ khưu Thiện Lai, đưa bàn tay phải màu vàng ròng ra từ giữa y phấn tảo màu đỏ, phát ra Phạm âm, và nói: ‘Hãy đến, Tỳ khưu, hãy thực hành đời sống phạm hạnh để chân chánh chấm dứt khổ đau’. Ngay khi Đức Thế Tôn vừa dứt lời, tướng mạo tại gia của người đó biến mất, sự xuất gia và sự thọ Cụ túc giới liền thành tựu. (Người đó) đầu cạo trọc, mình mặc y cà sa. Mặc một y, đắp một y, vắt một y trên vai, bát đất màu hoa sen xanh treo trên mỏm vai trái –

‘‘Ticīvarañca patto ca, vāsi sūci ca bandhanaṃ;
Parissāvanena aṭṭhete, yuttayogassa bhikkhuno’’ti.
‘Ba y và bát, dao cạo, kim và dây lưng;
Cùng với đồ lọc nước, tám món này, (là vật dụng) của vị Tỳ khưu chuyên cần tu tập.’

Evaṃ vuttehi aṭṭhahi parikkhārehi sarīre paṭimukkehiyeva saṭṭhivassikatthero viya iriyāpathasampanno buddhācariyako buddhupajjhāyako sammāsambuddhaṃ vandamānoyeva tiṭṭhati. Bhagavā hi paṭhamabodhiyaṃ ekasmiṃ kāle ehibhikkhūpasampadāya eva upasampādeti. Evaṃ upasampannāni ca sahassupari ekacattālīsuttarāni tīṇi bhikkhusatāni ahesuṃ; seyyathidaṃ – pañca pañcavaggiyattherā, yaso kulaputto, tassa parivārā catupaṇṇāsa sahāyakā, tiṃsa bhaddavaggiyā, sahassapurāṇajaṭilā, saddhiṃ dvīhi aggasāvakehi aḍḍhateyyasatā paribbājakā, eko aṅgulimālattheroti. Vuttañhetaṃ aṭṭhakathāyaṃ –
Chỉ với tám vật dụng đã nói như vậy được trang bị trên thân, (vị ấy) có đầy đủ oai nghi như một vị Trưởng lão sáu mươi tuổi hạ, lấy Đức Phật làm Thầy, lấy Đức Phật làm Hòa thượng tế độ, chỉ đứng đảnh lễ Đức Chánh Đẳng Chánh Giác. Thật vậy, Đức Thế Tôn, trong một thời kỳ sau khi mới giác ngộ, chỉ cho thọ Cụ túc giới bằng cách ‘Hãy đến, Tỳ khưu’. Và đã có một ngàn ba trăm bốn mươi mốt vị Tỳ khưu được thọ Cụ túc giới như vậy; đó là: năm vị Trưởng lão nhóm năm người, thiện gia nam tử Yasa, và năm mươi bốn người bạn tùy tùng của ông, ba mươi vị Bhaddavaggiya, một ngàn vị đạo sĩ bện tóc trước kia, hai trăm năm mươi vị du sĩ ngoại đạo cùng với hai vị Thượng thủ Thinh Văn, và một vị Trưởng lão Aṅgulimāla. Điều này đã được nói trong Chú giải

‘‘Tīṇi sataṃ sahassañca, cattālīsaṃ punāpare;
Eko ca thero sappañño, sabbe te ehibhikkhukā’’ti.
‘Một ngàn ba trăm, và thêm bốn mươi vị nữa;
Và một vị Trưởng lão trí tuệ, tất cả các vị ấy đều là Tỳ khưu Thiện Lai.’

Na kevalañca ete eva, aññepi bahū santi. Seyyathidaṃ – tisataparivāro selo brāhmaṇo, sahassaparivāro mahākappino, dasasahassā kapilavatthuvāsino kulaputtā, soḷasasahassā pārāyanikabrāhmaṇāti evamādayo. Te pana vinayapiṭake pāḷiyaṃ na niddiṭṭhattā na vuttā. Ime tattha niddiṭṭhattā vuttāti.
Và không chỉ có những vị này thôi, mà còn có nhiều vị khác nữa. Đó là: Bà la môn Sela cùng ba trăm tùy tùng, Mahākappina cùng một ngàn tùy tùng, mười ngàn thiện gia nam tử ở Kapilavatthu, mười sáu ngàn vị Bà la môn thuộc nhóm Pārāyanika, v.v… Nhưng những vị đó, do không được chỉ rõ trong Thánh điển Pāḷi của Luật tạng, nên không được nói đến (ở đây). Những vị này, do được chỉ rõ ở đó, nên được nói đến.

‘‘Sattavīsa sahassāni, tīṇiyeva satāni ca;
Etepi sabbe saṅkhātā, sabbe te ehibhikkhukā’’ti.
‘Hai mươi bảy ngàn, và chỉ ba trăm vị;
Tất cả những vị này cũng đã được kể đến, tất cả các vị ấy đều là Tỳ khưu Thiện Lai.’

Tīhi saraṇagamanehi upasampannoti ‘‘buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmī’’tiādinā nayena tikkhattuṃ vācaṃ bhinditvā vuttehi tīhi saraṇagamanehi upasampanno. Ayañhi upasampadā nāma aṭṭhavidhā – ehibhikkhūpasampadā, saraṇagamanūpasampadā, ovādapaṭiggahaṇūpasampadā, pañhabyākaraṇūpasampadā, garudhammapaṭiggahaṇūpasampadā, dūtenūpasampadā, aṭṭhavācikūpasampadā, ñatticatutthakammūpasampadāti. Tattha ehibhikkhūpasampadā, saraṇagamanūpasampadā ca vuttā eva.
Người thọ Cụ túc giới bằng ba lần quy y’ nghĩa là: người thọ Cụ túc giới bằng ba lần quy y được nói ra sau khi ba lần phát lời theo cách ‘Con xin quy y Phật’ v.v… Thật vậy, sự thọ Cụ túc giới này có tám loại: sự thọ Cụ túc giới bằng cách ‘Hãy đến, Tỳ khưu’, sự thọ Cụ túc giới bằng ba lần quy y, sự thọ Cụ túc giới bằng cách chấp nhận lời giáo huấn, sự thọ Cụ túc giới bằng cách trả lời câu hỏi, sự thọ Cụ túc giới bằng cách chấp nhận Bát kỉnh pháp, sự thọ Cụ túc giới qua sứ giả, sự thọ Cụ túc giới bằng tám lời nói (dành cho Tỳ khưu ni), và sự thọ Cụ túc giới bằng Tăng sự bạch tứ. Trong đó, sự thọ Cụ túc giới bằng cách ‘Hãy đến, Tỳ khưu’ và sự thọ Cụ túc giới bằng ba lần quy y đã được nói đến rồi.

Ovādapaṭiggahaṇūpasampadā nāma ‘‘tasmātiha te, kassapa, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘tibbaṃ me hirottappaṃ paccupaṭṭhitaṃ bhavissati theresu navesu majjhimesu cā’ti. Evañhi te, kassapa, sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te, kassapa, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘yaṃ kiñci dhammaṃ sossāmi kusalūpasaṃhitaṃ, sabbaṃ taṃ aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasoto dhammaṃ sossāmī’ti. Evaṃ hi te, kassapa, sikkhitabbaṃ. Tasmātiha te, kassapa, evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘sātasahagatā ca me kāyagatāsati na vijahissatī’ti. Evañhi te, kassapa, sikkhitabba’’nti (saṃ. ni. 2.154) iminā ovādapaṭiggahaṇena mahākassapattherassa anuññātaupasampadā.
Sự thọ Cụ túc giới bằng cách chấp nhận lời giáo huấn là (việc Đức Phật dạy): ‘Vậy thì, này Kassapa, thầy hãy học như vầy: Lòng tàm quý mãnh liệt của ta sẽ có mặt đối với các vị Trưởng lão, các vị mới tu, và các vị trung bình. Này Kassapa, thầy hãy học như vậy. Vậy thì, này Kassapa, thầy hãy học như vầy: Bất cứ Pháp nào liên quan đến thiện mà ta nghe, ta sẽ coi trọng tất cả Pháp đó, tác ý, chú tâm hoàn toàn, lắng tai nghe Pháp. Này Kassapa, thầy hãy học như vậy. Vậy thì, này Kassapa, thầy hãy học như vầy: Niệm tưởng đến thân đi liền với sự vui thích sẽ không rời bỏ ta. Này Kassapa, thầy hãy học như vậy’ (saṃ. ni. 2.154) – sự thọ Cụ túc giới được cho phép đối với Trưởng lão Mahākassapa bằng cách chấp nhận lời giáo huấn này.

Pañhabyākaraṇūpasampadā nāma sopākassa anuññātaupasampadā. Bhagavā kira pubbārāme anucaṅkamantaṃ sopākasāmaṇeraṃ ‘‘‘uddhumātakasaññā’ti vā, sopāka, ‘rūpasaññā’ti vā ime dhammā nānatthā nānābyañjanā , udāhu ekatthā, byañjanameva nāna’’nti dasa asubhanissite pañhe pucchi. So te byākāsi. Bhagavā tassa sādhukāraṃ datvā ‘‘kativassosi tvaṃ, sopākā’’ti pucchi. ‘‘Sattavassohaṃ, bhagavā’’ti. ‘‘Sopāka, tvaṃ mama sabbaññutaññāṇena saddhiṃ saṃsanditvā pañhe byākāsī’’ti āraddhacitto upasampadaṃ anujāni. Ayaṃ pañhabyākaraṇūpasampadā.
Sự thọ Cụ túc giới bằng cách trả lời câu hỏi là sự thọ Cụ túc giới được cho phép đối với Sopāka. Nghe nói, Đức Thế Tôn, (khi thấy) Sa di Sopāka đang đi kinh hành trong tu viện Pubbārāma, đã hỏi mười câu hỏi liên quan đến pháp bất tịnh (quán tử thi) rằng: ‘Này Sopāka, tưởng về tử thi sình trương hay tưởng về sắc, những pháp này có ý nghĩa khác nhau, văn tự khác nhau, hay có cùng một ý nghĩa, chỉ văn tự là khác nhau?’ Vị ấy đã trả lời những câu hỏi đó. Đức Thế Tôn ban lời khen ngợi ‘Lành thay’ cho vị ấy và hỏi: ‘Này Sopāka, thầy bao nhiêu tuổi?’ (Sopāka đáp): ‘Bạch Thế Tôn, con bảy tuổi.’ (Đức Thế Tôn) với tâm hoan hỷ (nghĩ rằng) ‘Này Sopāka, thầy đã trả lời các câu hỏi tương ứng với Nhất thiết trí của ta’, đã cho phép (Sopāka) thọ Cụ túc giới. Đây là sự thọ Cụ túc giới bằng cách trả lời câu hỏi.

Garudhammapaṭiggahaṇūpasampadā nāma mahāpajāpatiyā aṭṭhagarudhammassa paṭiggahaṇena anuññātaupasampadā.
Sự thọ Cụ túc giới bằng cách chấp nhận Bát kỉnh pháp là sự thọ Cụ túc giới được cho phép đối với Mahāpajāpatī bằng cách chấp nhận tám pháp tôn trọng (Bát kỉnh pháp).

Dūtenūpasampadā nāma aḍḍhakāsiyā gaṇikāya anuññātaupasampadā.
Sự thọ Cụ túc giới qua sứ giả là sự thọ Cụ túc giới được cho phép đối với kỹ nữ Aḍḍhakāsī.

Aṭṭhavācikūpasampadā nāma bhikkhuniyā bhikkhunisaṅghato ñatticatutthena bhikkhusaṅghato ñatticatutthenāti imehi dvīhi kammehi upasampadā.
Sự thọ Cụ túc giới bằng tám lời nói (Aṭṭhavācikā) là sự thọ Cụ túc giới của Tỳ khưu ni bằng hai Tăng sự này: (một Tăng sự) bạch tứ từ Tăng đoàn Tỳ khưu ni, và (một Tăng sự) bạch tứ từ Tăng đoàn Tỳ khưu.

Ñatticatutthakammūpasampadā nāma bhikkhūnaṃ etarahi upasampadā. Imāsu aṭṭhasu upasampadāsu ‘‘yā sā, bhikkhave, mayā tīhi saraṇagamanehi upasampadā anuññātā, taṃ ajjatagge paṭikkhipāmi. Anujānāmi, bhikkhave, ñatticatutthena kammena upasampādetu’’nti (mahāva. 69) evaṃ anuññātāya imāya upasampadāya upasampannoti vuttaṃ hoti.
Sự thọ Cụ túc giới bằng Tăng sự bạch tứ là sự thọ Cụ túc giới của các Tỳ khưu hiện nay. Trong tám loại thọ Cụ túc giới này, (Đức Phật đã nói): ‘Này các Tỳ khưu, sự thọ Cụ túc giới bằng ba lần quy y mà Ta đã cho phép, kể từ hôm nay Ta bác bỏ điều đó. Này các Tỳ khưu, Ta cho phép thọ Cụ túc giới bằng Tăng sự bạch tứ’ (mahāva. 69) – được nói là: đã thọ Cụ túc giới bằng sự thọ Cụ túc giới này đã được cho phép như vậy.

Bhadroti apāpako. Kalyāṇaputhujjanādayo hi yāva arahā, tāva bhadrena sīlena samādhinā paññāya vimuttiyā vimuttiñāṇadassanena ca samannāgatattā ‘‘bhadro bhikkhū’’ti saṅkhyaṃ gacchanti. Sāroti tehiyeva sīlasārādīhi samannāgatattā nīlasamannāgamena nīlo paṭo viya ‘‘sāro bhikkhū’’ti veditabbo. Vigatakilesapheggubhāvato vā khīṇāsavova ‘‘sāro’’ti veditabbo. Sekhoti puthujjanakalyāṇakena saddhiṃ satta ariyā tisso sikkhā sikkhantīti sekhā. Tesu yo koci ‘‘sekho bhikkhū’’ti veditabbo. Na sikkhatīti asekho. Sekkhadhamme atikkamma aggaphale ṭhito, tato uttari sikkhitabbābhāvato khīṇāsavo ‘‘asekho’’ti vuccati. Samaggena saṅghenāti sabbantimena pariyāyena pañcavaggakaraṇīye kamme yāvatikā bhikkhū kammappattā, tesaṃ āgatattā chandārahānaṃ chandassa āhaṭattā, sammukhībhūtānañca appaṭikkosanato ekasmiṃ kamme samaggabhāvaṃ upagatena. Ñatticatutthenāti tīhi anussāvanāhi ekāya ca ñattiyā kātabbena. Kammenāti dhammikena vinayakammena. Akuppenāti vatthu-ñatti-anussāvana-sīmā-parisasampattisampannattā akopetabbataṃ appaṭikkositabbatañca upagatena. Ṭhānārahenāti kāraṇārahena satthusāsanārahena. Upasampanno nāma uparibhāvaṃ samāpanno, pattoti attho. Bhikkhubhāvo hi uparibhāvo, tañcesa yathāvuttena kammena samāpannattā ‘‘upasampanno’’ti vuccati. Ettha ca ñatticatutthakammaṃ ekameva āgataṃ. Imasmiṃ pana ṭhāne ṭhatvā cattāri saṅghakammāni nīharitvā vitthārato kathetabbānīti sabbaaṭṭhakathāsu vuttaṃ. Tāni ca ‘‘apalokanakammaṃ ñattikammaṃ ñattidutiyakammaṃ ñatticatutthakamma’’nti paṭipāṭiyā ṭhapetvā vitthārena khandhakato parivārāvasāne kammavibhaṅgato ca pāḷiṃ āharitvā kathitāni. Tāni mayaṃ parivārāvasāne kammavibhaṅgeyeva vaṇṇayissāma. Evañhi sati paṭhamapārājikavaṇṇanā ca na bhāriyā bhavissati; yathāṭhitāya ca pāḷiyā vaṇṇanā suviññeyyā bhavissati. Tāni ca ṭhānāni asuññāni bhavissanti; tasmā anupadavaṇṇanameva karoma.
Hiền thiện’ nghĩa là: không xấu ác. Thật vậy, từ các phàm phu thiện lành cho đến bậc A la hán, vì có giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến hiền thiện, nên được kể là ‘Tỳ khưu hiền thiện’. ‘Cốt lõi’ nghĩa là: vì có được cốt lõi là giới v.v… ấy, giống như tấm y màu xanh do được nhuộm màu xanh, (vị ấy) cần được hiểu là ‘Tỳ khưu cốt lõi’. Hoặc vì đã thoát khỏi trạng thái rỗng tuếch của phiền não, nên bậc Lậu tận cần được hiểu là ‘cốt lõi’. ‘Hữu học’ (Sekha) là: bảy bậc Thánh cùng với phàm phu thiện lành đang học ba học, (nên gọi là) Hữu học. Bất cứ ai trong số họ cũng cần được hiểu là ‘Tỳ khưu Hữu học’. Không còn học nữa là ‘Vô học’ (Asekha). Bậc Lậu tận, đã vượt qua các pháp hữu học, đứng vững trong Thánh quả cao nhất, vì không còn gì để học cao hơn nữa, nên được gọi là ‘Vô học’. ‘Bởi Tăng đoàn hòa hợp’ nghĩa là: theo phương cách cuối cùng nhất, trong một Tăng sự cần có năm vị, bao nhiêu Tỳ khưu đủ tư cách thực hiện Tăng sự, tất cả họ đều có mặt, sự đồng ý của những vị đáng được đồng ý đã được mang đến, và những vị có mặt cũng không phản đối, (do đó Tăng đoàn) đã đạt đến trạng thái hòa hợp trong một Tăng sự. ‘Bằng (Tăng sự) bạch tứ’ nghĩa là: (Tăng sự) cần được thực hiện bằng một lần bạch và ba lần tuyên cáo. ‘Bằng Tăng sự’ nghĩa là: bằng Tăng sự hợp Pháp, hợp Luật. ‘Không thể bác bỏ’ nghĩa là: do đầy đủ sự hoàn hảo về đối tượng, sự bạch, sự tuyên cáo, ranh giới (sīmā), và Tăng chúng, (Tăng sự đó) đã đạt đến trạng thái không thể làm cho dao động, không thể bị phản đối. ‘Xứng đáng với địa vị’ nghĩa là: xứng đáng với lý do, xứng đáng với giáo huấn của Bậc Đạo Sư. ‘Đã thọ Cụ túc giới’ (Upasampanno) là người đã đạt đến, đã chứng đắc trạng thái cao thượng; ý là vậy. Thật vậy, trạng thái Tỳ khưu là trạng thái cao thượng, và vì người đó đã đạt đến trạng thái đó bằng Tăng sự đã nói như trên, nên được gọi là ‘đã thọ Cụ túc giới’. Và ở đây, chỉ có Tăng sự bạch tứ là được đề cập đến. Nhưng đứng ở chỗ này, bốn loại Tăng sự cần được rút ra và nói một cách chi tiết; điều này đã được nói trong tất cả các Chú giải. Và những (Tăng sự) đó: ‘Tăng sự biểu quyết, Tăng sự bạch nhất, Tăng sự bạch nhị, Tăng sự bạch tứ’ được sắp xếp theo thứ tự, và đã được nói một cách chi tiết bằng cách trích dẫn Thánh điển Pāḷi từ các Hợp phần, từ phần cuối của Tập Yếu, và từ phần Phân tích Tăng sự. Những (Tăng sự) đó, chúng tôi sẽ chỉ giải thích trong phần Phân tích Tăng sự ở cuối phần Tập Yếu. Thật vậy, khi làm như vậy, phần giải thích về giới Bất Cộng Trụ thứ nhất sẽ không trở nên nặng nề; và phần giải thích Thánh điển Pāḷi theo như nó được xác lập sẽ trở nên dễ hiểu. Và những chỗ đó sẽ không bị bỏ trống; do đó, chúng ta chỉ làm phần giải thích theo từng từ.

Tatrāti tesu ‘‘bhikkhako’’tiādinā nayena vuttesu bhikkhūsu. Yvāyaṃ bhikkhūti yo ayaṃ bhikkhu. Samaggena saṅghena…pe… upasampannoti aṭṭhasu upasampadāsu ñatticatuttheneva kammena upasampanno. Ayaṃ imasmiṃ atthe adhippeto bhikkhūti ayaṃ imasmiṃ ‘‘methunaṃ dhammaṃ paṭisevitvā pārājiko hotī’’ti atthe ‘‘bhikkhū’’ti adhippeto. Itare pana ‘‘bhikkhako’’ti ādayo atthuddhāravasena vuttā. Tesu ca ‘‘bhikkhako’’ti ādayo niruttivasena vuttā, ‘‘samaññāya bhikkhu, paṭiññāya bhikkhū’’ti ime dve abhilāpavasena vuttā, ‘‘ehi bhikkhū’’ti buddhena upajjhāyena paṭiladdhaupasampadāvasena vutto. Saraṇagamanabhikkhu anuppannāya kammavācāya upasampadāvasena vutto, ‘‘bhadro’’tiādayo guṇavasena vuttāti veditabbā.
Trong số đó’ nghĩa là: trong số các Tỳ khưu đã được nói đến theo cách bắt đầu bằng ‘người khất thực’ v.v… ‘Vị Tỳ khưu này’ (Yvāyaṃ bhikkhu) nghĩa là: vị Tỳ khưu này. ‘Đã thọ Cụ túc giới… cho đến… bởi Tăng đoàn hòa hợp’ nghĩa là: trong tám loại thọ Cụ túc giới, (vị ấy) đã thọ Cụ túc giới chính bằng Tăng sự bạch tứ. ‘Vị Tỳ khưu này được hiểu trong ý nghĩa này’ nghĩa là: vị này được hiểu là ‘Tỳ khưu’ trong ý nghĩa ‘Thực hành dâm pháp thì phạm tội Bất Cộng Trụ’. Còn những (định nghĩa) khác như ‘người khất thực’ v.v… đã được nói theo cách trích dẫn ý nghĩa. Và trong số đó, (định nghĩa) ‘người khất thực’ v.v… đã được nói theo cách ngữ nguyên, hai (định nghĩa) này ‘Tỳ khưu do danh xưng, Tỳ khưu do sự tự nhận’ đã được nói theo cách gọi tên, ‘Tỳ khưu Thiện Lai’ đã được nói theo cách thọ Cụ túc giới do Đức Phật làm Thầy tế độ. Tỳ khưu (thọ giới) bằng cách quy y được nói theo cách thọ Cụ túc giới khi lời tác bạch (Tăng sự) chưa phát sinh, (các định nghĩa) ‘hiền thiện’ v.v… cần được hiểu là đã được nói theo cách phẩm chất.

Bhikkhupadabhājanīyaṃ niṭṭhitaṃ.

Phần Phân Tích Từ “Tỳ Khưu” đã kết thúc.

Sikkhāsājīvapadabhājanīyavaṇṇanā

Phần Giải Thích Về Phân Tích Từ “Học Giới và Đời Sống Chung”

Idāni ‘‘bhikkhūna’’nti idaṃ padaṃ visesatthābhāvato avibhajitvāva yaṃ sikkhañca sājīvañca samāpannattā bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno hoti, taṃ dassento sikkhātiādimāha. Tattha sikkhitabbāti sikkhā. Tissoti gaṇanaparicchedo . Adhisīlasikkhāti adhikaṃ uttamaṃ sīlanti adhisīlaṃ; adhisīlañca taṃ sikkhitabbato sikkhā cāti adhisīlasikkhā. Esa nayo adhicitta-adhipaññāsikkhāsu.
Bây giờ, từ ‘của các Tỳ khưu’ (bhikkhūnaṃ) này, do không có ý nghĩa đặc biệt, nên không phân tích, (mà) để chỉ ra điều gì, do đã thành tựu học giới và đời sống chung, mà (một người) trở thành người đã thành tựu học giới và đời sống chung của các Tỳ khưu, khi chỉ ra điều đó, (Kinh) nói: ‘Học giới’ (sikkhā) v.v… Ở đó, ‘học giới’ (sikkhā) là điều cần phải học. ‘Ba’ (tisso) là sự xác định số lượng. ‘Tăng thượng giới học’ nghĩa là: giới cao hơn, giới tối thượng là ‘tăng thượng giới’ (adhisīlaṃ); và tăng thượng giới đó, vì cần phải học nên cũng là học giới, (do đó gọi là) ‘tăng thượng giới học’. Đây cũng là phương pháp (hiểu) đối với tăng thượng tâm học và tăng thượng tuệ học.

Katamaṃ panettha sīlaṃ, katamaṃ adhisīlaṃ, katamaṃ cittaṃ, katamaṃ adhicittaṃ, katamā paññā, katamā adhipaññāti? Vuccate – pañcaṅgadasaṅgasīlaṃ tāva sīlameva. Tañhi buddhe uppannepi anuppannepi loke pavattati. Uppanne buddhe tasmiṃ sīle buddhāpi sāvakāpi mahājanaṃ samādapenti. Anuppanne buddhe paccekabuddhā ca kammavādino ca dhammikā samaṇabrāhmaṇā cakkavattī ca mahārājāno mahābodhisattā ca samādapenti. Sāmampi paṇḍitā samaṇabrāhmaṇā samādiyanti. Te taṃ kusalaṃ dhammaṃ paripūretvā devesu ca manussesu ca sampattiṃ anubhonti. Pātimokkhasaṃvarasīlaṃ pana ‘‘adhisīla’’nti vuccati, tañhi sūriyo viya pajjotānaṃ sineru viya pabbatānaṃ sabbalokiyasīlānaṃ adhikañceva uttamañca, buddhuppādeyeva ca pavattati, na vinā buddhuppādā. Na hi taṃ paññattiṃ uddharitvā añño satto ṭhapetuṃ sakkoti, buddhāyeva pana sabbaso kāyavacīdvāraajjhācārasotaṃ chinditvā tassa tassa vītikkamassa anucchavikaṃ taṃ sīlasaṃvaraṃ paññapenti. Pātimokkhasaṃvaratopi ca maggaphalasampayuttameva sīlaṃ adhisīlaṃ, taṃ pana idha anadhippetaṃ. Na hi taṃ samāpanno bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭisevati.
Ở đây, cái gì là giới, cái gì là tăng thượng giới, cái gì là tâm, cái gì là tăng thượng tâm, cái gì là tuệ, cái gì là tăng thượng tuệ? Được nói rằng: Năm giới và mười giới trước hết chính là giới. Thật vậy, (giới đó) tồn tại trên đời dù Đức Phật có xuất hiện hay không xuất hiện. Khi Đức Phật xuất hiện, các Đức Phật và các vị Thinh Văn cũng khuyến khích quần chúng giữ gìn giới đó. Khi Đức Phật không xuất hiện, các vị Độc Giác Phật, những người chủ trương về nghiệp, các vị Sa môn Bà la môn sống đúng pháp, các vị Chuyển luân vương, các vị Đại vương, và các vị Đại Bồ tát cũng khuyến khích (giữ gìn giới đó). Ngay cả các bậc hiền trí Sa môn Bà la môn cũng tự mình thọ trì (giới đó). Họ, sau khi hoàn thiện pháp thiện đó, hưởng thụ tài sản ở cõi trời và cõi người. Nhưng giới phòng hộ Giới Bổn Pātimokkha được gọi là ‘tăng thượng giới’, thật vậy, (giới đó) cao hơn và tối thượng hơn tất cả các giới thế gian, giống như mặt trời đối với các vật phát sáng, giống như núi Sineru đối với các ngọn núi, và (giới đó) chỉ tồn tại khi Đức Phật xuất hiện, không có nếu không có sự xuất hiện của Đức Phật. Thật vậy, không một chúng sinh nào khác có thể nêu lên sự chế định đó và thiết lập nó, mà chỉ có các Đức Phật, sau khi hoàn toàn cắt đứt dòng chảy của sự phạm lỗi qua cửa thân và lời nói, mới chế định sự phòng hộ bằng giới đó, vốn thích hợp với mỗi sự vi phạm ấy. Và giới tương ưng với Đạo và Quả cũng là tăng thượng giới hơn cả giới phòng hộ Giới Bổn Pātimokkha, nhưng điều đó không được hiểu ở đây. Thật vậy, vị Tỳ khưu đã thành tựu (giới siêu thế) đó không thực hành dâm pháp.

Kāmāvacarāni pana aṭṭha kusalacittāni, lokiyaaṭṭhasamāpatticittāni ca ekajjhaṃ katvā cittamevāti veditabbāni. Buddhuppādānuppāde cassa pavatti, samādapanaṃ samādānañca sīle vuttanayeneva veditabbaṃ. Vipassanāpādakaṃ aṭṭhasamāpatticittaṃ pana ‘‘adhicitta’’nti vuccati. Tañhi adhisīlaṃ viya sīlānaṃ sabbalokiyacittānaṃ adhikañceva uttamañca, buddhuppādeyeva ca hoti, na vinā buddhuppādā. Tatopi ca maggaphalacittameva adhicittaṃ, taṃ pana idha anadhippetaṃ. Na hi taṃ samāpanno bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭisevati.
Nhưng tám thiện tâm Dục giới và các tâm của tám Thiền định thế gian, gộp chung lại, cần được hiểu chính là tâm. Sự tồn tại của nó (tâm) có mặt dù Đức Phật xuất hiện hay không xuất hiện, việc khuyến khích và việc thọ trì (tâm) cần được hiểu theo cách đã nói đối với giới. Nhưng tâm của tám Thiền định làm nền tảng cho tuệ quán được gọi là ‘tăng thượng tâm’. Thật vậy, (tâm đó) cao hơn và tối thượng hơn tất cả các tâm thế gian, giống như tăng thượng giới (cao hơn và tối thượng hơn) các giới (thế gian), và (tâm đó) chỉ có khi Đức Phật xuất hiện, không có nếu không có sự xuất hiện của Đức Phật. Và tâm Đạo và Quả cũng là tăng thượng tâm hơn cả (tâm Thiền định làm nền tảng cho tuệ quán), nhưng điều đó không được hiểu ở đây. Thật vậy, vị Tỳ khưu đã thành tựu (tâm siêu thế) đó không thực hành dâm pháp.

‘‘Atthi dinnaṃ, atthi yiṭṭha’’nti (dha. sa. 1371; vibha. 793; ma. ni. 3.92) -ādinayappavattaṃ pana kammassakatañāṇaṃ paññā, sā hi buddhe uppannepi anuppannepi loke pavattati. Uppanne buddhe tassā paññāya buddhāpi buddhasāvakāpi mahājanaṃ samādapenti. Anuppanne buddhe paccekabuddhā ca kammavādino ca dhammikā samaṇabrāhmaṇā cakkavattī ca mahārājāno mahābodhisattā ca samādapenti. Sāmampi paṇḍitā sattā samādiyanti. Tathā hi aṅkuro dasavassasahassāni mahādānaṃ adāsi. Velāmo, vessantaro, aññe ca bahū paṇḍitamanussā mahādānāni adaṃsu. Te taṃ kusalaṃ dhammaṃ paripūretvā devesu ca manussesu ca sampattiṃ anubhaviṃsu. Tilakkhaṇākāraparicchedakaṃ pana vipassanāñāṇaṃ ‘‘adhipaññā’’ti vuccati. Sā hi adhisīla-adhicittāni viya sīlacittānaṃ sabbalokiyapaññānaṃ adhikā ceva uttamā ca, na ca vinā buddhuppādā loke pavattati. Tatopi ca maggaphalapaññāva adhipaññā, sā pana idha anadhippetā. Na hi taṃ samāpanno bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭisevatīti.
Nhưng trí tuệ về nghiệp và quả của nghiệp, vốn diễn tiến theo phương pháp bắt đầu bằng ‘Có sự bố thí, có sự cúng dường’ (dha. sa. 1371; vibha. 793; ma. ni. 3.92), (đó) là tuệ, thật vậy, (tuệ đó) tồn tại trên đời dù Đức Phật có xuất hiện hay không xuất hiện. Khi Đức Phật xuất hiện, các Đức Phật và các vị Thinh Văn cũng khuyến khích quần chúng (thực hành) tuệ đó. Khi Đức Phật không xuất hiện, các vị Độc Giác Phật, những người chủ trương về nghiệp, các vị Sa môn Bà la môn sống đúng pháp, các vị Chuyển luân vương, các vị Đại vương, và các vị Đại Bồ tát cũng khuyến khích (thực hành tuệ đó). Ngay cả các chúng sinh hiền trí cũng tự mình thọ trì (tuệ đó). Thật vậy, ví như Aṅkura đã thực hiện đại thí trong mười ngàn năm. Velāma, Vessantara, và nhiều người hiền trí khác cũng đã thực hiện các cuộc đại thí. Họ, sau khi hoàn thiện pháp thiện đó, đã hưởng thụ tài sản ở cõi trời và cõi người. Nhưng trí tuệ quán xét, có khả năng phân biệt các tướng của Tam tướng, được gọi là ‘tăng thượng tuệ’. Thật vậy, (tuệ đó) cao hơn và tối thượng hơn tất cả các tuệ thế gian, giống như tăng thượng giới và tăng thượng tâm (cao hơn và tối thượng hơn) giới và tâm (thế gian), và (tuệ đó) không tồn tại trên đời nếu không có sự xuất hiện của Đức Phật. Và tuệ Đạo và Quả cũng là tăng thượng tuệ hơn cả (tuệ quán), nhưng điều đó không được hiểu ở đây. Thật vậy, vị Tỳ khưu đã thành tựu (tuệ siêu thế) đó không thực hành dâm pháp.

Tatrāti tāsu tīsu sikkhāsu. Yāyaṃ adhisīlasikkhāti yā ayaṃ pātimokkhasīlasaṅkhātā adhisīlasikkhā. Etaṃ sājīvaṃ nāmāti etaṃ sabbampi bhagavatā vinaye ṭhapitaṃ sikkhāpadaṃ, yasmā ettha nānādesajātigottādibhedabhinnā bhikkhū saha jīvanti ekajīvikā sabhāgajīvikā sabhāgavuttino honti, tasmā ‘‘sājīva’’nti vuccati. Tasmiṃ sikkhatīti taṃ sikkhāpadaṃ cittassa adhikaraṇaṃ katvā ‘‘yathāsikkhāpadaṃ nu kho sikkhāmi na sikkhāmī’’ti cittena olokento sikkhati. Na kevalañcāyametasmiṃ sājīvasaṅkhāte sikkhāpadeyeva sikkhati, sikkhāyapi sikkhati, ‘‘etaṃ sājīvaṃ nāmā’’ti imassa pana anantarassa padassa vasena ‘‘tasmiṃ sikkhatī’’ti vuttaṃ. Kiñcāpi taṃ evaṃ vuttaṃ, atha kho ayamettha attho daṭṭhabbo – tassā ca sikkhāya sikkhaṃ paripūrento sikkhati, tasmiñca sikkhāpade avītikkamanto sikkhatīti. Tena vuccati sājīvasamāpannoti idampi anantarassa sājīvapadasseva vasena vuttaṃ. Yasmā pana so sikkhampi samāpanno, tasmā sikkhāsamāpannotipi atthato veditabbo. Evañhi sati ‘‘sikkhāsājīvasamāpanno’’ti etassa padassa padabhājanampi paripuṇṇaṃ hoti.
Trong đó’ nghĩa là: trong ba học giới đó. ‘Tăng thượng giới học này’ nghĩa là: tăng thượng giới học này được gọi là giới Giới Bổn Pātimokkha. ‘Điều này gọi là đời sống chung’ nghĩa là: tất cả học giới này đã được Đức Thế Tôn thiết lập trong Luật, vì ở đây các Tỳ khưu khác nhau về xứ sở, dòng dõi, họ tộc v.v… cùng sống chung, có cùng một đời sống, cùng chia sẻ đời sống, cùng có cách hành xử, do đó được gọi là ‘đời sống chung’. ‘Học trong đó’ nghĩa là: lấy học giới đó làm đối tượng của tâm, (vị ấy) học bằng cách xem xét bằng tâm rằng ‘Ta có học theo đúng học giới hay không học?’ Và không chỉ vị ấy học trong học giới được gọi là đời sống chung này, mà cũng học trong (chính) sự học, nhưng do từ đứng ngay sau ‘Điều này gọi là đời sống chung’ mà (câu) ‘học trong đó’ đã được nói. Mặc dù điều đó được nói như vậy, nhưng ở đây cần hiểu ý nghĩa này: (vị ấy) học bằng cách hoàn thiện sự học của học giới đó, và học bằng cách không vi phạm học giới đó. ‘Do đó được gọi là người đã thành tựu đời sống chung’ – điều này cũng được nói do từ ‘đời sống chung’ đứng ngay trước. Nhưng vì vị ấy cũng đã thành tựu sự học, do đó cũng cần hiểu theo nghĩa là ‘người đã thành tựu sự học’. Thật vậy, khi (hiểu) như vậy, thì sự phân tích từ của từ ‘người đã thành tựu học giới và đời sống chung’ (sikkhāsājīvasamāpanno) cũng trở nên trọn vẹn.

Sikkhāsājīvapadabhājanīyaṃ niṭṭhitaṃ.

Phần Phân Tích Từ “Học Giới và Đời Sống Chung” đã kết thúc.

Sikkhāpaccakkhānavibhaṅgavaṇṇanā

Phần Giải Thích Về Phân Tích Sự Xả Giới

Sikkhaṃappaccakkhāya dubbalyaṃ anāvikatvāti sikkhañca appaṭikkhipitvā dubbalabhāvañca appakāsetvā. Yasmā ca dubbalye āvikatepi sikkhā appaccakkhātāva hoti, sikkhāya pana paccakkhātāya dubbalyaṃ āvikatameva hoti. Tasmā ‘‘dubbalyaṃ anāvikatvā’’ti iminā padena na koci visesattho labbhati. Yathā pana ‘‘dirattatirattaṃ sahaseyyaṃ kappeyyā’’ti vutte dirattavacanena na koci visesattho labbhati, kevalaṃ lokavohāravasena byañjanasiliṭṭhatāya mukhārūḷhatāya etaṃ vuttaṃ. Evamidampi vohāravasena byañjanasiliṭṭhatāya mukhārūḷhatāya vuttanti veditabbaṃ.
Không xả giới và không tuyên bố sự yếu kém’ nghĩa là: không từ bỏ học giới và không công khai trạng thái yếu kém. Và vì ngay cả khi sự yếu kém đã được công khai, học giới vẫn chưa bị xả bỏ, nhưng khi học giới đã bị xả bỏ, thì sự yếu kém đương nhiên đã được công khai. Do đó, với từ ‘không tuyên bố sự yếu kém’ này, không có ý nghĩa đặc biệt nào được mang lại. Nhưng ví như khi nói ‘Nên ngủ chung hai ba đêm’, với lời nói ‘hai đêm’ không có ý nghĩa đặc biệt nào được mang lại, (mà) điều đó chỉ được nói theo cách gọi thông thường của thế gian, do sự trôi chảy của văn tự, do sự quen miệng. Điều này cũng vậy, cần hiểu là được nói theo cách gọi thông thường, do sự trôi chảy của văn tự, do sự quen miệng.

Yasmā vā bhagavā sātthaṃ sabyañjanaṃ dhammaṃ deseti, tasmā ‘‘sikkhaṃ appaccakkhāyā’’ti iminā atthaṃ sampādetvā ‘‘dubbalyaṃ anāvikatvā’’ti iminā byañjanaṃ sampādeti. Parivārakapadavirahitañhi ekameva atthapadaṃ vuccamānaṃ parivāravirahito rājā viya, vatthālaṅkāravirahito viya ca puriso na sobhati; parivārakena pana atthānulomena sahāyapadena saddhiṃ taṃ sobhatīti.
Hoặc vì Đức Thế Tôn thuyết Pháp có ý nghĩa và có văn tự, do đó, sau khi hoàn thiện ý nghĩa bằng từ ‘không xả giới’, (Ngài) hoàn thiện văn tự bằng từ ‘không tuyên bố sự yếu kém’. Thật vậy, một từ có ý nghĩa duy nhất khi được nói mà không có từ phụ trợ, thì không đẹp, giống như vị vua không có tùy tùng, hay giống như người không có y phục và trang sức; nhưng cùng với từ phụ trợ, từ bạn bè tùy thuận ý nghĩa, thì nó trở nên đẹp đẽ.

Yasmā vā sikkhāpaccakkhānassa ekaccaṃ dubbalyāvikammaṃ attho hoti, tasmā taṃ sandhāya ‘‘sikkhaṃ appaccakkhāyā’’tipadassa atthaṃ vivaranto ‘‘dubbalyaṃ anāvikatvā’’ti āha.
Hoặc vì một số sự tuyên bố yếu kém có ý nghĩa là xả giới, do đó, nhắm đến điều đó, khi giải thích ý nghĩa của từ ‘không xả giới’, (Kinh) nói ‘không tuyên bố sự yếu kém’.

Tattha siyā yasmā na sabbaṃ dubbalyāvikammaṃ sikkhāpaccakkhānaṃ, tasmā ‘‘dubbalyaṃ anāvikatvā’’ti paṭhamaṃ vatvā tassa atthaniyamanatthaṃ ‘‘sikkhaṃ appaccakkhāyā’’ti vattabbanti, tañca na; kasmā? Atthānukkamābhāvato. ‘‘Sikkhāsājīvasamāpanno’’ti hi vuttattā yaṃ sikkhaṃ samāpanno, taṃ appaccakkhāyāti vuccamāno anukkameneva attho vutto hoti, na aññathā. Tasmā idameva paṭhamaṃ vuttanti.
Ở đó, có thể (có ý kiến rằng): vì không phải tất cả sự tuyên bố yếu kém đều là xả giới, do đó, sau khi nói ‘không tuyên bố sự yếu kém’ trước, để xác định ý nghĩa của nó, (Kinh) nên nói ‘không xả giới’, nhưng điều đó không đúng; tại sao? Vì không có sự theo tuần tự ý nghĩa. Thật vậy, vì đã được nói ‘người đã thành tựu học giới và đời sống chung’, nên khi nói rằng không xả bỏ học giới mà vị ấy đã thành tựu, thì ý nghĩa được nói theo đúng tuần tự, không phải cách khác. Do đó, chính điều này (không xả giới) đã được nói trước.

Apica anupaṭipāṭiyāpi ettha attho veditabbo. Kathaṃ? ‘‘Sikkhāsājīvasamāpanno’’ti ettha yaṃ sikkhaṃ samāpanno taṃ appaccakkhāya yañca sājīvaṃ samāpanno tattha dubbalyaṃ anāvikatvāti.
Hơn nữa, ở đây cũng cần hiểu ý nghĩa theo cách không theo tuần tự. Bằng cách nào? Ở đây, trong câu ‘người đã thành tựu học giới và đời sống chung’, (có nghĩa là) không xả bỏ học giới mà vị ấy đã thành tựu, và không tuyên bố sự yếu kém trong đời sống chung mà vị ấy đã thành tựu.

Idāni sikkhāpaccakkhānadubbalyāvikammānaṃ visesāvisesaṃ sikkhāpaccakkhānalakkhaṇañca dassento ‘‘atthi bhikkhave’’tiādimāha. Tattha atthi bhikkhavetiādīni dve mātikāpadāni; tāni vibhajanto ‘‘kathañca bhikkhave’’tiādimāha. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā – kathanti kena ākārena. Dubbalyāvikammañcāti dubbalyassa āvikammañca. Idhāti imasmiṃ sāsane. Ukkaṇṭhitoti anabhiratiyā imasmiṃ sāsane kicchajīvikappatto. Atha vā ajja yāmi, sve yāmi, ito yāmi, ettha yāmīti uddhaṃ kaṇṭhaṃ katvā viharamāno, vikkhitto anekaggoti vuttaṃ hoti. Anabhiratoti sāsane abhirativirahito.
Bây giờ, để chỉ ra sự khác biệt và không khác biệt giữa việc xả giới và việc tuyên bố sự yếu kém, và đặc điểm của việc xả giới, (Đức Phật) nói: ‘Này các Tỳ khưu, có’ v.v… Ở đó, ‘Này các Tỳ khưu, có’ v.v… là hai đề mục; khi phân tích những (đề mục) đó, (Đức Phật) nói: ‘Và này các Tỳ khưu, như thế nào’ v.v… Ở đó, đây là sự giải thích các từ không rõ nghĩa: ‘Như thế nào’ (kathaṃ) nghĩa là: bằng hình thức nào. ‘Và sự tuyên bố yếu kém’ (Dubbalyāvikammañca) nghĩa là: và sự công khai sự yếu kém. ‘Ở đây’ (Idhā) nghĩa là: trong giáo pháp này. ‘Chán nản’ (Ukkaṇṭhito) nghĩa là: do không ưa thích, đã đạt đến đời sống khó khăn trong giáo pháp này. Hoặc (người) sống với cổ ngẩng cao (nhìn quanh) rằng: ‘Hôm nay ta đi, ngày mai ta đi, ta đi từ đây, ta đi đến đó’, được nói là: (tâm) bị phân tán, không chuyên nhất. ‘Không ưa thích’ (Anabhirato) nghĩa là: không có sự ưa thích trong giáo pháp.

Sāmaññā cavitukāmoti samaṇabhāvato apagantukāmo. Bhikkhubhāvanti bhikkhubhāvena. Karaṇatthe upayogavacanaṃ. ‘‘Kaṇṭhe āsattena aṭṭīyeyyā’’tiādīsu (pārā. 162) pana yathālakkhaṇaṃ karaṇavacaneneva vuttaṃ. Aṭṭīyamānoti aṭṭaṃ pīḷitaṃ dukkhitaṃ viya attānaṃ ācaramāno; tena vā bhikkhubhāvena aṭṭo kariyamāno pīḷiyamānoti attho. Harāyamānoti lajjamāno. Jigucchamānoti asuciṃ viya taṃ jigucchanto. Gihibhāvaṃ patthayamānotiādīni uttānatthāniyeva. Yaṃnūnāhaṃ buddhaṃ paccakkheyyanti ettha yaṃnūnāti parivitakkadassane nipāto. Idaṃ vuttaṃ hoti – ‘‘sacāhaṃ buddhaṃ paccakkheyyaṃ, sādhu vata me siyā’’ti. Vadati viññāpetīti imamatthaṃ etehi vā aññehi vā byañjanehi vacībhedaṃ katvā vadati ceva, yassa ca vadati, taṃ viññāpeti jānāpeti. Evampīti uparimatthasampiṇḍanatto pikāro. Evampi dubbalyāvikammañceva hoti sikkhā ca appaccakkhātā, aññathāpi.
Muốn từ bỏ đời sống Sa môn’ nghĩa là: muốn từ bỏ trạng thái Sa môn. ‘Trạng thái Tỳ khưu’ (Bhikkhubhāva) nghĩa là: bằng trạng thái Tỳ khưu. (Đây là) sử dụng cách với nghĩa công cụ cách. Nhưng trong các (câu) như ‘Nên bị phiền muộn bởi (vật) treo ở cổ’ v.v… (pārā. 162), thì đã được nói bằng công cụ cách theo đúng đặc điểm. ‘Bị phiền muộn’ nghĩa là: tự hành xử như người bị áp bức, bị đau khổ; hoặc có nghĩa là: bị làm cho đau khổ, bị áp bức bởi trạng thái Tỳ khưu đó. ‘Cảm thấy hổ thẹn’ nghĩa là: xấu hổ. ‘Cảm thấy ghê tởm’ nghĩa là: ghê tởm điều đó như vật bất tịnh. ‘Mong muốn đời sống tại gia’ v.v… đều có ý nghĩa rõ ràng. ‘Giá mà ta từ bỏ Đức Phật’: ở đây, ‘yaṃnūnā’ (giá mà) là một tiểu từ chỉ sự suy xét. Điều này được nói là: ‘Nếu ta từ bỏ Đức Phật, thì tốt cho ta thay’. ‘Nói, làm cho biết’ nghĩa là: nói ý nghĩa này bằng những văn tự này hay những văn tự khác, tạo ra sự khác biệt về lời nói, và làm cho người mà mình nói biết được, hiểu được. ‘Cũng như vậy’ (Evampi) – âm ‘pi’ (cũng) là để tóm tắt ý nghĩa ở trên. Cũng như vậy, (đó) vừa là sự tuyên bố yếu kém, vừa là học giới chưa bị xả bỏ, và cũng (có thể) theo cách khác nữa.

Idāni taṃ aññathāpi dubbalyāvikammaṃ sikkhāya ca appaccakkhānaṃ dassento ‘‘atha vā panā’’tiādimāha. Taṃ sabbaṃ atthato uttānameva. Padato panettha ādito paṭṭhāya ‘‘buddhaṃ paccakkheyyaṃ, dhammaṃ, saṅghaṃ, sikkhaṃ, vinayaṃ, pātimokkhaṃ, uddesaṃ, upajjhāyaṃ, ācariyaṃ, saddhivihārikaṃ, antevāsikaṃ, samānupajjhāyakaṃ, samānācariyakaṃ, sabrahmacāriṃ paccakkheyya’’nti imāni cuddasa padāni paccakkhānākārena vuttāni.
Bây giờ, để chỉ ra cách khác nữa của sự tuyên bố yếu kém và sự chưa xả bỏ học giới, (Đức Phật) nói: ‘Hoặc là’ v.v… Tất cả những điều đó đều có ý nghĩa rõ ràng. Về từ ngữ, ở đây, bắt đầu từ đầu, ‘Con xin từ bỏ Phật, Pháp, Tăng, học giới, Luật, Giới Bổn Pātimokkha, sự học thuộc, Thầy tế độ, Thầy dạy, đệ tử cùng ở, đệ tử nội trú, bạn đồng thầy tế độ, bạn đồng thầy dạy, bạn đồng phạm hạnh’ – mười bốn từ này đã được nói theo hình thức xả bỏ.

Gihī assantiādīni ‘‘gihī, upāsako, ārāmiko, sāmaṇero, titthiyo, titthiyasāvako, assamaṇo, asakyaputtiyo assa’’nti imāni aṭṭha padāni ‘‘assa’’nti iminā bhāvavikappākārena vuttāni. Evaṃ ‘‘yaṃnūnāha’’nti iminā paṭisaṃyuttāni dvāvīsati padāni.
Con là người tại gia’ v.v… tám từ này: ‘Con là người tại gia, là cận sự nam, là người coi sóc tịnh xá, là Sa di, là ngoại đạo, là đệ tử ngoại đạo, không phải Sa môn, không phải Thích tử’, đã được nói theo hình thức lựa chọn trạng thái bằng từ ‘con là’ (assa). Như vậy, có hai mươi hai từ liên kết với (cụm từ) ‘giá mà ta’.

46. Yathā ca etāni, evaṃ ‘‘yadi panāhaṃ, apāhaṃ, handāhaṃ, hoti me’’ti imesu ekamekena paṭisaṃyuttāni dvāvīsatīti sabbāneva satañca dasa ca padāni honti.
46. Và cũng như những (từ) này, cũng vậy, (khi) mỗi một (cụm từ) trong các (cụm từ) này: ‘Nếu như ta’, ‘Mong rằng ta’, ‘Thôi thì ta’, ‘Đối với ta có ý nghĩ’ được liên kết với hai mươi hai từ (ở trên), thì tất cả thành một trăm mười từ.

47. Tato paraṃ saritabbavatthudassananayena pavattāni ‘‘mātaraṃ sarāmī’’tiādīni sattarasa padāni. Tattha khettanti sālikhettādiṃ. Vatthunti tiṇapaṇṇasākaphalāphalasamuṭṭhānaṭṭhānaṃ. Sippanti kumbhakārapesakārasippādikaṃ.
47. Sau đó, (có) mười bảy từ được diễn tiến theo phương pháp chỉ ra các đối tượng đáng nhớ, bắt đầu bằng ‘Con nhớ mẹ’ v.v… Ở đó, ‘ruộng’ (khettaṃ) nghĩa là: ruộng lúa v.v… ‘Đất đai’ (Vatthuṃ) nghĩa là: nơi phát sinh cỏ, lá, rau, trái cây có thể ăn được và không thể ăn được. ‘Nghề nghiệp’ (Sippaṃ) nghĩa là: nghề làm đồ gốm, nghề dệt v.v…

48. Tato paraṃ sakiñcanasapalibodhabhāvadassanavasena pavattāni ‘‘mātā me atthi, sā mayā posetabbā’’tiādīni nava padāni.
48. Sau đó, (có) chín từ được diễn tiến theo phương pháp chỉ ra trạng thái có của cải, có sự ràng buộc, bắt đầu bằng ‘Con có mẹ, con phải nuôi mẹ’ v.v…

49. Tato paraṃ sanissayasappatiṭṭhabhāvadassanavasena pavattāni ‘‘mātā me atthi, sā maṃ posessatī’’tiādīni soḷasa padāni.
49. Sau đó, (có) mười sáu từ được diễn tiến theo phương pháp chỉ ra trạng thái có nơi nương tựa, có chỗ dựa, bắt đầu bằng ‘Con có mẹ, mẹ sẽ nuôi con’ v.v…

50. Tato paraṃ ekabhattaekaseyyabrahmacariyānaṃ dukkarabhāvadassanavasena pavattāni ‘‘dukkara’’ntiādīni aṭṭha padāni.
50. Sau đó, (có) tám từ được diễn tiến theo phương pháp chỉ ra tính chất khó thực hành của đời sống phạm hạnh một bữa, một chỗ ngủ, bắt đầu bằng ‘Khó thực hành’ v.v…

Tattha dukkaranti ekabhattādīnaṃ karaṇe dukkarataṃ dasseti. Na sukaranti sukarabhāvaṃ paṭikkhipati. Evaṃ duccaraṃ na sucaranti ettha. Na ussahāmīti tattha ussāhābhāvaṃ asakkuṇeyyataṃ dasseti. Na visahāmīti asayhataṃ dasseti. Na ramāmīti ratiyā abhāvaṃ dasseti. Nābhiramāmīti abhiratiyā abhāvaṃ dasseti. Evaṃ imāni ca paññāsa, purimāni ca dasuttarasatanti saṭṭhisataṃ padāni dubbalyāvikammavāre vuttānīti veditabbāni.
Ở đó, (cụm từ) khó làm chỉ sự khó khăn trong việc thực hiện những điều như ăn một bữa. (Cụm từ) Không dễ làm phủ nhận tính dễ làm. Tương tự như vậy, ở đây (cũng có nghĩa là) khó thực hành, không dễ thực hành. (Cụm từ) Tôi không cố gắng ở đó chỉ sự không có nỗ lực, sự không có khả năng làm được. (Cụm từ) Tôi không kham nổi chỉ sự không thể chịu đựng nổi. (Cụm từ) Tôi không thích thú chỉ sự không có thích thú. (Cụm từ) Tôi không hoàn toàn thích thú chỉ sự không có sự vui thích trọn vẹn. Như vậy, năm mươi cụm từ này và một trăm mười cụm từ trước đó, (tức là) một trăm sáu mươi cụm từ, cần được hiểu là đã được trình bày trong chương về việc bày tỏ sự yếu đuối.

51. Sikkhāpaccakkhānavārepi ‘‘kathañca bhikkhave’’ti ādi sabbaṃ atthato uttānameva. Padato panetthāpi ‘‘buddhaṃ paccakkhāmi, dhammaṃ, saṅghaṃ, sikkhaṃ, vinayaṃ, pātimokkhaṃ, uddesaṃ, upajjhāyaṃ, ācariyaṃ, saddhivihārikaṃ, antevāsikaṃ, samānupajjhāyakaṃ, samānācariyakaṃ, sabrahmacāriṃ paccakkhāmī’’ti imāni cuddasa padāni sikkhāpaccakkhānavacanasambandhena pavattāni. Sabbapadesu ca ‘‘vadati viññāpetī’’ti vacanassa ayamattho – vacībhedaṃ katvā vadati, yassa ca vadati taṃ teneva vacībhedena ‘‘ayaṃ sāsanaṃ jahitukāmo sāsanato muccitukāmo bhikkhubhāvaṃ cajitukāmo imaṃ vākyabhedaṃ karotī’’ti viññāpeti sāveti jānāpeti.
51. Cũng trong chương về việc từ bỏ học giới, (đoạn) bắt đầu bằng “Này các Tỳ khưu, làm thế nào…” tất cả đều đã rõ ràng về ý nghĩa. Nhưng ở đây, về mặt từ ngữ, mười bốn cụm từ này: “Tôi từ bỏ Phật, (tôi từ bỏ) Pháp, (tôi từ bỏ) Tăng, (tôi từ bỏ) học giới, (tôi từ bỏ) Luật, (tôi từ bỏ) Giới Bổn Pātimokkha, (tôi từ bỏ) sự đề cập, (tôi từ bỏ) thầy tế độ (Hòa thượng), (tôi từ bỏ) thầy dạy dỗ (A-xà-lê), (tôi từ bỏ) bạn đồng trú, (tôi từ bỏ) đệ tử, (tôi từ bỏ) người cùng thầy tế độ, (tôi từ bỏ) người cùng thầy dạy dỗ, (tôi từ bỏ) bạn đồng phạm hạnh” đã phát khởi liên quan đến lời nói từ bỏ học giới. Và trong tất cả các cụm từ, ý nghĩa của lời “nói, làm cho hiểu” là thế này: y nói bằng cách tạo ra sự phân biệt lời nói (nói rõ ràng), và người mà y nói, y làm cho người đó hiểu bằng chính sự phân biệt lời nói ấy rằng: “Người này muốn từ bỏ giáo pháp, muốn thoát khỏi giáo pháp, muốn từ bỏ thân phận Tỳ khưu, (nên đã) thực hiện sự phân biệt câu nói này,” (như vậy là y) làm cho hiểu, làm cho nghe, làm cho biết.

Sace panāyaṃ ‘‘buddhaṃ paccakkhāmī’’ti vattukāmo padapaccābhaṭṭhaṃ katvā ‘‘paccakkhāmi buddha’’nti vā vadeyya. Milakkhabhāsāsu vā aññatarabhāsāya tamatthaṃ vadeyya. ‘‘Buddhaṃ paccakkhāmī’’ti vattukāmo uppaṭipāṭiyā ‘‘dhammaṃ paccakkhāmī’’ti vā ‘‘sabrahmacāriṃ paccakkhāmī’’ti vā vadeyya, seyyathāpi uttarimanussadhammavibhaṅge ‘‘paṭhamaṃ jhānaṃ samāpajjāmī’’ti vattukāmo ‘‘dutiyaṃ jhāna’’nti vadati, sace yassa vadati so ‘‘ayaṃ bhikkhubhāvaṃ cajitukāmo etamatthaṃ vadatī’’ti ettakamattampi jānāti, viraddhaṃ nāma natthi; khettameva otiṇṇaṃ, paccakkhātāva hoti sikkhā. Sakkattā vā brahmattā vā cutasatto viya cutova hoti sāsanā.
Nhưng nếu người này, muốn nói “tôi từ bỏ Phật”, lại nói đảo từ thành “từ bỏ Phật tôi”, hoặc nói ý nghĩa đó bằng một trong các ngôn ngữ ngoại quốc; hoặc muốn nói “tôi từ bỏ Phật” nhưng lại nói sai thứ tự thành “tôi từ bỏ Pháp” hay “tôi từ bỏ bạn đồng phạm hạnh” – cũng như trong Phân tích về pháp thượng nhân, người muốn nói “tôi nhập thiền thứ nhất” lại nói “thiền thứ hai” – nếu người mà y nói biết được dù chỉ chừng ấy rằng “người này muốn từ bỏ thân phận Tỳ khưu nên nói với ý nghĩa này”, thì không có gì gọi là sai sót; đã rơi vào đúng trường hợp, học giới đã được từ bỏ. Y bị loại khỏi giáo pháp giống như một chúng sinh bị rơi khỏi cõi trời Đế Thích hoặc cõi trời Phạm Thiên vậy.

Sace pana ‘‘buddhaṃ paccakkhi’’nti vā, ‘‘buddhaṃ paccakkhissāmī’’ti vā, ‘‘buddhaṃ paccakkheyya’’nti vāti atītānāgataparikappavacanehi vadati, dūtaṃ vā pahiṇāti, sāsanaṃ vā peseti, akkharaṃ vā chindati, hatthamuddāya vā tamatthaṃ āroceti, appaccakkhātā hoti sikkhā. Uttarimanussadhammārocanaṃ pana hatthamuddāyapi sīsaṃ eti. Sikkhāpaccakkhānaṃ manussajātikasattassa santike cittasampayuttaṃ vacībhedaṃ karontasseva sīsaṃ eti. Vacībhedaṃ katvā viññāpentopi ca yadi ‘‘ayameva jānātū’’ti ekaṃ niyametvā āroceti, tañca soyeva jānāti, paccakkhātā hoti sikkhā. Atha so na jānāti, añño samīpe ṭhito jānāti, appaccakkhātā hoti sikkhā. Atha dvinnaṃ ṭhitaṭṭhāne dvinnampi niyametvā ‘‘etesaṃ ārocemī’’ti vadati, tesu ekasmiṃ jānantepi dvīsu jānantesupi paccakkhātāva hoti sikkhā. Evaṃ sambahulesupi veditabbaṃ.
Nhưng nếu y nói bằng những lời thuộc về quá khứ, tương lai hoặc giả định như: “đã từ bỏ Phật”, hoặc “sẽ từ bỏ Phật”, hoặc “nên từ bỏ Phật”; hoặc y sai sứ giả, hoặc gửi thư tín, hoặc viết chữ, hoặc thông báo ý nghĩa đó bằng cử chỉ tay, thì học giới chưa được từ bỏ. Tuy nhiên, việc thông báo pháp thượng nhân thì thành tựu được cả bằng cử chỉ tay. Việc từ bỏ học giới chỉ thành tựu đối với người thực hiện sự phân biệt lời nói (nói rõ ràng) có tâm tương ưng, trước mặt một chúng sinh thuộc loài người. Và ngay cả khi làm cho hiểu bằng cách nói rõ ràng, nếu y thông báo cho một người, xác định rằng “chỉ người này biết thôi”, và chỉ người đó biết, thì học giới đã được từ bỏ. Nếu người đó không biết, mà một người khác đứng gần đó biết, thì học giới chưa được từ bỏ. Nếu ở chỗ có hai người đứng, y xác định cả hai và nói “tôi thông báo cho những người này”, thì trong số họ, dù một người biết hoặc cả hai người biết, học giới vẫn được xem là đã từ bỏ. Cũng cần hiểu như vậy trong trường hợp có nhiều người.

Sace pana anabhiratiyā pīḷito sabhāge bhikkhū parisaṅkamāno ‘‘yo koci jānātū’’ti uccasaddaṃ karonto ‘‘buddhaṃ paccakkhāmī’’ti vadati, tañca avidūre ṭhito navakammiko vā añño vā samayaññū puriso sutvā ‘‘ukkaṇṭhito ayaṃ samaṇo gihibhāvaṃ pattheti, sāsanato cuto’’ti jānāti, paccakkhātāva hoti sikkhā. Taṅkhaṇaññeva pana apubbaṃ acarimaṃ dujjānaṃ, sace āvajjanasamaye jānāti; yathā pakatiyā loke manussā vacanaṃ sutvā jānanti, paccakkhātā hoti sikkhā. Atha aparabhāge ‘‘kiṃ iminā vutta’’nti kaṅkhanto cirena jānāti, appaccakkhātā hoti sikkhā. Idañhi sikkhāpaccakkhānañca upari abhūtārocanaduṭṭhullavācā-attakāmaduṭṭhadosabhūtā-rocanasikkhāpadāni ca ekaparicchedāni. Āvajjanasamaye ñāte eva sīsaṃ enti, ‘‘kiṃ ayaṃ bhaṇatī’’ti kaṅkhatā cirena ñāte sīsaṃ na enti. Yathā cāyaṃ ‘‘buddhaṃ paccakkhāmī’’ti pade vinicchaye vutto; evaṃ sabbapadesu veditabbo.
Nhưng nếu bị bức bách do không thích thú, y đi đến gần các Tỳ khưu đồng bạn, nói lớn tiếng rằng “ai đó hãy biết cho”, và nói “tôi từ bỏ Phật”; và điều đó, một người đang làm công việc xây dựng mới hoặc một người hiểu biết thời điểm khác đứng không xa nghe được và biết rằng “Sa môn này bất mãn, mong muốn đời sống tại gia, đã bị loại khỏi giáo pháp”, thì học giới đã được từ bỏ. Tuy nhiên, chính ngay khoảnh khắc đó, (việc biết được) không trước không sau là khó biết. Nếu (người nghe) biết được vào lúc hướng tâm (khi lời nói vừa được chú ý đến), như cách người đời thường nghe lời nói rồi hiểu, thì học giới đã được từ bỏ. Nếu sau đó, (người nghe) còn nghi ngờ “người này đã nói gì vậy?” rồi một lúc lâu sau mới biết, thì học giới chưa được từ bỏ. Vì việc từ bỏ học giới này và các học giới ở trên về việc nói lời thô tục tố cáo điều không thật (ác khẩu), việc tố cáo (điều không thật) phát sinh từ lòng ham muốn tự thân và ác ý, là cùng một phạm vi. Chỉ khi được biết vào lúc hướng tâm thì mới thành tựu; khi người nghe còn nghi ngờ “người này nói gì vậy?” rồi một lúc lâu sau mới biết, thì không thành tựu. Như quyết định này đã được nói trong trường hợp (câu) “tôi từ bỏ Phật”, cũng cần được hiểu như vậy trong tất cả các cụm từ.

Yasmā ca yadā sikkhā paccakkhātā hoti, tadā ‘‘yaṃnūnāhaṃ buddhaṃ paccakkheyya’’ntiādīni avadatāpi dubbalyaṃ āvikatameva hoti; tasmā sabbesaṃ padānaṃ avasāne vuttaṃ – ‘‘evampi, bhikkhave, dubbalyāvikammañceva hoti sikkhā ca paccakkhātā’’ti.
Và bởi vì khi học giới đã được từ bỏ, thì khi đó, ngay cả khi không nói những câu như “Ước gì tôi từ bỏ Phật” v.v…, sự yếu đuối vẫn được bày tỏ; do đó, ở cuối tất cả các cụm từ đã được nói rằng: “Này các Tỳ khưu, như vậy cũng là sự bày tỏ yếu đuối và học giới cũng đã được từ bỏ“.

Tato paraṃ gihīti maṃ dhārehīti ettha sacepi ‘‘gihī bhavissāmī’’ti vā ‘‘gihī homī’’ti vā ‘‘gihī jātomhī’’ti vā ‘‘gihimhī’’ti vā vadati, appaccakkhātā hoti sikkhā. Sace pana ‘‘ajja paṭṭhāya gihīti maṃ dhārehī’’ti vā ‘‘jānāhī’’ti vā ‘‘sañjānāhī’’ti vā ‘‘manasi karohī’’ti vā vadati, ariyakena vā vadati milakkhakena vā; evametasmiṃ atthe vutte yassa vadati, sace so jānāti, paccakkhātā hoti sikkhā. Esa nayo sesesupi ‘‘upāsako’’tiādīsu sattasu padesu. Evaṃ imāni ca aṭṭha, purimāni ca cuddasāti dvāvīsati padāni honti.
Sau đó, ở trường hợp (câu) “Hãy xem tôi là người tại gia“, ngay cả nếu y nói “tôi sẽ là người tại gia”, hoặc “tôi là người tại gia”, hoặc “tôi đã trở thành người tại gia”, hoặc “tôi là người tại gia”, thì học giới chưa được từ bỏ. Nhưng nếu y nói “kể từ hôm nay, hãy xem tôi là người tại gia”, hoặc “hãy biết (như vậy)”, hoặc “hãy nhận biết (như vậy)”, hoặc “hãy ghi nhớ trong tâm (như vậy)”, và y nói bằng tiếng Arya hay bằng tiếng ngoại quốc; khi ý nghĩa này được nói như vậy, nếu người mà y nói hiểu được, thì học giới đã được từ bỏ. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho bảy cụm từ còn lại như “(hãy xem tôi là) người cận sự nam” v.v… Như vậy, tám cụm từ này và mười bốn cụm từ trước đó, thành hai mươi hai cụm từ.

52. Ito paraṃ purimāneva cuddasa padāni ‘‘alaṃ me, kinnu me, na mamattho, sumuttāha’’nti imehi catūhi yojetvā vuttāni chappaññāsa honti. Tattha alanti hotu, pariyattanti attho. Kiṃnu meti kiṃ mayhaṃ kiccaṃ, kiṃ karaṇīyaṃ, kiṃ sādhetabbanti attho. Na mamatthoti natthi mama attho. Sumuttāhanti sumutto ahaṃ. Sesamettha vuttanayameva. Evaṃ imāni ca chappaññāsa purimāni ca dvāvīsatīti aṭṭhasattati padāni sarūpeneva vuttāni.
52. Sau đây, chính mười bốn cụm từ trước đó, khi được kết hợp với bốn (cụm từ) này: “đủ rồi đối với tôi”, “có ích gì cho tôi?”, “không có lợi ích gì cho tôi”, “tôi đã được giải thoát tốt đẹp”, và được nói ra, thì trở thành năm mươi sáu (cụm từ). Trong đó, (cụm từ) đủ rồi có nghĩa là “thôi được”, “đã đủ”. (Cụm từ) có ích gì cho tôi? có nghĩa là “việc gì của tôi?”, “tôi phải làm gì?”, “tôi cần đạt được điều gì?”. (Cụm từ) không có lợi ích gì cho tôi có nghĩa là “không có lợi ích gì cho tôi”. (Cụm từ) tôi đã được giải thoát tốt đẹp có nghĩa là “tôi đã được giải thoát tốt đẹp”. Phần còn lại ở đây cũng theo phương pháp đã nói. Như vậy, năm mươi sáu cụm từ này và hai mươi hai cụm từ trước đó, (tổng cộng) bảy mươi tám cụm từ đã được nói rõ ràng theo hình thức của chúng.

53. Yasmā pana tesaṃ vevacanehipi sikkhāpaccakkhānaṃ hoti, tasmā ‘‘yāni vā panaññānipī’’tiādimāha. Tattha yāni vā panaññānipīti pāḷiyaṃ ‘‘buddha’’ntiādīni āgatapadāni ṭhapetvā yāni aññāni atthi. Buddhavevacanāni vāti buddhassa vā pariyāyanāmāni…pe… asakyaputtiyassa vā. Tattha vaṇṇapaṭṭhāne āgataṃ nāmasahassaṃ upāligāthāsu (ma. ni. 2.76) nāmasataṃ aññāni ca guṇato labbhamānāni nāmāni ‘‘buddhavevacanānī’’ti veditabbāni. Sabbānipi dhammassa nāmāni dhammavevacanānīti veditabbāni. Esa nayo sabbattha.
53. Nhưng bởi vì việc từ bỏ học giới cũng xảy ra bằng các từ đồng nghĩa của chúng, do đó, ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “Hoặc bất kỳ những (từ) nào khác cũng vậy“. Trong đó, (cụm từ) Hoặc bất kỳ những (từ) nào khác cũng vậy có nghĩa là: sau khi loại trừ các cụm từ đã xuất hiện trong Chánh tạng như “Phật” v.v…, (là) những từ khác có tồn tại. (Cụm từ) Hoặc các từ đồng nghĩa của Phật có nghĩa là các tên gọi đồng nghĩa của Phật… cho đến… hoặc của người không phải là Thích tử. Ở đó, một ngàn tên gọi xuất hiện trong phần Vaṇṇapaṭṭhāna, một trăm tên gọi trong Kinh Upāli (ma. ni. 2.76), và các tên gọi khác có được từ các đức tính, cần được hiểu là “các từ đồng nghĩa của Phật”. Tất cả các tên gọi của Pháp cũng cần được hiểu là các từ đồng nghĩa của Pháp. Phương pháp này (áp dụng) cho tất cả mọi trường hợp.

Ayaṃ panettha yojanā – buddhaṃ paccakkhāmīti na vevavacanena paccakkhānaṃ yathārutameva. ‘‘Sammāsambuddhaṃ paccakkhāmi, anantabuddhiṃ, anomabuddhiṃ, bodhipaññāṇaṃ, dhīraṃ, vigatamohaṃ, pabhinnakhīlaṃ, vijitavijayaṃ paccakkhāmī’’ti evamādibuddhavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ.
Đây là cách giải thích ở đây: (Câu) “Tôi từ bỏ Phật” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa, mà chính là theo như đã được truyền tụng. (Còn những câu như) “Tôi từ bỏ bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, tôi từ bỏ bậc Trí Tuệ Vô Biên, tôi từ bỏ bậc Trí Tuệ Vô Thượng, tôi từ bỏ bậc Trí Tuệ Giác Ngộ, tôi từ bỏ bậc Kiên Định, tôi từ bỏ bậc Đã Đoạn Si Mê, tôi từ bỏ bậc Đã Nhổ Cọc Chướng Ngại, tôi từ bỏ bậc Chiến Thắng Hoàn Toàn” v.v…, (đó là) sự từ bỏ học giới bằng các từ đồng nghĩa của Phật như vậy.

Dhammaṃ paccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ, yathārutameva. ‘‘Svākkhātaṃ dhammaṃ paccakkhāmi, sandiṭṭhikaṃ, akālikaṃ, ehipassikaṃ, opaneyyikaṃ, paccattaṃ veditabbaṃ viññūhi dhammaṃ paccakkhāmi. Asaṅkhataṃ dhammaṃ paccakkhāmi; virāgaṃ, nirodhaṃ, amataṃ dhammaṃ paccakkhāmi, dīghanikāyaṃ paccakkhāmi, brahmajālaṃ majjhimanikāyaṃ, mūlapariyāyaṃ, saṃyuttanikāyaṃ, oghataraṇaṃ, aṅguttaranikāyaṃ, cittapariyādānaṃ, khuddakanikāyaṃ, jātakaṃ, abhidhammaṃ, kusalaṃ dhammaṃ, akusalaṃ dhammaṃ, abyākataṃ dhammaṃ, satipaṭṭhānaṃ, sammappadhānaṃ, iddhipādaṃ, indriyaṃ, balaṃ, bojjhaṅgaṃ, maggaṃ, phalaṃ, nibbānaṃ paccakkhāmī’’ti caturāsītidhammakkhandhasahassesu ekadhammakkhandhassapi nāmaṃ dhammavevacanameva. Evaṃ dhammavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ Pháp” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa, mà chính là theo như đã được truyền tụng. (Còn những câu như) “Tôi từ bỏ Pháp đã được khéo thuyết, Pháp thiết thực hiện tại, Pháp không có thời gian, Pháp đến để mà thấy, Pháp có tính hướng thượng, Pháp được người trí tự mình giác hiểu. Tôi từ bỏ Pháp vô vi; tôi từ bỏ Pháp ly tham, Pháp tịch diệt, Pháp bất tử. Tôi từ bỏ Trường Bộ Kinh, (kinh) Phạm Võng; Trung Bộ Kinh, (kinh) Căn Bản Pháp Môn; Tương Ưng Bộ Kinh, (kinh) Vượt Bộc Lưu; Tăng Chi Bộ Kinh, (kinh) Thu Nhiếp Tâm; Tiểu Bộ Kinh, (kinh) Bổn Sanh; Vi Diệu Pháp. Tôi từ bỏ Pháp thiện, Pháp bất thiện, Pháp vô ký; tôi từ bỏ Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Thần Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Thánh Đạo, (Đạo) Quả, Niết-bàn” v.v…, trong tám mươi bốn ngàn pháp uẩn, tên của dù chỉ một pháp uẩn cũng chính là từ đồng nghĩa của Pháp. Như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của Pháp.

Saṅghaṃ paccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Suppaṭipannaṃ saṅghaṃ paccakkhāmi, ujuppaṭipannaṃ, ñāyappaṭipannaṃ, sāmīcippaṭipannaṃ saṅghaṃ, catupurisayugaṃ saṅghaṃ, aṭṭhapurisapuggalaṃ saṅghaṃ, āhuneyyaṃ saṅghaṃ, pāhuneyyaṃ, dakkhiṇeyyaṃ, añjalikaraṇīyaṃ, anuttaraṃ puññakkhettaṃ saṅghaṃ paccakkhāmī’’ti evaṃ saṅghavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ Tăng” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Tôi từ bỏ Tăng chúng Thiện hạnh, Tăng chúng Trực hạnh, Tăng chúng Chánh hạnh, Tăng chúng Chân chính hạnh; tôi từ bỏ Tăng chúng gồm bốn đôi tám vị, Tăng chúng gồm tám bậc Thánh nhân; tôi từ bỏ Tăng chúng đáng được cúng dường, Tăng chúng đáng được nghênh đón, Tăng chúng đáng được bố thí, Tăng chúng đáng được chắp tay (kính lễ), Tăng chúng là ruộng phước vô thượng” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của Tăng.

Sikkhaṃ paccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Bhikkhusikkhaṃ paccakkhāmi, bhikkhunīsikkhaṃ, adhisīlasikkhaṃ, adhicittasikkhaṃ, adhipaññāsikkhaṃ paccakkhāmī’’ti evaṃ sikkhāvevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ học giới” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Tôi từ bỏ học giới của Tỳ khưu, tôi từ bỏ học giới của Tu nữ, tôi từ bỏ tăng thượng giới học, tôi từ bỏ tăng thượng tâm học, tôi từ bỏ tăng thượng tuệ học” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của học giới.

Vinayaṃ paccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Bhikkhuvinayaṃ paccakkhāmi, bhikkhunīvinayaṃ, paṭhamaṃ pārājikaṃ, dutiyaṃ tatiyaṃ catutthaṃ pārājikaṃ, saṅghādisesaṃ, thullaccayaṃ, pācittiyaṃ, pāṭidesanīyaṃ, dukkaṭaṃ, dubbhāsitaṃ paccakkhāmī’’ti evamādivinayavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ Luật” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Tôi từ bỏ Luật của Tỳ khưu, tôi từ bỏ Luật của Tu nữ, tôi từ bỏ (điều) Bất Cộng Trụ thứ nhất, (điều) Bất Cộng Trụ thứ hai, thứ ba, thứ tư; tôi từ bỏ (điều) Tăng Tàn, (điều) Trọng Tội, (điều) Ưng Đối Trị, (điều) Ưng Phát Lộ, (điều) Tác Ác, (điều) Ác Khẩu” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của Luật như vậy.

Pātimokkhaṃ paccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Bhikkhupātimokkhaṃ bhikkhunīpātimokkhaṃ paccakkhāmī’’ti evaṃ pātimokkhavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ Giới Bổn Pātimokkha” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Tôi từ bỏ Giới Bổn Pātimokkha của Tỳ khưu, tôi từ bỏ Giới Bổn Pātimokkha của Tu nữ” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của Giới Bổn Pātimokkha.

Uddesaṃ paccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Bhikkhupātimokkhuddesaṃ, bhikkhunīpātimokkhuddesaṃ , paṭhamaṃ pātimokkhuddesaṃ, dutiyaṃ tatiyaṃ catutthaṃ pañcamaṃ pātimokkhuddesaṃ, sammāsambuddhuddesaṃ, anantabuddhiuddesaṃ, anomabuddhiuddesaṃ, bodhipaññāṇuddesaṃ, dhīruddesaṃ, vigatamohuddesaṃ, pabhinnakhīluddesaṃ, vijitavijayuddesaṃ paccakkhāmī’’ti evamādiuddesavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ sự đề cập (việc tụng đọc)” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Tôi từ bỏ sự tụng đọc Giới Bổn Pātimokkha của Tỳ khưu, sự tụng đọc Giới Bổn Pātimokkha của Tu nữ, sự tụng đọc Giới Bổn Pātimokkha lần thứ nhất, sự tụng đọc Giới Bổn Pātimokkha lần thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm; tôi từ bỏ sự đề cập đến bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, sự đề cập đến bậc Trí Tuệ Vô Biên, sự đề cập đến bậc Trí Tuệ Vô Thượng, sự đề cập đến bậc Trí Tuệ Giác Ngộ, sự đề cập đến bậc Kiên Định, sự đề cập đến bậc Đã Đoạn Si Mê, sự đề cập đến bậc Đã Nhổ Cọc Chướng Ngại, sự đề cập đến bậc Chiến Thắng Hoàn Toàn” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của sự đề cập (việc tụng đọc) như vậy.

Upajjhāyaṃ paccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Yo maṃ pabbājesi, yo maṃ upasampādesi, yassa mūlenāhaṃ pabbajito, yassa mūlenāhaṃ upasampanno, yassamūlikā mayhaṃ pabbajjā, yassamūlikā mayhaṃ upasampadā tāhaṃ paccakkhāmī’’ti evaṃ upajjhāyavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ Thầy Tế Độ (upajjhāya) (Từ bỏ nương vị trưởng lão đức hạnh đã bái làm Thầy Tế Độ)” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Người đã cho tôi xuất gia, người đã cho tôi thọ cụ túc giới, người mà nhờ đó tôi đã xuất gia, người mà nhờ đó tôi đã thọ cụ túc giới, người là gốc rễ của sự xuất gia của tôi, người là gốc rễ của sự thọ cụ túc giới của tôi, tôi từ bỏ vị ấy” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của Thầy Tế Độ.

Ācariyaṃ paccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Yo maṃ pabbājesi, yo maṃ anussāvesi, yāhaṃ nissāya vasāmi, yāhaṃ uddisāpemi, yāhaṃ paripucchāmi, yo maṃ uddisati, yo maṃ paripucchāpeti tāhaṃ paccakkhāmī’’ti evaṃ ācariyavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ bạn đồng trú (đệ tử của thầy tế độ)” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Người mà tôi đã cho xuất gia, người mà tôi đã cho thọ cụ túc giới, người đã xuất gia nhờ tôi làm gốc, người đã thọ cụ túc giới nhờ tôi làm gốc, người có sự xuất gia mà tôi là gốc rễ, người có sự thọ cụ túc giới mà tôi là gốc rễ, tôi từ bỏ người ấy” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của bạn đồng trú (đệ tử của thầy tế độ).

Saddhivihārikaṃ paccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Yāhaṃ pabbājesiṃ, yāhaṃ upasampādesiṃ, mayhaṃ mūlena yo pabbajito, mayhaṃ mūlena yo upasampanno, mayhaṃmūlikā yassa pabbajjā, mayhaṃ mūlikā yassa upasampadā tāhaṃ paccakkhāmī’’ti evaṃ saddhivihārikavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ đệ tử (sống chung)” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Người mà tôi đã cho xuất gia, người mà tôi đã dạy dỗ, người sống nương tựa vào tôi, người yêu cầu tôi dạy (kinh luật), người hỏi han tôi, người mà tôi dạy (kinh luật), người mà tôi khiến hỏi han (để học), tôi từ bỏ người ấy” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của đệ tử (sống chung).

Antevāsikaṃpaccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Yāhaṃ pabbājesiṃ, yāhaṃ anussāvesiṃ, yo maṃ nissāya vasati, yo maṃ uddisāpeti, yo maṃ paripucchati, yassāhaṃ uddisāmi, yāhaṃ paripucchāpemi taṃ paccakkhāmī’’ti evaṃ antevāsikavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ đệ tử (sống chung)” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Người mà tôi đã cho xuất gia, người mà tôi đã dạy dỗ, người sống nương tựa vào tôi, người yêu cầu tôi dạy (kinh luật), người hỏi han tôi, người mà tôi dạy (kinh luật), người mà tôi khiến hỏi han (để học), tôi từ bỏ người ấy” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của đệ tử (sống chung).

Samānupajjhāyakaṃ paccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Mayhaṃ upajjhāyo yaṃ pabbājesi, yaṃ upasampādesi, yo tassa mūlena pabbajito, yo tassa mūlena upasampanno, yassa tammūlikā pabbajjā, yassa tammūlikā upasampadā taṃ paccakkhāmī’’ti evaṃ samānupajjhāyakavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ người cùng Thầy Tế Độ” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Người mà Thầy Tế Độ của tôi đã cho xuất gia, người mà (Thầy Tế Độ của tôi) đã cho thọ cụ túc giới, người đã xuất gia nhờ gốc rễ (duyên) của vị ấy (Thầy Tế Độ), người đã thọ cụ túc giới nhờ gốc rễ (duyên) của vị ấy, người có sự xuất gia mà vị ấy (Thầy Tế Độ) là gốc rễ, người có sự thọ cụ túc giới mà vị ấy là gốc rễ, tôi từ bỏ người đó” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của người cùng Thầy Tế Độ.

Samānācariyakaṃpaccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Mayhaṃ ācariyo yaṃ pabbājesi, yaṃ anussāvesi, yo taṃ nissāya vasati, yo taṃ uddisāpeti paripucchati, yassa me ācariyo uddisati, yaṃ paripucchāpeti taṃ paccakkhāmī’’ti evaṃ samānācariyakavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ người cùng Thầy Dạy Dỗ (Giáo thọ sư)” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Người mà Thầy Dạy Dỗ của tôi đã cho xuất gia, người mà (Thầy Dạy Dỗ của tôi) đã dạy dỗ, người sống nương tựa vào vị ấy (Thầy Dạy Dỗ), người yêu cầu vị ấy dạy (kinh luật) và hỏi han vị ấy, người mà Thầy Dạy Dỗ của tôi dạy (kinh luật), người mà (Thầy Dạy Dỗ của tôi) khiến hỏi han (để học), tôi từ bỏ người đó” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của người cùng Thầy Dạy Dỗ.

Sabrahmacāriṃ paccakkhāmīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Yenāhaṃ saddhiṃ adhisīlaṃ sikkhāmi, adhicittaṃ adhipaññaṃ sikkhāmi taṃ paccakkhāmī’’ti evaṃ sabrahmacārivevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Tôi từ bỏ bạn đồng phạm hạnh” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Người mà cùng với tôi thực hành tăng thượng giới học, (cùng thực hành) tăng thượng tâm học, (cùng thực hành) tăng thượng tuệ học, tôi từ bỏ người ấy” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của bạn đồng phạm hạnh.

Gihīti maṃ dhārehīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Āgārikoti maṃ dhārehi, kassako, vāṇijo, gorakkho, okallako, moḷibaddho, kāmaguṇikoti maṃ dhārehī’’ti evaṃ gihivevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Hãy xem tôi là người tại gia” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Hãy xem tôi là người sống tại gia, (hãy xem tôi là) nông dân, thương gia, người chăn bò, thợ nhuộm, người có búi tóc, người hưởng thụ các dục” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của người tại gia.

Upāsakoti maṃ dhārehīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Dvevāciko upāsakoti maṃ dhārehi, tevāciko upāsako, buddhaṃ saraṇagamaniko, dhammaṃ saṅghaṃ saraṇagamaniko, pañcasikkhāpadiko dasasikkhāpadiko upāsakoti maṃ dhārehī’’ti evaṃ upāsakavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Hãy xem tôi là người cận sự nam” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Hãy xem tôi là người cận sự nam quy y hai ngôi, người cận sự nam quy y ba ngôi, người quy y Phật, người quy y Pháp và Tăng, người cận sự nam giữ năm học giới, người cận sự nam giữ mười học giới” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của người cận sự nam.

Ārāmikoti maṃ dhārehīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Kappiyakārakoti maṃ dhārehi, veyyāvaccakaro, appaharitakārako, yāgubhājako, phalabhājako, khajjakabhājakoti maṃ dhārehī’’ti evaṃ ārāmikavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Hãy xem tôi là người phục vụ tự viện” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Hãy xem tôi là người làm đồ vật thích hợp (cho Tăng), người phục vụ, người trông coi vườn tược, người chia cháo, người chia trái cây, người chia vật thực cứng” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của người phục vụ tự viện.

Sāmaṇeroti maṃ dhārehīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Kumārakoti maṃ dhārehi, cellako, ceṭako, moḷigallo, samaṇuddeso’ti maṃ dhārehī’’ti evaṃ sāmaṇeravecanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Hãy xem tôi là Sa-di” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Hãy xem tôi là cậu bé, chú điệu, chú tiểu, người để chỏm tóc, người tập sự Sa-môn” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của Sa-di.

Titthiyoti maṃ dhārehīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Nigaṇṭhoti maṃ dhārehi, ājīvako, tāpaso, paribbājako, paṇḍaraṅgoti maṃ dhārehī’’ti evaṃ titthiyavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Hãy xem tôi là ngoại đạo” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Hãy xem tôi là người Ni-kiền-tử, người A-tư-phó, người khổ hạnh, du sĩ, người mặc đồ trắng (ngoại đạo)” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của ngoại đạo.

Titthiyasāvakotimaṃ dhārehīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Nigaṇṭhasāvakoti maṃ dhārehi’’ ājīvaka tāpasa paribbājaka paṇḍaraṅgasāvakoti maṃ dhārehīti evaṃ titthiyasāvakavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Hãy xem tôi là đệ tử ngoại đạo” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Hãy xem tôi là đệ tử Ni-kiền-tử, (hãy xem tôi là) đệ tử A-tư-phó, (hãy xem tôi là) đệ tử khổ hạnh, (hãy xem tôi là) đệ tử du sĩ, (hãy xem tôi là) đệ tử người mặc đồ trắng (ngoại đạo)” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của đệ tử ngoại đạo.

Assamaṇoti maṃ dhārehīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Dussīloti maṃ dhārehi, pāpadhammo, asucisaṅkassarasamācāro, paṭicchannakammanto, assamaṇo samaṇapaṭiñño, abrahmacārī brahmacāripaṭiñño, antopūti, avassuto, kasambujāto, koṇṭho’ti maṃ dhārehī’’ti evaṃ assamaṇavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Hãy xem tôi là người không phải Sa-môn” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Hãy xem tôi là người ác giới, người theo tà pháp, người có hành vi đáng ngờ uế tạp, người có hành động che giấu, người không phải Sa-môn mà tự xưng là Sa-môn, người không phạm hạnh mà tự xưng là người phạm hạnh, người bên trong thối rữa, người buông thả (theo dòng chảy dục vọng), người như rác rưởi, người què quặt (về giới hạnh)” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của người không phải Sa-môn.

Asakyaputtiyoti maṃ dhārehīti na vevacanena paccakkhānaṃ. ‘‘Na sammāsambuddhaputtoti maṃ dhārehi, na anantabuddhiputto, na anomabuddhiputto, na bodhipaññāṇaputto, na dhīraputto, na vigatamohaputto, na pabhinnakhīlaputto , na vijitavijayaputtoti maṃ dhārehī’’ti evamādiasakyaputtiyavevacanena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti.
(Câu) “Hãy xem tôi là người không phải Thích tử” không phải là sự từ bỏ bằng từ đồng nghĩa. (Còn những câu như) “Hãy xem tôi không phải là con của bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, không phải là con của bậc Trí Tuệ Vô Biên, không phải là con của bậc Trí Tuệ Vô Thượng, không phải là con của bậc Trí Tuệ Giác Ngộ, không phải là con của bậc Kiên Định, không phải là con của bậc Đã Đoạn Si Mê, không phải là con của bậc Đã Nhổ Cọc Chướng Ngại, không phải là con của bậc Chiến Thắng Hoàn Toàn” v.v…, như vậy, việc từ bỏ học giới xảy ra bằng từ đồng nghĩa của người không phải Thích tử như vậy.

Tehi ākārehi tehi liṅgehi tehi nimittehīti tehi ‘‘buddhavevacanāni vā’’tiādinā nayena vuttehi buddhādīnaṃ vevacanehi. Vevacanāni hi sikkhāpaccakkhānassa kāraṇattā ākārāni, buddhādīnaṃ saṇṭhānadīpanattā sikkhāpaccakkhānasaṇṭhānattā eva vā liṅgāni, sikkhāpaccakkhānassa sañjānanahetuto manussānaṃ tilakādīni viya nimittānīti vuccanti. Evaṃ kho bhikkhaveti ito paraṃ aññassa sikkhāpaccakkhānakāraṇassa abhāvato niyamento āha. Ayañhettha attho, evameva dubbalyāvikammañceva hoti sikkhāpaccakkhānañca, na ito paraṃ kāraṇamatthīti.
(Cụm từ) “Bởi những cách thức ấy, bởi những dấu hiệu ấy, bởi những đặc điểm ấy” có nghĩa là: bởi những từ đồng nghĩa của Phật v.v… đã được nói theo phương pháp bắt đầu bằng “Hoặc các từ đồng nghĩa của Phật”. Vì quả thật, các từ đồng nghĩa, do là nguyên nhân của việc từ bỏ học giới, (được gọi là) cách thức; hoặc do làm sáng tỏ hình dạng của Phật v.v…, hoặc chính do là hình dạng của việc từ bỏ học giới, (được gọi là) dấu hiệu; do là lý do để nhận biết việc từ bỏ học giới, giống như nốt ruồi son v.v… của con người, (nên) được gọi là đặc điểm. (Cụm từ) “Này các Tỳ khưu, như vậy đó” được nói để xác quyết, do không có nguyên nhân từ bỏ học giới nào khác ngoài những điều này. Đây là ý nghĩa ở đây: chính như vậy là sự bày tỏ yếu đuối và là sự từ bỏ học giới, không có nguyên nhân nào khác ngoài những điều này.

54. Evaṃ sikkhāpaccakkhānalakkhaṇaṃ dassetvā appaccakkhāne asammohatthaṃ tasseva ca sikkhāpaccakkhānalakkhaṇassa puggalādivasena vipattidassanatthaṃ ‘‘kathañca, bhikkhave, appaccakkhātā’’tiādimāha. Tattha yehi ākārehītiādi vuttanayameva. Ummattakoti yakkhummattako vā pittummattako vā yo koci viparītasañño, so sace paccakkhāti, appaccakkhātā hoti sikkhā. Ummattakassāti tādisasseva ummattakassa; tādisassa hi santike sace pakatatto sikkhaṃ paccakkhāti, ummattako na jānāti, appaccakkhātāva hoti sikkhā. Khittacittoti yakkhummattako vuccati. Purimapade pana ummattakasāmaññena vuttaṃ ‘‘yakkhummattako vā pittummattako vā’’ti. Ubhinnampi viseso anāpattivāre āvi bhavissati . Evaṃ khittacitto sikkhaṃ paccakkhāti, appaccakkhātāva hoti. Tassa santike paccakkhātāpi tamhi ajānante appaccakkhātāva hoti.
54. Sau khi đã chỉ ra đặc tính của việc từ bỏ học giới như vậy, để không nhầm lẫn trong trường hợp chưa từ bỏ, và để chỉ ra sự thất bại của chính đặc tính từ bỏ học giới ấy tùy theo hạng người v.v…, ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “Này các Tỳ khưu, thế nào là chưa từ bỏ?“. Trong đó, (cụm từ) bắt đầu bằng “Bởi những cách thức nào” v.v… cũng theo phương pháp đã nói. (Từ) Người điên có nghĩa là người điên do dạ xoa ám, hoặc người điên do mật gây ra, hoặc bất kỳ ai có tưởng bị đảo lộn; nếu người đó từ bỏ, học giới vẫn chưa được từ bỏ. (Cụm từ) Của người điên có nghĩa là của chính người điên như vậy; vì nếu một người bình thường từ bỏ học giới trước mặt một người điên như vậy, mà người điên không biết, thì học giới vẫn chưa được từ bỏ. (Từ) Người loạn tâm được gọi là người điên do dạ xoa ám. Nhưng ở cụm từ trước, đã được nói một cách tổng quát về người điên là “người điên do dạ xoa ám hoặc người điên do mật gây ra”. Sự khác biệt của cả hai sẽ trở nên rõ ràng trong chương về các trường hợp vô tội. Như vậy, nếu người loạn tâm từ bỏ học giới, học giới vẫn chưa được từ bỏ. (Học giới) được từ bỏ trước mặt người ấy, nếu người ấy không biết, thì vẫn chưa được từ bỏ.

Vedanāṭṭoti balavatiyā dukkhavedanāya phuṭṭho mucchāpareto; tena vilapantena paccakkhātāpi appaccakkhātāva hoti. Tassa santike paccakkhātāpi tamhi ajānante appaccakkhātā hoti.
(Từ) Người bị khổ thọ bức bách có nghĩa là người bị cảm thọ đau khổ mạnh mẽ chạm đến, bị mê mẩn chi phối; (học giới) được từ bỏ bởi người ấy đang rên la, thì vẫn chưa được từ bỏ. (Học giới) được từ bỏ trước mặt người ấy, nếu người ấy không biết, thì vẫn chưa được từ bỏ.

Devatāya santiketi bhummadevataṃ ādiṃ katvā yāva akaniṭṭhadevatāya santike paccakkhātāpi appaccakkhātāva hoti. Tiracchānagatassāti nāgamāṇavakassa vā supaṇṇamāṇavakassa vā kinnara-hatthi-makkaṭādīnaṃ vā yassa kassaci santike paccakkhātāpi appaccakkhātāva hoti . Tatra ummattakādīnaṃ santike ajānanabhāvena appaccakkhātāti āha. Devatāya santike atikhippaṃ jānanabhāvena. Devatā nāma mahāpaññā tihetukapaṭisandhikā atikhippaṃ jānanti, cittañca nāmetaṃ lahuparivattaṃ. Tasmā cittalahukassa puggalassa cittavaseneva ‘‘mā atikhippaṃ vināso ahosī’’ti devatāya santike sikkhāpaccakkhānaṃ paṭikkhipi.
(Cụm từ) Trước mặt vị trời có nghĩa là (học giới) được từ bỏ trước mặt vị trời, kể từ địa thần cho đến trời Sắc Cứu Cánh, thì vẫn chưa được từ bỏ. (Cụm từ) Của loài bàng sanh có nghĩa là (học giới) được từ bỏ trước mặt thiếu niên Nāga (rồng), hoặc thiếu niên Supaṇṇa (kim xí điểu), hoặc khẩn-na-la, voi, khỉ v.v…, hay bất kỳ loài nào, thì vẫn chưa được từ bỏ. Ở đó, ngài nói rằng (học giới) chưa được từ bỏ trước mặt người điên v.v… là do tình trạng không biết của họ. (Còn chưa được từ bỏ) trước mặt vị trời là do tình trạng biết quá nhanh của họ. Các vị trời quả thật có trí tuệ lớn, có sự tái sanh tam nhân, nên biết rất nhanh; và tâm này vốn thay đổi nhanh chóng. Do đó, để sự hủy hoại không xảy ra quá nhanh do theo tâm của người có tâm nhẹ dạ, (Đức Phật) đã bác bỏ việc từ bỏ học giới trước mặt vị trời.

Manussesu pana niyamo natthi. Yassa kassaci sabhāgassa vā visabhāgassa vā gahaṭṭhassa vā pabbajitassa vā viññussa santike paccakkhātā paccakkhātāva hoti. Sace pana so na jānāti, appaccakkhātāva hotīti etamatthaṃ dassento ‘‘ariyakenā’’tiādimāha. Tattha ariyakaṃ nāma ariyavohāro, māgadhabhāsā. Milakkhakaṃ nāma yo koci anariyako andhadamiḷādi. So ca na paṭivijānātīti bhāsantare vā anabhiññatāya, buddhasamaye vā akovidatāya ‘‘idaṃ nāma atthaṃ esa bhaṇatī’’ti nappaṭivijānāti. Davāyāti sahasā aññaṃ bhaṇitukāmo sahasā ‘‘buddhaṃ paccakkhāmī’’ti bhaṇati. Ravāyāti ravābhaññena, ‘‘aññaṃ bhaṇissāmī’’ti aññaṃ bhaṇanto. Purimena ko visesoti ce? Purimaṃ paṇḍitassāpi sahasāvasena aññabhaṇanaṃ. Idaṃ pana mandattā momūhattā apakataññuttā pakkhalantassa ‘‘aññaṃ bhaṇissāmī’’ti aññabhaṇanaṃ.
Tuy nhiên, đối với con người thì không có sự hạn định. (Học giới) được từ bỏ trước mặt bất kỳ người nào, dù là người đồng loại hay khác loại, dù là tại gia hay xuất gia, (miễn là) người có hiểu biết, thì (học giới) vẫn được xem là đã từ bỏ. Nhưng nếu người đó không hiểu, thì (học giới) vẫn chưa được từ bỏ; để chỉ rõ ý nghĩa này, ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “Bằng tiếng Arya“. Trong đó, (từ) tiếng Arya có tên là cách nói của bậc Thánh, (tức là) tiếng Magadha (Ma-kiệt-đà). (Từ) Tiếng ngoại quốc có tên là bất kỳ tiếng nào không phải của bậc Thánh, như tiếng Andhra, tiếng Dravida v.v… (Cụm từ) Và người đó không hiểu rõ có nghĩa là: do không quen thuộc với ngôn ngữ khác, hoặc do không thông thạo về thời điểm (lời nói) của Phật, nên không hiểu rõ rằng “người này nói với ý nghĩa này”. (Từ) Do nói buột miệng có nghĩa là: muốn nói điều khác một cách đột ngột, lại đột ngột nói “tôi từ bỏ Phật”. (Từ) Do nói lầm lẫn có nghĩa là: do nói lảm nhảm không chủ ý, muốn nói “tôi sẽ nói điều khác” lại nói điều khác (tức nói sai). Nếu hỏi: có sự khác biệt gì với trường hợp trước? Trường hợp trước là việc nói điều khác do sự hấp tấp, ngay cả đối với người trí. Còn trường hợp này là việc nói điều khác của người đang vấp váp do ngu độn, si mê, không có trí tuệ bình thường, (trong khi) muốn nói “tôi sẽ nói điều khác”.

Asāvetukāmo sāvetīti imassa sikkhāpadassa pāḷiṃ vāceti paripucchati uggaṇhāti sajjhāyaṃ karoti vaṇṇeti, ayaṃ vuccati ‘‘asāvetukāmo sāvetī’’ti. Sāvetukāmo na sāvetīti dubbalabhāvaṃ āvikatvā sikkhaṃ paccakkhanto vacībhedaṃ na karoti, ayaṃ vuccati ‘‘sāvetukāmo na sāvetī’’ti. Aviññussa sāvetīti mahallakassa vā potthakarūpasadisassa, garumedhassa vā samaye akovidassa, gāmadārakānaṃ vā aviññutaṃ pattānaṃ sāveti. Viññussa na sāvetīti paṇḍitassa ñātuṃ samatthassa na sāveti. Sabbaso vā panāti ‘‘buddhaṃ paccakkhāmī’’tiādīsu yena yena pariyāyena sikkhā paccakkhātā hoti, tato ekampi vacībhedaṃ katvā na sāveti. Evaṃ khoti appaccakkhānalakkhaṇaṃ niyameti. Ayaṃ hettha attho – ‘‘evameva sikkhā appaccakkhātā hoti, na aññena kāraṇenā’’ti.
(Cụm từ) Người không muốn làm cho nghe lại làm cho nghe có nghĩa là: người này đọc tụng Chánh tạng của học giới, hỏi han, học thuộc, trùng tụng, tán thán (học giới đó); đây được gọi là “người không muốn làm cho nghe (việc từ bỏ) lại làm cho nghe (về học giới)”. (Cụm từ) Người muốn làm cho nghe lại không làm cho nghe có nghĩa là: người bày tỏ sự yếu đuối và từ bỏ học giới nhưng không tạo ra sự phân biệt lời nói (không nói rõ ràng); đây được gọi là “người muốn làm cho nghe (việc từ bỏ) lại không làm cho nghe”. (Cụm từ) Làm cho nghe đối với người không hiểu biết có nghĩa là: làm cho nghe đối với người già cả giống như hình ảnh trong sách (không hiểu), hoặc người tại gia nặng nề không thông thạo về thời điểm (lời nói), hoặc trẻ con trong làng đã đến tuổi không hiểu biết. (Cụm từ) Không làm cho nghe đối với người hiểu biết có nghĩa là: không làm cho nghe đối với người trí có khả năng hiểu. (Cụm từ) Hoặc hoàn toàn không có nghĩa là: trong các (câu) như “tôi từ bỏ Phật” v.v…, bằng bất kỳ phương cách nào mà học giới được từ bỏ, (người này) không làm cho nghe dù chỉ một sự phân biệt lời nói (nói rõ ràng). (Cụm từ) Như vậy đó xác quyết đặc tính của việc chưa từ bỏ. Đây là ý nghĩa ở đây: “Chính như vậy học giới chưa được từ bỏ, chứ không phải do nguyên nhân nào khác”.

Sikkhāpaccakkhānavibhaṅgaṃ niṭṭhitaṃ.

Phân tích về Việc Từ Bỏ Học Giới (đến đây là) dứt.

Mūlapaññattivaṇṇanā

Chú Giải về Điều Chế Định Căn Bản

55. Idāni ‘‘methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyyā’’tiādīnaṃ atthadassanatthaṃ ‘‘methunadhammo nāmā’’tiādimāha. Tattha methunadhammo nāmāti idaṃ niddisitabbassa methunadhammassa uddesapadaṃ. Asaddhammoti asataṃ nīcajanānaṃ dhammo. Gāmadhammoti gāmavāsīnaṃ sevanadhammo. Vasaladhammoti vasalānaṃ dhammo; kilesavassanato vā sayameva vasalo dhammoti vasaladhammo. Duṭṭhullanti duṭṭhuñca kilesehi duṭṭhattā, thūlañca anipuṇabhāvatoti duṭṭhullaṃ. Ito paṭṭhāya ca tīsu padesu ‘‘yo so’’ti idaṃ parivattetvā ‘‘yaṃ ta’’nti katvā yojetabbaṃ – ‘‘yaṃ taṃ duṭṭhullaṃ, yaṃ taṃ odakantikaṃ, yaṃ taṃ rahassa’’nti. Ettha ca yasmā tassa kammassa parivārabhūtaṃ dassanampi gahaṇampi āmasanampi phusanampi ghaṭṭanampi duṭṭhullaṃ, tasmāpi taṃ kammaṃ duṭṭhullaṃ. Yaṃ taṃ duṭṭhullaṃ so methunadhammo. Udakaṃ assa ante suddhatthaṃ ādīyatīti udakantaṃ, udakantameva odakantikaṃ; yaṃ taṃ odakantikaṃ , so methunadhammo. Raho paṭicchanne okāse kattabbatāya rahassaṃ. Yaṃ taṃ rahassaṃ, so methunadhammoti evaṃ yojanā veditabbā.
55. Bây giờ, để chỉ rõ ý nghĩa của (các câu) bắt đầu bằng “nên thực hành pháp dâm” v.v…, ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “Pháp dâm tên là“. Trong đó, (câu) “Pháp dâm tên là” là cụm từ đề mục cho pháp dâm cần được chỉ rõ. (Từ) Phi pháp là pháp của những kẻ bất lương, của hạng người thấp kém. (Từ) Pháp của người làng là pháp thực hành của những người sống trong làng. (Từ) Pháp của tiện dân là pháp của những người tiện dân; hoặc do phiền não, tự nó là pháp tiện dân, nên (gọi là) pháp của tiện dân. (Từ) Thô trọng vì nó xấu xa do bị làm ô uế bởi phiền não, và thô thiển do bản chất không khéo léo. Kể từ đây, trong ba cụm từ, (từ) “cái nào đó” này cần được đổi thành “cái mà” và được kết hợp như sau: “cái mà là thô trọng, cái mà là gần nước, cái mà là kín đáo”. Và ở đây, vì ngay cả việc nhìn, việc nắm bắt, việc sờ chạm, việc tiếp xúc, việc cọ xát, vốn là những hành vi phụ thuộc của hành động ấy, cũng là thô trọng, do đó hành động ấy cũng là thô trọng. Cái mà là thô trọng, đó là pháp dâm. Nước được lấy ở cuối (của việc ấy) để làm sạch, đó là (việc) cuối nước/gần nước; (việc) cuối nước/gần nước chính là (việc) thuộc về nơi gần nước; cái mà là (việc) thuộc về nơi gần nước, đó là pháp dâm. Do phải được thực hiện ở nơi kín đáo, che đậy, (nên gọi là) kín đáo. Cái mà là kín đáo, đó là pháp dâm; cách giải thích cần được hiểu như vậy.

Dvayena dvayena samāpajjitabbato dvayaṃdvayasamāpatti. Tattha yojanā – ‘‘yā sā dvayaṃdvayasamāpatti so methunadhammo nāmā’’ti. Idha pana taṃ sabbaṃ ekajjhaṃ nigamento āha ‘‘eso methunadhammo nāmā’’ti. Kiṃ kāraṇā vuccati methunadhammoti? Ubhinnaṃ rattānaṃ sārattānaṃ avassutānaṃ pariyuṭṭhitānaṃ ubhinnaṃ sadisānaṃ dhammoti, taṃ kāraṇā vuccati methunadhammoti.
Do phải được thực hiện bởi từng cặp hai, (nên gọi là) sự thành tựu của từng cặp hai. Cách giải thích ở đó là: “Sự thành tựu của từng cặp hai nào đó, đó được gọi là pháp dâm”. Nhưng ở đây, để kết luận tất cả những điều đó lại thành một, ngài nói: “Đây được gọi là pháp dâm“. Do nguyên nhân gì mà được gọi là pháp dâm? Vì đó là pháp của hai người tương đồng, (cả hai) đều say đắm, đều nhiệt tình, đều buông thả (theo dòng chảy dục vọng), đều bị phiền não chi phối; do nguyên nhân đó mà được gọi là pháp dâm.

Paṭisevati nāmāti idaṃ ‘‘paṭiseveyyā’’ti ettha yenākārena paṭiseveyyāti vuccati, tassākārassa dassanatthaṃ mātikāpadaṃ. Yo nittena nimittantiādīsu yo bhikkhu itthiyā nimittena attano nimittaṃ, itthiyā aṅgajātena attano aṅgajātaṃ sabbantimena pamāṇena ekatilabījamattampi vātena asamphuṭṭhe allokāse paveseti, eso paṭisevati nāma; ettakena sīlabhedaṃ pāpuṇāti, pārājiko hoti.
(Câu) “Thực hành tên là” là cụm từ đề cương để chỉ rõ cách thức mà theo đó (hành vi) được gọi là “nên thực hành” trong (câu) “nên thực hành”. Trong (các câu) bắt đầu bằng “Người nào (đưa) bộ phận sinh dục vào bộ phận sinh dục” v.v…, Tỳ khưu nào đưa bộ phận sinh dục của mình vào bộ phận sinh dục của người nữ, (tức là) đưa cơ quan sinh dục của mình vào cơ quan sinh dục của người nữ, dù chỉ bằng kích thước tối thiểu nhất là bằng một hạt mè, vào nơi ẩm ướt không bị gió chạm đến, người đó được gọi là thực hành; chỉ bằng chừng ấy là đạt đến sự phá giới, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Ettha ca itthinimitte cattāri passāni, vemajjhañcāti pañca ṭhānāni labbhanti. Purisanimitte cattāri passāni, majjhaṃ, uparicāti cha. Tasmā itthinimitte heṭṭhā pavesentopi pārājiko hoti. Uparito pavesentopi, ubhohi passehi pavesentopi cattāri ṭhānāni muñcitvā majjhena pavesentopi pārājiko hoti. Purisanimittaṃ pana heṭṭhābhāgena chupantaṃ pavesentopi pārājiko hoti. Uparibhāgena chupantaṃ pavesentopi, ubhohi passehi chupantaṃ pavesentopi, majjheneva chupantaṃ pavesentopi samañchitaṅguliṃ viya majjhimapabbapiṭṭhiyā saṅkocetvā uparibhāgena chupantaṃ pavesentopi pārājiko hoti. Tattha tulādaṇḍasadisaṃ pavesentassāpi cattāri passāni, majjhañcāti pañca ṭhānāni; saṅkocetvā pavesentassāpi cattāri passāni, uparibhāgamajjhañcāti pañca ṭhānāni – evaṃ sabbānipi purisanimitte dasa ṭhānāni honti.
Và ở đây, đối với bộ phận sinh dục nữ, có được năm vị trí: bốn cạnh và chính giữa. Đối với bộ phận sinh dục nam, có sáu (vị trí): bốn cạnh, chính giữa, và phần trên. Do đó, người đưa (bộ phận sinh dục nam) vào từ phía dưới của bộ phận sinh dục nữ cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Người đưa vào từ phía trên, người đưa vào từ cả hai bên, người đưa vào chính giữa sau khi bỏ qua bốn vị trí (cạnh), cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn (người) đưa bộ phận sinh dục nam vào chạm đến phần dưới (của bộ phận sinh dục nữ) cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Người đưa vào chạm đến phần trên, người đưa vào chạm đến cả hai bên, người đưa vào chạm đến chính giữa, hoặc người co (đầu bộ phận sinh dục) lại giống như ngón tay co lại ở đốt giữa rồi đưa vào chạm đến phần trên, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Trong đó, đối với người đưa vào (bộ phận sinh dục nam) thẳng như cán cân, có năm vị trí (tiếp xúc trên bộ phận sinh dục nữ): bốn cạnh và chính giữa; đối với người đưa vào sau khi đã co lại, cũng có năm vị trí (tiếp xúc): bốn cạnh và phần chính giữa phía trên – như vậy, tất cả có mười vị trí (tiếp xúc) đối với bộ phận sinh dục nam.

Nimitte jātaṃ anaṭṭhakāyappasādaṃ cammakhīlaṃ vā piḷakaṃ vā paveseti, āpatti pārājikassa. Naṭṭhakāyappasādaṃ matacammaṃ vā sukkhapiḷakaṃ vā paveseti, āpatti dukkaṭassa. Methunassādena lomaṃ vā aṅguli-aṅguṭṭhabījādīni vā pavesentassāpi dukkaṭameva. Ayañca methunakathā nāma yasmā duṭṭhullā kathā asabbhikathā, tasmā etaṃ vā aññaṃ vā vinaye īdisaṃ ṭhānaṃ kathentena paṭikkūlamanasikārañca samaṇasaññañca hirottappañca paccupaṭṭhapetvā sammāsambuddhe gāravaṃ uppādetvā asamakāruṇikassa lokanāthassa karuṇāguṇaṃ āvajjetvā kathetabbaṃ. So hi nāma bhagavā sabbaso kāmehi vinivattamānasopi sattānuddayāya lokānukampāya sattesu kāruññataṃ paṭicca sikkhāpadapaññāpanatthāya īdisaṃ kathaṃ kathesi. ‘‘Aho satthu karuṇāguṇo’’ti evaṃ lokanāthassa karuṇāguṇaṃ āvajjetvā kathetabbaṃ.
Nếu đưa vào một mẩu thịt thừa hoặc mụn nhọt không có dây thần kinh cảm giác mọc trên bộ phận sinh dục, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu đưa vào da chết hoặc mụn nhọt khô đã mất cảm giác, phạm tội Tác Ác. Với ý thích dâm dục, người đưa vào dù chỉ một sợi lông, hoặc ngón tay, ngón chân cái, hạt giống v.v…, cũng chỉ phạm tội Tác Ác. Và vì câu chuyện về pháp dâm này là câu chuyện thô trọng, câu chuyện không thích hợp với hội chúng lịch sự, do đó, khi nói về điều này hay bất kỳ điểm nào tương tự trong Luật, người nói cần phải thiết lập tác ý nhàm tởm, tưởng Sa-môn, lòng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, phát khởi lòng tôn kính đối với bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, và suy niệm về đức từ bi của bậc Thế Tôn, bậc có lòng từ bi vô song, rồi mới nói. Vì rằng, Đức Thế Tôn ấy, dù hoàn toàn xa lìa các dục, nhưng vì lòng thương xót chúng sanh, vì lòng bi mẫn đối với thế gian, vì lòng từ bi đối với chúng sanh, mà đã nói những lời như vậy để chế định học giới. Cần phải suy niệm về đức từ bi của bậc Đạo Sư mà nói rằng: “Ôi, đức từ bi của Đấng Đạo Sư!”.

Apica yadi bhagavā sabbākārena īdisaṃ kathaṃ na katheyya, ko jāneyya ‘‘ettakesu

Hơn nữa, nếu Đức Thế Tôn không nói những lời như vậy bằng mọi cách, thì ai có thể biết rằng “trong chừng ấy (trường hợp)

Ṭhānesu pārājikaṃ, ettakesu thullaccayaṃ, ettakesu dukkaṭa’’nti. Tasmā suṇantenapi kathentenapi bījakena mukhaṃ apidhāya dantavidaṃsakaṃ hasamānena na nisīditabbaṃ. ‘‘Sammāsambuddhenāpi īdisaṃ kathita’’nti paccavekkhitvā gabbhitena hirottappasampannena satthupaṭibhāgena hutvā kathetabbanti.
… (là phạm tội) Bất Cộng Trụ, trong chừng ấy (trường hợp là phạm tội) Trọng Tội, trong chừng ấy (trường hợp là phạm tội) Tác Ác?”. Do đó, cả người nghe lẫn người nói không nên ngồi che miệng, cười nhe răng. Cần phải quán xét rằng “Ngay cả bậc Chánh Đẳng Chánh Giác cũng đã nói những điều như vậy”, rồi với thái độ nghiêm trang, với lòng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, trở thành người đại diện cho Đấng Đạo Sư mà nói.

Mūlapaññattaṃ niṭṭhitaṃ.

Điều Chế Định Căn Bản (đến đây là) dứt.

Anupaññattivāre – antamasoti sabbantimena paricchedena. Tiracchānagatāyapīti paṭisandhivasena tiracchānesu gatāyapi. Pageva manussitthiyāti paṭhamataraṃ manussajātikāya itthiyā. Pārājikavatthubhūtā eva cettha tiracchānagatitthī tiracchānagatāti gahetabbā, na sabbā. Tatrāyaṃ paricchedo –
Trong chương về Điều Chế Định Bổ Sung – (Từ) Cho đến tận có nghĩa là: với sự phân định cuối cùng nhất. (Từ) Dù là (con cái) loài bàng sanh có nghĩa là: dù là (con cái) đã đi vào (loài) bàng sanh do sự tái sanh. (Từ) Huống nữa là người nữ có nghĩa là: trước hết là người nữ thuộc loài người. Ở đây, chỉ con cái loài bàng sanh nào là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ mới được xem là “con cái loài bàng sanh (trong trường hợp này)”, chứ không phải tất cả. Sự phân định ở đó là thế này –

Apadānaṃ ahi macchā, dvipadānañca kukkuṭī;
Catuppadānaṃ majjārī, vatthu pārājikassimāti.
Đối với loài không chân là rắn và cá, và đối với loài hai chân là gà mái;
đối với loài bốn chân là mèo cái, (đó là) đối tượng của tội Bất Cộng Trụ, (được nói) như vậy.

Tattha ahiggahaṇena sabbāpi ajagaragonasādibhedā dīghajāti saṅgahitā. Tasmā dīghajātīsu yattha tiṇṇaṃ maggānaṃ aññatarasmiṃ sakkā tilaphalamattampi pavesetuṃ, sā pārājikavatthu. Avasesā dukkaṭavatthūti veditabbā. Macchaggahaṇena sabbāpi macchakacchapamaṇḍūkādibhedā odakajāti saṅgahitā. Tatrāpi dīghajātiyaṃ vuttanayeneva pārājikavatthu ca dukkaṭavatthu ca veditabbaṃ. Ayaṃ pana viseso – pataṅgamukhamaṇḍūkā nāma honti tesaṃ mukhasaṇṭhānaṃ mahantaṃ, chiddaṃ appakaṃ, tattha pavesanaṃ nappahoti; mukhasaṇṭhānaṃ pana vaṇasaṅkhepaṃ gacchati, tasmā taṃ thullaccayavatthūti veditabbaṃ. Kukkuṭiggahaṇena sabbāpi kākakapotādibhedā pakkhijāti saṅgahitā. Tatrāpi vuttanayeneva pārājikavatthu ca dukkaṭavatthu ca veditabbaṃ. Majjāriggahaṇena sabbāpi rukkhasunakha-muṅgusa-godhādibhedā catuppadajāti saṅgahitā. Tatrāpi vuttanayeneva pārājikavatthu ca dukkaṭavatthu ca veditabbaṃ.
Trong đó, qua việc kể đến rắn, tất cả các loài thân dài như trăn, rắn nước lớn v.v… đều được bao gồm. Do đó, đối với các loài thân dài, nơi nào trong ba đường mà có thể đưa vào dù chỉ bằng một hạt mè, đó là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ. Các trường hợp còn lại cần được biết là đối tượng của tội Tác Ác. Qua việc kể đến cá, tất cả các loài sống dưới nước như cá, rùa, ếch v.v… đều được bao gồm. Trong trường hợp đó cũng vậy, đối tượng của tội Bất Cộng Trụ và đối tượng của tội Tác Ác cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với loài thân dài. Nhưng đây là điểm đặc biệt: có loại ếch tên là pataṅgamukha, hình dạng miệng của chúng lớn, nhưng lỗ (thực quản) lại nhỏ, không thể đưa vào đó được; tuy nhiên, hình dạng miệng lại giống như vết thương hở, do đó, trường hợp đó cần được biết là đối tượng của tội Trọng Tội. Qua việc kể đến gà mái, tất cả các loài chim như quạ, bồ câu v.v… đều được bao gồm. Trong trường hợp đó cũng vậy, đối tượng của tội Bất Cộng Trụ và đối tượng của tội Tác Ác cần được hiểu theo phương pháp đã nói. Qua việc kể đến mèo cái, tất cả các loài bốn chân như chồn cây, cầy mangut, kỳ đà v.v… đều được bao gồm. Trong trường hợp đó cũng vậy, đối tượng của tội Bất Cộng Trụ và đối tượng của tội Tác Ác cần được hiểu theo phương pháp đã nói.

Pārājikoti parājito, parājayaṃ āpanno. Ayañhi pārājikasaddo sikkhāpadāpattipuggalesu vattati. Tattha ‘‘aṭṭhānametaṃ, ānanda, anavakāso yaṃ tathāgato vajjīnaṃ vā vajjiputtakānaṃ vā kāraṇā sāvakānaṃ pārājikaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ samūhaneyyā’’ti (pārā. 43) evaṃ sikkhāpade vattamāno veditabbo. ‘‘Āpattiṃ tvaṃ, bhikkhu, āpanno pārājika’’nti (pārā. 67) evaṃ āpattiyaṃ. ‘‘Na mayaṃ pārājikā, yo avahaṭo so pārājiko’’ti (pārā. 155) evaṃ puggale vattamāno veditabbo. ‘‘Pārājikena dhammena anuddhaṃseyyā’’tiādīsu (pārā. 384) pana dhamme vattatīti vadanti. Yasmā pana tattha dhammoti katthaci āpatti , katthaci sikkhāpadameva adhippetaṃ, tasmā so visuṃ na vattabbo. Tattha sikkhāpadaṃ yo taṃ atikkamati, taṃ parājeti, tasmā ‘‘pārājika’’nti vuccati. Āpatti pana yo naṃ ajjhāpajjati, taṃ parājeti, tasmā ‘‘pārājikā’’ti vuccati. Puggalo yasmā parājito parājayamāpanno, tasmā ‘‘pārājiko’’ti vuccati. Etameva hi atthaṃ sandhāya parivārepi –
(Từ) Bất Cộng Trụ (Pārājiko) có nghĩa là bị đánh bại, đã gặp thất bại. Vì từ “bất cộng trụ” (pārājika) này được dùng cho học giới, tội, và người (phạm tội). Trong đó, (câu) “Này Ānanda, đây là điều không thể, không có cơ hội, việc Như Lai vì lý do của người Vajjī hay con cháu người Vajjī mà hủy bỏ học giới bất cộng trụ (pārājika) đã chế định cho các đệ tử” (pārā. 43), cần được hiểu là (từ “pārājika”) đang được dùng cho học giới. (Câu) “Này Tỳ khưu, ngươi đã phạm tội bất cộng trụ (pārājika)” (pārā. 67), (trong đó từ “pārājika”) được dùng cho tội. (Câu) “Chúng tôi không phải là người phạm tội bất cộng trụ (pārājika), người nào bị trục xuất, người đó mới là người phạm tội bất cộng trụ (pārājika)” (pārā. 155), cần được hiểu là (từ “pārājika”) đang được dùng cho người (phạm tội). Còn trong (các câu) bắt đầu bằng “(không nên) chỉ trích bằng pháp bất cộng trụ (pārājika)” (pārā. 384) v.v…, họ nói rằng (từ “pārājika”) được dùng cho pháp. Tuy nhiên, vì ở đó “pháp” có chỗ được hiểu là tội, có chỗ được hiểu chính là học giới, do đó trường hợp đó không được kể riêng. Trong đó, học giới, người nào vi phạm nó, (học giới đó) đánh bại người ấy, do đó được gọi là “bất cộng trụ” (pārājika). Còn tội, người nào phạm phải nó, (tội đó) đánh bại người ấy, do đó được gọi là “bất cộng trụ” (pārājikā). Người (phạm tội), vì bị đánh bại, đã gặp thất bại, do đó được gọi là “người bất cộng trụ” (pārājiko). Chính nhắm đến ý nghĩa này mà trong (Luật) Parivāra cũng (nói rằng)

‘‘Pārājikanti yaṃ vuttaṃ, taṃ suṇohi yathātathaṃ;
Cuto paraddho bhaṭṭho ca, saddhammā hi niraṅkato;
Saṃvāsopi tahiṃ natthi, tenetaṃ iti vuccatī’’ti vuttaṃ. (pari. 339);
“Điều gì được gọi là Bất Cộng Trụ (Pārājika), hãy nghe điều đó như thật;
(Người ấy) bị rơi rụng, bị thua thiệt, và bị hư hỏng, quả thật đã bị loại trừ khỏi Chánh Pháp;
việc chung sống (với Tăng) cũng không còn đối với người ấy, do đó, điều này được gọi như vậy”, đã được nói (trong Parivāra) (pari. 339).

Ayañhettha attho – ‘‘taṃ sikkhāpadaṃ vītikkamanto āpattiñca āpanno puggalo cuto hotīti sabbaṃ yojetabbaṃ. Tena vuccatīti yena kāraṇena assamaṇo hoti asakyaputtiyo paribhaṭṭho chinno parājito sāsanato, tena vuccati. Kinti? ‘‘Pārājiko hotī’’ti.
Đây là ý nghĩa ở đây – (Cần phải) kết hợp tất cả (ý nghĩa) rằng: “Người vi phạm học giới ấy và phạm tội, (người ấy) bị rơi rụng”. (Cụm từ) Do đó được gọi là có nghĩa là: do nguyên nhân nào mà (người ấy) trở thành không phải Sa-môn, không phải Thích tử, bị hư hỏng, bị cắt đứt, bị đánh bại khỏi giáo pháp, do (nguyên nhân) đó mà được gọi là. Như thế nào? (Là) “phạm tội Bất Cộng Trụ”.

Saha vasanti etthāti saṃvāso, taṃ dassetuṃ ‘‘saṃvāso nāmā’’ti vatvā ‘‘ekakamma’’ntiādimāha. Tatrāyaṃ saddhiṃ yojanāya vaṇṇanā – catubbidhampi saṅghakammaṃ sīmāparicchinnehi pakatattehi bhikkhūhi ekato kattabbattā ekakammaṃ nāma. Tathā pañcavidhopi pātimokkhuddeso ekato uddisitabbattā ekuddeso nāma. Paññattaṃ pana sikkhāpadaṃ sabbehipi lajjīpuggalehi samaṃ sikkhitabbabhāvato samasikkhatā nāma. Ettha yasmā sabbepi lajjino etesu kammādīsu saha vasanti, na ekopi tato bahiddhā sandissati, tasmā tāni sabbānipi gahetvā ‘‘eso saṃvāso nāmā’’ti āha. So ca vuttappakāro saṃvāso tena puggalena saddhiṃ natthi, tena kāraṇena so pārājiko puggalo asaṃvāsoti vuccatīti.
Nơi mà (các Tỳ khưu) cùng chung sống, đó là sự chung sống (saṃvāsa); để chỉ rõ điều đó, sau khi nói “Sự chung sống tên là“, ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “chung một Tăng sự“. Ở đó, đây là phần giải thích cùng với cách kết hợp ý nghĩa – Bốn loại Tăng sự, do phải được thực hiện cùng nhau bởi các Tỳ khưu có tâm bình thường trong một kết giới đã được xác định, (nên gọi là) chung một Tăng sự. Tương tự, năm loại tụng đọc Giới Bổn Pātimokkha, do phải được tụng đọc cùng nhau, (nên gọi là) chung một sự tụng đọc. Còn học giới đã được chế định, do tất cả những người có lòng hổ thẹn phải cùng nhau học tập, (nên gọi là) cùng chung học giới. Ở đây, vì tất cả những người có lòng hổ thẹn đều cùng chung sống trong các Tăng sự v.v… này, không một ai được thấy ở bên ngoài những điều đó, do đó, sau khi gộp tất cả những điều ấy lại, ngài nói: “Đây được gọi là sự chung sống“. Và sự chung sống theo cách đã nói đó không còn đối với người ấy (người phạm tội Bất Cộng Trụ); do nguyên nhân đó, người phạm tội Bất Cộng Trụ ấy được gọi là người không được chung sống.

56. Evaṃ uddiṭṭhasikkhāpadaṃ padānukkamena vibhajitvā idāni yaṃ taṃ ‘‘paṭiseveyyā’’ti ettha yenākārena paṭiseveyyāti vuccati, tassākārassa dassanatthaṃ ‘‘paṭisevati nāmā’’ti idaṃ mātikāpadaṃ ṭhapetvā ‘‘nimittena nimittaṃ aṅgajātena aṅgajāta’’nti vuttaṃ. Tattha yasmā na kevalaṃ itthiyā eva nimittaṃ pārājikavatthu, na ca manussitthiyā eva, suvaṇṇarajatādimayānañca itthīnampi nimittaṃ vatthumeva na hoti; tasmā yaṃ yaṃ vatthu hoti, taṃ taṃ dassetuṃ ‘‘tisso itthiyo’’tiādinā nayena yesaṃ nimittāni vatthūni honti, te satte vatvā ‘‘manussitthiyā tayo magge’’tiādinā nayena tāni vatthūni āha.
56. Sau khi đã phân tích học giới đã được đề cập theo thứ tự các từ như vậy, bây giờ, để chỉ rõ cách thức mà theo đó (hành vi) được gọi là “nên thực hành” trong (câu) “nên thực hành”, ngài đã đặt cụm từ đề cương “Thực hành tên là” và nói (đoạn) “(đưa) bộ phận sinh dục vào bộ phận sinh dục, (đưa) cơ quan sinh dục vào cơ quan sinh dục“. Trong đó, vì không phải chỉ bộ phận sinh dục của người nữ (nói chung) mới là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ, và cũng không chỉ (bộ phận sinh dục) của người nữ thuộc loài người (mới là đối tượng như vậy), (trong khi đó) bộ phận sinh dục của hình tượng người nữ làm bằng vàng, bạc v.v… lại không phải là đối tượng (của tội Bất Cộng Trụ); do đó, để chỉ rõ những đối tượng nào là (đối tượng của tội Bất Cộng Trụ), ngài đã nói về bảy loại chúng sanh mà bộ phận sinh dục của chúng là đối tượng (của tội Bất Cộng Trụ) theo phương pháp bắt đầu bằng “ba loại người nữ” v.v…, và sau đó đã nói về những đối tượng ấy theo phương pháp bắt đầu bằng “ba đường của người nữ thuộc loài người” v.v…

Tattha tisso itthiyo, tayo ubhatobyañjanakā, tayo paṇḍakā, tayo purisāti pārājikavatthūnaṃ nimittānaṃ nissayā dvādasa sattā honti. Tesu itthipurisā pākaṭā eva . Paṇḍakaubhatobyañjanakabhedo pabbajjākhandhakavaṇṇanāyaṃ pākaṭo bhavissati.
Trong đó, ba loại người nữ, ba loại người có hai bộ phận sinh dục, ba loại người á nam á nữ, ba loại người nam – như vậy có mười hai loại chúng sanh là cơ sở cho bộ phận sinh dục (là) đối tượng của tội Bất Cộng Trụ. Trong số đó, người nữ và người nam thì đã rõ ràng. Sự phân biệt về người á nam á nữ và người có hai bộ phận sinh dục sẽ trở nên rõ ràng trong phần Chú giải (Kinh) Xuất Gia (Pabbajjākhandhakavaṇṇanā).

Manussitthiyā tayo magge methunaṃ dhammaṃ paṭisevantassāti ettha ca manussitthiyā tīsu maggesūti attho veditabbo. Evaṃ sabbattha. Sabbe eva cete manussitthiyā tayo maggā, amanussitthiyā tayo, tiracchānagatitthiyā tayoti nava; manussaubhatobyañjanakādīnaṃ nava; manussapaṇḍakādīnaṃ dve dve katvā cha; tathā manussapurisādīnanti samatiṃsa maggā honti. Etesu nimittasaṅkhātesu yattha katthaci attano aṅgajātaṃ tilaphalamattampi pavesetvā methunaṃ dhammaṃ paṭisevanto pārājikaṃ āpajjati.
Và ở đây, (cụm từ) “Người thực hành pháp dâm trong ba đường của người nữ thuộc loài người” cần được hiểu ý nghĩa là “trong ba đường của người nữ thuộc loài người”. Cũng vậy trong tất cả các trường hợp. Tất cả những (đường này) là: ba đường của người nữ thuộc loài người, ba (đường) của người nữ phi nhân, ba (đường) của người nữ loài bàng sanh – (tổng cộng là) chín; chín (đường) của người có hai bộ phận sinh dục thuộc loài người v.v…; sáu (đường) của người á nam á nữ thuộc loài người v.v…, (tính) mỗi loại hai (đường); tương tự đối với người nam thuộc loài người v.v… – (như vậy) có ba mươi đường. Trong những (đường) được gọi là bộ phận sinh dục này, người nào đưa cơ quan sinh dục của mình vào bất kỳ nơi nào, dù chỉ bằng một hạt mè, và thực hành pháp dâm, thì phạm tội Bất Cộng Trụ.

Paṭhamacatukkakathāvaṇṇanā

Chú Giải về Luận Thuyết Bốn Điều Thứ Nhất

57. Āpajjanto pana yasmā sevanacitteneva āpajjati, na vinā tena; tasmā taṃ lakkhaṇaṃ dassento bhagavā ‘‘bhikkhussa sevanacittaṃ upaṭṭhite’’tiādimāha. Tattha bhikkhussāti methunasevanakassa bhikkhussa. Sevanacittaṃ upaṭṭhiteti bhummatthe paccattavacanaṃ, sevanacitte paccupaṭṭhiteti attho. Vaccamaggaṃ aṅgajātaṃ pavesentassāti yena maggena vaccaṃ nikkhamati taṃ maggaṃ attano aṅgajātaṃ purisanimittaṃ tilaphalamattampi pavesentassa. Āpatti pārājikassāti āpatti pārājikā assa hotīti attho. Atha vā āpattīti āpajjanaṃ hoti. Pārājikassāti pārājikadhammassa. Esa nayo sabbattha.
57. Tuy nhiên, vì người phạm tội chỉ phạm tội với tâm thực hành (dâm dục), chứ không phải không có tâm ấy; do đó, để chỉ rõ đặc tính đó, Đức Thế Tôn đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “Khi tâm thực hành (dâm dục) của Tỳ khưu khởi lên“. Trong đó, (từ) của Tỳ khưu có nghĩa là của Tỳ khưu thực hành pháp dâm. (Cụm từ) Khi tâm thực hành (dâm dục) khởi lên là cách dùng sở thuộc cách với ý nghĩa vị trí cách, có nghĩa là “khi tâm thực hành (dâm dục) đã có mặt/khởi lên”. (Cụm từ) Người đưa cơ quan sinh dục vào đường đại tiện có nghĩa là người đưa cơ quan sinh dục của mình, (tức là) bộ phận sinh dục nam, dù chỉ bằng một hạt mè, vào đường mà phân đi ra. (Cụm từ) Phạm tội Bất Cộng Trụ có nghĩa là tội Bất Cộng Trụ xảy đến cho người ấy. Hoặc là, (từ) tội có nghĩa là sự phạm phải. (Từ) Của tội Bất Cộng Trụ có nghĩa là của pháp Bất Cộng Trụ. Phương pháp này (áp dụng) cho tất cả các trường hợp.

58. Evaṃ sevanacitteneva pavesentassa āpattiṃ dassetvā idāni yasmā taṃ pavesanaṃ nāma na kevalaṃ attūpakkameneva, parūpakkamenāpi hoti . Tatrāpi ca sādiyantasseva āpatti paṭisevanacittasamaṅgissa, na itarassa. Tasmā ye saddhāpabbajitā kulaputtā sammāpaṭipannakā parūpakkamena pavesanepi sati na sādiyanti, tesaṃ rakkhaṇatthaṃ ‘‘bhikkhupaccatthikā manussitthi’’ntiādimāha.
58. Sau khi đã chỉ ra tội của người đưa (bộ phận sinh dục) vào chỉ với tâm thực hành (dâm dục) như vậy, bây giờ, vì việc đưa vào đó không chỉ xảy ra do sự cố gắng của tự mình, mà cũng có thể xảy ra do sự cố gắng của người khác. Và trong trường hợp đó cũng vậy, tội chỉ xảy đến cho người chấp thuận, người có tâm thực hành (dâm dục), chứ không phải cho người khác (người không chấp thuận). Do đó, để bảo vệ những thiện nam tử đã xuất gia với đức tin, những người thực hành chân chánh, mà dù có sự đưa vào do cố gắng của người khác cũng không chấp thuận, ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “Người nữ là kẻ thù của Tỳ khưu“.

Tattha paṭipakkhaṃ atthayanti icchantīti paccatthikā, bhikkhū eva paccatthikā bhikkhupaccatthikā; visabhāgānaṃ veribhikkhūnametaṃ adhivacanaṃ. Manussitthiṃ bhikkhussa santike ānetvāti issāpakatā taṃ bhikkhuṃ nāsetukāmā āmisena vā upalāpetvā mittasanthavavasena vā ‘‘idaṃ amhākaṃ kiccaṃ karohī’’ti vatvā kañci manussitthiṃ rattibhāge tassa bhikkhussa vasanokāsaṃ ānetvā. Vaccamaggena aṅgajātaṃ abhinisīdentīti taṃ bhikkhuṃ hatthapādasīsādīsu suggahitaṃ nipparipphandaṃ gahetvā itthiyā vaccamaggena tassa bhikkhuno aṅgajātaṃ abhinisīdenti; sampayojentīti attho.
Trong đó, những người mong muốn, ước ao điều đối nghịch, (gọi là) kẻ thù (paccatthikā); chính các Tỳ khưu (khác) là kẻ thù, (gọi là) kẻ thù của Tỳ khưu (bhikkhupaccatthikā); đây là tên gọi cho các Tỳ khưu thù địch thuộc nhóm khác. (Cụm từ) Đem người nữ đến gần Tỳ khưu có nghĩa là: do ganh tị, muốn hãm hại Tỳ khưu đó, họ dụ dỗ bằng vật chất, hoặc do quen biết thân tình mà nói rằng “hãy làm việc này cho chúng tôi”, rồi đem một người nữ nào đó vào ban đêm đến nơi ở của Tỳ khưu ấy. (Cụm từ) Họ ấn bộ phận sinh dục (của Tỳ khưu) vào đường đại tiện (của người nữ) có nghĩa là: họ bắt giữ Tỳ khưu đó, giữ chặt tay chân đầu v.v… cho không cựa quậy được, rồi ấn bộ phận sinh dục của Tỳ khưu ấy vào đường đại tiện của người nữ; ý nghĩa là họ thực hiện việc giao cấu.

So cetiādīsu so ce bhikkhu vaccamaggabbhantaraṃ attano aṅgajātassa pavesanaṃ sādiyati adhivāseti tasmiṃ khaṇe sevanacittaṃ upaṭṭhāpeti. Paviṭṭhaṃ sādiyati adhivāseti, paviṭṭhakāle sevanacittaṃ upaṭṭhāpeti. Ṭhitaṃ sādiyati adhivāseti, ṭhānappattakāle sukkavissaṭṭhisamaye sevanacittaṃ upaṭṭhāpeti. Uddharaṇaṃ sādiyati adhivāseti, nīharaṇakāle paṭisevanacittaṃ upaṭṭhāpeti. Evaṃ catūsu ṭhānesu sādiyanto ‘‘mama verisamaṇehi idaṃ kata’’nti vattuṃ na labhati, pārājikāpattimeva āpajjati. Yathā ca imāni cattāri sādiyanto āpajjati; evaṃ purimaṃ ekaṃ asādiyitvā tīṇi sādiyantopi, dve asādiyitvā dve sādiyantopi, tīṇi asādiyitvā ekaṃ sādiyantopi āpajjatiyeva. Sabbaso pana asādiyanto āsīvisamukhaṃ viya aṅgārakāsuṃ viya ca paviṭṭhaṃ aṅgajātaṃ maññamāno nāpajjati. Tena vuttaṃ – ‘‘pavesanaṃ na sādiyati…pe… uddharaṇaṃ na sādiyati, anāpattī’’ti. Imañhi evarūpaṃ āraddhavipassakaṃ kāye ca jīvite ca anapekkhaṃ ekādasahi aggīhi sampajjalitāni ca sabbāyatanāni ukkhittāsike viya ca vadhake pañca kāmaguṇe passantaṃ puggalaṃ rakkhanto bhagavā paccatthikānañcassa manorathavighātaṃ karonto imaṃ ‘‘pavesanaṃ na sādiyatī’’tiādikaṃ catukkaṃ nīharitvā ṭhapesīti.
Trong (các câu) bắt đầu bằng “Nếu vị ấy” v.v…, nếu Tỳ khưu đó chấp thuận, ưng chịu việc đưa cơ quan sinh dục của mình vào bên trong đường đại tiện, và vào khoảnh khắc đó khởi lên tâm thực hành (dâm dục). (Nếu) chấp thuận, ưng chịu (khi) đã đưa vào, và vào lúc đã đưa vào khởi lên tâm thực hành (dâm dục). (Nếu) chấp thuận, ưng chịu (khi) đang ở yên, và vào lúc đã đạt đến trạng thái đó, vào lúc xuất tinh, khởi lên tâm thực hành (dâm dục). (Nếu) chấp thuận, ưng chịu việc rút ra, và vào lúc rút ra khởi lên tâm thực hành (dâm dục). Như vậy, người chấp thuận trong bốn trường hợp đó không được phép nói rằng “điều này do các Sa-môn thù địch của tôi làm”, mà chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Và như người chấp thuận bốn (trường hợp) này thì phạm tội; cũng vậy, người không chấp thuận một (trường hợp) đầu mà chấp thuận ba (trường hợp sau), người không chấp thuận hai (trường hợp) mà chấp thuận hai (trường hợp), người không chấp thuận ba (trường hợp) mà chấp thuận một (trường hợp), cũng đều phạm tội. Tuy nhiên, người hoàn toàn không chấp thuận, xem cơ quan sinh dục đã đưa vào như miệng rắn độc hay như hố than hồng, thì không phạm tội. Do đó đã được nói rằng: “Không chấp thuận việc đưa vào… cho đến… không chấp thuận việc rút ra, thì vô tội“. Vì rằng, Đức Thế Tôn, để bảo vệ người như vậy, người đã nỗ lực tu tập minh sát, không luyến tiếc thân và mạng, xem tất cả các xứ như đang bốc cháy với mười một ngọn lửa, và xem năm dục như kẻ sát nhân đã tuốt gươm, đồng thời làm thất bại âm mưu của kẻ thù đối với vị ấy, đã đưa ra và thiết lập bốn điều này, bắt đầu bằng “Không chấp thuận việc đưa vào”.

Paṭhamacatukkakathā niṭṭhitā.

Luận Thuyết Bốn Điều Thứ Nhất (đến đây là) dứt.

Ekūnasattatidvisatacatukkakathā

Luận Thuyết về Hai Trăm Sáu Mươi Chín Bộ Bốn

59-60. Evaṃ paṭhamacatukkaṃ dassetvā idāni yasmā bhikkhupaccatthikā itthiṃ ānetvā na kevalaṃ vaccamaggeneva abhinisīdenti, atha kho passāvamaggenapi mukhenapi. Itthiṃ ānetvāpi ca keci jāgarantiṃ ānenti, keci suttaṃ, keci mattaṃ, keci ummattaṃ, keci pamattaṃ aññavihitaṃ vikkhittacittanti attho. Keci mataṃ akkhāyitaṃ, soṇasiṅgālādīhi akkhāyitanimittanti attho. Keci mataṃ yebhuyyena akkhāyitaṃ, yebhuyyena akkhāyitā nāma yassā nimitte vaccamagge passāvamagge mukhe vā bahutaro okāso akkhāyito hoti. Keci mataṃ yebhuyyena khāyitaṃ, yebhuyyena khāyitā nāma yassā vaccamaggādike nimitte bahuṃ khāyitaṃ hoti, appaṃ akkhāyitaṃ. Na kevalañca manussitthimeva ānenti, atha kho amanussitthimpi tiracchānagatitthimpi. Na kevalañca vuttappakāraṃ itthimeva, ubhatobyañjanakampi paṇḍakampi purisampi ānenti. Tasmā tesaṃ vasena aññānipi catukkāni dassento ‘‘bhikkhupaccatthikā manussitthiṃ jāgaranti’’ntiādimāha.
59-60. Sau khi đã chỉ ra bốn điều thứ nhất như vậy, bây giờ, vì những Tỳ khưu thù địch đem người nữ đến không chỉ ấn (bộ phận sinh dục của Tỳ khưu bị hại) vào đường đại tiện, mà còn cả vào đường tiểu tiện và vào miệng nữa. Và khi đem người nữ đến, một số đem người đang thức, một số (đem người) đang ngủ, một số (đem người) say, một số (đem người) điên, một số (đem người) lơ đãng – có nghĩa là người có tâm bị phân tán, đang chú ý việc khác. Một số (đem người) chết chưa bị ăn, có nghĩa là bộ phận sinh dục chưa bị chó, chó rừng v.v… ăn. Một số (đem người) chết phần lớn chưa bị ăn; “phần lớn chưa bị ăn” có nghĩa là người mà ở bộ phận sinh dục, đường đại tiện, đường tiểu tiện hoặc miệng, phần nhiều chỗ vẫn chưa bị ăn. Một số (đem người) chết phần lớn đã bị ăn; “phần lớn đã bị ăn” có nghĩa là người mà ở bộ phận sinh dục, đường đại tiện v.v…, phần nhiều đã bị ăn, phần ít chưa bị ăn. Và họ không chỉ đem đến người nữ thuộc loài người, mà còn cả người nữ phi nhân và người nữ loài bàng sanh. Và họ không chỉ đem đến người nữ theo các loại đã nói, mà còn cả người có hai bộ phận sinh dục, người á nam á nữ, và người nam. Do đó, để chỉ ra các bộ bốn khác tùy theo những trường hợp đó, ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “Những Tỳ khưu thù địch (đem) người nữ thuộc loài người đang thức“.

Tattha pāḷiyā asammohatthaṃ vuttacatukkāni evaṃ saṅkhyāto veditabbāni – manussitthiyā tiṇṇaṃ maggānaṃ vasena tīṇi suddhikacatukkāni, tīṇi jāgarantīcatukkāni, tīṇi suttacatukkāni, tīṇi mattacatukkāni, tīṇi ummattacatukkāni, tīṇi pamattacatukkāni, tīṇi mataakkhāyitacatukkāni, tīṇi yebhuyyena akkhāyitacatukkāni, tīṇi yebhuyyena khāyitacatukkānīti sattavīsati catukkāni. Tathā amanussitthiyā; tathā tiracchānagatitthiyāti itthivāre ekāsīti catukkāni. Yathā ca itthivāre evaṃ ubhatobyañjanakavāre. Paṇḍakapurisavāresu pana dvinnaṃ maggānaṃ vasena catupaṇṇāsa catupaṇṇāsa honti. Evaṃ sabbānipi dvesatāni, sattati ca catukkāni honti, tāni uttānatthāniyeva.
Trong đó, để không nhầm lẫn về Chánh tạng, các bộ bốn đã được nói cần được biết theo số lượng như sau – Đối với người nữ thuộc loài người, tùy theo ba đường, có ba bộ bốn thuần túy (cơ bản), ba bộ bốn (với người) đang thức, ba bộ bốn (với người) đang ngủ, ba bộ bốn (với người) say, ba bộ bốn (với người) điên, ba bộ bốn (với người) lơ đãng, ba bộ bốn (với người) chết chưa bị ăn, ba bộ bốn (với người chết) phần lớn chưa bị ăn, ba bộ bốn (với người chết) phần lớn đã bị ăn – (như vậy là) hai mươi bảy bộ bốn. Tương tự đối với người nữ phi nhân; tương tự đối với người nữ loài bàng sanh – (như vậy) trong trường hợp người nữ có tám mươi mốt bộ bốn. Và như trong trường hợp người nữ, cũng vậy trong trường hợp người có hai bộ phận sinh dục. Còn trong các trường hợp người á nam á nữ và người nam, tùy theo hai đường, mỗi loại có năm mươi bốn bộ bốn. Như vậy, tất cả có hai trăm bảy mươi bộ bốn, và những điều đó đều có ý nghĩa rõ ràng.

Sabbavāresu panettha ‘‘mataṃ yebhuyyena akkhāyitaṃ khāyita’’nti etasmiṃ ṭhāne ayaṃ vinicchayo – tambapaṇṇidīpe kira dve vinayadharā samānācariyakā therā ahesuṃ – upatissatthero ca, phussadevatthero ca. Te mahābhaye uppanne vinayapiṭakaṃ pariharantā rakkhiṃsu. Tesu upatissatthero byattataro. Tassāpi dve antevāsikā ahesuṃ – mahāpadumatthero ca mahāsumatthero ca. Tesu mahāsumatthero nakkhattuṃ vinayapiṭakaṃ assosi, mahāpadumatthero tena saddhiṃ navakkhattuṃ, visuñca ekakova navakkhattunti aṭṭhārasakkhattuṃ assosi; ayameva tesu byattataro . Tesu mahāsumatthero navakkhattuṃ vinayapiṭakaṃ sutvā ācariyaṃ muñcitvā aparagaṅgaṃ agamāsi. Tato mahāpadumatthero āha – ‘‘sūro vata, re, esa vinayadharo yo dharamānakaṃyeva ācariyaṃ muñcitvā aññattha vasitabbaṃ maññati. Nanu ācariye dharamāne vinayapiṭakañca aṭṭhakathā ca anekakkhattuṃ gahetvāpi na vissajjetabbaṃ, niccakālaṃ sotabbaṃ, anusaṃvaccharaṃ sajjhāyitabba’’nti.
Trong tất cả các trường hợp ở đây, tại điểm (nói về) “người chết phần lớn chưa bị ăn, (và người chết) đã bị ăn“, đây là sự quyết định – Nghe nói, ở đảo Tambapaṇṇi (Tích Lan) có hai vị Trưởng lão trì Luật, là bạn đồng sư – Trưởng lão Upatissa và Trưởng lão Phussadeva. Khi đại nạn xảy ra, hai vị ấy đã mang theo và bảo vệ tạng Luật. Trong hai vị, Trưởng lão Upatissa là người thông thạo hơn. Vị ấy cũng có hai đệ tử – Trưởng lão Mahāpaduma và Trưởng lão Mahāsuma. Trong hai vị đó, Trưởng lão Mahāsuma đã nghe tạng Luật chín lần; Trưởng lão Mahāpaduma đã nghe cùng với vị ấy chín lần, và một mình riêng biệt chín lần nữa – (tổng cộng) mười tám lần đã nghe; chính vị này là người thông thạo hơn trong số họ. Trong hai vị đó, Trưởng lão Mahāsuma, sau khi nghe tạng Luật chín lần, đã rời bỏ thầy mình và đi đến Aparagaṅga (Bờ Tây sông Gaṅgā). Lúc đó, Trưởng lão Mahāpaduma nói: “Này anh, vị trì Luật này thật là dũng cảm, người mà khi thầy mình còn tại thế lại cho rằng nên rời bỏ (thầy) để sống ở nơi khác! Chẳng phải khi thầy còn tại thế, dù đã học tạng Luật và Chú giải nhiều lần cũng không nên xao lãng, mà phải thường xuyên lắng nghe, và hàng năm phải trùng tụng hay sao?”.

Evaṃ vinayagarukānaṃ bhikkhūnaṃ kāle ekadivasaṃ upatissatthero mahāpadumattherappamukhānaṃ pañcannaṃ antevāsikasatānaṃ paṭhamapārājikasikkhāpade imaṃ padesaṃ vaṇṇento nisinno hoti. Taṃ antevāsikā pucchiṃsu – ‘‘bhante, yebhuyyena akkhāyite pārājikaṃ, yebhuyyena khāyite thullaccayaṃ, upaḍḍhakkhāyite kena bhavitabba’’nti? Thero āha – ‘‘āvuso, buddhā nāma pārājikaṃ paññapentā na sāvasesaṃ katvā paññapenti, anavasesaṃyeva katvā sabbaṃ pariyādiyitvā sotaṃ chinditvā pārājikavatthusmiṃ pārājikameva paññapenti. Idañhi sikkhāpadaṃ lokavajjaṃ, na paṇṇattivajjaṃ. Tasmā yadi upaḍḍhakkhāyite pārājikaṃ bhaveyya, paññapeyya sammāsambuddho. Pārājikacchāyā panettha na dissati, thullaccayameva dissatī’’ti.
Vào thời của các Tỳ khưu tôn kính Luật như vậy, một hôm, Trưởng lão Upatissa đang ngồi giảng giải đoạn này trong học giới Bất Cộng Trụ thứ nhất cho năm trăm đệ tử do Trưởng lão Mahāpaduma dẫn đầu. Các đệ tử ấy hỏi ngài: “Bạch Đại đức, (trường hợp thi thể) phần lớn chưa bị ăn thì phạm tội Bất Cộng Trụ, (trường hợp thi thể) phần lớn đã bị ăn thì phạm tội Trọng Tội, vậy (trường hợp thi thể) bị ăn một nửa thì sẽ phạm tội gì?”. Vị Trưởng lão trả lời: “Chư Hiền, các Đức Phật khi chế định (tội) Bất Cộng Trụ không chế định một cách còn sót lại, mà chế định một cách không còn sót lại, bao trùm tất cả, cắt đứt dòng chảy, (nghĩa là) đối với đối tượng của tội Bất Cộng Trụ thì chỉ chế định tội Bất Cộng Trụ mà thôi. Vì học giới này là điều thế gian khiển trách, không phải là điều khiển trách do chế định. Do đó, nếu trường hợp (thi thể) bị ăn một nửa mà phạm tội Bất Cộng Trụ, thì bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đã chế định rồi. Ở đây không thấy có dấu hiệu (bóng dáng) của tội Bất Cộng Trụ, mà chỉ thấy tội Trọng Tội mà thôi”.

Apica matasarīre pārājikaṃ paññapento bhagavā yebhuyyena akkhāyite ṭhapesi ‘‘tato paraṃ pārājikaṃ natthī’’ti dassetuṃ. Thullaccayaṃ paññapento yebhuyyena khāyite ṭhapesi ‘‘tato paraṃ thullaccayaṃ natthī’’ti dassetuntipi veditabbaṃ. Khāyitākhāyitañca nāmetaṃ matasarīrasmiṃyeva veditabbaṃ, na jīvamāne. Jīvamāne hi nakhapiṭṭhippamāṇepi chavimaṃse vā nhārumhi vā sati pārājikameva hoti. Yadipi nimittaṃ sabbaso khāyitaṃ chavicammaṃ natthi, nimittasaṇṭhānaṃ paññāyati, pavesanaṃ jāyati, pārājikameva. Nimittasaṇṭhānaṃ pana anavasesetvā sabbasmiṃ nimitte chinditvā samantato tacchetvā uppāṭite vaṇasaṅkhepavasena thullaccayaṃ. Nimittato patitāya maṃsapesiyā upakkamantassa dukkaṭaṃ. Matasarīre pana yadipi sabbaṃ sarīraṃ khāyitaṃ hoti, yadipi akkhāyitaṃ, tayo pana maggā akkhāyitā, tesu upakkamantassa pārājikaṃ. Yebhuyyena akkhāyite pārājikameva. Upaḍḍhakkhāyite ca yebhuyyena khāyite ca thullaccayaṃ.
Hơn nữa, khi chế định tội Bất Cộng Trụ đối với thi thể, Đức Thế Tôn đã quy định (tội Bất Cộng Trụ) cho trường hợp phần lớn chưa bị ăn, để chỉ rõ rằng “ngoài mức đó trở đi thì không còn là tội Bất Cộng Trụ”. Cũng cần được hiểu rằng, khi chế định tội Trọng Tội, Ngài đã quy định (tội Trọng Tội) cho trường hợp phần lớn đã bị ăn, để chỉ rõ rằng “ngoài mức đó trở đi thì không còn là tội Trọng Tội”. Và việc (xét) đã bị ăn hay chưa bị ăn này cần được hiểu là chỉ đối với thi thể, chứ không phải đối với người sống. Vì đối với người sống, nếu còn da thịt hoặc gân dù chỉ bằng móng tay, thì vẫn phạm tội Bất Cộng Trụ. Dù bộ phận sinh dục đã hoàn toàn bị ăn, không còn da thịt, nhưng hình dạng bộ phận sinh dục vẫn còn nhận ra được, và việc đưa vào vẫn xảy ra, thì vẫn phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu hình dạng bộ phận sinh dục không còn sót lại, toàn bộ bộ phận sinh dục đã bị cắt đứt, đẽo gọt tứ phía, bị nhổ bật gốc, (thì việc đưa vào) giống như trường hợp vết thương hở, phạm tội Trọng Tội. Người cố gắng (giao cấu) với một miếng thịt đã rơi ra từ bộ phận sinh dục, phạm tội Tác Ác. Còn đối với thi thể, dù toàn bộ thân đã bị ăn, hay dù chưa bị ăn, nhưng nếu ba đường vẫn chưa bị ăn, thì người cố gắng (giao cấu) vào những đường đó phạm tội Bất Cộng Trụ. (Trường hợp thi thể) phần lớn chưa bị ăn, chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. (Trường hợp thi thể) bị ăn một nửa và (trường hợp thi thể) phần lớn đã bị ăn, thì phạm tội Trọng Tội.

Manussānaṃ jīvamānakasarīre akkhināsakaṇṇacchiddavatthikosesu satthakādīhi katavaṇe vā methunarāgena tilaphalamattampi aṅgajātaṃ pavesentassa thullaccayameva. Avasesasarīre upakacchakādīsu dukkaṭaṃ. Mate allasarīre pārājikakkhette pārājikaṃ, thullaccayakkhette thullaccayaṃ, dukkaṭakkhette dukkaṭaṃ. Yadā pana sarīraṃ uddhumātakaṃ hoti kuthitaṃ nīlamakkhikasamākiṇṇaṃ kimikulasamākulaṃ navahi vaṇamukhehi paggaḷitapubbakuṇapabhāvena upagantumpi asakkuṇeyyaṃ, tadā pārājikavatthuñca thullaccayavatthuñca vijahati; tādise sarīre yattha katthaci upakkamato dukkaṭameva. Tiracchānagatānaṃ hatthi-assa-goṇa-gadrabha-oṭṭhamahiṃsādīnaṃ nāsāya thullaccayaṃ. Vatthikose thullaccayameva. Sabbesampi tiracchānagatānaṃ akkhikaṇṇavaṇesu dukkaṭaṃ, avasesasarīrepi dukkaṭameva. Matānaṃ allasarīre pārājikakkhette pārājikaṃ, thullaccayakkhette thullaccayaṃ, dukkaṭakkhette dukkaṭaṃ.
Đối với thân thể người sống, người nào do lòng ham muốn dâm dục mà đưa cơ quan sinh dục dù chỉ bằng một hạt mè vào các lỗ mắt, mũi, tai, bọng đái, hoặc vào vết thương do dao v.v… gây ra, chắc chắn phạm tội Trọng Tội. (Nếu đưa vào) các phần còn lại của thân thể, như nách v.v…, phạm tội Tác Ác. Đối với thi thể còn tươi, (nếu đưa vào) phạm vi của tội Bất Cộng Trụ thì phạm tội Bất Cộng Trụ, (nếu đưa vào) phạm vi của tội Trọng Tội thì phạm tội Trọng Tội, (nếu đưa vào) phạm vi của tội Tác Ác thì phạm tội Tác Ác. Nhưng khi thi thể trương phình, thối rữa, đầy ruồi xanh, lúc nhúc dòi bọ, mủ và xác thối chảy ra từ chín cửa vết thương, đến mức không thể lại gần được, thì khi đó đối tượng của tội Bất Cộng Trụ và đối tượng của tội Trọng Tội đều bị loại trừ; đối với thi thể như vậy, cố gắng (giao cấu) vào bất kỳ nơi nào cũng chỉ phạm tội Tác Ác. Đối với các loài bàng sanh như voi, ngựa, bò, lừa, lạc đà, trâu v.v…, (nếu đưa vào) mũi, phạm tội Trọng Tội. (Nếu đưa vào) bọng đái, chắc chắn phạm tội Trọng Tội. Đối với tất cả các loài bàng sanh, (nếu đưa vào) mắt, tai, vết thương, phạm tội Tác Ác; (nếu đưa vào) các phần còn lại của thân thể cũng chỉ phạm tội Tác Ác. Đối với thi thể còn tươi của chúng, (nếu đưa vào) phạm vi của tội Bất Cộng Trụ thì phạm tội Bất Cộng Trụ, (nếu đưa vào) phạm vi của tội Trọng Tội thì phạm tội Trọng Tội, (nếu đưa vào) phạm vi của tội Tác Ác thì phạm tội Tác Ác.

Kuthitakuṇape pana pubbe vuttanayeneva sabbattha dukkaṭaṃ. Kāyasaṃsaggarāgena vā methunarāgena vā jīvamānakapurisassa vatthikosaṃ appavesento nimittena nimittaṃ chupati, dukkaṭaṃ. Methunarāgena itthiyā appavesento nimittena nimittaṃ chupati, thullaccayaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘itthinimittaṃ methunarāgena mukhena chupati thullaccaya’’nti vuttaṃ. Cammakkhandhake ‘‘chabbaggiyā bhikkhū aciravatiyā nadiyā gāvīnaṃ tarantīnaṃ visāṇesupi gaṇhanti, kaṇṇesupi gaṇhanti, gīvāyapi gaṇhanti, cheppāyapi gaṇhanti, piṭṭhimpi abhiruhanti, rattacittāpi aṅgajātaṃ chupantī’’ti (mahāva. 252) imissā aṭṭhuppattiyā avisesena vuttaṃ – ‘‘na ca, bhikkhave, rattacittena aṅgajātaṃ chupitabbaṃ, yo chupeyya, āpatti thullaccayassā’’ti (mahāva. 252). Taṃ sabbampi saṃsanditvā yathā na virujjhati tathā gahetabbaṃ. Kathañca na virujjhati? Yaṃ tāva mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ ‘‘methunarāgena mukhena chupatī’’ti. Tatra kira nimittamukhaṃ mukhanti adhippetaṃ. ‘‘Methunarāgenā’’ti ca vuttattāpi ayameva tattha adhippāyoti veditabbo. Na hi itthinimitte pakatimukhena methunupakkamo hoti. Khandhakepi ye piṭṭhiṃ abhiruhantā methunarāgena aṅgajātena aṅgajātaṃ chupiṃsu, te sandhāya thullaccayaṃ vuttanti veditabbaṃ. Itarathā hi dukkaṭaṃ siyā. Keci panāhu ‘‘khandhakepi mukheneva chupanaṃ sandhāya oḷārikattā kammassa thullaccayaṃ vuttaṃ. Aṭṭhakathāyampi taṃ sandhāyabhāsitaṃ gahetvāva methunarāgena mukhena chupati thullaccayanti vutta’’nti. Tasmā suṭṭhu sallakkhetvā ubhosu vinicchayesu yo yuttataro so gahetabbo. Vinayaññū pana purimaṃ pasaṃsanti. Kāyasaṃsaggarāgena pana pakatimukhena vā nimittamukhena vā itthinimittaṃ chupantassa saṅghādiseso. Tiracchānagatitthiyā passāvamaggaṃ nimittamukhena chupantassa vuttanayeneva thullaccayaṃ. Kāyasaṃsaggarāgena dukkaṭanti.
Còn đối với thi thể thối rữa, theo phương pháp đã nói ở trước, (hành vi) ở bất kỳ đâu cũng phạm tội Tác Ác. Do lòng ham muốn tiếp xúc thân thể hoặc do lòng ham muốn dâm dục, (nếu) không đưa vào bọng đái của người nam đang sống mà (chỉ) dùng bộ phận sinh dục chạm vào bộ phận sinh dục, phạm tội Tác Ác. Do lòng ham muốn dâm dục, (nếu) không đưa vào (bộ phận sinh dục) của người nữ mà (chỉ) dùng bộ phận sinh dục chạm vào bộ phận sinh dục, phạm tội Trọng Tội. Tuy nhiên, trong Đại Chú Giải (Mahāaṭṭhakathā) có nói: “(Nếu) do lòng ham muốn dâm dục mà dùng miệng chạm vào bộ phận sinh dục nữ, phạm tội Trọng Tội”. Trong Chương Da (Cammakkhandhaka), đối với duyên sự này: “Các Tỳ khưu nhóm sáu người (Chabbaggiyā) ở sông Aciravatī, khi các con bò cái đang bơi qua, họ nắm cả sừng, nắm cả tai, nắm cả cổ, nắm cả đuôi, và còn leo lên cả lưng, rồi với tâm tham ái cũng chạm vào bộ phận sinh dục (của bò cái)” (mahāva. 252), đã được nói một cách không phân biệt rằng – “Này các Tỳ khưu, không được với tâm tham ái mà chạm vào bộ phận sinh dục; người nào chạm vào, phạm tội Trọng Tội” (mahāva. 252). Tất cả những điều đó cần được đối chiếu và hiểu theo cách không mâu thuẫn. Và làm thế nào để không mâu thuẫn? Điều mà trong Đại Chú Giải nói: “(Nếu) do lòng ham muốn dâm dục mà dùng miệng chạm vào”, nghe nói ở đó “miệng” được hiểu là miệng của bộ phận sinh dục (quy đầu). Và vì đã nói “do lòng ham muốn dâm dục”, nên cũng cần hiểu rằng đó chính là ý muốn ở đây. Vì không có sự cố gắng giao cấu bằng miệng thông thường đối với bộ phận sinh dục nữ (mà phạm Trọng Tội ngay). Trong (Chương) Khandhaka cũng vậy, cần hiểu rằng tội Trọng Tội được nói đến là nhắm vào những người leo lên lưng (bò cái) rồi do lòng ham muốn dâm dục mà dùng bộ phận sinh dục (của mình) chạm vào bộ phận sinh dục (của bò cái). Vì nếu khác đi, thì sẽ là tội Tác Ác. Tuy nhiên, một số người nói: “Trong (Chương) Khandhaka cũng vậy, tội Trọng Tội được nói đến là nhắm vào việc chạm bằng miệng, do tính chất thô trọng của hành vi. Và trong Chú giải cũng vậy, chính là lấy lời nói nhắm đến điều đó mà nói rằng: ‘do lòng ham muốn dâm dục mà dùng miệng chạm vào, phạm tội Trọng Tội'”. Do đó, sau khi đã suy xét kỹ lưỡng, trong cả hai quyết định, quyết định nào hợp lý hơn thì cần được chọn/hiểu theo. Tuy nhiên, các bậc thông hiểu Luật tán thành quyết định trước. Nhưng người nào do lòng ham muốn tiếp xúc thân thể mà dùng miệng thông thường hoặc miệng của bộ phận sinh dục chạm vào bộ phận sinh dục nữ, phạm tội Tăng Tàn. Người dùng miệng của bộ phận sinh dục chạm vào đường tiểu tiện của con cái loài bàng sanh, theo phương pháp đã nói, phạm tội Trọng Tội. (Nếu) do lòng ham muốn tiếp xúc thân thể, (thì phạm tội) Tác Ác.

Ekūnasattatidvisatacatukkakathā niṭṭhitā.

Luận Thuyết về Hai Trăm Sáu Mươi Chín Bộ Bốn (đến đây là) dứt.

Santhatacatukkabhedakathā

Luận Thuyết về Sự Phân Biệt của Bộ Bốn (liên quan đến việc) Có Che Đậy

61-62. Evaṃ bhagavā paṭipannakassa bhikkhuno rakkhaṇatthaṃ sattatidvisatacatukkāni nīharitvā ‘‘idāni ye anāgate pāpabhikkhū ‘santhataṃ imaṃ na kiñci upādinnakaṃ upādinnakena phusati, ko ettha doso’ti sañcicca lesaṃ oḍḍessanti, tesaṃ sāsane patiṭṭhā eva na bhavissatī’’ti disvā tesu sattatidvisatacatukkesu ekamekaṃ catukkaṃ catūhi santhatādibhedehi bhinditvā dassento bhikkhupaccatthikā manussitthiṃ bhikkhussa santike ānetvā vaccamaggena passāvamaggena mukhena aṅgajātaṃ abhinisīdenti santhatāya asanthatassātiādimāha.
61-62. Như vậy, Đức Thế Tôn, để bảo vệ Tỳ khưu đang thực hành (chân chánh), sau khi đã đưa ra hai trăm bảy mươi bộ bốn, (Ngài) thấy rằng: “Bây giờ, những Tỳ khưu ác trong tương lai sẽ cố ý viện cớ rằng ‘cái này được che đậy, không có gì là vật hữu chấp chạm vào vật hữu chấp, có lỗi gì ở đây đâu?’, đối với họ sẽ không có chỗ đứng trong giáo pháp này”, (nên) trong số hai trăm bảy mươi bộ bốn đó, Ngài đã phân chia mỗi một bộ bốn thành bốn loại (liên quan đến việc) có che đậy v.v…, và để chỉ rõ (điều đó), Ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “Những Tỳ khưu thù địch đem người nữ thuộc loài người đến gần Tỳ khưu, rồi ấn bộ phận sinh dục (của Tỳ khưu) không được che đậy vào đường đại tiện, đường tiểu tiện, miệng (của người nữ) được che đậy“.

Tattha santhatāya asanthatassātiādīsu santhatāya itthiyā vaccamaggena passāvamaggena mukhena asanthatassa bhikkhussa aṅgajātaṃ abhinisīdentīti iminā nayena yojanā veditabbā. Tattha santhatā nāma yassā tīsu maggesu yo koci maggo paliveṭhetvā vā anto vā pavesetvā yena kenaci vatthena vā paṇṇena vā vākapaṭṭena vā cammena vā tipusīsādīnaṃ paṭṭena vā paṭicchanno. Santhato nāma yassa aṅgajātaṃ tesaṃyeva vatthādīnaṃ yena kenaci paṭicchannaṃ. Tattha upādinnakena vā anupādinnakaṃ ghaṭṭiyatu, anupādinnakena vā upādinnakaṃ, anupādinnakena vā anupādinnakaṃ, upādinnakena vā upādinnakaṃ, sace yattake paviṭṭhe pārājikaṃ hotīti vuttaṃ, tattakaṃ pavisati, sabbattha sādiyantassa pārājikakkhette pārājikaṃ; thullaccayakkhette thullaccayaṃ, dukkaṭakkhette dukkaṭameva hoti. Sace itthinimittaṃ khāṇuṃ katvā santhataṃ, khāṇuṃ ghaṭṭentassa dukkaṭaṃ. Sace purisanimittaṃ khāṇuṃ katvā santhataṃ, khāṇuṃ pavesentassa dukkaṭaṃ. Sace ubhayaṃ khāṇuṃ katvā santhataṃ, khāṇunā khāṇuṃ ghaṭṭentassa dukkaṭaṃ. Sace itthinimitte veḷunaḷapabbādīnaṃ kiñci pakkhittaṃ, tassa heṭṭhābhāgaṃ cepi phusanto tilaphalamattaṃ paveseti, pārājikaṃ. Uparibhāgaṃ cepi ubhosu passesu ekapassaṃ cepi phusanto paveseti, pārājikaṃ. Cattāripi passāni aphusanto pavesetvā tassa talaṃ cepi phusati, pārājikaṃ. Yadi pana passesu vā tale vā aphusanto ākāsagatameva katvā pavesetvā nīharati, dukkaṭaṃ. Bahiddhā khāṇuke phusati dukkaṭameva. Yathā ca itthinimitte vuttaṃ, evaṃ sabbattha lakkhaṇaṃ veditabbanti.
Trong đó, (các cụm từ) bắt đầu bằng “(của người nữ) được che đậy đối với (bộ phận sinh dục của Tỳ khưu) không được che đậy” v.v…, cần được hiểu theo phương pháp giải thích này: “Họ ấn bộ phận sinh dục của Tỳ khưu không được che đậy vào đường đại tiện, đường tiểu tiện, miệng của người nữ được che đậy”. Trong đó, (người nữ) được che đậy có tên là người mà bất kỳ đường nào trong ba đường (của người ấy) được che đậy bằng cách quấn quanh hoặc đưa vào bên trong bằng bất kỳ thứ gì như vải, lá, vỏ cây, da, hoặc tấm kim loại thiếc, chì v.v… (Tỳ khưu) được che đậy có tên là người mà bộ phận sinh dục được che đậy bằng bất kỳ thứ gì như vải v.v… đó. Trong đó, dù vật hữu chấp chạm vào vật vô chấp, hay vật vô chấp chạm vào vật hữu chấp, hay vật vô chấp chạm vào vật vô chấp, hay vật hữu chấp chạm vào vật hữu chấp, nếu (phần) đưa vào đạt đến mức độ đã được nói là phạm tội Bất Cộng Trụ, thì trong tất cả các trường hợp, người chấp thuận (mà hành vi xảy ra) trong phạm vi Bất Cộng Trụ thì phạm tội Bất Cộng Trụ; (nếu xảy ra) trong phạm vi Trọng Tội thì phạm tội Trọng Tội; (nếu xảy ra) trong phạm vi Tác Ác thì chắc chắn phạm tội Tác Ác. Nếu bộ phận sinh dục nữ được che đậy bằng cách làm cho giống như khúc gỗ, người chạm vào khúc gỗ đó phạm tội Tác Ác. Nếu bộ phận sinh dục nam được che đậy bằng cách làm cho giống như khúc gỗ, người đưa khúc gỗ đó vào phạm tội Tác Ác. Nếu cả hai (bộ phận sinh dục) được che đậy bằng cách làm cho giống như khúc gỗ, người dùng khúc gỗ chạm vào khúc gỗ phạm tội Tác Ác. Nếu có vật gì đó như ống tre, đốt sậy v.v… được đặt vào bộ phận sinh dục nữ, nếu người đó đưa (bộ phận sinh dục của mình) vào dù chỉ bằng một hạt mè mà chạm đến phần dưới của vật đó, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu đưa vào chạm đến phần trên, hoặc chạm đến một trong hai bên, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu đưa vào mà không chạm đến cả bốn cạnh, nhưng chạm đến đáy của vật đó, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu đưa vào rồi rút ra mà không chạm vào các cạnh hay đáy, chỉ đi vào khoảng không, thì phạm tội Tác Ác. Nếu chạm vào khúc gỗ nhỏ ở bên ngoài, chắc chắn phạm tội Tác Ác. Và như đã được nói đối với bộ phận sinh dục nữ, cũng cần hiểu đặc tính như vậy trong tất cả các trường hợp.

Santhatacatukkabhedakathā niṭṭhitā.

Luận Thuyết về Sự Phân Biệt của Bộ Bốn (liên quan đến việc) Có Che Đậy (đến đây là) dứt.

Bhikkhupaccatthikacatukkabhedavaṇṇanā

Chú Giải về Sự Phân Biệt của Bộ Bốn (liên quan đến) Kẻ Thù của Tỳ Khưu

63-64. Evaṃ santhatacatukkabhedaṃ vatvā idāni yasmā na kevalaṃ manussitthiādike bhikkhussa eva santike ānenti. Atha kho bhikkhumpi tāsaṃ santike ānenti, tasmā tappabhedaṃ dassento ‘‘bhikkhupaccatthikā bhikkhuṃ manussitthiyā santike’’ti ādinā nayena sabbāni tāni catukkāni punapi nīharitvā dassesi. Tesu vinicchayo vuttanayeneva veditabboti.
63-64. Sau khi đã nói về sự phân biệt của bộ bốn (liên quan đến việc) có che đậy như vậy, bây giờ, vì (kẻ thù) không chỉ đem người nữ thuộc loài người v.v… đến gần Tỳ khưu mà thôi, mà còn đem cả Tỳ khưu đến gần những người ấy (người nữ v.v…) nữa; do đó, để chỉ rõ sự phân biệt đó, ngài đã lại đưa ra và chỉ bày tất cả các bộ bốn ấy theo phương pháp bắt đầu bằng “Những Tỳ khưu thù địch (đem) Tỳ khưu đến gần người nữ thuộc loài người“. Đối với những (bộ bốn) đó, sự quyết định cần được hiểu theo phương pháp đã nói.

Bhikkhupaccatthikavasena catukkabhedavaṇṇanā niṭṭhitā.

Chú Giải về Sự Phân Biệt của Bộ Bốn tùy theo (trường hợp) Kẻ Thù của Tỳ Khưu (đến đây là) dứt.

Rājapaccatthikādicatukkabhedakathā

Luận Thuyết về Sự Phân Biệt của Bộ Bốn (liên quan đến) Kẻ Thù là Vua v.v…

65. Yasmā pana na bhikkhupaccatthikā eva evaṃ karonti, rājapaccatthikādayopi karonti. Tasmā tampi pabhedaṃ dassento ‘‘rājapaccatthikā’’tiādimāha. Tattha rājāno eva paccatthikā rājapaccatthikā. Te ca sayaṃ ānentāpi aññehi āṇāpentāpi ānentiyevāti veditabbā. Corā eva paccatthikā corapaccatthikā. Dhuttāti methunupasaṃhitakhiḍḍāpasutā nāgarikakerāṭiyapurisā, itthidhuttasurādhuttādayo vā; dhuttā eva paccatthikā dhuttapaccatthikā. Gandhanti hadayaṃ vuccati, taṃ uppāṭentīti uppalagandhā, uppalagandhā eva paccatthikā uppalagandhapaccatthikā. Ete kira na kasivaṇijjādīhi jīvanti, panthaghātagāmaghātādīni katvā puttadāraṃ posenti. Te kammasiddhiṃ patthayamānā devatānaṃ āyācetvā tāsaṃ balikammatthaṃ manussānaṃ hadayaṃ uppāṭenti. Sabbakāle ca manussā dullabhā. Bhikkhū pana araññe viharantā sulabhā honti. Te sīlavantaṃ bhikkhuṃ gahetvā ‘‘sīlavato vadho nāma bhāriyo hotī’’ti maññamānā tassa sīlavināsanatthaṃ manussitthiādike vā ānenti; taṃ vā tattha nenti. Ayamettha viseso. Sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ. Bhikkhupaccatthikavāre vuttanayeneva ca imesu catūsupi vāresu catukkāni veditabbāni. Pāḷiyaṃ pana saṃkhittena vuttāni.
65. Tuy nhiên, vì không chỉ những kẻ thù là Tỳ khưu mới làm như vậy, mà những kẻ thù là vua v.v… cũng làm (như vậy). Do đó, để chỉ rõ sự phân biệt đó, ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “Kẻ thù là vua“. Trong đó, chính các vị vua là kẻ thù, (gọi là) kẻ thù là vua (rājapaccatthikā). Và cần được hiểu rằng, họ hoặc tự mình đem đến, hoặc ra lệnh cho người khác đem đến, (thì cũng đều là) họ đem đến. Chính những tên trộm là kẻ thù, (gọi là) kẻ thù là trộm (corapaccatthikā). (Từ) Kẻ du đãng (Dhuttā) là những người thành thị xảo quyệt ham thích trò chơi dâm dục, hoặc những kẻ nghiện đàn bà, nghiện rượu v.v…; chính những kẻ du đãng là kẻ thù, (gọi là) kẻ thù là du đãng (dhuttapaccatthikā). “Gandha” được gọi là trái tim, những kẻ moi tim đó (gọi là) uppalagandhā (người moi tim); chính những kẻ moi tim là kẻ thù, (gọi là) kẻ thù là người moi tim (uppalagandhapaccatthikā). Nghe nói, những kẻ này không sống bằng nghề nông, buôn bán v.v…, mà nuôi vợ con bằng cách cướp đường, cướp làng v.v… Họ, mong muốn sự thành tựu của việc làm (tà thuật), khẩn cầu các vị trời và moi tim người để làm vật tế lễ cho các vị trời ấy. Và người (thường) thì luôn khó tìm. Còn các Tỳ khưu sống trong rừng thì dễ tìm. Họ bắt một Tỳ khưu có giới hạnh, nghĩ rằng “việc giết người có giới hạnh là một tội nặng”, rồi để phá giới của vị ấy, họ hoặc đem người nữ v.v… đến, hoặc đem vị ấy đến đó (chỗ người nữ). Đây là điểm đặc biệt ở đây. Phần còn lại cần được hiểu theo phương pháp đã nói. Và các bộ bốn trong cả bốn trường hợp này cũng cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong trường hợp kẻ thù là Tỳ khưu. Tuy nhiên, trong Chánh tạng, (những điều này) được nói một cách tóm tắt.

Sabbākārena catukkabhedakathā niṭṭhitā.

Luận Thuyết về Sự Phân Biệt của Bộ Bốn bằng mọi cách (đến đây là) dứt.

Āpattānāpattivāravaṇṇanā

Chú Giải về Chương (nói về) Tội và Vô Tội

66. Idāni yaṃ vuttaṃ ‘‘manussitthiyā tayo magge methunaṃ dhammaṃ paṭisevantassā’’tiādi, ettha asammohatthaṃ ‘‘maggena magga’’ntiādimāha. Tattha maggena magganti itthiyā tīsu maggesu aññatarena maggena attano aṅgajātaṃ paveseti atha vā sambhinnesu dvīsu maggesu passāvamaggena vaccamaggaṃ vaccamaggena vā passāvamaggaṃ paveseti. Maggena amagganti passāvādimaggena pavesetvā tassa sāmantā vaṇena nīharati. Amaggena magganti maggasāmantena vaṇena pavesetvā maggena nīharati. Amaggena amagganti dvīsu sambhinnavaṇesu ekena vaṇena pavesetvā dutiyena nīharati. Imassa suttassa anulomavasena sabbattha vaṇasaṅkhepe thullaccayaṃ veditabbaṃ.
66. Bây giờ, đối với (điều) đã được nói bắt đầu bằng “Người thực hành pháp dâm trong ba đường của người nữ thuộc loài người” v.v…, để không nhầm lẫn ở đây, ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “(đưa) vào đường bằng đường“. Trong đó, (cụm từ) (đưa) vào đường bằng đường có nghĩa là: (người đó) đưa cơ quan sinh dục của mình vào một đường nào đó trong ba đường của người nữ; hoặc là, trong hai đường thông nhau, (người đó) đưa (cơ quan sinh dục) từ đường tiểu tiện vào đường đại tiện, hoặc từ đường đại tiện vào đường tiểu tiện. (Cụm từ) (Đưa) vào đường bằng không phải đường có nghĩa là: đưa (cơ quan sinh dục) vào đường tiểu tiện v.v…, rồi rút ra qua một vết thương gần đó. (Cụm từ) (Đưa) vào không phải đường bằng đường có nghĩa là: đưa (cơ quan sinh dục) vào qua một vết thương gần đường (sinh dục), rồi rút ra qua đường (sinh dục). (Cụm từ) (Đưa) vào không phải đường bằng không phải đường có nghĩa là: trong hai vết thương thông nhau, đưa (cơ quan sinh dục) vào qua một vết thương rồi rút ra qua vết thương thứ hai. Tùy theo sự tương ứng của kinh này, cần được hiểu rằng (việc đưa vào) trong trường hợp vết thương hở ở bất kỳ đâu cũng phạm tội Trọng Tội.

Idāni yaṃ parato vakkhati ‘‘anāpatti ajānantassa asādiyantassā’’ti, tattha asammohatthaṃ ‘‘bhikkhu suttabhikkhumhī’’tiādimāha. Tatrāyaṃ adhippāyo – yo paṭibuddho sādiyati so ‘‘suttamhi mayi eso vippaṭipajji, nāhaṃ jānāmī’’ti na muccati. Ubho nāsetabbāti cettha dvepi liṅganāsanena nāsetabbā. Tatra dūsakassa paṭiññākaraṇaṃ natthi, dūsito pucchitvā paṭiññāya nāsetabbo. Sace na sādiyati, na nāsetabbo. Esa nayo sāmaṇeravārepi.
Bây giờ, đối với (điều) sẽ được nói ở sau là “vô tội đối với người không biết, người không chấp thuận”, để không nhầm lẫn ở đó, ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “Tỳ khưu (nói) ‘Tôi là Tỳ khưu đang ngủ’“. Ý muốn ở đó là thế này: người nào (sau khi) tỉnh dậy mà chấp thuận, người đó không được thoát tội bằng cách nói rằng “khi tôi đang ngủ, người này đã hành vi sai trái, tôi không biết”. (Cụm từ) Cả hai phải bị trục xuất có nghĩa là: ở đây cả hai đều phải bị trục xuất bằng cách hủy hoại tướng (Tỳ khưu). Ở đó, không có việc bắt người làm hại phải thú nhận; người bị hại, sau khi được hỏi và thú nhận (đã chấp thuận), thì phải bị trục xuất. Nếu không chấp thuận, thì không bị trục xuất. Phương pháp này cũng (áp dụng) trong trường hợp Sa-di.

Evaṃ tattha tattha taṃ taṃ āpattiñca anāpattiñca dassetvā idāni anāpattimeva dassento ‘‘anāpatti ajānantassā’’tiādimāha. Tattha ajānanto nāma yo mahāniddaṃ okkanto parena kataṃ upakkamampi na jānāti vesāliyaṃ mahāvane divāvihāragato bhikkhu viya. Evarūpassa anāpatti. Vuttampi cetaṃ – ‘‘‘nāhaṃ bhagavā jānāmī’ti; ‘anāpatti, bhikkhu, ajānantassā’’’ti (pārā. 75). Asādiyanto nāma yo jānitvāpi na sādiyati, tattheva sahasā vuṭṭhitabhikkhu viya. Vuttampi cetaṃ – ‘‘‘nāhaṃ bhagavā sādiyi’nti. ‘Anāpatti, bhikkhu, asādiyantassā’’ti.
Sau khi đã chỉ ra tội và vô tội tương ứng ở từng trường hợp như vậy, bây giờ, để chỉ rõ (trường hợp) vô tội, ngài đã nói (đoạn) bắt đầu bằng “Vô tội đối với người không biết“. Trong đó, người không biết có tên là người đã chìm vào giấc ngủ say, đến nỗi ngay cả sự cố gắng (giao cấu) do người khác thực hiện cũng không biết, giống như vị Tỳ khưu đi nghỉ ban ngày trong rừng Mahāvana ở Vesāli. Đối với người như vậy thì vô tội. Và điều này cũng đã được nói: “‘Bạch Đức Thế Tôn, con không biết’; ‘Này Tỳ khưu, vô tội đối với người không biết’” (pārā. 75). Người không chấp thuận có tên là người dù biết nhưng không chấp thuận, giống như vị Tỳ khưu đột nhiên tỉnh dậy ngay tại đó. Và điều này cũng đã được nói: “‘Bạch Đức Thế Tôn, con không chấp thuận’; ‘Này Tỳ khưu, vô tội đối với người không chấp thuận’”.

Ummattako nāma pittummattako. Duvidhañhi pittaṃ – baddhapittaṃ, abaddhapittañcāti. Tattha abaddhapittaṃ lohitaṃ viya sabbaṅgagataṃ, tamhi kupite sattānaṃ kaṇḍukacchusarīrakampādīni honti. Tāni bhesajjakiriyāya vūpasamanti. Baddhapittaṃ pana pittakosake ṭhitaṃ. Tamhi kupite sattā ummattakā honti vipallatthasaññā hirottappaṃ chaḍḍetvā asāruppācāraṃ caranti. Lahukagarukāni sikkhāpadāni maddantāpi na jānanti. Bhesajjakiriyāyapi atekicchā honti. Evarūpassa ummattakassa anāpatti.
Người điên có tên là người điên do mật. Vì mật có hai loại: mật bị tắc nghẽn và mật không bị tắc nghẽn. Trong đó, mật không bị tắc nghẽn giống như máu đi khắp toàn thân; khi mật ấy bị kích động, chúng sanh bị ngứa ngáy, ghẻ lở, thân thể run rẩy v.v… Những (chứng bệnh) đó lắng dịu nhờ sự trị liệu bằng thuốc. Còn mật bị tắc nghẽn thì nằm trong túi mật. Khi mật ấy bị kích động, chúng sanh trở nên điên loạn, có tưởng bị đảo lộn, từ bỏ lòng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, hành xử không thích hợp. Dù vi phạm các học giới nặng nhẹ cũng không biết. Và cũng không thể chữa trị bằng thuốc. Đối với người điên như vậy thì vô tội.

Khittacitto nāma vissaṭṭhacitto yakkhummattako vuccati. Yakkhā kira bheravāni vā ārammaṇāni dassetvā mukhena hatthaṃ pavesetvā hadayarūpaṃ vā maddantā satte vikkhittacitte vipallatthasaññe karonti. Evarūpassa khittacittassa anāpatti. Tesaṃ pana ubhinnaṃ ayaṃ viseso – pittummattako niccameva ummattako hoti, pakatisaññaṃ na labhati. Yakkhummattako antarantarā pakatisaññaṃ paṭilabhatīti. Idha pana pittummattako vā hotu yakkhummattako vā, yo sabbaso muṭṭhassati kiñci na jānāti, aggimpi suvaṇṇampi gūthampi candanampi ekasadisaṃ maddantova vicarati, evarūpassa anāpatti. Antarantarā saññaṃ paṭilabhitvā ñatvā karontassa pana āpattiyeva.
Người loạn tâm, có tên là người có tâm bị phóng dật, được gọi là người điên do dạ xoa ám. Nghe nói, các dạ xoa làm cho chúng sanh có tâm bị rối loạn, có tưởng bị đảo lộn, bằng cách cho thấy những đối tượng đáng sợ, hoặc đưa tay vào miệng rồi bóp nát hình tim. Đối với người loạn tâm như vậy thì vô tội. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai loại người này là: người điên do mật thì luôn luôn điên, không lấy lại được tưởng bình thường. Còn người điên do dạ xoa ám thì thỉnh thoảng lấy lại được tưởng bình thường. Nhưng ở đây, dù là người điên do mật hay người điên do dạ xoa ám, người nào hoàn toàn mất niệm, không biết gì cả, đi lại giày đạp lên lửa, vàng, phân, chiên đàn như một, thì đối với người như vậy là vô tội. Tuy nhiên, người nào thỉnh thoảng lấy lại được tưởng, rồi biết mà làm, thì chắc chắn phạm tội.

Vedanāṭṭo nāma yo adhimattāya dukkhavedanāya āturo kiñci na jānāti, evarūpassa anāpatti.
Người bị khổ thọ bức bách có tên là người bị bệnh do cảm thọ đau khổ tột cùng, không biết gì cả; đối với người như vậy thì vô tội.

Ādikammiko nāma yo tasmiṃ tasmiṃ kamme ādibhūto. Idha pana sudinnatthero ādikammiko, tassa anāpatti. Avasesānaṃ makkaṭīsamaṇavajjiputtakādīnaṃ āpattiyevāti.
Người sơ phạm có tên là người đầu tiên thực hiện hành vi đó trong từng trường hợp (chế định giới). Nhưng ở đây, Trưởng lão Sudinna là người sơ phạm, đối với vị ấy thì vô tội. Đối với những người còn lại như con khỉ cái, các Sa-môn Vajjiputtaka v.v…, thì chắc chắn phạm tội.

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.

Chú Giải về Phân Tích Từ Ngữ (đến đây là) dứt.

Pakiṇṇakakathā

Luận Thuyết về (Những Vấn Đề) Tạp Loại

Imasmiṃ pana sikkhāpade kosallatthaṃ idaṃ pakiṇṇakaṃveditabbaṃ –
Tuy nhiên, để có sự khéo léo trong học giới này, (những vấn đề) tạp loại này cần được biết –

‘‘Samuṭṭhānañca kiriyā, atho saññā sacittakaṃ;
Lokavajjañca kammañca, kusalaṃ vedanāya cā’’ti.
“Sự khởi sanh và hành vi, rồi đến tưởng và (việc phạm tội) có tâm;
điều thế gian khiển trách và hành động (nghiệp), (phân biệt) thiện và (liên quan đến) cảm thọ”.

Tattha ‘‘samuṭṭhāna’’nti sabbasaṅgāhakavasena cha sikkhāpadasamuṭṭhānāni. Tāni parivāre āvi bhavissanti. Samāsato pana sikkhāpadaṃ nāma – atthi chasamuṭṭhānaṃ, atthi catusamuṭṭhānaṃ, atthi tisamuṭṭhānaṃ, atthi kathinasamuṭṭhānaṃ, atthi eḷakalomasamuṭṭhānaṃ, atthi dhuranikkhepādisamuṭṭhānanti.
Trong đó, (từ) “Sự khởi sanh” có nghĩa là sáu cách khởi sanh của học giới, theo cách bao gồm tất cả. Những điều đó sẽ trở nên rõ ràng trong (Luật) Parivāra. Nói tóm lại, học giới có tên là: có (học giới) khởi sanh từ sáu cách, có (học giới) khởi sanh từ bốn cách, có (học giới) khởi sanh từ ba cách, có (học giới) khởi sanh từ (việc) Kaṭhina, có (học giới) khởi sanh từ lông cừu, có (học giới) khởi sanh từ việc từ bỏ trách nhiệm v.v…

Tatrāpi kiñci kiriyato samuṭṭhāti, kiñci akiriyato samuṭṭhāti, kiñci kiriyākiriyato samuṭṭhāti, kiñci siyā kiriyato, siyā akiriyato samuṭṭhāti, kiñci siyā kiriyato siyā kiriyākiriyato samuṭṭhāti.
Trong đó cũng vậy, có (học giới) khởi sanh từ hành vi, có (học giới) khởi sanh từ phi hành vi, có (học giới) khởi sanh từ hành vi và phi hành vi. Có (học giới) có thể khởi sanh từ hành vi, hoặc có thể khởi sanh từ phi hành vi. Có (học giới) có thể khởi sanh từ hành vi, hoặc có thể khởi sanh từ hành vi và phi hành vi.

Tatrāpi atthi saññāvimokkhaṃ, atthi nosaññāvimokkhaṃ. Tattha yaṃ cittaṅgaṃ labhatiyeva, taṃ saññāvimokkhaṃ; itaraṃ nosaññāvimokkhaṃ.
Trong đó cũng vậy, có (trường hợp) được giải thoát do tưởng, có (trường hợp) không được giải thoát do tưởng. Trong đó, (trường hợp) nào chắc chắn có yếu tố tâm (liên quan đến tưởng), đó là (trường hợp) được giải thoát do tưởng; trường hợp khác là không được giải thoát do tưởng.

Puna atthi sacittakaṃ, atthi acittakaṃ. Yaṃ saheva cittena āpajjati, taṃ sacittakaṃ; yaṃ vināpi cittena āpajjati, taṃ acittakaṃ . Taṃ sabbampi lokavajjaṃ paṇṇattivajjanti duvidhaṃ. Tesaṃ lakkhaṇaṃ vuttameva.
Lại nữa, có (tội) có tâm, có (tội) không có tâm. (Tội) nào phạm phải cùng với tâm, đó là (tội) có tâm; (tội) nào phạm phải ngay cả không có tâm, đó là (tội) không có tâm. Tất cả những điều đó có hai loại: điều thế gian khiển trách và điều khiển trách do chế định. Đặc tính của chúng đã được nói rồi.

Kammakusalavedanāvasenāpi cettha atthi sikkhāpadaṃ kāyakammaṃ, atthi vacīkammaṃ. Tattha yaṃ kāyadvārikaṃ, taṃ kāyakammaṃ; yaṃ vacīdvārikaṃ, taṃ vacīkammanti veditabbaṃ. Atthi pana sikkhāpadaṃ kusalaṃ, atthi akusalaṃ, atthi abyākataṃ. Dvattiṃseva hi āpattisamauṭṭhāpakacittāni – aṭṭha kāmāvacarakusalāni, dvādasa akusalāni, dasa kāmāvacarakiriyacittāni, kusalato ca kiriyato ca dve abhiññācittānīti. Tesu yaṃ kusalacittena āpajjati, taṃ kusalaṃ; itarehi itaraṃ. Atthi ca sikkhāpadaṃ tivedanaṃ, atthi dvivedanaṃ, atthi ekavedanaṃ. Tattha yaṃ āpajjanto tīsu vedanāsu aññataravedanāsamaṅgī hutvā āpajjati, taṃ tivedanaṃ; yaṃ āpajjanto sukhasamaṅgī vā upekkhāsamaṅgī vā āpajjati, taṃ dvivedanaṃ; yaṃ āpajjanto dukkhavedanāsamaṅgīyeva āpajjati, taṃ ekavedananti veditabbaṃ. Evaṃ –
Và ở đây, tùy theo hành động (nghiệp), (tâm) thiện, và cảm thọ, có học giới là thân nghiệp, có (học giới) là khẩu nghiệp. Trong đó, (học giới) nào thuộc về thân môn, đó là thân nghiệp; (học giới) nào thuộc về khẩu môn, đó cần được biết là khẩu nghiệp. Lại nữa, có học giới (liên quan đến tâm) thiện, có (học giới liên quan đến tâm) bất thiện, có (học giới liên quan đến tâm) vô ký. Vì quả thật có ba mươi hai tâm làm khởi sanh tội: tám tâm thiện dục giới, mười hai tâm bất thiện, mười tâm duy tác dục giới, và hai tâm thắng trí (một từ thiện, một từ duy tác). Trong số đó, (tội) nào phạm phải với tâm thiện, đó là (tội liên quan đến tâm) thiện; (tội) phạm phải với các (tâm) khác thì (liên quan đến các tâm) khác. Và có học giới (liên quan đến) ba cảm thọ, có (học giới liên quan đến) hai cảm thọ, có (học giới liên quan đến) một cảm thọ. Trong đó, (học giới) nào mà khi phạm phải, (người phạm) tương ưng với một cảm thọ nào đó trong ba cảm thọ, đó là (học giới liên quan đến) ba cảm thọ; (học giới) nào mà khi phạm phải, (người phạm) tương ưng với lạc thọ hoặc xả thọ, đó là (học giới liên quan đến) hai cảm thọ; (học giới) nào mà khi phạm phải, (người phạm) chỉ tương ưng với khổ thọ, đó cần được biết là (học giới liên quan đến) một cảm thọ. Như vậy –

‘‘Samuṭṭhānañca kiriyā, atho saññā sacittakaṃ;
Lokavajjañca kammañca, kusalaṃ vedanāya cā’’ti.
“Sự khởi sanh và hành vi, rồi đến tưởng và (việc phạm tội) có tâm;
điều thế gian khiển trách và hành động (nghiệp), (phân biệt) thiện và (liên quan đến) cảm thọ”.

Imaṃ pakiṇṇakaṃ viditvā tesu samuṭṭhānādīsu idaṃ sikkhāpadaṃ samuṭṭhānato ekasamuṭṭhānaṃ. Aṅgavasena dukasamuṭṭhānaṃ, kāyacittato samuṭṭhāti. Kiriyasamuṭṭhānañca karontoyeva hi etaṃ āpajjati. Methunapaṭisaṃyuttāya kāmasaññāya abhāvena muccanato saññāvimokkhaṃ. ‘‘Anāpatti ajānantassa asādiyantassā’’ti hi vuttaṃ. Methunacitteneva naṃ āpajjati, na vinā cittenāti sacittakaṃ. Rāgavaseneva āpajjitabbato lokavajjaṃ. Kāyadvāreneva samuṭṭhānato kāyakammaṃ. Cittaṃ panettha aṅgamattaṃ hoti, na tassa vasena kammabhāvo labbhati. Lobhacittena āpajjitabbato akusalacittaṃ. Sukhasamaṅgī vā upekkhāsamaṅgī vā taṃ āpajjatīti dvivedananti veditabbaṃ. Sabbañcetaṃ āpattiyaṃ yujjati. Sikkhāpadasīsena pana sabbaaṭṭhakathāsudesanā ārūḷhā, tasmā evaṃ vuttaṃ.
Sau khi đã biết (những vấn đề) tạp loại này, trong số các (yếu tố) như sự khởi sanh v.v…, học giới này, về mặt khởi sanh, là (học giới) có một cách khởi sanh. Tùy theo yếu tố, (học giới này) có hai cách khởi sanh: khởi sanh từ thân và tâm. Và (học giới này) cũng khởi sanh từ hành vi, vì quả thật chỉ người đang hành động mới phạm tội này. Do được giải thoát nhờ không có tưởng về dục liên quan đến pháp dâm, (nên học giới này thuộc loại) được giải thoát do tưởng. Vì đã được nói: “Vô tội đối với người không biết, người không chấp thuận”. (Người ta) phạm tội này chỉ với tâm dâm dục, chứ không phải không có tâm; (do đó học giới này thuộc loại) có tâm. Do phải phạm phải chỉ vì bị chi phối bởi tham ái, (nên học giới này là) điều thế gian khiển trách. Do khởi sanh chỉ qua thân môn, (nên học giới này là) thân nghiệp. Tâm ở đây chỉ là một yếu tố (phụ), bản chất của nghiệp không có được tùy theo tâm ấy (mà tùy theo hành vi thân). Do phải phạm phải với tâm tham, (nên học giới này liên quan đến) tâm bất thiện. Người phạm tội đó hoặc tương ưng với lạc thọ hoặc tương ưng với xả thọ, do đó cần được biết là (học giới liên quan đến) hai cảm thọ. Và tất cả những điều này đều phù hợp (để áp dụng) cho tội. Tuy nhiên, với tiêu đề học giới, bài giảng trong tất cả các sách Chú giải đã được trình bày, do đó đã được nói như vậy.

Pakiṇṇakakathā niṭṭhitā.

Luận Thuyết về (Những Vấn Đề) Tạp Loại (đến đây là) dứt.

Vinītavatthuvaṇṇanā

Chú Giải về Các Trường Hợp Đã Được Quyết Định

Makkaṭīvajjiputtā ca…pe… vuḍḍhapabbajito migoti idaṃ kiṃ? Imā vinītavatthūnaṃ bhagavatā sayaṃ vinicchitānaṃ tesaṃ tesaṃ vatthūnaṃ uddānagāthā nāma. Tāni vatthūni ‘‘sukhaṃ vinayadharā uggaṇhissantī’’ti dhammasaṅgāhakattherehi ṭhapitāni. Vatthugāthā pana dharamāneyeva bhagavati upālittherena ṭhapitā ‘‘iminā lakkhaṇena āyatiṃ vinayadharā vinayaṃ vinicchinissantī’’ti. Tasmā ettha vuttalakkhaṇaṃ sādhukaṃ sallakkhetvā paṭhamasikkhāpadaṃ vinicchinitabbaṃ. Dutiyādīnañca vinītavatthūsu vuttalakkhaṇena dutiyādīni. Vinītavatthūni hi sippikānaṃ paṭicchannakarūpāni viya vinayadharānaṃ paṭicchannakavatthūni hontīti.
(Câu) “Con khỉ cái và các Tỳ khưu Vajjiputtaka… cho đến… con nai già xuất gia” này là gì? Đây là tên gọi của các kệ tóm tắt về các trường hợp đã được quyết định, (tức là) các trường hợp đó đã được chính Đức Thế Tôn phán quyết. Những trường hợp đó đã được các vị Trưởng lão kết tập Pháp thiết lập với ý nghĩ rằng “các vị trì Luật sẽ dễ dàng học hỏi”. Còn các kệ về trường hợp thì đã được Trưởng lão Upāli thiết lập ngay khi Đức Thế Tôn còn tại thế, với ý nghĩ rằng “trong tương lai, các vị trì Luật sẽ phán quyết Luật theo đặc tính này”. Do đó, ở đây, sau khi đã suy xét kỹ lưỡng đặc tính đã được nói, học giới thứ nhất cần được phán quyết. Và (các học giới) thứ hai v.v… (cũng cần được phán quyết) bằng đặc tính đã được nói trong các trường hợp đã được quyết định (liên quan đến các học giới) thứ hai v.v… Vì các trường hợp đã được quyết định giống như những hình mẫu ẩn tàng của các nghệ nhân, cũng vậy, (chúng là) những trường hợp ẩn tàng (để tham chiếu) cho các vị trì Luật.

67. Tattha purimāni dve vatthūni anupaññattiyaṃyeva vuttatthāni. Tatiye vatthumhi gihiliṅgenāti gihivesena odātavattho hutvā. Catutthe natthi kiñci vattabbaṃ. Tato paresu sattasu vatthūsu kusacīranti kuse ganthetvā katacīraṃ. Vākacīraṃ nāma tāpasānaṃ vakkalaṃ. Phalakacīraṃ nāma phalakasaṇṭhānāni phalakāni sibbitvā katacīraṃ. Kesakambaloti kesehi tante vāyitvā katakambalo. Vālakambaloti camaravālehi vāyitvā katakambalo. Ulūkapakkhikanti ulūkasakuṇassa pakkhehi katanivāsanaṃ. Ajinakkhipanti salomaṃ sakhuraṃ ajinamigacammaṃ. Dvādasame vatthumhi sārattoti kāyasaṃsaggarāgena sāratto; taṃ rāgaṃ ñatvā bhagavā ‘‘āpatti saṅghādisesassā’’ti āha.
67. Trong đó, hai trường hợp đầu tiên có ý nghĩa đã được nói trong phần Điều Chế Định Bổ Sung. Trong trường hợp thứ ba, (từ) với tướng người tại gia có nghĩa là: với y phục của người tại gia, trở thành người mặc y trắng. Trong (trường hợp) thứ tư, không có gì để nói. Trong bảy trường hợp sau đó, (từ) y làm bằng cỏ kusa có nghĩa là y được làm bằng cách bện cỏ kusa. Y làm bằng vỏ cây có tên là vỏ cây (dùng làm y) của các vị khổ hạnh. Y làm bằng ván gỗ có tên là y được làm bằng cách khâu lại những miếng ván gỗ có hình dạng tấm ván. (Từ) Chăn làm bằng tóc có nghĩa là chăn được dệt từ sợi tóc. (Từ) Chăn làm bằng lông đuôi có nghĩa là chăn được dệt từ lông đuôi bò Tây Tạng (chamara). (Từ) Y làm bằng lông cú có nghĩa là y phục được làm từ lông chim cú. (Từ) Da thú khoác ngoài có nghĩa là da của loài nai ajina còn nguyên lông và móng. Trong trường hợp thứ mười hai, (từ) say đắm có nghĩa là say đắm do lòng ham muốn tiếp xúc thân thể; biết được lòng tham ái đó, Đức Thế Tôn đã nói: “Phạm tội Tăng Tàn“.

68. Terasame vatthumhi uppalavaṇṇāti sā therī sāvatthiyaṃ seṭṭhidhītā satasahassakappe abhinīhārasampannā. Tassā pakatiyāpi atidassanīyā nīluppalavaṇṇā kāyacchavi, abbhantare pana kilesasantāpassa abhāvena ativiya virocati. Sā tāyeva vaṇṇapokkharatāya ‘‘uppalavaṇṇā’’ti nāmaṃ labhi. Paṭibaddhacittoti gihikālato paṭṭhāya rattacitto; so kira tassā ñātidārako hoti. Atha khoti anantaratthe nipāto; mañcake nisinnānantaramevāti vuttaṃ hoti. Divā bāhirato āgantvā dvāraṃ pidhāya nisinnānañhi paṭhamaṃ andhakāraṃ hoti. So yāvassā taṃ andhakāraṃ na nassati, tāvadeva evamakāsīti attho. Dūsesīti padhaṃsesi. Therī pana anavajjā attano samaṇasaññaṃ paccupaṭṭhapetvā asādiyantī nisīdi asaddhammādhippāyena parāmaṭṭhā aggikkhandha-silāthambha-khadirasārakhāṇukā viya. Sopi attano manorathaṃ pūretvā gato. Tassā theriyā dassanapathaṃ vijahantasseva ayaṃ mahāpathavī sinerupabbataṃ dhāretuṃ samatthāpi taṃ pāpapurisaṃ byāmamattakaḷevaraṃ dhāretuṃ asakkontī viya bhijjitvā vivaramadāsi. So taṅkhaṇaññeva avīcijālānaṃ indhanabhāvaṃ agamāsi. Bhagavā taṃ sutvā ‘‘anāpatti, bhikkhave, asādiyantiyā’’ti vatvā theriṃ sandhāya dhammapade imaṃ gāthaṃ abhāsi –
68. Trong trường hợp thứ mười ba, (tên) Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc) là vị Trưởng lão ni ấy, con gái của một trưởng giả ở Sāvatthi, người đã thành tựu đại nguyện trong một trăm ngàn kiếp. Sắc da của vị ấy tự nhiên đã vô cùng xinh đẹp, màu hoa sen xanh; nhưng do bên trong không có sự thiêu đốt của phiền não, nên lại càng rực rỡ hơn. Chính do vẻ đẹp và sự tươi tắn như hoa sen ấy mà vị ấy có tên là “Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc)”. (Từ) Tâm quyến luyến có nghĩa là tâm tham ái kể từ thời còn là tại gia; nghe nói, người đó là con cháu họ hàng của vị ấy. (Cụm từ) Rồi thì là một tiểu từ chỉ sự ngay sau đó; có nghĩa là (sự việc xảy ra) ngay sau khi (vị Trưởng lão ni) ngồi trên giường. Vì đối với những người ban ngày từ bên ngoài vào, đóng cửa rồi ngồi xuống, thì lúc đầu trời tối. Ý nghĩa là, người đó đã làm như vậy trong khi bóng tối ấy vẫn chưa tan biến đối với vị ấy (Trưởng lão ni). (Từ) Làm ô uế có nghĩa là cưỡng hiếp. Còn vị Trưởng lão ni, người không có lỗi, đã thiết lập tưởng Sa-môn của mình, không chấp thuận mà ngồi yên, khi bị chạm đến với ý đồ phi pháp, (vững chắc) như đống lửa, như cột đá, như khúc gỗ chiên đàn. Người đó cũng vậy, sau khi đã thỏa mãn ý muốn của mình thì bỏ đi. Ngay khi người đó vừa ra khỏi tầm mắt của vị Trưởng lão ni ấy, đại địa này, dù có khả năng nâng đỡ núi Tu-di-lâu, cũng dường như không thể chịu đựng nổi thân xác chỉ bằng một sải tay của kẻ ác ấy, đã nứt ra và tạo thành một vực thẳm. Ngay khoảnh khắc đó, người ấy đã trở thành nhiên liệu cho các ngọn lửa của địa ngục A-tỳ. Đức Thế Tôn nghe việc đó, sau khi nói: “Này các Tỳ khưu, vô tội đối với người nữ không chấp thuận”, đã nhắm đến vị Trưởng lão ni mà nói kệ này trong (kinh) Pháp Cú (Dhammapada)

‘‘Vāri pokkharapatteva, āraggeriva sāsapo;
Yo na limpati kāmesu, tamahaṃ brūmi brāhmaṇa’’nti. (dha. pa. 401);
“Như nước trên lá sen, như hạt cải trên đầu mũi nhọn;
người nào không dính mắc vào các dục, người ấy Ta gọi là Bà-la-môn”, (dha. pa. 401).

69. Cuddasame vatthumhi itthiliṅgaṃ pātubhūtanti rattibhāge niddaṃ okkantassa purisasaṇṭhānaṃ massudāṭhikādi sabbaṃ antarahitaṃ itthisaṇṭhānaṃ uppannaṃ. Tameva upajjhaṃ tameva upasampadanti pubbe gahitaupajjhāyameva pubbe kataupasampadameva anujānāmi. Puna upajjhā na gahetabbā; upasampadā na kātabbāti attho. Tāniyevavassānīti bhikkhuupasampadato pabhuti yāva vassagaṇanā, taṃyeva vassagaṇanaṃ anujānāmi. Na ito paṭṭhāya vassagaṇanā kātabbāti attho. Bhikkhunīhi saṅgamitunti bhikkhunīhi saddhiṃ saṅgamituṃ saṅgantuṃ samaṅgī bhavituṃ anujānāmīti attho. Idaṃ vuttaṃ hoti – appatirūpaṃ dānissā bhikkhūnaṃ majjhe vasituṃ, bhikkhunupassayaṃ gantvā bhikkhunīhi saddhiṃ vasatūti. Yā āpattiyo bhikkhūnaṃ bhikkhunīhi sādhāraṇāti yā desanāgāminiyo vā vuṭṭhānagāminiyo vā āpattiyo bhikkhūnaṃ bhikkhunīhi saddhiṃ sādhāraṇā. Tā āpattiyo bhikkhunīnaṃ santike vuṭṭhātunti tā sabbāpi bhikkhunīhi kātabbaṃ vinayakammaṃ katvā bhikkhunīnaṃ santike vuṭṭhātuṃ anujānāmīti attho. Tāhi āpattīhi anāpattīti yā pana bhikkhūnaṃ bhikkhunīhi asādhāraṇā sukkavissaṭṭhi-ādikā āpattiyo, tāhi anāpatti. Liṅgaparivattanena tā āpattiyo vuṭṭhitāva honti. Puna pakatiliṅge uppannepi tāhi āpattīhi tassa anāpattiyevāti ayaṃ tāvettha pāḷivinicchayo.
69. Trong trường hợp thứ mười bốn, (cụm từ) tướng nữ xuất hiện có nghĩa là: đối với người đã ngủ vào ban đêm, hình tướng nam như râu, răng nanh v.v… tất cả đều biến mất, và hình tướng nữ đã phát sanh. (Cụm từ) Chính Thầy Tế Độ ấy, chính sự thọ cụ túc giới ấy có nghĩa là: Ta cho phép chính vị Thầy Tế Độ đã được thọ nhận trước đó, và chính sự thọ cụ túc giới đã được thực hiện trước đó. Ý nghĩa là: không cần phải thọ nhận lại Thầy Tế Độ; không cần phải thực hiện lại sự thọ cụ túc giới. (Cụm từ) Chính những năm hạ ấy có nghĩa là: kể từ khi thọ cụ túc giới Tỳ khưu cho đến (nay) được bao nhiêu năm hạ, Ta cho phép chính số năm hạ đó. Ý nghĩa là: không cần phải tính số năm hạ kể từ đây. (Cụm từ) Được giao tiếp với các Tu nữ có nghĩa là: Ta cho phép được giao tiếp, gặp gỡ, hòa hợp cùng với các Tu nữ. Điều này được nói có nghĩa là: bây giờ không còn thích hợp để (người này) sống giữa các Tỳ khưu, hãy đến trú xứ của Tu nữ và sống cùng với các Tu nữ. (Cụm từ) Những tội nào của Tỳ khưu mà chung với Tu nữ có nghĩa là: những tội nào dẫn đến việc sám hối hoặc dẫn đến việc xuất tội, mà là tội chung của Tỳ khưu cùng với Tu nữ. (Cụm từ) Hãy xuất những tội ấy trước các Tu nữ có nghĩa là: Ta cho phép, sau khi đã thực hiện nghi thức Luật cần được các Tu nữ thực hiện, được xuất tất cả những tội ấy trước các Tu nữ. (Cụm từ) Vô tội đối với những tội ấy có nghĩa là: còn những tội nào của Tỳ khưu mà không chung với Tu nữ, như tội xuất tinh v.v…, thì vô tội đối với những tội ấy. Do sự thay đổi tướng (nam thành nữ), những tội ấy đã được xuất rồi. Ngay cả khi tướng (nam) bình thường lại xuất hiện, đối với những tội ấy, vị ấy vẫn vô tội; đây là quyết định trong Chánh tạng ở đây.

Ayaṃ pana pāḷimutto okkantikavinicchayo – imesu tāva dvīsu liṅgesu purisaliṅgaṃ uttamaṃ, itthiliṅgaṃ hīnaṃ; tasmā purisaliṅgaṃ balavaakusalena antaradhāyati. Itthiliṅgaṃ dubbalakusalena patiṭṭhāti. Itthiliṅgaṃ pana antaradhāyantaṃ dubbalaakusalena antaradhāyati. Purisaliṅgaṃ balavakusalena patiṭṭhāti. Evaṃ ubhayampi akusalena antaradhāyati, kusalena paṭilabbhati.
Còn đây là quyết định (theo) ý nghĩa suy diễn, ngoài Chánh tạng – Trước hết, trong hai tướng này, tướng nam là cao thượng, tướng nữ là thấp kém; do đó, tướng nam biến mất do (nghiệp) bất thiện mạnh. Tướng nữ được thiết lập do (nghiệp) thiện yếu. Còn tướng nữ khi biến mất thì biến mất do (nghiệp) bất thiện yếu. Tướng nam được thiết lập do (nghiệp) thiện mạnh. Như vậy, cả hai (tướng) đều biến mất do (nghiệp) bất thiện, và được lại do (nghiệp) thiện.

Tattha sace dvinnaṃ bhikkhūnaṃ ekato sajjhāyaṃ vā dhammasākacchaṃ vā katvā ekāgāre nipajjitvā niddaṃ okkantānaṃ ekassa itthiliṅgaṃ pātubhavati, ubhinnampi sahaseyyāpatti hoti. So ce paṭibujjhitvā attano taṃ vippakāraṃ disvā dukkhī dummano rattibhāgeyeva itarassa āroceyya, tena samassāsetabbo – ‘‘hotu, mā cintayittha. Vaṭṭasseveso doso. Sammāsambuddhena dvāraṃ dinnaṃ, bhikkhu vā hotu bhikkhunī vā, anāvaṭo dhammo avārito saggamaggo’’ti. Samassāsetvā ca evaṃ vattabbaṃ – ‘‘tumhehi bhikkhunupassayaṃ gantuṃ vaṭṭati. Atthi vo kāci sandiṭṭhā bhikkhuniyo’’ti. Sacassā honti tādisā bhikkhuniyo atthīti, no ce honti natthīti vatvā so bhikkhu vattabbo – ‘‘mama saṅgahaṃ karotha; idāni maṃ paṭhamaṃ bhikkhunupassayaṃ nethā’’ti. Tena bhikkhunā taṃ gahetvā tassā vā sandiṭṭhānaṃ attano vā sandiṭṭhānaṃ bhikkhunīnaṃ santikaṃ gantabbaṃ. Gacchantena ca na ekakena gantabbaṃ. Catūhi pañcahi bhikkhūhi saddhiṃ jotikañca kattaradaṇḍañca gahetvā saṃvidahanaṃ parimocetvā ‘‘mayaṃ asukaṃ nāma ṭhānaṃ gacchāmā’’ti gantabbaṃ. Sace bahigāme dūre vihāro hoti, antarāmagge gāmantara-nadīpāra-rattivippavāsa-gaṇaohīyanāpattīhi anāpatti. Bhikkhunupassayaṃ gantvā tā bhikkhuniyo vattabbā – ‘‘asukaṃ nāma bhikkhuṃ jānāthā’’ti? ‘‘Āma, ayyā’’ti. ‘‘Tassa itthiliṅgaṃ pātubhūtaṃ, saṅgahaṃ dānissa karothā’’ti. Tā ce ‘‘sādhu, ayyā, idāni mayampi sajjhāyissāma, dhammaṃ sossāma, gacchatha tumhe’’ti vatvā saṅgahaṃ karonti, ārādhikā ca honti saṅgāhikā lajjiniyo, tā kopetvā aññattha na gantabbaṃ. Gacchati ce, gāmantara-nadīpāra-rattivippavāsa-gaṇaohīyanāpattīhi na muccati. Sace pana lajjiniyo honti, na saṅgāhikāyo; aññattha gantuṃ labbhati. Sacepi alajjiniyo honti, saṅgahaṃ pana karonti; tāpi pariccajitvā aññattha gantuṃ labbhati. Sace lajjiniyo ca saṅgāhikā ca, ñātikā na honti, āsannagāme pana aññā ñātikāyo honti paṭijagganikā, tāsampi santikaṃ gantuṃ vaṭṭatīti vadanti. Gantvā sace bhikkhubhāvepi nissayapaṭipanno, patirūpāya bhikkhuniyā santike nissayo gahetabbo. Mātikā vā vinayo vā uggahito suggahito, puna uggaṇhanakāraṇaṃ natthi. Sace bhikkhubhāve parisāvacaro, tassa santikeyeva upasampannā sūpasampannā. Aññassa santike nissayo gahetabbo. Pubbe taṃ nissāya vasantehipi aññassa santikeyeva nissayo gahetabbo. Paripuṇṇavassasāmaṇerenāpi aññassa santikeyeva upajjhā gahetabbā.
Trong đó, nếu hai Tỳ khưu cùng nhau trùng tụng hoặc thảo luận Pháp, rồi nằm ngủ trong một nhà, và một trong hai vị tướng nữ xuất hiện, thì cả hai đều phạm tội ngủ chung. Nếu vị ấy (người bị biến đổi) tỉnh dậy, thấy sự biến đổi đó của mình, buồn rầu, ưu não, và ngay trong đêm báo cho vị kia biết, thì vị kia nên an ủi rằng – “Thôi được, xin đừng lo lắng. Đây chính là lỗi của vòng luân hồi. Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đã ban cho cánh cửa (giải thoát); dù là Tỳ khưu hay Tu nữ, Chánh Pháp không bị che đậy, con đường lên cõi trời không bị ngăn cản”. Và sau khi an ủi, nên nói như vầy: “Thầy nên đến trú xứ của Tu nữ. Thầy có quen biết Tu nữ nào không?”. Nếu vị ấy (người bị biến đổi) nói rằng “có những Tu nữ như vậy”, hoặc nếu không có thì nói “không có”, thì Tỳ khưu kia nên được yêu cầu: “Xin hãy giúp đỡ tôi; bây giờ xin hãy đưa tôi đến trú xứ của Tu nữ trước tiên”. Tỳ khưu đó nên đưa vị ấy đến chỗ các Tu nữ mà vị ấy (người bị biến đổi) quen biết, hoặc (đến chỗ các Tu nữ mà) mình quen biết. Và khi đi, không nên đi một mình. Nên đi cùng với bốn hoặc năm Tỳ khưu, mang theo đuốc và gậy gộc, sau khi đã chuẩn bị (cho chuyến đi), rồi nói “chúng tôi đi đến nơi tên là…” rồi mới đi. Nếu trú xứ ở xa, ngoài làng, thì trên đường đi, vô tội đối với các tội đi qua làng khác, qua sông, ở qua đêm (xa trú xứ), tụt lại sau nhóm. Đến trú xứ của Tu nữ, nên hỏi các Tu nữ ấy: “Các vị có biết Tỳ khưu tên là… không?”. (Nếu họ nói:) “Thưa vâng, Đại đức”. (Thì nói:) “Vị ấy tướng nữ đã xuất hiện, xin các vị hãy giúp đỡ vị ấy”. Nếu các vị ấy nói: “Lành thay, Đại đức, bây giờ chúng tôi cũng sẽ trùng tụng, sẽ nghe Pháp, xin các ngài hãy đi”, và nhận giúp đỡ, và họ là những người làm hài lòng (Tăng), biết giúp đỡ, có lòng hổ thẹn, thì không nên làm họ tức giận mà đi nơi khác. Nếu (vẫn) đi, thì không thoát khỏi các tội đi qua làng khác, qua sông, ở qua đêm, tụt lại sau nhóm. Nhưng nếu họ là những người có lòng hổ thẹn, nhưng không biết giúp đỡ; thì được phép đi nơi khác. Ngay cả nếu họ là những người không có lòng hổ thẹn, nhưng lại nhận giúp đỡ; thì cũng được phép rời bỏ họ mà đi nơi khác. Nếu họ vừa có lòng hổ thẹn vừa biết giúp đỡ, nhưng không phải là quyến thuộc; tuy nhiên, ở làng gần đó có những quyến thuộc nữ khác biết chăm sóc, thì họ nói rằng cũng được phép đến chỗ các vị ấy. Sau khi đến, nếu ngay cả khi còn là Tỳ khưu (trước khi biến đổi) đã y chỉ (nơi thầy), thì nên y chỉ nơi một Tu nữ thích hợp. Nếu đã học thuộc và nắm vững các điểm chính yếu (Mātikā) hoặc Luật, thì không có lý do gì để học lại. Nếu khi còn là Tỳ khưu, (vị ấy là người) có khả năng sống trong hội chúng, thì việc (vị ấy) đã thọ cụ túc giới (trước đây, nay với thân tướng nữ) được xem là đã thọ cụ túc tốt đẹp (trong vai trò mới). (Tuy nhiên) nên y chỉ nơi một vị khác. Ngay cả những người trước đây đã sống y chỉ nơi vị ấy (khi còn là Tỳ khưu), cũng nên y chỉ nơi một vị khác. Ngay cả Sa-di đã đủ tuổi hạ cũng phải thọ nhận một vị Thầy Tế Độ khác.

Yaṃ panassa bhikkhubhāve adhiṭṭhitaṃ ticīvarañca patto ca, taṃ adhiṭṭhānaṃ vijahati, puna adhiṭṭhātabbaṃ. Saṅkaccikā ca udakasāṭikā ca gahetabbā. Yaṃ atirekacīvaraṃ vā atirekapatto vā vinayakammaṃ katvā ṭhapito hoti, taṃ sabbampi vinayakammaṃ vijahati, puna kātabbaṃ. Paṭiggahitatelamadhuphāṇitādīnipi paṭiggahaṇaṃ vijahanti. Sace paṭiggahaṇato sattame divase liṅgaṃ parivattati, puna paṭiggahetvā sattāhaṃ vaṭṭati. Yaṃ pana bhikkhukāle aññassa bhikkhuno santakaṃ paṭiggahitaṃ, taṃ paṭiggahaṇaṃ na vijahati. Yaṃ ubhinnaṃ sādhāraṇaṃ avibhajitvā ṭhapitaṃ, taṃ pakatatto rakkhati. Yaṃ pana vibhattaṃ etasseva santakaṃ, taṃ paṭiggahaṇaṃ vijahati. Vuttampi cetaṃ parivāre –
Còn tam y và bình bát mà vị ấy đã chú nguyện khi còn là Tỳ khưu, sự chú nguyện đó bị hủy bỏ, (chúng) cần được chú nguyện lại. Và (vị ấy) cần phải thọ nhận y vai trái (saṅkaccikā) và y lọc nước (udakasāṭikā) (dành cho Tu nữ). Y dư hoặc bát dư nào đã được cất giữ sau khi đã thực hiện nghi thức Luật, tất cả nghi thức Luật đó đều bị hủy bỏ, (và) cần phải được thực hiện lại. Ngay cả dầu, mật ong, đường phèn v.v… đã được thọ nhận (để dùng trong bảy ngày), sự thọ nhận đó cũng bị hủy bỏ. Nếu vào ngày thứ bảy kể từ khi thọ nhận mà tướng (nam) biến đổi, (thì sau khi biến đổi thành Tu nữ) cần phải thọ nhận lại và (những vật đó) được phép (dùng trong) bảy ngày. Tuy nhiên, vật sở hữu của một Tỳ khưu khác mà (vị ấy) đã thọ nhận (giữ dùm) khi còn là Tỳ khưu, sự thọ nhận đó không bị hủy bỏ. Vật gì là của chung của cả hai, được cất giữ mà chưa phân chia, thì người có tướng (nam) bình thường (vị Tỳ khưu kia) giữ gìn vật đó. Còn vật gì đã được phân chia và là sở hữu của chính vị này (người bị biến đổi), sự thọ nhận đó bị hủy bỏ. Và điều này cũng đã được nói trong (Luật) Parivāra

‘‘Telaṃ madhuṃ phāṇitañcāpi sappiṃ;
Sāmaṃ gahetvāna nikkhipeyya;
Avītivatte sattāhe;
Sati paccaye paribhuñjantassa āpatti;
Pañhā mesā kusalehi cintitā’’ti. (pari. 480);
“Dầu, mật ong, đường phèn và cả bơ sữa;
Sau khi tự mình thọ nhận rồi cất giữ;
Trong bảy ngày chưa trôi qua;
Nếu có duyên sự (bệnh) mà dùng (sau khi tướng đã biến đổi mà chưa thọ nhận lại), (vẫn) phạm tội; Vấn đề này của Ta đã được các bậc thiện xảo suy xét”, (pari. 480).

Idañhi liṅgaparivattanaṃ sandhāya vuttaṃ. Paṭiggahaṇaṃ nāma liṅgaparivattanena, kālaṃkiriyāya, sikkhāpaccakkhānena, hīnāyāvattanena, anupasampannassa dānena, anapekkhavissajjanena, acchinditvā gahaṇena ca vijahati. Tasmā sacepi harītakakhaṇḍampi paṭiggahetvā ṭhapitamatthi, sabbamassa paṭiggahaṇaṃ vijahati. Bhikkhuvihāre pana yaṃkiñcissā santakaṃ paṭiggahetvā vā appaṭiggahetvā vā ṭhapitaṃ, sabbassa sāva issarā, āharāpetvā gahetabbaṃ. Yaṃ panettha thāvaraṃ tassā santakaṃ senāsanaṃ vā uparopakā vā, te yassicchati tassa dātabbā. Terasasu sammutīsu yā bhikkhukāle laddhā sammuti, sabbā sā paṭippassambhati. Purimikāya senāsanaggāho paṭippassambhati. Sace pacchimikāya senāsane gahite liṅgaṃ parivattati, bhikkhunisaṅgho cassā uppannaṃ lābhaṃ dātukāmo hoti, apaloketvā dātabbo. Sace bhikkhunīhi sādhāraṇāya paṭicchannāya āpattiyā parivasantassa liṅgaṃ parivattati, pakkhamānattameva dātabbaṃ. Sace mānattaṃ carantassa parivattati, puna pakkhamānattameva dātabbaṃ. Sace ciṇṇamānattassa parivattati, bhikkhunīhi abbhānakammaṃ kātabbaṃ. Sace akusalavipāke parikkhīṇe pakkhamānattakāle punadeva liṅgaṃ parivattati, chārattaṃ mānattameva dātabbaṃ. Sace ciṇṇe pakkhamānatte parivattati, bhikkhūhi abbhānakammaṃ kātabbanti.
Điều này quả thật được nói nhắm đến sự biến đổi tướng (tính). Sự thọ nhận (vật dụng) bị hủy bỏ do sự biến đổi tướng, do sự qua đời, do sự từ bỏ học giới, do sự hoàn tục về đời thấp kém, do việc cho người chưa thọ cụ túc giới, do việc từ bỏ không luyến tiếc, và do việc lấy (vật) mà chưa được (người khác) cắt đứt (sự sở hữu). Do đó, ngay cả nếu có một miếng chanh (hay trái cây chua) đã được thọ nhận và cất giữ, tất cả sự thọ nhận của vị ấy đều bị hủy bỏ. Tuy nhiên, bất kỳ vật sở hữu nào của vị ấy được cất giữ trong tịnh xá Tỳ khưu, dù đã thọ nhận hay chưa thọ nhận, vị ấy vẫn là chủ sở hữu của tất cả; (vật đó) cần được mang đến và trao lại (cho vị ấy sau khi đã thành Tu nữ). Trong số đó, những vật cố định nào là sở hữu của vị ấy, như sàng tọa hoặc vật dụng phụ thuộc, những vật đó cần được trao cho người nào mà vị ấy muốn. Trong mười ba sự chấp thuận (sammuti), sự chấp thuận nào đã được nhận khi còn là Tỳ khưu, tất cả sự chấp thuận đó đều bị đình chỉ. Việc nhận sàng tọa theo sự ưu tiên (thứ tự hạ lạp cũ) bị đình chỉ. Nếu tướng (nam) biến đổi sau khi đã nhận sàng tọa theo sự ưu tiên (thứ tự hạ lạp) sau này (trong vai trò Tu nữ), và nếu Tăng chúng Tu nữ muốn trao cho vị ấy phần lợi phẩm đã phát sanh, thì cần phải thông báo (cho Tăng chúng) rồi mới trao. Nếu tướng (nam) biến đổi trong khi (vị ấy) đang thực hành biệt trú (parivāsa) do một tội đã che giấu mà là tội chung với Tu nữ, thì chỉ cần ban hành phạt tập sự nửa tháng (pakkhamānatta). Nếu (tướng nam) biến đổi trong khi (vị ấy) đang thực hành phạt tập sự (mānatta), thì lại chỉ cần ban hành phạt tập sự nửa tháng. Nếu (tướng nam) biến đổi sau khi đã hoàn tất phạt tập sự, thì các Tu nữ cần phải thực hiện nghi thức giải tội (abbhānakamma). Nếu sau khi quả dị thục bất thiện đã hết, trong thời gian phạt tập sự nửa tháng, tướng (nam) lại biến đổi trở lại, thì chỉ cần ban hành phạt sáu đêm và phạt tập sự. Nếu (tướng nam) biến đổi sau khi đã hoàn tất phạt tập sự nửa tháng (trong vai trò Tu nữ, rồi lại thành nam), thì các Tỳ khưu cần phải thực hiện nghi thức giải tội.

Anantare bhikkhuniyā liṅgaparivattanavatthumhi idha vuttanayeneva sabbo vinicchayo veditabbo. Ayaṃ pana viseso – sacepi bhikkhunikāle āpannā sañcarittāpatti paṭicchannā hoti, parivāsadānaṃ natthi, chārattaṃ mānattameva dātabbaṃ. Sace pakkhamānattaṃ carantiyā liṅgaṃ parivattati, na tenattho, chārattaṃ mānattameva dātabbaṃ. Sace ciṇṇamānattāya parivattati, puna mānattaṃ adatvā bhikkhūhi abbhetabbo. Atha bhikkhūhi mānatte adinne puna liṅgaṃ parivattati, bhikkhunīhi pakkhamānattameva dātabbaṃ. Atha chārattaṃ mānattaṃ carantassa puna parivattati, pakkhamānattameva dātabbaṃ. Ciṇṇamānattassa pana liṅgaparivatte jāte bhikkhunīhi abbhānakammaṃ kātabbaṃ . Puna parivatte ca liṅge bhikkhunibhāve ṭhitāyapi yā āpattiyo pubbe paṭippassaddhā, tā suppaṭippassaddhā evāti.
Trong trường hợp một Tu nữ biến đổi tướng (thành nam) ngay sau đó, tất cả sự quyết định cần được hiểu theo phương pháp đã nói ở đây (như trường hợp Tỳ khưu biến đổi tướng). Tuy nhiên, đây là điểm đặc biệt: ngay cả nếu khi còn là Tu nữ, (vị ấy) đã phạm tội môi giới (sañcaritta) và đã che giấu, thì không có việc ban hành phạt biệt trú, mà chỉ cần ban hành phạt sáu đêm và phạt tập sự. Nếu tướng (nữ) biến đổi trong khi (vị ấy) đang thực hành phạt tập sự nửa tháng, (thời gian đã thực hành đó) không có giá trị, (mà) chỉ cần ban hành phạt sáu đêm và phạt tập sự (lại từ đầu trong vai trò Tỳ khưu). Nếu (tướng nữ) biến đổi sau khi đã hoàn tất phạt tập sự, thì không cần ban hành lại phạt tập sự, mà các Tỳ khưu nên giải tội cho vị ấy. Nếu sau khi các Tỳ khưu chưa ban hành phạt tập sự (cho vị ấy trong vai trò Tỳ khưu) mà tướng (nữ) lại biến đổi trở lại, thì các Tu nữ chỉ cần ban hành phạt tập sự nửa tháng. Nếu trong khi (vị ấy) đang thực hành phạt sáu đêm và phạt tập sự (trong vai trò Tỳ khưu) mà (tướng nữ) lại biến đổi trở lại, thì chỉ cần ban hành phạt tập sự nửa tháng. Còn đối với người đã hoàn tất phạt tập sự (trong vai trò Tỳ khưu) mà sự biến đổi tướng (nữ) xảy ra, thì các Tu nữ cần phải thực hiện nghi thức giải tội. Và khi tướng (nữ) lại biến đổi (trở lại lần nữa), ngay cả khi (vị ấy) đang ở trong thân phận Tu nữ, những tội nào trước đây đã được đình chỉ, những tội đó vẫn được xem là đã đình chỉ hoàn toàn.

70. Ito parāni ‘‘mātuyā methunaṃ dhamma’’ntiādīni cattāri vatthūni uttānatthāniyeva.
70. Bốn trường hợp sau đây, bắt đầu bằng “Pháp dâm với mẹ” v.v…, đều có ý nghĩa rõ ràng.

71. Mudupiṭṭhikavatthumhi so kira bhikkhu naṭapubbako. Tassa sippakosallatthaṃ parikammakatā piṭṭhi mudukā ahosi. Tasmā evaṃ kātuṃ asakkhi.
71. Trong trường hợp (Tỳ khưu) Lưng Mềm (Mudupiṭṭhika), nghe nói vị Tỳ khưu đó trước kia là một vũ công. Để có sự khéo léo trong nghề nghiệp, lưng của vị ấy đã được luyện tập (cho dẻo), nên đã trở nên mềm mại. Do đó, vị ấy đã có thể làm như vậy (tự giao cấu với mình).

Lambīvatthumhi tassa bhikkhussa aṅgajātaṃ dīghaṃ hoti lambati, tasmā lambīti vutto.
Trong trường hợp (Tỳ khưu) Lambī, bộ phận sinh dục của Tỳ khưu đó dài và rủ xuống, do đó được gọi là Lambī (Người có (bộ phận sinh dục) dài/rủ).

Ito parāni dve vaṇavatthūni uttānāneva. Lepacittavatthumhi lepacittaṃ nāma cittakammarūpaṃ.
Hai trường hợp về vết thương sau đây cũng (có ý nghĩa) rõ ràng. Trong trường hợp hình vẽ bằng bột màu (Lepacitta), (từ) hình vẽ bằng bột màu có tên là hình ảnh được vẽ bằng màu.

Dārudhītalikavatthumhi dārudhītalikā nāma kaṭṭharūpaṃ. Yathā ca imesu dvīsu evaṃ aññesupi dantarūpa-potthakarūpa-loharūpādīsu anupādinnakesu itthirūpesu nimitte methunarāgena upakkamantassa asuci muccatu vā mā vā, dukkaṭameva. Kāyasaṃsaggarāgena upakkamantassāpi tatheva dukkaṭaṃ. Mocanarāgena pana upakkamantassa mutte saṅghādiseso, amutte thullaccayanti.
Trong trường hợp búp bê gỗ (Dārudhītalikā), (từ) búp bê gỗ có tên là hình tượng làm bằng gỗ. Và như trong hai (trường hợp) này, cũng vậy đối với các hình tượng người nữ vô chấp thủ khác như hình tượng bằng ngà, hình tượng bằng sách (vẽ/đất sét?), hình tượng bằng kim loại v.v…, người nào do lòng ham muốn dâm dục mà cố gắng (giao cấu) vào bộ phận sinh dục (của các hình tượng đó), dù bất tịnh có xuất ra hay không, cũng chỉ phạm tội Tác Ác. Người nào cố gắng (như vậy) do lòng ham muốn tiếp xúc thân thể, cũng phạm tội Tác Ác tương tự. Tuy nhiên, người nào cố gắng (như vậy) do lòng ham muốn xuất (bất tịnh), nếu (bất tịnh) xuất ra thì phạm tội Tăng Tàn, nếu không xuất ra thì phạm tội Trọng Tội.

72. Sundaravatthumhi ayaṃ sundaro nāma rājagahe kuladārako saddhāya pabbajito; attabhāvassa abhirūpatāya ‘‘sundaro’’ti nāmaṃ labhi. Taṃ rathikāya gacchantaṃ disvā samuppannachandarāgā sā itthī imaṃ vippakāraṃ akāsi. Thero pana anāgāmī. Tasmā so na sādiyi. Aññesaṃ pana avisayo eso.
72. Trong trường hợp (Tỳ khưu) Sundara, vị Sundara này là một thiếu niên con nhà gia thế ở Rājagaha (Vương Xá), đã xuất gia với đức tin; do thân tướng xinh đẹp, vị ấy có tên là “Sundara” (Người Đẹp). Người phụ nữ kia, sau khi thấy vị ấy đang đi trên đường, khởi lên lòng ham muốn và tham ái, đã làm hành vi sai trái này. Tuy nhiên, vị Trưởng lão là bậc A-na-hàm. Do đó, vị ấy đã không chấp thuận. Còn đây không phải là trường hợp (có thể xảy ra) đối với những người khác (phàm phu).

Ito paresu catūsu vatthūsu te bhikkhū jaḷā dummedhā mātugāmassa vacanaṃ gahetvā tathā katvā pacchā kukkuccāyiṃsu.
Trong bốn trường hợp sau đây, các Tỳ khưu đó ngu si, kém trí tuệ, đã nghe theo lời của người nữ mà làm như vậy, rồi sau đó hối hận.

73. Akkhāyitādīni tīṇi vatthūni uttānatthāneva. Dvīsu chinnasīsavatthūsu ayaṃ vinicchayo – vaṭṭakate mukhe vivaṭe aṅgajātaṃ pavesento sace heṭṭhā vā upari vā ubhayapassehi vā chupantaṃ paveseti, pārājikaṃ. Catūhipi passehi achupantaṃ pavesetvā abbhantare tālukaṃ chupati, pārājikameva. Cattāri passāni tālukañca achupanto ākāsagatameva katvā paveseti ca nīharati ca, dukkaṭaṃ. Yadi pana dantā suphusitā, antomukhe okāso natthi, dantā ca bahi oṭṭhamaṃsena paṭicchannā, tattha vātena asamphuṭṭhaṃ allokāsaṃ tilaphalamattampi pavesentassa pārājikameva. Uppāṭite pana oṭṭhamaṃse dantesuyeva upakkamantassa thullaccayaṃ. Yopi danto bahi nikkhamitvā tiṭṭhati , na sakkā oṭṭhehi pidahituṃ. Tattha upakkamantepi bahi nikkhantajivhāya upakkamantepi thullaccayameva. Jīvamānakasarīrepi bahi nikkhantajivhāya thullaccayameva. Yadi pana bahijivhāya paliveṭhetvā antomukhaṃ paveseti, pārājikameva. Uparigīvāya chinnasīsassapi adhobhāgena aṅgajātaṃ pavesetvā tālukaṃ chupantassa pārājikameva.
73. Ba trường hợp bắt đầu bằng (thi thể) chưa bị ăn v.v… đều có ý nghĩa rõ ràng. Trong hai trường hợp đầu bị cắt, đây là sự quyết định – Khi miệng được làm tròn và mở ra, nếu người đó đưa bộ phận sinh dục vào mà chạm đến phía dưới, hoặc phía trên, hoặc cả hai bên, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu đưa vào mà không chạm đến cả bốn phía (trong miệng), nhưng chạm vào vòm miệng bên trong, chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu đưa vào rồi rút ra mà không chạm đến bốn phía và vòm miệng, chỉ đi vào khoảng không, phạm tội Tác Ác. Nhưng nếu răng khít lại, bên trong miệng không có khoảng trống, và răng bị môi che khuất bên ngoài, người nào đưa (bộ phận sinh dục) vào nơi ẩm ướt không bị gió chạm đến đó dù chỉ bằng một hạt mè, chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Tuy nhiên, nếu môi đã bị rách/mở ra, người cố gắng (giao cấu) chỉ vào răng, phạm tội Trọng Tội. Ngay cả răng nào chìa ra ngoài, không thể bị môi che lại, nếu cố gắng (giao cấu) vào đó, hoặc cố gắng (giao cấu) vào lưỡi thè ra ngoài, cũng chắc chắn phạm tội Trọng Tội. Ngay cả đối với thân thể người sống, (nếu cố gắng giao cấu) vào lưỡi thè ra ngoài, cũng chắc chắn phạm tội Trọng Tội. Nhưng nếu dùng lưỡi ở bên ngoài quấn quanh rồi đưa vào trong miệng, chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Ngay cả đối với đầu bị cắt ở phần trên cổ, người nào đưa bộ phận sinh dục vào phần dưới (miệng) mà chạm đến vòm miệng, chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ.

Aṭṭhikavatthumhi susānaṃ gacchantassāpi dukkaṭaṃ. Aṭṭhikāni saṅkaḍḍhantassāpi, nimitte methunarāgena upakkamantassāpi, kāyasaṃsaggarāgena upakkamantassāpi, muccatu vā mā vā, dukkaṭameva. Mocanarāgena pana upakkamantassa muccante saṅghādiseso, amuccante thullaccayameva.
Trong trường hợp xương, ngay cả việc đi đến nghĩa địa cũng phạm tội Tác Ác. Ngay cả việc kéo lê/thu nhặt xương, ngay cả việc cố gắng (giao cấu) vào bộ phận sinh dục (của xương) do lòng ham muốn dâm dục, hoặc cố gắng (tiếp xúc) do lòng ham muốn tiếp xúc thân thể, dù (bất tịnh) có xuất ra hay không, cũng chỉ phạm tội Tác Ác.Tuy nhiên, người cố gắng (như vậy) do lòng ham muốn xuất (bất tịnh), nếu (bất tịnh) xuất ra thì phạm tội Tăng Tàn, nếu không xuất ra thì chắc chắn phạm tội Trọng Tội.

Nāgīvatthumhi nāgamāṇavikā vā hotu kinnarīādīnaṃ vā aññatarā, sabbattha pārājikaṃ.
Trong trường hợp Nāgī (nữ rồng), dù là thiếu nữ Nāga hay một trong các loài khẩn-na-la nữ v.v…, trong tất cả (các trường hợp đó đều phạm tội) Bất Cộng Trụ.

Yakkhīvatthumhi sabbāpi devatā yakkhīyeva.
Trong trường hợp Yakkhī (nữ dạ xoa), tất cả các vị trời (nữ) cũng (được xem là) dạ xoa nữ.

Petīvatthumhi nijjhāmataṇhikādipetiyo allīyitumpi na sakkā. Vimānapetiyo pana atthi; yāsaṃ kāḷapakkhe akusalaṃ vipaccati, juṇhapakkhe devatā viya sampattiṃ anubhonti. Evarūpāya petiyā vā yakkhiyā vā sace dassana-gahaṇa-āmasana-phusana-ghaṭṭanāni paññāyanti, pārājikaṃ. Athāpi dassanaṃ natthi, itarāni paññāyanti, pārājikameva. Atha dassanagahaṇāni na paññāyanti, āmasanaphusanaghaṭṭanehi paññāyamānehi taṃ puggalaṃ visaññaṃ katvā attano manorathaṃ pūretvā gacchati, ayaṃ avisayo nāma. Tasmā ettha avisayattā anāpatti. Paṇḍakavatthu pākaṭameva.
Trong trường hợp Petī (nữ ngạ quỷ), các nữ ngạ quỷ loại Nijjhāmataṇhika (cháy khát) v.v… ngay cả việc đến gần cũng không thể. Tuy nhiên, có những nữ ngạ quỷ có lâu đài (Vimānapetī); đối với họ, (quả) bất thiện trổ sanh vào ngày hắc nguyệt (hạ tuần), (còn) vào ngày bạch nguyệt (thượng tuần) thì họ hưởng thụ tài sản như các vị trời. Đối với nữ ngạ quỷ hoặc nữ dạ xoa như vậy, nếu việc nhìn, nắm bắt, sờ chạm, tiếp xúc, cọ xát được nhận biết, (thì phạm tội) Bất Cộng Trụ. Ngay cả nếu không có việc nhìn, nhưng các (hành vi) khác được nhận biết, cũng chắc chắn (phạm tội) Bất Cộng Trụ. Nếu việc nhìn và nắm bắt không được nhận biết, (mà chỉ có) việc sờ chạm, tiếp xúc, cọ xát được nhận biết, (và nếu) người đó (nữ ngạ quỷ/dạ xoa) làm cho người kia (Tỳ khưu) bất tỉnh rồi thỏa mãn ý muốn của mình mà bỏ đi, đây được gọi là trường hợp không thể (phán tội). Do đó, ở đây, do là trường hợp không thể (phán tội đối với Tỳ khưu), nên vô tội. Trường hợp người á nam á nữ thì đã rõ ràng.

Upahatindriyavatthumhi upahatindriyoti upahatakāyappasādo khāṇukaṇṭakamiva sukhaṃ vā dukkhaṃ vā na vedayati. Avedayantassāpi sevanacittavasena āpatti.
Trong trường hợp người có giác quan bị tổn thương, (từ) người có giác quan bị tổn thương có nghĩa là người có cảm giác thân bị tổn hại, giống như khúc gỗ hay gai nhọn, không cảm nhận được lạc hay khổ. Ngay cả đối với người không cảm nhận, (vẫn) phạm tội do tâm thực hành (dâm dục).

Chupitamattavatthusmiṃ yo ‘‘methunaṃ dhammaṃ paṭisevissāmī’’ti mātugāmaṃ gaṇhitvā methune virajjitvā vippaṭisārī hoti, dukkaṭamevassa hoti. Methunadhammassa hi pubbapayogā hatthaggāhādayo yāva sīsaṃ na pāpuṇāti, tāva dukkaṭe tiṭṭhanti. Sīse patte pārājikaṃ hoti. Paṭhamapārājikassa hi dukkaṭameva sāmantaṃ. Itaresaṃ tiṇṇaṃ thullaccayaṃ. Ayaṃ pana bhikkhu methunadhamme virajjitvā kāyasaṃsaggaṃ sādiyīti veditabbo. Tenāha bhagavā – ‘‘āpatti saṅghādisesassā’’ti.
Trong trường hợp chỉ chạm vào, người nào sau khi nắm bắt người nữ với ý nghĩ “tôi sẽ thực hành pháp dâm”, rồi từ bỏ (ý định) giao cấu và hối hận, người ấy chỉ phạm tội Tác Ác. Vì các hành vi chuẩn bị cho pháp dâm, như nắm tay v.v…, cho đến khi chưa đạt đến đỉnh điểm (giao cấu thực sự), thì (chúng) dừng lại ở (mức) tội Tác Ác. Khi đạt đến đỉnh điểm, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Vì đối với tội Bất Cộng Trụ thứ nhất, tội Tác Ác chính là tội cận kề (nhẹ hơn). Đối với ba (tội Bất Cộng Trụ) còn lại, (tội cận kề là) Trọng Tội. Tuy nhiên, cần hiểu rằng Tỳ khưu này, sau khi đã từ bỏ (ý định) pháp dâm, lại chấp thuận sự tiếp xúc thân thể. Do đó Đức Thế Tôn đã nói: “Phạm tội Tăng Tàn”.

74. Bhaddiyavatthusmiṃ bhaddiyaṃ nāma taṃ nagaraṃ. Jātiyāvanaṃ nāma jātipupphagumbānaṃ ussannatāya evaṃ laddhanāmaṃ; taṃ tassa nagarassa upacāre vanaṃ hoti. So tattha nipanno tena vātupatthambhena mahāniddaṃ okkami. Ekarasaṃ bhavaṅgameva vattati. Kilinnaṃ passitvāti asucikiliṭṭhaṃ passitvā.
74. Trong trường hợp (Tỳ khưu) Bhaddiya, Bhaddiya là tên của thành phố đó. (Khu rừng) Jātiyāvana có tên như vậy do có nhiều bụi hoa lài; đó là khu rừng ở vùng ngoại ô của thành phố ấy. Vị ấy nằm ở đó, do bị gió làm cho tê cứng, đã chìm vào giấc ngủ say. Chỉ có dòng tâm hữu phần đơn thuần trôi chảy. (Cụm từ) Thấy bị ướt có nghĩa là thấy bị dính dơ bởi bất tịnh.

75. Ito parāni sādiyanapaṭisaṃyuttāni cattāri vatthūni, ajānanavatthu cāti pañca uttānatthāneva.
75. Bốn trường hợp sau đây liên quan đến việc chấp thuận, và trường hợp không biết – (tổng cộng) năm (trường hợp này) đều có ý nghĩa rõ ràng.

76. Dvīsu asādiyanavatthūsu sahasā vuṭṭhāsīti āsīvisena daṭṭho viya agginā daḍḍho viya ca turitaṃ vuṭṭhāsi. Akkamitvā pavattesīti appamatto bhikkhu āraddhavipassako upaṭṭhitassati khippaṃ vuṭṭhahantova akkamitvā bhūmiyaṃ vaṭṭento parivaṭṭento viheṭhento pātesi. Puthujjanakalyāṇakena hi evarūpesu ṭhānesu cittaṃ rakkhitabbaṃ. Ayañca tesaṃ aññataro saṅgāmasīsayodho bhikkhu.
76. Trong hai trường hợp không chấp thuận, (cụm từ) đột nhiên đứng dậy có nghĩa là: (vị ấy) vội vàng đứng dậy như bị rắn độc cắn hoặc như bị lửa đốt. (Cụm từ) Đạp lên rồi làm cho lăn đi có nghĩa là: vị Tỳ khưu không lơ đãng, đã nỗ lực tu tập minh sát, có niệm hiện tiền, trong khi vội vàng đứng dậy đã đạp lên (người nữ), làm cho lăn lóc trên đất, làm cho xoay chuyển, làm cho đau đớn, làm cho ngã xuống. Vì người phàm phu thiện lành trong những trường hợp như vậy cần phải giữ gìn tâm. Và vị Tỳ khưu này là một trong số họ, một chiến sĩ nơi đầu trận chiến (chiến đấu với phiền não).

77. Dvāraṃ vivaritvā nipannavatthumhi divā paṭisallīyantenāti divā nipajjantena. Dvāraṃ saṃvaritvā paṭisallīyitunti dvāraṃ pidahitvā nipajjituṃ. Ettha ca kiñcāpi pāḷiyaṃ ‘‘ayaṃ nāma āpattī’’ti na vuttā. Vivaritvā nipannadosena pana uppanne vatthusmiṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, divā paṭisallīyantena dvāraṃ saṃvaritvā paṭisallīyitu’’nti vuttattā asaṃvaritvā paṭisallīyantassa dukkaṭaṃ vuttaṃ. Bhagavato hi adhippāyaṃ ñatvā upālittherādīhi aṭṭhakathā ṭhapitā. ‘‘Atthāpatti divā āpajjati no ratti’’nti (pari. 323) imināpi cetaṃ siddhaṃ.
77. Trong trường hợp nằm ngủ khi cửa mở, (cụm từ) người nghỉ ngơi ban ngày có nghĩa là người nằm (nghỉ) ban ngày. (Cụm từ) Đóng cửa rồi nghỉ ngơi có nghĩa là đóng cửa rồi nằm (nghỉ). Và ở đây, mặc dù trong Chánh tạng không nói rằng “đây là tội…”, nhưng do lỗi nằm ngủ khi cửa mở, khi trường hợp (phạm tội) phát sanh, vì đã được nói rằng “Này các Tỳ khưu, Ta cho phép người nghỉ ngơi ban ngày đóng cửa rồi nghỉ ngơi”, nên (việc) người nghỉ ngơi mà không đóng cửa được nói là phạm tội Tác Ác. Vì sau khi biết ý muốn của Đức Thế Tôn, các vị Trưởng lão như Upāli v.v… đã thiết lập Chú giải. Và điều này cũng được thành tựu qua (câu) “Có tội phạm vào ban ngày, không phải ban đêm” (pari. 323).

Kīdisaṃ pana dvāraṃ saṃvaritabbaṃ, kīdisaṃ na saṃvaritabbaṃ? Rukkhapadaraveḷupadarakilañjapaṇṇādīnaṃ yena kenaci kavāṭaṃ katvā heṭṭhā udukkhale upari uttarapāsake ca pavesetvā kataṃ parivattakadvārameva saṃvaritabbaṃ. Aññaṃ gorūpānaṃ vajesu viya rukkhasūcikaṇṭakadvāraṃ, gāmathakanakaṃ cakkalakayuttadvāraṃ, phalakesu vā kiṭikāsu vā dve tīṇi cakkalakāni yojetvā kataṃ saṃsaraṇakiṭikadvāraṃ, āpaṇesu viya kataṃ ugghāṭanakiṭikadvāraṃ, dvīsu tīsu ṭhānesu veṇusalākā gopphetvā paṇṇakuṭīsu kataṃ salākahatthakadvāraṃ, dussasāṇidvāranti evarūpaṃ dvāraṃ na saṃvaritabbaṃ. Pattahatthassa kavāṭappaṇāmane pana ekaṃ dussasāṇidvārameva anāpattikaraṃ, avasesāni paṇāmentassa āpatti. Divā paṭisallīyantassa pana parivattakadvārameva āpattikaraṃ, sesāni saṃvaritvā vā asaṃvaritvā vā nipannassa āpatti natthi. Saṃvaritvā pana nipajjitabbaṃ, etaṃ vattaṃ.
Vậy, loại cửa nào cần được đóng, loại cửa nào không cần được đóng? Chỉ cửa xoay được làm bằng cách dùng bất kỳ vật liệu nào như ván gỗ, ván tre, chiếu, lá v.v… làm thành cánh cửa, rồi lắp vào cối ở dưới và chốt cửa ở trên, mới cần được đóng. Các loại cửa khác như cửa làm bằng cọc cây và gai giống như ở chuồng bò, cửa có bánh xe và chốt cài của dân làng, cửa sổ trượt được làm bằng cách lắp hai ba bánh xe vào ván hoặc cửa sổ, cửa sổ mở lên trên như ở các cửa hàng, cửa có tay cầm bằng thanh tre được làm ở các lều lá bằng cách kết các thanh tre ở hai ba chỗ, cửa bằng vải bạt – những loại cửa như vậy không cần được đóng. Tuy nhiên, đối với người có bát trong tay khi đẩy cánh cửa, chỉ có cửa bằng vải bạt là không phạm tội; (nếu đẩy) các loại cửa khác thì phạm tội. Nhưng đối với người nghỉ ngơi ban ngày, chỉ có cửa xoay mới gây ra tội; (nếu là) các loại cửa khác, dù đóng hay không đóng mà nằm nghỉ, cũng không phạm tội. Tuy nhiên, cần phải đóng cửa rồi mới nằm nghỉ, đó là phận sự.

Parivattakadvāraṃ pana kittakena saṃvutaṃ hoti? Sūcighaṭikādīsu dinnāsu saṃvutameva hoti. Apica kho sūcimattepi dinne vaṭṭati. Ghaṭikamattepi dinne vaṭṭati. Dvārabāhaṃ phusitvā pihitamattepi vaṭṭati. Īsakaṃ aphusitepi vaṭṭati. Sabbantimena vidhinā yāvatā sīsaṃ nappavisati tāvatā aphusitepi vaṭṭatīti. Sace bahūnaṃ vaḷañjanaṭṭhānaṃ hoti, bhikkhuṃ vā sāmaṇeraṃ vā ‘‘dvāraṃ, āvuso, jaggāhī’’ti vatvāpi nipajjituṃ vaṭṭati. Atha bhikkhū cīvarakammaṃ vā aññaṃ vā kiñci karontā nisinnā honti, ‘‘ete dvāraṃ jaggissantī’’ti ābhogaṃ katvāpi nipajjituṃ vaṭṭati. Kurundaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘upāsakampi āpucchitvā vā, ‘esa jaggissatī’ti ābhogaṃ katvā vā nipajjituṃ vaṭṭati. Kevalaṃ bhikkhuniṃ vā mātugāmaṃ vā āpucchituṃ na vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Atha dvārassa udukkhalaṃ vā uttarapāsako vā bhinno vā hoti aṭṭhapito vā, saṃvarituṃ na sakkoti, navakammatthaṃ vā pana iṭṭhakapuñjo vā mattikādīnaṃ vā rāsi antodvāre kato hoti, aṭṭaṃ vā bandhanti, yathā saṃvarituṃ na sakkoti; evarūpe antarāye sati asaṃvaritvāpi nipajjituṃ vaṭṭati. Yadi pana kavāṭaṃ natthi, laddhakappameva. Upari sayantena nisseṇiṃ āropetvā nipajjitabbaṃ. Sace nisseṇimatthake thakanakaṃ hoti, thaketvāpi nipajjitabbaṃ. Gabbhe nipajjantena gabbhadvāraṃ vā pamukhadvāraṃ vā yaṃkiñci saṃvaritvā nipajjituṃ vaṭṭati. Sace ekakuṭṭake gehe dvīsu passesu dvārāni katvā vaḷañjanti, dvepi dvārāni jaggitabbāni.
Vậy, cửa xoay được xem là đã đóng đến mức nào? Khi đã cài chốt, then cửa v.v…, thì (cửa) được xem là đã đóng. Hơn nữa, chỉ cần cài chốt cũng được. Chỉ cần cài then cửa cũng được. Chỉ cần đóng (cửa) chạm vào khung cửa cũng được. (Đóng) hơi hở một chút cũng được. Theo quy định cuối cùng nhất, (cửa) hở đến mức đầu không thể chui qua được cũng được. Nếu đó là nơi nhiều người qua lại, cũng được phép nằm nghỉ sau khi đã nói với một Tỳ khưu hoặc Sa-di rằng: “Thưa Hiền giả, hãy trông chừng cửa”. Hoặc nếu các Tỳ khưu đang ngồi làm y phục hay việc gì khác, cũng được phép nằm nghỉ sau khi đã chú ý rằng “những vị này sẽ trông chừng cửa”. Tuy nhiên, trong Chú giải Kurunda (Kurundaṭṭhakathā) có nói: “Cũng được phép nằm nghỉ sau khi đã hỏi một người cận sự nam, hoặc sau khi đã chú ý rằng ‘người này sẽ trông chừng’. Chỉ không được phép hỏi một Tu nữ hay một người nữ (để trông chừng)”. Hoặc nếu cối cửa hay chốt cửa trên bị bể, hoặc bị lấy đi, nên không thể đóng được; hoặc là vì công việc xây dựng mới mà có đống gạch hay đống đất v.v… được chất ở trong cửa, hoặc họ đang dựng giàn giáo, đến nỗi không thể đóng cửa được; khi có chướng ngại như vậy, cũng được phép nằm nghỉ mà không đóng cửa. Còn nếu không có cánh cửa, thì (việc không đóng cửa) là điều được phép sẵn rồi. Người ngủ ở trên lầu cần phải dựng thang rồi mới nằm nghỉ. Nếu ở đầu thang có cửa chặn, cũng cần phải đóng cửa chặn rồi mới nằm nghỉ. Người nằm nghỉ trong phòng riêng cần phải đóng cửa phòng riêng hoặc cửa chính, hoặc bất kỳ cửa nào (dẫn vào phòng), rồi mới được phép nằm nghỉ. Nếu trong một ngôi nhà chỉ có một bức tường (ngăn làm hai phòng) mà có cửa ở hai bên và được sử dụng, thì cả hai cửa đều cần được trông chừng.

Tibhūmakepi pāsāde dvāraṃ jaggitabbameva. Sace bhikkhācārā paṭikkamma lohapāsādasadisaṃ pāsādaṃ bahū bhikkhū divāvihāratthaṃ pavisanti, saṅghattherena dvārapālassa ‘‘dvāraṃ jaggāhī’’ti vatvā vā ‘‘dvārajagganaṃ etassa bhāro’’ti ābhogaṃ katvā vā pavisitvā nipajjitabbaṃ . Yāva saṅghanavakena evameva kattabbaṃ. Pure pavisantānaṃ ‘‘dvārajagganaṃ nāma pacchimānaṃ bhāro’’ti evaṃ ābhogaṃ kātumpi vaṭṭati. Anāpucchā vā ābhogaṃ vā akatvā antogabbhe vā asaṃvutadvāre bahi vā nipajjantānaṃ āpatti. Gabbhe vā bahi vā nipajjanakālepi ‘‘dvārajagganaṃ nāma mahādvāre dvārapālassa bhāro’’ti ābhogaṃ katvā nipajjituṃ vaṭṭatiyeva. Lohapāsādādīsu ākāsatale nipajjantenāpi dvāraṃ saṃvaritabbameva.
Ngay cả trong một tòa nhà ba tầng, cửa cũng phải được trông coi. Nếu sau khi đi khất thực về, nhiều vị Tỳ khưu vào một tòa nhà giống như Lâu đài Đồng để nghỉ ban ngày, vị Trưởng lão Tăng nên bảo người giữ cửa: “Hãy coi cửa” hoặc sau khi lưu ý rằng: “Việc coi cửa là trách nhiệm của người này,” rồi mới vào nằm nghỉ. Cho đến vị Tỳ khưu mới tu cũng phải làm như vậy. Những người vào trước cũng được phép lưu ý rằng: “Việc coi cửa là trách nhiệm của những người vào sau.” Những vị nằm nghỉ ở phòng trong hoặc bên ngoài mà cửa không đóng, không hỏi ý kiến hoặc không lưu ý (cho người khác), thì phạm tội. Ngay cả khi nằm nghỉ ở phòng trong hay bên ngoài, cũng được phép nằm nghỉ sau khi lưu ý rằng: “Việc coi cửa chính là trách nhiệm của người giữ cửa.” Ngay cả khi nằm nghỉ trên sân thượng của các tòa nhà như Lâu đài Đồng, cửa cũng phải được đóng lại.

Ayañhettha saṅkhepo – idaṃ divāpaṭisallīyanaṃ yena kenaci parikkhitte sadvārabandhe ṭhāne kathitaṃ. Tasmā abbhokāse vā rukkhamūle vā maṇḍape vā yattha katthaci sadvārabandhe nipajjantena dvāraṃ saṃvaritvāva nipajjitabbaṃ. Sace mahāpariveṇaṃ hoti, mahābodhiyaṅgaṇalohapāsādaṅgaṇasadisaṃ bahūnaṃ osaraṇaṭṭhānaṃ, yattha dvāraṃ saṃvutampi saṃvutaṭṭhāne na tiṭṭhati, dvāraṃ alabhantā pākāraṃ āruhitvāpi vicaranti, tattha saṃvaraṇakiccaṃ natthi. Rattiṃ dvāraṃ vivaritvā nipanno aruṇe uggate uṭṭhahati, anāpatti. Sace pabujjhitvā puna supati, āpatti. Yo pana ‘‘aruṇe uggate vuṭṭhahissāmī’’ti paricchinditvāva dvāraṃ asaṃvaritvā rattiṃ nipajjati, yathāparicchedameva ca na vuṭṭhāti, tassa āpattiyeva. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘evaṃ nipajjanto anādariyadukkaṭāpi na muccatī’’ti vuttaṃ.
Đây là phần tóm tắt: Việc nghỉ ngơi ban ngày này được nói đến đối với bất kỳ nơi nào có rào chắn và có cửa đóng. Do đó, khi nằm nghỉ ở ngoài trời, dưới gốc cây, trong nhà tạm, hay bất cứ nơi nào có cửa đóng, phải đóng cửa rồi mới nằm nghỉ. Nếu đó là một tu viện lớn, một nơi tụ hội của nhiều người giống như sân Đại Tháp Bồ Đề hay sân Lâu đài Đồng, nơi mà cửa dù có đóng cũng không ở yên vị trí đóng, và những người không tìm thấy cửa thậm chí trèo tường để đi lại, thì ở đó không có phận sự đóng cửa. Người nằm nghỉ ban đêm với cửa mở, nếu thức dậy lúc rạng đông thì không phạm tội. Nếu đã tỉnh giấc rồi lại ngủ tiếp, thì phạm tội. Còn người nào quyết định: “Tôi sẽ thức dậy lúc rạng đông,” rồi nằm ngủ ban đêm không đóng cửa, và không thức dậy đúng như đã định, vị ấy phạm tội. Trong Đại Chú Giải (Mahāpaccari), có nói rằng: “Người nằm ngủ như vậy cũng không thoát khỏi tội tác ác do bất cẩn.”

Yo pana bahudeva rattiṃ jaggitvā addhānaṃ vā gantvā divā kilantarūpo mañce nisinno pāde bhūmito amocetvāva niddāvasena nipajjati, tassa anāpatti. Sace okkantaniddo ajānantopi pāde mañcakaṃ āropeti, āpattiyeva. Nisīditvā apassāya supantassa anāpatti. Yopi ca ‘‘niddaṃ vinodessāmī’’ti caṅkamanto patitvā sahasāva vuṭṭhāti, tassāpi anāpatti. Yo pana patitvā tattheva sayati, na vuṭṭhāti, tassa āpatti.
Còn người nào đã thức suốt đêm, hoặc đi đường xa, ban ngày mệt mỏi, ngồi trên giường, chân chưa rời khỏi đất mà ngủ thiếp đi, vị ấy không phạm tội. Nếu khi đã ngủ say, dù không biết mà đặt chân lên giường, thì vẫn phạm tội. Người ngồi dựa vào tường mà ngủ thì không phạm tội. Người đang đi kinh hành với ý định “Ta sẽ xua tan cơn buồn ngủ,” bị ngã rồi đứng dậy ngay lập tức, vị ấy cũng không phạm tội. Còn người nào ngã rồi nằm luôn tại đó, không đứng dậy, vị ấy phạm tội.

Ko muccati, ko na muccatīti? Mahāpaccariyaṃ tāva ‘‘ekabhaṅgena nipannakoyeva muccati. Pāde pana bhūmito mocetvā nipanno yakkhagahitakopi visaññībhūtopi na muccatī’’ti vuttaṃ. Kurundaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘bandhitvā nipajjāpitova muccatī’’ti vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘yo caṅkamanto muccitvā patito tattheva supati, tassāpi avisayattā āpatti na dissati. Ācariyā pana evaṃ na kathayanti. Tasmā āpattiyevāti mahāpadumattherena vuttaṃ. Dve pana janā āpattito muccantiyeva, yo ca yakkhagahitako, yo ca bandhitvā nipajjāpito’’ti.
Ai được miễn trừ, ai không được miễn trừ? Trước hết, trong Đại Chú Giải (Mahāpaccari) có nói: “Chỉ người nằm nghiêng một bên mới được miễn trừ. Còn người nằm ngửa, chân đã rời khỏi đất, dù bị quỷ ám hay bất tỉnh, cũng không được miễn trừ.” Trong Chú Giải Kurundi (Kurundaṭṭhakathā) lại nói: “Chỉ người bị trói rồi bị bắt nằm xuống mới được miễn trừ.” Còn trong Đại Chú Giải (Mahā-aṭṭhakathā) thì nói: “Người đang đi kinh hành, trượt chân ngã rồi ngủ luôn tại đó, do không kiểm soát được nên không thấy phạm tội. Tuy nhiên, các vị Thầy lại không nói như vậy. Do đó, Trưởng lão Đại Liên Hoa (Mahāpaduma) nói rằng vị ấy vẫn phạm tội. Nhưng có hai hạng người chắc chắn được miễn tội: người bị quỷ ám và người bị trói rồi bị bắt nằm xuống.”

78. Bhārukacchakavatthumhi anāpatti supinantenāti yasmā supinante avisayattā evaṃ hoti, tasmā upālitthero bhagavatā avinicchitapubbampi imaṃ vatthuṃ nayaggāhena vinicchini. Bhagavāpi ca sutvā ‘‘sukathitaṃ, bhikkhave, upālinā; apade padaṃ karonto viya, ākāse padaṃ dassento viya upāli imaṃ pañhaṃ kathesī’’ti vatvā theraṃ etadagge ṭhapesi – ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ vinayadharānaṃ yadidaṃ upālī’’ti (a. ni. 1.219, 228). Ito parāni supabbādīni vatthūni uttānatthāneva.
78. Trong câu chuyện ở Bharukaccha, (việc không phạm tội do nằm mơ) là vì trong giấc mơ, sự việc xảy ra do không kiểm soát được. Do đó, Trưởng lão Upāli, bằng sự suy diễn hợp lý, đã giải quyết trường hợp này dù Thế Tôn chưa từng quyết định trước đó. Sau khi nghe, Thế Tôn cũng dạy rằng: “Này các Tỳ khưu, Upāli đã khéo nói! Như người tạo ra dấu chân ở nơi không có dấu chân, như người chỉ ra dấu chân trên hư không, Upāli đã giải thích vấn đề này.” Rồi Ngài đặt vị Trưởng lão vào vị trí tối thắng: “Này các Tỳ khưu, giữa các đệ tử Tỳ khưu của Ta là những người trì Luật, Upāli là bậc nhất.” (a. ni. 1.219, 228). Từ đây trở đi, các câu chuyện như Supabba v.v… đều có ý nghĩa rõ ràng.

80. Bhikkhunīsampayojanādīsu te licchavikumārakā khiḍḍāpasutā attano anācārena evaṃ akaṃsu. Tato paṭṭhāya ca licchavīnaṃ vināso eva udapādi.
80. Trong các trường hợp liên quan đến việc giao tiếp với Tỳ khưu ni, các vị công tử Licchavi kia, do ham mê vui đùa, đã hành động như vậy vì hạnh kiểm xấu của mình. Kể từ đó, sự suy vong của dòng họ Licchavi đã khởi lên.

82. Vuḍḍhapabbajitavatthumhi dassanaṃ agamāsīti anukampāya ‘‘taṃ dakkhissāmī’’ti gehaṃ agamāsi. Athassa sā attano ca dārakānañca nānappakārehi anāthabhāvaṃ saṃvaṇṇesi. Anapekkhañca naṃ ñatvā kupitā ‘‘ehi vibbhamāhī’’ti balakkārena aggahesi. So attānaṃ mocetuṃ paṭikkamanto jarādubbalatāya uttāno paripati. Tato sā attano manaṃ akāsi. So pana bhikkhu anāgāmī samucchinnakāmarāgo tasmā na sādiyīti.
82. Trong câu chuyện về vị xuất gia lớn tuổi, (câu) “đã đến thăm” có nghĩa là vị ấy vì lòng từ bi, với ý nghĩ “ta sẽ thăm người ấy” mà đã đến nhà. Bấy giờ, người phụ nữ kia đã kể lể về tình cảnh khốn khổ của mình và các con bằng nhiều cách. Khi biết vị ấy không còn quyến luyến, người phụ nữ nổi giận, nói: “Lại đây, hãy vui vẻ với ta!” rồi dùng vũ lực ôm lấy. Vị ấy cố gắng thoát thân, lùi lại, nhưng do già yếu nên đã ngã ngửa ra. Sau đó, người phụ nữ kia đã làm theo ý mình. Nhưng vị Tỳ khưu đó là bậc A-na-hàm, đã đoạn tận ái dục, do đó không hề ưng thuận.

83. Migapotakavatthu uttānatthamevāti.
83. Câu chuyện về con nai con có ý nghĩa rõ ràng.

Vinītavatthu niṭṭhitaṃ.

Phần Các Trường Hợp Đã Giải Quyết đến đây là hết.

Samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāya

Chú giải Luật Tạng Samantapāsādikā

Paṭhamapārājikavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải thích về Bất Cộng Trụ thứ nhất đến đây là hết.

Tatridaṃ samantapāsādikāya samantapāsādikattasmiṃ –
Về Samantapāsādikā, ý nghĩa tên gọi Samantapāsādikā là –

Ācariyaparamparato, nidānavatthuppabhedadīpanato;
Do truyền thống từ chư vị Thầy, do sự trình bày các loại câu chuyện nhân duyên;

Parasamayavivajjanato, sakasamayavisuddhito ceva.
Do tránh xa các học thuyết khác, và do sự thuần tịnh của học thuyết tự thân.

Byañjanaparisodhanato, padatthato pāḷiyojanakkamato;
Do sự trong sạch của văn tự, do ý nghĩa từ ngữ, do thứ tự kết hợp văn Pāḷi;

Sikkhāpadanicchayato, vibhaṅganayabhedadassanato.
Do sự xác định các học giới, do sự trình bày các phương pháp khác nhau của Phân Tích.

Sampassataṃ na dissati, kiñci apāsādikaṃ yato ettha;
Vì rằng người xem xét kỹ, không thấy có gì không tốt đẹp ở nơi đây;

Viññūnamayaṃ tasmā, samantapāsādikātveva.
Nên đối với bậc trí, (tác phẩm) này chính là Samantapāsādikā.

Saṃvaṇṇanā pavattā, vinayassa vineyyadamanakusalena;
Bộ Chú giải Luật này được thực hiện, bởi Đấng Thiện Xảo trong việc điều phục những chúng sanh cần được điều phục;

Vuttassa lokanāthena, lokamanukampamānenāti.
(Luật) được thuyết bởi Đấng Bảo Hộ thế gian, bậc từ mẫn với thế gian.

Paṭhamapārājikavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải thích về Bất Cộng Trụ thứ nhất đến đây là hết.

2. Dutiyapārājikaṃ

2. Bất Cộng Trụ thứ hai

Dutiyaṃ adutiyena, yaṃ jinena pakāsitaṃ;
Điều (Bất Cộng Trụ) thứ hai, do Đấng Vô Song Chánh Giác tuyên thuyết;

Pārājikaṃ tassa dāni, patto saṃvaṇṇanākkamo.
Nay đến lượt chú giải, điều Bất Cộng Trụ ấy.

Yasmā tasmā suviññeyyaṃ, yaṃ pubbe ca pakāsitaṃ;
Vì những gì dễ hiểu, đã được trình bày trước;

Taṃ sabbaṃ vajjayitvāna, hoti saṃvaṇṇanā ayaṃ.
Nên phần giải thích này, tránh nhắc lại tất cả.

Dhaniyavatthuvaṇṇanā

Phần giải thích truyện Tôn giả Dhaniya

84.Tena samayena buddho bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbateti tattha rājagaheti evaṃnāmake nagare, tañhi mandhātu-mahāgovindādīhi pariggahitattā ‘‘rājagaha’’nti vuccati. Aññepettha pakāre vaṇṇayanti. Kiṃ tehi! Nāmametaṃ tassa nagarassa. Taṃ panetaṃ buddhakāle ca cakkavattikāle ca nagaraṃ hoti. Sesakāle suññaṃ hoti yakkhapariggahitaṃ, tesaṃ vasantavanaṃ hutvā tiṭṭhati. Evaṃ gocaragāmaṃ dassetvā nivāsanaṭṭhānamāha – gijjhakūṭe pabbateti. So ca gijjhā tassa kūṭesu vasiṃsu, gijjhasadisāni vā tassa kūṭāni; tasmā gijjhakūṭoti vuccatīti veditabbo.
84. ‘Vào lúc ấy, Đức Phật Thế Tôn trú ở thành Vương Xá, tại núi Linh Thứu.’ Ở đây, ‘tại thành Vương Xá‘ có nghĩa là tại thành phố có tên như vậy; thành ấy được gọi là ‘Vương Xá’ vì đã được các vị vua như Mandhātu, Mahāgovinda v.v… cai quản. Những người khác giải thích theo những cách khác nữa. Cần gì đến chúng! Đây là tên của thành phố ấy. Thành phố này là một đô thị vào thời Đức Phật và thời vua Chuyển Luân. Vào những thời khác, nó hoang vắng, bị dạ xoa chiếm giữ, trở thành khu rừng cư trú của chúng. Sau khi chỉ rõ làng khất thực như vậy, (Ngài) nói về nơi trú ngụ: ‘tại núi Linh Thứu‘. Hoặc là chim kên kên đã sống trên các đỉnh núi ấy, hoặc các đỉnh núi ấy giống như chim kên kên; do đó, cần hiểu rằng nó được gọi là ‘Linh Thứu‘.

Sambahulāti vinayapariyāyena tayo janā sambahulāti vuccanti, tato paraṃ saṅgho. Suttantapariyāyena tayo tayo eva, tato paṭṭhāya sambahulā. Idha pana te suttantapariyāyena sambahulāti veditabbā. Sandiṭṭhāti nātivissāsikā na daḷhamittā; tattha tattha saṅgamma diṭṭhattā hi te sandiṭṭhāti vuccanti. Sambhattāti ativissāsikā daḷhamittā; te hi suṭṭhu bhattā bhajamānā ekasambhogaparibhogāti katvā ‘‘sambhattā’’ti vuccanti. Isigilipasseti isigili nāma pabbato, tassa passe. Pubbe kira pañcasatamattā paccekabuddhā kāsikosalādīsu janapadesu piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ tasmiṃ pabbate sannipatitvā samāpattiyā vītināmenti. Manussā te pavisanteva passanti na nikkhamante. Tato āhaṃsu – ‘‘ayaṃ pabbato ime isayo gilatī’’ti. Tadupādāya tassa ‘‘isigili’’tveva samaññā udapādi, tassa passe pabbatapāde.
Nhiều vị‘: Theo ý nghĩa Luật tạng, ba người được gọi là nhiều, từ đó trở lên là Tăng chúng. Theo ý nghĩa Kinh tạng, ba người là (số ít), từ đó trở lên mới là nhiều. Nhưng ở đây, cần hiểu ‘nhiều vị’ theo ý nghĩa Kinh tạng. ‘Chỉ quen biết‘ nghĩa là không thân thiết lắm, không phải bạn bè gắn bó; sở dĩ gọi là ‘chỉ quen biết’ vì họ gặp gỡ và thấy nhau ở nơi này nơi kia. ‘Thân hữu‘ nghĩa là rất thân thiết, bạn bè gắn bó; sở dĩ gọi là ‘thân hữu’ vì họ hết lòng kính trọng, giao du, cùng hưởng dụng chung. ‘Bên núi Isigili‘ nghĩa là bên cạnh ngọn núi tên Isigili. Tương truyền, thuở xưa, khoảng năm trăm vị Phật Độc Giác sau khi đi khất thực ở các xứ như Kāsi, Kosala v.v…, vào buổi chiều thường tụ hội về ngọn núi ấy để an trú trong thiền định. Người ta chỉ thấy các vị ấy đi vào mà không thấy đi ra. Do đó, họ nói: ‘Ngọn núi này nuốt các vị tiên nhân ấy.’ Kể từ đó, nó có tên là ‘Isigili’ (Tiên Nhân Tiếp Thu). (Họ ở) bên cạnh núi ấy, tức chân núi.

Tiṇakuṭiyo karitvāti tiṇacchadanā sadvārabandhā kuṭiyo katvā. Vassaṃ upagacchantena hi nālakapaṭipadaṃ paṭipannenāpi pañcannaṃ chadanānaṃ aññatarena channeyeva sadvārabandhe senāsane upagantabbaṃ. Vuttañhetaṃ – ‘‘na, bhikkhave, asenāsanikena vassaṃ upagantabbaṃ. Yo upagaccheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 204). Tasmā vassakāle sace senāsanaṃ labhati, iccetaṃ kusalaṃ; no ce labhati, hatthakammaṃ pariyesitvāpi kātabbaṃ. Hatthakammaṃ alabhantena sāmampi kātabbaṃ. Na tveva asenāsanikena vassaṃ upagantabbaṃ. Ayamanudhammatā. Tasmā te bhikkhū tiṇakuṭiyo karitvā rattiṭṭhānadivāṭṭhānādīni paricchinditvā katikavattāni ca khandhakavattāni ca adhiṭṭhāya tīsu sikkhāsu sikkhamānā vassaṃ upagacchiṃsu.
Dựng những lều cỏ‘ nghĩa là làm những cái am lợp cỏ, có cửa đóng. Người nhập hạ, dù thực hành theo hạnh của Nalaka, cũng phải vào ở trong trú xứ có cửa đóng, được lợp bằng một trong năm loại vật liệu lợp. Điều này đã được nói: ‘Này các Tỳ khưu, không được nhập hạ mà không có trú xứ. Vị nào nhập hạ (như vậy) thì phạm tội tác ác.’ (mahāva. 204). Do đó, trong mùa mưa, nếu tìm được trú xứ thì tốt; nếu không tìm được, phải tìm cách tự tay làm lấy. Nếu không thể tự tay làm, cũng phải tự mình thực hiện. Không bao giờ được nhập hạ mà không có trú xứ. Đây là điều đúng pháp. Vì vậy, các vị Tỳ khưu ấy đã dựng lều cỏ, phân định nơi ở ban đêm, nơi ở ban ngày v.v…, quyết tâm giữ các điều lệ thỏa thuận và các phận sự trong các thiên, tu tập ba học mà nhập hạ.

Āyasmāpi dhaniyoti na kevalaṃ te therāva imassa sikkhāpadassa ādikammiko āyasmā dhaniyopi. Kumbhakāraputtoti kumbhakārassa putto; tassa hi nāmaṃ dhaniyo, pitā kumbhakāro, tena vuttaṃ – ‘‘dhaniyo kumbhakāraputto’’ti. Vassaṃ upagacchīti tehi therehi saddhiṃ ekaṭṭhāneyeva tiṇakuṭikaṃ karitvā vassaṃ upagacchi. Vassaṃvutthāti purimikāya upagatā mahāpavāraṇāya pavāritā pāṭipadadivasato paṭṭhāya ‘‘vutthavassā’’ti vuccanti. Evaṃ vassaṃvutthā hutvā.
Tôn giả Dhaniya cũng vậy‘ nghĩa là không chỉ các vị Trưởng lão kia, mà Tôn giả Dhaniya, người đầu tiên phạm học giới này, cũng vậy. ‘Con trai người thợ gốm‘ nghĩa là con của người thợ gốm; tên vị ấy là Dhaniya, cha là thợ gốm, do đó nói: ‘Dhaniya, con trai người thợ gốm’. ‘Đã nhập hạ‘ nghĩa là đã cùng các vị Trưởng lão ấy dựng lều cỏ ở cùng một nơi và nhập hạ. ‘Sau khi an cư mùa mưa xong‘ nghĩa là những vị đã nhập hạ vào (kỳ) đầu, đã làm lễ Tự tứ vào ngày Đại Tự Tứ, kể từ ngày đầu tiên sau (lễ Tự tứ) được gọi là ‘đã an cư xong’. Sau khi đã an cư mùa mưa xong như vậy.

Tiṇakuṭiyo bhinditvāti na daṇḍamuggarādīhi cuṇṇavicuṇṇaṃ katvā, vattasīsena pana tiṇañca dāruvalli-ādīni ca oropetvāti attho. Yena hi vihārapaccante kuṭi katā hoti, tena sace āvāsikā bhikkhū honti, te āpucchitabbā. ‘‘Sace imaṃ kuṭiṃ paṭijaggitvā koci vasituṃ ussahati, tassa dethā’’ti vatvā pakkamitabbaṃ. Yena araññe vā katā hoti , paṭijagganakaṃ vā na labhati, tena ‘‘aññesampi paribhogaṃ bhavissatī’’ti paṭisāmetvā gantabbaṃ. Te pana bhikkhū araññe kuṭiyo katvā paṭijagganakaṃ alabhantā tiṇañca kaṭṭhañca paṭisāmetvā saṅgopetvāti attho. Yathā ca ṭhapitaṃ taṃ upacikāhi na khajjati , anovassakañca hoti, tathā ṭhapetvā ‘‘idaṃ ṭhānaṃ āgantvā vasitukāmānaṃ sabrahmacārīnaṃ upakārāya bhavissatī’’ti gamiyavattaṃ pūretvā.
Phá dỡ các lều cỏ‘ không có nghĩa là dùng gậy gộc đập tan nát, mà nghĩa là theo thông lệ, tháo dỡ cỏ, gỗ, dây leo v.v… Vị nào đã dựng am ở cuối địa giới tu viện, nếu có các Tỳ khưu thường trú, vị ấy phải hỏi ý kiến họ. Phải nói: ‘Nếu có ai muốn ở và có thể sửa sang am này, xin hãy giao cho vị ấy,’ rồi mới ra đi. Vị nào đã dựng (am) trong rừng, hoặc không tìm được người sửa sang, vị ấy phải dọn dẹp cẩn thận với ý nghĩ: ‘Nơi này sẽ hữu ích cho những người khác dùng,’ rồi mới đi. Còn các Tỳ khưu kia, sau khi dựng lều trong rừng và không tìm được người sửa sang, ý nghĩa là họ đã thu dọn cỏ và gỗ cất giữ cẩn thận. Và cất giữ sao cho không bị mối mọt ăn, không bị mưa dột, rồi làm tròn phận sự của người ra đi với ý nghĩ: ‘Mong rằng nơi này sẽ hữu ích cho các vị đồng phạm hạnh muốn đến ở về sau’.

Janapadacārikaṃ pakkamiṃsūti attano attano cittānukūlaṃ janapadaṃ agamaṃsu. Āyasmā pana dhaniyo kumbhakāraputto tattheva vassaṃ vasītiādi uttānatthameva. Yāvatatiyakanti yāvatatiyavāraṃ. Anavayoti anuavayo, sandhivasena ukāralopo. Anu anu avayo, yaṃ yaṃ kumbhakārehi kattabbaṃ nāma atthi, sabbattha anūno paripuṇṇasippoti attho. Saketi attano santake. Ācariyaketi ācariyakamme. Kumbhakārakammeti kumbhakārānaṃ kamme; kumbhakārehi kattabbakammeti attho. Etena sakaṃ ācariyakaṃ sarūpato dassitaṃ hoti. Pariyodātasippoti parisuddhasippo. Anavayattepi sati aññehi asadisasippoti vuttaṃ hoti.
Họ đã du hành đến các miền quê‘ nghĩa là họ đã đi đến các miền quê tùy theo ý thích của mỗi người. ‘Còn Tôn giả Dhaniya, con trai người thợ gốm, đã an cư mùa mưa tại chính nơi đó‘ v.v… có ý nghĩa rõ ràng. ‘Cho đến lần thứ ba‘ nghĩa là cho đến phen thứ ba. ‘Không thiếu sót‘ là anu-avayo, chữ ‘u’ bị lược bỏ do nối âm. Anu anu avayo, nghĩa là bất cứ việc gì mà người thợ gốm phải làm, (vị ấy) đều không thiếu sót, có tay nghề hoàn hảo ở mọi mặt. ‘Của mình‘ nghĩa là tài sản của mình. ‘Nghề nghiệp của thầy‘ nghĩa là công việc của thầy (dạy nghề). ‘Trong nghề thợ gốm‘ nghĩa là trong công việc của những người thợ gốm; tức là công việc mà những người thợ gốm phải làm. Qua đó, nghề nghiệp của thầy dạy của mình được chỉ rõ về bản chất. ‘Tay nghề thuần thục‘ nghĩa là tay nghề trong sạch (tinh xảo). Dù không thiếu sót (trong các kỹ năng cơ bản), điều này có nghĩa là (vị ấy) có tay nghề không ai sánh bằng.

Sabbamattikāmayanti piṭṭhasaṅghāṭakakavāṭasūcighaṭikavātapānakavāṭamattaṃ ṭhapetvā avasesaṃ bhittichadaniṭṭhakathambhādibhedaṃ sabbaṃ gehasambhāraṃ mattikāmayameva katvāti attho. Tiṇañca kaṭṭhañca gomayañca saṅkaḍḍhitvā taṃ kuṭikaṃ pacīti taṃ sabbamattikāmayaṃ katvā pāṇikāya ghaṃsitvā sukkhāpetvā telatambamattikāya parimajjitvā anto ca bahi ca tiṇādīhi pūretvā yathā pakkā supakkā hoti, evaṃ paci. Evaṃ pakkā ca pana sā ahosi kuṭikā . Abhirūpāti surūpā. Pāsādikāti pasādajanikā. Lohitikāti lohitavaṇṇā. Kiṅkaṇikasaddoti kiṅkaṇikajālassa saddo. Yathā kira nānāratanehi katassa kiṅkaṇikajālassa saddo hoti, evaṃ tassā kuṭikāya vātapānantarikādīhi paviṭṭhena vātena samāhatāya saddo ahosi. Etenassā anto ca bahi ca supakkabhāvo dassito hoti. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘kiṅkaṇikā’’ti kaṃsabhājanaṃ, tasmā yathā abhihatassa kaṃsabhājanassa saddo, evamassā vātappahatāya saddo ahosī’’ti vuttaṃ.
Toàn bằng đất sét‘ nghĩa là trừ khung cửa, cánh cửa, then cài, chốt cửa sổ, còn lại tất cả vật liệu xây nhà như tường, mái, gạch, cột v.v… đều làm hoàn toàn bằng đất sét. ‘Thu gom cỏ, củi, phân bò rồi nung cái am ấy‘ nghĩa là sau khi làm tất cả bằng đất sét, dùng tay xoa láng, phơi khô, trét bằng đất sét pha dầu và đồng đỏ, rồi chất đầy cỏ củi v.v… cả trong lẫn ngoài, rồi nung sao cho nó chín kỹ. Và cái am ấy đã được nung như vậy. ‘Đẹp đẽ‘ nghĩa là hình dáng đẹp. ‘Ưa nhìn‘ nghĩa là làm phát sinh thiện cảm. ‘Màu đỏ‘ nghĩa là có màu đỏ au. ‘Tiếng như chuông nhỏ‘ là tiếng của mạng lưới chuông nhỏ. Tương truyền, giống như tiếng của mạng lưới chuông nhỏ làm bằng các loại bảo vật, cũng vậy, am ấy khi bị gió thổi vào qua các khe cửa sổ v.v… đã phát ra tiếng. Qua đó, tình trạng chín kỹ cả trong lẫn ngoài của am được chỉ rõ. Còn trong Đại Chú Giải thì nói: ‘kiṅkaṇikā’ là đồ dùng bằng đồng; do đó, giống như tiếng của đồ dùng bằng đồng khi bị gõ, am ấy cũng phát ra tiếng như vậy khi bị gió thổi.’

85.Kiṃ etaṃ, bhikkhaveti ettha jānantova bhagavā kathāsamuṭṭhāpanatthaṃ pucchi. Bhagavato etamatthaṃ ārocesunti sabbamattikāmayāya kuṭikāya karaṇabhāvaṃ ādito paṭṭhāya bhagavato ārocesuṃ. Kathañhi nāma so, bhikkhave…pe… kuṭikaṃ karissatīti idaṃ atītatthe anāgatavacanaṃ; akāsīti vuttaṃ hoti. Tassa lakkhaṇaṃ saddasatthato pariyesitabbaṃ. Na hi nāma, bhikkhave, tassa moghapurisassa pāṇesu anuddayā anukampā avihesā bhavissatīti ettha anuddayāti anurakkhaṇā; etena mettāpubbabhāgaṃ dasseti. Anukampāti paradukkhena cittakampanā. Avihesāti avihiṃsanā; etehi karuṇāpubbabhāgaṃ dasseti. Idaṃ vuttaṃ hoti – ‘‘bhikkhave , tassa moghapurisassa pathavīkhaṇanacikkhallamaddanaaggidānesu bahū khuddānukhuddake pāṇe byābādhentassa vināsentassa tesu pāṇesu mettākaruṇānaṃ pubbabhāgamattāpi anuddayā anukampā avihesā na hi nāma bhavissati appamattakāpi nāma na bhavissatī’’ti. Mā pacchimā janatā pāṇesu pātabyataṃ āpajjīti pacchimo janasamūho pāṇesu pātabyabhāvaṃ mā āpajji. ‘‘Buddhakālepi bhikkhūhi evaṃ kataṃ, īdisesu ṭhānesu pāṇātipātaṃ karontānaṃ natthi doso’’ti maññitvā imassa diṭṭhānugatiṃ āpajjamānā pacchimā janatā mā pāṇesu pātabye ghaṃsitabbe evaṃ maññīti vuttaṃ hoti.
85. ‘Này các Tỳ khưu, việc gì đây?‘ Ở đây, Thế Tôn dù biết rõ vẫn hỏi để khơi mào câu chuyện. ‘Họ đã trình bày sự việc ấy lên Thế Tôn‘ nghĩa là họ đã trình bày lên Thế Tôn từ đầu việc làm cái am hoàn toàn bằng đất sét. ‘Này các Tỳ khưu, làm sao kẻ ấy… (v.v.)… lại làm cái am như vậy?‘ Đây là dùng thì tương lai để chỉ quá khứ; có nghĩa là ‘đã làm’. Đặc điểm (ngữ pháp) của nó cần được tìm hiểu từ văn phạm. ‘Này các Tỳ khưu, làm sao kẻ ngu si ấy lại có thể có lòng thương xót, trắc ẩn, không làm hại đối với các chúng sanh?‘ Ở đây, ‘lòng thương xót‘ là sự bảo vệ; qua đó chỉ phần đầu của tâm từ. ‘Lòng trắc ẩn‘ là tâm rung động trước nỗi khổ của người khác. ‘Không làm hại‘ là không làm tổn thương; qua những điều này chỉ phần đầu của tâm bi. Điều này có nghĩa là: ‘Này các Tỳ khưu, đối với kẻ ngu si ấy, khi đào đất, trộn bùn, đốt lửa, làm tổn hại và giết hại nhiều chúng sanh nhỏ nhít, làm sao lại có thể có được dù chỉ một chút phần đầu của tâm từ và tâm bi, tức là lòng thương xót, lòng trắc ẩn, không làm hại đối với các chúng sanh ấy? Dù chỉ một chút nhỏ cũng không thể có.’ ‘Mong rằng thế hệ sau không phạm vào việc sát hại chúng sanh‘ nghĩa là mong rằng đám đông người đời sau không rơi vào tình trạng sát hại chúng sanh. Điều này có nghĩa là: Mong rằng thế hệ sau, khi thấy việc này mà bắt chước, nghĩ rằng: ‘Ngay cả thời Đức Phật, các Tỳ khưu cũng đã làm như vậy, ở những nơi như thế này, việc sát hại chúng sanh không có tội,’ rồi đừng có quan niệm sai lầm rằng việc sát hại chúng sanh là điều có thể làm.

Evaṃ dhaniyaṃ garahitvā na ca, bhikkhave, sabbamattikāmayā kuṭikā kātabbāti āyatiṃ tādisāya kuṭikāya karaṇaṃ paṭikkhipi; paṭikkhipitvā ca ‘‘yo kareyya āpatti dukkaṭassā’’ti sabbamattikāmayakuṭikākaraṇe āpattiṃ ṭhapesi. Tasmā yopi pathavīkhaṇanādinā pāṇesu pātabyataṃ anāpajjanto tādisaṃ kuṭikaṃ karoti, sopi dukkaṭaṃ āpajjati. Pathavīkhaṇanādīhi pana pāṇesu pātabyataṃ āpajjanto yaṃ yaṃ vatthuṃ vītikkamati, tattha tattha vuttameva āpattiṃ āpajjati. Dhaniyattherassa ādikammikattā anāpatti. Sesānaṃ sikkhāpadaṃ atikkamitvā karontānampi kataṃ labhitvā tattha vasantānampi dukkaṭameva. Dabbasambhāramissakā pana yathā vā tathā vā missā hotu, vaṭṭati. Suddhamattikāmayāva na vaṭṭati. Sāpi iṭṭhakāhi giñjakāvasathasaṅkhepena katā vaṭṭati. Evaṃ bhanteti kho…pe… taṃ kuṭiṃ bhindiṃsūti bhagavato vacanaṃ sampaṭicchitvā kaṭṭhehi ca pāsāṇehi ca taṃ kuṭikaṃ vikirantā bhindiṃsu.
Sau khi khiển trách Dhaniya như vậy, (Ngài phán): ‘Và này các Tỳ khưu, không được làm am hoàn toàn bằng đất sét,’ Ngài đã ngăn cấm việc làm loại am như vậy trong tương lai; và sau khi ngăn cấm, Ngài đã chế định tội tác ác cho việc làm am hoàn toàn bằng đất sét: ‘Vị nào làm thì phạm tội tác ác.’ Do đó, ngay cả vị nào làm một cái am như vậy mà không phạm vào việc sát hại chúng sanh qua việc đào đất v.v…, vị ấy cũng phạm tội tác ác. Còn người nào phạm vào việc sát hại chúng sanh qua việc đào đất v.v…, vị ấy phạm tội nào đã được quy định cho mỗi sự việc mà vị ấy vi phạm. Đối với Trưởng lão Dhaniya, vì là người phạm lần đầu, nên không có tội. Đối với những người khác, dù là người vi phạm học giới mà làm, hay người nhận cái am đã làm rồi ở trong đó, cũng đều phạm tội tác ác. Còn (am) làm bằng vật liệu trộn lẫn, dù trộn thế nào đi nữa, cũng được phép. Chỉ (am) làm hoàn toàn bằng đất sét là không được phép. Ngay cả (am đất sét) nếu được làm bằng gạch, theo kiểu nhà gạch, cũng được phép. ‘Bạch Thế Tôn, xin vâng… (v.v.)… họ đã phá dỡ cái am ấy‘ nghĩa là sau khi vâng nhận lời dạy của Thế Tôn, họ đã dùng củi và đá phá tan cái am ấy.

Atha kho āyasmā dhaniyotiādimhi ayaṃ saṅkhepattho – dhaniyo ekapasse divāvihāraṃ nisinno tena saddena āgantvā te bhikkhū ‘‘kissa me tumhe, āvuso, kuṭiṃ bhindathā’’ti pucchitvā ‘‘bhagavā bhedāpetī’’ti sutvā subbacatāya sampaṭicchi.
Trong đoạn bắt đầu bằng ‘Bấy giờ, Tôn giả Dhaniya‘, đây là ý nghĩa tóm tắt: Dhaniya đang ngồi nghỉ ban ngày ở một bên, nghe tiếng động ấy liền đến hỏi các Tỳ khưu kia: ‘Này chư hiền, tại sao các vị lại phá am của tôi?’ Sau khi nghe (họ trả lời): ‘Thế Tôn ra lệnh phá,’ vì tính dễ bảo, (Tôn giả Dhaniya) đã chấp thuận.

Kasmā pana bhagavā iminā atimahantena ussāhena attano vasanatthaṃ kataṃ kuṭikaṃ bhedāpesi, nanu etassettha vayakammampi atthīti? Kiñcāpi atthi, atha kho naṃ bhagavā akappiyāti bhindāpesi, titthiyadhajoti bhindāpesi. Ayamettha vinicchayo. Aṭṭhakathāyaṃ pana aññānipi kāraṇāni vuttāni – sattānuddayāya, pattacīvaraguttatthāya, senāsanabāhullapaasedhanāyātiādīni. Tasmā idānipi yo bhikkhu bahussuto vinayaññū aññaṃ bhikkhuṃ akappiyaṃ parikkhāraṃ gahetvā vicarantaṃ disvā taṃ chindāpeyya vā bhindāpeyya vā anupavajjo , so neva codetabbo na sāretabbo; na taṃ labbhā vattuṃ ‘‘mama parikkhāro tayā nāsito, taṃ me dehī’’ti.
Nhưng tại sao Thế Tôn lại ra lệnh phá cái am mà (Dhaniya) đã làm với nỗ lực rất lớn như vậy để mình ở, chẳng phải ở đây cũng có công lao của vị ấy sao? Dù có (công lao), nhưng Thế Tôn đã ra lệnh phá vì nó không hợp pháp, Ngài ra lệnh phá vì nó là biểu tượng của ngoại đạo. Đây là sự quyết định ở đây. Còn trong Chú Giải, những lý do khác cũng được nêu ra – vì lòng thương xót chúng sanh, vì để bảo vệ y bát, vì để ngăn chặn sự thừa thãi trú xứ, v.v… Do đó, ngày nay cũng vậy, nếu một Tỳ khưu đa văn, thông hiểu Luật, thấy một Tỳ khưu khác mang theo vật dụng không hợp pháp mà đi lại, rồi vị ấy cho cắt bỏ hoặc phá hủy vật đó, thì không bị khiển trách, vị ấy không nên bị khiển trách hay nhắc nhở; không được nói với vị ấy rằng: ‘Vật dụng của tôi đã bị thầy làm hư, thầy hãy đền cho tôi’.

Pāḷimuttakavinicchayo

Quyết định về những điều không có trong Luật Pāḷi

Tatrāyaṃ pāḷimuttako kappiyākappiyaparikkhāravinicchayo – keci tālapaṇṇacchattaṃ anto vā bahi vā pañcavaṇṇena suttena sibbantā vaṇṇamaṭṭhaṃ karonti, taṃ na vaṭṭati. Ekavaṇṇena pana nīlena vā pītakena vā yena kenaci suttena anto vā bahi vā sibbituṃ chattadaṇḍaggāhakaṃ salākapañjaraṃ vā vinandhituṃ vaṭṭati. Tañca kho thirakaraṇatthaṃ, na vaṇṇamaṭṭhatthāya. Chattapaṇṇakesu makaradantakaṃ vā aḍḍhacandakaṃ vā chindituṃ na vaṭṭati. Chattadaṇḍe gehathambhesu viya ghaṭako vā vāḷarūpakaṃ vā na vaṭṭati. Sacepi sabbattha āraggena lekhā dinnā hoti, sāpi na vaṭṭati. Ghaṭakampi vāḷarūpampi bhinditvā dhāretabbaṃ. Lekhāpi ghaṃsitvā vā apanetabbā, suttakena vā daṇḍo veṭhetabbo. Daṇḍabunde pana ahicchattakasaṇṭhānaṃ vaṭṭati. Vātappahārena acalanatthaṃ chattamaṇḍalikaṃ rajjukehi gāhetvā daṇḍe bandhanti, tasmiṃ bandhanaṭṭhāne valayamiva ukkiritvā lekhaṃ ṭhapenti, sā vaṭṭati.
Trong đó, đây là quyết định về các vật dụng hợp lệ và không hợp lệ, là những điều không có trong Luật Pāḷi – Một số người khi may dù lá cọ, ở trong hay ngoài, dùng chỉ năm màu để trang trí cho đẹp, điều đó không hợp lệ. Nhưng được phép dùng chỉ một màu, hoặc xanh, hoặc vàng, hoặc bất kỳ màu nào, để may bên trong hay bên ngoài, hoặc để bện khung nan giữ cán dù. Và điều đó là để cho chắc chắn, không phải để trang trí cho đẹp. Trên lá dù, không được phép cắt hình răng cá sấu hay hình bán nguyệt. Trên cán dù, không được phép có hình khối trang trí hay hình con thú như trên cột nhà. Nếu có những đường khắc bằng dùi nhọn khắp nơi, điều đó cũng không hợp lệ. Hình khối trang trí và hình con thú phải được đập bỏ rồi mới được giữ (dù). Các đường khắc cũng phải được mài đi hoặc xóa bỏ, hoặc phải dùng chỉ quấn quanh cán. Tuy nhiên, ở gốc cán dù, hình dạng nấm rắn thì hợp lệ. Để cho vành dù không bị lung lay do gió thổi, người ta dùng dây buộc chặt vào cán; tại chỗ buộc đó, nếu khắc một đường vòng như chiếc vòng, điều đó hợp lệ.

Cīvaramaṇḍanatthāya nānāsuttakehi satapadīsadisaṃ sibbantā āgantukapaṭṭaṃ ṭhapenti, aññampi yaṃkiñci sūcikammavikāraṃ karonti, paṭṭamukhe vā pariyante vā veṇiṃ vā saṅkhalikaṃ vā, evamādi sabbaṃ na vaṭṭati, pakatisūcikammameva vaṭṭati. Gaṇṭhikapaṭṭakañca pāsakapaṭṭañca aṭṭhakoṇampi soḷasakoṇampi karonti, tattha agghiyagayamuggarādīni dassenti, kakkaṭakkhīni ukkiranti, sabbaṃ na vaṭṭati, catukoṇameva vaṭṭati. Koṇasuttapiḷakā ca cīvare ratte duviññeyyarūpā vaṭṭanti. Kañjikapiṭṭhakhaliādīsu cīvaraṃ pakkhipituṃ na vaṭṭati. Cīvarakammakāle pana hatthamalasūcimalādīnaṃ dhovanatthaṃ kiliṭṭhakāle ca dhovanatthaṃ vaṭṭati. Gandhaṃ vā lākhaṃ vā telaṃ vā rajane pakkhipituṃ na vaṭṭati.
Để trang trí y, việc dùng các loại chỉ khác nhau may thành hình giống con rết, đắp thêm miếng vải lạ, hoặc làm bất kỳ kiểu may vá biến dạng nào khác, hoặc ở đầu miếng vải hay ở biên vải làm hình bím tóc hay hình dây xích, tất cả những thứ tương tự như vậy đều không hợp lệ; chỉ có cách may vá thông thường mới hợp lệ. Miếng đệm nút và miếng đệm khuy, dù làm hình tám cạnh hay mười sáu cạnh, rồi trên đó thể hiện các hình như chày, dùi cui v.v…, khắc hình mắt cua, tất cả đều không hợp lệ; chỉ có hình bốn cạnh mới hợp lệ. Các núm chỉ ở góc y, nếu có hình dạng khó nhận biết trên y đã nhuộm, thì hợp lệ. Không được phép ngâm y trong nước cháo đặc, bột gạo, bã dầu v.v… Tuy nhiên, khi làm y, để giặt sạch vết dơ ở tay, vết dơ do kim may v.v…, và khi y bị dơ, thì được phép giặt (bằng các thứ đó). Không được phép cho hương liệu, cánh kiến, hoặc dầu vào thuốc nhuộm.

Cīvaraṃ rajitvā saṅkhena vā maṇinā vā yena kenaci na ghaṭṭetabbaṃ. Bhūmiyaṃ jāṇukāni nihantvā hatthehi gahetvā doṇiyampi na ghaṃsitabbaṃ. Doṇiyaṃ vā phalake vā ṭhapetvā ante gāhāpetvā hatthehi paharituṃ pana vaṭṭati; tampi muṭṭhinā na kātabbaṃ. Porāṇakattherā pana doṇiyampi na ṭhapesuṃ. Eko gahetvā tiṭṭhati; aparo hatthe katvā hatthena paharati. Cīvarassa kaṇṇasuttakaṃ na vaṭṭati, rajitakāle chinditabbaṃ. Yaṃ pana ‘‘anujānāmi, bhikkhave, kaṇṇasuttaka’’nti (mahāva. 344) evaṃ anuññātaṃ, taṃ anuvāte pāsakaṃ katvā bandhitabbaṃ rajanakāle lagganatthāya. Gaṇṭhikepi sobhākaraṇatthaṃ lekhā vā piḷakā vā na vaṭṭati, nāsetvā paribhuñjitabbaṃ.
Sau khi nhuộm y, không được dùng vỏ ốc, ngọc, hay bất cứ vật gì để chà xát. Không được chống gối xuống đất, dùng tay giữ y rồi chà xát vào máng giặt. Tuy nhiên, được phép đặt y trên máng giặt hoặc tấm ván, (nhờ người) giữ các đầu y rồi dùng tay đập; việc đó cũng không được làm bằng nắm tay. Các vị Trưởng lão xưa thì không đặt y trên máng giặt. Một người giữ y đứng; người kia dùng tay (vắt y lại) rồi dùng tay đập. Chỉ tai y không hợp lệ, phải cắt bỏ khi nhuộm. Còn sợi chỉ tai y mà đã được cho phép rằng: ‘Này các Tỳ khưu, Ta cho phép dùng chỉ tai y’ (mahāva. 344), sợi đó phải được làm thành cái khuy ở chỗ xuôi gió để buộc lại khi nhuộm cho khỏi dính. Trên nút y, các đường khắc hay núm trang trí để làm đẹp cũng không hợp lệ, phải xóa bỏ rồi mới được dùng.

Patte vā thālake vā āraggena lekhaṃ karonti, anto vā bahi vā na vaṭṭati. Pattaṃ bhamaṃ āropetvā majjitvā pacanti – ‘‘maṇivaṇṇaṃ karissāmā’’ti, na vaṭṭati; telavaṇṇo pana vaṭṭati. Pattamaṇḍale bhittikammaṃ na vaṭṭati, makaradantakaṃ pana vaṭṭati.
Trên bát hoặc trên đĩa kim loại, nếu dùng dùi nhọn để khắc hình, dù ở trong hay ngoài, đều không hợp lệ. Đặt bát lên bàn xoay, đánh bóng rồi nung với ý định ‘chúng ta sẽ làm cho nó có màu như ngọc’, điều đó không hợp lệ; nhưng màu như dầu thì hợp lệ. Trên vành bát, không được phép trang trí hoa văn như trên tường, nhưng hình răng cá sấu thì hợp lệ.

Dhamakaraṇachattakassa upari vā heṭṭhā vā dhamakaraṇakucchiyaṃ vā lekhā na vaṭṭati, chattamukhavaṭṭiyaṃ panassa lekhā vaṭṭati.
Trên cái lọng của đồ lọc nước, dù ở trên hay dưới, hoặc ở trong lòng đồ lọc nước, các đường khắc đều không hợp lệ; nhưng đường khắc ở vành miệng lọng của nó thì hợp lệ.

Kāyabandhanassa sobhanatthaṃ tahiṃ tahiṃ diguṇaṃ suttaṃ koṭṭenti, kakkaṭacchīni uṭṭhapenti, na vaṭṭati. Ubhosu pana antesu dasāmukhassa thirabhāvāya diguṇaṃ koṭṭetuṃ vaṭṭati. Dasāmukhe pana ghaṭakaṃ vā makaramukhaṃ vā deḍḍubhasīsaṃ vā yaṃkiñci vikārarūpaṃ kātuṃ na vaṭṭati. Tattha tattha acchīni dassetvā mālākammalatākammādīni vā katvā koṭṭitakāyabandhanampi na vaṭṭati. Ujukameva pana macchakaṇṭakaṃ vā khajjuripattakaṃ vā maṭṭhapaṭṭikaṃ vā katvā koṭṭituṃ vaṭṭati. Kāyabandhanassa dasā ekā vaṭṭati, dve tīṇi cattāripi vaṭṭanti; tato paraṃ na vaṭṭanti. Rajjukakāyabandhanaṃ ekameva vaṭṭati. Pāmaṅgasaṇṭhānaṃ pana ekampi na vaṭṭati. Dasā pana pāmaṅgasaṇṭhānāpi vaṭṭati. Bahurajjuke ekato katvā ekena nirantaraṃ veṭhetvā kataṃ bahurajjukanti na vattabbaṃ, taṃ vaṭṭati.
Để làm đẹp dây lưng, việc nơi này nơi kia dùng chỉ đôi để dệt nổi, làm nổi hình mắt cua, là không hợp lệ. Tuy nhiên, ở hai đầu (dây lưng), để cho phần tua rua được chắc chắn, thì được phép dệt bằng chỉ đôi. Nhưng ở phần tua rua, không được phép làm hình khối trang trí, hình đầu cá sấu, hình đầu ếch, hay bất kỳ hình dạng biến dạng nào. Dây lưng được dệt mà có thể hiện các mắt (lỗ) ở chỗ này chỗ kia, hoặc làm thành hình vòng hoa, hình dây leo v.v… cũng không hợp lệ. Tuy nhiên, được phép dệt thẳng thành hình xương cá, hoặc hình lá chà là, hoặc hình dải băng trơn. Tua của dây lưng, một tua thì hợp lệ, hai, ba, bốn (tua) cũng hợp lệ; nhiều hơn nữa thì không hợp lệ. Dây lưng làm bằng dây thừng, chỉ một sợi mới hợp lệ. Còn (dây lưng) có hình dạng như vòng đeo chân thì dù chỉ một cũng không hợp lệ. Nhưng tua (dây lưng) có hình dạng như vòng đeo chân thì lại hợp lệ. Nhiều sợi dây thừng gộp lại rồi dùng một sợi quấn chặt liên tục, không nên gọi đó là (dây lưng) nhiều dây thừng; loại đó thì hợp lệ.

Kāyabandhanavidhe aṭṭhamaṅgalādikaṃ yaṃkiñci vikārarūpaṃ na vaṭṭati, paricchedalekhāmattaṃ vaṭṭati. Vidhakassa ubhosu antesu thirakaraṇatthāya ghaṭakaṃ karonti, ayampi vaṭṭati.
Trên móc dây lưng, bất kỳ hình dạng biến dạng nào như tám tướng cát tường v.v… đều không hợp lệ; chỉ có đường khắc phân chia đơn thuần là hợp lệ. Ở hai đầu của móc, nếu làm hình khối trang trí để cho chắc chắn, điều này cũng hợp lệ.

Añjaniyaṃ itthipurisacatuppadasakuṇarūpaṃ vā mālākamma-latākammamakaradantaka-gomuttakaaḍḍhacandakādibhedaṃ vā vikārarūpaṃ na vaṭṭati. Ghaṃsitvā vā chinditvā vā yathā vā na paññāyati, tathā suttena veṭhetvā vaḷañjetabbā. Ujukameva pana caturaṃsā vā aṭṭhaṃsā vā soḷasaṃsā vā añjanī vaṭṭati. Heṭṭhato pissā dve vā tisso vā vaṭṭalekhāyo vaṭṭanti. Gīvāyampissā pidhānakabandhanatthaṃ ekā vaṭṭalekhā vaṭṭati.
Trên hộp đựng thuốc mắt, các hình dạng biến dạng như hình người nam, người nữ, hình thú bốn chân, hình chim, hoặc các loại hình vòng hoa, dây leo, răng cá sấu, đường dích dắc (như nước tiểu bò), bán nguyệt v.v… đều không hợp lệ. Phải mài đi, hoặc cắt bỏ, hoặc dùng chỉ quấn quanh sao cho không còn nhận ra được, rồi mới được dùng. Tuy nhiên, hộp đựng thuốc mắt thẳng, hình vuông, hoặc hình tám cạnh, hoặc hình mười sáu cạnh thì hợp lệ. Ở phía dưới của nó, hai hoặc ba đường khắc tròn cũng hợp lệ. Ở cổ của nó, một đường khắc tròn để buộc nắp cũng hợp lệ.

Añjanisalākāyapi vaṇṇamaṭṭhakammaṃ na vaṭṭati. Añjanitthavikāyampi yaṃkiñci nānāvaṇṇena suttena vaṇṇamaṭṭhakammaṃ na vaṭṭati. Eseva nayo kuñcikākosakepi. Kuñcikāya vaṇṇamaṭṭhakammaṃ na vaṭṭati, tathā sipāṭikāyaṃ. Ekavaṇṇasuttena panettha yena kenaci sibbituṃ vaṭṭati.
Trên que thuốc mắt cũng không được phép trang trí cho đẹp. Trên túi đựng thuốc mắt cũng không được phép dùng chỉ nhiều màu để trang trí làm đẹp dưới bất kỳ hình thức nào. Điều này cũng áp dụng tương tự cho túi đựng chìa khóa. Trên chìa khóa, việc trang trí cho đẹp không hợp lệ, cũng như trên hộp đựng đồ nhỏ. Ở những thứ này, được phép dùng chỉ một màu bất kỳ để may.

Ārakaṇṭakepi vaṭṭamaṇikaṃ vā aññaṃ vā vaṇṇamaṭṭhaṃ na vaṭṭati. Gīvāyaṃ pana paricchedalekhā vaṭṭati. Pipphalikepi maṇikaṃ vā piḷakaṃ vā yaṃkiñci uṭṭhapetuṃ na vaṭṭati. Daṇḍake pana paricchedalekhā vaṭṭati. Nakhacchedanaṃ valitakaṃyeva karonti, tasmā taṃ vaṭṭati. Uttarāraṇiyaṃ vā adharāraṇiyaṃ vā araṇidhanuke vā uparipellanadaṇḍake vā mālākammādikaṃ yaṃkiñci vaṇṇamaṭṭhaṃ na vaṭṭati, pellanadaṇḍakassa pana vemajjhe maṇḍalaṃ hoti, tattha paricchedalekhāmattaṃ vaṭṭati. Sūcisaṇḍāsaṃ karonti, yena sūciṃ ḍaṃsāpetvā ghaṃsanti, tattha makaramukhādikaṃ yaṃkiñci vaṇṇamaṭṭhaṃ na vaṭṭati, sūciḍaṃsanatthaṃ pana mukhamattaṃ hoti, taṃ vaṭṭati.
Trên dùi nhọn cũng không được phép có hạt tròn hay trang trí làm đẹp nào khác. Nhưng ở phần cổ (của dùi), đường khắc phân chia thì hợp lệ. Trên cây lấy ráy tai cũng không được phép làm nổi hạt tròn, núm, hay bất cứ thứ gì. Nhưng trên cán của nó, đường khắc phân chia thì hợp lệ. Đồ cắt móng tay thường được làm cong, do đó nó hợp lệ. Trên thanh cọ lửa trên, thanh cọ lửa dưới, cung cọ lửa, hoặc trên cây đè phía trên, bất kỳ sự trang trí làm đẹp nào như hình vòng hoa v.v… đều không hợp lệ; nhưng ở giữa cây đè nếu có hình tròn, thì ở đó một đường khắc phân chia đơn thuần là hợp lệ. Người ta làm kẹp kim, dùng để kẹp kim rồi mài; trên đó, bất kỳ sự trang trí làm đẹp nào như hình đầu cá sấu v.v… đều không hợp lệ; nhưng nếu chỉ có phần miệng kẹp để kẹp kim, điều đó hợp lệ.

Dantakaṭṭhacchedanavāsiyampi yaṃkiñci vaṇṇamaṭṭhaṃ na vaṭṭati, ujukameva kappiyalohena ubhosu vā passesu caturaṃsaṃ vā aṭṭhaṃsaṃ vā bandhituṃ vaṭṭati. Kattaradaṇḍepi yaṃkiñci vaṇṇamaṭṭhaṃ na vaṭṭati, heṭṭhā ekā vā dve vā vaṭṭalekhā upari ahicchattakamakuḷamattañca vaṭṭati.
Trên dao bào để gọt tăm xỉa răng cũng không được phép có bất kỳ sự trang trí làm đẹp nào; chỉ được phép dùng kim loại hợp lệ bọc thẳng ở hai bên thành hình vuông hoặc hình tám cạnh. Trên cán dao cũng không được phép có bất kỳ sự trang trí làm đẹp nào; ở phía dưới, một hoặc hai đường khắc tròn, và ở phía trên, chỉ hình nụ nấm rắn là hợp lệ.

Telabhājanesu visāṇe vā nāḷiyaṃ vā alābuke vā āmaṇḍasārake vā ṭhapetvā itthirūpaṃ purisarūpañca avasesaṃ sabbampi vaṇṇamaṭṭhakammaṃ vaṭṭati.
Đối với đồ đựng dầu, dù làm bằng sừng, ống tre, quả bầu, hay lõi thầu dầu, trừ hình người nam và hình người nữ, còn lại tất cả mọi sự trang trí làm đẹp đều hợp lệ.

Mañcapīṭhe bhisibimbohane bhūmattharaṇe pādapuñchane caṅkamanabhisiyā sammuñjaniyaṃ kacavarachaḍḍanake rajanadoṇikāya pānīyauḷuṅke pānīyaghaṭe pādakathalikāya phalakapīṭhake valayādhārake daṇḍādhārakepattapidhāne tālavaṇṭe vījaneti – etesu sabbaṃ mālākammādivaṇṇamaṭṭhakammaṃ vaṭṭati. Senāsane pana dvārakavāṭavātapānakavāṭādīsu sabbaratanamayampi vaṇṇamaṭṭhakammaṃ vaṭṭati.
Trên giường, ghế, nệm ngồi, gối dựa, thảm trải sàn, khăn lau chân, nệm ngồi khi kinh hành, chổi, đồ hốt rác, máng nhuộm, gáo múc nước uống, bình đựng nước uống, chậu rửa chân, ghế bằng tấm ván, giá để vòng, giá để gậy, nắp đậy bát, quạt lá cọ, quạt phất – trên tất cả những thứ này, mọi sự trang trí làm đẹp như hình vòng hoa v.v… đều hợp lệ. Còn đối với trú xứ, trên cửa ra vào, cửa sổ v.v…, ngay cả sự trang trí làm đẹp bằng đủ mọi loại bảo vật cũng hợp lệ.

Senāsane kiñci paṭisedhetabbaṃ natthi, aññatra viruddhasenāsanā. Viruddhasenāsanaṃ nāma aññesaṃ sīmāya rājavallabhehi katasenāsanaṃ vuccati, tasmā ye tādisaṃ senāsanaṃ karonti, te vattabbā – ‘‘mā amhākaṃ sīmāya senāsanaṃ karothā’’ti. Anādiyitvā karontiyeva, punapi vattabbā – ‘‘mā evaṃ akattha, mā amhākaṃ uposathapavāraṇānaṃ antarāyamakattha, mā sāmaggiṃ bhindittha, tumhākaṃ senāsanaṃ katampi kataṭṭhāne na ṭhassatī’’ti. Sace balakkārena karontiyeva, yadā tesaṃ lajjiparisā ussannā hoti, sakkā ca hoti laddhuṃ dhammiko vinicchayo, tadā tesaṃ pesetabbaṃ – ‘‘tumhākaṃ āvāsaṃ harathā’’ti. Sace yāva tatiyaṃ pesite haranti, sādhu; no ce haranti, ṭhapetvā bodhiñca cetiyañca avasesasenāsanāni bhinditabbāni, no ca kho aparibhogaṃ karontehi, paṭipāṭiyā pana chadana-gopānasī-iṭṭhakādīni apanetvā tesaṃ pesetabbaṃ – ‘‘tumhākaṃ dabbasambhāre harathā’’ti. Sace haranti, sādhu; no ce haranti, atha tesu dabbasambhāresu himavassavātātapādīhi pūtibhūtesu vā corehi vā haṭesu agginā vā daḍḍhesu sīmasāmikā bhikkhū anupavajjā, na labbhā codetuṃ ‘‘tumhehi amhākaṃ dabbasambhārā nāsitā’’ti vā ‘‘tumhākaṃ gīvā’’ti vā. Yaṃ pana sīmasāmikehi bhikkhūhi kataṃ, taṃ sukatameva hotīti.
Đối với trú xứ, không có gì phải ngăn cấm, ngoại trừ trú xứ có tranh chấp. Trú xứ có tranh chấp được gọi là trú xứ do những người thân cận với vua xây dựng trong địa giới của người khác; do đó, những ai làm trú xứ như vậy, phải được bảo rằng: ‘Xin đừng xây dựng trú xứ trong địa giới của chúng tôi’. Nếu họ không nghe mà cứ làm, phải bảo lại lần nữa: ‘Xin đừng làm như vậy, đừng gây trở ngại cho lễ Bố-tát và Tự tứ của chúng tôi, đừng phá hoại sự hòa hợp, trú xứ của quý vị dù có làm xong cũng sẽ không tồn tại ở nơi đã làm’. Nếu họ cứ dùng vũ lực mà làm, khi nhóm Tỳ khưu biết tàm quý của họ trở nên đông đảo, và có thể đạt được một sự phân xử đúng pháp, bấy giờ phải gửi (thông điệp) đến họ: ‘Xin hãy dời trú xứ của quý vị đi’. Nếu sau khi gửi (thông điệp) đến lần thứ ba mà họ chịu dời đi, thì tốt; nếu họ không dời, trừ cây Bồ-đề và bảo tháp, các trú xứ còn lại phải được phá dỡ; nhưng không phải do những người không sử dụng (phá), mà phải theo thứ tự tháo dỡ mái, rui mè, gạch v.v… rồi gửi cho họ (với lời nhắn): ‘Xin hãy mang vật liệu của quý vị đi’. Nếu họ mang đi, thì tốt; nếu họ không mang, bấy giờ, nếu những vật liệu đó bị hư mục do sương, mưa, gió, nắng v.v…, hoặc bị trộm cắp, hoặc bị lửa thiêu, thì các Tỳ khưu chủ của địa giới đó không có lỗi, không thể bị khiển trách rằng: ‘Các thầy đã làm hư hại vật liệu của chúng tôi’ hay ‘Đó là phần các thầy phải chịu’. Còn việc mà các Tỳ khưu chủ của địa giới đã làm, đó thực sự là việc làm đúng đắn.

Pāḷimuttakavinicchayo niṭṭhito.

Phần Quyết định về những điều không có trong Luật Pāḷi đến đây là hết.

86. Evaṃ bhinnāya pana kuṭikāya dhaniyassa parivitakkañca puna kuṭikaraṇatthāya ussāhañca dassetuṃ ‘‘atha kho āyasmato’’tiādi vuttaṃ. Tattha dārugahe gaṇakoti rañño dārubhaṇḍāgāre dārugopako. Devagahadārūnīti devena gahitadārūni. Rājapaṭiggahitabhūtāni dārūnīti attho. Nagarapaṭisaṅkhārikānīti nagarassa paṭisaṅkhārūpakaraṇāni. Āpadatthāya nikkhittānīti aggidāhena vā purāṇabhāvena vā paṭirājūparundhanādinā vā gopuraṭṭālakarājantepurahatthisālādīnaṃ vipatti āpadāti vuccati. Tadatthaṃ nikkhittānīti vuttaṃ hoti. Khaṇḍākhaṇḍikaṃ chedāpetvāti attano kuṭiyā pamāṇaṃ sallakkhetvā kiñci agge kiñci majjhe kiñci mūle khaṇḍākhaṇḍaṃ karonto chedāpesi.
86. Sau khi cái am bị phá như vậy, để chỉ rõ suy nghĩ của Dhaniya và nỗ lực của ông trong việc làm lại am, đoạn bắt đầu bằng ‘Bấy giờ, Tôn giả‘ v.v… đã được nói. Trong đó, ‘người giữ kho gỗ‘ là người coi giữ gỗ trong kho gỗ của vua. ‘Gỗ của vua‘ là gỗ thuộc sở hữu của vua. Nghĩa là gỗ đã thuộc về sự sở hữu của nhà vua. ‘Để sửa chữa thành phố‘ là những vật liệu để sửa chữa thành phố. ‘Để dành cho lúc nguy cấp‘ nghĩa là sự nguy hại đối với cổng thành, tháp canh, cung điện, chuồng voi v.v… do hỏa hoạn, do cũ kỹ, hoặc do sự bao vây của vua thù địch v.v… được gọi là nguy cấp. Được nói là để dành cho mục đích đó. ‘Cho cắt thành từng khúc‘ nghĩa là sau khi xem xét kích thước của am mình, ông đã cho cắt (gỗ) thành từng khúc, chỗ thì ở ngọn, chỗ thì ở giữa, chỗ thì ở gốc.

87.Vassakāroti tassa brāhmaṇassa nāmaṃ. Magadhamahāmattoti magadharaṭṭhe mahāmatto, mahatiyā issariyamattāya samannāgato, magadharañño vā mahāmatto; mahāamaccoti vuttaṃ hoti. Anusaññāyamānoti tattha tattha gantvā paccavekkhamāno. Bhaṇeti issarānaṃ nīcaṭṭhānikapurisālapanaṃ. Bandhaṃ āṇāpesīti brāhmaṇo pakatiyāpi tasmiṃ issāpakatova. So rañño ‘‘āṇāpehī’’ti vacanaṃ sutvā yasmā ‘‘pakkosāpehī’’ti rañño na vuttaṃ, tasmā ‘‘naṃ hatthesu ca pādesu ca bandhaṃ katvā āṇāpessāmī’’ti bandhaṃ āṇāpesi. Addasa kho āyasmā dhaniyoti kathaṃ addasa? So kira attanā lesena dārūnaṃ haṭabhāvaṃ ñatvā ‘‘nissaṃsayaṃ esa dārūnaṃ kāraṇā rājakulato vadhaṃ vā bandhaṃ vā pāpuṇissati, tadā naṃ ahameva mocessāmī’’ti niccakālaṃ tassa pavattiṃ suṇantoyeva vicarati. Tasmā takhaṇaññeva gantvā addasa. Tena vuttaṃ – ‘‘addasa kho āyasmā dhaniyo’’ti. Dārūnaṃ kiccāti dārūnaṃ kāraṇā. Purāhaṃ haññāmīti ahaṃ purā haññāmi; yāva ahaṃ na haññāmi, tāva tvaṃ eyyāsīti attho.
87. ‘Vassakāra‘ là tên của vị Bà-la-môn ấy. ‘Đại thần nước Ma-kiệt-đà‘ là đại thần ở nước Ma-kiệt-đà, người có quyền lực và địa vị lớn; hoặc là đại thần của vua Ma-kiệt-đà; có nghĩa là đại quan. ‘Đang đi tuần tra‘ là đi đến các nơi để xem xét. ‘Này‘ (Bhaṇe) là cách người có quyền gọi kẻ dưới. ‘Đã ra lệnh trói‘: Vị Bà-la-môn ấy vốn đã có lòng ganh tỵ với ông ta. Nghe vua nói ‘Hãy ra lệnh’, vì vua không nói ‘Hãy cho gọi đến’, nên ông ta đã ra lệnh trói (với ý nghĩ) ‘Ta sẽ cho trói tay chân nó rồi ra lệnh’. ‘Tôn giả Dhaniya đã thấy‘: Làm sao thấy được? Tương truyền, ông biết được việc gỗ bị lấy đi do mưu kế của mình, (nghĩ rằng) ‘Chắc chắn người này vì lý do gỗ sẽ bị hoàng gia xử tử hoặc trói giam, khi đó chính ta sẽ giải thoát cho y’, nên ông thường xuyên nghe ngóng tin tức của người đó mà đi lại. Do đó, ông đã đến ngay lúc ấy và thấy. Vì vậy, được nói: ‘Tôn giả Dhaniya đã thấy’. ‘Vì việc gỗ‘ là vì lý do gỗ. ‘Trước khi tôi bị giết‘ là tôi bị giết trước; nghĩa là chừng nào tôi chưa bị giết, thì ông hãy đến.

88.Iṅgha, bhante, sarāpehīti ettha iṅghāti codanatthe nipāto. Paṭhamābhisittoti abhisitto hutvā paṭhamaṃ. Evarūpiṃ vācaṃ bhāsitāti ‘‘dinnaññeva samaṇabrāhmaṇānaṃ tiṇakaṭṭhodakaṃ paribhuñjantū’’ti imaṃ evarūpiṃ vācaṃ abhisitto hutvā paṭhamameva yaṃ tvaṃ abhāsi, taṃ sayameva bhāsitvā idāni sarasi, na sarasīti vuttaṃ hoti. Rājāno kira abhisittamattāyeva dhammabheriṃ carāpenti – ‘‘dinnaññeva samaṇabrāhmaṇānaṃ tiṇakaṭṭhodakaṃ paribhuñjantū’’ti taṃ sandhāya esa vadati. Tesaṃ mayā sandhāya bhāsitanti tesaṃ appamattakepi kukkuccāyantānaṃ samitabāhitapāpānaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ tiṇakaṭṭhodakaharaṇaṃ sandhāya mayā etaṃ bhāsitaṃ; na tumhādisānanti adhippāyo. Tañca kho araññe apariggahitanti tañca tiṇakaṭṭhodakaṃ yaṃ araññe apariggahitaṃ hoti; etaṃ sandhāya mayā bhāsitanti dīpeti.
88. ‘Bạch ngài, xin hãy nhớ lại‘: Ở đây, ‘này‘ (iṅghā) là một tiểu từ có nghĩa thúc giục. ‘Khi mới đăng quang‘ là lần đầu tiên sau khi được tấn phong. ‘Ngài đã nói lời như vầy‘ có nghĩa là lời như vầy: ‘Cỏ, củi, nước đã được ban cho các vị Sa-môn, Bà-la-môn, mong các vị ấy hãy dùng’, lời mà chính ngài đã nói ngay lần đầu sau khi đăng quang, bây giờ ngài có nhớ hay không nhớ? Tương truyền, các vị vua ngay sau khi đăng quang liền cho loan truyền trống pháp: ‘Cỏ, củi, nước đã được ban cho các vị Sa-môn, Bà-la-môn, mong các vị ấy hãy dùng’, ông ấy nói ám chỉ điều đó. ‘Ta nói điều đó là nhắm đến họ‘ có nghĩa là ta nói điều đó nhắm đến việc lấy cỏ, củi, nước của các vị Sa-môn, Bà-la-môn, những người có lòng hối lỗi dù chỉ trong việc nhỏ nhặt, những người đã dẹp yên và loại trừ các điều ác; chứ không phải những người như các ngươi, đó là ý. ‘Và đó là (thứ) không có người sở hữu trong rừng‘ ngài giải thích rằng: và cỏ, củi, nước ấy là thứ không có người sở hữu trong rừng; ta nói nhắm đến điều đó.

Lomena tvaṃ muttosīti ettha lomamiva lomaṃ, kiṃ pana taṃ? Pabbajjāliṅgaṃ. Kiṃ vuttaṃ hoti? Yathā nāma dhuttā ‘‘maṃsaṃ khādissāmā’’ti mahagghalomaṃ eḷakaṃ gaṇheyyuṃ. Tamenaṃ añño viññupuriso disvā ‘‘imassa eḷakassa maṃsaṃ kahāpaṇamattaṃ agghati. Lomāni pana lomavāre lomavāre aneke kahāpaṇe agghantī’’ti dve alomake eḷake datvā gaṇheyya. Evaṃ so eḷako viññupurisamāgamma lomena mucceyya. Evameva tvaṃ imassa kammassa katattā vadhabandhanāraho. Yasmā pana arahaddhajo sabbhi avajjharūpo, tvañca sāsane pabbajitattā yaṃ pabbajjāliṅgabhūtaṃ arahaddhajaṃ dhāresi. Tasmā tvaṃ iminā pabbajjāliṅgalomena eḷako viya viññupurisamāgamma muttosīti.
Ngươi được tha nhờ bộ lông‘: Ở đây, lông ví như lông, nhưng đó là gì? Là tướng mạo xuất gia. Điều gì được nói? Ví như những kẻ lừa đảo muốn ‘chúng ta sẽ ăn thịt’ mà bắt một con cừu có bộ lông quý giá. Một người trí khác thấy con cừu ấy, (nghĩ rằng) ‘Thịt của con cừu này chỉ đáng giá một đồng tiền. Còn lông của nó, mỗi mùa lông lại đáng giá nhiều đồng tiền’, rồi đổi hai con cừu không có lông (quý) để lấy nó. Như vậy, con cừu ấy nhờ gặp được người trí mà được thoát nạn nhờ bộ lông. Cũng vậy, ngươi vì đã làm việc này nên đáng bị giết hoặc trói. Nhưng vì cờ hiệu A-la-hán là hình tướng không thể bị người hiền giết hại, và ngươi vì đã xuất gia trong giáo pháp nên mang hình tướng xuất gia là cờ hiệu A-la-hán. Do đó, ngươi nhờ bộ lông là tướng mạo xuất gia này, giống như con cừu nhờ gặp người trí mà được tha.

Manussā ujjhāyantīti rañño parisati bhāsamānassa sammukhā ca parammukhā ca sutvā tattha tattha manussā ujjhāyanti, avajjhāyanti, avajānantā taṃ jhāyanti olokenti lāmakato vā cintentīti attho. Khiyyantīti tassa avaṇṇaṃ kathenti pakāsenti. Vipācentīti vitthārikaṃ karonti, sabbattha pattharanti; ayañca attho saddasatthānusārena veditabbo. Ayaṃ panettha yojanā – ‘‘alajjino ime samaṇā sakyaputtiyā’’tiādīni cintentā ujjhāyanti. ‘‘Natthi imesaṃ sāmañña’’ntiādīni bhaṇantā khiyyanti. ‘‘Apagatā ime sāmaññā’’tiādīni tattha tattha vitthārentā vipācentīti. Etena nayena imesaṃ padānaṃ ito parampi tattha tattha āgatapadānurūpena yojanā veditabbā. Brahmacārinoti seṭṭhacārino. Sāmaññanti samaṇabhāvo. Brahmaññanti seṭṭhabhāvo. Sesaṃ uttānatthameva.
Dân chúng phàn nàn‘ nghĩa là sau khi nghe (vua) nói trong triều đình, dù trực tiếp hay gián tiếp, dân chúng ở các nơi phàn nàn, bất bình, khinh miệt mà nhìn ngó, hoặc nghĩ xấu về việc đó. ‘Chê bai‘ là họ nói xấu, công bố những điều không tốt về ông ấy. ‘Đồn rộng‘ là họ làm cho lan rộng, truyền đi khắp nơi; ý nghĩa này cũng cần được hiểu theo văn phạm. Đây là cách giải thích: Họ phàn nàn khi nghĩ rằng: ‘Các vị Sa-môn Thích tử này không biết hổ thẹn’ v.v… Họ chê bai khi nói rằng: ‘Các vị này không có đức hạnh Sa-môn’ v.v… Họ đồn rộng khi truyền đi các nơi rằng: ‘Các vị này đã xa rời đức hạnh Sa-môn’ v.v… Theo phương pháp này, cách giải thích các từ này từ đây về sau cũng cần được hiểu tùy theo các từ xuất hiện ở mỗi nơi. ‘Những người sống phạm hạnh‘ là những người sống đời cao thượng. ‘Đức hạnh Sa-môn‘ là phẩm chất của Sa-môn. ‘Đức hạnh cao thượng‘ là phẩm chất cao thượng. Phần còn lại có ý nghĩa rõ ràng.

Rañño dārūnītiādimhi ‘‘adinnaṃ ādiyissatī’’ti ayaṃ ujjhāyanattho. Yaṃ panetaṃ adinnaṃ ādiyi, taṃ dassetuṃ ‘‘rañño dārūnī’’ti vuttaṃ. Iti vacanabhede asammuyhantehi attho veditabbo. Purāṇavohāriko mahāmattoti bhikkhubhāvato purāṇe gihikāle vinicchayavohāre niyuttattā ‘‘vohāriko’’ti saṅkhaṃ gato mahāamacco.
Trong đoạn bắt đầu bằng ‘Gỗ của vua‘, ý phàn nàn là ‘sẽ lấy vật không cho’. Để chỉ rõ vật không cho mà ông đã lấy, nên nói ‘gỗ của vua’. Như vậy, những người không bị nhầm lẫn bởi sự khác biệt trong cách nói cần phải hiểu ý nghĩa. ‘Vị đại thần trước kia làm quan xử kiện‘ là vị đại quan trước khi trở thành Tỳ khưu, thời còn là tại gia, đã được bổ nhiệm trong việc xử kiện nên được biết đến là ‘quan xử kiện’.

Atha kho bhagavā taṃ bhikkhuṃ etadavocāti bhagavā sāmaṃyeva lokavohārampi jānāti, atītabuddhānaṃ paññattimpi jānāti – ‘‘pubbepi buddhā ettakena pārājikaṃ paññapenti, ettakena thullaccayaṃ, ettakena dukkaṭa’’nti. Evaṃ santepi sace aññehi lokavohāraviññūhi saddhiṃ asaṃsanditvā pādamattena pārājikaṃ paññapeyya, tenassa siyuṃ vattāro ‘‘sīlasaṃvaro nāma ekabhikkhussapi appameyyo asaṅkhyeyyo mahāpathavī-samudda-ākāsāni viya ativitthiṇṇo, kathañhi nāma bhagavā pādamattakena nāsesī’’ti! Tato tathāgatassa ñāṇabalaṃ ajānantā sikkhāpadaṃ kopeyyuṃ, paññattampi sikkhāpadaṃ yathāṭhāne na tiṭṭheyya. Lokavohāraviññūhi pana saddhiṃ saṃsanditvā paññatte so upavādo na hoti. Aññadatthu evaṃ vattāro honti – ‘‘imehi nāma agārikāpi pādamattena coraṃ hanantipi bandhantipi pabbājentipi. Kasmā bhagavā pabbajitaṃ na nāsessati; yena parasantakaṃ tiṇasalākamattampi na gahetabba’’nti! Tathāgatassa ca ñāṇabalaṃ jānissanti. Paññattampi ca sikkhāpadaṃ akuppaṃ bhavissati, yathāṭhāne ṭhassati. Tasmā lokavohāraviññūhi saddhiṃ saṃsanditvā paññapetukāmo sabbāvantaṃ parisaṃ anuvilokento atha kho bhagavā avidūre nisinnaṃ disvā taṃ bhikkhuṃ etadavoca ‘‘kittakena kho bhikkhu rājā māgadho seniyo bimbisāro coraṃ gahetvā hanati vā bandhati vā pabbājeti vā’’ti.
Bấy giờ Thế Tôn nói với vị Tỳ khưu ấy điều này‘: Thế Tôn tự mình biết rõ cả tập tục thế gian, cũng biết rõ cả sự chế định của các Đức Phật quá khứ – ‘Các Đức Phật thời xưa cũng với chừng ấy thì chế định tội Bất Cộng Trụ, với chừng ấy thì (chế định tội) Thâu-lan-giá, với chừng ấy thì (chế định tội) Tác ác’. Dù như vậy, nếu Ngài không tham khảo ý kiến của những người khác thông hiểu tập tục thế gian mà chỉ với một pāda đã chế định tội Bất Cộng Trụ, thì sẽ có những người nói rằng: ‘Sự thu thúc giới hạnh của dù chỉ một Tỳ khưu cũng là vô lượng, vô số, rộng lớn như đại địa, biển cả, hư không, làm sao Thế Tôn lại hủy hoại (giới hạnh ấy) chỉ vì một pāda!’ Khi đó, những người không biết trí lực của Như Lai sẽ làm lung lay học giới, và học giới đã được chế định cũng sẽ không đứng vững ở vị trí của nó. Nhưng khi chế định sau khi đã tham khảo ý kiến của những người thông hiểu tập tục thế gian, thì không có sự chê bai đó. Trái lại, sẽ có những người nói rằng: ‘Ngay cả những người tại gia này cũng chỉ vì một pāda mà giết kẻ trộm, hoặc trói, hoặc trục xuất. Tại sao Thế Tôn lại không hủy bỏ (tư cách Tỳ khưu của) người xuất gia (đã phạm tội tương tự); người mà ngay cả một cọng cỏ hay một que tăm của người khác cũng không được lấy!’ Và họ sẽ biết trí lực của Như Lai. Học giới đã được chế định cũng sẽ không thể bị lay chuyển, sẽ đứng vững ở vị trí của nó. Do đó, muốn chế định sau khi đã tham khảo ý kiến của những người thông hiểu tập tục thế gian, Ngài nhìn khắp hội chúng rồi ‘bấy giờ Thế Tôn thấy một vị Tỳ khưu đang ngồi không xa, liền nói với vị Tỳ khưu ấy điều này: Này Tỳ khưu, vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, khi bắt được kẻ trộm, thì với (giá trị trộm cắp) bao nhiêu sẽ giết, hoặc trói, hoặc trục xuất?

Tattha māgadhoti magadhānaṃ issaro. Seniyoti senāya sampanno. Bimbisāroti tassa nāmaṃ. Pabbājeti vāti raṭṭhato nikkhāmeti. Sesamettha uttānatthameva. Pañcamāsako pādoti tadā rājagahe vīsatimāsako kahāpaṇo hoti, tasmā pañcamāsako pādo. Etena lakkhaṇena sabbajanapadesu kahāpaṇassa catuttho bhāgo ‘‘pādo’’ti veditabbo. So ca kho porāṇassa nīlakahāpaṇassa vasena, na itaresaṃ rudradāmakādīnaṃ. Tena hi pādena atītabuddhāpi pārājikaṃ paññapesuṃ, anāgatāpi paññapessanti. Sabbabuddhānañhi pārājikavatthumhi vā pārājike vā nānattaṃ natthi. Imāneva cattāri pārājikavatthūni . Imāneva cattāri pārājikāni. Ito ūnaṃ vā atirekaṃ vā natthi. Tasmā bhagavāpi dhaniyaṃ vigarahitvā pādeneva dutiyapārājikaṃ paññapento ‘‘yo pana bhikkhu adinnaṃ theyyasaṅkhāta’’ntiādimāha.
Trong đó, ‘Vua xứ Magadha‘ là người cai trị xứ Magadha. ‘Seniya‘ là người có quân đội hùng mạnh. ‘Bimbisāra‘ là tên của ông ấy. ‘Hoặc trục xuất‘ là đuổi ra khỏi xứ. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng. ‘Năm māsaka là một pāda‘: Khi đó ở thành Vương Xá, một kahāpaṇa bằng hai mươi māsaka, do đó năm māsaka là một pāda. Theo đặc điểm này, ở tất cả các xứ, một phần tư của một kahāpaṇa cần được hiểu là một ‘pāda’. Và đó là theo kahāpaṇa xanh thời xưa, chứ không phải theo các loại tiền khác như rudradāmaka v.v… Vì vậy, với một pāda ấy, các Đức Phật quá khứ cũng đã chế định tội Bất Cộng Trụ, và các Đức Phật vị lai cũng sẽ chế định (như vậy). Vì đối với tất cả các Đức Phật, không có sự khác biệt nào trong sự việc Bất Cộng Trụ hay trong (điều giới) Bất Cộng Trụ. Chỉ có bốn sự việc Bất Cộng Trụ này. Chỉ có bốn (điều giới) Bất Cộng Trụ này. Không có ít hơn hay nhiều hơn thế. Do đó, Thế Tôn sau khi khiển trách Dhaniya, đã chế định điều Bất Cộng Trụ thứ hai chỉ với (giá trị) một pāda, bằng cách nói đoạn bắt đầu bằng ‘Vị Tỳ khưu nào, với ý định trộm cắp, lấy vật không cho‘ v.v…

Evaṃ mūlacchejjavasena daḷhaṃ katvā dutiyapārājike paññatte aparampi anupaññattatthāya rajakabhaṇḍikavatthu udapādi, tassuppattidīpanatthametaṃ vuttaṃ – ‘‘evañcidaṃ bhagavatā bhikkhūnaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ hotī’’ti. Tassattho ca anupaññattisambandho ca paṭhamapārājikavaṇṇanāyaṃ vuttanayeneva veditabbo. Yathā ca idha, evaṃ ito paresu sabbasikkhāpadesu. Yaṃ yaṃ pubbe vuttaṃ, taṃ taṃ sabbaṃ vajjetvā uparūpari apubbameva vaṇṇayissāma. Yadi hi yaṃ yaṃ vuttanayaṃ, taṃ taṃ punapi vaṇṇayissāma, kadā vaṇṇanāya antaṃ gamissāma! Tasmā yaṃ yaṃ pubbe vuttaṃ, taṃ taṃ sabbaṃ sādhukaṃ upasallakkhetvā tattha tattha attho ca yojanā ca veditabbā. Apubbaṃ pana yaṃkiñci anuttānatthaṃ, taṃ sabbaṃ mayameva vaṇṇayissāma.
Sau khi điều Bất Cộng Trụ thứ hai được chế định một cách chắc chắn theo cách đoạn trừ tận gốc như vậy, một sự việc khác là câu chuyện về gói đồ của thợ nhuộm đã phát sinh để có thêm sự chế định phụ. Để chỉ rõ sự phát sinh của nó, điều này đã được nói: ‘Như vậy, học giới này đã được Thế Tôn chế định cho các Tỳ khưu‘. Ý nghĩa của nó và mối liên hệ với sự chế định phụ cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong phần giải thích Bất Cộng Trụ thứ nhất. Như ở đây, cũng vậy trong tất cả các học giới sau này. Những gì đã được nói trước đây, chúng tôi sẽ bỏ qua tất cả những điều đó và chỉ giải thích những điều mới mẻ ở phần trên. Vì nếu chúng tôi lại giải thích những phương pháp đã nói, thì khi nào mới giải thích xong! Do đó, những gì đã được nói trước đây, tất cả những điều đó cần được xem xét kỹ lưỡng, và ý nghĩa cũng như cách giải thích ở mỗi nơi cần được hiểu (theo đó). Còn bất cứ điều gì mới mẻ, không rõ ràng, tất cả những điều đó chính chúng tôi sẽ giải thích.

Dhaniyavatthuvaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải thích truyện Tôn giả Dhaniya đến đây là hết.

90.Rajakattharaṇaṃ gantvāti rajakatitthaṃ gantvā; tañhi yasmā tattha rajakā vatthāni attharanti, tasmā rajakattharaṇanti vuccati. Rajakabhaṇḍikanti rajakānaṃ bhaṇḍikaṃ; rajakā sāyanhasamaye nagaraṃ pavisantā bahūni vatthāni ekekaṃ bhaṇḍikaṃ bandhanti. Tato ekaṃ bhaṇḍikaṃ tesaṃ pamādena apassantānaṃ avaharitvā thenetvāti attho.
90. ‘Đến chỗ phơi đồ của thợ nhuộm‘ là đến bến nước của thợ nhuộm; vì ở đó thợ nhuộm phơi vải, nên được gọi là chỗ phơi đồ của thợ nhuộm. ‘Gói đồ của thợ nhuộm‘ là gói đồ của những người thợ nhuộm; vào buổi chiều, khi vào thành, thợ nhuộm bó nhiều tấm vải thành từng gói. Sau đó, (vị Tỳ khưu) đã lấy trộm một gói đồ khi họ do sơ suất không để ý, đó là ý nghĩa.

Padabhājanīyavaṇṇanā

Phần giải thích Phân Tích Từ Ngữ

92.Gāmonāmāti evamādi ‘‘gāmā vā araññā vā’’ti ettha vuttassa gāmassa ca araññassa ca pabhedadassanatthaṃ vuttaṃ. Tattha yasmiṃ gāme ekā eva kuṭi, ekaṃ gehaṃ seyyathāpi malayajanapade; ayaṃ ekakuṭiko gāmo nāma. Etena nayena aparepi veditabbā. Amanussonāma yo sabbaso vā manussānaṃ abhāvena yakkhapariggahabhūto; yato vā manussā kenaci kāraṇena punapi āgantukāmā eva apakkantā. Parikkhittonāma iṭṭhakapākāraṃ ādiṃ katvā antamaso kaṇṭakasākhāhipi parikkhitto. Gonisādiniviṭṭhonāma vīthisannivesādivasena anivisitvā yathā gāvo tattha tattha dve tayo nisīdanti, evaṃ tattha tattha dve tīṇi gharāni katvā niviṭṭho. Satthoti jaṅghasatthasakaṭasatthādīsu yo koci. Imasmiñca sikkhāpade nigamopi nagarampi gāmaggahaṇeneva gahitanti veditabbaṃ.
92. Đoạn bắt đầu bằng ‘Làng là‘ v.v… được nói để chỉ rõ các loại làng và rừng đã được đề cập trong câu ‘hoặc từ làng, hoặc từ rừng’. Trong đó, làng nào chỉ có một am, một nhà, ví như ở xứ Malaya; đó gọi là làng một am. Theo phương pháp này, các loại khác cũng cần được hiểu. ‘Nơi phi nhân là‘ nơi hoàn toàn không có người ở, trở thành chỗ bị dạ xoa chiếm giữ; hoặc là nơi mà con người vì một lý do nào đó đã bỏ đi nhưng vẫn có ý định quay lại. ‘Có rào bao quanh là‘ được bao quanh bởi tường gạch v.v…, cho đến cả cành gai. ‘Làng bò nằm là‘ làng không được bố trí theo kiểu đường xá v.v…, mà giống như bò nằm ở chỗ này chỗ kia, hai ba con một nhóm, cũng vậy, nhà cửa được dựng lên hai ba cái một nơi. ‘Đoàn lữ hành là‘ bất kỳ đoàn lữ hành nào, dù là đoàn đi bộ hay đoàn xe ngựa v.v… Và trong học giới này, cần hiểu rằng thị trấn và thành phố cũng được bao gồm trong khái niệm ‘làng’.

Gāmūpacārotiādi araññaparicchedadassanatthaṃ vuttaṃ. Indakhīle ṭhitassāti yassa gāmassa anurādhapurasseva dve indakhīlā, tassa abbhantarime indakhīle ṭhitassa; tassa hi bāhiro indakhīlo ābhidhammikanayena araññasaṅkhepaṃ gacchati. Yassa pana eko, tassa gāmadvārabāhānaṃ vemajjhe ṭhitassa. Yatrāpi hi indakhīlo natthi, tatra gāmadvārabāhānaṃ vemajjhameva ‘‘indakhīlo’’ti vuccati. Tena vuttaṃ – ‘‘gāmadvārabāhānaṃ vemajjhe ṭhitassā’’ti. Majjhimassāti thāmamajjhimassa, no pamāṇamajjhimassa, neva appathāmassa, na mahāthāmassa; majjhimathāmassāti vuttaṃ hoti. Leḍḍupātoti yathā mātugāmo kāke uḍḍāpento ujukameva hatthaṃ ukkhipitvā leḍḍuṃ khipati, yathā ca udakukkhepe udakaṃ khipanti, evaṃ akhipitvā yathā taruṇamanussā attano balaṃ dassentā bāhaṃ pasāretvā leḍḍuṃ khipanti, evaṃ khittassa leḍḍussa patanaṭṭhānaṃ. Patito pana luṭhitvā yattha gacchati, taṃ na gahetabbaṃ.
Đoạn bắt đầu bằng ‘Vùng ngoại ô của làng là‘ v.v… được nói để chỉ rõ sự phân định về rừng. ‘Người đứng ở trụ cổng làng‘: Đối với làng nào, như thành Anurādhapura, có hai trụ cổng, thì (tính từ) người đứng ở trụ cổng bên trong; vì trụ cổng bên ngoài của nó, theo ý nghĩa Vi Diệu Pháp, được kể là rừng. Còn làng nào chỉ có một (trụ cổng), thì (tính từ) người đứng ở giữa hai cánh cổng làng. Ngay cả nơi nào không có trụ cổng, thì chính khoảng giữa hai cánh cổng làng cũng được gọi là ‘trụ cổng’. Do đó, được nói: ‘người đứng ở giữa hai cánh cổng làng’. ‘Người có sức trung bình‘ là người có sức khỏe trung bình, không phải người có tầm vóc trung bình, không phải người yếu sức, cũng không phải người rất mạnh sức; có nghĩa là người có sức khỏe trung bình. ‘Cú ném cục đất‘ là nơi cục đất rơi xuống khi được ném bởi một thanh niên, khi muốn thể hiện sức mạnh của mình, duỗi tay ra mà ném, chứ không phải ném như một người phụ nữ giơ thẳng tay lên ném cục đất để đuổi quạ, hay như cách người ta tạt nước khi tát nước. Chỗ mà cục đất sau khi rơi rồi lăn đi thì không được tính.

Aparikkhittassa gāmassa gharūpacāre ṭhitassa majjhimassa purisassa leḍḍupātoti ettha pana nibbakosassa udakapātaṭṭhāne ṭhitassa majjhimassa purisassa suppapāto vā musalapāto vā gharūpacāro nāma. Tasmiṃ gharūpacāre ṭhitassa leḍḍupāto gāmūpacāroti kurundaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Mahāpaccariyampi tādisameva. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘gharaṃ nāma, gharūpacāro nāma, gāmo nāma, gāmūpacāro nāmā’’ti mātikaṃ ṭhapetvā nibbakosassa udakapātaṭṭhānabbhantaraṃ gharaṃ nāma. Yaṃ pana dvāre ṭhito mātugāmo bhājanadhovanaudakaṃ chaḍḍeti, tassa patanaṭṭhānañca mātugāmeneva antogehe ṭhitena pakatiyā bahi khittassa suppassa vā sammuñjaniyā vā patanaṭṭhānañca, gharassa purato dvīsu koṇesu sambandhitvā majjhe rukkhasūcidvāraṃ ṭhapetvā gorūpānaṃ pavesananivāraṇatthaṃ kataparikkhepo ca ayaṃ sabbopi gharūpacāro nāma. Tasmiṃ gharūpacāre ṭhitassa majjhimassa purisassa leḍḍupātabbhantaraṃ gāmo nāma. Tato aññassa leḍḍupātassa abbhantaraṃ gāmūpacāro nāmāti vuttaṃ. Idamettha pamāṇaṃ. Yathā cettha, evaṃ sabbattha yo yo aṭṭhakathāvādo vā theravādo vā pacchā vuccati so pamāṇato daṭṭhabbo.
Cú ném cục đất của người có sức trung bình đứng trong vùng tiếp cận nhà của một làng không có rào bao quanh‘: Ở đây, đối với một ngôi nhà không có sân, nơi nước (mái hiên) rơi xuống, cú ném cái nia hoặc cú ném cái chày của người có sức trung bình đứng ở đó được gọi là ‘vùng tiếp cận nhà‘. Cú ném cục đất của người đứng trong vùng tiếp cận nhà ấy là ‘vùng ngoại ô của làng‘, theo như đã nói trong Chú giải Kurundi. Trong Chú giải Mahāpaccari cũng tương tự như vậy. Còn trong Đại Chú Giải, sau khi đặt ra đề mục ‘nhà là, vùng tiếp cận nhà là, làng là, vùng ngoại ô của làng là’, thì (giải thích rằng) phần bên trong nơi nước (mái hiên) rơi xuống của một ngôi nhà không có sân được gọi là ‘nhà‘. Còn nơi mà người phụ nữ đứng ở cửa đổ nước rửa chén bát, chỗ nước đó rơi xuống, và nơi rơi xuống của cái nia hoặc cái chổi khi được người phụ nữ đứng trong nhà ném ra ngoài theo thường lệ, và hàng rào được làm ở phía trước nhà, nối liền hai góc, ở giữa có đặt cổng gai để ngăn bò vào, tất cả những thứ này được gọi là ‘vùng tiếp cận nhà‘. Phần bên trong cú ném cục đất của người có sức trung bình đứng trong vùng tiếp cận nhà ấy được gọi là làng. Từ đó, phần bên trong một cú ném cục đất khác được gọi là vùng ngoại ô của làng, theo như đã nói. Đây là tiêu chuẩn ở đây. Như ở đây, cũng vậy ở tất cả mọi nơi, bất kỳ quan điểm chú giải hay quan điểm trưởng lão nào được nói sau này, đều phải được xem xét là tiêu chuẩn.

Yañcetaṃ mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ, taṃ pāḷiyā viruddhamiva dissati. Pāḷiyañhi – ‘‘gharūpacāre ṭhitassa majjhimassa purisassa leḍḍupāto’’ti ettakameva vuttaṃ. Aṭṭhakathāyaṃ pana taṃ leḍḍupātaṃ gāmasaṅkhepaṃ katvā tato paraṃ gāmūpacāro vuttoti? Vuccate – saccameva pāḷiyaṃ vuttaṃ , adhippāyo panettha veditabbo. So ca aṭṭhakathācariyānameva vidito. Tasmā yathā ‘‘gharūpacāre ṭhitassā’’ti ettha gharūpacāralakkhaṇaṃ pāḷiyaṃ avuttampi aṭṭhakathāyaṃ vuttavasena gahitaṃ. Evaṃ sesampi gahetabbaṃ.
Điều đã được nói trong Đại Chú Giải này dường như mâu thuẫn với Luật Pāḷi. Vì trong Luật Pāḷi, chỉ nói chừng ấy: ‘cú ném cục đất của người có sức trung bình đứng trong vùng tiếp cận nhà’. Còn trong Chú Giải, phải chăng cú ném cục đất đó được kể là giới hạn của làng, rồi sau đó vùng ngoại ô của làng mới được nói đến? Xin thưa – điều được nói trong Luật Pāḷi là đúng sự thật, nhưng ý nghĩa tiềm ẩn ở đây cần được hiểu. Và ý nghĩa đó chỉ có các vị Luận sư Chú giải mới biết rõ. Do đó, cũng như trong câu ‘người đứng trong vùng tiếp cận nhà’, đặc điểm của vùng tiếp cận nhà, dù không được nói trong Luật Pāḷi, vẫn được chấp nhận theo như cách nói trong Chú giải. Phần còn lại cũng cần được chấp nhận như vậy.

Tatrāyaṃ nayo – idha gāmo nāma duvidho hoti – parikkhitto ca aparikkhitto ca. Tatra parikkhittassa parikkhepoyeva paricchedo. Tasmā tassa visuṃ paricchedaṃ avatvā ‘‘gāmūpacāro nāma parikkhittassa gāmassa indakhīle ṭhitassa majjhimassa purisassa leḍḍupāto’’ti pāḷiyaṃ vuttaṃ. Aparikkhittassa pana gāmassa gāmaparicchedo vattabbo. Tasmā tassa gāmaparicchedadassanatthaṃ ‘‘aparikkhittassa gāmassa gharūpacāre ṭhitassa majjhimassa purisassa leḍḍupāto’’ti vuttaṃ. Gāmaparicchede ca dassite gāmūpacāralakkhaṇaṃ pubbe vuttanayeneva sakkā ñātunti puna ‘‘tattha ṭhitassa majjhimassa purisassa leḍḍupāto’’ti na vuttaṃ. Yo pana gharūpacāre ṭhitassa leḍḍupātaṃyeva ‘‘gāmūpacāro’’ti vadati, tassa gharūpacāro gāmoti āpajjati. Tato gharaṃ, gharūpacāro, gāmo , gāmūpacāroti esa vibhāgo saṅkarīyati. Asaṅkarato cettha vinicchayo veditabbo vikāle gāmappavesanādīsu. Tasmā pāḷiñca aṭṭhakathañca saṃsanditvā vuttanayenevettha gāmo ca gāmūpacāro ca veditabbo. Yopi ca gāmo pubbe mahā hutvā pacchā kulesu naṭṭhesu appako hoti, so gharūpacārato leḍḍupāteneva paricchinditabbo. Purimaparicchedo panassa parikkhittassāpi aparikkhittassāpi appamāṇamevāti.
Phương pháp ở đây là như vầy – ở đây, làng có hai loại: có rào bao quanh và không có rào bao quanh. Trong đó, đối với làng có rào bao quanh, chính hàng rào là giới hạn. Do đó, không nói riêng về giới hạn của nó, trong Luật Pāḷi đã nói: ‘Vùng ngoại ô của làng là cú ném cục đất của người có sức trung bình đứng ở trụ cổng của làng có rào bao quanh’. Còn đối với làng không có rào bao quanh, việc xác định giới hạn của làng là cần thiết. Do đó, để chỉ rõ giới hạn của làng đó, đã nói: ‘cú ném cục đất của người có sức trung bình đứng trong vùng tiếp cận nhà của một làng không có rào bao quanh’. Và khi giới hạn của làng đã được chỉ rõ, đặc điểm của vùng ngoại ô của làng có thể được biết theo phương pháp đã nói trước, nên không nói lại: ‘cú ném cục đất của người có sức trung bình đứng ở đó’. Còn người nào nói rằng chính cú ném cục đất của người đứng trong vùng tiếp cận nhà là ‘vùng ngoại ô của làng’, thì đối với người đó, vùng tiếp cận nhà sẽ trở thành làng. Khi đó, sự phân biệt này: nhà, vùng tiếp cận nhà, làng, vùng ngoại ô của làng, sẽ bị lẫn lộn. Sự quyết định không lẫn lộn ở đây cần được hiểu trong các trường hợp như vào làng phi thời v.v… Do đó, làng và vùng ngoại ô của làng ở đây cần được hiểu theo phương pháp đã nói, sau khi đối chiếu cả Luật Pāḷi và Chú giải. Và ngay cả làng nào trước kia lớn, sau này do các gia đình bị suy vong mà trở nên nhỏ, làng đó cũng phải được xác định giới hạn bằng cú ném cục đất từ vùng tiếp cận nhà. Còn giới hạn trước kia của nó, dù là làng có rào hay không có rào, đều không còn là tiêu chuẩn nữa.

Araññaṃ nāma ṭhapetvā gāmañca gāmūpacārañcāti imaṃ yathāvuttalakkhaṇaṃ gāmañca gāmūpacārañca ṭhapetvā imasmiṃ adinnādānasikkhāpade avasesaṃ ‘‘araññaṃ’’ nāmāti veditabbaṃ. Abhidhamme pana ‘‘araññanti nikkhamitvā bahi indakhīlā sabbametaṃ arañña’’nti (vibha. 529) vuttaṃ. Āraññakasikkhāpade ‘‘āraññakaṃ nāma senāsanaṃ pañcadhanusatikaṃ pacchima’’nti (pārā. 654) vuttaṃ. Taṃ indakhīlato paṭṭhāya āropitena ācariyadhanunā pañcadhanusatappamāṇanti veditabbaṃ. Evaṃ bhagavatā ‘‘gāmā vā araññā vā’’ti etassa atthaṃ vibhajantena ‘‘gharaṃ, gharūpacāro, gāmo, gāmūpacāro arañña’’nti pāpabhikkhūnaṃ lesokāsanisedhanatthaṃ pañca koṭṭhāsā dassitā. Tasmā ghare vā gharūpacāre vā gāme vā gāmūpacāre vā araññe vā pādagghanakato paṭṭhāya sassāmikaṃ bhaṇḍaṃ avaharantassa pārājikamevāti veditabbaṃ.
Rừng là, trừ làng và vùng ngoại ô của làng‘: Trừ làng và vùng ngoại ô của làng có đặc điểm như đã nói, phần còn lại trong học giới về lấy của không cho này cần được hiểu là ‘rừng’. Còn trong Vi Diệu Pháp, đã nói: ‘Rừng là, sau khi đi ra ngoài trụ cổng, tất cả những thứ đó là rừng’ (vibha. 529). Trong học giới về (trú xứ) rừng, đã nói: ‘Trú xứ trong rừng là nơi cách (làng) tối thiểu năm trăm cung’ (pārā. 654). Điều đó cần được hiểu là khoảng cách năm trăm cung, tính từ trụ cổng bằng cây cung của thầy làm chuẩn. Như vậy, khi Thế Tôn phân tích ý nghĩa của câu ‘hoặc từ làng, hoặc từ rừng’, Ngài đã chỉ ra năm phần: nhà, vùng tiếp cận nhà, làng, vùng ngoại ô của làng, và rừng, để ngăn chặn cơ hội lẩn tránh của các Tỳ khưu xấu. Do đó, cần hiểu rằng, dù ở nhà, vùng tiếp cận nhà, làng, vùng ngoại ô của làng, hay ở rừng, người nào lấy trộm vật có chủ từ giá trị một pāda trở lên, đều phạm tội Bất Cộng Trụ.

Idāni ‘‘adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyeyyā’’tiādīnaṃ atthadassanatthaṃ ‘‘adinnaṃ nāmā’’tiādimāha. Tattha adinnanti dantaponasikkhāpade attano santakampi appaṭiggahitakaṃ kappiyaṃ ajjhoharaṇīyaṃ vuccati. Idha pana yaṃkiñci parapariggahitaṃ sassāmikaṃ bhaṇḍaṃ, tadetaṃ tehi sāmikehi kāyena vā vācāya vā na dinnanti adinnaṃ. Attano hatthato vā yathāṭhitaṭṭhānato vā na nissaṭṭhanti anissaṭṭhaṃ. Yathāṭhāne ṭhitampi anapekkhatāya na pariccattanti apariccattaṃ. Ārakkhasaṃvidhānena rakkhitattā rakkhitaṃ. Mañjūsādīsu pakkhipitvā gopitattā gopitaṃ. ‘‘Mama ida’’nti taṇhāmamattena mamāyitattā mamāyitaṃ. Tāhi apariccāgarakkhaṇagopanāhi tehi bhaṇḍasāmikehi parehi pariggahitanti parapariggahitaṃ. Etaṃ adinnaṃ nāma.
Bây giờ, để chỉ rõ ý nghĩa của các (thuật ngữ) như ‘lấy của không cho, được xem là trộm cắp’ v.v…, (chú giải) bắt đầu bằng ‘Của không cho là‘ v.v… Trong đó, ‘của không cho‘: trong học giới về tăm xỉa răng, vật ăn uống hợp lệ, dù là của mình nhưng chưa được (người khác) trao cho, cũng được gọi là (vật không cho nếu tự ý dùng). Còn ở đây, bất kỳ vật gì thuộc sở hữu của người khác, có chủ, mà những người chủ ấy không cho bằng thân hay bằng lời, đó là của không cho. Chưa được buông ra khỏi tay họ hoặc từ nơi nó đang được đặt, (đó là) ‘chưa từ bỏ‘. Dù vẫn ở nguyên vị trí, nhưng chưa được từ bỏ do không còn luyến tiếc, (đó là) ‘chưa xả ly‘. Được giữ gìn bằng sự canh phòng, (đó là) ‘được bảo vệ‘. Được cất giữ trong rương hòm v.v…, (đó là) ‘được cất giấu‘. Được xem là của mình với tâm tham ái và chấp ngã ‘đây là của tôi’, (đó là) ‘được coi là sở hữu‘. Do sự chưa từ bỏ, sự bảo vệ, sự cất giấu ấy, mà được những người chủ của vật đó, tức là người khác, xem là sở hữu của họ, (đó là) ‘thuộc sở hữu của người khác‘. Đó gọi là của không cho.

Theyyasaṅkhātanti ettha thenoti coro, thenassa bhāvo theyyaṃ; avaharaṇacittassetaṃ adhivacanaṃ. ‘‘Saṅkhā, saṅkhāta’’nti atthato ekaṃ; koṭṭhāsassetaṃ adhivacanaṃ, ‘‘saññānidānā hi papañcasaṅkhā’’tiādīsu (su. ni. 880) viya. Theyyañca taṃ saṅkhātañcāti theyyasaṅkhātaṃ, theyyacittasaṅkhāto eko cittakoṭṭhāsoti attho. Karaṇatthe cetaṃ paccattavacanaṃ, tasmā theyyasaṅkhātenāti atthato daṭṭhabbaṃ. Yo ca theyyasaṅkhātena ādiyati, so yasmā theyyacitto hoti, tasmā byañjanaṃ anādiyitvā atthameva dassetuṃ theyyacitto avaharaṇacittoti evamassa padabhājanaṃ vuttanti veditabbaṃ.
Trong (cụm từ) ‘được xem là trộm cắp’: Ở đây, ‘kẻ trộm‘ (theno) là người ăn trộm, bản chất của kẻ trộm là ‘sự trộm cắp‘ (theyyaṃ); đây là từ đồng nghĩa với tâm lấy trộm. ‘Saṅkhā, saṅkhāta’ (sự xem là, được xem là) về nghĩa là một; đây là từ đồng nghĩa với ‘phần’, giống như trong câu ‘do nhận thức làm nhân duyên mà có các phần hý luận’ v.v… (su. ni. 880). Nó là sự trộm cắp và nó được xem là (như vậy), nên gọi là ‘được xem là trộm cắp‘ (theyyasaṅkhātaṃ); nghĩa là một phần tâm được xem là tâm trộm cắp. Và đây là một từ ở cách công cụ; do đó, cần hiểu theo nghĩa là ‘với (tâm) được xem là trộm cắp’. Và người nào lấy với (tâm) được xem là trộm cắp, người đó vì có tâm trộm cắp, do đó, không chấp vào văn tự mà chỉ để diễn tả ý nghĩa, phần phân tích từ ngữ của nó được nói là ‘tâm trộm cắp, tâm lấy trộm‘, cần phải hiểu như vậy.

Ādiyeyya, hareyya, avahareyya, iriyāpathaṃ vikopeyya, ṭhānā cāveyya, saṅketaṃ vītināmeyyāti ettha pana paṭhamapadaṃ abhiyogavasena vuttaṃ, dutiyapadaṃ aññesaṃ bhaṇḍaṃ harantassa gacchato vasena, tatiyapadaṃ upanikkhittabhaṇḍavasena, catutthaṃ saviññāṇakavasena, pañcamaṃ thale nikkhittādivasena, chaṭṭhaṃ parikappavasena vā suṅkaghātavasena vā vuttanti veditabbaṃ. Yojanā panettha ekabhaṇḍavasenapi nānābhaṇḍavasenapi hoti. Ekabhaṇḍavasena ca saviññāṇakeneva labbhati, nānābhaṇḍavasena saviññāṇakāviññāṇakamissakena.
Trong (các từ) ‘lấy, mang đi, đoạt lấy, làm thay đổi oai nghi, làm di chuyển khỏi chỗ, vượt qua nơi quy định‘: ở đây, từ thứ nhất được nói theo nghĩa cố gắng (lấy); từ thứ hai theo nghĩa người mang vật của người khác mà đi; từ thứ ba theo nghĩa vật được ký gửi; từ thứ tư theo nghĩa vật có thức tỉnh; từ thứ năm theo nghĩa vật được đặt trên đất liền v.v…; từ thứ sáu được nói theo nghĩa hoạch định (để trộm) hoặc theo nghĩa trốn thuế, cần phải hiểu như vậy. Cách giải thích ở đây có thể theo trường hợp một vật hoặc nhiều vật. Theo trường hợp một vật thì chỉ liên quan đến vật có thức tỉnh; theo trường hợp nhiều vật thì liên quan đến cả vật có thức tỉnh và vật không có thức tỉnh trộn lẫn.

Tattha nānābhaṇḍavasena tāva evaṃ veditabbaṃ – ādiyeyyāti ārāmaṃ abhiyuñjati, āpatti dukkaṭassa. Sāmikassa vimatiṃ uppādeti, āpatti thullaccayassa. Sāmiko ‘‘na mayhaṃ bhavissatī’’ti dhuraṃ nikkhipati, āpatti pārājikassa.
Ở đó, trước hết, theo trường hợp nhiều loại vật, cần được hiểu như vầy – ‘Lấy‘ là (khi một người) kiện đòi một tu viện, phạm tội Tác ác. (Khi) làm cho người chủ nghi ngờ (về quyền sở hữu của mình), phạm tội Trọng Tội. (Khi) người chủ từ bỏ trách nhiệm (nghĩ rằng) ‘nó sẽ không còn là của ta nữa’, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Hareyyāti aññassa bhaṇḍaṃ haranto sīse bhāraṃ theyyacitto āmasati, āpatti dukkaṭassa. Phandāpeti, āpatti thullaccayassa. Khandhaṃ oropeti, āpatti pārājikassa.
Mang đi‘ là khi một người mang vật của người khác, với tâm trộm cắp chạm vào gánh nặng (đang đội) trên đầu, phạm tội Tác ác. (Khi) làm cho nó rung động, phạm tội Trọng Tội. (Khi) đặt (gánh nặng) xuống khỏi vai, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Avahareyyāti upanikkhittaṃ bhaṇḍaṃ ‘‘dehi me bhaṇḍa’’nti vuccamāno ‘‘nāhaṃ gaṇhāmī’’ti bhaṇati, āpatti dukkaṭassa. Sāmikassa vimatiṃ uppādeti, āpatti thullaccayassa. Sāmiko ‘‘na mayhaṃ dassatī’’ti dhuraṃ nikkhipati, āpatti pārājikassa .
Đoạt lấy‘ là đối với vật được ký gửi, khi được (người chủ) nói ‘Hãy trả vật cho tôi’, (người giữ) lại nói ‘Tôi không giữ’, phạm tội Tác ác. (Khi) làm cho người chủ nghi ngờ, phạm tội Trọng Tội. (Khi) người chủ từ bỏ trách nhiệm (nghĩ rằng) ‘hắn sẽ không trả cho ta’, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Iriyāpathaṃvikopeyyāti ‘‘sahabhaṇḍahārakaṃ nessāmī’’ti paṭhamaṃ pādaṃ saṅkāmeti, āpatti thullaccayassa. Dutiyaṃ pādaṃ saṅkāmeti, āpatti pārājikassa.
Làm thay đổi oai nghi‘ là (khi một người nghĩ) ‘Ta sẽ dắt con vật mang đồ đi cùng’, (rồi làm cho con vật) nhấc bước chân đầu tiên, phạm tội Trọng Tội. (Khi làm cho con vật) nhấc bước chân thứ hai, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Ṭhānā cāveyyāti thalaṭṭhaṃ bhaṇḍaṃ theyyacitto āmasati, āpatti dukkaṭassa. Phandāpeti, āpatti thullaccayassa. Ṭhānā cāveti, āpatti pārājikassa.
Làm di chuyển khỏi chỗ‘ là khi một người với tâm trộm cắp chạm vào vật đặt trên đất liền, phạm tội Tác ác. (Khi) làm cho nó rung động, phạm tội Trọng Tội. (Khi) làm cho nó di chuyển khỏi chỗ, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Saṅketaṃ vītināmeyyāti parikappitaṭṭhānaṃ paṭhamaṃ pādaṃ atikkāmeti, āpatti thullaccayassa. Dutiyaṃ pādaṃ atikkāmeti, āpatti pārājikassa. Atha vā paṭhamaṃ pādaṃ suṅkaghātaṃ atikkāmeti, āpatti thullaccayassa. Dutiyaṃ pādaṃ atikkāmeti, āpatti pārājikassāti – ayamettha nānābhaṇḍavasena yojanā.
Vượt qua nơi quy định‘ là (khi một người mang vật trộm) bước bước chân đầu tiên qua khỏi nơi đã định trước (để hoàn tất việc trộm), phạm tội Trọng Tội. (Khi) bước bước chân thứ hai qua khỏi (nơi đó), phạm tội Bất Cộng Trụ. Hoặc là, (khi trốn thuế, mang hàng hóa) bước bước chân đầu tiên qua khỏi trạm thuế, phạm tội Trọng Tội. (Khi) bước bước chân thứ hai qua khỏi (trạm thuế), phạm tội Bất Cộng Trụ – đây là cách giải thích theo trường hợp nhiều loại vật ở đây.

Ekabhaṇḍavasena pana sassāmikaṃ dāsaṃ vā tiracchānaṃ vā yathāvuttena abhiyogādinā nayena ādiyati vā harati vā avaharati vā iriyāpathaṃ vā vikopeti, ṭhānā vā cāveti, paricchedaṃ vā atikkāmeti – ayamettha ekabhaṇḍavasena yojanā.
Còn theo trường hợp một vật, (nghĩa là) khi lấy, hoặc mang đi, hoặc đoạt lấy, hoặc làm thay đổi oai nghi, hoặc làm di chuyển khỏi chỗ, hoặc vượt qua giới hạn (nơi quy định) đối với một người nô lệ có chủ hay một con vật bàng sanh, theo phương pháp kiện đòi v.v… như đã nói – đây là cách giải thích theo trường hợp một vật ở đây.

Pañcavīsatiavahārakathā

Luận về Hai Mươi Lăm Cách Chiếm Đoạt

Apica imāni cha padāni vaṇṇentena pañca pañcake samodhānetvā pañcavīsati avahārā dassetabbā. Evaṃ vaṇṇayatā hi idaṃ adinnādānapārājikaṃ suvaṇṇitaṃ hoti. Imasmiñca ṭhāne sabbaaṭṭhakathā ākulā luḷitā duviññeyyavinicchayā. Tathā hi sabbaaṭṭhakathāsu yāni tāni pāḷiyaṃ ‘‘pañcahākārehi adinnaṃ ādiyantassa āpatti pārājikassa, parapariggahitañca hotī’’tiādinā nayena avahāraṅgāni vuttāni, tānipi gahetvā katthaci ekaṃ pañcakaṃ dassitaṃ, katthaci ‘‘chahākārehī’’ti āgatehi saddhiṃ dve pañcakāni dassitāni. Etāni ca pañcakāni na honti. Yattha hi ekekena padena avahāro sijjhati, taṃ pañcakaṃ nāma vuccati. Ettha pana sabbehipi padehi ekoyeva avahāro. Yāni ca tattha labbhamānāniyeva pañcakāni dassitāni, tesampi na sabbesaṃ attho pakāsito. Evamimasmiṃ ṭhāne sabbaaṭṭhakathā ākulā luḷitā duviññeyyavinicchayā. Tasmā pañca pañcakesamodhānetvā dassiyamānā ime pañcavīsati avahārā sādhukaṃ sallakkhetabbā.
Hơn nữa, khi giải thích sáu thuật ngữ này, cần phải gộp lại thành năm nhóm năm (ngũ pháp) để trình bày hai mươi lăm cách chiếm đoạt. Vì khi giải thích như vậy, điều Bất Cộng Trụ về lấy của không cho này mới được giải thích rõ ràng. Và ở điểm này, tất cả các bản Chú giải đều rối rắm, lộn xộn, với những quyết định khó hiểu. Thật vậy, trong tất cả các bản Chú giải, những chi phần của sự chiếm đoạt đã được nói trong Luật Pāḷi theo phương pháp như ‘người lấy của không cho bằng năm cách thì phạm tội Bất Cộng Trụ, và (vật đó) phải là sở hữu của người khác’ v.v…, ngay cả khi lấy những chi phần đó, có nơi chỉ trình bày một nhóm năm, có nơi lại trình bày hai nhóm năm cùng với sáu cách đã có. Và những điều này không phải là các nhóm năm (đúng nghĩa). Vì nơi nào mà sự chiếm đoạt được thành tựu bởi mỗi một thuật ngữ (trong năm thuật ngữ), đó mới được gọi là một nhóm năm. Còn ở đây, tất cả các thuật ngữ (trong mỗi nhóm đó) chỉ (mô tả) một cách chiếm đoạt duy nhất. Và ngay cả những nhóm năm thực sự có thể tìm thấy ở đó đã được trình bày, ý nghĩa của tất cả chúng cũng không được làm sáng tỏ. Như vậy, ở điểm này, tất cả các bản Chú giải đều rối rắm, lộn xộn, với những quyết định khó hiểu. Do đó, hai mươi lăm cách chiếm đoạt này, được trình bày bằng cách gộp lại thành năm nhóm năm, cần được xem xét kỹ lưỡng.

Pañca pañcakāni nāma – nānābhaṇḍapañcakaṃ, ekabhaṇḍapañcakaṃ, sāhatthikapañcakaṃ, pubbapayogapañcakaṃ , theyyāvahārapañcakanti. Tattha nānābhaṇḍapañcakañca ekabhaṇḍapañcakañca ‘‘ādiyeyya, hareyya, avahareyya, iriyāpathaṃ vikopeyya, ṭhānā cāveyyā’’ti imesaṃ padānaṃ vasena labbhanti. Tāni pubbe yojetvā dassitanayeneva veditabbāni. Yaṃ panetaṃ ‘‘saṅketaṃ vītināmeyyā’’ti chaṭṭhaṃ padaṃ, taṃ parikappāvahārassa ca nissaggiyāvahārassa ca sādhāraṇaṃ. Tasmā taṃ tatiyapañcamesu pañcakesu labbhamānapadavasena yojetabbaṃ. Vuttaṃ nānābhaṇḍapañcakañca ekabhaṇḍapañcakañca.
Năm nhóm năm là – nhóm năm về nhiều loại vật, nhóm năm về một vật, nhóm năm về (hành động) tự tay, nhóm năm về hành động chuẩn bị, và nhóm năm về sự chiếm đoạt có tính trộm cắp. Trong đó, nhóm năm về nhiều loại vật và nhóm năm về một vật được tìm thấy dựa trên các thuật ngữ: ‘lấy’, ‘mang đi’, ‘đoạt lấy’, ‘làm thay đổi oai nghi’, ‘làm di chuyển khỏi chỗ’. Những điều đó cần được hiểu theo phương pháp đã được giải thích và trình bày trước đây. Còn thuật ngữ thứ sáu này là ‘vượt qua nơi quy định’, nó chung cho cả sự chiếm đoạt bằng cách hoạch định và sự chiếm đoạt bằng cách từ bỏ (vật ở nơi khác để lấy). Do đó, nó cần được giải thích dựa trên các thuật ngữ có thể tìm thấy trong nhóm năm thứ ba và thứ năm. Nhóm năm về nhiều loại vật và nhóm năm về một vật đã được nói đến.

Katamaṃ sāhatthikapañcakaṃ? Pañca avahārā – sāhatthiko, āṇattiko, nissaggiyo, atthasādhako, dhuranikkhepoti. Tattha sāhatthiko nāma parassa bhaṇḍaṃ sahatthā avaharati. Āṇattiko nāma ‘‘asukassa bhaṇḍaṃ avaharā’’ti aññaṃ āṇāpeti. Nissaggiyo nāma antosuṅkaghāte ṭhito bahisuṅkaghātaṃ pāteti, āpatti pārājikassāti, iminā ca saddhiṃ ‘‘saṅketaṃ vītināmeyyā’’ti idaṃ padayojanaṃ labhati. Atthasādhako nāma ‘‘asukaṃ nāma bhaṇḍaṃ yadā sakkosi, tadā avaharā’’ti āṇāpeti. Tattha sace paro anantarāyiko hutvā taṃ avaharati, āṇāpako āṇattikkhaṇeyeva pārājiko hoti, avahārako pana avahaṭakāle. Ayaṃ atthasādhako. Dhuranikkhepo pana upanikkhittabhaṇḍavasena veditabbo. Idaṃ sāhatthikapañcakaṃ.
Nhóm năm về (hành động) tự tay là gì? Gồm năm cách chiếm đoạt: tự tay chiếm đoạt, ra lệnh chiếm đoạt, chiếm đoạt bằng cách từ bỏ, chiếm đoạt để hoàn thành mục đích, và chiếm đoạt bằng cách từ bỏ trách nhiệm. Trong đó, ‘tự tay chiếm đoạt‘ là tự tay mình lấy trộm vật của người khác. ‘Ra lệnh chiếm đoạt‘ là ra lệnh cho người khác: ‘Hãy lấy trộm vật của người kia’. ‘Chiếm đoạt bằng cách từ bỏ‘ là (khi) đứng ở trạm thuế bên trong rồi ném (hàng) ra ngoài trạm thuế, phạm tội Bất Cộng Trụ; và cùng với điều này, cách giải thích của thuật ngữ ‘vượt qua nơi quy định’ được áp dụng. ‘Chiếm đoạt để hoàn thành mục đích‘ là ra lệnh: ‘Vật kia, khi nào có thể, hãy lấy trộm’. Trong đó, nếu người kia không gặp trở ngại mà lấy trộm vật đó, người ra lệnh phạm tội Bất Cộng Trụ ngay tại khoảnh khắc ra lệnh, còn người lấy trộm thì (phạm tội) vào lúc lấy trộm. Đây là (cách) chiếm đoạt để hoàn thành mục đích. Còn ‘chiếm đoạt bằng cách từ bỏ trách nhiệm‘ cần được hiểu theo trường hợp vật được ký gửi. Đây là nhóm năm về (hành động) tự tay.

Katamaṃ pubbapayogapañcakaṃ? Aparepi pañca avahārā – pubbapayogo, sahapayogo, saṃvidāvahāro, saṅketakammaṃ, nimittakammanti. Tattha āṇattivasena pubbapayogo veditabbo. Ṭhānā cāvanavasena sahapayogo. Itare pana tayo pāḷiyaṃ (pārā. 118-120) āgatanayeneva veditabbāti. Idaṃ pubbapayogapañcakaṃ.
Nhóm năm về hành động chuẩn bị là gì? Gồm năm cách chiếm đoạt khác: hành động chuẩn bị trước, hành động đồng thời, chiếm đoạt bằng cách thỏa thuận, hành động theo ám hiệu, và hành động bằng dấu hiệu. Trong đó, ‘hành động chuẩn bị trước‘ cần được hiểu theo (trường hợp) ra lệnh. ‘Hành động đồng thời‘ (cần được hiểu) theo (trường hợp) làm di chuyển khỏi chỗ. Còn ba cách kia cần được hiểu theo phương pháp đã có trong Luật Pāḷi (pārā. 118-120). Đây là nhóm năm về hành động chuẩn bị.

Katamaṃ theyyāvahārapañcakaṃ? Aparepi pañca avahārā – theyyāvahāro, pasayhāvahāro, parikappāvahāro , paṭicchannāvahāro, kusāvahāroti. Te pañcapi ‘‘aññataro bhikkhu saṅghassa cīvare bhājiyamāne theyyacitto kusaṃ saṅkāmetvā cīvaraṃ aggahesī’’ti (pārā. 138) etasmiṃ kusasaṅkāmanavatthusmiṃ vaṇṇayissāma. Idaṃ theyyāvahārapañcakaṃ. Evamimāni pañca pañcakāni samodhānetvā ime pañcavīsati avahārā veditabbā.
Nhóm năm về sự chiếm đoạt có tính trộm cắp là gì? Gồm năm cách chiếm đoạt khác: chiếm đoạt có tính trộm cắp, chiếm đoạt bằng vũ lực, chiếm đoạt bằng cách hoạch định, chiếm đoạt bằng cách che giấu, và chiếm đoạt bằng thẻ (kusa). Cả năm cách ấy, chúng tôi sẽ giải thích trong câu chuyện về việc di chuyển thẻ (kusa) này: ‘Một Tỳ khưu nọ, khi y của Tăng chúng đang được chia, với tâm trộm cắp đã di chuyển thẻ (kusa) rồi lấy y’ (pārā. 138). Đây là nhóm năm về sự chiếm đoạt có tính trộm cắp. Như vậy, sau khi gộp năm nhóm năm này lại, hai mươi lăm cách chiếm đoạt này cần được hiểu.

Imesu ca pana pañcasu pañcakesu kusalena vinayadharena otiṇṇaṃ vatthuṃ sahasā avinicchinitvāva pañca ṭhānāni oloketabbāni. Yāni sandhāya porāṇā āhu –
Và trong năm nhóm năm này, một người trì Luật khéo léo, khi một sự việc được đưa đến, không nên vội vàng quyết định ngay mà phải xem xét năm điểm. Nhắm đến những điểm này, người xưa đã nói –

‘‘Vatthuṃ kālañca desañca, agghaṃ paribhogapañcamaṃ;
Tulayitvā pañca ṭhānāni, dhāreyyatthaṃ vicakkhaṇo’’ti.
“‘Vật, thời gian và địa điểm, giá trị, (và) cách sử dụng là thứ năm;
Sau khi cân nhắc năm điểm ấy, người sáng suốt nên quyết định sự việc.'”

Tattha vatthunti bhaṇḍaṃ; avahārakena hi ‘‘mayā idaṃ nāma avahaṭa’’nti vuttepi āpattiṃ anāropetvāva taṃ bhaṇḍaṃ sassāmikaṃ vā assāmikaṃ vāti upaparikkhitabbaṃ. Sassāmikepi sāmikānaṃ sālayabhāvo vā nirālayabhāvo vā upaparikkhitabbo. Sace tesaṃ sālayakāle avahaṭaṃ, bhaṇḍaṃ agghāpetvā āpatti kātabbā. Sace nirālayakāle , na pārājikena kāretabbo. Bhaṇḍasāmikesu pana bhaṇḍaṃ āharāpentesu bhaṇḍaṃ dātabbaṃ. Ayamettha sāmīci.
Trong đó, ‘vật‘ là đồ vật; ngay cả khi người lấy trộm nói: ‘Tôi đã lấy trộm vật này’, cũng không nên quy tội ngay mà phải tìm hiểu xem vật đó có chủ hay không có chủ. Ngay cả khi vật có chủ, cũng phải tìm hiểu xem những người chủ có còn luyến tiếc hay không còn luyến tiếc (vật đó). Nếu lấy trộm vào lúc họ còn luyến tiếc, sau khi định giá vật đó, phải quy tội. Nếu (lấy trộm) vào lúc họ không còn luyến tiếc, không nên xử phạt bằng tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu những người chủ của vật đòi lại vật, thì phải trả vật lại. Đây là điều hợp lý ở đây.

Imassa panatthassa dīpanatthamidaṃ vatthu – bhātiyarājakāle kira mahācetiyapūjāya dakkhiṇadisato eko bhikkhu sattahatthaṃ paṇḍukāsāvaṃ aṃse karitvā cetiyaṅgaṇaṃ pāvisi; taṅkhaṇameva ca rājāpi cetiyavandanatthaṃ āgato. Tattha ussāraṇāya vattamānāya mahājanasammaddo ahosi. Atha so bhikkhu janasammaddapīḷito aṃsato patantaṃ kāsāvaṃ adisvāva nikkhanto; nikkhamitvā ca kāsāvaṃ apassanto ‘‘ko īdise janasammadde kāsāvaṃ lacchati, na dāni taṃ mayha’’nti dhuranikkhepaṃ katvā gato. Athañño bhikkhu pacchā āgacchanto taṃ kāsāvaṃ disvā theyyacittena gahetvā puna vippaṭisārī hutvā ‘‘assamaṇo dānimhi, vibbhamissāmī’’ti citte uppannepi ‘‘vinayadhare pucchitvā ñassāmī’’ti cintesi.
Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, có câu chuyện sau – Tương truyền, vào thời vua Bhātiyarāja, nhân dịp lễ cúng dường Đại Bảo Tháp, một vị Tỳ khưu từ phương nam, vai mang tấm y ca-sa màu vàng nhạt dài bảy gang tay, đi vào khuôn viên bảo tháp; ngay lúc đó, nhà vua cũng đến để đảnh lễ bảo tháp. Khi đó, do có sự dẹp đường (cho vua), đã xảy ra cảnh chen lấn đông đúc của dân chúng. Bấy giờ, vị Tỳ khưu ấy bị dân chúng chen lấn, không hề hay biết tấm y ca-sa bị rơi khỏi vai, đã đi ra ngoài. Và sau khi ra ngoài, không thấy tấm y ca-sa, ông nghĩ rằng: ‘Ai mà tìm lại được y ca-sa trong cảnh chen lấn như thế này, giờ nó không còn là của ta nữa’, rồi từ bỏ (suy nghĩ tìm lại) mà bỏ đi. Khi đó, một vị Tỳ khưu khác đi đến sau, thấy tấm y ca-sa ấy, với tâm trộm cắp đã nhặt lấy, nhưng rồi lại hối hận, dù trong tâm khởi lên ý nghĩ: ‘Giờ ta không còn là Sa-môn nữa, ta sẽ hoàn tục’, (vị ấy) vẫn nghĩ: ‘Ta sẽ hỏi người trì Luật để biết rõ’.

Tena ca samayena cūḷasumanatthero nāma sabbapariyattidharo vinayācariyapāmokkho mahāvihāre paṭivasati. So bhikkhu theraṃ upasaṅkamitvā vanditvā okāsaṃ kāretvā attano kukkuccaṃ pucchi. Thero tena bhaṭṭhe janakāye pacchā āgantvā gahitabhāvaṃ ñatvā ‘‘atthi dāni ettha okāso’’ti cintetvā āha – ‘‘sace kāsāvasāmikaṃ bhikkhuṃ āneyyāsi, sakkā bhaveyya tava patiṭṭhā kātu’’nti. ‘‘Kathāhaṃ, bhante, taṃ dakkhissāmī’’ti? ‘‘Tahiṃ tahiṃ gantvā olokehī’’ti. So pañcapi mahāvihāre oloketvā neva addakkhi. Tato naṃ thero pucchi – ‘‘katarāya disāya bahū bhikkhū āgacchantī’’ti? ‘‘Dakkhiṇadisāya, bhante’’ti. ‘‘Tena hi kāsāvaṃ dīghato ca tiriyañca minitvā ṭhapehi. Ṭhapetvā dakkhiṇadisāya vihārapaṭipāṭiyā vicinitvā taṃ bhikkhuṃ ānehī’’ti. So tathā katvā taṃ bhikkhuṃ disvā therassa santikaṃ ānesi. Thero pucchi – ‘‘tavedaṃ kāsāva’’nti? ‘‘Āma, bhante’’ti. ‘‘Kuhiṃ te pātita’’nti? So sabbaṃ ācikkhi. Thero pana tena kataṃ dhuranikkhepaṃ sutvā itaraṃ pucchi – ‘‘tayā idaṃ kuhiṃ disvā gahita’’nti? Sopi sabbaṃ ārocesi. Tato naṃ thero āha – ‘‘sace te suddhacittena gahitaṃ abhavissa, anāpattiyeva te assa. Theyyacittena pana gahitattā dukkaṭaṃ āpannosi. Taṃ desetvā anāpattiko hohi. Idañca kāsāvaṃ attano santakaṃ katvā etasseva bhikkhuno dehī’’ti. So bhikkhu amateneva abhisitto paramassāsappatto ahosīti. Evaṃ vatthu oloketabbaṃ.
Vào lúc ấy, có một vị Trưởng lão tên là Cūḷasumana, một bậc thông suốt tất cả kinh điển, là vị thầy Luật lỗi lạc, đang cư ngụ tại Đại Tự viện. Vị Tỳ khưu kia đến đảnh lễ Trưởng lão, sau khi xin phép, đã trình bày sự áy náy của mình. Trưởng lão, sau khi biết rằng vị ấy đến sau trong đám đông hỗn loạn đó rồi nhặt lấy (y), nghĩ rằng: ‘Giờ đây vẫn có cơ hội (giải quyết)’, rồi nói: ‘Nếu thầy có thể tìm được vị Tỳ khưu chủ nhân của tấm y ca-sa, thì có thể lập lại (giới thể) cho thầy’. (Vị Tỳ khưu hỏi:) ‘Bạch ngài, làm sao con có thể tìm thấy vị ấy?’ (Trưởng lão đáp:) ‘Hãy đi đến các nơi mà tìm xem’. Vị ấy đã tìm khắp cả năm đại tự viện mà vẫn không thấy. Khi đó, Trưởng lão hỏi vị ấy: ‘Chư Tỳ khưu từ phương nào đến đông nhất?’ (Vị ấy đáp:) ‘Bạch ngài, từ phương nam’. (Trưởng lão nói:) ‘Vậy thì, hãy đo chiều dài và chiều ngang của tấm y ca-sa rồi cất đi. Sau đó, hãy đi tìm theo thứ tự các tự viện ở phương nam, tìm được vị Tỳ khưu đó rồi dẫn đến đây’. Vị ấy làm theo như vậy, tìm thấy vị Tỳ khưu kia rồi dẫn đến chỗ Trưởng lão. Trưởng lão hỏi: ‘Đây có phải là y ca-sa của thầy không?’ (Vị kia đáp:) ‘Thưa vâng, bạch ngài’. ‘Thầy làm rơi nó ở đâu?’ Vị kia kể lại tất cả. Trưởng lão, sau khi nghe về việc từ bỏ (tìm lại y) của vị kia, liền hỏi vị Tỳ khưu này: ‘Thầy thấy và nhặt y này ở đâu?’ Vị này cũng trình bày tất cả. Khi đó, Trưởng lão nói với vị này: ‘Nếu thầy nhặt lấy với tâm trong sạch, thì thầy đã không phạm tội. Nhưng vì đã nhặt với tâm trộm cắp, nên thầy đã phạm tội Tác ác. Hãy sám hối tội đó thì sẽ không còn tội nữa. Và hãy xem tấm y ca-sa này như là của mình rồi trao lại cho chính vị Tỳ khưu kia’. Vị Tỳ khưu ấy như được tưới bằng nước cam lồ, đạt được sự an ổn tột cùng. Câu chuyện cần được xem xét như vậy.

Kāloti avahārakālo. Tadeva hi bhaṇḍaṃ kadāci samagghaṃ hoti, kadāci mahagghaṃ. Tasmā taṃ bhaṇḍaṃ yasmiṃ kāle avahaṭaṃ, tasmiṃyeva kāle yo tassa aggho hoti, tena agghena āpatti kāretabbā. Evaṃ kālo oloketabbo.
Thời gian‘ là thời gian chiếm đoạt. Vì cùng một vật, có lúc rẻ, có lúc đắt. Do đó, vật đó bị chiếm đoạt vào thời điểm nào, thì giá trị của nó vào chính thời điểm đó là bao nhiêu, phải căn cứ vào giá trị đó để quy tội. Thời gian cần được xem xét như vậy.

Desoti avahāradeso. Tañhi bhaṇḍaṃ yasmiṃ dese avahaṭaṃ, tasmiṃyeva dese yo tassa aggho hoti, tena agghena āpatti kāretabbā. Bhaṇḍuṭṭhānadese hi bhaṇḍaṃ samagghaṃ hoti, aññattha mahagghaṃ.
Địa điểm‘ là địa điểm chiếm đoạt. Vì vật đó bị chiếm đoạt ở địa điểm nào, thì giá trị của nó tại chính địa điểm đó là bao nhiêu, phải căn cứ vào giá trị đó để quy tội. Vì ở nơi sản xuất ra vật đó, vật thường rẻ; ở nơi khác thì đắt.

Imassāpi ca atthassa dīpanatthamidaṃ vatthu – antarasamudde kira eko bhikkhu susaṇṭhānaṃ nāḷikeraṃ labhitvā bhamaṃ āropetvā saṅkhathālakasadisaṃ manoramaṃ pānīyathālakaṃ katvā tattheva ṭhapetvā cetiyagiriṃ agamāsi. Athañño bhikkhu antarasamuddaṃ gantvā tasmiṃ vihāre paṭivasanto taṃ thālakaṃ disvā theyyacittena gahetvā cetiyagirimeva āgato. Tassa tattha yāguṃ pivantassa taṃ thālakaṃ disvā thālakasāmiko bhikkhu āha – ‘‘kuto te idaṃ laddha’’nti? ‘‘Antarasamuddato me ānīta’’nti. So taṃ ‘‘netaṃ tava santakaṃ, theyyāya te gahita’’nti saṅghamajjhaṃ ākaḍḍhi. Tattha ca vinicchayaṃ alabhitvā mahāvihāraṃ agamiṃsu. Tattha bheriṃ paharāpetvā mahācetiyasamīpe sannipātaṃ katvā vinicchayaṃ ārabhiṃsu. Vinayadharattherā avahāraṃ saññāpesuṃ.
Để làm sáng tỏ ý nghĩa này cũng có câu chuyện sau – Tương truyền, ở một hòn đảo giữa biển, một vị Tỳ khưu tìm được một quả dừa có hình dáng đẹp, đã đặt lên bàn xoay tiện thành một cái bát đựng nước uống đẹp đẽ giống như bát bằng vỏ ốc, rồi để lại đó mà đi đến núi Cetiyagiri. Khi đó, một vị Tỳ khưu khác đi đến hòn đảo giữa biển, trong khi đang ở tại tự viện đó, thấy cái bát kia, với tâm trộm cắp đã lấy nó rồi cũng đi đến núi Cetiyagiri. Khi vị này đang uống cháo ở đó, vị Tỳ khưu chủ nhân của cái bát thấy cái bát ấy liền hỏi: ‘Thầy lấy cái này ở đâu?’ (Vị kia đáp:) ‘Tôi mang từ đảo giữa biển đến’. Vị chủ nhân liền kéo vị kia ra giữa Tăng chúng, nói: ‘Cái này không phải của thầy, thầy đã lấy trộm nó’. Và ở đó không nhận được sự phân xử, họ đã đi đến Đại Tự viện. Tại đó, sau khi cho đánh trống, họ đã tập hợp Tăng chúng gần Đại Bảo Tháp rồi bắt đầu phân xử. Các vị Trưởng lão trì Luật đã nhận định đó là hành vi chiếm đoạt.

Tasmiñca sannipāte ābhidhammikagodattatthero nāma vinayakusalo hoti. So evamāha – ‘‘iminā idaṃ thālakaṃ kuhiṃ avahaṭa’’nti? ‘‘Antarasamudde avahaṭa’’nti. ‘‘Tatridaṃ kiṃ agghatī’’ti? ‘‘Na kiñci agghati. Tatra hi nāḷikeraṃ bhinditvā miñjaṃ khāditvā kapālaṃ chaḍḍenti, dāruatthaṃ pana pharatī’’ti. ‘‘Imassa bhikkhuno ettha hatthakammaṃ kiṃ agghatī’’ti? ‘‘Māsakaṃ vā ūnamāsakaṃ vā’’ti. ‘‘Atthi pana katthaci sammāsambuddhena māsakena vā ūnamāsakena vā pārājikaṃ paññatta’’nti. Evaṃ vutte ‘‘sādhu! Sādhu! Sukathitaṃ suvinicchita’’nti ekasādhukāro ahosi. Tena ca samayena bhātiyarājāpi cetiyavandanatthaṃ nagarato nikkhamanto taṃ saddaṃ sutvā ‘‘kiṃ ida’’nti pucchitvā sabbaṃ paṭipāṭiyā sutvā nagare bheriṃ carāpesi – ‘‘mayi sante bhikkhūnampi bhikkhūnīnampi gihīnampi adhikaraṇaṃ ābhidhammikagodattattherena vinicchitaṃ suvinicchitaṃ, tassa vinicchaye atiṭṭhamānaṃ rājāṇāya ṭhapemī’’ti. Evaṃ deso oloketabbo.
Và trong buổi tập hợp đó, có một vị Trưởng lão tên là Ābhidhammika Godatta, là người thông thạo Luật. Vị ấy nói như vầy: ‘Vị này đã lấy trộm cái bát này ở đâu?’ (Họ đáp:) ‘Lấy trộm ở đảo giữa biển’. ‘Ở đó, cái này trị giá bao nhiêu?’ (Họ đáp:) ‘Chẳng đáng giá gì cả. Vì ở đó, người ta bổ dừa, ăn cùi rồi vứt sọ đi, chỉ dùng (sọ dừa) làm củi thôi’. ‘Công lao làm ra (cái bát này) của vị Tỳ khưu này trị giá bao nhiêu?’ (Họ đáp:) ‘Một māsaka hoặc chưa đến một māsaka’. (Trưởng lão hỏi:) ‘Vậy có nơi nào Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác đã chế định tội Bất Cộng Trụ cho (giá trị) một māsaka hoặc chưa đến một māsaka không?’ Khi nói như vậy, đã có một tiếng đồng thanh tán thán: ‘Lành thay! Lành thay! Nói rất hay, phân xử rất khéo!’ Và vào lúc đó, vua Bhātiyarāja cũng đang từ thành đi ra để đảnh lễ bảo tháp, nghe tiếng đó liền hỏi: ‘Việc gì vậy?’, sau khi nghe toàn bộ sự việc theo thứ tự, vua đã cho loan trống trong thành rằng: ‘Khi có ta đây, sự tranh tụng của các Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, và cả cư sĩ, đã được Trưởng lão Ābhidhammika Godatta phân xử rất khéo; ai không tuân theo sự phân xử của ngài, ta sẽ trị tội theo vương lệnh’. Địa điểm cần được xem xét như vậy.

Agghoti bhaṇḍaggho. Navabhaṇḍassa hi yo aggho hoti, so pacchā parihāyati; yathā navadhoto patto aṭṭha vā dasa vā agghati, so pacchā bhinno vā chiddo vā āṇigaṇṭhikāhato vā appaggho hoti tasmā na sabbadā bhaṇḍaṃ pakatiaggheneva kātabbanti. Evaṃ aggho oloketabbo.
Giá trị‘ là giá trị của vật. Vì giá trị của một vật mới, sau này sẽ giảm đi; ví như cái bát mới rửa sạch trị giá tám hoặc mười (đồng), sau này nếu bị vỡ, hoặc thủng, hoặc bị đóng chốt vá lại, thì trở nên ít giá trị; do đó, không phải lúc nào vật cũng được (xử lý) theo giá trị ban đầu của nó. Giá trị cần được xem xét như vậy.

Paribhogoti bhaṇḍaparibhogo. Paribhogenāpi hi vāsiādibhaṇḍassa aggho parihāyati. Tasmā evaṃ upaparikkhitabbaṃ, sace koci kassaci pādagghanakaṃ vāsiṃ harati, tatra vāsisāmiko pucchitabbo – ‘‘tayā ayaṃ vāsi kittakena kītā’’ti? ‘‘Pādena, bhante’’ti. ‘‘Kiṃ pana te kiṇitvāva ṭhapitā, udāhu taṃ vaḷañjesī’’ti? Sace vadati ‘‘ekadivasaṃ me dantakaṭṭhaṃ vā rajanachalliṃ vā pattapacanakadāruṃ vā chinnaṃ, ghaṃsitvā vā nisitā’’ti. Athassā porāṇo aggho bhaṭṭhoti veditabbo. Yathā ca vāsiyā evaṃ añjaniyā vā añjanisalākāya vā kuñcikāya vā palālena vā thusehi vā iṭṭhakacuṇṇena vā ekavāraṃ ghaṃsitvā dhovanamattenāpi aggho bhassati. Tipumaṇḍalassa makaradantacchedanenāpi parimajjitamattenāpi, udakasāṭikāya sakiṃ nivāsanapārupanenāpi paribhogasīsena aṃse vā sīse vā ṭhapanamattenāpi, taṇḍulādīnaṃ papphoṭanenāpi tato ekaṃ vā dve vā apanayanenāpi, antamaso ekaṃ pāsāṇasakkharaṃ uddharitvā chaḍḍitamattenāpi, sappitelādīnaṃ bhājanantarapaavattanenāpi, antamaso tato makkhikaṃ vā kipillikaṃ vā uddharitvā chaḍḍitamattenāpi, guḷapiṇḍakassa madhurabhāvajānanatthaṃ nakhena vijjhitvā aṇumattaṃ gahitamattenāpi aggho bhassati. Tasmā yaṃkiñci pādagghanakaṃ vuttanayeneva sāmikehi paribhogena ūnaṃ kataṃ hoti, na taṃ avahaṭo bhikkhu pārājikena kātabbo. Evaṃ paribhogo oloketabbo. Evaṃ imāni tulayitvā pañca ṭhānāni dhāreyyatthaṃ vicakkhaṇo, āpattiṃ vā anāpattiṃ vā garukaṃ vā lahukaṃ vā āpattiṃ yathāṭhāne ṭhapeyyāti.
Cách sử dụng‘ là cách sử dụng vật. Vì qua cách sử dụng, giá trị của các vật như cái bào v.v… cũng bị giảm đi. Do đó, cần phải tìm hiểu như vầy: nếu ai đó lấy trộm cái bào trị giá một pāda của người nào, khi đó phải hỏi chủ nhân của cái bào: ‘Thầy đã mua cái bào này với giá bao nhiêu?’ (Nếu đáp:) ‘Bạch ngài, một pāda’. (Phải hỏi tiếp:) ‘Vậy thầy mua rồi cất giữ luôn, hay đã dùng nó rồi?’ Nếu vị ấy nói: ‘Một hôm tôi đã dùng nó để gọt tăm xỉa răng, hoặc vỏ cây để nhuộm, hoặc củi để nung bát, hoặc đã mài hay làm bén nó’. Khi đó, cần hiểu rằng giá trị ban đầu của nó đã bị mất đi. Và cũng như đối với cái bào, tương tự như vậy, đối với hộp đựng thuốc mắt, que thuốc mắt, chìa khóa, chỉ cần một lần chùi rửa bằng rơm, trấu, hoặc bột gạch, giá trị cũng bị giảm. Đối với cái đĩa thiếc, chỉ cần cắt hình răng cá sấu hoặc lau chùi, giá trị cũng giảm; đối với y tắm, chỉ cần mặc một lần, hoặc theo cách sử dụng, đặt lên vai hay lên đầu, giá trị cũng giảm; đối với gạo v.v…, chỉ cần sàng sảy hoặc lấy đi một hai hạt, giá trị cũng giảm; cho đến việc nhặt một viên sỏi rồi ném đi, giá trị cũng giảm; đối với bơ lỏng, dầu v.v…, chỉ cần việc chuyển sang đồ đựng khác, giá trị cũng giảm; cho đến việc bắt một con ruồi hay con kiến ra khỏi đó rồi vứt đi, giá trị cũng giảm; đối với viên đường mật, chỉ cần dùng móng tay bấm vào để biết vị ngọt rồi lấy một chút xíu, giá trị cũng giảm. Do đó, bất kỳ vật gì trị giá một pāda, nếu đã bị giảm (giá trị) do chủ nhân sử dụng theo cách đã nói, thì Tỳ khưu lấy trộm vật đó không bị xử phạt bằng tội Bất Cộng Trụ. Cách sử dụng cần được xem xét như vậy. Như vậy, người sáng suốt, sau khi cân nhắc năm điểm này, nên giữ lấy ý nghĩa (để quyết định), rồi đặt tội hay không tội, tội nặng hay tội nhẹ vào đúng vị trí của nó.

Niṭṭhito ‘‘ādiyeyya…pe… saṅketaṃ vītināmeyyā’’ti.

Phần (giải thích các thuật ngữ) ‘lấy… (v.v.)… vượt qua nơi quy định’ đến đây là hết.

Imesaṃ padānaṃ vinicchayo.

Sự phân xử các thuật ngữ này (kết thúc tại đây).

Idāni yadidaṃ ‘‘yathārūpe adinnādāne’’tiādīni vibhajantena ‘‘yathārūpaṃ nāmā’’tiādi vuttaṃ. Tattha yathārūpanti yathājātikaṃ. Taṃ pana yasmā pādato paṭṭhāya hoti, tasmā ‘‘pādaṃ vā pādārahaṃ vā atirekapādaṃ vā’’ti āha. Tattha pādena kahāpaṇassa catutthabhāgaṃ akappiyabhaṇḍameva dasseti. Pādārahena pādagghanakaṃ kappiyabhaṇḍaṃ. Atirekapādena ubhayampi. Ettāvatā sabbākārena dutiyapārājikappahonakavatthu dassitaṃ hoti.
Bây giờ, khi phân tích các (thuật ngữ) như ‘trong trường hợp lấy của không cho tương xứng’ v.v…, (chú giải) bắt đầu bằng ‘Tương xứng là‘ v.v… Trong đó, ‘tương xứng‘ là đúng theo loại của nó. Và vì điều đó bắt đầu từ một pāda trở lên, do đó (Luật Pāḷi) nói: ‘một pāda, hoặc vật trị giá một pāda, hoặc hơn một pāda‘. Trong đó, ‘một pāda’ chỉ một phần tư của một kahāpaṇa, là vật không hợp lệ (đối với Tỳ khưu nếu không được cúng dường đúng cách, ví dụ tiền tệ). ‘Vật trị giá một pāda’ (chỉ) vật hợp lệ trị giá một pāda. ‘Hơn một pāda’ (chỉ) cả hai loại. Với chừng ấy, sự việc đủ để cấu thành tội Bất Cộng Trụ thứ hai đã được trình bày một cách đầy đủ.

Pathabyā rājāti sakalapathaviyā rājā dīpacakkavattī asokasadiso, yo vā panaññopi ekadīpe rājā, sīhaḷarājasadiso. Padesarājāti ekadīpassa padesissaro, bimbisāra-pasenadi-ādayo viya. Maṇḍalikā nāma ye dīpapadesepi ekamekaṃ maṇḍalaṃ bhuñjanti. Antarabhogikā nāma dvinnaṃ rājūnaṃ antarā katipayagāmasāmikā. Akkhadassāti dhammavinicchanakā, te dhammasabhāyaṃ nisīditvā aparādhānurūpaṃ corānaṃ hatthapādacchejjādiṃ anusāsanti. Ye pana ṭhānantarappattā amaccā vā rājakumārā vā katāparādhā honti, te rañño ārocenti, garukaṃ ṭhānaṃ sayaṃ na vinicchinanti. Mahāmattāti ṭhānantarappattā mahāamaccā; tepi tattha tattha gāme vā nigame vā nisīditvā rājakiccaṃ karonti. Ye vā panāti aññepi ye rājakulanissitā vā sakissariyanissitā vā hutvā chejjabhejjaṃ anusāsanti, sabbepi te imasmiṃ atthe ‘‘rājāno’’ti dasseti.
Vua của toàn cõi đất‘ là vị vua của toàn thể trái đất, vị Chuyển luân vương cai trị một châu, giống như vua Asoka; hoặc vị vua nào khác cai trị một hòn đảo, giống như vua xứ Sīhaḷa. ‘Vua một vùng‘ là người cai trị một vùng của một hòn đảo, giống như các vua Bimbisāra, Pasenadi v.v… ‘Vua chư hầu‘ là những người cai quản từng lãnh địa (maṇḍala) ngay cả trong một vùng của một hòn đảo. ‘Người cai quản vùng trung gian‘ là những người làm chủ một vài làng ở giữa (lãnh thổ của) hai vị vua. ‘Quan xét xử‘ là những người phân xử theo pháp; họ ngồi trong pháp đình rồi tuyên án chặt tay chân v.v… đối với kẻ trộm tùy theo tội trạng. Còn những vị quan lại hoặc vương tử có địa vị khác, nếu phạm tội, họ sẽ trình lên vua, chứ không tự mình phân xử trường hợp nghiêm trọng. ‘Đại thần‘ là các vị đại quan có địa vị; họ cũng ngồi ở làng hoặc thị trấn này kia để thực thi việc của vua. ‘Hoặc những người nào khác‘: những người nào khác dựa vào hoàng tộc hoặc dựa vào quyền lực của mình mà ra lệnh trừng phạt bằng cách chặt (tay chân) hay đánh đập, tất cả họ trong ý nghĩa này được chỉ là ‘các vị vua’.

Haneyyunti potheyyuñceva chindeyyuñca. Pabbājeyyunti nīhareyyuṃ. Corosīti evamādīni ca vatvā paribhāseyyuṃ; tenevāha – ‘‘paribhāso eso’’ti. Purimaṃ upādāyāti methunaṃ dhammaṃ paṭisevitvā pārājikaṃ āpattiṃ āpannaṃ puggalaṃ upādāya. Sesaṃ pubbe vuttanayattā uttānapadatthattā ca pākaṭamevāti.
Giết‘ là vừa đánh đập vừa chặt (tay chân). ‘Trục xuất‘ là đuổi đi. ‘Ngươi là kẻ trộm‘: và nói những lời tương tự như vậy rồi mắng nhiếc; do đó mới nói: ‘đó là sự mắng nhiếc’. ‘Căn cứ vào trường hợp trước‘ là căn cứ vào người đã phạm tội Bất Cộng Trụ do thực hành việc dâm dục. Phần còn lại, vì đã theo phương pháp đã nói trước và vì ý nghĩa của từ ngữ rõ ràng, nên đã hiển nhiên.

93. Evaṃ uddiṭṭhasikkhāpadaṃ padānukkamena vibhajitvā idāni yaṃ taṃ ādiyeyyātiādīhi chahi padehi saṅkhepato ādānaṃ dassetvā saṅkhepatoeva ‘‘pādaṃ vā pādārahaṃ vā atirekapādaṃ vā’’ti ādātabbabhaṇḍaṃ dassitaṃ, taṃ yattha yattha ṭhitaṃ, yathā yathā ādānaṃ gacchati, anāgate pāpabhikkhūnaṃ lesokāsanirundhanatthaṃ tathā tathā vitthārato dassetuṃ ‘‘bhūmaṭṭhaṃ thalaṭṭha’’ntiādinā nayena mātikaṃ ṭhapetvā ‘‘bhūmaṭṭhaṃ nāma bhaṇḍaṃ bhūmiyaṃ nikkhittaṃ hotī’’tiādinā nayena tassa vibhaṅgaṃ āha.
93. Sau khi đã phân tích học giới được nêu ra theo thứ tự từ ngữ như vậy, bây giờ, đối với việc lấy (của không cho) đã được chỉ rõ một cách tóm tắt bằng sáu thuật ngữ như ‘lấy’ v.v…, và vật bị lấy cũng đã được chỉ rõ một cách tóm tắt là ‘một pāda, hoặc vật trị giá một pāda, hoặc hơn một pāda’, để trình bày một cách chi tiết về việc vật đó được đặt ở đâu, và việc lấy xảy ra như thế nào, nhằm ngăn chặn cơ hội lẩn tránh của các Tỳ khưu xấu trong tương lai, (chú giải) đã đặt ra đề mục theo phương pháp ‘vật ở dưới đất, vật ở trên đất liền’ v.v…, rồi giải thích nó theo phương pháp bắt đầu bằng ‘Vật ở dưới đất là vật được đặt trong lòng đất‘ v.v…

Pañcavīsatiavahārakathā niṭṭhitā.

Luận về Hai Mươi Lăm Cách Chiếm Đoạt đến đây là hết.

Bhūmaṭṭhakathā

Luận về Vật ở Dưới Đất

94. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanāya saddhiṃ vinicchayakathā. Nikhātanti bhūmiyaṃ khaṇitvā ṭhapitaṃ. Paṭicchannanti paṃsuiṭṭhakādīhi paṭicchannaṃ. Bhūmaṭṭhaṃ bhaṇḍaṃ…pe… gacchati vā, āpatti dukkaṭassāti taṃ evaṃ nikhaṇitvā vā paṭicchādetvā vā ṭhapitattā bhūmiyaṃ ṭhitaṃ bhaṇḍaṃ yo bhikkhu kenacideva upāyena ñatvā ‘‘āharissāmī’’ti theyyacitto hutvā rattibhāge uṭṭhāya gacchati, so bhaṇḍaṭṭhānaṃ appatvāpi sabbakāyavacīvikāresu dukkaṭaṃ āpajjati. Kathaṃ? So hi tassa āharaṇatthāya uṭṭhahanto yaṃ yaṃ aṅgapaccaṅgaṃ phandāpeti, sabbattha dukkaṭameva. Nivāsanapārupanaṃ saṇṭhapeti, hatthavāre hatthavāre dukkaṭaṃ. ‘‘Mahantaṃ nidhānaṃ na sakkā ekena āharituṃ, dutiyaṃ pariyesissāmī’’ti kassaci sahāyassa santikaṃ gantukāmo dvāraṃ vivarati, padavāre ca hatthavāre ca dukkaṭaṃ. Dvārapidahane pana aññasmiṃ vā gamanassa anupakāre anāpatti. Tassa nipannokāsaṃ gantvā ‘‘itthannāmā’’ti pakkosati, tamatthaṃ ārocetvā ‘‘ehi gacchāmā’’ti vadati, vācāya vācāya dukkaṭaṃ. So tassa vacanena uṭṭhahati, tassāpi dukkaṭaṃ. Uṭṭhahitvā tassa santikaṃ gantukāmo nivāsanapārupanaṃ saṇṭhapeti, dvāraṃ vivaritvā tassa samīpaṃ gacchati, hatthavārapadavāresu sabbattha dukkaṭaṃ. So taṃ pucchati ‘‘asuko ca asuko ca kuhiṃ, asukañca asukañca pakkosāhī’’ti, vācāya vācāya dukkaṭaṃ. Sabbe samāgate disvā ‘‘mayā asukasmiṃ nāma ṭhāne evarūpo nidhi upaladdho, gacchāma taṃ gahetvā puññāni ca karissāma, sukhañca jīvissāmā’’ti vadati, vācāya vācāya dukkaṭameva.
94. Sau đây là luận giải về quyết định cùng với phần giải thích các từ không rõ nghĩa. ‘Được chôn‘ là đào trong đất rồi đặt vào. ‘Được che giấu‘ là được che đậy bằng đất, gạch v.v… ‘Vật ở dưới đất… (v.v.)… hoặc đi (để lấy), phạm tội Tác ác‘: Vật được đặt trong lòng đất do được chôn hoặc được che giấu như vậy, Tỳ khưu nào biết được bằng một phương cách nào đó, với tâm trộm cắp nghĩ rằng ‘ta sẽ lấy nó’, rồi thức dậy vào ban đêm mà đi, vị ấy dù chưa đến được chỗ cất vật, cũng phạm tội Tác ác trong tất cả các hành vi của thân và lời. Như thế nào? Vị ấy, khi đứng dậy để đi lấy vật đó, mỗi khi làm cử động bất kỳ chân tay nào, đều phạm tội Tác ác ở mọi (cử động). (Khi) sửa soạn y nội và y vai, mỗi cử động của tay đều phạm tội Tác ác. (Khi nghĩ) ‘Kho báu lớn, một mình không thể lấy được, ta sẽ tìm người thứ hai’, rồi muốn đi đến chỗ một người bạn nào đó mà mở cửa, mỗi bước chân và mỗi cử động của tay đều phạm tội Tác ác. Nhưng khi đóng cửa, hoặc trong trường hợp khác không giúp ích cho việc đi, thì không phạm tội. (Khi) đi đến chỗ người kia đang nằm, gọi ‘Này bạn’, rồi báo cho biết sự việc ấy và nói ‘Hãy đến, chúng ta cùng đi’, mỗi lời nói đều phạm tội Tác ác. Người kia nghe lời nói đó mà đứng dậy, vị ấy cũng phạm tội Tác ác. (Người được gọi) đứng dậy, muốn đi đến chỗ vị kia, sửa soạn y nội và y vai, mở cửa rồi đi đến gần vị ấy, trong mỗi cử động của tay và mỗi bước chân đều phạm tội Tác ác. Vị kia hỏi người này: ‘Người này người kia ở đâu, hãy gọi người này người kia đến’, mỗi lời nói đều phạm tội Tác ác. (Khi) thấy tất cả đã tập hợp, (vị đầu tiên) nói: ‘Tôi đã tìm thấy kho báu như thế này ở nơi kia, chúng ta hãy đi lấy nó, rồi sẽ làm phước và sống sung sướng’, mỗi lời nói đều phạm tội Tác ác.

Evaṃ laddhasahāyo kudālaṃ pariyesati. Sace panassa attano kudālo atthi, ‘‘taṃ āharissāmī’’ti gacchanto ca gaṇhanto ca āharanto ca sabbattha hatthavārapadavāresu dukkaṭaṃ āpajjati . Sace natthi, aññaṃ bhikkhuṃ vā gahaṭṭhaṃ vā gantvā yācati, yācanto ca sace ‘‘kudālaṃ me dehi, kudālena me attho , kiñci kātabbamatthi, taṃ katvā paccāharissāmī’’ti musā abhaṇanto yācati, vācāya vācāya dukkaṭaṃ. Sace ‘‘mātikā sodhetabbā atthi, vihāre bhūmikammaṃ kātabbaṃ atthī’’ti musāpi bhaṇati, yaṃ yaṃ vacanaṃ musā, tattha tattha pācittiyaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana saccepi alikepi dukkaṭameva vuttaṃ, taṃ pamādalikhitanti veditabbaṃ. Na hi adinnādānassa pubbapayoge pācittiyaṭṭhāne dukkaṭaṃ nāma atthi. Sace pana kudālassa daṇḍo natthi, ‘‘daṇḍaṃ karissāmī’’ti vāsiṃ vā pharasuṃ vā niseti, tadatthāya gacchati, gantvā sukkhakaṭṭhaṃ chindati tacchati ākoṭeti, sabbattha hatthavārapadavāresu dukkaṭaṃ. Allarukkhaṃ chindati, pācittiyaṃ. Tato paraṃ sabbapayogesu dukkaṭaṃ. Saṅkhepaṭṭhakathāyaṃ pana mahāpaccariyañca tattha jātakakaṭṭhalatāchedanatthaṃ vāsipharasuṃ pariyesantānampi dukkaṭaṃ vuttaṃ. Sace pana tesaṃ evaṃ hoti ‘‘vāsipharasukudāle yācantā āsaṅkitā bhavissāma, lohaṃ samuṭṭhāpetvā karomā’’ti. Tato araññaṃ gantvā lohabījatthaṃ pathaviṃ khaṇanti, akappiyapathaviṃ khaṇantānaṃ dukkaṭehi saddhiṃ pācittiyānīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Yathā ca idha, evaṃ sabbattha pācittiyaṭṭhāne dukkaṭā na muccati. Kappiyapathaviṃ khaṇantānaṃ dukkaṭāniyeva. Bījaṃ pana gahetvā tato paraṃ sabbakiriyāsu payoge payoge dukkaṭaṃ.
Sau khi có được bạn đồng hành như vậy, (vị ấy) tìm cuốc. Nếu vị ấy có cuốc của mình, khi đi, lấy, và mang nó đến với ý nghĩ ‘ta sẽ mang nó đến’, đều phạm tội Tác ác trong mỗi cử động của tay và mỗi bước chân. Nếu không có, (vị ấy) đi đến xin một Tỳ khưu khác hoặc một người tại gia; và khi xin, nếu xin mà không nói dối rằng: ‘Xin hãy cho tôi cái cuốc, tôi cần dùng cuốc, có việc cần làm, làm xong tôi sẽ mang trả lại’, thì mỗi lời nói đều phạm tội Tác ác. Nếu nói dối rằng: ‘Có mương nước cần khơi thông, có việc san lấp mặt bằng trong tự viện cần làm’, thì mỗi lời nói dối, ở mỗi (lời) đó đều phạm tội Ưng Đối Trị. Còn trong Đại Chú Giải, nói rằng dù nói thật hay nói dối cũng đều phạm tội Tác ác, điều đó cần được hiểu là do ghi chép nhầm lẫn. Vì trong hành động chuẩn bị trước của việc lấy của không cho, không có tội Tác ác ở chỗ (đáng lý là) tội Ưng Đối Trị. Còn nếu cái cuốc không có cán, (vị ấy nghĩ) ‘ta sẽ làm cán’, rồi mài cái bào hoặc cái rìu, đi để làm việc đó, đi đến chặt cây khô, đẽo, gọt, thì trong mỗi cử động của tay và mỗi bước chân đều phạm tội Tác ác. (Nếu) chặt cây tươi, phạm tội Ưng Đối Trị. Từ đó trở đi, trong tất cả các hành động chuẩn bị (khác), đều phạm tội Tác ác. Còn trong Chú giải Tóm Tắt và cả Chú giải Mahāpaccari, nói rằng ngay cả việc tìm kiếm bào, rìu để chặt cây, dây leo mọc ở đó cũng phạm tội Tác ác. Còn nếu họ nghĩ như vầy: ‘Khi xin bào, rìu, cuốc, chúng ta sẽ bị nghi ngờ, (thôi thì) chúng ta hãy luyện sắt rồi tự làm lấy’. Khi đó, họ vào rừng, đào đất để lấy quặng sắt; trong Chú giải Mahāpaccari nói rằng những người đào đất không hợp lệ (để đào) sẽ cùng với các tội Tác ác (còn) phạm các tội Ưng Đối Trị. Như ở đây, cũng vậy ở tất cả mọi nơi, ở chỗ (phạm tội) Ưng Đối Trị, cũng không thoát khỏi (ít nhất là) tội Tác ác (cho các hành động liên quan). Những người đào đất hợp lệ (để đào) thì chỉ phạm các tội Tác ác. Còn sau khi lấy được quặng, từ đó về sau, trong tất cả các công đoạn, mỗi một hành động chuẩn bị đều phạm tội Tác ác.

Piṭakapariyesanepi hatthavārapadavāresu vuttanayeneva dukkaṭaṃ. Musāvāde pācittiyaṃ. Piṭakaṃ kātukāmatāya vallicchedane pācittiyanti sabbaṃ purimanayeneva veditabbaṃ. Gacchati vā āpatti dukkaṭassāti evaṃ pariyiṭṭhasahāyakudālapiṭako nidhiṭṭhānaṃ gacchati, padavāre padavāre dukkaṭaṃ. Sace pana gacchanto ‘‘imaṃ nidhiṃ laddhā buddhapūjaṃ vā dhammapūjaṃ vā saṅghabhattaṃ vā karissāmī’’ti kusalaṃ uppādeti, kusalacittena gamane anāpatti. Kasmā? ‘‘Theyyacitto dutiyaṃ vā…pe… gacchati vā, āpatti dukkaṭassā’’ti vuttattā. Yathā ca idha, evaṃ sabbattha atheyyacittassa anāpatti. Maggato okkamma nidhānaṭṭhānaṃ gamanatthāya maggaṃ karonto bhūtagāmaṃ chindati, pācittiyaṃ. Sukkhakaṭṭhaṃ chindati, dukkaṭaṃ.
Ngay cả khi tìm kiếm giỏ (để đựng kho báu), cũng phạm tội Tác ác trong mỗi cử động của tay và mỗi bước chân theo phương pháp đã nói. (Nếu) nói dối (để mượn giỏ), phạm tội Ưng Đối Trị. (Nếu) muốn tự làm giỏ mà chặt dây leo, phạm tội Ưng Đối Trị; tất cả cần được hiểu theo phương pháp đã nói trước. ‘Hoặc đi, phạm tội Tác ác‘: (nghĩa là) người đã tìm được bạn đồng hành, cuốc, giỏ như vậy, (nay) đi đến chỗ cất kho báu, mỗi bước chân đều phạm tội Tác ác. Nhưng nếu khi đi, (vị ấy) khởi lên ý nghĩ thiện rằng: ‘Sau khi lấy được kho báu này, ta sẽ cúng dường Phật, hoặc cúng dường Pháp, hoặc cúng dường bữa ăn cho Tăng chúng’, thì khi đi với tâm thiện đó, không phạm tội. Tại sao? Vì đã được nói: ‘Với tâm trộm cắp, (nếu) tìm người thứ hai… (v.v.)… hoặc đi, phạm tội Tác ác’. Như ở đây, cũng vậy ở tất cả mọi nơi, nếu không có tâm trộm cắp thì không phạm tội. (Nếu) đi lệch khỏi đường, rồi để đi đến chỗ cất kho báu mà làm đường, (trong khi đó) chặt phá cây cỏ tươi, phạm tội Ưng Đối Trị. (Nếu) chặt cây khô, phạm tội Tác ác.

Tatthajātakanti ciranihitāya kumbhiyā upari jātakaṃ. Kaṭṭhaṃ vā lataṃ vāti na kevalaṃ kaṭṭhalatameva, yaṃkiñci allaṃ vā sukkhaṃ vā tiṇarukkhalatādiṃ chindantassa sahapayogattā dukkaṭameva hoti.
Vật mọc tại đó‘ là vật mọc trên cái hũ đã được chôn từ lâu. ‘Cây hoặc dây leo‘: không chỉ cây gỗ và dây leo, mà bất kỳ cỏ, cây, dây leo v.v… nào, dù tươi hay khô, khi chặt chúng, do là hành động đồng thời (với việc chiếm đoạt), đều phạm tội Tác ác.

Aṭṭhavidhaṃ hetaṃ dukkaṭaṃ nāma imasmiṃ ṭhāne samodhānetvā therehi dassitaṃ – pubbapayogadukkaṭaṃ , sahapayogadukkaṭaṃ, anāmāsadukkaṭaṃ, durupaciṇṇadukkaṭaṃ, vinayadukkaṭaṃ, ñātadukkaṭaṃ, ñattidukkaṭaṃ, paṭissavadukkaṭanti. Tattha ‘‘theyyacitto dutiyaṃ vā kudālaṃ vā piṭakaṃ vā pariyesati gacchati vā, āpatti dukkaṭassā’’ti idaṃ pubbapayogadukkaṭaṃ nāma. Ettha hi dukkaṭaṭṭhāne dukkaṭaṃ, pācittiyaṭṭhāne pācittiyameva hoti. ‘‘Tatthajātakaṃ kaṭṭhaṃ vā lataṃ vā chindati, āpatti dukkaṭassā’’ti idaṃ sahapayogadukkaṭaṃ nāma. Ettha pana pācittiyavatthu ca dukkaṭavatthu ca dukkaṭaṭṭhāneyeva tiṭṭhati. Kasmā? Avahārassa sahapayogattāti. Yaṃ pana dasavidhaṃ ratanaṃ, sattavidhaṃ dhaññaṃ, sabbañca āvudhabhaṇḍādiṃ āmasantassa dukkaṭaṃ vuttaṃ, idaṃ anāmāsadukkaṭaṃ nāma. Yaṃ kadalināḷikerādīnaṃ tatthajātakaphalāni āmasantassa dukkaṭaṃ vuttaṃ, idaṃ durupaciṇṇadukkaṭaṃ nāma. Yaṃ pana piṇḍāya carantassa patte raje patite pattaṃ appaṭiggahetvā adhovitvā vā tattha bhikkhaṃ gaṇhantassa dukkaṭaṃ vuttaṃ, idaṃ vinayadukkaṭaṃ nāma. ‘‘Sutvā na vadanti, āpatti dukkaṭassā’’ti (pārā. 419) idaṃ ñātadukkaṭaṃ nāma. Yaṃ ekādasasu samanubhāsanāsu ‘‘ñattiyā dukkaṭa’’nti (pārā. 414) vuttaṃ, idaṃ ñattidukkaṭaṃ nāma. ‘‘Tassa, bhikkhave, bhikkhuno purimikā ca na paññāyati, paṭissave ca āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 207) idaṃ paṭissavadukkaṭaṃ nāma. Idaṃ pana sahapayogadukkaṭaṃ. Tena vuttaṃ – ‘‘yaṃkiñci allaṃ vā sukkhaṃ vā tiṇarukkhalatādiṃ chindantassa sahapayogattā dukkaṭameva hotī’’ti.
Tám loại tội ‘Tác ác‘ này đã được các vị Trưởng lão trình bày bằng cách gộp lại ở đây – Tác ác do hành động chuẩn bị trước, Tác ác do hành động đồng thời, Tác ác liên quan đến vật cấm chạm, Tác ác do thực hành sai xấu, Tác ác do (vi phạm) Luật, Tác ác do biết (mà không nói), Tác ác do Tăng sự, và Tác ác do hứa hẹn. Trong đó, (câu) ‘Với tâm trộm cắp, (nếu) tìm người thứ hai, hoặc cuốc, hoặc giỏ, hoặc đi, phạm tội Tác ác’ – đây gọi là ‘Tác ác do hành động chuẩn bị trước‘. Vì ở đây, chỗ (đáng) phạm Tác ác thì (phạm) Tác ác, chỗ (đáng) phạm Ưng Đối Trị thì (phạm) Ưng Đối Trị. (Câu) ‘Chặt cây hoặc dây leo mọc tại đó, phạm tội Tác ác’ – đây gọi là ‘Tác ác do hành động đồng thời‘. Nhưng ở đây, cả trường hợp (đáng) phạm Ưng Đối Trị và trường hợp (đáng) phạm Tác ác đều chỉ nằm ở chỗ (phạm) Tác ác. Tại sao? Vì đó là hành động đồng thời với sự chiếm đoạt. Còn việc nói rằng người chạm đến mười loại bảo vật, bảy loại ngũ cốc, và tất cả các loại vũ khí, vật dụng v.v… phạm tội Tác ác – đây gọi là ‘Tác ác liên quan đến vật cấm chạm‘. Việc nói rằng người chạm đến trái cây mọc tại chỗ của các cây như chuối, dừa v.v… phạm tội Tác ác – đây gọi là ‘Tác ác do thực hành sai xấu‘. Còn việc nói rằng người đi khất thực, khi bụi rơi vào bát, không nhận lại bát (sau khi để xuống) hoặc không rửa sạch mà nhận vật thực vào đó, phạm tội Tác ác – đây gọi là ‘Tác ác do (vi phạm) Luật‘. (Câu) ‘Nghe mà không nói, phạm tội Tác ác’ (pārā. 419) – đây gọi là ‘Tác ác do biết (mà không nói)‘. Việc được nói trong mười một pháp thẩm vấn rằng ‘phạm tội Tác ác khi làm Tăng sự’ (pārā. 414) – đây gọi là ‘Tác ác do Tăng sự‘. (Câu) ‘Này các Tỳ khưu, đối với Tỳ khưu ấy, (nếu) không biết (lễ Tự tứ) kỳ đầu, và khi hứa hẹn (nhập hạ mà không có trú xứ), phạm tội Tác ác’ (mahāva. 207) – đây gọi là ‘Tác ác do hứa hẹn‘. Còn đây là Tác ác do hành động đồng thời. Do đó đã nói: ‘Khi chặt bất kỳ cỏ, cây, dây leo v.v… nào, dù tươi hay khô, do là hành động đồng thời (với việc chiếm đoạt), đều phạm tội Tác ác’.

Sace panassa tatthajātake tiṇarukkhalatādimhi chinnepi lajjidhammo okkamati, saṃvaro uppajjati, chedanapaccayā dukkaṭaṃ desetvā muccati. Atha dhuranikkhepaṃ akatvā saussāhova paṃsuṃ khaṇati, chedanadukkaṭaṃ paṭippassambhati, khaṇanadukkaṭe patiṭṭhāti. Akappiyapathaviṃ khaṇantopi hi idha sahapayogattā dukkaṭameva āpajjati. Sace panassa sabbadisāsu khaṇitvā kumbhimūlaṃ pattassāpi lajjidhammo okkamati, khaṇanapaccayā dukkaṭaṃ desetvā muccati.
Nhưng nếu ngay cả sau khi đã chặt cỏ, cây, dây leo v.v… mọc tại đó, tâm hổ thẹn xâm chiếm vị ấy, sự thu thúc khởi lên, thì sau khi sám hối tội Tác ác do việc chặt (cây cỏ), vị ấy được thoát tội. Nếu không từ bỏ ý định (trộm cắp) mà vẫn nỗ lực đào đất, thì tội Tác ác do chặt (cây cỏ) lắng xuống, và vị ấy đứng vào (tội) Tác ác do đào (đất). Vì ngay cả khi đào đất không hợp lệ (để đào), ở đây do là hành động đồng thời (với ý định chiếm đoạt), cũng chỉ phạm tội Tác ác. Nhưng nếu ngay cả sau khi đã đào khắp các phía và đến được đáy hũ, tâm hổ thẹn xâm chiếm vị ấy, thì sau khi sám hối tội Tác ác do việc đào, vị ấy được thoát tội.

Byūhati vāti atha pana saussāhova paṃsuṃ viyūhati, ekapasse rāsiṃ karoti, khaṇanadukkaṭaṃ paṭippassambhati, viyūhanadukkaṭe patiṭṭhāti. Tañca paṃsuṃ tattha tattha puñjaṃ karonto payoge payoge dukkaṭaṃ āpajjati. Sace pana rāsiṃ katvāpi dhuranikkhepaṃ karoti, lajjidhammaṃ āpajjati , viyūhanadukkaṭaṃ desetvā muccati. Uddharati vāti atha pana saussāhova paṃsuṃ uddharitvā bahi pāteti, viyūhanadukkaṭaṃ paṭippassambhati, uddharaṇadukkaṭe patiṭṭhāti. Paṃsuṃ pana kudālena vā hatthehi vā pacchiyā vā tahiṃ tahiṃ pātento payoge payoge dukkaṭaṃ āpajjati. Sace pana sabbaṃ paṃsuṃ nīharitvā kumbhiṃ thalaṭṭhaṃ katvāpi lajjidhammaṃ āpajjati, uddharaṇadukkaṭaṃ desetvā muccati. Atha pana saussāhova kumbhiṃ āmasati, uddharaṇadukkaṭaṃ paṭippassambhati, āmasanadukkaṭe patiṭṭhāti. Āmasitvāpi ca lajjidhammaṃ āpajjanto āmasanadukkaṭaṃ desetvā muccati. Atha saussāhova kumbhiṃ phandāpeti, āmasanadukkaṭaṃ paṭippassambhati, ‘‘phandāpeti, āpatti thullaccayassā’’ti vuttathullaccaye patiṭṭhāti.
Hoặc dọn dẹp‘ (Byūhati vā): nếu vẫn nỗ lực mà dọn dẹp đất, chất thành đống ở một bên, thì tội Tác ác do đào lắng xuống, và vị ấy đứng vào (tội) Tác ác do dọn dẹp. Và khi chất đất thành đống ở chỗ này chỗ kia, mỗi một hành động đều phạm tội Tác ác. Nhưng nếu ngay cả sau khi đã chất thành đống mà từ bỏ ý định (trộm cắp), tâm hổ thẹn xâm chiếm, thì sau khi sám hối tội Tác ác do dọn dẹp, vị ấy được thoát tội. ‘Hoặc xúc đổ đi‘ (Uddharati vā): nếu vẫn nỗ lực mà xúc đất đổ ra ngoài, thì tội Tác ác do dọn dẹp lắng xuống, và vị ấy đứng vào (tội) Tác ác do xúc đổ đi. Khi dùng cuốc, hoặc tay, hoặc giỏ mà đổ đất ở chỗ này chỗ kia, mỗi một hành động đều phạm tội Tác ác. Nhưng nếu ngay cả sau khi đã mang hết đất ra ngoài và làm cho cái hũ lộ trên mặt đất mà tâm hổ thẹn xâm chiếm, thì sau khi sám hối tội Tác ác do xúc đổ đi, vị ấy được thoát tội. Nếu vẫn nỗ lực mà chạm đến cái hũ, thì tội Tác ác do xúc đổ đi lắng xuống, và vị ấy đứng vào (tội) Tác ác do chạm đến. Và ngay cả sau khi chạm đến mà tâm hổ thẹn xâm chiếm, thì sau khi sám hối tội Tác ác do chạm đến, vị ấy được thoát tội. Nếu vẫn nỗ lực mà làm rung động cái hũ, thì tội Tác ác do chạm đến lắng xuống, và vị ấy đứng vào (tội) Trọng Tội đã được nói là ‘làm rung động, phạm tội Trọng Tội’.

Tatrāyaṃ dukkaṭathullaccayānaṃ dvinnampi vacanattho – paṭhamaṃ tāvettha duṭṭhu kataṃ satthārā vuttakiccaṃ virādhetvā katanti dukkaṭaṃ. Atha vā duṭṭhaṃ kataṃ, virūpā sā kiriyā bhikkhukiriyānaṃ majjhe na sobhatīti evampi dukkaṭaṃ. Vuttañcetaṃ –
Ở đây, đây là ý nghĩa từ ngữ của cả hai (loại tội) Tác ác và Trọng Tội – Trước hết, ở đây, (hành vi) làm sai xấu, làm trái với phận sự đã được Đức Đạo Sư dạy, (đó là) Tác ác. Hoặc là, việc làm xấu xa, hành vi sai trái đó không tốt đẹp giữa các hành vi của Tỳ khưu, như vậy cũng là Tác ác. Và điều này đã được nói –

‘‘Dukkaṭaṃ iti yaṃ vuttaṃ, taṃ suṇohi yathātathaṃ;
Aparaddhaṃ viraddhañca, khalitaṃ yañca dukkaṭaṃ.
‘‘Yaṃ manusso kare pāpaṃ, āvi vā yadi vā raho;
Dukkaṭanti pavedenti, tenetaṃ iti vuccatī’’ti. (pari. 339);
“‘Điều được gọi là Tác ác, hãy nghe đúng như thật:
Phạm lỗi, sai trái, và vấp ngã, đó là Tác ác.
Việc ác nào người làm, dù công khai hay kín đáo;
Họ gọi là Tác ác, do đó nó được gọi như vậy’.” (pari. 339);

Itaraṃ pana thūlattā, accayattā ca thullaccayaṃ. ‘‘Samparāye ca duggati’’ (saṃ. ni. 1.49), ‘‘yaṃ hoti kaṭukapphala’’ntiādīsu (dha. pa. 66; netti. 91) viya cettha saṃyogabhāvo veditabbo. Ekassa santike desetabbesu hi accayesu tena samo thūlo accayo natthi. Tasmā vuttaṃ ‘‘thūlattā accayattā ca thullaccaya’’nti. Vuttañcetaṃ –
Còn loại kia, do sự thô trọng và do sự vi phạm, nên (gọi là) Trọng Tội. Ở đây, cần hiểu sự kết hợp (của hai từ ‘thūla’ và ‘accaya’) giống như trong các (cụm từ) ‘và khổ cảnh ở đời sau’ (samparāye ca duggati) (saṃ. ni. 1.49), ‘điều có quả đắng cay’ (yaṃ hoti kaṭukapphalaṃ) (dha. pa. 66; netti. 91) v.v… Vì trong các tội vi phạm phải được sám hối với một vị (Tỳ khưu), không có tội vi phạm nào thô trọng bằng tội ấy. Do đó, được nói: ‘do sự thô trọng và do sự vi phạm, nên (gọi là) Trọng Tội’. Và điều này đã được nói –

‘‘Thullaccayanti yaṃ vuttaṃ, taṃ suṇohi yathātathaṃ;
Ekassa mūle yo deseti, yo ca taṃ paṭiggaṇhati;
Accayo tena samo natthi, tenetaṃ iti vuccatī’’ti. (pari. 339);
“‘Điều được gọi là Trọng Tội, hãy nghe đúng như thật:
Người sám hối với một vị, và người chấp nhận sự sám hối đó;
Không có tội vi phạm nào (thô trọng) bằng tội ấy (trong nhóm tội này), do đó nó được gọi như vậy’.” (pari. 339);

Phandāpentassa ca payoge payoge thullaccayaṃ. Phandāpetvāpi ca lajjidhammaṃ okkanto thullaccayaṃ desetvā muccati. Sahapayogato paṭṭhāyeva cettha purimā purimā āpatti paṭippassambhati. Sahapayogaṃ pana akatvā lajjidhammaṃ okkantena yā pubbapayoge dukkaṭapācittiyā āpannā, sabbā tā desetabbā. Sahapayoge ca tatthajātakacchedane bahukānipi dukkaṭāni paṃsukhaṇanaṃ patvā paṭippassambhanti. Ekaṃ khaṇanadukkaṭameva hoti. Khaṇane bahukānipi viyūhanaṃ, viyūhane bahukānipi uddharaṇaṃ, uddharaṇe bahukānipi āmasanaṃ, āmasane bahukānipi phandāpanaṃ patvā paṭippassambhanti. Paṃsukhaṇanādīsu ca lajjidhamme uppanne bahukāpi āpattiyo hontu, ekameva desetvā muccatīti kurundaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Purimāpattipaṭippassaddhi ca nāmesā ‘‘ñattiyā dukkaṭaṃ, dvīhi kammavācāhi thullaccayā paṭippassambhantī’’ti (pārā. 414) evaṃ anusāvanāsuttesuyeva āgatā. Idha pana dutiyapārājike aṭṭhakathācariyappamāṇena gahetabbāti.
Và đối với người làm rung động (vật), mỗi một hành động (làm rung động) đều phạm tội Trọng Tội. Ngay cả sau khi đã làm rung động, nếu tâm hổ thẹn xâm chiếm, thì sau khi sám hối tội Trọng Tội, vị ấy được thoát tội. Ở đây, kể từ hành động đồng thời (với việc chiếm đoạt) trở đi, các tội (nhẹ hơn) đã phạm trước đó đều lắng xuống. Còn người nào chưa thực hiện hành động đồng thời mà tâm hổ thẹn xâm chiếm, thì tất cả các tội Tác ác và Ưng Đối Trị đã phạm trong các hành động chuẩn bị trước đều phải được sám hối. Và trong hành động đồng thời, khi chặt vật mọc tại đó, dù có nhiều tội Tác ác (đã phạm), khi đến (giai đoạn) đào đất, (các tội Tác ác trước đó) đều lắng xuống. Chỉ còn một tội Tác ác do đào (đất) mà thôi. Khi đào (đất), dù có nhiều (tội Tác ác), khi đến (giai đoạn) dọn dẹp, (chúng) lắng xuống; khi dọn dẹp, dù có nhiều (tội Tác ác), khi đến (giai đoạn) xúc đổ đi, (chúng) lắng xuống; khi xúc đổ đi, dù có nhiều (tội Tác ác), khi đến (giai đoạn) chạm đến, (chúng) lắng xuống; khi chạm đến, dù có nhiều (tội Tác ác), khi đến (giai đoạn) làm rung động, (chúng) lắng xuống. Và trong các (giai đoạn) như đào đất v.v…, nếu tâm hổ thẹn khởi lên, dù có phạm nhiều tội, chỉ cần sám hối một tội (nặng nhất ở giai đoạn đó) là được thoát tội, theo như đã nói trong Chú giải Kurundi. Sự lắng xuống của các tội trước đó này cũng đã có trong các kinh về việc công bố (Tăng sự), như: ‘(khi thực hiện Tăng sự, có thể có) tội Tác ác do (lỗi trong) phần tuyên bố, (và) các tội Trọng Tội (trước đó có thể) lắng xuống bởi hai lần tác bạch (hoàn chỉnh)’ (pārā. 414). Còn ở đây, trong (trường hợp) Bất Cộng Trụ thứ hai này, cần phải lấy theo tiêu chuẩn của các vị Luận sư Chú giải.

Ṭhānācāveti, āpatti pārājikassāti yo pana phandāpetvāpi lajjidhammaṃ anokkamitvāva taṃ kumbhiṃ ṭhānato antamaso kesaggamattampi cāveti, pārājikameva āpajjatīti attho. Ṭhānā cāvanañcettha chahi ākārehi veditabbaṃ. Kathaṃ? Kumbhiṃ mukhavaṭṭiyaṃ gahetvā attano abhimukhaṃ ākaḍḍhanto iminā antena phuṭṭhokāsaṃ kesaggamattampi pārimantena atikkāmeti, pārājikaṃ. Tatheva gahetvā parato pellento pārimantena phuṭṭhokāsaṃ kesaggamattampi iminā antena atikkāmeti, pārājikaṃ. Vāmato vā dakkhiṇato vā apanāmento vāmantena phuṭṭhokāsaṃ kesaggamattampi dakkhiṇantena atikkāmeti, pārājikaṃ. Dakkhiṇantena vā phuṭṭhokāsaṃ kesaggamattampi vāmantena atikkāmeti, pārājikaṃ. Uddhaṃ ukkhipanto kesaggamattampi bhūmito moceti, pārājikaṃ. Khaṇitvā heṭṭhato osīdento bundena phuṭṭhokāsaṃ kesaggamattampi mukhavaṭṭiyā atikkāmeti, pārājikanti evaṃ ekaṭṭhāne ṭhitāya kumbhiyā. Yadi pana kumbhimukhavaṭṭiyā pāsaṃ katvā lohakhāṇuṃ vā khadirasārādikhāṇuṃ vā pathaviyaṃ ākoṭetvā tattha saṅkhalikāya bandhitvā ṭhapenti, ekissā disāya ekāya saṅkhalikāya baddhāya dve ṭhānāni labbhanti, dvīsu tīsu catūsu disāsu catūhi saṅkhalikāhi baddhāya pañca ṭhānāni labbhanti.
Làm di chuyển khỏi chỗ, phạm tội Bất Cộng Trụ‘: Nghĩa là người nào, ngay cả sau khi đã làm rung động (cái hũ), nếu không bị tâm hổ thẹn xâm chiếm mà làm di chuyển cái hũ đó khỏi chỗ, dù chỉ bằng một sợi tóc, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Và việc làm di chuyển khỏi chỗ ở đây cần được hiểu theo sáu cách. Như thế nào? (1) Nắm miệng hũ kéo về phía mình, làm cho đầu bên kia vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đầu bên này dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. (2) Nắm giữ như vậy rồi đẩy ra xa, làm cho đầu bên này vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đầu bên kia dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. (3) Khi dời sang bên trái hoặc bên phải, làm cho đầu bên phải vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đầu bên trái dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. (4) Hoặc làm cho đầu bên trái vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đầu bên phải dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. (5) Khi nhấc lên trên, làm cho (hũ) rời khỏi mặt đất dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. (6) Sau khi đào (đất), làm cho (hũ) lún xuống dưới, khiến cho miệng hũ vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đáy hũ (với mặt đất ban đầu) dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ – như vậy là đối với cái hũ đứng yên một chỗ. Còn nếu người ta làm một cái vòng ở miệng hũ, rồi đóng cọc sắt hoặc cọc bằng gỗ khadira (keo cao) v.v… xuống đất, rồi dùng xích buộc (hũ) vào đó mà để, thì nếu buộc bằng một sợi xích ở một phía, sẽ có hai vị trí (tính cả vị trí ban đầu và vị trí bị kéo căng); nếu buộc bằng bốn sợi xích ở hai, ba, hoặc bốn phía, sẽ có năm vị trí (tính cả vị trí trung tâm và các vị trí bị kéo căng).

Tattha ekakhāṇuke baddhakumbhiyā paṭhamaṃ khāṇukaṃ vā uddharati, saṅkhalikaṃ vā chindati, thullaccayaṃ. Tato kumbhiṃ yathāvuttanayena kesaggamattampi ṭhānā cāveti, pārājikaṃ. Atha paṭhamaṃ kumbhiṃ uddharati, thullaccayaṃ. Tato khāṇukaṃ kesaggamattampi ṭhānā cāveti, saṅkhalikaṃ vā chindati, pārājikaṃ. Etena upāyena dvīsu tīsu catūsu khāṇukesu baddhakumbhiyāpi pacchime ṭhānācāvane pārājikaṃ. Sesesu thullaccayaṃ veditabbaṃ.
Trong đó, đối với cái hũ được buộc vào một cọc, nếu trước hết nhổ cọc hoặc cắt đứt xích, phạm tội Trọng Tội. Sau đó, nếu làm di chuyển cái hũ khỏi chỗ dù chỉ bằng một sợi tóc theo phương pháp đã nói, phạm tội Bất Cộng Trụ. Hoặc nếu trước hết nhấc cái hũ lên (khỏi vị trí cố định ban đầu, nhưng vẫn còn bị giữ bởi cọc và xích), phạm tội Trọng Tội. Sau đó, nếu làm di chuyển cọc khỏi chỗ dù chỉ bằng một sợi tóc, hoặc cắt đứt xích, phạm tội Bất Cộng Trụ. Theo phương pháp này, ngay cả đối với cái hũ được buộc vào hai, ba, hoặc bốn cọc, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ khi làm di chuyển (hũ) khỏi vị trí cuối cùng (sau khi đã vô hiệu hóa các cọc/xích). Trong các trường hợp (vô hiệu hóa cọc/xích) còn lại (trước đó), cần hiểu là (phạm tội) Trọng Tội.

Sace khāṇu natthi, saṅkhalikāya agge valayaṃ katvā tatthajātake mūle pavesitaṃ hoti, paṭhamaṃ kumbhiṃ uddharitvā pacchā mūlaṃ chetvā valayaṃ nīharati, pārājikaṃ. Atha mūlaṃ acchetvā valayaṃ ito cito ca sāreti, rakkhati. Sace pana mūlato anīharitvāpi hatthena gahetvā ākāsagataṃ karoti, pārājikaṃ. Ayamettha viseso. Sesaṃ vuttanayameva.
Nếu không có cọc, mà ở đầu sợi xích người ta làm thành cái vòng rồi lồng vào rễ cây mọc tại đó, (nếu) trước hết nhấc cái hũ lên, sau đó chặt đứt rễ cây rồi lấy cái vòng ra, phạm tội Bất Cộng Trụ. Hoặc (nếu) không chặt đứt rễ cây mà (chỉ) làm cái vòng di chuyển qua lại (trên rễ), thì (vẫn là) bảo vệ (tài sản, chưa phạm Bất Cộng Trụ). Nhưng nếu không lấy ra khỏi rễ cây mà dùng tay nắm (cái hũ) nhấc bổng lên không, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đây là điểm đặc biệt ở đây. Phần còn lại theo phương pháp đã nói.

Keci pana nimittatthāya kumbhimatthake nigrodharukkhādīni ropenti, mūlāni kumbhiṃ vinandhitvā ṭhitāni honti, ‘‘mūlāni chinditvā kumbhiṃ gahessāmī’’ti chindantassa payoge payoge dukkaṭaṃ. Chinditvā okāsaṃ katvā kumbhiṃ kesaggamattampi ṭhānā cāveti, pārājikaṃ. Mūlāni chindatova luṭhitvā kumbhī ninnaṭṭhānaṃ gatā, rakkhati tāva. Gataṭṭhānato uddharati, pārājikaṃ. Sace chinnesu mūlesu ekamūlamattena kumbhī tiṭṭhati, so ca taṃ ‘‘imasmiṃ mūle chinne patissatī’’ti chindati, chinnamatte pārājikaṃ. Sace pana ekamūleneva pāse baddhasūkaro viya ṭhitā hoti, aññaṃ kiñci lagganakaṃ natthi, tasmimpi mūle chinnamatte pārājikaṃ. Sace kumbhimatthake mahāpāsāṇo ṭhapito hoti, taṃ daṇḍena ukkhipitvā apanetukāmo kumbhimatthake jātarukkhaṃ chindati, dukkaṭaṃ. Tassā samīpe jātakaṃ chetvā āharati, atatthajātakattā taṃ chindato pācittiyaṃ.
Một số người lại trồng các cây như cây đa v.v… trên miệng hũ để làm dấu, rễ cây sẽ bám chặt vào hũ mà đứng vững; (nếu Tỳ khưu nghĩ) ‘ta sẽ chặt rễ rồi lấy cái hũ’, thì mỗi một hành động chặt đều phạm tội Tác ác. Sau khi chặt, tạo được khoảng trống, rồi làm di chuyển cái hũ khỏi chỗ dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. Ngay khi đang chặt rễ, nếu cái hũ lăn đi đến một chỗ trũng, thì (tài sản đó) vẫn còn được bảo vệ. (Nếu) nhấc (hũ) lên khỏi chỗ nó đã lăn đến, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu sau khi các rễ đã bị chặt, cái hũ vẫn đứng vững chỉ nhờ một rễ duy nhất, và vị ấy chặt nốt rễ đó với ý nghĩ ‘khi rễ này bị chặt, nó sẽ rơi xuống’, thì ngay khi chặt xong là phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu (cái hũ) chỉ còn dính một rễ duy nhất giống như con heo bị trói ở một bên, không còn chỗ nào khác bám víu, thì ngay khi chặt đứt rễ đó cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu trên miệng hũ có một tảng đá lớn đặt lên, (Tỳ khưu) muốn dùng gậy nâng tảng đá đó lên rồi dời đi, mà (trước đó) chặt cây mọc trên miệng hũ, phạm tội Tác ác. (Nếu) chặt cây mọc gần đó rồi mang đến, vì đó không phải là cây mọc tại chỗ (trên miệng hũ), nên khi chặt cây đó phạm tội Ưng Đối Trị.

Attano bhājananti sace pana kumbhiṃ uddharituṃ asakkonto kumbhigatabhaṇḍaggahaṇatthaṃ attano bhājanaṃ pavesetvā antokumbhiyaṃ pañcamāsakaṃ vā atirekapañcamāsakaṃ vā agghanakaṃ theyyacitto āmasati, āpatti dukkaṭassa. Paricchedo cettha pārājikaniyamanatthaṃ vutto. Theyyacittena pana ūnapañcamāsakampi āmasanto dukkaṭaṃ āpajjatiyeva.
Đồ đựng của mình‘: Nếu không thể nhấc cái hũ lên, (Tỳ khưu) muốn lấy vật đựng trong hũ, bèn đưa đồ đựng của mình vào, rồi với tâm trộm cắp chạm đến vật trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka ở bên trong hũ, phạm tội Tác ác. Giới hạn (năm māsaka) ở đây được nói để quy định (tội) Bất Cộng Trụ. Nhưng với tâm trộm cắp, ngay cả khi chạm đến vật (trị giá) chưa đến năm māsaka, cũng vẫn phạm tội Tác ác.

Phandāpetīti ettha yāva ekābaddhaṃ katvā attano bhājanaṃ paveseti, tāva phandāpetīti vuccati. Api ca ito cito ca apabyūhantopi phandāpetiyeva, so thullaccayaṃ āpajjati. Yadā pana ekābaddhabhāvo chinno, kumbhigataṃ kumbhiyameva, bhājanagatampi bhājaneyeva hoti, tadā attano bhājanagataṃ nāma hoti. Evaṃ katvā kumbhito anīhatepi ca bhājane pārājikaṃ āpajjati.
Làm rung động‘: Ở đây, chừng nào còn làm cho (vật trong hũ) dính liền (thành một khối) rồi đưa đồ đựng của mình vào (để hứng), chừng đó gọi là làm rung động. Hơn nữa, ngay cả khi gạt qua gạt lại (vật trong hũ để nó rơi vào đồ đựng của mình) cũng chính là làm rung động, vị ấy phạm tội Trọng Tội. Còn khi tình trạng dính liền (giữa vật trong hũ và vật trong đồ đựng của mình) bị cắt đứt, vật trong hũ vẫn ở trong hũ, vật đã vào đồ đựng (của mình) thì ở trong đồ đựng (của mình), khi đó (vật trong đồ đựng của mình) mới gọi là đã vào đồ đựng của mình. Làm như vậy, ngay cả khi đồ đựng (của mình) chưa được lấy ra khỏi hũ, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ.

Muṭṭhiṃ vā chindatīti ettha yathā aṅgulantarehi nikkhantakahāpaṇā kumbhigate kahāpaṇe na samphusanti, evaṃ muṭṭhiṃ karonto muṭṭhiṃ chindati nāma; sopi pārājikaṃ āpajjati.
Hoặc lấy một nắm‘: Ở đây, làm một nắm tay sao cho các đồng tiền kahāpaṇa đã ra khỏi (khối tiền trong hũ) qua các kẽ ngón tay không còn chạm vào các đồng tiền kahāpaṇa còn lại trong hũ, đó gọi là lấy một nắm; vị ấy cũng phạm tội Bất Cộng Trụ.

Suttārūḷhanti sutte ārūḷhaṃ; suttena āvutassāpi suttamayassāpi etaṃ adhivacanaṃ . Pāmaṅgādīnihi sovaṇṇamayānipi honti rūpiyamayānipi suttamayānipi, muttāvaliādayopi ettheva saṅgahaṃ gatā. Veṭhananti sīsaveṭhanapaṭo vuccati. Etesu yaṃkiñci theyyacitto āmasati, dukkaṭaṃ. Phandāpeti, thullaccayaṃ. Pāmaṅgādīni koṭiyaṃ gahetvā ākāsaṭṭhaṃ akaronto uccāreti, thullaccayaṃ.
Vật xỏ trên chỉ‘ là vật được xỏ vào chỉ; đây cũng là tên gọi cho vật được quấn bằng chỉ hoặc làm bằng chỉ. Các thứ như vòng đeo chân v.v… có thể làm bằng vàng, bằng bạc, hoặc bằng chỉ; các chuỗi ngọc trai v.v… cũng được bao gồm ở đây. ‘Khăn quấn đầu‘ được gọi là vải để quấn đầu. Đối với những thứ này, nếu với tâm trộm cắp chạm đến bất kỳ vật nào, phạm tội Tác ác. (Nếu) làm rung động, phạm tội Trọng Tội. (Nếu) nắm lấy đầu mút của vòng đeo chân v.v… rồi nhấc lên mà chưa làm cho nó rời khỏi mặt đất (hoàn toàn), phạm tội Trọng Tội.

Ghaṃsanto nīharatīti ettha pana paripuṇṇāya kumbhiyā upari samatittikaṃ kumbhiṃ katvā ṭhapitaṃ vā ekaṃ koṭiṃ bunde ekaṃ koṭiṃ mukhavaṭṭiyaṃ katvā ṭhapitaṃ vā ghaṃsantassa nīharato thullaccayaṃ. Kumbhimukhā mocentassa pārājikaṃ. Yaṃ pana upaḍḍhakumbhiyaṃ vā rittakumbhiyaṃ vā ṭhapitaṃ, tassa attano phuṭṭhokāsova ṭhānaṃ, na sakalā kumbhī, tasmā taṃ ghaṃsantassāpi nīharato patiṭṭhitokāsato kesaggamatte mutte pārājikameva. Kumbhiyā pana paripuṇṇāya vā ūnāya vā ujukameva uddharantassa heṭṭhimakoṭiyā patiṭṭhitokāsā muttamatteva pārājikaṃ. Antokumbhiyaṃ ṭhapitaṃ yaṃkiñci pārājikappahonakaṃ bhaṇḍaṃ sakalakumbhiyaṃ cārentassa, pāmaṅgādiñca ghaṃsitvā nīharantassa yāva mukhavaṭṭiṃ nātikkamati, tāva thullaccayameva. Tassa hi sabbāpi kumbhī ṭhānanti saṅkhepamahāpaccariyādīsu vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘ṭhapitaṭṭhānameva ṭhānaṃ, na sakalā kumbhī. Tasmā yathāṭhitaṭṭhānato kesaggamattampi mocentassa pārājikamevā’’ti vuttaṃ, taṃ pamāṇaṃ. Itaraṃ pana ākāsagataṃ akarontassa cīvaravaṃse ṭhapitacīvaraveṭhanakanayena vuttaṃ, taṃ na gahetabbaṃ. Vinayavinicchaye hi āgate garuke ṭhātabbaṃ, esā vinayadhammatā. Apica ‘‘attano bhājanagataṃ vā karoti, muṭṭhiṃ vā chindatī’’ti vacanato petaṃ veditabbaṃ. Yathā antokumbhiyaṃ ṭhitassa na sabbā kumbhī ṭhānanti.
Cọ xát mà lấy ra‘: Ở đây, đối với vật được đặt ngang bằng trên miệng một cái hũ đã đầy, hoặc được đặt một đầu ở đáy hũ và một đầu ở miệng hũ, thì khi cọ xát mà lấy ra, phạm tội Trọng Tội. (Khi) làm cho (vật) rời khỏi miệng hũ, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn vật nào được đặt trong hũ vơi một nửa hoặc trong hũ rỗng, thì chỗ tiếp xúc của chính nó là vị trí (của nó), chứ không phải toàn bộ cái hũ; do đó, ngay cả khi cọ xát mà lấy nó ra, chỉ cần nó rời khỏi vị trí đã được đặt dù bằng một sợi tóc, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn đối với cái hũ, dù đầy hay vơi, khi nhấc thẳng nó lên, ngay khi đầu dưới của nó rời khỏi vị trí đã được đặt, liền phạm tội Bất Cộng Trụ. Bất kỳ vật nào đủ để phạm tội Bất Cộng Trụ được đặt bên trong hũ, khi làm di chuyển nó trong toàn bộ cái hũ, và khi cọ xát mà lấy ra vòng đeo chân v.v…, chừng nào (vật đó) chưa vượt qua miệng hũ, chừng đó chỉ phạm tội Trọng Tội. Vì đối với vật đó, toàn bộ cái hũ là vị trí (của nó), theo như đã nói trong các Chú giải như Chú giải Tóm Tắt, Chú giải Mahāpaccari v.v… Còn trong Đại Chú Giải thì nói: ‘Chính nơi được đặt (vật) mới là vị trí (của nó), chứ không phải toàn bộ cái hũ. Do đó, người làm cho (vật) rời khỏi vị trí đã được đặt dù chỉ bằng một sợi tóc cũng phạm tội Bất Cộng Trụ’, điều đó là tiêu chuẩn. Còn quan điểm kia (cho rằng toàn bộ cái hũ là vị trí), được nói theo phương pháp của trường hợp gói y đặt trên sào phơi y mà chưa nhấc bổng lên không, không nên chấp nhận. Vì trong sự phân xử về Luật, khi có (nhiều quan điểm), phải đứng về phía quan điểm nghiêm khắc hơn, đó là Pháp Luật. Hơn nữa, điều này cũng cần được hiểu theo (nguyên tắc đã nói về việc) ‘hoặc làm cho (vật) vào đồ đựng của mình, hoặc lấy một nắm’. Giống như (trường hợp) đối với vật đặt bên trong hũ, không phải toàn bộ cái hũ là vị trí (của nó).

Sappiādīsu yaṃkiñci pivato ekapayogena pītamatte pārājikanti mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Mahāpaccariyādīsu pana ayaṃ vibhāgo dassito – ‘‘mukhaṃ anapanetvā ākaḍḍhantassa pivato sace paragalagataṃ pādaṃ na agghati, mukhagatena saddhiṃ agghati, rakkhati tāva. Kaṇṭhena pana paricchinnakāleyeva pārājikaṃ hoti. Sacepi oṭṭhehi paricchindanto oṭṭhe pidahati, pārājikameva. Uppaladaṇḍaveḷunāḷinaḷanāḷiādīhi pivantassāpi sace paragalagatameva pādaṃ agghati, pārājikaṃ. Sace saha mukhagatena agghati, na tāva pārājikaṃ hoti. Uppaladaṇḍādigatena saddhiṃ ekābaddhabhāvaṃ kopetvā oṭṭhehi paricchinnamatte pārājikaṃ. Sace uppaladaṇḍādigatena saddhiṃ agghati, uppaladaṇḍādīnaṃ bunde aṅguliyāpi pihitamatte pārājikaṃ. Pādagghanake paragalaṃ appaviṭṭhe uppaladaṇḍādīsu ca mukhe ca atirekapādārahampi ekābaddhaṃ hutvā tiṭṭhati, rakkhatiyevā’’ti. Taṃ sabbampi yasmā ‘‘attano bhājanagataṃ vā karoti , muṭṭhiṃ vā chindatī’’ti imaṃ nayaṃ bhajati, tasmā sudassitameva. Esa tāva ekābaddhe nayo.
Đối với các thứ như bơ lỏng v.v…, trong Đại Chú Giải nói rằng người nào uống bất cứ thứ gì, ngay khi uống xong một lần (đủ giá trị), liền phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn trong các Chú giải như Chú giải Mahāpaccari v.v…, sự phân biệt này được chỉ rõ – ‘Đối với người hút uống mà không rời miệng, nếu phần đã qua khỏi cổ họng chưa đủ giá trị một pāda, nhưng cùng với phần còn trong miệng thì đủ giá trị, thì (tài sản đó) vẫn còn được bảo vệ. Nhưng ngay khi (phần đủ giá trị một pāda) bị cắt đứt bởi cổ họng (tức là đã nuốt qua), liền phạm tội Bất Cộng Trụ. Ngay cả nếu (người đó) dùng môi để cắt đứt (dòng chảy) rồi ngậm miệng lại (sau khi phần đủ giá trị đã vào miệng), cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Ngay cả đối với người uống bằng ống sen, ống tre, ống sậy, ống lau v.v…, nếu chỉ riêng phần đã qua khỏi cổ họng đã đủ giá trị một pāda, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu cùng với phần còn trong miệng mới đủ giá trị, thì chưa phạm tội Bất Cộng Trụ. Ngay khi làm mất đi tình trạng dính liền (của dòng chảy) với phần (chất lỏng) còn trong ống sen v.v… bằng cách dùng môi cắt đứt, liền phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu cùng với phần còn trong ống sen v.v… mới đủ giá trị, thì ngay khi dùng ngón tay bịt đáy ống sen v.v…, liền phạm tội Bất Cộng Trụ. Khi phần trị giá một pāda chưa vào khỏi cổ họng, mà phần (chất lỏng) trị giá hơn một pāda vẫn còn dính liền nhau ở trong ống sen v.v… và trong miệng, thì (tài sản đó) vẫn còn được bảo vệ’. Tất cả những điều đó, vì đều theo phương pháp ‘hoặc làm cho (vật) vào đồ đựng của mình, hoặc lấy một nắm’, do đó đã được trình bày rất rõ ràng. Đó là phương pháp đối với (vật) còn dính liền một khối.

Sace pana hatthena vā pattena vā thālakādinā vā kenaci bhājanena gahetvā pivati, yamhi payoge pādagghanakaṃ pūreti, tamhi gate pārājikaṃ. Atha mahagghaṃ hoti, sippikāyapi ekapayogeneva pādagghanakaṃ gahetuṃ sakkā hoti, ekuddhāreyeva pārājikaṃ. Bhājanaṃ pana nimujjāpetvā gaṇhantassa yāva ekābaddhaṃ hoti, tāva rakkhati. Mukhavaṭṭiparicchedena vā uddhārena vā pārājikaṃ. Yadā pana sappiṃ vā telaṃ vā acchaṃ telasadisameva madhuphāṇitaṃ vā kumbhiṃ āviñchetvā attano bhājane paveseti, tadā tesaṃ acchatāya ekābaddhatā natthīti pādagghanake mukhavaṭṭito gaḷitamatte pārājikaṃ.
Còn nếu dùng tay, hoặc bát, hoặc đĩa kim loại v.v…, hoặc bất kỳ đồ đựng nào để múc rồi uống, thì ngay khi hành động nào làm đầy (đồ đựng bằng chất lỏng) trị giá một pāda, khi hành động đó qua đi (hoàn tất), liền phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu (chất lỏng đó) rất quý giá, đến nỗi chỉ bằng một cái thìa cũng có thể múc được (lượng) trị giá một pāda trong một lần, thì ngay khi múc lên một lần đó là phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn người nào nhúng chìm đồ đựng (vào chất lỏng) rồi múc, chừng nào (chất lỏng trong đồ đựng và bên ngoài) còn dính liền một khối, chừng đó (tài sản) vẫn còn được bảo vệ. (Khi) bị cắt đứt bởi miệng đồ đựng (khi nhấc lên) hoặc bởi sự múc lên (hoàn toàn), liền phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn khi rót bơ lỏng, hoặc dầu, hoặc mật ong hay đường phèn trong suốt như dầu từ một cái hũ sang đồ đựng của mình, khi đó, do tính chất trong suốt của chúng, không có sự dính liền một khối, nên ngay khi (lượng) trị giá một pāda chảy qua khỏi miệng hũ (rót) là phạm tội Bất Cộng Trụ.

Pacitvā ṭhapitaṃ pana madhuphāṇitaṃ sileso viya cikkanaṃ ākaḍḍhanavikaḍḍhanayoggaṃ hoti, uppanne kukkucce ekābaddhameva hutvā paṭinīharituṃ sakkoti, etaṃ mukhavaṭṭiyā nikkhamitvā bhājane paviṭṭhampi bāhirena saddhiṃ ekābaddhattā rakkhati, mukhavaṭṭito chinnamatte pana pārājikaṃ. Yopi theyyacittena parassa kumbhiyā pādagghanakaṃ sappiṃ vā telaṃ vā avassapivanakaṃ yaṃkiñci dukūlasāṭakaṃ vā cammakhaṇḍādīnaṃ vā aññataraṃ pakkhipati, hatthato muttamatte pārājikaṃ.
Còn mật ong hay đường phèn đã được nấu rồi để đó, nếu nó dẻo dính như nhựa cây, có thể kéo ra co vào được, thì khi có sự hối hận (muốn trả lại), nó vẫn dính liền một khối nên có thể lấy trả lại được; (cho đến khi đó) dù nó đã chảy ra khỏi miệng hũ và vào đồ đựng (của kẻ trộm) nhưng vì vẫn còn dính liền với phần bên ngoài (trong hũ) nên (tài sản đó) vẫn được bảo vệ; nhưng ngay khi bị cắt đứt khỏi miệng hũ (hoàn toàn) thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nào với tâm trộm cắp bỏ một vật gì đó có khả năng hút bơ lỏng hoặc dầu trị giá một pāda, như một miếng vải lụa mịn hoặc một miếng da v.v…, vào trong hũ của người khác, thì ngay khi (vật đó) rời khỏi tay (và chạm vào dầu/bơ), liền phạm tội Bất Cộng Trụ.

Rittakumbhiyā ‘‘idāni telaṃ ākirissantī’’ti ñatvā yaṃkiñci bhaṇḍaṃ theyyacitto pakkhipati, taṃ ce tattha tele ākiṇṇe pañcamāsakaagghanakaṃ pivati, pītamatte pārājikanti mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Taṃ pana tattheva sukkhataḷāke sukkhamātikāya ujukaraṇavinicchayena virujjhati, avahāralakkhaṇañcettha na paññāyati, tasmā na gahetabbaṃ. Mahāpaccariyādīsu pana tassa uddhāre pārājikaṃ vuttaṃ, taṃ yuttaṃ.
Biết rằng ‘bây giờ người ta sẽ đổ dầu vào’ một cái hũ rỗng, (Tỳ khưu) với tâm trộm cắp bỏ một vật gì đó vào; nếu khi dầu được đổ vào đó, vật ấy hút dầu trị giá năm māsaka, thì ngay khi (vật đó) hút (đủ dầu), liền phạm tội Bất Cộng Trụ, theo như đã nói trong Đại Chú Giải. Nhưng điều đó mâu thuẫn với quyết định về việc làm thẳng mương nước khô trong hồ nước khô ở chính nơi đó (trong một trường hợp tương tự), và đặc điểm của sự chiếm đoạt cũng không rõ ràng ở đây; do đó, không nên chấp nhận (quan điểm này). Còn trong các Chú giải như Chú giải Mahāpaccari v.v…, nói rằng (Tỳ khưu) phạm tội Bất Cộng Trụ khi lấy vật đó ra, điều đó hợp lý.

Parassa rittakumbhiyā saṅgopanatthāya bhaṇḍaṃ ṭhapetvā tattha tele ākiṇṇe ‘‘sace ayaṃ jānissati, maṃ palibujjhissatī’’ti bhīto pādagghanakaṃ telaṃ pītaṃ bhaṇḍaṃ theyyacittena uddharati, pārājikaṃ. Suddhacittena uddharati, pare āharāpente bhaṇḍadeyyaṃ. Bhaṇḍadeyyaṃ nāma yaṃ parassa naṭṭhaṃ, tassa mūlaṃ vā tadeva vā bhaṇḍaṃ dātabbanti attho. No ce deti, sāmikassa dhuranikkhepe pārājikaṃ. Sace parassa kumbhiyā añño sappiṃ vā telaṃ vā ākirati, tatra cāyaṃ theyyacittena telapivanakaṃ bhaṇḍaṃ pakkhipati, vuttanayeneva pārājikaṃ. Attano rittakumbhiyā parassa sappiṃ vā telaṃ vā ākiraṇabhāvaṃ ñatvā theyyacittena bhaṇḍaṃ nikkhipati, pubbe vuttanayeneva uddhāre pārājikaṃ. Suddhacitto nikkhipitvā pacchā theyyacittena uddharati, pārājikameva. Suddhacittova uddharati, neva avahāro, na gīvā; mahāpaccariyaṃ pana anāpattimattameva vuttaṃ. ‘‘‘Kissa mama kumbhiyaṃ telaṃ ākirasī’ti kupito attano bhaṇḍaṃ uddharitvā chaḍḍeti, no bhaṇḍadeyya’’nti kurundiyaṃ vuttaṃ. Theyyacittena mukhavaṭṭiyaṃ gahetvā kumbhiṃ āviñchati telaṃ gaḷetukāmo, pādagghanake gaḷite pārājikaṃ. Theyyacitteneva jajjaraṃ karoti ‘‘savitvā gamissatī’’ti pādagghanake savitvā gate pārājikaṃ. Theyyacitteneva chiddaṃ karoti omaṭṭhaṃ vā ummaṭṭhaṃ vā vemaṭṭhaṃ vā, idaṃ pana sammohaṭṭhānaṃ; tasmā suṭṭhu sallekkhetabbaṃ. Ayañhettha vinicchayo – omaṭṭhaṃ nāma adhomukhachiddaṃ; ummaṭṭhaṃ nāma uddhaṃmukhachiddaṃ; vemaṭṭhaṃ nāma uḷuṅkasseva ujugatachiddaṃ. Tatra omaṭṭhassa bahi paṭṭhāya katassa abbhantarantato pādagghanake tele gaḷite bahi anikkhantepi pārājikaṃ. Kasmā? Yasmā tato gaḷitamattameva bahigataṃ nāma hoti, na kumbhigatasaṅkhyaṃ labhati. Anto paṭṭhāya katassa bāhirantato pādagghanake gaḷite pārājikaṃ. Ummaṭṭhassa yathā tathā vā katassa bāhirantato pādagghanake gaḷite pārājikaṃ. Tañhi yāva bāhirantato na gaḷati, tāva kumbhigatameva hoti. ‘‘Vemaṭṭhassa ca kapālamajjhato gaḷitavasena kāretabbo’’ti aṭṭhakathāsu vuttaṃ. Taṃ pana anto ca bahi ca paṭṭhāya majjhe ṭhapetvā katachidde taḷākassa ca mariyādabhedena sameti. Anto paṭṭhāya kate pana bāhirantena, bahi paṭṭhāya kate abbhantarantena kāretabboti idamettha yuttaṃ. Yo pana ‘‘vaṭṭitvā gacchissatī’’ti theyyacittena kumbhiyā ādhārakaṃ vā upatthambhanaleḍḍuke vā apaneti, vaṭṭitvā gatāya pārājikaṃ. Telākiraṇabhāvaṃ pana ñatvā rittakumbhiyā jajjarabhāve vā chiddesu vā katesu pacchā nikkhantatelappamāṇena bhaṇḍadeyyaṃ hoti. Aṭṭhakathāsau pana katthaci pārājikantipi likhitaṃ, taṃ pamādalikhitaṃ.
(Nếu) đặt một vật vào hũ rỗng của người khác để cất giữ, rồi khi dầu được đổ vào đó, (Tỳ khưu) sợ rằng ‘nếu người này biết, y sẽ làm phiền ta’, bèn với tâm trộm cắp lấy vật đã hút dầu trị giá một pāda ra, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) lấy ra với tâm trong sạch, khi người khác đòi lại, phải đền vật. ‘Phải đền vật‘ nghĩa là vật gì của người khác bị mất, phải trả lại giá trị của nó hoặc chính vật đó. Nếu không trả, khi người chủ từ bỏ trách nhiệm (không đòi nữa), phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu người khác đổ bơ lỏng hoặc dầu vào hũ của người khác nữa, và vị này với tâm trộm cắp bỏ vật hút dầu vào đó, thì phạm tội Bất Cộng Trụ theo phương pháp đã nói. Biết rằng người khác sẽ đổ bơ lỏng hoặc dầu vào hũ rỗng của mình, (Tỳ khưu) với tâm trộm cắp đặt vật (hút dầu) vào, thì khi lấy vật đó ra, phạm tội Bất Cộng Trụ theo phương pháp đã nói trước. (Nếu) đặt vào với tâm trong sạch, sau đó với tâm trộm cắp lấy ra, vẫn phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) lấy ra cũng với tâm trong sạch, thì không phải là chiếm đoạt, cũng không phải chịu trách nhiệm (đền); nhưng trong Chú giải Mahāpaccari thì chỉ nói là không phạm tội mà thôi. Trong Chú giải Kurundi nói: ‘(Nếu Tỳ khưu) nổi giận nói ‘Tại sao ngươi đổ dầu vào hũ của ta?’ rồi lấy vật của mình ra vứt đi, thì không phải đền vật’. (Nếu) với tâm trộm cắp nắm miệng hũ nghiêng đi muốn cho dầu chảy ra, khi (lượng dầu) trị giá một pāda chảy ra, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) với tâm trộm cắp làm cho (hũ) rò rỉ (nghĩ rằng) ‘nó sẽ chảy đi’, khi (lượng dầu) trị giá một pāda chảy đi, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) với tâm trộm cắp khoét một lỗ, dù là lỗ hướng xuống, lỗ hướng lên, hay lỗ xuyên thẳng, đây là chỗ dễ nhầm lẫn; do đó cần phải xem xét rất kỹ. Quyết định ở đây là như vầy – ‘lỗ hướng xuống‘ là lỗ có miệng quay xuống dưới; ‘lỗ hướng lên‘ là lỗ có miệng quay lên trên; ‘lỗ xuyên thẳng‘ là lỗ đi thẳng như ống gáo. Trong đó, đối với lỗ hướng xuống được khoét từ bên ngoài vào, khi dầu trị giá một pāda chảy qua khỏi điểm cuối bên trong (của lỗ), dù chưa chảy ra ngoài (hẳn), cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì ngay khi chảy qua khỏi (điểm cuối bên trong lỗ) đó, nó đã được gọi là đã ra ngoài, không còn được tính là ở trong hũ nữa. Đối với (lỗ hướng xuống) được khoét từ bên trong ra, khi (dầu) trị giá một pāda chảy qua khỏi điểm cuối bên ngoài (của lỗ), phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với lỗ hướng lên, dù khoét cách nào, khi (dầu) trị giá một pāda chảy qua khỏi điểm cuối bên ngoài (của lỗ), phạm tội Bất Cộng Trụ. Vì chừng nào nó chưa chảy qua khỏi điểm cuối bên ngoài, chừng đó nó vẫn còn ở trong hũ. Trong các Chú giải nói: ‘Còn đối với lỗ xuyên thẳng, (tội) phải được tính theo (lượng dầu) chảy qua giữa thành (hũ)’. Điều đó tương đồng với trường hợp phá vỡ bờ của hồ nước đối với lỗ được khoét từ trong ra ngoài hoặc từ ngoài vào trong rồi dừng lại ở giữa. Nhưng đối với lỗ được khoét từ trong ra, (tội) phải được tính theo điểm cuối bên ngoài; đối với lỗ được khoét từ ngoài vào, (tội) phải được tính theo điểm cuối bên trong – điều này là hợp lý ở đây. Người nào với tâm trộm cắp (nghĩ rằng) ‘nó sẽ lăn đi’, rồi dời vật kê hoặc cục đất chèn của cái hũ, khi (hũ) lăn đi (làm đổ dầu trị giá), phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu biết việc đổ dầu (sẽ xảy ra), rồi làm cho hũ rỗng bị rò rỉ hoặc có các lỗ thủng, thì sau đó phải đền vật theo lượng dầu đã chảy ra. Còn trong các Chú giải, có nơi cũng ghi là (phạm tội) Bất Cộng Trụ, đó là do ghi chép nhầm lẫn.

Paripuṇṇāya kumbhiyā upari kathalaṃ vā pāsāṇaṃ vā ‘‘patitvā bhindissati, tato telaṃ paggharissatī’’ti theyyacittena dubbandhaṃ vā karoti, duṭṭhapitaṃ vā ṭhapeti, avassapatanakaṃ tathā karontassa katamatte pārājikaṃ. Rittakumbhiyā upari karoti, taṃ pacchā puṇṇakāle patitvā bhindati, bhaṇḍadeyyaṃ. Īdisesu hi ṭhānesu bhaṇḍassa natthikāle katapayogattā āditova pārājikaṃ na hoti. Bhaṇḍavināsadvārassa pana katattā bhaṇḍadeyyaṃ hoti. Āharāpentesu adadato sāmikānaṃ dhuranikkhepena pārājikaṃ.
Trên một cái hũ đã đầy, (Tỳ khưu) với tâm trộm cắp (nghĩ rằng) ‘nó sẽ rơi xuống làm vỡ (hũ), rồi dầu sẽ chảy ra’, bèn làm cho một mảnh sành hoặc một tảng đá được buộc lỏng lẻo, hoặc đặt (chúng) một cách không chắc chắn; đối với người làm cho (vật đó) chắc chắn sẽ rơi xuống như vậy, ngay khi làm xong liền phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) làm (điều đó) trên một cái hũ rỗng, rồi sau đó, khi hũ đã đầy, vật đó rơi xuống làm vỡ hũ, thì phải đền vật. Vì trong những trường hợp như vậy, do hành động được thực hiện vào lúc không có vật (trong hũ), nên không phạm tội Bất Cộng Trụ ngay từ đầu. Nhưng vì đã tạo ra con đường làm hư hại vật, nên phải đền vật. Khi (chủ nhân) đòi lại mà không trả, nếu chủ nhân từ bỏ trách nhiệm (không đòi nữa), phạm tội Bất Cộng Trụ.

Theyyacittena mātikaṃ ujukaṃ karoti ‘‘vaṭṭitvā vā gamissati, velaṃ vā uttarāpessatī’’ti ; vaṭṭitvā vā gacchatu, velaṃ vā uttaratu, ujukaraṇakāle pārājikaṃ. Īdisā hi payogā pubbapayogāvahāre saṅgahaṃ gacchanti. Sukkhamātikāya ujukatāya pacchā udake āgate vaṭṭitvā vā gacchatu, velaṃ vā uttaratu, bhaṇḍadeyyaṃ. Kasmā? Ṭhānā cāvanapayogassa abhāvā. Tassa lakkhaṇaṃ nāvaṭṭhe āvi bhavissati.
(Nếu Tỳ khưu) với tâm trộm cắp làm thẳng một mương nước (nghĩ rằng) ‘(nước quý) sẽ chảy đi hoặc sẽ làm tràn bờ’; thì dù (nước) có chảy đi hay có tràn bờ (hay không), ngay khi làm thẳng (mương nước đó), liền phạm tội Bất Cộng Trụ. Vì những hành động như vậy được bao gồm trong cách chiếm đoạt bằng hành động chuẩn bị trước. (Nếu) làm thẳng một mương nước khô, sau đó khi nước đến, dù (nước) có chảy đi hay có tràn bờ, cũng phải đền vật. Tại sao? Vì không có hành động làm di chuyển (vật) khỏi chỗ (vào lúc đó). Đặc điểm của nó sẽ trở nên rõ ràng trong trường hợp thuyền.

Tattheva bhindati vātiādīsu aṭṭhakathāyaṃ tāva vuttaṃ – ‘‘bhindati vāti muggarena pothetvā bhindati. Chaḍḍeti vāti udakaṃ vā vālikaṃ vā ākiritvā uttarāpeti. Jhāpeti vāti dārūni āharitvā jhāpeti. Aparibhogaṃ vā karotīti akhāditabbaṃ vā apātabbaṃ vā karoti; uccāraṃ vā passāvaṃ vā visaṃ vā ucchiṭṭhaṃ vā kuṇapaṃ vā pātesi, āpatti dukkaṭassāti ṭhānācāvanassa natthitāya dukkaṭaṃ, buddhavisayo nāmeso. Kiñcāpi dukkaṭaṃ, āharāpente pana bhaṇḍadeyya’’nti. Tattha purimadvayaṃ na sameti. Tañhi kumbhijajjarakaraṇena ca mātikāujukaraṇena ca saddhiṃ ekalakkhaṇaṃ. Pacchimaṃ pana dvayaṃ ṭhānā acāventenāpi sakkā kātuṃ. Tasmā ettha evaṃ vinicchayaṃ vadanti – ‘‘aṭṭhakathāyaṃ kira ‘ṭhānā cāvanassa natthitāya dukkaṭa’nti idaṃ pacchimadvayaṃ sandhāya vuttaṃ. Ṭhānā cāvanaṃ akarontoyeva hi theyyacittena vā vināsetukāmatāya vā jhāpeyyapi, aparibhogampi kareyya. Purimadvaye pana vuttanayena bhindantassa vā chaḍḍentassa vā ṭhānā cāvanaṃ atthi, tasmā tathā karontassa vināsetukāmatāya bhaṇḍadeyyaṃ, theyyacittena pārājika’’nti. Pāḷiyaṃ ‘‘dukkaṭa’’nti vuttattā ayuttanti ce? Na; aññathā gahetabbatthato. Pāḷiyañhi theyyacittapakkhe ‘‘bhindati vāti udakena sambhindati, chaḍḍeti vāti tattha vamati vā passāvaṃ vā chaḍḍetī’’ti evameke vadanti.
Trong (các thuật ngữ) bắt đầu bằng ‘Hoặc phá vỡ ngay tại đó‘ v.v…, trước hết, trong Chú giải đã nói – ‘Hoặc phá vỡ‘ là dùng chày đập rồi làm vỡ. ‘Hoặc làm hư hỏng‘ (Chaḍḍeti vā) là đổ nước hoặc cát vào làm cho (dầu) tràn ra. ‘Hoặc đốt cháy‘ là mang củi đến rồi đốt. ‘Hoặc làm cho không dùng được‘ là làm cho không thể ăn hoặc không thể uống được; (như) bỏ phân, nước tiểu, thuốc độc, đồ thừa, hoặc xác chết vào, (thì) ‘phạm tội Tác ác‘ – (phạm) Tác ác vì không có sự làm di chuyển khỏi chỗ, đây là phạm vi (quyết định) của Đức Phật. Mặc dù (chỉ) phạm Tác ác, nhưng khi (chủ nhân) đòi lại, phải đền vật’. Trong đó, hai (giải thích) đầu không phù hợp (với việc chỉ phạm Tác ác). Vì chúng có cùng đặc điểm với việc làm cho hũ rò rỉ và việc làm thẳng mương nước (đều dẫn đến Bất Cộng Trụ). Còn hai (hành vi) sau (đốt cháy, làm không dùng được) thì có thể thực hiện ngay cả khi không làm di chuyển (vật) khỏi chỗ. Do đó, ở đây người ta đưa ra quyết định như vầy: ‘Tương truyền, trong Chú giải, (câu) ‘phạm Tác ác vì không có sự làm di chuyển khỏi chỗ’ được nói ám chỉ hai (hành vi) sau. Vì người không làm di chuyển khỏi chỗ, với tâm trộm cắp hoặc với ý muốn phá hoại, cũng có thể đốt cháy hoặc làm cho không dùng được. Còn trong hai (trường hợp) đầu, người phá vỡ hoặc làm hư hỏng theo cách đã nói thì có sự làm di chuyển khỏi chỗ; do đó, người làm như vậy với ý muốn phá hoại thì phải đền vật, (nếu) với tâm trộm cắp thì (phạm tội) Bất Cộng Trụ’. Nếu nói rằng (điều này) không hợp lý vì trong Luật Pāḷi đã nói là ‘(phạm tội) Tác ác’ ư? Không phải vậy; vì ý nghĩa cần được hiểu theo cách khác. Vì trong Luật Pāḷi, về phương diện tâm trộm cắp, một số vị nói rằng: ‘Hoặc phá vỡ‘ là làm cho lẫn lộn với nước, ‘hoặc làm hư hỏng‘ là nôn mửa hoặc đi tiêu tiểu vào đó’.

Ayaṃ panettha sāro – vinītavatthumhi tiṇajjhāpako viya ṭhānā acāvetukāmova kevalaṃ bhindati, bhinnattā pana telādīni nikkhamanti, yaṃ vā panettha patthinnaṃ, taṃ ekābaddhameva tiṭṭhati. Achaḍḍetukāmoyeva ca kevalaṃ tattha udakavālikādīni ākirati, ākiṇṇattā pana telaṃ chaḍḍīyati. Tasmā vohāravasena ‘‘bhindati vā chaḍḍeti vā’’ti vuccatīti. Evametesaṃ padānaṃ attho gahetabbo. Nāsetukāmatāpakkhe pana itarathāpi yujjati. Evañhi kathiyamāne pāḷi ca aṭṭhakathā ca pubbāparena saṃsanditvā kathitā honti. Ettāvatāpi ca santosaṃ akatvā ācariye payirupāsitvā vinicchayo veditabboti.
Đây là điểm cốt yếu ở đây – giống như người đốt cỏ trong các trường hợp đã được giải quyết, (Tỳ khưu) chỉ muốn phá vỡ chứ không muốn làm di chuyển khỏi chỗ, nhưng do bị vỡ nên dầu v.v… chảy ra, hoặc phần nào đã đặc lại ở đó thì vẫn còn dính liền một khối. Và (Tỳ khưu) chỉ muốn đổ nước, cát v.v… vào đó chứ không muốn làm hư hỏng (dầu), nhưng do bị đổ (nước, cát) vào nên dầu bị hư hỏng. Do đó, theo cách nói thông thường, được gọi là ‘phá vỡ hoặc làm hư hỏng‘. Ý nghĩa của các thuật ngữ này cần được hiểu như vậy. Còn về phương diện ý muốn phá hoại, thì cũng phù hợp theo cách khác. Vì khi được giải thích như vậy, cả Luật Pāḷi và Chú giải đều được nói một cách nhất quán trước sau. Dù vậy, không nên tự mãn với chừng ấy, mà cần phải hầu cận các vị Thầy rồi tìm hiểu quyết định (cuối cùng).

Bhūmaṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật ở Dưới Đất đến đây là hết.

Thalaṭṭhakathā

Luận về Vật ở Trên Mặt Đất

95. Thalaṭṭhe thale nikkhittanti bhūmitale vā pāsāṇatalapabbatatalādīsu vā yattha katthaci paṭicchanne vā appaṭicchanne vā ṭhapitaṃ thalaṭṭhanti veditabbaṃ. Taṃ sace rāsikataṃ hoti, antokumbhiyaṃ bhājanagatakaraṇamuṭṭhicchedanavinicchayena vinicchinitabbaṃ. Sace ekābaddhaṃ silesaniyyāsādi pakkamadhuphāṇitavinicchayena vinicchinitabbaṃ. Sace garukaṃ hoti bhārabaddhaṃ lohapiṇḍi-guḷapiṇḍi-telamadhughaṭādi vā, kumbhiyaṃ ṭhānācāvanavinicchayena vinicchinitabbaṃ. Saṅkhalikabaddhassa ca ṭhānabhedo sallakkhetabbo. Pattharitvā ṭhapitaṃ pana pāvārattharaṇasāṭakādiṃ ujukaṃ gahetvā ākaḍḍhati, pārimante orimantena phuṭṭhokāsaṃ atikkante pārājikaṃ. Evaṃ sabbadisāsu sallakkhetabbaṃ. Veṭhetvā uddharati, kesaggamattaṃ ākāsagataṃ karontassa pārājikaṃ. Sesaṃ vuttanayamevāti.
95. Đối với vật ở trên mặt đất, ‘đặt trên mặt đất‘ cần được hiểu là vật được đặt ở bất kỳ đâu trên bề mặt đất, hoặc trên bề mặt đá, bề mặt núi v.v…, dù được che giấu hay không được che giấu. Nếu vật đó được chất thành đống, thì phải được phân xử theo quyết định về việc làm cho (vật) vào đồ đựng hoặc việc lấy một nắm đối với vật ở trong hũ. Nếu (vật đó) dính liền một khối như nhựa cây, nhựa mủ v.v…, thì phải được phân xử theo quyết định về mật ong hay đường phèn đã nấu (đặc). Nếu (vật đó) nặng, được bó thành gánh, hoặc là khối sắt, khối đường mật, hũ dầu, hũ mật ong v.v…, thì phải được phân xử theo quyết định về việc làm di chuyển khỏi chỗ đối với (vật trong) hũ. Và đối với vật được buộc bằng xích, sự khác biệt về vị trí (khi bị kéo căng) cần được xem xét. Còn đối với vật được trải ra mà đặt, như y choàng, khăn trải, áo v.v…, nếu nắm thẳng rồi kéo, khi đầu bên kia vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đầu bên này, phạm tội Bất Cộng Trụ. Cần xem xét tương tự ở tất cả các phía. (Nếu) cuộn lại rồi nhấc lên, khi làm cho nó rời khỏi (mặt đất) dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. Phần còn lại theo phương pháp đã nói.

Thalaṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật ở Trên Mặt Đất đến đây là hết.

Ākāsaṭṭhakathā

Luận về Vật ở Hư Không

96. Ākāsaṭṭhe morassa chahi ākārehi ṭhānaparicchedo veditabbo – purato mukhatuṇḍakena, pacchato kalāpaggena, ubhayapassesu pakkhapariyantehi, adho pādanakhasikhāya, uddhaṃ sikhaggenāti. Bhikkhu ‘‘sassāmikaṃ ākāsaṭṭhaṃ moraṃ gahessāmī’’ti purato vā tiṭṭhati, hatthaṃ vā pasāreti, moro ākāseyeva pakkhe cāreti, vātaṃ gāhāpetvā gamanaṃ upacchinditvā tiṭṭhati. Tassa bhikkhuno dukkaṭaṃ. Taṃ aphandento hatthena āmasati, dukkaṭameva. Ṭhānā acāvento phandāpeti, thullaccayaṃ. Hatthena pana gahetvā vā aggahetvā vā mukhatuṇḍakena phuṭṭhokāsaṃ kalāpaggaṃ, kalāpaggena vā phuṭṭhokāsaṃ mukhatuṇḍakaṃ atikkāmeti, pārājikaṃ. Tathā vāmapakkhapariyantena phuṭṭhokāsaṃ dakkhiṇapakkhapariyantaṃ, dakkhiṇapakkhapariyantena vā phuṭṭhokāsaṃ vāmapakkhapariyantaṃ atikkāmeti, pārājikaṃ. Tathā pādanakhasikhāya phuṭṭhokāsaṃ sikhaggaṃ, sikhaggena vā phuṭṭhokāsaṃ pādanakhasikhaṃ atikkāmeti, pārājikaṃ.
96. Đối với (vật) ở hư không, sự phân định vị trí của con công cần được hiểu theo sáu cách: phía trước là mỏ, phía sau là chóp đuôi, hai bên là mép cánh, phía dưới là đầu móng chân, phía trên là chóp mào. Tỳ khưu (nghĩ rằng) ‘ta sẽ bắt con công có chủ đang ở hư không này’, rồi đứng ở phía trước hoặc đưa tay ra; con công vẫn ở hư không, vỗ cánh, đón gió rồi dừng lại, không bay đi nữa. Tỳ khưu đó phạm tội Tác ác. (Nếu) chạm vào nó bằng tay mà không làm nó rung động, vẫn phạm tội Tác ác. (Nếu) làm nó rung động mà không làm di chuyển khỏi chỗ, phạm tội Trọng Tội. Còn nếu dùng tay nắm lấy hoặc không nắm lấy (mà dùng cách khác), làm cho chóp đuôi vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của mỏ, hoặc làm cho mỏ vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của chóp đuôi, phạm tội Bất Cộng Trụ. Tương tự, làm cho mép cánh phải vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của mép cánh trái, hoặc làm cho mép cánh trái vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của mép cánh phải, phạm tội Bất Cộng Trụ. Tương tự, làm cho chóp mào vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đầu móng chân, hoặc làm cho đầu móng chân vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của chóp mào, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Ākāsena gacchanto moro sīsādīsu yasmiṃ aṅge nilīyati, taṃ tassa ṭhānaṃ. Tasmā taṃ hatthe nilīnaṃ ito cito ca karontopi phandāpetiyeva, yadi pana itarena hatthena gahetvā ṭhānā cāveti, pārājikaṃ . Itaraṃ hatthaṃ upaneti, moro sayameva uḍḍetvā tattha nilīyati, anāpatti . Aṅge nilīnabhāvaṃ ñatvā theyyacittena ekaṃ padavāraṃ gacchati, thullaccayaṃ. Dutiye pārājikaṃ.
Con công đang bay trên hư không, nếu đậu vào bất kỳ phần nào trên thân người như đầu v.v…, thì đó là vị trí của nó. Do đó, (nếu con công) đậu trên tay, ngay cả việc làm cho nó di chuyển qua lại cũng chỉ là làm rung động; nhưng nếu dùng tay kia nắm lấy rồi làm di chuyển khỏi chỗ (tay đang đậu), phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) đưa tay kia đến, con công tự bay rồi đậu vào đó, không phạm tội. Biết việc (con công) đậu trên thân mình, với tâm trộm cắp đi một bước, phạm tội Trọng Tội. Bước thứ hai, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Bhūmiyaṃ ṭhitamoro dvinnaṃ vā pādānaṃ kalāpassa ca vasena tīṇi ṭhānāni labhati. Taṃ ukkhipantassa yāva ekampi ṭhānaṃ pathaviṃ phusati, tāva thullaccayaṃ. Kesaggamattampi pathaviyā mocitamatte pārājikaṃ. Pañjare ṭhitaṃ saha pañjarena uddharati, pārājikaṃ. Yadi pana pādaṃ na agghati, sabbattha agghavasena kātabbaṃ. Antovatthumhi carantaṃ moraṃ theyyacittena padasā bahivatthuṃ nīharanto dvāraparicchedaṃ atikkāmeti, pārājikaṃ. Vaje ṭhitabalībaddassa hi vajo viya antovatthu tassa ṭhānaṃ. Hatthena pana gahetvā antovatthusmimpi ākāsagataṃ karontassa pārājikameva. Antogāme carantampi gāmaparikkhepaṃ atikkāmentassa pārājikaṃ . Sayameva nikkhamitvā gāmūpacāre vā vatthūpacāre vā carantaṃ pana theyyacitto kaṭṭhena vā kathalāya vā utrāsetvā aṭavimukhaṃ karoti, moro uḍḍetvā antogāme vā antovatthumhi vā chadanapiṭṭhe vā nilīyati, rakkhati. Sace pana aṭavimukhe uḍḍeti vā gacchati vā ‘‘aṭaviṃ pavesetvā gahessāmī’’ti parikappe asati pathavito kesaggamattampi uḍḍitamatte vā dutiyapadavāre vā pārājikaṃ. Kasmā? Yasmā gāmato nikkhantassa ṭhitaṭṭhānameva ṭhānaṃ hoti. Kapiñjarādīsupi ayameva vinicchayo.
Con công đứng trên mặt đất, tùy theo hai chân hoặc cả đuôi (chạm đất), có thể có ba vị trí (tiếp xúc). Khi nhấc nó lên, chừng nào dù chỉ một điểm (trong ba điểm đó) vẫn còn chạm đất, chừng đó (phạm tội) Trọng Tội. Ngay khi làm cho nó rời khỏi mặt đất dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu con công) ở trong lồng, nhấc cả lồng lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu (con công) không đủ giá trị một pāda, thì ở tất cả mọi trường hợp, (việc quy tội) phải được thực hiện theo giá trị. Con công đang đi lại trong khu vực (có rào), (Tỳ khưu) với tâm trộm cắp dùng chân lùa nó ra ngoài khu vực, khi (con công) vượt qua giới hạn của cửa, phạm tội Bất Cộng Trụ. Vì đối với con bò dùng để kéo xe ở trong chuồng, cũng như chuồng là vị trí của nó, thì khu vực bên trong (rào) là vị trí của con công. Còn nếu dùng tay bắt (con công) ngay cả khi nó ở trong khu vực (có rào) rồi nhấc bổng lên không, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. (Con công) đang đi lại trong làng, (nếu Tỳ khưu) làm cho nó vượt qua hàng rào của làng, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu (con công) tự nó đi ra ngoài, đang đi lại ở vùng ngoại ô của làng hoặc vùng ngoại ô của khu vực (có rào), (Tỳ khưu) với tâm trộm cắp dùng gậy hoặc mảnh sành xua đuổi làm cho nó hướng về phía rừng; (nhưng) con công lại bay rồi đậu trong làng, hoặc trong khu vực (có rào), hoặc trên nóc mái nhà, thì (tài sản đó) vẫn được bảo vệ. Nhưng nếu (con công) bay hoặc đi về phía rừng, dù không có ý định trước là ‘ta sẽ lùa nó vào rừng rồi bắt’, thì ngay khi (con công) bay lên khỏi mặt đất dù chỉ bằng một sợi tóc, hoặc (đi) bước chân thứ hai (về phía rừng), cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì đối với (con công) đã ra khỏi làng, chính nơi nó đang đứng là vị trí (mới) của nó. Đối với chim đa đa v.v… cũng quyết định tương tự như vậy.

Sāṭakaṃ vāti vātavegukkhittaṃ pathavitale pattharitvā ṭhapitamiva ākāsena gacchantaṃ khalibaddhaṃ sāṭakaṃ abhimukhāgataṃ hatthena ekasmiṃ ante gaṇhāti, ito cito ca ṭhānaṃ avikopentoyeva gamanupacchede dukkaṭaṃ. Ṭhānācāvanaṃ akaronto cāleti, phandāpane thullaccayaṃ. Ṭhānā cāveti, pārājikaṃ. Ṭhānaparicchedo cassa morasseva chahi ākārehi veditabbo.
Hoặc tấm vải‘: Tấm vải được buộc vào dây phơi, bị gió thổi bay trong hư không giống như được trải ra trên mặt đất, (nếu) nó bay về phía mình, (Tỳ khưu) dùng tay nắm lấy một đầu, trong khi chưa làm thay đổi vị trí của nó ở đầu này đầu kia mà chỉ làm ngừng sự bay đi, phạm tội Tác ác. (Nếu) làm cho nó rung động mà không làm di chuyển khỏi chỗ, khi làm rung động, phạm tội Trọng Tội. (Nếu) làm di chuyển khỏi chỗ, phạm tội Bất Cộng Trụ. Và sự phân định vị trí của nó cần được hiểu theo sáu cách như đối với con công.

Abaddhasāṭako pana ekasmiṃ ante gahitamatteva dutiyenantena patitvā bhūmiyaṃ patiṭṭhāti, tassa dve ṭhānāni honti – hattho ceva bhūmi ca. Taṃ yathāgahitameva paṭhamaṃ gahitokāsappadesato cāleti, thullaccayaṃ. Pacchā bhūmito dutiyahatthena vā pādena vā ukkhipati, pārājikaṃ. Paṭhamaṃ vā bhūmito uddharati, thullaccayaṃ. Pacchā gahitokāsappadesato cāveti, pārājikaṃ. Gahaṇaṃ vā amuñcanto ujukameva hatthaṃ onāmetvā bhūmigataṃ katvā teneva hatthena ukkhipati, pārājikaṃ. Veṭhanepi ayameva vinicchayo.
Còn tấm vải không buộc, ngay khi một đầu được nắm lấy, đầu kia liền rơi xuống chạm đất, nó có hai vị trí: tay (người nắm) và mặt đất. (Nếu) trước hết làm di chuyển phần đã nắm khỏi chỗ đã nắm, phạm tội Trọng Tội. Sau đó, dùng tay kia hoặc chân nhấc (phần kia) lên khỏi mặt đất, phạm tội Bất Cộng Trụ. Hoặc trước hết nhấc (phần kia) lên khỏi mặt đất, phạm tội Trọng Tội. Sau đó, làm di chuyển phần đã nắm khỏi chỗ đã nắm, phạm tội Bất Cộng Trụ. Hoặc không buông phần đã nắm, mà duỗi thẳng tay xuống làm cho (phần đó) chạm đất, rồi dùng chính tay đó nhấc lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với khăn quấn đầu cũng quyết định tương tự như vậy.

Hiraññaṃvā suvaṇṇaṃ vā chijjamānanti manussānaṃ alaṅkarontānaṃ gīveyyakādipiḷandhanaṃ vā suvaṇṇasalākaṃ chindantānaṃ suvaṇṇakārānaṃ suvaṇṇakhaṇḍaṃ vā chijjamānaṃ patati, tañce bhikkhu ākāsena āgacchantaṃ theyyacitto hatthena gaṇhāti, gahaṇameva ṭhānaṃ. Gahitappadesato hatthaṃ apaneti, pārājikaṃ. Cīvare patitaṃ hatthena ukkhipati, pārājikaṃ. Anuddharitvāva yāti, dutiye padavāre pārājikaṃ. Patte patitepi eseva nayo. Sīse vā mukhe vā pāde vā patiṭṭhitaṃ hatthena gaṇhāti, pārājikaṃ. Aggahetvāva yāti, dutiye padavāre pārājikaṃ. Yattha katthaci patati, tassa patitokāsova ṭhānaṃ, na sabbaṃ aṅgapaccaṅgaṃ pattacīvaraṃ vāti.
Vàng hay bạc đang rơi‘: (nghĩa là) khi người ta đang trang điểm, đồ trang sức đeo cổ v.v… bị đứt, hoặc khi thợ vàng đang cắt thỏi vàng, một mảnh vàng bị văng ra rơi xuống; nếu Tỳ khưu với tâm trộm cắp dùng tay bắt lấy (mảnh vàng đó) khi nó đang rơi trong hư không, thì chính chỗ bắt được là vị trí (của nó). (Nếu) dời tay khỏi chỗ đã bắt, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu mảnh vàng) rơi trên y, (Tỳ khưu) dùng tay nhấc lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) không nhấc lên mà (vẫn giữ nguyên trên y) rồi đi, đến bước chân thứ hai, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) rơi vào bát, cũng theo phương pháp này. (Nếu) đậu trên đầu, hoặc mặt, hoặc chân, (Tỳ khưu) dùng tay bắt lấy, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) không bắt lấy mà (vẫn để yên trên người) rồi đi, đến bước chân thứ hai, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nó rơi ở bất kỳ đâu, chính chỗ rơi đó là vị trí của nó, chứ không phải toàn bộ chân tay, bát hay y (của Tỳ khưu).

Ākāsaṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật ở Hư Không đến đây là hết.

Vehāsaṭṭhakathā

Luận về Vật ở Trên Cao

97. Vehāsaṭṭhe mañcapīṭhādīsu ṭhapitaṃ bhaṇḍaṃ āmāsaṃ vā hotu anāmāsaṃ vā, theyyacittena āmasantassa dukkaṭaṃ. Mañcapīṭhesu ṭhapitabhaṇḍesu panettha thalaṭṭhe vuttanayena vinicchayo veditabbo. Ayaṃ pana viseso – sace khaliyā baddhasāṭako mañce vā pīṭhe vā patthaṭo majjhena mañcatalaṃ na phusati, mañcapādeva phusati, tesaṃ vasena ṭhānaṃ veditabbaṃ. Pādānaṃ upari phuṭṭhokāsameva hi atikkamitamattena tattha pārājikaṃ hoti. Saha mañcapīṭhehi harantassa pana mañcapīṭhapādānaṃ patiṭṭhitokāsavasena ṭhānaṃ veditabbaṃ.
97. Đối với vật ở trên cao, vật được đặt trên giường, ghế v.v…, dù là vật được phép chạm đến hay không được phép chạm đến, người nào với tâm trộm cắp chạm đến, phạm tội Tác ác. Đối với các vật được đặt trên giường, ghế ở đây, quyết định cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với vật ở trên mặt đất. Nhưng đây là điểm đặc biệt – nếu tấm vải được buộc vào dây phơi, khi trải trên giường hoặc ghế, phần giữa không chạm vào mặt giường mà chỉ chạm vào chân giường, thì vị trí (của tấm vải) cần được hiểu dựa vào những (điểm chạm ở chân giường) đó. Vì ngay khi (tấm vải) vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc ở trên chân giường, liền phạm tội Bất Cộng Trụ ở đó. Còn đối với người mang (vật) đi cùng với giường hoặc ghế, thì vị trí (của vật) cần được hiểu dựa vào chỗ các chân giường hoặc chân ghế được đặt.

Cīvaravaṃse vāti cīvaraṭhapanatthāya bandhitvā ṭhapite vaṃse vā kaṭṭhadaṇḍake vā. Tattha saṃharitvā pārato antaṃ orato bhogaṃ katvā ṭhapitacīvarassa patiṭṭhitokāsena phuṭṭhokāsova ṭhānaṃ, na sabbo cīvaravaṃso. Tasmā theyyacittena taṃ bhoge gahetvā ākaḍḍhantassa pārato vaṃse patiṭṭhitokāsaṃ orato cīvarena vaṃsassa phuṭṭhappadesaṃ atikkāmentassa ekadvaṅgulamattākaḍḍhaneneva pārājikaṃ. Ante gahetvā ākaḍḍhantassāpi eseva nayo. Tattheva pana cīvaravaṃse vāmato vā dakkhiṇato vā sārentassa vāmantena dakkhiṇantaṭṭhānaṃ dakkhiṇantena vā vāmantaṭṭhānaṃ atikkantamatte dasadvādasaṅgulamattasāraṇeneva pārājikaṃ. Uddhaṃ ukkhipantassa kesaggamattukkhipanena pārājikaṃ. Cīvaravaṃsaṃ phusantaṃ vā aphusantaṃ vā rajjukena bandhitvā ṭhapitacīvaraṃ mocentassa thullaccayaṃ, mutte pārājikaṃ. Muttamattameva hi taṃ ‘‘ṭhānā cuta’’nti saṅkhyaṃ gacchati. Vaṃse veṭhetvā ṭhapitaṃ nibbeṭhentassa thullaccayaṃ, nibbeṭhitamatte pārājikaṃ. Valayaṃ katvā ṭhapite valayaṃ chindati vā moceti vā ekaṃ vā vaṃsakoṭiṃ mocetvā nīharati, thullaccayaṃ . Chinnamatte muttamatte nīhaṭamatte ca pārājikaṃ. Tathā akatvāva cīvaravaṃse ito cito ca sāreti, rakkhati tāva. Valayassa hi sabbopi cīvaravaṃso ṭhānaṃ. Kasmā? Tattha saṃsaraṇadhammatāya. Yadā pana naṃ hatthena gahetvā ākāsagataṃ karoti, pārājikaṃ. Pasāretvā ṭhapitassa patiṭṭhitokāsena phuṭṭhokāsova ṭhānaṃ. Tattha saṃharitvā ṭhapite vuttanayena vinicchayo veditabbo. Yaṃ pana ekenantena bhūmiṃ phusitvā ṭhitaṃ hoti, tassa cīvaravaṃse ca bhūmiyañca patiṭṭhitokāsavasena dve ṭhānāni. Tattha bhūmiyaṃ ekenantena patiṭṭhite abaddhasāṭake vuttanayeneva vinicchayo veditabbo. Cīvararajjuyāpi ayameva vinicchayo.
Hoặc trên sào phơi y‘ là trên cây tre hoặc cây gậy gỗ được buộc và đặt để phơi y. Ở đó, đối với tấm y được gấp lại, một đầu ở phía xa, phần gấp ở phía gần mà đặt (trên sào), thì chính chỗ tiếp xúc do được đặt đó là vị trí (của y), chứ không phải toàn bộ sào phơi y. Do đó, người nào với tâm trộm cắp nắm lấy phần gấp đó rồi kéo, làm cho phần y tiếp xúc với sào ở phía gần vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của (đầu y) được đặt trên sào ở phía xa, chỉ cần kéo một hoặc hai ngón tay cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nắm lấy đầu y rồi kéo cũng theo phương pháp này. Còn nếu ngay trên sào phơi y đó, (Tỳ khưu) dời y sang bên trái hoặc bên phải, ngay khi đầu bên trái vượt qua vị trí của đầu bên phải, hoặc đầu bên phải vượt qua vị trí của đầu bên trái, chỉ cần dời mười hoặc mười hai ngón tay cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nhấc lên trên, chỉ cần nhấc lên bằng một sợi tóc cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Tấm y được buộc bằng dây rồi đặt (trên sào), dù chạm hay không chạm sào phơi y, người cởi dây buộc phạm tội Trọng Tội; khi (y) được cởi ra (hoàn toàn khỏi dây), phạm tội Bất Cộng Trụ. Vì ngay khi được cởi ra, nó được kể là ‘đã rời khỏi chỗ’. Tấm y được quấn quanh sào rồi để đó, người tháo quấn phạm tội Trọng Tội; ngay khi tháo quấn xong, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu y) được làm thành vòng rồi đặt (lên sào), (Tỳ khưu) cắt vòng, hoặc cởi vòng, hoặc cởi một đầu sào rồi lấy ra, phạm tội Trọng Tội. Ngay khi cắt xong, cởi xong, hoặc lấy ra xong, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu không làm như vậy mà chỉ dời (vòng y) qua lại trên sào phơi y, thì (tài sản) vẫn còn được bảo vệ. Vì đối với (y làm thành) vòng, toàn bộ sào phơi y là vị trí (của nó). Tại sao? Vì nó có tính chất di chuyển được trên đó. Còn khi dùng tay nắm lấy nó rồi nhấc bổng lên không, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với (y) được trải ra rồi đặt, chính chỗ tiếp xúc do được đặt là vị trí (của nó). Ở đó, đối với (y) được gấp lại rồi đặt, quyết định cần được hiểu theo phương pháp đã nói. Còn y nào được đặt mà một đầu chạm đất, thì nó có hai vị trí dựa vào chỗ được đặt trên sào phơi y và chỗ (chạm) đất. Ở đó, đối với tấm vải không buộc mà một đầu đặt trên đất, quyết định cần được hiểu theo phương pháp đã nói. Đối với dây phơi y cũng quyết định tương tự như vậy.

Aṅkusake laggetvā ṭhapitabhaṇḍaṃ pana bhesajjaghaṭo vā bhesajjatthavikā vā sace bhittiṃ vā bhūmiṃ vā aphusitvā ṭhapitaṃ lagganakaṃ ghaṃsantassa nīharato aṅkusakoṭito nikkhantamatte pārājikaṃ. Lagganakaṃ baddhaṃ hoti, bundena ukkhipitvā ākāsagataṃ karontassa aṅkusakoṭito anikkhantepi pārājikaṃ. Bhittinissitaṃ hoti, paṭhamaṃ aṅkusakoṭito nīharati, thullaccayaṃ. Pacchā bhittiṃ moceti, pārājikaṃ. Paṭhamaṃ bhittiṃ mocetvā pacchā aṅkusato nīharantassāpi eseva nayo. Sace pana bhāriyaṃ bhaṇḍaṃ nīharituṃ asakkonto sayaṃ bhittinissitaṃ katvā aṅkusato nīharati, puna bhittiṃ amocetvāpi aṅkusato nīhaṭamatteyeva pārājikaṃ. Attanā kataṭṭhānañhi ṭhānaṃ na hoti. Bhūmiṃ phusitvā ṭhitassa pana dve eva ṭhānāni. Tattha vuttoyeva vinicchayo . Yaṃ pana sikkāya pakkhipitvā laggitaṃ hoti, taṃ sikkāto nīharantassāpi saha sikkāya aṅkusato nīharantassāpi pārājikaṃ. Bhittibhūmisannissitavasena cettha ṭhānabhedopi veditabbo.
Còn vật được móc rồi để trên cái móc, như hũ thuốc hoặc túi thuốc, nếu được đặt mà không chạm tường hay đất, thì người nào cọ xát vật móc rồi lấy ra, ngay khi (vật đó) rời khỏi đầu móc, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) vật móc được buộc (chặt vào vật), người nào nhấc đáy (vật) lên rồi làm cho nó rời khỏi (tường/đất) lên không, ngay cả khi (vật) chưa rời khỏi đầu móc, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu vật đó) dựa vào tường, (Tỳ khưu) trước hết lấy nó ra khỏi đầu móc, phạm tội Trọng Tội. Sau đó làm cho nó rời khỏi tường, phạm tội Bất Cộng Trụ. Người trước hết làm cho nó rời khỏi tường, sau đó lấy ra khỏi móc cũng theo phương pháp này. Còn nếu không thể lấy vật nặng ra, (Tỳ khưu) tự mình làm cho nó dựa vào tường rồi lấy ra khỏi móc, thì dù sau đó không làm cho nó rời khỏi tường nữa, ngay khi lấy ra khỏi móc cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Vì chỗ do chính mình tạo ra (để dựa tạm) không phải là vị trí (thực sự của vật). Còn đối với vật được đặt mà chạm đất, thì có hai vị trí. Quyết định ở đó đã được nói rồi. Còn vật nào được bỏ vào đãy lưới rồi móc lên, thì người lấy nó ra khỏi đãy lưới, hay lấy cả đãy lưới ra khỏi móc, cũng đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Sự khác biệt về vị trí ở đây cũng cần được hiểu tùy theo việc (vật) dựa vào tường hay đất.

Bhittikhīloti ujukaṃ katvā bhittiyaṃ ākoṭito vā tatthajātako eva vā; nāgadanto pana vaṅko ākoṭito eva. Tesu laggetvā ṭhapitaṃ aṅkusake vuttanayeneva vinicchinitabbaṃ. Dvīsu tīsu pana paṭipāṭiyā ṭhitesu āropetvā ṭhapitaṃ kuntaṃ vā bhindivālaṃ vā agge vā bunde vā gahetvā ākaḍḍhati, ekamekassa phuṭṭhokāsamatte atikkante pārājikaṃ. Phuṭṭhokāsamattameva hi tesaṃ ṭhānaṃ hoti, na sabbe khīlā vā nāgadantā vā. Bhittiabhimukho ṭhatvā majjhe gahetvā ākaḍḍhati, orimantena phuṭṭhokāsaṃ pārimantena atikkantamatte pārājikaṃ. Parato pellentassāpi eseva nayo. Hatthena gahetvā ujukaṃ ukkhipanto kesaggamattampi ākāsagataṃ karoti, pārājikaṃ. Bhittiṃ nissāya ṭhapitaṃ bhittiṃ ghaṃsanto ākaḍḍhati, aggena phuṭṭhokāsaṃ bundaṃ, bundena vā phuṭṭhokāsaṃ aggaṃ atikkāmentassa pārājikaṃ . Bhittiabhimukho ṭhatvā ākaḍḍhanto ekenantena phuṭṭhokāsaṃ aparantaṃ atikkāmeti, pārājikaṃ. Ujukaṃ ukkhipanto kesaggamattaṃ ākāsagataṃ karoti, pārājikaṃ.
Cọc tường‘ là (cọc) được làm thẳng rồi đóng vào tường, hoặc là (cành cây) mọc ngay tại đó; còn ‘ngà voi’ (tức cọc hình ngà voi) thì cong và chỉ được đóng vào. Vật được móc rồi để trên những thứ đó cần được phân xử theo phương pháp đã nói đối với cái móc. Còn đối với cây giáo hoặc cây lao được đặt gác lên hai hoặc ba (cọc/ngà voi) đứng thẳng hàng, (Tỳ khưu) nắm lấy đầu nhọn hoặc đầu cán rồi kéo, ngay khi (cây giáo/lao) vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của mỗi một (cọc/ngà voi), phạm tội Bất Cộng Trụ. Vì chính mỗi chỗ tiếp xúc là vị trí của chúng, chứ không phải tất cả các cọc hay ngà voi. (Nếu Tỳ khưu) đứng đối diện tường, nắm lấy giữa (cây giáo/lao) rồi kéo, ngay khi đầu bên kia vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đầu bên này, phạm tội Bất Cộng Trụ. Người đẩy ra xa cũng theo phương pháp này. (Nếu) dùng tay nắm lấy rồi nhấc thẳng lên, làm cho nó rời (khỏi các cọc) lên không dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. Vật được đặt dựa vào tường, (nếu Tỳ khưu) kéo mà làm cọ xát vào tường, khiến cho đầu cán vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đầu nhọn, hoặc đầu nhọn vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đầu cán, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) đứng đối diện tường rồi kéo, làm cho đầu kia vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của một đầu, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) nhấc thẳng lên, làm cho nó rời (khỏi tường) lên không dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Rukkhe vā laggitanti tālarukkhādīsu āropetvā laggite aṅkusakādīsu vuttanayena vinicchayo veditabbo. Tatthajātakaṃ pana tālapiṇḍiṃ cālentassa thullaccayaṃ. Yasmiṃ phale pārājikavatthu pūrati, tasmiṃ bandhanā muttamatte pārājikaṃ. Piṇḍiṃ chindati, pārājikaṃ. Aggena paṇṇantaraṃ āropetvā ṭhapitā dve ṭhānāni labhati – ṭhapitaṭṭhānañca vaṇṭaṭṭhānañca; tattha vuttanayena vinicchayo veditabbo. Yo pana ‘‘chinnamattā patamānā saddaṃ kareyyā’’ti bhayena sayaṃ aggena paṇṇantaraṃ āropetvā chindati, chinnamatte pārājikaṃ . Attanā kataṭṭhānañhi ṭhānaṃ na hoti. Etena upāyena sabbarukkhānaṃ pupphaphalesu vinicchayo veditabbo.
Hoặc móc trên cây‘: (Vật) được gác rồi móc trên các cây như cây thốt nốt v.v…, quyết định cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với cái móc v.v… Còn đối với buồng thốt nốt mọc tại đó, người làm rung động nó phạm tội Trọng Tội. Trái nào đủ (giá trị) cấu thành sự việc Bất Cộng Trụ, ngay khi trái đó rời khỏi cuống, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) chặt cả buồng, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Buồng thốt nốt) được đặt gác ngọn vào giữa các bẹ lá thì có hai vị trí: chỗ được đặt và chỗ cuống; quyết định ở đó cần được hiểu theo phương pháp đã nói. Còn người nào vì sợ rằng ‘ngay khi chặt xong, (buồng thốt nốt) rơi xuống sẽ gây ra tiếng động’, bèn tự mình dùng ngọn (của nó) gác vào giữa các bẹ lá rồi mới chặt, thì ngay khi chặt xong, phạm tội Bất Cộng Trụ. Vì chỗ do chính mình tạo ra (để gác tạm) không phải là vị trí (thực sự của vật). Theo phương pháp này, quyết định đối với hoa và quả của tất cả các loại cây cần được hiểu.

Pattādhārakepīti ettha rukkhādhārako vā hotu valayādhārako vā daṇḍādhārako vā yaṃkiñci pattaṭṭhapanakaṃ pacchikāpi hotu pattādhārako tveva saṅkhyaṃ gacchati. Tattha ṭhapitapattassa pattena phuṭṭhokāso eva ṭhānaṃ. Tattha rukkhādhārake pañcahākārehi ṭhānaparicchedo hoti. Tattha ṭhitaṃ pattaṃ mukhavaṭṭiyaṃ gahetvā catūsu disāsu yato kutoci kaḍḍhanto ekenantena phuṭṭhokāsaṃ aparantaṃ atikkāmeti, pārājikaṃ. Uddhaṃ kesaggamattaṃ ukkhipato pārājikaṃ. Sahādhārakena harantassāpi eseva nayoti.
Cũng trên giá để bát‘: Ở đây, dù là giá đỡ bằng cây, giá đỡ hình vòng, giá đỡ bằng gậy, hay bất kỳ vật gì để đặt bát, ngay cả cái đãy cũng được kể là giá để bát. Ở đó, đối với cái bát được đặt, chính chỗ tiếp xúc của bát (với giá) là vị trí (của nó). Ở đó, đối với giá đỡ bằng cây, sự phân định vị trí có năm cách. Cái bát được đặt ở đó, (nếu Tỳ khưu) nắm miệng bát rồi kéo từ bất kỳ phía nào trong bốn phía, làm cho đầu kia vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của một đầu, phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nhấc lên trên dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. Người mang đi cùng với giá đỡ cũng theo phương pháp này.

Vehāsaṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật ở Trên Cao đến đây là hết.

Udakaṭṭhakathā

Luận về Vật ở Dưới Nước

98. Udakaṭṭhe – udake nikkhittaṃ hotīti rājabhayādibhītehi udakena avinassanadhammesu tambalohabhājanādīsu suppaṭicchannaṃ katvā pokkharaṇīādīsu asandanake udake nikkhittaṃ. Tassa patiṭṭhitokāsoyeva ṭhānaṃ, na sabbaṃ udakaṃ. Gacchati vā āpatti dukkaṭassāti agambhīre udake padasā gacchantassa padavāre padavāre dukkaṭaṃ. Gambhīre hatthehi vā pādehi vā payogaṃ karontassa hatthavārehi vā padavārehi vā payoge payoge dukkaṭaṃ. Eseva nayo kumbhigahaṇatthaṃ nimujjanummujjanesu. Sace pana antarā kiñci udakasappaṃ vā vāḷamacchaṃ vā disvā bhīto palāyati, anāpatti. Āmasanādīsu bhūmigatāya kumbhiyā vuttanayeneva vinicchayo veditabbo . Ayaṃ pana viseso – tattha bhūmiṃ khaṇitvā kaḍḍhati, idha kaddame osāreti. Evaṃ chahākārehi ṭhānaparicchedo hoti.
98. Đối với vật ở dưới nước – ‘được đặt trong nước‘ là (vật) được những người sợ hãi vua chúa v.v… cất giấu kỹ trong các đồ đựng bằng đồng, sắt v.v… là những thứ không bị hư hoại bởi nước, rồi đặt trong nước không chảy ở ao hồ v.v… Chính chỗ được đặt đó là vị trí của nó, chứ không phải toàn bộ (khối) nước. ‘Hoặc đi, phạm tội Tác ác‘: (nghĩa là) khi đi bộ trong nước không sâu, mỗi một bước chân đều phạm tội Tác ác. (Khi) ở chỗ nước sâu, người dùng tay hoặc chân để bơi, mỗi một cử động của tay hoặc mỗi một cử động của chân đều phạm tội Tác ác. Phương pháp này cũng áp dụng cho việc lặn xuống và trồi lên để lấy cái hũ. Nhưng nếu giữa chừng thấy rắn nước hoặc cá dữ nào đó rồi sợ hãi bỏ chạy, thì không phạm tội. Trong các (hành vi) như chạm đến v.v…, quyết định cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với cái hũ bị lún sâu vào đất. Nhưng đây là điểm đặc biệt – ở đó (trường hợp vật trong đất) thì đào đất rồi kéo (vật) ra, ở đây (trường hợp vật trong nước) thì làm cho (vật) lún vào bùn (rồi mới kéo). Như vậy, sự phân định vị trí có sáu cách.

Uppalādīsu yasmiṃ pupphe vatthuṃ pūreti, tasmiṃ chinnamatte pārājikaṃ. Uppalajātikānañcettha yāva ekasmimpi passe vāko na chijjati, tāva rakkhati. Padumajātikānaṃ pana daṇḍe chinne abbhantare suttaṃ acchinnampi na rakkhati. Sāmikehi chinditvā ṭhapitāni uppalādīni honti, yaṃ vatthuṃ pūreti, tasmiṃ uddhaṭe pārājikaṃ. Hatthakabaddhāni honti, yasmiṃ hatthake vatthu pūrati, tasmiṃ uddhaṭe pārājikaṃ. Bhārabaddhāni honti, taṃ bhāraṃ channaṃ ākārānaṃ yena kenaci ākārena ṭhānā cāventassa bhūmaṭṭhakumbhiyaṃ vuttanayena pārājikaṃ. Dīghanāḷāni uppalādīni honti, pupphesu vā nāḷesu vā veṇiṃ katvā udakapiṭṭhe rajjukesu tiṇāni santharitvā ṭhapenti vā bandhanti vā, tesaṃ dīghato pupphaggena ca nāḷantena ca tiriyaṃ pariyantehi heṭṭhā patiṭṭhitokāsena uddhaṃ upari ṭhitassa piṭṭhiyāti chahākārehi ṭhānā cāvanaparicchedo veditabbo.
Đối với hoa sen xanh v.v…, hoa nào đủ (giá trị) cấu thành sự việc (Bất Cộng Trụ), ngay khi hoa đó bị cắt đứt (khỏi cuống), phạm tội Bất Cộng Trụ. Và ở đây, đối với các loại sen xanh, chừng nào vỏ (cuống) dù chỉ ở một bên chưa bị đứt, chừng đó (hoa) vẫn còn được bảo vệ. Còn đối với các loại sen hồng, khi cuống đã bị cắt, dù sợi tơ bên trong chưa đứt, cũng không (còn được xem là) bảo vệ (hoa nữa). (Nếu) là hoa sen xanh v.v… đã được chủ nhân cắt rồi để đó, (Tỳ khưu lấy) hoa nào đủ (giá trị) cấu thành sự việc (Bất Cộng Trụ), khi nhấc hoa đó lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) là (hoa) được bó thành bó nhỏ, (Tỳ khưu lấy) bó nhỏ nào đủ (giá trị) cấu thành sự việc (Bất Cộng Trụ), khi nhấc bó đó lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) là (hoa) được bó thành gánh lớn, người nào làm di chuyển gánh đó khỏi chỗ bằng bất kỳ cách nào trong sáu cách, thì phạm tội Bất Cộng Trụ theo phương pháp đã nói đối với cái hũ ở dưới đất. (Nếu) là hoa sen xanh v.v… có cuống dài, người ta dùng hoa hoặc cuống bện thành dây rồi đặt hoặc buộc vào các sợi dây (giăng) trên cỏ trải trên mặt nước, thì sự phân định về việc làm di chuyển khỏi chỗ của chúng cần được hiểu theo sáu cách: theo chiều dài là đầu hoa và cuối cuống, theo chiều ngang là các mép, phía dưới là chỗ được đặt, phía trên là phần lưng của vật nằm ở trên.

Yopi udakapiṭṭhiyaṃ ṭhapitapupphakalāpaṃ udakaṃ cāletvā vīciṃ uṭṭhāpetvā kesaggamattampi yathāṭhitaṭṭhānato cāveti, pārājikaṃ. Atha pana parikappeti ‘‘ettha gataṃ gahessāmī’’ti, rakkhati tāva; gataṭṭhāne pana uddharato pārājikaṃ. Udakato accuggatassa pupphassa sakalamudakaṃ ṭhānaṃ, taṃ uppāṭetvā ujukaṃ uddharantassa nāḷante kesaggamattaṃ udakato atikkante pārājikaṃ. Pupphe gahetvā apanāmetvā ākaḍḍhanto uppāṭeti, na udakaṃ ṭhānaṃ, uppāṭitamatte pārājikaṃ. Kalāpabaddhāni pupphāni udakaṭṭhāne vā rukkhe vā gacche vā bandhitvā ṭhapenti, bandhanaṃ amocetvā ito cito ca karontassa thullaccayaṃ, bandhane muttamatte pārājikaṃ. Paṭhamaṃ bandhanaṃ mocetvā pacchā harati, ettha chahākārehi ṭhānaparicchedoti idaṃ ubhayaṃ mahāpaccariyādīsu vuttaṃ. Paduminiyaṃ pupphāni saha paduminiṃyā gaṇhitukāmassa pupphanāḷehi ca pattanāḷehi ca phuṭṭhaudakavasena uddhañceva tiriyañca ṭhānaparicchedo veditabbo. Taṃ panassa paduminiṃ anuppāṭetvā pupphāni vā pattāni vā attano abhimukhaṃ ākaḍḍhantassa thullaccayaṃ. Uppāṭitamatte pārājikaṃ.
Người nào làm xao động nước, tạo sóng làm di chuyển bó hoa đặt trên mặt nước khỏi vị trí đã được đặt dù chỉ bằng một sợi tóc, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu (Tỳ khưu) hoạch định trước ‘khi nó trôi đến đó ta sẽ lấy’, thì (bó hoa) vẫn còn được bảo vệ; nhưng khi nhấc (bó hoa) lên ở chỗ nó đã trôi đến, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với hoa mọc vươn cao khỏi mặt nước, toàn bộ (vùng) nước (quanh gốc) là vị trí (của nó); người nào nhổ nó lên rồi nhấc thẳng lên, ngay khi cuối cuống vượt khỏi mặt nước dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) nắm hoa rồi kéo dời đi mà nhổ (cả gốc), thì nước không (còn) là vị trí (của nó nữa), ngay khi nhổ lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. Những bó hoa được buộc rồi để ở chỗ nước, hoặc trên cây, hoặc trong bụi rậm, người nào chưa cởi dây buộc mà (chỉ) làm di chuyển qua lại, phạm tội Trọng Tội; ngay khi dây buộc được cởi ra, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) trước hết cởi dây buộc, sau đó mới mang đi, thì ở đây sự phân định vị trí có sáu cách – cả hai điều này được nói trong các Chú giải như Chú giải Mahāpaccari v.v… Đối với người muốn lấy hoa sen hồng cùng với cả cây sen, sự phân định vị trí theo chiều đứng và chiều ngang cần được hiểu dựa vào phần nước tiếp xúc với cuống hoa và cuống lá. Nhưng người nào chưa nhổ cây sen đó lên mà (chỉ) kéo hoa hoặc lá về phía mình, phạm tội Trọng Tội. Ngay khi nhổ (cây sen) lên, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Pupphapattanāḷe ṭhānato acāvetvāpi paṭhamaṃ paduminiṃ uppāṭentassa thullaccayaṃ. Pacchā pupphapattanāḷesu ṭhānā cāvitesu pārājikaṃ. Uppāṭitāya paduminiyā pupphaṃ gaṇhanto pana bhaṇḍaṃ agghāpetvā kāretabbo. Bahi ṭhapite rāsikatakalāpabaddhabhārabaddhapupphepi eseva nayo. Bhisaṃ vā muḷālaṃ vā yena vatthu pūrati, taṃ uppāṭentassa pārājikaṃ. Kaddame phuṭṭhokāsavasena cettha ṭhānaṃ paricchinditabbaṃ. Tāni uppāṭentassa sukhumampi mūlaṃ acchinnaṃ hoti, rakkhati tāva. Bhisapabbe jātaṃ pattaṃ vā pupphaṃ vā hoti, tampi rakkhatīti mahāaṭṭhakathāyameva vuttaṃ. Bhisagaṇṭhimhi pana kaṇṭako hoti yobbanappattānaṃ mukhapiḷakā viya, ayaṃ adīghattā na rakkhati. Sesaṃ uppalādīsu vuttanayameva.
Ngay cả khi chưa làm di chuyển cuống hoa, cuống lá khỏi vị trí, (nếu) trước hết nhổ cây sen lên, phạm tội Trọng Tội. Sau đó, khi cuống hoa, cuống lá bị làm di chuyển khỏi vị trí, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn người nào lấy hoa của cây sen đã bị nhổ lên, thì phải bị (xử phạt) sau khi định giá vật đó. Đối với hoa được chất thành đống, bó thành bó, kết thành gánh lớn rồi để ở bên ngoài, cũng theo phương pháp này. Củ sen hoặc ngó sen nào đủ (giá trị) cấu thành sự việc (Bất Cộng Trụ), người nhổ nó lên phạm tội Bất Cộng Trụ. Ở đây, vị trí cần được phân định dựa vào chỗ tiếp xúc với bùn. Khi nhổ những thứ đó lên, dù chỉ một rễ nhỏ chưa bị đứt, (chúng) vẫn còn được bảo vệ. Lá hoặc hoa mọc từ đốt củ sen, cũng (được xem là) bảo vệ (củ sen), theo như đã nói chính trong Đại Chú Giải. Nhưng nếu trên mắt củ sen có một cái gai giống như mụn trứng cá của người đến tuổi dậy thì, cái này vì không dài nên không (được xem là) bảo vệ (củ sen). Phần còn lại đối với sen xanh v.v… cũng theo phương pháp đã nói.

Macchakacchapānaṃ sassāmikānaṃ vāpiādīsu sakalamudakaṃ ṭhānaṃ. Tasmā yo paṭijagganaṭṭhāne sassāmikaṃ macchaṃ baḷisena vā jālena vā kumanena vā hatthena vā gaṇhāti, tassa yena macchena vatthu pūrati, tasmiṃ kesaggamattampi udakato uddhaṭamatte pārājikaṃ. Koci maccho gayhamāno ito cito ca dhāvati, ākāsaṃ vā uppatati, tīre vā patati, ākāse vā ṭhitaṃ tīre vā patitaṃ gaṇhatopi pārājikameva. Kacchapampi bahi gocaratthaṃ gataṃ gaṇhato eseva nayo. Udakaṭṭhaṃ pana udakā mocayato pārājikaṃ.
Đối với cá và rùa có chủ ở trong ao hồ v.v…, toàn bộ (khối) nước là vị trí (của chúng). Do đó, người nào ở nơi được canh giữ mà bắt cá có chủ bằng câu, hoặc lưới, hoặc đó, hoặc tay, thì đối với con cá nào đủ (giá trị) cấu thành sự việc (Bất Cộng Trụ), ngay khi nhấc con cá đó lên khỏi mặt nước dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu con cá nào khi bị bắt mà chạy qua chạy lại, hoặc nhảy lên không, hoặc nhảy lên bờ, thì (Tỳ khưu) bắt con cá đang ở hư không hoặc đã nhảy lên bờ đó cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với con rùa đi ra ngoài để kiếm ăn, người bắt nó cũng theo phương pháp này. Còn (con rùa) đang ở dưới nước, (nếu Tỳ khưu) làm cho nó rời khỏi nước, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Tesu tesu pana janapadesu sabbasādhāraṇassa mahātaḷākassa niddhamanatumbaṃ nissāya sabbasādhāraṇameva kunnadīsadisaṃ udakavāhakaṃ khaṇanti. Tato khuddakamātikāyo nīharitvā mātikākoṭiyaṃ attano attano vaḷañjanatthāya āvāṭe khaṇanti. Tesaṃ pana yadā udakena attho hoti, tadā āvāṭe khuddakamātikāyo udakavāhakañca sodhetvā niddhamanatumbaṃ ugghāṭenti. Tato udakena saddhiṃ macchā nikkhamitvā anupubbena āvāṭe patvā vasanti. Tattha taḷāke ca udakavāhakesu ca macche gaṇhante na vārenti. Khuddakāsu pana attano attano mātikāsu udakaāvāṭesu ca paviṭṭhamacche gaṇhituṃ na denti, vārenti; tattha yo taḷāke vā niddhamanatumbe vā udakavāhake vā macche gaṇhāti, avahārena so na kāretabbo. Khuddakamātikāsu pana āvāṭesu vā paviṭṭhaṃ gaṇhanto gahitassa agghavasena kāretabbo. Sace tato gayhamāno maccho ākāse vā uppatati, tīre vā patati, taṃ ākāsaṭṭhaṃ vā tīraṭṭhaṃ vā udakavinimuttaṃ gaṇhato avahāro natthi. Kasmā? Yasmā attano pariggahaṭṭhāne ṭhitasseva te sāmikā. Evarūpā hi tattha katikā. Kacchapepi eseva nayo.
Còn ở các xứ này xứ kia, người ta dựa vào cống thoát nước của hồ lớn chung cho mọi người mà đào một kênh dẫn nước cũng chung cho mọi người, giống như một con sông nhỏ. Từ đó, họ dẫn ra các mương nước nhỏ, rồi ở cuối mương, họ đào các ao chứa để sử dụng riêng cho mình. Khi họ cần nước, họ dọn sạch ao chứa, các mương nước nhỏ và cả kênh dẫn nước, rồi mở cống thoát nước (của hồ lớn). Khi đó, cá theo dòng nước đi ra, tuần tự đến các ao chứa rồi ở đó. Ở đó, người ta không ngăn cản việc bắt cá trong hồ lớn và trong các kênh dẫn nước. Nhưng họ không cho bắt, mà ngăn cản việc bắt cá đã vào trong các mương nước nhỏ và ao chứa nước riêng của mỗi người; ở đó, người nào bắt cá trong hồ lớn, hoặc ở cống thoát nước, hoặc trong kênh dẫn nước, người đó không bị (xử phạt) tội chiếm đoạt. Còn người nào bắt (cá) đã vào trong các mương nước nhỏ hoặc ao chứa, thì phải bị (xử phạt) theo giá trị của con cá đã bắt. Nếu con cá khi bị bắt từ đó mà nhảy lên không, hoặc nhảy lên bờ, thì người bắt con cá đang ở hư không, hoặc ở trên bờ, hoặc đã rời khỏi nước đó, không phạm tội chiếm đoạt. Tại sao? Vì họ chỉ là chủ nhân của (con cá) khi nó còn ở trong khu vực sở hữu của mình. Vì quy ước ở đó là như vậy. Đối với rùa cũng theo phương pháp này.

Sace pana maccho gayhamāno āvāṭato khuddakamātikaṃ āruhati, tattha naṃ gaṇhatopi avahāroyeva. Khuddakamātikāto pana udakavāhakaṃ, tato ca taḷākaṃ ārūḷhaṃ gaṇhato avahāro natthi. Yo āvāṭato bhattasitthehi palobhetvā mātikaṃ āropetvā gaṇhāti, avahārova. Tato pana palobhetvā udakavāhakaṃ āropetvā gaṇhantassa avahāro natthi. Keci pana kutocideva sabbasādhāraṇaṭṭhānato macche ānetvā pacchimavatthubhāge udakāvāṭe khipitvā posetvā divase divase dve tīṇi uttaribhaṅgatthāya mārenti. Evarūpaṃ macchaṃ udake vā ākāse vā tīre vā yattha katthaci ṭhitaṃ gaṇhato avahāro eva. Kacchapepi eseva nayo.
Còn nếu con cá khi bị bắt mà từ ao chứa bơi lên mương nước nhỏ, người bắt nó ở đó cũng phạm tội chiếm đoạt. Nhưng (nếu con cá) từ mương nước nhỏ bơi lên kênh dẫn nước, rồi từ đó bơi lên hồ lớn, người bắt nó (ở đó) không phạm tội chiếm đoạt. Người nào dùng cơm nắm nhử cá từ ao chứa cho bơi lên mương rồi bắt, phạm tội chiếm đoạt. Nhưng người nào từ đó nhử (cá) cho bơi lên kênh dẫn nước rồi bắt, không phạm tội chiếm đoạt. Một số người lại mang cá từ một nơi chung nào đó đến, thả vào ao nước ở phần đất phía sau (tu viện) rồi nuôi, mỗi ngày giết hai ba con để làm thức ăn thêm. Người nào bắt con cá như vậy, dù nó đang ở dưới nước, trên không, hay trên bờ, ở bất kỳ đâu, cũng đều phạm tội chiếm đoạt. Đối với rùa cũng theo phương pháp này.

Nidāghakāle pana nadiyā sote pacchinne katthaci ninnaṭṭhāne udakaṃ tiṭṭhati, tattha manussā macchānaṃ vināsāya madanaphalavasādīni pakkhipitvā gacchanti, macchā tāni khādantā maritvā uttānā udake plavantā tiṭṭhanti. Yo tattha gantvā ‘‘yāva sāmikā nāgacchanti, tāvime macche gaṇhissāmī’’ti gaṇhāti, agghavasena kāretabbo. Paṃsukūlasaññāya gaṇhato avahāro natthi, āharāpente pana bhaṇḍadeyyaṃ. Macchavisaṃ pakkhipitvā gatamanussā bhājanāni āharitvā pūretvā gacchanti, yāva ‘‘punapi āgacchissāmā’’ti sālayā honti, tāva te sassāmikamacchāva. Yadā pana te ‘‘alaṃ amhāka’’nti nirālayā pakkamanti, tato paṭṭhāya theyyacittena gaṇhantassa dukkaṭaṃ. Paṃsukūlasaññissa anāpatti. Yathā ca macchakacchapesu, evaṃ sabbāyapi odakajātiyā vinicchayo veditabboti.
Còn vào mùa khô, khi dòng sông bị cạn, nước còn đọng lại ở một chỗ trũng nào đó, người ta bỏ trái say, nhựa cây v.v… vào đó để diệt cá rồi bỏ đi; cá ăn những thứ đó rồi chết nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Người nào đến đó (nghĩ rằng) ‘trong khi chủ nhân chưa đến, ta sẽ bắt những con cá này’ rồi bắt, thì phải bị (xử phạt) theo giá trị. Người bắt với ý nghĩ là vật vô chủ thì không phạm tội chiếm đoạt, nhưng khi (chủ nhân) đòi lại, phải đền vật. Những người đã bỏ thuốc độc cá rồi đi, (sau đó) họ mang đồ đựng đến xúc đầy rồi lại đi, chừng nào họ còn luyến tiếc (nghĩ rằng) ‘chúng ta sẽ lại đến nữa’, chừng đó những con cá ấy vẫn là cá có chủ. Còn khi họ không còn luyến tiếc (nghĩ rằng) ‘đủ rồi cho chúng ta’ rồi bỏ đi, kể từ đó, người nào với tâm trộm cắp mà bắt (cá), phạm tội Tác ác. Người có ý nghĩ là vật vô chủ thì không phạm tội. Như đối với cá và rùa, cũng vậy, quyết định đối với tất cả các loài thủy tộc cần được hiểu (như vậy).

Udakaṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật ở Dưới Nước đến đây là hết.

Nāvaṭṭhakathā

Luận về Vật ở Trên Thuyền

99. Nāvaṭṭhe – paṭhamaṃ tāva nāvaṃ dassento ‘‘nāvā nāma yāya taratī’’ti āha. Tasmā idha antamaso rajanadoṇikāpi veṇukalāpakopi ‘‘nāvā’’tveva veditabbo. Sīmāsammannane pana dhuvanāvā anto khaṇitvā vā phalakehi bandhitvā vā katā sabbantimena paricchedena tiṇṇaṃ vāhanikā eva vaṭṭati. Idha pana ekassapi vāhanikā ‘‘nāvā’’ tveva vuccati. Nāvāya nikkhittanti yaṃkiñci indriyabaddhaṃ vā anindriyabaddhaṃ vā; tassa avahāralakkhaṇaṃ thalaṭṭhe vuttanayeneva veditabbaṃ. Nāvaṃ avaharissāmītiādimhi ca dutiyapariyesanagamanaāmasanaphandāpanāni vuttanayāneva. Bandhanaṃ mocetīti ettha pana yā bandhane muttamatte ṭhānā na cavati, tassā bandhanaṃ yāva na muttaṃ hoti, tāva dukkaṭaṃ. Mutte pana thullaccayampi pārājikampi hoti, taṃ parato āvi bhavissati. Sesaṃ vuttanayameva. Ayaṃ tāva pāḷivaṇṇanā.
99. Đối với vật ở trên thuyền – trước hết, để chỉ rõ (thế nào là) thuyền, (Luật Pāḷi) nói: ‘Thuyền là phương tiện dùng để đi qua (nước)‘. Do đó, ở đây, ngay cả máng nhuộm hoặc bè tre cũng cần được hiểu chính là ‘thuyền‘. Còn trong việc xác định địa giới (sīmā), thuyền cố định được làm bằng cách khoét bên trong (thân cây) hoặc đóng bằng ván, với kích thước tối thiểu, chỉ loại chở được ba người mới hợp lệ. Nhưng ở đây (trong học giới này), ngay cả thuyền chở được một người cũng được gọi là ‘thuyền’. ‘Vật được đặt trên thuyền‘ là bất kỳ vật gì, dù có giác quan hay không có giác quan; đặc điểm chiếm đoạt đối với nó cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với vật ở trên mặt đất. Và trong (trường hợp bắt đầu bằng) ‘Tôi sẽ lấy trộm thuyền‘ v.v…, việc tìm người thứ hai, đi, chạm đến, làm rung động cũng theo các phương pháp đã nói. ‘Cởi dây buộc‘: Ở đây, đối với thuyền nào ngay khi dây buộc được cởi ra mà không di chuyển khỏi chỗ, thì chừng nào dây buộc chưa được cởi (hoàn toàn), chừng đó (phạm tội) Tác ác. Còn khi (dây) đã được cởi, thì (có thể) phạm tội Trọng Tội hoặc Bất Cộng Trụ, điều đó sẽ trở nên rõ ràng ở phần sau. Phần còn lại theo phương pháp đã nói. Đây là phần giải thích theo Luật Pāḷi.

Ayaṃ panettha pāḷimuttakavinicchayo – caṇḍasote bandhitvā ṭhapitanāvāya ekaṃ ṭhānaṃ bandhanameva , tasmiṃ muttamatte pārājikaṃ. Tattha yutti pubbe vuttā eva. Vippanaṭṭhā nāvā pana yaṃ yaṃ udakappadesaṃ pharitvā ṭhitā hoti, svāssā ṭhānaṃ. Tasmā taṃ uddhaṃ vā uccārentassa, adho vā opilāpentassa, catūsu vā disāsu phuṭṭhokāsaṃ atikkāmentassa atikkantamatte pārājikaṃ. Niccale udake abandhanaṃ attano dhammatāya ṭhitanāvaṃ purato vā pacchato vā vāmadakkhiṇapassato vā kaḍḍhantassa ekenantena phuṭṭhokāsaṃ aparena udake patiṭṭhitantena atikkantamatte pārājikaṃ. Uddhaṃ kesaggamattaṃ udakato mocite adho nāvātalena phuṭṭhokāsaṃ mukhavaṭṭiṃ atikkantamatte pārājikaṃ. Tīre bandhitvā niccale udake ṭhapitanāvāya bandhanañca ṭhitokāso cāti dve ṭhānāni. Taṃ paṭhamaṃ bandhanā moceti, thullaccayaṃ. Pacchā channaṃ ākārānaṃ aññatarena ṭhānā cāveti, pārājikaṃ. Paṭhamaṃ ṭhānā cāvetvā pacchā bandhanamocanepi eseva nayo. Thale ussādetvā ukkujjitvā ṭhapitanāvāya phuṭṭhokāsova ṭhānaṃ. Tassā pañcahākārehi ṭhānaparicchedo veditabbo.
Đây là quyết định về những điều không có trong Luật Pāḷi ở đây – Đối với thuyền được buộc rồi để ở chỗ nước chảy xiết, vị trí duy nhất (để xác định) chính là dây buộc; ngay khi dây đó được cởi ra (và thuyền trôi đi đủ giá trị), phạm tội Bất Cộng Trụ. Lý lẽ ở đó đã được nói trước đây. Còn đối với thuyền bị trôi mất (không buộc), bất kỳ vùng nước nào mà nó bao phủ khi đang đứng yên, đó là vị trí của nó. Do đó, người nào nhấc nó lên trên, hoặc làm nó chìm xuống dưới, hoặc làm cho nó vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc ở bốn phía, ngay khi vượt qua, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với thuyền đứng yên theo tự nhiên trong nước tĩnh không buộc dây, người nào kéo nó về phía trước, hoặc phía sau, hoặc từ bên trái hay bên phải, ngay khi một đầu (của thuyền) vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đầu kia (với vị trí ban đầu) đã được xác định trong nước, phạm tội Bất Cộng Trụ. Khi nhấc lên trên làm cho (thuyền) rời khỏi mặt nước dù chỉ bằng một sợi tóc, (hoặc khi làm cho thuyền lún xuống) làm cho miệng thuyền vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đáy thuyền (với vị trí ban đầu) ở dưới nước, ngay khi vượt qua, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với thuyền được buộc vào bờ rồi để trong nước tĩnh, có hai vị trí (để xác định): dây buộc và chỗ thuyền đứng. (Nếu) trước hết cởi dây buộc, phạm tội Trọng Tội. Sau đó, làm di chuyển (thuyền) khỏi chỗ bằng bất kỳ cách nào trong sáu cách, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) trước hết làm di chuyển (thuyền) khỏi chỗ, sau đó mới cởi dây buộc, cũng theo phương pháp này. Đối với thuyền được kéo lên bờ rồi đặt ngửa lên, chính chỗ tiếp xúc (với mặt đất) là vị trí (của nó). Sự phân định vị trí của nó cần được hiểu theo năm cách.

Nikkujjitvā ṭhapitanāvāya pana mukhavaṭṭiyā phuṭṭhokāsova ṭhānaṃ, tassāpi pañcahākārehi ṭhānaparicchedaṃ ñatvā yato kutoci phuṭṭhokāsaṃ uddhañca kesaggamattaṃ atikkantamatte pārājikaṃ veditabbaṃ. Thale pana ussādetvā dvinnaṃ dārughaṭikānaṃ upari ṭhapitanāvāya dārughaṭikānaṃ phuṭṭhokāsoyeva ṭhānaṃ, tasmā tattha mañcapādamatthakesuyeva patthaṭabaddhasāṭake nāgadantesu ṭhapitabhindivāle ca vuttanayena vinicchayo veditabbo.
Còn đối với thuyền được đặt úp xuống, chính chỗ tiếp xúc của miệng thuyền (với mặt đất) là vị trí (của nó); sau khi biết sự phân định vị trí của nó theo năm cách, cần hiểu rằng ngay khi (thuyền) vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc từ bất kỳ phía nào và cả phía trên dù chỉ bằng một sợi tóc, liền phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn đối với thuyền được kéo lên bờ rồi đặt trên hai khối gỗ, chính chỗ tiếp xúc của các khối gỗ là vị trí (của nó); do đó, quyết định ở đó cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với tấm vải được buộc trải trên đầu chân giường và cây lao được đặt trên các cọc hình ngà voi.

Yottabaddhāya pana nāvāya saṭṭhisattatibyāmappamāṇaṃ yottaṃ amocetvāva ākaḍḍhitvā

Còn đối với thuyền được buộc bằng dây thừng dài khoảng sáu mươi, bảy mươi sải tay, mà không cởi dây, (chỉ) kéo đi

Pathavilaggaṃ katvā saha yottena thale ṭhapitāya nāvāya na phuṭṭhokāsamattameva ṭhānaṃ. Atha kho yottakoṭito paṭṭhāya yāva nāvāya pathaviyaṃ patiṭṭhitokāsassa pacchimanto tāva dīghato, tiriyaṃ pana nāvāya ca yottassa ca pathaviyaṃ patiṭṭhitapariyantappamāṇaṃ ṭhānanti veditabbaṃ. Taṃ dīghato vā tiriyato vā kaḍḍhantassa ekenantena phuṭṭhokāsaṃ aparena pathaviyaṃ patiṭṭhitantena atikkantamatte, uddhaṃ kesaggamattaṃ saha yottena pathavito mocite pārājikaṃ. Yo pana titthe ṭhitanāvaṃ āruhitvā theyyacitto arittena vā phiyena vā pājeti, pārājikaṃ. Sace pana chattaṃ vā paṇāmetvā cīvaraṃ vā pādehi akkamitvā hatthehi ukkhipitvā laṅkārasadisaṃ katvā vātaṃ gaṇhāpeti, balavā ca vāto āgamma nāvaṃ harati, vāteneva sā haṭā hoti; puggalassa natthi avahāro. Payogo atthi, so pana ṭhānā cāvanapayogo na hoti. Yadi pana taṃ nāvaṃ evaṃ gacchantiṃ pakatigamanaṃ upacchinditvā aññaṃ disābhāgaṃ neti, pārājikaṃ. Sayameva yaṃkiñci gāmatitthaṃ sampattaṃ ṭhānā acāventova vikkiṇitvā gacchati, neva atthi avahāro. Bhaṇḍadeyyaṃ pana hotīti.
Đối với thuyền được làm cho chạm đất rồi cùng với dây thừng đặt trên bờ, thì không chỉ riêng chỗ tiếp xúc (của thuyền) là vị trí (của nó). Mà cần phải hiểu rằng: vị trí (của nó) theo chiều dài là từ đầu dây thừng cho đến điểm cuối cùng của chỗ thuyền được đặt trên mặt đất; còn theo chiều ngang là phạm vi giới hạn của chỗ thuyền và dây thừng được đặt trên mặt đất. Người nào kéo nó theo chiều dài hoặc chiều ngang, ngay khi một đầu (của hệ thống thuyền-dây) vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc của đầu kia (với vị trí ban đầu) đã được xác định trên mặt đất, hoặc khi nhấc (thuyền) cùng với dây thừng lên khỏi mặt đất dù chỉ bằng một sợi tóc, liền phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn người nào lên thuyền đang đậu ở bến, rồi với tâm trộm cắp dùng chèo hoặc mái chèo mà đẩy (thuyền) đi, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu (Tỳ khưu) dương dù lên, hoặc giữ y bằng chân rồi dùng tay nâng lên làm thành hình cánh buồm để đón gió, rồi gió mạnh thổi đến mang thuyền đi, thì thuyền đó bị gió mang đi; người đó không phạm tội chiếm đoạt. Có hành động (của Tỳ khưu), nhưng đó không phải là hành động làm di chuyển (thuyền) khỏi chỗ (một cách trực tiếp). Nhưng nếu (Tỳ khưu) làm ngừng sự di chuyển tự nhiên của thuyền đang trôi như vậy rồi lái nó sang một hướng khác, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu thuyền) tự nó trôi đến một bến làng nào đó, (Tỳ khưu) không làm di chuyển nó khỏi chỗ mà (chỉ) bán (thuyền) rồi đi, thì không có sự chiếm đoạt. Nhưng phải đền vật.

Nāvaṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật ở Trên Thuyền đến đây là hết.

Yānaṭṭhakathā

Luận về Vật ở Trên Xe Cộ

100. Yānaṭṭhe – yānaṃ tāva dassento ‘‘yānaṃ nāma vayha’’ntiādimāha. Tattha upari maṇḍapasadisaṃ padaracchannaṃ sabbapaliguṇṭhimaṃ vā chādetvā kataṃ vayhaṃ. Ubhosu passesu suvaṇṇarajatādimayā gopānasiyo datvā garuḷapakkhakanayena katā sandamānikā. Ratho ca sakaṭañca pākaṭameva. Tesu yattha katthaci saviññāṇakaṃ vā aviññāṇakaṃ vā rāsiādivasena ṭhapitaṃ bhaṇḍaṃ theyyacittena ṭhānā cāventassa nāvaṭṭhe ca thalaṭṭhe ca vuttanayeneva pārājikaṃ veditabbaṃ.
100. Đối với vật ở trên xe cộ – trước hết, để chỉ rõ (thế nào là) xe cộ, (Luật Pāḷi) bắt đầu bằng ‘Xe cộ là xe song mã‘ v.v… Trong đó, ‘xe song mã‘ (vayhaṃ) là loại xe được làm có mái che giống như nhà tạm ở phía trên, được lợp bằng ván, hoặc được che kín hoàn toàn. ‘Kiệu‘ (sandamānikā) là loại (xe/kiệu) được làm theo kiểu cánh chim thần garuḷa, có các rui mè bằng vàng, bạc v.v… ở hai bên. Còn ‘xe ngựa‘ (ratho) và ‘xe bò‘ (sakaṭaṃ) thì đã rõ ràng. Đối với vật, dù có thức tỉnh hay không có thức tỉnh, được đặt trên bất kỳ loại xe nào trong số đó, theo kiểu chất thành đống v.v…, người nào với tâm trộm cắp làm di chuyển (vật đó) khỏi chỗ, thì (việc phạm tội) Bất Cộng Trụ cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với vật ở trên thuyền và vật ở trên mặt đất.

Ayaṃ pana viseso – yānaṭṭhaṃ taṇḍulādibhaṇḍaṃ piṭakena gaṇhato piṭake anukkhittepi piṭakaṃ apaharitvā taṇḍulādīnaṃ ekābaddhabhāve vikopite pārājikaṃ. Thalaṭṭhādīsupi ayaṃ nayo labbhati. Yānaṃ avaharissāmītiādimhi dutiyapariyesanādīni vuttanayāneva. Ṭhānā cāvetīti ettha pana dukayuttassa yānassa dvinnaṃ goṇānaṃ aṭṭha pādā, dve ca cakkānīti dasa ṭhānāni. Taṃ theyyacittassa dhure nisīditvā pājayato goṇānaṃ pāduddhāre thullaccayaṃ. Cakkānaṃ pana pathaviyaṃ patiṭṭhitappadesato kesaggamatte atikkante pārājikaṃ. Sace pana goṇā ‘‘nāyaṃ amhākaṃ sāmiko’’ti ñatvā dhuraṃ chaḍḍetvā ākaḍḍhantā tiṭṭhanti vā phandanti vā, rakkhati tāva. Goṇe puna ujukaṃ paṭipādetvā dhuraṃ āropetvā daḷhaṃ yojetvā pācanena vijjhitvā pājentassa vuttanayeneva tesaṃ pāduddhāre thullaccayaṃ. Cakkātikkame pārājikaṃ.
Nhưng đây là điểm đặc biệt – đối với vật như gạo v.v… ở trên xe, người nào dùng giỏ để lấy, ngay cả khi giỏ chưa được đặt xuống (đất), nếu lấy trộm giỏ và làm mất đi tình trạng dính liền một khối của gạo v.v…, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với vật ở trên mặt đất v.v… phương pháp này cũng được áp dụng. Trong (trường hợp bắt đầu bằng) ‘Tôi sẽ lấy trộm xe‘ v.v…, việc tìm người thứ hai v.v… cũng theo các phương pháp đã nói. ‘Làm di chuyển khỏi chỗ‘: Ở đây, đối với xe được thắng hai con bò, có tám chân của hai con bò và hai bánh xe, (tổng cộng là) mười vị trí (tiếp xúc). Người nào với tâm trộm cắp ngồi trên càng xe rồi điều khiển, khi bò nhấc chân lên, phạm tội Trọng Tội. Còn đối với bánh xe, ngay khi vượt qua khỏi chỗ đã được đặt trên mặt đất dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu bò biết rằng ‘đây không phải chủ của chúng ta’ rồi bỏ càng xe mà kéo (đi lung tung), đứng lại hoặc vùng vẫy, thì (xe đó) vẫn còn được bảo vệ. Người nào điều khiển lại bò cho ngay ngắn, đặt càng xe lên, buộc chặt, rồi dùng roi đâm mà điều khiển, thì theo phương pháp đã nói, khi chúng nhấc chân lên, phạm tội Trọng Tội. Khi bánh xe vượt qua (vị trí cũ), phạm tội Bất Cộng Trụ.

Sacepi sakaddame magge ekaṃ cakkaṃ kaddame laggaṃ hoti, dutiyaṃ cakkaṃ goṇā parivattentā pavattenti, ekassa ṭhitattā na tāva avahāro hoti . Goṇe pana puna ujukaṃ paṭipādetvā pājentassa ṭhitacakke kesaggamattaṃ phuṭṭhokāsaṃ atikkante pārājikaṃ. Catuyuttakassa pana aṭṭhārasa ṭhānāni, aṭṭhayuttakassa catuttiṃsāti – etenupāyena yuttayānassa ṭhānabhedo veditabbo.
Ngay cả nếu trên đường lầy lội, một bánh xe bị kẹt trong bùn, bò xoay trở làm cho bánh xe thứ hai lăn đi, thì do một (bánh xe) vẫn đứng yên, nên chưa có sự chiếm đoạt. Nhưng người nào điều khiển lại bò cho ngay ngắn rồi điều khiển (xe) đi, khi bánh xe đang đứng yên (trước đó) vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc (cũ) dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn đối với xe thắng bốn con (ngựa/bò) thì có mười tám vị trí (tiếp xúc), xe thắng tám con thì có ba mươi bốn vị trí – theo phương pháp này, sự khác biệt về vị trí của xe đã thắng (súc vật) cần được hiểu.

Yaṃ pana ayuttakaṃ dhure ekāya pacchato ca dvīhi upatthambhinīhi upatthambhetvā ṭhapitaṃ, tassa tiṇṇaṃ upatthambhinīnaṃ cakkānañca vasena pañca ṭhānāni. Sace dhure upatthambhinī heṭṭhābhāge kappakatā hoti, cha ṭhānāni. Pacchato pana anupatthambhetvā dhure upatthambhitasseva upatthambhinīvasena tīṇi vā cattāri vā ṭhānāni. Dhurena phalakassa vā dārukassa vā upari ṭhapitassa tīṇi ṭhānāni. Tathā pathaviyaṃ ṭhapitassa. Taṃ dhuraṃkaḍḍhitvā vā ukkhipitvā vā purato ca pacchato ca ṭhānā cāventassa thullaccayaṃ. Cakkānaṃ patiṭṭhitaṭṭhāne kesaggamattaṃ atikkante pārājikaṃ. Cakkāni apanetvā dvīhi akkhasīsehi dārūnaṃ upari ṭhapitassa dve ṭhānāni. Taṃ kaḍḍhanto vā ukkhipanto vā phuṭṭhokāsaṃ atikkāmeti, pārājikaṃ. Bhūmiyaṃ ṭhapitassa dhurena ca catūhi ca akkhuddhīhi patiṭṭhitavasena pañca ṭhānāni. Taṃ dhure gahetvā kaḍḍhato uddhīnaṃ pacchimantehi purimante atikkante pārājikaṃ. Uddhīsu gahetvā kaḍḍhato uddhīnaṃ purimantehi pacchimante atikkante pārājikaṃ. Passe gahetvā kaḍḍhato uddhīnaṃyeva tiriyaṃ patiṭṭhitaṭṭhānassa atikkamena pārājikaṃ. Majjhe gahetvā ukkhipato kesaggamattaṃ pathavito mutte pārājikaṃ. Atha uddhikhāṇukā na honti, samameva bāhaṃ katvā majjhe vijjhitvā akkhasīsāni pavesitāni honti, taṃ heṭṭhimatalassa samantā sabbaṃ pathaviṃ phusitvā tiṭṭhati. Tattha catūsu disāsu uddhañca phuṭṭhaṭṭhānātikkamavasena pārājikaṃ veditabbaṃ. Bhūmiyaṃ nābhiyā ṭhapitacakkassa ekameva ṭhānaṃ, tassa pañcahākārehi paricchedo. Nemipassena ca nābhiyā ca phusitvā ṭhitassa dve ṭhānāni. Nemiyā uṭṭhitabhāgaṃ pādena akkamitvā bhūmiyaṃ phusāpetvā aresu vā nemiyā vā gahetvā ukkhipantassa attanā kataṭṭhānaṃ ṭhānaṃ na hoti, tasmā tasmiṃ ṭhitepi avasesaṭṭhāne atikkantamatte pārājikaṃ.
Còn xe nào chưa thắng (súc vật), được chống đỡ và để đó bằng một cây chống ở càng xe và hai cây chống ở phía sau, thì nó có năm vị trí (tiếp xúc) dựa vào ba cây chống và hai bánh xe. Nếu cây chống ở càng xe được làm chẻ ra ở phần dưới (thành hai điểm chạm), thì có sáu vị trí. Còn nếu không chống ở phía sau mà chỉ chống ở càng xe, thì dựa vào cây chống đó, có ba hoặc bốn vị trí. (Xe) được đặt càng xe lên trên một tấm ván hoặc một khúc gỗ, thì có ba vị trí. Cũng vậy đối với (xe) được đặt (càng xe) trên mặt đất. Người nào kéo càng xe đó, hoặc nhấc lên, rồi làm di chuyển (xe) khỏi chỗ về phía trước hay phía sau, phạm tội Trọng Tội. Khi bánh xe vượt qua khỏi chỗ đã được đặt dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) tháo bánh xe ra, rồi đặt (thân xe) bằng hai đầu trục lên trên các khúc gỗ, thì có hai vị trí. Người nào kéo hoặc nhấc nó lên làm cho (một đầu trục) vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc (của đầu trục kia), phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với (thân xe) được đặt trên mặt đất, dựa vào càng xe và bốn đầu trục được đặt (chạm đất), có năm vị trí. Người nào nắm càng xe rồi kéo, khi các điểm cuối phía sau của (vùng tiếp xúc của) các đầu trục vượt qua các điểm đầu phía trước, phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nào nắm các đầu trục rồi kéo, khi các điểm đầu phía trước của (vùng tiếp xúc của) các đầu trục vượt qua các điểm cuối phía sau, phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nào nắm một bên rồi kéo, phạm tội Bất Cộng Trụ khi (xe) vượt qua vị trí đã được đặt theo chiều ngang của chính các đầu trục. Người nào nắm giữa (thân xe) rồi nhấc lên, ngay khi (xe) rời khỏi mặt đất dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu không có các cọc chống trục, mà (thân xe) được làm bằng phẳng, ở giữa có khoan lỗ rồi lồng đầu trục vào, và toàn bộ mặt dưới của nó đều chạm đất. Ở đó, cần hiểu rằng (phạm tội) Bất Cộng Trụ khi (xe) vượt qua khỏi chỗ tiếp xúc ở bốn phía và cả phía trên. Đối với bánh xe được đặt trên mặt đất bằng trục giữa (nābhī), chỉ có một vị trí (tiếp xúc); sự phân định (vị trí) của nó có năm cách. (Bánh xe) được đặt mà vừa chạm (đất) bằng vành bánh vừa chạm bằng trục giữa, thì có hai vị trí. Người nào dùng chân đè phần nhô lên của vành bánh cho chạm đất, rồi nắm lấy căm xe hoặc vành bánh mà nhấc lên, thì chỗ do chính mình tạo ra (cho chạm đất) không phải là vị trí (thực sự của bánh xe); do đó, ngay cả khi (bánh xe) còn đứng yên ở đó (chỗ mới chạm đất), chỉ cần (phần còn lại của bánh xe) vượt qua vị trí còn lại (ban đầu), liền phạm tội Bất Cộng Trụ.

Bhittiṃ nissāya ṭhapitacakkassāpi dve ṭhānāni. Tattha paṭhamaṃ bhittito mocentassa thullaccayaṃ. Pacchā pathavito kesaggamattuddhāre pārājikaṃ. Paṭhamaṃ bhūmito mocentassa pana sace bhittiyaṃ patiṭṭhitaṭṭhānaṃ na kuppati, eseva nayo. Atha aresu gahetvā heṭṭhā kaḍḍhantassa bhittiṃ phusitvā ṭhitokāsassa uparimo anto heṭṭhimaṃ atikkamati, pārājikaṃ. Maggappaṭipanne yāne yānasāmiko kenacideva karaṇīyena orohitvā maggā okkanto hoti, athañño bhikkhu paṭipathaṃ āgacchanto ārakkhasuññaṃ passitvā, ‘‘yānaṃ avaharissāmī’’ti ārohati, tassa payogaṃ vināyeva goṇā gahetvā pakkantā, avahāro natthi. Sesaṃ nāvāyaṃ vuttasadisanti.
Đối với bánh xe được đặt dựa vào tường cũng có hai vị trí. Ở đó, người trước hết làm cho (bánh xe) rời khỏi tường, phạm tội Trọng Tội. Sau đó, nhấc (bánh xe) lên khỏi mặt đất dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn người trước hết làm cho (bánh xe) rời khỏi mặt đất, nếu chỗ được đặt dựa vào tường không bị rung động, cũng theo phương pháp này. Hoặc người nào nắm căm xe rồi kéo xuống dưới, làm cho điểm cuối phía trên của chỗ (bánh xe) tiếp xúc với tường vượt qua điểm cuối phía dưới, phạm tội Bất Cộng Trụ. Xe đang đi trên đường, chủ xe vì một việc cần nào đó mà xuống xe rồi đi lệch khỏi đường; khi đó, một Tỳ khưu khác đi ngược chiều đến, thấy (xe) không có người coi giữ, (nghĩ rằng) ‘ta sẽ lấy trộm xe’ rồi trèo lên, (nhưng) không cần hành động gì của vị ấy mà bò tự kéo xe đi mất, thì không có sự chiếm đoạt. Phần còn lại tương tự như đã nói trong trường hợp thuyền.

Yānaṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật ở Trên Xe Cộ đến đây là hết.

Bhāraṭṭhakathā

Luận về Vật Mang Vác

101. Ito paraṃ bhāroyeva bhāraṭṭhaṃ. So sīsabhārādivasena catudhā dassito. Tattha sīsabhārādīsu asammohatthaṃ sīsādīnaṃ paricchedo veditabbo. Tattha sīsassa tāva purimagale galavāṭako, piṭṭhigale kesañci kesante āvaṭṭo hoti, galasseva ubhosu passesu kesañci kesā oruyha jāyanti, ye kaṇṇacūḷikāti vuccanti, tesaṃ adhobhāgo cāti ayaṃ heṭṭhimaparicchedo, tato upari sīsaṃ. Etthantare ṭhitabhāro sīsabhāro nāma.
101. Từ đây trở đi, chính vật mang vác (bhāro) là ‘vật được mang vác‘ (bhāraṭṭhaṃ). Nó được trình bày theo bốn loại dựa vào cách mang trên đầu v.v… Trong đó, đối với vật mang trên đầu v.v…, để không bị nhầm lẫn, sự phân định (ranh giới) của đầu v.v… cần được hiểu. Trong đó, đối với đầu: ở cổ trước là yết hầu; ở cổ sau, một số người có xoáy tóc ở chân tóc; ở hai bên cổ, một số người có tóc mọc xuống, gọi là tóc mai; phần dưới của những thứ đó là ranh giới phía dưới; từ đó trở lên là đầu. Vật mang vác được đặt trong khoảng đó gọi là ‘vật đội trên đầu‘.

Ubhosu passesu kaṇṇacūḷikāhi paṭṭhāya heṭṭhā, kapparehi paṭṭhāya upari, piṭṭhigalāvattato ca galavāṭakato ca paṭṭhāya heṭṭhā, piṭṭhivemajjhāvattato ca uraparicchedamajjhe hadayaāvāṭato ca paṭṭhāya upari khandho. Etthantare ṭhitabhāro khandhabhāro nāma.
Vai là (phần) phía dưới kể từ tóc mai ở hai bên, phía trên kể từ khuỷu tay, phía dưới kể từ xoáy tóc ở cổ sau và yết hầu, phía trên kể từ xoáy ở giữa lưng và chỗ lõm ở tim giữa phần ngực. Vật mang vác được đặt trong khoảng đó gọi là ‘vật mang trên vai‘.

Piṭṭhivemajjhāvattato pana hadayaāvāṭato ca paṭṭhāya heṭṭhā yāva pādanakhasikhā, ayaṃ kaṭiparicchedo. Etthantare samantato sarīre ṭhitabhāro kaṭibhāro nāma.
Còn từ xoáy ở giữa lưng và chỗ lõm ở tim trở xuống cho đến đầu móng chân, đây là phần (ranh giới) hông. Vật mang vác được đặt trên thân mình trong khoảng đó gọi là ‘vật mang ngang hông‘.

Kapparato paṭṭhāya pana heṭṭhā yāva hatthanakhasikhā, ayaṃ olambakaparicchedo. Etthantare ṭhitabhāro olambako nāma.
Còn từ khuỷu tay trở xuống cho đến đầu móng tay, đây là phần (ranh giới) vật treo. Vật mang vác được đặt trong khoảng đó gọi là ‘vật treo‘ (hoặc ‘vật xách tay’).

Idāni sīse bhārantiādīsu ayaṃ apubbavinicchayo – yo bhikkhu ‘‘idaṃ gahetvā ettha yāhī’’ti sāmikehi anāṇatto sayameva ‘‘mayhaṃ idaṃ nāma detha, ahaṃ vo bhaṇḍaṃ vahāmī’’ti tesaṃ bhaṇḍaṃ sīsena ādāya gacchanto theyyacittena taṃ bhaṇḍaṃ āmasati, dukkaṭaṃ. Yathāvuttasīsaparicchedaṃ anatikkāmentova ito cito ca ghaṃsanto sāretipi paccāsāretipi, thullaccayaṃ. Khandhaṃ oropitamatte kiñcāpi sāmikānaṃ ‘‘vahatū’’ti cittaṃ atthi, tehi pana anāṇattattā pārājikaṃ. Khandhaṃ pana anoropetvāpi sīsato kesaggamattaṃ mocentassa pārājikaṃ. Yamakabhārassa pana eko bhāro sīse patiṭṭhāti, eko piṭṭhiyaṃ, tattha dvinnaṃ ṭhānānaṃ vasena vinicchayo veditabbo. Ayaṃ pana suddhasīsabhārādīnaṃyeva vasena desanā āraddhā. Yo cāyaṃ sīsabhāre vutto, khandhabhārādīsupi ayameva vinicchayo.
Bây giờ, trong (các trường hợp) bắt đầu bằng ‘vật đội trên đầu‘ v.v…, đây là quyết định mới (chưa từng có trước) – Tỳ khưu nào không được chủ nhân ra lệnh ‘hãy mang vật này đến đó’, mà tự mình (nói dối) ‘xin hãy giao vật này cho tôi, tôi sẽ mang đồ của quý vị’, rồi đội vật của họ trên đầu mà đi, với tâm trộm cắp chạm đến vật đó, phạm tội Tác ác. (Nếu) vẫn chưa vượt qua ranh giới của đầu như đã nói, mà (chỉ) cọ xát, dời qua dời lại, hoặc dời tới dời lui, phạm tội Trọng Tội. Ngay khi đặt (vật) xuống vai, mặc dù chủ nhân có ý nghĩ ‘cứ để y mang’, nhưng vì họ không ra lệnh (cho việc chuyển sang vai đó với ý định từ bỏ), nên phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu không đặt xuống vai mà (chỉ) làm cho (vật) rời khỏi đầu dù bằng một sợi tóc, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn đối với gánh đôi, một đầu gánh đặt trên đầu, một đầu (gánh) đặt trên lưng, quyết định ở đó cần được hiểu dựa vào hai vị trí. Nhưng sự trình bày này được bắt đầu dựa trên trường hợp chỉ riêng vật đội trên đầu v.v… Và quyết định nào đã được nói đối với vật đội trên đầu, thì đối với vật mang trên vai v.v… cũng là quyết định tương tự.

Hatthebhāranti ettha pana hatthena gahitattā olambako ‘‘hatthe bhāro’’ti vutto.

Ở đây, ‘vật mang trong tay‘ (Hatthebhāra): vì được cầm bằng tay, nên vật treo (olambako) được gọi là ‘vật mang trong tay’.

So paṭhamaṃyeva bhūmito vā gahito hotu, suddhacittena sīsādīhi vā, ‘‘hatthe bhāro’’ tveva saṅkhyaṃ gacchati . Taṃ theyyacittena tādisaṃ gahanaṭṭhānaṃ disvā bhūmiyaṃ vā gacchādīsu vā nikkhipantassa hatthato muttamatte pārājikaṃ. Bhūmito gaṇhātīti ettha pana tesaṃ bhārānaṃ yaṃkiñci pātarāsādikāraṇā suddhacittena bhūmiyaṃ nikkhipitvā puna theyyacittena kesaggamattaṃ uddharantassa pārājikanti.
Vật đó, dù ban đầu được lấy từ dưới đất, hay (được chuyển) từ đầu v.v… (xuống tay) với tâm trong sạch, cũng đều được kể là ‘vật mang trong tay’. Người nào với tâm trộm cắp, thấy một nơi kín đáo như vậy, rồi đặt (vật đó) xuống đất hoặc vào bụi cây v.v…, ngay khi (vật) rời khỏi tay, phạm tội Bất Cộng Trụ. ‘Lấy từ dưới đất‘: Ở đây, đối với bất kỳ vật nào trong số những vật mang vác đó, (Tỳ khưu) vì lý do ăn sáng v.v… mà với tâm trong sạch đặt xuống đất, rồi sau đó với tâm trộm cắp nhấc lên dù chỉ bằng một sợi tóc, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ.

Bhāraṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật Mang Vác đến đây là hết.

Ārāmaṭṭhakathā

Luận về Vật ở trong Vườn (Tu Viện)

102. Ārāmaṭṭhepi – ārāmaṃ tāva dassento ‘‘ārāmo nāma pupphārāmo phalārāmo’’ti āha. Tesu vassikādīnaṃ pupphanako pupphārāmo. Ambaphalādīnaṃ phalanako phalārāmo. Ārāme catūhi ṭhānehi nikkhittassa vinicchayo bhūmaṭṭhādīsu vuttanayo eva.
102. Cũng đối với vật ở trong vườn (tu viện) – trước hết, để chỉ rõ (thế nào là) vườn, (Luật Pāḷi) nói: ‘Vườn là vườn hoa, vườn cây ăn trái‘. Trong đó, nơi trồng các loại hoa như hoa lài v.v… là ‘vườn hoa‘. Nơi trồng các loại cây ăn trái như xoài, thốt nốt v.v… là ‘vườn cây ăn trái‘. Đối với vật được đặt trong vườn ở bốn vị trí (đất, hư không, trên cao, trong nước), quyết định cũng theo phương pháp đã nói đối với vật ở dưới đất v.v…

Tatthajātake pana mūlanti usīrahiriverādikaṃ yaṃkiñci mūlaṃ, taṃ uppāṭetvā vā uppāṭitaṃ vā gaṇhantassa yena mūlena vatthu pūrati, tasmiṃ gahite pārājikaṃ. Kandopi mūleneva saṅgahito. Uppāṭentassa cettha appamattakepi acchinne thullaccayameva. Tattha vinicchayo bhise vuttanayeneva veditabbo. Tacanti bhesajjatthāya vā rajanatthāya vā upayogagamanūpagaṃ yaṃkiñci rukkhattacaṃ; taṃ uppāṭetvā vā uppāṭitaṃ vā gaṇhantassa mūle vuttanayena pārājikaṃ. Pupphanti vassikamallikādikaṃ yaṃkiñci pupphaṃ, taṃ ocinitvā vā ocinitaṃ vā gaṇhantassa uppalapadumesu vuttanayena pārājikaṃ. Pupphānampi hi vaṇṭaṃ vā bandhanaṃ vā acchinnaṃ rakkhati. Vaṇṭabbhantare pana kesañci sūcikā hoti, sā na rakkhati. Phalanti ambaphalatālaphalādikaṃ yaṃkiñci, taṃ rukkhato gaṇhantassa vinicchayo rukkhe laggitakathāyaṃ vutto. Apanetvā ṭhapitaṃ bhūmaṭṭhādisaṅgahitameva.
Còn đối với vật mọc tại đó, ‘rễ cây‘ là bất kỳ loại rễ nào như rễ hương bài, rễ hirivera v.v…; người nào nhổ lên hoặc lấy rễ đã bị nhổ, nếu phần rễ đó đủ (giá trị) cấu thành sự việc (Bất Cộng Trụ), thì khi lấy nó, phạm tội Bất Cộng Trụ. Củ cũng được bao gồm trong (khái niệm) rễ. Ở đây, người đang nhổ (rễ), dù chỉ một chút (rễ) chưa bị đứt, cũng chỉ (phạm tội) Trọng Tội. Quyết định ở đó cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với củ sen. ‘Vỏ cây‘ là bất kỳ loại vỏ cây nào thích hợp để dùng làm thuốc hoặc để nhuộm; người nào bóc vỏ hoặc lấy vỏ đã bị bóc, thì phạm tội Bất Cộng Trụ theo phương pháp đã nói đối với rễ cây. ‘Hoa‘ là bất kỳ loại hoa nào như hoa lài, hoa nhài v.v…; người nào hái hoa hoặc lấy hoa đã được hái, thì phạm tội Bất Cộng Trụ theo phương pháp đã nói đối với hoa sen xanh và sen hồng. Vì đối với hoa, cuống hoa hoặc dây buộc (bó hoa) chưa bị cắt đứt thì (hoa) vẫn còn được bảo vệ. Nhưng nếu bên trong cuống của một số (loại hoa) có một sợi nhỏ như kim, sợi đó không (được xem là) bảo vệ (hoa nữa nếu cuống đã bị cắt). ‘Quả‘ là bất kỳ loại quả nào như xoài, thốt nốt v.v…; quyết định đối với người lấy quả từ trên cây đã được nói trong luận về vật móc trên cây. (Quả) đã được hái xuống rồi để đó thì được bao gồm trong (quyết định về) vật ở dưới đất v.v…

Ārāmaṃ abhiyuñjatīti parasantakaṃ ‘‘mama santako aya’’nti musā bhaṇitvā abhiyuñjati, adinnādānassa payogattā dukkaṭaṃ. Sāmikassa vimatiṃuppādetīti vinicchayakusalatāya balavanissitādibhāvena vā ārāmasāmikassa saṃsayaṃ janeti. Kathaṃ? Tañhi tathā vinicchayappasutaṃ disvā sāmiko cinteti – ‘‘sakkhissāmi nu kho ahaṃ imaṃ ārāmaṃ attano kātuṃ, na sakkhissāmi nu kho’’ti. Evaṃ tassa vimati uppajjamānā tena uppāditā hoti, tasmā thullaccayaṃ āpajjati.
Kiện đòi vườn (tu viện)‘: (Tỳ khưu) nói dối rằng ‘đây là sở hữu của tôi’ rồi kiện đòi (vườn) thuộc sở hữu của người khác; do là hành động (chuẩn bị) của việc lấy của không cho, phạm tội Tác ác. ‘Làm cho chủ nhân nghi ngờ‘: (Tỳ khưu) do sự khéo léo trong việc tranh tụng hoặc do dựa vào thế lực v.v… mà làm phát sinh sự nghi ngờ cho chủ nhân của khu vườn. Như thế nào? Chủ nhân, khi thấy (Tỳ khưu đó) chuyên chú vào việc tranh tụng như vậy, bèn suy nghĩ: ‘Liệu ta có thể giữ khu vườn này làm của mình được không, hay là không thể giữ được?’ Như vậy, sự nghi ngờ của vị ấy phát sinh là do (Tỳ khưu kia) làm phát sinh; do đó, (Tỳ khưu kia) phạm tội Trọng Tội.

Dhuraṃnikkhipatīti yadā pana sāmiko ‘‘ayaṃ thaddho kakkhaḷo jīvitabrahmacariyantarāyampi me kareyya, alaṃ dāni mayhaṃ iminā ārāmenā’’ti dhuraṃ nikkhipati, abhiyuñjako pārājikaṃ āpajjati. Sace sayampi katadhuranikkhepo hoti, atha ca pana sāmikena dhure nikkhittepi abhiyuñjako dhuraṃ anikkhipitvāva ‘‘imaṃ suṭṭhu pīḷetvā mama āṇāpavattiṃ dassetvā kiṅkārappaṭissāvibhāve naṃ ṭhapetvā dassāmī’’ti dātabbabhāve saussāho hoti, rakkhati tāva. Athāpi abhiyuñjako ‘‘acchinditvā na dāni naṃ imassa dassāmī’’ti dhuraṃ nikkhipati, sāmiko pana na dhuraṃ nikkhipati, pakkhaṃ pariyesati, kālaṃ āgameti, ‘‘lajjiparisaṃ tāva labhāmi, pacchā jānissāmī’’ti puna gahaṇeyeva saussāho hoti, rakkhatiyeva. Yadā pana sopi ‘‘na dassāmī’’ti, sāmikopi ‘‘na lacchāmī’’ti – evaṃ ubhopi dhuraṃ nikkhipanti, tadā abhiyuñjakassa pārājikaṃ. Atha pana abhiyuñjitvā vinicchayaṃ kurumāno aniṭṭhite vinicchaye sāmikenapi dhuranikkhepe akate attano assāmikabhāvaṃ jānantoyeva tato kiñci pupphaṃ vā phalaṃ vā gaṇhāti, bhaṇḍagghena kāretabbo.
Từ bỏ trách nhiệm (đòi lại)‘: Còn khi chủ nhân (nghĩ rằng) ‘người này cứng đầu, thô lỗ, có thể gây trở ngại cho cả đời sống phạm hạnh của ta, thôi đủ rồi cho ta với khu vườn này’ rồi từ bỏ trách nhiệm (đòi lại), thì người kiện đòi phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu chính (người kiện đòi) cũng đã từ bỏ trách nhiệm (trong lòng, nhưng chưa thể hiện), và ngay cả khi chủ nhân đã từ bỏ trách nhiệm, người kiện đòi vẫn chưa từ bỏ trách nhiệm (một cách công khai) mà vẫn nỗ lực trong việc (cho rằng vườn đó) phải được giao (cho mình), (nghĩ rằng) ‘ta sẽ gây áp lực thật mạnh cho người này, thể hiện quyền lực của ta, đặt y vào tình thế phải tuân lệnh rồi sẽ cho (y biết tay)’, thì (vườn đó) vẫn còn được bảo vệ (chưa thuộc về người kiện). Hoặc nếu người kiện đòi từ bỏ trách nhiệm (nghĩ rằng) ‘sau khi chiếm đoạt, giờ ta sẽ không trả lại cho người này nữa’, nhưng chủ nhân lại không từ bỏ trách nhiệm, mà tìm phe cánh, chờ đợi thời cơ, (nghĩ rằng) ‘trước hết ta hãy tìm được hội chúng biết tàm quý, sau đó sẽ tính’, vẫn nỗ lực trong việc lấy lại, thì (vườn đó) vẫn còn được bảo vệ. Còn khi cả hai đều từ bỏ trách nhiệm – vị kia (nghĩ) ‘ta sẽ không trả’, chủ nhân cũng (nghĩ) ‘ta sẽ không nhận lại được’ – khi đó, người kiện đòi phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu sau khi kiện đòi, trong khi đang tiến hành phân xử, sự phân xử chưa kết thúc, chủ nhân cũng chưa từ bỏ trách nhiệm, (người kiện đòi) biết rõ mình không phải là chủ nhân mà vẫn lấy bất kỳ hoa hoặc quả nào từ đó, thì phải bị (xử phạt) theo giá trị vật đó.

Dhammaṃ carantoti bhikkhusaṅghe vā rājakule vā vinicchayaṃ karontoSāmikaṃ parājetīti vinicchayikānaṃ ukkocaṃ datvā kūṭasakkhiṃ otāretvā ārāmasāmikaṃ jinātīti attho. Āpatti pārājikassāti na kevalaṃ tasseva, sañcicca tassa atthasādhane pavattānaṃ kūṭavinicchayikānampi kūṭasakkhīnampi sabbesaṃ pārājikaṃ. Ettha ca sāmikassa dhuranikkhepavaseneva parājayo veditabbo. Anikkhittadhuro hi aparājitova hoti. Dhammaṃ caranto parajjatīti sacepi dhammena vinayena satthusāsanena vinicchayassa pavattattā sayaṃ parājayaṃ pāpuṇāti; evampi musāvādena sāmikānaṃ pīḷākaraṇapaccayā thullaccayaṃ āpajjatīti.
Khi tiến hành theo pháp‘ là khi tiến hành phân xử trong Tăng chúng Tỳ khưu hoặc tại triều đình. ‘Làm cho chủ nhân thua kiện‘ nghĩa là đút lót cho những người phân xử, đưa ra nhân chứng giả rồi thắng kiện chủ nhân của khu vườn. ‘Phạm tội Bất Cộng Trụ‘: không chỉ riêng vị ấy, mà tất cả những người cố ý tham gia vào việc hoàn thành mục đích đó của vị ấy, cả những người phân xử gian dối và những nhân chứng giả, đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Và ở đây, sự thua kiện (của chủ nhân) cần được hiểu là do việc chủ nhân từ bỏ trách nhiệm (đòi lại). Vì người chưa từ bỏ trách nhiệm thì vẫn chưa bị xem là thua kiện. ‘Khi tiến hành theo pháp mà bị thua kiện‘: nếu (Tỳ khưu kiện đòi) tự mình bị thua kiện do sự phân xử được tiến hành theo Chánh pháp, theo Luật, theo lời dạy của Đạo Sư; ngay cả như vậy, do đã nói dối gây phiền hà cho các chủ nhân, cũng phạm tội Trọng Tội.

Ārāmaṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật ở trong Vườn (Tu Viện) đến đây là hết.

Vihāraṭṭhakathā

Luận về Vật ở trong Tịnh Xá (Trú Xứ)

103. Vihāraṭṭhepi – catūhi ṭhānehi nikkhittaṃ vuttanayameva. Abhiyogepi cettha cātuddisaṃ saṅghaṃ uddissa bhikkhūnaṃ dinnaṃ vihāraṃ vā pariveṇaṃ vā āvāsaṃ vā mahantampi khuddakampi abhiyuñjato abhiyogo na ruhati. Acchinditvā gaṇhitumpi na sakkoti. Kasmā? Sabbesaṃ dhuranikkhepābhāvato. Na hettha sabbe cātuddisā bhikkhū dhuranikkhepaṃ karontīti . Dīghabhāṇakādibhedassa pana gaṇassa ekapuggalassa vā santakaṃ abhiyuñjitvā gaṇhanto sakkoti te dhuraṃ nikkhipāpetuṃ. Tasmā tattha ārāme vuttanayena vinicchayo veditabboti.
103. Cũng đối với vật ở trong tịnh xá – (vật) được đặt ở bốn vị trí (đất, hư không, trên cao, trong nước) cũng (được phân xử) theo phương pháp đã nói. Và ở đây, ngay cả trong việc kiện đòi, đối với người kiện đòi một tịnh xá, một tu viện biệt lập, hoặc một trú xứ, dù lớn hay nhỏ, đã được dâng cúng cho chư Tỳ khưu thuộc Tăng chúng bốn phương, thì việc kiện đòi đó không thành công. (Người đó) cũng không thể chiếm đoạt mà lấy được. Tại sao? Vì không có sự từ bỏ trách nhiệm (sở hữu) của tất cả (chư Tỳ khưu bốn phương). Vì ở đây, không phải tất cả chư Tỳ khưu bốn phương đều từ bỏ trách nhiệm (sở hữu). Còn đối với tài sản thuộc về một nhóm (Tỳ khưu) như nhóm Dīghabhāṇaka v.v…, hoặc của một cá nhân, người kiện đòi rồi lấy (tài sản đó) có thể làm cho họ từ bỏ trách nhiệm (sở hữu). Do đó, quyết định ở đó cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với vườn (tu viện).

Vihāraṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật ở trong Tịnh Xá (Trú Xứ) đến đây là hết.

Khettaṭṭhakathā

Luận về Vật ở trong Ruộng Nương

104. Khettaṭṭhepi – khettaṃ tāva dassento ‘‘khettaṃ nāma yattha pubbaṇṇaṃ vā aparaṇṇaṃ vā jāyatī’’ti āha. Tattha pubbaṇṇanti sāliādīni satta dhaññāni; aparaṇṇanti muggamāsādīni; ucchukhettādikampi ettheva saṅgahitaṃ. Idhāpi catūhi ṭhānehi nikkhittaṃ vuttanayameva. Tatthajātake pana sālisīsādīni nirumbhitvā vā ekamekaṃ hattheneva chinditvā vā asitena lāyitvā vā bahūni ekato uppāṭetvā vā gaṇhantassa yasmiṃ bīje vā sīse vā muṭṭhiyaṃ vā muggamāsādiphale vā vatthu pūrati, tasmiṃ bandhanā mocitamatte pārājikaṃ. Acchijjamāno pana daṇḍako vā vāko vā taco vā appamattakopi rakkhati.
104. Cũng đối với vật ở trong ruộng nương – trước hết, để chỉ rõ (thế nào là) ruộng, (Luật Pāḷi) nói: ‘Ruộng là nơi mà các loại lúa sớm hoặc các loại đậu muộn mọc lên‘. Trong đó, ‘lúa sớm‘ là bảy loại ngũ cốc như lúa sāli v.v…; ‘đậu muộn‘ là các loại đậu như đậu xanh, đậu đen v.v…; ruộng mía v.v… cũng được bao gồm ở đây. Ở đây cũng vậy, (vật) được đặt ở bốn vị trí (đất, hư không, trên cao, trong nước) cũng (được phân xử) theo phương pháp đã nói. Còn đối với vật mọc tại đó, như bông lúa sāli v.v…, người nào tuốt (hạt), hoặc dùng tay ngắt từng bông một, hoặc dùng liềm cắt, hoặc nhổ nhiều cây cùng một lúc rồi lấy, thì đối với hạt nào, bông nào, nắm (lúa) nào, hoặc quả đậu xanh, đậu đen nào đủ (giá trị) cấu thành sự việc (Bất Cộng Trụ), ngay khi (vật đó) được tách rời khỏi chỗ buộc (thân cây), phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng thân cây, hoặc vỏ, hoặc lớp vỏ ngoài chưa bị cắt đứt, dù chỉ một chút, cũng (được xem là) bảo vệ (vật đó).

Vīhināḷaṃ dīghampi hoti, yāva antonāḷato vīhisīsadaṇḍako na nikkhamati, tāva rakkhati. Kesaggamattampi nāḷato daṇḍakassa heṭṭhimatale nikkhante bhaṇḍagghena kāretabbo. Asitena lāyitvā gaṇhato pana muṭṭhigatesu heṭṭhā chinnesupi sace sīsāni jaṭitāni, rakkhanti tāva. Vijaṭetvā pana kesaggamattampi ukkhipato sace vatthu pūrati, pārājikaṃ. Sāmikehi pana lāyitvā ṭhapitaṃ sabhusaṃ vā abhusaṃ vā katvā gaṇhato yena vatthu pūrati, tasmiṃ gahite pārājikaṃ. Sace parikappeti ‘‘idaṃ madditvā papphoṭetvā sārameva gaṇhissāmī’’ti rakkhati tāva. Maddanapapphoṭanesu ṭhānā cāventassāpi pārājikaṃ natthi, pacchā bhājanagate katamatte pārājikaṃ. Abhiyogo panettha vuttanayo eva.
Thân cây lúa dù có dài, chừng nào cuống bông lúa chưa ra khỏi ống thân cây, chừng đó (bông lúa) vẫn còn được bảo vệ. Ngay khi phần dưới của cuống bông lúa ra khỏi ống thân cây dù chỉ bằng một sợi tóc, phải bị (xử phạt) theo giá trị vật đó. Còn người nào dùng liềm cắt rồi lấy, đối với những (bông lúa) đã nắm trong tay, dù phần dưới đã bị cắt, nhưng nếu các bông lúa còn dính vào nhau, chúng vẫn còn được bảo vệ. Nhưng sau khi tách rời chúng ra, rồi nhấc lên dù chỉ bằng một sợi tóc, nếu (lượng đó) đủ (giá trị) cấu thành sự việc (Bất Cộng Trụ), phạm tội Bất Cộng Trụ. (Lúa) đã được chủ nhân cắt rồi để đó, dù còn nguyên trấu hay đã loại bỏ trấu, người nào lấy (lượng) đủ cấu thành sự việc (Bất Cộng Trụ), khi lấy (lượng) đó, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu (Tỳ khưu) hoạch định trước ‘ta sẽ chà đạp, sàng sảy cái này rồi chỉ lấy phần lõi (gạo)’, thì (lúa đó) vẫn còn được bảo vệ (chưa bị trộm khi mới hoạch định). Ngay cả khi làm di chuyển (lúa) khỏi chỗ trong khi chà đạp, sàng sảy, cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ; sau đó, ngay khi (gạo) đã vào đồ đựng (của mình) (đủ giá trị), mới phạm tội Bất Cộng Trụ. Việc kiện đòi ở đây cũng theo phương pháp đã nói.

Khīlasaṅkamanādīsu pathavī nāma anagghā. Tasmā sace ekeneva khīlena ito kesaggamattampi pathavippadesaṃ sāmikānaṃ passantānaṃ vā apassantānaṃ vā attano santakaṃ karoti, tasmiṃ khīle nāmaṃ chinditvā vā acchinditvā vā saṅkāmitamatte tassa ca, ye cassa ekacchandā, sabbesaṃ pārājikaṃ. Sace pana dvīhi khīlehi gahetabbaṃ hoti, paṭhame khīle thullaccayaṃ; dutiye pārājikaṃ. Sace tīhi gahetabbaṃ hoti, paṭhame dukkaṭaṃ, dutiye thullaccayaṃ, tatiye pārājikaṃ. Evaṃ bahukesupi avasāne dve ṭhapetvā purimehi dukkaṭaṃ, avasāne dvinnaṃ ekena thullaccayaṃ, itarena pārājikaṃ veditabbaṃ. Tañca kho sāmikānaṃ dhuranikkhepena. Evaṃ sabbattha.
Trong các (trường hợp) như di chuyển cọc mốc ranh giới v.v…, đất đai tự nó là vô giá. Do đó, nếu chỉ bằng một cọc mốc mà (Tỳ khưu) làm cho dù chỉ một vùng đất bằng sợi tóc từ đây trở thành sở hữu của mình, dù các chủ nhân thấy hay không thấy, thì ngay khi di chuyển cọc mốc đó, dù có khắc tên hay không khắc tên, cả vị ấy và những người đồng lõa với vị ấy, tất cả đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu (ranh giới) phải được xác định bằng hai cọc mốc, thì (khi di chuyển) cọc thứ nhất, phạm tội Trọng Tội; (khi di chuyển) cọc thứ hai, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu phải được xác định bằng ba cọc mốc, thì (khi di chuyển) cọc thứ nhất, phạm tội Tác ác; (cọc) thứ hai, (phạm tội) Trọng Tội; (cọc) thứ ba, (phạm tội) Bất Cộng Trụ. Như vậy, ngay cả trong trường hợp nhiều cọc, trừ hai cọc cuối cùng, (khi di chuyển) các cọc trước đó, phạm tội Tác ác; đối với hai cọc cuối cùng, (khi di chuyển) một cọc, phạm tội Trọng Tội; (khi di chuyển) cọc còn lại, phạm tội Bất Cộng Trụ, cần phải hiểu như vậy. Và điều đó (chỉ thành tựu Bất Cộng Trụ) khi các chủ nhân từ bỏ trách nhiệm (sở hữu). Như vậy ở tất cả mọi nơi.

Rajjuṃ vāti ‘‘mama santakaṃ ida’’nti ñāpetukāmo rajjuṃ vā pasāreti, yaṭṭhiṃ vā pāteti, dukkaṭaṃ. ‘‘Idāni dvīhi payogehi attano santakaṃ karissāmī’’ti tesaṃ paṭhame thullaccayaṃ, dutiye pārājikaṃ.
Hoặc (giăng) dây‘: (Tỳ khưu) muốn cho biết ‘đây là sở hữu của tôi’ bèn giăng dây hoặc đặt cây gậy xuống, phạm tội Tác ác. (Nếu nghĩ) ‘Bây giờ bằng hai hành động ta sẽ làm cho (đất này) thành sở hữu của mình’, thì đối với hành động đầu tiên trong số đó, phạm tội Trọng Tội; (đối với hành động) thứ hai, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Vatiṃ vāti parassa khettaṃ parikkhepavasena attano kātukāmo dārūni nikhaṇati, payoge payoge dukkaṭaṃ. Ekasmiṃ anāgate thullaccayaṃ, tasmiṃ āgate pārājikaṃ. Sace tattakena asakkonto sākhāparivāreneva attano kātuṃ sakkoti, sākhāpātanepi eseva nayo. Evaṃ yena yena parikkhipitvā attano kātuṃ sakkoti, tattha tattha paṭhamapayogehi dukkaṭaṃ. Avasāne dvinnaṃ ekena thullaccayaṃ, itarena pārājikaṃ veditabbaṃ.
Hoặc (làm) hàng rào‘: (Tỳ khưu) muốn làm cho ruộng của người khác thành của mình bằng cách rào lại, bèn chôn cọc gỗ, mỗi một hành động (chôn cọc) đều phạm tội Tác ác. Khi còn thiếu một (cọc/phần rào cuối cùng để hoàn tất), phạm tội Trọng Tội; khi (cọc/phần rào đó) được đặt xong, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu không thể làm (hàng rào) bằng chừng ấy (cọc gỗ) mà có thể làm (thành) của mình chỉ bằng cách rào bằng cành cây, thì đối với việc đặt cành cây cũng theo phương pháp này. Như vậy, bằng bất cứ thứ gì có thể rào lại rồi làm thành của mình, thì ở mỗi nơi đó, các hành động đầu tiên đều phạm tội Tác ác. Đối với hai (hành động) cuối cùng, một (hành động) phạm tội Trọng Tội, (hành động) còn lại phạm tội Bất Cộng Trụ, cần phải hiểu như vậy.

Mariyādaṃ vāti parassa khettaṃ ‘‘mama ida’’nti ñāpetukāmo attano khettamariyādaṃ

Kedārapāḷiṃ yathā parassa khettaṃ atikkamati, evaṃ saṅkāmeti, paṃsumattikādīhi vā vaḍḍhetvā vitthataṃ karoti, akataṃ vā pana patiṭṭhāpeti, purimapayogehi dukkaṭaṃ. Dvinnaṃ pacchimānaṃ ekena thullaccayaṃ, itarena pārājikanti.

Hoặc (thay đổi) đường ranh giới‘: (Tỳ khưu) muốn cho biết ‘đây là của tôi’ đối với ruộng của người khác, (bèn thay đổi) đường ranh giới ruộng của mình

di chuyển bờ ruộng trồng trọt sao cho nó lấn qua ruộng của người khác, hoặc dùng đất, bùn v.v… mà đắp cao làm cho (ranh giới) rộng ra, hoặc thiết lập (một đường ranh giới mới) ở chỗ chưa có, thì các hành động đầu tiên đều phạm tội Tác ác. Đối với hai (hành động) cuối cùng, một (hành động) phạm tội Trọng Tội, (hành động) còn lại phạm tội Bất Cộng Trụ.

Khettaṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật ở trong Ruộng Nương đến đây là hết.

Vatthuṭṭhakathā

Luận về Đất Nền (Xây Dựng)

105. Vatthuṭṭhepi – vatthuṃ tāva dassento vatthu nāma ‘‘ārāmavatthu vihāravatthū’’ti āha. Tattha bījaṃ vā uparopake vā aropetvāva kevalaṃ bhūmiṃ sodhetvā tiṇṇaṃ pākārānaṃ yena kenaci parikkhipitvā vā aparikkhipitvā vā pupphārāmādīnaṃ atthāya ṭhapito bhūmibhāgo ārāmavatthu nāma. Eteneva nayena ekavihārapariveṇaāvāsānaṃ atthāya ṭhapito bhūmibhāgo vihāravatthu nāma. Yopi pubbe ārāmo ca vihāro ca hutvā pacchā vinassitvā bhūmimatto ṭhito, ārāmavihārakiccaṃ na karoti, sopi ārāmavihāravatthusaṅgaheneva saṅgahito. Vinicchayo panettha khettaṭṭhe vuttasadisoyevāti.
105. Cũng đối với đất nền (xây dựng) – trước hết, để chỉ rõ (thế nào là) đất nền, (Luật Pāḷi) nói: ‘Đất nền là đất vườn (tu viện), đất tịnh xá (trú xứ)‘. Trong đó, phần đất được để dành cho mục đích làm vườn hoa v.v…, sau khi đã gieo hạt hoặc trồng cây con, hoặc chỉ dọn sạch đất, dù có được rào lại bằng bất kỳ loại nào trong ba loại hàng rào hay không được rào lại, được gọi là đất vườn (tu viện). Theo phương pháp này, phần đất được để dành cho mục đích làm một tịnh xá, một tu viện biệt lập, hoặc một trú xứ, được gọi là đất tịnh xá (trú xứ). Ngay cả (phần đất) nào trước kia là vườn và tịnh xá, sau này bị hư hoại chỉ còn lại mặt đất, không còn thực hiện chức năng của vườn và tịnh xá nữa, phần đất đó cũng được bao gồm trong khái niệm đất vườn và đất tịnh xá. Quyết định ở đây cũng tương tự như đã nói đối với vật ở trong ruộng nương.

Vatthuṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Đất Nền (Xây Dựng) đến đây là hết.

106. Gāmaṭṭhe yaṃ vattabbaṃ taṃ vuttameva.
106. Đối với vật ở trong làng, điều gì cần phải nói thì điều đó đã được nói rồi.

Araññaṭṭhakathā

Luận về Vật ở trong Rừng

107. Araññaṭṭhe – araññaṃ tāva dassento ‘‘araññaṃ nāma yaṃ manussānaṃ pariggahitaṃ hoti, taṃ arañña’’nti āha. Tattha yasmā araññaṃ nāma manussānaṃ pariggahitampi atthi, apariggahitampi; idha pana yaṃ pariggahitaṃ sārakkhaṃ, yato na vinā mūlena kaṭṭhalatādīni gahetuṃ labbhanti, taṃ adhippetaṃ. Tasmā ‘‘yaṃ manussānaṃ pariggahitaṃ hotī’’ti vatvā puna ‘‘arañña’’nti vuttaṃ. Tena imamatthaṃ dasseti – ‘‘na pariggahitabhāvo araññassa lakkhaṇaṃ. Yaṃ pana attano araññalakkhaṇena araññaṃ manussānañca pariggahitaṃ, taṃ imasmiṃ atthe arañña’’nti. Tattha vinicchayo ārāmaṭṭhādīsu vuttasadiso.
107. Đối với vật ở trong rừng – trước hết, để chỉ rõ (thế nào là) rừng, (Luật Pāḷi) nói: ‘Rừng là nơi thuộc sở hữu của con người, đó là rừng‘. Trong đó, vì ‘rừng‘ có loại thuộc sở hữu của con người, cũng có loại không thuộc sở hữu (của ai); nhưng ở đây, điều được ám chỉ là (rừng) nào thuộc sở hữu (của con người) và có sự canh giữ, nơi mà người ta không thể lấy gỗ, dây leo v.v… nếu không trả tiền. Do đó, sau khi nói ‘nơi thuộc sở hữu của con người’, lại nói thêm ‘rừng’. Qua đó, (Luật Pāḷi) chỉ rõ ý nghĩa này: ‘Việc thuộc sở hữu (của con người) không phải là đặc điểm (duy nhất) của rừng (trong học giới này). Mà rừng nào tự nó có đặc điểm là rừng và cũng thuộc sở hữu của con người, đó mới là rừng trong ý nghĩa này’. Quyết định ở đó tương tự như đã nói đối với vật ở trong vườn (tu viện) v.v…

Tatthajātakesu panettha ekasmimpi mahaggharukkhe chinnamatte pārājikaṃ. Lataṃ vāti ettha ca vettopi latāpi latā eva; tattha yo vetto vā latā vā dīghā hoti, mahārukkhe ca gacche ca vinivijjhitvā vā veṭhetvā vā gatā, sā mūle chinnāpi avahāraṃ na janeti agge chinnāpi, yadā pana aggepi mūlepi chinnā hoti, tadā avahāraṃ janeti. Sace pana veṭhetvā ṭhitā hoti, veṭhetvā ṭhitā pana rukkhato mocitamattā avahāraṃ janeti.
Còn đối với vật mọc tại đó, ‘rễ cây‘ là bất kỳ loại rễ nào như rễ hương bài, rễ hirivera v.v…; người nào nhổ lên hoặc lấy rễ đã bị nhổ, nếu phần rễ đó đủ (giá trị) cấu thành sự việc (Bất Cộng Trụ), thì khi lấy nó, phạm tội Bất Cộng Trụ. Củ cũng được bao gồm trong (khái niệm) rễ. Ở đây, người đang nhổ (rễ), dù chỉ một chút (rễ) chưa bị đứt, cũng chỉ (phạm tội) Trọng Tội. Quyết định ở đó cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với củ sen. ‘Hoặc dây leo‘: Ở đây, cả mây và các loại dây leo khác đều là dây leo; trong đó, dây mây hoặc dây leo nào dài, mọc xuyên qua hoặc quấn quanh cây lớn và bụi rậm, thì dù bị chặt ở gốc cũng chưa tạo ra sự chiếm đoạt, dù bị chặt ở ngọn cũng (chưa tạo ra sự chiếm đoạt); nhưng khi bị chặt cả ở ngọn lẫn ở gốc, khi đó mới tạo ra sự chiếm đoạt. Còn nếu (dây leo) chỉ quấn quanh (cây mà không bám rễ xuống đất từ ngọn), thì (dây leo) đang quấn quanh đó, ngay khi được gỡ ra khỏi cây, liền tạo ra sự chiếm đoạt.

Tiṇaṃvāti ettha tiṇaṃ vā hotu paṇṇaṃ vā, sabbaṃ tiṇaggahaṇeneva gahitaṃ; taṃ gehacchadanādīnamatthāya parehi chinnaṃ vā attanā chinditvā vā gaṇhanto bhaṇḍagghena kāretabbo. Na kevalañca tiṇapaṇṇameva, aññampi yaṃkiñci vākachalli ādi, yattha sāmikā sālayā, taṃ gaṇhanto bhaṇḍagghena kāretabbo. Tacchetvā ṭhapito addhagatopi rukkho na gahetabbo. Yo pana agge ca mūle ca chinno hoti, sākhāpissa pūtikā jātā, challiyopi gaḷitā, ‘‘ayaṃ sāmikehi chaḍḍito’’ti gahetuṃ vaṭṭati. Lakkhaṇacchinnassāpi yadā lakkhaṇaṃ challiyā pariyonaddhaṃ hoti, tadā gahetuṃ vaṭṭati. Gehādīnaṃ atthāya rukkhe chinditvā yadā tāni katāni ajjhāvutthāni ca honti, dārūnipi araññe vassena ca ātapena ca vinassanti, īdisānipi disvā ‘‘chaḍḍitānī’’ti gahetuṃ vaṭṭati. Kasmā? Yasmā araññasāmikā etesaṃ anissarā. Yehi araññasāmikānaṃ deyyadhammaṃ datvā chinnāni, te eva issarā, tehi ca tāni chaḍḍitāni, nirālayā tattha jātāti.
Hoặc cỏ‘: Ở đây, dù là cỏ hay lá, tất cả đều được bao gồm trong khái niệm ‘cỏ’; người nào lấy cỏ đó, dù do người khác cắt hoặc tự mình cắt để dùng lợp nhà v.v…, thì phải bị (xử phạt) theo giá trị vật đó. Không chỉ cỏ và lá, mà bất kỳ thứ gì khác như vỏ cây vākā v.v…, nơi nào mà chủ nhân còn luyến tiếc, người lấy vật đó phải bị (xử phạt) theo giá trị vật đó. Cây đã được đẽo gọt rồi để đó, dù đã mục một nửa, cũng không được phép lấy. Còn cây nào đã bị chặt cả ngọn lẫn gốc, cành nhánh cũng đã mục, vỏ cũng đã tróc ra, thì được phép lấy với ý nghĩ ‘cây này đã bị chủ nhân bỏ đi’. Ngay cả đối với cây đã bị chặt có dấu hiệu (sở hữu), khi dấu hiệu đó bị vỏ cây bao phủ (làm lu mờ), khi đó cũng được phép lấy. Khi người ta chặt cây để làm nhà v.v…, rồi sau khi (nhà đó) đã được làm xong và đã ở, các khúc gỗ (còn thừa) cũng bị hư hoại trong rừng do mưa nắng; thấy những (khúc gỗ) như vậy, cũng được phép lấy với ý nghĩ ‘chúng đã bị bỏ đi’. Tại sao? Vì những người chủ rừng không phải là chủ nhân của những (khúc gỗ thừa) đó (nữa). Những người nào đã trả tiền cho chủ rừng rồi chặt (cây), chính họ mới là chủ nhân (của gỗ đó); và nếu họ đã bỏ những (khúc gỗ thừa) đó đi, không còn luyến tiếc những gì mọc ở đó (từ những khúc gỗ đó), (thì chúng trở thành vật vô chủ).

Yopi bhikkhu paṭhamaṃyeva araññapālānaṃ deyyadhammaṃ datvā araññaṃ pavisitvā yathārucite rukkhe gāhāpeti, tassa tesaṃ ārakkhaṭṭhānaṃ agantvāpi yathārucitena maggena gantuṃ vaṭṭati. Athāpi pavisanto adatvā ‘‘nikkhamanto dassāmī’’ti rukkhe gāhāpetvā nikkhamanto tesaṃ dātabbaṃ datvā gacchati, vaṭṭati eva. Athāpi ābhogaṃ katvā gacchati ‘‘dehī’’ti vutte ‘‘dassāmī’’ti, ‘‘dehī’’ti vutte dātabbameva. Sace koci attano dhanaṃ datvā ‘‘bhikkhussa gantuṃ dethā’’ti vadati, laddhakappameva, gantuṃ vaṭṭati. Sace pana koci issarajātiko dhanaṃ adatvāva ‘‘bhikkhūnaṃ bhāgaṃ mā gaṇhathā’’ti vāreti, araññapālā ca ‘‘mayaṃ bhikkhūnaṃ tāpasānañca bhāgaṃ agaṇhantā kuto lacchāma, detha, bhante’’ti vadanti, dātabbameva.
Tỳ khưu nào ngay từ đầu đã trả tiền cho người giữ rừng rồi vào rừng, cho (người giữ rừng) lấy những cây mình thích, vị ấy dù không đi đến trạm kiểm soát của họ cũng được phép đi theo con đường mình muốn. Hoặc nếu khi vào không trả tiền (mà nói) ‘khi ra tôi sẽ đưa’, rồi cho (người giữ rừng) lấy cây, khi ra trả tiền phải trả cho họ rồi đi, cũng vẫn được phép. Hoặc nếu đi mà có sự lưu ý (rằng sẽ trả), khi được nói ‘Hãy đưa (tiền)’, (đáp) ‘Tôi sẽ đưa’; khi được nói ‘Hãy đưa’, thì phải đưa. Nếu có ai đó dùng tiền của mình trả rồi nói: ‘Xin hãy cho vị Tỳ khưu đi qua’, thì (việc đi qua) đã được xem là hợp lệ, được phép đi. Nhưng nếu có người thuộc dòng dõi quyền quý nào đó không trả tiền mà (chỉ) ngăn cản (người giữ rừng) rằng: ‘Đừng lấy phần (lệ phí) của chư Tỳ khưu’, và những người giữ rừng nói: ‘Chúng tôi không lấy phần của chư Tỳ khưu và các vị ẩn sĩ thì lấy gì mà sống, bạch ngài, xin hãy đưa (tiền)’, thì phải đưa.

Yo pana araññapālesu niddāyantesu vā kīḷāpasutesu vā katthaci pakkantesu vā āgantvā ‘‘kuhiṃ araññapālā’’ti pakkositvāpi adisvā gacchati, bhaṇḍadeyyaṃ. Yopi ārakkhaṭṭhānaṃ patvā kammaṭṭhānādīni manasikaronto vā aññavihito vā assatiyā atikkamati, bhaṇḍadeyyameva. Yassāpi taṃ ṭhānaṃ pattassa coro vā hatthī vā vāḷamigo vā mahāmegho vā vuṭṭhahati, so ca tamhā upaddavā muccitukamyatāya sahasā taṃ ṭhānaṃ atikkamati, rakkhati tāva, bhaṇḍadeyyaṃ pana hoti. Idaṃ pana araññe ārakkhaṭṭhānaṃ nāma suṅkaghātatopi garukataraṃ. Suṅkaghātassa hi paricchedaṃ anokkamitvā dūratova pariharanto dukkaṭameva āpajjati. Idaṃ pana theyyacittena pariharantassa ākāsena gacchatopi pārājikameva. Tasmā ettha appamattena bhavitabbanti.
Còn người nào đến khi những người giữ rừng đang ngủ, hoặc đang mải mê vui đùa, hoặc đã đi đâu đó, dù có gọi ‘Người giữ rừng ở đâu?’ mà không thấy rồi bỏ đi, thì phải đền vật (nếu đã lấy gỗ). Người nào đến trạm kiểm soát, rồi do đang suy tư về đề mục thiền định v.v…, hoặc đang xao lãng việc khác, hoặc do thất niệm mà đi qua, cũng phải đền vật. Ngay cả người nào khi đến trạm đó mà gặp phải trộm cướp, hoặc voi, hoặc thú dữ, hoặc mưa lớn nổi lên, rồi vị ấy vì muốn thoát khỏi tai họa đó mà vội vàng đi qua trạm ấy, thì (tài sản rừng) vẫn còn được bảo vệ (chưa bị xem là trộm lúc đó), nhưng vẫn phải đền vật (nếu đã lấy gỗ). Nhưng trạm kiểm soát trong rừng này còn quan trọng hơn cả trạm thuế. Vì đối với trạm thuế, người nào chưa vào phạm vi (trạm) mà (chỉ) tránh đi từ xa, cũng chỉ phạm tội Tác ác. Còn ở đây (trạm kiểm soát rừng), người nào với tâm trộm cắp mà tránh né, dù đi bằng đường không (để qua trạm), cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Do đó, ở đây cần phải không dể duôi.

Araññaṭṭhakathā niṭṭhitā.

Luận về Vật ở trong Rừng đến đây là hết.

Udakakathā

Luận về Nước

108. Udake pana – bhājanagatanti udakadullabhakāle udakamaṇikādīsu bhājanesu saṅgopetvā ṭhapitaṃ; taṃ yasmiṃ bhājane ṭhapitaṃ hoti, taṃ bhājanaṃ āviñchitvā vā chiddaṃ katvā vā tattha pokkharaṇītaḷākesu ca attano bhājanaṃ pavesetvā gaṇhantassa sappitelesu vuttanayena vinicchayo veditabbo.
108. Còn đối với nước – ‘nước chứa trong đồ đựng‘ là nước được cất giữ và để trong các đồ đựng như chum nước v.v… vào thời kỳ khan hiếm nước; nước đó được đặt trong đồ đựng nào, thì người nào làm nghiêng đồ đựng đó, hoặc khoét lỗ, hoặc ở ao hồ đó mà đưa đồ đựng của mình vào rồi lấy (nước), quyết định (về tội) cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với bơ lỏng và dầu.

Mariyādacchedane pana tattha jātakabhūtagāmena saddhimpi mariyādaṃ chindantassa adinnādānapayogattā dukkaṭaṃ. Tañca pana pahāre pahāre hoti. Antoṭhatvā bahimukho chindanto bahi antena kāretabbo. Bahi ṭhatvā antomukho chindanto antoantena kāretabbo. Anto ca bahi ca chinditvā majjhe ṭhapetvā taṃ chindanto majjhena kāretabbo. Mariyādaṃ dubbalaṃ katvā gāvo pakkosati, gāmadārakehi vā pakkosāpeti, tā āgantvā khurehi mariyādaṃ chindanti, teneva chinnā hoti. Mariyādaṃ dubbalaṃ katvā gāvo udake paveseti, gāmadārakehi vā pavesāpeti, tāhi uṭṭhāpitavīciyo mariyādaṃ bhinditvā gacchanti. Gāmadārake vā ‘‘udake kīḷathā’’ti vadati, kīḷante vā utrāseti, tehi uṭṭhāpitavīciyopi mariyādaṃ chinditvā gacchanti. Antoudake jātarukkhaṃ chindati, aññena vā chindāpeti, tenapi patantena uṭṭhāpitavīciyo mariyādaṃ chinditvā gacchanti, teneva chinnā hoti. Mariyādaṃ dubbalaṃ katvā taḷākarakkhaṇatthāya taḷākato nibbahanaudakaṃ vā niddhamanatumbaṃ vā pidahati, aññato gacchantaṃ vā udakaṃ yathā ettha pavisati, evaṃ pāḷiṃ vā bandhati, mātikaṃ vā ujukaṃ karoti, tassa uparibhāge ṭhitaṃ attano taḷākaṃ vā bhindati, ussannaṃ udakaṃ mariyādaṃ gahetvā gacchati, teneva chinnā hoti. Sabbattha nikkhantaudakagghānurūpena avahārena kāretabbo.
Còn trong việc phá vỡ bờ kè, người nào phá bờ kè, ngay cả cùng với cây cỏ mọc tại đó, do là hành động (chuẩn bị) của việc lấy của không cho, phạm tội Tác ác. Và (tội Tác ác) đó phát sinh ở mỗi một nhát (cuốc, xẻng). Người đứng bên trong mà phá hướng ra ngoài, thì (tội) phải được tính theo điểm cuối cùng bên ngoài (của chỗ phá). Người đứng bên ngoài mà phá hướng vào trong, thì (tội) phải được tính theo điểm cuối cùng bên trong (của chỗ phá). Người phá từ trong ra ngoài rồi dừng lại ở giữa, rồi (lại) phá (tiếp từ ngoài vào) chỗ đó, thì (tội) phải được tính theo điểm giữa (của chỗ phá hoàn tất). (Nếu Tỳ khưu) làm yếu bờ kè rồi gọi bò đến, hoặc nhờ trẻ mục đồng lùa (bò) đến, chúng đến rồi dùng móng phá vỡ bờ kè, thì chính (Tỳ khưu đó) đã phá vỡ (bờ kè). (Nếu) làm yếu bờ kè rồi lùa bò xuống nước, hoặc nhờ trẻ mục đồng lùa (bò) xuống, những làn sóng do chúng tạo ra phá vỡ bờ kè rồi (nước) chảy đi. Hoặc (Tỳ khưu) bảo trẻ mục đồng ‘hãy chơi đùa dưới nước’, hoặc làm cho chúng đang chơi đùa (dưới nước) sợ hãi, những làn sóng do chúng tạo ra cũng phá vỡ bờ kè rồi (nước) chảy đi. (Nếu Tỳ khưu) chặt cây mọc trong nước, hoặc nhờ người khác chặt, thì cây đó khi ngã xuống cũng tạo ra những làn sóng phá vỡ bờ kè rồi (nước) chảy đi, chính (Tỳ khưu đó) đã phá vỡ (bờ kè). (Nếu) làm yếu bờ kè rồi vì mục đích giữ nước cho hồ mà bịt lối thoát nước hoặc cống thoát nước của hồ, hoặc đắp bờ hay làm thẳng mương sao cho nước đang chảy từ nơi khác sẽ vào đây, hoặc phá vỡ hồ của mình ở phía trên hồ đó, (khiến cho) nước dâng cao cuốn trôi bờ kè, thì chính (Tỳ khưu đó) đã phá vỡ (bờ kè). Trong tất cả các trường hợp, (Tỳ khưu) phải bị (xử phạt) tội chiếm đoạt tùy theo giá trị của lượng nước đã chảy ra.

Niddhamanapanāḷiṃ ugghāṭetvā nīharantassāpi eseva nayo. Sace pana tena mariyādāya dubbalāya katāya attano dhammatāya āgantvā vā anāṇattehi gāmadārakehi āropitā vā gāviyo khurehi mariyādaṃ bhindanti, attanoyeva dhammatāya anāṇattehi vā gāmadārakehi udake pavesitā vīciyo uṭṭhāpenti, gāmadārakā vā sayameva pavisitvā kīḷantā uṭṭhāpenti antoudake vā rukkho aññena chijjamāno patitvā uṭṭhāpeti, uṭṭhāpitā vīciyo mariyādaṃ chindanti, sacepi mariyādaṃ dubbalaṃ katvā sukkhataḷākassa udakanibbahanaṭṭhānaṃ vā udakaniddhamanatumbaṃ vā pidahati, aññato gamanamagge vā pāḷiṃ bandhati, sukkhamātikaṃ vā ujukaṃ karoti, pacchā deve vuṭṭhe udakaṃ āgantvā mariyādaṃ bhindati, sabbattha bhaṇḍadeyyaṃ.
Người nào mở cống thoát nước rồi lấy (nước) cũng theo phương pháp này. Nhưng nếu do (Tỳ khưu) đã làm yếu bờ kè, mà bò tự nhiên đến hoặc do trẻ mục đồng không được ra lệnh lùa đến rồi dùng móng phá vỡ bờ kè; hoặc sóng do bò tự nhiên xuống nước hoặc do trẻ mục đồng không được ra lệnh lùa xuống tạo ra; hoặc sóng do trẻ mục đồng tự ý vào chơi đùa tạo ra; hoặc cây trong nước do người khác chặt ngã xuống tạo ra (sóng); (rồi) những làn sóng được tạo ra đó phá vỡ bờ kè; hoặc nếu (Tỳ khưu) làm yếu bờ kè rồi bịt lối thoát nước hay cống thoát nước của hồ khô, hoặc đắp bờ ở lối đi từ nơi khác, hoặc làm thẳng mương khô, sau đó trời mưa, nước đến rồi phá vỡ bờ kè, thì trong tất cả các trường hợp, phải đền vật.

Yo pana nidāghe sukkhavāpiyā mariyādaṃ yāva talaṃ pāpetvā chindati, pacchā deve vuṭṭhe āgatāgataṃ udakaṃ palāyati, bhaṇḍadeyyaṃ. Yattakaṃ tappaccayā sassaṃ uppajjati, tato pādamattagghanakampi adento sāmikānaṃ dhuranikkhepena assamaṇo hoti.
Còn người nào vào mùa khô mà phá bờ kè của hồ cạn cho đến tận đáy, sau đó trời mưa, nước đến rồi lại chảy đi mất, thì phải đền vật. Bao nhiêu hoa màu mọc lên nhờ (lượng nước lẽ ra phải có đó), nếu không đền (cho chủ ruộng) dù chỉ (giá trị hoa màu) bằng một pāda, thì khi các chủ nhân từ bỏ trách nhiệm (không đòi nữa), (Tỳ khưu đó) không còn là Sa-môn (do phạm Bất Cộng Trụ).

Yaṃ pana sabbasādhāraṇaṃ taḷākaṃ hoti; taḷāke udakassa sabbepi manussā issarā. Heṭṭhato panassa sassāni karonti, sassapālanatthaṃ taḷākato mahāmātikā nikkhamitvā khettamajjhena yāti, sāpi sadā sandanakāle sabbasādhāraṇā. Tato pana khuddakamātikā nīharitvā attano attano kedāresu udakaṃ pavesenti. Taṃ aññesaṃ gahetuṃ na denti. Nidāghasamayeva udake mandībhūte vārena udakaṃ denti, yo udakavāre sampatte na labhati, tassa sassāni milāyanti; tasmā aññesaṃ vāre añño gahetuṃ na labhati. Tattha yo bhikkhu paresaṃ khuddakamātikāto vā kedārato vā udakaṃ theyyacittena attano vā parassa vā mātikaṃ vā kedāraṃ vā paveseti, aṭavimukhaṃ vā vāheti, avahāro vassa hoti.
Còn hồ nước nào là của chung cho mọi người; thì tất cả mọi người đều là chủ nhân của nước trong hồ. Nhưng ở phía dưới hồ đó, người ta trồng hoa màu; để tưới tiêu hoa màu, một mương nước lớn dẫn từ hồ ra đi qua giữa các ruộng, mương đó vào mùa nước chảy cũng là của chung cho mọi người. Nhưng từ đó, người ta dẫn ra các mương nước nhỏ rồi cho nước vào ruộng của riêng mình. Họ không cho người khác lấy (nước đó). Chỉ vào mùa khô, khi nước cạn dần, họ mới chia nước theo phiên; người nào đến phiên mà không có nước, hoa màu của người đó sẽ bị héo úa; do đó, người khác không được phép lấy (nước) vào phiên của người khác. Ở đó, Tỳ khưu nào với tâm trộm cắp lấy nước từ mương nước nhỏ hoặc từ ruộng của người khác rồi cho vào mương hoặc ruộng của mình hay của người khác, hoặc cho chảy vào rừng, thì vị ấy phạm tội chiếm đoạt.

Yopi ‘‘cirena me udakavāro bhavissati, idañca sassaṃ milāyatī’’ti paresaṃ kedāre

Pavisantassa udakassa pavisanamaggaṃ pidahitvā attano kedāraṃ paveseti, avahāro eva. Sace pana taḷākato aniggate paresaṃ mātikāmukhaṃ asampatteva udake sukkhamātikaṃyeva yathā āgacchantaṃ udakaṃ aññesaṃ kedāre appavisitvā attanoyeva kedāraṃ pavisati, evaṃ tattha tattha bandhati. Anikkhante baddhā subaddhā, nikkhante baddhā, bhaṇḍadeyyaṃ. Taḷākaṃ gantvā sayameva niddhamanapanāḷiṃ ugghāṭetvā attano kedāraṃ pavesentassāpi natthi avahāro. Kasmā? Taḷākaṃ nissāya khettassa katattā. Kurundiyādīsu pana ‘‘avahāro’’ti vuttaṃ. Taṃ ‘‘vatthuṃ kālañca desañcā’’ti iminā lakkhaṇena na sameti. Tasmā mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttameva yuttanti.

Người nào (nghĩ rằng) ‘còn lâu mới đến phiên nước của ta, mà hoa màu này đang héo úa’ rồi đối với ruộng của người khác

chặn lối vào của dòng nước đang chảy vào (ruộng đó) rồi cho chảy vào ruộng của mình, cũng phạm tội chiếm đoạt. Còn nếu khi nước chưa ra khỏi hồ, chưa đến miệng mương của người khác, (Tỳ khưu) chỉ làm (sửa soạn) mương khô sao cho dòng nước sắp đến sẽ không vào ruộng của người khác mà vào ruộng của chính mình, rồi đắp bờ ở chỗ này chỗ kia (để chuẩn bị). (Nếu bờ) được đắp khi nước chưa chảy ra thì (được xem là) đắp kỹ; (nếu bờ) được đắp khi nước đã chảy ra (và gây thiệt hại), thì phải đền vật. Người nào tự mình đến hồ rồi mở cống thoát nước cho chảy vào ruộng của mình, cũng không phạm tội chiếm đoạt. Tại sao? Vì ruộng đó được làm dựa vào hồ (và có quyền lấy nước chung). Nhưng trong các Chú giải như Chú giải Kurundi v.v… thì nói là ‘(phạm tội) chiếm đoạt’. Điều đó không phù hợp với đặc điểm (đã nói về việc xem xét) ‘vật, thời gian và địa điểm’. Do đó, điều đã nói trong Đại Chú Giải là hợp lý.

Udakakathā niṭṭhitā.

Luận về Nước đến đây là hết.

Dantaponakathā

Luận về Tăm Xỉa Răng

109. Dantapoṇaṃ ārāmaṭṭhakavinicchayena vinicchinitabbaṃ. Ayaṃ pana viseso – yo saṅghassa vetanabhato hutvā devasikaṃ vā pakkhamāsavārena vā dantakaṭṭhaṃ āharati, so taṃ āharitvā chinditvāpi yāva bhikkhusaṅghaṃ na sampaṭicchāpeti, tāva tasseva hoti. Tasmā taṃ theyyacittena gaṇhanto bhaṇḍagghena kāretabbo. Tatthajātakaṃ pana garubhaṇḍaṃ, tampi bhikkhusaṅghena rakkhitagopitaṃ gaṇhanto bhaṇḍagghena kāretabbo. Eseva nayo gaṇapuggalagihimanussasantakepi chinnake acchinnake ca. Tesaṃ ārāmuyyānabhūmīsu jātaṃ sāmaṇerā vārena bhikkhusaṅghassa dantakaṭṭhaṃ āharantā ācariyupajjhāyānampi āharanti, taṃ yāva chinditvā saṅghaṃ na paṭicchāpenti, tāva sabbaṃ tesaṃyeva hoti. Tasmā tampi theyyacittena gaṇhanto bhaṇḍagghena kāretabbo. Yadā pana te chinditvā saṅghassa paṭicchāpetvā dantakaṭṭhamāḷake nikkhipanti, ‘‘yathāsukhaṃ bhikkhusaṅgho paribhuñjatū’’ti; tato paṭṭhāya avahāro natthi, vattaṃ pana jānitabbaṃ. Yo hi devasikaṃ saṅghamajjhe osarati, tena divase divase ekameva dantakaṭṭhaṃ gahetabbaṃ. Yo pana devasikaṃ na osarati, padhānaghare vasitvā dhammasavane vā uposathagge vā dissati, tena pamāṇaṃ sallakkhetvā cattāri pañcadantakaṭṭhāni attano vasanaṭṭhāne ṭhapetvā khāditabbāni. Tesu khīṇesu sace punapi dantakaṭṭhamāḷake bahūni hontiyeva, punapi āharitvā khāditabbāni. Yadi pana pamāṇaṃ asallakkhetvā āharati, tesu akkhīṇesuyeva māḷake khīyanti, tato keci therā ‘‘yehi gahitāni, te paṭiāharantū’’ti vadeyyuṃ, keci ‘‘khādantu, puna sāmaṇerā āharissantī’’ti, tasmā vivādapariharaṇatthaṃ pamāṇaṃ sallakkhetabbaṃ. Gahaṇe pana doso natthi. Maggaṃ gacchantenāpi ekaṃ vā dve vā thavikāya pakkhipitvā gantabbanti.
109. Tăm xỉa răng cần được phân xử theo quyết định về vật ở trong vườn (tu viện). Nhưng đây là điểm đặc biệt – người nào được Tăng chúng thuê làm công nhật hoặc theo phiên nửa tháng hay một tháng để mang tăm xỉa răng đến, người đó dù đã mang đến và cắt (tăm), nhưng chừng nào chưa giao cho Tăng chúng Tỳ khưu, chừng đó (tăm đó) vẫn là của người ấy. Do đó, người nào với tâm trộm cắp mà lấy (tăm đó), phải bị (xử phạt) theo giá trị vật đó. Còn (tăm xỉa răng) mọc tại đó là vật nặng (có giá trị lớn), người nào lấy (tăm đó) đã được Tăng chúng Tỳ khưu canh giữ cất giấu, cũng phải bị (xử phạt) theo giá trị vật đó. Phương pháp này cũng áp dụng cho (tăm) thuộc sở hữu của một nhóm (Tỳ khưu), của một cá nhân (Tỳ khưu), hoặc của người tại gia, dù đã cắt hay chưa cắt. (Cây làm tăm) mọc trong đất vườn hoặc đất vườn cảnh của họ, (nếu) các vị Sa-di theo phiên mang tăm xỉa răng đến cho Tăng chúng Tỳ khưu, và cũng mang cho các vị Thầy và các vị Hòa thượng của mình, thì chừng nào (các vị Sa-di) chưa cắt rồi giao cho Tăng chúng, chừng đó tất cả (tăm đó) vẫn là của chính các vị Sa-di. Do đó, người nào với tâm trộm cắp mà lấy (tăm đó), cũng phải bị (xử phạt) theo giá trị vật đó. Còn khi họ đã cắt rồi giao cho Tăng chúng và đặt vào giá để tăm xỉa răng (với ý nghĩ) ‘Mong Tăng chúng Tỳ khưu tùy ý dùng’; kể từ đó, không có sự chiếm đoạt (nếu lấy dùng), nhưng phận sự (liên quan) thì cần phải biết. Vì người nào mỗi ngày đều đến giữa Tăng chúng, thì mỗi ngày chỉ được lấy một cây tăm xỉa răng. Còn người nào không mỗi ngày đến (giữa Tăng chúng), mà ở nhà chuyên tu, chỉ thấy có mặt vào lúc nghe pháp hoặc ở nhà Bố-tát, vị ấy sau khi xem xét chừng mực, được phép lấy bốn hoặc năm cây tăm xỉa răng để ở nơi ở của mình rồi dùng dần. Khi dùng hết số đó, nếu trên giá để tăm xỉa răng vẫn còn nhiều, thì được phép lấy thêm rồi dùng. Nhưng nếu lấy mà không xem xét chừng mực, trong khi (tăm của vị ấy) chưa dùng hết mà trên giá đã hết, khi đó một số vị Trưởng lão có thể nói: ‘Những ai đã lấy (nhiều), hãy mang trả lại’, một số khác lại nói: ‘Cứ dùng đi, rồi Sa-di sẽ mang đến thêm’; do đó, để tránh tranh cãi, cần phải xem xét chừng mực. Nhưng trong việc lấy (đúng chừng mực), không có lỗi. Ngay cả người đang đi đường cũng được phép bỏ một hoặc hai cây (tăm) vào túi rồi đi.

Dantaponakathā niṭṭhitā.

Luận về Tăm Xỉa Răng đến đây là hết.

Vanappatikathā

Luận về Cây Lớn (trong Rừng)

110. Vanassa patīti vanappati; vanajeṭṭhakarukkhassetaṃ adhivacanaṃ. Idha pana sabbopi manussehi pariggahitarukkho adhippeto ambalabujapanasādiko. Yattha vā pana maricavalliādīni āropenti, so chijjamāno sace ekāyapi challiyā vā vākena vā sakalikāya vā pheggunā vā sambaddhova hutvā bhūmiyaṃ patati, rakkhati tāva.
110. ‘Chúa tể của rừng’ là ‘cây lớn‘ (vanappati); đây là tên gọi cho cây lớn nhất trong rừng. Nhưng ở đây, bất kỳ cây nào thuộc sở hữu của con người đều được ám chỉ, như xoài, mít,ขนุน (panasa) v.v… Hoặc nơi nào người ta trồng các loại dây leo như tiêu v.v…, (nếu) cây đó khi bị chặt mà vẫn còn dính liền (với gốc hoặc cây khác) dù chỉ bằng một lớp vỏ cây, hoặc một lớp vỏ trong, hoặc một mảnh dăm, hoặc một lớp gỗ mềm, rồi ngã xuống đất, thì (cây đó) vẫn còn được bảo vệ.

Yo pana chinnopi vallīhi vā sāmantarukkhasākhāhi vā sambaddho sandhāritattā ujukameva tiṭṭhati, patanto vā bhūmiṃ na pāpuṇāti, natthi tattha parihāro, avahāro eva hoti. Yopi kakacena chinno acchinno viya hutvā tatheva tiṭṭhati, tasmimpi eseva nayo.
Còn cây nào dù đã bị chặt nhưng vẫn còn dính vào dây leo hoặc cành cây gần đó, do được giữ lại nên vẫn đứng thẳng, hoặc khi ngã xuống mà không chạm đất, thì ở đó không có sự (hoãn lại việc cấu thành tội) chiếm đoạt, mà chính là (đã) chiếm đoạt. Cây nào bị cưa (gần đứt) mà vẫn đứng yên như chưa bị cưa, đối với cây đó cũng theo phương pháp này.

Yo pana rukkhaṃ dubbalaṃ katvā pacchā cāletvā pāteti, aññena vā cālāpeti; aññaṃ vāssa santike rukkhaṃ chinditvā ajjhottharati, parena vā ajjhottharāpeti; makkaṭe vā paripātetvā tattha āropeti, aññena vā āropāpeti; vagguliyo vā tattha āropeti, parena vā āropāpeti; tā taṃ rukkhaṃ pātenti, tasseva avahāro.
Còn người nào làm cho cây yếu đi, sau đó làm rung chuyển cho nó ngã, hoặc nhờ người khác làm rung chuyển; hoặc chặt một cây khác gần đó rồi cho nó đè lên (cây mục tiêu), hoặc nhờ người khác cho (cây) đè lên; hoặc xua đuổi khỉ rồi cho chúng leo lên đó, hoặc nhờ người khác cho (khỉ) leo lên; hoặc cho dơi (lớn) đậu lên đó, hoặc nhờ người khác cho (dơi) đậu lên; (nếu) chúng làm cho cây đó ngã, thì chính người đó (đã) chiếm đoạt.

Sace pana tena rukkhe dubbale kate añño anāṇatto eva taṃ cāletvā pāteti,

Rukkhena vā ajjhottharati, attano dhammatāya makkaṭā vā vagguliyo vā ārohanti, paro vā anāṇatto āropeti, sayaṃ vā esa vātamukhaṃ sodheti, balavavāto āgantvā rukkhaṃ pāteti; sabbattha bhaṇḍadeyyaṃ. Vātamukhasodhanaṃ panettha asampatte vāte sukkhamātikāya ujukaraṇādīhi sameti, no aññathā. Rukkhaṃ āvijjhitvā satthena vā ākoṭeti, aggiṃ vā deti, maṇḍukakaṇṭakaṃ vā visaṃ vā ākoṭeti, yena so marati, sabbattha bhaṇḍadeyyamevāti.

Nhưng nếu sau khi vị ấy đã làm cho cây yếu đi, một người khác không được ra lệnh lại làm rung chuyển cho nó ngã,

hoặc (một cây khác) đè lên, hoặc khỉ hay dơi tự nhiên leo lên, hoặc người khác không được ra lệnh cho (khỉ/dơi) leo lên, hoặc chính vị ấy dọn dẹp hướng gió (cho thông thoáng), rồi gió mạnh thổi đến làm cây ngã; trong tất cả các trường hợp, phải đền vật. Việc dọn dẹp hướng gió ở đây, khi gió chưa đến, tương đương với việc làm thẳng mương khô v.v…, chứ không khác. (Nếu Tỳ khưu) bao vây cây rồi dùng dao chặt, hoặc đốt lửa, hoặc đóng gai ma dương hay bôi thuốc độc, khiến cho cây đó chết, trong tất cả các trường hợp, đều phải đền vật.

Vanappatikathā niṭṭhitā.

Luận về Cây Lớn (trong Rừng) đến đây là hết.

Haraṇakakathā

Luận về (Việc Lấy Trộm) Từ Người Mang Vật

111. Haraṇake – aññassa haraṇakaṃ bhaṇḍaṃ theyyacitto āmasatīti paraṃ sīsabhārādīhi bhaṇḍaṃ ādāya gacchantaṃ disvā ‘‘etaṃ harissāmī’’ti vegena gantvā āmasati, ettāvatā assa dukkaṭaṃ. Phandāpetīti ākaḍḍhanavikaḍḍhanaṃ karoti, sāmiko na muñcati, tenassa thullaccayaṃ. Ṭhānā cāvetīti ākaḍḍhitvā sāmikassa hatthato moceti, tenassa pārājikaṃ. Sace pana taṃ bhaṇḍasāmiko uṭṭhahitvā pothetvā puna taṃ bhaṇḍaṃ mocāpetvā gaṇheyya, bhikkhu paṭhamaggahaṇeneva pārājiko. Sīsato vā kaṇṇato vā gīvato vā hatthato vā alaṅkāraṃ chinditvā vā mocetvā vā gaṇhantassa sīsādīhi mocitamatte pārājikaṃ. Hatthe pana valayaṃ vā kaṭakaṃ vā anīharitvā aggabāhaṃ ghaṃsantova aparāparaṃ vā sāreti, ākāsagataṃ vā karoti, rakkhati tāva. Rukkhamūlacīvaravaṃsesu valayamiva na pārājikaṃ janeti. Kasmā? Saviññāṇakattā. Saviññāṇakakoṭṭhāsagatañhi yāva tato na nīhaṭaṃ, tāva tattheva hoti. Eseva nayo aṅgulimuddikapādakaṭakakaṭūpagapiḷandhanesu.
111. Đối với (vật bị lấy từ) người mang vật – ‘Với tâm trộm cắp, chạm đến vật người khác đang mang‘: (nghĩa là) thấy người khác đang mang vật trên đầu v.v… mà đi, (Tỳ khưu nghĩ) ‘ta sẽ lấy vật này’ rồi nhanh chóng đến chạm vào, chỉ chừng đó, vị ấy phạm tội Tác ác. ‘Làm rung động‘: (nghĩa là) kéo qua kéo lại, chủ nhân không buông ra, do đó vị ấy phạm tội Trọng Tội. ‘Làm di chuyển khỏi chỗ‘: (nghĩa là) kéo rồi làm cho (vật) rời khỏi tay chủ nhân, do đó vị ấy phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu chủ nhân của vật đó đứng dậy, đánh đập (kẻ trộm) rồi làm cho vật đó được buông ra và lấy lại, thì Tỳ khưu vẫn phạm tội Bất Cộng Trụ ngay từ lần lấy đầu tiên. Người nào cắt đứt hoặc tháo gỡ rồi lấy đồ trang sức từ đầu, hoặc tai, hoặc cổ, hoặc tay (của người khác), ngay khi (đồ trang sức) rời khỏi đầu v.v…, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn đối với vòng tay hoặc xuyến ở tay, nếu chưa lấy ra (khỏi cổ tay) mà chỉ cọ xát vào cẳng tay, hoặc dời qua dời lại, hoặc làm cho nó rời khỏi (da thịt) lên không, thì (vật đó) vẫn còn được bảo vệ. Giống như (chiếc y làm thành) vòng (để trên) gốc cây hay sào phơi y, (hành động đó) chưa tạo ra tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì (tay) là vật có thức tỉnh (tức là một phần của cơ thể sống). Vì vật nào đã thuộc về một phần có thức tỉnh, chừng nào chưa bị lấy ra khỏi đó, chừng đó nó vẫn còn ở đó. Phương pháp này cũng áp dụng cho nhẫn đeo ngón tay, vòng đeo chân, và đồ trang sức đeo ở hông.

Yo pana parassa nivatthasāṭakaṃ acchindati, paro ca salajjitāya sahasā na muñcati, ekenantena coro kaḍḍhati, ekenantena paro, rakkhati tāva. Parassa hatthato muttamatte pārājikaṃ. Athāpi taṃ kaḍḍhantassa chijjitvā ekadeso hatthagato hoti, so ca pādaṃ agghati pārājikameva. Sahabhaṇḍahārakanti ‘‘sabhaṇḍahārakaṃ bhaṇḍaṃ nessāmī’’ti cintetvā ‘‘ito yāhī’’ti bhaṇḍahārakaṃ tajjeti, so bhīto corena adhippetadisābhimukho hutvā ekaṃ pādaṃ saṅkāmeti, corassa thullaccayaṃ; dutiye pārājikaṃ. Pātāpetīti athāpi coro bhaṇḍahārakassa hatthe āvudhaṃ disvā sāsaṅko hutvā pātāpetvā gahetukāmo ekamantaṃ paṭikkamma santajjetvā pātāpeti, parassa hatthato muttamatte pārājikaṃ.
Còn người nào giật lấy tấm vải đang mặc của người khác, và người kia vì xấu hổ mà không vội buông ra, kẻ trộm kéo một đầu, người kia (giữ) một đầu, thì (tấm vải đó) vẫn còn được bảo vệ. Ngay khi (tấm vải) rời khỏi tay người kia, phạm tội Bất Cộng Trụ. Hoặc nếu khi kéo, tấm vải đó bị rách và một mảnh rơi vào tay (kẻ trộm), và mảnh đó trị giá một pāda, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. ‘(Lấy) cùng với người mang vật‘: (Tỳ khưu) nghĩ rằng ‘ta sẽ lấy vật cùng với người mang vật’, rồi đe dọa người mang vật ‘hãy đi lối này’; người đó sợ hãi, hướng về phía mà kẻ trộm muốn, rồi nhấc một bước chân, kẻ trộm phạm tội Trọng Tội; bước thứ hai, (phạm tội) Bất Cộng Trụ. ‘Làm cho (vật) rơi xuống‘: Hoặc nếu kẻ trộm thấy vũ khí trong tay người mang vật, rồi nghi ngờ (sợ bị chống cự), muốn làm cho (vật) rơi xuống để lấy, bèn lui về một bên rồi đe dọa làm cho (vật) rơi xuống; ngay khi (vật) rời khỏi tay người kia, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Pātāpeti, āpatti dukkaṭassātiādi pana parikappavasena vuttaṃ. Yo hi bhaṇḍaṃ pātāpetvā ‘‘yaṃ mama ruccati, taṃ gahessāmī’’ti parikappetvā pātāpeti, tassa pātāpane ca āmasane ca dukkaṭaṃ, phandāpane thullaccayaṃ. Pādagghanakassa ṭhānā cāvane pārājikaṃ. Taṃ pacchā paṭipātiyamānassa muñcatopi natthiyeva samaṇabhāvo. Yopi bhaṇḍahārakaṃ atikkamantaṃ disvā anubandhanto ‘‘tiṭṭha, tiṭṭha, bhaṇḍaṃ pātehī’’ti vatvā pātāpeti, tassāpi tena hatthato muttamatte pārājikaṃ.
(Đoạn) bắt đầu bằng ‘Làm cho (vật) rơi xuống, phạm tội Tác ác‘ v.v… được nói theo nghĩa hoạch định (trộm một phần). Vì người nào làm cho vật rơi xuống, rồi hoạch định trước ‘vật nào ta thích, ta sẽ lấy vật đó’, rồi (mới) làm cho (vật) rơi xuống, thì đối với việc làm rơi và việc chạm đến, (phạm tội) Tác ác; đối với việc làm rung động, (phạm tội) Trọng Tội. Khi làm di chuyển khỏi chỗ (một phần) trị giá một pāda, phạm tội Bất Cộng Trụ. Sau đó, dù người đó có vứt bỏ (phần đã lấy) đang bị người khác giành lại, cũng không còn tư cách Sa-môn nữa. Người nào thấy người mang vật đi qua, rồi đuổi theo nói ‘Dừng lại, dừng lại, hãy làm rơi vật xuống!’ rồi làm cho (vật) rơi xuống, vị ấy cũng phạm tội Bất Cộng Trụ ngay khi (vật) rời khỏi tay người kia.

Yo pana ‘‘tiṭṭha tiṭṭhā’’ti vadati, ‘‘pātehī’’ti na vadati; itaro ca taṃ oloketvā ‘‘sace esa maṃ pāpuṇeyya, ghāteyyāpi ma’’ nti sālayova hutvā taṃ bhaṇḍaṃ gahanaṭṭhāne pakkhipitvā ‘‘puna nivattitvā gahessāmī’’ti pakkamati, pātanapaccayā pārājikaṃ natthi. Āgantvā pana theyyacittena gaṇhato uddhāre pārājikaṃ. Atha panassa evaṃ hoti – ‘‘mayā pātāpenteneva idaṃ mama santakaṃ kata’’nti tato naṃ sakasaññāya gaṇhāti; gahaṇe rakkhati, bhaṇḍadeyyaṃ pana hoti. ‘‘Dehī’’ti vutte adentassa sāmikānaṃ dhuranikkhepe pārājikaṃ. ‘‘So imaṃ chaḍḍetvā gato, anajjhāvutthakaṃ dāni ida’’nti paṃsukūlasaññāya gaṇhatopi eseva nayo. Atha pana sāmiko ‘‘tiṭṭha tiṭṭhā’’ti vuttamatteneva olokento taṃ disvā ‘‘na dāni idaṃ mayha’’nti dhuranikkhepaṃ katvā nirālayo chaḍḍetvā palāyati, taṃ theyyacittena gaṇhato uddhāre dukkaṭaṃ. Āharāpente dātabbaṃ, adentassa pārājikaṃ. Kasmā? Tassa payogena chaḍḍitattāti mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Aññesu pana vicāraṇā eva natthi. Purimanayeneva sakasaññāya vā paṃsukūlasaññāya vā gaṇhantepi ayameva vinicchayoti.
Còn người nào (chỉ) nói: ‘Dừng lại, dừng lại!’, chứ không nói: ‘Hãy làm rơi (vật) xuống!’; và người kia (người mang vật) nhìn thấy (kẻ trộm) rồi (nghĩ rằng) ‘nếu kẻ này bắt kịp ta, y có thể giết cả ta nữa’, dù vẫn còn luyến tiếc (vật đó), bèn đặt vật đó ở một nơi kín đáo rồi bỏ đi với ý nghĩ ‘ta sẽ quay lại lấy sau’, thì (kẻ trộm) không phạm tội Bất Cộng Trụ do nguyên nhân làm rơi (vật). Nhưng sau đó, (nếu kẻ trộm) đến rồi với tâm trộm cắp nhấc (vật đó) lên, phạm tội Bất Cộng Trụ khi nhấc lên. Hoặc nếu (kẻ trộm) nghĩ như vầy: ‘Chính do ta làm cho (người kia) làm rơi vật này mà nó đã trở thành của ta’, rồi sau đó lấy vật đó với ý nghĩ là của mình; thì khi lấy, (vật đó) vẫn còn được bảo vệ (tức chưa phạm Bất Cộng Trụ do trộm cắp hoàn toàn), nhưng phải đền vật. Khi được (chủ nhân) nói ‘Hãy trả lại!’, nếu không trả, khi các chủ nhân từ bỏ trách nhiệm (không đòi nữa), phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nào lấy với ý nghĩ là vật vô chủ rằng ‘người kia đã vứt bỏ vật này rồi đi, giờ đây nó không còn ai đoái hoài nữa’, cũng theo phương pháp này. Còn nếu chủ nhân, ngay khi nghe nói ‘Dừng lại, dừng lại!’, nhìn thấy (kẻ trộm) rồi (nghĩ rằng) ‘giờ đây vật này không còn là của ta nữa’, bèn từ bỏ trách nhiệm (sở hữu), không còn luyến tiếc, vứt bỏ (vật) rồi chạy trốn, thì người nào với tâm trộm cắp nhấc (vật đó) lên, phạm tội Tác ác. Khi (chủ nhân) đòi lại, phải trả; nếu không trả, phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao (chỉ phạm Tác ác khi nhấc lên)? Vì (vật đó) đã bị vứt bỏ do hành động (đe dọa) của vị ấy (chứ không phải do vị ấy trực tiếp làm rơi), theo như đã nói trong Đại Chú Giải. Còn trong các (Chú giải) khác thì không có sự xem xét (chi tiết) như vậy. Ngay cả khi lấy với ý nghĩ là của mình hoặc với ý nghĩ là vật vô chủ, quyết định cũng chính là theo phương pháp đã nói trước.

Haraṇakakathā niṭṭhitā.

Luận về (Việc Lấy Trộm) Từ Người Mang Vật đến đây là hết.

Upanidhikathā

Luận về Vật Ký Gửi

112. Upanidhimhi – nāhaṃ gaṇhāmīti sampajānamusāvādepi adinnādānassa payogattā dukkaṭaṃ. ‘‘Kiṃ tumhe bhaṇatha? Nevidaṃ mayhaṃ anurūpaṃ, na tumhāka’’ntiādīni vadantassāpi dukkaṭameva. ‘‘Raho mayā etassa hatthe ṭhapitaṃ, na añño koci jānāti, ‘dassati nu kho me no’’’ti sāmiko vimatiṃ uppādeti, bhikkhussa thullaccayaṃ. Tassa pharusādibhāvaṃ disvā sāmiko ‘‘na mayhaṃ dassatī’’ti dhuraṃ nikkhipati, tatra sacāyaṃ bhikkhu ‘‘kilametvā naṃ dassāmī’’ti dāne saussāho, rakkhati tāva. Sacepi so dāne nirussāho, bhaṇḍassāmiko pana gahaṇe saussāho , rakkhateva. Yadi pana so dāne nirussāho bhaṇḍasāmikopi ‘‘na mayhaṃ dassatī’’ti dhuraṃ nikkhipati, evaṃ ubhinnaṃ dhuranikkhepena bhikkhuno pārājikaṃ . Yadipi mukhena ‘‘dassāmī’’ti vadati, cittena pana adātukāmo, evampi sāmikassa dhuranikkhepe pārājikaṃ. Taṃ pana upanidhi nāma saṅgopanatthāya attano hatthe parehi ṭhapitabhaṇḍaṃ, aguttadesato ṭhānā cāvetvā guttaṭṭhāne ṭhapanatthāya harato anāpatti. Theyyacittenapi ṭhānā cāventassa avahāro natthi. Kasmā? Attano hatthe nikkhittattā, bhaṇḍadeyyaṃ pana hoti. Theyyacittena paribhuñjatopi eseva nayo. Tāvakālikaggahaṇepi tatheva. Dhammaṃ carantotiādi vuttanayameva. Ayaṃ tāva pāḷivaṇṇanā.
112. Đối với vật ký gửi – (nếu Tỳ khưu nói) ‘Tôi không nhận‘, dù là cố ý nói dối, do là hành động (liên quan) đến việc lấy của không cho, phạm tội Tác ác. Ngay cả người nói những lời như: ‘Các vị nói gì vậy? Điều này không phù hợp với tôi, cũng không (phải của) các vị’ v.v…, cũng chỉ phạm tội Tác ác. (Nếu) chủ nhân khởi lên sự nghi ngờ (nghĩ rằng): ‘Ta đã lén đặt vật này vào tay vị ấy, không ai khác biết, liệu vị ấy có trả lại cho ta hay không?’, Tỳ khưu phạm tội Trọng Tội. Thấy thái độ thô lỗ v.v… của vị ấy, chủ nhân (nghĩ rằng) ‘vị ấy sẽ không trả cho ta’ rồi từ bỏ trách nhiệm (đòi lại); ở đó, nếu Tỳ khưu này vẫn nỗ lực trong việc trả lại (nghĩ rằng) ‘sau khi làm cho y mệt mỏi, ta sẽ trả’, thì (vật đó) vẫn còn được bảo vệ (chưa thành tội Bất Cộng Trụ). Ngay cả nếu vị ấy không còn nỗ lực trong việc trả, nhưng chủ nhân của vật lại nỗ lực trong việc lấy lại, thì (vật đó) vẫn còn được bảo vệ. Còn nếu vị ấy không còn nỗ lực trong việc trả, và chủ nhân của vật cũng từ bỏ trách nhiệm (nghĩ rằng) ‘vị ấy sẽ không trả cho ta’, như vậy, do cả hai đều từ bỏ trách nhiệm, Tỳ khưu phạm tội Bất Cộng Trụ. Ngay cả nếu miệng nói ‘tôi sẽ trả’, nhưng trong tâm lại không muốn trả, trường hợp như vậy, khi chủ nhân từ bỏ trách nhiệm (đòi lại), cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn vật ký gửi là vật được người khác đặt vào tay mình để cất giữ; người nào mang (vật đó) từ nơi không an toàn, làm di chuyển khỏi chỗ rồi đặt ở nơi an toàn để cất giữ, thì không phạm tội. Ngay cả khi làm di chuyển khỏi chỗ với tâm trộm cắp, cũng không có sự chiếm đoạt. Tại sao? Vì (vật đó) đã được đặt vào tay mình; nhưng phải đền vật (nếu làm mất). Người dùng (vật ký gửi) với tâm trộm cắp cũng theo phương pháp này. Đối với việc lấy dùng tạm thời cũng vậy. (Đoạn) bắt đầu bằng ‘Khi tiến hành theo pháp‘ v.v… cũng theo phương pháp đã nói. Đây là phần giải thích theo Luật Pāḷi.

Pāḷimuttakavinicchayo panettha pattacatukkādivasena evaṃ vutto – eko kira bhikkhu parassa mahagghe patte lobhaṃ uppādetvā taṃ haritukāmo ṭhapitaṭṭhānamassa suṭṭhu sallakkhetvā attanopi pattaṃ tasseva santike ṭhapesi. So paccūsasamaye āgantvā dhammaṃ vācāpetvā niddāyamānaṃ mahātheramāha – ‘‘vandāmi, bhante’’ti. ‘‘Ko eso’’ti? ‘‘Ahaṃ, bhante, āgantukabhikkhu, kālassevamhi gantukāmo, asukasmiñca me ṭhāne īdisena nāma aṃsabaddhakena īdisāya pattatthavikāya patto ṭhapito. Sādhāhaṃ, bhante, taṃ labheyya’’nti thero pavisitvā taṃ gaṇhi. Uddhāreyeva corassa pārājikaṃ. Sace āgantvā ‘‘kosi tvaṃ avelāya āgato’’ti vutto bhīto palāyati, pārājikaṃ patvāva palāyati. Therassa pana suddhacittattā anāpatti. Thero ‘‘taṃ gaṇhissāmī’’ti aññaṃ gaṇhi, eseva nayo. Ayaṃ pana aññaṃ tādisameva gaṇhante yujjati, manussaviggahe āṇattasadisavatthusmiṃ viya. Kurundiyaṃ pana ‘‘padavārena kāretabbo’’ti vuttaṃ, taṃ atādisameva gaṇhante yujjati.
Quyết định về những điều không có trong Luật Pāḷi ở đây, liên quan đến bốn trường hợp về bát v.v…, được nói như vầy – Tương truyền, một Tỳ khưu nọ khởi lòng tham đối với cái bát quý giá của người khác, muốn lấy trộm bát đó, sau khi xem xét kỹ chỗ để bát của vị kia, cũng đặt bát của mình gần đó. Vào lúc rạng đông, vị ấy đến, sau khi nhờ đọc Pháp thoại, rồi nói với vị Đại Trưởng lão đang ngủ: ‘Con xin đảnh lễ ngài’. (Trưởng lão hỏi:) ‘Ai đó?’ (Vị kia đáp:) ‘Bạch ngài, con là Tỳ khưu khách, con muốn đi sớm; và ở chỗ kia, bát của con được đặt trong túi đựng bát như thế này, với dây đeo vai như thế kia. Lành thay, bạch ngài, mong con nhận được bát đó’. Trưởng lão vào rồi lấy bát đó (đưa cho). Ngay khi (Trưởng lão) nhấc (bát của người khác) lên, kẻ trộm phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu (kẻ trộm) đến (rồi bị Trưởng lão) nói: ‘Sao thầy lại đến vào giờ không phải lúc thế này?’, (kẻ trộm) sợ hãi bỏ chạy, thì đã phạm tội Bất Cộng Trụ rồi mới chạy. Còn Trưởng lão, do tâm trong sạch, nên không phạm tội. (Nếu) Trưởng lão (nghĩ) ‘ta sẽ lấy cái đó’ mà lại lấy nhầm cái khác, cũng theo phương pháp này. Điều này phù hợp khi (Trưởng lão) lấy nhầm một cái khác tương tự như vậy, giống như trường hợp ra lệnh (bắt) nhầm người trong vụ việc liên quan đến hình người. Còn trong Chú giải Kurundi thì nói: ‘(Kẻ trộm) phải bị (xử phạt) theo từng bước chân (nếu tự đi lấy)’, điều đó phù hợp khi (Trưởng lão) lấy một cái không tương tự như vậy (tức là, Trưởng lão không nhầm lẫn mà kẻ trộm tự đi lấy).

Taṃ maññamāno attano pattaṃ gaṇhitvā adāsi, corassa sāmikena dinnattā pārājikaṃ natthi, asuddhacittena pana gahitattā dukkaṭaṃ. Taṃ maññamāno corasseva pattaṃ gaṇhitvā adāsi, idhāpi corassa attano santakattā pārājikaṃ natthi, asuddhacittena pana gahitattā dukkaṭameva. Sabbattha therassa anāpatti.
(Nếu Trưởng lão) tưởng đó là (bát của kẻ trộm) mà lấy bát của chính mình đưa cho, thì kẻ trộm không phạm tội Bất Cộng Trụ vì đã được chủ nhân cho, nhưng vì đã nhận với tâm không trong sạch, nên phạm tội Tác ác. (Nếu Trưởng lão) tưởng đó là (bát của người khác) mà lại lấy chính bát của kẻ trộm đưa cho, ở đây kẻ trộm cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ vì đó là sở hữu của mình, nhưng vì đã nhận (lại) với tâm không trong sạch (ban đầu muốn trộm bát khác), nên chỉ phạm tội Tác ác. Trong tất cả các trường hợp, Trưởng lão không phạm tội.

Aparo ‘‘pattaṃ coressāmī’’ti tatheva niddāyamānaṃ theraṃ vandi. ‘‘Ko aya’’nti ca vutte ‘ahaṃ, bhante, gilānabhikkhu, ekaṃ tāva me pattaṃ detha, gāmadvāraṃ gantvā bhesajjaṃ āharissāmī’’ti. Thero ‘‘idha gilāno natthi, coro ayaṃ bhavissatī’’ti sallakkhetvā ‘‘imaṃ haratū’’ti attano veribhikkhussa pattaṃ nīharitvā adāsi, dvinnampi uddhāreyeva pārājikaṃ. ‘‘Veribhikkhussa patto’’ti saññāya aññassa pattaṃ uddharantepi eseva nayo. Sace pana ‘‘verissāya’’nti saññāya corasseva pattaṃ uddharitvā deti, vuttanayeneva therassa pārājikaṃ, corassa dukkaṭaṃ. Atha ‘‘verissāya’’nti maññamāno attano pattaṃ deti, vuttanayeneva ubhinnampi dukkaṭaṃ.
Một Tỳ khưu khác (nghĩ) ‘ta sẽ trộm bát’ rồi cũng đảnh lễ vị Trưởng lão đang ngủ như vậy. Khi được hỏi ‘Ai đó?’, (vị ấy đáp) ‘Bạch ngài, con là Tỳ khưu bệnh, xin ngài hãy cho con một cái bát, con sẽ đến cổng làng mang thuốc về’. Trưởng lão nhận thấy ‘ở đây không có ai bệnh, đây chắc là kẻ trộm’ rồi (nghĩ) ‘cứ để nó mang cái này đi’, bèn lấy bát của vị Tỳ khưu mà mình không ưa đưa cho; cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ ngay khi (Trưởng lão) nhấc bát lên. Ngay cả khi với ý nghĩ là ‘bát của Tỳ khưu không ưa’ mà nhấc bát của người khác (không phải của Tỳ khưu không ưa, cũng không phải của kẻ trộm), cũng theo phương pháp này (cả hai đều phạm Bất Cộng Trụ). Còn nếu với ý nghĩ là ‘(bát) của người không ưa’ mà lại nhấc chính bát của kẻ trộm đưa cho, thì theo phương pháp đã nói, Trưởng lão phạm tội Bất Cộng Trụ, kẻ trộm phạm tội Tác ác. Hoặc nếu tưởng là ‘(bát) của người không ưa’ mà lại đưa bát của chính mình, thì theo phương pháp đã nói, cả hai đều phạm tội Tác ác.

Eko mahāthero upaṭṭhākaṃ daharabhikkhuṃ ‘‘pattacīvaraṃ gaṇha, asukaṃ nāma gāmaṃ gantvā piṇḍāya carissāmā’’ti āha. Daharo gahetvā therassa pacchato pacchato gacchanto theyyacittaṃ uppādetvā sace sīse bhāraṃ khandhe karoti, pārājikaṃ natthi. Kasmā? Āṇattiyā gahitattā. Sace pana maggato okkamma aṭaviṃ pavisati, padavārena kāretabbo. Atha nivattitvā vihārābhimukho palāyitvā vihāraṃ pavisitvā gacchati, upacārātikkame pārājikaṃ. Athāpi mahātherassa nivāsanaparivattanaṭṭhānato gāmābhimukho palāyati, gāmūpacārātikkame pārājikaṃ. Yadi pana ubhopi piṇḍāya caritvā bhuñjitvā vā gahetvā vā nikkhamanti, thero ca punapi taṃ vadati – ‘‘pattacīvaraṃ gaṇha, vihāraṃ gamissāmā’’ti. Tatra ce so purimanayeneva theyyacittena sīse bhāraṃ khandhe karoti, rakkhati tāva. Aṭaviṃ pavisati, padavārena kāretabbo. Nivattitvā gāmābhimukho eva palāyati, gāmūpacārātikkame pārājikaṃ. Purato vihārābhimukho palāyitvā vihāre aṭṭhatvā anisīditvā avūpasanteneva theyyacittena gacchati, upacārātikkame pārājikaṃ. Yo pana anāṇatto gaṇhāti, tassa sīse bhāraṃ khandhe karaṇādīsupi pārājikaṃ. Sesaṃ purimasadisameva.
Một vị Đại Trưởng lão bảo vị Tỳ khưu trẻ là thị giả: ‘Hãy lấy y bát, chúng ta sẽ đến làng kia để đi khất thực’. Vị trẻ tuổi lấy (y bát) rồi đi theo sau Trưởng lão, (nếu) khởi lên tâm trộm cắp rồi chuyển vật đang đội trên đầu xuống vai, không phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì đã nhận lấy do được ra lệnh. Nhưng nếu đi lệch khỏi đường rồi vào rừng, phải bị (xử phạt) theo từng bước chân. Hoặc nếu quay lại, chạy về hướng tịnh xá, rồi vào tịnh xá mà đi, khi vượt qua vùng tiếp cận (của tịnh xá với ý định chiếm đoạt), phạm tội Bất Cộng Trụ. Hoặc nếu từ chỗ thay y của Đại Trưởng lão mà chạy về hướng làng, khi vượt qua vùng ngoại ô của làng, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu cả hai sau khi đi khất thực, dùng bữa hoặc nhận (vật thực) rồi đi ra, và Trưởng lão lại bảo vị ấy: ‘Hãy lấy y bát, chúng ta sẽ về tịnh xá’. Ở đó, nếu vị ấy với tâm trộm cắp theo cách trước mà chuyển vật đang đội trên đầu xuống vai, thì (vật đó) vẫn còn được bảo vệ. (Nếu) vào rừng, phải bị (xử phạt) theo từng bước chân. (Nếu) quay lại chạy về hướng làng, khi vượt qua vùng ngoại ô của làng, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) chạy về phía trước hướng về tịnh xá, rồi ở trong tịnh xá không đứng, không ngồi, mà đi với tâm trộm cắp chưa lắng dịu, khi vượt qua vùng tiếp cận (của nơi cất giữ với ý chiếm đoạt), phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn người nào không được ra lệnh mà tự ý lấy, thì đối với vị ấy, ngay cả việc chuyển vật đang đội trên đầu xuống vai v.v… cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Phần còn lại tương tự như trường hợp trước.

Yo pana ‘‘asukaṃ nāma vihāraṃ gantvā cīvaraṃ dhovitvā rajitvā vā ehī’’ti vutto ‘‘sādhū’’ti gahetvā gacchati, tassapi antarāmagge theyyacittaṃ uppādetvā sīse bhāraṃ khandhe karaṇādīsu pārājikaṃ natthi. Maggā okkamane padavārena kāretabbo. Taṃ vihāraṃ gantvā tattheva vasanto theyyacittena paribhuñjanto jīrāpeti, corā vā tassa taṃ haranti, avahāro natthi, bhaṇḍadeyyaṃ pana hoti. Tato nikkhamitvā āgacchatopi eseva nayo.
Còn người nào được bảo: ‘Hãy đến tịnh xá kia giặt rồi nhuộm y, hoặc (chỉ giặt rồi) hãy về’, (đáp) ‘Lành thay’ rồi nhận lấy mà đi, vị ấy dù giữa đường khởi lên tâm trộm cắp rồi chuyển vật đang đội trên đầu xuống vai v.v…, cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ. Khi đi lệch khỏi đường, phải bị (xử phạt) theo từng bước chân. (Nếu) đến tịnh xá đó rồi ở lại đó, với tâm trộm cắp dùng (y) cho đến cũ rách, hoặc trộm cướp lấy mất y đó của vị ấy, thì không có sự chiếm đoạt, nhưng phải đền vật. Từ đó đi ra rồi trở về cũng theo phương pháp này.

Yo pana anāṇatto therena nimitte vā kate sayameva vā kiliṭṭhaṃ sallakkhetvā ‘‘detha, bhante, cīvaraṃ; asukaṃ nāma gāmaṃ gantvā rajitvā āharissāmī’’ti gahetvā gacchati; tassa antarāmagge theyyacittaṃ uppādetvā sīse bhāraṃ khandhe karaṇādīsu pārājikaṃ. Kasmā? Anāṇattiyā gahitattā. Maggā okkamatopi paṭinivattitvā tameva vihāraṃ āgantvā vihārasīmaṃ atikkamatopi vuttanayeneva pārājikaṃ. Tattha gantvā rajitvā paccāgacchatopi theyyacitte uppanne eseva nayo. Sace pana yattha gato, tattha vā antarāmagge vihāre vā tameva vihāraṃ paccāgantvā tassa ekapasse vā upacārasīmaṃ anatikkamitvā vasanto theyyacittena paribhuñjanto jīrāpeti, corā vā tassa taṃ haranti, yathā vā tathā vā nassati, bhaṇḍadeyyaṃ. Upacārasīmaṃ atikkamato pana pārājikaṃ.
Còn người nào không được ra lệnh, mà khi Trưởng lão làm dấu hiệu hoặc tự mình nhận thấy (y) bị dơ, rồi nói: ‘Bạch ngài, xin hãy đưa y; con sẽ đến làng kia nhuộm rồi mang về’ rồi nhận lấy mà đi; vị ấy nếu giữa đường khởi lên tâm trộm cắp rồi chuyển vật đang đội trên đầu xuống vai v.v…, phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì đã nhận lấy mà không được ra lệnh. Ngay cả khi đi lệch khỏi đường, hoặc quay lại rồi đến chính tịnh xá đó, khi vượt qua địa giới tịnh xá, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ theo phương pháp đã nói. Đến đó nhuộm rồi trở về, nếu tâm trộm cắp khởi lên, cũng theo phương pháp này. Nhưng nếu ở nơi đã đến, hoặc ở một tịnh xá giữa đường, hoặc quay lại chính tịnh xá đó rồi ở một bên, không vượt qua địa giới tiếp cận của nó, mà với tâm trộm cắp dùng (y) cho đến cũ rách, hoặc trộm cướp lấy mất y đó của vị ấy, hoặc (y) bị mất cách này hay cách khác, thì phải đền vật. Còn từ khi vượt qua địa giới tiếp cận (với ý định chiếm đoạt), phạm tội Bất Cộng Trụ.

Yo pana therena nimitte kayiramāne ‘‘detha, bhante, ahaṃ rajitvā āharissāmī’’ti vatvā ‘‘kattha gantvā, bhante, rajāmī’’ti pucchati. Thero ca naṃ ‘‘yattha icchasi, tattha gantvā rajāhī’’ti vadati, ayaṃ ‘‘vissaṭṭhadūto’’ nāma. Theyyacittena palāyantopi na avahārena kāretabbo. Theyyacittena pana palāyatopi paribhogena vā aññathā vā nāsayatopi bhaṇḍadeyyameva hoti. Bhikkhu bhikkhussa hatthe kiñci parikkhāraṃ pahiṇati – ‘‘asukavihāre asukabhikkhussa dehī’’ti, tassa theyyacitte uppanne sabbaṭṭhānesu ‘‘asukaṃ nāma vihāraṃ gantvā cīvaraṃ dhovitvā rajitvā vā ehī’’ti ettha vuttasadiso vinicchayo.
Còn người nào khi Trưởng lão làm dấu hiệu, nói: ‘Bạch ngài, xin hãy đưa (y), con sẽ nhuộm rồi mang về’, rồi hỏi: ‘Bạch ngài, con đi đến đâu để nhuộm?’ Và Trưởng lão bảo vị ấy: ‘Thầy muốn đi đâu thì đến đó mà nhuộm’, vị này gọi là ‘sứ giả được tùy ý’. Dù (vị này) với tâm trộm cắp mà bỏ trốn, cũng không bị (xử phạt) tội chiếm đoạt. Nhưng dù (vị này) với tâm trộm cắp mà bỏ trốn, rồi dùng hoặc làm mất (y) cách này hay cách khác, cũng đều phải đền vật. Tỳ khưu gửi một vật dụng nào đó qua tay một Tỳ khưu (khác để mang đến) – (dặn rằng) ‘Hãy giao cho Tỳ khưu kia ở tịnh xá nọ’; nếu tâm trộm cắp khởi lên nơi vị (mang đồ) đó, thì ở tất cả mọi nơi, quyết định tương tự như đã nói trong trường hợp ‘hãy đến tịnh xá kia giặt rồi nhuộm y, hoặc (chỉ giặt rồi) hãy về’.

Aparo bhikkhuṃ pahiṇitukāmo nimittaṃ karoti – ‘‘ko nu kho gahetvā gamissatī’’ti, tatra ce eko – ‘‘detha, bhante, ahaṃ gahetvā gamissāmī’’ti gahetvā gacchati, tassa theyyacitte uppanne sabbaṭṭhānesu ‘‘detha, bhante, cīvaraṃ, asukaṃ nāma gāmaṃ gantvā rajitvā āharissāmī’’ti ettha vuttasadiso vinicchayo. Therena cīvaratthāya vatthaṃ labhitvā upaṭṭhākakule ṭhapitaṃ hoti. Athassa antevāsiko vatthaṃ haritukāmo tatra gantvā ‘‘taṃ kira vatthaṃ dethā’’ti therena pesito viya vadati; tassa vacanaṃ saddahitvā upāsakena ṭhapitaṃ upāsikā vā, upāsikāya ṭhapitaṃ upāsako vā añño vā, koci nīharitvā deti, uddhāreyevassa pārājikaṃ. Sace pana therassa upaṭṭhākehi ‘‘imaṃ therassa dassāmā’’ti attano vatthaṃ ṭhapitaṃ hoti. Athassa antevāsiko taṃ haritukāmo tattha gantvā ‘‘therassa kira vatthaṃ dātukāmattha, taṃ dethā’’ti vadati. Te cassa saddahitvā ‘‘mayaṃ, bhante, bhojetvā dassāmāti ṭhapayimha, handa gaṇhāhī’’ti denti. Sāmikehi dinnattā pārājikaṃ natthi, asuddhacittena pana gahitattā dukkaṭaṃ, bhaṇḍadeyyañca hoti.
Một Tỳ khưu khác muốn gửi (vật gì đó) bèn làm dấu hiệu (hỏi) – ‘Ai sẽ nhận mang đi đây?’; nếu ở đó có một vị (tình nguyện) – ‘Bạch ngài, xin hãy đưa (vật), con sẽ nhận mang đi’ rồi nhận lấy mà đi, nếu tâm trộm cắp khởi lên nơi vị ấy, thì ở tất cả mọi nơi, quyết định tương tự như đã nói trong trường hợp ‘Bạch ngài, xin hãy đưa y; con sẽ đến làng kia nhuộm rồi mang về’. (Nếu) Trưởng lão nhận được vải để may y rồi gửi ở nhà người hộ độ. Khi đó, vị đệ tử nội trú của ngài muốn lấy trộm vải đó, bèn đến đó rồi nói giống như được Trưởng lão sai đến: ‘Xin hãy đưa tấm vải kia’. Tin lời vị ấy, (nếu) vải do người nam cư sĩ gửi thì người nữ cư sĩ (trong nhà) lấy đưa, hoặc vải do người nữ cư sĩ gửi thì người nam cư sĩ hoặc người nào khác lấy đưa, thì ngay khi (vải) được nhấc lên (để trao), vị (đệ tử) đó phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu những người hộ độ của Trưởng lão (nghĩ rằng) ‘chúng ta sẽ dâng cái này cho Trưởng lão’ rồi để dành tấm vải của chính họ. Khi đó, vị đệ tử nội trú của ngài muốn lấy trộm tấm vải đó, bèn đến đó rồi nói: ‘Quý vị hình như muốn dâng vải cho Trưởng lão, xin hãy đưa tấm vải đó (cho tôi mang đến ngài)’. Và họ tin lời vị ấy, (đáp rằng) ‘Bạch ngài, chúng tôi đã để dành (vải này với ý định) sau khi mời (Trưởng lão) dùng bữa sẽ dâng cúng, thôi thì (ngài) hãy nhận lấy’ rồi trao cho. Do được chủ nhân cho, nên không phạm tội Bất Cộng Trụ; nhưng vì đã nhận với tâm không trong sạch (ý định lừa dối), nên phạm tội Tác ác, và phải đền vật.

Bhikkhu bhikkhussa vatvā gāmaṃ gacchati, ‘‘itthannāmo mama vassāvāsikaṃ dassati, taṃ gahetvā ṭhapeyyāsī’’ti. ‘‘Sādhū’’ti so bhikkhu tena dinnaṃ mahagghasāṭakaṃ attanā laddhena appagghasāṭakena saddhiṃ ṭhapetvā tena āgatena attano mahagghasāṭakassa laddhabhāvaṃ ñatvā vā añatvā vā ‘‘dehi me vassāvāsika’’nti vutto ‘‘tava thūlasāṭako laddho, mayhaṃ pana sāṭako mahaggho, dvepi asukasmiṃ nāma okāse ṭhapitā, pavisitvā gaṇhāhī’’ti vadati. Tena pavisitvā thūlasāṭake gahite itarassa itaraṃ gaṇhato uddhāre pārājikaṃ. Athāpi tassa sāṭake attano nāmaṃ attano ca sāṭake tassa nāmaṃ likhitvā ‘‘gaccha nāmaṃ vācetvā gaṇhāhī’’ti vadati, tatrāpi eseva nayo. Yo pana attanā ca tena ca laddhasāṭake ekato ṭhapetvā taṃ evaṃ vadati – ‘‘tayā ca mayā ca laddhasāṭakā dvepi antogabbhe ṭhapitā, gaccha yaṃ icchasi, taṃ vicinitvā gaṇhāhī’’ti. So ca lajjāya āvāsikena laddhaṃ thūlasāṭakameva gaṇheyya, tatrāvāsikassa vicinitvā gahitāvasesaṃ itaraṃ gaṇhato anāpatti. Āgantuko bhikkhu āvāsikānaṃ cīvarakammaṃ karontānaṃ samīpe pattacīvaraṃ ṭhapetvā ‘‘ete saṅgopessantī’’ti maññamāno nhāyituṃ vā aññatra vā gacchati. Sace naṃ āvāsikā saṅgopenti, iccetaṃ kusalaṃ. No ce, naṭṭhe gīvā na hoti. Sacepi so ‘‘idaṃ, bhante, ṭhapethā’’ti vatvā gacchati, itare ca sakiccappasutattā na jānanti, eseva nayo. Athāpi te ‘‘idaṃ, bhante, ṭhapethā’’ti vuttā ‘‘mayaṃ byāvaṭā’’ti paṭikkhipanti, itaro ca ‘‘avassaṃ ṭhapessantī’’ti anādiyitvā gacchati, eseva nayo. Sace pana tena yācitā vā ayācitā vā ‘‘mayaṃ ṭhapessāma, tvaṃ gacchā’’ti vadanti; taṃ saṅgopitabbaṃ. No ce saṅgopenti, naṭṭhe gīvā. Kasmā? Sampaṭicchitattā.
Một Tỳ khưu bảo một Tỳ khưu khác rồi đi vào làng: ‘Người tên X sẽ đưa y an cư mùa mưa cho tôi, thầy hãy nhận rồi cất giữ giúp’. (Đáp) ‘Lành thay’, vị Tỳ khưu đó, sau khi cất tấm y quý giá mà vị kia được cho cùng với tấm y ít giá trị mà mình nhận được, khi vị kia trở về, dù biết hay không biết việc mình (cũng) đã nhận được tấm y quý giá, được (vị kia) bảo ‘Hãy đưa y an cư mùa mưa cho tôi’, bèn nói: ‘Y của thầy là tấm y thô đã được nhận, còn y của tôi thì quý giá; cả hai đều được cất ở chỗ kia, thầy hãy vào mà lấy’. Khi vị kia vào lấy tấm y thô, nếu vị này (Tỳ khưu được nhờ giữ) lấy tấm y kia (quý giá), thì ngay khi nhấc lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. Hoặc nếu (Tỳ khưu được nhờ giữ) viết tên mình trên y của vị kia và viết tên vị kia trên y của mình rồi nói: ‘Hãy đi đọc tên rồi lấy’, ở đó cũng theo phương pháp này. Còn người nào cất chung những tấm y mà mình và vị kia nhận được, rồi bảo vị kia như vầy: ‘Cả hai tấm y mà thầy và tôi nhận được đều được cất trong phòng trong, thầy hãy đi, muốn cái nào thì chọn rồi lấy’. Và nếu vị kia vì xấu hổ mà chỉ lấy tấm y thô mà vị Tỳ khưu trú xứ đã nhận, thì ở đó, vị Tỳ khưu trú xứ sau khi (vị kia) đã chọn và lấy, nếu lấy tấm y còn lại (là y quý giá của mình), không phạm tội. Tỳ khưu khách đến gần các vị Tỳ khưu trú xứ đang làm công việc về y, đặt y bát xuống rồi (nghĩ rằng) ‘các vị này sẽ cất giữ giúp’ mà đi tắm hoặc đi nơi khác. Nếu các vị Tỳ khưu trú xứ cất giữ giúp, điều đó là tốt. Nếu không, (nếu y bát) bị mất, (họ) không phải chịu trách nhiệm (đền). Ngay cả nếu vị ấy nói ‘Bạch các ngài, xin hãy cất giữ cái này’ rồi đi, và những vị kia do đang bận rộn việc riêng mà không hay biết, cũng theo phương pháp này. Hoặc nếu họ được bảo ‘Bạch các ngài, xin hãy cất giữ cái này’ mà từ chối rằng ‘chúng tôi đang bận’, và vị kia không để ý (lời từ chối) mà (vẫn nghĩ) ‘chắc chắn họ sẽ cất giữ’ rồi đi, cũng theo phương pháp này. Nhưng nếu, dù được vị ấy yêu cầu hay không yêu cầu, họ nói: ‘Chúng tôi sẽ cất giữ, thầy cứ đi’; thì (y bát đó) phải được cất giữ. Nếu họ không cất giữ, (khi y bát) bị mất, (họ) phải chịu trách nhiệm (đền). Tại sao? Vì đã nhận lời (cất giữ).

Yo bhikkhu bhaṇḍāgāriko hutvā paccūsasamaye eva bhikkhūnaṃ pattacīvarāni heṭṭhāpāsādaṃ oropetvā dvāraṃ apidahitvā tesampi anārocetvāva dūre bhikkhācāraṃ gacchati; tāni ce corā haranti, tasseva gīvā. Yo pana bhikkhūhi ‘‘oropetha, bhante, pattacīvarāni; kālo salākaggahaṇassā’’ti vutto ‘‘samāgatatthā’’ti pucchitvā ‘‘āma, samāgatamhā’’ti vutte pattacīvarāni nīharitvā nikkhipitvā bhaṇḍāgāradvāraṃ bandhitvā ‘‘tumhe pattacīvarāni gahetvā heṭṭhāpāsādadvāraṃ paṭijaggitvā gaccheyyāthā’’ti vatvā gacchati. Tatra ceko alasajātiko bhikkhu bhikkhūsu gatesu pacchā akkhīni puñchanto uṭṭhahitvā udakaṭṭhānaṃ mukhadhovanatthaṃ gacchati, taṃ khaṇaṃ disvā corā tassa pattacīvaraṃ haranti, suhaṭaṃ. Bhaṇḍāgārikassa gīvā na hoti.
Tỳ khưu nào làm người giữ kho, vào lúc rạng đông mang y bát của chư Tỳ khưu xuống lầu dưới, rồi không đóng cửa, cũng không báo cho họ biết mà đi khất thực ở xa; nếu trộm cướp lấy mất (y bát đó), chính vị ấy phải chịu trách nhiệm (đền). Còn người nào được chư Tỳ khưu bảo: ‘Bạch ngài, xin hãy mang y bát xuống; đã đến giờ nhận thẻ (thực phẩm)’, sau khi hỏi ‘Các vị đã tập hợp chưa?’ và được đáp ‘Thưa vâng, chúng tôi đã tập hợp’, bèn mang y bát ra đặt xuống, đóng cửa kho rồi nói: ‘Các vị hãy lấy y bát rồi coi sóc cửa lầu dưới mà đi’ rồi (mới) đi. Ở đó, nếu một Tỳ khưu biếng nhác nào đó, sau khi các Tỳ khưu khác đã đi, mới dụi mắt đứng dậy rồi đi đến chỗ nước để rửa mặt, trộm cướp thấy khoảnh khắc đó liền lấy mất y bát của vị ấy, thì (y bát đó) bị lấy mất một cách dễ dàng. Người giữ kho không phải chịu trách nhiệm (đền).

Sacepi koci bhaṇḍāgārikassa anārocetvāva bhaṇḍāgāre attano parikkhāraṃ ṭhapeti, tasmimpi naṭṭhe bhaṇḍāgārikassa gīvā na hoti. Sace pana bhaṇḍāgāriko taṃ disvā ‘‘aṭṭhāne ṭhapita’’nti gahetvā ṭhapeti, naṭṭhe tassa gīvā. Sacepi ṭhapitabhikkhunā ‘‘mayā, bhante, īdiso nāma parikkhāro ṭhapito, upadhāreyyāthā’’ti vutto ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchati, dunnikkhittaṃ vā maññamāno aññasmiṃ ṭhāne ṭhapeti, tasseva gīvā. ‘‘Nāhaṃ jānāmī’’ti paṭikkhipantassa pana natthi gīvā. Yopi tassa passantasseva ṭhapeti, bhaṇḍāgārikañca na sampaṭicchāpeti , naṭṭhaṃ sunaṭṭhameva. Sace taṃ bhaṇḍāgāriko aññatra ṭhapeti, naṭṭhe gīvā. Sace bhaṇḍāgāraṃ suguttaṃ, sabbo saṅghassa ca cetiyassa ca parikkhāro tattheva ṭhapīyati, bhaṇḍāgāriko ca bālo abyatto dvāraṃ vivaritvā dhammakathaṃ vā sotuṃ, aññaṃ vā kiñci kātuṃ katthaci gacchati, taṃ khaṇaṃ disvā yattakaṃ corā haranti, sabbaṃ tassa gīvā. Bhaṇḍāgārato nikkhamitvā bahi caṅkamantassa vā dvāraṃ vivaritvā sarīraṃ utuṃ gāhāpentassa vā tattheva samaṇadhammānuyogena nisinnassa vā tattheva nisīditvā kenaci kammena byāvaṭassa vā uccārapassāvapīḷitassāpi tato tattheva upacāre vijjamāne bahi gacchato vā aññena vā kenaci ākārena pamattassa sato dvāraṃ vivaritvā vā vivaṭameva pavisitvā vā sandhiṃ chinditvā vā yattakaṃ tassa pamādapaccayā corā haranti, sabbaṃ tasseva gīvā. Uṇhasamaye pana vātapānaṃ vivaritvā nipajjituṃ vaṭṭatīti vadanti. Uccārapīḷitassa pana tasmiṃ upacāre asati aññattha gacchantassa gilānapakkhe ṭhitattā avisayo; tasmā gīvā na hoti.
Ngay cả nếu có ai đó không báo cho người giữ kho mà tự ý để vật dụng của mình trong kho, nếu vật đó bị mất, người giữ kho không phải chịu trách nhiệm (đền). Nhưng nếu người giữ kho thấy vật đó rồi (nghĩ) ‘để không đúng chỗ’ bèn lấy cất đi (chỗ khác), (nếu) bị mất, vị ấy phải chịu trách nhiệm. Ngay cả nếu được vị Tỳ khưu để đồ nói: ‘Bạch ngài, tôi đã để vật dụng như thế này, xin ngài để ý giúp’, (người giữ kho đáp) ‘Lành thay’ rồi nhận lời, hoặc cho rằng (vật đó) để không cẩn thận rồi đem cất ở chỗ khác, chính vị ấy phải chịu trách nhiệm. Còn người từ chối (trách nhiệm) rằng ‘Tôi không biết’, thì không phải chịu trách nhiệm. Người nào để đồ ngay cả khi người giữ kho đang thấy, mà không giao phó (trách nhiệm) cho người giữ kho, (nếu) bị mất, thì mất hẳn. Nếu người giữ kho đem cất vật đó ở chỗ khác, (nếu) bị mất, (vị ấy) phải chịu trách nhiệm. Nếu kho được canh giữ cẩn thận, tất cả vật dụng của Tăng chúng và của bảo tháp đều được cất giữ ở đó, nhưng người giữ kho lại là người ngu dốt, không khéo léo, mở cửa rồi đi đâu đó để nghe pháp thoại hoặc làm việc gì khác, trộm cướp thấy khoảnh khắc đó lấy đi bao nhiêu, tất cả vị ấy đều phải chịu trách nhiệm. Người đi ra khỏi kho rồi đi kinh hành bên ngoài, hoặc mở cửa để cho thân thể được điều hòa thời tiết, hoặc ngồi ngay tại đó chuyên tâm thực hành Sa-môn pháp, hoặc ngồi ngay tại đó bận rộn việc gì đó, hoặc ngay cả khi bị mắc đại tiểu tiện mà vẫn có chỗ đại tiểu tiện ngay trong vùng tiếp cận đó lại đi ra ngoài, hoặc do dể duôi bằng bất kỳ cách nào khác, mà (để) cửa mở hoặc (trộm) vào cửa đang mở sẵn, hoặc phá khóa, trộm cướp lấy đi bao nhiêu do sự dể duôi của vị ấy, tất cả vị ấy đều phải chịu trách nhiệm. Nhưng vào mùa nóng, người ta nói rằng được phép mở cửa sổ rồi nằm nghỉ. Còn người bị mắc đại tiện, nếu không có (chỗ đại tiện) trong vùng tiếp cận đó mà phải đi nơi khác, vì được xếp vào trường hợp người bệnh, nên không thuộc phạm vi (trách nhiệm); do đó, không phải chịu trách nhiệm (đền).

Yo pana anto uṇhapīḷito dvāraṃ suguttaṃ katvā bahi nikkhamati, corā ca naṃ gahetvā ‘‘dvāraṃ vivarā’’ti vadanti, yāva tatiyaṃ na vivaritabbaṃ. Yadi pana te corā ‘‘sace na vivarasi, tañca māressāma, dvārañca bhinditvā parikkhāraṃ harissāmā’’ti pharasuādīni ukkhipanti. ‘‘Mayi ca mate saṅghassa ca senāsane vinaṭṭhe guṇo natthī’’ti vivarituṃ vaṭṭati. Idhāpi avisayattā gīvā natthīti vadanti. Sace koci āgantuko kuñcikaṃ vā deti, dvāraṃ vā vivarati, yattakaṃ corā haranti, sabbaṃ tassa gīvā. Saṅghena bhaṇḍāgāraguttatthāya sūciyantakañca kuñcikamuddikā ca yojetvā dinnā hoti, bhaṇḍāgāriko ghaṭikamattaṃ datvā nipajjati, corā vivaritvā parikkhāraṃ haranti, tasseva gīvā. Sūciyantakañca kuñcikamuddikañca yojetvā nipannaṃ panetaṃ sace corā āgantvā ‘‘vivarā’’ti vadanti, tattha purimanayeneva paṭipajjitabbaṃ. Evaṃ guttaṃ katvā nipanne pana sace bhittiṃ vā chadanaṃ vā bhinditvā umaṅgena vā pavisitvā haranti, na tassa gīvā. Sace bhaṇḍāgāre aññepi therā vasanti, vivaṭe dvāre attano attano parikkhāraṃ gahetvā gacchanti, bhaṇḍāgāriko tesu gatesu dvāraṃ na jaggati, sace tattha kiñci avaharīyati, bhaṇḍāgārikassa issaratāya bhaṇḍāgārikasseva gīvā. Therehi pana sahāyehi bhavitabbaṃ. Ayaṃ tattha sāmīci.
Còn người nào ở bên trong (kho) bị nóng bức, sau khi đã đóng cửa cẩn thận rồi đi ra ngoài, và trộm cướp bắt được vị ấy rồi bảo ‘Hãy mở cửa’, thì không được mở cho đến lần thứ ba (yêu cầu). Nhưng nếu những kẻ trộm đó (đe dọa) ‘Nếu không mở, chúng ta sẽ giết cả ngươi, rồi phá cửa lấy vật dụng’ và giơ rìu búa v.v… lên. (Nghĩ rằng) ‘Nếu ta chết và trú xứ của Tăng chúng cũng bị phá hoại thì không có lợi ích gì’, được phép mở (cửa). Ở đây, người ta nói rằng cũng vì không thuộc phạm vi (trách nhiệm do bị ép buộc), nên không phải chịu trách nhiệm (đền). Nếu Tỳ khưu khách nào đó đưa chìa khóa hoặc mở cửa, trộm cướp lấy đi bao nhiêu, tất cả vị ấy đều phải chịu trách nhiệm. (Nếu) Tăng chúng đã giao chốt khóa và vòng chìa khóa đã được làm (cẩn thận) để canh giữ kho, (nhưng) người giữ kho chỉ cài chốt sơ sài rồi đi nằm, trộm cướp mở (cửa) rồi lấy vật dụng, chính vị ấy phải chịu trách nhiệm. Còn người đã cài chốt khóa và vòng chìa khóa (cẩn thận) rồi đi nằm, nếu trộm cướp đến bảo ‘Hãy mở cửa’, thì ở đó phải thực hành theo phương pháp đã nói trước (trường hợp bị ép buộc). Nhưng sau khi đã canh giữ cẩn thận rồi đi nằm, nếu (trộm) phá tường hoặc mái nhà, hoặc đào đường hầm vào rồi lấy (vật dụng), vị ấy không phải chịu trách nhiệm. Nếu trong kho cũng có các vị Trưởng lão khác ở, khi cửa mở, họ lấy vật dụng của riêng mình rồi đi, (nếu) người giữ kho sau khi họ đi mà không coi sóc cửa, nếu có vật gì bị lấy trộm ở đó, do quyền hạn của người giữ kho, chính người giữ kho phải chịu trách nhiệm. Nhưng các vị Trưởng lão (kia) phải là bạn đồng hành (cùng có trách nhiệm nhắc nhở). Đây là điều hợp lý ở đó.

Yadi bhaṇḍāgāriko ‘‘tumhe bahi ṭhatvāva tumhākaṃ parikkhāraṃ gaṇhatha, mā pavisitthā’’ti vadati, tesañca eko lolamahāthero sāmaṇerehi ceva upaṭṭhākehi ca saddhiṃ bhaṇḍāgāraṃ pavisitvā nisīdati ceva nipajjati ca, yattakaṃ bhaṇḍaṃ nassati, sabbaṃ tassa gīvā. Bhaṇḍāgārikena pana avasesattherehi ca sahāyehi bhavitabbaṃ. Atha bhaṇḍāgārikova lolasāmaṇere ca upaṭṭhāke ca gahetvā bhaṇḍāgāre nisīdati ceva nipajjati ca, yaṃ tattha nassati, sabbaṃ tasseva gīvā. Tasmā bhaṇḍāgārikeneva tattha vasitabbaṃ. Avasesehi appeva rukkhamūle vasitabbaṃ, na ca bhaṇḍāgāreti.
Nếu người giữ kho nói: ‘Các vị hãy đứng bên ngoài mà lấy vật dụng của mình, đừng vào trong’, và trong số họ có một vị Đại Trưởng lão tham lam cùng với các Sa-di và thị giả vào trong kho rồi ngồi và cả nằm nữa, bao nhiêu vật dụng bị mất, tất cả vị (Đại Trưởng lão) đó phải chịu trách nhiệm. Nhưng người giữ kho và các vị Trưởng lão còn lại phải là bạn đồng hành (cùng nhắc nhở). Hoặc nếu chính người giữ kho dẫn các Sa-di và thị giả tham lam vào trong kho rồi ngồi và cả nằm nữa, vật gì bị mất ở đó, tất cả chính vị ấy phải chịu trách nhiệm. Do đó, chỉ người giữ kho mới được ở đó. Những vị còn lại, có lẽ nên ở dưới gốc cây, chứ không phải trong kho.

Ye pana attano attano sabhāgabhikkhūnaṃ vasanagabbhesu parikkhāraṃ ṭhapenti, parikkhāre naṭṭhe yehi ṭhapito, tesaṃyeva gīvā. Itarehi pana sahāyehi bhavitabbaṃ. Yadi pana saṅgho bhaṇḍāgārikassa vihāreyeva yāgubhattaṃ dāpeti, so ca bhikkhācāratthāya gāmaṃ gacchati, naṭṭhaṃ tasseva gīvā. Bhikkhācāraṃ pavisantehi atirekacīvararakkhaṇatthāya ṭhapitavihāravārikassāpi yāgubhattaṃ vā nivāpaṃ vā labhamānasseva bhikkhācāraṃ gacchato yaṃ tattha nassati, sabbaṃ gīvā. Na kevalañca ettakameva, bhaṇḍāgārikassa viya yaṃ tassa pamādappaccayā nassati, sabbaṃ gīvā.
Còn những ai để vật dụng trong phòng ở của các Tỳ khưu đồng bạn của mình, nếu vật dụng bị mất, chính những người đã để (vật dụng đó) phải chịu trách nhiệm (đền). Nhưng những vị khác phải là bạn đồng hành (cùng nhắc nhở, lưu ý). Còn nếu Tăng chúng cấp cháo và cơm cho người giữ kho ngay tại tịnh xá, mà vị ấy lại đi vào làng để khất thực, (nếu có gì) bị mất, chính vị ấy phải chịu trách nhiệm. Ngay cả đối với vị Tỳ khưu coi sóc tịnh xá được chỉ định để giữ gìn y dư của những vị đi khất thực, nếu vị ấy đang nhận cháo hoặc khẩu phần (tại tịnh xá) mà vẫn đi khất thực, bất cứ thứ gì bị mất ở đó, tất cả vị ấy đều phải chịu trách nhiệm. Không chỉ chừng đó, mà giống như người giữ kho, bất cứ thứ gì bị mất do sự dể duôi của vị ấy, tất cả vị ấy đều phải chịu trách nhiệm.

Sace vihāro mahā hoti, aññaṃ padesaṃ rakkhituṃ gacchantassa aññasmiṃ padese nikkhittaṃ haranti, avisayattā gīvā na hoti. Īdise pana vihāre vemajjhe sabbesaṃ osaraṇaṭṭhāne parikkhāre ṭhapetvā nisīditabbaṃ. Vihāravārikā vā dve tayo ṭhapetabbā. Sace tesaṃ appamattānaṃ ito cito ca rakkhataṃyeva kiñci nassati, gīvā na hoti. Vihāravārike bandhitvā haritabhaṇḍampi corānaṃ paṭipathaṃ gatesu aññena maggena haritabhaṇḍampi na tesaṃ gīvā. Sace vihāravārikānaṃ vihāre dātabbaṃ yāgubhattaṃ vā nivāpo vā na hoti, tehi pattabbalābhato atirekā dve tisso yāgusalākā, tesaṃ pahonakabhattasalākā ca ṭhapetuṃ vaṭṭati. Nibaddhaṃ katvā pana na ṭhapetabbā, manussā hi vippaṭisārino honti, ‘‘vihāravārikāyeva amhākaṃ bhattaṃ bhuñjantī’’ti. Tasmā parivattetvā ṭhapetabbā. Sace tesaṃ sabhāgā salākabhattāni āharitvā denti, iccetaṃ kusalaṃ; no ce denti, vāraṃ gāhāpetvā nīharāpetabbāni. Sace vihāravāriko dve tisso yāgusalākā, cattāri pañca salākabhattāni ca labhamānova bhikkhācāraṃ gacchati, bhaṇḍāgārikassa viya sabbaṃ naṭṭhaṃ gīvā hoti. Sace saṅghassa vihārapālānaṃ dātabbaṃ bhattaṃ vā nivāpo vā natthi, bhikkhū vihāravāraṃ gahetvā attano attano nissitake jaggenti, sampattavāraṃ aggahetuṃ na labhanti, yathā aññe bhikkhū karonti, tatheva kātabbaṃ. Bhikkhūhi pana asahāyakassa vā attadutiyassa vā yassa sabhāgo bhikkhu bhattaṃ ānetvā dātā natthi, evarūpassa vāro na pāpetabbo.
Nếu tịnh xá lớn, người đi canh giữ một khu vực khác, (nếu) vật dụng đặt ở khu vực khác (ngoài phạm vi canh giữ của mình) bị lấy mất, do không thuộc phạm vi (trách nhiệm), không phải chịu trách nhiệm. Nhưng trong một tịnh xá như vậy, nên đặt vật dụng ở giữa, tại nơi tụ hội của tất cả mọi người, rồi (mới) ngồi (làm việc khác). Hoặc nên chỉ định hai hoặc ba vị Tỳ khưu coi sóc tịnh xá. Nếu họ không dể duôi mà vẫn canh giữ đây đó, (nhưng) có vật gì đó bị mất, (họ) không phải chịu trách nhiệm. Ngay cả vật bị (trộm) lấy đi sau khi đã trói người coi sóc tịnh xá, hoặc vật bị lấy đi bằng con đường khác khi (người coi sóc) đi chặn đường trộm, cũng không phải là trách nhiệm của họ. Nếu trong tịnh xá không có cháo, cơm hoặc khẩu phần để cấp cho những người coi sóc tịnh xá, thì được phép để dành cho họ thêm hai hoặc ba thẻ cháo, và thẻ cơm đủ dùng, từ phần lợi phẩm đáng được nhận (của Tăng chúng). Nhưng không nên để dành một cách cố định (cho riêng họ), vì người ta sẽ bất mãn (nghĩ rằng): ‘Chỉ những người coi sóc tịnh xá mới được dùng cơm của chúng ta’. Do đó, nên để dành một cách luân phiên. Nếu các vị đồng bạn của họ mang phần cơm thẻ đến cho họ, điều đó là tốt; nếu không đưa, thì phải cho (họ) nhận theo phiên rồi mang đến. Nếu người coi sóc tịnh xá, trong khi đang nhận hai ba thẻ cháo và bốn năm phần cơm thẻ, mà vẫn đi khất thực, thì giống như người giữ kho, tất cả những gì bị mất đều là trách nhiệm của vị ấy. Nếu Tăng chúng không có cơm hoặc khẩu phần để cấp cho những người giữ tịnh xá, thì các Tỳ khưu phải nhận phiên coi sóc tịnh xá rồi tự mình coi sóc những người phụ thuộc (như Sa-di) của mình; khi đến phiên thì không được từ chối, phải làm như các Tỳ khưu khác vẫn làm. Nhưng chư Tỳ khưu không nên giao phiên (coi sóc) cho người không có bạn đồng hành, hoặc người chỉ có một mình, hoặc người không có Tỳ khưu đồng bạn mang cơm đến cho.

Yampi pākavattatthāya vihāre ṭhapenti, taṃ gahetvā upajīvantena ṭhātabbaṃ. Yo taṃ na upajīvati , so vāraṃ na gāhāpetabbo. Phalāphalatthāyapi vihāre bhikkhuṃ ṭhapenti, jaggitvā gopetvā phalavārena bhājetvā khādanti. Yo tāni khādati, tena ṭhātabbaṃ. Anupajīvanto na gāhāpetabbo. Senāsanamañcapīṭhapaccattharaṇarakkhaṇatthāyapi ṭhapenti, āvāse vasantena ṭhātabbaṃ. Abbhokāsiko pana rukkhamūliko vā na gāhāpetabbo.
Ngay cả (Tỳ khưu) nào được chỉ định ở lại tịnh xá để trông coi việc nấu nướng, vị ấy phải nhận lấy (trách nhiệm đó) rồi sống dựa vào (phần vật thực được cấp). Người nào không sống dựa vào (phần vật thực đó), không nên giao phiên (trông coi) cho người đó. Cũng (như vậy), (Tăng chúng) chỉ định Tỳ khưu ở lại tịnh xá để (trông coi) cây ăn trái, (vị ấy) phải coi sóc, canh giữ, rồi chia theo phiên trái cây mà dùng. Người nào dùng những (trái cây) đó, vị ấy phải ở lại (trông coi). Người không sống dựa vào (trái cây đó) thì không nên giao phiên (trông coi). Cũng (như vậy), (Tăng chúng) chỉ định (Tỳ khưu) để giữ gìn giường, ghế, tọa cụ của trú xứ; người ở trong trú xứ phải (nhận phiên) ở lại (trông coi). Còn người ở ngoài trời hoặc người ở dưới gốc cây thì không nên giao phiên (trông coi).

Eko navako hoti, bahussuto pana bahūnaṃ dhammaṃ vāceti, paripucchaṃ deti, pāḷiṃ vaṇṇeti, dhammakathaṃ katheti, saṅghassa bhāraṃ nittharati, ayaṃ lābhaṃ paribhuñjantopi āvāse vasantopi vāraṃ na gāhetabbo. ‘‘Purisaviseso nāma ñātabbo’’ti vadanti.
(Nếu) có một Tỳ khưu mới tu, nhưng là bậc đa văn, đọc tụng Chánh pháp cho nhiều người, giải đáp thắc mắc, giải thích Luật Pāḷi, thuyết pháp, gánh vác công việc nặng nhọc của Tăng chúng, vị này dù có hưởng dụng lợi phẩm và ở trong trú xứ cũng không nên bị giao phiên (trông coi). Người ta nói: ‘Cần phải biết đến người đặc biệt‘.

Uposathāgārapaṭimāgharajaggakassa pana diguṇaṃ yāgubhattaṃ devasikaṃ taṇḍulanāḷi saṃvacchare ticīvaraṃ, dasavīsagghanakaṃ kappiyabhaṇḍañca dātabbaṃ. Sace pana tassa taṃ labhamānasseva pamādena tattha kiñci nassati, sabbaṃ gīvā. Bandhitvā balakkārena acchinnaṃ pana na gīvā. Tattha cetiyassa vā saṅghassa vā santakena cetiyassa santakaṃ rakkhāpetuṃ vaṭṭati. Cetiyassa santakena saṅghassa santakaṃ rakkhāpetuṃ na vaṭṭati. Yaṃ pana cetiyassa santakena saddhiṃ saṅghassa santakaṃ ṭhapitaṃ hoti, taṃ cetiyasantake rakkhāpite rakkhitameva hotīti evaṃ vaṭṭati. Pakkhavārena uposathāgārādīni rakkhatopi pamādavasena naṭṭhaṃ gīvāyevāti.
Còn đối với người trông coi nhà Bố-tát và nhà thờ tượng, phải được cấp gấp đôi phần cháo cơm, mỗi ngày một ống gạo, mỗi năm ba y, và vật dụng hợp lệ trị giá mười hoặc hai mươi (đồng). Nhưng nếu vị ấy, trong khi đang nhận những thứ đó, mà do dể duôi làm mất mát vật gì ở đó, tất cả vị ấy đều phải chịu trách nhiệm. Còn (vật) bị (trộm) trói (người giữ) rồi dùng vũ lực chiếm đoạt thì không phải chịu trách nhiệm. Ở đó, được phép dùng tài sản của bảo tháp hoặc của Tăng chúng để cho (người) canh giữ tài sản của bảo tháp. Không được phép dùng tài sản của bảo tháp để cho (người) canh giữ tài sản của Tăng chúng. Còn vật nào của Tăng chúng được để chung với tài sản của bảo tháp, thì khi tài sản của bảo tháp được canh giữ, (vật của Tăng chúng đó) cũng được xem là đã được canh giữ; như vậy thì được phép. Ngay cả người canh giữ nhà Bố-tát v.v… theo phiên nửa tháng, nếu làm mất mát do dể duôi, cũng vẫn phải chịu trách nhiệm.

Upanidhikathā niṭṭhitā.

Luận về Vật Ký Gửi đến đây là hết.

Suṅkaghātakathā

Luận về Trạm Thuế (và Trốn Thuế)

113. Suṅkaṃ tato hanantīti suṅkaghātaṃ; suṅkaṭṭhānassetaṃ adhivacanaṃ. Tañhi yasmā tato suṅkārahaṃ bhaṇḍaṃ suṅkaṃ adatvā nīharantā rañño suṅkaṃ hananti vināsenti, tasmā suṅkaghātanti vuttaṃ. Tatra pavisitvāti tatra pabbatakhaṇḍādīsu raññā paricchedaṃ katvā ṭhapite suṅkaṭṭhāne pavisitvā. Rājaggaṃ bhaṇḍanti rājārahaṃ bhaṇḍaṃ; yato rañño pañcamāsakaṃ vā atirekapañcamāsakaṃ vā agghanakaṃ suṅkaṃ dātabbaṃ hoti, taṃ bhaṇḍanti attho. Rājakantipi pāṭho, ayamevattho. Theyyacittoti ‘‘ito rañño suṅkaṃ na dassāmī’’ti theyyacittaṃ uppādetvā taṃ bhaṇḍaṃ āmasati, dukkaṭaṃ. Ṭhapitaṭṭhānato gahetvā thavikāya vā pakkhipati, paṭicchannaṭṭhāne vā ūrunā saddhiṃ bandhati, thullaccayaṃ. Suṅkaṭṭhānena paricchinnattā ṭhānācāvanaṃ na hoti. Suṅkaṭṭhānaparicchedaṃ dutiyaṃ pādaṃ atikkāmeti, pārājikaṃ.
113. (Nơi) người ta từ đó mà đánh mất thuế, (nên gọi là) ‘trạm thuế‘ (suṅkaghātaṃ); đây là tên gọi cho địa điểm thu thuế. Vì từ nơi đó, những người mang hàng hóa phải đóng thuế đi qua mà không nộp thuế, làm thất thoát, làm mất đi tiền thuế của vua, do đó được gọi là ‘trạm thuế’. ‘Sau khi vào đó‘ là sau khi vào địa điểm thu thuế đã được vua quy định và thiết lập ở các khe núi v.v… ‘Hàng hóa chịu thuế của vua‘ là hàng hóa phải chịu thuế cho vua; nghĩa là hàng hóa nào phải nộp cho vua tiền thuế trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka. Cũng có bản đọc là ‘rājakanti’ (thuộc về vua), ý nghĩa cũng như vậy. ‘Với tâm trộm cắp‘ là khởi lên tâm trộm cắp (nghĩ rằng) ‘từ đây ta sẽ không nộp thuế cho vua’ rồi chạm đến hàng hóa đó, phạm tội Tác ác. (Nếu) lấy (hàng) từ chỗ đã đặt rồi bỏ vào túi, hoặc buộc vào đùi ở chỗ kín đáo, phạm tội Trọng Tội. Do đã được phân định bởi trạm thuế, nên (đây) không phải là (trường hợp) làm di chuyển khỏi chỗ (theo nghĩa thông thường). (Khi) bước bước chân thứ hai qua khỏi ranh giới của trạm thuế, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Bahisuṅkaghātaṃ pātetīti rājapurisānaṃ aññavihitabhāvaṃ passitvā anto ṭhitova bahi patanatthāya khipati. Tañce avassaṃ patanakaṃ, hatthato muttamatte pārājikaṃ. Tañce rukkhe vā khāṇumhi vā paṭihataṃ balavavātavegukkhittaṃ vā hutvā puna antoyeva patati, rakkhati. Puna gaṇhitvā khipati, pubbe vuttanayeneva pārājikaṃ. Bhūmiyaṃ patitvā vaṭṭantaṃ puna anto pavisati, pārājikameva. Kurundīsaṅkhepaṭṭhakathāsu pana ‘‘sace bahi patitaṃ ṭhatvā vaṭṭantaṃ pavisati, pārājikaṃ. Sace atiṭṭhamānaṃyeva vaṭṭitvā pavisati rakkhatī’’ti vuttaṃ.
Làm cho (hàng) rơi ra ngoài trạm thuế‘: (nghĩa là) thấy các quan吏 đang xao lãng việc khác, (Tỳ khưu) đang đứng bên trong (trạm) liền ném (hàng) để cho rơi ra ngoài. Nếu (hàng đó) chắc chắn sẽ rơi (ra ngoài), thì ngay khi rời khỏi tay, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu (hàng đó) va vào cây hoặc cọc, hoặc bị gió mạnh thổi bay rồi lại rơi vào bên trong (trạm), thì (hàng đó) vẫn còn được bảo vệ (chưa thành tội Bất Cộng Trụ). (Nếu) lấy lại rồi ném nữa, phạm tội Bất Cộng Trụ theo phương pháp đã nói trước. (Nếu hàng) rơi xuống đất rồi lăn vào lại bên trong (trạm), vẫn phạm tội Bất Cộng Trụ (nếu ý định ban đầu là ném ra ngoài). Còn trong các Chú giải như Chú giải Kurundi và Chú giải Tóm Tắt thì nói: ‘Nếu (hàng) đã rơi ra ngoài rồi dừng lại, sau đó lăn vào lại bên trong, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu nó lăn vào lại mà chưa dừng (ở bên ngoài), thì (hàng đó) vẫn được bảo vệ’.

Anto ṭhatvā hatthena vā pādena vā yaṭṭhiyā vā vaṭṭeti, aññena vā vaṭṭāpeti, sace aṭṭhatvā vaṭṭamānaṃ gataṃ, pārājikaṃ. Anto ṭhatvā bahi gacchantaṃ rakkhati, ‘‘vaṭṭitvā gamissatī’’ti vā ‘‘añño naṃ vaṭṭessatī’’ti vā anto ṭhapitaṃ pacchā sayaṃ vā vaṭṭamānaṃ aññena vā vaṭṭitaṃ bahi gacchati, rakkhatiyeva. Suddhacittena ṭhapite pana tathā gacchante vattabbameva natthi. Dve puṭake ekābaddhe katvā suṅkaṭṭhānasīmantare ṭhapeti, kiñcāpi bahipuṭake suṅkaṃ pādaṃ agghati, tena saddhiṃ ekābaddhatāya pana anto puṭako rakkhati. Sace pana parivattetvā abbhantarimaṃ bahi ṭhapeti, pārājikaṃ. Kājepi ekabaddhaṃ katvā ṭhapite eseva nayo. Sace pana abandhitvā kājakoṭiyaṃ ṭhapitamattameva hoti, pārājikaṃ.
(Tỳ khưu) đứng bên trong rồi dùng tay, hoặc chân, hoặc gậy mà lăn (hàng ra ngoài), hoặc nhờ người khác lăn; nếu (hàng) lăn đi mà không dừng lại (bên trong), phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu Tỳ khưu) đứng bên trong mà canh giữ (hàng) đang đi ra ngoài, hoặc (hàng) được đặt bên trong với ý nghĩ ‘nó sẽ lăn đi’ hay ‘người khác sẽ lăn nó đi’, sau đó (hàng) tự lăn hoặc do người khác lăn mà đi ra ngoài, thì (hàng đó) vẫn còn được bảo vệ (chưa thành tội Bất Cộng Trụ cho Tỳ khưu canh giữ). Còn nếu (hàng) được đặt (bên trong) với tâm trong sạch, rồi (sau đó) nó đi ra ngoài như vậy, thì không có gì để nói (Tỳ khưu không phạm tội). (Nếu) buộc hai gói hàng dính liền nhau rồi đặt ở ranh giới trạm thuế (một gói trong, một gói ngoài), dù gói hàng bên ngoài có thuế trị giá một pāda, nhưng do dính liền với gói hàng bên trong, gói hàng bên trong vẫn (được xem là) bảo vệ (gói hàng bên ngoài khỏi bị trộm ngay). Nhưng nếu xoay chuyển rồi đặt gói hàng (trước đó) bên trong ra bên ngoài, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với (hàng hóa) trên đòn gánh, nếu buộc dính liền nhau rồi đặt (một đầu trong, một đầu ngoài), cũng theo phương pháp này. Nhưng nếu không buộc (dính liền) mà chỉ đặt (một phần hàng) ở đầu đòn gánh (cho thò ra ngoài), phạm tội Bất Cộng Trụ.

Gacchante yāne vā assapiṭṭhiādīsu vā ṭhapeti ‘‘bahi nīharissatī’’ti nīhaṭepi avahāro natthi, bhaṇḍadeyyampi na hoti. Kasmā? ‘‘Atra paviṭṭhassa suṅkaṃ gaṇhantū’’ti vuttattā idañca suṅkaṭṭhānassa bahi ṭhitaṃ, na ca tena nītaṃ, tasmā neva bhaṇḍadeyyaṃ na pārājikaṃ.
(Nếu Tỳ khưu) đặt (hàng) lên xe đang chạy, hoặc trên lưng ngựa v.v… (nghĩ rằng) ‘(xe/ngựa) sẽ mang nó ra ngoài’; ngay cả khi (hàng) được mang ra ngoài (theo cách đó), cũng không có sự chiếm đoạt, cũng không phải đền vật. Tại sao? Vì đã có quy định ‘Hãy thu thuế của người vào đây (trạm thuế)’, và (trong trường hợp này) trạm thuế này lại ở bên ngoài (nơi hàng được đặt lên xe), và (hàng) cũng không phải do vị ấy (trực tiếp) mang đi; do đó, không phải đền vật, cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ.

Ṭhitayānādīsu ṭhapite vinā tassa payogaṃ gatesu theyyacittepi sati nevatthi avahāro. Yadi pana ṭhapetvā yānādīni pājento atikkāmeti , hatthisuttādīsu vā kataparicayattā purato ṭhatvā ‘‘ehi, re’’ti pakkosati, sīmātikkame pārājikaṃ. Eḷakalomasikkhāpade imasmiṃ ṭhāne aññaṃ harāpeti, anāpatti, idha pārājikaṃ. Tatra aññassa yāne vā bhaṇḍe vā ajānantassa pakkhipitvā tiyojanaṃ atikkāmeti, nissaggiyāni hontīti pācittiyaṃ. Idha anāpatti.
(Nếu hàng) được đặt trên xe đang đứng yên v.v…, rồi (xe đó) tự đi mà không có hành động nào của vị ấy, thì dù có tâm trộm cắp cũng không có sự chiếm đoạt. Nhưng nếu sau khi đặt (hàng lên), (Tỳ khưu) điều khiển xe v.v… cho vượt qua (ranh giới), hoặc đối với voi, dây cương v.v… do đã quen thuộc, (Tỳ khưu) đứng phía trước gọi ‘Lại đây, này!’, khi (xe/voi) vượt qua ranh giới, phạm tội Bất Cộng Trụ. Trong học giới về lông cừu (Eḷakaloma), ở trường hợp này (đặt hàng lên xe của người khác để mang đi), nếu nhờ người khác mang đi, không phạm tội; ở đây (học giới về trốn thuế) thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Ở đó (học giới Eḷakaloma), (nếu) đặt (vật của mình) lên xe hoặc hàng hóa của người khác mà người đó không biết, rồi (xe/hàng đó) đi qua ba do tuần, (vật đó) trở thành vật phải xả bỏ, (phạm tội) Ưng Đối Trị. Ở đây (học giới về trốn thuế, nếu làm theo cách đó với hàng của mình để trốn thuế), không phạm tội (Bất Cộng Trụ theo cách đó).

Suṅkaṭṭhāne suṅkaṃ datvāva gantuṃ vaṭṭati. Eko ābhogaṃ katvā gacchati ‘‘sace ‘suṅkaṃ dehī’ti vakkhanti, dassāmi; no ce vakkhanti, gamissāmī’’ti. Taṃ disvā eko suṅkiko ‘‘eso bhikkhu gacchati, gaṇhatha naṃ suṅka’’nti vadati, aparo ‘‘kuto pabbajitassa suṅkaṃ, gacchatū’’ti vadati, laddhakappaṃ hoti, gantabbaṃ. ‘‘Bhikkhūnaṃ suṅkaṃ adatvā gantuṃ na vaṭṭati, gaṇha upāsakā’’ti vutte pana ‘‘bhikkhussa suṅkaṃ gaṇhantehi pattacīvaraṃ gahetabbaṃ bhavissati, kiṃ tena, gacchatū’’ti vuttepi laddhakappameva. Sacepi suṅkikā niddāyanti vā, jūtaṃ vā kīḷanti, yattha katthaci vā gatā, ayañca ‘‘kuhiṃ suṅkikā’’ti pakkositvāpi na passati, laddhakappameva. Sacepi suṅkaṭṭhānaṃ patvā aññavihito, kiñci cintento vā sajjhāyanto vā manasikāraṃ anuyuñjanto vā corahatthisīhabyagghādīhi sahasā vuṭṭhāya samanubaddho vā, mahāmeghaṃ uṭṭhitaṃ disvā purato sālaṃ pavisitukāmo vā hutvā taṃ ṭhānaṃ atikkamati, laddhakappameva.
Tại trạm thuế, phải nộp thuế rồi mới được đi qua. Một người đi qua mà có sự lưu ý (nghĩ rằng): ‘Nếu họ nói ‘Hãy nộp thuế’, ta sẽ nộp; nếu họ không nói, ta sẽ đi’. Thấy vị ấy, một nhân viên thu thuế nói: ‘Vị Tỳ khưu kia đang đi, hãy thu thuế của vị ấy’, một người khác lại nói: ‘Người xuất gia làm gì có thuế, cứ để vị ấy đi’; (việc đi qua) được xem là hợp lệ, được phép đi. Còn khi được nói: ‘Chư Tỳ khưu không nộp thuế thì không được đi qua, này các cư sĩ, hãy thu (thuế)’; (nếu có người đáp lại) ‘Những người thu thuế của Tỳ khưu sẽ phải nhận y bát (thay tiền), cần gì thứ đó, cứ để vị ấy đi’; dù được nói như vậy, (việc đi qua) cũng được xem là hợp lệ. Ngay cả nếu các nhân viên thu thuế đang ngủ, hoặc đang đánh bạc, hoặc đã đi đâu đó, và vị này dù có gọi ‘Nhân viên thu thuế ở đâu?’ mà không thấy, (việc đi qua) cũng được xem là hợp lệ. Ngay cả nếu (Tỳ khưu) đến trạm thuế rồi bị xao lãng việc khác, hoặc đang suy nghĩ điều gì, hoặc đang đọc tụng, hoặc đang chuyên tâm thiền định, hoặc bị trộm cướp, voi, sư tử, cọp v.v… bất ngờ nổi lên rượt đuổi, hoặc thấy mưa lớn kéo đến muốn vào một căn nhà ở phía trước mà đi qua trạm đó, (việc đi qua) cũng được xem là hợp lệ.

Suṅkaṃpariharatīti ettha upacāraṃ okkamitvā kiñcāpi pariharati, avahāroyevāti

Về (câu) ‘Trốn thuế‘: ở đây, dù (có người) trốn (thuế) sau khi đã đi vào vùng tiếp cận (của trạm thuế), đó vẫn chính là sự chiếm đoạt.

Kurundaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃpana ‘‘‘pariharantaṃ rājapurisā viheṭhentī’ti kevalaṃ ādīnavaṃ dassetvā upacāraṃ okkamitvā pariharato dukkaṭaṃ, anokkamitvā pariharato anāpattī’’ti vuttaṃ. Idaṃ pāḷiyā sameti. Ettha dvīhi leḍḍupātehi upacāro paricchinditabboti.
Điều này được nói trong Chú giải Kurundi. Còn trong Đại Chú Giải thì nói: ‘Chỉ nêu lên sự nguy hiểm là ‘các quan吏 sẽ làm phiền người trốn thuế’, rồi (giải thích rằng) người nào trốn (thuế) sau khi đã đi vào vùng tiếp cận (của trạm thuế) thì phạm tội Tác ác; người nào trốn (thuế) mà không đi vào vùng tiếp cận thì không phạm tội’. Điều này phù hợp với Luật Pāḷi. Ở đây, vùng tiếp cận cần được phân định bằng hai cú ném cục đất.

Suṅkaghātakathā niṭṭhitā.

Luận về Trạm Thuế (và Trốn Thuế) đến đây là hết.

Pāṇakathā

Luận về Chúng Sanh (Người)

114. Ito parasmiṃ ekaṃsena avahārappahonakapāṇaṃ dassento ‘‘manussapāṇo’’ti āha. Tampi bhujissaṃ harantassa avahāro natthi. Yopi bhujisso mātarā vā pitarā vā āṭhapito hoti, attanā vā attano upari katvā paññāsaṃ vā saṭṭhiṃ vā aggahesi, tampi harantassa avahāro natthi; dhanaṃ pana gataṭṭhāne vaḍḍhati. Antojātaka-dhanakkīta-karamarānītappabhedaṃ pana dāsaṃyeva harantassa avahāro hoti. Tameva hi sandhāya idaṃ vuttaṃ – ‘‘pāṇo nāma manussapāṇo vuccatī’’ti. Ettha ca gehadāsiyā kucchimhi dāsassa jāto antojātako, dhanena kīto dhanakkīto, paradesato paharitvā ānetvā dāsabyaṃ upagamito karamarānītoti veditabbo. Evarūpaṃ pāṇaṃ ‘‘harissāmī’’ti āmasati, dukkaṭaṃ. Hatthe vā pāde vā gahetvā ukkhipanto phandāpeti, thullaccayaṃ. Ukkhipitvā palāyitukāmo kesaggamattampi ṭhitaṭṭhānato atikkāmeti, pārājikaṃ. Kesesu vā hatthesu vā gahetvā kaḍḍhati, padavārena kāretabbo.
114. Trong phần sau đây, để chỉ rõ về chúng sanh (người) mà (việc lấy trộm) chắc chắn đủ để (phạm tội) chiếm đoạt, (Luật Pāḷi) nói: ‘Chúng sanh người‘. Ngay cả người mang một người tự do đi, cũng không có sự chiếm đoạt. Ngay cả người tự do nào bị cha hoặc mẹ đặt (làm con tin), hoặc tự mình đảm nhận (món nợ) năm mươi hay sáu mươi (đồng) rồi nhận lấy (làm người ở đợ), người mang người đó đi cũng không có sự chiếm đoạt; nhưng tiền (nợ) thì tăng lên ở nơi đã đi. Nhưng chỉ người nào mang đi một người nô lệ thuộc các loại như nô lệ sinh trong nhà, nô lệ mua bằng tiền, nô lệ bị bắt trong chiến tranh mang về, mới có sự chiếm đoạt. Vì chính nhắm đến điều đó mà câu này đã được nói: ‘Chúng sanh ở đây được gọi là chúng sanh người’. Và ở đây, người sinh ra từ bụng của nữ nô lệ trong nhà (do người cha cũng là nô lệ) là nô lệ sinh trong nhà; người được mua bằng tiền là nô lệ mua bằng tiền; người bị bắt từ xứ khác mang về rồi bị buộc làm nô lệ là nô lệ bị bắt trong chiến tranh mang về, cần phải hiểu như vậy. (Nếu Tỳ khưu nghĩ) ‘ta sẽ mang (nô lệ) như vậy đi’ rồi chạm đến, phạm tội Tác ác. (Nếu) nắm tay hoặc chân (nô lệ) rồi nhấc lên làm rung động, phạm tội Trọng Tội. (Nếu) muốn nhấc lên rồi bỏ trốn, (chỉ cần) làm (nô lệ đó) vượt qua khỏi chỗ đang đứng dù bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) nắm tóc hoặc tay (nô lệ) rồi kéo đi, phải bị (xử phạt) theo từng bước chân.

Padasānessāmīti tajjento vā paharanto vā ‘‘ito gacchāhī’’ti vadati, tena vuttadisābhāgaṃ gacchantassa dutiyapadavārena pārājikaṃ. Yepi tena saddhiṃ ekacchandā honti, sabbesaṃ ekakkhaṇe pārājikaṃ. Bhikkhu dāsaṃ disvā sukhadukkhaṃ pucchitvā vā apucchitvā vā ‘‘gaccha, palāyitvā sukhaṃ jīvā’’ti vadati, so ce palāyati, dutiyapadavāre pārājikaṃ. Taṃ attano samīpaṃ āgataṃ añño ‘‘palāyā’’ti vadati, sace bhikkhusataṃ paṭipāṭiyā attano samīpamāgataṃ vadati, sabbesaṃ pārājikaṃ. Yo pana vegasā palāyantaṃyeva ‘‘palāya, yāva taṃ sāmikā na gaṇhantī’’ti bhaṇati, anāpatti pārājikassa. Sace pana saṇikaṃ gacchantaṃ bhaṇati, so ca tassa vacanena sīghaṃ gacchati, pārājikaṃ. Palāyitvā aññaṃ gāmaṃ vā desaṃ vā gataṃ disvā tatopi palāpentassa pārājikameva.
Tôi sẽ dắt đi bộ‘: (nghĩa là Tỳ khưu) đe dọa hoặc đánh đập (nô lệ) rồi nói ‘Hãy đi lối này’; khi (nô lệ đó) đi về hướng đã được nói, đến bước chân thứ hai, (Tỳ khưu) phạm tội Bất Cộng Trụ. Những ai đồng lõa với vị ấy, tất cả đều phạm tội Bất Cộng Trụ cùng một lúc. Tỳ khưu thấy một người nô lệ, dù hỏi han सुखदुःख hay không hỏi han, mà nói: ‘Hãy đi, trốn đi rồi sống sung sướng’, nếu người đó bỏ trốn, đến bước chân thứ hai (của người nô lệ), (Tỳ khưu) phạm tội Bất Cộng Trụ. Người đó (nô lệ) đến gần một vị (Tỳ khưu) khác, vị này lại nói ‘Hãy trốn đi’; nếu một trăm Tỳ khưu tuần tự nói (như vậy) với người (nô lệ) đến gần mình, tất cả đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn người nào chỉ nói với người (nô lệ) đang bỏ trốn một cách nhanh chóng rằng: ‘Hãy trốn đi, chừng nào chủ nhân chưa bắt được ngươi’, thì không phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu nói với người đang đi từ từ, và người đó do lời nói của vị ấy mà đi nhanh hơn, (Tỳ khưu) phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nô lệ) đã bỏ trốn đến một làng khác hoặc xứ khác, (Tỳ khưu) thấy rồi lại xui (nô lệ đó) trốn đi khỏi nơi đó nữa, cũng vẫn phạm tội Bất Cộng Trụ.

Adinnādānaṃ nāma pariyāyena muccati. Yo hi evaṃ vadati – ‘‘tvaṃ idha kiṃ karosi,

Kiṃ te palāyituṃ na vaṭṭatīti vā, kiṃ katthaci gantvā sukhaṃ jīvituṃ na vaṭṭatīti vā, dāsadāsiyo palāyitvā amukaṃ nāma padesaṃ gantvā sukhaṃ jīvantī’’ti vā, so ca tassa vacanaṃ sutvā palāyati, avahāro natthi. Yopi ‘‘mayaṃ amukaṃ nāma padesaṃ gacchāma, tatrāgatā sukhaṃ jīvanti, amhehi ca saddhiṃ gacchantānaṃ antarāmaggepi pātheyyādīhi kilamatho natthī’’ti vatvā sukhaṃ attanā saddhiṃ āgacchantaṃ gahetvā gacchati maggagamanavasena, na theyyacittena; nevatthi avahāro. Antarāmagge ca coresu uṭṭhitesu ‘‘are! Corā uṭṭhitā, vegena palāya, ehi yāhī’’ti vadantassāpi corantarāya mocanatthāya vuttattā avahāraṃ na vadantīti.

(Tội) lấy của không cho có thể được miễn trừ một cách gián tiếp. Vì người nào nói như vầy – ‘Ngươi làm gì ở đây,

hay là ‘Sao ngươi không được phép trốn đi?’, hoặc ‘Sao không được phép đi đâu đó rồi sống sung sướng?’, hoặc ‘(Ta nghe nói) các nam nữ nô lệ đã bỏ trốn đến xứ kia rồi sống sung sướng’; và nếu người đó (nô lệ) nghe lời nói ấy rồi bỏ trốn, thì không có sự chiếm đoạt (nơi Tỳ khưu). Người nào nói: ‘Chúng tôi sắp đi đến xứ kia, những người đến đó đều sống sung sướng, và những ai đi cùng chúng tôi cũng không bị mệt nhọc vì lương thực dọc đường v.v…’ rồi dẫn người (nô lệ) đang vui vẻ đi cùng mình theo cách đi đường (thông thường), chứ không phải với tâm trộm cắp; ở đó cũng không có sự chiếm đoạt. Và giữa đường, khi trộm cướp nổi lên, ngay cả người nói (với nô lệ): ‘Này! Trộm cướp nổi lên, hãy mau trốn đi, đi nhanh lên!’, vì nói với mục đích giải thoát khỏi hiểm họa trộm cướp, nên người ta không nói đó là chiếm đoạt.

Pāṇakathā niṭṭhitā.

Luận về Chúng Sanh (Người) đến đây là hết.

Apadakathā

Luận về Loài Không Chân

Apadesu ahi nāma sassāmiko ahituṇḍikādīhi gahitasappo; yaṃ kīḷāpentā

Aḍḍhampi pādampi kahāpaṇampi labhanti, muñcantāpi hiraññaṃ vā suvaṇṇaṃ vā gahetvāva muñcanti. Te kassaci bhikkhuno nisinnokāsaṃ gantvā sappakaraṇḍaṃ ṭhapetvā niddāyanti vā, katthaci vā gacchanti, tatra ce so bhikkhu theyyacittena taṃ karaṇḍaṃ āmasati, dukkaṭaṃ. Phandāpeti, thullaccayaṃ. Ṭhānā cāveti, pārājikaṃ. Sace pana karaṇḍakaṃ ugghāṭetvā sappaṃ gīvāya gaṇhāti, dukkaṭaṃ. Uddharati, thullaccayaṃ. Ujukaṃ katvā uddharantassa karaṇḍatalato sappassa naṅguṭṭhe kesaggamatte mutte pārājikaṃ. Ghaṃsitvā kaḍḍhantassa naṅguṭṭhe mukhavaṭṭito muttamatte pārājikaṃ . Karaṇḍamukhaṃ īsakaṃ vivaritvā pahāraṃ vā datvā ‘‘ehi, re’’ti nāmena pakkositvā nikkhāmeti, pārājikaṃ . Tatheva vivaritvā maṇḍūkasaddaṃ vā mūsikasaddaṃ vā lājāvikiraṇaṃ vā katvā nāmena pakkosati, accharaṃ vā paharati, evaṃ nikkhantepi pārājikaṃ. Mukhaṃ avivaritvāpi evaṃ kate chāto sappo sīsena karaṇḍapuṭaṃ āhacca okāsaṃ katvā palāyati, pārājikameva. Sace pana mukhe vivarite sayameva sappo nikkhamitvā palāyati, bhaṇḍadeyyaṃ. Athāpi mukhaṃ vivaritvā vā avivaritvā vā kevalaṃ maṇḍūkamūsikasaddaṃ lājāvikiraṇameva ca karoti, na nāmaṃ gahetvā pakkosati, na accharaṃ vā paharati, sappo ca chātattā ‘‘maṇḍūkādīni khādissāmī’’ti nikkhamitvā palāyati, bhaṇḍadeyyameva. Maccho kevalaṃ idha apadaggahaṇena āgato. Yaṃ panettha vattabbaṃ, taṃ udakaṭṭhe vuttamevāti.

Đối với các loài không chân, ‘rắn‘ là con rắn có chủ, bị những người bắt rắn v.v… bắt giữ; (những người này) khi cho rắn biểu diễn

cũng nhận được nửa pāda, một pāda, hoặc một kahāpaṇa; ngay cả khi thả rắn, họ cũng nhận vàng hay bạc rồi mới thả. Họ (những người bắt rắn) đến chỗ một Tỳ khưu nào đó đang ngồi, đặt giỏ rắn xuống rồi ngủ, hoặc đi đâu đó; nếu ở đó Tỳ khưu kia với tâm trộm cắp chạm đến cái giỏ đó, phạm tội Tác ác. (Nếu) làm rung động, phạm tội Trọng Tội. (Nếu) làm di chuyển khỏi chỗ, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu mở giỏ rồi nắm cổ con rắn, phạm tội Tác ác. (Nếu) nhấc (rắn) lên, phạm tội Trọng Tội. Đối với người nhấc thẳng (con rắn) lên, ngay khi đuôi rắn rời khỏi đáy giỏ dù chỉ bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với người kéo (rắn) cọ xát (vào thành giỏ), ngay khi đuôi (rắn) rời khỏi miệng giỏ, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) mở hé miệng giỏ rồi đánh hoặc gọi tên ‘Lại đây, này!’ mà làm cho (rắn) bò ra, phạm tội Bất Cộng Trụ. Tương tự, (nếu) mở (miệng giỏ) rồi giả tiếng nhái, hoặc tiếng chuột, hoặc tung cốm rang, rồi gọi tên (rắn), hoặc búng tay, (nếu rắn) bò ra như vậy, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Ngay cả khi không mở miệng (giỏ) mà làm như vậy, con rắn đang đói dùng đầu húc vào thành giỏ, tạo ra lối thoát rồi bò đi, vẫn phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu khi miệng (giỏ) đã được mở, con rắn tự mình bò ra rồi trốn đi, thì phải đền vật. Hoặc nếu, dù mở hay không mở miệng (giỏ), (Tỳ khưu) chỉ giả tiếng nhái, tiếng chuột, và tung cốm rang, chứ không gọi tên (rắn), cũng không búng tay, và con rắn do đói (nghĩ rằng) ‘ta sẽ ăn nhái v.v…’ rồi bò ra trốn đi, cũng chỉ phải đền vật. Cá ở đây chỉ được đề cập đến do (nằm trong) cách dùng từ ‘loài không chân’. Điều gì cần phải nói (về cá) ở đây, điều đó đã được nói trong Luận về Vật ở Dưới Nước rồi.

Apadakathā niṭṭhitā.

Luận về Loài Không Chân đến đây là hết.

Dvipadakathā

Luận về Loài Hai Chân

115. Dvipadesu – ye avaharituṃ sakkā, te dassento ‘‘manussā pakkhajātā’’ti āha. Devatā pana avaharituṃ na sakkā. Pakkhā jātā etesanti pakkhajātā. Te lomapakkhā cammapakkhā aṭṭhipakkhāti tividhā. Tattha morakukkuṭādayo lomapakkhā, vagguliādayo cammapakkhā, bhamarādayo aṭṭhipakkhāti veditabbā. Te sabbepi manussā ca pakkhajātā ca kevalaṃ idha dvipadaggahaṇena āgatā. Yaṃ panettha vattabbaṃ, taṃ ākāsaṭṭhe ca pāṇe ca vuttanayamevāti.
115. Đối với các loài hai chân – để chỉ rõ những loài có thể bị chiếm đoạt, (Luật Pāḷi) nói: ‘người và các loài có cánh‘. Còn chư thiên thì không thể bị chiếm đoạt. Những loài có cánh được sinh ra, (đó là) ‘loài có cánh‘. Chúng có ba loại: loài có cánh bằng lông, loài có cánh bằng da, và loài có cánh bằng xương. Trong đó, công, gà gô v.v… là loài có cánh bằng lông; dơi v.v… là loài có cánh bằng da; ong v.v… là loài có cánh bằng xương, cần phải hiểu như vậy. Tất cả chúng, cả người và các loài có cánh, ở đây chỉ được đề cập đến do (nằm trong) cách dùng từ ‘loài hai chân’. Điều gì cần phải nói (về chúng) ở đây, điều đó cũng theo phương pháp đã nói đối với vật ở hư không và đối với chúng sanh (người).

Dvipadakathā niṭṭhitā.

Luận về Loài Hai Chân đến đây là hết.

Catuppadakathā

Luận về Loài Bốn Chân

116. Catuppadesu – pasukāti pāḷiyaṃ āgatāvasesā sabbā catuppadajātīti veditabbā. Hatthiādayo pākaṭāyeva. Tattha theyyacittena hatthiṃ āmasantassa dukkaṭaṃ, phandāpentassa thullaccayaṃ. Yo pana mahābalo balamadena taruṇaṃ bhiṅkacchāpaṃ nābhimūle sīsena uccāretvā gaṇhanto cattāro pāde, soṇḍaṃ ca bhūmito kesaggamattampi moceti, pārājikaṃ. Hatthī pana koci hatthisālāyaṃ bandhitvā ṭhapito hoti, koci abaddhova tiṭṭhati, koci antovatthumhi tiṭṭhati, koci rājaṅgaṇe tiṭṭhati, tattha hatthisālāyaṃ gīvāya bandhitvā ṭhapitassa gīvābandhanañca cattāro ca pādāti pañca ṭhānāni honti. Gīvāya ca ekasmiñca pāde ayasaṅkhalikāya baddhassa cha ṭhānāni. Gīvāya ca dvīsu ca pādesu baddhassa satta ṭhānāni. Tesaṃ vasena phandāpanaṭhānācāvanāni veditabbāni. Abaddhassa sakalā hatthisālā ṭhānaṃ. Tato atikkamane, pārājikaṃ. Antovatthumhi ṭhitassa sakalaṃ antovatthumeva ṭhānaṃ. Tassa vatthudvārātikkamane pārājikaṃ. Rājaṅgaṇe ṭhitassa sakalanagaraṃ ṭhānaṃ. Tassa nagaradvārātikkamane pārājikaṃ. Bahinagare ṭhitassa ṭhitaṭṭhānameva ṭhānaṃ. Taṃ haranto padavārena kāretabbo. Nipannassa ekameva ṭhānaṃ. Taṃ theyyacittena uṭṭhāpentassa uṭṭhitamatte pārājikaṃ. Assepi ayameva vinicchayo. Sace pana so catūsu pādesu baddho hoti, aṭṭha ṭhānāni veditabbāni. Esa nayo oṭṭhepi.
116. Đối với các loài bốn chân – ‘gia súc‘ (pasukā) cần được hiểu là tất cả các loài bốn chân còn lại đã được đề cập trong Luật Pāḷi. Voi v.v… thì đã rõ ràng. Ở đó, người nào với tâm trộm cắp chạm đến con voi, phạm tội Tác ác; (nếu) làm rung động (con voi), phạm tội Trọng Tội. Còn người nào rất khỏe, do cậy sức mạnh, dùng đầu nâng một con voi con còn non ở ngang rốn rồi bắt đi, (chỉ cần) làm cho bốn chân và vòi của nó rời khỏi mặt đất dù bằng một sợi tóc, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn con voi, có con được buộc rồi để trong chuồng voi, có con đứng mà không bị buộc, có con đứng trong khu vực (có rào), có con đứng ở sân vua; ở đó, đối với con voi được buộc ở cổ rồi để trong chuồng voi, thì dây buộc ở cổ và bốn chân là năm vị trí (tiếp xúc/xác định). Đối với (con voi) được buộc bằng xích sắt ở cổ và một chân, có sáu vị trí. Đối với (con voi) được buộc ở cổ và hai chân, có bảy vị trí. Việc làm rung động và làm di chuyển khỏi chỗ cần được hiểu dựa vào những (vị trí) đó. Đối với (con voi) không bị buộc, toàn bộ chuồng voi là vị trí (của nó). Khi (làm cho nó) vượt qua khỏi đó, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với (con voi) đứng trong khu vực (có rào), toàn bộ khu vực bên trong đó chính là vị trí (của nó). Khi (làm cho nó) vượt qua cửa của khu vực đó, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với (con voi) đứng ở sân vua, toàn bộ thành phố là vị trí (của nó). Khi (làm cho nó) vượt qua cửa thành, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với (con voi) đứng ở ngoài thành, chính nơi nó đang đứng là vị trí (của nó). Người mang nó đi phải bị (xử phạt) theo từng bước chân. Đối với (con voi) đang nằm, chỉ có một vị trí (tiếp xúc). Người nào với tâm trộm cắp làm cho nó đứng dậy, ngay khi nó đứng dậy, phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với ngựa cũng quyết định tương tự như vậy. Còn nếu nó bị buộc ở cả bốn chân, cần hiểu là có tám vị trí. Phương pháp này cũng áp dụng cho lạc đà.

Goṇopi koci gehe bandhitvā ṭhapito hoti. Koci abaddhova tiṭṭhati, koci pana vaje bandhitvā ṭhapito hoti, koci abaddhova tiṭṭhati. Tattha gehe bandhitvā ṭhapitassa cattāro pādā, bandhanañcāti pañca ṭhānāni; abaddhassa sakalaṃ gehaṃ. Vajepi baddhassa pañca ṭhānāni. Abaddhassa sakalo vajo. Taṃ vajadvāraṃ atikkāmeti, pārājikaṃ. Vajaṃ bhinditvā haranto khaṇḍadvāraṃ atikkāmeti, pārājikaṃ. Dvāraṃ vā vivaritvā vajaṃ vā bhinditvā bahi ṭhito nāmena pakkositvā nikkhāmeti, pārājikaṃ. Sākhābhaṅgaṃ dassetvā pakkosantassāpi eseva nayo. Dvāraṃ avivaritvā vajaṃ abhinditvā sākhābhaṅgaṃ cāletvā pakkosati, goṇo chātatāya vajaṃ laṅghetvā nikkhamati, pārājikameva. Sace pana dvāre vivarite vaje vā bhinne sayameva nikkhamati, bhaṇḍadeyyaṃ. Dvāraṃ vivaritvā vā avivaritvā vā vajampi bhinditvā vā abhinditvā vā kevalaṃ sākhābhaṅgaṃ cāleti, na pakkosati, goṇo chātatāya padasā vā laṅghetvā vā nikkhamati, bhaṇḍadeyyameva. Eko majjhe gāme baddho ṭhito, eko nipanno. Ṭhitagoṇassa pañca ṭhānāni honti, nipannassa dve ṭhānāni; tesaṃ vasena phandāpanaṭhānācāvanāni veditabbāni.
Con bò cũng vậy, có con được buộc rồi để trong nhà. Có con đứng mà không bị buộc; hoặc có con được buộc rồi để trong chuồng, có con đứng mà không bị buộc. Ở đó, đối với (con bò) được buộc rồi để trong nhà, có bốn chân và dây buộc là năm vị trí; đối với (con bò) không bị buộc, toàn bộ ngôi nhà là (vị trí của nó). Trong chuồng cũng vậy, (con bò) bị buộc có năm vị trí. (Con bò) không bị buộc thì toàn bộ chuồng là (vị trí của nó). (Nếu Tỳ khưu) làm cho nó vượt qua cửa chuồng, phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nào phá chuồng rồi mang (bò) đi, (khi bò) vượt qua cửa (chuồng) đã bị phá, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) mở cửa hoặc phá chuồng, rồi đứng bên ngoài gọi tên mà làm cho (bò) đi ra, phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nào đưa cành lá ra rồi gọi (bò) cũng theo phương pháp này. (Nếu) không mở cửa, không phá chuồng, mà (chỉ) rung cành lá rồi gọi, con bò do đói mà nhảy qua hàng rào chuồng đi ra, vẫn phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu khi cửa đã được mở hoặc chuồng đã bị phá, (con bò) tự mình đi ra, thì phải đền vật. Dù có mở cửa hay không mở cửa, dù có phá chuồng hay không phá chuồng, (nếu Tỳ khưu) chỉ rung cành lá chứ không gọi, con bò do đói mà đi bộ hoặc nhảy ra ngoài, cũng chỉ phải đền vật. Một con (bò) đứng bị buộc giữa làng, một con (khác) nằm. Con bò đứng có năm vị trí, con bò nằm có hai vị trí; việc làm rung động và làm di chuyển khỏi chỗ cần được hiểu dựa vào những (vị trí) đó.

Yo pana nipannaṃ anuṭṭhāpetvā tattheva ghāteti, bhaṇḍadeyyaṃ. Suparikkhitte pana dvārayutte gāme ṭhitagoṇassa sakalagāmo ṭhānaṃ. Aparikkhitte ṭhitassa vā carantassa vā pādehi akkantaṭṭhānameva ṭhānaṃ gadrabhapasukāsupi ayameva vinicchayoti.
Còn người nào không làm cho (con vật) đang nằm đứng dậy mà giết ngay tại đó, thì phải đền vật. Còn đối với con bò đứng trong làng có rào bao quanh kỹ càng và có cổng, thì toàn bộ làng là vị trí (của nó). Đối với (con bò) đứng hoặc đi lại trong (làng) không có rào bao quanh, chính nơi chân nó đang đạp là vị trí (của nó); đối với lừa và các gia súc khác cũng quyết định tương tự như vậy.

Catuppadakathā niṭṭhitā.

Luận về Loài Bốn Chân đến đây là hết.

Bahuppadakathā

Luận về Loài Nhiều Chân

117. Bahuppadesu – sace ekāya satapadiyā vatthu pūrati, taṃ padasā nentassa navanavuti thullaccayāni, ekaṃ pārājikaṃ. Sesaṃ vuttanayamevāti.
117. Đối với các loài nhiều chân – nếu một con rết đủ (giá trị) cấu thành sự việc (Bất Cộng Trụ), người nào dắt nó đi bộ, (phạm) chín mươi chín (tội) Trọng Tội (cho 99 bước chân đầu), và một (tội) Bất Cộng Trụ (cho bước chân thứ 100). Phần còn lại theo phương pháp đã nói.

Bahuppadakathā niṭṭhitā.

Luận về Loài Nhiều Chân đến đây là hết.

Ocarakakathā

Luận về Người Chỉ Điểm

118. Ocaratīti ocarako, tattha tattha anto anupavisatīti vuttaṃ hoti. Ocaritvāti sallakkhetvā, upadhāretvāti attho. Ācikkhatīti parakulesu vā vihārādīsu vā duṭṭhapitaṃ asaṃvihitārakkhaṃ bhaṇḍaṃ aññassa corakammaṃ kātuṃ paṭibalassa āroceti. Āpatti ubhinnaṃ pārājikassāti avassaṃ hāriye bhaṇḍe ocarakassa āṇattikkhaṇe itarassa ṭhānācāvaneti evaṃ āpatti ubhinnaṃ pārājikassa. Yo pana ‘‘puriso gehe natthi, bhaṇḍaṃ asukasmiṃ nāma padese ṭhapitaṃ asaṃvihitārakkhaṃ, dvāraṃ asaṃvutaṃ, gatamatteneva sakkā harituṃ, natthi nāma koci purisakārūpajīvī, yo taṃ gantvā hareyyā’’tiādinā nayena pariyāyakathaṃ karoti, tañca sutvā añño ‘‘ahaṃ dāni harissāmī’’ti gantvā harati, tassa ṭhānācāvane pārājikaṃ, itarassa pana anāpatti. Pariyāyena hi adinnādānato muccatīti.
118. Người đi dò xét là ‘người chỉ điểm‘; có nghĩa là người đi vào bên trong các nơi này nơi kia. ‘Sau khi dò xét‘ nghĩa là sau khi xem xét, sau khi tìm hiểu kỹ. ‘Chỉ bảo‘ là báo cho một người khác có khả năng thực hiện hành vi trộm cắp biết về vật để không cẩn thận, không được canh giữ kỹ càng ở trong các gia đình hoặc tịnh xá v.v… của người khác. ‘Cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ‘: Đối với vật chắc chắn sẽ bị lấy trộm, người chỉ điểm (phạm tội) ngay tại khoảnh khắc ra lệnh (cho người kia), người kia (phạm tội) khi làm di chuyển (vật) khỏi chỗ; như vậy cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn người nào nói chuyện một cách ám chỉ theo kiểu như: ‘Chủ nhà không có ở nhà, vật để ở chỗ kia không được canh giữ kỹ, cửa không đóng, chỉ cần đến là có thể lấy được; không biết có người nào có sức mạnh nam nhi mà đến đó lấy không nhỉ’ v.v…, và người khác nghe điều đó rồi (nghĩ) ‘bây giờ ta sẽ đi lấy’ rồi đến lấy, thì người đó (người đi lấy) phạm tội Bất Cộng Trụ khi làm di chuyển (vật) khỏi chỗ, còn người kia (người nói ám chỉ) thì không phạm tội. Vì nói một cách gián tiếp thì được miễn (tội) lấy của không cho.

Ocarakakathā niṭṭhitā.

Luận về Người Chỉ Điểm đến đây là hết.

Oṇirakkhakathā

Luận về Người Trông Giữ Vật Ký Thác

Oṇiṃ rakkhatīti oṇirakkho. Yo parena attano vasanaṭṭhāne ābhataṃ bhaṇḍaṃ ‘‘idaṃ

Tāva, bhante, muhuttaṃ oloketha, yāva ahaṃ idaṃ nāma kiccaṃ katvā āgacchāmī’’ti vutto rakkhati, tassetaṃ adhivacanaṃ. Tenevāha – ‘‘oṇirakkho nāma āhaṭaṃ bhaṇḍaṃ gopento’’ti. Tattha oṇirakkho yebhuyyena bandhitvā laggetvā ṭhapitabhaṇḍaṃ amocetvāva heṭṭhā pasibbakaṃ vā puṭakaṃ vā chinditvā kiñcimattaṃ gahetvā sibbanādiṃ puna pākatikaṃ karoti, ‘‘evaṃ gaṇhissāmī’’ti āmasanādīni karontassa anurupā āpattiyo veditabbāti.

Người giữ gìn vật ký thác là ‘người trông giữ vật ký thác‘. Người nào, khi được người khác mang vật đến nơi ở của mình rồi nói: ‘Bạch ngài, xin ngài

trông chừng vật này một lát, trong khi tôi đi làm việc kia rồi sẽ trở lại’, rồi (nhận lời) trông giữ, đó là tên gọi của vị ấy. Do đó mới nói: ‘Người trông giữ vật ký thác là người coi sóc vật được mang đến‘. Ở đó, người trông giữ vật ký thác, đối với vật được buộc, treo rồi để đó, thường là không cởi dây buộc mà cắt túi vải hoặc gói đựng ở phía dưới, lấy một ít rồi may vá lại như cũ; người nào làm các hành vi như chạm đến v.v… với ý nghĩ ‘ta sẽ lấy như vậy’, thì các tội tương ứng cần được hiểu (sẽ phát sinh).

Oṇirakkhakathā niṭṭhitā.

Luận về Người Trông Giữ Vật Ký Thác đến đây là hết.

Saṃvidāvahārakathā

Luận về Chiếm Đoạt do Thỏa Thuận (Đồng Lõa)

Saṃvidhāya avahāro saṃvidāvahāro; aññamaññasaññattiyā katāvahāroti vuttaṃ hoti. Saṃvidahitvāti ekacchandatāya ekajjhāsayatāya sammantayitvāti attho. Tatrāyaṃ vinicchayo – sambahulā bhikkhū ‘‘asukaṃ nāma gehaṃ gantvā, chadanaṃ vā bhinditvā, sandhiṃ vā chinditvā bhaṇḍaṃ harissāmā’’ti saṃvidahitvā gacchanti. Tesu eko bhaṇḍaṃ avaharati. Tassuddhāre sabbesaṃ pārājikaṃ. Parivārepi cetaṃ vuttaṃ –
Sự chiếm đoạt do thỏa thuận là ‘chiếm đoạt do thỏa thuận‘; có nghĩa là sự chiếm đoạt được thực hiện do sự đồng ý với nhau. ‘Sau khi thỏa thuận‘ nghĩa là sau khi bàn bạc với sự đồng lòng, cùng một ý định. Quyết định ở đây là như vầy – nhiều Tỳ khưu sau khi thỏa thuận ‘chúng ta sẽ đến nhà kia, phá mái nhà hoặc khoét vách tường rồi lấy trộm vật’, rồi cùng đi. Trong số họ, một người lấy trộm vật. Khi vật đó được nhấc lên (bởi người đó), tất cả họ đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Trong Tập Yếu cũng nói điều này –

‘‘Caturo janā saṃvidhāya, garubhaṇḍaṃ avāharuṃ;
Tayo pārājikā, eko na pārājiko;
Pañhā mesā kusalehi cintitā’’ti. (pari. 479);
“‘Bốn người cùng thỏa thuận, lấy trộm vật nặng (có giá trị);
Ba người phạm Bất Cộng Trụ, một người không phạm Bất Cộng Trụ;
Đây là câu hỏi do bậc thiện xảo suy ngẫm’.” (pari. 479);

Tassāyaṃ attho – cattāro janā ācariyantevāsikā chamāsakaṃ garubhaṇḍaṃ āharitukāmā jātā. Tattha ācariyo ‘‘tvaṃ ekaṃ māsakaṃ hara, tvaṃ ekaṃ, tvaṃ ekaṃ, ahaṃ tayo harissāmī’’ti āha. Antevāsikesu pana paṭhamo ‘‘tumhe, bhante, tayo haratha, tvaṃ ekaṃ hara, tvaṃ ekaṃ, ahaṃ ekaṃ harissāmī’’ti āha. Itarepi dve evameva āhaṃsu. Tattha antevāsikesu ekamekassa ekeko māsako sāhatthiko hoti, tena nesaṃ dukkaṭāpattiyo; pañca āṇattikā, tehi tiṇṇampi pārājikaṃ. Ācariyassa pana tayo sāhatthikā, tehissa thullaccayaṃ. Tayo āṇattikā, tehipi thullaccayameva. Imasmiñhi adinnādānasikkhāpade sāhatthikaṃ vā āṇattikassa, āṇattikaṃ vā sāhatthikassa aṅgaṃ na hoti. Sāhatthikaṃ pana sāhatthikeneva kāretabbaṃ, āṇattikaṃ āṇattikeneva. Tena vuttaṃ – ‘‘caturo janā saṃvidhāya…pe… pañhā mesā kusalehi cintitā’’ti.
Ý nghĩa của nó là như vầy – bốn người, thầy và trò, khởi ý muốn lấy trộm vật nặng trị giá sáu māsaka. Trong đó, vị thầy nói: ‘Ngươi hãy lấy một māsaka, ngươi một, ngươi một, ta sẽ lấy ba’. Còn trong số các đệ tử, người đầu tiên nói: ‘Bạch ngài, ngài hãy lấy ba, thầy hãy lấy một, thầy hãy lấy một, con sẽ lấy một’. Hai người còn lại cũng nói tương tự như vậy. Ở đó, đối với mỗi một đệ tử, phần tự tay (lấy) là một māsaka, do đó họ phạm các tội Tác ác (vì giá trị dưới một pāda); (nhưng) năm (māsaka còn lại) là do ra lệnh (cho người khác lấy), do đó cả ba người (đệ tử) đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn đối với vị thầy, phần tự tay (lấy) là ba (māsaka), do đó vị ấy phạm tội Trọng Tội (nếu 3 māsaka chưa đủ một pāda nhưng là giá trị đáng kể). Ba (māsaka còn lại) là do ra lệnh (cho các đệ tử lấy), do đó vị ấy cũng chỉ phạm tội Trọng Tội. Vì trong học giới về lấy của không cho này, phần tự tay (lấy) không phải là chi phần (để cấu thành tội) của (phần) ra lệnh, và phần ra lệnh cũng không phải là chi phần (để cấu thành tội) của (phần) tự tay (lấy). (Tội do) tự tay (lấy) phải được (xét) bởi chính (hành vi) tự tay (lấy), (tội do) ra lệnh phải được (xét) bởi chính (hành vi) ra lệnh. Do đó đã nói: ‘Bốn người cùng thỏa thuận… (v.v.)… Đây là câu hỏi do bậc thiện xảo suy ngẫm’.

Apica saṃvidāvahāre asammohatthaṃ ‘‘ekabhaṇḍaṃ ekaṭṭhānaṃ, ekabhaṇḍaṃ nānāṭhānaṃ; nānābhaṇḍaṃ ekaṭṭhānaṃ, nānābhaṇḍaṃ nānāṭhāna’’nti idampi catukkaṃ atthato sallakkhetabbaṃ. Tattha ekabhaṇḍaṃ ekaṭṭhānanti ekakulassa āpaṇaphalake pañcamāsakaṃ bhaṇḍaṃ duṭṭhapitaṃ disvā sambahulā bhikkhū ekaṃ āṇāpenti ‘‘gacchetaṃ āharā’’ti, tassuddhāre sabbesaṃ pārājikaṃ. Ekabhaṇḍaṃ nānāṭhānanti ekakulassa pañcasu āpaṇaphalakesu ekekamāsakaṃ duṭṭhapitaṃ disvā sambahulā ekaṃ āṇāpenti ‘‘gacchete āharā’’ti, pañcamassa māsakassa uddhāre sabbesaṃ pārājikaṃ. Nānābhaṇḍaṃ ekaṭṭhānanti bahūnaṃ santakaṃ pañcamāsakaṃ vā atirekapañcamāsakaṃ vā agghanakaṃ bhaṇḍaṃ ekasmiṃ ṭhāne duṭṭhapitaṃ disvā sambahulā ekaṃ āṇāpenti ‘‘gacchetaṃ āharā’’ti, tassuddhāre sabbesaṃ pārājikaṃ. Nānābhaṇḍaṃ nānāṭhānanti pañcannaṃ kulānaṃ pañcasu āpaṇaphalakesu ekekamāsakaṃ duṭṭhapitaṃ disvā sambahulā ekaṃ āṇāpenti ‘‘gacchete āharā’’ti, pañcamassa māsakassa uddhāre sabbesaṃ pārājikanti.
Hơn nữa, để không bị nhầm lẫn trong (trường hợp) chiếm đoạt do thỏa thuận, bốn trường hợp này cũng cần được xem xét kỹ về ý nghĩa: một vật ở một nơi, một vật ở nhiều nơi; nhiều vật ở một nơi, nhiều vật ở nhiều nơi. Trong đó, ‘một vật ở một nơi‘ là (khi) nhiều Tỳ khưu thấy một vật trị giá năm māsaka của một gia đình để không cẩn thận trên sạp hàng, rồi ra lệnh cho một người: ‘Hãy đi lấy vật đó’; khi vật đó được nhấc lên, tất cả họ đều phạm tội Bất Cộng Trụ. ‘Một vật (cùng loại, chia ra) ở nhiều nơi‘ là (khi) nhiều Tỳ khưu thấy (năm phần của) một vật (cùng loại) của một gia đình, mỗi phần trị giá một māsaka, để không cẩn thận trên năm sạp hàng, rồi ra lệnh cho một người: ‘Hãy đi lấy những thứ đó’; khi māsaka thứ năm được nhấc lên, tất cả họ đều phạm tội Bất Cộng Trụ. ‘Nhiều vật (khác nhau) ở một nơi‘ là (khi) nhiều Tỳ khưu thấy các vật thuộc sở hữu của nhiều người, (tổng) trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka, để không cẩn thận ở một nơi, rồi ra lệnh cho một người: ‘Hãy đi lấy những thứ đó’; khi (các vật đó) được nhấc lên, tất cả họ đều phạm tội Bất Cộng Trụ. ‘Nhiều vật (khác nhau) ở nhiều nơi‘ là (khi) nhiều Tỳ khưu thấy (các vật) của năm gia đình, mỗi vật trị giá một māsaka, để không cẩn thận trên năm sạp hàng, rồi ra lệnh cho một người: ‘Hãy đi lấy những thứ đó’; khi māsaka thứ năm được nhấc lên, tất cả họ đều phạm tội Bất Cộng Trụ.

Saṃvidāvahārakathā niṭṭhitā.

Luận về Chiếm Đoạt do Thỏa Thuận (Đồng Lõa) đến đây là hết.

Saṅketakammakathā

Luận về Hành Động theo Ám Hiệu (Thời Gian)

119.Saṅketakammanti sañjānanakammaṃ; kālaparicchedavasena saññāṇakaraṇanti attho. Ettha ca ‘‘purebhattaṃ avaharā’’ti vutte ajja vā purebhattaṃ avaharatu, sve vā, anāgate vā saṃvacchare, natthi visaṅketo; ubhinnampi ocarake vuttanayeneva pārājikaṃ. Sace pana ‘‘ajja purebhattaṃ avaharā’’ti vutte sve purebhattaṃ avaharati, ‘‘ajjā’’ti niyāmitaṃ taṃ saṅketaṃ atikkamma pacchā avahaṭaṃ hoti. Sace ‘‘sve purebhattaṃ avaharā’’ti vutte ajja purebhattaṃ avaharati , ‘‘sve’’ti niyāmitaṃ taṃ saṅketaṃ appatvā pure avahaṭaṃ hoti; evaṃ avaharantassa avahārakasseva pārājikaṃ, mūlaṭṭhassa anāpatti. ‘‘Sve purebhatta’’nti vutte tadaheva vā sve pacchābhattaṃ vā harantopi taṃ saṅketaṃ pure ca pacchā ca haratīti veditabbo. Esa nayo pacchābhattarattindivesupi. Purimayāma-majjhimayāma-pacchimayāma-kāḷajuṇha-māsa-utu-saṃvaccharādivasenāpi cettha saṅketavisaṅketatā veditabbā. ‘‘Purebhattaṃ harā’’ti vutte ‘‘purebhattameva harissāmī’’ti vāyamantassa pacchābhattaṃ hoti; ettha kathanti? Mahāsumatthero tāva āha – ‘‘purebhattapayogova eso, tasmā mūlaṭṭho na muccatī’’ti. Mahāpadumatthero panāha – ‘‘kālaparicchedaṃ atikkantattā visaṅketaṃ, tasmā mūlaṭṭho muccatī’’ti.
119. ‘Hành động theo ám hiệu‘ là hành động theo sự nhận biết (đã thỏa thuận); nghĩa là việc tạo ra dấu hiệu bằng cách quy định thời gian. Và ở đây, khi được bảo: ‘Hãy lấy trộm trước bữa ăn’, (nếu người kia) lấy trộm trước bữa ăn vào hôm nay, hoặc ngày mai, hoặc vào một năm trong tương lai, thì không có sự sai lệch ám hiệu; cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ theo phương pháp đã nói trong (trường hợp) người chỉ điểm (nếu là ra lệnh trực tiếp). Nhưng nếu khi được bảo: ‘Hãy lấy trộm trước bữa ăn hôm nay’, (người kia) lại lấy trộm trước bữa ăn vào ngày mai, thì (hành động đó) là lấy trộm sau khi đã vượt qua ám hiệu đã quy định là ‘hôm nay’. Nếu khi được bảo: ‘Hãy lấy trộm trước bữa ăn ngày mai’, (người kia) lại lấy trộm trước bữa ăn hôm nay, thì (hành động đó) là lấy trộm trước khi đến ám hiệu đã quy định là ‘ngày mai’; người lấy trộm như vậy thì chỉ người lấy trộm phạm tội Bất Cộng Trụ, người chủ mưu không phạm tội. Khi được bảo: ‘Trước bữa ăn ngày mai’, người nào lấy trộm ngay trong ngày đó hoặc sau bữa ăn ngày mai, cần hiểu là đã lấy trộm trước và sau ám hiệu đó. Phương pháp này cũng áp dụng cho (ám hiệu về) sau bữa ăn, ban đêm, và ban ngày. Ở đây, sự đúng ám hiệu và sai lệch ám hiệu cũng cần được hiểu dựa vào canh đầu, canh giữa, canh cuối (của đêm); ngày tối (hạ huyền), ngày sáng (thượng huyền); tháng, mùa, năm v.v… Khi được bảo: ‘Hãy lấy trộm trước bữa ăn’, người cố gắng (nghĩ rằng) ‘ta sẽ lấy trộm chính vào trước bữa ăn’ nhưng (việc lấy trộm) lại xảy ra sau bữa ăn; ở đây (xử lý) thế nào? Trước hết, Trưởng lão Mahāsumana nói: ‘Đó chính là hành động (nhắm đến) trước bữa ăn, do đó người chủ mưu không được miễn tội’. Còn Trưởng lão Mahāpaduma thì nói: ‘Vì đã vượt qua sự quy định về thời gian nên là sai lệch ám hiệu, do đó người chủ mưu được miễn tội’.

Saṅketakammakathā niṭṭhitā.

Luận về Hành Động theo Ám Hiệu (Thời Gian) đến đây là hết.

Nimittakammakathā

Luận về Hành Động bằng Dấu Hiệu

120.Nimittakammanti saññuppādanatthaṃ kassaci nimittassa karaṇaṃ, taṃ ‘‘akkhiṃ vā nikhaṇissāmī’’tiādinā nayena tidhā vuttaṃ. Aññampi panettha hatthalaṅghana-pāṇippahāraaṅguliphoṭana-gīvunnāmana-ukkāsanādianekappakāraṃ saṅgahetabbaṃ. Sesamettha saṅketakamme vuttanayamevāti.
120. ‘Hành động bằng dấu hiệu‘ là việc làm một dấu hiệu nào đó để tạo ra sự nhận biết (đã thỏa thuận); điều đó được nói theo ba cách bắt đầu bằng ‘Hoặc tôi sẽ nháy mắt‘ v.v… Ở đây, nhiều loại (dấu hiệu) khác như vẫy tay, vỗ tay, búng ngón tay, ngẩng cổ, hắng giọng v.v… cũng cần được bao gồm. Phần còn lại ở đây cũng theo phương pháp đã nói trong (phần) Hành Động theo Ám Hiệu (Thời Gian).

Nimittakammakathā niṭṭhitā.

Luận về Hành Động bằng Dấu Hiệu đến đây là hết.

Āṇattikathā

Luận về (Trộm Cắp do) Ra Lệnh

121. Idāni etesveva saṅketakammanimittakammesu asammohatthaṃ ‘‘bhikkhu bhikkhuṃ āṇāpetī’’tiādimāha. Tattha so taṃ maññamāno tanti so avahārako yaṃ āṇāpakena nimittasaññaṃ katvā vuttaṃ, taṃ etanti maññamāno tameva avaharati, ubhinnaṃ pārājikaṃ. So taṃ maññamāno aññanti yaṃ avaharāti vuttaṃ, taṃ etanti maññamāno aññaṃ tasmiṃyeva ṭhāne ṭhapitaṃ avaharati, mūlaṭṭhassa anāpatti. Aññaṃ maññamāno tanti āṇāpakena nimittasaññaṃ katvā vuttabhaṇḍaṃ appagghaṃ, idaṃ aññaṃ tasseva samīpe ṭhapitaṃ sārabhaṇḍanti evaṃ aññaṃ maññamāno tameva avaharati, ubhinnampi pārājikaṃ. Aññaṃ maññamāno aññanti purimanayeneva idaṃ aññaṃ tasseva samīpe ṭhapitaṃ sārabhaṇḍanti maññati, tañce aññameva hoti, tasseva pārājikaṃ.
121. Bây giờ, để không bị nhầm lẫn trong chính các (trường hợp) hành động theo ám hiệu (thời gian) và hành động bằng dấu hiệu này, (Luật Pāḷi) bắt đầu bằng ‘Tỳ khưu ra lệnh cho Tỳ khưu‘ v.v… Trong đó, ‘người đó tưởng là vật đó rồi lấy chính vật đó‘ nghĩa là: người lấy trộm, tưởng rằng vật mà người ra lệnh đã nói sau khi làm dấu hiệu nhận biết chính là vật này, rồi lấy trộm chính vật đó; cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ. ‘Người đó tưởng là vật đó mà lại lấy vật khác‘ nghĩa là: tưởng rằng vật được bảo lấy trộm chính là vật này, nhưng lại lấy trộm một vật khác được đặt ở chính nơi đó; người chủ mưu không phạm tội (Bất Cộng Trụ, nhưng người lấy thì phạm). ‘Tưởng là vật khác mà lại lấy chính vật đó‘ nghĩa là: vật mà người ra lệnh đã nói sau khi làm dấu hiệu nhận biết thì ít giá trị, (người lấy trộm nghĩ) ‘vật khác này được đặt gần đó mới là vật quý giá’, rồi với ý nghĩ (đang lấy) vật khác đó mà lại lấy trúng chính vật (được ra lệnh ban đầu); cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ. ‘Tưởng là vật khác và lấy vật khác‘ nghĩa là: theo cách trước, (người lấy trộm) nghĩ rằng ‘vật khác này được đặt gần đó mới là vật quý giá’, và nếu vật đó thực sự là một vật khác (không phải vật được ra lệnh), thì chỉ người đó (người lấy trộm) phạm tội Bất Cộng Trụ.

Itthannāmassa pāvadātiādīsu eko ācariyo tayo buddharakkhita-dhammarakkhita-saṅgharakkhitanāmakā antevāsikā daṭṭhabbā. Tattha bhikkhu bhikkhuṃ āṇāpetīti ācariyo kiñci bhaṇḍaṃ katthaci sallakkhetvā tassa haraṇatthāya buddharakkhitaṃ āṇāpeti. Itthannāmassa pāvadāti gaccha tvaṃ, buddharakkhita, etamatthaṃ dhammarakkhitassa pāvada. Itthannāmo itthannāmassa pāvadatūti dhammarakkhitopi saṅgharakkhitassa pāvadatu. Itthannāmo itthannāmaṃ bhaṇḍaṃ avaharatūti evaṃ tayā āṇattena dhammarakkhitena āṇatto saṅgharakkhito itthannāmaṃ bhaṇḍaṃ avaharatu, so hi amhesu vīrajātiko paṭibalo imasmiṃ kammeti. Āpatti dukkaṭassāti evaṃ āṇāpentassa ācariyassa tāva dukkaṭaṃ. Sace pana sā āṇatti yathādhippāyaṃ gacchati, yaṃ parato thullaccayaṃ vuttaṃ, āṇattikkhaṇe tadeva hoti. Atha taṃ bhaṇḍaṃ avassaṃ hāriyaṃ hoti, yaṃ parato ‘‘sabbesaṃ āpatti pārājikassā’’ti vuttaṃ, tato imassa taṅkhaṇeyeva pārājikaṃ hotīti ayaṃ yutti sabbattha veditabbā.
Trong (các câu) bắt đầu bằng ‘Hãy báo cho người tên X‘ v.v…, cần hiểu là có một vị thầy và ba vị đệ tử tên là Buddharakkhita, Dhammarakkhita, và Saṅgharakkhita. Trong đó, ‘Tỳ khưu ra lệnh cho Tỳ khưu‘ là vị thầy, sau khi xem xét một vật nào đó ở đâu đó, bèn ra lệnh cho Buddharakkhita để lấy vật đó. ‘Hãy báo cho người tên X‘ (nghĩa là): Ngươi hãy đi, này Buddharakkhita, hãy báo việc này cho Dhammarakkhita. ‘Người tên X hãy báo cho người tên Y‘ (nghĩa là): Dhammarakkhita cũng hãy báo cho Saṅgharakkhita. ‘Người tên Y hãy lấy trộm vật Z‘ (nghĩa là): Saṅgharakkhita, người được Dhammarakkhita (là người được ngươi ra lệnh) ra lệnh, hãy lấy trộm vật Z; vì trong chúng ta, vị ấy là người can đảm, có khả năng làm việc này. ‘Phạm tội Tác ác‘: Vị thầy ra lệnh như vậy, trước hết phạm tội Tác ác. Nhưng nếu mệnh lệnh đó được truyền đi đúng như ý định, thì điều mà ở phần sau được nói là (phạm tội) Trọng Tội, (vị thầy) phạm chính tội đó ngay tại khoảnh khắc ra lệnh (cho người đầu tiên). Còn nếu vật đó chắc chắn sẽ bị lấy trộm, thì điều mà ở phần sau được nói là ‘tất cả đều phạm tội Bất Cộng Trụ’, khi đó vị này (vị thầy) phạm tội Bất Cộng Trụ ngay tại khoảnh khắc đó – lý lẽ này cần được hiểu ở tất cả mọi nơi.

So itarassa ārocetīti buddharakkhito dhammarakkhitassa, dhammarakkhito ca saṅgharakkhitassa ‘‘amhākaṃ ācariyo evaṃ vadati – ‘itthannāmaṃ kira bhaṇḍaṃ avahara, tvaṃ kira amhesu ca vīrapuriso’’’ti āroceti, evaṃ tesampi dukkaṭaṃ. Avahārako paṭiggaṇhātīti ‘‘sādhu harissāmī’’ti saṅgharakkhito sampaṭicchati. Mūlaṭṭhassa āpatti thullaccayassāti saṅgharakkhitena paṭiggahitamatte ācariyassa thullaccayaṃ, mahājano hi tena pāpe niyojitoti. So taṃ bhaṇḍanti so ce saṅgharakkhito taṃ bhaṇḍaṃ avaharati, sabbesaṃ catunnampi janānaṃ pārājikaṃ. Na kevalañca catunnaṃ, etena upāyena visaṅketaṃ akatvā paramparāya āṇāpentaṃ samaṇasataṃ samaṇasahassaṃ vā hotu, sabbesaṃ pārājikameva.
Vị ấy báo cho người khác‘: (nghĩa là) Buddharakkhita báo cho Dhammarakkhita, và Dhammarakkhita báo cho Saṅgharakkhita rằng: ‘Thầy của chúng ta nói như vầy – Hình như hãy lấy trộm vật Z, thầy hình như là người can đảm trong chúng ta’; như vậy họ cũng phạm tội Tác ác. ‘Người lấy trộm nhận lời‘: (nghĩa là) Saṅgharakkhita chấp nhận (nói rằng) ‘Lành thay, tôi sẽ lấy’. ‘Người chủ mưu phạm tội Trọng Tội‘: Ngay khi Saṅgharakkhita nhận lời, vị thầy phạm tội Trọng Tội; vì nhiều người đã bị vị ấy xúi giục vào việc ác. ‘Vị ấy (lấy) vật đó‘: Nếu Saṅgharakkhita lấy trộm vật đó, tất cả bốn người đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Không chỉ bốn người, mà bằng phương pháp này, dù có một trăm hay một ngàn Sa-môn ra lệnh nối tiếp nhau mà không làm sai lệch ám hiệu (ban đầu), tất cả đều phạm tội Bất Cộng Trụ.

Dutiyavāre – so aññaṃ āṇāpetīti so ācariyena āṇatto buddharakkhito dhammarakkhitaṃ adisvā vā avattukāmo vā hutvā saṅgharakkhitameva upasaṅkamitvā ‘‘amhākaṃ ācariyo evamāha – ‘itthannāmaṃ kira bhaṇḍaṃ avaharā’’’ti āṇāpeti. Āpatti dukkaṭassāti āṇattiyā tāva buddharakkhitassa dukkaṭaṃ. Paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassāti saṅgharakkhitena sampaṭicchite mūlaṭṭhasseva dukkaṭanti veditabbaṃ. Sace pana so taṃ bhaṇḍaṃ avaharati, āṇāpakassa ca buddharakkhitassa, avahārakassa ca saṅgharakkhitassāti ubhinnampi pārājikaṃ. Mūlaṭṭhassa pana ācariyassa visaṅketattā pārājikena anāpatti. Dhammarakkhitassa ajānanatāya sabbena sabbaṃ anāpatti. Buddharakkhito pana dvinnaṃ sotthibhāvaṃ katvā attanā naṭṭho.
Trường hợp thứ hai – ‘Vị ấy ra lệnh cho người khác‘: (nghĩa là) Buddharakkhita, người được vị thầy ra lệnh, do không thấy Dhammarakkhita hoặc không muốn nói với (Dhammarakkhita), bèn đến gặp chính Saṅgharakkhita rồi ra lệnh: ‘Thầy của chúng ta nói như vầy – Hình như hãy lấy trộm vật Z’. ‘Phạm tội Tác ác‘: Trước hết, do việc ra lệnh, Buddharakkhita phạm tội Tác ác. ‘Nhận lời, phạm tội Tác ác‘: Cần hiểu rằng khi Saṅgharakkhita nhận lời, người trực tiếp ra lệnh (là Buddharakkhita) phạm tội Tác ác. Còn nếu vị ấy (Saṅgharakkhita) lấy trộm vật đó, thì cả người ra lệnh là Buddharakkhita và người lấy trộm là Saṅgharakkhita, cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng đối với người chủ mưu ban đầu là vị thầy, do sai lệch ám hiệu (ý định ban đầu là qua Dhammarakkhita), nên không phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với Dhammarakkhita, do không hay biết, nên hoàn toàn không phạm tội. Còn Buddharakkhita, đã làm cho hai người (thầy và Dhammarakkhita) được an toàn (khỏi tội Bất Cộng Trụ trong trường hợp này), nhưng tự mình thì bị tổn thất (phạm Bất Cộng Trụ).

Ito paresu catūsu āṇattivāresu paṭhame tāva so gantvā puna paccāgacchatīti bhaṇḍaṭṭhānaṃ gantvā anto ca bahi ca ārakkhaṃ disvā avaharituṃ asakkonto āgacchati. Yadā sakkosi, tadāti kiṃ ajjeva avahaṭaṃ hoti? Gaccha yadā sakkosi tadā naṃ avaharāti. Āpatti dukkaṭassāti evaṃ puna āṇattiyāpi dukkaṭameva hoti. Sace pana taṃ bhaṇḍaṃ avassaṃ hāriyaṃ hoti, atthasādhakacetanā nāma maggānantaraphalasadisā, tasmā ayaṃ āṇattikkhaṇeyeva pārājiko. Sacepi avahārako saṭṭhivassātikkamena taṃ bhaṇḍaṃ avaharati, āṇāpako ca antarāyeva kālaṃ vā karoti, hīnāya vā āvattati; assamaṇova hutvā kālaṃ vā karissati, hīnāya vā āvattissati, avahārakassa pana avahārakkhaṇeyeva pārājikaṃ.
Trong bốn trường hợp ra lệnh sau đây, trước hết, (trường hợp) ‘vị ấy đi rồi lại trở về‘ là (khi người được lệnh) đi đến chỗ cất vật, thấy có sự canh giữ cả trong lẫn ngoài, không thể lấy trộm được, rồi trở về. ‘Khi nào có thể, thì (hãy lấy)‘ (có nghĩa là người ra lệnh nói): ‘Hôm nay đã lấy trộm được chưa? Hãy đi, khi nào có thể thì hãy lấy trộm nó’. ‘Phạm tội Tác ác‘: Như vậy, ngay cả với việc ra lệnh lại, cũng chỉ phạm tội Tác ác (cho lệnh đó). Nhưng nếu vật đó chắc chắn sẽ bị lấy trộm (do lệnh ban đầu), thì tác ý hoàn thành mục đích (của người ra lệnh ban đầu) giống như quả liền sau đạo, do đó vị này (người ra lệnh ban đầu) phạm tội Bất Cộng Trụ ngay tại khoảnh khắc ra lệnh (ban đầu). Ngay cả nếu người lấy trộm sau sáu mươi năm mới lấy trộm vật đó, và người ra lệnh trong khoảng thời gian đó đã chết hoặc đã hoàn tục; thì (người ra lệnh) sẽ chết hoặc hoàn tục khi không còn là Sa-môn (đã phạm Bất Cộng Trụ từ trước); còn người lấy trộm thì phạm tội Bất Cộng Trụ ngay tại khoảnh khắc lấy trộm.

Dutiyavāre – yasmā taṃ saṇikaṃ vā bhaṇanto tassa vā badhiratāya ‘‘mā avaharī’’ti

Etaṃ vacanaṃ na sāveti, tasmā mūlaṭṭho na mutto. Tatiyavāre – pana sāvitattā mutto. Catutthavāre – tena ca sāvitattā, itarena ca ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā oratattā ubhopi muttāti.

Trường hợp thứ hai (trong bốn trường hợp về thu hồi lệnh) – vì (người chủ mưu) nói nhỏ hoặc do người kia bị điếc nên (người kia) không nghe được lời nói ‘Đừng lấy trộm nữa!’,

không làm cho (người kia) nghe được lời nói này, do đó người chủ mưu không được miễn (tội). Trường hợp thứ ba – nhưng do đã làm cho (người kia) nghe được, nên (người chủ mưu) được miễn (tội). Trường hợp thứ tư – do người đó (chủ mưu) đã làm cho (người kia) nghe được, và người kia cũng đã nhận lời ‘Lành thay’ rồi dừng lại (không đi trộm nữa), nên cả hai đều được miễn (tội).

Āṇattikathā niṭṭhitā.

Luận về (Trộm Cắp do) Ra Lệnh đến đây là hết.

Āpattibhedaṃ

Phân Biệt các Tội

122. Idāni tattha tattha ṭhānā cāvanavasena vuttassa adinnādānassa aṅgaṃ vatthubhedena ca āpattibhedaṃ dassento ‘‘pañcahi ākārehī’’tiādimāha. Tattha pañcahi ākārehīti pañcahi kāraṇehi; pañcahi aṅgehīti vuttaṃ hoti. Tatrāyaṃ saṅkhepattho – adinnaṃ ādiyantassa ‘‘parapariggahitañca hotī’’tiādinā nayena vuttehi pañcahākārehi pārājikaṃ hoti, na tato ūnehīti. Tatrime pañca ākārā – parapariggahitaṃ, parapariggahitasaññitā , parikkhārassa garukabhāvo, theyyacittaṃ, ṭhānācāvananti. Ito parehi pana dvīhi vārehi lahuke parikkhāre vatthubhedena thullaccayañca dukkaṭañca dassitaṃ.
122. Bây giờ, để chỉ rõ chi phần của (tội) lấy của không cho đã được nói ở các nơi theo (khía cạnh) làm di chuyển khỏi chỗ, và sự phân biệt các tội tùy theo sự khác biệt của vật, (Luật Pāḷi) bắt đầu bằng ‘Bằng năm cách‘ v.v… Trong đó, ‘bằng năm cách‘ là bằng năm nguyên nhân; có nghĩa là bằng năm chi phần. Ý nghĩa tóm tắt ở đó là – người lấy của không cho phạm tội Bất Cộng Trụ khi có đủ năm cách (chi phần) đã được nói theo phương pháp bắt đầu bằng ‘Và (vật đó) là sở hữu của người khác‘ v.v…, chứ không (phạm Bất Cộng Trụ) nếu ít hơn (năm chi phần đó). Năm cách (chi phần) đó là: (1) vật thuộc sở hữu của người khác, (2) nhận biết là vật thuộc sở hữu của người khác, (3) vật dụng có giá trị nặng (đủ để phạm tội), (4) có tâm trộm cắp, và (5) làm di chuyển (vật) khỏi chỗ. Còn bằng hai trường hợp sau đây, đối với vật dụng nhẹ (ít giá trị), tùy theo sự khác biệt của vật, (tội) Trọng Tội và Tác ác được chỉ rõ.

125.‘‘Chahākārehī’’tiādinā nayena vuttavārattaye pana na sakasaññitā, na vissāsaggāhitā, na tāvakālikatā, parikkhārassa garukabhāvo, theyyacittaṃ, ṭhānācāvananti evaṃ cha ākārā veditabbā. Vatthubhedena panetthāpi paṭhamavāre pārājikaṃ. Dutiyatatiyesu thullaccayadukkaṭāni vuttāni. Tato paresu pana tīsu vāresu vijjamānepi vatthubhede vatthussa parehi apariggahitattā dukkaṭameva vuttaṃ. Tatra yadetaṃ ‘‘na ca parapariggahita’’nti vuttaṃ, taṃ anajjhāvutthakaṃ vā hotu chaḍḍitaṃ chinnamūlakaṃ assāmikavatthu, attano santakaṃ vā, ubhayampi ‘‘na ca parapariggahita’’ntveva saṅkhyaṃ gacchati. Yasmā panettha parapariggahitasaññā ca atthi, theyyacittena ca gahitaṃ, tasmā anāpatti na vuttāti.
125. Còn trong ba trường hợp được nói theo phương pháp bắt đầu bằng ‘Bằng sáu cách‘ v.v…, sáu cách sau đây cần được hiểu: (1) không nhận biết là của mình, (2) không lấy do tin cậy, (3) không (lấy) dùng tạm thời, (4) vật dụng có giá trị nặng, (5) có tâm trộm cắp, và (6) làm di chuyển (vật) khỏi chỗ. Ở đây cũng vậy, tùy theo sự khác biệt của vật, trong trường hợp đầu tiên, (phạm tội) Bất Cộng Trụ. Trong (trường hợp) thứ hai và thứ ba, các (tội) Trọng Tội và Tác ác được nói đến. Còn trong ba trường hợp sau đó, dù có sự khác biệt về vật, nhưng do vật đó không thuộc sở hữu của người khác, nên chỉ (phạm tội) Tác ác được nói đến. Trong đó, điều được nói là ‘và không phải là sở hữu của người khác‘, dù đó là vật không ai đoái hoài, vật bị vứt bỏ, vật đã bị cắt gốc không có chủ, hoặc là vật sở hữu của chính mình, cả hai (trường hợp) đều được kể là ‘không phải là sở hữu của người khác’. Vì ở đây có sự nhận biết là vật thuộc sở hữu của người khác (dù thực tế không phải) và đã lấy với tâm trộm cắp, do đó không nói là không phạm tội.

Āpattibhedaṃ niṭṭhitaṃ.

Phần Phân Biệt các Tội đến đây là hết.

Anāpattibhedaṃ

Phân Biệt các Trường Hợp Không Phạm Tội

131. Evaṃ vatthuvasena ca cittavasena ca āpattibhedaṃ dassetvā idāni anāpattibhedaṃ dassento ‘‘anāpatti sasaññissā’’tiādimāha. Tattha sasaññissāti sakasaññissa, ‘‘mayhaṃ santakaṃ idaṃ bhaṇḍa’’nti evaṃ sasaññissa parabhaṇḍampi gaṇhato gahaṇe anāpatti, gahitaṃ pana puna dātabbaṃ. Sace sāmikehi ‘‘dehī’’ti vutto na deti, tesaṃ dhuranikkhepe pārājikaṃ.
131. Sau khi đã chỉ rõ sự phân biệt các tội tùy theo vật và tùy theo tâm như vậy, bây giờ để chỉ rõ sự phân biệt các trường hợp không phạm tội, (Luật Pāḷi) bắt đầu bằng ‘Không phạm tội đối với người có nhận biết (là của mình)‘ v.v… Trong đó, ‘đối với người có nhận biết (là của mình)‘ là đối với người có nhận biết là của mình, (nghĩ rằng) ‘vật này là sở hữu của ta’; người có nhận biết như vậy, ngay cả khi lấy vật của người khác, thì khi lấy không phạm tội, nhưng vật đã lấy thì phải trả lại. Nếu khi được các chủ nhân nói ‘Hãy trả lại!’ mà không trả, khi họ từ bỏ trách nhiệm (đòi lại), phạm tội Bất Cộng Trụ.

Vissāsaggāheti vissāsaggahaṇepi anāpatti. Vissāsaggāhalakkhaṇaṃ pana iminā suttena jānitabbaṃ – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatassa vissāsaṃ gahetuṃ – sandiṭṭho ca hoti, sambhatto ca, ālapito ca, jīvati ca, gahite ca attamano’’ti (mahāva. 356). Tattha sandiṭṭhoti diṭṭhamattakamitto, sambhattoti daḷhamitto, ālapitoti ‘‘mama santakaṃ yaṃ icchasi, taṃ gaṇheyyāsi, āpucchitvā gahaṇe kāraṇaṃ natthī’’ti vutto. Jīvatīti anuṭṭhānaseyyāya sayitopi yāva jīvitindriyupacchedaṃ na pāpuṇāti. Gahite ca attamanoti gahite tuṭṭhacitto hoti, evarūpassa santakaṃ ‘‘gahite me attamano bhavissatī’’ti jānantena gahetuṃ vaṭṭati. Anavasesapariyādānavasena cetāni pañcaṅgāni vuttāni. Vissāsaggāho pana tīhi aṅgehi ruhati – sandiṭṭho, jīvati, gahite attamano; sambhatto, jīvati, gahite attamano; ālapito, jīvati, gahite attamanoti.
Trong trường hợp lấy do tin cậy‘: ngay cả khi lấy do tin cậy, cũng không phạm tội. Nhưng đặc điểm của việc lấy do tin cậy cần được biết qua kinh này: ‘Này các Tỳ khưu, Ta cho phép lấy do tin cậy (đối với vật của người) hội đủ năm chi phần: (1) là người quen biết, (2) là bạn thân, (3) đã ngỏ lời (cho phép), (4) còn sống, và (5) hài lòng khi (vật) được lấy’.’ (mahāva. 356). Trong đó, ‘người quen biết‘ là người bạn chỉ mới gặp mặt; ‘bạn thân‘ là người bạn bè gắn bó; ‘đã ngỏ lời‘ là người đã được (chủ nhân) nói: ‘Vật sở hữu của tôi, thầy muốn gì thì cứ lấy, không có lý do gì phải hỏi ý kiến rồi mới lấy’. ‘Còn sống‘ là ngay cả khi đang nằm trên giường bệnh không thể đứng dậy, chừng nào chưa đạt đến sự đoạn tuyệt mạng căn. ‘Và hài lòng khi (vật) được lấy‘ là có tâm hoan hỷ khi (vật) được lấy; biết rằng người như vậy ‘sẽ hài lòng khi ta lấy (vật của y)’, thì được phép lấy vật sở hữu của người đó. Năm chi phần này được nói theo nghĩa là phải có đầy đủ không thiếu sót. Nhưng việc lấy do tin cậy có thể thành tựu với ba chi phần: (1) là người quen biết, còn sống, và hài lòng khi (vật) được lấy; (2) là bạn thân, còn sống, và hài lòng khi (vật) được lấy; (3) đã ngỏ lời, còn sống, và hài lòng khi (vật) được lấy.

Yo pana na jīvati, na ca gahite attamano hoti; tassa santakaṃ vissāsaggāhena gahitampi puna dātabbaṃ. Dadamānena ca matakadhanaṃ tāva ye tassa dhane issarā gahaṭṭhā vā pabbajitā vā, tesaṃ dātabbaṃ. Anattamanassa santakaṃ tasseva dātabbaṃ. Yo pana paṭhamaṃyeva ‘‘suṭṭhu kataṃ tayā mama santakaṃ gaṇhantenā’’ti vacībhedena vā cittuppādamattena vā anumoditvā pacchā kenaci kāraṇena kupito, paccāharāpetuṃ na labhati. Yopi adātukāmo cittena pana adhivāseti, na kiñci vadati, sopi puna paccāharāpetuṃ na labhati. Yo pana ‘‘mayā tumhākaṃ santakaṃ gahitaṃ vā paribhuttaṃ vā’’ti vutte ‘‘gahitaṃ vā hotu paribhuttaṃ vā, mayā pana taṃ kenacideva karaṇīyena ṭhapitaṃ, pākatikaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vadati. Ayaṃ paccāharāpetuṃ labhati.
Còn người nào không còn sống, hoặc không hài lòng khi (vật) được lấy; vật sở hữu của người đó dù đã được lấy do tin cậy cũng phải trả lại. Và khi trả lại, tài sản của người đã chết trước hết phải được trả cho những người có quyền thừa kế tài sản đó, dù là tại gia hay xuất gia. Vật sở hữu của người không hài lòng (khi vật được lấy) thì phải trả lại cho chính người đó. Còn người nào ngay từ đầu đã hoan hỷ bằng lời nói ‘Thầy làm rất tốt khi lấy vật sở hữu của tôi’ hoặc chỉ bằng ý nghĩ, rồi sau đó vì một lý do nào đó mà tức giận, thì không được phép đòi lại. Ngay cả người không muốn cho, nhưng trong tâm lại chấp thuận, không nói gì, vị ấy cũng không được phép đòi lại sau đó. Còn người nào, khi được (người lấy) nói ‘Tôi đã lấy hoặc đã dùng vật sở hữu của thầy’, mà đáp rằng: ‘Dù đã lấy hay đã dùng, nhưng tôi đã để vật đó (dành) cho một việc cần nào đó, thầy nên làm cho nó trở lại như cũ (hoặc đền)’; vị này được phép đòi lại.

Tāvakāliketi ‘‘paṭidassāmi paṭikarissāmī’’ti evaṃ gaṇhantassa tāvakālikepi gahaṇe anāpatti. Gahitaṃ pana sace bhaṇḍasāmiko puggalo vā gaṇo vā ‘‘tuyhevetaṃ hotū’’ti anujānāti, iccetaṃ kusalaṃ. No ce anujānāti, āharāpente dātabbaṃ. Saṅghasantakaṃ pana paṭidātumeva vaṭṭati.
(Lấy) dùng tạm thời‘: người nào lấy (vật) với ý nghĩ ‘tôi sẽ trả lại, tôi sẽ đền lại’, thì ngay cả khi lấy dùng tạm thời, cũng không phạm tội khi lấy. Nhưng vật đã lấy, nếu chủ nhân của vật, dù là cá nhân hay một nhóm, cho phép rằng ‘vật đó hãy thuộc về thầy’, điều đó là tốt. Nếu không cho phép, khi (họ) đòi lại, phải trả. Còn vật sở hữu của Tăng chúng thì chỉ được phép trả lại mà thôi.

Petapariggaheti ettha pana pettivisaye upapannāpi kālaṃ katvā tasmiṃyeva attabhāve nibbattāpi cātumahārājikādayo devāpi sabbe ‘‘petā’’ tveva saṅkhyaṃ gatā, tesaṃ pariggahe anāpatti. Sacepi hi sakko devarājā āpaṇaṃ pasāretvā nisinno hoti, dibbacakkhuko ca bhikkhu taṃ ñatvā attano cīvaratthāya satasahassagghanakampi sāṭakaṃ tassa ‘‘mā gaṇha, mā gaṇhā’’ti vadantassāpi gahetvā gacchati, vaṭṭati. Devatā pana uddissa balikammaṃ karontehi rukkhādīsu laggitasāṭake vattabbameva natthi.
Trong trường hợp vật sở hữu của ngạ quỷ‘: Ở đây, những chúng sanh đã tái sanh trong cảnh giới ngạ quỷ, hoặc những chúng sanh sau khi chết đã tái sanh trong chính thân tướng đó (như ngạ quỷ), hoặc cả chư thiên như Tứ Đại Thiên Vương v.v…, tất cả đều được kể là ‘ngạ quỷ’ (trong ngữ cảnh này); đối với vật sở hữu của họ, (lấy) không phạm tội. Vì ngay cả nếu vua trời Sakka đang ngồi bày sạp hàng, và Tỳ khưu có thiên nhãn biết được điều đó, rồi vì mục đích may y của mình mà lấy tấm vải trị giá một trăm ngàn (đồng) của vị ấy, dù vị ấy có nói ‘Đừng lấy, đừng lấy!’, rồi bỏ đi, cũng được phép. Còn đối với những tấm vải được những người làm lễ cúng dường nhắm đến chư thiên mà treo trên cây cối v.v…, thì không có gì để nói (cũng được phép lấy).

Tiracchānagatapariggaheti tiracchānagatānampi pariggahe anāpatti. Sacepi hi nāgarājā vā supaṇṇamāṇavako vā manussarūpena āpaṇaṃ pasāreti, tato cassa santakaṃ koci bhikkhu purimanayeneva gahetvā gacchati, vaṭṭati. Sīho vā byaggho vā migamahiṃsādayo vadhitvā khādanto jighacchāpīḷito āditova na vāretabbo. Anatthampi hi kareyya. Yadi pana thoke khāyite vāretuṃ sakkoti, vāretvā gahetuṃ vaṭṭati. Senādayopi āmisaṃ gahetvā gacchante pātāpetvā gaṇhituṃ vaṭṭati.
Trong trường hợp vật sở hữu của loài bàng sanh‘: ngay cả đối với vật sở hữu của các loài bàng sanh, (lấy) cũng không phạm tội. Vì ngay cả nếu vua rồng hoặc một thanh niên kim xí điểu hiện thân người rồi bày sạp hàng, Tỳ khưu nào lấy vật sở hữu của vị ấy theo phương pháp đã nói trước rồi bỏ đi, cũng được phép. Sư tử hoặc cọp đang giết rồi ăn thịt nai, trâu v.v…, (nếu Tỳ khưu) bị đói khát hành hạ, thì ngay từ đầu không nên ngăn cản (chúng). Vì (chúng) có thể gây hại. Nhưng nếu sau khi (chúng) đã ăn một ít mà có thể ngăn cản được, thì được phép ngăn cản rồi lấy (thịt đó). Đối với chim ưng v.v… đang tha mồi mà bay đi, cũng được phép làm cho (mồi) rơi xuống rồi nhặt lấy.

Paṃsukūlasaññissāti assāmikaṃ ‘‘idaṃ paṃsukūla’’nti evaṃsaññissāpi gahaṇe anāpatti. Sace pana taṃ sassāmikaṃ hoti, āharāpente dātabbaṃ . Ummattakassāti pubbe vuttappakārassa ummattakassāpi anāpatti. Ādikammikassāti idha dhaniyo ādikammiko, tassa anāpatti. Avasesānaṃ pana rajakabhaṇḍikādicorānaṃ chabbaggiyādīnaṃ āpattiyevāti.
Đối với người có nhận biết là vật vô chủ‘: ngay cả người có nhận biết về vật không có chủ rằng ‘đây là vật vô chủ’, khi lấy cũng không phạm tội. Nhưng nếu vật đó có chủ, khi (họ) đòi lại, phải trả. ‘Đối với người điên‘: đối với người điên thuộc loại đã nói trước, cũng không phạm tội. ‘Đối với người phạm lần đầu‘: ở đây, Dhaniya là người phạm lần đầu, vị ấy không phạm tội (Bất Cộng Trụ do học giới chưa được chế định). Còn đối với những kẻ trộm còn lại như (kẻ trộm) gói đồ của thợ nhuộm, nhóm sáu Tỳ khưu v.v…, thì vẫn phạm tội.

Anāpattibhedaṃ niṭṭhitaṃ.

Phần Phân Biệt các Trường Hợp Không Phạm Tội đến đây là hết.

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải thích Phân Tích Từ Ngữ đến đây là hết.

Pakiṇṇakakathā

Luận về Tạp Sự (Các Vấn Đề Linh Tinh)

Samuṭṭhānañca kiriyā, atho saññā sacittakaṃ;
Lokavajjañca kammañca, kusalaṃ vedanāya cāti.
‘Sự phát sanh và hành động, kế đó nhận thức, (việc) có tâm;
Lỗi thế gian, và là nghiệp, tâm thiện/bất thiện, và do cảm thọ.’

Imasmiṃ pana pakiṇṇake idaṃ sikkhāpadaṃ tisamuṭṭhānaṃ – sāhatthikaṃ kāyato ca cittato ca samuṭṭhāti, āṇattikaṃ vācato ca cittato ca samuṭṭhāti, sāhatthikāṇattikaṃ kāyato ca vācato ca cittato ca samuṭṭhāti. Kiriyāsamuṭṭhānañca, karontoyeva hi etaṃ āpajjati na akaronto. ‘‘Adinnaṃ ādiyāmī’’ti saññāya abhāvena muccanato saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ , lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, tuṭṭho vā bhīto vā majjhatto vā taṃ āpajjatīti tivedananti sabbaṃ paṭhamasikkhāpade vuttanayeneva veditabbaṃ.
Còn trong phần tạp sự này, học giới này có ba cách phát sanh: (1) (Nếu) tự tay làm, thì phát sanh từ thân và từ tâm; (2) (nếu) ra lệnh, thì phát sanh từ lời và từ tâm; (3) (nếu) vừa tự tay làm vừa ra lệnh, thì phát sanh từ thân, từ lời và từ tâm. Và (nó) phát sanh do hành động; vì chỉ người làm mới phạm tội này, không phải người không làm. Được miễn trừ do không có nhận thức ‘Ta đang lấy của không cho’, nên (đây là tội có sự) giải thoát do nhận thức; (là tội) có tâm; là lỗi thế gian; là thân nghiệp, là khẩu nghiệp; (phát sanh với) tâm bất thiện; người phạm tội đó dù hoan hỷ, hoặc sợ hãi, hoặc dửng dưng, (cũng đều phạm) nên có ba cảm thọ – tất cả cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong học giới thứ nhất.

Pakiṇṇakakathā niṭṭhitā.

Luận về Tạp Sự (Các Vấn Đề Linh Tinh) đến đây là hết.

Vinītavatthuvaṇṇanā

Phần Giải thích các Trường Hợp Đã Được Quyết Định

132. Vinītavatthukathāsu chabbaggiyavatthu anupaññattiyaṃ vuttameva.
132. Trong các luận về những trường hợp đã được quyết định, câu chuyện về nhóm sáu Tỳ khưu đã được nói trong phần chế định phụ.

Dutiyavatthumhi – cittaṃ nāma puthujjanānaṃ rāgādivasena pakatiṃ vijahitvā dhāvati sandhāvati vidhāvati. Sace bhagavā kāyavacīdvārabhedaṃ vināpi cittuppādamattena āpattiṃ paññapeyya, ko sakkuṇeyya anāpattikaṃ attānaṃ kātuṃ! Tenāha – ‘‘anāpatti bhikkhu cittuppāde’’ti. Cittavasikena pana na bhavitabbaṃ, paṭisaṅkhānabalena cittaṃ nivāretabbamevāti.
Trong câu chuyện thứ hai – tâm của phàm phu, do tham ái v.v…, thường từ bỏ trạng thái tự nhiên mà chạy rong, chạy theo, chạy bừa. Nếu Thế Tôn, không cần đến sự vi phạm qua cửa thân và cửa lời, mà chỉ với sự khởi lên của tâm đã chế định tội, thì ai có thể làm cho mình không phạm tội được! Do đó Ngài nói: ‘Tỳ khưu không phạm tội khi chỉ có tâm khởi lên‘. Nhưng không nên bị tâm chi phối, mà phải dùng sức mạnh của sự quán xét để ngăn chặn tâm.

133-4. Āmasana-phandāpana-ṭhānācāvanavatthūni uttānatthāneva. Tato parāni ca theyyacitto bhūmito aggahesīti vatthupariyosānāni.
133-4. Các câu chuyện về chạm đến, làm rung động, làm di chuyển khỏi chỗ đều có ý nghĩa rõ ràng. Và các (câu chuyện) sau đó cho đến hết câu chuyện ‘với tâm trộm cắp đã lấy từ đất‘ (cũng vậy).

135. Niruttipathavatthusmiṃ 1.329 ādiyīti gaṇhi, ‘‘corosi tva’’nti parāmasi. Itaro pana ‘‘kena avahaṭa’’nti vutte ‘‘mayā avahaṭa’’nti pucchāsabhāgena paṭiññaṃ adāsi. Yadi hi itarena ‘‘kena gahitaṃ, kena apanītaṃ, kena ṭhapita’’nti vuttaṃ abhavissa, atha ayampi ‘‘mayā gahitaṃ, apanītaṃ, ṭhapita’’nti vā vadeyya. Mukhaṃ nāma bhuñjanatthāya ca kathanatthāya ca kataṃ, theyyacittaṃ pana vinā avahāro natthi. Tenāha bhagavā – ‘‘anāpatti bhikkhu niruttipathe’’ti. Vohāravacanamatte anāpattīti attho. Tato paraṃ veṭhanavatthu pariyosānaṃ sabbaṃ uttānatthameva.
135. Trong câu chuyện về cách diễn đạt ngôn ngữ, ‘đã lấy‘ là (người kia) đã nhận, (nhưng Tỳ khưu lại) quy kết ‘ngươi là kẻ trộm’. Còn người kia, khi được hỏi ‘ai đã lấy trộm?’, đã thú nhận một phần theo câu hỏi rằng ‘tôi đã lấy trộm’. Vì nếu người kia đã được hỏi ‘ai đã lấy, ai đã mang đi, ai đã đặt (ở đây)?’, thì vị này cũng có thể đã nói ‘tôi đã lấy, đã mang đi, đã đặt (ở đây)’. Miệng được tạo ra để ăn và để nói, nhưng nếu không có tâm trộm cắp thì không có sự chiếm đoạt. Do đó Thế Tôn nói: ‘Tỳ khưu không phạm tội trong cách diễn đạt ngôn ngữ‘. Nghĩa là không phạm tội chỉ với lời nói theo cách dùng thông thường. Từ đó trở đi cho đến hết câu chuyện về gói (y), tất cả đều có ý nghĩa rõ ràng.

137. Abhinnasarīravatthusmiṃ adhivatthoti sāṭakataṇhāya tasmiṃyeva sarīre nibbatto. Anādiyantoti tassa vacanaṃ agaṇhanto, ādaraṃ vā akaronto. Taṃ sarīraṃ uṭṭhahitvāti peto attano ānubhāvena taṃ sarīraṃ uṭṭhāpesi. Tena vuttaṃ – ‘‘taṃ sarīraṃ uṭṭhahitvā’’ti. Dvāraṃ thakesīti bhikkhussa susānasamīpeyeva vihāro, tasmā bhīrukajātiko bhikkhu khippameva tattha pavisitvā dvāraṃ thakesi. Tattheva paripatīti dvāre thakite peto sāṭake nirālayo hutvā taṃ sarīraṃ pahāya yathākammaṃ gato, tasmā taṃ sarīraṃ tattheva paripati, patitanti vuttaṃ hoti.
137. Trong câu chuyện về tử thi còn nguyên vẹn, ‘ngự trên đó‘ là (con ngạ quỷ) do tham luyến tấm vải mà tái sanh ngay trên tử thi đó. ‘Không để ý‘ là không nghe lời của nó, hoặc không tỏ ra tôn trọng. ‘Tử thi đó đứng dậy‘: (nghĩa là) con ngạ quỷ dùng thần lực của mình làm cho tử thi đó đứng dậy. Do đó đã nói: ‘tử thi đó đứng dậy’. ‘Đã đóng cửa‘: Tịnh xá của Tỳ khưu ở ngay gần nghĩa địa, do đó vị Tỳ khưu nhát gan đã nhanh chóng vào đó rồi đóng cửa. ‘Ngã xuống ngay tại đó‘: Khi cửa đã đóng, con ngạ quỷ không còn luyến tiếc tấm vải nữa, đã từ bỏ tử thi đó rồi đi theo nghiệp của mình; do đó, tử thi đó ngã xuống ngay tại đó, có nghĩa là đã ngã.

Abhinne sarīreti abbhuṇhe allasarīre paṃsukūlaṃ na gahetabbaṃ, gaṇhantassa evarūpā upaddavā honti, dukkaṭañca āpajjati. Bhinne pana gahetuṃ vaṭṭati. Kittāvatā pana bhinnaṃ hoti? Kāka-kulala-soṇa-siṅgālādīhi mukhatuṇḍakena vā dāṭhāya vā īsakaṃ phālitamattenāpi. Yassa pana patato ghaṃsanena chavimattaṃ chinnaṃ hoti, cammaṃ acchinnaṃ, etaṃ abhinnameva; camme pana chinne bhinnaṃ. Yassāpi sajīvakāleyeva pabhinnā gaṇḍakuṭṭhapiḷakā vā vaṇo vā hoti, idampi bhinnaṃ. Tatiyadivasato pabhuti uddhumātakādibhāvena kuṇapabhāvaṃ upagatampi bhinnameva. Sabbena sabbaṃ pana abhinnepi susānagopakehi vā aññehi vā manussehi gāhāpetuṃ vaṭṭati. No ce aññaṃ labhati, satthakena vā kenaci vā vaṇaṃ katvā gahetabbaṃ. Visabhāgasarīre pana satiṃ upaṭṭhapetvā samaṇasaññaṃ uppādetvā sīse vā hatthapādapiṭṭhiyaṃ vā vaṇaṃ katvā gahetuṃ vaṭṭati.
Trên tử thi còn nguyên vẹn‘: Không được lấy vải liệm tử thi từ tử thi còn tươi, chưa trương sình; người lấy (như vậy) sẽ gặp những tai họa như thế, và phạm tội Tác ác. Còn (từ tử thi) đã bị phân hủy thì được phép lấy. Nhưng đến mức nào thì (tử thi) được xem là đã bị phân hủy? Ngay cả khi chỉ bị quạ, diều hâu, chó, chó rừng v.v… dùng mỏ hoặc răng làm rách một chút. Tử thi nào do ngã hoặc cọ xát mà chỉ bị rách lớp da ngoài, còn lớp da trong chưa rách, tử thi đó vẫn còn nguyên vẹn; còn khi lớp da trong đã rách, (thì xem như) đã bị phân hủy. Ngay cả tử thi nào khi còn sống đã có các loại mụn nhọt, bệnh cùi, hoặc vết thương đã vỡ ra, tử thi này cũng (xem như) đã bị phân hủy. Kể từ ngày thứ ba trở đi, (tử thi) đạt đến tình trạng tử thi do trương phình lên v.v… cũng (xem như) đã bị phân hủy. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, ngay cả đối với tử thi còn nguyên vẹn, cũng được phép nhờ người giữ nghĩa địa hoặc những người khác lấy giúp. Nếu không tìm được người khác, phải dùng dao nhỏ hoặc vật gì đó làm một vết thương (trên tử thi) rồi mới lấy. Còn đối với tử thi khác giới, phải an trú chánh niệm, khởi lên nhận thức về thân phận Sa-môn, rồi làm một vết thương ở đầu, hoặc ở mu bàn tay, mu bàn chân, hoặc ở lưng rồi mới được lấy.

Kusasaṅkāmanavatthukathā

Luận về Câu Chuyện Di Chuyển Thẻ Kusa

138. Tadanantare vatthusmiṃ kusaṃ saṅkāmetvā cīvaraṃ aggahesīti pubbe ‘‘ādiyeyyā’’ti imassa padassa atthavaṇṇanāyaṃ nāmamattena dassitesu theyyāvahāra-pasayhāvahāra-parikappāvahārapaacchannāvahāra-kusāvahāresu kusāvahārena avaharīti attho.
138. Trong câu chuyện kế đó, ‘đã di chuyển thẻ kusa rồi lấy y‘ nghĩa là: trong số các cách chiếm đoạt có tính trộm cắp, chiếm đoạt bằng vũ lực, chiếm đoạt bằng cách hoạch định, chiếm đoạt bằng cách che giấu, và chiếm đoạt bằng thẻ kusa đã được chỉ bằng tên trong phần giải thích ý nghĩa của thuật ngữ ‘lấy’ trước đây, (vị ấy) đã chiếm đoạt bằng cách (gian lận) thẻ kusa.

Imesaṃ pana avahārānaṃ evaṃ nānattaṃ veditabbaṃ – yo hi koci sassāmikaṃ bhaṇḍaṃ rattibhāge vā divasabhāge vā sandhicchedādīni katvā adissamāno avaharati, kūṭamānakūṭakahāpaṇādīhi vā vañcetvā gaṇhāti, tassevaṃ gaṇhato avahāro ‘‘theyyāvahāro’’ti veditabbo.
Sự khác biệt của các cách chiếm đoạt này cần được hiểu như vầy – Người nào lấy trộm vật có chủ vào ban đêm hoặc ban ngày bằng cách khoét vách v.v… một cách kín đáo, hoặc dùng cân gian, tiền giả v.v… mà lừa gạt rồi lấy, thì sự chiếm đoạt của người lấy như vậy cần được hiểu là ‘chiếm đoạt có tính trộm cắp‘.

Yo pana pare pasayha balasā abhibhuyya, atha vā pana santajjetvā bhayaṃ dassetvā tesaṃ santakaṃ gaṇhāti, panthaghāta-gāmaghātādīni karontā dāmarikacorā viya kodhavasena paragharavilopaṃ karontā attano pattabalito ca adhikaṃ balakkārena gaṇhantā rāja-rājamahāmattādayo viya; tassevaṃ gaṇhato avahāro ‘‘pasayhāvahāro’’ti veditabbo.
Còn người nào chiếm đoạt của người khác bằng cách cưỡng bức, dùng vũ lực áp đảo, hoặc đe dọa, làm cho sợ hãi rồi lấy vật sở hữu của họ, giống như những tên trộm cướp nổi loạn thực hiện các vụ cướp đường, cướp làng v.v…, hoặc giống như các vị vua, đại thần của vua v.v… do tức giận mà cướp phá nhà của người khác, dùng vũ lực lấy nhiều hơn cả quyền lực mà mình đạt được; sự chiếm đoạt của người lấy như vậy cần được hiểu là ‘chiếm đoạt bằng vũ lực‘.

Parikappetvā gaṇhato pana avahāro ‘‘parikappāvahāro’’ti vuccati, so bhaṇḍaparikappa-okāsaparikappavasena duvidho . Tatrāyaṃ bhaṇḍaparikappo – idhekacco sāṭakatthiko antogabbhaṃ pavisitvā ‘‘sace sāṭako bhavissati, gaṇhissāmi; sace suttaṃ, na gaṇhissāmī’’ti parikappetvā andhakāre pasibbakaṃ gaṇhāti, sāṭako ce tatra hoti, uddhāreyeva pārājikaṃ. Suttaṃ ce hoti, rakkhati. Bahi nīharitvā muñcitvā ‘‘sutta’’nti ñatvā puna āharitvā yathāṭhāne ṭhapeti, rakkhatiyeva. ‘‘Sutta’’nti ñatvāpi ‘‘yaṃ laddhaṃ, taṃ gahetabba’’nti gacchati, padavārena kāretabbo. Bhūmiyaṃ ṭhapetvā gaṇhāti, uddhāre pārājikaṃ. ‘‘Coro, coro’’ti sāmikehi pariyuṭṭhito chaḍḍetvā palāyati, rakkhati. Sāmikā taṃ disvā gaṇhanti, iccetaṃ kusalaṃ. Añño ce koci gaṇhāti, bhaṇḍadeyyaṃ. Atha nivattesu sāmikesu sayameva taṃ disvā ‘‘pagevetaṃ mayā nīhaṭaṃ, mama dāni santaka’’nti gaṇhāti, rakkhati; bhaṇḍadeyyaṃ pana hoti. ‘‘Sace suttaṃ bhavissati, gaṇhissāmi; sace sāṭako, na gaṇhissāmi. Sace sappi bhavissati, gaṇhissāmi; sace telaṃ, na gaṇhissāmī’’tiādinā nayena parikappetvā gaṇhantassāpi eseva nayo.
Còn sự chiếm đoạt của người lấy sau khi đã hoạch định trước được gọi là ‘chiếm đoạt bằng cách hoạch định‘; nó có hai loại: hoạch định về vật và hoạch định về nơi chốn. Trong đó, đây là ‘hoạch định về vật‘ – ở đây, một người cần y, vào phòng trong rồi hoạch định trước: ‘Nếu là y, ta sẽ lấy; nếu là chỉ, ta sẽ không lấy’; rồi trong bóng tối nắm lấy một túi vải, nếu trong đó có y, thì ngay khi nhấc lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu là chỉ, thì (vật đó) vẫn còn được bảo vệ (chưa bị trộm). (Nếu) mang ra ngoài, mở ra, biết là ‘chỉ’ rồi mang vào lại đặt ở chỗ cũ, (vật đó) vẫn còn được bảo vệ. Ngay cả khi biết là ‘chỉ’, mà (nghĩ rằng) ‘thứ gì đã lấy được thì phải lấy’ rồi bỏ đi, phải bị (xử phạt) theo từng bước chân. (Nếu) đặt xuống đất rồi (mới quyết định) lấy, khi nhấc lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu) bị chủ nhân la lớn ‘Trộm, trộm!’, (Tỳ khưu) vứt bỏ (vật) rồi chạy trốn, (vật đó) vẫn còn được bảo vệ. Chủ nhân thấy vật đó rồi lấy lại, điều đó là tốt. Nếu người nào khác lấy, thì phải đền vật (cho chủ nhân ban đầu). Hoặc nếu sau khi các chủ nhân đã quay đi, (Tỳ khưu) tự mình thấy vật đó rồi (nghĩ rằng) ‘sáng sớm ta đã mang cái này ra, giờ nó là của ta’ rồi lấy, thì (vật đó) vẫn còn được bảo vệ (khi suy nghĩ); nhưng phải đền vật (nếu thực sự lấy với ý định đó). Người nào hoạch định trước rồi lấy theo phương pháp như: ‘Nếu là chỉ, ta sẽ lấy; nếu là y, ta sẽ không lấy. Nếu là bơ lỏng, ta sẽ lấy; nếu là dầu, ta sẽ không lấy’ v.v…, cũng theo phương pháp này.

Mahāpaccariyādīsu pana ‘‘sāṭakatthikopi sāṭakapasibbakameva gahetvā nikkhanto bahi ṭhatvā muñcitvā ‘sāṭako aya’nti disvā gacchanto paduddhāreneva kāretabbo’’ti vuttaṃ. Ettha pana ‘‘sace sāṭako bhavissati, gaṇhissāmī’’ti parikappitattā parikappo dissati, disvā haṭattā parikappāvahāro na dissati. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana yaṃ parikappitaṃ taṃ adiṭṭhaṃ parikappitabhāve ṭhitaṃyeva uddharantassa avahāro vutto, tasmā tattha parikappāvahāro dissati. ‘‘Taṃ maññamāno taṃ avaharī’’ti pāḷiyā ca sametīti. Tattha yvāyaṃ ‘‘sace sāṭako bhavissati, gaṇhissāmī’’tiādinā nayena pavatto parikappo, ayaṃ ‘‘bhaṇḍaparikappo’’ nāma.
Còn trong các Chú giải như Chú giải Mahāpaccari v.v… thì nói: ‘Ngay cả người cần y, sau khi đã lấy chính túi vải đựng y rồi đi ra ngoài, đứng ở ngoài mở ra, thấy ‘đây là y’ rồi bỏ đi, cũng chỉ phải bị (xử phạt) theo từng bước chân (nếu giá trị của y chưa đủ Bất Cộng Trụ hoặc có yếu tố khác)’. Nhưng ở đây, vì đã hoạch định trước ‘Nếu là y, ta sẽ lấy’, nên có sự hoạch định; (nhưng) vì đã thấy rồi mới lấy đi, nên không thấy có sự chiếm đoạt bằng cách hoạch định (theo nghĩa lấy vật chưa thấy). Còn trong Đại Chú Giải, nói rằng người nào nhấc vật đã được hoạch định mà chưa thấy, khi nó vẫn còn trong tình trạng đã được hoạch định (chưa biết chắc là gì), thì đó là sự chiếm đoạt; do đó, ở đó thấy có sự chiếm đoạt bằng cách hoạch định. Và điều này phù hợp với Luật Pāḷi (trong trường hợp) ‘Tưởng là vật đó rồi lấy trộm chính vật đó’. Trong đó, sự hoạch định đã diễn ra theo phương pháp bắt đầu bằng ‘Nếu là y, ta sẽ lấy’ v.v…, đây gọi là ‘hoạch định về vật’.

Okāsaparikappo pana evaṃ veditabbo – idhekacco lolabhikkhu parapariveṇaṃ vā kulagharaṃ vā araññe kammantasālaṃ vā pavisitvā tattha kathāsallāpena nisinno kiñci lobhaneyyaṃ parikkhāraṃ oloketi, olokento ca pana disvā dvārapamukhaheṭṭhāpāsādapariveṇadvārakoṭṭhakarukkhamūlādivasena paricchedaṃ katvā ‘‘sace maṃ etthantare passissanti, daṭṭhukāmatāya gahetvā vicaranto viya etesaṃyeva dassāmi; no ce passissanti, harissāmī’’ti parikappeti. Tassa taṃ ādāya parikappitaparicchedaṃ atikkantamatte pārājikaṃ. Sace upacārasīmaṃ parikappeti, tadabhimukhova gacchanto kammaṭṭhānādīni manasi karonto vā aññavihito vā asatiyā upacārasīmaṃ atikkamati, bhaṇḍadeyyaṃ. Athāpissa taṃ ṭhānaṃ pattassa coro vā hatthī vā vāḷamigo vā mahāmegho vā vuṭṭhahati, so ca tamhā upaddavā muccitukamyatāya sahasā taṃ ṭhānaṃ atikkamati, bhaṇḍadeyyameva. Keci panettha ‘‘yasmā mūleva theyyacittena gahitaṃ, tasmā na rakkhati, avahāroyevā’’ti vadanti. Ayaṃ tāva mahāaṭṭhakathānayo. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘sacepi so antoparicchede hatthiṃ vā assaṃ vā abhiruhitvā taṃ neva pājeti, na pājāpeti; paricchede atikkantepi pārājikaṃ natthi, bhaṇḍadeyyamevā’’ti vuttaṃ. Tatra yvāyaṃ ‘‘sace maṃ etthantare passissanti, daṭṭhukāmatāya gahetvā vicaranto viya etesaṃyeva dassāmī’’ti pavatto parikappo, ayaṃ ‘‘okāsaparikappo’’ nāma.
Còn ‘hoạch định về nơi chốn‘ cần được hiểu như vầy – Ở đây, một Tỳ khưu tham lam nào đó vào tu viện biệt lập của người khác, hoặc nhà của gia đình (thế tục), hoặc nhà xưởng trong rừng, rồi trong khi đang ngồi nói chuyện ở đó, nhìn thấy một vật dụng nào đó đáng thèm muốn; sau khi nhìn thấy, vị ấy hoạch định trước bằng cách quy định một ranh giới dựa vào cổng chính, lầu dưới, cổng tu viện biệt lập, nhà kho, gốc cây v.v… (rằng): ‘Nếu họ thấy ta trong khoảng này, ta sẽ giả vờ như đang đi lại cầm lấy (vật đó) vì muốn xem rồi sẽ trả lại cho chính họ; nếu họ không thấy, ta sẽ lấy đi’. Đối với vị ấy, ngay khi mang vật đó vượt qua ranh giới đã hoạch định, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu (Tỳ khưu) hoạch định (ranh giới là) vùng tiếp cận (của tịnh xá), rồi trong khi đang đi về hướng đó, do đang suy tư về đề mục thiền định v.v…, hoặc đang xao lãng việc khác, hoặc do thất niệm mà vượt qua vùng tiếp cận, thì phải đền vật. Hoặc nếu khi vị ấy đến nơi đó, trộm cướp, hoặc voi, hoặc thú dữ, hoặc mưa lớn nổi lên, và vị ấy vì muốn thoát khỏi tai họa đó mà vội vàng vượt qua nơi đó, cũng chỉ phải đền vật. Một số vị ở đây nói: ‘Vì ngay từ đầu đã lấy với tâm trộm cắp, do đó (vật) không còn được bảo vệ, chính là đã chiếm đoạt’. Đây là phương pháp của Đại Chú Giải. Còn trong Chú giải Mahāpaccari thì nói: ‘Ngay cả nếu vị ấy ở trong ranh giới (đã hoạch định) mà cưỡi voi hoặc ngựa, rồi không tự mình điều khiển cũng không nhờ người khác điều khiển (mà voi/ngựa tự đi); dù (voi/ngựa) có vượt qua ranh giới, cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ, chỉ phải đền vật mà thôi’. Trong đó, sự hoạch định đã diễn ra (theo kiểu) ‘Nếu họ thấy ta trong khoảng này, ta sẽ giả vờ như đang đi lại cầm lấy (vật đó) vì muốn xem rồi sẽ trả lại cho chính họ’, đây gọi là ‘hoạch định về nơi chốn’.

Evamimesaṃ dvinnampi parikappānaṃ vasena parikappetvā gaṇhato avahāro ‘‘parikappāvahāro’’ti veditabbo.
Như vậy, sự chiếm đoạt của người lấy sau khi đã hoạch định dựa trên cả hai loại hoạch định này cần được hiểu là ‘chiếm đoạt bằng cách hoạch định’.

Paṭicchādetvā pana avaharaṇaṃ paṭicchannāvahāro. So evaṃ veditabbo – yo bhikkhu manussānaṃ uyyānādīsu kīḷantānaṃ vā pavisantānaṃ vā omuñcitvā ṭhapitaṃ alaṅkārabhaṇḍaṃ disvā ‘‘sace onamitvā gahessāmi, ‘kiṃ samaṇo gaṇhātī’ti maṃ jānitvā viheṭheyyu’’nti paṃsunā vā paṇṇena vā paṭicchādeti – ‘‘pacchā gaṇhissāmī’’ti, tassa ettāvatā uddhāro natthīti na tāva avahāro hoti. Yadā pana te manussā antogāmaṃ pavisitukāmā taṃ bhaṇḍakaṃ vicinantāpi apassitvā ‘‘idāni andhakāro, sve jānissāmā’’ti sālayā eva gatā honti. Athassa taṃ uddharato uddhāre pārājikaṃ. ‘‘Paṭicchannakāleyeva taṃ mama santaka’’nti sakasaññāya vā ‘‘gatā dāni te, chaḍḍitabhaṇḍaṃ ida’’nti paṃsukūlasaññāya vā gaṇhantassa pana bhaṇḍadeyyaṃ. Tesu dutiyadivase āgantvā vicinitvā adisvā dhuranikkhepaṃ katvā gatesupi gahitaṃ bhaṇḍadeyyameva. Kasmā? Yasmā tassa payogena tehi na diṭṭhaṃ, yo pana tathārūpaṃ bhaṇḍaṃ disvā yathāṭhāne ṭhitaṃyeva appaṭicchādetvā theyyacitto pādena akkamitvā kaddame vā vālikāya vā paveseti, tassa pavesitamatteyeva pārājikaṃ.
Còn sự chiếm đoạt bằng cách che giấu là ‘chiếm đoạt bằng cách che giấu‘. Nó cần được hiểu như vầy – Tỳ khưu nào thấy đồ trang sức mà những người đang vui chơi hoặc đi vào vườn cảnh v.v… đã cởi ra để đó, (rồi nghĩ) ‘Nếu ta cúi xuống lấy, họ sẽ biết ‘ông Sa-môn này lấy gì thế?’ rồi làm phiền ta’, bèn dùng đất hoặc lá che giấu (vật đó) với ý nghĩ ‘sau này ta sẽ lấy’; đối với vị ấy, chừng đó vì chưa có sự nhấc lên, nên chưa có sự chiếm đoạt. Còn khi những người đó muốn vào làng, dù tìm kiếm vật đó mà không thấy, (rồi nghĩ) ‘bây giờ trời tối, ngày mai chúng ta sẽ tìm’ rồi bỏ đi mà vẫn còn luyến tiếc (vật đó). Khi đó, người nhấc vật đó lên, khi nhấc lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn người nào lấy với ý nghĩ là của mình rằng ‘ngay khi che giấu, nó đã là của ta’, hoặc với ý nghĩ là vật vô chủ rằng ‘giờ họ đã đi, đây là vật bị bỏ đi’, thì phải đền vật. Ngay cả khi vào ngày thứ hai, họ đến tìm mà không thấy, rồi từ bỏ trách nhiệm (không đòi nữa) mà bỏ đi, (nếu Tỳ khưu) đã lấy (trước đó với ý nghĩ sai lầm), vẫn phải đền vật. Tại sao? Vì do hành động của vị ấy mà họ đã không thấy (vật đó). Còn người nào thấy vật như vậy, dù nó vẫn còn ở chỗ cũ không bị che giấu, mà với tâm trộm cắp dùng chân đạp xuống rồi ấn vào bùn hoặc cát, thì ngay khi ấn xuống, phạm tội Bất Cộng Trụ.

Kusaṃ saṅkāmetvā pana avaharaṇaṃ ‘‘kusāvahāro’’ti vuccati. Sopi evaṃ veditabbo – yo bhikkhu kusaṃ pātetvā cīvare bhājiyamāne attano koṭṭhāsassa samīpe ṭhitaṃ appagghataraṃ vā mahagghataraṃ vā samasamaṃ vā agghena parassa koṭṭhāsaṃ haritukāmo attano koṭṭhāse patitaṃ kusadaṇḍakaṃ parassa koṭṭhāse pātetukāmo uddharati, rakkhati tāva. Parassa koṭṭhāse pāteti, rakkhateva. Yadā pana tasmiṃ patite parassa koṭṭhāsato parassa kusadaṇḍakaṃ uddharati, uddhaṭamatte pārājiko hoti. Sace paṭhamataraṃ parakoṭṭhāsato kusadaṇḍakaṃ uddharati attano koṭṭhāse pātetukāmatāya uddhāre rakkhati , pātane rakkhati. Attano koṭṭhāsato pana attano kusadaṇḍakaṃ uddharati, uddhāreyeva rakkhati. Taṃ uddharitvā parakoṭṭhāse pātentassa hatthato muttamatte pārājikaṃ.
Còn sự chiếm đoạt bằng cách di chuyển thẻ kusa được gọi là ‘chiếm đoạt bằng thẻ kusa‘. Nó cũng cần được hiểu như vầy – Tỳ khưu nào sau khi thẻ kusa đã được gieo (để chia y), khi y đang được chia, muốn lấy trộm phần của người khác ở gần phần của mình, dù (phần đó) ít giá trị hơn, hay quý giá hơn, hay bằng giá, bèn nhấc cọng kusa đã rơi vào phần của mình lên với ý định làm cho nó rơi vào phần của người khác, thì (hành động đó) vẫn còn được bảo vệ (chưa phạm tội). (Nếu) làm cho nó rơi vào phần của người khác, (hành động đó) vẫn còn được bảo vệ. Nhưng khi (cọng kusa của mình) đã rơi vào đó (phần của người khác), (Tỳ khưu) nhấc cọng kusa của người khác ra khỏi phần của người khác, ngay khi nhấc lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu trước hết nhấc cọng kusa ra khỏi phần của người khác với ý định làm cho nó rơi vào phần của mình, thì khi nhấc lên, (hành động) được bảo vệ; khi làm rơi (vào phần mình), (hành động) cũng được bảo vệ. Còn (nếu sau đó) nhấc cọng kusa của mình ra khỏi phần của mình, ngay khi nhấc lên, (hành động) vẫn được bảo vệ. Nhấc cọng (kusa của mình) đó lên rồi làm cho nó rơi vào phần của người khác, ngay khi (cọng kusa) rời khỏi tay (và rơi vào phần kia, hoàn tất việc tráo đổi), phạm tội Bất Cộng Trụ.

Sace pana dvīsupi koṭṭhāsesu patitadaṇḍake adassanaṃ gameti, tato avasesabhikkhūsu gatesu itaro ‘‘‘mayhaṃ, bhante, daṇḍako na paññāyatī’ti. ‘Mayhampi, āvuso, na paññāyatī’ti. ‘Katamo pana, bhante, mayhaṃ bhāgo’ti? ‘Ayaṃ tuyhaṃ bhāgo’’’ti attano bhāgaṃ dasseti, tasmiṃ vivaditvā vā avivaditvā vā taṃ gaṇhitvā gate itaro tassa bhāgaṃ uddharati, uddhāre pārājikaṃ. Sacepi tena ‘‘ahaṃ mama bhāgaṃ tuyhaṃ na demi, tvaṃ pana attano bhāgaṃ ñatvā gaṇhā’’ti vutte ‘‘nāyaṃ mamā’’ti jānantopi tasseva bhāgaṃ gaṇhāti, uddhāre pārājikaṃ. Sace pana itaro ‘‘ayaṃ tuyhaṃ bhāgo, ayaṃ mayhaṃ bhāgoti kiṃ iminā vivādenā’’ti cintetvā ‘‘mayhaṃ vā patto hotu, tumhākaṃ vā, yo varabhāgo taṃ tumhe gaṇhathā’’ti vadati, dinnakaṃ nāma gahitaṃ hoti, natthettha avahāro. Sacepi so vivādabhīruko bhikkhu ‘‘yaṃ tuyhaṃ ruccati, taṃ gaṇhā’’ti vutto attano pattaṃ varabhāgaṃ ṭhapetvā lāmakaṃyeva gahetvā gacchati, tato itarassa vicinitāvasesaṃ gaṇhantassāpi avahāro natthevāti.
Còn nếu (Tỳ khưu) làm cho các cọng kusa đã rơi vào cả hai phần đều biến mất, sau đó khi các Tỳ khưu còn lại đã đi, vị kia (chủ nhân của phần bị nhắm đến) nói: ‘Bạch ngài, không thấy cọng kusa của con’. (Tỳ khưu gian lận đáp:) ‘Thưa hiền giả, của tôi cũng không thấy’. (Vị kia hỏi:) ‘Vậy bạch ngài, phần nào là của con?’ (Tỳ khưu gian lận) chỉ phần của mình (phần xấu hơn) nói: ‘Đây là phần của thầy’. Khi vị kia, dù tranh cãi hay không tranh cãi, nhận lấy phần đó rồi đi, (Tỳ khưu gian lận) nhấc phần của vị kia lên, khi nhấc lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. Ngay cả nếu khi vị kia nói: ‘Tôi không đưa phần của tôi cho thầy, thầy hãy tự biết phần của mình rồi lấy’, (Tỳ khưu gian lận) dù biết ‘đây không phải của mình’ mà vẫn lấy phần của vị kia, khi nhấc lên, phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu vị kia (chủ nhân thực sự) suy nghĩ ‘Đây là phần của thầy, đây là phần của tôi, tranh cãi điều này làm gì?’ rồi nói: ‘Dù là phần của tôi hay của thầy, phần nào tốt hơn thì thầy cứ lấy’, thì (vật đó) được xem là đã được cho, không có sự chiếm đoạt ở đây. Ngay cả nếu Tỳ khưu sợ tranh cãi đó, khi được nói ‘Thầy thích phần nào thì cứ lấy’, bèn để lại phần tốt hơn đến lượt mình mà chỉ lấy phần xấu hơn rồi đi, thì sau đó, người kia (Tỳ khưu gian lận) lấy phần còn lại đã được chọn (cho mình) cũng không có sự chiếm đoạt.

Aṭṭhakathāsupana vuttaṃ – ‘‘imasmiṃ ṭhāne kusasaṅkāmanavasena cīvarabhājanīyameva ekaṃ āgataṃ, catunnampi pana paccayānaṃ uppattiñca bhājanīyañca nīharitvā dassetabba’’nti evañca vatvā cīvarakkhandhake‘‘paṭiggaṇhātu me, bhante, bhagavā sīveyyakaṃ dussayugaṃ; bhikkhusaṅghassa ca gahapaticīvaraṃ anujānātū’’ti (mahāva. 337) idaṃ jīvakavatthuṃ ādiṃ katvā uppannacīvarakathā, senāsanakkhandhake ‘‘tena kho pana samayena rājagahaṃ dubbhikkhaṃ hoti, manussā na sakkonti saṅghabhattaṃ kātuṃ, icchanti uddesabhattaṃ nimantanaṃ salākabhattaṃ pakkhikaṃ uposathikaṃ pāṭipadikaṃ kātu’’nti (cūḷava. 325) idaṃ suttamādiṃ katvā piṇḍapātakathā, senāsanakkhandhakeyeva ‘‘tena kho pana samayena sattarasavaggiyā bhikkhū aññataraṃ paccantimaṃ mahāvihāraṃ paṭisaṅkharonti – ‘idha mayaṃ vassaṃ vasissāmā’ti. Addasaṃsu kho chabbaggiyā bhikkhū sattarasavaggiye bhikkhū vihāraṃ paṭisaṅkharonte’’ti (cūḷava. 316) idaṃ chabbaggiyavatthuṃ ādiṃ katvā āgatasenāsanakathā, tadavasāne ca sappiādibhesajjakathā vitthārena kathitā. Mayaṃ pana taṃ sabbaṃ āgatāgataṭṭhāneyeva kathayissāma; evaṃ kathane kāraṇaṃ pubbe vuttameva.
Còn trong các Chú giải thì nói: ‘Ở đây, chỉ có một (trường hợp) liên quan đến việc chia y bằng cách di chuyển thẻ kusa được đề cập đến; nhưng sự phát sanh và việc chia cả bốn món vật dụng cũng cần được trình bày và chỉ rõ’. Và sau khi nói như vậy, trong Thiên Y (Cīvarakkhandhaka), bắt đầu từ câu chuyện Jīvaka này: ‘Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy nhận lấy cặp vải từ xứ Sīveyya của con; và xin hãy cho phép Tăng chúng Tỳ khưu (dùng) y của gia chủ’ (mahāva. 337), (các Chú giải đã giải thích) ‘Luận về Y Phát Sanh‘; trong Thiên Trú Xứ (Senāsanakkhandhaka), bắt đầu từ kinh này: ‘Khi ấy, thành Vương Xá gặp nạn đói, dân chúng không thể cúng dường cơm cho Tăng chúng, họ muốn cúng dường cơm chỉ định, cơm mời, cơm thẻ, (cơm) nửa tháng, (cơm) ngày Bố-tát, (cơm) ngày đầu tháng’ (cūḷava. 325), (các Chú giải đã giải thích) ‘Luận về Vật Thực Khất Thực‘; cũng trong Thiên Trú Xứ, bắt đầu từ câu chuyện về nhóm sáu Tỳ khưu này: ‘Khi ấy, nhóm mười bảy Tỳ khưu đang sửa chữa một đại tịnh xá ở biên địa (nghĩ rằng) – ‘Chúng ta sẽ an cư mùa mưa ở đây’. Nhóm sáu Tỳ khưu thấy nhóm mười bảy Tỳ khưu đang sửa chữa tịnh xá’ (cūḷava. 316), (các Chú giải đã giải thích) ‘Luận về Trú Xứ Được Đến‘; và ở cuối (Thiên Trú Xứ) đó, ‘Luận về Dược Phẩm như Bơ Lỏng‘ v.v… đã được giải thích một cách chi tiết. Còn chúng tôi (tác giả của chú giải này) sẽ giải thích tất cả những điều đó ở chính những nơi chúng xuất hiện (trong Luật Pāḷi); lý do giải thích như vậy đã được nói trước đây.

Kusasaṅkāmanavatthukathā niṭṭhitā.

Luận về Câu Chuyện Di Chuyển Thẻ Kusa đến đây là hết.

139. Ito paraṃ jantāgharavatthu uttānatthameva.
139. Từ đây trở đi, câu chuyện về nhà tắm hơi có ý nghĩa rõ ràng.

140. Pañcasu vighāsavatthūsu te bhikkhū anupasampannena kappiyaṃ kārāpetvā paribhuñjiṃsu. Vighāsaṃ pana gaṇhantena khāditāvasesaṃ chaḍḍitaṃ gahetabbaṃ. Yadi sakkoti khādante chaḍḍāpetvā gaṇhituṃ, etampi vaṭṭati. Attaguttatthāya pana parānuddayatāya ca na gahetabbaṃ.
140. Trong năm câu chuyện về thức ăn thừa, các Tỳ khưu đó đã nhờ người chưa thọ Cụ túc giới làm cho (thức ăn) hợp lệ rồi dùng. Còn người lấy thức ăn thừa thì phải lấy phần còn lại đã ăn thừa và đã bỏ đi. Nếu có thể làm cho người đang ăn bỏ (thức ăn thừa) ra rồi lấy, điều này cũng được phép. Nhưng không được lấy vì mục đích tự bảo vệ (để dành cho mình) và vì lòng thương xót người khác (mà cho họ thức ăn không hợp lệ).

141. Odanakhādanīyapūvaucchutimbarūsakabhājanīyavatthūsu aparassa bhāgaṃ dehīti asantaṃ puggalaṃ āha. Amūlakaṃ aggahesīti sāmikesu dentesu evaṃ aggahesi. Anāpatti bhikkhu pārājikassāti sāmikehi dinnaṃ aggahesi; tenassa anāpatti vuttā. Āpatti sampajānamusāvāde pācittiyassāti yo panānena sampajānamusāvādo vutto, tasmiṃ pācittiyaṃ āha; parato tekaṭulayāguvatthumhi viya. Gahaṇe pana ayaṃ vinicchayo – saṅghassa santakaṃ sammatena vā āṇattehi vā ārāmikādīhi diyyamānaṃ, gihīnañca santakaṃ sāmikena vā āṇattena vā diyyamānaṃ ‘‘aparassa bhāgaṃ dehī’’ti vatvā gaṇhato bhaṇḍadeyyaṃ. Aññena diyyamānaṃ gaṇhanto bhaṇḍagghena kāretabbo. Asammatena vā anāṇattena vā diyyamāne ‘‘aparampi bhāgaṃ dehī’’ti vatvā vā kūṭavassāni gaṇetvā vā gaṇhanto pattacatukke viya tassuddhāreyeva bhaṇḍagghena kāretabbo. Itarehi diyyamānaṃ evaṃ gaṇhato bhaṇḍadeyyaṃ. Sāmikena pana ‘‘imassa dehī’’ti dāpitaṃ vā sayaṃ dinnaṃ vā sudinnanti ayamettha sabbaaṭṭhakathāvinicchayato sāro.
141. Trong các câu chuyện về cơm, vật thực, bánh, mía, quả sung, bát đựng sakarūsa, (câu) ‘Hãy đưa phần của người khác‘ là nói đến một người không có mặt. ‘Đã nhận mà không có giá trị (để đổi)‘ là đã nhận như vậy khi các chủ nhân đang cho. ‘Tỳ khưu không phạm tội Bất Cộng Trụ‘ là vì đã nhận vật được các chủ nhân cho; do đó, được nói là không phạm tội (Bất Cộng Trụ). ‘Phạm tội Ưng Đối Trị do cố ý nói dối‘: Còn lời nói dối cố ý nào đã được vị này nói ra, (Thế Tôn) nói (phạm) tội Ưng Đối Trị đối với (lời nói dối) đó; giống như trong câu chuyện về cháo nấu bằng ba nồi ở phần sau. Còn về việc nhận, đây là quyết định – đối với vật sở hữu của Tăng chúng đang được người được chấp thuận, hoặc người được ra lệnh, hoặc người coi sóc vườn v.v… chia; và đối với vật sở hữu của người tại gia đang được chủ nhân hoặc người được ra lệnh chia, (nếu Tỳ khưu) nói ‘Hãy đưa phần của người khác’ rồi nhận, thì phải đền vật. Người nào nhận vật đang được người khác (không có thẩm quyền) chia, phải bị (xử phạt) theo giá trị vật đó. Khi (vật) đang được người không được chấp thuận hoặc không được ra lệnh chia, (nếu Tỳ khưu) nói ‘Hãy đưa thêm phần nữa’ hoặc dùng phiếu giả để đếm rồi nhận, thì giống như trong bốn trường hợp về bát, ngay khi nhấc (phần gian lận) đó lên, phải bị (xử phạt) theo giá trị vật đó. Người nào nhận vật đang được những người khác (có thẩm quyền nhưng bị lừa) chia theo cách đó, thì phải đền vật. Còn vật được chủ nhân bảo ‘Hãy đưa cho vị này’ rồi cho, hoặc (do chủ nhân) tự mình cho, thì (được xem là) đã được cho một cách hợp lệ – đây là điểm cốt yếu từ quyết định của tất cả các Chú giải ở đây.

142-3. Odaniyagharādivatthūsu – odaniyagharaṃ nāma vikkāyikabhattapacanagharaṃ. Sūnagharaṃ nāma vikkāyikamaṃsapacanagharaṃ. Pūvagharaṃ nāma vikkāyikakhajjakapacanagharaṃ. Sesamettha, parikkhāravatthūsu ca pākaṭameva.
142-3. Trong các câu chuyện về nhà nấu cơm v.v… – ‘nhà nấu cơm‘ là nhà nấu cơm để bán. ‘Nhà nấu thịt‘ là nhà nấu thịt để bán. ‘Nhà làm bánh‘ là nhà làm các loại bánh trái để bán. Phần còn lại ở đây, và trong các câu chuyện về vật dụng, đều đã rõ ràng.

144. Pīṭhavatthusmiṃ – so bhikkhu parikappetvā ‘‘etaṃ ṭhānaṃ sampattaṃ gaṇhissāmī’’ti saṅkāmesi. Tenassa saṅkāmane avahāro natthi. Saṅkāmetvā pana parikappitokāsato gahaṇe pārājikaṃ vuttaṃ. Evaṃ haranto ca yadi pīṭhake theyyacittaṃ natthi, thavikaṃ agghāpetvā kāretabbo. Atha pīṭhakepi atthi, ubho agghāpetvā kāretabboti. Bhisiādīni tīṇi vatthūni pākaṭāneva.
144. Trong câu chuyện về cái ghế – Tỳ khưu đó đã hoạch định trước rồi di chuyển (cái túi trên ghế với ý nghĩ) ‘khi (túi) đến chỗ này, ta sẽ lấy’. Đối với vị ấy, khi di chuyển (như vậy), chưa có sự chiếm đoạt. Nhưng sau khi đã di chuyển (túi đến chỗ đã hoạch định), khi lấy (túi) từ nơi đã hoạch định đó, (Thế Tôn) nói (phạm tội) Bất Cộng Trụ. Và khi lấy trộm như vậy, nếu không có tâm trộm cắp đối với cái ghế, thì phải bị (xử phạt) sau khi định giá cái túi. Còn nếu cũng có (tâm trộm cắp) đối với cái ghế, thì phải bị (xử phạt) sau khi định giá cả hai (cái túi và cái ghế). Ba câu chuyện về nệm ngồi v.v… đều đã rõ ràng.

146. Vissāsaggāhādīsu tīsu vatthūsu gahaṇe anāpatti, āharāpentesu bhaṇḍadeyyaṃ. Piṇḍāya paviṭṭhassa paṭiviso antoupacārasīmāyaṃ ṭhitasseva gahetuṃ vaṭṭati. Yadi pana dāyakā ‘‘bahiupacāraṭṭhānampi bhante, bhāgaṃ gaṇhatha, āgantvā paribhuñjissantī’’ti vadanti, evaṃ antogāmaṭṭhānampi gahetuṃ vaṭṭati. Sesamettha uttānatthameva.
146. Trong ba câu chuyện về lấy do tin cậy v.v…, khi lấy thì không phạm tội; khi (chủ nhân) đòi lại, phải đền vật. Phần chia (vật thực) của người đã vào (xóm) để khất thực, chỉ được phép lấy khi (người chia) đứng trong vùng tiếp cận bên trong (của tịnh xá). Nhưng nếu các thí chủ nói: ‘Bạch ngài, ngay cả ở nơi tiếp cận bên ngoài, xin hãy nhận phần (vật thực), (chư Tăng) sẽ đến rồi dùng’, thì như vậy, ngay cả ở nơi trong làng cũng được phép nhận. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

148-9. Sattasu ambacorakādivatthūsu paṃsukūlasaññāya gahaṇe anāpatti, āharāpentesu bhaṇḍadeyyaṃ, theyyacittena paribhoge pārājikaṃ. Tatrāyaṃ vinicchayo – sāmikāpi sālayā, corāpi sālayā, paṃsukūlasaññāya khādantassa bhaṇḍadeyyaṃ, theyyacittena gaṇhato uddhāreyeva avahāro, bhaṇḍaṃ agghāpetvā kāretabbo. Sāmikā sālayā, corā nirālayā, eseva nayo. Sāmikā nirālayā, corā sālayā; ‘‘puna gaṇhissāmā’’ti kismiñcideva gahanaṭṭhāne khipitvā gatā, eseva nayo. Ubhopi nirālayā, paṃsukūlasaññāya khādato anāpatti, theyyacittena dukkaṭaṃ.
148-9. Trong bảy câu chuyện về những kẻ trộm xoài v.v…, khi lấy với ý nghĩ là vật vô chủ thì không phạm tội; khi (chủ nhân) đòi lại, phải đền vật; khi dùng với tâm trộm cắp, phạm tội Bất Cộng Trụ. Quyết định ở đó là như vầy – chủ nhân cũng còn luyến tiếc, kẻ trộm cũng còn luyến tiếc (muốn lấy thêm); người nào ăn với ý nghĩ là vật vô chủ, phải đền vật; người nào lấy với tâm trộm cắp, ngay khi nhấc lên chính là chiếm đoạt, phải bị (xử phạt) sau khi định giá vật đó. Chủ nhân còn luyến tiếc, kẻ trộm không còn luyến tiếc (đã lấy đủ rồi bỏ đi), cũng theo phương pháp này (nếu Tỳ khưu lấy phần còn lại). Chủ nhân không còn luyến tiếc, kẻ trộm còn luyến tiếc; (kẻ trộm nghĩ) ‘chúng ta sẽ lấy lại sau’ rồi ném (xoài) vào một nơi kín đáo nào đó rồi bỏ đi, cũng theo phương pháp này (nếu Tỳ khưu lấy). Cả hai (chủ nhân và kẻ trộm ban đầu) đều không còn luyến tiếc; (Tỳ khưu) ăn với ý nghĩ là vật vô chủ, không phạm tội; (nếu lấy) với tâm trộm cắp, phạm tội Tác ác.

Saṅghassa ambādīsu pana saṅghārāme jātaṃ vā hotu, ānetvā dinnaṃ vā pañcamāsakaṃ vā atirekapañcamāsakaṃ vā agghanakaṃ avaharantassa pārājikaṃ. Paccante corupaddavena gāmesu vuṭṭhahantesu bhikkhūpi vihāre chaḍḍetvā ‘‘puna āvasante janapade āgamissāmā’’ti saussāhāva gacchanti. Bhikkhū tādisaṃ vihāraṃ patvā ambapakkādīni ‘‘chaḍḍitakānī’’ti paṃsukūlasaññāya paribhuñjanti, anāpatti; theyyacittena paribhuñjato avahāro hoti, bhaṇḍaṃ agghāpetvā kāretabbo.
Còn đối với xoài v.v… của Tăng chúng, dù mọc trong vườn của Tăng chúng hay được mang đến dâng cúng, người nào chiếm đoạt (lượng) trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka, phạm tội Bất Cộng Trụ. Ở biên địa, do nạn trộm cướp, khi các làng (xung quanh) nổi dậy (di tản), chư Tỳ khưu cũng bỏ lại tịnh xá rồi ra đi mà vẫn còn nỗ lực (với ý nghĩ) ‘khi xứ sở được cư trú trở lại, chúng ta sẽ về’. Chư Tỳ khưu (khác) đến một tịnh xá như vậy, rồi dùng xoài chín v.v… với ý nghĩ là ‘vật bị bỏ đi’, (xem như) vật vô chủ, thì không phạm tội; người nào dùng với tâm trộm cắp thì có sự chiếm đoạt, phải bị (xử phạt) sau khi định giá vật đó.

Mahāpaccariyaṃ pana saṅkhepaṭṭhakathāyañca avisesena vuttaṃ – ‘‘chaḍḍitavihāre pana phalāphalaṃ theyyacittena paribhuñjato pārājikaṃ. Kasmā? Āgatānāgatānaṃ santakattā’’ti. Gaṇasantake pana puggalike ca saussāhamattameva pamāṇaṃ. Sace pana tato ambapakkādiṃ kulasaṅgahaṇatthāya deti, kuladūsakadukkaṭaṃ. Theyyacittena dento agghena kāretabbo. Saṅghikepi eseva nayo. Senāsanatthāya niyamitaṃ kulasaṅgahaṇatthāya dadato dukkaṭaṃ, issaravatāya thullaccayaṃ, theyyacittena pārājikaṃ. No ce vatthu pahoti, agghena kāretabbo. Bahi upacārasīmāya nisīditvā issaravatāya paribhuñjato gīvā. Ghaṇṭiṃ paharitvā kālaṃ ghosetvā ‘‘mayhaṃ pāpuṇātī’’ti khāditaṃ sukhāditaṃ. Ghaṇṭiṃ apaharitvā kālameva ghosetvā, ghaṇṭimeva paharitvā kālaṃ aghosetvā, ghaṇṭimpi apaharitvā kālampi aghosetvā aññesaṃ natthibhāvaṃ ñatvā ‘‘mayhaṃ pāpuṇātī’’ti khāditampi sukhāditameva. Pupphārāmavatthudvayaṃ pākaṭameva.
Còn trong Chú giải Mahāpaccari và cả Chú giải Tóm Tắt, nói một cách không phân biệt: ‘Đối với tịnh xá đã bị bỏ hoang, người nào dùng trái cây với tâm trộm cắp, phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì (trái cây đó) là sở hữu của những người (Tăng chúng) đã đến và chưa đến’. Còn đối với tài sản của một nhóm (Tỳ khưu) hoặc của cá nhân, chỉ riêng sự nỗ lực (mong muốn quay lại của chủ sở hữu) là tiêu chuẩn (để xác định còn sở hữu). Nhưng nếu (Tỳ khưu) từ đó (tịnh xá bị bỏ hoang) mà cho xoài chín v.v… để lấy lòng các gia đình, (phạm tội) Tác ác do làm hư hỏng gia đình (thí chủ). Người cho với tâm trộm cắp (tài sản Tăng), phải bị (xử phạt) theo giá trị. Đối với tài sản của Tăng chúng cũng theo phương pháp này. (Vật) đã được quy định cho mục đích trú xứ, (nếu Tỳ khưu) cho để lấy lòng các gia đình, phạm tội Tác ác; (nếu cho) với tư cách người có quyền, phạm tội Trọng Tội; (nếu cho) với tâm trộm cắp, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu vật (cho đi) không đủ (giá trị phạm Bất Cộng Trụ), phải bị (xử phạt) theo giá trị. Người ngồi ngoài vùng tiếp cận (của tịnh xá) mà dùng (tài sản Tăng) với tư cách người có quyền, phải chịu trách nhiệm (đền). Đánh chuông, báo giờ rồi (nghĩ) ‘phần này đến lượt ta’ mà ăn, thì (được xem là) đã ăn hợp lệ. Dù không đánh chuông mà chỉ báo giờ; hoặc chỉ đánh chuông mà không báo giờ; hoặc không đánh chuông cũng không báo giờ, nhưng biết rằng không có ai khác (cần dùng) rồi (nghĩ) ‘phần này đến lượt ta’ mà ăn, cũng (được xem là) đã ăn hợp lệ. Hai câu chuyện về vườn hoa đều đã rõ ràng.

150. Vuttavādakavatthuttaye vutto vajjemīti tayā vutto hutvā ‘‘tava vacanena vadāmī’’ti attho. Anāpatti bhikkhu pārājikassāti sāmikehi dinnattā anāpatti. Na ca, bhikkhave, ‘‘vutto vajjemī’’ti vattabboti ‘‘ahaṃ tayā vutto hutvā tava vacanena vadāmī’’ti evaṃ añño bhikkhu aññena bhikkhunā na vattabboti attho. Paricchedaṃ pana katvā ‘‘itthannāmaṃ tava vacanena gaṇhissāmī’’ti vattuṃ vaṭṭati. Vutto vajjehīti mayā vutto hutvā mama vacanena vadehīti attho. Sesaṃ vuttanayameva. Imesupi ca dvīsu vatthūsu paricchedaṃ katvā vattuṃ vaṭṭati. Ettāvatā hi upārambhā mutto hotīti.
150. Trong ba câu chuyện về người nói theo lời đã được bảo, ‘được bảo, tôi sẽ nói lại‘ nghĩa là sau khi được thầy bảo, (nói rằng) ‘tôi nói theo lời của thầy’. ‘Tỳ khưu không phạm tội Bất Cộng Trụ‘ là vì đã được các chủ nhân cho, nên không phạm tội. ‘Và này các Tỳ khưu, không được nói ‘được bảo, tôi sẽ nói lại’‘ nghĩa là một Tỳ khưu không nên nói với một Tỳ khưu khác rằng ‘tôi sau khi được thầy bảo, nói theo lời của thầy’. Nhưng sau khi đã phân định rõ ràng, được phép nói: ‘Tôi sẽ nhận vật X theo lời của thầy’. ‘Được bảo, hãy nói lại‘ nghĩa là sau khi được tôi bảo, hãy nói lại theo lời của tôi. Phần còn lại theo phương pháp đã nói. Và trong cả hai câu chuyện này, cũng được phép nói sau khi đã phân định rõ ràng. Vì với chừng ấy, vị ấy được thoát khỏi sự khiển trách.

151-2. Maṇivatthuttayassa majjhime vatthusmiṃ – nāhaṃ akallakoti nāhaṃ gilānoti attho. Sesaṃ pākaṭameva.
151-2. Trong câu chuyện giữa của ba câu chuyện về viên ngọc – ‘tôi không phải là người không khỏe‘ nghĩa là tôi không phải là người bệnh. Phần còn lại đã rõ ràng.

153. Sūkaravatthudvaye – kiñcāpi paṭhamassa bhikkhuno chātajjhattaṃ disvā kāruññena mocitattā anāpatti. Sāmikesu pana asampaṭicchantesu bhaṇḍadeyyaṃ, tāva mahanto vā matasūkaro āharitvā dātabbo, tadagghanakaṃ vā bhaṇḍaṃ. Sace pāsasāmike kuhiñcipi na passati, pāsasāmantā tadagghanakaṃ sāṭakaṃ vā kāsāvaṃ vā thālakaṃ vā yathā te āgatā passanti, īdise ṭhāne ṭhapetvāva gantabbaṃ, theyyacittena pana mocentassa pārājikameva. Ettha ca koci sūkaro pāsaṃ pādena kaḍḍhitvā chinnamatte pāse ṭhānācāvanadhammena ṭhānena ṭhito hoti caṇḍasote baddhanāvā viya. Koci attano dhammatāya ṭhito, koci nipanno, koci kūṭapāsena baddho hoti. Kūṭapāso nāma yassa ante dhanukaṃ vā aṅkusako vā añño vā koci daṇḍako baddho hoti, yo tattha tattha rukkhādīsu laggitvā sūkarassa gamanaṃ nivāreti. Tatra pāsaṃ kaḍḍhitvā ṭhitassa ekameva ṭhānaṃ pāsabandhanaṃ, so hi pāse muttamatte vā chinnamatte vā palāyati. Attano dhammatāya ṭhitassa bandhanañca cattāro ca pādāti pañca ṭhānāni. Nipannassa bandhanañca sayanañcāti dve ṭhānāni. Kūṭapāsabaddhassa yattha yattha gacchati, taṃ tadeva ṭhānaṃ. Tasmā taṃ tato tato mocentā dasapi vīsatipi satampi bhikkhū pārājikaṃ āpajjanti. Tattha tattha āgataṃ disvā ekameva dāsaṃ palāpento viya.
153. Trong hai câu chuyện về con heo – mặc dù Tỳ khưu thứ nhất, do thấy (con heo) bị đói lả mà giải thoát nó với lòng từ bi, nên không phạm tội. Nhưng nếu các chủ nhân không chấp nhận (việc đó), thì phải đền vật; (hoặc là) phải mang một con heo lớn tương đương hoặc một con heo chết đến trả, hoặc một vật khác có giá trị tương đương. Nếu không thấy chủ nhân của bẫy ở đâu cả, thì phải để một tấm vải, hoặc y ca-sa, hoặc cái bát trị giá tương đương gần bẫy, ở một nơi dễ thấy để họ khi đến sẽ thấy, rồi mới được đi; còn người nào với tâm trộm cắp mà giải thoát (con heo), thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Và ở đây, có con heo nào đó dùng chân kéo bẫy, ngay khi bẫy bị đứt, nó đứng ở vị trí (mới) theo tính chất làm di chuyển khỏi chỗ, giống như thuyền bị buộc ở chỗ nước chảy xiết (khi dây đứt sẽ trôi đi). Có con đứng theo tự nhiên của nó, có con nằm, có con bị mắc bẫy gài. ‘Bẫy gài‘ là loại bẫy mà ở đầu (dây) có buộc một cái cung, hoặc một cái móc, hoặc một khúc cây nào đó khác, nó sẽ mắc vào cây cối v.v… ở chỗ này chỗ kia rồi ngăn cản sự di chuyển của con heo. Ở đó, đối với (con heo) đang đứng kéo căng bẫy, vị trí duy nhất (để xác định) là chỗ buộc bẫy; vì ngay khi bẫy được cởi ra hoặc bị đứt, nó sẽ chạy trốn. Đối với (con heo) đứng theo tự nhiên của nó (khi bị buộc), có dây buộc và bốn chân là năm vị trí. Đối với (con heo) đang nằm (khi bị buộc), có dây buộc và chỗ nằm là hai vị trí. Đối với (con heo) bị mắc bẫy gài, bất cứ nơi nào nó đi đến, chính nơi đó là vị trí (của nó). Do đó, những người giải thoát nó khỏi các chỗ (mắc bẫy) đó, dù là mười, hai mươi, hay một trăm Tỳ khưu, cũng đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Giống như (trường hợp) thấy một người nô lệ đã đến nơi này nơi kia (trong khi bỏ trốn) rồi lại xui cho trốn đi nữa.

Purimānaṃ pana tiṇṇaṃ catuppadakathāyaṃ vuttanayena phandāpanaṭhānācāvanāni veditabbāni. Sunakhadaṭṭhaṃ sūkaraṃ vissajjāpentassāpi kāruññādhippāyena bhaṇḍadeyyaṃ, theyyacittena pārājikaṃ. Pāsaṭṭhānaṃ pana sunakhasamīpaṃ vā asampattaṃ paṭipathaṃ gantvā paṭhamameva palāpentassa avahāro natthi. Yopi baddhasūkarassa ghāsañca pānīyañca datvā balaṃ gāhāpetvā ukkuṭṭhiṃ karoti – ‘‘utrasto palāyissatī’’ti; so ce palāyati, pārājikaṃ. Pāsaṃ dubbalaṃ katvā ukkuṭṭhisaddena palāpentassāpi eseva nayo.
Còn đối với ba trường hợp đầu (heo đứng kéo căng bẫy, đứng tự nhiên, nằm), việc làm rung động và làm di chuyển khỏi chỗ cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong Luận về Loài Bốn Chân. Ngay cả người nào làm cho con heo bị chó cắn được giải thoát, nếu với ý từ bi thì phải đền vật; (nếu) với tâm trộm cắp thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn (nếu) con heo chưa đến gần chỗ đặt bẫy hoặc chỗ có chó, (Tỳ khưu) đi chặn đường rồi ngay từ đầu làm cho nó chạy trốn (khỏi hướng đó), thì không có sự chiếm đoạt. Người nào cho con heo bị trói ăn cỏ và uống nước để nó lấy lại sức, rồi la lớn (nghĩ rằng) ‘nó hoảng sợ sẽ chạy trốn’; nếu nó chạy trốn, phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nào làm yếu bẫy rồi dùng tiếng la lớn làm cho (heo) chạy trốn cũng theo phương pháp này.

Yo pana ghāsañca pānīyañca datvā gacchati, ‘‘balaṃ gahetvā palāyissatī’’ti; so ce palāyati, bhaṇḍadeyyaṃ. Pāsaṃ dubbalaṃ katvā gacchantassāpi eseva nayo. Pāsasantike satthaṃ vā aggiṃ vā ṭhapeti ‘‘chinne vā daḍḍhe vā palāyissatī’’ti. Sūkaro pāsaṃ cālento chinne vā daḍḍhe vā palāyati, bhaṇḍadeyyameva. Pāsaṃ yaṭṭhiyā saha pāteti, pacchā sūkaro taṃ maddanto gacchati , bhaṇḍadeyyaṃ. Sūkaro adūhalapāsāṇehi akkanto hoti, taṃ palāpetukāmassa adūhalaṃ kāruññena ukkhipato bhaṇḍadeyyaṃ, theyyacittena pārājikaṃ. Sace ukkhittamatte agantvā pacchā gacchati, bhaṇḍadeyyameva. Ukkhipitvā ṭhapitaṃ adūhalaṃ pāteti, pacchā sūkaro taṃ maddanto gacchati, bhaṇḍadeyyaṃ. Opāte patitasūkarampi kāruññena uddharato bhaṇḍadeyyaṃ, theyyacittena pārājikaṃ. Opātaṃ pūretvā nāseti, pacchā sūkaro taṃ maddanto gacchati, bhaṇḍadeyyaṃ. Sūle viddhaṃ kāruññena uddharati, bhaṇḍadeyyaṃ, theyyacittena pārājikaṃ. Sūlaṃ uddharitvā chaḍḍeti, bhaṇḍadeyyaṃ.
Còn người nào cho (heo) ăn cỏ và uống nước rồi bỏ đi (nghĩ rằng) ‘nó lấy lại sức rồi sẽ chạy trốn’; nếu nó chạy trốn, thì phải đền vật. Người nào làm yếu bẫy rồi bỏ đi cũng theo phương pháp này. (Nếu Tỳ khưu) đặt dao hoặc lửa gần bẫy (nghĩ rằng) ‘khi (dây bẫy) bị đứt hoặc bị cháy, nó sẽ chạy trốn’. (Nếu) con heo làm rung động bẫy, rồi (dây bẫy) bị đứt hoặc bị cháy, (heo) chạy trốn, cũng chỉ phải đền vật. (Nếu Tỳ khưu) làm cho bẫy cùng với cây gậy (của bẫy) ngã xuống, sau đó con heo đi đạp lên đó, thì phải đền vật. (Nếu) con heo bị đá nặng đè lên, người muốn làm cho nó chạy trốn, (nếu) với lòng từ bi nhấc (đá) lên, thì phải đền vật; (nếu) với tâm trộm cắp (nhấc đá để heo chạy mất), phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu ngay khi nhấc (đá) lên mà (heo) không đi, sau đó mới đi, cũng chỉ phải đền vật. (Nếu Tỳ khưu) nhấc tảng đá nặng đã được đặt (để chèn bẫy) lên rồi làm cho nó ngã, sau đó con heo đi đạp lên đó, thì phải đền vật. Ngay cả con heo bị rơi xuống hố, (nếu) với lòng từ bi kéo lên, thì phải đền vật; (nếu) với tâm trộm cắp (kéo lên để nó chạy mất), phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu Tỳ khưu) lấp hố làm cho nó biến mất (để heo không bị rơi lại), sau đó con heo đi đạp lên đó, thì phải đền vật. (Con heo) bị cọc đâm, (nếu) với lòng từ bi nhổ (cọc) ra, thì phải đền vật; (nếu) với tâm trộm cắp (nhổ cọc để heo chạy mất), phạm tội Bất Cộng Trụ. (Nếu Tỳ khưu) nhổ cọc lên rồi vứt đi (mà không có ý định trộm heo), thì phải đền vật.

Vihārabhūmiyaṃ pana pāse vā adūhalaṃ vā oḍḍentā vāretabbā – ‘‘migarūpānaṃ paṭisaraṇaṭṭhānametaṃ, mā idha evaṃ karothā’’ti. Sace ‘‘harāpetha, bhante’’ti vadanti, harāpetuṃ vaṭṭati. Atha sayaṃ haranti, sundarameva. Atha neva haranti, na harituṃ denti, rakkhaṃ yācitvā harāpetuṃ vaṭṭati. Manussā sassarakkhaṇakāle khettesu pāse ca adūhalapāsāṇādīni ca karonti – ‘‘maṃsaṃ khādantā sassāni rakkhissāmā’’ti. Vītivatte sassakāle tesu anālayesu pakkantesu tattha baddhaṃ vā patitaṃ vā mocetuṃ vaṭṭatīti.
Còn trên đất tịnh xá, những người đặt bẫy hoặc đá nặng (để bẫy thú) phải bị ngăn cản – (nói rằng) ‘Đây là nơi nương tựa của các loài thú, xin đừng làm như vậy ở đây’. Nếu họ nói: ‘Bạch ngài, xin hãy cho (chúng tôi) dời đi’, thì được phép cho họ dời đi. Hoặc nếu họ tự mình dời đi, thì rất tốt. Hoặc nếu họ không dời đi, cũng không cho phép dời đi, thì được phép yêu cầu sự bảo vệ (của chính quyền) rồi cho dời đi. Người ta vào mùa giữ gìn hoa màu thường làm bẫy và đặt đá nặng v.v… trong ruộng (nghĩ rằng) – ‘Chúng ta sẽ ăn thịt (thú) và giữ gìn hoa màu’. Khi mùa hoa màu đã qua, sau khi họ không còn luyến tiếc (những cái bẫy đó) mà bỏ đi, thì được phép giải thoát (con thú) bị mắc bẫy hoặc bị (đá) đè ở đó.

Migavatthudvayepi sūkaravatthūsu vuttasadisoyeva vinicchayo.
Trong hai câu chuyện về con nai, sự phân xử cũng tương tự như đã được nói trong các câu chuyện về con heo.

Macchavatthudvayepi eseva nayo. Ayaṃ pana viseso – kumīnamukhaṃ vivaritvā vā pacchāpuṭakaṃ muñcitvā vā passena chiddaṃ katvā vā kumīnato macche pothetvā palāpentassa pārājikaṃ. Bhattasitthāni dassetvā evaṃ palāpentassāpi pārājikaṃ. Saha kumīnena uddharatopi pārājikaṃ. Kevalaṃ kumīnamukhaṃ vivarati, pacchāpuṭakaṃ muñcati, chiddaṃ vā karoti, macchā pana attano dhammatāya palāyanti, bhaṇḍadeyyaṃ. Evaṃ katvā bhattasitthāni dasseti, macchā gocaratthāya nikkhamitvā palāyanti, bhaṇḍadeyyameva. Mukhaṃ avivaritvā pacchāpuṭakaṃ amuñcitvā passena chiddaṃ akatvā kevalaṃ bhattasitthāni dasseti, macchā pana chātajjhattā sīsena paharitvā okāsaṃ katvā gocaratthāya nikkhamitvā palāyanti, bhaṇḍadeyyameva. Tucchakumīnassa mukhaṃ vā vivarati, pacchāpuṭakaṃ vā muñcati, chiddaṃ vā karoti, āgatāgatā macchā dvāraṃ pattā puṭakachiddehi palāyanti, bhaṇḍadeyyameva. Tucchakumīnaṃ gahetvā gumbe khipati, bhaṇḍadeyyamevāti. Yāne bhaṇḍaṃ pīṭhe thavikāya sadisaṃ.
Trong hai câu chuyện về con cá, phương pháp này cũng tương tự. Tuy nhiên, đây là điểm đặc biệt – người nào mở miệng đó, hoặc tháo cái túi ở phía sau, hoặc khoét lỗ ở bên hông, rồi từ trong đó đánh đập cá làm cho chúng chạy thoát thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nào đưa cơm thừa ra rồi làm cho chúng chạy thoát như vậy cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nào nhấc (đó) lên cùng với cá cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu chỉ mở miệng đó, tháo cái túi ở phía sau, hoặc khoét lỗ, nhưng cá tự nhiên chạy thoát thì phải bồi thường vật. Làm như vậy rồi đưa cơm thừa ra, cá đi ra để kiếm ăn rồi chạy thoát thì cũng phải bồi thường vật. Không mở miệng, không tháo cái túi ở phía sau, không khoét lỗ ở bên hông, chỉ đưa cơm thừa ra, nhưng cá do đói khát nên dùng đầu húc tạo lối thoát rồi đi ra để kiếm ăn và chạy thoát thì cũng phải bồi thường vật. Mở miệng cái đó rỗng, hoặc tháo cái túi ở phía sau, hoặc khoét lỗ, cá đến cửa rồi từ các lỗ của túi mà chạy thoát thì cũng phải bồi thường vật. Lấy cái đó rỗng rồi ném vào bụi rậm thì cũng phải bồi thường vật. Vật ở trên xe thì tương tự như cái túi trên ghế.

Maṃsapesivatthumhi – sace ākāse gaṇhāti, gahitaṭṭhānameva ṭhānaṃ. Taṃ chahākārehi paricchinditvā ṭhānācāvanaṃ veditabbaṃ. Sesamettha dārugopālakarajakasāṭakavatthūsu ca ambacorakādivatthūsu vuttanayena vinicchinitabbaṃ.
Trong câu chuyện về miếng thịt – nếu bắt lấy ở trên không, thì nơi bắt lấy chính là vị trí (phạm tội). Việc di chuyển khỏi vị trí ấy cần được hiểu là đã được xác định bằng sáu cách. Phần còn lại ở đây cần được phân xử theo phương pháp đã được nói trong các câu chuyện về người chăn bò bằng cây gậy, về y phục của thợ nhuộm, và trong các câu chuyện về kẻ trộm xoài v.v…

155.Kumbhivatthusmiṃ – yo sappitelādīni apādagghanakāni gahetvā ‘‘na puna evaṃ karissāmī’’ti saṃvare ṭhatvā dutiyadivasādīsupi puna citte uppanne evameva dhuranikkhepaṃ katvā paribhuñjanto sabbampi taṃ paribhuñjati, nevatthi pārājikaṃ. Dukkaṭaṃ vā thullaccayaṃ vā āpajjati, bhaṇḍadeyyaṃ pana hoti. Ayampi bhikkhu evamevamakāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘anāpatti bhikkhu pārājikassā’’ti. Dhuranikkhepaṃ pana akatvā ‘‘divase divase paribhuñjissāmī’’ti thokaṃ thokampi paribhuñjato yasmiṃ divase pādagghanakaṃ pūrati, tasmiṃ pārājikaṃ.
155.Trong câu chuyện về cái hũ – người nào lấy bơ lỏng, dầu v.v… chưa đủ giá trị một pāda, rồi sau khi tự kiềm chế với ý nghĩ “tôi sẽ không làm như vậy nữa”, vào ngày thứ hai v.v… khi ý nghĩ (muốn dùng) lại khởi lên, đã từ bỏ gánh nặng (sự kiềm chế) như vậy rồi dùng, và dùng hết tất cả những thứ đó, thì không phạm tội Bất Cộng Trụ. Vị ấy phạm tội Tác Ác hoặc Trọng Tội, nhưng phải bồi thường vật. Vị tỳ khưu này cũng đã làm như vậy. Do đó, đã được nói rằng – “vị tỳ khưu không phạm tội Bất Cộng Trụ”. Tuy nhiên, người nào không từ bỏ gánh nặng (sự kiềm chế) mà dùng từng chút một với ý nghĩ “mỗi ngày tôi sẽ dùng một ít”, vào ngày nào mà (giá trị) đủ một pāda thì vào ngày đó phạm tội Bất Cộng Trụ.

Saṃvidāvahāravatthūni saṃvidāvahāre, muṭṭhivatthūni odaniyagharādivatthūsu dve vighāsavatthūni ambacorakādivatthūsu vuttavinicchayanayena veditabbāni. Dve tiṇavatthūni uttānatthāneva.
Các câu chuyện về sự thỏa thuận ngầm (để lấy trộm) được hiểu theo (quyết định trong) chương về sự thỏa thuận ngầm; các câu chuyện về nắm tay (trộm lúa), hai câu chuyện về việc ăn thức ăn thừa (của người khác) cần được hiểu theo phương pháp phân xử đã được nói trong các câu chuyện về nhà phát cháo v.v… và trong các câu chuyện về kẻ trộm xoài v.v… Hai câu chuyện về cỏ thì ý nghĩa đã rõ ràng.

156.Ambabhājāpanādivatthūsu te bhikkhū ekaṃ gāmakāvāsaṃ paricchinnabhikkhukaṃ agamaṃsu. Tattha bhikkhū phalāphalaṃ paribhuñjamānāpi tesu āgatesu ‘‘therānaṃ phalāni dethā’’ti kappiyakārake na avocuṃ. Atha te bhikkhū ‘‘kiṃ saṅghikaṃ amhākaṃ na pāpuṇātī’’ti ghaṇṭiṃ paharitvā bhājāpetvā tesampi vassaggena bhāgaṃ datvā attanāpi paribhuñjiṃsu. Tena nesaṃ bhagavā ‘‘anāpatti, bhikkhave, paribhogatthāyā’’ti āha. Tasmā idānipi yattha āvāsikā āgantukānaṃ na denti, phalavāre ca sampatte aññesaṃ atthibhāvaṃ disvā corikāya attanāva khādanti, tattha āgantukehi ghaṇṭiṃ paharitvā bhājetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati.
156.Trong các câu chuyện về việc chia xoài v.v… các vị tỳ khưu ấy đã đến một trú xứ ở làng, nơi có số lượng tỳ khưu hạn chế. Ở đó, các vị tỳ khưu (trú xứ) dù đang dùng các loại trái cây, nhưng khi các vị (khách) ấy đến, họ đã không nói với những người phục vụ hợp lệ rằng: “Hãy dâng trái cây cho các vị trưởng lão”. Khi ấy, các vị tỳ khưu (khách) đó, với ý nghĩ “Tại sao vật của Tăng chúng không đến được với chúng ta?”, đã đánh chuông, cho chia (trái cây), trao phần cho cả các vị (trú xứ) ấy theo thứ tự hạ lạp, rồi tự mình cũng dùng. Do đó, Đức Thế Tôn đã nói với họ rằng: “Này các tỳ khưu, không phạm tội đối với việc dùng (cho mục đích tiêu thụ)”. Vì vậy, ngày nay cũng vậy, ở nơi nào mà các vị tỳ khưu trú xứ không cho các vị khách, và khi mùa trái cây đến, thấy có của người khác, họ tự mình lén lút ăn, thì ở nơi đó, các vị khách được phép đánh chuông, cho chia rồi dùng.

Yattha pana āvāsikā rukkhe rakkhitvā phalavāre sampatte bhājetvā khādanti, catūsu paccayesu sammā upanenti, anissarā tattha āgantukā. Yepi rukkhā cīvaratthāya niyametvā dinnā, tesupi āgantukā anissarā. Eseva nayo sesapaccayatthāya niyametvā dinnesupi.
Còn ở nơi nào các vị tỳ khưu trú xứ giữ gìn cây cối, khi mùa trái cây đến thì chia nhau ăn, và dâng cúng bốn món vật dụng một cách đúng đắn, thì ở nơi đó các vị khách không có quyền tự ý (sử dụng). Cả những cây đã được chỉ định và dâng cúng cho mục đích may y, các vị khách cũng không có quyền tự ý (sử dụng) đối với chúng. Phương pháp này cũng tương tự đối với những (cây) đã được chỉ định và dâng cúng cho các mục đích vật dụng khác.

Ye pana tathā aniyamitā, āvāsikā ca te rakkhitvā gopetvā corikāya paribhuñjanti, na tesu āvāsikānaṃ katikāya ṭhātabbaṃ. Ye phalaparibhogatthāya dinnā, āvāsikāpi ne rakkhitvā gopetvā sammā upanenti, tesuyeva tesaṃ katikāya ṭhātabbaṃ. Mahāpaccariyaṃ pana vuttaṃ – ‘‘catunnaṃ paccayānaṃ niyametvā dinnaṃ theyyacittena paribhuñjanto bhaṇḍaṃ agghāpetvā kāretabbo. Paribhogavaseneva taṃ bhājetvā paribhuñjantassa bhaṇḍadeyyaṃ. Yaṃ panettha senāsanatthāya niyamitaṃ, taṃ paribhogavaseneva bhājetvā paribhuñjantassa thullaccayañca bhaṇḍadeyyañcā’’ti.
Còn những (cây) không được chỉ định như vậy, mà các vị tỳ khưu trú xứ giữ gìn, canh giữ rồi lén lút dùng, thì không cần phải tuân theo sự quy định của các vị tỳ khưu trú xứ đối với chúng. Những (cây) đã được dâng cúng cho mục đích dùng trái cây, và các vị tỳ khưu trú xứ cũng giữ gìn, canh giữ chúng và dâng cúng (trái cây) một cách đúng đắn, thì chỉ đối với những (cây) đó mới cần tuân theo sự quy định của họ. Trong Đại Sớ Giải (Mahāpaccarī) đã nói rằng – “người nào dùng với tâm trộm cắp vật đã được chỉ định và dâng cúng cho bốn món vật dụng thì phải bị bắt định giá vật đó. Người nào chia rồi dùng vật đó chỉ vì mục đích tiêu thụ thì phải bồi thường vật. Trong số đó, vật nào được chỉ định cho mục đích sàng tọa, người nào chia rồi dùng vật đó chỉ vì mục đích tiêu thụ thì phạm tội Trọng Tội và phải bồi thường vật”.

Odissa cīvaratthāya dinnaṃ cīvareyeva upanetabbaṃ. Sace dubbhikkhaṃ hoti, bhikkhū piṇḍapātena kilamanti, cīvaraṃ pana sulabhaṃ, saṅghasuṭṭhutāya apalokanakammaṃ katvā piṇḍapātepi upanetuṃ vaṭṭati. Senāsanena gilānapaccayena vā kilamantesu saṅghasuṭṭhutāya apalokanakammaṃ katvā tadatthāyapi upanetuṃ vaṭṭati. Odissa piṇḍapātatthāya gilānapaccayatthāya ca dinnepi eseva nayo. Odissa senāsanatthāya dinnaṃ pana garubhaṇḍaṃ hoti, taṃ rakkhitvā gopetvā tadatthameva upanetabbaṃ. Sace pana dubbhikkhaṃ hoti, bhikkhū piṇḍapātena na yāpenti. Ettha rājarogacorabhayādīhi aññattha gacchantānaṃ vihārā palujjanti, tālanāḷikerādike vināsenti, senāsanapaccayaṃ pana nissāya yāpetuṃ sakkā hoti. Evarūpe kāle senāsanaṃ vissajjetvāpi senāsanajagganatthāya paribhogo bhagavatā anuññāto. Tasmā ekaṃ vā dve vā varasenāsanāni ṭhapetvā itarāni lāmakakoṭiyā piṇḍapātatthāya vissajjetuṃ vaṭṭati. Mūlavatthucchedaṃ pana katvā na upanetabbaṃ .
(Vật) được dâng cúng chỉ định cho mục đích may y thì chỉ nên được sử dụng cho y. Nếu có nạn đói, các tỳ khưu gặp khó khăn về vật thực khất thực, nhưng y phục lại dễ kiếm, thì sau khi thực hiện Tăng sự biểu quyết vì lợi ích của Tăng chúng, cũng được phép sử dụng (vật đó) cho vật thực khất thực. Khi các vị gặp khó khăn về sàng tọa hoặc thuốc men trị bệnh, sau khi thực hiện Tăng sự biểu quyết vì lợi ích của Tăng chúng, cũng được phép sử dụng cho mục đích đó. Đối với vật được dâng cúng chỉ định cho mục đích vật thực khất thực và thuốc men trị bệnh, phương pháp này cũng tương tự. Tuy nhiên, vật được dâng cúng chỉ định cho mục đích sàng tọa là vật nặng, cần phải gìn giữ, bảo quản và chỉ sử dụng cho mục đích đó. Nhưng nếu có nạn đói, các tỳ khưu không thể sống bằng vật thực khất thực. Trong trường hợp này, khi các vị phải đi nơi khác do sợ hãi vua chúa, bệnh dịch, trộm cướp v.v…, các tu viện bị hư hoại, (người ta) phá hủy cây thốt nốt, cây dừa v.v…, nhưng có thể sống được nhờ vào vật dụng thuộc về sàng tọa. Trong thời điểm như vậy, Đức Thế Tôn đã cho phép sử dụng (vật thuộc về sàng tọa) để duy trì sàng tọa, ngay cả bằng cách từ bỏ (một phần) sàng tọa. Do đó, được phép giữ lại một hoặc hai sàng tọa tốt, rồi từ bỏ những cái khác thuộc loại kém hơn để dùng cho mục đích vật thực khất thực. Tuy nhiên, không nên sử dụng đến mức làm tổn hại đến vật gốc.

Yo pana ārāmo catuppaccayatthāya niyametvā dinno, tattha apalokanakammaṃ na kātabbaṃ. Yena pana paccayena ūnaṃ, tadatthaṃ upanetuṃ vaṭṭati. Ārāmo jaggitabbo, vetanaṃ datvāpi jaggāpetuṃ vaṭṭati. Ye pana vetanaṃ labhitvā ārāmeyeva gehaṃ katvā vasantā rakkhanti, te ce āgatānaṃ bhikkhūnaṃ nāḷikeraṃ vā tālapakkaṃ vā denti, yaṃ tesaṃ saṅghena anuññātaṃ hoti – ‘‘divase divase ettakaṃ nāma khādathā’’ti tadeva te dātuṃ labhanti; tato uttari tesaṃ dadantānampi gahetuṃ na vaṭṭati.
Còn đối với ngôi tự viện nào đã được chỉ định và dâng cúng cho mục đích bốn món vật dụng, thì không được thực hiện Tăng sự biểu quyết ở đó (để thay đổi mục đích). Tuy nhiên, nếu thiếu món vật dụng nào, thì được phép sử dụng (nguồn thu từ tự viện) cho mục đích đó. Tự viện cần được chăm sóc; được phép trả tiền công để cho người chăm sóc. Còn những người nhận tiền công, làm nhà ngay trong tự viện để ở và trông coi, nếu họ cho các tỳ khưu đến (tự viện) dừa hoặc quả thốt nốt chín, thì họ chỉ được phép cho những gì đã được Tăng chúng cho phép với họ rằng – ‘mỗi ngày hãy ăn chừng này’, họ chỉ được cho chừng đó; nếu họ cho nhiều hơn thế, thì (các tỳ khưu) cũng không được phép nhận.

Yo pana ārāmaṃ keṇiyā gahetvā saṅghassa catuppaccayatthāya kappiyabhaṇḍameva deti, ayaṃ bahukampi dātuṃ labhati. Cetiyassa padīpatthāya vā khaṇḍaphullapaṭisaṅkharaṇatthāya vā dinno ārāmopi paṭijaggitabbo; vetanaṃ datvāpi jaggāpetabbo. Vetanañca panettha cetiyasantakampi saṅghasantakampi dātuṃ vaṭṭati. Etampi ārāmaṃ vetanena tattheva vasitvā rakkhantānañca keṇiyā gahetvā kappiyabhaṇḍadāyakānañca tattha jātakaphaladānaṃ vuttanayeneva veditabbanti.
Còn người nào thuê mướn tự viện rồi chỉ dâng cúng vật hợp lệ cho Tăng chúng vì mục đích bốn món vật dụng, người này được phép cho nhiều. Tự viện được dâng cúng cho mục đích thắp đèn cho bảo tháp hoặc cho việc sửa chữa những chỗ hư hỏng cũng cần được chăm sóc; được phép trả tiền công để cho người chăm sóc. Và ở đây, được phép dùng cả tài sản của bảo tháp lẫn tài sản của Tăng chúng để trả tiền công. Việc cho trái cây sinh ra ở đó bởi những người ở lại đó nhận tiền công để trông coi tự viện này, và bởi những người thuê mướn rồi dâng cúng vật hợp lệ, cần được hiểu theo phương pháp đã nói.

Ambapālakādivatthūsu – anāpatti, bhikkhave, gopakassa dāneti ettha kataraṃ pana gopakadānaṃ vaṭṭati, kataraṃ na vaṭṭatīti? Mahāsumatthero tāva āha – ‘‘yaṃ gopakassa paricchinditvā dinnaṃ hoti – ‘ettakaṃ divase divase gaṇhā’ti tadeva vaṭṭati; tato uttari na vaṭṭatī’’ti. Mahāpadumatthero panāha – ‘‘kiṃ gopakānaṃ paṇṇaṃ āropetvā nimittasaññaṃ vā katvā dinnaṃ atthi, etesaṃ hatthe vissaṭṭhakassa ete issarā, tasmā yaṃ te denti taṃ bahukampi vaṭṭatī’’ti. Kurundaṭṭhakathāyaṃ pana vuttaṃ – ‘‘manussānaṃ ārāmaṃ vā aññaṃ vā phalāphalaṃ dārakā rakkhanti, tehi dinnaṃ vaṭṭati . Āharāpetvā pana na gahetabbaṃ. Saṅghike pana cetiyasantake ca keṇiyā gahetvā rakkhantasseva dānaṃ vaṭṭati. Vetanena rakkhantassa attano bhāgamattaṃ vaṭṭatī’’ti. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘yaṃ gihīnaṃ ārāmarakkhakā bhikkhūnaṃ denti, etaṃ vaṭṭati. Bhikkhusaṅghassa pana ārāmagopakā yaṃ attano bhatiyā khaṇḍetvā denti, etaṃ vaṭṭati. Yopi upaḍḍhārāmaṃ vā kecideva rukkhe vā bhatiṃ labhitvā rakkhati, tassāpi attano pattarukkhatoyeva dātuṃ vaṭṭati. Keṇiyā gahetvā rakkhantassa pana sabbampi vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Etaṃ pana sabbaṃ byañjanato nānaṃ, atthato ekameva; tasmā adhippāyaṃ ñatvā gahetabbaṃ.
Trong các câu chuyện về người giữ xoài v.v… – ở đây, câu “Này các tỳ khưu, không phạm tội đối với sự cho của người giữ vườn”, thì sự cho nào của người giữ vườn là hợp lệ, sự cho nào không hợp lệ? Đại Trưởng lão Suma trước hết nói: “Những gì đã được quy định và cho người giữ vườn rằng – ‘mỗi ngày hãy lấy chừng này’, chỉ chừng đó là hợp lệ; nhiều hơn thế thì không hợp lệ”. Đại Trưởng lão Paduma thì nói: “Có phải đã được cho người giữ vườn bằng cách treo bảng hiệu hoặc làm dấu hiệu không? Họ là chủ của những gì đã được giao phó vào tay họ, do đó, những gì họ cho, dù nhiều cũng hợp lệ”. Tuy nhiên, trong Sớ Giải Kurunda đã nói: “Trẻ em giữ vườn hoặc các loại trái cây khác của người đời, những gì do chúng cho thì hợp lệ. Nhưng không được sai mang đến rồi nhận. Còn đối với tài sản của Tăng chúng và tài sản của bảo tháp, chỉ sự cho của người thuê mướn để trông coi mới hợp lệ. Đối với người trông coi bằng tiền công, chỉ phần của mình mới hợp lệ”. Còn trong Đại Sớ Giải (Mahāpaccarī) đã nói: “Những gì người giữ vườn của cư sĩ cho các tỳ khưu, điều đó hợp lệ. Còn đối với người giữ vườn của Tăng đoàn tỳ khưu, những gì họ trích từ tiền công của mình mà cho, điều đó hợp lệ. Cả người nào nhận tiền công để trông coi nửa khu vườn hoặc chỉ một vài cây, người đó cũng chỉ được phép cho từ những cây thuộc phần của mình. Còn đối với người thuê mướn để trông coi, tất cả đều hợp lệ”. Tất cả những điều này tuy khác nhau về văn tự, nhưng về ý nghĩa thì chỉ là một; do đó, cần hiểu rõ ý định rồi mới thực hành.

Dāruvatthumhi – tāvakāliko ahaṃ bhagavāti tāvakālikacitto ahaṃ bhagavāti vattukāmena vuttaṃ, tāvakālikacittoti ‘‘puna āharitvā dassāmī’’ti evaṃcitto ahanti vuttaṃ hoti. Bhagavā ‘‘tāvakālike anāpattī’’ti āha.
Trong câu chuyện về khúc gỗ – câu “Bạch Đức Thế Tôn, con chỉ tạm thời (lấy)” được nói với ý muốn rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con có tâm tạm thời (lấy)”; “có tâm tạm thời” nghĩa là: “con có tâm nghĩ rằng ‘con sẽ mang trả lại’” đã được nói. Đức Thế Tôn đã nói: “Đối với việc (lấy) tạm thời thì không phạm tội”.

Ayaṃ panettha pāḷimuttakavinicchayo – sace saṅgho saṅghikaṃ kammaṃ kāreti uposathāgāraṃ vā bhojanasālaṃ vā, tato āpucchitvā tāvakālikaṃ haritabbaṃ. Yo pana saṅghiko dabbasambhāro agutto deve vassante temeti, ātapena sukkhati, taṃ sabbampi āharitvā attano āvāse kātuṃ vaṭṭati. Saṅgho āharāpento aññena vā dabbasambhārena mūlena vā saññāpetabbo. Na sakkā ce hoti saññāpetuṃ, ‘‘saṅghikena, bhante, kataṃ saṅghikaparibhogena vaḷañjathā’’ti vattabbaṃ. Senāsanassa pana ayameva bhikkhu issaro. Sacepi pāsāṇatthambho vā rukkhatthambho vā kavāṭaṃ vā vātapānaṃ vā nappahoti, saṅghikaṃ tāvakālikaṃ āharitvā pākatikaṃ kātuṃ vaṭṭati. Esa nayo aññesupi dabbasambhāresūti.
Đây là sự phân xử ngoài Thánh điển – nếu Tăng chúng cho làm công việc của Tăng chúng, (như xây dựng) nhà bố-sát hoặc nhà ăn, thì sau khi xin phép từ đó, được phép lấy (vật liệu) dùng tạm thời. Còn vật liệu nào của Tăng chúng không được trông coi, bị ướt khi trời mưa, bị khô khi trời nắng, thì được phép mang tất cả những thứ đó về làm (việc) ở trú xứ của mình. Khi Tăng chúng cho mang đến, cần phải đền bù bằng vật liệu khác hoặc bằng giá trị tương đương. Nếu không thể đền bù, thì nên nói rằng: “Bạch Đại đức, (công trình này) được làm bằng vật của Tăng chúng, xin hãy sử dụng như vật dụng của Tăng chúng”. Tuy nhiên, chính vị tỳ khưu này là người có quyền đối với sàng tọa đó. Ngay cả khi cột đá, cột gỗ, cánh cửa, hoặc cửa sổ không đủ, cũng được phép lấy vật của Tăng chúng dùng tạm thời để làm cho hoàn chỉnh. Phương pháp này cũng tương tự đối với các vật liệu khác.

Udakavatthusmiṃ – yadā udakaṃ dullabhaṃ hoti, yojanatopi aḍḍhayojanatopi āharīyati, evarūpe pariggahitaudake avahāro. Yatopi āharimato vā pokkharaṇīādīsu ṭhitato vā kevalaṃ yāgubhattaṃ sampādenti, pānīyaparibhogañca karonti, na aññaṃ mahāparibhogaṃ, tampi theyyacittena gaṇhato avahāro. Yato pana ekaṃ vā dve vā ghaṭe gahetvā āsanaṃ dhovituṃ, bodhirukkhe siñcituṃ udakapūjaṃ kātuṃ, rajanaṃ pacituṃ labbhati, tattha saṅghassa katikavaseneva paṭipajjitabbaṃ. Atirekaṃ gaṇhanto, mattikādīni vā theyyacittena pakkhipanto bhaṇḍaṃ agghāpetvā kāretabbo.
Trong câu chuyện về nước – khi nước khan hiếm, phải mang từ một do-tuần hoặc nửa do-tuần đến, (lấy) nước đã được giữ gìn như vậy là trộm cắp. Nước được mang đến hoặc có sẵn trong ao hồ v.v… mà người ta chỉ dùng để nấu cháo, cơm và dùng làm nước uống, không dùng cho các mục đích tiêu thụ lớn khác, nếu lấy nước đó với tâm trộm cắp cũng là trộm cắp. Còn việc lấy một hoặc hai ghè nước để rửa chỗ ngồi, tưới cây bồ đề, cúng dường nước, nấu thuốc nhuộm, ở đó phải thực hành theo quy định của Tăng chúng. Người nào lấy quá mức, hoặc bỏ đất sét v.v… vào với tâm trộm cắp, thì phải bị bắt định giá vật đó.

Sace āvāsikā katikavattaṃ daḷhaṃ karonti, aññesaṃ bhaṇḍakaṃ dhovituṃ vā rajituṃ vā na denti, attanā pana aññesaṃ apassantānaṃ gahetvā sabbaṃ karonti, tesaṃ katikāya na ṭhātabbaṃ. Yattakaṃ te dhovanti, tattakaṃ dhovitabbaṃ. Sace saṅghassa dve tisso pokkharaṇiyo vā udakasoṇḍiyo vā honti, katikā ca katā ‘‘ettha nhāyitabbaṃ, ito pānīyaṃ gahetabbaṃ, idha sabbaparibhogo kātabbo’’ti. Katikavatteneva sabbaṃ kātabbaṃ. Yattha katikā natthi, tattha sabbaparibhogo vaṭṭatīti.
Nếu các vị tỳ khưu trú xứ giữ vững quy định, không cho người khác giặt đồ hoặc nhuộm đồ, nhưng bản thân họ lại lấy (nước) làm mọi việc khi không có người khác trông thấy, thì không cần phải tuân theo quy định của họ. Họ giặt bao nhiêu, thì mình cũng được giặt bấy nhiêu. Nếu Tăng chúng có hai ba cái ao hoặc hồ chứa nước, và đã có quy định rằng: ‘Nên tắm ở đây, nên lấy nước uống từ đây, nên dùng cho mọi mục đích ở đây’. Phải làm mọi việc theo đúng quy định. Nơi nào không có quy định, thì được phép dùng cho mọi mục đích.

Mattikāvatthusmiṃ – yattha mattikā dullabhā hoti, nānappakārā vā vaṇṇamattikā āharitvā ṭhapitā, tattha thokāpi pañcamāsakaṃ agghati, tasmā pārājikaṃ. Saṅghike pana kamme cetiyakamme ca niṭṭhite saṅghaṃ āpucchitvā vā tāvakālikaṃ vā gahetuṃ vaṭṭati. Sudhāyapi cittakammavaṇṇesupi eseva nayo.
Trong câu chuyện về đất sét – nơi nào đất sét khan hiếm, hoặc các loại đất sét có màu sắc khác nhau được mang đến và cất giữ, ở đó dù chỉ một ít cũng trị giá năm māsaka, do đó phạm tội Bất Cộng Trụ. Tuy nhiên, khi công việc của Tăng chúng và công việc của bảo tháp đã hoàn tất, thì sau khi xin phép Tăng chúng hoặc (chỉ) lấy dùng tạm thời thì được phép. Đối với vôi và các màu vẽ, phương pháp này cũng tương tự.

Tiṇavatthūsu – jhāpitatiṇe ṭhānācāvanassa abhāvā dukkaṭaṃ, bhaṇḍadeyyaṃ pana hoti. Saṅgho tiṇavatthuṃ jaggitvā saṅghikaṃ āvāsaṃ chādeti, puna kadāci jaggituṃ na sakkoti, athañño eko bhikkhu vattasīsena jaggati, saṅghassevetaṃ. No ce jaggati, saṅgheneko bhikkhu vattabbo ‘‘jaggitvā dehī’’ti. So ce bhāgaṃ icchati, bhāgaṃ datvāpi jaggāpetabbaṃ. Sace bhāgaṃ vaḍḍheti, dātabbameva. Vaḍḍhetiyeva, ‘‘gaccha jaggitvā sabbaṃ gahetvā attano santakaṃ senāsanaṃ chādehī’’ti vattabbo. Kasmā? Naṭṭhe attho natthi. Dadantehi pana savatthukaṃ na dātabbaṃ , garubhaṇḍaṃ hoti; tiṇamattaṃ pana dātabbaṃ. Tasmiṃ ce jaggitvā attano senāsanaṃ chādente puna saṅgho jaggituṃ pahoti, ‘‘tvaṃ mā jaggi, saṅgho jaggissatī’’ti vattabboti.
Trong các câu chuyện về cỏ – đối với cỏ đã đốt, do không có sự di chuyển khỏi vị trí, nên phạm tội Tác Ác, nhưng phải bồi thường vật. Tăng chúng thu gom cỏ tranh để lợp trú xứ của Tăng chúng, nhưng sau đó có lúc không thể thu gom được nữa, khi ấy một vị tỳ khưu khác tự nguyện thu gom, thì đó vẫn là của Tăng chúng. Nếu vị ấy không thu gom, Tăng chúng có thể yêu cầu một vị tỳ khưu rằng: “Hãy thu gom và đưa (cho Tăng chúng)”. Nếu vị ấy muốn một phần, thì cũng phải cho một phần để vị ấy thu gom. Nếu vị ấy đòi thêm phần, thì cũng phải cho. Nếu vị ấy cứ đòi thêm mãi, (Tăng chúng có thể nói): “Hãy đi thu gom tất cả rồi lấy lợp sàng tọa của riêng mình”. Tại sao? Vì khi (cỏ) hư hỏng thì không còn ích lợi gì. Tuy nhiên, khi cho, không nên cho cả phần đất (nơi cỏ mọc), vì đó là vật nặng; chỉ nên cho phần cỏ mà thôi. Nếu trong khi vị ấy đang thu gom để lợp sàng tọa của mình, Tăng chúng lại có khả năng thu gom, (Tăng chúng có thể nói): “Thầy đừng thu gom nữa, Tăng chúng sẽ thu gom”.

Mañcādīni satta vatthūni pākaṭāneva. Pāḷiyaṃ pana anāgatampi pāsāṇatthambhaṃ vā rukkhatthambhaṃ vā aññaṃ vā kiñci pādagghanakaṃ harantassa pārājikameva. Padhānagharādīsu chaḍḍitapatitānaṃ pariveṇādīnaṃ kuṭṭampi pākārampi bhinditvā iṭṭhakādīni avaharantassāpi eseva nayo. Kasmā? Saṅghikaṃ nāma kadāci ajjhāvasanti, kadāci na ajjhāvasanti. Paccante corabhayena janapade vuṭṭhahante chaḍḍitavihārādīsu kiñci parikkhāraṃ harantassāpi eseva nayo. Ye pana tato tāvakālikaṃ haranti, puna āvasitesu ca vihāresu bhikkhū āharāpenti, dātabbaṃ. Sacepi tato āharitvā senāsanaṃ kataṃ hoti, taṃ vā tadagghanakaṃ vā dātabbameva. ‘‘Puna āvasissāmā’’ti ālayaṃ acchinditvā vuṭṭhitesu janapadesu gaṇasantakaṃ vā puggalikaṃ vā gahitaṃ hoti; te ce anujānanti, paṭikammena kiccaṃ natthi. Saṅghikaṃ pana garubhaṇḍaṃ, tasmā paṭikammaṃ kattabbameva.
Bảy câu chuyện về giường v.v… thì đã rõ ràng. Tuy nhiên, ngay cả những điều không được nói đến trong Thánh điển, như việc lấy cắp cột đá, cột gỗ hoặc bất kỳ vật gì khác trị giá một pāda, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với việc phá tường, phá rào của các thiền đường, các khu nhà ở v.v… đã bị bỏ hoang và đổ nát để lấy trộm gạch v.v…, phương pháp này cũng tương tự. Tại sao? Vì đối với tài sản của Tăng chúng, có khi các vị ở, có khi không ở. Ở vùng biên địa, khi dân chúng bỏ đi vì sợ trộm cướp, việc lấy trộm bất kỳ vật dụng nào từ các tu viện bị bỏ hoang v.v…, phương pháp này cũng tương tự. Còn những người lấy (vật dụng) từ đó để dùng tạm thời, và khi các tỳ khưu trở về ở lại các tu viện đó mà cho mang đến, thì phải trả lại. Ngay cả khi đã lấy (vật liệu) từ đó để làm sàng tọa, thì cũng phải trả lại vật đó hoặc giá trị tương đương. Ở những vùng dân chúng đã bỏ đi mà không cắt đứt ý muốn ‘chúng tôi sẽ trở lại ở’, nếu (vật dụng) thuộc về nhóm hoặc cá nhân đã bị lấy; nếu họ cho phép, thì không cần phải bồi thường. Nhưng (nếu là) vật nặng của Tăng chúng, thì nhất định phải bồi thường.

157. Vihāraparibhogavatthu uttānatthameva.
157. Câu chuyện về việc sử dụng tu viện có ý nghĩa rõ ràng.

Anujānāmi, bhikkhave, tāvakālikaṃ haritunti ettha yo bhikkhu saṅghikaṃ mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā tāvakālikaṃ haritvā attano phāsukaṭṭhāne ekampi dvepi māse saṅghikaparibhogena paribhuñjati, āgatāgatānaṃ vuḍḍhatarānaṃ deti, nappaṭibāhati , tassa tasmiṃ naṭṭhepi jiṇṇepi corāvahaṭepi gīvā na hoti. Vasitvā pana gacchantena yathāṭhāne ṭhapetabbaṃ. Yo pana puggalikaparibhogena paribhuñjati, āgatāgatānaṃ vuḍḍhatarānaṃ na deti, tasmiṃ naṭṭhe tassa gīvā hoti. Aññaṃ pana āvāsaṃ haritvā paribhuñjantena sace tattha vuḍḍhataro āgantvā vuṭṭhāpeti, ‘‘mayā idaṃ asukāvāsato nāma āhaṭaṃ, gacchāmi, naṃ pākatikaṃ karomī’’ti vattabbaṃ. Sace so bhikkhu ‘‘ahaṃ pākatikaṃ karissāmī’’ti vadati, tassa bhāraṃ katvāpi gantuṃ vaṭṭatīti saṅkhepaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ.
Ở đây, trong câu “Này các tỳ khưu, Ta cho phép lấy dùng tạm thời”, vị tỳ khưu nào lấy giường hoặc ghế của Tăng chúng để dùng tạm thời, rồi sử dụng tại nơi thuận tiện của mình trong một hoặc hai tháng theo cách sử dụng của Tăng chúng, nhường cho các vị lớn tuổi hơn đến sau, không từ chối, thì vị ấy không có trách nhiệm (đền bù) khi vật đó bị mất, hư hỏng hoặc bị trộm lấy đi. Tuy nhiên, sau khi ở rồi ra đi, vị ấy phải đặt (vật đó) lại chỗ cũ. Còn vị nào sử dụng như vật cá nhân, không nhường cho các vị lớn tuổi hơn đến sau, thì vị ấy có trách nhiệm (đền bù) khi vật đó bị mất. Còn vị nào mang (vật đó) đến trú xứ khác để sử dụng, nếu ở đó có vị lớn tuổi hơn đến và yêu cầu đứng dậy (trả lại chỗ), thì nên nói rằng: “Vật này tôi đã mang từ trú xứ kia đến, tôi sẽ đi trả lại chỗ cũ”. Nếu vị tỳ khưu kia nói: “Tôi sẽ trả lại chỗ cũ”, thì cũng được phép giao trách nhiệm đó cho vị ấy rồi ra đi, điều này đã được nói trong Sớ Giải Tóm Lược.

Campāvatthumhi – tekaṭulayāgūti tilataṇḍulamuggehi vā tilataṇḍulamāsehi vā tilataṇḍulakulatthehi vā tilataṇḍulehi saddhiṃ yaṃkiñci ekaṃ aparaṇṇaṃ pakkhipitvā tīhi katā, etaṃ kira imehi tīhi catubhāgaudakasambhinne khīre sappimadhusakkarādīhi yojetvā karonti.
Trong câu chuyện ở Campā – “cháo nấu bằng ba loại đậu” là (cháo) được nấu bằng ba thứ: mè, gạo và đậu xanh; hoặc mè, gạo và đậu đen; hoặc mè, gạo và đậu ngựa; hoặc mè, gạo cùng với bất kỳ một loại đậu nào khác được thêm vào. Nghe nói rằng, người ta nấu món này bằng ba thứ đó trong sữa đã được pha với một phần tư nước, rồi thêm bơ lỏng, mật ong, đường phèn v.v…

Rājagahavatthumhi – madhugoḷakoti atirasakapūvo vuccati; ‘‘madhusīsaka’’ntipi vadanti. Sesamettha vatthudvayepi odanabhājanīyavatthusmiṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.
Trong câu chuyện ở Rājagaha – “bánh mật tròn” được gọi là một loại bánh rất ngon; cũng gọi là “bánh đầu mật”. Phần còn lại ở đây trong cả hai câu chuyện cần được hiểu theo phương pháp đã được nói trong câu chuyện về việc chia cơm.

158. Ajjukavatthusmiṃ – etadavocāti gilāno hutvā avoca. Āyasmā upāli āyasmato ajjukassa pakkhoti na agatigamanavasena pakkho, api ca kho anāpattisaññitāya lajjīanuggahena vinayānuggahena ca thero pakkhoti veditabbo. Sesamettha uttānameva.
158. Trong câu chuyện về ngài Ajjuka – “đã nói điều này” nghĩa là ngài đã nói khi bị bệnh. Câu “Tôn giả Upāli là người bênh vực Tôn giả Ajjuka” không có nghĩa là bênh vực theo cách thiên vị do đi đến sai đường, mà đúng hơn, cần hiểu rằng Trưởng lão bênh vực vì nghĩ rằng (Ajjuka) không phạm tội, vì muốn giúp đỡ người biết hổ thẹn và vì muốn duy trì giới luật. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

159. Bārāṇasīvatthusmiṃ – corehi upaddutanti corehi viluttaṃ. Iddhiyā ānetvā pāsāde ṭhapesīti thero kira taṃ kulaṃ sokasallasamappitaṃ āvaṭṭantaṃ vivaṭṭantaṃ disvā tassa kulassa anukampāya pasādānurakkhaṇatthāya dhammānuggahena attano iddhiyā ‘‘tesaṃyeva pāsādaṃ dārakānaṃ samīpe hotū’’ti adhiṭṭhāsi. Dārakā ‘‘amhākaṃ pāsādo’’ti sañjānitvā abhiruhiṃsu. Tato thero iddhiṃ paṭisaṃhari, pāsādopi sakaṭṭhāneyeva aṭṭhāsi. Vohāravasena pana vuttaṃ ‘‘te dārake iddhiyā ānetvā pāsāde ṭhapesī’’ti. Iddhivisayeti īdisāya adhiṭṭhāniddhiyā anāpatti. Vikubbaniddhi pana na vaṭṭati.
159. Trong câu chuyện ở Bārāṇasī – “bị trộm cướp quấy nhiễu” nghĩa là bị trộm cướp cướp phá. Câu “Dùng thần thông mang đến đặt trong lâu đài” (nghĩa là) nghe nói Trưởng lão thấy gia đình đó bị đau khổ, sầu muộn, đi qua đi lại, vì lòng thương xót gia đình đó, để giữ gìn niềm tin của họ, và để hỗ trợ chánh pháp, ngài đã dùng thần thông của mình chú nguyện rằng: “Lâu đài của họ hãy ở gần những đứa trẻ”. Những đứa trẻ nhận ra “Lâu đài của chúng ta” rồi trèo lên. Sau đó, Trưởng lão thu hồi thần thông, lâu đài cũng trở lại vị trí cũ của nó. Tuy nhiên, theo cách nói thông thường, đã nói rằng: “Ngài dùng thần thông mang những đứa trẻ đó đến đặt trong lâu đài”. “Đối với phạm vi thần thông” nghĩa là đối với loại thần thông chú nguyện như vậy thì không phạm tội. Tuy nhiên, thần thông biến hóa thì không được phép (trong trường hợp này).

160-1. Avasāne vatthudvayaṃ uttānatthamevāti.
160-1. Hai câu chuyện ở cuối có ý nghĩa rõ ràng.

Samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāya

Của bộ Sớ Giải Luật Tạng Samantapāsādikā

Dutiyapārājikavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải về tội Bất Cộng Trụ thứ hai đã hoàn tất.

Tatrāyaṃ anusāsanī –

Ở đây, đây là lời khuyên dạy –

Dutiyaṃ adutiyena, yaṃ jinena pakāsitaṃ;
Parājitakilesena, pārājikamidaṃ idha.
Sikkhāpadaṃ samaṃ tena, aññaṃ kiñci na vijjati;
Anekanayavokiṇṇaṃ, gambhīratthavinicchayaṃ.
Tasmā vatthumhi otiṇṇe, bhikkhunā vinayaññunā;
Vinayānuggahenettha, karontena vinicchayaṃ.
Pāḷiṃ aṭṭhakathañceva, sādhippāyamasesato;
Ogayha appamattena, karaṇīyo vinicchayo.
Āpattidassanussāho, na kattabbo kudācanaṃ;
Passissāmi anāpatti-miti kayirātha mānasaṃ.
Passitvāpi ca āpattiṃ, avatvāva punappunaṃ;
Vīmaṃsitvātha viññūhi, saṃsanditvā ca taṃ vade.
Kappiyepi ca vatthusmiṃ, cittassa lahuvattino;
Vasena sāmaññaguṇā, cavantīdha puthujjanā.
Tasmā paraparikkhāraṃ, āsīvisamivoragaṃ;
Aggiṃ viya ca sampassaṃ, nāmaseyya vicakkhaṇoti.
Giới Bất Cộng Trụ thứ hai này, đây,
Do Đấng Vô Song, người chinh phục phiền não, tuyên thuyết.

Chẳng học giới nào sánh bằng giới ấy,
Bao gồm nhiều phương pháp, phân xử nghĩa thâm sâu.

Vì thế, khi trường hợp (phạm giới) đến,
Tỳ khưu thông Luật, khi phân xử tại đây,

Nương theo Luật, cần thấu triệt Thánh điển,
Sớ Giải cùng ý nghĩa, không chút lơ là,
Sự phân xử (như thế) cần được thực hiện.

Chớ bao giờ gắng công tìm thấy tội,
Nên khởi tâm: ‘Mong thấy không phạm tội’.

Dù thấy tội, chớ vội vàng nói ngay,
Suy xét kỹ nhiều lần, đối chiếu bậc trí rồi mới hay.

Dù với vật hợp lệ, do tâm ý nhẹ lay,
Phàm phu đây, đức Sa-môn cũng suy phai.

Vậy nên, vật của người, xem như rắn độc ngay,
Thấy như lửa, người trí chớ chạm tay.

Pārājikakaṇḍa-aṭṭhakathāya

Của Sớ Giải Phẩm Bất Cộng Trụ

Paṭhamo bhāgo niṭṭhito.

Phần thứ nhất đã hoàn tất.

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa

Kính lễ Đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Đấng Chánh Đẳng Chánh Giác

Vinayapiṭake

Trong Tạng Luật

Pārājikakaṇḍa-aṭṭhakathā (dutiyo bhāgo)

Sớ Giải Phẩm Bất Cộng Trụ (phần thứ hai)

3. Tatiyapārājikaṃ

3. Giới Bất Cộng Trụ Thứ Ba

Tatiyaṃ tīhi suddhena, yaṃ buddhena vibhāvitaṃ;
Pārājikaṃ tassa dāni, patto saṃvaṇṇanākkamo.
Yasmā tasmā suviññeyyaṃ, yaṃ pubbe ca pakāsitaṃ;
Taṃ vajjayitvā assāpi, hoti saṃvaṇṇanā ayaṃ.
Giới Bất Cộng Trụ thứ ba, mà Đức Phật,
Đấng thanh tịnh trong ba phương diện, đã làm cho rõ ràng;
Nay đã đến thứ tự giải thích về giới ấy.

Do đó, những gì dễ hiểu và đã được tuyên thuyết trước đây,
Sau khi loại trừ những điều đó, đây là phần giải thích về giới này.

Paṭhamapaññattinidānavaṇṇanā

Giải Thích Duyên Khởi Của Chế Định Đầu Tiên

162.Tenasamayena buddho bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyanti ettha vesāliyanti evaṃnāmake itthiliṅgavasena pavattavohāre nagare. Tañhi nagaraṃ tikkhattuṃ pākāraparikkhepavaḍḍhanena visālībhūtattā ‘‘vesālī’’ti vuccati. Idampi ca nagaraṃ sabbaññutappatteyeva sammāsambuddhe sabbākārena vepullaṃ pattanti veditabbaṃ. Evaṃ gocaragāmaṃ dassetvā nivāsaṭṭhāna māha – ‘‘mahāvane kūṭāgārasālāya’’nti. Tattha mahāvanaṃ nāma sayaṃjātaṃ aropimaṃ saparicchedaṃ mahantaṃ vanaṃ. Kapilavatthusāmantā pana mahāvanaṃ himavantena saha ekābaddhaṃ aparicchedaṃ hutvā mahāsamuddaṃ āhacca ṭhitaṃ. Idaṃ tādisaṃ na hoti, saparicchedaṃ mahantaṃ vananti mahāvanaṃ. Kūṭāgārasālā pana mahāvanaṃ nissāya kate ārāme kūṭāgāraṃ anto katvā haṃsavaṭṭakacchadanena katā sabbākārasampannā buddhassa bhagavato gandhakuṭi veditabbā.
162. Ở đây, trong câu “Khi ấy, Đức Phật, Đức Thế Tôn ngự tại Vesālī, trong Đại Lâm, tại Trùng Các Giảng Đường”. “Tại Vesālī” nghĩa là tại thành phố có tên như vậy, một danh xưng được dùng theo giống cái. Thành phố ấy được gọi là “Vesālī” vì nó đã trở nên rộng lớn do việc mở rộng vòng thành bao quanh ba lần. Cần hiểu rằng thành phố này cũng đã đạt đến sự thịnh vượng về mọi mặt chính vào lúc Đức Chánh Đẳng Chánh Giác đạt được Nhất Thiết Trí. Sau khi chỉ rõ làng khất thực như vậy, Ngài nói về nơi cư ngụ – “trong Đại Lâm, tại Trùng Các Giảng Đường”. Ở đó, Đại Lâm là một khu rừng lớn, tự mọc, không do trồng, có ranh giới xác định. Còn Đại Lâm gần Kapilavatthu thì nối liền với dãy Himalaya, không có ranh giới xác định, trải dài đến tận biển lớn. (Đại Lâm) này không phải như vậy, đó là một khu rừng lớn có ranh giới xác định, nên gọi là Đại Lâm. Còn Trùng Các Giảng Đường cần được hiểu là hương thất của Đức Phật, Đức Thế Tôn, được xây dựng trong một tu viện gần Đại Lâm, có một tòa nhà nóc nhọn bên trong, được lợp bằng mái hình tròn như hình con ngỗng, và hoàn hảo về mọi mặt.

Anekapariyāyena asubhakathaṃ kathetīti anekehi kāraṇehi asubhākārasandassanappavattaṃ kāyavicchandaniyakathaṃ katheti. Seyyathidaṃ – ‘‘atthi imasmiṃ kāye kesā lomā…pe. … mutta’’nti. Kiṃ vuttaṃ hoti? Bhikkhave, imasmiṃ byāmamatte kaḷevare sabbākārenapi vicinanto na koci kiñci muttaṃ vā maṇiṃ vā veḷuriyaṃ vā agaruṃ vā candanaṃ vā kuṅkumaṃ vā kappūraṃ vā vāsacuṇṇādīni vā aṇumattampi sucibhāvaṃ passati. Atha kho paramaduggandhaṃ jegucchaṃ assirīkadassanaṃ kesalomādinānappakāraṃ asuciṃyeva passati. Tasmā na ettha chando vā rāgo vā karaṇīyo. Yepi hi uttamaṅge sirasmiṃ jātā kesā nāma, tepi asubhā ceva asucino ca paṭikkūlā ca. So ca nesaṃ asubhāsucipaṭikkūlabhāvo vaṇṇatopi saṇṭhānatopi gandhatopi āsayatopi okāsatopīti pañcahi kāraṇehi veditabbo. Evaṃ lomādīnanti. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana visuddhimagge (visuddhi. 1.182) vuttanayena veditabbo. Iti bhagavā ekamekasmiṃ koṭṭhāse pañcapañcappabhedena anekapariyāyena asubhakathaṃ katheti.
Nói về sự bất tịnh bằng nhiều phương pháp” nghĩa là Ngài nói về sự ghê tởm của thân xác, được diễn tả bằng nhiều lý do để cho thấy các khía cạnh bất tịnh. Ví như – “Trong thân này có tóc, lông…đến…nước tiểu”. Điều gì đã được nói? Này các tỳ khưu, trong tấm thân dài một sải tay này, dù tìm kiếm bằng mọi cách, không ai thấy được bất kỳ ngọc trai, ngọc quý, ngọc lưu ly, trầm hương, chiên đàn, nghệ tây, long não, bột hương thơm, hay bất kỳ chút thanh tịnh nhỏ nào. Mà chỉ thấy những thứ cực kỳ hôi thối, đáng ghê tởm, trông không đẹp mắt, như tóc, lông và nhiều loại bất tịnh khác. Do đó, không nên có sự ham muốn hay tham ái đối với thân này. Ngay cả những thứ gọi là tóc, mọc trên đầu, phần cao nhất của cơ thể, cũng là bất tịnh, không sạch sẽ và đáng nhờm gớm. Và tính chất bất tịnh, không sạch sẽ, đáng nhờm gớm của chúng cần được hiểu qua năm lý do: về màu sắc, về hình dạng, về mùi, về nơi phát sinh, và về vị trí. Tương tự đối với lông v.v… Đây là phần tóm tắt, còn phần chi tiết cần được hiểu theo phương pháp đã được nói trong Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 1.182). Như vậy, Đức Thế Tôn nói về sự bất tịnh bằng nhiều phương pháp, với năm cách phân loại cho mỗi phần (của cơ thể).

Asubhāya vaṇṇaṃ bhāsatīti uddhumātakādivasena asubhamātikaṃ nikkhipitvā padabhājanīyena taṃ vibhajanto vaṇṇento saṃvaṇṇento asubhāya vaṇṇaṃ bhāsati. Asubhabhāvanāya vaṇṇaṃ bhāsatīti yā ayaṃ kesādīsu vā uddhumātakādīsu vā ajjhattabahiddhāvatthūsu asubhākāraṃ gahetvā pavattassa cittassa bhāvanā vaḍḍhanā phātikammaṃ, tassā asubhabhāvanāya ānisaṃsaṃ dassento vaṇṇaṃ bhāsati, guṇaṃ parikitteti. Seyyathidaṃ – ‘‘asubhabhāvanābhiyutto, bhikkhave , bhikkhu kesādīsu vā vatthūsu uddhumātakādīsu vā pañcaṅgavippahīnaṃ pañcaṅgasamannāgataṃ tividhakalyāṇaṃ dasalakkhaṇasampannaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ paṭilabhati. So taṃ paṭhamajjhānasaṅkhātaṃ cittamañjūsaṃ nissāya vipassanaṃ vaḍḍhetvā uttamatthaṃ arahattaṃ pāpuṇātī’’ti.
Ca ngợi sự bất tịnh” nghĩa là Ngài ca ngợi sự bất tịnh bằng cách nêu lên đề mục bất tịnh theo các tướng như tử thi sình trương v.v…, rồi phân tích, mô tả và tán thán nó bằng cách phân tích từng từ. “Ca ngợi sự tu tập về bất tịnh” nghĩa là Ngài ca ngợi, tán dương công đức bằng cách chỉ ra lợi ích của sự tu tập về bất tịnh, tức là sự tu tập, sự phát triển, sự làm cho lớn mạnh của tâm thức khởi lên do nắm bắt tướng bất tịnh trong các đối tượng bên trong và bên ngoài như tóc v.v… hoặc các tử thi sình trương v.v… Ví như – “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu chuyên tâm tu tập về bất tịnh, đối với các đối tượng như tóc v.v… hoặc các tử thi sình trương v.v…, chứng đắc Sơ thiền, vốn đã từ bỏ năm chi (triền cái), thành tựu năm chi (thiền), tốt đẹp ở ba phương diện, đầy đủ mười đặc tính. Vị ấy, nương vào chiếc hộp tâm ý gọi là Sơ thiền ấy, phát triển tuệ quán và đạt đến mục đích tối thượng là quả A-la-hán”.

Tatrimāni paṭhamassa jhānassa dasa lakkhaṇāni – pāripanthikato cittavisuddhi, majjhimassa samādhinimittassa paṭipatti, tattha cittapakkhandanaṃ, visuddhassa cittassa ajjhupekkhanaṃ, samathappaṭipannassa ajjhupekkhanaṃ, ekattupaṭṭhānassa ajjhupekkhanaṃ, tattha jātānaṃ dhammānaṃ anativattanaṭṭhena sampahaṃsanā, indriyānaṃ ekarasaṭṭhena tadupagavīriyavāhanaṭṭhena āsevanaṭṭhena sampahaṃsanāti.
Trong đó, đây là mười đặc tính của Sơ thiền: sự thanh tịnh của tâm khỏi các chướng ngại, sự đạt đến tướng định ở mức trung bình, sự nhập tâm vào đó, sự xả đối với tâm đã thanh tịnh, sự xả đối với (tâm) đã đạt đến chỉ, sự xả đối với sự nhất tâm hiện diện, sự hân hoan do các pháp sinh khởi trong đó không bị vượt qua, sự hân hoan do các căn có cùng một vị, do năng lực tinh tấn hướng đến đó, do sự thực hành thuần thục.

Tatrāyaṃ pāḷi – ‘‘paṭhamassa jhānassa ko ādi, kiṃ majjhe, kiṃ pariyosānaṃ? Paṭhamassa jhānassa paṭipadāvisuddhi ādi, upekkhānubrūhanā majjhe, sampahaṃsanā pariyosānaṃ. Paṭhamassa jhānassa paṭipadāvisuddhi ādi, ādissa kati lakkhaṇāni? Ādissa tīṇi lakkhaṇāni – yo tassa paripantho tato cittaṃ visujjhati, visuddhattā cittaṃ majjhimaṃ samathanimittaṃ paṭipajjati, paṭipannattā tattha cittaṃ pakkhandati. Yañca paripanthato cittaṃ visujjhati, yañca visuddhattā cittaṃ majjhimaṃ samathanimittaṃ paṭipajjati, yañca paṭipannattā tattha cittaṃ pakkhandati. Paṭhamassa jhānassa paṭipadāvisuddhi ādi, ādissa imāni tīṇi lakkhaṇāni. Tena vuccati – ‘paṭhamaṃ jhānaṃ ādikalyāṇañceva hoti tilakkhaṇasampannañca’.
Ở đây, đây là Thánh điển – “Sơ thiền có gì là khởi đầu, gì là ở giữa, gì là kết thúc? Sự thanh tịnh của đạo lộ là khởi đầu của Sơ thiền, sự tăng trưởng xả là ở giữa, sự hân hoan là kết thúc. Sự thanh tịnh của đạo lộ là khởi đầu của Sơ thiền; khởi đầu có bao nhiêu đặc tính? Khởi đầu có ba đặc tính: tâm được thanh tịnh khỏi những gì là chướng ngại của nó, do thanh tịnh nên tâm đạt đến tướng chỉ ở mức trung bình, do đạt đến nên tâm nhập vào đó. Việc tâm được thanh tịnh khỏi chướng ngại, việc tâm do thanh tịnh nên đạt đến tướng chỉ ở mức trung bình, và việc tâm do đạt đến nên nhập vào đó. Sự thanh tịnh của đạo lộ là khởi đầu của Sơ thiền; khởi đầu có ba đặc tính này. Do đó, được nói rằng: ‘Sơ thiền tốt đẹp ở khởi đầu và đầy đủ ba đặc tính’.”

‘‘Paṭhamassa jhānassa upekkhānubrūhanā majjhe, majjhassa kati lakkhaṇāni? Majjhassa tīṇi lakkhaṇāni – visuddhaṃ cittaṃ ajjhupekkhati, samathappaṭipannaṃ ajjhupekkhati, ekattupaṭṭhānaṃ ajjhupekkhati. Yañca visuddhaṃ cittaṃ ajjhupekkhati, yañca samathappaṭipannaṃ ajjhupekkhati , yañca ekattupaṭṭhānaṃ ajjhupekkhati. Paṭhamassa jhānassa upekkhānubrūhanā majjhe, majjhassa imāni tīṇi lakkhaṇāni. Tena vuccati – ‘paṭhamaṃ jhānaṃ majjhekalyāṇañceva hoti tilakkhaṇasampannañca’.
“Sự tăng trưởng xả là ở giữa của Sơ thiền; ở giữa có bao nhiêu đặc tính? Ở giữa có ba đặc tính: xả đối với tâm đã thanh tịnh, xả đối với (tâm) đã đạt đến chỉ, xả đối với sự nhất tâm hiện diện. Việc xả đối với tâm đã thanh tịnh, việc xả đối với (tâm) đã đạt đến chỉ, và việc xả đối với sự nhất tâm hiện diện. Sự tăng trưởng xả là ở giữa của Sơ thiền; ở giữa có ba đặc tính này. Do đó, được nói rằng: ‘Sơ thiền tốt đẹp ở giữa và đầy đủ ba đặc tính’.”

‘‘Paṭhamassa jhānassa sampahaṃsanā pariyosānaṃ, pariyosānassa kati lakkhaṇāni? Pariyosānassa cattāri lakkhaṇāni – tattha jātānaṃ dhammānaṃ anativattanaṭṭhena sampahaṃsanā, indriyānaṃ ekarasaṭṭhena sampahaṃsanā, tadupagavīriyavāhanaṭṭhena sampahaṃsanā, āsevanaṭṭhena sampahaṃsanā. Paṭhamassa jhānassa sampahaṃsanā pariyosānaṃ, pariyosānassa imāni cattāri lakkhaṇāni . Tena vuccati – ‘paṭhamaṃ jhānaṃ pariyosānakalyāṇañceva hoti catulakkhaṇasampannañca. ‘‘Evaṃ tividhattagataṃ cittaṃ tividhakalyāṇakaṃ dasalakkhaṇasampannaṃ vitakkasampannañceva hoti vicārasampannañca pītisampannañca sukhasampannañca cittassa adhiṭṭhānasampannañca saddhāsampannañca vīriyasampannañca satisampannañca samādhisampannañca paññāsampannañcā’’ti (paṭi. ro. 1.158).
“Sự hân hoan là kết thúc của Sơ thiền; kết thúc có bao nhiêu đặc tính? Kết thúc có bốn đặc tính: sự hân hoan do các pháp sinh khởi trong đó không bị vượt qua, sự hân hoan do các căn có cùng một vị, sự hân hoan do năng lực tinh tấn hướng đến đó, sự hân hoan do sự thực hành thuần thục. Sự hân hoan là kết thúc của Sơ thiền; kết thúc có bốn đặc tính này. Do đó, được nói rằng: ‘Sơ thiền tốt đẹp ở kết thúc và đầy đủ bốn đặc tính’. ‘Như vậy, tâm đã đạt đến ba giai đoạn, tốt đẹp ở ba phương diện, đầy đủ mười đặc tính, cũng đầy đủ tầm, đầy đủ tứ, đầy đủ hỷ, đầy đủ lạc, đầy đủ sự quyết định của tâm, đầy đủ tín, đầy đủ tinh tấn, đầy đủ niệm, đầy đủ định, và đầy đủ tuệ’.” (paṭi. ro. 1.158).

Ādissa ādissa asubhasamāpattiyā vaṇṇaṃ bhāsatīti ‘‘evampi itthampī’’ti punappunaṃ vavatthānaṃ katvā ādisanto asubhasamāpattiyā vaṇṇaṃ bhāsati, ānisaṃsaṃ katheti, guṇaṃ parikitteti. Seyyathidaṃ – ‘‘asubhasaññāparicitena, bhikkhave, bhikkhuno cetasā bahulaṃ viharato methunadhammasamāpattiyā cittaṃ paṭilīyati paṭikuṭati paṭivaṭṭati, na sampasārīyati, upekkhā vā pāṭikulyatā vā saṇṭhāti. Seyyathāpi, bhikkhave, kukkuṭapattaṃ vā nhārudaddulaṃ vā aggimhi pakkhittaṃ paṭilīyati paṭikuṭati paṭivaṭṭati, na sampasārīyati; evameva kho, bhikkhave, asubhasaññāparicitena bhikkhuno cetasā bahulaṃ viharato methunadhammasamāpattiyā cittaṃ paṭilīyati paṭikuṭati paṭivaṭṭati, na sampasārīyatī’’ti (a. ni. 7.49).
Ca ngợi sự chứng đắc bất tịnh bằng cách chỉ rõ, chỉ rõ” nghĩa là Ngài ca ngợi sự chứng đắc bất tịnh, nói về lợi ích, tán dương công đức bằng cách chỉ rõ, xác định nhiều lần rằng “như thế này và cũng như thế này”. Ví như – “Này các tỳ khưu, khi vị tỳ khưu thường xuyên trú với tâm đã thuần thục trong tưởng bất tịnh, tâm của vị ấy co rút lại, thu mình lại, quay đi, không hướng đến sự giao hợp, và xả hoặc sự nhờm gớm được thiết lập. Này các tỳ khưu, cũng như lông gà hoặc gân da bị ném vào lửa thì co rút lại, thu mình lại, quay đi, không duỗi ra; cũng vậy, này các tỳ khưu, khi vị tỳ khưu thường xuyên trú với tâm đã thuần thục trong tưởng bất tịnh, tâm của vị ấy co rút lại, thu mình lại, quay đi, không hướng đến sự giao hợp” (a. ni. 7.49).

Icchāmahaṃ, bhikkhave, addhamāsaṃ paṭisallīyitunti ahaṃ bhikkhave ekaṃ addhamāsaṃ paṭisallīyituṃ nilīyituṃ ekova hutvā viharituṃ icchāmīti attho. Namhi kenaci upasaṅkamitabbo aññatra ekena piṇḍapātanīhārakenāti yo attanā payuttavācaṃ akatvā mamatthāya saddhesu kulesu paṭiyattaṃ piṇḍapātaṃ nīharitvā mayhaṃ upanāmeti, taṃ piṇḍapātanīhārakaṃ ekaṃ bhikkhuṃ ṭhapetvā namhi aññena kenaci bhikkhunā vā gahaṭṭhena vā upasaṅkamitabboti.
Câu “Này các tỳ khưu, Ta muốn nhập thất tịnh tu nửa tháng” có nghĩa là: Này các tỳ khưu, Ta muốn nhập thất, ẩn mình, sống một mình trong nửa tháng. Câu “Không ai được đến gặp Ta, ngoại trừ một người mang vật thực khất thực” có nghĩa là: Người nào không tự mình nói lời đã được dùng (để xin) mà mang vật thực khất thực đã được chuẩn bị sẵn trong các gia đình có đức tin vì lợi ích của Ta rồi dâng lên cho Ta, ngoại trừ một vị tỳ khưu mang vật thực khất thực đó, không một ai khác, dù là tỳ khưu hay cư sĩ, được phép đến gặp Ta.

Kasmā pana evamāhāti? Atīte kira pañcasatā migaluddakā mahatīhi daṇḍavāgurāhi araññaṃ parikkhipitvā haṭṭhatuṭṭhā ekatoyeva yāvajīvaṃ migapakkhighātakammena jīvikaṃ kappetvā niraye upapannā; te tattha paccitvā pubbe katena kenacideva kusalakammena manussesu upapannā kalyāṇūpanissayavasena sabbepi bhagavato santike pabbajjañca upasampadañca labhiṃsu; tesaṃ tato mūlākusalakammato avipakkavipākā aparāparacetanā tasmiṃ addhamāsabbhantare attūpakkamena ca parūpakkamena ca jīvatupacchedāya okāsamakāsi, taṃ bhagavā addasa. Kammavipāko nāma na sakkā kenaci paṭibāhituṃ. Tesu ca bhikkhūsu puthujjanāpi atthi sotāpannasakadāgāmīanāgāmīkhīṇāsavāpi. Tattha khīṇāsavā appaṭisandhikā, itare ariyasāvakā niyatagatikā sugatiparāyaṇā, puthujjanānaṃ pana gati aniyatā. Atha bhagavā cintesi – ‘‘ime attabhāve chandarāgena maraṇabhayabhītā na sakkhissanti gatiṃ visodhetuṃ, handa nesaṃ chandarāgappahānāya asubhakathaṃ kathemi. Taṃ sutvā attabhāve vigatacchandarāgatāya gativisodhanaṃ katvā sagge paṭisandhiṃ gaṇhissanti. Evaṃ nesaṃ mama santike pabbajjā sātthikā bhavissatī’’ti.
Nhưng tại sao Ngài lại nói như vậy? Nghe nói, trong quá khứ, năm trăm người thợ săn thú đã dùng những cái bẫy gậy lớn bao vây khu rừng, vui mừng hớn hở, cùng nhau sống bằng nghề giết hại thú vật và chim chóc suốt đời rồi tái sanh vào địa ngục; sau khi chịu khổ ở đó, do một nghiệp lành nào đó đã làm từ trước, họ tái sanh làm người, và do có duyên lành, tất cả đều xuất gia và thọ cụ túc giới nơi Đức Thế Tôn; đối với họ, các tư tâm khác nhau (phát sinh) từ nghiệp bất thiện gốc đó, những quả chưa chín muồi, đã tạo cơ hội để mạng sống bị cắt đứt do tự mình cố gắng hoặc do người khác cố gắng trong khoảng nửa tháng đó, Đức Thế Tôn đã thấy điều ấy. Quả của nghiệp thì không ai có thể ngăn cản được. Trong số các vị tỳ khưu đó, có cả phàm phu, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và cả bậc Lậu Tận. Trong đó, các bậc Lậu Tận thì không còn tái sanh, các vị Thánh đệ tử khác thì có cảnh giới nhất định, chắc chắn sanh về cõi lành; còn cảnh giới của phàm phu thì không nhất định. Khi ấy, Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Những vị này, do tham muốn đối với tự thể (thân xác) và do sợ hãi cái chết, sẽ không thể thanh lọc được cảnh giới (tái sanh) của mình; vậy Ta hãy nói về sự bất tịnh để họ từ bỏ tham muốn. Sau khi nghe điều đó, do không còn tham muốn đối với tự thể, họ sẽ thanh lọc cảnh giới (tái sanh) và tái sanh vào cõi trời. Như vậy, việc xuất gia của họ nơi Ta sẽ có kết quả lợi ích”.

Tato tesaṃ anuggahāya asubhakathaṃ kathesi kammaṭṭhānasīsena, no maraṇavaṇṇasaṃvaṇṇanādhippāyena. Kathetvā ca panassa etadahosi – ‘‘sace maṃ imaṃ addhamāsaṃ bhikkhū passissanti, ‘ajja eko bhikkhu mato, ajja dve…pe… ajja dasā’ti āgantvā āgantvā ārocessanti. Ayañca kammavipāko na sakkā mayā vā aññena vā paṭibāhituṃ. Svāhaṃ taṃ sutvāpi kiṃ karissāmi? Kiṃ me anatthakena anayabyasanena sutena? Handāhaṃ bhikkhūnaṃ adassanaṃ upagacchāmī’’ti. Tasmā evamāha – ‘‘icchāmahaṃ, bhikkhave, addhamāsaṃ patisallīyituṃ; namhi kenaci upasaṅkamitabbo aññatra ekena piṇḍapātanīhārakenā’’ti.
Do đó, để giúp đỡ họ, Ngài đã nói về sự bất tịnh với tư cách là đề mục thiền quán, chứ không phải với ý định ca ngợi hay tán thán cái chết. Và sau khi nói xong, Ngài lại nghĩ thế này: “Nếu trong nửa tháng này các tỳ khưu gặp Ta, họ sẽ đến rồi đến báo tin rằng: ‘Hôm nay một tỳ khưu chết, hôm nay hai vị…đến…hôm nay mười vị’. Và quả báo của nghiệp này thì Ta hay người khác cũng không thể ngăn cản được. Vậy Ta, dù nghe điều đó, sẽ làm gì? Ta được lợi ích gì khi nghe về sự bất hạnh và tai ương vô ích đó? Vậy Ta hãy không gặp các tỳ khưu nữa”. Do đó, Ngài đã nói rằng: “Này các tỳ khưu, Ta muốn nhập thất tịnh tu nửa tháng; không ai được đến gặp Ta, ngoại trừ một người mang vật thực khất thực”.

Apare panāhu – ‘‘parūpavādavivajjanatthaṃ evaṃ vatvā paṭisallīno’’ti. Pare kira bhagavantaṃ upavadissanti – ‘‘ayaṃ ‘sabbaññū, ahaṃ saddhammavaracakkavattī’ti paṭijānamāno attanopi sāvake aññamaññaṃ ghātente nivāretuṃ na sakkoti. Kimaññaṃ sakkhissatī’’ti? Tattha paṇḍitā vakkhanti – ‘‘bhagavā paṭisallānamanuyutto nayimaṃ pavattiṃ jānāti, kocissa ārocayitāpi natthi, sace jāneyya addhā nivāreyyā’’ti. Idaṃ pana icchāmattaṃ, paṭhamamevettha kāraṇaṃ. Nāssudhāti ettha ‘‘assudhā’’ti padapūraṇamatte avadhāraṇatthe vā nipāto; neva koci bhagavantaṃ upasaṅkamatīti attho.
Còn những người khác thì nói: “Ngài nói như vậy rồi nhập thất là để tránh sự khiển trách của người khác”. Nghe nói rằng, những người khác sẽ khiển trách Đức Thế Tôn: “Vị này, tự xưng là bậc Toàn Tri, là bậc Chuyển Luân Thánh Vương của Chánh Pháp, mà ngay cả các đệ tử của mình giết hại lẫn nhau cũng không thể ngăn cản được. (Ngài) còn có thể làm được gì khác nữa?” Khi đó, các bậc hiền trí sẽ nói: “Đức Thế Tôn đang chuyên tâm nhập thất, không biết sự việc này, cũng không có ai báo tin cho Ngài; nếu Ngài biết, chắc chắn Ngài sẽ ngăn cản”. Tuy nhiên, đây chỉ là ý muốn (của một số người), lý do đầu tiên mới là (lý do chính) ở đây. Trong câu “Nāssudhā” (không ai đến), từ “assudhā” là một bất biến từ chỉ dùng để điền vào cho đủ chữ hoặc mang ý nghĩa nhấn mạnh; có nghĩa là không một ai đến gặp Đức Thế Tôn.

Anekehi vaṇṇasaṇṭhānādīhi kāraṇehi vokāro assāti anekākāravokāro; anekākāravokiṇṇo anekakāraṇasammissoti vuttaṃ hoti. Ko so? Asubhabhāvanānuyogo, taṃ anekākāravokāraṃ asubhabhāvanānuyogaṃ anuyuttā viharantīti yuttapayuttā viharanti. Aṭṭīyantīti sakena kāyena aṭṭā dukkhitā honti . Harāyantīti lajjanti. Jigucchantīti sañjātajigucchā honti. Daharoti taruṇo. Yuvāti yobbanena samannāgato. Maṇḍanakajātikoti maṇḍanakapakatiko. Sīsaṃnhātoti sīsena saddhiṃ nhāto. Daharo yuvāti cettha daharavacanena paṭhamayobbanabhāvaṃ dasseti. Paṭhamayobbane hi sattā visesena maṇḍanakajātikā honti. Sīsaṃnhātoti iminā maṇḍanānuyogakālaṃ. Yuvāpi hi kiñci kammaṃ katvā saṃkiliṭṭhasarīro na maṇḍanānuyutto hoti; sīsaṃnhāto pana so maṇḍanamevānuyuñjati. Ahikuṇapādīni daṭṭhumpi na icchati. So tasmiṃ khaṇe ahikuṇapena vā kukkurakuṇapena vā manussakuṇapena vā kaṇṭhe āsattena kenacideva paccatthikena ānetvā kaṇṭhe baddhena paṭimukkena yathā aṭṭīyeyya harāyeyya jiguccheyya; evameva te bhikkhū sakena kāyena aṭṭīyantā harāyantā jigucchantā so viya puriso taṃ kuṇapaṃ vigatacchandarāgatāya attano kāyaṃ pariccajitukāmā hutvā satthaṃ ādāya attanāpi attānaṃ jīvitā voropenti. ‘‘Tvaṃ maṃ jīvitā voropehi; ahaṃ ta’’nti evaṃ aññamaññampi jīvitā voropenti.
Có nhiều khía cạnh khác nhau” nghĩa là có sự khác biệt do nhiều lý do như màu sắc, hình dạng v.v…; được nói là bao gồm nhiều khía cạnh, pha trộn nhiều lý do. Đó là gì? Là sự chuyên tâm tu tập về bất tịnh; câu “họ sống chuyên tâm vào sự tu tập về bất tịnh có nhiều khía cạnh khác nhau đó” nghĩa là họ sống chuyên cần, nỗ lực. “Họ cảm thấy khổ sở” nghĩa là họ cảm thấy bị bức bách, đau khổ bởi chính thân xác của mình. “Họ cảm thấy hổ thẹn” nghĩa là họ xấu hổ. “Họ cảm thấy ghê tởm” nghĩa là họ phát sinh sự ghê tởm. “Trẻ” nghĩa là còn non nớt. “Tuổi thanh niên” nghĩa là người đang ở tuổi thanh xuân. “Có tính thích trang điểm” nghĩa là có bản tính thích trang điểm. “Đã gội đầu” nghĩa là đã tắm gội cả đầu. Ở đây, từ “trẻ, tuổi thanh niên” dùng từ “trẻ” để chỉ giai đoạn đầu của tuổi thanh xuân. Vì chúng sanh ở giai đoạn đầu của tuổi thanh xuân đặc biệt có tính thích trang điểm. Từ “đã gội đầu” chỉ thời điểm chuyên tâm trang điểm. Vì người trẻ tuổi, ngay cả khi đã làm việc gì đó khiến thân thể dơ bẩn, cũng không chuyên tâm trang điểm; nhưng sau khi đã gội đầu thì người ấy chỉ chuyên tâm trang điểm. (Lúc đó) người ấy không muốn nhìn thấy cả xác rắn v.v… Vào khoảnh khắc đó, người ấy sẽ cảm thấy khổ sở, hổ thẹn, ghê tởm như thế nào nếu bị một kẻ thù nào đó mang xác rắn, xác chó, hoặc xác người treo lủng lẳng trước mặt, buộc vào cổ; cũng vậy, các vị tỳ khưu ấy, cảm thấy khổ sở, hổ thẹn, ghê tởm bởi chính thân xác của mình, giống như người kia (đối với) cái xác đó, do không còn tham muốn, muốn từ bỏ thân xác của mình, đã lấy dao tự mình tước đoạt mạng sống của mình. (Họ nói) “Bạn hãy tước đoạt mạng sống của tôi; tôi (sẽ tước đoạt mạng sống của) bạn” và cứ thế họ cũng tước đoạt mạng sống của nhau.

Migalaṇḍikampi samaṇakuttakanti migalaṇḍikoti tassa nāmaṃ; samaṇakuttakoti samaṇavesadhārako. So kira sikhāmattaṃ ṭhapetvā sīsaṃ muṇḍetvā ekaṃ kāsāvaṃ nivāsetvā ekaṃ aṃse katvā vihāraṃyeva upanissāya vighāsādabhāvena jīvati. Tampi migalaṇḍikaṃ samaṇakuttakaṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadanti. Sādhūti āyācanatthe nipāto. Noti upayogabahuvacanaṃ, sādhu āvuso amhe jīvitā voropehīti vuttaṃ hoti. Ettha ca ariyā neva pāṇātipātaṃ kariṃsu na samādapesuṃ, na samanuññā ahesuṃ. Puthujjanā pana sabbamakaṃsu. Lohitakanti lohitamakkhitaṃ. Yena vaggumudānadīti vaggumatā lokassa puññasammatā nadī. Sopi kira ‘‘taṃ pāpaṃ tattha pavāhessāmī’’ti saññāya gato, nadiyā ānubhāvena appamattakampi pāpaṃ pahīnaṃ nāma natthi.
Câu “Cả người Sa-môn giả hiệu Migalaṇḍika”, “Migalaṇḍika” là tên của người đó; “người Sa-môn giả hiệu” là người mang hình tướng Sa-môn (Nhưng không phải Sa-môn thật sự, là một người đang trộm Tăng tướng). Nghe nói người đó, ngoại trừ một chỏm tóc, đã cạo đầu, mặc một tấm y ca-sa, khoác một tấm trên vai, sống nương tựa vào tu viện bằng cách ăn thức ăn thừa. Họ đến gặp cả người Sa-môn giả hiệu Migalaṇḍika đó rồi nói như vậy. “Lành thay” là một bất biến từ mang ý nghĩa thỉnh cầu. “Chúng tôi” là số nhiều chỉ đối tượng; được nói là: Lành thay, đạo hữu, hãy tước đoạt mạng sống của chúng tôi. Ở đây, các bậc Thánh không tự mình sát sanh, không xúi giục (người khác sát sanh), và cũng không đồng ý (với việc sát sanh). Nhưng phàm phu thì đã làm tất cả (những điều đó). “Dính máu” nghĩa là bị dính máu. “Nơi có sông Vaggumudā” là con sông được người đời coi là tốt đẹp, mang lại phước báu. Nghe nói người đó cũng đã đi đến đó với ý nghĩ “Ta sẽ rửa trôi tội lỗi đó ở đây”, nhưng do oai lực của dòng sông, không một chút tội lỗi nhỏ nào được từ bỏ.

163.Ahudeva kukkuccanti tesu kira bhikkhūsu kenacipi kāyavikāro vā vacīvikāro vā na kato, sabbe satā sampajānā dakkhiṇena passena nipajjiṃsu. Taṃ anussarato tassa kukkuccaṃ ahosiyeva. Ahu vippaṭisāroti tasseva kukkuccassa sabhāvaniyamanatthametaṃ vuttaṃ . Vippaṭisārakukkuccaṃ ahosi, na vinayakukkuccanti. Alābhā vata metiādi kukkuccassa pavattiākāradassanatthaṃ vuttaṃ. Tattha alābhā vata meti āyatiṃ dāni mama hitasukhalābhā nāma natthīti anutthunāti. ‘‘Na vata me lābhā’’tiiminā pana tamevatthaṃ daḷhaṃ karoti. Ayañhettha adhippāyo – sacepi koci ‘‘lābhā te’’ti vadeyya, taṃ micchā, na vata me lābhāti. Dulladdhaṃ vata meti kusalānubhāvena laddhampi idaṃ manussattaṃ dulladdhaṃ vata me. Na vata me suladdhantiiminā pana tamevatthaṃ daḷhaṃ karoti. Ayañhettha adhippāyo – sacepi koci ‘‘suladdhaṃ te’’ti vadeyya, taṃ micchā; na vata me suladdhanti. Apuññaṃ pasutanti apuññaṃ upacitaṃ janitaṃ vā. Kasmāti ce? Yohaṃ bhikkhū…pe… voropesinti . Tassattho – yo ahaṃ sīlavante tāya eva sīlavantatāya kalyāṇadhamme uttamadhamme seṭṭhadhamme bhikkhū jīvitā voropesinti.
163.“Sự hối hận đã khởi lên”: Nghe nói trong số các vị tỳ khưu đó, không một ai có biểu hiện bất thường nào về thân hay lời nói, tất cả đều chánh niệm tỉnh giác nằm xuống nghiêng về bên phải. Khi nhớ lại điều đó, sự hối hận đã khởi lên nơi người ấy. “Sự ăn năn đã khởi lên”: Điều này được nói để xác định bản chất của sự hối hận đó. Đó là sự hối hận do ăn năn, chứ không phải sự hối hận do vi phạm giới luật. Câu “Than ôi, ta không có lợi ích” v.v… được nói để cho thấy cách thức diễn tiến của sự hối hận. Ở đó, câu “Than ôi, ta không có lợi ích” là người ấy than thở rằng: Từ nay về sau, ta không còn lợi ích hay hạnh phúc nào nữa. Còn bằng câu “Than ôi, ta không có lợi ích” (lặp lại), người ấy làm cho ý nghĩa đó thêm vững chắc. Ý nghĩa ở đây là: Ngay cả nếu có ai nói “Bạn có lợi ích”, điều đó là sai lầm; than ôi, ta không có lợi ích. “Than ôi, ta đã được một cách khó khăn”: Ngay cả thân người này, dù được do năng lực của nghiệp lành, cũng là điều ta đã được một cách khó khăn. Còn bằng câu “Than ôi, ta không được một cách dễ dàng”, người ấy làm cho ý nghĩa đó thêm vững chắc. Ý nghĩa ở đây là: Ngay cả nếu có ai nói “Bạn đã được một cách dễ dàng”, điều đó là sai lầm; than ôi, ta không được một cách dễ dàng. “Ta đã tạo ra điều bất thiện” nghĩa là điều bất thiện đã được tích lũy hoặc tạo ra. Nếu hỏi tại sao? (Là vì) “Ta, người đã tước đoạt mạng sống của các vị tỳ khưu…đến…” Ý nghĩa của câu đó là: Ta, người đã tước đoạt mạng sống của các vị tỳ khưu có giới hạnh, chính vì giới hạnh đó mà (họ là những người có) thiện pháp, thượng pháp, thắng pháp.

Aññatarā mārakāyikāti nāmavasena apākaṭā ekā bhummadevatā micchādiṭṭhikā mārapakkhikā mārassanuvattikā ‘‘evamayaṃ māradheyyaṃ māravisayaṃ nātikkamissatī’’ti cintetvā sabbābharaṇavibhūsitā hutvā attano ānubhāvaṃ dassayamānā abhijjamāne udake pathavītale caṅkamamānā viya āgantvā migalaṇḍikaṃ samaṇakuttakaṃ etadavoca. Sādhu sādhūti sampahaṃsanatthe nipāto; tasmā eva dvivacanaṃ kataṃ. Atiṇṇe tāresīti saṃsārato atiṇṇe iminā jīvitāvoropanena tāresi parimocesīti. Ayaṃ kira etissā devatāya bālāya dummedhāya laddhi ‘‘ye na matā, te saṃsārato na muttā. Ye matā, te muttā’’ti. Tasmā saṃsāramocakamilakkhā viya evaṃladdhikā hutvā tampi tattha niyojentī evamāha. Atha kho migalaṇḍiko samaṇakuttako tāva bhusaṃ uppannavippaṭisāropi taṃ devatāya ānubhāvaṃ disvā ‘‘ayaṃ devatā evamāha – addhā iminā atthena evameva bhavitabba’’nti niṭṭhaṃ gantvā ‘‘lābhā kira me’’tiādīni parikittayanto. Vihārena vihāraṃ pariveṇena pariveṇaṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadetīti taṃ taṃ vihārañca pariveṇañca upasaṅkamitvā dvāraṃ vivaritvā anto pavisitvā bhikkhū evaṃ vadati – ‘‘ko atiṇṇo, kaṃ tāremī’’ti?
Một vị trời nào đó thuộc chúng của Ma” nghĩa là một vị địa thần không rõ tên, có tà kiến, thuộc phe của Ma, là tùy tùng của Ma, sau khi suy nghĩ rằng “Như vậy, người này sẽ không vượt qua được lãnh địa của Ma, cảnh giới của Ma”, đã trang điểm bằng tất cả đồ trang sức, phô bày oai lực của mình, đi đến như thể đi trên mặt đất không bị nước làm vỡ, rồi nói với người Sa-môn giả hiệu Migalaṇḍika điều này. “Lành thay, lành thay” là một bất biến từ mang ý nghĩa tán thưởng; do đó nó được dùng hai lần. “Ngươi đã giúp những người chưa vượt qua được vượt qua” nghĩa là ngươi đã giúp những người chưa vượt qua được vòng luân hồi được vượt qua, được giải thoát bằng việc tước đoạt mạng sống này. Nghe nói đây là tà kiến của vị trời ngu si, kém trí tuệ này: “Những ai chưa chết thì chưa giải thoát khỏi luân hồi. Những ai đã chết thì đã giải thoát”. Do đó, có tà kiến như vậy, giống như những kẻ ngoại đạo (tin rằng có thể) giải thoát khỏi luân hồi (bằng cách chết), vị trời ấy cũng khuyến khích người kia làm như vậy và đã nói như thế. Khi ấy, người Sa-môn giả hiệu Migalaṇḍika, dù sự ăn năn đã khởi lên rất mạnh mẽ, nhưng sau khi thấy oai lực của vị trời đó, đã đi đến kết luận rằng: “Vị trời này nói như vậy – chắc chắn sự việc phải như thế này theo ý nghĩa này”, rồi ca ngợi rằng: “Than ôi, ta thật có lợi ích” v.v… “Đi đến từng tu viện, từng khu nhà ở rồi nói như vậy” nghĩa là đi đến từng tu viện và từng khu nhà ở đó, mở cửa, đi vào bên trong rồi nói với các tỳ khưu như vầy: “Ai chưa vượt qua, tôi sẽ giúp ai vượt qua?”

Hotiyevabhayanti maraṇaṃ paṭicca cittutrāso hoti. Hoti chambhitattanti hadayamaṃsaṃ ādiṃ katvā tasmā sarīracalanaṃ hoti; atibhayena thaddhasarīrattantipi eke, thambhitattañhi chambhitattanti vuccati. Lomahaṃsoti uddhaṃṭhitalomatā, khīṇāsavā pana sattasuññatāya sudiṭṭhattā maraṇakasattameva na passanti, tasmā tesaṃ sabbampetaṃ nāhosīti veditabbaṃ. Ekampi bhikkhuṃ dvepi…pe… saṭṭhimpi bhikkhū ekāhena jīvitā voropesīti evaṃ gaṇanavasena sabbānipi tāni pañca bhikkhusatāni jīvitā voropesi.
Sự sợ hãi chắc chắn khởi lên” nghĩa là sự kinh hoàng của tâm khởi lên do đối mặt với cái chết. “Sự run rẩy khởi lên” nghĩa là do đó mà thân thể run rẩy, bắt đầu từ thịt tim v.v…; một số người cho rằng đó là sự cứng đờ của thân thể do quá sợ hãi, vì sự cứng đờ được gọi là sự run rẩy. “Sự dựng lông tóc” là tình trạng lông tóc dựng đứng; còn các bậc Lậu Tận, do đã thấy rõ tính không của chúng sanh, nên không thấy có chúng sanh nào chết cả, do đó cần hiểu rằng tất cả những điều này đã không xảy ra đối với các ngài. “Trong một ngày, ông ta đã tước đoạt mạng sống của một vị tỳ khưu, hai vị…đến…sáu mươi vị tỳ khưu” nghĩa là theo cách đếm như vậy, ông ta đã tước đoạt mạng sống của tất cả năm trăm vị tỳ khưu đó.

164.Paṭisallānā vuṭṭhitoti tesaṃ pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ jīvitakkhayapattabhāvaṃ ñatvā tato ekībhāvato vuṭṭhito jānantopi ajānanto viya kathāsamuṭṭhāpanatthaṃ āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi. Kiṃ nu kho ānanda tanubhūto viya bhikkhusaṅghoti ānanda ito pubbe bahū bhikkhū ekato upaṭṭhānaṃ āgacchanti, uddesaṃ paripucchaṃ gaṇhanti sajjhāyanti, ekapajjoto viya ārāmo dissati, idāni pana addhamāsamattassa accayena tanubhūto viya tanuko mando appako viraḷaviraḷo viya jāto bhikkhusaṅgho. Kinnu kho kāraṇaṃ, kiṃ disāsu pakkantā bhikkhūti?
164.“Sau khi xuất thất”: Sau khi biết được tình trạng mạng sống của năm trăm vị tỳ khưu đó đã chấm dứt, Ngài xuất khỏi trạng thái độc cư, dù biết nhưng làm như không biết, để khơi mào câu chuyện, Ngài gọi Tôn giả Ānanda. “Này Ānanda, tại sao Tăng chúng có vẻ thưa thớt vậy?” nghĩa là: Này Ānanda, trước đây nhiều tỳ khưu cùng nhau đến hầu hạ, thọ trì học hỏi, tụng đọc, tu viện trông như một ngọn đèn sáng; nhưng nay, sau khi chỉ mới nửa tháng trôi qua, Tăng chúng đã trở nên như thưa thớt, ít ỏi, vắng vẻ, rải rác. Nguyên nhân là gì vậy, có phải các tỳ khưu đã đi về các phương khác không?

Athāyasmā ānando kammavipākena tesaṃ jīvitakkhayappattiṃ asallakkhento asubhakammaṭṭhānānuyogapaccayā pana sallakkhento ‘‘tathā hi pana bhante bhagavā’’tiādiṃ vatvā bhikkhūnaṃ arahattappattiyā aññaṃ kammaṭṭhānaṃ yācanto ‘‘sādhu bhante bhagavā’’tiādimāha. Tassattho – sādhu bhante bhagavā aññaṃ kāraṇaṃ ācikkhatu, yena bhikkhusaṅgho arahatte patiṭṭhaheyya; mahāsamuddaṃ orohaṇatitthāni viya hi aññānipi dasānussatidasakasiṇacatudhātuvavatthānabrahmavihārānāpānasatippabhedāni bahūni nibbānorohaṇakammaṭṭhānāni santi. Tesu bhagavā bhikkhū samassāsetvā aññataraṃ kammaṭṭhānaṃ ācikkhatūti adhippāyo.
Khi ấy, Tôn giả Ānanda, không nhận ra việc mạng sống của họ bị chấm dứt là do quả báo của nghiệp, mà nhận ra là do duyên chuyên tâm vào đề mục thiền quán bất tịnh, đã nói rằng “Bạch Đức Thế Tôn, quả thật Đức Thế Tôn đã…” v.v…, rồi thỉnh cầu một đề mục thiền quán khác để các tỳ khưu chứng đắc A-la-hán, Tôn giả đã nói “Lành thay, bạch Đức Thế Tôn…” v.v… Ý nghĩa của câu đó là: Lành thay, bạch Đức Thế Tôn, xin Đức Thế Tôn hãy chỉ dạy một phương pháp khác, nhờ đó Tăng chúng có thể an trú trong quả A-la-hán; vì có nhiều đề mục thiền quán dẫn đến Niết-bàn khác nữa, như mười niệm tùy niệm, mười biến xứ, sự phân biệt bốn đại, bốn phạm trú, các loại niệm hơi thở. Ý định là: Trong số đó, xin Đức Thế Tôn hãy an ủi các tỳ khưu và chỉ dạy một đề mục thiền quán nào đó.

Atha bhagavā tathā kātukāmo theraṃ uyyojento ‘‘tenahānandā’’tiādimāha. Tattha vesāliṃ upanissāyāti vesāliṃ upanissāya samantā gāvutepi addhayojanepi yāvatikā bhikkhū viharanti , te sabbe sannipātehīti attho. Te sabbe upaṭṭhānasālāyaṃ sannipātetvāti attanā gantuṃ yuttaṭṭhānaṃ sayaṃ gantvā aññattha daharabhikkhū pahiṇitvā muhutteneva anavasese bhikkhū upaṭṭhānasālāyaṃ samūhaṃ katvā. Yassa dāni bhante bhagavā kālaṃ maññatīti ettha ayamadhippāyo – bhagavā bhikkhusaṅgho sannipatito esa kālo bhikkhūnaṃ dhammakathaṃ kātuṃ, anusāsaniṃ dātuṃ, idāni yassa tumhe kālaṃ jānātha, taṃ kattabbanti.
Khi ấy, Đức Thế Tôn, muốn làm như vậy, đã khuyến khích Trưởng lão (Ānanda) và nói “Vậy thì, này Ānanda…” v.v… Ở đó, “Nương vào Vesālī” có nghĩa là: Hãy tập hợp tất cả các vị tỳ khưu đang trú ngụ nương vào Vesālī, trong phạm vi một gāvuta hoặc nửa do-tuần xung quanh. “Sau khi tập hợp tất cả họ tại giảng đường” nghĩa là tự mình đi đến những nơi thích hợp để đi, còn những nơi khác thì sai các tỳ khưu trẻ đi, trong chốc lát đã tập hợp không sót một vị tỳ khưu nào tại giảng đường. Câu “Bạch Đức Thế Tôn, nay Đức Thế Tôn thấy đã đến lúc” ở đây có ý nghĩa là: Bạch Đức Thế Tôn, Tăng chúng đã tập hợp, đây là lúc để nói pháp thoại cho các tỳ khưu, để ban lời giáo huấn; nay Ngài biết đã đến lúc cho việc gì, thì xin hãy làm việc đó.

Ānāpānassatisamādhikathā

Luận Về Định Niệm Hơi Thở

165. Atha kho bhagavā…pe… bhikkhū āmantesi – ayampi kho bhikkhaveti āmantetvā ca pana bhikkhūnaṃ arahattappattiyā pubbe ācikkhitaasubhakammaṭṭhānato aññaṃ pariyāyaṃ ācikkhanto ‘‘ānāpānassatisamādhī’’ti āha.
165. Khi ấy, Đức Thế Tôn…đến…gọi các tỳ khưu – sau khi gọi rằng “Này các tỳ khưu, cả điều này nữa”, Ngài lại chỉ dạy một phương pháp khác với đề mục thiền quán bất tịnh đã được chỉ dạy trước đây để các tỳ khưu chứng đắc A-la-hán, Ngài nói: “Định niệm hơi thở”.

Idāni yasmā bhagavatā bhikkhūnaṃ santapaṇītakammaṭṭhānadassanatthameva ayaṃ pāḷi vuttā, tasmā aparihāpetvā atthayojanākkamaṃ ettha vaṇṇanaṃ karissāmi. Tatra ‘‘ayampi kho bhikkhave’’ti imassa tāva padassa ayaṃ yojanā – bhikkhave na kevalaṃ asubhabhāvanāyeva kilesappahānāya saṃvattati, apica ayampi kho ānāpānassatisamādhi…pe… vūpasametīti.
Nay, vì Thánh điển này được Đức Thế Tôn nói ra chỉ nhằm mục đích chỉ bày đề mục thiền quán tịch tịnh và cao thượng cho các tỳ khưu, do đó, tôi sẽ giải thích ở đây mà không bỏ sót trình tự diễn giải ý nghĩa. Trong đó, trước hết, đây là cách diễn giải của cụm từ “Này các tỳ khưu, cả điều này nữa”: Này các tỳ khưu, không chỉ sự tu tập về bất tịnh mới dẫn đến sự đoạn trừ phiền não, mà cả định niệm hơi thở này nữa…đến…làm cho lắng dịu.

Ayaṃ panettha atthavaṇṇanā – ānāpānassatīti assāsapassāsapariggāhikā sati. Vuttañhetaṃ paṭisambhidāyaṃ –
‘‘Ānanti assāso, no passāso. Apānanti passāso, no assāso. Assāsavasena upaṭṭhānaṃ sati, passāsavasena upaṭṭhānaṃ sati. Yo assasati tassupaṭṭhāti, yo passasati tassupaṭṭhātī’’ti (paṭi. ma. 1.160).
Đây là phần giải thích ý nghĩa: “Niệm hơi thở” là niệm nắm bắt hơi thở vô và hơi thở ra. Điều này đã được nói trong Vô Ngại Giải Đạo
““Āna” là hơi thở vô, không phải hơi thở ra. “Apāna” là hơi thở ra, không phải hơi thở vô. Sự hiện diện của niệm theo hơi thở vô, sự hiện diện của niệm theo hơi thở ra. Người nào thở vô, niệm hiện diện với người ấy; người nào thở ra, niệm hiện diện với người ấy.” (paṭi. ma. 1.160).

Samādhīti tāya ānāpānapariggāhikāya satiyā saddhiṃ uppannā cittekaggatā; samādhisīsena cāyaṃ desanā, na satisīsena. Tasmā ānāpānassatiyā yutto samādhi ānāpānassatisamādhi, ānāpānassatiyaṃ vā samādhi ānāpānassatisamādhīti evamettha attho veditabbo. Bhāvitoti uppādito vaḍḍhito ca. Bahulīkatoti punappunaṃ kato. Santo ceva paṇīto cāti santo ceva paṇīto ceva, ubhayattha evasaddena niyamo veditabbo. Kiṃ vuttaṃ hoti? Ayañhi yathā asubhakammaṭṭhānaṃ kevalaṃ paṭivedhavasena santañca paṇītañca oḷārikārammaṇattā pana paṭikūlārammaṇattā ca ārammaṇavasena neva santaṃ na paṇītaṃ, na evaṃ kenaci pariyāyena asanto vā appaṇīto vā, apica kho ārammaṇasantatāyapi santo vūpasanto nibbuto paṭivedhasaṅkhātaaṅgasantatāyapi ārammaṇappaṇītatāyapi paṇīto atittikaro aṅgappaṇītatāyapīti. Tena vuttaṃ – ‘‘santo ceva paṇīto cā’’ti.
Định” là sự nhất tâm sinh khởi cùng với niệm nắm bắt hơi thở đó; và bài thuyết pháp này được trình bày theo khía cạnh định, không phải theo khía cạnh niệm. Do đó, định đi kèm với niệm hơi thở là định niệm hơi thở, hoặc định trong niệm hơi thở là định niệm hơi thở, ý nghĩa ở đây cần được hiểu như vậy. “Được tu tập” là được làm cho sinh khởi và được làm cho phát triển. “Được làm cho thuần thục” là được thực hành nhiều lần. “Vừa tịch tịnh vừa cao thượng” là vừa tịch tịnh vừa cao thượng, ở cả hai nơi, sự xác định cần được hiểu bằng từ “ceva” (và, cũng). Điều gì đã được nói? (Định niệm hơi thở) này, không giống như đề mục thiền quán bất tịnh chỉ tịch tịnh và cao thượng về mặt thấu triệt, còn về mặt đối tượng thì không tịch tịnh cũng không cao thượng do là đối tượng thô thiển và đối tượng đáng ghê tởm; (định niệm hơi thở) không phải là không tịch tịnh hay không cao thượng theo bất kỳ phương diện nào, mà đúng hơn, nó tịch tịnh, lắng dịu, tịch diệt cả về sự tịch tịnh của đối tượng, cả về sự tịch tịnh của các chi thiền được gọi là sự thấu triệt, và cả về sự cao thượng của đối tượng, (nó) không gây nhàm chán, và cả về sự cao thượng của các chi thiền. Do đó, đã được nói: “vừa tịch tịnh vừa cao thượng”.

Asecanako ca sukho ca vihāroti ettha pana nāssa secananti asecanako anāsittako abbokiṇṇo pāṭekko āveṇiko, natthettha parikammena vā upacārena vā santatā ādimanasikārato pabhuti attano sabhāveneva santo ca paṇīto cāti attho. Keci pana asecanakoti anāsittako ojavanto sabhāveneva madhuroti vadanti. Evamayaṃ asecanako ca appitappitakkhaṇe kāyikacetasikasukhappaṭilābhāya saṃvattanato sukho ca vihāroti veditabbo.
Là một trạng thái trú tự nhiên an lạc và hạnh phúc”: Ở đây, “tự nhiên” (asecanaka) là không cần tưới tẩm, không bị gián đoạn, riêng biệt, đặc thù; có nghĩa là không có sự tịch tịnh (đạt được) bằng cách chuẩn bị sơ khởi hay cận hành, mà ngay từ lúc bắt đầu tác ý, nó tự bản chất đã tịch tịnh và cao thượng. Một số người lại nói “tự nhiên” là không cần tưới tẩm, có tinh chất, tự bản chất đã ngọt ngào. Như vậy, (đề mục này) là tự nhiên và cần được hiểu là một trạng thái trú hạnh phúc vì nó dẫn đến sự thành tựu lạc về thân và lạc về tâm ngay trong khoảnh khắc an chỉ định.

Uppannuppanneti avikkhambhite avikkhambhite. Pāpaketi lāmake. Akusale dhammeti akosallasambhūte dhamme. Ṭhānaso antaradhāpetīti khaṇeneva antaradhāpeti vikkhambheti. Vūpasametīti suṭṭhu upasameti, nibbedhabhāgiyattā vā anupubbena ariyamaggavuḍḍhippato samucchindati paṭippassambhetītipi attho.
Mỗi khi sinh khởi” là mỗi khi chưa được trấn áp. “Các pháp ác” là các pháp thấp kém. “Bất thiện” là các pháp sinh ra từ sự không khéo léo. “Làm cho biến mất ngay tại chỗ” là làm cho biến mất, trấn áp ngay trong khoảnh khắc. “Làm cho lắng dịu” là làm cho lắng dịu hoàn toàn; hoặc có nghĩa là do thuộc phần đưa đến sự thâm nhập, nên tuần tự đạt đến sự tăng trưởng của Thánh đạo, rồi đoạn trừ và làm cho an tịnh.

Seyyathāpīti opammanidassanametaṃ. Gimhānaṃ pacchime māseti āsāḷhamāse. Ūhataṃ rajojallanti addhamāse vātātapasukkhāya gomahiṃsādipādappahārasambhinnāya pathaviyā uddhaṃ hataṃ ūhataṃ ākāse samuṭṭhitaṃ rajañca reṇuñca. Mahā akālameghoti sabbaṃ nabhaṃ ajjhottharitvā uṭṭhito āsāḷhajuṇhapakkhe sakalaṃ addhamāsaṃ vassanakamegho. So hi asampatte vassakāle uppannattā akālameghoti idhādhippeto. Ṭhānaso antaradhāpeti vūpasametīti khaṇeneva adassanaṃ neti, pathaviyaṃ sannisīdāpeti. Evameva khoti opammasampaṭipādanametaṃ. Tato paraṃ vuttanayameva.
Ví như” là sự chỉ bày ví dụ này. “Trong tháng cuối của mùa hè” là trong tháng Āsāḷha. “Bụi và rác rưởi bị cuốn lên” là bụi và các hạt nhỏ bị cuốn lên, bay lên không trung từ mặt đất đã bị gió và nắng làm khô trong nửa tháng, và bị dấu chân của bò, trâu v.v… làm cho tơi ra. “Một đám mây lớn trái mùa” là đám mây mưa kéo dài suốt nửa tháng trong thượng tuần tháng Āsāḷha, nổi lên bao phủ toàn bộ bầu trời. Vì nó xuất hiện khi chưa đến mùa mưa, nên ở đây nó được gọi là mây trái mùa. “Làm cho biến mất ngay tại chỗ, làm cho lắng dịu” là làm cho biến mất ngay trong khoảnh khắc, làm cho lắng xuống mặt đất. “Cũng vậy” là sự trình bày lại ví dụ này. Phần sau đó thì theo cách đã nói.

Idāni kathaṃ bhāvito ca bhikkhave ānāpānassatisamādhīti ettha kathanti ānāpānassatisamādhibhāvanaṃ nānappakārato vitthāretukamyatāpucchā. Bhāvito ca bhikkhave ānāpānassatisamādhīti nānappakārato vitthāretukamyatāya puṭṭhadhammanidassanaṃ . Esa nayo dutiyapadepi. Ayaṃ panettha saṅkhepattho – bhikkhave kenapakārena kenākārena kena vidhinā bhāvito ānāpānassatisamādhi kenapakārena bahulīkato santo ceva…pe… vūpasametīti.
Nay, trong câu “Này các tỳ khưu, định niệm hơi thở được tu tập như thế nào?”, từ “như thế nào” là câu hỏi về ý muốn giải thích sự tu tập định niệm hơi thở theo nhiều cách khác nhau. Câu “Này các tỳ khưu, định niệm hơi thở được tu tập” là sự chỉ bày pháp được hỏi với ý muốn giải thích theo nhiều cách khác nhau. Phương pháp này cũng tương tự đối với cụm từ thứ hai. Ý nghĩa tóm tắt ở đây là: Này các tỳ khưu, định niệm hơi thở được tu tập bằng phương cách nào, bằng hình thức nào, bằng phương pháp nào, được làm cho thuần thục bằng phương cách nào, (mà nó) vừa tịch tịnh…đến…làm cho lắng dịu?

Idāni tamatthaṃ vitthārento ‘‘idha bhikkhave’’tiādimāha. Tattha idha bhikkhave bhikkhūti bhikkhave imasmiṃ sāsane bhikkhu. Ayañhettha idhasaddo sabbappakāraānāpānassatisamādhinibbattakassa puggalassa sannissayabhūtasāsanaparidīpano aññasāsanassa tathābhāvapaṭisedhano ca. Vuttañhetaṃ – ‘‘idheva, bhikkhave, samaṇo…pe… suññā parappavādā samaṇebhi aññehī’’ti (ma. ni. 1.139). Tena vuttaṃ – ‘‘imasmiṃ sāsane bhikkhū’’ti.
Nay, để giải thích ý nghĩa đó một cách chi tiết, Ngài nói “Ở đây, này các tỳ khưu…” v.v… Ở đó, “Ở đây, này các tỳ khưu, vị tỳ khưu” nghĩa là: Này các tỳ khưu, trong giáo pháp này, vị tỳ khưu. Từ “ở đây” này là từ chỉ rõ giáo pháp làm nơi nương tựa cho người thực hành mọi loại định niệm hơi thở, và cũng là từ phủ định tình trạng tương tự ở các giáo pháp khác. Điều này đã được nói: “Chỉ ở đây, này các tỳ khưu, mới có Sa-môn…đến…các học thuyết khác thì rỗng không, không có các Sa-môn (chân chính)” (ma. ni. 1.139). Do đó, đã được nói: “vị tỳ khưu trong giáo pháp này”.

Araññagato vā…pe… suññāgāragato vāti idamassa ānāpānassatisamādhibhāvanānurūpasenāsanapariggahaparidīpanaṃ. Imassa hi bhikkhuno dīgharattaṃ rūpādīsu ārammaṇesu anuvisaṭaṃ cittaṃ ānāpānassatisamādhiārammaṇaṃ abhiruhituṃ na icchati. Kūṭagoṇayuttaratho viya uppathameva dhāvati. Tasmā seyyathāpi nāma gopo kūṭadhenuyā sabbaṃ khīraṃ pivitvā vaḍḍhitaṃ kūṭavacchaṃ dametukāmo dhenuto apanetvā ekamante mahantaṃ thambhaṃ nikhaṇitvā tattha yottena bandheyya. Athassa so vaccho ito cito ca vipphanditvā palāyituṃ asakkonto tameva thambhaṃ upanisīdeyya vā upanipajjeyya vā; evameva imināpi bhikkhunā dīgharattaṃ rūpārammaṇādirasapānavaḍḍhitaṃ duṭṭhacittaṃ dametukāmena rūpādiārammaṇato apanetvā araññaṃ vā…pe… suññāgāraṃ vā pavesetvā tattha assāsapassāsathambhe satiyottena bandhitabbaṃ. Evamassa taṃ cittaṃ ito cito ca vipphanditvāpi pubbe āciṇṇārammaṇaṃ alabhamānaṃ satiyottaṃ chinditvā palāyituṃ asakkontaṃ tamevārammaṇaṃ upacārappanāvasena upanisīdati ceva upanipajjati ca. Tenāhu porāṇā –
Đi đến rừng…đến…hoặc đi đến ngôi nhà trống” là sự chỉ bày việc lựa chọn trú xứ thích hợp cho sự tu tập định niệm hơi thở của vị ấy. Vì tâm của vị tỳ khưu này, vốn đã chìm đắm trong các đối tượng như sắc v.v… từ lâu, không muốn hướng đến đối tượng định niệm hơi thở. Nó chạy theo đường tà giống như cỗ xe được kéo bởi con bò khó trị. Do đó, ví như một người chăn bò, muốn thuần phục con bê khó trị đã lớn lên nhờ uống hết sữa của con bò mẹ khó trị, sẽ tách nó ra khỏi bò mẹ, chôn một cái cọc lớn ở một nơi riêng biệt rồi dùng dây thừng buộc nó vào đó. Khi ấy, con bê đó, dù vùng vẫy bên này bên kia, cũng không thể chạy thoát được, sẽ ngồi xuống hoặc nằm xuống gần cái cọc đó; cũng vậy, vị tỳ khưu này, muốn thuần phục cái tâm hư hỏng đã lớn mạnh nhờ uống vị ngọt của các đối tượng như sắc v.v… từ lâu, phải tách nó ra khỏi các đối tượng như sắc v.v…, đưa vào rừng…đến…hoặc ngôi nhà trống, rồi dùng dây thừng niệm buộc nó vào cọc hơi thở vô và hơi thở ra. Như vậy, tâm của vị ấy, dù vùng vẫy bên này bên kia, cũng không tìm được đối tượng đã quen thuộc từ trước, không thể làm đứt dây thừng niệm để chạy thoát, sẽ ngồi xuống và nằm xuống gần đối tượng đó bằng cận hành định và an chỉ định. Do đó, các bậc cổ đức đã nói –

‘‘Yathā thambhe nibandheyya, vacchaṃ dammaṃ naro idha;
Bandheyyevaṃ sakaṃ cittaṃ, satiyārammaṇe daḷha’’nti. (visuddhi. 1.217; dī. ni. aṭṭha. 2.374; ma. ni. aṭṭha. 1.107; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163);
Evamassetaṃ senāsanaṃ bhāvanānurūpaṃ hoti. Tena vuttaṃ – ‘‘idamassa ānāpānassatisamaādhibhāvanānurūpasenāsanapariggahaparidīpana’’nti.
“Như người đời đây, buộc bê con cần thuần,
Vào cọc vững, cũng vậy, hãy buộc tâm mình,
Vào đối tượng của niệm, một cách thật kiên cố.” (visuddhi. 1.217; dī. ni. aṭṭha. 2.374; ma. ni. aṭṭha. 1.107; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163);

Như vậy, trú xứ ấy của vị này trở nên thích hợp cho sự tu tập. Do đó, đã được nói: “Đây là sự chỉ bày việc lựa chọn trú xứ thích hợp cho sự tu tập định niệm hơi thở của vị ấy”

Atha vā yasmā idaṃ kammaṭṭhānappabhede muddhabhūtaṃ sabbaññubuddhapaccekabuddhabuddhasāvakānaṃ visesādhigamadiṭṭhadhammasukhavihārapadaṭṭhānaṃ ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ itthipurisahatthiassādisaddasamākulaṃ gāmantaṃ apariccajitvā na sukaraṃ sampādetuṃ, saddakaṇṭakattā jhānassa. Agāmake pana araññe sukaraṃ yogāvacarena idaṃ kammaṭṭhānaṃ pariggahetvā ānāpānacatutthajjhānaṃ nibbattetvā tadeva ca pādakaṃ katvā saṅkhāre sammasitvā aggaphalaṃ arahattaṃ sampāpuṇituṃ, tasmāssa anurūpaṃsenāsanaṃ dassento bhagavā ‘‘araññagato vā’’tiādimāha.
Hoặc nữa, vì sao? Bởi vì đề mục niệm hơi thở này – là đề mục cao tột trong các loại đề mục thiền quán, là nền tảng cho sự chứng đắc các pháp thù thắng và cho sự an trú trong hiện tại lạc của các bậc Toàn Giác Phật, Độc Giác Phật, cùng các vị Thanh Văn Phật – sẽ không dễ dàng thành tựu được nếu không từ bỏ những nơi gần làng mạc, vốn ồn ào bởi đủ loại âm thanh của phụ nữ, nam giới, voi, ngựa, và các loại tương tự; bởi lẽ tiếng ồn là một chướng ngại (như cái gai) đối với sự phát triển của thiền định. Trái lại, ở nơi rừng vắng không có xóm làng, hành giả sẽ dễ dàng hơn trong việc thực hành đề mục thiền quán này: sau khi làm phát sinh được đệ tứ thiền của phép niệm hơi thở, lấy đó làm nền tảng để quán chiếu các pháp hành, hành giả có thể chứng đắc được A-la-hán quả, là thánh quả tối thượng. Chính vì thế, khi chỉ dạy về trú xứ thích hợp cho hành giả ấy, Đức Thế Tôn đã bắt đầu bằng câu: ‘Vị ấy đi đến khu rừng, hoặc…’

Vatthuvijjācariyo viya hi bhagavā, so yathā vatthuvijjācariyo nagarabhūmiṃ passitvā suṭṭhu upaparikkhitvā ‘‘ettha nagaraṃ māpethā’’ti upadisati, sotthinā ca nagare niṭṭhite rājakulato mahāsakkāraṃ labhati; evameva yogāvacarassa anurūpasenāsanaṃ upaparikkhitvā ettha kammaṭṭhānaṃ anuyuñjitabbanti upadisati. Tato tattha kammaṭṭhānaṃ anuyuttena yoginā kamena arahatte patte ‘‘sammāsambuddho vata so bhagavā’’ti mahantaṃ sakkāraṃ labhati. Ayaṃ pana bhikkhu ‘‘dīpisadiso’’ti vuccati. Yathā hi mahādīpirājā araññe tiṇagahanaṃ vā vanagahanaṃ vā pabbatagahanaṃ vā nissāya nilīyitvā vanamahiṃsagokaṇṇasūkarādayo mige gaṇhāti; evamevāyaṃ araññādīsu kammaṭṭhānaṃ anuyuñjanto bhikkhu yathākkamena sotāpattisakadāgāmianāgāmiarahattamagge ceva ariyaphalañca gaṇhātīti veditabbo. Tenāhu porāṇā –
Đức Thế Tôn thực sự giống như một vị thầy xem tướng đất vậy. Vị thầy ấy, sau khi quan sát và xem xét kỹ lưỡng một khu đất để xây thành, sẽ chỉ dạy: ‘Hãy xây dựng thành phố tại đây.’ Khi thành phố được hoàn thành tốt đẹp, vị ấy nhận được sự trọng vọng lớn lao từ hoàng gia. Cũng thế, Đức Thế Tôn, sau khi xem xét trú xứ thích hợp cho hành giả, Ngài chỉ dạy: ‘Hãy thực hành đề mục thiền định ở đây.’ Sau đó, khi hành giả đã chuyên tâm thực hành đề mục thiền định ở đó và tuần tự chứng đắc A-la-hán quả, Đức Thế Tôn nhận được sự tôn kính lớn lao với tâm niệm: ‘Đức Thế Tôn ấy quả là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác!’ Vị Tỳ khưu này được gọi là ‘người giống như con báo.’ Ví như một con báo chúa ở trong rừng, nương vào bụi cỏ rậm, rừng rậm hay núi non hiểm trở, ẩn mình rồi bắt các loài thú như trâu rừng, nai, heo rừng; cũng vậy, vị Tỳ khưu thực hành đề mục thiền định ở những nơi như rừng vắng, v.v., được hiểu là sẽ tuần tự chứng đắc các Thánh đạo và Thánh quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Do đó, các bậc cổ đức đã nói:

‘‘Yathāpi dīpiko nāma, nilīyitvā gaṇhatī mige;
Tathevāyaṃ buddhaputto, yuttayogo vipassako;
Araññaṃ pavisitvāna, gaṇhāti phalamuttama’’nti. (mi. pa. 6.1.5);
‘Ví như con báo nọ, ẩn mình rồi bắt mồi;
Cũng vậy người con Phật, hành giả chuyên cần quán chiếu,
Vào nơi rừng sâu thẳm, chứng đắc quả tối cao.’ (mi. pa. 6.1.5);

Tenassa parakkamajavayoggabhūmiṃ araññasenāsanaṃ dassento bhagavā ‘‘araññagato vā’’tiādimāha.
Vì thế, Đức Thế Tôn, khi chỉ dạy trú xứ rừng vắng là nơi thích hợp cho sự nỗ lực và tinh tấn mau chóng của hành giả ấy, đã bắt đầu bằng câu: ‘Vị ấy đi đến khu rừng, hoặc…’

Tattha araññagato vāti araññanti ‘‘nikkhamitvā bahi indakhīlā sabbametaṃ arañña’’nti (vibha. 529) ca ‘‘āraññakaṃ nāma senāsanaṃ pañcadhanusatikaṃ pacchima’’nti (pārā. 653) ca evaṃ vuttalakkhaṇesu araññesu anurūpaṃ yaṃkiñci pavivekasukhaṃ araññaṃ gato. Rukkhamūlagato vāti rukkhasamīpaṃ gato. Suññāgāragato vāti suññaṃ vivittokāsaṃ gato. Ettha ca ṭhapetvā araññañca rukkhamūlañca avasesasattavidhasenāsanagatopi suññāgāragatoti vattuṃ vaṭṭati. Evamassa ututtayānukūlaṃ dhātucariyānukūlañca ānāpānassatibhāvanānurūpaṃ senāsanaṃ upadisitvā alīnānuddhaccapakkhikaṃ santamiriyāpathaṃ upadisanto ‘‘nisīdatī’’ti āha. Athassa nisajjāya daḷhabhāvaṃ assāsapassāsānaṃ pavattanasukhataṃ ārammaṇapariggahūpāyañca dassento ‘‘pallaṅkaṃ ābhujitvā’’tiādimāha.
Trong ấy, ‘vị ấy đi đến khu rừng, hoặc…’ có nghĩa là đi đến khu rừng. ‘Rừng’ được định nghĩa là: ‘Sau khi ra khỏi trụ đá ranh giới thành phố, tất cả vùng đó là rừng’ (vibha. 529), và ‘Trú xứ trong rừng là nơi cách xa (khu dân cư) tối thiểu năm trăm tầm cung’ (pārā. 653). Như vậy, (nghĩa là) vị ấy đã đi đến bất kỳ khu rừng nào có những đặc điểm đã nêu, một nơi thích hợp mang lại sự yên tĩnh và biệt lập. ‘Hoặc đến gốc cây’ nghĩa là đi đến gần một gốc cây. ‘Hoặc đến một nơi trống trải’ nghĩa là đi đến một nơi trống không, vắng vẻ. Ở đây, ngoại trừ rừng và gốc cây, người đã đi đến bảy loại trú xứ còn lại cũng có thể được gọi là ‘người đi đến một nơi trống trải’. Như vậy, sau khi đã chỉ dạy trú xứ thích hợp với ba thời tiết, phù hợp với các yếu tố và tính cách của hành giả, và tương ứng với việc tu tập niệm hơi thở, Đức Thế Tôn dạy về oai nghi tĩnh lặng, thuộc về phần không thụ động cũng không trạo cử, bằng câu: ‘vị ấy ngồi’. Kế đó, để chỉ rõ sự vững chắc của thế ngồi, sự dễ dàng cho hơi thở ra vào, và phương pháp nắm bắt đề mục, Ngài nói bắt đầu bằng: ‘sau khi xếp chân kiểu kiết già’.

Tattha pallaṅkanti samantato ūrubaddhāsanaṃ. Ābhujitvāti ābandhitvā. Ujuṃ kāyaṃ paṇidhāyāti uparimaṃ sarīraṃ ujukaṃ ṭhapetvā, aṭṭhārasa piṭṭhikaṇṭake koṭiyā koṭiṃ paṭipādetvā. Evañhi nisinnassa cammamaṃsanhārūni na paṇamanti. Athassa yā tesaṃ paṇamanappaccayā khaṇe khaṇe vedanā uppajjeyyuṃ, tā na uppajjanti. Tāsu anuppajjamānāsu cittaṃ ekaggaṃ hoti. Kammaṭṭhānaṃ na paripatati. Vuḍḍhiṃ phātiṃ upagacchati.
Trong đó, ‘kiết già’ là thế ngồi có hai đùi được xếp lại với nhau một cách trọn vẹn. ‘Sau khi xếp’ nghĩa là sau khi vắt chéo và khóa chặt. ‘Giữ thân ngay thẳng’ nghĩa là giữ phần thân trên thẳng đứng, làm cho mười tám đốt xương sống được sắp xếp thẳng hàng từ đầu đến cuối. Khi ngồi như vậy, da, thịt và gân của vị ấy không bị cong oằn hay căng kéo. Do đó, những cảm thọ có thể phát sinh từng khoảnh khắc do sự cong oằn hay căng kéo ấy sẽ không khởi lên. Khi những cảm thọ ấy không khởi lên, tâm trở nên nhất tâm. Đề mục thiền định không bị suy giảm mà ngược lại, sẽ đạt đến sự tăng trưởng và phát triển.

Parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvāti kammaṭṭhānābhimukhaṃ satiṃ ṭhapayitvā. Atha vā ‘‘parī’’ti pariggahaṭṭho; ‘‘mukha’’nti niyyānaṭṭho; ‘‘satī’’ti upaṭṭhānaṭṭho; tena vuccati – ‘‘parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvā’’ti. Evaṃ paṭisambhidāyaṃ (paṭi. ma. 1.164-165) vuttanayenapettha attho daṭṭhabbo. Tatrāyaṃ saṅkhepo – ‘‘pariggahitaniyyānaṃ satiṃ katvā’’ti. So satova assasatīti so bhikkhu evaṃ nisīditvā evañca satiṃ upaṭṭhapetvā taṃ satiṃ avijahanto satoeva assasati, sato passasati, satokārī hotīti vuttaṃ hoti.
‘An trú chánh niệm ở phía trước mặt’ nghĩa là đặt niệm hướng thẳng đến đề mục thiền định. Hoặc là, ‘pari’ có nghĩa là ‘sự nắm giữ trọn vẹn’; ‘mukha’ (mặt) có nghĩa là ‘sự xuất khởi (của trí tuệ)’; ‘sati’ là ‘sự an trú (của niệm)’; do đó được nói là – ‘an trú chánh niệm ở phía trước mặt’. Như vậy, ý nghĩa ở đây cần được hiểu theo phương pháp đã được trình bày trong bộ Vô Ngại Giải Đạo (paṭi. ma. 1.164-165). Tóm lại, ở đó giải thích là: ‘đã làm cho niệm trở thành sự nắm giữ trọn vẹn và là sự xuất khởi (của trí tuệ)’. ‘Vị ấy thở vào có chánh niệm’ nghĩa là vị Tỳ khưu ấy, sau khi ngồi như thế và an trú niệm như thế, không từ bỏ niệm ấy, thở vào một cách có chánh niệm, thở ra một cách có chánh niệm; điều này có nghĩa là vị ấy trở thành người hành động có chánh niệm.

Idāni yehākārehi satokārī hoti, te dassento ‘‘dīghaṃ vā assasanto’’tiādimāha. Vuttañhetaṃ paṭisambhidāyaṃ – ‘‘so satova assasati, sato passasatī’’ti etasseva vibhaṅge –
Bây giờ, để chỉ ra bằng những cách nào hành giả trở thành người hành động có chánh niệm, Đức Thế Tôn nói bắt đầu bằng: ‘Khi thở vào dài’. Điều này đã được nói đến trong bộ Vô Ngại Giải Đạo – cụ thể là trong phần phân tích của chính câu ‘vị ấy thở vào có chánh niệm, thở ra có chánh niệm’ – như sau:

‘‘Bāttiṃsāya ākārehi satokārī hoti. Dīghaṃ assāsavasena cittassa ekaggataṃ avikkhepaṃ pajānato sati upaṭṭhitā hoti. Tāya satiyā tena ñāṇena satokārī hoti. Dīghaṃ passāsavasena…pe… paṭinissaggānupassī assāsavasena paṭinissaggānupassī passāsavasena cittassa ekaggataṃ avikkhepaṃ pajānato sati upaṭṭhitā hoti. Tāya satiyā tena ñāṇena satokārī hotī’’ti (paṭi. ma. 1.165).
‘Vị ấy trở thành người hành động có chánh niệm qua ba mươi hai phương cách. Khi, bằng cách thở vào dài, hành giả biết rõ sự nhất tâm và không xao lãng của tâm, thì niệm được an trú. Với niệm ấy, với trí tuệ ấy, hành giả trở thành người hành động có chánh niệm. Khi thở ra dài… (vân vân)… cho đến khi, bằng cách thở vào quán chiếu sự từ bỏ, bằng cách thở ra quán chiếu sự từ bỏ, hành giả biết rõ sự nhất tâm và không xao lãng của tâm, thì niệm được an trú. Với niệm ấy, với trí tuệ ấy, hành giả trở thành người hành động có chánh niệm.’ (paṭi. ma. 1.165).

Tattha dīghaṃ vā assasantoti dīghaṃ vā assāsaṃ pavattento. ‘‘Assāso’’ti bahi nikkhamanavāto. ‘‘Passāso’’ti anto pavisanavāto. Suttantaṭṭhakathāsu pana uppaṭipāṭiyā āgataṃ.
Trong đó, ‘Khi thở vào dài’ nghĩa là khi làm cho hơi thở vào diễn tiến một cách dài. ‘Hơi thở vào’ (assāsa) ở đây được hiểu là hơi gió đi ra ngoài. ‘Hơi thở ra’ (passāsa) là hơi gió đi vào trong. Tuy nhiên, trong các bản Chú giải Kinh tạng, ý nghĩa của hai thuật ngữ này (assāsa và passāsa) lại được trình bày theo thứ tự ngược lại (tức là assāsa là hơi thở vào, passāsa là hơi thở ra).

Tattha sabbesampi gabbhaseyyakānaṃ mātukucchito nikkhamanakāle paṭhamaṃ abbhantaravāto bahi nikkhamati. Pacchā bāhiravāto sukhumaṃ rajaṃ gahetvā abbhantaraṃ pavisanto tāluṃ āhacca nibbāyati. Evaṃ tāva assāsapassāsā veditabbā. Yā pana tesaṃ dīgharassatā, sā addhānavasena veditabbā. Yathā hi okāsaddhānaṃ pharitvā ṭhitaṃ udakaṃ vā vālikā vā ‘‘dīghamudakaṃ dīghā vālikā, rassamudakaṃ rassā vālikā’’ti vuccati. Evaṃ cuṇṇavicuṇṇāpi assāsapassāsā hatthisarīre ahisarīre ca tesaṃ attabhāvasaṅkhātaṃ dīghaṃ addhānaṃ saṇikaṃ pūretvā saṇikameva nikkhamanti, tasmā ‘‘dīghā’’ti vuccanti. Sunakhasasādīnaṃ attabhāvasaṅkhātaṃ rassaṃ addhānaṃ sīghaṃ pūretvā sīghameva nikkhamanti, tasmā ‘‘rassā’’ti vuccanti. Manussesu pana keci hatthiahiādayo viya kāladdhānavasena dīghaṃ assasanti ca passasanti ca. Keci sunakhasasādayo viya rassaṃ. Tasmā tesaṃ kālavasena dīghamaddhānaṃ nikkhamantā ca pavisantā ca te dīghā. Ittaramaddhānaṃ nikkhamantā ca pavisantā ca ‘‘rassā’’ti veditabbā. Tatrāyaṃ bhikkhu navahākārehi dīghaṃ assasanto ca passasanto ca ‘‘dīghaṃ assasāmi passasāmī’’ti pajānāti. Evaṃ pajānato cassa ekenākārena kāyānupassanāsatipaṭṭhānabhāvanā sampajjatīti veditabbā. Yathāha paṭisambhidāyaṃ –
Ở đây, đối với tất cả chúng sanh còn trong bào thai, vào lúc thoát ra khỏi bụng mẹ, trước tiên hơi gió bên trong đi ra ngoài. Sau đó, hơi gió bên ngoài mang theo bụi nhỏ li ti đi vào bên trong, chạm vào vòm miệng rồi dừng lại. Như vậy, trước hết cần hiểu về hơi thở vào và hơi thở ra. Còn sự dài hay ngắn của chúng thì cần được hiểu dựa vào khoảng thời gian. Giống như nước hay cát trải rộng chiếm một khoảng không gian được gọi là ‘nước dài, cát dài’ hoặc ‘nước ngắn, cát ngắn’. Cũng vậy, dù là những hơi thở rất nhỏ, ở trong thân voi hay thân rắn, chúng từ từ lấp đầy khoảng thời gian dài tương ứng với thân hình của chúng rồi cũng từ từ đi ra, do đó được gọi là ‘dài’. Hơi thở của chó, thỏ, và các loài tương tự nhanh chóng lấp đầy khoảng thời gian ngắn tương ứng với thân hình của chúng rồi cũng nhanh chóng đi ra, do đó được gọi là ‘ngắn’. Còn ở loài người, một số vị thở vào và thở ra dài, tính theo thời gian, giống như voi, rắn, v.v.; một số vị lại thở ngắn, giống như chó, thỏ, v.v. Do đó, những hơi thở đi ra và đi vào trong một khoảng thời gian dài được gọi là dài; những hơi thở đi ra và đi vào trong một khoảng thời gian khác (ngắn hơn) cần được hiểu là ‘ngắn’. Trong trường hợp này, vị Tỳ khưu, qua chín phương cách, khi thở vào dài và thở ra dài, biết rõ: ‘Tôi thở vào dài, tôi thở ra dài’. Cần được hiểu rằng, đối với vị ấy khi biết rõ như vậy, sự tu tập niệm xứ quán thân được thành tựu qua một phương cách. Như đã được nói trong bộ Vô Ngại Giải Đạo

‘‘Kathaṃ dīghaṃ assasanto ‘dīghaṃ assasāmī’ti pajānāti, dīghaṃ passasanto ‘dīghaṃ passasāmī’ti pajānāti? Dīghaṃ assāsaṃ addhānasaṅkhāte assasati, dīghaṃ passāsaṃ addhānasaṅkhāte passasati, dīghaṃ assāsapassāsaṃ addhānasaṅkhāte assasatipi passasatipi. Dīghaṃ assāsapassāsaṃ addhānasaṅkhāte assasatopi passasatopi chando uppajjati; chandavasena tato sukhumataraṃ dīghaṃ assāsaṃ addhānasaṅkhāte assasati, chandavasena tato sukhumataraṃ dīghaṃ passāsaṃ addhānasaṅkhāte passasati, chandavasena tato sukhumataraṃ dīghaṃ assāsapassāsaṃ addhānasaṅkhāte assasatipi passasatipi. Chandavasena tato sukhumataraṃ dīghaṃ assāsapassāsaṃ addhānasaṅkhāte assasatopi passasatopi pāmojjaṃ uppajjati; pāmojjavasena tato sukhumataraṃ dīghaṃ assāsaṃ addhānasaṅkhāte assasati, pāmojjavasena tato sukhumataraṃ dīghaṃ passāsaṃ…pe… dīghaṃ assāsapassāsaṃ addhānasaṅkhāte assasatipi passasatipi. Pāmojjavasena tato sukhumataraṃ dīghaṃ assāsapassāsaṃ addhānasaṅkhāte assasatopi passasatopi dīghaṃ assāsapassāsā cittaṃ vivattati, upekkhā saṇṭhāti. Imehi navahi ākārehi dīghaṃ assāsapassāsā kāyo; upaṭṭhānaṃ sati; anupassanā ñāṇaṃ; kāyo upaṭṭhānaṃ, no sati; sati upaṭṭhānañceva sati ca. Tāya satiyā tena ñāṇena taṃ kāyaṃ anupassati. Tena vuccati – ‘‘kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānabhāvanā’’ti (paṭi. ma. 1.166).
‘Làm thế nào khi thở vào dài, hành giả biết: “Tôi thở vào dài”; khi thở ra dài, hành giả biết: “Tôi thở ra dài”? Hành giả thở vào một hơi thở dài, được tính bằng khoảng thời gian; thở ra một hơi thở dài, được tính bằng khoảng thời gian; thở vào và thở ra những hơi thở dài, được tính bằng khoảng thời gian. Khi thở vào và thở ra những hơi thở dài, được tính bằng khoảng thời gian, ý muốn khởi sinh; do ý muốn, hành giả thở vào một hơi thở dài tế nhị hơn, được tính bằng khoảng thời gian; do ý muốn, hành giả thở ra một hơi thở dài tế nhị hơn, được tính bằng khoảng thời gian; do ý muốn, hành giả thở vào và thở ra những hơi thở dài tế nhị hơn, được tính bằng khoảng thời gian. Do ý muốn, khi thở vào và thở ra những hơi thở dài tế nhị hơn nữa, được tính bằng khoảng thời gian, niềm hân hoan khởi sinh; do niềm hân hoan, hành giả thở vào một hơi thở dài tế nhị hơn nữa, được tính bằng khoảng thời gian; do niềm hân hoan, hành giả thở ra một hơi thở dài tế nhị hơn nữa… (vân vân)… thở vào và thở ra những hơi thở dài, được tính bằng khoảng thời gian. Do niềm hân hoan, khi thở vào và thở ra những hơi thở dài tế nhị hơn nữa, được tính bằng khoảng thời gian, tâm xoay khỏi các hơi thở dài (và hướng đến các trạng thái thiền cao hơn), xả được thiết lập. Qua chín phương cách này: các hơi thở dài là thân; sự an trú là niệm; sự quán chiếu là trí. Thân là đối tượng an trú, không phải là niệm; niệm vừa là sự an trú, vừa là chính nó là niệm. Với niệm ấy, với trí ấy, hành giả quán chiếu thân ấy. Do đó được gọi là – “sự tu tập niệm xứ quán thân trong thân”.’ (paṭi. ma. 1.166).

Eseva nayo rassapadepi. Ayaṃ pana viseso – ‘‘yathā ettha ‘dīghaṃ assāsaṃ addhānasaṅkhāte’ti vuttaṃ; evamidha ‘rassaṃ assāsaṃ ittarasaṅkhāte assasatī’’ti āgataṃ. Tasmā tassa vasena yāva ‘‘tena vuccati kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānabhāvanā’’ti tāva yojetabbaṃ. Evamayaṃ addhānavasena ittaravasena ca imehākārehi assāsapassāse pajānanto dīghaṃ vā assasanto ‘‘dīghaṃ assasāmī’’ti pajānāti…pe… rassaṃ vā passasanto ‘‘rassaṃ passasāmī’’ti pajānātīti veditabbo.
Phương pháp này cũng tương tự đối với trường hợp hơi thở ngắn. Tuy nhiên, có sự khác biệt này: như ở phần trên đã nói ‘hơi thở vào dài, được tính bằng khoảng thời gian (dài)’, thì ở đây, đối với hơi thở ngắn, là ‘thở vào hơi thở ngắn, được tính bằng khoảng thời gian ngắn (hoặc giới hạn)’. Do đó, dựa vào sự khác biệt đó, cần phải áp dụng (phương pháp giải thích tương tự) cho đến câu ‘Do đó được gọi là sự tu tập niệm xứ quán thân trong thân’. Như vậy, cần được hiểu rằng, vị này, khi biết rõ hơi thở vào ra qua những phương cách này, dựa vào khoảng thời gian dài hoặc khoảng thời gian ngắn, khi thở vào dài, biết: ‘Tôi thở vào dài’… (vân vân)… hoặc khi thở ra ngắn, biết: ‘Tôi thở ra ngắn’.

Evaṃ pajānato cassa –

Đối với vị ấy khi biết rõ như vậy –

‘‘Dīgho rasso ca assāso;
Passāsopi ca tādiso;
Cattāro vaṇṇā vattanti;
Nāsikaggeva bhikkhuno’’ti. (visuddhi. 1.219; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163);
‘Hơi thở vào dài và ngắn;
Hơi thở ra cũng tương tự;
Bốn loại này thường diễn tiến,
Ngay tại chóp mũi Tỳ khưu.’ (visuddhi. 1.219; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163);

Sabbakāyappaṭisaṃvedīassasissāmi…pe… passasissāmīti sikkhatīti sakalassa assāsakāyassa ādimajjhapariyosānaṃ viditaṃ karonto pākaṭaṃ karonto ‘‘assasissāmī’’ti sikkhati. Sakalassa passāsakāyassa ādimajjhapariyosānaṃ viditaṃ karonto pākaṭaṃ karonto ‘‘passasissāmī’’ti sikkhati. Evaṃ viditaṃ karonto pākaṭaṃ karonto ñāṇasampayuttacittena assasati ceva passasati ca; tasmā ‘‘assasissāmi passasissāmī’’ti sikkhatīti vuccati. Ekassa hi bhikkhuno cuṇṇavicuṇṇavisaṭe assāsakāye passāsakāye vā ādi pākaṭo hoti, na majjhapariyosānaṃ. So ādimeva pariggahetuṃ sakkoti, majjhapariyosāne kilamati. Ekassa majjhaṃ pākaṭaṃ hoti, na ādipariyosānaṃ. So majjhameva pariggahetuṃ sakkoti, ādipariyosāne kilamati. Ekassa pariyosānaṃ pākaṭaṃ hoti, na ādimajjhaṃ. So pariyosānaṃyeva pariggahetuṃ sakkoti, ādimajjhe kilamati. Ekassa sabbampi pākaṭaṃ hoti, so sabbampi pariggahetuṃ sakkoti, na katthaci kilamati. Tādisena bhavitabbanti dassento āha – ‘‘sabbakāyappaṭisaṃvedī assasissāmi…pe… passasissāmīti sikkhatī’’ti.
‘Vị ấy tập luyện: “Tôi sẽ thở vào, cảm giác toàn thân… (vân vân)… Tôi sẽ thở ra, cảm giác toàn thân”’ có nghĩa là: vị ấy tập luyện ‘Tôi sẽ thở vào’ trong khi làm cho biết rõ, làm cho hiển lộ phần đầu, phần giữa và phần cuối của toàn bộ thân hơi thở vào. Vị ấy tập luyện ‘Tôi sẽ thở ra’ trong khi làm cho biết rõ, làm cho hiển lộ phần đầu, phần giữa và phần cuối của toàn bộ thân hơi thở ra. Trong khi làm cho biết rõ, làm cho hiển lộ như vậy, vị ấy thở vào và thở ra với tâm tương ưng với trí; do đó được nói là vị ấy tập luyện ‘Tôi sẽ thở vào, tôi sẽ thở ra’. Quả vậy, đối với một Tỳ khưu, khi thân hơi thở vào hoặc thân hơi thở ra bị phân tán thành từng mảnh nhỏ, phần đầu thì hiển lộ, nhưng phần giữa và phần cuối thì không. Vị ấy chỉ có thể nắm bắt được phần đầu, còn ở phần giữa và phần cuối thì gặp khó khăn. Đối với một vị khác, phần giữa thì hiển lộ, nhưng phần đầu và phần cuối thì không. Vị ấy chỉ có thể nắm bắt được phần giữa, còn ở phần đầu và phần cuối thì gặp khó khăn. Đối với một vị khác nữa, phần cuối thì hiển lộ, nhưng phần đầu và phần giữa thì không. Vị ấy chỉ có thể nắm bắt được phần cuối, còn ở phần đầu và phần cuối thì gặp khó khăn. Đối với một vị khác nữa, toàn bộ (hơi thở) đều hiển lộ; vị ấy có thể nắm bắt được toàn bộ, không gặp khó khăn ở bất cứ đâu. Để chỉ ra rằng cần phải trở thành người như vậy, Đức Thế Tôn đã dạy: ‘Vị ấy tập luyện: “Tôi sẽ thở vào, cảm giác toàn thân… (vân vân)… Tôi sẽ thở ra, cảm giác toàn thân”’.

Tattha sikkhatīti evaṃ ghaṭati vāyamati. Yo vā tathābhūtassa saṃvaro; ayamettha adhisīlasikkhā. Yo tathābhūtassa samādhi; ayaṃ adhicittasikkhā. Yā tathābhūtassa paññā; ayaṃ adhipaññāsikkhāti. Imā tisso sikkhāyo tasmiṃ ārammaṇe tāya satiyā tena manasikārena sikkhati āsevati bhāveti bahulīkarotīti evamettha attho daṭṭhabbo. Tattha yasmā purimanaye kevalaṃ assasitabbaṃ passasitabbameva ca, na aññaṃ kiñci kātabbaṃ; ito paṭṭhāya pana ñāṇuppādanādīsu yogo karaṇīyo. Tasmā tattha ‘‘assasāmīti pajānāti passasāmīti pajānāti’’cceva vattamānakālavasena pāḷiṃ vatvā ito paṭṭhāya kattabbassa ñāṇuppādanādino ākārassa dassanatthaṃ ‘‘sabbakāyappaṭisaṃvedī assasissāmī’’tiādinā nayena anāgatavacanavasena pāḷi āropitāti veditabbā.
Ở đây, ‘tập luyện’ có nghĩa là cố gắng, nỗ lực như vậy. Sự thu thúc của một vị đã được như vậy chính là tăng thượng giới học ở đây. Định của một vị đã được như vậy chính là tăng thượng tâm học. Tuệ của một vị đã được như vậy chính là tăng thượng tuệ học. Cần hiểu ý nghĩa ở đây là: vị ấy học tập, thực hành, tu tập, làm cho sung mãn ba học xứ này đối với đề mục ấy, bằng niệm ấy, bằng sự tác ý ấy. Ở đây, bởi vì trong phương pháp trước, chỉ thuần túy là việc thở vào và thở ra, không có việc gì khác phải làm; nhưng từ đây trở đi, cần phải nỗ lực trong việc làm phát sinh trí tuệ và các pháp khác. Do đó, cần hiểu rằng, ở phương pháp trước, Pāḷi được nói bằng thì hiện tại là: ‘biết tôi thở vào, biết tôi thở ra’; còn từ đây trở đi, để chỉ rõ phương cách làm phát sinh trí tuệ và các pháp khác là việc phải làm, Pāḷi đã được trình bày bằng thì vị lai theo lối nói bắt đầu bằng: ‘Tôi sẽ thở vào, cảm giác toàn thân…’.

Passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmi…pe… passasissāmīti sikkhatīti oḷārikaṃ kāyasaṅkhāraṃ passambhento paṭippassambhento nirodhento vūpasamento assasissāmi passasissāmīti sikkhati.
‘Vị ấy tập luyện: “Tôi sẽ thở vào, làm an tịnh thân hành… (vân vân)… Tôi sẽ thở ra, làm an tịnh thân hành”’ có nghĩa là: vị ấy tập luyện ‘Tôi sẽ thở vào, tôi sẽ thở ra’ trong khi làm cho an tịnh, làm cho lắng dịu, làm cho chấm dứt, làm cho yên lặng thân hành thô thiển.

Tatrevaṃ oḷārikasukhumatā ca passaddhi ca veditabbā. Imassa hi bhikkhuno pubbe apariggahitakāle kāyo ca cittañca sadarathā honti. Oḷārikānaṃ kāyacittānaṃ oḷārikatte avūpasante assāsapassāsāpi oḷārikā honti, balavatarā hutvā pavattanti, nāsikā nappahoti, mukhena assasantopi passasantopi tiṭṭhati. Yadā panassa kāyopi cittampi pariggahitā honti, tadā te santā honti vūpasantā. Tesu vūpasantesu assāsapassāsā sukhumā hutvā pavattanti, ‘‘atthi nu kho natthī’’ti vicetabbākārappattā honti. Seyyathāpi purisassa dhāvitvā pabbatā vā orohitvā mahābhāraṃ vā sīsato oropetvā ṭhitassa oḷārikā assāsapassāsā honti, nāsikā nappahoti, mukhena assasantopi passasantopi tiṭṭhati. Yadā panesa taṃ parissamaṃ vinodetvā nhatvā ca pivitvā ca allasāṭakaṃ hadaye katvā sītāya chāyāya nipanno hoti, athassa te assāsapassāsā sukhumā honti, ‘‘atthi nu kho natthī’’ti vicetabbākārappattā. Evameva imassa bhikkhuno pubbe apariggahitakāle kāyo ca…pe… vicetabbākārappattā honti. Taṃ kissa hetu? Tathā hissa pubbe apariggahitakāle ‘‘oḷārikoḷārike kāyasaṅkhāre passambhemī’’ti ābhogasamannāhāramanasikārapaccavekkhaṇā natthi, pariggahitakāle pana atthi. Tenassa apariggahitakālato pariggahitakāle kāyasaṅkhāro sukhumo hoti. Tenāhu porāṇā –
Ở đó, sự thô thiển, sự tế nhị và sự an tịnh cần được hiểu như sau. Quả vậy, đối với vị Tỳ khưu này, trước khi đề mục được nắm bắt, thân và tâm còn dao động, bất an. Khi sự thô thiển của thân và tâm thô thiển ấy chưa được lắng dịu, hơi thở vào ra cũng thô thiển, chúng diễn tiến một cách mạnh mẽ, lỗ mũi không đủ để thở, vị ấy phải đứng thở cả bằng miệng. Nhưng khi thân và tâm của vị ấy đã được nắm bắt qua tu tập, chúng trở nên tĩnh lặng, lắng dịu. Khi chúng đã lắng dịu, hơi thở vào ra trở nên tế nhị, đến mức phải tìm xem ‘có hơi thở hay không có’. Ví như một người sau khi chạy, hoặc xuống núi, hoặc đặt gánh nặng từ trên đầu xuống, hơi thở vào ra của người ấy trở nên thô thiển, lỗ mũi không đủ, người ấy phải đứng thở cả bằng miệng. Nhưng khi người ấy đã giải tỏa sự mệt nhọc đó, tắm rửa, uống nước, đặt chiếc khăn ẩm lên ngực và nằm nghỉ dưới bóng mát, bấy giờ hơi thở vào ra của người ấy trở nên tế nhị, đến mức phải tìm xem ‘có hay không có’. Cũng vậy, đối với vị Tỳ khưu này, trước khi đề mục được nắm bắt, thân và… (vân vân)… hơi thở trở nên tế nhị đến mức phải tìm xem có hay không có. Vì lý do gì vậy? Là vì, trước khi đề mục được nắm bắt, vị ấy không có sự hướng tâm, sự chú ý, sự tác ý, sự quán xét rằng: ‘Tôi sẽ làm an tịnh các thân hành thô thiển’; nhưng khi đề mục đã được nắm bắt thì có những sự thực hành này. Do đó, so với lúc chưa nắm bắt đề mục, thân hành của vị ấy trở nên tế nhị hơn vào lúc đã nắm bắt đề mục. Do đó, các bậc cổ đức đã nói:

‘‘Sāraddhe kāye citte ca, adhimattaṃ pavattati;
Asāraddhamhi kāyamhi, sukhumaṃ sampavattatī’’ti. (visuddhi. 1.220; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163);
‘Khi thân và tâm còn căng thẳng, (hơi thở) diễn tiến mạnh mẽ;
Khi thân không còn căng thẳng, (hơi thở) nhẹ nhàng diễn luân.’ (visuddhi. 1.220; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163);

Pariggahepi oḷāriko, paṭhamajjhānūpacāre sukhumo; tasmimpi oḷāriko paṭhamajjhāne sukhumo. Paṭhamajjhāne ca dutiyajjhānūpacāre ca oḷāriko, dutiyajjhāne sukhumo. Dutiyajjhāne ca tatiyajjhānūpacāre ca oḷāriko, tatiyajjhāne sukhumo. Tatiyajjhāne ca catutthajjhānūpacāre ca oḷāriko, catutthajjhāne atisukhumo appavattimeva pāpuṇāti. Idaṃ tāva dīghabhāṇakasaṃyuttabhāṇakānaṃ mataṃ.
Ngay cả khi đề mục được nắm bắt, (thân hành, tức hơi thở) vẫn còn thô; ở cận định của sơ thiền, nó trở nên tế nhị. Trong cận định ấy, nó vẫn còn thô; ở (an trú) sơ thiền, nó trở nên tế nhị. Ở (an trú) sơ thiền và ở cận định của nhị thiền, nó còn thô; ở (an trú) nhị thiền, nó trở nên tế nhị. Ở (an trú) nhị thiền và ở cận định của tam thiền, nó còn thô; ở (an trú) tam thiền, nó trở nên tế nhị. Ở (an trú) tam thiền và ở cận định của tứ thiền, nó còn thô; ở (an trú) tứ thiền, nó trở nên vô cùng tế nhị, thậm chí đạt đến trạng thái gần như không còn diễn tiến. Đây là quan điểm của các vị Luận sư Trường Bộ và Tương Ưng Bộ.

Majjhimabhāṇakā pana ‘‘paṭhamajjhāne oḷāriko, dutiyajjhānūpacāre sukhumo’’ti evaṃ heṭṭhimaheṭṭhimajjhānato uparūparijjhānūpacārepi sukhumataraṃ icchanti. Sabbesaṃyeva pana matena apariggahitakāle pavattakāyasaṅkhāro pariggahitakāle paṭippassambhati, pariggahitakāle pavattakāyasaṅkhāro paṭhamajjhānūpacāre…pe… catutthajjhānūpacāre pavattakāyasaṅkhāro catutthajjhāne paṭippassambhati. Ayaṃ tāva samathe nayo.
Còn các vị Luận sư Trung Bộ thì cho rằng: ‘Ở (an trú) sơ thiền, (thân hành) còn thô; ở cận định của nhị thiền, nó trở nên tế nhị’, như vậy các vị ấy chủ trương rằng (thân hành) cũng trở nên tế nhị hơn ở các cận định của các tầng thiền cao hơn so với chính các tầng thiền thấp hơn liền kề trước đó. Tuy nhiên, theo quan điểm của tất cả các vị, thân hành đang diễn tiến vào lúc chưa nắm bắt đề mục sẽ lắng dịu vào lúc đã nắm bắt đề mục; thân hành đang diễn tiến vào lúc đã nắm bắt đề mục sẽ lắng dịu ở cận định của sơ thiền; … (vân vân) … thân hành đang diễn tiến ở cận định của tứ thiền sẽ lắng dịu ở (an trú) tứ thiền. Đây là phương pháp trong pháp tu Chỉ.

Vipassanāyaṃ pana apariggahe pavatto kāyasaṅkhāro oḷāriko, mahābhūtapariggahe sukhumo. Sopi oḷāriko, upādārūpapariggahe sukhumo. Sopi oḷāriko, sakalarūpapariggahe sukhumo. Sopi oḷāriko, arūpapariggahe sukhumo. Sopi oḷāriko, rūpārūpapariggahe sukhumo. Sopi oḷāriko, paccayapariggahe sukhumo. Sopi oḷāriko, sappaccayanāmarūpapariggahe sukhumo. Sopi oḷāriko, lakkhaṇārammaṇikavipassanāya sukhumo. Sopi dubbalavipassanāya oḷāriko, balavavipassanāya sukhumo. Tattha pubbe vuttanayeneva purimassa purimassa pacchimena pacchimena passaddhi veditabbā. Evamettha oḷārikasukhumatā ca passaddhi ca veditabbā.
Còn trong pháp tu Quán, thân hành đang diễn tiến khi chưa nắm bắt đề mục thì thô; khi nắm bắt Tứ Đại, nó trở nên tế nhị. Nó (thân hành ở giai đoạn nắm bắt Tứ Đại) vẫn được xem là thô (so với giai đoạn sau); khi nắm bắt các Sắc Y Sinh, nó trở nên tế nhị. Nó vẫn được xem là thô; khi nắm bắt toàn bộ Sắc Pháp, nó trở nên tế nhị. Nó vẫn được xem là thô; khi nắm bắt các Pháp Vô Sắc, nó trở nên tế nhị. Nó vẫn được xem là thô; khi nắm bắt các Pháp Sắc và Vô Sắc, nó trở nên tế nhị. Nó vẫn được xem là thô; khi nắm bắt các Duyên, nó trở nên tế nhị. Nó vẫn được xem là thô; khi nắm bắt Danh-Sắc cùng với các duyên của chúng, nó trở nên tế nhị. Nó vẫn được xem là thô; với pháp quán lấy các tướng (tam tướng) làm đối tượng, nó trở nên tế nhị. Nó là thô đối với pháp quán yếu ớt, và tế nhị đối với pháp quán mạnh mẽ. Ở đó, sự an tịnh của mỗi giai đoạn trước bởi mỗi giai đoạn sau cần được hiểu theo phương pháp đã nói ở trên. Như vậy, sự thô thiển, sự tế nhị và sự an tịnh ở đây cần được hiểu như thế.

Paṭisambhidāyaṃ panassa saddhiṃ codanāsodhanāhi evamattho vutto – ‘‘kathaṃ passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmi…pe… passasissāmī’’ti sikkhati? Katame kāyasaṅkhārā? Dīghaṃ assāsā kāyikā ete dhammā kāyappaṭibaddhā kāyasaṅkhārā, te kāyasaṅkhāre passambhento nirodhento vūpasamento sikkhati. Dīghaṃ passāsā kāyikā ete dhammā…pe… rassaṃ assāsā…pe… rassaṃ passāsā… sabbakāyappaṭisaṃvedī assāsā… sabbakāyappaṭisaṃvedī passāsā kāyikā ete dhammā kāyappaṭibaddhā kāyasaṅkhārā, te kāyasaṅkhāre passambhento nirodhento vūpasamento sikkhati.
Còn trong bộ Vô Ngại Giải Đạo, ý nghĩa của điều này được nói cùng với phần chất vấn và giải trình như sau: ‘Làm thế nào hành giả tập luyện: “Tôi sẽ thở vào, làm an tịnh thân hành… (vân vân)… Tôi sẽ thở ra, làm an tịnh thân hành”? Thân hành là những gì? Hơi thở vào dài là pháp thuộc thân, những pháp này liên hệ đến thân, chính chúng là thân hành; hành giả tập luyện trong khi làm an tịnh, làm chấm dứt, làm lắng dịu những thân hành ấy. Hơi thở ra dài là pháp thuộc thân, những pháp này… (vân vân)… hơi thở vào ngắn… (vân vân)… hơi thở ra ngắn… hơi thở vào cảm giác toàn thân… hơi thở ra cảm giác toàn thân là pháp thuộc thân, những pháp này liên hệ đến thân, chính chúng là thân hành; hành giả tập luyện trong khi làm an tịnh, làm chấm dứt, làm lắng dịu những thân hành ấy.’

Yathārūpehi kāyasaṅkhārehi yā kāyassa ānamanā vinamanā sannamanā paṇamanā iñjanā phandanā calanā kampanā passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmīti sikkhati, passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmīti sikkhati.
Do những loại thân hành nào mà có sự cúi tới, ngửa ra, nghiêng qua, uốn cong, sự rung động, sự chuyển động, sự lay động, sự chấn động của thân, hành giả tập luyện: ‘Tôi sẽ thở vào, làm an tịnh thân hành (ấy)’, hành giả tập luyện: ‘Tôi sẽ thở ra, làm an tịnh thân hành (ấy)’.

Yathārūpehi kāyasaṅkhārehi yā kāyassa na ānamanā na vinamanā na sannamanā na paṇamanā aniñjanā aphandanā acalanā akampanā, santaṃ sukhumaṃ passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmīti sikkhati, passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmīti sikkhati.
Do những loại thân hành nào mà có sự không cúi tới, không ngửa ra, không nghiêng qua, không uốn cong, sự không rung động, không chuyển động, không lay động, không chấn động của thân, (tức là khi thân hành đã trở nên) an tịnh, tế nhị, hành giả tập luyện: ‘Tôi sẽ thở vào, làm an tịnh thân hành (ấy)’, hành giả tập luyện: ‘Tôi sẽ thở ra, làm an tịnh thân hành (ấy)’.

Iti kira passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmīti sikkhati, passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmīti sikkhati. Evaṃ sante vātūpaladdhiyā ca pabhāvanā na hoti, assāsapassāsānañca pabhāvanā na hoti, ānāpānassatiyā ca pabhāvanā na hoti, ānāpānassatisamādhissa ca pabhāvanā na na hoti, na ca naṃ taṃ samāpattiṃ paṇḍitā samāpajjantipi vuṭṭhahantipi.
Nghe nói rằng, nếu hành giả (chỉ đơn thuần) tập luyện: ‘Tôi sẽ thở vào, làm an tịnh thân hành’, và tập luyện: ‘Tôi sẽ thở ra, làm an tịnh thân hành’ (mà không đúng cách), thì trong trường hợp đó, sự nhận biết hơi gió không phát triển, sự nhận biết hơi thở vào ra không phát triển, niệm hơi thở không phát triển, định niệm hơi thở cũng không phát triển, và các bậc trí giả cũng không nhập và xuất khỏi định ấy.

Iti kira passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmi…pe… passasissāmīti sikkhati. Evaṃ sante vātūpaladdhiyā ca pabhāvanā hoti, assāsapassāsānañca pabhāvanā hoti, ānāpānassatiyā ca pabhāvanā hoti, ānāpānassatisamādhissa ca pabhāvanā hoti, tañca naṃ samāpattiṃ paṇḍitā samāpajjantipi vuṭṭhahantipi.
Nhưng nghe nói rằng, (khi) hành giả tập luyện (một cách đúng đắn): ‘Tôi sẽ thở vào, làm an tịnh thân hành… (vân vân)… Tôi sẽ thở ra, làm an tịnh thân hành’, thì trong trường hợp đó, sự nhận biết hơi gió có phát triển, sự nhận biết hơi thở vào ra có phát triển, niệm hơi thở có phát triển, định niệm hơi thở có phát triển, và các bậc trí giả cũng nhập và xuất khỏi định ấy.

Yathā kathaṃ viya? Seyyathāpi kaṃse ākoṭite paṭhamaṃ oḷārikā saddā pavattanti, oḷārikānaṃ saddānaṃ nimittaṃ suggahitattā sumanasikatattā sūpadhāritattā niruddhepi oḷārike sadde atha pacchā sukhumakā saddā pavattanti, sukhumakānaṃ saddānaṃ nimittaṃ suggahitattā sumanasikatattā sūpadhāritattā niruddhepi sukhumake sadde atha pacchā sukhumasaddanimittārammaṇatāpi cittaṃ pavattati; evameva paṭhamaṃ oḷārikā assāsapassāsā pavattanti, oḷārikānaṃ assāsapassāsānaṃ nimittaṃ suggahitattā sumanasikatattā sūpadhāritattā niruddhepi oḷārike assāsapassāse atha pacchā sukhumakā assāsapassāsā pavattanti, sukhumakānaṃ assāsapassāsānaṃ nimittaṃ suggahitattā sumanasikatattā sūpadhāritattā niruddhepi sukhumake assāsapassāse atha pacchā sukhumaassāsapassāsanimittārammaṇatāpi cittaṃ na vikkhepaṃ gacchati.
Ví như thế nào? Giống như khi một cái chiêng đồng được đánh, lúc đầu những âm thanh thô phát sinh; do tướng của những âm thanh thô được khéo nắm bắt, khéo tác ý, khéo ghi nhận, nên ngay cả khi âm thanh thô đã chấm dứt, sau đó những âm thanh tế nhị lại phát sinh. Do tướng của những âm thanh tế nhị này được khéo nắm bắt, khéo tác ý, khéo ghi nhận, nên ngay cả khi âm thanh tế nhị đã chấm dứt, sau đó tâm vẫn tiếp tục hướng về đối tượng là tướng của âm thanh tế nhị. Cũng vậy, lúc đầu những hơi thở vào ra thô phát sinh; do tướng của những hơi thở vào ra thô được khéo nắm bắt, khéo tác ý, khéo ghi nhận, nên ngay cả khi hơi thở vào ra thô đã chấm dứt (hoặc lắng dịu), sau đó những hơi thở vào ra tế nhị lại phát sinh. Do tướng của những hơi thở vào ra tế nhị này được khéo nắm bắt, khéo tác ý, khéo ghi nhận, nên ngay cả khi hơi thở vào ra tế nhị đã chấm dứt (hoặc trở nên rất vi tế), sau đó tâm vẫn không bị phân tán khỏi đối tượng là tướng của hơi thở vào ra tế nhị ấy.

Evaṃ sante vātūpaladdhiyā ca pabhāvanā hoti, assāsapassāsānañca pabhāvanā hoti, ānāpānassatiyā ca pabhāvanā hoti, ānāpānassatisamādhissa ca pabhāvanā hoti, tañca naṃ samāpattiṃ paṇḍitā samāpajjantipi vuṭṭhahantipi.
Trong trường hợp như vậy (thực hành đúng cách), sự nhận biết hơi gió có phát triển, sự nhận biết hơi thở vào ra có phát triển, niệm hơi thở có phát triển, định niệm hơi thở có phát triển, và các bậc trí giả cũng nhập và xuất khỏi định ấy.

Passambhayaṃ kāyasaṅkhāranti assāsapassāsā kāyo, upaṭṭhānaṃ sati, anupassanā ñāṇaṃ. Kāyo upaṭṭhānaṃ no sati, sati upaṭṭhānañceva sati ca, tāya satiyā tena ñāṇena taṃ kāyaṃ anupassati. Tena vuccati – ‘‘kāye kāyānupassanā satipaṭṭhānabhāvanāti (paṭi. ma. 1.171).
(Trong câu) ‘Làm an tịnh thân hành’: hơi thở vào ra là thân; sự an trú (của niệm trên đối tượng) là niệm; sự quán chiếu là trí. Thân là đối tượng an trú, không phải là niệm; niệm vừa là sự an trú (trên đối tượng), vừa là chính nó là niệm. Với niệm ấy, với trí ấy, hành giả quán chiếu thân ấy. Do đó được gọi là – ‘sự tu tập niệm xứ quán thân trong thân’. (paṭi. ma. 1.171).

Ayaṃ tāvettha kāyānupassanāvasena vuttassa paṭhamacatukkassa anupubbapadavaṇṇanā.
Đây là phần giải thích tuần tự từng mục của bốn pháp đầu tiên (trong phép niệm hơi thở), đã được trình bày theo pháp quán thân.

Yasmā panettha idameva catukkaṃ ādikammikassa kammaṭṭhānavasena vuttaṃ, itarāni pana tīṇi catukkāni ettha pattajjhānassa vedanācittadhammānupassanāvasena vuttāni, tasmā idaṃ kammaṭṭhānaṃ bhāvetvā ānāpānassaticatutthajjhānapadaṭṭhānāya vipassanāya saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇitukāmena buddhaputtena yaṃ kātabbaṃ taṃ sabbaṃ idheva tāva ādikammikassa kulaputtassa vasena ādito pabhuti evaṃ veditabbaṃ. Catubbidhaṃ tāva sīlaṃ visodhetabbaṃ. Tattha tividhā visodhanā – anāpajjanaṃ, āpannavuṭṭhānaṃ, kilesehi ca appatipīḷanaṃ. Evaṃ visuddhasīlassa hi bhāvanā sampajjati. Yampidaṃ cetiyaṅgaṇavattaṃ bodhiyaṅgaṇavattaṃ upajjhāyavattaṃ ācariyavattaṃ jantāgharavattaṃ uposathāgāravattaṃ dveasīti khandhakavattāni cuddasavidhaṃ mahāvattanti imesaṃ vasena ābhisamācārikasīlaṃ vuccati, tampi sādhukaṃ paripūretabbaṃ. Yo hi ‘‘ahaṃ sīlaṃ rakkhāmi, kiṃ ābhisamācārikena kamma’’nti vadeyya, tassa sīlaṃ paripūressatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Ābhisamācārikavatte pana paripūre sīlaṃ paripūrati, sīle paripūre samādhi gabbhaṃ gaṇhāti. Vuttañhetaṃ bhagavatā – ‘‘so vata, bhikkhave, bhikkhu ābhisamācārikaṃ dhammaṃ aparipūretvā ‘sīlāni paripūressatī’ti netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’’ti (a. ni. 5.21) vitthāretabbaṃ. Tasmā tena yampidaṃ cetiyaṅgaṇavattādi ābhisamācārikasīlaṃ vuccati, tampi sādhukaṃ paripūretabbaṃ. Tato –
Bởi vì ở đây, chính bốn pháp này được nói là đề mục thiền định cho người mới bắt đầu thực hành. Còn ba nhóm bốn pháp kia thì được nói ở đây theo cách quán thọ, quán tâm, và quán pháp đối với người đã chứng đắc các tầng thiền. Do đó, người con Phật muốn tu tập đề mục này, rồi lấy đệ tứ thiền của phép niệm hơi thở làm nền tảng cho pháp quán, cùng với các pháp Vô Ngại Giải, để chứng đắc A-la-hán quả, thì tất cả những gì phải làm, trước hết ở đây, cần được hiểu theo phương diện của một thiện gia nam tử mới bắt đầu thực hành, ngay từ đầu như sau: Trước tiên, bốn loại giới cần được thanh lọc. Ở đó, có ba cách thanh lọc: không vi phạm, sám hối khi đã vi phạm, và không bị phiền não áp bức. Quả vậy, sự tu tập (thiền định) chỉ thành tựu đối với người có giới thanh tịnh. Giới bổn phận hằng ngày, được nói qua những phận sự này: phận sự ở sân tháp, phận sự ở sân cây bồ đề, phận sự đối với thầy tế độ, phận sự đối với thầy giáo thọ, phận sự ở nhà tắm hơi, phận sự ở nhà bố-tát, tám mươi hai phận sự trong các thiên Luật, mười bốn Đại phận sự – giới này cũng cần được chu toàn một cách tốt đẹp. Nếu có ai nói: ‘Tôi giữ giới (Biệt Giải Thoát), cần gì đến các phận sự hằng ngày?’, thì không có lý do gì giới của người ấy sẽ được chu toàn. Nhưng khi các phận sự hằng ngày được chu toàn, giới (Biệt Giải Thoát) được chu toàn; khi giới được chu toàn, định mới được hình thành (như thai nhi trong bụng mẹ). Điều này đã được Đức Thế Tôn dạy – (cần được triển khai rộng): ‘Này các Tỳ khưu, không thể có trường hợp một Tỳ khưu không chu toàn các pháp thuộc bổn phận hằng ngày mà lại có thể chu toàn các giới (Biệt Giải Thoát).’ (a. ni. 5.21). Do đó, vị ấy cũng cần phải chu toàn một cách tốt đẹp giới bổn phận hằng ngày này, tức là các phận sự ở sân tháp, và các phận sự khác. Sau đó –

‘‘Āvāso ca kulaṃ lābho, gaṇo kammañca pañcamaṃ;
Addhānaṃ ñāti ābādho, gantho iddhīti te dasā’’ti.
‘Trú xứ, gia đình (thí chủ), lợi lộc, đoàn chúng, và công việc là thứ năm;
Việc du hành, thân quyến, bệnh tật, (học nhiều) kinh điển, và thần thông – đó là mười (chướng ngại).’

Evaṃ vuttesu dasasu palibodhesu yo palibodho atthi, so upacchinditabbo.
Trong mười chướng ngại đã được nói như vậy, chướng ngại nào đang có mặt, chướng ngại đó cần phải được cắt đứt.

Evaṃ upacchinnapalibodhena kammaṭṭhānaṃ uggahetabbaṃ. Tampi duvidhaṃ hoti – sabbatthakakammaṭṭhānañca pārihāriyakammaṭṭhānañca. Tattha sabbatthakakammaṭṭhānaṃ nāma bhikkhusaṅghādīsu mettā maraṇassati ca asubhasaññātipi eke. Kammaṭṭhānikena hi bhikkhunā paṭhamaṃ tāva paricchinditvā sīmaṭṭhakabhikkhusaṅghe mettā bhāvetabbā; tato sīmaṭṭhakadevatāsu, tato gocaragāme issarajane, tato tattha manusse upādāya sabbasattesu. So hi bhikkhusaṅghe mettāya sahavāsīnaṃ muducittataṃ janeti, athassa sukhasaṃvāsatā hoti. Sīmaṭṭhakadevatāsu mettāya mudukatacittāhi devatāhi dhammikāya rakkhāya susaṃvihitārakkho hoti. Gocaragāme issarajane mettāya mudukatacittasantānehi issarehi dhammikāya rakkhāya surakkhitaparikkhāro hoti. Tattha manussesu mettāya pasāditacittehi tehi aparibhūto hutvā vicarati. Sabbasattesu mettāya sabbattha appaṭihatacāro hoti.
Sau khi đã cắt đứt các chướng ngại như vậy, vị Tỳ khưu cần phải học hỏi đề mục thiền định. Đề mục ấy có hai loại: đề mục phổ thông và đề mục chuyên biệt. Trong đó, đề mục phổ thông là tâm từ đối với Tăng chúng và các đối tượng khác, niệm sự chết, và một số vị còn kể cả quán bất tịnh. Quả vậy, vị Tỳ khưu hành thiền trước tiên cần phải xác định giới hạn rồi tu tập tâm từ đối với Tăng chúng trong cùng một khu vực giới hạn (sīmā); sau đó (tu tập tâm từ) đối với các vị trời trong khu vực giới hạn, rồi đến những người có quyền thế trong làng khất thực, rồi đến những người khác ở đó, và bao gồm tất cả chúng sanh. Vị ấy, do tâm từ đối với Tăng chúng, làm phát sinh tâm nhu hòa nơi các bạn đồng tu, do đó vị ấy được sống chung thoải mái. Do tâm từ đối với các vị trời trong khu vực giới hạn, vị ấy được các vị trời có tâm nhu hòa sắp đặt sự bảo hộ đúng pháp một cách tốt đẹp. Do tâm từ đối với những người có quyền thế trong làng khất thực, vị ấy được những người có quyền thế với tâm tính nhu hòa bảo hộ các vật dụng đúng pháp một cách an toàn. Do tâm từ đối với những người ở đó, vị ấy đi lại mà không bị những người có tâm hoan hỷ ấy khinh thường. Do tâm từ đối với tất cả chúng sanh, vị ấy đi lại khắp nơi không bị ngăn ngại.

Maraṇassatiyā pana ‘‘avassaṃ maritabba’’nti cintento anesanaṃ pahāya uparūparivaḍḍhamānasaṃvego anolīnavuttiko hoti. Asubhasaññāya dibbesupi ārammaṇesu taṇhā nuppajjati. Tenassetaṃ tayaṃ evaṃ bahūpakārattā ‘‘sabbattha atthayitabbaṃ icchitabba’’nti katvā adhippetassa ca yogānuyogakammassa padaṭṭhānattā ‘‘sabbatthakakammaṭṭhāna’’nti vuccati.
Còn với niệm sự chết, khi suy niệm ‘chắc chắn sẽ phải chết’, vị ấy từ bỏ sự tìm cầu không đúng pháp, có tâm chấn động (saṃvega) ngày càng tăng trưởng, và có đời sống không thụ động, chần chừ. Với quán bất tịnh, tham ái không phát sinh ngay cả đối với các đối tượng thuộc cõi trời. Do ba pháp này (tâm từ, niệm chết, quán bất tịnh) có nhiều lợi ích như vậy, được cho là ‘cần được mong muốn, cần được ước muốn ở khắp mọi nơi’, và vì là nền tảng cho công việc thực hành thiền định đã được chủ trương, nên chúng được gọi là ‘đề mục phổ thông’.

Aṭṭhatiṃsārammaṇesu pana yaṃ yassa caritānukūlaṃ, taṃ tassa niccaṃ pariharitabbattā yathāvutteneva nayena ‘‘pārihāriyakammaṭṭhāna’’ntipi vuccati. Idha pana idameva ānāpānasssātikammaṭṭhānaṃ ‘‘pārihāriyakammaṭṭhāna’’nti vuccati. Ayamettha saṅkhepo. Vitthāro pana sīlavisodhanakathaṃ palibodhupacchedakathañca icchantena visuddhimaggato gahetabbo.
Còn trong ba mươi tám đối tượng thiền định, pháp nào phù hợp với tính cách của người nào, pháp đó, do cần được người ấy thường xuyên duy trì, cũng được gọi là ‘đề mục chuyên biệt’ theo phương pháp đã nói. Nhưng ở đây (trong bối cảnh này), chính đề mục niệm hơi thở này được gọi là ‘đề mục chuyên biệt’. Đây là phần tóm tắt ở đây. Còn phần chi tiết, người nào muốn tìm hiểu về việc thanh lọc giới và việc cắt đứt các chướng ngại, thì nên học hỏi từ bộ Thanh Tịnh Đạo.

Evaṃ visuddhasīlena pana upacchinnapalibodhena ca idaṃ kammaṭṭhānaṃ uggaṇhantena imināva kammaṭṭhānena catutthajjhānaṃ nibbattetvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ pattassa buddhaputtassa santike uggahetabbaṃ. Taṃ alabhantena anāgāmissa, tampi alabhantena sakadāgāmissa, tampi alabhantena sotāpannassa, tampi alabhantena ānāpānacatutthajjhānalābhissa, tampi alabhantena pāḷiyā aṭṭhakathāya ca asammūḷhassa vinicchayācariyassa santike uggahetabbaṃ. Arahantādayo hi attanā adhigatamaggameva ācikkhanti. Ayaṃ pana gahanapadese mahāhatthipathaṃ nīharanto viya sabbattha asammūḷho sappāyāsappāyaṃ paricchinditvā katheti.
Người có giới thanh tịnh như vậy và đã cắt đứt các chướng ngại, khi học hỏi đề mục này, cần phải học hỏi từ một người con Phật đã làm phát sinh đệ tứ thiền bằng chính đề mục này, đã phát triển pháp quán và đã chứng đắc A-la-hán quả. Nếu không tìm được vị ấy, thì học từ một vị A-na-hàm. Nếu không tìm được cả vị ấy, thì học từ một vị Tư-đà-hàm. Nếu không tìm được cả vị ấy, thì học từ một vị Tu-đà-hoàn. Nếu không tìm được cả vị ấy, thì học từ một người đã chứng đắc đệ tứ thiền niệm hơi thở. Nếu không tìm được cả vị ấy, thì học từ một vị thầy có khả năng phân tích, không bị mê mờ về Pāḷi và Chú giải. Quả vậy, các bậc A-la-hán và các Thánh nhân khác chỉ dạy chính con đường mà các ngài đã chứng ngộ. Còn vị thầy này (vị thầy không mê mờ về Pāḷi và Chú giải), giống như người vạch ra con đường lớn cho voi đi trong vùng rậm rạp, không bị mê mờ ở bất cứ đâu, phân định điều thích hợp và không thích hợp rồi giảng dạy.

Tatrāyaṃ anupubbikathā – tena bhikkhunā sallahukavuttinā vinayācārasampannena vuttappakāramācariyaṃ upasaṅkamitvā vattapaṭipattiyā ārādhitacittassa tassa santike pañcasandhikaṃ kammaṭṭhānaṃ uggahetabbaṃ. Tatrime pañca sandhayo – uggaho, paripucchā, upaṭṭhānaṃ, appanā, lakkhaṇanti. Tattha ‘‘uggaho’’ nāma kammaṭṭhānassa uggaṇhanaṃ, ‘‘paripucchā’’ nāma kammaṭṭhānassa paripucchanā, ‘‘upaṭṭhānaṃ’’ nāma kammaṭṭhānassa upaṭṭhānaṃ, ‘‘appanā’’ nāma kammaṭṭhānappanā, ‘‘lakkhaṇaṃ’’ nāma kammaṭṭhānassa lakkhaṇaṃ. ‘‘Evaṃlakkhaṇamidaṃ kammaṭṭhāna’’nti kammaṭṭhānasabhāvūpadhāraṇanti vuttaṃ hoti.
Ở đây, đây là lời dạy tuần tự: Vị Tỳ khưu ấy, với đời sống nhẹ nhàng, đầy đủ giới luật và cách hành xử tốt đẹp, sau khi đến gần vị thầy đã được nói ở trên, cần phải học hỏi đề mục thiền định có năm mối nối từ vị thầy ấy, người có tâm đã được làm cho hoan hỷ bằng sự thực hành các phận sự (đối với thầy). Năm mối nối ấy là: sự học hỏi, sự hỏi han, sự thực hành, sự chứng đắc, và tướng. Trong đó, ‘sự học hỏi’ là việc học hỏi đề mục thiền định. ‘Sự hỏi han’ là việc hỏi han về đề mục thiền định. ‘Sự thực hành’ là việc thực hành đề mục thiền định. ‘Sự chứng đắc’ là sự chứng đắc đề mục thiền định (tức an chỉ định). ‘Tướng’ là tướng của đề mục thiền định. Điều này có nghĩa là sự nhận biết bản chất của đề mục thiền định với ý nghĩ: ‘Đề mục thiền định này có tướng như vậy’.

Evaṃ pañcasandhikaṃ kammaṭṭhānaṃ uggaṇhanto attanāpi na kilamati, ācariyampi na viheṭheti; tasmā thokaṃ uddisāpetvā bahukālaṃ sajjhāyitvā evaṃ pañcasandhikaṃ kammaṭṭhānaṃ uggahetvā sace tattha sappāyaṃ hoti, tattheva vasitabbaṃ. No ce tattha sappāyaṃ hoti, ācariyaṃ āpucchitvā sace mandapañño yojanaparamaṃ gantvā, sace tikkhapañño dūrampi gantvā aṭṭhārasasenāsanadosavivajjitaṃ, pañcasenāsanaṅgasamannāgataṃ senāsanaṃ upagamma tattha vasantena upacchinnakhuddakapalibodhena katabhattakiccena bhattasammadaṃ paṭivinodetvā ratanattayaguṇānussaraṇena cittaṃ sampahaṃsetvā ācariyuggahato ekapadampi asammussantena idaṃ ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ manasikātabbaṃ. Ayamettha saṅkhepo. Vitthāro pana imaṃ kathāmaggaṃ icchantena visuddhimaggato (visuddhi. 1.55) gahetabbo.
Khi học hỏi đề mục thiền định có năm mối nối như vậy, bản thân không mệt mỏi, và cũng không làm phiền thầy; do đó, sau khi xin thầy chỉ dạy một ít, rồi tự mình học thuộc lòng trong một thời gian dài, và học hỏi đề mục thiền định có năm mối nối như vậy, nếu nơi đó thích hợp, thì nên ở lại đó. Nếu nơi đó không thích hợp, sau khi xin phép thầy, nếu là người có trí tuệ chậm lụt thì đi xa tối đa một do-tuần, nếu là người có trí tuệ sắc bén thì dù đi xa hơn, đến một trú xứ đã tránh được mười tám lỗi của trú xứ và đầy đủ năm yếu tố của trú xứ, khi ở đó, đã cắt đứt các chướng ngại nhỏ nhặt, đã xong việc ăn uống, đã xua tan sự mệt mỏi do ăn uống, làm cho tâm phấn khởi bằng cách niệm tưởng công đức Tam Bảo, không quên sót một chữ nào đã học từ thầy, vị ấy cần phải tác ý đến đề mục niệm hơi thở này. Đây là phần tóm tắt ở đây. Còn phần chi tiết, người nào muốn tìm hiểu con đường của lời dạy này, thì nên học hỏi từ bộ Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 1.55).

Yaṃ pana vuttaṃ ‘‘idaṃ ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ manasikātabba’’nti tatrāyaṃ manasikāravidhi –
Còn về điều đã nói: ‘Cần phải tác ý đến đề mục niệm hơi thở này’, thì ở đó, đây là phương pháp tác ý

‘‘Gaṇanā anubandhanā, phusanā ṭhapanā sallakkhaṇā;
Vivaṭṭanā pārisuddhi, tesañca paṭipassanā’’ti. (visuddhi. 1.223; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163);
‘Đếm, theo dõi, xúc chạm, an trú, quán sát tướng;
Chuyển hướng, thanh lọc, và quán chiếu lại chúng.’ (visuddhi. 1.223; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163);

‘‘Gaṇanā’’ti gaṇanāyeva. ‘‘Anubandhanā’’ti anuvahanā. ‘‘Phusanā’’ti phuṭṭhaṭṭhānaṃ. ‘‘Ṭhapanā’’ti appanā. ‘‘Sallakkhaṇā’’ti vipassanā. ‘‘Vivaṭṭanā’’ti maggo. ‘‘Pārisuddhī’’ti phalaṃ. ‘‘Tesañca paṭipassanā’’ti paccavekkhaṇā. Tattha iminā ādikammikakulaputtena paṭhamaṃ gaṇanāya idaṃ kamaṭṭhānaṃ manasikātabbaṃ. Gaṇentena ca pañcannaṃ heṭṭhā na ṭhapetabbaṃ, dasannaṃ upari na netabbaṃ, antare khaṇḍaṃ na dassetabbaṃ. Pañcannaṃ heṭṭhā ṭhapentassa hi sambādhe okāse cittuppādo vipphandati, sambādhe vaje sanniruddhagogaṇo viya. Dasannaṃ upari nentassa gaṇanānissitova cittuppādo hoti. Antarā khaṇḍaṃ dassentassa ‘‘sikhāppattaṃ nu kho me kammaṭṭhānaṃ, no’’ti cittaṃ vikampati. Tasmā ete dose vajjetvā gaṇetabbaṃ.
Đếm’ chính là sự đếm. ‘Theo dõi’ là sự đi theo sau. ‘Xúc chạm’ là nơi xúc chạm. ‘An trú’ là sự chứng đắc (an chỉ định). ‘Quán sát tướng’ là minh sát. ‘Chuyển hướng’ là Đạo. ‘Thanh lọc’ là Quả. ‘Và quán chiếu lại chúng’ là sự quán xét lại (phản khán). Ở đây, thiện gia nam tử mới bắt đầu thực hành này trước tiên cần phải tác ý đến đề mục thiền định này bằng phương pháp đếm. Khi đếm, không nên dừng lại dưới năm, không nên vượt quá mười, và không nên để có sự gián đoạn ở giữa. Quả vậy, đối với người dừng lại đếm dưới năm, tâm phát sinh sẽ dao động trong một không gian chật hẹp, giống như đàn bò bị dồn vào một chuồng trại chật hẹp. Đối với người đếm vượt quá mười, tâm phát sinh sẽ chỉ nương tựa vào việc đếm (mà không chú ý đến hơi thở). Đối với người để có sự gián đoạn ở giữa, tâm sẽ dao động với ý nghĩ: ‘Đề mục thiền định của ta đã đạt đến đỉnh cao hay chưa?’ Do đó, cần phải đếm trong khi tránh những lỗi này.

Gaṇentena ca paṭhamaṃ dandhagaṇanāya dhaññamāpakagaṇanāya gaṇetabbaṃ. Dhaññamāpako hi nāḷiṃ pūretvā ‘‘eka’’nti vatvā okirati. Puna pūrento kiñci kacavaraṃ disvā taṃ chaḍḍento ‘‘ekaṃ eka’’nti vadati. Esa nayo ‘‘dve dve’’tiādīsu. Evameva imināpi assāsapassāsesu yo upaṭṭhāti taṃ gahetvā ‘‘ekaṃ eka’’nti ādiṃkatvā yāva ‘‘dasa dasā’’ti pavattamānaṃ pavattamānaṃ upalakkhetvāva gaṇetabbaṃ. Tassevaṃ gaṇayato nikkhamantā ca pavisantā ca assāsapassāsā pākaṭā honti.
Khi đếm, trước tiên cần phải đếm theo cách đếm chậm, ví như cách đếm của người đong lúa. Quả vậy, người đong lúa sau khi đong đầy đấu, nói ‘một’ rồi đổ ra. Khi đong đầy lại, nếu thấy có chút rác, người ấy vừa loại bỏ rác vừa nói ‘một, một’. Phương pháp này cũng tương tự đối với ‘hai, hai’, và các số khác. Cũng vậy, vị này cũng cần phải đếm trong khi luôn ghi nhận sự diễn tiến của hơi thở, bắt đầu bằng ‘một, một’ cho đến ‘mười, mười’, nắm bắt bất cứ hơi thở nào hiện khởi, dù là hơi thở vào hay hơi thở ra. Khi vị ấy đếm như vậy, các hơi thở đi ra và các hơi thở đi vào trở nên rõ ràng.

Athānena taṃ dandhagaṇanaṃ dhaññamāpakagaṇanaṃ pahāya sīghagaṇanāya gopālakagaṇanāya gaṇetabbaṃ . Cheko hi gopālako sakkharāyo ucchaṅgena gahetvā rajjudaṇḍahattho pātova vajaṃ gantvā gāvo piṭṭhiyaṃ paharitvā palighatthambhamatthake nisinno dvāraṃ pattaṃ pattaṃyeva gāvaṃ ‘‘eko dve’’ti sakkharaṃ khipitvā khipitvā gaṇeti. Tiyāmarattiṃ sambādhe okāse dukkhaṃ vutthagogaṇo nikkhamanto aññamaññaṃ upanighaṃsanto vegena vegena puñjo puñjo hutvā nikkhamati. So vegena vegena ‘‘tīṇi cattāri pañca dasā’’ti gaṇetiyeva. Evamimassāpi purimanayena gaṇayato assāsapassāsā pākaṭā hutvā sīghaṃ sīghaṃ punappunaṃ sañcaranti. Tato tena ‘‘punappunaṃ sañcarantī’’ti ñatvā anto ca bahi ca aggahetvā dvārappattaṃ dvārappattaṃyeva gahetvā ‘‘eko dve tīṇi cattāri pañca , eko dve tīṇi cattāri pañca cha, eko dve tīṇi cattāri pañca cha satta…pe… aṭṭha… nava… dasā’’ti sīghaṃ sīghaṃ gaṇetabbameva. Gaṇanāpaṭibaddhe hi kammaṭṭhāne gaṇanābaleneva cittaṃ ekaggaṃ hoti arittūpatthambhanavasena caṇḍasote nāvāṭhapanamiva.
Sau đó, vị ấy cần phải từ bỏ cách đếm chậm, cách đếm của người đong lúa, mà đếm theo cách đếm nhanh, ví như cách đếm của người chăn bò. Quả vậy, một người chăn bò khéo léo, tay cầm dây và gậy, lấy sỏi bỏ vào vạt áo, sáng sớm đến chuồng, đánh vào lưng bò, rồi ngồi trên đầu cột rào, cứ mỗi con bò đi qua cửa thì ném một viên sỏi ra và đếm ‘một, hai’. Đàn bò đã ở trong chuồng chật hẹp khó chịu suốt ba canh đêm, khi đi ra, chúng chen chúc nhau, đi ra rất nhanh, từng nhóm từng nhóm. Người ấy đếm rất nhanh ‘ba, bốn, năm, mười’. Cũng vậy, đối với vị này, khi đếm theo phương pháp trước (đếm chậm), các hơi thở vào ra trở nên rõ ràng và di chuyển qua lại rất nhanh, liên tục. Sau đó, vị ấy, biết rằng hơi thở di chuyển qua lại liên tục, không nắm bắt hơi thở ở bên trong hay bên ngoài, mà chỉ nắm bắt hơi thở ngay khi nó đến cửa (mũi), rồi đếm thật nhanh: ‘một, hai, ba, bốn, năm; một, hai, ba, bốn, năm, sáu; một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy… (vân vân)… tám… chín… mười’. Quả vậy, trong đề mục thiền định có liên quan đến việc đếm, chính nhờ sức mạnh của việc đếm mà tâm trở nên nhất tâm, giống như việc giữ thuyền đứng yên trong dòng nước xiết bằng cách dùng mái chèo chống đỡ.

Tassevaṃ sīghaṃ sīghaṃ gaṇayato kammaṭṭhānaṃ nirantarappavattaṃ viya hutvā upaṭṭhāti. Atha ‘‘nirantaraṃ pavattatī’’ti ñatvā anto ca bahi ca vātaṃ apariggahetvā purimanayeneva vegena vegena gaṇetabbaṃ. Antopavisanavātena hi saddhiṃ cittaṃ pavesayato abbhantaraṃ vātabbhāhataṃ medapūritaṃ viya hoti, bahinikkhamanavātena saddhiṃ cittaṃ nīharato bahiddhā puthuttārammaṇe cittaṃ vikkhipati. Phuṭṭhokāse pana satiṃ ṭhapetvā bhāventasseva bhāvanā sampajjati. Tena vuttaṃ – ‘‘anto ca bahi ca vātaṃ apariggahetvā purimanayeneva vegena vegena gaṇetabba’’nti.
Khi vị ấy đếm rất nhanh như vậy, đề mục thiền định hiện khởi giống như đang diễn tiến không ngừng nghỉ. Sau đó, biết rằng hơi thở diễn tiến không ngừng nghỉ, không nắm bắt hơi gió ở bên trong hay bên ngoài, mà cần phải đếm rất nhanh theo phương pháp đã nói trước. Quả vậy, đối với người để tâm đi vào cùng với hơi gió đi vào, bên trong thân sẽ giống như bị gió thổi phồng lên hoặc như được nhồi đầy mỡ. Đối với người để tâm đi ra cùng với hơi gió đi ra, tâm sẽ bị phân tán theo các đối tượng bên ngoài đa dạng. Nhưng sự tu tập chỉ thành tựu đối với người đặt niệm tại nơi xúc chạm (của hơi thở) rồi tu tập. Do đó đã nói: ‘Không nắm bắt hơi gió ở bên trong hay bên ngoài, mà cần phải đếm rất nhanh theo phương pháp đã nói trước’.

Kīva ciraṃ panetaṃ gaṇetabbanti? Yāva vinā gaṇanāya assāsapassāsārammaṇe sati santiṭṭhati. Bahi visaṭavitakkavicchedaṃ katvā assāsapassāsārammaṇe sati saṇṭhapanatthaṃyeva hi gaṇanāti.
Vậy, cần phải đếm như thế này trong bao lâu? Cho đến khi niệm an trú trên đối tượng là hơi thở vào ra mà không cần đến việc đếm. Quả vậy, việc đếm chỉ nhằm mục đích cắt đứt các tầm bị phân tán ra bên ngoài và thiết lập niệm trên đối tượng là hơi thở vào ra.

Evaṃ gaṇanāya manasikatvā anubandhanāya manasikātabbaṃ. Anubandhanā nāma gaṇanaṃ paṭisaṃharitvā satiyā nirantaraṃ assāsapassāsānaṃ anugamanaṃ; tañca kho na ādimajjhapariyosānānugamanavasena. Bahinikkhamanavātassa hi nābhi ādi, hadayaṃ majjhaṃ, nāsikaggaṃ pariyosānaṃ. Abbhantarapavisanavātassa nāsikaggaṃ ādi, hadayaṃ majjhaṃ, nābhi pariyosānaṃ. Tañcassa anugacchato vikkhepagataṃ cittaṃ sāraddhāya ceva hoti iñjanāya ca. Yathāha –
Sau khi tác ý bằng phương pháp đếm như vậy, cần phải tác ý bằng phương pháp theo dõi. Theo dõi là, sau khi đã từ bỏ việc đếm, dùng niệm để đi theo các hơi thở vào ra một cách liên tục; nhưng đó không phải là theo cách đi theo dõi phần đầu, phần giữa và phần cuối của hơi thở. Quả vậy, đối với hơi gió đi ra ngoài, rốn là phần đầu, tim là phần giữa, chóp mũi là phần cuối. Đối với hơi gió đi vào trong, chóp mũi là phần đầu, tim là phần giữa, rốn là phần cuối. Đối với người đi theo dõi hơi thở như vậy, tâm bị phân tán sẽ trở nên căng thẳng và dao động. Như đã nói:

‘‘Assāsādimajjhapariyosānaṃ satiyā anugacchato ajjhattaṃ vikkhepagatena cittena kāyopi cittampi sāraddhā ca honti iñjitā ca phanditā ca. Passāsādimajjhapariyosānaṃ satiyā anugacchato bahiddhā vikkhepagatena cittena kāyopi cittampi sāraddhā ca honti iñjitā ca phanditā cā’’ti (paṭi. ma. 1.157).
‘Đối với người dùng niệm theo dõi phần đầu, phần giữa và phần cuối của hơi thở vào, do tâm bị phân tán vào bên trong, cả thân và tâm đều trở nên căng thẳng, rung động và xao xuyến. Đối với người dùng niệm theo dõi phần đầu, phần giữa và phần cuối của hơi thở ra, do tâm bị phân tán ra bên ngoài, cả thân và tâm đều trở nên căng thẳng, rung động và xao xuyến.’ (paṭi. ma. 1.157).

Tasmā anubandhanāya manasikarontena na ādimajjhapariyosānavasena manasikātabbaṃ. Apica kho phusanāvasena ca ṭhapanāvasena ca manasikātabbaṃ. Gaṇanānubandhanāvasena viya hi phusanāṭhapanāvasena visuṃ manasikāro natthi. Phuṭṭhaphuṭṭhaṭṭhāneyeva pana gaṇento gaṇanāya ca phusanāya ca manasi karoti. Tattheva gaṇanaṃ paṭisaṃharitvā te satiyā anubandhanto appanāvasena ca cittaṃ ṭhapento ‘‘anubandhanāya ca phusanāya ca ṭhapanāya ca manasi karotī’’ti vuccati. Svāyamattho aṭṭhakathāyaṃ vuttapaṅguḷadovārikopamāhi paṭisambhidāyaṃ vuttakakacopamāya ca veditabbo.
Do đó, người tác ý bằng phương pháp theo dõi không nên tác ý theo cách theo dõi phần đầu, phần giữa và phần cuối của hơi thở. Mà nên tác ý theo cách xúc chạm và cách an trú. Quả vậy, không có sự tác ý riêng biệt theo cách xúc chạm và an trú, giống như không có sự tác ý riêng biệt theo cách đếm và cách theo dõi (mà chúng là các giai đoạn liên tiếp hoặc tích hợp). Nhưng khi đếm, hành giả tác ý bằng cách đếm và bằng cách xúc chạm ngay tại nơi xúc chạm (của hơi thở). Ngay tại đó, sau khi từ bỏ việc đếm, trong khi theo dõi các hơi thở ấy bằng niệm và an trú tâm bằng cách chứng đắc (an chỉ định), thì được gọi là ‘hành giả tác ý bằng cách theo dõi, bằng cách xúc chạm và bằng cách an trú’. Ý nghĩa này cần được hiểu qua các ví dụ về người què và người giữ cửa đã được nói trong Chú Giải, và ví dụ về cái cưa đã được nói trong bộ Vô Ngại Giải Đạo.

Tatrāyaṃ paṅguḷopamā – ‘‘seyyathāpi paṅguḷo dolāya kīḷataṃ mātāputtānaṃ dolaṃ khipitvā tattheva dolatthambhamūle nisinno kamena āgacchantassa ca gacchantassa ca dolāphalakassa ubho koṭiyo majjhañca passati, na ca ubhokoṭimajjhānaṃ dassanatthaṃ byāvaṭo hoti. Evamevāyaṃ bhikkhu sativasena upanibandhanatthambhamūle ṭhatvā assāsapassāsadolaṃ khipitvā tattheva nimitte satiyā nisinno kamena āgacchantānañca gacchantānañca phuṭṭhaṭṭhāne assāsapassāsānaṃ ādimajjhapariyosānaṃ satiyā anugacchanto tattha ca cittaṃ ṭhapento passati, na ca tesaṃ dassanatthaṃ byāvaṭo hoti. Ayaṃ paṅguḷopamā.
Ở đây, đây là ví dụ về người què: ‘Ví như một người què, sau khi đẩy chiếc xích đu cho hai mẹ con đang chơi xích đu, rồi ngồi ngay tại gốc cột xích đu, thấy được cả hai đầu và phần giữa của tấm ván xích đu đang tuần tự đi tới và đi lui, nhưng không bận tâm cố gắng để nhìn thấy hai đầu và phần giữa ấy (một cách chủ động theo dõi). Cũng vậy, vị Tỳ khưu này, do có niệm, đứng tại gốc cột buộc niệm (là thân), đẩy chiếc xích đu là hơi thở vào ra, rồi ngồi ngay tại tướng (nimitta) với niệm, thấy được phần đầu, phần giữa và phần cuối của các hơi thở vào ra đang tuần tự đi tới và đi lui tại nơi xúc chạm, trong khi theo dõi chúng bằng niệm và an trú tâm tại đó, nhưng không bận tâm cố gắng để nhìn thấy chúng (bằng cách đuổi theo toàn bộ lộ trình).’ Đây là ví dụ về người què.

Ayaṃ pana dovārikopamā – ‘‘seyyathāpi dovāriko nagarassa anto ca bahi ca purise ‘ko tvaṃ, kuto vā āgato, kuhiṃ vā gacchasi, kiṃ vā te hatthe’ti na vīmaṃsati, na hi tassa te bhārā. Dvārappattaṃ dvārappattaṃyeva pana vīmaṃsati; evameva imassa bhikkhuno anto paviṭṭhavātā ca bahi nikkhantavātā ca na bhārā honti, dvārappattā dvārappattāyeva bhārāti. Ayaṃ dovārikopamā.
Còn đây là ví dụ về người giữ cửa: ‘Ví như một người giữ cửa không tra xét những người ở trong và ngoài thành phố rằng: “Ông là ai, từ đâu đến, đi đâu, có gì trong tay?”, vì đó không phải là phận sự của người ấy. Nhưng người ấy chỉ tra xét những người ngay khi họ đến cửa. Cũng vậy, đối với vị Tỳ khưu này, những hơi gió đã vào trong và những hơi gió đã ra ngoài không phải là phận sự (để theo dõi toàn bộ); chỉ những hơi gió ngay khi đến cửa (mũi) mới là phận sự (để ghi nhận).’ Đây là ví dụ về người giữ cửa.

Kakacopamā pana āditopabhuti evaṃ veditabbā. Vuttañhetaṃ –
Còn ví dụ về cái cưa thì cần được hiểu từ đầu như sau. Điều này đã được nói:

‘‘Nimittaṃ assāsapassāsā, anārammaṇamekacittassa;
Ajānato ca tayo dhamme, bhāvanānupalabbhati.
‘‘Nimittaṃ assāsapassāsā, anārammaṇamekacittassa;
Jānato ca tayo dhamme, bhāvanā upalabbhatī’’ti. (paṭi. ma. 1.159);
‘Tướng là hơi thở vào ra, (nhưng chúng) không phải đối tượng của nhất tâm;
Người không biết ba pháp này, sự tu tập không thành tựu.
‘Tướng là hơi thở vào ra, (nhưng chúng) không phải đối tượng của nhất tâm;
Người biết ba pháp này, sự tu tập sẽ thành tựu.’ (paṭi. ma. 1.159);

Kathaṃ ime tayo dhammā ekacittassa ārammaṇaṃ na honti, na cime tayo dhammā aviditā honti, na ca cittaṃ vikkhepaṃ gacchati, padhānañca paññāyati, payogañca sādheti, visesamadhigacchati ? Seyyathāpi rukkho same bhūmibhāge nikkhitto, tamenaṃ puriso kakacena chindeyya, rukkhe phuṭṭhakakacadantānaṃ vasena purisassa sati upaṭṭhitā hoti, na āgate vā gate vā kakacadante manasi karoti, na āgatā vā gatā vā kakacadantā aviditā honti, padhānañca paññāyati, payogañca sādheti.
Làm thế nào ba pháp này (hơi thở vào, hơi thở ra, và tướng của hơi thở) không phải là đối tượng của nhất tâm, mà ba pháp này cũng không phải là không được biết, và tâm cũng không bị phân tán, sự nỗ lực cũng được biết rõ, sự thực hành cũng được thành tựu, và sự chứng đắc thù thắng cũng đạt được? Ví như một khúc cây được đặt trên mặt đất bằng phẳng, một người dùng cưa để cưa khúc cây ấy. Niệm của người ấy được an trú nhờ vào các răng cưa đang xúc chạm vào khúc cây. Người ấy không tác ý đến các răng cưa đã đi qua hay chưa đi tới (mà chỉ chú tâm vào điểm tiếp xúc hiện tại). Các răng cưa đã đi qua hay chưa đi tới cũng không phải là không được biết (vì chúng là một phần của quá trình). Sự nỗ lực cũng được biết rõ, và sự thực hành cũng được thành tựu.

Yathā rukkho same bhūmibhāge nikkhitto; evaṃ upanibandhananimittaṃ. Yathā kakacadantā; evaṃ assāsapassāsā. Yathā rukkhe phuṭṭhakakacadantānaṃ vasena purisassa sati upaṭṭhitā hoti, na āgate vā gate vā kakacadante manasi karoti, na āgatā vā gatā vā kakacadantā aviditā honti, padhānañca paññāyati, payogañca sādheti, evameva bhikkhu nāsikagge vā mukhanimitte vā satiṃ upaṭṭhapetvā nisinno hoti, na āgate vā gate vā assāsapassāse manasi karoti, na āgatā vā gatā vā assāsapassāsā aviditā honti, padhānañca paññāyati, payogañca sādheti, visesamadhigacchati.
Ví như khúc cây được đặt trên mặt đất bằng phẳng; cũng vậy là tướng để buộc niệm (tức là vùng chóp mũi hoặc môi trên, nơi hơi thở xúc chạm). Ví như các răng cưa; cũng vậy là các hơi thở vào ra. Ví như niệm của người thợ cưa được an trú nhờ vào các răng cưa đang xúc chạm vào khúc cây, người ấy không tác ý đến các răng cưa đã đi qua hay chưa đi tới, các răng cưa đã đi qua hay chưa đi tới cũng không phải là không được biết, sự nỗ lực cũng được biết rõ, và sự thực hành cũng được thành tựu; cũng vậy, vị Tỳ khưu an trú niệm tại chóp mũi hoặc tại tướng ở miệng (môi trên) rồi ngồi. Vị ấy không tác ý đến các hơi thở vào ra đã đi qua hay chưa đi tới (trong toàn bộ lộ trình của chúng), các hơi thở vào ra đã đi qua hay chưa đi tới cũng không phải là không được biết (vì chúng vẫn diễn ra), sự nỗ lực cũng được biết rõ, sự thực hành cũng được thành tựu, và sự chứng đắc thù thắng cũng đạt được.

Padhānanti katamaṃ padhānaṃ? Āraddhavīriyassa kāyopi cittampi kammaniyaṃ hoti – idaṃ padhānaṃ. Katamo payogo? Āraddhavīriyassa upakkilesā pahīyanti, vitakkā vūpasammanti – ayaṃ payogo. Katamo viseso? Āraddhavīriyassa saṃyojanā pahīyanti, anusayā byantī honti – ayaṃ viseso. Evaṃ ime tayo dhammā ekacittassa ārammaṇā na honti, na cime tayo dhammā aviditā honti, na ca cittaṃ vikkhepaṃ gacchati, padhānañca paññāyati, payogañca sādheti, visesamadhigacchati.
(Nói rằng) sự nỗ lực, vậy sự nỗ lực là gì? Đối với người đã khởi sự tinh tấn, cả thân và tâm đều trở nên dễ sử dụng – đây là sự nỗ lực. Sự thực hành là gì? Đối với người đã khởi sự tinh tấn, các tùy phiền não được đoạn trừ, các tầm được lắng dịu – đây là sự thực hành. Sự chứng đắc thù thắng là gì? Đối với người đã khởi sự tinh tấn, các kiết sử được đoạn trừ, các tùy miên được tận diệt – đây là sự chứng đắc thù thắng. Như vậy, ba pháp này (hơi thở vào, hơi thở ra, và tướng của hơi thở) không phải là đối tượng của nhất tâm (theo kiểu bám chấp vào toàn bộ diễn trình của chúng), mà ba pháp này cũng không phải là không được biết (khi chú tâm tại điểm xúc chạm), và tâm cũng không bị phân tán (khi niệm được an trú), sự nỗ lực cũng được biết rõ, sự thực hành cũng được thành tựu, và sự chứng đắc thù thắng cũng đạt được.

‘‘Ānāpānassatī yassa, paripuṇṇā subhāvitā;
Anupubbaṃ paricitā, yathā buddhena desitā;
So imaṃ lokaṃ pabhāseti, abbhā muttova candimā’’ti. (paṭi. ma. 1.160);
‘Người nào có niệm hơi thở,
Viên mãn, khéo tu, thuần thục tuần tự, như Phật dạy bày;
Vị ấy rạng soi đời này, như trăng thoát khỏi mây che.’ (paṭi. ma. 1.160);

Ayaṃ kakacopamā. Idha panassa āgatāgatavasena amanasikāramattameva payojananti veditabbaṃ. Idaṃ kammaṭṭhānaṃ manasikaroto kassaci nacireneva nimittañca uppajjati, avasesajjhānaṅgapaṭimaṇḍitā appanāsaṅkhātā ṭhapanā ca sampajjati. Kassaci pana gaṇanāvaseneva manasikārakālatopabhuti anukkamato oḷārikaassāsapassāsanirodhavasena kāyadarathe vūpasante kāyopi cittampi lahukaṃ hoti, sarīraṃ ākāse laṅghanākārappattaṃ viya hoti. Yathā sāraddhakāyassa mañce vā pīṭhe vā nisīdato mañcapīṭhaṃ onamati, vikūjati, paccattharaṇaṃ valiṃ gaṇhāti. Asāraddhakāyassa pana nisīdato neva mañcapīṭhaṃ onamati, na vikūjati, na paccattharaṇaṃ valiṃ gaṇhāti, tūlapicupūritaṃ viya mañcapīṭhaṃ hoti. Kasmā? Yasmā asāraddho kāyo lahuko hoti; evameva gaṇanāvasena manasikārakālatopabhuti anukkamato oḷārikaassāsapassāsanirodhavasena kāyadarathe vūpasante kāyopi cittampi lahukaṃ hoti, sarīraṃ ākāse laṅghanākārappattaṃ viya hoti.
Đây là ví dụ về cái cưa. Ở đây, cần hiểu rằng lợi ích của nó (ví dụ cái cưa) chỉ là việc minh họa sự không tác ý đến hơi thở theo cách theo dõi toàn bộ lộ trình đi vào đi ra của chúng (mà chỉ chú tâm tại điểm xúc chạm). Đối với một số người khi tác ý đến đề mục thiền định này, không bao lâu tướng cũng phát sinh, và sự an trú được gọi là an chỉ định, được trang hoàng bởi các thiền chi còn lại, cũng thành tựu. Còn đối với một số người khác, ngay từ khi tác ý bằng phương pháp đếm, tuần tự do sự chấm dứt các hơi thở vào ra thô thiển, khi sự dao động của thân đã lắng dịu, cả thân và tâm đều trở nên nhẹ nhàng, thân thể giống như có thể bay lên không trung. Ví như khi người có thân căng thẳng ngồi trên giường hay ghế, giường ghế bị lún xuống, kêu lên, tấm trải bị nhăn lại. Nhưng khi người có thân không căng thẳng ngồi, giường ghế không bị lún xuống, không kêu lên, tấm trải không bị nhăn lại, giường ghế giống như được nhồi đầy bông gòn. Tại sao? Bởi vì thân không căng thẳng thì nhẹ nhàng. Cũng vậy, ngay từ khi tác ý bằng phương pháp đếm, tuần tự do sự chấm dứt các hơi thở vào ra thô thiển, khi sự dao động của thân đã lắng dịu, cả thân và tâm đều trở nên nhẹ nhàng, thân thể giống như có thể bay lên không trung.

Tassa oḷārike assāsapassāse niruddhe sukhumaassāsapassāsanimittārammaṇaṃ cittaṃ pavattati, tasmimpi niruddhe aparāparaṃ tato sukhumatarasukhumatamanimittārammaṇaṃ pavattatiyeva. Kathaṃ? Yathā puriso mahatiyā lohasalākāya kaṃsatāḷaṃ ākoṭeyya, ekappahārena mahāsaddo uppajjeyya, tassa oḷārikasaddārammaṇaṃ cittaṃ pavatteyya, niruddhe oḷārike sadde atha pacchā sukhumasaddanimittārammaṇaṃ, tasmimpi niruddhe aparāparaṃ tato sukhumatarasukhumatamasaddanimittārammaṇaṃ cittaṃ pavattateva; evanti veditabbaṃ. Vuttampi cetaṃ – ‘‘seyyathāpi kaṃse ākoṭite’’ti (paṭi. ma. 1.171) vitthāro.
Khi các hơi thở vào ra thô của vị ấy đã chấm dứt, tâm tiếp tục duy trì trên đối tượng là tướng của hơi thở vào ra tế nhị. Khi cả tướng ấy cũng chấm dứt (hoặc trở nên rất vi tế), tâm vẫn tiếp tục duy trì trên đối tượng là tướng ngày càng tế nhị hơn nữa, tế nhị hơn nữa. Thế nào? Ví như một người dùng một thanh sắt lớn đánh vào một cái chiêng đồng, một tiếng động lớn sẽ phát sinh sau một cú đánh, tâm của người ấy sẽ duy trì trên đối tượng là âm thanh thô. Khi âm thanh thô đã chấm dứt, sau đó tâm duy trì trên đối tượng là tướng của âm thanh tế nhị. Khi cả tướng ấy cũng chấm dứt, tâm vẫn tiếp tục duy trì trên đối tượng là tướng của âm thanh ngày càng tế nhị hơn nữa, tế nhị hơn nữa. Cần được hiểu là như vậy. Điều này cũng đã được nói – trong phần triển khai rộng của ví dụ ‘Ví như khi một cái chiêng đồng được đánh’ (paṭi. ma. 1.171).

Yathā hi aññāni kammaṭṭhānāni uparūpari vibhūtāni honti, na tathā idaṃ. Idaṃ pana uparūpari bhāventassa bhāventassa sukhumattaṃ gacchati, upaṭṭhānampi na upagacchati. Evaṃ anupaṭṭhahante pana tasmiṃ na tena bhikkhunā uṭṭhāyāsanā cammakhaṇḍaṃ papphoṭetvā gantabbaṃ. Kiṃ kātabbaṃ? ‘‘Ācariyaṃ pucchissāmī’’ti vā ‘‘naṭṭhaṃ dāni me kammaṭṭhāna’’nti vā na vuṭṭhātabbaṃ, iriyāpathaṃ vikopetvā gacchato hi kammaṭṭhānaṃ navanavameva hoti. Tasmā yathānisinneneva desato āharitabbaṃ.
Quả vậy, không giống như các đề mục thiền định khác trở nên ngày càng rõ ràng hơn khi tu tập sâu hơn, đề mục này thì không như vậy. Nhưng đề mục này, khi được tu tập ngày càng cao hơn, sẽ trở nên tế nhị, thậm chí có lúc không còn hiện khởi một cách rõ ràng như trước. Khi nó không còn hiện khởi như vậy, vị Tỳ khưu ấy không nên đứng dậy khỏi chỗ ngồi, giũ tấm da rồi bỏ đi. Phải làm gì? Không nên đứng dậy với ý nghĩ: ‘Tôi sẽ đi hỏi thầy’ hoặc ‘Đề mục thiền định của tôi bây giờ đã mất rồi’. Quả vậy, đối với người thay đổi oai nghi rồi bỏ đi, đề mục thiền định sẽ luôn luôn mới (tức là không tiến triển, phải làm lại từ đầu). Do đó, cần phải mang nó (đề mục) trở lại từ chính nơi đang ngồi, theo cách đã ngồi (mà không thay đổi oai nghi).

Tatrāyaṃ āharaṇūpāyo. Tena hi bhikkhunā kammaṭṭhānassa anupaṭṭhahanabhāvaṃ ñatvā iti paṭisañcikkhitabbaṃ – ‘‘ime assāsapassāsā nāma kattha atthi, kattha natthi, kassa vā atthi, kassa vā natthī’’ti. Athevaṃ paṭisañcikkhatā ‘‘ime antomātukucchiyaṃ natthi, udake nimuggānaṃ natthi, tathā asaññībhūtānaṃ matānaṃ catutthajjhānasamāpannānaṃ rūpārūpabhavasamaṅgīnaṃ nirodhasamāpannāna’’nti ñatvā evaṃ attanāva attā paṭicodetabbo – ‘‘nanu tvaṃ, paṇḍita, neva mātukucchigato, na udake nimuggo, na asaññībhūto, na mato, na catutthajjhānasamaāpanno, na rūpārūpabhavasamaṅgī, na nirodhasamāpanno, atthiyeva te assāsapassāsā, mandapaññatāya pana pariggahetuṃ na sakkosī’’ti. Athānena pakatiphuṭṭhavaseneva cittaṃ ṭhapetvā manasikāro pavattetabbo. Ime hi dīghanāsikassa nāsā puṭaṃ ghaṭṭentā pavattanti, rassanāsikassa uttaroṭṭhaṃ. Tasmānena imaṃ nāma ṭhānaṃ ghaṭṭentīti nimittaṃ paṭṭhapetabbaṃ. Imameva hi atthavasaṃ paṭicca vuttaṃ bhagavatā – ‘‘nāhaṃ, bhikkhave, muṭṭhassatissa asampajānassa ānāpānassatibhāvanaṃ vadāmī’’ti (ma. ni. 3.149; saṃ. ni. 5.992). Kiñcāpi hi yaṃkiñci kammaṭṭhānaṃ satassa sampajānasseva sampajjati, ito aññaṃ pana manasikarontassa pākaṭaṃ hoti. Idaṃ pana ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ garukaṃ garukabhāvanaṃ buddhapaccekabuddhabuddhaputtānaṃ mahāpurisānameva manasikārabhūmibhūtaṃ, na ceva ittaraṃ, na ca ittarasattasamāsevitaṃ. Yathā yathā manasi karīyati, tathā tathā santañceva hoti sukhumañca. Tasmā ettha balavatī sati ca paññā ca icchitabbā.
Ở đây, đây là phương pháp mang đề mục trở lại. Vị Tỳ khưu ấy, sau khi biết được tình trạng không hiện khởi của đề mục thiền định, cần phải suy xét như sau: ‘Những hơi thở vào ra này có ở đâu, không có ở đâu; có đối với ai, không có đối với ai?’ Sau khi suy xét như vậy và biết rằng: ‘Những hơi thở này không có ở trong bụng mẹ, không có đối với những người lặn dưới nước, cũng như không có đối với những chúng sanh vô tưởng, người đã chết, người đã nhập tứ thiền, người đang ở trong các cõi sắc và vô sắc, người đã nhập diệt định’, vị ấy cần phải tự mình khiển trách mình như sau: ‘Này người trí, há chẳng phải ngươi không ở trong bụng mẹ, không lặn dưới nước, không phải là chúng sanh vô tưởng, không phải người chết, không phải người đã nhập tứ thiền, không phải người đang ở trong các cõi sắc và vô sắc, không phải người đã nhập diệt định sao? Hơi thở vào ra của ngươi chắc chắn có, nhưng do trí tuệ yếu kém nên ngươi không thể nắm bắt được mà thôi.’ Sau đó, vị ấy cần phải thiết lập tâm theo cách xúc chạm tự nhiên của hơi thở rồi duy trì sự tác ý. Quả vậy, những hơi thở này đối với người mũi dài thì chạm vào cánh mũi rồi diễn tiến, đối với người mũi ngắn thì chạm vào môi trên. Do đó, vị ấy cần phải thiết lập tướng ghi nhận rằng: ‘Hơi thở chạm vào nơi này’. Quả vậy, chính vì lý do này mà Đức Thế Tôn đã dạy: ‘Này các Tỳ khưu, Ta không nói rằng sự tu tập niệm hơi thở có thể thành tựu đối với người thất niệm, không tỉnh giác.’ (ma. ni. 3.149; saṃ. ni. 5.992). Mặc dù bất kỳ đề mục thiền định nào cũng chỉ thành tựu đối với người có niệm và tỉnh giác, nhưng khi tác ý đến các đề mục khác (ngoài niệm hơi thở), chúng thường rõ ràng hơn. Nhưng đề mục niệm hơi thở này là một đề mục quan trọng, sự tu tập quan trọng, là mảnh đất tác ý chỉ dành cho các bậc đại nhân như Chư Phật, Chư Độc Giác Phật, Chư Phật tử; không phải là đề mục tầm thường, cũng không phải là đề mục được các chúng sanh tầm thường thực hành. Càng tác ý đến nó, nó càng trở nên tĩnh lặng và tế nhị. Do đó, ở đây cần phải có niệm và tuệ mạnh mẽ.

Yathā hi maṭṭhasāṭakassa tunnakaraṇakāle sūcipi sukhumā icchitabbā, sūcipāsavedhanampi tato sukhumataraṃ; evameva maṭṭhasāṭakasadisassa imassa kammaṭṭhānassa bhāvanākāle sūcipaṭibhāgā satipi sūcipāsavedhanapaṭibhāgā taṃsampayuttā paññāpi balavatī icchitabbā. Tāhi ca pana satipaññāhi samannāgatena bhikkhunā na te assāsapassāsā aññatra pakatiphuṭṭhokāsā pariyesitabbā.
Ví như khi may một tấm vải mịn, cây kim cũng cần phải nhỏ, và việc xỏ chỉ qua lỗ kim lại càng cần sự khéo léo tế nhị hơn. Cũng vậy, vào lúc tu tập đề mục thiền định này, vốn giống như tấm vải mịn, niệm ví như cây kim, và tuệ tương ưng với niệm ấy, ví như việc xỏ chỉ qua lỗ kim, cũng cần phải mạnh mẽ. Và vị Tỳ khưu đã được trang bị niệm và tuệ ấy không nên tìm kiếm những hơi thở vào ra ấy ở nơi nào khác ngoài nơi xúc chạm tự nhiên của chúng (tức là không theo dõi chúng vào trong hay ra ngoài thân).

Yathā pana kassako kasiṃ kasitvā balibadde muñcitvā gocarābhimukhe katvā chāyāya nisinno vissameyya, athassa te balibaddā vegena aṭaviṃ paviseyyuṃ. Yo hoti cheko kassako so puna te gahetvā yojetukāmo na tesaṃ anupadaṃ gantvā aṭaviṃ āhiṇḍati. Atha kho rasmiñca patodañca gahetvā ujukameva tesaṃ nipātatitthaṃ gantvā nisīdati vā nipajjati vā. Atha te goṇe divasabhāgaṃ caritvā nipātatitthaṃ otaritvā nhatvā ca pivitvā ca paccuttaritvā ṭhite disvā rasmiyā bandhitvā patodena vijjhanto ānetvā yojetvā puna kammaṃ karoti; evameva tena bhikkhunā na te assāsapassāsā aññatra pakatiphuṭṭhokāsā pariyesitabbā. Satirasmiṃ pana paññāpatodañca gahetvā pakatiphuṭṭhokāse cittaṃ ṭhapetvā manasikāro pavattetabbo. Evañhissa manasikaroto nacirasseva te upaṭṭhahanti, nipātatitthe viya goṇā. Tato tena satirasmiyā bandhitvā tasmiṃyeva ṭhāne yojetvā paññāpatodena vijjhantena puna kammaṭṭhānaṃ anuyuñjitabbaṃ; tassevamanuyuñjato nacirasseva nimittaṃ upaṭṭhāti. Taṃ panetaṃ na sabbesaṃ ekasadisaṃ hoti ; apica kho kassaci sukhasamphassaṃ uppādayamāno tūlapicu viya, kappāsapicu viya, vātadhārā viya ca upaṭṭhātīti ekacce āhu.
Ví như một người nông dân, sau khi cày ruộng xong, tháo bò ra, hướng chúng về phía bãi cỏ rồi ngồi nghỉ dưới bóng cây, thì những con bò ấy có thể chạy nhanh vào rừng. Người nông dân khéo léo, muốn bắt chúng lại để đóng vào ách, không đi theo dấu chân chúng mà lang thang trong rừng. Mà người ấy cầm lấy dây thừng và roi, đi thẳng đến bến nước quen thuộc của chúng rồi ngồi hoặc nằm đó. Sau đó, thấy những con bò ấy, sau khi đã ăn cỏ cả ngày, xuống bến nước tắm và uống, rồi lên bờ đứng nghỉ, người ấy dùng dây thừng buộc chúng lại, dùng roi thúc chúng, dắt về đóng vào ách rồi lại tiếp tục công việc. Cũng vậy, vị Tỳ khưu ấy không nên tìm kiếm các hơi thở vào ra ở nơi nào khác ngoài nơi xúc chạm tự nhiên của chúng. Mà vị ấy cần phải cầm lấy dây thừng là niệm và cây roi là tuệ, thiết lập tâm tại nơi xúc chạm tự nhiên rồi duy trì sự tác ý. Đối với vị ấy khi tác ý như vậy, không bao lâu các hơi thở sẽ hiện khởi, giống như đàn bò trở về bến nước. Sau đó, vị ấy, dùng dây thừng là niệm buộc chúng lại, đóng chúng vào ách ngay tại nơi ấy, rồi dùng roi là tuệ thúc đẩy, cần phải chuyên tâm thực hành lại đề mục thiền định. Đối với vị ấy khi chuyên tâm thực hành như vậy, không bao lâu tướng sẽ hiện khởi. Nhưng tướng ấy không giống nhau đối với tất cả mọi người; mà một số vị nói rằng, đối với một số người, nó hiện khởi giống như một nhúm bông gòn, hoặc một nhúm bông vải, hoặc một luồng gió, tạo ra cảm giác xúc chạm dễ chịu.

Ayaṃ pana aṭṭhakathāvinicchayo – idañhi kassaci tārakarūpaṃ viya, maṇiguḷikā viya, muttāguḷikā viya ca kassaci kharasamphassaṃ hutvā kappāsaṭṭhi viya, sāradārusūci viya ca kassaci dīghapāmaṅgasuttaṃ viya, kusumadāmaṃ viya, dhūmasikhā viya ca kassaci vitthata makkaṭakasuttaṃ viya, valāhakapaṭalaṃ viya, padumapupphaṃ viya, rathacakkaṃ viya, candamaṇḍalaṃ viya, sūriyamaṇḍalaṃ viya ca upaṭṭhāti. Tañca panetaṃ yathā sambahulesu bhikkhūsu suttantaṃ sajjhāyitvā nisinnesu ekena bhikkhunā ‘‘tumhākaṃ kīdisaṃ hutvā idaṃ suttaṃ upaṭṭhātī’’ti vutte eko ‘‘mayhaṃ mahatī pabbateyyā nadī viya hutvā upaṭṭhātī’’ti āha. Aparo ‘‘mayhaṃ ekā vanarāji viya’’. Añño ‘‘mayhaṃ sītacchāyo sākhāsampanno phalabhārabharitarukkho viyā’’ti. Tesañhi taṃ ekameva suttaṃ saññānānatāya nānato upaṭṭhāti. Evaṃ ekameva kammaṭṭhānaṃ saññānānatāya nānato upaṭṭhāti. Saññajañhi etaṃ saññānidānaṃ saññāppabhavaṃ tasmā saññānānatāya nānato upaṭṭhātīti veditabbaṃ.
Còn đây là sự phân tích của Chú Giải: Quả vậy, tướng này đối với một số người thì giống như hình ngôi sao, hoặc giống như viên ngọc, hoặc giống như viên ngọc trai; đối với một số người khác, nó có cảm giác xúc chạm thô ráp, giống như hột bông gòn, hoặc giống như mũi nhọn của lõi gỗ cứng; đối với một số người khác nữa, nó giống như một sợi dây dài, hoặc một tràng hoa, hoặc một ngọn khói; đối với một số người khác nữa, nó hiện khởi giống như một mạng nhện giăng rộng, hoặc một lớp mây, hoặc một đóa hoa sen, hoặc một bánh xe, hoặc mặt trăng, hoặc mặt trời. Điều này cũng giống như khi trong số nhiều vị Tỳ khưu đang ngồi tụng kinh, một vị Tỳ khưu hỏi: ‘Đối với các ngài, kinh này hiện khởi như thế nào?’, một vị trả lời: ‘Đối với tôi, nó hiện khởi giống như một dòng sông lớn từ trên núi chảy xuống.’ Một vị khác nói: ‘Đối với tôi, nó hiện khởi giống như một dãy rừng.’ Một vị khác nữa nói: ‘Đối với tôi, nó hiện khởi giống như một cây có bóng mát, cành lá sum sê, trĩu nặng quả.’ Quả vậy, đối với các vị ấy, cùng một bài kinh đó lại hiện khởi khác nhau do sự khác biệt về tưởng. Cũng vậy, cùng một đề mục thiền định này lại hiện khởi khác nhau do sự khác biệt về tưởng. Cần hiểu rằng, tướng này do tưởng sinh, có tưởng làm nhân, có tưởng làm nguồn gốc; do đó, nó hiện khởi khác nhau do sự khác biệt về tưởng.

Ettha ca aññameva assāsārammaṇaṃ cittaṃ, aññaṃ passāsārammaṇaṃ, aññaṃ nimittārammaṇaṃ yassa hi ime tayo dhammā natthi, tassa kammaṭṭhānaṃ neva appanaṃ na upacāraṃ pāpuṇāti. Yassa panime tayo dhammā atthi, tasseva kammaṭṭhānaṃ appanañca upacārañca pāpuṇāti. Vuttañhetaṃ –
Và ở đây, tâm có đối tượng là hơi thở vào là khác, tâm có đối tượng là hơi thở ra là khác, tâm có đối tượng là tướng cũng là khác. Quả vậy, người nào không có ba pháp này (tức là không nhận biết rõ ràng hơi thở vào, hơi thở ra, và tướng), đề mục thiền định của người ấy không đạt đến an chỉ định cũng không đạt đến cận định. Còn người nào có ba pháp này, đề mục thiền định của người ấy mới đạt đến an chỉ định và cận định. Điều này đã được nói:

‘‘Nimittaṃ assāsapassāsā, anārammaṇamekacittassa;
Ajānato ca tayo dhamme, bhāvanānupalabbhati.
‘‘Nimittaṃ assāsapassāsā, anārammaṇamekacittassa;
Jānato ca tayo dhamme, bhāvanā upalabbhatī’’ti. (visuddhi. 1.231);
‘Tướng là hơi thở vào ra, (nhưng chúng) không phải đối tượng của nhất tâm;
Người không biết ba pháp này, sự tu tập không thành tựu.
‘Tướng là hơi thở vào ra, (nhưng chúng) không phải đối tượng của nhất tâm;
Người biết ba pháp này, sự tu tập sẽ thành tựu.’ (visuddhi. 1.231);

Evaṃ upaṭṭhite pana nimitte tena bhikkhunā ācariyasantikaṃ gantvā ārocetabbaṃ – ‘‘mayhaṃ, bhante, evarūpaṃ nāma upaṭṭhātī’’ti. Ācariyena pana ‘‘etaṃ nimitta’’nti vā ‘‘na nimitta’’nti vā na vattabbaṃ. ‘‘Evaṃ hoti, āvuso’’ti vatvā pana ‘‘punappunaṃ manasi karohī’’ti vattabbo. ‘‘Nimitta’’nti hi vutte vosānaṃ āpajjeyya; ‘‘na nimitta’’nti vutte nirāso visīdeyya. Tasmā tadubhayampi avatvā manasikāreyeva niyojetabboti. Evaṃ tāva dīghabhāṇakā. Majjhimabhāṇakā panāhu – ‘‘nimittamidaṃ, āvuso, kammaṭṭhānaṃ punappunaṃ manasi karohi sappurisāti vattabbo’’ti. Athānena nimitteyeva cittaṃ ṭhapetabbaṃ. Evamassāyaṃ ito pabhuti ṭhapanāvasena bhāvanā hoti. Vuttañhetaṃ porāṇehi –
Nhưng khi tướng hiện khởi như vậy, vị Tỳ khưu ấy cần phải đến gặp thầy và trình bày: ‘Bạch ngài, một hiện tượng như thế này đang hiện khởi với con.’ Vị thầy không nên nói: ‘Đây là tướng’ hoặc ‘Đây không phải là tướng’. Mà nên nói: ‘Nó là như vậy, hiền giả’, rồi nên khuyến khích: ‘Hãy tác ý nhiều lần.’ Quả vậy, nếu nói: ‘Đó là tướng’, hành giả có thể đi đến sự chấm dứt (nỗ lực sớm). Nếu nói: ‘Đó không phải là tướng’, hành giả có thể thất vọng, chán nản. Do đó, không nên nói cả hai điều ấy, mà chỉ nên khuyến khích hành giả tác ý. Đây là quan điểm của các vị Luận sư Trường Bộ. Còn các vị Luận sư Trung Bộ thì nói: ‘Hiền giả, đây là tướng, bậc chân nhân hãy tác ý nhiều lần đến đề mục thiền định này.’ Sau đó, hành giả cần phải đặt tâm ngay trên tướng ấy. Như vậy, từ đây trở đi, sự tu tập của vị ấy diễn ra theo cách an trú. Điều này đã được các bậc cổ đức nói:

‘‘Nimitte ṭhapayaṃ cittaṃ, nānākāraṃ vibhāvayaṃ;
Dhīro assāsapassāse, sakaṃ cittaṃ nibandhatī’’ti. (visuddhi. 1.232; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163);
‘Đặt tâm trên tướng, quán chiếu nhiều cách khác nhau;
Bậc trí buộc tâm mình, vào nơi hơi thở vào ra.’ (visuddhi. 1.232; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163);

Tassevaṃ nimittupaṭṭhānato pabhuti nīvaraṇāni vikkhambhitāneva honti kilesā sannisinnāva sati upaṭṭhitāyeva, cittaṃ samāhitameva. Idañhi dvīhākārehi cittaṃ samāhitaṃ nāma hohi – upacārabhūmiyaṃ vā nīvaraṇappahānena, paṭilābhabhūmiyaṃ vā aṅgapātubhāvena. Tattha ‘‘upacārabhūmī’’ti upacārasamādhi; ‘‘paṭilābhabhūmī’’ti appanāsamādhi. Tesaṃ kiṃ nānākaraṇaṃ? Upacārasamādhi kusalavīthiyaṃ javitvā bhavaṅgaṃ otarati, appanāsamādhi divasabhāge appetvā nisinnassa divasabhāgampi kusalavīthiyaṃ javati, na bhavaṅgaṃ otarati. Imesu dvīsu samādhīsu nimittapātubhāvena upacārasamādhinā samāhitaṃ cittaṃ hoti . Athānena taṃ nimittaṃ neva vaṇṇato manasikātabbaṃ, na lakkhaṇato paccavekkhitabbaṃ. Apica kho khattiyamahesiyā cakkavattigabbho viya kassakena sāliyavagabbho viya ca appamattena rakkhitabbaṃ; rakkhitaṃ hissa phaladaṃ hoti.
Đối với vị ấy, từ khi tướng hiện khởi, các triền cái chắc chắn được trấn áp, các phiền não chắc chắn lắng xuống, niệm chắc chắn được an trú, tâm chắc chắn được định tĩnh. Tâm được định tĩnh này có hai cách: hoặc ở địa cận hành do sự đoạn trừ các triền cái, hoặc ở địa chứng đắc do sự hiện khởi của các thiền chi. Trong đó, ‘địa cận hành’ là cận hành định; ‘địa chứng đắc’ là an chỉ định. Sự khác biệt của chúng là gì? Cận hành định, sau khi chạy (qua các sát-na tốc hành tâm) trong lộ trình tâm thiện, sẽ rơi vào dòng hữu phần. An chỉ định, đối với người đã nhập định và ngồi suốt một ngày, cũng sẽ chạy (qua các sát-na tốc hành tâm) trong lộ trình tâm thiện suốt ngày đó, không rơi vào dòng hữu phần. Trong hai loại định này, do sự hiện khởi của tướng, tâm được định tĩnh bằng cận hành định. Sau đó, vị ấy không nên tác ý đến tướng ấy về màu sắc, cũng không nên quán xét về đặc tính. Mà nên bảo hộ tướng ấy với sự không dễ duôi, ví như hoàng hậu của vua Chuyển Luân bảo hộ thai nhi Chuyển Luân, hay như người nông dân bảo hộ mầm lúa mầm mạch; vì khi được bảo hộ, nó sẽ mang lại kết quả.

‘‘Nimittaṃ rakkhato laddha, parihāni na vijjati;
Ārakkhamhi asantamhi, laddhaṃ laddhaṃ vinassatī’’ti.
‘Người bảo hộ tướng đã đạt được,
Sẽ không có sự suy giảm; khi không có sự bảo hộ, những gì đã đạt được lần lượt bị hủy hoại.’

Tatrāyaṃ rakkhaṇūpāyo – tena bhikkhunā āvāso, gocaro, bhassaṃ, puggalo, bhojanaṃ, utu, iriyāpathoti imāni satta asappāyāni vajjetvā tāneva satta sappāyāni sevantena punappunaṃ taṃ nimittaṃ manasikātabbaṃ.
Ở đây, đây là phương pháp bảo hộ: Vị Tỳ khưu ấy, sau khi tránh bảy điều không thích hợp này – trú xứ, nơi khất thực, sự nói chuyện, con người, thức ăn, thời tiết, và oai nghi – cần phải thường xuyên lui tới bảy điều thích hợp tương ứng và tác ý nhiều lần đến tướng ấy.

Evaṃ sappāyasevanena nimittaṃ thiraṃ katvā vuḍḍhiṃ virūḷhiṃ gamayitvā vatthuvisadakiriyā, indriyasamattapaṭipādanatā, nimittakusalatā, yasmiṃ samaye cittaṃ sapaggahetabba tasmiṃ samaye cittapaggaṇhanā, yasmiṃ samaye cittaṃ niggahetabbaṃ tasmiṃ samaye cittaniggaṇhanā, yasmiṃ samaye cittaṃ sampahaṃsetabbaṃ tasmiṃ samaye sampahaṃsetabbaṃ tasmiṃ samaye cittasampahaṃsanā, yasmiṃ samaye cittaṃ ajjhupekkhitabbaṃ tasmiṃ samaye cittaajjhupekkhanā, asamāhitapuggalaparivajjanā, samāhitapuggalasevanā, tadadhimuttatāti imāni dasa appanākosallāni avijahantena yogo karaṇīyo.
Sau khi làm cho tướng trở nên vững chắc, tăng trưởng và phát triển bằng cách lui tới những điều thích hợp như vậy, cần thực hành: việc làm cho nền tảng (thân tâm) trong sạch, sự làm cho các căn quân bình, sự khéo léo về tướng, vào lúc tâm cần được sách tấn thì sách tấn tâm, vào lúc tâm cần được chế ngự thì chế ngự tâm, vào lúc tâm cần được làm cho hoan hỷ thì làm cho tâm hoan hỷ, vào lúc tâm cần được xả thì xả tâm, việc tránh xa người không có định, việc gần gũi người có định, sự hướng tâm đến đó – cần phải nỗ lực thực hành mà không từ bỏ mười sự khéo léo để chứng đắc an chỉ định này.

Tassevaṃ anuyuttassa viharato idāni appanā uppajjissatīti bhavaṅgaṃ vicchinditvā nimittārammaṇaṃ manodvārāvajjanaṃ uppajjati. Tasmiñca niruddhe tadevārammaṇaṃ gahetvā cattāri pañca vā javanāni, yesaṃ paṭhamaṃ parikammaṃ, dutiyaṃ upacāraṃ, tatiyaṃ anulomaṃ, catutthaṃ gotrabhu , pañcamaṃ appanācittaṃ. Paṭhamaṃ vā parikammañceva upacārañca, dutiyaṃ anulomaṃ, tatiyaṃ gotrabhu, catutthaṃ appanācittanti vuccati. Catutthameva hi pañcamaṃ vā appeti, na chaṭṭhaṃ sattamaṃ vā āsannabhavaṅgapātattā.
Đối với vị ấy đang sống và thực hành như vậy, khi an chỉ định sắp phát sinh, dòng hữu phần bị cắt đứt, ý môn hướng tâm lấy tướng làm đối tượng phát sinh. Và khi ý môn hướng tâm ấy diệt, bốn hoặc năm sát-na tốc hành tâm lấy chính đối tượng ấy (là tướng) phát sinh; trong đó, nếu là năm sát-na, sát-na đầu tiên là chuẩn bị, thứ hai là cận hành, thứ ba là thuận thứ, thứ tư là chuyển tộc, thứ năm là tâm an chỉ. Hoặc nếu là bốn sát-na, sát-na đầu tiên là cả chuẩn bị và cận hành, thứ hai là thuận thứ, thứ ba là chuyển tộc, thứ tư được gọi là tâm an chỉ. Quả vậy, chỉ sát-na thứ tư hoặc thứ năm mới nhập vào an chỉ định, không phải sát-na thứ sáu hay thứ bảy, vì khi đó đã gần rơi vào dòng hữu phần.

Ābhidhammikagodattatthero panāha – ‘‘āsevanapaccayena kusalā dhammā balavanto honti; tasmā chaṭṭhaṃ sattamaṃ vā appetī’’ti. Taṃ aṭṭhakathāsu paṭikkhittaṃ. Tattha pubbabhāgacittāni kāmāvacarāni honti, appanācittaṃ pana rūpāvacaraṃ. Evamanena pañcaṅgavippahīnaṃ, pañcaṅgasamannāgataṃ, dasalakkhaṇasampannaṃ, tividhakalyāṇaṃ, paṭhamajjhānaṃ adhigataṃ hoti. So tasmiṃyevārammaṇe vitakkādayo vūpasametvā dutiyatatiyacatutthajjhānāni pāpuṇāti. Ettāvatā ca ṭhapanāvasena bhāvanāya pariyosānappatto hoti. Ayamettha saṅkhepakathā. Vitthāro pana icchantena visuddhimaggato gahetabbo.
Nhưng Trưởng lão Godatta, một vị uyên bác Vi Diệu Pháp, nói: ‘Do duyên thuần thục, các pháp thiện trở nên mạnh mẽ; do đó, sát-na thứ sáu hoặc thứ bảy mới nhập vào an chỉ định.’ Điều đó đã bị bác bỏ trong các Chú Giải. Ở đó, các tâm thuộc phần đầu (trước an chỉ) thuộc Dục giới, còn tâm an chỉ thì thuộc Sắc giới. Như vậy, vị ấy đã chứng đắc sơ thiền, vốn từ bỏ năm chi (triền cái), đầy đủ năm chi (thiền chi), hoàn hảo mười đặc tính, tốt đẹp ba giai đoạn. Vị ấy, trên chính đối tượng ấy, sau khi làm lắng dịu tầm và các thiền chi thấp hơn, đạt đến nhị thiền, tam thiền, tứ thiền. Đến đây, vị ấy đã đạt đến sự hoàn mãn của sự tu tập theo cách an trú. Đây là lời tóm tắt ở đây. Còn phần chi tiết, người nào muốn tìm hiểu, thì nên học hỏi từ bộ Thanh Tịnh Đạo.

Evaṃ pattacatutthajjhāno panettha bhikkhu sallakkhaṇāvivaṭṭanāvasena kammaṭṭhānaṃ vaḍḍhetvā pārisuddhiṃ pattukāmo tadeva jhānaṃ āvajjanasamāpajjanaadhiṭṭhānavuṭṭhānapaccavekkhaṇasaṅkhātehi pañcahākārehi vasippattaṃ paguṇaṃ katvā arūpapubbaṅgamaṃ vā rūpaṃ, rūpapubbaṅgamaṃ vā arūpanti rūpārūpaṃ pariggahetvā vipassanaṃ paṭṭhapeti. Kathaṃ? So hi jhānā vuṭṭhahitvā jhānaṅgāni pariggahetvā tesaṃ nissayaṃ hadayavatthuṃ taṃ nissayāni ca bhūtāni tesañca nissayaṃ sakalampi karajakāyaṃ passati. Tato ‘‘jhānaṅgāni arūpaṃ, vatthādīni rūpa’’nti rūpārūpaṃ vavatthapeti.
Vị Tỳ khưu ở đây, sau khi đã chứng đắc đệ tứ thiền như vậy, muốn đạt đến sự thanh tịnh (Quả) bằng cách phát triển đề mục thiền định theo cách quán sát tướng và chuyển hướng, sau khi làm cho chính thiền ấy trở nên thuần thục và khéo léo qua năm cách: hướng tâm, nhập định, quyết định (thời gian nhập định), xuất định, và quán xét, vị ấy nắm bắt sắc và danh – hoặc là sắc có danh đi trước, hoặc là danh có sắc đi trước – rồi thiết lập minh sát. Thế nào? Vị ấy, sau khi xuất thiền, nắm bắt các thiền chi, rồi thấy được ý vật là nơi nương của chúng, các đại là nơi nương của ý vật, và toàn bộ thân do nghiệp sanh là nơi nương của các đại. Sau đó, vị ấy phân định sắc và danh rằng: ‘Các thiền chi là danh, ý vật và các pháp khác là sắc.’

Atha vā samāpattito vuṭṭhahitvā kesādīsu koṭṭhāsesu pathavīdhātuādivasena cattāri bhūtāni taṃnissitarūpāni ca pariggahetvā yathāpariggahitarūpārammaṇaṃ yathāpariggahitarūpavatthudvārārammaṇaṃ vā sasampayuttadhammaṃ viññāṇañca passati. Tato ‘‘bhūtādīni rūpaṃ sasampayuttadhammaṃ viññāṇaṃ arūpa’’nti vavatthapeti.
Hoặc là, sau khi xuất định, vị ấy nắm bắt bốn đại theo cách quán địa đại và các đại khác trong các thể trược như tóc, lông, móng, răng, da, và các sắc y sinh của chúng. Vị ấy thấy được thức cùng với các pháp tương ưng của nó vốn lấy đối tượng là sắc đã được nắm bắt như vậy, hoặc lấy đối tượng là cảnh sắc và vật chất (sắc) qua các cửa giác quan đã được nắm bắt như vậy. Sau đó, vị ấy phân định rằng: ‘Các đại và các pháp khác (liên quan đến thể trược) là sắc; thức cùng với các pháp tương ưng là danh.’

Atha vā samāpattito vuṭṭhahitvā assāsapassāsānaṃ samudayo karajakāyo ca cittañcāti passati. Yathā hi kammāragaggariyā dhamamānāya bhastañca purisassa ca tajjaṃ vāyāmaṃ paṭicca vāto sañcarati; evameva kāyañca cittañca paṭicca assāsapassāsāti. Tato assāsapassāse ca kāyañca rūpaṃ, cittañca taṃsampayuttadhamme ca arūpanti vavatthapeti.
Hoặc là, sau khi xuất định, vị ấy thấy rằng sự phát sinh của hơi thở vào ra là do thân do nghiệp sanh và tâm. Ví như khi ống bễ của thợ rèn được thổi, gió lưu chuyển là do ống bễ và sự cố gắng tương ứng của người thợ rèn. Cũng vậy, hơi thở vào ra phát sinh là do thân và tâm. Sau đó, vị ấy phân định rằng: ‘Hơi thở vào ra và thân là sắc; tâm và các pháp tương ưng với nó là danh.’

Evaṃ nāmarūpaṃ vavatthapetvā tassa paccayaṃ pariyesati, pariyesanto ca taṃ disvā tīsupi addhāsu nāmarūpassa pavattiṃ ārabbha kaṅkhaṃ vitarati. Vitiṇṇakaṅkho kalāpasammasanavasena tilakkhaṇaṃ āropetvā udayabbayānupassanāya pubbabhāge uppanne obhāsādayo dasa vipassanupakkilese pahāya upakkilesavimuttaṃ paṭipadāñāṇaṃ ‘‘maggo’’ti vavatthapetvā udayaṃ pahāya bhaṅgānupassanaṃ patvā nirantaraṃ bhaṅgānupassanena bhayato upaṭṭhitesu sabbasaṅkhāresu nibbindanto virajjanto vimuccanto yathākkamaṃ cattāro ariyamagge pāpuṇitvā arahattaphale patiṭṭhāya ekūnavīsatibhedassa paccavekkhaṇañāṇassa pariyantappatto sadevakassa lokassa aggadakkhiṇeyyo hoti. Ettāvatā cassa gaṇanaṃ ādiṃ katvā vipassanāpariyosānā ānāpānassatisamādhibhāvanā ca samattā hotīti.
Sau khi phân định danh-sắc như vậy, vị ấy tìm kiếm duyên của nó; và khi tìm kiếm, thấy được duyên ấy, vị ấy vượt qua hoài nghi liên quan đến sự diễn tiến của danh-sắc trong cả ba thời. Sau khi đã vượt qua hoài nghi, vị ấy áp dụng tam tướng theo cách quán chiếu các nhóm pháp, và khi phần đầu của sự quán chiếu sanh diệt phát sinh, vị ấy từ bỏ mười tùy phiền não của minh sát như ánh sáng và các hiện tượng khác. Sau khi xác định đạo lộ trí đã thoát khỏi các tùy phiền não là ‘Đạo’, vị ấy từ bỏ sự chú ý đến sanh, đạt đến sự quán chiếu sự hoại diệt. Bằng sự quán chiếu sự hoại diệt không ngừng, vị ấy nhàm chán, ly tham, giải thoát đối với tất cả các pháp hành đã hiện khởi như là đáng sợ, rồi tuần tự đạt đến bốn Thánh đạo và an trú trong A-la-hán quả. Vị ấy đạt đến điểm cuối cùng của trí quán xét lại có mười chín loại, trở thành bậc đáng được cúng dường cao tột của thế gian cùng với chư thiên. Đến đây, sự tu tập định niệm hơi thở của vị ấy, bắt đầu từ việc đếm và kết thúc bằng minh sát, được xem là hoàn mãn.

Ayaṃ sabbākārato paṭhamacatukkavaṇṇanā.

Đây là sự giải thích bốn pháp đầu tiên về mọi phương diện.

Itaresu pana tīsu catukkesu yasmā visuṃ kammaṭṭhānabhāvanānayo nāma natthi; tasmā anupadavaṇṇanānayeneva nesaṃ attho veditabbo. Pītippaṭisaṃvedīti pītiṃ paṭisaṃviditaṃ karonto pākaṭaṃ karonto assasissāmi passasissāmīti sikkhati. Tattha dvīhākārehi pīti paṭisaṃviditā hoti – ārammaṇato ca asammohato ca.
Còn trong ba nhóm bốn pháp còn lại, vì không có phương pháp tu tập đề mục thiền định riêng biệt, nên ý nghĩa của chúng cần được hiểu chỉ bằng phương pháp giải thích từng chữ. ‘Cảm giác hỷ’ có nghĩa là hành giả tập luyện: ‘Tôi sẽ thở vào, tôi sẽ thở ra’ trong khi làm cho biết rõ, làm cho hiển lộ hỷ. Ở đó, hỷ được biết rõ qua hai cách: từ đối tượng và từ sự không mê mờ.

Kathaṃ ārammaṇato pīti paṭisaṃviditā hoti? Sappītike dve jhāne samāpajjati, tassa samāpattikkhaṇe jhānapaṭilābhena ārammaṇato pīti paṭisaṃviditā hoti ārammaṇassa paṭisaṃviditattā.
Làm thế nào hỷ được biết rõ từ đối tượng? Hành giả nhập hai thiền có hỷ (tức là sơ thiền và nhị thiền); trong khoảnh khắc nhập định của vị ấy, do sự chứng đắc thiền, hỷ được biết rõ từ đối tượng, vì đối tượng của thiền được biết rõ.

Kathaṃ asammohato? Sappītike dve jhāne samāpajjitvā vuṭṭhāya jhānasampayuttakapītiṃ khayato vayato sammasati, tassa vipassanākkhaṇe lakkhaṇapaṭivedhena asammohato pīti paṭisaṃviditā hoti. Vuttañhetaṃ paṭisambhidāyaṃ –
Làm thế nào (hỷ được biết rõ) từ sự không mê mờ? Hành giả nhập hai thiền có hỷ, sau khi xuất thiền, quán chiếu sự diệt và sanh của hỷ tương ưng với thiền. Trong khoảnh khắc minh sát của vị ấy, do sự thấu hiểu đặc tính của hỷ, hỷ được biết rõ từ sự không mê mờ. Điều này đã được nói trong bộ Vô Ngại Giải Đạo:

‘‘Dīghaṃ assāsavasena cittassa ekaggataṃ avikkhepaṃ pajānato sati upaṭṭhitā hoti. Tāya satiyā tena ñāṇena sā pīti paṭisaṃviditā hoti. Dīghaṃ passāsavasena…pe… rassaṃ assāsavasena… rassaṃ passāsavasena… sabbakāyappaṭisaṃvedī assāsavasena… sabbakāyappaṭisaṃvedī passāsavasena… passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assāsavasena… passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passāsavasena cittassa ekaggataṃ avikkhepaṃ pajānato sati upaṭṭhitā hoti, tāya satiyā tena ñāṇena sā pīti paṭisaṃviditā hoti. Āvajjato sā pīti paṭisaṃviditā hoti jānato… passato… paccavekkhato… cittaṃ adhiṭṭhahato… saddhāya adhimuccato… vīriyaṃ paggaṇhato… satiṃ upaṭṭhāpayato… cittaṃ samādahato… paññāya pajānato… abhiññeyyaṃ abhijānato… pariññeyyaṃ parijānato… pahātabbaṃ pajahato… bhāvetabbaṃ bhāvayato… sacchikātabbaṃ sacchikaroto sā pīti paṭisaṃviditā hoti. Evaṃ sā pīti paṭisaṃviditā hotī’’ti (paṭi. ma. 1.172).
‘Khi hành giả biết rõ sự nhất tâm và không phân tán của tâm bằng cách thở vào dài, niệm được an trú. Với niệm ấy, với trí ấy, hỷ ấy được biết rõ. Tương tự, khi (biết rõ sự nhất tâm và không phân tán của tâm) bằng cách thở ra dài… (vân vân)… bằng cách thở vào ngắn… bằng cách thở ra ngắn… bằng cách thở vào cảm giác toàn thân… bằng cách thở ra cảm giác toàn thân… bằng cách thở vào làm an tịnh thân hành… bằng cách thở ra làm an tịnh thân hành, khi hành giả biết rõ sự nhất tâm và không phân tán của tâm, niệm được an trú; với niệm ấy, với trí ấy, hỷ ấy được biết rõ. Khi hướng tâm, hỷ ấy được biết rõ; khi biết, hỷ ấy được biết rõ; khi thấy, hỷ ấy được biết rõ; khi quán xét lại, hỷ ấy được biết rõ; khi quyết định tâm, hỷ ấy được biết rõ; khi có niềm tin mạnh mẽ, hỷ ấy được biết rõ; khi nỗ lực tinh tấn, hỷ ấy được biết rõ; khi an trú niệm, hỷ ấy được biết rõ; khi định tâm, hỷ ấy được biết rõ; khi biết bằng tuệ, hỷ ấy được biết rõ; khi thắng tri điều cần thắng tri, hỷ ấy được biết rõ; khi liễu tri điều cần liễu tri, hỷ ấy được biết rõ; khi từ bỏ điều cần từ bỏ, hỷ ấy được biết rõ; khi tu tập điều cần tu tập, hỷ ấy được biết rõ; khi chứng ngộ điều cần chứng ngộ, hỷ ấy được biết rõ. Như vậy, hỷ ấy được biết rõ.’ (paṭi. ma. 1.172).

Eteneva nayena avasesapadānipi atthato veditabbāni. Idaṃ panettha visesamattaṃ. Tiṇṇaṃ jhānānaṃ vasena sukhapaṭisaṃveditā catunnampi vasena cittasaṅkhārapaṭisaṃveditā veditabbā. ‘‘Cittasaṅkhāro’’ti vedanādayo dve khandhā. Sukhappaṭisaṃvedipade cettha vipassanābhūmidassanatthaṃ ‘‘sukhanti dve sukhāni – kāyikañca sukhaṃ cetasikañcā’’ti paṭisambhidāyaṃ vuttaṃ. Passambhayaṃ cittasaṅkhāranti oḷārikaṃ oḷārikaṃ cittasaṅkhāraṃ passambhento, nirodhentoti attho. So vitthārato kāyasaṅkhāre vuttanayeneva veditabbo. Apicettha pītipade pītisīsena vedanā vuttā. Sukhapade sarūpeneva vedanā . Dvīsu cittasaṅkhārapadesu ‘‘saññā ca vedanā ca cetasikā ete dhammā cittapaṭibaddhā cittasaṅkhārā’’ti (paṭi. ma. 1.174; ma. ni. 1.463) vacanato saññāsampayuttā vedanāti. Evaṃ vedanānupassanānayena idaṃ catukkaṃ bhāsitanti veditabbaṃ.
Theo phương pháp này, ý nghĩa của các đề mục còn lại cũng cần được hiểu. Đây chỉ là điểm đặc biệt ở đây: sự cảm giác lạc cần được hiểu dựa vào ba thiền (sơ, nhị, tam thiền); sự cảm giác tâm hành cần được hiểu dựa vào cả bốn thiền. ‘Tâm hành’ là hai uẩn: thọ và tưởng. Trong đề mục ‘cảm giác lạc’, để chỉ rõ nền tảng của minh sát, trong bộ Vô Ngại Giải Đạo đã nói: ‘Lạc là hai loại lạc: thân lạc và tâm lạc.’ Câu ‘Làm an tịnh tâm hành’ có nghĩa là làm an tịnh, làm chấm dứt các tâm hành thô. Điều đó cần được hiểu một cách chi tiết theo phương pháp đã nói về các thân hành. Hơn nữa, ở đây, trong đề mục về hỷ, thọ được nói dưới tên gọi là hỷ. Trong đề mục về lạc, thọ được nói bằng chính bản chất của nó. Trong hai đề mục về tâm hành, đã nói: ‘Tưởng và thọ là các pháp tâm sở, những pháp này liên hệ đến tâm, chúng là tâm hành’ (paṭi. ma. 1.174; ma. ni. 1.463); điều này có nghĩa là thọ tương ưng với tưởng. Như vậy, cần hiểu rằng bốn pháp này được nói theo phương pháp quán thọ.

Tatiyacatukkepi catunnaṃ jhānānaṃ vasena cittapaṭisaṃveditā veditabbā. Abhippamodayaṃ cittanti cittaṃ modento pamodento hāsento pahāsento assasissāmi passasissāmīti sikkhati. Tattha dvīhākārehi abhippamodo hoti – samādhivasena ca vipassanāvasena ca.
Trong nhóm bốn pháp thứ ba cũng vậy, sự cảm giác tâm cần được hiểu dựa vào bốn thiền. ‘Làm cho tâm hân hoan’ có nghĩa là hành giả tập luyện: ‘Tôi sẽ thở vào, tôi sẽ thở ra’ trong khi làm cho tâm vui vẻ, hân hoan, tươi cười, phấn khởi. Ở đó, sự hân hoan này có được qua hai cách: bằng cách định và bằng cách minh sát.

Kathaṃ samādhivasena? Sappītike dve jhāne samāpajjati, so samāpattikkhaṇe sampayuttāya pītiyā cittaṃ āmodeti pamodeti. Kathaṃ vipassanāvasena? Sappītike dve jhāne samāpajjitvā vuṭṭhāya jhānasampayuttakapītiṃ khayato vayato sammasati; evaṃ vipassanākkhaṇe jhānasampayuttakapītiṃ ārammaṇaṃ katvā cittaṃ āmodeti pamodeti. Evaṃ paṭipanno ‘‘abhippamodayaṃ cittaṃ assasissāmi passasissāmīti sikkhatī’’ti vuccati.
Làm thế nào (sự hân hoan có được) bằng cách định? Hành giả nhập hai thiền có hỷ; trong khoảnh khắc nhập định, vị ấy làm cho tâm vui vẻ, hân hoan bằng hỷ tương ưng với thiền. Làm thế nào (sự hân hoan có được) bằng cách minh sát? Hành giả nhập hai thiền có hỷ, sau khi xuất thiền, quán chiếu sự diệt và sanh của hỷ tương ưng với thiền. Như vậy, trong khoảnh khắc minh sát, vị ấy lấy hỷ tương ưng với thiền làm đối tượng rồi làm cho tâm vui vẻ, hân hoan. Người thực hành như vậy được gọi là ‘vị ấy tập luyện: “Tôi sẽ thở vào, tôi sẽ thở ra, làm cho tâm hân hoan”’.

Samādahaṃ cittanti paṭhamajjhānādivasena ārammaṇe cittaṃ samaṃ ādahanto samaṃ ṭhapento tāni vā pana jhānāni samāpajjitvā vuṭṭhāya jhānasampayuttakacittaṃ khayato vayato sammasato vipassanākkhaṇe lakkhaṇapaṭivedhena uppajjati khaṇikacittekaggatā; evaṃ uppannāya khaṇikacittekaggatāya vasenapi ārammaṇe cittaṃ samaṃ ādahanto samaṃ ṭhapento ‘‘samādahaṃ cittaṃ assasissāmi passasissāmīti sikkhatī’’ti vuccati.
‘Định tâm’ có nghĩa là hành giả đặt tâm một cách vững vàng, thiết lập tâm một cách vững vàng trên đối tượng bằng cách nhập sơ thiền và các thiền khác. Hoặc là, sau khi nhập các thiền ấy rồi xuất ra, khi quán chiếu sự diệt và sanh của tâm tương ưng với thiền, trong khoảnh khắc minh sát, do sự thấu hiểu đặc tính, sự nhất tâm trong khoảnh khắc (sát-na định) phát sinh. Cũng bằng cách duy trì sự nhất tâm trong khoảnh khắc đã phát sinh như vậy, khi đặt tâm một cách vững vàng, thiết lập tâm một cách vững vàng trên đối tượng, thì được gọi là ‘vị ấy tập luyện: “Tôi sẽ thở vào, tôi sẽ thở ra, định tâm”’.

Vimocayaṃ cittanti paṭhamajjhānena nīvaraṇehi cittaṃ mocento vimocento, dutiyena vitakkavicārehi, tatiyena pītiyā, catutthena sukhadukkhehi cittaṃ mocento vimocento. Tāni vā pana jhānāni samāpajjitvā vuṭṭhāya jhānasampayuttakacittaṃ khayato vayato sammasati. So vipassanākkhaṇe aniccānupassanāya niccasaññāto cittaṃ mocento vimocento, dukkhānupassanāya sukhasaññāto, anattānupassanāya attasaññāto, nibbidānupassanāya nandito, virāgānupassanāya rāgato, nirodhānupassanāya samudayato, paṭinissaggānupassanāya ādānato cittaṃ mocento vimocento assasati ceva passasati ca. Tena vuttaṃ – ‘‘vimocayaṃ cittaṃ assasissāmi passasissāmīti sikkhatī’’ti. Evaṃ cittānupassanāvasena idaṃ catukkaṃ bhāsitanti veditabbaṃ.
‘Giải thoát tâm’ có nghĩa là hành giả giải thoát, làm cho tâm giải thoát khỏi các triền cái bằng sơ thiền; khỏi tầm và tứ bằng nhị thiền; khỏi hỷ bằng tam thiền; khỏi lạc và khổ bằng tứ thiền. Hoặc là, vị ấy nhập các thiền ấy rồi xuất ra, quán chiếu sự diệt và sanh của tâm tương ưng với thiền. Vị ấy, trong khoảnh khắc minh sát, bằng sự quán vô thường, giải thoát, làm cho tâm giải thoát khỏi tưởng thường; bằng sự quán khổ, giải thoát khỏi tưởng lạc; bằng sự quán vô ngã, giải thoát khỏi tưởng ngã; bằng sự quán nhàm chán, giải thoát khỏi sự hoan hỷ (tham ái); bằng sự quán ly tham, giải thoát khỏi tham; bằng sự quán diệt, giải thoát khỏi tập (nguyên nhân sanh khổ); bằng sự quán từ bỏ, giải thoát khỏi sự chấp thủ; trong khi đó vị ấy thở vào và thở ra. Do đó đã nói: ‘Vị ấy tập luyện: “Tôi sẽ thở vào, tôi sẽ thở ra, giải thoát tâm”’. Như vậy, cần hiểu rằng bốn pháp này được nói theo cách quán tâm.

Catutthacatukke pana aniccānupassīti ettha tāva aniccaṃ veditabbaṃ, aniccatā veditabbā, aniccānupassanā veditabbā , aniccānupassī veditabbo. Tattha ‘‘anicca’’nti pañcakkhandhā. Kasmā? Uppādavayaññathattabhāvā. ‘‘Aniccatā’’ti tesaññeva uppādavayaññathattaṃ hutvā abhāvo vā nibbattānaṃ tenevākārena aṭhatvā khaṇabhaṅgena bhedoti attho. ‘‘Aniccānupassanā’’ti tassā aniccatāya vasena rūpādīsu ‘‘anicca’’nti anupassanā; ‘‘aniccānupassī’’ti tāya anupassanāya samannāgato; tasmā evaṃ bhūto assasanto ca passasanto ca idha ‘‘aniccānupassī assasissāmi, passasissāmīti sikkhatī’’ti veditabbo.
Còn trong nhóm bốn pháp thứ tư, ở đề mục ‘người quán vô thường’, trước tiên cần hiểu về cái vô thường, tính vô thường, sự quán vô thường, và người quán vô thường. Trong đó, ‘cái vô thường’ là năm uẩn. Tại sao? Vì chúng có sự sanh, diệt và đổi khác. ‘Tính vô thường’ có nghĩa là chính sự sanh, diệt và đổi khác của năm uẩn, hoặc là sự không tồn tại (sau khi đã sanh), hoặc là sự không đứng yên theo cách ấy của những gì đã phát sinh mà bị tan vỡ trong từng khoảnh khắc. ‘Sự quán vô thường’ là sự quán chiếu trong sắc và các pháp khác rằng ‘vô thường’ dựa vào tính vô thường ấy. ‘Người quán vô thường’ là người đã được trang bị sự quán chiếu ấy. Do đó, người đã được như vậy, khi thở vào và thở ra, ở đây cần được hiểu là ‘vị ấy tập luyện: “Tôi sẽ thở vào, tôi sẽ thở ra, là người quán vô thường”’.

Virāgānupassīti ettha pana dve virāgā – khayavirāgo ca accantavirāgo ca. Tattha ‘‘khayavirāgo’’ti saṅkhārānaṃ khaṇabhaṅgo; ‘‘accantavirāgo’’ti nibbānaṃ; ‘‘virāgānupassanā’’ti tadubhayadassanavasena pavattā vipassanā ca maggo ca. Tāya duvidhāyapi anupassanāya samannāgato hutvā assasanto ca passasanto ca ‘‘virāgānupassī assasissāmi passasissāmīti sikkhatī’’ti veditabbo. Nirodhānupassīpadepi eseva nayo.
Còn ở đề mục ‘người quán ly tham’, có hai sự ly tham: sự ly tham do đoạn diệt và sự ly tham hoàn toàn. Trong đó, ‘sự ly tham do đoạn diệt’ là sự tan vỡ trong từng khoảnh khắc của các pháp hành. ‘Sự ly tham hoàn toàn’ là Niết-bàn. ‘Sự quán ly tham’ là minh sát và Đạo diễn tiến theo cách thấy cả hai sự ly tham ấy. Người đã được trang bị cả hai loại quán chiếu ấy, khi thở vào và thở ra, cần được hiểu là ‘vị ấy tập luyện: “Tôi sẽ thở vào, tôi sẽ thở ra, là người quán ly tham”’. Đối với đề mục ‘người quán diệt’ cũng theo phương pháp này.

Paṭinissaggānupassīti etthāpi dve paṭinissaggā – pariccāgapaṭinissaggo ca pakkhandanapaṭinissaggo ca. Paṭinissaggoyeva anupassanā paṭinissaggānupassanā; vipassanāmaggānametaṃ adhivacanaṃ. Vipassanā hi tadaṅgavasena saddhiṃ khandhābhisaṅkhārehi kilese pariccajati, saṅkhatadosadassanena ca tabbiparīte nibbāne tanninnatāya pakkhandatīti pariccāgapaṭinissaggo ceva pakkhandanapaṭinissaggo cāti vuccati. Maggo samucchedavasena saddhiṃ khandhābhisaṅkhārehi kilese pariccajati, ārammaṇakaraṇena ca nibbāne pakkhandatīti pariccāgapaṭinissaggo ceva pakkhandanapaṭinissago cāti vuccati. Ubhayampi pana purimapurimañāṇānaṃ anuanu passanato anupassanāti vuccati. Tāya duvidhāya paṭinissaggānupassanāya samannāgato hutvā assasanto ca passasanto ca paṭinisaggānupassī assasissāmi passasissāmīti sikkhatīti veditabbo. Evaṃ bhāvitoti evaṃ soḷasahi ākārehi bhāvito. Sesaṃ vuttanayameva.
Ở đề mục ‘người quán từ bỏ’ cũng có hai sự từ bỏ: sự từ bỏ do xả ly và sự từ bỏ do hướng đến (Niết-bàn). Chính sự từ bỏ là sự quán chiếu, gọi là sự quán từ bỏ; đây là tên gọi của minh sát và Đạo. Quả vậy, minh sát từ bỏ các phiền não cùng với các pháp hành thuộc uẩn bằng cách từ bỏ theo từng phần, và do thấy lỗi của các pháp hữu vi, nó hướng đến Niết-bàn đối nghịch với chúng với tâm nghiêng về đó; do đó được gọi là sự từ bỏ do xả lysự từ bỏ do hướng đến. Đạo từ bỏ các phiền não cùng với các pháp hành thuộc uẩn bằng cách đoạn tận, và do lấy Niết-bàn làm đối tượng, nó hướng đến Niết-bàn; do đó cũng được gọi là sự từ bỏ do xả lysự từ bỏ do hướng đến. Cả hai (minh sát và Đạo) đều được gọi là sự quán chiếu do sự quán chiếu theo sau các trí trước và trước nữa. Người đã được trang bị cả hai loại quán từ bỏ ấy, khi thở vào và thở ra, cần được hiểu là ‘vị ấy tập luyện: “Tôi sẽ thở vào, tôi sẽ thở ra, là người quán từ bỏ”’. ‘Được tu tập như vậy’ có nghĩa là được tu tập theo mười sáu cách như vậy. Phần còn lại theo phương pháp đã nói.

Ānāpānassatisamādhikathā niṭṭhitā.

Lời bàn về định niệm hơi thở đã hoàn tất.

167.Athakho bhagavātiādimhi pana ayaṃ saṅkhepattho. Evaṃ bhagavā ānāpānassatisamādhikathāya bhikkhū samassāsetvā atha yaṃ taṃ tatiyapārājikapaññattiyā nidānañceva pakaraṇañca uppannaṃ bhikkhūnaṃ aññamaññaṃ jīvitā voropanaṃ, etasmiṃ nidāne etasmiṃ pakaraṇe bhikkhusaṅghaṃ sannipātetvā paṭipucchitvā vigarahitvā ca yasmā tattha attanā attānaṃ jīvitā voropanaṃ migalaṇḍikena ca voropāpanaṃ pārājikavatthu na hoti; tasmā taṃ ṭhapetvā pārājikassa vatthubhūtaṃ aññamaññaṃ jīvitā voropanameva gahetvā pārājikaṃ paññapento ‘‘yo pana bhikkhu sañcicca manussaviggaha’’ntiādimāha. Ariyapuggalamissakattā panettha ‘‘moghapurisā’’ti avatvā ‘‘te bhikkhū’’ti vuttaṃ.
167. Còn trong đoạn bắt đầu bằng ‘Khi ấy, Đức Thế Tôn’, đây là ý nghĩa tóm tắt: Như vậy, sau khi Đức Thế Tôn đã khích lệ các Tỳ khưu bằng lời bàn về định niệm hơi thở, rồi đến nhân duyên và sự việc đã phát sinh cho sự chế định điều học Bất Cộng Trụ thứ ba, đó là việc các Tỳ khưu tước đoạt mạng sống của nhau. Trong nhân duyên ấy, trong sự việc ấy, sau khi triệu tập Tăng chúng, hỏi han và khiển trách, vì ở đó, việc tự mình tước đoạt mạng sống của chính mình và việc xui khiến (người khác tự sát) bởi Migalaṇḍika không phải là trường hợp phạm Bất Cộng Trụ; do đó, sau khi loại trừ trường hợp đó, chỉ lấy việc tước đoạt mạng sống của nhau, vốn là trường hợp phạm Bất Cộng Trụ, để chế định điều học Bất Cộng Trụ, Ngài đã nói bắt đầu bằng: ‘Vị Tỳ khưu nào cố ý (giết) hình người’. Ở đây, do có lẫn lộn các bậc Thánh nhân (trong số các Tỳ khưu phạm lỗi), nên không nói ‘này các người ngu si’ mà nói ‘các Tỳ khưu ấy’.

Evaṃ mūlacchejjavasena daḷhaṃ katvā tatiyapārājike paññatte aparampi anupaññattatthāya maraṇavaṇṇasaṃvaṇṇanavatthu udapādi, tassuppattidīpanatthaṃ ‘‘evañcidaṃ bhagavatā’’tiādi vuttaṃ.
Khi điều học Bất Cộng Trụ thứ ba được chế định một cách chắc chắn theo cách đoạn tận gốc rễ như vậy, một sự việc khác là tán thán cái chết lại phát sinh vì mục đích chế định bổ sung. Để làm sáng tỏ sự phát sinh của sự việc ấy, đoạn bắt đầu bằng ‘Và như vậy, điều này do Đức Thế Tôn’ đã được nói.

168. Tattha paṭibaddhacittāti chandarāgena paṭibaddhacittā; sārattā apekkhavantoti attho. Maraṇavaṇṇaṃ saṃvaṇṇemāti jīvite ādīnavaṃ dassetvā maraṇassa guṇaṃ vaṇṇema; ānisaṃsaṃ dassemāti. Katakalyāṇotiādīsu ayaṃ padattho – kalyāṇaṃ sucikammaṃ kataṃ tayāti tvaṃ kho asi katakalyāṇo. Tathā kusalaṃ anavajjakammaṃ kataṃ tayāti katakusalo. Maraṇakāle sampatte yā sattānaṃ uppajjati bhayasaṅkhātā bhīrutā, tato tāyanaṃ rakkhaṇakammaṃ kataṃ tayāti katabhīruttāṇo pāpaṃ. Lāmakakammaṃ akataṃ tayāti akatapāpo. Luddaṃ dāruṇaṃ dussīlyakammaṃ akataṃ tayāti akataluddo. Kibbisaṃ sāhasikakammaṃ lobhādikilesussadaṃ akataṃ tayāti akatakibbiso. Kasmā idaṃ vuccati? Yasmā sabbappakārampi kataṃ tayā kalyāṇaṃ, akataṃ tayā pāpaṃ; tena taṃ vadāma – ‘‘kiṃ tuyhaṃ iminā rogābhibhūtattā lāmakena pāpakena dukkhabahulattā dujjīvitena’’. Mataṃ te jīvitā seyyoti tava maraṇaṃ jīvitā sundarataraṃ. Kasmā? Yasmā ito tvaṃ kālaṅkato katakālo hutvā kālaṃ katvā maritvāti attho. Kāyassa bhedā…pe… upapajjissasi. Evaṃ upapanno ca tattha dibbehi devaloke uppannehi pañcahi kāmaguṇehi manāpiyarūpādikehi pañcahi vatthukāmakoṭṭhāsehi samappito samaṅgībhūto paricarissasi sampayutto samodhānagato hutvā ito cito ca carissasi, vicarissasi abhiramissasi vāti attho.
168. Ở đây, ‘tâm bị ràng buộc’ nghĩa là tâm bị ràng buộc bằng dục tham; có nghĩa là người đắm say, người có sự quyến luyến. ‘Chúng ta hãy tán thán cái chết’ nghĩa là chúng ta hãy chỉ ra sự nguy hại trong đời sống rồi ca ngợi đức tính của cái chết; nghĩa là chúng ta hãy chỉ ra lợi ích của cái chết. Trong các câu bắt đầu bằng ‘người đã làm điều lành’, đây là ý nghĩa của từ: ‘Ngươi đã làm điều lành, việc trong sạch’, do đó ngươi là người đã làm điều lành. Tương tự, ‘Ngươi đã làm điều thiện, việc không đáng chê trách’, do đó ngươi là người đã làm điều thiện. ‘Khi cái chết đến, sự sợ hãi gọi là kinh hãi phát sinh nơi chúng sanh; ngươi đã làm việc bảo hộ khỏi sự sợ hãi đó’, do đó ngươi là người đã làm sự bảo hộ khỏi sự sợ hãi điều ác. ‘Ngươi không làm việc xấu xa’, do đó ngươi là người không làm điều ác. ‘Ngươi không làm việc tàn bạo, hung dữ, phạm giới’, do đó ngươi là người không làm điều tàn bạo. ‘Ngươi không làm việc tội lỗi, việc táo bạo, việc phát sinh từ phiền não như tham và các phiền não khác’, do đó ngươi là người không làm điều tội lỗi. Tại sao điều này được nói? Bởi vì ngươi đã làm tất cả các loại điều lành, ngươi không làm điều ác. Do đó, chúng tôi nói với ngươi: ‘Ngươi cần gì với đời sống tồi tệ này, vốn bị bệnh tật xâm chiếm, xấu xa, tội lỗi, nhiều đau khổ?’ ‘Cái chết của ngươi tốt hơn đời sống’ nghĩa là cái chết của ngươi tốt đẹp hơn đời sống. Tại sao? Bởi vì từ đây, ngươi mệnh chung, tức là đã đến thời, đã chết. Sau khi thân hoại… (vân vân)… ngươi sẽ tái sanh. Và khi tái sanh như vậy, ở đó, ngươi sẽ được phục vụ, được đầy đủ, được kết hợp, được hội tụ với năm dục lạc thuộc cõi trời, tức là năm loại dục trần như sắc đáng ưa thích và các cảnh khác, đã phát sinh ở cõi trời; ngươi sẽ đi tới đi lui, qua lại, vui hưởng ở đó.

169.Asappāyānīti ahitāni avuḍḍhikarāni yāni khippameva jīvitakkhayaṃ pāpenti.
169. ‘Những điều không thích hợp’ là những điều không lợi ích, không làm tăng trưởng (điều thiện), những điều nhanh chóng dẫn đến sự chấm dứt mạng sống.

Padabhājanīyavaṇṇanā

Sự Giải Thích Phân Tích Từ

172.Sañciccāti ayaṃ ‘‘sañcicca manussaviggaha’’nti mātikāya vuttassa sañciccapadassa uddhāro. Tattha santi upasaggo, tena saddhiṃ ussukkavacanametaṃ sañciccāti ; tassa sañcetetvā suṭṭhu cetetvāti attho. Yasmā pana yo sañcicca voropeti, so jānanto sañjānanto hoti, tañcassa voropanaṃ cecca abhivitaritvā vītikkamo hoti. Tasmā byañjane ādaraṃ akatvā atthameva dassetuṃ ‘‘jānanto sañjānanto cecca abhivitaritvā vītikkamo’’ti evamassa padabhājanaṃ vuttaṃ. Tattha jānantoti ‘‘pāṇo’’ti jānanto. Sañjānantoti ‘‘jīvitā voropemī’’ti sañjānanto; teneva pāṇajānanākārena saddhiṃ jānantoti attho. Ceccāti vadhakacetanāvasena cetetvā pakappetvā. Abhivitaritvāti upakkamavasena maddanto nirāsaṅkacittaṃ pesetvā. Vītikkamoti evaṃ pavattassa yo vītikkamo ayaṃ sañciccasaddassa sikhāppatto atthoti vuttaṃ hoti.
172. (Từ) ‘Cố ý’: Đây là sự trích dẫn từ ‘cố ý’ đã được nói trong đề mục ‘cố ý (giết) hình người’. Trong đó, ‘saṃ’ là một tiếp đầu ngữ; cùng với nó, từ ‘sañcicca’ này là một lời nói về sự cố gắng (có chủ đích); ý nghĩa của nó là ‘sau khi cố ý, sau khi suy nghĩ kỹ’. Bởi vì người nào cố ý tước đoạt mạng sống, người ấy biết, nhận biết; và việc tước đoạt mạng sống ấy của người ấy là một sự vi phạm do cố ý, sau khi suy tính kỹ lưỡng và vượt qua giới hạn. Do đó, không chú trọng đến văn tự mà chỉ để chỉ rõ ý nghĩa, sự phân tích từ của nó đã được nói là: ‘biết, nhận biết, sự vi phạm do cố ý, sau khi suy tính kỹ lưỡng và vượt qua’. Trong đó, ‘biết’ nghĩa là biết rằng ‘đó là chúng sanh có mạng sống’. ‘Nhận biết’ nghĩa là nhận biết rằng ‘tôi đang tước đoạt mạng sống’; có nghĩa là biết (đó là chúng sanh) cùng với cách biết đó. ‘Do cố ý’ nghĩa là sau khi suy nghĩ, sắp đặt bằng ý muốn giết. ‘Sau khi vượt qua’ nghĩa là sau khi sai khiến tâm không do dự, trong khi chà đạp (vượt qua giới hạn) bằng cách cố gắng. ‘Sự vi phạm’ có nghĩa là sự vi phạm nào đã diễn tiến như vậy, đây là ý nghĩa cao tột của từ ‘cố ý’.

Idāni ‘‘manussaviggahaṃ jīvitā voropeyyā’’ti ettha vuttaṃ manussattabhāvaṃ ādito paṭṭhāya dassetuṃ ‘‘manussaviggaho nāmā’’tiādimāha. Tattha gabbhaseyyakānaṃ vasena sabbasukhumaattabhāvadassanatthaṃ ‘‘yaṃ mātukucchismi’’nti vuttaṃ. Paṭhamaṃ cittanti paṭisandhicittaṃ. Uppannanti jātaṃ. Paṭhamaṃ viññāṇaṃ pātubhūtanti idaṃ tasseva vevacanaṃ. ‘‘Mātukucchismiṃ paṭhamaṃ citta’’nti vacanena cettha sakalāpi pañcavokārapaṭisandhi dassitā hoti. Tasmā tañca paṭhamaṃ cittaṃ taṃsampayuttā ca tayo arūpakkhandhā tena saha nibbattañca kalalarūpanti ayaṃ sabbapaṭhamo manussaviggaho. Tattha ‘‘kalalarūpa’’nti itthipurisānaṃ kāyavatthubhāvadasakavasena samatiṃsa rūpāni, napuṃsakānaṃ kāyavatthudasakavasena vīsati. Tattha itthipurisānaṃ kalalarūpaṃ jātiuṇṇāya ekena aṃsunā uddhaṭatelabindumattaṃ hoti acchaṃ vippasannaṃ. Vuttañcetaṃ aṭṭhakathāyaṃ –
Bây giờ, để chỉ rõ bản chất của con người đã được nói ở đây trong câu ‘nếu tước đoạt mạng sống của hình người’, Chú Giải nói bắt đầu bằng ‘Hình người là’. Ở đó, để chỉ rõ bản thể vi tế nhất theo phương diện của những chúng sanh trong bào thai, Chú Giải nói: ‘Cái mà ở trong bụng mẹ’. ‘Tâm đầu tiên’ là tâm tục sinh. ‘Đã sanh’ nghĩa là đã phát sinh. ‘Thức đầu tiên hiện khởi’ là đồng nghĩa với chính nó (tâm đầu tiên). Bằng lời nói ‘tâm đầu tiên ở trong bụng mẹ’, ở đây toàn bộ sự tục sinh trong cõi năm uẩn được chỉ rõ. Do đó, tâm đầu tiên ấy, ba danh uẩn tương ưng với nó, và sắc kalala đã phát sinh cùng với nó – đây là hình người đầu tiên nhất. Trong đó, ‘sắc kalala’ đối với nam và nữ là ba mươi sắc pháp theo cách (nhóm) mười pháp gồm thân, ý vật và tính; đối với người không có giới tính là hai mươi sắc pháp theo cách (nhóm) mười pháp gồm thân và ý vật. Ở đó, sắc kalala của nam và nữ chỉ bằng một giọt dầu được nhấc lên bằng một sợi len mới, trong suốt, rất tinh khiết. Điều này cũng đã được nói trong Chú Giải:

‘‘Tilatelassa yathā bindu, sappimaṇḍo anāvilo;
Evaṃvaṇṇappaṭibhāgaṃ kalalanti pavuccatī’’ti. (vibha. aṭṭha. 26 pakiṇṇakakathā; saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.235);
‘Như giọt dầu mè, như bơ lỏng không vẩn đục;
Sắc kalala được gọi là có màu sắc tương tự như vậy.’ (vibha. aṭṭha. 26 pakiṇṇakakathā; saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.235);

Evaṃ parittakaṃ vatthuṃ ādiṃ katvā pakatiyā vīsavassasatāyukassa sattassa yāva maraṇakālā etthantare anupubbena vuḍḍhippatto attabhāvo eso manussaviggaho nāma.
Bắt đầu từ một vật nhỏ bé như vậy, bản thể đã đạt đến sự tăng trưởng tuần tự của một chúng sanh thường có tuổi thọ một trăm hai mươi năm, cho đến lúc chết, trong khoảng thời gian đó – đó được gọi là hình người.

Jīvitāvoropeyyāti kalalakālepi tāpanamaddanehi vā bhesajjasampadānena vā tato vā uddhampi tadanurūpena upakkamena jīvitā viyojeyyāti attho. Yasmā pana jīvitā voropanaṃ nāma atthato jīvitindriyupacchedanameva hoti, tasmā etassa padabhājane ‘‘jīvitindriyaṃ upacchindati uparodheti santatiṃ vikopetī’’ti vuttaṃ. Tattha jīvitindriyassa paveṇighaṭanaṃ upacchindanto uparodhento ca ‘‘jīvitindriyaṃ upacchindati uparodhetī’’ti vuccati. Svāyamattho ‘‘santatiṃ vikopetī’’tipadena dassito. Vikopetīti viyojeti.
‘Nếu tước đoạt mạng sống’ có nghĩa là nếu làm cho tách rời khỏi mạng sống bằng phương tiện tương ứng, ngay cả trong giai đoạn kalala bằng cách làm nóng, làm nát, hoặc bằng cách cho thuốc, hoặc từ đó trở đi. Bởi vì việc tước đoạt mạng sống, về mặt ý nghĩa, chính là sự cắt đứt mạng quyền, do đó, trong phần phân tích từ của nó, đã nói: ‘Cắt đứt mạng quyền, ngăn chặn mạng quyền, làm tổn hại dòng sinh mạng’. Ở đó, người cắt đứt và ngăn chặn sự nối tiếp của dòng mạng quyền được gọi là ‘người cắt đứt mạng quyền, ngăn chặn mạng quyền’. Ý nghĩa này được chỉ rõ bằng cụm từ ‘làm tổn hại dòng sinh mạng’. ‘Làm tổn hại’ nghĩa là làm cho tách rời.

Tattha duvidhaṃ jīvitindriyaṃ – rūpajīvitindriyaṃ, arūpajīvitindriyañca. Tesu arūpajīvitindriye upakkamo natthi, taṃ voropetuṃ na sakkā. Rūpajīvitindriye pana atthi, taṃ voropetuṃ sakkā. Taṃ pana voropento arūpajīvitindriyampi voropeti. Teneva hi saddhiṃ taṃ nirujjhati tadāyattavuttito. Taṃ pana voropento kiṃ atītaṃ voropeti, anāgataṃ, paccuppannanti? Neva atītaṃ, na anāgataṃ, tesu hi ekaṃ niruddhaṃ ekaṃ anuppannanti ubhapampi asantaṃ, asantattā upakkamo natthi, upakkamassa natthitāya ekampi voropetuṃ na sakkā. Vuttampi cetaṃ –
Ở đó, mạng quyền có hai loại: sắc mạng quyền và danh mạng quyền. Trong số đó, không có sự cố gắng (để làm hại) đối với danh mạng quyền; không thể tước đoạt nó. Nhưng đối với sắc mạng quyền thì có thể cố gắng (để làm hại); có thể tước đoạt nó. Nhưng khi tước đoạt sắc mạng quyền, người ấy cũng tước đoạt cả danh mạng quyền. Quả vậy, danh mạng quyền diệt cùng với chính sắc mạng quyền do sự diễn tiến của nó phụ thuộc vào sắc mạng quyền. Nhưng khi tước đoạt mạng quyền, người ấy tước đoạt mạng quyền quá khứ, vị lai, hay hiện tại? Không phải quá khứ, không phải vị lai; vì trong số đó, một đã diệt, một chưa sanh, nên cả hai đều không hiện hữu. Do không hiện hữu, nên không có sự cố gắng (để làm hại); do không có sự cố gắng, nên không thể tước đoạt cái nào cả (trong quá khứ hay vị lai). Điều này cũng đã được nói:

‘‘Atīte cittakkhaṇe jīvittha, na jīvati; na jīvissati. Anāgate cittakkhaṇe jīvissati, na jīvittha; na jīvati. Paccuppanne cittakkhaṇe jīvati, na jīvittha; na jīvissatī’’ti (mahāni. 10).
‘Trong sát-na tâm quá khứ, chúng sanh đã sống, không đang sống, không sẽ sống. Trong sát-na tâm vị lai, chúng sanh sẽ sống, không đã sống, không đang sống. Trong sát-na tâm hiện tại, chúng sanh đang sống, không đã sống, không sẽ sống.’ (mahāni. 10).

Tasmā yattha jīvati tattha upakkamo yuttoti paccuppannaṃ voropeti.
Do đó, sự cố gắng (để làm hại) là thích hợp ở nơi nào chúng sanh đang sống, cho nên người ấy tước đoạt mạng quyền hiện tại.

Paccuppannañca nāmetaṃ khaṇapaccuppannaṃ, santatipaccuppannaṃ, addhāpaccuppannanti tividhaṃ. Tattha ‘‘khaṇapaccuppannaṃ’’ nāma uppādajarābhaṅgasamaṅgi, taṃ voropetuṃ na sakkā. Kasmā? Sayameva nirujjhanato. ‘‘Santatipaccuppannaṃ’’ nāma sattaṭṭhajavanavāramattaṃ sabhāgasantativasena pavattitvā nirujjhanakaṃ, yāva vā uṇhato āgantvā ovarakaṃ pavisitvā nisinnassa andhakāraṃ hoti, sītato vā āgantvā ovarake nisinnassa yāva visabhāgautupātubhāvena purimako utu nappaṭippassambhati, etthantare ‘‘santatipaccuppanna’’nti vuccati . Paṭisandhito pana yāva cuti, etaṃ ‘‘addhāpaccuppannaṃ’’ nāma. Tadubhayampi voropetuṃ sakkā. Kathaṃ? Tasmiñhi upakkame kate laddhupakkamaṃ jīvitanavakaṃ nirujjhamānaṃ dubbalassa parihīnavegassa santānassa paccayo hoti. Tato santatipaccuppannaṃ vā addhāpaccuppannaṃ vā yathāparicchinnaṃ kālaṃ apatvā antarāva nirujjhati . Evaṃ tadubhayampi voropetuṃ sakkā, tasmā tadeva sandhāya ‘‘santatiṃ vikopetī’’ti idaṃ vuttanti veditabbaṃ.
Hiện tại này có ba loại: sát-na hiện tại, dòng tương tục hiện tại, và thời gian hiện tại. Trong đó, ‘sát-na hiện tại’ bao gồm sanh, trụ (già), và diệt; không thể tước đoạt nó. Tại sao? Vì nó tự diệt. ‘Dòng tương tục hiện tại’ là cái diễn tiến rồi diệt theo cách dòng tương tục đồng loại, chỉ khoảng bảy hoặc tám sát-na tốc hành tâm; hoặc là, đối với người từ nơi nóng đến, vào phòng kín rồi ngồi, cho đến khi mắt quen với bóng tối; hoặc đối với người từ nơi lạnh đến, ngồi trong phòng kín, cho đến khi thời tiết trước chưa lắng dịu do sự hiện khởi của thời tiết không tương ứng – khoảng thời gian giữa đó được gọi là ‘dòng tương tục hiện tại’. Còn từ lúc tục sinh cho đến lúc chết, đây được gọi là ‘thời gian hiện tại’. Cả hai loại đó (dòng tương tục hiện tại và thời gian hiện tại) đều có thể bị tước đoạt. Thế nào? Khi sự cố gắng (để làm hại) được thực hiện đối với nó, chín pháp sinh mạng bị tác động, khi đang diệt, trở thành duyên cho dòng tương tục yếu ớt, đã suy giảm tốc lực. Do đó, dòng tương tục hiện tại hoặc thời gian hiện tại không đạt đến thời gian đã được xác định (tuổi thọ tự nhiên) mà diệt ở giữa chừng. Như vậy, cả hai loại đó đều có thể bị tước đoạt; do đó, cần hiểu rằng câu ‘làm tổn hại dòng sinh mạng’ này được nói nhắm đến chính điều đó.

Imassa panatthassa āvibhāvatthaṃ pāṇo veditabbo, pāṇātipāto veditabbo, pāṇātipāti veditabbo, pāṇātipātassa payogo veditabbo. Tattha ‘‘pāṇo’’ti vohārato satto, paramatthato jīvitindriyaṃ. Jīvitindriyañhi atipātento ‘‘pāṇaṃ atipātetī’’ti vuccati taṃ vuttappakārameva. ‘‘Pāṇātipāto’’ti yāya cetanāya jīvitindriyupacchedakaṃ payogaṃ samuṭṭhāpeti, sā vadhakacetanā ‘‘pāṇātipāto’’ti vuccati. ‘‘Pāṇātipātī’’ti vuttacetanāsamaṅgi puggalo daṭṭhabbo. ‘‘Pāṇātipātassa payogo’’ti pāṇātipātassa chapayogā – sāhatthiko, āṇattiko, nissaggiyo, thāvaro, vijjāmayo, iddhimayoti.
Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, cần hiểu về chúng sanh (hay mạng sống), sự sát sanh, người sát sanh, và phương tiện sát sanh. Trong đó, ‘chúng sanh (mạng sống)’ theo quy ước là chúng sanh, theo nghĩa chân đế là mạng quyền. Quả vậy, người làm tổn hại mạng quyền được gọi là ‘người làm tổn hại mạng sống’ theo cách đã nói. ‘Sự sát sanh’ là tư tâm giết hại nào làm phát sinh phương tiện cắt đứt mạng quyền, tư tâm giết hại đó được gọi là ‘sự sát sanh’. ‘Người sát sanh’ cần được hiểu là người có tư tâm đã nói. ‘Phương tiện sát sanh’ là sáu phương tiện sát sanh: tự tay, ra lệnh, ném (vũ khí), (phương tiện) cố định, bằng thần chú, và bằng thần thông.

Tattha ‘‘sāhatthiko’’ti sayaṃ mārentassa kāyena vā kāyappaṭibaddhena vā paharaṇaṃ. ‘‘Āṇattiko’’ti aññaṃ āṇāpentassa ‘‘evaṃ vijjhitvā vā paharitvā vā mārehī’’ti āṇāpanaṃ. ‘‘Nissaggiyo’’ti dūre ṭhitaṃ māretukāmassa kāyena vā kāyappaṭibaddhena vā ususattiyantapāsāṇādīnaṃ nissajjanaṃ. ‘‘Thāvaro’’ti asañcārimena upakaraṇena māretukāmassa opātaapassenaupanikkhipanaṃ bhesajjasaṃvidhānaṃ. Te cattāropi parato pāḷivaṇṇanāyameva vitthārato āvibhavissanti.
Trong đó, ‘tự tay’ là sự đánh đập bằng thân hoặc bằng vật liên hệ đến thân của người tự mình giết. ‘Ra lệnh’ là sự ra lệnh của người sai khiến người khác: ‘Hãy giết bằng cách đâm hoặc đánh như vậy’. ‘Ném (vũ khí)’ là sự phóng cung tên, lao, máy móc, đá, và các vật tương tự, bằng thân hoặc bằng vật liên hệ đến thân của người muốn giết chúng sanh ở xa. ‘(Phương tiện) cố định’ là sự đào hầm bẫy, đặt vật dựa, đặt gần, sự sắp đặt thuốc độc của người muốn giết bằng phương tiện không di chuyển. Cả bốn loại đó sẽ được làm sáng tỏ một cách chi tiết trong phần giải thích Pāḷi ở sau.

Vijjāmayaiddhimayā pana pāḷiyaṃ anāgatā. Te evaṃ veditabbā. Saṅkhepato hi māraṇatthaṃ vijjāparijappanaṃ vijjāmayo payogo. Aṭṭhakathāsu pana ‘‘katamo vijjāmayo payogo? Āthabbaṇikā āthabbaṇaṃ payojenti; nagare vā ruddhe saṅgāme vā paccupaṭṭhite paṭisenāya paccatthikesu paccāmittesu ītiṃ uppādenti, upaddavaṃ uppādenti, rogaṃ uppādenti, pajjarakaṃ uppādenti, sūcikaṃ karonti, visūcikaṃ karonti, pakkhandiyaṃ karonti. Evaṃ āthabbaṇikā āthabbaṇaṃ payojenti. Vijjādhārā vijjaṃ parivattetvā nagare vā ruddhe…pe… pakkhandiyaṃ karontī’’ti evaṃ vijjāmayaṃ payogaṃ dassetvā āthabbaṇikehi ca vijjādharehi ca māritānaṃ bahūni vatthūni vuttāni, kiṃ tehi! Idañhettha lakkhaṇaṃ māraṇāya vijjāparijappanaṃ vijjāmayo payogoti.
Còn phương tiện bằng thần chú và bằng thần thông thì không được đề cập trong Pāḷi kinh điển. Chúng cần được hiểu như sau. Tóm lại, phương tiện bằng thần chú là sự niệm chú nhằm mục đích giết hại. Nhưng trong các Chú Giải đã nói: ‘Phương tiện bằng thần chú là gì? Những người dùng bùa chú Atharva sử dụng bùa chú Atharva; khi thành bị bao vây hoặc khi trận chiến xảy ra, họ làm phát sinh tai họa, tai ương, bệnh tật, bệnh nóng sốt, làm cho kẻ địch bị đau nhói, bị thổ tả, bị kiết lỵ đối với quân địch, kẻ thù, kẻ đối nghịch. Như vậy, những người dùng bùa chú Atharva sử dụng bùa chú Atharva. Những người giữ chú thuật xoay chuyển chú thuật, khi thành bị bao vây… (vân vân)… làm cho kẻ địch bị kiết lỵ.’ Sau khi chỉ rõ phương tiện bằng thần chú như vậy, nhiều sự việc về những người bị giết bởi những người dùng bùa chú Atharva và những người giữ chú thuật đã được nói, nhưng cần gì đến chúng ở đây! Đây là đặc điểm chính: sự niệm chú để giết hại là phương tiện bằng thần chú.

Kammavipākajāya iddhiyā payojanaṃ iddhimayo payogo. Kammavipākajiddhi ca nāmesā nāgānaṃ nāgiddhi, supaṇṇānaṃ supaṇṇiddhi, yakkhānaṃ yakkhiddhi, devānaṃ deviddhi, rājūnaṃ rājiddhīti bahuvidhā. Tattha diṭṭhadaṭṭhaphuṭṭhavisānaṃ nāgānaṃ disvā ḍaṃsitvā phusitvā ca parūpaghātakaraṇe ‘‘nāgiddhi’’ veditabbā. Supaṇṇānaṃ mahāsamuddato dvattibyāmasatappamāṇanāguddharaṇe ‘‘supaṇṇiddhi’’ veditabbā. Yakkhā pana neva āgacchantā na paharantā dissanti, tehi pahaṭasattā pana tasmiṃyeva ṭhāne maranti, tatra tesaṃ ‘‘yakkhiddhi’’ daṭṭhabbā. Vessavaṇassa sotāpannakālato pubbe nayanāvudhena olokitakumbhaṇḍānaṃ maraṇe aññesañca devānaṃ yathāsakaṃ iddhānubhāve ‘‘deviddhi’’ veditabbā. Rañño cakkavattissa saparisassa ākāsagamanādīsu, asokassa heṭṭhā upari ca yojane āṇāpavattanādīsu, piturañño ca sīhaḷanarindassa dāṭhākoṭanena cūḷasumanakuṭumbiyassamaraṇe ‘‘rājiddhi’’ daṭṭhabbāti.
Phương tiện bằng thần thông là việc sử dụng thần thông do quả của nghiệp. Thần thông do quả của nghiệp này có nhiều loại: thần thông của rồng là thần thông rồng, thần thông của chim kim xí điểu là thần thông kim xí điểu, thần thông của dạ xoa là thần thông dạ xoa, thần thông của chư thiên là thần thông chư thiên, thần thông của vua là thần thông vua. Trong đó, đối với các loài rồng có nọc độc do nhìn, cắn, và chạm, trong việc làm hại người khác bằng cách nhìn, cắn, và chạm, cần được hiểu là ‘thần thông rồng’. Đối với chim kim xí điểu, trong việc bắt rồng dài một trăm hai ba sải tay từ biển lớn, cần được hiểu là ‘thần thông kim xí điểu’. Còn các dạ xoa thì không thấy đi tới cũng không thấy tấn công, nhưng chúng sanh bị chúng tấn công thì chết ngay tại chỗ đó; ở đó, cần được xem là ‘thần thông dạ xoa’ của chúng. Trong việc vua Vessavaṇa, trước khi chứng quả Tu-đà-hoàn, làm cho các quỷ kumbhaṇḍa bị nhìn bằng vũ khí là ánh mắt phải chết, và trong năng lực thần thông tương ứng của các vị trời khác, cần được hiểu là ‘thần thông chư thiên’. Trong việc vua Chuyển Luân cùng đoàn tùy tùng đi trên hư không và các việc tương tự; trong việc vua A-dục làm cho mệnh lệnh có hiệu lực trong phạm vi một do-tuần ở dưới và ở trên và các việc tương tự; và trong việc vua cha, vua của xứ Sīhaḷa (Tích Lan), làm cho gia chủ Cūḷasumana chết bằng việc nghiến răng, cần được xem là ‘thần thông vua’.

Keci pana ‘‘puna caparaṃ, bhikkhave, samaṇo vā brāhmaṇo vā iddhimā cetovasippatto aññissā kucchigataṃ gabbhaṃ pāpakena manasāanupekkhitā hoti ‘aho vatāyaṃ kucchigato gabbho na sotthinā abhinikkhameyyā’ti. Evampi bhikkhave kulumbassa upaghāto hotī’’ti ādikāni suttāni dassetvā bhāvanāmayiddhiyāpi parūpaghātakammaṃ vadanti; saha parūpaghātakaraṇena ca ādittagharūparikhittassa udakaghaṭassa bhedanamiva iddhivināsañca icchanti; taṃ tesaṃ icchāmattameva. Kasmā? Yasmā kusalavedanāvitakkaparittattikehi na sameti. Kathaṃ? Ayañhi bhāvanāmayiddhi nāma kusalattike kusalā ceva abyākatā ca, pāṇātipāto akusalo. Vedanāttike adukkhamasukhasampayuttā pāṇātipāto dukkhasampayutto. Vitakkattike avitakkāvicārā, pāṇātipāto savitakkasavicāro. Parittattike mahaggatā, pāṇātipāto parittoti.
Một số vị khác, trích dẫn các kinh bắt đầu bằng: ‘Lại nữa, này các Tỳ khưu, một Sa-môn hay Bà-la-môn có thần thông, đã thuần thục tâm, nhìn thai nhi trong bụng của người phụ nữ khác với tâm ác ý rằng: “Mong sao thai nhi trong bụng này không được sanh ra an toàn!” Này các Tỳ khưu, như vậy cũng là sự làm hại thai nhi’, rồi nói rằng ngay cả bằng thần thông do tu tập cũng có thể làm việc hại người khác. Và họ muốn nói rằng cùng với việc làm hại người khác, thần thông cũng bị hủy hoại, giống như việc vỡ bình nước đặt trên ngôi nhà đang cháy. Đó chỉ là ý muốn của họ mà thôi. Tại sao? Bởi vì việc sát sanh không tương hợp với ba nhóm pháp là thiện, thọ, tầm, và với pháp nhỏ (Dục giới, trong khi thần thông thuộc các cõi cao hơn). Thế nào? Thần thông do tu tập này, trong nhóm ba pháp thiện, là thiện và vô ký; còn sự sát sanh là bất thiện. Trong nhóm ba pháp thọ, thần thông tương ưng với không khổ không lạc (xả thọ); còn sự sát sanh tương ưng với khổ. Trong nhóm ba pháp tầm, thần thông (ở các tầng thiền cao) không tầm không tứ; còn sự sát sanh có tầm có tứ. Trong nhóm ba pháp nhỏ (Dục giới), thần thông là pháp lớn lao (thuộc Sắc giới, Vô Sắc giới); còn sự sát sanh là pháp nhỏ (thuộc Dục giới).

Satthahārakaṃ vāssa pariyeseyyāti ettha haratīti hārakaṃ. Kiṃ harati? Jīvitaṃ. Atha vā haritabbanti hārakaṃ; upanikkhipitabbanti attho. Satthañca taṃ hārakañcāti satthahārakaṃ. Assāti manussaviggahassa. Pariyeseyyāti yathā labhati tathā kareyya; upanikkhipeyyāti attho. Etena thāvarappayogaṃ dasseti. Itarathā hi pariyiṭṭhamatteneva pārājiko bhaveyya; na cetaṃ yuttaṃ. Pāḷiyaṃ pana sabbaṃ byañjanaṃ anādiyitvā yaṃ ettha thāvarappayogasaṅgahitaṃ satthaṃ, tadeva dassetuṃ ‘‘asiṃ vā…pe… rajjuṃ vā’’ti padabhājanaṃ vuttaṃ.
Trong câu ‘Hoặc tìm kiếm vật mang đến cái chết (vũ khí) cho người ấy’, ở đây, từ ‘vật mang đến’ (hāraka) là vì nó mang đi. Mang đi cái gì? Mạng sống. Hoặc là, gọi là ‘vật mang đến’ vì nó cần được mang đến; có nghĩa là cần được đặt gần. ‘Vũ khí’ (sattha) và ‘vật mang đến’ đó là vật mang đến cái chết là vũ khí. ‘Cho người ấy’ nghĩa là cho hình người. ‘Nếu tìm kiếm’ nghĩa là nếu làm sao cho người ấy nhận được; có nghĩa là nếu đặt gần. Bằng điều này, Đức Phật chỉ rõ phương tiện cố định (một trong các cách giết người). Nếu không, chỉ bằng việc tìm kiếm thôi cũng sẽ phạm tội Bất Cộng Trụ; điều đó không hợp lý. Nhưng trong Pāḷi kinh điển, không lấy tất cả văn tự, mà chỉ để chỉ rõ vũ khí nào được bao gồm trong phương tiện cố định ở đây, sự phân tích từ đã được nói là: ‘Hoặc gươm… (vân vân)… hoặc dây thừng’.

Tattha satthanti vuttāvasesaṃ yaṃkiñci samukhaṃ veditabbaṃ. Laguḷapāsāṇavisarajjūnañca jīvitavināsanabhāvato satthasaṅgaho veditabbo. Maraṇavaṇṇaṃvāti ettha yasmā ‘‘kiṃ tuyhiminā pāpakena dujjīvitena, yo tvaṃ na labhasi paṇītāni bhojanāni bhuñjitu’’ntiādinā nayena jīvite ādīnavaṃ dassentopi ‘‘tvaṃ khosi upāsaka katakalyāṇo…pe… akataṃ tayā pāpaṃ, mataṃ te jīvitā seyyo, ito tvaṃ kālaṅkato paricarissasi accharāparivuto nandanavane sukhappatto viharissasī’’tiādinā nayena maraṇe vaṇṇaṃ bhaṇantopi maraṇavaṇṇameva saṃvaṇṇeti. Tasmā dvidhā bhinditvā padabhājanaṃ vuttaṃ – ‘‘jīvite ādīnavaṃ dasseti, maraṇe vaṇṇaṃ bhaṇatī’’ti.
Ở đó, từ ‘vũ khí’ cần được hiểu là bất cứ thứ gì có mũi nhọn hoặc cạnh sắc, ngoài những thứ đã được kể. Gậy, đá, thuốc độc, và dây thừng cũng cần được hiểu là bao gồm trong khái niệm vũ khí do có tính chất hủy hoại mạng sống. Còn ở cụm từ ‘hoặc sự tán thán cái chết’, ở đây, bởi vì ngay cả người chỉ ra sự nguy hại trong đời sống theo cách nói bắt đầu bằng: ‘Ngươi cần gì với đời sống tội lỗi, tồi tệ này, ngươi là người không được hưởng những món ăn ngon?’ và người ca ngợi cái chết theo cách nói bắt đầu bằng: ‘Ngươi quả là một người cận sự nam đã làm điều lành… (vân vân)… ngươi không làm điều ác, cái chết của ngươi tốt hơn đời sống, từ đây, sau khi mệnh chung, ngươi sẽ được phục vụ, được các tiên nữ vây quanh, sống hạnh phúc trong vườn Nandana’ – cả hai trường hợp đều là tán thán cái chết. Do đó, sự phân tích từ đã được nói bằng cách chia làm hai: ‘chỉ ra sự nguy hại trong đời sống, ca ngợi cái chết’.

Maraṇāya vā samādapeyyāti maraṇatthāya upāyaṃ gāhāpeyya. Satthaṃ vā āharāti ādīsu ca yampi na vuttaṃ ‘‘sobbhe vā narake vā papāte vā papatā’’tiādi, taṃ sabbaṃ parato vuttanayattā atthato vuttamevāti veditabbaṃ. Na hi sakkā sabbaṃ sarūpeneva vattuṃ.
Câu ‘Hoặc khích lệ chết’ nghĩa là nếu làm cho người khác chấp nhận phương tiện để chết. Còn trong các câu bắt đầu bằng ‘Hoặc mang vũ khí đến’, những gì không được nói, như ‘Hãy nhảy xuống hố, hoặc xuống địa ngục, hoặc xuống vực thẳm’, và các câu tương tự, tất cả những điều đó cần được hiểu là đã được nói về mặt ý nghĩa do phương pháp đã được trình bày ở sau. Quả vậy, không thể nói tất cả bằng chính hình thức nguyên văn của chúng.

Iticittamanoti iticitto itimano; ‘‘mataṃ te jīvitā seyyo’’ti ettha vuttamaraṇacitto maraṇamanoti attho. Yasmā panettha mano cittasaddassa atthadīpanatthaṃ vutto, atthato panetaṃ ubhayampi ekameva, tasmā tassa atthato abhedaṃ dassetuṃ ‘‘yaṃ cittaṃ taṃ mano, yaṃ mano taṃ citta’’nti vuttaṃ. Itisaddaṃ pana uddharitvāpi na tāva attho vutto. Cittasaṅkappoti imasmiṃ pade adhikāravasena itisaddo āharitabbo. Idañhi ‘‘iticittasaṅkappo’’ti evaṃ avuttampi adhikārato vuttameva hotīti veditabbaṃ. Tathā hissa tamevaatthaṃ dassento ‘‘maraṇasaññī’’tiādimāha. Yasmā cettha ‘‘saṅkappo’’ti nayidaṃ vitakkassa nāmaṃ. Atha kho saṃvidahanamattassetaṃ adhivacanaṃ. Tañca saṃvidahanaṃ imasmiṃ atthe saññācetanādhippāyehi saṅgahaṃ gacchati. Tasmā citto nānappakārako saṅkappo assāti cittasaṅkappoti evamattho daṭṭhabbo. Tathā hissa padabhājanampi saññācetanādhippāyavasena vuttaṃ. Ettha ca ‘‘adhippāyo’’ti vitakko veditabbo.
(Cụm từ) ‘Tâm và ý như vậy’ nghĩa là tâm như vậy, ý như vậy; có nghĩa là tâm muốn chết, ý muốn chết đã được nói ở đây trong câu ‘cái chết của ngươi tốt hơn đời sống’. Bởi vì ở đây, ý được nói để làm sáng tỏ ý nghĩa của tâm, nhưng về mặt ý nghĩa thì cả hai chỉ là một. Do đó, để chỉ rõ sự không khác biệt về mặt ý nghĩa của nó, đã nói: ‘Cái gì là tâm, cái đó là ý; cái gì là ý, cái đó là tâm’. Nhưng ngay cả khi trích dẫn từ ‘iti’ (như vậy), ý nghĩa vẫn chưa được nói rõ. Trong từ ‘ý định của tâm’ này, từ ‘iti’ (như vậy) cần được hiểu ngầm theo bối cảnh. Cần hiểu rằng, điều này, ngay cả khi không được nói là ‘ý định của tâm như vậy’, thì cũng đã được nói theo bối cảnh rồi. Cũng vậy, để chỉ rõ chính ý nghĩa ấy của nó, Chú Giải nói bắt đầu bằng ‘người có tưởng muốn chết’. Bởi vì ở đây, ‘ý định’ (saṅkappa) không phải là tên gọi của tầm (vitakka). Mà nó chỉ là tên gọi của sự sắp đặt. Và sự sắp đặt đó, trong ý nghĩa này, được bao gồm bằng tưởng, tư, và chủ ý (adhippāya). Do đó, cần hiểu ý nghĩa là: tâm có nhiều loại ý định khác nhau, đó là ý định của tâm. Cũng vậy, sự phân tích từ của nó cũng được nói theo tưởng, tư, và chủ ý. Và ở đây, ‘chủ ý’ (adhippāya) cần được hiểu là tầm.

Uccāvacehi ākārehīti mahantāmahantehi upāyehi. Tattha maraṇavaṇṇasaṃvaṇṇane tāva jīvite ādīnavadassanavasena avacākāratā maraṇe vaṇṇabhaṇanavasena uccākāratā veditabbā. Samādapane pana muṭṭhijāṇunipphoṭanādīhi maraṇasamādapanavasena uccākāratā, ekato bhuñjantassa nakhe visaṃ pakkhipitvā maraṇādisamādapanavasena avacākāratā veditabbā.
Cụm từ ‘Bằng nhiều cách cao thấp’ nghĩa là bằng các phương tiện lớn nhỏ khác nhau. Ở đó, trong việc tán thán cái chết, cần hiểu tính chất thấp là theo cách chỉ ra sự nguy hại trong đời sống, và tính chất cao là theo cách ca ngợi cái chết. Còn trong việc khích lệ chết, cần hiểu tính chất cao là theo cách khích lệ chết bằng việc bẻ nắm tay, đầu gối, và các hành động tương tự; và tính chất thấp là theo cách khích lệ chết và các hành động tương tự bằng việc bỏ thuốc độc vào móng tay của người đang ăn chung.

Sobbhe vā narake vā papāte vāti ettha sobbho nāma samantato chinnataṭo gambhīro āvāṭo. Narako nāma tattha tattha phalantiyā bhūmiyā sayameva nibbattā mahādarī, yattha hatthīpi patanti, corāpi nilīnā tiṭṭhanti. Papātoti pabbatantare vā thalantare vā ekato chinno hoti. Purime upādāyāti methunaṃ dhammaṃ paṭisevitvā adinnañca ādiyitvā pārājikaṃ āpattiṃ āpanne puggale upādāya. Sesaṃ pubbe vuttanayattā uttānatthattā ca pākaṭamevāti.
Trong cụm từ ‘Hoặc trong hố, hoặc trong địa ngục (khe nứt), hoặc trong vực thẳm’, ở đây, ‘hố’ là một cái hố sâu có bờ bị cắt đứng xung quanh. ‘Địa ngục (khe nứt)’ là một khe nứt lớn tự nhiên hình thành trên mặt đất bị nứt nẻ đây đó, nơi mà voi cũng có thể rơi xuống, và trộm cướp cũng ẩn náu. ‘Vực thẳm’ là nơi bị cắt đứt một bên giữa núi hoặc giữa đất liền. Cụm từ ‘Kể từ những người trước’ là kể từ những người đã phạm tội Bất Cộng Trụ do hành dâm và lấy của không cho. Phần còn lại thì rõ ràng do phương pháp đã được nói ở trước và do ý nghĩa dễ hiểu.

174. Evaṃ uddiṭṭhasikkhāpadaṃ padānukkamena vibhajitvā idāni yasmā heṭṭhā padabhājanīyamhi saṅkhepeneva manussaviggahapārājikaṃ dassitaṃ, na vitthārena āpattiṃ āropetvā tanti ṭhapitā. Saṅkhepadassite ca atthe na sabbākāreneva bhikkhū nayaṃ gahetuṃ sakkonti, anāgate ca pāpapuggalānampi okāso hoti, tasmā bhikkhūnañca sabbākārena nayaggahaṇatthaṃ anāgate ca pāpapuggalānaṃ okāsapaṭibāhanatthaṃ puna ‘‘sāmaṃ adhiṭṭhāyā’’tiādinā nayena mātikaṃ ṭhapetvā vitthārato manussaviggahapārājikaṃ dassento ‘‘sāmanti sayaṃ hanatī’’tiādimāha.
174. Sau khi đã phân tích điều học đã được nêu lên theo thứ tự từng từ như vậy, bây giờ, bởi vì ở dưới, trong phần phân tích từ, tội Bất Cộng Trụ do giết hình người chỉ được chỉ rõ một cách tóm tắt, truyền thống luật chưa được thiết lập bằng cách quy tội một cách chi tiết. Và khi ý nghĩa được chỉ rõ một cách tóm tắt, các Tỳ khưu không thể nắm bắt phương pháp về mọi phương diện, và trong tương lai cũng có cơ hội cho những kẻ ác. Do đó, để các Tỳ khưu nắm bắt phương pháp về mọi phương diện và để ngăn chặn cơ hội phạm lỗi của những kẻ ác trong tương lai, sau khi lại thiết lập đề mục theo phương pháp bắt đầu bằng ‘Sau khi tự mình quyết định’, Chú Giải chỉ rõ tội Bất Cộng Trụ do giết hình người một cách chi tiết, nói bắt đầu bằng: ‘“Tự mình” nghĩa là tự mình giết’.

Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanāya saddhiṃ vinicchayakathā – kāyenāti hatthena vā pādena vā muṭṭhinā vā jāṇunā vā yena kenaci aṅgapaccaṅgena. Kāyapaṭibaddhenāti kāyato amocitena asiādinā paharaṇena. Nissaggiyenāti kāyato ca kāyapaṭibaddhato ca mocitena ususattiādinā. Ettāvatā sāhatthiko ca nissaggiyo cāti dve payogā vuttā honti.
Ở đây, đây là lời bàn về sự phân xử cùng với sự giải thích các từ không rõ ràng: ‘Bằng thân’ nghĩa là bằng tay, hoặc bằng chân, hoặc bằng nắm tay, hoặc bằng đầu gối, hoặc bằng bất kỳ bộ phận nào của thân. ‘Bằng vật liên hệ đến thân’ nghĩa là bằng sự đánh đập bằng gươm và các vật tương tự, không tách rời khỏi thân. ‘Bằng (vật) được ném đi’ nghĩa là bằng cung tên, lao, và các vật tương tự, được tách rời khỏi thân và khỏi vật liên hệ đến thân. Đến đây, hai phương tiện là tự tay và ném đã được nói.

Tattha ekameko uddissānuddissabhedato duvidho. Tattha uddesike yaṃ uddissa paharati, tasseva maraṇena kammunā bajjhati. ‘‘Yo koci maratū’’ti evaṃ anuddesike pahārappaccayā yassa kassaci maraṇena kammunā bajjhati. Ubhayathāpi ca paharitamatte vā maratu pacchā vā teneva rogena, paharitamatteyeva kammunā bajjhati. Maraṇādhippāyena ca pahāraṃ datvā tena amatassa puna aññacittena pahāre dinne pacchāpi yadi paṭhamappahāreneva marati, tadā eva kammunā baddho. Atha dutiyappahārena marati, natthi pāṇātipāto. Ubhayehi matepi paṭhamappahāreneva kammunā baddho. Ubhayehi amate nevatthi pāṇātipāto. Esa nayo bahūhipi ekassa pahāre dinne. Tatrāpi hi yassa pahārena marati, tasseva kammunā baddho hotīti.
Ở đó, mỗi loại có hai nhánh do sự phân biệt có chủ đích (nhắm vào một đối tượng cụ thể) và không có chủ đích. Ở đó, trong trường hợp có chủ đích, người ấy đánh nhắm vào ai, thì bị trói buộc bởi nghiệp do cái chết của chính người đó. Trong trường hợp không có chủ đích nhắm vào một người cụ thể, nếu nói ‘Ai đó chết đi!’, thì do duyên là sự đánh đập, người ấy bị trói buộc bởi nghiệp do cái chết của bất kỳ ai (bị trúng đòn). Và trong cả hai trường hợp, dù nạn nhân chết ngay khi bị đánh hoặc chết sau đó do chính bệnh gây ra bởi cú đánh ấy, người đánh bị trói buộc bởi nghiệp ngay khi đánh. Và sau khi đánh với ý định giết, nếu người đó không chết, rồi lại đánh với tâm khác (không có ý định giết), sau đó nếu nạn nhân chết do chính cú đánh đầu tiên, thì chỉ bị trói buộc bởi nghiệp do cú đánh đầu. Nếu chết do cú đánh thứ hai (không có ý định giết), thì không có tội sát sanh (do cú đánh đầu). Ngay cả khi chết do cả hai cú đánh, nếu cú đánh đầu có ý định giết và là nguyên nhân chính, thì bị trói buộc bởi nghiệp do chính cú đánh đầu tiên. Nếu không chết do cả hai cú đánh, thì không có tội sát sanh. Phương pháp này cũng áp dụng khi nhiều người đánh một người. Quả vậy, ở đó cũng vậy, nạn nhân chết do cú đánh của ai, thì chính người đó bị trói buộc bởi nghiệp.

Kammāpattibyattibhāvatthañcettha eḷakacatukkampi veditabbaṃ. Yo hi eḷakaṃ ekasmiṃ ṭhāne nipannaṃ upadhāreti ‘‘rattiṃ āgantvā vadhissāmī’’ti. Eḷakassa ca nipannokāse tassa mātā vā pitā vā arahā vā paṇḍukāsāvaṃ pārupitvā nipanno hoti. So rattibhāge āgantvā ‘‘eḷakaṃ māremī’’ti mātaraṃ vā pitaraṃ vā arahantaṃ vā māreti. ‘‘Imaṃ vatthuṃ māremī’’ti cetanāya atthibhāvato ghātako ca hoti, anantariyakammañca phusati, pārājikañca āpajjati . Añño koci āgantuko nipanno hoti , ‘‘eḷakaṃ māremī’’ti taṃ māreti, ghātako ca hoti pārājikañca āpajjati, ānantariyaṃ na phusati. Yakkho vā peto vā nipanno hoti, ‘‘eḷakaṃ māremī’’ti taṃ māreti ghātakova hoti, na cānantariyaṃ phusati, na ca pārājikaṃ āpajjati, thullaccayaṃ pana hoti. Añño koci nipanno natthi, eḷakova hoti taṃ māreti, ghātako ca hoti, pācittiyañca āpajjati. ‘‘Mātāpituarahantānaṃ aññataraṃ māremī’’ti tesaṃyeva aññataraṃ māreti, ghātako ca hoti, ānantariyañca phusati, pārājikañca āpajjati. ‘‘Tesaṃ aññataraṃ māressāmī’’ti aññaṃ āgantukaṃ māreti, yakkhaṃ vā petaṃ vā māreti, eḷakaṃ vā māreti, pubbe vuttanayena veditabbaṃ. Idha pana cetanā dāruṇā hotīti.
Và ở đây, để làm rõ nghiệp và tội, cả bốn trường hợp liên quan đến con cừu cũng cần được hiểu. Nếu có người dự định: ‘Ban đêm ta sẽ đến giết con cừu đang nằm ở một nơi.’ Và tại nơi con cừu nằm, mẹ, hoặc cha, hoặc một vị A-la-hán của người ấy, đắp y màu vàng nhạt rồi nằm đó. Người ấy ban đêm đến, với ý định ‘Ta giết con cừu’, lại giết mẹ, hoặc cha, hoặc vị A-la-hán. Do có ý định ‘Ta giết đối tượng này’ (tức là lầm đối tượng này là con cừu), người ấy là kẻ giết người, và phạm nghiệp vô gián, và phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu một người khách nào đó nằm đó, người ấy với ý định ‘Ta giết con cừu’ lại giết người khách đó, người ấy là kẻ giết người và phạm tội Bất Cộng Trụ, nhưng không phạm nghiệp vô gián. Nếu một dạ xoa hoặc một ngạ quỷ nằm đó, người ấy với ý định ‘Ta giết con cừu’ lại giết sinh vật đó, người ấy là kẻ giết hại, nhưng không phạm nghiệp vô gián, cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ, mà chỉ phạm tội Trọng Tội. Nếu không có ai khác nằm đó, chỉ có con cừu, người ấy giết nó, người ấy là kẻ giết hại, và phạm tội Ưng Đối Trị. Nếu người ấy với ý định ‘Ta giết một trong số mẹ, cha, A-la-hán’ rồi giết chính một trong số họ, người ấy là kẻ giết người, và phạm nghiệp vô gián, và phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu người ấy với ý định ‘Ta sẽ giết một trong số họ’ lại giết một người khách, hoặc giết một dạ xoa hay ngạ quỷ, hoặc giết một con cừu, cần được hiểu theo phương pháp đã nói ở trước (về việc lầm đối tượng). Nhưng ở đây, ý định (giết cha mẹ, A-la-hán) là tàn độc.

Aññānipi ettha palālapuñjādivatthūni veditabbāni. Yo hi ‘‘lohitakaṃ asiṃ vā sattiṃ vā pucchissāmī’’ti palālapuñje pavesento tattha nipannaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā arahantaṃ vā āgantukapurisaṃ vā yakkhaṃ vā petaṃ vā tiracchānagataṃ vā māreti, vohāravasena ‘‘ghātako’’ti vuccati, vadhakacetanāya pana abhāvato neva kammaṃ phusati, na āpattiṃ āpajjati. Yo pana evaṃ pavesento sarīrasamphassaṃ sallakkhetvā ‘‘satto maññe abbhantaragato maratū’’ti pavesetvā māreti, tassa tesaṃ vatthūnaṃ anurūpena kammabaddho ca āpatti ca veditabbā. Esa nayo tattha nidahanatthaṃ pavesentassāpi vanappagumbādīsu khipantassāpi.
Ở đây, các sự việc khác liên quan đến đống rơm và các vật tương tự cũng cần được hiểu. Nếu có người, với ý định ‘Ta sẽ lau sạch gươm hoặc giáo dính máu’, khi đâm vào đống rơm, lại giết mẹ, hoặc cha, hoặc vị A-la-hán, hoặc một người khách, hoặc một dạ xoa, hoặc một ngạ quỷ, hoặc một loài súc sanh đang nằm ở đó, người ấy được gọi là ‘kẻ giết người’ theo quy ước, nhưng do không có ý định giết, nên không phạm nghiệp, cũng không phạm tội. Nhưng nếu có người, khi đâm vào như vậy, sau khi nhận biết sự xúc chạm của thân thể, nghĩ rằng ‘Ta nghĩ có chúng sanh ở trong, nó chết đi’, rồi đâm vào và giết, thì sự trói buộc bởi nghiệp và tội của người ấy cần được hiểu tùy theo đối tượng đó. Phương pháp này cũng áp dụng cho người đâm vào đó để giấu vũ khí hoặc người ném vũ khí vào bụi cây rậm và các nơi tương tự.

Yopi ‘‘coraṃ māremī’’ti coravesena gacchantaṃ pitaraṃ māreti, ānantariyañca phusati, pārājiko ca hoti. Yo pana parasenāya aññañca yodhaṃ pitarañca kammaṃ karonte disvā yodhassa usuṃ khipati, ‘‘etaṃ vijjhitvā mama pitaraṃ vijjhissatī’’ti yathādhippāyaṃ gate pitughātako hoti. ‘‘Yodhe viddhe mama pitā palāyissatī’’ti khipati, usu ayathādhippāyaṃ gantvā pitaraṃ māreti, vohāravasena ‘‘pitughātako’’ti vuccati; ānantariyaṃ pana natthīti.
Ngay cả người nào, với ý định ‘Ta giết tên trộm’, lại giết cha mình đang đi trong y phục của tên trộm, người ấy cũng phạm nghiệp vô gián và là người phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu có người, thấy một người lính khác và cha mình đang làm việc trong quân địch, phóng tên vào người lính, với ý định ‘Sau khi đâm trúng người này, mũi tên sẽ đâm trúng cha ta’, nếu mũi tên đi theo ý định đó, người ấy là kẻ giết cha. Nếu người ấy phóng tên với ý định ‘Khi người lính bị đâm, cha ta sẽ chạy trốn’, nhưng mũi tên lại đi không theo ý định và giết cha, người ấy được gọi là ‘kẻ giết cha’ theo quy ước; nhưng không có nghiệp vô gián.

Adhiṭṭhahitvāti samīpe ṭhatvā. Āṇāpetīti uddissa vā anuddissa vā āṇāpeti. Tattha parasenāya paccupaṭṭhitāya anuddisseva ‘‘evaṃ vijjha , evaṃ pahara, evaṃ ghātehī’’ti āṇatte yattake āṇatto ghāteti, tattakā ubhinnaṃ pāṇātipātā. Sace tattha āṇāpakassa mātāpitaro honti, ānantariyampi phusati. Sace āṇattasseva mātāpitaro, sova ānantariyaṃ phusati. Sace arahā hoti, ubhopi ānantariyaṃ phusanti. Uddisitvā pana ‘‘etaṃ dīghaṃ rassaṃ rattakañcukaṃ nīlakañcukaṃ hatthikkhandhe nisinnaṃ majjhe nisinnaṃ vijjha pahara ghātehī’’ti āṇatte sace so tameva ghāteti, ubhinnampi pāṇātipāto; ānantariyavatthumhi ca ānantariyaṃ. Sace aññaṃ māreti, āṇāpakassa natthi pāṇātipāto. Etena āṇattiko payogo vutto hoti. Tattha –
‘Sau khi quyết định (đứng gần)’ nghĩa là sau khi đứng gần. ‘Ra lệnh’ nghĩa là ra lệnh có chủ đích (nhắm vào đối tượng cụ thể) hoặc không có chủ đích. Ở đó, khi quân địch hiện diện, nếu người nào ra lệnh không có chủ đích cụ thể: ‘Hãy đâm như vậy, hãy đánh như vậy, hãy giết như vậy’, người được lệnh giết bao nhiêu, cả hai (người ra lệnh và người được lệnh) phạm bấy nhiêu tội sát sanh. Nếu trong số đó có cha mẹ của người ra lệnh, người ra lệnh cũng phạm nghiệp vô gián. Nếu là cha mẹ của chính người được lệnh, thì chính người ấy phạm nghiệp vô gián. Nếu là một vị A-la-hán, cả hai đều phạm nghiệp vô gián. Nhưng nếu ra lệnh có chủ đích: ‘Hãy đâm, đánh, giết người cao, người thấp, người mặc áo đỏ, người mặc áo xanh, người ngồi trên lưng voi, người ngồi ở giữa đó’, nếu người được lệnh giết chính người đó, cả hai đều phạm tội sát sanh; và nếu là đối tượng gây nghiệp vô gián, thì cả hai đều phạm nghiệp vô gián. Nếu người được lệnh giết người khác, người ra lệnh không phạm tội sát sanh. Bằng điều này, phương tiện ra lệnh đã được nói. Ở đó –

Vatthuṃ kālañca okāsaṃ, āvudhaṃ iriyāpathaṃ;
Tulayitvā pañca ṭhānāni, dhāreyyatthaṃ vicakkhaṇo.
Đối tượng, thời gian, và nơi chốn, vũ khí, oai nghi;
Cân nhắc năm yếu tố này, bậc trí nên ghi nhớ ý nghĩa.

Aparo nayo –

Phương pháp khác –

Vatthu kālo ca okāso, āvudhaṃ iriyāpatho;
Kiriyāvisesoti ime, cha āṇattiniyāmakā.
Đối tượng, thời gian, và nơi chốn, vũ khí, oai nghi;
Sự khác biệt của hành động – đây là sáu yếu tố quyết định trong việc ra lệnh.

Tattha ‘‘vatthū’’ti māretabbo satto. ‘‘Kālo’’ti pubbaṇhasāyanhādikālo ca yobbanathāvariyādikālo ca. ‘‘Okāso’’ti gāmo vā vanaṃ vā gehadvāraṃ vā gehamajjhaṃ vā rathikā vā siṅghāṭakaṃ vāti evamādi. ‘‘Āvudha’’nti asi vā usu vā satti vāti evamādi. ‘‘Iriyāpatho’’ti māretabbassa gamanaṃ vā nisajjā vāti evamādi. ‘‘Kiriyāviseso’’ti vijjhanaṃ vā chedanaṃ vā bhedanaṃ vā saṅkhamuṇḍakaṃ vāti evamādi.
Ở đó, ‘đối tượng’ là chúng sanh cần bị giết. ‘Thời gian’ là thời gian buổi sáng, buổi chiều, và các thời điểm khác, và thời gian tuổi trẻ, tuổi già, và các độ tuổi khác. ‘Nơi chốn’ là làng, hoặc rừng, hoặc cửa nhà, hoặc giữa nhà, hoặc đường phố, hoặc ngã tư, và các địa điểm tương tự. ‘Vũ khí’ là gươm, hoặc tên, hoặc lao, và các loại tương tự. ‘Oai nghi’ là sự đi, hoặc sự ngồi, và các tư thế khác của người cần bị giết. ‘Sự khác biệt của hành động’ là sự đâm, hoặc sự cắt, hoặc sự làm vỡ, hoặc việc làm cho đầu trọc như vỏ ốc (chặt đầu), và các hành động tương tự.

Yadi hi vatthuṃ visaṃvādetvā ‘‘yaṃ mārehī’’ti āṇatto tato aññaṃ māreti, ‘‘purato paharitvā mārehī’’ti vā āṇatto pacchato vā passato vā aññasmiṃ vā padese paharitvā māreti. Āṇāpakassa natthi kammabandho; āṇattasseva kammabandho. Atha vatthuṃ avisaṃvādetvā yathāṇattiyā māreti, āṇāpakassa āṇattikkhaṇe āṇattassa ca māraṇakkhaṇeti ubhayesampi kammabandho. Vatthuvisesena panettha kammaviseso ca āpattiviseso ca hotīti. Evaṃ tāva vatthumhi saṅketavisaṅketatā veditabbā.
Nếu người được lệnh, sau khi làm sai lệch đối tượng, thay vì giết người được ra lệnh ‘Hãy giết người này’, lại giết người khác; hoặc người được lệnh ‘Hãy đánh từ phía trước rồi giết’, lại đánh từ phía sau, hoặc từ bên hông, hoặc ở một nơi khác rồi giết, thì người ra lệnh không bị trói buộc bởi nghiệp; chỉ người được lệnh bị trói buộc bởi nghiệp. Nhưng nếu người được lệnh không làm sai lệch đối tượng mà giết theo như lệnh, thì cả hai đều bị trói buộc bởi nghiệp: người ra lệnh trong khoảnh khắc ra lệnh, và người được lệnh trong khoảnh khắc giết. Ở đây, do sự khác biệt của đối tượng, cũng có sự khác biệt của nghiệp và sự khác biệt của tội. Như vậy, trước tiên cần hiểu về sự đúng theo giao ước và không đúng theo giao ước đối với đối tượng.

Kāle pana yo ‘‘ajja sve’’ti aniyametvā ‘‘pubbaṇhe mārehī’’ti āṇatto yadā kadāci pubbaṇhe māreti, natthi visaṅketo. Yo pana ‘‘ajja pubbaṇhe’’ti vutto majjhanhe vā sāyanhe vā sve vā pubbaṇhe māreti. Visaṅketo hoti, āṇāpakassa natthi kammabandho. Pubbaṇhe māretuṃ vāyamantassa majjhanhe jātepi eseva nayo. Etena nayena sabbakālappabhedesu saṅketavisaṅketatā veditabbā.
Còn về thời gian, người nào được lệnh ‘Hãy giết vào buổi sáng’ mà không quy định là hôm nay hay ngày mai, nếu người được lệnh giết vào buổi sáng bất cứ khi nào, thì không có sự không đúng theo giao ước. Nhưng người nào được nói ‘Hãy giết vào buổi sáng hôm nay’, nếu lại giết vào buổi trưa hoặc buổi chiều hôm nay, hoặc vào buổi sáng ngày mai, thì có sự không đúng theo giao ước, người ra lệnh không bị trói buộc bởi nghiệp. Ngay cả đối với người cố gắng giết vào buổi sáng, nhưng việc giết xảy ra vào buổi trưa, cũng theo phương pháp này. Theo phương pháp này, cần hiểu về sự đúng theo giao ước và không đúng theo giao ước trong tất cả các sự phân biệt về thời gian.

Okāsepi yo ‘‘etaṃ gāme ṭhitaṃ mārehī’’ti aniyametvā āṇatto taṃ yattha katthaci māreti, natthi visaṅketo. Yo pana ‘‘gāmeyevā’’ti niyametvā āṇatto vane māreti, tathā ‘‘vane’’ti āṇatto gāme māreti. ‘‘Antogehadvāre’’ti āṇatto gehamajjhe māreti, visaṅketo. Etena nayena sabbokāsabhedesu saṅketavisaṅketatā veditabbā.
Cả về nơi chốn cũng vậy, người nào được lệnh ‘Hãy giết người đang ở trong làng này’ mà không quy định cụ thể, nếu người được lệnh giết người đó ở bất cứ đâu, thì không có sự không đúng theo giao ước. Nhưng người nào được lệnh ‘Hãy giết ở trong làng’ mà lại giết ở trong rừng; tương tự, người được lệnh ‘Hãy giết ở trong rừng’ mà lại giết ở trong làng. Người được lệnh ‘Hãy giết ở trong cửa nhà’ mà lại giết ở giữa nhà, thì có sự không đúng theo giao ước. Theo phương pháp này, cần hiểu về sự đúng theo giao ước và không đúng theo giao ước trong tất cả các sự phân biệt về nơi chốn.

Āvudhepi yo ‘‘asinā vā usunā vā’’ti aniyametvā ‘‘āvudhena mārehī’’ti āṇatto yena kenaci āvudhena māreti, natthi visaṅketo. Yo pana ‘‘asinā’’ti vutto usunā, ‘‘iminā vā asinā’’ti vutto aññena asinā māreti. Etasseva vā asissa ‘‘imāya dhārāya mārehī’’ti vutto itarāya vā dhārāya talena vā tuṇḍena vā tharunā vā māreti, visaṅketo. Etena nayena sabbaāvudhabhedesu saṅketavisaṅketatā veditabbā.
Cả về vũ khí cũng vậy, người nào được lệnh ‘Hãy giết bằng vũ khí’ mà không quy định là ‘bằng gươm hay bằng tên’, nếu người được lệnh giết bằng bất kỳ vũ khí nào, thì không có sự không đúng theo giao ước. Nhưng người nào được nói ‘Hãy giết bằng gươm’ mà lại giết bằng tên; hoặc được nói ‘Hãy giết bằng chính cây gươm này’ mà lại giết bằng cây gươm khác. Hoặc đối với chính cây gươm ấy, người được lệnh được nói ‘Hãy giết bằng lưỡi này’ mà lại giết bằng lưỡi khác, hoặc bằng sống gươm, hoặc bằng mũi gươm, hoặc bằng chuôi gươm, thì có sự không đúng theo giao ước. Theo phương pháp này, cần hiểu về sự đúng theo giao ước và không đúng theo giao ước trong tất cả các sự phân biệt về vũ khí.

Iriyāpathe pana yo ‘‘etaṃ gacchantaṃ mārehī’’ti vadati, āṇatto ca naṃ sace gacchantaṃ māreti, natthi visaṅketo. ‘‘Gacchantameva mārehī’’ti vutto pana sace nisinnaṃ māreti. ‘‘Nisinnameva vā mārehī’’ti vutto gacchantaṃ māreti, visaṅketo hoti. Etena nayena sabbairiyāpathabhedesu saṅketavisaṅketatā veditabbā.
Còn về oai nghi, người nào nói ‘Hãy giết người đang đi này’, và nếu người được lệnh giết người ấy khi đang đi, thì không có sự không đúng theo giao ước. Nhưng nếu được nói ‘Chỉ giết khi đang đi’, mà lại giết khi đang ngồi; hoặc được nói ‘Chỉ giết khi đang ngồi’, mà lại giết khi đang đi, thì có sự không đúng theo giao ước. Theo phương pháp này, cần hiểu về sự đúng theo giao ước và không đúng theo giao ước trong tất cả các sự phân biệt về oai nghi.

Kiriyāvisesepi yo ‘‘vijjhitvā mārehī’’ti vutto vijjhitvāva māreti, natthi visaṅketo. Yo pana ‘‘vijjhitvā mārehī’’ti vutto chinditvā māreti, visaṅketo. Etena nayena sabbakiriyāvisesabhedesu saṅketavisaṅketatā veditabbā.
Cả về sự khác biệt của hành động cũng vậy, người nào được nói ‘Hãy đâm rồi giết’, nếu người được lệnh đâm rồi giết, thì không có sự không đúng theo giao ước. Nhưng người nào được nói ‘Hãy đâm rồi giết’, mà lại cắt rồi giết, thì có sự không đúng theo giao ước. Theo phương pháp này, cần hiểu về sự đúng theo giao ước và không đúng theo giao ước trong tất cả các sự phân biệt về sự khác biệt của hành động.

Yo pana liṅgavasena ‘‘dīghaṃ rassaṃ kāḷaṃ odātaṃ kisaṃ thūlaṃ mārehī’’ti aniyametvā āṇāpeti, āṇatto ca yaṃkiñci tādisaṃ māreti, natthi visaṅketo ubhinnaṃ pārājikaṃ. Atha pana so attānaṃ sandhāya āṇāpeti, āṇatto ca ‘‘ayameva īdiso’’ti āṇāpakameva māreti, āṇāpakassa dukkaṭaṃ, vadhakassa pārājikaṃ. Āṇāpako attānaṃ sandhāya āṇāpeti, itaro aññaṃ tādisaṃ māreti, āṇāpako muccati, vadhakasseva pārājikaṃ. Kasmā? Okāsassa aniyamitattā. Sace pana attānaṃ sandhāya āṇāpentopi okāsaṃ niyameti, ‘‘asukasmiṃ nāma rattiṭṭhāne vā divāṭṭhāne vā therāsane vā navāsane vā majjhimāsane vā nisinnaṃ evarūpaṃ nāma mārehī’’ti. Tattha ca añño nisinno hoti, sace āṇatto taṃ māreti, neva vadhako muccati na āṇāpako. Kasmā? Okāsassa niyamitattā. Sace pana niyamitokāsato aññatra māreti, āṇāpako muccatīti ayaṃ nayo mahāaṭṭhakathāyaṃ suṭṭhu daḷhaṃ katvā vutto. Tasmā ettha na anādariyaṃ kātabbanti.
Nhưng người nào ra lệnh theo đặc điểm nhận dạng mà không quy định cụ thể: ‘Hãy giết người cao, người thấp, người đen, người trắng, người gầy, người mập’, và người được lệnh giết bất kỳ người nào như vậy, thì không có sự không đúng theo giao ước, cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu người ấy ra lệnh nhắm vào chính mình (ví dụ, ‘Hãy giết người như tôi đây’), và người được lệnh hiểu rằng ‘Chính người này là người như vậy’ rồi giết chính người ra lệnh, người ra lệnh phạm tội Tác Ác, người giết phạm tội Bất Cộng Trụ. Người ra lệnh nhắm vào chính mình mà ra lệnh, người kia lại giết một người khác như vậy (không phải người ra lệnh), người ra lệnh được thoát tội Bất Cộng Trụ (nhưng có thể phạm tội Tác Ác vì xúi giục), chỉ người giết phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì nơi chốn không được quy định. Nhưng nếu người ra lệnh nhắm vào chính mình mà cũng quy định cả nơi chốn: ‘Hãy giết người như vậy đang ngồi ở nơi nào đó vào ban đêm hoặc ban ngày, ở ghế thượng tọa, hoặc ghế hạ tọa, hoặc ghế giữa’. Và ở đó có một người khác đang ngồi, nếu người được lệnh giết người đó, thì cả người giết lẫn người ra lệnh đều không thoát tội. Tại sao? Vì nơi chốn đã được quy định. Nhưng nếu người được lệnh giết ở một nơi khác ngoài nơi chốn đã được quy định, người ra lệnh được thoát tội – phương pháp này đã được nói một cách rất chắc chắn trong Đại Chú Giải. Do đó, ở đây không nên xem thường.

Adhiṭṭhāyāti mātikāvasena āṇattikapayogakathā niṭṭhitā.

Lời bàn về phương tiện ra lệnh theo đề mục ‘Sau khi quyết định (đứng gần)’ đã hoàn tất.

Idāni ye dūtenāti imassa mātikāpadassa niddesadassanatthaṃ ‘‘bhikkhu bhikkhuṃ āṇāpetī’’tiādayo cattāro vārā vuttā. Tesu so taṃ maññamānoti so āṇatto yo āṇāpakena ‘‘itthannāmo’’ti akkhāto, taṃ maññamāno tameva jīvitā voropeti, ubhinnaṃ pārājikaṃ. Taṃ maññamāno aññanti ‘‘yaṃ jīvitā voropehī’’ti vutto taṃ maññamāno aññaṃ tādisaṃ jīvitā voropeti, mūlaṭṭhassa anāpatti. Aññaṃ maññamāno tanti yo āṇāpakena vutto, tassa balavasahāyaṃ samīpe ṭhitaṃ disvā ‘‘imassa balenāyaṃ gajjati, imaṃ tāva jīvitā voropemī’’ti paharanto itarameva parivattitvā tasmiṃ ṭhāne ṭhitaṃ ‘‘sahāyo’’ti maññamāno jīvitā voropeti, ubhinnaṃ pārājikaṃ. Aññaṃ maññamāno aññanti purimanayeneva ‘‘imaṃ tāvassa sahāyaṃ jīvitā voropemī’’ti sahāyameva voropeti, tasseva pārājikaṃ.
Bây giờ, để chỉ rõ sự giải thích của đề mục ‘bằng người đưa tin’ này, bốn trường hợp bắt đầu bằng ‘Tỳ khưu ra lệnh cho Tỳ khưu’ đã được nói. Trong đó, trường hợp ‘người ấy nghĩ rằng đó là người ấy’ nghĩa là: người được lệnh, đối với người đã được người ra lệnh chỉ rõ là ‘người tên là X’, nghĩ rằng đó là người ấy rồi tước đoạt mạng sống của chính người đó, thì cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Trường hợp ‘nghĩ rằng đó là người ấy nhưng lại giết người khác’ nghĩa là: người được lệnh được nói ‘Hãy tước đoạt mạng sống của người nào đó’, nghĩ rằng đó là người ấy, nhưng lại tước đoạt mạng sống của một người khác tương tự, thì người chủ mưu không phạm tội. Trường hợp ‘nghĩ rằng đó là người khác nhưng lại giết người ấy’ nghĩa là: người được lệnh thấy người bạn đồng hành mạnh mẽ của người đã được người ra lệnh chỉ định đang đứng gần, nghĩ rằng ‘Người này hung hăng là nhờ sức của người này (người bạn), trước tiên ta sẽ tước đoạt mạng sống của người này (người bạn)’, rồi khi đánh, nạn nhân kia (người được chỉ định ban đầu) lại đổi chỗ và đứng vào vị trí đó, người được lệnh nghĩ rằng đó là ‘người bạn’ rồi tước đoạt mạng sống của nạn nhân kia, thì cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Trường hợp ‘nghĩ rằng đó là người khác và giết người khác’ nghĩa là: theo phương pháp trước, người được lệnh nghĩ ‘Trước tiên ta sẽ tước đoạt mạng sống của người bạn này của nó’ rồi tước đoạt mạng sống của chính người bạn đó, thì chỉ người được lệnh phạm tội Bất Cộng Trụ.

Dūtaparamparāpadassa niddesavāre itthannāmassa pāvadātiādīsu eko ācariyo tayo buddharakkhitadhammarakkhitasaṅgharakkhitanāmakā antevāsikā daṭṭhabbā. Tattha bhikkhu bhikkhuṃ āṇāpetīti ācariyo kañci puggalaṃ mārāpetukāmo tamatthaṃ ācikkhitvā buddharakkhitaṃ āṇāpeti. Itthannāmassa pāvadāti gaccha tvaṃ, buddharakkhita, etamatthaṃ dhammarakkhitassa pāvada. Itthannāmo itthannāmassa pāvadatūti dhammarakkhitopi saṅgharakkhitassa pāvadatu. Itthannāmo itthannāmaṃ jīvitā voropetūti evaṃ tayā āṇattena dhammarakkhitena āṇatto saṅgharakkhito itthannāmaṃ puggalaṃ jīvitā voropetu; so hi amhesu vīrajātiko paṭibalo imasmiṃ kammeti. Āpatti dukkaṭassāti evaṃ āṇāpentassa ācariyassa tāva dukkaṭaṃ. So itarassa ārocetīti buddharakkhito dhammarakkhitassa, dhammarakkhito ca saṅgharakkhitassa ‘‘amhākaṃ ācariyo evaṃ vadati – ‘itthannāmaṃ kira jīvitā voropehī’ti. Tvaṃ kira amhesu vīrapuriso’’ti āroceti; evaṃ tesampi dukkaṭaṃ. Vadhako paṭiggaṇhātīti ‘‘sādhu voropessāmī’’ti saṅgharakkhito sampaṭicchati. Mūlaṭṭhassa āpatti thullaccayassāti saṅgharakkhitena paṭiggahitamatte ācariyassa thullaccayaṃ. Mahājano hi tena pāpe niyojitoti. So tanti so ce saṅgharakkhito taṃ puggalaṃ jīvitā voropeti, sabbesaṃ catunnampi janānaṃ pārājikaṃ. Na kevalañca catunnaṃ, etenūpāyena visaṅketaṃ akatvā paramparāya āṇāpentaṃ samaṇasataṃ samaṇasahassaṃ vā hotu sabbesaṃ pārājikameva.
Trong trường hợp giải thích về người đưa tin nối tiếp, ở các câu bắt đầu bằng ‘Hãy báo cho người tên X’, cần hiểu là có một vị thầy và ba vị đệ tử nội trú tên là Buddharakkhita, Dhammarakkhita, và Saṅgharakkhita. Ở đó, ‘Tỳ khưu ra lệnh cho Tỳ khưu’ nghĩa là vị thầy muốn sai giết một người nào đó, sau khi giải thích việc ấy, ra lệnh cho Buddharakkhita. ‘Hãy báo cho người tên X’ nghĩa là: ‘Này Buddharakkhita, ngươi hãy đi báo việc này cho Dhammarakkhita.’ ‘Người tên X hãy báo cho người tên Y’ nghĩa là Dhammarakkhita cũng hãy báo cho Saṅgharakkhita. ‘Người tên Y hãy tước đoạt mạng sống của người tên Z’ nghĩa là Saṅgharakkhita, người được lệnh bởi Dhammarakkhita, người đã được ngươi ra lệnh, hãy tước đoạt mạng sống của người tên là Z; vì người ấy trong chúng ta là người có dòng dõi dũng mãnh, có khả năng làm việc này. ‘Phạm tội Tác Ác’ nghĩa là trước tiên, vị thầy ra lệnh như vậy phạm tội Tác Ác. ‘Người ấy báo lại cho người khác’ nghĩa là Buddharakkhita báo lại cho Dhammarakkhita, và Dhammarakkhita báo lại cho Saṅgharakkhita rằng: ‘Thầy của chúng ta nói như vầy: “Hình như ngươi hãy tước đoạt mạng sống của người tên X”. Hình như ngươi trong chúng ta là người dũng mãnh’; như vậy, họ cũng phạm tội Tác Ác. ‘Người giết chấp nhận’ nghĩa là Saṅgharakkhita chấp thuận: ‘Lành thay, tôi sẽ tước đoạt mạng sống’. ‘Người chủ mưu phạm tội Trọng Tội’ nghĩa là ngay khi Saṅgharakkhita chấp nhận, vị thầy phạm tội Trọng Tội. Vì nhiều người đã bị dính líu vào việc ác bởi người ấy. ‘Người ấy giết người đó’ nghĩa là nếu Saṅgharakkhita tước đoạt mạng sống của người đó, tất cả bốn người đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Không chỉ bốn người, mà bằng phương tiện này, nếu không làm sai lệch giao ước, dù có một trăm hay một ngàn Sa-môn ra lệnh qua nhiều người trung gian, tất cả đều phạm tội Bất Cộng Trụ.

Visakkiyadūtapadaniddese so aññaṃ āṇāpetīti so ācariyena āṇatto buddharakkhito dhammarakkhitaṃ adisvā vā avattukāmo vā hutvā saṅgharakkhitameva upasaṅkamitvā ‘‘amhākaṃ ācariyo evamāha – ‘itthannāmaṃ kira jīvitā voropehī’’ti visaṅketaṃ karonto āṇāpeti. Visaṅketakaraṇeneva hi esa ‘‘visakkiyadūto’’ti vuccati. Āpatti dukkaṭassāti āṇattiyā tāva buddharakkhitassa dukkaṭaṃ. Paṭiggaṇhāti āpatti dukkaṭassāti saṅgharakkhitena sampaṭicchite mūlaṭṭhasseva dukkaṭanti veditabbaṃ. Evaṃ sante paṭiggahaṇe āpattiyeva na siyā, sañcaritta paṭiggahaṇamaraṇābhinandanesupi ca āpatti hoti, maraṇapaṭiggahaṇe kathaṃ na siyā tasmā paṭiggaṇhantassevetaṃ dukkaṭaṃ. Tenevettha ‘‘mūlaṭṭhassā’’ti na vuttaṃ. Purimanayepi cetaṃ paṭiggaṇhantassa veditabbameva; okāsābhāvena pana na vuttaṃ. Tasmā yo yo paṭiggaṇhāti, tassa tassa tappaccayā āpattiyevāti ayamettha amhākaṃ khanti. Yathā cettha evaṃ adinnādānepīti.
Trong phần giải thích về người đưa tin làm sai lệch, câu ‘người ấy ra lệnh cho người khác’ nghĩa là Buddharakkhita, người được lệnh bởi vị thầy, do không thấy Dhammarakkhita hoặc không muốn nói với Dhammarakkhita, lại đến gặp chính Saṅgharakkhita rồi ra lệnh, trong khi làm sai lệch giao ước (bằng cách thay đổi người nhận lệnh): ‘Thầy của chúng ta nói như vầy: “Hình như ngươi hãy tước đoạt mạng sống của người tên X”’. Chính do việc làm sai lệch giao ước này mà người ấy được gọi là ‘người đưa tin làm sai lệch’. ‘Phạm tội Tác Ác’ nghĩa là trước tiên, Buddharakkhita phạm tội Tác Ác do việc ra lệnh sai lệch. Câu ‘Chấp nhận, phạm tội Tác Ác’ cần được hiểu là khi Saṅgharakkhita chấp thuận, chính người chủ mưu (vị thầy) phạm tội Tác Ác (do việc giết sắp được thực hiện). Nếu nói rằng trong trường hợp chỉ có người trung gian làm sai lệnh mà người chủ mưu không biết thì khi người cuối cùng chấp nhận, người chủ mưu không phạm tội gì cả, điều này không đúng; vì ngay cả trong việc truyền tin (xúi giục), chấp nhận (việc giết), và vui thích cái chết (của nạn nhân) cũng có tội, làm sao khi người cuối cùng chấp nhận giết lại không có tội cho người chủ mưu? Do đó, đây là tội Tác Ác của chính người chấp nhận (ý nói người chủ mưu khi việc giết được người khác chấp nhận thực hiện do lệnh của mình). Do đó, ở đây không nói một cách trực tiếp là ‘của người chủ mưu’ (trong câu này, nhưng ý ngầm là vậy). Trong phương pháp trước cũng vậy, điều này cần được hiểu là tội của người chấp nhận (tức người chủ mưu); nhưng do không có cơ hội để nói rõ nên không nói. Do đó, bất cứ ai chấp nhận (thực hiện hoặc để người khác thực hiện việc giết do lệnh của mình), người ấy đều phạm tội do duyên đó – đây là quan điểm của chúng tôi ở đây. Như ở đây, cũng vậy trong tội lấy của không cho.

Sace pana so taṃ jīvitā voropeti, āṇāpakassa ca buddharakkhitassa voropakassa ca saṅgharakkhitassāti ubhinnampi pārājikaṃ. Mūlaṭṭhassa pana ācariyassa visaṅketattā pārājikena anāpatti. Dhammarakkhitassa ajānanatāya sabbena sabbaṃ anāpatti. Buddharakkhito pana dvinnaṃ sotthibhāvaṃ katvā attanā naṭṭhoti.
Nhưng nếu người ấy (Saṅgharakkhita) tước đoạt mạng sống của người đó, thì cả hai: người ra lệnh trực tiếp là Buddharakkhita và người thực hiện việc giết là Saṅgharakkhita đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn vị thầy là người chủ mưu, do sự sai lệch giao ước (do Buddharakkhita thay đổi người nhận lệnh), không phạm tội Bất Cộng Trụ (trong trường hợp này). Dhammarakkhita, do không biết, hoàn toàn không phạm tội. Còn Buddharakkhita, sau khi (vô tình) làm cho hai người (thầy và Dhammarakkhita) được an toàn (khỏi tội Bất Cộng Trụ do hành động sai lệch của mình), tự mình bị hủy hoại (do phạm tội Bất Cộng Trụ khi cùng Saṅgharakkhita thực hiện).

Gatapaccāgatadūtaniddese – so gantvā puna paccāgacchatīti tassa jīvitā voropetabbassa samīpaṃ gantvā susaṃvihitārakkhattā taṃ jīvitā voropetuṃ asakkonto āgacchati. Yadā sakkosi tadāti kiṃ ajjeva mārito mārito hoti, gaccha yadā sakkosi, tadā naṃ jīvitā voropehīti. Āpatti dukkaṭassāti evaṃ puna āṇattiyāpi dukkaṭameva hoti. Sace pana so avassaṃ jīvitā voropetabbo hoti, atthasādhakacetanā maggānantaraphalasadisā, tasmā ayaṃ āṇattikkhaṇeyeva pārājiko. Sacepi vadhako saṭṭhivassātikkamena taṃ vadhati, āṇāpako ca antarāva kālaṅkaroti, hīnāya vā āvattati, assamaṇova hutvā kālañca karissati, hīnāya vā āvattissati. Sace āṇāpako gihikāle mātaraṃ vā pitaraṃ vā arahantaṃ vā sandhāya evaṃ āṇāpetvā pabbajati, tasmiṃ pabbajite āṇatto taṃ māreti, āṇāpako gihikāleyeva mātughātako pitughātako arahantaghātako vā hoti, tasmā nevassa pabbajjā , na upasampadā ruhati. Sacepi māretabbapuggalo āṇattikkhaṇe puthujjano, yadā pana naṃ āṇatto māreti tadā arahā hoti, āṇattato vā pahāraṃ labhitvā dukkhamūlikaṃ saddhaṃ nissāya vipassanto arahattaṃ patvā tenevābādhena kālaṃkaroti, āṇāpako āṇattikkhaṇeyeva arahantaghātako. Vadhako pana sabbattha upakkamakaraṇakkhaṇeyeva pārājikoti.
Trong phần giải thích về người đưa tin đi rồi quay lại: câu ‘người ấy đi rồi lại quay về’ nghĩa là người đưa tin sau khi đến gần người cần bị tước đoạt mạng sống, do nạn nhân được bảo vệ kỹ lưỡng, không thể tước đoạt mạng sống của người đó, rồi quay về. Câu ‘Khi nào ngươi có thể thì hãy làm’ nghĩa là: ‘Sao, hôm nay người đó phải bị giết, phải bị giết ư? Hãy đi, khi nào ngươi có thể, thì hãy tước đoạt mạng sống của nó.’ ‘Phạm tội Tác Ác’ nghĩa là ngay cả khi ra lệnh lại như vậy, cũng chỉ phạm tội Tác Ác (nếu ý định ban đầu không đủ mạnh hoặc có sự thay đổi). Nhưng nếu người đó chắc chắn phải bị tước đoạt mạng sống (theo ý định ban đầu mãnh liệt không thay đổi), tư tâm hoàn thành mục đích tương tự như quả liền sau đạo; do đó, người ra lệnh này phạm tội Bất Cộng Trụ ngay trong khoảnh khắc ra lệnh lần đầu. Ngay cả nếu người giết sau sáu mươi năm mới giết người đó, còn người ra lệnh ở giữa chừng đã mệnh chung, hoặc hoàn tục, hoặc sau khi không còn là Sa-môn sẽ mệnh chung, hoặc sẽ hoàn tục (vẫn phạm tội Bất Cộng Trụ do lệnh ban đầu). Nếu người ra lệnh khi còn là cư sĩ, nhắm vào mẹ, hoặc cha, hoặc một vị A-la-hán, ra lệnh như vậy rồi xuất gia; sau khi người ấy xuất gia, người được lệnh giết nạn nhân đó, thì người ra lệnh, ngay khi còn là cư sĩ, đã là kẻ giết mẹ, hoặc giết cha, hoặc giết A-la-hán. Do đó, sự xuất gia của người ấy không thành tựu, sự thọ cụ túc giới cũng không thành tựu. Ngay cả nếu người cần bị giết trong khoảnh khắc ra lệnh là phàm phu, nhưng khi người được lệnh giết người ấy thì người ấy đã là A-la-hán; hoặc sau khi nhận cú đánh từ người được lệnh, do nương tựa vào niềm tin có gốc rễ từ khổ, quán chiếu rồi đạt đến A-la-hán quả, rồi mệnh chung do chính bệnh ấy; người ra lệnh, ngay trong khoảnh khắc ra lệnh, là kẻ giết A-la-hán. Còn người giết, ở khắp mọi nơi, phạm tội Bất Cộng Trụ ngay trong khoảnh khắc thực hiện sự cố gắng giết.

Idāni ye sabbesuyeva imesu dūtavasena vuttamātikāpadesu saṅketavisaṅketadassanatthaṃ

Bây giờ, để chỉ rõ sự đúng theo giao ước và không đúng theo giao ước trong tất cả các đề mục đã được nói theo cách người đưa tin này

Vuttā tayo vārā, tesu paṭhamavāre tāva – yasmā taṃ saṇikaṃ vā bhaṇanto tassa vā badhiratāya ‘‘mā ghātehī’’ti etaṃ vacanaṃ na sāveti, tasmā mūlaṭṭho na mutto. Dutiyavāre – sāvitattā mutto. Tatiyavāre pana tena ca sāvitattā itarena ca ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā oratattā ubhopi muttāti.
Ba trường hợp đã được nói; trong đó, trước tiên ở trường hợp thứ nhất: vì người đưa tin nói nhỏ hoặc do người kia điếc nên không làm cho nghe được lời nói ‘Đừng giết’, do đó người chủ mưu không được thoát tội. Trong trường hợp thứ hai – do đã làm cho nghe lời ngăn cản, người chủ mưu được thoát tội. Còn trong trường hợp thứ ba, do người đưa tin đã làm cho nghe lời ngăn cản và người được lệnh giết cũng đã chấp nhận ‘Lành thay’ rồi dừng lại, nên cả hai đều được thoát tội.

Dūtakathā niṭṭhitā.

Lời bàn về người đưa tin đã hoàn tất.

175. Araho rahosaññīniddesādīsu arahoti sammukhe. Rahoti parammukhe. Tattha yo upaṭṭhānakāle veribhikkhumhi bhikkhūhi saddhiṃ āgantvā purato nisinneyeva andhakāradosena tassa āgatabhāvaṃ ajānanto ‘‘aho vata itthannāmo hato assa, corāpi nāma taṃ na hananti, sappo vā na ḍaṃsati, na satthaṃ vā visaṃ vā āharatī’’ti tassa maraṇaṃ abhinandanto īdisāni vacanāni ullapati, ayaṃ araho rahosaññī ullapati nāma. Sammukheva tasmiṃ parammukhasaññīti attho. Yo pana taṃ purato nisinnaṃ disvā puna upaṭṭhānaṃ katvā gatehi bhikkhūhi saddhiṃ gatepi tasmiṃ ‘‘idheva so nisinno’’ti saññī hutvā purimanayeneva ullapati, ayaṃ raho arahosaññī ullapati nāma. Etenevupāyena araho arahosaññī ca raho rahosaññī ca veditabbo. Catunnampi ca etesaṃ vācāya vācāya dukkaṭanti veditabbaṃ.
175. Trong các phần giải thích bắt đầu bằng trường hợp ‘ở trước mặt, tưởng là vắng mặt’, từ ‘ở trước mặt’ nghĩa là ở ngay trước mặt. Từ ‘vắng mặt’ nghĩa là ở nơi khuất mặt. Ở đó, người nào, vào lúc phục dịch, đối với một Tỳ khưu thù địch đã cùng các Tỳ khưu khác đến và đang ngồi ngay trước mặt, nhưng do trời tối không biết sự có mặt của vị ấy, rồi vui mừng trước cái chết của vị ấy, thốt ra những lời như sau: ‘Mong sao người tên X kia bị giết! Sao mà bọn trộm không giết nó, rắn không cắn nó, không ai mang vũ khí hay thuốc độc đến cho nó!’ Đây được gọi là thốt ra lời khi nạn nhân ở trước mặt nhưng tưởng là vắng mặt. Có nghĩa là, nạn nhân ở ngay trước mặt nhưng người nói lại có tưởng là vắng mặt. Còn người nào, sau khi thấy vị ấy ngồi trước mặt, rồi lại phục dịch, sau khi vị ấy đã cùng các Tỳ khưu khác đi rồi, nhưng vẫn có tưởng rằng ‘Vị ấy còn ngồi ở đây’ rồi thốt ra lời theo cách trước, đây được gọi là thốt ra lời khi nạn nhân vắng mặt nhưng tưởng là ở trước mặt. Bằng phương pháp này, hai trường hợp còn lại là ‘ở trước mặt, tưởng là ở trước mặt’ và ‘vắng mặt, tưởng là vắng mặt’ cũng cần được hiểu. Và cần hiểu rằng, đối với cả bốn trường hợp này, mỗi lời nói như vậy đều phạm tội Tác Ác.

Idāni maraṇavaṇṇasaṃvaṇṇanāya vibhāgadassanatthaṃ vuttesu pañcasu kāyena saṃvaṇṇanādimātikāniddesesu – kāyena vikāraṃ karotīti yathā so jānāti ‘‘satthaṃ vā āharitvā visaṃ vā khāditvā rajjuyā vā ubbandhitvā sobbhādīsu vā papatitvā yo marati so kira dhanaṃ vā labhati, yasaṃ vā labhati, saggaṃ vā gacchatīti ayamattho etena vutto’’ti tathā hatthamuddādīhi dasseti. Vācāya bhaṇatīti tamevatthaṃ vākyabhedaṃ katvā bhaṇati. Tatiyavāro ubhayavasena vutto. Sabbattha saṃvaṇṇanāya payoge payoge dukkaṭaṃ. Tassa dukkhuppattiyaṃ saṃvaṇṇakassa thullaccayaṃ. Yaṃ uddissa saṃvaṇṇanā katā, tasmiṃ mate saṃvaṇṇanakkhaṇeyeva saṃvaṇṇakassa pārājikaṃ. So taṃ na jānāti añño ñatvā ‘‘laddho vata me sukhuppattiupāyo’’ti tāya saṃvaṇṇanāya marati, anāpatti. Dvinnaṃ uddissa saṃvaṇṇanāya katāya eko ñatvā marati, pārājikaṃ. Dvepi maranti, pārājikañca akusalarāsi ca. Esa nayo sambahulesu. Anuddissa maraṇaṃ saṃvaṇṇento āhiṇḍati, yo yo taṃ saṃvaṇṇanaṃ ñatvā marati, sabbo tena mārito hoti.
Bây giờ, trong năm phần giải thích đề mục bắt đầu bằng ‘tán thán bằng thân’, được nói để chỉ rõ sự phân chia của việc tán thán cái chết: câu ‘Làm cử chỉ bằng thân’ nghĩa là người ấy dùng dấu tay và các cử chỉ khác để diễn tả sao cho người kia biết rằng: ‘Ý nghĩa này được người này nói: người nào mang vũ khí đến, hoặc ăn thuốc độc, hoặc thắt cổ bằng dây thừng, hoặc nhảy xuống hố và các cách tương tự rồi chết, người ấy hình như sẽ được của cải, hoặc được danh vọng, hoặc được sanh lên cõi trời’. Câu ‘Nói bằng lời’ nghĩa là người ấy nói chính ý nghĩa ấy bằng cách dùng lời nói khác nhau. Trường hợp thứ ba được nói theo cả hai cách (thân và lời). Ở khắp mọi nơi, mỗi khi thực hiện việc tán thán, đều phạm tội Tác Ác. Khi sự đau khổ phát sinh nơi người kia (nạn nhân bị thương do lời tán thán), người tán thán phạm tội Trọng Tội. Việc tán thán được thực hiện nhắm vào ai, khi người đó chết, người tán thán phạm tội Bất Cộng Trụ ngay trong khoảnh khắc tán thán. Nếu người được nhắm đến không biết điều đó, mà một người khác biết rồi nghĩ rằng ‘Ta đã tìm được phương tiện để đạt được hạnh phúc’ rồi chết do lời tán thán ấy, thì không phạm tội. Việc tán thán được thực hiện nhắm vào hai người, một người biết rồi chết, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu cả hai đều chết, thì phạm tội Bất Cộng Trụ và tạo khối bất thiện. Phương pháp này cũng áp dụng đối với nhiều người. Người đi khắp nơi tán thán cái chết mà không nhắm vào ai cụ thể, bất cứ ai biết lời tán thán đó rồi chết, tất cả đều bị giết bởi người ấy.

Dūtena saṃvaṇṇanāyaṃ ‘‘asukaṃ nāma gehaṃ vā gāmaṃ vā gantvā itthannāmassa evaṃ maraṇavaṇṇaṃ saṃvaṇṇehī’’ti sāsane ārocitamatte dukkaṭaṃ. Yassatthāya pahito tassa dukkhuppattiyā mūlaṭṭhassa thullaccayaṃ, maraṇena pārājikaṃ. Dūto ‘‘ñāto dāni ayaṃ saggamaggo’’ti tassa anārocetvā attano ñātissa vā sālohitassa vā āroceti, tasmiṃ mate visaṅketo hoti, mūlaṭṭho muccati. Dūto tatheva cintetvā sayaṃ saṃvaṇṇanāya vuttaṃ katvā marati, visaṅketova. Anuddissa pana sāsane ārocite yattakā dūtassa saṃvaṇṇanāya maranti, tattakā pāṇātipātā. Sace mātāpitaro maranti, ānantariyampi hoti.
Trong việc tán thán qua người đưa tin, ngay khi thông điệp được báo lại cho người đưa tin rằng: ‘Hãy đến nhà hoặc làng tên là X rồi tán thán cái chết như vậy cho người tên Y’, người chủ mưu phạm tội Tác Ác. Khi sự đau khổ phát sinh nơi người mà người đưa tin được cử đến vì lợi ích của việc đó, người chủ mưu phạm tội Trọng Tội; nếu người đó chết thì người chủ mưu phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu người đưa tin nghĩ rằng ‘Bây giờ ta đã biết con đường lên cõi trời này’ rồi không báo lại cho người được nhắm đến ban đầu mà báo lại cho người thân hoặc người bà con huyết thống của mình, khi người thân hoặc bà con ấy chết, thì có sự không đúng theo giao ước, người chủ mưu được thoát tội Bất Cộng Trụ. Nếu người đưa tin suy nghĩ như vậy rồi tự mình làm theo điều đã được nói trong lời tán thán và chết, thì cũng là sự không đúng theo giao ước đối với người chủ mưu. Nhưng khi thông điệp được báo lại cho người đưa tin mà không nhắm vào ai cụ thể, bao nhiêu người chết do lời tán thán của người đưa tin, bấy nhiêu tội sát sanh phát sinh cho người chủ mưu. Nếu cha mẹ chết, người chủ mưu cũng phạm nghiệp vô gián.

176. Lekhāsaṃvaṇṇanāya – lekhaṃ chindatīti paṇṇe vā potthake vā akkharāni likhati – ‘‘yo satthaṃ vā āharitvā papāte vā papatitvā aññehi vā aggippavesanaudakappavesanādīhi upāyehi marati, so idañcidañca labhatī’’ti vā ‘‘tassa dhammo hotī’’ti vāti. Etthāpi dukkaṭathullaccayā vuttanayeneva veditabbā. Uddissa likhite pana yaṃ uddissa likhitaṃ tasseva maraṇena pārājikaṃ. Bahū uddissa likhite yattakā maranti, tattakā pāṇātipātā. Mātāpitūnaṃ maraṇena ānantariyaṃ. Anuddissa likhitepi eseva nayo. ‘‘Bahū marantī’’ti vippaṭisāre uppanne taṃ potthakaṃ jhāpetvā vā yathā vā akkharāni na paññāyanti tathā katvā muccati. Sace so parassa potthako hoti, uddissa likhito vā hoti anuddissa likhito vā, gahitaṭṭhāne ṭhapetvā muccati. Sace mūlena kīto hoti, potthakassāmikānaṃ potthakaṃ, yesaṃ hatthato mūlaṃ gahitaṃ, tesaṃ mūlaṃ datvā muccati. Sace sambahulā ‘‘maraṇavaṇṇaṃ likhissāmā’’ti ekajjhāsayā hutvā eko tālarukkhaṃ ārohitvā paṇṇaṃ chindati, eko āharati, eko potthakaṃ karoti, eko likhati, eko sace kaṇṭakalekhā hoti, masiṃ makkheti, masiṃ makkhetvā taṃ potthakaṃ sajjetvā sabbeva sabhāyaṃ vā āpaṇe vā yattha vā pana lekhādassanakotūhalakā bahū sannipatanti, tattha ṭhapenti. Taṃ vācetvā sacepi eko marati, sabbesaṃ pārājikaṃ. Sace bahukā maranti, vuttasadisova nayo. Vippaṭisāre pana uppanne taṃ potthakaṃ sacepi mañjūsāyaṃ gopenti, añño ca taṃ disvā nīharitvā puna bahūnaṃ dasseti, neva muccanti. Tiṭṭhatu mañjūsā, sacepi taṃ potthakaṃ nadiyaṃ vā samudde vā khipanti vā dhovanti vā khaṇḍākhaṇḍaṃ vā chindanti, aggimhi vā jhāpenti, yāva saṅghaṭṭitepi duddhote vā dujjhāpite vā patte akkharāni paññāyanti, tāva na muccanti. Yathā pana akkharāni na paññāyanti tatheva kate muccantīti.
176. Trong việc tán thán bằng chữ viết: câu ‘Khắc chữ, viết chữ’ nghĩa là viết các chữ trên lá hoặc trong sách rằng: ‘Người nào mang vũ khí đến, hoặc nhảy xuống vực thẳm, hoặc chết bằng các phương tiện khác như đi vào lửa, đi vào nước, và các cách tương tự, người ấy sẽ được cái này cái kia’, hoặc ‘Pháp của người ấy là như vậy’. Ở đây cũng vậy, các tội Tác Ác và Trọng Tội cần được hiểu theo phương pháp đã nói. Nhưng khi viết nhắm vào một người cụ thể, nếu người được nhắm đến khi viết ấy chết, thì người viết phạm tội Bất Cộng Trụ. Khi viết nhắm vào nhiều người, bao nhiêu người chết, bấy nhiêu tội sát sanh. Do cái chết của cha mẹ, phạm nghiệp vô gián. Khi viết mà không nhắm vào ai cụ thể, cũng theo phương pháp này. Khi hối hận phát sinh với ý nghĩ ‘Nhiều người đang chết’, nếu đốt sách đó hoặc làm sao cho chữ không còn đọc được nữa, thì được thoát khỏi tội tiếp diễn. Nếu đó là sách của người khác, dù viết nhắm vào ai đó hay không nhắm vào ai đó, nếu đặt lại ở nơi đã lấy, thì được thoát. Nếu sách được mua bằng tiền, cần trả lại sách cho chủ sách, và trả lại tiền cho những người mà mình đã nhận tiền từ tay họ, thì được thoát. Nếu nhiều người cùng một ý định ‘Chúng ta sẽ viết lời tán thán cái chết’, rồi một người trèo lên cây thốt nốt hái lá, một người mang về, một người làm sách, một người viết, một người – nếu là chữ viết bằng gai – thì bôi mực, sau khi bôi mực, sửa soạn sách đó rồi tất cả họ cùng đặt ở hội trường, hoặc ở chợ, hoặc ở nơi nào có nhiều người hiếu kỳ muốn xem chữ viết tụ tập. Sau khi đọc sách đó, ngay cả nếu chỉ một người chết, tất cả họ đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu nhiều người chết, cũng theo phương pháp tương tự đã nói. Nhưng khi hối hận phát sinh, ngay cả nếu họ cất giữ sách đó trong rương, mà một người khác thấy rồi lấy ra lại cho nhiều người xem, họ cũng không thoát tội. Đừng nói đến việc cất trong rương, ngay cả nếu họ ném sách đó xuống sông hoặc xuống biển, hoặc rửa sạch, hoặc cắt thành từng mảnh, hoặc đốt trong lửa, chừng nào các chữ trên lá bị cọ xát, bị rửa không sạch, hoặc bị đốt không hết vẫn còn đọc được, chừng đó họ vẫn không thoát tội. Nhưng khi làm sao cho chữ không còn đọc được nữa, thì họ được thoát.

Idāni thāvarapayogassa vibhāgadassanatthaṃ vuttesu opātādimātikāniddesesu manussaṃ uddissa opātaṃ khanatīti ‘‘itthannāmo patitvā marissatī’’ti kañci manussaṃ uddisitvā yattha so ekato vicarati, tattha āvāṭaṃ khanati, khanantassa tāva sacepi jātapathaviyā khanati, pāṇātipātassa payogattā payoge payoge dukkaṭaṃ. Yaṃ uddissa khanati, tassa dukkhuppattiyā thullaccayaṃ, maraṇena pārājikaṃ. Aññasmiṃ patitvā mate anāpatti. Sace anuddissa ‘‘yo koci marissatī’’ti khato hoti, yattakā patitvā maranti, tattakā pāṇātipātā. Ānantariyavatthūsu ca ānantariyaṃ thullaccayapācittiyavatthūsu thullaccayapācittiyāni.
Bây giờ, trong các phần giải thích đề mục bắt đầu bằng ‘hầm bẫy’, được nói để chỉ rõ sự phân chia của phương tiện cố định: câu ‘Đào hầm bẫy nhắm vào một người’ nghĩa là nhắm vào một người nào đó với ý nghĩ ‘Người tên X sẽ rơi xuống rồi chết’, người ấy đào hố ở nơi người đó thường đi lại một mình. Trước tiên, đối với người đào, ngay cả nếu đào trên đất đã có, do là phương tiện sát sanh, mỗi khi thực hiện việc đào đều phạm tội Tác Ác. Hố được đào nhắm vào ai, khi sự đau khổ phát sinh nơi người đó, người đào phạm tội Trọng Tội; nếu người đó chết thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu một người khác rơi xuống rồi chết, thì không phạm tội Bất Cộng Trụ (đối với người được nhắm đến ban đầu, nhưng có thể phạm tội khác tùy theo ý định lúc đó). Nếu hố được đào mà không nhắm vào ai cụ thể với ý nghĩ ‘Ai đó sẽ chết’, bao nhiêu người rơi xuống rồi chết, bấy nhiêu tội sát sanh. Và trong các trường hợp nạn nhân là đối tượng gây nghiệp vô gián, thì phạm nghiệp vô gián; trong các trường hợp nạn nhân là đối tượng gây tội Trọng Tội hoặc tội Ưng Đối Trị, thì phạm các tội Trọng Tội hoặc Ưng Đối Trị tương ứng.

Bahū tattha cetanā; katamāya pārājikaṃ hotīti? Mahāaṭṭhakathāyaṃ tāva vuttaṃ – ‘‘āvāṭaṃ gambhīrato ca āyāmavitthārato ca khanitvā pamāṇe ṭhapetvā tacchetvā puñchitvā paṃsupacchiṃ uddharantassa sanniṭṭhāpikā atthasādhakacetanā maggānantaraphalasadisā. Sacepi vassasatassa accayena patitvā avassaṃ maraṇakasatto hoti, sanniṭṭhāpakacetanāyameva pārājika’’nti. Mahāpaccariyaṃ pana saṅkhepaṭṭhakathāyañca – ‘‘imasmiṃ āvāṭe patitvā marissatīti ekasmimpi kuddālappahāre dinne sace koci tattha pakkhalito patitvā marati, pārājikameva. Suttantikattherā pana sanniṭṭhāpakacetanaṃ gaṇhantī’’ti vuttaṃ.
Ở đó, có nhiều ý định; do ý định nào mà phạm tội Bất Cộng Trụ? Trước tiên, trong Đại Chú Giải đã nói: ‘Đối với người đào hầm bẫy về chiều sâu, chiều dài và chiều rộng, sau khi đã định mức, đẽo gọt, vun vén, và mang giỏ đất đi, tư tâm hoàn thành mục đích cuối cùng của người ấy tương tự như quả liền sau đạo. Ngay cả nếu sau một trăm năm, một chúng sanh chắc chắn chết rơi xuống hầm đó, thì người đào phạm tội Bất Cộng Trụ chính do tư tâm hoàn thành cuối cùng ấy.’ Còn trong chú giải Mahāpaccarī và trong Chú Giải Tóm Lược đã nói: ‘Với ý nghĩ “người nào rơi xuống hầm bẫy này sẽ chết”, ngay cả khi chỉ mới đào một nhát cuốc, nếu có ai đó bị vấp ngã rồi rơi xuống đó và chết, thì người đào chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ.’ Nhưng các vị Trưởng lão theo Kinh tạng thì chấp nhận tư tâm hoàn thành cuối cùng – đã được nói như vậy.

Eko ‘‘opātaṃ khanitvā asukaṃ nāma ānetvā idha pātetvā mārehī’’ti aññaṃ āṇāpeti, so taṃ pātetvā māreti, ubhinnaṃ pārājikaṃ. Aññaṃ pātetvā māreti, sayaṃ patitvā marati, añño attano dhammatāya patitvā marati, sabbattha visaṅketo hoti, mūlaṭṭho muccati. ‘‘Asuko asukaṃ ānetvā idha māressatī’’ti khatepi eseva nayo. Maritukāmā idha marissantīti khanati, ekassa maraṇe pārājikaṃ. Bahunnaṃ maraṇe akusalarāsi , mātāpitūnaṃ maraṇe ānantariyaṃ, thullaccayapācittiyavatthūsu thullaccayapācittiyāni.
Một người ra lệnh cho người khác: ‘Hãy đào hầm bẫy, rồi mang người tên X đến đây, xô xuống rồi giết’, nếu người kia xô người đó xuống rồi giết, cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu người được lệnh xô người khác xuống rồi giết, hoặc người được lệnh tự mình rơi xuống rồi chết, hoặc một người khác tự nhiên rơi xuống rồi chết, trong tất cả các trường hợp đó đều có sự không đúng theo giao ước, người chủ mưu được thoát tội. Ngay cả khi hầm được đào với ý nghĩ ‘Người X sẽ mang người Y đến đây rồi giết’, cũng theo phương pháp này. Nếu đào hầm với ý nghĩ ‘Những người muốn chết sẽ chết ở đây’, khi một người chết, người đào phạm tội Bất Cộng Trụ. Khi nhiều người chết, tạo khối bất thiện; do cái chết của cha mẹ, phạm nghiệp vô gián; trong các trường hợp nạn nhân là đối tượng gây tội Trọng Tội hoặc tội Ưng Đối Trị, thì phạm các tội Trọng Tội hoặc Ưng Đối Trị tương ứng.

‘‘Ye keci māretukāmā, te idha pātetvā māressantī’’ti khanati, tattha pātetvā mārenti , ekasmiṃ mate pārājikaṃ, bahūsu akusalarāsi, ānantariyādivatthūsu ānantariyādīni. Idheva arahantāpi saṅgahaṃ gacchanti. Purimanaye pana ‘‘tesaṃ maritukāmatāya patanaṃ natthī’’ti te na saṅgayhanti. Dvīsupi nayesu attano dhammatāya patitvā mate visaṅketo. ‘‘Ye keci attano verike ettha pātetvā māressantī’’ti khanati, tattha ca verikā verike pātetvā mārenti, ekasmiṃ mārite pārājikaṃ, bahūsu akusalarāsi, mātari vā pitari vā arahante vā verikehi ānetvā tattha mārite ānantariyaṃ. Attano dhammatāya patitvā matesu visaṅketo.
Nếu đào hầm với ý nghĩ ‘Bất cứ ai muốn giết người khác, họ sẽ xô nạn nhân xuống đây rồi giết’, và ở đó họ xô nạn nhân xuống rồi giết, khi một người bị giết, người đào phạm tội Bất Cộng Trụ; khi nhiều người bị giết, tạo khối bất thiện; trong các trường hợp nạn nhân là đối tượng gây nghiệp vô gián và các tội khác, thì phạm nghiệp vô gián và các tội khác tương ứng. Ngay cả các vị A-la-hán cũng được bao gồm ở đây nếu là nạn nhân. Nhưng trong phương pháp trước (trường hợp đào hầm cho ‘những người muốn chết’), vì ‘không có sự rơi xuống do ý muốn chết của các vị A-la-hán (các vị ấy không tự tử)’, nên các vị ấy không được bao gồm (trong nhóm ‘những người muốn chết’). Trong cả hai phương pháp, nếu có người tự nhiên rơi xuống rồi chết, thì có sự không đúng theo giao ước đối với ý định ban đầu của người đào.

Yo pana ‘‘maritukāmā vā amaritukāmā vā māretukāmā vā amāretukāmā vā ye keci ettha patitā vā pātitā vā marissantī’’ti sabbathāpi anuddisseva khanati. Yo yo marati tassa tassa maraṇena yathānurūpaṃ kammañca phusati, āpattiñca āpajjati. Sace gabbhinī patitvā sagabbhā marati, dve pāṇātipātā. Gabbhoyeva vinassati, eko. Gabbho na vinassati, mātā marati, ekoyeva. Corehi anubaddho patitvā marati, opātakhanakasseva pārājikaṃ. Corā tattha pātetvā mārenti, pārājikameva. Tattha patitaṃ bahi nīharitvā mārenti, pārājikameva. Kasmā? Opāte patitappayogena gahitattā. Opātato nikkhamitvā teneva ābādhena marati, pārājikameva. Bahūni vassāni atikkamitvā puna kupitena tenevābādhena marati, pārājikameva. Opāte patanappaccayā uppannarogena gilānasseva añño rogo uppajjati, opātarogo balavataro hoti, tena matepi opātakhaṇako na muccati. Sace pacchā uppannarogo balavā hoti, tena mate muccati. Ubhohi mate na muccati. Opāte opapātikamanusso nibbattitvā uttarituṃ asakkonto marati, pārājikameva. Manussaṃ uddissa khate yakkhādīsu patitvā matesu anāpatti. Yakkhādayo uddissa khate manussādīsu marantesupi eseva nayo. Yakkhādayo uddissa khanantassa pana khananepi tesaṃ dukkhuppattiyampi dukkaṭameva. Maraṇe vatthuvasena thullaccayaṃ vā pācittiyaṃ vā. Anuddissa khate opāte yakkharūpena vā petarūpena vā patati, tiracchānarūpena marati, patanarūpaṃ pamāṇaṃ, tasmā thullaccayanti upatissatthero. Maraṇarūpaṃ pamāṇaṃ, tasmā pācittiyanti phussadevatthero. Tiracchānarūpena patitvā yakkhapetarūpena matepi eseva nayo.
Nhưng nếu có người đào hầm mà hoàn toàn không nhắm vào ai cụ thể với ý nghĩ: ‘Những người muốn chết hoặc không muốn chết, những người muốn giết hoặc không muốn giết, bất cứ ai rơi xuống đây hoặc bị xô xuống đây sẽ chết’. Bất cứ ai chết, do cái chết của người đó, người đào phạm nghiệp và tội tương ứng. Nếu người phụ nữ mang thai rơi xuống rồi chết cùng với thai nhi, phạm hai tội sát sanh. Chỉ thai nhi chết, phạm một tội. Thai nhi không chết, mẹ chết, cũng chỉ một tội. Người bị trộm đuổi theo rơi xuống rồi chết, chính người đào hầm phạm tội Bất Cộng Trụ. Bọn trộm xô nạn nhân xuống đó rồi giết, người đào chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Bọn trộm mang người đã rơi xuống đó ra ngoài rồi giết, người đào chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì nạn nhân đã bị bắt bởi phương tiện là việc rơi xuống hầm. Nạn nhân thoát ra khỏi hầm rồi chết do chính bệnh gây ra bởi việc rơi xuống ấy, người đào chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Sau nhiều năm trôi qua, nạn nhân lại chết do chính bệnh ấy tái phát, người đào chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Đối với người bệnh do bệnh phát sinh từ duyên rơi xuống hầm, nếu một bệnh khác phát sinh, nhưng bệnh do rơi xuống hầm mạnh hơn, ngay cả khi chết do bệnh đó, người đào hầm cũng không thoát tội. Nếu bệnh phát sinh sau mạnh hơn, nạn nhân chết do bệnh đó, người đào được thoát tội. Nếu chết do cả hai bệnh, người đào không thoát tội. Nếu một người hóa sanh hiện ra trong hầm rồi không thể trèo lên được và chết, người đào chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Khi hầm được đào nhắm vào người, nếu dạ xoa và các chúng sanh khác rơi xuống rồi chết, thì không phạm tội. Khi hầm được đào nhắm vào dạ xoa và các chúng sanh khác, nếu người và các chúng sanh khác chết, cũng theo phương pháp này. Nhưng đối với người đào hầm nhắm vào dạ xoa và các chúng sanh khác, ngay cả khi đào và khi sự đau khổ phát sinh nơi chúng, cũng chỉ phạm tội Tác Ác. Khi chúng chết, tùy theo đối tượng mà phạm tội Trọng Tội hoặc tội Ưng Đối Trị. Trong hầm được đào không nhắm vào ai cụ thể, nếu một sinh vật rơi xuống dưới hình dạng dạ xoa hoặc ngạ quỷ, nhưng chết dưới hình dạng súc sanh, thì hình thức rơi xuống là tiêu chuẩn; do đó, phạm tội Trọng Tội – đây là ý kiến của Trưởng lão Upatissa. Hình thức chết là tiêu chuẩn; do đó, phạm tội Ưng Đối Trị – đây là ý kiến của Trưởng lão Phussadeva. Ngay cả khi rơi xuống dưới hình dạng súc sanh rồi chết dưới hình dạng dạ xoa, ngạ quỷ, cũng theo phương pháp này.

Opātakhanako opātaṃ aññassa vikkiṇāti vā mudhā vā deti, yo yo patitvā marati, tappaccayā tasseva āpatti ca kammabandho ca. Yena laddho so niddoso. Atha sopi ‘‘evaṃ patitā uttarituṃ asakkontā nassissanti, suuddharā vā na bhavissantī’’ti taṃ opātaṃ gambhīrataraṃ vā uttānataraṃ vā dīghataraṃ vā rassataraṃ vā vitthatataraṃ vā sambādhataraṃ vā karoti, ubhinnampi āpatti ca kammabandho ca. Bahū marantīti vippaṭisāre uppanne opātaṃ paṃsunā pūreti, sace koci paṃsumhi patitvā marati, pūretvāpi mūlaṭṭho na muccati. Deve vassante kaddamo hoti, tattha laggitvā matepi. Rukkho vā patanto vāto vā vassodakaṃ vā paṃsuṃ harati, kandamūlatthaṃ vā pathaviṃ khanantā tattha āvāṭaṃ karonti. Tattha sace koci laggitvā vā patitvā vā marati, mūlaṭṭho na muccati. Tasmiṃ pana okāse mahantaṃ taḷākaṃ vā pokkharaṇiṃ vā kāretvā cetiyaṃ vā patiṭṭhāpetvā bodhiṃ vā ropetvā āvāsaṃ vā sakaṭamaggaṃ vā kāretvā muccati. Yadāpi thiraṃ katvā pūrite opāte rukkhādīnaṃ mūlāni mūlehi saṃsibbitāni honti , jātapathavī jātā, tadāpi muccati. Sacepi nadī āgantvā opātaṃ harati, evampi muccatīti. Ayaṃ tāva opātakathā.
Người đào hầm bẫy bán hoặc cho không hầm bẫy đó cho người khác; bất cứ ai rơi xuống rồi chết, do duyên đó, chính người đào ban đầu phạm tội và bị trói buộc bởi nghiệp. Người nào nhận hầm bẫy đó thì vô tội (nếu không có ý định làm hại thêm). Nhưng nếu người nhận cũng nghĩ rằng ‘Những người rơi xuống như vậy sẽ không thể trèo lên được và sẽ chết, hoặc sẽ không dễ được cứu thoát’ rồi làm cho hầm bẫy đó sâu hơn, hoặc cạn hơn, hoặc dài hơn, hoặc ngắn hơn, hoặc rộng hơn, hoặc hẹp hơn, thì cả hai người (người đào ban đầu và người sửa đổi) đều phạm tội và bị trói buộc bởi nghiệp. Khi hối hận phát sinh với ý nghĩ ‘Nhiều người đang chết’, người đào lấp hầm bẫy bằng đất; nếu có ai đó rơi xuống đất đã lấp rồi chết, ngay cả khi đã lấp, người chủ mưu (người đào ban đầu) cũng không thoát tội. Khi trời mưa, chỗ đó trở thành bùn; ngay cả khi có người bị kẹt vào đó rồi chết, (người đào ban đầu cũng không thoát tội). Cây đổ, hoặc gió, hoặc nước mưa cuốn đất đi; hoặc những người đào đất để lấy củ rễ làm thành một cái hố ở đó. Ở đó, nếu có ai đó bị kẹt vào hoặc rơi xuống rồi chết, người chủ mưu không thoát tội. Nhưng nếu ở nơi đó, người đào làm một cái hồ lớn hoặc một ao sen, hoặc xây dựng tháp thờ, hoặc trồng cây bồ đề, hoặc làm trú xứ, hoặc làm đường xe, thì được thoát tội. Ngay cả khi hầm bẫy đã được lấp một cách chắc chắn, rễ cây và các thứ khác đã đan vào nhau bằng rễ, đất tự nhiên đã hình thành, khi đó cũng được thoát tội. Ngay cả nếu sông đến cuốn trôi hầm bẫy đi, như vậy cũng được thoát. Đây là lời bàn về hầm bẫy.

Opātasseva pana anulomesu pāsādīsupi yo tāva pāsaṃ oḍḍeti ‘‘ettha bajjhitvā sattā marissantī’’ti avassaṃ bajjhanakasattānaṃ vasena hatthā muttamatte pārājikānantariyathullaccayapācittiyāni veditabbāni. Uddissa kate yaṃ uddissa oḍḍito, tato aññesaṃ bandhane anāpatti. Pāse mūlena vā mudhā vā dinnepi mūlaṭṭhasseva kammabandho. Sace yena laddho so uggalitaṃ vā pāsaṃ saṇṭhapeti, passena vā gacchante disvā vatiṃ katvā sammukhe paveseti, thaddhataraṃ vā pāsayaṭṭhiṃ ṭhapeti, daḷhataraṃ vā pāsarajjuṃ bandhati, thirataraṃ vā khāṇukaṃ vā ākoṭeti, ubhopi na muccanti. Sace vippaṭisāre uppanne pāsaṃ uggalāpetvā gacchati, taṃ disvā puna aññe saṇṭhapenti, baddhā baddhā maranti, mūlaṭṭho na muccati.
Cũng trong các trường hợp tương tự như hầm bẫy, như thòng lọng và các loại bẫy khác, người nào trước tiên đặt thòng lọng với ý nghĩ ‘Chúng sanh bị trói ở đây sẽ chết’, thì đối với các chúng sanh chắc chắn bị trói, ngay khi thòng lọng rời khỏi tay, cần được hiểu là phạm các tội Bất Cộng Trụ, nghiệp vô gián, Trọng Tội, hoặc Ưng Đối Trị tùy theo đối tượng. Khi làm có chủ đích, nếu người được nhắm đến khi đặt thòng lọng bị trói, thì phạm tội; nếu những người khác bị trói, thì không phạm tội đối với ý định ban đầu. Ngay cả khi thòng lọng được cho bằng tiền hoặc cho không, chính người chủ mưu (người đặt ban đầu) bị trói buộc bởi nghiệp. Nếu người nào nhận thòng lọng đó rồi đặt lại thòng lọng bị tuột, hoặc thấy chúng sanh đi ngang qua rồi làm hàng rào dẫn vào phía trước thòng lọng, hoặc đặt cây gậy của thòng lọng chắc chắn hơn, hoặc buộc dây thòng lọng chặt hơn, hoặc đóng cọc vững chắc hơn, thì cả hai người (người đặt ban đầu và người sửa đổi) đều không thoát tội. Nếu khi hối hận phát sinh, người đặt ban đầu làm cho thòng lọng tuột ra rồi bỏ đi, nhưng những người khác thấy vậy rồi lại đặt lại thòng lọng, nếu có chúng sanh bị trói rồi chết, người chủ mưu (người đặt ban đầu) không thoát tội.

Sace pana tena pāsayaṭṭhi sayaṃ akatā hoti, gahitaṭṭhāne ṭhapetvā muccati. Tatthajātakayaṭṭhiṃ chinditvā muccati. Sayaṃ katayaṭṭhiṃ pana gopentopi na muccati. Yadi hi taṃ añño gaṇhitvā pāsaṃ saṇṭhapeti, tappaccayā marantesu mūlaṭṭho na muccati. Sace taṃ jhāpetvā alātaṃ katvā chaḍḍeti, tena alātena pahāraṃ laddhā marantesupi na muccati. Sabbaso pana jhāpetvā vā nāsetvā vā muccati, pāsarajjumpi aññehi ca vaṭṭitaṃ gahitaṭṭhāne ṭhapetvā muccati. Rajjuke labhitvā sayaṃ vaṭṭitaṃ ubbaṭṭetvā vāke labhitvā vaṭṭitaṃ hīraṃ hīraṃ katvā muccati. Araññato pana sayaṃ vāke āharitvā vaṭṭitaṃ gopentopi na muccati. Sabbaso pana jhāpetvā vā nāsetvā vā muccati.
Nhưng nếu cây gậy của thòng lọng đó không phải do tự mình làm, nếu đặt lại ở nơi đã lấy, thì được thoát tội. Nếu chặt cây gậy mọc tự nhiên ở đó rồi làm gậy thòng lọng, sau đó chặt bỏ nó đi, thì được thoát. Nhưng đối với cây gậy do tự mình làm, ngay cả khi cất giữ nó, cũng không thoát tội nếu nó được dùng lại. Quả vậy, nếu một người khác lấy nó rồi đặt thòng lọng, khi có chúng sanh chết do duyên đó, người chủ mưu (người làm gậy) không thoát tội. Nếu đốt nó thành than củi rồi vứt bỏ, ngay cả khi có chúng sanh bị đánh bằng than củi đó rồi chết, cũng không thoát tội (nếu than củi vẫn còn khả năng gây hại liên quan đến ý định ban đầu). Nhưng sau khi đốt hoàn toàn hoặc phá hủy hoàn toàn, thì được thoát. Cả dây thòng lọng do người khác bện, nếu đặt lại ở nơi đã lấy, thì được thoát. Nếu nhận được những sợi dây rồi tự mình bện thành dây thòng lọng, sau khi tháo gỡ ra; hoặc nhận được vỏ cây đã bện, sau khi xé thành từng mảnh nhỏ, thì được thoát. Nhưng đối với vỏ cây do tự mình mang từ rừng về rồi bện thành dây thòng lọng, ngay cả khi cất giữ nó, cũng không thoát tội nếu nó được dùng lại. Nhưng sau khi đốt hoàn toàn hoặc phá hủy hoàn toàn, thì được thoát.

Adūhalaṃ sajjento catūsu pādesu adūhalamañcaṃ ṭhapetvā pāsāṇe āropeti, payoge payoge dukkaṭaṃ. Sabbasajjaṃ katvā hatthato muttamatte avassaṃ ajjhottharitabbakasattānaṃ vasena uddissakānuddissakānurūpena pārājikādīni veditabbāni. Adūhale mūlena vā mudhā vā dinnepi mūlaṭṭhasseva kammabaddho. Sace yena laddhaṃ so patitaṃ vā ukkhipati, aññepi pāsāṇe āropetvā garukataraṃ vā karoti, passena vā gacchante disvā vatiṃ katvā adūhale paveseti, ubhopi na muccanti. Sacepi vippaṭisāre uppanne adūhalaṃ pātetvā gacchati, taṃ disvā añño saṇṭhapeti, mūlaṭṭho na muccati. Pāsāṇe pana gahitaṭṭhāne ṭhapetvā adūhalapāde ca pāsayaṭṭhiyaṃ vuttanayena gahitaṭṭhāne vā ṭhapetvā jhāpetvā vā muccati.
Người sửa soạn bẫy sập, sau khi đặt cái giường bẫy sập trên bốn chân rồi chất đá lên, mỗi khi thực hiện việc sửa soạn đều phạm tội Tác Ác. Sau khi đã sửa soạn tất cả, ngay khi bẫy rời khỏi tay, đối với các chúng sanh chắc chắn bị đè bẹp, cần được hiểu là phạm các tội Bất Cộng Trụ và các tội khác tùy theo việc làm có chủ đích hay không có chủ đích. Ngay cả khi bẫy sập được cho bằng tiền hoặc cho không, chính người chủ mưu (người làm ban đầu) bị trói buộc bởi nghiệp. Nếu người nào nhận bẫy đó rồi nhấc vật đã rơi lên để gài lại bẫy, hoặc chất thêm đá khác lên làm cho nặng hơn, hoặc thấy chúng sanh đi ngang qua rồi làm hàng rào dẫn vào bẫy sập, thì cả hai người (người làm ban đầu và người sửa đổi) đều không thoát tội. Ngay cả nếu khi hối hận phát sinh, người làm ban đầu làm cho bẫy sập rơi xuống rồi bỏ đi, nhưng một người khác thấy vậy rồi lại gài lại bẫy, người chủ mưu (người làm ban đầu) không thoát tội. Nhưng đối với đá, nếu đặt lại ở nơi đã lấy; còn đối với các chân của bẫy sập và cây gậy của thòng lọng, nếu đặt lại ở nơi đã lấy hoặc đốt đi theo phương pháp đã nói, thì được thoát tội.

Sūlaṃ ropentassāpi sabbasajjaṃ katvā hatthato muttamatte sūlamukhe patitvā avassaṃ maraṇakasattānaṃ vasena uddissānuddissānurūpato pārājikādīni veditabbāni. Sūle mūlena vā mudhā vā dinnepi mūlaṭṭhasseva kammabaddho. Sace yena laddhaṃ so ‘‘ekappahāreneva marissantī’’ti tikhiṇataraṃ vā karoti, ‘‘dukkhaṃ marissantī’’ti kuṇṭhataraṃ vā karoti, ‘‘ucca’’nti sallakkhetvā nīcataraṃ vā ‘‘nīca’’nti sallakkhetvā uccataraṃ vā puna ropeti, vaṅkaṃ vā ujukaṃ atiujukaṃ vā īsakaṃ poṇaṃ karoti, ubhopi na muccanti. Sace pana ‘‘aṭṭhāne ṭhita’’nti aññasmiṃ ṭhāne ṭhapeti, taṃ ce māraṇatthāya ādito pabhuti pariyesitvā kataṃ hoti, mūlaṭṭho na muccati. Apariyesitvā pana katameva labhitvā ropite mūlaṭṭho muccati. Vippaṭisāre uppanne pāsayaṭṭhiyaṃ vuttanayena gahitaṭṭhāne vā ṭhapetvā jhāpetvā vā muccati.
Cả đối với người cắm cọc nhọn, sau khi đã sửa soạn tất cả, ngay khi cọc rời khỏi tay, đối với các chúng sanh chắc chắn chết do rơi trên đầu cọc nhọn, cần được hiểu là phạm các tội Bất Cộng Trụ và các tội khác tùy theo việc làm có chủ đích hay không có chủ đích. Ngay cả khi cọc nhọn được cho bằng tiền hoặc cho không, chính người chủ mưu (người cắm ban đầu) bị trói buộc bởi nghiệp. Nếu người nào nhận cọc đó rồi nghĩ rằng ‘Sẽ chết chỉ bằng một cú đánh’ rồi làm cho cọc nhọn hơn, hoặc nghĩ rằng ‘Sẽ chết một cách đau khổ’ rồi làm cho cọc cùn hơn, hoặc nhận thấy cọc ‘cao’ rồi cắm lại thấp hơn, hoặc nhận thấy ‘thấp’ rồi cắm lại cao hơn, hoặc làm cho cọc đang cong thành thẳng, đang rất thẳng thành hơi nghiêng, thì cả hai người (người cắm ban đầu và người sửa đổi) đều không thoát tội. Nhưng nếu người nhận nghĩ rằng cọc ‘đặt không đúng chỗ’ rồi đặt ở một nơi khác, nếu cọc đó đã được làm sau khi đã tìm kiếm chọn lựa từ đầu nhằm mục đích giết hại, người chủ mưu (người cắm ban đầu) không thoát tội. Nhưng nếu người nhận nhận được cái đã được làm sẵn mà không phải do tìm kiếm chọn lựa rồi cắm lại, người chủ mưu (người cắm ban đầu) được thoát tội. Khi hối hận phát sinh, nếu đặt lại ở nơi đã lấy hoặc đốt đi theo phương pháp đã nói đối với cây gậy của thòng lọng, thì được thoát tội.

177. Apassene satthaṃ vāti ettha apassenaṃ nāma niccaparibhogo mañco vā pīṭhaṃ vā apassenaphalakaṃ vā divāṭṭhāne nisīdantassa apassenakatthambho vā tatthajātakarukkho vā caṅkame apassāya tiṭṭhantassa ālambanarukkho vā ālambanaphalakaṃ vā sabbampetaṃ apassayanīyaṭṭhena apassenaṃ nāma; tasmiṃ apassene yathā apassayantaṃ vijjhati vā chindati vā tathā katvā vāsipharasusattiārakaṇṭakādīnaṃ aññataraṃ satthaṃ ṭhapeti, dukkaṭaṃ. Dhuvaparibhogaṭṭhāne nirāsaṅkassa nisīdato vā nipajjato vā apassayantassa vā satthasamphassapaccayā dukkhuppattiyā thullaccayaṃ, maraṇena pārājikaṃ. Taṃ ce aññopi tassa veribhikkhu vihāracārikaṃ caranto disvā ‘‘imassa maññe maraṇatthāya idaṃ nikhittaṃ, sādhu suṭṭhu maratū’’ti abhinandanto gacchati, dukkaṭaṃ. Sace pana sopi tattha ‘‘evaṃ kate sukataṃ bhavissatī’’ti tikhiṇatarādikaraṇena kiñci kammaṃ karoti, tassāpi pārājikaṃ. Sace pana ‘‘aṭṭhāne ṭhita’’nti uddharitvā aññasmiṃ ṭhāne ṭhapeti tadatthameva katvā ṭhapite mūlaṭṭho na muccati. Pākatikaṃ labhitvā ṭhapitaṃ hoti, muccati. Taṃ apanetvā aññaṃ tikhiṇataraṃ ṭhapeti mūlaṭṭho muccateva.
177. Trong câu ‘Hoặc đặt vũ khí ở nơi tựa’, ở đây, ‘vật để tựa’ là giường thường dùng, hoặc ghế, hoặc tấm ván để tựa; hoặc đối với người ngồi ở nơi nghỉ ban ngày, là cột để tựa hoặc cây mọc tự nhiên ở đó; hoặc đối với người đứng vịn trên đường kinh hành, là cây để vịn hoặc tấm ván để vịn – tất cả những thứ này, do có ý nghĩa là vật để tựa vào, được gọi là vật để tựa. Người nào đặt một loại vũ khí nào đó như bào, dựa, dao nhỏ, dùi, gai, và các vật tương tự ở nơi tựa ấy, sau khi làm sao cho nó đâm hoặc cắt người đang tựa, người ấy phạm tội Tác Ác. Ở nơi thường dùng, khi sự đau khổ phát sinh do duyên xúc chạm với vũ khí đối với người không nghi ngờ đang ngồi, hoặc nằm, hoặc đang tựa, người đặt vũ khí phạm tội Trọng Tội; nếu nạn nhân chết thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu một Tỳ khưu thù địch khác của người ấy, trong khi đi kinh hành trong tu viện, thấy vũ khí đó rồi nghĩ rằng ‘Ta nghĩ cái này được đặt để giết người này, tốt lắm, nó chết đi thật tốt’ rồi vui mừng bỏ đi, vị Tỳ khưu thù địch đó phạm tội Tác Ác. Nhưng nếu vị ấy cũng ở đó làm một việc gì đó bằng cách làm cho vũ khí nhọn hơn và các hành động tương tự, với ý nghĩ ‘Làm như vậy sẽ là việc làm tốt để giết’, thì vị ấy cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu người khác nghĩ rằng vũ khí ‘đặt không đúng chỗ’ rồi nhấc lên đặt ở một nơi khác, nếu vũ khí được đặt ở nơi mới cũng với mục đích đó (giết người), người chủ mưu (người đặt ban đầu) không thoát tội. Nếu vũ khí được nhận là cái có sẵn tự nhiên rồi được đặt, người chủ mưu ban đầu được thoát tội. Nếu người khác dời vũ khí đó đi rồi đặt một vũ khí khác nhọn hơn, người chủ mưu (người đặt ban đầu) chắc chắn được thoát tội.

Visamakkhanepi yāva maraṇābhinandane dukkaṭaṃ tāva eseva nayo. Sace pana sopi khuddakaṃ visamaṇḍalanti sallakkhetvā mahantataraṃ vā karoti , mahantaṃ vā ‘‘atirekaṃ hotī’’ti khuddakaṃ karoti, tanukaṃ vā bahalaṃ; bahalaṃ vā tanukaṃ karoti, agginā tāpetvā heṭṭhā vā upari vā sañcāreti, tassāpi pārājikaṃ. ‘‘Idaṃ aṭhāne ṭhita’’nti sabbameva tacchetvā puñchitvā aññasmiṃ ṭhāne ṭhapeti, attanā bhesajjāni yojetvā kate mūlaṭṭho na muccati , attanā akate muccati. Sace pana so ‘‘idaṃ visaṃ atiparitta’’nti aññampi ānetvā pakkhipati, yassa visena marati, tassa pārājikaṃ. Sace ubhinnampi santakena marati, ubhinnampi pārājikaṃ. ‘‘Idaṃ visaṃ nibbisa’’nti taṃ apanetvā attano visameva ṭhapeti, tasseva pārājikaṃ mūlaṭṭho muccati.
Cả trong việc bôi thuốc độc, cho đến khi vui thích cái chết của nạn nhân, cũng theo phương pháp này (phạm tội Tác Ác). Nhưng nếu người ấy cũng nhận thấy vòng thuốc độc nhỏ rồi làm cho lớn hơn, hoặc thấy lớn rồi nghĩ rằng ‘Thừa quá’ rồi làm cho nhỏ lại; hoặc làm cho thuốc độc đang mỏng thành dày, đang dày thành mỏng; hoặc sau khi hơ lửa, di chuyển thuốc độc xuống dưới hoặc lên trên, thì người ấy cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu người khác nghĩ rằng ‘Cái này đặt không đúng chỗ’ rồi cạo sạch, lau sạch tất cả rồi đặt ở một nơi khác; nếu thuốc độc được đặt ở nơi mới sau khi tự mình đã pha chế thuốc, người chủ mưu (người bôi ban đầu) không thoát tội; nếu tự mình không làm mà chỉ dời thuốc độc có sẵn, người chủ mưu ban đầu được thoát. Nhưng nếu người khác nghĩ rằng ‘Thuốc độc này quá ít’ rồi mang thêm thuốc độc khác đến bỏ vào, nạn nhân chết do thuốc độc của ai, người đó phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu nạn nhân chết do thuốc độc của cả hai, cả hai đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu người khác nghĩ rằng ‘Thuốc độc này không có độc’ rồi dời nó đi, đặt chính thuốc độc của mình vào, thì chỉ người ấy phạm tội Bất Cộng Trụ, người chủ mưu (người bôi ban đầu) được thoát tội.

Dubbalaṃ vā karotīti mañcapīṭhaṃ aṭaniyā heṭṭhābhāge chinditvā vidalehi vā rajjukehi vā yehi vītaṃ hoti, te vā chinditvā appāvasesameva katvā heṭṭhā āvudhaṃ nikkhipati ‘‘ettha patitvā marissatī’’ti. Apassenaphalakādīnampi caṅkame ālambanarukkhaphalakapariyosānānaṃ parabhāgaṃ chinditvā heṭṭhā āvudhaṃ nikkhipati, sobbhādīsu mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā apassenaphalakaṃ vā ānetvā ṭhapeti, yathā tattha nisinnamatto vā apassitamatto vā patati, sobbhādīsu vā sañcaraṇasetu hoti, taṃ dubbalaṃ karoti; evaṃ karontassa karaṇe dukkaṭaṃ. Itarassa dukkhuppattiyā thullaccayaṃ, maraṇe pārājikaṃ. Bhikkhuṃ ānetvā sobbhādīnaṃ taṭe ṭhapeti ‘‘disvā bhayena kampento patitvā marissatī’’ti dukkaṭaṃ. So tattheva patati, dukkhuppattiyā thullaccayaṃ, maraṇe pārājikaṃ. Sayaṃ vā pāteti, aññena vā pātāpeti, añño avutto vā attano dhammatāya pāteti, amanusso pāteti, vātappahārena patati, attano dhammatāya patatti, sabbattha maraṇe pārājikaṃ. Kasmā? Tassa payogena sobbhāditaṭe ṭhitattā.
Câu ‘Hoặc làm cho yếu đi’ nghĩa là người nào cắt phần dưới chân giường ghế, hoặc cắt các nan tre hay dây nhỏ đã được đan trên giường ghế, chỉ để lại một ít, rồi đặt vũ khí ở dưới với ý nghĩ ‘Rơi xuống đây sẽ chết’. Hoặc người nào cắt phần xa của tấm ván để tựa và các vật tương tự của cây để vịn, tấm ván ở cuối đường kinh hành, rồi đặt vũ khí ở dưới. Hoặc người nào mang giường, hoặc ghế, hoặc tấm ván để tựa đến đặt ở hố và các nơi tương tự, sao cho người nào chỉ cần ngồi xuống đó hoặc chỉ cần tựa vào đó là rơi xuống. Hoặc có một cây cầu đi qua hố và các nơi tương tự, người nào làm cho nó yếu đi. Người làm như vậy, trong khi làm, phạm tội Tác Ác. Khi sự đau khổ phát sinh nơi người kia (nạn nhân), người làm phạm tội Trọng Tội; nếu nạn nhân chết thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Người nào mang một Tỳ khưu đến đặt ở bờ hố và các nơi tương tự, với ý nghĩ ‘Thấy rồi do sợ hãi run rẩy sẽ rơi xuống chết’, người ấy phạm tội Tác Ác. Nếu Tỳ khưu ấy rơi xuống chính chỗ đó, khi sự đau khổ phát sinh, người mang đến phạm tội Trọng Tội; nếu Tỳ khưu chết thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu Tỳ khưu ấy tự mình rơi xuống, hoặc bị người khác xô xuống, hoặc một người khác không được bảo tự nhiên xô xuống, hoặc phi nhân xô xuống, hoặc do sức gió thổi rơi xuống, hoặc tự nhiên rơi xuống, trong tất cả các trường hợp nếu Tỳ khưu chết, người mang đến ban đầu đều phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì do phương tiện của người mang đến đó mà Tỳ khưu đã đứng ở bờ hố và các nơi tương tự.

Upanikkhipanaṃ nāma samīpe nikkhipanaṃ. Tattha ‘‘yo iminā asinā mato so dhanaṃ vā labhatī’’tiādinā nayena maraṇavaṇṇaṃ vā saṃvaṇṇetvā ‘‘iminā maraṇatthikā marantu, māraṇatthikā mārentū’’ti vā vatvā asiṃ upanikkhipati, tassa upanikkhipane dukkaṭaṃ. Maritukāmo vā tena attānaṃ paharatu , māretukāmo vā aññaṃ paharatu, ubhayathāpi parassa dukkhuppattiyā upanikkhepakassa thullaccayaṃ, maraṇe pārājikaṃ. Anuddissa nikkhitte bahūnaṃ maraṇe akusalarāsi. Pārājikādivatthūsu pārājikādīni. Vippaṭisāre uppanne asiṃ gahitaṭṭhāne ṭhapetvā muccati. Kiṇitvā gahito hoti, asissāmikānaṃ asiṃ, yesaṃ hatthato mūlaṃ gahitaṃ, tesaṃ mūlaṃ datvā muccati. Sace lohapiṇḍiṃ vā phālaṃ vā kudālaṃ vā gahetvā asi kārāpito hoti, yaṃ bhaṇḍaṃ gahetvā kārito, tadeva katvā muccati. Sace kudālaṃ gahetvā kāritaṃ vināsetvā phālaṃ karoti, phālena pahāraṃ labhitvā marantesupi pāṇātipātato na muccati. Sace pana lohaṃ samuṭṭhāpetvā upanikkhipanatthameva kārito hoti, arena ghaṃsitvā cuṇṇavicuṇṇaṃ katvā vippakiṇṇe muccati. Sacepi saṃvaṇṇanāpotthako viya bahūhi ekajjhāsayehi kato hoti, potthake vuttanayeneva kammabandhavinicchayo veditabbo. Esa nayo sattibheṇḍīsu. Laguḷe pāsayaṭṭhisadiso vinicchayo. Tathā pāsāṇe. Satthe asisadisova. Visaṃ vāti visaṃ upanikkhipantassa vatthuvasena uddissānuddissānurūpato pārājikādivatthūsu pārājikādīni veditabbāni. Kiṇitvā ṭhapite purimanayena paṭipākatikaṃ katvā muccati. Sayaṃ bhesajjehi yojite avisaṃ katvā muccati. Rajjuyā pāsarajjusadisova vinicchayo.
‘Sự đặt gần’ là việc đặt ở gần. Ở đó, người nào sau khi tán thán cái chết theo cách nói bắt đầu bằng: ‘Người nào chết bằng cây gươm này sẽ được của cải’, và các cách tương tự, hoặc sau khi nói: ‘Bằng cây gươm này, những người muốn chết hãy chết, những người muốn giết hãy giết’, rồi đặt gần cây gươm, thì việc đặt gần đó phạm tội Tác Ác. Dù người muốn chết tự mình đâm bằng cây gươm đó, hay người muốn giết đâm người khác, trong cả hai trường hợp, khi sự đau khổ phát sinh nơi người kia, người đặt gần gươm phạm tội Trọng Tội; nếu nạn nhân chết thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Khi gươm được đặt mà không nhắm vào ai cụ thể, nếu nhiều người chết, tạo khối bất thiện. Trong các trường hợp nạn nhân là đối tượng gây tội Bất Cộng Trụ và các tội khác, thì phạm các tội Bất Cộng Trụ và các tội khác tương ứng. Khi hối hận phát sinh, nếu đặt cây gươm lại ở nơi đã lấy, thì được thoát tội. Nếu cây gươm được nhận sau khi mua, cần trả lại gươm cho chủ của gươm, và trả lại tiền cho những người mà mình đã nhận tiền từ tay họ, thì được thoát. Nếu người ấy lấy cục sắt, hoặc lưỡi cày, hoặc cái cuốc rồi sai người làm thành gươm, cần làm lại thành vật đã lấy để làm gươm đó, thì được thoát. Nếu người ấy lấy cái cuốc rồi sai người làm thành gươm, sau đó phá hủy gươm làm thành lưỡi cày, ngay cả khi có người bị đánh bằng lưỡi cày đó rồi chết, cũng không thoát khỏi tội sát sanh. Nhưng nếu gươm được làm từ sắt đã được tạo ra chỉ nhằm mục đích đặt gần để giết, nếu mài bằng dũa làm thành bột mịn rồi rải đi, thì được thoát. Ngay cả nếu vũ khí được làm bởi nhiều người cùng một ý định giống như sách tán thán cái chết, sự phân xử về sự trói buộc bởi nghiệp cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với sách. Phương pháp này cũng áp dụng đối với lao và vật ném. Đối với gậy, sự phân xử tương tự như cây gậy của thòng lọng. Tương tự đối với đá. Đối với vũ khí nói chung, sự phân xử tương tự như gươm. Cụm từ ‘Hoặc thuốc độc’ nghĩa là đối với người đặt gần thuốc độc, tùy theo đối tượng và tùy theo việc làm có chủ đích hay không có chủ đích, trong các trường hợp nạn nhân là đối tượng gây tội Bất Cộng Trụ và các tội khác, cần được hiểu là phạm các tội Bất Cộng Trụ và các tội khác tương ứng. Khi thuốc độc được đặt sau khi mua, nếu làm cho trở lại trạng thái ban đầu theo phương pháp trước, thì được thoát. Nếu thuốc độc do tự mình pha chế bằng các loại thuốc, nếu làm cho không còn độc nữa, thì được thoát. Đối với dây thừng, sự phân xử tương tự như dây thòng lọng.

Bhesajje – yo bhikkhu veribhikkhussa pajjarake vā visabhāgaroge vā uppanne asappāyānipi sappiādīni sappāyānīti maraṇādhippāyo deti, aññaṃ vā kiñci kandamūlaphalaṃ tassa evaṃ bhesajjadāne dukkaṭaṃ. Parassa dukkhuppattiyaṃ maraṇe ca thullaccayapārājikāni, ānantariyavatthumhi ānantariyanti veditabbaṃ.
Trong việc cho thuốc – Tỳ khưu nào, khi một Tỳ khưu thù địch bị bệnh nóng sốt hoặc bệnh không tương thích phát sinh, cho những thứ không thích hợp như bơ lỏng và các thứ khác, nói rằng đó là những thứ thích hợp, với ý định giết; hoặc cho một loại củ, rễ, trái cây nào khác, việc cho thuốc như vậy của người ấy phạm tội Tác Ác. Khi sự đau khổ phát sinh nơi người kia và người kia chết, phạm các tội Trọng Tội, Bất Cộng Trụ; trong trường hợp nạn nhân là đối tượng gây nghiệp vô gián, cần được hiểu là phạm nghiệp vô gián.

178. Rūpūpahāre – upasaṃharatīti paraṃ vā amanāparūpaṃ tassa samīpe ṭhapeti, attanā vā yakkhapetādivesaṃ gahetvā tiṭṭhati, tassa upasaṃhāramatte dukkaṭaṃ. Parassa taṃ rūpaṃ disvā bhayuppattiyaṃ thullaccayaṃ, maraṇe pārājikaṃ. Sace pana tadeva rūpaṃ ekaccassa manāpaṃ hoti, alābhakena ca sussitvā marati, visaṅketo. Manāpiyepi eseva nayo. Tattha pana visesena itthīnaṃ purisarūpaṃ purisānañca itthirūpaṃ manāpaṃ taṃ alaṅkaritvā upasaṃharati, diṭṭhamattakameva karoti, aticiraṃ passitumpi na deti, itaro alābhakena sussitvā marati, pārājikaṃ. Sace uttasitvā marati , visaṅketo. Atha pana uttasitvā vā alābhakena vāti avicāretvā ‘‘kevalaṃ passitvā marissatī’’ti upasaṃharati, uttasitvā vā sussitvā vā mate pārājikameva. Etenevūpāyena saddūpahārādayopi veditabbā. Kevalañhettha amanussasaddādayo utrāsajanakā amanāpasaddā, purisānaṃ itthisaddamadhuragandhabbasaddādayo cittassādakarā manāpasaddā. Himavante visarukkhānaṃ mūlādigandhā kuṇapagandhā ca amanāpagandhā, kāḷānusārīmūlagandhādayo manāpagandhā . Paṭikūlamūlarasādayo amanāparasā, appaṭikūlamūlarasādayo manāparasā. Visaphassamahākacchuphassādayo amanāpaphoṭṭhabbā, cīnapaṭahaṃsapupphatūlikaphassādayo manāpaphoṭṭhabbāti veditabbā.
178. Trong việc dùng hình sắc làm phương tiện: câu ‘Mang đến gần, trình bày’ nghĩa là người nào đặt một hình sắc không đáng ưa thích khác ở gần người ấy, hoặc tự mình mặc y phục của dạ xoa, ngạ quỷ, và các chúng sanh tương tự rồi đứng đó; ngay khi mang đến gần, người ấy phạm tội Tác Ác. Khi sự sợ hãi phát sinh nơi người kia sau khi thấy hình sắc đó, người làm phạm tội Trọng Tội; nếu nạn nhân chết thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu chính hình sắc đó lại đáng ưa thích đối với một người nào đó, và người đó chết do héo hon vì không đạt được, thì có sự không đúng theo giao ước. Cả trong trường hợp đáng ưa thích cũng theo phương pháp này. Ở đó, đặc biệt là hình sắc người nam đối với phụ nữ và hình sắc người nữ đối với nam giới là đáng ưa thích; người nào trang điểm hình sắc đó rồi mang đến gần, chỉ làm cho thấy một chút, cũng không cho xem quá lâu, người kia chết do héo hon vì không đạt được, người mang đến phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu nạn nhân sợ hãi rồi chết, thì có sự không đúng theo giao ước. Nhưng nếu người nào không suy xét là nạn nhân sẽ sợ hãi hay héo hon vì không đạt được, mà mang đến gần hình sắc với ý nghĩ ‘Chỉ cần thấy rồi sẽ chết’, nếu nạn nhân chết do sợ hãi hoặc do héo hon, thì chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Bằng phương pháp này, cả việc dùng âm thanh làm phương tiện và các cách khác cũng cần được hiểu. Chỉ có điều, ở đây, âm thanh của phi nhân và các âm thanh tương tự là những âm thanh không đáng ưa thích gây kinh sợ; giọng nói của phụ nữ, âm nhạc du dương, và các âm thanh tương tự đối với nam giới là những âm thanh đáng ưa thích làm cho tâm vui thích. Mùi của rễ cây độc và các loại tương tự ở Hy Mã Lạp Sơn và mùi tử thi là những mùi không đáng ưa thích; mùi của rễ cây kāḷānusārī và các loại tương tự là những mùi đáng ưa thích. Vị của rễ cây đáng ghê tởm và các loại tương tự là những vị không đáng ưa thích; vị của rễ cây không đáng ghê tởm và các loại tương tự là những vị đáng ưa thích. Sự xúc chạm độc, sự xúc chạm của cây ngứa lớn, và các loại tương tự là những sự xúc chạm không đáng ưa thích; sự xúc chạm của lụa Trung Hoa, lông ngỗng, bông gòn, và các loại tương tự cần được hiểu là những sự xúc chạm đáng ưa thích.

Dhammūpahāre – dhammoti desanādhammo veditabbo. Desanāvasena vā niraye ca sagge ca vipattisampattibhedaṃ dhammārammaṇameva. Nerayikassāti bhinnasaṃvarassa katapāpassa niraye nibbattanārahassa sattassa pañcavidhabandhanakammakaraṇādinirayakathaṃ katheti. Taṃ ce sutvā so uttasitvā marati, kathikassa pārājikaṃ. Sace pana so sutvāpi attano dhammatāya marati, anāpatti. ‘‘Idaṃ sutvā evarūpaṃ pāpaṃ na karissati oramissati viramissatī’’ti nirayakathaṃ katheti, taṃ sutvā itaro uttasitvā marati, anāpatti. Saggakathanti devanāṭakādīnaṃ nandanavanādīnañca sampattikathaṃ; taṃ sutvā itaro saggādhimutto sīghaṃ taṃ sampattiṃ pāpuṇitukāmo satthāharaṇavisakhādanaāhārupaccheda-assāsapassāsasannirundhanādīhi dukkhaṃ uppādeti, kathikassa thullaccayaṃ, marati pārājikaṃ. Sace pana so sutvāpi yāvatāyukaṃ ṭhatvā attano dhammatāya marati, anāpatti . ‘‘Imaṃ sutvā puññāni karissatī’’ti katheti, taṃ sutvā itaro adhimutto kālaṃkaroti, anāpatti.
Trong việc dùng pháp làm phương tiện: từ ‘pháp’ cần được hiểu là pháp thuyết giảng. Hoặc theo cách thuyết giảng, sự khác biệt về tai họa và thành tựu ở địa ngục và cõi trời chính là đối tượng pháp. Câu ‘Cho người đáng sanh địa ngục’ nghĩa là người nào nói lời về địa ngục, như năm loại trói buộc, việc làm của nghiệp, và các hình phạt khác, cho một chúng sanh đã phá giới, đã làm điều ác, đáng sanh vào địa ngục. Nếu sau khi nghe lời đó, người ấy sợ hãi rồi chết, người nói phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu người ấy, ngay cả sau khi nghe, cũng chết do tự nhiên, thì không phạm tội. Nếu người nào nói lời về địa ngục với ý nghĩ ‘Sau khi nghe điều này, người kia sẽ không làm điều ác như vậy, sẽ từ bỏ, sẽ dừng lại’, người kia nghe rồi sợ hãi chết, thì không phạm tội. ‘Lời nói về cõi trời’ là lời nói về sự thành tựu của các vở kịch của chư thiên và các cảnh giới khác, và của vườn Nandana và các nơi tương tự. Người kia nghe rồi, hướng tâm đến cõi trời, muốn nhanh chóng đạt được sự thành tựu đó, tự gây đau khổ bằng cách mang vũ khí đến, ăn thuốc độc, tuyệt thực, làm ngưng hơi thở, và các cách tương tự, người nói phạm tội Trọng Tội; nếu người kia chết thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu người ấy, ngay cả sau khi nghe, cũng sống hết tuổi thọ rồi chết do tự nhiên, thì không phạm tội. Nếu người nào nói với ý nghĩ ‘Sau khi nghe điều này, người kia sẽ làm các việc phước’, người kia nghe rồi hướng tâm theo cách đó và mệnh chung do nguyên nhân khác, thì không phạm tội.

179. Ācikkhanāyaṃ – puṭṭho bhaṇatīti ‘‘bhante kathaṃ mato dhanaṃ vā labhati sagge vā upapajjatī’’ti evaṃ pucchito bhaṇati.
179. Trong việc chỉ dạy, kể lại: câu ‘Được hỏi rồi nói’ nghĩa là được hỏi như vầy: ‘Bạch ngài, làm thế nào người chết được của cải hoặc sanh lên cõi trời?’ rồi nói.

Anusāsaniyaṃ – apuṭṭhoti evaṃ apucchito sāmaññeva bhaṇati.
Trong việc giáo huấn: câu ‘Không được hỏi’ nghĩa là không được hỏi như vậy mà tự mình nói.

Saṅketakammanimittakammāni adinnādānakathāyaṃ vuttanayeneva veditabbāni.
Các hành động bằng dấu hiệu và hành động bằng cử chỉ cần được hiểu theo phương pháp đã được nói trong lời bàn về việc lấy của không cho.

Evaṃ nānappakārato āpattibhedaṃ dassetvā idāni anāpattibhedaṃ dassento ‘‘anāpatti asañciccā’’tiādimāha. Tattha asañciccāti ‘‘iminā upakkamena imaṃ māremī’’ti acetetvā. Evañhi acetetvā katena upakkamena pare matepi anāpatti, vakkhati ca ‘‘anāpatti bhikkhu asañciccā’’ti. Ajānantassāti ‘‘iminā ayaṃ marissatī’’ti ajānantassa upakkamena pare matepi anāpatti, vakkhati ca visagatapiṇḍapātavatthusmiṃ ‘‘anāpatti bhikkhu ajānantassā’’ti. Namaraṇādhippāyassāti maraṇaṃ anicchantassa. Yena hi upakkamena paro marati, tena upakkamena tasmiṃ māritepi namaraṇādhippāyassa anāpatti. Vakkhati ca ‘‘anāpatti bhikkhu namaraṇādhippāyassā’’ti. Ummattakādayo pubbe vuttanayā eva. Idha pana ādikammikā aññamaññaṃ jīvitā voropitabhikkhū, tesaṃ anāpatti. Avasesānaṃ maraṇavaṇṇasaṃvaṇṇanakādīnaṃ āpattiyevāti.
Sau khi đã chỉ rõ sự phân biệt về tội theo nhiều cách như vậy, bây giờ để chỉ rõ sự phân biệt về không phạm tội, Chú Giải nói bắt đầu bằng ‘Không phạm tội, nếu không cố ý’. Ở đó, từ ‘không cố ý’ nghĩa là không có ý định ‘Bằng phương tiện này, ta sẽ giết người này’. Quả vậy, ngay cả khi người khác chết do phương tiện được thực hiện mà không có ý định như vậy, cũng không phạm tội; và sẽ nói trong Pāḷi: ‘Tỳ khưu không phạm tội, nếu không cố ý’. Từ ‘Của người không biết’ nghĩa là ngay cả khi người khác chết do phương tiện được thực hiện của người không biết rằng ‘Bằng phương tiện này, người này sẽ chết’, cũng không phạm tội; và sẽ nói trong sự việc về vật thực khất thực có thuốc độc: ‘Tỳ khưu không phạm tội, nếu không biết’. Từ ‘Của người không có ý định giết’ nghĩa là của người không muốn người khác chết. Quả vậy, bằng phương tiện nào mà người khác chết, ngay cả khi người ấy bị giết bằng phương tiện đó, nếu không có ý định giết, cũng không phạm tội. Và sẽ nói: ‘Tỳ khưu không phạm tội, nếu không có ý định giết’. Trường hợp những người điên và các trường hợp tương tự cũng theo phương pháp đã nói ở trước. Nhưng ở đây, những Tỳ khưu ban đầu đã tước đoạt mạng sống của nhau, họ không phạm tội Bất Cộng Trụ vì điều học chưa được chế định. Đối với những hành vi còn lại như tán thán cái chết và các hành vi khác, thì chắc chắn phạm tội.

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.

Sự Giải Thích Phân Tích Từ đã hoàn tất.

Samuṭṭhānādīsu – idaṃ sikkhāpadaṃ tisamuṭṭhānaṃ; kāyacittato ca vācācittato ca kāyavācācittato ca samuṭṭhāti. Kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedanaṃ. Sacepi hi sirisayanaṃ ārūḷho rajjasampattisukhaṃ anubhavanto rājā ‘‘coro deva ānīto’’ti vutte ‘‘gacchatha naṃ mārethā’’ti hasamānova bhaṇati, domanassacitteneva bhaṇatīti veditabbo. Sukhavokiṇṇattā pana anuppabandhābhāvā ca dujjānametaṃ puthujjanehīti.
Trong phần nói về sự phát sinh và các yếu tố khác: điều học này có ba cách phát sinh; nó phát sinh từ thân và tâm, từ lời nói và tâm, và từ thân, lời nói và tâm. Điều học này là hành động, là sự giải thoát do tưởng (tức là không phải do vô tưởng mà thoát tội), là có tâm đi kèm, là điều thế gian chê cười, là hành động thuộc thân, là hành động thuộc lời nói, phát sinh từ tâm bất thiện, và là cảm thọ khổ. Quả vậy, ngay cả nếu một vị vua, đang nằm trên giường sang trọng, hưởng thụ hạnh phúc của sự thành tựu vương quyền, khi được nói: ‘Tâu Đại vương, tên trộm đã được dẫn đến’, nếu vừa cười vừa nói: ‘Hãy đi giết nó’, thì cần hiểu rằng vị vua ấy nói chính bằng tâm ưu. Nhưng do tâm ấy bị bao phủ bởi lạc và do không có sự liên tục của tâm ưu, điều này khó biết đối với phàm phu.

Vinītavatthuvaṇṇanā

Sự Giải Thích Các Sự Việc Đã Được Phân Xử

180. Vinītavatthukathāsu paṭhamavatthusmiṃ – kāruññenāti te bhikkhū tassa mahantaṃ gelaññadukkhaṃ disvā kāruññaṃ uppādetvā ‘‘sīlavā tvaṃ katakusalo, kasmā mīyamāno bhāyasi, nanu sīlavato saggo nāma maraṇamattapaṭibaddhoyevā’’ti evaṃ maraṇatthikāva hutvā maraṇatthikabhāvaṃ ajānantā maraṇavaṇṇaṃ saṃvaṇṇesuṃ. Sopi bhikkhu tesaṃ saṃvaṇṇanāya āhārupacchedaṃ katvā antarāva kālamakāsi. Tasmā āpattiṃ āpannā. Vohāravasena pana vuttaṃ ‘‘kāruññena maraṇavaṇṇaṃ saṃvaṇṇesu’’nti. Tasmā idānipi paṇḍitena bhikkhunā gilānassa bhikkhuno evaṃ maraṇavaṇṇo na saṃvaṇṇetabbo. Sace hi tassa saṃvaṇṇanaṃ sutvā āhārūpacchedādinā upakkamena ekajavanavārāvasesepi āyusmiṃ antarā kālaṃkaroti, imināva mārito hoti. Iminā pana nayena anusiṭṭhi dātabbā – ‘‘sīlavato nāma anacchariyā maggaphaluppatti, tasmā vihārādīsu āsattiṃ akatvā buddhagataṃ dhammagataṃ saṅghagataṃ kāyagatañca satiṃ upaṭṭhapetvā manasikāre appamādo kātabbo’’ti. Maraṇavaṇṇe ca saṃvaṇṇitepi yo tāya saṃvaṇṇanāya kañci upakkamaṃ akatvā attano dhammatāya yathāyunā yathānusandhināva marati, tappaccayā saṃvaṇṇako āpattiyā na kāretabboti.
180. Trong các lời bàn về những sự việc đã được phân xử, ở sự việc thứ nhất: từ ‘Bằng lòng bi mẫn’ nghĩa là các Tỳ khưu ấy, sau khi thấy sự đau khổ lớn lao do bệnh tật của vị kia, phát sinh lòng bi mẫn, rồi nghĩ rằng ‘Ngươi là người có giới, đã làm điều thiện, tại sao khi sắp chết lại sợ hãi? Há chẳng phải đối với người có giới, cõi trời chỉ gắn liền với cái chết thôi sao?’, như vậy, đã trở thành những người muốn vị kia chết, nhưng không biết tình trạng muốn vị kia chết của mình, đã tán thán cái chết. Vị Tỳ khưu ấy cũng vậy, do lời tán thán của họ, sau khi tuyệt thực, đã mệnh chung ở giữa chừng. Do đó, các Tỳ khưu tán thán đã phạm tội. Nhưng theo quy ước thì đã nói: ‘đã tán thán cái chết bằng lòng bi mẫn’. Do đó, bây giờ cũng vậy, Tỳ khưu có trí không nên tán thán cái chết như vậy cho Tỳ khưu bệnh. Quả vậy, nếu sau khi nghe lời tán thán của vị ấy, Tỳ khưu bệnh bằng phương tiện như tuyệt thực và các cách khác, mệnh chung ở giữa chừng ngay cả khi mạng sống chỉ còn một lộ trình tốc hành tâm, thì Tỳ khưu bệnh bị giết chính bởi người tán thán này. Nhưng sự khuyên dạy cần được ban cho theo phương pháp này: ‘Đối với người có giới, sự phát sinh của Đạo và Quả không có gì là lạ; do đó, không luyến tiếc tu viện và các thứ khác, hãy an trú niệm hướng đến Phật, hướng đến Pháp, hướng đến Tăng, và hướng đến thân, rồi cần phải thực hiện sự không dễ duôi trong việc tác ý’. Và ngay cả khi cái chết đã được tán thán, người nào không thực hiện bất kỳ phương tiện nào do lời tán thán ấy mà chết do tự nhiên, theo đúng tuổi thọ, theo đúng sự nối tiếp tự nhiên, thì do duyên đó, người tán thán không bị quy tội.

Dutiyavatthusmiṃ – na ca bhikkhave appaṭivekkhitvāti ettha kīdisaṃ āsanaṃ paṭivekkhitabbaṃ , kīdisaṃ na paṭivekkhitabbaṃ? Yaṃ suddhaṃ āsanameva hoti apaccattharaṇakaṃ, yañca āgantvā ṭhitānaṃ passataṃyeva attharīyati, taṃ napaccavekkhitabbaṃ , nisīdituṃ vaṭṭati. Yampi manussā sayaṃ hatthena akkamitvā ‘‘idha bhante nisīdathā’’ti denti, tasmimpi vaṭṭati. Sacepi paṭhamamevāgantvā nisinnā pacchā uddhaṃ vā adho vā saṅkamanti, paccavekkhaṇakiccaṃ natthi. Yampi tanukena vatthena yathā talaṃ dissati, evaṃ paṭicchannaṃ hoti, tasmimpi paccavekkhaṇakiccaṃ natthi. Yaṃ pana paṭikacceva pāvārakojavādīhi atthataṃ hoti, taṃ hatthena parāmasitvā sallakkhetvā nisīditabbaṃ. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘ghanasāṭakenāpi atthate yasmiṃ vali na paññāyati, taṃ nappaṭivekkhitabbanti vuttaṃ.
Trong sự việc thứ hai: trong câu ‘Và này các Tỳ khưu, không phải không xem xét kỹ’, ở đây, chỗ ngồi như thế nào cần được xem xét kỹ, chỗ ngồi như thế nào không cần được xem xét kỹ? Chỗ ngồi nào chỉ thuần là chỗ ngồi, không có tấm trải, và chỗ ngồi nào được trải ra ngay khi các Tỳ khưu đến và đang đứng nhìn, chỗ ngồi đó không cần được xem xét kỹ, được phép ngồi. Cả chỗ ngồi nào mà người ta tự tay dẫm lên rồi đưa mời rằng: ‘Bạch ngài, xin mời ngồi ở đây’, ở đó cũng được phép ngồi mà không cần xem xét. Ngay cả nếu các Tỳ khưu đến trước rồi ngồi, sau đó người khác di chuyển chỗ ngồi lên trên hoặc xuống dưới, cũng không có việc cần xem xét kỹ. Cả chỗ ngồi nào được che bằng vải mỏng sao cho có thể thấy được mặt đất bên dưới, ở đó cũng không có việc cần xem xét kỹ. Nhưng chỗ ngồi nào đã được trải sẵn bằng áo choàng, chăn len, và các vật tương tự, chỗ ngồi đó cần được sờ nắn bằng tay, xem xét kỹ rồi mới ngồi. Nhưng trong chú giải Mahāpaccarī đã nói: ‘Ngay cả chỗ ngồi được trải bằng vải dày mà không thấy có nếp nhăn, chỗ ngồi đó không cần được xem xét kỹ’.

Musalavatthusmiṃ – asañciccoti avadhakacetano viraddhapayogo hi so. Tenāha ‘‘asañcicco aha’’nti. Udukkhalavatthu uttānameva. Vuḍḍhapabbajitavatthūsupaṭhamavatthusmiṃ ‘‘bhikkhusaṅghassa paṭibandhaṃ mā akāsī’’ti paṇāmesi. Dutiyavatthusmiṃ – saṅghamajjhepi gaṇamajjhepi ‘‘mahallakattherassa putto’’ti vuccamāno tena vacanena aṭṭīyamāno ‘‘maratu aya’’nti paṇāmesi. Tatiyavatthusmiṃ – tassa dukkhuppādanena thullaccayaṃ.
Trong sự việc về cái chày: từ ‘Không cố ý’ nghĩa là người ấy không có tư tâm giết, chỉ là người có phương tiện thất bại (vô ý). Do đó, vị ấy nói: ‘Tôi không cố ý’. Sự việc về cái cối giã thì ý nghĩa rõ ràng. Trong các sự việc về người xuất gia lớn tuổi, ở sự việc thứ nhất, vị Trưởng lão đã xua đuổi Tỳ khưu trẻ với ý nghĩ ‘Đừng làm trở ngại cho Tăng chúng’. Trong sự việc thứ hai – ngay cả giữa Tăng chúng, giữa nhóm, Tỳ khưu trẻ bị gọi là ‘con của Trưởng lão già’, do bị khó chịu bởi lời nói đó, vị Trưởng lão đã xua đuổi Tỳ khưu trẻ với ý nghĩ ‘Nó chết đi’. Trong sự việc thứ ba – do việc làm phát sinh sự đau khổ cho vị ấy (Tỳ khưu trẻ), Trưởng lão phạm tội Trọng Tội.

181. Tato parāni tīṇi vatthūni uttānatthāneva. Visagatapiṇḍapātavatthusmiṃ – sārāṇīyadhammapūrako so bhikkhu aggapiṇḍaṃ sabrahmacārīnaṃ datvāva bhuñjati. Tena vuttaṃ ‘‘aggakārikaṃ adāsī’’ti. Aggakārikanti aggakiriyaṃ; paṭhamaṃ laddhapiṇḍapātaṃ aggaggaṃ vā paṇītapaṇītaṃ piṇḍapātanti attho. Yā pana tassa dānasaṅkhātā aggakiriyā, sā na sakkā dātuṃ, piṇḍapātañhi so therāsanato paṭṭhāya adāsi. Te bhikkhūti te therāsanato paṭṭhāya paribhuttapiṇḍapātā bhikkhū; te kira sabbepi kālamakaṃsu. Sesamettha uttānameva. Assaddhesu pana micchādiṭṭhikesu kulesu sakkaccaṃ paṇītabhojanaṃ labhitvā anupaparikkhitvā neva attanā paribhuñjitabbaṃ, na paresaṃ dātabbaṃ. Yampi ābhidosikaṃ bhattaṃ vā khajjakaṃ vā tato labhati, tampi na paribhuñjitabbaṃ. Apihitavatthumpi hi sappavicchikādīhi adhisayitaṃ chaḍḍanīyadhammaṃ tāni kulāni denti. Gandhahaliddādimakkhitopi tato piṇḍapāto na gahetabbo. Sarīre rogaṭṭhānāni puñchitvā ṭhapitabhattampi hi tāni dātabbaṃ maññantīti.
181. Ba sự việc sau đó có ý nghĩa rõ ràng. Trong sự việc về vật thực khất thực có thuốc độc – vị Tỳ khưu ấy, người thực hành các pháp đáng nhớ, chỉ ăn sau khi đã cúng dường phần vật thực tốt nhất cho các bạn đồng phạm hạnh. Do đó đã nói: ‘Vị ấy đã thực hiện hành động ưu tiên’. ‘Hành động ưu tiên’ nghĩa là việc làm trước hết; có nghĩa là vật thực khất thực nhận được đầu tiên, hoặc vật thực tốt nhất, hảo hạng nhất. Nhưng hành động ưu tiên được gọi là sự cúng dường của vị ấy, trong trường hợp này không thể thực hiện được, vì vị ấy đã cúng dường vật thực bắt đầu từ ghế của Trưởng lão. ‘Các Tỳ khưu ấy’ là các Tỳ khưu đã ăn vật thực khất thực bắt đầu từ ghế của Trưởng lão; hình như tất cả các vị ấy đều đã mệnh chung. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng. Nhưng trong các gia đình không có niềm tin, có tà kiến, sau khi nhận được vật thực hảo hạng một cách kính cẩn, Tỳ khưu không xem xét kỹ thì không nên tự mình ăn, cũng không nên cho người khác. Cả vật thực hay đồ ăn vặt của ngày hôm qua nhận được từ đó, cũng không nên ăn. Quả vậy, các gia đình ấy có thể cúng dường cả vật không được đậy kỹ, vật đáng bỏ đi đã bị rắn, bò cạp, và các loài khác nằm lên. Cả vật thực khất thực được bôi mùi hương, nghệ, và các thứ khác từ đó cũng không nên nhận. Quả vậy, các gia đình ấy cũng nghĩ rằng nên cúng dường cả vật thực được đặt sau khi đã lau chùi những chỗ bệnh trên thân thể.

Vīmaṃsanavatthusmiṃ – vīmaṃsamāno dve vīmaṃsati – ‘‘sakkoti nu kho imaṃ māretuṃ no’’ti visaṃ vā vīmaṃsati, ‘‘mareyya nu kho ayaṃ imaṃ visaṃ khāditvā no’’ti puggalaṃ vā. Ubhayathāpi vīmaṃsādhippāyena dinne maratu vā mā vā thullaccayaṃ. ‘‘Idaṃ visaṃ etaṃ māretū’’ti vā ‘‘idaṃ visaṃ khāditvā ayaṃ maratū’’ti vā evaṃ dinne pana sace marati, pārājikaṃ; no ce, thullaccayaṃ.
Trong sự việc về việc thử nghiệm – trong khi thử nghiệm, người ấy thử nghiệm hai trường hợp: hoặc thử nghiệm thuốc độc với ý nghĩ ‘Cái này có thể giết được hay không?’ hoặc thử nghiệm người với ý nghĩ ‘Người này sau khi ăn thuốc độc này có chết hay không?’ Trong cả hai trường hợp, nếu cho thuốc độc với ý định thử nghiệm, dù nạn nhân chết hay không chết, người cho phạm tội Trọng Tội. Nhưng nếu cho thuốc độc với ý nghĩ ‘Thuốc độc này hãy giết người này’ hoặc ‘Sau khi ăn thuốc độc này, người này hãy chết’, nếu nạn nhân chết, thì người cho phạm tội Bất Cộng Trụ; nếu không chết, thì phạm tội Trọng Tội.

182-3. Ito parāni tīṇi silāvatthūni tīṇi iṭṭhakavāsigopānasīvatthūni ca uttānatthāneva. Na kevalañca silādīnaṃyeva vasena ayaṃ āpattānāpattibhedo hoti, daṇḍamuggaranikhādanavemādīnampi vasena hotiyeva, tasmā pāḷiyaṃ anāgatampi āgatanayeneva veditabbaṃ.
182-3. Ba sự việc về đá và ba sự việc về gạch, cái bào, cây kèo nhà sau đây có ý nghĩa rõ ràng. Sự phân biệt về phạm tội và không phạm tội này không chỉ xảy ra đối với đá và các vật tương tự, mà chắc chắn cũng xảy ra đối với gậy, dùi cui, vật đào xới, khung cửi, và các vật khác. Do đó, ngay cả những gì không được đề cập trong Pāḷi cũng cần được hiểu theo phương pháp đã được đề cập.

Aṭṭakavatthūsu – aṭṭakoti vehāsamañco vuccati; yaṃ setakammamālākammalatākammādīnaṃ atthāya bandhanti. Tattha āvuso atraṭṭhito bandhāhīti maraṇādhippāyo yatra ṭhito patitvā khāṇunā vā bhijjeyya, sobbhapapātādīsu vā mareyya , tādisaṃ ṭhānaṃ sandhāyāha. Ettha ca koci upariṭhānaṃ niyāmeti ‘‘ito patitvā marissatī’’ti, koci heṭṭhā ṭhānaṃ ‘‘idha patitvā marissatī’’ti, koci ubhayampi ‘‘ito idha patitvā marissatī’’ti. Tatra yo upari niyamitaṭṭhānā apatitvā aññato patati, heṭṭhā niyamitaṭṭhāne vā apatitvā aññattha patati, ubhayaniyāme vā yaṃkiñci ekaṃ virādhetvā patati, tasmiṃ mate visaṅketattā anāpatti. Vihāracchādanavatthusmimpi eseva nayo.
Trong các sự việc về giàn giáo: từ ‘giàn giáo’ được gọi là giường trên không (giàn cao); cái mà người ta buộc lại vì mục đích quét vôi, kết hoa, làm giàn dây leo, và các việc tương tự. Ở đó, câu ‘Hiền giả, hãy đứng ở đây mà buộc’, người nói có ý định giết, nhắm vào một nơi mà nếu đứng đó rồi rơi xuống thì sẽ bị cọc đâm thủng, hoặc sẽ chết trong hố, vực thẳm, và các nơi tương tự. Và ở đây, có người quy định nơi ở trên với ý nghĩ ‘Rơi từ đây xuống sẽ chết’; có người quy định nơi ở dưới với ý nghĩ ‘Rơi xuống đây sẽ chết’; có người quy định cả hai với ý nghĩ ‘Rơi từ đây xuống đây sẽ chết’. Ở đó, người nào không rơi từ nơi ở trên đã được quy định mà rơi từ nơi khác; hoặc không rơi vào nơi ở dưới đã được quy định mà rơi vào nơi khác; hoặc trong trường hợp quy định cả hai, nếu làm sai lệch một điều nào đó rồi rơi, khi người đó chết, thì không phạm tội do sự không đúng theo giao ước. Cả trong sự việc về việc lợp mái tu viện cũng theo phương pháp này.

Anabhirativatthusmiṃ – so kira bhikkhu kāmavitakkādīnaṃ samudācāraṃ disvā nivāretuṃ asakkonto sāsane anabhirato gihibhāvābhimukho jāto. Tato cintesi – ‘‘yāva sīlabhedaṃ na pāpuṇāmi tāva marissāmī’’ti. Atha taṃ pabbataṃ abhiruhitvā papāte papatanto aññataraṃ vilīvakāraṃ ottharitvā māresi. Vilīvakāranti veṇukāraṃ. Na ca bhikkhave attānaṃ pātetabbanti na attā pātetabbo. Vibhattibyattayena panetaṃ vuttaṃ. Ettha ca na kevalaṃ na pātetabbaṃ, aññenapi yena kenaci upakkamena antamaso āhārupacchedenapi na māretabbo. Yopi hi gilāno vijjamāne bhesajje ca upaṭṭhākesu ca maritukāmo āhāraṃ upacchindati, dukkaṭameva. Yassa pana mahāābādho cirānubaddho, bhikkhū upaṭṭhahantā kilamanti jigucchanti ‘‘kadā nu kho gilānato muccissāmā’’ti aṭṭīyanti. Sace so ‘‘ayaṃ attabhāvo paṭijaggiyamānopi na tiṭṭhati, bhikkhū ca kilamantī’’ti āhāraṃ upacchindati, bhesajjaṃ na sevati vaṭṭati. Yo pana ‘‘ayaṃ rogo kharo, āyusaṅkhārā na tiṭṭhanti, ayañca me visesādhigamo hatthappatto viya dissatī’’ti upacchindati vaṭṭatiyeva. Agilānassāpi uppannasaṃvegassa ‘‘āhārapariyesanaṃ nāma papañco, kammaṭṭhānameva anuyuñjissāmī’’ti kammaṭṭhānasīsena upacchindantassa vaṭṭati. Visesādhigamaṃ byākaritvā āhāraṃ upacchindati, na vaṭṭati. Sabhāgānañhi lajjībhikkhūnaṃ kathetuṃ vaṭṭati.
Trong sự việc về sự không hoan hỷ – hình như Tỳ khưu ấy, sau khi thấy sự khởi lên của các dục tầm và các pháp bất thiện khác, không thể ngăn chặn được, trở nên không hoan hỷ trong giáo pháp, hướng đến đời sống tại gia. Sau đó, vị ấy suy nghĩ: ‘Chừng nào ta chưa đạt đến sự phá giới, chừng đó ta sẽ chết’. Rồi vị ấy leo lên ngọn núi đó, khi đang gieo mình xuống vực thẳm, lại đè lên một người đan tre rồi giết người đó. ‘Người đan tre’ nghĩa là người làm đồ tre. Câu ‘Và này các Tỳ khưu, không được gieo mình xuống’ nghĩa là không được tự mình gieo mình xuống. Nhưng điều này được nói do sự thay đổi biến cách ngữ pháp. Và ở đây, không chỉ không được gieo mình xuống, mà cũng không được tự giết bằng bất kỳ phương tiện nào khác, cho đến cả bằng việc tuyệt thực. Quả vậy, ngay cả người bệnh nào, khi có thuốc và có người phục dịch, nếu muốn chết rồi tuyệt thực, cũng chỉ phạm tội Tác Ác. Nhưng người nào có bệnh nặng kéo dài, các Tỳ khưu phục dịch mệt mỏi, ghê tởm, nghĩ rằng ‘Khi nào chúng ta mới thoát khỏi người bệnh này?’ rồi khó chịu. Nếu người bệnh ấy nghĩ rằng ‘Bản thể này dù được chăm sóc cũng không tồn tại, và các Tỳ khưu cũng mệt mỏi’ rồi tuyệt thực, không dùng thuốc, thì được phép. Còn người nào nghĩ rằng ‘Bệnh này nguy kịch, các hành thuộc mạng sống không tồn tại, và sự chứng đắc thù thắng này của ta dường như đã nắm trong tay’ rồi tuyệt thực, thì chắc chắn được phép. Ngay cả đối với người không bệnh, khi có tâm chấn động phát sinh nghĩ rằng ‘Việc tìm kiếm vật thực là sự trần thuật phiền phức, ta sẽ chỉ chuyên tâm vào đề mục thiền định’, rồi tuyệt thực với đề mục thiền định làm đầu, cũng được phép. Nếu tuyên bố sự chứng đắc thù thắng rồi tuyệt thực, thì không được phép. Quả vậy, được phép nói về sự chứng đắc cho các Tỳ khưu đồng bạn có lòng hổ thẹn.

Silāvatthusmiṃ – davāyāti davena hassena; khiḍḍāyāti attho. Silāti pāsāṇo; na kevalañca pāsāṇo, aññampi yaṃkiñci dārukhaṇḍaṃ vā iṭṭhakākhaṇḍaṃ vā hatthena vā yantena vā pavijjhituṃ na vaṭṭati. Cetiyādīnaṃ atthāya pāsāṇādayo hasantā hasantā pavaṭṭentipi khipantipi ukkhipantipi kammasamayoti vaṭṭati. Aññampi īdisaṃ navakammaṃ vā karontā bhaṇḍakaṃ vā dhovantā rukkhaṃ vā dhovanadaṇḍakaṃ vā ukkhipitvā pavijjhanti, vaṭṭati. Bhattavissaggakālādīsu kāke vā soṇe vā kaṭṭhaṃ vā kathalaṃ vā khipitvā palāpeti, vaṭṭati.
Trong sự việc về đá: từ ‘Do đùa giỡn’ nghĩa là bằng sự đùa giỡn, sự vui cười; có nghĩa là do sự nô đùa. Từ ‘Đá’ nghĩa là đá; không chỉ đá, mà cả bất kỳ khúc gỗ hay mảnh gạch nào khác cũng không được phép ném bằng tay hoặc bằng máy móc vào người khác. Vì mục đích xây dựng tháp và các công trình tương tự, nếu vừa cười đùa vừa lăn, hoặc ném, hoặc nhấc đá và các vật liệu khác mà không có ý làm hại, thì được phép vì đó là thời gian làm việc. Cả khi làm công việc mới tương tự khác, hoặc khi rửa đồ dùng, nếu nhấc cây hoặc gậy để giặt rồi ném mà không có ý làm hại, cũng được phép. Vào lúc xả vật thực và các thời điểm tương tự, nếu ném khúc cây hoặc mảnh sành để xua đuổi quạ hoặc chó, cũng được phép.

184.Sedanādivatthūni sabbāneva uttānatthāni. Ettha ca ahaṃ kukkuccakoti na gilānupaṭṭhānaṃ na kātabbaṃ, hitakāmatāya sabbaṃ gilānassa balābalañca ruciñca sappāyāsappāyañca upalakkhetvā kātabbaṃ.
184. Các sự việc về việc xông hơi và các việc tương tự, tất cả đều có ý nghĩa rõ ràng. Và ở đây, câu ‘Tôi là người hay áy náy’ không có nghĩa là không nên chăm sóc người bệnh. Mà với ý muốn lợi ích, cần phải làm tất cả việc chăm sóc sau khi đã nhận biết cả sự mạnh yếu, cả sở thích, cả điều thích hợp và không thích hợp của người bệnh.

185. Jāragabbhinivatthusmiṃ – pavutthapatikāti pavāsaṃ gatapatikā. Gabbhapātananti yena paribhuttena gabbho patati, tādisaṃ bhesajjaṃ. Dve pajāpatikavatthūni uttānatthāneva. Gabbhamaddanavatthusmiṃ – ‘‘madditvā pātehī’’ti vutte aññena maddāpetvā pāteti, visaṅketaṃ. ‘‘Maddāpetvā pātāpehī’’ti vuttepi sayaṃ madditvā pāteti, visaṅketameva. Manussaviggahe pariyāyo nāma natthi. Tasmā ‘‘gabbho nāma maddite patatī’’ti vutte sā sayaṃ vā maddatu, aññena vā maddāpetvā pātetu, visaṅketo natthi; pārājikameva tāpanavatthusmimpi eseva nayo.
185. Trong sự việc về người phụ nữ mang thai do ngoại tình: từ ‘người có chồng đi xa’ nghĩa là người có chồng đã đi xa. Từ ‘thuốc làm trụy thai’ là loại thuốc mà do đã dùng nó, thai nhi bị rơi ra. Hai sự việc về người vợ có ý nghĩa rõ ràng. Trong sự việc về việc làm nát thai: nếu được nói ‘Hãy làm nát rồi làm cho thai rơi ra’, mà người được lệnh lại sai người khác làm nát rồi làm cho thai rơi ra, thì có sự không đúng theo giao ước. Ngay cả khi được nói ‘Hãy sai người làm nát rồi làm cho thai rơi ra’, mà người được lệnh lại tự mình làm nát rồi làm cho thai rơi ra, cũng chắc chắn là sự không đúng theo giao ước. Đối với hình người (thai nhi), không có cách nói khác (không có sự lầm lẫn về đối tượng ở đây). Do đó, nếu được nói ‘Thai nhi sẽ rơi ra khi bị làm nát’, dù người phụ nữ ấy tự mình làm nát, hay sai người khác làm nát rồi làm cho thai rơi ra, cũng không có sự không đúng theo giao ước về ý định phá thai; chắc chắn là tội Bất Cộng Trụ. Cả trong sự việc về việc làm nóng để phá thai cũng theo phương pháp này.

Vañjhitthivatthusmiṃ – vañjhitthī nāma yā gabbhaṃ na gaṇhāti. Gabbhaṃ agaṇhanakaitthī nāma natthi, yassā pana gahitopi gabbho na saṇṭhāti, taṃyeva sandhāyetaṃ vuttaṃ. Utusamaye kira sabbitthiyo gabbhaṃ gaṇhanti. Yā panāyaṃ ‘‘vañjhā’’ti vuccati, tassā kucchiyaṃ nibbattasattānaṃ akusalavipāko sampāpuṇāti. Te parittakusalavipākena gahitapaṭisandhikā akusalavipākena adhibhūtā vinassanti. Abhinavapaṭisandhiyaṃyeva hi kammānubhāvena dvīhākārehi gabbho na saṇṭhāti – vātena vā pāṇakehi vā. Vāto sosetvā antaradhāpeti, pāṇakā khāditvā. Tassa pana vātassa pāṇakānaṃ vā paṭighātāya bhesajje kate gabbho saṇṭhaheyya; so bhikkhu taṃ akatvā aññaṃ kharabhesajjaṃ adāsi. Tena sā kālamakāsi. Bhagavā bhesajjassa kaṭattā dukkaṭaṃ paññāpesi.
Trong sự việc về người phụ nữ son sẻ: từ ‘người phụ nữ son sẻ’ là người không thụ thai. Không có người phụ nữ nào hoàn toàn không thụ thai; nhưng đối với người nào, ngay cả khi đã thụ thai, thai nhi cũng không đứng vững (không phát triển được), chính nhắm vào trường hợp đó mà điều này được nói. Hình như vào thời kỳ rụng trứng, tất cả phụ nữ đều thụ thai. Nhưng người nào được gọi là ‘son sẻ’, quả bất thiện của các chúng sanh đã phát sinh trong bụng của người ấy đạt đến chỗ chín muồi. Các chúng sanh ấy, đã tục sinh bằng quả thiện nhỏ nhoi, bị quả bất thiện chi phối rồi bị hủy hoại. Quả vậy, ngay trong sự tục sinh mới, do năng lực của nghiệp, thai nhi không đứng vững qua hai cách: do gió hoặc do các vi sinh vật. Gió làm cho khô rồi làm cho biến mất; các vi sinh vật ăn thai nhi. Nhưng nếu dùng thuốc để ngăn chặn gió hoặc các vi sinh vật ấy, thai nhi có thể đứng vững. Vị Tỳ khưu ấy không làm điều đó mà lại cho một loại thuốc mạnh có hại khác. Do đó, người phụ nữ ấy đã mệnh chung. Đức Thế Tôn, do việc cho thuốc không đúng cách, đã chế định tội Tác Ác.

Dutiyavatthusmimpi eseva nayo. Tasmā āgatāgatassa parajanassa bhesajjaṃ na kātabbaṃ, karonto dukkaṭaṃ āpajjati. Pañcannaṃ pana sahadhammikānaṃ kātabbaṃ bhikkhussa bhikkhuniyā sikkhamānāya sāmaṇerassa sāmaṇeriyāti. Samasīlasaddhāpaññānañhi etesaṃ tīsu sikkhāsu yuttānaṃ bhesajjaṃ akātuṃ na labbhati, karontena ca sace tesaṃ atthi, tesaṃ santakaṃ gahetvā yojetvā dātabbaṃ. Sace natthi, attano santakaṃ kātabbaṃ. Sace attanopi natthi, bhikkhācāravattena vā ñātakapavāritaṭṭhānato vā pariyesitabbaṃ. Alabhantena gilānassa atthāya akataviññattiyāpi āharitvā kātabbaṃ.
Trong sự việc thứ hai cũng theo phương pháp này. Do đó, không nên làm thuốc cho người ngoài đến xin; nếu làm, thì phạm tội Tác Ác. Nhưng nên làm thuốc cho năm hạng bạn đồng phạm hạnh: Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, Sa-di, Sa-di ni. Quả vậy, đối với những vị này, những người có giới, tín, tuệ ngang bằng, những người chuyên tâm vào ba học xứ, không được phép không làm thuốc cho họ. Và khi làm thuốc, nếu họ có nguyên liệu, Tỳ khưu cần lấy vật sở hữu của họ rồi pha chế và cho. Nếu họ không có, Tỳ khưu cần dùng vật sở hữu của mình để làm. Nếu cả mình cũng không có, Tỳ khưu cần tìm kiếm bằng cách đi khất thực hoặc từ nơi bà con hay người đã mời thỉnh. Nếu không nhận được, vì lợi ích của người bệnh, ngay cả bằng sự xin không được phép (trong một số trường hợp nhất định), cũng cần mang về rồi làm thuốc.

Aparesampi pañcannaṃ kātuṃ vaṭṭati – mātu, pitu, tadupaṭṭhākānaṃ, attano veyyāvaccakarassa, paṇḍupalāsassāti. Paṇḍupalāso nāma yo pabbajjāpekkho yāva pattacīvaraṃ paṭiyādiyati tāva vihāre vasati. Tesu sace mātāpitaro issarā honti, na paccāsīsanti, akātuṃ vaṭṭati. Sace pana rajjepi ṭhitā paccāsīsanti, akātuṃ na vaṭṭati. Bhesajjaṃ paccāsīsantānaṃ bhesajjaṃ dātabbaṃ, yojetuṃ ajānantānaṃ yojetvā dātabbaṃ. Sabbesaṃ atthāya sahadhammikesu vuttanayeneva pariyesitabbaṃ. Sace pana mātaraṃ vihāre ānetvā jaggati, sabbaṃ parikammaṃ anāmasantena kātabbaṃ. Khādanīyaṃ bhojanīyaṃ sahatthā dātabbaṃ. Pitā pana yathā sāmaṇero evaṃ sahatthena nhāpanasambāhanādīni katvā upaṭṭhātabbo. Ye ca mātāpitaro upaṭṭhahanti paṭijagganti, tesampi evameva kātabbaṃ. Veyyāvaccakaro nāma yo vetanaṃ gahetvā araññe dārūni vā chindati, aññaṃ vā kiñci kammaṃ karoti, tassa roge uppanne yāva ñātakā na passanti tāva bhesajjaṃ kātabbaṃ. Yo pana bhikkhunissitakova hutvā sabbakammāni karoti, tassa bhesajjaṃ kātabbameva. Paṇḍupalāsepi sāmaṇere viya paṭipajjitabbaṃ.
Được phép làm thuốc cho năm hạng người khác nữa: mẹ, cha, những người phục dịch họ (cha mẹ), người làm công cho mình, và người lá vàng (người sắp xuất gia). ‘Người lá vàng’ là người mong muốn xuất gia, ở trong tu viện chừng nào y bát còn đang được chuẩn bị. Trong số đó, nếu cha mẹ giàu có, không mong đợi sự giúp đỡ, thì được phép không làm thuốc. Nhưng nếu cha mẹ ngay cả khi ở trong vương quốc (là vua chúa) mà vẫn mong đợi sự giúp đỡ, thì không được phép không làm. Cần cho thuốc những người mong đợi thuốc; đối với những người không biết cách pha chế, Tỳ khưu cần pha chế rồi cho. Vì lợi ích của tất cả năm hạng người này, Tỳ khưu cần tìm kiếm thuốc theo phương pháp đã nói đối với các bạn đồng phạm hạnh. Nhưng nếu Tỳ khưu mang mẹ đến tu viện rồi chăm sóc, tất cả việc phục dịch cần được làm mà không chạm đến thân thể mẹ. Đồ ăn cứng, đồ ăn mềm cần được cho bằng chính tay mình. Còn cha thì cần được phục dịch bằng cách tự tay làm những việc như tắm rửa, xoa bóp, và các việc tương tự, giống như đối với một vị Sa-di. Và đối với những người phục dịch, chăm sóc cha mẹ, cũng cần làm như vậy. ‘Người làm công’ là người sau khi nhận tiền công, chặt củi trong rừng hoặc làm một công việc nào khác; khi người ấy bị bệnh, cần làm thuốc cho đến khi người thân của họ đến chăm sóc. Nhưng người nào chỉ nương tựa vào Tỳ khưu rồi làm tất cả các công việc, thì chắc chắn cần làm thuốc cho người ấy. Đối với người lá vàng cũng vậy, cần phải đối xử giống như đối với một vị Sa-di.

Aparesampi dasannaṃ kātuṃ vaṭṭati – jeṭṭhabhātu, kaniṭṭhabhātu, jeṭṭhabhaginiyā, kaniṭṭhabhaginiyā, cūḷamātuyā, mahāmātuyā, cūḷapituno, mahāpituno, pitucchāya, mātulassāti. Tesaṃ pana sabbesampi karontena tesaṃyeva santakaṃ bhesajjaṃ gahetvā kevalaṃ yojetvā dātabbaṃ. Sace pana nappahonti, yācanti ca ‘‘detha no, bhante, tumhākaṃ paṭidassāmā’’ti tāvakālikaṃ dātabbaṃ. Sacepi na yācanti, ‘‘amhākaṃ bhesajjaṃ atthi, tāvakālikaṃ gaṇhathā’’ti vatvā vā ‘‘yadā nesaṃ bhavissati tadā dassantī’’ti ābhogaṃ vā katvā dātabbaṃ. Sace paṭidenti, gahetabbaṃ, no ce denti, na codetabbā. Ete dasa ñātake ṭhapetvā aññesaṃ na kātabbaṃ.
Được phép làm thuốc cho mười hạng người khác nữa: anh trai, em trai, chị gái, em gái, dì (em của mẹ), bác gái (chị của mẹ), chú (em của cha), bác trai (anh của cha), cô (chị hoặc em gái của cha), và cậu (anh hoặc em trai của mẹ). Nhưng đối với tất cả họ, khi làm thuốc, Tỳ khưu cần lấy thuốc là vật sở hữu của chính họ rồi chỉ pha chế và cho. Nhưng nếu họ không có khả năng tự lo thuốc, và họ xin rằng: ‘Bạch ngài, xin hãy cho chúng con, chúng con sẽ trả lại cho ngài’, thì Tỳ khưu cần cho thuốc tạm thời. Ngay cả nếu họ không xin, Tỳ khưu cũng có thể nói: ‘Chúng tôi có thuốc, quý vị hãy nhận tạm thời’, hoặc sau khi suy xét rằng ‘Khi nào họ có, họ sẽ cho lại’, rồi cho. Nếu họ trả lại, Tỳ khưu cần nhận; nếu họ không cho, không nên đòi lại. Ngoại trừ mười hạng người thân này, không nên làm thuốc cho những người khác.

Etesaṃ puttaparamparāya pana yāva sattamo kulaparivaṭṭo tāva cattāro paccaye āharāpentassa akataviññatti vā bhesajjaṃ karontassa vejjakammaṃ vā kuladūsakāpatti vā na hoti. Sace bhātujāyā bhaginisāmiko vā gilānā honti, ñātakā ce, tesampi vaṭṭati. Aññātakā ce, bhātu ca bhaginiyā ca katvā dātabbaṃ, ‘‘tumhākaṃ jagganaṭṭhāne dethā’’ti. Atha vā tesaṃ puttānaṃ katvā dātabbaṃ, ‘‘tumhākaṃ mātāpitūnaṃ dethā’’ti. Etenupāyena sabbapadesupi vinicchayo veditabbo.
Nhưng đối với dòng dõi con cháu của những người này, cho đến vòng bà con thứ bảy, người sai mang đến bốn món vật dụng, hoặc người làm thuốc, hoặc việc làm thầy thuốc, hoặc tội làm ô uế gia đình thí chủ đều không phát sinh nếu giúp đỡ họ. Nếu vợ của anh hoặc em trai hoặc chồng của chị hoặc em gái bị bệnh, nếu là người thân, thì cũng được phép làm thuốc cho họ. Nếu không phải là người thân, Tỳ khưu cần làm thuốc rồi đưa cho anh hoặc em trai hoặc chị hoặc em gái của Tỳ khưu, để họ đưa cho người bệnh, nói rằng ‘Hãy cho ở nơi chăm sóc của các vị’. Hoặc là, Tỳ khưu cần làm thuốc rồi đưa cho con cái của những người bệnh không phải thân tộc đó, nói rằng ‘Hãy cho cha mẹ của các con’. Bằng phương pháp này, sự phân xử trong tất cả các trường hợp cần được hiểu.

Tesaṃ atthāya ca sāmaṇerehi araññato bhesajjaṃ āharāpentena ñātisāmaṇerehi vā āharāpetabbaṃ. Attano atthāya vā āharāpetvā dātabbaṃ. Tehipi ‘‘upajjhāyassa āharāmā’’ti vattasīsena āharitabbaṃ. Upajjhāyassa mātāpitaro gilānā vihāraṃ āgacchanti, upajjhāyo ca disāpakkanto hoti, saddhivihārikena upajjhāyassa santakaṃ bhesajjaṃ dātabbaṃ. No ce atthi, attano bhesajjaṃ upajjhāyassa pariccajitvā dātabbaṃ. Attanopi asante vuttanayena pariyesitvā upajjhāyassa santakaṃ katvā dātabbaṃ. Upajjhāyenapi saddhivihārikassa mātāpitūsu evameva paṭipajjitabbaṃ. Esa nayo ācariyantevāsikesupi. Aññopi yo āgantuko vā coro vā yuddhaparājito issaro vā ñātakehi pariccatto kapaṇo vā gamiyamanusso vā gilāno hutvā vihāraṃ pavisati, sabbesaṃ apaccāsīsantena bhesajjaṃ kātabbaṃ.
Và vì lợi ích của những người thân đó, Tỳ khưu sai các Sa-di mang thuốc từ rừng về, cần phải sai các Sa-di là người thân mang về. Hoặc Tỳ khưu sai Sa-di mang về vì lợi ích của chính mình rồi cho người thân. Các vị Sa-di ấy cũng cần mang về theo phận sự, nghĩ rằng ‘Chúng ta mang về cho thầy tế độ’. Cha mẹ của thầy tế độ bị bệnh đến tu viện, và thầy tế độ đã đi phương khác, thì đệ tử cùng ở cần cho thuốc là vật sở hữu của thầy tế độ. Nếu không có thuốc của thầy, đệ tử cần từ bỏ thuốc của mình cho thầy tế độ rồi cho cha mẹ thầy. Ngay cả khi mình cũng không có, đệ tử cần tìm kiếm theo phương pháp đã nói, làm thành vật sở hữu của thầy tế độ rồi cho. Thầy tế độ cũng cần phải đối xử như vậy đối với cha mẹ của đệ tử cùng ở. Phương pháp này cũng áp dụng cả đối với thầy giáo thọ và đệ tử. Cả người nào khác, dù là khách, hoặc trộm, hoặc người có quyền thế bị thua trận, hoặc người bị bà con từ bỏ, hoặc người nghèo khổ, hoặc người bộ hành, bị bệnh rồi vào tu viện, Tỳ khưu cần làm thuốc cho tất cả họ với điều kiện là họ không mong đợi đền đáp.

Saddhaṃ kulaṃ hoti catūhi paccayehi upaṭṭhāyakaṃ bhikkhusaṅghassa mātāpituṭṭhāniyaṃ, tatra ce koci gilāno hoti, tassatthāya vissāsena ‘‘bhesajjaṃ katvā bhante dethā’’ti vadanti, neva dātabbaṃ na kātabbaṃ. Atha pana kappiyaṃ ñatvā evaṃ pucchanti – ‘‘bhante, asukassa nāma rogassa kiṃ bhesajjaṃ karontī’’ti? ‘‘Idañcidañca gahetvā karontī’’ti vattuṃ vaṭṭati. ‘‘Bhante, mayhaṃ mātā gilānā, bhesajjaṃ tāva ācikkhathā’’ti evaṃ pucchite pana na ācikkhitabbaṃ. Aññamaññaṃ pana kathā kātabbā – ‘‘āvuso, asukassa nāma bhikkhuno imasmiṃ roge kiṃ bhesajjaṃ kariṃsū’’ti? ‘‘Idañcidañca bhante’’ti. Taṃ sutvā itaro mātu bhesajjaṃ karoti, vaṭṭateva.
Có một gia đình có niềm tin, là người hộ độ Tăng chúng bằng bốn món vật dụng, ở địa vị cha mẹ. Nếu ở đó có người nào bị bệnh, gia đình ấy vì lợi ích của người đó, với sự thân thiết nói rằng: ‘Bạch ngài, xin hãy làm thuốc rồi cho’, thì không nên cho, cũng không nên làm. Nhưng nếu sau khi biết điều thích hợp theo luật, họ hỏi như vầy: ‘Bạch ngài, đối với bệnh tên là X, người ta làm thuốc gì?’ Tỳ khưu được phép nói: ‘Người ta lấy cái này cái kia rồi làm’. Nhưng nếu được hỏi như vầy: ‘Bạch ngài, mẹ con bị bệnh, xin ngài trước hết hãy chỉ dạy thuốc’, thì không nên chỉ dạy. Nhưng nên nói chuyện với nhau giữa các Tỳ khưu: ‘Hiền giả, đối với Tỳ khưu tên là X bị bệnh này, người ta đã làm thuốc gì?’ Một Tỳ khưu khác trả lời: ‘Bạch ngài, người ta đã làm cái này cái kia’. Người thí chủ kia nghe rồi làm thuốc cho mẹ, thì chắc chắn được phép.

Mahāpadumattheropi kira vasabharañño deviyā roge uppanne ekāya itthiyā āgantvā pucchito ‘‘na jānāmī’’ti avatvā evameva bhikkhūhi saddhiṃ samullapesi. Taṃ sutvā tassā bhesajjamakaṃsu. Vūpasante ca roge ticīvarena tīhi ca kahāpaṇasatehi saddhiṃ bhesajjacaṅkoṭakaṃ pūretvā āharitvā therassa pādamūle ṭhapetvā ‘‘bhante, pupphapūjaṃ karothā’’ti āhaṃsu. Thero ‘‘ācariyabhāgo nāmāya’’nti kappiyavasena gāhāpetvā pupphapūjaṃ akāsi. Evaṃ tāva bhesajje paṭipajjitabbaṃ.
Hình như cả Trưởng lão Mahāpaduma, khi bệnh phát sinh nơi hoàng hậu của vua Vasabha, được một người phụ nữ đến hỏi, đã không nói ‘Tôi không biết’ mà cũng đã nói chuyện với các Tỳ khưu khác như vậy (để người phụ nữ nghe được cách chữa bệnh). Sau khi nghe lời nói chuyện đó, họ đã làm thuốc cho bà ấy. Và khi bệnh đã thuyên giảm, họ đổ đầy giỏ thuốc bằng ba y cùng với ba trăm đồng kahāpaṇa rồi mang đến đặt dưới chân Trưởng lão và nói: ‘Bạch ngài, xin hãy làm lễ cúng dường hoa’. Vị Trưởng lão, nghĩ rằng ‘Đây là phần của thầy’, đã sai người nhận vật cúng dường theo cách hợp lệ rồi làm lễ cúng dường hoa. Trước tiên, cần phải đối xử như vậy trong việc cho thuốc.

Paritte pana ‘‘gilānassa parittaṃ karotha, bhante’’ti vutte na kātabbaṃ, ‘‘bhaṇathā’’ti vutte pana kātabbaṃ. Sace pissa evaṃ hoti ‘‘manussā nāma na jānanti, akayiramāne vippaṭisārino bhavissantī’’ti kātabbaṃ; ‘‘parittodakaṃ parittasuttaṃ katvā dethā’’ti vuttena pana tesaṃyeva udakaṃ hatthena cāletvā suttaṃ parimajjetvā dātabbaṃ. Sace vihārato udakaṃ attano santakaṃ vā suttaṃ deti, dukkaṭaṃ. Manussā udakañca suttañca gahetvā nisīditvā ‘‘parittaṃ bhaṇathā’’ti vadanti, kātabbaṃ. No ce jānanti, ācikkhitabbaṃ. Bhikkhūnaṃ nisinnānaṃ pādesu udakaṃ ākiritvā suttañca ṭhapetvā gacchanti ‘‘parittaṃ karotha, parittaṃ bhaṇathā’’ti na pādā apanetabbā. Manussā hi vippaṭisārino honti. Antogāme gilānassatthāya vihāraṃ pesenti, ‘‘parittaṃ bhaṇantū’’ti bhaṇitabbaṃ. Antogāme rājagehādīsu roge vā upaddave vā uppanne pakkosāpetvā bhaṇāpenti, āṭānāṭiyasuttādīni bhaṇitabbāni. ‘‘Āgantvā gilānassa sikkhāpadāni dentu, dhammaṃ kathentu. Rājantepure vā amaccagehe vā āgantvā sikkhāpadāni dentu, dhammaṃ kathentū’’ti pesitepi gantvā sikkhāpadāni dātabbāni, dhammo kathetabbo. ‘‘Matānaṃ parivāratthaṃ āgacchantū’’ti pakkosanti, na gantabbaṃ. Sīvathikadassane asubhadassane ca maraṇassatiṃ paṭilabhissāmīti kammaṭṭhānasīsena gantuṃ vaṭṭati. Evaṃ paritte paṭipajjitabbaṃ.
Còn trong việc tụng kinh hộ trì, nếu được nói: ‘Bạch ngài, xin hãy làm phép hộ trì cho người bệnh’, thì không nên làm; nhưng nếu được nói: ‘Xin hãy tụng’, thì nên làm. Nếu vị Tỳ khưu nghĩ rằng: ‘Người ta không biết, nếu không được làm, họ sẽ hối hận hoặc bất mãn’, thì nên làm. Nhưng nếu được nói: ‘Xin hãy làm nước hộ trì, chỉ hộ trì rồi cho’, thì Tỳ khưu cần lấy chính nước của họ khuấy động bằng tay, rồi xoa chỉ vào nước và cho. Nếu Tỳ khưu cho nước từ tu viện hoặc chỉ là vật sở hữu của mình, phạm tội Tác Ác. Người ta lấy nước và chỉ rồi ngồi xuống nói: ‘Xin hãy tụng kinh hộ trì’, thì nên làm. Nếu họ không biết cách làm, cần chỉ dạy. Nếu người ta rưới nước lên chân các Tỳ khưu đang ngồi rồi đặt chỉ xuống và bỏ đi nói rằng ‘Xin hãy làm phép hộ trì, xin hãy tụng kinh hộ trì’, thì không nên dời chân đi. Vì người ta sẽ hối hận hoặc bất mãn. Nếu người ta gửi lời mời đến tu viện vì lợi ích của người bệnh trong làng nói rằng ‘Xin chư Tăng hãy tụng kinh hộ trì’, thì nên tụng. Trong làng, nếu bệnh hoặc tai ương phát sinh trong cung vua và các nơi tương tự, nếu họ sai người mời đến rồi yêu cầu tụng, thì nên tụng Kinh Āṭānāṭiya và các kinh khác. Ngay cả khi được gửi lời mời rằng: ‘Xin hãy đến trao các điều học cho người bệnh, thuyết pháp. Xin hãy đến nội cung hoặc nhà của các vị đại thần rồi trao các điều học, thuyết pháp’, cũng cần đi rồi trao các điều học, thuyết pháp. Nếu họ mời rằng: ‘Xin hãy đến vì mục đích đưa tiễn người chết’, thì không nên đi. Nhưng được phép đi đến nghĩa địa với đề mục thiền định làm đầu, với ý nghĩ ‘Trong việc thấy nghĩa địa và thấy cảnh bất tịnh, ta sẽ có được niệm sự chết’. Cần phải đối xử như vậy trong việc tụng kinh hộ trì.

Piṇḍapāte pana – anāmaṭṭhapiṇḍapāto kassa dātabbo, kassa na dātabbo? Mātāpitunaṃ tāva dātabbo. Sacepi kahāpaṇagghanako hoti, saddhādeyyavinipātanaṃ natthi. Mātāpituupaṭṭhākānaṃ veyyāvaccakarassa paṇḍupalāsassāti etesampi dātabbo. Tattha paṇḍupalāsassa thālake pakkhipitvāpi dātuṃ vaṭṭati. Taṃ ṭhapetvā aññesaṃ āgārikānaṃ mātāpitunampi na vaṭṭati. Pabbajitaparibhogo hi āgārikānaṃ cetiyaṭṭhāniyo. Apica anāmaṭṭhapiṇḍapāto nāmesa sampattassa dāmarikacorassāpi issarassāpi dātabbo. Kasmā? Te hi adīyamānepi ‘‘na dentī’’ti āmasitvā dīyamānepi ‘‘ucchiṭṭhakaṃ dentī’’ti kujjhanti. Kuddhā jīvitāpi voropenti, sāsanassāpi antarāyaṃ karonti. Rajjaṃ patthayamānassa vicarato coranāgassa vatthu cettha kathetabbaṃ. Evaṃ piṇḍapāte paṭipajjitabbaṃ.
Còn trong việc cho vật thực khất thực – vật thực khất thực chưa chạm đến nên cho ai, không nên cho ai? Trước tiên, nên cho cha mẹ. Ngay cả nếu vật thực trị giá một đồng kahāpaṇa, cũng không có sự làm hư hoại của cúng dường do niềm tin. Cũng nên cho những người phục dịch cha mẹ, người làm công, và người lá vàng. Ở đó, đối với người lá vàng, được phép cho cả bằng cách bỏ vào bát hoặc đĩa. Ngoại trừ những người đó, không được phép cho cả cha mẹ của những người tại gia khác. Quả vậy, vật dụng của người xuất gia đối với người tại gia ở địa vị như tháp thờ. Hơn nữa, vật thực khất thực chưa chạm đến này nên được cho cả tên trộm nổi loạn hay người có quyền thế đã đến xin. Tại sao? Vì những người đó, ngay cả khi không được cho, cũng chạm vào vật thực rồi nói ‘Họ không cho’; ngay cả khi được cho, cũng nói ‘Họ cho vật thừa’ rồi tức giận. Khi tức giận, họ có thể tước đoạt cả mạng sống, cũng làm nguy hại cho giáo pháp. Sự việc về tên trộm Nāga đi lang thang mong muốn vương quốc cần được kể ở đây. Cần phải đối xử như vậy trong việc cho vật thực khất thực.

Paṭisanthāro pana kassa kātabbo, kassa na kātabbo? Paṭisanthāro nāma vihāraṃ sampattassa yassa kassaci āgantukassa vā daliddassa vā corassa vā issarassa vā kātabboyeva. Kathaṃ? Āgantukaṃ tāva khīṇaparibbayaṃ vihāraṃ sampattaṃ disvā pānīyaṃ dātabbaṃ, pādamakkhanatelaṃ dātabbaṃ. Kāle āgatassa yāgubhattaṃ, vikāle āgatassa sace taṇḍulā atthi; taṇḍulā dātabbā. Avelāyaṃ sampatto ‘‘gacchāhī’’ti na vattabbo. Sayanaṭṭhānaṃ dātabbaṃ. Sabbaṃ apaccāsīsanteneva kātabbaṃ. ‘‘Manussā nāma catupaccayadāyakā evaṃ saṅgahe kayiramāne punappunaṃ pasīditvā upakāraṃ karissantī’’ti cittaṃ na uppādetabbaṃ. Corānaṃ pana saṅghikampi dātabbaṃ.
Còn sự tiếp đãi thì nên làm cho ai, không nên làm cho ai? Sự tiếp đãi chắc chắn nên được làm cho bất cứ ai đã đến tu viện, dù là khách, hoặc người nghèo, hoặc trộm, hoặc người có quyền thế. Thế nào? Trước tiên, thấy người khách đã hết đồ dùng đến tu viện, cần cho nước uống, cho dầu xoa chân. Cho người đến đúng giờ thì cháo và cơm; cho người đến không đúng giờ, nếu có gạo, thì nên cho gạo. Người đến không đúng giờ, không nên nói: ‘Hãy đi đi’. Cần cho chỗ ngủ. Tất cả việc tiếp đãi cần được làm với điều kiện là họ không mong đợi đền đáp. Không nên phát sinh tâm nghĩ rằng: ‘Người ta là những người cúng dường bốn món vật dụng, khi sự giúp đỡ được thực hiện như vậy, họ sẽ nhiều lần hoan hỷ rồi làm lợi ích cho mình’. Còn đối với bọn trộm, ngay cả vật của Tăng cũng nên cho.

Paṭisanthārānisaṃsadīpanatthañca coranāgavatthu, bhātarā saddhiṃ jambudīpagatassa mahānāgarañño vatthu, piturājassa rajje catunnaṃ amaccānaṃ vatthu, abhayacoravatthūti evamādīni bahūni vatthūni mahāaṭṭhakathāyaṃ vitthārato vuttāni.
Và để làm sáng tỏ lợi ích của sự tiếp đãi, nhiều sự việc như sự việc về tên trộm Nāga, sự việc về vua Mahānāga đã cùng em trai đến Diêm Phù Đề (Ấn Độ), sự việc về bốn vị đại thần trong vương quốc của vua cha, sự việc về tên trộm Abhaya, và các sự việc tương tự đã được nói một cách chi tiết trong Đại Chú Giải.

Tatrāyaṃ ekavatthudīpanā – sīhaḷadīpe kira abhayo nāma coro pañcasataparivāro ekasmiṃ ṭhāne khandhāvāraṃ bandhitvā samantā tiyojanaṃ ubbāsetvā vasati. Anurādhapuravāsino kadambanadiṃ na uttaranti, cetiyagirimagge janasañcāro upacchinno. Athekadivasaṃ coro ‘‘cetiyagiriṃ vilumpissāmī’’ti agamāsi. Ārāmikā disvā dīghabhāṇakaabhayattherassa ārocesuṃ. Thero ‘‘sappiphāṇitādīni atthī’’ti pucchi. ‘‘Atthi, bhante’’ti. ‘‘Corānaṃ detha, taṇḍulā atthī’’ti? ‘‘Atthi, bhante, saṅghassatthāya āhaṭā taṇḍulā ca pattasākañca goraso cā’’ti. ‘‘Bhattaṃ sampādetvā corānaṃ dethā’’ti. Ārāmikā tathā kariṃsu. Corā bhattaṃ bhuñjitvā ‘‘kenāyaṃ paṭisanthāro kato’’ti pucchiṃsu. ‘‘Amhākaṃ ayyena abhayattherenā’’ti. Corā therassa santikaṃ gantvā vanditvā āhaṃsu – ‘‘mayaṃ saṅghassa ca cetiyassa ca santakaṃ acchinditvā gahessāmāti āgatā, tumhākaṃ pana iminā paṭisanthārenamha pasannā, ajja paṭṭhāya vihāre dhammikā rakkhā amhākaṃ āyattā hotu, nāgarā āgantvā dānaṃ dentu, cetiyaṃ vandantū’’ti. Tato paṭṭhāya ca nāgare dānaṃ dātuṃ āgacchante nadītīreyeva paccuggantvā rakkhantā vihāraṃ nenti, vihārepi dānaṃ dentānaṃ rakkhaṃ katvā tiṭṭhanti. Tepi bhikkhūnaṃ bhuttāvasesaṃ corānaṃ denti. Gamanakālepi te corā nadītīraṃ pāpetvā nivattanti.
Ở đây, đây là sự làm sáng tỏ một sự việc: Hình như ở đảo Sīhaḷa (Tích Lan), một tên trộm tên là Abhaya, có năm trăm thuộc hạ, sau khi lập trại đóng quân ở một nơi, đã khủng bố vùng ba do-tuần xung quanh rồi ở đó. Những người dân ở Anurādhapura không dám qua sông Kadamba; trên con đường đến núi Cetiya, sự đi lại của dân chúng bị cắt đứt. Rồi một hôm, tên trộm nghĩ rằng ‘Ta sẽ cướp phá núi Cetiya’ rồi đi đến. Những người phục vụ trong tu viện thấy vậy liền báo cho Trưởng lão Abhaya, một vị Luận sư Trường Bộ. Vị Trưởng lão hỏi: ‘Có bơ lỏng, đường phèn, và các thứ khác không?’ Họ trả lời: ‘Bạch ngài, có’. Vị Trưởng lão nói: ‘Hãy cho bọn trộm. Có gạo không?’ Họ trả lời: ‘Bạch ngài, có gạo, và rau trong bát, và sữa đã được mang đến vì lợi ích của Tăng chúng’. Vị Trưởng lão nói: ‘Hãy sửa soạn vật thực rồi cho bọn trộm’. Những người phục vụ trong tu viện đã làm như vậy. Bọn trộm sau khi ăn vật thực xong, hỏi: ‘Sự tiếp đãi này do ai làm?’ Họ trả lời: ‘Do ngài của chúng tôi là Trưởng lão Abhaya’. Bọn trộm đến gần Trưởng lão, đảnh lễ rồi nói: ‘Chúng tôi đến đây với ý định sẽ cướp đoạt vật sở hữu của Tăng chúng và của tháp, nhưng chúng tôi đã hoan hỷ do sự tiếp đãi này của ngài. Từ hôm nay trở đi, sự bảo hộ đúng pháp trong tu viện hãy thuộc về chúng tôi; những người dân thành phố hãy đến cúng dường, hãy đảnh lễ tháp’. Và từ đó trở đi, khi những người dân thành phố đến để cúng dường, bọn trộm đi ra đón ngay tại bờ sông, bảo vệ rồi dẫn họ đến tu viện. Ngay cả trong tu viện, bọn trộm cũng làm sự bảo vệ cho những người đang cúng dường rồi đứng đó. Các vị Tỳ khưu cũng cho phần vật thực còn lại sau khi ăn của các Tỳ khưu cho bọn trộm. Ngay cả vào lúc ra về, bọn trộm ấy cũng đưa dân chúng đến bờ sông rồi quay lại.

Athekadivasaṃ bhikkhusaṅghe khīyanakakathā uppannā ‘‘thero issaravatāya saṅghassa santakaṃ corānaṃ adāsī’’ti. Thero sannipātaṃ kārāpetvā āha – ‘‘corā saṅghassa pakativaṭṭañca cetiyasantakañca acchinditvā gaṇhissāmā’’ti āgamiṃsu. Atha nesaṃ mayā evaṃ na harissantīti ettako nāma paṭisanthāro kato, taṃ sabbampi ekato sampiṇḍetvā agghāpetha. Tena kāraṇena aviluttaṃ bhaṇḍaṃ ekato sampiṇḍetvā agghāpethāti. Tato sabbampi therena dinnakaṃ cetiyaghare ekaṃ varapotthakacittattharaṇaṃ na agghati. Tato āhaṃsu – ‘‘therena katapaṭisanthāro sukato codetuṃ vā sāretuṃ vā na labbhā, gīvā vā avahāro vā natthī’’ti. Evaṃ mahānisaṃso paṭisanthāroti sallakkhetvā kattabbo paṇḍitena bhikkhunāti.
Rồi một hôm, trong Tăng chúng phát sinh lời bàn tán chỉ trích rằng: ‘Vị Trưởng lão do tự ý đã cho vật sở hữu của Tăng chúng cho bọn trộm’. Vị Trưởng lão sai người triệu tập Tăng chúng rồi nói: ‘Bọn trộm đã đến với ý định “Chúng ta sẽ cướp đoạt vật dụng thường lệ của Tăng chúng và vật sở hữu của tháp.” Sau đó, để chúng không lấy đi những thứ đó, tôi đã thực hiện sự tiếp đãi chỉ bằng chừng này; hãy gom tất cả những gì tôi đã cho lại rồi định giá.’ Vị Trưởng lão nói thêm: ‘Vì lý do đó, để biết giá trị của sự tiếp đãi so với những gì được bảo vệ, hãy gom vật dụng không bị cướp phá lại rồi định giá’. Sau đó, tất cả những gì vị Trưởng lão đã cho bọn trộm không bằng giá trị của một tấm thảm quý có hình vẽ trên sách ở nhà tháp. Sau đó, chư Tăng nói: ‘Sự tiếp đãi do Trưởng lão thực hiện là việc làm tốt đẹp, không thể khiển trách hay nhắc nhở được; không có sự chiếm đoạt hay sự lấy trộm nào cả’. Như vậy, Tỳ khưu có trí cần phải thực hiện sự tiếp đãi sau khi đã nhận biết rằng sự tiếp đãi có lợi ích lớn.

187. Aṅgulipatodakavatthusmiṃ – uttantoti kilamanto. Anassāsakoti nirassāso. Imasmiṃ pana vatthusmiṃ yāya āpattiyā bhavitabbaṃ sā ‘‘khuddakesu nidiṭṭhā’’ti idha na vuttā.
187. Trong sự việc về người bị trói ngón tay: từ ‘người mệt mỏi’ nghĩa là người mệt nhọc. Từ ‘Người không thở được’ nghĩa là người hết hơi thở. Nhưng trong sự việc này, tội nào đáng lẽ phải có thì không được nói ở đây vì đã được chỉ rõ trong các điều học nhỏ.

Tadanantare vatthusmiṃ – ottharitvāti akkamitvā. So kira tehi ākaḍḍhiyamāno patito. Eko tassa udaraṃ abhiruhitvā nisīdi. Sesāpi pannarasa janā pathaviyaṃ ajjhottharitvā adūhalapāsāṇā viya migaṃ māresuṃ. Yasmā pana te kammādhippāyā, na maraṇādhippāyā; tasmā pārājikaṃ na vuttaṃ.
Trong sự việc liền sau đó: từ ‘Sau khi đè lên’ nghĩa là sau khi dẫm lên. Hình như người ấy, trong khi bị họ kéo đi, đã ngã xuống. Một người trèo lên bụng của người ấy rồi ngồi. Mười lăm người còn lại cũng đè bẹp người ấy xuống đất rồi giết như giết con nai bằng đá của bẫy sập. Nhưng vì họ có ý định làm việc khác, không có ý định giết; do đó, tội Bất Cộng Trụ không được nói trong trường hợp này.

Bhūtavejjakavatthusmiṃ – yakkhaṃ māresīti bhūtavijjākapāṭhakā yakkhagahitaṃ mocetukāmā yakkhaṃ āvāhetvā muñcāti vadanti. No ce muñcati, piṭṭhena vā mattikāya vā rūpaṃ katvā hatthapādādīni chindanti, yaṃ yaṃ tassa chijjati taṃ taṃ yakkhassa chinnameva hoti. Sīse chinne yakkhopi marati . Evaṃ sopi māresi; tasmā thullaccayaṃ vuttaṃ. Na kevalañca yakkhameva, yopi hi sakkaṃ devarājaṃ māreyya, sopi thullaccayameva āpajjati.
Trong sự việc về thầy trừ tà: câu ‘Đã giết dạ xoa’ nghĩa là những người đọc thần chú trừ tà, muốn giải thoát người bị dạ xoa ám, sau khi gọi dạ xoa đến, nói: ‘Hãy thả ra!’ Nếu dạ xoa không thả ra, họ làm hình tượng dạ xoa bằng bột hoặc bằng đất sét rồi cắt tay chân và các bộ phận khác; bất cứ phần nào của hình tượng bị cắt, phần đó của dạ xoa cũng chắc chắn bị cắt. Khi đầu hình tượng bị cắt, dạ xoa cũng chết. Như vậy, vị ấy cũng đã giết; do đó, tội Trọng Tội được nói. Không chỉ dạ xoa, mà ngay cả người nào giết Đế Thích Thiên Vương, người ấy cũng chắc chắn phạm tội Trọng Tội.

Vāḷayakkhavatthusmiṃ – vāḷayakkhavihāranti yasmiṃ vihāre vāḷo caṇḍo yakkho vasati, taṃ vihāraṃ. Yo hi evarūpaṃ vihāraṃ ajānanto kevalaṃ vasanatthāya peseti, anāpatti. Yo maraṇādhippāyo peseti, so itarassa maraṇena pārājikaṃ, amaraṇena thullaccayaṃ āpajjati. Yathā ca vāḷayakkhavihāraṃ; evaṃ yattha vāḷasīhabyagghādimigā vā ajagarakaṇhasappādayo dīghajātikā vā vasanti, taṃ vāḷavihāraṃ pesentassāpi āpattānāpattibhedo veditabbo. Ayaṃ pāḷimuttakanayo. Yathā ca bhikkhuṃ vāḷayakkhavihāraṃ pesentassa; evaṃ vāḷayakkhampi bhikkhusantikaṃ pesentassa āpattānāpattibhedo veditabbo. Eseva nayo vāḷakantārādivatthūsupi. Kevalañhettha yasmiṃ kantāre vāḷamigā vā dīghajātikā vā atthi, so vāḷakantāro. Yasmiṃ corā atthi, so corakantāroti evaṃ padatthamattameva nānaṃ. Manussaviggahapārājikañca nāmetaṃ saṇhaṃ, pariyāyakathāya na muccati; tasmā yo vadeyya ‘‘asukasmiṃ nāma okāse coro nisinno , yo tassa sīsaṃ chinditvā āharati, so rājato sakkāravisesaṃ labhatī’’ti. Tassa cetaṃ vacanaṃ sutvā koci naṃ gantvā māreti, ayaṃ pārājiko hotīti.
Trong sự việc về dạ xoa hung dữ: từ ‘tu viện có dạ xoa hung dữ’ là tu viện nơi một dạ xoa hung dữ, tàn bạo ở. Người nào không biết tu viện như vậy mà chỉ gửi người khác đến vì mục đích ở, thì không phạm tội. Người nào gửi người khác đến với ý định giết, người ấy phạm tội Bất Cộng Trụ do cái chết của người kia; nếu người kia không chết thì phạm tội Trọng Tội. Và như trường hợp tu viện có dạ xoa hung dữ; cũng vậy, đối với người gửi người khác đến tu viện có thú dữ, nơi các loài thú hung dữ như sư tử, cọp, và các loài khác, hoặc các loài vật dài như trăn, rắn hổ mang, và các loài khác ở, sự phân biệt về phạm tội và không phạm tội cũng cần được hiểu. Đây là phương pháp không có trong Pāḷi (tức là suy luận ngoài Pāḷi). Và như trường hợp người gửi Tỳ khưu đến tu viện có dạ xoa hung dữ; cũng vậy, đối với người gửi dạ xoa hung dữ đến gần Tỳ khưu, sự phân biệt về phạm tội và không phạm tội cũng cần được hiểu. Phương pháp này cũng áp dụng cả trong các sự việc về vùng hoang địa có thú dữ và các nơi tương tự. Chỉ có điều, ở đây, vùng hoang địa nào có thú dữ hoặc các loài vật dài, đó là vùng hoang địa có thú dữ. Vùng hoang địa nào có trộm cướp, đó là vùng hoang địa có trộm cướp – chỉ có sự khác biệt về ý nghĩa của từ như vậy thôi. Và tội Bất Cộng Trụ do giết hình người này là một vấn đề tế nhị, không thoát tội bằng cách nói quanh co. Do đó, người nào nói: ‘Ở nơi tên là X có tên trộm đang ngồi, người nào cắt đầu nó rồi mang đến, người đó sẽ nhận được sự tôn kính đặc biệt từ vua’. Và nếu có ai đó nghe lời nói ấy của người đó rồi đi giết tên trộm, người nói này là người phạm tội Bất Cộng Trụ.

188.Taṃ maññamānoti ādīsu so kira bhikkhu attano veribhikkhuṃ māretukāmo cintesi – ‘‘imaṃ me divā mārentassa na sukaraṃ bhaveyya sotthinā gantuṃ, rattiṃ naṃ māressāmī’’ti sallakkhetvā rattiṃ āgamma bahūnaṃ sayitaṭṭhāne taṃ maññamāno tameva jīvitā voropesi. Aparo taṃ maññamāno aññaṃ, aparo aññaṃ tasseva sahāyaṃ maññamāno taṃ, aparo aññaṃ tasseva sahāyaṃ maññamāno aññaṃ tassa sahāyameva jīvitā voropesi. Sabbesampi pārājikameva.
188. Trong các trường hợp bắt đầu bằng ‘Nghĩ rằng đó là người ấy’, hình như Tỳ khưu ấy, muốn giết Tỳ khưu thù địch của mình, đã suy nghĩ: ‘Đối với ta, việc giết người này vào ban ngày sẽ không dễ dàng để đi thoát an toàn; ta sẽ giết nó vào ban đêm’, sau khi nhận biết như vậy, vị ấy ban đêm đến nơi nhiều người ngủ, nghĩ rằng đó là Tỳ khưu thù địch ấy rồi tước đoạt mạng sống của chính người đó. Một người khác, nghĩ rằng đó là Tỳ khưu thù địch ấy, lại giết người khác. Một người khác nữa, nghĩ rằng một người khác là bạn đồng hành của chính Tỳ khưu thù địch ấy, lại giết Tỳ khưu thù địch đó. Một người khác nữa, nghĩ rằng một người khác là bạn đồng hành của chính Tỳ khưu thù địch ấy, lại giết chính người bạn đồng hành của Tỳ khưu thù địch đó. Tất cả họ đều phạm tội Bất Cộng Trụ.

Amanussagahitavatthūsu paṭhame vatthusmiṃ ‘‘yakkhaṃ palāpessāmī’’ti pahāraṃ adāsi, itaro ‘‘na dānāyaṃ virajjhituṃ samattho, māressāmi na’’nti . Ettha ca namaraṇādhippāyassa anāpatti vuttāti. Na ettakeneva amanussagahitassa pahāro dātabbo, tālapaṇṇaṃ pana parittasuttaṃ vā hatthe vā pāde vā bandhitabbaṃ, ratanasuttādīni parittāni bhaṇitabbāni, ‘‘mā sīlavantaṃ bhikkhuṃ viheṭhehī’’ti dhammakathā kātabbāti. Saggakathādīni uttānatthāni. Yañhettha vattabbaṃ taṃ vuttameva.
Trong các sự việc về người bị phi nhân ám, ở sự việc thứ nhất, một Tỳ khưu đã đánh người bị ám với ý nghĩ ‘Ta sẽ xua đuổi dạ xoa’; một Tỳ khưu khác nghĩ rằng ‘Bây giờ, dạ xoa này không có khả năng làm hại, ta sẽ không giết nó’. Và ở đây, đã nói là không phạm tội đối với người không có ý định giết. Không nên chỉ vì chừng đó mà đánh người bị phi nhân ám; mà nên buộc lá bối hoặc chỉ hộ trì vào tay hoặc vào chân, nên tụng các kinh hộ trì như Kinh Ratanasutta và các kinh khác, và nên nói pháp thoại rằng: ‘Đừng làm phiền não Tỳ khưu có giới’. Các lời nói về cõi trời và các chủ đề tương tự có ý nghĩa rõ ràng. Những gì cần nói ở đây đã được nói rồi.

189.Rukkhacchedanavatthu aṭṭabandhanavatthusadisaṃ. Ayaṃ pana viseso – yo rukkhena otthatopi na marati , sakkā ca hoti ekena passena rukkhaṃ chetvā pathaviṃ vā khanitvā nikkhamituṃ, hatthe cassa vāsi vā kuṭhārī vā atthi, tena api jīvitaṃ pariccajitabbaṃ, na ca rukkho vā chinditabbo, na pathavī vā khaṇitabbā. Kasmā? Evaṃ karonto hi pācittiyaṃ āpajjati, buddhassa āṇaṃ bhañjati, na jīvitapariyantaṃ sīlaṃ karoti. Tasmā api jīvitaṃ pariccajitabbaṃ, na ca sīlanti pariggahetvā na evaṃ kātabbaṃ. Aññassa pana bhikkhuno rukkhaṃ vā chinditvā pathaviṃ vā khanitvā taṃ nīharituṃ vaṭṭati. Sace udukkhalayantakena rukkhaṃ pavaṭṭetvā nīharitabbo hoti, taṃyeva rukkhaṃ chinditvā udukkhalaṃ gahetabbanti mahāsumatthero āha. Aññampi chinditvā gahetuṃ vaṭṭatīti mahāpadumatthero. Sobbhādīsu patitassāpi nisseṇiṃ bandhitvā uttāraṇe eseva nayo. Attanā bhūtagāmaṃ chinditvā nisseṇī na kātabbā, aññesaṃ katvā uddharituṃ vaṭṭatīti.
189. Sự việc về việc chặt cây tương tự như sự việc về việc buộc giàn giáo. Nhưng đây là điểm đặc biệt: người nào, ngay cả khi bị cây đè cũng không chết, và có khả năng thoát ra bằng cách chặt cây ở một bên hoặc đào đất, và trong tay có cái bào hoặc cái rìu, người ấy nên từ bỏ cả mạng sống, chứ không nên chặt cây, cũng không nên đào đất. Tại sao? Vì người làm như vậy phạm tội Ưng Đối Trị, làm trái lệnh của Phật, không giữ giới cho đến hết mạng sống. Do đó, với sự chấp nhận ‘Nên từ bỏ cả mạng sống, chứ không phải giới’, không nên làm như vậy. Nhưng một Tỳ khưu khác thì được phép chặt cây hoặc đào đất để đưa người ấy ra. Nếu có thể đưa người bị đè ra bằng cách dịch chuyển cây bằng máy đòn bẩy như cối giã, thì nên chặt chính cây đó rồi lấy làm cối giã – Trưởng lão Mahāsumana đã nói như vậy. Được phép chặt cả cây khác rồi lấy làm đòn bẩy – Trưởng lão Mahāpaduma đã nói như vậy. Cả đối với người rơi xuống hố và các nơi tương tự, trong việc làm thang rồi đưa lên, cũng theo phương pháp này. Tự mình không nên làm thang bằng cách chặt cây cỏ (sinh thực vật); nhưng được phép nhờ người khác làm rồi đưa người bị nạn lên.

190. Dāyālimpanavatthūsu – dāyaṃ ālimpesunti vane aggiṃ adaṃsu. Ettha pana uddissānuddissavasena pārājikānantariyathullaccayapācittivatthūnaṃ anurūpato pārājikādīni akusalarāsibhāvo ca pubbe vuttanayeneva veditabbo. ‘‘Allatiṇavanappagumbādayo ḍayhantū’’ti ālimpentassa ca pācittiyaṃ. ‘‘Dabbūpakaraṇāni vinassantū’’ti ālimpentassa dukkaṭaṃ. Khiḍḍādhippāyenāpi dukkaṭanti saṅkhepaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. ‘‘Yaṃkiñci allasukkhaṃ saindriyānindriyaṃ ḍayhatū’’ti ālimpentassa vatthuvasena pārājikathullaccayapācittiyadukkaṭāni veditabbāni.
190. Trong các sự việc về việc đốt rừng: câu ‘Họ đã đốt rừng’ nghĩa là họ đã đốt lửa trong rừng. Ở đây, tùy theo việc làm có chủ đích hay không có chủ đích, các tội Bất Cộng Trụ và các tội khác, và tính chất của khối bất thiện, tương ứng với các trường hợp gây tội Bất Cộng Trụ, nghiệp vô gián, Trọng Tội, hoặc tội Ưng Đối Trị, cần được hiểu theo phương pháp đã nói ở trước. Đối với người đốt rừng với ý nghĩ ‘Cỏ tươi, cây bụi trong rừng, và các thứ tương tự hãy cháy đi’, phạm tội Ưng Đối Trị. Đối với người đốt rừng với ý nghĩ ‘Các vật dụng, đồ dùng hãy bị hủy hoại’, phạm tội Tác Ác. Ngay cả với ý định đùa giỡn, cũng phạm tội Tác Ác – đã được nói trong Chú Giải Tóm Lược. Đối với người đốt rừng với ý nghĩ ‘Bất cứ thứ gì tươi khô, có sinh mạng hay không có sinh mạng, hãy cháy đi’, tùy theo đối tượng mà cần được hiểu là phạm các tội Bất Cộng Trụ, Trọng Tội, Ưng Đối Trị, hoặc Tác Ác.

Paṭaggidānaṃ pana parittakaraṇañca bhagavatā anuññātaṃ, tasmā araññe vanakammikehi vā dinnaṃ sayaṃ vā uṭṭhitaṃ aggiṃ āgacchantaṃ disvā ‘‘tiṇakuṭiyo mā vinassantū’’ti tassa aggino paṭiaggiṃ dātuṃ vaṭṭati, yena saddhiṃ āgacchanto aggi ekato hutvā nirupādāno nibbāti. Parittampi kātuṃ vaṭṭati tiṇakuṭikānaṃ samantā bhūmitacchanaṃ parikhākhaṇanaṃ vā, yathā āgato aggi upādānaṃ alabhitvā nibbāti. Etañca sabbaṃ uṭṭhiteyeva aggismiṃ kātuṃ vaṭṭati. Anuṭṭhite anupasampannehi kappiyavohārena kāretabbaṃ. Udakena pana nibbāpentehi appāṇakameva udakaṃ āsiñcitabbaṃ.
Nhưng việc đốt lửa đối ứng và việc làm biện pháp bảo vệ đã được Đức Thế Tôn cho phép. Do đó, ở trong rừng, sau khi thấy lửa do những người làm việc trong rừng đốt hoặc tự phát sinh đang lan đến, nếu nghĩ rằng ‘Các lều cỏ đừng bị hủy hoại’, thì được phép đốt lửa đối ứng với ngọn lửa đó, nhờ đó, ngọn lửa đang lan đến cùng với lửa đối ứng sẽ gặp nhau rồi tắt đi không còn nhiên liệu. Cũng được phép làm biện pháp bảo vệ bằng cách dọn sạch mặt đất xung quanh các lều cỏ hoặc đào hào, sao cho ngọn lửa lan đến không nhận được nhiên liệu rồi tắt đi. Và tất cả những việc này chỉ được phép làm khi lửa đã phát sinh. Khi lửa chưa phát sinh, cần phải nhờ những người chưa thọ cụ túc giới làm bằng cách nói hợp lệ. Nhưng đối với những người dập lửa bằng nước, chỉ nên rưới nước không có chúng sanh.

191.Āghātanavatthusmiṃ – yathā ekappahāravacane; evaṃ ‘‘dvīhi pahārehī’’ti ādivacanesupi pārājikaṃ veditabbaṃ. ‘‘Dvīhī’’ti vutte ca ekena pahārena māritepi khettameva otiṇṇattā pārājikaṃ, tīhi mārite pana visaṅketaṃ. Iti yathāparicchede vā paricchedabbhantare vā avisaṅketaṃ, paricchedātikkame pana sabbattha visaṅketaṃ hoti, āṇāpako muccati, vadhakasseva doso. Yathā ca pahāresu; evaṃ purisesupi ‘‘eko māretū’’ti vutte ekeneva mārite pārājikaṃ, dvīhi mārite visaṅketaṃ. ‘‘Dve mārentū’’ti vutte ekena vā dvīhi vā mārite pārājikaṃ, tīhi mārite visaṅketanti veditabbaṃ. Eko saṅgāme vegena dhāvato purisassa sīsaṃ asinā chindati, asīsakaṃ kabandhaṃ dhāvati, tamañño paharitvā pātesi, kassa pārājikanti vutte upaḍḍhā therā ‘‘gamanūpacchedakassā’’ti āhaṃsu. Ābhidhammikagodattatthero ‘‘sīsacchedakassā’’ti. Evarūpānipi vatthūni imassa vatthussa atthadīpane vattabbānīti.
191. Trong sự việc về nơi giết mổ (hoặc về việc đánh) – như trong lời nói ra lệnh ‘bằng một cú đánh’; cũng vậy, trong các lời nói bắt đầu bằng ‘bằng hai cú đánh’, cần hiểu là phạm tội Bất Cộng Trụ. Và khi được nói ‘Bằng hai cú đánh’, ngay cả khi nạn nhân bị giết bằng một cú đánh, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ do đã rơi vào phạm vi của lệnh; nhưng nếu bị giết bằng ba cú đánh, thì có sự không đúng theo giao ước. Như vậy, nếu theo như sự giới hạn hoặc trong phạm vi giới hạn, thì không có sự không đúng theo giao ước; nhưng khi vượt quá sự giới hạn, trong tất cả các trường hợp đều có sự không đúng theo giao ước, người ra lệnh được thoát tội, chỉ có lỗi của người giết. Và như trong trường hợp các cú đánh; cũng vậy trong trường hợp số người: nếu được nói ‘Một người hãy giết’, nạn nhân bị giết bởi chính một người đó, thì phạm tội Bất Cộng Trụ; nếu bị giết bởi hai người, thì có sự không đúng theo giao ước. Nếu được nói ‘Hai người hãy giết’, nạn nhân bị giết bởi một hoặc hai người, thì phạm tội Bất Cộng Trụ; nếu bị giết bởi ba người, cần hiểu là có sự không đúng theo giao ước. Một người trong trận chiến dùng gươm chặt đầu một người đang chạy nhanh, thân không đầu vẫn chạy, một người khác đánh rồi làm cho ngã xuống; khi được hỏi ‘Ai phạm tội Bất Cộng Trụ?’, một nửa số Trưởng lão đã nói: ‘Của người làm chấm dứt sự di chuyển’. Trưởng lão Godatta, một nhà Vi Diệu Pháp, nói: ‘Của người cắt đầu’. Những sự việc như vậy cũng cần được nói trong phần làm sáng tỏ ý nghĩa của sự việc này.

192.Takkavatthusmiṃ – aniyametvā ‘‘takkaṃ pāyethā’’ti vutte yaṃ vā taṃ vā takkaṃ pāyetvā mārite pārājikaṃ. Niyametvā pana ‘‘gotakkaṃ mahiṃsatakkaṃ ajikātakka’’nti vā, ‘‘sītaṃ uṇhaṃ dhūpitaṃ adhūpita’’nti vā vutte yaṃ vuttaṃ, tato aññaṃ pāyetvā mārite visaṅketaṃ.
192. Trong sự việc về sữa chua – nếu được nói ‘Hãy cho uống sữa chua’ mà không quy định cụ thể, nếu người được lệnh cho uống bất kỳ loại sữa chua nào rồi nạn nhân bị giết, người ra lệnh phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu được nói với sự quy định: ‘Sữa chua bò, sữa chua trâu, sữa chua dê’, hoặc ‘lạnh, nóng, được xông khói, không được xông khói’, mà người được lệnh cho uống một loại khác ngoài loại đã được nói rồi nạn nhân bị giết, thì có sự không đúng theo giao ước.

Loṇasovīrakavatthusmiṃ– loṇasovīrakaṃ nāma sabbarasābhisaṅkhataṃ ekaṃ bhesajjaṃ. Taṃ kira karontā harītakāmalakavibhītakakasāve sabbadhaññāni sabbaaparaṇṇāni sattannampi dhaññānaṃ odanaṃ kadaliphalādīni sabbaphalāni vettaketakakhajjūrikaḷīrādayo sabbakaḷīre macchamaṃsakhaṇḍāni anekāni ca madhuphāṇitasindhavaloṇanikaṭukādīni bhesajjāni pakkhipitvā kumbhimukhaṃ limpitvā ekaṃ vā dve vā tīṇi vā saṃvaccharāni ṭhapenti, taṃ paripaccitvā jamburasavaṇṇaṃ hoti. Vātakāsakuṭṭhapaṇḍubhagandarādīnaṃ siniddhabhojanaṃ bhuttānañca uttarapānaṃ bhattajīraṇakabhesajjaṃ tādisaṃ natthi. Taṃ panetaṃ bhikkhūnaṃ pacchābhattampi vaṭṭati, gilānānaṃ pākatikameva, agilānānaṃ pana udakasambhinnaṃ pānaparibhogenāti.
Trong sự việc về loṇasovīraka: từ ‘loṇasovīraka’ là một loại thuốc được pha chế với tất cả các vị. Hình như khi làm thuốc đó, người ta bỏ nước cốt của quả harītakī, āmalakī, vibhītakī; tất cả các loại ngũ cốc; tất cả các loại đậu; cơm của bảy loại ngũ cốc; tất cả các loại trái cây như chuối và các loại khác; tất cả các loại măng như măng tre, măng dứa dại, măng chà là, và các loại khác; nhiều miếng cá thịt; và các loại thuốc như mật ong, đường phèn, muối sindhava, các vị cay, và các vị khác vào hũ, rồi trét miệng hũ, để trong một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc nhiều năm; sau khi nó chín (lên men), nó có màu như nước quả trâm. Đối với các bệnh như bệnh gió, ho, phong cùi, vàng da, trĩ dò, và các bệnh khác, và đối với những người đã ăn thức ăn béo ngậy, không có loại thuốc uống sau bữa ăn, thuốc tiêu hóa thức ăn nào như vậy. Nhưng thuốc này, đối với các Tỳ khưu, được phép dùng ngay cả sau bữa ăn (phi thời); đối với người bệnh, là điều bình thường được phép; còn đối với người không bệnh, thì được phép bằng cách dùng làm thức uống sau khi đã pha với nước.

Samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāya

Của Bộ Chú Giải Luật Samantapāsādikā

Tatiyapārājikavaṇṇanā niṭṭhitā.

Sự Giải Thích Điều Học Bất Cộng Trụ Thứ Ba đã hoàn tất.

4. Catutthapārājikaṃ

4. Điều Học Bất Cộng Trụ Thứ Tư

Catusaccavidū satthā, catutthaṃ yaṃ pakāsayi;
Pārājikaṃ tassa dāni, patto saṃvaṇṇanākkamo.
Yasmā tasmā suviññeyyaṃ, yaṃ pubbe ca pakāsitaṃ;
Taṃ vajjayitvā assāpi, hoti saṃvaṇṇanā ayaṃ.
Bậc Đạo Sư thấu suốt Tứ Thánh Đế, điều thứ tư mà Ngài đã tuyên thuyết;
Là điều học Bất Cộng Trụ, nay đã đến thứ tự giải thích về nó.
Vì thế, những gì dễ hiểu, và những gì đã được làm sáng tỏ trước đây;
Sau khi loại trừ những điều đó, đây cũng là phần giải thích của nó.

Vaggumudātīriyabhikkhuvatthuvaṇṇanā

Sự Giải Thích Sự Việc Về Các Tỳ Khưu Ở Bờ Sông Vaggumudā

193.Tena samayena buddho bhagavā vesāliyaṃ viharati…pe… gihīnaṃ kammantaṃ adhiṭṭhemāti gihīnaṃ khettesu ceva ārāmādīsu ca kattabbakiccaṃ adhiṭṭhāma; ‘‘evaṃ kātabbaṃ, evaṃ na kātabba’’nti ācikkhāma ceva anusāsāma cāti vuttaṃ hoti. Dūteyyanti dūtakammaṃ. Uttarimanussadhammassāti manusse uttiṇṇadhammassa; manusse atikkamitvā brahmattaṃ vā nibbānaṃ vā pāpanakadhammassāti attho. Uttarimanussānaṃ vā seṭṭhapurisānaṃ jhāyīnañca ariyānañca dhammassa. Asuko bhikkhūtiādīsu attanā evaṃ mantayitvā pacchā gihīnaṃ bhāsantā ‘‘buddharakkhito nāma bhikkhu paṭhamassa jhānassa lābhī, dhammarakkhito dutiyassā’’ti evaṃ nāmavaseneva vaṇṇaṃ bhāsiṃsūti veditabbo. Tattha esoyeva kho āvuso seyyoti kammantādhiṭṭhānaṃ dūteyyaharaṇañca bahusapattaṃ mahāsamārambhaṃ na ca samaṇasāruppaṃ. Tato pana ubhayatopi eso eva seyyo pāsaṃsataro sundarataro yo amhākaṃ gihīnaṃ aññamaññassa uttarimanussadhammassa vaṇṇo bhāsito. Kiṃ vuttaṃ hoti? Iriyāpathaṃ saṇṭhapetvā nisinnaṃ vā caṅkamantaṃ vā pucchantānaṃ vā apucchantānaṃ vā gihīnaṃ ‘‘ayaṃ asuko nāma bhikkhu paṭhamassa jhānassa lābhī’’ti evamādinā nayena yo amhākaṃ aññena aññassa uttarimanussadhammassa vaṇṇo bhāsito bhavissati, eso eva seyyoti. Anāgatasambandhe pana asati na etehi so tasmiṃ khaṇe bhāsitova yasmā na yujjati, tasmā anāgatasambandhaṃ katvā ‘‘yo evaṃ bhāsito bhavissati, so eva seyyo’’ti evamettha attho veditabbo. Lakkhaṇaṃ pana saddasatthato pariyesitabbaṃ.
193. Trong đoạn ‘Vào lúc ấy, Đức Phật, Đức Thế Tôn trú ở Vesālī… (vân vân)… Chúng ta hãy trông nom công việc của hàng tại gia’ nghĩa là chúng ta hãy trông nom công việc cần làm trong ruộng rẫy và vườn tược, và các nơi khác của hàng tại gia; có nghĩa là đã nói: ‘Chúng ta chỉ dạy và giáo huấn rằng “Nên làm như vầy, không nên làm như vầy”’. Từ ‘Việc đưa tin’ là công việc của người đưa tin. Từ ‘Của pháp thượng nhân’ nghĩa là của pháp vượt khỏi pháp của người thường; có nghĩa là của pháp dẫn đến phạm thiên giới hoặc Niết-bàn, vượt qua pháp của người thường. Hoặc là của pháp của những người thượng nhân, những bậc tối thắng, những người hành thiền và các bậc Thánh. Trong các câu bắt đầu bằng ‘Tỳ khưu X’, cần hiểu là các Tỳ khưu ấy sau khi tự mình bàn bạc như vậy, rồi nói với hàng tại gia, đã ca ngợi chỉ bằng tên như vầy: ‘Tỳ khưu tên là Buddharakkhita là người chứng đắc sơ thiền, Dhammarakkhita là người chứng đắc nhị thiền’. Ở đó, câu ‘Này hiền giả, chính điều này là tốt hơn’ nghĩa là việc trông nom công việc và việc mang tin có nhiều tranh chấp, nhiều việc, và không thích hợp với Sa-môn. Nhưng so với cả hai việc đó, chính điều này là tốt hơn, đáng tán thán hơn, tốt đẹp hơn, đó là lời ca ngợi pháp thượng nhân của nhau mà chúng ta đã nói với hàng tại gia. Điều gì đã được nói? Đó là sau khi an trú oai nghi, đối với hàng tại gia đang ngồi hoặc đang kinh hành, dù họ hỏi hay không hỏi, lời ca ngợi pháp thượng nhân của người này đối với người khác mà chúng ta sẽ nói theo cách bắt đầu bằng: ‘Tỳ khưu tên là X này là người chứng đắc sơ thiền’, chính điều đó là tốt hơn. Nhưng khi không có sự liên hệ đến vị lai, vì điều đó không được họ nói ngay trong khoảnh khắc ấy là không hợp lý, do đó, sau khi tạo sự liên hệ đến vị lai, cần hiểu ý nghĩa ở đây là: ‘Lời nào sẽ được nói như vậy, chính lời đó là tốt hơn’. Còn đặc tính ngữ pháp thì cần được tìm hiểu từ ngữ pháp học.

194.Vaṇṇavā ahesunti aññoyeva nesaṃ abhinavo sarīravaṇṇo uppajji, tena vaṇṇena vaṇṇavanto ahesuṃ. Pīṇindriyāti pañcahi pasādehi abhiniviṭṭhokāsassa paripuṇṇattā manacchaṭṭhānaṃ indriyānaṃ amilātabhāvena pīṇindriyā. Pasannamukhavaṇṇāti kiñcāpi avisesena vaṇṇavanto sarīravaṇṇato pana nesaṃ mukhavaṇṇo adhikataraṃ pasanno; accho anāvilo parisuddhoti attho. Vippasannachavivaṇṇāti yena ca te mahākaṇikārapupphādisadisena vaṇṇena vaṇṇavanto, tādiso aññesampi manussānaṃ vaṇṇo atthi. Yathā pana imesaṃ; evaṃ na tesaṃ chavivaṇṇo vippasanno. Tena vuttaṃ – ‘‘vippasannachavivaṇṇā’’ti. Itiha te bhikkhū neva uddesaṃ na paripucchaṃ na kammaṭṭhānaṃ anuyuñjantā. Atha kho kuhakatāya abhūtaguṇasaṃvaṇṇanāya laddhāni paṇītabhojanāni bhuñjitvā yathāsukhaṃ niddārāmataṃ saṅgaṇikārāmatañca anuyuñjantā imaṃ sarīrasobhaṃ pāpuṇiṃsu, yathā taṃ bālā bhantamigappaṭibhāgāti.
194. Câu ‘Họ đã trở nên có sắc đẹp’ nghĩa là một sắc đẹp mới lạ khác của thân thể đã phát sinh nơi họ; do sắc đẹp ấy, họ đã trở nên những người có sắc đẹp. Từ ‘Các căn đầy đặn’ nghĩa là do sự sung mãn của nơi đã được thấm nhuần bởi năm giác quan trong trẻo, các căn, với ý làm thứ sáu, không bị héo úa, nên gọi là các căn đầy đặn. Từ ‘Có sắc mặt trong sáng’ nghĩa là mặc dù họ có sắc đẹp nói chung, nhưng so với sắc đẹp của thân thể, sắc mặt của họ trong sáng hơn nhiều; có nghĩa là trong trẻo, không vẩn đục, thanh tịnh. Từ ‘Có màu da rất trong sáng’ nghĩa là sắc đẹp mà họ có, giống như hoa đại kanikara và các loại hoa khác, sắc đẹp như vậy cũng có ở những người khác. Nhưng không giống như của những người này; màu da của những người kia không trong sáng như vậy. Do đó đã nói: ‘có màu da rất trong sáng’. Như vậy, ở đây, các Tỳ khưu ấy không học thuộc lòng, không hỏi han, không chuyên tâm vào đề mục thiền định. Mà do sự lừa dối, do sự ca ngợi những đức tính không có thật, sau khi ăn các món ăn ngon đã nhận được, rồi tùy thích chuyên tâm vào sự ham thích ngủ nghỉ và sự ham thích hội chúng, họ đã đạt được vẻ đẹp thân thể này, giống như con nai ngu si bị điên hoặc bị lừa.

Vaggumudātīriyāti vaggumudātīravāsino. Kacci bhikkhave khamanīyanti bhikkhave kacci tumhākaṃ idaṃ catucakkaṃ navadvāraṃ sarīrayantaṃ khamanīyaṃ sakkā khamituṃ sahituṃ pariharituṃ na kiñci dukkhaṃ uppādetīti. Kacci yāpanīyanti kacci sabbakiccesu yāpetuṃ gametuṃ sakkā, na kiñci antarāyaṃ dassetīti. Kucchi parikantoti kucchi parikantito varaṃ bhaveyya; ‘‘parikatto’’tipi pāṭho yujjati. Evaṃ vaggumudātīriye anekapariyāyena vigarahitvā idāni yasmā tehi katakammaṃ corakammaṃ hoti, tasmā āyatiṃ aññesampi evarūpassa kammassa akaraṇatthaṃ atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi.
Từ ‘Những vị ở bờ sông Vaggumudā’ nghĩa là những người sống ở bờ sông Vaggumudā. Câu ‘Này các Tỳ khưu, có kham nhẫn được không?’ nghĩa là: Này các Tỳ khưu, cỗ máy thân thể có bốn bánh xe, chín cửa này của các ngươi có kham nhẫn được không, có thể chịu đựng, kham nhẫn, duy trì được không, không phát sinh chút đau khổ nào chăng? Câu ‘Có thể duy trì được không?’ nghĩa là có thể duy trì, tồn tại trong tất cả các công việc được không, không biểu lộ chút trở ngại nào chăng? Câu ‘Bụng bị cắt xẻo’ nghĩa là thà bụng bị cắt xẻo còn hơn; cách đọc ‘parikatto’ cũng hợp lý. Sau khi khiển trách những vị ở bờ sông Vaggumudā bằng nhiều cách như vậy, bây giờ, bởi vì việc làm do họ thực hiện là hành động của kẻ trộm, do đó, để những người khác trong tương lai cũng không làm hành động như vậy, khi ấy Đức Thế Tôn gọi các Tỳ khưu.

195. Āmantetvā ca pana ‘‘pañcime bhikkhave mahācorā’’tiādimāha. Tattha santo saṃvijjamānāti atthi ceva upalabbhanti cāti vuttaṃ hoti. Idhāti imasmiṃ sattaloke. Evaṃ hotīti evaṃ pubbabhāge icchā uppajjati. Kudāssu nāmāhanti ettha suiti nipāto; kudā nāmāti attho. So aparena samayenāti so pubbabhāge evaṃ cintetvā anukkamena parisaṃ vaḍḍhento panthadūhanakammaṃ paccantimagāmavilopanti evamādīni katvā vepullappattapariso hutvā gāmepi agāme, janapadepi ajanapade karonto hananto ghātento chindanto chedāpento pacanto pācento.
195. Và sau khi gọi, Ngài nói bắt đầu bằng: ‘Này các Tỳ khưu, có năm hạng đại trộm này’. Ở đó, từ ‘có mặt, hiện hữu’ có nghĩa là đã nói: ‘Có và được tìm thấy’. Từ ‘Ở đây’ nghĩa là trong thế giới chúng sanh này. Câu ‘Là như vầy’ nghĩa là trong giai đoạn trước, ý muốn phát sinh như vầy. Trong câu ‘Chừng nào ta mới’, ở đây ‘su’ là một tiểu từ; có nghĩa là ‘chừng nào’. Câu ‘Người ấy, vào một thời gian sau’ nghĩa là người ấy, sau khi suy nghĩ như vậy trong giai đoạn trước, tuần tự làm cho đoàn tùy tùng tăng trưởng, thực hiện việc cướp bóc trên đường, việc cướp phá làng biên địa, và các việc tương tự, rồi trở thành người có đoàn tùy tùng đông đảo, làm những việc ấy cả trong làng lẫn ngoài làng, cả trong xứ lẫn ngoài xứ, trong khi đánh đập, giết chóc, cắt xẻo, sai người cắt xẻo, nấu nướng, sai người nấu nướng.

Iti bāhirakamahācoraṃ dassetvā tena sadise sāsane pañca mahācore dassetuṃ ‘‘evameva kho’’tiādimāha. Tattha pāpabhikkhunoti aññesu ṭhānesu mūlacchinno pārājikappatto ‘‘pāpabhikkhū’’ti vuccati. Idha pana pārājikaṃ anāpanno icchācāre ṭhito khuddānukhuddakāni sikkhāpadāni madditvā vicaranto ‘‘pāpabhikkhū’’ti adhippeto. Tassāpi bāhirakacorassa viya pubbabhāge evaṃ hoti – ‘‘kudāssu nāmāhaṃ…pe… parikkhārāna’’nti. Tattha sakkatoti sakkārappatto. Garukatoti garukārappatto. Mānitoti manasā piyāyito. Pūjitoti catupaccayābhihārapūjāya pūjito. Apacitoti apacitippatto. Tattha yassa cattāro paccaye sakkaritvā suṭṭhu abhisaṅkhate paṇītapaṇīte katvā denti, so sakkato. Yasmiṃ garubhāvaṃ paccupetvā denti, so garukato. Yaṃ manasā piyāyanti, so mānito. Yassa sabbampetaṃ karonti, so pūjito. Yassa abhivādanapaccuṭṭhānaañjalikammādivasena paramanipaccakāraṃ karonti, so apacito. Imassa ca pana sabbampi imaṃ lokāmisaṃ patthayamānassa evaṃ hoti.
Như vậy, sau khi chỉ rõ tên đại trộm bên ngoài, để chỉ rõ năm hạng đại trộm trong giáo pháp tương tự như tên đó, Đức Phật nói bắt đầu bằng: ‘Cũng vậy’. Ở đó, từ ‘của Tỳ khưu ác’: ở những chỗ khác, người bị cắt đứt gốc rễ, người đã phạm tội Bất Cộng Trụ được gọi là ‘Tỳ khưu ác’. Nhưng ở đây, người chưa phạm tội Bất Cộng Trụ, đứng trong sự hành xử theo ý muốn, chà đạp các điều học nhỏ nhặt rồi đi lại, được chủ trương là ‘Tỳ khưu ác’. Đối với người ấy cũng vậy, giống như tên trộm bên ngoài, trong giai đoạn trước, ý muốn phát sinh như vầy: ‘Chừng nào ta mới… (vân vân)… của các vật dụng’. Ở đó, từ ‘người được tôn kính’ là người đạt được sự tôn kính. Từ ‘Người được trọng vọng’ là người đạt được sự trọng vọng. Từ ‘Người được quý mến’ là người được quý mến trong tâm. Từ ‘Người được cúng dường’ là người được cúng dường bằng sự dâng cúng bốn món vật dụng. Từ ‘Người được kính trọng’ là người đạt được sự kính trọng. Ở đó, người nào mà thí chủ tôn kính rồi làm bốn món vật dụng một cách tốt đẹp, hảo hạng nhất rồi cúng dường, người đó là người được tôn kính. Người nào mà thí chủ thể hiện sự trọng vọng rồi cúng dường, người đó là người được trọng vọng. Người nào mà thí chủ quý mến trong tâm, người đó là người được quý mến. Người nào mà thí chủ làm tất cả những điều này, người đó là người được cúng dường. Người nào mà thí chủ thực hiện sự kính trọng tột bậc bằng cách đảnh lễ, đứng dậy chào, chắp tay, và các hành động tương tự, người đó là người được kính trọng. Và đối với người này, khi mong muốn tất cả lợi lộc thế gian này, ý muốn phát sinh như vậy.

So aparena samayenāti so pubbabhāge evaṃ cintetvā anukkamena sikkhāya atibbagārave uddhate unnaḷe capale mukhare vikiṇṇavāce muṭṭhassatī asampajāne pākatindriye ācariyupajjhāyehi pariccattake lābhagaruke pāpabhikkhū saṅgaṇhitvā iriyāpathasaṇṭhapanādīni kuhakavattāni sikkhāpetvā ‘‘ayaṃ thero asukasmiṃ nāma senāsane vassaṃ upagamma vattapaṭipattiṃ pūrayamāno vassaṃ vasitvā niggato’’ti lokasammatasenāsanasaṃvaṇṇanādīhi upāyehi lokaṃ paripācetuṃ paṭibalehi jātakādīsu kataparicayehi sarasampannehi pāpabhikkhūhi saṃvaṇṇiyamānaguṇo hutvā satena vā sahassena vā parivuto…pe… bhesajjaparikkhārānaṃ. Ayaṃ bhikkhave paṭhamo mahācoroti ayaṃ sandhicchedādicorako viya na ekaṃ kulaṃ na dve, atha kho mahājanaṃ vañcetvā catupaccayagahaṇato ‘‘paṭhamo mahācoro’’ti veditabbo. Ye pana suttantikā vā ābhidhammikā vā vinayadharā vā bhikkhū bhikkhācāre asampajjamāne pāḷiṃ vācentā aṭṭhakathaṃ kathentā anumodanāya dhammakathāya iriyāpathasampattiyā ca lokaṃ pasādentā janapadacārikaṃ caranti sakkatā garukatā mānitā pūjitā apacitā, te ‘‘tantipaveṇighaṭanakā sāsanajotakā’’ti veditabbā.
Câu ‘Người ấy, vào một thời gian sau’ nghĩa là người ấy, sau khi suy nghĩ như vậy trong giai đoạn trước, tuần tự tập hợp các Tỳ khưu ác, những người rất không tôn trọng học giới, kiêu căng, ngạo mạn, dao động, lắm lời, nói năng bừa bãi, thất niệm, không tỉnh giác, buông thả các căn, bị thầy giáo thọ và thầy tế độ từ bỏ, nặng về lợi lộc, rồi dạy cho họ các phận sự lừa dối như việc an trú oai nghi giả tạo và các việc tương tự, rồi trở thành người có đức tính được ca ngợi bởi các Tỳ khưu ác, những người có khả năng làm cho thế gian thuần thục tin theo bằng các phương tiện như sự ca ngợi trú xứ được thế gian chấp nhận nói rằng: ‘Vị Trưởng lão này, sau khi đến trú xứ tên là X để an cư mùa mưa, chu toàn phận sự và việc thực hành, đã an cư rồi ra đi’, những người đã làm quen với các câu chuyện Jātaka và các chuyện khác, những người có giọng nói tốt, rồi được vây quanh bởi một trăm hoặc một ngàn Tỳ khưu… (vân vân)… của các vật dụng thuốc men. Câu ‘Này các Tỳ khưu, đây là tên đại trộm thứ nhất’: người này, giống như tên trộm phá nhà và các loại trộm khác, không phải lừa một hay hai gia đình, mà lừa dối nhiều người rồi nhận bốn món vật dụng, do đó cần được hiểu là ‘tên đại trộm thứ nhất’. Còn những Tỳ khưu theo Kinh tạng, hoặc những người theo Vi Diệu Pháp, hoặc những người trì Luật, khi việc khất thực không thành tựu, nếu đọc tụng Pāḷi, giảng Chú Giải, làm cho thế gian hoan hỷ bằng lời pháp thoại tùy hỷ và bằng sự hoàn hảo về oai nghi, rồi du hành trong xứ, được tôn kính, trọng vọng, quý mến, cúng dường, kính trọng, thì họ cần được hiểu là ‘những người nối tiếp truyền thống kinh điển, những người làm rạng ngời giáo pháp’.

Tathāgatappaveditanti tathāgatena paṭividdhaṃ paccakkhakataṃ jānāpitaṃ vā. Attano dahatīti parisamajjhe pāḷiñca aṭṭhakathañca saṃsanditvā madhurena sarena pasādanīyaṃ suttantaṃ kathetvā dhammakathāvasena acchariyabbhutajātena viññūjanena ‘‘aho, bhante, pāḷi ca aṭṭhakathā ca suparisuddhā, kassa santike uggaṇhitthā’’ti pucchito ‘‘ko amhādise uggahāpetuṃ samattho’’ti ācariyaṃ anuddisitvā attanā paṭividdhaṃ sayambhuñāṇādhigataṃ dhammavinayaṃ pavedeti. Ayaṃ tathāgatena satasahassakappādhikāni cattāri asaṅkheyyāni pāramiyo pūretvā kicchena kasirena paṭividdhadhammatthenako dutiyo mahācoro.
Từ ‘Pháp do Như Lai tuyên thuyết’ nghĩa là pháp đã được Như Lai thấu suốt, hoặc đã được chứng ngộ, hoặc đã được làm cho biết. Câu ‘Cho là của mình’ nghĩa là Tỳ khưu ấy ở giữa hội chúng, sau khi đối chiếu Pāḷi và Chú Giải, bằng giọng nói ngọt ngào, thuyết một bài kinh làm phát sinh niềm tin; rồi do sự kỳ diệu, phi thường phát sinh qua lời pháp thoại, khi được người có trí hỏi: ‘Bạch ngài, Pāḷi và Chú Giải của ngài rất trong sạch, ngài đã học từ ai?’ Vị ấy không chỉ rõ thầy của mình mà tuyên bố rằng pháp và luật ấy do tự mình thấu suốt, đạt được bằng trí tuệ tự chứng ngộ, nói rằng: ‘Ai có khả năng dạy cho người như chúng tôi?’ Người này, kẻ trộm pháp mà Như Lai đã thấu suốt bằng sự khó khăn, gian khổ sau khi đã hoàn thiện các ba-la-mật trong bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, là tên đại trộm thứ hai.

Suddhaṃ brahmacārinti khīṇāsavabhikkhuṃ. Parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carantanti nirupakkilesaṃ seṭṭhacariyaṃ carantaṃ; aññampi vā anāgāmiṃ ādiṃ katvā yāva sīlavantaṃ puthujjanaṃ avippaṭisārādivatthukaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ carantaṃ. Amūlakena abrahmacariyena anuddhaṃsetīti tasmiṃ puggale avijjamānena antimavatthunā anuvadati codeti; ayaṃ vijjamānaguṇamakkhī ariyaguṇatthenako tatiyo mahācoro.
Từ ‘Người sống phạm hạnh trong sạch’ nghĩa là Tỳ khưu đã đoạn tận các lậu hoặc. Câu ‘Người đang sống đời sống phạm hạnh trong sạch’ nghĩa là người đang sống đời sống cao thượng không bị phiền não làm ô uế; hoặc là cả những người khác, bắt đầu từ vị A-na-hàm cho đến phàm phu có giới, đang sống đời sống phạm hạnh trong sạch có sự không hối hận và các đức tính khác làm nền tảng. Câu ‘Vu khống bằng sự không phạm hạnh không có căn cứ’ nghĩa là người ấy nói lại, khiển trách (vu cáo) về người đó bằng sự việc cuối cùng (tội Bất Cộng Trụ) không có thật nơi người ấy. Người này, kẻ che giấu đức tính hiện có, kẻ trộm đức tính của bậc Thánh, là tên đại trộm thứ ba.

Garubhaṇḍāni garuparikkhārānīti yathā adinnādāne ‘‘caturo janā saṃvidhāya garubhaṇḍaṃ avāharu’’nti (pari. 479) ettha pañcamāsakagghanakaṃ ‘‘garubhaṇḍa’’nti vuccati, idha pana na evaṃ. Atha kho ‘‘pañcimāni, bhikkhave, avissajjiyāni na vissajjetabbāni saṅghena vā gaṇena vā puggalena vā. Vissajjitānipi avissajjitāni honti. Yo vissajjeyya, āpatti thullaccayassa. Katamāni pañca? Ārāmo, ārāmavatthu…pe… dārubhaṇḍaṃ, mattikābhaṇḍa’’nti vacanato avissajjitabbattā garubhaṇḍāni. ‘‘Pañcimāni, bhikkhave, avebhaṅgiyāni na vibhajitabbāni saṅghena vā gaṇena vā puggalena vā. Vibhattānipi avibhattāni honti. Yo vibhajeyya, āpatti thullaccayassa. Katamāni pañca? Ārāmo, ārāmavatthu…pe… dārubhaṇḍaṃ, mattikābhaṇḍa’’nti (cūḷava. 322) vacanato avebhaṅgiyattā sādhāraṇaparikkhārabhāvena garuparikkhārāni. Ārāmo ārāmavatthūtiādīsu yaṃ vattabbaṃ taṃ sabbaṃ ‘‘pañcimāni, bhikkhave, avissajjiyānī’’ti khandhake āgatasuttavaṇṇanāyameva bhaṇissāma. Tehi gihī saṅgaṇhātīti tāni datvā datvā gihīṃ saṅgaṇhāti anuggaṇhāti. Upalāpetīti ‘‘aho amhākaṃ ayyo’’ti evaṃ lapanake anubandhanake sasnehe karoti. Ayaṃ avissajjiyaṃ avebhaṅgiyañca garuparikkhāraṃ tathābhāvato thenetvā gihi saṅgaṇhanako catuttho mahācoro. So ca panāyaṃ imaṃ garubhaṇḍaṃ kulasaṅgaṇhanatthaṃ vissajjento kuladūsakadukkaṭaṃ āpajjati. Pabbājanīyakammāraho ca hoti. Bhikkhusaṅghaṃ abhibhavitvā issaravatāya vissajjento thullaccayaṃ āpajjati. Theyyacittena vissajjento bhaṇḍaṃ agghāpetvā kāretabboti.
Từ ‘Các vật nặng, các vật dụng nặng’: như trong điều học về việc lấy của không cho, ở đó câu ‘Bốn người sau khi bàn bạc đã lấy trộm vật nặng’ (pari. 479), vật trị giá năm māsaka được gọi là ‘vật nặng’; nhưng ở đây thì không phải như vậy. Mà là, theo lời dạy: ‘Này các Tỳ khưu, có năm vật không được từ bỏ, không được Tăng chúng, hoặc nhóm, hoặc cá nhân từ bỏ. Ngay cả khi đã từ bỏ, chúng cũng là những vật không được từ bỏ. Người nào từ bỏ, phạm tội Trọng Tội. Năm vật đó là gì? Tu viện, đất tu viện… (vân vân)… đồ dùng bằng gỗ, đồ dùng bằng đất sét’; do là những vật không được từ bỏ, chúng là các vật nặng. Theo lời dạy: ‘Này các Tỳ khưu, có năm vật không được phân chia, không được Tăng chúng, hoặc nhóm, hoặc cá nhân phân chia. Ngay cả khi đã phân chia, chúng cũng là những vật không được phân chia. Người nào phân chia, phạm tội Trọng Tội. Năm vật đó là gì? Tu viện, đất tu viện… (vân vân)… đồ dùng bằng gỗ, đồ dùng bằng đất sét’ (cūḷava. 322); do là những vật không được phân chia, do là vật dụng chung, chúng là các vật dụng nặng. Những gì cần nói về các từ bắt đầu bằng ‘Tu viện, đất tu viện’, tất cả những điều đó chúng tôi sẽ nói chính trong phần giải thích bài kinh đã được đề cập trong các Thiên của Luật tạng liên quan đến câu ‘Này các Tỳ khưu, có năm vật không được từ bỏ’. Câu ‘Bằng những thứ đó, vị ấy thu phục người tại gia’ nghĩa là vị ấy cho đi cho lại những thứ đó rồi thu phục, lôi kéo người tại gia. Từ ‘Làm cho nói, lôi kéo’ nghĩa là vị ấy làm cho người tại gia nói những lời khen ngợi, quyến luyến, có tình cảm như: ‘Ôi, ngài của chúng ta!’ Người này, kẻ trộm vật dụng nặng không được từ bỏ và không được phân chia do bản chất của chúng như vậy, rồi thu phục người tại gia, là tên đại trộm thứ tư. Và người này, khi từ bỏ vật nặng này vì mục đích thu phục gia đình thí chủ, phạm tội Tác Ác làm ô uế gia đình. Và đáng bị hành động trục xuất. Nếu chế ngự Tăng chúng rồi từ bỏ vật nặng do tự ý, phạm tội Trọng Tội. Nếu từ bỏ vật nặng với tâm trộm cắp, cần phải định giá vật dụng rồi bị bắt đền.

Ayaṃ aggo mahācoroti ayaṃ imesaṃ corānaṃ jeṭṭhacoro; iminā sadiso coro nāma natthi, yo pañcindriyaggahaṇātītaṃ atisaṇhasukhumaṃ lokuttaradhammaṃ theneti. Kiṃ pana sakkā lokuttaradhammo hiraññasuvaṇṇādīni viya vañcetvā thenetvā gahetunti? Na sakkā, tenevāha – ‘‘yo asantaṃ abhūtaṃ uttarimanussadhammaṃ ullapatī’’ti. Ayañhi attani asantaṃ taṃ dhammaṃ kevalaṃ ‘‘atthi mayhaṃ eso’’ti ullapati, na pana sakkoti ṭhānā cāvetuṃ, attani vā saṃvijjamānaṃ kātuṃ. Atha kasmā coroti vuttoti? Yasmā taṃ ullapitvā asantasambhāvanāya uppanne paccaye gaṇhāti. Evañhi gaṇhatā te paccayā sukhumena upāyena vañcetvā thenetvā gahitā honti. Tenevāha – ‘‘taṃ kissa hetu? Theyyāya vo bhikkhave raṭṭhapiṇḍo bhutto’’ti. Ayañhi ettha attho – yaṃ avocumha – ‘‘ayaṃ aggo mahācoro, yo asantaṃ abhūtaṃ uttarimanussadhammaṃ ullapatī’’ti . Taṃ kissa hetūti kena kāraṇena etaṃ avocumhāti ce. ‘‘Theyyāya vo bhikkhave raṭṭhapiṇḍo bhutto’’ti bhikkhave yasmā so tena raṭṭhapiṇḍo theyyāya theyyacittena bhutto hoti. Ettha hi vokāro ‘‘ye hi vo ariyā araññavanapatthānī’’tiādīsu (ma. ni. 1.35-36) viya padapūraṇamatte nipāto. Tasmā ‘‘tumhehi bhutto’’ti evamassa attho na daṭṭhabbo.
Câu ‘Đây là tên đại trộm cao tột nhất’ nghĩa là đây là tên trộm đầu sỏ trong số những tên trộm này; không có tên trộm nào giống như người này, kẻ trộm cắp pháp siêu thế rất tế nhị, vi tế, vượt ngoài sự nắm bắt của năm giác quan. Nhưng liệu pháp siêu thế có thể bị lừa dối, trộm cắp rồi lấy đi giống như vàng bạc và các thứ khác không? Không thể; do đó Ngài đã nói: ‘Người nào nói khoác pháp thượng nhân không có thật, không hiện hữu’. Quả vậy, người này chỉ nói khoác rằng pháp ấy, vốn không có thật nơi mình, là ‘của tôi’, chứ không thể làm cho pháp ấy rời khỏi chỗ của nó hoặc làm cho hiện hữu nơi mình. Vậy tại sao lại được gọi là kẻ trộm? Bởi vì sau khi nói khoác điều đó, người ấy nhận các vật dụng phát sinh do sự kính trọng không có thật (do bị lừa). Quả vậy, khi nhận như thế, các vật dụng ấy đã bị lấy đi một cách trộm cắp, bằng cách lừa dối bằng phương tiện tế nhị. Do đó Ngài đã nói: ‘Vì lý do gì đó? Này các Tỳ khưu, vật thực khất thực của xứ sở đã được các ngươi ăn một cách trộm cắp’. Quả vậy, đây là ý nghĩa ở đây – điều mà chúng tôi đã nói: ‘Đây là tên đại trộm cao tột nhất, người nào nói khoác pháp thượng nhân không có thật, không hiện hữu’. Câu ‘Vì lý do gì đó?’ nghĩa là nếu hỏi: ‘Do nguyên nhân nào mà chúng tôi đã nói điều đó?’ Câu ‘Này các Tỳ khưu, vật thực khất thực của xứ sở đã được các ngươi ăn một cách trộm cắp’ nghĩa là: Này các Tỳ khưu, bởi vì người ấy đã ăn vật thực khất thực của xứ sở đó một cách trộm cắp, với tâm trộm cắp. Quả vậy, ở đây, từ ‘vo’ (các ngươi) chỉ là một tiểu từ điền đầy câu, giống như trong các câu bắt đầu bằng ‘Này các ngươi, những bậc Thánh nào ở nơi rừng núi hẻo lánh’ (ma. ni. 1.35-36). Do đó, ý nghĩa của nó không nên được hiểu là ‘đã được các ngươi ăn’.

Idāni tamevatthaṃ gāthāhi vibhūtataraṃ karonto ‘‘aññathā santa’’ntiādimāha. Tattha aññathā santanti aparisuddhakāyasamācārādikena aññenākārena santaṃ. Aññathā yo pavedayeti parisuddhakāyasamācārādikena aññena ākārena yo pavedeyya. ‘‘Paramaparisuddho ahaṃ, atthi me abbhantare lokuttaradhammo’’ti evaṃ jānāpeyya. Pavedetvā ca pana tāya pavedanāya uppannaṃ bhojanaṃ arahā viya bhuñjati. Nikacca kitavasseva bhuttaṃ theyyena tassa tanti nikaccāti vañcetvā aññathā santaṃ aññathā dassetvā. Agumbaagacchabhūtameva sākhāpalāsapallavādicchādanena gumbamiva gacchamiva ca attānaṃ dassetvā. Kitavassevāti vañcakassa kerāṭikassa gumbagacchasaññāya araññe āgatāgate sakuṇe gahetvā jīvitakappakassa sākuṇikasseva. Bhuttaṃ theyyena tassa tanti tassāpi anarahantasseva sato arahantabhāvaṃ dassetvā laddhabhojanaṃ bhuñjato; yaṃ taṃ bhuttaṃ taṃ yathā sākuṇikakitavassa nikacca vañcetvā sakuṇaggahaṇaṃ, evaṃ manusse vañcetvā laddhassa bhojanassa bhuttattā theyyena bhuttaṃ nāma hoti.
Bây giờ, để làm cho chính ý nghĩa ấy rõ ràng hơn bằng các kệ, Chú Giải nói bắt đầu bằng ‘Người có bản chất khác’. Ở đó, từ ‘người có bản chất khác’ nghĩa là người có bản chất theo một cách khác bằng thân hành không trong sạch và các hành vi tương tự. Câu ‘Người nào tuyên bố một cách khác’ nghĩa là người nào tuyên bố theo một cách khác bằng thân hành trong sạch và các hành vi tương tự. Người ấy làm cho người khác biết như vầy: ‘Ta là người tối thượng trong sạch, trong ta có pháp siêu thế’. Và sau khi tuyên bố, người ấy ăn vật thực phát sinh do sự tuyên bố ấy giống như một vị A-la-hán. Trong câu ‘Sau khi lừa dối, của kẻ lừa đảo, đã ăn, bằng cách trộm cắp, của người ấy, vật ấy; sau khi lừa dối’ nghĩa là sau khi lừa dối, phô bày cái có bản chất khác thành một cách khác. Ví như sau khi phô bày tự thân, vốn không phải là bụi cây, không phải là lùm cây, thành giống như bụi cây, giống như lùm cây bằng sự che đậy bằng cành, lá, chồi, và các thứ khác. Từ ‘Của kẻ lừa đảo’ nghĩa là của kẻ lừa dối, kẻ xảo quyệt, của người bẫy chim kiếm sống bằng cách bắt các con chim đến đi trong rừng do tưởng rằng đó là bụi cây, lùm cây. Câu ‘Đã ăn, bằng cách trộm cắp, của người ấy, vật ấy’ nghĩa là đối với người ấy, dù không phải là A-la-hán, sau khi phô bày tình trạng A-la-hán rồi ăn vật thực đã nhận được; vật đã ăn đó, giống như việc bắt chim của người bẫy chim lừa đảo sau khi lừa dối, cũng vậy, do đã ăn vật thực nhận được sau khi lừa dối người ta, được gọi là đã ăn bằng cách trộm cắp.

Imaṃ pana atthavasaṃ ajānantā ye evaṃ bhuñjanti, kāsāvakaṇṭhā…pe… nirayaṃ te upapajjare kāsāvakaṇṭhāti kāsāvena veṭhitakaṇṭhā. Ettakameva ariyaddhajadhāraṇamattaṃ, sesaṃ sāmaññaṃ natthīti vuttaṃ hoti. ‘‘Bhavissanti kho panānanda anāgatamaddhānaṃ gotrabhuno kāsāvakaṇṭhā’’ti (ma. ni. 3.380) evaṃ vuttadussīlānaṃ etaṃ adhivacanaṃ. Pāpadhammāti lāmakadhammā. Asaññatāti kāyādīhi asaññatā. Pāpāti lāmakapuggalā. Pāpehi kammehīti tehi karaṇakāle ādīnavaṃ adisvā katehi paravañcanādīhi pāpakammehi. Nirayaṃ te upapajjareti nirassādaṃ duggatiṃ te upapajjanti; tasmā seyyo ayoguḷoti gāthā. Tassattho – sacāyaṃ dussīlo asaññato icchācāre ṭhito kuhanāya lokaṃ vañcako puggalo tattaṃ aggisikhūpamaṃ ayoguḷaṃ bhuñjeyya ajjhohareyya, tassa yañcetaṃ raṭṭhapiṇḍaṃ bhuñjeyya, yañcetaṃ ayoguḷaṃ, tesu dvīsu ayoguḷova bhutto seyyo sundarataro paṇītataro ca bhaveyya, na hi ayoguḷassa bhuttattā samparāye sabbaññutañāṇenāpi dujjānaparicchedaṃ dukkhaṃ anubhavati. Evaṃ paṭiladdhassa pana tassa raṭṭhapiṇḍassa bhuttattā samparāye vuttappakāraṃ dukkhaṃ anubhoti, ayañhi koṭippatto micchājīvoti.
Nhưng những người không biết lợi ích ý nghĩa này mà ăn như vậy, đối với họ, kệ nói: ‘Những người cổ quấn y cà sa… (vân vân)… họ sẽ tái sanh vào địa ngục. Những người cổ quấn y cà sa’ nghĩa là những người có cổ được quấn bằng y cà sa. Có nghĩa là đã nói: ‘Chỉ chừng đó là việc mang cờ hiệu của bậc Thánh, ngoài ra không có đời sống Sa-môn thực sự’. Đây là tên gọi của những người ác giới đã được nói như vầy: ‘Này Ānanda, trong tương lai sẽ có những người chỉ thuộc dòng dõi, cổ quấn y cà sa’ (ma. ni. 3.380). Từ ‘Những người có pháp ác’ nghĩa là những người có pháp thấp hèn. Từ ‘Những người không thu thúc’ nghĩa là những người không thu thúc bằng thân và các căn khác. Từ ‘Những người ác’ nghĩa là những người thấp hèn. Từ ‘Bằng các nghiệp ác’ nghĩa là bằng các nghiệp ác như sự lừa dối người khác và các việc tương tự, đã được làm do không thấy sự nguy hại trong khi làm những việc đó. Câu ‘Họ sẽ tái sanh vào địa ngục’ nghĩa là họ sẽ tái sanh vào cảnh khổ không có vị ngọt. Do đó, có kệ: ‘Quả sắt nóng tốt hơn’. Ý nghĩa của nó là: nếu người ác giới, không thu thúc, đứng trong sự hành xử theo ý muốn, lừa dối thế gian bằng sự xảo trá này mà ăn, nuốt vào quả sắt nóng bỏng như ngọn lửa, thì việc người ấy ăn vật thực khất thực của xứ sở đó, và việc ăn quả sắt nóng đó, trong hai thứ đó, việc ăn quả sắt nóng sẽ tốt hơn, tốt đẹp hơn, hảo hạng hơn. Vì không phải do đã ăn quả sắt nóng mà ở đời sau người ấy chịu đựng sự đau khổ khó biết, khó phân định ngay cả bằng trí tuệ toàn giác (như trường hợp phạm tội này). Nhưng do đã ăn vật thực khất thực của xứ sở nhận được như vậy, ở đời sau người ấy chịu đựng sự đau khổ theo cách đã nói; quả vậy, đây là người tà mạng đã đến tột đỉnh.

Evaṃ pāpakiriyāya anādīnavadassāvīnaṃ ādīnavaṃ dassetvā ‘‘atha kho bhagavā vaggumudātīriye bhikkhū anekapariyāyena vigarahitvā dubbharatāya dupposatāya…pe… imaṃ sikkhāpadaṃ uddiseyyāthā’’ti ca vatvā catutthapārājikaṃ paññapento ‘‘yo pana bhikkhu anabhijāna’’nti ādimāha.
Sau khi chỉ rõ sự nguy hại cho những người không thấy sự nguy hại của việc làm ác như vậy, và sau khi nói: ‘Khi ấy, Đức Thế Tôn, sau khi khiển trách các Tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā bằng nhiều cách về sự khó nuôi dưỡng, sự khó hỗ trợ… (vân vân)… các ngươi hãy nêu lên điều học này’, Ngài chế định điều học Bất Cộng Trụ thứ tư, nói bắt đầu bằng: ‘Vị Tỳ khưu nào, không biết rõ (không chứng ngộ)’.

Evaṃ mūlacchejjavasena daḷhaṃ katvā catutthapārājike paññatte aparampi anuppaññattatthāya adhimānavatthu udapādi. Tassuppattidīpanatthaṃ etaṃ vuttaṃ – ‘‘evañcidaṃ bhagavatā bhikkhūnaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ hotī’’ti.
Khi điều học Bất Cộng Trụ thứ tư được chế định một cách chắc chắn theo cách đoạn tận gốc rễ như vậy, một sự việc khác là sự việc về sự tăng thượng mạn lại phát sinh vì mục đích chế định bổ sung. Để làm sáng tỏ sự phát sinh của sự việc ấy, điều này đã được nói: ‘Và như vậy, điều học này đã được Đức Thế Tôn chế định cho các Tỳ khưu’.

Adhimānavatthuvaṇṇanā

Sự Giải Thích Sự Việc Về Sự Tăng Thượng Mạn

196. Tattha adiṭṭhe diṭṭhasaññinoti arahatte ñāṇacakkhunā adiṭṭheyeva ‘‘diṭṭhaṃ amhehi arahatta’’nti diṭṭhasaññino hutvā. Esa nayo appattādīsu. Ayaṃ pana viseso – appatteti attano santāne uppattivasena appatte. Anadhigateti maggabhāvanāya anadhigate; appaṭiladdhetipi attho. Asacchikateti appaṭividdhe paccavekkhaṇavasena vā appaccakkhakate. Adhimānenāti adhigatamānena; ‘‘adhigatā maya’’nti evaṃ uppannamānenāti attho, adhikamānena vā thaddhamānenāti attho. Aññaṃ byākariṃsūti arahattaṃ byākariṃsu; ‘‘pattaṃ āvuso amhehi arahattaṃ, kataṃ karaṇīya’’nti bhikkhūnaṃ ārocesuṃ. Tesaṃ maggena appahīnakilesattā kevalaṃ samathavipassanābalena vikkhambhitakilesānaṃ aparena samayena tathārūpapaccayasamāyoge rāgāya cittaṃ namati; rāgatthāya namatīti attho. Esa nayo itaresu.
196. Ở đó, cụm từ ‘Những người có tưởng thấy đối với cái không thấy’ nghĩa là những người đối với A-la-hán quả, dù chưa thấy bằng mắt trí tuệ, lại có tưởng thấy rằng: ‘Chúng ta đã thấy A-la-hán quả’. Phương pháp này cũng áp dụng đối với các từ bắt đầu bằng ‘chưa đạt đến’. Nhưng đây là điểm đặc biệt: từ ‘chưa đạt đến’ nghĩa là chưa đạt đến do chưa phát sinh trong dòng tâm của mình. Từ ‘Chưa chứng ngộ’ nghĩa là chưa chứng ngộ bằng sự tu tập Đạo; cũng có nghĩa là chưa thành tựu. Từ ‘Chưa chứng thực’ nghĩa là chưa thấu suốt, hoặc chưa tự mình thấy rõ bằng cách quán xét lại. Từ ‘Bằng sự tăng thượng mạn’ nghĩa là bằng sự ngã mạn về sự chứng đắc; có nghĩa là bằng sự ngã mạn phát sinh như vầy: ‘Chúng ta đã chứng đắc’; hoặc có nghĩa là bằng sự ngã mạn quá mức, hoặc bằng sự ngã mạn cứng nhắc. Câu ‘Họ đã tuyên bố điều khác’ nghĩa là họ đã tuyên bố A-la-hán quả; họ đã báo cho các Tỳ khưu rằng: ‘Này hiền giả, chúng tôi đã đạt A-la-hán quả, việc cần làm đã làm xong’. Đối với họ, do phiền não chưa được đoạn trừ bằng Đạo, mà chỉ là những người có phiền não đã được trấn áp bằng sức mạnh của chỉ và quán, vào một thời gian sau, khi gặp duyên tương ứng như vậy, tâm hướng về tham ái; có nghĩa là hướng về mục đích tham ái. Phương pháp này cũng áp dụng đối với những phiền não còn lại.

Tañcakho etaṃ abbohārikanti tañca kho etaṃ tesaṃ aññabyākaraṇaṃ abbohārikaṃ āpattipaññāpane vohāraṃ na gacchati; āpattiyā aṅgaṃ na hotīti attho.
Câu ‘Và điều đó không phải là đối tượng để xử lý’ nghĩa là và điều đó, sự tuyên bố về trí tuệ cao siêu ấy của họ, không phải là đối tượng để xử lý, không đi đến sự xử lý trong việc chế định tội. Có nghĩa là không phải là yếu tố của tội.

Kassa panāyaṃ adhimāno uppajjati, kassa nuppajjatīti? Ariyasāvakassa tāva nuppajjati so hi maggaphalanibbānapahīnakilesaavasiṭṭhakilesapaccavekkhaṇena sañjātasomanasso ariyaguṇapaṭivedhe nikkaṅkho. Tasmā sotāpannādīnaṃ ‘‘ahaṃ sakadāgāmī’’tiādivasena adhimāno nuppajjati. Dussīlassa nuppajjati, so hi ariyaguṇādhigame nirāsova. Sīlavatopi pariccattakammaṭṭhānassa niddārāmatādimanuyuttassa nuppajjati. Suparisuddhasīlassa pana kammaṭṭhāne appamattassa nāmarūpaṃ vavatthapetvā paccayapariggahena vitiṇṇakaṅkhassa tilakkhaṇaṃ āropetvā saṅkhāre sammasantassa āraddhavipassakassa uppajjati, uppanno ca suddhasamathalābhiṃ vā suddhavipassanālābhiṃ vā antarā ṭhapeti, so hi dasapi vīsatipi tiṃsampi vassāni kilesasamudācāraṃ apassitvā ‘‘ahaṃ sotāpanno’’ti vā ‘‘sakadāgāmī’’ti vā ‘‘anāgāmī’’ti vā maññati. Samathavipassanālābhiṃ pana arahatteyeva ṭhapeti. Tassa hi samādhibalena kilesā vikkhambhitā, vipassanābalena saṅkhārā supariggahitā, tasmā saṭṭhimpi vassāni asītimpi vassāni vassasatampi kilesā na samudācaranti, khīṇāsavasseva cittacāro hoti. So evaṃ dīgharattaṃ kilesasamudācāraṃ apassanto antarā aṭhatvāva ‘‘arahā aha’’nti maññatīti.
Nhưng sự tăng thượng mạn này phát sinh đối với ai, không phát sinh đối với ai? Trước tiên, sự tăng thượng mạn không phát sinh đối với Thánh đệ tử; vì vị ấy là người có hỷ phát sinh do sự quán xét lại các phiền não đã được Đạo, Quả, Niết-bàn đoạn trừ và các phiền não còn lại, là người không hoài nghi trong việc thấu hiểu đức tính của bậc Thánh. Do đó, đối với các vị Tu-đà-hoàn và các bậc Thánh khác, sự tăng thượng mạn không phát sinh theo cách nghĩ rằng ‘Ta là Tư-đà-hàm’ và các quả vị cao hơn. Sự tăng thượng mạn không phát sinh đối với người ác giới; vì người ấy không có hy vọng trong việc chứng đắc đức tính của bậc Thánh. Ngay cả đối với người có giới mà đã từ bỏ đề mục thiền định, chuyên tâm vào sự ham thích ngủ nghỉ và các việc tương tự, sự tăng thượng mạn cũng không phát sinh. Nhưng sự tăng thượng mạn phát sinh đối với người có giới rất trong sạch, không dễ duôi trong việc thực hành đề mục thiền định, sau khi đã phân định danh-sắc, bằng sự nắm bắt các duyên đã vượt qua hoài nghi, sau khi đã áp dụng tam tướng, đang quán chiếu các pháp hành, người đã bắt đầu tu tập minh sát. Và khi sự tăng thượng mạn phát sinh, nó đặt sai lầm người chỉ thuần chứng đắc chỉ hoặc người chỉ thuần chứng đắc quán ở giữa chừng các Thánh quả thấp hơn. Quả vậy, người ấy, sau khi không thấy sự khởi lên của phiền não trong mười, hoặc hai mươi, hoặc ba mươi năm, nghĩ rằng: ‘Ta là Tu-đà-hoàn’, hoặc ‘Ta là Tư-đà-hàm’, hoặc ‘Ta là A-na-hàm’. Còn đối với người chứng đắc cả chỉ và quán, sự tăng thượng mạn chỉ đặt sai lầm ở A-la-hán quả. Quả vậy, đối với người ấy, các phiền não được trấn áp bằng sức mạnh của định, các pháp hành được khéo nắm bắt bằng sức mạnh của minh sát; do đó, ngay cả trong sáu mươi năm, tám mươi năm, hoặc một trăm năm, các phiền não cũng không khởi lên; sự diễn tiến của tâm giống như của vị đã đoạn tận các lậu hoặc. Người ấy, sau khi không thấy sự khởi lên của phiền não trong một thời gian dài như vậy, không dừng lại ở giữa chừng các Thánh quả thấp hơn mà nghĩ rằng: ‘Ta là A-la-hán’.

Savibhaṅgasikkhāpadavaṇṇanā

Sự Giải Thích Điều Học Có Phân Tích

197.Anabhijānanti na abhijānaṃ. Yasmā panāyaṃ anabhijānaṃ samudācarati, svassa santāne anuppanno ñāṇena ca asacchikatoti abhūto hoti. Tenassa padabhājane ‘‘asantaṃ abhūtaṃ asaṃvijjamāna’’nti vatvā ‘‘ajānanto apassanto’’ti vuttaṃ .
197. Từ ‘Không biết rõ’ nghĩa là không biết rõ hay không chứng ngộ. Bởi vì người nào nói khoác điều không biết rõ, điều đó chưa phát sinh trong dòng tâm của người ấy và cũng chưa được chứng thực bằng trí tuệ, nên nó là không có thật. Do đó, trong phần phân tích từ của nó, sau khi nói ‘không có, không thật, không hiện hữu’, Chú Giải đã nói: ‘không biết, không thấy’.

Uttarimanussadhammanti uttarimanussānaṃ jhāyīnañceva ariyānañca dhammaṃ. Attupanāyikanti attani taṃ upaneti, attānaṃ vā tattha upanetīti attupanāyiko, taṃ attupanāyikaṃ; evaṃ katvā samudācareyyāti sambandho. Padabhājane pana yasmā uttarimanussadhammo nāma jhānaṃ vimokkhaṃ samādhi samāpatti ñāṇadassanaṃ…pe… suññāgāre abhiratīti evaṃ jhānādayo anekadhammā vuttā. Tasmā tesaṃ sabbesaṃ vasena attupanāyikabhāvaṃ dassento ‘‘te vā kusale dhamme attani upanetī’’ti bahuvacananiddesaṃ akāsi. Tattha ‘‘ete dhammā mayi sandissantī’’ti samudācaranto attani upaneti. ‘‘Ahaṃ etesu sandissāmī’’ti samudācaranto attānaṃ tesu upanetīti veditabbo.
Từ ‘Pháp thượng nhân’ nghĩa là pháp của những người thượng nhân, tức là của những người hành thiền và các bậc Thánh. Từ ‘Sự quy về mình’ nghĩa là người ấy quy pháp đó về mình, hoặc quy mình về pháp đó, do đó gọi là người quy về mình; nên nói sự quy về mình đó; ý nghĩa là sau khi làm như vậy rồi nói khoác – đây là sự liên hệ. Nhưng trong phần phân tích từ, bởi vì pháp thượng nhân được nói là nhiều pháp như thiền, giải thoát, định, sự chứng đắc, trí kiến… (vân vân)… sự ưa thích ở nơi trống trải, và các pháp tương tự. Do đó, để chỉ rõ tình trạng quy về mình theo phương diện của tất cả các pháp ấy, Chú Giải đã thực hiện sự giải thích bằng số nhiều: ‘Hoặc quy các pháp thiện ấy về mình’. Ở đó, khi nói khoác rằng ‘Các pháp này hiện hữu nơi tôi’, người ấy quy pháp về mình. Khi nói khoác rằng ‘Tôi hiện hữu trong các pháp này’, cần hiểu là người ấy quy mình về các pháp ấy.

Alamariyañāṇadassananti ettha lokiyalokuttarā paññā jānanaṭṭhena ñāṇaṃ, cakkhunā diṭṭhamiva dhammaṃ paccakkhakaraṇato dassanaṭṭhena dassananti ñāṇadassanaṃ. Ariyaṃ visuddhaṃ uttamaṃ ñāṇadassananti ariyañāṇadassanaṃ. Alaṃ pariyattaṃ kilesaviddhaṃsanasamatthaṃ ariyañāṇadassanamettha, jhānādibhede uttarimanussadhamme alaṃ vā ariyañāṇadassanamassāti alamariyañāṇadassano, taṃ alamariyañāṇadassanaṃ uttarimanussadhammanti evaṃ padatthasambandho veditabbo. Tattha yena ñāṇadassanena so alamariyañāṇadassanoti vuccati. Tadeva dassetuṃ ‘‘ñāṇanti tisso vijjā, dassananti yaṃ ñāṇaṃ taṃ dassanaṃ; yaṃ dassanaṃ taṃ ñāṇa’’nti vijjāsīsena padabhājanaṃ vuttaṃ. Mahaggatalokuttarā panettha sabbāpi paññā ‘‘ñāṇa’’nti veditabbā.
Ở cụm từ ‘Trí kiến Thánh đầy đủ’, ở đây, tuệ thế gian và siêu thế, do có ý nghĩa biết, là trí; do làm cho thấy rõ pháp như thấy bằng mắt, do có ý nghĩa thấy, là thấy, nên gọi là trí kiến. Trí kiến Thánh, trong sạch, cao tột là trí kiến Thánh. Ở đây, trí kiến Thánh đầy đủ, trọn vẹn, có khả năng phá hủy phiền não; hoặc người có trí kiến Thánh đầy đủ đối với pháp thượng nhân được phân loại thành thiền và các pháp khác, là người có trí kiến Thánh đầy đủ; trí kiến Thánh đầy đủ đó là pháp thượng nhân – sự liên hệ ý nghĩa của từ cần được hiểu như vậy. Ở đó, do trí kiến nào mà người ấy được gọi là người có trí kiến Thánh đầy đủ. Để chỉ rõ chính điều đó, sự phân tích từ đã được nói dưới tên gọi là minh: ‘Trí là ba minh; thấy là cái gì là trí, cái đó là thấy; cái gì là thấy, cái đó là trí’. Ở đây, tất cả tuệ đáo đại và siêu thế cần được hiểu là ‘trí’.

Samudācareyyāti vuttappakārametaṃ uttarimanussadhammaṃ attupanāyikaṃ katvā āroceyya. Itthiyā vātiādi pana ārocetabbapuggalanidassanaṃ. Etesañhi ārocite ārocitaṃ hoti na devamārabrahmānaṃ, nāpi petayakkhatiracchānagatānanti. Iti jānāmi iti passāmīti samudācaraṇākāranidassanametaṃ. Padabhājane panassa ‘‘jānāmahaṃ ete dhamme, passāmahaṃ ete dhamme’’ti idaṃ tesu jhānādīsu dhammesu jānanapassanānaṃ pavattidīpanaṃ, ‘‘atthi ca me ete dhammā’’tiādi attupanāyikabhāvadīpanaṃ .
Từ ‘Nếu nói khoác, nếu tuyên bố’ nghĩa là nếu người nào quy pháp thượng nhân này theo cách đã nói về mình rồi báo cho biết. Còn các từ bắt đầu bằng ‘Hoặc cho người nữ’ là sự chỉ rõ người cần được báo cho biết. Quả vậy, khi báo cho những người này biết, thì được gọi là đã báo cho biết, chứ không phải báo cho biết chư thiên, ma vương, phạm thiên, cũng không phải ngạ quỷ, dạ xoa, súc sanh. Câu ‘Tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy’ là sự chỉ rõ cách thức nói khoác này. Nhưng trong phần phân tích từ của nó, câu ‘Tôi biết các pháp này, tôi thấy các pháp này’ là sự làm sáng tỏ sự diễn tiến của việc biết và thấy đối với các pháp như thiền và các pháp khác ấy. Các câu bắt đầu bằng ‘Và các pháp này có nơi tôi’ là sự làm sáng tỏ tình trạng quy về mình.

198.Tato aparena samayenāti āpattipaṭijānanasamayadassanametaṃ. Ayaṃ pana ārocitakkhaṇeyeva pārājikaṃ āpajjati. Āpattiṃ pana āpanno yasmā parena codito vā acodito vā paṭijānāti; tasmā ‘‘samanuggāhiyamāno vā asamanuggāhiyamāno vā’’ti vuttaṃ.
198. Câu ‘Vào một thời gian sau đó’ là sự chỉ rõ thời điểm thú tội này. Nhưng người này phạm tội Bất Cộng Trụ ngay trong khoảnh khắc báo cho biết (nói khoác). Nhưng người đã phạm tội, bởi vì bị người khác khiển trách hoặc không bị khiển trách mà vẫn thú nhận; do đó đã nói: ‘Trong khi đang bị tra hỏi hoặc trong khi không bị tra hỏi’.

Tattha samanuggāhiyamāne tāva – kiṃ te adhigatanti adhigamapucchā; jhānavimokkhādīsu, sotāpattimaggādīsu vā kiṃ tayā adhigatanti. Kinti te adhigatanti upāyapucchā. Ayañhi etthādhippāyo – kiṃ tayā aniccalakkhaṇaṃ dhuraṃ katvā adhigataṃ, dukkhānattalakkhaṇesu aññataraṃ vā? Kiṃ vā samādhivasena abhinivisitvā, udāhu vipassanāvasena? Tathā kiṃ rūpe abhinivisitvā, udāhu arūpe? Kiṃ vā ajjhattaṃ abhinivisitvā, udāhu bahiddhāti? Kadā te adhigatanti kālapucchā. Pubbaṇhamajjhanhikādīsu katarasmiṃ kāleti vuttaṃ hoti? Kattha te adhigatanti okāsapucchā. Katarasmiṃ okāse, kiṃ rattiṭṭhāne, divāṭṭhāne, rukkhamūle, maṇḍape, katarasmiṃ vā vihāreti vuttaṃ hoti. Katame te kilesā pahīnāti pahīnakilesapucchā. Kataramaggavajjhā tava kilesā pahīnāti vuttaṃ hoti. Katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhīti paṭiladdhadhammapucchā. Paṭhamamaggādīsu katamesaṃ dhammānaṃ tvaṃ lābhīti vuttaṃ hoti.
Ở đó, trước tiên khi đang bị tra hỏi: (câu) ‘Ngài đã chứng đắc gì?’ là câu hỏi về sự chứng đắc; (nghĩa là) trong các pháp như thiền, giải thoát, và các pháp khác, hoặc trong các pháp như đạo Tu-đà-hoàn, và các đạo khác, ngài đã chứng đắc gì? (Câu) ‘Ngài đã chứng đắc bằng cách nào?’ là câu hỏi về phương pháp. Quả vậy, đây là ý định ở đây: ngài đã chứng đắc sau khi lấy tướng vô thường làm đầu, hay một trong các tướng khổ, vô ngã? Hay là sau khi chuyên chú bằng cách định, hay bằng cách minh sát? Tương tự, sau khi chuyên chú vào sắc, hay vào vô sắc (danh)? Hay là sau khi chuyên chú vào bên trong, hay vào bên ngoài? (Câu) ‘Ngài đã chứng đắc khi nào?’ là câu hỏi về thời gian. Có nghĩa là đã nói: Vào thời gian nào trong các thời điểm như buổi sáng, buổi trưa, và các thời điểm khác? (Câu) ‘Ngài đã chứng đắc ở đâu?’ là câu hỏi về nơi chốn. Có nghĩa là đã nói: Ở nơi chốn nào, ở nơi nghỉ ban đêm, hay nơi nghỉ ban ngày, ở gốc cây, ở nhà nghỉ, hay ở tu viện nào? (Câu) ‘Các phiền não nào của ngài đã được đoạn trừ?’ là câu hỏi về các phiền não đã được đoạn trừ. Có nghĩa là đã nói: Các phiền não của ngài bị đoạn trừ bởi đạo nào? (Câu) ‘Ngài là người chứng đắc những pháp nào?’ là câu hỏi về các pháp đã chứng đắc. Có nghĩa là đã nói: Trong các pháp như đạo Tu-đà-hoàn, và các đạo khác, ngài là người chứng đắc những pháp nào?

Tasmā idāni cepi koci bhikkhu uttarimanussadhammādhigamaṃ byākareyya, na so ettāvatāva sakkātabbo. Imesu pana chasu ṭhānesu sodhanatthaṃ vattabbo – ‘‘kiṃ te adhigataṃ, kiṃ jhānaṃ, udāhu vimokkhādīsu aññatara’’nti? Yo hi yena adhigato dhammo, so tassa pākaṭo hoti. Sace ‘‘idaṃ nāma me adhigata’’nti vadati, tato ‘‘kinti te adhigata’’nti pucchitabbo, ‘‘aniccalakkhaṇādīsu kiṃ dhuraṃ katvā aṭṭhatiṃsāya vā ārammaṇesu rūpārūpaajjhattabahiddhādibhedesu vā dhammesu kena mukhena abhinivisitvā’’ti yo hi yassābhiniveso, so tassa pākaṭo hoti. Sace ‘‘ayaṃ nāma me abhiniveso evaṃ mayā adhigata’’nti vadati, tato ‘‘kadā te adhigata’’nti pucchitabbo, ‘‘kiṃ pubbaṇhe, udāhu majjhanhikādīsu aññatarasmiṃ kāle’’ti sabbesañhi attanā adhigatakālo pākaṭo hoti. Sace ‘‘asukasmiṃ nāma kāle adhigatanti vadati, tato ‘‘kattha te adhigata’’nti pucchitabbo, ‘‘kiṃ divāṭṭhāne, udāhu rattiṭṭhānādīsu aññatarasmiṃ okāse’’ti sabbesañhi attanā adhigatokāso pākaṭo hoti. Sace ‘‘asukasmiṃ nāma me okāse adhigata’’nti vadati, tato ‘‘katame te kilesā pahīnā’’ti pucchitabbo, ‘‘kiṃ paṭhamamaggavajjhā, udāhu dutiyādimaggavajjhā’’ti sabbesañhi attanā adhigatamaggena pahīnakilesā pākaṭā honti. Sace ‘‘ime nāma me kilesā pahīnā’’ti vadati, tato ‘‘katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhī’’ti pucchitabbo , ‘‘kiṃ sotāpattimaggassa, udāhu sakadāgāmimaggādīsu aññatarassā’’ti sabbesaṃ hi attanā adhigatadhammā pākaṭā honti. Sace ‘‘imesaṃ nāmāhaṃ dhammānaṃ lābhī’’ti vadati, ettāvatāpissa vacanaṃ na saddhātabbaṃ, bahussutā hi uggahaparipucchākusalā bhikkhū imāni cha ṭhānāni sodhetuṃ sakkonti.
Do đó, bây giờ, ngay cả nếu có Tỳ khưu nào tuyên bố sự chứng đắc pháp thượng nhân, không phải chỉ vì chừng đó mà vị ấy đáng được tôn kính. Mà cần được hỏi để làm rõ trong sáu điểm này: ‘Ngài đã chứng đắc gì, thiền nào, hay một pháp nào đó trong các pháp như giải thoát, và các pháp khác?’ Quả vậy, pháp nào đã được ai chứng đắc, pháp đó rõ ràng đối với vị ấy. Nếu vị ấy nói: ‘Tôi đã chứng đắc pháp tên là X’, sau đó cần hỏi: ‘Ngài đã chứng đắc bằng cách nào?’, (nghĩa là) ‘Sau khi lấy tướng vô thường và các tướng khác làm đầu, hoặc trong ba mươi tám đối tượng thiền định, hoặc trong các pháp được phân biệt thành sắc-vô sắc (danh), trong-ngoài, và các cách phân biệt khác, ngài đã chuyên chú bằng phương diện nào?’ Quả vậy, sự chuyên chú của ai thế nào, điều đó rõ ràng đối với vị ấy. Nếu vị ấy nói: ‘Sự chuyên chú của tôi tên là X, tôi đã chứng đắc như vậy’, sau đó cần hỏi: ‘Ngài đã chứng đắc khi nào?’, (nghĩa là) ‘Vào buổi sáng, hay một thời gian nào đó trong các thời điểm như buổi trưa, và các thời điểm khác?’ Quả vậy, thời gian tự mình chứng đắc rõ ràng đối với tất cả mọi người. Nếu vị ấy nói: ‘Tôi đã chứng đắc vào thời gian tên là X’, sau đó cần hỏi: ‘Ngài đã chứng đắc ở đâu?’, (nghĩa là) ‘Ở nơi nghỉ ban ngày, hay một nơi nào đó trong các nơi như nơi nghỉ ban đêm, và các nơi khác?’ Quả vậy, nơi tự mình chứng đắc rõ ràng đối với tất cả mọi người. Nếu vị ấy nói: ‘Tôi đã chứng đắc ở nơi tên là X của tôi’, sau đó cần hỏi: ‘Các phiền não nào của ngài đã được đoạn trừ?’, (nghĩa là) ‘Phiền não bị đoạn trừ bởi đạo thứ nhất, hay bị đoạn trừ bởi đạo thứ hai và các đạo sau?’ Quả vậy, các phiền não đã được đoạn trừ bằng đạo tự mình chứng đắc rõ ràng đối với tất cả mọi người. Nếu vị ấy nói: ‘Các phiền não tên là X này của tôi đã được đoạn trừ’, sau đó cần hỏi: ‘Ngài là người chứng đắc những pháp nào?’, (nghĩa là) ‘Đạo Tu-đà-hoàn, hay một đạo nào đó trong các đạo như đạo Tư-đà-hàm, và các đạo khác?’ Quả vậy, các pháp tự mình chứng đắc rõ ràng đối với tất cả mọi người. Nếu vị ấy nói: ‘Tôi là người chứng đắc các pháp tên là X này’, ngay cả chỉ vì chừng đó, lời nói của vị ấy cũng không đáng được tin tưởng; vì các Tỳ khưu đa văn, khéo léo trong việc học hỏi và hỏi han có thể làm rõ sáu điểm này.

Imassa pana bhikkhuno āgamanapaṭipadā sodhetabbā. Yadi āgamanapaṭipadā na sujjhati, ‘‘imāya paṭipadāya lokuttaradhammo nāma na labbhatī’’ti apanetabbo. Yadi panassa āgamanapaṭipadā sujjhati, ‘‘dīgharattaṃ tīsu sikkhāsu appamatto jāgariyamanuyutto catūsu paccayesu alaggo ākāse pāṇisamena cetasā viharatī’’ti paññāyati, tassa bhikkhuno byākaraṇaṃ paṭipadāya saddhiṃ saṃsandati. ‘‘Seyyathāpi nāma gaṅgodakaṃ yamunodakena saddhiṃ saṃsandati sameti; evameva supaññattā tena bhagavatā sāvakānaṃ nibbānagāminī paṭipadā saṃsandati nibbānañca paṭipadā cā’’ti (dī. ni. 2.296) vuttasadisaṃ hoti.
Nhưng con đường thực hành đã đi qua của Tỳ khưu này cần được xét duyệt. Nếu con đường thực hành không đúng đắn, lời tuyên bố của vị ấy cần được bác bỏ với lý do: ‘Bằng con đường thực hành này, pháp siêu thế không thể đạt được’. Nhưng nếu con đường thực hành của vị ấy đúng đắn, và được biết rằng: ‘Vị ấy trong một thời gian dài không dễ duôi trong ba học xứ, chuyên tâm vào sự tỉnh thức, không dính mắc vào bốn món vật dụng, sống với tâm như loài chim trong hư không không chấp trước’, thì sự tuyên bố của Tỳ khưu ấy tương hợp với con đường thực hành. Điều này giống như đã được nói: ‘Ví như nước sông Hằng hòa hợp, gặp gỡ với nước sông Yamunā; cũng vậy, con đường dẫn đến Niết-bàn đã được Đức Thế Tôn khéo chế định cho các đệ tử, tương hợp với Niết-bàn và con đường dẫn đến đó’ (dī. ni. 2.296).

Apica kho na ettakenāpi sakkāro kātabbo. Kasmā? Ekaccassa hi puthujjanassāpi sato khīṇāsavapaṭipattisadisā paṭipadā hoti, tasmā so bhikkhu tehi tehi upāyehi uttāsetabbo. Khīṇāsavassa nāma asaniyāpi matthake patamānāya bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā na hoti. Sacassa bhayaṃ vā chambhitattaṃ vā lomahaṃso vā uppajjati, ‘‘na tvaṃ arahā’’ti apanetabbo. Sace pana abhīrū acchambhī anutrāsī hutvā sīho viya nisīdati, ayaṃ bhikkhu sampannaveyyākaraṇo samantā rājarājamahāmattādīhi pesitaṃ sakkāraṃ arahatīti.
Hơn nữa, không phải chỉ vì chừng đó mà sự tôn kính nên được thực hiện. Tại sao? Vì ngay cả đối với một số phàm phu, sự thực hành cũng tương tự như sự thực hành của vị đã đoạn tận các lậu hoặc. Do đó, Tỳ khưu ấy cần được làm cho sợ hãi (thử thách) bằng các phương tiện này khác. Đối với vị đã đoạn tận các lậu hoặc, ngay cả khi sét đánh trúng đầu, cũng không có sự sợ hãi, hoặc sự kinh hoàng, hoặc sự dựng lông tóc. Nếu sự sợ hãi, hoặc sự kinh hoàng, hoặc sự dựng lông tóc phát sinh nơi vị ấy, lời tuyên bố của vị ấy cần được bác bỏ với lý do: ‘Ngươi không phải là A-la-hán’. Nhưng nếu vị ấy không sợ hãi, không kinh hoàng, không run sợ rồi ngồi như sư tử, Tỳ khưu này là người có sự tuyên bố hoàn hảo, đáng nhận sự tôn kính được gửi đến từ các vua chúa, đại thần, và những người khác ở khắp mọi nơi.

Pāpicchoti yā sā ‘‘idhekacco dussīlova samāno sīlavāti maṃ jano jānātūti icchatī’’tiādinā (vibha. 851) nayena vuttā pāpicchā tāya samannāgato. Icchāpakatoti tāya pāpikāya icchāya apakato abhibhūto pārājiko hutvā.
Từ ‘Người có ước muốn xấu xa’ nghĩa là người được trang bị ước muốn xấu xa đã được nói theo phương pháp bắt đầu bằng: ‘Ở đây, một người nào đó, dù là người ác giới, lại muốn rằng: “Mong sao dân chúng biết ta là người có giới”’ (vibha. 851). Từ ‘Người bị ước muốn xấu xa chi phối’ nghĩa là người bị ước muốn xấu xa ấy chi phối, áp đảo, rồi trở thành người phạm tội Bất Cộng Trụ.

Visuddhāpekkhoti attano visuddhiṃ apekkhamāno icchamāno patthayamāno. Ayañhi yasmā pārājikaṃ āpanno, tasmā bhikkhubhāve ṭhatvā abhabbo jhānādīni adhigantuṃ, bhikkhubhāvo hissa saggantarāyo ceva hoti maggantarāyo ca. Vuttañhetaṃ – ‘‘sāmaññaṃ dupparāmaṭṭhaṃ nirayāyupakaḍḍhatī’’ti (dha. pa. 311). Aparampi vuttaṃ – ‘‘sithilo hi paribbājo, bhiyyo ākirate raja’’nti (dha. pa. 313). Iccassa bhikkhubhāvo visuddhi nāma na hoti . Yasmā pana gihī vā upāsako vā ārāmiko vā sāmaṇero vā hutvā dānasaraṇasīlasaṃvarādīhi saggamaggaṃ vā jhānavimokkhādīhi mokkhamaggaṃ vā ārādhetuṃ bhabbo hoti, tasmāssa gihiādibhāvo visuddhi nāma hoti, tasmā taṃ visuddhiṃ apekkhanato ‘‘visuddhāpekkho’’ti vuccati. Teneva cassa padabhājane ‘‘gihī vā hotukāmo’’tiādi vuttaṃ.
Từ ‘Người mong cầu sự trong sạch’ nghĩa là người mong đợi, mong muốn, ước ao sự trong sạch của mình. Quả vậy, người này, bởi vì đã phạm tội Bất Cộng Trụ, do đó, sau khi đứng trong tình trạng Tỳ khưu, không có khả năng chứng đắc các thiền và các pháp khác; tình trạng Tỳ khưu của người ấy là sự trở ngại cho cõi trời và cũng là sự trở ngại cho Đạo. Điều này đã được nói: ‘Đời sống Sa-môn bị nắm giữ sai lầm sẽ kéo xuống địa ngục’ (dha. pa. 311). Điều khác cũng đã được nói: ‘Người du sĩ biếng nhác sẽ rắc thêm bụi phiền não’ (dha. pa. 313). Như vậy, tình trạng Tỳ khưu của người ấy không phải là sự trong sạch. Bởi vì, sau khi trở thành người tại gia, hoặc người cận sự nam, hoặc người phục vụ trong tu viện, hoặc Sa-di, người ấy có khả năng làm cho thành tựu con đường đến cõi trời bằng sự bố thí, quy y, giữ giới, thu thúc, và các thiện pháp khác, hoặc con đường giải thoát bằng thiền, giải thoát, và các pháp tu tập khác. Do đó, tình trạng tại gia và các tình trạng tương tự của người ấy là sự trong sạch; do đó, do mong đợi sự trong sạch đó, người ấy được gọi là ‘người mong cầu sự trong sạch’. Chính vì thế, trong phần phân tích từ của nó, đã được nói các câu bắt đầu bằng ‘Hoặc muốn trở thành người tại gia’.

Evaṃ vadeyyāti evaṃ bhaṇeyya. Kathaṃ? ‘‘Ajānamevaṃ āvuso avacaṃ jānāmi, apassaṃ passāmī’’ti. Padabhājane pana ‘‘evaṃ vadeyyā’’ti idaṃ padaṃ anuddharitvāva yathā vadanto ‘‘ajānamevaṃ āvuso avacaṃ jānāmi, apassaṃ passāmī’’ti vadati nāmāti vuccati, taṃ ākāraṃ dassetuṃ ‘‘nāhaṃ ete dhamme jānāmī’’tiādi vuttaṃ. Tucchaṃ musā vilapinti ahaṃ vacanatthavirahato tucchaṃ vañcanādhippāyato musā vilapiṃ, abhaṇinti vuttaṃ hoti. Padabhājane panassa aññena padabyañjanena atthamattaṃ dassetuṃ ‘‘tucchakaṃ mayā bhaṇita’’ntiādi vuttaṃ.
Câu ‘Nếu nói như vầy’ nghĩa là nếu nói như vầy. Thế nào? Nói rằng: ‘Này hiền giả, không biết mà tôi đã nói là tôi biết; không thấy mà tôi đã nói là tôi thấy’. Nhưng trong phần phân tích từ, không trích dẫn từ ‘nếu nói như vầy’ này, mà chỉ nói rằng: ‘Người nào nói rằng “Này hiền giả, không biết mà tôi đã nói là tôi biết; không thấy mà tôi đã nói là tôi thấy”’, để chỉ rõ cách thức đó, Chú Giải nói bắt đầu bằng: ‘Tôi không biết các pháp này’. Câu ‘Tôi đã nói lời rỗng tuếch, dối trá’ có nghĩa là đã nói: ‘Tôi đã nói lời rỗng tuếch do không có ý nghĩa của lời nói, và dối trá do ý định lừa dối’. Nhưng trong phần phân tích từ của nó, để chỉ rõ chỉ ý nghĩa bằng văn tự khác, Chú Giải nói bắt đầu bằng: ‘Điều rỗng tuếch đã được tôi nói’.

Purime upādāyāti purimāni tīṇi pārājikāni āpanne puggale upādāya. Sesaṃ pubbe vuttanayattā uttānatthattā ca pākaṭamevāti.
Cụm từ ‘Kể từ những trường hợp trước’ nghĩa là kể từ những người đã phạm ba điều học Bất Cộng Trụ trước. Phần còn lại thì rõ ràng do phương pháp đã được nói ở trước và do ý nghĩa rõ ràng.

Padabhājanīyavaṇṇanā

Sự Giải Thích Điều Học Có Phân Tích

199. Evaṃ uddiṭṭhasikkhāpadaṃ padānukkamena vibhajitvā idāni yasmā heṭṭhā padabhājanīyamhi ‘‘jhānaṃ vimokkhaṃ samādhi samāpatti ñāṇadassanaṃ…pe… suññāgāre abhiratī’’ti evaṃ saṃkhitteneva uttarimanussadhammo dassito, na vitthārena āpattiṃ āropetvā tanti ṭhapitā. Saṅkhepadassite ca atthe na sabbe sabbākārena nayaṃ gahetuṃ sakkonti, tasmā sabbākārena nayaggahaṇatthaṃ puna tadeva padabhājanaṃ mātikāṭhāne ṭhapetvā vitthārato uttarimanussadhammaṃ dassetvā āpattibhedaṃ dassetukāmo ‘‘jhānanti paṭhamaṃ jhānaṃ, dutiyaṃ jhāna’’ntiādimāha. Tattha paṭhamajjhānādīhi mettājhānādīnipi asubhajjhānādīnipi ānāpānassatisamādhijjhānampi lokiyajjhānampi lokuttarajjhānampi saṅgahitameva. Tasmā ‘‘paṭhamaṃ jhānaṃ samāpajjintipi…pe… catutthaṃ jjhānaṃ, mettājhānaṃ, upekkhājhānaṃ asubhajjhānaṃ ānāpānassatisamādhijjhānaṃ , lokiyajjhānaṃ, lokuttarajjhānaṃ samāpajji’’ntipi bhaṇanto pārājikova hotīti veditabbo.
199. Sau khi đã phân tích điều học đã được nêu lên theo thứ tự từng từ như vậy, bây giờ, bởi vì ở dưới, trong phần phân tích từ, pháp thượng nhân chỉ được chỉ rõ một cách tóm tắt qua các từ ‘Thiền, giải thoát, định, sự chứng đắc, trí kiến… (vân vân)… sự ưa thích ở nơi trống trải’, truyền thống luật chưa được thiết lập bằng cách quy tội một cách chi tiết. Và khi ý nghĩa được chỉ rõ một cách tóm tắt, không phải tất cả Tỳ khưu đều có thể nắm bắt phương pháp về mọi phương diện; do đó, để các Tỳ khưu nắm bắt phương pháp về mọi phương diện, sau khi lại đặt chính phần phân tích từ đó ở vị trí đề mục, Chú Giải muốn chỉ rõ pháp thượng nhân một cách chi tiết rồi chỉ rõ sự phân biệt về tội, nên nói bắt đầu bằng: ‘Thiền là sơ thiền, nhị thiền’. Ở đó, bằng các từ sơ thiền và các thiền khác, cả các thiền như thiền tâm từ và các loại khác, thiền bất tịnh và các loại khác, cả thiền định niệm hơi thở, cả thiền thế gian, cả thiền siêu thế cũng chắc chắn được bao gồm. Do đó, cần hiểu rằng người nói: ‘Tôi đã nhập sơ thiền… (vân vân)… tứ thiền, thiền tâm từ, thiền xả, thiền bất tịnh, thiền định niệm hơi thở, thiền thế gian, thiền siêu thế’ cũng là người phạm tội Bất Cộng Trụ.

Suṭṭhu mutto vividhehi vā kilesehi muttoti vimokkho. So panāyaṃ rāgadosamohehi suññattā suññato. Rāgadosamohanimittehi animittattā animitto. Rāgadosamohapaṇidhīnaṃ abhāvato appaṇihitoti vuccati. Cittaṃ samaṃ ādahati ārammaṇe ṭhapetīti samādhi. Ariyehi samāpajjitabbato samāpatti. Sesamettha vuttanayameva. Ettha ca vimokkhattikena ca samādhittikena ca ariyamaggova vutto. Samāpattittikena pana phalasamāpatti. Tesu yaṃkiñci ekampi padaṃ gahetvā ‘‘ahaṃ imassa lābhīmhī’’ti bhaṇanto pārājikova hoti.
Từ ‘Sự giải thoát’ là vì được giải thoát một cách tốt đẹp, hoặc được giải thoát khỏi các phiền não khác nhau. Chính sự giải thoát đó, do không có tham, sân, si, là (giải thoát) không. Do không có các tướng tham, sân, si, là (giải thoát) vô tướng. Do không có các ước nguyện tham, sân, si, được gọi là (giải thoát) vô nguyện. Vì đặt tâm một cách vững vàng, thiết lập tâm trên đối tượng, nên gọi là định. Vì là pháp được các bậc Thánh chứng đắc, nên gọi là sự chứng đắc (hay sự nhập định). Phần còn lại ở đây theo phương pháp đã nói. Và ở đây, bằng ba loại giải thoát và ba loại định, chính Thánh đạo được nói. Còn bằng ba loại sự chứng đắc (nhập định) là sự nhập quả định. Trong số đó, người nào lấy bất kỳ một từ nào rồi nói: ‘Tôi là người chứng đắc pháp này’, người ấy là người phạm tội Bất Cộng Trụ.

Tisso vijjāti pubbenivāsānussati, dibbacakkhu, āsavānaṃ khaye ñāṇanti. Tattha ekissāpi nāmaṃ gahetvā ‘‘ahaṃ imissā vijjāya lābhīmhī’’ti bhaṇanto pārājiko hoti. Saṅkhepaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘vijjānaṃ lābhīmhī’ti bhaṇantopi ‘tissannaṃ vijjānaṃ lābhīmhī’ti bhaṇantopi pārājiko vā’’ti vuttaṃ. Maggabhāvanāpadabhājane vuttā sattatiṃsabodhipakkhiyadhammā maggasampayuttā lokuttarāva idhādhippetā. Tasmā lokuttarānaṃ satipaṭṭhānānaṃ sammappadhānānaṃ iddhipādānaṃ indriyānaṃ balānaṃ bojjhaṅgānaṃ ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassa lābhīmhīti vadato pārājikanti mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Mahāpaccariyādīsu pana ‘‘satipaṭṭhānānaṃ lābhīmhī’ti evaṃ ekekakoṭṭhāsavasenāpi ‘kāyānupassanāsatipaṭṭhānassa lābhīmhī’ti evaṃ tattha ekekadhammavasenāpi vadato pārājikamevā’’ti vuttaṃ tampi sameti. Kasmā? Maggakkhaṇuppanneyeva sandhāya vuttattā. Phalasacchikiriyāyapi ekekaphalavasena pārājikaṃ veditabbaṃ.
Từ ‘Ba minh’ là túc mạng minh, thiên nhãn minh, và lậu tận minh. Ở đó, người nào lấy tên của bất kỳ một minh nào rồi nói: ‘Tôi là người chứng đắc minh này’, người ấy phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng trong Chú Giải Tóm Lược đã nói: ‘Người nói “Tôi là người chứng đắc các minh” hoặc người nói “Tôi là người chứng đắc ba minh” cũng là người phạm tội Bất Cộng Trụ’. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo đã được nói trong phần phân tích từ về sự tu tập Đạo, tương ưng với Đạo, chính là các pháp siêu thế được chủ trương ở đây. Do đó, người nói: ‘Tôi là người chứng đắc các niệm xứ siêu thế, các chánh cần, các như ý túc, các căn, các lực, các giác chi, Thánh đạo Tám ngành’, phạm tội Bất Cộng Trụ – đã được nói trong Đại Chú Giải. Nhưng trong chú giải Mahāpaccarī và các chú giải khác đã nói: ‘Người nói “Tôi là người chứng đắc các niệm xứ” theo từng phần như vậy, hoặc nói “Tôi là người chứng đắc niệm xứ quán thân” theo từng pháp ở đó như vậy, cũng chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ’ – điều đó cũng tương hợp. Tại sao? Vì điều đó được nói nhắm đến chính các pháp phát sinh trong khoảnh khắc Đạo. Cả trong việc chứng thực Quả, cũng cần hiểu là phạm tội Bất Cộng Trụ theo từng quả.

Rāgassa pahānantiādittike kilesappahānameva vuttaṃ. Taṃ pana yasmā maggena vinā natthi, tatiyamaggena hi kāmarāgadosānaṃ pahānaṃ, catutthena mohassa, tasmā ‘‘rāgo me pahīno’’tiādīni vadatopi pārājikaṃ vuttaṃ.
Trong nhóm ba pháp bắt đầu bằng ‘Sự đoạn trừ tham ái’, chính sự đoạn trừ phiền não được nói. Nhưng vì điều đó không có nếu không có Đạo – quả vậy, sự đoạn trừ dục tham và sân là bằng đạo thứ ba (A-na-hàm đạo), sự đoạn trừ si là bằng đạo thứ tư (A-la-hán đạo) – do đó, người nói các câu bắt đầu bằng ‘Tham ái của tôi đã được đoạn trừ’ cũng bị nói là phạm tội Bất Cộng Trụ.

Rāgā cittaṃ vinīvaraṇatātiādittike lokuttaracittameva vuttaṃ. Tasmā ‘‘rāgā me cittaṃ vinīvaraṇa’’ntiādīni vadatopi pārājikameva.
Trong nhóm ba pháp bắt đầu bằng ‘Tâm không còn bị tham ái ngăn che’, chính tâm siêu thế được nói. Do đó, người nói các câu bắt đầu bằng ‘Tâm của tôi không còn bị tham ái ngăn che’ cũng chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ.

Suññāgārapadabhājane pana yasmā jhānena aghaṭetvā ‘‘suññāgāre abhiramāmī’’ti vacanamattena pārājikaṃ nādhippetaṃ, tasmā ‘‘paṭhamena jhānena suññāgāre abhiratī’’tiādi vuttaṃ. Tasmā yo jhānena ghaṭetvā ‘‘iminā nāma jhānena suññāgāre abhiramāmī’’ti vadati, ayameva pārājiko hotīti veditabbo.
Nhưng trong phần phân tích từ về nơi trống trải, bởi vì tội Bất Cộng Trụ không được chủ trương chỉ bằng lời nói ‘Tôi ưa thích ở nơi trống trải’ mà không liên kết với thiền, do đó, Chú Giải nói bắt đầu bằng ‘Sự ưa thích ở nơi trống trải bằng sơ thiền’. Do đó, cần hiểu rằng người nào liên kết với thiền rồi nói: ‘Tôi ưa thích ở nơi trống trải bằng thiền tên là X này’, chính người ấy là người phạm tội Bất Cộng Trụ.

Yāca ‘‘ñāṇa’’nti imassa padabhājane ambaṭṭhasuttādīsu (dī. ni. 1.254 ādayo) vuttāsu aṭṭhasu vijjāsu vipassanāñāṇamanomayiddhiiddhividhadibbasotacetopariyañāṇabhedā pañca vijjā na āgatā, tāsu ekā vipassanāva pārājikavatthu na hoti, sesā hontīti veditabbā. Tasmā ‘‘vipassanāya lābhīmhī’’tipi ‘‘vipassanāñāṇassa lābhīmhī’’tipi vadato pārājikaṃ natthi. Phussadevatthero pana bhaṇati – ‘‘itarāpi catasso vijjā ñāṇena aghaṭitā pārājikavatthū na honti. Tasmā ‘manomayassa lābhīmhi, iddhividhassa, dibbāya sotadhātuyā, cetopariyassa lābhīmhī’ti vadatopi pārājikaṃ natthī’’ti. Taṃ tassa antevāsikeheva paṭikkhittaṃ – ‘‘ācariyo na ābhidhammiko bhummantaraṃ na jānāti, abhiññā nāma catutthajjhānapādakova mahaggatadhammo, jhāneneva ijjhati. Tasmā manomayassa lābhīmhī’ti vā ‘manomayañāṇassa lābhīmhī’ti vā yathā vā tathā vā vadatu pārājikamevā’’ti. Ettha ca kiñcāpi nibbānaṃ pāḷiyā anāgataṃ, atha kho ‘‘nibbānaṃ me patta’’nti vā ‘‘sacchikata’’nti vā vadato pārājikameva. Kasmā? Nibbānassa nibbattitalokuttarattā. Tathā ‘‘cattāri saccāni paṭivijjhiṃ paṭividdhāni mayā’’ti vadatopi pārājikameva. Kasmā? Saccappaṭivedhoti hi maggassa pariyāyavacanaṃ. Yasmā pana ‘‘tisso paṭisambhidā kāmāvacarakusalato catūsu ñāṇasampayuttesu cittuppādesu uppajjanti, kriyato catūsu ñāṇasampayuttesu cittuppādesu uppajjanti, atthapaṭisambhidā etesu ceva uppajjati, catūsu maggesu catūsu phalesu ca uppajjatī’’ti vibhaṅge (vibha. 746) vuttaṃ. Tasmā ‘‘dhammapaṭisambhidāya lābhīmhī’’ti vā, ‘‘nirutti…pe… paṭibhānapaṭisambhidāya lābhīmhī’’ti vā ‘‘lokiyaatthapaṭisambhidāya lābhīmhī’’ti vā vuttepi pārājikaṃ natthi. ‘‘Paṭisambhidānaṃ lābhīmhī’’ti vutte na tāva sīsaṃ otarati. ‘‘Lokuttaraatthapaṭisambhidāya lābhīmhī’’ti vutte pana pārājikaṃ hoti. Saṅkhepaṭṭhakathāyaṃ pana atthapaṭisambhidāppattomhīti avisesenāpi vadato pārājikaṃ vuttaṃ. Kurundiyampi ‘‘na muccatī’’ti vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘ettāvatā pārājikaṃ natthi, ettāvatā sīsaṃ na otarati, ettāvatā na pārājika’’nti vicāritattā na sakkā aññaṃ pamāṇaṃ kātunti.
Trong phần phân tích từ của ‘Và trí nào’, trong tám minh đã được nói trong Kinh Ambaṭṭha và các kinh khác (dī. ni. 1.254 và các kinh khác), năm minh là trí minh sát, hóa ý thông, thần túc thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông không được đề cập trong danh sách tám minh đó. Trong số đó, chỉ một là minh sát không phải là trường hợp phạm tội Bất Cộng Trụ; các minh còn lại thì là trường hợp phạm tội – cần được hiểu như vậy. Do đó, người nói ‘Tôi là người chứng đắc minh sát’ hoặc ‘Tôi là người chứng đắc trí minh sát’ cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng Trưởng lão Phussadeva nói: ‘Cả bốn minh còn lại, nếu không liên kết với trí siêu thế, cũng không phải là trường hợp phạm tội Bất Cộng Trụ. Do đó, người nói “Tôi là người chứng đắc hóa ý thông, thần túc thông, thiên nhĩ giới, tha tâm thông” cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ’. Điều đó đã bị chính các đệ tử của vị ấy bác bỏ, nói rằng: ‘Thầy không phải là người theo Vi Diệu Pháp, không biết sự khác biệt của các địa tầng thiền; thắng trí là pháp đáo đại có tứ thiền làm nền tảng, chỉ thành tựu bằng thiền. Do đó, dù nói “Tôi là người chứng đắc hóa ý thông” hay “Tôi là người chứng đắc trí hóa ý thông”, hoặc nói cách này hay cách khác, cũng chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ’. Và ở đây, mặc dù Niết-bàn không được đề cập trong Pāḷi trong danh sách này, nhưng người nói ‘Tôi đã đạt Niết-bàn’ hoặc ‘Tôi đã chứng thực Niết-bàn’ cũng chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì Niết-bàn là pháp siêu thế đã được chứng ngộ. Tương tự, người nói ‘Tôi đã thấu suốt bốn chân lý, bốn chân lý đã được tôi thấu suốt’ cũng chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì sự thấu suốt chân lý là từ đồng nghĩa của Đạo. Nhưng bởi vì trong bộ Phân Tích (vibha. 746) đã nói: ‘Ba pháp vô ngại giải (pháp, từ ngữ, biện tài) phát sinh trong bốn tâm phát sinh tương ưng với trí từ tâm thiện Dục giới; và từ tâm duy tác, phát sinh trong bốn tâm phát sinh tương ưng với trí. Nghĩa vô ngại giải cũng phát sinh trong những tâm này, và cũng phát sinh trong bốn Đạo và bốn Quả’. Do đó, ngay cả khi được nói ‘Tôi là người chứng đắc pháp vô ngại giải’, hoặc ‘Từ ngữ… (vân vân)… biện tài vô ngại giải’, hoặc ‘Tôi là người chứng đắc nghĩa vô ngại giải thế gian’, cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ. Khi được nói ‘Tôi là người chứng đắc các pháp vô ngại giải’, thì đầu chưa cúi xuống (chưa phạm tội Bất Cộng Trụ). Nhưng khi được nói ‘Tôi là người chứng đắc nghĩa vô ngại giải siêu thế’, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng trong Chú Giải Tóm Lược, người nói ‘Chúng tôi đã đạt nghĩa vô ngại giải’ ngay cả không phân biệt (thế gian hay siêu thế) cũng bị nói là phạm tội Bất Cộng Trụ. Cả trong chú giải Kurundī cũng nói: ‘Không thoát tội’. Nhưng trong Đại Chú Giải, do đã thẩm xét rằng ‘Chỉ chừng đó thì không phạm tội Bất Cộng Trụ, chỉ chừng đó thì đầu không cúi xuống, chỉ chừng đó thì không phải tội Bất Cộng Trụ’, nên không thể lấy quan điểm khác làm tiêu chuẩn.

‘‘Nirodhasamāpattiṃ samāpajjāmī’’ti vā ‘‘lābhīmhāhaṃ tassā’’ti vā vadatopi pārājikaṃ natthi. Kasmā? Nirodhasamāpattiyā neva lokiyattā na lokuttarattāti. Sace panassa evaṃ hoti – ‘‘nirodhaṃ nāma anāgāmī vā khīṇāsavo vā samāpajjati, tesaṃ maṃ aññataroti jānissatī’’ti byākaroti, so ca naṃ tathā jānāti, pārājikanti mahāpaccarisaṅkhepaṭṭhakathāsu vuttaṃ. Taṃ vīmaṃsitvā gahetabbaṃ.
Người nói ‘Tôi nhập diệt tận định’ hoặc ‘Tôi là người chứng đắc định ấy’ cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì diệt tận định không phải là pháp thế gian cũng không phải là pháp siêu thế. Nhưng nếu vị ấy có ý nghĩ như vầy: ‘Diệt tận định là pháp mà vị A-na-hàm hoặc vị đã đoạn tận các lậu hoặc chứng nhập; người khác sẽ biết ta là một trong số họ’ rồi tuyên bố, và người kia biết tin vị ấy như vậy, thì vị ấy phạm tội Bất Cộng Trụ – đã được nói trong các Chú Giải Mahāpaccarī và Chú Giải Tóm Lược. Điều đó cần được thẩm xét rồi chấp nhận.

‘‘Atītabhave kassapasammāsambuddhakāle sotāpannomhī’’ti vadatopi pārājikaṃ natthi. Atītakkhandhānañhi parāmaṭṭhattā sīsaṃ na otaratīti. Saṅkhepaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘atīte aṭṭhasamāpattilābhīmhī’’ti vadato pārājikaṃ natthi, kuppadhammattā idha pana ‘‘atthi akuppadhammattāti keci vadantī’’ti vuttaṃ. Tampi tattheva ‘‘atītattabhāvaṃ sandhāya kathentassa pārājikaṃ na hoti, paccuppannattabhāvaṃ sandhāya kathentasseva hotī’’ti paṭikkhittaṃ.
Người nói ‘Trong đời quá khứ, vào thời Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác Kassapa, chúng tôi là Tu-đà-hoàn’ cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ. Vì do đã đề cập đến các uẩn quá khứ, nên đầu không cúi xuống (không phạm tội Bất Cộng Trụ). Nhưng trong Chú Giải Tóm Lược đã nói: ‘Người nói “Trong quá khứ, tôi là người chứng đắc tám định chứng” không phạm tội Bất Cộng Trụ, vì đó là pháp có thể bị dao động; nhưng ở đây, một số vị nói rằng “Có cả pháp không thể bị dao động”’. Điều đó cũng đã bị bác bỏ ngay tại đó trong Chú Giải Tóm Lược rằng: ‘Người nói nhắm đến bản thể quá khứ thì không phạm tội Bất Cộng Trụ; chỉ người nói nhắm đến bản thể hiện tại mới phạm tội’.

Suddhikavārakathāvaṇṇanā

Sự Giải Thích Lời Bàn Về Các Trường Hợp Trong Sạch

200. Evaṃ jhānādīni dasa mātikāpadāni vitthāretvā idāni uttarimanussadhammaṃ ullapanto yaṃ sampajānamusāvādaṃ bhaṇati, tassa aṅgaṃ dassetvā tasseva vitthārassa vasena cakkapeyyālaṃ bandhanto ullapanākārañca āpattibhedañca dassetuṃ ‘‘tīhākārehī’’tiādimāha. Tattha suddhikavāro vattukāmavāro paccayapaṭisaṃyuttavāroti tayo mahāvārā. Tesu suddhikavāre paṭhamajjhānaṃ ādiṃ katvā yāva mohā cittaṃ vinīvaraṇapadaṃ, tāva ekamekasmiṃ pade samāpajjiṃ, samāpajjāmi, samāpanno, lābhīmhi, vasīmhi, sacchikataṃ mayāti imesu chasu padesu ekamekaṃ padaṃ tīhākārehi, catūhi, pañcahi, chahi, sattahākārehīti evaṃ pañcakkhattuṃ yojetvā suddhikanayo nāma vutto. Tato paṭhamañca jhānaṃ, dutiyañca jhānanti evaṃ paṭhamajjhānena saddhiṃ ekamekaṃ padaṃ ghaṭentena sabbapadāni ghaṭetvā teneva vitthārena khaṇḍacakkaṃ nāma vuttaṃ. Tañhi puna ānetvā paṭhamajjhānādīhi na yojitaṃ, tasmā ‘‘khaṇḍacakka’’nti vuccati. Tato dutiyañca jhānaṃ, tatiyañca jhānanti evaṃ dutiyajjhānena saddhiṃ ekamekaṃ padaṃ ghaṭetvā puna ānetvā paṭhamajjhānena saddhiṃ sambandhitvā teneva vitthārena baddhacakkaṃ nāma vuttaṃ. Tato yathā dutiyajjhānena saddhiṃ, evaṃ tatiyajjhānādīhipi saddhiṃ, ekamekaṃ padaṃ ghaṭetvā puna ānetvā dutiyajjhānādīhi saddhiṃ sambandhitvā teneva vitthārena aññānipi ekūnatiṃsa baddhacakkāni vatvā ekamūlakanayo niṭṭhāpito. Pāṭho pana saṅkhepena dassito, so asammuyhantena vitthārato veditabbo.
200. Sau khi đã triển khai rộng mười đề mục như thiền và các pháp khác như vậy, bây giờ Chú Giải muốn chỉ rõ yếu tố của lời nói dối có chủ ý mà Tỳ khưu nói khi nói khoác pháp thượng nhân, rồi dựa vào sự triển khai rộng đó, trong khi kết nối vòng lặp lại (bảng ma trận), để chỉ rõ cách thức nói khoác và sự phân biệt về tội, Chú Giải nói bắt đầu bằng ‘Bằng ba cách’. Ở đó, có ba trường hợp lớn: trường hợp trong sạch, trường hợp muốn nói, và trường hợp liên quan đến duyên. Trong đó, ở trường hợp trong sạch, bắt đầu từ sơ thiền cho đến đề mục tâm không còn bị si ngăn che, đối với mỗi một đề mục, mỗi một từ trong sáu từ này: tôi đã nhập, tôi đang nhập, người đã nhập, tôi là người chứng đắc, tôi là người thuần thục, đã được tôi chứng thực, sau khi kết hợp năm lần như vậy: bằng ba cách, bằng bốn cách, bằng năm cách, bằng sáu cách, bằng bảy cách, thì được gọi là phương pháp trong sạch. Sau đó, câu ‘Sơ thiền và nhị thiền’: như vậy, bằng cách kết hợp mỗi một đề mục với sơ thiền, sau khi đã kết hợp tất cả các đề mục, bằng chính sự triển khai rộng đó, được gọi là vòng bị cắt đứt. Quả vậy, nó không được mang lại rồi kết hợp với sơ thiền và các thiền khác nữa; do đó được gọi là ‘vòng bị cắt đứt’. Sau đó, câu ‘Nhị thiền và tam thiền’: như vậy, bằng cách kết hợp mỗi một đề mục với nhị thiền, rồi lại mang về kết hợp với sơ thiền, bằng chính sự triển khai rộng đó, sau khi đã nói hai mươi chín vòng được kết nối khác nữa, phương pháp một gốc được hoàn tất. Nhưng Pāḷi chỉ được chỉ rõ một cách tóm tắt; người không bị mê mờ cần hiểu nó một cách chi tiết.

Yathā ca ekamūlako, evaṃ dumūlakādayopi sabbamūlakapariyosānā catunnaṃ satānaṃ upari pañcatiṃsa nayā vuttā. Seyyathidaṃ – dvimūlakā ekūnatiṃsa, timūlakā aṭṭhavīsa, catumūlakā sattavīsa; evaṃ pañcamūlakādayopi ekekaṃ ūnaṃ katvā yāva tiṃsamūlakā, tāva veditabbā. Pāṭhe pana tesaṃ nāmampi saṅkhipitvā ‘‘idaṃ sabbamūlaka’’nti tiṃsamūlakanayo eko dassito. Yasmā ca suññāgārapadaṃ jhānena aghaṭitaṃ sīsaṃ na otarati, tasmā taṃ anāmasitvā mohā cittaṃ vinīvaraṇapadapariyosānāyeva sabbattha yojanā dassitāti veditabbā. Evaṃ paṭhamajjhānādīni paṭipāṭiyā vā uppaṭipāṭiyā vā dutiyajjhānādīhi ghaṭetvā vā aghaṭetvā vā samāpajjintiādinā nayena ullapato mokkho natthi, pārājikaṃ āpajjatiyevāti.
Và như phương pháp một gốc, cũng vậy, các phương pháp hai gốc và các phương pháp khác, kết thúc bằng phương pháp tất cả các gốc, ba mươi lăm phương pháp trên bốn trăm đã được nói. Đó là: phương pháp hai gốc có hai mươi chín nhánh, phương pháp ba gốc có hai mươi tám, phương pháp bốn gốc có hai mươi bảy; cũng vậy, các phương pháp năm gốc và các phương pháp khác cần được hiểu bằng cách giảm đi một nhánh cho đến phương pháp ba mươi gốc. Nhưng trong Pāḷi, ngay cả tên của chúng cũng được tóm tắt, và chỉ một phương pháp ba mươi gốc được chỉ rõ với tên gọi ‘Đây là phương pháp tất cả các gốc’. Và bởi vì đề mục về nơi trống trải, nếu không liên kết với thiền, thì đầu không cúi xuống (không phạm tội Bất Cộng Trụ), do đó, cần hiểu rằng, sau khi không chạm đến đề mục đó, sự kết hợp ở khắp mọi nơi chỉ được chỉ rõ cho đến hết đề mục tâm không còn bị si ngăn che. Như vậy, người nói khoác theo cách bắt đầu bằng ‘Tôi đã nhập’ đối với sơ thiền và các thiền khác, theo thứ tự thuận hoặc theo thứ tự ngược, dù có kết hợp hay không kết hợp với nhị thiền và các thiền khác, cũng không có sự giải thoát khỏi tội; chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ.

Imassa atthassa dassanavasena vutte ca panetasmiṃ suddhikamahāvāre ayaṃ saṅkhepato atthavaṇṇanā – tīhākārehīti sampajānamusāvādassa aṅgabhūtehi tīhi kāraṇehi. Pubbevassa hotīti pubbabhāgeyeva assa puggalassa evaṃ hoti ‘‘musā bhaṇissa’’nti. Bhaṇantassa hotīti bhaṇamānassa hoti. Bhaṇitassa hotīti bhaṇite assa hoti, yaṃ vattabbaṃ tasmiṃ vutte hotīti attho. Atha vā bhaṇitassāti vuttavato niṭṭhitavacanassa hotīti. Yo evaṃ pubbabhāgepi jānāti, bhaṇantopi jānāti, pacchāpi jānāti, ‘‘musā mayā bhaṇita’’nti so ‘‘paṭhamajjhānaṃ samāpajji’’nti bhaṇanto pārājikaṃ āpajjatīti ayamettha attho dassito. Kiñcāpi dassito, atha kho ayamettha viseso – pucchā tāva hoti ‘‘‘musā bhaṇissa’nti pubbabhāgo atthi, ‘musā mayā bhaṇita’nti pacchābhāgo natthi, vuttamattameva hi koci pamussati, kiṃ tassa pārājikaṃ hoti, na hotī’’ti? Sā evaṃ aṭṭhakathāsu vissajjitā – pubbabhāge ‘‘musā bhaṇissa’’nti ca bhaṇantassa ‘‘musā bhaṇāmī’’ti ca jānato pacchābhāge ‘‘musā mayā bhaṇita’’nti na sakkā na bhavituṃ. Sacepi na hoti pārājikameva. Purimameva hi aṅgadvayaṃ pamāṇaṃ. Yassāpi pubbabhāge ‘‘musā bhaṇissa’’nti ābhogo natthi, bhaṇanto pana ‘‘musā bhaṇāmī’’ti jānāti, bhaṇitepi ‘‘musā mayā bhaṇita’’nti jānāti, so āpattiyā na kāretabbo. Pubbabhāgo hi pamāṇataro. Tasmiṃ asati davā bhaṇitaṃ vā ravā bhaṇitaṃ vā hotī’’ti.
Và trong trường hợp lớn về sự trong sạch này, được nói theo cách chỉ rõ ý nghĩa của nó, đây là sự giải thích ý nghĩa một cách tóm tắt: từ ‘Bằng ba cách’ nghĩa là bằng ba nguyên nhân là yếu tố của lời nói dối có chủ ý. Câu ‘Trước đó, đối với người ấy, ý nghĩ phát sinh’ nghĩa là ngay trong giai đoạn trước, đối với người ấy, ý nghĩ phát sinh như vầy: ‘Ta sẽ nói dối’. Câu ‘Đối với người đang nói, ý nghĩ phát sinh’ nghĩa là đối với người đang nói, ý nghĩ phát sinh. Câu ‘Đối với người đã nói, ý nghĩ phát sinh’ nghĩa là khi đã nói, đối với người ấy, ý nghĩ phát sinh; có nghĩa là khi điều cần nói đã được nói, ý nghĩ phát sinh. Hoặc là, từ ‘của người đã nói’ nghĩa là của người đã nói, đã kết thúc lời nói, ý nghĩ phát sinh. Người nào biết như vậy cả trong giai đoạn trước, cả khi đang nói cũng biết, cả sau đó cũng biết rằng ‘Lời dối trá đã được tôi nói’, người ấy, khi nói ‘Tôi đã nhập sơ thiền’, phạm tội Bất Cộng Trụ – ý nghĩa này được chỉ rõ ở đây. Mặc dù đã được chỉ rõ, nhưng đây là điểm đặc biệt ở đây: trước tiên có câu hỏi: ‘Giai đoạn trước “Ta sẽ nói dối” thì có, nhưng giai đoạn sau “Lời dối trá đã được tôi nói” thì không có; quả vậy, có người chỉ vừa nói xong là quên mất; người ấy có phạm tội Bất Cộng Trụ hay không?’ Câu hỏi đó đã được giải đáp trong các Chú Giải như vầy: Đối với người biết ‘Ta sẽ nói dối’ trong giai đoạn trước và ‘Ta đang nói dối’ khi đang nói, thì không thể không có sự biết ‘Lời dối trá đã được tôi nói’ trong giai đoạn sau. Ngay cả nếu không có sự biết ở giai đoạn sau, cũng chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Quả vậy, chính hai yếu tố trước là tiêu chuẩn. Ngay cả người nào, trong giai đoạn trước, không có sự hướng tâm ‘Ta sẽ nói dối’, nhưng khi đang nói thì biết ‘Ta đang nói dối’, và khi đã nói cũng biết ‘Lời dối trá đã được tôi nói’, người ấy không bị quy tội. Vì giai đoạn trước quan trọng hơn. Khi không có sự hướng tâm ở giai đoạn trước đó, thì đó là lời nói đùa giỡn hoặc lời nói ồn ào vô nghĩa.

Ettha ca taṃñāṇatā ca ñāṇasamodhānañca pariccajitabbaṃ. Taṃñāṇatā pariccajitabbāti yena cittena ‘‘musā bhaṇissa’’nti jānāti, teneva ‘‘musā bhaṇāmī’’ti ca ‘‘musā mayā bhaṇita’’nti ca jānātīti evaṃ ekacitteneva tīsu khaṇesu jānātīti ayaṃ taṃññaṇatā pariccajitabbā, na hi sakkā teneva cittena taṃ cittaṃ jānituṃ yathā na sakkā teneva asinā so asi chinditunti. Purimaṃ purimaṃ pana cittaṃ pacchimassa pacchimassa cittassa tathā uppattiyā paccayo hutvā nirujjhati. Tenetaṃ vuccati –
Và ở đây, quan điểm về sự biết đó và sự hội tụ của các trí cần được từ bỏ. Quan điểm về sự biết đó cần được từ bỏ nghĩa là: quan điểm cho rằng bằng tâm nào biết ‘Ta sẽ nói dối’, cũng bằng chính tâm đó biết ‘Ta đang nói dối’ và ‘Lời dối trá đã được tôi nói’, như vậy, quan điểm cho rằng chỉ bằng một tâm mà biết trong ba khoảnh khắc – sự biết đó này cần được từ bỏ. Vì không thể bằng chính tâm đó mà biết tâm đó, giống như không thể bằng chính cây gươm đó mà cắt cây gươm đó. Mà tâm trước và trước nữa, sau khi làm duyên cho sự phát sinh như vậy của tâm sau và sau nữa, thì diệt đi. Do đó, điều này được nói:

‘‘Pamāṇaṃ pubbabhāgova, tasmiṃ sati na hessati;
Sesadvayanti nattheta, miti vācā tivaṅgikā’’ti.
‘Giai đoạn trước là tiêu chuẩn, khi có nó, tội sẽ không không có (tức là có tội);
Hai giai đoạn còn lại không phải là tiêu chuẩn chính ở đây, lời nói (để phạm tội) được đo lường có ba yếu tố.’

‘‘Ñāṇasamodhānaṃ pariccajitabba’’nti etāni tīṇi cittāni ekakkhaṇe uppajjantīti na gahetabbāni. Idañhi cittaṃ nāma –
Câu ‘Sự hội tụ của các trí cần được từ bỏ’ nghĩa là không nên chấp nhận rằng ba tâm này phát sinh trong một khoảnh khắc. Quả vậy, tâm này là:

Aniruddhamhi paṭhame, na uppajjati pacchimaṃ;
Nirantaruppajjanato, ekaṃ viya pakāsati.
Khi tâm trước chưa diệt, tâm sau không phát sinh;
Do sự phát sinh không gián đoạn, nó biểu lộ giống như một.

Ito paraṃ pana yvāyaṃ ‘‘paṭhamaṃ jhānaṃ samāpajji’’nti sampajānamusā bhaṇati, yasmā so ‘‘natthi me paṭhamaṃ jhāna’’nti evaṃdiṭṭhiko hoti, tassa hi atthevāyaṃ laddhi. Tathā ‘‘natthi me paṭhamaṃ jhāna’’nti evamassa khamati ceva ruccati ca. Evaṃsabhāvameva cassa cittaṃ ‘‘natthi me paṭhamaṃ jhāna’’nti. Yadā pana musā vattukāmo hoti, tadā taṃ diṭṭhiṃ vā diṭṭhiyā saha khantiṃ vā diṭṭhikhantīhi saddhiṃ ruciṃ vā, diṭṭhikhantirucīhi saddhiṃ bhāvaṃ vā vinidhāya nikkhipitvā paṭicchādetvā abhūtaṃ katvā bhaṇati, tasmā tesampi vasena aṅgabhedaṃ dassetuṃ ‘‘catūhākārehī’’tiādi vuttaṃ. Parivāre ca ‘‘aṭṭhaṅgiko musāvādo’’ti (paṭi. 328) vuttattā tattha adhippetāya saññāya saddhiṃ aññopi idha ‘‘aṭṭhahākārehī’’ti eko nayo yojetabbo.
Từ đây trở đi, người nào nói dối có chủ ý rằng ‘Tôi đã nhập sơ thiền’, bởi vì người ấy là người có tà kiến như vầy: ‘Sơ thiền không có nơi tôi’; quả vậy, đây là chủ thuyết của người ấy. Tương tự, người ấy chấp nhận và ưa thích như vầy: ‘Sơ thiền không có nơi tôi’. Và tâm của người ấy có bản chất như vầy: ‘Sơ thiền không có nơi tôi’. Nhưng khi muốn nói dối, khi ấy người ấy sau khi đặt xuống, để riêng, che giấu, làm cho không có thật tà kiến đó, hoặc sự chấp nhận cùng với tà kiến, hoặc sự ưa thích cùng với tà kiến và sự chấp nhận, hoặc bản chất của tâm cùng với tà kiến, sự chấp nhận và sự ưa thích, rồi nói. Do đó, để chỉ rõ sự phân biệt yếu tố theo phương diện của cả những trạng thái tâm ấy, Chú Giải nói bắt đầu bằng ‘Bằng bốn cách’. Và trong sách Parivāra, do đã nói ‘Lời nói dối có tám yếu tố’ (paṭi. 328), ở đây cần phải kết hợp một phương pháp khác là ‘bằng tám cách’ cùng với tưởng đã được chủ trương ở đó.

Ettha ca vinidhāya diṭṭhinti balavadhammavinidhānavasenetaṃ vuttaṃ. Vinidhāya khantintiādīni tato dubbaladubbalānaṃ vinidhānavasena. Vinidhāya saññanti idaṃ panettha sabbadubbaladhammavinidhānaṃ. Saññāmattampi nāma avinidhāya sampajānamusā bhāsissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjati. Yasmā pana ‘‘samāpajjissāmī’’tiādinā anāgatavacanena pārājikaṃ na hoti, tasmā ‘‘samāpajji’’ntiādīni atītavattamānapadāneva pāṭhe vuttānīti veditabbāni.
Và ở đây, câu ‘Sau khi đặt xuống tà kiến’ được nói theo cách đặt xuống pháp mạnh. Các câu bắt đầu bằng ‘Sau khi đặt xuống sự chấp nhận’ là theo cách đặt xuống các pháp yếu và yếu hơn sau đó. Câu ‘Sau khi đặt xuống tưởng’, đây là sự đặt xuống pháp yếu nhất trong số đó. Không có trường hợp người nào sẽ nói dối có chủ ý mà không đặt xuống ngay cả chỉ tưởng. Bởi vì bằng lời nói ở thì vị lai bắt đầu bằng ‘Tôi sẽ nhập’, tội Bất Cộng Trụ không phát sinh, do đó, cần hiểu rằng chỉ các từ ở thì quá khứ và hiện tại bắt đầu bằng ‘Tôi đã nhập’ mới được nói trong Pāḷi.

207. Ito paraṃ sabbampi imasmiṃ suddhikamahāvāre uttānatthameva. Na hettha taṃ atthi – yaṃ iminā vinicchayena na sakkā bhaveyya viññātuṃ, ṭhapetvā kilesappahānapadassa padabhājane ‘‘rāgo me catto vanto’’tiādīnaṃ padānaṃ atthaṃ. Svāyaṃ vuccati – ettha hi cattoti idaṃ sakabhāvapariccajanavasena vuttaṃ. Vantoti idaṃ puna anādiyanabhāvadassanavasena. Muttoti idaṃ santatito vimocanavasena. Pahīnoti idaṃ muttassāpi kvaci anavaṭṭhānadassanavasena. Paṭinissaṭṭhoti idaṃ pubbe ādinnapubbassa paṭinissaggadassanavasena. Ukkheṭitoti idaṃ ariyamaggena uttāsitattā puna anallīyanabhāvadassanavasena. Svāyamattho saddasatthato pariyesitabbo . Samukkheṭitoti idaṃ suṭṭhu uttāsetvā aṇusahagatassāpi puna anallīyanabhāvadassanavasena vuttanti.
207. Từ đây trở đi, tất cả trong trường hợp lớn về sự trong sạch này chỉ có ý nghĩa rõ ràng. Ở đây không có điều gì mà không thể hiểu được bằng sự phân xử này, ngoại trừ ý nghĩa của các từ bắt đầu bằng ‘Tham ái của tôi đã được từ bỏ, đã được nôn ra’ trong phần phân tích từ của đề mục về sự đoạn trừ phiền não. Điều đó được nói như sau: ở đây, từ ‘đã từ bỏ’ (catta) được nói theo cách từ bỏ bản chất của mình. Từ ‘Đã nôn ra’ (vanta) là theo cách chỉ rõ tình trạng không chấp nhận lại. Từ ‘Đã giải thoát’ (mutta) là theo cách giải thoát khỏi dòng tương tục. Từ ‘Đã đoạn tận’ (pahīna) là theo cách chỉ rõ sự không đứng lại ở bất cứ đâu của phiền não đã được giải thoát. Từ ‘Đã xả ly’ (paṭinissaṭṭha) là theo cách chỉ rõ sự từ bỏ của cái đã được chấp nhận trước đây. Từ ‘Đã nhổ bật gốc’ (ukkheṭita) là theo cách chỉ rõ tình trạng không dính mắc lại do đã bị Thánh đạo làm cho sợ hãi. Ý nghĩa này cần được tìm hiểu từ ngữ pháp học. Từ ‘Đã nhổ bật gốc hoàn toàn’ (samukkheṭita) được nói theo cách chỉ rõ tình trạng không dính mắc lại ngay cả của phiền não đi kèm với phần nhỏ nhất sau khi đã làm cho sợ hãi một cách tốt đẹp.

Suddhikavārakathā niṭṭhitā.

Lời bàn về các trường hợp trong sạch đã hoàn tất.

Vattukāmavārakathā

Lời Bàn Về Trường Hợp Muốn Nói

215. Vattukāmavārepi ‘‘tīhākārehī’’tiādīnaṃ attho, vārapeyyālappabhedo ca sabbo idha vuttanayeneva veditabbo. Kevalañhi yaṃ ‘‘mayā virajjhitvā aññaṃ vattukāmena aññaṃ vuttaṃ, tasmā natthi mayhaṃ āpattī’’ti evaṃ okāsagavesakānaṃ pāpapuggalānaṃ okāsanisedhanatthaṃ vutto. Yatheva hi ‘‘buddhaṃ paccakkhāmī’’ti vattukāmo ‘‘dhammaṃ paccakkhāmī’’tiādīsu sikkhāpaccakkhānapadesu yaṃ vā taṃ vā vadantopi khette otiṇṇattā sikkhāpaccakkhātakova hoti; evaṃ paṭhamajjhānādīsu uttarimanussadhammapadesu yaṃkiñci ekaṃ vattukāmo tato aññaṃ yaṃ vā taṃ vā vadantopi khette otiṇṇattā pārājikova hoti. Sace yassa vadati, so tamatthaṃ taṅkhaṇaññeva jānāti. Jānanalakkhaṇañcettha sikkhāpaccakkhāne vuttanayeneva veditabbaṃ.
215. Cả trong trường hợp muốn nói, ý nghĩa của các từ bắt đầu bằng ‘bằng ba cách’, và tất cả sự phân biệt của các vòng lặp lại theo trường hợp cần được hiểu theo phương pháp đã được nói ở đây. Điều này chỉ được nói để ngăn chặn cơ hội của những kẻ ác tìm kiếm cơ hội để trốn tội bằng cách nói rằng: ‘Do tôi nói nhầm, muốn nói điều này lại nói điều khác, do đó tôi không phạm tội’. Quả vậy, giống như trong các trường hợp từ bỏ điều học, người muốn nói ‘Tôi từ bỏ Phật’ mà lại nói ‘Tôi từ bỏ Pháp’ và các trường hợp tương tự, dù nói điều này hay điều kia, cũng chắc chắn là người đã từ bỏ điều học do đã rơi vào phạm vi của việc từ bỏ. Cũng vậy, trong các trường hợp về pháp thượng nhân như sơ thiền và các pháp khác, người muốn nói một điều nào đó, mà lại nói một điều khác, dù nói điều này hay điều kia, cũng là người phạm tội Bất Cộng Trụ do đã rơi vào phạm vi của việc nói khoác, nếu người mà Tỳ khưu nói, biết ý nghĩa đó ngay trong khoảnh khắc ấy. Và đặc tính của sự biết ở đây cần được hiểu theo phương pháp đã được nói trong phần về sự từ bỏ điều học.

Ayaṃ pana viseso – sikkhāpaccakkhānaṃ hatthamuddāya sīsaṃ na otarati. Idaṃ abhūtārocanaṃ hatthamuddāyapi otarati. Yo hi hatthavikārādīhipi aṅgapaccaṅgacopanehi abhūtaṃ uttarimanussadhammaṃ viññattipathe ṭhitassa puggalassa āroceti, so ca tamatthaṃ jānāti, pārājikova hoti. Atha pana yassa āroceti, so na jānāti ‘‘ki ayaṃ bhaṇatī’’ti, saṃsayaṃ vā āpajjati, ciraṃ vīmaṃsitvā vā pacchā jānāti, appaṭivijānanto icceva saṅkhyaṃ gacchati. Evaṃ appaṭivijānantassa vutte thullaccayaṃ hoti. Yo pana jhānādīni attano adhigamavasena vā uggahaparipucchādivasena vā na jānāti, kevalaṃ jhānanti vā vimokkhoti vā vacanamattameva sutaṃ hoti, sopi tena vutte ‘‘jhānaṃ kira samāpajjinti esa vadatī’’ti yadi ettakamattampi jānāti, jānāticceva saṅkhyaṃ gacchati. Tassa vutte pārājikameva. Seso ekassa vā dvinnaṃ vā bahūnaṃ vā niyamitāniyamitavasena viseso sabbo sikkhāpaccakkhānakathāyaṃ vuttanayeneva veditabboti.
Nhưng đây là điểm đặc biệt: sự từ bỏ điều học bằng dấu tay thì đầu không cúi xuống (không phạm tội Bất Cộng Trụ). Sự báo cho biết điều không thật này, ngay cả bằng dấu tay, đầu cũng cúi xuống (phạm tội Bất Cộng Trụ). Quả vậy, người nào bằng các cử chỉ tay và các cử chỉ khác, bằng sự lay động các bộ phận lớn nhỏ của thân, báo cho một người đang ở trong phạm vi hiểu biết biết về pháp thượng nhân không có thật, và người kia biết ý nghĩa đó, thì người ấy là người phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu người mà Tỳ khưu báo cho biết, không biết ‘Người này nói gì?’, hoặc nghi ngờ, hoặc sau khi suy xét một thời gian dài mới biết, thì người đó được kể là người không hiểu rõ. Khi nói cho người không hiểu rõ như vậy, Tỳ khưu phạm tội Trọng Tội. Còn người nào không biết các thiền và các pháp khác theo cách tự mình chứng đắc hoặc theo cách học hỏi, hỏi han, và các cách khác, mà chỉ nghe được lời nói suông là ‘thiền’ hay ‘giải thoát’, người ấy cũng vậy, nếu khi được Tỳ khưu kia nói, biết được chỉ chừng đó rằng ‘Người này hình như nói là nhập thiền’, thì được kể là người chắc chắn biết. Khi nói cho người ấy (người biết như vậy), chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Phần còn lại, sự khác biệt đối với một, hoặc hai, hoặc nhiều người, theo cách quy định và không quy định, tất cả cần được hiểu theo phương pháp đã được nói trong lời bàn về sự từ bỏ điều học.

Vattukāmavārakathā niṭṭhitā.

Lời Bàn Về Trường Hợp Muốn Nói đã hoàn tất.

Paccayapaṭisaṃyuttavārakathā

Lời Bàn Về Trường Hợp Liên Quan Đến Các Duyên (Vật Dụng)

220. Paccayapaṭisaṃyuttavārepi – sabbaṃ vārapeyyālabhedaṃ pubbe āgatapadānañca atthaṃ vuttanayeneva ñatvā pāḷikkamo tāva evaṃ jānitabbo. Ettha hi ‘‘yo te vihāre vasi, yo te cīvaraṃ paribhuñji, yo te piṇḍapātaṃ paribhuñji, yo te senāsanaṃ paribhuñji, yo te gilānapaccayabhesajjaparikkhāraṃ paribhuñjī’’ti ime pañca paccattavacanavārā, ‘‘yena te vihāro paribhutto’’tiādayo pañca karaṇavacanavārā, ‘‘yaṃ tvaṃ āgamma vihāraṃ adāsī’’tiādayo pañca upayogavacanavārā vuttā , tesaṃ vasena idha vuttena suññāgārapadena saddhiṃ pubbe vuttesu paṭhamajjhānādīsu sabbapadesu vārapeyyālabhedo veditabbo. ‘‘Yo te vihāre, yena te vihāro, yaṃ tvaṃ āgamma vihāra’’nti evaṃ pariyāyena vuttattā pana ‘‘aha’’nti ca avuttattā paṭivijānantassa vuttepi idha thullaccayaṃ, apaṭivijānantassa dukkaṭanti ayamettha vinicchayo.
220. Cả trong trường hợp liên quan đến các duyên – sau khi đã biết tất cả sự phân biệt của các vòng lặp lại theo trường hợp và ý nghĩa của các từ đã được đề cập ở trước theo phương pháp đã nói, trước tiên thứ tự Pāḷi cần được biết như vầy. Ở đây, quả vậy, năm trường hợp nói ở ngôi thứ hai trực tiếp này: ‘Người nào đã ở trong tu viện của ngươi, người nào đã dùng y của ngươi, người nào đã dùng vật thực khất thực của ngươi, người nào đã dùng chỗ ở của ngươi, người nào đã dùng thuốc men trị bệnh của ngươi’, năm trường hợp nói bằng cách dùng gián tiếp bắt đầu bằng ‘Tu viện của ngươi đã được ai dùng’, năm trường hợp nói bằng sự sử dụng liên quan đến bắt đầu bằng ‘Người nào mà ngươi, sau khi đến, đã cho tu viện’ – đã được nói. Dựa vào những trường hợp đó, sự phân biệt của các vòng lặp lại theo trường hợp đối với tất cả các đề mục như sơ thiền và các pháp khác đã được nói ở trước, cùng với đề mục về nơi trống trải đã được nói ở đây, cần được hiểu. Nhưng do các câu ‘Người nào ở trong tu viện của ngươi, tu viện của ngươi đã được ai dùng, người nào mà ngươi, sau khi đến, đã cho tu viện’ được nói một cách gián tiếp như vậy, và do từ ‘tôi’ không được nói, nên ngay cả khi nói cho người hiểu rõ, ở đây phạm tội Trọng Tội; khi nói cho người không hiểu rõ, phạm tội Tác Ác – đây là sự phân xử ở đây.

Anāpattibhedakathā

Lời Bàn Về Sự Phân Biệt Các Trường Hợp Không Phạm Tội

Evaṃ vitthāravasena āpattibhedaṃ dassetvā idāni anāpattiṃ dassento ‘‘anāpatti adhimānenā’’tiādimāha. Tattha adhimānenāti adhigatamānena samudācarantassa anāpatti. Anullapanādhippāyassāti kohaññe icchācāre aṭhatvā anullapanādhippāyassa sabrahmacārīnaṃ santike aññaṃ byākarontassa anāpatti. Ummattakādayo pubbe vuttanayāeva. Idha pana ādikammikā vaggumudātīriyā bhikkhū. Tesaṃ anāpattīti.
Sau khi đã chỉ rõ sự phân biệt về tội một cách chi tiết như vậy, bây giờ để chỉ rõ trường hợp không phạm tội, Chú Giải nói bắt đầu bằng ‘Không phạm tội, nếu nói bằng sự tăng thượng mạn’. Ở đó, từ ‘bằng sự tăng thượng mạn’ nghĩa là không phạm tội đối với người nói khoác bằng sự ngã mạn về sự chứng đắc (tin rằng mình đã chứng đắc). Từ ‘Của người không có ý định nói khoác lừa dối’ nghĩa là không phạm tội đối với người không đứng trong sự lừa dối, sự hành xử theo ý muốn, không có ý định nói khoác lừa dối, mà tuyên bố điều mình tin là thật ở gần các bạn đồng phạm hạnh. Trường hợp những người điên và các trường hợp tương tự cũng theo phương pháp đã nói ở trước. Nhưng ở đây, đó là các Tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā phạm lỗi lần đầu trước khi điều học được chế định. Họ không phạm tội.

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.

Sự Giải Thích Phân Tích Từ đã hoàn tất.

Samuṭṭhānādīsu idaṃ sikkhāpadaṃ tisamuṭṭhānaṃ – hatthamuddāya ārocentassa kāyacittato, vacībhedena ārocentassa vācācittato, ubhayaṃ karontassa kāyavācācittato samuṭṭhāti. Kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, tivedanaṃ hasantopi hi somanassiko ullapati bhāyantopi majjhattopīti.
Trong phần nói về sự phát sinh và các yếu tố khác, điều học này có ba cách phát sinh: đối với người báo cho biết bằng dấu tay, tội phát sinh từ thân và tâm; đối với người báo cho biết bằng sự phân biệt lời nói, tội phát sinh từ lời nói và tâm; đối với người làm cả hai, tội phát sinh từ thân, lời nói và tâm. Điều học này là hành động, là sự giải thoát do tưởng (tức là không phải do vô tưởng mà thoát tội), là có tâm đi kèm, là điều thế gian chê cười, là hành động thuộc thân, là hành động thuộc lời nói, phát sinh từ tâm bất thiện, và liên quan đến ba loại cảm thọ. Quả vậy, ngay cả người đang cười cũng nói khoác với tâm hỷ; cả người đang sợ hãi cũng có thể nói khoác với tâm ưu, cả người trung tính cũng có thể nói khoác với tâm xả.

Vinītavatthuvaṇṇanā

Sự Giải Thích Các Sự Việc Đã Được Phân Xử

223. Vinītavatthūsu – adhimānavatthu anupaññattiyaṃ vuttanayameva.
223. Trong các sự việc đã được phân xử – sự việc về sự tăng thượng mạn cũng theo phương pháp đã được nói trong phần chế định bổ sung.

Dutiyavatthusmiṃ – paṇidhāyāti patthanaṃ katvā. Evaṃ maṃ jano sambhāvessatīti evaṃ araññe vasantaṃ maṃ jano arahatte vā sekkhabhūmiyaṃ vā sambhāvessati, tato lokassa sakkato bhavissāmi garukato mānito pūjitoti. Āpatti dukkaṭassāti evaṃ paṇidhāya ‘‘araññe vasissāmī’’ti gacchantassa padavāre padavāre dukkaṭaṃ. Tathā araññe kuṭikaraṇacaṅkamananisīdananivāsanapāvuraṇādīsu sabbakiccesu payoge payoge dukkaṭaṃ. Tasmā evaṃ araññe na vasitabbaṃ. Evaṃ vasanto hi sambhāvanaṃ labhatu vā mā vā dukkaṭaṃ āpajjati. Yo pana samādinnadhutaṅgo ‘‘dhutaṅgaṃ rakkhissāmī’’ti vā ‘‘gāmante me vasato cittaṃ vikkhipati, araññaṃ sappāya’’nti cintetvā vā ‘‘addhā araññe tiṇṇaṃ vivekānaṃ aññataraṃ pāpuṇissāmī’’ti vā ‘‘araññaṃ pavisitvā arahattaṃ apāpuṇitvā na nikkhamissāmī’’ti vā ‘‘araññavāso nāma bhagavatā pasattho, mayi ca araññe vasante bahū sabrahmacārino gāmantaṃ hitvā āraññakā bhavissantī’’ti vā evaṃ anavajjavāsaṃ vasitukāmo hoti, tena vasitabbaṃ.
Trong sự việc thứ hai: từ ‘Sau khi ước nguyện’ nghĩa là sau khi phát nguyện. Câu ‘Dân chúng sẽ kính trọng tôi như vầy’ nghĩa là: ‘Dân chúng sẽ kính trọng tôi, người đang sống trong rừng, ở A-la-hán quả hoặc ở địa vị hữu học; do đó, tôi sẽ trở thành người được thế gian tôn kính, trọng vọng, quý mến, cúng dường’. ‘Phạm tội Tác Ác’ nghĩa là người đi vào rừng với ý nghĩ ‘Tôi sẽ sống trong rừng’ sau khi ước nguyện như vậy, mỗi bước chân đều phạm tội Tác Ác. Tương tự, trong tất cả các công việc ở trong rừng như việc làm lều, kinh hành, ngồi, mặc y, đắp y, và các việc khác, mỗi khi thực hiện đều phạm tội Tác Ác. Do đó, không nên sống trong rừng như vậy với ý định đó. Quả vậy, người sống như vậy, dù có nhận được sự kính trọng hay không, cũng phạm tội Tác Ác. Nhưng người nào đã thọ trì hạnh đầu đà, nghĩ rằng ‘Ta sẽ giữ gìn hạnh đầu đà’, hoặc sau khi suy nghĩ ‘Khi ta sống ở ven làng, tâm bị phân tán; rừng là nơi thích hợp’, hoặc nghĩ rằng ‘Chắc chắn ở trong rừng, ta sẽ đạt được một trong ba sự viễn ly’, hoặc ‘Sau khi vào rừng, nếu không đạt A-la-hán quả, ta sẽ không ra khỏi’, hoặc ‘Đời sống trong rừng đã được Đức Thế Tôn tán thán; và khi ta sống trong rừng, nhiều bạn đồng phạm hạnh sẽ từ bỏ ven làng rồi trở thành những người sống trong rừng’, hoặc người muốn sống đời sống không đáng chê trách như vậy, thì người ấy nên sống trong rừng.

Tatiyavatthusmimpi – ‘‘abhikkantādīni saṇṭhapetvā piṇḍāya carissāmī’’ti nivāsanapārupanakiccato pabhuti yāva bhojanapariyosānaṃ tāva payoge payoge dukkaṭaṃ. Sambhāvanaṃ labhatu vā mā vā dukkaṭameva. Khandhakavattasekhiyavattaparipūraṇatthaṃ pana sabrahmacārīnaṃ diṭṭhānugatiāpajjanatthaṃ vā pāsādikehi abhikkamapaṭikkamādīhi piṇḍāya pavisanto anupavajjo viññūnanti.
Cả trong sự việc thứ ba cũng vậy – nếu nghĩ rằng ‘Sau khi an trú thực hành các oai nghi đi tới và các oai nghi khác, ta sẽ đi khất thực để được kính trọng’, thì từ việc mặc y nội, đắp y cho đến khi kết thúc bữa ăn, mỗi khi thực hiện đều phạm tội Tác Ác. Dù có nhận được sự kính trọng hay không, cũng chắc chắn phạm tội Tác Ác. Nhưng người đi vào làng để khất thực bằng các oai nghi đi tới, lui tới, và các oai nghi khác một cách trang nghiêm, vì mục đích chu toàn các phận sự trong các thiên Luật và các phận sự trong các điều học về sự tu tập, hoặc để làm gương cho các bạn đồng phạm hạnh noi theo, là người không bị các bậc trí chê trách.

Catutthapañcamavatthūsu – ‘‘yo te vihāre vasī’’ti ettha vuttanayeneva ‘‘aha’’nti avuttattā pārājikaṃ natthi. Attupanāyikameva hi samudācarantassa pārājikaṃ vuttaṃ.
Trong sự việc thứ tư và thứ năm – theo phương pháp đã được nói ở trường hợp ‘Người nào đã ở trong tu viện của ngươi’, do từ ‘tôi’ không được nói, nên không phạm tội Bất Cộng Trụ. Quả vậy, tội Bất Cộng Trụ chỉ được nói đối với người nói khoác chính bằng cách quy về mình.

Paṇidhāya caṅkamītiādīni heṭṭhā vuttanayāneva.
Các trường hợp bắt đầu bằng ‘Sau khi ước nguyện rồi kinh hành’ cũng chính theo phương pháp đã được nói ở phần trước.

Saṃyojanavatthusmiṃ – saṃyojanā pahīnātipi ‘‘dasa saṃyojanā pahīnā’’tipi ‘‘ekaṃ saṃyojanaṃ pahīna’’ntipi vadato kilesappahānameva ārocitaṃ hoti, tasmā pārājikaṃ.
Trong sự việc về các kiết sử – người nói ‘Các kiết sử đã được đoạn trừ’, hoặc ‘Mười kiết sử đã được đoạn trừ’, hoặc ‘Một kiết sử đã được đoạn trừ’, người ấy cũng chính là báo cho biết sự đoạn trừ phiền não; do đó, phạm tội Bất Cộng Trụ.

224. Rahovatthūsu – raho ullapatīti ‘‘rahogato arahā aha’’nti vadati, na manasā cintitameva karoti. Tenettha dukkaṭaṃ vuttaṃ.
224. Trong các sự việc ở nơi vắng vẻ: câu ‘Nói khoác ở nơi vắng vẻ’ nghĩa là người ấy nói: ‘Người đã đến nơi vắng vẻ, tôi là A-la-hán’, chứ không phải chỉ làm việc suy nghĩ trong tâm. Do đó, ở đây tội Tác Ác được nói.

Vihāravatthuupaṭṭhānavatthu ca vuttanayameva.
Sự việc về tu viện và sự việc về sự phục dịch cũng theo phương pháp đã nói.

225. Na dukkaravatthusmiṃ – tassa bhikkhuno ayaṃ laddhi – ‘‘ariyapuggalāva bhagavato sāvakā’’ti. Tenāha – ‘‘ye kho te bhagavato sāvakā te evaṃ vadeyyu’’nti. Yasmā cassa ayamadhippāyo – ‘‘sīlavatā āraddhavipassakena na dukkaraṃ aññaṃ byākātuṃ, paṭibalo so arahattaṃ pāpuṇitu’’nti. Tasmā ‘‘anullapanādhippāyo aha’’nti āha.
225. Trong sự việc ‘không phải là khó làm’ – Tỳ khưu ấy có chủ thuyết này: ‘Chỉ các bậc Thánh nhân là đệ tử của Đức Thế Tôn’. Do đó, vị ấy nói: ‘Những vị nào là đệ tử của Đức Thế Tôn, các vị ấy nên nói như vậy’. Bởi vì ý định của vị ấy là như vầy: ‘Đối với người có giới, đã bắt đầu tu tập minh sát, không khó để tuyên bố trí tuệ cao siêu; người ấy có khả năng đạt đến A-la-hán quả’. Do đó, vị ấy nói: ‘Tôi là người không có ý định nói khoác lừa dối’.

Vīriyavatthusmiṃ ārādhanīyoti sakkā ārādhetuṃ sampādetuṃ nibbattetunti attho. Sesaṃ vuttanayameva.
Trong sự việc về sự tinh tấn, từ ‘Có thể làm cho thành tựu’ có nghĩa là có thể làm cho thành tựu, hoàn thành, làm phát sinh. Phần còn lại theo phương pháp đã nói.

Maccuvatthusmiṃ so bhikkhu ‘‘yassa vippaṭisāro uppajjati, so bhāyeyya. Mayhaṃ pana avippaṭisāravatthukāni parisuddhāni sīlāni, svāhaṃ kiṃ maraṇassa bhāyissāmī’’ti etamatthavasaṃ paṭicca ‘‘nāhaṃ āvuso maccuno bhāyāmī’’ti āha. Tenassa anāpatti.
Trong sự việc về cái chết, Tỳ khưu ấy nghĩ rằng: ‘Người nào có sự hối hận phát sinh, người ấy nên sợ hãi. Nhưng đối với tôi, có những điều không gây hối hận làm nền tảng, các giới trong sạch; vậy tôi sợ gì cái chết?’, dựa vào lợi ích ý nghĩa này, vị ấy đã nói: ‘Này hiền giả, tôi không sợ cái chết’. Do đó, vị ấy không phạm tội.

Vippaṭisāravatthusmimpi eseva nayo. Tato parāni tīṇi vatthūni vīriyavatthusadisāneva.
Cả trong sự việc về sự hối hận cũng theo phương pháp này. Ba sự việc sau đó cũng tương tự như sự việc về sự tinh tấn.

Vedanāvatthūsupaṭhamasmiṃ tāva so bhikkhu paṭisaṅkhānabalena adhivāsanakhantiyaṃ ṭhatvā ‘‘nāvuso sakkā yena vā tena vā adhivāsetu’’nti āha. Tenassa anāpatti.
Trong các sự việc về cảm thọ, trước tiên ở sự việc thứ nhất, Tỳ khưu ấy, sau khi đứng trong sự kham nhẫn chịu đựng bằng sức mạnh của sự quán xét, đã nói: ‘Này hiền giả, không thể chịu đựng bởi bất cứ ai một cách dễ dàng’. Do đó, vị ấy không phạm tội.

Dutiye pana attupanāyikaṃ akatvā ‘‘nāvuso sakkā puthujjanenā’’ti pariyāyena vuttattā thullaccayaṃ.
Còn ở sự việc thứ hai, do không quy về mình mà nói một cách gián tiếp: ‘Này hiền giả, không thể chịu đựng bởi phàm phu’, vị ấy phạm tội Trọng Tội.

226.Brāhmaṇavatthūsuso kira brāhmaṇo na kevalaṃ ‘‘āyantu bhonto arahanto’’ti āha. Yaṃ yaṃ panassa vacanaṃ mukhato niggacchati, sabbaṃ ‘‘arahantānaṃ āsanāni paññapetha, pādodakaṃ detha, arahanto pāde dhovantū’’ti arahantavādapaṭisaṃyuttaṃyeva. Taṃ panassa pasādabhaññaṃ saddhācaritattā attano saddhābalena samussāhitassa vacanaṃ. Tasmā bhagavā ‘‘anāpatti, bhikkhave, pasādabhaññe’’ti āha. Evaṃ vuccamānena pana bhikkhunā na haṭṭhatuṭṭheneva paccayā paribhuñjitabbā, ‘‘arahattasampāpikaṃ paṭipadaṃ paripūressāmī’’ti evaṃ yogo karaṇīyoti.
226. Trong các sự việc về Bà-la-môn, hình như vị Bà-la-môn ấy không chỉ nói: ‘Xin các bậc A-la-hán tôn quý hãy đến’. Mà bất cứ lời nói nào thốt ra từ miệng của vị ấy, tất cả chỉ liên quan đến lời nói về A-la-hán như: ‘Hãy sửa soạn chỗ ngồi cho các vị A-la-hán, hãy dâng nước rửa chân, các vị A-la-hán hãy rửa chân’. Nhưng đó là lời nói do niềm tin của vị ấy, lời nói của người được khích lệ bằng sức mạnh của niềm tin, do có tính cách tin tưởng. Do đó, Đức Thế Tôn đã nói: ‘Này các Tỳ khưu, không phạm tội trong lời nói do niềm tin’. Nhưng Tỳ khưu được nói như vậy không nên chỉ dùng các vật dụng với tâm vui vẻ, hoan hỷ. Mà cần phải nỗ lực như vầy: ‘Ta sẽ chu toàn con đường dẫn đến A-la-hán quả’.

Aññabyākaraṇavatthūnisaṃyojanavatthusadisāneva. Agāravatthusmiṃ so bhikkhu gihibhāve anatthikatāya anapekkhatāya ‘‘abhabbo kho āvuso mādiso’’ti āha, na ullapanādhippāyena. Tenassa anāpatti.
Các sự việc về sự tuyên bố trí tuệ cao siêu cũng chính tương tự như sự việc về các kiết sử. Trong sự việc về sự không tôn kính (hoặc không muốn đời sống tại gia), Tỳ khưu ấy, do không thấy lợi ích trong đời sống tại gia, do không quyến luyến, đã nói: ‘Này hiền giả, người như tôi quả thật không có khả năng trở lại đời sống tại gia’, chứ không phải với ý định nói khoác. Do đó, vị ấy không phạm tội.

227.Āvaṭakāmavatthusmiṃ so bhikkhu vatthukāmesu ca kilesakāmesu ca lokiyeneva ādīnavadassanena nirapekkho. Tasmā ‘‘āvaṭā me āvuso kāmā’’ti āha. Tenassa anāpatti. Ettha ca āvaṭāti āvāritā nivāritā, paṭikkhittāti attho.
227. Trong sự việc về các dục đã được che đậy, Tỳ khưu ấy không quyến luyến trong các dục trần và các dục phiền não chỉ bằng sự thấy nguy hại theo thế gian. Do đó, vị ấy nói: ‘Này hiền giả, các dục của tôi đã được che đậy’. Do đó, vị ấy không phạm tội. Và ở đây, từ ‘đã được che đậy’ có nghĩa là đã được ngăn che, đã được ngăn cản, đã được từ bỏ.

Abhirativatthusmiṃ so bhikkhu sāsane anukkaṇṭhitabhāvena uddesaparipucchādīsu ca abhiratabhāvena ‘‘abhirato ahaṃ āvuso paramāya abhiratiyā’’ti āha, na ullapanādhippāyena. Tenassa anāpatti.
Trong sự việc về sự hoan hỷ, Tỳ khưu ấy, do tình trạng không chán nản trong giáo pháp và do tình trạng hoan hỷ trong việc học thuộc lòng, hỏi han, và các việc khác, đã nói: ‘Này hiền giả, tôi hoan hỷ với sự hoan hỷ tột bậc’, chứ không phải với ý định nói khoác. Do đó, vị ấy không phạm tội.

Pakkamanavatthusmiṃ yo imamhā āvāsā paṭhamaṃ pakkamissatīti evaṃ āvāsaṃ vā maṇḍapaṃ vā sīmaṃ vā yaṃkiñci ṭhānaṃ paricchinditvā katāya katikāya yo ‘‘maṃ arahāti jānantū’’ti tamhā ṭhānā paṭhamaṃ pakkamati, pārājiko hoti. Yo pana ācariyupajjhāyānaṃ vā kiccena mātāpitūnaṃ vā kenacideva karaṇīyena bhikkhācāratthaṃ vā uddesaparipucchānaṃ vā atthāya aññena vā tādisena karaṇīyena taṃ ṭhānaṃ atikkamitvā gacchati, anāpatti. Sacepissa evaṃ gatassa pacchā icchācāro uppajjati ‘‘na dānāhaṃ tattha gamissāmi evaṃ maṃ arahāti sambhāvessantī’’ti anāpattiyeva.
Trong sự việc về việc ra đi, trong câu ‘Người nào sẽ ra đi khỏi trú xứ này trước tiên’: như vậy, trong giao ước đã được làm sau khi đã xác định ranh giới trú xứ, hoặc nhà nghỉ, hoặc khu vực giới hạn, hoặc bất kỳ nơi nào, người nào ra đi khỏi nơi đó trước tiên với ý nghĩ ‘Mong rằng họ biết tôi là A-la-hán’, người ấy là người phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng người nào đi vượt qua nơi đó do công việc của thầy giáo thọ hoặc thầy tế độ, hoặc do một việc cần làm nào đó cho cha mẹ, hoặc vì mục đích khất thực, hoặc vì mục đích học thuộc lòng, hỏi han, hoặc do một việc cần làm tương tự khác, thì không phạm tội. Ngay cả nếu sau khi đã đi như vậy, ý muốn xấu phát sinh nơi vị ấy rằng ‘Bây giờ ta sẽ không đi đến đó nữa, như vậy họ sẽ kính trọng ta là A-la-hán’, cũng chắc chắn không phạm tội.

Yopi kenacideva karaṇīyena taṃ ṭhānaṃ patvā sajjhāyamanasikārādivasena aññavihito vā hutvā corādīhi vā anubaddho meghaṃ vā uṭṭhitaṃ disvā anovassakaṃ pavisitukāmo taṃ ṭhānaṃ atikkamati, anāpatti. Yānena vā iddhiyā vā gacchantopi pārājikaṃ nāpajjati, padagamaneneva āpajjati. Tampi yehi saha katikā katā, tehi saddhiṃ apubbaṃacarimaṃ gacchanto nāpajjati. Evaṃ gacchantā hi sabbepi aññamaññaṃ rakkhanti. Sacepi maṇḍaparukkhamūlādīsu kiñci ṭhānaṃ paricchinditvā ‘‘yo ettha nisīdati vā caṅkamati vā, taṃ arahāti jānissāma’’ pupphāni vā ṭhapetvā ‘‘yo imāni gahetvā pūjaṃ karissati, taṃ arahāti jānissāmā’’tiādinā nayena katikā katā hoti, tatrāpi icchācāravasena tathā karontassa pārājikameva. Sacepi upāsakena antarāmagge vihāro vā kato hoti, cīvarādīni vā ṭhapitāni honti, ‘‘ye arahanto te imasmiṃ vihāre vasantu, cīvarādīni ca gaṇhantū’’ti. Tatrāpi icchācāravasena vasantassa vā cīvarādīni vā gaṇhantassa pārājikameva . Etaṃ pana adhammikakatikavattaṃ , tasmā na kātabbaṃ, aññaṃ vā evarūpaṃ ‘‘imasmiṃ temāsabbhantare sabbeva āraññakā hontu, piṇḍapātikaṅgādiavasesadhutaṅgadharā vā atha vā sabbeva khīṇāsavā hontū’’ti evamādi. Nānāverajjakā hi bhikkhū sannipatanti. Tattha keci dubbalā appathāmā evarūpaṃ vattaṃ anupāletuṃ na sakkonti. Tasmā evarūpampi vattaṃ na kātabbaṃ. ‘‘Imaṃ temāsaṃ sabbeheva na uddisitabbaṃ, na paripucchitabbaṃ, na pabbājetabbaṃ, mūgabbataṃ gaṇhitabbaṃ, bahi sīmaṭṭhassāpi saṅghalābho dātabbo’’ti evamādikaṃ pana na kātabbameva.
Vị nào, do bất cứ công việc gì, đến chỗ ấy, rồi hoặc do bận việc đọc tụng, tác ý, v.v., hoặc bị trộm cướp, v.v. rượt đuổi, hoặc thấy mây kéo lên muốn vào nơi không mưa mà đi quá chỗ ấy, thì vô tội. Người đi bằng xe hoặc bằng thần thông cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ, chỉ khi đi bộ mới phạm. Người ấy, nếu đi cùng với những người đã giao ước, đi không trước không sau, thì không phạm. Bởi vì những người đi như vậy đều bảo vệ lẫn nhau. Nếu đã giao ước bằng cách khoanh vùng một nơi nào đó trong nhà tròn, dưới gốc cây, v.v. rằng: ‘Vị nào ngồi hoặc đi kinh hành ở đây, chúng ta sẽ biết vị ấy là bậc A-la-hán,’ hoặc đặt hoa rồi giao ước rằng: ‘Vị nào lấy những bông hoa này để cúng dường, chúng ta sẽ biết vị ấy là bậc A-la-hán,’ theo cách như vậy, thì trong trường hợp đó, người làm như vậy theo ý muốn của mình cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu người cận sự nam có xây dựng một ngôi tịnh xá giữa đường, hoặc có đặt để y phục, v.v. với ý nghĩ rằng: “Những vị A-la-hán nào thì hãy ở trong tịnh xá này, và hãy nhận lấy y phục, v.v.”. Trong trường hợp đó, người ở lại hoặc nhận y phục, v.v. theo ý muốn của mình cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Tuy nhiên, đây là một quy định giao ước không đúng Pháp, vì vậy không nên thực hiện; hoặc những quy định tương tự khác như: “Trong ba tháng này, tất cả hãy là những vị ở rừng, hoặc những vị giữ hạnh đầu đà khất thực, v.v., hoặc tất cả hãy là những bậc Lậu Tận,” v.v. Bởi vì các Tỳ-khưu có nhiều sự khác biệt về nghị lực thường tụ họp lại. Trong số đó, một số vị yếu đuối, ít sức lực, không thể tuân theo quy định như vậy. Vì vậy, quy định như vậy cũng không nên thực hiện. Còn những điều như: “Trong ba tháng này, tất cả không được trùng tuyên, không được hỏi han, không được cho xuất gia, phải giữ hạnh im lặng, và lợi lộc của Tăng chúng cũng phải chia cho người ở ngoài giới,” v.v., thì tuyệt đối không nên thực hiện.

228.Lakkhaṇasaṃyutte yvāyaṃ āyasmā ca lakkhaṇoti lakkhaṇatthero vutto, esa jaṭilasahassassa abbhantare ehibhikkhūpasampadāya upasampanno ādittapariyāyāvasāne arahattappatto eko mahāsāvakoti veditabbo. Yasmā panesa lakkhaṇasampannena sabbākāraparipūrena brahmasamena attabhāvena samannāgato, tasmā lakkhaṇoti saṅkhaṃ gato. Mahāmoggallānatthero pana pabbajitadivasato sattame divase arahattappatto dutiyo aggasāvako.
228. Trong Tương Ưng Tướng, vị được gọi là Trưởng lão Lakkhaṇa chính là Trưởng lão Lakkhaṇa. Ngài được biết đến là một vị Đại đệ tử, đã xuất gia bằng nghi thức “Thiện lai Tỳ-khưu” giữa một ngàn vị đạo sĩ bện tóc, và đã chứng đắc A-la-hán vào cuối bài kinh Lửa Cháy. Bởi vì ngài sở hữu một thân thể có đầy đủ các tướng tốt, viên mãn mọi phương diện, thanh tịnh như Phạm thiên, nên ngài được gọi là Lakkhaṇa (Tướng). Còn Trưởng lão Mahāmoggallāna là vị Thượng thủ đệ tử thứ hai, đã chứng đắc A-la-hán vào ngày thứ bảy sau khi xuất gia.

Sitaṃ pātvākāsīti mandahasitaṃ pātuakāsi, pakāsayi dassesīti vuttaṃ hoti. Kiṃ pana disvā thero sitaṃ pātvākāsīti? Upari pāḷiyaṃ āgataṃ aṭṭhikasaṅkhalikaṃ ekaṃ petaloke nibbattaṃ sattaṃ disvā, tañca kho dibbena cakkhunā, na pasādacakkhunā. Pasādacakkhussa hi ete attabhāvā na āpāthaṃ āgacchanti. Evarūpaṃ pana attabhāvaṃ disvā kāruññe kātabbe kasmā sitaṃ pātvākāsīti? Attano ca buddhañāṇassa ca sampattisamanussaraṇato. Tañhi disvā thero ‘‘adiṭṭhasaccena nāma puggalena paṭilabhitabbā evarūpā attabhāvā mutto ahaṃ, lābhā vata me, suladdhaṃ vata me’’ti attano ca sampattiṃ anussaritvā ‘‘aho buddhassa bhagavato ñāṇasampatti, yo ‘kammavipāko, bhikkhave, acinteyyo; na cintetabbo’ti (a. ni. 4.77) desesi, paccakkhaṃ vata katvā buddhā desenti, suppaṭividdhā buddhānaṃ dhammadhātū’’ti evaṃ buddhañāṇasampattiñca saritvā sitaṃ pātvākāsīti. Yasmā pana khīṇāsavā nāma na akāraṇā sitaṃ pātukaronti, tasmā taṃ lakkhaṇatthero pucchi – ‘‘ko nu kho āvuso moggallāna hetu, ko paccayo sitassa pātukammāyā’’ti. Thero pana yasmā yehi ayaṃ upapatti sāmaṃ adiṭṭhā, te dussaddhāpayā honti, tasmā bhagavantaṃ sakkhiṃ katvā byākātukāmatāya ‘‘akālo kho, āvuso’’tiādimāha . Tato bhagavato santike puṭṭho ‘‘idhāhaṃ āvuso’’tiādinā nayena byākāsi.
Ngài mỉm cười có nghĩa là ngài đã nở một nụ cười nhẹ, đã biểu lộ, đã cho thấy. Vậy, Trưởng lão đã thấy gì mà mỉm cười? Thấy một chúng sanh bộ xương khô, sanh trong cõi ngạ quỷ, được đề cập ở phần trên trong Thánh điển, và thấy bằng thiên nhãn, chứ không phải bằng mắt thường. Vì những thân hình này không hiện ra trong tầm nhìn của mắt thường. Thấy một thân hình như vậy, đáng lẽ phải khởi lòng bi mẫn, tại sao ngài lại mỉm cười? Do vì ngài nhớ lại sự thành tựu của bản thân và của Phật trí. Khi thấy điều đó, Trưởng lão nhớ lại sự thành tựu của mình rằng: “Những thân hình như thế này là do hạng người chưa thấy chân lý phải gánh chịu, ta đã được giải thoát. Thật là lợi ích cho ta! Thật là may mắn cho ta!” Rồi ngài lại nhớ đến sự thành tựu Phật trí rằng: “Ôi, sự thành tựu trí tuệ của Đức Phật, Đấng Thế Tôn, người đã thuyết giảng rằng: ‘Này các Tỳ-khưu, quả báo của nghiệp là không thể nghĩ bàn, không nên suy nghĩ đến’ (a. ni. 4.77)! Chư Phật thuyết giảng sau khi đã tự mình chứng ngộ. Pháp giới đã được chư Phật thấu suốt!” Vì vậy, ngài mỉm cười. Bởi vì các bậc Lậu Tận không mỉm cười vô cớ, nên Trưởng lão Lakkhaṇa đã hỏi ngài: “Này hiền giả Moggallāna, do nhân gì, do duyên gì mà ngài mỉm cười?” Vị Trưởng lão, vì những người chưa từng tự mình thấy sự tái sanh này thì khó làm cho họ tin, nên với ý muốn giải thích có Đức Thế Tôn làm chứng, ngài đã nói: “Này hiền giả, chưa phải lúc,” v.v. Sau đó, khi được hỏi trước sự hiện diện của Đức Thế Tôn, ngài đã giải thích theo cách: “Này hiền giả, ở đây tôi,” v.v.

Tattha aṭṭhikasaṅkhalikanti setaṃ nimmaṃsalohitaṃ aṭṭhisaṅghātaṃ. Gijjhāpi kākāpi kulalāpīti etepi yakkhagijjhā ceva yakkhakākā ca yakkhakulalā ca paccetabbā. Pākatikānaṃ pana gijjhādīnaṃ āpāthampi etaṃ rūpaṃ nāgacchati. Anupatitvā anupatitvāti anubandhitvā anubandhitvā. Vituḍentīti vinivijjhitvā gacchanti. Vitudentīti vā pāṭho, asidhārūpamehi tikhiṇehi lohatuṇḍehi vijjhantīti attho. Sā sudaṃ aṭṭassaraṃ karotīti ettha sudanti nipāto, sā aṭṭhikasaṅkhalikā aṭṭassaraṃ āturassaraṃ karotīti attho. Akusalavipākānubhavanatthaṃ kira yojanappamāṇāpi tādisā attabhāvā nibbattanti, pasādussadā ca honti pakkagaṇḍasadisā; tasmā sā aṭṭhikasaṅkhalikā balavavedanāturā tādisaṃ saramakāsīti. Evañca pana vatvā puna āyasmā mahāmoggallāno ‘‘vaṭṭagāmikasattā nāma evarūpā attabhāvā na muccantī’’ti sattesu kāruññaṃ paṭicca uppannaṃ dhammasaṃvegaṃ dassento ‘‘tassa mayhaṃ āvuso etadahosi; acchariyaṃ vata bho’’tiādimāha.
Trong đó, bộ xương khô nghĩa là một khối xương trắng, không thịt không máu. Cả kên kên, cả quạ, cả diều hâu ở đây nên được hiểu là kên kên dạ xoa, quạ dạ xoa và diều hâu dạ xoa. Vì hình dạng này thậm chí không xuất hiện trong tầm nhìn của các loài kên kên, v.v. thông thường. Theo sát, theo sát nghĩa là rượt đuổi, rượt đuổi. Mổ, xé nghĩa là chúng đâm xuyên qua rồi bay đi. Hoặc cũng có bản đọc là ‘vitudenti’, nghĩa là chúng mổ bằng những cái mỏ sắt bén nhọn như lưỡi gươm. Trong câu Nó phát ra tiếng kêu đau đớn, từ sudaṃ là một bất biến từ; nghĩa là bộ xương khô đó phát ra tiếng kêu đau đớn, tiếng kêu thống khổ. Nghe nói, để chịu quả báo của nghiệp bất thiện, những thân hình như vậy, thậm chí có kích thước cả do tuần, cũng hiện hữu, và chúng nổi lên như những mụn nhọt chín muồi; do đó, bộ xương khô đó, đau đớn vì cảm thọ mãnh liệt, đã phát ra tiếng kêu như vậy. Và sau khi nói như vậy, Trưởng lão Mahāmoggallāna, để biểu lộ sự chấn động tâm linh về Pháp phát sinh từ lòng bi mẫn đối với chúng sanh rằng “Những chúng sanh ở làng Vaṭṭa quả thật không thoát khỏi những thân hình như vậy,” đã nói: “Này hiền giả, lúc đó tôi đã nghĩ thế này: Thật là kỳ diệu thay!” v.v.

Bhikkhū ujjhāyantīti yesaṃ sā petūpapatti appaccakkhā, te ujjhāyanti . Bhagavā pana therassānubhāvaṃ pakāsento ‘‘cakkhubhūtā vata bhikkhave sāvakā viharantī’’tiādimāha. Tattha cakkhu bhūtaṃ jātaṃ uppannaṃ tesanti cakkhubhūtā; bhūtacakkhukā uppannacakkhukā, cakkhuṃ uppādetvā, viharantīti attho. Dutiyapadepi eseva nayo. Yatra hi nāmāti ettha yatrāti kāraṇavacanaṃ. Tatrāyamatthayojanā; yasmā nāma sāvakopi evarūpaṃ ñassati vā dakkhati vā sakkhiṃ vā karissati, tasmā avocumha – ‘‘cakkhubhūtā vata bhikkhave sāvakā viharanti, ñāṇabhūtā vata bhikkhave sāvakā viharantī’’ti.
Các Tỳ-khưu phàn nàn nghĩa là những vị mà sự tái sanh thành ngạ quỷ đó không hiển nhiên đối với họ, thì họ phàn nàn. Còn Đức Thế Tôn, để tuyên dương oai lực của vị Trưởng lão, đã nói: “Này các Tỳ-khưu, các đệ tử trú với mắt đã trở thành (mắt trí tuệ)!” v.v. Trong đó, có mắt đã trở thành nghĩa là những vị có mắt đã được sanh khởi, đã được phát sanh; nghĩa là, họ trú, sau khi đã phát sanh con mắt (trí tuệ). Đối với cụm từ thứ hai (có trí đã trở thành) cũng theo cách tương tự. Trong cụm từ Yatra hi nāma, từ yatra có nghĩa là “bởi vì, do đó”. Cách giải thích ý nghĩa ở đây là: Bởi vì một vị đệ tử cũng có thể biết, hoặc thấy, hoặc chứng thực một điều như vậy, do đó Chúng ta đã nói: “Này các Tỳ-khưu, các đệ tử trú với mắt đã trở thành! Này các Tỳ-khưu, các đệ tử trú với trí đã trở thành!”

Pubbeva me so bhikkhave satto diṭṭhoti bodhimaṇḍe sabbaññutañāṇappaṭivedhena appamāṇesu cakkavāḷesu appamāṇe sattanikāye bhavagatiyoniṭhitinivāse ca paccakkhaṃ karontena mayā pubbeva so satto diṭṭhoti vadati.
Câu “Này các Tỳ-khưu, chúng sanh đó đã được Ta thấy từ trước” có nghĩa là: Ta, người đã chứng ngộ Nhất thiết trí tại Bồ-đề đàn, đã tự mình thấy rõ vô số chúng sanh trong vô số thế giới, trong các cảnh giới, các nẻo sanh, các nơi dừng chân, các nơi ở, nên Ta nói rằng chúng sanh đó đã được Ta thấy từ trước.

Goghātakoti gāvo vadhitvā vadhitvā aṭṭhito maṃsaṃ mocetvā vikkiṇitvā jīvikakappanakasatto. Tasseva kammassa vipākāvasesenāti tassa nānācetanāhi āyūhitassa aparāpariyakammassa. Tatra hi yāya cetanāya narake paṭisandhi janitā, tassā vipāke parikkhīṇe avasesakammaṃ vā kammanimittaṃ vā ārammaṇaṃ katvā puna petādīsu paṭisandhi nibbattati, tasmā sā paṭisandhi kammasabhāgatāya vā ārammaṇasabhāgatāya vā ‘‘tasseva kammassa vipākāvaseso’’ti vuccati. Ayañca satto evaṃ upapanno. Tenāha – ‘‘tasseva kammassa vipākāvasesenā’’ti. Tassa kira narakā cavanakāle nimmaṃsakatānaṃ gunnaṃ aṭṭhirāsi eva nimittaṃ ahosi. So paṭicchannampi taṃ kammaṃ viññūnaṃ pākaṭaṃ viya karonto aṭṭhisaṅkhalikapeto jāto.
Người đồ tể là chúng sanh giết bò, lóc thịt, bán thịt để sinh sống. Do quả báo còn sót lại của nghiệp ấy nghĩa là của nghiệp nối tiếp được tạo ra bởi nhiều tư tâm khác nhau của người ấy. Bởi vì, ở đó, khi tư tâm nào đã tạo ra sự tái sanh trong địa ngục, và quả báo của tư tâm ấy đã hết, thì nghiệp còn sót lại hoặc tướng của nghiệp lại làm đối tượng để tái sanh vào loài ngạ quỷ, v.v. Do đó, sự tái sanh ấy, do tính tương đồng của nghiệp hoặc tính tương đồng của đối tượng, được gọi là “quả báo còn sót lại của nghiệp ấy”. Và chúng sanh này đã sanh ra như vậy. Vì thế, nói rằng – “do quả báo còn sót lại của nghiệp ấy”. Nghe nói, vào lúc người ấy chết từ địa ngục, tướng hiện ra chính là một đống xương của những con bò đã bị lóc hết thịt. Người ấy, dù nghiệp đó đã được che giấu, nhưng đã làm cho nó hiện rõ như đối với người trí, nên đã sanh làm ngạ quỷ bộ xương khô.

229. Maṃsapesivatthusmiṃ goghātakoti gomaṃsapesiyo katvā sukkhāpetvā vallūravikkayena anekāni vassāni jīvikaṃ kappesi. Tenassa narakā cavanakāle maṃsapesiyeva nimittaṃ ahosi. So maṃsapesipeto jāto.
229. Trong câu chuyện về miếng thịt, người đồ tể là người đã làm những miếng thịt bò, phơi khô, rồi bán thịt khô để sinh sống trong nhiều năm. Do đó, vào lúc người ấy chết từ địa ngục, chính miếng thịt đã là tướng hiện ra. Người ấy sanh làm ngạ quỷ miếng thịt.

Maṃsapiṇḍavatthusmiṃ so sākuṇiko sakuṇe gahetvā vikkiṇanakāle nippakkhacamme maṃsapiṇḍamatte katvā vikkiṇanto jīvikaṃ kappesi. Tenassa narakā cavanakāle maṃsapiṇḍova nimittaṃ ahosi. So maṃsapiṇḍapeto jāto.
Trong câu chuyện về cục thịt, người bẫy chim đó, sau khi bắt chim, lúc bán đã lột da, vặt lông, chỉ còn lại cục thịt rồi bán để sinh sống. Do đó, vào lúc người ấy chết từ địa ngục, chính cục thịt đã là tướng hiện ra. Người ấy sanh làm ngạ quỷ cục thịt.

Nicchavivatthusmiṃ tassa orabbhikassa eḷake vadhitvā niccamme katvā kappitajīvikassa purimanayeneva niccammaṃ eḷakasarīraṃ nimittamahosi. So nicchavipeto jāto.
Trong câu chuyện về người không da, người đồ tể cừu đó đã giết cừu, lột da để sinh sống; theo cách như trước, thân cừu không da đã là tướng hiện ra. Người ấy sanh làm ngạ quỷ không da.

Asilomavatthusmiṃ so sūkariko dīgharattaṃ nivāpapuṭṭhe sūkare asinā vadhitvā vadhitvā dīgharattaṃ jīvikaṃ kappesi. Tenassa ukkhittāsikabhāvova nimittaṃ ahosi. Tasmā asilomapeto jāto.
Trong câu chuyện về lông kiếm, người đồ tể heo đó, trong thời gian dài, đã dùng gươm giết những con heo được nuôi bằng thức ăn thừa, cứ giết mãi để sinh sống trong thời gian dài. Do đó, chính trạng thái đang giơ gươm lên đã là tướng hiện ra cho người ấy. Vì vậy, người ấy sanh làm ngạ quỷ lông kiếm.

Sattilomavatthusmiṃ so māgaviko ekaṃ migañca sattiñca gahetvā vanaṃ gantvā tassa migassa samīpaṃ āgatāgate mige sattiyā vijjhitvā māresi, tassa sattiyā vijjhanakabhāvoyeva nimittaṃ ahosi. Tasmā sattilomapeto jāto.
Trong câu chuyện về lông giáo, người thợ săn đó, mang theo một con nai (làm mồi) và một cây giáo, đi vào rừng, rồi dùng giáo đâm chết những con nai đến gần con nai mồi; chính trạng thái đâm bằng giáo đã là tướng hiện ra cho người ấy. Vì vậy, người ấy sanh làm ngạ quỷ lông giáo.

Usulomavatthusmiṃ kāraṇikoti rājāparādhike anekāhi kāraṇāhi pīḷetvā avasāne kaṇḍena vijjhitvā māraṇakapuriso. So kira asukasmiṃ padese viddho maratīti ñatvāva vijjhati. Tassevaṃ jīvikaṃ kappetvā narake uppannassa tato pakkāvasesena idhūpapattikāle usunā vijjhanabhāvoyeva nimittaṃ ahosi. Tasmā usulomapeto jāto.
Trong câu chuyện về lông tên, người tra tấn là người hành hạ những kẻ phạm tội với vua bằng nhiều cách tra tấn, cuối cùng dùng tên bắn chết. Nghe nói, người ấy biết rằng bắn vào chỗ nào đó thì kẻ đó sẽ chết, rồi mới bắn. Người ấy, sau khi sinh sống như vậy và sanh vào địa ngục, do quả báo còn sót lại, vào lúc tái sanh ở đây, chính trạng thái bắn bằng tên đã là tướng hiện ra. Vì vậy, người ấy sanh làm ngạ quỷ lông tên.

Sūcilomavatthusmiṃ sārathīti assadamako. Godamakotipi kurundaṭṭhakathāyaṃvuttaṃ. Tassa patodasūciyā vijjhanabhāvoyeva nimittaṃ ahosi. Tasmā sūcilomapeto jāto.
Trong câu chuyện về lông kim, người đánh xe là người huấn luyện ngựa. Trong Chú giải Kurunda cũng nói là người huấn luyện bò. Chính trạng thái đâm bằng kim nhọn (dùng để thúc ngựa/bò) đã là tướng hiện ra cho người ấy. Vì vậy, người ấy sanh làm ngạ quỷ lông kim.

Dutiyasūcilomavatthusmiṃ sūcakoti pesuññakārako . So kira manusse aññamaññañca bhindi. Rājakule ca ‘‘imassa imaṃ nāma atthi, iminā idaṃ nāma kata’’nti sūcetvā sūcetvā anayabyasanaṃ pāpesi. Tasmā yathānena sūcetvā manussā bhinnā, tathā sūcīhi bhedanadukkhaṃ paccanubhotuṃ kammameva nimittaṃ katvā sūcilomapeto jāto.
Trong câu chuyện thứ hai về lông kim, người mách lẻo là người nói lời đâm thọc. Nghe nói, người ấy đã chia rẽ người khác với nhau. Và trong hoàng tộc, người ấy cứ mách lẻo rằng “người này có thứ này, người kia đã làm việc kia”, gây ra tai họa và bất hạnh. Vì vậy, cũng như cách người ấy mách lẻo làm cho người ta chia rẽ, thì nghiệp chính là tướng hiện ra để người ấy phải chịu đựng nỗi khổ bị kim đâm, nên sanh làm ngạ quỷ lông kim.

Aṇḍabhāritavatthusmiṃ gāmakūṭoti vinicchayāmacco. Tassa kammasabhāgatāya kumbhamattā mahāghaṭappamāṇā aṇḍā ahesuṃ. So hi yasmā raho paṭicchanna ṭhāne lañjaṃ gahetvā kūṭavinicchayena pākaṭaṃ dosaṃ karonto sāmike assāmike akāsi. Tasmāssa rahassaṃ aṅgaṃ pākaṭaṃ nibbattaṃ. Yasmā daṇḍaṃ paṭṭhapento paresaṃ asayhaṃ bhāraṃ āropesi, tasmāssa rahassaṅgaṃ asayhabhāro hutvā nibbattaṃ. Yasmā yasmiṃ ṭhāne ṭhitena samena bhavitabbaṃ, tasmiṃ ṭhatvā visamo ahosi, tasmāssa rahassaṅge visamā nisajjā ahosīti.
Trong câu chuyện về người mang tinh hoàn, kẻ gian lận trong làng là vị quan xét xử. Do tính tương đồng của nghiệp, tinh hoàn của người ấy lớn bằng cái bình, bằng cái lu lớn. Bởi vì người ấy, ở nơi kín đáo, bí mật nhận hối lộ, rồi bằng sự xét xử gian dối, đã gây ra lỗi lầm rõ ràng, biến người có chủ thành không chủ. Vì vậy, bộ phận kín của người ấy đã sanh ra một cách rõ ràng (lớn). Bởi vì khi áp đặt hình phạt, người ấy đã đặt gánh nặng không thể chịu đựng nổi lên người khác, do đó bộ phận kín của người ấy đã sanh ra thành một gánh nặng không thể chịu đựng nổi. Bởi vì ở nơi lẽ ra phải công bằng, người ấy lại không công bằng, do đó, việc ngồi của người ấy trên bộ phận kín đó trở nên không cân đối (khó khăn).

Pāradārikavatthusmiṃ so satto parassa rakkhitaṃ gopitaṃ sassāmikaṃ phassaṃ phusanto mīḷhasukhena kāmasukhena cittaṃ ramayitvā kammasabhāgatāya gūthaphassaṃ phusanto dukkhamanubhavituṃ tattha nibbatto. Duṭṭhabrāhmaṇavatthu pākaṭameva.
Trong câu chuyện về người ngoại tình, chúng sanh đó, khi tiếp xúc với sự đụng chạm được người khác giữ gìn, bảo vệ, có chủ, đã làm cho tâm vui thích với lạc thú thấp hèn, lạc thú dục vọng, nên do tính tương đồng của nghiệp, đã sanh về đó để chịu khổ, phải tiếp xúc với sự đụng chạm của phân uế. Câu chuyện về Bà-la-môn ác độc thì đã rõ ràng.

230.Nicchavitthivatthusmiṃ yasmā mātugāmo nāma attano phasse anissaro, sā ca taṃ sāmikassa santakaṃ phassaṃ thenetvā paresaṃ abhiratiṃ uppādesi, tasmā kammasabhāgatāya sukhasamphassā dhaṃsitvā dukkhasamphassaṃ anubhavituṃ nicchavitthī hutvā upapannā.
230. Trong câu chuyện về người phụ nữ không da, bởi vì người nữ thường không làm chủ được sự đụng chạm của mình, và người phụ nữ ấy đã trộm sự đụng chạm thuộc về chồng mình để tạo ra sự vui thích cho người khác, do đó, do tính tương đồng của nghiệp, bị mất đi sự đụng chạm an lạc, để chịu đựng sự đụng chạm đau khổ, đã sanh làm người phụ nữ không da.

Maṅgulitthivatthusmiṃ maṅgulinti virūpaṃ duddasikaṃ bībhacchaṃ, sā kira ikkhaṇikākammaṃ yakkhadāsikammaṃ karontī ‘‘iminā ca iminā ca evaṃ balikamme kate ayaṃ nāma tumhākaṃ vaḍḍhi bhavissatī’’ti mahājanassa gandhapupphādīni vañcanāya gahetvā mahājanaṃ duddiṭṭhiṃ micchādiṭṭhiṃ gaṇhāpesi, tasmā tāya kammasabhāgatāya gandhapupphādīnaṃ thenitattā duggandhā duddassanassa gāhitattā duddasikā virūpā bībhacchā hutvā nibbattā.
Trong câu chuyện về người phụ nữ xấu xí, maṅguli có nghĩa là dị dạng, khó nhìn, ghê tởm. Nghe nói, người phụ nữ ấy làm nghề bói toán, nghề nữ tỳ của dạ xoa, nói với quần chúng rằng: “Khi làm lễ cúng tế bằng vật này vật kia như thế này, thì quý vị sẽ được lợi ích này,” rồi bằng cách lừa dối lấy hương hoa, v.v. của quần chúng, đã làm cho quần chúng chấp giữ ác kiến, tà kiến. Do đó, do tính tương đồng của nghiệp ấy, vì đã trộm hương hoa, v.v. nên có mùi hôi thối; vì đã làm cho người khác chấp giữ cái nhìn xấu xa nên trở nên khó nhìn, dị dạng, ghê tởm mà sanh ra.

Okilinivatthusmiṃ uppakkaṃ okiliniṃ okirininti sā kira aṅgāracitake nipannā vipphandamānā viparivattamānā paccati, tasmā uppakkā ceva hoti kharena agginā pakkasarīrā; okilinī ca kilinnasarīrā bindubindūni hissā sarīrato paggharanti. Okirinī ca aṅgārasamparikiṇṇā, tassā hi heṭṭhatopi kiṃsukapupphavaṇṇā aṅgārā, ubhayapassesupi , ākāsatopissā upari aṅgārā patanti, tena vuttaṃ – ‘‘uppakkaṃ okiliniṃ okirini’’nti. Sā issāpakatā sapattiṃ aṅgārakaṭāhena okirīti tassā kira kaliṅgarañño ekā nāṭakinī aṅgārakaṭāhaṃ samīpe ṭhapetvā gattato udakañca puñchati, pāṇinā ca sedaṃ karoti. Rājāpi tāya saddhiṃ kathañca karoti, parituṭṭhākārañca dasseti. Aggamahesī taṃ asahamānā issāpakatā hutvā acirapakkantassa rañño taṃ aṅgārakaṭāhaṃ gahetvā tassā upari aṅgāre okiri. Sā taṃ kammaṃ katvā tādisaṃyeva vipākaṃ paccanubhavituṃ petaloke nibbattā.
Trong câu chuyện về Okilinī, bị nung nấu, ướt át, bị bao phủ nghĩa là người phụ nữ ấy nằm trên đống than hồng, quằn quại, lăn lộn, bị nung nấu. Do đó, gọi là “uppakkā” (bị nung nấu) vì thân bị lửa dữ đốt cháy; gọi là “okilinī” (ướt át) vì thân thể ướt đẫm, từng giọt từng giọt chảy ra từ thân bà ấy; và gọi là “okirinī” (bị bao phủ) vì bị than hồng bao phủ tứ phía. Bởi vì bên dưới bà ấy là than hồng màu hoa kiṃsuka (hoa gạo), hai bên cũng vậy, và từ trên không, than hồng cũng rơi xuống trên người bà ấy. Do đó, nói rằng – “bị nung nấu, ướt át, bị bao phủ”. Bà ấy do ghen tuông, đã đổ chảo than hồng lên người vợ bé nghĩa là: Nghe nói, một vũ nữ của vua Kaliṅga đặt một chảo than hồng gần bên, lau nước trên người và dùng tay quạt cho mát. Vua cũng nói chuyện với cô ấy và tỏ vẻ hài lòng. Hoàng hậu cả không chịu đựng được điều đó, nổi lòng ghen tuông, khi vua vừa mới rời đi, đã lấy chảo than đó đổ than hồng lên người vũ nữ. Bà ấy, sau khi làm nghiệp đó, đã sanh vào cõi ngạ quỷ để chịu quả báo tương tự.

Coraghātakavatthusmiṃ so rañño āṇāya dīgharattaṃ corānaṃ sīsāni chinditvā petaloke nibbattanto asīsakaṃ kabandhaṃ hutvā nibbatti.
Trong câu chuyện về người giết trộm, người đó, theo lệnh vua, trong thời gian dài đã chặt đầu bọn trộm, khi sanh vào cõi ngạ quỷ, đã sanh làm một thân không đầu.

Bhikkhuvatthusmiṃ pāpabhikkhūti lāmakabhikkhu. So kira lokassa saddhādeyye cattāro paccaye paribhuñjitvā kāyavacīdvārehi asaṃ yato bhinnājīvo cittakeḷiṃ kīḷanto vicari. Tato ekaṃ buddhantaraṃ niraye paccitvā petaloke nibbattanto bhikkhusadiseneva attabhāvena nibbatti. Bhikkhunī-sikkhamānā-sāmaṇera-sāmaṇerīvatthūsupi ayameva vinicchayo.
Trong câu chuyện về Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ác là Tỳ-khưu xấu xa. Nghe nói, Tỳ-khưu ấy, sau khi thụ hưởng bốn món vật dụng cúng dường do tín tâm của thế gian, đã không tự chế ngự thân khẩu ý, sống tà mạng, rong chơi với những trò đùa giỡn của tâm. Sau đó, bị đọa địa ngục trong một Phật kỳ, khi sanh vào cõi ngạ quỷ, đã sanh với thân hình giống như Tỳ-khưu. Trong các câu chuyện về Tỳ-khưu-ni, Tu nữ, Sa-di, Sa-di-ni, cách phân xử cũng tương tự.

231. Tapodāvatthusmiṃ acchodakoti pasannodako. Sītodakoti sītalaudako. Sātodakoti madhurodako. Setakoti parisuddho nissevālapaṇakakaddamo. Suppatitthoti sundarehi titthehi upapanno. Ramaṇīyoti ratijanako. Cakkamattānīti rathacakkappamāṇāni. Kuthitā sandatīti tatrā santattā hutvā sandati. Yatāyaṃ bhikkhaveti yato ayaṃ bhikkhave. So dahoti so rahado. Kuto panāyaṃ sandatīti? Vebhārapabbatassa kira heṭṭhā bhummaṭṭhakanāgānaṃ pañcayojanasatikaṃ nāgabhavanaṃ devalokasadisaṃ maṇimayena talena ārāmuyyānehi ca samannāgataṃ; tattha nāgānaṃ kīḷanaṭṭhāne so udakadaho, tato ayaṃ tapodā sandati. Dvinnaṃ mahānirayānaṃ antarikāya āgacchatīti rājagahanagaraṃ kira āviñjetvā mahāpetaloko, tattha dvinnaṃ mahālohakumbhinirayānaṃ antarena ayaṃ tapodā āgacchati, tasmā kuthitā sandatīti.
231. Trong câu chuyện về Tapodā (Suối Nước Nóng), nước trong là nước lắng trong. Nước mát là nước lạnh. Nước ngọt là nước có vị ngọt. Nước trắng là nước tinh khiết, không rêu, không bùn. Bến tốt là có những bến nước đẹp. Dễ chịu là tạo ra sự thích thú. Cỡ bánh xe là kích thước bằng bánh xe. Nóng chảy nghĩa là ở đó, nước trở nên nóng rồi chảy đi. Này các Tỳ-khưu, do vì nghĩa là do vì điều này, này các Tỳ-khưu. Hồ ấy là hồ nước ấy. Vậy, nó chảy từ đâu? Nghe nói, bên dưới núi Vebhāra, có cung điện của loài rồng ở dưới đất, rộng năm trăm do tuần, giống như cõi trời, có nền bằng ngọc, có vườn hoa và công viên; ở đó, tại nơi vui chơi của loài rồng, có hồ nước ấy, từ đó dòng Tapodā này chảy ra. Nó chảy đến từ khoảng giữa của hai đại địa ngục nghĩa là: Nghe nói, bao quanh thành Rājagaha (Vương Xá) là cõi đại ngạ quỷ; ở đó, dòng Tapodā này chảy đến từ khoảng giữa của hai đại địa ngục Loha Kumbhī (Vạc Đồng Sôi), do đó nó nóng và chảy.

Yuddhavatthusmiṃ nandī caratīti vijayabherī āhiṇḍati. Rājā āvuso licchavīhīti thero kira attano divāṭṭhāne ca rattiṭṭhāne ca nisīditvā ‘‘licchavayo katahatthā katūpāsanā, rājā ca tehi saddhiṃ sampahāraṃ detī’’ti āvajjento dibbena cakkhunā rājānaṃ parājitaṃ palāyamānaṃ addasa. Tato bhikkhū āmantetvā ‘‘rājā āvuso tumhākaṃ upaṭṭhāko licchavīhi pabhaggo’’ti āha. Saccaṃ, bhikkhave, moggallāno āhāti parājikakāle āvajjitvā yaṃ diṭṭhaṃ taṃ bhaṇanto saccaṃ āha.
Trong câu chuyện về trận chiến, trống reo vang nghĩa là trống chiến thắng được đánh lên. Này hiền giả, vua bởi quân Licchavi nghĩa là: Nghe nói, vị Trưởng lão, sau khi ngồi ở nơi ở ban ngày và nơi ở ban đêm của mình, hướng tâm rằng: “Quân Licchavi thiện chiến, giỏi bắn cung, và vua đang giao chiến với họ,” đã thấy bằng thiên nhãn vua bị đánh bại đang bỏ chạy. Sau đó, gọi các Tỳ-khưu đến, ngài nói: “Này các hiền giả, vua, người hộ độ của quý vị, đã bị quân Licchavi đánh bại.Này các Tỳ-khưu, Moggallāna nói thật nghĩa là: Vào lúc (vua) bị đánh bại, sau khi hướng tâm, những gì đã thấy thì ngài nói ra, đó là nói sự thật.

232. Nāgogāhavatthusmiṃ sappinikāyāti evaṃnāmikāya. Āneñjaṃ samādhinti anejaṃ acalaṃ kāyavācāvipphandavirahitaṃ catutthajjhānasamādhiṃ. Nāgānanti hatthīnaṃ. Ogayha uttarantānanti ogayha ogāhetvā puna uttarantānaṃ. Te kira gambhīraṃ udakaṃ otaritvā tattha nhatvā ca pivitvā ca soṇḍāya udakaṃ gahetvā aññamaññaṃ ālolentā uttaranti, tesaṃ evaṃ ogayha uttarantānanti vuttaṃ hoti. Koñcaṃ karontānanti nadītīre ṭhatvā soṇḍaṃ mukhe pakkhipitvā koñcanādaṃ karontānaṃ. Saddaṃ assosinti taṃ koñcanādasaddaṃ assosiṃ. Attheso, bhikkhave, samādhi so ca kho aparisuddhoti atthi eso samādhi moggallānassa, so ca kho parisuddho na hoti. Thero kira pabbajitato sattame divase tadahuarahattappatto aṭṭhasu samāpattīsu pañcahākārehi anāciṇṇavasībhāvo samādhiparipanthake dhamme na suṭṭhu parisodhetvā āvajjanasamāpajjanādhiṭṭhānavuṭṭhānapaccavekkhaṇānaṃ saññāmattakameva katvā catutthajjhānaṃ appetvā nisinno, jhānaṅgehi vuṭṭhāya nāgānaṃ saddaṃ sutvā ‘‘antosamāpattiyaṃ assosi’’nti evaṃsaññī ahosi. Tena vuttaṃ – ‘‘attheso, bhikkhave, samādhi; so ca kho aparisuddho’’ti.
232. Trong câu chuyện về đàn voi xuống nước, sông Sappinī là sông có tên như vậy. Định bất động là định không lay chuyển, không dao động, không có sự rung động của thân và lời, tức là định của thiền thứ tư. Của các con voi. Sau khi xuống và lên nghĩa là sau khi xuống, ngâm mình rồi lại lên. Nghe nói, chúng xuống nước sâu, tắm và uống ở đó, rồi dùng vòi lấy nước phun vào nhau, rồi lên bờ; do đó, nói rằng “sau khi xuống và lên” là như vậy. Khi chúng rống lên nghĩa là khi chúng đứng trên bờ sông, cho vòi vào miệng rồi phát ra tiếng rống (koñca). Tôi đã nghe tiếng nghĩa là tôi đã nghe tiếng rống đó. Này các Tỳ-khưu, có định ấy, nhưng nó không thanh tịnh nghĩa là: Moggallāna có định ấy, nhưng nó không thanh tịnh. Nghe nói, vị Trưởng lão, vào ngày thứ bảy sau khi xuất gia, đã chứng A-la-hán ngay trong ngày đó, nhưng chưa thuần thục năm cách làm chủ đối với tám bậc thiền chứng, chưa thanh lọc kỹ các pháp làm trở ngại cho định, chỉ mới làm ở mức độ tưởng về các việc hướng tâm, nhập định, quyết định, xuất định, và phản khán, rồi nhập thiền thứ tư và ngồi. Khi xuất khỏi các thiền chi, nghe tiếng voi, ngài đã có tưởng rằng “đã nghe trong lúc nhập định”. Do đó, nói rằng – “Này các Tỳ-khưu, có định ấy; nhưng nó không thanh tịnh”.

Sobhitavatthusmiṃ ahaṃ, āvuso, pañca kappasatāni anussarāmīti ekāvajjanena anussarāmīti āha. Itarathā hi anacchariyaṃ ariyasāvakānaṃ paṭipāṭiyā nānāvajjanena tassa tassa atīte nivāsassa anussaraṇanti na bhikkhū ujjhāyeyyuṃ. Yasmā panesa ‘‘ekāvajjanena anussarāmī’’ti āha, tasmā bhikkhū ujjhāyiṃsu. Atthesā, bhikkhave, sobhitassa, sā ca kho ekāyeva jātīti yaṃ sobhito jātiṃ anussarāmīti āha, atthesā jāti sobhitassa, sā ca kho ekāyeva anantarā na uppaṭipāṭiyā anussaritāti adhippāyo.
Trong câu chuyện về Sobhita, Này hiền giả, tôi nhớ lại năm trăm kiếp nghĩa là ngài nói: “Tôi nhớ lại bằng một lần hướng tâm.” Nếu không thì không có gì lạ đối với các bậc Thánh đệ tử khi tuần tự nhớ lại các đời sống quá khứ của mình bằng nhiều lần hướng tâm, nên các Tỳ-khưu đã không phàn nàn. Nhưng vì ngài nói: “Tôi nhớ lại bằng một lần hướng tâm,” nên các Tỳ-khưu đã phàn nàn. Này các Tỳ-khưu, Sobhita có khả năng ấy, nhưng đó chỉ là một đời nghĩa là: Điều mà Sobhita nói rằng “tôi nhớ lại đời”, Sobhita có khả năng nhớ lại đời ấy, nhưng đó chỉ là một đời gần nhất, không phải nhớ lại một cách không theo thứ tự (ngược dòng).

Kathaṃ panāyaṃ etaṃ anussarīti? Ayaṃ kira pañcannaṃ kappasatānaṃ upari titthāyatane

Pabbajitvā asaññasamāpattiṃ nibbattetvā aparihīnajjhāno kālaṃ katvā asaññabhave nibbatti. Tattha yāvatāyukaṃ ṭhatvā avasāne manussaloke uppanno sāsane pabbajitvā tisso vijjā sacchākāsi. So pubbenivāsaṃ anussaramāno imasmiṃ attabhāve paṭisandhiṃ disvā tato paraṃ tatiye attabhāve cutimeva addasa. Atha ubhinnamantarā acittakaṃ attabhāvaṃ anussarituṃ asakkonto nayato sallakkhesi – ‘‘addhāahaṃ asaññabhave nibbatto’’ti. Evaṃ sallakkhentena panānena dukkaraṃ kataṃ, satadhā bhinnassa vālassa koṭiyā koṭi paṭividdhā, ākāse padaṃ dassitaṃ. Tasmā naṃ bhagavā imasmiṃyeva vatthusmiṃ etadagge ṭhapesi – ‘‘etadaggaṃ bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ pubbenivāsaṃ anussarantānaṃ yadidaṃ sobhito’’ti (a. ni. 1.219, 227).

Vậy, làm thế nào ngài nhớ lại được điều đó? Nghe nói, vị này, hơn năm trăm kiếp trước, trong ngoại đạo,

đã xuất gia, chứng được Vô Tưởng Định, không bị lui sụt khỏi thiền, mệnh chung rồi sanh vào cõi Vô Tưởng. Ở đó, sống hết tuổi thọ, cuối cùng sanh vào cõi người, xuất gia trong giáo pháp, đã chứng đắc Tam Minh. Ngài, khi nhớ lại các đời sống quá khứ, thấy sự tái sanh trong đời này, rồi sau đó, ở đời thứ ba (trước đó), chỉ thấy cái chết. Rồi, không thể nhớ lại đời sống không có tâm ở giữa hai đời đó, ngài suy luận theo phương pháp: “Chắc chắn ta đã sanh vào cõi Vô Tưởng.” Khi suy luận như vậy, ngài đã làm một việc khó làm: đầu này của sợi lông bị chẻ trăm lần đã chạm vào đầu kia, dấu chân đã được thấy trên hư không. Vì vậy, Đức Thế Tôn, trong chính câu chuyện này, đã đặt ngài vào vị trí tối thắng: “Này các Tỳ-khưu, tối thắng trong số các đệ tử Tỳ-khưu của Ta về nhớ lại các đời sống quá khứ, chính là Sobhita” (a. ni. 1.219, 227).

Vinītavatthuvaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải về các câu chuyện đã được dạy xong.

Nigamanavaṇṇanā

Phần Kết Luận

233.Uddiṭṭhākho āyasmanto cattāro pārājikā dhammāti idaṃ idha uddiṭṭhapārājikaparidīpanameva. Samodhānetvā pana sabbāneva catuvīsati pārājikāni veditabbāni. Katamāni catuvīsati? Pāḷiyaṃ āgatāni tāva bhikkhūnaṃ cattāri, bhikkhunīnaṃ asādhāraṇāni cattārīti aṭṭha. Ekādasa abhabbapuggalā, tesu paṇḍakatiracchānagataubhatobyañjanakā, tayo vatthuvipannā ahetukapaṭisandhikā, tesaṃ saggo avārito maggo pana vārito, abhabbā hi te maggappaṭilābhāya vatthuvipannattāti. Pabbajjāpi nesaṃ paṭikkhittā, tasmā tepi pārājikā. Theyyasaṃvāsako, titthiyapakkantako, mātughātako, pitughātako, arahantaghātako, bhikkhunīdūsako, lohituppādako, saṅghabhedakoti ime aṭṭha attano kiriyāya vipannattā abhabbaṭṭhānaṃ pattāti pārājikāva. Tesu theyyasaṃvāsako, titthiyapakkantako, bhikkhunīdūsakoti imesaṃ tiṇṇaṃ saggo avārito maggo pana vāritova. Itaresaṃ pañcannaṃ ubhayampi vāritaṃ. Te hi anantarabhave narake nibbattanakasattā. Iti ime ca ekādasa, purimā ca aṭṭhāti ekūnavīsati. Te gihiliṅge ruciṃ uppādetvā gihinivāsananivatthāya bhikkhuniyā saddhiṃ vīsati. Sā hi ajjhācāravītikkamaṃ akatvāpi ettāvatāva assamaṇīti imāni tāva vīsati pārājikāni.
233.Thưa các hiền giả, bốn pháp Bất Cộng Trụ đã được trình bày: đây chỉ là sự làm rõ về các pháp Bất Cộng Trụ đã được trình bày ở đây. Tuy nhiên, nên biết rằng tổng hợp lại có tất cả hai mươi bốn pháp Bất Cộng Trụ. Hai mươi bốn pháp đó là gì? Trước hết, trong Thánh điển có bốn pháp của Tỳ-khưu, bốn pháp riêng của Tỳ-khưu-ni, là tám. Mười một hạng người không có khả năng: trong đó có người ái nam ái nữ, súc sanh, người có hai bộ phận sinh dục; ba hạng này có vật bị hư hoại, tái sanh không nhân; đối với họ, cõi trời không bị ngăn cản nhưng đạo lộ thì bị ngăn cản, bởi vì họ không có khả năng chứng đắc đạo lộ do vật bị hư hoại. Việc xuất gia của họ cũng bị từ chối, do đó họ cũng (coi như) phạm Bất Cộng Trụ. Người sống chung trộm Pháp, người theo ngoại đạo, người giết mẹ, người giết cha, người giết A-la-hán, người làm ô uế Tỳ-khưu-ni, người làm chảy máu Phật, người phá hòa hợp Tăng – tám hạng này, do hành vi của mình bị hư hoại, đã đạt đến trạng thái không có khả năng, nên cũng là Bất Cộng Trụ. Trong số đó, người sống chung trộm Pháp, người theo ngoại đạo, người làm ô uế Tỳ-khưu-ni – đối với ba hạng này, cõi trời không bị ngăn cản nhưng đạo lộ thì bị ngăn cản. Đối với năm hạng còn lại, cả hai đều bị ngăn cản. Bởi vì họ là những chúng sanh sẽ sanh vào địa ngục trong đời kế tiếp. Như vậy, mười một hạng này và tám hạng trước là mười chín. Cộng với Tỳ-khưu-ni khởi thích thú với tướng người thế tục và mặc y phục của người thế tục là hai mươi. Bởi vì vị ấy, dù chưa phạm giới hạnh tà vạy, nhưng chỉ với chừng đó cũng không còn là Sa-môn nữa. Như vậy, có hai mươi pháp Bất Cộng Trụ này.

Aparānipi – lambī, mudupiṭṭhiko, parassa aṅgajātaṃ mukhena gaṇhāti, parassa aṅgajāte abhinisīdatīti imesaṃ catunnaṃ vasena cattāri anulomapārājikānīti vadanti. Etāni hi yasmā ubhinnaṃ rāgavasena sadisabhāvūpagatānaṃ dhammo ‘‘methunadhammo’’ti vuccati. Tasmā etena pariyāyena methunadhammaṃ appaṭisevitvāyeva kevalaṃ maggena maggappavesanavasena āpajjitabbattā methunadhammapārājikassa anulomentīti anulomapārājikānīti vuccanti. Iti imāni ca cattāri purimāni ca vīsatīti samodhānetvā sabbāneva catuvīsati pārājikāni veditabbāni.
Còn nữa – người có (dương vật) dài, người có lưng mềm (ý chỉ người đồng tính nam thụ động), người ngậm bộ phận sinh dục của người khác bằng miệng, người ngồi lên bộ phận sinh dục của người khác – do bốn trường hợp này, có bốn pháp Bất Cộng Trụ tùy thuận, người ta nói vậy. Bởi vì pháp của hai người đạt đến trạng thái tương tự nhau do lòng ham muốn được gọi là “pháp dâm”. Do đó, theo cách này, dù chưa thực hành pháp dâm, chỉ đơn thuần do sự xâm nhập của đường vào đường, nên phạm tội, và vì chúng tùy thuận theo tội Bất Cộng Trụ về pháp dâm, nên được gọi là các pháp Bất Cộng Trụ tùy thuận. Như vậy, bốn pháp này và hai mươi pháp trước, tổng hợp lại, nên biết có tất cả hai mươi bốn pháp Bất Cộng Trụ.

Na labhati bhikkhūhi saddhiṃ saṃvāsanti uposatha-pavāraṇa-pātimokkhuddesa-saṅghakammappabhedaṃ bhikkhūhi saddhiṃ saṃvāsaṃ na labhati. Yathā pure tathā pacchāti yathā pubbe gihikāle anupasampannakāle ca pacchā pārājikaṃ āpannopi tatheva asaṃvāso hoti. Natthi tassa bhikkhūhi saddhiṃ uposathapavāraṇapātimokkhuddesasaṅghakammappabhedo saṃvāsoti bhikkhūhi saddhiṃ saṃvāsaṃ na labhati. Tatthāyasmante pucchāmīti tesu catūsu pārājikesu āyasmante ‘‘kaccittha parisuddhā’’ti pucchāmi. Kaccitthāti kacci ettha; etesu catūsu pārājikesu kacci parisuddhāti attho. Atha vā kaccittha parisuddhāti kacci parisuddhā attha, bhavathāti attho. Sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.
Không được sống chung với các Tỳ-khưu nghĩa là không được sống chung với các Tỳ-khưu trong các việc như lễ Bố-tát, lễ Tự tứ, trùng tuyên Giới bổn Pātimokkha, và các Tăng sự. Như trước kia, như sau này nghĩa là như trước kia, vào thời còn là người thế tục, chưa thọ giới, thì sau khi phạm Bất Cộng Trụ cũng không được sống chung như vậy. Người ấy không có sự sống chung với các Tỳ-khưu trong các việc như lễ Bố-tát, lễ Tự tứ, trùng tuyên Giới bổn Pātimokkha, và các Tăng sự, do đó không được sống chung với các Tỳ-khưu. Trong đó, tôi hỏi các hiền giả nghĩa là trong bốn pháp Bất Cộng Trụ đó, tôi hỏi các hiền giả: “Các vị có thanh tịnh không?” Kaccitthā là kacci ettha; nghĩa là, trong bốn pháp Bất Cộng Trụ này, các vị có thanh tịnh không? Hoặc kaccittha parisuddhā nghĩa là: Các vị có thanh tịnh không, có phải là thanh tịnh không? Phần còn lại, ở mọi nơi, ý nghĩa đều rõ ràng.

Samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāya

Trong Samantapāsādikā, Chú giải Luật tạng

Catutthapārājikavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải về pháp Bất Cộng Trụ thứ tư đã xong.