Chú Giải Tạng Luật – Phẩm Pārājika – Giải Thích Chương Verañja
Verañjakaṇḍavaṇṇanā
Chú Giải Phẩm Verañja
1. Idāni
1. Bây giờ,
‘‘Tenātiādipāṭhassa, atthaṃ nānappakārato;
‘‘Bằng nhiều cách khác nhau, tôi sẽ giải thích ý nghĩa của đoạn văn bắt đầu bằng ‘Tena’;
Dassayanto karissāmi, vinayassatthavaṇṇana’’nti.
Tôi sẽ soạn thảo bài chú giải ý nghĩa của Luật.’’
Vuttattā tena samayena buddho bhagavātiādīnaṃ atthavaṇṇanaṃ karissāmi. Seyyathidaṃ – tenāti aniyamaniddesavacanaṃ. Tassa sarūpena avuttenapi aparabhāge atthato siddhena yenāti iminā vacanena paṭiniddeso kātabbo. Aparabhāge hi vinayapaññattiyācanahetubhūto āyasmato sāriputtassa parivitakko siddho. Tasmā yena samayena so parivitakko udapādi, tena samayena buddho bhagavā verañjāyaṃ viharatīti evamettha sambandho veditabbo. Ayañhi sabbasmimpi vinaye yutti, yadidaṃ yattha yattha ‘‘tenā’’ti vuccati tattha tattha pubbe vā pacchā vā atthato siddhena ‘‘yenā’’ti iminā vacanena paṭiniddeso kātabboti.
Do đã nói như vậy, tôi sẽ chú giải ý nghĩa của các câu như ‘‘Vào lúc ấy, Đức Phật, Đấng Thế Tôn’’. Cụ thể như sau – Từ “ấy” là một từ chỉ định không xác định. Sự quy chiếu trở lại đối với nó cần được thực hiện bằng từ “bởi cái nào”, vốn được xác lập về mặt ý nghĩa ở phần sau mặc dù không được nêu rõ về mặt hình thức. Thật vậy, ở phần sau, tư duy của Đại đức Sāriputta, là nguyên nhân cho việc thỉnh cầu chế định Luật, đã được xác lập. Do đó, cần hiểu mối liên hệ ở đây là: vào lúc tư duy ấy khởi lên, vào lúc ấy Đức Phật, Đấng Thế Tôn, trú tại Verañjā. Đây thực sự là một nguyên tắc hợp lý trong toàn bộ Luật tạng, đó là bất cứ nơi nào nói ‘‘bởi đó’’, thì sự quy chiếu trở lại cần được thực hiện bằng từ ‘‘bởi cái nào’’ đã được xác lập về mặt ý nghĩa ở trước hoặc sau.
Tatridaṃ mukhamattanidassanaṃ – ‘‘tena hi, bhikkhave, bhikkhūnaṃ sikkhāpadaṃ paññapessāmi, yena sudinno methunaṃ dhammaṃ paṭisevi; yasmā paṭisevi, tasmā paññapessāmī’’ti vuttaṃ hoti. Evaṃ tāva pubbe atthato siddhena yenāti iminā vacanena paṭiniddeso yujjati. Tena samayena buddho bhagavā rājagahe viharati, yena samayena dhaniyo kumbhakāraputto rañño dārūni adinnaṃ ādiyīti evaṃ pacchā atthato siddhena yenāti iminā vacanena paṭiniddeso yujjatīti vutto tenāti vacanassa attho. Samayenāti ettha pana samayasaddo tāva –
Ở đây, đây là một ví dụ minh họa ban đầu – ‘‘Vậy thì, này các Tỳ khưu, Ta sẽ chế định học giới cho các Tỳ khưu, vì Sudinna đã thực hành pháp dâm; bởi vì y đã thực hành, do đó Ta sẽ chế định’’ được nói ra. Như vậy, trước hết, sự quy chiếu trở lại bằng từ “vì” đã được xác lập về mặt ý nghĩa ở trước là hợp lý. ‘‘Vào lúc ấy Đức Phật, Đấng Thế Tôn trú tại Rājagaha, vào lúc Dhaniya, con trai người thợ gốm, lấy gỗ của nhà vua mà không được cho’’ – như vậy, sự quy chiếu trở lại bằng từ “vào lúc” đã được xác lập về mặt ý nghĩa ở sau là hợp lý, đó là ý nghĩa của từ “ấy” đã được nói. Còn trong từ “vào lúc”, thì từ “thời” có các nghĩa như sau –
Samavāye khaṇe kāle, samūhe hetu-diṭṭhisu;
Trong sự hội họp, khoảnh khắc, thời gian, tập hợp, nhân duyên, quan điểm;
Paṭilābhe pahāne ca, paṭivedhe ca dissati.
Trong sự chứng đắc, sự đoạn trừ, và trong sự thông suốt, nó được thấy.
Tathā hissa – ‘‘appeva nāma svepi upasaṅkameyyāma kālañca samayañca upādāyā’’ti (dī. ni. 1.447) evamādīsu samavāyo attho. ‘‘Ekova kho, bhikkhave, khaṇo ca samayo ca brahmacariyavāsāyā’’ti (a. ni. 8.29) evamādīsu khaṇo. ‘‘Uṇhasamayo pariḷāhasamayo’’ti (pāci. 358) evamādīsu kālo. ‘‘Mahāsamayo pavanasmi’’nti evamādīsu samūho. ‘‘Samayopi kho te, bhaddāli, appaṭividdho ahosi – ‘bhagavā kho sāvatthiyaṃ viharati, bhagavāpi maṃ jānissati – bhaddāli nāma bhikkhu satthusāsane sikkhāya aparipūrakārī’ti ayampi kho te, bhaddāli, samayo appaṭividdho ahosī’’ti (ma. ni. 2.135) evamādīsu hetu. ‘‘Tena kho pana samayena uggahamāno paribbājako samaṇamuṇḍikāputto samayappavādake tindukācīre ekasālake mallikāya ārāme paṭivasatī’’ti (ma. ni. 2.260) evamādīsu diṭṭhi.
Thật vậy, nghĩa của nó là: ‘‘Có lẽ ngày mai chúng ta sẽ đến thăm, tùy theo thời gian và thời điểm thích hợp’’ (dī. ni. 1.447) – trong những trường hợp như vậy, nghĩa là sự hội họp. ‘‘Này các Tỳ khưu, chỉ có một khoảnh khắc và một thời điểm để sống đời sống phạm hạnh’’ (a. ni. 8.29) – trong những trường hợp như vậy, nghĩa là khoảnh khắc. ‘‘Mùa nóng, mùa oi bức’’ (pāci. 358) – trong những trường hợp như vậy, nghĩa là thời gian. ‘‘Đại hội lớn trong rừng’’ – trong những trường hợp như vậy, nghĩa là tập hợp. ‘‘Và này Bhaddāli, ông cũng đã không thông suốt được nhân duyên này: ‘Đấng Thế Tôn đang trú ở Sāvatthī, và Đấng Thế Tôn sẽ biết về tôi – Tỳ khưu tên Bhaddāli là người không hoàn thành việc tu học trong giáo pháp của Bậc Đạo Sư’. Này Bhaddāli, ông cũng đã không thông suốt được nhân duyên này’’ (ma. ni. 2.135) – trong những trường hợp như vậy, nghĩa là nhân duyên. ‘‘Vào lúc ấy, du sĩ Uggahamāna, con trai của Samaṇamuṇḍikā, trú tại vườn của Mallikā, trong một Tịnh xá lợp lá nơi có cây Tinduka, là nơi tranh luận các quan điểm’’ (ma. ni. 2.260) – trong những trường hợp như vậy, nghĩa là quan điểm.
‘‘Diṭṭhe dhamme ca yo attho, yo cattho samparāyiko;
‘‘Người nào hiểu rõ ý nghĩa trong hiện tại, và ý nghĩa trong tương lai;
Atthābhisamayā dhīro, paṇḍitoti pavuccatī’’ti. (saṃ. ni. 1.129);
Do sự chứng đắc các ý nghĩa, người trí được gọi là bậc Học Giả.’’ (saṃ. ni. 1.129);
Evamādīsu paṭilābho. ‘‘Sammā mānābhisamayā antamakāsi dukkhassā’’ti (ma. ni. 1.28) evamādīsu pahānaṃ. ‘‘Dukkhassa pīḷanaṭṭho saṅkhataṭṭho santāpaṭṭho vipariṇāmaṭṭho abhisamayaṭṭho’’ti (paṭi. ma. 2.8) evamādīsu paṭivedho attho. Idha panassa kālo attho. Tasmā yena kālena āyasmato sāriputtassa vinayapaññattiyācanahetubhūto parivitakko udapādi, tena kālenāti evamettha attho daṭṭhabbo.
Trong những trường hợp như vậy, nghĩa là sự chứng đắc. ‘‘Do sự chứng ngộ hoàn toàn về ngã mạn, vị ấy đã chấm dứt khổ đau’’ (ma. ni. 1.28) – trong những trường hợp như vậy, nghĩa là sự đoạn trừ. ‘‘Khổ có nghĩa là bị bức bách, có nghĩa là bị tạo tác, có nghĩa là bị thiêu đốt, có nghĩa là bị biến đổi, có nghĩa là sự thông suốt’’ (paṭi. ma. 2.8) – trong những trường hợp như vậy, nghĩa là sự thông suốt. Tuy nhiên, ở đây, nghĩa của nó là thời gian. Do đó, cần hiểu ý nghĩa ở đây là: vào thời gian nào mà tư duy của Đại đức Sāriputta, là nguyên nhân cho việc thỉnh cầu chế định Luật, khởi lên, vào thời gian ấy.
Etthāha – ‘‘atha kasmā yathā suttante ‘ekaṃ samaya’nti upayogavacanena niddeso kato, abhidhamme ca ‘yasmiṃ samaye kāmāvacara’nti bhummavacanena, tathā akatvā idha ‘tena samayenā’ti karaṇavacanena niddeso kato’’ti? Tattha tathā, idha ca aññathā atthasambhavato. Kathaṃ? Suttante tāva accantasaṃyogattho sambhavati. Yañhi samayaṃ bhagavā brahmajālādīni suttantāni desesi, accantameva taṃ samayaṃ karuṇāvihārena vihāsi; tasmā tadatthajotanatthaṃ tattha upayoganiddeso kato. Abhidhamme ca adhikaraṇattho bhāvenabhāvalakkhaṇattho ca sambhavati. Adhikaraṇañhi kālattho samūhattho ca samayo, tattha vuttānaṃ phassādidhammānaṃ khaṇasamavāyahetusaṅkhātassa ca samayassa bhāvena tesaṃ bhāvo lakkhiyati. Tasmā tadatthajotanatthaṃ tattha bhummavacanena niddeso kato. Idha pana hetuattho karaṇattho ca sambhavati. Yo hi so sikkhāpadapaññattisamayo sāriputtādīhipi dubbiññeyyo, tena samayena hetubhūtena karaṇabhūtena ca sikkhāpadāni paññāpayanto sikkhāpadapaññattihetuñca apekkhamāno bhagavā tattha tattha vihāsi; tasmā tadatthajotanatthaṃ idha karaṇavacanena niddeso katoti veditabbo. Hoti cettha –
Ở đây có người hỏi – ‘‘Vậy tại sao, giống như trong Kinh tạng, sự chỉ định được thực hiện bằng từ chỉ cách sử dụng là ‘ekaṃ samayaṃ’ (một thời), và trong Luận tạng bằng từ chỉ nơi chốn là ‘yasmiṃ samaye’ (trong thời nào), mà ở đây lại không làm như vậy, lại dùng từ chỉ công cụ là ‘tena samayenā’ (bởi thời ấy) để chỉ định?’’ Bởi vì ở đó có sự xuất hiện ý nghĩa theo cách đó, còn ở đây thì theo cách khác. Như thế nào? Trong Kinh tạng, có thể có nghĩa là sự liên kết tuyệt đối. Thật vậy, vào thời điểm mà Đấng Thế Tôn thuyết các bài kinh như Phạm Võng, Ngài hoàn toàn trú bằng tâm bi vào thời điểm đó; do đó, để làm sáng tỏ ý nghĩa đó, ở đó sự chỉ định bằng cách sử dụng được thực hiện. Còn trong Luận tạng, có thể có nghĩa là nơi chốn và nghĩa là đặc tính của sự hiện hữu này nhờ sự hiện hữu kia. Thật vậy, thời có nghĩa là thời gian và tập hợp, là nơi chốn của các pháp như xúc đã được nói ở đó, và sự hiện hữu của chúng được đánh dấu bằng sự hiện hữu của thời được gọi là khoảnh khắc, sự hội họp và nhân duyên. Do đó, để làm sáng tỏ ý nghĩa đó, ở đó sự chỉ định bằng từ chỉ nơi chốn được thực hiện. Còn ở đây, có thể có nghĩa là nhân duyên và công cụ. Thật vậy, thời điểm chế định học giới ấy, vốn khó hiểu ngay cả đối với các vị như Sāriputta, chính bằng thời điểm ấy, với vai trò là nhân duyên và công cụ, Đấng Thế Tôn, trong khi chế định các học giới và xem xét đến nhân duyên chế định học giới, đã trú ở những nơi khác nhau; do đó, để làm sáng tỏ ý nghĩa đó, ở đây sự chỉ định bằng từ chỉ công cụ được thực hiện, cần hiểu như vậy. Và ở đây có câu rằng –
‘‘Upayogena bhummena, taṃ taṃ atthamapekkhiya;
‘‘Bằng cách sử dụng, bằng từ chỉ nơi chốn, tùy theo ý nghĩa tương ứng;
Aññatra samayo vutto, karaṇeneva so idhā’’ti.
Ở nơi khác, ‘samayo’ được nói đến, còn ở đây, nó được nói bằng từ chỉ công cụ.’’
Porāṇā pana vaṇṇayanti – ‘ekaṃ samaya’nti vā ‘yasmiṃ samaye’ti vā ‘tena samayenā’ti vā abhilāpamattabhedo esa, sabbattha bhummameva attho’’ti. Tasmā tesaṃ laddhiyā ‘‘tena samayenā’’ti vuttepi ‘‘tasmiṃ samaye’’ti attho veditabbo.
Tuy nhiên, các nhà chú giải xưa giải thích rằng – các cách nói như ‘một thời’, hay ‘trong thời nào’, hay ‘bởi thời ấy’ chỉ là sự khác biệt về cách diễn đạt, còn ý nghĩa ở khắp mọi nơi đều là nơi chốn. Do đó, theo quan điểm của họ, ngay cả khi nói ‘bởi thời ấy’, cũng cần hiểu ý nghĩa là ‘trong thời ấy’.
Buddho bhagavāti imesaṃ padānaṃ parato atthaṃ vaṇṇayissāma. Verañjāyaṃ viharatīti ettha pana verañjāti aññatarassa nagarassetaṃ adhivacanaṃ, tassaṃ verañjāyaṃ; samīpatthe bhummavacanaṃ. Viharatīti avisesena iriyāpathadibbabrahmaariyavihāresu aññataravihārasamaṅgīparidīpanametaṃ, idha pana ṭhānagamananisajjāsayanappabhedesuairiyāpathesu aññatarairiyāpathasamāyogaparidīpanaṃ, tena ṭhitopi gacchantopi nisinnopi sayānopi bhagavā viharaticceva veditabbo. So hi ekaṃ iriyāpathabādhanaṃ aññena iriyāpathena vicchinditvā aparipatantaṃ attabhāvaṃ harati pavatteti, tasmā ‘‘viharatī’’ti vuccati.
‘‘Đức Phật, Đấng Thế Tôn’’ – ý nghĩa của những từ này chúng tôi sẽ giải thích ở phần sau. Trong cụm từ “trú tại Verañjā”, thì Verañjā là tên của một thành phố nào đó, tại Verañjā ấy; từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa gần kề. Từ “trú” – đây là sự trình bày không phân biệt về sự hiện hữu trong một trong các cách trú như các oai nghi, các cảnh giới thiêng liêng, các phạm trú, các thánh trú; tuy nhiên, ở đây, đó là sự trình bày về sự hợp thành với một trong các oai nghi thuộc các loại đứng, đi, ngồi, nằm. Do đó, cần hiểu rằng Đấng Thế Tôn, dù đang đứng, đang đi, đang ngồi hay đang nằm, đều được gọi là đang trú. Thật vậy, Ngài đoạn trừ sự khó chịu của một oai nghi bằng một oai nghi khác, duy trì và tiếp tục sự tồn tại của thân thể không bị suy sụp, do đó được gọi là ‘‘trú’’.
Naḷerupucimandamūleti ettha naḷeru nāma yakkho, pucimandoti nimbarukkho, mūlanti samīpaṃ. Ayañhi mūlasaddo ‘‘mūlāni uddhareyya antamaso usīranāḷimattānipī’’ti (a. ni. 4.195) -ādīsu mūlamūle dissati. ‘‘Lobho akusalamūla’’nti (dī. ni. 3.305) -ādīsu asādhāraṇahetumhi. ‘‘Yāva majjhanhike kāle chāyā pharati, nivāte paṇṇāni patanti, ettāvatā rukkhamūla’’ntiādīsu samīpe. Idha pana samīpe adhippeto, tasmā naḷeruyakkhena adhiggahitassa pucimandassa samīpeti evamettha attho daṭṭhabbo. So kira pucimando ramaṇīyo pāsādiko anekesaṃ rukkhānaṃ ādhipaccaṃ viya kurumāno tassa nagarassa avidūre gamanāgamanasampanne ṭhāne ahosi. Atha bhagavā verañjaṃ gantvā patirūpe ṭhāne viharanto tassa rukkhassa samīpe heṭṭhābhāge vihāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘verañjāyaṃ viharati naḷerupucimandamūle’’ti.
Trong cụm từ “dưới gốc cây Pucimanda của dạ xoa Naḷeru” – ở đây, Naḷeru là tên một dạ xoa, Pucimando là cây nimba (cây xoan), “gốc” ở đây có nghĩa là gần. Thật vậy, từ “gốc” này được thấy với nghĩa là rễ chính trong các câu như ‘‘hãy nhổ tận gốc rễ, ít nhất là đến cả rễ hương bài’’ (a. ni. 4.195). Trong các câu như ‘‘tham là gốc rễ bất thiện’’ (dī. ni. 3.305), nó có nghĩa là nhân duyên không chung. Trong các câu như ‘‘chừng nào bóng cây che phủ vào giữa trưa, lá rụng trong nơi lặng gió, chừng đó là gốc cây’’, nó có nghĩa là gần. Tuy nhiên, ở đây, nó được hiểu với nghĩa là gần; do đó, cần hiểu ý nghĩa ở đây là: gần cây Pucimanda do dạ xoa Naḷeru chiếm giữ. Cây Pucimanda ấy quả thực rất đẹp đẽ, dễ chịu, dường như làm chủ vô số cây khác, nằm ở một nơi không xa thành phố ấy, thuận tiện cho việc đi lại. Bấy giờ, Đấng Thế Tôn sau khi đến Verañjā, trú tại một nơi thích hợp, đã ở gần, phía dưới gốc cây ấy. Do đó, có câu – ‘‘trú tại Verañjā, dưới gốc cây Pucimanda của dạ xoa Naḷeru’’.
Tattha siyā yadi tāva bhagavā verañjāyaṃ viharati, ‘‘naḷerupucimandamūle’’ti na vattabbaṃ, atha tattha viharati, ‘‘verañjāya’’nti na vattabbaṃ, na hi sakkā ubhayattha teneva samayena apubbaṃ acarimaṃ viharitunti? Na kho panetaṃ evaṃ daṭṭhabbaṃ, nanu avocumha ‘‘samīpatthe bhummavacana’’nti. Tasmā yathā gaṅgāyamunādīnaṃ samīpe goyūthāni carantāni ‘‘gaṅgāya caranti, yamunāya carantī’’ti vuccanti; evamidhāpi yadidaṃ verañjāya samīpe naḷerupucimandamūlaṃ tattha viharanto vuccati ‘‘verañjāyaṃ viharati naḷerupucimandamūle’’ti. Gocaragāmanidassanatthaṃ hissa verañjāvacanaṃ. Pabbajitānurūpanivāsanaṭṭhānanidassanatthaṃ naḷerupucimandamūlavacanaṃ.
Ở đó, có thể có người hỏi: Nếu Đấng Thế Tôn trú tại Verañjā, thì không nên nói ‘‘dưới gốc cây Pucimanda của Naḷeru’’. Còn nếu Ngài trú ở đó (dưới gốc cây), thì không nên nói ‘‘tại Verañjā’’, vì không thể nào Ngài trú ở cả hai nơi cùng một lúc, không trước không sau? Điều này thực ra không nên hiểu như vậy, chẳng phải chúng ta đã nói ‘‘từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa gần kề’’ đó sao? Do đó, cũng như các đàn bò đi ăn ở gần sông Gaṅgā (Hằng), Yamunā (Diêm Phù) v.v… được gọi là ‘‘đi ăn ở sông Gaṅgā, đi ăn ở sông Yamunā’’; cũng vậy, ở đây, vì gốc cây Pucimanda của Naḷeru này ở gần Verañjā, nên khi Ngài trú ở đó, được nói là ‘‘trú tại Verañjā, dưới gốc cây Pucimanda của Naḷeru’’. Việc nói đến Verañjā là để chỉ rõ làng khất thực của Ngài. Việc nói đến gốc cây Pucimanda của Naḷeru là để chỉ rõ nơi ở thích hợp cho bậc xuất gia.
Tattha verañjākittanena āyasmā upālitthero bhagavato gahaṭṭhānuggahakaraṇaṃ dasseti, naḷerupucimandamūlakittanena pabbajitānuggahakaraṇaṃ, tathā purimena paccayaggahaṇato attakilamathānuyogavivajjanaṃ, pacchimena vatthukāmappahānato kāmasukhallikānuyogavivajjanupāyadassanaṃ; purimena ca dhammadesanābhiyogaṃ, pacchimena vivekādhimuttiṃ; purimena karuṇāya upagamanaṃ , pacchimena paññāya apagamanaṃ; purimena sattānaṃ hitasukhanipphādanādhimuttataṃ, pacchimena parahitasukhakaraṇe nirupalepanaṃ; purimena dhammikasukhāpariccāganimittaṃ phāsuvihāraṃ, pacchimena uttarimanussadhammānuyoganimittaṃ; purimena manussānaṃ upakārabahulataṃ, pacchimena devatānaṃ; purimena loke jātassa loke saṃvaḍḍhabhāvaṃ, pacchimena lokena anupalittataṃ; purimena ‘‘ekapuggalo, bhikkhave, loke uppajjamāno uppajjati bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ. Katamo ekapuggalo? Tathāgato arahaṃ sammāsambuddho’’ti (a. ni. 1.170) vacanato yadatthaṃ bhagavā uppanno tadatthaparinipphādanaṃ, pacchimena yattha uppanno tadanurūpavihāraṃ. Bhagavā hi paṭhamaṃ lumbinīvane, dutiyaṃ bodhimaṇḍeti lokiyalokuttarāya uppattiyā vaneyeva uppanno, tenassa vaneyeva vihāraṃ dassetīti evamādinā nayenettha atthayojanā veditabbā.
Ở đó, việc đề cập đến Verañjā cho thấy Đại đức Upālitthera trình bày việc Đấng Thế Tôn nâng đỡ hàng tại gia; việc đề cập đến gốc cây Pucimanda của Naḷeru cho thấy Ngài nâng đỡ hàng xuất gia. Tương tự, ý trước cho thấy sự tránh xa khổ hạnh ép xác bằng cách thọ nhận các vật dụng, ý sau cho thấy sự từ bỏ dục vọng thế gian, trình bày phương pháp tránh xa sự buông thả trong các thú vui dục lạc. Ý trước cũng chỉ sự chuyên tâm thuyết pháp, ý sau chỉ sự thiên về đời sống thanh vắng. Ý trước chỉ sự đến gần chúng sanh bằng lòng bi mẫn, ý sau chỉ sự rời xa (các phiền não) bằng trí tuệ. Ý trước chỉ sự quyết tâm mang lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng sanh, ý sau chỉ sự không vướng mắc khi thực hiện lợi ích và hạnh phúc cho người khác. Ý trước chỉ một trú xứ thoải mái, là biểu hiện của việc không từ bỏ hạnh phúc chính đáng (trong giáo pháp), ý sau là biểu hiện của sự thực hành các pháp siêu nhân. Ý trước chỉ sự giúp ích nhiều cho loài người, ý sau chỉ sự giúp ích nhiều cho chư thiên. Ý trước chỉ việc sinh ra trong đời, lớn lên trong đời, ý sau chỉ sự không bị đời làm ô nhiễm. Ý trước trình bày sự hoàn thành mục đích mà Đấng Thế Tôn đã sinh ra, như trong câu: ‘‘Này các Tỳ khưu, có một người khi sinh ra đời là sinh ra vì lợi ích cho nhiều người, vì hạnh phúc cho nhiều người, vì lòng thương tưởng thế gian, vì mục đích, lợi ích, hạnh phúc cho chư thiên và loài người. Một người đó là ai? Đó là Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Đẳng Chánh Giác’’ (a. ni. 1.170). Ý sau trình bày sự an trú phù hợp với nơi Ngài đã sinh ra (tức trong tự nhiên). Đấng Thế Tôn quả thực, lần đầu tiên (sinh ra) tại vườn Lumbinī (Lâm Tỳ Ni), lần thứ hai (giác ngộ) tại cội Bồ Đề, cả hai sự kiện sinh ra thế gian và siêu thế gian này đều diễn ra trong rừng; do đó, điều này cho thấy Ngài thường trú trong rừng. Theo các cách như vậy, cần hiểu sự kết nối ý nghĩa ở đây.
Mahatābhikkhusaṅghena saddhinti ettha mahatāti guṇamahattenapi mahatā; saṅkhyāmahattenapi, so hi bhikkhusaṅgho guṇehipi mahā ahosi, yasmā yo tattha pacchimako so sotāpanno; saṅkhyāyapi mahā pañcasatasaṅkhyattā. Bhikkhūnaṃ saṅghena bhikkhusaṅghena; diṭṭhisīlasāmaññasaṅkhātasaṅghātena samaṇagaṇenāti attho. Saddhinti ekato. Pañcamattehi bhikkhusatehīti pañca mattā etesanti pañcamattāni. Mattāti pamāṇaṃ vuccati. Tasmā yathā ‘‘bhojane mattaññū’’ti vutte bhojane mattaṃ jānāti, pamāṇaṃ jānātīti attho hoti; evamidhāpi tesaṃ bhikkhusatānaṃ pañca mattā pañcappamāṇanti evamattho daṭṭhabbo. Bhikkhūnaṃ satāni bhikkhusatāni, tehi pañcamattehi bhikkhusatehi. Etena yaṃ vuttaṃ – ‘‘mahatā bhikkhusaṅghena saddhi’’nti, ettha tassa mahato bhikkhusaṅghassa saṅkhyāmahattaṃ dassitaṃ hoti. Parato panassa ‘‘nirabbudo hi, sāriputta bhikkhusaṅgho nirādīnavo apagatakāḷako suddho sāre patiṭṭhito. Imesañhi, sāriputta, pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ yo pacchimako so sotāpanno’’ti vacanena guṇamahattaṃ āvibhavissati.
Trong cụm từ “Cùng với Tăng đoàn Tỳ khưu đông đảo”: Từ “đông đảo” có nghĩa là lớn lao cả về phẩm chất lẫn lớn lao về số lượng. Tăng đoàn Tỳ khưu ấy quả thực lớn lao về phẩm chất, vì vị thấp nhất trong đó cũng là bậc Dự Lưu; và cũng đông đảo về số lượng, vì có đến năm trăm vị. “Tăng đoàn Tỳ khưu” có nghĩa là đoàn thể các Tỳ khưu, tức là một tập hợp các vị Sa Môn được kết hợp bởi sự tương đồng về quan điểm và giới hạnh. Từ “cùng với” có nghĩa là cùng nhau. Cụm từ “với khoảng năm trăm vị Tỳ khưu” có nghĩa là năm là số lượng của họ. Từ “khoảng” được gọi là số lượng. Do đó, cũng như khi nói ‘‘người biết lượng trong ăn uống’’ có nghĩa là người đó biết chừng mực trong ăn uống, biết số lượng; cũng vậy ở đây, cần hiểu ý nghĩa là năm trăm vị Tỳ khưu ấy có số lượng là năm trăm. “Các trăm Tỳ khưu” có nghĩa là các nhóm trăm Tỳ khưu, với khoảng năm trăm vị Tỳ khưu như vậy. Điều này cho thấy rằng trong câu ‘‘cùng với Tăng đoàn Tỳ khưu đông đảo’’, sự đông đảo về số lượng của Tăng đoàn Tỳ khưu ấy đã được trình bày. Còn về sau, sự lớn lao về phẩm chất của Tăng đoàn sẽ được làm rõ bằng câu: ‘‘Này Sāriputta, Tăng đoàn Tỳ khưu này không còn u bướu (phiền não), không còn khuyết điểm, đã loại bỏ những điều đen tối, trong sạch, đứng vững trong cốt tủy. Này Sāriputta, trong năm trăm vị Tỳ khưu này, vị thấp nhất cũng là bậc Dự Lưu’’.
Assosi kho verañjo brāhmaṇoti assosīti suṇi upalabhi, sotadvārasampattavacananigghosānusārena aññāsi. Khoti padapūraṇamatte avadhāraṇatthe vā nipāto. Tattha avadhāraṇatthena assosi eva, nāssa koci savanantarāyo ahosīti ayamattho veditabbo. Padapūraṇena pana byañjanasiliṭṭhatāmattameva. Verañjāyaṃ jāto, verañjāyaṃ bhavo, verañjā vā assa nivāsoti verañjo. Mātāpitūhi katanāmavasena panāyaṃ ‘‘udayo’’ti vuccati. Brahmaṃ aṇatīti brāhmaṇo, mante sajjhāyatīti attho. Idameva hi jātibrāhmaṇānaṃ niruttivacanaṃ. Ariyā pana bāhitapāpattā ‘‘brāhmaṇā’’ti vuccanti.
Trong cụm từ “Bà la môn Verañja đã nghe”: Từ “đã nghe” có nghĩa là nghe thấy, nhận biết, biết được theo âm thanh của lời nói đến tai. Từ “kho” là một tiểu từ chỉ có tác dụng bổ sung cho câu hoặc mang nghĩa nhấn mạnh. Trong đó, với nghĩa nhấn mạnh, cần hiểu là “chắc chắn đã nghe, không có gì cản trở sự nghe của ông ấy”. Còn với nghĩa bổ sung cho câu, nó chỉ đơn thuần làm cho câu văn thêm trôi chảy. “Verañja” có nghĩa là người sinh ra ở xứ Verañjā, người thuộc về xứ Verañjā, hoặc Verañjā là nơi ở của ông ấy. Tuy nhiên, tên do cha mẹ đặt cho vị này là “Udaya”. Từ “Bà la môn” có nghĩa là người đọc tụng Phạm thiên, tức là người tụng đọc các câu thần chú. Đây chính là cách giải thích từ nguyên cho những vị Bà la môn theo dòng dõi. Còn các bậc Thánh thì được gọi là “Bà la môn” vì đã loại trừ tội lỗi.
Idāni yamatthaṃ verañjo brāhmaṇo assosi, taṃ pakāsento samaṇo khalu bho gotamotiādimāha. Tattha samitapāpattā samaṇoti veditabbo. Vuttaṃ hetaṃ – ‘‘bāhitapāpoti brāhmaṇo (dha. pa. 388), samitapāpattā samaṇoti vuccatī’’ti (dha. pa. 265). Bhagavā ca anuttarena ariyamaggena samitapāpo, tenassa yathābhuccaguṇādhigatametaṃ nāmaṃ yadidaṃ samaṇoti. Khalūti anussavanatthe nipāto. Bhoti brāhmaṇajātikānaṃ jātisamudāgataṃ ālapanamattaṃ. Vuttampi hetaṃ –
Bây giờ, để làm rõ điều mà Bà la môn Verañja đã nghe, đoạn văn nói bắt đầu bằng: “Sa môn Gotama kính quý kia…” và những điều theo sau. Trong đó, từ “Sa môn” cần được hiểu là người đã làm lắng dịu tội lỗi. Điều này đã được nói rõ: “Người đã loại trừ tội lỗi là Bà la môn” (dha. pa. 388), và “Người đã làm lắng dịu tội lỗi được gọi là Sa môn” (dha. pa. 265). Đấng Thế Tôn đã làm lắng dịu tội lỗi bằng con đường thánh cao thượng, do đó, danh hiệu “Sa môn” này Ngài có được là do phẩm chất chân thật của Ngài. Từ “nghe nói rằng” là một tiểu từ mang nghĩa thông tin nghe được. Từ “kính quý” chỉ là một cách xưng hô thông thường của những người thuộc dòng dõi Bà la môn. Điều này cũng đã được nói: –
‘‘Bhovādī nāmaso hoti, sace hoti sakiñcano’’ti. (Dha. pa. 396; su. ni. 625). Gotamoti bhagavantaṃ gottavasena parikitteti, tasmā ‘‘samaṇo khalu bho gotamo’’ti ettha samaṇo kira bho gotamagottoti evamattho daṭṭhabbo. Sakyaputtoti idaṃ pana bhagavato uccākulaparidīpanaṃ. Sakyakulā pabbajitoti saddhāpabbajitabhāvaparidīpanaṃ, kenaci pārijuññena anabhibhūto aparikkhīṇaṃyeva, taṃ kulaṃ pahāya saddhāya pabbajitoti vuttaṃ hoti. Tato paraṃ vuttatthameva. Taṃ kho panāti itthambhūtākhyānatthe upayogavacanaṃ, tassa kho pana bhoto gotamassāti attho. Kalyāṇoti kalyāṇaguṇasamannāgato; seṭṭhoti vuttaṃ hoti. Kittisaddoti kitti eva, thutighoso vā.
‘‘Người hay dùng từ ‘kính quý’ để gọi người, nếu là người còn có chút vướng bận (sở hữu).’’ (Dha. pa. 396; su. ni. 625). Từ “Gotama” là nói đến Đấng Thế Tôn theo dòng họ của Ngài; do đó, trong câu “Sa môn Gotama kính quý kia”, cần hiểu ý nghĩa là “Sa môn kính quý, thuộc dòng họ Gotama, nghe nói rằng…”. Từ “Thích tử” này là để làm rõ dòng dõi cao quý của Đấng Thế Tôn. Cụm từ “xuất gia từ dòng họ Thích Ca” là để làm rõ việc Ngài xuất gia vì niềm tin, nghĩa là Ngài xuất gia vì niềm tin, không bị bất kỳ nghịch cảnh nào chi phối, từ bỏ dòng họ ấy khi vẫn còn thịnh vượng. Những gì theo sau đó có ý nghĩa đã được nói rõ. Cụm từ ‘Vị ấy’ là một cách dùng từ (ở đối cách) với ý nghĩa mô tả một người đã được biết rõ (có những đặc điểm như vậy), có nghĩa là ‘(tiếng đồn tốt đẹp) của ngài Gotama kính quý ấy’. Từ ‘tốt đẹp’ có nghĩa là người có những phẩm chất tốt đẹp; tức là ‘bậc cao thượng’. Từ ‘tiếng tốt’ có nghĩa là chính danh tiếng, hoặc là tiếng ca ngợi.
Itipi so bhagavātiādīsu pana ayaṃ tāva yojanā – so bhagavā itipi arahaṃ, itipi sammāsambuddho…pe… itipi bhagavāti iminā ca iminā ca kāraṇenāti vuttaṃ hoti.
Còn trong các câu như “Đấng Thế Tôn ấy là như vậy…”, thì cách kết hợp ý nghĩa trước hết là như sau: Đấng Thế Tôn ấy, vì lý do này nên là bậc A La Hán, vì lý do này nên là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác,…v.v… vì lý do này nên là Đấng Thế Tôn; nghĩa là Ngài được gọi như vậy là vì những lý do này và những lý do kia.
Idāni vinayadharānaṃ suttantanayakosallatthaṃ vinayasaṃvaṇṇanārambhe buddhaguṇapaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya cittasampahaṃsanatthañca etesaṃ padānaṃ vitthāranayena vaṇṇanaṃ karissāmi. Tasmā yaṃ vuttaṃ – ‘‘so bhagavā itipi araha’’ntiādi; tattha ārakattā, arīnaṃ arānañca hatattā, paccayādīnaṃ arahattā, pāpakaraṇe rahābhāvāti imehi tāva kāraṇehi so bhagavā arahanti veditabbo. Ārakā hi so sabbakilesehi suvidūravidūre ṭhito, maggena savāsanānaṃ kilesānaṃ viddhaṃsitattāti ārakattā arahaṃ; te cānena kilesārayo maggena hatāti arīnaṃ hatattāpi arahaṃ. Yañcetaṃ avijjābhavataṇhāmayanābhipuññādiabhisaṅkhārāraṃ jarāmaraṇanemi āsavasamudayamayena akkhena vijjhitvā tibhavarathe samāyojitaṃ anādikālappavattaṃ saṃsāracakkaṃ, tassānena bodhimaṇḍe vīriyapādehi sīlapathaviyaṃ patiṭṭhāya saddhāhatthena kammakkhayakaraṃ ñāṇapharasuṃ gahetvā sabbe arā hatāti arānaṃ hatattāpi arahaṃ.
Bây giờ, để giúp các vị Luật sư trau dồi sự khéo léo về phương pháp của Kinh tạng, và cũng để làm phấn chấn tâm trí bằng một bài pháp thoại liên quan đến các ân đức của Phật vào lúc bắt đầu phần chú giải Luật này, tôi sẽ giải thích ý nghĩa của những từ này một cách chi tiết. Do đó, như đã nói: “Đấng Thế Tôn ấy, vì lý do này nên là bậc A La Hán” và những gì theo sau; trong đó, cần hiểu rằng Đấng Thế Tôn là bậc A La Hán vì những lý do sau: vì Ngài ở xa (các phiền não), vì đã diệt trừ các kẻ thù (phiền não) và các căm xe (của bánh xe luân hồi), vì xứng đáng thọ nhận các vật dụng cúng dường, và vì không có nơi kín đáo để làm điều ác. Thật vậy, Ngài ở rất xa tất cả các phiền não, vì đã tận diệt các phiền não cùng với các tùy miên của chúng bằng con đường Thánh đạo, nên Ngài là bậc A La Hán vì đã ở xa; và những kẻ thù phiền não ấy đã bị Ngài diệt trừ bằng con đường Thánh đạo, nên Ngài cũng là bậc A La Hán vì đã diệt trừ các kẻ thù. Và bánh xe luân hồi này, vốn quay từ vô thủy, được gắn vào cỗ xe ba cõi, với trục xe là vô minh, hữu ái, phi hữu ái, các loại nghiệp hữu vi tạo tác phúc và phi phúc, với vành xe là già và chết, được xuyên qua bởi trục xe của sự phát sinh các lậu hoặc; tất cả các căm xe của bánh xe ấy đã bị Ngài phá hủy tại Bồ Đề Đạo Tràng, khi Ngài đứng trên mặt đất giới hạnh bằng đôi chân tinh tấn, tay phải đức tin cầm chiếc búa trí tuệ có khả năng chặt đứt nghiệp, nên Ngài cũng là bậc A La Hán vì đã bẻ gãy các căm xe.
Atha vā saṃsāracakkanti anamataggasaṃsāravaṭṭaṃ vuccati, tassa ca avijjā nābhi, mūlattā; jarāmaraṇaṃ nemi, pariyosānattā; sesā dasa dhammā arā, avijjāmūlakattā jarāmaraṇapariyantattā ca. Tattha dukkhādīsu aññāṇaṃ avijjā, kāmabhave ca avijjā kāmabhave saṅkhārānaṃ paccayo hoti. Rūpabhave avijjā rūpabhave saṅkhārānaṃ paccayo hoti. Arūpabhave avijjā arūpabhave saṅkhārānaṃ paccayo hoti. Kāmabhave saṅkhārā kāmabhave paṭisandhiviññāṇassa paccayā honti. Esa nayo itaresu. Kāmabhave paṭisandhiviññāṇaṃ kāmabhave nāmarūpassa paccayo hoti, tathā rūpabhave. Arūpabhave nāmasseva paccayo hoti. Kāmabhave nāmarūpaṃ kāmabhave saḷāyatanassa paccayo hoti. Rūpabhave nāmarūpaṃ rūpabhave tiṇṇaṃ āyatanānaṃ paccayo hoti. Arūpabhave nāmaṃ arūpabhave ekassāyatanassa paccayo hoti. Kāmabhave saḷāyatanaṃ kāmabhave chabbidhassa phassassa paccayo hoti. Rūpabhave tīṇi āyatanāni rūpabhave tiṇṇaṃ phassānaṃ; arūpabhave ekamāyatanaṃ arūpabhave ekassa phassassa paccayo hoti. Kāmabhave cha phassā kāmabhave channaṃ vedanānaṃ paccayā honti. Rūpabhave tayo tattheva tissannaṃ; arūpabhave eko tattheva ekissā vedanāya paccayo hoti. Kāmabhave cha vedanā kāmabhave channaṃ taṇhākāyānaṃ paccayā honti. Rūpabhave tisso tattheva tiṇṇaṃ; arūpabhave ekā vedanā arūpabhave ekassa taṇhākāyassa paccayo hoti. Tattha tattha sā sā taṇhā tassa tassa upādānassa paccayo; upādānādayo bhavādīnaṃ.
Hoặc nữa, “bánh xe luân hồi” được gọi là vòng luân hồi bất tận không biết khởi đầu. Trục của nó là vô minh, vì là gốc rễ; vành của nó là già và chết, vì là điểm cuối cùng; mười pháp còn lại là các căm xe, vì chúng bắt nguồn từ vô minh và kết thúc ở già và chết. Trong đó, sự không biết về khổ,… là vô minh. Vô minh trong cõi Dục là nhân duyên cho các hành trong cõi Dục. Vô minh trong cõi Sắc là nhân duyên cho các hành trong cõi Sắc. Vô minh trong cõi Vô Sắc là nhân duyên cho các hành trong cõi Vô Sắc. Các hành trong cõi Dục là nhân duyên cho thức tái sanh trong cõi Dục. Cách này cũng tương tự cho các cõi khác. Thức tái sanh trong cõi Dục là nhân duyên cho danh sắc trong cõi Dục, tương tự như vậy trong cõi Sắc. Trong cõi Vô Sắc, nó là nhân duyên chỉ cho danh. Danh sắc trong cõi Dục là nhân duyên cho sáu xứ trong cõi Dục. Danh sắc trong cõi Sắc là nhân duyên cho ba xứ trong cõi Sắc. Danh trong cõi Vô Sắc là nhân duyên cho một xứ trong cõi Vô Sắc. Sáu xứ trong cõi Dục là nhân duyên cho sáu loại xúc trong cõi Dục. Ba xứ trong cõi Sắc là nhân duyên cho ba loại xúc trong cõi Sắc; một xứ trong cõi Vô Sắc là nhân duyên cho một loại xúc trong cõi Vô Sắc. Sáu loại xúc trong cõi Dục là nhân duyên cho sáu loại thọ trong cõi Dục. Ba loại (xúc) trong cõi Sắc là nhân duyên cho ba loại thọ ở đó; một loại (xúc) trong cõi Vô Sắc là nhân duyên cho một loại thọ ở đó. Sáu loại thọ trong cõi Dục là nhân duyên cho sáu thân ái trong cõi Dục. Ba loại (thọ) trong cõi Sắc là nhân duyên cho ba thân ái ở đó; một loại thọ trong cõi Vô Sắc là nhân duyên cho một thân ái trong cõi Vô Sắc. Ở mỗi nơi, ái đó là nhân duyên cho thủ đó; thủ v.v… là nhân duyên cho hữu v.v…
Kathaṃ? Idhekacco ‘‘kāme paribhuñjissāmī’’ti kāmupādānapaccayā kāyena duccaritaṃ carati, vācāya manasā duccaritaṃ carati; duccaritapāripūriyā apāye upapajjati. Tatthassa upapattihetubhūtaṃ kammaṃ kammabhavo, kammanibbattā khandhā upapattibhavo, khandhānaṃ nibbatti jāti, paripāko jarā, bhedo maraṇaṃ.
Như thế nào? Ở đây, có người nghĩ rằng “Ta sẽ hưởng thụ các dục lạc”, do duyên chấp thủ dục, người ấy làm điều ác qua thân, làm điều ác qua lời nói, làm điều ác qua ý; do sự viên mãn của việc làm điều ác, người ấy tái sanh vào đường ác. Ở đó, nghiệp là nhân duyên cho sự tái sanh của người ấy là nghiệp hữu; các uẩn được tạo ra bởi nghiệp là sanh hữu; sự sinh khởi của các uẩn là sanh; sự trưởng thành (của các uẩn) là già; sự tan rã (của các uẩn) là chết.
Aparo ‘‘saggasampattiṃ anubhavissāmī’’ti tatheva sucaritaṃ carati; sucaritapāripūriyā sagge upapajjati. Tatthassa upapattihetubhūtaṃ kammaṃ kammabhavoti so eva nayo.
Người khác lại nghĩ rằng: “Ta sẽ hưởng thụ sự thành tựu ở cõi trời”, rồi cũng làm các điều thiện; do sự viên mãn của việc làm điều thiện, người ấy được sanh lên cõi trời. Ở đó, nghiệp là nhân duyên cho sự tái sanh của người ấy là nghiệp hữu, và tiến trình cũng tương tự như trên.
Aparo pana ‘‘brahmalokasampattiṃ anubhavissāmī’’ti kāmupādānapaccayā eva mettaṃ bhāveti, karuṇaṃ… muditaṃ… upekkhaṃ bhāveti, bhāvanāpāripūriyā brahmaloke nibbattati. Tatthassa nibbattihetubhūtaṃ kammaṃ kammabhavoti soyeva nayo.
Lại có người khác nghĩ rằng: “Ta sẽ hưởng thụ sự thành tựu ở cõi Phạm thiên”, rồi chính do duyên chấp thủ vào các dục vọng mà tu tập tâm từ, tu tập tâm bi… tâm hỷ… tâm xả; do sự viên mãn của sự tu tập, người ấy được sanh lên cõi Phạm thiên. Ở đó, nghiệp là nhân duyên cho sự tái sanh của người ấy là nghiệp hữu, và tiến trình cũng tương tự như trên.
Aparo ‘‘arūpavabhasampattiṃ anubhavissāmī’’ti tatheva ākāsānañcāyatanādisamāpattiyo bhāveti, bhāvanāpāripūriyā tattha nibbattati. Tatthassa nibbattihetubhūtaṃ kammaṃ kammabhavo, kammanibbattā khandhā upapattibhavo, khandhānaṃ nibbatti jāti, paripāko jarā, bhedo maraṇanti. Esa nayo sesupādānamūlikāsupi yojanāsu.
Người khác nữa lại nghĩ rằng: “Ta sẽ hưởng thụ sự thành tựu ở cõi Vô sắc”, rồi cũng tu tập các định như Không Vô Biên Xứ v.v…; do sự viên mãn của sự tu tập, người ấy được sanh lên đó. Ở đó, nghiệp là nhân duyên cho sự tái sanh của người ấy là nghiệp hữu; các uẩn được tạo ra bởi nghiệp là sanh hữu; sự sinh khởi của các uẩn là sanh; sự trưởng thành (của các uẩn) là già; sự tan rã (của các uẩn) là chết. Cách này cũng được áp dụng cho các trường hợp khác bắt nguồn từ các loại chấp thủ còn lại.
Evaṃ ‘‘ayaṃ avijjā hetu, saṅkhārā hetusamuppannā, ubhopete hetusamuppannāti paccayapariggahe paññā dhammaṭṭhitiñāṇaṃ; atītampi addhānaṃ, anāgatampi addhānaṃ; avijjā hetu, saṅkhārā hetusamuppannā, ubhopete hetusamuppannāti paccayapariggahe paññā dhammaṭṭhitiñāṇa’’nti etena nayena sabbapadāni vitthāretabbāni. Tattha avijjā saṅkhārā eko saṅkhepo, viññāṇa-nāmarūpa-saḷāyatana-phassa-vedanā eko, taṇhupādānabhavā eko, jāti-jarā-maraṇaṃ eko. Purimasaṅkhepo cettha atīto addhā, dve majjhimā paccuppanno, jātijarāmaraṇaṃ anāgato. Avijjāsaṅkhāraggahaṇena cettha taṇhupādānabhavā gahitāva hontīti ime pañca dhammā atīte kammavaṭṭaṃ; viññāṇādayo pañca dhammā etarahi vipākavaṭṭaṃ. Taṇhupādānabhavaggahaṇena avijjāsaṅkhārā gahitāva hontīti ime pañca dhammā etarahi kammavaṭṭaṃ; jātijarāmaraṇāpadesena viññāṇādīnaṃ niddiṭṭhattā ime pañca dhammā āyatiṃ vipākavaṭṭaṃ. Te ākārato vīsatividhā honti. Saṅkhāraviññāṇānañcettha antarā eko sandhi, vedanātaṇhānamantarā eko, bhavajātīnamantarā eko. Iti bhagavā evaṃ catusaṅkhepaṃ, tiyaddhaṃ, vīsatākāraṃ, tisandhiṃ paṭiccasamuppādaṃ sabbākārato jānāti passati aññāti paṭivijjhati. Taṃ ñātaṭṭhena ñāṇaṃ, pajānanaṭṭhena paññā. Tena vuccati – ‘‘paccayapariggahe paññā dhammaṭṭhitiñāṇa’’nti. Iminā dhammaṭṭhitiñāṇena bhagavā te dhamme yathābhūtaṃ ñatvā tesu nibbindanto virajjanto vimuccanto vuttappakārassa imassa saṃsāracakkassa are hani vihani viddhaṃsesi. Evampi arānaṃ hatattā arahaṃ.
Như vậy, “vô minh này là nhân, các hành là pháp do nhân sanh khởi, cả hai đều là pháp do nhân sanh khởi – trí tuệ trong việc nắm bắt các duyên này là Pháp trụ trí; trong quá khứ cũng vậy, trong tương lai cũng vậy; vô minh là nhân, các hành là pháp do nhân sanh khởi, cả hai đều là pháp do nhân sanh khởi – trí tuệ trong việc nắm bắt các duyên này là Pháp trụ trí”. Theo cách này, tất cả các thuật ngữ (của Thập Nhị Nhân Duyên) cần được giải thích chi tiết. Trong đó, vô minh và các hành là một nhóm tóm tắt; thức, danh sắc, sáu xứ, xúc, và thọ là một nhóm; ái, thủ, và hữu là một nhóm; sanh, già, và chết là một nhóm. Nhóm tóm tắt đầu tiên ở đây thuộc về quá khứ; hai nhóm giữa thuộc về hiện tại; sanh, già, và chết thuộc về tương lai. Khi nói đến vô minh và các hành, điều đó cũng bao hàm cả ái, thủ, và hữu; do đó, năm pháp này (vô minh, hành, ái, thủ, hữu) trong quá khứ tạo thành vòng nghiệp. Năm pháp bắt đầu bằng thức (thức, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ) hiện tại là vòng quả báo. Khi nói đến ái, thủ, và hữu, điều đó cũng bao hàm cả vô minh và các hành; do đó, năm pháp này (ái, thủ, hữu, vô minh, hành) hiện tại tạo thành vòng nghiệp. Do sanh, già, và chết đã được chỉ rõ qua thức v.v…, nên năm pháp này (sanh, già, chết và bao hàm thức, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ) trong tương lai tạo thành vòng quả báo. Theo các phương diện, chúng có hai mươi loại. Giữa các hành và thức có một mối nối; giữa thọ và ái có một mối nối; giữa hữu và sanh có một mối nối. Như vậy, Đấng Thế Tôn biết, thấy, hiểu rõ và thâm nhập Lý Duyên Khởi với đầy đủ các phương diện: bốn nhóm tóm tắt, ba thời kỳ, hai mươi phương diện, và ba mối nối. Sự hiểu biết đó về phương diện đã biết là trí; về phương diện nhận thức rõ là tuệ. Do đó, có câu: “Trí tuệ trong việc nắm bắt các duyên là Pháp trụ trí”. Với Pháp trụ trí này, Đấng Thế Tôn, sau khi biết rõ các pháp ấy như thật, nhờ nhàm chán, ly tham, giải thoát khỏi chúng, đã chặt đứt, phá hủy, tiêu diệt các căm xe của bánh xe luân hồi đã được mô tả. Như vậy, Ngài là bậc A La Hán vì đã bẻ gãy các căm xe.
Aggadakkhiṇeyyattā ca cīvarādipaccaye arahati pūjāvisesañca; teneva ca uppanne tathāgate ye keci mahesakkhā devamanussā na te aññattha pūjaṃ karonti. Tathā hi brahmā sahampati sinerumattena ratanadāmena tathāgataṃ pūjesi, yathābalañca aññepi devā manussā ca bimbisārakosalarājādayo. Parinibbutampi ca bhagavantaṃ uddissa channavutikoṭidhanaṃ visajjetvā asokamahārājā sakalajambudīpe caturāsītivihārasahassāni patiṭṭhāpesi. Ko pana vādo aññesaṃ pūjāvisesānanti! Evaṃ paccayādīnaṃ arahattāpi arahaṃ. Yathā ca loke keci paṇḍitamānino bālā asilokabhayena raho pāpaṃ karonti; evamesa na kadāci karotīti pāpakaraṇe rahābhāvatopi arahaṃ. Hoti cettha –
Do là bậc tối thượng đáng được cúng dường, Ngài xứng đáng thọ nhận các vật dụng như y phục v.v… và các sự cúng dường đặc biệt. Chính vì thế, khi một vị Như Lai xuất hiện, bất kỳ chư thiên hay loài người nào có quyền lực lớn đều không cúng dường ở nơi nào khác. Thật vậy, Phạm thiên Sahampati đã cúng dường Như Lai bằng một chuỗi ngọc quý giá trị bằng núi Sineru; các vị trời khác và loài người như vua Bimbisāra, vua Kosala v.v… cũng cúng dường tùy theo khả năng của mình. Ngay cả sau khi Đấng Thế Tôn đã nhập Parinibbāna (Vô Dư Niết Bàn), Đại đế Asoka đã chi ra chín mươi sáu triệu lượng vàng để xây dựng tám mươi bốn ngàn ngôi chùa trên khắp cõi Jambudīpa (Diêm Phù Đề) để tưởng nhớ Ngài. Huống nữa là các sự cúng dường đặc biệt khác! Như vậy, Ngài là bậc A La Hán cũng vì xứng đáng thọ nhận các vật dụng cúng dường. Và như trong đời có những kẻ tự cho mình là bậc trí nhưng thực ra là ngu si, vì sợ bị chê cười nên lén lút làm điều ác; còn Ngài thì không bao giờ làm như vậy, do đó Ngài là bậc A La Hán cũng vì không có nơi kín đáo để làm điều ác. Ở đây có câu kệ rằng:
‘‘Ārakattā hatattā ca, kilesārīna so muni;
‘‘Vì Ngài ở xa, lại diệt trừ, các kẻ thù phiền não, bậc Mâu Ni ấy;
Hatasaṃsāracakkāro, paccayādīna cāraho;
Phá tan căm bánh xe luân hồi, lại xứng đáng các vật cúng dường;
Na raho karoti pāpāni, arahaṃ tena vuccatī’’ti.
Không lén làm các điều ác, nên gọi là A La Hán.’’
Sammā sāmañca sabbadhammānaṃ buddhattā pana sammāsambuddho. Tathā hesa sabbadhamme sammā sāmañca buddho, abhiññeyye dhamme abhiññeyyato buddho, pariññeyye dhamme pariññeyyato, pahātabbe dhamme pahātabbato, sacchikātabbe dhamme sacchikātabbato, bhāvetabbe dhamme bhāvetabbato. Teneva cāha –
Do đã tự mình giác ngộ chân chánh tất cả các pháp, nên Ngài là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Thật vậy, Ngài đã tự mình giác ngộ chân chánh tất cả các pháp: những pháp cần được thắng trí, Ngài đã thắng trí chúng đúng như vậy; những pháp cần được biến tri, Ngài đã biến tri chúng đúng như vậy; những pháp cần được đoạn tận, Ngài đã đoạn tận chúng đúng như vậy; những pháp cần được chứng ngộ, Ngài đã chứng ngộ chúng đúng như vậy; những pháp cần được tu tập, Ngài đã tu tập chúng đúng như vậy. Chính vì thế, Ngài đã nói:
‘‘Abhiññeyyaṃ abhiññātaṃ, bhāvetabbañca bhāvitaṃ;
‘‘Pháp cần thắng trí, Ta đã thắng trí; pháp cần tu tập, Ta đã tu tập;
Pahātabbaṃ pahīnaṃ me, tasmā buddhosmi brāhmaṇā’’ti. (ma. ni. 2.399; su. ni. 563);
Pháp cần đoạn tận, Ta đã đoạn tận; vì thế, này Bà la môn, Ta là Phật.’’ (ma. ni. 2.399; su. ni. 563);
Apica cakkhu dukkhasaccaṃ, tassa mūlakāraṇabhāvena taṃsamuṭṭhāpikā purimataṇhā samudayasaccaṃ, ubhinnamappavatti nirodhasaccaṃ, nirodhappajānanā paṭipadā maggasaccanti evaṃ ekekapaduddhārenāpi sabbadhamme sammā sāmañca buddho. Esa nayo sota-ghāna-jivhā-kāyamanesupi. Eteneva nayena rūpādīni cha āyatanāni, cakkhuviññāṇādayo cha viññāṇakāyā, cakkhusamphassādayo cha phassā, cakkhusamphassajādayo cha vedanā, rūpasaññādayo cha saññā, rūpasañcetanādayo cha cetanā, rūpataṇhādayo cha taṇhākāyā, rūpavitakkādayo cha vitakkā, rūpavicārādayo cha vicārā , rūpakkhandhādayo pañcakkhandhā, dasa kasiṇāni, dasa anussatiyo, uddhumātakasaññādivasena dasa saññā, kesādayo dvattiṃsākārā, dvādasāyatanāni, aṭṭhārasa dhātuyo, kāmabhavādayo nava bhavā, paṭhamādīni cattāri jhānāni, mettābhāvanādayo catasso appamaññā, catasso arūpasamāpattiyo, paṭilomato jarāmaraṇādīni, anulomato avijjādīni paṭiccasamuppādaṅgāni ca yojetabbāni.
Hơn nữa, con mắt là Khổ đế; ái trước đó, do là nhân duyên gốc rễ làm phát sinh con mắt, là Tập đế; sự không sinh khởi của cả hai là Diệt đế; con đường nhận biết sự diệt ấy là Đạo đế – như vậy, bằng cách phân tích từng thuật ngữ một, Ngài đã tự mình giác ngộ chân chánh tất cả các pháp. Phương pháp này cũng áp dụng cho tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Cũng theo phương pháp này, sáu ngoại xứ như sắc v.v…; sáu thân thức như nhãn thức v.v…; sáu loại xúc như nhãn xúc v.v…; sáu loại thọ như thọ do nhãn xúc sinh v.v…; sáu loại tưởng như sắc tưởng v.v…; sáu loại tư như sắc tư v.v…; sáu thân ái như sắc ái v.v…; sáu loại tầm như tầm về sắc v.v…; sáu loại tứ như tứ về sắc v.v…; năm uẩn như sắc uẩn v.v…; mười pháp biến xứ (kasiṇa); mười pháp tùy niệm (anussati); mười loại tưởng, như tưởng tử thi sình trương v.v…; ba mươi hai thể trược như tóc v.v…; mười hai xứ; mười tám giới; chín loại hữu như dục hữu v.v…; bốn bậc thiền bắt đầu từ sơ thiền; bốn phạm trú như tu tập tâm từ v.v…; bốn định vô sắc; các chi phần duyên khởi theo chiều nghịch bắt đầu từ già-chết v.v…, và theo chiều thuận bắt đầu từ vô minh v.v… cũng cần được áp dụng tương tự.
Tatrāyaṃ ekapadayojanā – ‘‘jarāmaraṇaṃ dukkhasaccaṃ, jāti samudayasaccaṃ, ubhinnampi nissaraṇaṃ nirodhasaccaṃ, nirodhappajānanā paṭipadā maggasacca’’nti. Evaṃ ekekapaduddhārena sabbadhamme sammā sāmañca buddho anubuddho paṭividdho. Tena vuttaṃ – sammā sāmañca sabbadhammānaṃ buddhattā pana sammāsambuddhoti.
Trong đó, đây là cách áp dụng cho một thuật ngữ: “Già-chết là Khổ đế; sanh là Tập đế; sự thoát ly khỏi cả hai là Diệt đế; con đường nhận biết sự diệt ấy là Đạo đế”. Như vậy, bằng cách phân tích từng thuật ngữ một, Ngài đã tự mình giác ngộ chân chánh, liễu悟, thâm nhập tất cả các pháp. Do đó, có câu nói: “Do đã tự mình giác ngộ chân chánh tất cả các pháp, nên Ngài là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác”.
Vijjāhi pana caraṇena ca sampannattā vijjācaraṇasampanno; tattha vijjāti tissopi vijjā, aṭṭhapi vijjā. Tisso vijjā bhayabheravasutte (ma. ni. 1.34 ādayo) vuttanayeneva veditabbā, aṭṭha vijjā ambaṭṭhasutte (dī. ni. 1.278 ādayo). Tatra hi vipassanāñāṇena manomayiddhiyā ca saha cha abhiññā pariggahetvā aṭṭha vijjā vuttā. Caraṇanti sīlasaṃvaro, indriyesu guttadvāratā, bhojane mattaññutā, jāgariyānuyogo, satta saddhammā, cattāri rūpāvacarajjhānānīti ime pannarasa dhammā veditabbā. Imeyeva hi pannarasa dhammā, yasmā etehi carati ariyasāvako gacchati amataṃ disaṃ tasmā, caraṇanti vuttā. Yathāha – ‘‘idha, mahānāma, ariyasāvako sīlavā hotī’’ti (ma. ni. 2.24) vitthāro. Bhagavā imāhi vijjāhi iminā ca caraṇena samannāgato, tena vuccati vijjācaraṇasampannoti . Tattha vijjāsampadā bhagavato sabbaññutaṃ pūretvā ṭhitā, caraṇasampadā mahākāruṇikataṃ. So sabbaññutāya sabbasattānaṃ atthānatthaṃ ñatvā mahākāruṇikatāya anatthaṃ parivajjetvā atthe niyojeti, yathā taṃ vijjācaraṇasampanno. Tenassa sāvakā suppaṭipannā honti no duppaṭipannā, vijjācaraṇavipannānañhi sāvakā attantapādayo viya.
Do đã viên mãn cả minh và hạnh, nên Ngài là bậc Minh Hạnh Túc. Trong đó, “minh” là ba minh hoặc tám minh. Ba minh cần được hiểu theo cách đã nói trong kinh Bhayabherava (ma. ni. 1.34 trở đi); tám minh (được nói) trong kinh Ambaṭṭha (dī. ni. 1.278 trở đi). Thật vậy, ở đó, sau khi bao gồm sáu thắng trí cùng với tuệ quán và thần thông do ý tạo ra, tám minh đã được nói đến. “Hạnh” cần được hiểu là mười lăm pháp này: sự thu thúc trong giới luật, sự phòng hộ các căn, sự tiết độ trong ăn uống, sự chuyên cần tỉnh thức, bảy diệu pháp (tín, tàm, quý, đa văn, tinh tấn, niệm, tuệ), và bốn bậc thiền hữu sắc. Chính mười lăm pháp này, vì nhờ chúng mà bậc Thánh đệ tử “hành xử”, đi đến cảnh giới bất tử, nên được gọi là “hạnh”. Như có lời dạy: “Này Mahānāma, ở đây, bậc Thánh đệ tử là người có giới…” (ma. ni. 2.24) và phần giải thích chi tiết. Đấng Thế Tôn đã đầy đủ các minh này và hạnh này, do đó Ngài được gọi là bậc Minh Hạnh Túc. Trong đó, sự viên mãn về minh của Đấng Thế Tôn đã hoàn thiện đức tính toàn tri của Ngài; sự viên mãn về hạnh đã hoàn thiện đức tính đại bi của Ngài. Ngài, nhờ trí toàn tri, biết rõ điều lợi và điều hại cho tất cả chúng sanh; nhờ lòng đại bi, Ngài giúp chúng sanh tránh xa điều hại và hướng đến điều lợi, đúng như một bậc Minh Hạnh Túc. Do đó, các đệ tử của Ngài đều là những người khéo tu tập, không phải là những người tu tập sai lầm; còn đệ tử của những người thiếu sót về minh và hạnh thì giống như những người thực hành khổ hạnh ép xác vậy.
Sobhanagamanattā, sundaraṃ ṭhānaṃ gatattā, sammāgatattā, sammā ca gadattā sugato. Gamanampi hi gatanti vuccati, tañca bhagavato sobhanaṃ parisuddhamanavajjaṃ . Kiṃ pana tanti? Ariyamaggo. Tena hesa gamanena khemaṃ disaṃ asajjamāno gatoti sobhanagamanattā sugato. Sundaraṃ cesa ṭhānaṃ gato amataṃ nibbānanti sundaraṃ ṭhānaṃ gatattāpi sugato. Sammā ca gato tena tena maggena pahīne kilese puna apaccāgacchanto. Vuttañcetaṃ – ‘‘sotāpattimaggena ye kilesā pahīnā, te kilese na puneti na pacceti na paccāgacchatīti sugato…pe… arahattamaggena ye kilesā pahīnā, te kilese na puneti na pacceti na paccāgacchatīti sugato’’ti (mahāni. 38). Sammā vā āgato dīpaṅkarapādamūlato pabhuti yāva bodhimaṇḍo tāva samatiṃsapāramipūritāya sammāpaṭipattiyā sabbalokassa hitasukhameva karonto sassataṃ ucchedaṃ kāmasukhaṃ attakilamathanti ime ca ante anupagacchanto āgatoti sammāgatattāpi sugato. Sammā cesa gadati, yuttaṭṭhāne yuttameva vācaṃ bhāsatīti sammā gadattāpi sugato.
Do có sự đi tuyệt hảo, do đã đi đến nơi tốt đẹp, do đã đi một cách chân chánh, và do đã nói một cách chân chánh, nên Ngài là bậc Thiện Thệ. Thật vậy, “sự đi” cũng được gọi là “đã đi”, và sự đi của Đấng Thế Tôn là tuyệt hảo, thanh tịnh, không thể chê trách. Vậy đó là gì? Đó là Thánh đạo. Chính nhờ sự đi này mà Ngài đã đến được cảnh giới an ổn mà không vướng mắc, nên Ngài là bậc Thiện Thệ vì có sự đi tuyệt hảo. Ngài đã đi đến nơi tốt đẹp là trạng thái bất tử, Niết Bàn, nên Ngài cũng là bậc Thiện Thệ vì đã đi đến nơi tốt đẹp. Ngài cũng đã đi một cách chân chánh, không quay trở lại với những phiền não đã được đoạn trừ bởi từng đạo lộ. Điều này đã được nói rõ: “Những phiền não nào đã được đoạn trừ bởi đạo Dự Lưu, Ngài không quay lại, không trở lui, không tái phạm những phiền não ấy, nên là bậc Thiện Thệ…v.v… những phiền não nào đã được đoạn trừ bởi đạo A La Hán, Ngài không quay lại, không trở lui, không tái phạm những phiền não ấy, nên là bậc Thiện Thệ” (mahāni. 38). Hoặc, Ngài đã đến một cách chân chánh: từ thuở ban đầu dưới chân Phật Dīpaṅkara cho đến khi thành đạo tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ngài đã hoàn thiện ba mươi pháp ba la mật bằng sự thực hành chân chánh, chỉ làm lợi ích và hạnh phúc cho toàn thể thế gian, không đi vào các cực đoan như thường kiến, đoạn kiến, tham đắm dục lạc, và khổ hạnh ép xác, nên Ngài cũng là bậc Thiện Thệ vì đã đến một cách chân chánh. Ngài cũng nói một cách chân chánh, chỉ nói những lời thích hợp vào đúng lúc đúng chỗ, nên Ngài cũng là bậc Thiện Thệ vì nói một cách chân chánh.
Tatridaṃ sādhakasuttaṃ – ‘‘yaṃ tathāgato vācaṃ jānāti abhūtaṃ atacchaṃ anatthasaṃhitaṃ, sā ca paresaṃ appiyā amanāpā, na taṃ tathāgato vācaṃ bhāsati. Yampi tathāgato vācaṃ jānāti bhūtaṃ tacchaṃ anatthasaṃhitaṃ, sā ca paresaṃ appiyā amanāpā, tampi tathāgato vācaṃ na bhāsati. Yañca kho tathāgato vācaṃ jānāti bhūtaṃ tacchaṃ atthasaṃhitaṃ, sā ca paresaṃ appiyā amanāpā, tatra kālaññū tathāgato hoti tassā vācāya veyyākaraṇāya. Yaṃ tathāgato vācaṃ jānāti abhūtaṃ atacchaṃ anatthasaṃhitaṃ, sā ca paresaṃ piyā manāpā, na taṃ tathāgato vācaṃ bhāsati. Yampi tathāgato vācaṃ jānāti bhūtaṃ tacchaṃ anatthasaṃhitaṃ, sā ca paresaṃ piyā manāpā, tampi tathāgato vācaṃ na bhāsati. Yañca kho tathāgato vācaṃ jānāti bhūtaṃ tacchaṃ atthasaṃhitaṃ, sā ca paresaṃ piyā manāpā, tatra kālaññū tathāgato hoti tassā vācāya veyyākaraṇāyā’’ti (ma. ni. 2.86). Evaṃ sammā gadattāpi sugatoti veditabbo.
Đây là kinh dẫn chứng cho điều đó: “Lời nói nào Như Lai biết là không thật, không đúng sự thật, không liên hệ đến lợi ích, và lời nói đó lại không được người khác ưa thích, không làm họ hài lòng, thì Như Lai không nói lời nói đó. Lời nói nào Như Lai biết là thật, đúng sự thật, nhưng không liên hệ đến lợi ích, và lời nói đó lại không được người khác ưa thích, không làm họ hài lòng, thì Như Lai cũng không nói lời nói đó. Lời nói nào Như Lai biết là thật, đúng sự thật, liên hệ đến lợi ích, nhưng lời nói đó lại không được người khác ưa thích, không làm họ hài lòng, thì ở đó Như Lai biết đúng thời để giải bày lời nói ấy. Lời nói nào Như Lai biết là không thật, không đúng sự thật, không liên hệ đến lợi ích, nhưng lời nói đó lại được người khác ưa thích, làm họ hài lòng, thì Như Lai không nói lời nói đó. Lời nói nào Như Lai biết là thật, đúng sự thật, nhưng không liên hệ đến lợi ích, và lời nói đó lại được người khác ưa thích, làm họ hài lòng, thì Như Lai cũng không nói lời nói đó. Lời nói nào Như Lai biết là thật, đúng sự thật, liên hệ đến lợi ích, và lời nói đó lại được người khác ưa thích, làm họ hài lòng, thì ở đó Như Lai biết đúng thời để giải bày lời nói ấy” (ma. ni. 2.86). Như vậy, cần hiểu Ngài là bậc Thiện Thệ cũng vì nói một cách chân chánh.
Sabbathā viditalokattā pana lokavidū. So hi bhagavā sabhāvato samudayato nirodhato nirodhūpāyatoti sabbathā lokaṃ avedi aññāsi paṭivijjhi. Yathāha – ‘‘yattha kho, āvuso, na jāyati na jīyati na mīyati na cavati na upapajjati, nāhaṃ taṃ gamanena lokassa antaṃ ñāteyyaṃ daṭṭheyyaṃ patteyyanti vadāmi; na cāhaṃ, āvuso, appatvāva lokassa antaṃ dukkhassa antakiriyaṃ vadāmi. Api cāhaṃ, āvuso, imasmiṃyeva byāmamatte kaḷevare sasaññimhi samanake lokañca paññapemi lokasamudayañca lokanirodhañca lokanirodhagāminiñca paṭipadaṃ.
Do đã biết rõ thế gian về mọi phương diện, nên Ngài là bậc Thế Gian Giải. Thật vậy, Đấng Thế Tôn đã biết, đã hiểu rõ, đã thâm nhập thế gian về mọi phương diện: về tự tánh của nó, về sự sinh khởi của nó, về sự diệt tận của nó, và về con đường đưa đến sự diệt tận của nó. Như Ngài đã dạy: “Này chư hiền, nơi nào không có sanh, không có già, không có chết, không có qua đời, không có tái sanh, Ta không tuyên bố rằng có thể biết, thấy, hay đạt đến tận cùng của thế gian ấy bằng cách đi. Nhưng này chư hiền, Ta cũng không tuyên bố rằng có thể chấm dứt khổ đau mà không đạt đến tận cùng của thế gian. Mà này chư hiền, chính trong tấm thân dài một tầm này, có tưởng và có ý, Ta tuyên bố về thế gian, về sự tập khởi của thế gian, về sự diệt tận của thế gian, và về con đường đưa đến sự diệt tận của thế gian.”
‘‘Gamanena na pattabbo, lokassanto kudācanaṃ;
‘‘Không thể nào đến được tận cùng thế gian bằng cách đi;
Na ca appatvā lokantaṃ, dukkhā atthi pamocanaṃ.
Và nếu không đến tận cùng thế gian, thì không thể thoát khỏi khổ đau.
‘‘Tasmā have lokavidū sumedho;
‘‘Vì vậy, bậc thiện trí, người biết rõ thế gian;
Lokantagū vusitabrahmacariyo;
Đã đi đến tận cùng thế gian, đã sống đời phạm hạnh;
Lokassa antaṃ samitāvi ñatvā;
Biết rõ tận cùng thế gian, tâm đã tịch tịnh;
Nāsīsatī lokamimaṃ parañcā’’ti. (a. ni. 4.45; saṃ. ni. 1.107);
Không còn mong cầu đời này hay đời sau nữa.’’ (a. ni. 4.45; saṃ. ni. 1.107);
Apica tayo lokā – saṅkhāraloko, sattaloko, okāsalokoti; tattha ‘‘eko loko – sabbe sattā āhāraṭṭhitikā’’ti (paṭi. ma. 1.112) āgataṭṭhāne saṅkhāraloko veditabbo. ‘‘Sassato lokoti vā asassato lokoti vā’’ti (dī. ni. 1.421) āgataṭṭhāne sattaloko.
Hơn nữa, có ba loại thế gian: thế giới các hành, thế giới chúng sanh, và thế giới không gian. Trong đó, ở chỗ nói rằng: “Một thế gian – tất cả chúng sanh tồn tại nhờ vật thực” (paṭi. ma. 1.112), cần hiểu đó là thế giới các hành. Ở chỗ nói rằng: “Thế gian là thường hằng, hay thế gian là không thường hằng” (dī. ni. 1.421), cần hiểu đó là thế giới chúng sanh.
‘‘Yāvatā candimasūriyā, pariharanti disā bhanti virocanā;
‘‘Chừng nào mặt trăng, mặt trời còn xoay chuyển, chiếu sáng các phương trời;
Tāva sahassadhā loko, ettha te vattatī vaso’’ti. (ma. ni. 1.503) –
Chừng đó thế giới nghìn lần còn tồn tại, quyền lực của ngài bao trùm nơi đây.’’ (ma. ni. 1.503) –
Āgataṭṭhāne okāsaloko, tampi bhagavā sabbathā avedi. Tathā hissa – ‘‘eko loko – sabbe sattā āhāraṭṭhitikā. Dve lokā – nāmañca rūpañca. Tayo lokā – tisso vedanā. Cattāro lokā – cattāro āhārā. Pañca lokā – pañcupādānakkhandhā. Cha lokā – cha ajjhattikāni āyatanāni. Satta lokā satta viññāṇaṭṭhitiyo. Aṭṭha lokā – aṭṭha lokadhammā. Nava lokā – nava sattāvāsā. Dasa lokā – dasāyatanāni. Dvādasa lokā – dvādasāyatanāni . Aṭṭhārasa lokā – aṭṭhārasa dhātuyo’’ti (paṭi. ma. 1.112). Ayaṃ saṅkhāralokopi sabbathā vidito.
Ở chỗ này, cần hiểu đó là thế giới không gian; Đấng Thế Tôn cũng đã biết rõ điều đó về mọi phương diện. Thật vậy, đối với Ngài: “Một thế gian – tất cả chúng sanh tồn tại nhờ vật thực. Hai thế gian – danh và sắc. Ba thế gian – ba loại cảm thọ. Bốn thế gian – bốn loại vật thực. Năm thế gian – năm thủ uẩn. Sáu thế gian – sáu nội xứ. Bảy thế gian – bảy trú của thức. Tám thế gian – tám pháp thế gian. Chín thế gian – chín trú của chúng sanh. Mười thế gian – mười xứ. Mười hai thế gian – mười hai xứ. Mười tám thế gian – mười tám giới” (paṭi. ma. 1.112). Thế giới các hành này cũng đã được Ngài biết rõ về mọi phương diện.
Yasmā panesa sabbesampi sattānaṃ āsayaṃ jānāti, anusayaṃ jānāti, caritaṃ jānāti, adhimuttiṃ jānāti, apparajakkhe mahārajakkhe tikkhindriye mudindriye svākāre dvākāre suviññāpaye duviññāpaye bhabbe abhabbe satte jānāti, tasmāssa sattalokopi sabbathā vidito. Yathā ca sattaloko evaṃ okāsalokopi. Tathā hesa ekaṃ cakkavāḷaṃ āyāmato ca vitthārato ca yojanānaṃ dvādasa satasahassāni tīṇi sahassāni cattāri satāni paññāsañca yojanāni. Parikkhepato –
Và bởi vì Ngài biết rõ khuynh hướng của tất cả chúng sanh, biết rõ các tùy miên, biết rõ căn tánh, biết rõ các thắng giải, biết rõ chúng sanh ít bụi trần, nhiều bụi trần, các căn bén nhạy, các căn chậm lụt, những chúng sanh có hình tướng tốt, hình tướng xấu, dễ giáo hóa, khó giáo hóa, có khả năng, không có khả năng, do đó, thế giới chúng sanh cũng đã được Ngài biết rõ về mọi phương diện. Cũng như thế giới chúng sanh, thế giới không gian cũng vậy. Thật vậy, một thế giới hệ có chiều dài và chiều rộng là 1.203.450 do tuần. Chu vi của nó là:
Sabbaṃ satasahassāni, chattiṃsa parimaṇḍalaṃ;
Dasañceva sahassāni, aḍḍhuḍḍhāni satāni ca.
Tổng cộng ba triệu sáu trăm mười ngàn, ba trăm năm mươi do tuần là chu vi vòng tròn.
Tattha –
Trong đó:
Duve satasahassāni, cattāri nahutāni ca;
Hai trăm bốn chục ngàn do tuần;
Ettakaṃ bahalattena, saṅkhātāyaṃ vasundharā.
Đó là độ dày của mặt đất này.
Tassā eva sandhārakaṃ –
Lớp chống đỡ mặt đất ấy là:
Cattāri satasahassāni, aṭṭheva nahutāni ca;
Bốn trăm tám chục ngàn do tuần;
Ettakaṃ bahalattena, jalaṃ vāte patiṭṭhitaṃ.
Đó là độ dày của lớp nước nằm trên lớp gió.
Tassāpi sandhārako –
Lớp chống đỡ của lớp nước ấy là:
Navasatasahassāni, māluto nabhamuggato;
Chín trăm sáu chục ngàn do tuần, lớp gió nâng lên không trung;
Saṭṭhi ceva sahassāni, esā lokassa saṇṭhiti.
Đó là sự cấu thành của thế gian.
Evaṃ saṇṭhite cettha yojanānaṃ –
Với cấu trúc như vậy, trong đó:
Caturāsīti sahassāni, ajjhogāḷho mahaṇṇave;
Tám mươi bốn ngàn do tuần, chìm sâu trong đại dương;
Accuggato tāvadeva, sinerupabbatuttamo.
Cao vượt lên cũng chừng ấy, là núi Sineru cao quý nhất.
Tato upaḍḍhupaḍḍhena, pamāṇena yathākkamaṃ;
Từ đó, theo thứ tự, với kích thước giảm đi một nửa;
Ajjhogāḷhuggatā dibbā, nānāratanacittitā.
Là các núi thiêng, chìm xuống và nhô lên, được trang hoàng bằng nhiều loại bảo châu khác nhau.
Yugandharo īsadharo, karavīko sudassano;
Yugandhara, Īsadhara, Karavīka, Sudassana;
Nemindharo vinatako, assakaṇṇo girī brahā.
Nemindhara, Vinataka, Assakaṇṇa, những ngọn núi lớn.
Ete satta mahāselā, sinerussa samantato;
Bảy dãy núi lớn này, bao quanh núi Sineru;
Mahārājānamāvāsā, devayakkhanisevitā.
Là nơi ở của các vị Đại Vương, được chư thiên và dạ xoa thường lui tới.
Yojanānaṃ satānucco, himavā pañca pabbato;
Núi Himavā cao năm trăm do tuần;
Yojanānaṃ sahassāni, tīṇi āyatavitthato;
Dài và rộng ba ngàn do tuần;
Caturāsītisahassehi, kūṭehi paṭimaṇḍito.
Được tô điểm bởi tám mươi bốn ngàn đỉnh núi.
Tipañcayojanakkhandha, parikkhepā nagavhayā;
Cây Jambū, được gọi là “núi”, có thân cây chu vi mười lăm do tuần;
Paññāsa yojanakkhandha, sākhāyāmā samantato.
Thân cây cao năm mươi do tuần, cành nhánh vươn dài khắp xung quanh.
Satayojanavitthiṇṇā, tāvadeva ca uggatā;
Tán lá rộng một trăm do tuần, và cao cũng chừng ấy;
Jambū yassānubhāvena, jambudīpo pakāsito.
Cây Jambū này, nhờ uy lực của nó mà châu Jambudīpa được biết đến.
Dve asīti sahassāni, ajjhogāḷho mahaṇṇave;
Tám mươi hai ngàn do tuần, chìm sâu trong đại dương;
Accuggato tāvadeva, cakkavāḷasiluccayo;
Cao vượt lên cũng chừng ấy, là dãy núi Cakkavāḷa;
Parikkhipitvā taṃ sabbaṃ, lokadhātumayaṃ ṭhito.
Đứng đó bao quanh toàn bộ cõi giới ấy.
Tattha candamaṇḍalaṃ ekūnapaññāsayojanaṃ, sūriyamaṇḍalaṃ paññāsayojanaṃ, tāvatiṃsabhavanaṃ dasasahassayojanaṃ; tathā asurabhavanaṃ, avīcimahānirayo, jambudīpo ca. Aparagoyānaṃ sattasahassayojanaṃ; tathā pubbavideho. Uttarakuru aṭṭhasahassayojano, ekameko cettha mahādīpo pañcasatapañcasataparittadīpaparivāro; taṃ sabbampi ekaṃ cakkavāḷaṃ , ekā lokadhātu, tadantaresu lokantarikanirayā. Evaṃ anantāni cakkavāḷāni anantā lokadhātuyo bhagavā anantena buddhañāṇena avedi, aññāsi, paṭivijjhi. Evamassa okāsalokopi sabbathā vidito. Evampi sabbathā viditalokattā lokavidū.
Trong đó, đĩa mặt trăng rộng bốn mươi chín do tuần, đĩa mặt trời rộng năm mươi do tuần, cung trời Ba Mươi Ba (Tāvatiṃsa) rộng mười ngàn do tuần; cõi A-tu-la, đại địa ngục Avīci (Vô Gián), và châu Jambudīpa cũng rộng như vậy. Châu Aparagoyāna (Ngưu Hóa) rộng bảy ngàn do tuần; châu Pubbavideha (Đông Thắng Thân) cũng vậy. Châu Uttarakuru (Bắc Câu Lô) rộng tám ngàn do tuần. Mỗi đại châu này được bao quanh bởi năm trăm tiểu đảo nhỏ. Tất cả những điều đó tạo thành một thế giới hệ (Cakkavāḷa), một cõi giới (lokadhātu); ở giữa chúng là các địa ngục Lokantarika (Thiết Vi Gian). Như vậy, Đấng Thế Tôn đã biết rõ, đã hiểu thấu, đã thâm nhập vô số thế giới hệ, vô số cõi giới bằng vô lượng Phật trí của Ngài. Thế giới không gian (Okāsaloka) cũng đã được Ngài biết rõ về mọi phương diện như vậy. Do đó, Ngài cũng là bậc Thế Gian Giải vì đã biết rõ thế gian về mọi phương diện.
Attano pana guṇehi visiṭṭhatarassa kassaci abhāvā natthi etassa uttaroti anuttaro. Tathā hesa sīlaguṇenāpi sabbaṃ lokamabhibhavati, samādhi…pe… paññā… vimutti… vimuttiñāṇadassanaguṇenāpi, sīlaguṇenāpi asamo asamasamo appaṭimo appaṭibhāgo appaṭipuggalo…pe… vimuttiñāṇadassanaguṇenāpi. Yathāha – ‘‘na kho panāhaṃ, bhikkhave, samanupassāmi sadevake loke samārake…pe… sadevamanussāya attanā sīlasampannatara’’nti vitthāro.
Do không có ai vượt trội hơn mình về các phẩm chất, không có ai cao hơn vị này, nên Ngài là bậc Vô Thượng Sĩ. Thật vậy, Ngài vượt trội hơn toàn thể thế gian cả về đức hạnh của giới luật, cả về đức hạnh của thiền định…v.v… cả về đức hạnh của trí tuệ… đức hạnh của giải thoát… đức hạnh của giải thoát tri kiến. Cả về đức hạnh của giới luật, Ngài cũng không ai sánh bằng, không ai ngang bằng, không ai bì kịp, không ai tương tự, không ai đối thủ…v.v… cho đến cả về đức hạnh của giải thoát tri kiến cũng vậy. Như Ngài đã dạy: “Này các Tỳ khưu, trong thế giới này cùng với chư thiên, Ma vương…v.v… cùng với chư thiên và loài người, Ta không thấy một ai khác viên mãn giới hạnh hơn Ta” và phần giải thích chi tiết.
Evaṃ aggappasādasuttādīni (a. ni. 4.34; itivu. 90) ‘‘na me ācariyo atthī’’tiādikā gāthāyo (ma. ni. 1.285; mahāva. 11) ca vitthāretabbā.
Như vậy, các kinh như Aggappasāda (a. ni. 4.34; itivu. 90) và các bài kệ như “Ta không có thầy” (ma. ni. 1.285; mahāva. 11) cần được giải thích chi tiết ở đây.
Purisadamme sāretīti purisadammasārathi, dameti vinetīti vuttaṃ hoti. Tattha purisadammāti adantā dametuṃ yuttā tiracchānapurisāpi manussapurisāpi amanussapurisāpi. Tathā hi bhagavatā tiracchānapurisāpi apalāḷo nāgarājā, cūḷodaro, mahodaro, aggisikho, dhūmasikho, dhanapālako hatthīti evamādayo damitā, nibbisā katā, saraṇesu ca sīlesu ca patiṭṭhāpitā. Manussapurisāpi saccakanigaṇṭhaputta-ambaṭṭhamāṇava-pokkharasāti-soṇadaṇḍakūṭadantādayo. Amanussapurisāpi āḷavaka-sūciloma-kharaloma-yakkha-sakkadevarājādayo damitā vinītā vicitrehi vinayanūpāyehi. ‘‘Ahaṃ kho, kesi, purisadammaṃ saṇhenapi vinemi, pharusenapi vinemi, saṇhapharusenapi vinemī’’ti (a. ni. 4.111) idañcettha suttaṃ vitthāretabbaṃ. Atha vā visuddhasīlādīnaṃ paṭhamajjhānādīni sotāpannādīnañca uttarimaggapaṭipadaṃ ācikkhanto dantepi dametiyeva.
Vì Ngài huấn luyện những người đáng được điều phục, nên Ngài là bậc Điều Ngự Trượng Phu; có nghĩa là Ngài điều phục và giáo hóa họ. Trong đó, “những người đáng được điều phục” là những chúng sanh chưa được điều phục, cần được điều phục, bao gồm cả chúng sanh thuộc loài thú, loài người và loài phi nhân. Thật vậy, Đấng Thế Tôn đã điều phục cả những chúng sanh thuộc loài thú như long vương Apalāla, Cūḷodara, Mahodara, Aggisikho, Dhūmasikho, voi Dhanapālaka v.v…, khiến chúng trở nên vô hại, và an lập chúng trong các pháp quy y và giới luật. Cả những người như Saccaka Nigaṇṭhaputta, thanh niên Ambaṭṭha, Pokkharasāti, Soṇadaṇḍa, Kūṭadanta v.v… Cả những chúng sanh phi nhân như dạ xoa Āḷavaka, Sūciloma, Kharaloma, vua trời Sakka v.v… cũng đã được Ngài điều phục, giáo hóa bằng nhiều phương tiện giáo hóa kỳ diệu. “Này Kesi, Ta huấn luyện người đáng được điều phục bằng cả phương pháp nhu hòa, cả phương pháp cứng rắn, và cả phương pháp vừa nhu hòa vừa cứng rắn” (a. ni. 4.111) – kinh này cũng cần được giải thích chi tiết ở đây. Hoặc nữa, khi Ngài giảng dạy con đường đưa đến các bậc thiền định từ sơ thiền trở lên cho những người có giới hạnh trong sạch v.v…, và con đường đưa đến các Thánh đạo cao hơn cho các bậc Dự Lưu v.v…, Ngài cũng chính là đang điều phục cả những người đã được điều phục.
Atha vā anuttaro purisadammasārathīti ekamevidaṃ atthapadaṃ . Bhagavā hi tathā purisadamme sāreti, yathā ekapallaṅkeneva nisinnā aṭṭha disā asajjamānā dhāvanti. Tasmā ‘‘anuttaro purisadammasārathī’’ti vuccati. ‘‘Hatthidamakena, bhikkhave, hatthidammo sārito ekaṃyeva disaṃ dhāvatī’’ti idañcettha suttaṃ (ma. ni. 3.312) vitthāretabbaṃ.
Hoặc nữa, “Vô Thượng Điều Ngự Trượng Phu” là một danh hiệu duy nhất chỉ một ý nghĩa. Đấng Thế Tôn quả thực huấn luyện những người đáng được điều phục đến mức mà họ, chỉ ngồi yên một chỗ trên một chiếc tọa cụ, cũng có thể (ví như) đi khắp tám phương mà không gặp trở ngại. Do đó, Ngài được gọi là “Vô Thượng Điều Ngự Trượng Phu”. “Này các Tỳ khưu, con voi được người luyện voi huấn luyện thì chỉ chạy theo một hướng (mà nó được dẫn dắt)…” – kinh này (ma. ni. 3.312) cũng cần được giải thích chi tiết ở đây.
Diṭṭhadhammikasamparāyikaparamatthehi yathārahaṃ anusāsatīti satthā. Apica satthā viyāti satthā, bhagavā satthavāho. ‘‘Yathā satthavāho satthe kantāraṃ tāreti, corakantāraṃ tāreti, vāḷakantāraṃ tāreti, dubbhikkhakantāraṃ tāreti, nirudakakantāraṃ tāreti, uttāreti nittāreti patāreti khemantabhūmiṃ sampāpeti; evameva bhagavā satthā satthavāho satte kantāraṃ tāreti jātikantāraṃ tāretī’’tiādinā (mahāni. 190) niddesanayenapettha attho veditabbo.
Vì Ngài giáo huấn một cách thích hợp tùy theo lợi ích hiện tại, lợi ích tương lai và lợi ích tối hậu, nên Ngài là bậc Thiên Nhân Sư (Thầy dạy của trời người). Hơn nữa, Ngài là bậc Thầy giống như một vị thương chủ (người dẫn đầu đoàn buôn); Đấng Thế Tôn là vị thương chủ. “Như vị thương chủ dẫn dắt đoàn thương nhân vượt qua vùng hoang địa, vượt qua vùng hoang địa có trộm cướp, vượt qua vùng hoang địa có thú dữ, vượt qua vùng hoang địa đói kém, vượt qua vùng hoang địa không có nước; Ngài đưa họ qua, giúp họ vượt thoát, dẫn dắt họ đến vùng đất an ổn. Cũng vậy, Đấng Thế Tôn, bậc Thầy, vị thương chủ, dẫn dắt chúng sanh vượt qua vùng hoang địa, vượt qua vùng hoang địa của sanh tử…” – ý nghĩa ở đây cần được hiểu theo phương pháp giải thích này của bộ Niddesa (mahāni. 190).
Devamanussānanti daevānañca manussānañca ukkaṭṭhaparicchedavasenetaṃ vuttaṃ, bhabbapuggalaparicchedavasena ca. Bhagavā pana tiracchānagatānampi anusāsanippadānena satthāyeva. Tepi hi bhagavato dhammasavanena upanissayasampattiṃ patvā tāya eva upanissayasampattiyā dutiye tatiye vā attabhāve maggaphalabhāgino honti. Maṇḍūkadevaputtādayo cettha nidassanaṃ. Bhagavati kira gaggarāya pokkharaṇiyā tīre campānagaravāsīnaṃ dhammaṃ desayamāne eko maṇḍūko bhagavato sare nimittaṃ aggahesi. Taṃ eko vacchapālako daṇḍamolubbha tiṭṭhanto tassa sīse sannirumbhitvā aṭṭhāsi. So tāvadeva kālaṃ katvā tāvatiṃsabhavane dvādasayojanike kanakavimāne nibbatti. Suttappabuddho viya ca tattha accharāsaṅghaparivutaṃ attānaṃ disvā ‘‘are, ahampi nāma idha nibbattosmi! Kiṃ nu kho kammaṃ akāsi’’nti āvajjento nāññaṃ kiñci addasa, aññatra bhagavato sare nimittaggāhā. So taāvadeva saha vimānena āgantvā bhagavato pāde sirasā vandi. Bhagavā jānantova pucchi –
Cụm từ “của trời và người” được nói ở đây là xét theo hạng chúng sanh tối thắng và xét theo hạng chúng sanh có khả năng tiếp thu (giáo pháp). Tuy nhiên, Đấng Thế Tôn cũng là bậc Thầy của cả chúng sanh thuộc loài thú bằng cách ban cho sự giáo huấn. Chúng, nhờ nghe pháp của Đấng Thế Tôn mà đạt được sự đầy đủ về duyên lành trợ giúp, và chính nhờ sự đầy đủ về duyên lành trợ giúp ấy mà vào đời thứ hai hoặc thứ ba, chúng trở thành những người được hưởng Thánh đạo và Thánh quả. Trường hợp của Maṇḍūka devaputta (thiên tử Con Cóc) là một ví dụ ở đây. Khi Đấng Thế Tôn đang thuyết pháp cho dân chúng thành Campā bên bờ hồ sen Gaggarā, có một con cóc đã nắm bắt được đặc điểm trong giọng nói của Đấng Thế Tôn. Một người chăn bò, đang đứng dựa vào cây gậy, đã vô tình đè cây gậy lên đầu nó. Nó chết ngay lúc đó và được sanh về cung trời Ba Mươi Ba, trong một thiên cung bằng vàng rộng mười hai do tuần. Như vừa tỉnh giấc, nó thấy mình ở đó, được các nàng tiên nữ hầu hạ, liền tự hỏi: “Ồ, cả ta cũng được sanh về đây ư! Ta đã làm nghiệp gì nhỉ?” Khi quán xét, nó không thấy nghiệp nào khác ngoài việc đã nắm bắt được đặc điểm trong giọng nói của Đấng Thế Tôn. Ngay lập tức, nó cùng với thiên cung của mình đến đảnh lễ dưới chân Đấng Thế Tôn. Đấng Thế Tôn, dù biết rõ, vẫn hỏi:
‘‘Ko me vandati pādāni, iddhiyā yasasā jalaṃ;
‘‘Ai đảnh lễ dưới chân Ta, rực rỡ thần thông, lừng lẫy danh thơm;
Abhikkantena vaṇṇena, sabbā obhāsayaṃ disā’’ti.
Với dung sắc tuyệt vời, chiếu sáng khắp muôn phương?’’
‘‘Maṇḍūkohaṃ pure āsiṃ, udake vārigocaro;
Thiên tử đáp: ‘‘Con xưa kia là một con cóc, sống dưới nước, loài thủy tộc;
Tava dhammaṃ suṇantassa, avadhi vacchapālako’’ti. (vi. va. 857-858);
Khi đang nghe Ngài thuyết pháp, một người chăn bò đã giết con.’’ (vi. va. 857-858);
Bhagavā tassa dhammaṃ desesi. Desanāvasāne caturāsītiyā pāṇasahassānaṃ dhammābhisamayo ahosi. Devaputtopi sotāpattiphale patiṭṭhāya sitaṃ katvā pakkāmīti.
Đấng Thế Tôn đã thuyết pháp cho vị ấy. Khi kết thúc bài pháp, tám mươi bốn ngàn chúng sanh đã chứng ngộ Chân lý. Vị thiên tử cũng đắc quả Dự Lưu, mỉm cười rồi biến mất.
Yaṃ pana kiñci atthi ñeyyaṃ nāma, tassa sabbassa buddhattā vimokkhantikañāṇavasena buddho. Yasmā vā cattāri saccāni attanāpi bujjhi, aññepi satte bodhesi; tasmā evamādīhipi kāraṇehi buddho. Imassa catthassa viññāpanatthaṃ ‘‘bujjhitā saccānīti buddho, bodhetā pajāyāti buddho’’ti evaṃ pavatto sabbopi niddesanayo (mahāni. 192) paṭisambhidānayo (paṭi. ma. 1.162) vā vitthāretabbo.
Còn bất cứ những gì được gọi là pháp cần phải biết, do Ngài đã giác ngộ tất cả những pháp ấy bằng trí tuệ đạt đến giải thoát, nên Ngài là bậc Phật. Hoặc là, vì Ngài đã tự mình giác ngộ Bốn Chân Lý và cũng đã làm cho các chúng sanh khác giác ngộ, do đó, vì những lý do như vậy, Ngài là bậc Phật. Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, toàn bộ phương pháp giải thích của bộ Niddesa (mahāni. 192) hoặc của bộ Paṭisambhidāmagga (paṭi. ma. 1.162) đã nêu rõ: “Ngài là Phật vì đã giác ngộ các chân lý; Ngài là Phật vì đã làm cho chúng sanh giác ngộ” cần được trình bày chi tiết.
Bhagavāti idaṃ panassa guṇavisiṭṭhasattuttamagarugāravādhivacanaṃ. Tenāhu porāṇā –
Còn danh hiệu “Thế Tôn” này là một cách gọi biểu thị sự tôn kính và kính trọng đối với Ngài như một bậc chúng sanh tối thượng, ưu việt về các phẩm chất. Do đó, người xưa đã nói:
‘‘Bhagavāti vacanaṃ seṭṭhaṃ, bhagavāti vacanamuttamaṃ;
‘‘Lời gọi ‘Thế Tôn’ là lời cao tột, lời gọi ‘Thế Tôn’ là lời tối thượng;
Garu gāravayutto so, bhagavā tena vuccatī’’ti.
Ngài đáng tôn kính, đầy đủ sự kính trọng, vì thế được gọi là Thế Tôn.’’
Catubbidhañhi nāmaṃ – āvatthikaṃ, liṅgikaṃ, nemittikaṃ, adhiccasamuppannanti. Adhiccasamuppannaṃ nāma lokiyavohārena ‘‘yadicchaka’’nti vuttaṃ hoti. Tattha ‘‘vaccho dammo balibaddo’’ti evamādi āvatthikaṃ. ‘‘Daṇḍī chattī sikhī karī’’ti evamādi liṅgikaṃ. ‘‘Tevijjo chaḷabhiñño’’ti evamādi nemittikaṃ. ‘‘Sirivaḍḍhako dhanavaḍḍhako’’ti evamādi vacanatthamanapekkhitvā pavattaṃ adhiccasamuppannaṃ. Idaṃ pana bhagavāti nāmaṃ nemittikaṃ, na mahāmāyāya na suddhodanamahārājena na asītiyā ñātisahassehi kataṃ, na sakkasantusitādīhi devatāvisesehi. Vuttañhetaṃ dhammasenāpatinā – ‘‘bhagavāti netaṃ nāmaṃ mātarā kataṃ…pe… vimokkhantikametaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ bodhiyā mūle saha sabbaññutaññāṇassa paṭilābhā sacchikāpaññatti, yadidaṃ bhagavā’’ti (mahāni. 84).
Có bốn loại danh xưng: danh xưng theo trạng thái, danh xưng theo đặc điểm, danh xưng theo nguyên nhân/phẩm chất, và danh xưng ngẫu nhiên. Danh xưng ngẫu nhiên, theo cách nói thông thường của thế gian, được gọi là “tùy ý đặt”. Trong đó, các tên gọi như “con bê, con bò đực đã thuần hóa, con bò cày” là danh xưng theo trạng thái. Các tên gọi như “người cầm gậy, người che dù, người có búi tóc, người có voi” là danh xưng theo đặc điểm. Các tên gọi như “người có ba minh, người có sáu thắng trí” là danh xưng theo nguyên nhân/phẩm chất. Các tên gọi như “Sirivaḍḍhako”, “Dhanavaḍḍhako” là những danh xưng ngẫu nhiên, được đặt ra không cần xem xét ý nghĩa của từ. Còn danh hiệu “Thế Tôn” này là một danh xưng theo nguyên nhân/phẩm chất, không phải do hoàng hậu Mahāmāyā, không phải do vua Suddhodana, không phải do tám mươi ngàn bà con quyến thuộc đặt cho, cũng không phải do các vị trời đặc biệt như Sakka, Santusita v.v… đặt cho. Điều này đã được vị Thống Soái Chánh Pháp Sāriputta nói rõ: “Danh hiệu ‘Thế Tôn’ này không phải do mẹ đặt…v.v… Đây là một sự chứng nhận ở mức độ giải thoát của các Đức Phật, các Đấng Thế Tôn, tại cội Bồ Đề, cùng với sự chứng đắc Toàn Giác Trí, đó chính là danh hiệu ‘Thế Tôn’” (mahāni. 84).
Yaṃguṇanemittikañcetaṃ nāmaṃ, tesaṃ guṇānaṃ pakāsanatthaṃ imaṃ gāthaṃ vadanti –
Và để làm sáng tỏ những phẩm chất là nguyên nhân cho danh hiệu này, người ta đọc bài kệ sau:
‘‘Bhagī bhajī bhāgī vibhattavā iti;
‘‘Ngài là bậc có phúc, bậc phân tích, bậc hưởng phần, bậc đã phân chia (các pháp);
Akāsi bhagganti garūti bhāgyavā;
Đã phá tan (Ma quân), là bậc đáng tôn kính, là bậc có phước báu lớn;
Bahūhi ñāyehi subhāvitattano;
Đã tự mình tu tập thuần thục bằng nhiều phương pháp;
Bhavantago so bhagavāti vuccatī’’ti.
Đã đi đến tận cùng các cõi hữu, nên Ngài được gọi là Thế Tôn.’’
Niddese vuttanayeneva cettha tesaṃ tesaṃ padānamattho daṭṭhabbo.
Ý nghĩa của từng từ trong đó cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong bộ Niddesa.
Ayaṃ pana aparo nayo –
Đây lại là một phương pháp khác:
‘‘Bhāgyavā bhaggavā yutto, bhagehi ca vibhattavā;
‘‘Bậc có phước báu lớn, bậc phá tan (điều ác), bậc đầy đủ (phẩm chất), bậc đã phân tích các phần (phước);
Bhattavā vantagamano, bhavesu bhagavā tato’’ti.
Bậc đã tu tập, bậc đã từ bỏ sự đi đến các cõi hữu, do đó Ngài là Thế Tôn.’’
Tattha vaṇṇāgamo vaṇṇavipariyayoti etaṃ niruttilakkhaṇaṃ gahetvā saddanayena vā pisodarādipakkhepalakkhaṇaṃ gahetvā yasmā lokiyalokuttarasukhābhinibbattakaṃ dānasīlādipārappattaṃ bhāgyamassa atthi, tasmā ‘‘bhāgyavā’’ti vattabbe ‘‘bhagavā’’ti vuccatīti ñātabbaṃ. Yasmā pana lobha-dosa-moha-viparītamanasikāra-ahirikānottappa-kodhūpanāha-makkha-paḷāsaissā-macchariya-māyāsāṭheyya-thambha-sārambha-mānātimāna-mada-pamāda-taṇhāvijjā tividhākusalamūla-duccarita-saṃkilesa-mala-visamasaññā-vitakka-papañca-catubbidhavipariyesaāsava-gantha-ogha-yogāgati-taṇhuppādupādāna-pañcacetokhīla-vinibandha-nīvaraṇābhinandanachavivādamūla-taṇhākāya-sattānusaya-aṭṭhamicchatta-navataṇhāmūlaka-dasākusalakama diṭṭhigata-aṭṭhasatataṇhāvicaritappabheda-sabbadaratha-pariḷāha-kilesasatasahassāni, saṅkhepato vā pañca kilesa-abhisaṅkhārakhandhamaccu-devaputta-māre abhañji, tasmā bhaggattā etesaṃ parissayānaṃ bhaggavāti vattabbe bhagavāti vuccati. Āha cettha –
Ở đó, dựa theo các đặc điểm ngữ nguyên như sự thêm âm và sự biến đổi âm, hoặc theo phương pháp ngữ pháp với đặc điểm bao gồm các từ được tạo thành đặc biệt (như trường hợp từ “bụng beo” và các từ tương tự), cần hiểu rằng: vì Ngài sở hữu phước báu lớn tạo ra hạnh phúc thế gian và siêu thế, đã đạt đến sự viên mãn của bố thí, trì giới v.v…, do đó, danh xưng đáng lẽ là “bậc có phước báu lớn” thì lại được gọi là “Thế Tôn” (do có sự biến đổi về âm). Và bởi vì Ngài đã phá hủy, tiêu diệt: tham, sân, si, sự tác ý sai lầm, sự không biết hổ thẹn và không biết ghê sợ tội lỗi, phẫn nộ, hiềm hận, sự giả dối (che giấu lỗi người), sự khinh miệt (phủ nhận đức của người), sự ganh tỵ, sự bỏn xẻn, sự lừa đảo, sự xảo trá, sự ngoan cố, sự tự tôn (cho mình hơn người và tranh hơn), sự kiêu mạn, sự quá kiêu mạn, sự say đắm, sự buông lung, ái dục, vô minh, ba gốc rễ bất thiện, các hành vi xấu ác (thân, khẩu, ý), các phiền não làm ô nhiễm, các cấu uế, nhận thức sai lệch, tư duy sai lầm, sự hí luận, bốn loại điên đảo (về thường, lạc, ngã, tịnh), các lậu hoặc, các triền phược (tham, sân, kiến, giới cấm thủ, nghi), các bộc lưu (dục, hữu, kiến, vô minh), các ách (tham, sân, si, mạn, kiến, giới cấm thủ, nghi, hôn trầm, trạo cử, vô tàm, vô úy), các tà đạo, sự phát sinh của ái, sự chấp thủ, năm sự trói buộc tâm (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi), các ràng buộc, các triền cái, sự ưa thích (trong các dục), sáu gốc rễ tranh cãi, các thân ái, bảy tùy miên, tám tà hạnh, chín pháp lấy ái làm gốc, mười nghiệp đạo bất thiện, các tà kiến, một trăm lẻ tám loại hành vi do ái dẫn dắt, tất cả sự sợ hãi, sự thiêu đốt, và hàng trăm ngàn phiền não; hoặc nói tóm lại, Ngài đã phá hủy năm loại ma là phiền não ma, hành ma, uẩn ma, tử ma, và thiên tử ma; do đó, vì Ngài là bậc đã phá hủy những hiểm nguy này, nên danh xưng đáng lẽ là “Bậc Đã Phá Hủy Chúng” thì lại được gọi là “Thế Tôn”. Ở đây có câu kệ rằng:
‘‘Bhaggarāgo bhaggadoso, bhaggamoho anāsavo;
‘‘Tham đã tan, sân đã tan, si đã tan, không còn lậu hoặc;
Bhaggāssa pāpakā dhammā, bhagavā tena vuccatī’’ti.
Các pháp ác của Ngài đã bị phá tan, vì thế được gọi là Thế Tôn.’’
Bhāgyavantatāya cassa satapuññajalakkhaṇadharassa rūpakāyasampattidīpitā hoti, bhaggadosatāya dhammakāyasampatti. Tathā lokiyaparikkhakānaṃ bahumatabhāvo, gahaṭṭhapabbajitehi abhigamanīyatā, abhigatānañca nesaṃ kāyacittadukkhāpanayane paṭibalabhāvo, āmisadānadhammadānehi upakāritā, lokiyalokuttarasukhehi ca sampayojanasamatthatā dīpitā hoti.
Việc Ngài là bậc có phước báu lớn được thể hiện qua sự viên mãn của sắc thân, mang những tướng tốt của trăm phước đã gieo trồng; việc Ngài đã phá tan phiền não được thể hiện qua sự viên mãn của Pháp thân. Tương tự, điều đó cũng cho thấy Ngài được những người tìm hiểu thế gian hết sức kính trọng, được hàng tại gia và xuất gia tìm đến; Ngài có khả năng xua tan khổ đau thân tâm cho những người tìm đến ấy; Ngài giúp ích (chúng sanh) bằng sự bố thí vật chất và bố thí Chánh Pháp; và Ngài có khả năng kết nối chúng sanh với hạnh phúc thế gian và siêu thế.
Yasmā ca loke issariya-dhamma-yasa-sirī-kāma-payattesu chasu dhammesu bhagasaddo vattati, paramañcassa sakacitte issariyaṃ, aṇimā laghimādikaṃ vā lokiyasammataṃ sabbākāraparipūraṃ atthi tathā lokuttaro dhammo lokattayabyāpako yathābhuccaguṇādhigato ativiya parisuddho yaso, rūpakāyadassanabyāvaṭajananayanappasādajananasamatthā sabbākāraparipūrā sabbaṅgapaccaṅgasirī, yaṃ yaṃ etena icchitaṃ patthitaṃ attahitaṃ parahitaṃ vā, tassa tassa tatheva abhinipphannattā icchiticchi, tattha nipphattisaññito kāmo, sabbalokagarubhāvappattihetubhūto sammāvāyāmasaṅkhāto payatto ca atthi; tasmā imehi bhagehi yuttattāpi bhagā assa santīti iminā atthena bhagavāti vuccati.
Và bởi vì trong đời, từ “phước đức” được dùng để chỉ sáu pháp: quyền uy, Chánh Pháp, danh tiếng, vẻ huy hoàng, sự thành tựu mong muốn, và sự nỗ lực; và Ngài có được quyền uy tối thượng đối với tâm mình, hoặc các năng lực thế gian được công nhận như năng lực biến nhỏ, năng lực biến nhẹ và các năng lực tương tự khác một cách hoàn toàn đầy đủ; cũng như có được Chánh Pháp siêu thế; có được danh tiếng vang khắp ba cõi, đạt được nhờ các phẩm chất chân thật, vô cùng thanh tịnh; có được vẻ huy hoàng của tất cả các tướng chính và tướng phụ của thân thể, hoàn toàn đầy đủ về mọi mặt, có khả năng làm phát sinh niềm vui cho đôi mắt của những người chiêm ngưỡng sắc thân Ngài; bất cứ điều gì Ngài mong muốn, ước nguyện, dù là lợi ích cho mình hay cho người khác, đều được thành tựu đúng như vậy, do đó, sự thành tựu mọi mong muốn này được gọi là “sự thành tựu ước muốn”; và Ngài có được sự nỗ lực, được gọi là tinh tấn chân chánh, là nhân duyên để đạt đến trạng thái được toàn thể thế gian tôn kính; do đó, vì Ngài đầy đủ những “phước đức” này, nên Ngài được gọi là “Thế Tôn” với ý nghĩa là “Ngài có các phước đức to lớn”.
Yasmā pana kusalādīhi bhedehi sabbadhamme, khandhāyatana-dhātusacca-indriyapaṭiccasamuppādādīhi vā kusalādidhamme, pīḷana-saṅkhata-santāpavipariṇāmaṭṭhena vā dukkhamariyasaccaṃ, āyūhana-nidāna-saṃyoga-palibodhaṭṭhena samudayaṃ, nissaraṇavivekāsaṅkhata-amataṭṭhena nirodhaṃ, niyyāna-hetu-dassanādhipateyyaṭṭhena maggaṃ vibhattavā, vibhajitvā vivaritvā desitavāti vuttaṃ hoti. Tasmā vibhattavāti vattabbe bhagavāti vuccati .
Và bởi vì Ngài đã phân tích, phân biệt, giải thích và giảng dạy tất cả các pháp theo các loại như thiện v.v…; hoặc các pháp thiện v.v… như uẩn, xứ, giới, đế, căn, duyên khởi v.v…; hoặc đã phân tích Khổ Thánh Đế theo nghĩa là bị áp bức, bị tạo tác, bị thiêu đốt, bị biến đổi; Tập Đế theo nghĩa là tích lũy, là nguồn gốc, là sự kết nối, là sự cản trở; Diệt Đế theo nghĩa là sự thoát ly, sự tịch tịnh, sự vô vi, sự bất tử; Đạo Đế theo nghĩa là con đường xuất ly, là nhân duyên, là sự thấy biết, là sự làm chủ; do đó, thay vì nói là “Bậc Đã Phân Tích”, Ngài được gọi là “Thế Tôn”.
Yasmā ca esa dibbabrahmaariyavihāre kāyacittaupadhiviveke suññatappaṇihitānimittavimokkhe aññe ca lokiyalokuttare uttarimanussadhamme bhaji sevi bahulamakāsi, tasmā bhattavāti vattabbe bhagavāti vuccati.
Và bởi vì Ngài đã thường xuyên thực hành, tu tập, và thực hành một cách rộng rãi các cảnh giới thiêng liêng, các phạm trú, các thánh trú; sự xa lìa các chấp thủ của thân và tâm; các pháp giải thoát như không giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát; và các pháp siêu nhân khác thuộc thế gian và siêu thế; do đó, thay vì nói là “Bậc Đã Tu Tập”, Ngài được gọi là “Thế Tôn”.
Yasmā pana tīsu bhavesu taṇhāsaṅkhātaṃ gamanamanena vantaṃ, tasmā bhavesu vantagamanoti vattabbe bhavasaddato bhakāraṃ, gamanasaddato gakāraṃ, vantasaddato vakārañca dīghaṃ katvā ādāya bhagavāti vuccati. Yathā loke ‘‘mehanassa khassa mālā’’ti vattabbe ‘‘mekhalā’’ti vuccati.
Và bởi vì Ngài đã từ bỏ sự đi đến (các cõi), được gọi là ái, trong ba cõi hữu; do đó, thay vì nói là “Bậc Đã Từ Bỏ Sự Đi Đến Các Cõi Hữu”, Ngài được gọi là “Thế Tôn” bằng cách lấy âm đầu của từ chỉ ‘cõi hữu’, âm đầu của từ chỉ ‘sự đi đến’, và âm đầu (được kéo dài) của từ chỉ ‘sự từ bỏ’. Giống như trong đời, một cụm từ có nghĩa là ‘vòng hoa của sừng cừu’ thì lại được nói (rút gọn) thành một từ khác có nghĩa là ‘dây thắt lưng’ (ám chỉ cách từ “mekhalā” được hình thành).
So imaṃ lokanti so bhagavā imaṃ lokaṃ. Idāni vattabbaṃ nidasseti. Sadevakanti saha devehi sadevakaṃ; evaṃ saha mārena samārakaṃ; saha brahmunā sabrahmakaṃ; saha samaṇabrāhmaṇehi sassamaṇabrāhmaṇiṃ; pajātattā pajā, taṃ pajaṃ; saha devamanussehi sadevamanussaṃ. Tattha sadevakavacanena pañcakāmāvacaradevaggahaṇaṃ veditabbaṃ, samārakavacanena chaṭṭhakāmāvacaradevaggahaṇaṃ, sabrahmakavacanena brahmakāyikādibrahmaggahaṇaṃ, sassamaṇabrāhmaṇīvacanena sāsanassa paccatthikapaccāmittasamaṇabrāhmaṇaggahaṇaṃ, samitapāpa-bāhitapāpa-samaṇabrāhmaṇaggahaṇañca, pajāvacanena sattalokaggahaṇaṃ, sadevamanussavacanena sammutidevaavasesamanussaggahaṇaṃ. Evamettha tīhi padehi okāsaloko, dvīhi pajāvasena sattaloko gahitoti veditabbo.
Trong cụm từ “Thế giới này của Ngài” thì “Ngài” chính là Đấng Thế Tôn, (Ngài biết) “thế giới này”. Bây giờ, đoạn văn chỉ ra những điều sẽ được nói. (Thế giới) “cùng với chư thiên” có nghĩa là bao gồm cả chư thiên; tương tự, “cùng với Ma vương” là bao gồm cả Ma vương; “cùng với Phạm thiên” là bao gồm cả Phạm thiên; “cùng với Sa môn và Bà la môn” là bao gồm cả Sa môn và Bà la môn; “chúng sanh” (pajā) là do được sanh ra, (thế giới của) chúng sanh ấy; “cùng với trời và người” là bao gồm cả trời và người. Trong đó, khi nói “cùng với chư thiên” cần hiểu là bao gồm chư thiên ở năm cõi dục giới. Khi nói “cùng với Ma vương” là bao gồm chư thiên ở cõi dục giới thứ sáu (cõi của Ma vương). Khi nói “cùng với Phạm thiên” là bao gồm các vị Phạm thiên từ cõi Phạm Chúng Thiên trở lên. Khi nói “cùng với Sa môn và Bà la môn” là bao gồm các Sa môn, Bà la môn đối nghịch với giáo pháp, và cả các Sa môn, Bà la môn chân chánh (những vị đã lắng dịu tội lỗi, đã loại trừ tội lỗi). Khi nói “chúng sanh” là bao gồm thế giới chúng sanh. Khi nói “cùng với trời và người” là bao gồm các vị trời theo quy ước và những người còn lại. Như vậy, ở đây cần hiểu rằng: qua ba thuật ngữ (trước) thì thế giới không gian được bao hàm, còn qua hai thuật ngữ (sau, liên quan đến chúng sanh) thì thế giới chúng sanh được bao hàm.
Aparo nayo – sadevakaggahaṇena arūpāvacaradevaloko gahito, samārakaggahaṇena chakāmāvacaradevalokā, sabrahmakaggahaṇena rūpībrahmaloko, sassamaṇabrāhmaṇādiggahaṇena catuparisavasena sammutidevehi vā saha manussaloko, avasesasabbasattaloko vā.
Một cách giải thích khác: Khi nói “cùng với chư thiên” là bao gồm cõi trời Vô sắc. Khi nói “cùng với Ma vương” là bao gồm sáu cõi trời Dục giới. Khi nói “cùng với Phạm thiên” là bao gồm cõi trời Sắc giới Phạm thiên. Khi nói “cùng với Sa môn và Bà la môn” v.v… là bao gồm thế giới loài người cùng với bốn chúng hoặc các vị trời theo quy ước, hoặc là toàn bộ thế giới chúng sanh còn lại.
Apicettha sadevakavacanena ukkaṭṭhaparicchedato sabbassāpi lokassa sacchikatabhāvaṃ sādhento tassa bhagavato kittisaddo abbhuggato. Tato yesaṃ siyā – ‘‘māro mahānubhāvo chakāmāvacarissaro vasavattī; kiṃ sopi etena sacchikato’’ti? Tesaṃ vimatiṃ vidhamanto samārakanti abbhuggato. Yesaṃ pana siyā – ‘‘brahmā mahānubhāvo ekaṅguliyā ekasmiṃ cakkavāḷasahasse ālokaṃ pharati, dvīhi…pe… dasahi aṅgulīhi dasasu cakkavāḷasahassesu ālokaṃ pharati, anuttarañca jhānasamāpattisukhaṃ paṭisaṃvedeti, kiṃ sopi sacchikato’’ti? Tesaṃ vimatiṃ vidhamanto sabrahmakanti abbhuggato. Tato yesaṃ siyā – ‘‘puthūsamaṇabrāhmaṇā sāsanapaccatthikā, kiṃ tepi sacchikatā’’ti? Tesaṃ vimatiṃ vidhamanto sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajanti abbhuggato. Evaṃ ukkaṭṭhukkaṭṭhānaṃ sacchikatabhāvaṃ pakāsetvā atha sammutideve avasesamanusse ca upādāya ukkaṭṭhaparicchedavasena sesasattalokassa sacchikatabhāvaṃ pakāsento sadevamanussanti abbhuggato. Ayametthānusandhikkamo.
Hơn nữa, ở đây, khi nói “cùng với chư thiên”, danh tiếng của Đấng Thế Tôn đã vang xa, khẳng định rằng Ngài đã chứng ngộ toàn bộ thế giới xét theo phần cao nhất của nó. Từ đó, đối với những ai có thể nghi ngờ: “Ma vương có đại thần lực, là chúa tể sáu cõi trời Dục giới, có quyền năng tự tại; liệu Ngài có chứng ngộ cả vị ấy không?” Để xua tan sự nghi ngờ của họ, danh tiếng (của Đức Phật) vang xa đến mức (bao gồm cả thế giới) “cùng với Ma vương”. Lại nữa, đối với những ai có thể nghi ngờ: “Phạm thiên có đại thần lực, chỉ bằng một ngón tay có thể chiếu sáng một ngàn thế giới hệ, bằng hai ngón tay…v.v… bằng mười ngón tay có thể chiếu sáng mười ngàn thế giới hệ, và cảm nghiệm được niềm vui thiền định vô thượng; liệu Ngài có chứng ngộ cả vị ấy không?” Để xua tan sự nghi ngờ của họ, danh tiếng (của Đức Phật) vang xa đến mức (bao gồm cả thế giới) “cùng với Phạm thiên”. Từ đó, đối với những ai có thể nghi ngờ: “Có nhiều Sa môn, Bà la môn chống đối giáo pháp; liệu Ngài có chứng ngộ cả họ không?” Để xua tan sự nghi ngờ của họ, danh tiếng (của Đức Phật) vang xa đến mức (bao gồm cả) “chúng sanh cùng với Sa môn và Bà la môn”. Sau khi đã làm sáng tỏ việc Ngài chứng ngộ những bậc cao nhất trong những hạng cao nhất như vậy, tiếp theo, để làm sáng tỏ việc Ngài chứng ngộ thế giới chúng sanh còn lại xét theo phần cao nhất của nó, bao gồm các vị trời theo quy ước và những người còn lại, danh tiếng (của Đức Phật) vang xa đến mức (bao gồm cả thế giới) “cùng với trời và người”. Đây là trình tự liên kết ý nghĩa ở đây.
Sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedetīti ettha pana sayanti sāmaṃ, aparaneyyo hutvā; abhiññāti abhiññāya, adhikena ñāṇena ñatvāti attho. Sacchikatvāti paccakkhaṃ katvā, etena anumānādipaṭikkhepo kato hoti. Pavedetīti bodheti ñāpeti pakāseti. So dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ…pe… pariyosānakalyāṇanti so bhagavā sattesu kāruññataṃ paṭicca hitvāpi anuttaraṃ vivekasukhaṃ dhammaṃ deseti. Tañca kho appaṃ vā bahuṃ vā desento ādikalyāṇādippakārameva deseti.
Trong cụm từ “Tự mình thắng trí, chứng ngộ rồi tuyên thuyết”: Từ “tự mình” có nghĩa là chính mình, không phải do người khác chỉ dạy; “bằng thắng trí” có nghĩa là bằng sự biết hơn hẳn, tức là biết bằng trí tuệ ưu việt. Từ “sau khi đã tự mình chứng ngộ” có nghĩa là sau khi đã tự mình thấy rõ; điều này bác bỏ (sự hiểu biết chỉ dựa trên) suy luận v.v… Từ “tuyên thuyết” có nghĩa là làm cho biết, làm cho hiểu rõ, làm cho sáng tỏ. Trong câu “Ngài thuyết Pháp toàn thiện ở phần đầu,…v.v… toàn thiện ở phần cuối”: Đấng Thế Tôn ấy, do lòng bi mẫn đối với chúng sanh, dù từ bỏ niềm vui viễn ly vô thượng, vẫn thuyết Pháp. Và khi thuyết Pháp, dù ít hay nhiều, Ngài đều thuyết giảng theo cách toàn thiện ở phần đầu, phần giữa và phần cuối.
Kathaṃ? Ekagāthāpi hi samantabhadrakattā dhammassa paṭhamapādena ādikalyāṇā, dutiyatatiyapādehi majjhekalyāṇā, pacchimapādena pariyosānakalyāṇā. Ekānusandhikaṃ suttaṃ nidānena ādikalyāṇaṃ, nigamanena pariyosānakalyāṇaṃ, sesena majjhekalyāṇaṃ. Nānānusandhikaṃ suttaṃ paṭhamānusandhinā ādikalyāṇaṃ, pacchimena pariyosānakalyāṇaṃ, sesehi majjhekalyāṇaṃ. Sakalopi sāsanadhammo attano atthabhūtena sīlena ādikalyāṇo, samathavipassanāmaggaphalehi majjhekalyāṇo, nibbānena pariyosānakalyāṇo. Sīlasamādhīhi vā ādikalyāṇo, vipassanāmaggehi majjhekalyāṇo, phalanibbānehi pariyosānakalyāṇo . Buddhasubodhitāya vā ādikalyāṇo, dhammasudhammatāya majjhekalyāṇo, saṅghasuppaṭipattiyā pariyosānakalyāṇo. Taṃ sutvā tathattāya paṭipannena adhigantabbāya abhisambodhiyā vā ādikalyāṇo, paccekabodhiyā majjhekalyāṇo, sāvakabodhiyā pariyosānakalyāṇo. Suyyamāno cesa nīvaraṇavikkhambhanato savanenapi kalyāṇameva āvahatīti ādikalyāṇo, paṭipajjiyamāno samathavipassanāsukhāvahanato paṭipattiyāpi kalyāṇameva āvahatīti majjhekalyāṇo, tathā paṭipanno ca paṭipattiphale niṭṭhite tādibhāvāvahanato paṭipattiphalenapi kalyāṇameva āvahatīti pariyosānakalyāṇo. Nāthappabhavattā ca pabhavasuddhiyā ādikalyāṇo, atthasuddhiyā majjhekalyāṇo , kiccasuddhiyā pariyosānakalyāṇo. Tasmā eso bhagavā appaṃ vā bahuṃ vā desento ādikalyāṇādippakārameva desetīti veditabbo.
Như thế nào? Một bài kệ, do Chánh Pháp có tính chất tốt đẹp toàn diện, nên với dòng kệ đầu tiên thì toàn thiện ở phần đầu, với dòng kệ thứ hai và thứ ba thì toàn thiện ở phần giữa, với dòng kệ cuối cùng thì toàn thiện ở phần cuối. Một bài kinh có một đoạn kết nối ý nghĩa thì toàn thiện ở phần đầu với phần giới thiệu (nhân duyên), toàn thiện ở phần cuối với phần kết luận, và toàn thiện ở phần giữa với phần còn lại. Một bài kinh có nhiều đoạn kết nối ý nghĩa thì toàn thiện ở phần đầu với đoạn kết nối ý nghĩa đầu tiên, toàn thiện ở phần cuối với đoạn cuối cùng, và toàn thiện ở phần giữa với các đoạn còn lại. Toàn bộ giáo pháp của Ngài, với giới luật là bản chất, thì toàn thiện ở phần đầu; với thiền định, tuệ quán, đạo và quả thì toàn thiện ở phần giữa; với Niết Bàn thì toàn thiện ở phần cuối. Hoặc, với giới và định thì toàn thiện ở phần đầu; với tuệ quán và đạo thì toàn thiện ở phần giữa; với quả và Niết Bàn thì toàn thiện ở phần cuối. Hoặc, do sự giác ngộ hoàn hảo của Đức Phật thì toàn thiện ở phần đầu; do tính chất tuyệt diệu của Chánh Pháp thì toàn thiện ở phần giữa; do sự khéo tu tập của Tăng đoàn thì toàn thiện ở phần cuối. Hoặc, đối với sự giác ngộ viên mãn mà người thực hành theo đó sau khi nghe pháp sẽ đạt được, thì (giáo pháp ấy) toàn thiện ở phần đầu; đối với sự giác ngộ của bậc Độc Giác thì toàn thiện ở phần giữa; đối với sự giác ngộ của bậc Thanh Văn thì toàn thiện ở phần cuối. Và khi được nghe, giáo pháp này mang lại điều tốt lành ngay cả khi chỉ nghe, do có khả năng chế ngự các triền cái, nên là toàn thiện ở phần đầu. Khi được thực hành, nó mang lại điều tốt lành ngay cả khi thực hành, do mang lại sự an lạc của thiền định và tuệ quán, nên là toàn thiện ở phần giữa. Và người đã thực hành như vậy, khi kết quả của sự thực hành đã viên mãn, nó mang lại điều tốt lành ngay cả nơi kết quả thực hành, do mang lại trạng thái “như vậy” (không dao động), nên là toàn thiện ở phần cuối. Và do bắt nguồn từ Đấng Bảo Hộ (Đức Phật), nên nhờ sự thanh tịnh của nguồn gốc mà toàn thiện ở phần đầu; nhờ sự thanh tịnh của ý nghĩa mà toàn thiện ở phần giữa; nhờ sự thanh tịnh của mục đích mà toàn thiện ở phần cuối. Do đó, cần hiểu rằng Đấng Thế Tôn, dù thuyết ít hay nhiều, đều thuyết giảng theo cách toàn thiện (hoàn hảo) ở phần đầu, phần giữa và phần cuối.
Sātthaṃ sabyañjananti evamādīsu pana yasmā imaṃ dhammaṃ desento sāsanabrahmacariyaṃ maggabrahmacariyañca pakāseti, nānānayehi dīpeti; tañca yathānurūpaṃ atthasampattiyā sātthaṃ, byañjanasampattiyā sabyañjanaṃ. Saṅkāsanapakāsana-vivaraṇa-vibhajana-uttānīkaraṇa-paññatti-atthapadasamāyogato sātthaṃ, akkharapada-byañjanākāraniruttiniddesasampattiyā sabyañjanaṃ. Atthagambhīratā-paṭivedhagambhīratāhi sātthaṃ, dhammagambhīratādesanāgambhīratāhi sabyañjanaṃ. Atthapaṭibhānapaṭisambhidāvisayato sātthaṃ, dhammaniruttipaṭisambhidāvisayato sabyañjanaṃ. Paṇḍitavedanīyato parikkhakajanappasādakanti sātthaṃ, saddheyyato lokiyajanappasādakanti sabyañjanaṃ. Gambhīrādhippāyato sātthaṃ, uttānapadato sabyañjanaṃ. Upanetabbassa abhāvato sakalaparipuṇṇabhāvena kevalaparipuṇṇaṃ; apanetabbassa abhāvato niddosabhāvena parisuddhaṃ; sikkhattayapariggahitattā brahmabhūtehi seṭṭhehi caritabbato tesañca cariyabhāvato brahmacariyaṃ. Tasmā ‘‘sātthaṃ sabyañjanaṃ…pe… brahmacariyaṃ pakāsetī’’ti vuccati.
Còn trong các cụm từ như “có ý nghĩa, có văn tự” v.v…: Bởi vì khi thuyết giảng Chánh Pháp này, Ngài tuyên thuyết đời sống phạm hạnh của giáo pháp và đời sống phạm hạnh của đạo lộ, và làm sáng tỏ bằng nhiều phương pháp; Chánh Pháp ấy, tùy theo sự thích hợp, là “có ý nghĩa” do sự viên mãn về ý nghĩa, là “có văn tự” do sự viên mãn về văn tự (lời lẽ). Nó là “có ý nghĩa” do sự kết hợp của việc trình bày, làm sáng tỏ, giải thích rộng, phân tích, làm cho dễ hiểu, định nghĩa, và sự kết hợp của ý nghĩa và từ ngữ. Nó là “có văn tự” do sự viên mãn của mẫu tự, từ, văn句, văn phong, từ nguyên, và cách trình bày. Nó là “có ý nghĩa” do sự sâu xa về ý nghĩa và sự sâu xa về sự thâm nhập. Nó là “có văn tự” do sự sâu xa của Chánh Pháp và sự sâu xa của cách thuyết giảng. Nó là “có ý nghĩa” từ phương diện của năng lực biện giải về ý nghĩa và sự ứng đối bén nhạy. Nó là “có văn tự” từ phương diện của năng lực biện giải về Chánh Pháp và từ nguyên. Nó là “có ý nghĩa” vì có thể được bậc trí thấu hiểu, làm cho người có óc tìm xét phát sinh niềm tịnh tín. Nó là “có văn tự” vì có thể được tin theo, làm cho người thế tục phát sinh niềm tịnh tín. Nó là “có ý nghĩa” do ý hướng sâu xa. Nó là “có văn tự” do lời lẽ rõ ràng. Do không có gì cần phải thêm vào, nên nó “hoàn toàn đầy đủ, viên mãn” về phương diện tính toàn vẹn và trọn vẹn. Do không có gì cần phải loại bỏ, nên nó “hoàn toàn thanh tịnh” về phương diện không có lỗi lầm. Do bao gồm ba học (giới, định, tuệ), do cần được các bậc Phạm hạnh, các bậc cao thượng thực hành, và do là hạnh của các Ngài, nên nó là “đời sống phạm hạnh”. Do đó, có lời nói rằng: “Ngài tuyên thuyết đời sống phạm hạnh có ý nghĩa, có văn tự,…v.v…”.
Apica yasmā sanidānaṃ sauppattikañca desento ādikalyāṇaṃ deseti, veneyyānaṃ anurūpato atthassa aviparītatāya ca hetudāharaṇayuttato ca majjhekalyāṇaṃ, sotūnaṃ saddhāpaṭilābhena nigamanena ca pariyosānakalyāṇaṃ deseti. Evaṃ desento ca brahmacariyaṃ pakāseti. Tañca paṭipattiyā adhigamabyattito sātthaṃ, pariyattiyā āgamabyattito sabyañjanaṃ, sīlādipañcadhammakkhandhayuttato kevalaparipuṇṇaṃ, nirupakkilesato nittharaṇatthāya pavattito lokāmisanirapekkhato ca parisuddhaṃ, seṭṭhaṭṭhena brahmabhūtānaṃ buddha-paccekabuddha-buddhasāvakānaṃ cariyato ‘‘brahmacariya’’nti vuccati. Tasmāpi ‘‘so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ…pe… brahmacariyaṃ pakāsetī’’ti vuccati.
Hơn nữa, bởi vì khi thuyết giảng có nhân duyên, có sự phát sinh, Ngài thuyết giảng pháp toàn thiện ở phần đầu; tùy theo căn cơ của chúng sanh cần giáo hóa, tùy theo sự không sai lệch của ý nghĩa, và tùy theo sự hợp lý của nhân duyên và ví dụ, Ngài thuyết giảng pháp toàn thiện ở phần giữa; và bằng phần kết luận mang lại sự chứng đắc niềm tin cho người nghe, Ngài thuyết giảng pháp toàn thiện ở phần cuối. Khi thuyết giảng như vậy, Ngài tuyên thuyết đời sống phạm hạnh. Đời sống phạm hạnh ấy là “có ý nghĩa” từ phương diện sự chứng ngộ rõ ràng qua thực hành; là “có văn tự” từ phương diện sự truyền thừa rõ ràng qua học tập; là “hoàn toàn đầy đủ, viên mãn” do được kết hợp với năm pháp uẩn là giới v.v…; là “hoàn toàn thanh tịnh” do không có phiền não nhiễm ô, do diễn tiến nhằm mục đích giải thoát, và do không mong cầu lợi dưỡng thế gian; và được gọi là “đời sống phạm hạnh” theo nghĩa là cao thượng nhất, là hạnh của các bậc Phạm thiên như Phật, Độc Giác Phật, và các vị Phật Thanh Văn. Do đó, cũng có lời nói rằng: “Ngài thuyết Pháp toàn thiện ở phần đầu,…v.v… tuyên thuyết đời sống phạm hạnh”.
Sādhu kho panāti sundaraṃ kho pana atthāvahaṃ sukhāvahanti vuttaṃ hoti. Tathārūpānaṃ arahatanti yathārūpo so bhava gotamo, evarūpānaṃ yathābhuccaguṇādhigamena loke arahantoti laddhasaddānaṃ arahataṃ. Dassanaṃ hotīti pasādasommāni akkhīni ummīlitvā ‘‘dassanamattampi sādhu hotī’’ti evaṃ ajjhāsayaṃ katvā atha kho verañjo brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkamīti.
Trong cụm từ “Thật vậy, (lời ấy là) đúng đắn, tốt lành vậy” có nghĩa là tốt đẹp thay, mang lại lợi ích, mang lại hạnh phúc. Trong cụm từ “của những bậc A La Hán như vậy” có nghĩa là của những bậc A La Hán giống như ngài Gotama tôn quý kia, những bậc A La Hán đã có danh tiếng trong đời nhờ chứng đắc các phẩm chất chân thật. Câu “được thấy” có nghĩa là “Chỉ cần được thấy thôi cũng là điều tốt lành rồi”, với ý hướng như vậy, rồi Bà la môn Verañja đi đến chỗ Đấng Thế Tôn.
2.Yenāti bhummatthe karaṇavacanaṃ. Tasmā yattha bhagavā tattha upasaṅkamīti evamettha attho daṭṭhabbo . Yena vā kāraṇena bhagavā devamanussehi upasaṅkamitabbo, tena kāraṇena upasaṅkamīti evamettha attho daṭṭhabbo. Kena ca kāraṇena bhagavā upasaṅkamitabbo? Nānappakāraguṇavisesādhigamādhippāyena, sāduphalūpabhogādhippāyena dijagaṇehi niccaphalitamahārukkho viya. Upasaṅkamīti ca gatoti vuttaṃ hoti. Upasaṅkamitvāti upasaṅkamanapariyosānadīpanaṃ. Atha vā evaṃ gato tato āsannataraṃ ṭhānaṃ bhagavato samīpasaṅkhātaṃ gantvātipi vuttaṃ hoti.
2. Trong từ “Nơi mà” (trong câu “nơi nào có Đấng Thế Tôn, vị ấy đến đó”): đây là một cách dùng công cụ cách với ý nghĩa chỉ nơi chốn. Do đó, cần hiểu ý nghĩa ở đây là: nơi nào có Đấng Thế Tôn, vị ấy đã đến đó. Hoặc, cần hiểu ý nghĩa ở đây là: vì lý do nào mà Đấng Thế Tôn đáng được trời và người tìm đến, vị ấy đã đến vì lý do đó. Và vì lý do gì mà Đấng Thế Tôn đáng được tìm đến? Với ý muốn chứng đắc các phẩm chất đặc biệt khác nhau, giống như các loài chim tìm đến cây đại thụ luôn trĩu quả ngọt với ý muốn hưởng thụ những quả ngon ấy. Từ “đã đến” có nghĩa là đã đi. Từ “sau khi đã đến” là để chỉ sự kết thúc của việc đến gần. Hoặc, có thể nói là: sau khi đã đi như vậy, vị ấy đã đi đến một nơi gần hơn nữa, được gọi là vùng lân cận của Đấng Thế Tôn.
Bhagavatā saddhiṃ sammodīti yathā khamanīyādīni pucchanto bhagavā tena, evaṃ sopi bhagavatā saddhiṃ samappavattamodo ahosi, sītodakaṃ viya uṇhodakena sammoditaṃ ekībhāvaṃ agamāsi. Yāya ca ‘‘kacci, bho, gotama, khamanīyaṃ; kacci yāpanīyaṃ, kacci bhoto gotamassa, ca sāvakānañca appābādhaṃ appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāro’’tiādikāya kathāya sammodi, taṃ pītipāmojjasaṅkhātaṃ sammodaṃ jananato sammodituṃ yuttabhāvato ca sammodanīyaṃ. Atthabyañjanamadhuratāya sucirampi kālaṃ sāretuṃ nirantaraṃ pavattetuṃ araharūpato saritabbabhāvato ca sāraṇīyaṃ, suyyamānasukhato vā sammodanīyaṃ, anussariyamānasukhato sāraṇīyaṃ. Tathā byañjanaparisuddhatāya sammodanīyaṃ, atthaparisuddhatāya sāraṇīyanti. Evaṃ anekehi pariyāyehi sammodanīyaṃ sāraṇīyaṃ kathaṃ vītisāretvā pariyosāpetvā niṭṭhāpetvā yenatthena āgato taṃ pucchitukāmo ekamantaṃ nisīdi.
Trong cụm từ “đã cùng Đấng Thế Tôn chào hỏi vui vẻ”: cũng như Đấng Thế Tôn đã hỏi thăm vị ấy về những điều như có được khỏe mạnh không v.v…, vị ấy cũng đã có những lời chào hỏi tương ứng vui vẻ với Đấng Thế Tôn, giống như nước lạnh hòa với nước nóng trở thành một thể thống nhất. Và những lời mà họ đã dùng để chào hỏi vui vẻ, như: “Kính thưa ngài Gotama, ngài có được khỏe mạnh không? Ngài có được an ổn không? Kính thưa ngài Gotama, ngài và các đệ tử có ít bệnh, ít não, thân thể nhẹ nhàng, có sức mạnh, và sống thoải mái không?” v.v…, những lời ấy là “đáng được hoan hỷ” vì chúng phát sinh niềm vui thích và hân hoan, và vì chúng thích hợp để tạo ra sự hoan hỷ; và là “đáng được ghi nhớ” vì chúng thích hợp để được ghi nhớ, do sự ngọt ngào của ý nghĩa và văn từ, và do sự thích hợp để được nhắc lại liên tục trong một thời gian dài; hoặc, là “đáng được hoan hỷ” do sự vui thích khi nghe, là “đáng được ghi nhớ” do sự vui thích khi nhớ lại. Tương tự, là “đáng được hoan hỷ” do sự thanh tịnh của văn từ, là “đáng được ghi nhớ” do sự thanh tịnh của ý nghĩa. Như vậy, sau khi đã trao đổi xong những lời chào hỏi vui vẻ và đáng ghi nhớ bằng nhiều cách, kết thúc và hoàn tất cuộc nói chuyện, vì muốn hỏi về điều mà mình đã đến, vị ấy ngồi xuống một bên.
Ekamantanti bhāvanapuṃsakaniddeso ‘‘visamaṃ candimasūriyā parivattantī’’tiādīsu (a. ni. 4.70) viya. Tasmā yathā nisinno ekamantaṃ nisinno hoti tathā nisīdīti evamettha attho daṭṭhabbo. Bhummatthe vā etaṃ upayogavacanaṃ. Nisīdīti upāvisi. Paṇḍitā hi purisā garuṭṭhāniyaṃ upasaṅkamitvā āsanakusalatāya ekamantaṃ nisīdanti. Ayañca tesaṃ aññataro, tasmā ekamantaṃ nisīdi.
Từ “Một bên”: đây là cách dùng danh từ trừu tượng ở trung tính, giống như trong các câu như “Mặt trăng và mặt trời xoay vần không đều đặn” (a. ni. 4.70) v.v… Do đó, cần hiểu ý nghĩa ở đây là: vị ấy đã ngồi theo cách mà khi ngồi xuống thì là ngồi một bên. Hoặc đây là cách dùng đối cách với ý nghĩa chỉ nơi chốn. Từ “đã ngồi xuống” có nghĩa là đã ngồi. Người trí khi đến gần bậc đáng tôn kính thì thường ngồi xuống một bên với sự khéo léo trong việc chọn chỗ ngồi. Vị này cũng là một trong số họ, do đó đã ngồi xuống một bên.
Kathaṃ nisinno pana ekamantaṃ nisinno hotīti? Cha nisajjadose vajjetvā. Seyyathidaṃ – atidūraṃ, accāsannaṃ, uparivātaṃ, unnatappadesaṃ, atisammukhaṃ, atipacchāti. Atidūre nisinno hi sace kathetukāmo hoti uccāsaddena kathetabbaṃ hoti. Accāsanne nisinno saṅghaṭṭanaṃ karoti. Uparivāte nisinno sarīragandhena bādhati. Unnatappadese nisinno agāravaṃ pakāseti. Atisammukhā nisinno sace daṭṭhukāmo hoti, cakkhunā cakkhuṃ āhacca daṭṭhabbaṃ hoti. Atipacchā nisinno sace daṭṭhukāmo hoti gīvaṃ pasāretvā daṭṭhabbaṃ hoti. Tasmā ayampi ete cha nisajjadose vajjetvā nisīdi. Tena vuttaṃ – ‘‘ekamantaṃ nisīdī’’ti.
Nhưng, một người ngồi như thế nào thì được gọi là ngồi một bên? (Là người) đã tránh sáu lỗi của việc ngồi. Đó là: quá xa, quá gần, ngồi đầu hướng gió, ngồi ở chỗ cao hơn, ngồi quá đối diện, và ngồi quá phía sau. Thật vậy, người ngồi quá xa, nếu muốn nói chuyện thì phải nói lớn tiếng. Người ngồi quá gần thì gây ra sự va chạm. Người ngồi đầu hướng gió thì làm phiền bằng mùi cơ thể. Người ngồi ở chỗ cao hơn thì tỏ ra không tôn kính. Người ngồi quá đối diện, nếu muốn nhìn, thì phải nhìn thẳng mắt vào mắt. Người ngồi quá phía sau, nếu muốn nhìn, thì phải vươn cổ ra để nhìn. Do đó, vị này (Bà la môn Verañja) cũng đã tránh sáu lỗi của việc ngồi này mà ngồi xuống. Vì thế, có lời nói rằng: “Vị ấy ngồi xuống một bên”.
Ekamantaṃ nisinno kho verañjo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavocāti etanti idāni vattabbamatthaṃ dasseti. Dakāro padasandhikaro. Avocāti abhāsi. Sutaṃ metanti sutaṃ me etaṃ, etaṃ mayā sutanti idāni vattabbamatthaṃ dasseti. Bho gotamāti bhagavantaṃ gottena ālapati.
Trong câu “Bà la môn Verañja, sau khi ngồi xuống một bên, đã bạch với Đấng Thế Tôn điều này”: Từ “điều này” chỉ điều sắp được nói ra. Phụ âm “đ” (trong etadavoca) là để nối âm cho dễ đọc. Từ “đã bạch” có nghĩa là đã nói. Trong câu “Điều này con đã nghe” có nghĩa là “Điều này con đã được nghe”, chỉ điều sắp được nói ra. Câu “Thưa ngài Gotama” là vị ấy gọi Đấng Thế Tôn bằng tên dòng họ.
Idāni yaṃ tena sutaṃ – taṃ dassento na samaṇo gotamoti evamādimāha. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā – brāhmaṇeti jātibrāhmaṇe. Jiṇṇeti jajjarībhūte jarāya khaṇḍiccādibhāvaṃ āpādite. Vuḍḍheti aṅgapaccaṅgānaṃ vuḍḍhimariyādappatte. Mahallaketi jātimahallakatāya samannāgate, cirakālappasuteti vuttaṃ hoti. Addhagateti addhānaṃ gate , dve tayo rājaparivaṭṭe atīteti adhippāyo. Vayo anuppatteti pacchimavayaṃ sampatte, pacchimavayo nāma vassasatassa pacchimo tatiyabhāgo.
Bây giờ, để trình bày điều mà vị ấy đã nghe, vị ấy nói: “Sa môn Gotama không…” và những điều theo sau. Sau đây là phần giải thích các từ không rõ nghĩa (trong lời đồn mà Bà la môn Verañja nghe được): Từ “các Bà la môn” chỉ các vị Bà la môn theo dòng dõi. Từ “già nua” chỉ những người đã già yếu, bị tuổi già làm cho suy sụp đến mức răng rụng v.v… Từ “trưởng thượng” chỉ những người đã đến tuổi trưởng thành hoàn toàn về thân thể. Từ “cao niên” chỉ những người có thâm niên dòng dõi, nghĩa là đã sinh ra từ lâu đời. Từ “đã đi hết quãng đời” có nghĩa là đã trải qua một chặng đường dài của cuộc đời, ý muốn nói đã sống qua hai, ba triều vua. Từ “đã đến tuổi già” có nghĩa là đã đến giai đoạn cuối của cuộc đời; giai đoạn cuối của cuộc đời được gọi là một phần ba cuối của trăm năm tuổi.
Apica – jiṇṇeti porāṇe, cirakālappavattakulanvayeti vuttaṃ hoti. Vuḍḍheti sīlācārādiguṇavuḍḍhiyutte. Mahallaketi vibhavamahattatāya samannāgate mahaddhane mahābhoge. Addhagateti maggappaṭipanne, brāhmaṇānaṃ vatacariyādimariyādaṃ avītikkamma caramāne. Vayoanuppatteti jātivuḍḍhabhāvaṃ antimavayaṃ anuppatteti evamettha yojanā veditabbā.
Hơn nữa (còn có cách giải thích khác): Từ “già nua” (trong ngữ cảnh này có thể hiểu là) người thuộc dòng dõi cổ xưa, đã được truyền thừa lâu đời. Từ “trưởng thượng” là người có sự tăng trưởng về các phẩm chất như giới hạnh, đức độ v.v… Từ “lão thành” là người có tài sản lớn, giàu có, nhiều của cải. Từ “người đã đi trên đường (đạo)” là người đã bước vào con đường tu tập, thực hành không vượt qua giới hạn các nghi lễ, hạnh kiểm v.v… của Bà la môn. Từ “người đã đến tuổi già theo dòng dõi” có nghĩa là người đã đạt đến tuổi già cả về mặt dòng dõi lẫn tuổi tác cuối cùng của đời người; cần hiểu sự kết hợp ý nghĩa ở đây là như vậy.
Idāni abhivādetīti evamādīni ‘‘na samaṇo gotamo’’ti ettha vuttanakārena yojetvā evamatthato veditabbāni – ‘‘na vandati vā, nāsanā vuṭṭhahati vā, nāpi ‘idha bhonto nisīdantū’ti evaṃ āsanena vā upanimantetī’’ti. Ettha hi vā saddo vibhāvane nāma atthe, ‘‘rūpaṃ niccaṃ vā aniccaṃ vā’’tiādīsu viya. Evaṃ vatvā atha attano abhivādanādīni akarontaṃ bhagavantaṃ disvā āha – ‘‘tayidaṃ bho gotama tathevā’’ti. Yaṃ taṃ mayā sutaṃ – taṃ tatheva, taṃ savanañca me dassanañca saṃsandati sameti, atthato ekībhāvaṃ gacchati. ‘‘Na hi bhavaṃ gotamo…pe… āsanena vā nimantetī’’ti evaṃ attanā sutaṃ diṭṭhena nigametvā nindanto āha – ‘‘tayidaṃ bho gotama na sampannamevā’’ti taṃ abhivādanādīnaṃ akaraṇaṃ na yuttameva.
Bây giờ, các từ như “đảnh lễ” và các từ tương tự, cần được kết hợp với từ phủ định “không” đã được nói trong câu “Sa môn Gotama không…” và được hiểu theo nghĩa như sau: “Ngài không lạy, hoặc không đứng dậy khỏi chỗ ngồi, hoặc cũng không mời ngồi bằng cách nói ‘Xin quý vị ngồi đây’.” Ở đây, từ “hoặc” có nghĩa là để phân biệt, nêu rõ các trường hợp, giống như trong các câu “sắc là thường hay vô thường” v.v… Sau khi nói như vậy, rồi thấy Đấng Thế Tôn không thực hiện các hành vi đảnh lễ v.v… đối với mình, vị ấy nói: “Thưa ngài Gotama, điều đó đúng là như vậy.” Điều mà con đã nghe – điều đó đúng là như thế; điều con nghe và điều con thấy khớp nhau, tương ứng với nhau, thống nhất với nhau về mặt ý nghĩa. Sau khi kết luận rằng điều mình đã nghe (“Ngài Gotama kính quý không…v.v… mời ngồi bằng chỗ ngồi”) được xác nhận bởi điều mình thấy, vị ấy khiển trách mà nói rằng: “Thưa ngài Gotama, điều đó thực không xứng hợp!” – việc không thực hiện các hành vi đảnh lễ v.v… đó quả thực không đúng đắn.
Athassa bhagavā attukkaṃsanaparavambhanadosaṃ anupagamma karuṇāsītalahadayena taṃ aññāṇaṃ vidhamitvā yuttabhāvaṃ dassetukāmo āha – ‘‘nāhaṃ taṃ brāhmaṇa…pe… muddhāpi tassa vipateyyā’’ti. Tatrāyaṃ saṅkhepattho – ‘‘ahaṃ, brāhmaṇa, appaṭihatena sabbaññutaññāṇacakkhunā olokentopi taṃ puggalaṃ etasmiṃ sadevakādibhede loke na passāmi, yamahaṃ abhivādeyyaṃ vā paccuṭṭheyyaṃ vā āsanena vā nimanteyyaṃ. Anacchariyaṃ vā etaṃ, yvāhaṃ ajja sabbaññutaṃ patto evarūpaṃ nipaccakārārahaṃ puggalaṃ na passāmi. Apica kho yadāpāhaṃ sampatijātova uttarābhimukho sattapadavītihārena gantvā sakalaṃ dasasahassilokadhātuṃ olokesiṃ; tadāpi etasmiṃ sadevakādibhede loke taṃ puggalaṃ na passāmi, yamahaṃ abhivādeyyaṃ vā paccuṭṭheyyaṃ vā āsanena vā nimanteyyaṃ. Atha kho maṃ soḷasakappasahassāyuko khīṇāsavamahābrahmāpi añjaliṃ paggahetvā ‘‘tvaṃ loke mahāpuriso, tvaṃ sadevakassa lokassa aggo ca jeṭṭho ca seṭṭho ca, natthi tayā uttaritaro’’ti sañjātasomanasso patināmesi; tadāpi cāhaṃ attanā uttaritaraṃ apassanto āsabhiṃ vācaṃ nicchāresiṃ – ‘‘aggohamasmi lokassa, jeṭṭhohamasmi lokassa, seṭṭhohamasmi lokassā’’ti. Evaṃ sampatijātassapi mayhaṃ abhivādanādiraho puggalo natthi, svāhaṃ idāni sabbaññutaṃ patto kaṃ abhivādeyyaṃ vā…pe… āsanena vā nimanteyyaṃ. Tasmā tvaṃ, brāhmaṇa, mā tathāgate evarūpaṃ nipaccakāraṃ patthayittha. Yañhi, brāhmaṇa, tathāgato abhivādeyya vā…pe… āsanena vā nimanteyya, muddhāpi tassa puggalassa rattipariyosāne paripākasithilabandhanaṃ vaṇṭā pavuttatālaphalamiva gīvato pacchijjitvā sahasāva bhūmiyaṃ vipateyyāti.
Bấy giờ, Đấng Thế Tôn, để không rơi vào lỗi tự khen mình chê người, với tâm từ bi mát dịu, muốn xua tan sự vô minh đó và chỉ ra điều đúng đắn, đã nói: “Này Bà la môn, Ta không…v.v… đầu của vị ấy cũng sẽ vỡ ra.” Tóm tắt ý nghĩa ở đây là: “Này Bà la môn, Ta, dù nhìn bằng con mắt toàn giác không bị ngăn che, cũng không thấy một chúng sanh nào trong thế giới này cùng với chư thiên, Ma vương, Phạm thiên, cùng với các Sa môn, Bà la môn, chúng sanh, trời và người, mà Ta phải đảnh lễ, hay đứng dậy đón, hay mời ngồi. Điều này không có gì lạ, khi Ta, người đã đạt đến toàn giác hôm nay, lại không thấy một chúng sanh nào đáng được Ta thực hiện những hành vi tôn kính như vậy. Hơn nữa, ngay cả khi Ta vừa mới đản sanh, đi bảy bước về phương Bắc rồi nhìn khắp mười ngàn thế giới hệ; ngay cả lúc đó, Ta cũng không thấy một chúng sanh nào trong thế giới này cùng với chư thiên v.v… mà Ta phải đảnh lễ, hay đứng dậy đón, hay mời ngồi. Rồi, ngay cả vị Đại Phạm thiên đã hết lậu hoặc, có tuổi thọ mười sáu ngàn đại kiếp, cũng đã chắp tay đảnh lễ Ta và tuyên bố với niềm hân hoan: ‘Ngài là bậc Đại Nhân trong đời, Ngài là bậc Tối Thắng, Tối Thượng, Tối Cao trong thế giới cùng với chư thiên, không ai hơn Ngài’; ngay cả lúc đó, Ta cũng không thấy ai hơn mình, nên đã thốt lên lời nói như sư tử rống: ‘Ta là bậc Tối Thắng trong đời, Ta là bậc Tối Thượng trong đời, Ta là bậc Tối Cao trong đời.’ Như vậy, ngay cả khi Ta vừa mới đản sanh cũng không có ai đáng để Ta đảnh lễ v.v…, huống nữa là Ta, người nay đã đạt toàn giác, thì Ta sẽ đảnh lễ ai… hay mời ngồi ai? Vì thế, này Bà la môn, ông chớ mong đợi những hành vi tôn kính như vậy từ một vị Như Lai. Vì rằng, này Bà la môn, nếu Như Lai mà đảnh lễ… hay mời ngồi một chúng sanh nào, thì đầu của chúng sanh ấy, vào cuối đêm đó, cũng sẽ vỡ tung lìa khỏi cổ rơi xuống đất, như quả thốt nốt chín muồi có cuống lỏng lẻo lìa khỏi cuống vậy.”
3. Evaṃ vuttepi brāhmaṇo duppaññatāya tathāgatassa loke jeṭṭhabhāvaṃ asallakkhento kevalaṃ taṃ vacanaṃ asahamāno āha – ‘‘arasarūpo bhavaṃ gotamo’’ti. Ayaṃ kirassa adhippāyo – yaṃ loke abhivādanapaccuṭṭhānaañjalikammasāmīcikammaṃ ‘‘sāmaggiraso’’ti vuccati, taṃ bhoto gotamassa natthi , tasmā arasarūpo bhavaṃ gotamo, arasajātiko arasasabhāvoti. Athassa bhagavā cittamudubhāvajananatthaṃ ujuvipaccanīkabhāvaṃ pariharanto aññathā tassa vacanassatthaṃ attani sandassento ‘‘atthi khvesa brāhmaṇa pariyāyo’’tiādimāha.
3. Dù đã được nói như vậy, vị Bà la môn, do trí tuệ kém cỏi, không nhận thấy được địa vị tối thượng của Như Lai trong đời, chỉ đơn thuần không chịu đựng nổi lời nói đó, đã thốt lên: “Ngài Gotama kính quý thật là vô vị!” Ý của vị ấy dường như là: Cái mà trong đời được gọi là “vị của sự hòa hợp” (hay “vị của sự lễ nghi”) – tức là các hành vi đảnh lễ, đứng dậy chào, chắp tay, và cử chỉ lịch sự – điều đó ngài Gotama không có; do đó, ngài Gotama là người vô vị, thuộc loại vô vị, có bản chất vô vị. Bấy giờ, Đấng Thế Tôn, để làm cho tâm vị Bà la môn trở nên nhu hòa, tránh sự đối đầu trực tiếp, Ngài đã trình bày một ý nghĩa khác của lời nói ấy liên quan đến chính mình, mà nói rằng: “Này Bà la môn, quả thật có một lý do…” và những điều theo sau.
Tattha pariyāyoti kāraṇaṃ; ayañhi pariyāyasaddo desanā-vāra-kāraṇesu vattati. ‘‘Madhupiṇḍikapariyāyotveva naṃ dhārehī’’tiādīsu (ma. ni. 1.205) hi esa desanāyaṃ vattati. ‘‘Kassa nu kho, ānanda, ajja pariyāyo bhikkhuniyo ovaditu’’ntiādīsu (ma. ni. 3.398) vāre. ‘‘Sādhu, bhante, bhagavā aññaṃ pariyāyaṃ ācikkhatu, yathāyaṃ bhikkhusaṅgho aññāya saṇṭhaheyyā’’tiādīsu (pārā. 164) kāraṇe. Svāyamidha kāraṇe vattati . Tasmā ettha evamattho daṭṭhabbo – atthi kho, brāhmaṇa, etaṃ kāraṇaṃ; yena kāraṇena maṃ ‘‘arasarūpo bhavaṃ gotamo’’ti vadamāno puggalo sammā vadeyya, avitathavādīti saṅkhyaṃ gaccheyya. Katamo pana soti? Ye te brāhmaṇa rūparasā…pe… phoṭṭhabbarasā te tathāgatassa pahīnāti. Kiṃ vuttaṃ hoti? Ye te jātivasena vā upapattivasena vā seṭṭhasammatānampi puthujjanānaṃ rūpārammaṇādīni assādentānaṃ abhinandantānaṃ rajjantānaṃ uppajjanti kāmasukhassādasaṅkhātā rūparasasaddagandharasaphoṭṭhabbarasā, ye imaṃ lokaṃ gīvāya bandhitvā viya āviñchanti, vatthārammaṇādisāmaggiyañca uppannattā sāmaggirasāti vuccanti, te sabbepi tathāgatassa pahīnāti. Mayhaṃ pahīnāti vattabbepi mamākārena attānaṃ anukkhipanto dhammaṃ deseti. Desanāvilāso vā esa bhagavato.
Trong đó, từ “lý do” có nghĩa là nguyên nhân. Từ “lý do” này được dùng với nghĩa là bài giảng, lượt (thời điểm), và nguyên nhân. Ví dụ, trong các câu như “Hãy ghi nhớ đó là bài giảng về bánh mật” (ma. ni. 1.205), nó được dùng với nghĩa là bài giảng. Trong các câu như “Này Ānanda, hôm nay đến lượt ai giáo huấn các Tỳ khưu ni?” (ma. ni. 3.398), nó được dùng với nghĩa là lượt. Trong các câu như “Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy chỉ dạy một lý do khác, để Tăng đoàn Tỳ khưu này có thể được an lập trong sự hiểu biết” (pārā. 164), nó được dùng với nghĩa là nguyên nhân. Ở đây, nó được dùng với nghĩa là nguyên nhân. Do đó, cần hiểu ý nghĩa ở đây như sau: “Này Bà la môn, quả thật có lý do đó; do lý do đó mà một người nói về Ta rằng: ‘Ngài Gotama là người vô vị’ thì người đó đã nói đúng, được xem là người nói lời chân thật.” Vậy lý do đó là gì? “Này Bà la môn, những vị của sắc, những vị của thanh, những vị của hương, những vị của vị nếm, những vị của xúc, những thứ đó Như Lai đã đoạn tận.” Điều này có nghĩa là gì? Những vị của sắc, thanh, hương, vị, xúc, được gọi là sự hưởng thụ các dục lạc, vốn phát sinh ngay cả đối với những phàm phu được xem là cao quý (do dòng dõi hay do sự sanh trưởng) khi họ nếm trải, vui thích, và say đắm các đối tượng trần như sắc v.v… – những vị này như thể trói buộc thế gian này vào cổ mà lôi đi, và vì chúng phát sinh từ sự kết hợp của căn, trần v.v…, nên được gọi là “vị của sự hòa hợp” (hay “vị của sự tiếp xúc”) – tất cả những vị ấy Như Lai đã đoạn tận. Dù có thể nói là “Ta đã đoạn tận”, Ngài vẫn thuyết pháp mà không quy chiếu về mình với ý niệm “của ta”. Hoặc đây là vẻ đẹp trong cách thuyết giảng của Đấng Thế Tôn.
Tattha pahīnāti cittasantānato vigatā jahitā vā. Etasmiṃ panatthe karaṇe sāmivacanaṃ daṭṭhabbaṃ. Ariyamaggasatthena ucchinnaṃ taṇhāvijjāmayaṃ mūlametesanti ucchinnamūlā. Tālavatthu viya nesaṃ vatthu katanti tālāvatthukatā. Yathā hi tālarukkhaṃ samūlaṃ uddharitvā tassa vatthumatte tasmiṃ padese kate na puna tassa tālassa uppatti paññāyati; evaṃ ariyamaggasatthena samūle rūpādirase uddharitvā tesaṃ pubbe uppannapubbabhāvena vatthumatte cittasantāne kate sabbepi te ‘‘tālāvatthukatā’’ti vuccanti. Avirūḷhidhammattā vā matthakacchinnatālo viya katāti tālāvatthukatā. Yasmā pana evaṃ tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā honti, yathā nesaṃ pacchābhāvo na hoti, tathā katā honti; tasmā āha – ‘‘anabhāvaṃkatā’’ti. Ayañhettha padacchedo – anuabhāvaṃ katā anabhāvaṃkatāti. ‘‘Anabhāvaṃ gatā’’tipi pāṭho, tassa anuabhāvaṃ gatāti attho. Tattha padacchedo anuabhāvaṃ gatā anabhāvaṃ gatāti, yathā anuacchariyā anacchariyāti. Āyatiṃ anuppādadhammāti anāgate anuppajjanakasabhāvā. Ye hi abhāvaṃ gatā, te puna kathaṃ uppajjissanti? Tenāha – ‘‘anabhāvaṃ gatā āyatiṃ anuppādadhammā’’ti.
Trong đó, từ “đã được đoạn tận” có nghĩa là đã biến mất khỏi dòng tâm thức, hoặc đã từ bỏ. Trong ý nghĩa này, cần hiểu cách dùng sở hữu cách (trong Pāḷi) mang nghĩa của công cụ cách (chỉ phương tiện). Từ “bị nhổ tận gốc” có nghĩa là gốc rễ ái dục và vô minh của chúng đã bị chặt đứt bởi lưỡi gươm Thánh đạo. Từ “bị làm cho như thân cây thốt nốt” có nghĩa là nền tảng của chúng đã bị làm cho giống như cây thốt nốt (đã bị triệt hạ). Thật vậy, cũng như khi một cây thốt nốt bị nhổ cả gốc, chỉ còn lại nền đất của nó ở nơi đó, thì sự sinh trưởng trở lại của cây thốt nốt ấy không còn được thấy nữa; cũng vậy, khi các vị của sắc v.v… đã bị nhổ tận gốc bằng lưỡi gươm Thánh đạo, chỉ còn lại nền tảng của chúng trong dòng tâm thức do trước đây chúng đã từng sinh khởi, thì tất cả chúng đều được gọi là “bị làm cho như thân cây thốt nốt”. Hoặc, do có đặc tính không thể sinh trưởng trở lại, nên chúng bị làm cho giống như cây thốt nốt bị chặt ngọn, (vì thế gọi là) “bị làm cho như thân cây thốt nốt”. Và bởi vì khi đã bị làm cho như thân cây thốt nốt như vậy, chúng trở thành không còn hiện hữu nữa, tức là chúng được làm cho đến mức không còn sự hiện hữu về sau nữa; do đó, Ngài nói – “bị làm cho không còn hiện hữu nữa”. Cách phân tích từ ở đây là: (tiếp đầu ngữ) ‘theo sau’ kết hợp với (cụm từ) ‘bị làm cho không hiện hữu’ tạo thành (từ ghép có nghĩa là) ‘bị làm cho không còn hiện hữu nữa theo sau đó’. Cũng có bản đọc là “đã đi đến chỗ không hiện hữu”, nghĩa của nó là (tiếp đầu ngữ) ‘theo sau’ kết hợp với (cụm từ) ‘đã đi đến chỗ không hiện hữu’. Ở đó, cách phân tích từ là: (tiếp đầu ngữ) ‘theo sau’ kết hợp với (cụm từ) ‘đã đi đến chỗ không hiện hữu’ tạo thành (từ ghép có nghĩa là) ‘đã đi đến chỗ không hiện hữu theo sau đó’, giống như (tiếp đầu ngữ) ‘không’ kết hợp với (từ) ‘kỳ diệu’ tạo thành (từ có nghĩa là) ‘không kỳ diệu’. Từ “có đặc tính không sanh khởi trong tương lai” có nghĩa là có bản chất không sanh khởi lại trong tương lai. Vì những gì đã đi đến chỗ không hiện hữu, làm sao chúng có thể sanh khởi trở lại được nữa? Do đó, Ngài nói: “Đã đi đến chỗ không hiện hữu, chúng có đặc tính không sanh khởi trong tương lai.”
Ayaṃ kho brāhmaṇa pariyāyoti idaṃ kho, brāhmaṇa, kāraṇaṃ yena maṃ sammā vadamāno vadeyya ‘‘arasarūpo samaṇo gotamo’’ti. No ca kho yaṃ tvaṃ sandhāya vadesīti yañca kho tvaṃ sandhāya vadesi, so pariyāyo na hoti. Kasmā pana bhagavā evamāha? Nanu evaṃ vutte yo brāhmaṇena vutto sāmaggiraso tassa attani vijjamānatā anuññātā hotīti. Vuccate, na hoti. Yo hi taṃ sāmaggirasaṃ kātuṃ bhabbo hutvā na karoti, so tadabhāvena arasarūpoti vattabbo bhaveyya. Bhagavā pana abhabbova etaṃ kātuṃ, tenassa karaṇe abhabbataṃ pakāsento āha – ‘‘no ca kho yaṃ tvaṃ sandhāya vadesī’’ti. Yaṃ pariyāyaṃ sandhāya tvaṃ maṃ ‘‘arasarūpo’’ti vadesi, so amhesu neva vattabboti.
Này Bà la môn, đây chính là lý do, do lý do này mà một người nói đúng về Ta thì có thể nói rằng ‘Sa môn Gotama là người vô vị’. Nhưng này, lý do mà ông nhắm đến để nói thì không phải vậy. Tại sao Đấng Thế Tôn lại nói như vậy? Chẳng phải khi nói như vậy là Ngài đã thừa nhận sự tồn tại nơi mình của cái gọi là ‘vị của sự hòa hợp’ mà vị Bà la môn đã nói hay sao? (Câu trả lời là) không phải vậy. Người nào có khả năng thực hiện ‘vị của sự hòa hợp’ đó mà không làm, thì người đó có thể bị xem là ‘vô vị’ do không có nó. Nhưng Đấng Thế Tôn thì không có khả năng thực hiện điều đó (theo nghĩa thế tục vì Ngài đã vượt qua). Do đó, để làm rõ sự không có khả năng thực hiện (theo nghĩa đó) của mình, Ngài nói: ‘Nhưng này, lý do mà ông nhắm đến để nói thì không phải vậy.’ Lý do mà ông nhắm đến để nói Ta là ‘vô vị’, lý do đó không thể áp dụng cho Ta được.
4. Evaṃ brāhmaṇo attanā adhippetaṃ arasarūpataṃ āropetuṃ asakkonto athāparaṃ nibbhogo bhavaṃ gotamotiādimāha. Sabbapariyāyesu cettha vuttanayeneva yojanakkamaṃ viditvā sandhāya bhāsitamattaṃ evaṃ veditabbaṃ. Brāhmaṇo tameva vayovuḍḍhānaṃ abhivādanakammādiṃ loke sāmaggiparibhogoti maññamāno tadabhāvena bhagavantaṃ nibbhogoti āha. Bhagavā pana yvāyaṃ rūpādīsu sattānaṃ chandarāgaparibhogo tadabhāvaṃ attani sampassamāno aparampi pariyāyaṃ anujānāti.
4. Như vậy, vị Bà la môn không thể quy kết được tính chất ‘vô vị’ mà mình nhắm đến, bèn nói thêm điều khác: “Ngài Gotama kính quý là người không hưởng thụ” và những điều theo sau. Trong tất cả các lý giải ở đây, cần biết trình tự kết nối ý nghĩa theo cách đã nói, và hiểu rằng (các lời của Bà la môn) chỉ là những gì được nói ra dựa trên sự nhắm đến (ý riêng của ông ta). Vị Bà la môn, cho rằng chính những hành vi đảnh lễ và các việc tương tự đối với người lớn tuổi là sự hưởng thụ hòa hợp trong đời, do thấy Đấng Thế Tôn không có điều đó, nên đã nói Ngài là người không hưởng thụ. Còn Đấng Thế Tôn, thấy rõ nơi mình không có sự hưởng thụ ái dục của chúng sanh đối với sắc và các đối tượng trần khác, nên Ngài lại chấp nhận một lý giải khác (cho từ ‘không hưởng thụ’).
5. Puna brāhmaṇo yaṃ loke vayovuḍḍhānaṃ abhivādanādikulasamudācārakammaṃ lokiyā karonti tassa akiriyaṃ sampassamāno bhagavantaṃ akiriyavādoti āha. Bhagavā pana, yasmā kāyaduccaritādīnaṃ akiriyaṃ vadati tasmā, taṃ akiriyavādaṃ attani sampassamāno aparampi pariyāyaṃ anujānāti. Tattha ca kāyaduccaritanti pāṇātipāta-adinnādāna-micchācāracetanā veditabbā. Vacīduccaritanti musāvāda-pisuṇavācā-pharusavācā-samphappalāpacetanā veditabbā. Manoduccaritanti abhijjhābyāpādamicchādiṭṭhiyo veditabbā. Ṭhapetvā te dhamme, avasesā akusalā dhammā ‘‘anekavihitā pāpakā akusalā dhammā’’ti veditabbā.
5. Lại nữa, vị Bà la môn, thấy Đấng Thế Tôn không thực hiện những hành vi theo tập tục gia tộc là đảnh lễ người lớn tuổi và các việc tương tự mà người đời thường làm, nên đã nói Ngài là người chủ trương không hành động. Còn Đấng Thế Tôn, vì Ngài chủ trương không làm các điều ác như thân làm ác và các việc tương tự, do đó, thấy rõ chủ trương không hành động (ác) đó nơi mình, Ngài lại chấp nhận một lý giải khác. Trong đó, thân làm ác cần hiểu là các tư tâm sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Khẩu làm ác cần hiểu là các tư tâm nói dối, nói đâm thọc, nói lời thô ác, nói lời vô ích. Ý làm ác cần hiểu là tham lam, sân hận, tà kiến. Ngoài những pháp đó, các pháp bất thiện còn lại cần được hiểu là “nhiều loại pháp ác, bất thiện khác nhau”.
6. Puna brāhmaṇo tameva abhivādanādikammaṃ bhagavati apassanto imaṃ ‘‘āgamma ayaṃ lokatanti lokapaveṇī ucchijjatī’’ti maññamāno bhagavantaṃ ucchedavādoti āha. Bhagavā pana yasmā aṭṭhasu lobhasahagatacittesu pañcakāmaguṇikarāgassa dvīsu akusalacittesu uppajjamānakadosassa ca anāgāmimaggena ucchedaṃ vadati. Sabbākusalasambhavassa pana niravasesassa mohassa arahattamaggena ucchedaṃ vadati. Ṭhapetvā te tayo, avasesānaṃ pāpakānaṃ akusalānaṃ dhammānaṃ yathānurūpaṃ catūhi maggehi ucchedaṃ vadati; tasmā taṃ ucchedavādaṃ attani sampassamāno aparampi pariyāyaṃ anujānāti.
6. Lại nữa, vị Bà la môn, không thấy Đấng Thế Tôn thực hiện hành vi đảnh lễ và các việc tương tự đó, cho rằng ‘vì vị này mà truyền thống thế gian, tập tục thế gian bị đoạn tuyệt’, nên đã nói Ngài là người chủ trương đoạn diệt. Còn Đấng Thế Tôn, vì Ngài chủ trương sự đoạn diệt lòng tham ái năm dục trong tám tâm tham đi kèm, và sự đoạn diệt sân hận phát sinh trong hai tâm bất thiện bằng đạo A Na Hàm; chủ trương sự đoạn diệt hoàn toàn không còn sót lại của si mê, cội nguồn của mọi bất thiện, bằng đạo A La Hán; và ngoài ba pháp đó, Ngài chủ trương sự đoạn diệt các pháp ác, bất thiện còn lại bằng bốn đạo một cách thích hợp; do đó, thấy rõ chủ trương đoạn diệt đó nơi mình, Ngài lại chấp nhận một lý giải khác.
7. Puna brāhmaṇo ‘‘jigucchati maññe samaṇo gotamo idaṃ vayovuḍḍhānaṃ abhivādanādikulasamudācārakammaṃ, tena taṃ na karotī’’ti maññamāno bhagavantaṃ jegucchīti āha. Bhagavā pana yasmā jigucchati kāyaduccaritādīhi; kiṃ vuttaṃ hoti ? Yañca tividhaṃ kāyaduccaritaṃ, yañca catubbidhaṃ vacīduccaritaṃ, yañca tividhaṃ manoduccaritaṃ, yā ca ṭhapetvā tāni duccaritāni avasesānaṃ lāmakaṭṭhena pāpakānaṃ akosallasambhūtaṭṭhena akusalānaṃ dhammānaṃ samāpatti samāpajjanā samaṅgibhāvo, taṃ sabbampi gūthaṃ viya maṇḍanakajātiyo puriso jigucchati hirīyati, tasmā taṃ jegucchitaṃ attani sampassamāno aparampi pariyāyaṃ anujānāti. Tattha ‘‘kāyaduccaritenā’’ti upayogatthe karaṇavacanaṃ daṭṭhabbaṃ.
7. Lại nữa, vị Bà la môn, cho rằng ‘Sa môn Gotama có lẽ ghê tởm hành vi theo tập tục gia tộc là đảnh lễ người lớn tuổi này, nên ngài không làm’, đã nói Ngài là người hay ghê tởm. Còn Đấng Thế Tôn, vì Ngài ghê tởm thân làm ác và các việc tương tự; Điều này có nghĩa là gì? Ba loại thân làm ác, bốn loại khẩu làm ác, ba loại ý làm ác, và ngoài những điều ác đó, sự thực hiện, sự hành động, sự hiện hữu của các pháp còn lại xấu xa về bản chất, bất thiện do phát sinh từ sự không khéo léo – tất cả những điều đó, Ngài ghê tởm, hổ thẹn như một người thuộc dòng dõi ưa trang điểm ghê tởm phẩn uế vậy. Do đó, thấy rõ sự ghê tởm (điều ác) đó nơi mình, Ngài lại chấp nhận một lý giải khác. Trong đó, (cách dùng từ) ‘bởi thân làm ác’ cần được hiểu là công cụ cách với ý nghĩa chỉ đối tượng (ghê tởm).
8. Puna brāhmaṇo tameva abhivādanādikammaṃ bhagavati apassanto ‘‘ayaṃ imaṃ lokajeṭṭhakakammaṃ vineti vināseti, atha vā yasmā etaṃ sāmīcikammaṃ na karoti tasmā ayaṃ vinetabbo niggaṇhitabbo’’ti maññamāno bhagavantaṃ venayikoti āha. Tatrāyaṃ padattho – vinayatīti vinayo, vināsetīti vuttaṃ hoti. Vinayo eva venayiko, vinayaṃ vā arahatīti venayiko, niggahaṃ arahatīti vuttaṃ hoti. Bhagavā pana, yasmā rāgādīnaṃ vinayāya vūpasamāya dhammaṃ deseti, tasmā venayiko hoti. Ayameva cettha padattho – vinayāya dhammaṃ desetīti venayiko. Vicitrā hi taddhitavutti! Svāyaṃ taṃ venayikabhāvaṃ attani sampassamāno aparampi pariyāyaṃ anujānāti.
8. Lại nữa, vị Bà la môn, không thấy Đấng Thế Tôn thực hiện hành vi đảnh lễ và các việc tương tự đó, cho rằng ‘vị này hủy hoại, phá bỏ hành vi kính trọng bậc trưởng thượng trong đời này’, hoặc cho rằng ‘vì vị này không làm hành vi tôn kính đó, nên vị này đáng bị khiển trách, đáng bị trừng phạt’, đã nói Ngài là người đáng bị sửa trị/người hủy diệt. Ý nghĩa của từ ở đây là: ‘sự hủy diệt’ có nghĩa là phá bỏ. Chính sự hủy diệt là ‘đáng bị sửa trị/người hủy diệt’, hoặc người đáng bị sửa trị là ‘đáng bị sửa trị/người hủy diệt’, tức là người đáng bị khiển trách. Còn Đấng Thế Tôn, vì Ngài thuyết pháp để điều phục, để làm lắng dịu tham ái và các pháp tương tự, nên Ngài là bậc điều phục. Đây chính là ý nghĩa của từ ở đây: người thuyết pháp để điều phục là bậc điều phục. Cách dùng các tiếp vị ngữ (tạo danh từ/tính từ) quả là đa dạng! Ngài ấy, thấy rõ bản chất điều phục (tham ái) đó nơi mình, lại chấp nhận một lý giải khác.
9. Puna brāhmaṇo yasmā abhivādanādīni sāmīcikammāni karontā vayovuḍḍhe tosenti hāsenti, akarontā pana tāpenti vihesenti domanassaṃ nesaṃ uppādenti, bhagavā ca tāni na karoti; tasmā ‘‘ayaṃ vayovuḍḍhe tapatī’’ti maññamāno sappurisācāravirahitattā vā ‘‘kapaṇapuriso aya’’nti maññamāno bhagavantaṃ tapassīti āha. Tatrāyaṃ padattho – tapatīti tapo, roseti vihesetīti vuttaṃ hoti, sāmīcikammākaraṇassetaṃ nāmaṃ. Tapo assa atthīti tapassī. Dutiye atthavikappe byañjanāni avicāretvā loke kapaṇapuriso ‘‘tapassī’’ti vuccati. Bhagavā pana ye akusalā dhammā lokaṃ tapanato tapanīyāti vuccanti, tesaṃ pahīnattā yasmā tapassīti saṅkhyaṃ gato, tasmā taṃ tapassitaṃ attani sampassamāno aparampi pariyāyaṃ anujānāti. Tatrāyaṃ padattho – tapantīti tapā, akusaladhammānametaṃ adhivacanaṃ. Vuttampi hetaṃ – ‘‘idha tappati pecca tappatī’’ti. Tathā te tape assi nirassi pahāsi viddhaṃsesīti tapassī.
9. Lại nữa, vị Bà la môn, vì những người thực hiện các hành vi tôn kính như đảnh lễ và các việc tương tự làm cho người lớn tuổi hài lòng, vui vẻ, còn những người không làm thì lại làm cho họ phiền muộn, khổ não, phát sinh ưu sầu, mà Đấng Thế Tôn lại không làm những điều đó; do đó, cho rằng ‘vị này làm phiền muộn người lớn tuổi’, hoặc do thiếu vắng cách hành xử của bậc chân nhân mà cho rằng ‘vị này là người đáng thương hại/khổ hạnh (theo nghĩa tiêu cực)’, đã nói Ngài là người khổ hạnh/người làm phiền muộn. Ý nghĩa của từ ở đây là: ‘sự làm phiền muộn’ có nghĩa là làm cho tức giận, làm cho khổ não; đó là tên gọi cho việc không làm các hành vi tôn kính. Người có ‘sự làm phiền muộn’ đó là ‘người khổ hạnh/người làm phiền muộn’. Trong cách giải thích nghĩa thứ hai, không cần xem xét các phụ âm, người đáng thương hại trong đời được gọi là ‘người khổ hạnh’. Còn Đấng Thế Tôn, vì những pháp bất thiện được gọi là ‘những pháp thiêu đốt’ do chúng thiêu đốt thế gian, Ngài đã đoạn tận chúng, do đó Ngài được kể là bậc ‘khổ hạnh’ (bậc đã thiêu đốt phiền não/bậc khổ hạnh chân chánh). Vì vậy, thấy rõ tính chất khổ hạnh (chân chánh) đó nơi mình, Ngài lại chấp nhận một lý giải khác. Ý nghĩa của từ ở đây là: ‘các pháp thiêu đốt’ là tên gọi khác của các pháp bất thiện. Điều này cũng đã được nói: ‘Đời này khổ, đời sau khổ’ (ám chỉ người làm ác). Như vậy, Ngài đã loại bỏ, đã xua tan, đã từ bỏ, đã phá hủy những pháp thiêu đốt (tức phiền não) đó, nên Ngài là bậc ‘khổ hạnh’ (bậc đã thiêu đốt phiền não).
10. Puna brāhmaṇo taṃ abhivādanādikammaṃ devalokagabbhasampattiyā devalokapaṭisandhipaṭilābhāya saṃvattatīti maññamāno bhagavati cassa abhāvaṃ disvā bhagavantaṃ apagabbhoti āha. Kodhavasena vā bhagavato mātukucchismiṃ paṭisandhiggahaṇe dosaṃ dassentopi evamāha. Tatrāyaṃ padattho – gabbhato apagatoti apagabbho, abhabbo devalokūpapattiṃ pāpuṇitunti adhippāyo. Hīno vā gabbho assāti apagabbho, devalokagabbhaparibāhirattā āyatiṃ hīnagabbhapaṭilābhabhāgīti, hīno vāssa mātukucchimhi gabbhavāso ahosīti adhippāyo. Bhagavato pana yasmā āyatiṃ gabbhaseyyā apagatā, tasmā so taṃ apagabbhataṃ attani sampassamāno aparampi pariyāyaṃ anujānāti. Tatra ca yassa kho brāhmaṇa āyatiṃ gabbhaseyyā punabbhavābhinibbatti pahīnāti etesaṃ padānaṃ evamattho daṭṭhabbo – brāhmaṇa, yassa puggalassa anāgate gabbhaseyyā, punabbhave ca abhinibbatti anuttarena maggena vihatakāraṇattā pahīnāti. Gabbhaseyyaggahaṇena cettha jalābujayoni gahitā. Punabbhavābhinibbattiggahaṇena itarā tissopi.
10. Lại nữa, vị Bà la môn, cho rằng hành vi đảnh lễ và các việc tương tự đó dẫn đến sự thành tựu thai tạng ở cõi trời, sự chứng đắc tái sanh ở cõi trời, và thấy Đấng Thế Tôn không có điều đó, đã nói Ngài là người không còn thai tạng (hoặc người không có khả năng tái sanh). Hoặc, do tức giận, vị ấy cũng nói như vậy khi chỉ ra lỗi trong việc Đấng Thế Tôn đã thọ thai trong bụng mẹ. Ý nghĩa của từ ở đây là: người đã thoát khỏi thai tạng là ‘người không còn thai tạng’, ý muốn nói là người không có khả năng đạt được sự tái sanh ở cõi trời. Hoặc, người có thai tạng thấp kém là ‘người có thai tạng thấp kém’, vì đã bị loại ra khỏi thai tạng cõi trời nên trong tương lai sẽ phải chịu phần tái sanh trong thai tạng thấp kém; hoặc ý muốn nói rằng sự trú ngụ trong thai mẹ của Ngài là thấp kém. Còn Đấng Thế Tôn, vì sự nằm trong thai tạng trong tương lai của Ngài đã không còn nữa, do đó, Ngài thấy rõ tính chất không còn thai tạng đó nơi mình, lại chấp nhận một lý giải khác. Và trong đó, ý nghĩa của các từ ‘Này Bà la môn, đối với người nào mà sự nằm trong thai tạng trong tương lai, sự tái sanh trong đời sau đã được đoạn tận’ cần được hiểu như sau: Này Bà la môn, đối với người nào mà sự nằm trong thai tạng trong tương lai, và sự tái sanh trong đời sau đã được đoạn tận do các nhân duyên đã bị Thánh đạo vô thượng hủy diệt. Ở đây, khi nói đến sự nằm trong thai tạng là bao gồm cả loài sanh từ noãn (noãn thai). Khi nói đến sự tái sanh trong đời sau là bao gồm cả ba loại sanh còn lại (thấp sanh, hóa sanh).
Apica gabbhassa seyyā gabbhaseyyā, punabbhavo eva abhinibbatti punabbhavābhinibbattīti evamettha attho daṭṭhabbo. Yathā ca viññāṇaṭṭhitīti vuttepi na viññāṇato aññā ṭhiti atthi, evamidhāpi na gabbhato aññā seyyāti veditabbā. Abhinibbatti ca nāma yasmā punabbhavabhūtāpi apunabbhavabhūtāpi atthi, idha ca punabbhavabhūtā adhippetā. Tasmā vuttaṃ – ‘‘punabbhavo eva abhinibbatti punabbhavābhinibbattī’’ti.
Hơn nữa, sự nằm của thai tạng là ‘sự nằm trong thai tạng’; chính sự tái sanh lại là ‘sự tái sanh trong đời sau’ – cần hiểu ý nghĩa ở đây là như vậy. Và cũng như khi nói ‘trú của thức’, không có sự trú nào khác ngoài thức; cũng vậy, ở đây cần hiểu rằng không có sự nằm nào khác ngoài thai tạng. Và sự tái sanh, vì có cả loại thuộc về đời sau và loại không thuộc về đời sau (như sự thành tựu A-la-hán), ở đây muốn nói đến loại thuộc về đời sau. Do đó, có lời nói: ‘chính sự tái sanh lại là sự tái sanh trong đời sau’.
11. Evaṃ āgatakālato paṭṭhāya arasarūpatādīhi aṭṭhahi akkosavatthūhi akkosantampi brāhmaṇaṃ bhagavā dhammissaro dhammarājā dhammassāmī tathāgato anukampāya sītaleneva cakkhunā olokento yaṃ dhammadhātuṃ paṭivijjhitvā desanāvilāsappatto hoti, tassā dhammadhātuyā suppaṭividdhattā vigatavalāhake antalikkhe samabbhuggato puṇṇacando viya saradakāle sūriyo viya ca brāhmaṇassa hadayandhakāraṃ vidhamanto tāniyeva akkosavatthūni tena tena pariyāyena aññathā dassetvā, punapi attano karuṇāvipphāraṃ aṭṭhahi lokadhammehi akampiyabhāvena paṭiladdhaṃ, tādiguṇalakkhaṇaṃ pathavīsamacittataṃ akuppadhammatañca pakāsento ‘‘ayaṃ brāhmaṇo kevalaṃ palitasirakhaṇḍadantavalittacatādīhi attano vuḍḍhabhāvaṃ sañjānāti, no ca kho jānāti attānaṃ jātiyā anugataṃ jarāya anusaṭaṃ byādhinā abhibhūtaṃ maraṇena abbhāhataṃ vaṭṭakhāṇubhūtaṃ ajja maritvā puna sveva uttānasayanadārakabhāvagamanīyaṃ. Mahantena kho pana ussāhena mama santikaṃ āgato, tadassa āgamanaṃ sātthakaṃ hotū’’ti cintetvā imasmiṃ loke attano appaṭisamaṃ purejātabhāvaṃ dassento seyyathāpi brāhmaṇātiādinā nayena brāhmaṇassa dhammadesanaṃ vaḍḍhesi.
11. Như vậy, dù vị Bà la môn từ lúc đến đã dùng tám điều mắng nhiếc như ‘vô vị’ và các điều tương tự để mắng nhiếc, Đấng Thế Tôn, bậc Pháp Chủ, Pháp Vương, Pháp Tự Tại, bậc Như Lai, vẫn nhìn vị ấy bằng con mắt từ bi mát dịu, do lòng thương xót; Ngài, bậc đã đạt đến vẻ đẹp trong thuyết pháp do đã thâm nhập được pháp giới nào, chính vì sự thâm nhập tốt đẹp pháp giới ấy, như mặt trăng tròn mọc lên giữa bầu trời không mây, hay như mặt trời mùa thu, Ngài xua tan bóng tối trong lòng vị Bà la môn, bằng cách trình bày lại chính những điều mắng nhiếc ấy theo một nghĩa khác qua từng lý giải, rồi lại một lần nữa, để biểu lộ lòng từ bi rộng lớn của mình, sự không dao động trước tám pháp thế gian đã chứng đắc, đặc tính của bậc ‘Như Thị’ (không dao động), tâm bình đẳng như đất, và bản chất không thể khuynh đảo, Ngài suy nghĩ rằng: ‘Vị Bà la môn này chỉ nhận biết sự già cả của mình qua mái đầu bạc, răng rụng, da nhăn nheo và các dấu hiệu tương tự, chứ không hề biết rằng mình bị sanh theo đuổi, bị già theo sát, bị bệnh chinh phục, bị chết áp đảo, đã trở thành cọc trói trong vòng luân hồi, hôm nay chết rồi ngày mai lại phải trở thành đứa trẻ sơ sinh nằm ngửa.’ ‘Vị ấy đã rất cố gắng mới đến được chỗ Ta, mong rằng sự đến này của vị ấy sẽ có kết quả lợi ích.’ Nghĩ vậy, để chỉ rõ địa vị trưởng thượng không ai sánh bằng của mình trong thế gian này, Ngài đã mở rộng bài thuyết pháp cho vị Bà la môn bằng phương pháp bắt đầu từ câu ‘Này Bà la môn, ví như…’ và những điều theo sau.
Tattha seyyathāti opammatthe nipāto; pīti sambhāvanatthe; ubhayenāpi yathā nāma brāhmaṇāti dasseti. Kukkuṭiyā aṇḍāni aṭṭha vā dasa vā dvādasa vāti ettha pana kiñcāpi kukkuṭiyā vuttappakārato ūnādhikānipi aṇḍāni honti, atha kho vacanasiliṭṭhatāya evaṃ vuttanti veditabbaṃ. Evañhi loke siliṭṭhavacanaṃ hoti. Tānassūti tāni assu, bhaveyyunti vuttaṃ hoti. Kukkuṭiyā sammā adhisayitānīti tāya janettiyā kukkuṭiyā pakkhe pasāretvā tesaṃ upari sayantiyā sammā adhisayitāni. Sammā pariseditānīti kālena kālaṃ utuṃ gaṇhāpentiyā suṭṭhu samantato seditāni, usmīkatānīti vuttaṃ hoti. Sammā paribhāvitānīti kālena kālaṃ suṭṭhu samantato bhāvitāni, kukkuṭagandhaṃ gāhāpitānīti vuttaṃ hoti.
Trong đó, từ ‘ví như’ là một tiểu từ chỉ sự so sánh; từ ‘pī’ (trong seyyathāpi) là với ý nghĩa khả năng/ví dụ; cả hai đều cho thấy (ý nghĩa là) ‘Này Bà la môn, ví như là’. Trong câu ‘trứng gà mái, tám hoặc mười hoặc mười hai quả’, ở đây, mặc dù gà mái có thể đẻ số trứng ít hơn hoặc nhiều hơn số lượng đã nói, nhưng cần hiểu rằng điều này được nói như vậy là để cho câu văn được trôi chảy. Thật vậy, trong đời thường câu văn trôi chảy là như vậy. Từ ‘chúng có thể là’ có nghĩa là ‘chúng nên là’. Cụm từ ‘Được gà mái ấp đúng cách’ có nghĩa là được con gà mái mẹ ấy xòe cánh nằm lên trên ấp ủ đúng cách. Cụm từ ‘Được sưởi ấm đúng cách’ có nghĩa là được con gà mái mẹ làm cho hấp thụ hơi ấm theo từng thời điểm, được sưởi ấm kỹ càng khắp xung quanh, tức là được làm cho có hơi nóng. Cụm từ ‘Được chăm sóc đúng cách’ có nghĩa là được con gà mái mẹ chăm sóc kỹ càng khắp xung quanh theo từng thời điểm, tức là được làm cho thấm mùi gà.
Idāni yasmā tāya kukkuṭiyā evaṃ tīhi pakārehi tāni aṇḍāni paripāliyamānāni na pūtīni honti. Yopi nesaṃ allasineho so pariyādānaṃ gacchati. Kapālaṃ tanukaṃ hoti, pādanakhasikhā ca mukhatuṇḍakañca kharaṃ hoti, kukkuṭapotakā paripākaṃ gacchanti, kapālassa tanukattā bahiddhā āloko anto paññāyati. Atha te kukkuṭapotakā ‘‘ciraṃ vata mayaṃ saṅkuṭitahatthapādā sambādhe sayimha, ayañca bahi āloko dissati, ettha dāni no sukhavihāro bhavissatī’’ti nikkhamitukāmā hutvā kapālaṃ pādena paharanti, gīvaṃ pasārenti. Tato taṃ kapālaṃ dvedhā bhijjati, kukkuṭapotakā pakkhe vidhunantā taṅkhaṇānurūpaṃ viravantā nikkhamanti. Evaṃ nikkhamantānañca nesaṃ yo paṭhamataraṃ nikkhamati so ‘jeṭṭho’ti vuccati. Tasmā bhagavā tāya upamāya attano jeṭṭhakabhāvaṃ sādhetukāmo brāhmaṇaṃ pucchi – ‘‘yo nu kho tesaṃ kukkuṭacchāpakānaṃ…pe… kinti svassa vacanīyo’’ti. Tattha kukkuṭacchāpakānanti kukkuṭapotakānaṃ. Kinti svassa vacanīyoti so kinti vacanīyo assa, kinti vattabbo bhaveyya jeṭṭho vā kaniṭṭho vāti. Sesaṃ uttānatthameva.
Bây giờ, bởi vì những quả trứng đó được con gà mái ấy bảo vệ bằng ba cách như vậy nên không bị ung thối. Chất nhờn ẩm ướt trong trứng cũng cạn dần. Vỏ trứng trở nên mỏng. Móng chân và đầu mỏ (của gà con) trở nên cứng cáp. Gà con phát triển đến lúc trưởng thành. Do vỏ trứng mỏng, ánh sáng bên ngoài có thể được nhìn thấy từ bên trong. Rồi những con gà con ấy, với ý muốn thoát ra, nghĩ rằng: ‘Than ôi, chúng ta đã nằm co tay co chân trong chỗ chật hẹp này quá lâu rồi, và ánh sáng bên ngoài này cũng đã thấy được, giờ đây chúng ta sẽ được ở một cách thoải mái’, liền dùng chân đạp vào vỏ trứng, vươn cổ ra. Khi đó, vỏ trứng vỡ làm đôi, gà con thoát ra, vẫy cánh, kêu chiếp chiếp tùy theo khoảnh khắc ấy. Trong số những con gà con thoát ra như vậy, con nào thoát ra trước nhất thì được gọi là ‘con đầu đàn’ (anh cả). Do đó, Đấng Thế Tôn, muốn dùng ví dụ ấy để chứng minh địa vị trưởng thượng của mình, đã hỏi vị Bà la môn: ‘Này, trong số những con gà con ấy, con nào mổ vỏ trứng ra trước nhất mà thoát ra được an toàn…v.v… nó nên được gọi là gì?’ Trong đó, ‘gà con nhỏ’ có nghĩa là gà con. ‘Nó nên được gọi là gì?’ có nghĩa là nó nên được gọi như thế nào, nên được biết là con đầu đàn hay con út? Phần còn lại có ý nghĩa rõ ràng.
Tato brāhmaṇo āha – ‘‘jeṭṭhotissa bho gotama vacanīyo’’ti. Bho, gotama, so jeṭṭho iti assa vacanīyo. Kasmāti ce? So hi nesaṃ jeṭṭho, tasmā so nesaṃ vuḍḍhataroti attho. Athassa bhagavā opammaṃ sampaṭipādento āha – ‘‘evameva kho ahaṃ brāhmaṇā’’tiādi. Yathā so kukkuṭacchāpako jeṭṭhoti saṅkhyaṃ gacchati; evaṃ ahampi avijjāgatāya pajāya. Avijjāgatāyāti avijjā vuccati aññāṇaṃ, tattha gatāya. Pajāyāti sattādhivacanametaṃ. Tasmā ettha avijjaṇḍakosassa anto paviṭṭhesu sattesūti evaṃ attho daṭṭhabbo. Aṇḍabhūtāyāti aṇḍe bhūtāya jātāya sañjātāya. Yathā hi aṇḍe nibbattā ekacce sattā aṇḍabhūtāti vuccanti; evamayaṃ sabbāpi pajā avijjaṇḍakose nibbattattā aṇḍabhūtāti vuccati. Pariyonaddhāyāti tena avijjaṇḍakosena samantato onaddhāya baddhāya veṭhitāya . Avijjaṇḍakosaṃ padāletvāti taṃ avijjāmayaṃ aṇḍakosaṃ bhinditvā . Ekova loketi sakalepi lokasannivāse ahameva eko adutiyo. Anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti anuttaranti uttaravirahitaṃ sabbaseṭṭhaṃ. Sammāsambodhinti sammā sāmañca bodhiṃ; atha vā pasatthaṃ sundarañca bodhiṃ; bodhīti rukkhopi maggopi sabbaññutaññāṇampi nibbānampi vuccati. ‘‘Bodhirukkhamūle paṭhamābhisambuddho’’ti (mahāva. 1; udā. 1) ca ‘‘antarā ca gayaṃ antarā ca bodhi’’nti (mahāva. 11; ma. ni. 1.285) ca āgataṭṭhānesu hi rukkho bodhīti vuccati. ‘‘Bodhi vuccati catūsu maggesu ñāṇa’’nti (cūḷani. khaggavisāṇasuttaniddesa 121) āgataṭṭhāne maggo. ‘‘Pappoti bodhiṃ varabhūrimedhaso’’ti (dī. ni. 3.217) āgataṭṭhāne sabbaññutaññāṇaṃ. ‘‘Patvāna bodhiṃ amataṃ asaṅkhata’’nti āgataṭṭhāne nibbānaṃ. Idha pana bhagavato arahattamaggañāṇaṃ adhippetaṃ. Sabbaññutaññāṇantipi vadanti. Aññesaṃ arahattamaggo anuttarā bodhi hoti, na hotīti? Na hoti. Kasmā? Asabbaguṇadāyakattā. Tesañhi kassaci arahattamaggo arahattaphalameva deti, kassaci tisso vijjā, kassaci cha abhiññā, kassaci catasso paṭisambhidā, kassaci sāvakapāramiñāṇaṃ. Paccekabuddhānampi paccekabodhiñāṇameva deti. Buddhānaṃ pana sabbaguṇasampattiṃ deti, abhiseko viya rañño sabbalokissariyabhāvaṃ. Tasmā aññassa kassacipi anuttarā bodhi na hotīti. Abhisambuddhoti abbhaññāsiṃ paṭivijjhiṃ; pattomhi adhigatomhīti vuttaṃ hoti.
Rồi vị Bà la môn nói: ‘Thưa ngài Gotama, nó nên được gọi là con đầu đàn.’ ‘Thưa ngài Gotama, nó nên được gọi là con đầu đàn.’ Nếu hỏi tại sao? Vì nó là con đầu đàn của chúng, do đó nó lớn nhất trong số chúng, đó là ý nghĩa. Bấy giờ, Đấng Thế Tôn, để làm cho ví dụ được tương ứng (với trường hợp của Ngài), đã nói: ‘Này Bà la môn, Ta cũng ví như vậy…’ và những điều theo sau. Cũng như con gà con ấy được xem là con đầu đàn; Ta cũng vậy, đối với chúng sanh bị vô minh bao phủ. Cụm từ ‘Bị vô minh bao phủ’ có nghĩa là: vô minh được gọi là sự không biết, (chúng sanh) đã đi vào trong đó. Từ ‘Chúng sanh’ là một tên gọi khác của các loài hữu tình. Do đó, ở đây cần hiểu ý nghĩa là: trong số các chúng sanh đã đi vào bên trong vỏ trứng vô minh. Cụm từ ‘Đã thành trứng’ có nghĩa là đã hiện hữu, đã sinh ra, đã được tạo thành trong trứng. Thật vậy, cũng như một số chúng sanh được sinh ra trong trứng thì được gọi là ‘sinh từ trứng’; cũng vậy, tất cả chúng sanh này, do được sinh ra trong vỏ trứng vô minh, nên được gọi là ‘đã thành trứng’ (bị vô minh bao bọc). Cụm từ ‘Bị bao bọc’ có nghĩa là bị vỏ trứng vô minh ấy trói buộc, quấn chặt, bao phủ khắp xung quanh. Cụm từ ‘Sau khi phá vỡ vỏ trứng vô minh’ có nghĩa là sau khi đập vỡ cái vỏ trứng làm bằng vô minh ấy. Cụm từ ‘Chỉ một mình trong đời’ có nghĩa là trong toàn thể thế giới này, chỉ một mình Ta, không có người thứ hai. Trong cụm từ ‘Đã hoàn toàn giác ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác vô thượng’: từ ‘Vô thượng’ có nghĩa là không có gì hơn nữa, cao tột nhất. Từ ‘Chánh Đẳng Chánh Giác’ có nghĩa là sự giác ngộ chân chánh và tự mình; hoặc là sự giác ngộ đáng tán thán và tốt đẹp. Từ ‘Bồ Đề’ (giác ngộ) cũng được dùng để chỉ cây (Bồ Đề), đạo lộ, Toàn Giác Trí, và cả Niết Bàn. Thật vậy, trong các đoạn như “Bên cội cây Bồ Đề, lần đầu tiên hoàn toàn giác ngộ” (mahāva. 1; udā. 1) và “Giữa Gayā và Bồ Đề (Đạo Tràng)” (mahāva. 11; ma. ni. 1.285), từ ‘Bồ Đề’ được dùng để chỉ cây. Trong đoạn “Bồ Đề được gọi là trí tuệ trong bốn đạo” (cūḷani. khaggavisāṇasuttaniddesa 121), nó được dùng để chỉ đạo lộ. Trong đoạn “Bậc có trí tuệ rộng lớn, ưu việt đạt đến sự giác ngộ” (dī. ni. 3.217), nó được dùng để chỉ Toàn Giác Trí. Trong đoạn “Sau khi đạt đến Bồ Đề, bất tử, vô vi”, nó được dùng để chỉ Niết Bàn. Tuy nhiên, ở đây muốn nói đến đạo trí A La Hán của Đấng Thế Tôn. Cũng có người nói là Toàn Giác Trí. Đạo A La Hán của những người khác có phải là sự giác ngộ vô thượng không? Không phải. Tại sao? Vì nó không mang lại tất cả các phẩm chất. Thật vậy, đối với một số người, đạo A La Hán chỉ mang lại quả A La Hán; đối với một số người, mang lại ba minh; đối với một số người, sáu thắng trí; đối với một số người, bốn vô ngại giải; đối với một số người, trí tuệ ba la mật của bậc Thanh Văn. Đối với các vị Độc Giác Phật, nó cũng chỉ mang lại trí tuệ giác ngộ của bậc Độc Giác. Nhưng đối với các Đức Phật, nó mang lại sự viên mãn tất cả các phẩm chất, giống như lễ đăng quang mang lại quyền uy tối thượng trên toàn thế giới cho một vị vua vậy. Do đó, sự giác ngộ vô thượng không thuộc về bất kỳ ai khác. Từ ‘Đã hoàn toàn giác ngộ’ có nghĩa là Ta đã biết rõ, đã thâm nhập; Ta đã đạt được, Ta đã chứng đắc.
Idāni yadetaṃ bhagavatā ‘‘evameva kho ahaṃ brāhmaṇā’’ti ādinā nayena vuttaṃ opammasampaṭipādanaṃ, taṃ evamatthena saddhiṃ saṃsanditvā veditabbaṃ. Yathā hi tassā kukkuṭiyā attano aṇḍesu adhisayanāditividhakiriyākaraṇaṃ; evaṃ bodhipallaṅke nisinnassa bodhisattabhūtassa bhagavato attano cittasantāne aniccaṃ dukkhaṃ anattāti tividhānupassanākaraṇaṃ. Kukkuṭiyā tividhakiriyāsampādanena aṇḍānaṃ apūtibhāvo viya bodhisattabhūtassa bhagavato tividhānupassanāsampādanena vipassanāñāṇassa aparihāni. Kukkuṭiyā tividhakiriyākaraṇena aṇḍānaṃ allasinehapariyādānaṃ viya bodhisattabhūtassa bhagavato tividhānupassanāsampādanena bhavattayānugatanikantisinehapariyādānaṃ. Kukkuṭiyā tividhakiriyākaraṇena aṇḍakapālānaṃ tanubhāvo viya bodhisattabhūtassa bhagavato tividhānupassanāsampādanena avijjaṇḍakosassa tanubhāvo. Kukkuṭiyā tividhakiriyākaraṇena kukkuṭacchāpakassa pādanakhasikhātuṇḍakānaṃ thaddhakharabhāvo viya bodhisattabhūtassa bhagavato tividhānupassanāsampādanena vipassanāñāṇassa tikkhakharavippasannasūrabhāvo. Kukkuṭiyā tividhakiriyākaraṇena kukkuṭacchāpakassa paripākakālo viya bodhisattabhūtassa bhagavato tividhānupassanāsampādanena vipassanāñāṇassa paripākakālo vaḍḍhitakālo gabbhaggahaṇakālo veditabbo.
Bây giờ, sự tương ứng của ví dụ đã được Đấng Thế Tôn nói ra bằng phương pháp bắt đầu từ câu ‘Này Bà la môn, Ta cũng ví như vậy…’, cần được hiểu bằng cách đối chiếu với ý nghĩa như sau. Cũng như việc con gà mái thực hiện ba loại hành động là ấp trứng, sưởi ấm và chăm sóc trứng của mình; cũng vậy, đối với Đấng Thế Tôn khi còn là Bồ Tát ngồi trên pháp tọa Bồ Đề, là sự thực hành ba loại quán chiếu về vô thường, khổ, vô ngã trong dòng tâm thức của Ngài. Cũng như nhờ sự thành tựu ba loại hành động của gà mái mà trứng không bị ung thối; cũng vậy, nhờ sự thành tựu ba loại quán chiếu của Đấng Thế Tôn khi còn là Bồ Tát mà trí tuệ quán của Ngài không bị suy giảm. Cũng như nhờ sự thực hành ba loại hành động của gà mái mà chất nhờn ẩm ướt trong trứng cạn dần; cũng vậy, nhờ sự thành tựu ba loại quán chiếu của Đấng Thế Tôn khi còn là Bồ Tát mà lòng ái luyến đeo bám ba cõi hữu cạn dần. Cũng như nhờ sự thực hành ba loại hành động của gà mái mà vỏ trứng trở nên mỏng; cũng vậy, nhờ sự thành tựu ba loại quán chiếu của Đấng Thế Tôn khi còn là Bồ Tát mà vỏ trứng vô minh trở nên mỏng. Cũng như nhờ sự thực hành ba loại hành động của gà mái mà móng chân và đầu mỏ của gà con trở nên cứng cáp, sắc bén; cũng vậy, nhờ sự thành tựu ba loại quán chiếu của Đấng Thế Tôn khi còn là Bồ Tát mà trí tuệ quán của Ngài trở nên sắc bén, mạnh mẽ, trong sáng, và dũng mãnh. Cũng như nhờ sự thực hành ba loại hành động của gà mái là thời kỳ trưởng thành của gà con; cũng vậy, cần hiểu đó là thời kỳ trưởng thành, thời kỳ phát triển, thời kỳ thọ thai (chuẩn bị cho sự giác ngộ) của trí tuệ quán của Đấng Thế Tôn khi còn là Bồ Tát, nhờ sự thành tựu ba loại quán chiếu.
Tato kukkuṭiyā tividhakiriyākaraṇena kukkuṭacchāpakassa pādanakhasikhāya vā mukhatuṇḍakena vā aṇḍakosaṃ padāletvā pakkhe papphoṭetvā sotthinā abhinibbhidākālo viya bodhisattabhūtassa bhagavato tividhānupassanāsampādanena vipassanāñāṇaṃ gabbhaṃ gaṇhāpetvā anupubbādhigatena arahattamaggena avijjaṇḍakosaṃ padāletvā abhiññāpakkhe papphoṭetvā sotthinā sakalabuddhaguṇasacchikatakālo veditabboti.
Sau đó, cũng như thời điểm con gà con, nhờ ba cách chăm sóc của gà mái, dùng móng chân hoặc đầu mỏ phá vỡ vỏ trứng, vẫy cánh rồi an toàn thoát ra; cũng vậy, cần hiểu đó là thời điểm Đấng Thế Tôn khi còn là Bồ Tát, nhờ sự thành tựu ba loại quán chiếu, làm cho trí tuệ quán thọ thai, rồi bằng đạo A La Hán đã tuần tự chứng đắc, phá vỡ vỏ trứng vô minh, vẫy đôi cánh thắng trí, an toàn chứng ngộ tất cả các Phật đức.
Svāhaṃ brāhmaṇa jeṭṭho seṭṭho lokassāti so ahaṃ brāhmaṇa yathā tesaṃ kukkuṭapotakānaṃ paṭhamataraṃ aṇḍakosaṃ padāletvā abhinibbhido kukkuṭapotako jeṭṭho hoti; evaṃ avijjāgatāya pajāya taṃ avijjaṇḍakosaṃ padāletvā paṭhamataraṃ ariyāya jātiyā jātattā jeṭṭho vuḍḍhataroti saṅkhyaṃ gato. Sabbaguṇehi pana appaṭisamattā seṭṭhoti.
Trong câu “Này Bà la môn, Ta là bậc Trưởng Thượng, bậc Tối Thắng trong đời”: Này Bà la môn, Ta, cũng như con gà con nào trong số những con gà con ấy phá vỡ vỏ trứng ra trước nhất mà thoát ra thì được gọi là con đầu đàn; cũng vậy, đối với chúng sanh bị vô minh bao phủ, Ta, do đã phá vỡ vỏ trứng vô minh ấy và sinh ra bằng Thánh sanh trước nhất, nên được xem là bậc Trưởng Thượng, bậc Trưởng Lão. Và do không ai sánh bằng về tất cả các phẩm chất, nên Ta là bậc Tối Thắng.
Evaṃ bhagavā attano anuttaraṃ jeṭṭhaseṭṭhabhāvaṃ brāhmaṇassa pakāsetvā idāni yāya paṭipadāya taṃ adhigato taṃ paṭipadaṃ pubbabhāgato pabhuti dassetuṃ ‘‘āraddhaṃ kho pana me brāhmaṇā’’tiādimāha. Imaṃ vā bhagavato anuttaraṃ jeṭṭhaseṭṭhabhāvaṃ sutvā brāhmaṇassa cittamevamuppannaṃ – ‘‘kāya nu kho paṭipadāya imaṃ patto’’ti. Tassa cittamaññāya ‘‘imāyāhaṃ paṭipadāya imaṃ anuttaraṃ jeṭṭhaseṭṭhabhāvaṃ patto’’ti dassento evamāha. Tattha āraddhaṃ kho pana me brāhmaṇa vīriyaṃ ahosīti brāhmaṇa, na mayā ayaṃ anuttaro jeṭṭhaseṭṭhabhāvo kusītena muṭṭhassatinā sāraddhakāyena vikkhittacittena adhigato, apica kho tadadhigamāya āraddhaṃ kho pana me vīriyaṃ ahosi, bodhimaṇḍe nisinnena mayā caturaṅgasamannāgataṃ vīriyaṃ āraddhaṃ ahosi, paggahitaṃ asithilappavattitanti vuttaṃ hoti. Āraddhattāyeva ca me taṃ asallīnaṃ ahosi. Na kevalañca vīriyameva, satipi me ārammaṇābhimukhībhāvena upaṭṭhitā ahosi. Upaṭṭhitattāyeva ca asammuṭṭhā. Passaddho kāyo asāraddhoti kāyacittapassaddhivasena kāyopi me passaddho ahosi . Tattha yasmā nāmakāye passaddhe rūpakāyopi passaddhoyeva hoti, tasmā nāmakāyo rūpakāyoti avisesetvāva passaddho kāyoti vuttaṃ. Asāraddhoti so ca kho passaddhattāyeva asāraddho, vigatadarathoti vuttaṃ hoti. Samāhitaṃ cittaṃ ekagganti cittampi me sammā āhitaṃ suṭṭhu ṭhapitaṃ appitaṃ viya ahosi; samāhitattā eva ca ekaggaṃ acalaṃ nipphandananti. Ettāvatā jhānassa pubbabhāgapaṭipadā kathitā hoti.
Như vậy, sau khi Đấng Thế Tôn đã làm sáng tỏ địa vị Trưởng Thượng và Tối Thắng vô song của mình cho vị Bà la môn, bây giờ, để chỉ ra con đường mà Ngài đã chứng đắc địa vị ấy, bắt đầu từ phần đầu tiên của con đường đó, Ngài nói: ‘Này Bà la môn, Ta đã tinh cần…’ và những điều theo sau. Hoặc, sau khi nghe về địa vị Trưởng Thượng và Tối Thắng vô song này của Đấng Thế Tôn, tâm vị Bà la môn đã khởi lên như sau: ‘Ngài đã đạt được điều này bằng con đường nào nhỉ?’ Biết được tâm của vị ấy, để chỉ ra rằng: ‘Ta đã đạt được địa vị Trưởng Thượng và Tối Thắng vô song này bằng con đường này’, Ngài đã nói như vậy. Trong đó, ‘Này Bà la môn, Ta đã tinh cần tinh tấn’ có nghĩa là: Này Bà la môn, địa vị Trưởng Thượng và Tối Thắng vô song này Ta không phải đạt được do lười biếng, thất niệm, thân thể uể oải, hay tâm trí phân tán; mà trái lại, để đạt được điều đó, Ta đã tinh cần tinh tấn; khi ngồi dưới cội Bồ Đề, Ta đã khởi sự tinh tấn gồm bốn yếu tố, đã nỗ lực, đã thực hành không lơi lỏng. Và chính vì đã khởi sự, nên sự tinh tấn ấy của Ta không bị chùn xuống. Không chỉ có tinh tấn, mà cả niệm của Ta cũng đã được thiết lập, hướng về đối tượng. Và chính vì đã được thiết lập, nên niệm ấy không bị quên lãng. ‘Thân an tịnh, không bồn chồn’ có nghĩa là: do thân và tâm an tịnh, nên thân của Ta cũng được an tịnh. Trong đó, vì khi danh thân an tịnh thì sắc thân cũng an tịnh, do đó, không phân biệt danh thân hay sắc thân, chỉ nói chung là thân an tịnh. Từ ‘Không bồn chồn’ có nghĩa là: chính vì đã an tịnh, nên thân ấy không bồn chồn, tức là đã hết sự mệt mỏi, ưu phiền. Cụm từ ‘Tâm định tĩnh, nhất tâm’ có nghĩa là: tâm của Ta cũng đã được định hướng đúng đắn, được đặt vững chắc, như thể đã gắn chặt; và chính vì đã định tĩnh, nên tâm ấy nhất tâm, không dao động, không rung chuyển. Đến đây, con đường thực hành phần đầu của thiền định đã được nói đến.
Paṭhamajjhānakathā
Luận về Sơ Thiền
Idāni imāya paṭipadāya adhigataṃ paṭhamajjhānaṃ ādiṃ katvā vijjattayapariyosānaṃ visesaṃ dassento ‘‘so kho aha’’nti ādimāha. Tattha vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehītiādīnaṃ kiñcāpi ‘‘tattha katame kāmā? Chando kāmo, rāgo kāmo, chandarāgo kāmo; saṅkappo kāmo, rāgo kāmo, saṅkapparāgo kāmo – ime vuccanti kāmā. Tattha katame akusalā dhammā? Kāmacchando…pe… vicikicchā – ime vuccanti akusalā dhammā. Iti imehi ca kāmehi imehi ca akusalehi dhammehi vivitto hoti pavivitto, tena vuccati – ‘vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehī’’’tiādinā (vibha. 564) nayena vibhaṅgeyeva attho vutto. Tathāpi aṭṭhakathānayaṃ vinā na suṭṭhu pākaṭoti aṭṭhakathānayeneva naṃ pakāsayissāma.
Bây giờ, để chỉ ra sự chứng đắc đặc biệt bắt đầu từ Sơ Thiền đã đạt được bằng con đường thực hành này, cho đến sự viên mãn ba minh, Ngài nói: ‘Ta khi ấy…’ và những điều theo sau. Trong đó, đối với các câu như ‘ly hẳn các dục, ly hẳn các pháp bất thiện’, mặc dù ý nghĩa đã được nói rõ trong bộ Phân Tích (Vibhaṅga) theo phương pháp: ‘Trong đó, dục là gì? Ham muốn là dục, tham ái là dục, ham muốn và tham ái là dục; ý định là dục, tham ái là dục, ý định và tham ái là dục – đó gọi là các dục. Trong đó, các pháp bất thiện là gì? Tham dục…v.v… hoài nghi – đó gọi là các pháp bất thiện. Như vậy, vị ấy ly khai, xa lìa khỏi các dục này và các pháp bất thiện này, do đó được gọi là – ly hẳn các dục, ly hẳn các pháp bất thiện’ (vibha. 564) và các giải thích tương tự. Tuy nhiên, nếu không có phương pháp của Chú giải thì không được sáng tỏ hoàn toàn, do đó chúng tôi sẽ làm sáng tỏ nó theo phương pháp của Chú giải.
Seyyathidaṃ – vivicceva kāmehīti kāmehi viviccitvā vinā hutvā apasakketvā. Yo panāyamettha evakāro, so niyamatthoti veditabbo. Yasmā ca niyamattho, tasmā tasmiṃ paṭhamajjhānaṃ upasampajja viharaṇasamaye avijjamānānampi kāmānaṃ tassa paṭhamajjhānassa paṭipakkhabhāvaṃ kāmapariccāgeneva cassa adhigamaṃ dīpeti. Kathaṃ? ‘‘Vivicceva kāmehī’’ti evañhi niyame kariyamāne idaṃ paññāyati. Nūnimassa jhānassa kāmā paṭipakkhabhūtā, yesu sati idaṃ na pavattati, andhakāre sati padīpo viya, tesaṃ pariccāgeneva cassa adhigamo hoti, orimatīrapariccāgena pārimatīrasseva, tasmā niyamaṃ karotīti.
Cụ thể là – ‘ly hẳn các dục’ có nghĩa là sau khi đã ly khai khỏi các dục, không còn dính mắc, đã tránh xa. Còn tiểu từ ‘hẳn’ (eva) ở đây, cần hiểu là có ý nghĩa xác quyết. Và vì có ý nghĩa xác quyết, do đó, nó làm sáng tỏ rằng: ngay cả khi các dục không hiện hữu vào lúc vị ấy chứng và trú trong Sơ Thiền, các dục ấy vẫn là đối nghịch với Sơ Thiền đó, và sự chứng đắc Sơ Thiền ấy chỉ có được nhờ sự từ bỏ các dục. Như thế nào? Khi sự xác quyết được thực hiện như vậy qua câu ‘ly hẳn các dục’, điều này được hiểu rõ: Chắc chắn rằng các dục là đối nghịch với thiền này; khi có chúng thì thiền này không thể tồn tại, giống như đèn không thể sáng khi có bóng tối. Và sự chứng đắc thiền này chỉ có được nhờ sự từ bỏ chúng, giống như việc đến được bờ bên kia chỉ có được nhờ từ bỏ bờ bên này. Do đó, (tiểu từ ‘hẳn’) tạo ra sự xác quyết.
Tattha siyā – ‘‘kasmā panesa pubbapadeyeva vutto na uttarapade, kiṃ akusalehi dhammehi aviviccāpi jhānaṃ upasampajja vihareyyā’’ti? Na kho panetaṃ evaṃ daṭṭhabbaṃ. Tannissaraṇato hi pubbapadeeva esa vutto. Kāmadhātusamatikkamanato hi kāmarāgapaṭipakkhato ca idaṃ jhānaṃ kāmānameva nissaraṇaṃ. Yathāha – ‘‘kāmānametaṃ nissaraṇaṃ, yadidaṃ nekkhamma’’nti (itivu. 72). Uttarapadepi pana yathā ‘‘idheva, bhikkhave, paṭhamo samaṇo, idha dutiyo samaṇo’’ti (ma. ni. 1.139) ettha evakāro ānetvā vuccati, evaṃ vattabbo. Na hi sakkā ito aññehipi nīvaraṇasaṅkhātehi akusalehi dhammehi avivicca jhānaṃ upasampajja viharituṃ . Tasmā ‘‘vivicceva kāmehi vivicceva akusalehi dhammehī’’ti evaṃ padadvayepi esa daṭṭhabbo. Padadvayepi ca kiñcāpi ‘‘viviccā’’ti iminā sādhāraṇavacanena tadaṅgavivekādayo kāyavivekādayo ca sabbepi vivekā saṅgahaṃ gacchanti. Tathāpi kāyaviveko, cittaviveko, vikkhambhanavivekoti tayo eva idha daṭṭhabbā. ‘‘Kāmehī’’ti iminā pana padena ye ca niddese ‘‘katame vatthukāmā manāpiyā rūpā’’tiādinā (mahāni. 1; vibha. 964) nayena vatthukāmā vuttā, ye ca tattheva vibhaṅge ca ‘‘chando kāmo’’tiādinā (mahāni. 1) nayena kilesakāmā vuttā, te sabbepi saṅgahitā icceva daṭṭhabbā. Evañhi sati ‘‘vivicceva kāmehī’’ti vatthukāmehipi viviccevāti attho yujjati. Tena kāyaviveko vutto hoti.
Ở đó, có thể có câu hỏi: ‘Tại sao tiểu từ xác quyết này chỉ được nói ở vế trước (ly dục) mà không ở vế sau (ly bất thiện pháp)? Phải chăng có thể chứng và trú trong thiền ngay cả khi chưa ly khai khỏi các pháp bất thiện?’ Điều này thực không nên hiểu như vậy. Nó được nói ở vế trước chính là do (Sơ Thiền) là sự thoát ly khỏi các dục ấy. Vì Sơ Thiền này là sự vượt qua cõi Dục và là đối nghịch với tham ái dục, nên nó chính là sự thoát ly khỏi các dục. Như có lời dạy: ‘Sự xuất ly này, đó chính là sự thoát ly khỏi các dục’ (itivu. 72). Còn ở vế sau, cũng giống như trong câu ‘Này các Tỳ khưu, chỉ ở đây mới có Sa môn thứ nhất, chỉ ở đây mới có Sa môn thứ hai’ (ma. ni. 1.139), tiểu từ xác quyết ‘chỉ’ (eva) được mang đến và nói, cũng vậy ở đây cần hiểu. Thật vậy, không thể nào chứng và trú trong thiền mà chưa ly khai khỏi các pháp bất thiện khác được gọi là các triền cái này. Do đó, cần hiểu tiểu từ xác quyết này ở cả hai vế: ‘ly hẳn các dục, ly hẳn các pháp bất thiện’. Và ở cả hai vế, mặc dù bằng từ chung ‘ly khai’ này, tất cả các loại ly khai như sự ly khai từng phần và các loại tương tự, và sự ly khai về thân và các loại tương tự đều được bao gồm. Tuy nhiên, ở đây chỉ cần hiểu ba loại ly khai là: thân ly, tâm ly, và sự chế ngự (các triền cái). Còn bằng từ ‘các dục’, cần hiểu rằng cả những dục thuộc về đối tượng đã được nói trong bộ Niddesa theo phương pháp ‘Dục đối tượng là gì? Là các sắc pháp vừa ý…’ (mahāni. 1; vibha. 964) và các giải thích tương tự, và cả những dục thuộc về phiền não đã được nói ở đó và trong bộ Phân Tích theo phương pháp ‘Dục là sự ham muốn…’ (mahāni. 1) và các giải thích tương tự, tất cả đều được bao gồm. Khi hiểu như vậy, thì câu ‘ly hẳn các dục’ cũng hợp lý với nghĩa là ly hẳn cả các dục đối tượng. Do đó, thân ly đã được nói đến.
Vivicca akusalehi dhammehīti kilesakāmehi sabbākusalehi dhammehi vā viviccāti attho yujjati. Tena cittaviveko vutto hoti. Purimena cettha vatthukāmehi vivekavacanatoyeva kāmasukhapariccāgo, dutiyena kilesakāmehi vivekavacanato nekkhammasukhapariggaho vibhāvito hoti. Evaṃ vatthukāmakilesakāmavivekavacanatoyeva ca etesaṃ paṭhamena saṃkilesavatthuppahānaṃ, dutiyena saṃkilesappahānaṃ; paṭhamena lolabhāvassa hetupariccāgo, dutiyena bālabhāvassa; paṭhamena ca payogasuddhi, dutiyena āsayaposanaṃ vibhāvitaṃ hotīti viññātabbaṃ. Esa tāva nayo ‘‘kāmehī’’ti ettha vuttakāmesu vatthukāmapakkhe.
Cụm từ “ly hẳn các pháp bất thiện” có nghĩa là ly khai khỏi các dục phiền não hoặc tất cả các pháp bất thiện, ý nghĩa này là hợp lý. Do đó, tâm ly đã được nói đến. Ở đây, bằng vế trước (nói về sự ly khai khỏi các dục đối tượng) chính là sự từ bỏ lạc thú của dục; bằng vế sau (nói về sự ly khai khỏi các dục phiền não) chính là sự thọ nhận lạc thú của sự xuất ly được làm sáng tỏ. Như vậy, chính nhờ lời nói về sự ly khai khỏi dục đối tượng và dục phiền não mà cần hiểu rằng: bằng vế thứ nhất, sự đoạn trừ nền tảng của phiền não được làm sáng tỏ; bằng vế thứ hai, sự đoạn trừ phiền não (được làm sáng tỏ). Bằng vế thứ nhất, sự từ bỏ nhân của tính tham đắm (được làm sáng tỏ); bằng vế thứ hai, (sự từ bỏ) tính ngu si (được làm sáng tỏ). Và bằng vế thứ nhất, sự thanh tịnh trong hành động (được làm sáng tỏ); bằng vế thứ hai, sự nuôi dưỡng ý hướng (trong sạch) được làm sáng tỏ. Đó trước hết là phương pháp giải thích về các dục đối tượng trong số các dục được nói đến trong từ ‘các dục’.
Kilesakāmapakkhe pana chandoti ca rāgoti ca evamādīhi anekabhedo kāmacchandoyeva kāmoti adhippeto. So ca akusalapariyāpannopi samāno, ‘‘tattha katamo kāmachando kāmo’’tiādinā nayena vibhaṅge jhānapaṭipakkhato visuṃ vutto. Kilesakāmattā vā purimapade vutto, akusalapariyāpannattā dutiyapade. Anekabhedato cassa kāmatoti avatvā kāmehīti vuttaṃ. Aññesampi ca dhammānaṃ akusalabhāve vijjamāne ‘‘tattha katame akusalā dhammā kāmacchando’’tiādinā nayena vibhaṅge (vibha. 564) uparijhānaṅgapaccanīkapaṭipakkhabhāvadassanato nīvaraṇāneva vuttāni. Nīvaraṇāni hi jhānaṅgapaccanīkāni, tesaṃ jhānaṅgāneva paṭipakkhāni, viddhaṃsakānīti vuttaṃ hoti. Tathā hi ‘‘samādhi kāmacchandassa paṭipakkho, pīti byāpādassa, vitakko thinamiddhassa, sukhaṃ uddhaccakukkuccassa, vicāro vicikicchāyā’’ti peṭake vuttaṃ.
Còn về phương diện dục phiền não, thì dục tham với nhiều loại khác nhau như sự ham muốn, sự tham ái và các loại tương tự chính là dục được nói đến ở đây. Và dù nó (dục tham) thuộc về bất thiện, trong bộ Phân Tích, nó đã được nói riêng (khỏi các pháp bất thiện khác) do là đối nghịch với thiền, theo phương pháp: ‘Trong đó, dục tham là dục gì?’ và các giải thích tương tự. Hoặc, nó được nói ở vế trước (ly dục) vì là dục phiền não, và được nói ở vế sau (ly bất thiện pháp) vì thuộc về bất thiện. Và do nó có nhiều loại, nên không nói là ‘ly khỏi dục’ (số ít) mà nói là ‘ly khỏi các dục’ (số nhiều). Và mặc dù các pháp khác cũng có tính chất bất thiện, trong bộ Phân Tích (vibha. 564), theo phương pháp: ‘Trong đó, các pháp bất thiện là gì? Là dục tham…’ và các giải thích tương tự, chỉ có các triền cái mới được nói đến, do chúng là đối nghịch, là chướng ngại cho các thiền chi cao hơn. Thật vậy, các triền cái là chướng ngại cho các thiền chi, chính các thiền chi là đối nghịch, là những pháp phá hủy chúng. Thật vậy, trong Kinh Tạng có nói: ‘Định là đối nghịch của dục tham, hỷ là đối nghịch của sân hận, tầm là đối nghịch của hôn trầm-thụy miên, lạc là đối nghịch của trạo cử-hối quá, tứ là đối nghịch của hoài nghi.’
Evamettha ‘‘vivicceva kāmehī’’ti iminā kāmacchandassa vikkhambhanaviveko vutto hoti. ‘‘Vivicca akusalehi dhammehī’’ti iminā pañcannampi nīvaraṇānaṃ. Aggahitaggahaṇena pana paṭhamena kāmacchandassa, dutiyena sesanīvaraṇānaṃ. Tathā paṭhamena tīsu akusalamūlesu pañcakāmaguṇabhedavisayassa lobhassa, dutiyena āghātavatthubhedādivisayānaṃ dosamohānaṃ. Oghādīsu vā dhammesu paṭhamena kāmogha-kāmayoga-kāmāsava-kāmupādāna-abhijjhākāyagantha-kāmarāga-saṃyojanānaṃ, dutiyena avasesaogha-yogāsava-upādāna-gantha-saṃyojanānaṃ. Paṭhamena ca taṇhāya taṃsampayuttakānañca, dutiyena avijjāya taṃsampayuttakānañca. Apica paṭhamena lobhasampayuttaaṭṭhacittuppādānaṃ, dutiyena sesānaṃ catunnaṃ akusalacittuppādānaṃ vikkhambhanaviveko vutto hotīti veditabbo. Ayaṃ tāva ‘‘vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehī’’ti ettha atthappakāsanā.
Như vậy, ở đây, bằng câu ‘ly hẳn các dục’, sự ly khai bằng cách chế ngự đối với dục tham đã được nói đến. Bằng câu ‘ly hẳn các pháp bất thiện’, (sự ly khai bằng cách chế ngự đối với) cả năm triền cái (đã được nói đến). Hoặc, theo cách hiểu bao gồm cả những gì chưa được đề cập, thì bằng vế thứ nhất (ly dục), (sự ly khai đối với) dục tham; bằng vế thứ hai, (sự ly khai đối với) các triền cái còn lại. Tương tự, bằng vế thứ nhất, (sự ly khai đối với) tham trong ba gốc bất thiện, vốn có đối tượng là năm loại dục trần; bằng vế thứ hai, (sự ly khai đối với) sân và si, vốn có đối tượng là các cảnh sân hận khác nhau và các đối tượng tương tự. Hoặc, đối với các pháp như bộc lưu và các pháp tương tự, bằng vế thứ nhất, (sự ly khai đối với) dục bộc, dục ách, dục lậu, dục thủ, tham thân triền, và dục ái kết; bằng vế thứ hai, (sự ly khai đối với) các loại bộc lưu, ách, lậu, thủ, triền, kết còn lại. Và bằng vế thứ nhất, (sự ly khai đối với) ái và các pháp tương ưng với nó; bằng vế thứ hai, (sự ly khai đối với) vô minh và các pháp tương ưng với nó. Hơn nữa, cần hiểu rằng, bằng vế thứ nhất, sự ly khai bằng cách chế ngự đối với tám tâm sở phát sinh cùng với tham đã được nói đến; bằng vế thứ hai, (sự ly khai bằng cách chế ngự đối với) bốn tâm sở bất thiện còn lại (hai sân, hai si). Đó trước hết là phần làm sáng tỏ ý nghĩa của câu ‘ly hẳn các dục, ly hẳn các pháp bất thiện’.
Ettāvatā ca paṭhamassa jhānassa pahānaṅgaṃ dassetvā idāni sampayogaṅgaṃ dassento savitakkaṃ savicārantiādimāha. Tattha vitakkanaṃ vitakko, ūhananti vuttaṃ hoti. Svāyaṃ ārammaṇe cittassa abhiniropanalakkhaṇo, āhananapariyāhananaraso. Tathā hi ‘‘tena yogāvacaro ārammaṇaṃ vitakkāhataṃ vitakkapariyāhataṃ karotī’’ti vuccati. Ārammaṇe cittassa ānayanapaccupaṭṭhāno. Vicaraṇaṃ vicāro, anusañcaraṇanti vuttaṃ hoti. Svāyaṃ ārammaṇānumajjanalakkhaṇo, tattha sahajātānuyojanaraso, cittassa anuppabandhanapaccupaṭṭhāno. Santepi ca nesaṃ katthaci avippayoge oḷārikaṭṭhena ghaṇṭābhighātasaddo viya cetaso paṭhamābhinipāto vitakko, sukhumaṭṭhena anuravo viya anuppabandho vicāro. Vipphāravā cettha vitakko paripphandanabhāvo cittassa, ākāse uppatitukāmassa pakkhino pakkhavikkhepo viya padumābhimukhapāto viya ca gandhānubandhacetaso bhamarassa. Santavutti vicāro nātiparipphandanabhāvo cittassa, ākāse uppatitassa pakkhino pakkhappasāraṇaṃ viya paribbhamanaṃ viya ca padumābhimukhapatitassa bhamarassa padumassa uparibhāge. So pana nesaṃ viseso paṭhama-dutiyajjhānesu pākaṭo hoti. Iti iminā ca vitakkena iminā ca vicārena saha vattati rukkho viya pupphena ca phalena cāti idaṃ jhānaṃ ‘‘savitakkaṃ savicāra’’nti vuccati. Vibhaṅge pana ‘‘iminā ca vitakkena iminā ca vicārena upeto hoti samupeto’’tiādinā (vibha. 565) nayena puggalādhiṭṭhānā desanā katā. Attho pana tatrāpi evameva daṭṭhabbo.
Đến đây, sau khi đã chỉ ra các chi phần đoạn trừ của Sơ Thiền, bây giờ, để chỉ ra các chi phần tương ưng, Ngài nói: “có tầm, có tứ” và những điều theo sau. Trong đó, sự suy nghĩ là tầm, tức là sự hướng tâm. Nó có đặc tính là sự áp đặt tâm lên đối tượng, có phận sự là tác động và bao trùm (đối tượng). Thật vậy, có lời nói rằng: ‘Nhờ đó, hành giả làm cho đối tượng bị tầm tác động, bị tầm bao trùm.’ Nó có biểu hiện là sự đưa tâm đến đối tượng. Sự di chuyển là tứ, tức là sự khảo sát liên tục. Nó có đặc tính là sự xoa dịu/khảo sát đối tượng, có phận sự là kết nối các pháp đồng sanh (với đối tượng), có biểu hiện là sự duy trì tâm trên đối tượng. Mặc dù ở một số nơi chúng không tách rời nhau, nhưng tầm là sự tác động ban đầu của tâm, thô thiển như tiếng chuông khi bị đánh; còn tứ là sự duy trì liên tục, vi tế như tiếng vang theo sau. Ở đây, tầm là sự rung động mạnh, là trạng thái dao động của tâm, giống như con chim muốn bay lên trời phải đập cánh, hay như con ong bị mùi hương lôi cuốn lao về phía hoa sen. Tứ là sự vận hành nhẹ nhàng, là trạng thái không quá dao động của tâm, giống như con chim đã bay lên trời dang rộng cánh, hay như con ong đã đậu trên hoa sen lượn lờ trên bề mặt hoa. Tuy nhiên, sự khác biệt này của chúng trở nên rõ ràng ở Sơ Thiền và Nhị Thiền. Như vậy, vì thiền này hiện hữu cùng với tầm này và tứ này, giống như cây có hoa và quả, nên thiền này được gọi là “có tầm có tứ”. Còn trong bộ Phân Tích (vibha. 565), bài giảng được thực hiện dựa trên cá nhân theo phương pháp: ‘Vị ấy được trang bị, được đầy đủ tầm này và tứ này’ và các giải thích tương tự. Tuy nhiên, ý nghĩa ở đó cũng cần được hiểu tương tự.
Vivekajanti ettha vivitti viveko, nīvaraṇavigamoti attho. Vivittoti vā viveko, nīvaraṇavivitto jhānasampayuttadhammarāsīti attho. Tasmā vivekā, tasmiṃ vā viveke jātanti vivekajaṃ. Pītisukhanti ettha pinayatīti pīti, sā sampiyāyanalakkhaṇā kāyacittapīnanarasā , pharaṇarasā vā, odagyapaccupaṭṭhānā. Sukhanaṃ sukhaṃ, suṭṭhu vā khādati khanati ca kāyacittābādhanti sukhaṃ, taṃ sātalakkhaṇaṃ, sampayuttakānaṃ upabrūhanarasaṃ, anuggahapaccupaṭṭhānaṃ. Satipi ca nesaṃ katthaci avippayoge iṭṭhārammaṇapaṭilābhatuṭṭhi pīti, paṭiladdharasānubhavanaṃ sukhaṃ. Yattha pīti tattha sukhaṃ, yattha sukhaṃ tattha na niyamato pīti. Saṅkhārakkhandhasaṅgahitā pīti, vedanākkhandhasaṅgahitaṃ sukhaṃ. Kantārakhinnassa vanantodakadassanasavanesu viya pīti, vanacchāyappavesanaudakaparibhogesu viya sukhaṃ. Tasmiṃ tasmiṃ samaye pākaṭabhāvato cetaṃ vuttanti veditabbaṃ. Ayañca pīti, idañca sukhaṃ, assa jhānassa, asmiṃ vā jhāne atthīti idaṃ jhānaṃ ‘‘pītisukha’’nti vuccati.
Trong từ “do ly dục sanh”: ở đây, sự ly khai là ly dục, có nghĩa là sự vắng mặt các triền cái. Hoặc, sự thanh tịnh là ly dục, có nghĩa là tập hợp các pháp tương ưng thiền đã thanh tịnh khỏi các triền cái. Do đó, (hỷ lạc) sanh từ sự ly dục, hoặc sanh trong sự ly dục ấy, nên gọi là ‘do ly dục sanh’. Trong từ “hỷ lạc”: ở đây, làm cho phấn chấn là hỷ. Nó có đặc tính là làm cho vui thích, có phận sự là làm cho thân tâm no đủ, hoặc phận sự là thấm nhuần, có biểu hiện là sự hân hoan. Sự an lạc là lạc; hoặc, nó tiêu trừ, đào xới tốt đẹp những khổ đau của thân tâm, nên gọi là lạc. Nó có đặc tính là sự dễ chịu, có phận sự là tăng trưởng các pháp tương ưng, có biểu hiện là sự hỗ trợ. Mặc dù ở một số nơi chúng không tách rời nhau, sự hài lòng khi đạt được đối tượng vừa ý là hỷ; sự cảm nghiệm vị ngọt của những gì đã đạt được là lạc. Nơi nào có hỷ, nơi đó có lạc; nơi nào có lạc, không nhất thiết phải có hỷ. Hỷ thuộc hành uẩn, lạc thuộc thọ uẩn. Hỷ giống như (cảm giác của) người mệt mỏi trong sa mạc khi thấy và nghe về nước ở bìa rừng; lạc giống như (cảm giác) khi vào bóng mát của rừng và dùng nước. Cần hiểu rằng điều này được nói đến do sự rõ ràng của chúng vào những thời điểm tương ứng. Hỷ này và lạc này có trong thiền này, hoặc thuộc về thiền này, nên thiền này được gọi là “hỷ lạc”.
Atha vā pīti ca sukhañca pītisukhaṃ, dhammavinayādayo viya. Vivekajaṃ pītisukhamassa jhānassa, asmiṃ vā jhāne atthīti evampi vivekajaṃpītisukhaṃ. Yatheva hi jhānaṃ, evaṃ pītisukhaṃ pettha vivekajameva hoti, tañcassa atthīti tasmā ekapadeneva ‘‘vivekajaṃ pītisukha’’ntipi vattuṃ yujjati. Vibhaṅge pana ‘‘idaṃ sukhaṃ imāya pītiyā sahagata’’ntiādinā (vibha. 567) nayenetaṃ vuttaṃ. Attho pana tatrāpi evameva daṭṭhabbo.
Hoặc, hỷ và lạc (kết hợp lại) là hỷ lạc, giống như (từ ghép) pháp-luật và các từ tương tự. Hỷ lạc do ly dục sanh này có trong thiền này, hoặc thuộc về thiền này, như vậy cũng là hỷ lạc do ly dục sanh. Thật vậy, cũng như thiền, hỷ lạc ở đây cũng chính là do ly dục sanh, và thiền này có nó; do đó, cũng hợp lý khi nói bằng một từ duy nhất là “hỷ lạc do ly dục sanh”. Còn trong bộ Phân Tích (vibha. 567), điều này được nói theo phương pháp: ‘Lạc này đồng hành với hỷ này’ và các giải thích tương tự. Tuy nhiên, ý nghĩa ở đó cũng cần được hiểu tương tự.
Paṭhamanti gaṇanānupubbatā paṭhamaṃ, idaṃ paṭhamaṃ samāpajjatītipi paṭhamaṃ. Paccanīkadhamme jhāpetīti jhānaṃ, iminā yogino jhāyantītipi jhānaṃ, paccanīkadhamme ḍahanti gocaraṃ vā cintentīti attho. Sayaṃ vā taṃ jhāyati upanijjhāyatīti jhānaṃ, teneva upanijjhāyanalakkhaṇanti vuccati. Tadetaṃ ārammaṇūpanijjhānaṃ , lakkhaṇūpanijjhānanti duvidhaṃ hoti. Tattha ārammaṇūpanijjhānanti saha upacārena aṭṭha samāpattiyo vuccanti. Kasmā? Kasiṇādiārammaṇūpanijjhāyanato. Lakkhaṇūpanijjhānanti vipassanāmaggaphalāni vuccanti. Kasmā? Lakkhaṇūpanijjhāyanato. Ettha hi vipassanā aniccalakkhaṇādīni upanijjhāyati, vipassanāya upanijjhāyanakiccaṃ pana maggena sijjhatīti maggo lakkhaṇūpanijjhānanti vuccati. Phalaṃ pana nirodhassa tathalakkhaṇaṃ upanijjhāyatīti lakkhaṇūpanijjhānanti vuccati. Imasmiṃ panatthe ārammaṇūpanijjhānameva jhānanti adhippetaṃ.
Từ “Thứ nhất” (trong Sơ thiền) có nghĩa là thứ nhất theo thứ tự đếm; cũng là thứ nhất vì đây là thiền đầu tiên mà hành giả chứng đắc. Từ “Thiền” có nghĩa là vì nó thiêu đốt các pháp đối nghịch; hoặc vì nhờ nó mà hành giả thiền quán; nghĩa là thiêu đốt các pháp đối nghịch hoặc quán sát đối tượng. Hoặc, tự nó quán sát, thẩm xét kỹ đối tượng, nên nó được gọi là có đặc tính thẩm xét kỹ. Thiền đó có hai loại: thiền quán sát đối tượng và thiền quán sát đặc tính. Trong đó, thiền quán sát đối tượng được gọi là tám bậc thiền chứng, cùng với cận định. Tại sao? Vì nó quán sát kỹ các đối tượng như biến xứ và các đối tượng tương tự. Thiền quán sát đặc tính được gọi là tuệ quán, đạo và quả. Tại sao? Vì nó quán sát kỹ các đặc tính. Ở đây, tuệ quán quán sát kỹ các đặc tính vô thường và các đặc tính tương tự; nhưng phận sự quán sát kỹ của tuệ quán lại được hoàn thành bởi đạo, nên đạo được gọi là thiền quán sát đặc tính. Còn quả thì quán sát kỹ đặc tính như vậy của sự diệt, nên được gọi là thiền quán sát đặc tính. Tuy nhiên, trong ý nghĩa này (Sơ Thiền), chỉ có thiền quán sát đối tượng mới được hiểu là thiền.
Etthāha – ‘‘katamaṃ pana taṃ jhānaṃ nāma, yaṃ savitakkaṃ savicāraṃ…pe… pītisukhanti evaṃ apadesaṃ arahatī’’ti? Vuccate – yathā sadhano saparijanotiādīsu ṭhapetvā dhanañca parijanañca añño apadesāraho hoti, evaṃ ṭhapetvā vitakkādidhamme aññaṃ apadesārahaṃ natthi. Yathā pana sarathā sapatti senāti vutte senaṅgesuyeva senāsammuti, evamidha pañcasu aṅgesuyeva jhānasammuti veditabbā. Katamesu pañcasu? Vitakko, vicāro, pīti, sukhaṃ, cittekaggatāti etesu. Etāneva hissa ‘‘savitakkaṃ savicāra’’ntiādinā nayena aṅgabhāvena vuttāni. Avuttattā ekaggatā aṅgaṃ na hotīti ce tañca na. Kasmā? Vuttattā eva. Sāpi hi vibhaṅge ‘‘jhānanti vitakko vicāro pīti sukhaṃ cittassekaggatā’’ti evaṃ vuttāyeva. Tasmā yathā savitakkaṃ savicāranti, evaṃ sacittekaggatanti idha avuttepi iminā vibhaṅgavacanena cittekaggatāpi aṅgamevāti veditabbā. Yena hi adhippāyena bhagavatā uddeso kato, so eva tena vibhaṅgepi pakāsitoti.
Ở đây có người hỏi: ‘Vậy, cái được gọi là thiền đó là gì, mà nó xứng đáng với tên gọi là có tầm, có tứ,…v.v… có hỷ lạc?’ (Trả lời:) Cũng như trong các cách nói ‘người có tài sản, có gia nhân’ và các cách nói tương tự, ngoài tài sản và gia nhân ra, (chính người đó) là đối tượng xứng đáng với tên gọi ấy; cũng vậy, ở đây, ngoài các pháp như tầm và các pháp tương tự, không có gì khác xứng đáng với tên gọi (thiền). Nhưng, cũng như khi nói ‘đạo quân có xe, có bộ binh’, thì chính các thành phần của đạo quân được quy ước gọi là đạo quân; cũng vậy, ở đây cần hiểu rằng chính năm chi phần được quy ước gọi là thiền. Năm chi phần nào? Đó là: tầm, tứ, hỷ, lạc, và nhất tâm. Chính những pháp này đã được nói đến như là các chi phần theo phương pháp ‘có tầm, có tứ’ và các cách nói tương tự. Nếu nói rằng vì không được đề cập (trong công thức Sơ Thiền rút gọn) nên nhất tâm không phải là chi phần, thì điều đó không đúng. Tại sao? Vì nó thực sự đã được đề cập. Thật vậy, nó (nhất tâm) cũng đã được nói đến trong bộ Phân Tích (Vibhaṅga) như sau: ‘Thiền là tầm, tứ, hỷ, lạc, sự nhất tâm của tâm’. Do đó, cũng như (thiền được gọi là) ‘có tầm, có tứ’, mặc dù ở đây không nói là ‘có nhất tâm’, nhưng qua lời nói này trong bộ Phân Tích, cần hiểu rằng nhất tâm cũng chính là một chi phần. Vì rằng ý hướng mà Đấng Thế Tôn đã dùng để nêu lên (công thức Sơ Thiền) cũng chính là ý hướng đã được Ngài làm sáng tỏ trong bộ Phân Tích.
Upasampajjāti upagantvā, pāpuṇitvāti vuttaṃ hoti. Upasampādayitvā vā, nipphādetvāti vuttaṃ hoti. Vibhaṅge pana ‘‘upasampajjāti paṭhamassa jhānassa lābho paṭilābho patti sampatti phusanā samphusanā sacchikiriyā upasampadā’’ti vuttaṃ. Tassāpi evamevattho veditabbo. Vihāsinti bodhimaṇḍe nisajjasaṅkhātena iriyāpathavihārena itivuttappakārajhānasamaṅgī hutvā attabhāvassa iriyaṃ vuttiṃ pālanaṃ yapanaṃ yāpanaṃ cāraṃ vihāraṃ abhinipphādesinti attho. Vuttañhetaṃ vibhaṅge – ‘‘viharatīti iriyati vattati pāleti yapeti yāpeti carati viharati, tena vuccati viharatī’’ti (vibha. 512).
Từ ‘chứng đắc’ có nghĩa là đã đến gần, đã đạt được. Hoặc có nghĩa là đã làm cho thành tựu, đã hoàn thành. Còn trong bộ Phân Tích có nói: ‘Chứng đắc là sự được, sự lại được, sự đạt đến, sự thành tựu, sự chạm đến, sự tiếp xúc hoàn toàn, sự chứng ngộ, sự viên mãn của Sơ Thiền.’ Ý nghĩa của nó cũng cần được hiểu tương tự. Từ ‘đã trú’ có nghĩa là: tại Bồ Đề Đạo Tràng, bằng cách trú trong oai nghi ngồi, sau khi đã hợp nhất với thiền định đã được nói đến theo cách như vậy, Ngài đã hoàn thành sự duy trì, sự nuôi dưỡng, sự bảo tồn, sự tiến hành, sự an trú của thân mạng mình. Điều này đã được nói trong bộ Phân Tích: ‘Trú có nghĩa là đi đứng, tồn tại, bảo vệ, nuôi dưỡng, duy trì, hành động, an trú; do đó được gọi là trú’ (vibha. 512).
Kiṃ pana katvā bhagavā imaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsīti? Kammaṭṭhānaṃ bhāvetvā. Kataraṃ? Ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ. Aññena tadatthikena kiṃ kātabbanti? Aññenapi etaṃ vā kammaṭṭhānaṃ pathavīkasiṇādīnaṃ vā aññataraṃ bhāvetabbaṃ. Tesaṃ bhāvanānayo visuddhimagge (visuddhi. 1.55) vuttanayeneva veditabbo. Idha pana vuccamāne atibhāriyaṃ vinayanidānaṃ hoti, tasmā pāḷiyā atthappakāsanamattameva karomāti.
Nhưng Đấng Thế Tôn đã làm gì để chứng và trú trong thiền này? (Ngài đã chứng và trú trong thiền) bằng cách tu tập đề mục thiền. Đề mục nào? Đề mục niệm hơi thở. Người khác muốn đạt được điều đó thì phải làm gì? Người khác cũng phải tu tập đề mục này hoặc một đề mục khác trong số các đề mục như biến xứ đất và các đề mục tương tự. Phương pháp tu tập các đề mục ấy cần được hiểu theo cách đã nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 1.55). Nhưng nếu nói ở đây thì sẽ làm cho phần dẫn nhập Luật này trở nên quá nặng nề, do đó chúng tôi chỉ làm sáng tỏ ý nghĩa của Pāḷi mà thôi.
Paṭhamajjhānakathā niṭṭhitā.
Luận về Sơ Thiền kết thúc.
Dutiyajjhānakathā
Luận về Nhị Thiền
Vitakkavicārānaṃ vūpasamāti vitakkassa ca vicārassa cāti imesaṃ dvinnaṃ vūpasamā samatikkamā; dutiyajjhānakkhaṇe apātubhāvāti vuttaṃ hoti. Tattha kiñcāpi dutiyajjhāne sabbepi paṭhamajjhānadhammā na santi, aññeyeva hi paṭhamajjhāne phassādayo, aññe idha; oḷārikassa pana oḷārikassa aṅgassa samatikkamā paṭhamajjhānato paresaṃ dutiyajjhānādīnaṃ adhigamo hotīti dīpanatthaṃ ‘‘vitakkavicārānaṃ vūpasamā’’ti evaṃ vuttanti veditabbaṃ. Ajjhattanti idha niyakajjhattamadhippetaṃ. Vibhaṅge pana ‘‘ajjhattaṃ paccatta’’nti (vibha. 573) ettakameva vuttaṃ. Yasmā pana niyakajjhattaṃ adhippetaṃ, tasmā attani jātaṃ attano santāne nibbattanti ayamettha attho.
Cụm từ “do sự lắng dịu của tầm và tứ” có nghĩa là do sự lắng dịu, sự vượt qua của hai pháp này là tầm và tứ; tức là chúng không còn xuất hiện trong khoảnh khắc của Nhị Thiền. Trong đó, mặc dù trong Nhị Thiền tất cả các pháp của Sơ Thiền đều không còn (giống hệt), vì các pháp như xúc và các pháp tương tự trong Sơ Thiền là khác, ở đây (Nhị Thiền) lại khác; nhưng để làm sáng tỏ rằng sự chứng đắc các thiền sau Sơ Thiền như Nhị Thiền và các thiền tương tự có được là nhờ sự vượt qua các chi phần thô thiển hơn, nên mới nói là ‘do sự lắng dịu của tầm và tứ’, cần hiểu như vậy. Từ “nội” ở đây muốn nói đến cái thuộc về chính mình. Còn trong bộ Phân Tích (vibha. 573) chỉ nói bấy nhiêu: ‘nội, thuộc về tự thân’. Và bởi vì muốn nói đến cái thuộc về chính mình, do đó ý nghĩa ở đây là: sanh khởi nơi tự thân, phát sinh trong dòng tâm thức của chính mình.
Sampasādananti sampasādanaṃ vuccati saddhā. Sampasādanayogato jhānampi sampasādanaṃ, nīlavaṇṇayogato nīlavatthaṃ viya. Yasmā vā taṃ jhānaṃ sampasādanasamannāgatattā vitakkavicārakkhobhavūpasamanena ceto sampasādayati, tasmāpi sampasādananti vuttaṃ. Imasmiñca atthavikappe sampasādanaṃ cetasoti evaṃ padasambandho veditabbo. Purimasmiṃ pana atthavikappe cetasoti etaṃ ekodibhāvena saddhiṃ yojetabbaṃ. Tatrāyaṃ atthayojanā – eko udetīti ekodi, vitakkavicārehi anajjhārūḷhattā aggo seṭṭho hutvā udetīti attho. Seṭṭhopi hi loke ekoti vuccati. Vitakkavicāravirahato vā eko asahāyo hutvātipi vattuṃ vaṭṭati. Atha vā sampayuttadhamme udāyatīti udi, uṭṭhāpetīti attho. Seṭṭhaṭṭhena eko ca so udi cāti ekodi, samādhissetaṃ adhivacanaṃ. Iti imaṃ ekodiṃ bhāveti vaḍḍhayatīti idaṃ dutiyajjhānaṃ ekodibhāvaṃ. So panāyaṃ ekodi yasmā cetaso, na sattassa na jīvassa, tasmā etaṃ cetaso ekodibhāvanti vuttaṃ.
Từ “sự lắng trong” được gọi là niềm tin (tín). Do liên hệ với sự lắng trong (tín), nên thiền cũng (được gọi là) sự lắng trong, giống như vải xanh do liên hệ với màu xanh. Hoặc, vì thiền đó, do được trang bị sự lắng trong (tín) và do sự lắng dịu của sự xao động bởi tầm và tứ, làm cho tâm lắng trong, nên cũng được gọi là sự lắng trong. Và trong cách giải thích nghĩa này, cần hiểu sự kết hợp từ là: sự lắng trong của tâm. Còn trong cách giải thích nghĩa trước (khi ‘sự lắng trong’ là tín), thì từ ‘của tâm’ này cần được kết hợp với ‘sự nhất tâm’. Cách kết hợp ý nghĩa ở đó là: sanh khởi một mình là ‘nhất khởi’, có nghĩa là do không bị tầm và tứ chi phối, nó sanh khởi một cách ưu việt, cao tột. Thật vậy, bậc cao tột trong đời cũng được gọi là bậc nhất. Hoặc, do không có tầm và tứ, nên cũng có thể nói là (sanh khởi) một mình, không có bạn đồng hành. Hoặc, làm cho các pháp tương ưng phát khởi là ‘sự làm phát sinh’, có nghĩa là làm cho phát sinh. Theo nghĩa cao tột, nó vừa là một, vừa là ‘sự làm phát sinh’, nên là ‘nhất khởi’; đây là một tên gọi khác của định. Như vậy, Nhị Thiền này làm cho ‘nhất khởi’ này phát triển, tăng trưởng, nên là ‘sự nhất tâm’. Và ‘nhất khởi’ này, vì nó thuộc về tâm, không phải của một chúng sanh hay một sinh mạng, do đó nó được gọi là ‘sự nhất tâm của tâm’.
Nanu cāyaṃ saddhā paṭhamajjhānepi atthi, ayañca ekodināmako samādhi; atha kasmā idameva sampasādanaṃ ‘‘cetaso ekodibhāvañcā’’ti vuttanti? Vuccate – aduñhi paṭhamajjhānaṃ vitakkavicārakkhobhena vīcitaraṅgasamākulamiva jalaṃ na suppasannaṃ hoti, tasmā satiyāpi saddhāya sampasādananti na vuttaṃ. Na suppasannattāyeva cettha samādhipi na suṭṭhu pākaṭo, tasmā ekodibhāvantipi na vuttaṃ. Imasmiṃ pana jhāne vitakkavicārapalibodhābhāvena laddhokāsā balavatī saddhā, balavasaddhāsahāyappaṭilābheneva ca samādhipi pākaṭo; tasmā idameva evaṃ vuttanti veditabbaṃ. Vibhaṅge pana ‘‘sampasādananti yā saddhā saddahanā okappanā abhippasādo, cetaso ekodibhāvanti yā cittassa ṭhiti…pe… sammāsamādhī’’ti ettakameva vuttaṃ. Evaṃ vuttena panetena saddhiṃ ayaṃ atthavaṇṇanā yathā na virujjhati aññadatthu saṃsandati ceva sameti ca evaṃ veditabbā.
Chẳng phải niềm tin này cũng có trong Sơ Thiền, và cả định được gọi là ‘nhất khởi’ này cũng vậy sao; vậy tại sao chỉ ở đây (Nhị Thiền) mới nói là ‘sự lắng trong’ và ‘sự nhất tâm của tâm’? (Trả lời:) Sơ Thiền đó, do sự xao động của tầm và tứ, giống như nước bị sóng gợn làm cho xáo trộn, không được hoàn toàn lắng trong; do đó, dù có niềm tin, nó cũng không được gọi là ‘sự lắng trong’. Chính vì không hoàn toàn lắng trong, nên định ở đó cũng không được rõ ràng lắm, do đó cũng không được gọi là ‘sự nhất tâm’. Còn trong thiền này (Nhị Thiền), do không có sự cản trở của tầm và tứ, niềm tin có cơ hội trở nên mạnh mẽ; và chính nhờ có được sự hỗ trợ của niềm tin mạnh mẽ mà định cũng trở nên rõ ràng; do đó, cần hiểu rằng chỉ ở đây mới được nói như vậy. Còn trong bộ Phân Tích chỉ nói bấy nhiêu: ‘Sự lắng trong là niềm tin, sự tin tưởng, sự hướng đến, sự tịnh tín. Sự nhất tâm của tâm là sự đứng vững của tâm…v.v… chánh định’. Cần hiểu rằng bài chú giải ý nghĩa này, đối với những gì đã được nói như vậy (trong bộ Phân Tích), không những không mâu thuẫn mà còn tương ứng và hòa hợp.
Avitakkaṃ avicāranti bhāvanāya pahīnattā etasmiṃ etassa vā vitakko natthīti avitakkaṃ. Imināva nayena avicāraṃ. Vibhaṅgepi (vibha. 576) vuttaṃ ‘‘iti ayañca vitakko ayañca vicāro santā honti samitā vūpasantā atthaṅgatā abbhatthaṅgatā appitā byappitā sositā visositā byantīkatā, tena vuccati avitakkaṃ avicāra’’nti.
Cụm từ “không tầm không tứ” có nghĩa là: do (tầm và tứ) đã được đoạn trừ bằng sự tu tập, nên trong thiền này hoặc đối với thiền này không có tầm, vì vậy (gọi là) không tầm. Theo phương pháp này, (cũng hiểu là) không tứ. Trong bộ Phân Tích (vibha. 576) cũng có nói: ‘Như vậy, tầm này và tứ này đã được lắng dịu, đã được dập tắt, đã được an tịnh, đã lặn mất, đã hoàn toàn lặn mất, đã chấm dứt, đã hoàn toàn chấm dứt, đã khô cạn, đã hoàn toàn khô cạn, đã bị làm cho biến mất; do đó được gọi là không tầm không tứ.’
Etthāha – nanu ca ‘‘vitakkavicārānaṃ vūpasamāti imināpi ayamattho siddho, atha kasmā puna vuttaṃ avitakkaṃ avicāra’’nti? Vuccate – evametaṃ siddho vāyamattho, na panetaṃ tadatthadīpakaṃ; nanu avocumha – ‘‘oḷārikassa pana oḷārikassa aṅgassa samatikkamā paṭhamajjhānato paresaṃ dutiyajjhānādīnaṃ adhigamo hotīti dīpanatthaṃ vitakkavicārānaṃ vūpasamāti evaṃ vutta’’nti.
Ở đây có người hỏi: Chẳng phải ý nghĩa này cũng đã được xác lập bằng câu ‘do sự lắng dịu của tầm và tứ’ rồi sao, vậy tại sao lại nói thêm ‘không tầm không tứ’? (Trả lời:) Đúng là ý nghĩa này đã được xác lập như vậy, nhưng (câu trước) không phải để làm sáng tỏ ý nghĩa đó (của ‘không tầm không tứ’). Chẳng phải chúng tôi đã nói: ‘(Câu) “do sự lắng dịu của tầm và tứ” được nói như vậy là để làm sáng tỏ rằng sự chứng đắc các thiền sau Sơ Thiền như Nhị Thiền và các thiền tương tự có được là nhờ sự vượt qua các chi phần thô thiển hơn’ đó sao?
Apica vitakkavicārānaṃ vūpasamā idaṃ sampasādanaṃ, na kilesakālusiyassa. Vitakkavicārānañca vūpasamā ekodibhāvaṃ na upacārajjhānamiva nīvaraṇappahānā, na paṭhamajjhānamiva ca aṅgapātubhāvāti evaṃ sampasādanaekodibhāvānaṃ hetuparidīpakamidaṃ vacanaṃ. Tathā vitakkavicārānaṃ vūpasamā idaṃ avitakkaavicāraṃ, na tatiyacatutthajjhānāni viya cakkhuviññāṇādīni viya ca abhāvāti evaṃ avitakkaavicārabhāvassa hetuparidīpakañca, na vitakkavicārābhāvamattaparidīpakaṃ. Vitakkavicārābhāvamattaparidīpakameva pana ‘‘avitakkaṃ avicāra’’nti idaṃ vacanaṃ, tasmā purimaṃ vatvāpi puna vattabbamevāti.
Hơn nữa, do sự lắng dịu của tầm và tứ mà có sự lắng trong này (của Nhị Thiền), chứ không phải do sự lắng dịu của phiền não ô nhiễm. Và do sự lắng dịu của tầm và tứ mà có sự nhất tâm, chứ không phải như cận hành thiền là do sự đoạn trừ các triền cái, cũng không phải như Sơ Thiền là do sự xuất hiện của các chi phần. Như vậy, câu này (‘do sự lắng dịu của tầm và tứ’) là để làm sáng tỏ nhân duyên của sự lắng trong và sự nhất tâm. Tương tự, do sự lắng dịu của tầm và tứ mà có trạng thái không tầm không tứ này (của Nhị Thiền), chứ không phải như Tam Thiền, Tứ Thiền hay như nhãn thức và các thức tương tự là do (tầm tứ) không có mặt (ngay từ đầu). Như vậy, (câu trước) cũng là để làm sáng tỏ nhân duyên của trạng thái không tầm không tứ, chứ không chỉ đơn thuần làm sáng tỏ sự vắng mặt của tầm và tứ. Còn chính câu ‘không tầm không tứ’ này mới là câu chỉ đơn thuần làm sáng tỏ sự vắng mặt của tầm và tứ. Do đó, dù đã nói câu trước, vẫn cần phải nói lại (câu ‘không tầm không tứ’ này).
Samādhijanti paṭhamajjhānasamādhito sampayuttasamādhito vā jātanti attho. Tattha kiñcāpi paṭhamampi sampayuttasamādhito jātaṃ, atha kho ayameva ‘‘samādhī’’ti vattabbataṃ arahati vitakkavicārakkhobhavirahena ativiya acalattā suppasannattā ca. Tasmā imassa vaṇṇabhaṇanatthaṃ idameva ‘‘samādhija’’nti vuttaṃ. Pītisukhanti idaṃ vuttanayameva.
Từ “do định sanh” có nghĩa là sanh từ định của Sơ Thiền hoặc từ định tương ưng (của Nhị Thiền). Trong đó, mặc dù Sơ Thiền cũng sanh từ định tương ưng, nhưng chính định này (của Nhị Thiền) mới xứng đáng được gọi là ‘định’ do nó vô cùng vững chắc và hoàn toàn lắng trong, vì không có sự xao động của tầm và tứ. Do đó, để ca ngợi nó, chính thiền này mới được gọi là ‘do định sanh’. Cụm từ “hỷ lạc”: điều này đã được giải thích theo phương pháp đã nói ở trên.
Dutiyanti gaṇanānupubbato dutiyaṃ, idaṃ dutiyaṃ samāpajjatītipi dutiyaṃ. Jhānanti ettha pana yathā paṭhamajjhānaṃ vitakkādīhi pañcaṅgikaṃ hoti, evamidaṃ sampasādādīhi ‘‘caturaṅgika’’nti veditabbaṃ. Yathāha – ‘‘jhānanti sampasādo, pīti, sukhaṃ, cittassekaggatā’’ti (vibha. 580). Pariyāyoyeva ceso. Sampasādanaṃ pana ṭhapetvā nippariyāyena tivaṅgikamevetaṃ hoti. Yathāha – ‘‘katamaṃ tasmiṃ samaye tivaṅgikaṃ jhānaṃ hoti? Pīti, sukhaṃ, cittassekaggatā’’ti (dha. sa. 161). Sesaṃ vuttanayamevāti.
Từ “thứ hai” (trong Nhị Thiền) có nghĩa là thứ hai theo thứ tự đếm; cũng là thứ hai vì đây là thiền thứ hai mà hành giả chứng đắc. Còn từ “Thiền” ở đây, cần hiểu rằng: cũng như Sơ Thiền có năm chi phần là tầm và các chi phần tương tự, Nhị Thiền này có bốn chi phần là sự lắng trong (tín), hỷ, lạc, và nhất tâm. Như có lời dạy: ‘Thiền là sự lắng trong, hỷ, lạc, sự nhất tâm của tâm’ (vibha. 580). Đây chỉ là cách nói bao hàm. Nhưng nếu không kể sự lắng trong (tín), thì theo nghĩa đen, nó (Nhị Thiền) chỉ có ba chi phần. Như có lời dạy: ‘Vào lúc ấy, thiền ba chi phần là gì? Là hỷ, lạc, sự nhất tâm của tâm’ (dha. sa. 161). Phần còn lại được hiểu theo phương pháp đã nói.
Dutiyajjhānakathā niṭṭhitā.
Luận về Nhị Thiền kết thúc.
Tatiyajjhānakathā
Luận về Tam Thiền
Pītiyāca virāgāti ettha vuttatthāyeva pīti. Virāgoti tassā jigucchanaṃ vā samatikkamo vā. Ubhinnamantarā ‘‘ca’’ saddo sampiṇḍanattho, so hi vūpasamaṃ vā sampiṇḍeti vitakkavicāravūpasamaṃ vā. Tattha yadā vūpasamameva sampiṇḍeti, tadā pītiyā virāgā ca, kiñca bhiyyo vūpasamā cāti evaṃ yojanā veditabbā. Imissā ca yojanāyaṃ virāgo jigucchanattho hoti. Tasmā pītiyā jigucchanā ca vūpasamā cāti ayamattho daṭṭhabbo. Yadā pana vitakkavicāravūpasamaṃ sampiṇḍeti, tadā pītiyā ca virāgā, kiñca bhiyyo vitakkavicārānañca vūpasamāti evaṃ yojanā veditabbā. Imissā ca yojanāyaṃ virāgo samatikkamanattho hoti. Tasmā pītiyā ca samatikkamā, vitakkavicārānañca vūpasamāti ayamattho daṭṭhabbo.
Trong cụm từ “và do ly hỷ”: ở đây, hỷ có ý nghĩa đã được nói. Từ “ly” có nghĩa là sự nhàm chán đối với nó (hỷ) hoặc sự vượt qua nó. Từ “và” ở giữa hai từ (ly và hỷ) có ý nghĩa gộp lại; nó gộp lại hoặc là sự lắng dịu (của hỷ) hoặc là sự lắng dịu của tầm và tứ. Trong đó, khi nó (và) chỉ gộp lại sự lắng dịu, thì cần hiểu sự kết hợp ý nghĩa là: do ly hỷ và hơn nữa, do sự lắng dịu (của hỷ). Và trong cách kết hợp ý nghĩa này, từ ‘ly’ có nghĩa là nhàm chán. Do đó, cần hiểu ý nghĩa là: do sự nhàm chán hỷ và do sự lắng dịu (của hỷ). Còn khi nó (và) gộp lại sự lắng dịu của tầm và tứ, thì cần hiểu sự kết hợp ý nghĩa là: do ly hỷ và hơn nữa, do sự lắng dịu của cả tầm và tứ. Và trong cách kết hợp ý nghĩa này, từ ‘ly’ có nghĩa là vượt qua. Do đó, cần hiểu ý nghĩa là: do sự vượt qua hỷ và do sự lắng dịu của cả tầm và tứ.
Kāmañcete vitakkavicārā dutiyajjhāneyeva vūpasantā imassa pana jhānassa maggaparidīpanatthaṃ vaṇṇabhaṇanatthañcetaṃ vuttaṃ. ‘‘Vitakkavicārānaṃ vūpasamā’’ti hi vutte idaṃ paññāyati – ‘‘nūna vitakkavicāravūpasamo maggo imassa jhānassā’’ti. Yathā ca tatiye ariyamagge appahīnānampi sakkāyadiṭṭhādīnaṃ ‘‘pañcannaṃ orambhāgiyānaṃ saṃyojanānaṃ pahānā’’ti (ma. ni. 2.132) evaṃ pahānaṃ vuccamānaṃ vaṇṇabhaṇanaṃ hoti tadadhigamāya ussukānaṃ ussāhajanakaṃ; evamevaṃ idha avūpasantānampi vitakkavicārānaṃ vūpasamo vuccamāno vaṇṇabhaṇanaṃ hoti. Tenāyamattho vutto – ‘‘pītiyā ca samatikkamā, vitakkavicārānañca vūpasamā’’ti.
Mặc dù tầm và tứ này đã lắng dịu ngay trong Nhị Thiền, nhưng điều này được nói đến là để làm sáng tỏ con đường của thiền này (Tam Thiền) và để ca ngợi nó. Thật vậy, khi nói ‘do sự lắng dịu của tầm và tứ’, điều này được hiểu là: ‘Chắc chắn sự lắng dịu của tầm và tứ là con đường của thiền này.’ Và cũng như trong Thánh đạo thứ ba (A Na Hàm), mặc dù các pháp như thân kiến và các pháp tương tự (trong năm hạ phần kiết sử) chưa được đoạn trừ hoàn toàn (mà chỉ được làm cho yếu đi ở các đạo trước), việc nói đến sự đoạn trừ ‘năm hạ phần kiết sử’ (ma. ni. 2.132) như vậy là một sự ca ngợi, tạo ra sự nỗ lực cho những người mong muốn chứng đắc đạo ấy; cũng vậy, ở đây, việc nói đến sự lắng dịu của tầm và tứ, dù chúng đã lắng dịu (ở Nhị Thiền), cũng là một sự ca ngợi. Do đó, ý nghĩa này được nói đến: ‘do sự vượt qua hỷ và do sự lắng dịu của cả tầm và tứ’.
Upekkhako ca vihāsinti ettha upapattito ikkhatīti upekkhā, samaṃ passati, apakkhapatitāva hutvā passatīti attho. Tāya visadāya vipulāya thāmagatāya samannāgatattā tatiyajjhānasamaṅgī ‘‘upekkhako’’ti vuccati. Upekkhā pana dasavidhā hoti – chaḷaṅgupekkhā, brahmavihārupekkhā, bojjhaṅgupekkhā, vīriyupekkhā, saṅkhārupekkhā, vedanupekkhā, vipassanupekkhā, tatramajjhattupekkhā, jhānupekkhā, pārisuddhupekkhāti. Evamayaṃ dasavidhāpi tattha tattha āgatanayato bhūmipuggalacittārammaṇato, khandhasaṅgaha-ekakkhaṇakusalattikasaṅkhepavasena ca aṭṭhasāliniyā dhammasaṅgahaṭṭhakathāya vuttanayeneva veditabbā. Idha pana vuccamānā vinayanidānaṃ atibhāriyaṃ karotīti na vuttā. Lakkhaṇādito pana idha adhippetupekkhā majjhattalakkhaṇā, anābhogarasā, abyāpārapaccupaṭṭhānā, pītivirāgapadaṭṭhānāti.
Trong cụm từ “và vị ấy trú xả”: ở đây, sự nhìn một cách cân bằng là xả, có nghĩa là thấy một cách bình đẳng, thấy mà không thiên vị. Do được trang bị tâm xả trong sáng, rộng lớn, mạnh mẽ đó, nên người hợp nhất với Tam Thiền được gọi là ‘người có tâm xả’. Xả có mười loại: xả sáu chi, xả phạm trú, xả giác chi, xả tinh tấn, xả các hành, xả cảm thọ, xả tuệ quán, xả trung tính đó, xả thiền, và xả thanh tịnh. Mười loại xả này cần được hiểu theo phương pháp đã được trình bày trong bộ Aṭṭhasālinī, là bộ chú giải của bộ Pháp Tụ, tùy theo từng trường hợp, dựa trên các yếu tố như tầng bậc, hạng người, tâm, đối tượng, sự bao gồm trong các uẩn, và sự tóm tắt theo bộ ba thiện trong một khoảnh khắc. Nhưng nếu nói ở đây thì sẽ làm cho phần dẫn nhập Luật này trở nên quá nặng nề, nên không được nói đến (chi tiết). Tuy nhiên, xét về đặc tính và các yếu tố khác, tâm xả được nói đến ở đây có đặc tính là sự trung tính, có phận sự là không nỗ lực (không nghiêng về bên nào), có biểu hiện là không bận tâm, có nhân duyên gần là sự ly hỷ.
Etthāha – nanu cāyaṃ atthato tatramajjhattupekkhāva hoti, sā ca paṭhamadutiyajjhānesupi atthi, tasmā tatrāpi ‘‘upekkhako ca vihāsi’’nti evamayaṃ vattabbā siyā, sā kasmā na vuttāti? Aparibyattakiccato. Aparibyattañhi tassā tattha kiccaṃ, vitakkādīhi abhibhūtattā. Idha panāyaṃ vitakkavicārapītīhi anabhibhūtattā ukkhittasirā viya hutvā paribyattakiccā jātā, tasmā vuttāti.
Ở đây có người hỏi: Chẳng phải về mặt ý nghĩa, đây (xả trong Tam Thiền) chính là tâm xả trung bình đó sao? Và tâm xả đó cũng có trong Sơ Thiền và Nhị Thiền; do đó, ở những thiền đó cũng nên nói là ‘và vị ấy trú xả’, tại sao lại không nói? (Trả lời:) Vì phận sự của nó (ở các thiền trước) chưa rõ ràng. Thật vậy, phận sự của nó ở đó chưa rõ ràng, vì bị tầm và các chi thiền khác lấn át. Còn ở đây (Tam Thiền), do không bị tầm, tứ, và hỷ lấn át, nó (tâm xả) trở nên như ngẩng cao đầu, phận sự của nó trở nên rõ ràng, do đó mới được nói đến.
Niṭṭhitā ‘‘upekkhako ca vihāsi’’nti etassa sabbaso atthavaṇṇanā.
Phần chú giải toàn bộ ý nghĩa của cụm từ ‘và vị ấy trú xả’ đã kết thúc.
Idāni sato ca sampajānoti ettha saratīti sato, sampajānātīti sampajāno. Puggalena sati ca sampajaññañca vuttaṃ. Tattha saraṇalakkhaṇā sati, asammussanarasā, ārakkhapaccupaṭṭhānā; asammohalakkhaṇaṃ sampajaññaṃ, tīraṇarasaṃ, pavicayapaccupaṭṭhānaṃ. Tattha kiñcāpi idaṃ satisampajaññaṃ purimajjhānesupi atthi, muṭṭhassatissa hi asampajānassa upacārajjhānamattampi na sampajjati, pageva appanā; oḷārikattā pana tesaṃ jhānānaṃ bhūmiyaṃ viya purisassa cittassa gati sukhā hoti, abyattaṃ tattha satisampajaññakiccaṃ. Oḷārikaṅgappahānena pana sukhumattā imassa jhānassa purisassa khuradhārāyaṃ viya satisampajaññakiccapariggahitāyeva cittassa gati icchitabbāti idheva vuttaṃ. Kiñca bhiyyo? Yathāpi dhenupago vaccho dhenuto apanīto arakkhiyamāno punadeva dhenuṃ upagacchati; evamidaṃ tatiyajjhānasukhaṃ pītito apanītampi satisampajaññārakkhena arakkhiyamānaṃ punadeva pītiṃ upagaccheyya pītisampayuttameva siyā. Sukhe vāpi sattā rajjanti, idañca atimadhuraṃ sukhaṃ, tato paraṃ sukhābhāvā . Satisampajaññānubhāvena panettha sukhe asārajjanā hoti, no aññathāti imampi atthavisesaṃ dassetuṃ idaṃ idheva vuttanti veditabbaṃ.
Bây giờ, trong cụm từ “có niệm và tỉnh giác”: ở đây, nhớ nghĩ là ‘có niệm’, biết rõ là ‘tỉnh giác’. Niệm và tỉnh giác được nói đến thông qua người (hành giả). Trong đó, niệm có đặc tính là ghi nhớ, có phận sự là không quên lãng, có biểu hiện là sự canh giữ; tỉnh giác có đặc tính là không si mê, có phận sự là thẩm xét, có biểu hiện là sự quán sát. Trong đó, mặc dù niệm và tỉnh giác này cũng có trong các thiền trước – vì người thất niệm, không tỉnh giác thì ngay cả cận hành thiền cũng không thành tựu, huống nữa là an chỉ định – nhưng do các thiền ấy còn thô thiển, nên sự vận hành của tâm hành giả giống như (đi) trên mặt đất bằng phẳng, dễ dàng; phận sự của niệm và tỉnh giác ở đó chưa rõ ràng. Còn do sự đoạn trừ các chi phần thô thiển, thiền này (Tam Thiền) trở nên vi tế, nên sự vận hành của tâm hành giả giống như (đi) trên lưỡi dao cạo, cần phải được niệm và tỉnh giác nắm giữ, do đó nó (niệm và tỉnh giác) mới được nói đến chính ở đây. Hơn nữa, điều gì nữa? Cũng như con bê con theo mẹ, nếu bị tách khỏi mẹ mà không được canh giữ, nó sẽ lại tìm về với mẹ; cũng vậy, lạc của Tam Thiền này, dù đã tách khỏi hỷ, nếu không được niệm và tỉnh giác canh giữ, nó sẽ lại tìm về với hỷ, sẽ lại tương ưng với hỷ. Chúng sanh cũng thường tham đắm trong lạc, và lạc này (của Tam Thiền) lại vô cùng ngọt ngào, vì không có lạc nào hơn thế nữa (trong các thiền hữu sắc). Cần hiểu rằng, chính nhờ năng lực của niệm và tỉnh giác mà ở đây (trong Tam Thiền) mới có sự không tham đắm trong lạc, chứ không phải cách nào khác; để chỉ rõ điểm ý nghĩa đặc biệt này, niệm và tỉnh giác mới được nói đến chính ở đây.
Idāni sukhañca kāyena paṭisaṃvedesinti ettha kiñcāpi tatiyajjhānasamaṅgino sukhappaṭisaṃvedanābhogo natthi, evaṃ santepi yasmā tassa nāmakāyena sampayuttaṃ sukhaṃ, yaṃ vā taṃ nāmakāyasampayuttaṃ sukhaṃ, taṃsamuṭṭhānenassa yasmā atipaṇītena rūpena rūpakāyo phuṭo, yassa phuṭattā jhānā vuṭṭhitopi sukhaṃ paṭisaṃvedeyya, tasmā etamatthaṃ dassento ‘‘sukhañca kāyena paṭisaṃvedesi’’nti āha.
Bây giờ, trong cụm từ “và vị ấy cảm thọ lạc bằng thân”: ở đây, mặc dù người hợp nhất với Tam Thiền không có sự hưởng thụ cảm giác lạc (một cách chủ động), tuy vậy, vì có lạc tương ưng với danh thân của vị ấy, hoặc lạc tương ưng với danh thân đó, do sự phát sinh của lạc ấy mà sắc thân của vị ấy được thấm nhuần bởi một loại sắc vô cùng vi diệu, nhờ sự thấm nhuần đó mà ngay cả khi đã xuất thiền, vị ấy vẫn có thể cảm thọ lạc; do đó, để chỉ rõ ý nghĩa này, Ngài nói: ‘và vị ấy cảm thọ lạc bằng thân’.
Idāni yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti upekkhako satimā sukhavihārīti ettha yaṃjhānahetu yaṃjhānakāraṇā taṃ tatiyajjhānasamaṅgīpuggalaṃ buddhādayo ariyā ācikkhanti desenti paññapenti paṭṭhapenti vivaranti vibhajanti uttānīkaronti pakāsenti, pasaṃsantīti adhippāyo. Kinti? ‘‘Upekkhako satimā sukhavihārī’’ti. Taṃ tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsinti evamettha yojanā veditabbā.
Bây giờ, trong cụm từ “điều mà các bậc Thánh gọi là người trú xả, có niệm, lạc trú”: ở đây, do nhân duyên của thiền nào, do nguyên nhân của thiền nào, mà các bậc Thánh như Phật và các vị khác gọi, giảng dạy, chế định, thiết lập, giải thích rộng, phân tích, làm cho rõ ràng, tuyên thuyết về người hợp nhất với Tam Thiền ấy; ý muốn nói là các Ngài tán thán. Như thế nào? Là ‘người trú xả, có niệm, lạc trú’. Vị ấy chứng và trú trong Tam Thiền ấy – cần hiểu sự kết hợp ý nghĩa ở đây là như vậy.
Kasmā pana taṃ te evaṃ pasaṃsantīti? Pasaṃsārahato. Ayañhi yasmā atimadhurasukhe sukhapāramippattepi tatiyajjhāne upekkhako, na tattha sukhābhisaṅgena ākaḍḍhīyati, yathā ca pīti na uppajjati; evaṃ upaṭṭhitassatitāya satimā. Yasmā ca ariyakantaṃ ariyajanasevitameva ca asaṃkiliṭṭhaṃ sukhaṃ nāmakāyena paṭisaṃvedeti, tasmā pasaṃsāraho. Iti pasaṃsārahato naṃ ariyā te evaṃ pasaṃsāhetubhūte guṇe pakāsentā ‘‘upekkhako satimā sukhavihārī’’ti evaṃ pasaṃsantīti veditabbaṃ.
Nhưng tại sao các Ngài lại tán thán vị ấy như vậy? Vì vị ấy đáng được tán thán. Thật vậy, vị này, vì ngay cả trong Tam Thiền, là nơi có lạc vô cùng ngọt ngào, đã đạt đến tột đỉnh của lạc, vẫn là người có tâm xả, không bị sự tham đắm lạc lôi cuốn, và cũng như hỷ không còn phát sinh; như vậy, do niệm đã được thiết lập, vị ấy là người có niệm, người đầy đủ sự tỉnh thức. Và vì vị ấy cảm thọ bằng danh thân một thứ lạc thanh cao, chỉ được các bậc Thánh thực hành, không bị ô nhiễm, nên vị ấy đáng được tán thán. Như vậy, cần hiểu rằng, vì vị ấy đáng được tán thán, nên các bậc Thánh ấy, trong khi làm sáng tỏ những phẩm chất là nhân duyên cho sự tán thán như vậy, đã tán thán vị ấy là: ‘người trú xả, có niệm, lạc trú’.
Tatiyanti gaṇanānupubbato tatiyaṃ. Idaṃ tatiyaṃ samāpajjatītipi tatiyaṃ. Jhānanti ettha ca yathā dutiyaṃ sampasādādīhi caturaṅgikaṃ; evamidaṃ upekkhādīhi pañcaṅgikaṃ. Yathāha – ‘‘jhānanti upekkhā sati sampajaññaṃ sukhaṃ cittassa ekaggatā’’ti (vibha. 591). Pariyāyoyeva ceso. Upekkhāsatisampajaññāni pana ṭhapetvā nippariyāyena duvaṅgikamevetaṃ hoti. Yathāha – ‘‘katamaṃ tasmiṃ samaye duvaṅgikaṃ jhānaṃ hoti ? Sukhaṃ, cittassekaggatā’’ti (dha. sa. 163). Sesaṃ vuttanayamevāti.
Từ “thứ ba” (trong Tam Thiền) có nghĩa là thứ ba theo thứ tự đếm. Cũng là thứ ba vì đây là thiền thứ ba mà hành giả chứng đắc. Còn từ “Thiền” ở đây, cũng như Nhị Thiền có bốn chi phần là sự lắng trong (tín) và các chi phần tương tự; cũng vậy, thiền này (Tam Thiền) có năm chi phần là xả, niệm, tỉnh giác, lạc, và nhất tâm. Như có lời dạy: ‘Thiền là xả, niệm, tỉnh giác, lạc, sự nhất tâm của tâm’ (vibha. 591). Đây chỉ là cách nói bao hàm. Nhưng nếu không kể xả, niệm, và tỉnh giác, thì theo nghĩa đen, nó (Tam Thiền) chỉ có hai chi phần. Như có lời dạy: ‘Vào lúc ấy, thiền hai chi phần là gì? Là lạc, sự nhất tâm của tâm’ (dha. sa. 163). Phần còn lại được hiểu theo phương pháp đã nói.
Tatiyajjhānakathā niṭṭhitā.
Luận về Tam Thiền kết thúc.
Catutthajjhānakathā
Luận về Tứ Thiền
Sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānāti kāyikasukhassa ca kāyikadukkhassa ca pahānā. Pubbevāti tañca kho pubbeva, na catutthajjhānakkhaṇe . Somanassadomanassānaṃ atthaṅgamāti cetasikasukhassa ca cetasikadukkhassa cāti imesampi dvinnaṃ pubbeva atthaṅgamā pahānā icceva vuttaṃ hoti. Kadā pana nesaṃ pahānaṃ hoti? Catunnaṃ jhānānaṃ upacārakkhaṇe. Somanassañhi catutthajjhānassa upacārakkhaṇeyeva pahīyati, dukkhadomanassasukhāni paṭhamadutiyatatiyānaṃ upacārakkhaṇesu. Evametesaṃ pahānakkamena avuttānaṃ, indriyavibhaṅge pana indriyānaṃ uddesakkameneva idhāpi vuttānaṃ sukhadukkhasomanassa domanassānaṃ pahānaṃ veditabbaṃ.
Cụm từ “do đoạn lạc và do đoạn khổ” có nghĩa là do đoạn lạc thuộc thân và do đoạn khổ thuộc thân. Từ “trước đó” có nghĩa là chính ngay trước đó, không phải trong khoảnh khắc của Tứ Thiền. Cụm từ “do sự diệt mất của hỷ và ưu” có nghĩa là chính sự diệt mất, sự đoạn trừ của cả hai pháp này là lạc thuộc tâm (hỷ) và khổ thuộc tâm (ưu) cũng đã xảy ra ngay trước đó. Vậy khi nào sự đoạn trừ của chúng xảy ra? Trong khoảnh khắc cận định của bốn bậc thiền. Thật vậy, hỷ được đoạn trừ ngay trong khoảnh khắc cận định của Tứ Thiền; còn khổ (thuộc thân), ưu, và lạc (thuộc thân) (được đoạn trừ) trong các khoảnh khắc cận định của Sơ Thiền, Nhị Thiền, và Tam Thiền (tương ứng). Như vậy, cần hiểu sự đoạn trừ của lạc, khổ, hỷ, ưu đã được nói đến ở đây là theo thứ tự trình bày các căn trong bộ Phân Tích về Căn (Indriyavibhaṅga), chứ không phải theo thứ tự đoạn trừ của chúng (trong các cận định).
Yadi panetāni tassa tassa jhānassupacārakkhaṇeyeva pahīyanti, atha kasmā ‘‘kattha cuppannaṃ dukkhindriyaṃ aparisesaṃ nirujjhati? Idha, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehi…pe… paṭhamajjhānaṃ upasampajja viharati, etthuppannaṃ dukkhindriyaṃ aparisesaṃ nirujjhati. Kattha cuppannaṃ domanassindriyaṃ… sukhindriyaṃ… somanassindriyaṃ aparisesaṃ nirujjhati? Idha, bhikkhave, bhikkhu sukhassa ca pahānā…pe… catutthajjhānaṃ upasampajja viharati, etthuppannaṃ somanassindriyaṃ aparisesaṃ nirujjhatī’’ti (saṃ. ni. 5.510) evaṃ jhānesveva nirodho vuttoti? Atisayanirodhattā. Atisayanirodho hi nesaṃ paṭhamajjhānādīsu, na nirodhoyeva; nirodhoyeva pana upacārakkhaṇe, nātisayanirodho. Tathā hi nānāvajjane paṭhamajjhānūpacāre niruddhassāpi dukkhindriyassa ḍaṃsamakasādisamphassena vā visamāsanupatāpena vā siyā uppatti, na tveva antoappanāyaṃ. Upacāre vā niruddhampetaṃ na suṭṭhu niruddhaṃ hoti; paṭipakkhena avihatattā. Antoappanāyaṃ pana pītipharaṇena sabbo kāyo sukhokkanto hoti. Sukhokkantakāyassa ca suṭṭhu niruddhaṃ hoti dukkhindriyaṃ; paṭipakkhena vihatattā. Nānāvajjane eva ca dutiyajjhānūpacāre pahīnassa domanassindriyassa yasmā etaṃ vitakkavicārappaccayepi kāyakilamathe cittupaghāte ca sati uppajjati, vitakkavicārābhāve neva uppajjati. Yattha pana uppajjati tattha vitakkavicārabhāve. Appahīnā eva ca dutiyajjhānūpacāre vitakkavicārāti tatthassa siyā uppatti; appahīnapaccayattā. Na tveva dutiyajjhāne; pahīnapaccayattā. Tathā tatiyajjhānūpacāre pahīnassāpi sukhindriyassa pītisamuṭṭhānapaṇītarūpaphuṭakāyassa siyā uppatti, na tveva tatiyajjhāne. Tatiyajjhāne hi sukhassa paccayabhūtā pīti sabbaso niruddhāti. Tathā catutthajjhānūpacāre pahīnassāpi somanassindriyassa āsannattā, appanāppattāya upekkhāya abhāvena sammā anatikkantattā ca siyā uppatti, na tveva catutthajjhāne. Tasmā eva ca ‘‘etthuppannaṃ dukkhindriyaṃ aparisesaṃ nirujjhatī’’ti tattha tattha aparisesaggahaṇaṃ katanti.
Nếu những pháp này đã được đoạn trừ ngay trong khoảnh khắc cận định của mỗi thiền tương ứng, vậy tại sao trong các thiền lại nói đến sự diệt tận của chúng, như trong câu: ‘Khổ căn đã phát sinh ở đâu thì diệt tận không còn dư sót?…v.v… Hỷ căn đã phát sinh ở đây thì diệt tận không còn dư sót’ (saṃ. ni. 5.510)? (Trả lời:) Do đó là sự diệt tận vượt trội. Thật vậy, sự diệt tận vượt trội của chúng là ở trong Sơ Thiền và các thiền tương tự, chứ không chỉ đơn thuần là sự diệt tận; còn sự diệt tận đơn thuần là ở trong khoảnh khắc cận định, không phải là sự diệt tận vượt trội. Thật vậy, khi tâm hướng đến nhiều đối tượng trong cận định Sơ Thiền, dù khổ căn đã diệt, nó vẫn có thể phát sinh do sự xúc chạm của muỗi mòng và các loài tương tự hoặc do sự khó chịu của tư thế ngồi không đúng; nhưng chắc chắn không (phát sinh) trong khi đã nhập định. Hoặc, dù đã diệt trong cận định, nó cũng không được diệt hoàn toàn; vì chưa bị đối nghịch (của nó trong thiền) hủy diệt. Còn trong khi đã nhập định, toàn thân được thấm nhuần bởi sự lan tỏa của hỷ, trở nên tràn ngập lạc. Và đối với thân đã tràn ngập lạc, khổ căn được diệt hoàn toàn; vì đã bị đối nghịch (của nó) hủy diệt. Tương tự, trong cận định Nhị Thiền, ưu căn đã được đoạn trừ, vì nó (ưu) phát sinh khi có sự mệt mỏi của thân và sự tổn hại của tâm do duyên tầm và tứ, nhưng khi không có tầm và tứ thì nó không bao giờ phát sinh. Nơi nào nó phát sinh, ở đó có sự hiện hữu của tầm và tứ. Và vì tầm và tứ chưa được đoạn trừ hoàn toàn trong cận định Nhị Thiền, nên ở đó nó (ưu) có thể phát sinh; do duyên của nó chưa được đoạn trừ. Nhưng chắc chắn không (phát sinh) trong Nhị Thiền; vì duyên của nó đã được đoạn trừ. Tương tự, trong cận định Tam Thiền, dù lạc căn (thuộc thân) đã được đoạn trừ, nó vẫn có thể phát sinh đối với thân được thấm nhuần bởi sắc vi diệu do hỷ làm phát sinh; nhưng chắc chắn không (phát sinh) trong Tam Thiền. Vì trong Tam Thiền, hỷ là nhân duyên của lạc đã hoàn toàn diệt tận. Tương tự, trong cận định Tứ Thiền, dù hỷ căn (thuộc tâm) đã được đoạn trừ, nó vẫn có thể phát sinh do (cận định) gần gũi (với Tam Thiền có lạc), do tâm xả chưa đạt đến mức an chỉ định nên chưa hoàn toàn vượt qua (lạc); nhưng chắc chắn không (phát sinh) trong Tứ Thiền. Do đó, chính vì vậy mà ở mỗi nơi (trong kinh) đều có dùng từ ‘không còn dư sót’ như trong câu ‘khổ căn đã phát sinh ở đây thì diệt tận không còn dư sót’.
Etthāha – ‘‘athevaṃ tassa tassa jhānassūpacāre pahīnāpi etā vedanā idha kasmā samāharī’’ti? Sukhaggahaṇatthaṃ. Yā hi ayaṃ ‘‘adukkhamasukha’’nti ettha adukkhamasukhā vedanā vuttā, sā sukhumā atidubbiññeyyā na sakkā sukhena gahetuṃ. Tasmā yathā nāma duṭṭhassa yathā vā tathā vā upasaṅkamitvā gahetuṃ asakkuṇeyyassa goṇassa gahaṇatthaṃ gopo ekasmiṃ vaje sabbe gāvo samāharati, athekekaṃ nīharanto paṭipāṭiyā āgataṃ ‘‘ayaṃ so, gaṇhatha na’’nti tampi gāhāpayati; evameva bhagavā sukhaggahaṇatthaṃ sabbā etā samāhari. Evañhi samāhaṭā etā dassetvā ‘‘yaṃ neva sukhaṃ na dukkhaṃ na somanassaṃ na domanassaṃ, ayaṃ adukkhamasukhā vedanā’’ti sakkā hoti esā gāhayituṃ.
Ở đây có người hỏi: “Nếu như vậy, các cảm thọ này dù đã được đoạn trừ trong cận định của mỗi thiền tương ứng, tại sao ở đây (trong công thức Tứ Thiền) chúng lại được tập hợp lại (để nói đến)?” (Trả lời:) Để nắm bắt được (cảm thọ) không khổ không lạc. Thật vậy, cảm thọ không khổ không lạc được nói đến trong cụm từ “không khổ không lạc” này, nó rất vi tế, vô cùng khó nhận biết, không thể dễ dàng nắm bắt được. Do đó, cũng như một người chăn bò, để bắt một con bò hung dữ khó có thể đến gần và bắt giữ dù bằng cách này hay cách khác, người ấy dồn tất cả bò vào một chuồng, rồi khi dắt từng con một ra theo thứ tự, đến con bò đó thì bảo: “Đây chính là nó, hãy bắt lấy nó đi”, và nhờ đó mà bắt được nó; cũng vậy, Đấng Thế Tôn, để (giúp) nắm bắt được (cảm thọ không khổ không lạc) vi tế này, đã tập hợp tất cả các cảm thọ này lại. Thật vậy, sau khi đã tập hợp và chỉ ra chúng như vậy, rồi nói: “Cái gì không phải lạc, không phải khổ, không phải hỷ, không phải ưu, đó chính là cảm thọ không khổ không lạc”, thì mới có thể làm cho người ta nắm bắt được nó.
Apica adukkhamasukhāya cetovimuttiyā paccayadassanatthañcāpi etā vuttāti veditabbā. Sukhappahānādayo hi tassā paccayā. Yathāha – ‘‘cattāro kho, āvuso, paccayā adukkhamasukhāya cetovimuttiyā samāpattiyā. Idhāvuso, bhikkhu, sukhassa ca pahānā…pe… catutthajjhānaṃ upasampajja viharati. Ime kho, āvuso, cattāro paccayā adukkhamasukhāya cetovimuttiyā samāpattiyā’’ti (ma. ni. 1.458). Yathā vā aññattha pahīnāpi sakkāyadiṭṭhiādayo tatiyamaggassa vaṇṇabhaṇanatthaṃ tattha pahīnāti vuttā; evaṃ vaṇṇabhaṇanatthampetassa jhānassetā idha vuttātipi veditabbā. Paccayaghātena vā ettha rāgadosānaṃ atidūrabhāvaṃ dassetumpetā vuttāti veditabbā. Etāsu hi sukhaṃ somanassassa paccayo, somanassaṃ rāgassa, dukkhaṃ domanassassa, domanassaṃ dosassa. Sukhādighātena ca te sappaccayā rāgadosā hatāti atidūre hontīti.
Hơn nữa, cần hiểu rằng những cảm thọ này được nói đến cũng là để chỉ ra các duyên cho sự giải thoát của tâm khỏi khổ và lạc (tức là để đạt được xả thọ). Thật vậy, sự đoạn trừ lạc và các cảm thọ khác là duyên của sự giải thoát đó. Như có lời dạy: “Này chư hiền, có bốn duyên để chứng đắc tâm giải thoát không khổ không lạc. Ở đây, này chư hiền, vị Tỳ khưu, do đoạn lạc…v.v… chứng và trú trong Tứ Thiền. Này chư hiền, đó là bốn duyên để chứng đắc tâm giải thoát không khổ không lạc” (ma. ni. 1.458). Hoặc, cũng như ở một nơi khác, mặc dù thân kiến và các pháp tương tự đã được đoạn trừ (ở các đạo trước), nhưng chúng vẫn được nói là đoạn trừ ở Thánh đạo thứ ba là để ca ngợi đạo ấy; cũng vậy, cần hiểu rằng những cảm thọ này được nói đến ở đây cũng là để ca ngợi thiền này (Tứ Thiền). Hoặc, cần hiểu rằng chúng được nói đến ở đây là để chỉ ra sự xa lìa hoàn toàn khỏi tham và sân do đã phá hủy các duyên của chúng. Thật vậy, trong các cảm thọ này, lạc là duyên của hỷ (somanassa); hỷ là duyên của tham. Khổ (thuộc thân) là duyên của ưu (domanassa); ưu là duyên của sân. Và do đã phá hủy lạc và các cảm thọ tương tự, nên tham và sân cùng với các duyên của chúng đã bị diệt trừ, trở nên rất xa vời.
Adukkhamasukhanti dukkhābhāvena adukkhaṃ, sukhābhāvena asukhaṃ. Etenettha dukkhasukhapaṭipakkhabhūtaṃ tatiyavedanaṃ dīpeti, na dukkhasukhābhāvamattaṃ. Tatiyavedanā nāma – adukkhamasukhā, upekkhātipi vuccati. Sā iṭṭhāniṭṭhaviparītānubhavanalakkhaṇā, majjhattarasā, avibhūtapaccupaṭṭhānā, sukhanirodhapadaṭṭhānāti veditabbā. Upekkhāsatipārisuddhinti upekkhāya janitasatipārisuddhiṃ. Imasmiñhi jhāne suparisuddhā sati. Yā ca tassā satiyā pārisuddhi, sā upekkhāya katā na aññena; tasmā etaṃ upekkhāsatipārisuddhinti vuccati. Vibhaṅgepi vuttaṃ – ‘‘ayaṃ sati imāya upekkhāya visadā hoti parisuddhā pariyodātā, tena vuccati – ‘upekkhāsatipārisuddhi’’’nti (vibha. 597). Yāya ca upekkhāya ettha satiyā pārisuddhi hoti, sā atthato tatramajjhattatā veditabbā. Na kevalañcettha tāya satiyeva parisuddhā, apica kho sabbepi sampayuttadhammā; satisīsena pana desanā vuttā.
Trong từ “không khổ không lạc” (bất khổ bất lạc) có nghĩa là: do không có khổ nên là không khổ, do không có lạc nên là không lạc. Bằng cách này, ở đây (kinh văn) chỉ ra loại cảm thọ thứ ba đối nghịch với khổ và lạc, chứ không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt của khổ và lạc. Loại cảm thọ thứ ba đó là cảm thọ không khổ không lạc, cũng được gọi là xả. Cần hiểu rằng nó có đặc tính là cảm nhận một cách trung tính (không ưa thích, không ghét bỏ) đối với các đối tượng đáng ưa và không đáng ưa, có phận sự là giữ thái độ trung dung, có biểu hiện là không rõ ràng (khó nhận biết), có nhân duyên gần là sự diệt tận của lạc (trong Tam Thiền). Trong cụm từ “xả niệm thanh tịnh” có nghĩa là sự thanh tịnh của niệm được phát sinh do xả. Thật vậy, trong thiền này, niệm rất thanh tịnh. Và sự thanh tịnh đó của niệm là do xả tạo ra, không phải do pháp nào khác; do đó, nó được gọi là “xả niệm thanh tịnh”. Trong bộ Phân Tích cũng có nói: “Niệm này nhờ tâm xả này mà trở nên trong sáng, thanh tịnh, thuần khiết; do đó được gọi là ‘xả niệm thanh tịnh’” (vibha. 597). Và tâm xả mà nhờ đó niệm ở đây được thanh tịnh, về mặt ý nghĩa, cần hiểu đó chính là tâm xả trung bình (tatramajjhattatā). Không chỉ có niệm được thanh tịnh bởi tâm xả đó ở đây, mà tất cả các pháp tương ưng cũng vậy; tuy nhiên, bài giảng được trình bày lấy niệm làm đầu.
Tattha kiñcāpi ayaṃ upekkhā heṭṭhāpi tīsu jhānesu vijjati, yathā pana divā sūriyappabhābhibhavā sommabhāvena ca attano upakārakattena vā sabhāgāya rattiyā alābhā divā vijjamānāpi candalekhā aparisuddhā hoti apariyodātā; evamayampi tatramajjhattupekkhācandalekhā vitakkavicārādipaccanīkadhammatejābhibhavā sabhāgāya ca upekkhāvedanārattiyā alābhā vijjamānāpi paṭhamādijjhānabhedesu aparisuddhā hoti. Tassā ca aparisuddhāya divā aparisuddhacandalekhāya pabhā viya sahajātāpi satiādayo aparisuddhāva honti; tasmā tesu ekampi ‘‘upekkhāsatipārisuddhi’’nti na vuttaṃ. Idha pana vitakkādipaccanīkadhammatejābhibhavābhāvā sabhāgāya ca upekkhāvedanārattiyā paṭilābhā ayaṃ tatramajjhattupekkhācandalekhā ativiya parisuddhā, tassā parisuddhattā parisuddhacandalekhāya pabhā viya sahajātāpi satiādayo parisuddhā honti pariyodātā, tasmā idameva upekkhāsatipārisuddhinti vuttanti veditabbaṃ.
Trong đó, mặc dù tâm xả này cũng có mặt ở ba bậc thiền dưới, nhưng cũng như vầng trăng khuyết, dù có mặt vào ban ngày, cũng không thanh tịnh, không trong sáng do bị ánh sáng mặt trời lấn át và do không có được ban đêm là đối tác tương hợp của nó, vốn có bản chất dịu mát và là yếu tố hỗ trợ cho nó; cũng vậy, vầng trăng khuyết là tâm xả trung bình này, dù có mặt trong các bậc thiền từ Sơ Thiền trở đi, cũng không thanh tịnh do bị ánh sáng của các pháp đối nghịch như tầm, tứ và các pháp tương tự lấn át, và do không có được ban đêm là xả thọ tương hợp của nó. Và do tâm xả đó không thanh tịnh, nên các pháp đồng sanh như niệm và các pháp tương tự cũng không thanh tịnh, giống như ánh sáng của vầng trăng khuyết không thanh tịnh vào ban ngày; do đó, không có thiền nào trong số đó được gọi là “xả niệm thanh tịnh”. Còn ở đây (Tứ Thiền), do không có sự lấn át của ánh sáng các pháp đối nghịch như tầm và các pháp tương tự, và do đã đạt được ban đêm là xả thọ tương hợp, nên vầng trăng khuyết là tâm xả trung bình này trở nên vô cùng thanh tịnh; do sự thanh tịnh của nó, các pháp đồng sanh như niệm và các pháp tương tự cũng trở nên thanh tịnh, trong sáng, giống như ánh sáng của vầng trăng khuyết thanh tịnh. Do đó, cần hiểu rằng chỉ có thiền này mới được gọi là “xả niệm thanh tịnh”.
Catutthanti gaṇanānupubbato catutthaṃ. Idaṃ catutthaṃ samāpajjatītipi catutthaṃ. Jhānanti ettha yathā tatiyaṃ upekkhādīhi pañcaṅgikaṃ; evamidaṃ upekkhādīhi tivaṅgikaṃ. Yathāha – ‘‘jhānanti upekkhā, sati cittassekaggatā’’ti. Pariyāyo eva ceso. Ṭhapetvā pana satiṃ upekkhekaggatameva gahetvā nippariyāyena duvaṅgikamevetaṃ hoti. Yathāha – ‘‘katamaṃ tasmiṃ samaye duvaṅgikaṃ jhānaṃ hoti? Upekkhā, cittassekaggatā’’ti (dha. sa. 165). Sesaṃ vuttanayamevāti.
Từ “thứ tư” (trong Tứ Thiền) có nghĩa là thứ tư theo thứ tự đếm. Cũng là thứ tư vì đây là thiền thứ tư mà hành giả chứng đắc. Còn từ “Thiền” ở đây, cũng như Tam Thiền có năm chi phần là xả và các chi phần tương tự; cũng vậy, thiền này (Tứ Thiền) có ba chi phần là xả, niệm, và nhất tâm. Như có lời dạy: ‘Thiền là xả, niệm, sự nhất tâm của tâm’. Đây chỉ là cách nói bao hàm. Nhưng nếu không kể niệm, chỉ lấy xả và nhất tâm, thì theo nghĩa đen, nó (Tứ Thiền) chỉ có hai chi phần. Như có lời dạy: ‘Vào lúc ấy, thiền hai chi phần là gì? Là xả, sự nhất tâm của tâm’ (dha. sa. 165). Phần còn lại được hiểu theo phương pháp đã nói.
Catutthajjhānakathā niṭṭhitā.
Luận về Tứ Thiền kết thúc.
Pubbenivāsakathā
Luận về Túc Mạng Minh
12. Iti imāni cattāri jhānāni kesañci cittekaggatatthāni honti, kesañci vipassanāpādakāni, kesañci abhiññāpādakāni, kesañci nirodhapādakāni, kesañci bhavokkamanatthāni. Tattha khīṇāsavānaṃ cittekaggatatthāni honti, te hi samāpajjitvā ‘‘ekaggacittā sukhaṃ divasaṃ viharissāmā’’ti iccevaṃ kasiṇaparikammaṃ katvā aṭṭha samāpattiyo nibbattenti. Sekkhaputhujjanānaṃ ‘‘samāpattito vuṭṭhāya samāhitena cittena vipassissāmā’’ti nibbattentānaṃ vipassanāpādakāni honti. Ye pana aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā abhiññāpādakaṃ jhānaṃ samāpajjitvā samāpattito vuṭṭhāya ‘‘ekopi hutvā bahudhā hotī’’ti vuttanayā abhiññāyo patthentā nibbattenti, tesaṃ abhiññāpādakāni honti. Ye pana aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā ‘‘nirodhasamāpattiṃ samāpajjitvā sattāhaṃ acittakā hutvā diṭṭheva dhamme nirodhaṃ nibbānaṃ patvā sukhaṃ viharissāmā’’ti nibbattenti, tesaṃ nirodhapādakāni honti. Ye pana aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā ‘‘aparihīnajjhānā hutvā brahmaloke uppajjissāmā’’ti nibbattenti, tesaṃ bhavokkamanatthāni honti.
12. Như vậy, bốn thiền này, đối với một số người, có mục đích là sự nhất tâm; đối với một số người, là nền tảng cho tuệ quán; đối với một số người, là nền tảng cho các thắng trí; đối với một số người, là nền tảng cho Diệt tận định; đối với một số người, có mục đích là sự tái sanh (vào các cõi trời). Trong đó, đối với các bậc A La Hán, chúng có mục đích là sự nhất tâm; các Ngài, sau khi nhập các thiền ấy, thực hành các công việc chuẩn bị cho biến xứ rồi chứng đắc tám bậc thiền chứng, với ý muốn rằng: ‘Với tâm nhất trụ, chúng ta sẽ an trú thoải mái trong ngày.’ Đối với các bậc Hữu học và phàm phu, khi họ chứng đắc các thiền với ý muốn: ‘Sau khi xuất khỏi thiền chứng, chúng ta sẽ quán chiếu bằng tâm định tĩnh’, thì chúng (các thiền) trở thành nền tảng cho tuệ quán. Còn đối với những vị, sau khi đã chứng đắc tám bậc thiền chứng, nhập vào thiền làm nền tảng cho thắng trí, rồi xuất khỏi thiền chứng, mong cầu và chứng đắc các thắng trí theo phương pháp đã nói ‘từ một thân hiện ra nhiều thân’, thì chúng (các thiền) trở thành nền tảng cho các thắng trí. Còn đối với những vị, sau khi đã chứng đắc tám bậc thiền chứng, chứng đắc (các thiền) với ý muốn: ‘Chúng ta sẽ nhập Diệt tận định, trở thành người không có tâm trong bảy ngày, đạt đến sự tịch diệt, Niết Bàn ngay trong hiện tại, và an trú thoải mái’, thì chúng (các thiền) trở thành nền tảng cho Diệt tận định. Còn đối với những vị, sau khi đã chứng đắc tám bậc thiền chứng, chứng đắc (các thiền) với ý muốn: ‘Chúng ta sẽ là người không bị suy thoái khỏi thiền, và sẽ sanh về cõi Phạm thiên’, thì chúng (các thiền) có mục đích là sự tái sanh (vào các cõi trời).
Bhagavatā panidaṃ catutthajjhānaṃ bodhirukkhamūle nibbattitaṃ, taṃ tassa vipassanāpādakañceva ahosi abhiññāpādakañca nirodhapādakañca sabbakiccasādhakañca sabbalokiyalokuttaraguṇadāyakanti veditabbaṃ. Yesañca guṇānaṃ dāyakaṃ ahosi, tesaṃ ekadesaṃ dassento ‘‘so evaṃ samāhite citte’’tiādimāha.
Còn Tứ Thiền này, được Đấng Thế Tôn chứng đắc dưới cội cây Bồ Đề, cần hiểu rằng nó vừa là nền tảng cho tuệ quán của Ngài, vừa là nền tảng cho các thắng trí, vừa là nền tảng cho Diệt tận định, vừa hoàn thành tất cả các phận sự, và vừa mang lại tất cả các phẩm chất thế gian và siêu thế. Và để chỉ ra một phần những phẩm chất mà nó (Tứ Thiền) đã mang lại, Ngài nói: ‘Khi tâm đã định tĩnh như vậy…’ và những điều theo sau.
Tattha soti so ahaṃ. Evanti catutthajjhānakkamanidassanametaṃ. Iminā kamena catutthajjhānaṃ paṭilabhitvāti vuttaṃ hoti. Samāhiteti iminā catutthajjhānasamādhinā samāhite. Parisuddhetiādīsu pana upekkhāsatipārisuddhibhāvena parisuddhe. Parisuddhattāyeva pariyodāte, pabhassareti vuttaṃ hoti. Sukhādīnaṃ paccayānaṃ ghātena vihatarāgādiaṅgaṇattā anaṅgaṇe. Anaṅgaṇattāyeva ca vigatūpakkilese; aṅgaṇena hi cittaṃ upakkilissati. Subhāvitattā mudubhūte, vasībhāvappatteti vuttaṃ hoti. Vase vattamānañhi cittaṃ mudūti vuccati. Muduttāyeva ca kammaniye, kammakkhame kammayoggeti vuttaṃ hoti. Mudu hi cittaṃ kammaniyaṃ hoti sudhantamiva suvaṇṇaṃ, tadubhayampi ca subhāvitattā eva. Yathāha – ‘‘nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekadhammampi samanupassāmi, yaṃ evaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ mudu ca hoti kammaniyañca, yathayidaṃ, bhikkhave, citta’’nti (a. ni. 1.22).
Trong đó, từ ‘Ngài ấy’ có nghĩa là ‘Ta’. Từ ‘như vậy’ là để chỉ rõ trình tự của Tứ Thiền. Có nghĩa là: sau khi đã chứng đắc Tứ Thiền theo trình tự này. Từ ‘đã được định tĩnh’ có nghĩa là được định tĩnh bằng định của Tứ Thiền này. Còn trong các từ như ‘trong sạch’ và các từ tương tự, (nghĩa là) trong sạch do trạng thái xả niệm thanh tịnh. Chính vì trong sạch nên (tâm) thuần tịnh, có nghĩa là rạng rỡ. (Tâm) không cấu uế do các phiền não như tham ái và các phiền não tương tự đã bị loại trừ nhờ sự phá hủy các duyên của chúng như lạc và các duyên tương tự. Và chính vì không cấu uế nên (tâm) đã thoát khỏi các tùy phiền não; vì tâm bị ô nhiễm bởi cấu uế. (Tâm) trở nên nhu nhuyến do đã được tu tập thuần thục, có nghĩa là đã đạt đến trạng thái tự tại. Thật vậy, tâm nào đang vận hành trong sự tự tại thì được gọi là nhu nhuyến. Và chính vì nhu nhuyến nên (tâm) dễ sử dụng, có nghĩa là kham nhẫn với công việc, thích hợp với công việc. Thật vậy, tâm nhu nhuyến thì dễ sử dụng, giống như vàng đã được luyện lọc kỹ; và cả hai điều đó (nhu nhuyến và dễ sử dụng) đều do đã được tu tập thuần thục. Như có lời dạy: ‘Này các Tỳ khưu, Ta không thấy một pháp nào khác, khi được tu tập, được làm cho sung mãn như vậy, lại trở nên nhu nhuyến và dễ sử dụng, như là tâm này, này các Tỳ khưu.’ (a. ni. 1.22).
Etesu parisuddhabhāvādīsu ṭhitattā ṭhite. Ṭhitattāyeva āneñjappatte, acale niriñjaneti vuttaṃ hoti. Mudukammaññabhāvena vā attano vase ṭhitattā ṭhite, saddhādīhi pariggahitattā āneñjappatte. Saddhāpariggahitañhi cittaṃ assaddhiyena na iñjati, vīriyapariggahitaṃ kosajjena na iñjati, satipariggahitaṃ pamādena na iñjati, samādhipariggahitaṃ uddhaccena na iñjati, paññāpariggahitaṃ avijjāya na iñjati, obhāsagataṃ kilesandhakārena na iñjati. Imehi chahi dhammehi pariggahitaṃ āneñjappattaṃ cittaṃ hoti. Evaṃ aṭṭhaṅgasamannāgataṃ cittaṃ abhinīhārakkhamaṃ hoti abhiññāsacchikaraṇīyānaṃ dhammānaṃ abhiññāsacchikiriyāya.
(Tâm) vững chắc do đã an trú trong các trạng thái như thanh tịnh và các trạng thái tương tự. Chính vì vững chắc nên (tâm) đạt đến trạng thái bất động, có nghĩa là không lay chuyển, không rung động. Hoặc, (tâm) vững chắc do đã an trú trong sự tự tại của chính mình nhờ trạng thái nhu nhuyến và dễ sử dụng; (tâm) đạt đến trạng thái bất động do được các pháp như tín và các pháp tương tự nâng đỡ. Thật vậy, tâm được tín nâng đỡ thì không bị sự không tin làm cho lay động; tâm được tinh tấn nâng đỡ thì không bị sự lười biếng làm cho lay động; tâm được niệm nâng đỡ thì không bị sự buông lung làm cho lay động; tâm được định nâng đỡ thì không bị sự trạo cử làm cho lay động; tâm được tuệ nâng đỡ thì không bị vô minh làm cho lay động; tâm đã đạt đến ánh sáng thì không bị bóng tối phiền não làm cho lay động. Tâm được sáu pháp này nâng đỡ thì đạt đến trạng thái bất động. Như vậy, tâm được trang bị tám chi phần này thì có khả năng hướng đến, có khả năng chứng ngộ các pháp cần được chứng ngộ bằng thắng trí.
Aparo nayo – catutthajjhānasamādhinā samāhite. Nīvaraṇadūrībhāvena parisuddhe. Vitakkādisamatikkamena pariyodāte. Jhānappaṭilābhapaccayānaṃ pāpakānaṃ icchāvacarānaṃ abhāvena anaṅgaṇe. Abhijjhādīnaṃ cittūpakkilesānaṃ vigamena vigatūpakkilese. Ubhayampi cetaṃ anaṅgaṇavatthasuttānusārena (ma. ni. 1.57 ādayo) veditabbaṃ. Vasippattiyā mudubhūte. Iddhipādabhāvūpagamena kammaniye. Bhāvanāpāripūriyā paṇītabhāvūpagamena ṭhiteāneñjappatte. Yathā āneñjappattaṃ hoti; evaṃ ṭhiteti attho. Evampi aṭṭhaṅgasamannāgataṃ cittaṃ abhinīhārakkhamaṃ hoti abhiññāsacchikaraṇīyānaṃ dhammānaṃ abhiññāsacchikiriyāya, pādakaṃ padaṭṭhānabhūtanti attho.
Một cách giải thích khác: (Tâm) được định tĩnh bằng định của Tứ Thiền. Trong sạch do các triền cái đã bị loại trừ xa. Thuần tịnh do đã vượt qua tầm và các pháp tương tự. Không cấu uế do không có các ước muốn xấu xa là những duyên cản trở sự chứng đắc thiền. Đã thoát khỏi các tùy phiền não do sự chấm dứt các phiền não của tâm như tham ái và các pháp tương tự. Cả hai điều này cần được hiểu theo kinh Vô Cấu (ma. ni. 1.57 trở đi). (Tâm) trở nên nhu nhuyến do đã đạt đến các sự tự tại. Dễ sử dụng do đã đạt đến trạng thái làm nền tảng cho các thần túc. Vững chắc, đạt đến trạng thái bất động do đã đạt đến trạng thái vi diệu nhờ sự viên mãn của tu tập. Như thế nào là đạt đến trạng thái bất động; cũng vậy là vững chắc, đó là ý nghĩa. Như vậy, tâm được trang bị tám chi phần này cũng có khả năng hướng đến, có khả năng chứng ngộ các pháp cần được chứng ngộ bằng thắng trí, có nghĩa là làm nền tảng, làm chỗ đứng vững chắc.
Pubbenivāsānussatiñāṇāyāti evaṃ abhiññāpādake jāte etasmiṃ citte pubbenivāsānussatimhi yaṃ ñāṇaṃ tadatthāya. Tattha pubbenivāsoti pubbe atītajātīsu nivutthakkhandhā. Nivutthāti ajjhāvutthā anubhūtā attano santāne uppajjitvā niruddhā nivutthadhammā vā nivutthā, gocaranivāsena nivutthā, attano viññāṇena viññātā paricchinnā, paraviññāṇaviññātāpi vā chinnavaṭumakānussaraṇādīsu. Pubbenivāsānussatīti yāya satiyā pubbenivāsaṃ anussarati, sā pubbenivāsānussati. Ñāṇanti tāya satiyā sampayuttañāṇaṃ. Evamimassa pubbenivāsānussatiñāṇassa atthāya pubbenivāsānussatiñāṇāya etassa ñāṇassa adhigamāya pattiyāti vuttaṃ hoti. Abhininnāmesinti abhinīhariṃ.
Trong cụm từ “cho trí nhớ các đời quá khứ” (Nhớ lại tiền thân): như vậy, khi tâm này đã trở thành nền tảng cho thắng trí, (Ngài hướng tâm) vì mục đích của trí tuệ đó trong việc nhớ lại các đời quá khứ. Trong đó, “đời quá khứ” là các uẩn đã từng hiện hữu trong các kiếp quá khứ. Từ “đã từng hiện hữu” có nghĩa là đã từng trú ngụ, đã từng kinh qua, các pháp đã từng hiện hữu là đã sanh khởi rồi diệt tận trong dòng tâm thức của chính mình; hoặc đã từng hiện hữu theo nghĩa là nơi trú ngụ của đối tượng; được biết đến, được phân định bởi thức của chính mình; hoặc cũng có thể được biết đến bởi thức của người khác, như trong trường hợp nhớ lại cuống rốn đã bị cắt và các trường hợp tương tự. Cụm từ “sự nhớ lại các đời quá khứ” là niệm nào mà nhờ đó vị ấy nhớ lại các đời quá khứ, đó là sự nhớ lại các đời quá khứ. Từ “Trí” là trí tuệ tương ưng với niệm đó. Như vậy, (hướng tâm) vì mục đích của trí nhớ các đời quá khứ này, cho trí nhớ các đời quá khứ, có nghĩa là để chứng đắc, để đạt được trí tuệ này. Từ “đã hướng đến” có nghĩa là Ta đã hướng tâm đến.
Soti so ahaṃ. Anekavihitanti anekavidhaṃ, anekehi vā pakārehi pavattitaṃ saṃvaṇṇitanti attho. Pubbenivāsanti samanantarātītaṃ bhavaṃ ādiṃ katvā tattha tattha nivutthasantānaṃ. Anussarāmīti ‘‘ekampi jātiṃ dvepi jātiyo’’ti evaṃ jātipaṭipāṭiyā anugantvā anugantvā sarāmi, anudeva vā sarāmi, citte abhininnāmitamatte eva sarāmīti dasseti. Pūritapāramīnañhi mahāpurisānaṃ parikammakaraṇaṃ natthi, tena te cittaṃ abhininnāmetvāva saranti. Ādikammikakulaputtā pana parikammaṃ katvāva saranti, tasmā tesaṃ vasena parikammaṃ vattabbaṃ siyā. Taṃ pana vuccamānaṃ atibhāriyaṃ vinayanidānaṃ karoti, tasmā taṃ na vadāma. Atthikehi pana visuddhimagge (visuddhi. 2.402 ādayo) vuttanayeneva gahetabbaṃ. Idha pana pāḷimeva vaṇṇayissāma.
Trong đó, từ ‘Ngài ấy’ (ám chỉ Đức Phật trong câu kinh được dẫn ở đoạn trước) có nghĩa là ‘Ta’. Từ ‘nhiều cách khác nhau’ có nghĩa là nhiều loại, hoặc được diễn tiến, được mô tả bằng nhiều cách. ‘Đời quá khứ’ là các dòng hiện hữu đã từng trú ngụ ở nơi này nơi kia, bắt đầu từ đời sống ngay trước đời này. Từ ‘Ta nhớ lại’ cho thấy rằng: ‘Ta nhớ lại một đời, hai đời…’ như vậy là Ta nhớ lại bằng cách lần theo thứ tự các đời sống, hoặc Ta nhớ lại ngay lập tức, chỉ cần hướng tâm đến là Ta nhớ lại. Thật vậy, các bậc Đại nhân đã viên mãn Ba-la-mật thì không cần phải thực hành các công việc chuẩn bị (cho thắng trí); do đó, các Ngài chỉ cần hướng tâm đến là nhớ lại. Còn các thiện nam tử mới bắt đầu tu tập thì phải thực hành các công việc chuẩn bị rồi mới nhớ lại; do đó, theo trường hợp của họ, có lẽ cần phải nói đến các công việc chuẩn bị. Nhưng nếu nói đến điều đó (ở đây) thì sẽ làm cho phần dẫn nhập Luật này trở nên quá nặng nề, do đó chúng tôi không nói đến. Tuy nhiên, những ai muốn tìm hiểu thì có thể tham khảo theo phương pháp đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 2.402 trở đi). Còn ở đây, chúng tôi sẽ chỉ chú giải Pāḷi mà thôi.
Seyyathidanti āraddhappakāradassanatthe nipāto. Teneva yvāyaṃ pubbenivāso āraddho, tassa pakārappabhedaṃ dassento ekampi jātintiādimāha. Tattha ekampi jātinti ekampi paṭisandhimūlaṃ cutipariyosānaṃ ekabhavapariyāpannaṃ khandhasantānaṃ. Esa nayo dvepi jātiyotiādīsu. Anekepi saṃvaṭṭakappetiādīsu pana parihāyamāno kappo saṃvaṭṭakappo, vaḍḍhamāno vivaṭṭakappoti veditabbo. Tattha ca saṃvaṭṭena saṃvaṭṭaṭṭhāyī gahito hoti tammūlakattā. Vivaṭṭena ca vivaṭṭaṭṭhāyī. Evañhi sati yāni tāni ‘‘cattārimāni, bhikkhave, kappassa asaṅkhyeyyāni . Katamāni cattāri? Saṃvaṭṭo saṃvaṭṭaṭṭhāyī, vivaṭṭo vivaṭṭaṭṭhāyī’’ti vuttāni tāni sabbāni pariggahitāni honti.
Từ ‘Ví như’ là một tiểu từ với ý nghĩa chỉ ra cách thức đã được bắt đầu. Chính vì thế, để chỉ ra sự phân loại các cách thức của việc nhớ lại đời quá khứ đã được bắt đầu đó, Ngài nói: ‘một đời…’ và những điều theo sau. Trong đó, ‘một đời’ có nghĩa là một dòng ngũ uẩn thuộc về một đời sống, bắt đầu từ sự tái sanh và kết thúc bằng sự chết. Phương pháp này cũng áp dụng cho các trường hợp ‘hai đời’ và các trường hợp tương tự. Còn trong các cụm từ như ‘nhiều kiếp hoại’ và các cụm từ tương tự, cần hiểu rằng kiếp đang suy tàn là kiếp hoại, kiếp đang tăng trưởng là kiếp thành. Và ở đó, do kiếp hoại mà kiếp trụ trong hoại được bao gồm, vì nó lấy kiếp hoại làm gốc. Và do kiếp thành mà kiếp trụ trong thành (được bao gồm). Khi hiểu như vậy, thì tất cả bốn giai đoạn được gọi là ‘Này các Tỳ khưu, có bốn bất khả tư nghị của kiếp. Bốn điều đó là gì? Kiếp hoại, kiếp trụ trong hoại, kiếp thành, kiếp trụ trong thành’ đều được bao gồm.
Tattha tayo saṃvaṭṭā – tejosaṃvaṭṭo, āposaṃvaṭṭo, vāyosaṃvaṭṭoti. Tisso saṃvaṭṭasīmā – ābhassarā, subhakiṇhā, vehapphalāti. Yadā kappo tejena saṃvaṭṭati, ābhassarato heṭṭhā agginā ḍayhati. Yadā udakena saṃvaṭṭati, subhakiṇhato heṭṭhā udakena vilīyati. Yadā vātena saṃvaṭṭati, vehapphalato heṭṭhā vātena viddhaṃsiyati. Vitthārato pana sadāpi ekaṃ buddhakkhettaṃ vinassati.
Trong đó, có ba loại kiếp hoại: kiếp hoại do lửa, kiếp hoại do nước, và kiếp hoại do gió. Có ba giới hạn của sự hoại kiếp: cõi trời Quang Âm, cõi trời Biến Tịnh, và cõi trời Quảng Quả. Khi kiếp hoại bởi lửa, (thế giới) từ cõi Quang Âm trở xuống bị lửa thiêu đốt. Khi kiếp hoại bởi nước, (thế giới) từ cõi Biến Tịnh trở xuống bị nước làm tan rã. Khi kiếp hoại bởi gió, (thế giới) từ cõi Quảng Quả trở xuống bị gió phá hủy. Tuy nhiên, nói một cách chi tiết, thì mỗi lần (hoại kiếp) có một Phật độ bị hủy diệt.
Buddhakkhettaṃ nāma tividhaṃ hoti – jātikkhettaṃ, āṇākkhettaṃ, visayakkhettañca. Tattha jātikkhettaṃ dasasahassacakkavāḷapariyantaṃ hoti, yaṃ tathāgatassa paṭisandhiādīsu kampati. Āṇākkhettaṃ koṭisatasahassacakkavāḷapariyantaṃ hoti. Yattha ratanaparittaṃ, khandhaparittaṃ, dhajaggaparittaṃ, āṭānāṭiyaparittaṃ, moraparittanti imesaṃ parittānaṃ ānubhāvo pavattati. Visayakkhettaṃ pana anantaṃ aparimāṇaṃ, ‘‘yaṃ yāvatā vā pana ākaṅkheyyā’’ti (a. ni. 3.81) vuttaṃ yattha yaṃ yaṃ ākaṅkhati taṃ taṃ anussarati. Evametesu tīsu buddhakkhettesu ekaṃ āṇākkhettaṃ vinassati. Tasmiṃ pana vinassante jātikkhettampi vinaṭṭhameva hoti; vinassantañca ekatova vinassati, saṇṭhahantampi ekatova saṇṭhahati. Tassa vināso ca saṇṭhahanañca visuddhimagge (visuddhi. 2.404) vuttaṃ. Atthikehi tato gahetabbaṃ.
Phật độ có ba loại: sanh độ, quyền độ, và cảnh độ. Trong đó, sanh độ có giới hạn là mười ngàn thế giới hệ, là nơi rung chuyển khi Như Lai tái sanh và các sự kiện tương tự. Quyền độ có giới hạn là một trăm ngàn ức (một tỷ) thế giới hệ. Nơi đó, uy lực của các bài kinh hộ trì như kinh Hộ Trì Tam Bảo, kinh Hộ Trì Uẩn, kinh Ngọn Cờ, kinh Aṭānāṭiya, kinh Khổng Tước được lưu hành. Còn cảnh độ thì vô biên, vô lượng; như có lời nói: ‘chừng nào Như Lai còn mong muốn’ (a. ni. 3.81), nghĩa là nơi nào Ngài mong muốn điều gì, Ngài đều nhớ lại được điều đó. Như vậy, trong ba Phật độ này, một quyền độ bị hủy diệt. Và khi quyền độ đó bị hủy diệt, thì sanh độ cũng bị hủy diệt theo; và khi hủy diệt thì cùng hủy diệt một lúc, khi thành lập thì cũng cùng thành lập một lúc. Sự hủy diệt và thành lập của nó đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 2.404). Những ai muốn tìm hiểu thì có thể tham khảo từ đó.
Ye panete saṃvaṭṭavivaṭṭā vuttā, etesu bhagavā bodhimaṇḍe sammāsambodhiṃ abhisambujjhanatthāya nisinno anekepi saṃvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe anekepi saṃvaṭṭavivaṭṭakappe sari. Kathaṃ? ‘‘Amutrāsi’’ntiādinā nayena. Tattha amutrāsinti amumhi saṃvaṭṭakappe ahaṃ amumhi bhave vā yoniyā vā gatiyā vā viññāṇaṭṭhitiyā vā sattāvāse vā sattanikāye vā ahosiṃ. Evaṃnāmoti vessantaro vā jotipālo vā. Evaṃgottoti bhaggavo vā gotamo vā. Evaṃvaṇṇoti odāto vā sāmo vā. Evamāhāroti sālimaṃsodanāhāro vā pavattaphalabhojano vā. Evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedīti anekappakārena kāyikacetasikānaṃ sāmisanirāmisādippabhedānaṃ vā sukhadukkhānaṃ paṭisaṃvedī. Evamāyupariyantoti evaṃ vassasataparamāyupariyanto vā caturāsītikappasahassaparamāyupariyanto vā.
Và những kiếp hoại, kiếp thành đã được nói đến này, trong đó, Đấng Thế Tôn, khi ngồi dưới Bồ Đề Đạo Tràng để chứng ngộ Chánh Đẳng Chánh Giác, đã nhớ lại nhiều kiếp hoại, nhiều kiếp thành, nhiều kiếp hoại-thành. Như thế nào? Bằng phương pháp bắt đầu từ câu ‘Ta đã ở nơi kia…’ và các câu tương tự. Trong đó, ‘Ta đã ở nơi kia’ có nghĩa là: trong kiếp hoại kia, Ta đã ở trong cảnh giới kia, hoặc loài sanh kia, hoặc thú kia, hoặc trú của thức kia, hoặc trú của chúng sanh kia, hoặc tập hợp chúng sanh kia. ‘Tên như vậy’ có nghĩa là (tên) Vessantara hoặc Jotipāla. ‘Dòng họ như vậy’ có nghĩa là (dòng họ) Bhaggava hoặc Gotama. ‘Nước da như vậy’ có nghĩa là trắng hoặc ngăm đen. ‘Thức ăn như vậy’ có nghĩa là thức ăn là cơm gạo Sāli và thịt, hoặc chỉ ăn trái cây. ‘Cảm thọ khổ lạc như vậy’ có nghĩa là cảm nhận nhiều loại khổ lạc thuộc thân và tâm, thuộc loại có vật chất quyến thuộc hoặc không có vật chất quyến thuộc và các loại khác. ‘Giới hạn tuổi thọ như vậy’ có nghĩa là giới hạn tuổi thọ tối đa là một trăm năm, hoặc giới hạn tuổi thọ tối đa là tám mươi bốn ngàn đại kiếp.
Sotato cuto amutra udapādinti so ahaṃ tato bhavato yonito gatito viññāṇaṭṭhitito sattāvāsato sattanikāyato vā cuto, puna amukasmiṃ nāma bhave yoniyā gatiyā viññāṇaṭṭhitiyā sattāvāse sattanikāye vā udapādiṃ. Tatrāpāsinti atha tatrāpi bhave yoniyā gatiyā viññāṇaṭṭhitiyā sattāvāse sattanikāye vā puna ahosiṃ. Evaṃnāmotiādi vuttanayameva.
Cụm từ ‘Chết từ nơi đó, sanh lại nơi kia’ có nghĩa là: Ta, sau khi chết từ cảnh giới đó, hoặc loài sanh đó, hoặc thú đó, hoặc trú của thức đó, hoặc trú của chúng sanh đó, hoặc tập hợp chúng sanh đó, lại sanh vào một cảnh giới, loài sanh, thú, trú của thức, trú của chúng sanh, hoặc tập hợp chúng sanh có tên là như vậy. Cụm từ ‘Ở đó Ta cũng đã là’ có nghĩa là: rồi ở cảnh giới, loài sanh, thú, trú của thức, trú của chúng sanh, hoặc tập hợp chúng sanh đó, Ta lại hiện hữu. ‘Tên như vậy’ và các chi tiết khác được hiểu theo phương pháp đã nói.
Atha vā yasmā amutrāsinti idaṃ anupubbena ārohantassa yāvadicchakaṃ saraṇaṃ. So tato cutoti paṭinivattantassa paccavekkhaṇaṃ. Tasmā idhūpapannoti imissā idhūpapattiyā anantaraṃ amutra udapādinti tusitabhavanaṃ sandhāyāhāti veditabbaṃ. Tatrāpāsiṃ evaṃnāmoti tatrāpi tusitabhavane setaketu nāma devaputto ahosiṃ. Evaṃgottoti tāhi devatāhi saddhiṃ ekagotto. Evaṃvaṇṇoti suvaṇṇavaṇṇo. Evamāhāroti dibbasudhāhāro. Evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedīti evaṃ dibbasukhappaṭisaṃvedī. Dukkhaṃ pana saṅkhāradukkhamattameva. Evamāyupariyantoti evaṃ sattapaññāsavassakoṭisaṭṭhivassasatasahassāyupariyanto. So tato cutoti so ahaṃ tato tusitabhavanato cuto. Idhūpapannoti idha mahāmāyāya deviyā kucchimhi nibbatto.
Hoặc nữa, bởi vì trong câu “Ta đã ở nơi kia”, đây là sự nhớ lại theo tuần tự ngược dòng đến bất cứ lúc nào mong muốn. Câu “Chết từ nơi đó” là sự quán xét khi quay trở lại (theo dòng thời gian). Do đó, trong câu “sanh lại nơi đây”, cần hiểu là Ngài muốn nói đến sự tái sanh từ cung trời Tusita (Đâu Suất) ngay sau đời sống này (trước khi thành Phật). Câu “Ở đó Ta cũng đã là, tên như vậy” có nghĩa là: ở cung trời Tusita đó, Ta là một vị trời tên là Setaketu. “Dòng họ như vậy” có nghĩa là cùng một dòng họ với các vị trời đó. “Nước da như vậy” có nghĩa là nước da vàng óng. “Thức ăn như vậy” có nghĩa là thức ăn cam lồ của chư thiên. “Cảm thọ khổ lạc như vậy” có nghĩa là cảm nhận lạc thú của chư thiên như vậy. Còn khổ thì chỉ là khổ do các hành mà thôi. “Giới hạn tuổi thọ như vậy” có nghĩa là giới hạn tuổi thọ là năm mươi bảy triệu sáu trăm ngàn năm. “Chết từ nơi đó” có nghĩa là Ta, sau khi chết từ cung trời Tusita đó. “Sanh lại nơi đây” có nghĩa là ở đây, Ta đã được sinh ra trong lòng hoàng hậu Mahāmāyā.
Itīti evaṃ. Sākāraṃ sauddesanti nāmagottavasena sauddesaṃ, vaṇṇādivasena sākāraṃ. Nāmagottavasena hi satto ‘‘datto, tisso, gotamo’’ti uddisīyati; vaṇṇādīhi odāto, sāmoti nānattato paññāyati; tasmā nāmagottaṃ uddeso, itare ākārā. Kiṃ pana buddhāyeva pubbenivāsaṃ sarantīti? Vuccate – na buddhāyeva, paccekabuddha-buddhasāvaka-titthiyāpi, no ca kho avisesena. Titthiyā hi cattālīsaṃyeva kappe saranti, na tato paraṃ. Kasmā? Dubbalapaññattā. Tesañhi nāmarūpaparicchedavirahato dubbalā paññā hoti. Sāvakesu pana asītimahāsāvakā kappasatasahassaṃ saranti; dve aggasāvakā ekamasaṅkhyeyyaṃ satasahassañca. Paccekabuddhā dve asaṅkhyeyyāni satasahassañca. Ettako hi tesaṃ abhinīhāro. Buddhānaṃ pana paricchedo natthi, yāva icchanti tāva saranti. Titthiyā ca khandhapaṭipāṭimeva saranti. Paṭipāṭiṃ muñcitvā cutipaṭisandhivasena sarituṃ na sakkonti. Tesañhi andhānaṃ viya icchitappadesokkamanaṃ natthi. Sāvakā ubhayathāpi saranti; tathā paccekabuddhā. Buddhā pana khandhapaṭipāṭiyāpi cutipaṭisandhivasenapi sīhokkantavasenapi anekāsu kappakoṭīsu heṭṭhā vā upari vā yaṃ yaṃ ṭhānaṃ ākaṅkhanti, taṃ sabbaṃ sarantiyeva.
Từ “Như vậy” có nghĩa là như thế. Cụm từ “với các chi tiết và đặc điểm” có nghĩa là với đặc điểm qua tên và dòng họ, với các chi tiết qua nước da và các yếu tố tương tự. Thật vậy, chúng sanh được chỉ định bằng tên và dòng họ như “Datta, Tissa, Gotama”; còn qua nước da và các yếu tố khác thì được biết đến với nhiều vẻ khác nhau như trắng, ngăm đen; do đó, tên và dòng họ là đặc điểm (để chỉ định), các yếu tố khác là chi tiết (mô tả). Nhưng phải chăng chỉ có các Đức Phật mới nhớ lại được các đời quá khứ? (Trả lời:) Không chỉ có các Đức Phật, mà cả các vị Độc Giác Phật, các vị Phật Thanh Văn, và cả những người ngoại đạo cũng (có thể nhớ lại), nhưng không phải không có sự khác biệt. Những người ngoại đạo chỉ nhớ lại được bốn mươi kiếp mà thôi, không thể hơn nữa. Tại sao? Vì trí tuệ của họ yếu kém. Thật vậy, do không phân biệt được danh và sắc, trí tuệ của họ trở nên yếu kém. Còn trong số các vị Thanh Văn, tám mươi vị Đại Thanh Văn nhớ lại được một trăm ngàn kiếp; hai vị Thượng Thủ Thanh Văn nhớ lại được một a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp. Các vị Độc Giác Phật nhớ lại được hai a-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp. Đó là phạm vi phát nguyện của các Ngài. Còn đối với các Đức Phật thì không có giới hạn, các Ngài muốn nhớ lại đến đâu thì nhớ lại đến đó. Và những người ngoại đạo chỉ nhớ lại theo thứ tự của các uẩn. Họ không thể bỏ qua thứ tự đó mà nhớ lại theo cách chết rồi tái sanh. Thật vậy, đối với họ, việc đi đến một nơi mong muốn (trong ký ức) cũng giống như người mù vậy. Các vị Thanh Văn nhớ lại được theo cả hai cách; các vị Độc Giác Phật cũng vậy. Còn các Đức Phật thì nhớ lại theo cả thứ tự các uẩn, theo cách chết rồi tái sanh, và theo cách của sư tử nhảy vọt, nhớ lại tất cả những nơi nào các Ngài muốn, dù ở dưới hay ở trên, qua nhiều triệu ức kiếp.
Ayaṃ kho me brāhmaṇātiādīsu meti mayā. Vijjāti viditakaraṇaṭṭhena vijjā. Kiṃ viditaṃ karoti? Pubbenivāsaṃ. Avijjāti tasseva pubbenivāsassa aviditakaraṇaṭṭhena tappaṭicchādakamoho vuccati. Tamoti sveva moho tappaṭicchādakaṭṭhena ‘‘tamo’’ti vuccati. Ālokoti sāyevavijjā obhāsakaraṇaṭṭhena ‘‘āloko’’ti vuccati. Ettha ca vijjā adhigatāti ayaṃ attho, sesaṃ pasaṃsāvacanaṃ. Yojanā panettha – ayaṃ kho me vijjā adhigatā, tassa me adhigatavijjassa avijjā vihatā, vinaṭṭhāti attho. Kasmā? Yasmā vijjā uppannā. Esa nayo itarasmimpi padadvaye.
Trong câu “Này Bà la môn, đây là minh của Ta…” và các câu tương tự, từ “của Ta” có nghĩa là ‘bởi Ta’. Từ “Minh” là minh vì có tác dụng làm cho biết rõ. Làm cho biết rõ điều gì? Các đời quá khứ. Từ “Vô minh” được gọi là si mê che lấp các đời quá khứ ấy, vì có tác dụng làm cho không biết rõ chúng. Từ “Bóng tối” chính là si mê ấy, được gọi là ‘bóng tối’ vì có tác dụng che lấp. Từ “Ánh sáng” chính là minh ấy, được gọi là ‘ánh sáng’ vì có tác dụng làm cho sáng tỏ. Ở đây, ý nghĩa là ‘minh đã được chứng đắc’, phần còn lại là lời tán thán. Cách kết hợp ý nghĩa ở đây là: Minh này đã được Ta chứng đắc; đối với Ta, người đã chứng đắc minh, vô minh đã bị hủy diệt, đã bị tiêu trừ. Tại sao? Vì minh đã sanh khởi. Phương pháp này cũng áp dụng cho hai cặp từ còn lại (bóng tối bị hủy diệt, ánh sáng sanh khởi).
Yathā tanti ettha yathāti opammatthe. Tanti nipāto. Satiyā avippavāsena appamattassa. Vīriyātāpena ātāpino. Kāye ca jīvite ca anapekkhatāya pahitattassa, pesitacittassāti attho. Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā appamattassa ātāpino pahitattassa viharato avijjā vihaññeyya vijjā uppajjeyya, tamo vihaññeyya āloko uppajjeyya; evameva mama avijjā vihatā vijjā uppannā, tamo vihato āloko uppanno. Etassa me padhānānuyogassa anurūpameva phalaṃ laddhanti.
Trong cụm từ ‘cũng như vậy’: ở đây, từ ‘như’ có ý nghĩa so sánh. Từ ‘vậy’ là một tiểu từ. ‘Người không buông lung’ là người không xa rời chánh niệm. ‘Người tinh cần’ là người có sự nỗ lực nhiệt tâm. ‘Người có tâm đã hướng đến’ là người không luyến tiếc thân và mạng, có nghĩa là người có tâm đã được sai đi (hướng về mục tiêu). Điều này có nghĩa là: cũng như đối với người không buông lung, tinh cần, có tâm đã hướng đến mà sống, vô minh sẽ bị hủy diệt, minh sẽ sanh khởi; bóng tối sẽ bị hủy diệt, ánh sáng sẽ sanh khởi; cũng vậy, vô minh của Ta đã bị hủy diệt, minh đã sanh khởi; bóng tối của Ta đã bị hủy diệt, ánh sáng đã sanh khởi. Ta đã đạt được kết quả tương xứng với sự chuyên cần nỗ lực này của mình.
Ayaṃ kho me brāhmaṇa paṭhamā abhinibbhidā ahosi kukkuṭacchāpakasseva aṇḍakosamhāti ayaṃ kho mama brāhmaṇa pubbenivāsānussatiñāṇamukhatuṇḍakena pubbe nivutthakkhandhapaṭicchādakaṃ avijjaṇḍakosaṃ padāletvā paṭhamā abhinibbhidā paṭhamā nikkhanti paṭhamā ariyājāti ahosi, kukkuṭacchāpakasseva mukhatuṇḍakena vā pādanakhasikhāya vā aṇḍakosaṃ padāletvā tamhā aṇḍakosamhā abhinibbhidā nikkhanti kukkuṭanikāye paccājātīti.
Câu “Này Bà la môn, đó là sự đột phá đầu tiên của Ta, cũng như con gà con (phá vỏ) từ trong trứng” có nghĩa là: Này Bà la môn, đây là sự đột phá đầu tiên, sự thoát ly đầu tiên, sự Thánh sanh đầu tiên của Ta, khi Ta dùng cái mỏ là trí nhớ các đời quá khứ phá vỡ vỏ trứng vô minh che lấp các uẩn đã từng hiện hữu trong quá khứ; cũng như sự đột phá, sự thoát ly, sự tái sanh trong loài gà của con gà con khi nó dùng mỏ hoặc đầu móng chân phá vỡ vỏ trứng rồi thoát ra khỏi vỏ trứng ấy.
Pubbenivāsakathā niṭṭhitā.
Luận về Túc Mạng Minh kết thúc.
Dibbacakkhuñāṇakathā
Luận về Thiên Nhãn Minh
13.Soevaṃ…pe… cutūpapātañāṇāyāti cutiyā ca upapāte ca ñāṇāya; yena ñāṇena sattānaṃ cuti ca upapāto ca ñāyati, tadatthanti vuttaṃ hoti. Cittaṃ abhininnāmesinti parikammacittaṃ nīhariṃ. So dibbena…pe… passāmīti ettha pana pūritapāramīnaṃ mahāsattānaṃ parikammakaraṇaṃ natthi. Te hi citte abhininnāmitamatte eva dibbena cakkhunā satte passanti, ādikammikakulaputtā pana parikammaṃ katvā. Tasmā tesaṃ vasena parikammaṃ vattabbaṃ siyā. Taṃ pana vuccamānaṃ atibhāriyaṃ vinayanidānaṃ karoti; tasmā taṃ na vadāma. Atthikehi pana visuddhimagge (visuddhi. 2.411) vuttanayena gahetabbaṃ. Idha pana pāḷimeva vaṇṇayissāma.
13. Trong câu ‘Khi tâm đã định tĩnh như vậy…v.v… cho trí biết về sự chết và sự sanh của chúng sanh’: (nghĩa là) cho trí tuệ về sự chết và sự sanh; có nghĩa là, vì mục đích của trí tuệ nào mà nhờ đó sự chết và sự sanh của chúng sanh được biết đến. Từ ‘Ta đã hướng tâm đến’ có nghĩa là Ta đã hướng tâm chuẩn bị. Trong câu ‘Ta với thiên nhãn…v.v… thấy chúng sanh’: ở đây, các bậc Đại Bồ Tát đã viên mãn Ba-la-mật thì không cần phải thực hành các công việc chuẩn bị. Thật vậy, các Ngài chỉ cần hướng tâm đến là thấy chúng sanh bằng thiên nhãn; còn các thiện nam tử mới bắt đầu tu tập thì phải thực hành các công việc chuẩn bị. Do đó, theo trường hợp của họ, có lẽ cần phải nói đến các công việc chuẩn bị. Nhưng nếu nói đến điều đó (ở đây) thì sẽ làm cho phần dẫn nhập Luật này trở nên quá nặng nề; do đó chúng tôi không nói đến. Tuy nhiên, những ai muốn tìm hiểu thì có thể tham khảo theo phương pháp đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 2.411). Còn ở đây, chúng tôi sẽ chỉ chú giải Pāḷi mà thôi.
Soti so ahaṃ. Dibbenātiādīsu dibbasadisattā dibbaṃ. Devatānañhi sucaritakammanibbattaṃ pittasemharuhirādīhi apalibuddhaṃ upakkilesavinimuttatāya dūrepi ārammaṇasampaṭicchanasamatthaṃ dibbaṃ pasādacakkhu hoti. Idañcāpi vīriyabhāvanābalanibbattaṃ ñāṇacakkhu tādisamevāti dibbasadisattā dibbaṃ, dibbavihāravasena paṭiladdhattā attanā ca dibbavihārasannissitattāpi dibbaṃ, ālokapariggahena mahājutikattāpi dibbaṃ, tirokuṭṭādigatarūpadassanena mahāgatikattāpi dibbaṃ. Taṃ sabbaṃ saddasatthānusārena veditabbaṃ. Dassanaṭṭhena cakkhu. Cakkhukiccakaraṇena cakkhumivātipi cakkhu. Cutūpapātadassanena diṭṭhivisuddhihetuttā visuddhaṃ. Yo hi cutimattameva passati na upapātaṃ, so ucchedadiṭṭhiṃ gaṇhāti. Yo upapātamattameva passati na cutiṃ, so navasattapātubhāvadiṭṭhiṃ gaṇhāti. Yo pana tadubhayaṃ passati, so yasmā duvidhampi taṃ diṭṭhigataṃ ativattati, tasmāssa taṃ dassanaṃ diṭṭhivisuddhihetu hoti. Tadubhayañca bhagavā addasa. Tenetaṃ vuttaṃ – ‘‘cutūpapātadassanena diṭṭhivisuddhihetuttā visuddha’’nti.
Trong đó, từ ‘Ngài ấy’ (ám chỉ Đức Phật trong câu kinh được dẫn) có nghĩa là ‘Ta’. Trong các từ như ‘bằng thiên nhãn’ và các từ tương tự: (nhãn này) ‘thiên’ (thiêng liêng, thuộc về trời) vì nó giống như mắt của chư thiên. Thật vậy, chư thiên có thiên nhãn là nhãn thanh tịnh, được tạo ra do nghiệp thiện, không bị ngăn che bởi mật, đờm, máu và các thứ tương tự, có khả năng tiếp nhận đối tượng ở xa do đã thoát khỏi các tùy phiền não. Và trí nhãn này, được tạo ra do năng lực của sự tinh tấn tu tập, cũng giống như vậy, nên (gọi là) ‘thiên’ vì giống như mắt của chư thiên; cũng là ‘thiên’ vì được chứng đắc nhờ các thiên trú và tự nó cũng nương tựa vào các thiên trú; cũng là ‘thiên’ vì có ánh sáng lớn nhờ sự nắm bắt ánh sáng; cũng là ‘thiên’ vì có phạm vi rộng lớn do thấy được các sắc pháp ở xa bị che khuất bởi tường vách và các vật tương tự. Tất cả những điều đó cần được hiểu theo ngữ pháp. Từ ‘Nhãn’ (mắt) vì có tác dụng thấy. Hoặc cũng là ‘nhãn’ vì nó thực hiện chức năng của mắt, giống như con mắt. (Thiên nhãn này) ‘thanh tịnh’ vì là nhân duyên cho sự thanh tịnh của tri kiến nhờ thấy được sự chết và sự sanh. Thật vậy, người nào chỉ thấy sự chết mà không thấy sự sanh, người đó chấp đoạn kiến. Người nào chỉ thấy sự sanh mà không thấy sự chết, người đó chấp tà kiến về sự xuất hiện của một chúng sanh mới. Còn người nào thấy cả hai (chết và sanh), vì người đó vượt qua cả hai loại tà kiến ấy, nên sự thấy biết đó của người ấy là nhân duyên cho sự thanh tịnh của tri kiến. Và Đấng Thế Tôn đã thấy cả hai điều đó. Do đó, có lời nói rằng: ‘(Thiên nhãn này) thanh tịnh vì là nhân duyên cho sự thanh tịnh của tri kiến nhờ thấy được sự chết và sự sanh.’
Ekādasaupakkilesavirahato vā visuddhaṃ. Bhagavato hi ekādasapakkilesavirahitaṃ dibbacakkhu. Yathāha – ‘‘so kho ahaṃ, anuruddha, ‘vicikicchā cittassa upakkileso’ti iti viditvā vicikicchaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahiṃ. Amanasikāro…pe… thinamiddhaṃ… chambhitattaṃ… uppilaṃ… duṭṭhullaṃ… accāraddhavīriyaṃ… atilīnavīriyaṃ… abhijappā… nānattasaññā… ‘atinijjhāyitattaṃ rūpānaṃ cittassa upakkileso’ti iti viditvā atinijjhāyitattaṃ rūpānaṃ cittassa upakkilesaṃ pajahiṃ. So kho ahaṃ, anuruddha, appamatto ātāpī pahitatto viharanto obhāsañhi kho sañjānāmi, na ca rūpāni passāmi. Rūpāni hi kho passāmi, na ca obhāsaṃ sañjānāmī’’ti (ma. ni. 3.242-243) evamādi. Tadevaṃ ekādasupakkilesavirahato visuddhaṃ.
Hoặc, (thiên nhãn này) thanh tịnh vì đã thoát khỏi mười một tùy phiền não. Thật vậy, thiên nhãn của Đấng Thế Tôn đã thoát khỏi mười một tùy phiền não. Như Ngài đã dạy: ‘Này Anuruddha, Ta, sau khi biết rõ: “Hoài nghi là tùy phiền não của tâm”, đã đoạn trừ hoài nghi là tùy phiền não của tâm. Sự không tác ý…v.v… hôn trầm-thụy miên… sự sợ hãi… sự phấn chấn quá mức… sự ác độc… sự tinh tấn quá độ… sự tinh tấn quá yếu… sự khao khát… các tưởng khác nhau… “Sự quán sát quá mức các sắc pháp là tùy phiền não của tâm”, sau khi biết rõ như vậy, Ta đã đoạn trừ sự quán sát quá mức các sắc pháp là tùy phiền não của tâm. Này Anuruddha, Ta, khi sống không buông lung, nhiệt tâm, tinh cần, có lúc Ta nhận biết ánh sáng mà không thấy các sắc pháp. Có lúc Ta thấy các sắc pháp mà không nhận biết ánh sáng.’ (ma. ni. 3.242-243) và các đoạn tương tự. Như vậy, (thiên nhãn) thanh tịnh do đã thoát khỏi mười một tùy phiền não.
Manussūpacāraṃ atikkamitvā rūpadassanena atikkantamānusakaṃ; mānusakaṃ vā maṃsacakkhuṃ atikkantattā atikkantamānusakanti veditabbaṃ. Tena dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena.
Từ ‘vượt ngoài mắt thường của người’ vì thấy được các sắc pháp bằng cách vượt qua phạm vi (thấy) của loài người; hoặc cần hiểu là ‘vượt ngoài mắt thường của người’ vì nó đã vượt qua con mắt thịt của loài người. (Thấy) bằng thiên nhãn ấy, vốn thanh tịnh, vượt ngoài mắt thường của người.
Sattepassāmīti manussamaṃsacakkhunā viya satte passāmi dakkhāmi olokemi. Cavamāne upapajjamāneti ettha cutikkhaṇe vā upapattikkhaṇe vā dibbacakkhunā daṭṭhuṃ na sakkā, ye pana āsannacutikā idāni cavissanti te cavamānā. Ye ca gahitapaṭisandhikā sampatinibbattā vā, te upapajjamānāti adhippetā. Te evarūpe cavamāne upapajjamāne ca passāmīti dasseti. Hīneti mohanissandayuttattā hīnānaṃ jātikulabhogādīnaṃ vasena hīḷite ohīḷite uññāte avaññāte. Paṇīteti amohanissandayuttattā tabbiparīte. Suvaṇṇeti adosanissandayuttattā iṭṭhakantamanāpavaṇṇayutte. Dubbaṇṇeti dosanissandayuttattā aniṭṭhākantaamanāpavaṇṇayutte; abhirūpe virūpetipi attho. Sugateti sugatigate, alobhanissandayuttattā vā aḍḍhe mahaddhane. Duggateti duggatigate, lobhanissandayuttattā vā dalidde appannapāne. Yathākammūpageti yaṃ yaṃ kammaṃ upacitaṃ tena tena upagate. Tattha purimehi ‘‘cavamāne’’tiādīhi dibbacakkhukiccaṃ vuttaṃ; iminā pana padena yathākammūpagañāṇakiccaṃ.
Từ ‘Ta thấy chúng sanh’ có nghĩa là Ta thấy, Ta nhận biết, Ta nhìn chúng sanh như thể bằng mắt thịt của loài người. Trong cụm từ ‘đang chết đi, đang sanh lại’: ở đây, không thể thấy bằng thiên nhãn ngay trong khoảnh khắc chết hoặc khoảnh khắc tái sanh. Nhưng những chúng sanh sắp chết, sẽ chết ngay bây giờ, đó là ‘đang chết đi’. Còn những chúng sanh đã thọ thai hoặc đã được tái sanh xong, đó được hiểu là ‘đang sanh lại’. (Câu kinh) cho thấy rằng: Ta thấy những chúng sanh như vậy đang chết đi và đang sanh lại. Từ ‘hèn kém’ có nghĩa là những người bị khinh miệt, bị coi thường, bị chê bai, bị đánh giá thấp về phương diện dòng dõi, gia tộc, tài sản thấp kém và các phương diện tương tự, do hậu quả của si mê. Từ ‘cao sang’ có nghĩa là những người ngược lại (với hạng hèn kém), do hậu quả của sự không si mê. Từ ‘đẹp đẽ’ có nghĩa là những người có dung sắc đáng ưa, đáng thích, đẹp lòng, do hậu quả của sự không sân hận. Từ ‘xấu xí’ có nghĩa là những người có dung sắc không đáng ưa, không đáng thích, không đẹp lòng, do hậu quả của sân hận; cũng có nghĩa là người đẹp và người xấu. Từ ‘được sanh về cõi lành’ có nghĩa là đi đến cõi tốt đẹp; hoặc là người giàu có, nhiều tài sản, do hậu quả của sự không tham lam. Từ ‘bị sanh vào cõi dữ’ có nghĩa là đi đến cõi xấu xa; hoặc là người nghèo khổ, ít thức ăn thức uống, do hậu quả của sự tham lam. Từ ‘tùy theo nghiệp của họ’ có nghĩa là họ đã đi đến (các cảnh giới) tùy theo nghiệp nào mà họ đã tích lũy. Trong đó, bằng các từ trước như ‘đang chết đi’ và các từ tương tự, phận sự của thiên nhãn đã được nói đến; còn bằng từ này (tùy theo nghiệp của họ), phận sự của trí biết chúng sanh tùy theo nghiệp đã được nói đến.
Tassa ca ñāṇassa ayamuppattikkamo – so heṭṭhā nirayābhimukhaṃ ālokaṃ vaḍḍhetvā nerayikasatte passati mahantaṃ dukkhamanubhavamāne, taṃ dassanaṃ dibbacakkhukiccameva. So evaṃ manasi karoti – ‘‘kinnu kho kammaṃ katvā ime sattā etaṃ dukkhamanubhavantī’’ti? Athassa ‘‘idaṃ nāma katvā’’ti taṃ kammārammaṇaṃ ñāṇaṃ uppajjati. Tathā upari devalokābhimukhaṃ ālokaṃ vaḍḍhetvā nandanavana-missakavana-phārusakavanādīsu satte passati mahāsampattiṃ anubhavamāne. Tampi dassanaṃ dibbacakkhukiccameva. So evaṃ manasi karoti – ‘‘kinnu kho kammaṃ katvā ime sattā etaṃ sampattiṃ anubhavantī’’ti? Athassa ‘‘idaṃ nāma katvā’’ti taṃkammārammaṇaṃ ñāṇaṃ uppajjati. Idaṃ yathākammūpagañāṇaṃ nāma. Imassa visuṃ parikammaṃ nāma natthi. Yathā cimassa, evaṃ anāgataṃsañāṇassapi. Dibbacakkhupādakāneva hi imāni dibbacakkhunā saheva ijjhanti.
Và trình tự phát sinh của trí tuệ đó là như sau: Vị ấy (người có thiên nhãn) hướng ánh sáng xuống phía địa ngục, thấy các chúng sanh địa ngục đang chịu đựng khổ đau ghê gớm; sự thấy biết đó chính là phận sự của thiên nhãn. Vị ấy tác ý như sau: ‘Do làm nghiệp gì mà các chúng sanh này phải chịu đựng khổ đau này?’ Rồi trí tuệ lấy nghiệp đó làm đối tượng phát sinh nơi vị ấy, (biết rằng): ‘Do đã làm nghiệp này.’ Tương tự, vị ấy hướng ánh sáng lên phía các cõi trời, thấy các chúng sanh trong các khu vườn như Nandanavana, Missakavana, Phārusakavana và các khu vườn tương tự đang hưởng thụ những thành tựu to lớn. Sự thấy biết đó cũng chính là phận sự của thiên nhãn. Vị ấy tác ý như sau: ‘Do làm nghiệp gì mà các chúng sanh này được hưởng thụ những thành tựu này?’ Rồi trí tuệ lấy nghiệp đó làm đối tượng phát sinh nơi vị ấy, (biết rằng): ‘Do đã làm nghiệp này.’ Đây được gọi là trí biết chúng sanh tùy theo nghiệp. Không có công việc chuẩn bị riêng biệt nào cho trí tuệ này. Cũng như đối với trí tuệ này, đối với cả trí biết về vị lai cũng vậy. Thật vậy, những trí tuệ này lấy thiên nhãn làm nền tảng, chúng thành tựu cùng với thiên nhãn.
Kāyaduccaritenātiādīsu duṭṭhu caritaṃ duṭṭhaṃ vā caritaṃ kilesapūtikattāti duccaritaṃ; kāyena duccaritaṃ, kāyato vā uppannaṃ duccaritanti kāyaduccaritaṃ. Evaṃ vacīmanoduccaritānipi daṭṭhabbāni. Samannāgatāti samaṅgībhūtā. Ariyānaṃ upavādakāti buddha-paccekabuddha-buddhasāvakānaṃ ariyānaṃ antamaso gihisotāpannānampi anatthakāmā hutvā antimavatthunā vā guṇaparidhaṃsanena vā upavādakā; akkosakā, garahakāti vuttaṃ hoti. Tattha ‘‘natthi imesaṃ samaṇadhammo, assamaṇā ete’’ti vadanto antimavatthunā upavadati. ‘‘Natthi imesaṃ jhānaṃ vā vimokkho vā maggo vā phalaṃ vā’’ti vadanto guṇaparidhaṃsanena upavadatīti veditabbo. So ca jānaṃ vā upavadeyya ajānaṃ vā, ubhayathāpi ariyūpavādova hoti. Bhāriyaṃ kammaṃ saggāvaraṇaṃ maggāvaraṇañca, satekicchaṃ pana hoti. Tassa ca āvibhāvatthaṃ idaṃ vatthumudāharanti –
Trong các từ như ‘do thân làm ác’ và các từ tương tự: hành vi xấu xa, hoặc hành vi bại hoại do phiền não làm thối rữa, là điều ác; điều ác do thân, hoặc điều ác phát sinh từ thân, là thân làm ác. Khẩu làm ác và ý làm ác cũng cần được hiểu tương tự. Từ ‘thành tựu’ có nghĩa là hợp nhất, đầy đủ. Từ ‘người phỉ báng các bậc Thánh’ có nghĩa là những người có ác ý đối với các bậc Thánh như Phật, Độc Giác Phật, Phật Thanh Văn, cho đến cả những vị cư sĩ Dự Lưu, mà phỉ báng các Ngài bằng cách vu khống điều tối hậu (phạm giới căn bản) hoặc bằng cách hủy hoại phẩm chất; tức là người mắng nhiếc, người khiển trách. Trong đó, người nói rằng: ‘Những vị này không có pháp của Sa môn, họ không phải là Sa môn’ là phỉ báng bằng cách vu khống điều tối hậu. Cần hiểu rằng, người nói rằng: ‘Những vị này không có thiền, hoặc giải thoát, hoặc đạo, hoặc quả’ là phỉ báng bằng cách hủy hoại phẩm chất. Và người đó dù biết hay không biết mà phỉ báng, cả hai trường hợp đều là phỉ báng bậc Thánh. (Đó là) nghiệp rất nặng, ngăn cản đường sanh về cõi trời và ngăn cản đạo lộ (giải thoát), tuy nhiên vẫn có thể chữa trị được (nếu sám hối). Và để làm sáng tỏ điều đó, họ nêu lên câu chuyện này –
‘‘Aññatarasmiṃ kira gāme eko thero ca daharabhikkhu ca piṇḍāya caranti. Te paṭhamaghareyeva uḷuṅkamattaṃ uṇhayāguṃ labhiṃsu. Therassa ca kucchivāto atthi. So cintesi – ‘ayaṃ yāgu mayhaṃ sappāyā, yāva na sītalā hoti tāva naṃ pivāmī’ti. So manussehi ummāratthāya āhaṭe dārukkhandhe nisīditvā taṃ pivi. Itaro taṃ jigucchi – ‘aticchāto vatāyaṃ mahallako amhākaṃ lajjitabbakaṃ akāsī’ti. Thero gāme caritvā vihāraṃ gantvā daharabhikkhuṃ āha – ‘atthi te, āvuso, imasmiṃ sāsane patiṭṭhā’ti? ‘Āma, bhante, sotāpanno aha’nti. ‘Tena hāvuso, uparimaggatthāya vāyāmaṃ mā akāsi, khīṇāsavo tayā upavadito’ti. So taṃ khamāpesi. Tenassa taṃ pākatikaṃ ahosi’’. Tasmā yo aññopi ariyaṃ upavadati, tena gantvā sace attanā vuḍḍhataro hoti, ‘‘ahaṃ āyasmantaṃ idañcidañca avacaṃ, taṃ me khamāhī’’ti khamāpetabbo. Sace navakataro hoti , vanditvā ukkuṭikaṃ nisīditvā añjaliṃ paggahetvā ‘‘ahaṃ bhante tumhe idañcidañca avacaṃ, taṃ me khamathā’’ti khamāpetabbo. Sace so nakkhamati disāpakkanto vā hoti, ye tasmiṃ vihāre bhikkhū vasanti tesaṃ santikaṃ gantvā sace attanā vuḍḍhataro hoti ṭhitakeneva, sace navakataro ukkuṭikaṃ nisīditvā añjaliṃ paggahetvā ‘‘ahaṃ, bhante, asukaṃ nāma āyasmantaṃ idañcidañca avacaṃ, khamatu me so āyasmā’’ti evaṃ vadantena khamāpetabbo. Sace so parinibbuto hoti, parinibbutamañcaṭṭhānaṃ gantvā yāva sivathikaṃ gantvāpi khamāpetabbo. Evaṃ kate saggāvaraṇañca maggāvaraṇañca na hoti, pākatikameva hoti.
Tương truyền, trong một làng nọ, có một vị Trưởng lão và một vị Tỳ khưu trẻ cùng đi khất thực. Ngay nhà đầu tiên, họ nhận được một bát cháo nóng. Vị Trưởng lão bị bệnh đầy hơi trong bụng. Ngài nghĩ: ‘Cháo này hợp với ta, ta sẽ uống nó khi còn chưa nguội.’ Ngài ngồi trên một khúc gỗ do người ta mang đến để làm ngưỡng cửa và uống bát cháo đó. Vị kia (Tỳ khưu trẻ) khinh chê ngài: ‘Vị Trưởng lão này quả thực quá tham ăn, đã làm điều đáng xấu hổ cho chúng ta.’ Sau khi đi khất thực trong làng và trở về tu viện, vị Trưởng lão hỏi vị Tỳ khưu trẻ: ‘Này hiền giả, hiền giả có được sự vững chắc nào trong giáo pháp này không?’ ‘Bạch Đại đức, có ạ, con là bậc Dự Lưu.’ ‘Vậy thì, này hiền giả, đừng cố gắng để chứng đắc các đạo quả cao hơn nữa, vì hiền giả đã phỉ báng một bậc Lậu Tận.’ Vị ấy (Tỳ khưu trẻ) đã xin Ngài (Trưởng lão) tha thứ. Do đó, nghiệp ấy của vị ấy đã trở lại bình thường (không còn là trở ngại). Vì thế, nếu có người nào khác phỉ báng một bậc Thánh, người đó phải đến xin lỗi. Nếu (vị Thánh bị phỉ báng) lớn tuổi hơn mình, thì (người phỉ báng) phải nói: “Con đã nói điều này điều kia với Đại đức, xin Đại đức xá lỗi cho con.” Nếu (vị Thánh bị phỉ báng) nhỏ tuổi hơn, thì (người phỉ báng) phải đảnh lễ, ngồi chồm hổm, chắp tay và nói: “Bạch hiền giả, tôi đã nói điều này điều kia với hiền giả, xin hiền giả xá lỗi cho tôi.” Nếu vị ấy không xá lỗi, hoặc đã đi nơi khác, thì phải đến gặp các Tỳ khưu đang ở trong tu viện đó; nếu (các Tỳ khưu đó) lớn tuổi hơn mình thì đứng yên, nếu nhỏ tuổi hơn thì ngồi chồm hổm, chắp tay và nói: “Bạch Đại đức/hiền giả, con/tôi đã nói điều này điều kia với Đại đức/hiền giả tên là như vậy, xin Đại đức/hiền giả ấy xá lỗi cho con/tôi.” Nếu vị (Thánh bị phỉ báng) đã nhập diệt, thì phải đến nơi đặt kim quan của vị ấy, cho đến cả nơi nghĩa địa cũng phải đến để xin lỗi. Làm như vậy thì sẽ không còn bị ngăn cản đường sanh về cõi trời và ngăn cản đạo lộ (giải thoát), nghiệp ấy sẽ trở lại bình thường.
Micchādiṭṭhikāti viparītadassanā. Micchādiṭṭhikammasamādānāti micchādiṭṭhivasena samādinnanānāvidhakammā, ye ca micchādiṭṭhimūlakesu kāyakammādīsu aññepi samādapenti. Tattha vacīduccaritaggahaṇeneva ariyūpavāde, manoduccaritaggahaṇena ca micchādiṭṭhiyā saṅgahitāyapi imesaṃ dvinnaṃ puna vacanaṃ mahāsāvajjabhāvadassanatthanti veditabbaṃ. Mahāsāvajjo hi ariyūpavādo ānantariyasadiso. Yathāha – ‘‘seyyathāpi, sāriputta, bhikkhu sīlasampanno samādhisampanno paññāsampanno diṭṭheva dhamme aññaṃ ārādheyya; evaṃsampadamidaṃ, sāriputta, vadāmi taṃ vācaṃ appahāya taṃ cittaṃ appahāya taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjitvā yathābhataṃ nikkhitto, evaṃ niraye’’ti (ma. ni. 1.149).
Từ ‘người có tà kiến’ có nghĩa là người có cái thấy sai lầm, đảo điên. Cụm từ ‘người chấp giữ các nghiệp theo tà kiến’ có nghĩa là những người đã chấp giữ nhiều loại nghiệp khác nhau do tà kiến, và cả những người xúi giục người khác chấp giữ các thân nghiệp và các nghiệp khác bắt nguồn từ tà kiến. Trong đó, mặc dù việc phỉ báng bậc Thánh đã được bao gồm trong khẩu làm ác, và tà kiến đã được bao gồm trong ý làm ác, việc nhắc lại hai điều này là để chỉ rõ tính chất tội lỗi nặng nề của chúng, cần hiểu như vậy. Thật vậy, tội phỉ báng bậc Thánh là tội rất nặng, tương tự như tội ngũ nghịch. Như có lời dạy: ‘Này Sāriputta, ví như một Tỳ khưu đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ tuệ, có thể chứng đắc A-la-hán ngay trong hiện tại; Ta nói rằng, này Sāriputta, nếu không từ bỏ lời nói ấy (phỉ báng), không từ bỏ tâm ấy (phỉ báng), không xả ly tà kiến ấy, thì người đó chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục như vật bị ném xuống vậy.’ (ma. ni. 1.149).
Micchādiṭṭhito ca mahāsāvajjataraṃ nāma aññaṃ natthi. Yathāha – ‘‘nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekadhammampi samanupassāmi, evaṃ mahāsāvajjataraṃ, yathayidaṃ, micchādiṭṭhi. Micchādiṭṭhiparamāni, bhikkhave, vajjānī’’ti (a. ni. 1.310).
Và không có gì khác gọi là tội lỗi nặng nề hơn tà kiến. Như có lời dạy: ‘Này các Tỳ khưu, Ta không thấy một pháp nào khác có tội lỗi nặng nề hơn, như là tà kiến này. Này các Tỳ khưu, tà kiến là tội lỗi tột cùng.’ (a. ni. 1.310).
Kāyassa bhedāti upādinnakkhandhapariccāgā. Paraṃ maraṇāti tadanantaraṃ abhinibbattakkhandhaggahaṇe. Athavā kāyassa bhedāti jīvitindriyassupacchedā. Paraṃ maraṇāti cuticittato uddhaṃ. Apāyanti evamādi sabbaṃ nirayavevacanaṃ. Nirayo hi saggamokkhahetubhūtā puññasammatā ayā apetattā, sukhānaṃ vā āyassa abhāvā apāyo. Dukkhassa gati paṭisaraṇanti duggati; dosabahulatāya vā duṭṭhena kammunā nibbattā gatīti duggati. Vivasā nipatanti ettha dukkaṭakārinoti vinipāto; vinassantā vā ettha nipatanti sambhijjamānaṅgapaccaṅgāti vinipāto. Natthi ettha assādasaññito ayoti nirayo.
Cụm từ ‘sau khi thân tan rã’ có nghĩa là sau khi từ bỏ các uẩn đã được chấp thủ. Cụm từ ‘chết đi’ có nghĩa là ngay sau đó, khi các uẩn mới được hình thành. Hoặc, ‘sau khi thân tan rã’ có nghĩa là sau khi mạng căn bị cắt đứt. ‘Chết đi’ có nghĩa là sau khi tâm tử. Từ ‘đường ác’ và các từ tương tự đều là tên gọi khác của địa ngục. Thật vậy, địa ngục được gọi là ‘đường ác’ vì nó xa lìa khỏi những điều may mắn được xem là phước báu, vốn là nhân duyên của cõi trời và giải thoát; hoặc vì không có sự phát sinh của hạnh phúc. Là nơi đến, nơi nương tựa của khổ đau, nên (gọi là) ‘cõi dữ’; hoặc, do nhiều sân hận, là cảnh giới được tạo ra bởi nghiệp xấu ác, nên (gọi là) cõi dữ. Những kẻ làm điều ác rơi vào đó một cách mất tự chủ, nên (gọi là) ‘đọa xứ’; hoặc, những chúng sanh bị hủy hoại, thân thể tan rã rơi vào đó, nên (gọi là) đọa xứ. Ở đó không có sự may mắn được gọi là vị ngọt, nên (gọi là) ‘địa ngục’.
Atha vā apāyaggahaṇena tiracchānayoniṃ dīpeti. Tiracchānayoni hi apāyo, sugatiyā apetattā; na duggati, mahesakkhānaṃ nāgarājādīnaṃ sambhavato. Duggatiggahaṇena pettivisayaṃ dīpeti. So hi apāyo ceva duggati ca sugatito apetattā, dukkhassa ca gatibhūtattā; na tu vinipāto asurasadisaṃ avinipatitattā. Petamahiddhikānañhi vimānānipi nibbattanti. Vinipātaggahaṇena asurakāyaṃ dīpeti. So hi yathāvuttenatthena apāyo ceva duggati ca sabbasamussayehi ca vinipatitattā vinipātoti vuccati. Nirayaggahaṇena avīci-ādianekappakāraṃ nirayameva dīpeti. Upapannāti upagatā, tattha abhinibbattāti adhippāyo. Vuttavipariyāyena sukkapakkho veditabbo.
Hoặc, khi nói đến ‘đường ác’ là chỉ loài bàng sanh. Loài bàng sanh là đường ác, vì xa lìa cõi lành; nhưng không (hoàn toàn) là cõi dữ, vì có những long vương và các loài tương tự có nhiều quyền lực. Khi nói đến ‘cõi dữ’ là chỉ cảnh giới ngạ quỷ. Cảnh giới đó vừa là đường ác vừa là cõi dữ, vì xa lìa cõi lành và là nơi đến của khổ đau; nhưng không phải là đọa xứ (theo nghĩa tuyệt đối) vì không bị tan rã hoàn toàn như loài a-tu-la. Những ngạ quỷ có thần lực lớn cũng có thể có cung điện. Khi nói đến ‘đọa xứ’ là chỉ loài a-tu-la. Loài đó, theo ý nghĩa đã nói, vừa là đường ác vừa là cõi dữ, và được gọi là đọa xứ vì bị tan rã bởi tất cả các sự kết hợp (của thân). Khi nói đến ‘địa ngục’ là chỉ chính các loại địa ngục khác nhau như địa ngục Avīci (Vô Gián) và các địa ngục tương tự. Từ ‘bị sanh vào’ có nghĩa là đã đi đến, ý muốn nói là đã được tái sanh ở đó. Phần thiện cần được hiểu theo cách ngược lại với những gì đã nói (về phần ác).
Ayaṃ pana viseso – ettha sugatiggahaṇena manussagatipi saṅgayhati. Saggaggahaṇena devagatiyeva. Tattha sundarā gatīti sugati. Rūpādivisayehi suṭṭhu aggoti saggo. So sabbopi lujjanapalujjanaṭṭhena lokoti ayaṃ vacanattho. Vijjāti dibbacakkhuñāṇavijjā. Avijjāti sattānaṃ cutipaṭisandhipaṭicchādikā avijjā. Sesaṃ vuttanayameva. Ayameva hettha viseso – yathā pubbenivāsakathāyaṃ ‘‘pubbenivāsānussatiñāṇamukhatuṇḍakena pubbenivutthakkhandhapaacchādakaṃ avijjaṇḍakosaṃ padāletvā’’ti vuttaṃ; evamidha ‘‘cutūpapātañāṇamukhatuṇḍakena cutūpapātapaṭicchādakaṃ avijjaṇḍakosaṃ padāletvā’’ti vattabbanti.
Tuy nhiên, đây là điểm đặc biệt: ở đây, khi nói đến ‘cõi lành’ cũng bao gồm cả cõi người. Khi nói đến ‘cõi trời’ thì chỉ bao gồm cõi trời. Trong đó, cảnh giới tốt đẹp là ‘cõi lành’. Cao tột về các đối tượng như sắc và các đối tượng tương tự là ‘cõi trời’. Tất cả những cảnh giới đó, theo nghĩa là bị tan rã, hoại diệt, được gọi là ‘thế gian’ – đây là ý nghĩa của từ. ‘Minh’ là minh của thiên nhãn trí. ‘Vô minh’ là vô minh che lấp sự chết và sự tái sanh của chúng sanh. Phần còn lại được hiểu theo phương pháp đã nói. Đây chính là điểm đặc biệt ở đây: cũng như trong luận về Túc Mạng Minh đã nói: ‘bằng cái mỏ là trí nhớ các đời quá khứ phá vỡ vỏ trứng vô minh che lấp các uẩn đã từng hiện hữu trong quá khứ’; cũng vậy, ở đây cần nói là: ‘bằng cái mỏ là trí biết về sự chết và sự sanh phá vỡ vỏ trứng vô minh che lấp sự chết và sự sanh’.
Dibbacakkhuñāṇakathā niṭṭhitā.
Luận về Thiên Nhãn Minh kết thúc.
Āsavakkhayañāṇakathā
Luận về Lậu Tận Minh
14.Soevaṃ samāhite citteti idha vipassanāpādakaṃ catutthajjhānacittaṃ veditabbaṃ. Āsavānaṃ khayañāṇāyāti arahattamaggañāṇatthāya. Arahattamaggo hi āsavavināsanato āsavānaṃ khayoti vuccati. Tatra cetaṃ ñāṇaṃ tappariyāpannattāti . Cittaṃ abhininnāmesinti vipassanācittaṃ abhinīhariṃ. So idaṃ dukkhanti evamādīsu ‘‘ettakaṃ dukkhaṃ, na ito bhiyyo’’ti sabbampi dukkhasaccaṃ sarasalakkhaṇapaṭivedhena yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ jāniṃ paṭivijjhiṃ. Tassa ca dukkhassa nibbattikaṃ taṇhaṃ ‘‘ayaṃ dukkhasamudayo’’ti, tadubhayampi yaṃ ṭhānaṃ patvā nirujjhati taṃ tesaṃ appavattiṃ nibbānaṃ ‘‘ayaṃ dukkhanirodho’’ti, tassa ca sampāpakaṃ ariyamaggaṃ ‘‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’’ti sarasalakkhaṇapaṭivedhena yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ jāniṃ paṭivijjhinti evamattho veditabbo.
14. Trong câu ‘Khi tâm đã định tĩnh như vậy…’: ở đây cần hiểu đó là tâm Tứ Thiền làm nền tảng cho tuệ quán. Cụm từ ‘cho trí tuệ về sự đoạn tận các lậu hoặc’ có nghĩa là vì mục đích của đạo trí A La Hán. Thật vậy, đạo A La Hán được gọi là sự đoạn tận các lậu hoặc vì nó hủy diệt các lậu hoặc. Và trí tuệ này (trí Lậu Tận) được bao gồm trong đó. Từ ‘Ta đã hướng tâm đến’ có nghĩa là Ta đã hướng tâm tuệ quán. Trong câu ‘Ta (biết) đây là khổ’ và các câu tương tự, có nghĩa là: ‘Khổ chỉ có bấy nhiêu, không hơn nữa’, Ta đã biết rõ, đã hiểu, đã thâm nhập toàn bộ Khổ đế như thật bằng sự thâm nhập đặc tính và phận sự của nó. Và Ta đã biết rõ, đã hiểu, đã thâm nhập ái là nhân sanh của khổ đó là ‘đây là Tập đế’; nơi nào mà cả hai (khổ và tập) đến đó rồi diệt tận, sự không còn tiếp diễn của chúng là Niết Bàn, đó là ‘đây là Diệt đế’; và Thánh đạo đưa đến sự chứng ngộ đó là ‘đây là con đường đưa đến sự diệt khổ’, (tất cả đều được biết) như thật bằng sự thâm nhập đặc tính và phận sự của chúng – cần hiểu ý nghĩa là như vậy.
Evaṃ sarūpato saccāni dassetvā idāni kilesavasena pariyāyato dassento ‘‘ime āsavā’’tiādimāha. Tassa me evaṃ jānato evaṃ passatoti tassa mayhaṃ evaṃ jānantassa evaṃ passantassa saha vipassanāya koṭippattaṃ maggaṃ katheti. Kāmāsavāti kāmāsavato. Vimuccitthāti iminā phalakkhaṇaṃ dasseti. Maggakkhaṇe hi cittaṃ vimuccati, phalakkhaṇe vimuttaṃ hoti. Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇanti iminā paccavekkhaṇañāṇaṃ dasseti. Khīṇā jātītiādīhi tassa bhūmiṃ. Tena hi ñāṇena bhagavā paccavekkhanto ‘‘khīṇā jātī’’tiādīni abbhaññāsiṃ. Katamā pana bhagavato jāti khīṇā, kathañca naṃ abbhaññāsīti? Vuccate – na tāvassa atītā jāti khīṇā, pubbeva khīṇattā; na anāgatā, anāgate vāyāmābhāvato; na paccuppannā, vijjamānattā. Yā pana maggassa abhāvitattā uppajjeyya ekacatupañcavokārabhavesu ekacatupañcakkhandhappabhedā jāti, sā maggassa bhāvitattā anuppādadhammataṃ āpajjanena khīṇā; taṃ so maggabhāvanāya pahīnakilese paccavekkhitvā ‘‘kilesābhāve vijjamānampi kammaṃ āyatiṃ appaṭisandhikaṃ hotī’’ti jānanto abbhaññāsiṃ.
Sau khi đã chỉ ra các chân lý theo tự tánh của chúng như vậy, bây giờ để chỉ ra (các chân lý) một cách gián tiếp qua phương diện phiền não, Ngài nói: ‘Đây là các lậu hoặc…’ và những điều theo sau. Trong câu ‘Đối với Ta, người biết như vậy, thấy như vậy’: (nghĩa là) đối với Ta, người đang biết như vậy, đang thấy như vậy, Ngài nói về đạo lộ đã đạt đến đỉnh cao cùng với tuệ quán. Từ ‘dục lậu’ có nghĩa là từ dục lậu. Từ ‘đã giải thoát’ : bằng từ này, Ngài chỉ ra khoảnh khắc của quả. Thật vậy, trong khoảnh khắc của đạo thì tâm giải thoát, trong khoảnh khắc của quả thì tâm đã được giải thoát. Cụm từ ‘trí biết rằng đã giải thoát trong cái đã giải thoát’ : bằng cụm từ này, Ngài chỉ ra trí quán xét lại (phản kháng trí). Bằng các câu như ‘sanh đã tận’ và các câu tương tự, (Ngài chỉ ra) cảnh giới của trí tuệ đó. Thật vậy, bằng trí tuệ đó, Đấng Thế Tôn, trong khi quán xét lại, đã biết rõ: ‘Sanh đã tận’ và các điều tương tự. Nhưng sanh nào của Đấng Thế Tôn đã tận, và Ngài đã biết rõ điều đó như thế nào? (Trả lời:) Trước hết, sanh quá khứ của Ngài không phải là đã tận (vào lúc đó), vì nó đã tận từ trước rồi; sanh vị lai cũng không phải, vì không có sự nỗ lực (tạo nghiệp) trong tương lai; sanh hiện tại cũng không phải, vì nó đang hiện hữu. Nhưng sanh nào, do đạo lộ chưa được tu tập, có thể đã phát sinh – loại sanh có một, bốn, hoặc năm uẩn trong các cõi một, bốn, hoặc năm uẩn – sanh đó, do đạo lộ đã được tu tập, đã trở thành pháp không còn sanh khởi nữa mà tận diệt; Ngài, sau khi quán xét lại các phiền não đã được đoạn trừ nhờ sự tu tập đạo lộ, biết rằng: ‘Khi phiền não không còn, nghiệp dù có hiện hữu cũng không còn tái sanh trong tương lai’, đã biết rõ (sanh đã tận).
Vusitanti vutthaṃ parivutthaṃ, kataṃ caritaṃ niṭṭhitanti attho. Brahmacariyanti maggabrahmacariyaṃ, puthujjanakalyāṇakena hi saddhiṃ satta sekkhā brahmacariyavāsaṃ vasanti nāma, khīṇāsavo vutthavāso. Tasmā bhagavā attano brahmacariyavāsaṃ paccavekkhanto ‘‘vusitaṃ brahmacariya’’nti abbhaññāsiṃ. Kataṃ karaṇīyanti catūsu saccesu catūhi maggehi pariññāpahānasacchikiriyābhāvanābhisamayavasena soḷasavidhampi kiccaṃ niṭṭhāpitanti attho . Puthujjanakalyāṇakādayo hi etaṃ kiccaṃ karonti, khīṇāsavo katakaraṇīyo. Tasmā bhagavā attano karaṇīyaṃ paccavekkhanto ‘‘kataṃ karaṇīya’’nti abbhaññāsiṃ. Nāparaṃ itthattāyāti idāni puna itthabhāvāya evaṃ soḷasakiccabhāvāya kilesakkhayāya vā maggabhāvanākiccaṃ me natthīti abbhaññāsiṃ.
Từ ‘đã sống (xong)’ có nghĩa là đã sống, đã sống trọn vẹn, đã làm xong, đã thực hành xong, đã hoàn tất. Từ ‘đời sống phạm hạnh’ có nghĩa là đời sống phạm hạnh của đạo lộ. Thật vậy, các bậc thiện phàm phu cùng với bảy hạng Thánh hữu học chỉ được gọi là đang sống đời sống phạm hạnh, còn bậc Lậu Tận thì đã sống xong đời sống phạm hạnh. Do đó, Đấng Thế Tôn, khi quán xét lại đời sống phạm hạnh của mình, đã biết rõ: ‘Đời sống phạm hạnh đã sống xong.’ Cụm từ ‘việc cần làm đã làm xong’ có nghĩa là mười sáu loại phận sự đối với Bốn Chân Lý – qua phương diện biến tri, đoạn tận, chứng ngộ, và tu tập bằng bốn đạo lộ – đều đã được hoàn tất. Thật vậy, các bậc thiện phàm phu và các bậc tương tự đang làm phận sự này; còn bậc Lậu Tận thì đã làm xong việc cần làm. Do đó, Đấng Thế Tôn, khi quán xét lại việc cần làm của mình, đã biết rõ: ‘Việc cần làm đã làm xong.’ Cụm từ ‘không còn trở lại trạng thái này nữa’ có nghĩa là Ta đã biết rõ: bây giờ không còn phận sự tu tập đạo lộ nào nữa để trở lại trạng thái như vậy, để thực hiện mười sáu phận sự như vậy, hoặc để đoạn tận phiền não.
Idāni evaṃ paccavekkhaṇañāṇapariggahitaṃ taṃ āsavānaṃ khayañāṇādhigamaṃ brāhmaṇassa dassento ayaṃ kho me brāhmaṇātiādimāha. Tattha vijjāti arahattamaggañāṇavijjā. Avijjāti catusaccapaṭicchādikā avijjā. Sesaṃ vuttanayameva. Ayaṃ pana viseso – ayaṃ kho me brāhmaṇa tatiyā abhinibbhidā ahosīti ettha ayaṃ kho mama brāhmaṇa āsavānaṃ khayañāṇamukhatuṇḍakena catusaccapaṭicchādakaṃ avijjaṇḍakosaṃ padāletvā tatiyā abhinibbhidā tatiyā nikkhanti tatiyā ariyajāti ahosi, kukkuṭacchāpakasseva mukhatuṇḍakena vā pādanakhasikhāya vā aṇḍakosaṃ padāletvā tamhā aṇḍakosamhā abhinibbhidā nikkhanti kukkuṭanikāye paccājātīti.
Bây giờ, để chỉ cho vị Bà la môn sự chứng đắc trí tuệ đoạn tận các lậu hoặc đó, vốn được nắm bắt bởi trí quán xét lại như vậy, Ngài nói: ‘Này Bà la môn, đây là minh của Ta…’ và những điều theo sau. Trong đó, ‘minh’ là minh của đạo trí A La Hán. ‘Vô minh’ là vô minh che lấp Bốn Chân Lý. Phần còn lại được hiểu theo phương pháp đã nói. Tuy nhiên, đây là điểm đặc biệt: Trong câu ‘Này Bà la môn, đó là sự đột phá thứ ba của Ta’, có nghĩa là: Này Bà la môn, đây là sự đột phá thứ ba, sự thoát ly thứ ba, sự Thánh sanh thứ ba của Ta, khi Ta dùng cái mỏ là trí tuệ đoạn tận các lậu hoặc phá vỡ vỏ trứng vô minh che lấp Bốn Chân Lý; cũng như sự đột phá, sự thoát ly, sự tái sanh trong loài gà của con gà con khi nó dùng mỏ hoặc đầu móng chân phá vỡ vỏ trứng rồi thoát ra khỏi vỏ trứng ấy.
Ettāvatā kiṃ dassetīti? So hi brāhmaṇa kukkuṭacchāpako aṇḍakosaṃ
Đến đây, Ngài đã chỉ ra điều gì? Vị Bà la môn ấy (có thể hiểu rằng): con gà con kia, sau khi phá vỡ vỏ trứng rồi thoát ra, chỉ sanh một lần.
Padāletvā tato nikkhamanto sakimeva jāyati, ahaṃ pana pubbe-nivutthakkhandhapaṭicchādakaṃ avijjaṇḍakosaṃ bhinditvā paṭhamaṃ tāva pubbenivāsānussatiñāṇavijjāya jāto, tato sattānaṃ cutipaṭisandhipaṭicchādakaṃ avijjaṇḍakosaṃ padāletvā dutiyaṃ dibbacakkhuñāṇavijjāya jāto, puna catusaccapaṭicchādakaṃ avijjaṇḍakosaṃ padāletvā tatiyaṃ āsavānaṃ khayañāṇavijjāya jāto; evaṃ tīhi vijjāhi tikkhattuṃ jāto. Sā ca me jāti ariyā suparisuddhāti idaṃ dassesi. Evaṃ dassento ca pubbenivāsañāṇena atītaṃsañāṇaṃ, dibbacakkhunā paccuppannānāgataṃsañāṇaṃ, āsavakkhayena sakalalokiyalokuttaraguṇanti evaṃ tīhi vijjāhi sabbepi sabbaññuguṇe pakāsetvā attano ariyāya jātiyā jeṭṭhaseṭṭhabhāvaṃ brāhmaṇassa dassesīti.
Còn Ta, sau khi phá vỡ vỏ trứng vô minh che lấp các uẩn đã từng hiện hữu trong quá khứ, trước hết đã sanh bằng minh Túc Mạng Thông; sau đó, sau khi phá vỡ vỏ trứng vô minh che lấp sự chết và sự tái sanh của chúng sanh, Ta đã sanh lần thứ hai bằng minh Thiên Nhãn Thông; rồi lại sau khi phá vỡ vỏ trứng vô minh che lấp Bốn Chân Lý, Ta đã sanh lần thứ ba bằng minh Lậu Tận Thông; như vậy, Ta đã sanh ba lần bằng ba minh. Và sự sanh đó của Ta là Thánh sanh, hoàn toàn thanh tịnh – Ngài đã chỉ ra điều này. Và khi chỉ ra như vậy, bằng Túc Mạng Trí (Ngài biết) quá khứ, bằng Thiên Nhãn (Ngài biết) hiện tại và vị lai, bằng sự đoạn tận các lậu hoặc (Ngài chứng đắc) tất cả các phẩm chất thế gian và siêu thế – như vậy, bằng ba minh, Ngài đã làm sáng tỏ tất cả các phẩm chất của bậc Toàn Giác, và đã chỉ cho vị Bà la môn địa vị Trưởng Thượng, Tối Thắng của mình nhờ Thánh sanh.
Āsavakkhayañāṇakathā niṭṭhitā.
Luận về Lậu Tận Minh kết thúc.
Desanānumodanakathā
Luận về sự Tùy Hỷ sau khi Nghe Pháp
15.Evaṃvutte verañjo brāhmaṇoti evaṃ bhagavatā lokānukampakena brāhmaṇaṃ anukampamānena vinigūhitabbepi attano ariyāya jātiyā jeṭṭhaseṭṭhabhāve vijjattayapakāsikāya dhammadesanāya vutte pītivipphāraparipuṇṇagattacitto verañjo brāhmaṇo taṃ bhagavato ariyāya jātiyā jeṭṭhaseṭṭhabhāvaṃ viditvā ‘‘īdisaṃ nāmāhaṃ sabbalokajeṭṭhaseṭṭhaṃ sabbaguṇasamannāgataṃ sabbaññuṃ ‘aññesaṃ abhivādanādikammaṃ na karotī’ti avacaṃ – ‘dhīratthu vatare aññāṇa’’’nti attānaṃ garahitvā ‘‘ayaṃ dāni loke ariyāya jātiyā purejātaṭṭhena jeṭṭho, sabbaguṇehi appaṭisamaṭṭhena seṭṭho’’ti niṭṭhaṃ gantvā bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘jeṭṭho bhavaṃ gotamo seṭṭho bhavaṃ gotamo’’ti. Evañca pana vatvā puna taṃ bhagavato dhammadesanaṃ abbhanumodamāno ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama, abhikkantaṃ, bho gotamā’’tiādimāha.
15. Trong câu ‘Khi được nói như vậy, Bà la môn Verañja…’ có nghĩa là: Khi Đấng Thế Tôn, bậc có lòng thương tưởng thế gian, vì lòng thương xót vị Bà la môn, đã thuyết bài pháp làm sáng tỏ ba minh, dù rằng địa vị Trưởng Thượng, Tối Thắng do Thánh sanh của Ngài là điều đáng lẽ phải được che giấu; (khi đó) Bà la môn Verañja, với thân tâm tràn đầy niềm hỷ lạc lan tỏa, sau khi biết được địa vị Trưởng Thượng, Tối Thắng do Thánh sanh của Đấng Thế Tôn, đã tự trách mình rằng: ‘Ta lại có thể nói một bậc Toàn Giác, Trưởng Thượng, Tối Thắng nhất trong toàn thể thế gian, đầy đủ mọi phẩm chất như vậy là ‘không thực hiện hành vi đảnh lễ và các việc tương tự đối với người khác’ – thật đáng nguyền rủa thay cho sự ngu dốt này!’, rồi đi đến kết luận rằng: ‘Vị này nay là bậc Trưởng Thượng trong đời do đã sanh trước bằng Thánh sanh, là bậc Tối Thắng do không ai sánh bằng về tất cả các phẩm chất’, đã bạch với Đấng Thế Tôn rằng: ‘Ngài Gotama là bậc Trưởng Thượng, Ngài Gotama là bậc Tối Thắng!’ Và sau khi nói như vậy, lại tùy hỷ bài thuyết pháp đó của Đấng Thế Tôn, vị ấy nói: ‘Thật vi diệu thay, thưa ngài Gotama! Thật vi diệu thay, thưa ngài Gotama!…’ và những điều theo sau.
Tatthāyaṃ abhikkantasaddo khayasundarābhirūpaabbhanumodanesu dissati. ‘‘Abhikkantā, bhante, ratti; nikkhanto paṭhamo yāmo, ciranisinno bhikkhusaṅgho’’tiādīsu (a. ni. 8.20) hi khaye dissati. ‘‘Ayaṃ me puggalo khamati, imesaṃ catunnaṃ puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro cā’’tiādīsu (a. ni. 4.100) sundare.
Trong đó, từ ‘vi diệu’ này được thấy với các nghĩa là đã qua, tốt đẹp, thích hợp, và tùy hỷ. Thật vậy, trong các câu như ‘Bạch Thế Tôn, đêm đã qua; canh đầu đã mãn, Tăng chúng đã ngồi lâu’ (a. ni. 8.20), nó được thấy với nghĩa là đã qua. Trong các câu như ‘Người này làm tôi hài lòng; trong bốn người này, (người này) tốt đẹp hơn và cao thượng hơn’ (a. ni. 4.100), (nó được thấy với nghĩa là) tốt đẹp.
‘‘Ko me vandati pādāni, iddhiyā yasasā jalaṃ;
“Ai đảnh lễ dưới chân Ta, rực rỡ thần thông, lừng lẫy danh thơm;
Abhikkantena vaṇṇena, sabbā obhāsayaṃ disā’’ti. –
Với dung sắc tuyệt vời, chiếu sáng khắp muôn phương?” –
Ādīsu (vi. va. 857) abhirūpe. ‘‘Abhikkantaṃ, bhante’’tiādīsu (dī. ni. 1.250) abbhanumodane. Idhāpi abbhanumodaneyeva. Yasmā ca abbhanumodane, tasmā ‘‘sādhu sādhu, bho gotamā’’ti vuttaṃ hotīti veditabbaṃ.
Trong các trường hợp như vậy (vi. va. 857), (từ ‘vi diệu’ được thấy với nghĩa là) xinh đẹp. Trong các câu như ‘Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!’ (dī. ni. 1.250) và các câu tương tự, (nó được thấy với nghĩa là) sự tùy hỷ. Ở đây (trong lời của Bà la môn Verañja) cũng là với nghĩa tùy hỷ. Và vì là với nghĩa tùy hỷ, do đó cần hiểu rằng (khi nói ‘thật vi diệu thay’) cũng có nghĩa là đã nói: ‘Lành thay, lành thay, thưa ngài Gotama!’
‘‘Bhaye kodhe pasaṃsāyaṃ, turite kotūhalacchare;
‘‘Trong sợ hãi, giận dữ, tán thán, vội vã, tò mò, kinh ngạc;
Hāse soke pasāde ca, kare āmeḍitaṃ budho’’ti.
Trong vui cười, sầu muộn, và tịnh tín, người trí lặp lại lời.’’
Iminā ca lakkhaṇena idha pasādavasena pasaṃsāvasena cāyaṃ dvikkhattuṃ vuttoti veditabbo.
Và theo đặc điểm này, cần hiểu rằng ở đây (lời khen của Bà la môn) được nói hai lần là do lòng tịnh tín và do sự tán thán.
Atha vā abhikkantanti atiiṭṭhaṃ atimanāpaṃ atisundaranti vuttaṃ hoti. Tattha ekena abhikkantasaddena desanaṃ thometi, ekena attano pasādaṃ. Ayañhi ettha adhippāyo – ‘‘abhikkantaṃ, bho gotama, yadidaṃ bhoto gotamassa dhammadesanā, abhikkantaṃ yadidaṃ bhoto gotamassa dhammadesanaṃ āgamma mama pasādo’’ti. Bhagavatoyeva vā vacanaṃ dve dve atthe sandhāya thometi – bhoto gotamassa vacanaṃ abhikkantaṃ dosanāsanato abhikkantaṃ guṇādhigamanato, tathā saddhājananato paññājananato, sātthato sabyañjanato, uttānapadato gambhīratthato, kaṇṇasukhato hadayaṅgamato, anattukkaṃsanato aparavambhanato, karuṇāsītalato paññāvadātato, apātharamaṇīyato vimaddakkhamato, suyyamānasukhato vīmaṃsiyamānahitatoti evamādīhi yojetabbaṃ.
Hoặc, từ ‘vi diệu’ có nghĩa là vô cùng đáng ưa, vô cùng đẹp lòng, vô cùng tốt đẹp. Trong đó, bằng một từ ‘vi diệu’, vị ấy tán thán bài thuyết pháp; bằng một từ (vi diệu) nữa, (vị ấy tán thán) niềm tịnh tín của mình. Thật vậy, ý định ở đây là: ‘Thật vi diệu thay, thưa ngài Gotama, bài thuyết pháp này của ngài Gotama; thật vi diệu thay, niềm tịnh tín này của con phát sinh nhờ bài thuyết pháp của ngài Gotama.’ Hoặc, vị ấy tán thán lời dạy của chính Đấng Thế Tôn theo từng cặp ý nghĩa: Lời dạy của ngài Gotama là vi diệu vì diệt trừ lỗi lầm, vi diệu vì đưa đến chứng đắc phẩm chất; tương tự, (vi diệu) vì làm phát sinh niềm tin và làm phát sinh trí tuệ; vì có ý nghĩa và có văn tự; vì lời lẽ rõ ràng và ý nghĩa sâu xa; vì êm tai và thấm vào tim; vì không tự khen mình và không chê người khác; vì mát dịu do lòng từ bi và trong sáng do trí tuệ; vì dễ chịu khi trải rộng ra và kham nhẫn khi nghiền ngẫm; vì mang lại sự an lạc khi được nghe và mang lại lợi ích khi được thẩm xét – cần kết hợp ý nghĩa theo các cách như vậy.
Tato parampi catūhi upamāhi desanaṃyeva thometi. Tattha nikkujjitanti adhomukhaṭhapitaṃ, heṭṭhāmukhajātaṃ vā. Ukkujjeyyāti uparimukhaṃ kareyya. Paṭicchannanti tiṇapaṇṇādipaṭicchāditaṃ. Vivareyyāti ugghāṭeyya. Mūḷhassāti disāmūḷhassa. Maggaṃ ācikkheyyāti hatthe gahetvā esa maggoti vadeyya. Andhakāreti kāḷapakkhacātuddasī aḍḍharatta-ghanavanasaṇḍa-meghapaṭalehi caturaṅge tamasi. Ayaṃ tāva anuttānapadattho. Ayaṃ pana adhippāyayojanā – yathā koci nikkujjitaṃ ukkujjeyya, evaṃ saddhammavimukhaṃ asaddhamme patiṭṭhitaṃ maṃ asaddhammā vuṭṭhāpentena; yathā paṭicchannaṃ vivareyya, evaṃ kassapassa bhagavato sāsanantaradhānā pabhuti micchādiṭṭhigahanapaṭicchannaṃ sāsanaṃ vivarantena; yathā mūḷhassa maggaṃ ācikkheyya, evaṃ kummaggamicchāmaggappaṭipannassa me saggamokkhamaggaṃ ācikkhantena; yathā andhakāre telapajjotaṃ dhāreyya, evaṃ mohandhakāre nimuggassa me buddhādiratanattayarūpāni apassato tappaṭicchādakamohandhakāraviddhaṃsakadesanāpajjotaṃ dhārentena, mayhaṃ bhotā gotamena etehi pariyāyehi pakāsitattā anekapariyāyena dhammo pakāsitoti.
Sau đó nữa, vị ấy lại tán thán bài thuyết pháp bằng bốn ví dụ. Trong đó, từ ‘vật bị úp xuống’ có nghĩa là vật bị đặt úp mặt xuống, hoặc vật có mặt hướng xuống dưới. Từ ‘lật ngửa lên’ có nghĩa là làm cho mặt hướng lên trên. Từ ‘vật bị che đậy’ có nghĩa là vật bị cỏ lá và các vật tương tự che đậy. Từ ‘mở ra’ có nghĩa là lật lên, phơi bày ra. Cụm từ ‘cho người bị lạc đường’ có nghĩa là cho người bị lạc phương hướng. Cụm từ ‘chỉ đường’ có nghĩa là nắm tay (dẫn đi) rồi nói: ‘Đây là con đường’. Từ ‘trong bóng tối’ có nghĩa là trong bóng tối bốn bề do ngày 14 của hắc nguyệt, nửa đêm, rừng rậm, và mây che phủ. Đó trước hết là ý nghĩa của các từ không rõ ràng. Còn đây là sự kết hợp ý nghĩa theo chủ ý (của Bà la môn): Cũng như có người lật ngửa vật bị úp xuống, cũng vậy, ngài Gotama đã đưa con, người quay lưng với Chánh Pháp, an trú trong phi pháp, ra khỏi phi pháp; cũng như có người mở ra vật bị che đậy, cũng vậy, ngài đã mở ra giáo pháp vốn bị che lấp bởi sự rậm rạp của tà kiến kể từ khi giáo pháp của Đấng Thế Tôn Kassapa ẩn沒; cũng như có người chỉ đường cho kẻ lạc lối, cũng vậy, ngài đã chỉ cho con, người đang đi theo tà đạo, con đường đưa đến cõi trời và Niết Bàn; cũng như có người giương cao ngọn đèn dầu trong bóng tối, cũng vậy, ngài, đối với con, người đang chìm đắm trong bóng tối si mê, không thấy được các quý báu như Phật và các रत्न khác, đã giương cao ngọn đèn thuyết pháp phá tan bóng tối si mê che lấp ấy. Do ngài Gotama đã làm sáng tỏ (Chánh Pháp) cho con bằng những phương pháp này, nên Chánh Pháp đã được làm sáng tỏ bằng nhiều phương pháp.
Desanānumodanakathā niṭṭhitā.
Luận về sự Tùy Hỷ sau khi Nghe Pháp kết thúc.
Pasannākārakathā
Luận về Biểu Hiện của Niềm Tịnh Tín
Evaṃ desanaṃ thometvā imāya desanāya ratanattaye pasannacitto pasannākāraṃ karonto ‘‘esāha’’ntiādimāha. Tattha esāhanti eso ahaṃ. Bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmīti bhavantaṃ gotamaṃ saraṇanti gacchāmi; bhavaṃ me gotamo saraṇaṃ, parāyaṇaṃ, aghassa tātā, hitassa ca vidhātāti iminā adhippāyena bhavantaṃ gotamaṃ gacchāmi bhajāmi sevāmi payirupāsāmi , evaṃ vā jānāmi bujjhāmīti. Yesañhi dhātūnaṃ gatiattho, buddhipi tesaṃ attho; tasmā ‘‘gacchāmī’’ti imassa jānāmi bujjhāmīti ayampi attho vutto. Dhammañca bhikkhusaṅghañcāti ettha pana adhigatamagge sacchikatanirodhe yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjamāne ca catūsu apāyesu apatamāne dhāretīti dhammo; so atthato ariyamaggo ceva nibbānañca. Vuttaṃ hetaṃ – ‘‘yāvatā, bhikkhave, dhammā saṅkhatā, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo tesaṃ aggamakkhāyatī’’ti (a. ni. 4.34) vitthāro. Na kevalañca ariyamaggo ceva nibbānañca, api ca kho ariyaphalehi saddhiṃ pariyattidhammopi. Vuttampi hetaṃ chattamāṇavakavimāne –
Luận về Biểu Hiện của Niềm Tịnh Tín
Sau khi tán thán bài thuyết pháp như vậy, với tâm tịnh tín nơi Tam Bảo nhờ bài thuyết pháp này, vị ấy thể hiện niềm tịnh tín mà nói rằng: ‘Này con…’ và những điều theo sau. Trong đó, ‘này con’ có nghĩa là ‘đây là con’. Cụm từ ‘con xin quy y ngài Gotama’ có nghĩa là con xem ngài Gotama là nơi nương tựa; ngài Gotama là nơi nương tựa, là nơi cứu cánh, là người bảo vệ khỏi điều ác, và là người mang lại lợi ích cho con – với ý hướng này, con tìm đến, tôn thờ, phụng sự, hầu cận ngài Gotama, hoặc con biết, con hiểu như vậy. Thật vậy, những động từ nào có nghĩa là đi, chúng cũng có nghĩa là biết; do đó, từ ‘con xin quy y’ (con đi đến) ở đây cũng được nói với ý nghĩa là con biết, con hiểu. Trong cụm từ ‘Chánh Pháp và Tăng đoàn Tỳ khưu’: ở đây, Chánh Pháp là pháp nâng đỡ những người thực hành theo lời giáo huấn trong đạo lộ đã chứng ngộ, trong sự tịch diệt đã chứng ngộ, và (nâng đỡ) những người không bị rơi vào bốn đường ác; về mặt ý nghĩa, đó chính là Thánh đạo và Niết Bàn. Điều này đã được nói: ‘Này các Tỳ khưu, trong tất cả các pháp hữu vi, Thánh đạo Tám ngành được gọi là tối thượng…’ (a. ni. 4.34) và phần giải thích chi tiết. Không chỉ có Thánh đạo và Niết Bàn, mà cả pháp học cùng với các Thánh quả (cũng là Chánh Pháp). Điều này cũng đã được nói trong thiên cung của thanh niên Chatta:
‘‘Rāgavirāgamanejamasokaṃ, dhammamasaṅkhatamappaṭikūlaṃ;
‘‘Hãy đến quy y Pháp này, là pháp ly tham, không lay động, không sầu muộn, là pháp vô vi, không đáng ghê tởm;
Madhuramimaṃ paguṇaṃ suvibhattaṃ, dhammamimaṃ saraṇatthamupehī’’ti. (vi. va. 887);
Ngọt ngào, thuần thục, được khéo phân biệt này.’’ (vi. va. 887);
Ettha hi rāgavirāgoti maggo kathito. Anejamasokanti phalaṃ. Dhammamasaṅkhatanti nibbānaṃ. Appaṭikūlaṃ madhuramimaṃ paguṇaṃ suvibhattanti piṭakattayena vibhattā sabbadhammakkhandhāti. Diṭṭhisīlasaṅghātena saṃhatoti saṅgho, so atthato aṭṭhaariyapuggalasamūho. Vuttañhetaṃ tasmiṃyeva vimāne –
Ở đây, từ “ly tham” là đạo lộ được nói đến. Cụm từ “không lay động, không sầu muộn” là quả. Cụm từ “Pháp vô vi” là Niết Bàn. Các cụm từ “Không đáng ghê tởm, ngọt ngào, thuần thục, được khéo phân biệt này” là tất cả các uẩn pháp được phân chia theo Tam Tạng. Được hợp lại bởi sự hợp nhất về tri kiến và giới hạnh là Tăng; về mặt ý nghĩa, đó là tập hợp của tám bậc Thánh nhân. Điều này cũng đã được nói trong chính thiên cung ấy:
‘‘Yattha ca dinnamahapphalamāhu, catūsu sucīsu purisayugesu;
‘‘Nơi nào mà sự cúng dường được gọi là có quả lớn, trong bốn đôi bậc Thánh thanh tịnh;
Aṭṭha ca puggaladhammadasā te, saṅghamimaṃ saraṇatthamupehī’’ti. (vi. va. 888);
Tám bậc Thánh nhân ấy, hãy đến quy y Tăng này.’’ (vi. va. 888);
Bhikkhūnaṃ saṅgho bhikkhusaṅgho. Ettāvatā ca brāhmaṇo tīṇi saraṇagamanāni paṭivedesi.
Tập hợp của các Tỳ khưu là Tăng đoàn Tỳ khưu. Đến đây, vị Bà la môn đã tuyên bố ba sự quy y.
Pasannākārakathā niṭṭhitā.
Luận về Biểu Hiện của Niềm Tịnh Tín kết thúc.
Saraṇagamanakathā
Luận về Sự Quy Y
Idāni tesveva tīsu saraṇagamanesu kosallatthaṃ saraṇaṃ, saraṇagamanaṃ, yo saraṇaṃ gacchati,
Bây giờ, để có sự khéo léo trong ba sự quy y ấy, cần phải biết rõ các phương diện này: nơi quy y, sự quy y, người quy y,
Saraṇagamanappabhedo, saraṇagamanaphalaṃ, saṃkileso, bhedoti ayaṃ vidhi vedi tabbo. So pana idha vuccamāno atibhāriyaṃ vinayanidānaṃ karotīti na vutto. Atthikehi pana papañcasūdaniyaṃ vā majjhimaṭṭhakathāyaṃ bhayabheravasuttavaṇṇanato (ma. ni. aṭṭha. 1.56) sumaṅgalavilāsiniyaṃ vā dīghanikāyaṭṭhakathāyaṃ (dī. ni. aṭṭha. 1.250) saraṇavaṇṇanato gahetabboti.
Các loại quy y, kết quả của sự quy y, sự ô nhiễm (của quy y), và sự phá vỡ (quy y). Nhưng nếu nói đến điều đó ở đây thì sẽ làm cho phần dẫn nhập Luật này trở nên quá nặng nề, nên không được nói đến. Tuy nhiên, những ai muốn tìm hiểu thì có thể tham khảo từ bộ Papañcasūdanī, tức Chú giải Trung Bộ, phần chú giải kinh Sợ Hãi Khiếp Đảm (ma. ni. aṭṭha. 1.56), hoặc từ bộ Sumaṅgalavilāsinī, tức Chú giải Trường Bộ, phần chú giải về quy y (dī. ni. aṭṭha. 1.250).
Saraṇagamanakathā niṭṭhitā.
Luận về Sự Quy Y kết thúc.
Upāsakattapaṭivedanākathā
Luận về Sự Tuyên Bố Trở Thành Cư Sĩ
Upāsakaṃmaṃ bhavaṃ gotamo dhāretūti maṃ bhavaṃ gotamo ‘‘upāsako aya’’nti evaṃ dhāretūti attho. Upāsakavidhikosallatthaṃ panettha ko upāsako, kasmā upāsakoti vuccati, kimassa sīlaṃ, ko ājīvo, kā vipatti, kā sampattīti idaṃ pakiṇṇakaṃ veditabbaṃ. Taṃ atibhāriyakaraṇato idha na vibhattaṃ, atthikehi pana papañcasūdaniyaṃ majjhimaṭṭhakathāyaṃ (ma. ni. aṭṭha. 1.56) vuttanayeneva veditabbaṃ. Ajjataggeti ettha ayaṃ aggasaddo ādikoṭikoṭṭhāsaseṭṭhesu dissati. ‘‘Ajjatagge, samma dovārika, āvarāmi dvāraṃ nigaṇṭhānaṃ nigaṇṭhīna’’ntiādīsu (ma. ni. 2.70) hi ādimhi dissati. ‘‘Teneva aṅgulaggena taṃ aṅgulaggaṃ parāmaseyya (kathā. 441), ucchaggaṃ veḷagga’’ntiādīsu koṭiyaṃ. ‘‘Ambilaggaṃ vā madhuraggaṃ vā tittakaggaṃ vā (saṃ. ni. 5.374) anujānāmi, bhikkhave, vihāraggena vā pariveṇaggena vā bhājetu’’ntiādīsu (cūḷava. 318) koṭṭhāse. ‘‘Yāvatā, bhikkhave, sattā apadā vā dvipadā vā…pe… tathāgato tesaṃ aggamakkhāyatī’’tiādīsu (a. ni. 4.34) seṭṭhe. Idha panāyaṃ ādimhi daṭṭhabbo. Tasmā ajjataggeti ajjataṃ ādiṃ katvāti evamettha attho veditabbo. Ajjatanti ajjabhāvanti vuttaṃ hoti. Ajjadagge icceva vā pāṭho, dakāro padasandhikaro, ajja aggaṃ katvāti vuttaṃ hoti. Pāṇupetanti pāṇehi upetaṃ, yāva me jīvitaṃ pavattati, tāva upetaṃ anaññasatthukaṃ tīhi saraṇagamanehi saraṇagataṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu jānātu, ahañhi sacepi me tikhiṇena asinā sīsaṃ chindeyyuṃ, neva buddhaṃ ‘‘na buddho’’ti vā, dhammaṃ ‘‘na dhammo’’ti vā, saṅghaṃ ‘‘na saṅgho’’ti vā vadeyyanti. Ettha ca brāhmaṇo pāṇupetaṃ saraṇagatanti puna saraṇagamanaṃ vadanto attasanniyyātanaṃ pakāsetīti veditabbo.
Trong câu ‘Xin ngài Gotama hãy ghi nhận con là một cư sĩ’ có nghĩa là: Xin ngài Gotama hãy ghi nhận con rằng: ‘Đây là một cư sĩ’. Để có sự khéo léo về phương pháp của người cư sĩ, ở đây cần biết những điều tản mạn này: ai là cư sĩ, tại sao được gọi là cư sĩ, giới của người ấy là gì, sinh kế của người ấy là gì, sự thất bại (của người cư sĩ) là gì, sự thành tựu là gì. Điều đó, do làm cho (phần này) trở nên quá nặng nề, nên không được phân tích ở đây; tuy nhiên, những ai muốn tìm hiểu thì có thể tham khảo theo phương pháp đã được nói trong bộ Papañcasūdanī, Chú giải Trung Bộ (ma. ni. aṭṭha. 1.56). Trong từ ‘kể từ hôm nay’: ở đây, từ ‘đầu/ngọn/tột cùng’ (agga) này được thấy với các nghĩa là bắt đầu, điểm cuối, phần, và bậc tối thượng. Thật vậy, trong các câu như ‘Kể từ hôm nay, này người giữ cửa hiền lành, tôi đóng cửa đối với các Ni Kiền Tử nam và Ni Kiền Tử nữ’ (ma. ni. 2.70), nó được thấy với nghĩa là bắt đầu. Trong các câu như ‘Dùng chính đầu ngón tay đó mà chạm vào đầu ngón tay kia (kathā. 441), ‘ngọn mía, ngọn tre’, nó (được thấy với nghĩa là) điểm cuối/ngọn. Trong các câu như ‘Phần chua, hoặc phần ngọt, hoặc phần đắng (saṃ. ni. 5.374), ‘Này các Tỳ khưu, Ta cho phép chia phần tốt nhất của tu viện hoặc của khu tăng xá’ (cūḷava. 318), nó (được thấy với nghĩa là) phần. Trong các câu như ‘Này các Tỳ khưu, trong tất cả chúng sanh, không chân hoặc hai chân…v.v… Như Lai được gọi là bậc tối thượng của họ’ (a. ni. 4.34), nó (được thấy với nghĩa là) bậc tối thượng. Còn ở đây, nó (agga) cần được hiểu với nghĩa là bắt đầu. Do đó, ‘kể từ hôm nay’ có nghĩa là lấy ngày hôm nay làm bắt đầu, cần hiểu ý nghĩa ở đây là như vậy. Từ ‘hôm nay’ có nghĩa là trạng thái của ngày hôm nay. Hoặc, bản đọc chính là ‘ajjadagge’, phụ âm ‘d’ là để nối âm, có nghĩa là lấy ngày hôm nay làm mốc khởi đầu. Từ ‘cho đến trọn đời’ có nghĩa là cùng với mạng sống, chừng nào mạng sống của con còn tiếp diễn, chừng đó con đã quy y bằng ba sự quy y, không có bậc Thầy nào khác, xin ngài Gotama hãy ghi nhận, hãy biết cho con như vậy; vì rằng, ngay cả nếu có người dùng gươm bén chặt đầu con, con cũng sẽ không bao giờ nói Phật ‘không phải là Phật’, hoặc Pháp ‘không phải là Pháp’, hoặc Tăng ‘không phải là Tăng’. Và ở đây, cần hiểu rằng vị Bà la môn, khi nói lại sự quy y cho đến trọn đời, là đang bày tỏ sự hiến dâng trọn vẹn bản thân mình.
Evaṃ attānaṃ niyyātetvā bhagavantaṃ saparisaṃ upaṭṭhātukāmo āha – ‘‘adhivāsetu ca me bhavaṃ gotamo verañjāyaṃ vassāvāsaṃ saddhiṃ bhikkhusaṅghenā’’ti. Kiṃ vuttaṃ hoti – upāsakañca maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu, adhivāsetu ca me verañjāyaṃ vassāvāsaṃ, tayo māse verañjaṃ upanissāya mama anuggahatthaṃ vāsaṃ sampaṭicchatūti. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvenāti athassa vacanaṃ sutvā bhagavā kāyaṅgaṃ vā vācaṅgaṃ vā acopetvā abbhantareyeva khantiṃ cāretvā tuṇhībhāvena adhivāsesi; brāhmaṇassa anuggahatthaṃ manasāva sampaṭicchīti vuttaṃ hoti.
Sau khi đã hiến dâng mình như vậy, vì muốn phụng sự Đấng Thế Tôn cùng Tăng đoàn, vị ấy nói: ‘Xin ngài Gotama hãy nhận lời an cư mùa mưa tại Verañjā cùng với Tăng đoàn Tỳ khưu.’ Điều này có nghĩa là gì? – Xin ngài Gotama hãy ghi nhận con là cư sĩ, và xin Ngài hãy nhận lời an cư mùa mưa tại Verañjā, xin Ngài hãy nhận lời trú ngụ ba tháng nương nhờ Verañjā để nâng đỡ con. Trong câu ‘Đấng Thế Tôn đã nhận lời bằng sự im lặng’: sau khi nghe lời của vị ấy, Đấng Thế Tôn, không cử động thân hay lời, chỉ khởi lên sự chấp thuận trong nội tâm, đã nhận lời bằng sự im lặng; có nghĩa là Ngài đã chấp nhận bằng ý nghĩ để nâng đỡ vị Bà la môn.
Athakho verañjo brāhmaṇo bhagavato adhivāsanaṃ viditvāti atha verañjo brāhmaṇo sace me samaṇo gotamo nādhivāseyya, kāyena vā vācāya vā paṭikkhipeyya. Yasmā pana appaṭikkhipitvā abbhantare khantiṃ dhāresi, tasmā me manasāva adhivāsesīti evaṃ ākārasallakkhaṇakusalatāya bhagavato adhivāsanaṃ viditvā, attano nisinnāsanato vuṭṭhāya catūsu disāsu bhagavantaṃ sakkaccaṃ vanditvā tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā āgatakālato pabhuti jātimahallakabrāhmaṇānaṃ abhivādanādīni na karotīti vigarahitvāpi idāni viññātabuddhaguṇo kāyena vācāya manasā ca anekakkhattuṃ vandantopi atittoyeva hutvā dasanakhasamodhānasamujjalaṃ añjaliṃ paggayha sirasmiṃ patiṭṭhāpetvā yāva dassanavisayo tāva paṭimukhoyeva apakkamitvā dassanavisayaṃ vijahanaṭṭhāne vanditvā pakkāmi.
Trong câu ‘Bấy giờ, Bà la môn Verañja, biết được sự nhận lời của Đấng Thế Tôn…’ có nghĩa là: Bấy giờ, Bà la môn Verañja, (nghĩ rằng) ‘Nếu Sa môn Gotama không nhận lời, ngài đã từ chối bằng thân hoặc bằng lời rồi. Nhưng vì ngài không từ chối mà giữ sự chấp thuận trong nội tâm, do đó ngài đã nhận lời của ta bằng ý nghĩ’, do sự khéo léo trong việc nhận biết dấu hiệu như vậy, biết được sự nhận lời của Đấng Thế Tôn, đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi, thành kính đảnh lễ Đấng Thế Tôn từ bốn phía, đi nhiễu quanh ba vòng, và dù từ lúc đến đã khiển trách (Đức Phật) rằng Ngài không thực hiện các hành vi đảnh lễ các Bà la môn cao niên theo dòng dõi, nhưng bây giờ, đã hiểu rõ các Phật đức, dù đã đảnh lễ nhiều lần bằng thân, khẩu, ý, vẫn cảm thấy chưa đủ, đã chắp mười đầu ngón tay rực rỡ lại, đặt lên trán, rồi lui về phía đối diện cho đến khi còn trong tầm mắt, và tại nơi khuất tầm mắt, lại đảnh lễ rồi ra về.
Upāsakattapaṭivedanākathā niṭṭhitā.
Luận về Sự Tuyên Bố Trở Thành Cư Sĩ kết thúc.
Dubbhikkhakathā
Luận về Nạn Đói Kém
16.Tena kho pana samayena verañjā dubbhikkhā hotīti yasmiṃ samaye verañjena brāhmaṇena bhagavā verañjaṃ upanissāya vassāvāsaṃ yācito , tena samayena verañjā dubbhikkhā hoti. Dubbhikkhāti dullabhabhikkhā; sā pana dullabhabhikkhatā yattha manussā assaddhā honti appasannā, tattha susassakālepi atisamagghepi pubbaṇṇāparaṇṇe hoti. Verañjāyaṃ pana yasmā na tathā ahosi, apica kho dusassatāya chātakadosena ahosi tasmā tamatthaṃ dassento dvīhitikātiādimāha. Tattha dvīhitikāti dvidhā pavattaīhitikā. Īhitaṃ nāma iriyā dvidhā pavattā – cittairiyā, cittaīhā. ‘‘Ettha lacchāma nu kho kiñci bhikkhamānā na lacchāmā’’ti, ‘‘jīvituṃ vā sakkhissāma nu kho no’’ti ayamettha adhippāyo.
16. Trong câu ‘Vào lúc ấy, tại Verañjā xảy ra nạn đói kém’: vào lúc mà Đấng Thế Tôn được Bà la môn Verañja thỉnh mời an cư mùa mưa nương nhờ Verañjā, vào lúc đó, tại Verañjā xảy ra nạn đói kém. Từ ‘đói kém’ có nghĩa là khó tìm được vật thực khất thực; sự khó tìm vật thực khất thực đó, ở nơi nào mà con người không có đức tin, không có lòng tịnh tín, thì ngay cả trong mùa được mùa, dù lúa sớm lúa muộn rất dồi dào, vẫn xảy ra. Nhưng tại Verañjā thì không phải như vậy, mà là do mùa màng thất bát, do lỗi đói kém; do đó, để chỉ rõ ý nghĩa đó, (kinh) nói: ‘khó sống’ và các từ tương tự. Trong đó, ‘khó sống’ (dvīhitikā) có nghĩa là sự nỗ lực (để sống) diễn ra theo hai cách. Sự nỗ lực, tức là sự vận hành, diễn ra theo hai cách: sự vận hành của tâm, sự mong mỏi của tâm. ‘Ở đây, khi đi khất thực, chúng ta có được chút gì không, hay không được gì?’, ‘Chúng ta có thể sống được không, hay không?’ – đây là ý muốn nói ở đây.
Atha vā dvīhitikāti dujjīvikā, īhitaṃ īhā iriyanaṃ pavattanaṃ jīvitantiādīni padāni ekatthāni. Tasmā dukkhena īhitaṃ ettha pavattatīti dvīhitikāti ayamettha padattho. Setaṭṭhikāti setakāni aṭṭhīni etthāti setaṭṭhikā. Divasampi yācitvā kiñci aladdhā matānaṃ kapaṇamanussānaṃ ahicchattakavaṇṇehi aṭṭhīhi tatra tatra parikiṇṇāti vuttaṃ hoti. Setaṭṭikātipi pāṭho. Tassattho – setā aṭṭi etthāti setaṭṭikā. Aṭṭīti āturatā byādhi rogo. Tattha ca sassānaṃ gabbhaggahaṇakāle setakarogena upahatameva pacchinnakhīraṃ aggahitataṇḍulaṃ paṇḍarapaṇḍaraṃ sālisīsaṃ vā yavagodhūmasīsaṃ vā nikkhamati, tasmā ‘‘setaṭṭikā’’ti vuccati.
Hoặc, từ ‘khó sống’ có nghĩa là đời sống khó khăn; các từ như ‘sự nỗ lực’, ‘sự mong mỏi’, ‘sự vận hành’, ‘đời sống’ và các từ tương tự đều có cùng một nghĩa. Do đó, sự nỗ lực (để sống) diễn ra một cách khó khăn ở đây, nên gọi là ‘khó sống’ – đây là ý nghĩa của từ ở đây. Từ ‘xương trắng’ có nghĩa là ở đó có những bộ xương trắng. Có nghĩa là xương của những người nghèo khổ, cả ngày đi xin mà không được gì rồi chết, (những bộ xương đó) có màu như nấm rắn, vương vãi đó đây. Cũng có bản đọc là ‘setaṭṭikā’ (bệnh trắng). Nghĩa của nó là: ở đó có bệnh trắng. Từ ‘aṭṭi’ có nghĩa là sự đau yếu, bệnh tật, chứng bệnh. Và ở đó, vào lúc lúa trổ đòng, do bị bệnh trắng phá hoại, nên bông lúa gạo, hoặc bông lúa mạch, lúa mì trổ ra chỉ toàn hạt lép, không có sữa, hạt không chắc, có màu trắng bệch; do đó được gọi là ‘bệnh trắng’.
Vappakāle suṭṭhu abhisaṅkharitvāpi vuttasassaṃ tattha salākā eva sampajjatīti salākāvuttā; salākāya vā tattha jīvitaṃ pavattentīti salākāvuttā. Kiṃ vuttaṃ hoti? Tattha kira dhaññavikkayakānaṃ santikaṃ kayakesu gatesu dubbalamanusse abhibhavitvā balavamanussāva dhaññaṃ kiṇitvā gacchanti. Dubbalamanussā alabhamānā mahāsaddaṃ karonti. Dhaññavikkayakā ‘‘sabbesaṃ saṅgahaṃ karissāmā’’ti dhaññakaraṇaṭṭhāne dhaññamāpakaṃ nisīdāpetvā ekapasse vaṇṇajjhakkhaṃ nisīdāpesuṃ. Dhaññatthikā vaṇṇajjhakkhassa santikaṃ gacchanti. So āgatapaṭipāṭiyā mūlaṃ gahetvā ‘‘itthannāmassa ettakaṃ dātabba’’nti salākaṃ likhitvā deti, te taṃ gahetvā dhaññamāpakassa santikaṃ gantvā dinnapaṭipāṭiyā dhaññaṃ gaṇhanti. Evaṃ salākāya tattha jīvitaṃ pavattentīti salākāvuttā.
Dù đã gieo trồng, chăm sóc kỹ lưỡng vào mùa gieo hạt, nhưng lúa được gieo ở đó chỉ trổ ra toàn que (không có hạt), nên (gọi là) ‘sống bằng thẻ’; hoặc, người ta duy trì sự sống ở đó bằng thẻ, nên (gọi là) ‘sống bằng thẻ’. Điều này có nghĩa là gì? Tương truyền, ở đó, khi những người mua đến chỗ những người bán thóc lúa, những người mạnh khỏe lấn át những người yếu đuối để mua thóc lúa rồi đi. Những người yếu đuối không mua được, la lối om sòm. Những người bán thóc lúa, (nghĩ rằng) ‘Chúng ta sẽ giúp đỡ tất cả mọi người’, bèn cho một người đong thóc ngồi ở chỗ đong thóc, và cho một người ghi thẻ ngồi một bên. Những người cần thóc đến gặp người ghi thẻ. Người đó, theo thứ tự người đến, nhận tiền rồi viết thẻ ‘Đưa cho người tên là X bao nhiêu đây’, rồi đưa cho họ. Họ cầm thẻ đó đến gặp người đong thóc, rồi theo thứ tự đã đưa (thẻ) mà nhận thóc. Như vậy, người ta duy trì sự sống ở đó bằng thẻ, nên gọi là ‘sống bằng thẻ’.
Na sukarā uñchena paggahena yāpetunti paggahena yo uñcho, tena yāpetuṃ na sukarā. Pattaṃ gahetvā yaṃ ariyā uñchaṃ karonti, bhikkhācariyaṃ caranti, tena uñchena yāpetuṃ na sukarāti vuttaṃ hoti. Tadā kira tattha sattaṭṭhagāme piṇḍāya caritvā ekadivasampi yāpanamattaṃ na labhanti.
Cụm từ ‘Không dễ dàng duy trì sự sống bằng cách lượm lặt những gì người ta bỏ lại’ có nghĩa là không dễ dàng duy trì sự sống bằng cách lượm lặt những gì người ta đã thu hoạch (còn sót lại). Có nghĩa là: không dễ dàng duy trì sự sống bằng cách lượm lặt đó, tức là việc các bậc Thánh cầm bát đi khất thực. Tương truyền, vào lúc đó, dù đi khất thực trong bảy, tám làng, các vị cũng không nhận đủ vật thực để sống qua một ngày.
Tena kho pana samayena uttarāpathakā assavāṇijā…pe… assosi kho bhagavā udukkhalasaddanti – tenāti yasmiṃ samaye bhagavā verañjaṃ upanissāya vassāvāsaṃ upagato tena samayena. Uttarāpathavāsikā uttarāpathato vā āgatattā evaṃ laddhavohārā assavāṇijā uttarāpathe assānaṃ uṭṭhānaṭṭhāne pañca assasatāni gahetvā diguṇaṃ tiguṇaṃ lābhaṃ patthayamānā desantaraṃ gacchantā tehi attano vikkāyikabhaṇḍabhūtehi pañcamattehi assasatehi verañjaṃ vassāvāsaṃ upagatā honti. Kasmā? Na hi sakkā tasmiṃ dese vassike cattāro māse addhānaṃ paṭipajjituṃ. Upagacchantā ca bahinagare udakena anajjhottharaṇīye ṭhāne attano ca vāsāgārāni assānañca mandiraṃ kārāpetvā vatiyā parikkhipiṃsu. Tāni tesaṃ vasanaṭṭhānāni ‘‘assamaṇḍalikāyo’’ti paññāyiṃsu. Tenāha – ‘‘tehi assamaṇḍalikāsu bhikkhūnaṃ patthapatthapulakaṃ paññattaṃ hotī’’ti. Patthapatthapulakanti ekamekassa bhikkhuno patthapatthapamāṇaṃ pulakaṃ. Pattho nāma nāḷimattaṃ hoti, ekassa purisassa alaṃ yāpanāya. Vuttampi hetaṃ – ‘‘patthodano nālamayaṃ duvinna’’nti (jā. 2.21.192). Pulakaṃ nāma nitthusaṃ katvā ussedetvā gahitayavataṇḍulā vuccanti. Yadi hi sathusā honti, pāṇakā vijjhanti, addhānakkhamā na honti. Tasmā te vāṇijā addhānakkhamaṃ katvā yavataṇḍulamādāya addhānaṃ paṭipajjanti ‘‘yattha assānaṃ khādanīyaṃ tiṇaṃ dullabhaṃ bhavissati, tatthetaṃ assabhattaṃ bhavissatī’’ti.
Trong câu ‘Vào lúc ấy, các thương nhân buôn ngựa từ phương Bắc…v.v… Đấng Thế Tôn đã nghe tiếng chày giã (gạo)’ – từ ‘Vào lúc ấy’ có nghĩa là vào lúc mà Đấng Thế Tôn đã nhận lời an cư mùa mưa nương nhờ Verañjā. Các thương nhân buôn ngựa ở phương Bắc, hoặc do đến từ phương Bắc mà có tên gọi như vậy, đã mang năm trăm con ngựa từ nơi sinh sản ngựa ở phương Bắc, vì mong muốn lợi nhuận gấp đôi, gấp ba, đi đến xứ khác, đã cùng với năm trăm con ngựa là hàng hóa để bán của họ đến Verañjā để an cư mùa mưa. Tại sao? Vì không thể đi đường dài trong bốn tháng mùa mưa ở xứ đó. Khi đến, họ đã cho làm nhà ở cho mình và chuồng ngựa ở một nơi ngoài thành, nơi không bị ngập nước, rồi rào lại. Những nơi ở đó của họ được biết đến với tên gọi là “các trại ngựa”. Do đó, kinh nói: ‘Từ những trại ngựa đó, mỗi đấu lúa mạch vụn đã được quy định cho các Tỳ khưu.’ ‘Mỗi đấu lúa mạch vụn’ có nghĩa là mỗi vị Tỳ khưu một đấu lúa mạch vụn. Một ‘pattha’ (đấu) là bằng một ‘nāḷi’ (một loại đấu), đủ để một người sống qua ngày. Điều này cũng đã được nói: ‘Một đấu cơm không đủ cho hai chúng ta’ (jā. 2.21.192). ‘Lúa mạch vụn’ được gọi là hạt lúa mạch đã được giã bỏ vỏ trấu rồi sàng sảy lấy. Vì nếu còn vỏ trấu thì sâu mọt sẽ đục khoét, không thể để được lâu khi đi đường dài. Do đó, các thương nhân đó, sau khi làm cho hạt lúa mạch có thể để được lâu, mang theo khi đi đường dài, (nghĩ rằng): ‘Nơi nào cỏ làm thức ăn cho ngựa trở nên khan hiếm, thì đây sẽ là thức ăn cho ngựa.’
Kasmā pana tehi taṃ bhikkhūnaṃ paññattanti? Vuccate – ‘‘na hi te dakkhiṇāpathamanussā viya assaddhā appasannā, te pana saddhā pasannā buddhamāmakā, dhammamāmakā, saṅghamāmakā; te pubbaṇhasamayaṃ kenacideva karaṇīyena nagaraṃ pavisantā dve tayo divase addasaṃsu sattaṭṭha bhikkhū sunivatthe supārute iriyāpathasampanne sakalampi nagaraṃ piṇḍāya caritvā kiñci alabhamāne. Disvāna nesaṃ etadahosi – ‘‘ayyā imaṃ nagaraṃ upanissāya vassaṃ upagatā; chātakañca vattati, na ca kiñci labhanti, ativiya kilamanti. Mayañcamha āgantukā, na sakkoma nesaṃ devasikaṃ yāguñca bhattañca paṭiyādetuṃ. Amhākaṃ pana assā sāyañca pāto ca dvikkhattuṃ bhattaṃ labhanti. Yaṃnūna mayaṃ ekamekassa assassa pātarāsabhattato ekamekassa bhikkhuno patthapatthapulakaṃ dadeyyāma. Evaṃ ayyā ca na kilamissanti , assā ca yāpessantī’’ti. Te bhikkhūnaṃ santikaṃ gantvā etamatthaṃ ārocetvā ‘‘bhante, tumhe patthapatthapulakaṃ paṭiggahetvā yaṃ vā taṃ vā katvā paribhuñjathā’’ti yācitvā devasikaṃ patthapatthapulakaṃ paññapesuṃ. Tena vuttaṃ – ‘‘tehi assamaṇḍalikāsu bhikkhūnaṃ patthapatthapulakaṃ paññattaṃ hotī’’ti.
Nhưng tại sao họ lại quy định (việc cúng dường) đó cho các Tỳ khưu? (Trả lời:) Vì họ không phải là những người không có đức tin, không có lòng tịnh tín như những người ở phương Nam; trái lại, họ là những người có đức tin, có lòng tịnh tín, là những người xem Phật là của mình, Pháp là của mình, Tăng là của mình. Họ, vào buổi sáng, khi vào thành vì một công việc nào đó, trong hai ba ngày đã thấy bảy tám vị Tỳ khưu, y phục chỉnh tề, oai nghi tề chỉnh, đi khất thực khắp thành mà không nhận được gì. Sau khi thấy vậy, họ đã nghĩ thế này: ‘Các Ngài đã đến an cư mùa mưa nương nhờ thành này; nạn đói kém lại đang diễn ra, và các Ngài không nhận được gì cả, vô cùng khốn khổ.’ ‘Chúng ta lại là khách ngụ cư, không thể chuẩn bị cháo và cơm hàng ngày cho các Ngài được.’ ‘Nhưng ngựa của chúng ta thì mỗi ngày được ăn hai lần, sáng và chiều.’ ‘Hay là chúng ta nên lấy từ phần ăn buổi sáng của mỗi con ngựa để cúng dường mỗi vị Tỳ khưu một đấu lúa mạch vụn nhỉ?’ ‘Như vậy, các Ngài sẽ không khốn khổ, mà ngựa cũng có thể sống được.’ Họ đến gặp các Tỳ khưu, trình bày việc đó và thỉnh cầu rằng: ‘Bạch các Ngài, xin các Ngài hãy nhận mỗi vị một đấu lúa mạch vụn rồi làm cách này hay cách khác mà dùng’, rồi họ đã quy định (cúng dường) mỗi ngày mỗi vị một đấu lúa mạch vụn. Do đó có lời nói: ‘Từ những trại ngựa đó, mỗi đấu lúa mạch vụn đã được quy định cho các Tỳ khưu.’
Paññattanti niccabhattasaṅkhepena ṭhapitaṃ. Idāni bhikkhū pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvātiādīsu pubbaṇhasamayanti divasassa pubbabhāgasamayaṃ, pubbaṇhasamayeti attho. Pubbaṇhe vā samayaṃ pubbaṇhasamayaṃ, pubbaṇhe ekaṃ khaṇanti vuttaṃ hoti. Evaṃ accantasaṃyoge upayogavacanaṃ labbhati. Nivāsetvāti paridahitvā, vihāranivāsanaparivattanavasenetaṃ veditabbaṃ. Na hi te tato pubbe anivatthā ahesuṃ. Pattacīvaramādāyāti pattaṃ hatthehi cīvaraṃ kāyena ādiyitvā sampaṭicchādetvā, dhāretvāti attho. Yena vā tena vā hi pakārena gaṇhantā ādāyaicceva vuccanti, yathā ‘‘samādāyeva pakkamatī’’ti (dī. ni. 1.21). Piṇḍaṃ alabhamānāti sakalampi verañjaṃ caritvā tiṭṭhatu piṇḍo, antamaso ‘‘aticchathā’’ti vācampi alabhamānā.
Từ ‘đã được quy định’ có nghĩa là được thiết lập như một phần vật thực thường xuyên. Bây giờ, trong các câu như ‘các Tỳ khưu vào buổi sáng đắp y…’ và các câu tương tự: từ ‘vào buổi sáng’ có nghĩa là vào thời điểm phần đầu của ngày, tức là vào buổi sáng. Hoặc, thời điểm vào buổi sáng là ‘vào buổi sáng’, có nghĩa là một khoảnh khắc vào buổi sáng. Như vậy, đây là cách dùng từ (ở đối cách) chỉ sự liên tục tuyệt đối (trong suốt buổi sáng). Từ ‘đắp y’ có nghĩa là mặc vào; cần hiểu điều này theo nghĩa là thay đổi y phục thường ngày ở tu viện (trước khi đi khất thực). Chứ không phải trước đó các Ngài không mặc y. Từ ‘mang theo y bát’ có nghĩa là tay cầm bát, thân mang y, đắp y chỉnh tề, tức là giữ gìn (y bát). Thật vậy, dù cầm giữ bằng cách này hay cách khác cũng đều được gọi là mang theo, như trong câu ‘mang theo rồi ra đi’ (dī. ni. 1.21). Cụm từ ‘không nhận được vật thực’ có nghĩa là sau khi đi khắp thành Verañjā, đừng nói đến vật thực, ngay cả một lời nói (mời) như ‘xin mời các Ngài đi tiếp’ cũng không nhận được.
Patthapatthapulakaṃ ārāmaṃ āharitvāti gatagataṭṭhāne laddhaṃ ekamekaṃ patthapatthapulakaṃ gahetvā ārāmaṃ netvā. Udukkhale koṭṭetvā koṭṭetvā paribhuñjantīti therānaṃ koci kappiyakārako natthi, yo nesaṃ taṃ gahetvā yāguṃ vā bhattaṃ vā paceyya. Sāmampi pacanaṃ samaṇasāruppaṃ na hoti na ca vaṭṭati. Te evaṃ no sallahukavuttitā ca bhavissati, sāmapākaparimocanañcāti aṭṭha aṭṭha janā vā dasa dasa janā vā ekato hutvā udukkhale koṭṭetvā koṭṭetvā sakaṃ sakaṃ paṭivīsaṃ udakena temetvā paribhuñjanti. Evaṃ paribhuñjitvā appossukkā samaṇadhammaṃ karonti . Bhagavato pana te assavāṇijā patthapulakañca denti, tadupiyañca sappimadhusakkaraṃ. Taṃ āyasmā ānando āharitvā silāyaṃ pisati. Puññavatā paṇḍitapurisena kataṃ manāpameva hoti. Atha naṃ pisitvā sappiādīhi sammā yojetvā bhagavato upanāmesi. Athettha devatā dibbojaṃ pakkhipanti. Taṃ bhagavā paribhuñjati. Paribhuñjitvā phalasamāpattiyā kālaṃ atināmeti. Na tato paṭṭhāya piṇḍāya carati.
Trong cụm từ ‘mang mỗi đấu lúa mạch vụn về tu viện’: có nghĩa là sau khi nhận được mỗi đấu lúa mạch vụn ở những nơi đã đến, họ mang về tu viện. Trong cụm từ ‘giã trong cối rồi dùng’: (có nghĩa là) các vị Trưởng lão không có người thị giả nào để nhận những thứ đó rồi nấu cháo hay cơm cho các Ngài. Tự mình nấu nướng thì không phù hợp với hạnh Sa môn và cũng không được phép. Các Ngài, (nghĩ rằng) ‘Như vậy chúng ta sẽ có đời sống nhẹ nhàng, và cũng thoát khỏi việc tự mình nấu nướng’, bèn cứ tám vị hoặc mười vị hợp lại, giã (lúa mạch) trong cối, rồi mỗi người lấy phần của mình trộn với nước mà dùng. Sau khi dùng như vậy, các Ngài ít bận rộn mà thực hành Sa môn pháp. Còn đối với Đấng Thế Tôn, các thương nhân buôn ngựa ấy cúng dường lúa mạch vụn theo đấu, và cả bơ, mật ong, đường phù hợp với món đó. Đại đức Ānanda mang những thứ đó về rồi nghiền trên phiến đá. Việc được thực hiện bởi một người có phước, bậc trí tuệ, thì chắc chắn sẽ tốt đẹp. Rồi sau khi nghiền xong, trộn đều với bơ và các thứ khác, Ngài dâng lên Đấng Thế Tôn. Khi đó, chư thiên bỏ thêm vật thực bổ dưỡng của cõi trời vào. Đấng Thế Tôn dùng món đó. Sau khi dùng xong, Ngài trải qua thời gian bằng cách nhập Thánh quả định. Từ đó về sau, Ngài không đi khất thực nữa.
Kiṃ panānandatthero tadā bhagavato upaṭṭhāko hotīti? Hoti, no ca kho upaṭṭhākaṭṭhānaṃ laddhā. Bhagavato hi paṭhamabodhiyaṃ vīsativassantare nibaddhupaṭṭhāko nāma natthi. Kadāci nāgasamālatthero bhagavantaṃ upaṭṭhāsi, kadāci nāgitatthero, kadāci meghiyatthero, kadāci upavāṇatthero, kadāci sāgatatthero, kadāci sunakkhatto licchaviputto. Te attano ruciyā upaṭṭhahitvā yadā icchanti tadā pakkamanti. Ānandatthero tesu tesu upaṭṭhahantesu appossukko hoti, pakkantesu sayameva vattapaṭipattiṃ karoti. Bhagavāpi kiñcāpi me ñātiseṭṭho upaṭṭhākaṭṭhānaṃ na tāva labhati, atha kho evarūpesu ṭhānesu ayameva patirūpoti adhivāsesi. Tena vuttaṃ – ‘‘āyasmā panānando patthapulakaṃ silāyaṃ pisitvā bhagavato upanāmesi, taṃ bhagavā paribhuñjatī’’ti.
Nhưng phải chăng Đại đức Ānanda lúc đó là thị giả của Đấng Thế Tôn? Đúng là vậy, nhưng không phải là đã nhận được vị trí thị giả (chính thức). Thật vậy, trong hai mươi năm đầu sau khi thành đạo, Đấng Thế Tôn không có thị giả thường trực nào. Có lúc Đại đức Nāgasamāla hầu cận Đấng Thế Tôn, có lúc Đại đức Nāgita, có lúc Đại đức Meghiya, có lúc Đại đức Upavāṇa, có lúc Đại đức Sāgata, có lúc Sunakkhatta con trai dòng Licchavi. Các Ngài hầu cận theo sở thích của mình, và khi muốn thì ra đi. Đại đức Ānanda, khi các vị ấy hầu cận, thì Ngài ít bận rộn; khi các vị ấy ra đi, Ngài tự mình thực hiện các phận sự. Đấng Thế Tôn cũng chấp thuận, (nghĩ rằng): ‘Mặc dù người bà con cao quý nhất của Ta chưa nhận được vị trí thị giả, nhưng trong những hoàn cảnh như thế này, chính vị này là người thích hợp.’ Do đó có lời nói: ‘Đại đức Ānanda nghiền lúa mạch vụn trên phiến đá rồi dâng lên Đấng Thế Tôn, và Đấng Thế Tôn đã dùng món đó.’
Nanu ca manussā dubbhikkhakāle ativiya ussāhajātā puññāni karonti, attanā abhuñjitvāpi bhikkhūnaṃ dātabbaṃ maññanti. Te tadā kasmā kaṭacchubhikkhampi na adaṃsu? Ayañca verañjo brāhmaṇo mahatā ussāhena bhagavantaṃ vassāvāsaṃ yāci, so kasmā bhagavato atthibhāvampi na jānātīti? Vuccate – mārāvaṭṭanāya. Verañjañhi brāhmaṇaṃ bhagavato santikā pakkantamattameva sakalañca nagaraṃ samantā ca yojanamattaṃ yattha sakkā purebhattaṃ piṇḍāya caritvā paccāgantuṃ, taṃ sabbaṃ māro āvaṭṭetvā mohetvā sabbesaṃ asallakkhaṇabhāvaṃ katvā pakkāmi. Tasmā na koci antamaso sāmīcikammampi kattabbaṃ maññittha.
Chẳng phải con người trong thời đói kém thường rất nỗ lực làm các việc phước thiện, ngay cả khi tự mình không có gì ăn cũng nghĩ đến việc cúng dường cho các Tỳ khưu đó sao? Vậy tại sao lúc đó họ lại không cúng dường dù chỉ một muỗng cơm? Và Bà la môn Verañja này đã rất nhiệt thành thỉnh mời Đấng Thế Tôn an cư mùa mưa, tại sao ông ta lại không biết cả đến sự hiện hữu của Đấng Thế Tôn (trong thành)? (Trả lời:) Do sự che lấp của Ma vương. Thật vậy, ngay khi Bà la môn Verañja vừa rời khỏi chỗ Đấng Thế Tôn, Ma vương đã che lấp, làm mê muội toàn bộ thành phố và cả vùng một do tuần xung quanh – nơi có thể đi khất thực vào buổi sáng rồi trở về – khiến cho tất cả mọi người không còn nhận biết được gì, rồi bỏ đi. Do đó, không một ai nghĩ đến việc phải làm dù chỉ là một hành vi tôn kính nhỏ nhặt.
Kiṃ pana bhagavāpi mārāvaṭṭanaṃ ajānitvāva tattha vassaṃ upagatoti? No ajānitvā. Atha kasmā campā-sāvatthi-rājagahādīnaṃ aññatarasmiṃ na upagatoti? Tiṭṭhantu campā-sāvatthi-rājagahādīni, sacepi bhagavā tasmiṃ saṃvacchare uttarakuruṃ vā tidasapuraṃ vā gantvā vassaṃ upagaccheyya, tampi māro āvaṭṭeyya. So kira taṃ saṃvaccharaṃ ativiya āghātena pariyuṭṭhitacitto ahosi. Idha pana bhagavā imaṃ atirekakāraṇaṃ addasa – ‘‘assavāṇijā bhikkhūnaṃ saṅgahaṃ karissantī’’ti. Tasmā verañjāyameva vassaṃ upagacchi.
Nhưng phải chăng Đấng Thế Tôn cũng đã đến an cư mùa mưa ở đó mà không biết về sự che lấp của Ma vương? (Trả lời:) Không phải là không biết. Vậy tại sao Ngài không đến (an cư) ở một nơi nào đó khác như Campā, Sāvatthī, Rājagaha và các nơi tương tự? Hãy khoan nói đến Campā, Sāvatthī, Rājagaha và các nơi tương tự, ngay cả nếu Đấng Thế Tôn vào năm đó có đến Uttarakuru hoặc cung trời Ba Mươi Ba để an cư mùa mưa, Ma vương cũng sẽ che lấp nơi đó. Tương truyền, vào năm đó, Ma vương có tâm vô cùng sân hận, bị ám ảnh. Nhưng ở đây (Verañjā), Đấng Thế Tôn đã thấy được một lý do đặc biệt này: ‘Các thương nhân buôn ngựa sẽ giúp đỡ các Tỳ khưu.’ Do đó, Ngài đã đến an cư mùa mưa chính tại Verañjā.
Kiṃ pana māro vāṇijake āvaṭṭetuṃ na sakkotīti? No na sakkoti, te pana āvaṭṭitapariyosāne āgamiṃsu. Paṭinivattitvā kasmā na āvaṭṭetīti? Avisahatāya. Na hi so tathāgatassa abhihaṭabhikkhāya nibaddhadānassa appitavattassa antarāyaṃ kātuṃ visahati. Catunnañhi na sakkā antarāyo kātuṃ. Katamesaṃ catunnaṃ? Tathāgatassa abhihaṭabhikkhāsaṅkhepena vā nibaddhadānassa appitavattasaṅkhepena vā pariccattānaṃ catunnaṃ paccayānaṃ na sakkā kenaci antarāyo kātuṃ. Buddhānaṃ jīvitassa na sakkā kenaci antarāyo kātuṃ. Asītiyā anubyañjanānaṃ byāmappabhāya vā na sakkā kenaci antarāyo kātuṃ. Candimasūriyadevabrahmānampi hi pabhā tathāgatassa anubyañjanabyāmappabhāppadesaṃ patvā vihatānubhāvā honti. Buddhānaṃ sabbaññutaññāṇassa na sakkā kenaci antarāyo kātunti imesaṃ catunnaṃ na sakkā kenaci antarāyo kātuṃ. Tasmā mārena akatantarāyaṃ bhikkhaṃ bhagavā sasāvakasaṅgho tadā paribhuñjatīti veditabbo.
Nhưng phải chăng Ma vương không thể che lấp các thương nhân? (Trả lời:) Không phải là không thể, nhưng họ đã đến sau khi sự che lấp (của Ma vương đối với thành phố) đã kết thúc. Tại sao (Ma vương) không quay lại để che lấp (các thương nhân)? (Trả lời:) Vì không có khả năng. Thật vậy, Ma vương không có khả năng gây trở ngại cho vật thực khất thực đã được mang đến dâng cúng cho Như Lai, cho sự bố thí thường xuyên, cho các phẩm vật đã được dâng hiến. Có bốn điều không ai có thể gây trở ngại được. Bốn điều đó là gì? (1) Không ai có thể gây trở ngại cho bốn loại vật dụng đã được từ bỏ (để cúng dường), tóm lại là vật thực khất thực đã được mang đến dâng cúng cho Như Lai, hoặc sự bố thí thường xuyên, hoặc các phẩm vật đã được dâng hiến. (2) Không ai có thể gây trở ngại cho mạng sống của các Đức Phật. (3) Không ai có thể gây trở ngại cho tám mươi tướng phụ hoặc hào quang một tầm của các Ngài. Thật vậy, ngay cả ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, chư thiên, Phạm thiên khi chiếu đến vùng hào quang một tầm của Như Lai cũng đều bị mất uy lực. (4) Không ai có thể gây trở ngại cho Toàn Giác Trí của các Đức Phật – bốn điều này không ai có thể gây trở ngại được. Do đó, cần hiểu rằng Đấng Thế Tôn cùng Tăng đoàn đệ tử lúc đó đã dùng vật thực khất thực không bị Ma vương gây trở ngại.
Evaṃ paribhuñjanto ca ekadivasaṃ assosi kho bhagavā udukkhalasaddanti bhagavā patthapatthapulakaṃ koṭṭentānaṃ bhikkhūnaṃ musalasaṅghaṭṭajanitaṃ udukkhalasaddaṃ suṇi. Tato paraṃ jānantāpi tathāgatāti evamādi yaṃ parato ‘‘kinnu kho so, ānanda, udukkhalasaddo’’ti pucchi, tassa parihāradassanatthaṃ vuttaṃ. Tatrāyaṃ saṅkhepavaṇṇanā – tathāgatā nāma jānantāpi sace tādisaṃ pucchākāraṇaṃ hoti, pucchanti. Sace pana tādisaṃ pucchākāraṇaṃ natthi, jānantāpi na pucchanti. Yasmā pana buddhānaṃ ajānanaṃ nāma natthi, tasmā ajānantāpīti na vuttaṃ. Kālaṃ viditvā pucchantīti sace tassā pucchāya so kālo hoti, evaṃ taṃ kālaṃ viditvā pucchanti; sace na hoti , evampi kālaṃ viditvāva na pucchanti. Evaṃ pucchantāpi ca atthasaṃhitaṃ tathāgatā pucchanti, yaṃ atthanissitaṃ kāraṇanissitaṃ, tadeva pucchanti, no anatthasaṃhitaṃ. Kasmā? Yasmā anatthasaṃhite setughāto tathāgatānaṃ. Setu vuccati maggo, maggeneva tādisassa vacanassa ghāto, samucchedoti vuttaṃ hoti.
Trong câu ‘Khi đang dùng (vật thực) như vậy, một hôm Đấng Thế Tôn đã nghe tiếng chày giã’: (có nghĩa là) Đấng Thế Tôn đã nghe tiếng chày giã phát sinh do sự va chạm của chày của các Tỳ khưu đang giã mỗi đấu lúa mạch vụn. Những gì theo sau đó, như ‘Các đấng Như Lai dù biết vẫn hỏi…’ và các câu tương tự, là được nói để giải thích cho việc Ngài đã hỏi ở đoạn sau rằng: ‘Này Ānanda, đó là tiếng chày giã gì vậy?’ Tóm tắt giải thích ở đây là: Các đấng Như Lai, dù biết, nhưng nếu có lý do thích hợp để hỏi như vậy, các Ngài vẫn hỏi. Còn nếu không có lý do thích hợp để hỏi như vậy, dù biết, các Ngài cũng không hỏi. Và bởi vì các Đức Phật không có sự không biết, do đó không nói là ‘dù không biết’. ‘Biết đúng thời rồi mới hỏi’ có nghĩa là: nếu đó là thời điểm thích hợp cho câu hỏi ấy, thì các Ngài biết đúng thời rồi mới hỏi; nếu không phải, các Ngài cũng biết đúng thời rồi không hỏi. Và ngay cả khi hỏi như vậy, các đấng Như Lai cũng chỉ hỏi những điều liên hệ đến lợi ích; điều gì dựa vào lợi ích, dựa vào nhân duyên, chỉ điều đó các Ngài mới hỏi, chứ không hỏi những điều không liên hệ đến lợi ích. Tại sao? Vì đối với những điều không liên hệ đến lợi ích, đó là sự phá hủy cầu nối (đạo lộ) của các đấng Như Lai. Từ ‘Cầu nối’ được gọi là đạo lộ; chính bằng đạo lộ mà lời nói như vậy (không lợi ích) bị phá hủy, tức là bị đoạn trừ hoàn toàn.
Idāni atthasaṃhitanti ettha yaṃ atthasannissitaṃ vacanaṃ tathāgatā pucchanti, taṃ dassento ‘‘dvīhākārehī’’ti ādimāha. Tattha ākārehīti kāraṇehi. Dhammaṃ vā desessāmāti aṭṭhuppattiyuttaṃ suttaṃ vā pubbacaritakāraṇayuttaṃ jātakaṃ vā kathayissāma. Sāvakānaṃ vā sikkhāpadaṃpaññapessāmāti sāvakānaṃ vā tāya pucchāya vītikkamaṃ pākaṭaṃ katvā garukaṃ vā lahukaṃ vā sikkhāpadaṃ paññapessāma āṇaṃ ṭhapessāmāti.
Bây giờ, trong cụm từ ‘liên hệ đến lợi ích’: ở đây, để chỉ ra lời nói nào dựa vào lợi ích mà các đấng Như Lai hỏi, (kinh) nói: ‘Vì hai lý do…’ và những điều theo sau. Trong đó, từ ‘lý do’ có nghĩa là nguyên nhân. Cụm từ ‘Hoặc Ta sẽ thuyết Pháp’ có nghĩa là Ta sẽ kể một bài kinh có nhân duyên phát sinh, hoặc một câu chuyện tiền thân có nhân duyên từ hành vi quá khứ. Cụm từ ‘Hoặc Ta sẽ chế định học giới cho các đệ tử’ có nghĩa là: hoặc đối với các đệ tử, bằng câu hỏi đó, Ta sẽ làm rõ sự vi phạm rồi chế định học giới nặng hay nhẹ, tức là Ta sẽ thiết lập giới luật.
Atha kho bhagavā…pe… etamatthaṃ ārocesīti ettha natthi kiñci vattabbaṃ. Pubbe vuttameva hi bhikkhūnaṃ patthapatthapulakapaṭilābhaṃ sallahukavuttitaṃ sāmapākaparimocanañca ārocento etamatthaṃ ārocesīti vuccati. ‘‘Sādhusādhu, ānandā’’ti idaṃ pana bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ sampahaṃsento āha. Sādhukāraṃ pana datvā dvīsu ākāresu ekaṃ gahetvā dhammaṃ desento āha – ‘‘tumhehi, ānanda, sappurisehi vijitaṃ, pacchimā janatā sālimaṃsodanaṃ atimaññissatī’’ti. Tatrāyamadhippāyo – tumhehi, ānanda, sappurisehi evaṃ dubbhikkhe dullabhapiṇḍe imāya sallahukavuttitāya iminā ca sallekhena vijitaṃ. Kiṃ vijitanti? Dubbhikkhaṃ vijitaṃ, lobho vijito, icchācāro vijito. Kathaṃ? ‘‘Ayaṃ verañjā dubbhikkhā, samantato pana anantarā gāmanigamā phalabhāranamitasassā subhikkhā sulabhapiṇḍā. Evaṃ santepi bhagavā idheva amhe niggaṇhitvā vasatī’’ti ekabhikkhussapi cintā vā vighāto vā natthi. Evaṃ tāva dubbhikkhaṃ vijitaṃ abhibhūtaṃ attano vase vattitaṃ.
Trong câu ‘Bấy giờ Đấng Thế Tôn…v.v… đã trình bày việc này’: ở đây không có gì cần phải nói thêm. Thật vậy, được gọi là đã trình bày việc này vì Ngài đang trình bày lại việc các Tỳ khưu đã nhận được mỗi vị một đấu lúa mạch vụn, đời sống nhẹ nhàng và sự thoát khỏi việc tự mình nấu nướng đã được nói đến trước đó. Câu ‘Lành thay, lành thay, Ānanda!’: Đấng Thế Tôn nói điều này để tán thán Đại đức Ānanda. Sau khi ban lời khen ngợi, Ngài chọn một trong hai lý do (để hỏi) rồi thuyết Pháp rằng: ‘Này Ānanda, các ông là những bậc chân nhân đã chiến thắng; hàng hậu thế sẽ xem thường cả cơm gạo Sāli và thịt.’ Ý định ở đây là: Này Ānanda, các ông là những bậc chân nhân, trong nạn đói kém như vậy, khi vật thực khất thực khó tìm, các ông đã chiến thắng bằng đời sống nhẹ nhàng này và bằng sự kham khổ này. Chiến thắng điều gì? Nạn đói kém đã được chiến thắng, tham lam đã được chiến thắng, sự buông thả theo ý muốn đã được chiến thắng. Như thế nào? (Không một ai nghĩ rằng:) ‘Thành Verañjā này đang đói kém, còn các làng mạc, thị tứ không xa xung quanh thì mùa màng trĩu quả, được mùa, vật thực dễ tìm. Dù vậy mà Đấng Thế Tôn vẫn giữ chúng ta ở lại đây.’ – không một Tỳ khưu nào có suy nghĩ hay sự bất mãn như vậy. Như vậy, trước hết, nạn đói kém đã được chiến thắng, đã được chinh phục, đã được kiểm soát.
Kathaṃ lobho vijito? ‘‘Ayaṃ verañjā dubbhikkhā, samantato pana anantarā gāmanigamā phalabhāranamitasassā subhikkhā sulabhapiṇḍā . Handa mayaṃ tattha gantvā paribhuñjissāmā’’ti lobhavasena ekabhikkhunāpi ratticchedo vā ‘‘pacchimikāya tattha vassaṃ upagacchāmā’’ti vassacchedo vā na kato. Evaṃ lobho vijito.
Tham lam đã được chiến thắng như thế nào? (Không một ai nghĩ rằng:) ‘Thành Verañjā này đang đói kém, còn các làng mạc, thị tứ không xa xung quanh thì mùa màng trĩu quả, được mùa, vật thực dễ tìm. Hay là chúng ta hãy đến đó để dùng bữa.’ – không một Tỳ khưu nào do lòng tham mà bỏ đi qua đêm hoặc bỏ dở mùa an cư (để nói rằng) ‘Chúng ta sẽ đến an cư mùa mưa ở nơi đó vào phần sau (của mùa mưa).’ Như vậy, tham lam đã được chiến thắng.
Kathaṃ icchācāro vijito? Ayaṃ verañjā dubbhikkhā, ime ca manussā amhe dve tayo māse vasantepi na kismiñci maññanti. Yaṃnūna mayaṃ guṇavāṇijjaṃ katvā ‘‘asuko bhikkhu paṭhamassa jhānassa lābhī…pe… asuko chaḷabhiññoti evaṃ manussānaṃ aññamaññaṃ pakāsetvā kucchiṃ paṭijaggitvā pacchā sīlaṃ adhiṭṭhaheyyāmā’’ti ekabhikkhunāpi evarūpā icchā na uppāditā. Evaṃ icchācāro vijito abhibhūto attano vase vattitoti.
Sự buông thả theo ý muốn đã được chiến thắng như thế nào? (Không một ai nghĩ rằng:) ‘Thành Verañjā này đang đói kém, và những người này, dù chúng ta ở đây hai ba tháng, cũng chẳng xem chúng ta ra gì. Hay là chúng ta hãy dùng phẩm chất (tu hành) để đổi chác, loan tin cho người đời biết với nhau rằng: “Vị Tỳ khưu X là người chứng đắc Sơ Thiền…v.v… Vị Tỳ khưu Y là người có sáu thắng trí”, để chăm lo cho cái bụng rồi sau đó sẽ giữ giới.’ – không một Tỳ khưu nào khởi lên ý muốn như vậy. Như vậy, sự buông thả theo ý muốn đã được chiến thắng, đã được chinh phục, đã được kiểm soát.
Anāgate pana pacchimā janatā vihāre nisinnā appakasireneva labhitvāpi ‘‘kiṃ idaṃ uttaṇḍulaṃ atikilinnaṃ aloṇaṃ atiloṇaṃ anambilaṃ accambilaṃ, ko iminā attho’’ti ādinā nayena sālimaṃsodanaṃ atimaññissati, oññātaṃ avaññātaṃ karissati. Atha vā janapado nāma na sabbakālaṃ dubbhikkho hoti. Ekadā dubbhikkho hoti, ekadā subhikkho hoti. Svāyaṃ yadā subhikkho bhavissati, tadā tumhākaṃ sappurisānaṃ imāya paṭipattiyā pasannā manussā bhikkhūnaṃ yāgukhajjakādippabhedena anekappakāraṃ sālivikatiṃ maṃsodanañca dātabbaṃ maññissanti. Taṃ tumhe nissāya uppannaṃ sakkāraṃ tumhākaṃ sabrahmacārīsaṅkhātā pacchimā janatā tumhākaṃ antare nisīditvā anubhavamānāva atimaññissati, tappaccayaṃ mānañca omānañca karissati. Kathaṃ? Kasmā ettakaṃ pakkaṃ, kiṃ tumhākaṃ bhājanāni natthi, yattha attano santakaṃ pakkhipitvā ṭhapeyyāthāti.
Còn trong tương lai, hàng hậu thế, dù ngồi trong tu viện mà nhận được (vật thực) không mấy khó khăn, cũng sẽ xem thường cả cơm gạo Sāli và thịt, bằng cách nói rằng: ‘Cái gì đây, gạo thì sượng, quá nhão, không có muối, quá nhiều muối, không có vị chua, quá chua, thứ này có ích gì chứ?’ và các cách nói tương tự, họ sẽ coi thường, khinh miệt (vật thực). Hoặc nữa, một xứ sở không phải lúc nào cũng đói kém. Có lúc đói kém, có lúc được mùa. Xứ này, khi được mùa, bấy giờ những người có lòng tịnh tín với sự thực hành này của các ông là những bậc chân nhân, sẽ nghĩ đến việc cúng dường cho các Tỳ khưu nhiều loại chế phẩm từ gạo Sāli, cơm thịt, với các loại như cháo, bánh kẹo và các loại tương tự. Sự cúng dường phát sinh nhờ các ông đó, hàng hậu thế được gọi là những người đồng phạm hạnh của các ông, khi ngồi giữa các ông mà hưởng thụ, lại sẽ xem thường, và do duyên đó mà sinh lòng kiêu mạn và khinh miệt. Như thế nào? (Họ sẽ nói:) ‘Tại sao lại nấu nhiều đến thế? Các vị không có đồ đựng hay sao, để mà cất giữ phần của mình đi?’
Dubbhikkhakathā niṭṭhitā.
Luận về Nạn Đói Kém kết thúc.
Mahāmoggallānassasīhanādakathā
Luận về Tiếng Rống Sư Tử của Đại đức Mahā Moggallāna
17.Atha kho āyasmā mahāmoggallānotiādīsu āyasmāti piyavacanametaṃ, garugāravasappatissādhivacanametaṃ. Mahāmoggallānoti mahā ca so guṇamahantatāya moggallāno ca gottenāti mahāmoggallāno. Etadavocāti etaṃ avoca. Idāni vattabbaṃ ‘‘etarahi bhante’’tiādivacanaṃ dasseti. Kasmā avoca? Thero kira pabbajitvā sattame divase sāvakapāramiñāṇassa matthakaṃ patto, satthārāpi mahiddhikatāya etadagge ṭhapito. So taṃ attano mahiddhikataṃ nissāya cintesi – ‘‘ayaṃ verañjā dubbhikkhā, bhikkhū ca kilamanti, yaṃnūnāhaṃ pathaviṃ parivattetvā bhikkhū pappaṭakojaṃ bhojeyya’’nti. Athassa etadahosi – ‘‘sace panāhaṃ bhagavato santike viharanto bhagavantaṃ ayācitvā evaṃ kareyyaṃ, na metaṃ assa patirūpaṃ; yugaggāho viya bhagavatā saddhiṃ kato bhaveyyā’’ti. Tasmā yācitukāmo āgantvā bhagavantaṃ etadavoca.
17. Trong các câu như ‘Bấy giờ, Đại đức Mahā Moggallāna…’ và các câu tương tự: từ ‘Đại đức’ là một lời nói thân ái, một cách gọi biểu thị sự tôn kính, kính trọng, và quy thuận. Từ ‘Mahā Moggallāna’ có nghĩa là: vị ấy vừa vĩ đại do sự lớn lao về phẩm chất, vừa là Moggallāna do dòng họ, nên (gọi là) Mahā Moggallāna. Từ ‘đã bạch điều này’ có nghĩa là đã nói điều này. Bây giờ, (kinh) chỉ ra lời sắp được nói, bắt đầu bằng ‘Bạch Thế Tôn, hiện nay…’. Tại sao Ngài lại nói? Tương truyền, vị Trưởng lão, sau khi xuất gia, vào ngày thứ bảy đã đạt đến đỉnh cao của trí tuệ ba la mật của bậc Thanh Văn, và cũng đã được Bậc Đạo Sư đặt vào vị trí cao nhất về đại thần lực. Ngài, dựa vào đại thần lực đó của mình, đã suy nghĩ: ‘Thành Verañjā này đang đói kém, các Tỳ khưu lại đang khốn khổ; hay là ta hãy lật ngược đất lên để các Tỳ khưu dùng được vị bổ dưỡng của lớp vỏ đất.’ Rồi Ngài lại nghĩ thế này: ‘Nếu ta đang ở gần Đấng Thế Tôn mà làm như vậy không xin phép Đấng Thế Tôn, thì điều đó không thích hợp với ta; sẽ giống như là tranh giành quyền hành với Đấng Thế Tôn vậy.’ Do đó, vì muốn xin phép, Ngài đã đến và bạch với Đấng Thế Tôn điều đó.
Heṭṭhimatalaṃ sampannanti pathaviyā kira heṭṭhimatale pathavimaṇḍo pathavojo pathavi-pappaṭako atthi, taṃ sandhāya vadati. Tattha sampannanti madhuraṃ, sādurasanti attho. Yatheva hi ‘‘tatrassa rukkho sampannaphalo ca upapannaphalo cā’’ti (ma. ni. 2.48) ettha madhuraphaloti attho; evamidhāpi sampannanti madhuraṃ sādurasanti veditabbaṃ. Seyyathāpi khuddamadhuṃ anīḷakanti idaṃ panassa madhuratāya opammanidassanatthaṃ vuttaṃ. Khuddamadhunti khuddakamakkhikāhi katamadhu. Anīḷakanti nimmakkhikaṃ nimmakkhikaṇḍakaṃ parisuddhaṃ. Etaṃ kira madhu sabbamadhūhi aggañca seṭṭhañca surasañca ojavantañca. Tenāha – ‘‘seyyathāpi khuddamadhuṃ anīḷakaṃ evamassāda’’nti.
Trong câu ‘Lớp đất dưới rất màu mỡ’: Tương truyền, ở lớp dưới của trái đất có lớp vỏ đất, tinh chất đất, lớp da đất; Ngài (Mahā Moggallāna) nói nhắm đến điều đó. Trong đó, từ ‘màu mỡ’ có nghĩa là ngọt ngào, có vị ngon. Thật vậy, cũng như trong câu ‘Ở đó, cây của vị ấy có quả sai trĩu và quả đã chín tới’ (ma. ni. 2.48), ‘quả sai trĩu’ có nghĩa là quả ngọt; cũng vậy, ở đây cần hiểu rằng ‘màu mỡ’ có nghĩa là ngọt ngào, có vị ngon. Cụm từ ‘Ví như mật của ong nhỏ không còn sáp ong’: điều này được nói để làm ví dụ minh họa cho sự ngọt ngào của nó (tinh chất đất). Từ ‘mật của ong nhỏ’ có nghĩa là mật do loài ong nhỏ làm ra. Từ ‘không còn sáp ong’ có nghĩa là không còn con ong, không còn trứng ong, hoàn toàn tinh khiết. Tương truyền, loại mật này là loại hảo hạng nhất, cao quý nhất, có vị ngon nhất, và bổ dưỡng nhất trong tất cả các loại mật. Do đó, Ngài (Mahā Moggallāna) nói: ‘Nó có vị ngon ví như mật của ong nhỏ không còn sáp ong.’
Sādhāhaṃ, bhanteti sādhu ahaṃ, bhante. Ettha sādhūti āyācanavacanametaṃ. Pathaviparivattanaṃ āyācanto hi thero bhagavantaṃ evamāha. Parivatteyyanti ukkujjeyyaṃ, heṭṭhimatalaṃ uparimaṃ kareyyaṃ. Kasmā? Evañhi kate sukhena bhikkhū pappaṭakojaṃ pathavimaṇḍaṃ paribhuñjissantīti. Atha bhagavā ananuññātukāmopi theraṃ sīhanādaṃ nadāpetuṃ pucchi – ‘‘ye pana te, moggallāna, pathavinissitā pāṇā te kathaṃ karissasī’’ti. Ye pathavinissitā gāmanigamādīsu pāṇā, te pathaviyā parivattiyamānāya ākāse saṇṭhātuṃ asakkonte kathaṃ karissasi, kattha ṭhapessasīti? Atha thero bhagavatā etadagge ṭhapitabhāvānurūpaṃ attano iddhānubhāvaṃ pakāsento ‘‘ekāhaṃ, bhante’’tiādimāha. Tassattho – ekaṃ ahaṃ bhante hatthaṃ yathā ayaṃ mahāpathavī evaṃ abhinimminissāmi, pathavisadisaṃ karissāmi. Evaṃ katvā ye pathavinissitā pāṇā te ekasmiṃ hatthatale ṭhite pāṇe tato dutiyahatthatale saṅkāmento viya tattha saṅkāmessāmīti.
Trong câu ‘Sādhāhaṃ, bhante’ (Con thấy thật tốt lành, bạch Thế Tôn): (có nghĩa là) Lành thay (Sādhāhaṃ = sādhu + ahaṃ), bạch Thế Tôn. Ở đây, từ ‘lành thay’ là một lời thỉnh cầu. Thật vậy, vị Trưởng lão, trong khi thỉnh cầu việc lật ngược đất, đã bạch với Đấng Thế Tôn như vậy. Từ ‘con sẽ lật ngược’ có nghĩa là con sẽ làm cho nó ngửa lên, con sẽ làm cho lớp đất dưới trở thành lớp đất trên. Tại sao? Vì nếu làm như vậy, các Tỳ khưu sẽ có thể dễ dàng dùng được tinh chất của lớp vỏ đất, phần tinh túy của đất. Bấy giờ, Đấng Thế Tôn, dù không muốn cho phép, nhưng để cho vị Trưởng lão có cơ hội rống lên tiếng rống sư tử, đã hỏi: “Này Moggallāna, còn những chúng sanh nương tựa vào đất kia, con sẽ làm gì với chúng?” Những chúng sanh nương tựa vào đất ở các làng mạc, thị tứ v.v…, khi đất bị lật ngược, chúng không thể đứng vững trên không trung, con sẽ làm gì với chúng, con sẽ đặt chúng ở đâu? Bấy giờ, vị Trưởng lão, để làm sáng tỏ thần lực của mình, vốn tương xứng với địa vị đã được Đấng Thế Tôn đặt làm bậc nhất (về thần thông), đã nói bắt đầu bằng: “Bạch Thế Tôn, một tay con…” và những điều theo sau. Ý nghĩa của nó là: Bạch Thế Tôn, một tay con sẽ hóa hiện ra giống như trái đất lớn này, con sẽ làm cho nó giống như đất. Sau khi làm như vậy, những chúng sanh nào nương tựa vào đất, con sẽ di chuyển chúng đến đó, giống như di chuyển những chúng sanh đang đứng trên một lòng bàn tay này sang lòng bàn tay thứ hai vậy.
Athassa bhagavā āyācanaṃ paṭikkhipanto ‘‘alaṃ moggallānā’’tiādimāha. Tattha alanti paṭikkhepavacanaṃ. Vipallāsampi sattā paṭilabheyyunti viparītaggāhampi sattā sampāpuṇeyyuṃ. Kathaṃ? Ayaṃ nu kho pathavī , udāhu na ayanti. Atha vā amhākaṃ nu kho ayaṃ gāmo, udāhu aññesa’’nti. Evaṃ nigamajanapadakhettārāmādīsu. Na vā esa vipallāso, acinteyyo hi iddhimato iddhivisayo. Evaṃ pana vipallāsaṃ paṭilabheyyuṃ – idaṃ dubbhikkhaṃ nāma na idāniyeva hoti, anāgatepi bhavissati. Tadā bhikkhū tādisaṃ iddhimantaṃ sabrahmacāriṃ kuto labhissanti? Te sotāpanna-sakadāgāmi-anāgāmi-sukkhavipassaka-jhānalābhi-paṭisambhidāppattakhīṇāsavāpi samānā iddhibalābhāvā parakulāni piṇḍāya upasaṅkamissanti. Tatra manussānaṃ evaṃ bhavissati – ‘‘buddhakāle bhikkhū sikkhāsu paripūrakārino ahesuṃ. Te guṇe nibbattetvā dubbhikkhakāle pathaviṃ parivattetvā pappaṭakojaṃ paribhuñjiṃsu. Idāni pana sikkhāya paripūrakārino natthi. Yadi siyuṃ, tatheva kareyyuṃ. Na amhākaṃ yaṃ kiñci pakkaṃ vā āmaṃ vā khādituṃ dadeyyu’’nti. Evaṃ tesuyeva ariyapuggalesu ‘‘natthi ariyapuggalā’’ti imaṃ vipallāsaṃ paṭilabheyyuṃ. Vipallāsavasena ca ariye garahantā upavadantā apāyupagā bhaveyyuṃ. Tasmā mā te rucci pathaviṃ parivattetunti.
Bấy giờ, Đấng Thế Tôn, trong khi bác bỏ lời thỉnh cầu ấy, đã nói bắt đầu bằng: “Thôi vừa rồi, Moggallāna…” và những điều theo sau. Trong đó, từ ‘thôi’ là một lời bác bỏ. Cụm từ ‘chúng sanh cũng có thể có nhận thức sai lầm’ có nghĩa là chúng sanh cũng có thể đạt đến sự chấp giữ sai lầm. Như thế nào? (Họ có thể nghĩ:) ‘Đây có phải là đất không, hay không phải là đất?’ Hoặc: ‘Đây có phải là làng của chúng ta không, hay là của người khác?’ Như vậy (là sự sai lầm) đối với thị tứ, xứ sở, ruộng vườn v.v… Hoặc, đó không phải là sự nhận thức sai lầm (theo nghĩa đen), vì phạm vi thần thông của người có thần lực là không thể nghĩ bàn. Nhưng chúng sanh có thể có nhận thức sai lầm như thế này: Nạn đói kém này không chỉ xảy ra bây giờ, mà trong tương lai cũng sẽ xảy ra. Khi đó, các Tỳ khưu làm sao có được một vị đồng phạm hạnh có thần thông như vậy? Các vị ấy, dù là bậc Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Lai, bậc Tuệ Khô, bậc chứng thiền, bậc đắc Tứ Vô Ngại Giải, hay bậc A La Hán, do không có năng lực thần thông, cũng sẽ phải đến các nhà của người khác để khất thực. Khi đó, người đời sẽ nghĩ như thế này: ‘Vào thời Đức Phật, các Tỳ khưu là những người thực hành trọn vẹn các học giới. Các Ngài đã phát triển các phẩm chất, nên trong thời đói kém đã lật ngược đất lên để dùng tinh chất của lớp vỏ đất. Còn bây giờ thì không có ai thực hành trọn vẹn học giới nữa. Nếu có, họ cũng đã làm như vậy rồi. Họ sẽ không (để) chúng ta phải cúng dường bất cứ thứ gì đã nấu chín hay còn sống để ăn đâu.’ Như vậy, ngay cả đối với các bậc Thánh nhân ấy, họ cũng sẽ có nhận thức sai lầm này là ‘không có bậc Thánh nhân nào cả’. Và do nhận thức sai lầm, khi khiển trách, phỉ báng các bậc Thánh, họ sẽ phải sanh vào đường ác. Do đó, (Đức Phật nói): ‘Con chớ có ý muốn lật ngược đất lên.’
Atha thero imaṃ yācanaṃ alabhamāno aññaṃ yācanto ‘‘sādhu, bhante’’tiādimāha. Tampissa bhagavā paṭikkhipanto ‘‘alaṃmoggallānā’’tiādimāha. Tattha kiñcāpi na vuttaṃ ‘‘vipallāsampi sattā paṭilabheyyu’’nti, atha kho pubbe vuttanayeneva gahetabbaṃ; atthopi cassa vuttasadisameva veditabbo. Yadi pana bhagavā anujāneyya, thero kiṃ kareyyāti? Mahāsamuddaṃ ekena padavītihārena atikkamitabbaṃ mātikāmattaṃ adhiṭṭhahitvā naḷerupucimandato uttarakuruabhimukhaṃ maggaṃ nīharitvā uttarakuruṃ gamanāgamanasampanne ṭhāne katvā dasseyya, yathā bhikkhū gocaragāmaṃ viya yathāsukhaṃ piṇḍāya pavisitvā nikkhameyyunti.
Bấy giờ, vị Trưởng lão, không được chấp thuận lời thỉnh cầu này, lại thỉnh cầu điều khác, bắt đầu bằng: ‘Lành thay, bạch Thế Tôn…’ và những điều theo sau. Đấng Thế Tôn cũng bác bỏ lời thỉnh cầu đó của ngài, bắt đầu bằng: ‘Thôi vừa rồi, Moggallāna…’ và những điều theo sau. Trong đó, mặc dù không nói ‘chúng sanh cũng có thể có nhận thức sai lầm’, nhưng cần hiểu theo phương pháp đã nói trước đó; ý nghĩa của nó cũng cần được hiểu tương tự như đã nói. Nhưng nếu Đấng Thế Tôn cho phép, vị Trưởng lão sẽ làm gì? (Ngài sẽ) chú nguyện một con đường chỉ vừa đủ để đi qua biển lớn bằng một bước chân, tạo ra một con đường từ gốc cây Pucimanda của Naḷeru hướng đến châu Uttarakuru, rồi biến châu Uttarakuru thành một nơi thuận tiện cho việc đi lại, để các Tỳ khưu có thể thoải mái vào ra khất thực như một làng khất thực vậy.
Niṭṭhitā mahāmoggallānassa sīhanādakathā.
Luận về Tiếng Rống Sư Tử của Đại đức Mahā Moggallāna kết thúc.
Vinayapaññattiyācanakathāvaṇṇanā
Chú Giải Luận về Sự Thỉnh Cầu Chế Định Giới Luật
18. Idāni āyasmā upāli vinayapaññattiyā mūlato pabhuti nidānaṃ dassetuṃ sāriputtattherassa sikkhāpadapaṭisaṃyuttaṃ vitakkuppādaṃ dassento ‘‘atha kho āyasmato sāriputtassā’’tiādimāha. Tattha rahogatassāti rahasi gatassa. Paṭisallīnassāti sallīnassa ekībhāvaṃ gatassa. Katamesānanti atītesu vipassīādīsu buddhesu katamesaṃ. Ciraṃ assa ṭhiti, cirā vā assa ṭhitīti ciraṭṭhitikaṃ. Sesamettha uttānapadatthameva.
18. Bây giờ, Đại đức Upāli, để chỉ ra nhân duyên của việc chế định Giới Luật từ gốc rễ trở đi, và để chỉ ra sự khởi lên tư duy liên quan đến học giới của Đại đức Sāriputta, đã nói bắt đầu bằng: ‘Bấy giờ, Đại đức Sāriputta…’ và những điều theo sau. Trong đó, từ ‘khi ở một mình’ có nghĩa là khi đã đi đến nơi vắng vẻ. Từ ‘khi độc cư thiền tịnh’ có nghĩa là khi đã ẩn mình, đã đạt đến trạng thái nhất tâm. Từ ‘Của những vị nào’ có nghĩa là của những vị Phật nào trong số các Đức Phật quá khứ như Vipassī và các vị khác. Sự tồn tại của giáo pháp ấy lâu dài, hoặc giáo pháp ấy có sự tồn tại lâu dài, nên (gọi là) ‘tồn tại lâu dài’. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.
Kiṃ pana thero imaṃ attano parivitakkaṃ sayaṃ vinicchinituṃ na sakkotīti? Vuccate – sakkoti ca na sakkoti ca. Ayañhi imesaṃ nāma buddhānaṃ sāsanaṃ na ciraṭṭhitikaṃ ahosi, imesaṃ ciraṭṭhitikanti ettakaṃ sakkoti vinicchinituṃ. Iminā pana kāraṇena na ciraṭṭhitikaṃ ahosi, iminā ciraṭṭhitikanti etaṃ na sakkoti. Mahāpadumatthero panāha – ‘‘etampi soḷasavidhāya paññāya matthakaṃ pattassa aggasāvakassa na bhāriyaṃ, sammāsambuddhena pana saddhiṃ ekaṭṭhāne vasantassa sayaṃ vinicchayakaraṇaṃ tulaṃ chaḍḍetvā hatthena tulanasadisaṃ hotīti bhagavantaṃyeva upasaṅkamitvā pucchī’’ti. Athassa bhagavā taṃ vissajjento ‘‘bhagavato ca sāriputta vipassissā’’tiādimāha. Taṃ uttānatthameva.
Nhưng phải chăng vị Trưởng lão không thể tự mình quyết đoán được tư duy này của mình? (Trả lời:) Có thể và cũng không thể. Vị ấy có thể quyết đoán được chừng này: Giáo pháp của các Đức Phật tên là X này đã không tồn tại lâu dài, (giáo pháp) của các vị Y này đã tồn tại lâu dài. Nhưng vị ấy không thể (quyết đoán được rằng): Do nhân duyên này mà (giáo pháp) đã không tồn tại lâu dài, do nhân duyên này mà (giáo pháp) đã tồn tại lâu dài. Còn Đại đức Mahāpaduma thì nói: ‘Ngay cả điều này cũng không phải là nặng nề đối với một vị Thượng Thủ Thanh Văn đã đạt đến đỉnh cao của mười sáu loại trí tuệ; nhưng khi đang sống cùng một nơi với bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, việc tự mình quyết đoán giống như bỏ cân đi mà dùng tay để cân vậy, do đó ngài đã đến gặp chính Đấng Thế Tôn để hỏi.’ Bấy giờ, Đấng Thế Tôn, khi giải đáp điều đó cho ngài, đã nói bắt đầu bằng: ‘Này Sāriputta, đối với Đức Phật Vipassī…’ và những điều theo sau. Điều đó có ý nghĩa rõ ràng.
19. Puna thero kāraṇaṃ pucchanto ko nu kho, bhante, hetūtiādimāha. Tattha ko nu kho bhanteti kāraṇapucchā , tassa katamo nu kho bhanteti attho. Hetu paccayoti ubhayametaṃ kāraṇādhivacanaṃ; kāraṇañhi yasmā tena tassa phalaṃ hinoti pavattati, tasmā hetūti vuccati. Yasmā taṃ paṭicca eti pavattati, tasmā paccayoti vuccati. Evaṃ atthato ekampi vohāravasena ca vacanasiliṭṭhatāya ca tatra tatra etaṃ ubhayampi vuccati. Sesamettha uttānatthameva.
19. Lại nữa, vị Trưởng lão, khi hỏi về nguyên nhân, đã nói bắt đầu bằng: ‘Bạch Thế Tôn, đâu là nhân…’ và những điều theo sau. Trong đó, câu ‘Bạch Thế Tôn, đâu là’ là câu hỏi về nguyên nhân, ý nghĩa của nó là: Bạch Thế Tôn, đó là cái nào? Cụm từ ‘nhân, duyên’: cả hai từ này đều là tên gọi khác của nguyên nhân. Thật vậy, nguyên nhân, vì nhờ nó mà kết quả của nó được thúc đẩy, được diễn tiến, nên được gọi là ‘nhân’. Vì quả nương tựa vào nó mà đến, mà diễn tiến, nên được gọi là ‘duyên’. Như vậy, dù về mặt ý nghĩa là một, nhưng do cách dùng từ và để cho câu văn trôi chảy, ở chỗ này chỗ kia cả hai từ này đều được dùng. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.
Idāni taṃ hetuñca paccayañca dassetuṃ ‘‘bhagavā ca sāriputta vipassī’’tiādimāha. Tattha kilāsuno ahesunti na ālasiyakilāsuno, na hi buddhānaṃ ālasiyaṃ vā osannavīriyatā vā atthi. Buddhā hi ekassa vā dvinnaṃ vā sakalacakkavāḷassa vā dhammaṃ desentā samakeneva ussāhena dhammaṃ desenti, na parisāya appabhāvaṃ disvā osannavīriyā honti, nāpi mahantabhāvaṃ disvā ussannavīriyā. Yathā hi sīho migarājā sattannaṃ divasānaṃ accayena gocarāya pakkanto khuddake vā mahante vā pāṇe ekasadiseneva vegena dhāvati. Taṃ kissa hetu? ‘‘Mā me javo parihāyī’’ti. Evaṃ buddhā appakāya vā mahatiyā vā parisāya samakeneva ussāhena dhammaṃ desenti. Taṃ kissa hetu? ‘‘Mā no dhammagarutā parihāyī’’ti. Dhammagaruno hi buddhā dhammagāravāti.
Bây giờ, để chỉ ra nhân và duyên đó, Ngài nói bắt đầu bằng: ‘Này Sāriputta, Đức Phật Vipassī…’ và những điều theo sau. Trong đó, cụm từ ‘đã mệt mỏi’ không có nghĩa là mệt mỏi do lười biếng; vì các Đức Phật không có sự lười biếng hay sự tinh tấn bị suy giảm. Thật vậy, các Đức Phật, khi thuyết pháp cho một người, hai người, hay cho toàn thể thế giới hệ, đều thuyết pháp với sự nỗ lực như nhau; các Ngài không bị suy giảm tinh tấn khi thấy hội chúng ít ỏi, cũng không nỗ lực quá mức khi thấy hội chúng đông đảo. Thật vậy, cũng như sư tử, vua của các loài thú, sau bảy ngày đi tìm mồi, dù (gặp) con mồi nhỏ hay lớn, cũng đều rượt đuổi với tốc độ như nhau. Đó là vì lý do gì? (Nó nghĩ:) ‘Mong rằng tốc độ của ta không bị suy giảm.’ Cũng vậy, các Đức Phật thuyết pháp cho hội chúng ít hay nhiều đều với sự nỗ lực như nhau. Đó là vì lý do gì? (Các Ngài nghĩ:) ‘Mong rằng sự tôn kính Pháp của chúng ta không bị suy giảm.’ Thật vậy, các Đức Phật là những bậc tôn kính Pháp, có lòng kính trọng Pháp.
Yathā pana amhākaṃ bhagavā mahāsamuddaṃ pūrayamāno viya vitthārena dhammaṃ desesi, evaṃ te na desesuṃ. Kasmā? Sattānaṃ apparajakkhatāya. Tesaṃ kira kāle dīghāyukā sattā apparajakkhā ahesuṃ. Te catusaccapaṭisaṃyuttaṃ ekagāthampi sutvā dhammaṃ abhisamenti, tasmā na vitthārena dhammaṃ desesuṃ. Teneva kāraṇena appakañca nesaṃ ahosi suttaṃ…pe… vedallanti. Tattha suttādīnaṃ nānattaṃ paṭhamasaṅgītivaṇṇanāyaṃ vuttameva.
Còn như Đấng Thế Tôn của chúng ta đã thuyết pháp một cách rộng rãi, ví như làm đầy biển lớn, các vị (Phật quá khứ) ấy đã không thuyết giảng như vậy. Tại sao? Do chúng sanh (thời đó) ít bụi trần. Tương truyền, vào thời của các Ngài, chúng sanh sống lâu, ít bụi trần. Họ, dù chỉ nghe một bài kệ liên quan đến Bốn Chân Lý, cũng thấu hiểu Chánh Pháp; do đó, các Ngài đã không thuyết pháp một cách rộng rãi. Chính vì lý do đó mà kinh điển của các Ngài ít ỏi, bao gồm kinh, ứng tụng, ký thuyết, kệ ngôn, cảm hứng ngữ, như thị ngữ, bổn sanh, vị tằng hữu pháp, và phương quảng. Trong đó, sự đa dạng của kinh điển và các loại khác đã được nói đến trong phần chú giải về Đại Hội Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ Nhất.
Apaññattaṃsāvakānaṃ sikkhāpadanti sāvakānaṃ niddosatāya dosānurūpato paññapetabbaṃ sattāpattikkhandhavasena āṇāsikkhāpadaṃ apaññattaṃ. Anuddiṭṭhaṃpātimokkhanti anvaddhamāsaṃ āṇāpātimokkhaṃ anuddiṭṭhaṃ ahosi. Ovādapātimokkhameva te uddisiṃsu; tampi ca no anvaddhamāsaṃ. Tathā hi vipassī bhagavā channaṃ channaṃ vassānaṃ sakiṃ sakiṃ ovādapātimokkhaṃ uddisi; tañca kho sāmaṃyeva. Sāvakā panassa attano attano vasanaṭṭhānesu na uddisiṃsu. Sakalajambudīpe ekasmiṃyeva ṭhāne bandhumatiyā rājadhāniyā kheme migadāye vipassissa bhagavato vasanaṭṭhāne sabbopi bhikkhusaṅgho uposathaṃ akāsi. Tañca kho saṅghuposathameva; na gaṇuposathaṃ, na puggaluposathaṃ, na pārisuddhiuposathaṃ, na adhiṭṭhānuposathaṃ.
Cụm từ ‘học giới không được chế định cho các đệ tử’ có nghĩa là: do các đệ tử không có lỗi lầm, nên học giới mang tính mệnh lệnh, thuộc bảy tụ tội, vốn cần được chế định tùy theo lỗi lầm, đã không được chế định. Cụm từ ‘Giới Bổn không được tụng đọc’ có nghĩa là: Giới Bổn mang tính mệnh lệnh đã không được tụng đọc mỗi nửa tháng. Các Ngài chỉ tụng đọc Giáo Giới Giới Bổn; và điều đó cũng không phải mỗi nửa tháng. Thật vậy, Đấng Thế Tôn Vipassī cứ mỗi sáu năm mới tụng đọc Giáo Giới Giới Bổn một lần; và chính Ngài tự mình tụng đọc. Còn các đệ tử của Ngài thì không tụng đọc (Giáo Giới Giới Bổn) tại trú xứ của mỗi người. Trong toàn cõi Jambudīpa, toàn thể Tăng đoàn Tỳ khưu chỉ làm lễ Bố-tát tại một nơi duy nhất, đó là tại trú xứ của Đấng Thế Tôn Vipassī ở vườn Lộc Uyển Khema, thuộc kinh thành Bandhumatī. Và đó chỉ là lễ Bố-tát của Tăng đoàn; không phải lễ Bố-tát của nhóm, không phải lễ Bố-tát của cá nhân, không phải lễ Bố-tát thanh tịnh, không phải lễ Bố-tát chú nguyện.
Tadā kira jambudīpe caturāsītivihārasahassāni honti. Ekamekasmiṃ vihāre abbokiṇṇāni dasapi vīsatipi bhikkhusahassāni vasanti, bhiyyopi vasanti. Uposathārocikā devatā tattha tattha gantvā ārocenti – ‘‘mārisā, ekaṃ vassaṃ atikkantaṃ, dve tīṇi cattāri pañca vassāni atikkantāni, idaṃ chaṭṭhaṃ vassaṃ, āgāminiyā puṇṇamāsiyā buddhadassanatthaṃ uposathakaraṇatthañca gantabbaṃ! Sampatto vo sannipātakālo’’ti. Tato sānubhāvā bhikkhū attano attano ānubhāvena gacchanti, itare devatānubhāvena. Kathaṃ? Te kira bhikkhū pācīnasamuddante vā pacchimauttaradakkhiṇasamuddante vā ṭhitā gamiyavattaṃ pūretvā pattacīvaramādāya ‘‘gacchāmā’’ti cittaṃ uppādenti; saha cittuppādā uposathaggaṃ gatāva honti. Te vipassiṃ sammāsambuddhaṃ abhivādetvā nisīdanti. Bhagavāpi sannisinnāya parisāya imaṃ ovādapātimokkhaṃ uddisati.
Tương truyền, vào lúc đó, ở Jambudīpa có tám mươi bốn ngàn tu viện. Trong mỗi tu viện, có mười ngàn, hai mươi ngàn Tỳ khưu, hoặc nhiều hơn nữa, thường xuyên cư trú. Chư thiên báo tin Bố-tát đi đến từng nơi thông báo: ‘Thưa quý vị, một năm đã qua, hai, ba, bốn, năm năm đã qua, đây là năm thứ sáu, vào ngày rằm sắp tới, quý vị phải đi để diện kiến Đức Phật và làm lễ Bố-tát! Đã đến lúc quý vị phải tập hợp rồi!’ Khi đó, các Tỳ khưu có thần lực thì tự mình đi bằng thần lực của mình; những vị khác thì đi bằng thần lực của chư thiên. Như thế nào? Tương truyền, các Tỳ khưu ấy, dù ở bờ biển phía Đông, hay bờ biển phía Tây, Bắc, Nam, sau khi hoàn tất các phận sự phải làm trước khi đi, mang theo y bát, khởi tâm nghĩ rằng: ‘Chúng ta đi’; ngay khi tâm vừa khởi lên, các Ngài đã đến ngay giảng đường Bố-tát. Các Ngài đảnh lễ Đức Chánh Đẳng Chánh Giác Vipassī rồi ngồi xuống. Đấng Thế Tôn cũng tụng đọc bài Giáo Giới Giới Bổn này cho hội chúng đã ngồi yên.
‘‘Khantī paramaṃ tapo titikkhā;
‘‘Nhẫn nại, kham nhẫn là khổ hạnh tối thượng;
Nibbānaṃ paramaṃ vadanti buddhā;
Chư Phật gọi Niết Bàn là tối thượng;
Na hi pabbajito parūpaghātī;
Người xuất gia không làm hại người khác;
Na samaṇo hoti paraṃ viheṭhayanto.
Không phải Sa môn nếu còn làm não loạn người.
‘‘Sabbapāpassa akaraṇaṃ, kusalassa upasampadā;
‘‘Không làm các điều ác, thành tựu các điều thiện,
Sacittapariyodapanaṃ, etaṃ buddhāna sāsanaṃ.
Giữ tâm ý trong sạch; đó là lời dạy của Chư Phật.
‘‘Anupavādo anupaghāto, pātimokkhe ca saṃvaro;
‘‘Không phỉ báng, không làm hại, Thu thúc trong giới bổn;
Mattaññutā ca bhattasmiṃ, pantañca sayanāsanaṃ;
Tiết độ trong ăn uống, Sống nơi sàng tọa xa vắng;
Adhicitte ca āyogo, etaṃ buddhāna sāsana’’nti. (dī. ni. 2.90; dha. pa. 183-185);
Chuyên tâm tu tập định; đó là lời dạy của Chư Phật.’’ (dī. ni. 2.90; dha. pa. 183-185);
Eteneva upāyena itaresampi buddhānaṃ pātimokkhuddeso veditabbo. Sabbabuddhānañhi imā tissova ovādapātimokkhagāthāyo honti. Tā dīghāyukabuddhānaṃ yāva sāsanapariyantā uddesamāgacchanti; appāyukabuddhānaṃ paṭhamabodhiyaṃyeva. Sikkhāpadapaññattikālato pana pabhuti āṇāpātimokkhameva uddisīyati. Tañca kho bhikkhū eva uddisanti, na buddhā. Tasmā amhākampi bhagavā paṭhamabodhiyaṃ vīsativassamattameva idaṃ ovādapātimokkhaṃ uddisi. Athekadivasaṃ pubbārāme migāramātupāsāde nisinno bhikkhū āmantesi – ‘‘na dānāhaṃ, bhikkhave, ito paraṃ uposathaṃ karissāmi pātimokkhaṃ uddisissāmi, tumheva dāni bhikkhave ito paraṃ uposathaṃ kareyyātha, pātimokkhaṃ uddiseyyātha. Aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso yaṃ tathāgato aparisuddhāya parisāya uposathaṃ kareyya, pātimokkhaṃ uddiseyyā’’ti (cūḷava. 386). Tato paṭṭhāya bhikkhū āṇāpātimokkhaṃ uddisanti. Idaṃ āṇāpātimokkhaṃ tesaṃ anuddiṭṭhaṃ ahosi. Tena vuttaṃ – ‘‘anuddiṭṭhaṃ pātimokkha’’nti.
Theo phương pháp này, việc tụng đọc Giới Bổn của các Đức Phật khác cũng cần được hiểu như vậy. Thật vậy, đối với tất cả các Đức Phật, chỉ có ba bài kệ Giáo Giới Giới Bổn này mà thôi. Chúng (ba bài kệ này) được tụng đọc cho đến khi giáo pháp kết thúc đối với các Đức Phật sống lâu; (còn đối với) các Đức Phật sống không lâu thì (chỉ được tụng đọc) trong thời kỳ đầu sau khi giác ngộ. Nhưng kể từ khi các học giới được chế định, chỉ có Giới Bổn mang tính mệnh lệnh mới được tụng đọc. Và chính các Tỳ khưu tụng đọc Giới Bổn đó, chứ không phải các Đức Phật. Do đó, Đấng Thế Tôn của chúng ta cũng chỉ tụng đọc Giáo Giới Giới Bổn này trong khoảng hai mươi năm đầu sau khi giác ngộ. Rồi một hôm, khi đang ngồi tại giảng đường Migāramātupāsāda ở tu viện Pubbārāma, Ngài gọi các Tỳ khưu mà bảo rằng: ‘Này các Tỳ khưu, từ nay về sau, Ta sẽ không làm lễ Bố-tát, sẽ không tụng đọc Giới Bổn nữa. Này các Tỳ khưu, từ nay về sau, chính các ông hãy làm lễ Bố-tát, hãy tụng đọc Giới Bổn. Này các Tỳ khưu, không có lý do gì, không có trường hợp nào mà một vị Như Lai lại làm lễ Bố-tát, tụng đọc Giới Bổn cho một hội chúng không thanh tịnh.’ (cūḷava. 386). Kể từ đó, các Tỳ khưu tụng đọc Giới Bổn mang tính mệnh lệnh. Giới Bổn mang tính mệnh lệnh này đã không được các vị (Phật quá khứ) ấy tụng đọc. Do đó có lời nói: ‘Giới Bổn không được tụng đọc’.
Tesaṃbuddhānanti tesaṃ vipassīādīnaṃ tiṇṇaṃ buddhānaṃ. Antaradhānenāti khandhantaradhānena; parinibbānenāti vuttaṃ hoti. Buddhānubuddhānanti ye tesaṃ buddhānaṃ anubuddhā sammukhasāvakā tesañca khandhantaradhānena. Ye te pacchimā sāvakāti ye tesaṃ sammukhasāvakānaṃ santike pabbajitā pacchimā sāvakā. Nānānāmāti ‘‘buddharakkhito, dhammarakkhito’’tiādi nāmavasena vividhanāmā. Nānāgottāti ‘‘gotamo, moggallāno’’tiādi gottavasena vividhagottā. Nānājaccāti ‘‘khattiyo, brāhmaṇo’’tiādijātivasena nānājaccā. Nānākulā pabbajitāti khattiyakulādivase neva uccanīcauḷāruḷārabhogādikulavasena vā vividhakulā nikkhamma pabbajitā.
Trong cụm từ ‘của các Đức Phật ấy’ có nghĩa là của ba vị Phật ấy là Vipassī và các vị khác (Sikhī, Vessabhū). Từ ‘do sự biến mất’ có nghĩa là do sự biến mất của các uẩn; tức là do sự nhập Parinibbāna (Vô Dư Niết Bàn). Từ ‘của các vị Phật-tùy-giác’ có nghĩa là những vị đã giác ngộ theo sau các Đức Phật ấy, tức là các vị Thinh Văn trực tiếp, và do sự biến mất của các uẩn của các vị ấy. Cụm từ ‘những vị đệ tử cuối cùng ấy’ có nghĩa là những vị đệ tử cuối cùng đã xuất gia với các vị Thinh Văn trực tiếp của các Ngài. ‘Nhiều tên gọi khác nhau’ có nghĩa là có nhiều tên gọi khác nhau như ‘Buddharakkhita (Phật Hộ), Dhammarakkhita (Pháp Hộ)’ và các tên tương tự. ‘Nhiều dòng họ khác nhau’ có nghĩa là có nhiều dòng họ khác nhau như ‘Gotama, Moggallāna’ và các dòng họ tương tự. ‘Nhiều giai cấp khác nhau’ có nghĩa là thuộc nhiều giai cấp khác nhau như Sát-đế-lợi, Bà-la-môn và các giai cấp tương tự. ‘Xuất gia từ nhiều gia tộc khác nhau’ có nghĩa là đã từ bỏ các gia tộc khác nhau như gia tộc Sát-đế-lợi và các gia tộc tương tự, hoặc các gia tộc có tài sản cao thấp, lớn nhỏ khác nhau mà xuất gia.
Tetaṃ brahmacariyanti te pacchimā sāvakā yasmā ekanāmā ekagottā ekajātikā ekakulā pabbajitā ‘‘amhākaṃ sāsanaṃ tanti paveṇī’’ti attano bhāraṃ katvā brahmacariyaṃ rakkhanti, ciraṃ pariyattidhammaṃ pariharanti. Ime ca tādisā na honti. Tasmā aññamaññaṃ viheṭhentā vilomaṃ gaṇhantā ‘‘asuko thero jānissati, asuko thero jānissatī’’ti sithilaṃ karontā taṃ brahmacariyaṃ khippaññeva antaradhāpesuṃ, saṅgahaṃ āropetvā na rakkhiṃsu. Seyyathāpīti tassatthassa opammanidassanaṃ. Vikiratīti vikkhipati. Vidhamatīti ṭhānantaraṃ neti. Viddhaṃsetīti ṭhitaṭṭhānato apaneti. Yathā taṃ suttena asaṅgahitattāti yathā suttena asaṅgahitattā aganthitattā abaddhattā evaṃ vikirati yathā suttena asaṅgahitāni vikiriyanti, evaṃ vikiratīti vuttaṃ hoti. Evameva khoti opammasampaṭipādanaṃ. Antaradhāpesunti vaggasaṅgaha-paṇṇāsasaṅgahādīhi asaṅgaṇhantā yaṃ yaṃ attano ruccati, taṃ tadeva gahetvā sesaṃ vināsesuṃ adassanaṃ nayiṃsu.
Trong cụm từ ‘đời sống phạm hạnh ấy’: những vị đệ tử cuối cùng đó, nếu họ là những người xuất gia cùng một tên, cùng một dòng họ, cùng một giai cấp, cùng một gia tộc, (thì họ) sẽ xem ‘giáo pháp, dòng truyền thừa, truyền thống của chúng ta’ là trách nhiệm của mình mà bảo vệ đời sống phạm hạnh, duy trì pháp học lâu dài. Nhưng những vị này (đệ tử cuối cùng của các vị Phật quá khứ) thì không phải như vậy. Do đó, họ làm phiền nhiễu lẫn nhau, chấp giữ ngược lại (lời dạy), làm cho (giáo pháp) lỏng lẻo với ý nghĩ ‘vị Trưởng lão X sẽ biết, vị Trưởng lão Y sẽ biết’, đã làm cho đời sống phạm hạnh ấy biến mất một cách nhanh chóng, không bảo vệ bằng cách kết tập lại. Từ ‘Ví như’ là để minh họa bằng ví dụ cho ý nghĩa đó. Từ ‘bị phân tán’ có nghĩa là bị tung tóe. Từ ‘bị thổi bay’ có nghĩa là bị đưa đến nơi khác. Từ ‘bị hủy hoại’ có nghĩa là bị loại bỏ khỏi chỗ đứng. Cụm từ ‘do không được kết lại bằng chỉ’ có nghĩa là: cũng như do không được kết lại bằng chỉ, không được xâu lại, không được buộc lại, nên chúng bị phân tán như vậy; cũng như những vật không được kết lại bằng chỉ thì bị phân tán, cũng vậy chúng bị phân tán, ý muốn nói là như vậy. Từ ‘Cũng vậy’ là để làm cho ví dụ được tương ứng. Từ ‘đã làm cho biến mất’ có nghĩa là: không kết tập lại theo từng phẩm, từng năm mươi bài kinh và các cách tương tự, mỗi người chỉ lấy những gì mình thích, còn phần còn lại thì hủy hoại, làm cho không còn thấy nữa.
Akilāsuno ca te bhagavanto ahesuṃ sāvake cetasā ceto paricca ovaditunti apica sāriputta te buddhā attano cetasā sāvakānaṃ ceto paricca paricchinditvā ovadituṃ akilāsuno ahesuṃ, paracittaṃ ñatvā anusāsaniṃ na bhāriyato na papañcato addasaṃsu. Bhūtapubbaṃ sāriputtātiādi tesaṃ akilāsubhāvappakāsanatthaṃ vuttaṃ. Bhiṃsanaketi bhayānake bhayajananake. Evaṃ vitakkethāti nekkhammavitakkādayo tayo vitakke vitakketha. Mā evaṃ vitakkayitthāti kāmavitakkādayo tayo akusalavitakke mā vitakkayittha. Evaṃ manasi karothāti ‘‘aniccaṃ dukkhamanattā asubha’’nti manasi karotha. Mā evaṃ manasā katthāti ‘‘niccaṃ sukhaṃ attā subha’’nti mā manasi akarittha. Idaṃ pajahathāti akusalaṃ pajahatha. Idaṃ upasampajja viharathāti kusalaṃ upasampajja paṭilabhitvā nipphādetvā viharatha.
Và ‘các Đấng Thế Tôn ấy đã không mệt mỏi trong việc dùng tâm của mình để biết rõ tâm của các đệ tử rồi giáo huấn’ có nghĩa là: Hơn nữa, này Sāriputta, các Đức Phật ấy đã không mệt mỏi trong việc dùng tâm của mình để biết rõ, để phân định tâm của các đệ tử rồi giáo huấn; các Ngài, sau khi biết tâm của người khác, đã không xem sự giáo huấn là nặng nề hay rườm rà. Các câu bắt đầu bằng ‘Này Sāriputta, đã từng có thời…’ được nói để làm sáng tỏ tính chất không mệt mỏi ấy của các Ngài. Từ ‘kinh sợ’ có nghĩa là đáng sợ, làm phát sinh sự sợ hãi. Cụm từ ‘Hãy tư duy như thế này’ có nghĩa là hãy tư duy ba loại tư duy như tư duy về sự xuất ly và các loại tư duy tương tự. Cụm từ ‘Đừng tư duy như thế kia’ có nghĩa là đừng tư duy ba loại tư duy bất thiện như tư duy về dục và các loại tư duy tương tự. Cụm từ ‘Hãy tác ý như thế này’ có nghĩa là hãy tác ý rằng: ‘vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh’. Cụm từ ‘Đừng tác ý như thế kia’ có nghĩa là đừng tác ý rằng: ‘thường, lạc, ngã, tịnh’. Cụm từ ‘Hãy từ bỏ điều này’ có nghĩa là hãy từ bỏ điều bất thiện. Cụm từ ‘Hãy chứng và trú trong điều này’ có nghĩa là hãy chứng đắc, đạt được, hoàn thành điều thiện rồi an trú.
Anupādāyaāsavehi cittāni vimucciṃsūti aggahetvā vimucciṃsu. Tesañhi cittāni yehi āsavehi vimucciṃsu, na te tāni gahetvā vimucciṃsu. Anuppādanirodhena pana nirujjhamānā aggahetvā vimucciṃsu. Tena vuttaṃ – ‘‘anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsū’’ti. Sabbepi te arahattaṃ patvā sūriyarasmisamphuṭṭhamiva padumavanaṃ vikasitacittā ahesuṃ. Tatra sudaṃ sāriputta bhiṃsanakassa vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ hotīti tatrāti purimavacanāpekkhaṃ; sudanti padapūraṇamatte nipāto; sāriputtāti ālapanaṃ. Ayaṃ panettha atthayojanā – tatrāti yaṃ vuttaṃ ‘‘aññatarasmiṃ bhiṃsanake vanasaṇḍe’’ti, tatra yo so bhiṃsanakoti vanasaṇḍo vutto, tassa bhiṃsanakassa vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ hoti, bhiṃsanakiriyāya hotīti attho. Kiṃ hoti? Idaṃ hoti – yo koci avītarāgo…pe… lomāni haṃsantīti.
Cụm từ ‘các tâm đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc mà không còn chấp thủ’ có nghĩa là đã giải thoát mà không còn nắm giữ. Thật vậy, các tâm của họ đã được giải thoát khỏi những lậu hoặc nào, không phải các Ngài đã nắm giữ những lậu hoặc đó rồi mới giải thoát. Mà là, do chúng (các lậu hoặc) diệt tận bằng sự diệt không còn sanh khởi, nên các Ngài đã giải thoát mà không còn nắm giữ. Do đó có lời nói: ‘Các tâm đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc mà không còn chấp thủ’. Tất cả các Ngài, sau khi đạt đến A La Hán quả, tâm của các Ngài đã nở rộ như rừng hoa sen được ánh mặt trời chiếu rọi. Trong câu ‘Này Sāriputta, khi đó, trong khu rừng kinh sợ ấy, sự kinh sợ đã xảy ra’: từ ‘khi đó’ là để quy chiếu đến lời nói trước; từ ‘sudaṃ’ (trong Pāḷi) là một tiểu từ chỉ để bổ sung cho câu; từ ‘Sāriputta’ là một tiếng gọi. Cách kết hợp ý nghĩa ở đây là: ‘Khi đó’ nghĩa là, như đã nói ‘trong một khu rừng kinh sợ nào đó’, thì ở đó, khu rừng được gọi là kinh sợ đó, sự kinh sợ của khu rừng kinh sợ ấy đã xảy ra, có nghĩa là do hành động làm cho kinh sợ (của khu rừng) mà xảy ra. Điều gì xảy ra? Điều này xảy ra: bất kỳ ai chưa ly tham…v.v… lông tóc đều dựng đứng.
Atha vā tatrāti sāmiatthe bhummaṃ. Suiti nipāto; ‘‘kiṃ su nāma te bhonto samaṇabrāhmaṇā’’tiādīsu (ma. ni. 1.469) viya. Idanti adhippetamatthaṃ paccakkhaṃ viya katvā dassanavacanaṃ. Suidanti sudaṃ, sandhivasena ikāralopo veditabbo. ‘‘Cakkhundriyaṃ, itthindriyaṃ, anaññātaññassāmītindriyaṃ (vibha. 219), ‘‘kiṃ sūdha vitta’’ntiādīsu (saṃ. ni. 1.73, 246; su. ni. 183) viya. Ayaṃ panettha atthayojanā – tassa sāriputta bhiṃsanakassa vanasaṇḍassa bhiṃsanakatasmiṃ idaṃsu hoti. Bhiṃsanakatasminti bhiṃsanakabhāveti attho. Ekassa takārassa lopo daṭṭhabbo. Bhiṃsanakattasmintiyeva vā pāṭho. ‘‘Bhiṃsanakatāya’’ iti vā vattabbe liṅgavipallāso kato. Nimittatthe cetaṃ bhummavacanaṃ, tasmā evaṃ sambandho veditabbo – bhiṃsanakabhāve idaṃsu hoti, bhiṃsanakabhāvanimittaṃ bhiṃsanakabhāvahetu bhiṃsanakabhāvapaccayā idaṃsu hoti. Yo koci avītarāgo taṃ vanasaṇḍaṃ pavisati, yebhuyyena lomāni haṃsantīti bahutarāni lomāni haṃsanti uddhaṃ mukhāni sūcisadisāni kaṇṭakasadisāni ca hutvā tiṭṭhanti, appāni na haṃsanti. Bahutarānaṃ vā sattānaṃ haṃsanti. Appakānaṃ atisūrapurisānaṃ na haṃsanti.
Hoặc nữa, từ ‘khi đó’ là cách dùng chỉ nơi chốn với ý nghĩa sở hữu. Từ ‘Su’ là một tiểu từ; giống như trong các câu ‘Quý vị Sa môn, Bà la môn ấy tên là gì vậy?’ (ma. ni. 1.469) và các câu tương tự. Từ ‘điều này’ là một lời nói chỉ ra ý nghĩa muốn nói như thể nó đang hiện bày rõ ràng. Từ ‘suidaṃ’ (thành) ‘sudaṃ’, cần hiểu là có sự lược bỏ âm ‘i’ do nối âm. Giống như trong (các trường hợp nối âm trong) ‘nhãn căn, nữ căn, vị tri cụ tri căn’ (vibha. 219), và ‘Ở đây, tài sản là gì vậy?’ (saṃ. ni. 1.73, 246; su. ni. 183) và các trường hợp tương tự. Cách kết hợp ý nghĩa ở đây là: Này Sāriputta, đối với khu rừng kinh sợ ấy, khi sự kinh sợ của nó xảy ra, điều này xảy ra. Từ ‘khi sự kinh sợ xảy ra’ có nghĩa là trong trạng thái kinh sợ. Cần thấy có sự lược bỏ một phụ âm ‘t’. Hoặc, bản đọc chính là ‘bhiṃsanakattasmiṃ’. (Ý nghĩa của nó là: do tính chất kinh sợ). Hoặc, đáng lẽ phải nói là ‘bhiṃsanakatāya’ – một hình thái từ (Pāḷi) ở giống cái cũng có nghĩa là ‘do sự kinh sợ’ – nhưng ở đây đã có sự thay đổi về giống (ngữ pháp). Và đây là cách dùng chỉ nơi chốn với ý nghĩa chỉ dấu hiệu (nhân duyên); do đó, cần hiểu mối liên hệ như sau: trong trạng thái kinh sợ, điều này xảy ra; do dấu hiệu của trạng thái kinh sợ, do nhân của trạng thái kinh sợ, do duyên của trạng thái kinh sợ mà điều này xảy ra. Trong câu ‘Bất kỳ ai chưa ly tham mà vào khu rừng đó, phần lớn đều dựng tóc gáy’: có nghĩa là phần lớn lông tóc đều dựng đứng, hướng lên trên, trở nên giống như kim, giống như gai mà đứng thẳng; một phần nhỏ thì không dựng. Hoặc, đối với phần lớn chúng sanh thì lông tóc dựng đứng; đối với một số ít người cực kỳ dũng cảm thì không dựng.
Idāni ayaṃ kho, sāriputta, hetūtiādi nigamanaṃ. Yañcettha antarantarā na vuttaṃ, taṃ uttānatthameva. Tasmā pāḷikkameneva veditabbaṃ. Yaṃ pana vuttaṃ na ciraṭṭhitikaṃ ahosīti, taṃ purisayugavasena vuttanti veditabbaṃ. Vassagaṇanāya hi vipassissa bhagavato asītivassasahassāni āyu, sammukhasāvakānampissa tattakameva. Evamassa yvāyaṃ sabbapacchimako sāvako, tena saha ghaṭetvā satasahassaṃ saṭṭhimattāni ca vassasahassāni brahmacariyaṃ aṭṭhāsi. Purisayugavasena pana yugaparamparāya āgantvā dveyeva purisayugāni aṭṭhāsi. Tasmā na ciraṭṭhitikanti vuttaṃ. Sikhissa pana bhagavato sattativassasahassāni āyu. Sammukhasāvakānampissa tattakameva. Vessabhussa bhagavato saṭṭhivassasahassāni āyu. Sammukhasāvakānampissa tattakameva. Evaṃ tesampi ye sabbapacchimakā sāvakā tehi saha ghaṭetvā satasahassato uddhaṃ cattālīsamattāni vīsatimattāni ca vassasahassāni brahmacariyaṃ aṭṭhāsi. Purisayugavasena pana yugaparamparāya āgantvā dve dveyeva purisayugāni aṭṭhāsi. Tasmā na ciraṭṭhitikanti vuttaṃ.
Bây giờ, các câu bắt đầu bằng ‘Này Sāriputta, đây là nhân…’ và các câu tương tự là phần kết luận. Và những gì không được nói đến xen kẽ ở đây đều có ý nghĩa rõ ràng. Do đó, cần hiểu theo thứ tự của Pāḷi. Còn điều đã nói rằng (giáo pháp) ‘đã không tồn tại lâu dài’, cần hiểu đó là được nói theo phương diện các thế hệ con người. Về số năm, tuổi thọ của Đấng Thế Tôn Vipassī là tám mươi ngàn năm, và các vị Thinh Văn trực tiếp của Ngài cũng có tuổi thọ chừng ấy. Như vậy, đời sống phạm hạnh của Ngài, tính cả vị đệ tử cuối cùng nhất, đã kéo dài một trăm sáu mươi ngàn năm. Nhưng theo phương diện các thế hệ con người, (giáo pháp của mỗi vị) chỉ tồn tại được hai thế hệ người nối tiếp nhau. Do đó, được nói là không tồn tại lâu dài. Tuổi thọ của Đấng Thế Tôn Sikhī là bảy mươi ngàn năm. Các vị Thinh Văn trực tiếp của Ngài cũng có tuổi thọ chừng ấy. Tuổi thọ của Đấng Thế Tôn Vessabhū là sáu mươi ngàn năm. Các vị Thinh Văn trực tiếp của Ngài cũng có tuổi thọ chừng ấy. Như vậy, đối với các Ngài cũng vậy, đời sống phạm hạnh, tính cả những vị đệ tử cuối cùng nhất của các Ngài, đã kéo dài hơn một trăm ngàn năm, thêm bốn mươi ngàn năm hoặc hai mươi ngàn năm. Nhưng theo phương diện các thế hệ con người, (giáo pháp của mỗi vị) chỉ tồn tại được hai thế hệ người nối tiếp nhau. Do đó, được nói là không tồn tại lâu dài.
20. Evaṃ āyasmā sāriputto tiṇṇaṃ buddhānaṃ brahmacariyassa na ciraṭṭhitikāraṇaṃ sutvā itaresaṃ tiṇṇaṃ brahmacariyassa ciraṭṭhitikāraṇaṃ sotukāmo puna bhagavantaṃ ‘‘ko pana bhante hetū’’ti ādinā nayena pucchi. Bhagavāpissa byākāsi. Taṃ sabbaṃ vuttapaṭipakkhavasena veditabbaṃ. Ciraṭṭhitikabhāvepi cettha tesaṃ buddhānaṃ āyuparimāṇatopi purisayugatopi ubhayathā ciraṭṭhitikatā veditabbā. Kakusandhassa hi bhagavato cattālīsavassasahassāni āyu, koṇāgamanassa bhagavato tiṃsavassasahassāni, kassapassa bhagavato vīsativassasahassāni; sammukhasāvakānampi nesaṃ tattakameva. Bahūni ca nesaṃ sāvakayugāni paramparāya brahmacariyaṃ pavattesuṃ. Evaṃ tesaṃ āyuparimāṇatopi sāvakayugatopi ubhayathā brahmacariyaṃ ciraṭṭhitikaṃ ahosi.
20. Như vậy, Đại đức Sāriputta, sau khi nghe lý do khiến đời sống phạm hạnh của ba vị Phật (trước) không tồn tại lâu dài, vì muốn nghe lý do khiến đời sống phạm hạnh của ba vị Phật khác (Kakusandha, Koṇāgamana, Kassapa) tồn tại lâu dài, lại hỏi Đấng Thế Tôn bằng phương pháp bắt đầu từ câu: ‘Bạch Thế Tôn, vậy đâu là nhân…’ và những câu tương tự. Đấng Thế Tôn cũng đã giải đáp cho ngài. Tất cả những điều đó cần được hiểu theo cách đối nghịch với những gì đã nói (về ba vị Phật trước). Và ở đây, về tính chất tồn tại lâu dài, cần hiểu sự tồn tại lâu dài của giáo pháp các Đức Phật ấy theo cả hai phương diện: giới hạn tuổi thọ của các Ngài và các thế hệ đệ tử. Tuổi thọ của Đấng Thế Tôn Kakusandha là bốn mươi ngàn năm, của Đấng Thế Tôn Koṇāgamana là ba mươi ngàn năm, của Đấng Thế Tôn Kassapa là hai mươi ngàn năm; các vị Thinh Văn trực tiếp của các Ngài cũng có tuổi thọ chừng ấy. Và nhiều thế hệ đệ tử của các Ngài đã nối tiếp nhau duy trì đời sống phạm hạnh. Như vậy, đời sống phạm hạnh của các Ngài đã tồn tại lâu dài theo cả hai phương diện: giới hạn tuổi thọ và các thế hệ đệ tử.
Amhākaṃ pana bhagavato kassapassa bhagavato upaḍḍhāyukappamāṇe dasavassasahassāyukakāle uppajjitabbaṃ siyā. Taṃ asambhuṇantena pañcavassasahassāyukakāle, ekavassasahassāyukakāle, pañcavassasatāyukakālepi vā uppajjitabbaṃ siyā. Yasmā panassa buddhattakārake dhamme esantassa pariyesantassa ñāṇaṃ paripācentassa gabbhaṃ gaṇhāpentassa vassasatāyukakāle ñāṇaṃ paripākamagamāsi. Tasmā atiparittāyukakāle uppanno. Tenassa sāvakaparamparāvasena ciraṭṭhitikampi brahmacariyaṃ āyuparimāṇavasena vassagaṇanāya naciraṭṭhitikamevāti vattuṃ vaṭṭati.
Còn Đấng Thế Tôn của chúng ta, lẽ ra Ngài đã có thể xuất hiện vào thời kỳ tuổi thọ (chúng sanh) là mười ngàn năm, tức là bằng một nửa tuổi thọ của thời Đức Phật Kassapa. Không đạt được điều đó, Ngài đã có thể xuất hiện vào thời kỳ tuổi thọ năm ngàn năm, một ngàn năm, hoặc ngay cả năm trăm năm. Nhưng vì khi Ngài đang tìm kiếm, đang nỗ lực, đang làm cho trí tuệ chín muồi, đang làm cho (trí tuệ) thọ thai các pháp đưa đến Phật quả, thì trí tuệ của Ngài đã chín muồi vào thời kỳ tuổi thọ (chúng sanh) là một trăm năm. Do đó, Ngài đã xuất hiện vào thời kỳ tuổi thọ rất ngắn. Vì thế, đời sống phạm hạnh của Ngài, dù tồn tại lâu dài theo các thế hệ đệ tử nối tiếp, nhưng theo giới hạn tuổi thọ, tính bằng số năm, thì có thể nói là không tồn tại lâu dài (bằng các vị Phật trước có tuổi thọ dài hơn).
21.Atha kho āyasmā sāriputtoti ko anusandhi? Evaṃ tiṇṇaṃ buddhānaṃ brahmacariyassa ciraṭṭhitikāraṇaṃ sutvā sikkhāpadapaññattiyeva ciraṭṭhitikabhāvahetūti niṭṭhaṃ gantvā bhagavatopi brahmacariyassa ciraṭṭhitikabhāvaṃ icchanto āyasmā sāriputto bhagavantaṃ sikkhāpadapaññattiṃ yāci. Tassā yācanavidhidassanatthametaṃ vuttaṃ – atha kho āyasmā sāriputto uṭṭhāyāsanā …pe… ciraṭṭhitikanti. Tattha addhaniyanti addhānakkhamaṃ; dīghakālikanti vuttaṃ hoti. Sesaṃ uttānatthameva.
21. Trong câu ‘Bấy giờ, Đại đức Sāriputta…’: sự kết nối ý nghĩa là gì? Sau khi nghe lý do khiến đời sống phạm hạnh của ba vị Phật (trước) tồn tại lâu dài (là do đã chế định học giới và tụng đọc Giới Bổn), Đại đức Sāriputta đi đến kết luận rằng chính sự chế định học giới là nhân duyên cho sự tồn tại lâu dài, và vì mong muốn đời sống phạm hạnh của cả Đấng Thế Tôn (chúng ta) cũng được tồn tại lâu dài, ngài đã thỉnh cầu Đấng Thế Tôn chế định học giới. Để chỉ rõ phương pháp thỉnh cầu đó, (kinh) đã nói điều này: ‘Bấy giờ, Đại đức Sāriputta đứng dậy khỏi chỗ ngồi…v.v… tồn tại lâu dài’. Trong đó, từ ‘lâu dài’ có nghĩa là có thể chịu đựng được thời gian; tức là tồn tại trong một thời gian dài. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.
Athassa bhagavā ‘‘na tāvāyaṃ sikkhāpadapaññattikālo’’ti pakāsento ‘‘āgamehi tvaṃ sāriputtā’’tiādimāha. Tattha āgamehi tvanti tiṭṭha tāva tvaṃ; adhivāsehi tāva tvanti vuttaṃ hoti. Ādaratthavasenevettha dvikkhattuṃ vuttaṃ. Etena bhagavā sikkhāpadapaññattiyā sāvakānaṃ visayabhāvaṃ paṭikkhipitvā ‘‘buddhavisayova sikkhāpadapaññattī’’ti āvikaronto ‘‘tathāgato vā’’tiādimāha. Ettha ca tatthāti sikkhāpadapaññattiyācanāpekkhaṃ bhummavacanaṃ. Tatrāyaṃ yojanā – yaṃ vuttaṃ ‘‘sikkhāpadaṃ paññapeyyā’’ti, tattha tassā sikkhāpadapaññattiyā tathāgatoyeva kālaṃ jānissatīti. Evaṃ vatvā akālaṃ tāva dassetuṃ ‘‘na tāva sāriputtā’’tiādimāha.
Bấy giờ, Đấng Thế Tôn, để làm sáng tỏ rằng ‘đây chưa phải là lúc chế định học giới’, đã nói bắt đầu bằng: ‘Này Sāriputta, hãy chờ đã…’ và những điều theo sau. Trong đó, ‘Này, hãy chờ đã’ có nghĩa là: Này, hãy dừng lại đã; này, hãy kiên nhẫn đã. Ở đây, (lời này) được nói hai lần là do ý muốn nhấn mạnh sự quan tâm. Bằng điều này, Đấng Thế Tôn, sau khi bác bỏ rằng việc chế định học giới là phạm vi của các đệ tử, để làm rõ rằng ‘việc chế định học giới chính là phạm vi của Phật’, đã nói bắt đầu bằng: ‘Chính Như Lai…’ và những điều theo sau. Và ở đây, từ ‘trong việc đó’ là cách dùng chỉ nơi chốn quy chiếu đến sự thỉnh cầu chế định học giới. Cách kết hợp ý nghĩa ở đó là: Điều đã nói rằng ‘xin Ngài hãy chế định học giới’, thì trong việc chế định học giới đó, chính Như Lai sẽ biết thời điểm thích hợp. Sau khi nói như vậy, để chỉ ra rằng chưa phải lúc, Ngài nói bắt đầu bằng: ‘Này Sāriputta, chưa phải lúc…’ và những điều theo sau.
Tattha āsavā tiṭṭhanti etesūti āsavaṭṭhānīyā. Yesu diṭṭhadhammikasamparāyikā dukkhāsavā kilesāsavā ca parūpavādavippaṭisāravadhabandhanādayo ceva apāyadukkhavisesabhūtā ca āsavā tiṭṭhantiyeva, yasmā nesaṃ te kāraṇaṃ hontīti attho. Te āsavaṭṭhānīyā vītikkamadhammā yāva na saṅghe pātubhavanti, na tāva satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapetīti ayamettha yojanā. Yadi hi paññapeyya, parūpavādā parūpārambhā garahadosā na parimucceyya.
Trong đó, các pháp là nơi trú của các lậu hoặc được gọi là “nền tảng cho các lậu hoặc”. Những pháp vi phạm nào mà trong đó các lậu hoặc thuộc về đời này và đời sau như khổ đau do sự phỉ báng của người khác, sự hối hận, sự trừng phạt, sự trói buộc v.v…, và cả các lậu hoặc là các loại khổ đau đặc biệt ở các đường ác, chắc chắn tồn tại; có nghĩa là vì chúng là nhân duyên của các lậu hoặc ấy. Cách kết hợp ý nghĩa ở đây là: Chừng nào những pháp vi phạm là nền tảng cho các lậu hoặc ấy chưa xuất hiện trong Tăng đoàn, chừng đó Bậc Đạo Sư chưa chế định học giới cho các đệ tử. Vì nếu Ngài chế định, Ngài sẽ không tránh khỏi sự phỉ báng, sự chỉ trích, sự khiển trách của người khác.
Kathaṃ? Paññapentena hi ‘‘yo pana bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyyā’’tiādi sabbaṃ paññapetabbaṃ bhaveyya. Adisvāva vītikkamadosaṃ imaṃ paññattiṃ ñatvā pare evaṃ upavādañca upārambhañca garahañca pavatteyyuṃ – ‘‘kathañhi nāma samaṇo gotamo bhikkhusaṅgho me anvāyiko vacanakaroti ettāvatā sikkhāpadehi paliveṭhessati, pārājikaṃ paññapessati? Nanu ime kulaputtā mahantaṃ bhogakkhandhaṃ mahantañca ñātiparivaṭṭaṃ hatthagatāni ca rajjānipi pahāya pabbajitā, ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭhā, sikkhāya tibbagāravā, kāye ca jīvite ca nirapekkhā viharanti. Tesu nāma ko lokāmisabhūtaṃ methunaṃ vā paṭisevissati, parabhaṇḍaṃ vā harissati, parassa vā iṭṭhaṃ kantaṃ atimadhuraṃ jīvitaṃ upacchindissati, abhūtaguṇakathāya vā jīvitaṃ kappessati! Nanu pārājike apaññattepi pabbajjāsaṅkhepenevetaṃ pākaṭaṃ kata’’nti. Tathāgatassa ca thāmañca balañca sattā na jāneyyuṃ. Paññattampi sikkhāpadaṃ kuppeyya, na yathāṭhāne tiṭṭheyya. Seyyathāpi nāma akusalo vejjo kañci anuppannagaṇḍaṃ purisaṃ pakkosāpetvā ‘‘ehi bho purisa, imasmiṃ te sarīrappadese mahāgaṇḍo uppajjitvā anayabyasanaṃ pāpessati, paṭikacceva naṃ tikicchāpehī’’ti vatvā ‘‘sādhācariya, tvaṃyeva naṃ tikicchassū’’ti vutto tassa arogaṃ sarīrappadesaṃ phāletvā lohitaṃ nīharitvā ālepanabandhanadhovanādīhi taṃ padesaṃ sañchaviṃ katvā taṃ purisaṃ vadeyya – ‘‘mahārogo te mayā tikicchito, dehi me deyyadhamma’’nti. So taṃ ‘‘kimayaṃ bālavejjo vadati? Kataro kira me iminā rogo tikicchito? Nanu me ayaṃ dukkhañca janeti, lohitakkhayañca maṃ pāpetī’’ti evaṃ upavadeyya ceva upārambheyya ca garaheyya ca, na cassa guṇaṃ jāneyya. Evameva yadi anuppanne vītikkamadose satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeyya, parūpavādādīhi ca na parimucceyya, na cassa thāmaṃ vā balaṃ vā sattā jāneyyuṃ, paññattampi sikkhāpadaṃ kuppeyya, na yathāṭhāne tiṭṭheyya. Tasmā vuttaṃ – ‘‘na tāva sāriputta satthā sāvakānaṃ…pe… pātubhavantī’’ti.
Như thế nào? Khi chế định, Ngài có lẽ sẽ phải chế định tất cả, bắt đầu từ “Vị Tỳ khưu nào thực hành pháp dâm…” và các điều tương tự. Nếu chưa thấy lỗi vi phạm mà đã biết đến sự chế định này, người khác sẽ phỉ báng, chỉ trích, khiển trách như sau: “Tại sao Sa môn Gotama lại ràng buộc Tăng đoàn Tỳ khưu, những người theo Ta, vâng lời Ta, bằng chừng ấy học giới, lại chế định cả tội Ba-la-di? Chẳng phải những thiện nam tử này đã từ bỏ khối tài sản lớn, đoàn thể bà con đông đảo, và cả những vương quốc trong tầm tay để xuất gia, đã hài lòng với mức sống tối thiểu là thức ăn và y phục, có lòng tôn kính sâu sắc đối với học giới, sống không luyến tiếc thân và mạng đó sao? Trong số họ, ai lại có thể thực hành pháp dâm là điều thuộc về dục lạc thế gian, hay lấy của không cho, hay hủy hoại mạng sống đáng quý, đáng yêu, vô cùng ngọt ngào của người khác, hay duy trì sự sống bằng cách nói những điều không đúng sự thật về phẩm chất (của mình)! Chẳng phải ngay cả khi chưa chế định tội Ba-la-di, điều đó cũng đã được làm rõ qua việc tóm lược về đời sống xuất gia rồi sao?” Và chúng sanh sẽ không biết được sức mạnh và năng lực của Như Lai. Học giới dù đã được chế định cũng sẽ bị lung lay, không đứng vững đúng chỗ của nó. Ví như một vị lương y vụng về, gọi một người chưa bị mụn nhọt đến mà bảo rằng: “Này ông, ở chỗ này trên thân ông sẽ nổi lên một cái mụn lớn rồi đưa ông đến tai họa khốn cùng, hãy chữa trị nó ngay từ đầu đi!” Khi người đó nói: “Thưa thầy, xin chính thầy hãy chữa trị nó cho tôi”, vị lương y đó lại rạch một chỗ không có bệnh trên thân người ấy, lấy máu ra, rồi dùng thuốc đắp, băng bó, rửa ráy v.v… làm cho chỗ đó thành sẹo, rồi bảo người đó: “Ta đã chữa một bệnh nặng cho ông rồi, hãy đưa tiền thuốc cho ta.” Người đó sẽ phỉ báng, chỉ trích, khiển trách rằng: “Thầy lang dở này nói gì vậy? Ông ta đã chữa bệnh gì cho ta chứ? Chẳng phải ông ta đã gây ra đau đớn cho ta, lại còn làm ta mất máu nữa sao?”, và sẽ không biết được công lao của vị ấy. Cũng vậy, nếu Bậc Đạo Sư chế định học giới cho các đệ tử khi lỗi vi phạm chưa phát sinh, Ngài sẽ không tránh khỏi sự phỉ báng của người khác v.v…, chúng sanh cũng sẽ không biết được sức mạnh hay năng lực của Ngài, học giới dù đã được chế định cũng sẽ bị lung lay, không đứng vững đúng chỗ của nó. Do đó, có lời nói: “Này Sāriputta, Bậc Đạo Sư chưa…v.v… (các pháp là nền tảng cho các lậu hoặc) xuất hiện (trong Tăng đoàn).”
Evaṃ akālaṃ dassetvā puna kālaṃ dassetuṃ ‘‘yato ca kho sāriputtā’’tiādimāha. Tattha yatoti yadā; yasmiṃ kāleti vuttaṃ hoti. Sesaṃ vuttānusāreneva veditabbaṃ. Ayaṃ vā hettha saṅkhepattho – yasmiṃ samaye ‘‘āsavaṭṭhānīyā dhammā’’ti saṅkhyaṃ gatā vītikkamadosā saṅghe pātubhavanti, tadā satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeti, uddisati pātimokkhaṃ. Kasmā? Tesaṃyeva ‘‘āsavaṭṭhānīyā dhammā’’ti saṅkhyaṃ gatānaṃ vītikkamadosānaṃ paṭighātāya. Evaṃ paññapento yathā nāma kusalo vejjo uppannaṃ gaṇḍaṃ phālanalepanabandhanadhovanādīhi tikicchanto rogaṃ vūpasametvā sañchaviṃ katvā na tveva upavādādiraho hoti, sake ca ācariyake viditānubhāvo hutvā sakkāraṃ pāpuṇāti; evaṃ na ca upavādādiraho hoti, sake ca sabbaññuvisaye viditānubhāvo hutvā sakkāraṃ pāpuṇāti. Tañcassa sikkhāpadaṃ akuppaṃ hoti, yathāṭhāne tiṭṭhatīti.
Sau khi đã chỉ ra lúc chưa phải thời, để chỉ ra lúc đúng thời, Ngài nói bắt đầu bằng: ‘Và này Sāriputta, khi nào…’ và những điều theo sau. Trong đó, từ ‘khi nào’ có nghĩa là khi; tức là vào lúc nào. Phần còn lại cần được hiểu theo những gì đã được nói (ở trước). Hoặc, tóm tắt ý nghĩa ở đây là: Vào lúc nào mà những lỗi lầm do vi phạm, được gọi là ‘những pháp là nền tảng cho các lậu hoặc’, xuất hiện trong Tăng đoàn, khi đó Bậc Đạo Sư mới chế định học giới cho các đệ tử, mới tụng đọc Giới Bổn. Tại sao? Để ngăn chặn chính những lỗi lầm do vi phạm đó, được gọi là ‘những pháp là nền tảng cho các lậu hoặc’. Khi chế định (học giới) như vậy, cũng như một vị lương y tài giỏi, khi chữa trị một cái nhọt đã phát sinh bằng cách mổ, đắp thuốc, băng bó, rửa ráy và các phương pháp tương tự, làm cho bệnh thuyên giảm, da dẻ lành lặn, thì không bị chê trách gì cả, lại còn được biết đến tài năng trong nghề nghiệp của mình và nhận được sự tôn kính; cũng vậy, (Đấng Thế Tôn) không bị chê trách gì cả, lại còn được biết đến năng lực trong phạm vi toàn giác của mình và nhận được sự tôn kính. Và học giới đó của Ngài trở nên không thể lay chuyển, đứng vững đúng chỗ của nó.
Evaṃ āsavaṭṭhānīyānaṃ dhammānaṃ anuppattiṃ sikkhāpadapaññattiyā akālaṃ uppattiñca kālanti vatvā idāni tesaṃ dhammānaṃ anuppattikālañca uppattikālañca dassetuṃ ‘‘na tāva sāriputta idhekacce’’tiādimāha. Tattha uttānatthāni padāni pāḷivaseneva veditabbāni. Ayaṃ pana anuttānapadavaṇṇanā – rattiyo jānantīti rattaññū, attano pabbajitadivasato paṭṭhāya bahukā rattiyo jānanti, cirapabbajitāti vuttaṃ hoti. Rattaññūhi mahattaṃ rattaññumahattaṃ; cirapabbajitehi mahantabhāvanti attho. Tatra rattaññumahattaṃ patte saṅghe upasenaṃ vaṅgantaputtaṃ ārabbha sikkhāpadaṃ paññattanti veditabbaṃ. So hāyasmā ūnadasavasse bhikkhū upasampādente disvā ekavasso saddhivihārikaṃ upasampādesi. Atha bhagavā sikkhāpadaṃ paññapesi – ‘‘na, bhikkhave , ūnadasavassena upasampādetabbo. Yo upasampādeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 75). Evaṃ paññatte sikkhāpade puna bhikkhū ‘‘dasavassāmha dasavassāmhā’’ti bālā abyattā upasampādenti. Atha bhagavā aparampi sikkhāpadaṃ paññāpesi – ‘‘na, bhikkhave, bālena abyattena upasampādetabbo. Yo upasampādeyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, byattena bhikkhunā paṭibalena dasavassena vā atirekadasavassena vā upasampādetu’’nti (mahāva. 76) rattaññumahattaṃ pattakāle dve sikkhāpadāni paññattāni.
Sau khi đã nói như vậy rằng sự chưa phát sinh của những pháp là nền tảng cho các lậu hoặc là lúc chưa phải thời để chế định học giới, và sự phát sinh của chúng là lúc đúng thời, bây giờ để chỉ ra thời điểm chưa phát sinh và thời điểm phát sinh của những pháp ấy, Ngài nói bắt đầu bằng: ‘Này Sāriputta, khi ở đây một số…’ và những điều theo sau. Trong đó, các từ có ý nghĩa rõ ràng cần được hiểu theo Pāḷi. Còn đây là phần chú giải các từ không rõ nghĩa: Người biết các đêm là ‘người biết đêm’ (người có thâm niên); biết nhiều đêm kể từ ngày mình xuất gia, có nghĩa là người đã xuất gia lâu năm. Sự lớn mạnh do những người biết đêm là ‘sự lớn mạnh do thâm niên’; có nghĩa là trạng thái lớn mạnh do những người đã xuất gia lâu năm. Cần hiểu rằng, khi Tăng đoàn đạt đến sự lớn mạnh do thâm niên, học giới đã được chế định liên quan đến Upasena Vaṅgantaputta. Vị Đại đức ấy, sau khi thấy các Tỳ khưu chưa đủ mười tuổi hạ truyền giới Cụ túc, chính mình mới một tuổi hạ đã truyền giới Cụ túc cho một vị sống chung. Bấy giờ, Đấng Thế Tôn đã chế định học giới: ‘Này các Tỳ khưu, không được truyền giới Cụ túc cho người chưa đủ mười tuổi hạ. Vị nào truyền giới, phạm tội tác ác.’ (mahāva. 75). Sau khi học giới ấy được chế định, các Tỳ khưu (chưa đủ năng lực) lại nói dối: “Chúng tôi đã mười tuổi hạ, chúng tôi đã mười tuổi hạ” rồi truyền giới Cụ túc. Bấy giờ, Đấng Thế Tôn lại chế định thêm một học giới nữa: ‘Này các Tỳ khưu, không được truyền giới Cụ túc bởi người ngu si, không có khả năng. Vị nào truyền giới, phạm tội tác ác. Này các Tỳ khưu, Ta cho phép một vị Tỳ khưu có khả năng, có năng lực, đã đủ mười tuổi hạ hoặc hơn mười tuổi hạ, được truyền giới Cụ túc.’ (mahāva. 76). (Như vậy), vào lúc (Tăng đoàn) đạt đến sự lớn mạnh do thâm niên, hai học giới đã được chế định.
Vepullamahattanti vipulabhāvena mahattaṃ. Saṅgho hi yāva na theranavamajjhimānaṃ vasena vepullamahattaṃ patto hoti, tāva senāsanāni pahonti. Sāsane ekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā na uppajjanti. Vepullamahattaṃ pana patte te uppajjanti. Atha satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeti. Tattha vepullamahattaṃ patte saṅghe paññattasikkhāpadāni ‘‘yo pana bhikkhu anupasampannena uttari dirattatirattaṃ sahaseyyaṃ kappeyya, pācittiyaṃ’’ (pāci. 51); ‘‘yā pana bhikkhunī anuvassaṃ vuṭṭhāpeyya, pācittiyaṃ’’ (pāci. 1171); ‘‘yā pana bhikkhunī ekaṃ vassaṃ dve vuṭṭhāpeyya, pācittiya’’nti (pāci. 1175) iminā nayena veditabbāni.
Từ ‘sự lớn mạnh do đông đảo’ có nghĩa là sự lớn mạnh do số lượng đông đảo. Thật vậy, chừng nào Tăng đoàn chưa đạt đến sự lớn mạnh do đông đảo về phương diện các vị Trưởng lão, Trung bình, và Mới tu, chừng đó các chỗ ở còn đủ dùng. Một số pháp là nền tảng cho các lậu hoặc chưa phát sinh trong giáo pháp. Nhưng khi (Tăng đoàn) đạt đến sự lớn mạnh do đông đảo, chúng (các pháp ấy) phát sinh. Khi đó, Bậc Đạo Sư chế định học giới cho các đệ tử. Trong đó, các học giới được chế định khi Tăng đoàn đạt đến sự lớn mạnh do đông đảo cần được hiểu theo phương pháp này: ‘Vị Tỳ khưu nào ngủ chung với người chưa thọ Cụ túc giới quá hai ba đêm, phạm tội Ưng Đối Trị.’ (pāci. 51); ‘Vị Tỳ khưu ni nào mỗi năm đều cho người xuất gia (thọ Cụ túc giới), phạm tội Ưng Đối Trị.’ (pāci. 1171); ‘Vị Tỳ khưu ni nào trong một năm cho hai người xuất gia (thọ Cụ túc giới), phạm tội Ưng Đối Trị.’ (pāci. 1175) – cần hiểu các học giới được chế định theo phương pháp này.
Lābhaggamahattanti lābhassa aggamahattaṃ; yo lābhassa aggo uttamo mahantabhāvo, taṃ patto hotīti attho. Lābhena vā aggamahattampi, lābhena seṭṭhattañca mahantattañca pattoti attho. Saṅgho hi yāva na lābhaggamahattaṃ patto hoti, tāva na lābhaṃ paṭicca āsavaṭṭhānīyā dhammā uppajjanti. Patte pana uppajjanti, atha satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeti – ‘‘yo pana bhikkhu acelakassa vā paribbājakassa vā paribbājikāya vā sahatthā khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā dadeyya, pācittiya’’nti (pāci. 270). Idañhi lābhaggamahattaṃ patte saṅghe sikkhāpadaṃ paññattaṃ.
Từ ‘sự lớn mạnh do lợi lộc dồi dào’ có nghĩa là sự lớn mạnh tột bậc về lợi lộc; ý nghĩa là (Tăng đoàn) đã đạt đến trạng thái lớn mạnh, cao tột, ưu việt về lợi lộc. Hoặc, cũng có nghĩa là sự lớn mạnh tột bậc nhờ lợi lộc; (Tăng đoàn) đã đạt đến trạng thái ưu việt và lớn mạnh nhờ lợi lộc. Thật vậy, chừng nào Tăng đoàn chưa đạt đến sự lớn mạnh do lợi lộc dồi dào, chừng đó các pháp là nền tảng cho các lậu hoặc do duyên lợi lộc chưa phát sinh. Nhưng khi (Tăng đoàn) đã đạt đến (sự lớn mạnh đó), chúng (các pháp ấy) phát sinh. Khi đó, Bậc Đạo Sư chế định học giới cho các đệ tử: ‘Vị Tỳ khưu nào tự tay trao vật thực cứng hay vật thực mềm cho một người lõa thể, hoặc một du sĩ nam, hoặc một du sĩ nữ, phạm tội Ưng Đối Trị.’ (pāci. 270). Thật vậy, học giới này đã được chế định khi Tăng đoàn đạt đến sự lớn mạnh do lợi lộc dồi dào.
Bāhusaccamahattanti bāhusaccassa mahantabhāvaṃ. Saṅgho hi yāva na bāhusaccamahattaṃ patto hoti, tāva na āsavaṭṭhānīyā dhammā uppajjanti. Bāhusaccamahattaṃ patte pana yasmā ekampi nikāyaṃ, dvepi…pe… pañcapi nikāye uggahetvā ayoniso ummujjamānā puggalā rasena rasaṃ saṃsanditvā uddhammaṃ ubbinayaṃ satthusāsanaṃ dīpenti. Atha satthā ‘‘yo pana bhikkhu evaṃ vadeyya – tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi…pe… samaṇuddesopi ce evaṃ vadeyyā’’tiādinā (pāci. 418) nayena sikkhāpadaṃ paññapetīti.
Từ ‘sự lớn mạnh do học rộng’ có nghĩa là trạng thái lớn mạnh về sự học rộng. Thật vậy, chừng nào Tăng đoàn chưa đạt đến sự lớn mạnh do học rộng, chừng đó các pháp là nền tảng cho các lậu hoặc chưa phát sinh. Nhưng khi (Tăng đoàn) đã đạt đến sự lớn mạnh do học rộng, vì có những người, sau khi đã học thuộc một bộ kinh, hoặc hai, ba, bốn, hoặc cả năm bộ kinh, lại trồi lên một cách không như lý, đối chiếu vị này với vị kia, rồi trình bày giáo pháp của Bậc Đạo Sư thành thượng pháp (phi pháp), thượng luật (phi luật). Khi đó, Bậc Đạo Sư chế định học giới theo phương pháp bắt đầu bằng: ‘Vị Tỳ khưu nào nói như sau: “Tôi hiểu Chánh Pháp được Đấng Thế Tôn thuyết giảng như thế này…”…v.v… ngay cả nếu một vị Sa-di nói như vậy…’ (pāci. 418).
Evaṃ bhagavā āsavaṭṭhānīyānaṃ dhammānaṃ anuppattikālañca uppattikālañca dassetvā tasmiṃ samaye sabbasopi tesaṃ abhāvaṃ dassento ‘‘nirabbudo hi sāriputtā’’tiādimāha. Tattha nirabbudoti abbudavirahito; abbudā vuccanti corā, niccoroti attho. Corāti ca imasmiṃ atthe dussīlāva adhippetā. Te hi assamaṇāva hutvā samaṇapaṭiññatāya paresaṃ paccaye corenti. Tasmā nirabbudoti niccoro, niddussīloti vuttaṃ hoti. Nirādīnavoti nirupaddavo nirupasaggo; dussīlādīnavarahitoyevāti vuttaṃ hoti. Apagatakāḷakoti kāḷakā vuccanti dussīlāyeva; te hi suvaṇṇavaṇṇāpi samānā kāḷakadhammayogā kāḷakātveva veditabbā. Tesaṃ abhāvā apagatakāḷako . Apahatakāḷakotipi pāṭho. Suddhoti apagatakāḷakattāyeva suddho pariyodāto pabhassaro. Sāre patiṭṭhitoti sāro vuccanti sīla-samādhi-paññāvimutti-vimuttiñāṇadassanaguṇā, tasmiṃ sāre patiṭṭhitattā sāre patiṭṭhito.
Như vậy, sau khi Đấng Thế Tôn đã chỉ ra thời điểm chưa phát sinh và thời điểm phát sinh của những pháp là nền tảng cho các lậu hoặc, để chỉ ra sự hoàn toàn vắng mặt của chúng vào lúc đó, Ngài nói bắt đầu bằng: ‘Này Sāriputta, (Tăng đoàn) thật không còn u bướu…’ Trong đó, từ ‘không còn u bướu’ có nghĩa là không còn u bướu; u bướu được gọi là những kẻ trộm, có nghĩa là không có kẻ trộm. Và từ ‘kẻ trộm’ trong ý nghĩa này muốn nói đến chính những người phạm giới. Thật vậy, họ không phải là Sa môn mà tự nhận là Sa môn, rồi trộm cắp vật dụng của người khác. Do đó, ‘không còn u bướu’ có nghĩa là không có kẻ trộm, tức là không có người phạm giới. Từ ‘không còn khuyết điểm’ có nghĩa là không còn tai họa, không còn chướng ngại; tức là không còn các khuyết điểm như sự phạm giới và các điều tương tự. Từ ‘đã loại bỏ vết đen’: vết đen được gọi là chính những người phạm giới; thật vậy, họ dù có nước da vàng óng, nhưng do liên hệ với pháp đen tối, cần hiểu họ chính là vết đen. Do không có họ, nên (Tăng đoàn) đã loại bỏ vết đen. Cũng có bản đọc là ‘apahatakāḷako’. (Nghĩa là: đã đánh bật vết đen). Từ ‘trong sạch’: chính vì đã loại bỏ vết đen nên (Tăng đoàn) trong sạch, thuần khiết, rạng rỡ. Từ ‘an trú trong cốt tủy’: cốt tủy được gọi là các phẩm chất giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến; do đã an trú trong cốt tủy đó, nên (gọi là) an trú trong cốt tủy.
Evaṃ sāre patiṭṭhitabhāvaṃ vatvā puna so cassa sāre patiṭṭhitabhāvo evaṃ veditabboti dassento imesañhi sāriputtāti ādimāha. Tatrāyaṃ saṅkhepavaṇṇanā – yānimāni verañjāyaṃ vassāvāsaṃ upagatāni pañca bhikkhusatāni, imesaṃ yo guṇavasena pacchimako sabbaparittaguṇo bhikkhu, so sotāpanno. Sotāpannoti sotaṃ āpanno; sototi ca maggassetaṃ adhivacanaṃ. Sotāpannoti tena samannāgatassa puggalassa. Yathāha –
Sau khi nói về trạng thái an trú trong cốt tủy như vậy, để chỉ ra rằng trạng thái an trú trong cốt tủy ấy của Tăng đoàn cần được hiểu như thế này, Ngài lại nói bắt đầu bằng: ‘Này Sāriputta, trong số những vị này…’ Tóm tắt giải thích ở đây là: Năm trăm vị Tỳ khưu đã đến an cư mùa mưa tại Verañjā này, trong số các Ngài, vị Tỳ khưu nào có phẩm chất thấp nhất, ít phẩm chất nhất về phương diện đức hạnh, vị ấy cũng là bậc Dự Lưu. Từ ‘Dự Lưu’ có nghĩa là đã nhập vào dòng; và ‘dòng’ ở đây là một tên gọi khác của đạo lộ. ‘Bậc Dự Lưu’ là (tên gọi) của người đã thành tựu đạo lộ đó. Như có lời dạy: –
‘‘Soto sototi hidaṃ, sāriputta, vuccati; katamo nu kho, sāriputta, sototi? Ayameva hi, bhante, ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, seyyathidaṃ – sammādiṭṭhi…pe… sammāsamādhī’’ti. ‘‘Sotāpanno sotāpannoti hidaṃ, sāriputta, vuccati; katamo nu kho, sāriputta, sotāpanno’’ti? ‘‘Yo hi, bhante, iminā ariyena aṭṭhaṅgikena maggena samannāgato, ayaṃ vuccati – sotāpanno. Soyamāyasmā evaṃnāmo evaṃgotto’’ti (saṃ. ni. 5.1001). Idha pana maggena phalassa nāmaṃ dinnaṃ. Tasmā phalaṭṭho ‘‘sotāpanno’’ti veditabbo.
‘Này Sāriputta, điều này được gọi là dòng, dòng; vậy này Sāriputta, dòng là gì? – Bạch Thế Tôn, đó chính là Thánh đạo Tám ngành này, tức là: chánh kiến…v.v… chánh định.’ ‘Này Sāriputta, điều này được gọi là bậc Dự Lưu, bậc Dự Lưu; vậy này Sāriputta, bậc Dự Lưu là gì? – Bạch Thế Tôn, người nào đã thành tựu Thánh đạo Tám ngành này, người đó được gọi là bậc Dự Lưu. Đó là vị Đại đức có tên như vậy, dòng họ như vậy.’ (saṃ. ni. 5.1001). Nhưng ở đây, tên của quả đã được đặt theo đạo lộ. Do đó, cần hiểu ‘bậc Dự Lưu’ là người đã đắc quả (Dự Lưu).
Avinipātadhammoti vinipātetīti vinipāto; nāssa vinipāto dhammoti avinipātadhammo, na attānaṃ apāyesu vinipātanasabhāvoti vuttaṃ hoti. Kasmā? Ye dhammā apāyagamanīyā, tesaṃ parikkhayā. Vinipatanaṃ vā vinipāto, nāssa vinipāto dhammoti avinipātadhammo, apāyesu vinipātanasabhāvo assa natthīti vuttaṃ hoti. Sammattaniyāmena maggena niyatattā niyato. Sambodhi paraṃ ayanaṃ parā gati assāti sambodhiparāyaṇo. Upari maggattayaṃ avassaṃ sampāpakoti attho. Kasmā? Paṭiladdhapaṭhamamaggattāti.
Từ ‘người có pháp không bị đọa lạc’: làm cho đọa lạc là ‘sự đọa lạc’; người không có pháp đọa lạc là ‘người có pháp không bị đọa lạc’, có nghĩa là không có bản chất tự mình bị đọa lạc vào các đường ác. Tại sao? Vì các pháp đưa đến đường ác đã được đoạn tận. Hoặc, sự rơi rớt là ‘sự đọa lạc’; người không có pháp đọa lạc là ‘người có pháp không bị đọa lạc’, có nghĩa là bản chất bị đọa lạc vào các đường ác nơi vị ấy không còn nữa. Vì đã được quyết định bởi đạo lộ thuộc hệ thống chân chánh, nên là người quyết định (sẽ chứng ngộ). Sự giác ngộ là nơi đến tối hậu, là cảnh giới tối hậu của vị ấy, nên là người có giác ngộ là mục tiêu cuối cùng. Có nghĩa là vị ấy chắc chắn sẽ thành tựu ba đạo lộ cao hơn. Tại sao? Vì đã chứng đắc đạo lộ đầu tiên (Dự Lưu đạo).
Vinayapaññattiyācanakathā niṭṭhitā.
Chú Giải Luận về Sự Thỉnh Cầu Chế Định Giới Luật kết thúc.
Buddhāciṇṇakathā
Luận về Các Tập Quán của Chư Phật
22. Evaṃ dhammasenāpatiṃ saññāpetvā verañjāyaṃ taṃ vassāvāsaṃ vītināmetvā vutthavasso mahāpavāraṇāya pavāretvā atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesi. Āmantesīti ālapi abhāsi sambodhesi. Kinti? Āciṇṇaṃ kho panetanti evamādi. Āciṇṇanti caritaṃ vattaṃ anudhammatā. Taṃ kho panetaṃ āciṇṇaṃ duvidhaṃ hoti – buddhāciṇṇaṃ, sāvakāciṇṇanti. Katamaṃ buddhāciṇṇaṃ? Idaṃ tāva ekaṃ – yehi nimantitā vassaṃ vasanti, na te anapaloketvā anāpucchitvā janapadacārikaṃ pakkamanti. Sāvakā pana apaloketvā vā anapaloketvā vā yathāsukhaṃ pakkamanti.
22. Như vậy, sau khi đã làm cho vị Thống Soái Chánh Pháp (Sāriputta) hiểu rõ, và sau khi đã trải qua mùa an cư mưa đó tại Verañjā, đã xuất hạ và làm lễ Đại Tự Tứ, bấy giờ Đấng Thế Tôn gọi Đại đức Ānanda. Từ ‘đã gọi’ có nghĩa là đã nói chuyện, đã nói, đã làm cho hiểu rõ. Như thế nào? (Ngài nói) bắt đầu bằng: ‘Này, đây là tập quán…’ và các câu tương tự. Từ ‘Tập quán’ có nghĩa là hạnh kiểm, bổn phận, sự thuận theo pháp. Tập quán đó có hai loại: tập quán của chư Phật và tập quán của các đệ tử. Tập quán của chư Phật là gì? Trước hết, đây là một điều: các Ngài, khi đã nhận lời mời của ai để an cư mùa mưa, thì không ra đi du hành trong xứ mà không thông báo, không từ biệt những người đó. Còn các đệ tử thì, dù có thông báo hay không thông báo, cũng có thể tùy ý ra đi.
Aparampi buddhāciṇṇaṃ – vutthavassā pavāretvā janasaṅgahatthāya janapadacārikaṃ pakkamantiyeva. Janapadacārikaṃ carantā ca mahāmaṇḍalaṃ majjhimamaṇḍalaṃ antimamaṇḍalanti imesaṃ tiṇṇaṃ maṇḍalānaṃ aññatarasmiṃ maṇḍale caranti. Tattha mahāmaṇḍalaṃ navayojanasatikaṃ, majjhimamaṇḍalaṃ chayojanasatikaṃ, antimamaṇḍalaṃ tiyojanasatikaṃ. Yadā mahāmaṇḍale cārikaṃ caritukāmā honti, tadā mahāpavāraṇāya pavāretvā pāṭipadadivase mahābhikkhusaṅghaparivārā nikkhamitvā gāmanigamādīsu mahājanaṃ āmisapaṭiggahena anuggaṇhantā dhammadānena cassa vivaṭṭupanissitaṃ kusalaṃ vaḍḍhentā navahi māsehi janapadacārikaṃ pariyosāpenti. Sace pana antovasse bhikkhūnaṃ samathavipassanā taruṇā honti, mahāpavāraṇāya appavāretvā pavāraṇāsaṅgahaṃ datvā kattikapuṇṇamāyaṃ pavāretvā māgasirassa paṭhamadivase mahābhikkhusaṅghaparivārā nikkhamitvā vuttanayeneva majjhimamaṇḍale aṭṭhahi māsehi cārikaṃ pariyosāpenti. Sace pana nesaṃ vutthavassānaṃ aparipākindriyā veneyyasattā honti, tesaṃ indriyaparipākaṃ āgamentā māgasiramāsampi tattheva vasitvā phussamāsassa paṭhamadivase mahābhikkhusaṅghaparivārā nikkhamitvā vuttanayeneva antimamaṇḍale sattahi māsehi cārikaṃ pariyosāpenti. Tesu ca maṇḍalesu yattha katthaci vicarantāpi te te satte kilesehi viyojentā sotāpattiphalādīhi payojentā veneyyavaseneva nānāvaṇṇāni pupphāni ocinantā viya caranti.
Một tập quán khác của chư Phật: sau khi đã xuất hạ và làm lễ Tự Tứ, các Ngài chắc chắn sẽ ra đi du hành trong xứ để nhiếp hóa quần chúng. Và khi du hành trong xứ, các Ngài du hành trong một trong ba khu vực này: đại khu vực, trung khu vực, hoặc tiểu khu vực. Trong đó, đại khu vực là chín trăm do tuần, trung khu vực là sáu trăm do tuần, tiểu khu vực là ba trăm do tuần. Khi các Ngài muốn du hành trong đại khu vực, bấy giờ, sau khi làm lễ Đại Tự Tứ, vào ngày đầu tiên của tháng (sau đó), các Ngài cùng với Tăng đoàn Tỳ khưu đông đảo khởi hành, đi qua các làng mạc, thị tứ v.v…, nâng đỡ quần chúng bằng cách thọ nhận vật thực cúng dường và làm tăng trưởng thiện pháp có duyên với sự giải thoát của họ bằng cách ban tặng Chánh Pháp, rồi kết thúc chuyến du hành trong xứ sau chín tháng. Còn nếu trong mùa an cư, sự tu tập thiền định và tuệ quán của các Tỳ khưu còn non yếu, các Ngài không làm lễ Đại Tự Tứ (vào ngày chính), mà cho phép làm lễ Tự Tứ rút gọn, rồi sau khi làm lễ Tự Tứ (chính thức) vào ngày rằm tháng Kattika, vào ngày đầu tiên của tháng Māgasira, các Ngài cùng với Tăng đoàn Tỳ khưu đông đảo khởi hành, rồi theo phương pháp đã nói mà kết thúc chuyến du hành trong trung khu vực sau tám tháng. Còn nếu sau khi các Ngài đã xuất hạ mà các căn của chúng sanh cần giáo hóa chưa thuần thục, các Ngài, trong khi chờ đợi các căn của họ thuần thục, ở lại đó cả tháng Māgasira, rồi vào ngày đầu tiên của tháng Phussa, cùng với Tăng đoàn Tỳ khưu đông đảo khởi hành, rồi theo phương pháp đã nói mà kết thúc chuyến du hành trong tiểu khu vực sau bảy tháng. Và trong các khu vực đó, dù du hành ở bất cứ đâu, các Ngài cũng tách rời chúng sanh ấy khỏi các phiền não, kết nối họ với các quả vị như Dự Lưu và các quả vị tương tự, tùy theo căn cơ của chúng sanh cần giáo hóa mà du hành, ví như người hái các loài hoa nhiều màu sắc vậy.
Aparampi buddhānaṃ āciṇṇaṃ – devasikaṃ paccūsasamaye santaṃ sukhaṃ nibbānārammaṇaṃ katvā phalasamāpattisamāpajjanaṃ, phalasamāpattiyā vuṭṭhahitvā devasikaṃ mahākaruṇāsamāpattiyā samāpajjanaṃ, tato vuṭṭhahitvā dasasahassacakkavāḷe bodhaneyyasattasamavalokanaṃ.
Một tập quán khác nữa của chư Phật: mỗi ngày, vào lúc rạng đông, lấy Niết Bàn là sự an lạc tịch tịnh làm đối tượng mà nhập Thánh quả định; sau khi xuất khỏi Thánh quả định, mỗi ngày nhập Đại Bi định; sau đó, xuất khỏi định ấy, quán sát chúng sanh có khả năng giác ngộ trong mười ngàn thế giới hệ.
Aparampi buddhānaṃ āciṇṇaṃ – āgantukehi saddhiṃ paṭhamataraṃ paṭisanthārakaraṇaṃ, aṭṭhuppattivasena dhammadesanā, otiṇṇe dose sikkhāpadapaññāpananti idaṃ buddhāciṇṇaṃ.
Một tập quán khác nữa của chư Phật: trước hết là chào hỏi thân mật với những người mới đến, thuyết pháp tùy theo nhân duyên phát sinh, chế định học giới khi có lỗi lầm xảy ra – đây là tập quán của chư Phật.
Katamaṃ sāvakāciṇṇaṃ? Buddhassa bhagavato kāle dvikkhattuṃ sannipāto pure vassūpanāyikāya ca kammaṭṭhānaggahaṇatthaṃ, vutthavassānañca adhigataguṇārocanatthaṃ upari kammaṭṭhānaggahaṇatthañca . Idaṃ sāvakāciṇṇaṃ. Idha pana buddhāciṇṇaṃ dassento āha – ‘‘āciṇṇaṃ kho panetaṃ, ānanda, tathāgatāna’’nti.
Tập quán của các đệ tử là gì? Vào thời Đấng Thế Tôn còn tại thế, có hai lần tập hợp: trước khi vào mùa an cư mưa để thọ nhận đề mục thiền, và sau khi đã xuất hạ để trình bày các phẩm chất đã chứng đắc và để thọ nhận đề mục thiền cao hơn. Đây là tập quán của các đệ tử. Nhưng ở đây, để chỉ ra tập quán của chư Phật, Ngài nói: ‘Này Ānanda, đây là tập quán của các đấng Như Lai.’
Āyāmāti āgaccha yāma. Apalokessāmāti cārikaṃ caraṇatthāya āpucchissāma. Evanti sampaṭicchanatthe nipāto. Bhanteti gāravādhivacanametaṃ; satthuno paṭivacanadānantipi vaṭṭati. Bhagavato paccassosīti bhagavato vacanaṃ paṭiassosi, abhimukho hutvā suṇi sampaṭicchi. Evanti iminā vacanena paṭiggahesīti vuttaṃ hoti.
Từ ‘chúng ta hãy đi’ có nghĩa là: hãy đến đây, chúng ta sẽ đi. Từ ‘chúng ta sẽ xin phép’ có nghĩa là: chúng ta sẽ xin phép để đi du hành. Từ ‘Vâng’ là một tiểu từ với ý nghĩa chấp thuận. Từ ‘Bạch Thế Tôn’ là một cách gọi tôn kính; cũng có thể hiểu là sự đáp lời Bậc Đạo Sư. Cụm từ ‘đã vâng đáp Đấng Thế Tôn’ có nghĩa là đã nghe theo lời của Đấng Thế Tôn, đã hướng về mà lắng nghe, đã chấp nhận. Có nghĩa là: đã chấp nhận bằng lời nói ‘Vâng’ này.
Atha kho bhagavā nivāsetvāti idha pubbaṇhasamayanti vā sāyanhasamayanti vā na vuttaṃ. Evaṃ santepi bhagavā katabhattakicco majjhanhikaṃ vītināmetvā āyasmantaṃ ānandaṃ pacchāsamaṇaṃ katvā nagaradvārato paṭṭhāya nagaravīthiyo suvaṇṇarasapiñjarāhi raṃsīhi samujjotayamāno yena verañjassa brāhmaṇassa nivesanaṃ tenupasaṅkami. Gharadvāre ṭhitamattameva cassa bhagavantaṃ disvā parijano ārocesi. Brāhmaṇo satiṃ paṭilabhitvā saṃvegajāto sahasā vuṭṭhāya mahārahaṃ āsanaṃ paññapetvā bhagavantaṃ paccuggamma ‘‘ito, bhagavā, upasaṅkamatū’’ti āha. Bhagavā upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Atha kho verañjo brāhmaṇo bhagavantaṃ upanisīditukāmo attanā ṭhitapadesato yena bhagavā tenupasaṅkami. Ito paraṃ uttānatthameva.
Trong câu ‘Bấy giờ Đấng Thế Tôn, sau khi đắp y…’: ở đây không nói là vào buổi sáng hay buổi chiều. Dù vậy, Đấng Thế Tôn, sau khi đã dùng bữa xong, trải qua buổi trưa, đã cho Đại đức Ānanda đi theo làm thị giả, từ cổng thành đi vào, làm rực sáng các đường phố trong thành bằng những tia sáng vàng óng như bột vàng, đã đi đến trú xứ của Bà la môn Verañja. Ngay khi Ngài vừa đứng ở cửa nhà, gia nhân thấy Đấng Thế Tôn liền báo cho (Bà la môn Verañja). Vị Bà la môn, khi nhớ lại, tâm sanh cảm động, vội vàng đứng dậy, cho soạn một chỗ ngồi quý giá, rồi ra đón Đấng Thế Tôn và thưa: ‘Bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy vào đây.’ Đấng Thế Tôn đi vào rồi ngồi xuống chỗ đã soạn. Bấy giờ, Bà la môn Verañja, vì muốn đến gần Đấng Thế Tôn, từ chỗ mình đang đứng đã đi đến chỗ Đấng Thế Tôn. Phần sau đó có ý nghĩa rõ ràng.
Yaṃ pana brāhmaṇo āha – ‘‘apica yo deyyadhammo, so na dinno’’ti. Tatrāyamadhippāyo – mayā nimantitānaṃ vassaṃvutthānaṃ tumhākaṃ temāsaṃ divase divase pāto yāgukhajjakaṃ, majjhanhike khādanīyabhojanīyaṃ, sāyanhe anekavidha pānavikati gandhapupphādīhi pūjāsakkāroti evamādiko yo deyyadhammo dātabbo assa, so na dinnoti. Tañca kho no asantanti ettha pana liṅgavipallāso veditabbo. So ca kho deyyadhammo amhākaṃ no asantoti ayañhettha attho. Atha vā yaṃ dānavatthuṃ mayaṃ tumhākaṃ dadeyyāma, tañca kho no asantanti evamettha attho veditabbo.
Còn điều mà vị Bà la môn đã nói: ‘Hơn nữa, những vật phẩm cúng dường đáng lẽ phải dâng, lại đã không được dâng’: Ý định ở đó là: Đối với quý Ngài đã nhận lời mời an cư mùa mưa của con, trong suốt ba tháng, mỗi ngày, buổi sáng đáng lẽ phải có cháo và đồ ăn cứng, buổi trưa có đồ ăn và vật thực, buổi chiều có nhiều loại thức uống khác nhau, sự cúng dường tôn kính bằng hương, hoa và các vật phẩm tương tự – những vật phẩm cúng dường như vậy đáng lẽ phải được dâng, lại đã không được dâng. Trong câu ‘Và điều đó chúng con không có’: ở đây cần hiểu là có sự thay đổi về giống (ngữ pháp). Ý nghĩa ở đây là: Và vật phẩm cúng dường đó, chúng con không có. Hoặc, cần hiểu ý nghĩa ở đây là: Vật phẩm cúng dường nào mà chúng con đáng lẽ phải dâng lên quý Ngài, vật phẩm đó chúng con không có.
Nopiadātukamyatāti adātukāmatāpi no natthi, yathā pahūtavittūpakaraṇānaṃ maccharīnaṃ. Taṃ kutettha labbhā bahukiccā gharāvāsāti tatrāyaṃ yojanā – yasmā bahukiccā gharāvāsā, tasmā ettha santepi deyyadhamme dātukamyatāya ca taṃ kuto labbhā kuto taṃ sakkā laddhuṃ, yaṃ mayaṃ tumhākaṃ deyyadhammaṃ dadeyyāmāti gharāvāsaṃ garahanto āha. So kira mārena āvaṭṭitabhāvaṃ na jānāti, ‘‘gharāvāsapalibodhena me satisammoso jāto’’ti maññi, tasmā evamāha. Apica – taṃ kutettha labbhāti imasmiṃ temāsabbhantare yamahaṃ tumhākaṃ dadeyyaṃ, taṃ kuto labbhā? Bahukiccā hi gharāvāsāti evamettha yojanā veditabbā.
Từ ‘Cũng không phải là không muốn cúng dường’ có nghĩa là: chúng con cũng không có ý không muốn cúng dường, giống như những người bỏn xẻn dù có nhiều tài sản của cải. Trong câu ‘Làm sao có được điều đó, đời sống tại gia nhiều công việc’: cách kết hợp ý nghĩa ở đó là: Vì đời sống tại gia nhiều công việc, do đó, dù ở đây có vật phẩm cúng dường và có ý muốn cúng dường, nhưng làm sao có được điều đó, làm sao có thể có được việc chúng con dâng vật phẩm cúng dường lên quý Ngài – vị ấy đã nói như vậy trong khi khiển trách đời sống tại gia. Tương truyền, vị ấy không biết về việc bị Ma vương che lấp, mà cho rằng: ‘Do sự ràng buộc của đời sống tại gia mà con bị đãng trí’, do đó đã nói như vậy. Hơn nữa – ‘Làm sao có được điều đó ở đây?’ có nghĩa là: trong khoảng ba tháng này, những gì con đáng lẽ phải dâng lên quý Ngài, làm sao có được? Vì đời sống tại gia quả thật nhiều công việc – cần hiểu sự kết hợp ý nghĩa ở đây là như vậy.
Atha brāhmaṇo ‘‘yaṃnūnāhaṃ yaṃ me tīhi māsehi dātabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ ekadivaseneva dadeyya’’nti cintetvā adhivāsetu me bhavaṃ gotamotiādimāha. Tattha svātanāyāti yaṃ me tumhesu sakkāraṃ karoto sve bhavissati puññañceva pītipāmojjañca, tadatthāya. Atha tathāgato ‘‘sace ahaṃ nādhivāseyyaṃ, ‘ayaṃ temāsaṃ kiñci aladdhā kupito maññe, tena me yāciyamāno ekabhattampi na paṭiggaṇhāti, natthi imasmiṃ adhivāsanakhanti, asabbaññū aya’nti evaṃ brāhmaṇo ca verañjāvāsino ca garahitvā bahuṃ apuññaṃ pasaveyyuṃ, taṃ tesaṃ mā ahosī’’ti tesaṃ anukampāya adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.
Bấy giờ, vị Bà la môn, sau khi suy nghĩ: ‘Hay là những gì ta đáng lẽ phải cúng dường trong ba tháng, tất cả những thứ đó ta sẽ cúng dường chỉ trong một ngày’, đã nói bắt đầu bằng: ‘Xin ngài Gotama hãy nhận lời…’ và những điều theo sau. Trong đó, từ ‘cho ngày mai’ có nghĩa là: vì mục đích của phước báu và niềm vui hân hoan sẽ có được vào ngày mai khi con thực hiện sự tôn kính cúng dường đến quý Ngài. Bấy giờ, Như Lai, (nghĩ rằng): ‘Nếu Ta không nhận lời, vị Bà la môn và dân chúng thành Verañjā có thể sẽ khiển trách rằng: “Vị này, trong ba tháng không nhận được gì, có lẽ đã tức giận, do đó dù được ta thỉnh mời, ngài cũng không nhận dù chỉ một bữa ăn; vị này không có sự kham nhẫn nhận lời, vị này không phải là bậc Toàn Giác”, và như vậy họ sẽ gieo nhiều nghiệp bất thiện; mong rằng điều đó sẽ không xảy ra cho họ’, do lòng thương xót họ, Đấng Thế Tôn đã nhận lời bằng sự im lặng.
Adhivāsetvā ca atha kho bhagavā verañjaṃ brāhmaṇaṃ ‘‘alaṃ gharāvāsapalibodhacintāyā’’ti saññāpetvā taṅkhaṇānurūpāya dhammiyā kathāya diṭṭhadhammikasamparāyikaṃ atthaṃ sandassetvā kusale dhamme samādapetvā gaṇhāpetvā tattha ca naṃ samuttejetvā saussāhaṃ katvā tāya saussāhatāya aññehi ca vijjamānaguṇehi sampahaṃsetvā dhammaratanavassaṃ vassetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi. Pakkante ca pana bhagavati verañjo brāhmaṇo puttadāraṃ āmantesi – ‘‘mayaṃ, bhaṇe, bhagavantaṃ temāsaṃ nimantetvā ekadivasaṃ ekabhattampi nādamha. Handa, dāni tathā dānaṃ paṭiyādetha yathā temāsikopi deyyadhammo sve ekadivaseneva dātuṃ sakkā hotī’’ti. Tato paṇītaṃ dānaṃ paṭiyādāpetvā yaṃ divasaṃ bhagavā nimantito, tassā rattiyā accayena āsanaṭṭhānaṃ alaṅkārāpetvā mahārahāni āsanāni paññapetvā gandhadhūmavāsakusumavicitraṃ mahāpūjaṃ sajjetvā bhagavato kālaṃ ārocāpesi. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho verañjo brāhmaṇo tassā rattiyā accayena…pe… niṭṭhitaṃ bhatta’’nti.
Và sau khi đã nhận lời, bấy giờ Đấng Thế Tôn làm cho Bà la môn Verañja hiểu rằng: ‘Thôi đừng lo lắng về sự ràng buộc của đời sống tại gia nữa’, rồi bằng bài pháp thoại thích hợp với khoảnh khắc ấy, Ngài chỉ rõ lợi ích hiện tại và tương lai, khích lệ, hướng dẫn ông thực hành các thiện pháp, làm cho ông phấn chấn, nhiệt tâm trong đó, và làm cho ông hoan hỷ với sự nhiệt tâm ấy cùng các phẩm chất khác đang hiện hữu, rồi Ngài ban cơn mưa Pháp bảo, sau đó đứng dậy khỏi chỗ ngồi mà ra về. Và sau khi Đấng Thế Tôn đã ra về, Bà la môn Verañja gọi vợ con lại mà bảo rằng: ‘Này các con, chúng ta đã thỉnh mời Đấng Thế Tôn trong ba tháng mà chưa cúng dường được một bữa ăn nào dù chỉ một ngày. Vậy, bây giờ hãy chuẩn bị việc cúng dường sao cho vật phẩm cúng dường của cả ba tháng cũng có thể được dâng cúng chỉ trong một ngày mai.’ Sau đó, ông cho chuẩn bị vật thực cúng dường tinh khiết, vào ngày mà Đấng Thế Tôn đã được mời, sau khi đêm đó đã qua, ông cho trang hoàng nơi đặt chỗ ngồi, cho soạn những chỗ ngồi quý giá, chuẩn bị một đại lễ cúng dường trang hoàng bằng hương, khói, hương liệu, hoa nhiều màu sắc, rồi cho báo thời gian đến Đấng Thế Tôn. Do đó có lời nói: ‘Bấy giờ, Bà la môn Verañja, sau khi đêm đó đã qua…v.v… vật thực đã được dọn xong.’
23. Bhagavā bhikkhusaṅghaparivuto tattha agamāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho bhagavā…pe… nisīdi saddhiṃ bhikkhusaṅghenā’’ti. Atha kho verañjo brāhmaṇo buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghanti buddhappamukhanti buddhapariṇāyakaṃ; buddhaṃ saṅghattheraṃ katvā nisinnanti vuttaṃ hoti. Paṇītenāti uttamena. Sahatthāti sahatthena. Santappetvāti suṭṭhu tappetvā, paripuṇṇaṃ suhitaṃ yāvadatthaṃ katvā. Sampavāretvāti suṭṭhu pavāretvā ‘ala’nti hatthasaññāya mukhasaññāya vacībhedena ca paṭikkhipāpetvā. Bhuttāvinti bhuttavantaṃ. Onītapattapāṇinti pattato onītapāṇiṃ; apanītahatthanti vuttaṃ hoti. Ticīvarena acchādesīti ticīvaraṃ bhagavato adāsi. Idaṃ pana vohāravacanamattaṃ hoti ‘‘ticīvarena acchādesī’’ti, tasmiñca ticīvare ekameko sāṭako sahassaṃ agghati. Iti brāhmaṇo bhagavato tisahassagghanakaṃ ticīvaramadāsi uttamaṃ kāsikavatthasadisaṃ. Ekamekañca bhikkhuṃ ekamekena dussayugenāti ekamekena dussayugaḷena. Tatra ekasāṭako pañcasatāni agghati. Evaṃ pañcannaṃ bhikkhusatānaṃ pañcasatasahassagghanakāni dussāni adāsi. Brāhmaṇo ettakampi datvā atuṭṭho puna sattaṭṭhasahassagghanake anekarattakambale ca paṭṭuṇṇapattapaṭe ca phāletvā phāletvā āyogaaṃsabaddhakakāyabandhanaparissāvanādīnaṃ atthāya adāsi. Satapākasahassapākānañca bhesajjatelānaṃ tumbāni pūretvā ekamekassa bhikkhuno abbhañjanatthāya sahassagghanakaṃ telamadāsi. Kiṃ bahunā, catūsu paccayesu na koci parikkhāro samaṇaparibhogo adinno nāma ahosi. Pāḷiyaṃ pana cīvaramattameva vuttaṃ.
23. Đấng Thế Tôn, được Tăng đoàn Tỳ khưu bao quanh, đã đi đến đó. Do đó có lời nói: ‘Bấy giờ Đấng Thế Tôn…v.v… đã ngồi xuống cùng với Tăng đoàn Tỳ khưu.’ Trong câu ‘Bấy giờ Bà la môn Verañja (cúng dường) Tăng đoàn Tỳ khưu với Đức Phật là vị đứng đầu’: từ ‘với Đức Phật là vị đứng đầu’ có nghĩa là với Đức Phật là vị dẫn đầu; tức là (Tăng đoàn) đã ngồi xuống với Đức Phật là vị Trưởng lão của Tăng. Từ ‘thượng vị’ có nghĩa là tuyệt hảo. Từ ‘tự tay’ có nghĩa là bằng chính tay mình. Từ ‘đã làm cho no đủ’ có nghĩa là đã làm cho no đủ một cách tốt đẹp, làm cho đầy đủ, thỏa mãn, đến mức vừa ý. Từ ‘đã thỉnh mời dùng thêm’ có nghĩa là sau khi đã thỉnh mời dùng thêm một cách tốt đẹp, (cho đến khi các Ngài) từ chối bằng dấu hiệu tay, dấu hiệu miệng, hoặc bằng lời nói ‘Đủ rồi’. Từ ‘sau khi đã dùng bữa xong’ có nghĩa là vị đã dùng bữa. Từ ‘khi tay đã rời khỏi bát’ có nghĩa là tay đã rời khỏi bát; tức là đã rút tay ra. Cụm từ ‘đã dâng cúng ba y’ có nghĩa là đã dâng cúng ba y lên Đấng Thế Tôn. Tuy nhiên, câu ‘đã dâng cúng ba y’ chỉ là cách nói thông thường; và trong ba y đó, mỗi tấm vải trị giá một ngàn (tiền vàng). Như vậy, vị Bà la môn đã dâng lên Đấng Thế Tôn bộ ba y trị giá ba ngàn (tiền vàng), là loại vải Kāsi thượng hạng. Cụm từ ‘và mỗi vị Tỳ khưu một cặp vải’ có nghĩa là mỗi vị một cặp vải (hai tấm). Trong đó, mỗi tấm vải trị giá năm trăm (tiền vàng). Như vậy, ông đã dâng cúng các tấm vải trị giá năm trăm ngàn (tiền vàng) cho năm trăm vị Tỳ khưu. Vị Bà la môn, dù đã cúng dường chừng ấy, vẫn chưa hài lòng, lại lấy những tấm thảm len nhiều màu trị giá bảy tám ngàn, và cả những tấm vải lụa, vải bông, xé ra rồi cúng dường để làm các vật dụng như dây buộc vai, đai lưng, đồ lọc nước và các vật tương tự. Và ông cũng cho đổ đầy các bầu dầu thuốc đã được nấu một trăm lần, một ngàn lần, rồi cúng dường mỗi vị Tỳ khưu dầu trị giá một ngàn để xoa bóp. Nói nhiều làm gì, trong bốn món vật dụng, không có một vật tùy thân nào mà Sa môn thường dùng lại không được cúng dường. Tuy nhiên, trong Pāḷi (kinh văn) chỉ nói đến y phục mà thôi.
Evaṃ mahāyāgaṃ yajitvā saputtadāraṃ vanditvā nisinnaṃ atha kho bhagavā verañjaṃ brāhmaṇaṃ temāsaṃ mārāvaṭṭanena dhammasavanāmatarasaparibhogaparihīnaṃ ekadivaseneva dhammāmatavassaṃ vassetvā puripuṇṇasaṅkappaṃ kurumāno dhammiyākathāya sandassetvā…pe… uṭṭhāyāsanā pakkāmi. Brāhmaṇopi saputtadāro bhagavantañca bhikkhusaṅghañca vanditvā ‘‘punapi, bhante, amhākaṃ anuggahaṃ kareyyāthā’’ti evamādīni vadanto anubandhitvā assūni pavattayamāno nivatti.
Sau khi vị Bà la môn đã thực hiện cuộc cúng dường lớn lao như vậy, cùng vợ con đảnh lễ rồi ngồi xuống, bấy giờ Đấng Thế Tôn, để làm cho ước nguyện của Bà la môn Verañja – người đã bị thiếu hụt sự hưởng thụ vị cam lồ của việc nghe Pháp trong ba tháng do sự che lấp của Ma vương – được hoàn toàn viên mãn chỉ trong một ngày bằng cách ban cơn mưa Pháp cam lồ, đã chỉ dạy bằng bài pháp thoại, (khích lệ, làm cho phấn chấn, làm cho hoan hỷ)…v.v… rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi mà ra về. Vị Bà la môn cùng vợ con cũng đảnh lễ Đấng Thế Tôn và Tăng đoàn Tỳ khưu, rồi đi theo tiễn một đoạn, vừa nói những lời như: ‘Bạch Thế Tôn, xin Ngài hãy lại thương xót chúng con nữa’, và các lời tương tự, vừa rơi lệ mà quay về.
Atha kho bhagavā verañjāyaṃ yathābhirantaṃ viharitvāti yathājjhāsayaṃ yathārucitaṃ vāsaṃ vasitvā verañjāya nikkhamitvā mahāmaṇḍale cārikāya caraṇakāle gantabbaṃ buddhavīthi pahāya dubbhikkhadosena kilantaṃ bhikkhusaṅghaṃ ujunāva maggena gahetvā gantukāmo soreyyādīni anupagamma payāgapatiṭṭhānaṃ gantvā tattha gaṅgaṃ nadiṃ uttaritvā yena bārāṇasī tadavasari. Tena avasari tadavasari. Tatrāpi yathājjhāsayaṃ viharitvā vesāliṃ agamāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘anupagamma soreyyaṃ…pe… vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāya’’nti.
Trong câu ‘Bấy giờ Đấng Thế Tôn, sau khi đã an trú tại Verañjā tùy theo ý thích…’: (có nghĩa là) sau khi đã an trú tùy theo ý hướng, tùy theo sở thích, Ngài rời khỏi Verañjā, và trong thời gian du hành tại đại khu vực, vì muốn dẫn dắt Tăng đoàn Tỳ khưu đã mệt mỏi do lỗi đói kém đi theo con đường thẳng, Ngài đã bỏ qua con đường Phật thường đi, không ghé qua Soreyya và các nơi tương tự, đi đến bến Payāga, qua sông Gaṅgā ở đó, rồi đi đến nơi nào có thành Bārāṇasī. Ngài đã đi đến đó, (nên nói là) đã đi đến đó. Ở đó, Ngài cũng an trú tùy theo ý hướng rồi đi đến Vesālī. Do đó có lời nói: ‘Không ghé qua Soreyya…v.v… Ngài trú tại Vesālī, trong Đại Lâm, tại Trùng Các Giảng Đường.’
Buddhāciṇṇakathā niṭṭhitā.
Luận về Các Tập Quán của Chư Phật kết thúc.
Samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāya
Trong bộ Samantapāsādikā, Chú Giải Luật Tạng
Verañjakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Chú Giải Phẩm Verañja kết thúc.
Tatridaṃ samantapāsādikāya samantapāsādikattasmiṃ –
Về tính chất làm cho khắp nơi đều tịnh tín của bộ Samantapāsādikā này:
Ācariyaparamparato, nidānavatthuppabhedadīpanato;
Do truyền thống các bậc Thầy, do sự trình bày các loại nhân duyên và sự việc;
Parasamayavivajjanato, sakasamayavisuddhito ceva.
Do sự tránh xa các quan điểm ngoại đạo, và do sự thanh tịnh của giáo lý nhà.
Byañjanaparisodhanato, padatthato pāḷiyojanakkamato;
Do sự gạn lọc văn tự, do ý nghĩa của từ, do thứ tự kết hợp Pāḷi;
Sikkhāpadanicchayato, vibhaṅganayabhedadassanato.
Do sự quyết đoán các học giới, do sự trình bày các loại phương pháp phân tích.
Sampassataṃ na dissati, kiñci apāsādikaṃ yato ettha;
Vì rằng đối với những người quán xét, không thấy có điều gì không làm phát sinh niềm tịnh tín ở đây;
Viññūnamayaṃ tasmā, samantapāsādikātveva.
Do đó, đối với các bậc trí, bộ này đích thực là Samantapāsādikā.
Saṃvaṇṇanā pavattā, vinayassa vineyyadamanakusalena;
Bài chú giải Luật này đã được thực hiện, (Luật này) của Đấng Thế Tôn,
Vuttassa lokanāthena, lokamanukampamānenāti.
Bậc khéo léo trong việc điều phục chúng sanh cần được điều phục, Đấng Bảo Hộ của thế gian, bậc có lòng thương tưởng thế gian, đã nói ra.
Verañjakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Chú Giải Chương Verañja kết thúc.