Chú giải Tạng Luật

Chú Giải Tạng Luật – Phẩm Tập Yếu – Sự Phân Loại Các Vụ Việc

Adhikaraṇabhedaṃ

Phân loại các vụ tranh tụng

Ukkoṭanabhedādivaṇṇanā

Giải thích về các loại lật lại (vụ án) v.v…

340. Adhikaraṇabhede ime dasa ukkoṭāti adhikaraṇānaṃ ukkoṭetvā puna adhikaraṇaukkoṭena samathānaṃ ukkoṭaṃ dassetuṃ ‘‘vivādādhikaraṇaṃ ukkoṭento kati samathe ukkoṭetī’’tiādimāha. Tattha vivādādhikaraṇaṃ ukkoṭento dve samathe ukkoṭetīti sammukhāvinayañca yebhuyyasikañca ime dve ukkoṭeti, paṭisedheti; paṭikkosatīti attho. Anuvādādhikaraṇaṃ ukkoṭento cattāroti sammukhāvinayaṃ, sativinayaṃ, amūḷhavinayaṃ, tassapāpiyasikanti ime cattāro samathe ukkoṭeti. Āpattādhikaraṇaṃ ukkoṭento tayoti sammukhāvinayaṃ, paṭiññātakaraṇaṃ, tiṇavatthārakanti ime tayo samathe ukkoṭeti. Kiccādhikaraṇaṃ ukkoṭento ekanti sammukhāvinayaṃ imaṃ ekaṃ samathaṃ ukkoṭeti.
340. Trong phần phân loại các vụ tranh tụng, mười cách lật lại này có nghĩa là: để chỉ rõ việc lật lại các cách dàn xếp bằng cách lật lại vụ tranh tụng rồi lại lật lại nữa, (Ngài) nói bắt đầu bằng “Người lật lại vụ tranh tụng do tranh cãi thì lật lại bao nhiêu cách dàn xếp?” v.v… Trong đó, người lật lại vụ tranh tụng do tranh cãi thì lật lại hai cách dàn xếp có nghĩa là vị ấy lật lại, bác bỏ hai cách này là pháp giải quyết tại mặt Tăng và pháp y đa số quyết; nghĩa là ngăn cản, phản đối. Người lật lại vụ tranh tụng do khiển trách thì (lật lại) bốn có nghĩa là vị ấy lật lại bốn cách dàn xếp này là: pháp giải quyết tại mặt Tăng, pháp giải tội nhờ trạng thái được phục hồi trí nhớ, pháp giải tội nhờ trạng thái không còn mê mờ, và pháp xử phạt kẻ ngoan cố. Người lật lại vụ tranh tụng về tội thì (lật lại) ba có nghĩa là vị ấy lật lại ba cách dàn xếp này là: pháp giải quyết tại mặt Tăng, pháp hành sự theo sự thú nhận, và pháp lấy cỏ che đậy. Người lật lại vụ tranh tụng về phận sự thì (lật lại) một có nghĩa là vị ấy lật lại một cách dàn xếp này là pháp giải quyết tại mặt Tăng.

341.Kati ukkoṭātiādipucchānaṃ vissajjane pana dvādasasu ukkoṭesu akataṃ kammantiādayo tāva tayo ukkoṭā visesato dutiye anuvādādhikaraṇe labbhanti. Anihataṃ kammantiādayo tayo paṭhame vivādādhikaraṇe labbhanti. Avinicchitantiādayo tayo tatiye āpattādhikaraṇe labbhanti. Avūpasantantiādayo tayo catutthe kiccādhikaraṇe labbhanti; apica dvādasāpi ca ekekasmiṃ adhikaraṇe labbhantiyeva.
341. Còn trong phần giải đáp các câu hỏi bắt đầu bằng “Bao nhiêu cách lật lại?” v.v…, trong mười hai cách lật lại, trước hết, ba cách lật lại bắt đầu bằng “việc làm chưa được thực hiện” v.v… đặc biệt được tìm thấy trong vụ tranh tụng thứ hai là vụ tranh tụng do khiển trách. Ba (cách lật lại) bắt đầu bằng “việc làm chưa bị bác bỏ” v.v… được tìm thấy trong vụ tranh tụng thứ nhất là vụ tranh tụng do tranh cãi. Ba (cách lật lại) bắt đầu bằng “(vụ việc) chưa được xét xử” v.v… được tìm thấy trong vụ tranh tụng thứ ba là vụ tranh tụng về tội. Ba (cách lật lại) bắt đầu bằng “(vụ việc) chưa được dàn xếp” v.v… được tìm thấy trong vụ tranh tụng thứ tư là vụ tranh tụng về phận sự; hơn nữa, cả mười hai cách cũng đều được tìm thấy trong mỗi một vụ tranh tụng.

Tatthajātakaṃ adhikaraṇaṃ ukkoṭetīti yasmiṃ vihāre ‘‘mayhaṃ iminā patto gahito, cīvaraṃ gahita’’ntiādinā nayena pattacīvarādīnaṃ atthāya adhikaraṇaṃ uppannaṃ hoti, tasmiṃyeva ca naṃ vihāre āvāsikā sannipatitvā ‘‘alaṃ āvuso’’ti attapaccatthike saññāpetvā pāḷimuttakavinicchayeneva vūpasamenti, idaṃ tatthajātakaṃ adhikaraṇaṃ nāma. Yenāpi vinicchayena samitaṃ, sopi eko samathoyeva. Imaṃ ukkoṭentassāpi pācittiyaṃ.
Lật lại vụ tranh tụng phát sanh tại chỗ đó có nghĩa là: vụ tranh tụng đã phát sanh tại trú xứ nào về việc liên quan đến bình bát, y phục v.v… theo cách nói “bình bát của tôi đã bị vị này lấy, y phục đã bị lấy” v.v…, và tại chính trú xứ ấy, các vị thường trú tụ họp lại, sau khi làm cho các bên đương sự hiểu rõ (bằng cách nói) “Thôi đủ rồi, thưa đạo hữu”, rồi dàn xếp (vụ việc) chỉ bằng sự xét xử không theo Pāḷi; đây được gọi là vụ tranh tụng phát sanh tại chỗ đó. Bằng sự xét xử nào mà (vụ việc) được dàn xếp, đó cũng là một cách dàn xếp. Người lật lại vụ việc này cũng phạm tội Ưng đối trị.

Tatthajātakaṃ vūpasantanti sace pana taṃ adhikaraṇaṃ nevāsikā vūpasametuṃ na sakkonti, athañño vinayadharo āgantvā ‘‘kiṃ āvuso imasmiṃ vihāre uposatho vā pavāraṇā vā ṭhitā’’ti pucchati, tehi ca tasmiṃ kāraṇe kathite taṃ adhikaraṇaṃ khandhakato ca parivārato ca suttena vinicchinitvā vūpasameti, idaṃ tatthajātakaṃ vūpasantaṃ nāma adhikaraṇaṃ. Etaṃ ukkoṭentassāpi pācittiyameva.
(Vụ tranh tụng) phát sanh tại chỗ đó đã được dàn xếp có nghĩa là: nhưng nếu các vị thường trú không thể dàn xếp vụ tranh tụng ấy, rồi một vị Luật sư khác đến hỏi “Thưa các đạo hữu, tại trú xứ này, lễ Bố-tát hay lễ Tự tứ có bị đình chỉ không?”, và khi các vị ấy trình bày lý do đó, (vị Luật sư ấy) xét xử và dàn xếp vụ tranh tụng đó dựa theo các Thiên, Toát yếu và Kinh Phân tích; đây được gọi là vụ tranh tụng phát sanh tại chỗ đó đã được dàn xếp. Người lật lại vụ việc này cũng phạm tội Ưng đối trị.

Antarāmaggeti te attapaccatthikā ‘‘na mayaṃ etassa vinicchaye tiṭṭhāma, nāyaṃ vinaye kusalo, asukasmiṃ nāma gāme vinayadharā therā vasanti, tattha gantvā vinicchinissāmā’’ti gacchantā antarāmaggeyeva kāraṇaṃ sallakkhetvā aññamaññaṃ vā saññāpenti, aññe vā te bhikkhū nijjhāpenti, idampi vūpasantameva hoti. Evaṃ vūpasantaṃ antarāmagge adhikaraṇaṃ ukkoṭeti yo, tassāpi pācittiyameva.
Trên đường đi có nghĩa là: các bên đương sự ấy đi (với ý nghĩ) “Chúng tôi không chấp nhận sự xét xử của vị này, vị này không giỏi về Luật, tại làng kia có các vị Trưởng lão Luật sư ở, chúng tôi sẽ đến đó để xét xử”, ngay trên đường đi, sau khi nhận thấy lý lẽ, hoặc tự hòa giải với nhau, hoặc các Tỳ-kheo khác làm cho họ nguôi ngoai; vụ việc này cũng đã được dàn xếp xong. Người nào lật lại vụ tranh tụng đã được dàn xếp trên đường đi như vậy, vị ấy cũng phạm tội Ưng đối trị.

Antarāmagge vūpasantanti na heva kho pana aññamaññaṃ saññattiyā vā sabhāgabhikkhunijjhāpanena vā vūpasantaṃ hoti; apica kho paṭipathaṃ āgacchanto eko vinayadharo disvā ‘‘kattha āvuso gacchathā’’ti pucchitvā ‘‘asukaṃ nāma gāmaṃ, iminā nāma kāraṇenā’’ti vutte ‘‘alaṃ, āvuso, kiṃ tattha gatenā’’ti tattheva dhammena vinayena taṃ adhikaraṇaṃ vūpasameti, idaṃ antarāmagge vūpasantaṃ nāma. Etaṃ ukkoṭentassāpi pācittiyameva.
(Vụ tranh tụng) được dàn xếp trên đường đi có nghĩa là: tuy nhiên, (vụ việc) không chỉ được dàn xếp bằng sự hòa giải lẫn nhau hoặc bằng sự làm nguôi ngoai của các Tỳ-kheo đồng bạn; hơn nữa, một vị Luật sư đi ngược chiều trông thấy, sau khi hỏi “Thưa các đạo hữu, quý vị đi đâu?”, và khi được trả lời “Đến làng kia, vì lý do này”, (vị ấy nói) “Thôi đủ rồi, thưa các đạo hữu, đi đến đó làm gì?”, rồi dàn xếp vụ tranh tụng ấy ngay tại đó đúng theo Pháp, đúng theo Luật; đây được gọi là (vụ tranh tụng) được dàn xếp trên đường đi. Người lật lại vụ việc này cũng phạm tội Ưng đối trị.

Tattha gatanti sace pana ‘‘alaṃ, āvuso, kiṃ tattha gatenā’’ti vuccamānāpi ‘‘mayaṃ tattheva gantvā vinicchayaṃ pāpessāmā’’ti vinayadharassa vacanaṃ anādiyitvā gacchantiyeva, gantvā sabhāgānaṃ bhikkhūnaṃ etamatthaṃ ārocenti. Sabhāgā bhikkhū ‘‘alaṃ, āvuso, saṅghasannipātaṃ nāma garuka’’nti tattheva nisīdāpetvā vinicchinitvā saññāpenti, idampi vūpasantameva hoti. Evaṃ vūpasantaṃ tattha gataṃ adhikaraṇaṃ ukkoṭeti yo, tassāpi pācittiyameva.
(Vụ tranh tụng) đã đến nơi đó có nghĩa là: nhưng nếu, dù được nói “Thôi đủ rồi, thưa các đạo hữu, đi đến đó làm gì?”, (các bên) vẫn đi, không chấp nhận lời của vị Luật sư, (nghĩ rằng) “Chúng tôi sẽ đến chính nơi đó để đạt được sự xét xử”; sau khi đến nơi, họ trình bày sự việc ấy cho các Tỳ-kheo đồng bạn. Các Tỳ-kheo đồng bạn (nói) “Thôi đủ rồi, thưa các đạo hữu, việc tụ họp Tăng chúng là việc hệ trọng”, rồi cho họ ngồi lại ngay tại đó, xét xử và làm cho họ hiểu rõ; vụ việc này cũng đã được dàn xếp xong. Người nào lật lại vụ tranh tụng đã đến nơi đó và được dàn xếp như vậy, vị ấy cũng phạm tội Ưng đối trị.

Tatthagataṃ vūpasantanti na heva kho pana sabhāgabhikkhūnaṃ saññattiyā vūpasantaṃ hoti; apica kho saṅghaṃ sannipātetvā ārocitaṃ saṅghamajjhe vinayadharā vūpasamenti, idaṃ tattha gataṃ vūpasantaṃ nāma. Etaṃ ukkoṭentassāpi pācittiyameva.
(Vụ tranh tụng) đã đến nơi đó và được dàn xếp có nghĩa là: tuy nhiên, (vụ việc) không chỉ được dàn xếp bằng sự làm cho hiểu rõ của các Tỳ-kheo đồng bạn; hơn nữa, sau khi tụ họp Tăng chúng và trình bày (vụ việc), các vị Luật sư dàn xếp giữa Tăng chúng; đây được gọi là (vụ tranh tụng) đã đến nơi đó và được dàn xếp. Người lật lại vụ việc này cũng phạm tội Ưng đối trị.

Sativinayanti khīṇāsavassa dinnaṃ sativinayaṃ ukkoṭeti, pācittiyameva. Ummattakassa dinne amūḷhavinaye pāpussannassa dinnāya tassapāpiyasikāyapi eseva nayo.
Pháp giải tội nhờ phục hồi trí nhớ có nghĩa là: lật lại pháp giải tội nhờ phục hồi trí nhớ đã được ban cho bậc Lậu tận, (người lật lại) phạm tội Ưng đối trị. Đối với pháp giải tội nhờ không còn mê mờ được ban cho người bị điên, đối với pháp xử phạt kẻ ngoan cố được ban cho người có nhiều tội lỗi, cách thức cũng tương tự.

Tiṇavatthārakaṃukkoṭetīti saṅghena tiṇavatthārakasamathena vūpasamite adhikaraṇe ‘‘āpatti nāma ekaṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā ukkuṭikaṃ nisīditvā añjaliṃ paggahetvā desiyamānā vuṭṭhāti, yaṃ panetaṃ niddāyantassāpi āpattivuṭṭhānaṃ nāma, etaṃ mayhaṃ na khamatī’’ti evaṃ vadantopi tiṇavatthārakaṃ ukkoṭeti nāma, tassāpi pācittiyameva.
Lật lại pháp lấy cỏ che đậy có nghĩa là: trong vụ tranh tụng đã được Tăng chúng dàn xếp bằng cách lấy cỏ che đậy, (nếu người nào nói rằng) “Tội lỗi được gọi là việc được giải trừ khi đến gần một Tỳ-kheo, ngồi chồm hổm, chắp tay và sám hối; nhưng cái việc giải trừ tội lỗi ngay cả khi (Tăng chúng) đang ngủ gật này, điều đó tôi không chấp nhận”; người nói như vậy cũng được gọi là lật lại pháp lấy cỏ che đậy, vị ấy cũng phạm tội Ưng đối trị.

Chandāgatiṃ gacchanto adhikaraṇaṃ ukkoṭetīti vinayadharo hutvā attano upajjhāyādīnaṃ atthāya ‘‘adhammaṃ dhammo’’tiādīni dīpetvā pubbe vinicchitaṃ adhikaraṇaṃ dvādasasu ukkoṭesu yena kenaci ukkoṭento chandāgatiṃ gacchanto adhikaraṇaṃ ukkoṭeti nāma. Dvīsu pana attapaccatthikesu ekasmiṃ ‘‘anatthaṃ me acarī’’tiādinā nayena samuppannāghāto, tassa parājayaṃ āropanatthaṃ ‘‘adhammaṃ dhammo’’tiādīni dīpetvā pubbe vinicchitaṃ adhikaraṇaṃ dvādasasu ukkoṭesu yena kenaci ukkoṭento dosāgatiṃ gacchanto adhikaraṇaṃ ukkoṭeti nāma. Mando pana momūho momūhattā eva ‘‘adhammaṃ dhammo’’tiādīni dīpetvā vuttanayeneva ukkoṭento mohāgatiṃ gacchanto adhikaraṇaṃ ukkoṭeti nāma. Sace pana dvīsu attapaccatthikesu eko visamāni kāyakammādīni gahanamicchādiṭṭhiṃ balavante ca pakkhantariye abhiññāte bhikkhū nissitattā visamanissito gahananissito balavanissito ca hoti, tassa bhayena ‘‘ayaṃ me jīvitantarāyaṃ vā brahmacariyantarāyaṃ vā kareyyā’’ti ‘‘adhammaṃ dhammo’’tiādīni dīpetvā vuttanayeneva ukkoṭento bhayāgatiṃ gacchanto adhikaraṇaṃ ukkoṭeti nāma.
Đi theo đường thiên vị do thương yêu mà lật lại vụ tranh tụng có nghĩa là: là một vị Luật sư, vì lợi ích của thầy Tế độ v.v… của mình, sau khi trình bày “phi pháp là pháp” v.v…, lật lại vụ tranh tụng đã được xét xử trước đó bằng bất kỳ cách nào trong mười hai cách lật lại, thì được gọi là đi theo đường thiên vị do thương yêu mà lật lại vụ tranh tụng. Còn trong hai bên đương sự, (nếu vị Luật sư) có ác cảm với một bên (nghĩ rằng) “Người này đã làm điều bất lợi cho ta” v.v…, để quy kết sự thất bại cho vị ấy, sau khi trình bày “phi pháp là pháp” v.v…, lật lại vụ tranh tụng đã được xét xử trước đó bằng bất kỳ cách nào trong mười hai cách lật lại, thì được gọi là đi theo đường thiên vị do sân hận mà lật lại vụ tranh tụng. Còn người ngu si, mê muội, do chính sự mê muội, sau khi trình bày “phi pháp là pháp” v.v…, lật lại (vụ tranh tụng) theo cách đã nói, thì được gọi là đi theo đường thiên vị do si mê mà lật lại vụ tranh tụng. Còn nếu trong hai bên đương sự, một bên có thân nghiệp v.v… không chân chánh, theo tà kiến sai lầm, và dựa vào các Tỳ-kheo có thế lực, thuộc phe phái, nổi tiếng, nên được xem là người dựa vào điều không chân chánh, dựa vào điều sai lầm, dựa vào kẻ có thế lực; do sợ hãi vị ấy (nghĩ rằng) “Người này có thể gây trở ngại cho mạng sống hay phạm hạnh của ta”, sau khi trình bày “phi pháp là pháp” v.v…, lật lại (vụ tranh tụng) theo cách đã nói, thì được gọi là đi theo đường thiên vị do sợ hãi mà lật lại vụ tranh tụng.

Tadahupasampannoti eko sāmaṇero byatto hoti bahussuto, so vinicchaye parājayaṃ patvā maṅkubhūte bhikkhū disvā pucchati ‘‘kasmā maṅkubhūtātthā’’ti? Te tassa taṃ adhikaraṇaṃ ārocenti. So te evaṃ vadeti ‘‘hotu, bhante, maṃ upasampādetha, ahaṃ taṃ adhikaraṇaṃ vūpasamessāmī’’ti . Te taṃ upasampādenti. So dutiyadivase bheriṃ paharitvā saṅghaṃ sannipāteti. Tato bhikkhūhi ‘‘kena saṅgho sannipātito’’ti vutte ‘‘mayā’’ti vadati. ‘‘Kasmā sannipātito’’ti? ‘‘Hiyyo adhikaraṇaṃ dubbinicchitaṃ, tamahaṃ vinicchinissāmī’’ti. ‘‘Tvaṃ pana hiyyo kuhiṃ gato’’ti? ‘‘Anupasampannomhi, bhante, ajja pana upasampannomhī’’ti. So vattabbo ‘‘idaṃ āvuso tumhādisānaṃ bhagavatā sikkhāpadaṃ paññattaṃ, ‘tadahupasampanno ukkoṭeti, ukkoṭanakaṃ pācittiya’nti, gaccha āpattiṃ desehī’’ti. Āgantukepi eseva nayo.
Người mới thọ Cụ túc giới trong ngày đó có nghĩa là: có một vị Sa-di lanh lợi, đa văn; vị ấy thấy các Tỳ-kheo bị bối rối sau khi thất bại trong vụ xét xử, bèn hỏi “Tại sao quý ngài lại bối rối?”. Họ trình bày vụ tranh tụng ấy cho vị ấy. Vị ấy nói với họ như vầy: “Thưa quý ngài, được rồi, xin hãy cho con thọ Cụ túc giới, con sẽ dàn xếp vụ tranh tụng ấy”. Họ cho vị ấy thọ Cụ túc giới. Vào ngày thứ hai, vị ấy đánh trống lệnh, tụ họp Tăng chúng. Sau đó, khi các Tỳ-kheo hỏi “Ai đã tụ họp Tăng chúng?”, (vị ấy) nói “Do tôi”. “Tại sao lại tụ họp?”. “Vụ tranh tụng hôm qua đã bị xét xử sai, tôi sẽ xét xử lại vụ đó”. “Vậy hôm qua thầy ở đâu?”. “Thưa quý ngài, (con) chưa thọ Cụ túc giới, nhưng hôm nay (con) đã thọ Cụ túc giới rồi”. Vị học trò Luật ấy (nên bị khiển trách): “Này đạo hữu, đây là học giới mà Đức Thế Tôn đã chế định cho những người như thầy: ‘Người mới thọ Cụ túc giới trong ngày đó mà lật lại (vụ án), phạm tội Ưng đối trị về việc lật lại’. Hãy đi sám hối tội lỗi đi”. Đối với vị khách Tăng cũng theo cách thức này.

Kārakoti ekaṃ saṅghena saddhiṃ adhikaraṇaṃ vinicchinitvā pariveṇagataṃ parājitā bhikkhū vadanti ‘‘kissa, bhante, tumhehi evaṃ vinicchitaṃ adhikaraṇaṃ, nanu evaṃ vinicchinitabba’’nti. So ‘‘kasmā paṭhamaṃyeva evaṃ na vaditthā’’ti taṃ adhikaraṇaṃ ukkoṭeti. Evaṃ yo kārako ukkoṭeti, tassāpi ukkoṭanakaṃ pācittiyaṃ. Chandadāyakoti eko adhikaraṇavinicchaye chandaṃ datvā sabhāge bhikkhū parājayaṃ patvā āgate maṅkubhūte disvā ‘‘sve dāni ahaṃ vinicchinissāmī’’ti saṅghaṃ sannipātetvā ‘‘kasmā sannipātesī’’ti vutte ‘‘hiyyo adhikaraṇaṃ dubbinicchitaṃ, tamahaṃ ajja vinicchinissāmī’’ti. ‘‘Hiyyo pana tvaṃ kattha gato’’ti. ‘‘Chandaṃ datvā nisinnomhī’’ti. So vattabbo ‘‘idaṃ āvuso tumhādisānaṃ bhagavatā sikkhāpadaṃ paññattaṃ, ‘chandadāyako ukkoṭeti, ukkoṭanakaṃ pācittiya’nti, gaccha āpattiṃ desehī’’ti.
Người thực hiện (Tăng sự) có nghĩa là: sau khi đã xét xử một vụ tranh tụng cùng với Tăng chúng, các Tỳ-kheo bị thua kiện, khi về đến khu tịnh xá riêng, nói rằng: “Thưa quý ngài, tại sao quý ngài lại xét xử vụ tranh tụng như vậy? Chẳng phải nên xét xử như thế này sao?”. Vị ấy (người thực hiện Tăng sự) nói “Tại sao ngay từ đầu quý vị không nói như vậy?”, rồi lật lại vụ tranh tụng ấy. Người thực hiện Tăng sự nào lật lại như vậy, vị ấy cũng phạm tội Ưng đối trị về việc lật lại. Người cho sự đồng thuận có nghĩa là: một vị đã cho sự đồng thuận trong việc xét xử vụ tranh tụng, thấy các Tỳ-kheo đồng bạn bị thua kiện trở về, đang bối rối, (nghĩ rằng) “Vậy thì ngày mai ta sẽ xét xử lại”, rồi tụ họp Tăng chúng. Khi được hỏi “Tại sao lại tụ họp?”, (trả lời) “Vụ tranh tụng hôm qua đã bị xét xử sai, hôm nay tôi sẽ xét xử lại vụ đó”. “Vậy hôm qua thầy ở đâu?”. “(Tôi) đã cho sự đồng thuận rồi ngồi yên”. Vị học trò Luật ấy (nên bị khiển trách): “Này đạo hữu, đây là học giới mà Đức Thế Tôn đã chế định cho những người như thầy: ‘Người cho sự đồng thuận mà lật lại (vụ án), phạm tội Ưng đối trị về việc lật lại’. Hãy đi sám hối tội lỗi đi”.

Adhikaraṇanidānādivaṇṇanā

Giải thích về nhân duyên của các vụ tranh tụng v.v…

342.Vivādādhikaraṇaṃ kiṃnidānantiādīsu kiṃ nidānamassāti kiṃnidānaṃ. Ko samudayo assāti kiṃsamudayaṃ. Kā jāti assāti kiṃjātikaṃ. Ko pabhavo assāti kiṃpabhavaṃ. Ko sambhāro assāti kiṃsambhāraṃ. Kiṃ samuṭṭhānaṃ assāti kiṃsamuṭṭhānaṃ. Sabbānetāni kāraṇavevacanāniyeva.
342. Trong (các câu hỏi) bắt đầu bằng “Vụ tranh tụng do tranh cãi có nhân duyên gì?” v.v…, cái gì là nhân duyên của nó? (Đó là) có nhân duyên gì. Cái gì là sự phát sanh của nó? (Đó là) có sự phát sanh gì. Cái gì là sự sanh khởi của nó? (Đó là) có sự sanh khởi gì. Cái gì là nguồn gốc của nó? (Đó là) có nguồn gốc gì. Cái gì là sự cấu thành của nó? (Đó là) có sự cấu thành gì. Cái gì là nguồn phát sanh của nó? (Đó là) có nguồn phát sanh gì. Tất cả những từ này chỉ là đồng nghĩa với từ ‘nguyên nhân’.

Vivādanidānantiādīsupi aṭṭhārasabhedakaravatthusaṅkhāto vivādo nidānametassāti vivādanidānaṃ. Vivādaṃ nissāya uppajjanakavivādavasenetaṃ vuttaṃ. Anuvādo nidānaṃ assāti anuvādanidānaṃ. Idampi anuvādaṃ nissāya uppajjanakaanuvādavasena vuttaṃ. Āpatti nidānaṃ assāti āpattinidānaṃ. Āpattādhikaraṇapaccayā catasso āpattiyo āpajjatīti evaṃ āpattiṃ nissāya uppajjanakaāpattivasenetaṃ vuttaṃ. Kiccayaṃ nidānamassāti kiccayanidānaṃ; catubbidhaṃ saṅghakammaṃ kāraṇamassāti attho. Ukkhittānuvattikāya bhikkhuniyā yāvatatiyaṃ samanubhāsanādīnaṃ kiccaṃ nissāya uppajjanakakiccānaṃ vasenetaṃ vuttaṃ. Ayaṃ catunnampi adhikaraṇānaṃ vissajjanapakkhe ekapadayojanā. Etenānusārena sabbapadāni yojetabbāni.
Cũng trong (các thuật ngữ) bắt đầu bằng “có nhân duyên là sự tranh cãi” v.v…, sự tranh cãi, được gọi là 18 cơ sở gây chia rẽ, là nhân duyên của vụ này, nên (gọi là) có nhân duyên là sự tranh cãi. Điều này được nói theo nghĩa vụ tranh cãi phát sanh dựa vào sự tranh cãi. Sự khiển trách là nhân duyên của nó, nên (gọi là) có nhân duyên là sự khiển trách. Điều này cũng được nói theo nghĩa vụ khiển trách phát sanh dựa vào sự khiển trách. Tội là nhân duyên của nó, nên (gọi là) có nhân duyên là tội. (Như trong trường hợp nói rằng) “Do duyên vụ tranh tụng về tội mà phạm bốn loại tội”, điều này được nói theo nghĩa tội lỗi phát sanh dựa vào tội lỗi. Phận sự là nhân duyên của nó, nên (gọi là) có nhân duyên là phận sự; nghĩa là bốn loại Tăng sự là nguyên nhân của nó. Điều này được nói theo nghĩa các phận sự phát sanh dựa vào phận sự (như) việc khiển trách đến lần thứ ba v.v… đối với Tỳ-kheo-ni a tòng theo Tỳ-kheo bị cử tội. Đây là cách kết hợp từng từ trong phần giải đáp cho cả bốn vụ tranh tụng. Theo cách này, tất cả các từ cần được kết hợp.

Dutiyapucchāya hetunidānantiādimhi vissajjane navannaṃ kusalākusalābyākatahetūnaṃ vasena hetunidānāditā veditabbā. Tatiyapucchāya vissajjane byañjanamattaṃ nānaṃ. Hetuyeva hi ettha paccayoti vutto.
Trong câu hỏi thứ hai, trong phần giải đáp bắt đầu bằng “có nhân duyên là nhân” v.v…, cần hiểu ý nghĩa “có nhân duyên là nhân” v.v… dựa theo chín loại nhân thiện, bất thiện, và vô ký. Trong phần giải đáp câu hỏi thứ ba, chỉ có văn tự là khác nhau. Vì ở đây, chính nhân được gọi là duyên.

343. Mūlapucchāya vissajjane dvādasa mūlānīti kodhaupanāhayugaḷakādīni cha vivādāmūlāni, lobhadosamohā tayo, alobhādosāmohā tayoti imāni ajjhattasantānappavattāni dvādasa mūlāni. Cuddasa mūlānīti tāneva dvādasa kāyavācāhi saddhiṃ cuddasa honti. Cha mūlānīti kāyādīni cha samuṭṭhānāni.
343. Trong phần giải đáp câu hỏi về căn nguyên, mười hai căn nguyên có nghĩa là: sáu căn nguyên tranh cãi bắt đầu bằng cặp phẫn nộ và phẫn uất v.v…, ba (nhân) tham, sân, si và ba (nhân) vô tham, vô sân, vô si – đây là mười hai căn nguyên diễn tiến trong nội tâm. Mười bốn căn nguyên có nghĩa là: chính mười hai (căn nguyên) ấy cùng với thân và lời thành mười bốn. Sáu căn nguyên có nghĩa là: sáu nguồn phát sanh là thân, lời, thân-lời, thân-tâm, lời-tâm, thân-lời-tâm.

Samuṭṭhānapucchāya vissajjane aṭṭhārasa bhedakaravatthūni samuṭṭhānāni, tañhi etesu aṭṭhārasasu bhedakaravatthūsu samuṭṭhāti, etehi vā kāraṇabhūtehi samuṭṭhāti. Tenassetāni samuṭṭhānāni vuccanti. Esa nayo sabbattha.
Trong phần giải đáp câu hỏi về nguồn phát sanh, mười tám cơ sở gây chia rẽ là nguồn phát sanh, vì vụ tranh tụng ấy phát sanh trong mười tám cơ sở gây chia rẽ này, hoặc phát sanh do những điều này là nguyên nhân. Do đó, những điều này được gọi là nguồn phát sanh. Cách thức này (áp dụng) cho tất cả mọi nơi.

344.Vivādādhikaraṇaṃ āpattītiādibhede ekena adhikaraṇena kiccādhikaraṇenāti idaṃ yena adhikaraṇena sammanti, taṃ dassetuṃ vuttaṃ, na panetāni ekaṃsato kiccādhikaraṇeneva sammanti. Na hi puggalassa santike desentassa kiccādhikaraṇaṃ nāma atthi.
344. Trong các phân loại bắt đầu bằng “Vụ tranh tụng do tranh cãi (và) tội” v.v…, (câu) “Bằng một vụ tranh tụng là vụ tranh tụng về phận sự” này được nói để chỉ rõ vụ tranh tụng nào làm lắng dịu (vụ khác), nhưng những (vụ tranh tụng) này không hoàn toàn chỉ lắng dịu bằng vụ tranh tụng về phận sự. Vì rằng, đối với người sám hối nơi cá nhân thì không có cái gọi là vụ tranh tụng về phận sự.

Na katamena samathenāti sāvasesāpatti viya na sammati. Na hi sakkā sā desetuṃ, na tato vuṭṭhāya suddhante patiṭṭhātuṃ.
Không (lắng dịu) bằng cách dàn xếp nào? có nghĩa là: (tội Ba-la-di) không lắng dịu như tội có dư sót. Vì rằng, không thể sám hối tội ấy, không thể ra khỏi tội ấy để đứng vững trong giới hạn thanh tịnh.

348.Vivādādhikaraṇaṃ hoti anuvādādhikaraṇantiādi nayo uttānoyeva.
348. Cách thức bắt đầu bằng “Vụ tranh tụng do tranh cãi là vụ tranh tụng do khiển trách” v.v… có nghĩa rõ ràng.

349. Tato paraṃ yattha sativinayotiādikā sammukhāvinayaṃ amuñcitvā cha yamakapucchā vuttā, tāsaṃ vissajjaneneva attho pakāsito.
349. Sau đó, sáu câu hỏi song đối bắt đầu bằng “Nơi nào có pháp giải tội nhờ phục hồi trí nhớ” v.v…, không rời bỏ pháp giải quyết tại mặt Tăng, đã được nói đến; nghĩa của chúng được làm sáng tỏ chỉ bằng phần giải đáp.

351. Saṃsaṭṭhādipucchānaṃ vissajjane saṃsaṭṭhāti sativinayakammavācākkhaṇasmiṃyeva dvinnampi samathānaṃ siddhattā sammukhāvinayoti vā sativinayoti vā ime dhammā saṃsaṭṭhā, no visaṃsaṭṭhā. Yasmā pana kadalikkhandhe pattavaṭṭīnaṃ viya na sakkā tesaṃ vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ dassetuṃ, tena vuttaṃ ‘‘na ca labbhā imesaṃ dhammānaṃ vinibbhujitvā vinibbhujitvā nānākaraṇaṃ paññāpetu’’nti. Esa nayo sabbattha.
351. Trong phần giải đáp các câu hỏi bắt đầu bằng “Pha trộn”, pha trộn có nghĩa là: vì sự thành tựu của cả hai cách dàn xếp (là pháp giải quyết tại mặt Tăng và pháp giải tội nhờ phục hồi trí nhớ) ngay trong khoảnh khắc tuyên ngôn nghiệp sự của pháp giải tội nhờ phục hồi trí nhớ, nên các pháp này là pháp giải quyết tại mặt Tăng hay pháp giải tội nhờ phục hồi trí nhớ được (gọi là) pha trộn, không phải không pha trộn. Nhưng vì không thể tách rời và chỉ ra sự khác biệt của chúng giống như các lớp vỏ của thân cây chuối, do đó, đã được nói rằng “Và không thể nào tách rời, tách rời các pháp này để quy định sự khác biệt”. Cách thức này (áp dụng) cho tất cả mọi nơi.

Sattasamathanidānavaṇṇanā

Giải thích về nhân duyên của bảy cách dàn xếp

352.Kiṃnidānoti pucchāvissajjane nidānaṃ nidānamassāti nidānanidāno. Tattha saṅghasammukhatā, dhammasammukhatā, vinayasammukhatā, puggalasammukhatāti idaṃ sammukhāvinayassa nidānaṃ. Sativepullapatto khīṇāsavo laddhupavādo sativinayassa nidānaṃ. Ummattako bhikkhu amūḷhavinayassa nidānaṃ. Yo ca deseti, yassa ca deseti, ubhinnaṃ sammukhībhāvo paṭiññātakaraṇassa nidānaṃ. Bhaṇḍanajātānaṃ adhikaraṇaṃ vūpasametuṃ asakkuṇeyyatā yebhuyyasikāya nidānaṃ. Pāpussanno puggalo tassapāpiyasikāya nidānaṃ. Bhaṇḍanajātānaṃ bahu assāmaṇakaajjhācāro tiṇavatthārakassa nidānaṃ. Hetupaccayavārā vuttanayā eva.
352. Trong phần giải đáp câu hỏi “Có nhân duyên gì?“, nhân duyên là nhân duyên của nó, nên (gọi là) có nhân duyên là nhân duyên. Trong đó, sự hiện diện của Tăng chúng, sự hiện diện của Pháp, sự hiện diện của Luật, sự hiện diện của cá nhân – đây là nhân duyên của pháp giải quyết tại mặt Tăng. Bậc Lậu tận đã đạt đến sự phục hồi trí nhớ, đã nhận được lời yêu cầu, là nhân duyên của pháp giải tội nhờ phục hồi trí nhớ. Tỳ-kheo bị điên là nhân duyên của pháp giải tội nhờ không còn mê mờ. Người sám hối và người nhận sám hối, sự hiện diện của cả hai là nhân duyên của pháp hành sự theo sự thú nhận. Việc không thể dàn xếp vụ tranh tụng của những người gây gổ là nhân duyên của pháp y đa số quyết. Người có nhiều tội lỗi là nhân duyên của pháp xử phạt kẻ ngoan cố. Nhiều hành vi sai trái không xứng đáng Sa-môn của những người gây gổ là nhân duyên của pháp lấy cỏ che đậy. Các phần về nhân và duyên cũng theo cách thức đã nói.

353. Mūlapucchāya vissajjanaṃ uttānameva. Samuṭṭhānapucchāya kiñcāpi ‘‘sattannaṃ samathānaṃ katame chattiṃsa samuṭṭhānā’’ti vuttaṃ, sammukhāvinayassa pana kammasaṅgahābhāvena samuṭṭhānābhāvato channaṃyeva samathānaṃ cha samuṭṭhānāni vibhattāni. Tattha kammassa kiriyāti ñatti veditabbā. Karaṇanti tassāyeva ñattiyā ṭhapetabbakāle ṭhapanaṃ. Upagamananti sayaṃ upagamanaṃ; attanāyeva tassa kammassa karaṇanti attho. Ajjhupagamananti ajjhesanupagamanaṃ; aññaṃ saddhivihārikādikaṃ ‘‘idaṃ kammaṃ karohī’’ti ajjhesananti attho. Adhivāsanāti ‘‘ruccati me etaṃ, karotu saṅgho’’ti evaṃ adhivāsanā; chandadānanti attho. Appaṭikkosanāti ‘‘na metaṃ khamati, mā evaṃ karothā’’ti appaṭisedhanā. Iti channaṃ chakkānaṃ vasena chattiṃsa samuṭṭhānā veditabbā.
353. Phần giải đáp câu hỏi về căn nguyên có nghĩa rõ ràng. Trong câu hỏi về nguồn phát sanh, mặc dù đã được nói “Ba mươi sáu nguồn phát sanh của bảy cách dàn xếp là những gì?”, nhưng vì pháp giải quyết tại mặt Tăng không bao gồm nghiệp sự nên không có nguồn phát sanh, sáu nguồn phát sanh chỉ được phân chia cho sáu cách dàn xếp còn lại. Trong đó, việc thực hiện nghiệp sự có nghĩa là cần hiểu là lời tuyên ngôn. Sự thực hiện có nghĩa là sự thiết lập lời tuyên ngôn ấy vào thời điểm cần thiết lập. Sự tự đến gần có nghĩa là tự mình đến gần; nghĩa là tự mình thực hiện nghiệp sự ấy. Sự yêu cầu đến gần có nghĩa là sự yêu cầu và đến gần; nghĩa là yêu cầu vị đồng trú v.v… khác rằng “Hãy thực hiện nghiệp sự này”. Sự chấp thuận có nghĩa là sự chấp thuận như vầy “Việc này tôi hài lòng, mong Tăng chúng hãy thực hiện”; nghĩa là sự cho phép đồng thuận. Sự không phản đối có nghĩa là sự không ngăn cản (bằng cách nói) “Việc này tôi không chấp nhận, quý vị đừng làm như vậy”. Như vậy, cần hiểu ba mươi sáu nguồn phát sanh dựa theo sáu nhóm sáu (của sáu cách dàn xếp).

Sattasamathanānātthādivaṇṇanā

Giải thích về sự khác biệt ý nghĩa của bảy cách dàn xếp v.v…

354. Nānātthapucchāvissajjanaṃ uttānameva. Adhikaraṇapucchāvissajjane ayaṃ vivādo no adhikaraṇanti ayaṃ mātāputtādīnaṃ vivādo viruddhavādattā vivādo nāma hoti, samathehi pana adhikaraṇīyatāya abhāvato adhikaraṇaṃ na hoti. Anuvādādīsupi eseva nayo. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
354. Phần giải đáp câu hỏi về sự khác biệt ý nghĩa có nghĩa rõ ràng. Trong phần giải đáp câu hỏi về vụ tranh tụng, (câu) “Sự tranh cãi này không phải là vụ tranh tụng” (có nghĩa là): sự tranh cãi này của mẹ và con trai v.v…, do là lời nói trái ngược nhau nên được gọi là sự tranh cãi, nhưng vì không có tính chất cần được giải quyết bằng các cách dàn xếp nên không phải là vụ tranh tụng. Đối với sự khiển trách v.v… cũng theo cách thức này. Phần còn lại ở mọi nơi đều có nghĩa rõ ràng.

Adhikaraṇabhedavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải thích về phân loại các vụ tranh tụng chấm dứt.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang