Phụ chú giải Tạng Luật

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi I – Phẩm Verañjā

Verañjakaṇḍavaṇṇanā
Chú giải phẩm Verañja

1.Seyyathidanti taṃ katamaṃ, taṃ kathanti vā attho. Aniyamaniddesavacananti natthi etassa niyamoti aniyamo, niddisīyati attho etenāti niddeso, vuccati etenāti vacanaṃ, niddesoyeva vacanaṃ niddesavacanaṃ, aniyamassa niddesavacanaṃ aniyamaniddesavacanaṃ, paṭhamaṃ aniyamitassa samayassa niddesavacananti attho. ‘‘Yenāti avatvā tenāti vuttattā aniyamaṃ katvā niddiṭṭhavacanaṃ aniyamaniddesavacana’’ntipi vadanti. Yaṃtaṃsaddānaṃ niccasambandhabhāvato āha ‘‘tassa sarūpena avuttenapī’’tiādi. Tattha tassāti ‘‘tenā’’ti etassa. Sarūpena avuttenapīti ‘‘yenā’’ti evaṃ sarūpato pāḷiyaṃ avuttenapi. Atthato siddhenāti parabhāge sāriputtattherassa uppajjanakaparivitakkasaṅkhātaatthato siddhena. Parivitakke hi siddhe yena samayena parivitakko udapādīti idaṃ atthato siddhameva hoti. Tenevāha ‘‘aparabhāge hi vinayapaññattiyācanahetubhūto āyasmato sāriputtassa parivitakko siddho’’tiādi. ‘‘Tenā’’ti vatvā tato tadatthameva ‘‘yenā’’ti atthato vuccamānattā ‘‘yenā’’ti ayaṃ ‘‘tenā’’ti etassa paṭiniddeso nāma jāto. Paṭiniddesoti ca vitthāraniddesoti attho.
1.Như vầy có nghĩa là, điều ấy là thế nào, hoặc điều ấy như thế nào. Lời chỉ định không xác định có nghĩa là: ‘natthi etassa niyamoti aniyamo’ (điều này không có sự xác định) là ‘aniyamo’ (không xác định); ‘niddisīyati attho etena’ (ý nghĩa được chỉ ra bởi từ này) là ‘niddeso’ (sự chỉ định); ‘vuccati etena’ (được nói ra bởi từ này) là ‘vacanaṃ’ (lời nói); ‘niddeso eva vacanaṃ’ (sự chỉ định chính là lời nói) là ‘niddesavacanaṃ’ (lời chỉ định); ‘aniyamassa niddesavacanaṃ’ (lời chỉ định về điều không xác định) là ‘aniyamaniddesavacanaṃ.’ Có nghĩa là, trước hết đây là lời chỉ định về một thời điểm không xác định. Người ta cũng nói rằng: “Do đã nói là ‘bởi thời điểm ấy’ mà không nói là ‘bởi thời điểm nào,’ nên lời được nêu ra bằng cách không xác định được gọi là ‘lời chỉ định không xác định.’” Do đại từ ‘yaṃ’ (nào) và ‘taṃ’ (ấy) luôn có sự liên quan với nhau, nên (chú giải) đã nói: “Dù cho hình thức của từ ấy không được nói đến” v.v… Ở đây, của từ ấy chính là của từ ‘bởi thời điểm ấy.’ Dù cho hình thức không được nói đến có nghĩa là dù cho hình thức như là ‘bởi thời điểm nào’ không được nói đến trong văn bản Pāḷi. Đã thành tựu về mặt ý nghĩa có nghĩa là đã thành tựu về mặt ý nghĩa được xem là sự suy tư khởi lên nơi trưởng lão Sāriputta ở phần sau. Thật vậy, khi sự suy tư đã thành tựu thì câu ‘bởi thời điểm nào sự suy tư đã khởi lên’ này đương nhiên thành tựu về mặt ý nghĩa. Chính vì thế, (chú giải) đã nói: “Bởi vì ở phần sau, sự suy tư của tôn giả Sāriputta, vốn là nhân cho việc thỉnh cầu chế định Giới Luật, đã được thành tựu” v.v… Do sau khi nói ‘bởi thời điểm ấy,’ chính vì ý nghĩa đó mà ‘bởi thời điểm nào’ được nói đến về mặt ý nghĩa, nên từ ‘bởi thời điểm nào’ này đã trở thành sự giải thích đối ứng cho từ ‘bởi thời điểm ấy’ kia. Và sự giải thích đối ứng có nghĩa là sự chỉ định chi tiết.

Aparabhāge hīti ettha hi-saddo hetumhi, yasmāti attho. Vinayapaññattiyācanahetubhūtoti ‘‘etassa bhagavā kālo, etassa sugata kālo, yaṃ bhagavā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeyya, uddiseyya pātimokkhaṃ. Yathayidaṃ brahmacariyaṃ addhaniyaṃ assa ciraṭṭhitika’’nti evaṃ pavattassa vinayapaññattiyācanassa kāraṇabhūtoti attho. Parivitakkoti ‘‘katamesānaṃ kho buddhānaṃ bhagavantānaṃ brahmacariyaṃ na ciraṭṭhitikaṃ ahosi, katamesānaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ brahmacariyaṃ ciraṭṭhitikaṃ ahosī’’ti evaṃ pavatto parivitakko. Yaṃtaṃsaddānaṃ niccasambandhoti āha ‘‘tasmā yena samayenā’’tiādi. Pubbe vā pacchā vā atthato siddhenāti pubbe vā pacchā vā uppannaatthato siddhena. Paṭiniddeso kattabboti etassa ‘‘yadida’’nti iminā sambandho. ‘‘Paṭiniddeso kattabbo’’ti yadidaṃ yaṃ idaṃ vidhānaṃ, ayaṃ sabbasmiṃ vinaye yuttīti attho. Atha vā ‘‘paṭiniddeso kattabbo’’ti yadidaṃ yā ayaṃ yutti, ayaṃ sabbasmiṃ vinaye yuttīti attho.
Bởi vì ở phần sau, ở đây từ hi (bởi vì) mang ý nghĩa nguyên nhân, có nghĩa là ‘bởi vì.’ Vốn là nhân cho việc thỉnh cầu chế định Giới Luật có nghĩa là: là nhân cho sự thỉnh cầu chế định Giới Luật đã diễn ra như vầy: “Bạch Thế Tôn, đây là thời điểm. Bạch Thiện Thệ, đây là thời điểm mà Thế Tôn nên chế định học giới cho các vị đệ tử, nên tuyên đọc Giới Bổn. Để phạm hạnh này được trường tồn, được tồn tại lâu dài.” Sự suy tư là sự suy tư đã diễn ra như vầy: “Phạm hạnh của những vị Phật, những bậc Thế Tôn nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh của những vị Phật, những bậc Thế Tôn nào đã tồn tại lâu dài?” Do đại từ ‘yaṃ’ và ‘taṃ’ luôn có sự liên quan, nên (chú giải) đã nói: “Vì thế, bởi thời điểm nào” v.v… Đã thành tựu về mặt ý nghĩa, hoặc trước hoặc sau có nghĩa là đã thành tựu về mặt ý nghĩa đã khởi lên, hoặc trước hoặc sau. Cần phải có sự giải thích đối ứng câu này có liên quan với từ ‘yadidaṃ.’ “Cần phải có sự giải thích đối ứng,” phương cách này là điều hợp lý trong toàn bộ tạng Luật, đó là ý nghĩa. Hoặc là, “cần phải có sự giải thích đối ứng,” lý lẽ này là điều hợp lý trong toàn bộ tạng Luật, đó là ý nghĩa.

Tatridaṃmukhamattanidassananti tassā yathāvuttayuttiyā paridīpane idaṃ mukhamattanidassanaṃ, upāyamattanidassananti attho. Mukhaṃ dvāraṃ upāyoti hi atthato ekaṃ. ‘‘Tena hi bhikkhave bhikkhūnaṃ sikkhāpadaṃ paññapessāmī’’ti pāḷiṃ dassetvā tattha paṭiniddesamāha ‘‘yena sudinno’’tiādinā. Tenāti hetuatthe karaṇavacanattā tassa paṭiniddesopi tādisoyevāti āha ‘‘yasmā paṭisevī’’ti. Pubbe atthato siddhenāti pubbe uppannamethunadhammapaṭisevanasaṅkhātaatthato siddhena. Pacchā atthato siddhenāti raññā adinnaṃ dārūnaṃ ādiyanasaṅkhātapacchāuppannaatthato siddhena. Samayasaddoti etassa ‘‘dissatī’’ti iminā sambandho.
Sự chỉ dẫn sơ khởi này có nghĩa là, trong việc làm sáng tỏ lý lẽ đã được nói đến, đây là sự chỉ dẫn sơ khởi, có nghĩa là sự chỉ dẫn về phương pháp. Bởi vì ‘khởi đầu,’ ‘ngõ vào,’ và ‘phương pháp’ về mặt ý nghĩa là một. Sau khi chỉ ra câu Pāḷi “Này các Tỳ-khưu, vậy thì Ta sẽ chế định học giới cho các Tỳ-khưu,” (chú giải) đã nói lên sự giải thích đối ứng ở đó bằng câu “Bởi vì Sudinna” v.v… Bởi vì từ ‘tena’ (bởi vì) là một công cụ cách trong ý nghĩa nguyên nhân, nên sự giải thích đối ứng của nó cũng tương tự như vậy. Vì thế, (chú giải) đã nói: “bởi vì đã thực hành.” Đã thành tựu về mặt ý nghĩa ở trước có nghĩa là đã thành tựu về mặt ý nghĩa được xem là sự thực hành pháp hành dâm đã khởi lên ở trước. Đã thành tựu về mặt ý nghĩa ở sau có nghĩa là đã thành tựu về mặt ý nghĩa đã khởi lên ở sau được xem là việc lấy các cây gỗ không được nhà vua cho. Từ thời này có liên quan với từ ‘dissati’ (được thấy).

Samavāyeti paccayasāmaggiyaṃ, kāraṇasamavāyeti attho. Khaṇeti okāse. Assāti assa samayasaddassa samavāyo atthoti sambandho. Appeva nāma svepi upasaṅkameyyāma kālañca samayañca upādāyāti ettha kālo nāma upasaṅkamanassa yuttapayuttakālo. Samayo nāma tasseva paccayasāmaggī, atthato tadanurūpaṃ sarīrabalañceva tappaccayaparissayābhāvo ca. Upādānaṃ nāma ñāṇena tesaṃ gahaṇaṃ sallakkhaṇaṃ, tasmā kālañca samayañca paññāya gahetvā upadhāretvāti attho. Idaṃ vuttaṃ hoti – sace amhākaṃ sve gamanassa yuttakālo bhavissati, kāye balamattā ceva pharissati, gamanapaccayā ca añño aphāsuvihāro na bhavissati, athetaṃ kālañca gamanakāraṇasamavāyasaṅkhātaṃ samayañca upadhāretvā api eva nāma sve āgaccheyyāmāti.
Trong sự hội đủ có nghĩa là trong sự hội đủ các điều kiện, nghĩa là sự hội đủ các nguyên nhân. Trong khoảnh khắc có nghĩa là trong cơ hội. Của nó, có sự liên quan là: ‘sự hội đủ của từ thời này có hiện hữu.’ Trong câu ‘Biết đâu ngày mai chúng ta cũng có thể đến, sau khi xem xét thời gian và thời điểm,’ ở đây thời gian là thời gian thích hợp và phù hợp cho việc đi đến. Thời điểm là sự hội đủ các điều kiện của chính việc ấy, về mặt ý nghĩa chính là sức khỏe của thân thể tương ứng với việc ấy và sự vắng mặt của các trở ngại do duyên ấy. Sự xem xét là sự nắm bắt, sự ghi nhận các điều ấy bằng trí tuệ; do đó, có nghĩa là sau khi nhận thức, sau khi cân nhắc thời gian và thời điểm. Điều này được nói đến là: Nếu ngày mai là thời gian thích hợp cho chúng ta đi, và nếu trong thân có đủ sức khỏe, và không có sự khó ở nào khác là duyên cho việc đi, thì khi ấy, sau khi cân nhắc thời gian và thời điểm được xem là sự hội đủ các nguyên nhân cho việc đi, biết đâu ngày mai chúng ta sẽ đến.

Khaṇoti okāso. Tathāgatuppādādiko hi maggabrahmacariyassa okāso tappaccayapaṭilābhahetuttā, khaṇo eva ca samayo. Yo khaṇoti ca samayoti ca vuccati, so ekovāti hi attho. Mahāsamayoti mahāsamūho. Pavuddhaṃ vanaṃ pavanaṃ, tasmiṃ pavanasmiṃ, vanasaṇḍeti attho. Samayopi kho te bhaddāli appaṭividdho ahosīti ettha samayoti sikkhāpadapūraṇassa hetu. Bhaddālīti tassa bhikkhuno nāmaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – bhaddāli tayā paṭivijjhitabbayuttakaṃ etaṃ kāraṇaṃ atthi, tampi te na paṭividdhaṃ na sallakkhitanti. Kiṃ taṃ kāraṇanti āha ‘‘bhagavā kho’’tiādi.
Khoảnh khắc có nghĩa là cơ hội. Thật vậy, sự xuất hiện của Như Lai v.v… là cơ hội cho phạm hạnh trong đạo, vì là nhân cho sự chứng đắc các duyên của phạm hạnh ấy. Và khoảnh khắc chính là thời điểm. Bởi vì, cái được gọi là khoảnh khắc và cái được gọi là thời điểm, cái ấy chỉ là một, đó là ý nghĩa. Đại hội là sự hội họp lớn. Khu rừng lớn là đại lâm, trong khu đại lâm ấy, có nghĩa là trong khu rừng rậm. Trong câu ‘Này Bhaddāli, thời cơ cũng đã không được ông thấu triệt,’ ở đây thời cơ là nhân cho sự hoàn thành học giới. Bhaddāli là tên của vị Tỳ-khưu ấy. Điều này được nói đến là: Này Bhaddāli, có nguyên nhân này mà ông đáng lẽ phải thấu triệt, nhưng điều ấy cũng đã không được ông thấu triệt, không được ghi nhận. Nguyên nhân ấy là gì? (Chú giải) nói: “Thật vậy, Thế Tôn” v.v…

Uggāhamāno tiādīsu mānoti tassa paribbājakassa pakatināmaṃ, kiñci kiñci pana uggahetuṃ samatthatāya ‘‘uggāhamāno’’ti naṃ sañjānanti, tasmā ‘‘uggāhamāno’’ti vuccati . Samaṇamuṇḍikāya putto samaṇamuṇḍikāputto. So kira devadattassa upaṭṭhāko. Samayaṃ diṭṭhiṃ pavadanti etthāti samayappavādako, tasmiṃ samayappavādake, diṭṭhippavādaketi attho. Tasmiṃ kira ṭhāne caṅkītārukkhapokkharasātipabhutayo brāhmaṇā nigaṇṭhācelakaparibbājakādayo ca paribbājakā sannipatitvā attano attano samayaṃ diṭṭhiṃ pavadanti kathenti dīpenti, tasmā so ārāmo ‘‘samayappavādako’’ti vuccati, sveva tindukācīrasaṅkhātāya timbarurukkhapantiyā parikkhittattā ‘‘tindukācīra’’nti vuccati. Ekā sālā etthāti ekasālako. Yasmā panettha paṭhamaṃ ekā sālā katā ahosi, pacchā mahāpuññaṃ poṭṭhapādaparibbājakaṃ nissāya bahū sālā katā, tasmā tameva ekaṃ sālamupādāya laddhanāmavasena ‘‘ekasālako’’ti vuccati. Mallikāya pana pasenadirañño deviyā uyyānabhūto so pupphaphalasañchanno ārāmoti katvā ‘‘mallikāya ārāmo’’ti saṅkhyaṃ gato. Tasmiṃ samayappavādake tindukācīre ekasālake mallikāya ārāme. Paṭivasatīti tasmiṃ vāsaphāsutāya vasati.
Trong câu Uggāhamāno v.v… Māno là tên thật của du sĩ ấy, tuy nhiên, do có khả năng học hỏi điều này điều kia, nên người ta nhận biết ông là ‘Uggāhamāno,’ do đó ông được gọi là ‘Uggāhamāno.’ Con trai của bà Samaṇamuṇḍikā là Samaṇamuṇḍikāputto. Nghe nói, vị ấy là thị giả của Devadatta. Nơi người ta tuyên thuyết về thời và tà kiến được gọi là nơi luận bàn, tại nơi luận bàn ấy, có nghĩa là nơi tuyên thuyết tà kiến. Nghe nói, tại nơi ấy các vị Bà-la-môn như Caṅkī, Tārukkha, Pokkharasāti v.v… và các du sĩ như Nigaṇṭha, Ācelaka v.v… tụ họp lại rồi tuyên thuyết, nói rõ, làm sáng tỏ về thời và tà kiến của mình, do đó khu vườn ấy được gọi là ‘nơi luận bàn.’ Chính nơi ấy, do được bao bọc bởi một hàng cây timbaru được gọi là tindukācīra, nên được gọi là ‘tindukācīra.’ Nơi có một ngôi giảng đường được gọi là ekasālako. Bởi vì ở đây, lúc đầu có một ngôi giảng đường được xây dựng, về sau nhờ du sĩ Poṭṭhapāda là người có phước lớn mà nhiều ngôi giảng đường được xây dựng, do đó, dựa vào chính ngôi giảng đường duy nhất ấy mà nó được gọi theo tên đã nhận được là ‘ekasālako.’ Hơn nữa, vì đó là công viên của hoàng hậu Mallikā của vua Pasenadi, một khu vườn được bao phủ bởi hoa và quả, nên đã được biết đến với tên gọi “vườn của bà Mallikā.” Tại nơi luận bàn, ở Tindukācīra, tại Ekasālaka, trong khu vườn của bà Mallikā. Cư ngụ có nghĩa là sống ở nơi ấy một cách thoải mái.

Diṭṭhe dhammeti paccakkhe attabhāve. Atthoti vuḍḍhi. Samparāyikoti kammakilesavasena samparetabbato sampāpuṇitabbato samparāyo, paraloko. Tattha niyutto samparāyiko, paralokattho. Atthābhisamayāti yathāvuttaubhayatthasaṅkhātahitapaṭilābhā. Samparāyikopi hi attho kāraṇassa nipphannattā paṭiladdho nāma hotīti tamatthadvayaṃ ekato katvā ‘‘atthābhisamayā’’ti vuttaṃ. Dhiyā paññāya rāti gaṇhātīti dhīro. Atha vā dhī paññā etassa atthīti dhīro.
Trong hiện tại có nghĩa là trong thân hiện hữu rõ ràng. Lợi ích có nghĩa là sự tăng trưởng. Thuộc về đời sau: Vì phải trải qua, phải đạt đến do nghiệp và phiền não, nên được gọi là đời sau. Thuộc về nơi đó là thuộc về đời sau, lợi ích ở đời sau. Sự chứng đắc lợi ích có nghĩa là sự chứng đắc hạnh phúc được xem là cả hai lợi ích đã được nói đến. Thật vậy, lợi ích ở đời sau, vì nhân của nó đã thành tựu, nên được gọi là đã chứng đắc. Vì vậy, sau khi hợp cả hai lợi ích ấy làm một, nên đã nói là ‘sự chứng đắc lợi ích.’ Người nắm giữ bằng trí, bằng tuệ là bậc trí. Hoặc người có trí, có tuệ là bậc trí.

Sammā mānābhisamayāti mānassa sammā pahānena. Sammāti iminā mānassa aggamaggañāṇena samucchedappahānaṃ vuttaṃ. Dukkhassa pīḷanaṭṭhotiādīsu dukkhasaccassa pīḷanaṃ taṃsamaṅgino hiṃsanaṃ avipphārikatākaraṇaṃ, pīḷanameva attho pīḷanaṭṭho, tthakārassa ṭṭhakāraṃ katvā vuttaṃ. Evaṃ sesesupi. Samecca paccayehi katabhāvo saṅkhataṭṭho. Santāpo dukkhadukkhatādivasena santāpanaṃ paridahanaṃ. Vipariṇāmo jarāya maraṇena cāti dvidhā vipariṇāmetabbatā. Abhisametabbo paṭivijjhitabboti abhisamayo, abhisamayova attho abhisamayaṭṭho, pīḷanādīni. Tāni hi abhisametabbabhāvena ekībhāvaṃ upanetvā ‘‘abhisamayaṭṭho’’ti vuttāni, abhisamayassa vā paṭivedhassa visayabhūto attho abhisamayaṭṭhoti tāneva pīḷanādīni abhisamayassa visayabhāvūpagamanasāmaññato ekattena vuttāni.
Do sự chứng ngộ đúng đắn về ngã mạn có nghĩa là do sự đoạn trừ đúng đắn ngã mạn. Bởi từ ‘đúng đắn’ này, sự đoạn trừ bằng cách cắt đứt ngã mạn bởi tuệ của Thánh đạo cao nhất được nói đến. Trong câu ‘ý nghĩa bức bách của khổ’ v.v…, sự bức bách của khổ đế là sự hãm hại, sự làm cho không rời đi được đối với người có cùng trạng thái ấy; sự bức bách chính là ý nghĩa, là ý nghĩa bức bách; được nói đến sau khi đổi phụ âm ‘ttha’ thành phụ âm ‘ṭṭha.’ Cũng tương tự như vậy trong những trường hợp còn lại. Trạng thái được tạo tác bởi các duyên hội đủ là ý nghĩa hữu vi. Sự thiêu đốt là sự làm cho nóng nảy, sự thiêu đốt theo cách khổ vì đau khổ v.v… Sự biến hoại là trạng thái phải bị biến hoại theo hai cách: bởi già và bởi chết. Điều cần được chứng ngộ, cần được thấu triệt là sự chứng ngộ; sự chứng ngộ chính là ý nghĩa, là ý nghĩa của sự chứng ngộ, tức là các pháp bức bách v.v… Thật vậy, do được hợp lại làm một bởi trạng thái cần được chứng ngộ nên chúng được gọi là ‘ý nghĩa của sự chứng ngộ;’ hoặc là ý nghĩa vốn là đối tượng của sự chứng ngộ, của sự thấu triệt, là ý nghĩa của sự chứng ngộ. Chính những pháp bức bách v.v… ấy, do tính chất chung là trở thành đối tượng của sự chứng ngộ, nên đã được nói đến như là một.

Ettha ca upasaggānaṃ jotakamattattā tassa tassa atthassa vācako samayasaddo evāti samayasaddassa atthuddhārepi saupasaggo abhisamayasaddo vutto. Tattha sahakārīkāraṇasannijjhaṃ sameti samavetīti samayo, samavāyo. Sameti samāgacchati maggabrahmacariyaṃ ettha tadādhārapuggalehīti samayo, khaṇo. Samenti ettha, etena vā saṃgacchanti dhammā sahajātadhammehi uppādādīhi vāti samayo, kālo. Dhammappavattimattatāya atthato abhūtopi hi kālo dhammappavattiyā adhikaraṇaṃ kāraṇaṃ viya ca parikappanāmattasiddhena rūpena voharīyati. Samaṃ, saha vā avayavānaṃ ayanaṃ pavatti avaṭṭhānanti samayo, samūho yathā ‘‘samudāyo’’ti. Avayavena sahāvaṭṭhānameva hi samūho. Paccayantarasamāgame eti phalaṃ etasmā uppajjati pavattati cāti samayo, hetu yathā ‘‘samudayo’’ti. Sameti saṃyojanabhāvato sambandho eti attano visaye pavattati, daḷhaggahaṇabhāvato vā taṃsaṃyuttā ayanti pavattanti sattā yathābhinivesaṃ etenāti samayo, diṭṭhi. Diṭṭhisaṃyojanena hi sattā ativiya bajjhanti. Samiti saṅgati samodhānanti samayo, paṭilābho. Samassa nirodhassa yānaṃ, sammā vā yānaṃ apagamo appavattīti samayo, pahānaṃ. Ñāṇena abhimukhaṃ sammā etabbo adhigantabboti abhisamayo, dhammānaṃ aviparīto sabhāvo. Abhimukhabhāvena sammā eti gacchati bujjhatīti abhisamayo, dhammānaṃ yathābhūtasabhāvāvabodho. Evaṃ tasmiṃ tasmiṃ atthe samayasaddassa pavatti veditabbā.
Và ở đây, do các tiếp đầu ngữ chỉ có tác dụng làm sáng tỏ, nên chính từ ‘thời’ là từ biểu thị cho ý nghĩa này, ý nghĩa kia. Do đó, trong khi giải thích ý nghĩa của từ ‘thời,’ từ ‘abhisamayo’ (sự chứng ngộ) có tiếp đầu ngữ đã được nói đến. Trong đó, do đi đến, hội đủ sự hiện hữu của các nguyên nhân phụ trợ, nên gọi là thời, tức là sự hội đủ. Phạm hạnh trong đạo đi đến, hội tụ tại đây cùng với những người là nền tảng của nó, nên gọi là thời, tức là khoảnh khắc. Các pháp đi đến tại đây, hoặc do duyên này mà các pháp tương ưng với các pháp đồng sanh như sanh v.v…, nên gọi là thời, tức là thời gian. Thật vậy, mặc dù về mặt ý nghĩa thời gian không thực hữu mà chỉ là sự diễn tiến của các pháp, nhưng nó được sử dụng với hình thức chỉ được thành tựu bởi danh xưng quy ước như là nền tảng và nguyên nhân của sự diễn tiến của các pháp. Sự đi đến, sự diễn tiến, sự tồn tại của các bộ phận một cách đồng đều hoặc cùng nhau là thời, tức là sự hội họp, giống như từ ‘sự tập hợp.’ Thật vậy, sự hội họp chính là sự tồn tại cùng với các bộ phận. Do sự hội đủ của các duyên khác, quả sanh khởi, diễn tiến từ đó, nên gọi là thời, tức là nhân, giống như từ ‘sự tập khởi.’ Do trạng thái là kiết sử, nó đi đến sự ràng buộc, tồn tại trong đối tượng của nó; hoặc do trạng thái nắm giữ chắc chắn, các chúng sanh bị ràng buộc bởi nó đi theo, diễn tiến theo sự chấp thủ của mình, nên gọi là thời, tức là tà kiến. Thật vậy, chúng sanh bị trói buộc rất chặt bởi tà kiến kiết sử. Sự gặp gỡ, sự tụ hội, sự kết hợp là thời, tức là sự chứng đắc. Sự đi đến nơi tịch tịnh, hoặc sự đi đến đúng đắn, sự từ bỏ, sự không diễn tiến là thời, tức là sự đoạn trừ. Cần được đi đến, cần được chứng đắc một cách đối diện và đúng đắn bằng trí tuệ là sự chứng ngộ, tức là bản chất không sai lạc của các pháp. Đi đến, thấu hiểu một cách đối diện và đúng đắn là sự chứng ngộ, tức là sự giác ngộ về bản chất như thật của các pháp. Như vậy, cần phải hiểu sự vận hành của từ ‘thời’ trong từng ý nghĩa cụ thể.

Nanu ca atthamattaṃ paṭicca saddā abhinivisanti, na ekena saddena aneke atthā abhidhīyantīti? Saccametaṃ saddavisese apekkhite. Saddavisese hi apekkhiyamāne ekena saddena anekatthābhidhānaṃ na sambhavati. Na hi yo kālattho samayasaddo, soyeva samūhādiatthaṃ vadati. Ettha pana tesaṃ tesaṃ atthānaṃ samayasaddavacanīyatāsāmaññamupādāya anekatthatā samayasaddassa vuttā. Evaṃ sabbattha atthuddhāre adhippāyo veditabbo. Idha panassa kālo atthoti assa samayasaddassa idha kālo attho samavāyādīnaṃ atthānaṃ idha asambhavato desadesakādīnaṃ viya nidānabhāvena kālassa apadisitabbato ca.
Chẳng phải các từ ngữ chỉ quy chiếu vào một ý nghĩa duy nhất, và một từ không thể biểu thị nhiều ý nghĩa hay sao? Điều này đúng khi xét đến một từ ngữ cụ thể. Thật vậy, khi xét đến một từ ngữ cụ thể, việc một từ biểu thị nhiều ý nghĩa là không thể xảy ra. Thật vậy, từ ‘thời’ có ý nghĩa là thời gian không thể nói lên ý nghĩa là sự hội họp v.v… Tuy nhiên, ở đây, dựa vào tính chất chung là được biểu thị bởi từ ‘thời,’ sự đa nghĩa của từ ‘thời’ đã được nói đến. Cần phải hiểu chủ ý trong việc giải thích ý nghĩa ở mọi nơi là như vậy. Còn ở đây, ý nghĩa của nó là thời gian có nghĩa là, ở đây ý nghĩa của từ ‘thời’ này là thời gian, vì các ý nghĩa như sự hội đủ v.v… không thể có ở đây, và vì thời gian cần được chỉ ra như là nền tảng, giống như nơi chốn, người nói v.v…

Upayogavacanena bhummavacanena ca niddesamakatvā idha karaṇavacanena niddese payojanaṃ niddhāretukāmo parammukhena codanaṃ samuṭṭhāpeti ‘‘etthāhā’’tiādi. Ettha ‘‘tena samayenā’’ti imasmiṃ ṭhāne vitaṇḍavādī āhāti attho. Athāti codanāya kattukāmataṃ dīpeti, nanūti iminā samānattho. Kasmā karaṇavacanena niddeso katoti sambandho. Bhummavacanena niddeso katoti yojetabbaṃ. Etthāpi ‘‘yathā’’ti idaṃ ānetvā sambandhitabbaṃ. Tatthāti tesu suttābhidhammesu. Tathāti upayogabhummavacanehi. Idhāti imasmiṃ vinaye. Aññathāti karaṇavacanena. Accantamevāti ārambhato paṭṭhāya yāva desanāniṭṭhānaṃ, tāva accantameva, nirantaramevāti attho. Karuṇāvihārenāti parahitapaṭipattisaṅkhātena karuṇāvihārena. Tathā hi karuṇānidānattā desanāya idha parahitapaṭipatti ‘‘karuṇāvihāro’’ti vuttā, na pana karuṇāsamaāpattivihāro. Na hi desanākāle desetabbadhammavisayassa desanāñāṇassa sattavisayāya mahākaruṇāya sahuppatti sambhavati bhinnavisayattā, tasmā karuṇāvasena pavatto parahitapaapattisaṅkhāto vihāro idha karuṇāvihāroti veditabbo. Tadatthajotanatthanti accantasaṃyogatthadīpanatthaṃ upayoganiddeso kato yathā ‘‘māsaṃ ajjhetī’’ti.
Không chỉ định bằng đối cách và vị trí cách, mà để xác định mục đích của sự chỉ định bằng công cụ cách ở đây, (chú giải) đã nêu lên câu chất vấn một cách gián tiếp: “Ở đây, có người nói” v.v… Ở đây có nghĩa là, tại chỗ này, trong câu “bởi thời gian ấy,” một người theo ngụy biện luận đã nói. Vậy thì, từ này cho thấy ý định muốn chất vấn, có cùng ý nghĩa với từ ‘chẳng phải.’ Cần liên kết là: tại sao lại chỉ định bằng công cụ cách? Cần phải kết hợp là: đã chỉ định bằng vị trí cách. Ở đây cũng vậy, cần phải đem từ ‘như’ đến để kết nối. Ở đó là trong các tạng Kinh và Luận ấy. Như vậy là bằng đối cách và vị trí cách. Ở đây là trong tạng Luật này. Cách khác là bằng công cụ cách. Hoàn toàn có nghĩa là từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc bài giảng, là hoàn toàn, là không gián đoạn. Bằng sự an trú trong tâm bi có nghĩa là bằng sự an trú trong tâm bi được xem là sự thực hành vì lợi ích của người khác. Thật vậy, vì bài giảng có tâm bi làm nền tảng, nên sự thực hành vì lợi ích của người khác ở đây được gọi là “sự an trú trong tâm bi,” chứ không phải là sự an trú trong thiền bi. Thật vậy, vào lúc thuyết giảng, sự đồng sanh của tuệ thuyết giảng có đối tượng là pháp cần thuyết và đại bi tâm có đối tượng là chúng sanh là không thể xảy ra, vì có đối tượng khác nhau. Do đó, cần phải hiểu rằng sự an trú được xem là sự thực hành vì lợi ích của người khác, diễn ra do tâm bi, được gọi là sự an trú trong tâm bi ở đây. Nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa ấy có nghĩa là sự chỉ định bằng đối cách được thực hiện nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa của sự liên tục hoàn toàn, giống như trong câu “học trong một tháng.”

Adhikaraṇatthoti ādhārattho. Bhāvo nāma kiriyā, kiriyāya kiriyantaralakkhaṇaṃ bhāvenabhāvalakkhaṇaṃ, soyevattho bhāvenabhāvalakkhaṇattho. Kathaṃ pana abhidhamme yathāvuttaatthadvayasambhavoti āha ‘‘adhikaraṇañhī’’tiādi. Tattha kālasaṅkhāto attho kālattho, samūhasaṅkhāto attho samūhattho. Atha vā kālasaddassa attho kālattho, samūhasaddassa attho samūhattho. Ko so? Samayo. Idaṃ vuttaṃ hoti – kālattho samūhattho ca samayo tattha abhidhamme vuttānaṃ phassādidhammānaṃ adhikaraṇaṃ ādhāroti yasmiṃ kāle dhammapuñje vā kāmāvacaraṃ kusalaṃ cittaṃ uppannaṃ hoti, tasmiṃyeva kāle puñje ca phassādayopi hontīti ayañhi tattha attho.
Ý nghĩa vị trí cách là ý nghĩa nền tảng. Trạng thái được gọi là hành động; sự xác định một hành động bằng một hành động khác là vị trí cách chỉ điều kiện; chính ý nghĩa ấy là ý nghĩa vị trí cách chỉ điều kiện. Nhưng làm thế nào mà hai ý nghĩa đã nói có thể có trong tạng Vi Diệu Pháp? (Chú giải) nói: “Bởi vì vị trí cách” v.v… Ở đó, ý nghĩa được xem là thời gian là ý nghĩa thời gian; ý nghĩa được xem là sự hội họp là ý nghĩa sự hội họp. Hoặc là, ý nghĩa của từ ‘thời gian’ là ý nghĩa thời gian; ý nghĩa của từ ‘sự hội họp’ là ý nghĩa sự hội họp. Cái đó là gì? Là thời. Điều này được nói đến là: ý nghĩa thời gian và ý nghĩa sự hội họp là thời, ở đó, trong tạng Vi Diệu Pháp, là nền tảng, là cơ sở cho các pháp như xúc v.v… đã được nói đến. Bởi vì vào thời gian nào hay trong tập hợp pháp nào mà tâm thiện dục giới sanh khởi, thì vào chính thời gian ấy hay trong tập hợp ấy, các pháp như xúc v.v… cũng có mặt; đây chính là ý nghĩa ở đó.

Nanu cāyaṃ upādāya paññatto kālo samūho ca vohāramattako, so kathaṃ ādhāro tattha vuttadhammānanti? Nāyaṃ doso. Yathā hi kālo sabhāvadhammaparicchinno sayaṃ paramatthato avijjamānopi ādhārabhāvena paññatto taṅkhaṇappavattānaṃ tato pubbe parato ca abhāvato ‘‘pubbaṇhe jāto sāyanhe gacchatī’’tiādīsu, samūho ca avayavavinimutto avijjamānopi kappanāmattasiddho avayavānaṃ ādhārabhāvena paññapīyati ‘‘rukkhe sākhā, yavarāsimhi sambhūto’’tiādīsu, evamidhāpīti daṭṭhabbaṃ.
Chẳng phải thời gian và sự hội họp này là pháp được chế định dựa vào (các pháp khác), chỉ là quy ước, vậy làm sao chúng có thể là nền tảng cho các pháp được nói đến ở đó? Đây không phải là lỗi. Giống như thời gian, được giới hạn bởi các pháp thực tính, bản thân nó không thực hữu về mặt chân đế, nhưng được chế định là nền tảng do sự không hiện hữu của các pháp diễn ra trong khoảnh khắc ấy trước và sau đó, như trong các câu “sanh vào buổi sáng, đi vào buổi chiều” v.v…; và sự hội họp, không tồn tại tách rời các bộ phận, dù không thực hữu mà chỉ được thành tựu bởi danh xưng quy ước, nhưng được chế định là nền tảng của các bộ phận, như trong các câu “cành trên cây,” “hiện hữu trong đống lúa mạch” v.v…, cũng cần phải được hiểu như vậy ở đây.

Abhidhamme ādhāratthasambhavaṃ dassetvā idāni bhāvenabhāvalakkhaṇatthasambhavaṃ dassento āha ‘‘khaṇasamavāyahetusaṅkhātassā’’tiādi. Tattha khaṇo nāma aṭṭhakkhaṇavinimutto navamo buddhuppādasaṅkhāto khaṇo, yāni vā panetāni ‘‘cattārimāni, bhikkhave, cakkāni yehi samannāgatānaṃ devamanussānaṃ catucakkaṃ pavattatī’’ti (a. ni. 4.31) ettha patirūpadesavāso, sappurisūpanissayo, attasammāpaṇidhi, pubbe ca katapuññatāti cattāri cakkāni vuttāni, tāni ekajjhaṃ katvā okāsaṭṭhena khaṇoti veditabbo. Tāni hi kusaluppattiyā okāsabhūtāni. Samavāyo nāma ‘‘cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇa’’nti (ma. ni. 1.204; 3.421; saṃ. ni. 4.60) evamādinā niddiṭṭhā cakkhuviññāṇādisaṅkhātasādhāraṇaphalanipphādakattena saṇṭhitā cakkhurūpādipaccayasāmaggī. Cakkhurūpādīnañhi cakkhuviññāṇādisādhāraṇaphalaṃ. Hetūti janakahetu. Yathāvuttakhaṇasaṅkhaātassa samavāyasaṅkhātassa hetusaṅkhātassa ca samayassa bhāvena sattāya tesaṃ phassādidhammānaṃ bhāvo sattā lakkhīyati viññāyatīti attho. Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā ‘‘gāvīsu duyhamānāsu gato, duddhāsu āgato’’ti dohanakiriyāya gamanakiriyā lakkhīyati, evamidhāpi ‘‘yasmiṃ samaye, tasmiṃ samaye’’ti ca vutte ‘‘satī’’ti ayamattho viññāyamāno eva hoti aññakiriyāya sambandhābhāve padatthassa sattāvirahābhāvatoti samayassa sattākiriyāya cittassa uppādakiriyā phassādibhavanakiriyā ca lakkhīyatīti. Ayañhi tattha attho yasmiṃ yathāvutte khaṇe paccayasamavāye hetumhi ca sati kāmāvacaraṃ kusalaṃ cittaṃ uppannaṃ hoti, tasmiṃyeva khaṇe paccayasamavāye hetumhi ca sati phassādayopi hontīti . Tadatthajotanatthanti adhikaraṇatthassa bhāvenabhāvalakkhaṇatthassa ca dīpanatthaṃ.
Sau khi đã chỉ ra sự có thể có của ý nghĩa nền tảng trong tạng Vi Diệu Pháp, bây giờ để chỉ ra sự có thể có của ý nghĩa vị trí cách chỉ điều kiện, (chú giải) nói: “Của thời được xem là khoảnh khắc, sự hội đủ và nhân” v.v… Trong đó, khoảnh khắc là khoảnh khắc thứ chín, không bao gồm tám khoảnh khắc bất lợi; hoặc là bốn bánh xe đã được nói đến trong câu: “Này các Tỳ-khưu, có bốn bánh xe này, những chúng sanh trời và người nào được trang bị chúng thì bánh xe bốn căm được vận hành” (a. ni. 4.31), đó là: trú ở nơi thích hợp, thân cận bậc chân nhân, tự mình hướng đến điều đúng đắn, và đã tạo phước từ trước. Cần phải hiểu rằng khi hợp tất cả những điều đó lại, chúng được gọi là khoảnh khắc theo ý nghĩa là cơ hội. Thật vậy, chúng là cơ hội cho sự sanh khởi của thiện pháp. Sự hội đủ là sự tập hợp các duyên như mắt, sắc v.v… vốn tồn tại với vai trò tạo ra quả chung được xem là nhãn thức v.v…, đã được chỉ định bằng các câu như: “Do duyên con mắt và các sắc pháp mà nhãn thức sanh khởi” (ma. ni. 1.204; 3.421; saṃ. ni. 4.60) v.v… Thật vậy, quả chung của mắt, sắc v.v… là nhãn thức v.v… Nhân là nhân sanh khởi. Có nghĩa là, do sự hiện hữu của thời được xem là khoảnh khắc, sự hội đủ và nhân đã nói, mà sự hiện hữu của các pháp như xúc v.v… được nhận biết, được hiểu rõ. Điều này được nói đến là: Giống như trong câu “ông ấy đã đi trong khi các con bò đang được vắt sữa, đã trở về sau khi chúng đã được vắt sữa xong,” hành động đi được nhận biết bởi hành động vắt sữa; cũng vậy, ở đây khi nói “vào thời nào, vào thời ấy,” ý nghĩa “khi có” này được hiểu rõ, bởi vì nếu không có sự liên quan với một hành động khác, thì ý nghĩa của từ sẽ không tồn tại. Do đó, bởi hành động tồn tại của thời, hành động sanh khởi của tâm và hành động tồn tại của các pháp như xúc v.v… được nhận biết. Thật vậy, ý nghĩa ở đây là: vào khoảnh khắc, sự hội đủ của các duyên và nhân đã nói nào có mặt, thì tâm thiện dục giới sanh khởi; và vào chính khoảnh khắc, sự hội đủ của các duyên và nhân ấy có mặt, thì các pháp như xúc v.v… cũng có mặt. Nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa ấy có nghĩa là nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa vị trí cách và ý nghĩa vị trí cách chỉ điều kiện.

Idha panāti imasmiṃ vinaye. Hetuattho karaṇattho ca sambhavatīti ‘‘annena vasati, vijjāya vasatī’’tiādīsu viya hetuattho ‘‘pharasunā chindati, kudālena khaṇatī’’tiādīsu viya karaṇattho ca sambhavati. Kathaṃ sambhavatīti āha ‘‘yo hi so’’tiādi. Tena samayena hetubhūtena karaṇabhūtenāti ettha pana taṃtaṃvatthuvītikkamova sikkhāpadapaññattiyā hetu ceva karaṇañca. Tathā hi yadā bhagavā sikkhāpadapaññattiyā paṭhamameva tesaṃ tesaṃ tattha tattha taṃtaṃsikkhāpadapaññattihetubhūtaṃ vītikkamaṃ apekkhamāno viharati, tadā taṃ taṃ vītikkamaṃ apekkhitvā tadatthaṃ vasatīti siddho vatthuvītikkamassa hetubhāvo ‘‘annena vasati, annaṃ apekkhitvā tadatthāya vasatī’’tiādīsu viya. Sikkhāpadapaññattikāle pana teneva pubbasiddhena vītikkamena sikkhāpadaṃ paññapetīti sikkhāpadapaññattiyā sādhakatamattā karaṇabhāvopi vītikkamasseva siddho ‘‘asinā chindatī’’tiādīsu viya. Vītikkamaṃ pana apekkhamāno teneva saddhiṃ tannissayakālampi apekkhitvā viharatīti kālassapi idha hetubhāvo vutto, sikkhāpadaṃ paññapento ca taṃ taṃ vītikkamakālaṃ anatikkamitvā teneva kālena sikkhāpadaṃ paññapetīti vītikkamanissayassa kālassapi karaṇabhāvo vutto, tasmā iminā pariyāyena kālassapi hetubhāvo karaṇabhāvo ca labbhatīti vuttaṃ ‘‘tena samayena hetubhūtena karaṇabhūtenā’’ti. Nippariyāyato pana vītikkamoyeva hetubhūto karaṇabhūto ca. So hi vītikkamakkhaṇe hetu hutvā pacchā sikkhāpadapaññāpane karaṇampi hotīti.
Còn ở đây là trong tạng Luật này. Ý nghĩa nguyên nhân và ý nghĩa công cụ cách có thể có, giống như trong các câu “sống nhờ thức ăn, sống nhờ trí tuệ” v.v…, ý nghĩa nguyên nhân có thể có; và giống như trong các câu “chặt bằng rìu, đào bằng cuốc” v.v…, ý nghĩa công cụ cách có thể có. Làm thế nào mà có thể có? (Chú giải) nói: “Bởi vì cái đó” v.v… Trong câu ‘Bởi thời gian ấy, vốn là nhân, vốn là công cụ,’ ở đây, chính sự vi phạm đối với từng điều khoản là nhân và là công cụ cho việc chế định học giới. Thật vậy, khi Thế Tôn, ngay từ đầu, trong khi chờ đợi sự vi phạm vốn là nhân cho việc chế định từng học giới ở từng nơi, Ngài an trú, lúc bấy giờ Ngài chờ đợi sự vi phạm ấy và sống vì mục đích đó. Do đó, trạng thái làm nhân của sự vi phạm điều khoản được thành tựu, giống như trong các câu “sống nhờ thức ăn, tức là chờ đợi thức ăn và sống vì mục đích đó” v.v… Còn vào lúc chế định học giới, Ngài chế định học giới bởi chính sự vi phạm đã có từ trước, do đó trạng thái làm công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho việc chế định học giới của chính sự vi phạm cũng được thành tựu, giống như trong các câu “chặt bằng gươm” v.v… Tuy nhiên, trong khi chờ đợi sự vi phạm, cùng với đó, Ngài cũng chờ đợi thời gian liên quan đến nó mà an trú, do đó trạng thái làm nhân của thời gian cũng được nói đến ở đây. Và trong khi chế định học giới, Ngài không vượt qua thời gian vi phạm ấy mà chế định học giới bởi chính thời gian đó, do đó trạng thái làm công cụ của thời gian liên quan đến sự vi phạm cũng được nói đến. Vì vậy, theo phương pháp này, trạng thái làm nhân và trạng thái làm công cụ của thời gian cũng có được, nên đã nói: “bởi thời gian ấy, vốn là nhân, vốn là công cụ.” Tuy nhiên, một cách trực tiếp, chính sự vi phạm là nhân và là công cụ. Bởi vì nó là nhân vào khoảnh khắc vi phạm, và sau đó cũng trở thành công cụ trong việc chế định học giới.

Sikkhāpadānipaññāpayantoti vītikkamaṃ pucchitvā bhikkhusaṅghaṃ sannipātāpetvā otiṇṇavatthukaṃ puggalaṃ paṭipucchitvā vigarahitvā ca taṃ taṃ vatthuṃ otiṇṇakālaṃ anatikkamitvā teneva kālena karaṇabhūtena sikkhāpadāni paññāpayanto. Sikkhāpadapaññattihetuñca apekkhamānoti tatiyapārājikādīsu viya sikkhāpadapaññattiyā hetubhūtaṃ taṃ taṃ vatthuṃ vītikkamasamayaṃ apekkhamāno tena samayena hetubhūtena bhagavā tattha tattha vihāsīti attho. ‘‘Sikkhāpadāni paññāpayanto sikkhāpadapaññattihetuñca apekkhamāno’’ti vacanato ‘‘tena samayena karaṇabhūtena hetubhūtenā’’ti evaṃ vattabbepi paṭhamaṃ ‘‘hetubhūtenā’’ti vacanaṃ idha hetuatthassa adhippetattā vuttaṃ. Bhagavā hi verañjāyaṃ viharanto therassa sikkhāpadapaññattiyācanahetubhūtaṃ parivitakkasamayaṃ apekkhamāno tena samayena hetubhūtena vihāsīti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Kiṃ panettha yutticintāya, ācariyassa idha kamavacanicchā natthīti evametaṃ gahetabbaṃ. Teneva dīghanikāyaṭṭhakathāyampi (dī. ni. aṭṭha. 1.paribbājakakathāvaṇṇanā) ‘‘tena samayena hetubhūtena karaṇabhūtenā’’tiādinā ayameva anukkamo vutto. Na hi tattha paṭhamaṃ ‘‘hetubhūtenā’’ti vacanaṃ idha ‘‘tena samayena verañjāyaṃ viharatī’’ti ettha hetuatthassa adhippetabhāvadīpanatthaṃ vuttaṃ. ‘‘Sikkhāpadāni paññāpayanto hetubhūtena karaṇabhūtena samayena vihāsi, sikkhāpadapaññattihetuñca apekkhamāno hetubhūtena samayena vihāsīti evamettha sambandho kātabbo’’tipi vadanti. Tadatthajotanatthanti hetuatthassa karaṇatthassa vā dīpanatthaṃ. Idhāti imasmiṃ vinaye. Hoti cetthāti ettha imasmiṃ padese yathāvuttatthasaṅgahavasena ayaṃ gāthā hoti. Aññatrāti suttābhidhammesu.
Trong khi chế định các học giới có nghĩa là sau khi hỏi về sự vi phạm, triệu tập Tăng chúng, hỏi lại người liên quan đến sự việc đã xảy ra, khiển trách và không vượt qua thời gian mà sự việc ấy đã xảy ra, trong khi chế định các học giới bởi chính thời gian đó, vốn là công cụ. Và trong khi mong đợi nhân chế định học giới có nghĩa là, giống như trong các giới bất cộng trụ thứ ba v.v…, trong khi mong đợi từng điều khoản, từng thời điểm vi phạm vốn là nhân của việc chế định học giới, Thế Tôn đã an trú ở nơi này nơi kia bởi thời gian đó, vốn là nhân. Mặc dù theo câu “trong khi chế định các học giới và trong khi mong đợi nhân chế định học giới,” đáng lẽ phải nói là “bởi thời gian, vốn là công cụ, vốn là nhân,” nhưng việc nói “vốn là nhân” trước là do ở đây ý nghĩa nguyên nhân được chủ trương. Thật vậy, khi Thế Tôn an trú ở Verañjā, Ngài đã chờ đợi thời điểm suy tư vốn là nhân cho việc thỉnh cầu chế định học giới của vị trưởng lão, và đã an trú bởi thời gian đó, vốn là nhân. Điều này đã được nói đến trong cả ba sách chú giải khó từ. Cần gì phải suy xét lý lẽ ở đây, cần phải hiểu rằng ý muốn về thứ tự từ ngữ của vị soạn Chú giải ở đây là không có. Chính vì thế, trong chú giải Trường Bộ Kinh cũng vậy (dī. ni. aṭṭha. 1.paribbājakakathāvaṇṇanā), chính thứ tự này đã được nói đến bằng các câu “bởi thời gian, vốn là nhân, vốn là công cụ” v.v… Thật vậy, ở đó, việc nói “vốn là nhân” trước không phải được nói nhằm chỉ ra ý nghĩa nguyên nhân được chủ trương ở đây, trong câu “bởi thời gian ấy, Ngài an trú ở Verañjā.” Người ta cũng nói rằng: “Cần phải kết hợp ở đây như sau: ‘Ngài đã an trú bởi thời gian, vốn là công cụ, vốn là nhân, trong khi chế định các học giới; và Ngài đã an trú bởi thời gian, vốn là nhân, trong khi mong đợi nhân chế định học giới.’” Nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa ấy có nghĩa là nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa nguyên nhân hoặc ý nghĩa công cụ cách. Ở đây là trong tạng Luật này. Và ở đây có có nghĩa là, ở đoạn này, có bài kệ này theo cách tóm tắt ý nghĩa đã nói. Ở nơi khác là trong tạng Kinh và tạng Vi Diệu Pháp.

Porāṇāti aṭṭhakathācariyā. Abhilāpamattabhedoti vacanamattena viseso. Tena suttavinayesu vibhattivipariṇāmo katoti dasseti. Parato atthaṃ vaṇṇayissāmāti parato ‘‘itipi so bhagavā’’tiādinā āgataṭṭhāne vaṇṇayissāma. Verañjāyanti ettha ‘‘balikaraggahaṇena janassa pīḷābhāvato niddosattā vigato rajo assāti verañjā, serivāṇijajātake devadattassa veruppannapadese katattā veraṃ ettha jātanti verañjā, paviṭṭhapaviṭṭhe naṭasamajjādīhi khādanīyabhojanīyālaṅkārādīhi ca vividhehi upakaraṇehi rañjanato vividhehi rañjayatīti verañjā, paṭipakkhe abhibhavitvā katabhāvato veraṃ abhibhavitvā jātāti verañjā, verañjassa nāma isino assamaṭṭhāne katattā verañjā’’ti evamādinā keci vaṇṇayanti. Kiṃ iminā, nāmamattametaṃ tassa nagarassāti dassento āha ‘‘verañjāti aññatarassa nagarassetaṃ adhivacana’’nti. Samīpatthe bhummavacananti ‘‘gaṅgāyaṃ gāvo caranti, kūpe gaggakula’’ntiādīsu viya. Avisesenāti ‘‘pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati. Paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Mettāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharati. Sabbanimittānaṃ amanasikārā animittaṃ cetosamādhiṃ samāpajjitvā viharatī’’tiādīsu viya saddantarasannidhānasiddhena visesaparāmasanena vinā. Atha vā avisesenāti na visesena, vihārabhāvasāmaññenāti attho.
Các vị xưa là các vị soạn Chú giải. Sự khác biệt chỉ ở lời nói có nghĩa là sự khác biệt chỉ bằng lời nói. Bằng câu này, (chú giải) chỉ ra rằng trong tạng Kinh và tạng Luật, sự thay đổi biến cách đã được thực hiện. Chúng tôi sẽ giải thích ý nghĩa ở phần sau có nghĩa là chúng tôi sẽ giải thích ở chỗ được đề cập đến ở phần sau bằng các câu “Đức Thế Tôn ấy như vậy” v.v… Trong từ ở Verañjā, một số người giải thích bằng các cách như sau: “Vì không có sự áp bức dân chúng bằng việc thu thuế, nên không có phiền não, được gọi là Verañjā; vì được tạo ra ở nơi sanh khởi oán thù của Devadatta trong bổn sanh chuyện người buôn tên Serivā, nên oán thù đã sanh ra ở đây, được gọi là Verañjā; vì làm cho vui thích bằng nhiều phương tiện khác nhau như các buổi biểu diễn của diễn viên v.v… đã vào, và bằng các món ăn, đồ uống, trang sức v.v…, nên làm cho vui thích bằng nhiều cách, được gọi là Verañjā; vì được tạo ra sau khi đã chinh phục đối phương, nên chinh phục oán thù mà sanh ra, được gọi là Verañjā; vì được xây dựng trên nền tu viện của ẩn sĩ tên Verañja, nên được gọi là Verañjā.” Cần gì với điều này, để chỉ ra rằng đây chỉ là tên của thành phố ấy, (chú giải) nói: “Verañjā là tên gọi của một thành phố nào đó.” Vị trí cách trong ý nghĩa gần giống như trong các câu “đàn bò ăn cỏ bên bờ sông Gaṅgā, dòng họ Gagga ở trong giếng” v.v… Không có sự phân biệt có nghĩa là không có sự quy chiếu đến một đặc điểm cụ thể được thành tựu bởi sự hiện diện của một từ khác, giống như trong các câu “vị ấy an trú, được thu thúc trong sự thu thúc của Giới Bổn. Vị ấy an trú, chứng và đạt thiền thứ nhất. Vị ấy an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ. Vị ấy an trú, chứng và đạt định tâm vô tướng do không tác ý đến tất cả các tướng” v.v… Hoặc là, không có sự phân biệt có nghĩa là không phải bằng một cách đặc biệt, mà bằng tính chất chung của trạng thái an trú.

Iriyāpatha…pe… vihāresūti iriyāpathavihāro dibbavihāro brahmavihāro ariyavihāroti etesu catūsu vihāresu. Tattha iriyanaṃ pavattanaṃ iriyā, kāyappayogo kāyikakiriyā. Tassā pavattanupāyabhāvato iriyāya pathoti iriyāpatho, ṭhānanisajjādi. Na hi ṭhānanisajjādīhi avatthāhi vinā kañci kāyikakiriyaṃ pavattetuṃ sakkā. Ṭhānasamaṅgī vā hi kāyena kiñci kareyya gamanādīsu aññatarasamaṅgī vāti. Viharaṇaṃ, viharati etenāti vā vihāro, iriyāpathova vihāro iriyāpathavihāro, so ca atthato ṭhānanisajjādiākārappavatto catusantatirūpappabandhova. Divi bhavo dibbo, tattha bahulappavattiyā brahmapārisajjādidevalokabhavoti attho. Tattha yo dibbānubhāvo tadatthāya saṃvattatīti vā dibbo, abhiññābhinīhāravasena mahāgatikattā vā dibbo, dibbo ca so vihāro cāti dibbavihāro, dibbabhāvāvaho vā vihāro dibbavihāro, mahaggatajjhānāni. Āruppasamāpattiyopi hi ettheva saṅgahaṃ gacchanti. Nettiyaṃ pana ‘‘catasso āruppasamāpattiyo āneñjavihāro’’ti vuttaṃ, taṃ mettājhānādīnaṃ brahmavihāratā viya tāsaṃ bhāvanāvisesabhāvaṃ sandhāya vuttaṃ. Aṭṭhakathāsu pana dibbabhāvāvahasāmaññato tāpi ‘‘dibbavihārā’’tveva vuttā. Brahmānaṃ vihārā brahmavihārā, brahmāno vā vihārā brahmavihārā, hitūpasaṃharādivasena pavattiyā brahmabhūtā seṭṭhabhūtā vihārāti attho, mettājhānādikā catasso appamaññāyo. Ariyā uttamā vihārāti ariyavihārā, anaññasādhāraṇattā ariyānaṃ vā vihārā ariyavihārā, catasso phalasamāpattiyo. Visesato pana rūpāvacaracatutthajjhānaṃ catasso appamaññāyo catutthajjhānikaphalasamāpatti ca bhagavato dibbabrahmaariyavihārā.
Trong các sự an trú như oai nghi… v.v… là trong bốn sự an trú này: sự an trú trong oai nghi, sự an trú của chư thiên, sự an trú phạm thiên, sự an trú của bậc Thánh. Trong đó, sự đi, sự diễn ra là oai nghi; là sự tác động của thân, là hành động thuộc về thân. Vì là phương tiện cho sự diễn ra của hành động ấy, nên con đường của oai nghi là oai nghi; là đứng, ngồi v.v… Thật vậy, không thể thực hiện bất kỳ hành động nào thuộc về thân nếu không có các trạng thái như đứng, ngồi v.v… Bởi vì người ta có thể làm điều gì đó bằng thân khi đang đứng hoặc khi đang đi lại v.v… Sự an trú, hoặc an trú bởi cái đó, là sự an trú; oai nghi chính là sự an trú, là sự an trú trong oai nghi; và về mặt ý nghĩa, đó chính là sự tiếp nối của bốn loại sắc pháp diễn ra theo các tư thế như đứng, ngồi v.v… Sanh ở cõi trời là của chư thiên; có nghĩa là sanh ở cõi trời của các vị Phạm chúng v.v… do sự diễn ra thường xuyên ở đó. Hoặc là, vì hướng đến mục đích là thần lực của chư thiên ấy, nên là của chư thiên; hoặc vì có xu hướng vĩ đại do sự hướng tâm đến các thắng trí, nên là của chư thiên; sự an trú ấy là của chư thiên, nên là sự an trú của chư thiên; hoặc sự an trú mang lại trạng thái của chư thiên là sự an trú của chư thiên, đó là các thiền sắc giới. Các tầng thiền vô sắc cũng được bao gồm ở đây. Tuy nhiên, trong sách Netti, đã nói rằng “bốn tầng thiền vô sắc là sự an trú bất động,” điều đó được nói đến khi đề cập đến trạng thái tu tập đặc biệt của chúng, giống như trạng thái an trú phạm thiên của các thiền từ v.v… Tuy nhiên, trong các sách Chú giải, do tính chất chung là mang lại trạng thái của chư thiên, chúng cũng được gọi là “các sự an trú của chư thiên.” Các sự an trú của Phạm thiên là các sự an trú phạm thiên; hoặc các sự an trú là Phạm thiên, là các sự an trú phạm thiên; có nghĩa là các sự an trú cao quý, tối thượng do sự diễn ra theo cách mang lại lợi ích v.v…; đó là bốn vô lượng tâm như thiền từ v.v… Các sự an trú cao quý của bậc Thánh là các sự an trú của bậc Thánh; hoặc vì không chung với người khác, nên là các sự an trú của các bậc Thánh, là các sự an trú của bậc Thánh; đó là bốn thiền quả. Đặc biệt, thiền sắc giới thứ tư, bốn vô lượng tâm và thiền quả của thiền thứ tư là các sự an trú của chư thiên, phạm thiên và bậc Thánh của Thế Tôn.

Aññataravihārasamaṅgīparidīpananti yathāvuttavihāresu aññataravihārasamaṅgībhāvaparidīpanaṃ. Bhagavā hi lobhadosamohussannakāle loke tassa sakāya paṭipattiyā vinayanatthaṃ dibbabrahmaaayavihāre upasampajja viharati. Tathā hi yadā sattā kāmesu vippaṭipajjanti, tadā kira bhagavā dibbena vihārena viharati tesaṃ alobhakusalamūluppādanatthaṃ ‘‘appeva nāma imaṃ paṭipattiṃ disvā ettha ruciṃ uppādentā kāmesu virajjeyyu’’nti. Yadā pana issariyatthaṃ sattesu vippaṭipajjanti, tadā pana brahmavihārena viharati tesaṃ adosakusalamūluppādanatthaṃ ‘‘appeva nāma imaṃ paṭipattiṃ disvā ettha ruciṃ uppādetvā adosena dosaṃ vūpasameyyu’’nti. Yadā pana pabbajitā dhammādhikaraṇaṃ vivadanti, tadā ariyavihārena viharati tesaṃ amohakusalamūluppādanatthaṃ ‘‘appeva nāma imaṃ paṭipattiṃ disvā tattha ruciṃ uppādetvā amohena mohaṃ vūpasameyyu’’nti. Evañca katvā imehi dibbabrahmaariyavihārehi sattānaṃ vividhaṃ hitasukhaṃ harati upaharati upaneti janeti uppādetīti ‘‘viharatī’’ti vuccati.
Sự làm sáng tỏ về việc được trang bị một trong các sự an trú có nghĩa là sự làm sáng tỏ về trạng thái được trang bị một trong các sự an trú đã nói. Thật vậy, khi thế gian đầy rẫy tham, sân, và si, Thế Tôn an trú, chứng và đạt các sự an trú của chư thiên, phạm thiên và bậc Thánh nhằm điều phục thế gian bằng pháp hành của chính Ngài. Cụ thể là, khi chúng sanh hành xử sai trái trong các dục, nghe nói Thế Tôn an trú bằng sự an trú của chư thiên nhằm làm sanh khởi cội rễ thiện vô tham cho họ, với ý nghĩ rằng: “Biết đâu sau khi thấy pháp hành này, họ sẽ sanh khởi sự hứng thú và nhàm chán đối với các dục.” Còn khi chúng sanh hành xử sai trái với nhau vì quyền lực, Ngài lại an trú bằng sự an trú phạm thiên nhằm làm sanh khởi cội rễ thiện vô sân cho họ, với ý nghĩ rằng: “Biết đâu sau khi thấy pháp hành này, họ sẽ sanh khởi sự hứng thú và dập tắt sân hận bằng vô sân.” Còn khi các vị xuất gia tranh cãi về các vấn đề liên quan đến giáo pháp, Ngài an trú bằng sự an trú của bậc Thánh nhằm làm sanh khởi cội rễ thiện vô si cho họ, với ý nghĩ rằng: “Biết đâu sau khi thấy pháp hành này, họ sẽ sanh khởi sự hứng thú và dập tắt si mê bằng vô si.” Và do làm như vậy, bằng các sự an trú của chư thiên, phạm thiên và bậc Thánh này, Ngài mang lại, cúng dường, đem đến, tạo ra, làm sanh khởi nhiều lợi ích và hạnh phúc khác nhau cho chúng sanh, nên được gọi là “an trú.”

Iriyāpathavihārena pana na kadāci na viharati taṃ vinā attabhāvapariharaṇābhāvato, tatoyeva ca dibbavihārādīnampi sādhāraṇo iriyāpathavihāroti āha ‘‘idha panā’’tiādi. Iriyāpathasamāyogaparidīpananti itaravihārasamāyogaparidīpanassa visesavacanassa abhāvato iriyāpathasamāyogaparidīpanassa ca atthasiddhattā vuttaṃ. Asmiṃ pana pakkhe viharatīti ettha vi-saddo vicchedatthajotano, haratīti neti pavattetīti attho, vicchinditvā haratīti vuttaṃ hoti. Tattha kassa kena vicchindanaṃ, kathaṃ kassa pavattananti antolīnacodanaṃ sandhāyāha ‘‘so hī’’tiādi. Soti bhagavā. Yadipi bhagavā ekenapi iriyāpathena cirataraṃ kālaṃ attabhāvaṃ pavattetuṃ sakkoti, tathāpi upādinnakasarīrassa nāma ayaṃ sabhāvoti dassetuṃ ‘‘ekaṃ iriyāpathabādhana’’ntiādi vuttaṃ. Aparipatantanti apatantaṃ. Yasmā pana bhagavā yattha katthaci vasanto vineyyānaṃ dhammaṃ desento nānāsamāpattīhi ca kālaṃ vītināmento vasatīti sattānaṃ attano ca vividhaṃ hitasukhaṃ harati upaneti, tasmā vividhaṃ haratīti viharatīti evampettha attho veditabbo.
Tuy nhiên, Ngài không bao giờ không an trú bằng sự an trú trong oai nghi, vì không có nó thì không thể duy trì thân mạng được. Chính vì thế, sự an trú trong oai nghi cũng là chung cho các sự an trú của chư thiên v.v…, nên (chú giải) nói: “Còn ở đây” v.v… Sự làm sáng tỏ về việc kết hợp với oai nghi được nói đến là do không có lời nói đặc biệt nào làm sáng tỏ về việc kết hợp với các sự an trú khác, và do sự làm sáng tỏ về việc kết hợp với oai nghi đã được thành tựu về mặt ý nghĩa. Tuy nhiên, trong quan điểm này, trong từ an trú (viharati), tiếp đầu ngữ vi– làm sáng tỏ ý nghĩa cắt đứt; harati có nghĩa là mang đi, duy trì; được nói là mang đi sau khi đã cắt đứt. Trong đó, để giải đáp câu hỏi ngầm rằng, cái gì được cắt đứt bởi cái gì, và cái gì được duy trì như thế nào, (chú giải) nói: “Bởi vì Ngài” v.v… Ngài là Thế Tôn. Mặc dù Thế Tôn có thể duy trì thân mạng trong một thời gian dài hơn chỉ bằng một oai nghi, nhưng để chỉ ra rằng đây là bản chất của thân thể đã được chấp thủ, nên đã nói: “Sự đau nhức của một oai nghi” v.v… Không rơi rớt là không bị rơi xuống. Hơn nữa, vì Thế Tôn, khi ở bất cứ nơi đâu, Ngài an trú trong khi thuyết pháp cho chúng sanh cần được giáo hóa và trải qua thời gian với nhiều tầng thiền định khác nhau, nên Ngài mang lại, đem đến nhiều lợi ích và hạnh phúc khác nhau cho chúng sanh và cho chính mình. Do đó, cần phải hiểu ý nghĩa ở đây là, Ngài an trú vì mang lại nhiều điều (vividhaṃ harati).

Naḷerupucimandamūleti ettha vaṇṇayanti – naḷerūti tasmiṃ rukkhe adhivatthayakkhassetaṃ adhivacanaṃ, tasmā tena adhivattho pucimando ‘‘naḷerussa pucimando naḷerupucimando’’ti vuccati. Atha vā naḷe ruhattā jātattā naḷeru. Susiramettha naḷasaddena vuccati, tasmā rukkhasusire jātattā naḷeru ca so pucimando cāti naḷerupucimandoti vuccati. Naḷavane ruhattā jātattā vā naḷeru. Naḷavane kira so pucimandarukkho jāto. Urunaḷo pucimando naḷerupucimando. Urusaddo cettha mahantapariyāyo, naḷasaddo susirapariyāyo, tasmā mahantena susirena samannāgato pucimando naḷerupucimandoti vuccatīti. Ācariyo pana kimettha bahubhāsitenāti ekamevatthaṃ dassento ‘‘naḷeru nāma yakkho’’tiādimāha.
Trong câu tại gốc cây pucimanda của Naḷeru, người ta giải thích rằng: Naḷeru là tên gọi của vị dạ xoa ngự trên cây ấy, do đó cây pucimanda mà vị ấy ngự được gọi là “cây pucimanda của Naḷeru.” Hoặc là, vì mọc, sanh ra trên cây sậy, nên là naḷeru. Ở đây, từ ‘naḷa’ (sậy) được chỉ đến phần rỗng, do đó vì sanh ra trong chỗ rỗng của cây, nên nó là naḷeru và nó là cây pucimanda, được gọi là naḷerupucimanda. Hoặc là, vì mọc, sanh ra trong rừng sậy, nên là naḷeru. Nghe nói, cây pucimanda ấy mọc trong rừng sậy. Cây sậy lớn là cây pucimanda, naḷerupucimanda. Ở đây, từ ‘uru’ (lớn) là từ đồng nghĩa với ‘mahanta’ (to lớn), từ ‘naḷa’ (sậy) là từ đồng nghĩa với ‘susira’ (rỗng), do đó cây pucimanda có một cái hốc lớn được gọi là naḷerupucimanda. Tuy nhiên, vị Chú giải sư, để chỉ ra một ý nghĩa duy nhất và nói rằng: “Nói nhiều ở đây có ích gì?”, đã nói: “Naḷeru là tên của một vị dạ xoa” v.v…

Mūla-saddo ettha samīpavacano adhippeto, na mūlamūlādīsu vattamānoti dassento āha ‘‘mūlanti samīpa’’ntiādi. Nippariyāyena sākhādimato saṅghātassa suppatiṭṭhitabhāvasādhane avayavavisese pavattamāno mūlasaddo yasmā taṃsadisesu tannissaye padese ca ruḷhīvasena pariyāyato pavattati, tasmā ‘‘mūlāni uddhareyyā’’ti ettha nippariyāyato mūlaṃ adhippetanti ekena mūlasaddena visesetvā āha ‘‘mūlamūle dissatī’’ti yathā ‘‘dukkhadukkhaṃ, rūparūpa’’nti ca. Asādhāraṇahetumhīti asādhāraṇakāraṇe. Lobho hi lobhasahagataakusalacittuppādasseva hetuttā asādhāraṇo, tasmā lobhasahagatacittuppādānameva āveṇike nesaṃ suppatiṭṭhitabhāvasādhanato mūlaṭṭhena upakārake paccayadhammaviseseti attho. Atha vā yathā alobhādayo kusalābyākatasādhāraṇā, lobhādayo pana tathā na honti akusalasseva sādhāraṇattāti asādhāraṇakāraṇaṃ. Atha vā ādīsūti ettha ādi-saddena alobhādīnampi kusalābyākatamūlānaṃ saṅgaho daṭṭhabbo. Tesupi hi alobhādikusalamūlaṃ akusalābyākatehi asādhāraṇattā asādhāraṇakāraṇaṃ, tathā alobhādiabyākatamūlampi itaradvayehi asādhāraṇattāti. Nivāteti vātarahite padese, vātassa abhāve vā. Patantīti nipatanti, ayameva vā pāṭho. Ramaṇīyoti manuñño. Pāsādikoti pasādāvaho, pasādajanakoti attho. Ādhipaccaṃ kurumāno viyāti sambandho.
Để chỉ ra rằng từ ‘gốc’ ở đây được chủ trương theo ý nghĩa là gần, chứ không phải nói về rễ cây chính v.v…, (chú giải) nói: “Gốc là gần” v.v… Bởi vì từ ‘gốc,’ một cách trực tiếp, chỉ về một bộ phận đặc biệt giúp cho sự hợp thành của các cành nhánh v.v… được đứng vững, nhưng lại được sử dụng một cách gián tiếp theo thói quen ở những nơi liên quan đến nó, do đó trong câu “hãy nhổ tận gốc rễ,” vì từ ‘gốc’ được chủ trương theo nghĩa trực tiếp, nên đã được phân biệt bằng một từ ‘gốc’ khác mà nói: “được thấy ở rễ của gốc,” giống như “khổ của khổ,” và “sắc của sắc.” Trong nhân không chung có nghĩa là trong nguyên nhân không chung. Thật vậy, tham là không chung vì chỉ là nhân cho sự sanh khởi của tâm bất thiện câu hữu với tham; do đó, có nghĩa là trong các pháp duyên đặc biệt, vốn là nền tảng riêng biệt cho các tâm câu hữu với tham, và có tác dụng như là gốc rễ vì giúp chúng đứng vững. Hoặc là, giống như vô tham v.v… là chung cho cả thiện và vô ký, nhưng tham v.v… thì không như vậy, vì chỉ chung cho bất thiện, nên là nguyên nhân không chung. Hoặc là, trong câu v.v…, bằng từ v.v… cần phải hiểu là bao gồm cả các gốc thiện và vô ký như vô tham v.v… Thật vậy, trong số đó, gốc thiện vô tham v.v… là nguyên nhân không chung vì không chung với bất thiện và vô ký; tương tự, gốc vô ký vô tham v.v… cũng không chung với hai loại còn lại. Ở nơi lặng gió là ở nơi không có gió, hoặc khi không có gió. Rơi xuống là rụng xuống, hoặc đây chính là cách đọc. Thích ý là vừa lòng. Ưa nhìn có nghĩa là mang lại sự trong sạch, làm phát sanh sự trong sạch. Cần liên kết là: giống như đang thực thi quyền uy.

Tatthāti ‘‘tena samayena buddho bhagavā verañjāyaṃ viharati naḷerupucimandamūle’’ti yaṃ vuttaṃ, tattha. Siyāti kassaci evaṃ parivitakko siyā, vakkhamānākārena kadāci codeyya vāti attho. Yadi tāva bhagavātiādīsu codakassāyamadhippāyo – ‘‘pāṭaliputte pāsāde vasatī’’tiādīsu viya adhikaraṇādhikaraṇaṃ yadi bhaveyya, tadā ‘‘verañjāyaṃ viharati naḷerupucimandamūle’’ti adhikaraṇadvayaniddeso yutto siyā, imesaṃ pana bhinnadesattā na yutto ubhayaniddesoti. Atha tattha viharatīti yadi naḷerupucimandamūle viharati. Na vattabbanti nānāṭhānabhūtattā verañjānaḷerupucimandamūlānaṃ ‘‘tena samayenā’’ti ca vuttattāti adhippāyo. Idāni codako tameva attano adhippāyaṃ ‘‘na hi sakkā’’tiādinā vivarati. Verañjānaḷerupucimandamūlānaṃ bhūmibhāgavasena bhinnattāyeva hi na sakkā ubhayattha teneva samayena viharituṃ, ‘‘ubhayattha teneva samayenā’’ti ca vuttattā nānāsamaye vihāro avāritoti veditabbo.
Ở đó có nghĩa là, trong câu “Vào thời ấy, Đức Phật, Thế Tôn, an trú tại Verañjā, ở gốc cây pucimanda của Naḷeru” đã được nói đến. Có thể có có nghĩa là, một người nào đó có thể có suy tư như vầy, hoặc có thể chất vấn theo cách sẽ được nói đến. Trong câu Nếu như Thế Tôn v.v…, chủ ý của người chất vấn là như vầy: “Nếu có trường hợp vị trí cách chứa đựng vị trí cách khác, giống như trong câu ‘sống trong cung điện ở Pāṭaliputta’ v.v…, thì việc chỉ định hai vị trí cách là ‘an trú tại Verañjā, ở gốc cây pucimanda của Naḷeru’ có thể hợp lý. Tuy nhiên, vì chúng là hai nơi khác nhau, nên việc chỉ định cả hai là không hợp lý.” Vậy nếu Ngài an trú ở đó có nghĩa là nếu Ngài an trú ở gốc cây pucimanda của Naḷeru. Thì không nên nói, chủ ý là vì Verañjā và gốc cây pucimanda của Naḷeru là những nơi chốn khác nhau, và vì đã nói là “bởi thời gian ấy.” Bây giờ, người chất vấn làm rõ ý định của mình bằng câu “bởi vì không thể” v.v… Cần phải hiểu rằng, chính vì Verañjā và gốc cây pucimanda của Naḷeru là hai vùng đất khác nhau nên không thể an trú ở cả hai nơi vào cùng một thời điểm; và vì đã nói là “ở cả hai nơi vào cùng một thời điểm,” nên việc an trú vào những thời điểm khác nhau là không bị ngăn cản.

Itaro sabbametaṃ aviparītamatthaṃ ajānantena tayā vuttanti dassento ‘‘na kho panetaṃ evaṃ daṭṭhabba’’ntiādimāha. Tattha etanti ‘‘verañjāyaṃ viharati naḷerupucimandamūle’’ti etaṃ vacanaṃ. Evanti ‘‘yadi tāva bhagavā’’tiādinā yaṃ taṃ bhavatā coditaṃ, taṃ atthato evaṃ na kho pana daṭṭhabbaṃ, na ubhayattha apubbaṃ acarimaṃ vihāradassanatthanti attho. Idāni attanā yathādhippetaṃ aviparītamatthaṃ tassa ca paṭikacceva vuttabhāvaṃ tena ca appaṭividdhataṃ pakāsento ‘‘nanu avocumha samīpatthe bhummavacana’’ntiādimāha. Goyūthānīti gomaṇḍalāni. Evampi naḷerupucimandamūle viharaticceva vattabbaṃ, na verañjāyanti, tasmā samīpādhikaraṇatthavasena ubhayathā nidānakittane kiṃ payojananti codanaṃ manasi nidhāyāha ‘‘gocaragāmanidassanattha’’ntiādi. Assāti bhagavato.
Vị kia, để chỉ ra rằng tất cả những điều này đã được ông nói ra do không biết ý nghĩa không sai lạc, đã nói: “Tuy nhiên, điều này không nên được hiểu như vậy” v.v… Ở đó, điều này là lời nói “Ngài an trú tại Verañjā, ở gốc cây pucimanda của Naḷeru.” Như vậy có nghĩa là, điều mà ngài đã chất vấn bằng câu “Nếu như Thế Tôn” v.v…, về mặt ý nghĩa thì không nên được hiểu như vậy; không phải nhằm để thấy sự an trú ở cả hai nơi một cách đồng thời. Bây giờ, để làm sáng tỏ ý nghĩa không sai lạc theo như chủ ý của mình, việc điều đó đã được nói đến từ trước, và việc ông đã không thấu triệt điều đó, (vị kia) nói: “Chẳng phải chúng tôi đã nói rằng vị trí cách có ý nghĩa gần hay sao” v.v… Các đàn bò là các bầy bò. Dù vậy, vẫn phải nói là Ngài an trú tại gốc cây pucimanda của Naḷeru, chứ không phải tại Verañjā. Do đó, sau khi ghi nhớ câu chất vấn rằng: “Việc nêu lên nền tảng ở cả hai nơi theo cách vị trí cách chỉ sự gần có mục đích gì?”, (vị kia) nói: “Nhằm chỉ ra làng để khất thực” v.v… Của Ngài là của Thế Tôn.

Avassañcettha gocaragāmakittanaṃ kattabbaṃ. Yathā hi naḷerupucimandamūlakittanaṃ pabbajitānuggahakaraṇādianekappayojanaṃ, evaṃ gocaragāmakittanampi gahaṭṭhānuggahakaraṇādivividhappayojananti dassento ‘‘verañjākittanenā’’tiādimāha. Tattha gahaṭṭhānuggahakaraṇanti tesaṃ tattha paccayaggahaṇena upasaṅkamanapayirupāsanādīnaṃ okāsadānena dhammadesanāya saraṇesu sīlesu ca patiṭṭhāpanena yathūpanissayaṃ uparivisesādhigamāvahanena ca gahaṭṭhānaṃ anuggahakaraṇaṃ. Pabbajitānuggahakaraṇanti uggahaparipucchānaṃ kammaṭṭhānānuyogassa ca anurūpavasanaṭṭhānapariggahenettha pabbajitānaṃ anuggahakaraṇaṃ.
Và ở đây, việc đề cập đến làng để khất thực chắc chắn phải được thực hiện. Để chỉ ra rằng, giống như việc đề cập đến gốc cây pucimanda của Naḷeru có nhiều mục đích như giúp đỡ các vị xuất gia, việc đề cập đến làng để khất thực cũng có nhiều mục đích khác nhau như giúp đỡ các vị tại gia v.v…, (vị kia) nói: “Bởi việc đề cập đến Verañjā” v.v… Ở đó, sự giúp đỡ các vị tại gia là sự giúp đỡ các vị tại gia bằng cách nhận các vật dụng của họ, tạo cơ hội cho họ đến thăm viếng, hầu cận v.v…, thuyết pháp cho họ, làm cho họ an trú trong các quy y và các giới, và mang lại sự chứng đắc các pháp cao hơn tùy theo căn cơ của họ. Sự giúp đỡ các vị xuất gia là sự giúp đỡ các vị xuất gia ở đây bằng cách chọn một nơi ở thích hợp cho việc học hỏi, hỏi han và thực hành đề mục thiền định.

Paccayaggahaṇeneva paccayaparibhogasiddhito āha ‘‘tathā purimena…pe… vivajjananti. Tattha purimenāti verañjāvacanena. Āhito ahaṃmāno etthāti attā, attabhāvo. Tassa kilamatho kilantabhāvo attakilamatho, attapīḷā attadukkhanti vuttaṃ hoti, tassa anuyogo karaṇaṃ attakilamathānuyogo, upavāsakaṇṭakāpassayaseyyādinā attano dukkhuppādananti vuttaṃ hoti. Tassa vivajjanaṃ attakilamathānuyogavivajjanaṃ. Antogāme vasantānaṃ anicchantānampi visabhāgarūpādiārammaṇadassanādisambhavato bahigāme patirūpaṭṭhāne vasantānaṃ tadabhāvato āha ‘‘pacchimena vatthukāmappahānato’’tiādi. Tattha pacchimenāti naḷerupucimandamūlavacanena. Kilesakāmassa vatthubhūtattā rūpādayo pañca kāmaguṇā vatthukāmo, tassa pahānaṃ vatthukāmappahānaṃ. Kāmasukhallikānuyogavivajjanupāyadassananti vatthukāmesu kilesakāmasaṃyuttassa sukhassa yogo anuyogo anubhavo, tassa parivajjane upāyadassanaṃ.
Vì sự thọ dụng các vật dụng đã được thành tựu chỉ bằng việc nhận các vật dụng, nên (vị kia) nói: “Cũng vậy, bởi điều trước…v.v… sự từ bỏ”. Ở đó, bởi điều trước là bởi lời nói về Verañjā. Nơi mà ngã mạn được đặt vào là tự ngã, là thân mạng. Sự mệt mỏi, sự kiệt sức của nó là sự mệt mỏi của thân; có nghĩa là sự tự hành hạ, sự tự làm khổ mình. Sự thực hành điều đó là pháp hành khổ hạnh ép xác; có nghĩa là việc tạo ra sự đau khổ cho bản thân bằng cách nhịn ăn, nằm trên gai v.v… Sự từ bỏ điều đó là sự từ bỏ pháp hành khổ hạnh ép xác. Do những người sống trong làng, dù không muốn, cũng có thể thấy các đối tượng như sắc pháp không tương hợp v.v…, còn những người sống ở nơi thích hợp ngoài làng thì không có điều đó, nên (vị kia) nói: “bởi điều sau, do từ bỏ các dục trưởng dưỡng” v.v… Ở đó, bởi điều sau là bởi lời nói về gốc cây pucimanda của Naḷeru. Vì là đối tượng trưởng dưỡng cho dục vọng phiền não, nên năm dục trưởng dưỡng là dục trưởng dưỡng; sự từ bỏ nó là sự từ bỏ các dục trưởng dưỡng. Sự chỉ ra phương pháp từ bỏ pháp hành đam mê dục lạc có nghĩa là sự thực hành, sự hưởng thụ hạnh phúc liên quan đến dục vọng phiền não trong các dục trưởng dưỡng; là sự chỉ ra phương pháp để từ bỏ điều đó.

Sayameva gocaragāmaṃ upasaṅkamitvā attano dhammassavanānurūpabhabbapuggalānaṃ dassanato dhammadesanāya kālo sampatto nāma hotīti dhammadesanāya abhiyogo viññāyatīti āha ‘‘purimena ca dhammadesanābhiyoga’’nti. Dhammadesanāya saussāhabhāvo dhammadesanābhiyogo. Bahigāme vivittokāse vasantassa ākiṇṇavihārābhāvato kāyavivekādīsu adhimutti tappoṇatā viññāyatīti āha ‘‘pacchimena vivekādhimutti’’nti.
Do chính Ngài đi vào làng để khất thực và tìm thấy những người có căn cơ phù hợp để nghe pháp của mình, nên thời gian thuyết pháp được xem là đã đến; do đó, sự nỗ lực thuyết pháp được hiểu rõ, nên (vị kia) nói: “Và bởi điều trước, sự nỗ lực thuyết pháp.” Trạng thái nhiệt tâm thuyết pháp là sự nỗ lực thuyết pháp. Do người sống ở nơi vắng vẻ ngoài làng không có sự ồn ào, nên sự hướng tâm, sự nghiêng về thân độc cư v.v… được hiểu rõ, nên (vị kia) nói: “bởi điều sau, sự hướng tâm đến độc cư.”

Dhammadesanābhiyogavivekādhimuttīnaṃ hetubhūtā eva karuṇāpaññā dhammadesanāya upagamanassa tato apagamanassa kāraṇabhūtā hontīti āha ‘‘purimena karuṇāya upagamana’’ntiādi. Karuṇāpaññāyeva hi anantaradukassa hetū honti. Etena ca karuṇāya upagamanaṃ na lābhādinimittaṃ , paññāya apagamanaṃ na virodhādinimittanti upagamanāpagamanānaṃ nirupakkilesataṃ vibhāvibhanti daṭṭhabbaṃ. Adhimuttatanti tanninnabhāvaṃ. Nirupalepananti anupalepanaṃ anallīyanaṃ.
Chính lòng bi và trí tuệ, vốn là nhân cho sự nỗ lực thuyết pháp và sự hướng tâm đến độc cư, trở thành nguyên nhân của việc đi đến và đi khỏi nơi thuyết pháp, nên (vị kia) nói: “Bởi điều trước, sự đi đến bằng lòng bi” v.v… Thật vậy, chính lòng bi và trí tuệ là nhân cho hai cặp đối lập tiếp theo. Và cần phải thấy rằng, bằng điều này, (chú giải) làm sáng tỏ sự trong sạch của việc đi đến và đi khỏi, rằng việc đi đến bằng lòng bi không phải vì dấu hiệu lợi lộc v.v…, và việc đi khỏi bằng trí tuệ không phải vì dấu hiệu chống đối v.v… Sự hướng tâm là trạng thái nghiêng về điều đó. Sự không vấy bẩn là sự không nhiễm bẩn, sự không dính mắc.

Dhammikasukhāpariccāganimittanti ettha dhammikasukhaṃ nāma anavajjasukhaṃ. Tañhi dhammikaṃ lābhaṃ paṭicca uppannattā ‘‘dhammikasukha’’nti vuccati. Uttarimanussadhammābhiyoganimittaṃ phāsuvihāranti sambandho. Manussānaṃ upakārabahulatanti paccayapaṭiggahaṇadhammadesanādivasena upakārabahulataṃ. Devatānaṃ upakārabahulataṃ janavivittatāya. Pacurajanavivittañhi ṭhānaṃ devā upasaṅkamitabbaṃ maññanti. Loke saṃvaḍḍhabhāvanti āmisopabhogena saṃvaḍḍhitabhāvaṃ.
Dấu hiệu của việc không từ bỏ hạnh phúc hợp pháp có nghĩa là, ở đây hạnh phúc hợp pháp là hạnh phúc không bị chê trách. Thật vậy, vì nó sanh khởi dựa vào lợi lộc hợp pháp, nên được gọi là “hạnh phúc hợp pháp.” Cần liên kết là: dấu hiệu của sự nỗ lực thực hành các pháp của bậc thượng nhân là sự an trú thoải mái. Sự giúp ích nhiều cho loài người có nghĩa là sự giúp ích nhiều qua việc nhận các vật dụng, thuyết pháp v.v… Sự giúp ích nhiều cho chư thiên là do sự vắng lặng khỏi đám đông. Thật vậy, chư thiên cho rằng nơi vắng lặng khỏi đám đông là nơi nên đến. Trạng thái được nuôi dưỡng trong đời có nghĩa là trạng thái được nuôi dưỡng bằng việc hưởng thụ các vật chất.

Ekapuggaloti ettha (a. ni. aṭṭha. 1.1.170) ekoti dutiyādipaṭikkhepattho gaṇanaparicchedo. Puggaloti sammutikathā, na paramatthakathā. Buddhassa hi bhagavato duvidhā desanā sammutidesanā paramatthadesanā cāti. Ayamattho pana heṭṭhā vitthāritovāti idha na vuccati. Eko ca so puggalo cāti ekapuggalo. Kenaṭṭhena ekapuggalo? Asadisaṭṭhena guṇavisiṭṭhaṭṭhena asamasamaṭṭhena. So hi dasannaṃ pāramīnaṃ paṭipāṭiyā āvajjanaṃ ādiṃ katvā bodhisambhāraguṇehi ceva buddhaguṇehi ca sesamahājanena asadisoti asadisaṭṭhenapi ekapuggalo. Ye cassa te guṇā, tepi aññasattānaṃ guṇehi visiṭṭhāti guṇavisiṭṭhaṭṭhenapi ekapuggalo. Purimakā sammāsambuddhā sabbasattehi asamā, tehi saddhiṃ ayameva eko rūpakāyaguṇehi ceva nāmakāyaguṇehi ca samoti asamasamaṭṭhenapi ekapuggalo. Loketi sattaloke.
Trong câu (a. ni. aṭṭha. 1.1.170) một người, một là sự xác định về số lượng, có ý nghĩa phủ định người thứ hai v.v… Người là cách nói theo quy ước, không phải cách nói theo chân đế. Thật vậy, sự thuyết giảng của Đức Phật, Thế Tôn, có hai loại: sự thuyết giảng theo quy ước và sự thuyết giảng theo chân đế. Tuy nhiên, ý nghĩa này đã được giải thích chi tiết ở phần dưới, nên không được nói đến ở đây. Vị ấy là một và vị ấy là người, nên là một người. Theo ý nghĩa nào là một người? Theo ý nghĩa không có người sánh bằng, ý nghĩa đặc biệt về phẩm hạnh, ý nghĩa bằng với người không ai sánh bằng. Thật vậy, Ngài, bắt đầu từ việc quán xét tuần tự mười ba-la-mật, do không có người sánh bằng với phần đông chúng sanh khác về các phẩm hạnh là tư lương của một vị Bồ-tát và về các phẩm hạnh của một vị Phật, nên cũng là một người theo ý nghĩa không có người sánh bằng. Và những phẩm hạnh ấy của Ngài cũng đặc biệt hơn các phẩm hạnh của các chúng sanh khác, nên cũng là một người theo ý nghĩa đặc biệt về phẩm hạnh. Các vị Chánh Đẳng Giác trong quá khứ không ai sánh bằng với tất cả chúng sanh, và chỉ một mình vị này bằng với các vị ấy về các phẩm hạnh của sắc thân và danh thân, nên cũng là một người theo ý nghĩa bằng với người không ai sánh bằng. Trong đời là trong thế giới chúng sanh.

Uppajjamāno uppajjatīti idaṃ pana ubhayampi vippakatavacanameva. Uppajjanto bahujanahitatthāya uppajjati, na aññena kāraṇenāti evaṃ panettha attho veditabbo. Evarūpañcettha lakkhaṇaṃ na sakkā etaṃ aññena saddalakkhaṇena paṭibāhituṃ. Apica uppajjamāno nāma, uppajjati nāma, uppanno nāmāti ayamettha bhedo veditabbo. Esa hi dīpaṅkarapādamūlato laddhabyākaraṇo buddhakārakadhamme pariyesanto dasa pāramiyo disvā ‘‘ime dhammā mayā pūretabbā’’ti katasanniṭṭhāno dānapāramiṃ pūrentopi uppajjamāno nāma. Sīlapāramiṃ…pe… upekkhāpāraminti imā dasa pāramiyo pūrentopi, dasa upapāramiyo pūrentopi uppajjamāno nāma. Dasa paramatthapāramiyo pūrentopi uppajjamāno nāma. Pañca mahāpariccāge pariccajantopi uppajjamāno nāma. Ñātatthacariyaṃ lokatthacariyaṃ buddhatthacariyaṃ pūrayamānopi uppajjamāno nāma. Kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni buddhakārake dhamme matthakaṃ pāpentopi uppajjamāno nāma. Vessantarattabhāvaṃ pahāya tusitapure paṭisandhiṃ gahetvā saṭṭhivassasatasahassādhikā sattapaṇṇāsa vassakoṭiyo tiṭṭhantopi uppajjamāno nāma. Devatāhi yācito pañca mahāvilokanāni viloketvā māyādeviyā kucchismiṃ paṭisandhiṃ gaṇhantopi, anūnādhike dasa māse gabbhavāsaṃ vasantopi uppajjamāno nāma. Ekūnatiṃsa vassāni agāramajjhe tiṭṭhantopi uppajjamāno nāma. Kāmesu ādīnavaṃ nekkhamme ca ānisaṃsaṃ disvā rāhulabhaddassa jātadivase channasahāyo kaṇḍakaṃ assavaramāruyha nikkhamantopi uppajjamāno nāma. Tīṇi rajjāni atikkamanto anomanaditīre pabbajantopi uppajjamāno nāma. Chabbassāni mahāpadhānaṃ karontopi uppajjamāno nāma. Paripākagate ñāṇe oḷārikaṃ āhāraṃ āharantopi uppajjamāno nāma. Sāyanhasamaye visākhapuṇṇamāyaṃ mahābodhimaṇḍaṃ āruyha mārabalaṃ vidhametvā paṭhamayāme pubbenivāsaṃ anussaritvā majjhimayāme dibbacakkhuṃ parisodhetvā pacchimayāmasamanantare dvādasaṅgaṃ paṭiccasamuppādaṃ anulomapaṭilomato sammasitvā sotāpattimaggaṃ paṭivijjhantopi uppajjamāno nāma. Sotāpattiphalakkhaṇepi sakadāgāmiphalakkhaṇepi anāgāmiphalakkhaṇepi uppajjamāno nāma. Arahattamaggakkhaṇe pana uppajjati nāma. Arahattaphalakkhaṇe uppanno nāma. Buddhānañhi sāvakānaṃ viya na paṭipāṭiyā iddhividhañāṇādīni uppajjanti, saheva pana arahattamaggena sakalopi sabbaññutaññāṇādi guṇarāsi āgatova nāma hoti, tasmā nibbattasabbakiccattā arahattaphalakkhaṇe uppanno nāma hoti. Imasmimpi sutte arahattaphalakkhaṇaṃyeva sandhāya ‘‘uppajjatī’’ti vuttaṃ. Uppanno hotīti ayañhettha attho.
Đang sanh khởi, sanh khởi, cả hai từ này đều là lời nói chưa hoàn tất. Cần phải hiểu ý nghĩa ở đây là: người đang sanh khởi là sanh khởi vì lợi ích của nhiều người, chứ không phải vì một lý do nào khác. Và đặc điểm như vậy ở đây không thể bị bác bỏ bởi một đặc điểm ngôn ngữ nào khác. Hơn nữa, cần phải hiểu sự khác biệt ở đây là: có người đang sanh khởi, có người sanh khởi, và có người đã sanh khởi. Vị này, sau khi nhận được lời thọ ký từ chân của Đức Phật Dīpaṅkara, trong khi tìm kiếm các pháp tạo nên một vị Phật, đã thấy mười ba-la-mật và quyết định rằng “những pháp này ta phải hoàn thiện,” thì trong khi hoàn thiện ba-la-mật về bố thí, được gọi là đang sanh khởi. Trong khi hoàn thiện mười ba-la-mật này: ba-la-mật về trì giới…v.v… ba-la-mật về xả, cũng được gọi là đang sanh khởi. Trong khi hoàn thiện mười thượng ba-la-mật, cũng được gọi là đang sanh khởi. Trong khi hoàn thiện mười ba-la-mật bậc cao nhất, cũng được gọi là đang sanh khởi. Trong khi từ bỏ năm sự từ bỏ vĩ đại, cũng được gọi là đang sanh khởi. Trong khi thực hành pháp hành vì lợi ích quyến thuộc, pháp hành vì lợi ích thế gian, pháp hành vì quả vị Phật, cũng được gọi là đang sanh khởi. Trong khi đưa các pháp tạo nên một vị Phật đến mức hoàn hảo trong bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp, cũng được gọi là đang sanh khởi. Sau khi từ bỏ thân phận Vessantara, tái sanh ở cõi trời Tusita và sống ở đó năm mươi bảy trăm triệu và sáu mươi trăm ngàn năm, cũng được gọi là đang sanh khởi. Được chư thiên thỉnh cầu, sau khi quán xét năm điều vĩ đại, trong khi nhập thai vào lòng bà Māyādevī, trong khi ở trong bụng mẹ mười tháng không thiếu không đủ, cũng được gọi là đang sanh khởi. Trong khi ở trong nhà hai mươi chín năm, cũng được gọi là đang sanh khởi. Sau khi thấy sự nguy hiểm trong các dục và lợi ích trong sự xuất gia, vào ngày sinh của hiền giả Rāhulabhadda, cùng với người bạn Channa, cưỡi con ngựa quý Kaṇḍaka và ra đi, cũng được gọi là đang sanh khởi. Trong khi vượt qua ba vương quốc, xuất gia bên bờ sông Anomā, cũng được gọi là đang sanh khởi. Trong khi thực hành đại khổ hạnh trong sáu năm, cũng được gọi là đang sanh khởi. Khi trí tuệ đã chín muồi, trong khi dùng thực phẩm thô, cũng được gọi là đang sanh khởi. Vào buổi chiều ngày rằm tháng Visākha, sau khi lên tòa Bồ-đề, chinh phục ma quân, trong canh đầu nhớ lại các kiếp quá khứ, trong canh giữa thanh lọc thiên nhãn, ngay sau canh cuối quán xét mười hai nhân duyên theo chiều xuôi và ngược, trong khi chứng đắc Tu-đà-hoàn Đạo, cũng được gọi là đang sanh khởi. Vào khoảnh khắc của quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, cũng được gọi là đang sanh khởi. Tuy nhiên, vào khoảnh khắc A-la-hán Đạo, được gọi là sanh khởi. Vào khoảnh khắc A-la-hán Quả, được gọi là đã sanh khởi. Thật vậy, các năng lực như thần thông v.v… của các vị Phật không sanh khởi tuần tự như của các vị đệ tử, mà toàn bộ các phẩm hạnh như nhất thiết trí v.v… đều đến cùng một lúc với A-la-hán Đạo. Do đó, vì tất cả các phận sự đã được hoàn thành, nên vào khoảnh khắc A-la-hán Quả, được gọi là đã sanh khởi. Trong kinh này cũng vậy, từ “sanh khởi” được nói đến khi đề cập đến khoảnh khắc A-la-hán Quả. Ý nghĩa ở đây là: đã sanh khởi.

Bahujanahitāyāti mahājanassa hitatthāya uppajjati. Bahujanasukhāyāti mahājanassa sukhatthāya uppajjati. Lokānukampāyāti sattalokassa anukampaṃ paṭicca uppajjati. Katarasattalokassāti? Yo tathāgatassa dhammadesanaṃ sutvā amatapānaṃ pivi, dhammaṃ paṭivijjhi, tassa. Bhagavatā hi mahābodhimaṇḍe sattasattāhaṃ vītināmetvā bodhimaṇḍā isipatanaṃ āgamma ‘‘dveme, bhikkhave, antā pabbajitena na sevitabbā’’ti dhammacakkappavattanasuttante (saṃ. ni. 3.5; mahāva. 13) desite āyasmatā aññāsikoṇḍaññattherena saddhiṃ aṭṭhārasakoṭisaṅkhā brahmāno amatapānaṃ piviṃsu, etassa sattalokassa anukampāya uppanno. Pañcamadivase anattalakkhaṇasuttantapariyosāne pañcavaggiyattherā arahatte patiṭṭhahiṃsu, etassapi sattalokassa anukampāya uppanno. Tato yasadārakappamukhe pañcapaṇṇāsa purise arahatte patiṭṭhāpesi, tato kappāsikavanasaṇḍe tiṃsa bhaddavaggiye tayo magge ca phalāni ca sampāpesi, etassapi sattalokassa anukampāya uppanno. Gayāsīse ādittapariyāyapariyosāne (saṃ. ni. 4.28; mahāva. 54) jaṭilasahassaṃ arahatte patiṭṭhāpesi, tato laṭṭhivane bimbisārappamukhā ekādasa nahutā brāhmaṇagahapatikā satthu dhammadesanaṃ sutvā sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu, ekaṃ nahutaṃ saraṇesu patiṭṭhitaṃ. Tirokuṭṭaanumodanāvasāne (khu. pā. 7. 1 ādayo) caturāsītiyā pāṇasahassehi amatapānaṃ pītaṃ. Sumanamālākārasamāgame caturāsītiyā, dhanapālasamāgame dasahi pāṇasahassehi, khadiraṅgārajātakasamāgame caturāsītiyā pāṇasahassehi, jambukaājīvakasamāgame caturāsītiyāva, ānandaseṭṭhisamāgame caturāsītiyāva pāṇasahassehi amatapānaṃ pītaṃ. Pāsāṇakacetiye pārāyanasuttakathādivase (su. ni. 982 ādayo) cuddasa koṭiyo amatapānaṃ piviṃsu. Yamakapāṭihāriyadivase vīsati pāṇakoṭiyo, tāvatiṃsabhavane paṇḍukambalasilāyaṃ nisīditvā mātaraṃ kāyasakkhiṃ katvā sattappakaraṇaṃ abhidhammaṃ desentassa asīti pāṇakoṭiyo, devorohaṇe tiṃsa pāṇakoṭiyo, sakkapañhasuttante (dī. ni. 2.344 ādayo) asīti devasahassāni amatapānaṃ piviṃsu. Mahāsamayasuttante (dī. ni. 2.331 ādayo) maṅgalasutte (khu. pā. 5.1 ādayo; su. ni. maṅgalasutta) cūḷarāhulovāde (ma. ni. 3.416 ādayo) samacittapaṭipadāyāti (a. ni. 2.33) imesu catūsu ṭhānesu abhisamayappattasattānaṃ paricchedo natthi, etassapi sattalokassa anukampāya uppannoti. Yāvajjadivasā ito parampi anāgate imaṃ sāsanaṃ nissāya saggamokkhamagge patiṭṭhahantānaṃ vasenapi ayamattho veditabbo.
Vì lợi ích của nhiều người có nghĩa là sanh khởi vì lợi ích của đại chúng. Vì hạnh phúc của nhiều người có nghĩa là sanh khởi vì hạnh phúc của đại chúng. Vì lòng bi mẫn đối với thế gian có nghĩa là sanh khởi do lòng bi mẫn đối với thế giới chúng sanh. Đối với thế giới chúng sanh nào? Đối với những ai sau khi nghe pháp của Như Lai đã uống vị cam lồ, đã thấu triệt chánh pháp. Thật vậy, sau khi Thế Tôn trải qua bảy tuần lễ tại cội Bồ-đề, từ cội Bồ-đề Ngài đến Isipatana và thuyết kinh Chuyển Pháp Luân: “Này các Tỳ-khưu, có hai cực đoan này người xuất gia không nên thực hành” (saṃ. ni. 3.5; mahāva. 13), cùng với trưởng lão Aññāsikoṇḍañña, mười tám trăm triệu vị phạm thiên đã uống vị cam lồ; Ngài đã sanh khởi vì lòng bi mẫn đối với thế giới chúng sanh này. Vào ngày thứ năm, khi kết thúc kinh Vô Ngã Tướng, năm vị trưởng lão nhóm năm anh em đã chứng đắc A-la-hán; Ngài cũng đã sanh khởi vì lòng bi mẫn đối với thế giới chúng sanh này. Sau đó, Ngài đã giúp năm mươi lăm người, đứng đầu là công tử Yasa, chứng đắc A-la-hán. Sau đó, tại rừng Kappāsika, Ngài đã giúp ba mươi vị trong nhóm Bhaddavaggiya chứng đắc ba đạo và các quả; Ngài cũng đã sanh khởi vì lòng bi mẫn đối với thế giới chúng sanh này. Tại Gayāsīsa, khi kết thúc bài kinh Bừng Cháy (saṃ. ni. 4.28; mahāva. 54), Ngài đã giúp một ngàn vị bện tóc chứng đắc A-la-hán. Sau đó, tại rừng Laṭṭhivana, mười một vạn vị Bà-la-môn và gia chủ, đứng đầu là vua Bimbisāra, sau khi nghe pháp của Bậc Đạo Sư đã chứng đắc quả Tu-đà-hoàn; một vạn vị đã an trú trong các quy y. Khi kết thúc bài kinh Tirokuṭṭa (khu. pā. 7. 1 ādayo), tám mươi bốn ngàn chúng sanh đã uống vị cam lồ. Trong buổi gặp gỡ người bán vòng hoa Sumana, tám mươi bốn ngàn vị; trong buổi gặp gỡ voi Dhanapāla, mười ngàn chúng sanh; trong buổi gặp gỡ về bổn sanh chuyện Khadiraṅgāra, tám mươi bốn ngàn chúng sanh; trong buổi gặp gỡ lõa thể Jambuka, cũng tám mươi bốn ngàn vị; trong buổi gặp gỡ trưởng giả Ānanda, cũng tám mươi bốn ngàn chúng sanh đã uống vị cam lồ. Tại tháp Pāsāṇaka, vào ngày thuyết kinh Pārāyana (su. ni. 982 ādayo), mười bốn trăm triệu vị đã uống vị cam lồ. Vào ngày thực hiện song thông, hai mươi trăm triệu chúng sanh; khi Ngài ngồi trên tảng đá Paṇḍukambala ở cõi trời Tāvatiṃsa và thuyết giảng bảy bộ tạng Vi Diệu Pháp với mẹ làm nhân chứng, tám mươi trăm triệu chúng sanh; khi xuống khỏi cõi trời, ba mươi trăm triệu chúng sanh; trong kinh Sakkapañha (dī. ni. 2.344 ādayo), tám mươi ngàn vị trời đã uống vị cam lồ. Trong bốn nơi này: kinh Mahāsamaya (dī. ni. 2.331 ādayo), kinh Maṅgala (khu. pā. 5.1 ādayo; su. ni. maṅgalasutta), bài kinh giáo giới Cūḷarāhula (ma. ni. 3.416 ādayo), và bài kinh Samacittapaṭipadā (a. ni. 2.33), số lượng chúng sanh chứng đắc là không thể kể xiết; Ngài cũng đã sanh khởi vì lòng bi mẫn đối với thế giới chúng sanh này. Ý nghĩa này cũng cần được hiểu theo cách của những người, từ nay về sau, trong tương lai, nhờ vào giáo pháp này mà an trú trong con đường đến cõi trời và giải thoát.

Devamanussānanti na kevalaṃ devamanussānaṃyeva, avasesānaṃ nāgasupaṇṇādīnampi atthāya hitāya sukhāyeva uppanno. Sahetukapaṭisandhike pana maggaphalasacchikiriyāya bhabbe puggale dassetuṃ evaṃ vuttaṃ. Tasmā etesampi atthatthāya hitatthāya sukhatthāyeva uppannoti veditabbo.
Của chư thiên và loài người có nghĩa là không chỉ của riêng chư thiên và loài người, mà Ngài sanh khởi vì mục đích, lợi ích và hạnh phúc của cả những chúng sanh còn lại như rồng, kim sí điểu v.v… Tuy nhiên, điều này được nói như vậy để chỉ ra những người có sự tái sanh với nhân duyên, có khả năng chứng ngộ đạo và quả. Do đó, cần phải hiểu rằng Ngài sanh khởi vì mục đích, lợi ích và hạnh phúc của cả những chúng sanh này.

Katamo ekapuggaloti kathetukamyatāpucchā. Idāni tāya pucchāya puṭṭhaṃ ekapuggalaṃ vibhāvento ‘‘tathāgato arahaṃ sammāsambuddho’’ti āha. Tadatthaparinipphādananti lokatthanipphādanaṃ, buddhakiccasampādananti attho. Paṭhamaṃ lumbinīvane dutiyaṃ bodhimaṇḍeti lumbinīvane rūpakāyena jāto, bodhimaṇḍe dhammakāyena. Evamādināti ādi-saddena verañjākittanato rūpakāyassa anuggaṇhanaṃ dasseti, naḷerupucimandamūlakittanato dhammakāyassa. Tathā purimena parādhīnakiriyākaraṇaṃ, dutiyena attādhīnakiriyākaraṇaṃ. Purimena vā karuṇākiccaṃ, itarena paññākiccaṃ , purimena cassa paramāya anukampāya samannāgamaṃ, pacchimena paramāya upekkhāya samannāgamanti evamādiṃ saṅgaṇhāti.
Một người là ai là câu hỏi do muốn nói. Bây giờ, trong khi phân tích về một người đã được hỏi bởi câu hỏi ấy, (Ngài) đã nói: “Là Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.” Sự hoàn thành mục đích ấy có nghĩa là sự hoàn thành lợi ích cho thế gian, sự hoàn thành phận sự của một vị Phật. Lần đầu ở vườn Lumbinī, lần thứ hai ở cội Bồ-đề có nghĩa là, Ngài sanh ra bằng sắc thân ở vườn Lumbinī, và bằng pháp thân ở cội Bồ-đề. Bằng cách như vậy v.v… có nghĩa là, bằng từ v.v…, (chú giải) bao gồm các ý sau: bằng việc đề cập đến Verañjā, Ngài chỉ ra sự hỗ trợ cho sắc thân; bằng việc đề cập đến gốc cây pucimanda của Naḷeru, Ngài chỉ ra sự hỗ trợ cho pháp thân. Tương tự, bởi điều trước, Ngài chỉ ra việc làm hành động phụ thuộc vào người khác; bởi điều thứ hai, Ngài chỉ ra việc làm hành động phụ thuộc vào chính mình. Hoặc là, bởi điều trước là phận sự của lòng bi; bởi điều kia là phận sự của trí tuệ. Bởi điều trước là sự trang bị lòng bi mẫn tột cùng của Ngài; bởi điều sau là sự trang bị lòng xả tột cùng.

Pacchimakoti guṇena pacchimako. Ānandattheraṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Saṅkhyāyapīti gaṇanatopi. Diṭṭhisīlasāmaññena saṃhatattā saṅghoti imamatthaṃ vibhāvento āha ‘‘diṭṭhisīlasāmaññasaṅkhātasaṅghātena samaṇagaṇenā’’ti. Ettha pana ‘‘yāyaṃ diṭṭhi ariyā niyyānikā niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāya, tathārūpāya diṭṭhiyā diṭṭhisāmaññagato viharatī’’ti (dī. ni. 3.324, 356, ma. ni. 1.492; 3.54) evaṃ vuttāya diṭṭhiyā, ‘‘yāni tāni sīlāni akhaṇḍāni acchiddāni asabalāni akammāsāni bhujissāni viññuppasatthāni aparāmaṭṭhāni samādhisaṃvattanikāni, tathārūpesu sīlesu sīlasāmaññagato viharatī’’ti (dī. ni. 3.324; 356; ma. ni. 1.492; 3.54) evaṃ vuttānañca sīlānaṃ sāmaññasaṅkhātena saṅghato saṅghaṭito sametoti diṭṭhisīlasāmaññasaṅkhātasaṅghāto, samaṇagaṇo. Diṭṭhisīlasāmaññena saṃhatoti vuttaṃ hoti. Tathā hi ‘‘aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso, yaṃ diṭṭhisampanno puggalo sañcicca pāṇaṃ jīvitā voropeyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’’ti ādivacanato diṭṭhisīlānaṃ niyatasabhāvattā sotāpannāpi aññamaññaṃ diṭṭhisīlasāmaññena saṃhatā, pageva sakadāgāmiādayo. Ariyapuggalā hi yattha katthaci dūre ṭhitāpi attano guṇasāmaggiyā saṃhatāyeva. ‘‘Tathārūpāya diṭṭhiyā diṭṭhisāmaññagato viharati (dī. ni. 3.324, 356; ma. ni. 1.492; 3.54), tathārūpesu sīlesu sīlasāmaññagato viharatī’’ti (dī. ni. 3.324, 356; ma. ni. 1.492; 3.54) vacanato puthujjanānampi diṭṭhisīlasāmaññena saṃhatabhāvo labbhatiyeva, idha pana ariyasaṅghoyeva adhippeto ‘‘yo tattha pacchimako, so sotāpanno’’ti vacanato. Etenāti ‘‘pañcamattehi bhikkhusatehī’’ti etena vacanena. Assāti pañcamattassa bhikkhusatassa. Nirabbudotiādīnaṃ vacanattho parato eva āvi bhavissati.
Người cuối cùng là người cuối cùng về phẩm hạnh. Điều này được nói đến khi đề cập đến trưởng lão Ānandatthera. Về số lượng cũng vậy là về mặt đếm. Để làm rõ ý nghĩa này, rằng Tăng chúng là do sự hợp nhất bởi sự tương đồng về tri kiến và giới hạnh, (chú giải) nói: “bởi đoàn thể sa-môn được hợp lại bởi sự tương đồng về tri kiến và giới hạnh.” Ở đây, sự hợp lại được xem là sự tương đồng về tri kiến và giới hạnh là sự hợp lại, sự hòa hợp bởi sự tương đồng của tri kiến đã được nói đến như vầy: “Tri kiến nào là của bậc Thánh, đưa đến giải thoát, và đưa người thực hành nó đến sự đoạn tận hoàn toàn khổ đau, vị ấy an trú, đạt đến sự tương đồng về tri kiến với một tri kiến như vậy” (dī. ni. 3.324, 356, ma. ni. 1.492; 3.54), và của các giới hạnh đã được nói đến như vầy: “Những giới hạnh nào không bị sứt mẻ, không bị thủng, không bị vằn, không bị đốm, đưa đến giải thoát, được bậc trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định, vị ấy an trú, đạt đến sự tương đồng về giới hạnh trong những giới hạnh như vậy” (dī. ni. 3.324; 356; ma. ni. 1.492; 3.54), đó là đoàn thể sa-môn. Có nghĩa là, được hợp lại bởi sự tương đồng về tri kiến và giới hạnh. Thật vậy, vì có lời nói như: “Này các Tỳ-khưu, không có cơ sở, không có lý do gì mà một người có đầy đủ tri kiến lại cố ý cướp đi sinh mạng của một chúng sanh, điều đó không thể xảy ra,” nên do bản chất cố định của tri kiến và giới hạnh, ngay cả các bậc Tu-đà-hoàn cũng được hợp nhất với nhau bởi sự tương đồng về tri kiến và giới hạnh, huống hồ là các bậc Tư-đà-hàm v.v… Thật vậy, các bậc Thánh, dù ở xa nơi nào, cũng đều được hợp nhất bởi sự tương đồng về phẩm hạnh của mình. Theo câu: “vị ấy an trú, đạt đến sự tương đồng về tri kiến với một tri kiến như vậy (dī. ni. 3.324, 356; ma. ni. 1.492; 3.54), vị ấy an trú, đạt đến sự tương đồng về giới hạnh trong những giới hạnh như vậy” (dī. ni. 3.324, 356; ma. ni. 1.492; 3.54), trạng thái hợp nhất bởi sự tương đồng về tri kiến và giới hạnh của cả các vị phàm phu cũng có được, tuy nhiên, ở đây chỉ chủ trương đến Tăng chúng bậc Thánh, vì có câu “người cuối cùng ở đó là bậc Tu-đà-hoàn.” Bởi điều này là bởi lời nói “với khoảng năm trăm vị Tỳ-khưu.” Của nó là của khoảng năm trăm vị Tỳ-khưu. Ý nghĩa của các từ không có u nhọt v.v… sẽ được làm rõ ở phần sau.

Assosīti ettha savanamupalabbhoti āha ‘‘assosīti suṇi upalabhī’’ti, aññāsīti attho. So cāyamupalabbho savanavasenevāti imamatthaṃ dassento āha ‘‘sotadvārasampattavacananigghosānusārena aññāsī’’ti. Avadhāraṇaphalattā saddappayogassa sabbampi vākyaṃ antogadhāvadhāraṇanti āha ‘‘khoti padapūraṇamatte nipāto’’ti. Avadhāraṇattheti pana iminā antogadhāvadhāraṇepi sabbasmiṃ vākye iṭṭhatovadhāraṇatthaṃ khosaddaggahaṇanti dasseti. Tameva iṭṭhatovadhāraṇaṃ dassento āha ‘‘tattha avadhāraṇatthenā’’tiādi. Atha padapūraṇatthena khosaddena kiṃpayojananti āha ‘‘padapūraṇena pana byañjanasiliṭṭhatāmattamevā’’ti. ‘‘Assosī’’ti hi padaṃ khosadde gahite tena phullitamaṇḍitavibhūsitaṃ viya hontaṃ pūritaṃ nāma hoti, tena ca purimapacchimapadāni siliṭṭhāni honti, na tasmiṃ aggahite, tasmā padapūraṇena byañjanasiliṭṭhatāmattameva payojanaṃ. Matta-saddo cettha visesanivattiattho, tenassa anatthantaradīpanataṃ dasseti, eva-saddena pana byañjanasiliṭṭhatāya ekantikataṃ.
Trong từ đã nghe, để chỉ rằng sự nghe là sự nhận biết, (chú giải) nói: “đã nghe là đã nghe, đã nhận biết,” có nghĩa là đã hiểu rõ. Và để chỉ ra rằng sự nhận biết này là do sự nghe, (chú giải) nói: “đã hiểu rõ theo tiếng động của lời nói đến tai.” Do việc sử dụng từ ngữ có kết quả là sự nhấn mạnh, nên toàn bộ câu nói có sự nhấn mạnh ngầm bên trong, do đó (chú giải) nói: “Kho là một tiểu từ chỉ có tác dụng bổ sung cho từ.” Còn trong ý nghĩa nhấn mạnh, bằng câu này, (chú giải) chỉ ra rằng mặc dù có sự nhấn mạnh ngầm trong toàn bộ câu nói, việc dùng từ ‘kho’ là để nhấn mạnh theo ý muốn. Để chỉ ra chính sự nhấn mạnh theo ý muốn đó, (chú giải) nói: “Ở đó, bằng ý nghĩa nhấn mạnh” v.v… Vậy, từ ‘kho’ với ý nghĩa bổ sung cho từ có mục đích gì? (chú giải) nói: “Bằng việc bổ sung cho từ, chỉ có sự trôi chảy của văn tự.” Thật vậy, khi từ ‘kho’ được dùng, từ “đã nghe” giống như được làm cho đầy đặn, trang điểm, tô điểm, nên được gọi là được bổ sung. Và bởi từ đó, các từ trước và sau trở nên trôi chảy, điều mà không có nếu không dùng nó. Do đó, mục đích của việc bổ sung cho từ chỉ là sự trôi chảy của văn tự. Ở đây, từ chỉ có ý nghĩa loại bỏ đặc tính khác, bằng từ đó, (chú giải) chỉ ra rằng nó không làm sáng tỏ một ý nghĩa nào khác. Còn bằng từ eva (chính), (chú giải) chỉ ra tính chất tuyệt đối của sự trôi chảy của văn tự.

Verañjoti ettha saddalakkhaṇānusārena atthaṃ dassento āha ‘‘verañjāyaṃ jāto’’tiādi. Brahmaṃ aṇatīti ettha brahmanti vedo vuccati, so pana mantabrahmakappavasena tividho. Tattha mantā padhānamūlabhāvatoyeva aṭṭhakādīhi pavuttā, itare pana tannissayena jātā, tena padhānasseva gahaṇaṃ. Mante sajjhāyatīti iruvedādike mantasatthe sajjhāyatīti attho. Iruvedādayo hi guttabhāsitabbatāya ‘‘mantā’’ti vuccanti. Idameva hīti avadhāraṇena brahmato jātotiādikaṃ niruttiṃ paṭikkhipati. Jātibrāhmaṇānanti iminā aññepi brāhmaṇā atthīti dasseti. Duvidhā hi brāhmaṇā jātibrāhmaṇā visuddhibrāhmaṇā cāti. Idāni tattha visuddhibrāhmaṇānaṃ niruttiṃ dassento āha ‘‘ariyā panā’’tiādi.
Để chỉ ra ý nghĩa của từ Verañjo theo ngữ pháp, (chú giải) nói: “sanh ra ở Verañjā” v.v… Trong câu người đọc Phạm thư, ở đây Phạm thư là kinh Vệ-đà được nói đến; nó có ba loại: theo cách మంత (thần chú), బ్రాహ్మణ (Phạn thư), và కల్ప (nghi thức). Trong đó, các thần chú, do là nền tảng chính, đã được các vị như Aṭṭhaka v.v… nói đến; còn các loại khác thì sanh ra dựa vào đó, do đó chỉ lấy cái chính. Tụng đọc các thần chú có nghĩa là tụng đọc các bộ sách thần chú như Iruveda v.v… Thật vậy, Iruveda v.v… được gọi là “thần chú” vì cần phải được nói một cách bí mật. Bằng sự nhấn mạnh chính điều này, (chú giải) bác bỏ từ nguyên như là sanh ra từ Phạm thiên v.v… Bằng câu của các vị Bà-la-môn theo dòng dõi, (chú giải) chỉ ra rằng còn có các vị Bà-la-môn khác. Thật vậy, có hai loại Bà-la-môn: Bà-la-môn theo dòng dõi và Bà-la-môn theo sự thanh tịnh. Bây giờ, để chỉ ra từ nguyên của các vị Bà-la-môn theo sự thanh tịnh, (chú giải) nói: “Còn các bậc Thánh” v.v…

Samitapāpattāti accantaṃ anavasesato savāsanaṃ samitapāpattā. Evañhi bāhirakaavītarāgasekkhāsekkhapāpasamaṇato bhagavato pāpasamaṇaṃ visesitaṃ hoti. Vuttamevatthaṃ udāharaṇena vibhāvento āha ‘‘vuttañheta’’ntiādi. Ettha pana ‘‘bāhitapāpoti brāhmaṇo, samitapāpattā samaṇoti vuccatīti idaṃ bhinnagāthāsannissitapadadvayaṃ ekato gahetvā vutta’’nti vadanti. Vuttañhetaṃ tīsupi gaṇṭhipadesu ‘‘samitattā hi pāpānaṃ, samaṇoti pavuccatīti idaṃ vacanaṃ gahetvā ‘samitattā samaṇoti vuccatī’ti vuttaṃ. Bāhitapāpoti brāhmaṇoti idaṃ pana aññasmiṃ gāthābandhe vuttavacana’’nti. Anekatthattā nipātānaṃ idha anussavanatthe adhippetoti āha ‘‘khalūti anussavanatthe nipāto’’ti. Jātisamudāgatanti jātiyā āgataṃ, jātisiddhanti vuttaṃ hoti. Ālapanamattanti piyālāpavacanamattaṃ. Piyasamudāhārā hete bhoti vā āvusoti vā devānampiyāti vā. Bhovādī nāma so hotīti yo āmantanādīsu ‘‘bho bho’’ti vadanto vicarati, so bhovādī nāma hotīti attho. Sakiñcanoti rāgādīhi kiñcanehi sakiñcano. Rāgādayo hi satte kiñcenti maddanti palibundhantīti ‘‘kiñcanānī’’ti vuccanti. Manussā kira goṇehi khalaṃ maddāpentā ‘‘kiñcehi kapila, kiñcehi kāḷakā’’ti vadanti, tasmā maddanaṭṭho kiñcanaṭṭhoti veditabbo.
Do đã dẹp yên các điều ác có nghĩa là do đã dẹp yên các điều ác cùng với các tiềm năng của chúng một cách hoàn toàn, không còn sót lại. Như vậy, sự dẹp yên các điều ác của Thế Tôn được phân biệt với sự dẹp yên các điều ác của các sa-môn ngoại đạo, các bậc hữu học và vô học chưa ly tham. Để làm rõ ý nghĩa đã nói bằng ví dụ, (chú giải) nói: “Bởi vì điều này đã được nói” v.v… Ở đây, người ta nói rằng: “Người đã loại trừ các điều ác là Bà-la-môn, do đã dẹp yên các điều ác nên được gọi là sa-môn; hai từ này, vốn thuộc về các bài kệ khác nhau, đã được lấy và nói chung với nhau.” Điều này đã được nói trong cả ba sách chú giải khó từ: “Lấy câu ‘Vì đã dẹp yên các điều ác, nên được gọi là sa-môn,’ mà nói rằng ‘do đã dẹp yên nên được gọi là sa-môn.’ Còn câu ‘Người đã loại trừ các điều ác là Bà-la-môn’ là lời được nói trong một bài kệ khác.” Do các tiểu từ có nhiều ý nghĩa, nên ở đây được chủ trương theo ý nghĩa nghe theo, do đó (chú giải) nói: “Khalu là một tiểu từ có ý nghĩa nghe theo.” Đến từ dòng dõi có nghĩa là đến từ dòng dõi, là được thành tựu bởi dòng dõi. Chỉ là lời gọi có nghĩa là chỉ là lời nói thân ái. Thật vậy, ‘bho’ hay ‘āvuso’ hay ‘devānampiya’ là những cách nói thân ái. Người ấy được gọi là người nói ‘bho’ có nghĩa là, người nào đi lại và nói “bho, bho” trong khi gọi v.v…, người ấy được gọi là người nói ‘bho.’ Người có phiền não là người có các phiền não như tham ái v.v… Thật vậy, tham ái v.v… làm cho chúng sanh đau khổ, dày vò, trói buộc, nên được gọi là “phiền não” (kiñcanāni). Nghe nói, khi con người cho bò đạp lúa, họ nói: “hãy đạp đi, này Kapila, hãy đạp đi, này Kāḷaka,” do đó cần phải hiểu rằng ý nghĩa dày vò là ý nghĩa của từ phiền não.

Gottavasenāti ettha gaṃ tāyatīti gottaṃ. Gosaddena cettha abhidhānaṃ buddhi ca vuccati, tasmā evamettha attho daṭṭhabbo. Gotamoti pavattamānaṃ abhidhānaṃ buddhiñca ekaṃsikavisayatāya tāyati rakkhatīti gottaṃ. Yathā hi buddhi ārammaṇabhūtena atthena vinā na vattati, evaṃ abhidhānaṃ abhidheyyabhūtena, tasmā so gottasaṅkhāto attho tāni buddhiabhidhānāni tāyati rakkhatīti vuccati. So pana aññakulaparamparāya asādhāraṇaṃ tassa kulassa ādipurisasamudāgataṃ taṃkulapariyāpannasādhāraṇaṃ sāmaññarūpanti daṭṭhabbaṃ. Ettha ca samaṇoti iminā sarikkhakajanehi bhagavato bahumatabhāvo dassito samitapāpatākittanato, gotamoti iminā lokiyajanehi uḷārakulasambhūtatādīpanato. Sakyassa suddhodanamahārājassa putto sakyaputto. Iminā ca uditoditavipulakhattiyakulavibhāvanato vuttaṃ ‘‘idaṃ pana bhagavato uccākulapaadīpana’’nti. Sabbakhattiyānañhi ādibhūtamahāsammatamahārājato paṭṭhāya asambhinnaṃ uḷāratamaṃ sakyarājakulaṃ. Kenaci pārijuññena anabhibhūtoti ñātipārijuññabhogapārijuññādinā kenaci pārijuññena parihāniyā anabhibhūto anajjhotthaṭo. Tathā hi lokanāthassa abhijātiyaṃ tassa kulassa na kiñci pārijuññaṃ, atha kho vaḍḍhiyeva. Abhinikkhamane ca tato samiddhatamabhāvo loke pākaṭo paññāto. Tena ‘‘sakyakulā pabbajito’’ti idaṃ vacanaṃ bhagavato saddhāpabbajitabhāvaparidīpanatthaṃ vuttaṃ mahantaṃ ñātiparivaṭṭaṃ mahantañca bhogakkhandhaṃ pahāya pabbajitabhāvasiddhito. Tato paranti ‘‘verañjāyaṃ viharatī’’tiādi.
Trong câu theo họ, ở đây, họ (gottaṃ) là vì bảo vệ (tāyati) dòng dõi (gaṃ). Và ở đây, bởi từ ‘go,’ tên gọi và sự hiểu biết được nói đến, do đó cần phải hiểu ý nghĩa ở đây như sau: Nó bảo vệ, giữ gìn tên gọi đang được lưu hành là Gotama và sự hiểu biết bằng cách làm cho đối tượng trở nên duy nhất, nên là họ. Giống như sự hiểu biết không tồn tại nếu không có đối tượng, thì tên gọi cũng không tồn tại nếu không có đối tượng được gọi. Do đó, ý nghĩa được xem là họ ấy được nói là bảo vệ, giữ gìn sự hiểu biết và tên gọi đó. Và cần phải hiểu rằng nó là một hình thức chung, không chung với các dòng họ khác, đến từ vị tổ tiên của dòng họ ấy, và chung cho những người thuộc dòng họ đó. Và ở đây, bằng từ sa-môn, sự kính trọng của những người đồng hạnh đối với Thế Tôn được chỉ ra, do sự tán thán về việc đã dẹp yên các điều ác. Bằng từ Gotama, (sự kính trọng được chỉ ra) do việc làm sáng tỏ rằng Ngài sanh ra từ một dòng họ cao quý đối với những người thế gian. Con trai của đức vua Suddhodana dòng Sakya là người con của dòng Sakya. Và bằng từ này, do sự làm rõ về dòng dõi vua chúa vô cùng cao quý, đã nói rằng: “Đây là sự làm sáng tỏ về dòng dõi cao quý của Thế Tôn.” Thật vậy, dòng dõi vua Sakya là dòng dõi cao quý nhất, không bị pha tạp, bắt đầu từ đức vua Mahāsammata, vị vua đầu tiên của tất cả các vị vua chúa. Không bị suy thoái bởi bất kỳ sự suy yếu nào có nghĩa là không bị suy thoái, không bị lấn át bởi sự suy yếu nào như sự suy yếu về quyến thuộc, sự suy yếu về tài sản v.v… Thật vậy, trong sự ra đời của Đấng Lãnh Đạo Thế Giới, dòng họ của Ngài không có bất kỳ sự suy yếu nào, mà chỉ có sự phát triển. Và khi Ngài xuất gia, trạng thái vô cùng thịnh vượng của dòng họ lúc bấy giờ đã trở nên nổi tiếng, được biết đến trong thế gian. Do đó, câu “xuất gia từ dòng họ Sakya” này được nói nhằm làm sáng tỏ trạng thái xuất gia vì đức tin của Thế Tôn, do sự thành tựu của việc Ngài đã từ bỏ quyến thuộc đông đảo và khối tài sản lớn lao mà xuất gia. Sau đó là câu “Ngài an trú tại Verañjā” v.v…

Itthambhūtākhyānatthe upayogavacananti itthaṃ imaṃ pakāraṃ bhūto āpannoti ittambhūto, tassa ākhyānaṃ itthambhūtākhyānaṃ, soyeva attho itthambhūtākhyānattho. Atha vā itthaṃ evaṃ pakāro bhūto jātoti evaṃ kathanattho itthambhūtākhyānattho, tasmiṃ upayogavacananti attho. Ettha ca abbhuggatoti ettha abhi-saddo itthambhūtākhyānatthajotako abhibhavitvā uggamanappakārassa dīpanato. Tena yogato ‘‘taṃ kho pana bhavantaṃ gotama’’nti idaṃ upayogavacanaṃ sāmiatthepi samānaṃ itthambhūtākhyānadīpanato ‘‘itthambhūtākhyānatthe’’ti vuttaṃ. Tenevāha ‘‘tassa kho pana bhoto gotamassāti attho’’ti. Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā ‘‘sādhu devadatto mātaramabhī’’ti ettha abhisaddayogato itthambhūtākhyāne upayogavacanaṃ kataṃ, evamidhāpi taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ abhi evaṃ kalyāṇo kittisaddo uggatoti abhisaddayogato itthambhūtākhyāne upayogavacananti. ‘‘Sādhu devadatto mātaramabhī’’ti ettha hi ‘‘devadatto mātaramabhi mātari visaye mātuyā vā sādhū’’ti evaṃ adhikaraṇatthe sāmiatthe vā bhummavacanassa vā sāmivacanassa vā pasaṅge itthambhūtākhyānatthajotakena abhisaddena yoge upayogavacanaṃ kataṃ. Yathā cettha ‘‘devadatto mātu visaye mātusambandhī vā sādhuttappakārappatto’’ti ayamattho viññāyati , evamidhāpi ‘‘bhoto gotamassa sambandhī kittisaddo abbhuggato abhibhavitvā uggamanappakārappatto’’ti ayamattho viññāyati. Tattha hi devadattaggahaṇaṃ viya idha kittisaddaggahaṇaṃ, tathā tattha ‘‘mātara’’nti vacanaṃ viya idha ‘‘taṃ kho pana bhavantaṃ gotama’’nti vacanaṃ, tattha sādhusaddaggahaṇaṃ viya idha uggatasaddaggahaṇaṃ veditabbaṃ.
Đối cách trong ý nghĩa tường thuật về trạng thái đã thành có nghĩa là: đã trở thành, đã đạt đến trạng thái này, như vậy là người đã thành; sự tường thuật về người ấy là sự tường thuật về trạng thái đã thành; chính ý nghĩa ấy là ý nghĩa tường thuật về trạng thái đã thành. Hoặc là, đã trở thành, đã sanh ra theo cách như thế này, như vậy, ý nghĩa kể lại như vậy là ý nghĩa tường thuật về trạng thái đã thành; đối cách trong ý nghĩa ấy. Và ở đây, trong từ lan xa (abbhuggato), tiểu từ abhi– làm sáng tỏ ý nghĩa tường thuật về trạng thái đã thành, do nó làm sáng tỏ cách thức lan đi sau khi đã chinh phục. Do sự kết hợp đó, câu “tiếng tăm lành về tôn giả Gotama ấy” này, mặc dù có thể dùng ở sở hữu cách, nhưng vì làm sáng tỏ sự tường thuật về trạng thái đã thành, nên được nói là “trong ý nghĩa tường thuật về trạng thái đã thành.” Chính vì thế, (chú giải) nói: “Có nghĩa là, của tôn giả Gotama ấy.” Điều này được nói đến là: Giống như trong câu “Devadatta tốt với mẹ,” do sự kết hợp với tiểu từ ‘abhi,’ đối cách được dùng trong ý nghĩa tường thuật về trạng thái đã thành; cũng vậy, ở đây, do sự kết hợp với tiểu từ ‘abhi,’ đối cách được dùng trong ý nghĩa tường thuật về trạng thái đã thành, trong câu “tiếng tăm lành về tôn giả Gotama ấy đã lan xa như vậy.” Thật vậy, trong câu “Devadatta tốt với mẹ,” trong khi có khả năng dùng vị trí cách hoặc sở hữu cách trong ý nghĩa vị trí hoặc ý nghĩa sở hữu là “Devadatta tốt trong vấn đề đối với mẹ, hoặc của mẹ,” thì đối cách đã được dùng khi kết hợp với tiểu từ ‘abhi’ vốn làm sáng tỏ ý nghĩa tường thuật về trạng thái đã thành. Và giống như ở đó, ý nghĩa “Devadatta đã đạt đến trạng thái tốt trong vấn đề liên quan đến mẹ, hoặc thuộc về mẹ” được hiểu rõ, cũng vậy, ở đây ý nghĩa “tiếng tăm liên quan đến tôn giả Gotama đã lan xa, đã đạt đến trạng thái lan đi sau khi chinh phục” được hiểu rõ. Cần phải hiểu rằng, ở đó, việc dùng từ ‘Devadatta’ cũng giống như việc dùng từ ‘tiếng tăm’ ở đây; tương tự, ở đó, lời nói “với mẹ” cũng giống như lời nói “về tôn giả Gotama ấy” ở đây; và ở đó, việc dùng từ ‘tốt’ cũng giống như việc dùng từ ‘lan xa’ ở đây.

Kalyāṇoti bhaddako. Kalyāṇabhāvo cassa kalyāṇaguṇavisayatāyāti āha ‘‘kalyāṇaguṇasamannāgato’’ti, kalyāṇehi guṇehi samannāgato taṃvisayatāya yuttoti attho. Taṃvisayatā hettha samannāgamo kalyāṇaguṇavisayatāya tannissitoti adhippāyo. Seṭṭhoti etthāpi eseva nayo. Seṭṭhaguṇavisayatāya eva hi kittisaddassa seṭṭhatā ‘‘bhagavāti vacanaṃ seṭṭha’’ntiādīsu viya. ‘‘Bhagavā araha’’ntiādinā guṇānaṃ saṃkittanato saddanīyato ca kittisaddo vaṇṇoti āha ‘‘kittisaddoti kitti evā’’ti. Vaṇṇoyeva hi kittetabbato kittisaddanīyato saddoti ca vuccati. Kittipariyāyo hi saddasaddo yathā ‘‘uḷārasaddā isayo, guṇavanto tapassino’’ti. Abhitthavanavasena pavatto saddo thutighoso, abhitthavudāhāro.
Tốt đẹp là hiền thiện. Và trạng thái tốt đẹp của nó là do nó có đối tượng là các phẩm hạnh tốt đẹp, nên (chú giải) nói: “được trang bị các phẩm hạnh tốt đẹp,” có nghĩa là được trang bị các phẩm hạnh tốt đẹp, phù hợp do có đối tượng là các phẩm hạnh ấy. Ở đây, sự trang bị là do có đối tượng là các phẩm hạnh tốt đẹp, chủ ý là nó nương tựa vào các phẩm hạnh ấy. Trong từ cao thượng, cũng theo phương pháp này. Thật vậy, sự cao thượng của tiếng tăm là do nó có đối tượng là các phẩm hạnh cao thượng, giống như trong câu “lời nói ‘Thế Tôn’ là cao thượng” v.v… Do các phẩm hạnh được tán thán, được xưng tụng bằng các từ “Thế Tôn là bậc A-la-hán” v.v…, nên tiếng tăm là lời tán thán, do đó (chú giải) nói: “Tiếng tăm là chính danh tiếng.” Thật vậy, chính lời tán thán được gọi là danh tiếng (kitti) vì đáng được tán thán, và là tiếng (sadda) vì đáng được xưng tụng. Thật vậy, từ ‘tiếng’ là từ đồng nghĩa với ‘danh tiếng,’ như trong câu “các vị ẩn sĩ có tiếng tăm lớn, có phẩm hạnh, có khổ hạnh.” Tiếng động diễn ra theo cách tán dương là tiếng ca ngợi, là lời tán thán.

‘‘Abbhuggato’’ti pana etassa attho aṭṭhakathāyaṃ na dassito, tasmā tassattho evaṃ veditabbo – abbhuggatoti abhibhavitvā uggato, anaññasādhāraṇaguṇe ārabbha pavattattā sadevakaṃ lokaṃ ajjhottharitvā pavattoti vuttaṃ hoti. Kinti saddo abbhuggatoti āha ‘‘itipi so bhagavā’’tiādi. Ito paraṃ pana īdisesu ṭhānesu yattha yattha pāḷipāṭhassa attho vattabbo siyā, tattha tattha ‘‘pāḷiyaṃ panā’’ti vatvā atthaṃ dassayissāma, idāni tattha padayojanāpubbakaṃ atthaṃ dassento āha ‘‘itipi so bhagavātiādīsu panaayaṃ tāva yojanā’’tiādi. So bhagavāti yo so samatiṃsa pāramiyo pūretvā sabbakilese bhañjitvā anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho devānaṃ atidevo sakkānaṃ atisakko brahmānaṃ atibrahmā lokanātho bhāgyavantatādīhi kāraṇehi bhagavāti laddhanāmo, so bhagavā. Bhagavāti hi idaṃ satthu nāmakittanaṃ. Tenāha āyasmā dhammasenāpati ‘‘bhagavāti netaṃ nāmaṃ mātarā kata’’ntiādi (mahāni. 84). Parato pana bhagavāti guṇakittanameva. Yathā kammaṭṭhānikena ‘‘araha’’ntiādīsu navasu ṭhānesu paccekaṃ itipisaddaṃ yojetvā buddhaguṇā anussarīyanti, evaṃ buddhaguṇasaṃkittakenapīti dassento ‘‘itipi arahaṃ itipi sammāsambuddho…pe… itipi bhagavā’’ti āha. Evañhi sati ‘‘araha’’ntiādīhi navahi padehi ye sadevake loke ativiya pākaṭā paññātā buddhaguṇā, te nānappakārato vibhāvitā honti. ‘‘Itipetaṃ bhūtaṃ, itipetaṃ taccha’’ntiādīsu (dī. ni. 1.6) viya hi idha iti-saddo āsannapaccakkhakāraṇattho , pi-saddo sampiṇḍanattho, tena ca tesaṃ guṇānaṃ bahubhāvo dīpito, tāni ca guṇasallakkhaṇakāraṇāni saddhāsampannānaṃ viññujātikānaṃ paccakkhāni hontīti tāni saṃkittentena viññunā cittassa sammukhībhūtāneva katvā saṃkittetabbānīti dassento ‘‘iminā ca iminā ca kāraṇenāti vuttaṃ hotī’’ti āha.
Tuy nhiên, ý nghĩa của từ “lan xa” không được chỉ ra trong Chú giải, do đó ý nghĩa của nó cần được hiểu như sau: lan xa là đã lan đi sau khi chinh phục; có nghĩa là, vì nó diễn ra liên quan đến các phẩm hạnh không chung với ai khác, nên nó đã lan tỏa, bao trùm khắp thế gian cùng với chư thiên. Tiếng tăm nào đã lan xa? (Chú giải) nói: “Đức Thế Tôn ấy như vậy” v.v… Từ đây về sau, ở những chỗ tương tự, bất cứ nơi nào cần phải nói ý nghĩa của đoạn Pāḷi, chúng tôi sẽ nói ý nghĩa sau khi nói “Còn trong Pāḷi.” Bây giờ, để chỉ ra ý nghĩa ở đó bắt đầu bằng việc kết hợp các từ, (chú giải) nói: “Trong các câu ‘Đức Thế Tôn ấy như vậy’ v.v…, trước hết đây là cách kết hợp” v.v… Đức Thế Tôn ấy là vị đã hoàn thiện ba mươi ba-la-mật, đã phá tan tất cả các phiền não, đã chứng ngộ tuệ giác Chánh Đẳng Giác vô thượng, là vị trời vượt trên các vị trời, là vị Sakka vượt trên các vị Sakka, là vị Phạm thiên vượt trên các vị Phạm thiên, là Đấng Lãnh Đạo Thế Giới, đã nhận được danh hiệu là Bhagavā (Thế Tôn) do các lý do như có sự may mắn v.v…, đó là Đức Thế Tôn. Thật vậy, Bhagavā là sự xưng tán tên của Bậc Đạo Sư. Chính vì thế, tôn giả Dhammasenāpati đã nói: “Bhagavā, tên này không phải do mẹ đặt” v.v… (mahāni. 84). Tuy nhiên, ở phần sau, Bhagavā chính là sự xưng tán phẩm hạnh. Giống như người hành thiền, sau khi kết hợp từ ‘itipi’ với từng từ trong chín chỗ như “A-la-hán” v.v…, niệm tưởng các ân đức Phật, cũng vậy, người xưng tán các ân đức Phật cũng làm như thế, để chỉ ra điều đó, (chú giải) nói: “Như vậy là bậc A-la-hán, như vậy là bậc Chánh Đẳng Giác…v.v… như vậy là bậc Thế Tôn.” Thật vậy, khi làm như vậy, các ân đức Phật, vốn rất nổi tiếng, được biết đến trong thế gian cùng với chư thiên, bởi chín từ như “A-la-hán” v.v…, được làm sáng tỏ theo nhiều cách khác nhau. Giống như trong các câu “Điều này là thật như vậy, điều này là đúng như vậy” v.v… (dī. ni. 1.6), ở đây tiểu từ iti– có ý nghĩa là lý do gần gũi, trực tiếp; tiểu từ pi– có ý nghĩa gộp lại, và bằng từ đó, sự nhiều về số lượng của các phẩm hạnh ấy được làm sáng tỏ. Và vì những lý do để nhận biết các phẩm hạnh ấy là điều trực tiếp đối với những người có đức tin, thuộc dòng dõi bậc trí, nên người trí khi xưng tán chúng, cần phải làm cho chúng hiện diện trước tâm mình mà xưng tán, để chỉ ra điều đó, (chú giải) nói: “Có nghĩa là, được nói rằng: bởi lý do này và bởi lý do này.”

‘‘Suttantikānaṃ vacanānamatthaṃ, suttānurūpaṃ paridīpayantī’’ti heṭṭhā vuttattā visuddhimagge (visuddhi. 1.125-128) sabbākārato saṃvaṇṇitampi atthaṃ idhāpi vitthāretvā dassetukāmo tattha payojanamāha ‘‘idāni vinayadharāna’’ntiādi. Tattha cittasampahaṃsanatthanti cittasantosanatthaṃ, cittappasādajananatthanti vuttaṃ hoti. ‘‘Ārakattā’’tiādīsu ārakattāti suvidūrattā. Arīnanti kilesārīnaṃ. Arānanti saṃsāracakkassa arānaṃ. Hatattāti viddhaṃsitattā. Paccayādīnanti cīvarādipaccayānañceva pūjāvisesānañca.
Vì ở phần dưới đã nói rằng: “Làm sáng tỏ ý nghĩa của các lời nói trong kinh, phù hợp với kinh,” nên muốn giải thích chi tiết ở đây ý nghĩa đã được chú giải về mọi mặt trong Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 1.125-128), (chú giải) nói về mục đích: “Bây giờ, cho những người trì Luật” v.v… Ở đó, nhằm làm cho tâm phấn khởi có nghĩa là nhằm làm cho tâm hoan hỷ, làm phát sanh sự trong sạch của tâm. Trong các câu “do sự xa lìa” v.v…, do sự xa lìa là do sự rất xa lìa. Của các kẻ thù là của các kẻ thù phiền não. Của các căm xe là của các căm xe của bánh xe luân hồi. Do đã phá hủy là do đã tiêu diệt. Của các vật dụng v.v… là của các vật dụng như y phục v.v… và của các sự cúng dường đặc biệt.

Idāni yathāvuttamevatthaṃ vibhāvento āha ‘‘ārakā hi so’’tiādi. Dūratā nāma āsannatā viya upādāyupādāya vuccatīti paramukkaṃsagataṃ dūrabhāvaṃ dassento ‘‘suvidūravidūre ṭhito’’ti āha, suṭṭhu vidūrabhāveneva vidūre ṭhitoti attho. So panassa kilesehi dūre ṭhitabhāvo, na padesavasena, atha kho tesaṃ sabbaso pahīnattāti dassento āha ‘‘maggena kilesānaṃ viddhaṃsitattā’’ti. Nanu aññesampi khīṇāsavānaṃ te pahīnā evāti anuyogaṃ manasi katvā vuttaṃ ‘‘savāsanāna’’nti. Na hi ṭhapetvā bhagavantaṃ aññe saha vāsanāya kilese pahātuṃ sakkonti. Etena aññehi asādhāraṇaṃ bhagavato arahattanti dassitaṃ hoti. Kā panāyaṃ vāsanā nāma? Pahīnakilesassapi appahīnakilesassa payogasadisapayogahetubhūto kilesanissito sāmatthiyaviseso āyasmato pilindavacchassa vasalasamudācāranimittaṃ viya. Kathaṃ pana ‘‘ārakā’’ti vutte ‘‘kilesehī’’ti ayamattho labbhatīti sāmaññacodanāya visese avaṭṭhānato visesatthinā ca visesassa anupayujjitabbato ‘‘ārakāssa honti pāpakā akusalā dhammā’’tiādīni (ma. ni. 1.434) suttapadānettha udāharitabbāni. Ārakāti cettha ā-kārassa rassattaṃ, ka-kārassa ca hakāraṃ sānusāraṃ katvā niruttinayena ‘‘araha’’nti padasiddhi veditabbā. Yathāvuttassevatthassa sukhaggahaṇatthaṃ idamettha vuccati –
Bây giờ, trong khi làm rõ chính ý nghĩa đã nói, (chú giải) nói: “Bởi vì Ngài ở xa” v.v… Vì sự xa xôi, cũng giống như sự gần gũi, được nói đến bằng cách quy chiếu, nên để chỉ ra trạng thái xa tột cùng, (chú giải) nói: “đã đứng ở nơi rất xa xôi,” có nghĩa là đã đứng ở nơi xa bởi chính trạng thái rất xa. Và để chỉ ra rằng trạng thái đứng xa các phiền não của Ngài không phải về mặt không gian, mà là do chúng đã được đoạn trừ hoàn toàn, (chú giải) nói: “do các phiền não đã bị tiêu diệt bởi đạo.” Ghi nhớ câu chất vấn rằng: “Chẳng phải chúng cũng đã được đoạn trừ đối với các vị lậu tận khác hay sao?”, nên đã nói là “cùng với các tập khí.” Thật vậy, ngoài Thế Tôn ra, không ai có thể đoạn trừ các phiền não cùng với tập khí của chúng. Bằng điều này, trạng thái A-la-hán của Thế Tôn không chung với những người khác được chỉ ra. Vậy, tập khí này là gì? Đó là một năng lực đặc biệt nương vào phiền não, là nhân cho hành vi giống như hành vi của người chưa đoạn trừ phiền não, ngay cả đối với người đã đoạn trừ phiền não, giống như dấu hiệu của việc xưng hô thô lỗ nơi tôn giả Pilindavaccha. Nhưng làm thế nào mà khi nói “ở xa,” ý nghĩa “xa khỏi các phiền não” này lại có được? Do sự xác định trong trường hợp đặc biệt từ một câu hỏi chung, và do người tìm kiếm ý nghĩa đặc biệt không nên dùng một cách không phù hợp, nên các đoạn kinh như “các pháp ác, bất thiện ở xa vị ấy” v.v… (ma. ni. 1.434) cần được trích dẫn ở đây. Và ở đây, cần phải hiểu sự hình thành của từ “arahaṃ” theo phương pháp từ nguyên là do âm ā trong từ ārakā được rút ngắn, và phụ âm ka– được đổi thành phụ âm ‘ha’ có dấu anusvāra. Để dễ dàng nắm bắt chính ý nghĩa đã nói, điều này được nói ở đây:

‘‘So tato ārakā nāma, yassa yenāsamaṅgitā;
Asamaṅgī ca dosehi, nātho tenārahaṃ mato’’ti. (visuddhi. 1.125);
“Vì Ngài ở xa các pháp ấy,
Và không tương hợp với các lỗi lầm,
Nên Đấng Hộ Trì được cho là A-la-hán.” (visuddhi. 1.125);

Anatthacaraṇena kilesā eva arayoti kilesārayo. Arīnaṃ hatattā arihāti vattabbe niruttinayena ‘‘araha’’nti vuttaṃ. Etthāpi yathāvuttassatthassa sukhaggahaṇatthaṃ idaṃ veditabbaṃ –
Do hành xử bất lợi, chính các phiền não là kẻ thù, nên là kẻ thù phiền não. Trong khi đáng lẽ phải nói là ‘ariha’ do đã giết các kẻ thù, nhưng đã được nói là “arahaṃ” theo phương pháp từ nguyên. Ở đây cũng vậy, để dễ dàng nắm bắt ý nghĩa đã nói, cần phải hiểu điều này:

‘‘Yasmā rāgādisaṅkhātā, sabbepi arayo hatā;
Paññāsatthena nāthena, tasmāpi arahaṃ mato’’ti. (visuddhi. 1.126);
“Bởi vì tất cả kẻ thù,
Được xem là tham ái v.v…,
Đã bị Đấng Hộ Trì giết bằng gươm trí tuệ,
Nên Ngài cũng được cho là A-la-hán.” (visuddhi. 1.126);

Yañcetaṃ saṃsāracakkanti sambandho. Rathacakkassa nābhi viya mūlāvayavabhūtaṃ anto bahi ca samavaṭṭhitaṃ avijjābhavataṇhādvayanti vuttaṃ ‘‘avijjābhavataṇhāmayanābhī’’ti. Nābhiyā nemiyā ca sambaddhaarasadisā paccayaphalabhūtehi avijjātaṇhājarāmaraṇehi sambaddhā puññābhisaṅkhāraapuññābhisaṅkhāraāneñjābhisaṅkhārāti vuttaṃ ‘‘puññādiabhisaṅkhārāra’’nti. Tattha tattha bhave pariyantabhāvena pākaṭaṃ jarāmaraṇanti taṃ nemiṭṭhāniyaṃ katvā āha ‘‘jarāmaraṇanemī’’ti. Yathā rathacakkappavattiyā padhānakāraṇaṃ akkho, evaṃ saṃsāracakkappavattiyā āsavasamudayoti āha ‘‘āsavasamudayamayena akkhena vijjhitvā’’ti. Āsavā eva avijjādīnaṃ kāraṇattā āsavasamudayo. Yathāha ‘‘āsavasamudayā avijjāsamudayo’’ti (ma. ni. 1.103). Vipākakaṭattārūpappabhedo kāmabhavādiko tibhavo eva ratho, tasmiṃ tibhavarathe. Attano paccayehi samaṃ, sabbaso vā ādito paṭṭhāya yojitanti samāyojitaṃ. Ādirahitaṃ kālaṃ pavattatīti katvā anādikālappavattaṃ.
Cần liên kết là: và cái bánh xe luân hồi này. Vì là bộ phận nền tảng giống như cái đùm của bánh xe, tồn tại cả bên trong lẫn bên ngoài, nên hai pháp là vô minh và hữu ái được nói là “cái đùm được làm bằng vô minh, hữu và ái.” Vì được kết nối với vô minh, ái, già và chết, vốn là nhân và quả, giống như các căm xe được kết nối với cái đùm và vành xe, nên ba hành là phước hành, phi phước hành và bất động hành được nói là “các căm xe là các hành như phước hành v.v…” Già và chết, vốn rõ ràng là điểm kết thúc trong từng cõi hữu, được đặt ở vị trí vành xe, nên (chú giải) nói: “vành xe là già và chết.” Giống như trục xe là nguyên nhân chính cho sự vận hành của bánh xe, thì sự tập khởi của các lậu hoặc cũng là nguyên nhân chính cho sự vận hành của bánh xe luân hồi, nên (chú giải) nói: “đã đâm thủng bằng trục xe được làm bằng sự tập khởi của các lậu hoặc.” Chính các lậu hoặc là sự tập khởi của các lậu hoặc, vì là nguyên nhân của vô minh v.v… Như đã nói: “Do sự tập khởi của các lậu hoặc mà có sự tập khởi của vô minh” (ma. ni. 1.103). Tam hữu như dục hữu v.v…, vốn có các loại sắc pháp là quả dị thục, chính là cỗ xe; trong cỗ xe tam hữu ấy. Được kết hợp với các duyên của nó, hoặc được kết hợp hoàn toàn từ đầu, là được kết hợp với. Vì đã vận hành từ thời gian không có khởi đầu, nên là đã vận hành từ thời vô thủy.

‘‘Khandhānañca paṭipāṭi, dhātuāyatanāna ca;
Abbocchinnaṃ vattamānā, saṃsāroti pavuccatī’’ti. (visuddhi. 2.619; dī. ni. aṭṭha. 2.95 apasādanāvaṇṇanā; saṃ. ni. aṭṭha. 2.2.60; a. ni. aṭṭha. 2.4.199) –
“Sự tuần tự của các uẩn,
Và của các giới và các xứ,
Diễn ra không gián đoạn,
Được gọi là luân hồi.” (visuddhi. 2.619; dī. ni. aṭṭha. 2.95 apasādanāvaṇṇanā; saṃ. ni. aṭṭha. 2.2.60; a. ni. aṭṭha. 2.4.199) –

Evaṃ vuttasaṃsārova saṃsāracakkaṃ. Anenāti bhagavatā. Bodhimaṇḍeti bodhisaṅkhātassa ñāṇassa maṇḍabhāvappatte ṭhāne kāle vā. Bodhīti paññā, sā ettha maṇḍā pasannā jātāti bodhimaṇḍo. Vīriyapādehīti saṃkilesavodānapakkhiyesu sannirumbhanasannikkhipanakiccatāya dvidhā pavatteti attano vīriyasaṅkhātehi pādehi. Sīlapathaviyanti patiṭṭhānaṭṭhena sīlameva pathavī, tassaṃ. Patiṭṭhāyāti sampādanavasena patiṭṭhahitvā. Saddhāhatthenāti anavajjadhammādānasādhanato saddhāva hattho, tena. Kammakkhayakaranti kāyakammādibhedassa sabbassapi kammassa khayakaraṇato kammakkhayakaraṃ. Ñāṇapharasunti samādhisilāyaṃ sunisitaṃ maggañāṇapharasuṃ gahetvā.
Chính luân hồi đã được nói đến như vậy là bánh xe luân hồi. Bởi vị ấy là bởi Thế Tôn. Tại cội Bồ-đề là tại nơi hoặc vào lúc tuệ giác được xem là sự giác ngộ đã đạt đến trạng thái tinh túy. Sự giác ngộ là trí tuệ, trí tuệ ấy đã trở nên tinh túy, trong sáng ở đây, nên là cội Bồ-đề. Bằng các đôi chân tinh tấn có nghĩa là bằng các đôi chân được xem là tinh tấn của mình, vốn được thực hành theo hai cách là nỗ lực và cố gắng trong các pháp thuộc phe phiền não và các pháp thuộc phe giác ngộ. Trên đất giới có nghĩa là, giới chính là đất do có ý nghĩa là nền tảng, trên đất ấy. Sau khi an trú là sau khi đã an trú bằng cách thành tựu. Bằng bàn tay đức tin có nghĩa là đức tin chính là bàn tay do là phương tiện để nhận lấy các pháp không bị chê trách, bằng bàn tay ấy. Thứ làm cho nghiệp đoạn tận là vì nó làm đoạn tận tất cả các nghiệp được phân loại như thân nghiệp v.v… Chiếc búa trí tuệ là sau khi đã cầm lấy chiếc búa trí tuệ của đạo, vốn được mài sắc bén trên tảng đá thiền định.

Evaṃ ‘‘arānaṃ hatattā’’ti ettha vuttaṃ arasaṅkhātaṃ saṃsāraṃ cakkaṃ viya cakkanti gahetvā atthayojanaṃ katvā idāni paṭiccasamuppādadesanākkamenapi taṃ dassetuṃ ‘‘atha vā’’tiādi vuttaṃ. Tattha anamataggasaṃsāravaṭṭanti anu anu amataggaṃ aviññātapubbakoṭikaṃ saṃsāramaṇḍalaṃ. Sesā dasa dhammāti saṅkhārādayo jātipariyosānā dasa dhammā. Kathaṃ tesaṃ saṅkhārādīnaṃ arabhāvoti āha ‘‘avijjāmūlakattā jarāmaraṇapariyantattā cā’’ti. Tattha avijjā mūlaṃ padhānakāraṇaṃ yesaṃ saṅkhārādīnaṃ te avijjāmūlakā, tesaṃ bhāvo avijjāmūlakattaṃ. Jarāmaraṇaṃ pariyantaṃ pariyosānabhūtaṃ etesanti jarāmaraṇapariyantā, saṅkhārādayo dasa dhammā. Tesaṃ bhāvo jarāmaraṇapariyantattaṃ. Saṅkhārādijātipariyosānānaṃ dasadhammānaṃ avijjāmūlakattā jarāmaraṇapariyosānattā cāti attho, nābhibhūtāya avijjāya mūlato nemibhūtena jarāmaraṇena antato saṅkhārādīnaṃ sambandhattāti adhippāyo.
Như vậy, sau khi đã kết hợp ý nghĩa bằng cách xem bánh xe luân hồi được xem là các căm xe đã được nói đến trong câu “do đã phá hủy các căm xe” như là một bánh xe, bây giờ để chỉ ra điều đó theo trình tự thuyết giảng về duyên khởi, (chú giải) nói: “Hoặc là” v.v… Ở đó, vòng luân hồi vô thủy là vòng luân hồi không thể biết được điểm khởi đầu. Mười pháp còn lại là mười pháp từ hành v.v… cho đến sanh. Làm thế nào mà các hành v.v… ấy lại là các căm xe? (Chú giải) nói: “vì có vô minh làm gốc và có già và chết làm điểm kết thúc.” Ở đó, vô minh là gốc, là nguyên nhân chính của các hành v.v…, nên chúng có vô minh làm gốc; trạng thái của chúng là trạng thái có vô minh làm gốc. Già và chết là điểm kết thúc, là điểm tận cùng của chúng, nên chúng có già và chết làm điểm kết thúc; đó là mười pháp từ hành v.v… Trạng thái của chúng là trạng thái có già và chết làm điểm kết thúc. Có nghĩa là, vì mười pháp từ hành cho đến sanh có vô minh làm gốc và có già và chết làm điểm kết thúc; chủ ý là, do vô minh là gốc đã chinh phục và già và chết là vành xe ở cuối, nên các hành v.v… có sự liên quan.

Dukkhādīsūti dukkhasamudayanirodhamaggesu. Aññāṇanti ñāṇappaṭipakkhattā moho aññāṇaṃ, na pana ñāṇato aññaṃ, napi ñāṇassa abhāvamattaṃ. Tattha dukkhādīsu aññāṇaṃ yathāsabhāvappaṭivedhāppadānato tappaṭicchādanavaseneva. Ettha hi kiñcāpi ṭhapetvā lokuttarasaccadvayaṃ sesaṭṭhānesu ārammaṇavasenapi avijjā uppajjati, evaṃ santepi paṭicchādanavaseneva idha adhippetā. Sā hi uppannā dukkhasaccaṃ paṭicchādetvā tiṭṭhati, yāthāvasarasalakkhaṇaṃ paṭivijjhituṃ na deti, tathā samudayaṃ nirodhaṃ magganti.
Trong khổ v.v… là trong khổ, tập, diệt, đạo. Sự vô minh là si mê, vì đối nghịch với trí tuệ, nên là vô minh; chứ không phải là một cái gì khác với trí tuệ, cũng không chỉ là sự vắng mặt của trí tuệ. Ở đó, sự vô minh trong khổ v.v… là theo cách che đậy chúng, do không cho phép sự thấu triệt bản chất như thật của chúng. Ở đây, mặc dù vô minh cũng sanh khởi theo cách lấy đối tượng ở những nơi khác ngoài hai đế siêu thế, tuy nhiên, ở đây chỉ chủ trương theo cách che đậy. Thật vậy, khi sanh khởi, nó đứng che đậy khổ đế, không cho phép thấu triệt đặc tính như thật của nó; tương tự đối với tập đế, diệt đế và đạo đế.

Dukkhanti cettha dukkhaṃ ariyasaccaṃ adhippetanti taṃ kāmabhavādivasena tidhā bhinditvā tathā tappaṭicchādikañca avijjaṃ tidhā katvā avijjādipaccaye tīsu bhavesu saṅkhārādike paṭipāṭiyā dassento ‘‘kāmabhave ca avijjā’’tiādimāha. Tattha kāmabhave ca avijjāti kāmabhave ādīnavapaṭicchādikā avijjā. Rūpabhave avijjā arūpabhave avijjāti etthāpi eseva nayo. Kāmabhave saṅkhārānanti kāmabhūmipariyāpannānaṃ puññāpuññasaṅkhārānaṃ, kāmabhave vā nipphādetabbā ye puññāpuññasaṅkhārā, tesaṃ kāmabhavūpapattinibbattakasaṅkhārānanti attho. Saṅkhārāti cettha lokiyakusalākusalacetanā veditabbā. Paccayo hotīti puññābhisaṅkhārānaṃ tāva ārammaṇapaccayena ceva upanissayapaccayena cāti dvidhā paccayo hoti, apuññābhisaṅkhāresu sahajātassa sahajātādivasena, asahajātassa anantarasamanantarādivasena, anānantarassa pana ārammaṇavasena ceva upanissayavasena ca paccayo hoti. Arūpabhave saṅkhārānanti āneñjābhisaṅkhārānaṃ. Paccayo hotīti upanissayapaccayavaseneva. Imasmiñca panatthe ettha vitthāriyamāne atippapañco hoti, tasmā taṃ nayidha vitthārayissāma. Itaresūti rūpārūpabhavesu.
Và ở đây, khổ được chủ trương là khổ đế, nên sau khi chia nó ra làm ba theo cõi dục v.v…, và cũng chia vô minh che đậy nó làm ba, để chỉ ra tuần tự các hành v.v… do vô minh làm duyên trong ba cõi, (chú giải) nói: “Và vô minh trong cõi dục” v.v… Ở đó, và vô minh trong cõi dục là vô minh che đậy sự nguy hiểm trong cõi dục. Trong câu vô minh trong cõi sắc, vô minh trong cõi vô sắc, cũng theo phương pháp này. Của các hành trong cõi dục có nghĩa là của các phước hành và phi phước hành thuộc về cõi dục; hoặc là những phước hành và phi phước hành nào cần được tạo ra trong cõi dục, của các hành tạo ra sự tái sanh trong cõi dục ấy. Và ở đây, các hành cần được hiểu là các tư tâm thiện và bất thiện thuộc về thế gian. Là duyên có nghĩa là, đối với các phước hành, nó là duyên theo hai cách: bằng trưởng duyên và bằng y chỉ duyên; đối với các phi phước hành, đối với pháp đồng sanh, nó là duyên theo cách đồng sanh v.v…; đối với pháp không đồng sanh, nó là duyên theo cách vô gián, đẳng vô gián v.v…; còn đối với pháp không phải vô gián, nó là duyên bằng cách trưởng duyên và y chỉ duyên. Của các hành trong cõi vô sắc là của các bất động hành. Là duyên là chỉ theo cách y chỉ duyên. Và nếu giải thích chi tiết ý nghĩa này ở đây, sẽ trở nên quá dài dòng, do đó, chúng tôi sẽ không giải thích chi tiết điều đó ở đây. Trong các cõi khác là trong các cõi sắc và vô sắc.

Tiṇṇaṃāyatanānanti cakkhusotamanāyatanānaṃ ghānādittayassa tattha asambhavato. Ekassāti manāyatanassa itaresaṃ tattha asambhavato. Iminā nayena tiṇṇaṃ phassānantiādīsupi attho veditabbo. Chabbidhassa phassassāti cakkhusamphassasotasamphassaghānasamphassajivhāsamphassakāyasamphassamanosamphassānaṃ vasena chabbidhassa phassassa. Channaṃ vedanānanti cakkhusamphassajā vedanā, tathā sotasamphassajā ghānasamphassajā jivhāsamphassajā kāyasamphassajā manosamphassajā vedanāti imāsaṃ channaṃ vedanānaṃ. Channaṃ taṇhākāyānanti rūpataṇhā saddataṇhā gandhataṇhā rasataṇhā phoṭṭhabbataṇhā dhammataṇhāti imesaṃ channaṃ taṇhākāyānaṃ. Tattha tattha sā sā taṇhāti rūpataṇhādibhedā tattha tattha kāmabhavādīsu uppajjanakataṇhā.
Của ba xứ là của nhãn xứ, nhĩ xứ và ý xứ, vì ba xứ còn lại như tỷ xứ v.v… không thể có ở đó. Của một là của ý xứ, vì các xứ khác không thể có ở đó. Theo phương pháp này, cần phải hiểu ý nghĩa trong các câu của ba xúc v.v… Của sáu loại xúc là của sáu loại xúc, bao gồm: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc. Của sáu thọ là của sáu thọ này: thọ sanh từ nhãn xúc, tương tự, thọ sanh từ nhĩ xúc, thọ sanh từ tỷ xúc, thọ sanh từ thiệt xúc, thọ sanh từ thân xúc và thọ sanh từ ý xúc. Của sáu thân ái là của sáu thân ái này: sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái và pháp ái. Ái ấy ở từng nơi là ái được phân loại như sắc ái v.v…, là ái sanh khởi trong từng cõi như cõi dục v.v…

Sā taṇhādimūlikā kathā atisaṃkhittāti taṃ upādānabhave ca vibhajitvā vitthāretvā dassetuṃ ‘‘katha’’ntiādi vuttaṃ. Tattha kāme paribhuñjissāmīti iminā kāmataṇhāpavattimāha, tathā saggasampattiṃ anubhavissāmītiādīhi. Sā pana taṇhā yasmā bhusamādānavasena pavattamānā kāmupādānaṃ nāma hoti, tasmā vuttaṃ ‘‘kāmupādānapaccayā’’ti. Tathevāti kāmupādānapaccayā eva. Brahmalokasampattinti rūpībrahmaloke sampattiṃ. ‘‘Sabbepi tebhūmakā dhammā kāmanīyaṭṭhena kāmā’’ti vacanato bhavarāgopi kāmupādānamevāti katvā ‘‘kāmupādānapaccayā eva mettaṃ bhāvetī’’tiādi vuttaṃ. Tattha mettaṃ bhāvetīti mijjati siniyhatīti mettā, taṃ bhāveti vaḍḍhetīti attho. Atha vā mettā etassa atthīti mettaṃ, cittaṃ, taṃsampayuttaṃ jhānaṃ vā, taṃ bhāveti vaḍḍheti uppādeti vāti attho. Karuṇaṃ bhāvetītiādīsupi imināva nayena attho veditabbo.
Vì lời nói bắt nguồn từ ái ấy là quá vắn tắt, nên để phân tích và giải thích chi tiết nó trong thủ và hữu, (chú giải) nói: “Như thế nào” v.v… Ở đó, bằng câu “tôi sẽ hưởng thụ các dục,” (chú giải) nói lên sự diễn tiến của dục ái; tương tự đối với các câu “tôi sẽ hưởng thụ sự thành tựu của cõi trời” v.v… Và vì ái ấy, khi diễn ra theo cách nắm giữ mạnh mẽ, được gọi là dục thủ, nên đã nói là “do dục thủ làm duyên.” Cũng vậy là chính do dục thủ làm duyên. Sự thành tựu của cõi Phạm thiên là sự thành tựu trong cõi Phạm thiên sắc giới. Theo câu “tất cả các pháp trong ba cõi đều là dục vì có ý nghĩa đáng được ham muốn,” cho rằng hữu ái cũng chính là dục thủ, nên đã nói: “Chính do dục thủ làm duyên mà tu tập tâm từ” v.v… Ở đó, tu tập tâm từ có nghĩa là, yêu thương, thương mến là từ (mettā); tu tập, làm cho tăng trưởng điều đó. Hoặc là, tâm có từ được gọi là từ; hoặc là thiền tương ưng với nó; tu tập, làm cho tăng trưởng, làm cho sanh khởi điều đó. Trong các câu tu tập tâm bi v.v…, cũng cần phải hiểu ý nghĩa theo phương pháp này.

Sesupādānamūlikāsupīti diṭṭhupādānasīlabbatupādānaattavādupādānamūlikāsupi yojanāsu eseva nayoti attho. Tatthāyaṃ yojanā – idhekacco ‘‘natthi paraloko’’ti natthikadiṭṭhiṃ gaṇhāti, so diṭṭhupādānapaccayā kāyena duccaritaṃ caratītiādi vuttanayena yojetabbaṃ. Aparo ‘‘asukasmiṃ sampattibhave attā ucchijjatī’’ti ucchedadiṭṭhiṃ gaṇhāti, so tatrūpapattiyā kāyena sucaritaṃ caratītiādi vuttanayeneva yojetabbaṃ. Aparo ‘‘rūpī manomayo hutvā attā ucchijjatī’’ti rūpūpapattiyā maggaṃ bhāveti bhāvanāpāripūriyāti sabbaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ. Aparopi ‘‘arūpabhave uppajjitvā attā ucchijjatī’’ti arūpūpapattiyā maggaṃ bhāveti bhāvanāpāripūriyāti sabbaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ. Etāhiyeva attavādupādānamūlikāpi yojanā saṃvaṇṇitāti daṭṭhabbaṃ. Evaṃ diṭṭhadhammanibbānavādavasenapi yojanā veditabbā. Aparo ‘‘sīlena suddhi, vatena suddhī’’ti asuddhimaggaṃ ‘‘suddhimaggo’’ti parāmasanto sīlabbatupādānapaccayā kāyena duccaritaṃ caratītiādi sabbaṃ vuttanayeneva yojetabbaṃ.
Trong các pháp lấy các loại thủ còn lại làm gốc cũng vậy có nghĩa là, trong các cách kết hợp lấy kiến thủ, giới cấm thủ và ngã luận thủ làm gốc, cũng theo phương pháp này. Cách kết hợp ở đó là như vầy: Một người nào đó ở đây chấp nhận tà kiến đoạn diệt rằng “không có đời sau,” người đó do kiến thủ làm duyên mà làm điều ác bằng thân, v.v… cần được kết hợp theo cách đã nói. Một người khác chấp nhận tà kiến đoạn diệt rằng “tự ngã sẽ bị đoạn diệt trong một cõi hữu thành tựu nào đó,” người đó để tái sanh ở đó mà làm điều thiện bằng thân, v.v… cần được kết hợp theo chính cách đã nói. Một người khác tu tập con đường để tái sanh ở cõi sắc, nghĩ rằng “sau khi trở thành một tự ngã có sắc, do ý tạo, tự ngã sẽ bị đoạn diệt,” cho đến khi hoàn thành sự tu tập; tất cả cần được hiểu theo chính cách đã nói. Một người khác nữa tu tập con đường để tái sanh ở cõi vô sắc, nghĩ rằng “sau khi sanh ra ở cõi vô sắc, tự ngã sẽ bị đoạn diệt,” cho đến khi hoàn thành sự tu tập; tất cả cần được hiểu theo chính cách đã nói. Cần phải thấy rằng các cách kết hợp lấy ngã luận thủ làm gốc cũng đã được giải thích bằng chính những điều này. Như vậy, cần phải hiểu cách kết hợp theo quan điểm Niết-bàn trong hiện tại. Một người khác, trong khi chấp thủ con đường không thanh tịnh là “sự thanh tịnh có được do giới, sự thanh tịnh có được do cấm hạnh,” do giới cấm thủ làm duyên mà làm điều ác bằng thân, v.v…; tất cả cần được kết hợp theo chính cách đã nói.

Idāni yvāyaṃ saṃsāracakkaṃ dassentena ‘‘kāmabhave avijjā kāmabhave saṅkhārānaṃ paccayo hotī’’tiādinā avijjādīnaṃ paccayabhāvo saṅkhārādīnaṃ paccayuppannabhāvo ca dassito, tameva paṭisambhidāmaggapāḷiṃ ānetvā nigamanavasena dassento ‘‘evamaya’’ntiādimāha. Tattha yathā saṅkhārā hetunibbattā, evaṃ avijjāpi kāmāsavādinā sahetukā evāti āha ‘‘ubhopete hetusamuppannā’’ti. Paccayapariggaheti nāmarūpassa paccayānaṃ avijjādīnaṃ paricchijja gahaṇe. Nipphādetabbe bhummaṃ. Paññāti kaṅkhāvitaraṇavisuddhisaṅkhātā pakārato jānanā. Dhammaṭṭhitiñāṇanti tiṭṭhanti ettha phaladhammā tadāyattavuttitāyāti ṭhiti, kāraṇaṃ, dhammānaṃ ṭhiti dhammaṭṭhiti, dhammaṭṭhitiyā ñāṇaṃ dhammaṭṭhitiñāṇaṃ, paccayañāṇanti attho, paṭiccasamuppādāvabodhoti vuttaṃ hoti. Kāmañcettha paccayapariggahe paññāyeva dhammaṭṭhitiñāṇaṃ, saṅkhāresu pana adiṭṭhesu avijjāya saṅkhārānaṃ paccayabhāvo na sakkā daṭṭhunti ‘‘saṅkhārā hetusamuppannā’’ti paccayuppannadhammānampi gahaṇaṃ katanti veditabbaṃ. Ubhopete hetusamuppannāti idaṃ pana ubhinnampi paccayuppannabhāvaṃ dassetukāmatāya vuttaṃ. Idañca dhammaṭṭhitiñāṇaṃ yasmā addhattaye kaṅkhāmalavitaraṇavasena pavattati, tasmā ‘‘atītampi addhāna’’ntiādi vuttaṃ. Etena nayena sabbapadāni vitthāretabbānīti etena nayena ‘‘avijjā hetū’’tiādinā avijjāyaṃ vuttanayena ‘‘saṅkhārā hetu, viññāṇaṃ hetusamuppanna’’ntiādinā sabbapadāni vitthāretabbāni.
Bây giờ, trong khi chỉ ra bánh xe luân hồi, đã chỉ ra trạng thái làm duyên của vô minh v.v… và trạng thái do duyên sanh của các hành v.v… bằng câu “vô minh trong cõi dục là duyên cho các hành trong cõi dục” v.v… Để đưa ra đoạn Pāḷi trong Vô Ngại Giải Đạo ấy và chỉ ra như một kết luận, (chú giải) nói: “Như vậy, đây là” v.v… Ở đó, để chỉ ra rằng giống như các hành được sanh khởi từ nhân, thì vô minh cũng có nhân duyên, như dục lậu v.v…, (chú giải) nói: “cả hai đều do nhân sanh khởi.” Trong sự nắm bắt các duyên là trong sự nắm bắt, phân định các duyên của danh-sắc, tức là vô minh v.v… Vị trí cách được dùng với ý nghĩa là đối tượng cần được tạo ra. Trí tuệ là sự biết theo nhiều cách, được xem là Độ Nghi Thanh Tịnh. Trí về sự đứng vững của các pháp có nghĩa là, nơi mà các pháp quả đứng vững vì sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào đó, nên là sự đứng vững, là nguyên nhân; sự đứng vững của các pháp là sự đứng vững của các pháp; trí về sự đứng vững của các pháp là trí về sự đứng vững của các pháp; có nghĩa là trí về các duyên, là sự thấu hiểu về duyên khởi. Mặc dù ở đây, trí tuệ trong sự nắm bắt các duyên chính là trí về sự đứng vững của các pháp, nhưng vì nếu không thấy các hành thì không thể thấy được trạng thái làm duyên của vô minh đối với các hành, nên cần phải hiểu rằng việc nắm bắt cả các pháp do duyên sanh cũng đã được thực hiện bằng câu “các hành do nhân sanh khởi.” Còn câu cả hai đều do nhân sanh khởi được nói đến do muốn chỉ ra trạng thái do duyên sanh của cả hai. Và vì trí về sự đứng vững của các pháp này diễn ra theo cách vượt qua sự hoài nghi trong ba thời, nên đã nói: “cả thời quá khứ” v.v… Theo phương pháp này, tất cả các từ cần được giải thích chi tiết có nghĩa là, theo phương pháp này, theo cách đã nói về vô minh bằng câu “vô minh là nhân” v.v…, tất cả các từ cần được giải thích chi tiết bằng các câu “các hành là nhân, thức do nhân sanh khởi” v.v…

Saṃkhippanti ettha avijjādayo viññāṇādayo cāti saṅkhepo, hetu vipāko ca. Atha vā hetuvipākoti saṃkhippatīti saṅkhepo, avijjādayo viññāṇādayo ca. Saṅkhepabhāvasāmaññena pana ekavacanaṃ katanti daṭṭhabbaṃ . Te pana saṅkhepā atīte hetu, etarahi vipāko, etarahi hetu, āyatiṃ vipākoti evaṃ kālavibhāgena cattāro jātā, tenāha ‘‘purimasaṅkhepo cettha atīto addhā’’tiādi. Paccuppanno addhāti sambandho. Taṇhupādānabhavā gahitāva hontīti ettha avijjāgahaṇena kilesabhāvasāmaññato taṇhupādānā gahitā, saṅkhāraggahaṇena kammabhāvasāmaññato bhavo gahito, avijjāsaṅkhārānaṃ tehi vinā sakiccākaraṇato ca taṇhupādānabhavā gahitāva honti. Atha vā avidvā paritassati, paritasito upādiyati, tassupādānapaccayā bhavo, tasmā taṇhupādānabhavāpi gahitā honti. Tathā ca vuttaṃ –
Nơi mà vô minh v.v… và thức v.v… được tóm tắt là sự tóm tắt, đó là nhân và quả. Hoặc là, vì nó tóm tắt nhân và quả, nên là sự tóm tắt; đó là vô minh v.v… và thức v.v… Cần phải thấy rằng số ít được dùng do tính chất chung của trạng thái tóm tắt. Và những sự tóm tắt ấy, được chia theo thời gian, trở thành bốn loại: nhân trong quá khứ, quả trong hiện tại; nhân trong hiện tại, quả trong tương lai. Do đó, (chú giải) nói: “sự tóm tắt đầu tiên ở đây là thời quá khứ” v.v… Cần liên kết là: thời hiện tại. Trong câu ái, thủ, hữu cũng đã được bao gồm, ở đây, do việc bao gồm vô minh, ái và thủ cũng được bao gồm do tính chất chung của trạng thái phiền não; do việc bao gồm các hành, hữu được bao gồm do tính chất chung của trạng thái nghiệp. Và vì nếu không có chúng, vô minh và các hành không thể thực hiện chức năng của mình, nên ái, thủ, hữu cũng đã được bao gồm. Hoặc là, người không biết thì lo âu, người lo âu thì chấp thủ, do sự chấp thủ của người ấy làm duyên mà có hữu; do đó, ái, thủ, hữu cũng được bao gồm. Và điều đó đã được nói như sau:

‘‘Purimakammabhavasmiṃ moho avijjā, āyūhanā saṅkhārā. Nikanti taṇhā, upagamanaṃ upādānaṃ, cetanā bhavo, iti ime pañca dhammā purimakammabhavasmiṃ idha paṭisandhiyā paccayā’’ti (paṭi. ma. 1.47).
“Trong nghiệp hữu ở quá khứ, si mê là vô minh, sự tích lũy là các hành, sự ham muốn là ái, sự đi đến là thủ, tư là hữu. Năm pháp này trong nghiệp hữu ở quá khứ là duyên cho sự tái sanh ở đây.” (paṭi. ma. 1.47).

Tattha (vibha. aṭṭha. 242; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.47) purimakammabhavasminti purime kammabhave, atītajātiyaṃ kammabhave kariyamāneti attho. Moho avijjāti yo tadā dukkhādīsu moho yena mūḷho kammaṃ karoti, sā avijjā. Āyūhanā saṅkhārāti taṃ kammaṃ karoto yā purimacetanāyo, yathā ‘‘dānaṃ dassāmī’’ti cittaṃ uppādetvā māsampi saṃvaccharampi dānūpakaraṇāni sajjentassa uppannā purimacetanāyo, paṭiggāhakānaṃ pana hatthe dakkhiṇaṃ patiṭṭhāpayato cetanā bhavoti vuccati. Ekāvajjanesu vā chasu javanesu cetanā āyūhanasaṅkhārā nāma, sattamā bhavo. Yā kāci vā pana cetanā bhavo, sampayuttā āyūhanasaṅkhārā nāma. Nikanti taṇhāti yā kammaṃ karontassa tassa phale upapattibhave nikāmanā patthanā, sā taṇhā nāma. Upagamanaṃ upādānanti yaṃ kammabhavassa paccayabhūtaṃ ‘‘idaṃ katvā asukasmiṃ nāma ṭhāne kāme sevissāmi ucchijjissāmī’’tiādinā nayena pavattaṃ upagamanaṃ gahaṇaṃ parāmasanaṃ, idaṃ upādānaṃ nāma. Cetanā bhavoti ‘‘taṃ kammaṃ karoto yā purimā cetanāyo’’tiādinā heṭṭhā vuttesu tīsu atthavikappesu yā cetanā bhavoti vuttā, sā cetanā bhavoti evamattho veditabbo.
Ở đó (vibha. aṭṭha. 242; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.47), trong nghiệp hữu ở quá khứ có nghĩa là, trong nghiệp hữu ở trước, trong khi nghiệp hữu đang được thực hiện trong đời quá khứ. Si mê là vô minh là si mê trong khổ v.v… lúc bấy giờ, do si mê đó mà người ta làm nghiệp, đó là vô minh. Sự tích lũy là các hành là các tư trước đó của người làm nghiệp ấy, giống như các tư trước đã sanh khởi của người, sau khi sanh tâm rằng “tôi sẽ bố thí,” đã chuẩn bị các vật dụng bố thí trong một tháng hay một năm. Còn tư của người đặt vật cúng dường vào tay của người nhận thì được gọi là hữu. Hoặc là, trong sáu sát-na tâm tốc hành, tư là sự tích lũy, được gọi là các hành; còn sát-na thứ bảy là hữu. Hoặc là, bất kỳ tư nào cũng là hữu; các pháp tương ưng là sự tích lũy, được gọi là các hành. Sự ham muốn là ái là sự ước ao, sự mong cầu quả trong cõi hữu tương lai của người làm nghiệp, đó được gọi là ái. Sự đi đến là thủ là sự đi đến, sự nắm giữ, sự chấp thủ diễn ra theo cách “sau khi làm điều này, tôi sẽ hưởng thụ các dục hoặc sẽ bị đoạn diệt ở một nơi nào đó,” vốn là duyên của nghiệp hữu, đó được gọi là thủ. Tư là hữu có nghĩa là, trong ba cách giải thích ý nghĩa đã nói ở trên bằng câu “các tư trước đó của người làm nghiệp ấy” v.v…, tư nào được nói là hữu, thì tư đó là hữu; cần phải hiểu ý nghĩa như vậy.

Idāni sabbepete avijjādayo dhamme dvīhi vaṭṭehi saṅgahetvā dassetukāmo āha ‘‘ime pañca dhammā atīte kammavaṭṭa’’nti. Ettha ca nippariyāyato saṅkhārā bhavo ca kammaṃ, avijjādayo pana kammasahāyatāya kammasarikkhakā tadupakārakā cāti kammanti vuttā. Avijjādayo hi vipākadhammadhammatāya kammasarikkhakā sahajātakoṭiyā upanissayakoṭiyā ca kammassa ca upakārakā. Kammameva ca aññamaññasambandhaṃ hutvā punappunaṃ parivattanaṭṭhena kammavaṭṭaṃ. Viññāṇādayo pañcāti viññāṇādayo vedanāpariyantā pañca etarahi idāni imasmiṃ attabhāveti vuttaṃ hoti. Avijjāsaṅkhārā gahitāva hontīti etthāpi pubbe viya kilesakammabhāvasāmaññato taṇhupādānaggahaṇena avijjā gahitā, bhavaggahaṇena saṅkhārā gahitāti daṭṭhabbaṃ. Atha vā bhave gahite tassa pubbabhāgā taṃsampayuttā vā saṅkhārā gahitāva honti , taṇhupādānaggahaṇena ca taṃsampayuttā yāya vā mūḷho kammaṃ karoti, sā avijjāva hotīti taṇhupādānabhavaggahaṇena avijjāsaṅkhārā gahitāva honti. Teneva vuttaṃ –
Bây giờ, muốn tóm thâu tất cả các pháp vô minh v.v… này vào hai vòng luân hồi, (chú giải) nói: “Năm pháp này trong quá khứ là nghiệp luân.” Và ở đây, một cách trực tiếp, các hành và hữu là nghiệp; còn vô minh v.v… được gọi là nghiệp vì chúng hỗ trợ cho nghiệp, giống như nghiệp và có lợi cho nghiệp. Thật vậy, vô minh v.v…, do có bản chất là pháp quả, nên giống như nghiệp, và chúng có lợi cho nghiệp ở cả phương diện đồng sanh và phương diện y chỉ. Và chính nghiệp, có sự liên quan với nhau, được gọi là nghiệp luân do có ý nghĩa xoay vần lặp đi lặp lại. Năm pháp từ thức trở đi có nghĩa là, năm pháp từ thức cho đến thọ ở hiện tại, bây giờ, trong thân mạng này. Trong câu vô minh và các hành cũng đã được bao gồm, ở đây cũng vậy, cần phải thấy rằng, giống như trước, do tính chất chung của trạng thái phiền não và nghiệp, do việc bao gồm ái và thủ, vô minh được bao gồm; do việc bao gồm hữu, các hành được bao gồm. Hoặc là, khi hữu được bao gồm, các hành ở giai đoạn trước của nó hoặc các hành tương ưng với nó cũng được bao gồm; và do việc bao gồm ái và thủ, vô minh mà người si mê làm nghiệp cũng chính là nó, nên do việc bao gồm ái, thủ và hữu, vô minh và các hành cũng được bao gồm. Chính vì thế, đã nói rằng:

‘‘Idha paripakkattā āyatanānaṃ moho avijjā, āyūhanā saṅkhārā, nikanti taṇhā, upagamanaṃ upādānaṃ, cetanā bhavo, iti ime pañca dhammā idha kammabhavasmiṃ āyatiṃ paṭisandhiyā paccayā’’ti (paṭi. ma. 1.47).
“Ở đây, do sự chín muồi của các xứ, si mê là vô minh, sự tích lũy là các hành, sự ham muốn là ái, sự đi đến là thủ, tư là hữu. Năm pháp này trong nghiệp hữu ở đây là duyên cho sự tái sanh trong tương lai.” (paṭi. ma. 1.47).

Tattha idha paripakkattā āyatanānanti paripakkāyatanassa kammakaraṇakāle sammoho dassito. Sesaṃ heṭṭhā vuttanayameva.
Ở đó, ở đây, do sự chín muồi của các xứ, sự si mê vào lúc làm nghiệp của người có các xứ đã chín muồi được chỉ ra. Phần còn lại cũng theo phương pháp đã nói ở dưới.

Viññāṇanāmarūpasaḷāyatanaphassavedanānaṃ jātijarābhaṅgāvatthā jātijarāmaraṇanti vuttāti avatthānaṃ gahaṇena avatthāvantā gahitāva honti tadavinābhāvatoti āha ‘‘jātijarāmaraṇāpadesena viññāṇādīnaṃ niddiṭṭhattā’’ti. Apadesenāti jātijarāmaraṇānaṃ kathanena. Imeti viññāṇādayo. Āyatiṃ vipākavaṭṭanti paccuppannahetuto bhāvīnaṃ anāgatānaṃ gahitattā. Teti avijjādayo. Ākāratoti sarūpato avuttāpi tasmiṃ tasmiṃ saṅgahe ākirīyanti avijjāsaṅkhārādiggahaṇehi pakāsīyantīti ākārā, atītahetuādīnaṃ vā pakārā ākārā . Tato ākārato. Vīsatividhā hontīti atīte hetupañcakādibhedato vīsatividhā honti.
Vì các trạng thái sanh, già và hoại của thức, danh-sắc, sáu xứ, xúc và thọ được nói là sanh, già và chết, nên do việc bao gồm các trạng thái, những pháp có các trạng thái ấy cũng được bao gồm, vì chúng không thể tách rời nhau, do đó (chú giải) nói: “do thức v.v… đã được chỉ định bằng cách đề cập đến sanh, già và chết.” Bằng cách đề cập là bằng cách nói về sanh, già và chết. Những pháp này là thức v.v… Quả luân trong tương lai là do bao gồm các pháp vị lai, sẽ có trong tương lai từ nhân ở hiện tại. Chúng là vô minh v.v… Theo các phương diện là theo bản chất, mặc dù không được nói đến, chúng được bao hàm trong từng sự tóm tắt ấy, được làm sáng tỏ bằng việc bao gồm vô minh, các hành v.v…, nên là các phương diện; hoặc các cách thức của nhân quá khứ v.v… là các phương diện. Từ đó, theo các phương diện. Trở thành hai mươi loại là trở thành hai mươi loại do sự phân loại như năm nhân trong quá khứ v.v…

Saṅkhāraviññāṇānañcettha antarā eko sandhīti hetuto phalassa avicchedappavattibhāvato hetuphalassa sambandhabhūto eko sandhi, tathā bhavajātīnamantarā. Vedanātaṇhānamantarā pana phalato hetuno avicchedappavattibhāvato phalahetusambandhabhūto eko sandhi. Phalabhūtopi hi dhammo aññassa hetusabhāvassa dhammassa paccayo hotīti.
Và ở đây, giữa các hành và thức có một mối nối là, do trạng thái diễn tiến không gián đoạn của quả từ nhân, nên có một mối nối là sự liên quan giữa nhân và quả; tương tự giữa hữu và sanh. Còn giữa thọ và ái, do trạng thái diễn tiến không gián đoạn của nhân từ quả, nên có một mối nối là sự liên quan giữa quả và nhân. Thật vậy, pháp vốn là quả cũng là duyên cho một pháp khác có bản chất là nhân.

Itīti vuttappakāraparāmasanaṃ. Tenāha ‘‘catusaṅkhepa’’ntiādi. Sabbākāratoti idha vuttehi ca avuttehi ca paṭiccasamuppādavibhaṅge anantanayasamantapaṭṭhānādīsu ca āgatehi sabbehi ākārehi. Jānātīti avabujjhati. Passatīti dassanabhūtena ñāṇacakkhunā paccakkhato passati. Aññāti paṭivijjhatīti tesaṃyeva vevacanaṃ. Tanti taṃ jānanaṃ. Ñātaṭṭhenāti yathāsabhāvato jānanaṭṭhena. Pajānanaṭṭhenāti aniccādīhi pakārehi paṭivijjhanaṭṭhena.
Như vậy là sự quy chiếu đến cách thức đã nói. Chính vì thế, (chú giải) nói: “bốn sự tóm tắt” v.v… Về mọi mặt là bằng tất cả các phương diện đã được nói và chưa được nói ở đây, và đã được đề cập trong phần phân tích về duyên khởi, trong Vô Ngại Giải Đạo với vô số phương pháp v.v… Biết là thấu hiểu. Thấy là thấy một cách trực tiếp bằng tuệ nhãn vốn là sự thấy. Hiểu rõ, thấu triệt là từ đồng nghĩa của chúng. Điều đó là sự biết đó. Theo ý nghĩa đã biết là theo ý nghĩa biết như thật. Theo ý nghĩa đã hiểu rõ là theo ý nghĩa thấu triệt bằng các cách như vô thường v.v…

Idāni yadatthamidaṃ bhavacakkaṃ idhānītaṃ, taṃ dassetuṃ ‘‘iminā’’tiādi vuttaṃ. Tattha te dhammeti te avijjādike dhamme. Yathābhūtaṃ ñatvāti mahāvajirañāṇena yāthāvato jānitvā. Nibbindantoti balavavipassanāya nibbindanto. Virajjanto vimuccantoti ariyamaggehi virajjanto vimuccanto. Are hanīti sambandho. Tattha yadā bhagavā virajjati vimuccati, tadā are hanati nāma. Tato paraṃ pana abhisambuddhakkhaṇaṃ gahetvā vuttaṃ ‘‘hani vihani viddhaṃsesī’’ti. Evampi arānaṃ hatattā arahanti evaṃ imināpi pakārena yathāvuttasaṃsāracakkassa saṅkhārādiarānaṃ hatattā arahaṃ. Etthedaṃ vuccati –
Bây giờ, để chỉ ra mục đích mà bánh xe hữu này đã được đưa đến đây, (chú giải) nói: “Bởi điều này” v.v… Ở đó, các pháp ấy là các pháp vô minh v.v… ấy. Sau khi đã biết như thật là sau khi đã biết như chúng thực sự là bằng tuệ kim cang vĩ đại. Trong khi nhàm chán là trong khi nhàm chán bằng tuệ quán mạnh mẽ. Trong khi ly tham, trong khi giải thoát là trong khi ly tham, trong khi giải thoát bằng các Thánh đạo. Cần liên kết là: đã giết các kẻ thù. Ở đó, khi Thế Tôn ly tham, giải thoát, lúc bấy giờ Ngài được gọi là đã giết các kẻ thù. Tuy nhiên, sau đó, lấy khoảnh khắc giác ngộ mà nói là “đã giết, đã tiêu diệt, đã phá hủy.” Như vậy, cũng do đã phá hủy các căm xe, nên là A-la-hán có nghĩa là, cũng bằng cách này, do đã phá hủy các căm xe như hành v.v… của bánh xe luân hồi đã nói, nên là A-la-hán. Ở đây, điều này được nói:

‘‘Arā saṃsāracakkassa, hatā ñāṇāsinā yato;
Lokanāthena tenesa, arahanti pavuccatī’’ti. (visuddhi. 1.128);
“Vì các căm xe của bánh xe luân hồi,
Đã bị Đấng Lãnh Đạo Thế Giới phá hủy bằng gươm trí tuệ,
Nên vị ấy được gọi là A-la-hán.” (visuddhi. 1.128);

Aggadakkhiṇeyyattāti uttamadakkhiṇeyyabhāvato. Cakkavattino acetane cakkaratane uppanne tattheva loko pūjaṃ karoti, aññattha pūjāvisesā pacchijjanti, kimaṅgaṃ pana sammāsambuddhe uppanneti dassento ‘‘uppannetathāgate’’tiādimāha. ‘‘Ekekaṃ dhammakkhandhaṃ ekekavihārena pūjessāmī’’ti vuttepi satthāraṃyeva uddissa katattā ‘‘bhagavantaṃ uddissā’’tiādi vuttaṃ. Ko pana vādo aññesaṃ pūjāvisesānanti yathāvuttato aññesaṃ amahesakkhehi devamanussehi kariyamānānaṃ nātiuḷārānaṃ pūjāvisesānaṃ arahabhāve kā nāma kathā. Paccayādīnaṃ arahattāpi arahanti yathāvuttacīvarādipaccayānaṃ pūjāvisesassa ca aggadakkhiṇeyyabhāvena anucchavikattāpi arahaṃ. Imassapi atthassa sukhaggahaṇatthaṃ idaṃ vuccati –
Do là bậc đáng được cúng dường cao nhất là do trạng thái là bậc đáng được cúng dường tối thượng. Để chỉ ra rằng, khi bánh xe báu vô tri của một vị Chuyển Luân Vương sanh khởi, thế gian đã cúng dường ngay tại đó, và các sự cúng dường đặc biệt khác bị chấm dứt, thì huống hồ gì khi một vị Chánh Đẳng Giác sanh khởi, (chú giải) nói: “khi Như Lai sanh khởi” v.v… Mặc dù đã được nói là “chúng tôi sẽ cúng dường mỗi một uẩn pháp bằng mỗi một tu viện,” nhưng vì được làm với sự hướng tâm đến Bậc Đạo Sư, nên đã nói là “hướng đến Thế Tôn” v.v… Huống hồ gì các sự cúng dường đặc biệt khác có nghĩa là, còn lời nào để nói về sự xứng đáng đối với các sự cúng dường đặc biệt không quá lớn lao, được thực hiện bởi các vị trời và người không có nhiều quyền lực, khác với những gì đã nói. Cũng là bậc A-la-hán do xứng đáng với các vật dụng v.v… có nghĩa là, cũng là bậc A-la-hán do sự phù hợp với trạng thái là bậc đáng được cúng dường cao nhất đối với các vật dụng như y phục v.v… và đối với sự cúng dường đặc biệt đã nói. Để dễ dàng nắm bắt ý nghĩa này, điều này được nói:

‘‘Pūjāvisesaṃ saha paccayehi,
Yasmā ayaṃ arahati lokanātho;
Atthānurūpaṃ arahanti loke,
Tasmā jino arahati nāmameta’’nti. (visuddhi. 1.129);
“Vì Đấng Lãnh Đạo Thế Giới này,
Xứng đáng với sự cúng dường đặc biệt cùng các vật dụng,
Nên trong đời, theo ý nghĩa tương xứng,
Bậc Chiến Thắng xứng đáng với tên gọi A-la-hán này.” (visuddhi. 1.129);

Asilokabhayenāti akittibhayena, ayasabhayena garahābhayenāti vuttaṃ hoti. Raho pāpaṃ karontīti ‘‘mā naṃ koci jaññā’’ti rahasi pāpaṃ karonti. Evamesa na kadāci karotīti esa bhagavā pāpahetūnaṃ bodhimaṇḍeyeva suppahīnattā kadācipi evaṃ na karoti. Hoti cettha –
Do sợ tiếng xấu có nghĩa là do sợ tai tiếng, sợ bị chê bai. Làm điều ác một cách lén lút có nghĩa là họ làm điều ác một cách bí mật với ý nghĩ “mong rằng không ai biết đến ta.” Vị ấy không bao giờ làm như vậy có nghĩa là vị Thế Tôn ấy không bao giờ làm như vậy, vì các nhân của điều ác đã được đoạn trừ hoàn toàn tại cội Bồ-đề. Và ở đây có câu:

‘‘Yasmā natthi raho nāma, pāpakammesu tādino;
Rahābhāvena tenesa, arahaṃ iti vissuto’’ti. (visuddhi. 1.130);
“Vì bậc như vậy không có,
Việc làm điều ác một cách lén lút,
Nên do không có sự lén lút,
Vị ấy được biết đến là A-la-hán.” (visuddhi. 1.130);

Idāni sukhaggahaṇatthaṃ yathāvuttamatthaṃ sabbampi saṅgahetvā dassento āha ‘‘hoti cetthā’’tiādi. Kilesārīna so munīti ettha gāthābandhasukhatthaṃ niggahītalopo daṭṭhabbo, kilesārīnaṃ hatattāti attho. Paccayādīna cārahoti etthāpi niggahītalopo vuttanayeneva daṭṭhabbo.
Bây giờ, để tóm thâu và chỉ ra tất cả ý nghĩa đã nói nhằm dễ dàng nắm bắt, (chú giải) nói: “Và ở đây có” v.v… Trong câu vị mâu-ni của các kẻ thù phiền não ấy, cần phải thấy sự lược bỏ phụ âm cuối để cho vần điệu của bài kệ được hay; có nghĩa là do đã giết các kẻ thù phiền não. Trong câu và xứng đáng với các vật dụng v.v…, ở đây cũng vậy, cần phải thấy sự lược bỏ phụ âm cuối theo cách đã nói.

Arahanti ettha ayamaparopi nayo daṭṭhabbo – ārakāti arahaṃ, suvidūrabhāvato icceva attho. Kuto pana suvidūrabhāvatoti? Ye abhāvitakāyā abhāvitasīlā abhāvitacittā abhāvitapaññā, tato eva appahīnarāgadosamohā ariyadhammassa akovidā ariyadhamme avinītā ariyadhammassa adassāvino appaṭipannā micchāpaṭipannā ca, tato suvidūrabhāvato. Vuttañhetaṃ bhagavatā –
Trong từ A-la-hán, cần phải thấy thêm phương pháp này nữa: do ở xa nên là A-la-hán; chính là có ý nghĩa do trạng thái ở rất xa. Nhưng do đâu mà có trạng thái ở rất xa? Là do ở rất xa những người có thân không được tu tập, giới không được tu tập, tâm không được tu tập, tuệ không được tu tập; và do đó, những người chưa đoạn trừ tham, sân, si, không am tường về chánh pháp của bậc Thánh, không được rèn luyện trong chánh pháp của bậc Thánh, không thấy chánh pháp của bậc Thánh, không thực hành và thực hành sai lạc. Điều này đã được Thế Tôn nói:

‘‘Saṅghāṭikaṇṇe cepi me, bhikkhave, bhikkhu gahetvā piṭṭhito piṭṭhito anubandho assa pāde pādaṃ nikkhipanto, so ca hoti abhijjhālu kāmesu tibbasārāgo byāpannacitto paduṭṭhamanasaṅkappo muṭṭhassati asampajāno asamāhito vibbhantacitto pākatindriyo, atha kho so ārakāva mayhaṃ, ahañca tassa. Taṃ kissa hetu? Dhammañhi so, bhikkhave, bhikkhu na passati, dhammaṃ apassanto na maṃ passatī’’ti (itivu. 92).
“Này các Tỳ-khưu, dù cho một vị Tỳ-khưu nắm lấy một góc của áo tăng-già-lê của ta và đi theo sau lưng, đặt chân lên dấu chân của ta, nhưng nếu vị ấy tham lam, có lòng ham muốn mãnh liệt trong các dục, có tâm sân hận, có ý nghĩ xấu xa, thất niệm, không tỉnh giác, không có thiền định, tâm trí rối loạn, buông thả các giác quan, thì vị ấy thực sự ở xa ta, và ta cũng ở xa vị ấy. Điều đó vì lý do gì? Này các Tỳ-khưu, vì vị Tỳ-khưu ấy không thấy Chánh pháp, do không thấy Chánh pháp nên không thấy ta.” (itivu. 92).

Yathāvuttapuggalā hi sacepi sāyaṃpātaṃ satthu santikāvacarāva siyuṃ, na te tāvatā ‘‘satthu santikā’’ti vattabbā, tathā satthāpi nesaṃ. Iti asappurisānaṃ ārakā dūreti arahaṃ. Tenedaṃ vuccati –
Thật vậy, những người đã được nói đến, dù cho họ có ở gần Bậc Đạo Sư sớm tối, cũng không thể vì thế mà được gọi là “ở gần Bậc Đạo Sư,” và Bậc Đạo Sư cũng vậy đối với họ. Như vậy, Ngài ở xa, cách biệt với những người không phải chân nhân, nên là A-la-hán. Chính vì thế, điều này được nói:

‘‘Sammā na paṭipajjanti, ye nihīnāsayā narā;
Ārakā tehi bhagavā, dūre tenārahaṃ mato’’ti.
“Những người có tâm tánh thấp hèn,
Không thực hành một cách đúng đắn,
Thế Tôn ở xa những người ấy,
Nên Ngài được cho là A-la-hán do sự xa cách.”

Tathā ārakāti arahaṃ, āsannabhāvatoti attho. Kuto pana āsannabhāvatoti? Ye bhāvitakāyā bhāvitasīlā bhāvitacittā bhāvitapaññā, tato eva pahīnarāgadosamohā ariyadhammassa kovidā ariyadhamme suvinītā ariyadhammassa dassāvino sammāpaṭipannā, tato āsannabhāvato. Vuttampi cetaṃ bhagavatā –
Cũng vậy, do ở xa nên là A-la-hán, có nghĩa là do trạng thái ở gần. Nhưng do đâu mà có trạng thái ở gần? Là do ở gần những người có thân được tu tập, giới được tu tập, tâm được tu tập, tuệ được tu tập; và do đó, những người đã đoạn trừ tham, sân, si, am tường về chánh pháp của bậc Thánh, được rèn luyện kỹ lưỡng trong chánh pháp của bậc Thánh, thấy được chánh pháp của bậc Thánh và thực hành đúng đắn. Điều này cũng đã được Thế Tôn nói:

‘‘Yojanasate cepi me, bhikkhave, bhikkhu vihareyya, so ca hoti anabhijjhālu kāmesu na tibbasārāgo abyāpannacitto apaduṭṭhamanasaṅkappo upaṭṭhitassati sampajāno samāhito ekaggacitto saṃvutindriyo, atha kho so santikeva mayhaṃ, ahañca tassa. Taṃ kissa hetu? Dhammañhi so, bhikkhave, bhikkhu passati, dhammaṃ passanto maṃ passatī’’ti (itivu. 92).
“Này các Tỳ-khưu, dù cho một vị Tỳ-khưu ở cách ta một trăm do-tuần, nhưng nếu vị ấy không tham lam, không có lòng ham muốn mãnh liệt trong các dục, có tâm không sân hận, có ý nghĩ không xấu xa, có niệm an trú, tỉnh giác, có thiền định, tâm chuyên nhất, thu thúc các giác quan, thì vị ấy thực sự ở gần ta, và ta cũng ở gần vị ấy. Điều đó vì lý do gì? Này các Tỳ-khưu, vì vị Tỳ-khưu ấy thấy Chánh pháp, do thấy Chánh pháp nên thấy ta.” (itivu. 92).

Tathārūpā hi puggalā satthu yojanasatantarikāpi honti, na tāvatā te ‘‘satthu dūracārino’’ti vattabbā, tathā satthāpi nesaṃ. Iti sappurisānaṃ ārakā āsanneti arahaṃ. Tenedaṃ vuccati –
Thật vậy, những người như vậy dù ở cách Bậc Đạo Sư một trăm do-tuần, cũng không thể vì thế mà được gọi là “những người đi xa Bậc Đạo Sư,” và Bậc Đạo Sư cũng vậy đối với họ. Như vậy, Ngài ở xa (so với người thường) và ở gần các bậc chân nhân, nên là A-la-hán. Chính vì thế, điều này được nói:

‘‘Ye sammā paṭipajjanti, suppaṇītādhimuttikā;
Ārakā tehi āsanne, tenāpi arahaṃ jino’’ti.
“Những người thực hành đúng đắn,
Có sự hướng tâm đến pháp siêu việt,
Bậc Chiến Thắng ở gần những người ấy,
Nên cũng là A-la-hán do sự xa cách (với điều ác).”

Ye ime rāgādayo pāpadhammā yasmiṃ santāne uppajjanti, tassa diṭṭhadhammikampi samparāyikampi anatthaṃ āvahanti, nibbānagāminiyā paṭipadāya ekaṃseneva ujuvipaccanīkabhūtā ca, te attahitaṃ parahitañca paripūretuṃ sammā paṭipajjantehi sādhūhi dūrato rahitabbā pariccajitabbā pahātabbāti rahā nāma, te ca yasmā bhagavato bodhimūleyeva ariyamaggena sabbaso pahīnā susamucchinnā. Yathāha –
Những pháp ác như tham ái v.v… này, khi sanh khởi trong tâm tánh của ai, chúng mang lại điều bất lợi cả trong hiện tại lẫn trong tương lai, và hoàn toàn đối nghịch với con đường đưa đến Niết-bàn. Do đó, chúng được gọi là những điều cần từ bỏ (rahā), vì chúng cần được những người thiện, đang thực hành đúng đắn để hoàn thành lợi ích cho mình và cho người khác, xa lánh, từ bỏ, đoạn trừ. Và vì những pháp ấy đã được Thế Tôn đoạn trừ hoàn toàn, cắt đứt gốc rễ bằng Thánh đạo ngay tại cội Bồ-đề. Như đã nói:

‘‘Tathāgatassa kho, brāhmaṇa, rāgo pahīno doso moho, sabbepi pāpakā akusalā dhammā pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṃkatā āyatiṃ anuppādadhammā’’ti (pārā. 9).
“Này Bà-la-môn, tham, sân, si của Như Lai đã được đoạn trừ; tất cả các pháp ác, bất thiện đều đã được đoạn trừ, bị nhổ tận gốc, làm cho như cây tala bị chặt ngọn, làm cho không thể tồn tại, có bản chất không sanh khởi trong tương lai.” (pārā. 9).

Tasmā sabbaso na santi etassa rahāti arahoti vattabbe okārassa sānusāraṃ akārādesaṃ katvā ‘‘araha’’nti vuttaṃ. Tenedaṃ vuccati –
Do đó, trong khi đáng lẽ phải nói là ‘araho’ vì ‘không có những điều cần từ bỏ đối với vị ấy,’ nhưng đã được nói là “arahaṃ” sau khi đổi âm ‘o’ thành âm ‘a’ có dấu anusvāra. Chính vì thế, điều này được nói:

‘‘Pāpadhammā rahā nāma, sādhūhi rahitabbato;

Tesaṃ suṭṭhu pahīnattā, bhagavā arahaṃ mato’’ti.
“Các pháp ác được gọi là rahā,
Vì cần được các bậc thiện từ bỏ,
Do đã đoạn trừ chúng một cách tốt đẹp,
Nên Thế Tôn được cho là A-la-hán.”

Ye te sabbaso pariññātakkhandhā pahīnakilesā bhāvitamaggā sacchikatanirodhā arahanto khīṇāsavā, ye ca sekhā appattamānasā anuttaraṃ yogakkhemaṃ patthayamānā viharanti, ye ca parisuddhappayogā kalyāṇajjhāsayā saddhāsīlasutādiguṇasampannā puggalā, tehi na rahitabbo na pariccajitabbo, te ca bhagavatāti arahaṃ. Tathā hi ariyapuggalā satthārā diṭṭhadhammassa paccakkhakaraṇato satthu dhammasarīrena avirahitāva honti. Yathāha āyasmā piṅgiyo –
Các vị A-la-hán, lậu tận, là những người đã liễu tri hoàn toàn các uẩn, đã đoạn trừ các phiền não, đã tu tập đạo, đã chứng ngộ diệt; các vị hữu học chưa đạt đến mục tiêu, đang nỗ lực hướng đến sự an ổn vô thượng khỏi các ách phược; và những người có sự thực hành trong sạch, có ý hướng tốt đẹp, có đầy đủ các phẩm hạnh như đức tin, giới, văn v.v…; Ngài không nên bị họ từ bỏ, và họ cũng (không từ bỏ) Thế Tôn, nên là A-la-hán. Thật vậy, các bậc Thánh, do đã chứng ngộ trực tiếp chánh pháp của Bậc Đạo Sư, nên không bao giờ tách rời khỏi pháp thân của Bậc Đạo Sư. Như tôn giả Piṅgiya đã nói:

‘‘Passāmi naṃ manasā cakkhunāva,
Rattindivaṃ brāhmaṇa appamatto;
Namassamāno vivasemi rattiṃ,
Teneva maññāmi avippavāsaṃ.
‘‘Saddhā ca pīti ca mano sati ca,
Nāpentime gotamasāsanamhā;
Yaṃ yaṃ disaṃ vajati bhūripañño,
Sa tena teneva natohamasmī’’ti. (su. ni. 1148-1149);
“Con thấy Ngài bằng tâm như bằng mắt,
Hỡi Bà-la-môn, ngày đêm không buông lơi,
Con đảnh lễ và trải qua đêm,
Do đó con nghĩ rằng không có sự xa cách.
“Đức tin, hỷ, tâm và niệm,
Không rời khỏi giáo pháp của Gotama,
Bậc Trí Tuệ Rộng Lớn đi đến phương nào,
Con cũng hướng về chính phương ấy.” (su. ni. 1148-1149);

Teneva ca te aññaṃ satthāraṃ na uddisanti. Yathāha –
Chính vì thế, họ không hướng đến một vị thầy nào khác. Như đã nói:

‘‘Aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso, yaṃ diṭṭhisampanno puggalo aññaṃ satthāraṃ uddiseyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’’ti (ma. ni. 3.128; a. ni. 1.276).
“Này các Tỳ-khưu, không có cơ sở, không có lý do gì mà một người có đầy đủ tri kiến lại hướng đến một vị thầy nào khác, điều đó không thể xảy ra.” (ma. ni. 3.128; a. ni. 1.276).

Kalyāṇaputhujjanāpi yebhuyyena satthari niccalasaddhā eva honti. Iti suppaṭipannehi purisavisesehi avirahitabbato tesañca avirahanato na santi etassa rahā pariccajanakā, natthi vā etassa rahā sādhūhi pariccajitabbatāti arahaṃ. Tenedaṃ vuccati –
Cũng vậy, các vị phàm phu thiện thường có đức tin không lay chuyển nơi Bậc Đạo Sư. Như vậy, do không nên bị các bậc đặc biệt đã thực hành tốt từ bỏ, và do Ngài cũng không từ bỏ họ, nên không có những người từ bỏ đối với vị ấy, hoặc không có sự từ bỏ nào của các bậc thiện đối với vị ấy, nên là A-la-hán. Chính vì thế, điều này được nói:

‘‘Ye sacchikatasaddhammā, ariyā suddhagocarā;
Na tehi rahito hoti, nātho tenārahaṃ mato’’ti.
“Những bậc Thánh đã chứng ngộ chánh pháp,
Có hành xứ trong sạch, Ngài không tách rời khỏi họ,
Nên Đấng Hộ Trì được cho là A-la-hán.”

Rahoti ca gamanaṃ vuccati, bhagavato ca nānāgatīsu paribbhamanasaṅkhātaṃ saṃsāre gamanaṃ natthi kammakkhayakarena ariyamaggena bodhimūleyeva sabbaso sasambhārassa kammavaṭṭassa viddhaṃsitattā. Yathāha –
raho được gọi là sự đi; và Thế Tôn không có sự đi trong luân hồi, được xem là sự lang thang trong các cõi khác nhau, vì nghiệp luân cùng với các thành phần của nó đã bị tiêu diệt hoàn toàn bằng Thánh đạo, vốn là thứ làm cho nghiệp đoạn tận, ngay tại cội Bồ-đề. Như đã nói:

‘‘Yena devūpapatyassa, gandhabbo vā vihaṅgamo;
Yakkhattaṃ yena gaccheyyaṃ, manussattañca abbaje;
Te mayhaṃ āsavā khīṇā, viddhastā vinaḷīkatā’’ti. (a. ni. 4.36);
“Những lậu hoặc nào của tôi mà do đó tôi có thể tái sanh làm trời,
Hoặc làm một vị gandhabba (nhạc công cõi trời) hay một loài chim,
Do đó tôi có thể đến trạng thái dạ xoa, hoặc trở lại làm người,
Những lậu hoặc ấy của tôi đã được đoạn tận, bị tiêu diệt, bị nhổ tận gốc.” (a. ni. 4.36);

Evaṃ natthi etassa raho gamanaṃ gatīsu paccājātītipi arahaṃ. Tenedaṃ vuccati –
Như vậy, vì vị ấy không có sự đi, sự tái sanh trong các cõi, nên cũng là A-la-hán. Chính vì thế, điều này được nói:

‘‘Raho vā gamanaṃ yassa, saṃsāre natthi sabbaso;
Pahīnajātimaraṇo, arahaṃ sugato mato’’ti.
“Người nào hoàn toàn không có sự đi,
Tức là sự đi trong luân hồi,
Đã đoạn trừ sanh và tử,
Vị Thiện Thệ ấy được cho là A-la-hán.”

Pāsaṃsattā vā bhagavā arahaṃ. Akkharacintakā hi pasaṃsāyaṃ arahasaddaṃ vaṇṇenti. Pāsaṃsabhāvo ca bhagavato anaññasādhāraṇato yathābhuccaguṇādhigato sadevake loke suppatiṭṭhito. Tathā hesa anuttarena sīlena anuttarena samādhinā anuttarāya paññāya anuttarāya vimuttiyā asamo asamasamo appaṭimo appaṭibhāgo appaṭipuggaloti evaṃ tasmiṃ tasmiṃ guṇe vibhajitvā vuccamāne paṇḍitapurisehi devehi brahmehi bhagavatā vā pana pariyosāpetuṃ asakkuṇeyyarūpo. Iti pāsaṃsattāpi bhagavā arahaṃ. Tenedaṃ vuccati –
Hoặc là, Thế Tôn là bậc A-la-hán do đáng được tán thán. Thật vậy, các nhà ngữ pháp giải thích từ ‘araha’ trong ý nghĩa tán thán. Và trạng thái đáng được tán thán của Thế Tôn đã được thành tựu bởi các phẩm hạnh như thật, không chung với ai khác, và đã được xác lập vững chắc trong thế gian cùng với chư thiên. Thật vậy, Ngài không ai sánh bằng, không ai ngang bằng, không ai có thể so sánh, không có đối thủ, không có người tương đương về giới vô thượng, về thiền định vô thượng, về trí tuệ vô thượng, về giải thoát vô thượng. Như vậy, khi được phân tích về từng phẩm hạnh, ngay cả các bậc trí, các vị trời, các vị Phạm thiên hoặc chính Thế Tôn cũng không thể nói hết được. Do đó, Thế Tôn cũng là A-la-hán do đáng được tán thán. Chính vì thế, điều này được nói:

‘‘Guṇehi sadiso natthi, yasmā loke sadevake;
Tasmā pāsaṃsiyattāpi, arahaṃ dvipaduttamo’’ti.
“Vì trong thế gian cùng với chư thiên, không có ai bằng Ngài về phẩm hạnh,
Do đó, cũng do đáng được tán thán,
Bậc Tối Thượng trong loài hai chân là A-la-hán.”

Sabbasaṅgahavasena pana –
Còn theo cách tóm thâu tất cả –

Ārakā mandabuddhīnaṃ, ārakā ca vijānataṃ;
Rahānaṃ suppahīnattā, vidūnamaraheyyato;
Bhavesu ca rahābhāvā, pāsaṃsā arahaṃ jinoti.
Ettāvatā ca ‘‘araha’’nti padassa sabbaso attho vibhatto hoti.
Ở xa những người trí tuệ thấp kém, và cũng ở xa (về phẩm hạnh so với) những người hiểu biết;
Do đã đoạn trừ tốt đẹp những điều cần từ bỏ, và do không nên bị các bậc trí từ bỏ;
Và do không có sự đi trong các cõi hữu, và do đáng được tán thán, nên bậc Chiến Thắng là A-la-hán.
Đến đây, ý nghĩa của từ “A-la-hán” đã được phân tích một cách toàn diện.

Idāni sammāsambuddhoti imassa atthaṃ vibhajitvā dassento āha ‘‘sammā sāmañcā’’tiādi. Tattha sammāti aviparītaṃ. Sāmanti sayameva, aparaneyyo hutvāti attho. Sambuddhoti hi ettha saṃ-saddo sayanti etassa atthassa bodhakoti daṭṭhabbo. Sabbadhammānanti anavasesānaṃ neyyadhammānaṃ. Kathaṃ panettha sabbadhammānanti ayaṃ viseso labbhatīti? Ekadesassa aggahaṇato. Padesaggahaṇe hi asati gahetabbassa nippadesatāva viññāyati yathā ‘‘dikkhito na dadātī’’ti. Evañca katvā atthavisesanapekkhā kattari eva buddhasaddasiddhi veditabbā kammavacanicchāya abhāvato. ‘‘Sammā sāmañca buddhattā sammāsambuddho’’ti ettakameva hi idha saddato labbhati, ‘‘sabbadhammāna’’nti idaṃ pana atthato labbhamānaṃ gahetvā vuttaṃ. Na hi bujjhanakiriyā avisayā yujjati.
Bây giờ, để phân tích và chỉ ra ý nghĩa của từ Chánh Đẳng Giác, (chú giải) nói: “Một cách đúng đắn và bởi chính mình” v.v… Ở đó, một cách đúng đắn là không sai lạc. Bởi chính mình là tự mình, có nghĩa là không cần người khác chỉ dạy. Cần phải hiểu rằng, trong từ giác ngộ hoàn toàn, tiếp đầu ngữ saṃ– chỉ ý nghĩa là ‘tự mình’. Của tất cả các pháp là của tất cả các pháp cần được biết không còn sót lại. Làm thế nào mà sự phân biệt “của tất cả các pháp” này lại có được ở đây? Là do không lấy một phần. Thật vậy, khi không lấy một phần, thì sự không có phần của đối tượng cần được lấy được hiểu rõ, giống như trong câu “người đã được điểm đạo thì không cho.” Và do làm như vậy, cần phải hiểu sự hình thành của từ ‘buddha’ (người giác ngộ) là ở tác giả cách, có sự yêu cầu về một đối tượng đặc biệt, vì không có ý muốn về nghiệp cách. Thật vậy, ở đây, về mặt từ ngữ, chỉ có được câu “do đã giác ngộ một cách đúng đắn và bởi chính mình, nên là Chánh Đẳng Giác;” còn câu “của tất cả các pháp” là được nói sau khi đã lấy ý nghĩa có được về mặt nội dung. Thật vậy, hành động giác ngộ không thể hợp lý nếu không có đối tượng.

Idāni tassā visayaṃ ‘‘sabbadhamme’’ti sāmaññato vuttaṃ vibhajitvā dassetuṃ ‘‘abhiññeyye dhamme’’tiādi vuttaṃ. Tattha abhiññeyyeti aniccādito lakkhaṇarasādito ca abhivisiṭṭhena ñāṇena jānitabbe catusaccadhamme. Abhiññeyyato buddhoti abhiññeyyabhāvato bujjhi, pubbabhāge vipassanāpaññādīhi adhigamakkhaṇe maggapaññāya aparabhāge sabbaññutaññāṇādīhi aññāsīti attho. Ito paresupi eseva nayo . Pariññeyye dhammeti aniccādivasena parijānitabbaṃ dukkhaṃ ariyasaccamāha. Pahātabbeti samudayapakkhiye. Sacchikātabbeti nibbānaṃ sandhāyāha. Bahuvacananiddeso panettha sopādisesādikaṃ pariyāyasiddhaṃ bhedamapekkhitvā kato, uddeso vā ayaṃ catusaccadhammānampi. Tathā hi vakkhati ‘‘cakkhu dukkhasacca’’ntiādi. Uddeso ca avinicchitatthaparicchedassa dhammassa vasena karīyati. Uddesena hi uddisiyamānānaṃ atthitāmattaṃ vuccati, na paricchedoti aparicchedena bahuvacanena vuttaṃ yathā ‘‘appaccayā dhammā, asaṅkhatā dhammā’’ti. Sacchikātabbeti vā phalavimuttīnampi gahaṇaṃ, na nibbānassevāti bahuvacananiddeso kato. Evañca bhāvetabbeti ettha jhānānampi gahaṇaṃ daṭṭhabbaṃ. Teneva cāhāti selabrāhmaṇassa attano buddhabhāvaṃ sādhento evamāha.
Bây giờ, để phân tích và chỉ ra đối tượng của sự giác ngộ ấy, vốn đã được nói một cách tổng quát là “tất cả các pháp,” (chú giải) đã nói: “các pháp cần được thắng tri” v.v… Ở đó, các pháp cần được thắng tri là các pháp Tứ Đế cần được biết bằng trí tuệ siêu việt về phương diện vô thường v.v… và về phương diện đặc tính, phận sự v.v… Đã giác ngộ do thắng tri có nghĩa là, đã giác ngộ do trạng thái cần được thắng tri; đã hiểu rõ bằng các pháp như tuệ quán v.v… ở giai đoạn trước, bằng tuệ của đạo vào khoảnh khắc chứng đắc, và bằng các pháp như nhất thiết trí v.v… ở giai đoạn sau. Trong các trường hợp sau cũng theo phương pháp này. Các pháp cần được liễu tri, (chú giải) nói về khổ đế, vốn cần được biết rõ về phương diện vô thường v.v… Các pháp cần được đoạn trừ là các pháp thuộc phe tập đế. Các pháp cần được chứng ngộ, (chú giải) nói khi đề cập đến Niết-bàn. Việc chỉ định bằng số nhiều ở đây được thực hiện khi xét đến sự phân loại có được theo cách nói gián tiếp như hữu dư y v.v…; hoặc đây là sự đề cập đến cả các pháp Tứ Đế. Thật vậy, (chú giải) sẽ nói “con mắt là khổ đế” v.v… Và sự đề cập được thực hiện theo cách của một pháp có ý nghĩa chưa được xác định. Thật vậy, bằng sự đề cập, chỉ có trạng thái tồn tại của các đối tượng được đề cập được nói đến, chứ không phải sự xác định, do đó đã được nói bằng số nhiều một cách không xác định, giống như “các pháp vô duyên, các pháp vô vi.” Hoặc là, trong câu các pháp cần được chứng ngộ, việc chỉ định bằng số nhiều được thực hiện vì bao gồm cả các quả giải thoát, chứ không chỉ riêng Niết-bàn. Và như vậy, trong câu các pháp cần được tu tập, cần phải thấy sự bao gồm cả các tầng thiền. Và chính vì thế Ngài đã nói có nghĩa là, trong khi chứng minh trạng thái Phật của mình cho Bà-la-môn Sela, Ngài đã nói như vậy.

Kiṃ pana bhagavā sayameva attano sammāsambuddhabhāvaṃ sādhetīti? Sādheti mahākaruṇāya aññesaṃ avisayato. Tattha ‘‘ekomhi sammāsambuddho, sabbābhibhū sabbavidūhamasmī’’tiādīni (ma. ni. 2.341; mahāva. 11) suttapadāni, idameva ca ‘‘abhiññeyya’’ntiādi suttapadaṃ etassa atthassa sādhakaṃ. Tattha abhiññeyyanti iminā dukkhasaccamāha, bhāvetabbanti maggasaccaṃ. Ca-saddo panettha avuttasamuccayattho, tena sacchikātabbassa gahaṇaṃ veditabbaṃ. Atha vā abhiññeyyanti imināva pārisesañāyena pariññeyyadhamme sacchikātabbadhamme ca dasseti. Tasmā buddhosmīti yasmā cattāri saccāni mayā buddhāni, saccavinimuttañca kiñci ñeyyaṃ natthi, tasmā sabbampi ñeyyaṃ buddhosmi, abbhaññāsinti attho. Selasuttaṭṭhakathāyaṃ pana idaṃ vuttaṃ –
Nhưng chẳng phải Thế Tôn tự mình chứng minh trạng thái Chánh Đẳng Giác của mình hay sao? Ngài chứng minh do lòng đại bi và vì đó là điều ngoài tầm hiểu biết của người khác. Ở đó, các đoạn kinh như “Ta là vị Chánh Đẳng Giác duy nhất, Ta là người chinh phục tất cả, là người biết tất cả” v.v… (ma. ni. 2.341; mahāva. 11), và chính đoạn kinh “các pháp cần được thắng tri” v.v… này là bằng chứng cho ý nghĩa ấy. Ở đó, bằng từ các pháp cần được thắng tri, Ngài nói về khổ đế; các pháp cần được tu tập là đạo đế. Tiểu từ ca– (và) ở đây có ý nghĩa gộp lại những điều chưa được nói, bằng từ đó cần phải hiểu là bao gồm cả pháp cần được chứng ngộ. Hoặc là, chính bằng từ các pháp cần được thắng tri, theo phương pháp phần còn lại, Ngài chỉ ra các pháp cần được liễu tri và các pháp cần được chứng ngộ. Vì thế, Ta là Phật có nghĩa là, vì bốn đế đã được Ta giác ngộ, và không có pháp nào cần được biết ngoài các đế, do đó Ta đã giác ngộ tất cả những gì cần được biết, Ta đã thắng tri. Tuy nhiên, trong chú giải kinh Sela, điều này đã được nói:

‘‘Abhiññeyyanti vijjā ca vimutti ca. Bhāvetabbaṃ maggasaccaṃ. Pahātabbaṃ samudayasaccaṃ. Hetuvacanena pana phalasiddhito tesaṃ phalāni nirodhasaccadukkhasaccānipi vuttāneva honti. Evaṃ sacchikātabbaṃ sacchikataṃ, pariññātabbaṃ pariññātanti idampettha saṅgahitamevāti catusaccabhāvanaṃ catusaccabhāvanāphalañca vimuttiṃ dassento ‘bujjhitabbaṃ bujjhitvā buddho jātosmī’ti yuttahetunā buddhabhāvaṃ sādhetī’’ti (ma. ni. aṭṭha. 2.399).
“Các pháp cần được thắng tri là minh và giải thoát. Các pháp cần được tu tập là đạo đế. Các pháp cần được đoạn trừ là tập đế. Và vì quả được thành tựu bởi lời nói về nhân, nên các quả của chúng là diệt đế và khổ đế cũng đã được nói đến. Như vậy, pháp cần được chứng ngộ đã được chứng ngộ, pháp cần được liễu tri đã được liễu tri; điều này cũng đã được bao gồm ở đây. Do đó, trong khi chỉ ra sự tu tập Tứ Đế và giải thoát vốn là quả của sự tu tập Tứ Đế, Ngài đã chứng minh trạng thái Phật bằng lý do hợp lý rằng: ‘sau khi đã giác ngộ điều cần được giác ngộ, Ta đã trở thành Phật.’” (ma. ni. aṭṭha. 2.399).

Tattha vijjāti maggavijjā vuttā ukkaṭṭhaniddesena. Vimuttīti phalavimutti. Kāmañcettha maggavijjāpi bhāvetabbabhāvena gahitā, sabbepi pana sabhāvadhammā abhiññeyyāti vijjāya abhiññeyyabhāvo vutto. Imināva nayena sabbesampi abhiññeyyabhāvo vutto evāti daṭṭhabbaṃ. Phalena vinā hetubhāvasseva abhāvato hetuvacanena phalasiddhi vuttāti veditabbaṃ. Nirodhassa hi sampāpanena maggassa hetubhāvo, dukkhassa nibbattanena taṇhāya samudayabhāvoti.
Ở đó, minh là minh của đạo được nói đến theo cách chỉ định pháp cao nhất. Giải thoát là quả giải thoát. Mặc dù ở đây, minh của đạo cũng được bao gồm do trạng thái cần được tu tập, nhưng vì tất cả các pháp thực tính đều cần được thắng tri, nên trạng thái cần được thắng tri của minh đã được nói đến. Theo phương pháp này, cần phải thấy rằng trạng thái cần được thắng tri của tất cả cũng đã được nói đến. Cần phải hiểu rằng sự thành tựu của quả được nói đến bởi lời nói về nhân, vì không có trạng thái làm nhân nếu không có quả. Thật vậy, trạng thái làm nhân của đạo là do sự thành tựu của diệt; trạng thái là tập đế của ái là do sự tạo ra của khổ.

Evaṃ saccavasena sāmaññato vuttamatthaṃ dvārārammaṇehi saddhiṃ dvārappavattadhammehi ceva khandhādīhi ca saccavaseneva vibhajitvā dassetuṃ ‘‘apicā’’tiādi āraddhaṃ. Mūlakāraṇabhāvenāti santesupi avijjādīsu aññesu kāraṇesu tesampi mūlabhūtakāraṇabhāvena. Taṇhā hi kammassa vicittabhāvahetuto sahāyabhāvūpagamanato ca dukkhavicittatāya padhānakāraṇaṃ. Samuṭṭhāpikāti uppādikā. Purimataṇhāti purimabhavasiddhā taṇhā. Ubhinnanti cakkhussa taṃsamudayassa ca. Appavattīti appavattinimittaṃ. Nirodhappajānanāti sacchikiriyābhisamayavasena nirodhassa paṭivijjhanā. Ekekapaduddhārenāti ‘‘cakkhuṃ cakkhusamudayo cakkhunirodho’’tiādinā ekekakoṭṭhāsaniddhāraṇena. Taṇhāyapi pariññeyyabhāvasabbhāvato upādānakkhandhogadhattā saṅkhāradukkhabhāvato ca dukkhasaccasaṅgahaṃ dassetuṃ ‘‘rūpataṇhādayo cha taṇhākāyā’’ti vuttaṃ, tasmā vattamānabhave taṇhā khandhapariyāpannattā saṅkhāradukkhabhāvato ca dukkhasaccaṃ. Yasmiṃ pana attabhāve sā uppajjati, tassa attabhāvassa mūlakāraṇabhāvena samuṭṭhāpikā purimabhavasiddhā taṇhā samudayasaccanti gahetabbā.
Như vậy, để phân tích và chỉ ra ý nghĩa đã được nói một cách tổng quát theo các đế, cùng với các căn và các đối tượng, các pháp sanh khởi ở các căn, và các uẩn v.v… theo các đế, (chú giải) đã bắt đầu bằng câu “Hơn nữa” v.v… Bởi trạng thái là nguyên nhân gốc là, mặc dù có các nguyên nhân khác như vô minh v.v…, nhưng bởi trạng thái là nguyên nhân gốc của cả chúng. Thật vậy, ái là nguyên nhân chính cho sự đa dạng của khổ, do là nhân cho sự đa dạng của nghiệp và do trở thành trợ thủ. Thứ làm sanh khởi là thứ làm phát sanh. Ái ở trước là ái đã có trong đời trước. Của cả hai là của con mắt và sự tập khởi của nó. Sự không diễn tiến là dấu hiệu của sự không diễn tiến. Sự hiểu rõ về diệt là sự thấu triệt về diệt theo cách chứng ngộ và thắng tri. Bằng cách nêu lên từng từ là bằng cách nêu lên từng phần như “con mắt, sự tập khởi của con mắt, sự đoạn diệt của con mắt” v.v… Do ái cũng có trạng thái cần được liễu tri, thuộc về các thủ uẩn và có bản chất là hành khổ, nên để chỉ ra sự bao gồm trong khổ đế, đã nói: “sáu thân ái như sắc ái v.v…” Do đó, ái trong đời hiện tại, vì thuộc về các uẩn và có bản chất là hành khổ, nên là khổ đế. Còn ái đã có trong đời trước, vốn là nguyên nhân gốc làm sanh khởi cho thân mạng mà nó sanh ra trong đó, cần được hiểu là tập đế.

Kasiṇānīti kasiṇārammaṇikajjhānāni. Dvattiṃsākārāti dvattiṃsa koṭṭhāsā tadārammaṇajjhānāni ca. Nava bhavāti kāmabhavo rūpabhavo arūpabhavo saññībhavo asaññībhavo nevasaññīnāsaññībhavo ekavokārabhavo catuvokārabhavo pañcavokārabhavoti nava bhavā. Tattha bhavatīti bhavo, kāmarāgasaṅkhātena kāmena yutto bhavo, kāmasaṅkhāto vā bhavo kāmabhavo, ekādasa kāmāvacarabhūmiyo. Kāme pahāya rūparāgasaṅkhātena rūpena yutto bhavo, rūpasaṅkhāto vā bhavo rūpabhavo, soḷasa rūpāvacarabhūmiyo. Kāmañca rūpañca pahāya arūparāgasaṅkhātena arūpena yutto bhavo, arūpasaṅkhāto vā bhavo arūpabhavo, catasso āruppabhūmiyo. Saññāvataṃ bhavo saññībhavo, saññā vā ettha bhave atthīti saññībhavo, so kāmabhavo ca asaññībhavamutto rūpabhavo ca nevasaññīnāsaññībhavamutto arūpabhavo ca hoti. Na saññībhavo asaññībhavo, so rūpabhavekadeso. Oḷārikattābhāvato nevasaññā, sukhumattassa sabbhāvato nāsaññāti nevasaññānāsaññā, tāya yutto bhavo nevasaññānāsaññābhavo. Atha vā oḷārikāya saññāya abhāvā sukhumāya ca bhāvā nevasaññā nāsaññā asmiṃ bhaveti nevasaññānāsaññābhavo, so arūpabhavekadeso. Ekena rūpakkhandhena vokiṇṇo bhavo, ekena vā vokāro assa bhavassāti ekavokārabhavo, so asaññībhavo. Catūhi arūpakkhandhehi vokiṇṇo bhavo, catūhi vā vokāro assa bhavassāti catuvokārabhavo, so arūpabhavo eva. Pañcahi khandhehi vokiṇṇo bhavo, pañcahi vā vokāro assa bhavassāti pañcavokārabhavo, so kāmabhavo ca rūpabhavekadeso ca hoti. Vokāroti vā khandhānametamadhivacanaṃ, tasmā eko vokāro assa bhavassāti ekavokārabhavoti evamādināpettha attho veditabbo. Cattāri jhānānīti aggahitārammaṇavisesāni cattāri rūpāvacarajjhānāni. Vipākajjhānānaṃ vā etaṃ gahaṇaṃ. Ettha ca kusaladhammānaṃ upanissayabhūtā taṇhāsamuṭṭhāpikā purimataṇhāti veditabbā. Kiriyadhammānaṃ pana yattha te kiriyadhammā uppajjanti, tassa attabhāvassa kāraṇabhūtā taṇhā. Anulomatoti ettha ‘‘saṅkhārā dukkhasaccaṃ, avijjā samudayasacca’’nti iminā anukkamena yojetabbaṃ.
Các đề mục biến xứ là các tầng thiền có đề mục biến xứ làm đối tượng. Ba mươi hai thể trược là ba mươi hai phần và các tầng thiền có chúng làm đối tượng. Chín cõi hữu là chín cõi hữu này: dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu, tưởng hữu, vô tưởng hữu, phi tưởng phi phi tưởng hữu, nhất uẩn hữu, tứ uẩn hữu, và ngũ uẩn hữu. Ở đó, nó trở thành, nên là hữu; hữu liên quan đến dục do dục ái là gốc, hoặc hữu được xem là dục, là dục hữu, tức mười một cõi dục. Sau khi từ bỏ các dục, hữu liên quan đến sắc do sắc ái là gốc, hoặc hữu được xem là sắc, là sắc hữu, tức mười sáu cõi sắc. Sau khi từ bỏ cả dục và sắc, hữu liên quan đến vô sắc do vô sắc ái là gốc, hoặc hữu được xem là vô sắc, là vô sắc hữu, tức bốn cõi vô sắc. Hữu của các chúng sanh có tưởng là tưởng hữu; hoặc là tưởng có ở trong cõi hữu này, nên là tưởng hữu; đó là dục hữu, sắc hữu (trừ cõi vô tưởng), và vô sắc hữu (trừ cõi phi tưởng phi phi tưởng). Không phải tưởng hữu là vô tưởng hữu; đó là một phần của sắc hữu. Do không có tưởng thô, và do có tưởng vi tế, nên là phi tưởng phi phi tưởng; hữu liên quan đến trạng thái đó là phi tưởng phi phi tưởng hữu. Hoặc là, trong cõi hữu này, không có tưởng thô và có tưởng vi tế, nên là phi tưởng phi phi tưởng hữu; đó là một phần của vô sắc hữu. Hữu được pha trộn bởi một sắc uẩn, hoặc cõi hữu này có một uẩn, nên là nhất uẩn hữu; đó là vô tưởng hữu. Hữu được pha trộn bởi bốn vô sắc uẩn, hoặc cõi hữu này có bốn uẩn, nên là tứ uẩn hữu; đó chính là vô sắc hữu. Hữu được pha trộn bởi năm uẩn, hoặc cõi hữu này có năm uẩn, nên là ngũ uẩn hữu; đó là dục hữu và một phần của sắc hữu. Hoặc là, uẩn là tên gọi của các uẩn, do đó, cõi hữu này có một uẩn nên là nhất uẩn hữu; cần phải hiểu ý nghĩa ở đây theo cách như vậy v.v… Bốn tầng thiền là bốn tầng thiền sắc giới không có đối tượng được phân biệt. Hoặc đây là sự bao gồm các thiền quả. Và ở đây, cần phải hiểu rằng ái ở trước, vốn là thứ làm sanh khởi ái, là y chỉ duyên cho các pháp thiện. Còn đối với các pháp duy tác, đó là ái vốn là nguyên nhân cho thân mạng mà các pháp duy tác ấy sanh khởi trong đó. Trong từ theo chiều thuận, ở đây cần phải được kết hợp theo thứ tự này: “các hành là khổ đế, vô minh là tập đế.”

Anubuddhoti bujjhitabbadhammassa anurūpato buddho. Tenāti yasmā sāmaññato visesato ca ekekapaduddhārena sabbadhamme buddho, tasmā vuttaṃ. Kiṃ vuttanti āha ‘‘sammā sāmañca sabbadhammānaṃ buddhattā’’ti, sabbassapi ñeyyassa sabbākārato aviparītaṃ sayameva abhisambuddhattāti attho. Imināssa paropadesarahitassa sabbākārena sabbadhammāvabodhanasamatthassa ākaṅkhappaṭibaddhavuttino anāvaraṇañāṇasaṅkhātassa sabbaññutaññāṇassa adhigamo dassito.
Đã giác ngộ theo là đã giác ngộ tương ứng với pháp cần được giác ngộ. Do đó có nghĩa là, vì Ngài đã giác ngộ tất cả các pháp một cách tổng quát, một cách đặc biệt, và bằng cách nêu lên từng từ, nên đã nói. Đã nói gì? (Chú giải) nói: “do đã giác ngộ tất cả các pháp một cách đúng đắn và bởi chính mình,” có nghĩa là do đã giác ngộ hoàn toàn một cách không sai lạc và bởi chính mình đối với tất cả những gì có thể biết về mọi phương diện. Bằng điều này, sự chứng đắc nhất thiết trí của Ngài được chỉ ra, vốn là trí tuệ không bị ngăn ngại, không cần sự chỉ dạy của người khác, có khả năng thấu hiểu tất cả các pháp về mọi phương diện, có sự vận hành tùy theo ý muốn.

Nanu ca sabbaññutaññāṇato aññaṃ anāvaraṇañāṇaṃ, aññathā ‘‘cha asādhāraṇañāṇāni buddhañāṇānī’’ti vacanaṃ virujjheyyāti? Na virujjhati visayappavattibhedavasena aññehi asādhāraṇabhāvadassanatthaṃ ekasseva ñāṇassa dvidhā vuttattā. Ekameva hi taṃ ñāṇaṃ anavasesasaṅkhatāsaṅkhatasammutidhammavisayatāya sabbaññutaññāṇaṃ, tattha ca āvaraṇābhāvato nissaṅgacāramupādāya anāvaraṇañāṇanti vuttaṃ. Yathāha paṭisambhidāyaṃ (paṭi. ma. 1.119) ‘‘sabbaṃ saṅkhatamasaṅkhataṃ anavasesaṃ jānātīti sabbaññutaññāṇaṃ, tattha āvaraṇaṃ natthīti anāvaraṇañāṇa’’ntiādi. Tasmā natthi nesaṃ atthato bhedo, ekantena cetaṃ evamicchitabbaṃ. Aññathā sabbaññutānāvaraṇañāṇānaṃ sādhāraṇatā asabbadhammārammaṇatā ca āpajjeyya. Na hi bhagavato ñāṇassa aṇumattampi āvaraṇaṃ atthi, anāvaraṇañāṇassa asabbadhammārammaṇabhāve yattha taṃ na pavattati, tatthāvaraṇasabbhāvato anāvaraṇabhāvoyeva na siyā. Atha vā pana hotu aññameva anāvaraṇañāṇaṃ sabbaññutaññāṇato, idha pana sabbattha appaṭihatavuttitāya anāvaraṇañāṇanti sabbaññutaññāṇameva adhippetaṃ, tassa cādhigamanena bhagavā sabbaññū sabbavidū sammāsambuddhoti ca vuccati na sakiṃyeva sabbadhammāvabodhanato. Tathā ca vuttaṃ paṭisambhidāyaṃ (paṭi. ma. 1.162) ‘‘vimokkhantikametaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ bodhiyā mūle saha sabbaññutaññāṇassa paṭilābhā sacchikā paññatti yadidaṃ buddho’’ti. Sabbadhammāvabodhanasamatthañāṇasamadhigamena hi bhagavato santāne anavasesadhamme paṭivijjhituṃ samatthatā ahosīti.
Chẳng phải trí tuệ không bị ngăn ngại là khác với nhất thiết trí hay sao? Nếu không, lời nói “sáu trí tuệ không chung là các trí tuệ của Phật” sẽ bị mâu thuẫn. Không mâu thuẫn, vì để chỉ ra trạng thái không chung với những người khác về phương diện đối tượng và sự vận hành, một trí tuệ duy nhất đã được nói theo hai cách. Thật vậy, một trí tuệ duy nhất ấy, do có đối tượng là tất cả các pháp hữu vi, vô vi và quy ước không còn sót lại, nên là nhất thiết trí; và ở đó, do không có sự ngăn ngại, dựa vào sự vận hành không bị vướng mắc, nên được gọi là trí tuệ không bị ngăn ngại. Như đã nói trong Vô Ngại Giải Đạo (paṭi. ma. 1.119): “biết tất cả các pháp hữu vi và vô vi không còn sót lại, nên là nhất thiết trí; ở đó không có sự ngăn ngại, nên là trí tuệ không bị ngăn ngại” v.v… Do đó, về mặt ý nghĩa, chúng không có sự khác biệt; và điều này chắc chắn phải được chấp nhận như vậy. Nếu không, nhất thiết trí và trí tuệ không bị ngăn ngại sẽ trở thành chung (với người khác) và có đối tượng không phải là tất cả các pháp. Thật vậy, không có một chút ngăn ngại nào đối với trí tuệ của Thế Tôn; nếu trí tuệ không bị ngăn ngại có đối tượng không phải là tất cả các pháp, thì ở nơi mà nó không vận hành, do có sự tồn tại của sự ngăn ngại, nên chính trạng thái không bị ngăn ngại sẽ không có. Hoặc là, cứ cho rằng trí tuệ không bị ngăn ngại là khác với nhất thiết trí, nhưng ở đây, nhất thiết trí được chủ trương là trí tuệ không bị ngăn ngại do có sự vận hành không bị cản trở ở khắp mọi nơi. Và do sự chứng đắc trí tuệ ấy, Thế Tôn được gọi là bậc Toàn Giác, bậc Biến Tri, bậc Chánh Đẳng Giác, chứ không phải do sự thấu hiểu tất cả các pháp chỉ trong một lần. Và điều đó đã được nói trong Vô Ngại Giải Đạo (paṭi. ma. 1.162): “Đây là điểm cuối cùng của sự giải thoát của các vị Phật, các bậc Thế Tôn, tại cội Bồ-đề, cùng với sự chứng đắc nhất thiết trí, là sự chế định được chứng ngộ, đó là ‘Phật’.” Thật vậy, do sự chứng đắc trí tuệ có khả năng thấu hiểu tất cả các pháp, nên trong tâm tánh của Thế Tôn đã có khả năng thấu triệt tất cả các pháp không còn sót lại.

Etthāha – kiṃ panidaṃ ñāṇaṃ pavattamānaṃ sakiṃyeva sabbasmiṃ visaye pavattati, udāhu kamenāti. Kiñcettha – yadi tāva sakiṃyeva sabbasmiṃ visaye pavattati, atītānāgatapaccuppannaajjhattabahiddhādibhedabhinnānaṃ saṅkhatadhammānaṃ asaṅkhatasammutidhammānañca ekajjhaṃ upaṭṭhāne dūrato cittapaṭaṃ pekkhantassa viya paṭivibhāgenāvabodho na siyā, tathā sati ‘‘sabbe dhammā anattā’’ti vipassantānaṃ anattākārena viya sabbadhammā anirūpitarūpena bhagavato ñāṇassa visayā hontīti āpajjati. Yepi ‘‘sabbañeyyadhammānaṃ ṭhitalakkhaṇavisayaṃ vikapparahitaṃ sabbakālaṃ buddhānaṃ ñāṇaṃ pavattati, tena te sabbavidūti vuccanti, evañca katvā ‘caraṃ samāhito nāgo, tiṭṭhantopi samāhito’ti idampi vacanaṃ suvuttaṃ hotī’’ti vadanti, tesampi vuttadosā nātivatti, ṭhitalakkhaṇārammaṇatāya ca atītānāgatasammutidhammānaṃ tadabhāvato ekadesavisayameva bhagavato ñāṇaṃ siyā, tasmā sakiṃyeva ñāṇaṃ pavattatīti na yujjati.
Ở đây, có người nói: Vậy, trí tuệ này, khi vận hành, nó vận hành trên tất cả đối tượng cùng một lúc, hay là tuần tự? Có vấn đề gì ở đây? Nếu nó vận hành trên tất cả đối tượng cùng một lúc, thì khi các pháp hữu vi, được phân loại theo quá khứ, tương lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài v.v…, và các pháp vô vi, quy ước cùng hiện diện một lúc, thì sẽ không có sự thấu hiểu một cách phân biệt, giống như người nhìn một tấm tranh từ xa. Nếu vậy, sẽ dẫn đến kết luận rằng tất cả các pháp, theo một cách không xác định, trở thành đối tượng cho trí tuệ của Thế Tôn, giống như đối với những người đang quán chiếu “tất cả các pháp là vô ngã” theo phương diện vô ngã. Cả những người nói rằng: “Trí tuệ của các vị Phật vận hành mọi lúc, không có khái niệm, có đối tượng là đặc tính tĩnh tại của tất cả các pháp có thể biết; do đó, các Ngài được gọi là bậc Biến Tri. Và do làm như vậy, câu nói ‘bậc Nāga đi trong thiền định, đứng cũng trong thiền định’ này cũng trở nên đúng đắn,” quan điểm của họ cũng không vượt qua được lỗi đã nói. Và do có đối tượng là đặc tính tĩnh tại, nên đối với các pháp quá khứ, tương lai và quy ước, do không có đặc tính đó, trí tuệ của Thế Tôn sẽ chỉ có đối tượng là một phần; do đó, việc trí tuệ vận hành cùng một lúc là không hợp lý.

Atha kamena sabbasmiṃ visaye ñāṇaṃ pavattatīti. Evampi na yujjati. Na hi jātibhūmisabhāvādivasena disādesakālādivasena ca anekabhedabhinne ñeyye kamena gayhamāne tassa anavasesappaṭivedho sambhavati apariyantabhāvato ñeyyassa. Ye pana ‘‘atthassa avisaṃvādanato ñeyyassa ekadesaṃ paccakkhaṃ katvā sesepi evanti adhimuccitvā vavatthāpanena sabbaññū bhagavā, tañca ñāṇaṃ na anumānañāṇaṃ saṃsayābhāvato. Saṃsayānubaddhañhi loke anumānañāṇa’’nti vadanti, tesampi taṃ na yuttaṃ. Sabbassa hi appaccakkhabhāve atthāvisaṃvādanena ñeyyassa ekadesaṃ paccakkhaṃ katvā sesepi evanti adhimuccitvā vavatthāpanassa asambhavato. Yañhi taṃ sesaṃ, taṃ appaccakkhanti.
Vậy, trí tuệ vận hành trên tất cả đối tượng một cách tuần tự. Điều này cũng không hợp lý. Thật vậy, khi các pháp có thể biết, vốn được phân loại theo nhiều cách như chủng loại, cõi, bản chất v.v…, và theo phương hướng, nơi chốn, thời gian v.v…, được nắm bắt một cách tuần tự, thì không thể có sự thấu triệt không còn sót lại, vì các pháp có thể biết là vô hạn. Còn những người nói rằng: “Do sự không sai lệch của ý nghĩa, sau khi đã trực nhận một phần của các pháp có thể biết, Thế Tôn là bậc Toàn Giác do sự quyết định và xác lập rằng các phần còn lại cũng như vậy; và trí tuệ đó không phải là trí tuệ suy luận, vì không có sự hoài nghi. Thật vậy, trí tuệ suy luận trong đời luôn đi kèm với sự hoài nghi,” quan điểm của họ cũng không hợp lý. Bởi vì nếu không trực nhận được tất cả, thì không thể có sự quyết định và xác lập rằng các phần còn lại cũng như vậy, sau khi đã trực nhận một phần của các pháp có thể biết do sự không sai lệch của ý nghĩa. Bởi vì phần còn lại đó không được trực nhận.

Atha tampi paccakkhaṃ tassa sesabhāvo eva na siyāti? Sabbametaṃ akāraṇaṃ. Kasmā? Avisayavicāraṇabhāvato. Vuttañhetaṃ bhagavatā – ‘‘buddhavisayo, bhikkhave, acinteyyo na cintetabbo, yo cinteyya, ummādassa vighātassa bhāgī assā’’ti (a. ni. 4.77). Idaṃ panettha sanniṭṭhānaṃ – yaṃ kiñci bhagavatā ñātuṃ icchitaṃ sakalaṃ ekadeso vā, tattha tattha appaṭihatavuttitāya paccakkhato ñāṇaṃ pavattati niccasamādhānañca vikkhepābhāvato. Ñātuṃ icchitassa ca sakalassa avisayabhāve tassa ākaṅkhappaṭibaddhavuttitā na siyā, ekantenevassā icchitabbā ‘‘sabbe dhammā buddhassa bhagavato āvajjanappaṭibaddhā ākaṅkhappaṭibaddhā manasikārappaṭibaddhā cittuppādappaṭibaddhā’’ti (mahāni. 69; paṭi. ma. 3.5) vacanato. Atītānāgatavisayampi bhagavato ñāṇaṃ anumānāgamatakkagahaṇavirahitattā paccakkhameva.
Vậy, điều đó cũng được trực nhận, và không có trạng thái còn lại của nó hay sao? Tất cả những điều này đều không phải là lý do. Tại sao? Vì đó là sự suy xét điều không thuộc phạm vi. Điều này đã được Thế Tôn nói: “Phạm vi của Phật, này các Tỳ-khưu, là điều không thể nghĩ bàn, không nên suy nghĩ; người nào suy nghĩ, người đó sẽ bị điên loạn, khốn khổ.” (a. ni. 4.77). Kết luận ở đây là như vầy: bất cứ điều gì Thế Tôn muốn biết, toàn bộ hay một phần, trí tuệ của Ngài vận hành một cách trực tiếp, không bị cản trở ở từng nơi đó; và Ngài luôn có sự định tâm do không có sự phân tán. Và nếu toàn bộ những gì có thể biết không phải là đối tượng, thì trí tuệ của Ngài sẽ không có sự vận hành tùy theo ý muốn; và chắc chắn ý muốn của Ngài phải được như vậy, theo câu: “Tất cả các pháp đều tùy thuộc vào sự hướng tâm, tùy thuộc vào ý muốn, tùy thuộc vào sự tác ý, tùy thuộc vào sự sanh khởi của tâm của Đức Phật, Thế Tôn.” (mahāni. 69; paṭi. ma. 3.5). Trí tuệ của Thế Tôn, ngay cả đối với đối tượng quá khứ và tương lai, cũng là sự trực nhận, vì không có sự nắm bắt bằng suy luận, kinh điển hay lý luận.

Nanu ca etasmimpi pakkhe yadā sakalaṃ ñātuṃ icchitaṃ, tadā sakiṃyeva sakalavisayatāya anirūpitarūpena bhagavato ñāṇaṃ pavatteyyāti vuttadosā nātivattiyevāti? Na, tassa visodhitattā. Visodhito hi so buddhavisayo acinteyyoti. Aññathā pacurajanañāṇasamānavuttitāya buddhānaṃ bhagavantānaṃ ñāṇassa acinteyyatā na siyā, tasmā sakaladhammārammaṇampi taṃ ekadhammārammaṇaṃ viya suvavatthāpiteyeva te dhamme katvā pavattatīti idamettha acinteyyaṃ, ‘‘yāvatakaṃ ñeyyaṃ, tāvatakaṃ ñāṇaṃ. Yāvatakaṃ ñāṇaṃ, tāvatakaṃ ñeyyaṃ. Ñeyyapariyantikaṃ ñāṇaṃ, ñāṇapariyantikaṃ ñeyya’’nti (paṭi. ma. 3.5) evamekajjhaṃ visuṃ sakiṃ kamena vā icchānurūpaṃ sammā sāmaṃ sabbadhammānaṃ buddhattā sammāsambuddho.
Chẳng phải trong quan điểm này cũng vậy, khi Ngài muốn biết toàn bộ, lúc bấy giờ trí tuệ của Ngài sẽ vận hành trên toàn bộ đối tượng cùng một lúc theo một cách không xác định, nên không vượt qua được lỗi đã nói hay sao? Không, vì điều đó đã được làm sáng tỏ. Thật vậy, phạm vi của Phật đã được làm sáng tỏ là điều không thể nghĩ bàn. Nếu không, trí tuệ của các vị Phật, các bậc Thế Tôn, sẽ không có tính chất không thể nghĩ bàn, do có sự vận hành giống như trí tuệ của nhiều người. Do đó, mặc dù có đối tượng là tất cả các pháp, nó vận hành sau khi đã xác lập rõ ràng các pháp ấy, giống như có đối tượng là một pháp; điều không thể nghĩ bàn ở đây là như vậy. “Phạm vi các pháp cần biết đến đâu, trí tuệ đến đó. Trí tuệ đến đâu, phạm vi các pháp cần biết đến đó. Trí tuệ có các pháp cần biết làm giới hạn, các pháp cần biết có trí tuệ làm giới hạn.” (paṭi. ma. 3.5). Như vậy, do đã giác ngộ tất cả các pháp một cách đúng đắn và bởi chính mình, theo ý muốn, cùng một lúc, riêng biệt, cùng lúc hay tuần tự, nên là Chánh Đẳng Giác.

Vijjāhīti ettha vindiyaṃ vindatīti vijjā, yāthāvato upalabbhatīti attho. Attano vā paṭipakkhassa vijjhanaṭṭhena vijjā, tamokkhandhādikassa padālanaṭṭhenāti attho. Tato eva attano visayassa viditakaraṇaṭṭhenapi vijjā. Sampannattāti samannāgatattā paripuṇṇattā vā, avikalattāti attho. Tatrāti ambaṭṭhasutte. Manomayiddhiyāti ettha ‘‘idha bhikkhu imamhā kāyā aññaṃ kāyaṃ abhinimmināti rūpiṃ manomayaṃ sabbaṅgapaccaṅgaṃ ahīnindriya’’nti (dī. ni. 1.236) iminā nayena āgatā iddhi sarīrabbhantare aññasseva jhānamanena nibbattattā manomayassa sarīrassa nibbattivasena pavattā manomayiddhi nāma. Cha abhiññāti āsavakkhayañāṇena saddhiṃ iddhividhādikā pañcābhiññāyo. Tissannaṃ aṭṭhannañca vijjānaṃ tattha tattha sutte gahaṇaṃ veneyyajjhāsayavasenāti daṭṭhabbaṃ. Satta saddhammā nāma saddhā hirī ottappaṃ bāhusaccaṃ vīriyaṃ sati paññā ca. Ye sandhāya vuttaṃ ‘‘idha bhikkhu saddho hoti, hirimā, ottappī, bahussuto, āraddhavīriyo, upaṭṭhitassati, paññavā hotī’’ti (dī. ni. 3.330). Cattāri jhānānīti yāni kānici cattāri rūpāvacarajjhānāni.
Trong câu bởi các minh, ở đây, nó tìm thấy điều cần được tìm thấy, nên là minh; có nghĩa là nó nhận biết như thật. Hoặc là, do có ý nghĩa xuyên thủng đối nghịch của nó, nên là minh; có nghĩa là do có ý nghĩa phá tan khối si mê v.v… Chính vì thế, nó cũng là minh do có ý nghĩa làm cho đối tượng của nó được biết rõ. Do sự đầy đủ là do sự trang bị hoặc do sự viên mãn; có nghĩa là do sự không thiếu sót. Ở đó là trong kinh Ambaṭṭha. Trong câu thần thông do ý tạo, ở đây, thần thông đã được đề cập theo phương pháp này: “Ở đây, vị Tỳ-khưu từ thân này hóa hiện ra một thân khác, có sắc, do ý tạo, có đủ tất cả các bộ phận lớn nhỏ, không thiếu giác quan” (dī. ni. 1.236), được gọi là thần thông do ý tạo, vì nó vận hành theo cách tạo ra một thân thể do ý tạo, do một thân thể khác được tạo ra bên trong thân này bằng thiền định và ý. Sáu thắng trí là năm thắng trí như thần túc thông v.v… cùng với lậu tận trí. Cần phải thấy rằng việc bao gồm ba minh và tám minh trong các kinh ở từng nơi là tùy theo ý hướng của chúng sanh cần được giáo hóa. Bảy diệu pháp là đức tin, lòng hổ thẹn, sự ghê sợ, sự đa văn, tinh tấn, niệm và trí tuệ. Đề cập đến chúng mà đã nói: “Ở đây, vị Tỳ-khưu có đức tin, có lòng hổ thẹn, có sự ghê sợ, là người đa văn, có tinh tấn đã được khơi dậy, có niệm an trú, có trí tuệ.” (dī. ni. 3.330). Bốn tầng thiền là bất kỳ bốn tầng thiền sắc giới nào.

Kasmā panettha sīlādayoyeva pannarasa ‘‘caraṇa’’nti vuttāti codanaṃ sandhāyāha ‘‘imeyeva hī’’tiādi. Tena tesaṃ sikkhattayasaṅgahato nibbānupagamane ekaṃsato sādhanabhāvamāha. Idāni tadatthasādhanāya āgamaṃ dassento ‘‘yathāhā’’tiādimāha. Bhagavātiādi vuttassevatthassa nigamanavasena vuttaṃ. Nanu cāyaṃ vijjācaraṇasampadā sāvakesupi labbhatīti? Kiñcāpi labbhati, na pana tathā, yathā bhagavatoti dassetuṃ ‘‘tattha vijjāsampadā’’tiādi vuttaṃ. Āsavakkhayavijjāya sabbaññubhāvasiddhito āha ‘‘vijjāsampadā bhagavato sabbaññutaṃ pūretvā ṭhitā’’ti. Catūsu jhānesu antogadhabhāvena caraṇadhammapariyāpannattā karuṇābrahmavihārassa yathārahaṃ tassa ca mahākaruṇāsamāpattivasena asādhāraṇasabhāvassa bhagavati upalabbhanato āha ‘‘caraṇasampadā mahākāruṇikataṃ pūretvā ṭhitā’’ti. Yathā sattānaṃ anatthaṃ parivajjetvā atthe niyojanaṃ paññāya vinā na hoti, evaṃ nesaṃ atthānatthajānanaṃ satthu karuṇāya vinā na hotīti ubhayampi ubhayattha sakiccakameva siyā. Yattha pana yassā padhānabhāvo, taṃ dassetuṃ ‘‘so sabbaññutāyā’’tiādi vuttaṃ. Yathā taṃ vijjācaraṇasampannoti ettha tanti nipātamattaṃ, yathā aññopi vijjācaraṇasampanno niyojeti, tathā ayanti attho. Tena vijjācaraṇasampannassevāyaṃ āveṇikā paṭipattīti dasseti. Sā panāyaṃ satthu vijjācaraṇasampadā sāsanassa niyyānikatāya sāvakānaṃ sammāpaṭipattiyā ekantakāraṇanti dassetuṃ ‘‘tenassā’’tiādi vuttaṃ. Tattha attantapādayoti ādi-saddena parantapaubhayantapā gahitā. Sesaṃ suviññeyyameva.
Tại sao ở đây chỉ có mười lăm pháp như giới v.v… được gọi là “hạnh”? Để giải đáp câu chất vấn đó, (chú giải) nói: “Bởi vì chính những pháp này” v.v… Bằng câu đó, (chú giải) nói lên trạng thái là phương tiện chắc chắn để đạt đến Niết-bàn của chúng, do chúng được bao gồm trong Tam học. Bây giờ, để chỉ ra kinh điển làm cơ sở cho ý nghĩa đó, (chú giải) nói: “Như đã nói” v.v… Câu Thế Tôn v.v… được nói như một kết luận cho ý nghĩa đã được trình bày. Chẳng phải minh hạnh túc này cũng có ở các vị đệ tử hay sao? Mặc dù có, nhưng không giống như của Thế Tôn, để chỉ ra điều đó, đã nói: “Ở đó, minh túc” v.v… Do trạng thái toàn giác được thành tựu bởi lậu tận minh, nên (chú giải) nói: “Minh túc đã hoàn thiện nhất thiết trí của Thế Tôn.” Do lòng bi phạm trú thuộc về các pháp hạnh vì được bao gồm trong bốn tầng thiền, và do trạng thái không chung của nó được thấy nơi Thế Tôn về phương diện đại bi định, nên (chú giải) nói: “Hạnh túc đã hoàn thiện lòng đại bi của Ngài.” Giống như việc tránh điều bất lợi và hướng đến điều lợi ích cho chúng sanh không thể có nếu không có trí tuệ, thì việc biết điều lợi và bất lợi của họ của Bậc Đạo Sư cũng không thể có nếu không có lòng bi; do đó, cả hai đều có chức năng ở cả hai nơi. Tuy nhiên, để chỉ ra nơi mà cái nào là chính, đã nói: “Ngài, bởi nhất thiết trí” v.v… Trong câu như một vị đã đầy đủ minh và hạnh ấy, ở đây, từ ấy chỉ là một tiểu từ; có nghĩa là, giống như một vị khác đã đầy đủ minh và hạnh hướng dẫn, thì vị này cũng vậy. Bằng câu đó, (chú giải) chỉ ra rằng đây là pháp hành riêng biệt của chính người đã đầy đủ minh và hạnh. Và để chỉ ra rằng minh hạnh túc ấy của Bậc Đạo Sư là nguyên nhân tuyệt đối cho tính chất đưa đến giải thoát của giáo pháp và cho sự thực hành đúng đắn của các vị đệ tử, đã nói: “Do đó, của Ngài” v.v… Ở đó, những người tự hành hạ mình, bằng từ v.v…, những người hành hạ người khác và hành hạ cả hai được bao gồm. Phần còn lại thì rất dễ hiểu.

Ettha ca vijjāsampadāya satthu paññāmahattaṃ pakāsitaṃ hoti, caraṇasampadāya karuṇāmahattaṃ. Tesu paññāya bhagavato dhammarajjappatti, karuṇāya dhammasaṃvibhāgo. Paññāya saṃsāradukkhanibbidā, karuṇāya saṃsāradukkhasahanaṃ. Paññāya paradukkhaparijānanaṃ, karuṇāya paradukkhapatikārārambho. Paññāya parinibbānābhimukhabhāvo, karuṇāya tadadhigamo. Paññāya sayaṃ taraṇaṃ, karuṇāya paresaṃ tāraṇaṃ. Paññāya buddhabhāvasiddhi, karuṇāya buddhakiccasiddhi. Karuṇāya vā bodhisattabhūmiyaṃ saṃsārābhimukhabhāvo, paññāya tattha anabhirati, tathā karuṇāya paresaṃ abhiṃsāpanaṃ, paññāya sayaṃ parehi abhāyanaṃ. Karuṇāya paraṃ rakkhanto attānaṃ rakkhati, paññāya attānaṃ rakkhanto paraṃ rakkhati. Tathā karuṇāya aparantapo, paññāya anattantapo, tena attahitāya paṭipannādīsu catūsu puggalesu catutthapuggalabhāvo siddho hoti. Tathā karuṇāya lokanāthatā, paññāya attanāthatā. Karuṇāya cassa ninnatābhāvo, paññāya unnamābhāvo. Tathā karuṇāya sabbasattesu janitānuggaho, paññānugatattā na ca na sabbattha virattacitto, paññāya sabbadhammesu virattacitto, karuṇānugatattā na ca na sabbasattānuggahāya pavatto. Yathā hi karuṇā bhagavato sinehasokavirahitā, evaṃ paññā ahaṃkāramamaṃkāravinimuttāti aññamaññavisodhitā paramavisuddhā guṇavisesā vijjācaraṇasampadāhi pakāsitāti daṭṭhabbaṃ.
Và ở đây, bằng minh túc, sự vĩ đại về trí tuệ của Bậc Đạo Sư được làm sáng tỏ; bằng hạnh túc, sự vĩ đại về lòng bi được làm sáng tỏ. Trong đó, bằng trí tuệ, Thế Tôn đạt đến vương vị Chánh pháp; bằng lòng bi, Ngài phân phát Chánh pháp. Bằng trí tuệ, Ngài nhàm chán khổ đau luân hồi; bằng lòng bi, Ngài kham nhẫn khổ đau luân hồi. Bằng trí tuệ, Ngài biết rõ khổ đau của người khác; bằng lòng bi, Ngài bắt đầu chữa trị khổ đau của người khác. Bằng trí tuệ, Ngài hướng đến Niết-bàn; bằng lòng bi, Ngài chứng đắc điều đó. Bằng trí tuệ, Ngài tự mình vượt qua; bằng lòng bi, Ngài giúp người khác vượt qua. Bằng trí tuệ, Ngài thành tựu quả vị Phật; bằng lòng bi, Ngài thành tựu phận sự của Phật. Hoặc là, bằng lòng bi, Ngài hướng đến luân hồi trong giai đoạn Bồ-tát; bằng trí tuệ, Ngài không vui thích ở đó. Tương tự, bằng lòng bi, Ngài không làm hại người khác; bằng trí tuệ, Ngài không sợ hãi người khác. Bằng lòng bi, khi bảo vệ người khác, Ngài bảo vệ chính mình; bằng trí tuệ, khi bảo vệ chính mình, Ngài bảo vệ người khác. Tương tự, bằng lòng bi, Ngài không hành hạ người khác; bằng trí tuệ, Ngài không tự hành hạ mình. Do đó, trong bốn hạng người như người thực hành vì lợi ích của mình v.v…, trạng thái là người thứ tư được thành tựu. Tương tự, bằng lòng bi, Ngài là Đấng Hộ Trì Thế Gian; bằng trí tuệ, Ngài là người hộ trì chính mình. Bằng lòng bi, Ngài có sự khiêm hạ; bằng trí tuệ, Ngài có sự không kiêu mạn. Tương tự, bằng lòng bi, Ngài tạo ra sự giúp đỡ cho tất cả chúng sanh, và vì đi đôi với trí tuệ nên không phải là không có tâm nhàm chán ở khắp mọi nơi. Bằng trí tuệ, Ngài có tâm nhàm chán trong tất cả các pháp, và vì đi đôi với lòng bi nên không phải là không hướng đến việc giúp đỡ tất cả chúng sanh. Cần phải thấy rằng, giống như lòng bi của Thế Tôn không có sự luyến ái và sầu muộn, thì trí tuệ cũng không có ngã và ngã sở. Như vậy, các phẩm hạnh đặc biệt, được thanh lọc lẫn nhau và đạt đến sự thanh tịnh tột cùng, đã được làm sáng tỏ bởi minh hạnh túc.

Idāni sugatoti imassa atthaṃ dassento āha ‘‘sobhanagamanattā’’tiādi. ‘‘Gate ṭhite’’tiādīsu gamanampi gatanti vuccatīti āha ‘‘gamanampi hi gatanti vuccatī’’ti. Sobhananti subhaṃ, subhabhāvo visuddhatāya, visuddhatā dosavigamenāti āha ‘‘parisuddhamanavajja’’nti. Gamanañca nāma bahuvidhanti idhādhippetaṃ gamanaṃ dassento ‘‘ariyamaggo’’ti āha. So hi nibbānassa gati adhigamoti ca katvā gataṃ gamananti ca vuccati. Idāni tasseva gamane kāraṇaṃ dassetuṃ ‘‘tena hesā’’tiādi vuttaṃ. Khemaṃ disanti nibbānaṃ. Asajjamānoti paripanthābhāvena sugatigamanepi asajjanto saṅgaṃ akaronto, pageva itarattha. Atha vā ekāsane nisīditvā khippābhiññāvaseneva catunnampi maggānaṃ paṭiladdhabhāvato asajjamāno abajjhanto gato. Yaṃ gamanaṃ gacchanto sabbagamanatthaṃ āvahati, sabbañca anuttaraṃ sampattiṃ āvahati, tadeva sobhanaṃ nāma, tena ca bhagavā gatoti āha ‘‘iti sobhanagamanattā sugato’’ti sobhanattho susaddoti katvā.
Bây giờ, để chỉ ra ý nghĩa của từ Thiện Thệ, (chú giải) nói: “do có sự đi tốt đẹp” v.v… Vì trong các câu “trong khi đi, trong khi đứng” v.v…, sự đi cũng được gọi là ‘gata,’ nên (chú giải) nói: “sự đi cũng được gọi là ‘gata’.” Tốt đẹp là thanh tịnh; trạng thái thanh tịnh là do sự trong sạch; sự trong sạch là do sự không có các lỗi lầm, nên (chú giải) nói: “trong sạch và không bị chê trách.” Và vì sự đi có nhiều loại, nên để chỉ ra sự đi được chủ trương ở đây, (chú giải) nói: “là Thánh đạo.” Thật vậy, vì là sự đi đến, sự chứng đắc Niết-bàn, nên nó được gọi là ‘gata’ và ‘gamana’ (sự đi). Bây giờ, để chỉ ra nguyên nhân của chính sự đi ấy, đã nói: “Bởi vì vị ấy” v.v… Phương an ổn là Niết-bàn. Không bị vướng mắc là, do không có chướng ngại, ngay cả trong khi đi đến cõi lành, Ngài cũng không bị vướng mắc, không bị dính mắc; huống hồ gì ở những nơi khác. Hoặc là, do đã chứng đắc cả bốn đạo chỉ bằng một lần ngồi và bằng tuệ giác nhanh chóng, nên Ngài đã đi mà không bị vướng mắc, không bị trói buộc. Sự đi nào mà khi đi, mang lại tất cả lợi ích của sự đi, và mang lại tất cả sự thành tựu vô thượng, chính sự đi đó được gọi là tốt đẹp; và Thế Tôn đã đi bằng sự đi đó, nên (chú giải) nói: “Do đó, do có sự đi tốt đẹp nên là Thiện Thệ,” cho rằng tiếp đầu ngữ ‘su-’ có ý nghĩa là tốt đẹp.

Asundarānaṃ dukkhānaṃ saṅkhārappavattīnaṃ abhāvato accantasukhattā ekantato sundaraṃ nāma asaṅkhatā dhātūti āha ‘‘sundarañcesa ṭhānaṃ gato amataṃ nibbāna’’nti. Tenāha bhagavā ‘‘nibbānaṃ paramaṃ sukha’’nti (ma. ni. 2.215; dha. pa. 203-204). Sammāti suṭṭhu. Suṭṭhu gamanañca nāma paṭipakkhena anabhibhūtassa gamananti āha ‘‘pahīne kilese puna apaccāgacchanto’’ti, pahīnānaṃ puna asamudācāravasena apaccāgacchanto. Vuttamevatthaṃ āgamaṃ dassetvā vibhāvento āha ‘‘vuttañceta’’ntiādi. Etanti tena tena maggena pahīnakilesānaṃ puna apaccāgamanaṃ, idañca sikhāppattaṃ sammāgamanaṃ, yāya āgamanīyapaṭipadāya siddhaṃ, sāpi sammāgamanamevāti evampi bhagavā sugatoti dassetuṃ ‘‘sammā vā āgato’’tiādi vuttaṃ. Sammāpaṭipattiyāti sammāsambodhiyā sampāpane aviparītapaṭipattiyā. Sabbalokassa hitasukhameva karontāti etena mahābodhiyā paṭipadā avibhāgena sabbasattānaṃ sabbadā hitasukhāvahabhāveneva pavattatīti dasseti. Sassataṃ ucchedanti ime ante anupagacchanto gatoti etena paṭiccasamuppādagatiṃ dasseti. Kāmasukhaṃ attakilamathanti ime anupagacchanto gatoti etena ariyamaggagatiṃ dasseti.
Do không có các pháp khổ đau, xấu xa, là các hành đang diễn tiến, và do là hạnh phúc tột cùng, nên pháp vô vi được gọi là tốt đẹp một cách tuyệt đối, do đó (chú giải) đã nói: “và Ngài đã đi đến nơi tốt đẹp, đó là Niết-bàn bất tử.” Chính vì thế, Thế Tôn đã nói: “Niết-bàn là hạnh phúc tối thượng.” (ma. ni. 2.215; dha. pa. 203-204). Một cách đúng đắn là tốt đẹp. Và sự đi tốt đẹp là sự đi của người không bị đối nghịch chinh phục, nên (chú giải) nói: “không quay trở lại với các phiền não đã được đoạn trừ,” là không quay trở lại theo cách không tái khởi các phiền não đã được đoạn trừ. Để làm rõ ý nghĩa đã nói bằng cách chỉ ra kinh điển, (chú giải) nói: “Và điều này đã được nói” v.v… Điều này là sự không quay trở lại của các phiền não đã được đoạn trừ bởi từng đạo. Và đây là sự đi đúng đắn đã đạt đến đỉnh cao. Con đường thực hành nào mà nhờ đó nó được thành tựu, con đường đó cũng chính là sự đi đúng đắn. Để chỉ ra rằng Thế Tôn cũng là Thiện Thệ theo cách này, đã nói: “hoặc đã đến một cách đúng đắn” v.v… Bởi sự thực hành đúng đắn là bởi sự thực hành không sai lạc trong việc thành tựu tuệ giác Chánh Đẳng Giác. Chỉ làm lợi ích và hạnh phúc cho toàn thể thế gian, bằng câu này, (chú giải) chỉ ra rằng con đường thực hành của đại Bồ-đề diễn ra chỉ nhằm mang lại lợi ích và hạnh phúc cho tất cả chúng sanh mọi lúc, không phân biệt. Đã đi mà không đi đến hai cực đoan là thường kiến và đoạn kiến, bằng câu này, (chú giải) chỉ ra sự đi của duyên khởi. Đã đi mà không đi đến hai cực đoan là đam mê dục lạc và khổ hạnh ép xác, bằng câu này, (chú giải) chỉ ra sự đi của Thánh đạo.

Tatrāti yuttaṭṭhāne yuttasseva bhāsane. Nipphādetabbe sādhetabbe cetaṃ bhummaṃ. Abhūtanti abhūtatthaṃ. Atthamukhena hi vācāya abhūtatā bhūtatā vā. Atacchanti tasseva vevacanaṃ. Anatthasaṃhitanti diṭṭhadhammikena samparāyikena vā anatthena saṃhitaṃ anatthasaṃhitaṃ, anatthāvahaṃ. Na atthoti anattho, atthassa paṭipakkho abhāvo ca, tena saṃhitaṃ, pisuṇavācaṃ samphappalāpañcāti attho. Evamettha catubbidhassapi vacīduccaritassa saṅgaho daṭṭhabbo. Ettha ca paṭhamā vācā sīlavantaṃ ‘‘dussīlo’’ti, acaṇḍālādiṃ ‘‘caṇḍālo’’tiādinā bhāsamānassa daṭṭhabbā. Dutiyā dussīlaṃ ‘‘dussīlo’’ti, caṇḍālādimeva ‘‘caṇḍālo’’tiādinā avinayena bhāsamānassa. Tatiyā nerayikādikassa nerayikādibhāvavibhāvanīkathā yathā ‘‘āpāyiko devadatto nerayiko’’tiādikā. Catutthī ‘‘vedavihitena yaññavidhinā pāṇātipātādikataṃ sugatiṃ āvahatī’’ti lokassa byāmohanakathā. Pañcamī bhūtena pesuññupasaṃhārā kathā. Chaṭṭhā yuttapattaṭṭhāne pavattitā dānasīlādikathā veditabbā. Evaṃ sammā gadattāti yathāvuttaṃ abhūtādiṃ vajjetvā bhūtaṃ tacchaṃ atthasaṃhitaṃ piyaṃ manāpaṃ tato eva sammā suṭṭhu gadanato sugato. Āpāthagamanamattena kassaci appiyampi hi bhagavato vacanaṃ piyaṃ manāpameva atthasiddhiyā lokassa hitasukhāvahattā. Ettha pana da-kārassa ta-kāraṃ katvā ‘‘sugato’’ti vuttanti daṭṭhabbaṃ.
Ở đó là trong việc nói điều hợp lý ở nơi hợp lý. Vị trí cách này được dùng với ý nghĩa là điều cần được thực hiện và chứng minh. Điều không có thật là ý nghĩa không có thật. Thật vậy, sự không có thật hay có thật của lời nói là theo ý nghĩa. Điều không đúng sự thật là từ đồng nghĩa của nó. Điều không đi kèm lợi ích là điều đi kèm với sự bất lợi trong hiện tại hoặc trong tương lai, là điều không đi kèm lợi ích, là điều mang lại bất lợi. Không phải lợi ích là bất lợi; là sự đối nghịch và sự vắng mặt của lợi ích; đi kèm với nó; có nghĩa là lời nói đâm thọc và lời nói vô ích. Như vậy, cần phải thấy sự bao gồm cả bốn loại khẩu ác hạnh ở đây. Và ở đây, cần phải thấy lời nói đầu tiên của người nói với người có giới là “ngươi là người vô giới,” với người không phải là chiên-đà-la v.v… là “ngươi là chiên-đà-la” v.v… Lời nói thứ hai của người nói với người vô giới là “ngươi là người vô giới,” với chính người chiên-đà-la v.v… là “ngươi là chiên-đà-la” v.v… một cách không đúng phép tắc. Lời nói thứ ba là lời nói làm rõ trạng thái của người thuộc cõi địa ngục v.v…, như các lời nói “Devadatta thuộc cõi dữ, thuộc địa ngục” v.v… Lời nói thứ tư là lời nói làm mê hoặc thế gian rằng “việc sát sanh v.v… được thực hiện theo nghi thức tế lễ do Vệ-đà quy định sẽ mang lại cõi lành.” Lời nói thứ năm là lời nói đưa đến sự chia rẽ có thật. Lời nói thứ sáu cần được hiểu là lời nói về bố thí, trì giới v.v… được nói ở nơi hợp lý. Như vậy, do nói một cách đúng đắn, là do tránh những điều đã nói như không có thật v.v…, và do nói điều có thật, đúng sự thật, đi kèm lợi ích, dễ thương, đẹp lòng, chính vì thế, do nói một cách đúng đắn, tốt đẹp, nên là Thiện Thệ. Thật vậy, ngay cả lời nói của Thế Tôn, dù có vẻ không dễ thương đối với một số người khi mới nghe, nhưng vẫn là dễ thương, đẹp lòng vì sự thành tựu của ý nghĩa, vì mang lại lợi ích và hạnh phúc cho thế gian. Và ở đây, cần phải thấy rằng từ “sugato” được nói sau khi đổi phụ âm ‘da’ thành phụ âm ‘ta’.

Aparo nayo – sobhanaṃ gataṃ gamanaṃ etassāti sugato. Bhagavato hi veneyyajanupasaṅkamanaṃ ekantena tesaṃ hitasukhanipphādanato sobhanaṃ bhaddakaṃ. Tathā lakkhaṇānubyañjanappaṭimaṇḍitarūpakāyatāya dutavilambitakhalitānukaḍḍhananippīḷanukkuṭikakuṭilākulatādidosavirahitaṃ vilāsitarājahaṃsavasabhavāraṇamigarājagamanaṃ kāyagamanaṃ ñāṇagamanañca vipulanimmalakaruṇāsativīriyādiguṇavisesahitamabhinīhārato yāva mahābodhi anavajjatāya sattānaṃ hitasukhāvahatāya ca sobhanameva. Atha vā sayambhūñāṇena sakalampi lokaṃ pariññābhisamayavasena parijānanto sammā gato avagatoti sugato. Tathā lokasamudayaṃ pahānābhisamayavasena pajahanto anuppattidhammataṃ āpādento sammā gato atītoti sugato. Lokanirodhaṃ nibbānaṃ sacchikiriyābhisamayavasena sammā gato adhigatoti sugato. Lokanirodhagāminiṃ paṭipadaṃ bhāvanābhisamayavasena sammā gato paṭipannoti sugato. Tathā yaṃ imassa sadevakassa lokassa diṭṭhaṃ sutaṃ mutaṃ viññātaṃ pattaṃ pariyesitaṃ ñātaṃ anuvicaritaṃ manasā, sabbaṃ taṃ hatthatale āmalakaṃ viya sammā paccakkhato gato abbhaññāsīti sugato.
Một phương pháp khác: Vị có sự đi, hành trình tốt đẹp, nên là Thiện Thệ. Thật vậy, sự đi đến của Thế Tôn với chúng sanh cần được giáo hóa là tốt đẹp, hiền thiện, vì chắc chắn mang lại lợi ích và hạnh phúc cho họ. Tương tự, do sắc thân được trang điểm bởi các tướng chính và tướng phụ, nên sự đi của thân, không có các lỗi như đi quá nhanh, quá chậm, vấp váp, kéo lê, dồn ép, nhón gót, quanh co, rối loạn v.v…, giống như sự đi của thiên nga chúa, voi chúa, sư tử chúa, và sự đi của trí tuệ, đi kèm với các phẩm hạnh đặc biệt như lòng bi, niệm, tinh tấn v.v… bao la và trong sạch, từ lúc phát nguyện cho đến đại Bồ-đề, đều là tốt đẹp do sự không bị chê trách và do mang lại lợi ích, hạnh phúc cho chúng sanh. Hoặc là, do biết rõ toàn thể thế gian bằng tuệ giác tự mình chứng ngộ theo cách liễu tri và thắng tri, nên Ngài đã đi, đã hiểu biết một cách đúng đắn, nên là Thiện Thệ. Tương tự, do từ bỏ sự tập khởi của thế gian theo cách đoạn trừ và thắng tri, làm cho nó trở thành pháp không tái sanh, nên Ngài đã đi, đã vượt qua một cách đúng đắn, nên là Thiện Thệ. Do đã đi, đã chứng đắc một cách đúng đắn sự đoạn diệt của thế gian, tức Niết-bàn, theo cách chứng ngộ và thắng tri, nên là Thiện Thệ. Do đã đi, đã thực hành một cách đúng đắn con đường đưa đến sự đoạn diệt của thế gian theo cách tu tập và thắng tri, nên là Thiện Thệ. Tương tự, tất cả những gì được thấy, nghe, cảm nhận, biết, đạt được, tìm kiếm, hiểu rõ, suy xét bằng ý của thế gian cùng với chư thiên này, Ngài đã đi, đã thắng tri một cách đúng đắn, trực tiếp như quả amla trong lòng bàn tay, nên là Thiện Thệ.

Idāni lokavidūti imassa atthaṃ pakāsento āha ‘‘sabbathā viditalokattā’’tiādi. Tattha sabbathāti sabbappakārena, yo yo loko yena yena pakārena veditabbo, tena tena pakārenāti attho. Te pana pakāre dassetuṃ ‘‘sabhāvato’’tiādi vuttaṃ. Tattha sabhāvatoti dukkhasabhāvato. Sabbo hi loko dukkhasabhāvo. Yathāha ‘‘saṃkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā’’ti. Samudayatoti yato samudeti, tato taṇhādito. Nirodhatoti yattha so nirujjhati, tato visaṅkhārato. Nirodhūpāyatoti yena vidhinā so nirodho pattabbo, tato ariyamaggato ito aññassa pakārassa abhāvā. Iti ‘‘sabbathā lokaṃ avedī’’ti vatvā tadatthasādhakaṃ suttaṃ dassento ‘‘yattha kho, āvuso’’tiādimāha. Idañca suttaṃ ‘‘yattha kho, bhante, na jāyati…pe… na upapajjati, sakkā nu kho so, bhante, gamanena lokassa anto ñātuṃ vā daṭṭhuṃ vā pāpuṇituṃ vā’’ti (saṃ. ni. 1.107; a. ni. 4.45) okāsalokassa gatiṃ sandhāya rohitadevaputtena puṭṭho bhagavā abhāsi. Tattha na jāyatītiādinā ujukaṃ jātiādīni paṭikkhipitvā na cavati na upapajjatīti padadvayena aparāparaṃ cavanupapatanāni paṭikkhipati. Keci pana ‘‘na jāyatītiādi gabbhaseyyakādivasena vuttaṃ, itaraṃ opapātikavasenā’’ti vadanti. Tanti jātiādirahitaṃ. Gamanenāti padasā gamanena. Lokassantanti saṅkhāralokassa antabhūtaṃ nibbānaṃ. Ñāteyyanti jānitabbaṃ. Daṭṭheyyanti daṭṭhabbaṃ. Patteyyanti pattabbaṃ. ‘‘Ñātāyaṃ diṭṭhāyaṃ pattāya’’nti vā pāṭho, tattha gamanena lokassantaṃ ñātā ayaṃ diṭṭhā ayaṃ pattā ayanti na vadāmīti attho. Ayanti nibbānatthiko.
Bây giờ, để làm sáng tỏ ý nghĩa của từ Thế Gian Giải, (chú giải) nói: “do đã biết thế gian về mọi mặt” v.v… Ở đó, về mọi mặt là bằng tất cả các cách thức; có nghĩa là, thế gian nào cần được biết bằng cách thức nào, thì bằng chính cách thức đó. Để chỉ ra các cách thức đó, (chú giải) đã nói: “về bản chất” v.v… Ở đó, về bản chất là về bản chất khổ. Thật vậy, tất cả thế gian đều có bản chất khổ. Như đã nói: “Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.” Về sự tập khởi là từ nơi nó tập khởi, tức là từ ái v.v… Về sự đoạn diệt là nơi nó đoạn diệt, tức là từ sự chấm dứt các hành. Về phương pháp đoạn diệt là bằng phương pháp nào mà sự đoạn diệt đó cần được đạt đến, tức là từ Thánh đạo, vì không có cách thức nào khác ngoài cách này. Như vậy, sau khi nói “Ngài đã biết thế gian về mọi mặt,” để chỉ ra kinh làm bằng chứng cho ý nghĩa đó, (chú giải) nói: “Nơi nào, thưa hiền giả” v.v… Và kinh này đã được Thế Tôn nói khi được thiên tử Rohita hỏi về sự đi của thế giới không gian: “Bạch Thế Tôn, nơi nào mà người ta không sanh…v.v… không tái sanh, bạch Thế Tôn, có thể nào bằng sự đi mà biết, thấy, hay đến được tận cùng của thế gian không?” (saṃ. ni. 1.107; a. ni. 4.45). Ở đó, bằng câu không sanh v.v…, Ngài trực tiếp phủ định sanh v.v…; bằng hai từ không chết, không tái sanh, Ngài phủ định sự chết và tái sanh liên tục. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “câu ‘không sanh’ v.v… được nói theo cách của chúng sanh thai sanh v.v…; câu kia thì theo cách của chúng sanh hóa sanh.” Điều đó là điều không có sanh v.v… Bằng sự đi là bằng sự đi bộ. Sự tận cùng của thế gian là Niết-bàn, vốn là sự tận cùng của thế gian hữu vi. Nên được biết là cần phải được biết. Nên được thấy là cần phải được thấy. Nên được đến là cần phải được đến. Hoặc cách đọc là “đã được biết, đã được thấy, đã được đến,” ở đó có nghĩa là, Ta không nói rằng bằng sự đi mà sự tận cùng của thế gian này đã được biết, đã được thấy, đã được đến. Vị này là người tìm cầu Niết-bàn.

Kāmaṃ padasā gamanena gantvā lokassantaṃ ñātuṃ daṭṭhuṃ pattuṃ vā na sakkā, api ca parimitaparicchinnaṭṭhāne taṃ paññāpetvā dassemīti dassento ‘‘api cā’’tiādimāha. Tattha byāmamatte kaḷevareti byāmappamāṇe attabhāve. Iminā rūpakkhandhaṃ dasseti. Sasaññimhīti saññāya sahite. Iminā saññāsīsena vedanādayo tayo khandhe dasseti saññāsahitattā eva. Samanaketi saviññāṇaketi attho. Iminā viññāṇakkhandhaṃ dasseti, aviññāṇake pana utusamuṭṭhānarūpasamudāyamatte paññāpetuṃ na sakkāti adhippāyo. Lokanti khandhādilokaṃ. Lokanirodhanti tassa lokassa nirujjhanaṃ nibbānameva vā. Nibbānampi hi khandhe paṭicca paññāpanato sarīrasmiṃyeva paññāpeti. Adesampi hi taṃ yesaṃ nirodho, tesaṃ vasena desatopi upacāravasena niddisīyati yathā ‘‘cakkhuṃ loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, etthesā taṇhā pahīyamānā pahīyati, ettha nirujjhamānā nirujjhatī’’ti (dī. ni. 2.401; ma. ni. 1.134; vibha. 204).
Mặc dù không thể bằng sự đi bộ mà đi đến, biết, thấy, hay đến được tận cùng của thế gian, nhưng để chỉ ra rằng Ta chế định và chỉ bày điều đó ở một nơi có giới hạn, có phân định, (chú giải) nói: “Nhưng này” v.v… Ở đó, trong thân dài một sải tay là trong thân mạng có kích thước một sải tay. Bằng câu này, Ngài chỉ ra sắc uẩn. Có tưởng là cùng với tưởng. Bằng câu này, Ngài chỉ ra ba uẩn như thọ v.v… với tưởng là chính, vì chúng cùng có mặt với tưởng. Có tâm có nghĩa là có thức. Bằng câu này, Ngài chỉ ra thức uẩn; chủ ý là không thể chế định chỉ trong tập hợp sắc do thời tiết sanh, vốn không có thức. Thế gian là thế gian uẩn v.v… Sự đoạn diệt của thế gian là sự đoạn diệt của thế gian ấy, hoặc chính là Niết-bàn. Thật vậy, Niết-bàn cũng được chế định ngay trong thân thể này, vì được chế định dựa vào các uẩn. Mặc dù nó là vô phương xứ, nhưng nó được chỉ định một cách gián tiếp theo cách của những pháp mà nó là sự đoạn diệt của chúng, giống như “con mắt là pháp đáng yêu, đáng ưa thích trong đời; chính ở đây, ái này khi được đoạn trừ, nó được đoạn trừ; chính ở đây, khi đoạn diệt, nó đoạn diệt.” (dī. ni. 2.401; ma. ni. 1.134; vibha. 204).

Gamanenāti pākatikagamanena. Lokassantoti saṅkhāralokassa anto antakiriyāya hetubhūtaṃ nibbānaṃ. Kudācananti kadācipi. Appatvāti aggamaggena anadhigantvā. Pamocananti pamutti nissaraṇaṃ. Tasmāti yasmā lokantaṃ appatvā vaṭṭadukkhato mutti natthi, tasmā. Haveti nipātamattaṃ. Lokavidūti sabhāvādito sabbaṃ lokaṃ vijānanto. Sumedhoti sundarapañño. Lokantagūti pariññābhisamayena lokaṃ viditvā pahānābhisamayena lokantagū. Maggabrahmacariyassa pariniṭṭhitattā vusitabrahmacariyo. Sabbesaṃ kilesānaṃ samitattā catusaccadhammānaṃ vā abhisamitattā samitāvīNāsīsatīti na pattheti, yathā imaṃ lokaṃ, evaṃ parañca lokaṃ nāsīsati appaṭisandhikattā.
Bằng sự đi là bằng sự đi thông thường. Sự tận cùng của thế gian là Niết-bàn, vốn là nhân cho sự kết thúc của thế gian hữu vi. Bất cứ khi nào là không bao giờ. Khi chưa đến là khi chưa chứng đắc bằng Thánh đạo cao nhất. Sự giải thoát là sự thoát khỏi, sự xuất ly. Do đó là vì nếu chưa đến được tận cùng của thế gian thì không có sự giải thoát khỏi khổ đau luân hồi, do đó. Have chỉ là một tiểu từ. Người biết thế gian là người biết tất cả thế gian về phương diện bản chất v.v… Người có trí tuệ tốt đẹp là người có trí tuệ thanh tịnh. Người đã đi đến tận cùng của thế gian là sau khi đã biết thế gian bằng sự thắng tri liễu tri, là người đã đi đến tận cùng của thế gian bằng sự thắng tri đoạn trừ. Vì đã hoàn thành phạm hạnh của đạo, nên là người đã sống phạm hạnh xong. Vì tất cả các phiền não đã được dẹp yên, hoặc vì đã thắng tri các pháp Tứ Đế, nên là người đã dẹp yên. Không mong cầu là không ước muốn; giống như thế gian này, Ngài cũng không mong cầu thế gian khác, vì không còn tái sanh.

Evaṃ yadipi lokavidutā anavasesato dassitā sabhāvādito dassitattā, loko pana ekadeseneva vuttoti taṃ anavasesato dassetuṃ ‘‘api ca tayo lokā’’tiādi vuttaṃ. Tattha indriyabaddhānaṃ khandhānaṃ samūho santāno ca sattaloko. Rūpādīsu sattavisattatāya satto, lokīyati ettha kusalākusalaṃ tabbipāko cāti loko. Anindriyabaddhānaṃ rūpādīnaṃ samūho santāno ca okāsaloko lokīyanti ettha jaṅgamā thāvarā ca tesañca okāsabhūtoti katvā. Tadādhāratāya hesa ‘‘bhājanaloko’’tipi vuccati. Ubhayepi khandhā saṅkhāraloko paccayehi saṅkharīyanti lujjanti palujjanti cāti. Āhāraṭṭhitikāti paccayaṭṭhitikā, paccayāyattavuttikāti attho. Paccayattho hettha āhārasaddo ‘‘ayamāhāro anuppannassa vā kāmacchandassa uppādāyā’’tiādīsu (saṃ. ni. 5.232) viya. Evañhi ‘‘sabbe sattā’’ti iminā asaññasattāpi pariggahitā honti. Sā panāyaṃ āhāraṭṭhitikatā nippariyāyato saṅkhāradhammo, na sattadhammoti āha ‘‘āhāraṭṭhitikāti āgataṭṭhāne saṅkhāraloko veditabbo’’ti.
Như vậy, mặc dù sự biết thế gian đã được chỉ ra một cách không còn sót lại do đã được chỉ ra về phương diện bản chất v.v…, nhưng vì thế gian chỉ được nói đến một phần, nên để chỉ ra điều đó một cách không còn sót lại, (chú giải) nói: “Và cũng có ba thế gian” v.v… Ở đó, sự tập hợp và sự tiếp nối của các uẩn liên quan đến các giác quan là thế gian chúng sanh. Chúng sanh vì dính mắc vào sắc v.v…; và thiện, bất thiện cùng quả của chúng được thấy ở đây, nên là thế gian. Sự tập hợp và sự tiếp nối của các pháp như sắc v.v… không liên quan đến các giác quan là thế gian không gian; vì các loài động vật và thực vật được thấy ở đây, và vì nó là nơi chốn của chúng. Thật vậy, do là nơi chứa đựng, nó cũng được gọi là “thế gian đồ chứa.” Cả hai loại uẩn đều là thế gian hữu vi; vì chúng được tạo tác bởi các duyên, và chúng bị hủy hoại, tan rã. Tồn tại nhờ vật thực là tồn tại nhờ duyên; có nghĩa là sự tồn tại phụ thuộc vào các duyên. Ở đây, từ ‘vật thực’ có ý nghĩa là duyên, giống như trong câu “vật thực này là để cho dục tham chưa sanh được sanh khởi” v.v… (saṃ. ni. 5.232). Như vậy, bằng câu “tất cả chúng sanh,” ngay cả các chúng sanh vô tưởng cũng được bao gồm. Tuy nhiên, trạng thái tồn tại nhờ vật thực này, một cách trực tiếp, là pháp hữu vi, không phải là pháp của chúng sanh, nên (chú giải) nói: “ở nơi có câu ‘tồn tại nhờ vật thực,’ cần phải hiểu là thế gian hữu vi.”

Yadi evaṃ ‘‘sabbe sattā’’ti idaṃ kathanti? Puggalādhiṭṭhānadesanāti nāyaṃ doso. Kasmā pana bhagavā katthaci puggalādhiṭṭhānaṃ katvā dhammaṃ deseti, katthaci dhammādhiṭṭhānaṃ katvā dhammaṃ desetīti? Desanāvilāsato veneyyajjhāsayato ca. Desanāvilāsappattā hi buddhā bhagavanto, te yathāruci katthaci puggalādhiṭṭhānaṃ katvā katthaci dhammādhiṭṭhānaṃ katvā dhammaṃ desenti. Ye vā pana veneyyā sāsanakkamaṃ anotiṇṇā, tesaṃ puggalādhiṭṭhānaṃ desanaṃ desenti. Ye ca otiṇṇā, tesaṃ dhammādhiṭṭhānaṃ. Sammutisaccavisayā puggalādhiṭṭhānā desanā, itarā paramatthasaccavisayā. Purimā karuṇānukūlā, itarā paññānukūlā. Saddhānusārīgottānaṃ vā purimā. Te hi puggalappamāṇikā, pacchimā dhammānusārīgottānaṃ. Saddhācaritatāya vā lokādhipatīnaṃ vasena puggalādhiṭṭhānā, paññācaritatāya dhammādhipatīnaṃ vasena dhammādhiṭṭhānā. Purimā ca neyyatthā, pacchimā nītatthā. Iti bhagavā taṃ taṃ visesaṃ apekkhitvā tattha tattha duvidhaṃ desanaṃ desetīti veditabbaṃ.
Nếu vậy, câu “tất cả chúng sanh” này là thế nào? Đây không phải là lỗi, vì là sự thuyết giảng dựa trên quy ước về chúng sanh. Nhưng tại sao Thế Tôn có lúc thuyết pháp dựa trên quy ước về chúng sanh, có lúc lại thuyết pháp dựa trên các pháp? Là do sự khéo léo trong thuyết giảng và do ý hướng của chúng sanh cần được giáo hóa. Thật vậy, các vị Phật, các bậc Thế Tôn, đã đạt đến sự khéo léo trong thuyết giảng; các Ngài tùy theo ý thích mà có lúc thuyết pháp dựa trên quy ước về chúng sanh, có lúc dựa trên các pháp. Và đối với những chúng sanh cần được giáo hóa chưa thâm nhập vào trình tự của giáo pháp, các Ngài thuyết giảng dựa trên quy ước về chúng sanh. Còn đối với những vị đã thâm nhập, các Ngài thuyết giảng dựa trên các pháp. Sự thuyết giảng dựa trên quy ước về chúng sanh thuộc về lĩnh vực của sự thật quy ước; sự thuyết giảng kia thuộc về lĩnh vực của sự thật chân đế. Sự thuyết giảng trước phù hợp với lòng bi; sự thuyết giảng kia phù hợp với trí tuệ. Hoặc là, sự thuyết giảng trước dành cho những người thuộc dòng dõi tùy tín. Thật vậy, họ lấy chúng sanh làm thước đo. Sự thuyết giảng sau dành cho những người thuộc dòng dõi tùy pháp. Hoặc là, do có tính cách đức tin, sự thuyết giảng dựa trên chúng sanh là do lấy thế gian làm chủ; do có tính cách trí tuệ, sự thuyết giảng dựa trên các pháp là do lấy Chánh pháp làm chủ. Và sự thuyết giảng trước cần được giải thích thêm; sự thuyết giảng sau có ý nghĩa đã rõ ràng. Như vậy, cần phải hiểu rằng Thế Tôn, khi xét đến từng sự khác biệt đó, đã thuyết giảng hai loại thuyết giảng ở từng nơi.

Diṭṭhigatikānaṃ sassatādivasena ‘‘attā loko’’ti parikappanā yebhuyyena sattavisayā, na saṅkhāravisayāti āha ‘‘sassato lokoti vā asassato lokoti vāti āgataṭṭhāne sattaloko veditabbo’’ti. Yāvatā candimasūriyā pariharantīti yattake ṭhāne candimasūriyā parivattanti paribbhamanti. Disā bhanti virocamānāti tesaṃ paribbhamaneneva tā tā disā pabhassarā hutvā virocanti. Atha vā disāti upayogabahuvacanaṃ, tasmā sayaṃ virocamānā candimasūriyā yattakā disā bhanti sobhenti obhāsayantīti attho. Tāva sahassadhā lokoti tattakena pamāṇena sahassappakāro okāsaloko, sahassalokadhātuyoti attho. ‘‘Tāvasahassavā’’ti vā pāṭho, tāva tattakaṃ sahassaṃ assa atthīti tāvasahassavā. Etthāti sahassalokadhātusaṅkhāte loke.
Sự hình dung của những người theo tà kiến rằng “tự ngã và thế gian là thường hằng” v.v… phần lớn có đối tượng là chúng sanh, không phải có đối tượng là các hành, nên (chú giải) nói: “ở nơi có câu ‘thế gian là thường hằng’ hay ‘thế gian là không thường hằng,’ cần phải hiểu là thế gian chúng sanh.” Yết-ma bao quanh là nơi nào mà mặt trời và mặt trăng quay quanh, xoay chuyển. Các phương tỏa sáng rực rỡ là do sự xoay chuyển của chúng mà các phương ấy trở nên sáng chói và rực rỡ. Hoặc là, các phương là đối cách số nhiều; do đó, có nghĩa là, mặt trời và mặt trăng, tự mình rực rỡ, chiếu sáng, làm cho các phương nào tỏa sáng. Thế gian có ngàn phần như vậy có nghĩa là, với kích thước đó, thế gian không gian có một ngàn loại, là một ngàn thế giới. Hoặc cách đọc là “tāvasahassavā,” có ngàn phần như vậy. Ở đây là trong thế gian được xem là một ngàn thế giới.

Tampīti tividhampi lokaṃ. Sabbathā avedīti sabbappakārato paṭivijjhi. Kathaṃ paṭivijjhīti āha ‘‘tathā hī’’tiādi. Tathā hissāti imassa ‘‘sabbathā vidito’’ti etena sambandho. Assāti anena bhagavatā. Eko loko sabbe sattā āhāraṭṭhitikāti yāya puggalādhiṭṭhānāya kathāya sabbesaṃ saṅkhārānaṃ paccayāyattavuttitā vuttā, tāya sabbo saṅkhāraloko ekavidho pakārantarassa abhāvato. Dve lokātiādīsupi imināva nayena attho veditabbo. Nāmaggahaṇena cettha nibbānassa aggahaṇaṃ tassa alokasabhāvattā. Nanu ca ‘‘āhāraṭṭhitikā’’ti ettha paccayāyattavuttitāya maggaphaladhammānampi lokatā āpajjatīti? Nāpajjati pariññeyyānaṃ dukkhasaccadhammānaṃ idha lokoti adhippetattā. Atha vā na lujjati na palujjatīti yo gahito tathā na hoti, so lokoti taṃgahaṇarahitānaṃ lokuttarānaṃ natthi lokatā.
Cả điều đó nữa là cả ba loại thế gian. Đã biết về mọi mặt là đã thấu triệt bằng tất cả các cách thức. Đã thấu triệt như thế nào? (Chú giải) nói: “Bởi vì như vậy” v.v… Cần liên kết câu bởi vì của Ngài như vậy với câu “đã được biết về mọi mặt.” Của Ngài là bởi vị Thế Tôn này. Một thế gian: tất cả chúng sanh tồn tại nhờ vật thực là, bằng lời nói dựa trên quy ước về chúng sanh, trạng thái tồn tại phụ thuộc vào các duyên của tất cả các hành đã được nói đến; do đó, tất cả thế gian hữu vi là một loại, vì không có loại nào khác. Trong các câu hai thế gian v.v…, cũng cần phải hiểu ý nghĩa theo phương pháp này. Và ở đây, bằng việc không đề cập đến danh, Niết-bàn không được bao gồm, vì nó có bản chất không phải là thế gian. Chẳng phải trong câu “tồn tại nhờ vật thực,” do trạng thái tồn tại phụ thuộc vào các duyên, các pháp đạo và quả cũng sẽ trở thành thế gian hay sao? Không trở thành, vì ở đây thế gian được chủ trương là các pháp khổ đế cần được liễu tri. Hoặc là, cái gì không bị hủy hoại, không bị tan rã, thì không phải là thế gian; do đó, các pháp siêu thế, vốn không được bao gồm trong định nghĩa đó, không phải là thế gian.

Tisso vedanāti sukhadukkhaupekkhāvasena. Cattāro āhārāti kabaḷīkārāhāro phassāhāro manosañcetanāhāro viññāṇāhāroti cattāro āhārā. Tattha kabaḷīkārāhāro ojaṭṭhamakaṃ rūpaṃ āharatīti āhāro. Phasso tisso vedanā āharatīti āhāro. Manosañcetanā tīsu bhavesu paṭisandhiṃ āharatīti āhāro. Viññāṇaṃ paṭisandhikkhaṇe nāmarūpaṃ āharatīti āhāro. Upādānānaṃ ārammaṇabhūtā khandhā upādānakkhandhā. Cha ajjhattikāni āyatanānīti cakkhāyatanādimanāyatanapariyantāni. Satta viññāṇaṭṭhitiyoti nānattakāyā nānattasaññino, nānattakāyā ekattasaññino, ekattakāyā nānattasaññino, ekattakāyā ekattasaññino, heṭṭhimā ca tayo āruppāti imā satta ‘‘viññāṇaṃ tiṭṭhati etthāti viññāṇaṭṭhitiyo’’ti vuccanti. Tattha nānattaṃ kāyo etesaṃ, nānatto vā kāyo etesanti nānattakāyā, nānattasaññā etesaṃ atthīti nānattasaññino. Iminā nayena sesapadesupi attho veditabbo.
Ba thọ là theo cách: lạc, khổ và xả. Bốn vật thực là bốn vật thực này: đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực. Ở đó, đoàn thực được gọi là vật thực vì nó mang lại sắc pháp có tám yếu tố. Xúc được gọi là vật thực vì nó mang lại ba thọ. Tư niệm được gọi là vật thực vì nó mang lại sự tái sanh trong ba cõi. Thức được gọi là vật thực vì nó mang lại danh-sắc vào khoảnh khắc tái sanh. Các uẩn vốn là đối tượng của các thủ là các thủ uẩn. Sáu nội xứ là từ nhãn xứ cho đến ý xứ. Bảy thức trú là: có thân khác nhau và có tưởng khác nhau; có thân khác nhau và có tưởng giống nhau; có thân giống nhau và có tưởng khác nhau; có thân giống nhau và có tưởng giống nhau; và ba cõi vô sắc ở dưới. Bảy cõi này được gọi là “các thức trú” vì “thức đứng vững ở đây.” Ở đó, họ có thân khác nhau, hoặc thân của họ khác nhau, nên là có thân khác nhau; họ có tưởng khác nhau, nên là có tưởng khác nhau. Theo phương pháp này, cần phải hiểu ý nghĩa trong các đoạn còn lại.

Sabbe manussā (dī. ni. aṭṭha. 2.127; a. ni. aṭṭha. 3.7.44-45) chakāmāvacarā ca devā ekacce ca vinipātikā ‘‘nānattakāyā nānattasaññino’’ti vuccanti. Aparimāṇesu hi cakkavāḷesu aparimāṇānaṃ manussānaṃ vaṇṇasaṇṭhānādivasena dvepi ekasadisā natthi. Yepi katthaci yamakabhātaro vaṇṇena vā saṇṭhānena vā ekasadisā honti, tesampi ālokitavilokitakathitahasitagamanaṭhānādīhi viseso hotiyeva, paṭisandhisaññā ca nesaṃ tihetukāpi duhetukāpi ahetukāpi hoti, tasmā sabbepi manussā nānattakāyā nānattasaññino. Chakāmāvacaradevesu ca kesañci kāyo nīlo hoti, kesañci pītādivaṇṇo, paṭisandhisaññā ca nesaṃ duhetukāpi tihetukāpi hoti, tasmā tepi nānattakāyā nānattasaññino. Ekacce vinipātikā pana catuapāyavinimuttakā uttaramātā yakkhinī, piyaṅkaramātā, dhammaguttāti evamādayo daṭṭhabbā. Etesañhi odātakaāḷamaṅguracchavisāmavaṇṇādivasena ceva kisathūlarassadīghādivasena ca kāyo nānā hoti, manussānaṃ viya tihetukaduhetukāhetukavasena paṭisandhisaññāpi, te pana devā viya na mahesakkhā , kapaṇamanussā viya appesakkhā dullabhaghāsacchādanā dukkhapīḷitā viharanti, ekacce kāḷapakkhe dukkhitā juṇhapakkhe sukhitā honti, tasmā sukhasamussayato vinipatitattā sukhasamussayato vinipāto etesaṃ atthīti vinipātikāti vuttā satipi devabhāve dibbasampattiyā abhāvato. Ye panettha tihetukā, tesaṃ dhammābhisamayopi hoti. Piyaṅkaramātā hi yakkhinī paccūsasamaye anuruddhattherassa dhammaṃ sajjhāyato sutvā –
Tất cả loài người (dī. ni. aṭṭha. 2.127; a. ni. aṭṭha. 3.7.44-45), sáu cõi trời dục giới và một số chúng sanh ngạ quỷ được gọi là “có thân khác nhau và có tưởng khác nhau.” Thật vậy, trong vô số thế giới, trong vô số loài người, không có hai người nào có hình dáng v.v… hoàn toàn giống nhau. Ngay cả những anh em sinh đôi, dù có hình dáng hay màu da giống nhau ở một điểm nào đó, cũng có sự khác biệt về cách nhìn, ngó, nói, cười, đi, đứng v.v…; và tưởng tái sanh của họ cũng có thể là tam nhân, nhị nhân hoặc vô nhân. Do đó, tất cả loài người đều có thân khác nhau và có tưởng khác nhau. Và trong sáu cõi trời dục giới, thân của một số vị có màu xanh, của một số vị có màu vàng v.v…; và tưởng tái sanh của họ cũng có thể là nhị nhân hoặc tam nhân. Do đó, họ cũng có thân khác nhau và có tưởng khác nhau. Còn một số chúng sanh ngạ quỷ cần được hiểu là những vị như dạ xoa Uttaramātā, Piyaṅkaramātā, Dhammaguttā v.v…, vốn không thuộc bốn đường ác. Thật vậy, thân của những vị này khác nhau về màu da như trắng, đen, xám tro, ngăm đen v.v…, và về hình dáng như gầy, mập, lùn, cao v.v…; tưởng tái sanh của họ cũng khác nhau theo cách tam nhân, nhị nhân, vô nhân như loài người. Tuy nhiên, họ không có nhiều quyền lực như các vị trời; họ sống trong cảnh khổ đau, thiếu thốn thức ăn và quần áo, ít quyền lực như những người nghèo khổ. Một số vị khổ sở vào hắc nguyệt và sung sướng vào bạch nguyệt. Do đó, vì đã rơi rớt khỏi sự sung sướng, và vì có sự rơi rớt khỏi sự sung sướng, nên họ được gọi là ngạ quỷ, mặc dù có thân phận là trời nhưng lại không có sự thành tựu của cõi trời. Trong số đó, những vị tam nhân cũng có thể chứng đắc chánh pháp. Thật vậy, dạ xoa Piyaṅkaramātā, vào lúc rạng đông, khi nghe trưởng lão Anuruddhatthera tụng kinh, đã nói:

‘‘Mā saddaṃ kari piyaṅkara, bhikkhu dhammapadāni bhāsati;
Apica dhammapadaṃ vijāniya, paṭipajjema hitāya no siyā.
‘‘Pāṇesu ca saṃyamāmase, sampajānamusā na bhaṇāmase;
Sikkhema susīlyamattano, api muccema pisācayoniyā’’ti. (saṃ. ni. 1.240) –
“Này Piyaṅkara, đừng làm ồn, vị Tỳ-khưu đang nói các câu pháp.
Nếu chúng ta biết được một câu pháp, và thực hành theo, điều đó sẽ mang lại lợi ích cho chúng ta.
“Chúng ta hãy tự chế trong các sinh mạng, không nói dối một cách cố ý,
Chúng ta hãy học tập giới hạnh tốt đẹp của mình, mong rằng chúng ta sẽ thoát khỏi loài ngạ quỷ.” (saṃ. ni. 1.240) –

Evaṃ puttakaṃ saññāpetvā taṃ divasaṃ sotāpattiphalaṃ pattā. Uttaramātā pana bhagavato dhammaṃ sutvāva sotāpannā jātā. Evamimepi kāyassa ceva paṭisandhisaññāya ca nānattā ‘‘nānattakāyā nānattasaññino’’tveva saṅkhyaṃ gacchanti.
Sau khi đã khuyên bảo con trai như vậy, vào ngày đó bà đã chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Còn Uttaramātā thì đã trở thành bậc Tu-đà-hoàn ngay sau khi nghe pháp của Thế Tôn. Như vậy, những vị này cũng được xếp vào loại “có thân khác nhau và có tưởng khác nhau” do sự khác biệt về cả thân thể lẫn tưởng tái sanh.

Brahmapārisajjabrahmapurohitamahābrahmasaṅkhātā pana hīnamajjhimapaṇītabhedabhinnena paṭhamajjhānena nibbattā brahmakāyikā ceva catūsu apāyesu sattā ca ‘‘nānattakāyā ekattasaññino’’ti vuccanti. Etesu hi brahmakāyikesu brahmapurohitānaṃ kāyo brahmapārisajjehi pamāṇato vipulataro hoti, mahābrahmānaṃ kāyo pana brahmapurohitehipi pamāṇato vipulataro hoti. Kāmañca nesaṃ pabhāvasenapi kāyo heṭṭhimaheṭṭhimehi uḷārataro hoti, taṃ pana idha appamāṇaṃ. Tathā hi parittābhādīnaṃ parittasubhādīnañca kāye satipi pabhāvematte ekattavaseneva vavatthapīyatīti ‘‘ekattakāyā’’tveva te vuccanti. Evamime brahmakāyikā kāyassa nānattā paṭhamajjhānavipākavasena pana paṭisandhisaññāya ca ekattā nānattakāyā ekattasaññino. Yathā ca te, evaṃ catūsu apāyesu sattā. Nirayesu hi kesañci gāvutaṃ, kesañci aḍḍhayojanaṃ, kesañci yojanaṃ attabhāvo hoti, devadattassa pana yojanasatiko jāto. Tiracchānesupi keci khuddakā, keci mahantā, pettivisayepi keci saṭṭhihatthā, keci asītihatthā honti, keci suvaṇṇā, keci dubbaṇṇā, tathā kālakañcikā asurā. Api cettha dīghapiṭṭhikapetā nāma saṭṭhiyojanikāpi honti, paṭisandhisaññā pana sabbesampi akusalavipākāhetukāva hoti. Iti āpāyikāpi ‘‘nānattakāyā ekattasaññino’’tveva saṅkhyaṃ gacchanti.
Còn các vị Phạm thiên thuộc cõi Brahmapārisajja, Brahmapurohita và Mahābrahmā, vốn được sanh ra bởi thiền thứ nhất được phân loại theo các cấp độ thấp, trung và cao, và các chúng sanh trong bốn đường ác, được gọi là “có thân khác nhau và có tưởng giống nhau.” Thật vậy, trong số các vị Phạm thiên này, thân của các vị Brahmapurohita lớn hơn về kích thước so với các vị Brahmapārisajja, và thân của các vị Mahābrahmā lại lớn hơn về kích thước so với các vị Brahmapurohita. Mặc dù thân của họ cũng vĩ đại hơn về phương diện hào quang so với các cõi thấp hơn, nhưng điều đó ở đây không được tính đến. Thật vậy, mặc dù thân của các vị ở cõi Parittābhā và Parittasubhā v.v… chỉ có hào quang ở một mức độ nhất định, nhưng chúng được xác định theo cách là một, nên các vị ấy được gọi là “có thân giống nhau.” Như vậy, các vị Phạm thiên này có thân khác nhau, nhưng vì tưởng tái sanh của họ giống nhau do là quả của thiền thứ nhất, nên họ có thân khác nhau và có tưởng giống nhau. Và giống như họ, các chúng sanh trong bốn đường ác cũng vậy. Thật vậy, trong các cõi địa ngục, thân của một số chúng sanh dài một gāvuta, của một số dài nửa do-tuần, của một số dài một do-tuần; còn thân của Devadatta thì dài một trăm do-tuần. Trong loài bàng sanh, một số thì nhỏ, một số thì lớn. Trong cõi ngạ quỷ, một số cao sáu mươi hắc tay, một số cao tám mươi hắc tay; một số có màu vàng, một số có màu da xấu xí; tương tự đối với các a-tu-la Kālakañcikā. Và ở đây, có những ngạ quỷ tên là Dīghapiṭṭhika cũng cao đến sáu mươi do-tuần. Tuy nhiên, tưởng tái sanh của tất cả họ đều là quả của nghiệp bất thiện, không có nhân. Do đó, các chúng sanh trong cõi dữ cũng được xếp vào loại “có thân khác nhau và có tưởng giống nhau.”

Dutiyajjhānabhūmikā pana parittābhā appamāṇābhā ābhassarā ‘‘ekattakāyā nānattasaññino’’ti vuccanti. Nesañhi sabbesaṃ kāyo ekappamāṇova hoti, paṭisandhisaññā pana dutiyatatiyajjhānavipākavasena nānā hoti.
Còn các cõi thuộc thiền thứ hai là Parittābhā, Appamāṇābhā và Ābhassarā, được gọi là “có thân giống nhau và có tưởng khác nhau.” Thật vậy, thân của tất cả họ đều có cùng một kích thước, nhưng tưởng tái sanh của họ lại khác nhau do là quả của thiền thứ hai và thứ ba.

Parittasubhā appamāṇasubhā subhakiṇhā pana tatiyajjhānabhūmikā ekattakāyā ekattasaññino. Tesaṃ vuttanayena kāyassa ceva catutthajjhānavipākavasena paṭisandhisaññāya ca ekattā. ‘‘Vehapphalāpi imaṃyeva catutthaviññāṇaṭṭhitiṃ bhajanti kāyassa ceva pañcamajjhānavipākavasena paṭisandhisaññāya ca ekarūpattā. Suddhāvāsā pana apunarāvattanato vivaṭṭapakkhe ṭhitā, na sabbakālikā. Kappasatasahassampi asaṅkhyeyyampi buddhasuññe loke nuppajjanti, soḷasakappasahassabbhantare buddhesu uppajjantesuyeva uppajjanti, dhammacakkappavattissa bhagavato khandhāvāraṭṭhānasadisā honti, tasmā neva viññāṇaṭṭhitiṃ, na sattāvāsaṃ bhajantī’’ti vadanti. Mahāsīvatthero pana ‘‘na kho pana so sāriputta āvāso sulabharūpo, yo mayā anāvuṭṭhapubbo iminā dīghena addhunā aññatra suddhāvāsehi devehī’’ti (ma. ni. 1.160) iminā suttena ‘‘suddhāvāsāpi catutthaviññāṇaṭṭhitiṃ catutthasattāvāsaṃ bhajantī’’ti vadati, taṃ appaṭibāhiyattā suttassa anuññātaṃ. Tasmā asaññasattaṃ apanetvā parittasubhādīsu akaniṭṭhapariyosānāsu navasu bhūmīsu sattā ‘‘ekattakāyā ekattasaññino’’ti gahetabbā.
Còn các cõi thuộc thiền thứ ba là Parittasubhā, Appamāṇasubhā và Subhakiṇhā, là có thân giống nhau và có tưởng giống nhau. Vì thân của họ giống nhau theo cách đã nói, và tưởng tái sanh của họ cũng giống nhau do là quả của thiền thứ tư. Người ta nói rằng: “Các vị ở cõi Vehapphalā cũng thuộc về thức trú thứ tư này, vì thân của họ và tưởng tái sanh của họ đều có cùng một hình thức do là quả của thiền thứ năm. Còn các cõi Tịnh Cư, do không còn quay trở lại, nên thuộc về phe giải thoát, không phải lúc nào cũng có. Trong một trăm ngàn kiếp hay một a-tăng-kỳ kiếp mà thế gian trống vắng Phật, họ không sanh ra; họ chỉ sanh ra khi các vị Phật sanh ra trong vòng mười sáu ngàn đại kiếp, và họ giống như nơi đóng quân của Thế Tôn khi Ngài chuyển pháp luân. Do đó, họ không thuộc về thức trú, cũng không thuộc về trú xứ của chúng sanh.” Tuy nhiên, trưởng lão Mahāsīvatthera, bằng kinh này: “Này Sāriputta, thật không dễ gì tìm được một trú xứ mà ta chưa từng ở trong suốt thời gian dài này, ngoại trừ các vị trời ở các cõi Tịnh Cư” (ma. ni. 1.160), đã nói rằng: “các cõi Tịnh Cư cũng thuộc về thức trú thứ tư và trú xứ của chúng sanh thứ tư.” Điều đó đã được chấp nhận vì không thể bác bỏ được kinh. Do đó, sau khi loại bỏ cõi vô tưởng, các chúng sanh trong chín cõi từ Parittasubhā cho đến Akaniṭṭha cần được hiểu là “có thân giống nhau và có tưởng giống nhau.”

Asaññasattā pana viññāṇābhāvā ettha saṅgahaṃ na gacchanti. Tathā hi anuppanne buddhe titthāyatane pabbajitā vāyokasiṇe parikammaṃ katvā catutthajjhānaṃ nibbattetvā tato vuṭṭhāya ‘‘dhī cittaṃ, dhī cittaṃ, cittassa nāma abhāvoyeva sādhu. Cittañhi nissāya vadhabandhādipaccayaṃ dukkhaṃ uppajjati, citte asati nattheta’’nti khantiṃ ruciṃ uppādetvā aparihīnajjhānā kālaṃ katvā rūpapaṭisandhivasena asaññabhave nibbattanti. Yo yassa iriyāpatho manussaloke paṇihito ahosi, so tena iriyāpathena nibbattitvā pañca kappasatāni ṭhito vā nisinno vā nipanno vā hoti. Evaṃ cittavirāgabhāvanāvasena tesaṃ tattha viññāṇuppatti na hotīti viññāṇābhāvato viññāṇaṭṭhitiṃ te na bhajanti. Nevasaññānāsaññāyatanaṃ pana yatheva saññāya, evaṃ viññāṇassapi sukhumattā viññāṇaṭṭhitīsu saṅgahaṃ na gacchati. Tañhi saññāya viya viññāṇassapi saṅkhārāvasesasukhumabhāvappattattā paribyattaviññāṇakiccābhāvato neva viññāṇaṃ , na ca sabbaso aviññāṇaṃ hotīti nevaviññāṇā nāviññāṇaṃ, tasmā paripphuṭaviññāṇakiccavantīsu viññāṇaṭṭhitīsu saṅgahaṃ na gacchati. Tasmā vinipātikehi saddhiṃ chakāmāvacaradevā manussā ca nānattakāyā nānattasaññino, paṭhamajjhānabhūmikā apāyasattā ca nānattakāyā ekattasaññino, dutiyajjhānabhūmikā ekattakāyā nānattasaññino, tatiyajjhānabhūmikā asaññasattaṃ vajjetvā sesā catutthajjhānabhūmikā ca ekattakāyā ekattasaññinoti imā catasso viññāṇaṭṭhitiyo nevasaññānāsaññāyatanaṃ vajjetvā ākāsānañcāyatanādiheṭṭhimāruppattayena saddhiṃ ‘‘satta viññāṇaṭṭhitiyo’’ti veditabbā.
Còn các chúng sanh vô tưởng, do không có thức, nên không được bao gồm ở đây. Thật vậy, khi Phật chưa xuất hiện, những người xuất gia trong các giáo phái ngoại đạo, sau khi thực hành sơ khởi trên đề mục biến xứ gió, tạo ra thiền thứ tư, rồi xuất thiền, sanh khởi sự chấp nhận và ưa thích rằng: “Ôi, tâm thật là phiền, ôi, tâm thật là phiền; sự vắng mặt của tâm mới là tốt. Thật vậy, do nương vào tâm mà khổ đau do các duyên như giết chóc, trói buộc v.v… sanh khởi; khi không có tâm, thì không có những điều đó.” Sau khi chết mà không bị mất thiền, họ sanh ra ở cõi vô tưởng bằng cách tái sanh bằng sắc pháp. Oai nghi nào của người nào đã được thiết lập ở thế giới loài người, người đó sau khi sanh ra bằng oai nghi ấy, sẽ đứng, ngồi hoặc nằm trong năm trăm đại kiếp. Như vậy, do sự tu tập nhàm chán tâm, sự sanh khởi của thức không có ở đó đối với họ; do không có thức, nên họ không thuộc về thức trú. Còn cõi phi tưởng phi phi tưởng, giống như đối với tưởng, đối với thức cũng vậy, do sự vi tế của nó, nên không được bao gồm trong các thức trú. Thật vậy, giống như đối với tưởng, đối với thức cũng vậy, do đã đạt đến trạng thái vi tế chỉ còn lại các hành, và do không có chức năng của thức một cách rõ ràng, nên không phải là có thức, và cũng không phải là hoàn toàn không có thức, nên là phi tưởng phi phi tưởng. Do đó, nó không được bao gồm trong các thức trú vốn có chức năng của thức một cách rõ ràng. Do đó, cần phải hiểu rằng, cùng với các chúng sanh ngạ quỷ, sáu cõi trời dục giới và loài người là có thân khác nhau và có tưởng khác nhau; các cõi thuộc thiền thứ nhất và các chúng sanh trong cõi dữ là có thân khác nhau và có tưởng giống nhau; các cõi thuộc thiền thứ hai là có thân giống nhau và có tưởng khác nhau; các cõi thuộc thiền thứ ba và các cõi thuộc thiền thứ tư còn lại, trừ cõi vô tưởng, là có thân giống nhau và có tưởng giống nhau. Bốn thức trú này, cùng với ba cõi vô sắc ở dưới là Không Vô Biên Xứ v.v…, trừ cõi phi tưởng phi phi tưởng, được gọi là “bảy thức trú.”

Aṭṭha lokadhammāti lābho alābho yaso ayaso nindā pasaṃsā sukhaṃ dukkhanti ime aṭṭha lokassa dhammattā lokadhammā. Ime hi sattalokassa avassaṃbhāvino dhammā, tasmā etehi vinimutto nāma koci satto natthi. Te hi aparāparaṃ kadāci lokaṃ anupatanti, kadāci te loko ca anupatati. Vuttampi cetaṃ ‘‘aṭṭhime, bhikkhave, lokadhammā lokaṃ anuparivattanti, loko ca aṭṭha lokadhamme anuparivattatī’’ti (a. ni. 8.6). Ghāsacchādanādīnaṃ laddhi, tāni eva vā laddhabbato lābho. Tadabhāvo alābho. Lābhaggahaṇena cettha tabbisayo anurodho gahito, alābhaggahaṇena virodho. Evaṃ yasādīsupi tabbisayaanurodhavirodhānaṃ gahaṇaṃ veditabbaṃ. Lābhe pana āgate alābho āgatoyeva hotīti lābho ca alābho ca vutto. Yasādīsupi eseva nayo. Tathā ca lohite sati tadupaghātavasena pubbo viya lābhādīsu anurodhe sati alābhādīsu virodho laddhāvasaro eva hoti.
Tám pháp thế gian là: được, mất, danh, không danh, chê, khen, lạc, khổ. Tám pháp này là pháp của thế gian, vì chúng là pháp tất yếu phải có của thế gian chúng sanh. Do đó, không có chúng sanh nào thoát khỏi chúng. Thật vậy, chúng đôi khi theo đuổi thế gian, và đôi khi thế gian cũng theo đuổi chúng. Điều này đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, tám pháp thế gian này xoay quanh thế gian, và thế gian cũng xoay quanh tám pháp thế gian.” (a. ni. 8.6). Sự có được thức ăn, quần áo v.v…, hoặc chính chúng, vì đáng được có, nên là được. Sự không có điều đó là mất. Và ở đây, bằng việc đề cập đến sự được, sự ưa thích đối với nó được bao gồm; bằng việc đề cập đến sự mất, sự chống đối được bao gồm. Tương tự, trong các pháp như danh v.v…, cần phải hiểu sự bao gồm cả sự ưa thích và chống đối đối với chúng. Và khi có sự được, thì sự mất cũng đã có mặt, nên đã nói là được và mất. Trong các pháp như danh v.v…, cũng theo phương pháp này. Tương tự, khi có máu, thì do sự tổn thương nó, mủ cũng có cơ hội sanh ra; cũng vậy, khi có sự ưa thích trong các pháp như được v.v…, thì sự chống đối trong các pháp như mất v.v… cũng đã có cơ hội.

Nava sattāvāsāti heṭṭhā vuttasattaviññāṇaṭṭhitiyo eva asaññasattacatutthāruppehi saddhiṃ ‘‘nava sattāvāsā’’ti vuccanti. Sattā āvasanti etesūti sattāvāsā, nānattakāyanānattasaññīādibhedā sattanikāyā. Te hi sattanikāyā tappariyāpannānaṃ sattānaṃ tāya eva tappariyāpannatāya ādhāro viya vattabbataṃ arahanti samudāyādhāratāya avayavassa yathā ‘‘rukkhe sākhā’’ti. Suddhāvāsānampi sattāvāsaggahaṇe kāraṇaṃ heṭṭhā vuttameva.
Chín trú xứ của chúng sanh là chính bảy thức trú đã được nói ở dưới cùng với cõi vô tưởng và cõi vô sắc thứ tư, được gọi là “chín trú xứ của chúng sanh.” Chúng sanh trú ngụ ở đó, nên là trú xứ của chúng sanh; là bảy nhóm chúng sanh được phân loại như có thân khác nhau và có tưởng khác nhau v.v… Thật vậy, bảy nhóm chúng sanh ấy, đối với các chúng sanh thuộc về chúng, do chính sự thuộc về đó, nên đáng được gọi là nền tảng, giống như cành cây là nền tảng của toàn thể, như trong câu “cành trên cây.” Lý do cho việc bao gồm cả các cõi Tịnh Cư trong trú xứ của chúng sanh đã được nói ở dưới.

Dasāyatanānīti arūpasabhāvaṃ manāyatanaṃ rūpārūpādimissakaṃ dhammāyatanañca ṭhapetvā kevalaṃ rūpadhammānaṃyeva vasena cakkhāyatanādayo pañca, rūpāyatanādayo pañcāti dasāyatanāni vuttāni, manāyatanadhammāyatanehi pana saddhiṃ tāniyeva ‘‘dvādasāyatanānī’’ti vuttāni.
Mười xứ là, sau khi để lại ý xứ có bản chất là vô sắc và pháp xứ có bản chất hỗn hợp giữa sắc và vô sắc v.v…, chỉ có các pháp sắc, nên năm xứ như nhãn xứ v.v… và năm xứ như sắc xứ v.v…, tức mười xứ, đã được nói đến. Nhưng cùng với ý xứ và pháp xứ, chính chúng được gọi là “mười hai xứ.”

Kasmā panettha cakkhādayo ‘‘āyatanānī’’ti vuccanti? Āyatanato (vibha. aṭṭha. 154) āyānaṃ vā tananato āyatassa ca nayanato āyatanāni. Cakkhurūpādīsu hi taṃtaṃdvārārammaṇā cittacetasikā dhammā sena sena anubhavanādinā kiccena āyatanti uṭṭhahanti ghaṭanti vāyamanti, te ca pana āyabhūte dhamme etāni tanonti vitthārenti, idañca anamatagge saṃsāre pavattaṃ ativiya āyataṃ saṃsāradukkhaṃ yāva na nivattati, tāva nayanti pavattayanti, tasmā ‘‘āyatanānī’’ti vuccanti. Api ca nivāsaṭṭhānaṭṭhena ākaraṭṭhena samosaraṇaṭṭhena sañjātidesaṭṭhena kāraṇaṭṭhena ca āyatanāni. Tathā hi loke ‘‘issarāyatanaṃ vāsudevāyatana’’ntiādīsu nivāsaṭṭhānaṃ āyatananti vuccati. ‘‘Suvaṇṇāyatanaṃ rajatāyatana’’ntiādīsu ākaro. Sāsane pana ‘‘manorame āyatane, sevanti naṃ vihaṅgamā’’tiādīsu (a. ni. 5.38) samosaraṇaṭṭhānaṃ. ‘‘Dakkhiṇāpatho gunnaṃ āyatana’’ntiādīsu sañjātideso. ‘‘Tatra tatreva sakkhibhabbataṃ pāpuṇāti sati satiāyatane’’tiādīsu (ma. ni. 3.158; a. ni. 3.102; 5.23) kāraṇaṃ āyatananti vuccati. Cakkhuādīsu ca te te cittacetasikā dhammā nivasanti tadāyattavuttitāyāti cakkhādayo tesaṃ nivāsaṭṭhānaṃ. Cakkhādīsu ca te ākiṇṇā tannissitattā tadārammaṇattā cāti cakkhādayova nesaṃ ākaro. Tattha tattha vatthudvārārammaṇavasena samosaraṇato cakkhādayova nesaṃ samosaraṇaṭṭhānaṃ. Tannissayārammaṇabhāvena tattheva uppattito cakkhādayova nesaṃ sañjātideso. Cakkhādīnaṃ abhāve abhāvato cakkhādayova nesaṃ kāraṇanti yathāvuttenatthena cakkhu ca taṃ āyatanañcāti cakkhāyatanaṃ. Evaṃ sesānipi.
Tại sao ở đây các pháp như mắt v.v… được gọi là “các xứ”? Do sự nỗ lực, do sự mở rộng của những gì đã đến, và do sự dẫn dắt của những gì đã kéo dài, nên chúng là các xứ. Thật vậy, trong các pháp như mắt, sắc v.v…, các tâm và sở hữu tâm, thông qua từng căn và đối tượng, nỗ lực, cố gắng, phấn đấu bằng các chức năng riêng như cảm nhận v.v…; và những pháp này lại mở rộng, làm cho lan rộng các pháp vốn là nguồn gốc đó. Và chừng nào khổ đau luân hồi này, vốn đã diễn ra trong luân hồi vô thủy và vô cùng dài lâu, chưa chấm dứt, thì chúng vẫn còn dẫn dắt, làm cho nó diễn ra. Do đó, chúng được gọi là “các xứ.” Hơn nữa, chúng là các xứ do có ý nghĩa là nơi ở, ý nghĩa là mỏ khoáng, ý nghĩa là nơi hội tụ, ý nghĩa là nơi sanh trưởng, và ý nghĩa là nguyên nhân. Thật vậy, trong đời, trong các câu như “nơi ở của vị chúa tể, nơi ở của Vāsudeva” v.v…, nơi ở được gọi là xứ. Trong các câu “mỏ vàng, mỏ bạc” v.v…, mỏ khoáng (được gọi là xứ). Còn trong giáo pháp, trong các câu “tại xứ khả ái, các loài chim tìm đến đó” v.v… (a. ni. 5.38), nơi hội tụ (được gọi là xứ). Trong các câu “miền nam là xứ của bò” v.v…, nơi sanh trưởng (được gọi là xứ). Trong các câu “ở nơi nào có xứ của niệm, người đó đạt được khả năng làm nhân chứng ở ngay nơi đó” v.v… (ma. ni. 3.158; a. ni. 3.102; 5.23), nguyên nhân được gọi là xứ. Và trong các pháp như mắt v.v…, các tâm và sở hữu tâm ấy trú ngụ, do sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào đó, nên mắt v.v… là nơi ở của chúng. Và trong mắt v.v…, chúng tràn đầy, do nương tựa vào đó và có chúng làm đối tượng, nên chính mắt v.v… là mỏ khoáng của chúng. Do sự hội tụ theo cách là căn cứ, căn và đối tượng, nên chính mắt v.v… là nơi hội tụ của chúng. Do là nơi nương tựa và đối tượng, và sanh khởi ngay tại đó, nên chính mắt v.v… là nơi sanh trưởng của chúng. Do không có mặt nếu mắt v.v… không có mặt, nên chính mắt v.v… là nguyên nhân của chúng. Do đó, theo ý nghĩa đã nói, mắt và nó là xứ, nên là nhãn xứ. Các xứ còn lại cũng tương tự như vậy.

Imāneva pana dvādasāyatanāni cakkhuviññāṇādichaviññāṇehi saddhiṃ aṭṭhārasa vidahanādito ‘‘dhātuyo’’ti vuccanti. Tathā hi cakkhādīsu ekeko dhammo yathāsambhavaṃ vidahati, dhīyate, vidhānaṃ, vidhīyate etāya, ettha vā dhīyatīti dhātūti vuccati. Lokiyā hi dhātuyo kāraṇabhāvena vavatthitāva hutvā suvaṇṇarajatādidhātuyo viya suvaṇṇarajatādiṃ, anekappakāraṃ saṃsāradukkhaṃ vidahanti, bhārahārehi ca bhāro viya sattehi dhīyanti dhārīyanti, dukkhavidhānamattameva cetā avasavattanato. Etāhi ca kāraṇabhūtāhi saṃsāradukkhaṃ sattehi anuvidhīyati, tathāvihitañca taṃ etāsveva dhīyati ṭhapīyati, tasmā ‘‘dhātuyo’’ti vuccanti. Api ca yathā titthiyānaṃ attā nāma sabhāvato natthi, na evametā, etā pana attano sabhāvaṃ dhārentīti dhātuyo. Yathā ca loke vicittā haritālamanosilādayo selāvayavā ‘‘dhātuyo’’ti vuccanti, evametāpi dhātuyo viya dhātuyo. Vicittā hetā ñāṇañeyyāvayavāti. Yathā vā sarīrasaṅkhātassa samudāyassa avayavabhūtesu rasasoṇitādīsu aññamaññavisabhāgalakkhaṇaparicchinnesu dhātusamaññā, evametesupi pañcakkhandhasaṅkhātassa attabhāvassa avayavesu dhātusamaññā veditabbā. Aññamaññavisabhāgalakkhaṇaparicchinnā hete cakkhādayoti. Api ca dhātūti nijjīvamattassetaṃ adhivacanaṃ. Tathā hi bhagavā ‘‘chadhāturo ayaṃ bhikkhu puriso’’tiādīsu (ma. ni. 3.343) jīvasaññāsamūhananatthaṃ dhātudesanamakāsi. Tasmā nijjīvaṭṭhenapi dhātuyoti vuccanti.
Và chính mười hai xứ này, cùng với sáu thức từ nhãn thức v.v…, do sự sắp đặt v.v… mà được gọi là “mười tám giới.” Thật vậy, trong các pháp như mắt v.v…, mỗi một pháp, tùy theo khả năng, sắp đặt, được mang giữ, là sự sắp đặt, được sắp đặt bởi nó, hoặc được mang giữ ở trong đó, nên được gọi là giới. Thật vậy, các giới thuộc về thế gian, sau khi đã được xác lập là nguyên nhân, chúng sắp đặt nên nhiều loại khổ đau luân hồi, giống như các khoáng chất vàng, bạc v.v… (tạo ra vàng, bạc); và chúng được các chúng sanh mang giữ, gánh vác như gánh nặng được mang bởi người phu khuân; và chúng chỉ là sự sắp đặt khổ đau, do không có quyền tự chủ. Và bởi chúng, vốn là nguyên nhân, khổ đau luân hồi được các chúng sanh sắp đặt theo; và khổ đau đã được sắp đặt như vậy lại được mang giữ, được đặt vào trong chính chúng. Do đó, chúng được gọi là “các giới.” Hơn nữa, không phải như tự ngã của các nhà ngoại đạo, vốn không có thực thể, những pháp này không như vậy; mà chúng mang giữ bản chất của chính mình, nên là các giới. Và giống như trong đời, các mảnh đá đa dạng như hùng hoàng, thư hoàng v.v… được gọi là “các khoáng chất,” thì những pháp này cũng là các giới giống như các khoáng chất. Thật vậy, chúng là những thành phần đa dạng của trí tuệ và đối tượng của trí tuệ. Hoặc là, giống như trong các thành phần của cơ thể như huyết tương, máu v.v…, vốn được phân định bởi các đặc tính khác nhau, có một tên gọi chung là giới; thì trong các thành phần của thân mạng gồm năm uẩn này cũng có tên gọi chung là giới, cần phải hiểu như vậy. Thật vậy, các pháp như mắt v.v… này được phân định bởi các đặc tính khác nhau. Hơn nữa, giới là tên gọi của những gì chỉ là vô tri. Thật vậy, Thế Tôn, trong các câu “Vị Tỳ-khưu này, người này, có sáu giới” v.v… (ma. ni. 3.343), đã thuyết giảng về các giới nhằm loại bỏ tưởng về một linh hồn. Do đó, chúng cũng được gọi là các giới do có ý nghĩa vô tri.

Ettha ca ‘‘āhāraṭṭhitikā’’ti paccayāyattavuttitāvacanena saṅkhārānaṃ aniccatā, tāya ca ‘‘yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ, yaṃ dukkhaṃ tadanattā’’ti (saṃ. ni. 3.15) vacanato dukkhānattatā ca pakāsitā hontīti tīṇipi sāmaññalakkhaṇāni gahitāni. Nāmanti cattāro arūpino khandhā, te ca atthato phassādayo. Rūpanti bhūtupādāyarūpāni, tāni ca atthato pathavīādayoti aviseseneva salakkhaṇato saṅkhārā gahitā. Taggahaṇeneva ye te savisesā kusalādayo hetuādayo ca, tepi gahitā eva hontīti āha ‘‘iti ayaṃ saṅkhāralokopi sabbathā vidito’’ti.
Và ở đây, bằng lời nói “tồn tại nhờ vật thực,” tức là trạng thái tồn tại phụ thuộc vào các duyên, tính chất vô thường của các hành được làm sáng tỏ; và bằng điều đó, theo câu “cái gì vô thường, cái đó là khổ; cái gì khổ, cái đó là vô ngã” (saṃ. ni. 3.15), tính chất khổ và vô ngã cũng được làm sáng tỏ. Do đó, cả ba tướng chung đều được bao gồm. Danh là bốn uẩn vô sắc; và về mặt ý nghĩa, chúng là các pháp như xúc v.v… Sắc là các sắc pháp do bốn đại hiển bày và các sắc pháp do chúng tạo thành; và về mặt ý nghĩa, chúng là các pháp như đất v.v… Như vậy, một cách không phân biệt, các hành đã được bao gồm theo đặc tính riêng của chúng. Và bằng việc bao gồm chúng, những pháp có sự phân biệt như thiện v.v… và nhân v.v… cũng đã được bao gồm, nên (chú giải) nói: “Như vậy, thế gian hữu vi này cũng đã được biết về mọi mặt.”

Evaṃ saṅkhāralokassa sabbathā viditabhāvaṃ dassetvā idāni sattalokassapi sabbathā viditabhāvaṃ dassento ‘‘yasmā panesā’’tiādimāha. Tattha āsayaṃ jānātīti āgamma cittaṃ seti etthāti āsayo migāsayo viya. Yathā migo gocarāya gantvā paccāgantvā tattheva vanagahane sayatīti so tassa āsayo, evaṃ aññathā pavattitvāpi cittaṃ āgamma yattha seti, so tassa āsayoti vuccati. So pana sassatadiṭṭhiādivasena catubbidho. Vuttañca –
Sau khi đã chỉ ra trạng thái đã được biết về mọi mặt của thế gian hữu vi như vậy, bây giờ để chỉ ra trạng thái đã được biết về mọi mặt của cả thế gian chúng sanh, (chú giải) nói: “Và bởi vì Ngài” v.v… Ở đó, biết tâm tánh, tâm sau khi đi đến, nó nằm ở đó, nên là tâm tánh (āsayo), giống như hang ổ của loài nai. Giống như con nai sau khi đi ăn, quay trở về và nằm ngay trong bụi rậm đó, nên đó là hang ổ của nó; cũng vậy, dù đã đi đến nơi khác, nhưng tâm sau khi đi đến, nó nằm ở nơi nào, nơi đó được gọi là tâm tánh của nó. Và nó có bốn loại, theo cách là thường kiến v.v… Và đã được nói rằng:

‘‘Sassatucchedadiṭṭhī ca, khanti cevānulomikā;
Yathābhūtañca yaṃ ñāṇaṃ, etaṃ āsayasaddita’’nti.
“Tà kiến thường hằng và đoạn diệt,
Và sự kham nhẫn thuận theo,
Và trí tuệ nào như thật,
Điều đó được gọi bằng từ tâm tánh.”

Tattha sabbadiṭṭhīnaṃ sassatucchedadiṭṭhīhi saṅgahitattā sabbepi diṭṭhigatikā sattā imā eva dve diṭṭhiyo sannissitā. Yathāha ‘‘dvayanissito khvāyaṃ kaccāna loko yebhuyyena atthitañceva natthitañcā’’ti (saṃ. ni. 2.15). Atthitāti hi sassataggāho adhippeto, natthitāti ucchedaggāho. Ayaṃ tāva vaṭṭanissitānaṃ puthujjanānaṃ āsayo, vivaṭṭanissitānaṃ pana suddhasattānaṃ anulomikā khanti yathābhūtañāṇanti duvidho āsayo. Tattha ‘‘anulomikā khanti vipassanāñāṇaṃ, yathābhūtañāṇaṃ pana maggañāṇa’’nti sammohavinodaniyā vibhaṅgaṭṭhakathāyaṃ (vibha. aṭṭha. 815) vuttaṃ . Taṃ catubbidhampi sattānaṃ āsayaṃ jānāti, jānanto ca tesaṃ diṭṭhigatānaṃ tesañca ñāṇānaṃ appavattikkhaṇepi jānāti. Vuttañhetaṃ –
Ở đó, vì tất cả các tà kiến đều được bao gồm bởi thường kiến và đoạn kiến, nên tất cả các chúng sanh theo tà kiến đều nương tựa vào chính hai tà kiến này. Như đã nói: “Này Kaccāna, thế gian này phần lớn nương tựa vào hai cực đoan: sự hiện hữu và sự không hiện hữu.” (saṃ. ni. 2.15). Thật vậy, sự hiện hữu được chủ trương là sự chấp thủ thường hằng; sự không hiện hữu là sự chấp thủ đoạn diệt. Đó là tâm tánh của các vị phàm phu nương tựa vào vòng luân hồi. Còn đối với các bậc thiện nhân nương tựa vào sự giải thoát, tâm tánh có hai loại: sự kham nhẫn thuận theo và trí tuệ như thật. Ở đó, trong chú giải Phân Tích, sách Phá tan si mê (vibha. aṭṭha. 815), đã nói rằng: “sự kham nhẫn thuận theo là tuệ quán, còn trí tuệ như thật là đạo tuệ.” Ngài biết cả bốn loại tâm tánh đó của chúng sanh, và khi biết, Ngài cũng biết ngay cả vào khoảnh khắc mà các tà kiến và các trí tuệ ấy không vận hành. Điều này đã được nói:

‘‘Kāmaṃ sevantaññeva jānāti ‘ayaṃ puggalo kāmagaruko kāmāsayo kāmādhimutto’ti, kāmaṃ sevantaññeva jānāti ‘ayaṃ puggalo nekkhammagaruko nekkhammāsayo nekkhammādhimutto’’’tiādi (paṭi. ma. 1.113).
“Ngài biết ngay cả người đang hưởng thụ các dục rằng: ‘Người này xem trọng các dục, có tâm tánh hướng về các dục, có thiên hướng về các dục’; Ngài biết ngay cả người đang hưởng thụ các dục rằng: ‘Người này xem trọng sự xuất gia, có tâm tánh hướng về sự xuất gia, có thiên hướng về sự xuất gia.’” v.v… (paṭi. ma. 1.113).

Anusayaṃ jānātīti anu anu sayantīti anusayā, anurūpaṃ kāraṇaṃ labhitvā uppajjantīti attho. Etena nesaṃ kāraṇalābhe uppajjanārahataṃ dasseti. Appahīnā hi kilesā kāraṇalābhe sati uppajjanti. Ke pana te? Kāmarāgādayo satta anāgatā kilesā, atītā paccuppannā ca taṃsabhāvattā tathā vuccanti. Na hi dhammānaṃ kālabhedena sabhāvabhedo atthi, taṃ sattavidhaṃ anusayaṃ tassa tassa sattassa santāne paroparabhāvena pavattamānaṃ jānāti.
Biết các tùy miên có nghĩa là, chúng ngủ ngầm lặp đi lặp lại, nên là các tùy miên; có nghĩa là chúng sanh khởi khi gặp được nguyên nhân tương ứng. Bằng câu này, (chú giải) chỉ ra khả năng sanh khởi của chúng khi gặp được nguyên nhân. Thật vậy, các phiền não chưa được đoạn trừ sẽ sanh khởi khi có nguyên nhân. Chúng là gì? Là bảy phiền não như dục tham v.v… ở vị lai; các phiền não ở quá khứ và hiện tại cũng được gọi như vậy do có cùng bản chất. Thật vậy, bản chất của các pháp không có sự khác biệt theo thời gian. Ngài biết bảy loại tùy miên đó đang diễn ra trong tâm tánh của từng chúng sanh theo cách cao thấp khác nhau.

Caritaṃ jānātīti ettha caritanti sucaritaduccaritaṃ. Tañhi vibhaṅge (vibha. 814 ādayo) caritaniddese niddiṭṭhaṃ. Atha vā caritanti cariyā veditabbā. Tā pana rāgadosamohasaddhābuddhivitakkavasena cha mūlacariyā, tāsaṃ apariyanto antarabhedo, saṃsaggabhedo pana tesaṭṭhividho. Taṃ caritaṃ sabhāvato saṃkilesato vodānato samuṭṭhānato phalato nissandatoti evamādinā pakārena jānāti.
Trong câu biết các tánh, ở đây tánh là thiện hạnh và ác hạnh. Thật vậy, điều đó đã được chỉ định trong phần chỉ định về các tánh trong sách Phân Tích (vibha. 814 ādayo). Hoặc là, tánh cần được hiểu là các hành vi. Chúng có sáu hành vi gốc: theo tham, sân, si, tín, giác, và tầm; sự phân chia bên trong của chúng là vô hạn, còn sự phân chia theo cách kết hợp thì có sáu mươi ba loại. Ngài biết các tánh đó theo các cách thức như: về bản chất, về sự ô nhiễm, về sự trong sạch, về sự sanh khởi, về quả, về hệ quả.

Adhimuttiṃ jānātīti ettha adhimuttīti ajjhāsayadhātu. Sā duvidhā hīnādhimutti paṇītādhimuttīti. Yāya hīnādhimuttikā sattā hīnādhimuttikeyeva sevanti, paṇītādhimuttikā ca paṇītādhimuttike eva. Sace hi ācariyupajjhāyā na sīlavanto honti, saddhivihārikā sīlavanto honti, te attano ācariyupajjhāyepi na upasaṅkamanti, attanā sadise sāruppabhikkhūyeva upasaṅkamanti. Sace ācariyupajjhāyā sāruppabhikkhū, itare asāruppā, tepi na ācariyupajjhāye upasaṅkamanti, attanā sadise hīnādhimuttike eva upasaṅkamanti. Tipiṭakacūḷābhayatthero kira nāgadīpe cetiyavandanāya pañcahi bhikkhusatehi saddhiṃ gacchanto ekasmiṃ gāme manussehi nimantito therena ca saddhiṃ eko asāruppabhikkhu atthi, dhuravihārepi eko asāruppabhikkhu atthi, bhikkhusaṅghesu gāmaṃ osarantesu te ubho janā kiñcāpi āgantukena nevāsiko, nevāsikena vā āgantuko na diṭṭhapubbo, evaṃ santepi ekato hutvā hasitvā hasitvā kathayamānā aṭṭhaṃsu. Thero disvā ‘‘sammāsambuddhena jānitvā dhātusaṃyuttaṃ (saṃ. ni. 2.85 ādayo) kathita’’nti āha. Evamayaṃ hīnādhimuttikādīnaṃ aññamaññopasevanādiniyāmikā ajjhāsayadhātu ajjhāsayabhāvo adhimuttīti vuccati, taṃ adhimuttiṃ jānāti. ‘‘Imassa adhimutti hīnā, imassa paṇītā. Tatthāpi imassa mudu, imassa mudutarā, imassa mudutamā’’tiādinā paṭivijjhati. Adhimuttiyā pana tikkhamudubhāvādiko indriyānaṃ tikkhamudubhāvādinā veditabbo.
Trong câu biết các thiên hướng, ở đây thiên hướng là yếu tố khuynh hướng. Nó có hai loại: thiên hướng thấp hèn và thiên hướng cao thượng. Do đó, các chúng sanh có thiên hướng thấp hèn chỉ giao du với những người có thiên hướng thấp hèn, và những người có thiên hướng cao thượng chỉ giao du với những người có thiên hướng cao thượng. Thật vậy, nếu các vị thầy tế độ và thầy giáo thọ không có giới hạnh, còn các vị đệ tử lại có giới hạnh, thì họ cũng không đến gần các vị thầy tế độ và thầy giáo thọ của mình, mà chỉ đến gần các vị Tỳ-khưu gương mẫu giống như mình. Nếu các vị thầy tế độ và thầy giáo thọ là các vị Tỳ-khưu gương mẫu, còn những người kia thì không gương mẫu, họ cũng không đến gần các vị thầy tế độ và thầy giáo thọ, mà chỉ đến gần những người có thiên hướng thấp hèn giống như mình. Nghe nói, trưởng lão Tipiṭakacūḷābhayatthera, trong khi đi cùng với năm trăm vị Tỳ-khưu để đảnh lễ tháp ở Nāgadīpa, đã được dân chúng trong một ngôi làng thỉnh mời. Cùng với vị trưởng lão, có một vị Tỳ-khưu không gương mẫu; và trong tu viện chính cũng có một vị Tỳ-khưu không gương mẫu. Khi Tăng chúng đi vào làng, mặc dù hai người đó, vị khách chưa từng thấy vị chủ nhà, và vị chủ nhà cũng chưa từng thấy vị khách, nhưng dù vậy, họ đã tụ lại với nhau, cười nói và đứng đó. Vị trưởng lão thấy vậy liền nói: “Đấng Chánh Đẳng Giác đã biết rõ rồi mới thuyết Tương Ưng Giới (saṃ. ni. 2.85 ādayo).” Như vậy, yếu tố khuynh hướng này, vốn quy định sự giao du lẫn nhau của những người có thiên hướng thấp hèn v.v…, trạng thái khuynh hướng, được gọi là thiên hướng. Ngài biết thiên hướng đó. Ngài thấu triệt rằng: “thiên hướng của người này thấp hèn, của người này cao thượng. Và trong đó, của người này thì yếu, của người này yếu hơn, của người này yếu nhất” v.v… Và các cấp độ mạnh yếu v.v… của thiên hướng cần được hiểu qua các cấp độ mạnh yếu v.v… của các căn.

Apparajakkheti paññāmaye akkhimhi appaṃ parittaṃ rāgadosamoharajaṃ etesanti apparajakkhā, appaṃ vā rāgādirajaṃ etesanti apparajakkhā, anussadarāgādirajā sattā. Te apparajakkhe. Mahārajakkheti etthāpi eseva nayo, ussadarāgādirajā mahārajakkhā. Jānātīti ‘‘imassa rāgarajo appo, imassa dosarajo appo’’tiādinā apparajakkhādike jānāti.
Những người ít bụi trong mắt là những người có ít, có một chút bụi tham, sân, si trong con mắt trí tuệ; hoặc là những người có ít bụi tham ái v.v…; là những chúng sanh có bụi tham ái v.v… đã lắng dịu. Họ là những người ít bụi trong mắt. Trong câu những người nhiều bụi trong mắt, cũng theo phương pháp này; những người có bụi tham ái v.v… đã trỗi dậy là những người nhiều bụi trong mắt. Biết có nghĩa là, Ngài biết những người ít bụi trong mắt v.v… theo cách “người này có ít bụi tham, người này có ít bụi sân” v.v…

Tikkhindriyeti tikhiṇehi saddhādīhi indriyehi samannāgate. Mudindriyeti mudukehi saddhādīhi indriyehi samannāgate. Ubhayatthāpi upanissayabhūtindriyāni adhippetāni. Svākāreti sundarākāre, kalyāṇapakatike vivaṭṭajjhāsayeti attho. Yesaṃ vā āsayādayo ākārā koṭṭhāsā sundarā, te svākārā. Viparītā dvākārā. Suviññāpayeti sammattaniyāmaṃ viññāpetuṃ sukare saddhe paññavante ca, ye vā kathitaṃ kāraṇaṃ sallakkhenti, sukhena sakkā honti viññāpetuṃ, te suviññāpayā. Viparītā duviññāpayā. Bhabbe abhabbeti ettha ye ariyamaggappaṭivedhassa anucchavikā upanissayasampannā kammāvaraṇakilesāvaraṇavipākāvaraṇarahitā, te bhabbā. Viparītā abhabbā. Tasmāti yasmā bhagavā aparimāṇe satte āsayādito anavasesetvā jānāti, tasmā assa bhagavato sattalokopi sabbathā vidito.
Những người có các căn sắc bén là những người được trang bị các căn như đức tin v.v… sắc bén. Những người có các căn yếu ớt là những người được trang bị các căn như đức tin v.v… yếu ớt. Ở cả hai nơi, các căn vốn là nền tảng được chủ trương. Những người có hình thức tốt đẹp là những người có hình thức đẹp, có bản chất tốt đẹp, có khuynh hướng giải thoát. Hoặc những người nào có các hình thức, các phần như tâm tánh v.v… tốt đẹp, họ là những người có hình thức tốt đẹp. Ngược lại là những người có hình thức xấu xí. Những người dễ được chỉ dạy là những người dễ dàng được chỉ dạy về quy luật đúng đắn, là những người có đức tin và trí tuệ; hoặc những người nhận biết được lý do đã được nói, có thể được chỉ dạy một cách dễ dàng, họ là những người dễ được chỉ dạy. Ngược lại là những người khó được chỉ dạy. Trong câu những người có khả năng, những người không có khả năng, ở đây, những người nào phù hợp để thấu triệt Thánh đạo, có đầy đủ nền tảng, không có các chướng ngại do nghiệp, chướng ngại do phiền não và chướng ngại do quả, họ là những người có khả năng. Ngược lại là những người không có khả năng. Do đó là vì Thế Tôn biết tất cả chúng sanh không còn sót lại về phương diện tâm tánh v.v…, do đó, thế gian chúng sanh cũng đã được Thế Tôn biết về mọi mặt.

Nanu ca sattesu pamāṇādipi jānitabbo atthīti? Atthi, tassa pana jānanaṃ na nibbidāya virāgāya nirodhāyāti idha na gahitaṃ, bhagavato pana tampi suviditaṃ suvavatthāpitameva, payojanābhāvā desanaṃ nāruḷhaṃ. Tena vuttaṃ –
Chẳng phải cũng có điều cần được biết về số lượng chúng sanh v.v… hay sao? Có, nhưng vì sự biết điều đó không đưa đến sự nhàm chán, sự ly tham, sự đoạn diệt, nên không được đề cập ở đây. Tuy nhiên, điều đó cũng đã được Thế Tôn biết rất rõ, xác lập rất vững chắc, nhưng vì không có lợi ích nên không được đưa vào bài giảng. Chính vì thế, đã nói rằng:

‘‘Atha kho bhagavā parittaṃ nakhasikhāyaṃ paṃsuṃ āropetvā bhikkhū āmantesi – ‘taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, katamaṃ nu kho bahutaraṃ yo vāyaṃ mayā paritto nakhasikhāyaṃ paṃsu āropito, ayaṃ vā mahāpathavī’’’tiādi (saṃ. ni. 5.1121).
“Bấy giờ, Thế Tôn lấy một ít bụi đất trên móng tay và gọi các vị Tỳ-khưu: ‘Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ thế nào, cái nào nhiều hơn, một ít bụi đất mà ta đã lấy trên móng tay này, hay là đại địa này?’” v.v… (saṃ. ni. 5.1121).

Evaṃ sattalokassapi sabbathā viditabhāvaṃ dassetvā idāni okāsalokassapi tatheva viditabhāvaṃ dassento āha ‘‘yathā casattaloko’’tiādi . Okāsalokopi sabbathā viditoti sambandho. Cakkavāḷanti lokadhātu. Sā hi nemimaṇḍalasadisena cakkavāḷapabbatena samantato parikkhittattā ‘‘cakkavāḷa’’nti vuccati. Aḍḍhuḍḍhānīti upaḍḍhacatutthāni, tīṇi satāni paññāsañcāti attho. Nahutānīti dasasahassāni. Saṅkhātāti kathitā. Yasmā pathavī nāmāyaṃ tiriyaṃ aparicchinnā, tasmā ‘‘ettakaṃ bahalattena, saṅkhātāyaṃ vasundharā’’ti bahalatoyeva paricchedo vutto. Nanu cakkavāḷapabbatehi taṃtaṃcakkavāḷapathavī paricchinnāti? Na tadaññacakkavāḷapathaviyā ekābaddhabhāvato. Tiṇṇaṃ tiṇṇañhi pattānaṃ antarāḷasadise tiṇṇaṃ tiṇṇaṃ lokadhātūnaṃ antareyeva pathavī natthi lokantaranirayabhāvato, cakkavāḷapabbatānaṃ pana cakkavāḷapabbatantarehi sambaddhaṭṭhāne pathavī ekābaddhāva, vivaṭṭakāle saṇṭhahamānāpi pathavī yathāsaṇṭhitapathaviyā ekābaddhāva saṇṭhahati.
Sau khi đã chỉ ra trạng thái đã được biết về mọi mặt của thế gian chúng sanh như vậy, bây giờ để chỉ ra trạng thái đã được biết về mọi mặt của cả thế gian không gian, (chú giải) nói: “Và như thế gian chúng sanh” v.v… Cần liên kết là: thế gian không gian cũng đã được biết về mọi mặt. Thiết vi là thế giới. Thật vậy, vì nó được bao quanh bởi ngọn núi Thiết Vi giống như vành xe, nên được gọi là “Thiết vi.” Ba trăm năm mươi là ba trăm rưỡi; có nghĩa là ba trăm và năm mươi. Mười ngàn là mười ngàn. Được biết đến là được nói đến. Vì trái đất này không có giới hạn theo chiều ngang, do đó, sự phân định chỉ được nói về độ dày bằng câu “đại địa này được biết đến với độ dày chừng ấy.” Chẳng phải trái đất của từng thế giới đã được phân định bởi các ngọn núi Thiết Vi hay sao? Không phải, vì nó có trạng thái liền một khối với trái đất của các thế giới khác. Thật vậy, ở khoảng giữa của ba chiếc lá, giống như ở khoảng giữa của ba thế giới, thì không có đất, vì đó là các cõi địa ngục giữa các thế giới. Nhưng ở nơi các ngọn núi Thiết Vi nối liền với các ngọn núi Thiết Vi khác, đất liền một khối. Và khi hoại kiếp, đất khi hình thành trở lại cũng hình thành liền một khối với đất đã có sẵn.

Saṇṭhitīti heṭṭhā uparito cāti sabbaso ṭhiti. Evaṃ saṇṭhiteti evaṃ avaṭṭhite. Etthāti cakkavāḷe. Ajjhogāḷhoti ogāhitvā anupavisitvā ṭhito. Accuggato tāvadevāti tattakameva caturāsīti yojanasatasahassāniyeva uggato. Na kevalañcettha ubbedhova, atha kho āyāmavitthārāpissa tattakāyeva. Vuttañhetaṃ –
Sự sắp đặt là sự đứng vững về mọi mặt, cả ở dưới lẫn ở trên. Được sắp đặt như vậy là được đứng vững như vậy. Ở đây là trong thế giới. Chìm sâu là đã chìm xuống, đi vào và đứng đó. Cao lên bấy nhiêu là chỉ cao lên chừng ấy, tức tám mươi bốn ngàn do-tuần. Và không chỉ chiều cao ở đây, mà cả chiều dài và chiều rộng của nó cũng chừng ấy. Điều này đã được nói:

‘‘Sineru, bhikkhave, pabbatarājā caturāsīti yojanasahassāni āyāmena, caturāsīti yojanasahassāni vitthārenā’’ti (a. ni. 7.66).
“Này các Tỳ-khưu, vua núi Sineru có chiều dài tám mươi bốn ngàn do-tuần, chiều rộng tám mươi bốn ngàn do-tuần.” (a. ni. 7.66).

Sinerupabbatuttamoti pabbatesu uttamo, pabbatoyeva vā uttamo pabbatuttamo, sinerusaṅkhāto pabbatuttamo sinerupabbatuttamo, sinerupabbatarājāti vuttaṃ hoti. Tassa ca pācīnapassaṃ rajatamayaṃ, tasmā tassa pabhāya ajjhottharantiyā pācīnadisāya samuddodakaṃ khīraṃ viya paññāyati. Dakkhiṇapassaṃ pana indanīlamaṇimayaṃ, tasmā dakkhiṇadisāya samuddodakaṃ yebhuyyena nīlavaṇṇaṃ hutvā paññāyati, tathā ākāsaṃ. Pacchimapassaṃ phalikamayaṃ. Uttarapassaṃ suvaṇṇamayaṃ. Cattāro samuddāpi sinerurasmīhi eva paricchinnā. Tathā hi pubbadakkhiṇapassehi nikkhantā rajatamaṇirasmiyo ekato hutvā mahāsamuddapiṭṭhena gantvā cakkavāḷapabbataṃ āhacca tiṭṭhanti, dakkhiṇapacchimapassehi nikkhantā maṇiphalikarasmiyo, pacchimuttarapassehi nikkhantā phalikasuvaṇṇarasmiyo, uttarapācīnapassehi nikkhantā suvaṇṇarajatarasmiyo ekato hutvā mahāsamuddapiṭṭhena gantvā cakkavāḷapabbataṃ āhacca tiṭṭhanti, tāsaṃ rasmīnaṃ antaresu cattāro mahāsamuddā honti.
Ngọn núi cao quý Sineru là ngọn núi cao quý nhất trong các ngọn núi, hoặc chính nó là ngọn núi cao quý; ngọn núi cao quý được xem là Sineru là ngọn núi cao quý Sineru; có nghĩa là vua núi Sineru. Và sườn phía đông của nó được làm bằng bạc, do đó, do ánh sáng của nó bao phủ, nước biển ở phương đông trông giống như sữa. Còn sườn phía nam thì được làm bằng ngọc indanīla, do đó nước biển ở phương nam phần lớn có màu xanh và bầu trời cũng vậy. Sườn phía tây được làm bằng pha lê. Sườn phía bắc được làm bằng vàng. Bốn biển cũng được phân định bởi chính các tia sáng của núi Sineru. Thật vậy, các tia sáng bạc và ngọc phát ra từ sườn phía đông và nam, sau khi hợp lại thành một, đi trên mặt biển lớn và dừng lại khi chạm vào núi Thiết Vi. Các tia sáng ngọc và pha lê phát ra từ sườn phía nam và tây; các tia sáng pha lê và vàng phát ra từ sườn phía tây và bắc; các tia sáng vàng và bạc phát ra từ sườn phía bắc và đông, sau khi hợp lại thành một, đi trên mặt biển lớn và dừng lại khi chạm vào núi Thiết Vi. Giữa các tia sáng ấy là bốn biển lớn.

Tatoti sinerussa heṭṭhā upari ca vuttappamāṇato. Upaḍḍhupaḍḍhenāti upaḍḍhena upaḍḍhena. Idaṃ vuttaṃ hoti – dvācattālīsa yojanasahassāni samudde ajjhogāḷho tattakameva upari uggato yugandharapabbato, ekavīsati yojanasahassāni mahāsamudde ajjhogāḷho tattakameva ca upari uggato īsadharo pabbatoti iminā nayena sesesupi upaḍḍhupaḍḍhappamāṇatā veditabbā. Yathā mahāsamuddo yāva cakkavāḷapādamūlā anupubbaninno, evaṃ yāva sinerupādamūlāti heṭṭhā sineruppamāṇato upaḍḍhappamāṇopi yugandharapabbato pathaviyaṃ suppatiṭṭhito, evaṃ īsadharādayopīti daṭṭhabbaṃ. Vuttañhetaṃ ‘‘mahāsamuddo, bhikkhave, anupubbaninno anupubbapoṇo anupubbapabbhāro’’ti (cūḷava. 184; udā. 45). Sineruyugandharādīnaṃ antare sīdantarasamuddā nāma honti. Tattha kira udakaṃ sukhumaṃ morapattamattampi pakkhittaṃ patiṭṭhātuṃ na sakkoti sīdateva, tasmā te sīdasamuddā nāma vuccanti. Te pana vitthārato yathākkamaṃ sineruādīnaṃ accuggamasamānapaamāṇāti vadanti. Ajjhogāḷhuggatāti ajjhogāḷhā ca uggatā ca. Brahāti mahantā.
Từ đó là từ kích thước đã nói ở dưới và ở trên của núi Sineru. Bằng một nửa của một nửa là bằng một nửa và một nửa. Điều này được nói đến là: núi Yugandhara chìm sâu trong biển bốn mươi hai ngàn do-tuần và nhô cao lên trên bấy nhiêu; núi Īsadhara chìm sâu trong biển lớn hai mươi mốt ngàn do-tuần và nhô cao lên trên bấy nhiêu. Theo phương pháp này, cần phải hiểu kích thước một nửa của một nửa ở các ngọn núi còn lại. Giống như biển lớn có độ dốc thoai thoải dần cho đến chân núi Thiết Vi, cũng vậy cho đến chân núi Sineru. Do đó, cần phải thấy rằng núi Yugandhara, dù chỉ có kích thước bằng một nửa so với kích thước của núi Sineru ở dưới, cũng đứng vững trên mặt đất; và các núi Īsadhara v.v… cũng tương tự như vậy. Điều này đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, biển lớn có độ dốc thoai thoải dần, có độ nghiêng thoai thoải dần, có độ lài thoai thoải dần.” (cūḷava. 184; udā. 45). Giữa các núi Sineru, Yugandhara v.v… có các biển trung gian. Nghe nói, ở đó nước rất loãng, dù chỉ một chiếc lông công được đặt lên cũng không thể nổi mà chìm xuống, do đó chúng được gọi là các biển chìm. Người ta nói rằng, chúng có chiều rộng tương đương với chiều cao của các núi Sineru v.v… theo thứ tự. Chìm sâu và nhô cao là vừa chìm sâu vừa nhô cao. Lớn là to lớn.

Sinerussa samantatoti parikkhipanavasena sinerussa samantato ṭhitā. Sineruṃ tāva parikkhipitvā ṭhito yugandharo, taṃ parikkhipitvā īsadharo. Evaṃ taṃ taṃ parikkhipitvā ṭhitā ‘‘sinerussa samantato’’ti vuttā. Katthaci pana ‘‘sineruṃ parikkhipitvā assakaṇṇo nāma pabbato patiṭṭhito, taṃ parikkhipitvā vinatako nāma pabbato’’ti evaṃ aññoyeva anukkamo āgato. Tathā hi nimijātake –
Xung quanh núi Sineru có nghĩa là, chúng đứng xung quanh núi Sineru theo cách bao bọc. Trước hết, núi Yugandhara đứng bao quanh núi Sineru, rồi núi Īsadhara bao quanh núi đó. Như vậy, chúng đứng bao quanh từng ngọn núi một, nên được gọi là “xung quanh núi Sineru.” Tuy nhiên, ở một số nơi khác, một thứ tự khác đã được đề cập, chẳng hạn như: “bao quanh núi Sineru là ngọn núi tên là Assakaṇṇa, và bao quanh núi đó là ngọn núi tên là Vinataka.” Thật vậy, trong bổn sanh chuyện Nimi:

‘‘Sahassayuttaṃ hayavāhiṃ, dibbayānamadhiṭṭhito;
Yāyamāno mahārājā, addā sīdantare nage;
Disvānāmantayī sūtaṃ, ime ke nāma pabbatā’’ti. (jā. 2.22.566)
“Đứng trên cỗ xe trời, được kéo bởi một ngàn con ngựa,
Trong khi đang đi, đức vua vĩ đại đã thấy các ngọn núi trong biển Sīdantara.
Sau khi thấy, ngài hỏi người đánh xe: ‘Những ngọn núi này tên là gì?’” (jā. 2.22.566)

Evaṃ nimimahārājena puṭṭhena mātalidevaputtena –
Như vậy, khi được đức vua Nimi hỏi, thiên tử Mātali đã nói:

‘‘Sudassano karavīko, īsadharo yugandharo;
Nemindharo vinatako, assakaṇṇo girī brahā.
‘‘Ete sīdantare nagā, anupubbasamuggatā;
Mahārājānamāvāsā, yāni tvaṃ rāja passasī’’ti. (jā. 2.22.568-569)
“Sudassana, Karavīka, Īsadhara, Yugandhara,
Nemindhara, Vinataka, và ngọn núi lớn Assakaṇṇa.
“Đây là những ngọn núi trong biển Sīdantara, mọc lên theo thứ tự,
Là nơi ở của các vị đại vương, những ngọn núi mà ngài, ôi đức vua, đang thấy.” (jā. 2.22.568-569)

Vuttaṃ.
Đã được nói.

Tattha aṭṭhakathāyaṃ idaṃ vuttaṃ –
Ở đó, trong Chú giải, điều này đã được nói:

‘‘Ayaṃ, mahārāja, etesaṃ sabbabāhiro sudassano pabbato nāma, tadanantare karavīko nāma, so sudassanato uccataro. Ubhinnampi pana tesaṃ antare ekopi sīdantaramahāsamuddo. Karavīkassa anantare īsadharo nāma, so karavīkato uccataro. Tesampi antare eko sīdantaramahāsamuddo. Īsadharassa anantare yugandharo nāma, so īsadharato uccataro. Tesampi antare eko sīdantaramahāsamuddo. Yugandharassa anantare nemindharo nāma, so yugandharato uccataro. Tesampi antare eko sīdantaramahāsamuddo. Nemindharassa anantare vinatako nāma, so nemindharato uccataro. Tesampi antare eko sīdantaramahāsamuddo. Vinatakassa anantare assakaṇṇo nāma, so vinatakato uccataro. Tesampi antare eko sīdantaramahāsamuddo. Ete sīdantaramahāsamudde satta pabbatā anupaṭipāṭiyā samuggatā sopānasadisā hutvā ṭhitā’’ti (jā. aṭṭha. 6.22.569).
“Tâu đại vương, ngọn núi ở ngoài cùng trong số này tên là Sudassana; ngay sau đó là ngọn núi tên là Karavīka, nó cao hơn Sudassana. Và giữa cả hai ngọn núi ấy là một đại dương Sīdantara. Ngay sau Karavīka là ngọn núi tên là Īsadhara, nó cao hơn Karavīka. Giữa chúng cũng có một đại dương Sīdantara. Ngay sau Īsadhara là ngọn núi tên là Yugandhara, nó cao hơn Īsadhara. Giữa chúng cũng có một đại dương Sīdantara. Ngay sau Yugandhara là ngọn núi tên là Nemindhara, nó cao hơn Yugandhara. Giữa chúng cũng có một đại dương Sīdantara. Ngay sau Nemindhara là ngọn núi tên là Vinataka, nó cao hơn Nemindhara. Giữa chúng cũng có một đại dương Sīdantara. Ngay sau Vinataka là ngọn núi tên là Assakaṇṇa, nó cao hơn Vinataka. Giữa chúng cũng có một đại dương Sīdantara. Bảy ngọn núi này trong các đại dương Sīdantara, sau khi mọc lên theo thứ tự, chúng đứng đó giống như những bậc thang.” (jā. aṭṭha. 6.22.569).

Yojanānaṃ satānucco, himavā pañca pabbatoti himavā pabbato pañca yojanasatāni ucco, ubbedhoti attho. Tattha himavāti himapātasamaye himayuttatāya himaṃ assa atthīti himavā, gimhakāle himaṃ vamatīti himavā. Pabbatoti selo. Selo hi sandhisaṅkhātehi pabbehi sahitattā ‘‘pabbato’’ti vuccati, pasavanādivasena jalassa sārabhūtānaṃ bhesajjādīnaṃ vatthūnañca giraṇato ‘‘girī’’ti ca vuccati. Yojanānaṃ sahassāni, tīṇi āyatavitthatoti yojanānaṃ tīṇi sahassāni āyāmato ca vitthārato cāti attho, āyāmato ca vitthārato ca tīṇi yojanasahassānīti vuttaṃ hoti.
Núi Himavā cao năm trăm do-tuần có nghĩa là núi Himavā có chiều cao, tức độ cao, là năm trăm do-tuần. Ở đó, Himavā là vì có tuyết (hima) vào mùa tuyết rơi, hoặc vì nó tuôn ra (vamati) tuyết vào mùa hè. Núi (pabbato) là tảng đá (selo). Thật vậy, tảng đá được gọi là “núi” vì nó có các khớp nối (pabba); và được gọi là “girī” vì nó nuốt (giraṇa) nước bằng cách cho chảy ra v.v… và các vật dụng như thảo dược v.v… vốn là tinh túy. Ba ngàn do-tuần về chiều dài và chiều rộng có nghĩa là ba ngàn do-tuần về cả chiều dài lẫn chiều rộng; có nghĩa là, cả chiều dài và chiều rộng đều là ba ngàn do-tuần.

Caturāsītisahassehi, kūṭehi paṭimaṇḍitoti sudassanakūṭacitrakūṭādīhi caturāsītikūṭasahassehi paṭimaṇḍito, sobhitoti attho. Apicettha avuttopi ayaṃ viseso veditabbo (ma. ni. aṭṭha. 2.31; a. ni. aṭṭha. 3.8.19; su. ni. aṭṭha. selasuttavaṇṇanā) – ayaṃ himavā nāma pabbato samantato sandamānapañcasatanadīvicitto, yattha āyāmavitthārena ceva gambhīratāya ca paṇṇāsa paṇṇāsa yojanā diyaḍḍhayojanasataparimaṇḍalā anotattadaho kaṇṇamuṇḍadaho rathakāradaho chaddantadaho kuṇāladaho mandākinīdaho sīhappapātadahoti satta mahāsarā patiṭṭhitā. Tesu anotatto sudassanakūṭaṃ citrakūṭaṃ kāḷakūṭaṃ gandhamādanakūṭaṃ kelāsakūṭanti imehi pañcahi pabbatehi parikkhitto. Tattha sudassanakūṭaṃ sovaṇṇamayaṃ dviyojanasatubbedhaṃ antovaṅkaṃ kākamukhasaṇṭhānaṃ tameva saraṃ paṭicchādetvā ṭhitaṃ. Citrakūṭaṃ sabbaratanamayaṃ. Kāḷakūṭaṃ añjanamayaṃ. Gandhamādanakūṭaṃ sānumayaṃ abbhantare muggavaṇṇaṃ kāḷānusāriyādimūlagandho candanādisāragandho saralādipheggugandho lavaṅgāditacagandho kapiṭṭhādipapaṭikagandho sajjādirasagandho tamālādipattagandho nāgakuṅkumādipupphagandho jātiphalādiphalagandho sabbathā gandhabhāvato gandhagandhoti imehi dasahi gandhehi ussannaṃ nānappakāraosadhasañchannaṃ kāḷapakkhauposathadivase ādittamiva aṅgāraṃ jalantaṃ tiṭṭhati.
Được trang điểm bởi tám mươi bốn ngàn đỉnh núi có nghĩa là được trang điểm, tô điểm bởi tám mươi bốn ngàn đỉnh núi như Sudassanakūṭa, Citrakūṭa v.v… Hơn nữa, ở đây cần phải hiểu thêm chi tiết này dù chưa được nói đến (ma. ni. aṭṭha. 2.31; a. ni. aṭṭha. 3.8.19; su. ni. aṭṭha. selasuttavaṇṇanā): núi Himavā này được tô điểm bởi năm trăm con sông chảy khắp nơi; và nơi đây có bảy hồ lớn được hình thành, mỗi hồ có chiều dài, chiều rộng và chiều sâu là năm mươi do-tuần, chu vi là một trăm năm mươi do-tuần, đó là các hồ Anotatta, Kaṇṇamuṇḍa, Rathakāra, Chaddanta, Kuṇāla, Mandākini và Sīhappapāta. Trong số đó, hồ Anotatta được bao quanh bởi năm ngọn núi này: Sudassanakūṭa, Citrakūṭa, Kāḷakūṭa, Gandhamādana và Kelāsa. Ở đó, đỉnh Sudassanakūṭa được làm bằng vàng, cao hai trăm do-tuần, cong vào trong, có hình dạng như mỏ quạ, và đứng che phủ chính hồ đó. Đỉnh Citrakūṭa được làm bằng tất cả các loại ngọc báu. Đỉnh Kāḷakūṭa được làm bằng đá antimon. Đỉnh Gandhamādana được làm bằng đất son, bên trong có màu như hạt đậu xanh, có mùi thơm nồng nàn từ mười loại hương này: hương rễ cây như kāḷānusāriya v.v…, hương lõi cây như gỗ đàn hương v.v…, hương giác cây như cây thông v.v…, hương vỏ cây như đinh hương v.v…, hương vảy cây như cây kapiṭṭha v.v…, hương nhựa cây như nhựa cây sala v.v…, hương lá cây như lá cây tamāla v.v…, hương hoa như hoa nāga, saffron v.v…, hương quả như quả nhục đậu khấu v.v…, và hương của tất cả các loại hương. Nó được bao phủ bởi nhiều loại thảo dược khác nhau, và vào ngày trai giới của hắc nguyệt, nó đứng đó cháy rực như than hồng.

Tattheva nandamūlakaṃ (su. ni. aṭṭha. 1.35) nāma pabbhāraṃ paccekabuddhānaṃ vasanokāso. Tisso guhāyo suvaṇṇaguhā maṇiguhā rajataguhāti. Tattha maṇiguhādvāre mañjūsako nāma rukkho yojanaṃ ubbedhena, yojanaṃ vitthārena, so yattakāni udake vā thale vā pupphāni, sabbāni pupphati visesena paccekabuddhāgamanadivase, tassūparito sabbaratanamāḷo hoti. Tattha sammajjanakavāto kacavaraṃ chaḍḍeti, samakaraṇavāto sabbaratanamayaṃ vālikaṃ samaṃ karoti, siñcanakavāto anotattadahato ānetvā udakaṃ siñcati, sugandhakaraṇavāto sabbesaṃ gandharukkhānaṃ gandhe āneti, ocinakavāto pupphāni ocinitvā pāteti, santharaṇakavāto sabbattha santharati, sadā paññattāneva cettha āsanāni honti. Yesu paccekabuddhuppādadivase uposathadivase ca sabbapaccekabuddhā sannipatitvā nisīdanti, ayaṃ tattha pakati. Abhisambuddhapaccekabuddho tattha gantvā paññattāsane nisīdati. Tato sace tasmiṃ kāle aññepi paccekabuddhā saṃvijjanti, tepi taṅkhaṇaṃ sannipatitvā paññattāsanesu nisīdanti, nisīditvā kiñcideva samāpattiṃ samāpajjitvā vuṭṭhahanti. Tato saṅghatthero adhunāgataṃ paccekabuddhaṃ sabbesaṃ anumodanatthāya ‘‘kathamadhigata’’nti kammaṭṭhānaṃ pucchati, tadā so attano udānabyākaraṇagāthaṃ bhāsati. Evamidaṃ gandhamādanakūṭaṃ paccekabuddhānaṃ āvāsaṭṭhānaṃ hotīti veditabbaṃ.
Ngay tại đó, sườn núi tên là Nandamūlaka (su. ni. aṭṭha. 1.35) là nơi ở của các vị Phật Độc Giác. Có ba hang động: hang vàng, hang ngọc và hang bạc. Ở đó, tại cửa hang ngọc, có một cây tên là Mañjūsaka, cao một do-tuần, rộng một do-tuần. Cây đó nở tất cả các loại hoa có ở dưới nước hay trên cạn, đặc biệt là vào ngày có một vị Phật Độc Giác đến; và trên đó có một vòng hoa kết bằng tất cả các loại ngọc báu. Ở đó, một cơn gió quét dọn rác rưởi đi, một cơn gió san bằng làm cho lớp cát bằng tất cả các loại ngọc báu trở nên bằng phẳng, một cơn gió tưới mang nước từ hồ Anotatta đến tưới, một cơn gió làm thơm mang hương thơm của tất cả các loại cây hương đến, một cơn gió hái hoa hái hoa rồi rải xuống, một cơn gió trải ra trải đều khắp nơi. Và ở đó luôn có các chỗ ngồi đã được chuẩn bị sẵn. Vào ngày có một vị Phật Độc Giác xuất hiện và vào ngày trai giới, tất cả các vị Phật Độc Giác đều tụ họp và ngồi ở đó; đây là thông lệ ở đó. Vị Phật Độc Giác mới chứng ngộ sẽ đến đó và ngồi vào chỗ đã được chuẩn bị. Sau đó, nếu vào lúc đó có các vị Phật Độc Giác khác, họ cũng tụ họp ngay lúc đó và ngồi vào các chỗ đã được chuẩn bị. Sau khi ngồi, họ nhập vào một tầng thiền định nào đó rồi xuất ra. Sau đó, vị trưởng lão Tăng hỏi vị Phật Độc Giác mới đến về đề mục thiền định rằng: “Ngài đã chứng đắc như thế nào?” để tất cả cùng tùy hỷ. Lúc đó, vị ấy đọc bài kệ cảm hứng của mình. Như vậy, cần phải hiểu rằng đỉnh Gandhamādana này là nơi ở của các vị Phật Độc Giác.

Kelāsakūṭaṃ pana rajatamayaṃ. Sabbāni cetāni citrakūṭādīni sudassanena samānubbedhasaṇṭhānāni tameva saraṃ paṭicchādetvā ṭhitāni. Sabbāni pana puthulato paññāsayojanāni, āyāmato pana ubbedhato viya dviyojanasatānevāti vadanti. Tāni sabbāni devānubhāvena nāgānubhāvena ca ṭhassanti, nadiyo ca tesu sandanti, taṃ sabbampi udakaṃ anotattameva pavisati, candimasūriyā dakkhiṇena vā uttarena vā gacchantā pabbatantarena tattha obhāsaṃ karonti, ujuṃ gacchantā na karonti, tenevassa ‘‘anotatta’’nti saṅkhā udapādi. Tattha ratanamayamanuññasopānasilātalāni nimmacchakacchapāni phalikasadisanimmalūdakāni nhānatitthāni tadupabhogīsattānaṃ sādhāraṇakammunāva suppaṭiyattāni susaṇṭhitāni honti, yesu buddhapaccekabuddhakhīṇāsavā ca iddhimanto ca isayo nhāyanti, devayakkhādayo uyyānakīḷaṃ kīḷanti.
Còn đỉnh Kelāsa thì được làm bằng bạc. Và tất cả các đỉnh này như Citrakūṭa v.v… đều có cùng chiều cao và hình dạng như Sudassana, và đứng che phủ chính hồ đó. Người ta nói rằng tất cả chúng đều rộng năm mươi do-tuần, còn chiều dài thì giống như chiều cao, tức là hai trăm do-tuần. Tất cả chúng sẽ tồn tại nhờ thần lực của chư thiên và thần lực của các loài rồng; và các con sông chảy trên chúng. Tất cả nước đó đều chảy vào hồ Anotatta. Mặt trời và mặt trăng, khi đi về phía nam hoặc phía bắc, chiếu sáng vào đó qua khoảng giữa các ngọn núi; khi đi thẳng thì không chiếu sáng. Chính vì thế, nó có tên là “Anotatta” (không bị nóng). Ở đó, các bậc thềm bằng ngọc báu, các phiến đá đẹp đẽ, các bến tắm không có cá, rùa, nước trong như pha lê, đã được chuẩn bị sẵn sàng và sắp đặt một cách tốt đẹp bởi nghiệp chung của các chúng sanh hưởng thụ chúng. Nơi đó, các vị Phật, Phật Độc Giác, các bậc lậu tận và các vị ẩn sĩ có thần thông tắm rửa; các vị trời, dạ xoa v.v… vui chơi trong vườn.

Tassa catūsu passesu sīhamukhaṃ hatthimukhaṃ assamukhaṃ usabhamukhanti cattāri mukhāni honti, yehi catasso nadiyo sandanti. Sīhamukhena nikkhantanadītīre sīhā bahutarā honti, hatthimukhādīhi hatthiassausabhā. Puratthimadisato nikkhantanadī anotattaṃ tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā itarā tisso nadiyo anupagamma pācīnahimavanteneva amanussapathaṃ gantvā mahāsamuddaṃ pavisati. Pacchimadisato ca uttaradisato ca nikkhantanadiyopi tatheva padakkhiṇaṃ katvā pacchimahimavanteneva uttarahimavanteneva ca amanussapathaṃ gantvā mahāsamuddaṃ pavisanti. Dakkhiṇadisato nikkhantanadī pana taṃ tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā dakkhiṇena ujukaṃ pāsāṇapiṭṭheneva saṭṭhi yojanāni gantvā pabbataṃ paharitvā vuṭṭhāya parikkhepena tigāvutappamāṇā udakadhārā hutvā ākāsena saṭṭhi yojanāni gantvā tiyaggaḷe nāma pāsāṇe patitā, pāsāṇo udakadhārāvegena bhinno. Tattha paññāsayojanappamāṇā tiyaggaḷā nāma mahāpokkharaṇī jātā, mahāpokkharaṇiyā kūlaṃ bhinditvā pāsāṇaṃ pavisitvā saṭṭhi yojanāni gatā, tato ghanapathaviṃ bhinditvā umaṅgena saṭṭhi yojanāni gantvā viñjhaṃ nāma tiracchānapabbataṃ paharitvā hatthatale pañcaṅgulisadisā pañcadhārā hutvā pavattati. Sā tikkhattuṃ anotattaṃ padakkhiṇaṃ katvā gataṭṭhāne ‘‘āvaṭṭagaṅgā’’ti vuccati, ujukaṃ pāsāṇapiṭṭhena saṭṭhi yojanāni gataṭṭhāne ‘‘kaṇhagaṅgā’’ti, ākāsena saṭṭhi yojanāni gataṭṭhāne ‘‘ākāsagaṅgā’’ti, tiyaggaḷapāsāṇe paññāsayojanokāse ṭhitā ‘‘tiyaggaḷapokkharaṇī’’ti, kūlaṃ bhinditvā pāsāṇaṃ pavisitvā saṭṭhi yojanāni gataṭṭhāne ‘‘bahalagaṅgā’’ti, umaṅgena saṭṭhi yojanāni gataṭṭhāne ‘‘umaṅgagaṅgā’’ti vuccati. Viñjhaṃ nāma tiracchānapabbataṃ paharitvā pañcadhārā hutvā pavattaṭṭhāne pana gaṅgā yamunā aciravatī sarabhū mahīti pañcadhā saṅkhyaṃ gatā. Evametā pañca mahānadiyo himavantato pabhavanti.
Ở bốn phía của hồ có bốn cửa: cửa sư tử, cửa voi, cửa ngựa và cửa bò; từ đó bốn con sông chảy ra. Ở bờ sông chảy ra từ cửa sư tử có nhiều sư tử hơn; ở các cửa voi v.v… thì có nhiều voi, ngựa, bò hơn. Con sông chảy ra từ phương đông, sau khi đi quanh hồ Anotatta ba vòng theo chiều kim đồng hồ, không gặp ba con sông kia, đi qua vùng đất không người ở của dãy Himavanta phía đông rồi đổ vào biển lớn. Các con sông chảy ra từ phương tây và phương bắc cũng đi quanh như vậy, rồi đi qua vùng đất không người ở của dãy Himavanta phía tây và phía bắc rồi đổ vào biển lớn. Còn con sông chảy ra từ phương nam, sau khi đi quanh hồ ba vòng, đi thẳng về phía nam trên một phiến đá trong sáu mươi do-tuần, đập vào một ngọn núi rồi vọt lên, trở thành một dòng nước có chu vi ba gāvuta, đi trên không trung sáu mươi do-tuần rồi rơi xuống một tảng đá tên là Tiyaggaḷa. Tảng đá bị vỡ do sức mạnh của dòng nước. Ở đó, một hồ lớn tên là Tiyaggaḷa có kích thước năm mươi do-tuần được tạo thành. Sau khi phá vỡ bờ hồ lớn, nó đi vào tảng đá trong sáu mươi do-tuần, rồi phá vỡ lớp đất cứng, đi trong một đường hầm sáu mươi do-tuần, đập vào một ngọn núi ngang tên là Viñjha, rồi chảy ra thành năm dòng giống như năm ngón tay trên lòng bàn tay. Nó, ở nơi đã đi quanh hồ Anotatta ba vòng, được gọi là “sông Āvaṭṭa”; ở nơi đã đi thẳng trên phiến đá sáu mươi do-tuần, được gọi là “sông Kaṇha”; ở nơi đã đi trên không trung sáu mươi do-tuần, được gọi là “sông Ākāsa”; ở nơi đứng lại trong một khoảng không gian năm mươi do-tuần trên tảng đá Tiyaggaḷa, được gọi là “hồ Tiyaggaḷa”; ở nơi đã phá vỡ bờ, đi vào tảng đá sáu mươi do-tuần, được gọi là “sông Bahala”; ở nơi đã đi trong đường hầm sáu mươi do-tuần, được gọi là “sông Umaṅga”. Còn ở nơi đã đập vào ngọn núi ngang tên là Viñjha và chảy ra thành năm dòng, nó được biết đến với năm tên là Gaṅgā, Yamunā, Aciravatī, Sarabhū và Mahī. Như vậy, năm con sông lớn này bắt nguồn từ dãy Himavanta.

Chaddantadahassa pana (jā. aṭṭha. 5.16.chaddantajātakavaṇṇanā) majjhe dvādasayojanappamāṇe ṭhāne sevālo vā paṇakaṃ vā natthi, maṇikkhandhavaṇṇaṃ udakameva santiṭṭhati, tadanantaraṃ yojanavitthataṃ suddhakallahāravanaṃ taṃ udakaṃ parikkhipitvā ṭhitaṃ, tadanantaraṃ yojanavitthatameva suddhanīluppalavanaṃ taṃ parikkhipitvā ṭhitaṃ, yojanayojanavitthatāneva rattuppalasetuppalarattapadumasetapadumakumudavanāni purimaṃ purimaṃ parikkhipitvā ṭhitāni, imesaṃ pana sattannaṃ vanānaṃ anantaraṃ sabbesampi kallahārādīnaṃ vasena vomissakavanaṃ yojanavitthatameva tāni parikkhipitvā ṭhitaṃ, tadanantaraṃ nāgānaṃ kaṭippamāṇe udake yojanavitthatameva rattasālivanaṃ, tadanantaraṃ udakapariyante nīlapītalohitodātasurabhisukhumakusumasamākiṇṇaṃ khuddakagacchavananti imāni dasa vanāni yojanayojanavitthatāneva. Tato khuddakarājamāsamahārājamāsamuggavanaṃ, tadanantaraṃ tipusaeḷālukaalābukumbhaṇḍavallivanāni, tato pūgarukkhappamāṇaṃ ucchuvanaṃ, tato hatthidantappamāṇaphalaṃ kadalivanaṃ, tato sālavanaṃ, tadanantaraṃ cāṭippamāṇaphalaṃ panasavanaṃ, tato madhuraphalaṃ ambavanaṃ, tato ciñcavanaṃ, tato kapiṭṭhavanaṃ, tato vomissako mahāvanasaṇḍo, tato veṇuvanaṃ, veṇuvanaṃ pana parikkhipitvā satta pabbatā ṭhitā, tesaṃ bāhirantato paṭṭhāya paṭhamo cūḷakāḷapabbato nāma, dutiyo mahākāḷapabbato nāma, tato udakapassapabbato nāma, tato candapassapabbato nāma, tato sūriyapassapabbato nāma, tato maṇipassapabbato nāma, sattamo suvaṇṇapassapabbato nāma. So ubbedhato sattayojaniko chaddantadahaṃ parikkhipitvā pattassa mukhavaṭṭi viya ṭhito. Tassa abbhantarimapassaṃ suvaṇṇavaṇṇaṃ, tato nikkhantena obhāsena chaddantadaho samuggatabālasūriyo viya hoti. Bāhirimapabbatesu pana eko ubbedhato cha yojanāni, eko pañca, eko cattāri, eko tīṇi, eko dve, eko yojanaṃ.
Còn hồ Chaddantadahassa (jā. aṭṭha. 5.16.chaddantajātakavaṇṇanā), ở giữa, trong một khu vực rộng mười hai do-tuần, không có rong rêu hay bèo tấm, chỉ có nước trong màu như ngọc maṇi. Ngay sau đó là một rừng hoa súng trắng rộng một do-tuần bao quanh hồ nước đó. Ngay sau đó là một rừng hoa sen xanh cũng rộng một do-tuần bao quanh rừng hoa kia. Rồi các rừng hoa sen đỏ, sen trắng, sen hồng, sen trắng, hoa quỳ, mỗi rừng rộng một do-tuần, bao quanh rừng trước đó. Và ngay sau bảy khu rừng này là một khu rừng hỗn hợp gồm tất cả các loại hoa súng v.v…, cũng rộng một do-tuần, bao quanh chúng. Ngay sau đó là một cánh đồng lúa đỏ rộng một do-tuần, nước sâu đến thắt lưng của loài rồng. Ngay sau đó, ở ven bờ nước là một khu rừng cây nhỏ rộng một do-tuần, điểm xuyết bởi các loài hoa thơm, nhỏ, có màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Mười khu rừng này đều rộng một do-tuần. Sau đó là rừng đậu xanh nhỏ, đậu xanh lớn; ngay sau đó là các rừng dây bầu, bí; rồi đến một rừng mía cao bằng cây cau; rồi đến một rừng chuối có quả to bằng ngà voi; rồi đến một rừng sala; ngay sau đó là một rừng mít có quả to bằng cái chum; rồi đến một rừng xoài có quả ngọt; rồi đến một rừng me; rồi đến một rừng kapiṭṭha; rồi đến một khu rừng rậm lớn hỗn hợp; rồi đến một rừng tre. Và bao quanh rừng tre là bảy ngọn núi. Bắt đầu từ ngoài vào, ngọn núi đầu tiên tên là Cūḷakāḷapabbato, ngọn thứ hai tên là Mahākāḷapabbato, rồi đến ngọn núi tên là Udakapassapabbato, rồi đến ngọn núi tên là Candapassapabbato, rồi đến ngọn núi tên là Sūriyapassapabbato, rồi đến ngọn núi tên là Maṇipassapabbato, ngọn thứ bảy tên là Suvaṇṇapassapabbato. Nó cao bảy do-tuần, đứng bao quanh hồ Chaddantadahassa như vành miệng của một cái bát. Sườn bên trong của nó có màu vàng, và ánh sáng phát ra từ đó làm cho hồ Chaddantadahassa trông giống như mặt trời mới mọc. Còn trong các ngọn núi bên ngoài, một ngọn cao sáu do-tuần, một ngọn năm, một ngọn bốn, một ngọn ba, một ngọn hai, một ngọn một do-tuần.

Evaṃ sattapabbataparikkhittassa pana tassa dahassa pubbuttarakaṇṇe udakavātappaharaṇokāse mahānigrodharukkho, tassa khandho parikkhepato pañcayojaniko, ubbedhato sattayojaniko. Catūsu disāsu catasso sākhāyo chachayojanikā, uddhaṃ uggatasākhāpi chayojanikāva. Iti so mūlato paṭṭhāya ubbedhena terasayojaniko sākhānaṃ orimantato yāva pārimantā dvādasayojaniko aṭṭhahi pārohasahassehi paṭimaṇḍito muṇḍamaṇipabbato viya vilāsamāno tiṭṭhati. Chaddantadahassa pana pacchimadisābhāge suvaṇṇapabbate dvādasayojanikā kañcanaguhā. Chaddanto nāgarājā vassāratte aṭṭhasahassanāgaparivuto kañcanaguhāyaṃ vasati, gimhakāle udakavātaṃ sampaṭicchamāno mahānigrodhamūle pārohantare tiṭṭhati.
Và ở góc đông-bắc của hồ được bao quanh bởi bảy ngọn núi ấy, tại nơi bị gió và nước xói mòn, có một cây đa lớn; thân cây có chu vi năm do-tuần, chiều cao bảy do-tuần. Bốn cành ở bốn phía dài sáu do-tuần, cành mọc thẳng lên trên cũng dài sáu do-tuần. Như vậy, tính từ gốc, nó cao mười ba do-tuần, và từ đầu cành này đến đầu cành kia là mười hai do-tuần, được trang điểm bởi tám ngàn chồi non, đứng đó lộng lẫy như một ngọn núi ngọc tròn trịa. Và ở phía tây của hồ Chaddantadahassa, trên ngọn núi vàng, có một hang động bằng vàng dài mười hai do-tuần. Vua rồng Chaddanta, cùng với đoàn tùy tùng tám ngàn con rồng, sống trong hang động bằng vàng vào mùa mưa; vào mùa hè, để đón gió và nước, ông đứng giữa các chồi non dưới gốc cây đa lớn.

Mandākiniyā pana majjhe pañcavīsatiyojanamatte ṭhāne sevālo vā paṇakaṃ vā natthi, phalikavaṇṇaṃ udakameva hoti, tato paraṃ pana nāgānaṃ kaṭippamāṇe udake aḍḍhayojanavitthataṃ setapadumavanaṃ taṃ udakaṃ parikkhipitvā ṭhitaṃ. Tattha muḷālaṃ naṅgalasīsamattaṃ hoti, bhisaṃ mahābheripokkharappamāṇaṃ hoti. Tassa ekekasmiṃ pabbantare āḷhakappamāṇaṃ khīraṃ hoti. Padumānaṃ pupphasamaye vāto reṇuvaṭṭiṃ uṭṭhāpetvā paduminīpattesu ṭhapeti, tattha udakaphusitāni patanti, tato ādiccapākena paccitvā pakkaayoghaṭikā viya pokkharamadhu tiṭṭhati, tadanantaraṃ tāvamahantameva rattapadumavanaṃ, tadanantaraṃ rattakumudavanaṃ, tadanantaraṃ setakumudavanaṃ , tadanantaraṃ nīluppalavanaṃ, tadanantaraṃ rattuppalavanaṃ, tadanantaraṃ sugandhasālivanaṃ, tadanantaraṃ eḷālukaalābukumbhaṇḍādīni madhurarasāni valliphalāni, tadanantaraṃ aḍḍhayojanavitthatameva ucchuvanaṃ, tattha pūgarukkhakkhandhappamāṇaṃ ucchu. Tadanantaraṃ kadalivanaṃ, yato duve pakkāni khādantā kilamanti. Tadanantaraṃ cāṭippamāṇaphalaṃ panasavanaṃ, tadanantaraṃ ambavanaṃ, jambuvanaṃ, kapiṭṭhavananti saṅkhepato tasmiṃ dahe khāditabbayuttakaṃ phalaṃ nāma natthīti na vattabbaṃ. Iti imasmiṃ himavati vijjamānakasattamahāsarappabhutīnaṃ pamāṇasaṇṭhānādibhedaṃ sabbameva visesaṃ bhagavā sabbathā avedi aññāsi paṭivijjhiyevāti daṭṭhabbaṃ.
Còn ở giữa hồ Mandākini, trong một khu vực rộng khoảng hai mươi lăm do-tuần, không có rong rêu hay bèo tấm, chỉ có nước trong màu pha lê. Sau đó là một rừng sen trắng rộng hai do-tuần rưỡi, nước sâu đến thắt lưng của loài rồng, đứng bao quanh hồ nước đó. Ở đó, củ sen to bằng đầu lưỡi cày, ngó sen to bằng cái trống lớn. Trong mỗi đốt của nó có sữa bằng một đấu. Vào mùa sen nở, gió cuốn phấn hoa lên và đặt trên lá sen; ở đó, những hạt phấn bị nước làm ướt rơi xuống, rồi được sức nóng của mặt trời nấu chín, trở thành mật ong sen đứng đó như những viên đường phèn đã nấu chín. Ngay sau đó là một rừng sen đỏ cũng lớn như vậy; ngay sau đó là một rừng hoa súng đỏ; ngay sau đó là một rừng hoa súng trắng; ngay sau đó là một rừng hoa sen xanh; ngay sau đó là một rừng hoa sen đỏ; ngay sau đó là một cánh đồng lúa thơm; ngay sau đó là các loại quả dây có vị ngọt như bầu, bí v.v…; ngay sau đó là một rừng mía cũng rộng hai do-tuần rưỡi. Ở đó, cây mía to bằng thân cây cau. Ngay sau đó là một rừng chuối, mà ăn hai quả đã mệt. Ngay sau đó là một rừng mít có quả to bằng cái chum; ngay sau đó là một rừng xoài, một rừng trâm, một rừng kapiṭṭha. Tóm lại, không thể nói rằng trong hồ này không có loại quả nào có thể ăn được. Như vậy, cần phải thấy rằng Thế Tôn đã biết, đã hiểu rõ, đã thấu triệt về mọi mặt tất cả các chi tiết về kích thước, hình dạng v.v… của bảy hồ lớn v.v… hiện có trong dãy Himavanta này.

Tipañcayojanakkhandhaparikkhepāti pannarasayojanappamāṇakkhandhaparikkhepā, khandhassa pariṇāho pannarasayojanappamāṇoti vuttaṃ hoti. Nagavhayāti nagasaddena avhātabbā, rukkhābhidhānāti attho. Rukkho hi na gacchatīti nagoti vuccati. Nagavhayā jambūti yojetabbaṃ. Paññāsayojanakkhandhasākhāyāmāti ubbedhato paññāsayojanappamāṇakkhandhāyāmā ubbedhato samantato ca paññāsayojanasākhāyāmā ca. Tato eva satayojanavitthiṇṇā, tāvadeva ca uggatā. Jamburukkhassa hi mūlato paṭṭhāya yāva sākhāviṭapā, tāva paṇṇāsa yojanāni, tato parampi ujukaṃ uggatasākhā paṇṇāsa yojanāni, samantato ca ekekā sākhā paṇṇāsa paṇṇāsa yojanāni vaḍḍhitāni. Tāsu pana mahantā mahantā nadiyo sandanti, tāsaṃ nadīnaṃ ubhayatīre jambupakkānaṃ patitaṭṭhāne suvaṇṇaṅkurā uṭṭhahanti, te nadījalena vuyhamānā anupubbena mahāsamuddaṃ pavisanti, tatoyeva jambunadiyaṃ nibbattattā ‘‘jambunada’’nti taṃ suvaṇṇaṃ vuccati.
Có chu vi thân cây ba lần năm do-tuần có nghĩa là có chu vi thân cây với kích thước mười lăm do-tuần; có nghĩa là, chu vi của thân cây có kích thước mười lăm do-tuần. Được gọi bằng tên naga có nghĩa là được gọi bằng từ ‘naga’, là tên gọi của cây. Thật vậy, cây được gọi là ‘naga’ vì nó không đi (na gacchati). Cần kết hợp là: cây trâm được gọi bằng tên naga. Có chiều dài thân và cành năm mươi do-tuần có nghĩa là có chiều dài thân với kích thước năm mươi do-tuần về chiều cao, và có chiều dài cành năm mươi do-tuần về chiều cao và xung quanh. Chính vì thế, rộng một trăm do-tuần, và cũng cao bấy nhiêu. Thật vậy, từ gốc cây trâm cho đến các cành nhánh là năm mươi do-tuần, và từ đó cành mọc thẳng lên trên cũng là năm mươi do-tuần, và xung quanh, mỗi một cành mọc ra năm mươi do-tuần. Và trên chúng có các con sông rất lớn chảy. Ở hai bên bờ của các con sông ấy, tại nơi các quả trâm rơi xuống, các mầm vàng mọc lên. Chúng bị nước sông cuốn đi và dần dần đổ vào biển lớn. Chính vì thế, vàng đó được gọi là “jambunada” (vàng sông Jambu) vì được tạo ra ở sông Jambu.

Yassānubhāvenāti yassā mahantatā kappaṭṭhāyikādippakārena pabhāvena. Yañcetaṃ jambuyā pamāṇaṃ, etadeva asurānaṃ cittapāṭaliyā, garuḷānaṃ simbalirukkhassa, aparagoyāne kadambassa, uttarakurūsu kapparukkhassa, pubbavidehe sirīsassa, tāvatiṃsesu pāricchattakassāti. Tenāhu porāṇā –
Nhờ thần lực của nó là nhờ thần lực của sự vĩ đại của nó theo cách như tồn tại suốt kiếp v.v… Và kích thước của cây trâm này cũng chính là kích thước của cây cittapāṭali của các a-tu-la, của cây simbali của các loài garuḷa, của cây kadamba ở Aparagoyāna, của cây kapparukkha ở Uttarakuru, của cây sirīsa ở Pubbavideha, và của cây pāricchattaka ở cõi trời Tāvatiṃsa. Chính vì thế, các vị xưa đã nói:

‘‘Pāṭalī simbalī jambū, devānaṃ pārichattako;
Kadambo kapparukkho ca, sirīsena bhavati sattama’’nti. (visuddhi. 1.137; a. ni. aṭṭha. 1.1.322);
“Pāṭalī, simbalī, jambū, pārichattaka của chư thiên,
Kadambo, kapparukkho, và thứ bảy là sirīsa.” (visuddhi. 1.137; a. ni. aṭṭha. 1.1.322);

Ettha sirīsena bhavati sattamanti ettha sirīsenāti paccatte karaṇavacanaṃ. Sattamanti liṅgavipallāsena vuttaṃ, sirīso bhavati sattamoti attho.
Ở đây, trong câu và thứ bảy là sirīsa, ở đây sirīsena là công cụ cách trong ý nghĩa tự thân. Thứ bảy được nói bằng cách thay đổi giống; có nghĩa là, sirīsa là thứ bảy.

Cakkavāḷasiluccayoti cakkavāḷapabbato. Parikkhipitvā taṃ sabbaṃ, lokadhātumayaṃ ṭhitoti heṭṭhā vuttaṃ sabbampi taṃ parikkhipitvā cakkavāḷasiluccayo patiṭṭhito, ayaṃ ekā lokadhātu nāmāti attho. Ma-kāro padasandhivasena āgato. ‘‘Taṃ sabbaṃ lokadhātuṃ parikkhipitvā ayaṃ cakkavāḷasiluccayo ṭhito’’ti evampettha sambandhaṃ vadanti, evaṃ vuttepi cakkavāḷapabbatopi lokadhātuyevāti veditabbaṃ.
Dãy núi đá Thiết Vi là núi Thiết Vi. Sau khi đã bao quanh tất cả những thứ đó, nó đứng đó, tạo thành một thế giới có nghĩa là, sau khi đã bao quanh tất cả những gì đã nói ở dưới, dãy núi đá Thiết Vi được hình thành; có nghĩa là, đây là một thế giới. Phụ âm ‘ma’ xuất hiện do sự nối âm. Người ta cũng nói cách kết hợp ở đây như sau: “Sau khi đã bao quanh tất cả thế giới đó, dãy núi đá Thiết Vi này đứng đó.” Dù nói như vậy, cũng cần phải hiểu rằng núi Thiết Vi cũng chính là thế giới.

Tatthāti tissaṃ lokadhātuyaṃ. Candamaṇḍalaṃ ekūnapaññāsayojananti ujukaṃ āyāmato vitthārato ubbedhato ca ekūnapaññāsayojanaṃ, parimaṇḍalato pana tīhi yojanehi ūnadiyaḍḍhasatayojanaṃ. Sūriyamaṇḍalaṃ paññāsayojananti etthāpi candamaṇḍale vuttanayeneva ujukaṃ paññāsayojananti veditabbaṃ, parimaṇḍalato pana diyaḍḍhasatayojanaṃ.
Ở đó là trong ba thế giới. Đĩa mặt trăng có bốn mươi chín do-tuần có nghĩa là về chiều dài, chiều rộng và chiều cao thẳng là bốn mươi chín do-tuần; còn về chu vi thì là một trăm năm mươi do-tuần thiếu ba do-tuần. Trong câu đĩa mặt trời có năm mươi do-tuần, ở đây cũng cần phải hiểu là năm mươi do-tuần theo chiều thẳng, giống như cách đã nói về đĩa mặt trăng; còn về chu vi thì là một trăm năm mươi do-tuần.

Tesu pana candamaṇḍalaṃ (dī. ni. aṭṭha. 3.121) heṭṭhā, sūriyamaṇḍalaṃ upari, antarā nesaṃ yojanaṃ hoti. Candassa heṭṭhimantato sūriyassa uparimantaṃ yojanasataṃ hoti, candavimānaṃ anto maṇimayaṃ, bahi rajatena parikkhittaṃ, anto ca bahi ca sītalameva hoti. Sūriyavimānaṃ anto kanakamayaṃ, bāhiraṃ phalikaparikkhittaṃ hoti, anto ca bahi ca uṇhameva. Cando ujukaṃ saṇikaṃ gacchati. So hi amāvāsiyaṃ sūriyena saddhiṃ gacchanto divase divase thokaṃ thokaṃ ohīyanto puṇṇamāsiyaṃ upaḍḍhamaggato ohīyati, tiriyaṃ pana sīghaṃ gacchati. Tathā hesa ekasmiṃ māse kadāci dakkhiṇato, kadāci uttarato dissati, candassa ubhosu passesu nakkhattatārakā gacchanti, cando dhenu viya vacchaṃ taṃ taṃ nakkhattaṃ upasaṅkamati, nakkhattāni pana attano gamanaṭṭhānaṃ na vijahanti, attano vīthiyāva gacchanti. Sūriyassa pana ujukaṃ gamanaṃ sīghaṃ, tiriyaṃ gamanaṃ dandhaṃ. Tiriyaṃ gamanaṃ nāma dakkhiṇadisato uttaradisāya, uttaradisato dakkhiṇadisāya gamanaṃ, taṃ dandhaṃ chahi chahi māsehi ijjhanato.
Và trong số đó, đĩa mặt trăng (dī. ni. aṭṭha. 3.121) ở dưới, đĩa mặt trời ở trên, khoảng cách giữa chúng là một do-tuần. Từ mép dưới của mặt trăng đến mép trên của mặt trời là một trăm do-tuần. Cung điện mặt trăng bên trong được làm bằng ngọc, bên ngoài được bao bọc bởi bạc; cả trong lẫn ngoài đều mát mẻ. Cung điện mặt trời bên trong được làm bằng vàng, bên ngoài được bao bọc bởi pha lê; cả trong lẫn ngoài đều nóng bức. Mặt trăng đi thẳng thì chậm. Thật vậy, vào ngày trăng non, nó đi cùng với mặt trời, rồi mỗi ngày lại bị tụt lại một chút, đến ngày rằm thì bị tụt lại nửa chặng đường. Nhưng nó đi ngang thì nhanh. Thật vậy, trong một tháng, có lúc nó được thấy ở phía nam, có lúc ở phía bắc. Các vì sao đi ở hai bên của mặt trăng. Mặt trăng đi đến từng vì sao giống như con bò mẹ đi đến con bê; còn các vì sao thì không rời khỏi vị trí đi của mình, chúng chỉ đi trên con đường của mình. Còn mặt trời, sự đi thẳng thì nhanh, sự đi ngang thì chậm. Sự đi ngang là sự đi từ phương nam đến phương bắc, từ phương bắc đến phương nam; sự đi đó chậm, vì phải mất sáu tháng mới hoàn thành.

Sūriyo kāḷapakkhauposathe candena saheva gantvā tato paraṃ pāṭipadadivase yojanānaṃ satasahassaṃ candamaṇḍalaṃ ohāya gacchati attano sīghagāmitāya tassa ca dandhagāmitāya, atha cando lekhā viya paññāyati. Tato parampi pakkhassa dutiyāya yojanānaṃ satasahassaṃ candamaṇḍalaṃ ohāya gacchati. Evaṃ divase divase yāva sukkapakkhauposathadivasā satasahassaṃ satasahassaṃ ohāya gacchati, atha cando anukkamena vaḍḍhitvā uposathadivase paripuṇṇo hoti. Anukkamena vaḍḍhanañcettha uparibhāgato patitasūriyālokatāya heṭṭhato pavattāya sūriyassa dūrabhāvena divase divase anukkamena parihāyamānāya attano chāyāya vasena anukkamena caṇḍamaṇḍalappadesassa vaḍḍhamānassa viya dissamānatāyāti veditabbaṃ, tasmā anukkamena vaḍḍhitvā viya uposathadivase puṇṇamāyaṃ paripuṇṇamaṇḍalo hutvā dissati. Atha sūriyo pāṭipadadivase yojanānaṃ satasahassaṃ dhāvitvā puna candamaṇḍalaṃ gaṇhāti candassa dandhagatitāya attano ca sīghagatitāya, tathā dutiyāya satasahassanti evaṃ yāva uposathadivasā satasahassaṃ satasahassaṃ dhāvitvā gaṇhāti. Atha cando anukkamena hāyitvā kāḷapakkhauposathadivase sabbaso na paññāyati, anukkamena hāyamānatā cettha anukkamena vaḍḍhamānatāya vuttanayena veditabbā. Tattha pana chāyāya hāyamānatāya maṇḍalaṃ vaḍḍhamānaṃ viya dissati, idha ca chāyāya vaḍḍhamānatāya maṇḍalaṃ hāyamānaṃ viya dissati, tasmā anukkamena hāyitvā viya uposathadivase sabbaso na paññāyati. Candaṃ heṭṭhā katvā sūriyo upari hoti, mahatiyā pātiyā khuddakabhājanaṃ viya candamaṇḍalaṃ pidhīyati, majjhanhike gehacchāyā viya candassa chāyā na paññāyati. So chāyāya apaññāyamānāya dūre ṭhitānaṃ divā padīpo viya sayampi na paññāyati.
Vào ngày trai giới của hắc nguyệt, mặt trời đi cùng với mặt trăng, rồi vào ngày mồng một, nó đi bỏ xa đĩa mặt trăng một trăm ngàn do-tuần, do tốc độ đi nhanh của nó và tốc độ đi chậm của mặt trăng; lúc đó mặt trăng trông giống như một vạch kẻ. Sau đó, vào ngày mồng hai của tháng, nó lại đi bỏ xa đĩa mặt trăng một trăm ngàn do-tuần. Cứ như vậy, mỗi ngày nó đi bỏ xa một trăm ngàn do-tuần cho đến ngày trai giới của bạch nguyệt; lúc đó mặt trăng dần dần lớn lên và tròn đầy vào ngày trai giới. Và cần phải hiểu rằng sự lớn lên dần dần ở đây là do ánh sáng mặt trời chiếu từ trên xuống, và do bóng của chính nó, vốn hướng xuống dưới và dần dần thu nhỏ lại mỗi ngày do khoảng cách với mặt trời, làm cho phần đĩa mặt trăng trông như đang lớn dần lên. Do đó, sau khi lớn dần lên, vào ngày trai giới, ngày rằm, nó trông như một đĩa tròn đầy. Sau đó, vào ngày mồng một, mặt trời đuổi kịp và chiếm lấy đĩa mặt trăng một trăm ngàn do-tuần, do tốc độ đi chậm của mặt trăng và tốc độ đi nhanh của nó. Tương tự, vào ngày mồng hai, nó đuổi kịp một trăm ngàn do-tuần; cứ như vậy, nó đuổi kịp và chiếm lấy một trăm ngàn do-tuần mỗi ngày cho đến ngày trai giới. Lúc đó, mặt trăng dần dần nhỏ lại và vào ngày trai giới của hắc nguyệt thì hoàn toàn không thấy được. Và sự nhỏ lại dần dần ở đây cần được hiểu theo cách đã nói về sự lớn lên dần dần. Tuy nhiên, ở đó, do bóng nhỏ lại, đĩa trông như lớn dần lên; còn ở đây, do bóng lớn dần lên, đĩa trông như nhỏ lại. Do đó, sau khi nhỏ lại dần dần, vào ngày trai giới, nó hoàn toàn không thấy được. Mặt trời ở trên, che khuất mặt trăng ở dưới; đĩa mặt trăng bị che khuất như một cái bát nhỏ bị một cái chậu lớn úp lên. Giống như bóng của một ngôi nhà vào giữa trưa, bóng của mặt trăng không được thấy. Khi bóng của nó không được thấy, đối với những người ở xa, ngay cả bản thân nó cũng không được thấy, giống như một ngọn đèn vào ban ngày.

Imesaṃ pana ajavīthi nāgavīthi govīthīti tisso gamanavīthiyo honti. Tattha ajānaṃ udakaṃ paṭikūlaṃ hoti, hatthināgānaṃ manāpaṃ, gunnaṃ sītuṇhasamatāya phāsu hoti. Tathā ca yāya vīthiyā sūriye gacchante vassavalāhakadevaputtā sūriyābhitāpasantattā attano vimānato na nikkhamanti, kīḷāpasutā hutvā na vicaranti, tadā kira sūriyavimānaṃ pakatimaggato adho otaritvā vicarati, tassa oruyha caraṇeneva candavimānampi adho oruyha carati taggatikattā, tasmā sā vīthi udakābhāvena ajānurūpatāya ‘‘ajavīthī’’ti samaññā gatā. Yāya pana vīthiyā sūriye gacchante vassavalāhakadevaputtā sūriyābhitāpābhāvato abhiṇhaṃ attano vimānato bahi nikkhamitvā kīḷāpasutā hutvā ito cito ca vicaranti, tadā kira sūriyavimānaṃ pakatimaggato uddhaṃ āruhitvā vicarati, tassa uddhaṃ āruyha caraṇeneva candavimānampi uddhaṃ āruyha carati taggatikattā, taggatikatā ca samānagati nāma vātamaṇḍalena vimānassa phellitabbattā, tasmā sā vīthi udakabahubhāvena nāgānurūpatāya ‘‘nāgavīthī’’ti samaññā gatā. Yadā sūriyo uddhaṃ anārohanto adho ca anotaranto pakatimaggeneva gacchati, tadā vassavalāhakā yathākālaṃ yathāruciñca vimānato nikkhamitvā sukhena vicaranti, tena kālena kālaṃ vassanato loke utusamatā hoti, tāya utusamatāya hetubhūtāya sā candimasūriyānaṃ gati gavānurūpatāya ‘‘govīthī’’ti samaññā gatā. Tasmā yaṃ kālaṃ candimasūriyā ajavīthiṃ āruhanti, tadā devo ekabindumpi na vassati. Yadā nāgavīthiṃ ārohanti, tadā bhinnaṃ viya nabhaṃ paggharati. Yadā govīthiṃ ārohanti, tadā utusamatā sampajjati.
Và chúng có ba con đường đi: con đường của dê, con đường của rồng và con đường của bò. Ở đó, dê thì không thích nước, rồng voi thì thích nước, còn bò thì thấy dễ chịu với sự cân bằng giữa nóng và lạnh. Và khi mặt trời đi trên con đường nào mà các vị trời mây mưa, do bị sức nóng của mặt trời thiêu đốt, không ra khỏi cung điện của mình, không đi lại vui chơi, thì nghe nói lúc đó cung điện mặt trời đã đi xuống dưới con đường bình thường. Do nó đi xuống, cung điện mặt trăng cũng đi xuống theo, vì có cùng quỹ đạo. Do đó, con đường đó, do không có nước, phù hợp với loài dê, nên có tên là “con đường của dê.” Còn khi mặt trời đi trên con đường nào mà các vị trời mây mưa, do không bị sức nóng của mặt trời thiêu đốt, thường xuyên ra khỏi cung điện của mình và đi lại vui chơi khắp nơi, thì nghe nói lúc đó cung điện mặt trời đã đi lên trên con đường bình thường. Do nó đi lên, cung điện mặt trăng cũng đi lên theo, vì có cùng quỹ đạo. Và sự có cùng quỹ đạo là do cung điện bị một vòng gió đẩy đi. Do đó, con đường đó, do có nhiều nước, phù hợp với loài rồng, nên có tên là “con đường của rồng.” Khi mặt trời không đi lên trên và cũng không đi xuống dưới mà chỉ đi trên con đường bình thường, lúc đó các vị trời mây mưa ra khỏi cung điện theo đúng thời và theo ý thích, đi lại một cách thoải mái. Vào thời đó, do mưa thuận gió hòa, thời tiết trong đời được điều hòa. Con đường đi của mặt trời và mặt trăng đó, vốn là nhân cho sự điều hòa thời tiết ấy, phù hợp với loài bò, nên có tên là “con đường của bò.” Do đó, vào thời gian nào mặt trời và mặt trăng đi vào con đường của dê, lúc đó trời không mưa một giọt nào. Khi chúng đi vào con đường của rồng, lúc đó trời mưa như trút nước. Khi chúng đi vào con đường của bò, lúc đó thời tiết được điều hòa.

Yadā pana rājāno adhammikā honti, tesaṃ adhammikatāya uparājasenāpatippabhutayo sabbe devā brahmāno ca adhammikā honti, tadā tesaṃ adhammikatāya visamaṃ candimasūriyā parivattanti. Tadā hi bahvābādhatādianiṭṭhaphalūpanissayabhūtassa yathāvuttassa adhammikatāsaññitassa sādhāraṇassa pāpakammassa balena visamaṃ vāyantena vāyunā phelliyamānā candimasūriyā sineruṃ parikkhipantā visamaṃ parivattanti, yathāmaggena na pavattanti. Vāto yathāmaggena na vāyati, ayathāmaggena vāyati, ayathāmaggena vāyanto ākāsaṭṭhavimānāni khobheti, vimānesu khobhitesu devatānaṃ kīḷanatthāya cittāni na namanti, cittesu anamantesu sītuṇhabhedo utu yathākālena na sampajjati, tasmiṃ asampajjante na sammā devo vassati, kadāci vassati, kadāci na vassati, katthaci vassati, katthaci na vassati. Vassantopi vappakāle aṅkurakāle nāḷakāle pupphakāle khīraggahaṇādikālesu yathā yathā sassānaṃ upakāro na hoti, tathā tathā vassati ca vigacchati ca. Tena sassāni visamapākāni honti vigatagandharasādisampadāni, ekabhājane pakkhittataṇḍulesupi ekasmiṃ padese bhattaṃ uttaṇḍulaṃ hoti, ekasmiṃ atikilinnaṃ, ekasmiṃ samapākaṃ. Taṃ paribhuttaṃ kucchiyampi sabbaso apariṇataṃ, ekadesena pariṇataṃ, supariṇatanti evaṃ tīhiyeva pakārehi paccati, pakkāsayaṃ na sammā upagacchati. Tena sattā bahvābādhā ceva honti appāyukā ca.
Còn khi các vị vua không có đạo đức, do sự không có đạo đức của họ, tất cả các vị như phó vương, tướng quân, các vị trời và Phạm thiên cũng trở nên không có đạo đức. Lúc đó, do sự không có đạo đức của họ, mặt trời và mặt trăng quay một cách không đều. Thật vậy, do sức mạnh của nghiệp ác chung, được xem là sự không có đạo đức đã nói, vốn là nền tảng cho các quả không mong muốn như nhiều bệnh tật v.v…, mặt trời và mặt trăng, bị gió thổi không đều, quay quanh núi Sineru một cách không đều, không đi theo con đường đúng đắn. Gió không thổi theo con đường đúng đắn, mà thổi theo con đường sai lệch. Khi thổi theo con đường sai lệch, nó làm rung chuyển các cung điện trên không trung. Khi các cung điện bị rung chuyển, tâm của các vị trời không hướng đến việc vui chơi. Khi tâm không hướng đến, sự thay đổi nóng lạnh, thời tiết không diễn ra theo đúng thời. Khi nó không diễn ra đúng, trời không mưa một cách đều đặn; có lúc mưa, có lúc không; có nơi mưa, có nơi không. Ngay cả khi mưa, nó cũng mưa vào những lúc không có lợi cho mùa màng như lúc gieo mạ, lúc lúa trổ đòng, lúc lúa ra hoa, lúc lúa ngậm sữa v.v…, và rồi lại tạnh. Do đó, mùa màng chín không đều, mất đi hương vị và chất lượng. Ngay cả trong những hạt gạo được bỏ vào cùng một nồi, có chỗ cơm thì sống, có chỗ thì nhão, có chỗ thì chín đều. Khi ăn vào, trong bụng cũng không tiêu hóa hoàn toàn; có phần tiêu hóa, có phần tiêu hóa tốt. Như vậy, nó được tiêu hóa theo ba cách, và không đi đến dạ dày một cách tốt đẹp. Do đó, chúng sanh bị nhiều bệnh tật và tuổi thọ ngắn ngủi.

Dhammikānaṃ pana rājūnaṃ kāle vuttavipariyāyena candimasūriyā samaṃ parivattanti, yathāmaggena pavattanti, utusamatā ca sampajjati, candimasūriyā cha māse sineruto bahi nikkhamanti, cha māse anto vicaranti. Tathā hi sinerusamīpena taṃ padakkhiṇaṃ katvā gacchantā cha māse tato gamanavīthito bahi attano tiriyaṃ gamanena cakkavāḷābhimukhā nikkhamanti . Evaṃ cha māse khaṇe khaṇe sineruto apasakkanavasena tato nikkhamitvā cakkavāḷasamīpaṃ pattā. Tatopi cha māse khaṇe khaṇe apasakkanavasena nikkhamitvā sinerusamīpaṃ pāpuṇantā anto vicaranti. Te hi āsāḷhīmāse sinerusamīpena caranti, tato dve māse nikkhamitvā bahi caranti. Paṭhamakattikamāse majjhena gacchanti, tato cakkavāḷābhimukhā gantvā tayo māse cakkavāḷasamīpena vicaritvā puna nikkhamitvā citramāse majjhena gantvā tato pare dve māse sineruabhimukhā pakkhanditvā puna āsāḷhe sinerusamīpena caranti. Ettha ca sinerussa cakkavāḷassa ca yaṃ ṭhānaṃ vemajjhaṃ, tassa sinerussa ca yaṃ ṭhānaṃ vemajjhaṃ, tena gacchantā sinerusamīpena carantīti veditabbā, na sinerussa aggālindaṃ allīnā, cakkavāḷasamīpena caraṇampi imināva nayena veditabbaṃ. Yadā pana sinerussa cakkavāḷassa ujukaṃ vemajjhena gacchanti, tadā vemajjhena vicarantīti veditabbaṃ.
Còn vào thời của các vị vua có đạo đức, do sự trái ngược với những gì đã nói, mặt trời và mặt trăng quay một cách đều đặn, đi theo con đường đúng đắn, và thời tiết cũng được điều hòa. Mặt trời và mặt trăng đi ra ngoài núi Sineru sáu tháng, và đi vào trong sáu tháng. Thật vậy, khi đi gần núi Sineru và đi quanh nó theo chiều kim đồng hồ, trong sáu tháng, chúng đi ra khỏi con đường đi đó, hướng về núi Thiết Vi bằng cách đi ngang. Như vậy, trong sáu tháng, bằng cách dần dần rời xa núi Sineru từng chút một, chúng đến gần núi Thiết Vi. Từ đó, trong sáu tháng, bằng cách dần dần rời xa, chúng đi ra và đến gần núi Sineru, tức là đi vào trong. Thật vậy, vào tháng Āsāḷhī, chúng đi gần núi Sineru; rồi đi ra ngoài trong hai tháng. Vào tháng Kattika đầu tiên, chúng đi ở giữa; rồi đi về phía núi Thiết Vi, đi gần núi Thiết Vi trong ba tháng, rồi lại đi ra, đi ở giữa vào tháng Citta, rồi sau đó đi về phía núi Sineru trong hai tháng, rồi lại đi gần núi Sineru vào tháng Āsāḷha. Và ở đây, cần phải hiểu rằng, khi chúng đi ở điểm giữa của khoảng cách giữa núi Sineru và điểm giữa của khoảng cách giữa núi Sineru và núi Thiết Vi, thì chúng được gọi là đi gần núi Sineru, chứ không phải dính sát vào hiên của núi Sineru. Việc đi gần núi Thiết Vi cũng cần được hiểu theo phương pháp này. Còn khi chúng đi ngay chính giữa khoảng cách giữa núi Sineru và núi Thiết Vi, thì cần phải hiểu là chúng đang đi ở giữa.

Evaṃ vicarantā ca ekappahārena tīsupi dīpesu ālokaṃ karonti. Ekekāya disāya nava nava yojanasatasahassāni andhakāraṃ vidhamitvā ālokaṃ dassenti. Kathaṃ? Imasmiñhi dīpe sūriyuggamanakālo pubbavidehe majjhanhiko hoti, uttarakurūsu atthaṅgamanakālo, aparagoyāne majjhimayāmo, pubbavidehamhi uggamanakālo uttarakurūsu majjhanhiko, aparagoyāne atthaṅgamanakālo, idha majjhimayāmo, uttarakurūsu uggamanakālo aparagoyāne majjhanhiko, idha atthaṅgamanakālo, pubbavidehe majjhimayāmo, aparagoyānadīpe uggamanakālo idha majjhanhiko, pubbavidehadīpe atthaṅgamanakālo, uttarakurūsu majjhimayāmo. Imasmiñhi dīpe ṭhitamajjhanhikavelāyaṃ pubbavidehavāsīnaṃ atthaṅgamanavasena upaḍḍhaṃ sūriyamaṇḍalaṃ paññāyati, aparagoyānavāsīnaṃ uggamanavasena upaḍḍhaṃ paññāyati. Evaṃ sesadīpesupi. Iti imināva pakārena tīsu dīpesu ekappahāreneva candimasūriyā ālokaṃ dassentīti veditabbaṃ.
Và khi đi như vậy, chúng chiếu sáng cả ba châu cùng một lúc. Chúng xua tan bóng tối và mang lại ánh sáng cho chín trăm ngàn do-tuần ở mỗi phương. Như thế nào? Khi ở châu này là lúc mặt trời mọc, thì ở Pubbavideha là giữa trưa, ở Uttarakuru là lúc mặt trời lặn, ở Aparagoyāna là nửa đêm. Khi ở Pubbavideha là lúc mặt trời mọc, thì ở Uttarakuru là giữa trưa, ở Aparagoyāna là lúc mặt trời lặn, ở đây là nửa đêm. Khi ở Uttarakuru là lúc mặt trời mọc, thì ở Aparagoyāna là giữa trưa, ở đây là lúc mặt trời lặn, ở Pubbavideha là nửa đêm. Khi ở châu Aparagoyāna là lúc mặt trời mọc, thì ở đây là giữa trưa, ở châu Pubbavideha là lúc mặt trời lặn, ở Uttarakuru là nửa đêm. Và khi ở châu này là giữa trưa, thì những người ở Pubbavideha thấy được một nửa đĩa mặt trời đang lặn, và những người ở Aparagoyāna thấy được một nửa đĩa mặt trời đang mọc. Ở các châu còn lại cũng tương tự như vậy. Do đó, cần phải hiểu rằng mặt trời và mặt trăng chiếu sáng cả ba châu cùng một lúc theo chính cách thức này.

Ito aññathā pana dvīsu eva dīpesu ekappahāreneva ālokaṃ dassenti. Yasmiñhi dīpe atthaṅgamanavasena upaḍḍhaṃ sūriyamaṇḍalaṃ paññāyati, atthaṅgamite tattha na paññāyati, ālokaṃ na dasseti, dvīsu eva dīpesu ekappahārena ubhayaṃ. Ekekāya disāya nava nava yojanasatasahassāni andhakāravidhamanampi imināva nayena daṭṭhabbaṃ. Imasmiñhi dīpe ṭhitamajjhanhikavelāyaṃ pubbavidehavāsīnaṃ atthaṅgamanavasena upaḍḍhaṃ sūriyamaṇḍalaṃ paññāyatīti pubbavidehe navayojanasatasahassappamāṇe ṭhāne andhakāraṃ vidhamitvā ālokaṃ dasseti, tathā aparagoyāne uggamanavasena tatthāpi upaḍḍhasseva paññāyamānattā. Pubbavidehānaṃ pana atthaṅgamite na paññāyatīti dvīsu dīpesu sabbattha andhakāraṃ vidhamitvā ālokaṃ dasseti aparagoyānepi uggate sūriye sabbattha andhakāravidhamanato.
Tuy nhiên, theo cách khác, chúng chỉ chiếu sáng hai châu cùng một lúc. Thật vậy, ở châu nào mà một nửa đĩa mặt trời được thấy đang lặn, thì khi đã lặn, nó không còn được thấy ở đó, không còn chiếu sáng nữa. Cả hai chỉ (chiếu sáng) ở hai châu cùng một lúc. Việc xua tan bóng tối ở chín trăm ngàn do-tuần ở mỗi phương cũng cần được hiểu theo phương pháp này. Thật vậy, khi ở châu này là giữa trưa, vì những người ở Pubbavideha thấy được một nửa đĩa mặt trời đang lặn, nên nó xua tan bóng tối và chiếu sáng ở một khu vực rộng chín trăm ngàn do-tuần ở Pubbavideha. Tương tự ở Aparagoyāna, do cũng chỉ thấy được một nửa đang mọc. Tuy nhiên, khi mặt trời đã lặn đối với người Pubbavideha thì không còn thấy được nữa. Do đó, nó xua tan bóng tối và chiếu sáng ở khắp nơi trong hai châu, vì ở Aparagoyāna, khi mặt trời đã mọc, nó cũng xua tan bóng tối ở khắp nơi.

Pātubhavantā ca candimasūriyā ekatova loke pātubhavanti, tesu sūriyo paṭhamataraṃ paññāyati. Paṭhamakappikānañhi sattānaṃ sayaṃpabhāya antarahitāya andhakāro ahosi. Te bhītatasitā ‘‘bhaddakaṃ vatassa, sace añño āloko bhaveyyā’’ti cintayiṃsu. Tato mahājanassa sūrabhāvaṃ janayamānaṃ sūriyamaṇḍalaṃ uṭṭhahi, tenevassa ‘‘sūriyo’’ti nāmaṃ ahosi. Tasmiṃ divasaṃ ālokaṃ katvā atthaṅgamite puna andhakāro ahosi. Te bhītatasitā ‘‘bhaddakaṃ vatassa, sace añño āloko uppajjeyyā’’ti cintayiṃsu. Atha nesaṃ chandaṃ ñatvā viya candamaṇḍalaṃ uṭṭhahi, tenevassa ‘‘cando’’ti nāmaṃ ahosi. Evaṃ candimasūriyesu pātubhūtesu nakkhattāni tārakarūpāni pātubhavanti , tato pabhuti rattindivā paññāyanti. Anukkamena ca māsaḍḍhamāsautusaṃvaccharā jāyanti. Candimasūriyānaṃ pana pātubhūtadivaseyeva sinerucakkavāḷahimavantapabbatā cattāro ca dīpā pātubhavanti, te ca kho apubbaṃ acarimaṃ phagguṇapuṇṇamadivaseyeva pātubhavantīti veditabbaṃ.
Và khi xuất hiện, mặt trời và mặt trăng cùng xuất hiện trong thế gian; trong số đó, mặt trời được thấy trước tiên. Thật vậy, khi ánh sáng tự thân của các chúng sanh thời sơ kiếp biến mất, bóng tối đã bao trùm. Họ sợ hãi và nghĩ rằng: “Thật tốt biết bao nếu có một ánh sáng khác.” Bấy giờ, đĩa mặt trời mọc lên, làm sanh khởi lòng dũng cảm cho đại chúng, chính vì thế nó có tên là “mặt trời” (sūriyo). Sau khi đã chiếu sáng trong ngày đó rồi lặn, bóng tối lại bao trùm. Họ sợ hãi và nghĩ rằng: “Thật tốt biết bao nếu có một ánh sáng khác sanh khởi.” Bấy giờ, như thể biết được ý muốn (chanda) của họ, đĩa mặt trăng mọc lên, chính vì thế nó có tên là “mặt trăng” (cando). Như vậy, sau khi mặt trời và mặt trăng xuất hiện, các vì sao và các hành tinh xuất hiện. Từ đó, ngày và đêm được biết đến. Và tuần tự, tháng, nửa tháng, mùa và năm sanh khởi. Và cần phải hiểu rằng, vào chính ngày mặt trời và mặt trăng xuất hiện, các ngọn núi Sineru, Thiết Vi, Himavanta và bốn châu cũng xuất hiện; và chúng xuất hiện không trước không sau, vào chính ngày rằm tháng Phagguṇa.

Yasmā cettha ‘‘ekaṃ cakkavāḷaṃ āyāmato ca vitthārato ca yojanānaṃ dvādasa satasahassāni tīṇi sahassāni cattāri satāni paññāsañca yojanānī’’ti aṭṭhakathāyaṃ (pārā. aṭṭha. 1.1 verañjakaṇḍavaṇṇanā) vuttaṃ, tasmā vuttappamāṇato imassa cakkavāḷassa sinerupatiṭṭhitokāse caturāsīti yojanasahassāni parato yāva cakkavāḷapabbatā uttaradisābhāgappamāṇañca pahāya imissā dakkhiṇadisāya –
Và vì ở đây, trong Chú giải (pārā. aṭṭha. 1.1 verañjakaṇḍavaṇṇanā), đã nói rằng: “Một thế giới có chiều dài và chiều rộng là một triệu hai trăm ngàn, ba ngàn, bốn trăm và năm mươi do-tuần,” do đó, ở phương nam này, sau khi trừ đi tám mươi bốn ngàn do-tuần ở nơi núi Sineru được hình thành của thế giới có kích thước đã nói, và kích thước của phương bắc, tính từ đó cho đến núi Thiết Vi:

Sinerucakkavāḷānaṃ, antaraṃ parimāṇato;
Pañca satasahassāni, sahassānūnasaṭṭhi ca.
Satāni satta ñeyyāni, pañcavīsuttarāni ca;
Majjhavīthigato nāma, tattha vemajjhago ravi.
Majjhato yāva merumhā, cakkavāḷānamantare;
Vemajjhago yadā hoti, ubhayantagato tadā.
Majjhato yāva merumhā, cakkavāḷā ca pabbatā;
Duve satasahassāni, sahassānūnasīti ca.
Aṭṭhasataṃ duve saṭṭhi, yojanāni dvigāvutaṃ;
Ubhato antato meru-cakkavāḷānamantare.
Ekaṃ satasahassañca, sahassānūnatālīsaṃ;
Navasatānekatiṃsa, yojanāni ca gāvutaṃ.
Pamāṇato samantā ca, maṇḍalaṃ majjhavīthiyā;
Satasahassānūnavīsa, sahassānekatiṃsa ca.
Satamekañca viññeyyaṃ, pañcasattati uttaraṃ;
Dakkhiṇaṃ uttarañcāpi, gacchanto pana bhāṇumā.
Majjhavīthippamāṇena , maṇḍaleneva gacchati;
Gacchanto ca panevaṃ so, oruyhoruyha heṭṭhato.
Āruyhāruyha uddhañca, yato gacchati sabbadā;
Tato gativasenassa, dūramaddhānamāsi taṃ.
Tiṃsa satasahassāni, yojanāni pamāṇato;
Tasmā so parito yāti, tattakaṃva dine dine.
Sahassamekaṃ pañcasataṃ, catupaññāsayojanaṃ;
Tigāvutaṃ terasūsabhaṃ, tettiṃsa ratanāni ca.
Aṭṭhaṅgulāni ca tiriyaṃ, gacchatekadine ravi;
Chatālīsasahassāni, cha satāni tigāvutaṃ.
Yojanānaṃ titālīsaṃ, māsenekena gacchati;
Tenavutisahassāni, dvisataṃ sattasīti ca.
Gāvutāni duve cāpi, dvīhi māsehi gacchati;
Imāya gatiyā anta-vīthito vīthiantimaṃ.
Gacchati chahi māsehi, timāsehi ca majjhimaṃ;
Sinerusantike anta-vīthito pana bhāṇumā;
Āgacchanto dvimāsehi, assa dīpassa majjhago.
Tasmā sīhaḷadīpassa, majjhato meruantaraṃ;
Duve satasahassāni, dvisatenādhikāni tu.
Tettiṃsañca sahassāni, aṭṭhārasa tigāvutaṃ;
Cakkavāḷantarañcassa, dīpasseva ca majjhato.
Tīṇi satasahassāni, sahassāni chavīsati;
Cha uttarāni pañceva, satānekañca gāvutanti.
Evamettha ayampi viseso veditabbo.
Khoảng cách giữa Sineru và Thiết Vi, về số lượng,
Là năm trăm ngàn, và sáu mươi ngàn thiếu một ngàn.
Bảy trăm và trên đó hai mươi lăm, cần được biết,
Mặt trời đi ở giữa, trên con đường trung tâm.
Khi nó đi ở giữa khoảng cách,
Từ trung tâm đến Meru và Thiết Vi, lúc đó nó đi ở hai đầu.
Khoảng cách từ trung tâm đến núi Meru và Thiết Vi,
Là hai trăm ngàn, và tám mươi ngàn thiếu một ngàn.
Một trăm tám mươi và sáu mươi hai do-tuần, và hai gāvuta,
Ở cả hai đầu, giữa Meru và Thiết Vi.
Một trăm ngàn, và bốn mươi ngàn thiếu một ngàn,
Chín trăm ba mươi mốt do-tuần, và một gāvuta.
Vòng tròn của con đường trung tâm, về số lượng, ở xung quanh,
Là mười chín trăm ngàn thiếu một ngàn, và ba mươi mốt ngàn.
Một trăm và trên đó bảy mươi lăm, cần được biết,
Mặt trời, khi đi về phía nam và phía bắc.
Nó đi bằng vòng tròn có kích thước của con đường trung tâm,
Và khi đi như vậy, nó đi xuống dần từ dưới.
Và đi lên dần từ trên, vì nó luôn luôn đi như vậy,
Nên do cách đi của nó, quãng đường đó trở nên xa.
Ba mươi trăm ngàn do-tuần, về số lượng,
Do đó, nó đi xung quanh chừng ấy mỗi ngày.
Một ngàn năm trăm, năm mươi bốn do-tuần,
Ba gāvuta, mười ba usabha, và ba mươi ba ratana.
Và tám aṅgula, mặt trời đi ngang trong một ngày,
Bốn mươi sáu ngàn, sáu trăm và ba gāvuta.
Bốn mươi ba do-tuần, nó đi trong một tháng,
Chín mươi bảy ngàn, hai trăm và tám mươi bảy.
Và hai gāvuta, nó đi trong hai tháng,
Với tốc độ này, từ con đường cuối cùng đến con đường cuối cùng.
Nó đi trong sáu tháng, và đến con đường giữa trong ba tháng,
Mặt trời, từ con đường cuối cùng gần Sineru.
Khi đến, trong hai tháng, nó ở giữa hòn đảo này,
Do đó, khoảng cách từ giữa đảo Sīhaḷa đến Meru,
Là hai trăm ngàn, và trên đó hai trăm.
Ba mươi ba ngàn, mười tám và ba gāvuta,
Và khoảng cách đến Thiết Vi, từ giữa hòn đảo,
Là ba trăm ngàn, hai mươi sáu ngàn,
Và một trăm sáu và năm, và một gāvuta.
Như vậy, ở đây cũng cần phải hiểu chi tiết này.

Tāvatiṃsabhavanaṃ dasasahassayojananti ettha tettiṃsa sahapuññakārino ettha nibbattāti taṃsahacaritaṭṭhānaṃ tettiṃsaṃ, tadeva tāvatiṃsaṃ , taṃ nivāso etesanti tāvatiṃsā, devā, tesaṃ bhavanaṃ tāvatiṃsabhavanaṃ. Tathā hi maghena māṇavena saddhiṃ macalagāmake kālaṃ katvā tattha uppanne tettiṃsa devaputte upādāya assa devalokassa ayaṃ paṇṇatti jātāti vadanti. Atha vā yasmā sesacakkavāḷesupi cha kāmāvacaradevalokā atthi. Vuttampi cetaṃ ‘‘sahassaṃ cātumahārājikānaṃ sahassaṃ tāvatiṃsāna’’nti. Tasmā nāmapaṇṇattiyevesā tassa devalokassāti veditabbā. Dasasahassayojananti idaṃ pana sakkapuraṃ sandhāya vuttanti veditabbaṃ. Tathā hi tāvatiṃsakāyikā devā atthi pabbataṭṭhakā, atthi ākāsaṭṭhakā, tesaṃ paramparā cakkavāḷapabbataṃ pattā, tathā cātumahārājikānaṃ yāmādīnañca. Ekadevalokepi hi devānaṃ paramparā cakkavāḷapabbataṃ appattā nāma natthi. Idaṃ pana tāvatiṃsabhavanaṃ sinerussa uparimatale dasasahassayojanike ṭhāne patiṭṭhitanti veditabbaṃ. Tassa pācīnapacchimadvārānaṃ antarā dasayojanasahassaṃ hoti, tathā dakkhiṇuttaradvārānaṃ. Taṃ kho pana nagaraṃ dvārasahassayuttaṃ ahosi ārāmapokkharaṇīpaṭimaṇḍitaṃ.
Trong câu cung điện của cõi trời Ba Mươi Ba rộng mười ngàn do-tuần, ở đây, ba mươi ba vị đã cùng nhau làm phước được sanh ra ở đây, nên nơi ở chung của họ là cõi Ba Mươi Ba; chính đó là Tāvatiṃsa; đó là nơi ở của họ, nên họ là các vị trời Tāvatiṃsa; cung điện của họ là cung điện Tāvatiṃsa. Thật vậy, người ta nói rằng, do ba mươi ba vị thiên tử đã sanh ra ở đó sau khi chết ở làng Macala cùng với chàng thanh niên Magha, nên sự quy định này về cõi trời đó đã sanh khởi. Hoặc là, vì ở các thế giới khác cũng có sáu cõi trời dục giới. Điều này đã được nói: “một ngàn cõi Tứ Thiên Vương, một ngàn cõi Ba Mươi Ba.” Do đó, cần phải hiểu rằng đây chỉ là tên gọi của cõi trời đó. Và cần phải hiểu rằng câu rộng mười ngàn do-tuần được nói khi đề cập đến kinh thành của Sakka. Thật vậy, có những vị trời thuộc cõi Ba Mươi Ba ở trên núi, có những vị ở trên không trung; và dòng dõi của họ kéo dài đến tận núi Thiết Vi; tương tự đối với các cõi Tứ Thiên Vương, Yāma v.v… Thật vậy, ngay cả trong một cõi trời, không có dòng dõi nào của các vị trời mà không kéo dài đến núi Thiết Vi. Và cần phải hiểu rằng cung điện Tāvatiṃsa này được hình thành ở một nơi rộng mười ngàn do-tuần trên đỉnh núi Sineru. Khoảng cách giữa các cổng phía đông và phía tây của nó là mười ngàn do-tuần; tương tự đối với các cổng phía nam và phía bắc. Và kinh thành đó có một ngàn cổng, được trang điểm bởi các khu vườn và hồ ao.

Tassa majjhe (dha. pa. aṭṭha. 1.29 maghavatthu) tiyojanasatubbedhehi, dhajehi paṭimaṇḍito sattaratanamayo sattayojanasatubbedho sakkassa vejayanto nāma pāsādo. Tattha suvaṇṇayaṭṭhīsu maṇidhajā ahesuṃ, maṇiyaṭṭhīsu suvaṇṇadhajā, pavāḷayaṭṭhīsu muttadhajā, muttayaṭṭhīsu pavāḷadhajā, sattaratanamayāsu yaṭṭhīsu sattaratanamayā dhajā.
Ở giữa đó (dha. pa. aṭṭha. 1.29 maghavatthu) là cung điện tên là Vejayanta của Sakka, cao bảy trăm do-tuần, được làm bằng bảy loại ngọc báu, được trang điểm bởi các lá cờ cao ba trăm do-tuần. Ở đó, trên các cột cờ bằng vàng có các lá cờ bằng ngọc; trên các cột cờ bằng ngọc có các lá cờ bằng vàng; trên các cột cờ bằng san hô có các lá cờ bằng ngọc trai; trên các cột cờ bằng ngọc trai có các lá cờ bằng san hô; trên các cột cờ bằng bảy loại ngọc báu có các lá cờ bằng bảy loại ngọc báu.

Diyaḍḍhayojanasatāyāmo vejayantaratho (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.249 ādayo). Tassa hi pacchimanto paṇṇāsayojano, majjhe rathapañjaro paṇṇāsayojano, rathasandhito yāva rathasīsā paṇṇāseva yojanāni. Tadeva pamāṇaṃ diguṇaṃ katvā ‘‘tiyojanasatāyāmo’’tipi vadantiyeva. Tasmiṃ yojanikapallaṅko atthato tiṭṭhati. Tattha tiyojanikaṃ setacchattaṃ, ekasmiṃyeva yuge sahassaājaññayuttaṃ. Sesālaṅkārassa pamāṇaṃ natthi. Dhajo panassa aḍḍhatiyāni yojanasatāni uggato, yassa vātāhatassa pañcaṅgikatūriyasseva saddo niccharati.
Cỗ xe Vejayantaratho (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.249 ādayo) dài một trăm năm mươi do-tuần. Thật vậy, phần đuôi của nó dài năm mươi do-tuần, thùng xe ở giữa dài năm mươi do-tuần, và từ khớp nối đến đầu xe cũng là năm mươi do-tuần. Người ta cũng nói là “dài ba trăm do-tuần” bằng cách nhân đôi kích thước đó lên. Trên đó có một chiếc giường dài một do-tuần. Ở đó có một cây lọng trắng dài ba do-tuần, được kéo bởi một ngàn con ngựa quý chỉ trong một ách. Kích thước của các đồ trang trí khác là không thể kể xiết. Còn lá cờ của nó thì cao hai trăm rưỡi do-tuần; khi bị gió thổi, âm thanh của nó phát ra giống như tiếng của dàn nhạc năm loại.

Sakkassa pana erāvaṇo nāma hatthī diyaḍḍhayojanasatiko, sopi devaputtoyeva. Na hi devalokasmiṃ tiracchānagatā honti, tasmā so uyyānakīḷāya nikkhamanakāle attabhāvaṃ vijahitvā diyaḍḍhayojanasatiko erāvaṇo nāma hatthī hoti. So tettiṃsakumbhe māpeti āvaṭṭena gāvutaaḍḍhayojanappamāṇe, sabbesaṃ majjhe sakkassa atthāya sudassanaṃ nāma tiṃsayojanikaṃ kumbhaṃ māpeti. Tassa upari dvādasayojaniko ratanamaṇḍapo hoti. Tattha antarantarā sattaratanamayā yojanubbedhā dhajā uṭṭhahanti. Pariyante kiṅkiṇikajālā olambanti, yassa mandavāteritassa pañcaṅgikatūriyasaddasadiso dibbagītasaddo viya ravo niccharati. Maṇḍapamajjhe sakkassa yojaniko maṇipallaṅko paññatto hoti, tattha sakko nisīdati. Tettiṃsāya kumbhānaṃ ekekasmiṃ kumbhe satta satta dante māpeti, tesu ekeko paṇṇāsayojanāyāmo. Ekekasmiñcettha dante satta satta pokkharaṇiyo honti, ekekāya pokkharaṇiyā satta satta paduminīgacchā, ekekasmiṃ gacche satta satta pupphāni honti, ekekassa pupphassa satta satta pattāni, ekekasmiṃ patte satta satta devadhītaro naccanti. Evaṃ samantā paṇṇāsayojanaṭṭhāne hatthidantesuyeva naccanaṭasamajjo hoti.
Còn con voi tên là Erāvaṇa của Sakka thì cao một trăm năm mươi do-tuần; nó cũng chính là một vị thiên tử. Thật vậy, ở cõi trời không có loài bàng sanh. Do đó, vào lúc đi ra ngoài để vui chơi trong vườn, vị ấy từ bỏ thân thể của mình và trở thành một con voi tên là Erāvaṇa cao một trăm năm mươi do-tuần. Nó hóa hiện ra ba mươi ba cái đầu, theo vòng tròn có kích thước một gāvuta và hai do-tuần rưỡi. Ở giữa tất cả, vì lợi ích của Sakka, nó hóa hiện ra một cái đầu tên là Sudassana rộng ba mươi do-tuần. Trên đó có một tòa nhà lầu bằng ngọc cao mười hai do-tuần. Ở đó, xen kẽ có các lá cờ bằng bảy loại ngọc báu cao một do-tuần mọc lên. Ở xung quanh có các mạng lưới chuông nhỏ treo lơ lửng; khi bị gió nhẹ thổi, âm thanh của nó phát ra giống như tiếng của dàn nhạc năm loại, như tiếng hát của cõi trời. Ở giữa tòa nhà lầu, một chiếc giường bằng ngọc dài một do-tuần được chuẩn bị cho Sakka; Sakka ngồi ở đó. Trên mỗi một trong ba mươi ba cái đầu, nó hóa hiện ra bảy cái ngà; mỗi cái dài năm mươi do-tuần. Và trên mỗi một cái ngà có bảy cái hồ; trong mỗi cái hồ có bảy bụi sen; trong mỗi bụi có bảy bông hoa; mỗi bông hoa có bảy cánh; trên mỗi cánh có bảy vị thiên nữ đang múa. Như vậy, trong một khu vực rộng năm mươi do-tuần xung quanh, chỉ trên các ngà voi đã có một buổi biểu diễn múa hát.

Nandā nāma pana pokkharaṇī paññāsayojanā. ‘‘Pañcasatayojanikā’’tipi vadanti.
Còn hồ tên là Nandā thì rộng năm mươi do-tuần. Người ta cũng nói là “rộng năm trăm do-tuần.”

Cittalatāvanaṃ pana saṭṭhiyojanikaṃ. ‘‘Pañcayojanasatika’’ntipi vadanti. Taṃ pana dibbarukkhasahassapaṭimaṇḍitaṃ, tathā nandanavanaṃ phārusakavanañca. Sakko panettha accharāsaṅghaparivuto saṭṭhiyojanikaṃ suvaṇṇamahāvīthiṃ otaritvā nakkhattaṃ kīḷanto nandanavanādīsu vicarati.
Còn vườn Cittalatāvanaṃ thì rộng sáu mươi do-tuần. Người ta cũng nói là “rộng năm trăm do-tuần.” Nó được trang điểm bởi một ngàn cây của cõi trời; tương tự đối với vườn Nandanavanaṃ và vườn Phārusakavanañca. Ở đây, Sakka, cùng với đoàn tiên nữ, đi xuống con đường lớn bằng vàng rộng sáu mươi do-tuần và đi dạo trong các vườn Nandanavanaṃ v.v… trong khi vui chơi lễ hội.

Pāricchattako pana koviḷāro samantā tiyojanasataparimaṇḍalo pañcadasayojanapariṇāhakkhandho yojanasatubbedho. Tassa mūle saṭṭhiyojanāyāmā paññāsayojanavitthārā pañcadasayojanubbedhā jayasumanapupphakavaṇṇā paṇḍukambalasilā, yassā mudutāya sakkassa nisīdato upaḍḍhakāyo anupavisati, uṭṭhitakāle ūnaṃ paripūrati.
Còn cây Pāricchattako, một loại cây koviḷāra, có chu vi ba trăm do-tuần, thân cây có đường kính mười lăm do-tuần, cao một trăm do-tuần. Dưới gốc của nó là tảng đá Paṇḍukambalasilā, có màu như hoa jayasumana, dài sáu mươi do-tuần, rộng năm mươi do-tuần, cao mười lăm do-tuần; do sự mềm mại của nó, khi Sakka ngồi xuống, một nửa thân của ngài lún vào, và khi đứng lên, chỗ lõm lại đầy lên.

Sudhammā nāma devasabhā āyāmato ca vitthārato ca tiyojanasatikā, parikkhepato navayojanasatikā, ubbedhato pañcayojanasatikā, tassā phalikamayā bhūmi, thambhatulāsaṅghāṭādīsu vāḷarūpādisaṅghaṭṭanakaāṇiyo maṇimayā, suvaṇṇamayā thambhā, rajatamayā thambhaghaṭakā ca saṅghāṭañca, pavāḷamayāni vāḷarūpāni, sattaratanamayā gopānasiyo ca pakkhapāsā ca mukhavaṭṭi ca, indanīlaiṭṭhakāhi chadanaṃ, sovaṇṇamayaṃ chadanavidhaṃ, rajatamayā thupikā.
Phòng hội của chư thiên tên là Sudhammā có chiều dài và chiều rộng là ba trăm do-tuần, chu vi là chín trăm do-tuần, chiều cao là năm trăm do-tuần. Sàn của nó được làm bằng pha lê; các cột, xà, rui v.v…, các vật trang trí như hình sư tử v.v… được làm bằng ngọc; các cột được làm bằng vàng; các đầu cột và rui được làm bằng bạc; các hình sư tử được làm bằng san hô; các thanh nóc và các mặt bên, vành mái được làm bằng bảy loại ngọc báu; mái được lợp bằng gạch indanīla; hệ thống mái được làm bằng vàng; các tháp nhọn được làm bằng bạc.

Āsāvatī nāma ekā latā atthi, ‘‘sā pupphissatī’’ti devā vassasahassaṃ upaṭṭhānaṃ gacchanti, pāricchattake pupphamāne ekaṃ vassaṃ upaṭṭhānaṃ gacchanti. Te tassa paṇḍupalāsādibhāvato paṭṭhāya attamanā honti. Yathāha –
Có một loại dây leo tên là Āsāvatī; các vị trời đến chăm sóc nó trong một ngàn năm với hy vọng “nó sẽ ra hoa.” Khi cây Pāricchattaka ra hoa, họ đến chăm sóc nó trong một năm. Họ vui mừng từ lúc nó bắt đầu có lá úa. Như đã nói:

‘‘Yasmiṃ, bhikkhave, samaye devānaṃ tāvatiṃsānaṃ pāricchattako koviḷāro paṇḍupalāso hoti, attamanā, bhikkhave, devā tāvatiṃsā tasmiṃ samaye honti ‘paṇḍupalāso dāni pāricchattako koviḷāro, na cirasseva dāni pannapalāso bhavissatī’’’tiādi (a. ni. 7.69).
“Này các Tỳ-khưu, vào lúc nào cây koviḷāra Pāricchattaka của các vị trời ở cõi Ba Mươi Ba có lá úa, này các Tỳ-khưu, vào lúc đó các vị trời ở cõi Ba Mươi Ba vui mừng rằng: ‘Bây giờ cây koviḷāra Pāricchattaka đã có lá úa, chẳng bao lâu nữa nó sẽ rụng lá.’” v.v… (a. ni. 7.69).

Sabbapāliphullassa pana pāricchattakassa koviḷārassa samantā pañca yojanasatāni ābhā pharati, anuvātaṃ yojanasataṃ gandho gacchati. Pupphite pāricchattake ārohaṇakiccaṃ vā aṅkusaṃ gahetvā nāmanakiccaṃ vā pupphāharaṇatthaṃ caṅkoṭakakiccaṃ vā natthi. Kantanakavāto uṭṭhahitvā pupphāni vaṇṭato kantati, sampaṭicchanakavāto sampaṭicchati, pavesanakavāto sudhammadevasabhaṃ paveseti, sammajjanakavāto purāṇapupphāni nīharati, santharaṇakavāto pattakaṇṇikakesarāni racento santharati, majjhaṭṭhāne dhammāsanaṃ hoti yojanappamāṇo ratanapallaṅko, tassa upari dhāriyamānaṃ tiyojanikaṃ setacchattaṃ, tadanantaraṃ sakkassa devarañño āsanaṃ attharīyati, tato bāttiṃsāya devaputtānaṃ, tato aññesaṃ mahesakkhadevatānaṃ. Aññesaṃ devatānaṃ pana pupphakaṇṇikāva āsanaṃ hoti. Devā devasabhaṃ pavisitvā nisīdanti. Tato pupphehi reṇuvaṭṭi uggantvā upari kaṇṇikaṃ āhacca nipatamānā devatānaṃ tigāvutappamāṇaṃ attabhāvaṃ lākhāparikammasajjitaṃ viya karoti, tesaṃ sā kīḷā catūhi māsehi pariyosānaṃ gacchati. Iti imāhi sampattīhi samannāgataṃ tāvatiṃsabhavanaṃ bhagavā sabbathā avedīti veditabbaṃ.
Và khi cây koviḷāra Pāricchattaka nở hoa rực rỡ, ánh sáng của nó lan tỏa năm trăm do-tuần xung quanh, và hương thơm của nó bay theo chiều gió một trăm do-tuần. Khi cây Pāricchattaka nở hoa, không có việc phải leo lên, hay dùng móc để kéo cành xuống, hay dùng giỏ để đựng hoa. Một cơn gió cắt hoa khỏi cuống, một cơn gió hứng lấy, một cơn gió đưa vào phòng hội Sudhammā, một cơn gió quét dọn những bông hoa cũ đi, một cơn gió trải ra sắp xếp các cánh hoa và nhụy hoa. Ở giữa có một pháp tọa, là một chiếc giường bằng ngọc cao một do-tuần; trên đó có một cây lọng trắng cao ba do-tuần được che. Ngay sau đó là chỗ ngồi của vua trời Sakka được trải ra; rồi đến chỗ ngồi của ba mươi hai vị thiên tử; rồi đến chỗ ngồi của các vị trời có quyền lực khác. Còn chỗ ngồi của các vị trời khác thì chỉ là những cánh hoa. Các vị trời đi vào phòng hội và ngồi xuống. Bấy giờ, một đám bụi phấn hoa bay lên từ các bông hoa, chạm vào đỉnh mái rồi rơi xuống, làm cho thân thể cao ba gāvuta của các vị trời trông như được trang điểm bằng sơn mài. Cuộc vui chơi đó của họ kéo dài trong bốn tháng. Như vậy, cần phải hiểu rằng Thế Tôn đã biết về mọi mặt cung điện Tāvatiṃsa, vốn có đầy đủ những sự thành tựu này.

Tathā asurabhavananti ettha devā viya na suranti na īsaranti na virocantīti asurā. Surā nāma devā, tesaṃ paṭipakkhāti vā asurā. Sakko kira macalagāmake magho nāma māṇavo hutvā tettiṃsa purise gahetvā kalyāṇakammaṃ karonto satta vattapadāni pūretvā tattha kālakato devaloke nibbatti saddhiṃ parisāya. Tato pubbadevā ‘‘āgantukadevaputtā āgatā, sakkāraṃ nesaṃ karomā’’ti vatvā dibbapadumāni upanāmesuṃ, upaḍḍharajjena ca nimantesuṃ. Sakko upaḍḍharajjena asantuṭṭho ahosi, atha nevāsikā ‘‘āgantukadevaputtānaṃ sakkāraṃ karomā’’ti gandhapānaṃ sajjayiṃsu. Sakko sakaparisāya saññaṃ adāsi ‘‘mārisā mā gandhapānaṃ pivittha, pivamānākāramattameva dassethā’’ti. Te tathā akaṃsu. Nevāsikadevatā suvaṇṇasarakehi upanītaṃ gandhapānaṃ yāvadatthaṃ pivitvā mattā tattha tattha suvaṇṇapathaviyaṃ patitvā sayiṃsu. Sakko ‘‘gaṇhatha dhutte, haratha dhutte’’ti te pādesu gāhāpetvā sinerupāde khipāpesi. Sakkassa puññatejena tadanuvattakāpi sabbe tattheva patiṃsu. Atha nesaṃ kammapaccayautusamuṭṭhānaṃ sinerussa heṭṭhimatale dasayojanasahassaṃ asurabhavanaṃ nibbatti pāricchattakapaṭicchannabhūtāya citrapāṭaliyā upasobhitaṃ. Sakko tesaṃ nivattitvā anāgamanatthāya ārakkhaṃ ṭhapesi. Yaṃ sandhāya vuttaṃ –
Trong câu cung điện của a-tu-la cũng vậy, ở đây, vì họ không tỏa sáng, không cai trị, không rực rỡ như các vị trời, nên là a-tu-la. Hoặc là, surā là các vị trời, họ là đối thủ của các vị ấy, nên là a-tu-la. Nghe nói, Sakka, khi còn là một chàng thanh niên tên là Magha ở làng Macala, đã cùng với ba mươi ba người làm các việc thiện, hoàn thành bảy điều cam kết, rồi sau khi chết đã sanh ra ở cõi trời cùng với đoàn tùy tùng. Bấy giờ, các vị trời cũ nói rằng: “Các vị thiên tử mới đến đã đến, chúng ta hãy tỏ lòng tôn kính với họ,” rồi dâng lên những bông hoa sen của cõi trời, và mời họ chia nửa vương quốc. Sakka không hài lòng với việc chia nửa vương quốc. Bấy giờ, các vị trời cũ nghĩ rằng: “Chúng ta hãy tỏ lòng tôn kính với các vị thiên tử mới đến,” rồi chuẩn bị rượu thơm. Sakka ra hiệu cho đoàn tùy tùng của mình rằng: “Này các bạn, đừng uống rượu thơm, chỉ làm ra vẻ như đang uống thôi.” Họ đã làm như vậy. Các vị trời cũ, sau khi uống thỏa thích rượu thơm được dâng trong các chén vàng, đã say và ngã ngủ la liệt trên nền đất bằng vàng. Sakka ra lệnh: “Hãy bắt lấy những kẻ say, hãy mang đi những kẻ say,” rồi cho người nắm chân họ và ném xuống chân núi Sineru. Do uy lực phước báu của Sakka, tất cả những người theo ngài cũng rơi xuống ngay tại đó. Bấy giờ, do duyên từ nghiệp và thời tiết của họ, cung điện a-tu-la rộng mười ngàn do-tuần được hình thành ở tầng dưới của núi Sineru, được tô điểm bởi cây citrapāṭali, vốn là vật che phủ của cây pāricchattaka. Sakka đã đặt lính canh để họ không quay trở lại. Đề cập đến điều đó mà đã nói:

‘‘Antarā dvinnaṃ ayujjhapurānaṃ, pañcavidhā ṭhapitā abhirakkhā;
Uragakaroṭipayassa ca hārī, madanayutā caturo ca mahatthā’’ti. (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.247; jā. aṭṭha. 1.1.31);
“Giữa hai thành phố không thể bị chinh phục, năm loại lính gác đã được đặt ra;
Loài rồng, loài chim karoṭi, loài mang sữa, và loài say sưa, cùng bốn vị vĩ đại.” (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.247; jā. aṭṭha. 1.1.31);

Tattha dvinnaṃ ayujjhapurānanti dvinnaṃ devāsuranagarānaṃ antarāti attho. Dve kira nagarāni yuddhena gahetuṃ asakkuṇeyyatāya ayujjhapurāni nāma jātāni. Yadā hi asurā balavanto honti, atha devehi palāyitvā devanagaraṃ pavisitvā dvāre pihite asurānaṃ satasahassampi kiñci kātuṃ na sakkoti. Yadā devā balavanto honti, atha asurehi palāyitvā asuranagaraṃ pavisitvā dvāre pihite sakkānaṃ satasahassampi kiñci kātuṃ na sakkoti. Iti imāni dve nagarāni ayujjhapurāni nāma. Tesaṃ antarā etesu uragādīsu pañcasu ṭhānesu sakkena ārakkhā ṭhapitā. Tattha uragasaddena nāgā gahitā. Te udake mahabbalā honti, tasmā sinerussa paṭhamālinde etesaṃ ārakkhā. Sinerussa kira samantato bahalato puthulato ca pañcayojanasahassaparimāṇāni cattāri paribhaṇḍāni tāvatiṃsabhavanassa ārakkhāya nāgehi garuḷehi kumbhaṇḍehi yakkhehi ca adhiṭṭhitāni. Tehi kira sinerussa upaḍḍhaṃ pariyādinnaṃ, etāniyeva ca sinerussa ālindāni mekhalāni ca vuccanti. Karoṭisaddena supaṇṇā gahitā. Tesaṃ kira karoṭi nāma pānabhojanaṃ, tena nāmaṃ labhiṃsu, dutiyālinde tesaṃ ārakkhā. Payassahārīsaddena kumbhaṇḍā gahitā. Dānavarakkhasā kira te, tatiyālinde tesaṃ ārakkhā. Madanayutasaddena yakkhā gahitā. Visamacārino kira te yuddhasoṇḍā, catutthālinde tesaṃ ārakkhā. Caturo ca mahatthāti cattāro mahārājāno vuttā. Te hi sinerussa tasmiṃ tasmiṃ passe yugandharādīsu pañcasataparittadīpaparivāre mahādīpe ca sāsitabbassa mahato atthassa vasena ‘‘mahatthā’’ti vuccanti, pañcamālinde tesaṃ ārakkhā.
Ở đó, giữa hai thành phố không thể bị chinh phục có nghĩa là giữa hai thành phố của các vị trời và a-tu-la. Nghe nói, hai thành phố này được gọi là các thành phố không thể bị chinh phục vì không thể chiếm được bằng chiến tranh. Thật vậy, khi các a-tu-la mạnh hơn, các vị trời liền chạy vào thành phố của mình và đóng cổng lại, thì dù một trăm ngàn a-tu-la cũng không thể làm gì được. Khi các vị trời mạnh hơn, các a-tu-la liền chạy vào thành phố của mình và đóng cổng lại, thì dù một trăm ngàn Sakka cũng không thể làm gì được. Do đó, hai thành phố này được gọi là các thành phố không thể bị chinh phục. Giữa chúng, tại năm nơi này của loài rồng v.v…, lính gác đã được Sakka đặt ra. Ở đó, bằng từ uraga, các loài rồng được bao gồm. Chúng rất mạnh ở dưới nước, do đó, lính gác của chúng được đặt ở vành đai đầu tiên của núi Sineru. Nghe nói, xung quanh núi Sineru có bốn vành đai, mỗi vành đai dày và rộng năm ngàn do-tuần, được các loài rồng, garuḷa, kumbhaṇḍa và yakkha canh giữ để bảo vệ cung điện Tāvatiṃsa. Nghe nói, chúng chiếm giữ một nửa núi Sineru, và chính chúng được gọi là các vành đai và các đai lưng của núi Sineru. Bằng từ karoṭi, các loài supaṇṇa được bao gồm. Nghe nói, karoṭi là thức ăn và thức uống của chúng, do đó chúng có tên như vậy; lính gác của chúng được đặt ở vành đai thứ hai. Bằng từ payassahārī, các loài kumbhaṇḍa được bao gồm. Nghe nói, chúng là các loài dānavas và rakshasas; lính gác của chúng được đặt ở vành đai thứ ba. Bằng từ madanayutā, các loài yakkha được bao gồm. Nghe nói, chúng có hành vi thất thường, hiếu chiến; lính gác của chúng được đặt ở vành đai thứ tư. Và bốn vị vĩ đại là bốn vị Đại vương được nói đến. Thật vậy, vì mục đích lớn lao là cai quản đại châu cùng với năm trăm tiểu châu xung quanh ở từng phía của núi Sineru như Yugandhara v.v…, nên họ được gọi là “những người có mục đích lớn”; lính gác của họ được đặt ở vành đai thứ năm.

Te pana asurā āyuvaṇṇayasaissariyasampattīhi tāvatiṃsasadisāva. Tasmā antarā attānaṃ ajānitvā pāṭaliyā pupphitāya ‘‘nayidaṃ devanagaraṃ, tattha pāricchattako pupphati, idha pana cittapāṭalī, jarasakkena mayaṃ suraṃ pāyetvā vañcitā, devanagarañca no gahitaṃ, gacchāma tena saddhiṃ yujjhissāmā’’ti hatthiassarathe āruyha suvaṇṇarajatamaṇiphalakāni gahetvā yuddhasajjā hutvā asurabheriyo vādentā mahāsamudde udakaṃ dvidhā bhinditvā uṭṭhahanti. Te deve vuṭṭhe vammikamakkhikā vammikaṃ viya sineruṃ abhiruhituṃ ārabhanti. Atha nesaṃ paṭhamaṃ nāgehi saddhiṃ yuddhaṃ hoti. Tasmiṃ kho pana yuddhe na kassaci chavi vā cammaṃ vā chijjati, na lohitaṃ uppajjati, kevalaṃ kumārakānaṃ dārumeṇḍakayuddhaṃ viya aññamaññaṃ santāsanamattameva hoti. Koṭisatāpi koṭisahassāpi nāgā tehi saddhiṃ yujjhitvā asurapuraṃyeva pavesetvā nivattanti. Sace pana asurā balavanto honti, atha nāgā osakkitvā dutiye ālinde supaṇṇehi saddhiṃ ekato hutvā yujjhanti. Esa nayo supaṇṇādīsupi. Yadā pana tāni pañcapi ṭhānāni asurā maddanti, tadā ekato sampiṇḍitānipi tāni pañca balāni osakkanti . Atha cattāro mahārājāno gantvā sakkassa pavattiṃ ārocenti. Sakko tesaṃ vacanaṃ sutvā diyaḍḍhayojanasatikaṃ vejayantarathaṃ āruyha sayaṃ vā nikkhamati, ekaṃ vā puttaṃ peseti. Ekasmiṃ pana divase evaṃ nikkhamitvā asure yuddhena abbhuggantvā samudde pakkhipitvā catūsu dvāresu attanā sadisā paṭimā māpetvā ṭhapeti, tasmā asurā nāgādayo jinitvā āgatāpi indapaṭimā disvā ‘‘sakko nikkhanto’’ti palāyanti. Iti surānaṃ paṭipakkhāti asurā, vepacittipahārādādayo, tesaṃ bhavanaṃ asurabhavanaṃ. Taṃ pana āyāmato ca vitthārato ca dasasahassayojananti dassetuṃ ‘‘tathā asurabhavana’’nti vuttaṃ.
Và các a-tu-la đó có tuổi thọ, sắc đẹp, danh tiếng và quyền lực tương tự như các vị trời ở cõi Ba Mươi Ba. Do đó, khi không biết về thân phận của mình, lúc cây pāṭali nở hoa, họ nói rằng: “Đây không phải là thành phố của các vị trời; ở đó cây pāricchattaka nở hoa, còn ở đây là cây cittapāṭalī. Chúng ta đã bị Sakka già lừa cho uống rượu say, và thành phố của chúng ta đã bị chiếm đoạt. Chúng ta hãy đi chiến đấu với hắn.” Rồi họ leo lên voi, ngựa, xe, cầm các tấm khiên bằng vàng, bạc, ngọc, pha lê, chuẩn bị chiến tranh, đánh trống của a-tu-la, rẽ nước biển lớn làm hai và trỗi dậy. Khi các vị trời trỗi dậy, họ bắt đầu leo lên núi Sineru như đàn kiến lửa leo lên gò mối. Bấy giờ, trận chiến đầu tiên của họ là với các loài rồng. Và trong trận chiến đó, không có ai bị rách da hay chảy máu; chỉ có sự hù dọa lẫn nhau như trận chiến của những con cừu gỗ của trẻ con. Dù hàng trăm triệu hay hàng ngàn triệu con rồng chiến đấu với họ, cũng chỉ đẩy lùi họ vào thành phố a-tu-la rồi quay về. Nhưng nếu các a-tu-la mạnh hơn, thì các loài rồng rút lui và hợp sức với các loài supaṇṇa ở vành đai thứ hai để chiến đấu. Phương pháp này cũng áp dụng cho các loài supaṇṇa v.v… Nhưng khi các a-tu-la chinh phục cả năm nơi đó, thì dù cả năm lực lượng đó hợp lại cũng phải rút lui. Bấy giờ, bốn vị Đại vương đến báo tin cho Sakka. Sakka, sau khi nghe lời họ, leo lên cỗ xe Vejayantaratho cao một trăm năm mươi do-tuần và tự mình ra đi, hoặc sai một người con trai đi. Và vào một ngày nọ, sau khi ra đi như vậy, đã chiến thắng các a-tu-la trong trận chiến, ném họ xuống biển, rồi hóa hiện ra các bức tượng giống hệt mình và đặt ở bốn cổng. Do đó, các a-tu-la, dù đã chiến thắng các loài rồng v.v… và tiến đến, khi thấy các bức tượng của Indra, họ nghĩ rằng: “Sakka đã ra đi” rồi bỏ chạy. Như vậy, vì là đối thủ của các vị trời, nên là a-tu-la; đó là các vị như Vepacitti, Pahārāda v.v…; cung điện của họ là cung điện a-tu-la. Và để chỉ ra rằng nó có chiều dài và chiều rộng là mười ngàn do-tuần, đã nói: “cung điện của a-tu-la cũng vậy.”

Avīcimahānirayo jambudīpo cāti etthāpi tathā-saddo yojetabbo, avīcimahānirayo jambudīpo ca tathā dasasahassayojanamevāti attho. Ettha ca avīcimahānirayassa abbhantaraṃ āyāmena ca vitthārena ca yojanasataṃ hoti, lohapathavī lohachadanaṃ ekekā ca bhitti navanavayojanikā hoti. Puratthimāya bhittiyā acci uṭṭhahitvā pacchimaṃ bhittiṃ gahetvā taṃ vinivijjhitvā parato yojanasataṃ gacchati. Sesadisāsupi eseva nayo. Iti jālapariyantavasena āyāmavitthārato aṭṭhārasayojanādhikāni tīṇi yojanasatāni honti, parikkhepena nava yojanasatāni catupaṇṇāsañca yojanāni. Samantā pana ussadehi saddhiṃ dasayojanasahassaṃ hoti. Kasmā panesa narako ‘‘avīcī’’ti saṅkhyaṃ gatoti? Vīci nāma antaraṃ vuccati, tattha ca aggijālānaṃ vā sattānaṃ vā dukkhassa vā antaraṃ natthi, tasmā so ‘‘avīcī’’ti saṅkhyaṃ gato. Tassa hi puratthimabhittito jālā uṭṭhahitvā saṃsibbamānayojanasataṃ gantvā bhittiṃ vinivijjhitvā parato yojanasataṃ gacchati. Sesadisāsupi eseva nayo. Evaṃ jālānaṃ nirantaratāya avīci. Abbhantare panassa yojanasatike ṭhāne nāḷiyaṃ koṭṭetvā pūritatipupiṭṭhaṃ viya sattā nirantarā, ‘‘imasmiṃ ṭhāne satto atthi, imasmiṃ ṭhāne natthī’’ti na vattabbaṃ, gacchantānaṃ ṭhitānaṃ nisinnānaṃ nipannānañca paccamānānaṃ anto natthi, gacchantā ṭhite vā nisinne vā nipanne vā na bādhenti. Evaṃ sattānaṃ nirantaratāya avīci. Kāyadvāre pana cha upekkhāsahagatāni cittāni uppajjanti, ekaṃ dukkhasahagataṃ. Evaṃ santepi yathā jivhāgge cha madhubindūni ṭhapetvā ekasmiṃ tambalohabindumhi ṭhapite anudahanabalavatāya tadeva paññāyati, itarāni abbohārikāni honti, evaṃ anudahanabalavatāya dukkhamevettha nirantaraṃ, itarāni abbohārikānīti evaṃ dukkhassa nirantaratāya avīcīti vuccati. ‘‘Ayañca avīcimahānirayo jambudīpassa heṭṭhā patiṭṭhito’’ti vadanti.
Trong câu đại địa ngục Avīci và châu Jambudīpa, ở đây cũng cần phải kết hợp từ cũng vậy; có nghĩa là, đại địa ngục Avīci và châu Jambudīpa cũng vậy, đều rộng mười ngàn do-tuần. Và ở đây, bên trong của đại địa ngục Avīci có chiều dài và chiều rộng là một trăm do-tuần; sàn bằng sắt và mái bằng sắt, mỗi bức tường dày chín do-tuần. Lửa từ bức tường phía đông bốc lên, lan đến bức tường phía tây, xuyên qua nó và đi xa thêm một trăm do-tuần. Ở các phương còn lại cũng theo phương pháp này. Như vậy, tính đến hết phần lưới lửa, nó có chiều dài và chiều rộng là ba trăm do-tuần cộng thêm mười tám do-tuần; chu vi là chín trăm năm mươi bốn do-tuần. Còn tính cả các địa ngục phụ xung quanh thì là mười ngàn do-tuần. Nhưng tại sao địa ngục này lại có tên là “Avīci”? Vīci được gọi là khoảng trống; và ở đó không có khoảng trống giữa các ngọn lửa, hay giữa các chúng sanh, hay giữa sự khổ đau; do đó nó có tên là “Avīci.” Thật vậy, các ngọn lửa từ bức tường phía đông bốc lên, đi một trăm do-tuần liền nhau, xuyên qua bức tường và đi xa thêm một trăm do-tuần. Ở các phương còn lại cũng theo phương pháp này. Như vậy, do sự không gián đoạn của các ngọn lửa, nên là Avīci. Và bên trong, ở một nơi rộng một trăm do-tuần, các chúng sanh chen chúc nhau như bột gạo đã được giã và đổ đầy trong một ống tre; không thể nói rằng “ở nơi này có chúng sanh, ở nơi này không có.” Giữa những chúng sanh đang bị thiêu đốt khi đang đi, đứng, ngồi, nằm, không có khoảng trống; những người đang đi không làm phiền những người đang đứng, ngồi hay nằm. Như vậy, do sự không gián đoạn của các chúng sanh, nên là Avīci. Và ở thân môn, sáu tâm câu hữu với xả sanh khởi, và một tâm câu hữu với khổ. Dù vậy, giống như khi đặt sáu giọt mật ong trên đầu lưỡi và đặt một giọt đồng nóng chảy vào, do sức mạnh lấn át, chỉ có giọt đó được cảm nhận, còn những giọt kia trở nên không có giá trị; cũng vậy, ở đây, do sức mạnh lấn át, chỉ có sự khổ đau là không gián đoạn, còn những cái kia trở nên không có giá trị. Như vậy, do sự không gián đoạn của sự khổ đau, nên được gọi là Avīci. Người ta nói rằng: “Và đại địa ngục Avīci này nằm ở dưới châu Jambudīpa.”

Jambudīpo pana āyāmato ca vitthārato ca dasasahassayojanaparimāṇo. Tattha ca catusahassayojanappamāṇo padeso tadupabhogīsattānaṃ puññakkhayā udakena ajjhotthaṭo ‘‘samuddo’’ti saṅkhyaṃ gato. Tisahassayojanappamāṇe manussā vasanti, tisahassayojanappamāṇe himavā patiṭṭhitoti veditabbo.
Còn châu Jambudīpa có kích thước chiều dài và chiều rộng là mười ngàn do-tuần. Ở đó, một khu vực rộng bốn ngàn do-tuần, do phước báu của các chúng sanh hưởng thụ nó đã cạn kiệt, bị nước bao phủ, có tên là “biển.” Trong một khu vực rộng ba ngàn do-tuần, con người sinh sống; và cần phải hiểu rằng trong một khu vực rộng ba ngàn do-tuần, dãy Himavanta được hình thành.

Aparagoyānaṃ sattasahassayojanantiādīsu āyāmato ca vitthārato ca pamāṇaṃ dassitanti veditabbaṃ. Tattha jambudīpo sakaṭasaṇṭhāno, channavutiyā paṭṭanakoṭisatasahassehi chapaṇṇāsaratanāgārehi navanavutiyā doṇamukhasatasahassehi tikkhattuṃ tesaṭṭhiyā nagarasahassehi ca samannāgato. Jambudīpe kira ādito tesaṭṭhimattāni nagarasahassāni uppannāni, tathā dutiyaṃ, tathā tatiyaṃ. Tāni pana sampiṇḍetvā satasahassaṃ, tato paraṃ asīti sahassāni ca nava sahassāni ca honti. Doṇamukhanti ca mahānagarassa āyuppattiṭṭhānabhūtaṃ padhānagharaṃ vuccati. Aparagoyāno ādāsasaṇṭhāno, pubbavideho aḍḍhacandasaṇṭhāno, uttarakuru pīṭhasaṇṭhāno. ‘‘Taṃtaṃnivāsīnaṃ taṃtaṃparivāradīpavāsīnañca manussānaṃ mukhampi taṃtaṃsaṇṭhāna’’nti vadanti.
Trong các câu châu Aparagoyāna rộng bảy ngàn do-tuần v.v…, cần phải hiểu rằng kích thước về chiều dài và chiều rộng đã được chỉ ra. Ở đó, châu Jambudīpa có hình dạng như chiếc xe bò, có chín mươi sáu trăm ngàn thành phố cảng, năm mươi sáu tòa nhà bằng ngọc, chín mươi chín trăm ngàn thị trấn cửa sông, và ba lần sáu mươi ba ngàn thành phố. Nghe nói, ở châu Jambudīpa, lúc đầu chỉ có sáu mươi ba ngàn thành phố được hình thành; rồi lần thứ hai cũng vậy, lần thứ ba cũng vậy. Và khi gộp chúng lại, có một trăm ngàn, rồi thêm tám mươi ngàn và chín ngàn nữa. Và thị trấn cửa sông được gọi là ngôi nhà chính, là nơi phát sanh sự sống của một thành phố lớn. Châu Aparagoyāna có hình dạng như chiếc gương; châu Pubbavideha có hình dạng như nửa vầng trăng; châu Uttarakuru có hình dạng như chiếc ghế. Người ta nói rằng: “mặt của những người dân ở từng châu và những người dân ở các hòn đảo phụ thuộc cũng có hình dạng tương ứng.”

Api cettha uttarakurukānaṃ puññānubhāvasiddho ayampi viseso veditabbo. Tattha kira tesu tesu padesesu ghananicitapattasañchannasākhāpasākhā kūṭāgārupamā manoramā rukkhā tesaṃ manussānaṃ nivesanakiccaṃ sādhenti. Yattha sukhaṃ nivasanti, aññepi tattha rukkhā sujātā sabbadāpi pupphitaggā tiṭṭhanti. Jalāsayāpi vikasitapadumapuṇḍarīkasogandhikādipupphasañchannā sabbakālaṃ paramasugandhā samantato pavāyantā tiṭṭhanti.
Và ở đây, cần phải hiểu thêm chi tiết này, vốn được thành tựu bởi phước lực của những người ở Uttarakuru. Nghe nói, ở đó, tại những nơi khác nhau, có những cây cối đẹp đẽ, có cành lá sum suê, giống như những tòa nhà có đỉnh nhọn, đảm nhiệm vai trò làm nhà ở cho những người dân đó. Nơi họ sống một cách thoải mái. Và ở đó cũng có những cây cối khác mọc tốt tươi, luôn luôn có ngọn cây nở hoa. Các hồ ao cũng được bao phủ bởi các loài hoa như sen, súng, sen thơm v.v… nở rộ, luôn luôn tỏa hương thơm ngát khắp nơi.

Sarīrampi tesaṃ atidīghatādidosarahitaṃ ārohapariṇāhasampannaṃ jarāya anabhibhūtattā valitapalitādidosavirahitaṃ yāvatāyukaṃ aparikkhīṇajavabalaparakkamasobhameva hutvā tiṭṭhati. Anuṭṭhānaphalūpajīvitāya na ca tesaṃ kasivaṇijjādivasena āhārapariyeṭṭhivasena dukkhaṃ atthi, tato eva na dāsadāsīkammakarādipariggaho atthi. Na ca tattha sītuṇhaḍaṃsamakasavātātapasarīsapavāḷādiparissayo atthi. Yathā nāmettha gimhānaṃ pacchime māse paccūsavelāyaṃ samasītuṇho utu hoti, evameva sabbakālaṃ tattha samasītuṇhova utu hoti, na ca nesaṃ koci upaghāto vihesā vā uppajjati.
Thân thể của họ cũng không có các khuyết điểm như quá dài v.v…, có chiều cao và cân nặng cân đối, không bị tuổi già chi phối, không có các khuyết điểm như nếp nhăn, tóc bạc v.v…, và tồn tại với sức mạnh, năng lực và vẻ đẹp không suy giảm cho đến hết tuổi thọ. Do sống bằng các quả không cần gieo trồng, họ không có sự khổ đau do phải tìm kiếm thức ăn bằng cách làm ruộng, buôn bán v.v…; chính vì thế, họ không có việc sở hữu nô lệ, người làm công v.v… Và ở đó cũng không có sự phiền toái do nóng, lạnh, muỗi, mòng, gió, nắng, rắn rết, san hô v.v… Giống như ở đây, vào tháng cuối của mùa hè, vào lúc rạng đông, thời tiết mát mẻ, thì ở đó thời tiết luôn luôn mát mẻ như vậy; và họ không gặp phải bất kỳ sự nguy hại hay phiền não nào.

Akaṭṭhapākimameva sāliṃ akaṇaṃ athusaṃ suddhaṃ sugandhaṃ taṇḍulaphalaṃ niddhūmaṅgārena agginā pacitvā paribhuñjanti. Tattha kira jotikapāsāṇā nāma honti, atha te tayo pāsāṇe ṭhapetvā tattha ukkhaliṃ āropenti, pāsāṇehi tejo samuṭṭhahitvā taṃ pāceti, añño sūpo vā byañjano vā na hoti, bhuñjantānaṃ cittānukūloyevassa raso hoti. Taṃ pana bhuñjantānaṃ nesaṃ kuṭṭhaṃ gaṇḍo kilāso soso kāso apamāro jaroti evamādiko na koci rogo uppajjati. Te taṃ ṭhānaṃ sampattānaṃ dentiyeva, macchariyacittaṃ nāma neva hoti, buddhapaccekabuddhādayopi mahiddhikā tattha gantvā piṇḍapātaṃ gaṇhanti. Na ca te khujjā vā vāmanā vā kāṇā vā kuṇī vā khañjā vā pakkhahatā vā vikalaṅgā vā vikalindriyā vā honti.
Họ ăn loại gạo sāli tự chín, không có cám, không có trấu, sạch sẽ, thơm tho, có quả là hạt gạo, sau khi đã nấu bằng lửa không có khói. Nghe nói, ở đó có những loại đá phát lửa. Họ đặt ba tảng đá đó, rồi đặt nồi lên đó; lửa từ các tảng đá bốc lên và nấu chín nó. Không có món canh hay món ăn nào khác; hương vị của nó tự thích ứng với ý muốn của người ăn. Và khi ăn nó, họ không mắc phải bất kỳ bệnh tật nào như bệnh hủi, bướu, bạch biến, lao, ho, động kinh, già yếu v.v… Họ chỉ cho những người đã đến nơi đó; họ không bao giờ có tâm keo kiệt. Ngay cả các vị Phật, Phật Độc Giác v.v… có nhiều thần thông cũng đến đó để nhận vật thực. Và họ không bị gù, lùn, chột, cụt, què, liệt hay có các bộ phận cơ thể hoặc các giác quan không hoàn chỉnh.

Itthiyopi tattha nātidīghā nātirassā nātikisā nātithūlā nātikāḷikā nāccodātā sobhaggappattarūpā honti. Tathā hi dīghaṅgulī tambanakhā alambathanā tanumajjhā puṇṇacandamukhī visālakkhī mudugattā sahibhorū odātadantā gambhīranābhī tanujaṅghā dīghanīlavellitakesī puthulasussoṇī nātilomā nālomā subhagā utusukhasamphassā saṇhā sakhilasambhāsā nānābharaṇavibhūsitā vicaranti, sabbadāpi soḷasavassuddesikā viya honti.
Phụ nữ ở đó cũng không quá cao, không quá thấp, không quá gầy, không quá mập, không quá đen, không quá trắng, có vẻ đẹp mỹ mãn. Thật vậy, họ có ngón tay dài, móng tay đỏ, vú không chảy xệ, eo thon, mặt như trăng rằm, mắt to, da mềm mại, đùi đẹp, răng trắng, rốn sâu, bắp chân thon, tóc dài, xanh và xoăn, hông rộng, không quá nhiều lông, không có lông, xinh đẹp, có sự tiếp xúc dễ chịu theo mùa, ăn nói mềm mỏng, duyên dáng, đi lại được trang điểm bởi nhiều loại trang sức khác nhau; họ luôn luôn trông như thiếu nữ mười sáu tuổi.

Purisāpi pañcavīsativassuddesikā viya, na puttā mātādīsu rajjanti, ayaṃ tattha dhammatā. Sattāhikameva ca tattha itthipurisā kāmaratiyā viharanti , tato vītarāgā viya yathāsukhaṃ gacchanti, na tattha idha viya gabbhokkantimūlakaṃ gabbhapariharaṇamūlakaṃ vā dukkhaṃ vijāyanamūlakaṃ vā dukkhaṃ hoti, rattakañcukato kañcanapaṭimā viya dārakā mātukucchito amakkhitā eva semhādinā sukheneva nikkhamanti, ayaṃ tattha dhammatā. Mātā pana puttaṃ vā dhītaraṃ vā vijāyitvā tesaṃ vicaraṇakappadese ṭhapetvā anapekkhā yathāruci gacchati. Tesaṃ tattha sayitānaṃ ye passanti purisā vā itthiyo vā, te attano aṅguliyo upanāmenti, tesaṃ kammabalena tato khīraṃ pavattati, tena te dārakā yāpenti. Evaṃ pana vaḍḍhantā katipayadivaseyeva laddhabalā hutvā dārikā itthiyo upagacchanti, dārakā purise.
Đàn ông cũng trông như thanh niên hai mươi lăm tuổi. Con cái không có tình yêu luyến ái với cha mẹ v.v…; đó là quy luật ở đó. Và ở đó, nam nữ chỉ sống trong tình ái trong bảy ngày; sau đó họ đi lại thoải mái như những người đã ly tham. Ở đó không có sự khổ đau do việc nhập thai, do việc mang thai, hay do việc sinh nở như ở đây. Trẻ con ra khỏi bụng mẹ một cách dễ dàng, không bị dính nhớt v.v…, như những bức tượng vàng ra từ chiếc hộp son; đó là quy luật ở đó. Và người mẹ, sau khi sinh con trai hay con gái, đặt chúng ở một nơi vui chơi rồi ra đi theo ý muốn, không còn quyến luyến. Những người đàn ông hay đàn bà nào thấy chúng nằm ở đó, họ đưa ngón tay của mình ra; do sức mạnh nghiệp của họ, sữa chảy ra từ đó, và những đứa trẻ đó sống nhờ vào đó. Và khi lớn lên như vậy, chỉ sau vài ngày, chúng đã có sức mạnh; các bé gái đến với phụ nữ, các bé trai đến với đàn ông.

Kapparukkhato eva ca tesaṃ tattha vatthābharaṇāni nipphajjanti. Nānāvirāgavaṇṇavicittāni hi vatthāni sukhumāni mudusukhasamphassāni tattha tattha kapparukkhesu olambantāni tiṭṭhanti. Nānāvidharaṃsijālasamujjalavividhavaṇṇaratanavinaddhāni anekavidhamālākammalatākammabhittikammavicittāni sīsūpagagīvūpagakaṭūpagahatthūpagapādūpagāni sovaṇṇamayāni ābharaṇāni ca kapparukkhato olambanti. Tathā vīṇāmudiṅgapaṇavasammatāḷasaṅkhavaṃsavetāḷaparivārādīni vallakīpabhautikāni tūriyabhaṇḍānipi tato olambanti. Tattha ca bahū phalarukkhā kumbhamattāni phalāni phalanti, madhurarasāni yāni paribhuñjitvā te sattāhampi khuppipāsāhi na bādhīyanti.
Và quần áo, trang sức của họ ở đó được tạo ra từ chính cây như ý. Thật vậy, những bộ quần áo mềm mại, có sự tiếp xúc dễ chịu, được trang trí bởi nhiều màu sắc khác nhau, treo lơ lửng trên các cây như ý ở khắp nơi. Các đồ trang sức bằng vàng, được trang trí bởi các loại hoa văn, dây leo, tranh tường khác nhau, được gắn các loại ngọc báu tỏa ra các tia sáng nhiều màu, dùng để đeo trên đầu, cổ, hông, tay, chân, cũng treo lơ lửng trên cây như ý. Tương tự, các loại nhạc cụ như đàn vīṇā, mudiṅga, paṇava, sammatāḷa, saṅkha, vaṃsa, vetāḷa, parivāra v.v…, các loại đàn vallakī, cũng treo lơ lửng từ đó. Và ở đó có nhiều cây ăn quả, có quả to bằng cái chum, có vị ngọt, mà sau khi ăn, họ không bị đói khát trong bảy ngày.

Najjopi tattha suvisuddhajalā supatitthā ramaṇīyā akaddamā vālukatalā nātisītā nātiuṇhā surabhigandhīhi jalajapupphehi sañchannā sabbakālaṃ surabhī vāyantiyo sandanti, na tattha kaṇṭakinā kakkhaḷagacchalatā honti, akaṇṭakā pupphaphalasacchannā eva honti, candananāgarukkhā sayameva rasaṃ paggharanti. Nahāyitukāmā ca nadītitthe ekajjhaṃ vatthābharaṇāni ṭhapetvā nadiṃ otaritvā nahāyitvā uttiṇṇā uttiṇṇā upariṭṭhimaṃ upariṭṭhimaṃ vatthābharaṇaṃ gaṇhanti, na tesaṃ evaṃ hoti ‘‘idaṃ mama, idaṃ parassā’’ti. Tato eva na tesaṃ koci viggaho vā vivādo vā, sattāhikā eva ca nesaṃ kāmaratikīḷā hoti, tato vītarāgā viya vicaranti. Yattha ca rukkhe sayitukāmā honti, tattheva sayanaṃ upalabbhati.
Các con sông ở đó cũng có nước rất trong, bến nước tốt, thơ mộng, không có bùn, có đáy cát, không quá lạnh, không quá nóng, được bao phủ bởi các loài hoa mọc dưới nước có hương thơm, và luôn tỏa hương thơm ngát. Ở đó không có các loại cây, dây leo có gai, gồ ghề; chỉ có những loại không có gai, được bao phủ bởi hoa và quả; các cây đàn hương, cây nāga tự chảy ra nhựa thơm. Và những người muốn tắm, sau khi đặt quần áo, trang sức ở bến sông, xuống sông tắm, rồi khi lên bờ, họ lấy những bộ quần áo, trang sức ở trên cùng. Họ không có ý nghĩ rằng “cái này của tôi, cái này của người khác.” Chính vì thế, họ không có sự tranh cãi hay cãi vã nào. Và cuộc vui chơi ái tình của họ chỉ kéo dài bảy ngày; sau đó họ đi lại như những người đã ly tham. Và ở cây nào họ muốn ngủ, thì ngay tại đó có giường nằm hiện ra.

Mate ca satte na rodanti na socanti, tañca maṇḍayitvā nikkhipanti. Tāvadeva ca tathārūpā sakuṇā upagantvā mataṃ dīpantaraṃ nenti, tasmā susānaṃ vā asuciṭṭhānaṃ vā tattha natthi, na ca tato matā nirayaṃ vā tiracchānayoniṃ vā pettivisayaṃ vā upapajjanti. ‘‘Dhammatāsiddhassa pañcasīlassa ānubhāvena te devaloke nibbattantī’’ti vadanti. Vassasahassameva ca nesaṃ sabbakālaṃ āyuppamāṇaṃ, sabbametaṃ nesaṃ pañcasīlaṃ viya dhammatāsiddhamevāti veditabbaṃ.
Khi có người chết, họ không khóc lóc, không sầu bi, mà chỉ trang điểm cho thi thể rồi đặt xuống. Ngay lúc đó, có những loài chim tương tự đến và mang thi thể đã chết đến một châu lục khác. Do đó, ở đó không có nghĩa địa hay nơi ô uế. Và những người chết ở đó không tái sanh vào cõi địa ngục, loài bàng sanh hay cõi ngạ quỷ. Người ta nói rằng: “Do uy lực của năm giới đã được thành tựu một cách tự nhiên, họ được sanh ra ở cõi trời.” Và cần phải hiểu rằng tuổi thọ của họ luôn luôn là một ngàn năm; tất cả những điều này, giống như năm giới, đều được thành tựu một cách tự nhiên đối với họ.

Tadantaresūti tesaṃ cakkavāḷānaṃ antaresu. Lokantarikanirayāti lokānaṃ lokadhātūnaṃ antaro vivaro lokantaro, tattha bhavā lokantarikā, nirayā. Tiṇṇañhi sakaṭacakkānaṃ pattānaṃ vā aññamaññaṃ āsannabhāvena ṭhapitānaṃ antarasadisesu tiṇṇaṃ tiṇṇaṃ cakkavāḷānaṃ antaresu ekeko lokantarikanirayo. So pana parimāṇato aṭṭhayojanasahassappamāṇo hoti niccavivaṭo heṭṭhā upari ca kenaci na pihito. Yathā hi heṭṭhā udakassa pidhāyikā pathavī natthīti asaṃvutā lokantarikanirayā, evaṃ uparipi cakkavāḷesu viya devavimānānaṃ abhāvato asaṃvutā apihitā cakkhuviññāṇuppattinivāraṇasamatthena ca andhakārena samannāgatā. Tattha kira cakkhuviññāṇaṃ na jāyati ālokassa abhāvato. Tīsu dīpesu ekappahārena ālokakaraṇasamatthāpi candimasūriyā tattha ālokaṃ na dassenti. Te hi yugandharasamappamāṇe ākāsappadese vicaraṇato cakkavāḷapabbatassa vemajjhena vicaranti, cakkavāḷapabbatañca atikkamma lokantarikanirayā, tasmā te tattha ālokaṃ na dassentīti cakkhuviññāṇaṃ nuppajjati. Yadā pana sabbaññubodhisattassa paṭisandhiggahaṇādīsu obhāso uppajjati, tadā cakkhuviññāṇaṃ uppajjati. ‘‘Aññepi kira bho santi sattā idhūpapannā’’ti taṃ divasaṃ aññamaññaṃ passanti. Ayaṃ pana obhāso ekaṃ yāgupānamattampi na tiṭṭhati, accharāsaṅghāṭamattameva vijjobhāso viya niccharitvā ‘‘kiṃ ida’’nti bhaṇantānaṃyeva antaradhāyati.
Ở giữa chúng là ở giữa các thế giới đó. Các địa ngục giữa các thế giới là, khoảng trống, khe hở giữa các thế giới, các cõi giới, là khoảng giữa các thế giới; các địa ngục có ở đó là các địa ngục giữa các thế giới. Thật vậy, ở những nơi giống như khoảng giữa của ba bánh xe hay ba chiếc lá được đặt gần nhau, ở giữa ba thế giới, có một địa ngục giữa các thế giới. Và nó có kích thước là tám ngàn do-tuần, luôn luôn mở rộng, không bị che đậy ở dưới hay ở trên. Giống như ở dưới không có đất để ngăn nước, nên các địa ngục giữa các thế giới không được che chắn; cũng vậy, ở trên, do không có các cung điện của chư thiên như ở các thế giới, nên chúng không được che chắn, không bị che đậy, và có bóng tối dày đặc có khả năng ngăn cản sự sanh khởi của nhãn thức. Nghe nói, ở đó nhãn thức không sanh khởi, do không có ánh sáng. Ngay cả mặt trời và mặt trăng, dù có khả năng chiếu sáng cả ba châu cùng một lúc, cũng không chiếu sáng được ở đó. Thật vậy, do chúng đi lại trong một không gian có kích thước bằng núi Yugandhara, nên chúng đi ở giữa núi Thiết Vi; còn các địa ngục giữa các thế giới thì vượt ra ngoài núi Thiết Vi. Do đó, chúng không chiếu sáng được ở đó, nên nhãn thức không sanh khởi. Tuy nhiên, khi hào quang sanh khởi trong các sự kiện như sự nhập thai v.v… của một vị Bồ-tát Toàn Giác, lúc đó nhãn thức sanh khởi. Vào ngày đó, họ thấy nhau và nghĩ rằng: “Ồ, thì ra ở đây cũng có những chúng sanh khác được sanh ra.” Tuy nhiên, hào quang này không tồn tại được dù chỉ bằng thời gian uống một bát cháo; nó chỉ lóe lên như một tia chớp trong chốc lát rồi biến mất ngay cả khi họ còn đang nói: “Cái gì đây?”

Kiṃ pana kammaṃ katvā tattha sattā nibbattantīti? Bhāriyaṃ dāruṇaṃ garukaṃ mātāpitūnaṃ dhammikasamaṇabrāhmaṇānañca upari aparādhaṃ aññañca divase divase pāṇavadhādiṃ sāhasikakammaṃ katvā uppajjanti tambapaṇṇidīpe abhayacoranāgacorādayo viya. Tesaṃ attabhāvo tigāvutiko hoti, vaggulīnaṃ viya dīghanakhā honti. Te rukkhe vagguliyo viya nakhehi cakkavāḷapāde lagganti, yadā saṃsappantā aññamaññassa hatthapāsagatā honti, atha ‘‘bhakkho no laddho’’ti maññamānā khādanatthaṃ gaṇhituṃ upakkamantā viparivattitvā lokasandhārake udake patanti, vāte paharantepi madhukaphalāni viya chijjitvā udake patanti, patitamattāva accantakhāre udake piṭṭhapiṇḍaṃ viya vilīyanti atisītalabhāvato ātapasantāpābhāvena. Atisītalabhāvameva hi sandhāya accantakhāratā vuttā. Na hi taṃ kappasaṇṭhahanaudakaṃ sampattikaramahāmeghavuṭṭhaṃ pathavīsandhārakaṃ kappavināsakaudakaṃ viya khāraṃ bhavituṃ arahati. Tathā hi sati pathavīpi vilīyeyya, tesaṃ vā pāpakammabalena petānaṃ pakatiudakassa pubbakheḷabhāvāpatti viya tassa udakassa tadā khārabhāvappatti hotīti vuttaṃ ‘‘accantakhāre udake piṭṭhapiṇḍaṃ viya vilīyantī’’ti.
Nhưng làm nghiệp gì mà các chúng sanh sanh ra ở đó? Họ sanh ra do đã làm những nghiệp nặng nề, tàn ác, nghiêm trọng đối với cha mẹ, các sa-môn và bà-la-môn có đạo đức, và các nghiệp hung bạo khác như sát sanh hằng ngày; giống như các tên cướp Abhaya, cướp Nāga v.v… ở đảo Tambapaṇṇi. Thân thể của họ cao ba gāvuta; họ có móng tay dài như của loài dơi. Họ bám vào chân núi Thiết Vi bằng móng tay như loài dơi bám vào cây. Khi bò trườn và lọt vào tầm tay của nhau, họ nghĩ rằng: “Ta đã có được thức ăn,” rồi khi bắt đầu định ăn thịt, họ bị lật ngược và rơi xuống dòng nước giữ các thế giới. Ngay cả khi gió thổi, họ cũng rơi xuống nước như những quả madhuka bị rụng. Vừa rơi xuống, họ liền tan rã trong dòng nước cực kỳ ăn da như một nắm bột, do sự cực kỳ lạnh lẽo vì không có hơi nóng của mặt trời. Thật vậy, sự cực kỳ ăn da được nói đến khi đề cập đến sự cực kỳ lạnh lẽo. Dòng nước hình thành cùng kiếp đó không thể nào ăn da như dòng nước hủy diệt kiếp, vốn được tạo ra bởi trận mưa lớn mang lại sự thành tựu và có tác dụng giữ vững trái đất. Thật vậy, nếu vậy thì ngay cả trái đất cũng sẽ tan rã. Hoặc là, do sức mạnh của nghiệp ác của họ, giống như nước bình thường trở thành nước bọt của ngạ quỷ, thì dòng nước đó vào lúc ấy cũng trở thành ăn da. Do đó đã nói: “họ tan rã trong dòng nước cực kỳ ăn da như một nắm bột.”

Anantānīti aparimāṇāni, ‘‘ettakānī’’ti aññehi minituṃ asakkuṇeyyāni. Tāni ca bhagavā anantena buddhañāṇena avedi ‘‘ananto ākāso, ananto sattanikāyo, anantāni cakkavāḷānī’’ti. Tividhampi hi anantaṃ buddhañāṇena paricchindati sayampi anantattā. Yāvatakañhi ñeyyaṃ, tāvatakaṃ ñāṇaṃ. Yāvatakaṃ ñāṇaṃ, tāvatakameva ñeyyaṃ. Ñeyyapariyantikaṃ ñāṇaṃ, ñāṇapariyantikaṃ ñeyyanti. Tena vuttaṃ ‘‘anantena buddhañāṇena avedī’’tiādi. Anantatā cassa anantañeyyappaṭivijjhaneneva veditabbā tattha appaṭihatacārattā. Idāni yathāvuttamatthaṃ nigamento āha ‘‘evamassa okāsalokopi sabbathā vidito’’ti.
Vô số là không thể đo lường; không thể được người khác đo đếm rằng “chừng này.” Và Thế Tôn đã biết chúng bằng tuệ giác vô biên của Phật rằng: “không gian là vô tận, các loài chúng sanh là vô tận, và các thế giới là vô số.” Thật vậy, cả ba loại vô tận đều được tuệ giác của Phật phân định, vì chính nó cũng là vô tận. Bởi vì phạm vi các pháp cần biết đến đâu, trí tuệ đến đó. Trí tuệ đến đâu, phạm vi các pháp cần biết đến đó. Trí tuệ có các pháp cần biết làm giới hạn, các pháp cần biết có trí tuệ làm giới hạn. Chính vì thế, đã nói: “đã biết bằng tuệ giác vô biên của Phật” v.v… Và sự vô tận của nó cần được hiểu qua chính sự thấu triệt các pháp có thể biết vô tận, do sự vận hành không bị cản trở ở đó. Bây giờ, để kết luận ý nghĩa đã nói, (chú giải) nói: “Như vậy, thế gian không gian của Ngài cũng đã được biết về mọi mặt.”

Api cettha vivaṭṭādīnampi viditatā vattabbā, tasmā vivaṭṭādayopi ādito pabhuti evaṃ veditabbā – saṃvaṭṭo saṃvaṭṭaṭṭhāyī vivaṭṭo vivaṭṭaṭṭhāyīti kappassa cattāri asaṅkhyeyyāni. Tattha saṃvaṭṭanaṃ vinassanaṃ saṃvaṭṭo, vinassamāno asaṅkhyeyyakappo. So pana atthato kāloyeva, tadā pavattamānasaṅkhāravasenassa vināso veditabbo. Saṃvaṭṭato uddhaṃ tathāṭhāyīkālo saṃvaṭṭaṭṭhāyī. Vivaṭṭanaṃ nibbattanaṃ vaḍḍhanaṃ vā vivaṭṭo, vaḍḍhamāno asaṅkhyeyyakappo. Sopi atthato kāloyeva, tadā pavattamānasaṅkhāravasenassa vaḍḍhi veditabbā. Vivaṭṭato uddhaṃ tathāṭhāyīkālo vivaṭṭaṭṭhāyī. Tattha tayo saṃvaṭṭā tejosaṃvaṭṭo āposaṃvaṭṭo vāyosaṃvaṭṭoti. Tisso saṃvaṭṭasīmā ābhassarā subhakiṇhā vehapphalāti. Yadā kappo tejena saṃvaṭṭati, tadā ābhassarato heṭṭhā agginā ḍayhati. Yadā āpena saṃvaṭṭati, tadā subhakiṇhato heṭṭhā udakena vilīyati. Yadā vāyunā saṃvaṭṭati, tadā vehapphalato heṭṭhā vātena viddhaṃsati.
Và ở đây, sự hiểu biết về sự hoại diệt v.v… cũng cần được nói đến. Do đó, sự hoại diệt v.v… cũng cần được hiểu từ đầu như sau: sự hoại diệt, sự tồn tại trong hoại diệt, sự hình thành, và sự tồn tại trong hình thành; đó là bốn a-tăng-kỳ của một kiếp. Ở đó, sự hoại diệt, sự hủy diệt là sự hoại diệt; là kiếp a-tăng-kỳ đang hủy diệt. Và nó, về mặt ý nghĩa, chính là thời gian; sự hủy diệt của nó cần được hiểu qua các hành đang diễn ra lúc bấy giờ. Thời gian tồn tại như vậy sau khi đã hoại diệt là sự tồn tại trong hoại diệt. Sự hình thành, sự tạo ra hoặc sự phát triển là sự hình thành; là kiếp a-tăng-kỳ đang phát triển. Nó, về mặt ý nghĩa, cũng chính là thời gian; sự phát triển của nó cần được hiểu qua các hành đang diễn ra lúc bấy giờ. Thời gian tồn tại như vậy sau khi đã hình thành là sự tồn tại trong hình thành. Ở đó, có ba loại hoại diệt: hoại diệt do lửa, hoại diệt do nước và hoại diệt do gió. Có ba giới hạn của sự hoại diệt: cõi trời Ābhassarā, Subhakiṇhā và Vehapphalā. Khi kiếp hoại diệt do lửa, thì các cõi dưới Ābhassarā bị lửa thiêu rụi. Khi hoại diệt do nước, thì các cõi dưới Subhakiṇhā bị nước làm tan rã. Khi hoại diệt do gió, thì các cõi dưới Vehapphalā bị gió thổi tan.

Vitthārato pana tīsupi saṃvaṭṭakālesu ekaṃ buddhakkhettaṃ vinassati. Buddhakkhettaṃ nāma tividhaṃ hoti jātikkhettaṃ āṇākkhettaṃ visayakkhettañca. Tattha jātikkhettaṃ dasasahassacakkavāḷapariyantaṃ hoti, yaṃ tathāgatassa paṭisandhiggahaṇādīsu kampati. Yattake hi ṭhāne tathāgatassa paṭisandhiñāṇādiñāṇānubhāvo puññaphalasamuttejito saraseneva paṭivijambhati, taṃ sabbampi buddhaṅkurassa nibbattanakkhettaṃ nāmāti buddhakkhettanti vuccati. Āṇākkhettaṃ pana koṭisatasahassacakkavāḷapariyantaṃ, yattha ratanasuttaṃ (khu. pā. 6.1 ādayo; su. ni. 224 ādayo) khandhaparittaṃ (a. ni. 4.67; jā. 1.2.105-106; cūḷava. 251 ādayo) dhajaggaparittaṃ (saṃ. ni. 1.249) āṭānāṭiyaparittaṃ (dī. ni. 3.275 ādayo) moraparittanti (jā. 1.2.17-18) imesaṃ parittānaṃ ānubhāvo vattati. Iddhimā hi cetovasippatto āṇākkhettapariyāpanne yattha katthaci cakkavāḷe ṭhatvā attano atthāya parittaṃ katvā tattheva aññaṃ cakkavāḷaṃ gatopi kataparitto eva hoti. Ekacakkavāḷe ṭhatvā sabbasattānaṃ atthāya paritte kate āṇākkhette sabbasattānampi abhisambhuṇāteva parittānubhāvo tattha devatāhi parittānaṃ sampaṭicchitabbato, tasmā taṃ āṇākkhettanti vuccati. Visayakkhettaṃ pana anantaṃ aparimāṇaṃ. Anantāparimāṇesu hi cakkavāḷesu yaṃ yaṃ tathāgato ākaṅkhati, taṃ taṃ jānāti ākaṅkhappaṭibaddhavuttitāya buddhañāṇassa. Evametesu tīsu buddhakkhettesu ekaṃ āṇākkhettaṃ vinassati, tasmiṃ pana vinassante jātikkhettaṃ vinaṭṭhameva hoti. Vinassantampi ekatova vinassati, saṇṭhahantampi ekatova saṇṭhahati, tassevaṃ vināso saṇṭhahanañca veditabbaṃ.
Và nói rộng ra, trong cả ba thời kỳ hoại diệt, một Phật độ bị hủy diệt. Phật độ có ba loại: sanh độ, giáo độ và cảnh giới độ. Ở đó, sanh độ có giới hạn là mười ngàn thế giới; nơi mà khi Như Lai nhập thai v.v… thì bị rung chuyển. Thật vậy, ở những nơi nào mà uy lực của các trí tuệ như trí tuệ khi nhập thai v.v… của Như Lai, được kích hoạt bởi quả của phước báu, lan tỏa một cách tự nhiên, tất cả những nơi đó được gọi là nơi sanh ra của một mầm Phật, nên được gọi là Phật độ. Còn giáo độ có giới hạn là một trăm ngàn ức thế giới; nơi mà uy lực của các bài kinh hộ trì này có hiệu lực: kinh Bảo Tạng (khu. pā. 6.1 ādayo; su. ni. 224 ādayo), kinh Hộ Trì về các Uẩn (a. ni. 4.67; jā. 1.2.105-106; cūḷava. 251 ādayo), kinh Hộ Trì về Ngọn Cờ (saṃ. ni. 1.249), kinh Hộ Trì Āṭānāṭiya (dī. ni. 3.275 ādayo), và kinh Hộ Trì về con Công (jā. 1.2.17-18). Thật vậy, một người có thần thông, đã đạt đến sự tự chủ về tâm, sau khi đã làm phép hộ trì cho bản thân ở bất cứ nơi nào trong giáo độ, dù đã đi đến một thế giới khác, cũng vẫn là người đã được hộ trì. Khi ở trong một thế giới, sau khi làm phép hộ trì vì lợi ích của tất cả chúng sanh, uy lực của phép hộ trì cũng bao trùm tất cả chúng sanh trong giáo độ, vì ở đó các vị trời sẽ chấp nhận các phép hộ trì. Do đó, nó được gọi là giáo độ. Còn cảnh giới độ thì vô tận, không thể đo lường. Thật vậy, trong vô số thế giới, bất cứ điều gì Như Lai muốn, Ngài đều biết điều đó, do trí tuệ của Phật có sự vận hành tùy theo ý muốn. Như vậy, trong ba Phật độ này, một giáo độ bị hủy diệt; và khi nó bị hủy diệt, thì sanh độ cũng đã bị hủy diệt. Và khi hủy diệt, chúng hủy diệt cùng một lúc; và khi hình thành, chúng cũng hình thành cùng một lúc. Sự hủy diệt và sự hình thành của nó cần được hiểu như vậy.

Yasmiṃ samaye kappo agginā nassati, āditova kappavināsakamahāmegho uṭṭhahitvā koṭisatasahassacakkavāḷe ekaṃ mahāvassaṃ vassati , manussā tuṭṭhā sabbabījāni nīharitvā vapanti, sassesu pana gokhāyitamattesu jātesu gadrabharavaṃ ravanto ekabindumpi na vassati, tadā pacchinnapacchinnameva hoti vassaṃ. Idaṃ sandhāya hi bhagavatā ‘‘hoti so, bhikkhave, samayo yaṃ bahūni vassāni bahūni vassasatāni bahūni vassasahassāni bahūni vassasatasahassāni devo na vassatī’’ti (a. ni. 7.66) vuttaṃ. Vassūpajīvinopi sattā kālaṃ katvā parittābhādibrahmaloke nibbattanti, pupphaphalūpajīviniyo ca devatā. Evaṃ dīghe addhāne vītivatte tattha tattha udakaṃ parikkhayaṃ gacchati, athānupubbena macchakacchapāpi kālaṃ katvā brahmaloke nibbattanti nerayikasattāpi. Tattha nerayikā sattamasūriyapātubhāve vinassantīti eke.
Vào lúc nào kiếp bị hủy diệt bởi lửa, lúc đầu một trận mưa lớn hủy diệt kiếp nổi lên và mưa một trận lớn trong một trăm ngàn ức thế giới. Con người vui mừng, mang tất cả hạt giống ra gieo. Nhưng khi cây lúa chỉ mới cao bằng tầm bò ăn, trời kêu như tiếng lừa kêu rồi không mưa một giọt nào. Lúc đó, mưa cứ thế mà dứt hẳn. Đề cập đến điều này, Thế Tôn đã nói: “Này các Tỳ-khưu, có lúc nào đó, trong nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, trời không mưa.” (a. ni. 7.66). Các chúng sanh sống nhờ mưa cũng chết và sanh ra ở các cõi Phạm thiên như Parittābhā v.v…; các vị trời sống nhờ hoa và quả cũng vậy. Như vậy, sau một thời gian dài trôi qua, nước ở các nơi cạn kiệt. Rồi tuần tự, ngay cả cá và rùa cũng chết và sanh ra ở cõi Phạm thiên; các chúng sanh trong địa ngục cũng vậy. Một số người nói rằng, ở đó, các chúng sanh trong địa ngục bị hủy diệt khi mặt trời thứ bảy xuất hiện.

Jhānaṃ pana vinā natthi brahmaloke nibbatti, etesañca keci dubbhikkhapīḷitā, keci abhabbā jhānādhigamāya, te kathaṃ tattha nibbattantīti? Devaloke paṭiladdhajjhānavasena. Tadā hi ‘‘vassasatasahassassa accayena kappavuṭṭhānaṃ bhavissatī’’ti lokabyūhā nāma kāmāvacaradevā muttasirā vikiṇṇakesā rudammukhā assūni hatthehi puñchamānā rattavatthanivatthā ativiya virūpavesadhārino hutvā manussapathe vicarantā evaṃ ārocenti ‘‘mārisā mārisā ito vassasatasahassassa accayena kappavuṭṭhānaṃ bhavissati, ayaṃ loko vinassissati, mahāsamuddopi ussussissati, ayañca mahāpathavī sineru ca pabbatarājā ḍayhissanti vinassissanti, yāva brahmalokā lokavināso bhavissati, mettaṃ mārisā bhāvetha, karuṇaṃ, muditaṃ, upekkhaṃ mārisā bhāvetha, mātaraṃ upaṭṭhahatha, pitaraṃ upaṭṭhahatha, kule jeṭṭhāpacāyino hothā’’ti. Te pana devā lokaṃ byūhenti sampiṇḍentīti ‘‘lokabyūhā’’ti vuccanti. Te kira disvā manussā yattha katthaci ṭhitāpi nisinnāpi saṃvegajātā sambhamappattāva hutvā tesaṃ āsanne ṭhāne sannipatanti.
Tuy nhiên, không có sự sanh ra ở cõi Phạm thiên nếu không có thiền định; và trong số đó, một số bị nạn đói hành hạ, một số không có khả năng chứng đắc thiền định. Vậy làm thế nào họ sanh ra ở đó? Là do đã chứng đắc thiền định ở cõi trời. Thật vậy, lúc bấy giờ, các vị trời Kāmāvacara tên là Lokabyūhā, sau khi biết rằng “sau một trăm ngàn năm nữa, sự kết thúc của kiếp sẽ xảy ra,” đã xõa tóc, khóc lóc, lấy tay lau nước mắt, mặc y phục màu đỏ, với hình dạng vô cùng xấu xí, đi lại trên con đường của loài người và thông báo rằng: “Này các bạn, này các bạn, sau một trăm ngàn năm nữa, sự kết thúc của kiếp sẽ xảy ra. Thế giới này sẽ bị hủy diệt. Biển lớn cũng sẽ cạn khô. Và đại địa này cùng với vua núi Sineru sẽ bị thiêu rụi, bị hủy diệt. Sự hủy diệt của thế giới sẽ lan đến tận cõi Phạm thiên. Này các bạn, hãy tu tập tâm từ; này các bạn, hãy tu tập tâm bi, tâm hỷ, tâm xả. Hãy phụng dưỡng mẹ, hãy phụng dưỡng cha, hãy kính trọng những người lớn tuổi trong gia đình.” Và những vị trời đó, vì họ tập hợp, quy tụ thế gian lại, nên được gọi là “Lokabyūhā.” Nghe nói, sau khi thấy họ, con người, dù đang đứng hay ngồi ở bất cứ nơi đâu, cũng sanh lòng kinh hãi, hoảng sợ và tụ tập lại ở một nơi gần họ.

Kathaṃ panete kappavuṭṭhānaṃ jānantīti? ‘‘Dhammatāya sañcoditā’’ti ācariyā. ‘‘Tādisanimittadassanenā’’ti eke. ‘‘Brahmadevatāhi uyyojitā’’ti apare. Tesaṃ pana vacanaṃ sutvā yebhuyyena manussā ca bhummadevatā ca saṃvegajātā aññamaññaṃ muducittā hutvā mettādīni puññāni karitvā devaloke nibbattanti. Tattha dibbasudhābhojanaṃ bhuñjitvā tato vāyokasiṇe parikammaṃ katvā jhānaṃ paṭilabhanti. Devānaṃ kira sukhasamphassavātaggahaṇapaacayena vāyokasiṇe jhānāni sukheneva ijjhanti. Tadaññe pana āpāyikā sattā aparāpariyavedanīyena kammena devaloke nibbattanti. Aparāpariyavedanīyakammarahito hi saṃsāre saṃsaranto nāma satto natthi. Tepi tattha tatheva jhānaṃ paṭilabhanti. Evaṃ devaloke paṭiladdhajjhānavasena sabbepi brahmaloke nibbattanti. Idañca yebhuyyavasena vuttaṃ.
Nhưng làm thế nào mà những vị này biết được sự kết thúc của kiếp? Các vị thầy nói rằng: “Do quy luật tự nhiên thúc đẩy.” Một số nói rằng: “Do thấy những dấu hiệu tương tự.” Một số khác nói rằng: “Do được các vị Phạm thiên và chư thiên sai khiến.” Và sau khi nghe lời họ, phần lớn con người và các vị trời trên mặt đất sanh lòng kinh hãi, có tâm từ bi với nhau, làm các việc phước thiện như từ ái v.v… và sanh ra ở cõi trời. Ở đó, sau khi ăn thức ăn của chư thiên, họ thực hành sơ khởi trên đề mục biến xứ gió rồi chứng đắc thiền định. Nghe nói, đối với các vị trời, do có duyên là sự tiếp xúc với gió dễ chịu, nên các tầng thiền được thành tựu một cách dễ dàng. Còn các chúng sanh khác trong cõi dữ, do nghiệp cần phải trả trong một đời khác, nên được sanh ra ở cõi trời. Thật vậy, không có chúng sanh nào lang thang trong luân hồi mà không có nghiệp cần phải trả trong một đời khác. Họ cũng chứng đắc thiền định ở đó theo cách tương tự. Như vậy, do đã chứng đắc thiền định ở cõi trời, tất cả đều sanh ra ở cõi Phạm thiên. Và điều này được nói theo cách chung.

Keci pana ‘‘apāyasattā saṃvaṭṭamānalokadhātūhi aññesu lokadhātūsupi nibbattanti. Na hi sabbe apāyasattā tadā rūpārūpabhavesu uppajjantīti sakkā viññātuṃ apāyesu dīghāyukānaṃ devalokūpapattiyā asambhavato. Niyatamicchādiṭṭhiko pana vinassamānepi kappe nirayato na muccatiyeva, tasmā so tattha anibbattitvā piṭṭhicakkavāḷe nibbattati. Niyatamicchādiṭṭhiyā hi samannāgatassa bhavato vuṭṭhānaṃ nāma natthi. Tāya hi samannāgatassa neva saggo atthi, na maggo, tasmā so saṃvaṭṭamānacakkavāḷato aññattha niraye nibbattitvā paccati. Kiṃ pana piṭṭhicakkavāḷaṃ na jhāyatīti? Jhāyati. Tasmiṃ jhāyamānepi esa ākāse ekasmiṃ padese paccatī’’ti vadanti.
Tuy nhiên, một số người nói rằng: “Các chúng sanh trong cõi dữ, từ các thế giới đang hoại diệt, cũng sanh ra ở các thế giới khác. Thật vậy, không thể biết chắc rằng tất cả các chúng sanh trong cõi dữ lúc đó đều sanh ra ở các cõi sắc và vô sắc, vì những người có tuổi thọ dài ở các cõi dữ không thể nào sanh lên cõi trời. Còn người có tà kiến cố định thì dù kiếp có hoại diệt cũng không thoát khỏi địa ngục. Do đó, không sanh ra ở đó, người đó sanh ra ở một thế giới bên cạnh. Thật vậy, người có tà kiến cố định không có sự thoát khỏi cõi hữu. Đối với người có tà kiến đó, không có cõi trời, cũng không có đạo. Do đó, người đó sanh ra và chịu khổ trong một địa ngục ở nơi khác ngoài thế giới đang hoại diệt. Nhưng chẳng phải thế giới bên cạnh cũng bị cháy hay sao? Bị cháy. Ngay cả khi nó đang cháy, người đó cũng chịu khổ ở một nơi trong không trung.”

Vassūpacchedato pana uddhaṃ dīghassa addhuno accayena dutiyo sūriyo pātubhavati, pātubhūte pana tasmiṃ neva rattiparicchedo, na divāparicchedo paññāyati. Eko sūriyo uṭṭheti, eko atthaṃ gacchati, avicchinnasūriyasantāpova loko hoti. Yathā ca kappavuṭṭhānakālato pubbe uppannasūriyavimāne sūriyadevaputto hoti, evaṃ kappavināsakasūriye natthi. Kappavuṭṭhānakāle pana yathā aññe kāmāvacaradevā, evaṃ sūriyadevaputtopi jhānaṃ nibbattetvā brahmalokaṃ upapajjati. Sūriyamaṇḍalaṃ pana pabhassaratarañceva tejavantatarañca hutvā pavattati. Taṃ antaradhāyitvā aññameva uppajjatīti apare. Tattha pakatisūriye vattamāne ākāse valāhakāpi dhūmasikhāpi vattanti, kappavināsakasūriye vattamāne vigatadhūmavalāhakaṃ ādāsamaṇḍalaṃ viya nimmalaṃ nabhaṃ hoti. Ṭhapetvā pañca mahānadiyo sesakunnadiādīsu udakaṃ sussati.
Và sau khi mưa đã dứt, sau một thời gian dài, mặt trời thứ hai xuất hiện. Và khi nó xuất hiện, không còn sự phân biệt ngày đêm nào được biết đến. Một mặt trời mọc lên, một mặt trời lặn xuống; thế gian chỉ còn là sự thiêu đốt không ngừng của mặt trời. Và giống như trong cung điện mặt trời vào thời kỳ kiếp đang hình thành có một vị thiên tử mặt trời, thì trong các mặt trời hủy diệt kiếp không có. Thật vậy, vào thời kỳ kiếp đang hình thành, giống như các vị trời khác ở cõi dục, vị thiên tử mặt trời cũng tạo ra thiền định và sanh lên cõi Phạm thiên. Còn đĩa mặt trời thì tồn tại với vẻ rực rỡ và sức nóng hơn. Một số khác nói rằng, cái đó biến mất và một cái khác sanh khởi. Ở đó, khi mặt trời bình thường đang chiếu sáng, trên bầu trời có cả mây và khói; khi mặt trời hủy diệt kiếp đang chiếu sáng, bầu trời trong sạch như một tấm gương, không có mây và khói. Ngoại trừ năm con sông lớn, nước ở các con sông nhỏ và suối còn lại đều khô cạn.

Tatopi dīghassa addhuno accayena tatiyo sūriyo pātubhavati, yassa pātubhāvā mahānadiyopi sussanti.
Sau đó, sau một thời gian dài, mặt trời thứ ba xuất hiện; do sự xuất hiện của nó, ngay cả các con sông lớn cũng khô cạn.

Tatopi dīghassa addhuno accayena catuttho sūriyo pātubhavati, yassa pātubhāvā himavati mahānadīnaṃ pabhavā sīhappapātadaho mandākinīdaho kaṇṇamuṇḍadaho rathakāradaho anotattadaho chaddantadaho kuṇāladahoti ime satta mahāsarā sussanti.
Sau đó, sau một thời gian dài, mặt trời thứ tư xuất hiện; do sự xuất hiện của nó, bảy hồ lớn là nguồn của các con sông lớn ở dãy Himavanta, đó là hồ Sīhappapāta, hồ Mandākini, hồ Kaṇṇamuṇḍa, hồ Rathakāra, hồ Anotatta, hồ Chaddanta và hồ Kuṇāla, đều khô cạn.

Tatopi dīghassa addhuno accayena pañcamo sūriyo pātubhavati, yassa pātubhāvā anupubbena mahāsamudde aṅgulipabbatemanamattampi udakaṃ na saṇṭhāti.
Sau đó, sau một thời gian dài, mặt trời thứ năm xuất hiện; do sự xuất hiện của nó, tuần tự trong biển lớn không còn lại dù chỉ một lượng nước đủ để làm ướt một đốt ngón tay.

Tatopi dīghassa addhuno accayena chaṭṭho sūriyo pātubhavati, yassa pātubhāvā sakalacakkavāḷaṃ ekadhūmaṃ hoti pariyādinnasinehaṃ dhūmena. Yāya hi āpodhātuyā tattha tattha pathavīdhātu ābandhattā sampiṇḍitā hutvā tiṭṭhati, sā chaṭṭhasūriyapātubhāvena parikkhayaṃ gacchati. Yathā cidaṃ, evaṃ koṭisatasahassacakkavāḷānipi.
Sau đó, sau một thời gian dài, mặt trời thứ sáu xuất hiện; do sự xuất hiện của nó, toàn bộ thế giới trở thành một khối khói, hơi ẩm bị hút cạn bởi khói. Thật vậy, thủy đại, vốn là thứ kết dính và làm cho địa đại ở các nơi trở nên rắn chắc, bị tiêu hủy do sự xuất hiện của mặt trời thứ sáu. Và giống như thế giới này, một trăm ngàn ức thế giới cũng vậy.

Tatopi dīghassa addhuno accayena sattamo sūriyo pātubhavati, yassa pātubhāvā sakalacakkavāḷaṃ ekajālaṃ hoti saddhiṃ koṭisatasahassacakkavāḷehi, yojanasatikādibhedāni sinerukūṭāni palujjitvā ākāseyeva antaradhāyanti. Sā aggijālā uṭṭhahitvā cātumahārājike gaṇhāti. Tattha kanakavimānaratanavimānamaṇivimānāni jhāpetvā tāvatiṃsabhavanaṃ gaṇhāti. Etenevūpāyena yāva paṭhamajjhānabhūmiṃ gaṇhāti, tattha tayopi brahmaloke jhāpetvā ābhassare āhacca tiṭṭhati. Sā yāva aṇumattampi saṅkhāragataṃ atthi, tāva na nibbāyati. Sabbasaṅkhāraparikkhayā pana sappitelajjhāpanaggisikhā viya chārikampi anavasesetvā nibbāyati. Heṭṭhāākāsena saha upariākāso eko hoti mahandhakāro.
Sau đó, sau một thời gian dài, mặt trời thứ bảy xuất hiện; do sự xuất hiện của nó, toàn bộ thế giới trở thành một khối lửa, cùng với một trăm ngàn ức thế giới. Các đỉnh núi Sineru có các loại kích thước như một trăm do-tuần v.v… tan rã và biến mất ngay trên không trung. Ngọn lửa đó bốc lên và thiêu rụi cõi Tứ Thiên Vương. Sau khi thiêu rụi các cung điện bằng vàng, bằng ngọc, bằng châu báu ở đó, nó thiêu rụi cõi trời Ba Mươi Ba. Theo cách đó, nó thiêu rụi cho đến cõi Phạm thiên của thiền thứ nhất. Sau khi thiêu rụi cả ba cõi Phạm thiên ở đó, nó dừng lại khi chạm đến cõi trời Ābhassarā. Chừng nào còn dù chỉ một chút vật chất hữu vi nhỏ như nguyên tử, nó vẫn không tắt. Nhưng sau khi tất cả các hành đã bị tiêu hủy hoàn toàn, nó tắt ngấm mà không để lại cả tro, giống như ngọn lửa thiêu đốt bơ sữa. Không gian bên dưới và không gian bên trên trở thành một, một bóng tối vĩ đại.

Evaṃ ekamasaṅkhyeyyaṃ ekaṅgaṇaṃ hutvā ṭhite lokasannivāse lokassa saṇṭhānatthāya devo vassituṃ ārabhati, āditova antaraṭṭhake himapāto viya hoti. Tato kaṇamattā taṇḍulamattā muggamāsabadaraāmalakaeḷālukakumbhaṇḍaalābumattā udakadhārā hutvā anukkamena usabhadveusabhaaḍḍhagāvutagāvutaaḍḍhayojanayojanadviyojana…pe… yojanasatayojanasahassamattā hutvā koṭisatasahassacakkavāḷagabbhantaraṃ yāva avinaṭṭhabrahmalokā pūretvā antaradhāyati. Taṃ udakaṃ heṭṭhā ca tiriyañca vāto samuṭṭhahitvā ghanaṃ karoti parivaṭumaṃ paduminīpatte udakabindusadisaṃ.
Như vậy, sau khi nơi ở của thế gian đã trở thành một khoảng không trống rỗng trong một a-tăng-kỳ, để thế gian được hình thành trở lại, trời bắt đầu mưa. Lúc đầu, nó giống như sương giá rơi xuống giữa các khoảng trống. Sau đó, tuần tự trở thành những dòng nước có kích thước bằng hạt kê, hạt gạo, hạt đậu xanh, hạt táo, quả amla, quả bầu, quả bí, rồi dần dần có kích thước bằng một ách bò, hai ách bò, nửa gāvuta, một gāvuta, nửa do-tuần, một do-tuần, hai do-tuần…v.v… cho đến khi có kích thước bằng một trăm do-tuần, một ngàn do-tuần, rồi làm đầy không gian bên trong của một trăm ngàn ức thế giới cho đến tận các cõi Phạm thiên chưa bị hủy diệt, rồi biến mất. Gió nổi lên từ bên dưới và từ các phía làm cho khối nước đó trở nên đặc lại, tròn trịa như một giọt nước trên lá sen.

Kathaṃ tāvamahantaṃ udakarāsiṃ ghanaṃ karotīti ce? Vivarasampadānato vātassāti. Tañhissa tahiṃ tahiṃ vivaraṃ deti. Taṃ evaṃ vātena sampiṇḍiyamānaṃ ghanaṃ kariyamānaṃ parikkhayamānaṃ anupubbena heṭṭhā otarati. Otiṇṇe otiṇṇe udake brahmalokaṭṭhāne brahmaloko, uparicatukāmāvacaradevalokaṭṭhāne ca devalokā pātubhavanti. Cātumahārājikatāvatiṃsabhavanāni pana pathavīsambandhatāya na tāva pātubhavanti. Purimapathaviṭṭhānaṃ otiṇṇe pana balavavātā uppajjanti, te taṃ pihitadvāre dhammakaraṇe ṭhitaudakamiva nirussāsaṃ katvā rumbhanti . Madhurodakaṃ parikkhayaṃ gacchamānaṃ upari rasapathaviṃ samuṭṭhāpeti, udakapiṭṭhe uppalinīpattaṃ viya pathavī saṇṭhāti. Sā vaṇṇasampannā ceva hoti gandharasasampannā ca nirudakapāyāsassa upari paṭalaṃ viya. Ettha pana mahābodhipallaṅkaṭṭhānaṃ vinassamāne loke pacchā vinassati, saṇṭhahamāne paṭhamaṃ saṇṭhahatīti veditabbaṃ.
Nếu hỏi rằng, làm thế nào mà nó có thể làm cho một khối nước lớn như vậy trở nên đặc lại? Là do gió có được các khoảng trống. Thật vậy, nó tạo ra các khoảng trống ở khắp nơi. Và khối nước đó, khi bị gió nén lại, làm cho đặc lại, làm cho cạn đi, tuần tự hạ xuống dưới. Khi nước hạ xuống, ở vị trí của các cõi Phạm thiên, cõi Phạm thiên xuất hiện; và ở vị trí của bốn cõi trời dục giới ở trên, các cõi trời xuất hiện. Còn các cung điện của cõi Tứ Thiên Vương và cõi Ba Mươi Ba thì chưa xuất hiện, vì có sự liên quan đến đất. Và khi nước đã hạ xuống vị trí của đất cũ, các cơn gió mạnh sanh khởi, chúng giữ chặt khối nước đó như nước được giữ trong một dụng cụ có cửa đóng kín, làm cho nó không còn hơi. Nước ngọt, khi cạn đi, tạo ra một lớp đất tinh túy ở trên; đất hình thành trên mặt nước như một chiếc lá sen. Nó có màu sắc đẹp đẽ và có cả hương vị thơm ngon, giống như lớp váng ở trên nồi cháo sữa không có nước. Và ở đây, cần phải hiểu rằng nơi có tòa Bồ-đề, khi thế giới hoại diệt thì bị hủy diệt sau cùng, và khi hình thành thì được hình thành trước tiên.

Tadā ca ābhassarabrahmaloke paṭhamatarābhinibbattā sattā āyukkhayā vā puññakkhayā vā tato cavitvā opapātikā hutvā idhūpapajjanti, te honti sayaṃpabhā antalikkhacarā, te taṃ rasapathaviṃ sāyitvā taṇhābhibhūtā āluppakārakaṃ paribhuñjituṃ upakkamanti. Atha tesaṃ sayaṃpabhā antaradhāyati, andhakāro hoti. Te andhakāraṃ disvā bhāyanti. Tato tesaṃ bhayaṃ nāsetvā sūrabhāvaṃ janayantaṃ paripuṇṇapaññāsayojanaṃ sūriyamaṇḍalaṃ pātubhavati. Te taṃ disvā ‘‘ālokaṃ paṭilabhimhā’’ti haṭṭhatuṭṭhā hutvā ‘‘amhākaṃ bhītānaṃ bhayaṃ nāsetvā sūrabhāvaṃ janayanto uṭṭhito, tasmā sūriyo hotū’’ti sūriyotvevassa nāmaṃ karonti.
Và lúc bấy giờ, các chúng sanh đã sanh ra trước tiên ở cõi Phạm thiên Ābhassarā, do hết tuổi thọ hoặc hết phước báu, từ đó chết đi và sanh ra ở đây theo cách hóa sanh. Họ có ánh sáng tự thân, đi lại trên không trung. Họ nếm thử lớp đất tinh túy đó, rồi bị ái dục chi phối, bắt đầu ăn nó từng miếng một. Bấy giờ, ánh sáng tự thân của họ biến mất, bóng tối bao trùm. Họ thấy bóng tối và sợ hãi. Sau đó, để xua tan nỗi sợ hãi và làm sanh khởi lòng dũng cảm cho họ, đĩa mặt trời tròn đầy năm mươi do-tuần xuất hiện. Họ thấy nó và vui mừng hoan hỷ rằng: “Chúng ta đã có được ánh sáng,” rồi họ đặt tên cho nó là mặt trời (sūriyo) rằng: “Nó đã mọc lên, xua tan nỗi sợ hãi và làm sanh khởi lòng dũng cảm cho chúng ta đang sợ hãi, do đó nó là mặt trời.”

Atha sūriye divasaṃ ālokaṃ katvā atthaṅgate ‘‘yampi ālokaṃ labhimha, sopi no naṭṭho’’ti puna bhītā honti. Tesaṃ evaṃ hoti ‘‘sādhu vatassa, sace aññaṃ ālokaṃ labheyyāmā’’ti. Tesaṃ cittaṃ ñatvā viya ekūnapaññāsayojanaṃ candamaṇḍalaṃ pātubhavati. Te taṃ disvā bhiyyoso mattāya haṭṭhatuṭṭhā hutvā ‘‘amhākaṃ chandaṃ ñatvā viya uṭṭhito, tasmā cando hotū’’ti candotvevassa nāmaṃ karonti.
Bấy giờ, sau khi mặt trời đã chiếu sáng ban ngày rồi lặn xuống, họ lại sợ hãi rằng: “Cả ánh sáng mà chúng ta đã có được cũng đã mất rồi.” Họ nghĩ rằng: “Thật tốt biết bao nếu chúng ta có được một ánh sáng khác.” Như thể biết được ý muốn (chanda) của họ, đĩa mặt trăng bốn mươi chín do-tuần xuất hiện. Họ thấy nó và lại càng vui mừng hoan hỷ hơn, rồi họ đặt tên cho nó là mặt trăng (cando) rằng: “Nó đã mọc lên như thể biết được ý muốn của chúng ta, do đó nó là mặt trăng.”

Evaṃ candimasūriyesu pātubhūtesu nakkhattāni tārakarūpāni pātubhavanti, tato pabhuti rattindivā paññāyanti, anukkamena ca māsaḍḍhamāsautusaṃvaccharā, candimasūriyānaṃ pātubhūtadivaseyeva sinerucakkavāḷahimavantapabbatā dīpasamuddā ca pātubhavanti. Te ca kho apubbaṃ acarimaṃ phagguṇapuṇṇamadivaseyeva pātubhavanti. Kathaṃ? Yathā nāma kaṅgubhatte paccamāne ekappahāreneva pubbuḷakā uṭṭhahanti, eke padesā thūpathūpā honti, eke ninnaninnā, eke samasamā, evameva thūpathūpaṭṭhāne pabbatā honti, ninnaninnaṭṭhāne samuddā, samasamaṭṭhāne dīpāti.
Như vậy, sau khi mặt trời và mặt trăng xuất hiện, các vì sao và các hành tinh xuất hiện. Từ đó, ngày và đêm được biết đến; và tuần tự, tháng, nửa tháng, mùa và năm. Và vào chính ngày mặt trời và mặt trăng xuất hiện, các ngọn núi Sineru, Thiết Vi, Himavanta, các châu và các biển cũng xuất hiện. Và chúng xuất hiện không trước không sau, vào chính ngày rằm tháng Phagguṇa. Như thế nào? Giống như khi nấu cơm kê, các bọt khí nổi lên cùng một lúc; có những chỗ nhô cao, có những chỗ trũng xuống, có những chỗ bằng phẳng. Cũng vậy, ở những chỗ nhô cao, các ngọn núi hình thành; ở những chỗ trũng xuống, các biển hình thành; ở những chỗ bằng phẳng, các châu hình thành.

Atha tesaṃ sattānaṃ rasapathaviṃ paribhuñjantānaṃ kammena ekacce vaṇṇavanto honti, ekacce dubbaṇṇā honti. Tattha vaṇṇavanto dubbaṇṇe atimaññanti, tesaṃ atimānapaccayā sāpi rasapathavī antaradhāyati, bhūmipappaṭako pātubhavati. Atha nesaṃ teneva nayena sopi antaradhāyati, atha padālatā pātubhavati. Teneva nayena sāpi antaradhāyati, akaṭṭhapāko sāli pātubhavati akaṇo athuso sugandho taṇḍulaphalo. Tato nesaṃ bhājanāni uppajjanti. Te sāliṃ bhājane ṭhapetvā pāsāṇapiṭṭhiyaṃ ṭhapenti, sayameva jālasikhā uṭṭhahitvā taṃ pacati. So hoti odano sumanajātipupphasadiso, na tassa sūpena vā byañjanena vā karaṇīyaṃ atthi, yaṃ yaṃ rasaṃ bhuñjitukāmā honti, taṃtaṃrasova hoti. Tesaṃ taṃ oḷārikaṃ āhāraṃ āharayataṃ tato pabhuti muttakarīsaṃ sañjāyati. Tathā hi rasapathavī bhūmipappaṭako padālatāti ime tāva paribhuttā sudhāhāro viya khudaṃ vinodetvā rasaharaṇīhi rasameva paribyūhentā tiṭṭhanti vatthuno sukhumabhāvena, na nissandā, sukhumabhāveneva gahaṇindhanameva ca hoti. Odano pana paribhutto rasaṃ vaḍḍhentopi vatthuno oḷārikabhāveneva nissandaṃ vissajjento passāvaṃ karīsañca uppādeti.
Bấy giờ, khi những chúng sanh đó đang ăn lớp đất tinh túy, do nghiệp của họ, một số trở nên xinh đẹp, một số trở nên xấu xí. Ở đó, những người xinh đẹp khinh thường những người xấu xí. Do sự kiêu mạn của họ, lớp đất tinh túy đó cũng biến mất, và váng đất xuất hiện. Sau đó, theo cách tương tự, nó cũng biến mất, rồi dây leo padālatā xuất hiện. Theo cách tương tự, nó cũng biến mất, rồi loại gạo sāli tự chín, không có cám, không có trấu, thơm ngon, có quả là hạt gạo xuất hiện. Từ đó, các dụng cụ nấu nướng của họ sanh khởi. Họ đặt gạo sāli vào nồi, rồi đặt lên trên các phiến đá; ngọn lửa tự bốc lên và nấu chín nó. Cơm đó giống như hoa nhài, không cần phải có canh hay thức ăn kèm; họ muốn ăn vị gì thì nó có vị đó. Và khi họ ăn thức ăn thô đó, từ đó về sau, phân và nước tiểu được tạo ra. Thật vậy, lớp đất tinh túy, váng đất và dây leo padālatā, khi được ăn, chúng chỉ làm dịu cơn đói như thức ăn của chư thiên, và chỉ lan tỏa chất bổ dưỡng qua các mạch, do bản chất vi tế của vật chất, không có chất thải, và chỉ là nhiên liệu do sự vi tế của nó. Còn cơm, khi được ăn, mặc dù cũng làm tăng chất bổ dưỡng, nhưng do bản chất thô của vật chất, nó thải ra chất thải, tạo ra nước tiểu và phân.

Atha tesaṃ nikkhamanatthāya vaṇamukhāni pabhijjanti. Purisassa purisabhāvo, itthiyā itthibhāvo pātubhavati. Purimattabhāvesu hi pavattaupacārajjhānānubhāvena yāva sattasantānesu kāmarāgo vikkhambhanavegena samito , na tāva bahalakāmarāgūpanissayāni itthipurisindriyāni pāturahesuṃ. Yadā panassa vicchinnatāya bahalakāmarāgo laddhāvasaro ahosi, tadā tadupanissayāni tāni sattānaṃ attabhāvesu sañjāyiṃsu, tadā itthī purisaṃ, puriso ca itthiṃ ativelaṃ upanijjhāyati. Tesaṃ ativelaṃ upanijjhāyanapaccayā kāmapariḷāho uppajjati, tato methunaṃ dhammaṃ paṭisevanti. Te asaddhammapaṭisevanapaccayā viññūhi garahiyamānā viheṭhiyamānā tassa asaddhammassa paṭicchādanahetu agārāni karonti. Te agāraṃ ajjhāvasamānā anukkamena aññatarassa alasajātikassa sattassa diṭṭhānugatiṃ āpajjantā sannidhiṃ karonti. Tato pabhuti kaṇopi thusopi taṇḍulaṃ pariyonandhanti, lāyitaṭṭhānampi na paṭiviruhati.
Bấy giờ, các lỗ thoát của họ bị vỡ ra để bài tiết. Trạng thái nam của người nam và trạng thái nữ của người nữ xuất hiện. Thật vậy, trong các thân phận trước, do uy lực của các tầng thiền thế gian đã được thực hành, chừng nào dục tham trong tâm tánh của các chúng sanh còn bị đè nén bởi sức mạnh của sự chế ngự, thì chừng đó các cơ quan sinh dục nam và nữ, vốn là nền tảng cho dục tham mạnh mẽ, chưa xuất hiện. Nhưng khi nó bị gián đoạn, dục tham mạnh mẽ có cơ hội sanh khởi, lúc bấy giờ những cơ quan nền tảng cho nó đã sanh ra trong thân mạng của các chúng sanh. Lúc đó, người nữ nhìn người nam một cách chăm chú, và người nam cũng nhìn người nữ một cách chăm chú. Do sự nhìn nhau chăm chú của họ, sự thiêu đốt của ái dục sanh khởi, rồi họ thực hành pháp hành dâm. Do thực hành pháp phi chánh pháp đó, bị những người trí tuệ khiển trách, phiền nhiễu, họ làm ra những ngôi nhà để che giấu pháp phi chánh pháp đó. Khi sống trong nhà, họ tuần tự bắt chước một chúng sanh lười biếng nào đó và bắt đầu tích trữ. Từ đó về sau, cám và trấu bao bọc hạt gạo, và nơi đã gặt cũng không mọc lại.

Te sannipatitvā anutthunanti ‘‘pāpakā vata bho dhammā sattesu pātubhūtā, mayañhi pubbe manomayā ahumhā’’ti, aggaññasutte (dī. ni. 3.128) vuttanayena vitthāretabbaṃ. Tato mariyādaṃ ṭhapenti, athaññataro satto aññassa bhāgaṃ adinnaṃ ādiyati, taṃ dvikkhattuṃ paribhāsetvā tatiyavāre pāṇileḍḍudaṇḍehi paharanti. Te evaṃ adinnādāne kalahamusāvādadaṇḍādānesu uppannesu ca sannipatitvā cintayanti ‘‘yannūna mayaṃ ekaṃ sattaṃ sammanneyyāma, yo no sammā khīyitabbaṃ khīyeyya, garahitabbaṃ garaheyya, pabbājetabbaṃ pabbājeyya, mayaṃ panassa sālīnaṃ bhāgamanuppadassāmā’’ti. Evaṃ katasanniṭṭhānesu pana sattesu imasmiṃ tāva kappe ayameva bhagavā bodhisattabhūto tena samayena tesu sattesu abhirūpataro ca dassanīyataro ca mahesakkhataro ca buddhisampanno paṭibalo niggahapaggahaṃ kātuṃ. Te taṃ upasaṅkamitvā yācitvā sammanniṃsu. So tena mahājanena sammatoti mahāsammato, khettānaṃ adhipatīti khattiyo, dhammena samena paresaṃ rañjetīti rājāti tīhi nāmehi paññāyittha. Yañhi loke acchariyaṭṭhānaṃ, bodhisattova tattha ādipurisoti evaṃ bodhisattaṃ ādiṃ katvā khattiyamaṇḍale saṇṭhite anupubbena brāhmaṇādayopi vaṇṇā saṇṭhahiṃsu.
Họ tụ tập lại và than thở rằng: “Ôi, các pháp ác đã xuất hiện giữa các chúng sanh, vì trước đây chúng ta là những chúng sanh do ý tạo,” cần phải được giải thích chi tiết theo cách đã nói trong kinh Khởi Thế Nhân Bổn (dī. ni. 3.128). Sau đó, họ đặt ra ranh giới. Bấy giờ, một chúng sanh nào đó lấy phần của người khác mà không được cho. Sau khi đã khiển trách người đó hai lần, vào lần thứ ba, họ dùng tay, gạch đá và gậy gộc để đánh. Khi các việc như trộm cắp, cãi vã, nói dối và trừng phạt đã sanh khởi như vậy, họ tụ tập lại và suy nghĩ: “Hay là chúng ta hãy bầu lên một chúng sanh, người đó sẽ khiển trách đúng người đáng bị khiển trách, quở trách đúng người đáng bị quở trách, trục xuất đúng người đáng bị trục xuất. Và chúng ta sẽ cung cấp cho người đó một phần gạo sāli.” Khi các chúng sanh đã quyết định như vậy, trong kiếp này, chính vị Bồ-tát Thế Tôn vào thời đó là người xinh đẹp nhất, ưa nhìn nhất, có quyền lực nhất, và có đầy đủ trí tuệ, có khả năng thực hiện việc trừng phạt và tưởng thưởng. Họ đến gần vị đó, thỉnh cầu và bầu lên. Vị đó được đại chúng bầu lên, nên là Mahāsammata; là chủ của các cánh đồng, nên là Khattiya; làm cho người khác vui lòng bằng Chánh pháp, bằng sự công bằng, nên là Rājā. Vị đó được biết đến bởi ba tên gọi đó. Thật vậy, bất cứ điều gì kỳ diệu trong thế gian, chính vị Bồ-tát là người đầu tiên ở đó. Như vậy, sau khi giai cấp vua chúa được hình thành, bắt đầu từ vị Bồ-tát, tuần tự các giai cấp khác như Bà-la-môn v.v… cũng được hình thành.

Tattha kappavināsakamahāmeghato yāva jālopacchedo, idamekamasaṅkhyeyyaṃ saṃvaṭṭoti vuccati. Kappavināsakajālopacchedato yāva koṭisatasahassacakkavāḷaparipūrako sampattimahāmegho, idaṃ dutiyamasaṅkhyeyyaṃ saṃvaṭṭaṭṭhāyīti vuccati. Sampattimahāmeghato yāva candimasūriyapātubhāvo, idaṃ tatiyamasaṅkhyeyyaṃ vivaṭṭoti vuccati. Candimasūriyapātubhāvato yāva puna kappavināsakamahāmegho, idaṃ catutthamasaṅkhyeyyaṃ vivaṭṭaṭṭhāyīti vuccati. Vivaṭṭaṭṭhāyīasaṅkhyeyyaṃ catusaṭṭhiantarakappasaṅgahaṃ. ‘‘Vīsatiantarakappasaṅgaha’’nti keci. Sesāsaṅkhyeyyāni kālato tena samappamāṇāneva. Imāni cattāri asaṅkhyeyyāni eko mahākappo hoti. Evaṃ tāva agginā vināso ca saṇṭhahanañca veditabbaṃ.
Ở đó, từ lúc có trận mưa lớn hủy diệt kiếp cho đến khi ngọn lửa tắt, một a-tăng-kỳ này được gọi là sự hoại diệt. Từ lúc ngọn lửa hủy diệt kiếp tắt cho đến khi có trận mưa lớn mang lại sự thành tựu, làm đầy một trăm ngàn ức thế giới, một a-tăng-kỳ thứ hai này được gọi là sự tồn tại trong hoại diệt. Từ lúc có trận mưa lớn mang lại sự thành tựu cho đến khi mặt trời và mặt trăng xuất hiện, một a-tăng-kỳ thứ ba này được gọi là sự hình thành. Từ lúc mặt trời và mặt trăng xuất hiện cho đến khi lại có trận mưa lớn hủy diệt kiếp, một a-tăng-kỳ thứ tư này được gọi là sự tồn tại trong hình thành. A-tăng-kỳ tồn tại trong hình thành bao gồm sáu mươi tư trung kiếp. Một số người nói rằng: “bao gồm hai mươi trung kiếp.” Các a-tăng-kỳ còn lại về mặt thời gian cũng có độ dài tương đương. Bốn a-tăng-kỳ này là một đại kiếp. Như vậy, cần phải hiểu sự hủy diệt và sự hình thành do lửa là như vậy.

Yasmiṃ pana samaye kappo udakena nassati, āditova kappavināsakamahāmegho vuṭṭhahitvāti pubbe vuttanayeneva vitthāretabbaṃ. Ayaṃ pana viseso – yathā tattha dutiyasūriyo, evamidha kappavināsako khārudakamahāmegho vuṭṭhāti. So ādito sukhumaṃ sukhumaṃ vassanto anukkamena mahādhārāhi koṭisatasahassacakkavāḷānaṃ pūrento vassati. Khārudakena phuṭṭhaphuṭṭhā pathavīpabbatādayo vilīyanti, udakaṃ samantato vātehi dhārīyati. Pathaviyā heṭṭhimantato pabhuti yāva dutiyajjhānabhūmiṃ udakaṃ gaṇhāti. Tena hi khārudakena phuṭṭhaphuṭṭhā pathavīpabbatādayo udake pakkhittaloṇasakkharā viya vilīyanteva, tasmā pathavīsandhārakaudakena saddhiṃ ekūdakameva taṃ hotīti keci. Apare pana ‘‘pathavīsandhārakaudakaṃ taṃ sandhārakavāyukkhandhañca anavasesato vināsetvā sabbattha sayameva eko ghanabhūto tiṭṭhatī’’ti vadanti, taṃ yuttaṃ. Upari pana chapi brahmaloke vilīyāpetvā subhakiṇhe āhacca tiṭṭhati, taṃ yāva aṇumattampi saṅkhāragataṃ atthi, tāva na vūpasammati, udakānugataṃ pana sabbaṃ saṅkhāragataṃ abhibhavitvā sahasā vūpasammati, antaradhānaṃ gacchati. Heṭṭhāākāsena saha upariākāso eko hoti mahandhakāroti sabbaṃ vuttasadisaṃ. Kevalaṃ panidha ābhassarabrahmalokaṃ ādiṃ katvā loko pātubhavati. Subhakiṇhato cavitvā ābhassaraṭṭhānādīsu sattā nibbattanti. Tattha kappavināsakamahāmeghato yāva kappavināsakakhārudakopacchedo, idamekamasaṅkhyeyyaṃ . Udakupacchedato yāva sampattimahāmegho, idaṃ dutiyamasaṅkhyeyyaṃ. Sampattimahāmeghato yāva candimasūriyapātubhāvo, idaṃ tatiyamasaṅkhyeyyaṃ. Candimasūriyapātubhāvato yāva kappavināsakamahaāmegho, idaṃ catutthamasaṅkhyeyyaṃ. Imāni cattāri asaṅkhyeyyāni eko mahākappo hoti. Evaṃ udakena vināso ca saṇṭhahanañca veditabbaṃ.
Còn vào lúc nào kiếp bị hủy diệt bởi nước, lúc đầu một trận mưa lớn hủy diệt kiếp nổi lên, cần phải được giải thích chi tiết theo cách đã nói ở trên. Tuy nhiên, có sự khác biệt này: giống như ở đó có mặt trời thứ hai, thì ở đây có một trận mưa lớn nước mặn hủy diệt kiếp nổi lên. Nó, lúc đầu mưa từng giọt nhỏ, tuần tự mưa với những dòng lớn làm đầy một trăm ngàn ức thế giới. Các ngọn núi, đất đai v.v… khi bị nước mặn chạm vào đều tan rã; nước được các cơn gió giữ lại ở xung quanh. Nước bao trùm từ tầng dưới của đất cho đến cõi Phạm thiên của thiền thứ hai. Thật vậy, do nước mặn đó, các ngọn núi, đất đai v.v… khi bị chạm vào đều tan rã như muối và đường được bỏ vào nước. Do đó, một số người nói rằng nó trở thành một khối nước duy nhất cùng với dòng nước giữ trái đất. Một số khác lại nói rằng: “nó hủy diệt hoàn toàn dòng nước giữ trái đất và khối gió giữ nó, rồi tự mình đứng đó thành một khối đặc,” điều đó hợp lý. Và ở trên, sau khi làm tan rã cả sáu cõi Phạm thiên, nó dừng lại khi chạm đến cõi Subhakiṇha. Chừng nào còn dù chỉ một chút vật chất hữu vi nhỏ như nguyên tử, nó vẫn không lắng dịu. Nhưng sau khi đã chinh phục tất cả vật chất hữu vi đi cùng với nước, nó đột nhiên lắng dịu, biến mất. Không gian bên dưới và không gian bên trên trở thành một, một bóng tối vĩ đại. Tất cả đều giống như đã nói. Tuy nhiên, chỉ có điều là ở đây thế giới xuất hiện bắt đầu từ cõi Phạm thiên Ābhassarā. Sau khi chết từ cõi Subhakiṇha, các chúng sanh sanh ra ở các nơi như cõi Ābhassarā. Ở đó, từ lúc có trận mưa lớn hủy diệt kiếp cho đến khi trận mưa nước mặn hủy diệt kiếp chấm dứt, là một a-tăng-kỳ. Từ lúc nước chấm dứt cho đến khi có trận mưa lớn mang lại sự thành tựu, là a-tăng-kỳ thứ hai. Từ lúc có trận mưa lớn mang lại sự thành tựu cho đến khi mặt trời và mặt trăng xuất hiện, là a-tăng-kỳ thứ ba. Từ lúc mặt trời và mặt trăng xuất hiện cho đến khi lại có trận mưa lớn hủy diệt kiếp, là a-tăng-kỳ thứ tư. Bốn a-tăng-kỳ này là một đại kiếp. Như vậy, cần phải hiểu sự hủy diệt và sự hình thành do nước là như vậy.

Yasmiṃ samaye kappo vātena nassati, āditova kappavināsakamahāmegho vuṭṭhahitvāti pubbe vuttanayeneva vitthāretabbaṃ. Ayaṃ pana viseso – yathā tattha dutiyasūriyo, evamidha kappavināsanatthaṃ vāto samuṭṭhāti. So paṭhamaṃ thūlarajaṃ uṭṭhāpeti, tato saṇharajaṃ sukhumavālikaṃ thūlavālikaṃ sakkharapāsāṇādayoti yāvakūṭāgāramatte pāsāṇe visamaṭṭhāne ṭhitamahārukkhe ca uṭṭhāpeti. Te pathavito nabhamuggatā na puna patanti, tattheva cuṇṇavicuṇṇā hutvā abhāvaṃ gacchanti. Athānukkamena heṭṭhā mahāpathaviyā vāto samuṭṭhahitvā pathaviṃ parivattetvā uddhaṃ mūlaṃ katvā ākāse khipati. Yojanasatappamāṇāpi pathavippadesā dviyojanatiyojanacatuyojanapañcayojanachayojanasattayojanappamāṇāpi pabhijjitvā vātavegukkhittā ākāseyeva cuṇṇavicuṇṇā hutvā abhāvaṃ gacchanti. Cakkavāḷapabbatampi sinerupabbatampi vāto ukkhipitvā ākāse khipati. Te aññamaññaṃ abhihantvā cuṇṇavicuṇṇā hutvā vinassanti. Etenevūpāyena bhūmaṭṭhakavimānāni ca ākāsaṭṭhakavimānāni ca vināsento chakāmāvacaradevaloke vināsetvā koṭisatasahassacakkavāḷāni vināseti. Tattha cakkavāḷā cakkavāḷehi, himavantā himavantehi, sinerū sinerūhi aññamaññaṃ samāgantvā cuṇṇavicuṇṇā hutvā vinassanti. Pathavito yāva tatiyajjhānabhūmi vāto gaṇhāti, navapi brahmaloke vināsetvā vehapphale āhacca tiṭṭhati. Evaṃ pathavīsandhārakaudakena taṃsandhārakavātena ca saddhiṃ sabbasaṅkhāragataṃ vināsetvā sayampi vinassati avaṭṭhānassa kāraṇābhāvato. Heṭṭhāākāsena saha upariākāso eko hoti mahandhakāroti sabbaṃ vuttasadisaṃ. Idha pana subhakiṇhabrahmalokaṃ ādiṃ katvā loko pātubhavati. Vehapphalato cavitvā subhakiṇhaṭṭhānādīsu sattā nibbattanti. Tattha kappavināsakamahāmeghato yāva kappavināsakavātupacchedo, idamekamasaṅkhyeyyaṃ. Vātupacchedato yāva sampattimahāmegho, idaṃ dutiyamasaṅkhyeyyantiādi vuttanayameva. Evaṃ vātena vināso ca saṇṭhahanañca veditabbaṃ.
Vào lúc nào kiếp bị hủy diệt bởi gió, lúc đầu một trận mưa lớn hủy diệt kiếp nổi lên, cần phải được giải thích chi tiết theo cách đã nói ở trên. Tuy nhiên, có sự khác biệt này: giống như ở đó có mặt trời thứ hai, thì ở đây có một cơn gió nổi lên để hủy diệt kiếp. Nó, đầu tiên, cuốn lên lớp bụi thô; rồi đến lớp bụi mịn, lớp cát mịn, lớp cát thô, sỏi đá v.v… cho đến khi nó cuốn lên cả những tảng đá to bằng những tòa nhà có đỉnh nhọn và những cây lớn đứng ở những nơi không bằng phẳng. Chúng, sau khi bị cuốn lên khỏi mặt đất và bay lên không trung, không rơi xuống nữa, mà bị nghiền thành bột mịn ngay tại đó rồi biến mất. Sau đó, tuần tự, một cơn gió nổi lên từ dưới lòng đất, lật ngược trái đất lên và ném lên không trung. Ngay cả những vùng đất rộng một trăm do-tuần, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy do-tuần cũng bị vỡ ra, bị sức gió hất tung lên không trung, rồi bị nghiền thành bột mịn và biến mất. Gió cũng nhấc cả núi Thiết Vi và núi Sineru lên và ném vào không trung. Chúng va vào nhau, bị nghiền thành bột mịn rồi bị hủy diệt. Theo cách đó, sau khi hủy diệt các cung điện trên mặt đất và các cung điện trên không trung, nó hủy diệt sáu cõi trời dục giới, rồi hủy diệt một trăm ngàn ức thế giới. Ở đó, các thế giới va vào nhau, các dãy Himavanta va vào nhau, các núi Sineru va vào nhau, rồi bị nghiền thành bột mịn và bị hủy diệt. Gió bao trùm từ mặt đất cho đến cõi Phạm thiên của thiền thứ ba; nó hủy diệt cả chín cõi Phạm thiên rồi dừng lại khi chạm đến cõi Vehapphala. Như vậy, sau khi hủy diệt tất cả vật chất hữu vi cùng với dòng nước giữ trái đất và cơn gió giữ nó, chính nó cũng bị hủy diệt, do không có nguyên nhân để tồn tại. Không gian bên dưới và không gian bên trên trở thành một, một bóng tối vĩ đại. Tất cả đều giống như đã nói. Tuy nhiên, ở đây thế giới xuất hiện bắt đầu từ cõi Phạm thiên Subhakiṇha. Sau khi chết từ cõi Vehapphala, các chúng sanh sanh ra ở các nơi như cõi Subhakiṇha. Ở đó, từ lúc có trận mưa lớn hủy diệt kiếp cho đến khi cơn gió hủy diệt kiếp chấm dứt, là một a-tăng-kỳ. Từ lúc gió chấm dứt cho đến khi có trận mưa lớn mang lại sự thành tựu, là a-tăng-kỳ thứ hai v.v…, theo cách đã nói. Như vậy, cần phải hiểu sự hủy diệt và sự hình thành do gió là như vậy.

Atha kiṃkāraṇā evaṃ loko vinassati. Yadipi hi saṅkhārānaṃ ahetuko sarasanirodho vināsakābhāvato, santānanirodho pana hetuvirahito natthi. Yathā taṃ sattanikāyesūti bhājanalokassapi sahetukena vināsena bhavitabbaṃ, tasmā kimevaṃ lokavināse kāraṇanti? Akusalamūlaṃ kāraṇaṃ. Yathā hi tattha nibbattanakasattānaṃ puññabalena paṭhamaṃ loko vivaṭṭati, evaṃ tesaṃ pāpakammabalena saṃvaṭṭati, tasmā akusalamūlesu ussannesu evaṃ loko vinassati. Yathā hi rāgadosamohānaṃ adhikabhāvena yathākkamaṃ rogantarakappo satthantarakappo dubbhikkhantarakappoti ime tividhā antarakappā vivaṭṭaṭṭhāyimhi asaṅkhyeyyakappe jāyanti. Evamete yathāvuttā tayo saṃvaṭṭā rāgādīnaṃ adhikabhāveneva honti.
Vậy, do nguyên nhân gì mà thế gian lại bị hủy diệt như vậy? Mặc dù sự hoại diệt tự nhiên của các hành là không có nhân, do không có tác nhân hủy diệt, nhưng sự hoại diệt của dòng tương tục thì không phải là không có nhân. Giống như trong các loài chúng sanh, thì sự hủy diệt của thế gian đồ chứa cũng phải có nhân duyên. Do đó, nguyên nhân của sự hủy diệt thế gian như vậy là gì? Là các gốc bất thiện. Giống như lúc đầu thế giới hình thành do phước lực của các chúng sanh sanh ra ở đó, thì nó cũng hoại diệt do nghiệp ác của họ. Do đó, khi các gốc bất thiện trỗi dậy, thế gian bị hủy diệt như vậy. Giống như do sự vượt trội của tham, sân, và si, ba loại trung kiếp này: trung kiếp do bệnh tật, trung kiếp do vũ khí, và trung kiếp do nạn đói, sanh ra trong a-tăng-kỳ tồn tại trong hình thành. Cũng vậy, ba loại hoại diệt đã nói trên cũng xảy ra do sự vượt trội của tham ái v.v…

Tattha rāge ussannatare agginā vinassati, dose ussannatare udakena vinassati. Dose hi ussannatare adhikatarena dosena viya tikkhatarena khārudakena vināso yuttoti. Keci pana ‘‘dose ussannatare agginā, rāge udakenā’’ti vadanti, tesaṃ kira ayamadhippāyo – pākaṭasattusadisassa dosassa aggisadisatā, apākaṭasattusadisassa rāgassa khārudakasadisatā ca yuttāti. Mohe pana ussannatare vātena vinassati. Evaṃ vinassantopi ca nirantarameva satta vāre agginā nassati, aṭṭhame vāre udakena, puna satta vāre agginā, aṭṭhame udakenāti evaṃ aṭṭhame aṭṭhame vāre vinassanto sattakkhattuṃ udakena vinassitvā puna satta vāre agginā nassati. Ettāvatā tesaṭṭhi kappā atītā honti. Etthantare udakena nassanavāraṃ sampattampi paṭibāhitvā laddhokāso vāto paripuṇṇacatusaṭṭhikappāyuke subhakiṇhe viddhaṃsento lokaṃ vināseti. Ettha pana rāgo sattānaṃ bahulaṃ pavattatīti aggivasena bahuso lokavināso veditabbo. Iti evaṃ imehi kāraṇehi vinassitvā saṇṭhahantaṃ saṇṭhahitvā ṭhitañca okāsalokaṃ bhagavā yāthāvato avedīti evampissa sabbathā okāsaloko viditoti daṭṭhabbaṃ.
Ở đó, khi tham trỗi dậy mạnh hơn, thế gian bị hủy diệt bởi lửa. Khi sân trỗi dậy mạnh hơn, nó bị hủy diệt bởi nước. Thật vậy, khi sân trỗi dậy mạnh hơn, sự hủy diệt bởi nước mặn cực kỳ gay gắt, giống như sân hận cực kỳ mạnh mẽ, là hợp lý. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “khi sân trỗi dậy mạnh hơn, nó bị hủy diệt bởi lửa; khi tham trỗi dậy mạnh hơn, nó bị hủy diệt bởi nước.” Chủ ý của họ là: sự tương đồng của sân, vốn giống như kẻ thù công khai, với lửa là hợp lý; và sự tương đồng của tham, vốn giống như kẻ thù không công khai, với nước mặn là hợp lý. Còn khi si trỗi dậy mạnh hơn, nó bị hủy diệt bởi gió. Và khi bị hủy diệt như vậy, nó bị hủy diệt bởi lửa bảy lần liên tiếp, rồi vào lần thứ tám, nó bị hủy diệt bởi nước. Lại bảy lần bởi lửa, rồi lần thứ tám bởi nước. Cứ như vậy, khi bị hủy diệt vào mỗi lần thứ tám, sau khi đã bị hủy diệt bởi nước bảy lần, nó lại bị hủy diệt bởi lửa bảy lần nữa. Đến đó, sáu mươi ba kiếp đã trôi qua. Trong khoảng thời gian đó, dù đã đến lượt bị hủy diệt bởi nước, nhưng gió, sau khi đã có được cơ hội và ngăn cản, đã hủy diệt thế giới, phá tan cõi Subhakiṇha vốn có tuổi thọ trọn vẹn sáu mươi tư kiếp. Và ở đây, cần phải hiểu rằng sự hủy diệt của thế gian phần lớn là do lửa, vì tham ái thường xuyên diễn ra trong chúng sanh. Do đó, cần phải thấy rằng, do các nguyên nhân này, Thế Tôn đã biết như thật thế gian không gian, vốn bị hủy diệt rồi hình thành, và sau khi hình thành lại tồn tại. Như vậy, thế gian không gian của Ngài cũng đã được biết về mọi mặt.

Yaṃ pana heṭṭhā vuttaṃ ‘‘sabbathā viditalokattā lokavidū’’ti, idāni taṃ nigamento āha ‘‘evaṃ sabbathā viditalokattā lokavidū’’ti. Tattha sabbathāti lakkhaṇādippabhedato saṅkhāralokassa, āsayādippabhedato sattalokassa, parimāṇasaṇṭhānādippabhedato okāsalokassāti evaṃ sabbappakārena viditalokattāti attho.
Và điều đã được nói ở dưới là “do đã biết thế gian về mọi mặt, nên là Thế Gian Giải,” bây giờ để kết luận điều đó, (chú giải) nói: “Như vậy, do đã biết thế gian về mọi mặt, nên là Thế Gian Giải.” Ở đó, về mọi mặt có nghĩa là, do đã biết thế gian bằng tất cả các cách thức: thế gian hữu vi theo sự phân loại như các đặc tính v.v…; thế gian chúng sanh theo sự phân loại như tâm tánh v.v…; và thế gian không gian theo sự phân loại như kích thước, hình dạng v.v…

Idāni anuttaroti padassa atthaṃ saṃvaṇṇento āha ‘‘attano pana guṇehī’’tiādi. Tattha attanoti nissakkatthe sāmivacanametaṃ, attatoti attho. Guṇehi attano visiṭṭhatarassāti sambandho. Taraggahaṇañcettha ‘‘anuttaro’’ti padassa atthaniddesatāya kataṃ, na visiṭṭhassa kassaci atthitāya. Sadevake hi loke sadisakappopi nāma koci tathāgatassa natthi, kuto sadiso, visiṭṭhe pana kā kathā. Kassacīti kassacipi. Abhibhavatīti sīlasampadāya upanissayabhūtānaṃ hirottappamettākaruṇānaṃ visesapaccayānaṃ saddhāsativīriyapaññānañca ukkaṃsappattiyā samudāgamato paṭṭhāya na aññasādhāraṇo savāsanapaṭipakkhassa pahīnattā ukkaṃsapāramippatto satthu sīlaguṇo, tena bhagavā sadevakaṃ lokaṃ aññadatthu abhibhuyya pavattati, na sayaṃ kenaci abhibhuyyatīti adhippāyo. Evaṃ samādhiguṇādīsupi yathārahaṃ vattabbaṃ. Sīlādayo cete lokiyalokuttaramissakā veditabbā, vimuttiñāṇadassanaṃ pana lokiyaṃ kāmāvacarameva.
Bây giờ, trong khi giải thích ý nghĩa của từ Vô Thượng Sĩ, (chú giải) nói: “Còn bởi các phẩm hạnh của chính mình” v.v… Ở đó, của chính mình là sở hữu cách trong ý nghĩa tự thân; có nghĩa là, từ chính mình. Cần liên kết là: đối với người đặc biệt hơn mình về các phẩm hạnh. Và việc dùng từ so sánh hơn ở đây là để chỉ ý nghĩa của từ “vô thượng,” chứ không phải vì có một người đặc biệt nào đó tồn tại. Thật vậy, trong thế gian cùng với chư thiên, ngay cả một người có thể được xem là tương đương với Như Lai cũng không có, huống hồ gì là người bằng, thì còn nói gì đến người đặc biệt hơn. Của bất kỳ ai là của bất kỳ ai. Chinh phục, chủ ý là: do đã đạt đến sự tột cùng của các duyên đặc biệt là lòng hổ thẹn, sự ghê sợ và lòng từ bi, vốn là nền tảng cho sự đầy đủ về giới, và của đức tin, niệm, tinh tấn và trí tuệ; phẩm hạnh về giới của Bậc Đạo Sư, vốn đã đạt đến sự tột cùng của các ba-la-mật do đã đoạn trừ đối nghịch cùng với các tập khí, không chung với ai khác. Do đó, Thế Tôn tồn tại, chinh phục thế gian cùng với chư thiên một cách tuyệt đối, chứ không bị ai chinh phục. Trong các phẩm hạnh về thiền định v.v… cũng cần phải được nói tương tự như vậy. Và cần phải hiểu rằng các pháp như giới v.v… này là sự hỗn hợp giữa thế gian và siêu thế. Còn giải thoát và tri kiến thấy biết thì chỉ thuộc về thế gian, thuộc cõi dục.

Yadi evaṃ kathaṃ tena sadevakaṃ lokaṃ abhibhavatīti? Tassapi ānubhāvato asadisattā. Tampi hi visayato pavattito pavattiākārato ca uttaritarameva. Tañhi anaññasādhāraṇaṃ satthu vimuttiguṇaṃ ārabbha pavattati, pavattamānañca atakkāvacaraṃ paramagambhīraṃ saṇhaṃ sukhumaṃ sātisayaṃ paṭipakkhadhammānaṃ suppahīnattā suṭṭhu pākaṭaṃ vibhūtataraṃ katvā pavattati, sammadeva ca vasībhāvassa pāpakattā bhavaṅgaparivāsassa ca atiparittakattā lahu lahu pavattatīti.
Nếu vậy, làm thế nào mà Ngài chinh phục thế gian cùng với chư thiên bằng nó? Là do uy lực của nó không ai sánh bằng. Thật vậy, nó cũng vượt trội hơn về cả đối tượng lẫn cách thức vận hành. Thật vậy, nó vận hành liên quan đến phẩm hạnh giải thoát không chung với ai khác của Bậc Đạo Sư. Và khi vận hành, nó vận hành một cách không thể suy lường, vô cùng sâu sắc, vi tế, tinh tế, vượt trội, và làm cho các pháp đối nghịch đã được đoạn trừ một cách tốt đẹp trở nên vô cùng rõ ràng, hiển hiện. Và vì đã làm chủ một cách hoàn toàn, và vì giai đoạn trụ trong hữu phần là rất ngắn, nên nó vận hành rất nhanh chóng.

Evaṃ sīlādiguṇehi bhagavato uttaritarassa abhāvaṃ dassetvā idāni sadisassapi abhāvaṃ dassetuṃ ‘‘sīlaguṇenapi asamo’’tiādi vuttaṃ. Tattha asamoti ekasmiṃ kāle natthi etassa sīlādiguṇena samo sadisoti asamo. Tathā asamehi samo asamasamo. Asamā vā samā etassāti asamasamo. Sīlādiguṇena natthi etassa paṭimāti appaṭimo. Sesapadadvayepi eseva nayo. Tattha upamāmattaṃ paṭimā, sadisūpamā paṭibhāgo, yugaggāhavasena ṭhito paṭipuggaloti veditabbo.
Như vậy, sau khi đã chỉ ra sự không có người vượt trội hơn Thế Tôn về các phẩm hạnh như giới v.v…, bây giờ để chỉ ra sự không có cả người bằng, đã nói: “cũng không ai bằng về phẩm hạnh giới” v.v… Ở đó, không ai bằng là, vào một thời điểm, không có ai bằng, ngang hàng với Ngài về các phẩm hạnh như giới v.v…, nên là không ai bằng. Tương tự, bằng với những người không ai bằng, là người bằng với người không ai bằng. Hoặc là, những người không ai bằng cũng chỉ bằng với Ngài, nên là người bằng với người không ai bằng. Không có hình ảnh nào sánh được với Ngài về các phẩm hạnh như giới v.v…, nên là người không có hình ảnh sánh bằng. Trong hai từ còn lại cũng theo phương pháp này. Ở đó, cần phải hiểu rằng, hình ảnh chỉ là sự so sánh, đối trọng là sự so sánh ngang bằng, và đối thủ là người đứng ra tranh đua.

Na kho panāhaṃ bhikkhave samanupassāmītiādīsu mama samantacakkhunā hatthatale āmalakaṃ viya sabbaṃ lokaṃ passantopi tattha sadevake…pe… pajāya attano attato sīlasampannataraṃ sampannatarasīlaṃ kañcipi puggalaṃ na kho pana passāmi tādisassa abhāvatoti adhippāyo.
Trong các câu “Này các Tỳ-khưu, Ta không thấy” v.v…, chủ ý là: dù cho Ta thấy tất cả thế gian như quả amla trong lòng bàn tay bằng con mắt toàn diện của mình, nhưng ở đó, trong thế gian cùng với chư thiên…v.v… cùng với chúng sanh, Ta cũng không thấy bất kỳ một người nào có giới hạnh đầy đủ hơn, có giới hạnh cao thượng hơn chính mình, là do không có một người như vậy.

Aggappasādasuttādīnīti ettha –
Trong câu kinh Tín Tâm Tối Thượng v.v…, ở đây –

‘‘Yāvatā, bhikkhave, sattā apadā vā dvipadā vā catuppadā vā bahuppadā vā rūpino vā arūpino vā saññino vā asaññino vā nevasaññīnāsaññino vā, tathāgato tesaṃ aggamakkhāyati arahaṃ sammāsambuddho. Ye, bhikkhave, buddhe pasannā, agge te pasannā. Agge kho pana pasannānaṃ aggo vipāko hotī’’ti (a. ni. 4.34; itivu. 90) –
“Này các Tỳ-khưu, trong tất cả các chúng sanh, không chân, hai chân, bốn chân, hay nhiều chân, có sắc hay không có sắc, có tưởng hay không có tưởng, hay phi tưởng phi phi tưởng, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, được xem là tối thượng trong số đó. Này các Tỳ-khưu, những ai có lòng tin trong sạch nơi Phật, họ có lòng tin trong sạch nơi bậc tối thượng. Và đối với những người có lòng tin trong sạch nơi bậc tối thượng, quả báo cũng là tối thượng.” (a. ni. 4.34; itivu. 90) –

Idaṃ aggappasādasuttaṃ. Ādi-saddena –
Đây là kinh Tín Tâm Tối Thượng. Bằng từ v.v…,

‘‘Sadevake, bhikkhave, loke…pe… sadevamanussāya tathāgato abhibhū anabhibhūto aññadatthu daso vasavattī, tasmā tathāgatoti vuccatī’’ti (a. ni. 4.23; dī. ni. 3.188) –
“Này các Tỳ-khưu, trong thế gian cùng với chư thiên…v.v… cùng với trời và người, Như Lai là người chinh phục, không bị chinh phục, là người thấy một cách tuyệt đối, là người làm chủ. Do đó, Ngài được gọi là Như Lai.” (a. ni. 4.23; dī. ni. 3.188) –

Evamādīni suttapadāni veditabbāni. Ādikā gāthāyoti –
Cần phải hiểu các đoạn kinh như vậy. Các bài kệ v.v… là –

‘‘Ahañhi arahā loke, ahaṃ satthā anuttaro;
Ekomhi sammāsambuddho, sītibhūtosmi nibbuto. (mahāva. 11; ma. ni. 1.285; 2.341);
“Ta thật là bậc A-la-hán trong đời, Ta là bậc đạo sư vô thượng;
Ta là vị Chánh Đẳng Giác duy nhất, Ta đã trở nên mát mẻ, đã tịch tịnh.” (mahāva. 11; ma. ni. 1.285; 2.341);

‘‘Danto damayataṃ seṭṭho, santo samayataṃ isi;
Mutto mocayataṃ aggo, tiṇṇo tārayataṃ varo. (itivu. 112)
“Là người đã được điều phục, bậc tối thượng trong những người điều phục; là bậc tịch tịnh, vị ẩn sĩ trong những người tịch tịnh;
Là người đã giải thoát, bậc cao nhất trong những người giải thoát; là người đã vượt qua, bậc cao quý trong những người giúp vượt qua.” (itivu. 112)

‘‘Nayimasmiṃ loke parasmiṃ vā pana,
Buddhena seṭṭho sadiso ca vijjati;
Āhuneyyānaṃ paramāhutiṃ gato,
Puññatthikānaṃ vipulapphalesina’’nti. (vi. va. 1047; kathā. 799) –
“Trong đời này hay trong đời khác,
Không có ai cao thượng hơn hay bằng Phật;
Ngài đã đến nơi đáng được cúng dường tối thượng,
Đối với những người tìm cầu phước báu, mong cầu quả báo lớn lao.” (vi. va. 1047; kathā. 799) –

Evamādikā gāthā vitthāretabbā.
Các bài kệ như vậy cần được giải thích chi tiết.

Purisadammasārathītiādīsu damitabbāti dammā, damituṃ araharūpā. Purisā ca te dammā cāti purisadammā. Visesanassa cettha paranipātaṃ katvā niddeso, dammapurisāti attho. ‘‘Satipi mātugāmassapi dammabhāve purisaggahaṇaṃ ukkaṭṭhaparicchedavasenā’’ti vadanti. Sāretīti imassa atthaṃ dassento āha ‘‘dametī’’tiādi. Tattha dametīti sameti, kāyasamādīhi yojetīti attho. Taṃ pana kāyasamādīhi yojanaṃ yathārahaṃ tadaṅgavinayādīsu patiṭṭhāpanaṃ hotīti āha ‘‘vinetīti vuttaṃ hotī’’ti. Adantāti idaṃ sabbena sabbaṃ damataṃ anupagatā purisadammāti vuttāti katvā vuttaṃ. Ye pana vippakatadammabhāvā sabbathā dametabbataṃ nātivattā, tepi purisadammā eva, yato te satthā dameti. Bhagavā hi visuddhasīlassa paṭhamajjhānaṃ ācikkhati, paṭhamajjhānalābhino dutiyajjhānantiādinā tassa tassa uparūpari visesaṃ ācikkhanto ekadesena dantepi sameti. Teneva vuttaṃ visuddhimagge (visuddhi. 1.139) ‘‘api ca so bhagavā visuddhasīlādīnaṃ paṭhamajjhānādīni sotāpannādīnañca uttarimaggappaṭipadaṃ ācikkhanto dantepi dametiyevā’’ti. Atha vā sabbena sabbaṃ adantā ekadesena dantā ca idha adantaggahaṇeneva saṅgahitāti veditabbaṃ. Dametuṃ yuttāti damanārahā.
Trong các câu Người Đánh Xe Điều Ngự Những Người Cần Được Điều Ngự v.v…, những người cần được điều ngự là những người có thể được điều ngự. Họ là những người và họ là những người cần được điều ngự, nên là những người cần được điều ngự. Và ở đây, sự chỉ định được thực hiện bằng cách đặt tính từ ở sau; có nghĩa là, những người cần được điều ngự. Người ta nói rằng: “Mặc dù cả nữ giới cũng có trạng thái cần được điều ngự, nhưng việc dùng từ ‘người nam’ là theo cách xác định hạng cao nhất.” Để chỉ ra ý nghĩa của từ điều ngự (sāreti), (chú giải) nói: “điều phục” v.v… Ở đó, điều phục có nghĩa là làm cho lắng dịu; là kết hợp với sự điềm tĩnh của thân v.v… Và vì sự kết hợp với sự điềm tĩnh của thân v.v… đó là sự an trú trong sự chế ngự bằng các phần tương ứng, nên (chú giải) nói: “có nghĩa là rèn luyện.” Những người chưa được điều ngự, câu này được nói vì đã được nói là những người cần được điều ngự, là những người hoàn toàn chưa đạt đến sự điều phục. Còn những người nào có trạng thái cần được điều ngự chưa hoàn tất, hoàn toàn không vượt qua được khả năng được điều phục, họ cũng chính là những người cần được điều ngự, vì Bậc Đạo Sư điều phục họ. Thật vậy, Thế Tôn chỉ dạy thiền thứ nhất cho người có giới trong sạch; và Ngài cũng làm cho lắng dịu cả những người đã được điều phục một phần bằng cách chỉ dạy các pháp cao hơn tuần tự cho họ, như thiền thứ hai cho người đã chứng đắc thiền thứ nhất v.v… Chính vì thế, trong sách Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 1.139) đã nói: “Và vị Thế Tôn ấy, trong khi chỉ dạy các pháp như thiền thứ nhất v.v… cho những người có giới trong sạch v.v…, và con đường thực hành để chứng đắc các đạo quả cao hơn cho các bậc Tu-đà-hoàn v.v…, Ngài cũng chính là đang điều phục cả những người đã được điều phục.” Hoặc là, cần phải hiểu rằng ở đây, cả những người hoàn toàn chưa được điều phục lẫn những người đã được điều phục một phần đều được bao gồm bởi chính từ “những người chưa được điều ngự.” Những người đáng được điều ngự là những người xứng đáng được điều ngự.

Tiracchānapurisātiādīsu uddhaṃ anuggantvā tiriyaṃ añcitā gatā vaḍḍhitāti tiracchānā, devamanussādayo viya uddhaṃ dīghaṃ ahutvā tiriyaṃ dīghāti attho. Tiracchānāyeva purisā tiracchānapurisā. Manassa ussannatāya manussā. Satisūrabhāvabrahmacariyayogyatādiguṇavasena upacitamānasā ukkaṭṭhaguṇacittā. Ke pana te? Jambudīpavāsino sattavisesā. Tenāha bhagavā –
Trong các câu những người là loài bàng sanh v.v…, chúng không vươn lên trên mà cong, đi, và phát triển theo chiều ngang, nên là loài bàng sanh; có nghĩa là, chúng không cao thẳng như các vị trời và loài người, mà dài theo chiều ngang. Họ là loài bàng sanh và họ là những người, nên là những người là loài bàng sanh. Do có tâm vượt trội, nên là con người. Là những người có tâm đã được phát triển, có tâm với phẩm hạnh cao thượng về phương diện các đức tính như dũng cảm, chánh niệm, và khả năng thực hành phạm hạnh. Họ là ai? Là những chúng sanh đặc biệt sống ở châu Jambudīpa. Chính vì thế, Thế Tôn đã nói:

‘‘Tīhi, bhikkhave, ṭhānehi jambudīpakā manussā uttarakuruke ca manusse adhiggaṇhanti deve ca tāvatiṃse. Katamehi tīhi? Sūrā satimanto idha brahmacariyavāso’’ti (a. ni. 9.21).
“Này các Tỳ-khưu, về ba phương diện, những người ở châu Jambudīpa vượt hơn những người ở Uttarakuru và các vị trời ở cõi Ba Mươi Ba. Ba phương diện đó là gì? Là dũng cảm, có chánh niệm, và có sự thực hành phạm hạnh ở đây.” (a. ni. 9.21).

Tathā hi buddhā bhagavanto paccekabuddhā aggasāvakā mahāsāvakā cakkavattino aññe ca mahānubhāvā sattā tattheva uppajjanti. Tehi samānarūpāditāya pana saddhiṃ parittadīpavāsīhi itaramahādīpavāsinopi manussātveva paññāyiṃsūti eke. Apare pana bhaṇanti – lobhādīhi ca alobhādīhi ca sahitassa manassa ussannatāya manussā. Ye hi sattā manussajātikā, tesu visesato lobhādayo alobhādayo ca ussannā, te lobhādiussannatāya apāyamaggaṃ, alobhādiussannatāya sugatimaggaṃ nibbānagāmimaggañca pūrenti, tasmā lobhādīhi alobhādīhi ca sahitassa manassa ussannatāya parittadīpavāsīhi saddhiṃ catumahādīpavāsino sattavisesā manussāti vuccanti. Lokiyā pana ‘‘manuno apaccabhāvena manussā’’ti vadanti. Manu nāma paṭhamakappiko lokamariyādāya ādibhūto hitāhitavidhāyako sattānaṃ pituṭṭhāniyo, yo sāsane mahāsammatoti vuccati, paccakkhato paramparāya ca tassa ovādānusāsaniyaṃ ṭhitā tassa puttasadisatāya manussā mānusāti ca vuccanti. Tato eva hi te māṇavā ‘‘manujā’’ti ca voharīyanti, manussā ca te purisā cāti manussapurisā.
Thật vậy, các vị Phật, các bậc Thế Tôn, các vị Phật Độc Giác, các vị Thượng Thủ Đệ Tử, các vị Đại Đệ Tử, các vị Chuyển Luân Vương và các chúng sanh khác có nhiều thần thông đều sanh ra ở đó. Một số người nói rằng, do có hình dáng v.v… tương tự như họ, nên những người sống ở các tiểu châu cùng với những người sống ở các đại châu khác cũng được biết đến là con người. Một số khác lại nói rằng: do có tâm vượt trội, đi kèm với cả tham ái v.v… và vô tham v.v…, nên là con người. Thật vậy, trong các chúng sanh thuộc loài người, đặc biệt có tham ái v.v… và vô tham v.v… vượt trội. Do có tham ái v.v… vượt trội, họ hoàn thiện con đường đến cõi dữ; do có vô tham v.v… vượt trội, họ hoàn thiện con đường đến cõi lành và con đường đưa đến Niết-bàn. Do đó, do có tâm vượt trội, đi kèm với cả tham ái v.v… và vô tham v.v…, nên những chúng sanh đặc biệt sống ở bốn đại châu cùng với những người sống ở các tiểu châu được gọi là con người. Còn người đời thì nói rằng: “do là con cháu của Manu, nên là con người.” Manu là người đầu tiên của kiếp sơ, là người khởi đầu cho các quy ước của thế gian, là người đặt ra điều lợi và điều hại, ở vị trí như người cha của các chúng sanh; người mà trong giáo pháp được gọi là Mahāsammata. Những người tuân theo lời giáo huấn của vị ấy, một cách trực tiếp hay gián tiếp, do có sự tương tự như con cái của vị ấy, nên được gọi là con người (manussa) và mānusa. Chính vì thế, những thanh niên đó được gọi là “manujā”; và họ là con người và họ là những người, nên là những người là con người.

Amanussapurisāti ettha na manussāti amanussā. Taṃsadisatā ettha jotīyati. Tena manussattamattaṃ natthi, aññaṃ samānanti yakkhādayo amanussāti adhippetā. Na ye keci manussehi aññe, tathā tiracchānapurisānaṃ visuṃ gahaṇaṃ kataṃ. Yakkhādayo eva ca niddiṭṭhā. Apalālo himavantavāsī, cūḷodaramahodarā nāgadīpavāsino, aggisikhadhūmasikhā sīhaḷadīpavāsino nibbisā katā dosavisassa vinodanena. Tenāha ‘‘saraṇesu ca sīlesu ca patiṭṭhāpitā’’ti. Kūṭadantādayoti ādi-saddena ghoramukhaupāligahapatiādīnaṃ saṅgaho daṭṭhabbo. Sakkādayoti ādi-saddena ajakalāpayakkhabakabrahmādīnaṃ saṅgaho daṭṭhabbo. Etesaṃ pana damanaṃ tattha tattha vuttanayeneva sakkā viññātunti atippapañcabhāvato idha na vuccati. Idañcettha suttaṃ vitthāretabbanti idaṃ kesīsuttaṃ ‘‘vinītā vicitrehi vinayanūpāyehī’’ti etasmiṃ atthe vitthāretabbaṃ yathārahaṃ saṇhādīhi upāyehi vinayanassa dīpanato.
Trong câu những người không phải là người, ở đây, không phải là người nên là phi nhân. Sự tương tự được làm sáng tỏ ở đây. Do đó, chỉ không có thân phận con người, còn những cái khác thì tương tự; chủ ý là các vị dạ xoa v.v… là phi nhân. Không phải bất kỳ ai khác ngoài con người, vì những người là loài bàng sanh đã được đề cập riêng. Và chính các vị dạ xoa v.v… đã được chỉ định. Apalāla ở dãy Himavanta; Cūḷodara và Mahodara ở Nāgadīpa; Aggisikha và Dhūmasikha ở đảo Sīhaḷa đã được làm cho không còn nọc độc bằng cách loại bỏ nọc độc sân hận. Chính vì thế, đã nói: “đã được an trú trong các quy y và các giới.” Trong câu Kūṭadanta v.v…, bằng từ v.v…, cần phải hiểu là bao gồm cả Ghoramukha, gia chủ Upāli v.v… Trong câu Sakka v.v…, bằng từ v.v…, cần phải hiểu là bao gồm cả dạ xoa Ajakalāpa, Phạm thiên Baka v.v… Và việc điều phục những vị này có thể được biết theo cách đã nói ở từng nơi, nên không được nói đến ở đây vì sẽ trở nên quá dài dòng. Và kinh này cần được giải thích chi tiết ở đây có nghĩa là, kinh Kesī này cần được giải thích chi tiết trong ý nghĩa “đã được rèn luyện bằng các phương pháp rèn luyện đa dạng,” do nó làm sáng tỏ việc rèn luyện bằng các phương pháp như ôn hòa v.v… một cách phù hợp.

Atthapadanti atthābhibyañjanakaṃ padaṃ, vākyanti attho. Vākyena hi atthābhibyatti, na nāmādipadamattena, ekapadabhāvena ca anaññasādhāraṇo satthu purisadammasārathibhāvo dassito hoti. Tenāha ‘‘bhagavā hī’’tiādi. Aṭṭha disāti aṭṭha samāpattiyo. Tā hi aññamaññaṃ sambandhāpi asaṃkiṇṇabhāvena dissanti apadissanti, disā viyāti vā disā. Asajjamānāti na sajjamānā vasībhāvappattiyā nissaṅgacārā. Dhāvantīti javanavuttiyogato dhāvanti. Ekaṃyeva disaṃ dhāvatīti attano kāyaṃ aparivattantoti adhippāyo, satthārā pana damitā purisadammā ekiriyāpatheneva aṭṭha disā dhāvanti. Tenāha ‘‘ekapallaṅkeneva nisinnā’’ti. Aṭṭha disāti ca nidassanamattametaṃ lokiyehi agatapubbaṃ nirodhasamāpattidisaṃ amatadisañca pakkhandanato.
Từ có ý nghĩa là từ biểu thị ý nghĩa; có nghĩa là một câu. Thật vậy, ý nghĩa được biểu thị bằng một câu, chứ không phải chỉ bằng một từ như danh từ v.v… Và bằng một từ duy nhất, trạng thái là người đánh xe điều ngự những người cần được điều ngự không chung với ai khác của Bậc Đạo Sư được chỉ ra. Chính vì thế, (chú giải) nói: “Bởi vì Thế Tôn” v.v… Tám phương là tám tầng thiền định. Thật vậy, mặc dù chúng có liên quan với nhau, nhưng chúng được thấy, được chỉ ra một cách không lẫn lộn, hoặc chúng giống như các phương, nên là các phương. Không bị vướng mắc là không bị dính mắc; đi lại không bị cản trở do đã đạt đến sự làm chủ. Chạy nhanh là chúng chạy nhanh do có sự vận hành của tâm tốc hành. Chỉ chạy về một phương, chủ ý là họ không thay đổi thân thể của mình; còn những người cần được điều ngự, sau khi đã được Bậc Đạo Sư điều phục, họ chạy về tám phương chỉ bằng một oai nghi. Chính vì thế, (chú giải) nói: “chỉ ngồi bằng một thế kiết-già.” Và câu tám phương chỉ là một ví dụ; vì họ cũng đi vào phương của thiền diệt, phương bất tử, nơi mà những người thế gian chưa từng đến trước đó.

Diṭṭhadhammikasamparāyikaparamatthehītiādīsu diṭṭhadhammo vuccati paccakkho attabhāvo, tattha niyuttoti diṭṭhadhammiko, idhalokattho. Kammakilesavasena samparetabbato sammā gantabbato samparāyo, paraloko. Tattha niyuttoti samparāyiko, paralokattho. Paramo uttamo attho paramattho, nibbānaṃ. Tehi diṭṭhadhammikasamparāyikaparamatthehi. Yathārahanti yathānurūpaṃ, tesu tesu atthesu yo yo puggalo yaṃ yaṃ arahati, tadanurūpaṃ. Anusāsatīti vineti tasmiṃ tasmiṃ atthe patiṭṭhāpeti. Saha atthena vattatīti sattho, bhaṇḍamūlena vaṇijjāya desantaraṃ gacchanto janasamūho. Hitupadesādivasena paripāletabbo sāsitabbo so etassa atthīti satthā satthavāho niruttinayena. So viya bhagavāti āha ‘‘satthā viyāti satthā, bhagavā satthavāho’’ti.
Trong câu bởi các lợi ích trong hiện tại, trong tương lai và tối hậu v.v…, diṭṭhadhammo (hiện tại) được gọi là thân mạng hiện hữu rõ ràng; liên quan đến nó là diṭṭhadhammiko (thuộc về hiện tại), là lợi ích ở đời này. Do phải trải qua, phải đi đến một cách đúng đắn bởi nghiệp và phiền não, nên là samparāyo (tương lai), là đời sau. Liên quan đến nó là samparāyiko (thuộc về tương lai), là lợi ích ở đời sau. Lợi ích cao cả, tối thượng là paramattho (tối hậu), là Niết-bàn. Bởi các lợi ích trong hiện tại, trong tương lai và tối hậu đó. Tùy theo sự xứng đáng là tùy theo sự phù hợp; trong từng lợi ích đó, người nào xứng đáng với điều gì, thì (Ngài giáo huấn) tương ứng với điều đó. Giáo huấn là rèn luyện, làm cho an trú trong từng lợi ích đó. Vì đi cùng với hàng hóa (atthena), nên là đoàn thương buôn (sattho); là một nhóm người đi đến một xứ sở khác để buôn bán với vốn liếng là hàng hóa. Vị này có người cần được bảo vệ, cần được giáo huấn bằng cách khuyên dạy điều lợi ích v.v…, nên là bậc Đạo Sư (satthā), là người dẫn dắt đoàn thương buôn (satthavāho), theo phương pháp từ nguyên. Thế Tôn cũng giống như vị ấy, nên (chú giải) nói: “Giống như người dẫn dắt đoàn thương buôn, nên là bậc Đạo Sư; Thế Tôn là người dẫn dắt đoàn thương buôn.”

Idāni tamatthaṃ niddesapāḷinayena dassetuṃ ‘‘yathā satthavāho’’tiādi vuttaṃ. Tattha sattheti satthike jane. Kaṃ udakaṃ tārenti etthāti kantāro, nirudako araññappadeso. Ruḷhīvasena pana itaropi araññappadeso tathā vuccati. Corakantāranti corehi adhiṭṭhitakantāraṃ, tathā vāḷakantāraṃDubbhikkhakantāranti dullabhabhikkhaṃ kantāraṃ. Tāretīti akhemantaṭṭhānaṃ atikkāmeti. Uttāretītiādi upasaggena padaṃ vaḍḍhetvā vuttaṃ. Atha vā uttāretīti khemantabhūmiṃ upanento tāreti. Nittāretīti akhemantaṭṭhānato nikkhāmento tāreti. Patāretīti pariggahetvā tāreti, hatthena pariggahetvā tāreti viya tāretīti attho. Sabbampetaṃ tāraṇuttāraṇādi khemaṭṭhāne ṭhapanamevāti āha ‘‘khemantabhūmiṃ sampāpetī’’ti. Satteti veneyyasatte. Mahāgahanatāya mahānatthatāya dunnittharatāya ca jātiyeva kantāro jātikantāro, taṃ jātikantāraṃ.
Bây giờ, để chỉ ra ý nghĩa đó theo phương pháp của kinh Niddesa, (chú giải) đã nói: “Giống như người dẫn dắt đoàn thương buôn” v.v… Ở đó, những người trong đoàn thương buôn là những người buôn bán trong đoàn. Nơi người ta mong mỏi (tārenti) nước (kaṃ), nên là hoang địa (kantāro); là một vùng đất hoang không có nước. Tuy nhiên, theo thói quen, các vùng đất hoang khác cũng được gọi như vậy. Hoang địa có trộm cướp là hoang địa bị trộm cướp chiếm giữ; tương tự, hoang địa có thú dữ. Hoang địa có nạn đói là hoang địa khó tìm được thức ăn. Giúp vượt qua là giúp vượt qua nơi không an ổn. Giúp vượt qua bên kia v.v… được nói bằng cách thêm tiếp đầu ngữ vào từ. Hoặc là, giúp vượt qua bên kia là giúp vượt qua trong khi đưa đến vùng đất an ổn. Giúp vượt ra khỏi là giúp vượt qua bằng cách đưa ra khỏi nơi không an ổn. Giúp vượt qua bằng cách dẫn dắt là giúp vượt qua bằng cách nắm giữ; có nghĩa là giúp vượt qua giống như nắm tay dẫn đi. Tất cả việc giúp vượt qua, đưa qua bên kia v.v… này đều là việc đưa đến nơi an ổn, nên (chú giải) nói: “đưa đến vùng đất an ổn.” Các chúng sanh là các chúng sanh cần được giáo hóa. Do sự rậm rạp, sự bất lợi lớn lao và sự khó vượt qua, chính sanh là hoang địa, là hoang địa sanh; (Ngài giúp vượt qua) hoang địa sanh đó.

Ukkaṭṭhaparicchedavasenāti ukkaṭṭhasattaparicchedavasena. Devamanussā eva hi ukkaṭṭhasattā, na tiracchānādayo. Etanti ‘‘devamanussāna’’nti etaṃ vacanaṃ. Bhabbapuggalaparicchedavasenāti sammattaniyāmokkamanassa yogyapuggalassa paricchindanavasena. Bhagavatoti nissakke sāmivacanaṃ yathā ‘‘upajjhāyato ajjhetī’’ti. Bhagavato santike vāti attho. Upanissayasampattinti tihetukapaṭisandhiādikaṃ maggaphalādhigamassa balavakāraṇaṃ. Gaggarāyāti gaggarāya nāma rañño deviyā, tāya vā kāritattā ‘‘gaggarā’’ti laddhanāmāya. Sare nimittaṃ aggahesīti ‘‘dhammo eso vuccatī’’ti dhammasaññāya sare nimittaṃ gaṇhi, gaṇhanto ca pasannacitto parisapariyante nipajji. Sannirumbhitvā aṭṭhāsīti tassa sīse daṇḍassa ṭhapitabhāvaṃ apassanto tattha daṇḍaṃ uppīḷetvā aṭṭhāsi. Maṇḍūkopi daṇḍe ṭhapitepi uppīḷitepi dhammagatena pasādena vissaramakarontova kālamakāsi. Devaloke nibbattasattānaṃ ayaṃ dhammatā, yā ‘‘kutohaṃ idha nibbatto, tattha kinnu kho kammamakāsi’’nti āvajjanā. Tasmā attano purimabhavassa diṭṭhattā āha ‘‘are ahampi nāma idha nibbatto’’ti. Bhagavato pāde sirasā vandīti kataññutāsaṃvaḍḍhitena pemagāravabahumānena vandi.
Theo cách xác định hạng cao nhất là theo cách xác định chúng sanh cao nhất. Thật vậy, chỉ có các vị trời và loài người là chúng sanh cao nhất, không phải là loài bàng sanh v.v… Điều này là lời nói “của các vị trời và loài người.” Theo cách xác định người có khả năng là theo cách phân định người có khả năng đi vào quy luật đúng đắn. Trong câu của Thế Tôn, đây là sở hữu cách trong ý nghĩa xuất xứ, giống như trong câu “học từ thầy giáo thọ.” Hoặc có nghĩa là, ở gần Thế Tôn. Sự đầy đủ về y chỉ duyên là nguyên nhân mạnh mẽ để chứng đắc đạo và quả, như sự tái sanh với ba nhân v.v… Của Gaggarā là của hoàng hậu của vị vua tên là Gaggarā; hoặc vì hồ đó được bà cho làm, nên có tên là “Gaggarā.” Đã bắt lấy tướng trong âm thanh có nghĩa là, đã bắt lấy tướng trong âm thanh với ý nghĩ rằng “đây là Chánh pháp đang được nói,” và trong khi bắt lấy tướng, nó có tâm trong sạch và nằm xuống ở rìa của hội chúng. Đã đè xuống và đứng đó có nghĩa là, không thấy việc cây gậy đã được đặt trên đầu nó, người đó đã đè cây gậy xuống đó và đứng. Con ếch, dù cây gậy đã được đặt lên và đè xuống, nhưng do lòng trong sạch đối với Chánh pháp, nó không kêu lên một tiếng nào và đã chết. Đây là quy luật của các chúng sanh sanh ra ở cõi trời, đó là sự quán xét rằng: “Ta đã sanh ra ở đây từ đâu? Ta đã làm nghiệp gì ở đó?” Do đó, vì đã thấy được đời trước của mình, nên nó nói: “Này, chính ta đã được sanh ra ở đây.” Đã đảnh lễ các bàn chân của Thế Tôn bằng đầu là đã đảnh lễ với lòng yêu mến, kính trọng và quý mến được nuôi dưỡng bởi lòng biết ơn.

Jānantovapucchīti mahājanassa kammaphalaṃ buddhānubhāvañca paccakkhaṃ kātukāmo bhagavā ‘‘ko me vandatī’’ti gāthāya pucchi. Tattha (vi. va. aṭṭha. 857) koti devanāgayakkhagandhabbādīsu ko, katamoti attho. Meti mama. Pādānīti pāde. Iddhiyāti imāya evarūpāya deviddhiyā. Yasasāti iminā edisena yasena ca parivārena ca. Jalanti vijjotamāno. Abhikkantenāti ativiya kantena kāmanīyena sundarena. Vaṇṇenāti chavivaṇṇena sarīravaṇṇanibhāya. Sabbā obhāsayaṃ disāti sabbā dasapi disā pabhāsento, cando viya sūriyo viya ca ekobhāsaṃ ekālokaṃ karontoti attho.
Dù biết vẫn hỏi có nghĩa là, muốn làm cho đại chúng thấy rõ quả của nghiệp và uy lực của Phật, Thế Tôn đã hỏi bằng bài kệ: “Ai đang đảnh lễ Ta.” Ở đó (vi. va. aṭṭha. 857), ai có nghĩa là, trong số các vị trời, rồng, dạ xoa, gandhabba v.v…, là ai, là vị nào. Của ta là của tôi. Các bàn chân là các bàn chân. Bằng thần lực là bằng thần lực của cõi trời như thế này. Bằng danh tiếng là bằng danh tiếng và đoàn tùy tùng như thế này. Tỏa sáng là đang chiếu rọi. Vô cùng đẹp đẽ là rất đẹp, đáng được ưa thích, xinh đẹp. Bằng sắc đẹp là bằng màu da, bằng ánh sáng của sắc đẹp thân thể. Làm rực sáng khắp các phương có nghĩa là, làm sáng chói cả mười phương, làm cho thành một luồng sáng, một ánh sáng như mặt trăng, như mặt trời.

Evaṃ pana bhagavatā pucchito devaputto attānaṃ pavedento ‘‘maṇḍūkohaṃ pure āsi’’nti gāthamāha. Tattha pureti purimajātiyaṃ. Udaketi idaṃ tadā attano uppattiṭṭhānadassanaṃ. Udake maṇḍūkoti tena uddhumāyikādikassa thale maṇḍūkassa nivattanaṃ kataṃ hoti. Gāvo caranti etthāti gocaro, gunnaṃ ghāsesanaṭṭhānaṃ. Idha pana gocaro viyāti gocaro, vāri udakaṃ gocaro etassāti vārigocaro. Udakacārīpi hi koci kacchapādi avārigocaropi hotīti ‘‘vārigocaro’’ti visesetvā vuttaṃ. Tava dhammaṃ suṇantassāti brahmassarena karavīkarutamañjunā desentassa tava dhammaṃ ‘‘dhammo eso vuccatī’’ti sare nimittaggāhavasena suṇantassa. Anādare cetaṃ sāmivacanaṃ. Avadhī vacchapālakoti vacche rakkhanto gopālakadārako mama samīpaṃ āgantvā daṇḍamolubbha tiṭṭhanto mama sīse daṇḍaṃ sannirumbhitvā maṃ māresīti attho.
Và khi được Thế Tôn hỏi như vậy, vị thiên tử, trong khi cho biết về mình, đã nói bài kệ: “Trước kia con là một con ếch.” Ở đó, trước kia là trong đời trước. Trong nước, đây là sự chỉ ra nơi sanh của mình lúc bấy giờ. Con ếch trong nước, bằng câu này, vị ấy loại trừ con ếch trên cạn, vốn hay phồng lên v.v… Nơi bò đi ăn là đồng cỏ; là nơi tìm cỏ của bò. Ở đây, giống như đồng cỏ, nên là gocaro; nước là đồng cỏ của nó, nên là loài sống dưới nước. Thật vậy, một số loài đi dưới nước như rùa v.v… cũng có thể không phải là loài sống dưới nước, nên đã được phân biệt bằng câu “loài sống dưới nước.” Của con đang nghe pháp của Ngài có nghĩa là, của con đang nghe pháp của Ngài, người đang thuyết giảng bằng giọng nói của Phạm thiên, du dương như tiếng chim karavīka, bằng cách bắt lấy tướng trong âm thanh rằng “đây là Chánh pháp đang được nói.” Và đây là sở hữu cách trong ý nghĩa không quan tâm. Một người chăn bò con đã giết có nghĩa là, một cậu bé chăn bò, trong khi chăn bò con, đã đến gần con, đứng chống cây gậy, rồi đè cây gậy lên đầu con và đã giết chết con.

Sitaṃ katvāti ‘‘tathā parittatarenapi puññānubhāvena evaṃ ativiya uḷārā lokiyalokuttarasampattiyo labbhantī’’ti pītisomanassajāto bhāsurataradhavaḷavipphurantadasanakhakiraṇāvaḷīhi bhiyyoso mattāya taṃ padesaṃ obhāsento sitaṃ katvā. Pītisomanassavasena hi so –
Sau khi mỉm cười có nghĩa là, vì nghĩ rằng “ngay cả với một chút phước báu nhỏ nhoi như vậy mà cũng có thể đạt được những sự thành tựu thế gian và siêu thế vô cùng lớn lao,” nên Ngài đã sanh khởi hỷ và ưu, rồi mỉm cười, làm cho nơi đó càng thêm rực rỡ bởi những chuỗi tia sáng từ hàm răng trắng bóng của mình. Thật vậy, do hỷ và ưu, vị ấy đã nói:

‘‘Muhuttaṃ cittapasādassa, iddhiṃ passa yasañca me;
Ānubhāvañca me passa, vaṇṇaṃ passa jutiñca me.
‘‘Ye ca te dīghamaddhānaṃ, dhammaṃ assosuṃ gotama;
Pattā te acalaṭṭhānaṃ, yattha gantvā na socare’’ti. (vi. va. 859-860) –
“Hãy xem thần lực và danh tiếng của con,
Do tâm trong sạch chỉ trong một khoảnh khắc;
Hãy xem uy lực của con, hãy xem sắc đẹp và ánh sáng của con.
“Còn những ai đã nghe pháp của Gotama trong một thời gian dài,
Họ đã đạt đến nơi không còn lay chuyển, nơi mà sau khi đến sẽ không còn sầu muộn.” (vi. va. 859-860) –

Imā dve gāthā vatvā pakkāmi.
Sau khi nói hai bài kệ này, vị ấy đã ra đi.

Yaṃ pana kiñcīti ettha yanti aniyamitavacanaṃ, tathā kiñcīti. Panāti vacanālaṅkāramattaṃ. Tasmā yaṃ kiñcīti ñeyyassa anavasesapariyādānaṃ kataṃ hoti. Panāti vā visesatthadīpako nipāto. Tena ‘‘sammāsambuddho’’ti iminā saṅkhepato vitthārato ca satthu catusaccābhisambodho vutto. Buddhoti pana iminā tadaññassapi ñeyyassa avabodho. Purimena vā satthu paṭivedhañāṇānubhāvo, pacchimena desanāñāṇānubhāvo. -ti upari vuccamāno viseso jotīyati. Vimokkhantikañāṇavasenāti ettha sabbaso paṭipakkhehi vimuccatīti vimokkho, aggamaggo, tassa anto, aggaphalaṃ, tasmiṃ laddhe laddhabbato tattha bhavaṃ vimokkhantikaṃ, ñāṇaṃ sabbaññutaññāṇena saddhiṃ sabbampi buddhañāṇaṃ.
Trong câu bất cứ điều gì, ở đây bất cứ là lời nói không xác định; tương tự, điều gì cũng vậy. Pana chỉ là một từ trang trí cho lời nói. Do đó, câu “bất cứ điều gì” đã bao hàm tất cả các pháp cần được biết không còn sót lại. Hoặc là, pana là một tiểu từ làm sáng tỏ ý nghĩa đặc biệt. Do đó, bằng từ “Chánh Đẳng Giác,” sự giác ngộ Tứ Đế của Bậc Đạo Sư đã được nói đến một cách tóm tắt và chi tiết. Còn bằng từ “Phật,” sự thấu hiểu các pháp cần được biết khác ngoài Tứ Đế được nói đến. Hoặc là, bằng từ trước, uy lực của trí tuệ thấu triệt của Bậc Đạo Sư được nói đến; bằng từ sau, uy lực của trí tuệ thuyết giảng được nói đến. Bằng từ (-cũng), một sự khác biệt sẽ được nói ở trên được làm sáng tỏ. Trong câu theo cách của trí tuệ cuối cùng của sự giải thoát, ở đây, vì giải thoát hoàn toàn khỏi các pháp đối nghịch, nên là giải thoát (vimokkho), là Thánh đạo cao nhất; sự kết thúc của nó là quả vị cao nhất. Trí tuệ cần được đạt đến khi đã đạt được quả vị đó, có ở trong đó, là trí tuệ cuối cùng của sự giải thoát; đó là tất cả trí tuệ của Phật cùng với nhất thiết trí.

Evaṃ pavattoti ettha –
Trong câu diễn ra như vậy, ở đây –

‘‘Sabbaññutāya buddho, sabbadassāvitāya buddho, anaññaneyyatāya buddho, visavitāya buddho, khīṇāsavasaṅkhātena buddho, nirupalepasaṅkhātena buddho, ekantavītarāgoti buddho, ekantavītadosoti buddho, ekantavītamohoti buddho, ekantanikkilesoti buddho, ekāyanamaggaṃ gatoti buddho, eko anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti buddho, abuddhivihatattā buddhipaṭilābhā buddho. Buddhoti netaṃ nāmaṃ mātarā kataṃ, na pitarā kataṃ, na bhātarā kataṃ, na bhaginiyā kataṃ, na mittāmaccehi kataṃ, na ñātisālohitehi kataṃ, na samaṇabrāhmaṇehi kataṃ, na devatāhi kataṃ, vimokkhantikametaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ bodhiyā mūle saha sabbaññutaññāṇassa paṭilābhā sacchikā paññatti yadidaṃ buddho’’ti (mahāni. 192) –
“Là Phật do có nhất thiết trí, là Phật do có sự thấy biết tất cả, là Phật do không cần người khác chỉ dạy, là Phật do có sự nở hoa, là Phật do được xem là người đã đoạn tận các lậu hoặc, là Phật do được xem là người không bị vấy bẩn, là Phật vì đã hoàn toàn ly tham, là Phật vì đã hoàn toàn ly sân, là Phật vì đã hoàn toàn ly si, là Phật vì đã hoàn toàn không còn phiền não, là Phật vì đã đi trên con đường độc nhất, là Phật vì một mình đã giác ngộ tuệ giác Chánh Đẳng Giác vô thượng. Là Phật do đã xua tan sự vô minh và chứng đắc trí tuệ. Phật, tên gọi này không phải do mẹ đặt, không phải do cha đặt, không phải do anh đặt, không phải do chị đặt, không phải do bạn bè và quyến thuộc đặt, không phải do các sa-môn và bà-la-môn đặt, không phải do các vị trời đặt. Đây là sự quy định được chứng ngộ cuối cùng của sự giải thoát của các vị Phật, các bậc Thế Tôn, tại cội Bồ-đề, cùng với sự chứng đắc nhất thiết trí, đó là ‘Phật’.” (mahāni. 192) –

Ayaṃ niddesapāḷinayo. Yasmā cettha tassā paṭisambhidāpāḷiyā (paṭi. ma. 1.162) bhedo natthi, tasmā dvīsu ekenapi atthasiddhīti dassanatthaṃ ‘‘paṭisambhidānayo vā’’ti aniyamattho saddo vutto.
Đây là phương pháp của kinh Niddesa. Và vì ở đây không có sự khác biệt với đoạn Pāḷi trong Vô Ngại Giải Đạo (paṭi. ma. 1.162), nên để chỉ ra rằng ý nghĩa được thành tựu bởi một trong hai, nên từ (hoặc) có ý nghĩa không xác định đã được nói là “hoặc theo phương pháp của Vô Ngại Giải Đạo.”

Tattha (paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.162; mahāni. aṭṭha. 192) yathā loke avagantā ‘‘avagato’’ti vuccati, evaṃ bujjhitā saccānīti buddho suddhakattuvasena. Yathā paṇṇasosā vātā ‘‘paṇṇasusā’’ti vuccanti, evaṃ bodhetā pajāyāti buddho hetukattuvasena. Hetuattho cettha antonīto . Sabbaññutāya buddhoti sabbadhammabujjhanasamatthāya buddhiyā buddhoti attho. Sabbadassāvitāya buddhoti sabbadhammabodhanasamatthāya buddhiyā buddhoti attho. Anaññaneyyatāya buddhoti aññena abodhito sayameva buddhattā buddhoti attho. Visavitāya buddhoti nānāguṇavisavanato padumamiva vikasanaṭṭhena buddhoti attho. Khīṇāsavasaṅkhātena buddhoti evamādīhi chahi padehi cittasaṅkocakaradhammappahānena niddākkhayavibuddho puriso viya sabbakilesaniddākkhayavibuddhattā buddhoti vuttaṃ hoti. Tattha saṅkhā saṅkhātanti atthato ekattā saṅkhātenāti vacanassa koṭṭhāsenāti attho. Taṇhālepadiṭṭhilepābhāvena nirupalepasaṅkhātena. Savāsanānaṃ sabbakilesānaṃ pahīnattā ekantavacaneneva visesetvā ‘‘ekantavītarāgo’’tiādi vuttaṃ. Ekantanikkilesoti rāgadosamohāvasesehi sabbakilesehi nikkileso. Ekāyanamaggaṃ gatoti buddhoti gamanatthānaṃ buddhiatthatā viya buddhiatthānampi gamanatthatā labbhatīti ekāyanamaggaṃ gatattā buddhoti vuccatīti attho. Eko anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhoti buddhoti na parehi buddhattā buddho, atha kho sayameva anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddhattā buddhoti attho. Abuddhivihatattā buddhipaṭilābhā buddhoti buddhi buddhaṃ bodhoti anatthantaraṃ. Tattha yathā rattaguṇayogato ratto paṭo, evaṃ buddhaguṇayogato buddhoti ñāpanatthaṃ vuttaṃ. Tato paraṃ buddhoti netaṃ nāmantiādi atthānugatāyaṃ paññattīti bodhanatthaṃ vuttanti evamettha imināpi kāraṇena bhagavā buddhoti veditabbo.
Ở đó (paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.162; mahāni. aṭṭha. 192), giống như trong đời, người đã hiểu biết được gọi là “người đã hiểu biết,” cũng vậy, đã giác ngộ các sự thật, nên là Phật v.v… Giống như những cơn gió làm khô lá được gọi là “những cơn gió làm khô lá,” cũng vậy, là người làm cho chúng sanh giác ngộ, nên là Phật, do là nhân. Và ý nghĩa là nhân được bao hàm bên trong. Là Phật do có nhất thiết trí có nghĩa là, là Phật do có trí tuệ có khả năng giác ngộ tất cả các pháp. Là Phật do có sự thấy biết tất cả có nghĩa là, là Phật do có trí tuệ có khả năng làm cho giác ngộ tất cả các pháp. Là Phật do không cần người khác chỉ dạy có nghĩa là, là Phật do đã tự mình giác ngộ mà không được người khác chỉ dạy. Là Phật do có sự nở hoa có nghĩa là, là Phật do có ý nghĩa nở hoa như hoa sen, do sự lan tỏa của nhiều phẩm hạnh khác nhau. Trong các câu là Phật do được xem là người đã đoạn tận các lậu hoặc v.v…, bằng sáu từ này, có nghĩa là, Ngài là Phật do đã tỉnh thức khỏi giấc ngủ của tất cả các phiền não, giống như một người đã tỉnh thức khỏi giấc ngủ mê, do đã đoạn trừ các pháp làm co rút tâm. Ở đó, vì saṅkhā (sự xem là) và saṅkhāta (được xem là) về mặt ý nghĩa là một, nên do được xem là có nghĩa là, do một phần. Do không có sự vấy bẩn của ái và sự vấy bẩn của tà kiến, nên là do được xem là người không bị vấy bẩn. Do đã đoạn trừ tất cả các phiền não cùng với các tập khí, nên đã được phân biệt bằng chính từ “hoàn toàn” mà nói là “đã hoàn toàn ly tham” v.v… Hoàn toàn không còn phiền não là không còn phiền não bởi tất cả các phiền não còn lại sau tham, sân, si. Trong câu đã đi trên con đường độc nhất, nên là Phật, có nghĩa là, giống như các pháp có ý nghĩa là sự đi có thể có ý nghĩa là sự giác ngộ, thì các pháp có ý nghĩa là sự giác ngộ cũng có thể có ý nghĩa là sự đi. Do đó, Ngài được gọi là Phật vì đã đi trên con đường độc nhất. Trong câu một mình đã giác ngộ tuệ giác Chánh Đẳng Giác vô thượng, nên là Phật, có nghĩa là, Ngài là Phật không phải do được người khác làm cho giác ngộ, mà là do đã tự mình giác ngộ tuệ giác Chánh Đẳng Giác vô thượng. Trong câu đã xua tan sự vô minh và chứng đắc trí tuệ, nên là Phật, trí tuệ, Phật, giác ngộ không có ý nghĩa khác nhau. Ở đó, để cho biết rằng, giống như tấm vải màu đỏ do có phẩm chất màu đỏ, thì Ngài cũng là Phật do có phẩm chất của sự giác ngộ. Sau đó, câu Phật, tên gọi này không phải v.v… được nói để làm sáng tỏ rằng đây là một sự quy định theo đúng ý nghĩa. Như vậy, ở đây cần phải hiểu rằng Thế Tôn là Phật cũng do lý do này.

Idāni bhagavāti imassa atthaṃ dassento āha ‘‘bhagavāti idaṃ panassā’’tiādi. Tattha assāti bhagavatoGuṇavisiṭṭhasattuttamagarugāravādhivacananti sabbehi sīlādiguṇehi visiṭṭhassa tato eva sabbasattehi uttamassa garuno gāravavasena vuccamānavacanametaṃ bhagavāti. Tathā hi lokanātho aparimitanirupamappabhāvasīlādiguṇavisesasamaṅgitāya sabbānatthaparihārapubbaṅgamāya niravasesahitasukhavidhānatapparāya niratisayāya payogasampattiyā sadevamanussāya pajāya accantupakāritāya ca aparimāṇāsu lokadhātūsu aparimāṇānaṃ sattānaṃ uttamaṃ gāravaṭṭhānanti.
Bây giờ, để chỉ ra ý nghĩa của từ Thế Tôn, (chú giải) nói: “Còn Bhagavā (Thế Tôn) này là” v.v… Ở đó, của Ngài là của Thế Tôn. Tên gọi tôn kính và trang trọng đối với bậc tối thượng trong các chúng sanh, bậc đặc biệt về phẩm hạnh có nghĩa là, Bhagavā là lời nói được nói ra với sự kính trọng và trang trọng đối với bậc đặc biệt về tất cả các phẩm hạnh như giới v.v…, và do đó là bậc tối thượng trong tất cả các chúng sanh. Thật vậy, Đấng Lãnh Đạo Thế Giới, do được trang bị các phẩm hạnh đặc biệt như giới v.v… không thể đo lường, không ai sánh bằng và có uy lực vô biên; do có sự thành tựu về hành động vô song, luôn hướng đến việc mang lại lợi ích và hạnh phúc không còn sót lại, vốn bắt đầu bằng việc loại bỏ mọi điều bất lợi; và do có lòng từ bi vô lượng đối với chúng sanh trong thế gian cùng với chư thiên, nên Ngài là nơi tôn kính tối thượng của vô số chúng sanh trong vô số thế giới.

Bhagavāti vacanaṃ seṭṭhanti seṭṭhavācakaṃ vacanaṃ seṭṭhaguṇasahacaraṇato ‘‘seṭṭha’’nti vuttaṃ. Atha vā vuccatīti vacanaṃ, attho, tasmā yo ‘‘bhagavā’’ti vacanena vacanīyo attho, so seṭṭhoti attho. Bhagavāti vacanamuttamanti etthāpi eseva nayo. Gāravayuttoti garubhāvayutto garuguṇayogato. Garukaraṇaṃ vā sātisayaṃ arahatīti gāravayutto, gāravārahoti attho. ‘‘Sippādisikkhāpakā garū honti, na ca gāravayuttā, ayaṃ pana tādiso na hoti, tasmā ‘garū’ti vatvā ‘gāravayutto’ti vutta’’nti keci.
Lời nói ‘Thế Tôn’ là cao thượng có nghĩa là, lời nói chỉ đến bậc cao thượng, được gọi là “cao thượng” do đi đôi với các phẩm hạnh cao thượng. Hoặc là, được nói ra là lời nói, là ý nghĩa; do đó, ý nghĩa nào có thể được nói đến bằng lời nói ‘Thế Tôn,’ ý nghĩa đó là cao thượng. Trong câu lời nói ‘Thế Tôn’ là tối thượng, cũng theo phương pháp này. Xứng đáng được kính trọng là xứng đáng với sự tôn kính, do có các phẩm hạnh đáng được tôn kính. Hoặc là, Ngài xứng đáng được tôn kính một cách đặc biệt, nên là xứng đáng được kính trọng; có nghĩa là, xứng đáng được kính trọng. Một số người nói rằng: “Những người dạy dỗ về nghệ thuật v.v… là những người đáng được tôn trọng (garū), nhưng không phải là những người xứng đáng được kính trọng (gāravayutta); còn vị này thì không như vậy. Do đó, sau khi nói là ‘người đáng được tôn trọng,’ lại nói là ‘người xứng đáng được kính trọng.’”

Guṇavisesahetukaṃ ‘‘bhagavā’’ti idaṃ bhagavato nāmanti saṅkhepato vuttamatthaṃ vitthārato vibhajitukāmo nāmaṃyeva tāva atthuddhāravasena dassento ‘‘catubbidhañhi nāma’’ntiādimāha. Tattha āvatthikanti avatthāya viditaṃ taṃ taṃ avatthaṃ upādāya paññattaṃ voharitaṃ. Tathā liṅgikaṃ tena tena liṅgena voharitaṃ. Nemittikanti nimittato āgataṃ. Adhiccasamuppannanti yadicchāya pavattaṃ, yadicchāya āgataṃ yadicchakaṃ. Idāni āvatthikādīni nāmāni sarūpato dassento āha ‘‘tattha vaccho dammo balibaddo’’tiādi. Tattha paṭhamena ādi-saddena bālo yuvā vuḍḍhoti evamādiṃ saṅgaṇhāti, dutiyena muṇḍī jaṭīti evamādiṃ, tatiyena bahussuto dhammakathiko jhāyīti evamādiṃ, catutthena aghapadīpanaṃ pāvacananti evamādiṃ saṅgaṇhāti. Nemittikanti vuttamatthaṃ byatirekavasena patiṭṭhāpetuṃ ‘‘na mahāmāyāyā’’tiādi vuttaṃ. Vimokkhantikanti iminā pana idaṃ nāmaṃ ariyāya jātiyā jātakkhaṇeyeva jātanti dasseti. Yadi vimokkhantikaṃ, atha kasmā aññehi khīṇāsavehi asādhāraṇanti āha ‘‘saha sabbaññutaññāṇassa paṭilābhā’’ti. Buddhānañhi arahattaphalaṃ nipphajjamānaṃ sabbaññutaññāṇādīhi sabbehi buddhaguṇehi saddhiṃyeva nipphajjati. Tena vuttaṃ ‘‘vimokkhantika’’nti. Sacchikā paññattīti sabbadhammānaṃ sacchikiriyāya nimittā paññatti. Atha vā sacchikā paññattīti paccakkhasiddhā paññatti. Yaṃguṇanimittā hi sā, te satthu paccakkhabhūtā, taṃguṇā viya sāpi sacchikatā eva nāma hoti, na paresaṃ vohāramattenāti adhippāyo.
Để phân tích chi tiết ý nghĩa đã được nói một cách tóm tắt rằng “Thế Tôn” là tên gọi của Thế Tôn, có nguyên nhân từ các phẩm hạnh đặc biệt, trước hết (chú giải) chỉ ra chính tên gọi đó theo cách giải thích ý nghĩa, mà nói: “Thật vậy, tên gọi có bốn loại” v.v… Ở đó, tên gọi theo trạng thái là tên gọi được biết đến theo trạng thái, được quy định, được sử dụng dựa vào từng trạng thái đó. Tương tự, tên gọi theo đặc điểm là tên gọi được sử dụng theo từng đặc điểm đó. Tên gọi theo dấu hiệu là tên gọi đến từ một dấu hiệu. Tên gọi sanh khởi ngẫu nhiên là tên gọi diễn ra một cách ngẫu nhiên, đến một cách ngẫu nhiên. Bây giờ, để chỉ ra các loại tên gọi như tên gọi theo trạng thái v.v… về mặt hình thức, (chú giải) nói: “Ở đó, con bê, con bò đực, con bò tơ” v.v… Ở đó, bằng từ v.v… đầu tiên, (chú giải) bao gồm các tên gọi như trẻ con, thanh niên, người già. Bằng từ thứ hai, bao gồm các tên gọi như người cạo đầu, người bện tóc. Bằng từ thứ ba, bao gồm các tên gọi như người đa văn, người thuyết pháp, người hành thiền. Bằng từ thứ tư, bao gồm việc làm sáng tỏ một điều xấu xa là một lời nói. Để xác lập ý nghĩa đã nói là tên gọi theo dấu hiệu bằng cách loại trừ, đã nói: “không phải do Mahāmāyā” v.v… Và bằng câu là tên gọi cuối cùng của sự giải thoát, (chú giải) chỉ ra rằng tên gọi này đã sanh ra ngay vào khoảnh khắc sanh ra trong dòng dõi của bậc Thánh. Nếu nó là tên gọi cuối cùng của sự giải thoát, vậy tại sao nó lại không chung với các vị lậu tận khác? (Chú giải) nói: “cùng với sự chứng đắc nhất thiết trí.” Thật vậy, quả A-la-hán của các vị Phật, khi thành tựu, nó thành tựu cùng một lúc với tất cả các phẩm hạnh của Phật như nhất thiết trí v.v… Chính vì thế, đã nói là “tên gọi cuối cùng của sự giải thoát.” Sự quy định được chứng ngộ là sự quy định có dấu hiệu là sự chứng ngộ tất cả các pháp. Hoặc là, sự quy định được chứng ngộ là sự quy định được thành tựu một cách trực tiếp. Thật vậy, những phẩm hạnh nào là dấu hiệu của nó, những phẩm hạnh đó đã trở thành điều trực tiếp đối với Bậc Đạo Sư. Giống như những phẩm hạnh đó, nó cũng được gọi là đã được chứng ngộ, chứ không phải chỉ là quy ước của những người khác, đó là chủ ý.

Vadantīti mahātherassa garubhāvato bahuvacanenāha, saṅgītikārehi vā katamanuvādaṃ sandhāya. Issariyādibhedo bhago assa atthīti bhagī. Maggaphalādiariyadhammaratanaṃ araññavanapatthāni pantāni senāsanāni appasaddādiguṇayuttāni bhaji sevi sīlenāti bhajī, bhajanasīloti attho. Bhāgīti cīvarapiṇḍapātādīnaṃ catunnaṃ paccayānañceva atthadhammavimuttirasassa ca adhisīlādīnañca bhāgīti attho. Vibhaji pavibhaji dhammaratananti vibhattavāAkāsi bhagganti rāgādipāpadhammaṃ bhaggaṃ akāsīti bhagavāti attho. Garupi loke bhagavāti vuccatīti āha ‘‘garū’’ti. Yasmā garu, tasmāpi bhagavāti vuttaṃ hoti. Hetuattho hi iti-saddo. So ca yattha iti-saddo natthi bhagītiādīsu, tattha paccekaṃ yojetabbo. Bhāgyamassa atthīti bhāgyavāBahūhi ñāyehīti kāyabhāvanādikehi anekehi bhāvanākkamehi. Subhāvitattanoti sammadeva bhāvitasabhāvassa. Paccatte cetaṃ sāmivacanaṃ, tena subhāvitattāti vuttaṃ hoti, subhāvitasabhāvoti attho. Mahāgaṇṭhipade pana ‘‘subhāvitattano subhāvitakāyo’’ti vuttaṃ. Bhavānaṃ antaṃ nibbānaṃ gatoti bhavantago.
Nói rằng, (chú giải) dùng số nhiều do sự tôn kính đối với vị Đại Trưởng Lão, hoặc đề cập đến sự thuật lại đã được thực hiện bởi các vị kết tập kinh điển. Người có sự may mắn (bhaga) được phân chia theo quyền lực v.v…, nên là bhagī. Vị ấy đã thường xuyên lui tới (bhaji), đã tu tập (sevi) các nơi ở vắng vẻ như rừng rậm, núi non, vốn có các phẩm hạnh như ít tiếng động v.v…, cùng với các pháp bảo của bậc Thánh như đạo và quả, bằng giới hạnh, nên là bhajī; có nghĩa là, có thói quen lui tới. Bhāgī có nghĩa là, vị ấy là người có phần trong bốn loại vật dụng như y phục, vật thực khất thực v.v…, trong vị của lợi ích, vị của chánh pháp, và vị của giải thoát, và trong giới cao thượng v.v… Vị ấy đã phân tích (vibhaji), đã phân chia (pavibhaji) pháp bảo, nên là vibhattavā. Đã phá tan có nghĩa là, đã phá tan (bhaggaṃ akāsi) các pháp ác như tham ái v.v…, nên là Bhagavā. Vì người đáng được tôn kính trong đời cũng được gọi là Bhagavā, nên (chú giải) nói: “người đáng được tôn kính.” Có nghĩa là, vì Ngài là người đáng được tôn kính, nên cũng được gọi là Bhagavā. Thật vậy, tiểu từ iti– có ý nghĩa là nhân. Và nó cần được kết hợp riêng với từng từ trong các câu như bhagī v.v…, nơi không có tiểu từ iti. Vị này có sự may mắn (bhāgyaṃ), nên là bhāgyavā (người may mắn). Bởi nhiều phương pháp là bởi nhiều trình tự tu tập như tu tập về thân v.v… Của người có tự thân đã được tu tập tốt đẹp là của người có bản chất đã được tu tập một cách đúng đắn. Và đây là sở hữu cách trong ý nghĩa tự thân; do đó có nghĩa là người có tự thân đã được tu tập tốt đẹp; có nghĩa là người có bản chất đã được tu tập tốt đẹp. Còn trong sách Đại Chú Giải Khó Từ, đã nói: “người có tự thân đã được tu tập tốt đẹp là người có thân đã được tu tập tốt đẹp.” Đã đi đến sự kết thúc của các cõi hữu, tức Niết-bàn, nên là bhavantago (người đã đến cuối các cõi hữu).

Niddesevuttanayenāti etthāyaṃ niddesanayo –
Theo phương pháp đã nói trong Niddesa, ở đây, đây là phương pháp của Niddesa –

‘‘Bhagavāti gāravādhivacanametaṃ. Apica bhaggarāgoti bhagavā, bhaggadosoti bhagavā, bhaggamohoti bhagavā, bhaggamānoti bhagavā, bhaggadiṭṭhīti bhagavā, bhaggataṇhoti bhagavā, bhaggakilesoti bhagavā, bhaji vibhaji pavibhaji dhammaratananti bhagavā, bhavānaṃ antakaroti bhagavā, bhāvitakāyo bhāvitasīlo bhāvitacitto bhāvitapaññoti bhagavā, bhaji vā bhagavā araññavanapatthāni pantāni senāsanāni appasaddāni appanigghosāni vijanavātāni manussarāhasseyyakāni paṭisallānasāruppānīti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhārānanti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā attharasassa dhammarasassa vimuttirasassa adhisīlassa adhicittassa adhipaññāyāti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā catunnaṃ jhānānaṃ catunnaṃ appamaññānaṃ catunnaṃ arūpasamāpattīnanti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā aṭṭhannaṃ vimokkhānaṃ aṭṭhannaṃ abhibhāyatanānaṃ navannaṃ anupubbavihārasamāpattīnanti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā dasannaṃ saññābhāvanānaṃ dasannaṃ kasiṇasamāpattīnaṃ ānāpānassatisamādhissa asubhasamāpattiyāti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā catunnaṃ satipaṭṭhānānaṃ catunnaṃ sammappadhānānaṃ catunnaṃ iddhipādānaṃ pañcannaṃ indriyānaṃ pañcannaṃ balānaṃ sattannaṃ bojjhaṅgānaṃ ariyassa aṭṭhaṅgikassa maggassāti bhagavā. Bhāgī vā bhagavā dasannaṃ tathāgatabalānaṃ catunnaṃ vesārajjānaṃ catunnaṃ paṭisambhidānaṃ channaṃ abhiññānaṃ channaṃ buddhadhammānanti bhagavā. Bhagavāti netaṃ nāmaṃ…pe… sacchikā paññatti yadidaṃ bhagavā’’ti (mahāni. 84).
“Bhagavā (Thế Tôn) là một tên gọi tôn kính. Hơn nữa, đã phá tan tham ái, nên là Bhagavā; đã phá tan sân hận, nên là Bhagavā; đã phá tan si mê, nên là Bhagavā; đã phá tan ngã mạn, nên là Bhagavā; đã phá tan tà kiến, nên là Bhagavā; đã phá tan ái dục, nên là Bhagavā; đã phá tan phiền não, nên là Bhagavā. Đã thường xuyên lui tới, đã phân tích, đã phân chia pháp bảo, nên là Bhagavā. Đã làm cho các cõi hữu kết thúc, nên là Bhagavā. Đã có thân được tu tập, có giới được tu tập, có tâm được tu tập, có tuệ được tu tập, nên là Bhagavā. Hoặc Bhagavā đã thường xuyên lui tới các nơi ở vắng vẻ như rừng rậm, núi non, ít tiếng động, ít ồn ào, xa lánh người, thích hợp cho việc ẩn cư, nên là Bhagavā. Hoặc Bhagavā là người có phần trong các vật dụng như y phục, vật thực khất thực, chỗ ở, thuốc men trị bệnh, nên là Bhagavā. Hoặc Bhagavā là người có phần trong vị của lợi ích, vị của chánh pháp, vị của giải thoát, trong giới cao thượng, trong tâm cao thượng, trong tuệ cao thượng, nên là Bhagavā. Hoặc Bhagavā là người có phần trong bốn tầng thiền, bốn vô lượng tâm, bốn tầng thiền vô sắc, nên là Bhagavā. Hoặc Bhagavā là người có phần trong tám giải thoát, tám thắng xứ, chín tầng thiền định tuần tự, nên là Bhagavā. Hoặc Bhagavā là người có phần trong mười sự tu tập về tưởng, mười tầng thiền biến xứ, thiền định về hơi thở, thiền định về sự bất tịnh, nên là Bhagavā. Hoặc Bhagavā là người có phần trong bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, Thánh đạo tám ngành, nên là Bhagavā. Hoặc Bhagavā là người có phần trong mười lực của Như Lai, bốn vô úy, bốn vô ngại giải, sáu thắng trí, sáu pháp của Phật, nên là Bhagavā. Bhagavā, tên gọi này không phải…v.v… là sự quy định được chứng ngộ, đó là Bhagavā.” (mahāni. 84).

Ettha ca ‘‘gāravādhivacana’’ntiādīni yadipi gāthāyaṃ āgatapadānukkamena na niddiṭṭhāni, yathārahaṃ pana tesaṃ sabbesampi niddesabhāvena veditabbāni. Tattha gāravādhivacananti garūnaṃ garubhāvavācakaṃ vacanaṃ. Bhajīti bhāgaso kathesi. Tenāha ‘‘vibhaji pavibhaji dhammaratana’’nti. Maggaphalādi ariyadhammoyeva dhammaratanaṃ. Puna bhajīti imassa sevīti attho. Bhāgīti bhāgābhidheyyavā. Puna bhāgīti ettha bhajanasīloti attho. Attharasassāti atthasannissayassa rasassa. Vimuttāyatanasīse hi ṭhatvā dhammaṃ kathentassa suṇantassa ca tadatthaṃ ārabbha uppajjanakapītisomanassaṃ attharaso. Dhammaṃ ārabbha dhammaraso. Yaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘labhati atthavedaṃ, labhati dhammaveda’’nti (a. ni. 6.10). Vimuttirasassāti vimuttibhūtassa vimuttisannissayassa vā rasassa. Saññābhāvanānanti aniccasaññādīnaṃ dasannaṃ saññābhāvanānaṃ . Channaṃ buddhadhammānanti cha asādhāraṇañāṇāni sandhāya vuttaṃ. Tattha tattha bhagavātisaddasiddhi niruttinayeneva veditabbā.
Và ở đây, mặc dù các câu “tên gọi tôn kính” v.v… không được chỉ định theo thứ tự các từ đã có trong bài kệ, nhưng chúng cần được hiểu là đã được chỉ định một cách phù hợp với tất cả chúng. Ở đó, tên gọi tôn kính là lời nói chỉ đến trạng thái đáng được tôn kính của những người đáng được tôn kính. Đã phân chia là đã nói theo từng phần. Chính vì thế, (chú giải) nói: “đã phân tích, đã phân chia pháp bảo.” Chính các pháp của bậc Thánh như đạo và quả là pháp bảo. Lại nữa, ý nghĩa của từ đã thường xuyên lui tới là người đã tu tập. Người có phần là người có tên gọi là có phần. Lại nữa, trong từ người có phần, ở đây có nghĩa là người có thói quen lui tới. Của vị của lợi ích là của vị nương tựa vào lợi ích. Thật vậy, khi đứng ở đỉnh cao là sự giải thoát mà nói pháp, và khi nghe, hỷ và ưu sanh khởi liên quan đến ý nghĩa đó, đó là vị của lợi ích. Liên quan đến Chánh pháp là vị của Chánh pháp. Đề cập đến điều đó mà đã nói: “người đó có được sự cảm nhận về lợi ích, có được sự cảm nhận về chánh pháp.” (a. ni. 6.10). Của vị của giải thoát là của vị vốn là sự giải thoát hoặc nương tựa vào sự giải thoát. Của các sự tu tập về tưởng là của mười sự tu tập về tưởng như vô thường tưởng v.v… Của sáu pháp của Phật được nói khi đề cập đến sáu trí tuệ không chung. Ở từng nơi, sự hình thành của từ ‘Bhagavā’ cần được hiểu theo phương pháp từ nguyên.

Yadipi ‘‘bhāgyavā’’tiādīhi padehi vuccamāno attho ‘‘bhagī bhajī’’ti (mahāni. 84) niddesagāthāya saṅgahito eva, tathāpi padasiddhiatthavibhāgaatthayojanādisahito saṃvaṇṇanānayo tato aññākāroti vuttaṃ ‘‘ayaṃ pana aparo nayo’’ti. Vaṇṇavipariyāyoti etanti ettha itisaddo ādiattho, tena vaṇṇavikāro vaṇṇalopo dhātuatthena niyojanañcāti imaṃ tividhaṃ lakkhaṇaṃ saṅgaṇhāti. Saddanayenāti saddalakkhaṇanayena. Pisodarādīnaṃ saddānaṃ ākatigaṇabhāvato vuttaṃ ‘‘pisodarādipakkhepalakkhaṇaṃ gahetvā’’ti. Pakkhipanameva lakkhaṇaṃ. Tappariyāpannatākaraṇañhi pakkhipanaṃ. Pārappattanti paramukkaṃsagataṃ pāramībhāvappattaṃ. Bhāgyanti kusalaṃ. Tattha maggakusalaṃ lokuttarasukhanibbattakaṃ, itaraṃ lokiyasukhanibbattakaṃ, itarampi vā vivaṭṭupanissayaṃ pariyāyato lokuttarasukhanibbattakaṃ siyā.
Mặc dù ý nghĩa được nói đến bởi các từ “người may mắn” v.v… đã được bao gồm trong bài kệ chỉ định “bhagī, bhajī” (mahāni. 84), nhưng vì phương pháp chú giải, bao gồm cả sự hình thành từ, sự phân tích ý nghĩa, sự kết hợp ý nghĩa v.v…, có hình thức khác với phương pháp đó, nên đã nói: “Còn đây là một phương pháp khác.” Trong câu đây là sự thay đổi của âm, ở đây, tiểu từ iti– có ý nghĩa là v.v…; do đó, nó bao gồm ba đặc điểm ngữ pháp này: sự biến đổi của âm, sự lược bỏ của âm, và sự gán ý nghĩa cho một ngữ căn. Theo phương pháp của ngữ pháp là theo phương pháp của các đặc điểm ngữ pháp. Do các từ như pisodara v.v… thuộc nhóm các từ không theo quy tắc, nên đã nói: “sau khi đã lấy đặc điểm của việc xếp vào nhóm pisodara.” Việc xếp vào chính là đặc điểm. Thật vậy, việc làm cho nó thuộc về nhóm đó là sự xếp vào. Đã đến bờ bên kia là đã đến sự tột cùng, đã đạt đến trạng thái ba-la-mật. Sự may mắn là thiện pháp. Ở đó, thiện pháp của đạo tạo ra hạnh phúc siêu thế; thiện pháp khác tạo ra hạnh phúc thế gian. Hoặc là, thiện pháp khác, vì là y chỉ duyên cho sự giải thoát, nên một cách gián tiếp cũng có thể tạo ra hạnh phúc siêu thế.

Idāni bhagavāti imassa atthaṃ vibhajitvā dassento āha ‘‘yasmā panā’’tiādi. Tattha lobhādayo ekakavasena gahitā, tathā viparītamanasikāro vipallāsabhāvasāmaññena, ahirikādayo dukavasena. Tattha kujjhanalakkhaṇo kodho, so navavidhaāghātavatthusambhavo. ‘‘Akkocchi maṃ avadhi ma’’ntiādinā (dha. pa. 3-4) punappunaṃ kujjhanavasena cittapariyonandhano upanāho. Ubhayampi paṭighoyeva, so pavattinānattato bhinditvā vutto. Sakiṃ uppanno kodho kodhoyeva, taduttari upanāho. Vuttañcetaṃ ‘‘pubbakāle kodho, aparakāle upanāho’’ti (vibha. 891). Agāriyassa (ma. ni. aṭṭha. 1.71) anagāriyassa vā sukatakaraṇavināsano makkho. Agāriyopi hi kenaci anukampakena daliddo samāno ucce ṭhāne ṭhapito aparena samayena ‘‘kiṃ tayā mayhaṃ kata’’nti tassa sukatakaraṇaṃ vināseti. Anagāriyopi sāmaṇerakālato pabhuti ācariyena vā upajjhāyena vā catūhi paccayehi uddesaparipucchādīhi ca anuggahetvā dhammakathānayappakaraṇakosallādīni sikkhāpito aparena samayena rājarājamahāmattādīhi sakkato garukato ācariyupajjhāyesu acittīkato caramāno ‘‘ayaṃ amhehi daharakāle evaṃ anuggahito saṃvaḍḍhito ca, atha ca panidāni nissineho jāto’’ti vuccamāno ‘‘kiṃ mayhaṃ tumhehi kata’’nti tesaṃ sukatakaraṇaṃ vināseti, tasseso pubbakāritālakkhaṇassa guṇassa vināsano udakapuñchaniyā viya sarīrānugataṃ udakaṃ nipuñchanto makkho. Tathā hi so paresaṃ guṇānaṃ makkhanaṭṭhena ‘‘makkho’’ti vuccati. Paḷāsatīti paḷāso, parassa guṇe dassetvā attano guṇehi same karotīti attho. So pana bahussutepi puggale ajjhottharitvā ‘‘īdisassa ca bahussutassa aniyatā gati, tava vā mama vā ko viseso’’ti, rattaññū cirapabbajite puggale ajjhottharitvā ‘‘tvampi imasmiṃ sāsane pabbajito, ahampi pabbajito, tvampi sīlamatte ṭhito, ahampī’’tiādinā nayena uppajjamāno yugaggāho. Yugaggāhalakkhaṇo hi paḷāso.
Bây giờ, để phân tích và chỉ ra ý nghĩa của từ Thế Tôn, (chú giải) nói: “Và bởi vì” v.v… Ở đó, các pháp như tham ái v.v… được lấy theo từng cái một; tương tự, sự tác ý sai lầm theo tính chất chung của trạng thái điên đảo; còn vô tàm v.v… thì theo cặp. Ở đó, sự phẫn nộ có đặc tính là nổi giận; nó sanh ra từ chín sự việc gây oán hận. Sự ôm ấp trong tâm theo cách nổi giận nhiều lần rằng: “hắn đã chửi ta, đã đánh ta” v.v… (dha. pa. 3-4) là sự oán hận. Cả hai đều là sân hận; nó được nói riêng do sự khác nhau trong cách biểu hiện. Sự phẫn nộ sanh khởi một lần chỉ là sự phẫn nộ; sau đó là sự oán hận. Điều này đã được nói: “lúc đầu là sự phẫn nộ, lúc sau là sự oán hận.” (vibha. 891). Sự phủ nhận công lao là sự hủy hoại việc làm tốt của người tại gia hoặc người xuất gia. Thật vậy, một người tại gia, dù nghèo khó, được một người có lòng từ bi giúp đỡ, đặt vào một vị trí cao sang, nhưng sau một thời gian lại hủy hoại việc làm tốt của người đó bằng cách nói: “ông đã làm gì cho tôi?” Một người xuất gia, từ lúc còn là sa-di, được thầy hoặc thầy tế độ giúp đỡ bằng bốn vật dụng và bằng việc dạy dỗ về việc học hỏi v.v…, được dạy cho các kỹ năng về phương pháp thuyết pháp v.v…, sau một thời gian, được các vua chúa, đại thần v.v… cung kính, tôn trọng, lại tỏ ra không kính trọng các vị thầy của mình. Khi bị nói rằng: “người này đã được chúng ta giúp đỡ và nuôi dưỡng từ khi còn nhỏ như vậy, mà bây giờ lại trở nên vô ơn,” người đó hủy hoại việc làm tốt của họ bằng cách nói: “các vị đã làm gì cho tôi?” Sự phủ nhận công lao đó của người ấy, vốn hủy hoại phẩm chất của việc đã được làm trước đây, giống như cái giẻ lau nước lau đi nước đã dính trên cơ thể. Thật vậy, nó được gọi là “makkho” do có ý nghĩa là che lấp (makkhana) các phẩm chất của người khác. Nó cạnh tranh, nên là sự cạnh tranh; có nghĩa là, sau khi chỉ ra các phẩm chất của người khác, nó làm cho ngang bằng với các phẩm chất của mình. Và nó, sau khi lấn át cả người đa văn, sanh khởi theo cách nói rằng: “cõi đi của một người đa văn như vậy cũng không chắc chắn, có gì khác biệt giữa ông và tôi?”; sau khi lấn át người đã xuất gia lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, nó sanh khởi theo cách nói rằng: “ông cũng đã xuất gia trong giáo pháp này, tôi cũng đã xuất gia; ông cũng chỉ giữ giới, tôi cũng vậy” v.v… Sự cạnh tranh có đặc tính là sự ganh đua.

Paresaṃ sakkārādīni khīyamānā usūyamānā issā. Attano sampattiyā nigūhanaṃ parehi sādhāraṇabhāvaṃ asahamānaṃ macchariyaṃ. Vañcanikacariyabhūtā māyā, sā sakadosapaṭicchādanalakkhaṇā. Tathā hi sā attano vijjamānadosapaṭicchādanato cakkhumohanamāyā viyāti ‘‘māyā’’ti vuccati. Attano avijjamānaguṇappakāsanalakkhaṇaṃ kerāṭikabhāvena uppajjamānaṃ sāṭheyyaṃ. Asantaguṇadīpanañhi ‘‘kerāṭiya’’nti vuccati. Kerāṭiko hi puggalo āyanamaccho viya hoti. Āyanamaccho nāma sappamukhamacchavālā ekā macchajāti. So kira macchānaṃ naṅguṭṭhaṃ dasseti, sappānaṃ sīsaṃ ‘‘tumhākaṃ sadiso aha’’nti jānāpetuṃ, evameva kerāṭiko puggalo yaṃ yaṃ suttantikaṃ vā ābhidhammikaṃ vā upasaṅkamati, taṃ taṃ evaṃ vadati ‘‘ahaṃ tumhākaṃ antevāsī, tumhe mayhaṃ anukampakā, nāhaṃ tumhe muñcāmī’’ti. Evamete ‘‘sagāravo ayaṃ amhesu sappatisso’’ti maññissanti, tassevaṃ kerāṭikabhāvena uppajjamānaṃ sāṭheyyaṃ.
Sự ganh ghét khi thấy người khác được cung kính v.v… là sự ganh tỵ. Sự che giấu tài sản của mình, không muốn chia sẻ với người khác, là sự keo kiệt. Hành vi lừa dối là sự xảo trá; nó có đặc tính là che giấu lỗi lầm của mình. Thật vậy, vì nó che giấu lỗi lầm hiện có của mình, giống như ảo thuật làm mê hoặc mắt, nên được gọi là “māyā.” Sự sanh khởi theo cách gian xảo, có đặc tính là phô trương những phẩm chất không có thật của mình, là sự lừa đảo. Thật vậy, việc khoe khoang những phẩm chất không có được gọi là “sự gian xảo.” Người gian xảo giống như con cá āyanamaccha. Cá āyanamaccha là một loài cá có đầu rắn, đuôi cá. Nghe nói, nó cho các loài cá thấy đuôi, và cho các loài rắn thấy đầu để cho chúng biết rằng: “tôi cũng giống như các vị.” Cũng vậy, người gian xảo, khi đến gần bất kỳ vị nào thông thuộc kinh tạng hay luận tạng, đều nói rằng: “con là đệ tử của ngài, xin ngài hãy từ bi với con, con sẽ không rời bỏ ngài.” Họ sẽ nghĩ rằng: “người này kính trọng và quy phục chúng ta.” Sự lừa đảo sanh khởi theo cách gian xảo như vậy của người đó.

Sabbaso maddavābhāvena vātabharitabhastasadisassa thaddhabhāvassa anonamitadaṇḍasadisatāya paggahitasiraanivātavuttikāyassa ca kārako thambho. Taduttarikaraṇo sārambho. So duvidhena labbhati akusalavasena ceva kusalavasena ca. Tattha agāriyassa parena kataṃ alaṅkārādiṃ disvā taddiguṇataddiguṇakaraṇena uppajjamāno, anagāriyassa ca yattakaṃ yattakaṃ paro pariyāpuṇāti vā katheti vā, mānavasena taddiguṇataddiguṇakaraṇena uppajjamāno akusalo. Tena hi samannāgato puggalo taddiguṇaṃ taddiguṇaṃ karoti. Agāriyo samāno ekenekasmiṃ gharavatthusmiṃ sajjite aparo dve vatthūni sajjeti, aparo cattāro, aparo aṭṭha, aparo soḷasa. Anagāriyo samāno ekenekasmiṃ nikāye gahite ‘‘nāhaṃ etassa heṭṭhā bhavissāmī’’ti aparo dve gaṇhāti, aparo tayo, aparo cattāro, aparo pañca. Sārambhavasena hi gaṇhituṃ na vaṭṭati. Akusalapakkho hesa nirayagāmimaggo. Agāriyassa pana paraṃ ekaṃ salākabhattaṃ dentaṃ disvā attano dve vā tīṇi vā dātukāmatāya uppajjamāno, anagāriyassa ca parena ekanikāye gahite mānaṃ anissāya kevalaṃ taṃ disvā attano ālasiyaṃ abhibhuyya dve nikāye gahetukāmatāya uppajjamāno kusalo. Kusalapakkhavasena hi ekasmiṃ ekaṃ salākabhattaṃ dente dve, dve dente cattāri dātuṃ vaṭṭati. Bhikkhunāpi parena ekasmiṃ nikāye gahite ‘‘dve nikāye gahetvā sajjhāyantassa me phāsu hotī’’ti vivaṭṭapakkhe ṭhatvā taduttari gaṇhituṃ vaṭṭati, idha pana akusalapakkhiyo taduttarikaraṇo ‘‘sārambho’’ti vutto.
Sự cứng đầu là nguyên nhân của trạng thái cứng nhắc giống như một cái túi da căng phồng vì gió, và của thân thể có hành vi không cúi đầu, đầu ngẩng cao, giống như một cây gậy không thể uốn cong, do hoàn toàn không có sự mềm mại. Sự làm hơn thế nữa là sự hiếu thắng. Nó có được theo hai cách: theo cách bất thiện và theo cách thiện. Ở đó, đối với người tại gia, khi thấy người khác làm đồ trang sức v.v…, sự sanh khởi do việc làm gấp đôi, gấp ba lần như vậy; và đối với người xuất gia, khi người khác học thuộc hay thuyết giảng được bao nhiêu, sự sanh khởi do việc làm gấp đôi, gấp ba lần như vậy vì lòng kiêu mạn, là bất thiện. Thật vậy, người có đức tính đó sẽ làm gấp đôi, gấp ba lần. Một người tại gia, khi một người trang trí một ngôi nhà, người kia trang trí hai ngôi nhà, người khác bốn, người khác tám, người khác mười sáu. Một người xuất gia, khi một người học thuộc một bộ kinh, người kia, vì nghĩ rằng “ta sẽ không thua kém người này,” học thuộc hai bộ, người khác ba, người khác bốn, người khác năm. Không nên học thuộc vì lòng hiếu thắng. Đây là phe bất thiện, là con đường đến địa ngục. Còn đối với người tại gia, khi thấy người khác cho một suất ăn rút thăm, sự sanh khởi do muốn cho hai hoặc ba suất; và đối với người xuất gia, khi người khác học thuộc một bộ kinh, không dựa vào lòng kiêu mạn mà chỉ thấy người đó rồi vượt qua sự lười biếng của mình và muốn học thuộc hai bộ kinh, là thiện. Thật vậy, theo phe thiện, khi một người cho một suất ăn rút thăm, nên cho hai; khi cho hai, nên cho bốn. Một vị Tỳ-khưu, khi người khác học thuộc một bộ kinh, sau khi đã đứng vững trong phe giải thoát, cũng nên học thuộc nhiều hơn thế, nghĩ rằng: “khi ta học thuộc hai bộ kinh và tụng đọc, ta sẽ cảm thấy thoải mái.” Tuy nhiên, ở đây, sự làm hơn thế nữa thuộc phe bất thiện được gọi là “sự hiếu thắng.”

Jātiādīni nissāya seyyassa ‘‘seyyohamasmī’’tiādinā unnativasena paggaṇhanavasena pavatto māno. Abbhunnativasena pavatto atimāno. Pubbe kenaci attānaṃ sadisaṃ katvā pacchā tato adhikato dahato uppajjamānako atimānoti veditabbo. Jātiādiṃ paṭicca majjanākāro mado, sopi atthato māno eva. So pana jātimado gottamado ārogyamado yobbanamado jīvitamado lābhamado sakkāramado garukāramado purekkhāramado parivāramado bhogamado vaṇṇamado sutamado paṭibhānamado rattaññumado piṇḍapātikamado anavaññattimado iriyāpathamado iddhimado yasamado sīlamado jhānamado sippamado ārohamado pariṇāhamado saṇṭhānamado pāripūrimadoti anekavidho.
Sự kiêu mạn là sự đề cao bản thân theo cách tự cho mình là hơn, theo cách so sánh rằng “ta hơn” v.v…, dựa vào dòng dõi v.v… Sự quá mạn là sự đề cao bản thân một cách thái quá. Cần phải hiểu rằng sự quá mạn là sự sanh khởi từ việc lúc đầu tự cho mình bằng người khác, rồi sau đó lại cho mình hơn người đó. Hành vi say sưa dựa vào dòng dõi v.v… là sự say sưa; nó, về mặt ý nghĩa, cũng chính là sự kiêu mạn. Và nó có nhiều loại: sự say sưa về dòng dõi, sự say sưa về họ tộc, sự say sưa về sức khỏe, sự say sưa về tuổi trẻ, sự say sưa về sự sống, sự say sưa về lợi lộc, sự say sưa về sự cung kính, sự say sưa về sự tôn trọng, sự say sưa về sự được đi trước, sự say sưa về đoàn tùy tùng, sự say sưa về tài sản, sự say sưa về sắc đẹp, sự say sưa về sự đa văn, sự say sưa về tài biện luận, sự say sưa về kinh nghiệm, sự say sưa về việc đi khất thực, sự say sưa về việc không bị khinh thường, sự say sưa về oai nghi, sự say sưa về thần thông, sự say sưa về danh tiếng, sự say sưa về giới hạnh, sự say sưa về thiền định, sự say sưa về tay nghề, sự say sưa về chiều cao, sự say sưa về sự cân đối, sự say sưa về hình dáng, và sự say sưa về sự hoàn hảo.

Tattha (vibha. aṭṭha. 843-844) jātiṃ nissāya uppanno majjanākārappavatto māno jātimado, so khattiyādīnaṃ catunnampi vaṇṇānaṃ uppajjati. Jātisampanno hi khattiyo ‘‘mādiso añño natthi, avasesā antarā uṭṭhāya khattiyā jātā, ahaṃ pana vaṃsāgatakhattiyo’’ti mānaṃ karoti. Brāhmaṇādīsupi eseva nayo. Gottaṃ nissāya uppanno majjanākārappavatto māno gottamado, sopi khattiyādīnaṃ catunnampi vaṇṇānaṃ uppajjati. Khattiyopi hi ‘‘ahaṃ koṇḍaññagotto, ahaṃ ādiccagotto’’ti mānaṃ karoti. Brāhmaṇopi ‘‘ahaṃ kassapagotto, ahaṃ bhāradvājagotto’’ti mānaṃ karoti. Vessopi suddopi attano attano kulagottaṃ nissāya mānaṃ karoti. Ārogyamadādīsupi ‘‘ahaṃ arogo, sesā rogabahulā, kaṇḍuvanamattampi mayhaṃ byādhi nāma natthī’’ti majjanavasena uppanno māno ārogyamado nāma. ‘‘Ahaṃ taruṇo, avasesasattānaṃ attabhāvo papāte ṭhitarukkhasadiso, ahaṃ pana paṭhamavaye ṭhito’’ti majjanavasena uppanno māno yobbanamado. ‘‘Ahaṃ ciraṃ jīviṃ, ciraṃ jīvāmi, ciraṃ jīvissāmi, sukhaṃ jīviṃ, sukhaṃ jīvāmi, sukhaṃ jīvissāmī’’ti majjanavasena uppanno māno jīvitamado nāma. ‘‘Ahaṃ lābhī, avasesā sattā appalābhā, mayhaṃ pana lābhassa pamāṇaṃ natthī’’ti majjanavasena uppanno māno lābhamado nāma.
Ở đó (vibha. aṭṭha. 843-844), sự kiêu mạn sanh khởi dựa vào dòng dõi, có hành vi say sưa, là sự say sưa về dòng dõi; nó sanh khởi trong cả bốn giai cấp như Sát-đế-lỵ v.v… Thật vậy, một vị Sát-đế-lỵ có dòng dõi cao quý sẽ kiêu mạn rằng: “không có ai giống như ta; những người còn lại chỉ là Sát-đế-lỵ mới nổi, còn ta là Sát-đế-lỵ dòng dõi.” Trong các giai cấp Bà-la-môn v.v… cũng theo phương pháp này. Sự kiêu mạn sanh khởi dựa vào họ tộc, có hành vi say sưa, là sự say sưa về họ tộc; nó cũng sanh khởi trong cả bốn giai cấp như Sát-đế-lỵ v.v… Thật vậy, một vị Sát-đế-lỵ cũng kiêu mạn rằng: “ta thuộc họ Koṇḍañña, ta thuộc họ Ādicca.” Một vị Bà-la-môn cũng kiêu mạn rằng: “ta thuộc họ Kassapa, ta thuộc họ Bhāradvāja.” Một vị Vessa hay Sudda cũng kiêu mạn dựa vào họ tộc của mình. Trong các sự say sưa như say sưa về sức khỏe v.v…, sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “ta không có bệnh, những người còn lại thì nhiều bệnh; ta không có bệnh gì dù chỉ là một vết ngứa,” được gọi là sự say sưa về sức khỏe. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “ta còn trẻ, thân mạng của các chúng sanh còn lại giống như cây đứng bên bờ vực, còn ta thì đang ở tuổi thanh xuân,” là sự say sưa về tuổi trẻ. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “ta đã sống lâu, đang sống lâu, sẽ sống lâu; đã sống an lạc, đang sống an lạc, sẽ sống an lạc,” được gọi là sự say sưa về sự sống. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “ta có nhiều lợi lộc, các chúng sanh còn lại ít lợi lộc; còn lợi lộc của ta thì không thể kể xiết,” được gọi là sự say sưa về lợi lộc.

‘‘Avasesā sattā yaṃ vā taṃ vā labhanti, ahaṃ pana sukataṃ paṇītaṃ cīvarādipaccayaṃ labhāmī’’ti majjanavasena uppanno māno sakkāramado nāma. ‘‘Avasesabhikkhūnaṃ pādapiṭṭhiyaṃ akkamitvā gacchantā manussā ‘ayaṃ samaṇo’tipi na vandanti, maṃ pana disvā vandanti, pāsāṇacchattaṃ viya garukaṃ katvā aggikkhandhaṃ viya ca durāsadaṃ katvā maññantī’’ti majjanavasena uppanno māno garukāramado nāma. ‘‘Uppanno pañho mayhameva mukhena chijjati, bhikkhācāraṃ gacchantāpi āgacchantāpi mameva purato katvā parivāretvā gacchantī’’ti majjanavasena uppanno māno purekkhāramado nāma. Agāriyassa tāva mahāparivārassa ‘‘purisasatampi purisasahassampi maṃ parivāretī’’ti, anagāriyassa ‘‘samaṇasatampi samaṇasahassampi maṃ parivāreti, sesā appaparivārā, ahaṃ mahāparivāro ceva suciparivāro cā’’ti majjanavasena uppanno māno parivāramado nāma. ‘‘Avasesā sattā attano paribhogamattakampi na labhanti, mayhaṃ pana nidhānagatasseva dhanassa pamāṇaṃ natthī’’ti majjanavasena uppanno māno bhogamado nāma. ‘‘Avasesā sattā dubbaṇṇā durūpā, ahaṃ abhirūpo pāsādiko’’tipi ‘‘avasesasattā nigguṇā patthaṭaakittino, mayhaṃ pana kittisaddo devamanussesu pākaṭo ‘itipi thero bahussuto, itipi sīlavā, itipi dhutaguṇayutto’’’ti, evaṃ sarīravaṇṇaṃ guṇavaṇṇañca paṭicca majjanavasena uppanno māno vaṇṇamado nāma.
Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại nhận được bất cứ thứ gì, còn ta thì nhận được các vật dụng như y phục v.v… tốt đẹp và tinh tế,” được gọi là sự say sưa về sự cung kính. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “những người đi qua mà không bước lên bệ chân của các vị Tỳ-khưu khác, họ cũng không đảnh lễ dù chỉ nghĩ rằng ‘đây là một vị sa-môn’; còn khi thấy ta, họ đảnh lễ, họ xem ta như một tảng đá quý, và khó đến gần như một khối lửa,” được gọi là sự say sưa về sự tôn trọng. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “một câu hỏi sanh khởi chỉ được giải đáp bằng miệng của ta; ngay cả khi đi khất thực hay trở về, họ cũng đặt ta đi trước và đi xung quanh,” được gọi là sự say sưa về sự được đi trước. Đối với người tại gia có nhiều người theo, sự kiêu mạn sanh khởi rằng: “một trăm người, một ngàn người theo ta”; đối với người xuất gia: “một trăm sa-môn, một ngàn sa-môn theo ta; những người khác ít người theo, còn ta vừa có nhiều người theo vừa có đoàn tùy tùng trong sạch,” là sự say sưa về đoàn tùy tùng. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại không có đủ vật dụng cho mình, còn của cải của ta ngay cả trong kho cũng không thể kể xiết,” được gọi là sự say sưa về tài sản. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại xấu xí, dung mạo không ưa nhìn, còn ta thì xinh đẹp, ưa nhìn,” hoặc “các chúng sanh còn lại không có phẩm hạnh, tiếng tăm xấu xa lan rộng, còn tiếng tăm của ta thì nổi bật trong cõi trời và cõi người rằng: ‘vị trưởng lão này là người đa văn, vị này là người có giới hạnh, vị này là người có các phẩm hạnh đầu-đà,’” như vậy, sự kiêu mạn sanh khởi dựa vào sắc đẹp của thân thể và sắc đẹp của phẩm hạnh, được gọi là sự say sưa về sắc đẹp.

‘‘Avasesā sattā appassutā, ahaṃ pana bahussuto’’ti majjanavasena uppanno māno sutamado nāma. ‘‘Avasesā sattā appaṭibhānā, mayhaṃ pana paṭibhānassa pamāṇaṃ natthī’’ti majjanavasena uppanno māno paṭibhānamado nāma. ‘‘Ahaṃ rattaññū asukaṃ buddhavaṃsaṃ rājavaṃsaṃ janapadavaṃsaṃ gāmavaṃsaṃ rattindivaparicchedaṃ nakkhattamuhuttayogaṃ jānāmī’’ti majjanavasena uppanno māno rattaññumado nāma. ‘‘Avasesā bhikkhū antarā piṇḍapātikā jātā, ahaṃ pana jātipiṇḍapātiko’’ti majjanavasena uppanno māno piṇḍapātikamado nāma. ‘‘Avasesā sattā uññātā avaññātā, ahaṃ pana anavaññāto’’ti majjanavasena uppanno māno anavaññattimado nāma. ‘‘Avasesānaṃ sattānaṃ iriyāpatho apāsādiko, mayhaṃ pana pāsādiko’’ti majjanavasena uppanno māno iriyāpathamado nāma. ‘‘Avasesā sattā chinnapakkhakākasadisā, ahaṃ pana mahiddhiko mahānubhāvo’’ti vā ‘‘ahaṃ yaṃ yaṃ kammaṃ karomi, taṃ taṃ ijjhatī’’ti vā majjanavasena uppanno māno iddhimado nāma.
Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại ít nghe, còn ta thì đa văn,” được gọi là sự say sưa về sự đa văn. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại ít tài biện luận, còn tài biện luận của ta thì không thể kể xiết,” được gọi là sự say sưa về tài biện luận. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “ta có nhiều kinh nghiệm, ta biết về dòng dõi Phật, dòng dõi vua, dòng dõi của các quốc gia, dòng dõi của các làng, sự phân chia ngày đêm, sự kết hợp của các vì sao và các thời điểm,” được gọi là sự say sưa về kinh nghiệm. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các vị Tỳ-khưu khác chỉ mới đi khất thực giữa chừng, còn ta là người đi khất thực từ lúc sanh ra,” được gọi là sự say sưa về việc đi khất thực. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại bị khinh thường, bị coi rẻ, còn ta thì không bị khinh thường,” được gọi là sự say sưa về việc không bị khinh thường. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “oai nghi của các chúng sanh còn lại không ưa nhìn, còn oai nghi của ta thì ưa nhìn,” được gọi là sự say sưa về oai nghi. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại giống như con quạ bị gãy cánh, còn ta thì có nhiều thần thông, có nhiều uy lực,” hoặc “bất cứ việc gì ta làm, việc đó đều thành tựu,” được gọi là sự say sưa về thần thông.

Yasamado pana agārikenapi anagārikenapi dīpetabbo. Agārikopi hi ekacco aṭṭhārasasu seṇīsu ekissā jeṭṭhako hoti, tassa ‘‘avasese purise ahaṃ paṭṭhapemi, ahaṃ vicāremī’’ti, anagārikopi ekacco katthaci jeṭṭhako hoti, tassa ‘‘avasesā bhikkhū mayhaṃ ovāde vattanti, ahaṃ jeṭṭhako’’ti majjanavasena uppanno māno yasamado nāma. ‘‘Avasesā sattā dussīlā, ahaṃ pana sīlavā’’ti majjanavasena uppanno māno sīlamado nāma. ‘‘Avasesānaṃ sattānaṃ kukkuṭassa udakapānamattepi kāle cittekaggatā natthi, ahaṃ pana upacārappanānaṃ lābhī’’ti majjanavasena uppanno māno jhānamado nāma. ‘‘Avasesā sattā nissippā, ahaṃ sippavā’’ti majjanavasena uppanno māno sippamado nāma. ‘‘Avasesā sattā rassā, ahaṃ dīgho’’ti majjanavasena uppanno māno ārohamado nāma. ‘‘Avasesā sattā rassā vā honti dīghā vā, ahaṃ nigrodhaparimaṇḍalo’’ti majjanavasena uppanno māno pariṇāhamado nāma. ‘‘Avasesānaṃ sattānaṃ sarīrasaṇṭhānaṃ virūpaṃ bībhacchaṃ, mayhaṃ pana manāpaṃ pāsādika’’nti majjanavasena uppanno māno saṇṭhānamado nāma. ‘‘Avasesānaṃ sattānaṃ sarīre bahū dosā, mayhaṃ pana sarīre kesaggamattampi vajjaṃ natthī’’ti majjanavasena uppanno māno pāripūrimado nāma. Evamayaṃ sabbopi jātiādiṃ nissāya majjanākāravasappavatto māno idha ‘‘mado’’ti vutto. Kāmaguṇesu cittassa vossaggo pamādo, pañcasu kāmaguṇesu satiyā aniggaṇhitvā cittassa vossajjanaṃ, sativirahoti vuttaṃ hoti. Taṇhāvijjā pākaṭāyeva.
Còn sự say sưa về danh tiếng cần được làm rõ bởi cả người tại gia và người xuất gia. Thật vậy, một người tại gia nào đó là người đứng đầu trong một trong mười tám phường hội; đối với người đó, sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “ta bổ nhiệm những người khác, ta quản lý.” Một người xuất gia nào đó là người đứng đầu ở một nơi nào đó; đối với người đó, sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các vị Tỳ-khưu khác tuân theo lời dạy của ta, ta là người đứng đầu,” được gọi là sự say sưa về danh tiếng. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại là người vô giới, còn ta là người có giới hạnh,” được gọi là sự say sưa về giới hạnh. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại không có sự chuyên nhất của tâm dù chỉ trong một khoảnh khắc như con gà uống nước, còn ta là người chứng đắc các tầng thiền cận định và an chỉ,” được gọi là sự say sưa về thiền định. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại không có tay nghề, còn ta là người có tay nghề,” được gọi là sự say sưa về tay nghề. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại thì lùn, còn ta thì cao,” được gọi là sự say sưa về chiều cao. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “các chúng sanh còn lại hoặc là lùn hoặc là cao, còn ta thì cân đối như cây đa,” được gọi là sự say sưa về sự cân đối. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “hình dáng thân thể của các chúng sanh còn lại xấu xí, gớm ghiếc, còn của ta thì đẹp đẽ, ưa nhìn,” được gọi là sự say sưa về hình dáng. Sự kiêu mạn sanh khởi theo cách say sưa rằng: “trong thân thể của các chúng sanh còn lại có nhiều khuyết điểm, còn trong thân thể của ta không có một lỗi lầm nào dù chỉ bằng đầu sợi tóc,” được gọi là sự say sưa về sự hoàn hảo. Như vậy, tất cả sự kiêu mạn này, vốn diễn ra theo cách say sưa dựa vào dòng dõi v.v…, ở đây được gọi là “sự say sưa.” Sự buông thả của tâm trong các dục trưởng dưỡng là sự dễ duôi; là sự buông thả của tâm trong năm dục trưởng dưỡng mà không được chế ngự bởi niệm; có nghĩa là sự thiếu vắng niệm. Ái và vô minh thì đã rõ ràng.

Lobhādayo ca puna tividhākusalamūlanti tikavasena gahitā. Duccaritādīsupi tividha-saddo paccekaṃ yojetabbo. Tattha kāyaduccaritādīni tividhaduccaritāni. Taṇhāsaṃkilesādayo tividhasaṃkilesā. Rāgamalādayo malīnabhāvakarattā tividhamalāni. Rāgādayo hi cittaṃ malīnaṃ karonti, malaṃ gāhāpenti, tasmā ‘‘malānī’’ti vuccanti. ‘‘Rāgo visamaṃ, doso visamaṃ, moho visama’’nti (vibha. 924) evaṃ vuttā rāgādayo ‘‘kāyavisamaṃ vacīvisamaṃ manovisama’’nti (vibha. 924) evamāgatā kāyaduccaritādayo ca tividhavisamāni. Tāni pana yasmā rāgādīsu ceva kāyaduccaritādīsu ca sattā pakkhalanti, pakkhalitā ca sāsanatopi sugatitopi patanti, tasmā pakkhalanapātahetubhāvato ‘‘visamānī’’ti vuccanti. ‘‘Kāmasaññā byāpādasaññā vihiṃsāsaññā’’ti (vibha. 911) evamāgatā kāmādipaṭisaṃyuttā saññā tividhasaññā. Tathā ‘‘kāmavitakko byāpādavitakko vihiṃsāvitakko’’ti evamāgatā tividhavitakkā. Taṇhāpapañco diṭṭhipapañco mānapapañcoti ime tividhapapañcā. Vaṭṭasmiṃ satte papañcentīti taṇhādayo ‘‘papañcā’’ti vuccanti.
Và lại nữa, tham ái v.v… được bao gồm theo cách là một bộ ba, là ba gốc bất thiện. Trong các pháp như ác hạnh v.v…, từ ba cần được kết hợp riêng với từng pháp. Ở đó, thân ác hạnh v.v… là ba ác hạnh. Ái cấu uế v.v… là ba cấu uế. Tham uế v.v…, do có tính chất làm cho ô uế, nên là ba điều ô uế. Thật vậy, tham ái v.v… làm cho tâm ô uế, làm cho tâm nhiễm ô, do đó chúng được gọi là “các điều ô uế.” Các pháp như tham ái v.v… đã được nói là “tham là không ngay thẳng, sân là không ngay thẳng, si là không ngay thẳng” (vibha. 924), và các pháp như thân ác hạnh v.v… đã được đề cập là “thân không ngay thẳng, khẩu không ngay thẳng, ý không ngay thẳng” (vibha. 924), là ba điều không ngay thẳng. Và vì trong tham ái v.v… và trong thân ác hạnh v.v…, các chúng sanh bị vấp ngã, và khi đã vấp ngã, họ rơi khỏi giáo pháp và cõi lành, do đó, do là nhân cho sự vấp ngã và sa ngã, chúng được gọi là “các điều không ngay thẳng.” Các tưởng liên quan đến dục v.v… đã được đề cập là “dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng” (vibha. 911), là ba tưởng. Tương tự, các tầm đã được đề cập là “dục tầm, sân tầm, hại tầm,” là ba tầm. Ái hý luận, kiến hý luận và mạn hý luận là ba hý luận. Vì chúng làm cho chúng sanh bị trói buộc trong vòng luân hồi, nên ái v.v… được gọi là “các hý luận.”

Catubbidhavipariyesātiādīsu catubbidha-saddo paccekaṃ yojetabbo. Tattha aniccādīni vatthūni niccantiādinā nayena viparītato esantīti vipariyesā. ‘‘Anicce niccanti saññāvipariyeso cittavipariyeso diṭṭhivipariyeso , dukkhe sukhanti saññāvipariyeso cittavipariyeso diṭṭhivipariyeso, asubhe subhanti saññāvipariyeso cittavipariyeso diṭṭhivipariyeso , anattani attāti saññāvipariyeso cittavipariyeso diṭṭhivipariyeso’’ti evamāgatā dvādasa vipallāsā catunnaṃ aniccādivatthūnaṃ vasena ‘‘catubbidhavipariyesā’’ti vuttā. Ettha pana cittakiccassa dubbalaṭṭhāne diṭṭhivirahitāya akusalasaññāya sakakiccassa balavakāle saññāvipallāso veditabbo, diṭṭhivirahitasseva akusalacittassa sakakiccassa balavakāle cittavipallāso, diṭṭhisampayuttacitte diṭṭhivipallāso. Tasmā sabbadubbalo saññāvipallāso, tato balavataro cittavipallāso, sabbabalavataro diṭṭhivipallāso. Ajātabuddhidārakassa kahāpaṇadassanaṃ viya saññā ārammaṇassa upaṭṭhānākāramattagahaṇato. Gāmikapurisassa kahāpaṇadassanaṃ viya cittaṃ lakkhaṇappaṭivedhassapi sampādanato. Kammārassa mahāsaṇḍāsena ayogahaṇaṃ viya diṭṭhi abhinivesaparāmasanato. Tattha cattāro diṭṭhivipallāsā, aniccānattesu niccantiādivasappavattā cattāro saññācittavipallāsāti ime aṭṭha vipallāsā sotāpattimaggena pahīyanti. Asubhe subhanti saññācittavipallāsā sakadāgāmimaggena tanukā honti, anāgāmimaggena pahīyanti. Dukkhe sukhanti saññācittavipallāsā arahattamaggena pahīyantīti veditabbā.
Trong các câu bốn sự điên đảo v.v…, từ bốn cần được kết hợp riêng với từng pháp. Ở đó, vì chúng tìm kiếm (esanti) các sự vật như vô thường v.v… một cách sai lạc (viparītato) theo cách như là thường hằng v.v…, nên là các sự điên đảo (vipariyesā). “Tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo rằng trong cái vô thường có sự thường hằng; tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo rằng trong cái khổ có sự an lạc; tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo rằng trong cái bất tịnh có sự thanh tịnh; tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo rằng trong cái vô ngã có tự ngã,” mười hai sự điên đảo đã được đề cập như vậy, do dựa trên bốn sự vật là vô thường v.v…, nên được gọi là “bốn sự điên đảo.” Và ở đây, cần phải hiểu rằng, ở nơi mà chức năng của tâm yếu, khi bất thiện tưởng không có tà kiến, và vào lúc chức năng riêng của nó mạnh mẽ, đó là tưởng điên đảo. Khi bất thiện tâm không có tà kiến, và vào lúc chức năng riêng của nó mạnh mẽ, đó là tâm điên đảo. Trong tâm tương ưng với tà kiến, đó là kiến điên đảo. Do đó, tưởng điên đảo là yếu nhất, tâm điên đảo mạnh hơn, và kiến điên đảo là mạnh nhất. Giống như sự thấy đồng tiền của một đứa trẻ chưa có trí tuệ, tưởng chỉ nắm bắt hình thức hiện diện của đối tượng. Giống như sự thấy đồng tiền của một người dân làng, tâm cũng hoàn thành cả việc thấu triệt đặc tính. Giống như người thợ rèn dùng kẹp lớn để kẹp sắt, tà kiến nắm giữ một cách cố chấp. Ở đó, bốn kiến điên đảo, và bốn tưởng điên đảo, tâm điên đảo diễn ra theo cách cho rằng trong cái vô thường và vô ngã có sự thường hằng v.v…, tám sự điên đảo này được đoạn trừ bởi Tu-đà-hoàn Đạo. Tưởng điên đảo và tâm điên đảo rằng trong cái bất tịnh có sự thanh tịnh được làm cho yếu đi bởi Tư-đà-hàm Đạo, và được đoạn trừ bởi A-na-hàm Đạo. Cần phải hiểu rằng tưởng điên đảo và tâm điên đảo rằng trong cái khổ có sự an lạc được đoạn trừ bởi A-la-hán Đạo.

‘‘Kāmāsavo bhavāsavo diṭṭhāsavo avijjāsavo’’ti (cūḷani. jatukaṇṇimāṇavapucchāniddesa 69) evamāgatā kāmataṇhādayo cattāro āsavanti cakkhuādito sandanti pavattantīti āsavā. Kiñcāpi cakkhuādito kusalādīnampi pavatti atthi, kāmāsavādayo eva pana vaṇato yūsaṃ viya paggharaṇakaasucibhāvena sandanti, tasmā te eva ‘‘āsavā’’ti vuccanti. Tattha hi paggharaṇakaasucimhi niruḷho āsavasaddoti. Atha vā dhammato yāva gotrabhuṃ, okāsato yāva bhavaggaṃ savanti gacchanti ārammaṇakaraṇavasena pavattantīti āsavā, ete dhamme etañca okāsaṃ antokaritvā pavattantīti attho. Avadhiattho hi ā-kāro. Avadhi ca mariyādābhividhibhedato duvidho. Tattha mariyādaṃ kiriyaṃ bahikatvā pavattati yathā ‘‘āpāṭaliputtaṃ vuṭṭho devo’’ti, abhividhi pana kiriyaṃ byāpetvā pavattati yathā ‘‘ābhavaggaṃ bhagavato yaso pavattatī’’ti, abhividhiattho cāyaṃ ā-kāro idha gahito, tasmā te dhamme tañca okāsaṃ antokaritvā ārammaṇakaraṇavasena savantīti ‘‘āsavā’’ti vuccanti. Cirapārivāsiyaṭṭhena madirādayo āsavā viyātipi āsavā. Lokasmiñhi cirapārivāsikā madirādayo ‘‘āsavā’’ti vuccanti. Yadi ca cirapārivāsiyaṭṭhena āsavā, eteyeva bhavitumarahanti. Vuttañhetaṃ ‘‘purimā, bhikkhave, koṭi na paññāyati avijjāya, ito pubbe avijjā nāhosī’’tiādi (a. ni. 10.61). Aññesu pana yathāvutte dhamme okāsañca ārammaṇaṃ katvā pavattamānesu mānādīsu ca vijjamānesu attattaniyādiggāhavasena abhibyāpanaṃ madanakaraṇavasena āsavasadisatā ca etesaṃyeva, na aññesanti dvīsupi atthavikappesu etesuyeva āsavasaddo niruḷhoti daṭṭhabbo. Āyataṃ vā saṃsāradukkhaṃ savanti pasavantītipi āsavā. Na hi taṃ kiñci saṃsāradukkhaṃ atthi, yaṃ āsavehi vinā uppajjeyya.
Bốn pháp như dục ái v.v… đã được đề cập là “dục lậu, hữu lậu, kiến lậu, vô minh lậu” (cūḷani. jatukaṇṇimāṇavapucchāniddesa 69), chúng chảy ra, diễn ra từ mắt v.v…, nên là các lậu hoặc. Mặc dù các pháp thiện v.v… cũng có sự diễn ra từ mắt v.v…, nhưng chỉ có dục lậu v.v… chảy ra theo cách là chất bất tịnh rỉ ra như mủ từ vết thương. Do đó, chỉ chúng mới được gọi là “các lậu hoặc.” Thật vậy, ở đó, từ ‘lậu hoặc’ đã được xác lập trong ý nghĩa là chất bất tịnh rỉ ra. Hoặc là, chúng chảy (savanti) đến (ā) các pháp cho đến tuệ gotrabhu, và đến (ā) các nơi cho đến cõi hữu đỉnh, bằng cách lấy chúng làm đối tượng, nên là các lậu hoặc; có nghĩa là, chúng diễn ra bao trùm cả các pháp và các nơi đó. Thật vậy, phụ âm ā– có ý nghĩa là giới hạn. Và giới hạn có hai loại: giới hạn không bao gồm và giới hạn bao gồm. Ở đó, giới hạn không bao gồm diễn ra bên ngoài hành động, như trong câu “trời đã mưa cho đến Pāṭaliputta.” Còn giới hạn bao gồm thì diễn ra bao trùm cả hành động, như trong câu “danh tiếng của Thế Tôn lan rộng cho đến cõi hữu đỉnh.” Và ở đây, phụ âm ā– này được lấy theo ý nghĩa giới hạn bao gồm. Do đó, vì chúng chảy, bao trùm cả các pháp và các nơi đó bằng cách lấy làm đối tượng, nên được gọi là “các lậu hoặc.” Hoặc chúng cũng là các lậu hoặc giống như các loại rượu v.v… đã được ngâm ủ lâu ngày. Thật vậy, trong đời, các loại rượu v.v… được ngâm ủ lâu ngày được gọi là “āsavā.” Và nếu chúng là các lậu hoặc do có ý nghĩa là đã được ngâm ủ lâu ngày, thì chúng phải chính là những pháp này. Điều này đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, điểm khởi đầu của vô minh không thể được biết đến, rằng trước thời điểm này không có vô minh.” v.v… (a. ni. 10.61). Và trong các pháp khác như kiêu mạn v.v…, vốn cũng diễn ra bằng cách lấy các pháp và các nơi đã nói làm đối tượng, nhưng sự bao trùm theo cách chấp thủ là ta và của ta, và sự tương tự với các lậu hoặc theo cách làm cho say sưa chỉ có ở những pháp này, không có ở những pháp khác. Do đó, cần phải thấy rằng trong cả hai cách giải thích ý nghĩa, từ ‘lậu hoặc’ đã được xác lập chỉ trong những pháp này. Hoặc chúng cũng là các lậu hoặc vì chúng chảy ra, tạo ra khổ đau luân hồi kéo dài. Thật vậy, không có một khổ đau luân hồi nào sanh khởi mà không có các lậu hoặc.

‘‘Abhijjhā kāyagantho byāpādo kāyagantho sīlabbataparāmāso kāyagantho idaṃsaccābhiniveso kāyagantho’’ti (saṃ. ni. 5.175; mahāni. 29, 147) evamāgatā abhijjhādayo cattāro yassa saṃvijjanti, taṃ cutipaṭisandhivasena vaṭṭasmiṃ ganthenti ghaṭentīti ganthā. ‘‘Kāmogho bhavogho diṭṭhogho avijjogho’’ti (saṃ. ni. 5.172; mahāni. 14; cūḷani. mettagūmāṇavapucchāniddesa 21) evamāgatā cattāro kāmataṇhādayo yassa saṃvijjanti, taṃ vaṭṭasmiṃ ohananti osīdāpentīti oghā. Teyeva ‘‘kāmayogo bhavayogo diṭṭhiyogo avijjāyogo’’ti (saṃ. ni. 5.173; a. ni. 4.10) evamāgatā vaṭṭasmiṃ yojentīti yogā. Ariyā etāya na gacchantīti agati, sā chandādivasena catubbidhā. ‘‘Cīvarahetu vā bhikkhuno taṇhā uppajjamānā uppajjati, piṇḍapāta, senāsana, itibhavābhavahetu vā bhikkhuno taṇhā uppajjamānā uppajjatī’’ti (a. ni. 4.9) evamāgatā cattāro taṇhuppādā. Tattha itibhavābhavahetūti ettha itīti nidassane nipāto, yathā cīvarādihetu, evaṃ bhavābhavahetupīti attho. Bhavābhavoti cettha paṇītapaṇītatarāni telamadhuphāṇitādīni adhippetāni. Kāmupādānādīni cattāri upādānāni.
Bốn pháp như tham ái v.v… đã được đề cập là “tham ái là thân phược, sân hận là thân phược, giới cấm thủ là thân phược, sự chấp thủ đây là sự thật là thân phược” (saṃ. ni. 5.175; mahāni. 29, 147), chúng tồn tại trong ai, thì trói buộc, cột chặt người đó vào vòng luân hồi bằng cách chết đi và tái sanh, nên là các phược. Bốn pháp như dục ái v.v… đã được đề cập là “dục bộc, hữu bộc, kiến bộc, vô minh bộc” (saṃ. ni. 5.172; mahāni. 14; cūḷani. mettagūmāṇavapucchāniddesa 21), chúng tồn tại trong ai, thì nhận chìm, làm cho người đó chìm đắm trong vòng luân hồi, nên là các bộc. Chính chúng, đã được đề cập là “dục ách, hữu ách, kiến ách, vô minh ách” (saṃ. ni. 5.173; a. ni. 4.10), cột trói vào vòng luân hồi, nên là các ách. Các bậc Thánh không đi theo con đường này, nên là phi đạo; nó có bốn loại theo cách là dục v.v… Bốn sự sanh khởi của ái đã được đề cập là “ái sanh khởi trong vị Tỳ-khưu do duyên y phục, do duyên vật thực khất thực, do duyên chỗ ở, hoặc ái sanh khởi trong vị Tỳ-khưu do duyên hữu và phi hữu.” (a. ni. 4.9). Ở đó, trong câu do duyên hữu và phi hữu, tiểu từ iti– ở đây có ý nghĩa chỉ ra ví dụ; có nghĩa là, giống như do duyên y phục v.v…, thì cũng do duyên hữu và phi hữu. Và ở đây, hữu và phi hữu được chủ trương là những thứ tinh tế hơn như dầu, mật ong, đường phèn v.v… Bốn thủ là dục thủ v.v…

Pañca cetokhilātiādīsu ‘‘buddhe kaṅkhati, dhamme, saṅghe, sikkhāya kaṅkhati, sabrahmacārīsu kupito hoti anattamano āhatacitto khilajāto’’ti (ma. ni. 1.185; dī. ni. 3.319) evamāgatāni pañca cetokhilāni, ceto khilayati thaddhabhāvaṃ āpajjati etehīti cetokhilāniVinibandhādīsupi pañca-saddo paccekaṃ yojetabbo. ‘‘Kāme avītarāgo hoti, kāye avītarāgo, rūpe avītarāgo, yāvadatthaṃ udarāvadehakaṃ bhuñjitvā seyyasukhaṃ passasukhaṃ middhasukhaṃ anuyutto viharati, aññataraṃ devanikāyaṃ paṇidhāya brahmacariyaṃ caratī’’ti (ma. ni. 1.186; dī. ni. 3.320) āgatā pañca cittaṃ bandhitvā muṭṭhiyaṃ katvā viya gaṇhantīti cetovinibandhā. Ete hi taṇhāppavattibhāvato kusalappavattiyā avasarāppadānavasena cittaṃ bandhaṃ viya samorodhetvā gaṇhanti. Saddatthato pana ceto virūpaṃ nibandhīyati saṃyamīyati etehīti cetovinibandhā. Kāmacchandādīni pañca kusaladhamme nīvārenti āvarantīti nīvaraṇāni. Rūpābhinandanādayo pañcābhinandanā.
Trong các câu năm chướng ngại của tâm v.v…, năm chướng ngại của tâm đã được đề cập là “hoài nghi về Phật, về Chánh pháp, về Tăng, về học giới; tức giận, không hài lòng, có tâm sân hận, trở nên chai cứng đối với các bạn đồng phạm hạnh,” (ma. ni. 1.185; dī. ni. 3.319); tâm bị chai cứng, trở nên cứng nhắc bởi chúng, nên là các chướng ngại của tâm. Trong các câu các trói buộc v.v…, từ năm cũng cần được kết hợp riêng với từng pháp. Năm pháp đã được đề cập là “không ly tham đối với các dục, không ly tham đối với thân, không ly tham đối với sắc; sau khi đã ăn no, lại sống theo hạnh phúc của việc nằm, hạnh phúc của việc duỗi người, hạnh phúc của giấc ngủ; thực hành phạm hạnh với ý nguyện sanh về một cõi trời nào đó,” (ma. ni. 1.186; dī. ni. 3.320) chúng trói buộc tâm và nắm giữ như trong lòng bàn tay, nên là các trói buộc của tâm. Thật vậy, do có bản chất là sự diễn ra của ái, chúng ngăn cản, nắm giữ tâm giống như một sự trói buộc, bằng cách không cho cơ hội cho sự diễn ra của thiện pháp. Hoặc về mặt từ ngữ, tâm bị trói buộc, bị ràng buộc một cách sai trái bởi chúng, nên là các trói buộc của tâm. Năm pháp như dục tham v.v… ngăn cản, che lấp các pháp thiện, nên là các triền cái. Năm sự hoan hỷ như hoan hỷ trong sắc v.v… là năm sự hoan hỷ.

Chavivādamūlātiādīsu kodho makkho issā sāṭheyyaṃ pāpicchatā sandiṭṭhiparāmāsoti imāni cha vivādamūlāni. Yasmā kuddho vā kodhavasena…pe… sandiṭṭhiparāmāsī vā sandiṭṭhiparāmasitāya kalahaṃ viggahaṃ vivādaṃ āpajjati, tasmā kodhādayo ‘‘cha vivādamūlānī’’ti vuccanti. Rūpataṇhāsaddataṇhādayo cha taṇhākāyā. Kāmarāgapaṭighadiṭṭhivicikicchābhavarāgamānāvijjā sattānusayā. Thāmagataṭṭhena appahīnaṭṭhena ca anusentīti anusayā. Micchādiṭṭhimicchāsaṅkappamicchāvācāmicchākammantamicchāājīvamicchāvāyāmamicchāsatimicchāsamādhī aṭṭha micchattā.
Trong các câu sáu gốc rễ của sự tranh cãi v.v…, sáu pháp này: sự phẫn nộ, sự phủ nhận công lao, sự ganh tỵ, sự xảo trá, các ý muốn xấu, và sự chấp thủ tà kiến của mình, là sáu gốc rễ của sự tranh cãi. Vì người phẫn nộ do sự phẫn nộ…v.v… hay người chấp thủ tà kiến của mình do sự chấp thủ tà kiến đó mà đi đến sự cãi vã, xung đột, tranh cãi, do đó các pháp như phẫn nộ v.v… được gọi là “sáu gốc rễ của sự tranh cãi.” Sáu thân ái như sắc ái, thanh ái v.v… là sáu thân ái. Dục tham, sân, tà kiến, hoài nghi, hữu ái, kiêu mạn và vô minh là bảy tùy miên. Chúng ngủ ngầm do có sức mạnh và do chưa được đoạn trừ, nên là các tùy miên. Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định là tám tà hạnh.

‘‘Taṇhaṃ paṭicca pariyesanā, pariyesanaṃ paṭicca lābho, lābhaṃ paṭicca vinicchayo, vinicchayaṃ paṭicca chandarāgo, chandarāgaṃ paṭicca ajjhosānaṃ, ajjhosānaṃ paṭicca pariggaho, pariggahaṃ paṭicca macchariyaṃ, macchariyaṃ paṭicca ārakkho, ārakkhādhikaraṇaṃ daṇḍādānasatthādānakalahaviggahavivādatuvaṃtuvaṃpesuññamusāvādā aneke pāpakā akusalā dhammā sambhavantī’’ti (dī. ni. 2.103; 3.359) evamāgatā pariyesanādayo nava taṇhāmūlakā. Tattha (dī. ni. aṭṭha. 2.103) taṇhaṃ paṭiccāti taṇhaṃ nissāya. Pariyesanāti rūpādiārammaṇapariyesanā. Sā hi taṇhāya sati hoti. Lābhoti rūpādiārammaṇapaṭilābho. So hi pariyesanāya sati hoti. Vinicchayoti idha vitakko adhippeto. Lābhaṃ labhitvā hi iṭṭhāniṭṭhaṃ sundarāsundarañca vitakkeneva vinicchinati ‘‘ettakaṃ me rūpārammaṇatthāya bhavissati, ettakaṃ saddādiārammaṇatthāya, ettakaṃ mayhaṃ bhavissati, ettakaṃ parassa, ettakaṃ paribhuñjissāmi, ettakaṃ nidahissāmī’’ti. Tena vuttaṃ ‘‘lābhaṃ paṭicca vinicchayo’’ti. Chandarāgoti evaṃ akusalavitakkena vitakkite vatthusmiṃ dubbalarāgo ca balavarāgo ca uppajjati. Chandoti hi idha dubbalarāgassādhivacanaṃ. Ajjhosānanti ahaṃ mamanti balavasanniṭṭhānaṃ. Pariggahoti taṇhādiṭṭhivasena pariggahakaraṇaṃ. Macchariyanti parehi sādhāraṇabhāvassa asahanatā. Tenevassa porāṇā evaṃ vacanatthaṃ vadanti ‘‘idaṃ acchariyaṃ mayhameva hotu, mā aññassa acchariyaṃ hotūti pavattattā macchariyanti vuccatī’’ti. Ārakkhoti dvārapidahanamañjusagopanādivasena suṭṭhu rakkhaṇaṃ. Adhikarotīti adhikaraṇaṃ, kāraṇassetaṃ nāmaṃ. Ārakkhādhikaraṇanti bhāvanapuṃsakaṃ, ārakkhahetūti attho. Daṇḍādānādīsu paranisedhanatthaṃ daṇḍassa ādānaṃ daṇḍādānaṃ. Ekatodhārādino satthassa ādānaṃ satthādānaṃ. Kalahoti kāyakalahopi vācākalahopi. Purimo purimo virodho viggaho. Pacchimo pacchimo vivādoTuvaṃ tuvanti agāravavacanaṃ, tvaṃ tvanti attho.
Chín pháp đã được đề cập là “do duyên ái mà có sự tìm kiếm; do duyên sự tìm kiếm mà có sự được; do duyên sự được mà có sự quyết định; do duyên sự quyết định mà có dục và tham; do duyên dục và tham mà có sự chấp thủ; do duyên sự chấp thủ mà có sự chiếm hữu; do duyên sự chiếm hữu mà có sự keo kiệt; do duyên sự keo kiệt mà có sự bảo vệ; do sự bảo vệ làm nhân mà có việc cầm gậy, cầm vũ khí, cãi vã, xung đột, tranh cãi, mắng nhiếc, nói đâm thọc, nói dối và nhiều pháp ác, bất thiện khác sanh khởi,” (dī. ni. 2.103; 3.359) như sự tìm kiếm v.v… là chín pháp lấy ái làm gốc. Ở đó (dī. ni. aṭṭha. 2.103), do duyên ái là nương vào ái. Sự tìm kiếm là sự tìm kiếm các đối tượng như sắc v.v… Thật vậy, nó có mặt khi có ái. Sự được là sự có được các đối tượng như sắc v.v… Thật vậy, nó có mặt khi có sự tìm kiếm. Sự quyết định, ở đây tư duy được chủ trương. Thật vậy, sau khi đã có được, người ta quyết định điều tốt và xấu, đẹp và không đẹp bằng chính tư duy rằng: “chừng này sẽ dành cho đối tượng sắc của ta, chừng này cho đối tượng thanh v.v…; chừng này sẽ là của ta, chừng này của người khác; chừng này ta sẽ hưởng thụ, chừng này ta sẽ cất giữ.” Chính vì thế, đã nói: “do duyên sự được mà có sự quyết định.” Dục và tham là, trong vật đã được tư duy bằng tư duy bất thiện như vậy, tham yếu và tham mạnh sanh khởi. Thật vậy, ở đây, dục là tên gọi của tham yếu. Sự chấp thủ là sự quyết định mạnh mẽ rằng “ta, của ta.” Sự chiếm hữu là sự chiếm hữu theo cách của ái và tà kiến. Sự keo kiệt là sự không muốn chia sẻ với người khác. Chính vì thế, các vị xưa nói về ý nghĩa của từ này như sau: “vì nó diễn ra với ý nghĩ rằng ‘điều kỳ diệu này hãy là của riêng ta, đừng là của người khác,’ nên được gọi là keo kiệt.” Sự bảo vệ là sự giữ gìn cẩn thận bằng cách đóng cửa, cất vào rương v.v… Nó làm cho trở thành nhân, nên là nhân; đây là tên gọi của nguyên nhân. Nhân là sự bảo vệ là một danh từ trung tính, có nghĩa là do sự bảo vệ làm nhân. Trong các pháp như cầm gậy v.v…, việc cầm gậy để ngăn cản người khác là việc cầm gậy. Việc cầm vũ khí có một lưỡi v.v… là việc cầm vũ khí. Sự cãi vã là cả sự cãi vã bằng thân và sự cãi vã bằng lời. Sự chống đối ban đầu là sự xung đột. Sự chống đối sau đó là sự tranh cãi. Mày, mày là lời nói không tôn trọng, có nghĩa là, mày, mày.

Pāṇātipātaadinnādānakāmesumicchācāramusāvādapisuṇavācāpharusavācāsamphappalāpaabhijjhābyāpādamicchādiṭṭhī dasa akusalakammapathā. Cattāro sassatavādā cattāro ekaccasassatavādā cattāro antānantikā cattāro amarāvikkhepikā dve adhiccasamuppannikā soḷasa saññīvādā aṭṭha asaññīvādā aṭṭha nevasaññīnāsaññīvādā satta ucchedavādā pañca paramadiṭṭhadhammanibbānavādāti etāni dvāsaṭṭhi diṭṭhigatāni. Rūpataṇhādichataṇhāyeva paccekaṃ kāmataṇhābhavataṇhāvibhavataṇhāvasena aṭṭhārasa honti. Tathā hi rūpārammaṇā taṇhā, rūpe vā taṇhāti rūpataṇhā, sā kāmarāgabhāvena rūpaṃ assādentī pavattamānā kāmataṇhā, sassatadiṭṭhisahagatarāgabhāvena ‘‘rūpaṃ niccaṃ dhuvaṃ sassata’’nti evaṃ assādentī pavattamānā bhavataṇhā, ucchedadiṭṭhisahagatarāgabhāvena ‘‘rūpaṃ ucchijjati vinassati pecca na bhavatī’’ti evaṃ assādentī pavattamānā vibhavataṇhāti evaṃ tividhā hoti. Yathā ca rūpataṇhā, evaṃ saddataṇhādayopīti etāni aṭṭhārasa taṇhāvicaritāni honti, tāni ajjhattarūpādīsu aṭṭhārasa, bahiddhārūpādīsu aṭṭhārasāti chattiṃsa, iti atītāni chattiṃsa, anāgatāni chattiṃsa, paccuppannāni chattiṃsāti aṭṭhasatataṇhāvicaritāni, aṭṭhuttarasatataṇhāvicaritānīti attho. Pabheda-saddo paccekaṃ sambandhitabbo. Tatthāyaṃ yojanā ‘‘lobhappabhedo dosappabhedo yāva aṭṭhasatataṇhāvicaritappabhedo’’ti. Sabbadarathapariḷāhakilesasatasahassānīti sabbāni sattānaṃ darathapariḷāhakarāni kilesānaṃ anekāni satasahassāni. Ārammaṇādivibhāgato hi pavattiākāravibhāgato ca anantappabhedā kilesā.
Mười con đường nghiệp bất thiện là: sát sanh, trộm cắp, tà dâm trong các dục, nói dối, nói đâm thọc, nói lời thô ác, nói lời vô ích, tham lam, sân hận, và tà kiến. Bốn quan điểm về thường hằng, bốn quan điểm về một phần thường hằng, bốn quan điểm về hữu biên và vô biên, bốn quan điểm ngụy biện như con lươn, hai quan điểm về sự sanh khởi ngẫu nhiên, mười sáu quan điểm về chúng sanh có tưởng, tám quan điểm về chúng sanh không có tưởng, tám quan điểm về chúng sanh phi tưởng phi phi tưởng, bảy quan điểm về đoạn diệt, và năm quan điểm về Niết-bàn trong hiện tại; đó là sáu mươi hai tà kiến. Sáu loại ái như sắc ái v.v…, mỗi loại lại có ba cách là dục ái, hữu ái và phi hữu ái, nên thành mười tám. Thật vậy, ái đối với đối tượng sắc, hoặc ái trong sắc, là sắc ái. Nó, khi diễn ra theo cách thưởng thức sắc với bản chất là dục tham, là dục ái. Khi diễn ra theo cách thưởng thức rằng “sắc là thường hằng, bền vững, vĩnh cửu” với bản chất là tham đi cùng với thường kiến, là hữu ái. Khi diễn ra theo cách thưởng thức rằng “sắc bị đoạn diệt, bị hủy hoại, không còn tồn tại sau khi chết” với bản chất là tham đi cùng với đoạn kiến, là phi hữu ái. Như vậy, nó có ba loại. Và giống như sắc ái, các loại ái như thanh ái v.v… cũng vậy. Do đó, có mười tám sự vận hành của ái này. Chúng, đối với sắc v.v… bên trong là mười tám, đối với sắc v.v… bên ngoài là mười tám, thành ba mươi sáu. Như vậy, ba mươi sáu ở quá khứ, ba mươi sáu ở tương lai, ba mươi sáu ở hiện tại, là một trăm tám sự vận hành của ái. Từ sự phân loại cần được kết hợp riêng với từng pháp. Cách kết hợp ở đó là như vầy: “sự phân loại của tham, sự phân loại của sân, cho đến sự phân loại của một trăm tám sự vận hành của ái.” Tất cả hàng trăm ngàn phiền não gây phiền muộn và thiêu đốt có nghĩa là, tất cả hàng trăm ngàn phiền não gây phiền muộn và thiêu đốt cho chúng sanh. Thật vậy, do sự phân chia về đối tượng v.v… và do sự phân chia về cách thức diễn ra, các phiền não có vô số loại.

Saṅkhepato vātiādīsu sampati āyatiñca sattānaṃ anatthāvahattā māraṇaṭṭhena vibādhanaṭṭhena kilesāva māroti kilesamāro. Vadhakaṭṭhena khandhāva māroti khandhamāro. Tathā hi vuttaṃ ‘‘vadhakaṃ rūpaṃ, vadhakaṃ rūpanti yathābhūtaṃ nappajānātī’’tiādi. Jātijarādimahābyasananibbattanena abhisaṅkhārova māro abhisaṅkhāramāro. Saṃkilesanimittaṃ hutvā guṇamāraṇaṭṭhena devaputtova māroti devaputtamāro. Sattānaṃ jīvitassa jīvitaparikkhārānañca jānikaraṇena mahābādharūpattā maccu eva māroti maccumāro. Tattha samucchedappahānavasena sabbaso appavattikaraṇena kilesamāraṃ, samudayappahānapariññāvasena khandhamāraṃ, sahāyavekallakaraṇavasena sabbaso appavattikaraṇena abhisaṅkhāramāraṃ, balavidhamanavisayātikkamanavasena devaputtamaccumārañca abhañji, bhagge akāsīti attho. Parissayānanti upaddavānaṃ.
Trong các câu hoặc một cách tóm tắt v.v…, vì chúng mang lại sự bất lợi cho chúng sanh cả trong hiện tại và tương lai, và do có ý nghĩa là sự giết chóc, sự gây khổ, nên chính các phiền não là ma, là phiền não ma. Do có ý nghĩa là kẻ giết người, chính các uẩn là ma, là uẩn ma. Thật vậy, đã được nói rằng: “sắc là kẻ giết người; người đó không biết như thật rằng sắc là kẻ giết người” v.v… Do tạo ra các tai họa lớn như sanh, già v.v…, chính các hành là ma, là hành ma. Do trở thành dấu hiệu của sự ô nhiễm và có ý nghĩa giết chết các phẩm hạnh, chính thiên tử là ma, là thiên tử ma. Do gây ra sự chết và sự hủy hoại các vật dụng cần thiết cho sự sống, và có hình thức là một căn bệnh lớn, chính cái chết là ma, là tử ma. Ở đó, có nghĩa là, Ngài đã phá tan, đã hủy diệt phiền não ma bằng cách đoạn trừ hoàn toàn, làm cho chúng không còn diễn ra; phá tan uẩn ma bằng cách liễu tri và đoạn trừ sự tập khởi; phá tan hành ma bằng cách làm cho các trợ duyên suy yếu, làm cho chúng không còn diễn ra hoàn toàn; và phá tan thiên tử ma và tử ma bằng cách vượt qua lĩnh vực của chúng và phá tan sức mạnh của chúng. Của các sự nguy hiểm là của các tai họa.

Satapuññajalakkhaṇadharassāti aneka sata puñña nibbattamahā purisalakkhaṇadharassa. Ettha hi ‘‘kevalaṃ satamattena puññakammena ekekalakkhaṇaṃ nibbatta’’nti imamatthaṃ na rocayiṃsu aṭṭhakathācariyā ‘‘evaṃ sante yo koci buddho bhaveyyā’’ti, anantāsu pana lokadhātūsu yattakā sattā, tehi sabbehi paccekaṃ satakkhattuṃ katāni dānādīni puññakammāni yattakāni, tato ekekaṃ puññakammaṃ mahāsattena sataguṇaṃ kataṃ satanti adhippetanti imamatthaṃ rocayiṃsu. Tasmā idha sata-saddo bahubhāvapariyāyo, na saṅkhyāvisesavacanoti daṭṭhabbo ‘‘satagghaṃ sataṃ devamanussā’’tiādīsu viya. Rūpakāyasampatti dīpitā hoti itarāsaṃ phalasampadānaṃ mūlabhāvato adhiṭṭhānabhāvato ca. Dīpitā hotīti idaṃ dhammakāyasampattītiādīsupi yojetabbaṃ. Tattha pahānasampadāpubbakattā ñāṇasampadādīnaṃ dhammakāyasampatti dīpitā hotīti veditabbaṃ. Lokiyasarikkhakānaṃ bahumatabhāvoti ettha bhāgyavantatāya lokiyānaṃ bahumatabhāvo, bhaggadosatāya sarikkhakānaṃ bahumatabhāvoti yojetabbaṃ. Evaṃ ito paresupi yathākkamaṃ yojanā veditabbā.
Của người mang các tướng sanh ra từ hàng trăm phước báu có nghĩa là của người mang các tướng của bậc đại nhân được tạo ra bởi nhiều trăm phước báu. Và ở đây, các vị soạn Chú giải không chấp nhận ý nghĩa rằng “mỗi một tướng được tạo ra chỉ bằng một trăm nghiệp phước,” vì “nếu vậy, bất cứ ai cũng có thể trở thành Phật.” Thay vào đó, họ chấp nhận ý nghĩa này: trong vô số thế giới, có bao nhiêu chúng sanh, tất cả họ đều làm các nghiệp phước như bố thí v.v… một trăm lần cho mỗi người; có bao nhiêu nghiệp phước như vậy, thì mỗi một nghiệp phước đó lại được vị đại sĩ làm mạnh hơn một trăm lần. Do đó, cần phải thấy rằng ở đây, từ trăm là từ đồng nghĩa với sự nhiều, không phải là từ chỉ một con số cụ thể, giống như trong các câu “trị giá một trăm, một trăm vị trời và người” v.v… Sự thành tựu về sắc thân được làm sáng tỏ, do nó là nền tảng và cơ sở cho các sự thành tựu về quả khác. Câu được làm sáng tỏ này cũng cần được kết hợp với các câu như sự thành tựu về pháp thân v.v… Ở đó, cần phải hiểu rằng sự thành tựu về pháp thân được làm sáng tỏ, vì các sự thành tựu như trí tuệ v.v… có sự thành tựu về đoạn trừ làm tiền đề. Trong câu sự kính trọng của những người thế gian và những người đồng hạnh, ở đây cần phải kết hợp rằng: do có sự may mắn, nên được những người thế gian kính trọng; do đã phá tan sân hận, nên được những người đồng hạnh kính trọng. Trong các câu sau cũng cần phải hiểu cách kết hợp theo thứ tự tương tự.

Puññavantaṃ gahaṭṭhā khattiyādayo abhigacchanti, pahīnadosaṃ dosavinayāya dhammaṃ desetīti pabbajitā tāpasaparibbājakādayo abhigacchantīti āha ‘‘gahaṭṭhapabbajitehi abhigamanīyatā’’ti. Abhigatānañca tesaṃ kāyacittadukkhāpanayane paṭibalabhāvo āmisadānadhammadānehi upakārasabbhāvato rūpakāyaṃ tassa pasādacakkhunā, dhammakāyaṃ paññācakkhunā disvā dukkhadvayassa paṭippassambhanatoti veditabbo. Bhāgyavantatāya upagatānaṃ āmisadānaṃ deti, bhaggadosatāya dhammadānaṃ detīti āha ‘‘āmisadānadhammadānehi upakāritā’’ti. Lokiyalokuttarasukhehi ca saṃyojanasamatthatā dīpitā hotīti ‘‘pubbe āmisadānadhammadānehi mayā ayaṃ lokaggabhāvo adhigato, tasmā tumhehipi evameva paṭipajjitabba’’nti evaṃ sammāpaṭipattiyaṃ niyojanena abhigatānaṃ lokiyalokuttarasukhehi saṃyojanasamatthatā ca dīpitā hoti.
Những người tại gia như các vị vua chúa v.v… tìm đến người có phước báu. Các vị xuất gia như các nhà khổ hạnh, du sĩ v.v… tìm đến người đã đoạn trừ sân hận, người thuyết pháp để chế ngự sân hận. Do đó, (chú giải) nói: “sự có thể được các vị tại gia và xuất gia tìm đến.” Và cần phải hiểu rằng, Ngài có khả năng loại bỏ khổ đau về thân và tâm cho những người đã tìm đến đó, do có sự giúp đỡ bằng việc cho vật chất và cho Chánh pháp, và do họ thấy sắc thân bằng con mắt trong sạch, thấy pháp thân bằng con mắt trí tuệ, rồi làm lắng dịu cả hai loại khổ đau. Do có sự may mắn, Ngài cho vật chất cho những người đã đến; do đã phá tan sân hận, Ngài cho Chánh pháp. Do đó, (chú giải) nói: “sự giúp đỡ bằng việc cho vật chất và cho Chánh pháp.” Và khả năng kết hợp với hạnh phúc thế gian và siêu thế được làm sáng tỏ có nghĩa là, bằng cách hướng dẫn những người đã đến thực hành đúng đắn rằng: “trước đây, Ta đã chứng đắc trạng thái tối thượng trong thế gian này bằng việc cho vật chất và cho Chánh pháp; do đó, các ông cũng nên thực hành như vậy,” khả năng kết hợp họ với hạnh phúc thế gian và siêu thế cũng được làm sáng tỏ.

Sakacitte issariyaṃ nāma attano cittassa vasībhāvāpādanaṃyeva, paṭikūlādīsu appaṭikūlasaññitādivihārasiddhi, adhiṭṭhāniddhiādiko iddhividhopi cittissariyameva cittabhāvanāya vasībhāvappattiyā ijjhanato. Aṇimālaghimādikanti ādi-saddena mahimā patti pākammaṃ īsitā vasitā yatthakāmāvasāyitāti ime chapi saṅgahitā. Tattha kāyassa aṇubhāvakaraṇaṃ aṇimā. Ākāse padasā gamanādīnaṃ arahabhāvena lahubhāvo laghimā. Mahattaṃ mahimā kāyassa mahantatāpādanaṃ. Iṭṭhadesassa pāpuṇanaṃ patti. Adhiṭṭhānādivasena icchitanipphādanaṃ pākammaṃ. Sayaṃvasitā issarabhāvo īsitā. Iddhividhe vasībhāvo vasitā. Ākāsena vā gacchato aññaṃ vā kiñci karoto yattha katthaci vosānappatti yatthakāmāvasāyitā. ‘‘Kumārakarūpādidassana’’ntipi vadanti. Evamidaṃ aṭṭhavidhaṃ lokiyasammataṃ issariyaṃ. Taṃ pana bhagavato iddhividhantogadhaṃ anaññasādhāraṇañcāti āha ‘‘sabbakāraparipūraṃ atthī’’ti. Tathā lokuttaro dhammo atthīti sambandho. Evaṃ yasādīsupi atthi-saddo yojetabbo.
Quyền lực trong tâm của chính mình chính là việc làm cho tâm trở nên tự chủ; là sự thành tựu của việc an trú trong tưởng về điều không đáng ghét đối với những gì đáng ghét v.v… Thần túc thông như quyết định thông v.v… cũng chính là quyền lực của tâm, vì nó thành tựu do sự đạt đến trạng thái tự chủ trong việc tu tập tâm. Trong câu aṇimā, laghimā v.v…, bằng từ v.v…, sáu pháp này cũng được bao gồm: mahimā, patti, pākammaṃ, īsitā, vasitā, và yatthakāmāvasāyitā. Ở đó, việc làm cho thân thể trở nên nhỏ như nguyên tử là aṇimā. Trạng thái nhẹ nhàng, có khả năng đi lại trên không trung bằng chân v.v… là laghimā. Sự to lớn, mahimā, là việc làm cho thân thể trở nên to lớn. Sự đến được nơi mong muốn là patti. Sự hoàn thành điều mong muốn theo cách quyết định v.v… là pākammaṃ. Sự tự chủ, trạng thái làm chủ là īsitā. Sự làm chủ trong các loại thần thông là vasitā. Sự đạt đến điểm kết thúc ở bất cứ nơi nào, dù đang đi trên không trung hay đang làm một việc gì khác, là yatthakāmāvasāyitā. Người ta cũng nói là: “sự hiện ra hình dáng của một cậu bé v.v…” Như vậy, tám loại quyền lực này được thế gian công nhận. Và vì nó được bao gồm trong thần túc thông của Thế Tôn và không chung với ai khác, nên (chú giải) nói: “có đầy đủ về mọi mặt.” Cần liên kết là: tương tự, có pháp siêu thế. Trong các pháp như danh tiếng v.v…, cũng cần phải kết hợp từ .

Kesañci yaso padesavutti ayathābhūtaguṇasannissayattā aparisuddho ca hoti, na evaṃ tathāgatassāti dassetuṃ ‘‘lokattayabyāpako’’ti vuttaṃ. Tattha idha adhigatasatthuguṇānaṃ āruppe uppannānaṃ ‘‘itipi so bhagavā’’tiādinā bhagavato yaso pākaṭo hotīti āha ‘‘lokattayabyāpako’’ti. Yathābhuccaguṇādhigatoti yathābhūtaguṇehi adhigato. Ativiya parisuddhoti yathābhūtaguṇādhigatattā eva accantaparisuddho. Sabbākāraparipūrāti anavasesalakkhaṇānubyañjanādisampattiyā sabbākārehi paripuṇṇā. Sabbaṅgapaccaṅgasirīti sabbesaṃ aṅgapaccaṅgānaṃ sobhā. Yaṃ yaṃ etena icchitaṃ patthitanti ‘‘tiṇṇo tāreyya’’ntiādinā yaṃ yaṃ etena lokanāthena manovacīpaṇidhānavasena icchitaṃ kāyapaṇidhānavasena patthitaṃ. Tathevāti paṇidhānānurūpameva. Sammāvāyāmasaṅkhāto payattoti vīriyapāramibhāvappatto ariyamaggapariyāpanno ca sammāvāyāmasaṅkhāto ussāho.
Danh tiếng của một số người chỉ có ở một địa phương và không trong sạch vì dựa trên những phẩm hạnh không có thật; nhưng đối với Như Lai thì không như vậy. Để chỉ ra điều đó, đã nói: “bao trùm cả ba cõi.” Ở đây, đối với những vị đã chứng đắc các phẩm hạnh của Bậc Đạo Sư và đã sanh lên các cõi vô sắc, danh tiếng của Thế Tôn trở nên nổi bật qua các câu “Đức Thế Tôn ấy như vậy” v.v…, do đó đã nói là “bao trùm cả ba cõi.” Được thành tựu bởi các phẩm hạnh như thật là được thành tựu bởi các phẩm hạnh có thật. Vô cùng trong sạch là vô cùng trong sạch chính vì đã được thành tựu bởi các phẩm hạnh như thật. Viên mãn về mọi mặt là viên mãn về mọi mặt do sự đầy đủ về các tướng chính và tướng phụ v.v… không còn sót lại. Vẻ đẹp của tất cả các bộ phận lớn nhỏ là vẻ đẹp của tất cả các bộ phận lớn và nhỏ. Bất cứ điều gì đã được vị này mong muốn, ước nguyện là, bất cứ điều gì đã được vị Lãnh Đạo Thế Gian này mong muốn bằng ý và lời, và ước nguyện bằng thân hành theo cách “người đã vượt qua sẽ giúp người khác vượt qua” v.v… Đúng như vậy là đúng như lời nguyện. Sự nỗ lực được xem là chánh tinh tấn là sự cố gắng được xem là chánh tinh tấn, vốn đã đạt đến trạng thái ba-la-mật về tinh tấn và thuộc về Thánh đạo.

Kusalādīhi bhedehīti sabbattikadukapadasaṅgahitehi kusalādippabhedehi. Paṭiccasamuppādādīhīti ādi-saddena na kevalaṃ vibhaṅgapāḷiyaṃ āgatā satipaṭṭhānādayova saṅgahitā, atha kho saṅgahādayo samayavimuttādayo ṭhapanādayo tikapaṭṭhānādayo ca saṅgahitāti veditabbaṃ. Pīḷanasaṅkhatasantāpavipariṇāmaṭṭhena vā dukkhamariyasaccantiādīsu pīḷanaṭṭho taṃsamaṅgino sattassa hiṃsanaṃ avipphārikatākaraṇaṃ. Saṅkhataṭṭho samecca saṅgamma sambhūya paccayehi katabhāvo. Santāpaṭṭho dukkhadukkhatādīhi santāpanaṃ paridahanaṃ. Vipariṇāmaṭṭho jarāya maraṇena cāti dvidhā vipariṇāmetabbatā. Samudayassa āyūhanaṭṭho dukkhassa nibbattanavasena sampiṇḍanaṃ. Nidānaṭṭho ‘‘idaṃ taṃ dukkha’’nti nidassentassa viya samuṭṭhāpanaṃ. Saṃyogaṭṭho saṃsāradukkhena saṃyojanaṃ. Palibodhaṭṭho maggādhigamassa nivāraṇaṃ. Nirodhassa nissaraṇaṭṭho sabbūpadhīnaṃ paṭinissaggasabhāvattā tato vinissaṭatā, taṃnissaraṇanimittatā vā. Vivekaṭṭho sabbasaṅkhāravisaṃyuttatā. Asaṅkhataṭṭho kenacipi paccayena anabhisaṅkhatatā. Amataṭṭho niccasabhāvattā maraṇābhāvo, sattānaṃ maraṇābhāvahetutā vā. Maggassa niyyānaṭṭho vaṭṭadukkhato nikkamanaṭṭho. Hetuattho nibbānassa sampāpakabhāvo. Dassanaṭṭho accantasukhumassa nibbānassa sacchikaraṇaṃ. Ādhipateyyaṭṭho catusaccadassane sampayuttānaṃ ādhipaccakaraṇaṃ, ārammaṇādhipatibhāvo vā visesato maggādhipativacanato . Satipi hi jhānādīnaṃ ārammaṇādhipatibhāve ‘‘jhānādhipatino dhammā’’ti evamādiṃ avatvā ‘‘maggādhipatino dhammā’’icceva vuttaṃ, tasmā viññāyati ‘‘atthi maggassa ārammaṇādhipatibhāve viseso’’ti. Eteyeva ca pīḷanādayo soḷasākārāti vuccanti.
Bởi các sự phân loại như thiện v.v… là bởi các sự phân loại như thiện v.v…, được bao gồm trong tất cả các bộ ba và bộ đôi. Trong câu duyên khởi v.v…, bằng từ v.v…, cần phải hiểu rằng không chỉ các pháp như niệm xứ v.v… đã được đề cập trong kinh Phân Tích được bao gồm, mà cả các pháp như sự tóm thâu v.v…, sự giải thoát theo thời v.v…, sự xác lập v.v…, và các pháp trong bộ ba của tạng Vi Diệu Pháp v.v… cũng được bao gồm. Trong các câu khổ đế theo ý nghĩa là sự bức bách, sự hữu vi, sự thiêu đốt và sự biến hoại v.v…, ý nghĩa bức bách là sự hãm hại, sự làm cho không rời đi được đối với chúng sanh có cùng trạng thái đó. Ý nghĩa hữu vi là trạng thái được tạo tác bởi các duyên, sau khi đã hội đủ, tụ tập lại. Ý nghĩa thiêu đốt là sự làm cho nóng nảy, sự thiêu đốt bởi khổ vì đau khổ v.v… Ý nghĩa biến hoại là trạng thái phải bị biến hoại theo hai cách: bởi già và bởi chết. Ý nghĩa tích lũy của tập đế là sự gom lại theo cách tạo ra khổ. Ý nghĩa là nguồn là sự làm sanh khởi giống như người đang chỉ ra rằng “đây là khổ đó.” Ý nghĩa là sự trói buộc là sự ràng buộc với khổ đau luân hồi. Ý nghĩa là sự chướng ngại là sự ngăn cản việc chứng đắc đạo. Ý nghĩa là sự thoát ly của diệt đế là sự thoát khỏi các chấp thủ, do có bản chất là sự từ bỏ tất cả các cơ sở của sự tồn tại; hoặc là dấu hiệu của sự thoát khỏi chúng. Ý nghĩa là sự vắng lặng là sự không còn liên quan đến tất cả các hành. Ý nghĩa là sự vô vi là sự không được tạo tác bởi bất kỳ duyên nào. Ý nghĩa là sự bất tử là sự không có sự chết, do có bản chất thường hằng; hoặc là nhân cho sự không chết của chúng sanh. Ý nghĩa là sự xuất ly của đạo là ý nghĩa thoát ra khỏi khổ đau luân hồi. Ý nghĩa là nhân là trạng thái làm cho chứng đắc Niết-bàn. Ý nghĩa là sự thấy là sự chứng ngộ Niết-bàn vô cùng vi tế. Ý nghĩa là sự làm chủ là sự làm chủ đối với các pháp tương ưng trong khi thấy Tứ Đế; hoặc là trạng thái làm chủ đối tượng, đặc biệt là do có lời nói về sự làm chủ của đạo. Thật vậy, mặc dù các tầng thiền v.v… cũng có trạng thái làm chủ đối tượng, nhưng vì không nói là “các pháp có thiền làm chủ” v.v…, mà chỉ nói là “các pháp có đạo làm chủ,” do đó có thể biết rằng: “có một sự đặc biệt trong trạng thái làm chủ đối tượng của đạo.” Và chính những pháp như sự bức bách v.v… này được gọi là mười sáu phương diện.

Dibbabrahmaariyavihāretiādīsu kasiṇādiārammaṇāni rūpāvacarajjhānāni dibbavihāro. Mettādijjhānāni brahmavihāro. Phalasamāpatti ariyavihāro. Kāmehi vivekaṭṭhakāyatāvasena ekībhāvo kāyaviveko. Paṭhamajjhānādinā nīvaraṇādīhi vivittacittatā cittavivekoUpadhiviveko nibbānaṃ. Upadhīti cettha cattāro upadhī kāmupadhi khandhupadhi kilesupadhi abhisaṅkhārupadhīti. Kāmāpi hi ‘‘yaṃ pañca kāmaguṇe paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ kāmānaṃ assādo’’ti (ma. ni. 1.166) evaṃ vuttassa sukhassa adhiṭṭhānabhāvato upadhīyati ettha sukhanti iminā vacanatthena ‘‘upadhī’’ti vuccanti, khandhāpi khandhamūlakassa dukkhassa adhiṭṭhānabhāvato, kilesāpi apāyadukkhassa adhiṭṭhānabhāvato, abhisaṅkhārāpi bhavadukkhassa adhiṭṭhānabhāvato vuttanayena ‘‘upadhī’’ti vuccanti. Imehi pana catūhi upadhīhi vivittatāya nibbānaṃ ‘‘upadhiviveko’’ti vuccati.
Trong các câu các sự an trú của chư thiên, phạm thiên và bậc Thánh v.v…, các tầng thiền sắc giới có các đối tượng như đề mục biến xứ v.v… là sự an trú của chư thiên. Các tầng thiền như từ ái v.v… là sự an trú phạm thiên. Quả định là sự an trú của bậc Thánh. Sự hợp nhất theo cách có thân xa lìa các dục là thân độc cư. Trạng thái có tâm xa lìa các triền cái v.v… bằng thiền thứ nhất v.v… là tâm độc cư. Sự độc cư khỏi các chấp thủ là Niết-bàn. Và ở đây, các chấp thủ là bốn chấp thủ này: dục chấp thủ, uẩn chấp thủ, phiền não chấp thủ và hành chấp thủ. Thật vậy, các dục cũng được gọi là “chấp thủ” theo ý nghĩa của lời nói rằng: hạnh phúc được đặt vào đó (upadhīyati), do có trạng thái là nền tảng cho hạnh phúc đã được nói đến như vầy: “sự hưởng thụ, sự hoan hỷ sanh khởi do duyên năm dục trưởng dưỡng, đây là vị ngọt của các dục” (ma. ni. 1.166). Các uẩn cũng vậy, do có trạng thái là nền tảng cho khổ đau bắt nguồn từ các uẩn. Các phiền não cũng vậy, do có trạng thái là nền tảng cho khổ đau của cõi dữ. Các hành cũng vậy, do có trạng thái là nền tảng cho khổ đau của các cõi hữu, nên được gọi là “chấp thủ” theo cách đã nói. Và do xa lìa bốn chấp thủ này, Niết-bàn được gọi là “sự độc cư khỏi các chấp thủ.”

Suññatākārena nibbānaṃ ārammaṇaṃ katvā pavatto ariyamaggo suññatavimokkho. So hi suññatāya dhātuyā uppannattā suññato, kilesehi ca vimuttattā vimokkho. Eteneva nayena appaṇihitākārena nibbānaṃ ārammaṇaṃ katvā pavatto appaṇihitavimokkho. Animittākārena nibbānaṃ ārammaṇaṃ katvā pavatto animittavimokkho. Atha vā suññatānupassanāsaṅkhātāya anattānupassanāya vasena paṭiladdho ariyamaggo āgamanavasena ‘‘suññatavimokkho’’ti vuccati. Tathā appaṇihitānupassanāsaṅkhātāya dukkhānupassanāya vasena paṭiladdho appaṇihitavimokkho. Animittānupassanāsaṅkhātāya aniccānupassanāya vasena paṭiladdho ‘‘animittavimokkho’’ti veditabbo. Vuttañhetaṃ –
Thánh đạo, diễn ra bằng cách lấy Niết-bàn làm đối tượng theo phương diện không, là không giải thoát. Thật vậy, vì nó sanh khởi từ yếu tố không, nên là không; và vì đã giải thoát khỏi các phiền não, nên là giải thoát. Theo phương pháp này, đạo diễn ra bằng cách lấy Niết-bàn làm đối tượng theo phương diện vô nguyện, là vô nguyện giải thoát. Đạo diễn ra bằng cách lấy Niết-bàn làm đối tượng theo phương diện vô tướng, là vô tướng giải thoát. Hoặc là, Thánh đạo, được chứng đắc theo cách của tuệ quán về vô ngã, được xem là tuệ quán về không, theo cách là sự đi đến, được gọi là “không giải thoát.” Tương tự, Thánh đạo được chứng đắc theo cách của tuệ quán về khổ, được xem là tuệ quán về vô nguyện, là vô nguyện giải thoát. Cần phải hiểu rằng Thánh đạo được chứng đắc theo cách của tuệ quán về vô thường, được xem là tuệ quán về vô tướng, là “vô tướng giải thoát.” Điều này đã được nói:

‘‘Aniccato manasikaronto adhimokkhabahulo animittavimokkhaṃ paṭilabhati, dukkhato manasikaronto passaddhibahulo appaṇihitavimokkhaṃ paṭilabhati, anattato manasikaronto vedabahulo suññatavimokkhaṃ paṭilabhatī’’ti (paṭi. ma. 1.223).
“Người tác ý theo vô thường, có nhiều sự quyết định, sẽ chứng đắc vô tướng giải thoát. Người tác ý theo khổ, có nhiều sự an tịnh, sẽ chứng đắc vô nguyện giải thoát. Người tác ý theo vô ngã, có nhiều sự cảm nhận, sẽ chứng đắc không giải thoát.” (paṭi. ma. 1.223).

Aññeti lokiyaabhiññādike.
Các pháp khác là các thắng trí thuộc về thế gian v.v…

Kilesābhisaṅkhāravasena bhavesu paribbhamanaṃ, tañca taṇhāpadhānanti āha ‘‘taṇhāsaṅkhātaṃ gamana’’nti. Vantanti ariyamaggamukhena uggiritaṃ puna apaccāgamanavasena chaḍḍitaṃ. Bhagavāti vuccati niruttinayenāti dassento āha ‘‘yathā loke’’tiādi. Yathā loke niruttinayena ekekapadato ekekamakkharaṃ gahetvā ‘‘mekhalā’’ti vuttaṃ, evamidhāpīti attho. Mehanassāti guyhappadesassa. Khassāti okāsassa.
Sự lang thang trong các cõi hữu do duyên phiền não và các hành, và điều đó có ái là chính, nên (chú giải) nói: “sự đi được xem là ái.” Đã từ bỏ là đã nôn ra bằng miệng của Thánh đạo, đã vứt bỏ theo cách không quay trở lại. Để chỉ ra rằng Bhagavā được gọi theo phương pháp từ nguyên, (chú giải) nói: “Giống như trong đời” v.v… Có nghĩa là, giống như trong đời, bằng phương pháp từ nguyên, sau khi lấy một chữ cái từ mỗi từ, đã nói là “mekhalā,” thì ở đây cũng vậy. Của sự hổ thẹn là của nơi kín đáo. Của không gian là của nơi chốn.

Aparo nayo (itivu. aṭṭha. nidānavaṇṇanā) – bhāgavāti bhagavā. Bhatavāti bhagavā. Bhāge vanīti bhagavā. Bhage vanīti bhagavā. Bhattavāti bhagavā. Bhage vamīti bhagavā. Bhāge vamīti bhagavā.
Một phương pháp khác (itivu. aṭṭha. nidānavaṇṇanā): Bhāgavā là Bhagavā. Bhatavā là Bhagavā. Bhāge vanīti là Bhagavā. Bhage vanīti là Bhagavā. Bhattavā là Bhagavā. Bhage vamīti là Bhagavā. Bhāge vamīti là Bhagavā.

Bhāgavā bhatavā bhāge, bhage ca vani bhattavā;
Bhāgavā, bhatavā, trong các phần (bhāge), trong sự chia sẻ (bhage ca vani), bhattavā,

Bhage vami tathā bhāge, vamīti bhagavā jino.
Trong các phần, đã nôn ra (bhage vami); cũng vậy, trong các phần (bhāge), đã nôn ra (vamīti); nên bậc Chiến Thắng là Bhagavā.

Tattha kathaṃ bhāgavāti bhagavā? Ye te sīlādayo dhammakkhandhā guṇakoṭṭhāsā, te anaññasādhāraṇā niratisayā tathāgatassa atthi upalabbhanti. Tathā hissa sīlaṃ samādhi paññā vimutti vimuttiñāṇadassanaṃ, hirī ottappaṃ, saddhā vīriyaṃ, sati sampajaññaṃ, sīlavisuddhi diṭṭhivisuddhi, samatho vipassanā, tīṇi kusalamūlāni, tīṇi sucaritāni, tayo sammāvitakkā, tisso anavajjasaññā, tisso dhātuyo, cattāro satipaṭṭhānā, cattāro sammappadhānā, cattāro iddhipādā, cattāro ariyamaggā, cattāri ariyaphalāni, catasso paṭisambhidā, catuyoniparicchedakañāṇāni, cattāro ariyavaṃsā, cattāri vesārajjañāṇāni, pañca padhāniyaṅgāni, pañcaṅgiko sammāsamādhi, pañcañāṇiko sammāsamādhi, pañcindriyāni, pañca balāni, pañca nissāraṇīyā dhātuyo, pañca vimuttāyatanañāṇāni, pañca vimuttiparipācanīyā saññā, cha anussatiṭṭhānāni, cha gāravā, cha nissāraṇīyā dhātuyo, cha satatavihārā, cha anuttariyāni, chanibbedhabhāgiyā saññā, cha abhiññā, cha asādhāraṇañāṇāni, satta aparihānīyā dhammā, satta ariyadhanāni, satta bojjhaṅgāni, satta sappurisadhammā, satta nijjaravatthūni, satta saññā, sattadakkhiṇeyyapuggaladesanā, sattakhīṇāsavabaladesanā, aṭṭhapaññāpaṭilābhahetudesanā, aṭṭha sammattāni, aṭṭhalokadhammātikkamo, aṭṭha ārambhavatthūni, aṭṭhaakkhaṇadesanā, aṭṭha mahāpurisavitakkā, aṭṭhaabhibhāyatanadesanā, aṭṭha vimokkhā, nava yonisomanasikāramūlakā dhammā, nava pārisuddhipadhāniyaṅgāni, navasattāvāsadesanā, nava āghātappaṭivinayā, nava saññā, nava nānattā, nava anupubbavihārā, dasa nāthakaraṇā dhammā, dasa kasiṇāyatanāni, dasa kusalakammapathā, dasa sammattāni, dasa ariyavāsā, dasa asekkhadhammā, dasa tathāgatabalāni, ekādasa mettānisaṃsā, dvādasa dhammacakkākārā, terasa dhutaguṇā, cuddasa buddhañāṇāni, pañcadasa vimuttiparipācanīyā dhammā, soḷasavidhā ānāpānassati, soḷasa aparantapanīyā dhammā, aṭṭhārasa buddhadhammā, ekūnavīsati paccavekkhaṇañāṇāni, catucattālīsa ñāṇavatthūni, paññāsa udayabbayañāṇāni, paropaṇṇāsa kusaladhammā, sattasattati ñāṇavatthūni, catuvīsatikoṭisatasahassasamāpattisañcārimahāvajirañāṇaṃ, anantanayasamantapaṭṭhānapavicayapaccavekkhaṇadesanāñāṇāni, tathā anantāsu lokadhātūsu anantānaṃ sattānaṃ āsayādivibhāvanañāṇāni cāti evamādayo anantāparimāṇabhedā anaññasādhāraṇā niratisayā guṇabhāgā guṇakoṭṭhāsā saṃvijjanti upalabbhanti, tasmā yathāvuttavibhāgā guṇabhāgā assa atthīti bhāgavāti vattabbe ākārassa rassattaṃ katvā ‘‘bhagavā’’ti vutto. Evaṃ tāva bhāgavāti bhagavā.
Ở đó, làm thế nào mà bhāgavā là Bhagavā? Các uẩn pháp như giới v.v… là các phần phẩm hạnh; những phần đó, vốn không chung với ai khác và vô song, tồn tại và có mặt nơi Như Lai. Thật vậy, Ngài có giới, định, tuệ, giải thoát, và tri kiến thấy biết sự giải thoát; có lòng hổ thẹn, sự ghê sợ; có đức tin, tinh tấn, niệm, và sự tỉnh giác; có giới thanh tịnh, kiến thanh tịnh; có chỉ, có quán; có ba gốc thiện; có ba thiện hạnh; có ba tư duy đúng đắn; có ba tưởng không bị chê trách; có ba giới; có bốn niệm xứ; có bốn chánh cần; có bốn như ý túc; có bốn Thánh đạo; có bốn Thánh quả; có bốn vô ngại giải; có các trí tuệ phân định bốn cách sanh; có bốn dòng dõi của bậc Thánh; có bốn trí tuệ vô úy; có năm chi phần của sự tinh tấn; có thiền định đúng đắn gồm năm chi phần; có thiền định đúng đắn gồm năm trí tuệ; có năm căn; có năm lực; có năm giới cần được thoát ly; có năm trí tuệ về nơi giải thoát; có năm tưởng làm cho giải thoát chín muồi; có sáu nơi để niệm tưởng; có sáu sự kính trọng; có sáu giới cần được thoát ly; có sáu sự an trú thường xuyên; có sáu pháp vô thượng; có sáu tưởng thuộc phần giác ngộ; có sáu thắng trí; có sáu trí tuệ không chung; có bảy pháp không bị suy thoái; có bảy tài sản của bậc Thánh; có bảy giác chi; có bảy pháp của bậc chân nhân; có bảy sự việc cần được tiêu trừ; có bảy tưởng; có sự thuyết giảng về bảy người đáng được cúng dường; có sự thuyết giảng về bảy sức mạnh của bậc lậu tận; có sự thuyết giảng về tám nhân để chứng đắc trí tuệ; có tám sự đúng đắn; có sự vượt qua tám pháp thế gian; có tám sự việc để khởi đầu; có sự thuyết giảng về tám thời điểm không thuận lợi; có tám tư duy của bậc đại nhân; có sự thuyết giảng về tám thắng xứ; có tám giải thoát; có chín pháp lấy sự tác ý như lý làm gốc; có chín chi phần của sự thanh tịnh và tinh tấn; có sự thuyết giảng về chín trú xứ của chúng sanh; có chín sự chế ngự oán hận; có chín tưởng; có chín sự khác biệt; có chín tầng thiền định tuần tự; có mười pháp làm nơi nương tựa; có mười xứ biến xứ; có mười con đường nghiệp thiện; có mười sự đúng đắn; có mười sự an trú của bậc Thánh; có mười pháp của bậc vô học; có mười lực của Như Lai; có mười một lợi ích của tâm từ; có mười hai phương diện của bánh xe Chánh pháp; có mười ba phẩm hạnh đầu-đà; có mười bốn trí tuệ của Phật; có mười lăm pháp làm cho giải thoát chín muồi; có mười sáu loại niệm hơi thở; có mười sáu pháp không gây hối hận; có mười tám pháp của Phật; có mười chín trí tuệ phản khán; có bốn mươi bốn cơ sở của trí tuệ; có năm mươi trí tuệ về sanh và diệt; có năm mươi bốn pháp thiện; có bảy mươi bảy cơ sở của trí tuệ; có trí tuệ kim cang vĩ đại đi vào hai mươi bốn trăm ngàn ức tầng thiền định; có các trí tuệ về sự thuyết giảng, sự phản khán, và sự phân tích về vô ngại giải với vô số phương pháp; cũng như các trí tuệ về sự phân tích tâm tánh v.v… của vô số chúng sanh trong vô số thế giới. Như vậy, các phần phẩm hạnh, các phần đức hạnh, có sự phân loại vô tận và không thể đo lường, không chung với ai khác và vô song, tồn tại và có mặt. Do đó, vì Ngài có các phần phẩm hạnh, các phần đức hạnh đã được phân loại như đã nói, nên đáng lẽ phải nói là bhāgavā, nhưng sau khi rút ngắn âm ‘ā’, đã được nói là “Bhagavā.” Như vậy, trước hết, bhāgavā là Bhagavā.

Yasmā sīlādayo sabbe, guṇabhāgā asesato;
Vijjanti sugate tasmā, bhagavāti pavuccati.
Vì tất cả các phần phẩm hạnh,
Như giới v.v… không còn sót lại,
Tồn tại nơi bậc Thiện Thệ,
Do đó, Ngài được gọi là Bhagavā.

Kathaṃ bhatavāti bhagavā? Ye te sabbalokahitāya ussukkamāpannehi manussattādike aṭṭha dhamme samodhānetvā sammāsambodhiyā katamahābhinīhārehi mahābodhisattehi paripūretabbā dānapāramī sīlanekkhammapaññāvīriyakhantisaccaadhiṭṭhānamettāupekkhāpāramīti dasa pāramiyo dasa upapāramiyo dasa paramatthapāramiyoti samatiṃsa pāramiyo, dānādīni cattāri saṅgahavatthūni, cattāri adhiṭṭhānāni, attapariccāgo nayanadhanarajjaputtadārapariccāgoti pañca mahāpariccāgā, pubbayogo, pubbacariyā, dhammakkhānaṃ, ñātatthacariyā, lokatthacariyā, buddhatthacariyāti evamādayo saṅkhepato vā puññasambhārañāṇasambhārā buddhakarā dhammā, te mahābhinīhārato paṭṭhāya kappānaṃ satasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni yathā hānabhāgiyā saṃkilesabhāgiyā ṭhitibhāgiyā vā na honti, atha kho uttaruttari visesabhāgiyāva honti, evaṃ sakkaccaṃ nirantaraṃ anavasesato bhatā sambhatā assa atthīti bhatavāti bhagavā niruttinayena ta-kārassa ga-kāraṃ katvā. Atha vā bhatavāti teyeva yathāvutte buddhakare dhamme vuttanayena bhari sambhari, paripūresīti attho. Evampi bhatavāti bhagavā.
Làm thế nào mà bhatavā là Bhagavā? Các pháp tạo nên một vị Phật đó, là mười ba-la-mật, mười thượng ba-la-mật, mười ba-la-mật bậc cao nhất, tức ba mươi ba-la-mật: ba-la-mật về bố thí, về trì giới, về xuất gia, về trí tuệ, về tinh tấn, về nhẫn nại, về chân thật, về quyết định, về từ ái, và về xả; bốn vật nhiếp; bốn sự quyết định; năm sự từ bỏ vĩ đại: sự từ bỏ bản thân, sự từ bỏ mắt, tài sản, vương quốc, và vợ con; sự thực hành trong quá khứ; sự hành xử trong quá khứ; sự thuyết giảng Chánh pháp; sự hành xử vì lợi ích quyến thuộc; sự hành xử vì lợi ích thế gian; và sự hành xử vì quả vị Phật. Những pháp như vậy, một cách tóm tắt, là các tư lương phước báu và tư lương trí tuệ. Những pháp đó, bắt đầu từ lúc phát nguyện vĩ đại, trong bốn a-tăng-kỳ và hơn một trăm ngàn kiếp, đã được Ngài mang giữ, tích lũy một cách kính cẩn, liên tục và không còn sót lại, theo cách mà chúng không thuộc về phần suy thoái, phần ô nhiễm, hay phần trì trệ, mà chỉ thuộc về phần ngày càng đặc biệt hơn. Do đó, Ngài có những pháp đó, nên bhatavā là Bhagavā, theo phương pháp từ nguyên, sau khi đổi phụ âm ‘ta’ thành phụ âm ‘ga’. Hoặc là, bhatavā có nghĩa là, Ngài đã mang giữ, đã tích lũy, đã hoàn thiện chính những pháp tạo nên một vị Phật đã nói đó, theo cách đã nói. Như vậy, bhatavā cũng là Bhagavā.

Yasmā sambodhiyā sabbe, dānapāramiādike;
Sambhāre bhatavā nātho, tasmāpi bhagavā mato.
Vì Đấng Hộ Trì đã mang giữ
Tất cả các tư lương cho tuệ giác,
Như các ba-la-mật về bố thí v.v…,
Nên Ngài cũng được cho là Bhagavā.

Kathaṃ bhāge vanīti bhagavā? Ye te catuvīsatikoṭisatasahassasaṅkhā devasikaṃ vaḷañjanakasamāpattibhāgā, te anavasesato lokahitatthaṃ attano ca diṭṭhadhammasukhavihāratthaṃ niccakappaṃ vani bhaji sevi bahulamakāsīti bhāge vanīti bhagavā. Atha vā abhiññeyyadhammesu kusalādīsu khandhādīsu ca ye te pariññeyyādivasena saṅkhepato vā catubbidhā abhisamayabhāgā, vitthārato pana ‘‘cakkhu pariññeyyaṃ, sotaṃ pariññeyyaṃ…pe… jarāmaraṇaṃ pariññeyya’’ntiādinā (paṭi. ma. 1.21) aneke pariññeyyabhāgā, ‘‘cakkhussa samudayo pahātabbo…pe… jarāmaraṇassa samudayo pahātabbo’’tiādinā nayena pahātabbabhāgā, ‘‘cakkhussa nirodho…pe… jarāmaraṇassa nirodho sacchikātabbo’’tiādinā sacchikātabbabhāgā, ‘‘cakkhussa nirodhagāminī paṭipadā’’tiādinā ‘‘cattāro satipaṭṭhānā’’tiādinā ca anekabhedā bhāvetabbabhāgā ca dhammā vuttā, te sabbe vani bhaji yathārahaṃ gocarabhāvanāsevanānaṃ vasena sevi. Evampi bhāge vanīti bhagavā. Atha vā ye ime sīlādayo dhammakkhandhā sāvakehi sādhāraṇā guṇakoṭṭhāsā guṇabhāgā, kinti nu kho te vineyyasantānesu patiṭṭhapeyyanti mahākaruṇāya vani abhipatthayi, sā cassa abhipatthanā yathādhippetaphalāvahā ahosi. Evampi bhāge vanīti bhagavā.
Làm thế nào mà bhāge vanīti là Bhagavā? Các phần thiền định mà Ngài thường xuyên thực hành hằng ngày, có số lượng là hai mươi bốn trăm ngàn ức; Ngài đã thường xuyên lui tới (vani), đã tu tập (bhaji), đã thực hành (sevi), đã làm cho nhiều (bahulamakāsi) những phần đó một cách không còn sót lại vì lợi ích của thế gian và vì sự an trú trong hạnh phúc hiện tại của chính mình. Do đó, bhāge vanīti là Bhagavā. Hoặc là, trong các pháp cần được thắng tri như các pháp thiện v.v…, các uẩn v.v…, có các phần thắng tri, một cách tóm tắt là bốn loại theo cách liễu tri v.v…; còn một cách chi tiết, có nhiều phần cần được liễu tri theo câu “con mắt cần được liễu tri, tai cần được liễu tri…v.v… già và chết cần được liễu tri” (paṭi. ma. 1.21); có các phần cần được đoạn trừ theo phương pháp trong câu “sự tập khởi của con mắt cần được đoạn trừ…v.v… sự tập khởi của già và chết cần được đoạn trừ”; có các phần cần được chứng ngộ theo câu “sự đoạn diệt của con mắt…v.v… sự đoạn diệt của già và chết cần được chứng ngộ”; và có nhiều loại pháp là các phần cần được tu tập theo các câu “con đường đưa đến sự đoạn diệt của con mắt” v.v… và “bốn niệm xứ” v.v… Tất cả những pháp đó, Ngài đã tu tập (vani), đã thực hành (bhaji), đã tu tập (sevi) theo cách là đối tượng, sự tu tập và sự thực hành một cách phù hợp. Như vậy, bhāge vanīti cũng là Bhagavā. Hoặc là, các uẩn pháp như giới v.v… này là các phần đức hạnh, các phần phẩm hạnh chung với các vị đệ tử; Ngài đã mong muốn (vani), đã ước nguyện (abhipatthayi) bằng lòng đại bi rằng: “Làm thế nào để ta có thể thiết lập chúng trong tâm tánh của các chúng sanh cần được giáo hóa?” Và sự ước nguyện đó của Ngài đã mang lại kết quả như ý. Như vậy, bhāge vanīti cũng là Bhagavā.

Yasmā ñeyyasamāpatti-guṇabhāge tathāgato;
Bhaji patthayi sattānaṃ, hitāya bhagavā tato.
Vì Như Lai, vì lợi ích của chúng sanh,
Đã thực hành, đã mong muốn các phần phẩm hạnh,
Là thiền định và các pháp cần được biết, nên Ngài là Bhagavā.

Kathaṃ bhage vanīti bhagavā? Samāsato tāva katapuññehi payogasampannehi yathāvibhavaṃ bhajīyantīti bhagā, lokiyalokuttarasampattiyo. Tattha lokiye tāva tathāgato sambodhito pubbe bodhisattabhūto paramukkaṃsagate vani bhaji sevi, yattha patiṭṭhāya niravasesato buddhakaradhamme samannānento buddhadhamme paripācesi. Buddhabhūto pana te niravajjasukhūpasaṃhite anaññasādhāraṇe lokuttarepi vani bhaji sevi. Vittārato pana padesarajjaissariyacakkavattisampattidevarajjasampattiādivasena jhānavimokkhasamādhisamāpattiñāṇadassanamaggabhāvanāphalasacchikiriyādiuttarimanussadhammavasena ca anekavihite anaññasādhāraṇe bhage vani bhaji sevi. Evaṃ bhage vanīti bhagavā.
Làm thế nào mà bhage vanīti là Bhagavā? Tóm lại, các sự thành tựu thế gian và siêu thế, được những người đã làm phước và có sự cố gắng đầy đủ, thụ hưởng (bhajīyanti) tùy theo khả năng của mình, nên là các sự thành tựu (bhagā). Ở đó, về các sự thành tựu thế gian, trước khi giác ngộ, khi còn là một vị Bồ-tát, Như Lai đã thường xuyên lui tới (vani), đã tu tập (bhaji), đã thực hành (sevi) những sự thành tựu đã đạt đến mức tột cùng; nơi mà sau khi đã đứng vững, Ngài đã tích lũy các pháp tạo nên một vị Phật một cách không còn sót lại và làm cho các phẩm hạnh của Phật chín muồi. Còn sau khi đã thành Phật, Ngài đã thường xuyên lui tới, đã tu tập, đã thực hành cả những sự thành tựu siêu thế không chung với ai khác, đi kèm với hạnh phúc không bị chê trách. Còn nói một cách chi tiết, Ngài đã thường xuyên lui tới, đã tu tập, đã thực hành nhiều sự thành tựu không chung với ai khác, theo cách là sự thành tựu về quyền lực của một tiểu vương, sự thành tựu về Chuyển Luân Vương, sự thành tựu về vua cõi trời v.v…; và theo cách là các pháp của bậc thượng nhân như sự chứng đắc và thấy biết về thiền, giải thoát, thiền định, tu tập đạo, và chứng ngộ quả v.v… Như vậy, bhage vanīti là Bhagavā.

Yā tā sampattiyo loke, yā ca lokuttarā puthu;
Sabbā tā bhaji sambuddho, tasmāpi bhagavā mato.
Những sự thành tựu nào có trong đời,
Và những sự thành tựu siêu thế đa dạng nào,
Đấng Chánh Đẳng Giác đã thụ hưởng tất cả,
Nên Ngài cũng được cho là Bhagavā.

Kathaṃ bhattavāti bhagavā? Bhattā daḷhabhattikā assa bahū atthīti bhattavā. Tathāgato hi mahākaruṇāsabbaññutaññāṇādiaparimitanirupamappabhāvaguṇavisesasamaṅgībhāvato sabbasattāuttamo, sabbānatthaparihārapubbaṅgamāya niravasesahitasukhavidhānatapparāya niratisayāya payogasampattiyā sadevamanussāya pajāya accantupakāritāya dvattiṃsa mahāpurisalakkhaṇāsīti anubyañjana byāmappabhādi anaññasādhāraṇavisesapaṭimaṇḍitarūpakāyatāya yathābhuccaguṇādhigatena ‘‘itipi so bhagavā’’tiādinayappavattena lokattayabyāpinā suvipulena suvisuddhena ca thutighosena samannāgatattā ukkaṃsapāramippattāsu appicchatāsantuṭṭhitāādīsu suppatiṭṭhitabhāvato dasabalacatuvesārajjādiniratisayaguṇavisesasamaṅgībhāvato ca rūpappamāṇo rūpappasanno, ghosappamāṇo ghosappasanno, lūkhappamāṇo lūkhappasanno, dhammappamāṇo dhammappasannoti evaṃ catuppamāṇike lokasannivāse sabbathāpi pasādāvahabhāvena samantapāsādikattā aparimāṇānaṃ sattānaṃ sadevamanussānaṃ ādarabahumānagāravāyatanatāya paramapemasambhattiṭṭhānaṃ. Ye cassa ovāde patiṭṭhitā aveccappasādena samannāgatā honti, kenaci asaṃhāriyā tesaṃ sambhatti samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vāti. Tathā hi te attano jīvitapaaccāgepi tattha pasādaṃ na pariccajanti tassa vā āṇaṃ daḷhabhattibhāvato. Tenevāha –
Làm thế nào mà bhattavā là Bhagavā? Vị ấy có nhiều người sùng mộ, có lòng tin vững chắc, nên là bhattavā. Thật vậy, Như Lai là bậc tối thượng trong tất cả các chúng sanh do có sự trang bị các phẩm hạnh đặc biệt có uy lực vô biên, không thể đo lường và không ai sánh bằng, như lòng đại bi, nhất thiết trí v.v…; là người vô cùng hữu ích cho chúng sanh trong thế gian cùng với chư thiên do có sự thành tựu về hành động vô song, luôn hướng đến việc mang lại lợi ích và hạnh phúc không còn sót lại, vốn bắt đầu bằng việc loại bỏ mọi điều bất lợi; là người có sắc thân được trang điểm bởi các đặc điểm không chung với ai khác như ba mươi hai tướng của bậc đại nhân, tám mươi tướng phụ, và hào quang rộng một sải tay; là người có tiếng ca ngợi rộng lớn và vô cùng trong sạch, lan tỏa khắp ba cõi, diễn ra theo phương pháp “Đức Thế Tôn ấy như vậy” v.v…, đã được thành tựu bởi các phẩm hạnh như thật; là người có trạng thái được xác lập vững chắc trong các phẩm hạnh đã đạt đến sự tột cùng như ít ham muốn, biết đủ v.v…; và là người có các phẩm hạnh đặc biệt vô song như mười lực, bốn vô úy v.v… Do có trạng thái mang lại sự trong sạch về mọi mặt trong thế giới chúng sanh có bốn loại thước đo: người có lòng tin trong sạch dựa vào hình dáng, có thước đo là hình dáng; người có lòng tin trong sạch dựa vào âm thanh, có thước đo là âm thanh; người có lòng tin trong sạch dựa vào sự thô sơ, có thước đo là sự thô sơ; người có lòng tin trong sạch dựa vào Chánh pháp, có thước đo là Chánh pháp; nên Ngài là nơi tôn kính, quý mến và sùng mộ tột cùng của vô số chúng sanh, bao gồm cả trời và người. Và những ai đã an trú trong lời dạy của Ngài, có lòng tin trong sạch không lay chuyển, lòng sùng mộ của họ không thể bị phá vỡ bởi bất kỳ ai, dù là sa-môn, bà-la-môn, trời, ma hay Phạm thiên. Thật vậy, ngay cả khi phải hy sinh tính mạng của mình, họ cũng không từ bỏ lòng tin trong sạch ở đó, hoặc không từ bỏ mệnh lệnh của Ngài, do có lòng sùng mộ vững chắc. Chính vì thế, đã nói:

‘‘Yo ve kataññū katavedi dhīro,
Kalyāṇamitto daḷhabhatti ca hotī’’ti. (jā. 2.17.78);
“Người nào biết ơn, nhớ ơn, là bậc trí,
Là người bạn tốt và có lòng sùng mộ vững chắc.” (jā. 2.17.78);

‘‘Seyyathāpi, bhikkhave, mahāsamuddo ṭhitadhammo velaṃ nātivattati, evameva kho, bhikkhave, yaṃ mayā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ, taṃ mama sāvakā jīvitahetupi nātikkamantī’’ti (udā. 45; cūḷava. 385) ca.
“Này các Tỳ-khưu, ví như biển lớn có quy luật cố định, không vượt qua bờ; cũng vậy, này các Tỳ-khưu, học giới nào đã được Ta chế định cho các đệ tử, các đệ tử của Ta dù vì mạng sống cũng không vi phạm.” (udā. 45; cūḷava. 385).

Evaṃ bhattavāti bhagavā niruttinayena ekassa ta-kārassa lopaṃ katvā itarassa ta-kārassa ga-kāraṃ katvā.
Như vậy, bhattavā là Bhagavā, theo phương pháp từ nguyên, sau khi đã lược bỏ một phụ âm ‘ta’ và đổi phụ âm ‘ta’ còn lại thành phụ âm ‘ga’.

Guṇātisayayuttassa, yasmā lokahitesino;
Sambhattā bahavo satthu, bhagavā tena vuccati.
Vì Bậc Đạo Sư, người có các phẩm hạnh vượt trội
Và luôn vì lợi ích của thế gian, có nhiều người sùng mộ,
Nên được gọi là Bhagavā.

Kathaṃ bhage vamīti bhagavā? Yasmā tathāgato bodhisattabhūtopi purimāsu jātīsu pāramiyo pūrento bhagasaṅkhātaṃ siriṃ issariyaṃ yasañca vami uggiri, kheḷapiṇḍaṃ viya anapekkho chaḍḍayi. Tathā hissa somanassakumārakāle(jā. 1.15.211 ādayo) hatthipālakumārakāle (jā. 1.15.337 ādayo) ayogharapaṇḍitakāle(jā. 1.15.363 ādayo) mūgapakkhapaṇḍitakāle (jā. 2.22.1 ādayo) cūḷasutasomakāleti (jā. 2.17.195 ādayo) evamādīsu nekkhammapāramīpūraṇavasena devarajjasadisāya rajjasiriyā pariccattattabhāvānaṃ pamāṇaṃ natthi, carimattabhāvepi hatthagataṃ cakkavattisiriṃ devalokādhipaccasaasaṃ catudīpissariyaṃ cakkavattisampattisannissayaṃ sattaratanasamujjalaṃ yasañca tiṇāyapi amaññamāno nirapekkho pahāya abhinikkhamitvā sammāsambodhiṃ abhisambuddho, tasmā ime siriādike bhage vamīti bhagavā. Atha vā bhāni nāma nakkhattāni, tehi samaṃ gacchanti pavattantīti bhagā, sineruyugandharauttarakuruhimavantādibhājanalokavisesasannissayā sobhā kappaṭṭhāyibhāvato, tepi bhagavā vami taṃnivāsisattāvāsasamatikkamanato tappaṭibaddhachandarāgappahānena pajahīti. Evampi bhage vamīti bhagavā.
Làm thế nào mà bhage vamīti là Bhagavā? Vì Như Lai, ngay cả khi còn là một vị Bồ-tát trong các đời trước, trong khi đang hoàn thiện các ba-la-mật, đã nôn ra, đã từ bỏ vinh quang, quyền lực và danh tiếng được xem là sự may mắn (bhaga), đã vứt bỏ một cách không luyến tiếc như một cục đờm. Thật vậy, trong vô số thân phận mà Ngài đã từ bỏ vương vị vinh quang tương đương với vương vị của cõi trời theo cách hoàn thiện ba-la-mật về xuất gia, như vào thời làm hoàng tử Somanassa (jā. 1.15.211 ādayo), thời làm hoàng tử Hatthipāla (jā. 1.15.337 ādayo), thời làm nhà hiền triết Ayoghara (jā. 1.15.363 ādayo), thời làm nhà hiền triết Mūgapakkha (jā. 2.22.1 ādayo), thời làm hoàng tử Cūḷasutasoma (jā. 2.17.195 ādayo) v.v…, là không thể kể xiết. Và ngay cả trong thân phận cuối cùng, Ngài cũng đã không coi trọng dù chỉ bằng một cọng cỏ vinh quang của một vị Chuyển Luân Vương đã nằm trong tầm tay, quyền làm chủ các cõi trời, và danh tiếng rực rỡ bởi bảy báu vật, vốn là nền tảng cho sự thành tựu của một vị Chuyển Luân Vương, cai trị bốn châu thiên hạ; Ngài đã từ bỏ một cách không luyến tiếc, ra đi và đã giác ngộ tuệ giác Chánh Đẳng Giác. Do đó, vì đã nôn ra những sự may mắn như vinh quang v.v… này, nên Ngài là Bhagavā. Hoặc là, bhāni là các vì sao; các pháp đi cùng, diễn ra cùng với chúng, nên là các bhagā; đó là vẻ đẹp nương tựa vào các thế gian đồ chứa đặc biệt như Sineru, Yugandhara, Uttarakuru, Himavanta v.v…, do có trạng thái tồn tại suốt kiếp. Những pháp đó, Thế Tôn cũng đã nôn ra (vami), đã từ bỏ (pajahī) bằng cách vượt qua các trú xứ của chúng sanh ở đó và bằng cách đoạn trừ lòng tham muốn và ái dục liên quan đến chúng. Như vậy, bhage vamīti cũng là Bhagavā.

Cakkavattisiriṃ yasmā, yasaṃ issariyaṃ sukhaṃ;
Pahāsi lokacittañca, sugato bhagavā tato.
Vì bậc Thiện Thệ đã từ bỏ
Vinh quang của Chuyển Luân Vương, danh tiếng, quyền lực và hạnh phúc,
Cùng với tâm của thế gian, nên Ngài là Bhagavā.

Kathaṃ bhāge vamīti bhagavā? Bhāgā nāma sabhāgadhammakoṭṭhāsā, te khandhāyatanadhātādivasena, tatthāpi rūpavedanādivasena atītādivasena ca anekavidhā, te ca bhagavā sabbaṃ papañcaṃ sabbaṃ yogaṃ sabbaṃ ganthaṃ sabbaṃ saṃyojanaṃ samucchinditvā amatadhātuṃ samadhigacchanto vami uggiri, anapekkho chaḍḍayi na paccāgami. Tathā hesa sabbatthakameva pathaviṃ āpaṃ tejaṃ vāyaṃ, cakkhuṃ sotaṃ ghānaṃ jivhaṃ kāyaṃ manaṃ, rūpe sadde gandhe rase phoṭṭhabbe dhamme, cakkhuviññāṇaṃ…pe… manoviññāṇaṃ, cakkhusamphassaṃ…pe… manosamphassaṃ, cakkhusamphassajaṃ vedanaṃ…pe… manosamphassajaṃ vedanaṃ, cakkhusamphassajaṃ saññaṃ…pe… manosamphassajaṃ saññaṃ, cakkhusamphassajaṃ cetanaṃ…pe… manosamphassajaṃ cetanaṃ, rūpataṇhaṃ…pe… dhammataṇhaṃ, rūpavitakkaṃ…pe… dhammavitakkaṃ, rūpavicāraṃ…pe… dhammavicārantiādinā anupadadhammavibhāgavasenapi sabbeva dhammakoṭṭhāse anavasesato vami uggiri, anapekkhapariccāgena chaḍḍayi. Vuttañhetaṃ ‘‘yaṃ taṃ, ānanda, cattaṃ vantaṃ muttaṃ pahīnaṃ paṭinissaṭṭhaṃ, taṃ tathāgato puna paccāgamissatīti netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’’ti (dī. ni. 2.183). Evampi bhāge vamīti bhagavā. Atha vā bhāge vamīti sabbepi kusalākusale sāvajjānavajje hīnapaṇīte kaṇhasukkasappaṭibhāge dhamme ariyamaggañāṇamukhena vami uggiri, anapekkho pariccaji pajahi, paresañca tathattāya dhammaṃ desesi. Vuttampi cetaṃ ‘‘dhammāpi vo, bhikkhave , pahātabbā pageva adhammā (ma. ni. 240). Kullūpamaṃ vo, bhikkhave, dhammaṃ desessāmi nittharaṇatthāya, no gahaṇatthāyā’’tiādi (ma. ni. 1.240). Evampi bhāge vamīti bhagavā.
Làm thế nào mà bhāge vamīti là Bhagavā? Bhāgā là các phần, các uẩn pháp có cùng bản chất; chúng có nhiều loại, theo cách là các uẩn, xứ, giới v.v…, và trong đó cũng theo cách là sắc, thọ v.v…, và theo cách là quá khứ v.v… Và những pháp đó, Thế Tôn, trong khi đang đoạn trừ tất cả các hý luận, tất cả các ách, tất cả các phược, tất cả các kiết sử và chứng đắc yếu tố bất tử, đã nôn ra, đã từ bỏ một cách không luyến tiếc, không quay trở lại. Thật vậy, Ngài, theo cách phân tích từng pháp một, đã nôn ra, đã từ bỏ một cách không luyến tiếc tất cả các phần pháp như: đất, nước, lửa, gió ở khắp mọi nơi; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; các sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; nhãn thức…v.v… ý thức; nhãn xúc…v.v… ý xúc; thọ sanh từ nhãn xúc…v.v… thọ sanh từ ý xúc; tưởng sanh từ nhãn xúc…v.v… tưởng sanh từ ý xúc; tư sanh từ nhãn xúc…v.v… tư sanh từ ý xúc; sắc ái…v.v… pháp ái; sắc tầm…v.v… pháp tầm; sắc tứ…v.v… pháp tứ v.v… Điều này đã được nói: “Này Ānanda, điều mà Như Lai đã từ bỏ, đã nôn ra, đã giải thoát, đã đoạn trừ, đã vứt bỏ, Như Lai sẽ quay trở lại với nó, điều đó không thể xảy ra.” (dī. ni. 2.183). Như vậy, bhāge vamīti cũng là Bhagavā. Hoặc là, bhāge vamīti có nghĩa là, Ngài đã nôn ra, đã từ bỏ, đã đoạn trừ một cách không luyến tiếc tất cả các pháp thiện và bất thiện, có tội và không có tội, thấp hèn và cao thượng, đen và trắng có đối nghịch, bằng miệng của tuệ giác Thánh đạo; và Ngài đã thuyết pháp cho những người khác để họ cũng được như vậy. Điều này cũng đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, ngay cả các pháp thiện các ông cũng phải từ bỏ, huống hồ gì là các pháp bất thiện. Này các Tỳ-khưu, Ta sẽ thuyết pháp cho các ông ví như chiếc bè, là để vượt qua, không phải để nắm giữ.” v.v… (ma. ni. 1.240). Như vậy, bhāge vamīti cũng là Bhagavā.

Khandhāyatanadhātādi dhammabhedā mahesinā;
Kaṇhā sukkā yato vantā, tatopi bhagavā mato.
Vì các sự phân loại pháp như các uẩn, xứ, giới v.v…,
Cả đen lẫn trắng, đã được bậc Đại Sĩ từ bỏ,
Nên Ngài cũng được cho là Bhagavā.

Tena vuttaṃ –
Chính vì thế, đã nói:

‘‘Bhāgavā bhatavā bhāge, bhage ca vani bhattavā;
Bhage vami tathā bhāge, vamīti bhagavā jino’’ti.
“Bhāgavā, bhatavā, trong các phần (bhāge), trong sự chia sẻ (bhage ca vani), bhattavā,
Trong các phần, đã nôn ra (bhage vami); cũng vậy, trong các phần (bhāge), đã nôn ra (vamīti); nên bậc Chiến Thắng là Bhagavā.”

Ettha ca yasmā saṅkhepato attahitasampattiparahitapaṭipattivasena duvidhā buddhaguṇā, tāsu attahitasampatti pahānasampadāñāṇasampadābhedato duvidhā ānubhāvasampadādīnaṃ tadavinābhāvena tadantogadhattā. Parahitapaṭipatti payogāsayabhedato duvidhā. Tattha payogato lābhasakkārādinirapekkhacittassa sabbadukkhaniyyānikadhammūpadeso, āsayato paṭiviruddhesupi niccaṃ hitesitā ñāṇaparipākakālāgamanādiparahitappaṭipatti. Āmisapaṭiggahaṇādināpi atthacariyā parahitapaapatti hotiyeva, tasmā tesampi vibhāvanavasena pāḷiyaṃ ‘‘araha’’ntiādīnaṃ padānaṃ gahaṇaṃ veditabbaṃ.
Và ở đây, cần phải hiểu rằng vì các phẩm hạnh của Phật có hai loại, một cách tóm tắt, là sự thành tựu về lợi ích cho bản thân và sự thực hành vì lợi ích của người khác; trong đó, sự thành tựu về lợi ích cho bản thân có hai loại, được phân loại theo sự thành tựu về đoạn trừ và sự thành tựu về trí tuệ, do các sự thành tựu như uy lực v.v… được bao gồm trong đó vì không thể tách rời. Sự thực hành vì lợi ích của người khác có hai loại, được phân loại theo sự thực hành và tâm tánh. Ở đó, về sự thực hành, đó là sự thuyết giảng giáo pháp đưa đến sự thoát khỏi mọi khổ đau, với tâm không luyến tiếc lợi lộc, sự cung kính v.v… Về tâm tánh, đó là sự thực hành vì lợi ích của người khác như luôn mong muốn điều lợi ích ngay cả đối với những người chống đối, chờ đợi thời điểm trí tuệ của họ chín muồi v.v… Và việc làm lợi ích bằng cách nhận vật chất v.v… cũng chính là sự thực hành vì lợi ích của người khác. Do đó, cần phải hiểu việc dùng các từ “A-la-hán” v.v… trong Pāḷi là theo cách làm sáng tỏ cả những điều đó.

Tattha arahanti iminā padena pahānasampadāvasena bhagavato attahitasampatti vibhāvitā, sammāsambuddho lokavidūti ca imehi padehi ñāṇasampadāvasena. Nanu ca ‘‘lokavidū’’ti imināpi sammāsambuddhatā vibhāvīyatīti? Saccaṃ vibhāvīyati, atthi pana viseso ‘‘sammāsambuddho’’ti iminā sabbaññutaññāṇānubhāvo vibhāvito, ‘‘lokavidū’’ti pana iminā āsayānusayañāṇādīnampi ānubhāvo vibhāvitoti. Vijjācaraṇasampannoti iminā sabbāpi bhagavato attahitasampatti vibhāvitā. Sugatoti pana iminā samudāgamato paṭṭhāya bhagavato attahitasampatti parahitapaṭipatti ca vibhāvitā. Anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānanti imehi padehi bhagavato parahitapaṭipatti vibhāvitā. Buddhoti iminā bhagavato attahitasampatti parahitapaṭipatti ca vibhāvitā. Evañca katvā ‘‘sammāsambuddho’’ti vatvā ‘‘buddho’’ti vacanaṃ samatthitaṃ hoti. Tenevāha ‘‘attanāpi bujjhi, aññepi satte bodhesī’’tiādi . Bhagavāti ca imināpi samudāgamato paṭṭhāya bhagavato sabbā attahitasampatti parahitapaṭipatti ca vibhāvitā.
Ở đó, bằng từ A-la-hán, sự thành tựu về lợi ích cho bản thân của Thế Tôn được làm sáng tỏ theo cách là sự thành tựu về đoạn trừ. Và bằng các từ Chánh Đẳng Giác, Thế Gian Giải, (sự thành tựu đó được làm sáng tỏ) theo cách là sự thành tựu về trí tuệ. Chẳng phải bằng từ “Thế Gian Giải” cũng làm sáng tỏ trạng thái Chánh Đẳng Giác hay sao? Đúng là có làm sáng tỏ, nhưng có sự khác biệt: bằng từ “Chánh Đẳng Giác,” uy lực của nhất thiết trí được làm sáng tỏ; còn bằng từ “Thế Gian Giải,” uy lực của cả các trí tuệ về tâm tánh và tùy miên v.v… cũng được làm sáng tỏ. Bằng từ Minh Hạnh Túc, tất cả sự thành tựu về lợi ích cho bản thân của Thế Tôn được làm sáng tỏ. Còn bằng từ Thiện Thệ, sự thành tựu về lợi ích cho bản thân và sự thực hành vì lợi ích của người khác của Thế Tôn, bắt đầu từ lúc phát nguyện, được làm sáng tỏ. Bằng các từ Vô Thượng Sĩ, Người Đánh Xe Điều Ngự, Bậc Thầy của trời và người, sự thực hành vì lợi ích của người khác của Thế Tôn được làm sáng tỏ. Bằng từ Phật, sự thành tựu về lợi ích cho bản thân và sự thực hành vì lợi ích của người khác của Thế Tôn được làm sáng tỏ. Và do làm như vậy, lời nói “Phật” sau khi đã nói “Chánh Đẳng Giác” trở nên có ý nghĩa. Chính vì thế, (chú giải) nói: “Ngài đã tự mình giác ngộ, và cũng làm cho các chúng sanh khác giác ngộ” v.v… Và bằng từ Thế Tôn, tất cả sự thành tựu về lợi ích cho bản thân và sự thực hành vì lợi ích của người khác của Thế Tôn, bắt đầu từ lúc phát nguyện, được làm sáng tỏ.

Aparo nayo – hetuphalasattupakāravasena saṅkhepato tividhā buddhaguṇā. Tattha arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno lokavidūti imehi padehi phalasampattivasena buddhaguṇā vibhāvitā. Anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānanti imehi sattupakāravasena buddhaguṇā pakāsitā. Buddhoti iminā phalavasena sattupakāravasena ca buddhaguṇā vibhāvitā. Sugato bhagavāti pana imehi padehi hetuphalasattupakāravasena buddhaguṇā vibhāvitāti veditabbaṃ.
Một phương pháp khác: các phẩm hạnh của Phật, một cách tóm tắt, có ba loại, theo cách là nhân, quả và sự giúp đỡ chúng sanh. Ở đó, bằng các từ A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thế Gian Giải, các phẩm hạnh của Phật được làm sáng tỏ theo cách là sự thành tựu về quả. Bằng các từ Vô Thượng Sĩ, Người Đánh Xe Điều Ngự, Bậc Thầy của trời và người, các phẩm hạnh của Phật được làm sáng tỏ theo cách là sự giúp đỡ chúng sanh. Bằng từ Phật, các phẩm hạnh của Phật được làm sáng tỏ theo cách là quả và sự giúp đỡ chúng sanh. Còn cần phải hiểu rằng, bằng các từ Thiện Thệ, Thế Tôn, các phẩm hạnh của Phật được làm sáng tỏ theo cả ba cách là nhân, quả và sự giúp đỡ chúng sanh.

So imaṃ lokantiādīsu so bhagavāti yo ‘‘araha’’ntiādinā kittitaguṇo, so bhagavā. Imaṃ lokanti nayidaṃ mahājanassa sammukhāmattaṃ sandhāya vuttaṃ, atha kho anavasesaṃ pariyādāyāti dassetuṃ ‘‘sadevaka’’ntiādi vuttaṃ. Tenāha ‘‘idāni vattabbaṃ nidassetī’’ti. Pajātattāti yathāsakaṃ kammakilesehi nibbattattā. Sadevakavacanena pañcakāmāvacaradevaggahaṇaṃ pārisesañāyenāti veditabbaṃ itaresaṃ padantarehi saṅgahitattā. Sadevakanti ca avayavena viggaho samudāyo samāsattho. Samārakavacanena chaṭṭhakāmāvacaradevaggahaṇaṃ paccāsattiñāyenāti daṭṭhabbaṃ. Tattha hi so jāto taṃnivāsī ca. Sabrahmakavacanena brahmakāyikādibrahmaggahaṇanti etthāpi eseva nayo. Paccatthikā…pe… samaṇabrāhmaṇaggahaṇanti nidassanamattametaṃ apaccatthikānaṃ asamitābāhitapāpānañca samaṇabrāhmaṇānaṃ sassamaṇabrāhmaṇīvacanena gahitattā. Kāmaṃ ‘‘sadevaka’’ntiādivisesanānaṃ vasena sattavisayo lokasaddoti viññāyati tulyayogavisayattā tesaṃ, ‘‘salomako sapakkhako’’tiādīsu pana atulyayogepi ayaṃ samāso labbhatīti byabhicāradassanato pajāgahaṇanti āha ‘‘pajāvacanena sattalokaggahaṇa’’nti. Sadevakādivacanena upapattidevānaṃ, sassamaṇabrāhmaṇīvacanena visuddhidevānañca gahitattā āha ‘‘sadevamanussavacanena sammutidevaavasesamanussaggahaṇa’’nti. Tattha sammutidevā rājāno. Avasesamanussaggahaṇanti samaṇabrāhmaṇehi avasesamanussaggahaṇaṃ. Tīhi padehīti sadevakasamārakasabarhmakavacanehi. Dvīhīti sassamaṇabrāhmaṇiṃ sadevamanussanti imehi dvīhi padehi.
Trong các câu Ngài, thế gian này v.v…, vị Thế Tôn ấy là vị Thế Tôn có các phẩm hạnh đã được tán thán bằng các từ “A-la-hán” v.v… Để chỉ ra rằng câu thế gian này không phải được nói khi đề cập đến những gì chỉ ở trước mặt đại chúng, mà là bao hàm tất cả không còn sót lại, nên đã nói: “cùng với chư thiên” v.v… Chính vì thế, (chú giải) nói: “bây giờ chỉ ra điều cần được nói.” Do sự sanh ra là do được sanh ra bởi nghiệp và phiền não của riêng mình. Cần phải hiểu rằng việc bao gồm các vị trời ở cõi dục bằng lời nói ‘cùng với chư thiên’ là theo phương pháp phần còn lại, vì các vị khác đã được bao gồm bởi các từ khác. Và câu cùng với chư thiên là một cách dùng từ có sự phân tích thành phần, nhưng khi là một từ ghép thì có ý nghĩa là một tập hợp. Cần phải thấy rằng việc bao gồm các vị trời ở cõi dục thứ sáu bằng lời nói ‘cùng với Ma vương’ là theo phương pháp gần gũi. Thật vậy, vị ấy đã sanh ra ở đó và sống ở đó. Trong câu việc bao gồm các vị Phạm thiên như Phạm chúng thiên v.v… bằng lời nói ‘cùng với Phạm thiên,’ ở đây cũng theo phương pháp này. Những người chống đối…v.v… việc bao gồm các sa-môn và bà-la-môn, đây chỉ là một ví dụ, vì những người không chống đối và những sa-môn, bà-la-môn chưa dẹp yên, chưa loại trừ các điều ác đã được bao gồm bởi lời nói ‘cùng với các sa-môn và bà-la-môn.’ Mặc dù có thể hiểu rằng từ ‘thế gian’ có đối tượng là chúng sanh, do các tính từ “cùng với chư thiên” v.v… có cùng đối tượng với nó, nhưng vì từ ghép này cũng có thể có được ngay cả khi không có cùng đối tượng, như trong các câu “có lông, có cánh” v.v…, nên do thấy có sự không nhất quán, (chú giải) nói: “việc bao gồm chúng sanh”, “việc bao gồm thế gian chúng sanh bằng lời nói ‘chúng sanh’.” Vì bằng lời nói ‘cùng với chư thiên v.v…,’ các vị trời do tái sanh đã được bao gồm, và bằng lời nói ‘cùng với các sa-môn và bà-la-môn,’ các vị trời do sự thanh tịnh cũng đã được bao gồm, nên (chú giải) nói: “việc bao gồm các vị trời theo quy ước và các loài người còn lại bằng lời nói ‘cùng với trời và người’.” Ở đó, các vị trời theo quy ước là các vị vua. Việc bao gồm các loài người còn lại là việc bao gồm các loài người còn lại ngoài các sa-môn và bà-la-môn. Bởi ba từ là bởi các lời nói: cùng với chư thiên, cùng với Ma vương, cùng với Phạm thiên. Bởi hai là bởi hai từ này: cùng với các sa-môn và bà-la-môn, và cùng với trời và người.

Arūpī sattā attano āneñjavihārena viharantā dibbantīti devāti imaṃ nibbacanaṃ labhantīti āha ‘‘sadevakaggahaṇena arūpāvacaraloko gahito’’ti. Tenevāha bhagavā ‘‘ākāsānañcāyatanūpagānaṃ devānaṃ sahabyata’’ntiādi (a. ni. 3.117). Chakāmāvacaradevalokassa savisesaṃ mārassa vase vattanato āha ‘‘samārakaggahaṇena chakāmāvacaradevaloko’’ti . Arūpībrahmalokassa visuṃ gahitattā āha ‘‘rūpī brahmaloko’’ti. Catuparisavasenāti khattiyaparisā, brāhmaṇagahapatisamaṇacātumahārājikatāvatiṃsamārabrahmaparisāti imāsu aṭṭhasu parisāsu khattiyādicatuparisavasena. Itarā pana catasso parisā samārakaggahaṇena gahitā evāti.
Vì các chúng sanh vô sắc, trong khi an trú trong thiền định bất động của mình, họ tỏa sáng, nên họ có tên gọi là trời. Do đó, (chú giải) nói: “bằng việc bao gồm ‘cùng với chư thiên,’ thế giới vô sắc được bao gồm.” Chính vì thế, Thế Tôn đã nói: “về sự đồng trú với các vị trời ở cõi Không Vô Biên Xứ” v.v… (a. ni. 3.117). Vì sáu cõi trời dục giới một cách đặc biệt nằm dưới sự cai quản của Ma vương, nên (chú giải) nói: “bằng việc bao gồm ‘cùng với Ma vương,’ sáu cõi trời dục giới (được bao gồm).” Vì cõi Phạm thiên vô sắc đã được bao gồm riêng, nên (chú giải) nói: “cõi Phạm thiên sắc giới.” Theo cách là bốn hội chúng là, trong tám hội chúng này: hội chúng Sát-đế-lỵ, hội chúng Bà-la-môn, gia chủ, sa-môn, Tứ Thiên Vương, Ba Mươi Ba, Ma vương, và Phạm thiên; theo cách là bốn hội chúng Sát-đế-lỵ v.v… Còn bốn hội chúng kia thì đã được bao gồm bởi việc bao gồm ‘cùng với Ma vương.’

Kathaṃ panettha catuparisavasena manussaloko gahito? ‘‘Sassamaṇabrāhmaṇi’’nti iminā samaṇaparisā brāhmaṇaparisā ca gahitā honti, ‘‘sadevamanussa’’nti iminā khattiyaparisā gahapatiparisā ca gahitā, ‘‘paja’’nti iminā pana imāyeva catasso parisā vuttā, catuparisasaṅkhātaṃ pajanti vuttaṃ hoti, kathaṃ pana sammutidevehi saha manussaloko gahito? Etthāpi ‘‘sassamaṇabrāhmaṇi’’nti iminā samaṇabrāhmaṇā gahitā, ‘‘sadevamanussa’’nti iminā sammutidevasaṅkhātā khattiyā, gahapatisuddasaṅkhātā avasesamanussā ca gahitā honti. Ito pana aññesaṃ manussasattānaṃ abhāvato ‘‘paja’’nti iminā catūhi pakārehi ṭhitā eteyeva manussasattā vuttāti daṭṭhabbaṃ. Evaṃ vikappadvayepi pajāggahaṇena catuparisādivasena ṭhitānaṃ manussānaṃyeva gahitattā idāni ‘‘paja’’nti iminā avasesasatte saṅgahetvā dassetukāmo āha ‘‘avasesasabbasattaloko vā’’ti. Tattha nāgagaruḷādivasena avasesasattaloko veditabbo. Etthāpi catuparisavasena sammutidevehi vā saha avasesasabbasattaloko vāti yojetabbaṃ. Catuparisasahito avasesasuddhanāgasupaṇṇanerayikādisattaloko, catudhā ṭhitamanussasahito vā avasesanāgasupaṇṇanerayikādisattaloko gahitoti vuttaṃ hoti.
Làm thế nào mà ở đây thế giới loài người được bao gồm theo cách là bốn hội chúng? Bằng câu “cùng với các sa-môn và bà-la-môn,” hội chúng sa-môn và hội chúng bà-la-môn được bao gồm. Bằng câu “cùng với trời và người,” hội chúng Sát-đế-lỵ và hội chúng gia chủ được bao gồm. Còn bằng câu “chúng sanh,” chính bốn hội chúng này đã được nói đến; có nghĩa là, chúng sanh được xem là bốn hội chúng. Nhưng làm thế nào mà thế giới loài người được bao gồm cùng với các vị trời theo quy ước? Ở đây cũng vậy, bằng câu “cùng với các sa-môn và bà-la-môn,” các sa-môn và bà-la-môn được bao gồm. Bằng câu “cùng với trời và người,” các vị Sát-đế-lỵ được xem là trời theo quy ước, và các loài người còn lại được xem là gia chủ và tiện dân được bao gồm. Và vì không có các chúng sanh loài người nào khác ngoài những hạng này, nên cần phải thấy rằng bằng câu “chúng sanh,” chính các chúng sanh loài người tồn tại theo bốn loại này đã được nói đến. Như vậy, trong cả hai cách giải thích, bằng việc bao gồm ‘chúng sanh,’ chỉ có loài người, vốn tồn tại theo cách là bốn hội chúng v.v…, được bao gồm. Bây giờ, muốn bao gồm các chúng sanh còn lại bằng câu “chúng sanh,” (chú giải) nói: “hoặc là tất cả thế gian chúng sanh còn lại.” Ở đó, cần phải hiểu thế gian chúng sanh còn lại theo cách là các loài rồng, kim sí điểu v.v… Ở đây cũng vậy, cần phải kết hợp là: hoặc là tất cả thế gian chúng sanh còn lại cùng với bốn hội chúng hoặc cùng với các vị trời theo quy ước. Có nghĩa là, thế gian chúng sanh còn lại như các loài rồng, kim sí điểu, chúng sanh địa ngục v.v… trong sạch, cùng với bốn hội chúng; hoặc là thế gian chúng sanh còn lại như các loài rồng, kim sí điểu, chúng sanh địa ngục v.v…, cùng với loài người tồn tại theo bốn loại, đã được bao gồm.

Ettāvatā bhāgaso lokaṃ gahetvā yojanaṃ dassetvā idāni tena tena visesena abhāgaso lokaṃ gahetvā yojanaṃ dassetuṃ ‘‘apicetthā’’tiādi vuttaṃ. Tattha ukkaṭṭhaparicchedatoti ukkaṃsagativijānanena. Pañcasu hi gatīsu devagatipariyāpannāva seṭṭhā, tatthāpi arūpino dūrasamussāritakilesadukkhatāya santapaṇītaāneñjavihārasamaṅgitāya ativiya dīghāyukatāyāti evamādīhi visesehi ativiya ukkaṭṭhā. Brahmā mahānubhāvoti dasasahassiyaṃ mahābrahmuno vasena vadati. ‘‘Ukkaṭṭhaparicchedato’’ti hi vuttaṃ. Anuttaranti seṭṭhaṃ navalokuttaraṃ. Anusandhikkamoti atthānañceva padānañca anusandhānukkamo. Porāṇā panettha evaṃ vaṇṇayanti – sadevakanti devatāhi saddhiṃ avasesaṃ lokaṃ. Samārakanti mārena saddhiṃ avasesaṃ lokaṃ. Sabrahmakanti brahmehi saddhiṃ avasesaṃ lokaṃ. Evaṃ sabbepi tibhavūpage satte devamārabrahmasahitatāsaṅkhātehi tīhi pakārehi ‘‘sadevaka’’ntiādīsu tīsu padesu pakkhipitvā puna dvīhi padehi pariyādiyanto ‘‘sassamaṇabrāhmaṇiṃ pajaṃ sadevamanussa’’nti āha. Evaṃ pañcahipi padehi sadevakattādinā tena tena pakārena tedhātukameva pariyādinnanti.
Đến đây, sau khi đã chỉ ra cách kết hợp bằng cách chia thế gian ra từng phần, bây giờ để chỉ ra cách kết hợp bằng cách lấy thế gian một cách không chia phần theo từng đặc điểm, (chú giải) đã nói: “Và hơn nữa, ở đây” v.v… Ở đó, từ sự phân định hạng cao nhất là bằng sự biết về cõi đi cao nhất. Thật vậy, trong năm cõi đi, chỉ có những vị thuộc về cõi trời là cao nhất. Và trong đó cũng vậy, các vị vô sắc, do đã xua tan khổ đau phiền não từ xa, do được trang bị sự an trú trong thiền định bất động, an tịnh và vi tế, và do có tuổi thọ vô cùng dài lâu v.v…, nên là cao nhất một cách đặc biệt. Phạm thiên có nhiều uy lực, (chú giải) nói theo cách của vị Đại Phạm thiên trong mười ngàn thế giới. Thật vậy, đã nói là “từ sự phân định hạng cao nhất.” Vô thượng là cao nhất, là chín pháp siêu thế. Trình tự kết nối là trình tự kết nối của cả ý nghĩa lẫn từ ngữ. Các vị xưa ở đây giải thích như vầy: cùng với chư thiên là thế gian còn lại cùng với các vị trời. Cùng với Ma vương là thế gian còn lại cùng với Ma vương. Cùng với Phạm thiên là thế gian còn lại cùng với các vị Phạm thiên. Như vậy, sau khi đã gộp tất cả các chúng sanh thuộc ba cõi vào ba nơi trong các câu “cùng với chư thiên” v.v… theo ba cách là có sự hiện diện của trời, ma, và Phạm thiên, Ngài lại bao hàm bằng hai từ: “chúng sanh cùng với các sa-môn và bà-la-môn, cùng với trời và người.” Như vậy, bằng cả năm từ, chỉ có ba cõi được bao hàm theo từng cách như có sự hiện diện của trời v.v…

Abhiññāti yakāralopenāyaṃ niddeso, abhijānitvāti ayamettha atthoti āha ‘‘abhiññāya adhikena ñāṇena ñatvā’’ti. Anumānādipaṭikkhepoti anumānaupamānaatthāpattiādipaṭikkhepo ekappamāṇattā. Sabbattha appaṭihatañāṇacāratāya hi sabbapaccakkhā buddhā bhagavanto. Anuttaraṃ vivekasukhanti phalasamāpattisukhaṃ. Tena vīthimissāpi kadāci bhagavato dhammadesanā hotīti hitvāpīti pisaddaggahaṇaṃ. Bhagavā hi dhammaṃ desento yasmiṃ khaṇe parisā sādhukāraṃ vā deti, yathāsutaṃ vā dhammaṃ paccavekkhati, taṃ khaṇaṃ pubbabhāgena paricchinditvā phalasamāpattiṃ samāpajjati, yathāparicchedañca samāpattito vuṭṭhāya ṭhitaṭṭhānato paṭṭhāya dhammaṃ deseti. Appaṃ vā bahuṃ vā desentoti ugghaṭitaññussa vasena appaṃ vā, vipañcitaññussa neyyassa vā vasena bahuṃ vā desento. Ādikalyāṇādippakārameva desetīti ādimhipi kalyāṇaṃ bhaddakaṃ anavajjameva katvā deseti. Majjhepi pariyosānepi kalyāṇaṃ bhaddakaṃ anavajjameva katvā desetīti vuttaṃ hoti. Dhammassa hi kalyāṇatā niyyānikatāya niyyānikatā ca sabbaso anavajjabhāvena.
Trong từ thắng tri, sự chỉ định này có sự lược bỏ phụ âm ‘ya’; ở đây có ý nghĩa là ‘sau khi đã biết rõ,’ nên (chú giải) nói: “sau khi đã biết bằng trí tuệ siêu việt, bằng thắng tri.” Sự bác bỏ suy luận v.v… là sự bác bỏ suy luận, so sánh, hàm ý v.v… do có cùng một mức độ. Thật vậy, các vị Phật, các bậc Thế Tôn, có sự vận hành của trí tuệ không bị cản trở ở khắp mọi nơi, nên tất cả đều là sự trực nhận. Hạnh phúc vắng lặng vô thượng là hạnh phúc của quả định. Bằng từ đó, và bằng việc dùng tiểu từ ‘pi’ trong câu dù đã từ bỏ, (chú giải) chỉ ra rằng đôi khi sự thuyết pháp của Thế Tôn cũng có sự xen kẽ với thiền vị. Thật vậy, khi Thế Tôn đang thuyết pháp, vào khoảnh khắc hội chúng tán thán, hoặc khi họ đang phản khán về pháp đã nghe, Ngài phân định khoảnh khắc đó bằng giai đoạn trước, rồi nhập vào quả định. Và sau khi xuất khỏi thiền định đúng như đã phân định, Ngài tiếp tục thuyết pháp từ chỗ đã dừng. Trong khi thuyết giảng ít hay nhiều là, hoặc trong khi thuyết giảng ít theo cách của người có trí tuệ như chớp, hoặc trong khi thuyết giảng nhiều theo cách của người có trí tuệ rộng và người cần được dẫn dắt. Chỉ thuyết giảng theo cách tốt đẹp ở đầu v.v… là Ngài thuyết giảng, làm cho nó tốt đẹp, hiền thiện, không bị chê trách ngay cả ở phần đầu. Có nghĩa là, Ngài thuyết giảng, làm cho nó tốt đẹp, hiền thiện, không bị chê trách cả ở phần giữa và phần cuối. Thật vậy, sự tốt đẹp của Chánh pháp là do tính chất đưa đến giải thoát; và tính chất đưa đến giải thoát là do trạng thái hoàn toàn không bị chê trách.

Samantabhaddakattāti sabbabhāgehi sundarattā. Dhammassāti pariyattidhammassa. Kiñcāpi avayavavinimutto samudāyo nāma paramatthato koci natthi, yesu pana avayavesu samudāyarūpena apekkhitesu gāthāti samaññā, taṃ tato bhinnaṃ viya katvā saṃsāmivohāraṃ āropetvā dassento ‘‘paṭhamapādena ādikalyāṇā’’tiādimāha. Ekānusandhikanti idaṃ nātibahuvibhāgaṃ yathānusandhinā ekānusandhikaṃ sandhāya vuttaṃ. Itarassa pana teneva desetabbadhammavibhāgena ādimajjhapariyosānabhāgā labbhantīti. Nidānenāti ānandattherena ṭhapitakāladesadesakaparisādiapadisanalakkhaṇena nidānaganthena. Nigamenāti ‘‘idamavocā’’tiādikena ‘‘iti yaṃ taṃ vuttaṃ, idametaṃ paṭicca vutta’’nti vā yathāvuttatthanigamanena. Saṅgītikārakehi ṭhapitānipi hi nidānanigamanāni dassetvā tīṇi piṭakāni satthu desanāya anuvidhānato tadantogadhāneva. Teneva dīghanikāyaṭṭhakathāyaṃ ‘‘ekānusandhikassa suttassa nidānaṃ ādi, idamavocāti pariyosānaṃ, ubhinnamantarā majjha’’nti (dī. ni. aṭṭha. 1.190) vuttaṃ.
Do có sự tốt đẹp về mọi mặt là do có sự xinh đẹp về tất cả các phần. Của Chánh pháp là của Chánh pháp học. Mặc dù về mặt chân đế, không có một tập hợp nào tồn tại tách rời các thành phần, nhưng đối với những thành phần nào, khi được xem xét dưới hình thức là một tập hợp, có tên gọi chung là bài kệ, (chú giải) làm cho nó giống như một cái gì đó tách rời khỏi các thành phần đó, rồi gán cho nó một cách nói về sở hữu, mà chỉ ra rằng: “tốt đẹp ở đầu bằng câu đầu tiên” v.v… Có một sự kết nối, điều này được nói khi đề cập đến một bài kinh không có nhiều sự phân chia, có một sự kết nối theo đúng trình tự. Còn đối với bài kinh khác, các phần đầu, giữa và cuối có được do chính sự phân chia các pháp cần được thuyết giảng. Bằng lời tựa là bằng phần tựa do trưởng lão Ānandatthera đặt ra, có đặc điểm là chỉ ra thời gian, nơi chốn, người thuyết, và hội chúng v.v… Bằng phần kết luận là bằng phần kết luận về ý nghĩa đã nói như “điều này đã được nói” v.v… hoặc “điều đã được nói đó, là do duyên điều này mà được nói.” Thật vậy, ngay cả các phần tựa và kết luận do các vị kết tập kinh điển đặt ra, do tuân theo sự thuyết giảng của Bậc Đạo Sư, cũng được bao gồm trong đó. Chính vì thế, trong chú giải Trường Bộ Kinh, đã nói: “đối với một bài kinh có một sự kết nối, lời tựa là phần đầu, câu ‘điều này đã được nói’ là phần cuối, khoảng giữa của cả hai là phần giữa.” (dī. ni. aṭṭha. 1.190).

Evaṃ suttantapiṭakavasena dhammassa ādikalyāṇāditaṃ dassetvā idāni tīṇi piṭakāni ekajjhaṃ gahetvā taṃ dassetuṃ ‘‘sakalopī’’tiādi vuttaṃ. Tattha sāsanadhammoti –
Sau khi đã chỉ ra tính chất tốt đẹp ở đầu v.v… của Chánh pháp theo cách của tạng Kinh như vậy, bây giờ để bao gồm cả ba tạng và chỉ ra điều đó, (chú giải) nói: “toàn bộ” v.v… Ở đó, giáo pháp là –

‘‘Sabbapāpassa akaraṇaṃ, kusalassa upasampadā;
Sacittapariyodapanaṃ, etaṃ buddhāna sāsana’’nti. (dī. ni. 2.90; dha. pa. 183; netti. 30, 50) –
“Không làm các điều ác, thành tựu các hạnh lành,
Giữ tâm ý trong sạch, đó là lời Phật dạy.” (dī. ni. 2.90; dha. pa. 183; netti. 30, 50) –

Evaṃ vuttassa satthusāsanassa pakāsako pariyattidhammo. Sīlamūlakattā sāsanassa ‘‘sīlena ādikalyāṇo’’ti vuttaṃ. Samathādīnaṃ sāsanasampattiyā vemajjhabhāvato āha ‘‘samathavipassanāmaggaphalehi majjhekalyāṇo’’ti. Nibbānādhigamato uttari karaṇīyābhāvato vuttaṃ ‘‘nibbānena pariyosānakalyāṇo’’ti. Sāsane sammāpaṭipatti nāma paññāya hoti, tassā ca sīlaṃ samādhi ca mūlanti āha ‘‘sīlasamādhīhivā ādikalyāṇo’’ti. Paññā pana anubodhapaavedhavasena duvidhāti tadubhayampi gaṇhanto ‘‘vipassanāmaggehi majjhekalyāṇo’’ti āha. Tassā nipphattiphalakiccaṃ nibbānasacchikiriyā, tato paraṃ kattabbaṃ natthīti dassento āha ‘‘phalanibbānehi pariyosānakalyāṇo’’ti. Phalaggahaṇena vā saupādisesaṃ nibbānamāha, itarena itaraṃ tadubhayañca sāsanasampattiyā osānanti āha ‘‘phalanibbānehi pariyosānakalyāṇo’’ti.
Là Chánh pháp học, vốn làm sáng tỏ lời dạy của Bậc Đạo Sư đã được nói đến như vậy. Vì giáo pháp có giới làm gốc, nên đã nói: “tốt đẹp ở đầu bằng giới.” Vì chỉ v.v… là phần giữa của sự thành tựu giáo pháp, nên (chú giải) nói: “tốt đẹp ở giữa bằng chỉ, quán, đạo và quả.” Vì không còn việc gì phải làm sau khi đã chứng đắc Niết-bàn, nên đã nói: “tốt đẹp ở cuối bằng Niết-bàn.” Sự thực hành đúng đắn trong giáo pháp có được là nhờ trí tuệ, và giới cùng với định là gốc của trí tuệ ấy, nên (chú giải) nói: “hoặc tốt đẹp ở đầu bằng giới và định.” Và vì trí tuệ có hai loại, theo cách là tuệ giác ngộ theo và tuệ thấu triệt, nên (chú giải) bao gồm cả hai mà nói: “tốt đẹp ở giữa bằng tuệ quán và đạo.” Để chỉ ra rằng chức năng quả của sự thành tựu của nó là sự chứng ngộ Niết-bàn, và sau đó không còn việc gì phải làm, (chú giải) nói: “tốt đẹp ở cuối bằng quả và Niết-bàn.” Hoặc là, bằng việc đề cập đến quả, Ngài nói về hữu dư y Niết-bàn; bằng từ kia, Ngài nói về loại kia (vô dư y Niết-bàn). Và vì cả hai đều là sự kết thúc của sự thành tựu giáo pháp, nên (chú giải) nói: “tốt đẹp ở cuối bằng quả và Niết-bàn.”

Buddhasubodhitāya vā ādikalyāṇoti buddhassa subodhitā sammāsambuddhatā, tāya ādikalyāṇo tappabhavattā. Sabbaso saṃkilesappahānaṃ vodānapāripūrī ca dhammasudhammatā, tāya majjhekalyāṇo taṃsarīrattā. Satthārā yathānusiṭṭhaṃ tathā paṭipatti saṅghasuppaṭipatti, tāya pariyosānakalyāṇo tāya sāsanassa loke suppatiṭṭhitabhāvato. Tanti sāsanadhammaṃ. Tathattāyāti yathattāya bhagavatā dhammo desito, tathattāya tathabhāvāya. So pana abhisambodhi paccekabodhi sāvakabodhīti tividho ito aññathā nibbānādhigamassa abhāvato. Tattha sabbaguṇehi aggabhāvato itarabodhidvayamūlatāya ca paṭhamāya bodhiyā ādikalyāṇatā, guṇehi vemajjhabhāvato dutiyāya majjhekalyāṇatā, tadubhayatāya vā vosānatāya ca sāsanadhammassa tatiyāya pariyosānakalyāṇatā vuttā.
Hoặc tốt đẹp ở đầu do sự giác ngộ tốt đẹp của Phật có nghĩa là, sự giác ngộ tốt đẹp của Phật là trạng thái Chánh Đẳng Giác; giáo pháp tốt đẹp ở đầu do điều đó, vì bắt nguồn từ đó. Sự đoạn trừ hoàn toàn các cấu uế và sự viên mãn của sự trong sạch là sự tốt đẹp của Chánh pháp; giáo pháp tốt đẹp ở giữa do điều đó, vì đó là bản thể của nó. Sự thực hành đúng đắn của Tăng chúng theo như Bậc Đạo Sư đã giáo huấn là sự thực hành tốt đẹp của Tăng; giáo pháp tốt đẹp ở cuối do điều đó, vì nhờ đó mà giáo pháp được thiết lập vững chắc trong đời. Điều đó là giáo pháp. Để được như vậy là, Chánh pháp đã được Thế Tôn thuyết giảng như thế nào, thì để được như thế ấy, để có được trạng thái ấy. Và trạng thái ấy có ba loại: tuệ giác của bậc Toàn Giác, tuệ giác của bậc Độc Giác, và tuệ giác của bậc Thinh Văn; vì ngoài những cách này ra, không có cách nào khác để chứng đắc Niết-bàn. Ở đó, do là cao nhất về mọi phẩm hạnh và là gốc của hai loại tuệ giác kia, nên tuệ giác đầu tiên có tính chất tốt đẹp ở đầu. Do có phẩm hạnh ở mức trung bình, nên tuệ giác thứ hai có tính chất tốt đẹp ở giữa. Và do là cả hai điều đó hoặc là sự kết thúc của giáo pháp, nên tuệ giác thứ ba được nói là có tính chất tốt đẹp ở cuối.

Esoti sāsanadhammo. Nīvaraṇavikkhambhanatoti vimuttāyatanasīse ṭhatvā saddhammaṃ suṇantassa nīvaraṇānaṃ vikkhambhanasabbhāvato. Vuttañhetaṃ –
là giáo pháp. Do sự chế ngự các triền cái là, vì đối với người đang lắng nghe Chánh pháp khi đứng ở đỉnh cao là sự giải thoát, có sự tồn tại của việc chế ngự các triền cái. Điều này đã được nói:

‘‘Yathā yathāvuso, bhikkhuno satthā vā dhammaṃ deseti, aññataro vā garuṭṭhānīyo sabrahmacārī, tathā tathā so tattha labhati atthavedaṃ labhati dhammaveda’’nti.
“Này hiền giả, khi nào vị Tỳ-khưu được Bậc Đạo Sư hoặc một vị đồng phạm hạnh đáng kính nào khác thuyết pháp, khi đó vị ấy có được sự cảm nhận về lợi ích, có được sự cảm nhận về chánh pháp.”

‘‘Yasmiṃ , bhikkhave, samaye ariyasāvako ohitasoto dhammaṃ suṇāti, pañcassa nīvaraṇāni tasmiṃ samaye pahīnāni hontī’’ti –
“Này các Tỳ-khưu, vào lúc nào vị Thánh đệ tử lắng tai nghe pháp, năm triền cái của vị ấy vào lúc đó đã được đoạn trừ.” –

Ca ādi. Samathavipassanāsukhāvahanatoti samathasukhassa vipassanāsukhassa ca sampāpanato. Vuttampi cetaṃ ‘‘so vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukha’’ntiādi, tathā –
v.v… Do mang lại hạnh phúc của chỉ và quán là do mang lại hạnh phúc của chỉ và hạnh phúc của quán. Điều này cũng đã được nói: “Vị ấy ly dục, ly các pháp bất thiện, chứng và an trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ” v.v…, cũng như:

‘‘Yato yato sammasati, khandhānaṃ udayabbayaṃ;
Labhatī pītipāmojjaṃ, amataṃ taṃ vijānataṃ.
Amānusī ratī hoti, sammā dhammaṃ vipassato’’ti ca. (dha. pa. 374-373);
“Khi nào, khi nào vị ấy quán chiếu,
Sự sanh và diệt của các uẩn,
Vị ấy có được hỷ và duyệt,
Đó là bất tử đối với những người hiểu biết.
Có một sự hoan hỷ phi nhân,
Đối với người quán chiếu Chánh pháp một cách đúng đắn.” (dha. pa. 374-373);

Tathā paṭipannoti yathā samathavipassanāsukhaṃ āvahati, yathā vā satthārā anusiṭṭhaṃ, tathā paṭipanno sāsanadhammo. Tādibhāvāvahanatoti chaḷaṅgupekkhāvasena iṭṭhādīsu tādibhāvassa lokadhammehi anupalepassa āvahanato. Nāthappabhavattāti pabhavati etasmāti pabhavo, uppattiṭṭhānaṃ, nāthova pabhavo etassāti nāthappabhavo, tassa bhāvo nāthappabhavattaṃ, tasmā sāsanadhammassa nāthahetukattāti attho. Atthasuddhiyā majjhekalyāṇoti nirupakkilesatāya niyyānikatā atthasuddhi, tāya majjhekalyāṇo. Kiccasuddhiyā pariyosānakalyāṇoti suppaṭipattisaṅkhātakiccassa suddhiyā pariyosānakalyāṇo suppaṭipattipariyosānattā sāsanadhammassa. Yathāvuttamatthaṃ nigamento āha ‘‘tasmā’’tiādi.
Đã thực hành như vậy là, giáo pháp đã được thực hành theo cách mang lại hạnh phúc của chỉ và quán, hoặc đã được thực hành theo như Bậc Đạo Sư đã giáo huấn. Do mang lại trạng thái như vậy là do mang lại trạng thái như vậy, tức là sự không bị vấy bẩn bởi các pháp thế gian, theo cách của tâm xả gồm sáu chi phần đối với các đối tượng tốt đẹp v.v… Do có Đấng Hộ Trì là nguồn là, nó sanh khởi từ đó, nên là nguồn; Đấng Hộ Trì là nguồn của nó, nên là có Đấng Hộ Trì là nguồn; trạng thái của nó là trạng thái có Đấng Hộ Trì là nguồn. Do đó, có nghĩa là, do giáo pháp có Đấng Hộ Trì là nhân. Tốt đẹp ở giữa do sự trong sạch về ý nghĩa là, tính chất đưa đến giải thoát do sự không có cấu uế là sự trong sạch về ý nghĩa; giáo pháp tốt đẹp ở giữa do điều đó. Tốt đẹp ở cuối do sự trong sạch về phận sự là, giáo pháp tốt đẹp ở cuối do sự trong sạch của phận sự được xem là sự thực hành đúng đắn, vì giáo pháp có sự kết thúc là sự thực hành đúng đắn. Để kết luận ý nghĩa đã nói, (chú giải) nói: “Do đó” v.v…

Sāsanabrahmacariyantiādīsu avisesena tisso sikkhā sakalo ca tantidhammo sāsanabrahmacariyaṃ. Yaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘katamesānaṃ kho, bhante, buddhānaṃ bhagavantānaṃ brahmacariyaṃ na ciraṭṭhitikamahosī’’tiādi (pārā. 18). Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo maggabrahmacariyaṃ. Yaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīya’’nti (pārā. 14). Yathānurūpanti yathārahaṃ. Sikkhattayasaṅgahañhi sāsanabrahmacariyaṃ atthasampattiyā sātthaṃ, tathā maggabrahmacariyaṃ. Itaraṃ pana tantidhammasaṅkhātaṃ sāsanabrahmacariyaṃ yathāvuttenatthena sātthaṃ sabyañjanañca. Atthasampattiyāti sampannatthatāya. Sampattiattho hi idha sahasaddo. Byañjanasampattiyāti etthāpi eseva nayo. Yassa hi yāgubhattādiitthipurisādivaṇṇanānissitā desanā hoti, na so sātthaṃ deseti niyyānatthavirahato tassā desanāya. Bhagavā pana tathārūpaṃ desanaṃ pahāya catusatipaṭṭhānādinissitaṃ desanaṃ deseti, tasmā ‘‘atthasampattiyā sātthaṃ desetī’’ti vuccati . Yassa pana desanā sithiladhanitādibhedesu byañjanesu ekappakāreneva dvippakāreneva vā byañjanena yuttatāya ekabyañjanādiyuttā vā damiḷabhāsā viya, vivaṭakaraṇatāya oṭṭhe aphusāpetvā uccāretabbato sabbaniroṭṭhabyañjanā vā kirātabhāsā viya, sabbattheva vissajjanīyayuttatāya sabbavissaṭṭhabyañjanā vā yavanabhāsā viya, sabbattheva sānusāratāya sabbaniggahītabyañjanā vā pādasikādi milakkhubhāsā viya, tassa byañjanapāripūriyā abhāvato abyañjanā nāma desanā hoti. Sabbāpi hi esā byañjanekadesavaseneva pavattiyā aparipuṇṇabyañjanāti katvā ‘‘abyañjanā’’ti vuccati. Bhagavā pana –
Trong các câu phạm hạnh trong giáo pháp v.v…, một cách không phân biệt, ba học và toàn bộ giáo pháp học thuật là phạm hạnh trong giáo pháp. Đề cập đến điều đó mà đã nói: “Bạch Thế Tôn, phạm hạnh của những vị Phật, những bậc Thế Tôn nào đã không tồn tại lâu dài?” v.v… (pārā. 18). Thánh đạo tám ngành là phạm hạnh của đạo. Đề cập đến điều đó mà đã nói: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong.” (pārā. 14). Tương ứng là tùy theo sự xứng đáng. Thật vậy, phạm hạnh trong giáo pháp, vốn bao gồm ba học, là có ý nghĩa do sự thành tựu về lợi ích; tương tự, phạm hạnh của đạo cũng vậy. Còn phạm hạnh trong giáo pháp kia, được xem là giáo pháp học thuật, là có ý nghĩa và có văn tự theo ý nghĩa đã nói. Do sự thành tựu về ý nghĩa là do có ý nghĩa đã được thành tựu. Thật vậy, ở đây, tiểu từ ‘sa-’ có ý nghĩa là sự thành tựu. Trong câu do sự thành tựu về văn tự, ở đây cũng theo phương pháp này. Thật vậy, sự thuyết giảng của người nào nương tựa vào việc mô tả về cháo, cơm v.v…, nam, nữ v.v…, người đó không thuyết giảng điều có ý nghĩa, do sự thuyết giảng đó không có ý nghĩa đưa đến giải thoát. Còn Thế Tôn, sau khi đã từ bỏ sự thuyết giảng như vậy, Ngài thuyết giảng nương tựa vào bốn niệm xứ v.v…; do đó, đã được nói là “Ngài thuyết giảng có ý nghĩa do sự thành tựu về ý nghĩa.” Còn sự thuyết giảng của người nào, trong các sự phân biệt của văn tự như âm lơi, âm căng v.v…, chỉ có một loại văn tự hoặc hai loại văn tự, nên chỉ có một loại văn tự v.v…, giống như tiếng Tamil; hoặc là tất cả các văn tự đều không có âm môi do phải được phát âm mà không chạm hai môi lại với nhau do cách phát âm mở, giống như tiếng Kirata; hoặc là tất cả các văn tự đều có âm cuối ‘h’ ở khắp nơi, giống như tiếng Yavana; hoặc là tất cả các văn tự đều có âm mũi ở khắp nơi, giống như các tiếng man di như Pādasika v.v…, thì sự thuyết giảng của người đó, do không có sự viên mãn về văn tự, nên được gọi là không có văn tự. Thật vậy, tất cả các sự thuyết giảng đó, do chỉ diễn ra theo một phần của văn tự, nên không có văn tự viên mãn, do đó được gọi là “không có văn tự.” Còn Thế Tôn thì –

‘‘Sithilaṃ dhanitañca dīgharassaṃ, garukaṃ lahukañca niggahītaṃ;
Sambandhaṃ vavatthitaṃ vimuttaṃ, dasadhā byañjanabuddhiyā pabhedo’’ti. (dī. ni. aṭṭha. 1.190; ma. ni. aṭṭha. 1.291; pari. aṭṭha. 485) –
“Lơi và căng, dài và ngắn,
Nặng và nhẹ, cùng với phụ âm cuối;
Nối âm, tách âm và không bị gò bó,
Đó là mười loại phân biệt của trí tuệ về văn tự.” (dī. ni. aṭṭha. 1.190; ma. ni. aṭṭha. 1.291; pari. aṭṭha. 485) –

Evaṃ vuttaṃ dasavidhaṃ byañjanaṃ amakkhetvā paripuṇṇabyañjanameva katvā dhammaṃ deseti, tasmā ‘‘byañjanasampattiyā sabyañjanaṃ desetī’’ti vuccati.
Ngài không bỏ qua mười loại văn tự đã được nói đến như vậy, mà thuyết pháp bằng cách làm cho văn tự trở nên viên mãn; do đó, đã được nói là “Ngài thuyết giảng có văn tự do sự thành tựu về văn tự.”

Idāni ‘‘sātthaṃ sabyañjana’’nti ettha nettinayenapi atthaṃ dassetuṃ ‘‘saṅkāsanaṃ…pe… sabyañjana’’nti vuttaṃ. Tattha yadipi nettiyaṃ ‘‘byañjanamukhena byañjanatthaggahaṇaṃ hotīti akkharaṃ pada’’ntiādinā byañjanapadāni paṭhamaṃ uddiṭṭhāni, idha pana pāḷiyaṃ ‘‘sātthaṃ sabyañjana’’nti āgatattā atthapadāniyeva paṭhamaṃ dassetuṃ ‘‘saṅkāsanapakāsanā’’tiādi vuttaṃ. Tattha saṅkhepato kāsanaṃ dīpanaṃ saṅkāsanaṃ. Kāsananti ca kāsīyati dīpīyati vibhāvīyatīti attho. ‘‘Maññamāno kho bhikkhu baddho mārassa amaññamāno mutto’’tiādīsu viya saṅkhepena dīpanaṃ saṅkāsanaṃ nāma. Tattakena hi tena bhikkhunā paṭividdhaṃ. Tenāha ‘‘aññātaṃ bhagavā’’tiādi. Paṭhamaṃ kāsanaṃ pakāsanaṃ. ‘‘Sabbaṃ, bhikkhave, āditta’’nti evamādīsu pacchā kathitabbamatthaṃ paṭhamaṃ vacanena dīpanaṃ pakāsanaṃ nāma. Ādikammasmiñhi ayaṃ pa-saddo ‘‘paññapeti paṭṭhapetī’’tiādīsu viya. Tikkhindriyāpekkhañcetaṃ padadvayaṃ uddesabhāvato. Tikkhindriyo hi saṅkhepato paṭhamañca vuttamatthaṃ paṭipajjati. Saṃkhittassa vitthāravacanaṃ sakiṃ vuttassa puna vacanañca vivaraṇavibhajanāni, yathā ‘‘kusalā dhammā’’ti saṅkhepato sakiṃyeva ca vuttassa atthassa ‘‘katame dhammā kusalā? Yasmiṃ samaye kāmāvacaraṃ kusalaṃ citta’’ntiādinā vitthārato vivaraṇavasena vibhajanavasena ca puna vacanaṃ. Majjhimindriyāpekkhametaṃ padadvayaṃ niddesabhāvato. Vivaṭassa vitthāratarābhidhānaṃ vibhattassa ca pakārehi ñāpanaṃ vineyyānaṃ cittaparitosanaṃ uttānīkaraṇapaññāpanāni, yathā ‘‘phasso hotī’’tiādinā vivaṭavibhattassa atthassa ‘‘katamo tasmiṃ samaye phasso hoti? Yo tasmiṃ samaye phasso phusanā saṃphusanā’’tiādinā uttānīkiriyā paññāpanā ca. Mudindriyāpekkhametaṃ padadvayaṃ paṭiniddesabhāvato.
Bây giờ, ở đây trong câu “có ý nghĩa, có câu văn”, để trình bày ý nghĩa theo cả phương pháp của Nettipakaraṇa, điều đã được nói là “sự biểu thị… cho đến… có câu văn”. Ở đó, mặc dù trong Nettipakaraṇa, các từ ngữ về câu văn như “việc nắm bắt ý nghĩa của câu văn là thông qua chính câu văn, vì vậy đó là chữ, là từ” v.v… được nêu ra trước, nhưng ở đây, vì trong kinh Pāḷi đã nói là “có ý nghĩa, có câu văn”, nên để trình bày các từ ngữ về ý nghĩa trước, điều đã được nói là “sự biểu thị, sự tuyên bố” v.v… Ở đó, việc làm sáng tỏ, trình bày một cách tóm tắt là sự biểu thị. Sự làm sáng tỏ có nghĩa là được làm sáng tỏ, được trình bày, được làm cho rõ ràng. Giống như trong các câu “Này Tỳ-khưu, người có quan niệm thì bị Māra trói buộc, người không có quan niệm thì được giải thoát” v.v…, sự trình bày một cách ngắn gọn được gọi là sự biểu thị. Quả vậy, vị Tỳ-khưu ấy đã thâm nhập được chỉ với chừng ấy. Do đó, vị ấy đã nói: “Bạch Thế Tôn, con đã hiểu rõ” v.v… Sự làm sáng tỏ ban đầu là sự tuyên bố. Giống như trong câu “Này các Tỳ-khưu, tất cả đều bị cháy đỏ” v.v…, việc dùng lời nói ban đầu để trình bày ý nghĩa sẽ được nói về sau được gọi là sự tuyên bố. Quả vậy, tiếp đầu ngữ pa- này có ý nghĩa là hành động khởi đầu, giống như trong các từ “làm cho biết, thiết lập” v.v… Và cặp từ này là nhắm đến người có căn tánh lanh lợi, do bản chất là sự đề mục. Quả vậy, người có căn tánh lanh lợi sẽ liễu ngộ được ý nghĩa được nói một cách tóm tắt và ngay từ đầu. Việc diễn giải chi tiết điều đã được nói tóm tắt và việc lặp lại điều đã được nói một lần là sự khai triển và sự phân tích, ví dụ, đối với ý nghĩa đã được nói một cách tóm tắt và chỉ một lần là “các pháp thiện”, việc lặp lại bằng cách khai triển và phân tích một cách chi tiết như: “Những pháp nào là thiện? Vào lúc tâm thiện thuộc Dục giới…” v.v… Cặp từ này nhắm đến người có căn tánh trung bình, do bản chất là sự trình bày. Việc giải thích chi tiết hơn điều đã được khai triển, việc làm cho biết điều đã được phân tích bằng nhiều phương cách, và việc làm cho tâm của các hàng đệ tử được hoan hỷ là sự làm cho rõ ràng và sự chế định, ví dụ, đối với ý nghĩa đã được khai triển và phân tích qua câu “có xúc” v.v…, sự làm cho rõ ràng và sự chế định qua câu “Vào lúc ấy, xúc là gì? Xúc vào lúc ấy là sự chạm, sự tiếp xúc, trạng thái tiếp xúc…” v.v… Cặp từ này nhắm đến người có căn tánh chậm lụt, do bản chất là sự trình bày chi tiết.

Atha vā ‘‘sabbaṃ, bhikkhave, āditta’’nti evaṃ paṭhamaṃ dīpitamatthaṃ puna pākaṭaṃ katvā dīpanena ‘‘kiñca, bhikkhave, sabbaṃ ādittaṃ? Cakkhu, bhikkhave, ādittaṃ, rūpā ādittā’’ti evamādinā saṃkhittassa vitthārābhidhānena sakiṃ vuttassa punapi abhidhānena vitthāretvā desanaṃ vivaraṇaṃ nāma. ‘‘Kusalā dhammā’’ti saṅkhepena nikkhittassa ‘‘katame dhammā kusalā? Yasmiṃ samaye kāmāvacaraṃ kusalaṃ cittaṃ uppannaṃ hotī’’ti niddesavasena vivarite kusale dhamme ‘‘tasmiṃ samaye phasso hoti vedanā hotī’’ti vibhāgakaraṇaṃ vibhajanaṃ nāma. Vivaṭassa vitthārābhidhānena vibhattassa ca upamābhidhānena uttāniṃ karotīti vivaraṇena vivaritatthassa ‘‘katamo tasmiṃ samaye phasso hoti? Yo tasmiṃ samaye phasso phusanā saṃphusanā’’ti ativivaritvā kathanaṃ, vibhajanena vibhattassa ‘‘seyyathāpi, bhikkhave, gāvī niccammā, evameva khvāyaṃ bhikkhave phassāhāro daṭṭhabboti vadāmī’’ti evamādiupamākathanañca uttānīkaraṇaṃ nāma. Dhammaṃ suṇantānaṃ dhammadesanena vicittena anekavidhena somanassassa uppādanaṃ atikhiṇabuddhīnaṃ anekavidhena ñāṇatikhiṇakaraṇañca paññatti nāma sotūnaṃ cittatosanena cittanisānena ca paññāpanaṃ paññattīti katvā. Atthapadasamāyogato sātthanti pariyattiatthassa saṅkāsanādiatthapadarūpattā yathāvuttachaatthapadasamāyogato sātthaṃ. Saṅkāsanapakāsanādayo hi atthākārattā ‘‘atthapadānī’’ti vuccanti. Atthoyeva hi byañjanapadehi saṅkāsīyati pakāsīyati vivarīyati vibhajīyati uttānī karīyati paññāpīyati.
Hoặc là, khi ý nghĩa ban đầu được trình bày là “Này các Tỳ-khưu, tất cả đều bị cháy đỏ”, rồi lại được làm cho rõ ràng bằng cách trình bày rằng: “Và này các Tỳ-khưu, cái gì là tất cả bị cháy đỏ? Này các Tỳ-khưu, mắt bị cháy đỏ, các sắc bị cháy đỏ” v.v…, thì bài thuyết giảng mở rộng bằng cách giải thích chi tiết điều tóm tắt và bằng cách lặp lại điều đã nói một lần được gọi là sự khai triển. Khi các pháp thiện được nêu ra một cách tóm tắt là “các pháp thiện”, rồi được khai triển bằng cách trình bày “Những pháp nào là thiện? Vào lúc tâm thiện thuộc Dục giới sanh khởi”, thì việc thực hiện sự phân chia thành “vào lúc ấy có xúc, có thọ” được gọi là sự phân tích. Việc giải thích một cách cực kỳ chi tiết về ý nghĩa đã được khai triển bằng sự khai triển, như: “Vào lúc ấy, xúc là gì? Xúc vào lúc ấy là sự chạm, sự tiếp xúc, trạng thái tiếp xúc”; và việc nói bằng ví dụ về điều đã được phân tích bằng sự phân tích, như: “Này các Tỳ-khưu, ví như con bò bị lột da… Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, Ta nói rằng vật thực là xúc cần phải được thấy như thế”, việc này được gọi là sự làm cho rõ ràng. Việc làm phát sanh sự hoan hỷ cho những người đang nghe Pháp bằng một bài Pháp thoại đa dạng và nhiều thể loại, và việc làm cho trí tuệ của những người có trí thông minh sắc bén trở nên sắc bén hơn bằng nhiều cách được gọi là sự chế định, vì nó là sự làm cho biết thông qua việc làm hoan hỷ tâm và mài giũa tâm của người nghe. Có ý nghĩa do sự kết hợp của các từ ngữ về ý nghĩa: vì ý nghĩa của Pháp học có hình thức là các từ ngữ về ý nghĩa như sự biểu thị v.v…, nên được gọi là có ý nghĩa do sự kết hợp của sáu từ ngữ về ý nghĩa đã được nói ở trên. Quả vậy, sự biểu thị, sự tuyên bố v.v… được gọi là “các từ ngữ về ý nghĩa” vì chúng là các phương thức của ý nghĩa. Quả thật, chính ý nghĩa được biểu thị, được tuyên bố, được khai triển, được phân tích, được làm cho rõ ràng, được làm cho biết bởi các từ ngữ về câu văn.

Akkharapadabyañjanākāraniruttiniddesasampattiyāti ettha ‘‘saṭṭhi vassasahassānī’’ti evamādīsu sa-kāra du-kāra so-kārādi viya uccāraṇavelāya apariyosite pade vaṇṇo akkharaṃ pariyāyavasena akkharaṇato avevacanato. Na hi vaṇṇassa pariyāyo vijjati. Yathā hi padaṃ savevacanatāya atthavasena pariyāyaṃ carantaṃ sañcarantaṃ viya hoti, na evaṃ vaṇṇo avevacanattā. Ekakkharaṃ vā padaṃ akkharaṃ ‘‘mā evaṃ kira ta’’ntiādīsu mā-kārādayo viya. Keci pana ‘‘tīsu dvāresu parisuddhapayogabhāvena visuddhakaraṇaṭṭhānānaṃ cittena pavattitadesanāvācāhi akkharaṇato avevacanato akathitattā akkharanti saññitā. Taṃ pārāyanikabrāhmaṇānaṃ manasā pucchitapañhānaṃ vasena bhagavatā ratanaghare nisīditvā sammasitapaṭṭhānamahāpakaraṇavasena ca gahetabba’’nti vadanti. Vibhattiyantaṃ atthassa ñāpanato padaṃ. Pajjati attho etenāti hi padaṃ. Taṃ nāmapadaṃ ākhyātapadaṃ upasaggapadaṃ nipātapadanti catubbidhaṃ. Tattha phasso vedanā cittanti evamādikaṃ dabbapadhānaṃ nāmapadaṃ. Nāmapadehi dabbamāvibhūtarūpaṃ, kiriyā anāvibhūtarūpā. Phusati vedayati vijānātīti evamādikaṃ kiriyāpadhānaṃ ākhyātapadaṃ. Ākhyātapadehi kiriyā āvibhūtarūpā, dabbamanāvibhūtarūpaṃ. Yathā ‘‘cirappavāsi’’nti ettha pa-saddo vasanakiriyāya viyogavisiṭṭhataṃ dīpeti, evaṃ kiriyāvisesadīpanato kiriyāvisesāvabodhanimittaṃ. Pa-iti evamādikaṃ upasaggapadaṃ. Kiriyāya dabbassa ca sarūpavisesappakāsanahetubhūtaṃ evanti evamādikaṃ nipātapadaṃ. ‘‘Evaṃ manasi karotha, mā evaṃ manasākatthā’’tiādīsu hi kiriyāvisesadīpanato kiriyāvisesassa jotako evaṃsaddo, ‘‘evaṃsīlā evaṃdhammā’’tiādīsu dabbavisesassa. Saṅkhepato vuttaṃ padābhihitaṃ atthaṃ byañjetīti byañjanaṃ, vākyaṃ. ‘‘Cattāro iddhipādā’’ti saṅkhepena kathitamatthaṃ ‘‘katame cattāro? Idha, bhikkhave, bhikkhu chandasamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāveti, vīriya, citta, vīmaṃsasamādhipadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāvetī’’tiādinā pākaṭaṃ karotīti vākyameva byañjanaṃ, taṃ pana atthato padasamudāyoti daṭṭhabbaṃ. Saākhyātaṃ sanipātaṃ sakārakaṃ savisesanaṃ vākyanti hi vadanti. Nanu ca padenapi attho byañjīyatīti padampi byañjananti āpajjatīti? Taṃ na. Padamattasavanepi hi adhikārādivasena labbhamānehi padantarehi anusandhānaṃ katvāva atthasampaṭipatti hotīti vākyameva atthaṃ byañjayatīti.
Ở đây, trong câu “do sự thành tựu về chữ, từ, câu văn, phương thức, ngôn ngữ và sự trình bày”: một âm trong một từ chưa kết thúc vào lúc phát âm, giống như âm sa-, du-, so- v.v… trong câu “sáu mươi ngàn năm” v.v…, là một chữ do nó không bị tiêu hoại và không thể phân chia theo nghĩa đồng nghĩa. Quả vậy, một âm không có từ đồng nghĩa. Giống như một từ, vì có thể phân chia, dường như di chuyển hay lang thang qua các từ đồng nghĩa tùy theo ý nghĩa, thì một âm lại không như vậy, vì nó không thể phân chia. Hoặc một từ đơn âm là một chữ, giống như mā- v.v… trong câu “chắc chắn đừng làm như vậy” v.v… Tuy nhiên, một số người nói rằng: “Nó được gọi là ‘chữ’ vì nó không được nói ra, không thể phân chia, và không bị hủy hoại qua những lời giảng dạy xuất phát từ tâm tại các nơi thanh tịnh nhờ vào sự áp dụng thuần tịnh ở ba cửa. Điều này cần được hiểu theo các câu hỏi được các vị Bà-la-môn trong phẩm Pārāyana hỏi bằng ý và theo bộ Đại Luận về Duyên Hệ mà Đức Thế Tôn đã suy xét khi ngự tại nhà báu”. Cái kết thúc bằng một biến cách ngữ pháp và làm cho biết một ý nghĩa là một từ. Quả vậy, ý nghĩa được đạt đến thông qua nó. Nó có bốn loại: danh từ, động từ, tiếp đầu ngữ và tiểu từ. Trong đó, “xúc”, “thọ”, “tâm” v.v…, nơi mà thực thể là chính, là danh từ. Trong danh từ, thực thể thì hiển lộ, còn hành động thì không hiển lộ. “Chạm”, “cảm nhận”, “nhận biết” v.v…, nơi mà hành động là chính, là động từ. Trong động từ, hành động thì hiển lộ, còn thực thể thì không hiển lộ. Giống như trong câu “người sống ở nước ngoài đã lâu”, tiếp đầu ngữ pa- chỉ một sự tách biệt cụ thể khỏi hành động sống, do đó nó là một dấu hiệu để hiểu một hành động cụ thể vì nó cho thấy một hành động cụ thể. Pa- và những từ tương tự là tiếp đầu ngữ. “Như vậy” v.v…, là nguyên nhân để tiết lộ một bản chất cụ thể của cả hành động và thực thể, là một tiểu từ. Quả vậy, trong các câu “hãy tác ý như vậy, đừng tác ý như vậy” v.v…, từ evaṃ làm sáng tỏ một hành động cụ thể vì nó cho thấy một hành động cụ thể; và trong các câu “có giới hạnh như vậy, có pháp tánh như vậy”, nó xác định thực thể. Cái làm cho rõ ý nghĩa được nói bởi một từ đã được đề cập một cách tóm tắt là câu văn (byañjana), một câu. Khi ý nghĩa được nói một cách tóm tắt là “bốn thần túc”, được làm cho rõ ràng bằng câu: “Bốn là gì? Này các Tỳ-khưu, ở đây vị Tỳ-khưu tu tập thần túc được trang bị với định do dục và các hành thuộc về sự nỗ lực; tu tập thần túc được trang bị với định do tinh tấn, tâm, thẩm sát…” v.v…, thì chính câu đó là câu văn. Nhưng điều này cần được hiểu là một tập hợp các từ theo ý nghĩa. Quả vậy, người ta nói rằng một câu có một động từ, các tiểu từ, các quan hệ cách và các thuộc tính. Nhưng chẳng phải ý nghĩa cũng được làm rõ bởi một từ, vậy thì một từ cũng sẽ là câu văn sao? Điều đó không đúng. Bởi vì ngay cả khi chỉ nghe một từ, việc đạt được ý nghĩa chỉ xảy ra sau khi tạo ra một mối liên kết với các từ khác có được thông qua văn cảnh v.v… Do đó, chính câu văn mới làm cho ý nghĩa trở nên rõ ràng.

Pakārato vākyavibhāgo ākāro. ‘‘Tattha katamo chando? Yo chando chandikatā kattukamyatā’’ti evamādīsu kathitasseva vākyassa anekavidhena vibhāgakaraṇaṃ ākāro nāma. Ākārābhihitaṃ nibbacanaṃ nirutti. ‘‘Phasso vedanā’’ti evamādīsu ākārena kathitaṃ ‘‘phusatīti phasso, vedayatīti vedanā’’ti nīharitvā vitthāravacanaṃ nirutti nāma. ‘‘Nibbānaṃ maggati, nibbānatthikehi vā maggīyati, kilese vā mārento gacchatīti maggo’’tiādinā nibbacanavitthāro niravasesadesanattā niddeso. Atha vā vedayatīti vedanāti nibbacanaladdhapadesu sukhadukkhaadukkhamasukhāsu sukhayatīti sukhā, dukkhayatīti dukkhā, neva dukkhayati na sukhayatīti adukkhamasukhāti atthavitthāro niravasesena kathitattā niddeso nāma. Etesaṃ akkharādīnaṃ byañjanapadānaṃ sampattiyā sampannatāya sabyañjanaṃ.
Sự phân chia câu văn theo phương thức là phương thức. Giống như trong các câu “Ở đó, thế nào là dục? Cái gì là dục, là lòng ham muốn, là ý muốn làm”, việc phân chia câu văn đã được nói ra bằng nhiều cách được gọi là phương thức. Sự giải thích được nói đến bởi phương thức là ngữ nguyên. Giống như trong các câu “xúc, thọ”, sự giải thích chi tiết được rút ra từ điều đã được nói theo phương thức, như “chạm, nên gọi là xúc; cảm nhận, nên gọi là thọ”, được gọi là ngữ nguyên. Sự giải thích chi tiết về từ nguyên, như “tìm đến Niết-bàn, hoặc được những người cần Niết-bàn tìm đến, hoặc đi đến trong khi diệt trừ các phiền não, nên gọi là đạo”, do là bài thuyết giảng không còn sót lại, nên được gọi là sự trình bày. Hoặc, trong các từ ngữ có được từ sự giải thích từ nguyên “cảm nhận, nên gọi là thọ” – tức là lạc, khổ, và bất khổ bất lạc – sự giải thích chi tiết về ý nghĩa rằng “làm cho an lạc, nên là lạc; làm cho đau khổ, nên là khổ; không làm cho đau khổ cũng không làm cho an lạc, nên là bất khổ bất lạc”, do được nói một cách không còn sót lại, nên được gọi là sự trình bày. Do sự thành tựu, sự viên mãn của các từ ngữ về câu văn này, bắt đầu từ các chữ, nên được gọi là có câu văn.

Evaṃ panassa atthapadasamāyogo byañjanapadasampatti ca veditabbā. Tattha bhagavā akkharehi saṅkāseti, padehi pakāseti, byañjanehi vivarati, ākārehi vibhajati, niruttīhi uttāniṃ karoti, niddesehi paññapeti. Tathā hi padāvayavaggahaṇamukhena padaggahaṇaṃ, gahitena ca padena padatthāvabodho gahitapubbasaṅketassa hotīti bhagavā akkharehi saṅkāseti. Yasmā pana akkharehi saṃkhittena dīpiyamāno attho padapariyosāne vākyassa apariyositattā padena paṭhamaṃ pakāsito dīpito hoti, tasmā padehi pakāseti. Vākyapariyosāne pana so attho vivarito vivaṭo kato hotīti byañjanehi vivarati. Yasmā ca pakārehi vākyabhede kate tadattho vibhatto nāma hoti, tasmā ākārehi vibhajati. Tathā vākyāvayavānaṃ paccekaṃ nibbacanavibhāge kate so attho pākaṭo hotīti niruttīhi uttāniṃ karoti. Katanibbacanehi pana vākyāvayavehi vitthāravasena niravasesato desitehi veneyyānaṃ cittaparitosanaṃ buddhinisānañca kataṃ hotīti niddesehi paññapeti. Apica bhagavā akkharehi ugghaṭetvā padehi vineti ugghaṭitaññuṃ, byañjanehi vipañcetvā ākārehi vineti vipañcitaññuṃ, niruttīhi netvā niddesehi vineti neyyaṃ. Evañcāyaṃ dhammo ugghaṭiyamāno ugghaṭitaññuṃ vineti, vipañciyamāno vipañcitaññuṃ, nīyamāno neyyaṃ. Tattha ugghaṭanā ādi, vipañcanā majjhe, nayanaṃ ante. Evaṃ tīsu kālesu tidhā desito dosattayavidhamano guṇattayāvaho tividhavineyyavinayanoti evampi tividhakalyāṇoyaṃ dhammo atthabyañjanapāripūriyā sāttho sabyañjanoti veditabbo. Vuttañhetaṃ nettipakaraṇe (netti. 9) –
Như vậy, sự kết hợp các từ ngữ về ý nghĩa và sự thành tựu các từ ngữ về câu văn của Pháp này cần được hiểu rõ. Ở đó, Đức Thế Tôn biểu thị bằng các chữ, tuyên bố bằng các từ, khai triển bằng các câu văn, phân tích bằng các phương thức, làm cho rõ ràng bằng các ngữ nguyên, và làm cho biết bằng các sự trình bày. Cụ thể là, việc nắm bắt một từ là thông qua việc nắm bắt các thành phần của từ (tức là các chữ), và qua từ đã nắm bắt được, người đã học quy ước từ trước sẽ hiểu được ý nghĩa của từ; do đó, Đức Thế Tôn biểu thị bằng các chữ. Tuy nhiên, vì ý nghĩa được trình bày ngắn gọn bằng các chữ, khi kết thúc một từ mà câu văn vẫn chưa kết thúc, thì ý nghĩa đó trước hết được tuyên bố, được trình bày bằng từ đó; do đó, Ngài tuyên bố bằng các từ. Nhưng khi kết thúc câu văn, ý nghĩa đó được khai triển, được làm cho sáng tỏ; do đó, Ngài khai triển bằng các câu văn. Và vì khi câu văn được phân chia theo các phương thức thì ý nghĩa của nó được gọi là đã được phân tích; do đó, Ngài phân tích bằng các phương thức. Tương tự, khi sự phân tích từ nguyên của từng thành phần trong câu văn được thực hiện, ý nghĩa đó trở nên rõ ràng; do đó, Ngài làm cho rõ ràng bằng các ngữ nguyên. Hơn nữa, khi các thành phần của câu văn đã được phân tích từ nguyên được giảng giải chi tiết và không còn sót lại, thì tâm của các hàng đệ tử được hoan hỷ và trí tuệ của họ được mài giũa; do đó, Ngài làm cho biết bằng các sự trình bày. Hơn nữa, Đức Thế Tôn, sau khi gợi mở bằng các chữ, Ngài giáo hóa người có trí tuệ nhanh nhạy bằng các từ; sau khi giải thích bằng các câu văn và các phương thức, Ngài giáo hóa người có trí tuệ phát triển; sau khi dẫn dắt bằng các ngữ nguyên, Ngài giáo hóa người cần được dẫn dắt bằng các sự trình bày. Và như vậy, Pháp này, khi được gợi mở, giáo hóa người có trí tuệ nhanh nhạy; khi được giải thích chi tiết, giáo hóa người có trí tuệ phát triển; khi được dẫn dắt, giáo hóa người cần được dẫn dắt. Ở đó, sự gợi mở là lúc ban đầu, sự giải thích chi tiết là lúc ở giữa, sự dẫn dắt là lúc cuối cùng. Như vậy, được thuyết giảng theo ba cách trong ba thời điểm, xua tan ba loại lỗi lầm, mang lại ba loại đức hạnh, giáo hóa ba loại đệ tử, Pháp này có ba sự tốt đẹp như vậy cũng cần được hiểu là có ý nghĩa và có câu văn do sự đầy đủ về ý nghĩa và câu văn. Điều này đã được nói trong Nettipakarana (netti. 9) –

‘‘Tattha bhagavā akkharehi saṅkāseti, padehi pakāseti, byañjanehi vivarati, ākārehi vibhajati, niruttīhi uttāniṃ karoti, niddesehi paññapeti. Tattha bhagavā akkharehi ca padehi ca ugghaṭeti, byañjanehi ca ākārehi ca vipañceti, niruttīhi ca niddesehi ca vitthāreti. Tattha ugghaṭanā ādi, vipañcanā majjhe, vitthāranā pariyosānaṃ. Soyaṃ dhammavinayo ugghaṭiyanto ugghaṭitaññuṃ puggalaṃ vineti, tena naṃ āhu ādikalyāṇoti. Vipañciyanto vipañcitaññuṃ puggalaṃ vineti, tena naṃ āhu majjhekalyāṇoti. Vitthāriyanto neyyaṃ puggalaṃ vineti, tena naṃ āhu pariyosānakalyāṇotī’’ti.
“Ở đó, Đức Thế Tôn biểu thị bằng các chữ, tuyên bố bằng các từ, khai triển bằng các câu văn, phân tích bằng các phương thức, làm cho rõ ràng bằng các ngữ nguyên, làm cho biết bằng các sự trình bày. Ở đó, Đức Thế Tôn gợi mở bằng các chữ và các từ, giải thích chi tiết bằng các câu văn và các phương thức, diễn giải rộng rãi bằng các ngữ nguyên và các sự trình bày. Ở đó, sự gợi mở là lúc ban đầu, sự giải thích chi tiết là lúc ở giữa, sự diễn giải rộng rãi là lúc kết thúc. Pháp và Luật này, khi được gợi mở, giáo hóa hạng người có trí tuệ nhanh nhạy, do đó được gọi là tốt đẹp ở phần đầu. Khi được giải thích chi tiết, giáo hóa hạng người có trí tuệ phát triển, do đó được gọi là tốt đẹp ở phần giữa. Khi được diễn giải rộng rãi, giáo hóa hạng người cần được dẫn dắt, do đó được gọi là tốt đẹp ở phần cuối.”

Atthagambhīratātiādīsu attho nāma tantiattho. Dhammo tanti. Paṭivedho tantiyā tantiatthassa ca yathābhūtāvabodho. Desanā nāma manasā vavatthāpitāya tantiyā desanā. Te panete atthādayo yasmā sasādīhi viya mahāsamuddo mandabuddhīhi dukkhogāhā alabbhaneyyapatiṭṭhā ca, tasmā gambhīrā. Atha vā attho nāma hetuphalaṃ. Dhammo hetu. Desanā paññatti, yathādhammaṃ dhammābhilāpo. Anulomapaṭilomasaṅkhepavitthārādivasena vā kathanaṃ. Paṭivedho abhisamayo, atthānurūpaṃ dhammesu, dhammānurūpaṃ atthesu, paññattipathānurūpaṃ paññattīsu avabodho. Tesaṃ tesaṃ vā dhammānaṃ paṭivijjhitabbo lakkhaṇasaṅkhāto aviparītasabhāvo. Tepi cete atthādayo yasmā anupacitakusalasambhārehi duppaññehi sasādīhi viya mahāsamuddo dukkhogāhā alabbhaneyyapatiṭṭhā ca, tasmā gambhīrā. Tesu paṭivedhassapi atthasannissitattā vuttaṃ ‘‘atthagambhīratāpaṭivedhagambhīratāhi sāttha’’nti atthaguṇadīpanato. Tāsaṃ dhammadesanānaṃ byañjanasannissitattā vuttaṃ ‘‘dhammagambhīratādesanāgambhīratāhi sabyañjana’’nti tāsaṃ byañjanasampattidīpanato. Atthesu pabhedagataṃ ñāṇaṃ atthapaṭisambhidā, atthadhammaniruttipaṭisambhidāsu pabhedagataṃ ñāṇaṃ paṭibhānapaṭisambhidāti imissāpi paṭisambhidāya atthavisayattā āha ‘‘atthapaṭibhānapaṭisambhidāvisayato sāttha’’nti atthasampattiyā asati tadabhāvato. Dhammoti tanti. Niruttīti tantipadānaṃ niddhāretvā vacanaṃ. Tattha pabhedagatāni ñāṇāni dhammaniruttipaṭisambhidāti āha ‘‘dhammaniruttipaṭisambhidāvisayato sabyañjana’’nti asati byañjanasampattiyā tadabhāvato.
Trong các câu như “sự sâu xa về ý nghĩa” v.v…, ý nghĩa được gọi là ý nghĩa của văn bản. Pháp là văn bản. Sự chứng ngộ là sự hiểu biết đúng như thật về văn bản và ý nghĩa của văn bản. Sự thuyết giảng là sự thuyết giảng về văn bản đã được xác lập trong tâm. Nhưng những điều này, như ý nghĩa v.v…, vì đối với những người có trí tuệ kém cỏi, chúng khó có thể thấu triệt và không thể tìm thấy chỗ đứng, giống như biển cả đối với con thỏ và các loài vật khác, nên chúng sâu xa. Hoặc, ý nghĩa được gọi là quả của nhân. Pháp là nhân. Sự thuyết giảng là sự chế định, là sự tuyên bố về Pháp theo đúng Pháp. Hoặc là sự trình bày theo cách xuôi, ngược, tóm tắt, chi tiết v.v… Sự chứng ngộ là sự giác ngộ, là sự hiểu biết về Pháp phù hợp với ý nghĩa, về ý nghĩa phù hợp với Pháp, về các sự chế định phù hợp với con đường của sự chế định. Hoặc đó là bản chất không sai lạc, được gọi là đặc tính, cần phải được thâm nhập của từng pháp. Và những điều này, như ý nghĩa v.v…, vì đối với những người có trí tuệ yếu kém, chưa tích lũy đủ các tư lương thiện pháp, chúng khó có thể thấu triệt và không thể tìm thấy chỗ đứng, giống như biển cả đối với con thỏ và các loài vật khác, nên chúng sâu xa. Trong số đó, vì sự chứng ngộ cũng dựa vào ý nghĩa, nên đã nói “có ý nghĩa do sự sâu xa về ý nghĩa và sự sâu xa về sự chứng ngộ”, vì điều đó cho thấy phẩm chất của ý nghĩa. Vì Pháp và sự thuyết giảng đó dựa vào câu văn, nên đã nói “có câu văn do sự sâu xa về Pháp và sự sâu xa về sự thuyết giảng”, vì điều đó cho thấy sự thành tựu về câu văn của chúng. Trí tuệ đạt đến sự phân tích các ý nghĩa là vô ngại giải về ý; trí tuệ đạt đến sự phân tích trong các vô ngại giải về ý, Pháp, và ngôn ngữ là vô ngại giải về biện tài. Vì vô ngại giải này cũng có đối tượng là ý nghĩa, nên Ngài nói “có ý nghĩa do là đối tượng của vô ngại giải về ý và vô ngại giải về biện tài”, vì nếu không có sự thành tựu về ý nghĩa thì chúng không thể tồn tại. Pháp là văn bản. Ngôn ngữ là lời nói xác định các từ của văn bản. Các trí tuệ đạt đến sự phân tích ở đó là vô ngại giải về Pháp và vô ngại giải về ngôn ngữ. Do đó, Ngài nói “có câu văn do là đối tượng của vô ngại giải về Pháp và vô ngại giải về ngôn ngữ”, vì nếu không có sự thành tựu về câu văn thì chúng không thể tồn tại.

Parikkhakajanappasādakantīti ettha iti-saddo hetuattho. Yasmā parikkhakajanānaṃ kiṃkusalagavesīnaṃ pasādāvahaṃ, tasmā sātthaṃ. Atthasampannanti phalena hetuno anumānaṃ nadīpūrena viya upari vuṭṭhipavattiyā. Sātthakatā panassa paṇḍitavedanīyatāya, sā paramagambhīrasaṇhasukhumabhāvato veditabbā. Vuttañhetaṃ ‘‘gambhīro duddaso’’tiādi. Lokiyajanappasādakanti sabyañjananti yasmā lokiyajanassa pasādāvahaṃ, tasmā sabyañjanaṃ. Lokiyajano hi byañjanasampattiyā tussati. Idhāpi phalena hetuno anumānaṃ. Sabyañjanatā panassa saddheyyatāya, sā ādikalyāṇādibhāvato veditabbā. Atha vā paṇḍitavedanīyato sātthanti paññāpadaṭṭhānatāya atthasampannataṃ āha, tato parikkhakajanappasādakaṃ saddheyyato sabyañjananti saddhāpadaṭṭhānatāya byañjanasampannataṃ, tato lokiyajanappasādatanti evamettha attho daṭṭhabbo. Gambhīrādhippāyato sātthanti adhippāyato agādhāpāratāya atthasampannaṃ aññathā tadabhāvato. Uttānapadato sabyañjananti subodhasaddakatāya byañjanasampannaṃ paramagambhīrassapi atthassa vineyyānaṃ suviññeyyabhāvāpādanato. Sabbopesa atthasampattiyā sātthaṃ, byañjanasampattiyā sabyañjananti sabbapaṭhamaṃ vuttasseva atthadvayassa papañcoti daṭṭhabbo. Tathā ceva tattha tattha saṃvaṇṇitaṃ. Tathā hettha vikappassa samuccayassa vā aggahaṇaṃ. Upanetabbassa abhāvatoti pakkhipitabbassa vodānatthassa avuttassa abhāvato. Kevalasaddo sakalādhivacananti āha ‘‘sakalaparipuṇṇabhāvenā’’ti , sabbabhāgehi paripuṇṇatāyāti attho. Apanetabbassāti saṃkilesadhammassa.
Trong câu “làm cho người có óc phân tích được hoan hỷ”, từ iti có nghĩa là nguyên nhân. Bởi vì nó mang lại sự hoan hỷ cho những người có óc phân tích, những người tìm kiếm điều thiện, nên nó có ý nghĩa. “Thành tựu về ý nghĩa” là sự suy luận về nguyên nhân từ kết quả, giống như suy luận về việc có mưa ở thượng nguồn từ việc sông bị lụt. Nhưng tính chất có ý nghĩa của nó là do người có trí mới biết được, điều này cần được hiểu từ bản chất vô cùng sâu xa, vi tế, và tinh묘 của nó. Điều này đã được nói trong câu “sâu xa, khó thấy” v.v… “Làm cho người đời được hoan hỷ thì có câu văn”: bởi vì nó mang lại sự hoan hỷ cho người đời, nên nó có câu văn. Người đời thường hoan hỷ với sự thành tựu về câu văn. Ở đây cũng là sự suy luận về nguyên nhân từ kết quả. Nhưng tính chất có câu văn của nó là do đáng tin cậy, điều này cần được hiểu từ bản chất tốt đẹp ở phần đầu v.v… của nó. Hoặc, “có ý nghĩa do người có trí mới biết được”: Ngài nói về sự thành tựu về ý nghĩa vì nó là nền tảng cho trí tuệ; từ đó, “làm cho người có óc phân tích được hoan hỷ”; “có câu văn do đáng tin cậy”: Ngài nói về sự thành tựu về câu văn vì nó là nền tảng cho đức tin; từ đó, nó làm cho người đời hoan hỷ. Ý nghĩa ở đây cần được hiểu như vậy. “Có ý nghĩa do có chủ ý sâu xa”: nó thành tựu về ý nghĩa do chủ ý của nó không có đáy và không có giới hạn, nếu không thì không thể như vậy. “Có câu văn do có từ ngữ rõ ràng”: nó thành tựu về câu văn do có những từ ngữ dễ hiểu, vì nó mang lại khả năng dễ dàng nhận biết cho các đệ tử ngay cả đối với ý nghĩa vô cùng sâu xa. Tất cả những điều này cần được xem là sự giải thích chi tiết của hai ý nghĩa đã được nói ngay từ đầu: có ý nghĩa do sự thành tựu về ý nghĩa, và có câu văn do sự thành tựu về câu văn. Và điều này đã được giải thích ở nhiều nơi khác nhau. Do đó, ở đây không có sự lựa chọn hoặc tập hợp nào được đưa ra. “Do không có gì cần phải thêm vào”: nghĩa là do không có ý nghĩa thanh lọc nào chưa được nói ra cần phải thêm vào. Từ kevala là một từ đồng nghĩa với “toàn thể”, nên Ngài nói “do bản chất hoàn toàn đầy đủ”, nghĩa là do sự đầy đủ về mọi phương diện. “Của cái cần phải loại bỏ”: tức là của pháp ô nhiễm.

Brahmacariyaṃ pakāsetīti ettha pana ayaṃ brahmacariya-saddo dāne veyyāvacce pañcasikkhāpadasīle appamaññāsu methunaviratiyaṃ sadārasantose vīriye uposathaṅgesu ariyamagge sāsaneti imesu atthesu dissati.
Tuy nhiên, ở đây trong câu “làm sáng tỏ đời sống phạm hạnh”, từ phạm hạnh này được thấy trong các ý nghĩa sau: sự bố thí, sự phục vụ, năm giới đức hạnh, các vô lượng tâm, sự từ bỏ quan hệ tình dục, sự biết đủ với vợ của mình, sự tinh tấn, các chi phần của ngày Uposatha, Thánh đạo, và giáo pháp.

‘‘Kiṃ te vataṃ kiṃ pana brahmacariyaṃ,
Kissa suciṇṇassa ayaṃ vipāko;
Iddhī jutī balavīriyūpapatti,
Idañca te nāgamahāvimānaṃ.
‘‘Ahañca bhariyā ca manussaloke,
Saddhā ubho dānapatī ahumhā;
Opānabhūtaṃ me gharaṃ tadāsi,
Santappitā samaṇabrāhmaṇā ca.
‘‘Taṃ me vataṃ taṃ pana brahmacariyaṃ,
Tassa suciṇṇassa ayaṃ vipāko;
Iddhī jutī balavīriyūpapatti,
Idañca me dhīra mahāvimāna’’nti. –
Imasmiñhi puṇṇakajātake (jā. 2.22.1592-1593, 1595) dānaṃ ‘‘brahmacariya’’nti vuttaṃ.
“Giới hạnh của ngài là gì, phạm hạnh của ngài là chi,
Nhờ tu tập tốt điều gì mà có quả báo này;
Thần thông, ánh sáng, sức mạnh và nghị lực,
Và cả tòa lâu đài rồng vĩ đại này của ngài.”
“Tôi và vợ tôi ở cõi người,
Cả hai đều có đức tin, là những người thí chủ;
Nhà của tôi khi ấy như một giếng nước công cộng,
Đã làm thỏa mãn các vị Sa-môn và Bà-la-môn.
“Đó là giới hạnh của tôi, đó là phạm hạnh của tôi,
Nhờ tu tập tốt điều đó mà có quả báo này;
Thần thông, ánh sáng, sức mạnh và nghị lực,
Và đây là tòa lâu đài vĩ đại của tôi, hỡi bậc hiền trí.” –
Trong bài Bổn sanh Puṇṇaka này (jā. 2.22.1592-1593, 1595), sự bố thí được gọi là “phạm hạnh”.

‘‘Kena pāṇi kāmadado, kena pāṇi madhussavo;
Kena te brahmacariyena, puññaṃ pāṇimhi ijjhati.
‘‘Tena pāṇi kāmadado, tena pāṇi madhussavo;
Tena me brahmacariyena, puññaṃ pāṇimhi ijjhatī’’ti. –
“Nhờ đâu bàn tay ban phát dục vọng, nhờ đâu bàn tay tuôn mật ngọt;
Nhờ phạm hạnh nào của ngài, mà phước báu được thành tựu trong bàn tay.”
“Nhờ đó bàn tay ban phát dục vọng, nhờ đó bàn tay tuôn mật ngọt;
Nhờ phạm hạnh đó của tôi, mà phước báu được thành tựu trong bàn tay.” –

Imasmiṃ aṅkurapetavatthumhi (pe. va. 275, 277) veyyāvaccaṃ ‘‘brahmacariya’’nti vuttaṃ. ‘‘Evaṃ kho taṃ bhikkhave tittiriyaṃ nāma brahmacariyaṃ ahosī’’ti (cūḷava. 311) imasmiṃ tittirajātake pañcasikkhāpadasīlaṃ ‘‘brahmacariya’’nti vuttaṃ. ‘‘Taṃ kho pana me pañcasikha brahmacariyaṃ neva nibbidāya na virāgāya na nirodhāya yāvadeva brahmalokūpapattiyā’’ti imasmiṃ mahāgovindasutte (dī. ni. 2.329) catasso appamaññāyo ‘‘brahmacariya’’nti vuttā. ‘‘Pare abrahmacārī bhavissanti, mayamettha brahmacārī bhavissāmā’’ti imasmiṃ sallekhasutte (ma. ni. 1.83) methunavirati ‘‘brahmacariya’’nti vuttā.
Trong câu chuyện về ngạ quỷ Aṅkura này (pe. va. 275, 277), sự phục vụ được gọi là “phạm hạnh”. Trong bài Bổn sanh Tittira, với câu “Này các Tỳ-khưu, như vậy đó là phạm hạnh của loài chim đa đa” (cūḷava. 311), giới hạnh năm học giới được gọi là “phạm hạnh”. Trong kinh Mahāgovinda (dī. ni. 2.329), với câu “Này Pañcasikha, nhưng phạm hạnh ấy của ta không đưa đến sự nhàm chán, không đưa đến sự ly tham, không đưa đến sự đoạn diệt, mà chỉ đưa đến sự tái sanh vào cõi Phạm thiên”, bốn vô lượng tâm được gọi là “phạm hạnh”. Trong kinh Sallekha (ma. ni. 1.83), với câu “Những người khác sẽ không sống phạm hạnh, còn chúng ta ở đây sẽ sống phạm hạnh”, sự từ bỏ quan hệ tình dục được gọi là “phạm hạnh”.

‘‘Mayañca bhariyā nātikkamāma,
Amhe ca bhariyā nātikkamanti;
Aññatra tāhi brahmacariyaṃ carāma,
Tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare’’ti. –
“Chúng tôi không ngoại tình với vợ người,
Và các bà vợ cũng không ngoại tình với chúng tôi;
Ngoài các bà ấy ra, chúng tôi sống đời phạm hạnh,
Vì thế, con cái chúng tôi không chết yểu.” –

Mahādhammapālajātake (jā. 1.10.97) sadārasantoso ‘‘brahmacariya’’nti vutto. ‘‘Abhijānāmi kho panāhaṃ, sāriputta, caturaṅgasamannāgataṃ brahmacariyaṃ caritā, tapassī sudaṃ homī’’ti lomahaṃsanasutte (ma. ni. 1.155) vīriyaṃ ‘‘brahmacariya’’nti vuttaṃ.
Trong bài Bổn sanh Mahādhammapāla (jā. 1.10.97), sự biết đủ với vợ của mình được gọi là “phạm hạnh”. Trong kinh Lomahaṃsana (ma. ni. 1.155), với câu “Này Sāriputta, ta nhận biết rằng ta đã sống một đời phạm hạnh được hợp thành bởi bốn yếu tố, ta đã là một nhà khổ hạnh”, sự tinh tấn được gọi là “phạm hạnh”.

‘‘Hīnena brahmacariyena, khattiye upapajjati;
Majjhimena ca devattaṃ, uttamena visujjhatī’’ti. –
“Với phạm hạnh bậc thấp, sanh vào dòng Sát-đế-lỵ;
Với bậc trung, sanh làm chư thiên; với bậc cao, được thanh tịnh.” –

Evaṃ (jā. 2.22.429) nimijātake attadamanavasena kato aṭṭhaṅgiko uposatho ‘‘brahmacariya’’nti vutto. ‘‘Idaṃ kho pana me, pañcasikha, brahmacariyaṃ ekantanibbidāya virāgāya…pe… ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo’’ti mahāgovindasuttasmiṃyeva (dī. ni. 2.329) ariyamaggo ‘‘brahmacariya’’nti vutto. ‘‘Tayidaṃ brahmacariyaṃ iddhañceva phītañca vitthārikaṃ bāhujaññaṃ puthubhūtaṃ yāvadeva manussehi suppakāsita’’nti pāsādikasutte (dī. ni. 3.174) sikkhattayasaṅgahaṃ sakalasāsanaṃ ‘‘brahmacariya’’nti vuttaṃ. Imasmimpi ṭhāne idameva ‘‘brahmacariya’’nti adhippetanti āha ‘‘sikkhattayapariggahitattā’’tiādi. Seṭṭhehīti buddhādīhi seṭṭhehi. Seṭṭhaṭṭhena brahmabhūtaṃ vā cariyaṃ brahmacariyaṃ.
Như vậy, trong bài Bổn sanh Nimi (jā. 2.22.429), sự thực hành ngày trai giới gồm tám chi phần được thực hiện với mục đích tự điều phục được gọi là “phạm hạnh”. Cũng trong kinh Mahāgovinda (dī. ni. 2.329), với câu “Này Pañcasikha, nhưng phạm hạnh này của ta hoàn toàn đưa đến sự nhàm chán, sự ly tham… chính là Bát Thánh đạo này”, Thánh đạo được gọi là “phạm hạnh”. Trong kinh Pāsādika (dī. ni. 3.174), với câu “Phạm hạnh này thành công, thịnh vượng, được phổ biến rộng rãi, được nhiều người biết đến, lan rộng, và được loài người tuyên thuyết một cách tốt đẹp”, toàn bộ giáo pháp bao gồm ba học giới được gọi là “phạm hạnh”. Ở đây, ý muốn nói rằng chính điều này cũng là “phạm hạnh”, nên có câu “vì được bao gồm bởi ba học giới” v.v… “Bởi các bậc tối thượng”: tức là bởi các bậc tối thượng như Đức Phật v.v… Hoặc, một sự thực hành cao quý theo nghĩa là tối thượng, là phạm hạnh.

Sanidānanti heṭṭhā vuttalakkhaṇena nidānena sanidānaṃ. Sauppattikanti saaṭṭhuppattikaṃ. Veneyyānaṃanurūpatoti veneyyānaṃ cariyādianurūpato. Atthassāti desiyamānassa sīlādiatthassa. Hetudāharaṇayuttatoti ‘‘taṃ kissa hetu seyyathāpi, bhikkhave’’ti ca ādinā tattha tattha hetupamaggahaṇena hetudāharaṇehi yuttato. Saddhāpaṭilābhenāti ‘‘te taṃ dhammaṃ sutvā tathāgate saddhaṃ paṭilabhantī’’tiādinā vuttasaddhāpaṭilābhena. Paṭipattiyāti sīlavisuddhiyādisammāpaṭipattiyā, paṭipattinimittanti attho. Adhigamabyattitoti saccappaṭivedhena adhigamaveyyattiyasabbhāvato sātthaṃ kapilamatādi viya tucchaṃ niratthakaṃ ahutvā atthasampannanti katvā. Pariyattiyāti pariyattidhammaparicayena. Āgamabyattitoti durakkhātadhammesu paricayaṃ karontassa viya sammohaṃ ajanetvā bāhusaccaveyyattiyasabbhāvato sabyañjanaṃ. Byañjanasampattiyā hi sati āgamabyattīti. Sīlādipañcadhammakkhandhayuttatoti sīlādīhi pañcahi dhammakoṭṭhāsehi avirahitattā. Kevalaparipuṇṇanti anavasesena samantato puṇṇaṃ pūritaṃ. Nirupakkilesatoti diṭṭhimānādiupakkilesābhāvato. Nittharaṇatthāyāti vaṭṭadukkhato nissaraṇāya. Lokāmisanirapekkhatoti kathañcipi taṇhāsannissayassa anissayato parisuddhaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – yo ‘‘imaṃ dhammadesanaṃ nissāya lābhaṃ vā sakkāraṃ vā labhissāmī’’ti deseti, tassa aparisuddhā desanā hoti. Bhagavā pana lokāmisanirapekkho hitapharaṇena mettābhāvanāya muduhadayo ullumpanasabhāvasaṇṭhitena cittena deseti, tasmā tassa desanā parisuddhāti.
Có nguồn gốc: tức là có nguồn gốc với đặc tính đã được nói ở dưới. Có sự phát sinh: tức là có câu chuyện về sự phát sinh. Tùy theo các hàng đệ tử: tức là tùy theo hạnh nguyện v.v… của các hàng đệ tử. Của ý nghĩa: tức là của ý nghĩa về giới v.v… đang được thuyết giảng. Do hợp thành từ các lý do và ví dụ: tức là do được hợp thành từ các lý do và ví dụ, qua việc sử dụng các lý do và so sánh ở nhiều nơi, như câu “Vì lý do gì? Này các Tỳ-khưu, ví như…” v.v… Do sự thành tựu đức tin: tức là do sự thành tựu đức tin đã được nói đến trong câu “Sau khi nghe Pháp ấy, họ thành tựu đức tin nơi Như Lai” v.v… Do sự thực hành: tức là do sự thực hành chân chính như giới thanh tịnh v.v…, có nghĩa là một dấu hiệu cho sự thực hành. Do sự hiển nhiên của sự chứng đắc: do có sự chứng thực rõ ràng về sự chứng đắc thông qua việc thâm nhập các chân lý, nên nó có ý nghĩa, tức là thành tựu về mặt ý nghĩa, chứ không trống rỗng, vô ích như học thuyết của Kapila v.v… Do Pháp học: tức là do sự quen thuộc với giáo pháp của Pháp học. Do sự hiển nhiên của truyền thống: do có bằng chứng rõ ràng về sự uyên bác, không gây ra sự hoang mang như người làm quen với các giáo pháp được trình bày sai lạc, nên nó có câu văn. Quả vậy, khi có sự thành tựu về câu văn thì có sự hiển nhiên của truyền thống. Do được hợp thành từ năm pháp uẩn là giới v.v…: tức là do không tách rời khỏi năm phần của Pháp, bắt đầu từ giới. Hoàn toàn đầy đủ: tức là được trọn vẹn, được làm cho đầy đủ về mọi mặt, không còn thiếu sót. Do không có cấu uế: tức là do không có các cấu uế như tà kiến, ngã mạn v.v… Với mục đích thoát ly: tức là để thoát khỏi khổ đau của vòng luân hồi. Do không trông đợi vào mồi nhử thế gian: do không hề dựa vào bất cứ điều gì là chỗ nương tựa cho ái dục, nên nó trong sạch. Điều này có nghĩa là: người thuyết giảng với ý nghĩ rằng “nhờ bài Pháp này, ta sẽ được lợi lộc hay danh vọng”, thì bài thuyết giảng của người đó là không trong sạch. Còn Đức Thế Tôn, Ngài không trông đợi vào mồi nhử thế gian, Ngài thuyết giảng với một trái tim nhân hậu qua sự lan tỏa lợi ích và sự tu tập lòng từ, với một tâm trí được thiết lập trong bản chất cứu vớt; do đó, bài thuyết giảng của Ngài là trong sạch.

Sādhūti ayaṃ saddo ‘‘sādhu me bhante bhagavā saṃkhittena dhammaṃ desetū’’tiādīsu (saṃ. ni. 4.95) āyācane dissati. ‘‘Sādhu bhanteti kho so bhikkhu bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā’’tiādīsu (ma. ni. 3.86) sampaṭicchane. ‘‘Sādhu sādhu sāriputtā’’tiādīsu (dī. ni. 3.349) sampahaṃsane. ‘‘Tena hi brāhmaṇa sādhukaṃ suṇohī’’tiādīsu (ma. ni. 5.192) daḷhīkamme āṇattiyañca dissati.
Từ lành thay được thấy trong sự thỉnh cầu, như trong câu “Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy thuyết giảng giáo pháp cho con một cách tóm tắt” v.v… (saṃ. ni. 4.95). Trong sự chấp nhận, như trong câu “Vị Tỳ-khưu ấy nói ‘Lành thay, bạch Thế Tôn’, rồi hoan hỷ, tán thán lời dạy của Đức Thế Tôn” v.v… (ma. ni. 3.86). Trong sự tán dương, như trong câu “Lành thay, lành thay, Sāriputta” v.v… (dī. ni. 3.349). Trong sự xác nhận và mệnh lệnh, như trong câu “Này Bà-la-môn, vậy thì hãy lắng nghe cho kỹ” v.v… (ma. ni. 5.192), từ này cũng được thấy.

‘‘Sādhu dhammaruci rājā, sādhu paññāṇavā naro;
Sādhu mittānamaddubbho, pāpassākaraṇaṃ sukha’’nti. –
“Lành thay vị vua yêu mến chánh pháp, lành thay người có trí tuệ;
Lành thay người không phản bội bạn bè, không làm điều ác là hạnh phúc.” –

Ādīsu (jā. 2.18.101) sundare. Idhāpi sundareyeva daṭṭhabboti āha ‘‘sādhu kho panāti sundaraṃ kho panā’’ti. Tattha sundaranti bhaddakaṃ. Bhaddakatā ca passantassa hitasukhāvahabhāvenāti āha ‘‘atthāvahaṃ sukhāvaha’’nti. Tattha atthāvahanti diṭṭhadhammikasamparāyikaparamatthasaññitahitāvahaṃ. Sukhāvahanti yathāvuttatividhasukhāvahaṃ. Tathārūpānanti tādisānaṃ . Yādisehi pana guṇehi bhagavā samannāgato, tehi catuppamāṇikassa lokassa sabbakālepi accantāya pasādanīyo tesaṃ yathābhūtasabhāvattāti dassento ‘‘yathārūpo’’tiādimāha. Tattha yathābhucca…pe… arahatanti iminā dhammappamāṇānaṃ lūkhappamāṇānañca sattānaṃ bhagavato pasādāvahataṃ dasseti, taṃdassanena ca itaresampi rūpappamāṇaghosappamāṇānaṃ pasādāvahatā dassitā hotīti daṭṭhabbaṃ tadavinābhāvato. Brahmacariyaṃ pakāsetīti kittisaddo abbhuggatoti evamettha sambandhoti āha ‘‘dassanamattampi sādhu hotīti evamajjhāsayaṃ katvā’’tiādi. Tattha dassanamattampi sādhu hotīti ettha kosiyasakuṇavatthu kathetabbaṃ.
…trong các kinh (jā. 2.18.101), có nghĩa là tốt đẹp. Ở đây cũng cần được hiểu là tốt đẹp, nên mới nói “‘lành thay’ có nghĩa là ‘tốt đẹp thay’”. Ở đó, tốt đẹp có nghĩa là thiện lành. Sự thiện lành này là do bản chất mang lại lợi ích và hạnh phúc cho người chiêm ngưỡng, nên mới nói “mang lại lợi ích, mang lại hạnh phúc”. Ở đó, mang lại lợi ích có nghĩa là mang lại lợi ích được gọi là lợi ích trong hiện tại, lợi ích trong tương lai, và lợi ích tối hậu. Mang lại hạnh phúc có nghĩa là mang lại ba loại hạnh phúc như đã nói. Của những người như vậy: tức là của những người có phẩm chất tương tự. Để cho thấy rằng, với bất kỳ phẩm chất nào mà Đức Thế Tôn sở hữu, Ngài luôn là người truyền cảm hứng tin tưởng tuyệt đối cho thế gian của bốn loại tiêu chuẩn, do bản chất thực sự của các phẩm chất ấy, nên mới nói “người có hình dáng như thế nào” v.v… Ở đó, qua câu “đúng như thật… cho đến… bậc A-la-hán”, tác giả cho thấy cách Đức Thế Tôn truyền cảm hứng tin tưởng cho các chúng sanh lấy Pháp làm tiêu chuẩn và các chúng sanh lấy sự khổ hạnh làm tiêu chuẩn; và qua việc thấy Ngài, cần phải hiểu rằng sự tin tưởng cũng được truyền cảm hứng cho những người khác – những người lấy sắc tướng làm tiêu chuẩn và những người lấy âm thanh làm tiêu chuẩn – vì điều đó không thể tách rời. “Ngài làm sáng tỏ đời sống phạm hạnh”, do đó danh tiếng của Ngài được vang xa. Mối liên hệ ở đây là như vậy, nên mới nói “với ý nghĩ rằng ‘chỉ cần thấy Ngài cũng đã là điều tốt lành’” v.v… Ở đó, đối với câu “chỉ cần thấy Ngài cũng đã là điều tốt lành”, cần phải kể câu chuyện về con chim cú.

2.Yena vā kāraṇenāti hetumhi idaṃ karaṇavacanaṃ. Hetuattho hi kiriyākāraṇaṃ, na karaṇaṃ viya kiriyattho, tasmā nānappakāraguṇavisesādhigamatthā idha upasaṅkamanakiriyāti ‘‘annena vasatī’’tiādīsu viya hetuatthamevetaṃ karaṇavacanaṃ yuttaṃ, na karaṇatthaṃ tassa ayujjamānattāti vuttaṃ ‘‘yena vā kāraṇenā’’ti. Avibhāgato hi satatappavattaniratisayasāduvipulāmatarasasaddhammaphalatāyassa sāduphalaniccaphalitamahārukkhena bhagavā upamito. Sāduphalūpabhogādhippāyaggahaṇeneva hi mahārukkhassa sāduphalatā gahitāti. Upasaṅkamīti upasaṅkamanto. Sampattakāmatāya hi kiñci ṭhānaṃ gacchanto taṃtaṃpadesātikkamanena upasaṅkami upasaṅkamantoti vattabbataṃ labhati. Tenāha ‘‘gatoti vuttaṃ hotī’’ti, upagatoti attho. Upasaṅkamitvāti pubbakālakiriyāniddesoti āha ‘‘upasaṅkamanapariyosānadīpana’’nti. Tatoti yaṃ ṭhānaṃ patto upasaṅkamīti vutto, tato upagataṭṭhānato. Āsannataraṃ ṭhānanti pañhaṃ vā pucchituṃ dhammaṃ vā sotuṃ sakkuṇeyyaṭṭhānaṃ.
2. Hay vì bất kỳ lý do nào: từ chỉ phương tiện này được dùng với ý nghĩa là nguyên nhân. Bởi vì ý nghĩa của nguyên nhân là lý do của hành động, chứ không giống như phương tiện là công cụ của hành động, do đó, vì hành động đến gần ở đây là với mục đích đạt được nhiều phẩm chất đặc biệt khác nhau, nên từ chỉ phương tiện này phù hợp với ý nghĩa là nguyên nhân, giống như trong câu “sống nhờ thức ăn” v.v…, chứ không phải với ý nghĩa là công cụ, vì điều đó không phù hợp. Do đó, mới nói là “hay vì bất kỳ lý do nào”. Bởi vì phẩm chất không ngừng sản sinh ra quả vị của chánh pháp với hương vị bất tử, ngọt ngào, và bao la một cách không gián đoạn, nên Đức Thế Tôn được ví như một cây đại thụ luôn sai quả ngọt. Quả vậy, đặc tính sai quả ngọt của cây đại thụ chỉ được nhận biết khi có ý định hưởng thụ quả ngọt của nó. Đã đến gần: tức là đang đến gần. Quả vậy, một người đi đến một nơi nào đó với mong muốn đến nơi, qua việc đi qua các vùng khác nhau, người đó được gọi là đã đến gần hay đang đến gần. Do đó, mới nói “có nghĩa là ‘đã đi đến’”, tức là đã đến gần. Sau khi đã đến gần: đây là sự chỉ định một hành động trong quá khứ, nên mới nói “sự cho thấy việc đến gần đã kết thúc”. Từ đó: tức là từ nơi mà người ấy đã đến và được cho là đã đến gần, từ nơi đã đến gần đó. Một nơi gần hơn: tức là một nơi mà từ đó người ta có thể hỏi một câu hỏi hoặc nghe Pháp.

Yathā khamanīyādīni pucchantoti yathā bhagavā ‘‘kacci te brāhmaṇa khamanīyaṃ, kacci yāpanīya’’ntiādinā khamanīyādīni pucchanto tena brāhmaṇena saddhiṃ samappavattamodo ahosi. Pubbabhāsitāya tadanukaraṇena evaṃ sopi brāhmaṇo bhagavatā saddhiṃ samappavattamodo ahosīti yojanā. Taṃ pana samappavattamodataṃ upamāya dassetuṃ ‘‘sītodakaṃ viyā’’tiādi vuttaṃ. Sammoditanti saṃsanditaṃ. Ekībhāvanti sammodanakiriyāya samānataṃ ekarūpataṃ. Khamanīyanti ‘‘idaṃ catucakkaṃ navadvāraṃ sarīrayantaṃ dukkhabahulatāya sabhāvato dussahaṃ, kacci khamituṃ sakkuṇeyyanti pucchati. Yāpanīyanti paccayāyattavuttikaṃ cirappabandhasaṅkhātāya yāpanāya kacci yāpetuṃ sakkuṇeyyaṃ. Sīsarogādiābādhābhāvena kacci appābādhaṃ. Dukkhajīvikābhāvena kacci appātaṅkaṃ. Taṃtaṃkiccakaraṇe uṭṭhānasukhatāya kacci lahuṭṭhānaṃ. Tadanurūpabalayogato kacci balaṃ. Sukhavihārasambhavena kacci phāsuvihāro atthīti tattha tattha kaccisaddaṃ yojetvā attho veditabbo . Balappattā pīti pītiyeva. Taruṇapīti pāmojjaṃ. Sammodaṃ janeti karotīti sammodanikaṃ, tadeva sammodanīyanti āha ‘‘sammodajananato’’ti. Sammoditabbato sammodanīyanti idaṃ pana atthaṃ dassento ‘‘sammodituṃ yuttabhāvato’’ti āha. Saritabbabhāvatoti anussaritabbabhāvato. ‘‘Saraṇīya’’nti vattabbe dīghaṃ katvā ‘‘sāraṇīya’’nti vuttaṃ. Suyyamānasukhatoti āpāthamadhuratamāha. Anussariyamānasukhatoti vimaddaramaṇīyataṃ. Byañjanaparisuddhatāyāti sabhāvaniruttibhāvena tassā kathāya vacanacāturiyamāha. Atthaparisuddhatāyāti atthassa nirupakkilesataṃ. Anekehi pariyāyehīti anekehi kāraṇehi.
Như khi hỏi thăm về sự an khang v.v…: cũng như Đức Thế Tôn, khi hỏi thăm về sự an khang v.v… bằng các câu như “Này Bà-la-môn, ông có được an khang không, có được khỏe mạnh không?”, đã cùng vui vẻ trò chuyện với vị Bà-la-môn đó. Bằng cách bắt chước lời nói trước đó, vị Bà-la-môn đó cũng đã cùng vui vẻ trò chuyện với Đức Thế Tôn, cần phải hiểu như vậy. Để cho thấy sự vui vẻ trò chuyện đó qua một ví dụ, câu “như nước mát” v.v… đã được nói đến. Đã hòa hợp: tức là đã tương ứng. Sự đồng nhất: tức là sự tương đồng, sự đồng nhất trong hành động chào hỏi, trò chuyện. An khang: Ngài hỏi: “Cỗ máy thân thể có bốn bánh xe và chín cửa này, do có nhiều khổ đau, về bản chất là khó kham nhẫn, liệu có thể kham nhẫn được không?”. Khỏe mạnh: “Cuộc sống phụ thuộc vào các vật dụng này, với sự kéo dài liên tục, liệu có thể duy trì được không?”. Có ít bệnh tật không: do không có các bệnh như đau đầu v.v… Có ít phiền muộn không: do không có cuộc sống khổ cực. Có nhẹ nhàng không: do có sự dễ dàng đứng dậy khi làm các công việc. Có sức khỏe không: do có sức lực tương ứng. Có được an lạc không: do có thể sống một cách thoải mái. Cần phải hiểu ý nghĩa bằng cách kết hợp từ “liệu” vào mỗi câu. Trạng thái hân hoan đã đạt đến sự mạnh mẽ chính là hỷ. Trạng thái hân hoan ban đầu là hoan hỷ. Điều làm phát sanh, tạo ra sự vui vẻ là điều đáng vui mừng, do đó mới nói “do làm phát sanh sự vui vẻ”. Để cho thấy ý nghĩa rằng điều đó đáng để vui mừng, mới nói “do bản chất đáng để vui mừng”. Do bản chất đáng được ghi nhớ: tức là do bản chất đáng được tưởng nhớ. Lẽ ra phải nói là “saraṇīya”, nhưng đã được kéo dài thành “sāraṇīya”. Do sự dễ chịu khi nghe: cho thấy sự ngọt ngào ngay từ khi nghe. Do sự dễ chịu khi tưởng nhớ: cho thấy sự thú vị khi suy ngẫm. Do sự trong sạch của câu văn: cho thấy sự khéo léo trong lời nói của cuộc trò chuyện đó, do bản chất của ngôn ngữ tự nhiên. Do sự trong sạch của ý nghĩa: cho thấy sự không có cấu uế của ý nghĩa. Bằng nhiều phương diện: tức là bằng nhiều lý do.

Atidūraaccāsannapaṭikkhepena nātidūranāccāsannaṃ nāma gahitaṃ, taṃ pana avakaṃsato ubhinnaṃ pasāritahatthāsaṅghaṭṭanena daṭṭhabbaṃ. Gīvaṃ pasāretvāti gīvaṃ parivattanavasena pasāretvā. Meti kattuatthe sāmivacananti āha ‘‘mayā suta’’nti. Jātibrāhmaṇeti jātiyā brāhmaṇe, na bāhitapāpatāyāti vuttaṃ hoti. Khaṇḍiccādibhāvaṃ āpāditeti khaṇḍitadantapalitakesādibhāvaṃ sampāpite. Vuḍḍhimariyādappatteti vuḍḍhiparicchedaṃ sampatte, vuḍḍhipariyantappatteti vuttaṃ hoti. Jātimahallakatāyāti uppattiyā mahallakabhāvena. Mahattaṃ lāti gaṇhātīti mahallako, jātiyā mahallako, na vibhavādināti jātimahallako. Addhānanti dīghakālaṃ. Kittako pana soti āha ‘‘dve tayo rājaparivaṭṭe’’ti, dvinnaṃ tiṇṇaṃ rājūnaṃ rajjapasāsanapaṭipāṭiyoti attho. ‘‘Addhagate’’ti vatvā kathaṃ vayogahaṇaṃ osānavayāpekkhanti āha ‘‘pacchimavayaṃ anuppatte’’ti. Pacchimo tatiyabhāgoti sattasaṭṭhito paṭṭhāya pacchimavayo koṭṭhāso.
Bằng cách loại trừ khoảng cách quá xa và quá gần, vị trí được gọi là không quá xa, không quá gần đã được chọn, điều này cần được hiểu là một khoảng trống mà hai tay duỗi ra của cả hai người không chạm vào nhau. Duỗi cổ ra: tức là duỗi cổ ra bằng cách xoay. Tôi: từ chỉ sở hữu được dùng với ý nghĩa chủ thể, nên mới nói “được nghe bởi tôi”. Các vị Bà-la-môn dòng dõi: tức là các vị Bà-la-môn theo dòng dõi sinh ra, chứ không phải do đã loại trừ các điều ác. Đã đến tình trạng…: đã đạt đến tình trạng răng rụng, tóc bạc v.v… Đã đến giới hạn của sự trưởng thành: đã đạt đến sự phân định của sự trưởng thành, có nghĩa là đã đạt đến giới hạn cuối cùng của sự trưởng thành. Do là bậc trưởng thượng về mặt dòng dõi: do là bậc trưởng thượng về mặt sinh ra. Người đạt được sự vĩ đại được gọi là trưởng thượng; trưởng thượng về dòng dõi, chứ không phải về của cải v.v… Một thời gian dài: tức là một khoảng thời gian dài. Nhưng dài bao lâu? Mới nói là “hai ba triều vua”, có nghĩa là thứ tự cai trị của hai, ba vị vua. Sau khi nói “đã trải qua một thời gian dài”, tại sao lại xem việc xét đến tuổi tác là nhắm đến tuổi cuối đời? Mới nói là “đã đến tuổi cuối đời”. Phần thứ ba cuối cùng: tức là giai đoạn tuổi già, bắt đầu từ sáu mươi bảy tuổi.

Dutiye atthavikappe jiṇṇeti nāyaṃ jiṇṇatā vayomattena, atha kho kulaparivaṭṭena purāṇatāyāti āha ‘‘jiṇṇeti porāṇe’’tiādi. Tena tesaṃ brāhmaṇānaṃ kulavasena uditoditabhāvamāha. ‘‘Vayoanuppatte’’ti iminā jātivuḍḍhiyā vakkhamānattā guṇavuḍḍhiyā tato sātisayattā ca ‘‘vuḍḍheti sīlācārādiguṇavuḍḍhiyutte’’ti āha. Tathā jātimahallakatāyapi teneva vakkhamānattā mahallaketi padena vibhavamahattatā yojitā. Maggapaṭipanneti brāhmaṇānaṃ paṭipattividhiṃ upagate taṃ avokkamma caraṇato. Antimavayanti pacchimavayaṃ.
Trong cách giải thích ý nghĩa thứ hai, già lão: sự già lão này không chỉ là do tuổi tác, mà là do sự cổ xưa của dòng dõi, nên mới nói “già lão tức là cổ xưa” v.v… Qua đó, cho thấy địa vị cao quý của các vị Bà-la-môn đó theo dòng dõi. Vì câu “đã đến tuổi tác” sẽ được nói đến về sự trưởng thành về mặt dòng dõi, và vì sự trưởng thành về mặt đức hạnh vượt trội hơn, nên mới nói “bậc trưởng thượng tức là những người có sự trưởng thành về đức hạnh như giới hạnh, tư cách”. Tương tự, vì sự trưởng thượng về mặt dòng dõi cũng sẽ được nói đến, nên từ trưởng thượng được dùng để chỉ sự vĩ đại về của cải. Đã bước đi trên con đường: tức là đã theo phương pháp thực hành của các vị Bà-la-môn, do không đi chệch khỏi con đường đó. Tuổi cuối cùng: tức là tuổi già.

Paccuṭṭhānaṃ nāma āsanā vuṭṭhānanti āha ‘‘nāsanā vuṭṭhahatī’’ti, nisinnāsanato na vuṭṭhātīti attho. Ettha ca jiṇṇe…pe… vayoanuppatteti upayogavacanaṃ āsanā vuṭṭhānakiriyāpekkhaṃ na hoti, tasmā jiṇṇe…pe… vayoanuppatte disvāti ajjhāhāraṃ katvā attho veditabbo. Atha vā paccuggamanakiriyāpekkhaṃ upayogavacanaṃ, tasmā na paccuṭṭhetīti uṭṭhāya paccuggamanaṃ na karotīti attho veditabbo. Paccuggamanampi hi paccuṭṭhānanti vuccati. Vuttañhetaṃ ‘‘ācariyaṃ pana dūratova disvā paccuṭṭhāya paccuggamanakaraṇaṃ paccuṭṭhānaṃ nāmā’’ti. Nāsanā vuṭṭhātīti iminā pana paccuggamanābhāvassa upalakkhaṇamattaṃ dassitanti daṭṭhabbaṃ. Vibhāvane nāma attheti pakativibhāvanasaṅkhāte atthe, na abhivādeti vāti na abhivādetabbanti sallakkhetīti vuttaṃ hoti.
Sự đứng dậy có nghĩa là đứng dậy khỏi chỗ ngồi, nên mới nói “không đứng dậy khỏi chỗ ngồi”, có nghĩa là không đứng dậy từ chỗ ngồi đã ngồi. Ở đây, câu “già lão… cho đến… đã đến tuổi tác” là một cách nói chỉ sự liên quan, không nhắm đến hành động đứng dậy khỏi chỗ ngồi. Do đó, cần phải hiểu ý nghĩa bằng cách thêm vào câu “sau khi thấy những người già lão… cho đến… đã đến tuổi tác”. Hoặc, cách nói chỉ sự liên quan đó nhắm đến hành động đi ra đón, do đó cần phải hiểu ý nghĩa là “không đứng dậy đi ra đón”, tức là không đứng dậy và đi ra đón. Bởi vì việc đi ra đón cũng được gọi là sự đứng dậy. Điều này đã được nói rằng “Thấy thầy từ xa, đứng dậy và đi ra đón, đó được gọi là sự đứng dậy”. Cần phải hiểu rằng câu “không đứng dậy khỏi chỗ ngồi” chỉ là một cách để chỉ sự không có hành động đi ra đón. Với ý nghĩa là thể hiện: tức là với ý nghĩa thể hiện bản chất tự nhiên, “hay không đảnh lễ” có nghĩa là không nhận thấy rằng “họ đáng được đảnh lễ”.

Taṃ aññāṇanti ‘‘ayaṃ mama abhivādanādīni kātuṃ araharūpo na hotī’’ti ajānanavasena pavattaṃ aññāṇaṃ. Olokentoti ‘‘dukkhaṃ kho agāravo viharati appatisso, kiṃ nu kho ahaṃ samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā sakkareyyaṃ, garuṃ kareyya’’ntiādisuttavasena (a. ni. 4.21) ñāṇacakkhunā olokento. Nipaccakārārahanti paṇipātārahaṃ. Sampatijātoti muhuttajāto, jātasamanantaramevāti vuttaṃ hoti. Uttarena mukhoti uttarābhimukho, uttaradisābhimukhoti vuttaṃ hoti. Sattapadavītihārena gantvā sakalaṃ dasasahassilokadhātuṃ olokesinti idaṃ ‘‘dhammatā esā, bhikkhave, sampatijāto bodhisatto samehi pādehi patiṭṭhahitvā uttarābhimukho sattapadavītihārena gacchati, setamhi chatte anudhāriyamāne sabbā disā viloketi, āsabhiñca vācaṃ bhāsatī’’ti evaṃ pāḷiyaṃ (dī. ni. 2.31) sattapadavītihārūpariṭṭhitassa viya sabbadisānuvilokanassa kathitattā vuttaṃ, na panetaṃ evaṃ daṭṭhabbaṃ, sattapadavītihārato pageva disāvilokanassa katattā. Mahāsatto hi manussānaṃ hatthato muccitvā puratthimadisaṃ olokesi, anekāni cakkavāḷasahassāni ekaṅgaṇāni ahesuṃ. Tattha devamanussā gandhamālādīhi pūjayamānā ‘‘mahāpurisa idha tumhehi sadisopi natthi, kuto uttaritaro’’ti āhaṃsu. Evaṃ catasso disā catasso anudisā heṭṭhā uparīti dasapi disā anuviloketvā attano sadisaṃ adisvā ‘‘ayaṃ uttarā disā’’ti sattapadavītihārena agamāsīti veditabbo. Olokesinti mama puññānubhāvena lokavivaraṇapāṭihāriye jāte paññāyamānaṃ dasasahassilokadhātuṃ maṃsacakkhunāva olokesinti attho.
Sự không biết đó: là sự không biết phát sinh do không nhận ra rằng “người này không phải là người đáng để ta đảnh lễ v.v…”. Trong khi nhìn: tức là trong khi nhìn bằng con mắt trí tuệ, theo các kinh như “Sống không có sự tôn trọng, không có sự kính nể thật là khổ. Ta nên tôn kính, trọng vọng vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào?” (a. ni. 4.21). Đáng được tôn kính: tức là đáng được cúi lạy. Vừa mới sinh: tức là sinh ra trong khoảnh khắc, có nghĩa là ngay sau khi được sinh ra. Mặt hướng về phía bắc là hướng về phía bắc, có nghĩa là mặt hướng về phương bắc. Sau khi đi bảy bước, Ngài đã nhìn khắp mười nghìn thế giới: điều này được nói do trong kinh Pāḷi (dī. ni. 2.31) có nói rằng việc nhìn khắp các phương hướng xảy ra sau khi đã đi bảy bước, như câu “Này các Tỳ-khưu, đó là quy luật tự nhiên, khi Bồ-tát vừa mới sinh ra, Ngài đứng vững trên hai bàn chân, mặt hướng về phía bắc, đi bảy bước, dưới một chiếc lọng trắng được che, Ngài nhìn khắp các phương hướng và thốt lên lời nói của bậc tối thượng”. Nhưng không nên hiểu như vậy, vì việc nhìn các phương hướng đã được thực hiện trước khi đi bảy bước. Đại Sĩ sau khi được các người hầu đỡ tay, đã nhìn về phương đông, và hàng nghìn thế giới đã trở thành một khoảng sân bằng phẳng. Ở đó, chư thiên và loài người đã cúng dường bằng hương, hoa v.v… và nói rằng: “Thưa bậc Đại nhân, ở đây ngay cả người bằng Ngài cũng không có, huống chi là người hơn?”. Cứ như thế, Ngài đã nhìn khắp bốn phương, bốn phương phụ, phía dưới và phía trên, tức là cả mười phương, và không thấy ai bằng mình, rồi nói: “Đây là phương bắc, phương tối thượng” và đã đi bảy bước, cần phải hiểu như vậy. Đã nhìn: có nghĩa là, khi phép lạ mở ra thế giới xảy ra do uy lực phước báu của ta, ta đã nhìn mười nghìn thế giới đang hiện ra bằng chính con mắt thịt.

Mahāpurisoti jātigottakulappadesādivasena mahantapuriso. Aggoti guṇehi sabbapadhāno. Jeṭṭhoti guṇavaseneva sabbesaṃ vuḍḍhatamo, guṇehi mahallakatamoti vuttaṃ hoti. Seṭṭhoti guṇavaseneva sabbesaṃ pasatthatamo. Atthato pana pacchimāni dve purimasseva vevacanānīti veditabbaṃ. Tayāti nissakke karaṇavacanaṃ. Uttaritaroti adhikataro. Patimānesīti pūjesi. Āsabhinti uttamaṃ. Mayhaṃ abhivādanādiraho puggaloti mayhaṃ abhivādanādikiriyāya araho anucchaviko puggalo. Niccasāpekkhatāya panettha samāso daṭṭhabbo. Tathāgatāti tathāgatato, tathāgatassa santikāti vuttaṃ hoti. Evarūpanti abhivādanādisabhāvaṃ. Paripākasithilabandhananti paripākena sithilabandhanaṃ.
Bậc Đại nhân: là một người vĩ đại về mặt dòng dõi, họ tộc, gia đình, quê hương v.v… Bậc Tối thượng: là bậc đứng đầu tất cả về mặt đức hạnh. Bậc Trưởng thượng: là bậc cao cả nhất trong tất cả, chính là nhờ đức hạnh; có nghĩa là bậc vĩ đại nhất về mặt đức hạnh. Bậc Cao quý nhất: là bậc đáng ca ngợi nhất trong tất cả, chính là nhờ đức hạnh. Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, cần phải biết rằng hai từ sau là từ đồng nghĩa của từ đầu tiên. Hơn ông: từ chỉ phương tiện được dùng trong so sánh. Hơn: tức là vượt trội hơn. Đã tôn kính: tức là đã cúng dường. Uy dũng như bò đực: tức là tối thượng. Người đáng được ta đảnh lễ v.v…: là người phù hợp, xứng đáng với hành động đảnh lễ v.v… của ta. Ở đây, cần phải hiểu đây là một hợp từ có sự phụ thuộc cố định. Từ Như Lai: tức là từ Như Lai, có nghĩa là từ sự hiện diện của Như Lai. Trạng thái như vậy: tức là bản chất của việc đảnh lễ v.v… Mối liên kết lỏng lẻo do sự chín muồi: mối liên kết của nó lỏng lẻo do sự chín muồi.

3.Taṃ vacananti ‘‘nāhaṃ taṃ brāhmaṇā’’tiādivacanaṃ. ‘‘Nāhaṃ arasarūpo, mādisā vā arasarūpā’’ti vutte brāhmaṇo thaddho bhaveyya. Tena vuttaṃ ‘‘cittamudubhāvajananattha’’nti. Ayañhi pariyāyasaddo desanāvārakāraṇesu vattatīti ettha pariyāyeti desetabbamatthaṃ avagameti bodhetīti pariyāyo, desanā. Pariyāyati aparāparaṃ parivattetīti pariyāyo, vāro. Pariyāyati attano phalaṃ pariggahetvā vattati, tassa vā kāraṇabhāvaṃ gacchatīti pariyāyo, kāraṇanti evaṃ pariyāyasaddassa desanāvārakāraṇesu pavatti veditabbā. Aññāya saṇṭhaheyyāti arahatte patiṭṭhaheyya. Katamo pana soti pariyāyāpekkho pulliṅganiddeso, katamo so pariyāyoti attho. Jātivasenāti khattiyādijātivasena. Upapattivasenāti devesu upapattivasena. Seṭṭhasammatānampīti api-saddena pageva aseṭṭhasammatānanti dasseti. Abhinandantānanti sappītikataṇhāvasena pamodamānānaṃ. Rajjantānanti balavarāgavasena rajjantānaṃ. Rūpādiparibhogena uppannataṇhāyuttasomanassavedanā rūpato nibbattitvā hadayatappanato ambarasādayo viya ‘‘rūparasā’’ti vuccanti. Āviñchantīti ākaḍḍhanti. Vatthārammaṇādisāmaggiyanti vatthuārammaṇādikāraṇasāmaggiyaṃ. Anukkhipantoti attukkaṃsanavasena kathite brāhmaṇassa asappāyabhāvato attānaṃ anukkhipanto anukkaṃsento.
3. Lời nói đó: tức là lời nói “Này Bà-la-môn, Ta không phải là như vậy” v.v… Nếu nói rằng: “Ta không phải là người vô vị, hay những người như Ta không phải là người vô vị”, thì vị Bà-la-môn có thể sẽ trở nên ngoan cố. Do đó, mới nói là “nhằm mục đích làm cho tâm trở nên mềm mại”. Từ ‘pariyāya’ này được dùng với các nghĩa là bài thuyết giảng, lần lượt, và nguyên nhân: ở đây, do làm cho hiểu, làm cho liễu ngộ ý nghĩa cần được thuyết giảng, nên được gọi là pariyāya, tức là bài thuyết giảng. Do xoay vần, thay đổi liên tục, nên được gọi là pariyāya, tức là lần lượt. Do vận hành bằng cách nắm giữ quả của mình, hoặc đi đến trạng thái là nguyên nhân của quả đó, nên được gọi là pariyāya, tức là nguyên nhân. Như vậy, cần phải biết sự vận hành của từ ‘pariyāya’ trong các nghĩa là bài thuyết giảng, lần lượt, và nguyên nhân. Sau khi hiểu rõ, vị ấy sẽ được an trú: tức là sẽ được an trú trong đạo quả A-la-hán. Nhưng đó là gì: đây là một sự chỉ định ở giống đực, nhắm đến từ ‘pariyāya’, có nghĩa là, nguyên nhân đó là gì? Do dòng dõi: tức là do dòng dõi Sát-đế-lỵ v.v… Do sự tái sanh: tức là do sự tái sanh vào cõi chư thiên. Ngay cả của những người được xem là cao quý: qua từ ngay cả, tác giả cho thấy rằng huống chi là những người không được xem là cao quý. Của những người hoan hỷ: tức là của những người vui mừng do ái dục có kèm theo hỷ. Của những người đam mê: tức là của những người đam mê do lòng tham ái mạnh mẽ. Các cảm thọ lạc đi kèm với ái dục phát sanh do việc hưởng thụ các sắc pháp v.v…, do được sinh ra từ sắc và làm cho tâm vui thích, nên được gọi là “hương vị của sắc”, giống như hương vị của xoài v.v… Chúng lôi kéo: tức là chúng kéo lê. Trong sự hội tụ của nền tảng, đối tượng v.v…: tức là trong sự hội tụ của các nguyên nhân như nền tảng, đối tượng v.v… Không tự đề cao: bởi vì việc nói bằng cách tự đề cao bản thân là không thích hợp đối với vị Bà-la-môn, nên không tự đề cao có nghĩa là không ca ngợi bản thân.

Etasmiṃ panatthe karaṇe sāmivacananti ‘‘jahitā’’ti etasmiṃ atthe. Tathāgatassāti karaṇe sāmivacanaṃ, tathāgatena jahitāti attho. Mūlanti bhavamūlaṃ. ‘‘Tālavatthuvatthukatā’’ti vattabbe ‘‘oṭṭhamukho’’tiādīsu viya majjhepadalopaṃ katvā akārañca dīghaṃ katvā ‘‘tālāvatthukatā’’ti vuttanti āha ‘‘tālavatthu viya nesaṃ vatthu katanti tālāvatthukatā’’ti. Tattha tālassa vatthu tālavatthu. Yathā ārāmassa vatthubhūtapubbo padeso ārāmassa abhāve ‘‘ārāmavatthū’’ti vuccati, evaṃ tālassa patiṭṭhitokāso samūlaṃ uddharite tāle padesamatte ṭhite tālassa vatthubhūtapubbattā ‘‘tālavatthū’’ti vuccati. Nesanti rūparasādīnaṃ. Kathaṃ pana tālavatthu viya nesaṃ vatthu katanti āha ‘‘yathā hī’’tiādi. Rūpādiparibhogena uppannataṇhāyuttasomanassavedanāsaṅkhātarūparasādīnaṃ cittasantānassa adhiṭṭhānabhāvato vuttaṃ ‘‘tesaṃ pubbe uppannapubbabhāvena vatthumatte cittasantāne kate’’ti. Tattha pubbeti pure, sarāgakāleti vuttaṃ hoti. Tālāvatthukatāti vuccantīti tālavatthu viya attano vatthussa katattā rūparasādayo ‘‘tālāvatthukatā’’ti vuccanti. Etena pahīnakilesānaṃ puna uppattiyā abhāvo dassito.
Trong ý nghĩa này, từ chỉ sở hữu được dùng với nghĩa chỉ phương tiện: tức là trong ý nghĩa “đã từ bỏ”. Của Như Lai: là từ chỉ sở hữu được dùng với nghĩa chỉ phương tiện, có nghĩa là đã được Như Lai từ bỏ. Cội rễ: tức là cội rễ của sự tồn tại. Lẽ ra phải nói là “tālavatthuvatthukatā”, nhưng do đã lược bỏ từ ở giữa và kéo dài nguyên âm ‘a’ thành âm dài, giống như trong các từ “oṭṭhamukho” v.v…, nên đã được nói là “tālāvatthukatā”. Do đó, mới nói: “nền tảng của chúng đã được làm cho giống như gốc cây thốt nốt, nên gọi là tālāvatthukatā”. Ở đó, nền tảng của cây thốt nốt là gốc cây thốt nốt. Giống như một khu đất trước đây là nền của một tu viện, khi tu viện không còn, được gọi là “nền tu viện”, cũng vậy, nơi mà cây thốt nốt đã đứng, sau khi cây thốt nốt bị nhổ lên tận gốc, chỉ còn lại khu đất, do trước đây là nền tảng của cây thốt nốt, nên được gọi là “gốc cây thốt nốt”. Của chúng: tức là của các hương vị của sắc v.v… Nhưng tại sao nền tảng của chúng lại được làm cho giống như gốc cây thốt nốt? Mới nói: “Quả vậy, ví như…” v.v… Do tâm tương tục là nền tảng cho các hương vị của sắc v.v…, vốn là các cảm thọ lạc đi kèm với ái dục phát sanh do việc hưởng thụ các sắc pháp v.v…, nên mới nói “khi tâm tương tục, do chúng đã từng phát sanh trước đây, đã được làm thành một nền tảng đơn thuần”. Ở đó, trước đây có nghĩa là trong quá khứ, tức là vào thời còn tham ái. Được gọi là đã bị làm cho như gốc cây thốt nốt: do nền tảng của chúng đã được làm cho giống như gốc cây thốt nốt, nên các hương vị của sắc v.v… được gọi là “đã bị làm cho như gốc cây thốt nốt”. Qua đó, sự không phát sanh trở lại của các phiền não đã được đoạn trừ được cho thấy.

Aviruḷhidhammattāti aviruḷhisabhāvatāya. Matthakacchinno tālo pattaphalādīnaṃ avatthubhūto tālāvatthūti āha ‘‘matthakacchinnatālo viya katā’’ti. Etena ‘‘tālāvatthu viya katāti tālāvatthukatā’’ti ayaṃ viggaho dassito. Ettha pana avatthubhūto tālo viya katāti avatthutālākatāti vattabbe visesanassa padassa paranipātaṃ katvā ‘‘tālāvatthukatā’’ti vuttanti daṭṭhabbaṃ. Iminā panatthena idaṃ dasseti – rūparasādivacanena vipākadhammadhammā hutvā pubbe uppannā kusalākusaladhammā gahitā, te uppannāpi matthakasadisānaṃ taṇhāvijjānaṃ maggasatthena chinnattā āyatiṃ tālapattasadise vipākakkhandhe nibbattetuṃ asamatthā jātā, tasmā tālāvatthu viya katāti tālāvatthukatā rūparasādayoti. Imasmiñhi atthe ‘‘abhinandantāna’’nti iminā padena kusalasomanassampi saṅgahitanti vadanti.
Do có bản chất không tăng trưởng trở lại: tức là do có bản chất không nảy mầm lại. Một cây thốt nốt bị chặt ngọn, không còn là nền tảng cho lá, quả v.v…, chính là một gốc cây thốt nốt. Do đó, mới nói “đã được làm cho giống như cây thốt nốt bị chặt ngọn”. Qua đó, cách phân tích cú pháp “đã được làm cho giống như gốc cây thốt nốt, nên gọi là tālāvatthukatā” được cho thấy. Tuy nhiên, ở đây cần phải hiểu rằng, lẽ ra phải nói là “avatthutālākatā”, có nghĩa là đã được làm cho giống như cây thốt nốt không còn là nền tảng, nhưng do đã đặt tính từ ở phía sau, nên mới được nói là “tālāvatthukatā”. Qua ý nghĩa này, điều được cho thấy là: qua từ “hương vị của sắc v.v…”, các pháp thiện và bất thiện đã phát sanh trong quá khứ, vốn là các pháp thuộc về quả báo, đã được đề cập. Mặc dù chúng đã phát sanh, nhưng do ái dục và vô minh, vốn giống như ngọn cây, đã bị chặt đứt bởi lưỡi gươm của đạo, nên chúng không còn khả năng tạo ra các uẩn quả báo, vốn giống như lá cây thốt nốt, trong tương lai. Do đó, các hương vị của sắc v.v… đã được làm cho giống như gốc cây thốt nốt. Trong ý nghĩa này, người ta nói rằng qua từ “của những người hoan hỷ”, ngay cả thọ lạc thiện cũng đã được bao gồm.

Anabhāvaṃkatāti ettha anu-saddo pacchā-saddena samānatthoti āha ‘‘yathā nesaṃ pacchābhāvo na hotī’’tiādi. Anuabhāvaṃ gatāti pacchā anuppattidhammatāvasena abhāvaṃ gatā vināsamupagatā, pahīnāti attho. ‘‘Imā anacchariyā gāthāyo paṭibhaṃsū’’ti (mahāva. 7, 8) ettha anacchariyasaddaṃ udāharaṇavasena dassento āha ‘‘yathā anuacchariyā anacchariyā’’ti. Tattha anuacchariyāti savanakāle uparūpari vimhayakarāti attho.
Trong từ anabhāvaṃkatā, tiếp đầu ngữ anu- có cùng ý nghĩa với từ pacchā, nên mới nói “để cho chúng không có sự tồn tại về sau” v.v… Đã đi đến sự không tồn tại về sau: tức là đã đi đến sự hủy diệt, đã bị tiêu vong, do có bản chất không phát sanh trở lại về sau; có nghĩa là đã được đoạn trừ. Để đưa ra ví dụ về từ ‘anacchariya’ trong câu “Những bài kệ không tầm thường này đã hiện ra” (mahāva. 7, 8), tác giả nói: “giống như anuacchariyā là anacchariyā”. Ở đó, anuacchariyā có nghĩa là gây ra sự kinh ngạc liên tiếp khi nghe.

Yañca kho tvaṃ vadesi, so pariyāyo na hotīti yaṃ vandanādisāmaggirasābhāvasaṅkhātaṃ kāraṇaṃ arasarūpatāya vadesi, taṃ kāraṇaṃ na hoti, na vijjatīti attho. Nanu ca brāhmaṇo yaṃ vandanādisāmaggirasābhāvasaṅkhātaṃ pariyāyaṃ sandhāya ‘‘arasarūpo bhavaṃ gotamo’’ti āha, so pariyāyo natthīti vutte vandanādīni bhagavā karotīti āpajjatīti imaṃ aniṭṭhappasaṅgaṃ dassento āha ‘‘kasmā pana bhagavā evamāhā’’tiādi.
Và lý do mà ông nói, lý do đó không tồn tại: tức là lý do mà ông nói về sự vô vị, vốn là trạng thái không có hương vị của sự hòa hợp trong việc đảnh lễ v.v…, lý do đó không có, không tồn tại. Nhưng chẳng phải vị Bà-la-môn đã nói “Tôn giả Gotama là người vô vị” là nhắm đến lý do vốn là trạng thái không có hương vị của sự hòa hợp trong việc đảnh lễ sao? Nếu nói rằng “lý do đó không tồn tại”, thì chẳng phải sẽ dẫn đến kết luận rằng Đức Thế Tôn thực hiện việc đảnh lễ v.v… sao? Để cho thấy hệ quả không mong muốn này, mới nói “Nhưng tại sao Đức Thế Tôn lại nói như vậy?” v.v…

4.Sabbapariyāyesūti sabbavāresu. Sandhāya bhāsitamattanti yaṃ sandhāya brāhmaṇo ‘‘nibbhogo bhavaṃ gotamo’’tiādimāha, bhagavā ca yaṃ sandhāya nibbhogatādiṃ attani anujānāti, taṃ sandhāya bhāsitamattaṃ . Chandarāgaparibhogoti chandarāgavasena paribhogo. Aparaṃ pariyāyanti aññaṃ kāraṇaṃ.
4. Trong mọi trường hợp: tức là trong mọi lần. Chỉ là lời nói nhắm đến một ý nghĩa: tức là ý nghĩa mà vị Bà-la-môn đã nhắm đến khi nói “Tôn giả Gotama là người không hưởng thụ” v.v…, và ý nghĩa mà Đức Thế Tôn đã nhắm đến khi chấp nhận sự không hưởng thụ v.v… nơi chính mình. Sự hưởng thụ dục và tham: tức là sự hưởng thụ theo cách của dục và tham. Một lý do khác: tức là một nguyên nhân khác.

5.Kulasamudācārakammanti kulācārasaṅkhātaṃ kammaṃ, kulacārittanti vuttaṃ hoti. Akiriyanti akaraṇabhāvaṃ. Duṭṭhu caritaṃ duccaritaṃ, kāyadvāre bāhullavuttito kāyato pavattaṃ duccaritanti kāyaduccaritaṃ. Taṃ sarūpato dassento ‘‘tattha cā’’tiādimāha. Pāṇātipātaadinnādānamicchācāracetanāveditabbāti ettha (itivu. aṭṭha. 74) pāṇoti paramatthato jīvitindriyaṃ, vohārato satto. Jīvitindriyañcettha rūpārūpavasena veditabbaṃ. Rūpajīvitindriye hi vikopite itarampi taṃsambandhatāya vinassati. Sattoti ca khandhasantāno gahetabbo. Tattha hi sattapaññatti. Saraseneva patanasabhāvassa antarā eva atīva pātanaṃ atipāto, saṇikaṃ patituṃ adatvā sīghaṃ pātananti attho. Atikkamma vā satthādīhi abhibhavitvā pātanaṃ atipāto, pāṇassa atipāto pāṇātipāto, pāṇavadho pāṇaghātoti vuttaṃ hoti. Atthato pana pāṇe pāṇasaññino parassa jīvitindriyupacchedakapayogasamuṭṭhāpikā kāyavacīdvārānamaññatarappavattā vadhakacetanā. Yāya hi cetanāya vattamānassa jīvitindriyassa nissayabhūtesu mahābhūtesu upakkamakaraṇahetukamahābhūtapaccayā uppajjanakamahābhūtā nuppajjissanti, sā tādisappayogasamuṭṭhāpikā cetanā pāṇātipāto. Laddhupakkamāni hi bhūtāni itarabhūtāni viya na visadānīti samānajātiyānaṃ kāraṇāni na honti.
5. Hành động theo tập tục gia đình: tức là hành động được gọi là tập quán gia đình, có nghĩa là truyền thống gia đình. Không hành động: tức là trạng thái không làm. Hành động xấu xa là ác hạnh; do thường xảy ra ở thân môn, nên hành động xấu ác phát sinh từ thân được gọi là thân ác hạnh. Để trình bày bản chất của nó, ngài nói “Và ở đó…” v.v… Cần phải biết là các tư tâm về sát sanh, trộm cắp, và tà dâm: ở đây (itivu. aṭṭha. 74), sanh mạng theo nghĩa tối hậu là mạng căn, theo nghĩa thông thường là chúng sanh. Và mạng căn ở đây cần được biết là có hai loại: sắc mạng căn và danh mạng căn. Quả vậy, khi sắc mạng căn bị phá hoại, danh mạng căn cũng bị hủy diệt do có liên quan. Và chúng sanh cần được hiểu là dòng tương tục của các uẩn. Quả vậy, sự chế định về chúng sanh là ở đó. Sự làm cho rơi rớt quá mức một vật vốn có bản chất tự rơi rớt là sự sát hại, có nghĩa là không để cho nó rơi từ từ mà làm cho nó rơi nhanh. Hoặc, sự dùng khí giới v.v… để chế ngự rồi làm cho rơi rớt là sự sát hại; sự sát hại sanh mạng là sát sanh, có nghĩa là giết hại sanh mạng, hủy hoại sanh mạng. Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, đó là tư tâm giết hại phát sinh từ một trong hai cửa thân hoặc khẩu, là nguyên nhân cho hành động cắt đứt mạng căn của người khác trong khi biết đó là một sanh mạng. Quả vậy, tư tâm nào là nguyên nhân cho hành động tác động đến các đại hiển sắc vốn là nơi nương tựa của mạng căn đang tồn tại, khiến cho các đại hiển sắc được tạo ra trong tương lai không thể phát sanh, thì tư tâm phát sinh ra hành động như vậy chính là sát sanh. Quả vậy, các đại hiển sắc đã bị tác động sẽ không còn trong sáng như các đại hiển sắc khác, nên chúng không thể là nguyên nhân cho các đại hiển sắc cùng loại.

Etthāha – khaṇe khaṇe nirujjhanasabhāvesu saṅkhāresu ko hantā, ko vā haññati, yadi cittacetasikasantāno, so arūpatāya na chedanabhedanādivasena vikopanasamattho, napi vikopanīyo. Atha rūpasantāno, so acetanatāya kaṭṭhakaliṅgarūpamoti na tattha chedanādinā pāṇātipāto labbhati yathā matasarīre. Payogopi pāṇātipātassa paharaṇappahārādi atītesu vā saṅkhāresu bhaveyya anāgatesu vā paccuppannesu vā, tattha na tāva atītānāgatesu sambhavati tesaṃ abhāvato, paccuppannesu ca saṅkhārānaṃ khaṇikattā saraseneva nirujjhanasabhāvatāya vināsābhimukhesu nippayojano payogo siyā, vināsassa ca kāraṇarahitattā na paharaṇappahārādippayogahetukaṃ maraṇaṃ, nirīhakatāya ca saṅkhārānaṃ kassa so payogo, khaṇikattā vadhādhippāyasamakālabhijjanato kassa kiriyā, pariyosānakālānavaṭṭhānato kassa vā pāṇātipātakammabaddhoti?
Ở đây, có người hỏi: Trong các pháp hữu vi có bản chất diệt trong từng khoảnh khắc, ai là người giết, và ai bị giết? Nếu nói là dòng tương tục của tâm và tâm sở, thì do chúng là vô sắc, nên không thể bị phá hoại bằng cách chém, đập v.v…, và cũng không phải là đối tượng để phá hoại. Nếu nói là dòng tương tục của sắc, thì do nó không có ý thức, giống như một khúc gỗ, nên việc chém, đập vào đó không thể được xem là sát sanh, giống như trường hợp một xác chết. Hành động đó, như việc dùng vũ khí đánh đập v.v…, có thể xảy ra đối với các pháp hữu vi trong quá khứ, tương lai, hay hiện tại. Trong đó, nó không thể xảy ra đối với quá khứ và tương lai, vì chúng không tồn tại. Còn đối với hiện tại, do các pháp hữu vi là nhất thời, có bản chất tự diệt, nên hành động đó đối với các pháp đang hướng đến sự hủy diệt là vô ích. Và do sự hủy diệt không có nguyên nhân, nên cái chết không phải do hành động đánh đập v.v… gây ra. Và do các pháp hữu vi không có chủ thể, nên hành động đó là của ai? Do tính nhất thời, nó bị phá vỡ cùng lúc với ý định giết hại, vậy hành động đó là của ai? Do không tồn tại đến lúc kết thúc, vậy ai là người bị ràng buộc bởi nghiệp sát sanh?

Vuccate – yathāvuttavadhakacetanāsahito saṅkhārānaṃ puñjo sattasaṅkhāto hantā. Tena pavattitavadhappayoganimittaṃ apagatusmāviññāṇajīvitindriyo matavohārappavattinibandhano yathāvuttavadhappayogakaraṇe uppajjanāraho rūpārūpadhammasamūho haññati, kevalo vā cittacetasikasantāno. Vadhappayogāvisayabhāvepi tassa pañcavokārabhave rūpasantānādhīnavuttitāya rūpasantāne parena payojitajīvitindriyupacchedakapayogavasena tannibbattivinibandhakavisadisarūpuppattiyā vihate vicchedo hotīti na pāṇātipātassa asambhavo, napi ahetuko pāṇātipāto, na ca payogo nippayojano. Paccuppannesu saṅkhāresu katapayogavasena tadanantaraṃ uppajjanārahassa saṅkhārakalāpassa tathā anuppattito khaṇikānaṃ saṅkhārānaṃ khaṇikamaraṇassa idha maraṇabhāvena anadhippetattā santatimaraṇassa ca yathāvuttanayena sahetukabhāvato na ahetukaṃ maraṇaṃ, na ca katturahito pāṇātipātapayogo nirīhakesupi saṅkhāresu sannihitatāmattena upakārakesu attano attano anurūpaphaluppādaniyatesu kāraṇesu kattuvohārasiddhito yathā ‘‘padīpo pakāseti, nisākarova candimā’’ti. Na ca kevalassa vadhādhippāyasahabhuno cittacetasikakalāpassa pāṇātipāto icchitabbo santānavasena avaṭṭhitasseva paṭijānanato. Santānavasena vattamānānañca padīpādīnaṃ atthakiriyā dissatīti attheva pāṇātipātena kammabaddho. Ayañca vicāro adinnādānādīsupi yathāsambhavaṃ vibhāvetabbo.
Câu trả lời là: Tập hợp các pháp hữu vi được gọi là chúng sanh, đi kèm với tư tâm giết hại như đã nói ở trên, là người giết. Cái bị giết là tập hợp các pháp sắc và danh, vốn có khả năng phát sinh khi hành động giết hại được thực hiện, là nền tảng cho sự quy ước thông thường về cái chết (khi hơi ấm, thức, và mạng căn đã rời khỏi), do tác động của hành động giết hại như đã nói; hoặc chỉ là dòng tương tục của tâm và tâm sở. Mặc dù nó không phải là đối tượng của hành động giết hại, nhưng trong cõi năm uẩn, sự tồn tại của nó phụ thuộc vào dòng tương tục của sắc. Khi dòng tương tục của sắc bị phá hoại do một hành động cắt đứt mạng căn được người khác thực hiện, nó sẽ bị gián đoạn do sự phát sinh của các pháp sắc không tương đồng, vốn là nhân tố ràng buộc cho sự hình thành của nó. Do đó, không phải là không thể có hành động sát sanh, và hành động sát sanh cũng không phải là vô nhân, và hành động đó cũng không phải là vô ích. Do hành động được thực hiện đối với các pháp hữu vi trong hiện tại, khiến cho tập hợp các pháp hữu vi đáng lẽ phải phát sinh ngay sau đó không thể phát sinh như vậy, và do cái chết ở đây không được hiểu là cái chết nhất thời của các pháp hữu vi nhất thời, mà là cái chết của dòng tương tục, và cái chết của dòng tương tục có nguyên nhân theo cách đã nói, nên cái chết không phải là vô nhân. Hành động sát sanh cũng không phải là không có chủ thể, mặc dù các pháp hữu vi không có chủ thể, nhưng do sự hiện diện của các nguyên nhân hỗ trợ, vốn được xác định sẽ tạo ra quả tương ứng, nên sự quy ước về chủ thể được thành lập, giống như câu “ngọn đèn soi sáng, mặt trăng chính là vầng trăng”. Và không nên cho rằng hành động sát sanh chỉ thuộc về tập hợp tâm và tâm sở đi kèm với ý định giết hại, vì nó được thừa nhận là thuộc về dòng tương tục. Và các vật như ngọn đèn v.v…, khi tồn tại dưới dạng dòng tương tục, vẫn được thấy là có tác dụng. Do đó, chắc chắn có người bị ràng buộc bởi nghiệp sát sanh. Cuộc thảo luận này cũng cần được áp dụng cho các trường hợp trộm cắp v.v… một cách phù hợp.

So (ma. ni. aṭṭha. 1.89; dha. sa. aṭṭha. akusalakammapathakathā) ca pāṇātipāto guṇavirahitesu tiracchānagatādīsu pāṇesu khuddake pāṇe appasāvajjo, mahante mahāsāvajjo. Kasmā? Payogamahantatāya, payogasamattepi vatthumahantatāya. Guṇavantesu manussādīsu appaguṇe pāṇe appasāvajjo, mahāguṇe mahāsāvajjo. Sarīraguṇānaṃ pana samabhāve satipi kilesānaṃ upakkamānañca mudutāya appasāvajjo, tibbatāya mahāsāvajjoti veditabbo.
Hành động sát sanh đó (ma. ni. aṭṭha. 1.89; dha. sa. aṭṭha. akusalakammapathakathā), đối với các loài vật không có đức hạnh như các loài thú v.v…, nếu là loài vật nhỏ thì tội nhẹ, nếu là loài vật lớn thì tội nặng. Tại sao? Do sự nỗ lực lớn hơn; hoặc nếu sự nỗ lực như nhau, thì do đối tượng lớn hơn. Đối với các chúng sanh có đức hạnh như loài người v.v…, nếu là người có ít đức hạnh thì tội nhẹ, nếu là người có nhiều đức hạnh thì tội nặng. Tuy nhiên, cần phải biết rằng, ngay cả khi các phẩm chất về thân thể và đức hạnh là như nhau, nếu phiền não và sự nỗ lực là yếu ớt thì tội nhẹ, nếu là mạnh mẽ thì tội nặng.

Kāyavācāhi na dinnanti adinnaṃ, parasantakaṃ, tassa ādānaṃ adinnādānaṃ. Parassaharaṇaṃ theyyaṃ, corikāti vuttaṃ hoti. Atthato pana parapariggahe parapariggahitasaññino tadādāyakaupakkamasamuṭṭhāpikā kāyavacīdvārānamaññataradvārappavattā theyyacetanā. Taṃ hīne parasantake appasāvajjaṃ, paṇīte mahāsāvajjaṃ. Kasmā? Vatthupaṇītatāya. Vatthusamatte sati guṇādhikānaṃ santake vatthusmiṃ mahāsāvajjaṃ, taṃtaṃguṇādhikaṃ upādāya tato tato hīnaguṇassa santake vatthusmiṃ appasāvajjaṃ.
Cái không được cho bằng thân và lời nói là cái không được cho, là tài sản của người khác; việc lấy nó đi là trộm cắp. Có nghĩa là việc lấy của người khác, là hành vi trộm cắp, là hành vi ăn cướp. Về mặt ý nghĩa, đó là tư tâm trộm cắp phát sinh từ một trong hai cửa thân hoặc khẩu, là nguyên nhân cho hành động lấy đi tài sản của người khác trong khi biết đó là tài sản của người khác. Hành động đó, nếu đối với tài sản của người khác có giá trị thấp thì tội nhẹ, nếu là tài sản quý giá thì tội nặng. Tại sao? Do giá trị của tài sản. Nếu giá trị tài sản như nhau, thì đối với tài sản của người có nhiều đức hạnh hơn thì tội nặng, và đối với tài sản của người có ít đức hạnh hơn thì tội nhẹ, tùy theo mức độ đức hạnh của mỗi người.

Micchā caraṇaṃ micchācāro, methunasamācāresu ekantanindito lāmakācāro. So pana lakkhaṇato asaddhammādhippāyena kāyadvārappavattā agamanīyaṭṭhānavītikkamacetanā. So panesa micchācāro sīlādiguṇavirahite agamanīyaṭṭhāne appasāvajjo, sīlādiguṇasampanne mahāsāvajjo. Tassa cattāro sambhārā – agamanīyavatthu, tasmiṃ sevanacittaṃ, sevanapayogo, maggenamaggappaṭipattiadhivāsananti. Eko payogo sāhatthiko eva.
Hành vi sai trái là tà dâm, là hành vi xấu xa, hoàn toàn đáng chê trách trong các quan hệ tình dục. Về mặt đặc tính, đó là tư tâm vi phạm đối với đối tượng không được phép, phát sinh từ thân môn với chủ ý bất thiện. Hành vi tà dâm này, nếu đối với đối tượng không được phép và không có các đức hạnh như giới hạnh v.v…, thì tội nhẹ; nếu đối với người có đầy đủ các đức hạnh như giới hạnh, thì tội nặng. Nó có bốn yếu tố cấu thành: đối tượng không được phép, tâm muốn giao hợp với đối tượng đó, hành động giao hợp, và sự chấp nhận hành vi xâm nhập của đường sinh dục này vào đường sinh dục kia. Hành động này chỉ được thực hiện bởi chính mình.

Vacīdvāre bāhullavuttito vācato pavattaṃ duccaritanti vacīduccaritaṃ. Taṃ sarūpato dassento āha ‘‘musāvādapisuṇavācāpharusavācāsamphappalāpacetanā veditabbā’’ti. Tattha musāti abhūtaṃ atacchaṃ vatthu. Musā vadīyati vuccati etāyāti musāvādo, atathaṃ vatthuṃ tathato paraṃ viññāpetukāmassa tathāviññattisamuṭṭhāpikā cetanā. So yamatthaṃ bhañjati, tassa appatāya appasāvajjo, mahantatāya mahāsāvajjo. Apica gahaṭṭhānaṃ attano santakaṃ adātukāmatāya natthīti ādinayappavatto appasāvajjo, sakkhinā hutvā atthabhañjanatthaṃ vutto mahāsāvajjo. Pabbajitānaṃ appakampi telaṃ vā sappiṃ vā labhitvā hasādhippāyena ‘‘ajja gāme telaṃ nadī maññe sandatī’’ti pūraṇakathānayena pavatto appasāvajjo, adiṭṭhaṃyeva pana diṭṭhantiādinā nayena vadantānaṃ mahāsāvajjo. Tassa cattāro sambhārā honti – atathaṃ vatthu, visaṃvādanacittaṃ, tajjo vāyāmo, parassa tadatthaviññāpananti. Eko payogo sāhatthikova. So kāyena vā kāyapaṭibaddhena vā vācāya vā paravisaṃvādakakiriyākaraṇe daṭṭhabbo. Tāya ce kiriyāya paro tamatthaṃ jānāti, ayaṃ kiriyāsamuṭṭhāpikacetanākkhaṇeyeva musāvādakammunā bajjhati. Yasmā pana yathā kāyakāyapaṭibaddhavācāhi paraṃ visaṃvādeti, tathā ‘‘idamassa bhaṇāhī’’ti āṇāpentopi, paṇṇaṃ likhitvā purato nissajjantopi, ‘‘ayaṃ attho evaṃ veditabbo’’ti kuṭṭādīsu likhitvā ṭhapentopi, tasmā ettha āṇattikanissaggiyathāvarāpi payogā yujjanti. Aṭṭhakathāsu pana anāgatattā vīmaṃsitvā gahetabbā.
Do thường xảy ra ở khẩu môn, nên hành động xấu ác phát sinh từ lời nói được gọi là khẩu ác hạnh. Để trình bày bản chất của nó, ngài nói “cần phải biết là các tư tâm về nói dối, nói đôi chiều, nói lời thô ác, và nói lời vô ích”. Ở đó, lời nói dối là điều không có thật, không đúng sự thật. Lời nói dối được nói ra, được thốt ra bởi tư tâm này, đó là nói dối, là tư tâm của người muốn làm cho người khác biết một điều không thật thành điều có thật, và tư tâm đó làm phát sinh sự nhận biết sai lệch như vậy. Tội của nó, nếu làm tổn hại đến lợi ích nhỏ, thì là tội nhẹ; nếu là lợi ích lớn, thì là tội nặng. Hơn nữa, đối với người tại gia, nếu nói không có để không cho tài sản của mình, thì tội nhẹ; nếu làm nhân chứng mà nói sai để phá hoại lợi ích, thì tội nặng. Đối với người xuất gia, nếu nhận được một ít dầu hoặc bơ sữa rồi nói đùa rằng “hôm nay trong làng, dầu chảy thành sông thì phải”, thì tội nhẹ; nhưng nếu nói điều chưa thấy mà như đã thấy v.v…, thì tội nặng. Nó có bốn yếu tố cấu thành: một sự việc không thật, tâm muốn lừa dối, sự cố gắng phát sinh từ đó, và việc làm cho người khác hiểu được ý nghĩa đó. Hành động này chỉ được thực hiện bởi chính mình. Cần phải thấy rằng hành động lừa dối người khác có thể được thực hiện bằng thân, bằng vật liên quan đến thân, hoặc bằng lời nói. Nếu qua hành động đó mà người kia biết được ý nghĩa đó, thì người này bị ràng buộc bởi nghiệp nói dối ngay tại khoảnh khắc của tư tâm phát sinh ra hành động. Tuy nhiên, cũng như người ta lừa dối người khác bằng thân, vật liên quan đến thân, và lời nói, người ta cũng lừa dối khi ra lệnh “hãy nói điều này với người đó”, khi viết thư rồi để trước mặt, khi viết lên bảng v.v… với ý “ý nghĩa này cần được hiểu như vậy”. Do đó, ở đây các hành động ra lệnh, vứt bỏ (thông điệp), và viết cố định cũng được chấp nhận. Tuy nhiên, do không được đề cập trong các sách chú giải, nên cần phải xem xét kỹ lưfng trước khi chấp nhận.

Pisatīti pisuṇā, samagge satte avayavabhūte vagge bhinne karotīti attho. Niruttinayena vā piyasuññakaraṇato pisuṇā. Yāya hi vācāya yassa taṃ vācaṃ bhāsati, tassa hadaye attano piyabhāvaṃ, parassa ca piyasuññabhāvaṃ karoti, sā pisuṇavācā. Lakkhaṇato pana saṃkiliṭṭhacittassa paresaṃ vā bhedāya attano piyakamyatāya vā kāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā cetanā pisuṇavācā pisuṇaṃ vadati etāyāti katvā. Sā yassa bhedaṃ karoti, tassa appaguṇatāya appasāvajjā, mahāguṇatāya mahāsāvajjā. Tassā cattāro sambhārā – bhinditabbo paro, ‘‘iti ime nānā bhavissanti vinā bhavissantī’’ti bhedapurekkhāratā vā ‘‘iti ahaṃ piyo bhavissāmi vissāsiko’’ti piyakamyatā vā, tajjo vāyāmo, tassa tadatthavijānananti. Pare pana abhinne kammapathabhedo natthi, bhinne eva hoti.
Cái làm cho chia rẽ là lời nói đôi chiều, có nghĩa là làm cho những người đang hòa hợp bị chia rẽ thành các phe nhóm. Hoặc theo từ nguyên, nó là lời nói đôi chiều vì nó làm cho tình thân trở nên trống rỗng. Quả vậy, lời nói nào mà khi nói với ai đó, nó làm cho tình thân của người nói trong lòng người nghe và tình thân của người khác trở nên trống rỗng, thì đó là lời nói đôi chiều. Về mặt đặc tính, đó là tư tâm phát sinh từ thân khẩu, do tâm ô nhiễm, nhằm mục đích chia rẽ người khác hoặc mong muốn được người khác yêu mến, nên được gọi là lời nói đôi chiều vì người ta nói lời chia rẽ bằng tư tâm đó. Lời nói đó, nếu chia rẽ người có ít đức hạnh thì tội nhẹ, nếu là người có nhiều đức hạnh thì tội nặng. Nó có bốn yếu tố cấu thành: người khác để chia rẽ, chủ ý chia rẽ với ý nghĩ “như vậy họ sẽ chia rẽ, họ sẽ xa nhau” hoặc mong muốn được yêu mến với ý nghĩ “như vậy ta sẽ được yêu mến, được tin tưởng”, sự cố gắng phát sinh từ đó, và việc người kia hiểu được ý nghĩa đó. Tuy nhiên, nếu những người khác không bị chia rẽ, thì chưa đủ yếu tố cấu thành nghiệp đạo; chỉ khi họ bị chia rẽ thì mới đủ.

Pharusayatīti pharusā, vācā. Yāya hi vācāya attānampi parampi pharusaṃ sinehābhāvena lūkhaṃ karoti, sā pharusavācā. Atha vā sayampi pharusā domanassasamuṭṭhitattā sabhāvenapi kakkasā neva kaṇṇasukhā na hadayasukhāti pharusavācā. Ettha pana paresaṃ mammacchedanavasena pavattiyā ekantaniṭṭhuratāya sabhāvena kāraṇavohārena ca vācāya pharusasaddappavatti daṭṭhabbā. Taṃ pharusaṃ vadati etāyāti pharusavācā, parassa mammacchedakakāyavacīpayogasamuṭṭhāpikā ekantapharusā cetanā. Tassā āvibhāvatthamidaṃ vatthu – eko kira dārako mātu vacanaṃ anādiyitvā araññaṃ gacchati, taṃ mātā nivattetuṃ asakkontī ‘‘caṇḍā taṃ mahiṃsī anubandhatū’’ti akkosi. Athassa tatheva araññe mahiṃsī uṭṭhāsi. Dārako ‘‘yaṃ mama mātā mukhena kathesi, taṃ mā hotu. Yaṃ cittena cintesi, taṃ hotū’’ti saccakiriyamakāsi. Mahiṃsī tattheva baddhā viya aṭṭhāsi . Evaṃ mammacchedakopi payogo cittasaṇhatāya pharusavācā na hoti. Mātāpitaro hi kadāci puttake evampi vadanti ‘‘corā vo khaṇḍākhaṇḍikaṃ karontū’’ti, uppalapattampi ca nesaṃ upari patantaṃ na icchanti. Ācariyupajjhāyā ca kadāci nissitake evaṃ vadanti ‘‘kiṃ ime ahirikā anottappino caranti, niddhamatha ne’’ti. Atha ca nesaṃ āgamādhigamasampattiṃ icchanti, yathā cittasaṇhatāya pharusavācā na hoti, evaṃ vacanasaṇhatāya apharusavācāpi na hoti. Na hi mārāpetukāmassa ‘‘imaṃ sukhaṃ sayāpethā’’ti vacanaṃ apharusavācā hoti, cittapharusatāya pana esā pharusavācāva. Sā yaṃ sandhāya pavattitā, tassa appaguṇatāya appasāvajjā, mahāguṇatāya mahāsāvajjā. Tassā tayo sambhārā – akkositabbo paro, kupitacittaṃ, akkosanāti.
Cái làm cho thô lỗ là lời nói thô ác. Quả vậy, lời nói nào làm cho cả mình và người khác trở nên thô lỗ, cộc cằn do thiếu tình thương, thì đó là lời nói thô ác. Hoặc, bản thân nó đã là thô ác do phát sinh từ sự bất mãn, về bản chất là gay gắt, không dễ nghe, cũng không làm vui lòng, nên là lời nói thô ác. Tuy nhiên, ở đây cần phải hiểu rằng từ ‘thô ác’ được dùng cho lời nói do nó có khuynh hướng làm tổn thương đến chỗ hiểm của người khác, hoàn toàn cay nghiệt về bản chất và theo cách nói thông thường. Người ta nói lời thô ác bằng tư tâm đó, đó là tư tâm hoàn toàn thô ác, phát sinh từ thân khẩu, làm tổn thương đến chỗ hiểm của người khác. Câu chuyện này làm rõ điều đó: có một cậu bé không nghe lời mẹ, đi vào rừng. Người mẹ không thể gọi con quay lại, liền la mắng: “Mong cho con trâu rừng hung dữ đuổi theo mày”. Sau đó, trong rừng, một con trâu rừng đã xuất hiện trước mặt cậu bé. Cậu bé đã thực hiện một lời thề chân thật: “Điều mà mẹ tôi nói bằng miệng, mong rằng đừng xảy ra. Điều mà mẹ tôi nghĩ trong lòng, mong rằng sẽ xảy ra”. Con trâu rừng liền đứng yên như bị trói. Như vậy, ngay cả một hành động có vẻ làm tổn thương đến chỗ hiểm, nếu tâm hiền hòa, thì cũng không phải là lời nói thô ác. Cha mẹ đôi khi cũng nói với con cái như vậy: “Mong cho bọn trộm cướp chặt chúng mày ra từng khúc”. Nhưng họ thậm chí không muốn một chiếc lá sen rơi lên người con. Các vị thầy tổ đôi khi cũng nói với các đệ tử như vậy: “Tại sao những kẻ không biết hổ thẹn, không biết ghê sợ tội lỗi này lại đi lang thang? Hãy đuổi chúng đi”. Nhưng các ngài lại mong muốn các đệ tử thành tựu về Pháp học và Pháp hành. Cũng như lời nói không phải là thô ác nếu tâm hiền hòa, nó cũng không phải là lời nói không thô ác nếu lời nói hiền hòa (mà tâm thì không). Quả vậy, lời nói “hãy để anh ta ngủ một giấc ngon lành” của người muốn giết người không phải là lời nói không thô ác; do tâm thô ác, nó chính là lời nói thô ác. Lời nói đó, nếu nhắm đến người có ít đức hạnh thì tội nhẹ, nếu là người có nhiều đức hạnh thì tội nặng. Nó có ba yếu tố cấu thành: người bị mắng chửi, tâm sân hận, và hành động mắng chửi.

Saṃ sukhaṃ hitañca phalati visarati vināsetīti samphaṃ, attano paresañca anupakārakaṃ yaṃ kiñci, samphaṃ palapati etāyāti samphappalāpo, anatthaviññāpikakāyavacīpayogasamauṭṭhāpikā akusalacetanā. So āsevanamandatāya appasāvajjo, āsevanamahantatāya mahāsāvajjo. Tassa dve sambhārā – bhāratayuddhasītāharaṇādiniratthakakathāpurekkhāratā, tathārūpīkathākathanañca. Pare pana taṃ kathaṃ agaṇhante kammapathabhedo natthi, parena pana samphappalāpe gahiteyeva hoti.
Cái làm tiêu tan, hủy hoại hạnh phúc và lợi ích được gọi là sampha; bất cứ điều gì vô ích cho mình và người khác. Nói lời vô ích bằng tư tâm đó là nói lời vô ích, là tư tâm bất thiện phát sinh từ thân khẩu, truyền đạt một ý nghĩa vô ích. Tội này, nếu thực hành ít thì tội nhẹ, nếu thực hành nhiều thì tội nặng. Nó có hai yếu tố cấu thành: chủ ý nói những câu chuyện vô ích như cuộc chiến Mahābhārata, việc bắt cóc nàng Sītā v.v…, và việc nói những câu chuyện như vậy. Tuy nhiên, nếu người khác không tiếp thu câu chuyện đó, thì chưa đủ yếu tố cấu thành nghiệp đạo; chỉ khi người khác tiếp thu lời nói vô ích đó thì mới đủ.

Abhijjhābyāpādamicchādiṭṭhiyoti ettha parasampattiṃ abhimukhaṃ jhāyatīti abhijjhā, parasampattīsu lobho. Sā pana ‘‘aho vata idaṃ mamassā’’ti evaṃ parabhaṇḍābhijjhāyanalakkhaṇā. Adinnādānaṃ viya appasāvajjā mahāsāvajjā ca. Tassā dve sambhārā – parabhaṇḍaṃ, attano pariṇāmanañca. Parabhaṇḍavatthuke hi lobhe uppannepi na tāva kammapathabhedo hoti, yāva ‘‘aho vata idaṃ mamassā’’ti attano na pariṇāmeti.
Trong câu “tham lam, sân hận, và tà kiến”, sự nhìn chằm chằm vào tài sản của người khác là tham lam, là lòng tham đối với tài sản của người khác. Nó có đặc tính là thèm muốn tài sản của người khác với ý nghĩ rằng: “Ôi, ước gì cái này là của mình!”. Giống như tội trộm cắp, nó có thể là tội nhẹ hoặc tội nặng. Nó có hai yếu tố cấu thành: tài sản của người khác, và việc hướng nó về phía mình. Quả vậy, ngay cả khi lòng tham đối với tài sản của người khác phát sinh, vẫn chưa đủ yếu tố cấu thành nghiệp đạo, cho đến khi người đó hướng nó về phía mình với ý nghĩ “Ôi, ước gì cái này là của mình!”.

Hitasukhaṃ byāpādeti vināsetīti byāpādo, paṭigho. So paravināsāya manopadosalakkhaṇo . So pharusavācā viya appasāvajjo mahāsāvajjo ca. Tassa dve sambhārā – parasatto, tassa ca vināsanacintā. Parasattavatthuke hi kodhe uppannepi na tāva kammapathabhedo hoti, yāva ‘‘aho vatāyaṃ ucchijjeyya vinasseyyā’’ti tassa vināsanaṃ na cinteti.
Cái làm cho hủy hoại, tiêu diệt lợi ích và hạnh phúc là sân hận, là ác ý. Nó có đặc tính là sự suy đồi của tâm ý nhằm hủy diệt người khác. Giống như lời nói thô ác, nó có thể là tội nhẹ hoặc tội nặng. Nó có hai yếu tố cấu thành: một chúng sanh khác, và ý nghĩ muốn hủy diệt chúng sanh đó. Quả vậy, ngay cả khi tâm sân hận đối với một chúng sanh khác phát sinh, vẫn chưa đủ yếu tố cấu thành nghiệp đạo, cho đến khi người đó suy nghĩ muốn hủy diệt chúng sanh đó với ý nghĩ “Ôi, ước gì chúng sanh này bị tiêu diệt, bị hủy hoại!”.

Yathābhuccagahaṇābhāvena micchā passatīti micchādiṭṭhi. Sā ‘‘natthi dinna’’ntiādinā nayena viparītadassanalakkhaṇā. Samphappalāpo viya appasāvajjā mahāsāvajjā ca. Apica aniyatā appasāvajjā, niyatā mahāsāvajjā. Tassa dve sambhārā – vatthuno gahitākāraviparītatā, yathā ca taṃ gaṇhāti, tathābhāvena tassupaṭṭhānanti. Tattha natthikāhetukaaariyadiṭṭhīhi eva kammapathabhedo hoti.
Do không nắm bắt đúng như thật, nên thấy một cách sai lầm, đó là tà kiến. Nó có đặc tính là cái thấy sai lạc theo kiểu “không có quả báo của sự bố thí” v.v… Giống như lời nói vô ích, nó có thể là tội nhẹ hoặc tội nặng. Hơn nữa, tà kiến bất định thì tội nhẹ, tà kiến cố định thì tội nặng. Nó có hai yếu tố cấu thành: sự sai lệch trong cách nắm bắt đối tượng, và sự hiện khởi của đối tượng đó theo cách đã nắm bắt. Ở đó, chỉ có các tà kiến như đoạn kiến, vô nhân kiến, và vô hành kiến mới cấu thành nghiệp đạo.

‘‘Anekavihitānaṃ pāpakānaṃ akusalānaṃ dhammāna’’nti sāmaññavacanepi pārisesañāyato vuttāvasesā akusalā dhammā gahetabbāti āha ‘‘ṭhapetvā te dhamme’’tiādi. Te yathāvuttakāyaduccaritādike akusaladhamme ṭhapetvāti attho. Anekavihitāti anekappakārā.
Mặc dù câu “của nhiều loại pháp ác, bất thiện” là một cách nói chung, nhưng theo nguyên tắc loại suy, cần phải hiểu là các pháp bất thiện còn lại chưa được đề cập. Do đó, mới nói “trừ những pháp đó ra” v.v… Có nghĩa là, trừ những pháp bất thiện như thân ác hạnh v.v… đã được nói ở trên. Nhiều loại: tức là nhiều thể loại.

6.Ayaṃ lokatantīti ayaṃ vuḍḍhānaṃ abhivādanādikiriyālakkhaṇā lokappaveṇī. Anāgāmibrahmānaṃ alaṅkārādīsu anāgāmibhikkhūnañca cīvarādīsu nikantivasena rāguppatti hotīti anāgāmimaggena pañcakāmaguṇikarāgasseva pahānaṃ veditabbanti āha ‘‘pañcakāmaguṇikarāgassā’’ti. Rūpādīsu pañcasu kāmaguṇesu vatthukāmakoṭṭhāsesu uppajjamāno rāgo ‘‘pañcakāmaguṇikarāgo’’ti veditabbo. Koṭṭhāsavacano hettha guṇasaddo ‘‘vayoguṇā anupubbaṃ jahantī’’tiādīsu (saṃ. ni. 1.4) viya. Dvīsu akusalacittesūti domanassasahagatesu dvīsu akusalacittesu. Mohassa sabbākusalasādhāraṇattā āha ‘‘sabbākusalasambhavassā’’ti. Avasesānanti sakkāyadiṭṭhiādīnaṃ.
6. Truyền thống thế gian này: tức là truyền thống của thế gian, có đặc tính là các hành vi như đảnh lễ các bậc trưởng thượng. Do lòng tham phát sinh nơi các vị Phạm thiên A-na-hàm đối với các đồ trang sức v.v… và nơi các vị Tỳ-khưu A-na-hàm đối với y phục v.v…, nên cần phải biết rằng chỉ có lòng tham liên quan đến năm dục trần mới được đoạn trừ bởi đạo quả A-na-hàm. Do đó, mới nói “của lòng tham liên quan đến năm dục trần”. Lòng tham phát sinh trong năm dục trần, tức là các phần thuộc về dục của đối tượng, cần được hiểu là “lòng tham liên quan đến năm dục trần”. Ở đây, từ ‘guṇa’ (trần) có nghĩa là phần, giống như trong câu “các phần của tuổi tác lần lượt từ bỏ” v.v… (saṃ. ni. 1.4). Trong hai tâm bất thiện: tức là trong hai tâm bất thiện đi kèm với sự bất mãn. Do si ám có mặt trong tất cả các pháp bất thiện, nên mới nói “của cái có thể phát sinh trong tất cả các pháp bất thiện”. Của những cái còn lại: tức là của thân kiến v.v…

7.Jigucchati maññeti ‘‘ahamabhijāto rūpavā paññavā, kathaṃ nāma aññesaṃ abhivādanādiṃ kareyya’’nti jigucchati viya jigucchatīti vā sallakkhemi. Akosallasambhūtaṭṭhenāti aññāṇasambhūtaṭṭhena. Akusale dhamme jigucchamāno tesaṃ samaṅgībhāvampi jigucchatīti vuttaṃ ‘‘akusalānaṃ dhammānaṃ samāpattī’’ti. Samāpattīti etasseva vevacanaṃ samāpajjanā samaṅgibhāvoti. Maṇḍanakajātiyoti maṇḍanasabhāvo, maṇḍanasīloti attho. Jegucchitanti jigucchanasīlataṃ.
7. Tôi cho rằng ngài ghê tởm: tức là “tôi là người có dòng dõi cao quý, có sắc đẹp, có trí tuệ, làm sao lại có thể đảnh lễ người khác?”, ngài ghê tởm như vậy, hoặc tôi nhận thấy rằng ngài ghê tởm. Với ý nghĩa được tạo ra từ sự không khéo léo: tức là với ý nghĩa được tạo ra từ sự vô minh. Người ghê tởm các pháp bất thiện cũng ghê tởm cả sự hiện hữu của chúng, nên mới nói “sự đạt đến các pháp bất thiện”. Sự đạt đến: các từ đồng nghĩa của nó là sự chứng đắc, sự hiện hữu. Bản chất thích trang điểm: tức là có bản chất trang điểm, có tính thích trang điểm. Bị ghê tởm: tức là có tính hay ghê tởm.

8.Lokajeṭṭhakakammanti loke jeṭṭhakānaṃ kattabbakammaṃ, loke vā seṭṭhasammataṃ kammaṃ. Tatrāti yathāvuttesu dvīsupi atthavikappesu. Padābhihito attho padattho, byañjanatthoti vuttaṃ hoti. Vinayaṃ vā arahatīti ettha vinayanaṃ vinayo, niggaṇhananti attho. Tenāha ‘‘niggahaṃ arahatīti vuttaṃ hotī’’ti. Nanu ca paṭhamaṃ vuttesu dvīsupi atthavikappesu sakatthe arahatthe ca bhaddhitapaccayo saddalakkhaṇato dissati, na pana ‘‘vinayāya dhammaṃ desetī’’ti imasmiṃ atthe, tasmā kathamettha taddhitapaccayoti āha ‘‘vicitrā hi taddhitavuttī’’ti. Vicitratā cettha lokappamāṇato veditabbā. Tathā hi yasmiṃ yasmiṃ atthe taddhitappayogo lokassa, tattha tattha taddhitavutti lokato siddhāti vicitrā taddhitavutti. Tasmā yathā ‘‘mā saddamakāsī’’ti vadanto ‘‘māsaddiko’’ti vuccati, evaṃ vinayāya dhammaṃ desetīti venayikoti vuccatīti adhippāyo.
8. Hành động của bậc trưởng thượng trong đời: tức là hành động mà các bậc trưởng thượng trong đời phải làm, hoặc là hành động được xem là cao quý trong đời. Ở đó: tức là trong cả hai cách giải thích ý nghĩa đã được nói. Ý nghĩa được nói đến bởi từ là ý nghĩa của từ, có nghĩa là ý nghĩa của câu văn. Hay xứng đáng được giáo hóa: ở đây, sự giáo hóa là ‘vinaya’, có nghĩa là sự nhiếp phục. Do đó, ngài nói “có nghĩa là xứng đáng bị nhiếp phục”. Nhưng chẳng phải trong cả hai cách giải thích ý nghĩa đã được nói ở đầu, hậu tố được thêm vào từ ‘arahant’ theo ý nghĩa của chính nó và theo ý nghĩa xứng đáng được thấy rõ từ quy tắc ngôn ngữ, chứ không phải theo ý nghĩa “thuyết pháp để giáo hóa” sao? Do đó, tại sao lại có hậu tố phái sinh ở đây? Mới nói: “cách dùng của hậu tố phái sinh rất đa dạng”. Sự đa dạng này cần được hiểu theo cách dùng của thế gian. Quả vậy, ở bất cứ ý nghĩa nào mà thế gian dùng hậu tố phái sinh, thì cách dùng của hậu tố phái sinh đó được xem là đúng theo cách dùng của thế gian. Do đó, ý muốn nói rằng, cũng như người nói “đừng làm ồn” được gọi là “māsaddiko”, người thuyết pháp để giáo hóa cũng được gọi là “venayiko”.

9.Kapaṇapurisoti guṇavirahitatāya dīnamanusso. Byañjanāni avicāretvāti tissadattādisaddesu viya ‘‘imasmiṃ atthe ayaṃ nāma paccayo’’ti evaṃ byañjanaṃ vicāraṃ akatvā, anipphannapāṭipadikavasenāti vuttaṃ hoti.
9. Người khốn cùng: tức là người khốn khổ do thiếu đức hạnh. Không phân tích các câu văn: tức là không phân tích câu văn theo kiểu “trong ý nghĩa này có hậu tố này”, giống như trong các từ tissa, datta v.v…; có nghĩa là dựa trên cơ sở từ gốc chưa biến cách.

10.Devalokagabbhasampattiyāti vatvā ṭhapetvā bhummadeve sesesu devesu gabbhaggahaṇassa abhāvato paṭisandhiyevettha gabbhasampattīti veditabbāti vuttamevatthaṃ vivaritvā dassento āha ‘‘devalokapaṭisandhipaṭilābhāya saṃvattatī’’ti. Assāti abhivādanādisāmīcikammassa. Mātukucchismiṃ paṭisandhiggahaṇe dosaṃ dassentoti mātito aparisuddhabhāvaṃ dassento, akkositukāmassa dāsiyā puttoti dāsikucchismiṃ nibbattabhāve dosaṃ dassetvā akkosanaṃ viya bhagavato mātukucchismiṃ paṭisandhiggahaṇe dosaṃ dassetvā akkosantopi evamāhāti adhippāyo. Gabbhatoti devalokapaṭisandhito. Tenevāha ‘‘abhabbo devalokūpapattiṃ pāpuṇitunti adhippāyo’’ti. Hīno vā gabbho assāti apagabbhoti imassa viggahassa ekena pariyāyena adhippāyaṃ dassento āha ‘‘devalokagabbhaparibāhirattā āyatiṃ hīnagabbhapaṭilābhabhāgītī’’ti. Iti-saddāe hetuattho, yasmā āyatimpi hīnagabbhapaṭilābhabhāgī, tasmā hīno vā gabbho assāti apagabbhoti adhippāyo.
10. Sau khi nói “do sự thành tựu thai tạng ở cõi trời”, cần phải biết rằng, trừ các vị trời ở cõi đất, các vị trời ở các cõi khác không có sự thọ thai, do đó sự thành tựu thai tạng ở đây chính là sự tái sanh. Để làm rõ ý nghĩa đã nói, ngài giải thích: “đưa đến sự thành tựu tái sanh vào cõi trời”. Của nó: tức là của hành vi đúng mực như đảnh lễ v.v… Trong khi cho thấy lỗi lầm trong việc thọ thai trong bụng mẹ: tức là trong khi cho thấy sự không trong sạch từ phía người mẹ. Giống như người muốn mắng chửi, sau khi cho thấy lỗi lầm trong việc được sinh ra từ bụng một người nữ tỳ bằng cách nói là con của nữ tỳ, rồi mới mắng chửi. Ý muốn nói rằng, người Bà-la-môn cũng nói như vậy, sau khi cho thấy lỗi lầm trong việc Đức Thế Tôn thọ thai trong bụng mẹ rồi mới mắng chửi. Từ thai tạng: tức là từ sự tái sanh vào cõi trời. Do đó, ngài mới nói: “ý muốn nói là không thể đạt được sự tái sanh vào cõi trời”. Để cho thấy ý nghĩa của cách phân tích cú pháp “hoặc thai tạng của người đó là thấp hèn, nên là apagabbho” theo một phương diện, ngài nói: “do ở ngoài thai tạng của cõi trời, nên trong tương lai sẽ phải chịu sự thành tựu một thai tạng thấp hèn”. Từ iti có nghĩa là nguyên nhân; vì trong tương lai cũng sẽ phải chịu sự thành tựu một thai tạng thấp hèn, do đó ý muốn nói là “hoặc thai tạng của người đó là thấp hèn, nên là apagabbho”.

Puna tasseva viggahassa kodhavasena…pe… dassentoti heṭṭhā vuttanayassa anurūpaṃ katvā adhippāyaṃ dassento āha ‘‘hīno vāssa mātukucchismiṃ gabbhavāso ahosīti adhippāyo’’ti. Gabbha-saddo atthi mātukucchipariyāyo ‘‘gabbhe vasati māṇavo’’tiādīsu (jā. 1.15.363) viya . Atthi mātukucchismiṃ nibbattasattapariyāyo ‘‘antamaso gabbhapātanaṃ upādāyā’’tiādīsu (mahāva. 129) viya. Tattha mātukucchipariyāyaṃ gahetvā atthaṃ dassento āha ‘‘anāgate gabbhaseyyā’’ti. Gabbhe seyyā gabbhaseyyā. Anuttarena maggenāti aggamaggena. Kammakilesānaṃ maggena vihatattā āha ‘‘vihatakāraṇattā’’ti. Itarā tissopīti aṇḍajasaṃsedajaopapātikā. Ettha ca yadipi ‘‘apagabbho’’ti imassa anurūpato gabbhaseyyā eva vattabbā, pasaṅgato pana labbhamānaṃ sabbampi vattuṃ vaṭṭatīti punabbhavābhinibbattipi vuttāti veditabbā.
Lại nữa, để cho thấy ý nghĩa của cùng cách phân tích cú pháp đó theo cách nói trong lúc tức giận… cho đến…, tức là để cho thấy ý nghĩa phù hợp với cách đã nói ở dưới, ngài nói: “ý muốn nói là, sự ở trong thai tạng của mẹ của ngài đã là thấp hèn”. Từ gabbha có khi là từ đồng nghĩa với bụng mẹ, như trong câu “chàng trai sống trong bụng mẹ” v.v… (jā. 1.15.363). Có khi là từ đồng nghĩa với chúng sanh được hình thành trong bụng mẹ, như trong câu “cho đến cả việc phá thai” v.v… (mahāva. 129). Ở đây, lấy nghĩa là bụng mẹ để giải thích ý nghĩa, ngài nói: “sự nằm trong thai tạng trong tương lai”. Sự nằm trong thai tạng là gabbhaseyyā. Bởi đạo vô thượng: tức là bởi đạo quả cao nhất. Do nghiệp và phiền não đã bị đạo phá hủy, nên ngài nói: “do nguyên nhân đã bị phá hủy”. Ba loại kia: tức là noãn sanh, thấp sanh, và hóa sanh. Ở đây, cần phải biết rằng, mặc dù lẽ ra chỉ nên nói về sự nằm trong thai tạng cho phù hợp với từ “apagabbho”, nhưng do nhân tiện, có thể nói tất cả những gì có thể nói, nên sự tái sanh trong đời sau cũng được nói đến.

Idāni sattapariyāyassa gabbhasaddassa vasena viggahanānattaṃ dassento āha ‘‘apicā’’tiādi. Imasmiṃ pana vikappe gabbhaseyyā punabbhavābhinibbattīti ubhayampi gabbhaseyyavaseneva vuttantipi vadanti. Nanu ca ‘‘āyatiṃ gabbhaseyyā pahīnā’’ti (pārā. 10) vuttattā gabbhassa seyyā eva pahīnā, na pana gabbhoti āpajjatīti āha ‘‘yathā cā’’tiādi. Atha ‘‘abhinibbattī’’ti ettakameva avatvā punabbhavaggahaṇaṃ kimatthanti āha ‘‘abhinibbatti ca nāmā’’tiādi. Apunabbhavabhūtāti khaṇe khaṇe uppajjamānānaṃ dhammānaṃ abhinibbatti.
Bây giờ, để cho thấy sự đa dạng trong cách phân tích cú pháp dựa trên ý nghĩa của từ ‘gabbha’ là chúng sanh, ngài nói: “Hơn nữa…” v.v… Tuy nhiên, trong cách giải thích này, có người cho rằng cả hai câu “sự nằm trong thai tạng” và “sự tái sanh trong đời sau” đều được nói theo nghĩa là sự nằm trong thai tạng. Nhưng chẳng phải do đã nói “sự nằm trong thai tạng trong tương lai đã được đoạn trừ” (pārā. 10), nên chỉ có sự nằm trong thai tạng bị đoạn trừ, chứ không phải chính thai tạng sao? Để trả lời, ngài nói: “Và cũng như…” v.v… Vậy, tại sao không chỉ nói “sự tái sanh” mà lại dùng thêm từ “đời sau”? Mới nói: “Và sự tái sanh…” v.v… Không trở thành đời sau: tức là sự tái sanh của các pháp phát sinh trong từng khoảnh khắc.

11.Dhammadhātunti ettha dhamme anavasese dhāreti yāthāvato upadhāretīti dhammadhātu, dhammānaṃ yathāsabhāvato avabujjhanasabhāvo, sabbaññutaññāṇassetaṃ adhivacanaṃ. Paṭivijjhitvāti sacchikatvā, paṭilabhitvāti attho, paṭilābhahetūti vuttaṃ hoti. Desanāvilāsappatto hotīti rucivasena parivattetvā desetuṃ samatthatā desanāvilāso, taṃ patto adhigatoti attho. Karuṇāvipphāranti sabbasattesu mahākaruṇāya pharaṇaṃ. Tādiguṇalakkhaṇameva puna upamāya vibhāvetvā dassento āha ‘‘pathavīsamacittata’’nti. Yathā pathavī suciasucinikkhepachedanabhedanādīsu na vikampati, anurodhavirodhaṃ na pāpuṇāti, evaṃ iṭṭhāniṭṭhesu lābhālābhādīsu anurodhavirodhappahānato avikampitacittatāya pathavīsamacittatanti attho. Akuppadhammatanti ettha ‘‘akuppadhammo nāma phalasamāpattī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. ‘‘Paresu pana akkosantesupi attano pathavīsamacittatālakkhaṇaṃ akujjhanasabhāvatanti evamettha attho gahetabbo’’ti amhākaṃ khanti. Jarāya anusaṭanti jarāya paliveṭhitaṃ. Vaṭṭakhāṇubhūtanti anekesaṃ anayabyasanānaṃ nipātalakkhaṇatthambhabhūtatāya saṃsārakhāṇubhūtaṃ. Brāhmaṇassa vuḍḍhatāya āsannavuttimaraṇanti sambhāvanavasena ‘‘ajja maritvā’’tiādi vuttaṃ. Mahantena kho pana ussāhenāti ‘‘sādhu kho pana tathārūpānaṃ arahataṃ dassanaṃ hotī’’ti evaṃ sañjātamahussāhena. Appaṭisamaṃ purejātabhāvanti anaññasādhāraṇaṃ purejātabhāvaṃ. Natthi etassa paṭisamoti appaṭisamo, purejātabhāvo.
11. Trong câu Pháp giới, do mang giữ các pháp một cách không thiếu sót, do nhận thức đúng như thật, nên được gọi là Pháp giới; đó là bản chất liễu ngộ các pháp theo đúng thực tại của chúng, là một tên gọi khác của Nhất thiết trí. Sau khi đã thâm nhập: tức là sau khi đã chứng ngộ, có nghĩa là sau khi đã đạt được; có nghĩa là nguyên nhân của sự đạt được. Đã đạt đến sự điêu luyện trong thuyết giảng: khả năng thuyết giảng bằng cách xoay chuyển vấn đề theo ý muốn là sự điêu luyện trong thuyết giảng; đã đạt đến, đã chứng ngộ được điều đó. Sự lan tỏa lòng bi: tức là sự lan tỏa lòng đại bi đến tất cả chúng sanh. Để làm rõ lại đặc tính của các phẩm chất đó qua ví dụ, ngài nói “tâm bình đẳng như đất”. Giống như đất không rung động trước việc người ta để lên đó vật sạch hay dơ, hoặc chặt, đập v.v…, không khởi lên sự yêu hay ghét, cũng vậy, do đã từ bỏ sự yêu ghét đối với các điều được và mất, thuận và nghịch, nên có tâm không rung động, bình đẳng như đất. Trong câu bản chất không lay chuyển, trong cả ba sách chú giải cương yếu đều nói rằng: “Pháp không lay chuyển chính là sự chứng đắc đạo quả”. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, ở đây cần phải hiểu ý nghĩa là: “Ngay cả khi bị người khác mắng chửi, bản thân vẫn có bản chất không tức giận, vốn là đặc tính của tâm bình đẳng như đất”. Bị tuổi già theo đuổi: tức là bị tuổi già bao vây. Đã trở thành cọc nhọn của vòng luân hồi: do là nơi tập trung của vô số tai ương và hoạn nạn, nên đã trở thành cọc nhọn của vòng sinh tử. Do tuổi tác đã cao của vị Bà-la-môn, cái chết đã gần kề, nên mới nói “hôm nay chết” v.v… theo cách phỏng đoán. Với một sự nỗ lực lớn lao: tức là với sự nỗ lực lớn lao phát sinh từ ý nghĩ “Lành thay, được thấy các bậc A-la-hán như vậy”. Sự sinh ra trước một cách vô song: tức là sự sinh ra trước không ai sánh bằng. Không có gì sánh bằng được với nó, nên là vô song; đó là sự sinh ra trước.

‘‘Apī’’ti avatvā ‘‘pī’’ti vadanto pi-saddopi visuṃ atthi nipātoti dasseti. Sambhāvanattheti ‘‘api nāmevaṃ siyā’’ti vikappanattho sambhāvanattho, tasmiṃ jotakatāya pisaddo vattati. Vacanasiliṭṭhatāyāti vacanassa madhurabhāvatthaṃ, mudubhāvatthanti attho. Evañhi loke siliṭṭhavacanaṃ hotīti evaṃ ekameva gaṇanaṃ avatvā aparāya gaṇanāya saddhiṃ vacanaṃ loke siliṭṭhavacanaṃ hoti yathā ‘‘dve vā tīṇi vā udakaphusitānī’’ti. Sammā adhisayitānīti pādādīhi attanā nesaṃ kiñci upaghātaṃ akarontiyā bahivātādiparissayaparihāratthaṃ sammadeva upari sayitāni. Upariattho hettha adhi-saddo. Utuṃ gaṇhāpentiyāti tesaṃ allasinehapariyādānatthaṃ attano kāyusmāvasena utuṃ gaṇhāpentiyā. Tenāha ‘‘usmīkatānī’’ti. Sammā paribhāvitānīti sammadeva sabbaso kukkuṭavāsanāya vāsitāni. Tenāha ‘‘kukkuṭagandhaṃ gāhāpitānī’’ti.
Thay vì nói “api”, ngài nói “pi” để cho thấy rằng từ ‘pi’ cũng là một tiểu từ riêng biệt. Với ý nghĩa khả năng: “api nāmevaṃ siyā” (có lẽ nào lại như vậy) là ý nghĩa phỏng đoán, khả năng; tiểu từ ‘pi’ được dùng để làm rõ ý nghĩa đó. Để cho lời nói được trau chuốt: tức là để cho lời nói được ngọt ngào, được mềm mại. Quả vậy, trong đời, lời nói như vậy được xem là trau chuốt: tức là, trong đời, không nói một con số duy nhất mà nói cùng với một con số khác thì được xem là lời nói trau chuốt, ví dụ như “hai hoặc ba giọt nước”. Được ấp một cách đúng đắn: tức là được gà mẹ nằm ấp lên một cách đúng đắn để tránh các nguy hiểm từ gió bên ngoài v.v…, trong khi bản thân không làm tổn hại gì đến chúng bằng chân v.v… Ở đây, tiếp đầu ngữ adhi có nghĩa là ở trên. Khiến cho chúng hấp thụ hơi ấm: tức là khiến cho chúng hấp thụ hơi ấm từ thân mình để làm khô đi chất ẩm ướt của chúng. Do đó, ngài nói “đã được làm cho ấm”. Được thấm nhuần một cách đúng đắn: tức là được thấm nhuần hoàn toàn mùi của gà mái một cách đúng đắn. Do đó, ngài nói “đã được làm cho nhiễm mùi gà mái”.

Ettha ca sammā parisedanaṃ kukkuṭagandhaparibhāvanañca sammā adhisayananipphattiyā ānubhāvanipphāditanti daṭṭhabbaṃ. Sammā adhisayaneneva hi itaradvayaṃ ijjhati . Na hi sammā adhisayanato visuṃ sammā parisedanassa sammā paribhāvanassa ca karaṇaṃ atthi, tena pana saddhiṃyeva itaresaṃ dvinnampi ijjhanato vuttaṃ ‘‘evaṃ tīhi pakārehi tāni aṇḍāni paripāliyamānānī’’ti. Nakhasikhāti nakhaggāni. Mukhatuṇḍakanti mukhaggaṃ. Kapālassa tanukattāti ettha yathā kapālassa tanutā ālokassa anto paññāyamānassa kāraṇaṃ, tathā kapālassa tanutāya nakhasikhāmukhatuṇḍakānaṃ kharatāya ca allasinehapariyādānaṃ kāraṇavacananti daṭṭhabbaṃ. Saṅkuṭitahatthapādāti ettha hatthāti pakkhā. Na hi kukkuṭānaṃ pakkhato añño hattho nāma atthi. Etthāti ālokaṭṭhāne. Pakkhe vidhunantāti pakkhe cālentā. Nikkhamantānanti niddhāraṇe sāmivacanaṃ, nikkhamantesūti attho.
Ở đây, cần phải hiểu rằng việc sưởi ấm đúng đắn và việc thấm nhuần mùi gà mái là kết quả do năng lực của việc ấp trứng đúng đắn. Quả vậy, chính nhờ việc ấp trứng đúng đắn mà hai việc kia mới thành tựu. Không có việc sưởi ấm đúng đắn và thấm nhuần đúng đắn nào tách rời khỏi việc ấp trứng đúng đắn; do hai việc kia thành tựu cùng với việc này, nên mới nói “như vậy, những quả trứng đó được chăm sóc bằng ba cách”. Đầu móng: tức là ngọn móng. Đầu mỏ: tức là ngọn mỏ. Trong câu do vỏ trứng mỏng, cần phải hiểu rằng, cũng như sự mỏng của vỏ trứng là nguyên nhân cho ánh sáng được nhìn thấy bên trong, sự mỏng của vỏ trứng và sự sắc bén của đầu móng, đầu mỏ là nguyên nhân cho việc làm khô chất ẩm ướt. Trong câu chân tay co quắp, tay ở đây có nghĩa là cánh. Quả vậy, gà không có tay nào khác ngoài cánh. Ở đó: tức là ở nơi có ánh sáng. Đập cánh: tức là vẫy cánh. Trong số những con đang chui ra: từ chỉ sở hữu được dùng với nghĩa chỉ sự tách biệt, có nghĩa là trong số những con đang chui ra.

So jeṭṭho iti assa vacanīyoti yo paṭhamataraṃ aṇḍakosato nikkhanto kukkuṭapotako, soyeva jeṭṭhoti vacanīyo assa, bhaveyyāti attho. Sampaṭipādentoti saṃsandento. Tibhūmakapariyāpannāpi sattā avijjākosassa anto paviṭṭhā tattha tattha appahīnāya avijjāya veṭhitattāti āha ‘‘avijjākosassa anto paviṭṭhesu sattesū’’ti. Aṇḍakosanti bījakapālaṃ. Lokasannivāseti loko eva lokasannivāso. Sammāsambodhinti ettha sammāti aviparītattho, saṃ-saddo sāmanti imamatthaṃ dīpeti, tasmā sammā aviparītenākārena sayameva cattāri saccāni bujjhati paṭivijjhatīti sammāsambodhīti maggo vuccati. Tenāha ‘‘sammā sāmañca bodhi’’nti, sammā sayameva ca bujjhanakanti attho. Sammāti vā pasatthavacano, saṃ-saddo sundaravacanoti āha ‘‘atha vā pasatthaṃ sundarañca bodhi’’nti. Bodhisaddassa anekatthataṃ dassetvā idhādhippetamatthaṃ niddhāretvā dassetukāmo āha ‘‘bodhīti rukkhopi maggopī’’tiādi. Tattha abujjhi etthāti rukkho bodhi. Sayaṃ bujjhati, bujjhanti vā tena ariyāti maggo bodhi. Sabbadhamme sabbākārato bujjhati paṭivijjhatīti sabbaññutaññāṇaṃ bodhi. Bujjhīyati sacchikarīyatīti nibbānaṃ bodhi. Antarā ca bodhinti dutiyamudāharaṇaṃ vināpi rukkhasaddena bodhisaddassa rukkhe pavattidassanatthaṃ vuttaṃ. Varabhūrimedhasoti mahāpathavī viya patthaṭavarapaññoti attho. Asabbaguṇadāyakattāti sabbaguṇānaṃ adāyakattā. Sabbaguṇe na dadātīti hi asabbaguṇadāyako, ayuttasamāsoyaṃ gamakattā yathā ‘‘asūriyaṃpassāni mukhānī’’ti.
Nó đáng được gọi là con đầu đàn: con gà con nào chui ra khỏi vỏ trứng trước tiên, thì nó đáng được gọi là con đầu đàn. Trong khi đối chiếu: tức là trong khi so sánh. Ngay cả các chúng sanh trong ba cõi cũng đã lọt vào bên trong vỏ trứng vô minh, do bị vô minh chưa được đoạn trừ bao bọc khắp nơi. Do đó, ngài nói “trong số các chúng sanh đã lọt vào bên trong vỏ trứng vô minh”. Vỏ trứng: tức là vỏ của hạt giống. Trong thế gian: thế gian chính là nơi cư ngụ của thế gian. Trong từ Chánh Đẳng Giác, sammā có nghĩa là không sai lạc, từ saṃ làm rõ ý nghĩa là ‘bởi chính mình’; do đó, do tự mình giác ngộ bốn chân lý một cách không sai lạc, nên đạo được gọi là Chánh Đẳng Giác. Do đó, ngài nói “sự giác ngộ đúng đắn và bởi chính mình”, có nghĩa là sự tự mình giác ngộ một cách đúng đắn. Hoặc, sammā là từ chỉ sự tán thán, saṃ là từ chỉ sự tốt đẹp, nên ngài nói “hoặc là sự giác ngộ đáng tán thán và tốt đẹp”. Sau khi cho thấy nhiều ý nghĩa của từ ‘bodhi’, để xác định và trình bày ý nghĩa được nhắm đến ở đây, ngài nói “bodhi vừa là cây, vừa là đạo” v.v… Ở đó, do người ta giác ngộ tại đó, nên cây là bồ-đề. Tự mình giác ngộ, hoặc các bậc Thánh giác ngộ nhờ nó, nên đạo là bồ-đề. Do giác ngộ, thâm nhập tất cả các pháp về mọi phương diện, nên Nhất thiết trí là bồ-đề. Do được giác ngộ, được chứng ngộ, nên Niết-bàn là bồ-đề. Và ở giữa là bồ-đề: ví dụ thứ hai được nói để cho thấy rằng từ ‘bodhi’ cũng được dùng để chỉ cây cối, ngay cả khi không có từ ‘cây’ đi kèm. Bậc có trí tuệ cao quý, rộng lớn: tức là bậc có trí tuệ cao quý trải rộng như đại địa. Do không phải là người ban cho tất cả các phẩm chất: do không ban cho tất cả các phẩm chất. Quả vậy, người không ban cho tất cả các phẩm chất là người không ban cho tất cả các phẩm chất; đây là một hợp từ không đúng quy tắc nhưng được chấp nhận do có thể hiểu được, giống như câu “những gương mặt không thấy mặt trời”.

Tisso vijjāti upanissayavato saheva arahattaphalena tisso vijjā deti. Nanu cettha tīsu vijjāsu āsavakkhayañāṇassa maggapariyāpannattā kathametaṃ yujjati ‘‘maggo tisso vijjā detī’’ti? Nāyaṃ doso. Satipi āsavakkhayañāṇassa maggapariyāpannabhāve aṭṭhaṅgike magge sati maggañāṇena saddhiṃ tisso vijjā paripuṇṇā hontīti ‘‘maggo tisso vijjā detī’’ti vuccati. Cha abhiññāti etthāpi eseva nayo. Sāvakapāramiñāṇanti aggasāvakehi paṭilabhitabbaṃ sabbameva lokiyalokuttarañāṇaṃ. Paccekabodhiñāṇanti etthāpi imināva nayena attho veditabbo. Abbhaññāsinti jāniṃ. Jānanañca na anussavādivasenāti āha ‘‘paṭivijjhi’’nti, paccakkhamakāsinti attho. Paṭivedhopi na dūre ṭhitassa lakkhaṇappaṭivedho viyāti āha ‘‘pattomhī’’ti, pāpuṇinti attho. Pāpuṇanañca na sayaṃ gantvāti āha ‘‘adhigatomhī’’ti, sakasantāne uppādanavasena paṭilabhinti attho.
Ba minh: đối với người có nền tảng, đạo quả A-la-hán cùng với ba minh được ban cho. Nhưng ở đây, trong ba minh, do Lậu tận trí thuộc về đạo, vậy tại sao lại nói “đạo ban cho ba minh” là hợp lý? Đây không phải là một lỗi. Mặc dù Lậu tận trí thuộc về đạo, nhưng khi có Bát Thánh đạo, ba minh trở nên trọn vẹn cùng với đạo trí, nên mới nói “đạo ban cho ba minh”. Sáu thắng trí: ở đây cũng theo cách tương tự. Trí tuệ về các ba-la-mật của thinh văn: tức là tất cả trí tuệ thế gian và siêu thế mà các vị thượng thủ thinh văn có thể đạt được. Trí tuệ của bậc Độc Giác Phật: ở đây ý nghĩa cũng cần được hiểu theo cách này. Tôi đã biết. Sự biết này không phải là do nghe nói v.v…, nên ngài nói “tôi đã thâm nhập”, có nghĩa là tôi đã chứng nghiệm trực tiếp. Sự thâm nhập này cũng không giống như sự thâm nhập đặc tính của một vật ở xa, nên ngài nói “tôi đã đến”, có nghĩa là tôi đã đạt đến. Sự đạt đến này cũng không phải là do tự mình đi đến, nên ngài nói “tôi đã chứng đắc”, có nghĩa là tôi đã đạt được bằng cách làm cho nó phát sinh trong dòng tâm thức của mình.

Opammasampaṭipādananti opammatthassa upameyyena sammadeva paṭipādanaṃ. Atthenāti upameyyatthena. Yathā kukkuṭiyā aṇḍesu tividhakiriyākaraṇaṃ kukkuṭacchāpakānaṃ aṇḍakosato nikkhamanassa mūlakāraṇaṃ, evaṃ bodhisattabhūtassa bhagavato tividhānupassanākaraṇaṃ avijjaṇḍakosato nikkhamanassa mūlakāraṇanti āha ‘‘yathā hi tassā kukkuṭiyā…pe… tividhānupassanākaraṇa’’nti. ‘‘Santāne’’ti vuttattā aṇḍasadisatā santānassa bahi nikkhantakukkuṭacchāpakasadisatā buddhaguṇānaṃ, buddhaguṇāti ca atthato buddhoyeva ‘‘tathāgatassa kho etaṃ, vāseṭṭha, adhivacanaṃ dhammakāyo itipī’’ti vacanato. Avijjaṇḍakosassa tanubhāvoti balavavipassanāvasena avijjaṇḍakosassa tanubhāvo, paṭicchādanasāmaññena ca avijjāya aṇḍakosasadisatā. Mudubhūtassapi kharabhāvāpatti hotīti tannivattanatthaṃ ‘‘thaddhakharabhāvo’’ti vuttaṃ. Tikkhakharavippasannasūrabhāvoti ettha pariggayhamānesu saṅkhāresu vipassanāñāṇassa samādhindriyavasena sukhānuppaveso tikkhatā, anupavisitvāpi satindriyavasena anatikkamanato akuṇṭhatā kharabhāvo. Tikkhopi hi ekacco saro lakkhaṃ patvā kuṇṭho hoti, na tathā idaṃ. Satipi kharabhāve sukhumappavattivasena kilesasamudācārasaṅkhobharahitatāya saddhindriyavasena pasannabhāvo, satipi ca pasannabhāve antarā anosakkitvā kilesapaccatthikānaṃ suṭṭhu abhibhavanato vīriyindriyavasena sūrabhāvo veditabbo. Evamimehi pakārehi saṅkhārupekkhāñāṇameva gahitanti daṭṭhabbaṃ. Vipassanāñāṇassa pariṇāmakāloti vipassanāya vuṭṭhānagāminibhāvappatti, tadā ca sā maggañāṇagabbhaṃ dhārentī viya hotīti āha ‘‘gabbhaggahaṇakālo’’ti. Gabbhaṃ gaṇhāpetvāti saṅkhārupekkhāya anantaraṃ sikhāppattaanulomavipassanāvasena maggavijāyanatthaṃ gabbhaṃ gaṇhāpetvā. Anupubbādhigatenāti paṭhamamaggapaṭipāṭiyā adhigatena. Abhiññāpakkheti lokiyābhiññāpakkhe. Lokuttarābhiññā hi avijjaṇḍakosaṃ padālitā. Potthakesu pana katthaci ‘‘chaabhiññāpakkhe’’ti likhanti, so apāṭhoti veditabbo. Jeṭṭho seṭṭhoti vuddhatamattā jeṭṭho, sabbaguṇehi uttamattā pasatthatamoti seṭṭho.
Sự đối chiếu ví dụ: tức là sự đối chiếu một cách đúng đắn ý nghĩa của ví dụ với đối tượng được so sánh. Bởi ý nghĩa: tức là bởi ý nghĩa của đối tượng được so sánh. Giống như hành động ba mặt của gà mái đối với những quả trứng là nguyên nhân gốc rễ cho việc gà con chui ra khỏi vỏ trứng, cũng vậy, hành động tu tập ba loại quán chiếu của Đức Thế Tôn khi còn là Bồ-tát là nguyên nhân gốc rễ cho việc thoát ra khỏi vỏ trứng vô minh. Do đó, ngài nói “Quả vậy, giống như của gà mái đó… cho đến… hành động tu tập ba loại quán chiếu”. Do đã nói “trong dòng tâm thức”, nên dòng tâm thức tương tự như quả trứng, các phẩm chất của Đức Phật tương tự như gà con đã chui ra khỏi vỏ; và các phẩm chất của Đức Phật, về mặt ý nghĩa, chính là Đức Phật, theo câu “Này Vāseṭṭha, Pháp thân chính là một tên gọi khác của Như Lai”. Sự mỏng đi của vỏ trứng vô minh: tức là sự mỏng đi của vỏ trứng vô minh do tuệ quán mạnh mẽ; và do sự tương đồng về mặt che đậy, vô minh tương tự như vỏ trứng. Ngay cả vật đã mềm cũng có thể trở nên cứng chắc, để loại trừ khả năng đó, mới nói “trạng thái cứng chắc”. Trạng thái sắc bén, cứng rắn, trong sáng, và dũng mãnh: ở đây, sự thâm nhập một cách dễ dàng của tuệ quán vào các pháp hữu vi đang được quán xét do năng lực của định căn là sự sắc bén; sau khi đã thâm nhập, do năng lực của niệm căn, nó không bị thối lui, không bị cùn đi, đó là sự cứng rắn. Quả vậy, có những mũi tên sắc bén, sau khi trúng đích lại bị cùn đi, nhưng tuệ quán này thì không như vậy. Mặc dù cứng rắn, nhưng do vận hành một cách vi tế, không bị phiền não giao động, đó là sự trong sáng do năng lực của tín căn; và mặc dù trong sáng, nhưng do không lùi bước ở giữa chừng, chiến thắng một cách tốt đẹp các kẻ thù là phiền não, đó là sự dũng mãnh do năng lực của tấn căn, cần phải hiểu như vậy. Cần phải hiểu rằng, qua những cách này, chính tuệ xả hành đã được đề cập. Thời điểm chín muồi của tuệ quán: tức là tuệ quán đạt đến trạng thái xuất khởi; lúc đó, nó giống như đang mang thai đạo trí, nên mới nói “thời điểm thọ thai”. Sau khi đã thọ thai: tức là sau khi tuệ xả hành, ngay sau đó, bằng tuệ quán thuận thứ đã đạt đến đỉnh điểm, đã thọ thai để sinh ra đạo. Bởi sự chứng đắc tuần tự: tức là bởi sự chứng đắc theo thứ tự của đạo đầu tiên. Về phương diện thắng trí: tức là về phương diện thắng trí thế gian. Thắng trí siêu thế đã phá vỡ vỏ trứng vô minh. Tuy nhiên, trong một số sách, người ta viết là “về phương diện sáu thắng trí”, điều đó cần được hiểu là một cách đọc sai. Bậc trưởng thượng, bậc cao quý nhất: do cao cả nhất, nên là bậc trưởng thượng; do cao quý nhất về mọi đức hạnh, đáng được tán thán nhất, nên là bậc cao quý nhất.

Idāni ‘‘āraddhaṃ kho pana me brāhmaṇa vīriya’’ntiādikāya desanāya anusandhiṃ dassento āha ‘‘evaṃ bhagavā’’tiādi. Tattha pubbabhāgato pabhutīti bhāvanāya pubbabhāgiyavīriyārambhādito paṭṭhāya. Cittamevamuppannanti evaṃ upari vakkhamānaparivitakkavasena cittamuppannanti attho. ‘‘Cittameva uppanna’’ntipi pāṭho, tattha cittameva uppannaṃ, na tāva bhagavati pasādoti attho. Muṭṭhassatināti vinaṭṭhassatinā, sativirahitenāti attho. Sāraddhakāyenāti sadarathakāyena. Bodhimaṇḍeti bodhisaṅkhātassa ñāṇassa maṇḍabhāvappatte ṭhāne. Bodhīti hi paññā vuccati, sā ettha maṇḍā pasannā jātāti so padeso ‘‘bodhimaṇḍo’’ti paññāto. Caturaṅgasamannāgatanti ‘‘kāmaṃ taco ca nhāru ca aṭṭhi ca avasissatu, sarīre upasussatu maṃsalohita’’nti (ma. ni. 2.184; saṃ. ni. 2.22; a. ni. 2.5; mahāni. 196) evaṃ vuttacaturaṅgasamannāgataṃ vīriyaṃ. Tattha tacoti ekaṃ aṅgaṃ nhāru ekaṃ aṅgaṃ aṭṭhi ekaṃ aṅgaṃ maṃsalohitaṃ ekaṃ aṅganti veditabbaṃ. Taco ekaṃ aṅganti ca tace nirapekkhabhāvo ekaṃ aṅganti gahetabbaṃ. Padhānaṃ anuyuñjantassa hi tace palujjamānepi taṃnimittaṃ avosānāpajjanaṃ tassa vīriyassa ekaṃ aṅgaṃ ekaṃ kāraṇaṃ. Evaṃ sesesupi attho veditabbo. Paggahitanti ārambhaṃ sithilaṃ akatvā daḷhaparakkamasaṅkhātussāhanabhāvena gahitaṃ. Tenāha ‘‘asithilappavattitanti vuttaṃ hotī’’ti.
Bây giờ, để cho thấy sự liên kết với bài thuyết giảng bắt đầu bằng câu “Này Bà-la-môn, Ta đã khởi sự tinh tấn”, ngài nói “Như vậy, Đức Thế Tôn…” v.v… Ở đó, từ giai đoạn đầu: tức là bắt đầu từ việc khởi sự tinh tấn ở giai đoạn đầu của sự tu tập. Tâm đã phát sinh như vậy: có nghĩa là tâm đã phát sinh theo cách suy xét sẽ được nói ở trên. Cũng có cách đọc là “chỉ có tâm phát sinh”, ở đó có nghĩa là chỉ có tâm phát sinh, chứ chưa có sự tin tưởng nơi Đức Thế Tôn. Người thất niệm: tức là người mất niệm, người thiếu niệm. Với thân mệt mỏi: tức là với thân thể mệt nhọc. Tại Bồ-đề đoàn: tức là tại nơi mà trí tuệ, được gọi là Bồ-đề, đã đạt đến trạng thái tinh túy. Quả vậy, Bồ-đề được gọi là trí tuệ; tại nơi đó, trí tuệ đã trở nên tinh túy, trong sáng, nên nơi đó được biết đến là “Bồ-đề đoàn”. Sự tinh tấn được hợp thành bởi bốn yếu tố: tức là sự tinh tấn được hợp thành bởi bốn yếu tố đã được nói trong các kinh như “Dù cho chỉ còn lại da, gân, và xương, dù cho thịt và máu trong thân có khô cạn đi” (ma. ni. 2.184; saṃ. ni. 2.22; a. ni. 2.5; mahāni. 196). Ở đó, cần phải hiểu rằng: da là một yếu tố, gân là một yếu tố, xương là một yếu tố, thịt và máu là một yếu tố. Và da là một yếu tố cần được hiểu là sự không luyến tiếc đối với da là một yếu tố. Quả vậy, đối với người đang nỗ lực tinh tấn, ngay cả khi da bị rách nát, việc không bỏ cuộc vì lý do đó là một yếu tố, một nguyên nhân của sự tinh tấn đó. Ý nghĩa đối với các yếu tố còn lại cũng cần được hiểu như vậy. Đã được khởi xướng: tức là được nắm giữ bằng cách không buông lỏng sự nỗ lực, bằng trạng thái cố gắng được gọi là sự nỗ lực kiên cố. Do đó, ngài nói “có nghĩa là được duy trì không lơi lỏng”.

Asallīnanti asaṅkucitaṃ kosajjavasena saṅkocaṃ anāpannaṃ. Upaṭṭhitāti ogāhanasaṅkhātena apilāpabhāvena ārammaṇaṃ upagantvā ṭhitā. Tenāha ‘‘ārammaṇābhimukhībhāvenā’’ti. Sammosassa viddhaṃsanavasena pavattiyā na sammuṭṭhāti asammuṭṭhā. Kiñcāpi cittapassaddhivaseneva cittameva passaddhaṃ, kāyapassaddhivaseneva ca kāyo passaddho hoti, tathāpi yasmā kāyapassaddhi uppajjamānā cittapassaddhiyā saheva uppajjati, na vinā, tasmā vuttaṃ ‘‘kāyacittapassaddhivasenā’’ti. Kāyapassaddhiyā ubhayesampi kāyānaṃ passambhanāvahattā vuttaṃ ‘‘rūpakāyopi passaddhoyeva hotī’’ti. So ca khoti so ca kho kāyo. Vigatadarathoti vigatakilesadaratho. Nāmakāye hi vigatadarathe rūpakāyopi vūpasantadarathapariḷāho hoti. Sammā āhitanti nānārammaṇesu vidhāvanasaṅkhātaṃ vikkhepaṃ vicchinditvā ekasmiṃyeva ārammaṇe avikkhittabhāvāpādanena sammadeva āhitaṃ ṭhapitaṃ. Tenāha ‘‘suṭṭhu ṭhapita’’ntiādi. Cittassa anekaggabhāvo vikkhepavasena cañcalatā, sā sati ekaggatāya na hotīti āha ‘‘ekaggaṃ acalaṃ nipphandana’’nti. Ettāvatāti ‘‘āraddhaṃ kho panā’’tiādinā vīriyasatipassaddhisamādhīnaṃ kiccasiddhidassanena.
Không co rút: tức là không thu mình lại, không co rút do sự biếng nhác. Đã được thiết lập: tức là đã đi vào và đứng vững trên đối tượng bằng trạng thái không quên lãng, được gọi là sự thâm nhập. Do đó, ngài nói “bằng cách hướng đến đối tượng”. Do vận hành bằng cách phá tan sự lãng quên, nên không mê mờ, đó là không mê mờ. Mặc dù tâm chỉ an tịnh do năng lực của tâm khinh an, và thân chỉ an tịnh do năng lực của thân khinh an, tuy nhiên, vì thân khinh an khi phát sinh thì phát sinh cùng lúc với tâm khinh an, chứ không tách rời, do đó mới nói “do năng lực của thân và tâm khinh an”. Do thân khinh an mang lại sự an tịnh cho cả hai loại thân, nên mới nói “sắc thân cũng trở nên an tịnh”. Và thân đó: tức là sắc thân đó. Đã hết mệt mỏi: tức là đã hết sự mệt mỏi do phiền não. Quả vậy, khi danh thân hết mệt mỏi, sắc thân cũng có sự nóng bức, mệt nhọc được lắng dịu. Đã được đặt một cách đúng đắn: tức là đã được đặt, được thiết lập một cách đúng đắn bằng cách cắt đứt sự phóng dật, vốn là sự chạy theo nhiều đối tượng khác nhau, và đưa đến trạng thái không tán loạn trên một đối tượng duy nhất. Do đó, ngài nói “đã được thiết lập một cách tốt đẹp” v.v… Trạng thái không nhất tâm của tâm là sự dao động do tán loạn; khi có sự nhất tâm thì không có trạng thái đó, nên ngài nói “nhất tâm, không dao động, không lay động”. Với chừng ấy: tức là qua việc cho thấy sự thành tựu của các yếu tố tinh tấn, niệm, khinh an, và định, bằng các câu bắt đầu từ “Ta đã khởi sự tinh tấn”.

Nanu ca saddhāpaññānampi kiccasiddhi jhānassa pubbapaṭipadāya icchitabbāti? Saccaṃ icchitabbā, sā pana nānantarikabhāvena avuttasiddhāti na gahitā. Asati hi saddhāya vīriyārambhādīnaṃ asambhavoyeva, paññāpariggahe ca nesaṃ asati ñāyārambhādibhāvo na siyā, tathā asallīnāsammosatādayo vīriyādīnanti asallīnatādiggahaṇenevettha paññākiccasiddhi gahitāti daṭṭhabbaṃ. Jhānabhāvanāyaṃ vā samādhikiccaṃ adhikaṃ icchitabbanti dassetuṃ samādhipariyosānāva jhānassa pubbapaṭipadā kathitāti daṭṭhabbaṃ.
Nhưng chẳng phải sự thành tựu của tín và tuệ cũng cần phải có trong giai đoạn chuẩn bị cho thiền định sao? Đúng là cần phải có, nhưng do chúng không phải là yếu tố kế cận trực tiếp và sự thành tựu của chúng không được nói đến, nên chúng không được đề cập. Quả vậy, nếu không có tín, thì không thể có sự khởi sự tinh tấn v.v…; và nếu không có sự hướng dẫn của tuệ, thì chúng không thể trở thành sự khởi sự đúng đắn v.v… Tương tự, các trạng thái không co rút, không mê mờ v.v… của tinh tấn v.v…, do đó cần phải hiểu rằng sự thành tựu của tuệ đã được bao hàm trong việc đề cập đến các trạng thái không co rút v.v… Hoặc, để cho thấy rằng trong việc tu tập thiền định, vai trò của định là quan trọng hơn, nên giai đoạn chuẩn bị cho thiền định đã được trình bày với sự kết thúc ở định, cần phải hiểu như vậy.

Paṭhamajjhānakathā
Luận về Sơ thiền

Idāni ‘‘vivicceva kāmehī’’tiādinayappavattāya pāḷiyā jhānavibhaṅge (vibha. 508) vuttampi atthaṃ aṭṭhakathānayeneva saṃvaṇṇetukāmo vibhaṅgapāḷiyaṃ vuttanayena avacane kāraṇaṃ dassetuṃ ‘‘kiñcāpi tattha katame kāmā’’tiādimāha . Tattha patthanākārena pavatto dubbalo lobho chandanaṭṭhena chando, tato balavā rañjanaṭṭhena rāgo, tatopi balavataro bahalarāgo chandarāgo. Nimittānubyañjanāni saṅkappeti etenāti saṅkappo, tathāpavatto lobho. Tattha nimittasaṅkappanā nāma avayave samodhānetvā ‘‘itthī puriso’’tiādinā ekajjhaṃ katvā uparūpari kilesuppattiyā nimittassa kappanā. Anubyañjanasaṅkappanā pana ‘‘hatthā sobhanā, pādā sobhanā’’ti evaṃ anubyañjanavasena vibhajitvā kappanāti. Kilesānañhi anu anu byañjanato paribyañjanato paribyattivasena uppattiyā paccayabhāvato anubyañjanaṃ hatthapādādiavayavā vuccanti. Tato balavā rañjanaṭṭhena rāgo, saṅkappavaseneva pavatto tatopi balavataro saṅkapparāgo. Svāyaṃ pabhedo ekasseva lobhassa pavattiākāravasena avatthābhedavasena ca veditabbo yathā ‘‘vaccho dammo balībaddo’’ti. Kāmāti kilesakāmā, kāmentīti kāmā, kāmenti etehīti vā.
Bây giờ, để chú giải ý nghĩa đã được nói trong phần Phân tích về thiền (vibha. 508) của bài kinh bắt đầu bằng câu “ly dục” v.v… theo phương pháp của các sách chú giải, và để cho thấy lý do tại sao không nói theo phương pháp đã được trình bày trong kinh Phân Tích, ngài bắt đầu bằng câu “Mặc dù ở đó, thế nào là các dục?” v.v… Ở đó, lòng tham yếu ớt phát sinh dưới hình thức mong muốn, do có đặc tính ước muốn, là dục; lòng tham mạnh hơn, do có đặc tính đam mê, là tham; lòng tham còn mạnh hơn nữa, rất mãnh liệt, là dục tham. Cái mà người ta dùng để suy xét về các tướng và tùy tướng là tầm, đó là lòng tham vận hành theo cách đó. Ở đó, sự suy xét về tướng là sự kết hợp các bộ phận lại rồi suy xét một cách tổng thể như “đàn bà, đàn ông” v.v…, khiến cho các phiền não phát sinh liên tiếp. Còn sự suy xét về tùy tướng là sự phân chia rồi suy xét theo từng tùy tướng, như “tay đẹp, chân đẹp” v.v… Các bộ phận như tay, chân v.v… được gọi là tùy tướng vì chúng là điều kiện cho sự phát sinh của các phiền não, do chúng biểu hiện và làm rõ phiền não một cách liên tục. Lòng tham mạnh hơn, do có đặc tính đam mê, là tham; lòng tham còn mạnh hơn nữa, phát sinh do sự suy xét, là tầm tham. Sự phân chia này cần được hiểu là các trạng thái khác nhau của cùng một lòng tham, tùy theo cách thức và giai đoạn vận hành của nó, giống như “bê con, bò cày, bò đực”. Các dục là các dục phiền não; chúng được gọi là dục vì chúng khao khát, hoặc vì người ta khao khát bằng chúng.

Seyyathidanti imassa taṃ katamaṃ, taṃ kathanti vā attho. Viviccitvāti visuṃ hutvā. Tenāha ‘‘vinā hutvā apasakkitvā’’ti, pajahanavasena apakkamitvāti attho. Vivicceva kāmehīti ettha viviccāti iminā vivecanaṃ jhānakkhaṇe kāmānaṃ abhāvamattaṃ vuttaṃ. Viviccevāti pana iminā ekaṃsato kāmānaṃ vivecetabbatādīpanena tappaṭipakkhatā jhānassa kāmavivekappahānassa ca jhānādhigamūpāyatā dassitā hotīti imamatthaṃ dassetuṃ ‘‘paṭhamajjhāna’’ntiādiṃ vatvā tamevatthaṃ pākaṭataraṃ kātuṃ ‘‘katha’’ntiādi vuttaṃ. Andhakāre sati padīpo viyāti etena yathā padīpābhāvena rattiyaṃ andhakārābhibhavo, evaṃ jhānābhāvena cittasantatiyaṃ kāmābhibhavoti dasseti.
Từ seyyathidaṃ có nghĩa là, đó là gì, hay đó là thế nào? Sau khi đã ly: tức là sau khi đã tách riêng ra. Do đó, ngài nói “sau khi đã tách rời, đã lui ra”, có nghĩa là đã lui ra bằng cách từ bỏ. Trong câu ly dục, từ ly chỉ đơn thuần nói lên sự vắng mặt của các dục trong khoảnh khắc của thiền. Còn từ ly (với sự nhấn mạnh) cho thấy rằng các dục phải được ly một cách hoàn toàn, qua đó cho thấy rằng việc đối lập với các dục và việc từ bỏ các dục bằng sự ly khai là phương tiện để chứng đắc thiền. Để làm rõ ý nghĩa này, sau khi nói “sơ thiền” v.v…, ngài lại nói “Thế nào?” v.v… để làm cho ý nghĩa đó trở nên rõ ràng hơn. Giống như ngọn đèn trong bóng tối: qua đó, ngài cho thấy rằng, cũng như bóng tối bao trùm ban đêm do không có đèn, các dục cũng bao trùm dòng tâm thức do không có thiền.

Etanti pubbapadeyeva avadhāraṇavacanaṃ, na kho pana evaṃ daṭṭhabbaṃ ‘‘kāmehi evā’’ti avadhāraṇassa akatattā. Tannissaraṇatoti nissaranti niggacchanti etena, ettha vāti nissaraṇaṃ. Ke niggacchanti? Kāmā. Tesaṃ kāmānaṃ nissaraṇaṃ pahānaṃ tannissaraṇaṃ, tato kāmanissaraṇatoti attho. Kathaṃ pana samāne vikkhambhane kāmānamevetaṃ nissaraṇaṃ, na byāpādādīnanti codanaṃ yuttito āgamato ca sādhetuṃ ‘‘kāmadhātū’’tiādi vuttaṃ. Tattha kāmadhātusamatikkamanatoti sakalassapi kāmabhavassa samatikkamapaṭipadābhāvato. Tena imassa jhānassa kāmapariññābhāvamāha . Kāmarāgapaṭipakkhatoti ‘‘chando kāmo’’tiādinā (mahāni. 1) vuttavibhāgassa kilesakāmassa paccatthikabhāvato. Tena yathā mettā byāpādassa, karuṇā vihiṃsāya, evamidaṃ jhānaṃ kāmarāgassa ujuvipaccanīkabhūtanti dasseti. Vipākena cettha kāmadhātusamatikkamo attano pavattikkhaṇe kāmarāgapaṭipakkhatā ca veditabbā. Evamattano pavattiyā vipākappavattiyā ca kāmarāgato kāmadhātuto ca vinivattasabhāvattā idaṃ jhānaṃ visesato kāmānameva nissaraṇaṃ, svāyamattho pāṭhāgato evāti āha ‘‘yathāhā’’tiādi. Nekkhammanti paṭhamajjhānaṃ.
Điều này: là một từ nhấn mạnh cho từ đứng trước nó; không nên hiểu rằng sự nhấn mạnh là không có, vì không có sự nhấn mạnh nào được đặt vào câu “chỉ từ các dục”. Do sự xuất ly khỏi chúng: người ta xuất ly, thoát ra khỏi nó, hoặc tại đó, nên gọi là sự xuất ly. Ai thoát ra? Các dục. Sự xuất ly khỏi các dục đó, sự từ bỏ chúng, là sự xuất ly khỏi chúng; có nghĩa là, do sự xuất ly khỏi các dục. Nhưng tại sao, trong khi sự đè nén là như nhau, đây lại chỉ là sự xuất ly khỏi các dục, mà không phải là khỏi sân hận v.v…? Để chứng minh câu hỏi này bằng lý lẽ và kinh điển, ngài nói “dục giới” v.v… Ở đó, do sự vượt qua dục giới: tức là do bản chất là con đường thực hành để vượt qua toàn bộ cõi dục. Qua đó, ngài cho thấy rằng thiền này có bản chất là sự liễu tri về dục. Do đối nghịch với dục tham: tức là do là kẻ thù của dục phiền não, vốn đã được phân loại trong các câu như “Dục là sự ham muốn” v.v… (mahāni. 1). Qua đó, ngài cho thấy rằng, cũng như tâm từ đối nghịch với sân hận, tâm bi đối nghịch với sự hãm hại, thiền này cũng là pháp đối nghịch trực tiếp với dục tham. Cần phải biết rằng sự vượt qua dục giới là do quả của nó, và sự đối nghịch với dục tham là tại khoảnh khắc nó phát sinh. Như vậy, do bản chất của nó và quả của nó đều là sự từ bỏ dục tham và dục giới, nên thiền này đặc biệt là sự xuất ly khỏi các dục. Ý nghĩa này đã có sẵn trong kinh điển, nên ngài nói “như đã nói” v.v… Xuất ly: tức là sơ thiền.

Kāmañcettha tamatthaṃ dīpetuṃ purimapadeyeva avadhāraṇaṃ gahitaṃ, uttarapadepi pana taṃ gahetabbameva tathā atthasambhavatoti dassetuṃ ‘‘uttarapadepī’’tiādi vuttaṃ. Itoti kāmacchandato. Esa daṭṭhabboti esa niyamo daṭṭhabbo. Sādhāraṇavacanenāti sabbavivekasādhāraṇavacanena. Tadaṅgavikkhambhanasamucchedapaṭippassaddhinissaraṇavivekā tadaṅgavivekādayo. Kāyacittaupadhivivekā kāyavivekādayo. Tayo eva idha daṭṭhabbāti tayo eva idha jhānakathāyaṃ daṭṭhabbā samucchedavivekādīnaṃ asambhavato. Niddeseti mahāniddese (mahāni. 1). Tattha hi ‘‘uddānato dve kāmā vatthukāmā kilesakāmā cā’’ti uddisitvā tattha ‘‘katame vatthukāmā manāpiyā rūpā…pe… manāpiyā phoṭṭhabbā’’tiādinā vatthukāmā niddiṭṭhā. Te pana kāmīyantīti kāmāti veditabbā. Tatthevāti niddeseyeva. Vibhaṅgeti jhānavibhaṅge. Evañhi satīti evaṃ ubhayesampi kāmānaṃ saṅgahe sati. Vatthukāmehipīti vatthukāmehi viviccevātipi attho yujjatīti evaṃ yujjamānatthantarasamuccayattho pi-saddo, na kilesakāmasamuccayattho. Kasmā? Imasmiṃ atthe kilesakāmehi vivekassa dutiyapadena vuttattā. Tenāti vatthukāmavivekena. Kāyaviveko vutto hotīti puttadārādipariggahavivekadīpanato kāyaviveko vutto hoti.
Mặc dù ở đây, để làm rõ ý nghĩa đó, sự nhấn mạnh đã được đặt vào từ đứng trước, nhưng cũng cần phải hiểu rằng nó cũng được áp dụng cho từ đứng sau, vì ý nghĩa cũng có thể được hiểu như vậy. Do đó, ngài mới nói “cũng ở từ đứng sau” v.v… Từ đây: tức là từ dục tham. Cần phải hiểu quy tắc này: tức là cần phải hiểu quy luật này. Bằng một cách nói chung: tức là bằng một cách nói chung cho tất cả các loại ly. Các loại ly như ly bằng cách chi phần, ly bằng cách đè nén, ly bằng cách cắt đứt, ly bằng cách an tịnh, và ly bằng cách xuất ly là các loại ly bằng chi phần v.v…. Các loại ly như thân ly, tâm ly, và phiền não ly là các loại thân ly v.v…. Chỉ có ba loại được thấy ở đây: tức là chỉ có ba loại được thấy ở đây trong bài luận về thiền, vì các loại ly như ly bằng cách cắt đứt v.v… không thể có ở đây. Trong sách Niddesa: tức là trong sách Mahāniddesa (mahāni. 1). Quả vậy, ở đó, sau khi đã nêu lên rằng “tóm lại, có hai loại dục: dục đối tượng và dục phiền não”, ngài đã giải thích về dục đối tượng bằng các câu như “thế nào là dục đối tượng? các sắc pháp đáng yêu… cho đến… các xúc pháp đáng yêu” v.v… Chúng cần được hiểu là dục vì chúng được người ta khao khát. Cũng tại đó: tức là cũng trong sách Niddesa. Trong sách Vibhaṅga: tức là trong phần phân tích về thiền. Khi như vậy: tức là khi cả hai loại dục đều được bao gồm như vậy. Cũng từ các dục đối tượng: từ pi ở đây có ý nghĩa là kết hợp thêm một ý nghĩa khác đang phù hợp, đó là ý nghĩa “cũng ly khỏi các dục đối tượng” là phù hợp, chứ không có ý nghĩa là kết hợp thêm dục phiền não. Tại sao? Vì trong ý nghĩa này, sự ly khỏi dục phiền não đã được nói đến ở vế thứ hai. Do đó: tức là do sự ly khỏi dục đối tượng. Thân ly đã được nói đến: do cho thấy sự ly khỏi các đối tượng ràng buộc như con cái, vợ chồng v.v…, nên thân ly đã được nói đến.

Purimenāti kāyavivekena. Etthāti ‘‘vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehī’’ti etasmiṃ padadvaye. Ito vā niddhārite vivekadvaye, akusalasaddena yadi kilesakāmā, sabbākusalāpi vā gahitā, sabbathā kilesakāmehi viveko vuttoti āha ‘‘dutiyena kilesakāmehi vivekavacanato’’ti. Dutiyenāti ca cittavivekenāti attho. Etesanti yathāvuttānaṃ dvinnaṃ padānaṃ. Niddhāraṇe cetaṃ sāmivacanaṃ. Taṇhādisaṃkilesānaṃ vatthuno pahānaṃ saṃkilesavatthuppahānaṃLolabhāvo nāma tattha tattha rūpādīsu taṇhuppādo, tassa hetū vatthukāmā eva veditabbā. Bālabhāvassa hetupariccāgoti sambandho. Bālabhāvo nāma avijjā, ducintitacintitādi vā, tassa ayonisomanasikāro, sabbepi vā akusalā dhammā hetū. Kāmaguṇādhigamahetu pāṇātipātādiasuddhappayogo hotīti tabbivekena payogasuddhi vibhāvitā. Taṇhāsaṃkilesasodhanena vivaṭṭūpanissayasaṃvaḍḍhanena ca ajjhāsayavisodhanaṃ āsayaposanaṃ. Āsayaposananti ca jhānabhāvanāya paccayabhūtā pubbayogādivasena siddhā ajjhāsayasampadā , sā pana taṇhupatāpavigamena hoti. Tena vuttaṃ ‘‘taṇhāsaṃkilesavisodhanenā’’ti. Kāmesūti niddhāraṇe bhummaṃ.
Bởi cái trước: tức là bởi thân ly. Ở đây: tức là trong hai vế câu “ly dục, ly các pháp bất thiện”. Hoặc, trong hai loại ly đã được xác định ở đây, nếu từ ‘bất thiện’ được hiểu là dục phiền não, hoặc là tất cả các pháp bất thiện, thì trong mọi trường hợp, sự ly khỏi dục phiền não đã được nói đến. Do đó, ngài nói “do vế thứ hai nói về sự ly khỏi dục phiền não”. Bởi cái thứ hai: có nghĩa là bởi tâm ly. Của chúng: tức là của hai vế câu đã được nói. Đây là từ chỉ sở hữu được dùng với nghĩa chỉ sự xác định. Sự từ bỏ nền tảng của các pháp ô nhiễm như ái dục v.v… là sự từ bỏ nền tảng của sự ô nhiễm. Trạng thái ham muốn là sự phát sinh ái dục đối với các đối tượng như sắc v.v…; cần phải hiểu rằng nguyên nhân của nó chính là các dục đối tượng. Cần phải liên kết với câu: sự từ bỏ nguyên nhân của trạng thái ngu si. Trạng thái ngu si là vô minh, hoặc là những suy nghĩ sai lầm v.v…; nguyên nhân của nó là sự tác ý không như lý, hoặc là tất cả các pháp bất thiện. Do hành vi bất tịnh như sát sanh v.v… là nguyên nhân để đạt được các dục trần, nên qua sự ly khỏi chúng, sự trong sạch trong hành vi đã được làm rõ. Việc nuôi dưỡng khuynh hướng là sự nuôi dưỡng khuynh hướng bằng cách thanh lọc sự ô nhiễm của ái dục và phát triển nền tảng cho sự giải thoát. Sự nuôi dưỡng khuynh hướng là sự thành tựu về khuynh hướng đã có được qua các yếu tố như sự tu tập trước đây, vốn là điều kiện cho việc tu tập thiền định; và điều đó có được là nhờ sự chấm dứt sự thiêu đốt của ái dục. Do đó, mới nói “bằng cách thanh lọc sự ô nhiễm của ái dục”. Trong các dục: từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa chỉ sự xác định.

Anekabhedoti kāmāsavakāmarāgasaṃyojanādivasena rūpataṇhādivasena ca anekappabhedo. Kāmacchandoyevāti kāmasabhāvoyeva chando, na kattukamyatāchando napi kusalacchandoti adhippāyo. Akusalapariyāpannopīti ‘‘vivicca akusalehī’’ti ettha vuttaakusalesu antogadhopi. Jhānapaṭipakkhatoti jhānassa paṭipakkhabhāvato taṃhetu taṃnimittaṃ visuṃ vutto, akusalabhāvasāmaññena aggahetvā visuṃ sarūpena gahito. Yadi kilesakāmova purimapade vutto, taṃ kathaṃ bahuvacananti āha ‘‘anekabhedato’’tiādi. Aññesampīti diṭṭhimānaahirikānottappādīnaṃ taṃsahitaphassādīnañca. Uparijhānaṅgapaccanīkapaṭipakkhabhāvadassanatoti ‘‘savitakkaṃ savicāra’’ntiādinā upari vuccamānāni jhānaṅgāni uparijhānaṅgāni, tesaṃ attano paccanīkānaṃ paṭipakkhabhāvadassanato tappaccanīkanīvaraṇavacanaṃ. ‘‘Uparijhānaṅgānaṃ paccanīkapaṭipakkhabhāvadassanato’’tipi pāṭho. Tattha paccanīkapaṭipakkhabhāvadassanatoti upari vuccamānajhānaṅgānaṃ ujuvipaccanīkavasena paṭipakkhabhāvadassanatoti atthaṃ vadanti. Jhānaṅgapaccanīkānīti jhānaṅgānaṃ pavattinivāraṇato jhānaṅgapaccanīkāni. Viddhaṃsakānīti vighātakāni. Samādhi kāmacchandassapaṭipakkhoti rāgapaṇidhiyā ujuvipaccanīkabhāvato nānārammaṇehi palobhitassa paribbhamantassa cittassa samādhānato kāmacchandassa samādhi paṭipakkho. Pīti byāpādassāti pāmojjena samānayogakkhemattā byāpādassa pīti paṭipakkhā. Vitakko thinamiddhassāti yoniso saṅkappanavasena savipphārappavattito vitakko thinamiddhassa paṭipakkho. Sukhaṃ uddhaccakukkuccassāti sukhaṃ vūpasantasītalasabhāvattā avūpasamānutāpasabhāvassa uddhaccakukkuccassa paṭipakkhaṃ. Vicāro vicikicchāyāti vicāro ārammaṇe anumajjanavasena paññāpatirūpasabhāvattā vicikicchāya paṭipakkho. Mahākaccānattherena desitā piṭakānaṃ saṃvaṇṇanā peṭakaṃ, tasmiṃ peṭake.
Nhiều loại khác nhau: tức là có nhiều loại khác nhau theo các cách phân loại như dục lậu, dục tham triền v.v… và theo các loại như sắc ái v.v… Chính là dục tham: tức là lòng ham muốn có bản chất là dục, chứ không phải là lòng ham muốn làm, cũng không phải là lòng ham muốn thiện; đó là chủ ý. Cũng thuộc về pháp bất thiện: tức là cũng nằm trong các pháp bất thiện đã được nói đến trong câu “ly các pháp bất thiện”. Do đối nghịch với thiền: do là pháp đối nghịch với thiền, là nguyên nhân và dấu hiệu của nó, nên nó được nói riêng, được xem xét với bản chất riêng của nó chứ không gộp chung vào sự tương đồng về bản chất bất thiện. Nếu chỉ có dục phiền não được nói đến ở vế đầu, tại sao lại dùng số nhiều? Mới nói: “do có nhiều loại khác nhau” v.v… Cũng của những cái khác: tức là của tà kiến, ngã mạn, vô tàm, vô quý v.v… và của các pháp như xúc v.v… đi kèm với chúng. Do cho thấy sự đối nghịch với các pháp đối lập với các thiền chi cao hơn: các thiền chi được nói ở trên như “có tầm, có tứ” v.v… là các thiền chi cao hơn; việc nói đến các triền cái đối nghịch với chúng là để cho thấy sự đối nghịch đó. Cũng có cách đọc là “do cho thấy sự đối nghịch với các pháp đối lập của các thiền chi cao hơn”. Ở đó, các vị giải thích ý nghĩa là: do cho thấy sự đối nghịch theo cách đối lập trực tiếp với các thiền chi được nói ở trên. Các pháp đối nghịch với thiền chi: do chúng ngăn cản sự phát sinh của các thiền chi, nên chúng là các pháp đối nghịch với thiền chi. Các pháp phá hoại: tức là các pháp gây trở ngại. Định là pháp đối nghịch với dục tham: do là pháp đối lập trực tiếp với sự hướng đến tham ái, và do làm cho tâm, vốn bị lôi kéo bởi nhiều đối tượng khác nhau và lang thang, được an định, nên định là pháp đối nghịch với dục tham. Hỷ đối nghịch với sân hận: do có sự an ổn tương đồng với sự hoan hỷ, nên hỷ là pháp đối nghịch với sân hận. Tầm đối nghịch với hôn trầm thụy miên: do vận hành một cách lan tỏa theo cách suy xét như lý, nên tầm là pháp đối nghịch với hôn trầm thụy miên. Lạc đối nghịch với trạo cử hối quá: do lạc có bản chất an tịnh, mát mẻ, nên nó là pháp đối nghịch với trạo cử hối quá, vốn có bản chất không an tịnh, nóng nảy. Tứ đối nghịch với hoài nghi: do tứ có bản chất tương tự như trí tuệ theo cách thẩm sát đối tượng, nên nó là pháp đối nghịch với hoài nghi. Sách chú giải về các tạng kinh do trưởng lão Mahākaccāna thuyết giảng là Peṭaka; trong sách Peṭaka đó.

Pañcakāmaguṇabhedavisayassāti rūpādipañcakāmaguṇavisesavisayassa. Āghātavatthubhedādivisayānanti byāpādavivekavacanena ‘‘anatthaṃ me acarī’’tiādiāghātavatthubhedavisayassa dosassa, mohādhikehi thinamiddhādīhi vivekavacanena paṭicchādanavasena dukkhādipubbantādibhedavisayassa mohassa vikkhambhanaviveko vutto. Kāmarāgabyāpādatadekaṭṭhathinamiddhādivikkhambhakañcetaṃ sabbākusalapaṭipakkhasabhāvattā sabbakusalānaṃ, tena sabhāvena sabbākusalappahāyakaṃ hontampi kāmarāgādivikkhambhanasabhāvameva hoti taṃsabhāvattāti avisesetvā nīvaraṇākusalamūlādīnaṃ vikkhambhanaviveko vutto hotīti āha.
Có đối tượng là các loại khác nhau của năm dục trần: tức là có đối tượng là các loại đặc biệt của năm dục trần như sắc v.v… Có đối tượng là các loại khác nhau của các nền tảng sân hận v.v…: ngài nói rằng, qua việc nói về sự ly khỏi sân hận, sự ly bằng cách đè nén đối với sân, vốn có đối tượng là các loại khác nhau của các nền tảng sân hận như “hắn đã làm hại ta” v.v…, và đối với si, vốn có đối tượng là các loại khác nhau như các quan điểm về quá khứ, tương lai v.v… theo cách che đậy, qua việc nói về sự ly khỏi các pháp như hôn trầm thụy miên v.v… có gốc rễ là si, đã được nói đến. Và thiền này, do có bản chất đối nghịch với tất cả các pháp bất thiện, nên nó là pháp đè nén dục tham, sân hận, và các pháp đồng gốc như hôn trầm thụy miên v.v… của tất cả các pháp thiện. Mặc dù nó có bản chất từ bỏ tất cả các pháp bất thiện, nhưng nó cũng có bản chất đè nén dục tham v.v… do có bản chất đó. Do đó, ngài đã nói một cách không phân biệt rằng sự ly bằng cách đè nén đối với các triền cái, các gốc rễ bất thiện v.v… đã được nói đến.

Yathāpaccayaṃ pavattamānānaṃ sabhāvadhammānaṃ natthi kāci vasavattitāti vasavattibhāvanivāraṇatthaṃ ‘‘vitakkanaṃ vitakko’’ti vuttaṃ. Vitakkananti hi vitakkanakiriyā, sā ca vitakkassa attano paccayehi pavattimattamevāti bhāvaniddeso vasavattibhāvanivāraṇāya hoti. Tayidaṃ vitakkanaṃ ‘‘īdisamida’’nti ārammaṇaparikappananti āha ‘‘ūhananti vuttaṃ hotī’’ti. Yasmā cittaṃ vitakkabalena ārammaṇaṃ abhiniruḷhaṃ viya hoti, tasmā so ārammaṇābhiniropanalakkhaṇo vutto. Yathā hi koci rājavallabhaṃ ñātiṃ vā mittaṃ vā nissāya rājagehaṃ ārohati anupavisati, evaṃ vitakkaṃ nissāya cittaṃ ārammaṇaṃ ārohati. Yadi evaṃ kathaṃ avitakkaṃ cittaṃ ārammaṇaṃ ārohatīti? Vitakkabaleneva. Yathā hi so puriso paricayena tena vināpi nirāsaṅko rājagehaṃ pavisati, evaṃ paricayena vitakkena vināpi avitakkaṃ cittaṃ ārammaṇaṃ ārohati. Paricayenāti ca santāne pavattavitakkabhāvanāsaṅkhātena paricayena. Vitakkassa hi santāne abhiṇhaṃ pavattassa vasena cittassa ārammaṇābhiruhanaṃ ciraparicitaṃ, tena taṃ kadāci vitakkena vināpi tattha pavattateva. Yathā taṃ ñāṇasahitaṃ hutvā sammasanavasena ciraparicitaṃ kadāci ñāṇarahitampi sammasanavasena pavattati, yathā vā kilesasahitaṃ hutvā pavattaṃ sabbaso kilesarahitampi paricayena kilesavāsanāvasena pavattati, evaṃsampadamidaṃ daṭṭhabbaṃ.
Do các pháp có thực thể vận hành theo duyên, không có sự làm chủ nào cả, nên để ngăn chặn ý nghĩ về sự làm chủ, mới nói “sự suy nghĩ là tầm”. Sự suy nghĩ là hành vi suy nghĩ, và đó chỉ là sự vận hành của tầm theo các duyên của nó; do đó, cách trình bày theo danh từ chỉ hành động này là để ngăn chặn ý nghĩ về sự làm chủ. Sự suy nghĩ đó là sự hình dung về đối tượng theo kiểu “cái này là như thế này”, nên ngài nói “có nghĩa là sự lý giải”. Bởi vì tâm, nhờ sức mạnh của tầm, giống như đã bám chặt vào đối tượng, do đó nó được nói là có đặc tính đưa tâm đến đối tượng. Giống như một người nào đó, nhờ một người thân hoặc bạn bè thân cận với vua, mà có thể lên vào cung vua, cũng vậy, tâm nương vào tầm để hướng đến đối tượng. Nếu vậy, làm thế nào một tâm không có tầm lại có thể hướng đến đối tượng? Chính là nhờ sức mạnh của tầm. Giống như người đó, do quen thuộc, sau này có thể vào cung vua một cách không ngần ngại ngay cả khi không có người đó, cũng vậy, do quen thuộc, một tâm không có tầm cũng có thể hướng đến đối tượng ngay cả khi không có tầm. Do quen thuộc: tức là do sự quen thuộc được gọi là sự tu tập về tầm đã vận hành trong dòng tâm thức. Quả vậy, việc hướng đến đối tượng của tâm đã trở nên quen thuộc từ lâu do sự vận hành thường xuyên của tầm trong dòng tâm thức; do đó, đôi khi nó vẫn vận hành ở đó ngay cả khi không có tầm. Giống như nó, khi đi kèm với trí tuệ và đã quen thuộc từ lâu với việc quán xét, đôi khi vẫn vận hành theo cách quán xét ngay cả khi không có trí tuệ; hoặc giống như nó, khi đã vận hành đi kèm với phiền não, ngay cả khi hoàn toàn không có phiền não, vẫn vận hành theo thói quen của phiền não do sự quen thuộc. Cần phải hiểu vấn đề này là như vậy.

Āhananapariyāhananarasoti ādito, abhimukhaṃ vā hananaṃ āhananaṃ. Parito, parivattitvā vā āhananaṃ pariyāhananaṃ. ‘‘Rūpaṃ rūpaṃ, pathavī pathavī’’ti ākoṭentassa viya pavatti āhananaṃ pariyāhanananti ca veditabbaṃ. Yasmiñhi ārammaṇe cittaṃ abhiniropeti, taṃ tassa gahaṇayogyaṃ karonto vitakko ākoṭento viya hoti. Yadi evaṃ nāgasenattherena ‘‘ākoṭanalakkhaṇo vitakko. Yathā, mahārāja, bherī ākoṭitā atha pacchā anuravati anusaddāyati, evameva kho, mahārāja, yathā ākoṭanā, evaṃ vitakko daṭṭhabbo. Atha pacchā anuravanā anusaddanā, evaṃ vicāro daṭṭhabbo’’ti ākoṭanalakkhaṇatā vitakkassa kasmā vuttā? Nāyaṃ virodho. Therena hi kiccasannissitaṃ katvā lakkhaṇaṃ vuttaṃ. Dhammānañhi sabhāvavinimuttā kāci kiriyā nāma natthi tathā gahetabbākāro ca. Bodhaneyyajanānurodhena pana paramatthato ekībhāvopi sabhāvadhammo pariyāyavacanehi viya samāropitarūpehi bahūhi pakārehi pakāsīyati. Evañhi so suṭṭhu pakāsito hoti. Ānayanapaccupaṭṭhānoti ettha ānayanaṃ citte ārammaṇassa upanayanaṃ, ākaḍḍhanaṃ vā.
Có hương vị của sự hướng đến và hướng quanh: sự hướng đến từ đầu, hoặc sự hướng đến đối diện là sự hướng đến. Sự hướng đến xung quanh, hoặc xoay quanh rồi hướng đến là sự hướng quanh. Cần phải biết rằng, sự vận hành giống như của người đang gõ và nói “sắc, sắc; đất, đất” chính là sự hướng đến và sự hướng quanh. Quả vậy, đối với đối tượng nào mà tâm hướng đến, tầm làm cho đối tượng đó trở nên phù hợp để nắm bắt, giống như đang gõ vào nó. Nếu vậy, tại sao trưởng lão Nāgasena lại nói rằng tầm có đặc tính là gõ vào, trong câu: “Thưa Đại vương, tầm có đặc tính là gõ vào. Ví như, thưa Đại vương, sau khi trống được gõ vào thì mới có tiếng vang theo sau, cũng vậy, thưa Đại vương, cần phải hiểu rằng tầm giống như sự gõ vào. Còn tiếng vang theo sau, đó là tứ”? Đây không phải là một sự mâu thuẫn. Bởi vì trưởng lão đã nói về đặc tính dựa trên chức năng của nó. Quả vậy, các pháp không có một hành vi nào tách rời khỏi bản chất của chúng, và cũng không có một hình thức nào để nắm bắt như vậy. Tuy nhiên, tùy theo căn cơ của người cần được giáo hóa, một pháp có bản chất duy nhất về mặt tuyệt đối lại được trình bày bằng nhiều cách khác nhau, qua những hình thức được gán cho, giống như qua các từ đồng nghĩa. Như vậy, nó mới được trình bày một cách tốt đẹp. Trong câu có sự mang đến làm hiện trạng, sự mang đến là sự đưa đối tượng đến với tâm, hoặc là sự kéo đến.

Anusañcaraṇaṃ anuparibbhamanaṃ. Svāyaṃ viseso santānamhi labbhamāno eva santāne pākaṭo hotīti daṭṭhabbo. Sesesupi eseva nayo. Anumajjananti ārammaṇe cittassa anumasanaṃ, parimajjananti attho. Tathā hi ‘‘vicāro parimajjanahattho viya sañcaraṇahattho viyā’’ti ca vutto. Tatthāti ārammaṇe. Sahajātānaṃ anuyojanaṃ ārammaṇe anuvicaraṇasaṅkhātaanumajjanavaseneva veditabbaṃ. Anuppabandhanaṃ ārammaṇe cittassa avicchinnassa viya pavatti. Tathā hi so ‘‘anuppabandhanatā’’ti niddiṭṭho. Teneva ca ‘‘ghaṇṭānuravo viya, paribbhamanaṃ viyā’’ti ca vutto. Katthacīti paṭhamajjhāne parittacittuppādesu ca. Oḷārikaṭṭhenāti vicārato oḷārikaṭṭhena. Yathā ghaṇṭābhighātasaddo paṭhamābhinipāto hoti, evaṃ ārammaṇābhimukhaniropanaṭṭhena vitakko cetaso paṭhamābhinipāto viya hotīti āha ‘‘ghaṇṭābhighātasaddo viyā’’tiādi. Vipphāravāti ettha vipphāro nāma vitakkassa thinamiddhapaṭipakkho ārammaṇe anolīnatā asaṅkoco, so pana abhiniropanabhāvena calanaṃ viya hotīti adhippāyenāha ‘‘paripphandanabhāvo cittassā’’ti. Paribbhamanaṃ viyāti ettha parissayābhāvavīmaṃsanatthaṃ paribbhamananti veditabbaṃ. Dukanipātaṭṭhakathāyaṃ pana –
Sự đi theo là sự đi xung quanh. Cần phải hiểu rằng, đặc tính này chỉ trở nên rõ ràng khi nó có được trong dòng tâm thức. Đối với các trường hợp còn lại, cũng theo cách này. Sự thẩm sát là sự xoa sát của tâm trên đối tượng, có nghĩa là sự chà xát. Do đó, có câu nói rằng “tứ giống như bàn tay chà xát, giống như bàn tay di chuyển”. Ở đó: tức là trên đối tượng. Sự hợp nhất các pháp đồng sinh cần được hiểu là qua sự thẩm sát, tức là sự đi theo trên đối tượng. Sự liên tục là sự vận hành của tâm trên đối tượng một cách không gián đoạn. Do đó, nó được gọi là “sự liên tục”. Và cũng vì thế, nó được ví như “tiếng vang của chuông, như sự đi xung quanh”. Ở một nơi nào đó: tức là trong sơ thiền và trong các tâm hữu hạn. Do trạng thái thô thiển hơn: tức là do trạng thái thô thiển hơn so với tứ. Giống như tiếng gõ chuông là sự va chạm đầu tiên, cũng vậy, do có chức năng hướng tâm đến đối tượng, tầm giống như sự va chạm đầu tiên của tâm. Do đó, ngài nói “giống như tiếng gõ chuông” v.v… Trong câu có sự lan tỏa, sự lan tỏa ở đây là sự không chìm đắm, không co rút của tầm trên đối tượng, vốn là pháp đối nghịch với hôn trầm thụy miên; và do có bản chất hướng đến, nó giống như sự rung động. Với chủ ý đó, ngài nói “trạng thái rung động của tâm”. Trong câu giống như sự đi xung quanh, cần phải hiểu rằng sự đi xung quanh ở đây là để xem xét xem có nguy hiểm gì không. Tuy nhiên, trong sách chú giải Tăng Chi Bộ, phẩm hai pháp, có nói rằng:

‘‘Ākāse gacchato mahāsakuṇassa ubhohi pakkhehi vātaṃ gahetvā pakkhe sannisīdāpetvā gamanaṃ viya ārammaṇe cetaso abhiniropanabhāvena pavatto vitakko, vātaggahaṇatthaṃ pakkhe phandāpayamānassa gamanaṃ viya anumajjanabhāvena pavatto vicāro’’ti –
“Tầm, vốn có bản chất hướng tâm đến đối tượng, vận hành giống như một con chim lớn đang bay trên trời, sau khi dùng cả hai cánh để hứng gió rồi giữ yên cánh mà bay đi. Tứ, vốn có bản chất thẩm sát, vận hành giống như con chim đó đang đập cánh để hứng gió mà bay đi.”

Vuttaṃ, taṃ anuppabandhanena pavattiyaṃ yujjati. Tathā hi upacāre vā appanāyaṃ vā santānena pavattiyaṃ vitakko niccalo hutvā ārammaṇaṃ anupavisitvā viya pavattati, na paṭhamābhinipāte pākaṭo hoti. Yathā hi apubbārammaṇe paṭhamābhinipātabhūto vitakko vipphāravā hoti, na tathā ekasmiṃyeva ārammaṇe nirantaraṃ anuppabandhavasena pavattiyaṃ, nātivipphāravā pana tattha hoti sannisinnabhāvato. Paṭhamadutiyajjhānesu pākaṭo hotīti vitakkassa viseso abhiniropanākāro oḷārikattā paṭhamajjhāne pākaṭo hoti, tadabhāvato pañcakanaye dutiyajjhāne vicārassa viseso anumajjanākāro pākaṭo hoti.
Điều này phù hợp với sự vận hành một cách liên tục. Quả vậy, trong cận định hoặc trong an chỉ định, khi vận hành theo dòng tương tục, tầm trở nên vững chắc, giống như đã đi sâu vào đối tượng, chứ không rõ ràng như lúc va chạm ban đầu. Quả vậy, đối với một đối tượng mới lạ, tầm, vốn là sự va chạm đầu tiên, có sự lan tỏa mạnh mẽ; nhưng khi vận hành một cách liên tục không gián đoạn trên cùng một đối tượng, nó không có sự lan tỏa mạnh mẽ như vậy, vì đã ở trong trạng thái an trú. Trở nên rõ ràng trong sơ thiền và nhị thiền: đặc tính của tầm là hình thức hướng đến, do thô thiển hơn, nên nó rõ ràng trong sơ thiền; do không có nó, nên trong nhị thiền theo hệ thống năm thiền, đặc tính của tứ là hình thức thẩm sát trở nên rõ ràng.

Ayaṃ panettha aparo nayo – malaggahitaṃ kaṃsabhājanaṃ ekena hatthena daḷhaṃ gahetvā itarena hatthena cuṇṇatelaeḷakalomādikatacumbaṭakena parimajjantassa daḷhaṃ gahaṇahattho viya vitakko, parimajjanahattho viya vicāro. Tathā kumbhakārassa daṇḍappahārena cakkaṃ bhamayitvā bhājanaṃ karontassa piṇḍassa uppīḷanahattho viya vitakko, tasseva ito cito ca sañcaraṇahattho viya vicāro. Tathā kaṃsabhājanādīsu kiñci maṇḍalaṃ vaṭṭalekhaṃ karontassa majjhe sannirumbhitvā ṭhitakaṇṭako viya abhiniropano vitakko, bahi paribbhamanakaṇṭako viya anumajjano vicāroti veditabbaṃ.
Đây là một phương pháp khác: Giống như một người một tay giữ chặt một cái đĩa đồng bị dơ, tay kia dùng một miếng giẻ bằng bột, dầu và lông cừu để chà xát, thì bàn tay giữ chặt giống như tầm, còn bàn tay chà xát giống như tứ. Tương tự, giống như một người thợ gốm, sau khi dùng gậy đánh cho bàn xoay quay rồi làm đồ gốm, thì bàn tay ấn xuống khối đất sét giống như tầm, còn bàn tay di chuyển qua lại để tạo hình giống như tứ. Tương tự, khi vẽ một vòng tròn trên đĩa đồng v.v…, cần phải hiểu rằng, cái đinh được giữ cố định ở giữa giống như tầm có chức năng hướng đến, còn cái đinh xoay quanh bên ngoài giống như tứ có chức năng thẩm sát.

Yathā pupphaphalasākhādiavayavavinimutto avijjamānopi rukkho ‘‘sapuppho saphalo’’ti voharīyati, evaṃ vitakkādiaṅgavinimuttaṃ avijjamānampi jhānaṃ ‘‘savitakkaṃ savicāra’’nti voharīyatīti dassetuṃ ‘‘rukkho viyā’’tiādi vuttaṃ. Vibhaṅge panātiādīsu jhānabhāvanāya puggalavasena desetabbattā ‘‘idha bhikkhu vivicceva kāmehī’’tiādinā (vibha. 508) puggalādhiṭṭhānena jhānāni uddiṭṭhānīti. Yadipi vibhaṅge puggalādhiṭṭhānā desanā katā, attho pana tatrāpi vibhaṅgepi yathā idha ‘‘iminā ca vitakkenā’’tiādinā dhammavasena vutto, evameva daṭṭhabbo, paramatthato puggalasseva abhāvatoti adhippāyo. Atha vā jhānasamaṅgino vitakkavicārasamaṅgitādassanena jhānasseva savitakkasavicāratā vuttāti āha ‘‘attho pana tatrāpi evameva daṭṭhabbo’’ti.
Giống như một cái cây, dù không có các bộ phận như hoa, quả, cành lá v.v…, vẫn được gọi là “cây có hoa, có quả”, cũng vậy, để cho thấy rằng thiền, dù không có các chi phần như tầm v.v…, vẫn được gọi là “thiền có tầm, có tứ”, ngài mới nói “giống như cái cây” v.v… Trong câu còn trong sách Vibhaṅga v.v…, do việc tu tập thiền định cần được thuyết giảng theo phương diện cá nhân, nên các thiền đã được nêu lên với sự quy chiếu vào cá nhân, bằng các câu như “ở đây, vị Tỳ-khưu ly dục” v.v… (vibha. 508). Mặc dù trong sách Vibhaṅga, bài thuyết giảng được thực hiện với sự quy chiếu vào cá nhân, nhưng ý nghĩa ở đó, tức là trong sách Vibhaṅga, cũng cần được hiểu theo phương diện các pháp, giống như ở đây đã nói “bởi tầm này” v.v…, vì về mặt tuyệt đối, không có một cá nhân nào cả; đó là chủ ý. Hoặc, do cho thấy người chứng thiền có được tầm và tứ, nên thiền mới được nói là có tầm, có tứ. Do đó, ngài nói “nhưng ý nghĩa ở đó cũng cần được hiểu như vậy”.

Vivekasaddassa bhāvasādhanataṃ sandhāyāha ‘‘tasmā vivekā’’ti. Hetuatthe cetaṃ nissakkavacanaṃ, tasmā vivekā hetubhūtāti attho. Vivekasaddassa kattusādhanataṃ kammasādhanataṃ vā sandhāyāha ‘‘tasmiṃ vā viveke’’ti. ‘‘Vivitto’’ti hi iminā nīvaraṇehi vinābhūto tehi vivecitoti ca sādhanadvayampi saṅgahitamevāti. Pinayatīti tappeti vaḍḍheti vā. Sampiyāyanalakkhaṇāti paritussanalakkhaṇā. Pīnanarasāti paribrūhanarasā. Pharaṇarasāti paṇītarūpehi kāyassa byāpanarasā. Udaggabhāvo odagyaṃ. Sukhayatīti sukhaṃ, attanā sampayuttadhamme laddhassāde karotīti attho. Svāyaṃ kattuniddeso pariyāyaladdho dhammato aññassa kattunivattanattho, nippariyāyena pana bhāvasādhanameva labbhatīti ‘‘sukhanaṃ sukha’’nti vuttaṃ. Sātalakkhaṇanti iṭṭhasabhāvattā taṃsamaṅgīpuggalaṃ, sampayuttadhamme vā attani sādayatīti sātaṃ da-kārassa ta-kāraṃ katvā. Sātaṃ madhuranti vadanti, sātaṃ lakkhaṇaṃ etassāti sātalakkhaṇaṃ. Upabrūhanarasantiādīsu upabrūhanaṃ sampayuttadhammānaṃ saṃvaddhanaṃ, dukkhaṃ viya avissajjetvā adukkhamasukhā viya anajjhupekkhitvā anu anu gaṇhanaṃ upakāritā vā anuggaho. Katthacīti paṭhamajjhānādike. Paṭilābhatuṭṭhīti paṭilābhavasena uppajjanakatuṭṭhi. Paṭiladdharasānubhavananti paṭiladdhassa ārammaṇarasassa anubhavanaṃ. Etena pītisukhāni sabhāvato vibhajitvā dassitāni. Yattha pīti, tattha sukhanti vitakkassa viya vicārena pītiyā sukhena accantasaṃyogamāha. Yattha sukhaṃ, tattha na niyamato pītīti vicārassa viya vitakkena, sukhassa pītiyā anaccantasaṃyogaṃ. Tena accantānaccantasaṃyogitāya pītisukhānaṃ visesaṃ dasseti.
Nhắm đến cách thành lập từ ‘viveka’ (ly) theo nghĩa chỉ hành động, ngài nói “do đó là các sự ly”. Ở đây, từ chỉ sự tách biệt được dùng với nghĩa chỉ nguyên nhân, có nghĩa là, do các sự ly là nguyên nhân. Nhắm đến cách thành lập từ ‘viveka’ theo nghĩa chỉ chủ thể hoặc đối tượng, ngài nói “hoặc trong sự ly đó”. Bởi vì qua từ “đã ly”, cả hai cách thành lập từ, tức là người đã tách rời khỏi các triền cái và người đã được các triền cái tách rời, đều đã được bao gồm. Nó làm cho vui thích: tức là làm cho thỏa mãn hoặc làm cho tăng trưởng. Có đặc tính làm cho hoan hỷ: tức là có đặc tính làm cho vui mừng. Có chức năng làm cho lớn mạnh: tức là có chức năng làm cho phát triển. Có chức năng lan tỏa: tức là có chức năng thấm nhuần khắp cơ thể bằng các sắc pháp vi tế. Trạng thái phấn chấn là sự hân hoan. Cái làm cho hạnh phúc là lạc, có nghĩa là nó làm cho các pháp đồng sinh cảm nhận được hương vị. Cách trình bày theo chủ thể này là một cách nói gián tiếp nhằm loại bỏ một chủ thể nào khác ngoài pháp; còn một cách trực tiếp, chỉ có thể hiểu theo nghĩa chỉ hành động, nên mới nói “sự hạnh phúc là lạc”. Có đặc tính dễ chịu: do có bản chất là điều mong muốn, nó làm cho người có được nó và các pháp đồng sinh cảm thấy dễ chịu, chữ ‘da’ được đổi thành ‘ta’. Người ta nói rằng dễ chịu là ngọt ngào; có đặc tính dễ chịu là đặc tính của nó. Trong câu có chức năng làm cho tăng trưởng v.v…, sự làm cho tăng trưởng là sự làm cho các pháp đồng sinh phát triển, là sự không từ bỏ giống như khổ, không thờ ơ giống như bất khổ bất lạc, mà là sự tiếp nhận liên tục, là sự hỗ trợ, là sự trợ giúp. Ở một nơi nào đó: tức là trong sơ thiền v.v… Sự hài lòng do đạt được: tức là sự hài lòng phát sinh do sự đạt được. Sự cảm nhận hương vị đã đạt được: tức là sự cảm nhận hương vị của đối tượng đã đạt được. Qua đó, hỷ và lạc đã được phân chia và trình bày theo bản chất của chúng. Nơi nào có hỷ, nơi đó có lạc: cho thấy sự liên kết tuyệt đối của hỷ với lạc, giống như của tứ với tầm. Nơi nào có lạc, nơi đó không nhất thiết có hỷ: cho thấy sự liên kết không tuyệt đối của lạc với hỷ, giống như của tầm với tứ. Qua đó, ngài cho thấy sự khác biệt giữa hỷ và lạc qua sự liên kết tuyệt đối và không tuyệt đối của chúng.

Kaṃ udakaṃ tārenti etthāti kantāraṃ, nirudakamaruṭṭhānaṃ. Vanameva vanantaṃVanacchāyappavesanaudakaparibhogesu viya sukhanti yathā hi puriso mahākantāramaggaṃ paṭipanno ghammapareto tasito pipāsito paṭipathe purisaṃ disvā ‘‘kattha pānīyaṃ atthī’’ti puccheyya, so ‘‘aṭaviṃ uttaritvāva jātassaravanasaṇḍo atthi, tattha gantvā labhissasī’’ti vadeyya, so tassa kathaṃ sutvāva haṭṭhapahaṭṭho bhaveyya, tato gacchanto bhūmiyaṃ patitāni uppaladalanāḷapattādīni disvā suṭṭhutaraṃ haṭṭhapahaṭṭho hutvā gacchanto allavatthe allakese purise passeyya, vanakukkuṭavanamorādīnaṃ saddaṃ suṇeyya, jātassarapariyante jātamaṇijālasadisaṃ nīlavanasaṇḍaṃ passeyya, sare jātāni uppalapadumakumudāni passeyya, acchaṃ vippasannaṃ udakampi passeyya, so bhiyyo bhiyyo haṭṭhapahaṭṭho hutvā jātassaraṃ otaritvā yathāruci nhatvā ca pivitvā ca passaddhadaratho bhisamuḷālapokkharādīni khāditvā nīluppalādīni piḷandhitvā mandālavamūlāni khandhe khipitvā uttaritvā sāṭakaṃ nivāsetvā udakasāṭakaṃ ātape katvā sītacchāyāya mandamande vāte paharante nipannova ‘‘aho sukhaṃ aho sukha’’nti vadeyya, evaṃsampadamidaṃ daṭṭhabbaṃ. Tassa hi purisassa jātassaravanasaṇḍasavanato paṭṭhāya yāva udakadassanā haṭṭhapahaṭṭhakālo viya pubbabhāgārammaṇe haṭṭhapahaṭṭhākārā pīti, nhāyitvā ca pivitvā ca sītacchāyāya mandamande vāte paharante ‘‘aho sukhaṃ aho sukha’’nti vadanto nipannakālo viya balappattaṃ ārammaṇarasānubhavanākārasaṇṭhitaṃ sukhaṃ.
Nơi nào người ta vượt qua nước, đó là sa mạc, là vùng đất khô cằn không có nước. Rừng chính là cuối rừng. Lạc giống như khi đi vào bóng mát của rừng và dùng nước: ví như một người đi trên con đường qua một sa mạc lớn, bị nóng bức, mệt lả và khát nước, thấy một người trên đường liền hỏi “nước ở đâu?”. Người kia trả lời: “Cứ đi qua khu rừng này là có một khu rừng có hồ tự nhiên, đến đó sẽ có nước”. Người đó, vừa nghe xong, đã vô cùng vui mừng; sau đó, khi đi, thấy những chiếc lá sen, cuống sen rơi trên mặt đất, lại càng vui mừng hơn; rồi khi đi, thấy những người mặc quần áo ướt, tóc ướt, nghe tiếng gà rừng, công rừng, thấy khu rừng xanh biếc như một tấm lưới ngọc bích ở ven hồ, thấy hoa sen, hoa súng, hoa quỳ nở trong hồ, và thấy cả nước trong vắt, người đó càng lúc càng vui mừng hơn. Sau khi xuống hồ, tắm và uống thỏa thích, hết mệt mỏi, ăn các loại củ sen, rễ sen, đeo các loại hoa sen xanh v.v…, vác các rễ cây mandālava lên vai, lên bờ, mặc quần áo, phơi áo ướt dưới nắng, rồi nằm dưới bóng mát, trong làn gió hiu hiu thổi, liền nói: “Ôi, sung sướng quá! Ôi, sung sướng quá!”. Cần phải hiểu vấn đề này là như vậy. Đối với người đó, khoảng thời gian vui mừng từ lúc nghe nói về khu rừng có hồ cho đến khi thấy nước giống như hỷ, có hình thức là sự vui mừng đối với đối tượng ở giai đoạn đầu. Khoảng thời gian sau khi đã tắm và uống, nằm dưới bóng mát trong làn gió hiu hiu thổi và nói “Ôi, sung sướng quá! Ôi, sung sướng quá!” giống như lạc, có hình thức là sự cảm nhận hương vị của đối tượng đã đạt đến đỉnh điểm.

Tasmiṃ tasmiṃ samayeti iṭṭhārammaṇassa paṭilābhasamaye paṭiladdhassa rasānubhavanasamaye vanacchāyādīnaṃ savanadassanasamaye paribhogasamaye ca. Pākaṭabhāvatoti yathākkamaṃ pītisukhānaṃ vibhūtabhāvato. Vivekajaṃpītisukhanti ettha purimasmiṃ atthe vivekajanti jhānaṃ vuttaṃ. Pītisukhasaddato ca atthiatthavisesavato assa jhānassa, asmiṃ vā jhāneti ettha akāro daṭṭhabbo yathā arisasoti. Dutiye pītisukhameva vivekajaṃ, vivekajaṃpītisukhanti ca aññapadatthasamāso paccattaniddesassa ca alopo kato, lope vā sati ‘‘vivekajapītisukha’’nti pāṭhoti ayaṃ viseso.
Vào mỗi thời điểm đó: tức là vào thời điểm đạt được đối tượng mong muốn, vào thời điểm cảm nhận hương vị đã đạt được, vào thời điểm nghe và thấy bóng mát của rừng v.v…, và vào thời điểm hưởng thụ. Do trạng thái rõ ràng: tức là do trạng thái hiển hiện của hỷ và lạc theo thứ tự. Trong câu hỷ và lạc do ly sanh, theo ý nghĩa thứ nhất, ‘do ly sanh’ là để chỉ thiền. Và do có sự khác biệt về ý nghĩa giữa từ ‘hỷ lạc’ và ý nghĩa của nó, nên cần phải thấy có chữ ‘a’ ở đây, như trong từ ‘arisaso’, để có nghĩa là của thiền này, hoặc trong thiền này. Theo ý nghĩa thứ hai, chính hỷ và lạc là do ly sanh; và câu “hỷ và lạc do ly sanh” là một hợp từ chỉ ý nghĩa của một từ khác, và cách trình bày theo thể chủ động không bị lược bỏ. Hoặc nếu có sự lược bỏ, thì sẽ đọc là “vivekajapītisukha”; đây là một sự khác biệt.

Gaṇanānupubbato paṭhamanti iminā desanākkamaṃ ulliṅgeti. ‘‘Gaṇanānupubbatā paṭhama’’ntipi pāṭho, tatthāpi gaṇanānupubbatāyāti attho, gaṇanānupubbatāmattaṃ vā paṭhamanti idaṃ vacananti attho. Paṭhamaṃ samāpajjatīti paṭhamanti idaṃ pana na ekantalakkhaṇaṃ. Ciṇṇavasībhāvo hi aṭṭhasamāpattilābhī ādito paṭṭhāya matthakaṃ pāpentopi samāpajjituṃ sakkoti, matthakato paṭṭhāya ādiṃ pāpentopi samāpajjituṃ sakkoti, antarantarā okkamantopi sakkoti. Evaṃ pubbuppattiyaṭṭhena pana paṭhamaṃ uppannantipi paṭhamaṃ. Teneva visuddhimagge (visuddhi. 1.75) ‘‘gaṇanānupubbatā paṭhamaṃ, paṭhamaṃ uppannantipi paṭhama’’nti ettakameva vuttaṃ. Paccanīkadhamme jhāpetīti nīvaraṇādipaccanīkadhamme dahati, vikkhambhanavasena pajahatīti attho. Gocaranti kasiṇādiālambanaṃ. Tanti taṃ gocaraṃ. Upanijjhāyatīti passati. Saha upacārenāti saddhiṃ upacārajjhānena. Kasiṇārammaṇūpanijjhāyanatoti pathavīkasiṇādino attano ārammaṇassa rūpaṃ viya cakkhunā upanijjhāyanato. Lakkhaṇūpanijjhāyanatoti yathāsambhavaṃ aniccādilakkhaṇattayassa nibbānadhātuyā tathalakkhaṇassa ca upanijjhāyanato. Tenevāha ‘‘ettha hī’’tiādi. Niccādivipallāsappahānena maggo asammohato aniccādilakkhaṇāni upanijjhāyatīti lakkhaṇūpanijjhānanti āha ‘‘vipassanāya upanijjhāyanakicca’’ntiādi. Tathalakkhaṇanti avināsadhammassa nibbānassa anaññathābhāvato aviparītasabhāvo tathalakkhaṇaṃ, maggassapi vā nibbānārammaṇato tathalakkhaṇūpanijjhānatā yojetabbā.
Thứ nhất theo thứ tự đếm: qua đó, ngài chỉ ra thứ tự của bài thuyết giảng. Cũng có cách đọc là “thứ tự đếm là thứ nhất”, ở đó cũng có nghĩa là do thứ tự đếm, hoặc câu này có nghĩa là, chỉ đơn thuần là thứ tự đếm là thứ nhất. Chứng đắc đầu tiên, nên là thứ nhất: đây không phải là một đặc tính tuyệt đối. Quả vậy, một người đã thuần thục, đã chứng đắc tám tầng thiền, có thể chứng đắc từ đầu đến cuối, cũng có thể chứng đắc từ cuối trở về đầu, và cũng có thể đi vào ở giữa. Như vậy, theo ý nghĩa phát sinh trước, cái phát sinh đầu tiên cũng là thứ nhất. Do đó, trong sách Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 1.75), chỉ nói rằng: “thứ nhất theo thứ tự đếm, và cái phát sinh đầu tiên cũng là thứ nhất”. Nó thiêu đốt các pháp đối nghịch: tức là nó đốt cháy các pháp đối nghịch như các triền cái v.v…; có nghĩa là nó từ bỏ bằng cách đè nén. Đối tượng: tức là đề mục như kasina v.v… : tức là đối tượng đó. Nó quán chiếu: tức là nó thấy. Cùng với cận định: tức là cùng với thiền cận định. Do sự quán chiếu đối tượng kasina: tức là do sự quán chiếu bằng mắt hình ảnh của đối tượng của mình, như kasina đất v.v… Do sự quán chiếu đặc tính: tức là do sự quán chiếu ba đặc tính vô thường v.v… một cách phù hợp và đặc tính tương tự của Niết-bàn giới. Do đó, ngài mới nói “Quả vậy, ở đây…” v.v… Do từ bỏ các sự sai lầm về thường v.v…, đạo quán chiếu các đặc tính vô thường v.v… một cách không sai lầm, nên được gọi là sự quán chiếu đặc tính. Do đó, ngài nói “nhiệm vụ quán chiếu của tuệ quán” v.v… Đặc tính như vậy: tức là bản chất không sai lạc của Niết-bàn, vốn là pháp không bị hủy hoại, do không có sự thay đổi khác; hoặc cần phải hiểu sự quán chiếu đặc tính như vậy của đạo là do có đối tượng là Niết-bàn.

Visadisodāharaṇaṃ tāva dassento āha ‘‘yathā sadhano’’tiādi. Añño apadesāraho hotīti dhanato parijanato ca añño dhanavā parijanavā ca puriso saha dhanena vattati parijanena cāti sadhano saparijanoti apadesaṃ arahatīti apadesāraho hoti , apadisitabbo hotīti vuttaṃ hoti. Senaṅgesu eva senāsammutīti rathādisenaṅgavinimuttāya senāya abhāvepi rathehi pattīhi ca saha vattanato sarathā sapatti senāti rathādisenaṅgesuyeva senāvohāroti attho. Kasmā panettha jhānapāṭhe aggahitā cittekaggatā gahitāti anuyogaṃ sandhāyāha ‘‘avuttattā’’tiādi. Evaṃ vuttāyevāti evaṃ sarūpato vibhaṅge vuttāyeva. Sacittekaggatanti idha avuttepīti ‘‘sacittekaggata’’nti evaṃ sarūpato imasmiṃ jhānapāṭhe avuttepīti attho, sāmaññato pana jhānaggahaṇena gahitā eva. Tenevāha ‘‘yena hī’’tiādi . Idaṃ vuttaṃ hoti – yena vitakkādīhi saha vattabbaṃ, taṃ dhammaṃ dīpetuṃ tassa pakāsanādhippāyena ‘‘savitakkaṃ savicāra’’ntiādinā uddeso kato, so eva adhippāyo tena bhagavatā vibhaṅge (vibha. 569) ‘‘cittassekaggatā’’ti niddisantena pakāsito, tasmā sā jhānapāṭhe aggahitāti na cintetabbanti.
Để đưa ra một ví dụ về sự khác biệt, ngài nói “giống như người có của cải” v.v… Người khác xứng đáng được gọi: tức là một người có của cải và gia nhân, khác với của cải và gia nhân đó, được gọi là người có của cải và có gia nhân vì người đó sống cùng với của cải và gia nhân; có nghĩa là người đó đáng được gọi như vậy. Sự quy ước về quân đội chỉ có ở các thành phần của quân đội: tức là, mặc dù không có một quân đội nào tách rời khỏi các thành phần như xe, bộ binh v.v…, nhưng do nó tồn tại cùng với xe và bộ binh, nên mới có cách nói thông thường về quân đội ở chính các thành phần như xe v.v…, với tên gọi là quân đội có xe, có bộ binh. Để trả lời câu hỏi tại sao sự nhất tâm của tâm, vốn không được đề cập trong bài kinh về thiền, lại được đề cập ở đây, ngài nói “do không được nói đến” v.v… Chỉ được nói như vậy: tức là chỉ được nói về bản chất như vậy trong sách Vibhaṅga. Mặc dù không được nói ở đây là ‘có sự nhất tâm của tâm’: có nghĩa là, mặc dù trong bài kinh về thiền này không nói rõ về bản chất là ‘có sự nhất tâm của tâm’; nhưng một cách tổng quát, nó đã được bao hàm trong từ ‘thiền’. Do đó, ngài mới nói “Quả vậy, do đó…” v.v… Điều này có nghĩa là: để trình bày pháp nào cần phải đi cùng với tầm v.v…, với chủ ý làm rõ pháp đó, một sự đề mục đã được thực hiện bằng các câu như “có tầm, có tứ” v.v…; chính chủ ý đó đã được Đức Thế Tôn làm rõ trong sách Vibhaṅga (vibha. 569) khi ngài trình bày là “sự nhất tâm của tâm”. Do đó, không nên lo lắng rằng nó không được đề cập trong bài kinh về thiền.

Upasampajjāti ettha upa-saṃsaddā ‘‘upalabbhatī’’tiādīsu viya niratthakāti dassetuṃ ‘‘upagantvā’’tiādiṃ vatvā puna tesaṃ sātthakabhāvaṃ dassetuṃ ‘‘upasampādayitvā’’tiādi vuttaṃ, tasmā upasampajjāti ettha patvā sādhetvāti vā attho. Iriyanti kiriyaṃ. Vuttintiādīni tasseva vevacanāni. Ekaṃ iriyāpathabādhanaṃ iriyāpathantarehi rakkhaṇaṃ pālanaṃ. Sabbabuddhānaṃ āciṇṇattā ānāpānassatikammaṭṭhānameva vuttaṃ. Tañhi sabbabuddhānaṃ āciṇṇanti vadanti.
Trong từ upasampajjā, để cho thấy rằng các tiếp đầu ngữ upa-saṃ là vô nghĩa, giống như trong câu “upalabbhatī” v.v…, ngài đã nói “sau khi đã đến gần” v.v…; rồi để cho thấy rằng chúng có ý nghĩa, ngài lại nói “sau khi đã làm cho thành tựu” v.v… Do đó, trong từ upasampajjā, có nghĩa là sau khi đã đạt đến, hoặc sau khi đã hoàn thành. Hành vi: tức là hành động. Sự vận hành v.v… là các từ đồng nghĩa của nó. Việc bảo vệ một oai nghi khỏi sự đau mỏi bằng các oai nghi khác là sự duy trì. Do là pháp mà tất cả các vị Phật đều đã thực hành, nên chỉ có đề mục niệm hơi thở được nói đến. Người ta nói rằng đó là pháp mà tất cả các vị Phật đều đã thực hành.

Paṭhamajjhānakathā niṭṭhitā.
Luận về Sơ thiền kết thúc.

Dutiyajjhānakathā
Luận về Nhị thiền

Vūpasamāti vūpasamahetu. Vūpasamoti cettha pahānaṃ adhippetaṃ, tañca vitakkavicārānaṃ atikkamo atthato dutiyajjhānakkhaṇe anuppādoti āha ‘‘samatikkamā’’tiādi. Katamesaṃ panettha vitakkavicārānaṃ vūpasamo adhippeto, kiṃ paṭhamajjhānikānaṃ, udāhu dutiyajjhānikānanti, kiñcettha – yadi paṭhamajjhānikānaṃ, natthi tesaṃ vūpasamo. Na hi kadāci paṭhamajjhānaṃ vitakkavicārarahitaṃ atthi. Atha dutiyajjhānikānaṃ, evampi nattheva vūpasamo sabbena sabbaṃ tesaṃ tattha abhāvatoti imaṃ anuyogaṃ sandhāyāha ‘‘tattha kiñcāpī’’tiādi. Yasmā diṭṭhādīnavassa taṃtaṃjhānakkhaṇe anuppattidhammatāpādanaṃ vūpasamanaṃ adhippetaṃ, vitakkādayo eva ca jhānaṅgabhūtā tathā karīyanti, na taṃsampayuttā phassādayo, tasmā vitakkādīnaṃyeva vūpasamādhivacanaṃ jhāne āgataṃ. Yasmā pana vitakkādīnaṃ viya taṃsampayuttadhammānampi ‘‘etena etaṃ oḷārika’’nti ādīnavadassanaṃ sutte āgataṃ, tasmā avisesena vitakkādīnaṃ taṃsahagatānañca vūpasamādike vattabbe vitakkādīnaṃyeva vūpasamo vuccamāno adhikavacanaṃ aññamatthaṃ bodhetīti katvā kañci visesaṃ dīpetīti dassento ‘‘oḷārikassa panā’’tiādimāha. Ayañhettha adhippāyo – yehi vitakkavicārehi paṭhamajjhānassa oḷārikatā, tesaṃ samatikkamā dutiyajjhānassa samadhigamo, na sabhāvato anoḷārikānaṃ phassādīnaṃ samatikkamāti ayamattho ‘‘vitakkavicārānaṃ vūpasamā’’ti etena dīpito , tasmā ‘‘kiṃ paṭhamajjhānikānaṃ vitakkavicārānaṃ vūpasamo idhādhippeto, udāhu dutiyajjhānikāna’’nti edisī codanā anokāsāva. ‘‘Pītiyā ca virāgā’’tiādīsupi eseva nayo. Tasmā vitakkavicārapītisukhasamatikkamavacanāni oḷārikoḷārikaṅgasamatikkamā dutiyādiadhigamadīpakānīti tesaṃ ekadesabhūtaṃ vitakkavicārasamatikkamavacanaṃ avayavena samudāyopalakkhaṇanayena taṃ dīpakaṃ vuttaṃ. Visuṃ visuṃ ṭhitepi hi vitakkavicārasamatikkamavacanādike paheyyaṅganiddesatāsāmaññena cittena samūhato gahite vitakkavicāravūpasamavacanassa tadekadesatā hotīti. Atha vā vitakkavicāravūpasamavacaneneva taṃsamatikkamā dutiyādiadhigamadīpakena pītivirāgādivacanānaṃ pītiādisamatikkamā tatiyādiadhigamadīpakatā dīpitā hotīti tassa taṃdīpakatā vuttā. Evañhi avayavena samudāyopalakkhaṇaṃ vinā vitakkavicāravūpasamavacanena pītivirāgādivacanānaṃ savisaye samānabyāpāratā dassitā hoti.
Do sự an tịnh: tức là do là nguyên nhân của sự an tịnh. Sự an tịnh ở đây được hiểu là sự từ bỏ, và đó, về mặt ý nghĩa, là sự vượt qua tầm và tứ, tức là sự không phát sinh của chúng trong khoảnh khắc của nhị thiền. Do đó, ngài nói “do sự vượt qua” v.v… Ở đây, sự an tịnh của tầm và tứ nào được nhắm đến, của sơ thiền hay của nhị thiền? Và ở đây có vấn đề gì? Nếu là của sơ thiền, thì không có sự an tịnh nào của chúng. Quả vậy, không bao giờ có một sơ thiền nào không có tầm và tứ. Nếu là của nhị thiền, thì cũng không có sự an tịnh nào cả, vì chúng hoàn toàn không có ở đó. Nhắm đến câu hỏi này, ngài nói “Ở đó, mặc dù…” v.v… Bởi vì sự an tịnh ở đây được hiểu là việc làm cho một pháp có bản chất không phát sinh trong khoảnh khắc của một thiền nào đó, sau khi đã thấy được sự nguy hại của nó; và chính các thiền chi như tầm v.v… được làm cho như vậy, chứ không phải các pháp tương ưng như xúc v.v… Do đó, chỉ có sự an tịnh của tầm v.v… mới được nói đến trong thiền. Tuy nhiên, vì việc thấy sự nguy hại như “cái này thô thiển hơn cái kia” đối với các pháp tương ưng của tầm v.v… cũng được nói đến trong kinh, do đó, khi lẽ ra phải nói một cách không phân biệt về sự an tịnh của tầm v.v… và các pháp đi kèm với chúng, việc chỉ nói đến sự an tịnh của tầm v.v… là một cách nói mang tính nhấn mạnh, nhằm làm rõ một ý nghĩa nào đó. Để cho thấy sự đặc biệt đó, ngài nói “Tuy nhiên, của cái thô thiển…” v.v… Chủ ý ở đây là: sự chứng đắc nhị thiền là do sự vượt qua tầm và tứ, những yếu tố làm cho sơ thiền trở nên thô thiển, chứ không phải là sự vượt qua các pháp như xúc v.v…, vốn không thô thiển về bản chất. Ý nghĩa này được làm rõ bằng câu “do sự an tịnh của tầm và tứ”. Do đó, câu hỏi như “sự an tịnh của tầm và tứ được nhắm đến ở đây là của sơ thiền hay của nhị thiền?” là không có cơ sở. Trong các câu như “và do sự ly hỷ” v.v…, cũng theo cách này. Do đó, các câu nói về sự vượt qua tầm, tứ, hỷ, và lạc là để cho thấy rằng sự chứng đắc nhị thiền v.v… là do sự vượt qua các chi phần thô thiển hơn. Câu nói về sự vượt qua tầm và tứ, vốn là một phần trong số đó, là để cho thấy điều đó theo nguyên tắc dùng một phần để chỉ toàn thể. Quả vậy, mặc dù các câu nói về sự vượt qua tầm và tứ v.v… đứng riêng rẽ, nhưng khi được tâm tổng hợp lại do sự tương đồng về việc chỉ ra các chi phần cần được từ bỏ, câu nói về sự an tịnh của tầm và tứ trở thành một phần trong đó. Hoặc, chính câu nói về sự an tịnh của tầm và tứ, vốn cho thấy rằng sự vượt qua chúng là sự chứng đắc nhị thiền v.v…, cũng đã ngầm cho thấy rằng các câu nói về sự ly hỷ v.v… có ý nghĩa là sự vượt qua hỷ v.v… là sự chứng đắc tam thiền v.v… Do đó, nó được nói là để cho thấy điều đó. Như vậy, không cần dùng nguyên tắc một phần chỉ toàn thể, câu nói về sự an tịnh của tầm và tứ đã cho thấy rằng các câu nói về sự ly hỷ v.v… cũng có tác dụng tương tự trong lĩnh vực của chúng.

Ajjhattanti niyakajjhattaṃ adhippetaṃ, na ajjhattajjhattādīti dassento āha ‘‘ajjhattanti niyakajjhattaṃ adhippeta’’nti. Tattha kāraṇamāha ‘‘vibhaṅgepanā’’tiādi. Pana-saddopi apisaddattho, vibhaṅgepīti attho. Ayameva vā pāṭho.
Nội tâm ở đây được hiểu là nội tâm của chính mình, chứ không phải là nội tâm của nội tâm v.v… Để cho thấy điều đó, ngài nói “nội tâm ở đây được hiểu là nội tâm của chính mình”. Ở đó, ngài nói ra lý do: “còn trong sách Vibhaṅga…” v.v… Từ pana ở đây cũng có nghĩa là ‘api’ (cũng), có nghĩa là, cũng trong sách Vibhaṅga. Hoặc đó chính là cách đọc.

Nīlavaṇṇayogato nīlavatthaṃ viyāti nīlayogato vatthaṃ nīlaṃ viyāti adhippāyo. Imasmiñca atthavikappeti ‘‘ceto sampasādayatī’’ti etasmiṃ pakkhe. Cetasoti ca upayogatthe sāmivacanaṃ. Purimasminti ‘‘sampasādanayogato jhānampi sampasādana’’nti vuttapakkhe. Cetasoti sambandhe sāmivacanaṃ. ‘‘Yāva na pare ekagate karomī’’tiādīsu seṭṭhavacanopi ekasaddo loke dissatīti āha ‘‘seṭṭhopi hi loke ekoti vuccatī’’ti. ‘‘Ekākīhi khuddakehi jita’’ntiādīsu asahāyatthopi ekasaddo diṭṭhoti āha ‘‘eko asahāyo hutvā’’ti. Saddhādayopi kāmaṃ sampayuttadhammānaṃ sādhāraṇato ca asādhāraṇato ca paccayā hontiyeva, samādhi pana jhānakkhaṇe sampayuttadhammānaṃ avikkhepalakkhaṇe indaṭṭhakaraṇena sātisayaṃ paccayo hotīti dassento ‘‘sampayuttadhamme…pe… adhivacana’’nti āha.
Giống như tấm vải xanh do có màu xanh: ý muốn nói là, giống như tấm vải có màu xanh do được nhuộm màu xanh. Và trong cách giải thích ý nghĩa này: tức là trong trường hợp “làm cho tâm trong sạch”. Và của tâm là từ chỉ sở hữu được dùng với nghĩa chỉ đối tượng. Trong trường hợp trước: tức là trong trường hợp đã nói “do có sự trong sạch, nên thiền cũng là sự trong sạch”. Của tâm là từ chỉ sở hữu được dùng với nghĩa chỉ sự liên quan. Vì trong các câu như “cho đến khi ta làm cho những người khác trở thành bậc nhất”, từ ‘eka’ (một) cũng được thấy trong đời với ý nghĩa là bậc nhất, nên ngài nói “quả vậy, trong đời, bậc nhất cũng được gọi là một”. Vì trong các câu như “bị những kẻ nhỏ bé đánh bại một mình”, từ ‘eka’ cũng được thấy với ý nghĩa là một mình, nên ngài nói “một mình, không có người đồng hành”. Mặc dù các pháp như tín v.v… cũng là điều kiện cho các pháp tương ưng một cách chung và riêng, nhưng định, trong khoảnh khắc của thiền, là điều kiện vượt trội cho các pháp tương ưng bằng cách thực hiện vai trò chủ chốt trong việc không tán loạn. Để cho thấy điều đó, ngài nói “đối với các pháp tương ưng… cho đến… một tên gọi khác”.

‘‘Sampasādanaṃ cetaso ekodibhāva’’nti visesanadvayaṃ jhānassa atisayavacanicchāvasena gahitaṃ. Svāyamatisayo yathā imasmiṃ jhāne labbhati, na tathā paṭhamajjhāneti imaṃ visesaṃ dassetuṃ ‘‘nanu cā’’tiādi vuttaṃ. Ārammaṇe āhananapariyāhananavasena anumajjanaanuyujjanavasena ca pavattamānā dhammā satipi nīvaraṇappahānena kilesakālussiyāpagame sampayuttānaṃ kiñci khobhaṃ karontā viya tehi ca te na sannisinnā hontīti vuttaṃ ‘‘vitakkavicārakkhobhena…pe… na suppasanna’’nti. Tattha khuddikā ūmiyo vīciyo, mahatiyo taraṅgā. Samādhipi na suṭṭhu pākaṭoti satipi indriyasamatte vīriyasamatāya ca teneva khotena sampasādābhāvena ca bahale viya jale maccho samādhipi na suṭṭhu pākaṭo. Vitakkavicārapalibodhābhāvenāti ettha yathāvuttakhobho eva palibodho. Evaṃ vuttenāti yassā saddhāya vasena sampasādanaṃ, yassā ca cittekaggatāya vasena ekodibhāvanti ca jhānaṃ vuttaṃ, tāsaṃ eva ‘‘saddahanā’’tiādinā (vibha. 574) pavattiākāravisesavibhāvanavasena vuttena tena vibhaṅgapāṭhena. Ayaṃ atthavaṇṇanāti ‘‘sampasādanayogato, sampasādanato vā sampasādanaṃ. Ekodiṃ bhāvetīti ekodibhāvanti jhānaṃ vutta’’nti evaṃ pavattā ayaṃ atthavaṇṇanā. Aññadatthu saṃsandati ceva sameti ca, evaṃ veditabbāti kathaṃ panāyaṃ atthavaṇṇanā tena vibhaṅgapāṭhena saddhiṃ saṃsandati sameti, nanu jhānavibhaṅge ‘‘sampasādana’’nti padaṃ uddharitvā ‘‘yā saddhā saddahanā’’tiādinā (vibha. 574) saddhāyeva vuttā, ‘‘cetaso ekodibhāva’’nti ca padaṃ uddharitvā ‘‘yā cittassa ṭhiti saṇṭhiti avaṭṭhitī’’tiādinā samādhisseva niddeso kato, aṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘sampasādanaṃ ekodibhāva’’nti jhānameva vuttanti aṭṭhakathāya vibhaṅgapāṭhena saddhiṃ virodho āpajjatīti? Nāpajjati vibhaṅgepi imināva adhippāyena niddesassa katattā. Tathā hi yena sampasādanena yogā jhānaṃ ‘‘sampasādana’’nti vuccati, tasmiṃ ‘‘yā saddhā saddahanā’’tiādinā dassite sampasādanaṃ jhānanti samānādhikaraṇaniddeseneva taṃyogā jhāne taṃsaddappavatti dassitā hoti. ‘‘Ekodibhāva’’nti ca padaṃ uddharitvā ekodimhi dassite ekodibhāvaṃ jhānanti samānādhikaraṇaniddeseneva jhānassa ekodivaḍḍhanatā vuttāva hotīti iminā adhippāyena byañjanavicāraṃ akatvā dhammamattameva niddiṭṭhanti avirodho yutto.
Hai tính từ “sự trong sạch” và “sự nhất tâm” được dùng để chỉ sự vượt trội của thiền. Để cho thấy rằng sự vượt trội này có được trong thiền này chứ không có trong sơ thiền, ngài nói “nhưng chẳng phải…” v.v… Các pháp vận hành theo cách hướng đến và hướng quanh đối tượng, theo cách thẩm sát và hợp nhất, mặc dù đã không còn sự ô uế của phiền não do đã từ bỏ các triền cái, nhưng chúng vẫn gây ra một chút dao động cho các pháp tương ưng, và do đó, chúng không được an trú một cách tốt đẹp. Do đó, mới nói “do sự dao động của tầm và tứ… cho đến… không hoàn toàn trong sạch”. Ở đó, những gợn sóng nhỏ là vīciyo, những con sóng lớn là taraṅgā. Định cũng không hoàn toàn rõ ràng: mặc dù các căn đã quân bình và tinh tấn đã quân bình, nhưng do sự dao động đó và do không có sự trong sạch, định cũng không hoàn toàn rõ ràng, giống như con cá trong nước đục. Do không có sự trở ngại của tầm và tứ: ở đây, sự dao động đã nói ở trên chính là sự trở ngại. Bởi điều đã được nói như vậy: tức là bởi bài kinh Vibhaṅga đó, vốn đã giải thích về các phương thức vận hành đặc biệt của tín và định, những yếu tố mà nhờ đó thiền được gọi là “sự trong sạch” và “sự nhất tâm”, qua các câu như “niềm tin” v.v… (vibha. 574). Sự giải thích ý nghĩa này: tức là sự giải thích ý nghĩa đã diễn ra theo kiểu “do có sự trong sạch, hoặc từ sự trong sạch, nên là sự trong sạch. Nó làm phát triển sự nhất tâm, nên là sự nhất tâm, đó là thiền”. Hoàn toàn phù hợp và tương ứng, cần phải hiểu như vậy: nhưng làm thế nào sự giải thích ý nghĩa này lại phù hợp và tương ứng với bài kinh Vibhaṅga đó? Chẳng phải trong phần phân tích về thiền, sau khi nêu lên từ “sự trong sạch”, chỉ có tín được nói đến qua các câu như “niềm tin, sự tin tưởng” v.v… (vibha. 574), và sau khi nêu lên từ “sự nhất tâm của tâm”, chỉ có định được trình bày qua các câu như “sự đứng vững, sự an trú, sự vững chắc của tâm” v.v… sao? Còn trong sách chú giải, lại nói rằng “sự trong sạch, sự nhất tâm” chính là thiền. Như vậy, chẳng phải có sự mâu thuẫn giữa sách chú giải và bài kinh Vibhaṅga sao? Không có sự mâu thuẫn, vì trong sách Vibhaṅga, sự trình bày cũng được thực hiện với cùng một chủ ý. Quả vậy, khi sự trong sạch, yếu tố mà nhờ đó thiền được gọi là “sự trong sạch”, được cho thấy qua các câu như “niềm tin, sự tin tưởng” v.v…, thì chính qua cách trình bày đồng nhất rằng “sự trong sạch là thiền”, sự vận hành của từ đó trong thiền do có yếu tố đó đã được cho thấy. Và sau khi nêu lên từ “sự nhất tâm” và cho thấy sự nhất tâm, chính qua cách trình bày đồng nhất rằng “sự nhất tâm là thiền”, khả năng làm tăng trưởng sự nhất tâm của thiền cũng đã được nói đến. Với chủ ý này, do không phân tích câu chữ mà chỉ trình bày pháp, nên sự không mâu thuẫn là hợp lý.

Yaṃ pana vuttaṃ ṭīkākārehi ācariyadhammapālattherādīhi ‘‘yadi ekodīti samādhissa gahaṇaṃ adhippetaṃ, tadā ‘ekodibhāva’nti padaṃ uddharitvā samādhissa niddeso na kattabbo siyā. Tasmā ekodibhāvasaddo eva samādhimhi pavatto sampasādanasaddo viya jhāne pavattatīti yutta’’nti, taṃ aṭṭhakathāya virujjhati. Tasmā so aṭṭhakathānirapekkho visuṃyeveko atthavikappoti gahetabbaṃ. Ayañhi nesaṃ adhippāyo – vitakkavicārehi anajjhāruḷhattā ekaṃ udetīti ekodīti tathāvidhasamādhiyuttaṃ jhānacittameva gahetvā ekodissa bhāvo ekodibhāvoti samādhissa gahaṇaṃ sakkā vattunti. Yo panāyaṃ tesamabhiniveso ‘‘ekodīti samādhissa gahaṇe sati ‘ekodibhāva’nti padaṃ uddharitvā samādhissa niddeso na kattabbo siyā’’ti , so anekantikattā ayutto. Aññatthapi hi byañjanavicāraṃ akatvā atthamattasseva bāhullena vibhaṅge niddeso dissati.
Nhưng điều đã được các vị chú giải sớ giải như trưởng lão Ācariyadhammapāla v.v… nói rằng: “Nếu ‘ekodi’ được hiểu là định, thì không cần phải nêu lên từ ‘ekodibhāva’ rồi mới trình bày về định. Do đó, hợp lý hơn là chính từ ‘ekodibhāva’ đã được dùng để chỉ định, giống như từ ‘sampasādana’ được dùng để chỉ thiền”, điều đó mâu thuẫn với sách chú giải. Do đó, cần phải xem đó là một cách giải thích ý nghĩa riêng biệt, không phụ thuộc vào sách chú giải. Quả vậy, chủ ý của các vị ấy là: do không bị tầm và tứ lấn át, nên nó khởi lên một cách duy nhất, do đó ‘ekodi’ chính là tâm thiền đi kèm với loại định như vậy; và trạng thái của ‘ekodi’ là ‘ekodibhāva’, nên có thể nói rằng đó là sự chỉ định về định. Tuy nhiên, sự khăng khăng của các vị ấy rằng “nếu ‘ekodi’ được hiểu là định, thì không cần phải nêu lên từ ‘ekodibhāva’ rồi mới trình bày về định”, điều đó là không hợp lý vì không có tính tuyệt đối. Quả vậy, ở những nơi khác trong sách Vibhaṅga, người ta cũng thấy sự trình bày chỉ về ý nghĩa mà không phân tích câu chữ là rất phổ biến.

Santāti samaṃ nirodhaṃ gatā. Samitāti bhāvanāya samaṃ gamitā nirodhitā. Vūpasantāti tato eva suṭṭhu upasantā. Atthaṅgatāti atthaṃ vināsaṃ gatā. Abbhatthaṅgatāti upasaggena padaṃ vaḍḍhetvā vuttaṃ. Appitāti gamitā vināsaṃ gatā. Sositāti pavattisaṅkhātassa santānassa abhāvena sosaṃ sukkhabhāvaṃ gatā. Byantīkatāti vigatantā katā.
Đã lắng dịu: tức là đã đi đến sự đoạn diệt một cách đồng đều. Đã được làm cho lắng dịu: tức là đã được làm cho đi đến sự đoạn diệt một cách đồng đều bằng sự tu tập. Đã được an tịnh tốt đẹp: tức là do đó mà đã được an tịnh một cách tốt đẹp. Đã đi đến sự tận diệt: tức là đã đi đến sự hủy diệt. Đã hoàn toàn tận diệt: từ được nói bằng cách thêm tiếp đầu ngữ để nhấn mạnh. Đã được đưa đến: tức là đã được đưa đến, đã đi đến sự hủy diệt. Đã khô cạn: tức là đã đi đến trạng thái khô héo do không có dòng tương tục được gọi là sự vận hành. Đã được làm cho chấm dứt: tức là đã được làm cho không còn kết thúc.

Ayamatthoti bhāvanāya pahīnattā vitakkavicārānaṃ abhāvasaṅkhāto attho. Codakena vuttamatthaṃ sampaṭicchitvā pariharituṃ ‘‘evametaṃ siddhovāyamattho’’ti vatvā ‘‘na paneta’’ntiādi vuttaṃ. Tattha etanti ‘‘vitakkavicārānaṃ vūpasamā’’ti etaṃ vacanaṃ. Tadatthadīpakanti tassa vitakkavicārābhāvamattasaṅkhātassa atthassa dīpakaṃ. Na kilesakālussiyassāti upacārakkhaṇe viya nīvaraṇasaṅkhātassa kilesasaṅkhobhassa vūpasamā na sampasādananti attho. Nanu ca ‘‘purimaṃ vatvāpi vattabbamevā’’ti idaṃ kasmā vuttaṃ. Tathā hi dutiyajjhānādiadhigamūpāyadīpakena ajjhattaṃ sampasādanatāya cetaso ekodibhāvatāya ca hetudīpakena avitakkaavicārabhāvahetudīpakena ca vitakkavicāravūpasamavacaneneva vitakkavicārābhāvo dīpitoti, kiṃ puna avitakkaavicāravacanena katenāti? Na, adīpitattā. Na hi vitakkavicāravūpasamavacanena vitakkavicārānaṃ appavatti vuttā hoti. Vitakkavicāresu hi taṇhāppahānaṃ etesaṃ vūpasamanaṃ. Oḷārikaṅgamukhena hi taṃtaṃjhānanikantiyā vikkhambhanaṃ vitakkavicāravūpasamavacanādīhi pakāsitaṃ. Yato vitakkavicāresu virattabhāvadīpakaṃ vitakkavicāravūpasamavacanaṃ, ye ca saṅkhāresu taṇhāppahānaṃ karonti, tesu maggesu pahīnataṇhesu ca phalesu saṅkhārappavatti hoti, evamidhāpi vikkhambhitavitakkavicārataṇhassa dutiyajjhānassa vitakkavicārasampayogo purimena na nivārito siyāti tannivāraṇatthaṃ āvajjitukāmatādiatikkamo ca tesaṃ vūpasamoti dassanatthañca ‘‘avitakkaṃ avicāra’’nti vuttaṃ. Paṭhamajjhānaṃ dutiyajjhānassa upanissayapaccayena paccayo hotīti āha ‘‘paṭhamajjhānasamādhito’’ti. Paṭhamampīti paṭhamajjhānampi.
Ý nghĩa này: tức là ý nghĩa được gọi là sự vắng mặt của tầm và tứ do đã được từ bỏ bằng sự tu tập. Sau khi chấp nhận ý nghĩa đã được người hỏi đưa ra, để giải đáp, ngài nói “ý nghĩa này đã được thành tựu như vậy” rồi mới nói “nhưng điều này…” v.v… Ở đó, điều này tức là câu nói “do sự an tịnh của tầm và tứ”. Làm rõ ý nghĩa đó: tức là làm rõ ý nghĩa được gọi là sự vắng mặt đơn thuần của tầm và tứ đó. Của sự ô uế của phiền não: có nghĩa là, sự an tịnh của sự dao động của phiền não, được gọi là các triền cái, không phải là sự trong sạch, giống như trong khoảnh khắc của cận định. Nhưng tại sao lại nói “ngay cả khi đã nói điều trước, vẫn cần phải nói”? Quả vậy, do sự an tịnh của tầm và tứ, vốn làm rõ phương tiện để chứng đắc nhị thiền v.v…, làm rõ nguyên nhân cho sự trong sạch nội tâm và sự nhất tâm, và làm rõ nguyên nhân cho trạng thái không có tầm và tứ, nên sự vắng mặt của tầm và tứ đã được làm rõ rồi, vậy thì cần gì phải nói thêm câu “không có tầm, không có tứ”? Không phải vậy, vì nó chưa được làm rõ. Quả vậy, câu nói về sự an tịnh của tầm và tứ không có nghĩa là sự không vận hành của tầm và tứ. Bởi vì sự an tịnh của chúng là sự từ bỏ ái dục đối với tầm và tứ. Qua các chi phần thô thiển, sự đè nén lòng ham thích đối với mỗi tầng thiền đã được trình bày bằng các câu như “sự an tịnh của tầm và tứ” v.v… Vì câu nói về sự an tịnh của tầm và tứ làm rõ trạng thái ly tham đối với tầm và tứ, và vì đối với những người đã thực hiện sự từ bỏ ái dục đối với các pháp hữu vi, trong các đạo quả nơi ái dục đã được từ bỏ, sự vận hành của các pháp hữu vi vẫn xảy ra. Cũng vậy, ở đây, đối với nhị thiền, nơi ái dục đối với tầm và tứ đã bị đè nén, sự tương ưng với tầm và tứ có thể sẽ không bị ngăn chặn bởi câu trước. Để ngăn chặn điều đó và để cho thấy rằng sự an tịnh của chúng cũng là sự vượt qua cả ý muốn hướng tâm v.v…, nên mới nói “không có tầm, không có tứ”. Sơ thiền là điều kiện cho nhị thiền bằng duyên cận y, nên ngài nói “từ định của sơ thiền”. Cũng là thứ nhất: tức là cũng là sơ thiền.

Gaṇanānupubbatotiādi heṭṭhā vuttanayeneva veditabbaṃ. Etthāpi ‘‘dutiyaṃ uppannantipi dutiya’’nti vattuṃ vaṭṭatiyeva. Vuttamevatthaṃ vibhaṅgapāṭhena sādhento āha ‘‘yathāhā’’tiādi. Yaṃ pana vibhaṅge (vibha. 580) ‘‘jhānanti sampasādo pīti sukhaṃ cittassekaggatā’’ti vuttaṃ, taṃ saparikkhāraṃ jhānaṃ dassetuṃ pariyāyena vuttaṃ. Rathassa paṇḍukambalaṃ viya hi sampasādo jhānassa parikkhāro, na jhānaṅganti āha ‘‘pariyāyoyeva ceso’’ti. Nippariyāyato pana upanijjhānalakkhaṇappattānaṃ aṅgānaṃ vasena tivaṅgikamevetaṃ hotīti āha ‘‘sampasādanaṃ pana ṭhapetvā’’tiādi.
Câu theo thứ tự đếm v.v… cần được hiểu theo cách đã nói ở dưới. Ở đây, cũng có thể nói rằng “cái phát sinh thứ hai cũng là thứ hai”. Để chứng minh ý nghĩa đã nói bằng bài kinh Vibhaṅga, ngài nói “như đã nói” v.v… Còn điều đã được nói trong sách Vibhaṅga (vibha. 580) rằng “thiền là sự trong sạch, hỷ, lạc, và sự nhất tâm của tâm”, điều đó được nói một cách gián tiếp để cho thấy thiền cùng với các phụ kiện của nó. Quả vậy, giống như chiếc chăn paṇḍukambala là phụ kiện của cỗ xe, sự trong sạch là phụ kiện của thiền, chứ không phải là thiền chi. Do đó, ngài nói “đây chỉ là một cách nói gián tiếp”. Tuy nhiên, một cách trực tiếp, dựa trên các chi phần đã đạt đến đặc tính quán chiếu, thiền này chỉ có ba chi phần. Do đó, ngài nói “tuy nhiên, sau khi đã để sự trong sạch sang một bên” v.v…

Dutiyajjhānakathā niṭṭhitā.
Luận về Nhị thiền kết thúc.

Tatiyajjhānakathā
Luận về Tam thiền

Virajjanaṃ virāgo. Taṃ pana virajjanaṃ nibbindanamukhena hīḷanaṃ vā tappaṭibaddharāgappahānaṃ vāti dassetuṃ ‘‘tassā pītiyā jigucchanaṃ vā samatikkamo vā’’ti vuttaṃ. Ubhinnamantarāti pītiyā virāgāti imesaṃ dvinnaṃ padānaṃ antarā, majjheti attho. Sampiṇḍanaṃ samuccayo. Maggoti upāyo. Dutiyajjhānassa hi paṭilābhaṃ vinā tatiyajjhānassa adhigamo na hotīti vitakkavicārānaṃ vūpasamo tatiyajjhānādhigamassa upāyo. Tadadhigamāyāti tatiyamaggādhigamāya.
Sự phai nhạt là ly tham. Để cho thấy rằng sự phai nhạt đó là sự nhàm chán qua việc chán ghét hoặc là sự từ bỏ lòng tham ái gắn liền với nó, ngài nói “sự ghê tởm đối với hỷ đó hoặc sự vượt qua nó”. Ở giữa hai cái: tức là ở giữa hai từ ‘ly’ và ‘hỷ’. Sự gộp lại là sự hợp nhất. Con đường: tức là phương tiện. Quả vậy, nếu không đạt được nhị thiền thì không thể chứng đắc tam thiền, do đó sự an tịnh của tầm và tứ là phương tiện để chứng đắc tam thiền. Để chứng đắc nó: tức là để chứng đắc đạo quả thứ ba.

Upapattitoti samavāhitabhāvena patirūpato jhānupekkhāpi samavāhitameva antonītaṃ katvā pavattatīti āha ‘‘samaṃ passatī’’ti. Visadāyāti saṃkilesavigamena paribyattāya. Vipulāyāti sātisayaṃ mahaggatabhāvappattito mahatiyā. Thāmagatāyāti pītivigamena thirabhāvappattāya. Nanu cettha upekkhāvedanāva na sambhavati, tasmā kathamayaṃ tatiyajjhānasamaṅgī upekkhāya samannāgatattā ‘‘upekkhako’’ti vuccatīti ce? Na kevalaṃ vedanupekkhāva upekkhāti vuccati, atha kho aññāpi upekkhā vijjantīti dassento āha ‘‘upekkhā pana dasavidhā hotī’’tiādi. Tattha (dha. sa. aṭṭha. 163; visuddhi. 1.84) ‘‘idha, bhikkhave, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā neva sumano hoti na dummano, upekkhako viharati sato sampajāno’’ti (a. ni. 6.1) evamāgatā khīṇāsavassa chasu dvāresu iṭṭhāniṭṭhachaḷārammaṇāpāthe parisuddhapakatibhāvāvijahanākārabhūtā upekkhā chaḷaṅgupekkhā nāma.
Do sự phát sinh: do tâm xả của thiền, vốn có bản chất quân bình, cũng vận hành bằng cách bao hàm cả sự quân bình bên trong, nên ngài nói “thấy một cách quân bình”. Trong sáng: tức là đã trở nên rõ ràng do đã không còn các pháp ô nhiễm. Rộng lớn: tức là đã trở nên vĩ đại do đã đạt đến trạng thái cao cả một cách vượt trội. Vững chắc: tức là đã đạt đến trạng thái vững vàng do đã không còn hỷ. Nhưng nếu có người hỏi rằng: ở đây, thọ xả không thể có được, vậy tại sao người đã chứng tam thiền này lại được gọi là “người có tâm xả” do được hợp thành bởi tâm xả? Để cho thấy rằng, không chỉ có thọ xả mới được gọi là tâm xả, mà còn có các loại tâm xả khác nữa, ngài nói “tuy nhiên, tâm xả có mười loại” v.v… Ở đó (dha. sa. aṭṭha. 163; visuddhi. 1.84), tâm xả đã được nói đến trong các kinh như “Này các Tỳ-khưu, ở đây, vị Tỳ-khưu sau khi thấy sắc bằng mắt, không vui, không buồn, vị ấy sống xả, chánh niệm, tỉnh giác” (a. ni. 6.1), là tâm xả có hình thức là sự không từ bỏ trạng thái tự nhiên trong sáng của bậc A-la-hán tại sáu cửa giác quan khi đối diện với sáu đối tượng trần cảnh thuận và nghịch, được gọi là lục chi xả.

Yā pana ‘‘upekkhāsahagatena cetasā ekaṃ disaṃ pharitvā viharatī’’ti (dī. ni. 3.308) evamāgatā sattesu majjhattākārabhūtā upekkhā, ayaṃ brahmavihārupekkhā nāma.
Còn tâm xả đã được nói đến trong các kinh như “vị ấy sống biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả” (dī. ni. 3.308), là tâm xả có hình thức là thái độ trung lập đối với các chúng sanh, đây được gọi là phạm trú xả.

Yā ‘‘upekkhāsambojjhaṅgaṃ bhāveti vivekanissita’’nti (ma. ni. 1.27; saṃ. ni. 5.182, 190-191) evamāgatā sahajātadhammānaṃ majjhattākārabhūtā upekkhā, ayaṃ bojjhaṅgupekkhā nāma.
Tâm xả đã được nói đến trong các kinh như “vị ấy tu tập xả giác chi, y cứ vào sự ly” (ma. ni. 1.27; saṃ. ni. 5.182, 190-191), là tâm xả có hình thức là thái độ trung lập đối với các pháp đồng sinh, đây được gọi là giác chi xả.

Yā pana ‘‘kālena kālaṃ upekkhānimittaṃ manasi karotī’’ti (a. ni. 3.103) evamāgatā anaccāraddhanātisithilavīriyasaṅkhātā upekkhā, ayaṃ vīriyupekkhā nāma.
Còn tâm xả đã được nói đến trong các kinh như “vị ấy tùy thời tác ý đến tướng xả” (a. ni. 3.103), là tâm xả được gọi là sự tinh tấn không quá căng, không quá chùng, đây được gọi là tinh tấn xả.

Yā –
Tâm xả mà –

‘‘Kati saṅkhārupekkhā samathavasena uppajjanti, kati saṅkhārupekkhā vipassanāvasena uppajjanti? Aṭṭha saṅkhārupekkhā samathavasena uppajjanti, dasa saṅkhārupekkhā vipassanāvasena uppajjanti.
“Bao nhiêu hành xả phát sinh do tu chỉ? Bao nhiêu hành xả phát sinh do tu quán? Tám hành xả phát sinh do tu chỉ, mười hành xả phát sinh do tu quán.

‘‘Katamā aṭṭha saṅkhārupekkhā samathavasena uppajjanti? Paṭhamajjhānapaṭilābhatthāya nīvaraṇe paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, dutiyajjhānapaṭilābhatthāya vitakkavicāre paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, tatiyajjhānapaṭilābhatthāya pītiṃ paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, catutthajjhānapaṭilābhatthāya sukhadukkhe paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, ākāsānañcāyatanasamāpattipaṭilābhatthāya rūpasaññaṃ paṭighasaññaṃ nānattasaññaṃ paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, viññāṇañcāyatanasamāpattipaṭilābhatthāya ākāsānañcāyatanasaññaṃ paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, ākiñcaññāyatanasamāpattipaṭilābhatthāya viññāṇañcāyatanasaññaṃ paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, nevasaññānāsaññāyatanasamāpattipaṭilābhatthāya ākiñcaññāyatanasaññaṃ paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, imā aṭṭha saṅkhārupekkhā samathavasena uppajjanti.
“Thế nào là tám hành xả phát sinh do tu chỉ? Trí tuệ, tức là tri kiến trong các hành xả, an trú bằng cách quán xét các triền cái để chứng đắc sơ thiền; trí tuệ, tức là tri kiến trong các hành xả, an trú bằng cách quán xét tầm và tứ để chứng đắc nhị thiền; trí tuệ, tức là tri kiến trong các hành xả, an trú bằng cách quán xét hỷ để chứng đắc tam thiền; trí tuệ, tức là tri kiến trong các hành xả, an trú bằng cách quán xét lạc và khổ để chứng đắc tứ thiền; trí tuệ, tức là tri kiến trong các hành xả, an trú bằng cách quán xét sắc tưởng, đối ngại tưởng, và dị tưởng để chứng đắc Không Vô Biên Xứ định; trí tuệ, tức là tri kiến trong các hành xả, an trú bằng cách quán xét tưởng về Không Vô Biên Xứ để chứng đắc Thức Vô Biên Xứ định; trí tuệ, tức là tri kiến trong các hành xả, an trú bằng cách quán xét tưởng về Thức Vô Biên Xứ để chứng đắc Vô Sở Hữu Xứ định; trí tuệ, tức là tri kiến trong các hành xả, an trú bằng cách quán xét tưởng về Vô Sở Hữu Xứ để chứng đắc Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định. Đây là tám hành xả phát sinh do tu chỉ.

‘‘Katamā dasa saṅkhārupekkhā vipassanāvasena uppajjanti? Sotāpattimaggapaṭilābhatthāya uppādaṃ pavattaṃ nimittaṃ āyūhanaṃ paṭisandhiṃ gatiṃ nibbattiṃ upapattiṃ jātiṃ jaraṃ byādhiṃ maraṇaṃ sokaṃ paridevaṃ upāyāsaṃ paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, sotāpattiphalasamāpattatthāya uppādaṃ pavattaṃ nimittaṃ āyūhanaṃ paṭisandhiṃ paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, sakadāgāmimaggapaalābhatthāya…pe… sakadāgāmiphalasamāpattatthāya…pe… anāgāmimaggapaṭilābhatthāya…pe… anāgāmiphalasamāpattatthāya…pe… arahattamaggapaṭilābhatthāya uppādaṃ pavattaṃ nimittaṃ āyūhanaṃ paṭisandhiṃ gatiṃ nibbattiṃ upapattiṃ jātiṃ jaraṃ byādhiṃ maraṇaṃ sokaṃ paridevaṃ upāyāsaṃ paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, arahattaphalasamāpattatthāya…pe… suññatavihārasamāpattatthāya…pe… animittavihārasamaāpattatthāya uppādaṃ pavattaṃ nimittaṃ āyūhanaṃ paṭisandhiṃ paṭisaṅkhā santiṭṭhanā paññā saṅkhārupekkhāsu ñāṇaṃ, imā dasa saṅkhārupekkhā vipassanāvasena uppajjantī’’ti (paṭi. ma. 1.57) –
“Thế nào là mười hành xả phát sinh do tu quán? Trí tuệ, tức là tri kiến trong các hành xả, an trú bằng cách quán xét sự sinh, sự tồn tại, tướng, sự tạo tác, sự tái sanh, cảnh giới, sự hình thành, sự hiện hữu, sự sinh, sự già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não để chứng đắc đạo Tu-đà-hoàn; trí tuệ, tức là tri kiến trong các hành xả, an trú bằng cách quán xét sự sinh, sự tồn tại, tướng, sự tạo tác, sự tái sanh để chứng đắc quả Tu-đà-hoàn; để chứng đắc đạo Tư-đà-hàm… cho đến… để chứng đắc quả Tư-đà-hàm… cho đến… để chứng đắc đạo A-na-hàm… cho đến… để chứng đắc quả A-na-hàm… cho đến… để chứng đắc đạo A-la-hán…; để chứng đắc quả A-la-hán… cho đến… để chứng đắc Không trú định… cho đến… để chứng đắc Vô tướng trú định… Đây là mười hành xả phát sinh do tu quán.” (paṭi. ma. 1.57) –

Evamāgatā nīvaraṇādipaṭisaṅkhāsantiṭṭhanākārabhūtā upekkhā, ayaṃ saṅkhārupekkhā nāma.
Tâm xả đã được nói đến như vậy, có hình thức là sự an trú quán xét các triền cái v.v…, đây được gọi là hành xả.

Tattha nīvaraṇe paṭisaṅkhāti pañca nīvaraṇāni pahātabbabhāvena paṭisaṅkhāya, pariggahetvāti attho. Santiṭṭhanāti nīvaraṇānaṃ pahānābhimukhībhūtattā tesaṃ pahānepi abyāpārabhāvūpagamanena majjhattatāya santiṭṭhanā. Saṅkhārupekkhāsūti nīvaraṇappahāne byāpārākaraṇena nīvaraṇasaṅkhātānaṃ saṅkhārānaṃ upekkhanāsūti attho. Esa nayo vitakkavicārādīsu uppādādīsu ca. Tattha uppādanti purimakammapaccayā khandhānaṃ idha uppattimāha. Pavattanti tathāuppannassa pavattiṃ. Nimittanti sabbampi tebhūmakaṃ saṅkhāragataṃ nimittabhāvena upaṭṭhānato. Āyūhananti āyatiṃ paṭisandhihetubhūtaṃ kammaṃ. Paṭisandhinti āyatiṃ upapattiṃ. Gatinti yāya gatiyā sā paṭisandhi hoti. Nibbattinti khandhānaṃ nibbattanaṃ. Upapattinti vipākappavattiṃ. Jātinti jarādīnaṃ paccayabhūtaṃ bhavapaccayā jātiṃ. Jarāmaraṇādayo pākaṭā eva.
Ở đó, quán xét các triền cái: tức là sau khi đã quán xét, đã nhận thức năm triền cái là những pháp cần phải từ bỏ. Sự an trú: tức là sự an trú trong thái độ trung lập, bằng cách không can dự vào việc từ bỏ các triền cái, do đã hướng đến sự từ bỏ chúng. Trong các sự xả đối với các hành: có nghĩa là trong các sự xả đối với các hành được gọi là các triền cái, bằng cách không can dự vào việc từ bỏ chúng. Cách giải thích này cũng áp dụng cho các trường hợp tầm và tứ v.v… và sự sinh v.v… Ở đó, sự sinh nói lên sự phát sinh của các uẩn ở đây do nghiệp quá khứ làm duyên. Sự tồn tại nói lên sự diễn tiến của cái đã phát sinh như vậy. Tướng là do tất cả các pháp hữu vi trong ba cõi hiện khởi dưới dạng một tướng. Sự tạo tác là nghiệp làm nhân cho sự tái sanh trong tương lai. Sự tái sanh là sự hiện hữu trong tương lai. Cảnh giới là cảnh giới mà sự tái sanh đó diễn ra. Sự hình thành là sự hình thành của các uẩn. Sự hiện hữu là sự diễn tiến của quả báo. Sự sinh là sự sinh do sự tồn tại làm duyên, vốn là nguyên nhân cho sự già v.v… Sự già, chết v.v… thì đã rõ ràng.

Ettha ca uppādādayo pañceva saṅkhārupekkhāñāṇassa visayavasena vuttā, sesā tesaṃ vevacanavasena. Nibbatti jātīti idañhi dvayaṃ uppādassa ceva paṭisandhiyā ca vevacanaṃ. Gati upapatti cāti idaṃ dvayaṃ pavattassa, jarādayo nimittassāti veditabbaṃ. Nanu cettha catūsu maggavāresu ‘‘uppāda’’ntiādīni pañca mūlapadāni, ‘‘gatī’’tiādīni dasa vevacanapadānīti pannarasa padāni vuttāni, chasu pana phalasamāpattivāresu pañca mūlapadāneva vuttāni, taṃ kasmāti ce? Saṅkhārupekkhāya tikkhabhāve sati kilesappahānasamatthassa maggassa sabbhāvato tassā tikkhabhāvadassanatthaṃ vevacanapadehi saha daḷhaṃ katvā mūlapadāni vuttāni, phalassa nirussāhabhāvena santasabhāvattā maggāyattattā ca mandabhūtāpi saṅkhārupekkhā phalassa paccayo hotīti dassanatthaṃ mūlapadāneva vuttānīti veditabbāni.
Ở đây, chỉ có năm yếu tố là sự sinh v.v… được nói đến với vai trò là đối tượng của trí tuệ hành xả, các yếu tố còn lại là từ đồng nghĩa của chúng. ‘Sự hình thành’ và ‘sự sinh’ là hai từ đồng nghĩa của ‘sự sinh’ và ‘sự tái sanh’. ‘Cảnh giới’ và ‘sự hiện hữu’ là hai từ đồng nghĩa của ‘sự tồn tại’; còn ‘sự già’ v.v… là của ‘tướng’, cần phải hiểu như vậy. Nhưng có người hỏi: ở đây, trong bốn trường hợp về đạo, có năm từ gốc là “sự sinh” v.v… và mười từ đồng nghĩa là “cảnh giới” v.v…, tổng cộng là mười lăm từ được nói đến; nhưng trong sáu trường hợp về sự chứng đắc quả, chỉ có năm từ gốc được nói đến, tại sao vậy? Cần phải biết rằng: do sự tồn tại của đạo, vốn có khả năng từ bỏ phiền não khi hành xả trở nên sắc bén, nên để cho thấy sự sắc bén của nó, các từ gốc đã được nói một cách chắc chắn cùng với các từ đồng nghĩa; còn để cho thấy rằng, do quả có bản chất không cần nỗ lực và an tịnh, và do phụ thuộc vào đạo, nên ngay cả hành xả yếu ớt cũng là điều kiện cho quả, nên chỉ có các từ gốc được nói đến.

Tattha ‘‘sotāpattimaggapaṭilābhatthāyā’’tiādīsu catūsu maggavāresu suññatānimittappaṇihitamaggānaṃ aññataro vutto. ‘‘Sotāpattiphalasamāpattatthāyā’’tiādīsu catūsu phalavāresu pana appaṇihitaphalasamāpatti veditabbā. Kasmā? Suññatavihārasamāpattatthāya animittavihārasamāpattatthāyāti itarāsaṃ dvinnaṃ phalasamāpattīnaṃ visuṃ vuttattā. Aniccānupassanāvuṭṭhānavasena hi animittamaggo, tatheva phalasamāpattikāle animittaphalasamāpatti, dukkhānupassanāvuṭṭhānavasena appaṇihitamaggaphalasamāpattiyo, anattānupassanāvuṭṭhānavasaena suññatamaggaphalasamāpattiyo suttantanayena veditabbā. Evañca katvā suññatādivimokkhavasena magguppattihetubhūtā catasso, tathā appaṇihitaphalasamāpattiyā catasso, suññatavihāraanimittavihāravasena dveti dasa saṅkhārupekkhāvipassanāpaññā vuttā, samathasaṅkhārupekkhā pana appanāvīthiyā āsannapubbabhāge balappattaṃ bhāvanāmayañāṇaṃ.
Ở đó, trong bốn trường hợp về đạo như “để chứng đắc đạo Tu-đà-hoàn” v.v…, một trong ba loại đạo là không, vô tướng, và vô nguyện đã được nói đến. Còn trong bốn trường hợp về quả như “để chứng đắc quả Tu-đà-hoàn” v.v…, cần phải hiểu đó là sự chứng đắc quả vô nguyện. Tại sao? Vì hai sự chứng đắc quả còn lại, tức là Không trú định và Vô tướng trú định, đã được nói riêng. Quả vậy, cần phải hiểu theo phương pháp của kinh tạng rằng, đạo vô tướng là do xuất khởi từ sự quán vô thường; sự chứng đắc quả vô tướng cũng như vậy vào lúc chứng quả. Đạo và quả vô nguyện là do xuất khởi từ sự quán khổ; đạo và quả không là do xuất khởi từ sự quán vô ngã. Và như vậy, có bốn trí tuệ quán hành xả là nhân cho sự phát sinh của đạo theo ba cửa giải thoát là không, v.v…; tương tự, có bốn cho sự chứng đắc quả vô nguyện; và có hai theo cách Không trú và Vô tướng trú; tổng cộng là mười trí tuệ quán hành xả. Còn hành xả thuộc về tu chỉ là trí tuệ thuộc về sự tu tập đã đạt đến đỉnh điểm ở giai đoạn cận kề trước lộ trình tâm an chỉ.

Yā pana ‘‘yasmiṃ samaye kāmāvacaraṃ kusalaṃ cittaṃ uppannaṃ hoti upekkhāsahagata’’nti (dha. sa. 150) evamāgatā adukkhamasukhasaññitā upekkhā, ayaṃ vedanupekkhā nāma.
Còn tâm xả đã được nói đến trong các kinh như “vào lúc tâm thiện thuộc Dục giới, câu hữu với xả, phát sinh” (dha. sa. 150), là tâm xả được gọi là bất khổ bất lạc, đây được gọi là thọ xả.

Yā ‘‘yadatthi yaṃ bhūtaṃ, taṃ pajahati, upekkhaṃ paṭilabhatī’’ti (ma. ni. 3.71; a. ni. 7.55) evamāgatā vicinane majjhattabhūtā upekkhā, ayaṃ vipassanupekkhā nāma.
Tâm xả đã được nói đến trong các kinh như “cái gì có, cái gì hiện hữu, vị ấy từ bỏ cái đó, đạt được tâm xả” (ma. ni. 3.71; a. ni. 7.55), là tâm xả có bản chất trung lập trong khi thẩm xét, đây được gọi là quán xả.

Tattha yadatthi yaṃ bhūtanti khandhapañcakaṃ, taṃ muñcitukamyatāñāṇena pajahati. Upekkhaṃ paṭilabhatīti diṭṭhasovattikattayassa sappassa lakkhaṇavicinane viya diṭṭhalakkhaṇattayassa khandhapañcakassa saṅkhāralakkhaṇavicinane upekkhaṃ paṭilabhatīti attho.
Ở đó, cái gì có, cái gì hiện hữu là năm uẩn; vị ấy từ bỏ nó bằng trí tuệ mong muốn giải thoát. Đạt được tâm xả: có nghĩa là, giống như người thấy ba dấu hiệu của con rắn rồi hết nghi ngờ, trở nên trung lập trong khi thẩm xét các đặc tính của con rắn, cũng vậy, vị ấy đạt được tâm xả trong khi thẩm xét các đặc tính của các hành của năm uẩn, sau khi đã thấy ba đặc tính của chúng.

Yā pana chandādīsu yevāpanakesu āgatā sahajātānaṃ samappavattihetubhūtā upekkhā, ayaṃ tatramajjhattupekkhā nāma.
Còn tâm xả đã được nói đến trong các yếu tố quyết định như ý muốn v.v…, là nguyên nhân cho sự vận hành quân bình của các pháp đồng sinh, đây được gọi là trung lập xả.

Yā ‘‘upekkhako ca viharatī’’ti (dī. ni. 1.230; dha. sa. 163) evamāgatā aggasukhepi tasmiṃ apakkhapātajananī upekkhā, ayaṃ jhānupekkhā nāma.
Tâm xả đã được nói đến trong các kinh như “vị ấy sống xả” (dī. ni. 1.230; dha. sa. 163), là tâm xả tạo ra sự không thiên vị ngay cả đối với lạc thù thắng trong tầng thiền đó, đây được gọi là thiền xả.

Yā pana ‘‘upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhāna’’nti (dī. ni. 1.232; dha. sa. 165) evamāgatā sabbapaccanīkaparisuddhā paccanīkavūpasamanepi abyāpārabhūtā upekkhā, ayaṃ pārisuddhupekkhā nāma.
Còn tâm xả đã được nói đến trong các kinh như “tứ thiền, có xả và niệm trong sạch” (dī. ni. 1.232; dha. sa. 165), là tâm xả đã trong sạch khỏi mọi pháp đối nghịch và không còn can dự ngay cả trong việc làm lắng dịu các pháp đối nghịch, đây được gọi là thanh tịnh xả.

Tattha chaḷaṅgupekkhā ca brahmavihārupekkhā ca bojjhaṅgupekkhā ca tatramajjhattupekkhā ca jhānupekkhā ca pārisuddhupekkhā ca atthato ekā tatramajjhattupekkhāva hoti. Tena tena avatthābhedena panassā ayaṃ bhedo ekassapi sato sattassa kumārayuvatherasenāpatirājādivasena bhedo viya. Tasmā tāsu yattha chaḷaṅgupekkhā, na tattha bojjhaṅgupekkhādayo. Yattha vā pana bojjhaṅgupekkhā, na tattha chaḷaṅgupekkhādayo hontīti veditabbā. Yathā cetāsaṃ atthato ekībhāvo, evaṃ saṅkhārupekkhāvipassanupekkhānampi. Paññā eva hi sā kiccavasena dvidhā bhinnā. Yathā hi purisassa sāyaṃ gehaṃ paviṭṭhaṃ sappaṃ ajapadadaṇḍaṃ gahetvā pariyesamānassa taṃ thusakoṭṭhake nipannaṃ disvā ‘‘sappo nu kho, no’’ti avalokentassa sovattikattayaṃ disvā nibbematikassa ‘‘sappo, na sappo’’ti vicinane majjhattatā hoti, evameva yā āraddhavipassakassa vipassanāñāṇena lakkhaṇattaye diṭṭhe saṅkhārānaṃ aniccabhāvādivicinane majjhattatā uppajjati, ayaṃ vipassanupekkhā. Yathā pana tassa purisassa ajapadena daṇḍena gāḷhaṃ sappaṃ gahetvā ‘‘kintāhaṃ imaṃ sappaṃ aviheṭhento attānañca iminā aḍaṃsāpento muñceyya’’nti muñcanākārameva pariyesato gahaṇe majjhattatā hoti, evameva yā lakkhaṇattayassa diṭṭhattā āditte viya tayo bhave passato saṅkhāraggahaṇe majjhattatā, ayaṃ saṅkhārupekkhā. Iti vipassanupekkhāya siddhāya saṅkhārupekkhāpi siddhāva hoti. Iminā panesā vicinanagahaṇesu majjhattasaṅkhātena kiccena dvidhā bhinnā. Vīriyupekkhā pana vedanupekkhā ca aññamaññañca avasesāhi ca atthato bhinnā evāti.
Ở đó, lục chi xả, phạm trú xả, giác chi xả, trung lập xả, thiền xả, và thanh tịnh xả, về mặt ý nghĩa, chỉ là một, đó là trung lập xả. Sự phân chia này của nó là do sự khác biệt về trạng thái, giống như sự phân chia của cùng một chúng sanh thành thiếu niên, thanh niên, người già, tướng quân, vua v.v… Do đó, cần phải biết rằng, ở đâu có lục chi xả, ở đó không có giác chi xả v.v…; hoặc ở đâu có giác chi xả, ở đó không có lục chi xả v.v… Cũng như những loại này là một về mặt ý nghĩa, hành xả và quán xả cũng vậy. Chúng chính là trí tuệ, chỉ được phân chia làm hai do chức năng. Ví như một người, sau khi lấy cây gậy chăn dê để tìm con rắn đã vào nhà mình vào buổi tối, thấy nó nằm trong kho thóc, liền nhìn xem “có phải là rắn không?”, sau khi thấy ba dấu hiệu liền hết nghi ngờ, trở nên trung lập trong khi thẩm xét “rắn hay không phải rắn”, cũng vậy, sự trung lập phát sinh nơi hành giả tuệ quán trong khi thẩm xét các đặc tính vô thường v.v… của các hành, sau khi đã thấy ba đặc tính bằng tuệ quán, đây là quán xả. Còn ví như người đó, sau khi đã dùng cây gậy chăn dê để giữ chặt con rắn, chỉ tìm cách làm sao để thả con rắn này ra mà không làm hại nó và cũng không để mình bị nó cắn, trở nên trung lập trong việc bắt giữ, cũng vậy, do đã thấy ba đặc tính, thấy ba cõi như đang bốc cháy, sự trung lập trong việc nắm bắt các hành, đây là hành xả. Như vậy, khi quán xả đã thành tựu, thì hành xả cũng đã thành tựu. Do chức năng này, được gọi là sự trung lập trong việc thẩm xét và nắm bắt, nó được phân chia làm hai. Còn tinh tấn xả và thọ xả thì khác nhau về mặt ý nghĩa và cũng khác với các loại còn lại.

Imāsaṃ pana dasannampi upekkhānaṃ bhūmipuggalādivasena vibhāgo tattha tattha vuttanayeneva veditabboti dassento āha ‘‘evamayaṃ dasavidhāpī’’tiādi. Tattha bhūmipuggalacittārammaṇatoti ‘‘chaḷaṅgupekkhā kāmāvacarā, brahmavihārupekkhā rūpāvacarā’’ti evamādinā bhūmito. ‘‘Chaḷaṅgupekkhā khīṇāsavasseva, brahmavihārupekkhā tiṇṇampi puthujjanasekkhāsekkhāna’’nti evamādinā puggalato. ‘‘Chaḷaṅgupekkhā somanassupekkhāsahagatacittasampayuttā’’tiādinā cittato. ‘‘Chaḷaṅgupekkhā chaḷārammaṇā, brahmavihārupekkhā dhammārammaṇā’’tiādinā ārammaṇatoKhandhasaṅgahaekakkhaṇakusalattikasaṅkhepavasenāti ‘‘vedanupekkhā vedanākkhandhena saṅgahitā, itarā nava saṅkhārakkhandhenā’’ti khandhasaṅgahavasena. Chaḷaṅgupekkhā brahmavihārabojjhaṅgajhānapārisuddhitatramajjhattupekkhā ca atthato ekā, tasmā ekakkhaṇe tāsu ekāya sati na itarā, tathā saṅkhārupekkhāvipassanupekkhāpi veditabbā, vedanāvīriyupekkhānaṃ ekakkhaṇe siyā uppattīti evaṃ ekakkhaṇavasena. Chaḷaṅgupekkhā abyākatā, brahmavihārupekkhā kusalābyākatā, tathā sesā, vedanupekkhā pana siyā akusalāpīti evaṃ kusalattikavasena. Dasapetā saṅkhepato cattārova dhammā vīriyavedanātatramajjhattatāñāṇavasenāti evaṃ saṅkhepavasena.
Để cho thấy rằng sự phân loại của mười loại tâm xả này theo cõi, hạng người v.v… cần được hiểu theo cách đã được nói ở nhiều nơi, ngài nói “như vậy, mười loại này…” v.v… Ở đó, do cõi, hạng người, tâm, và đối tượng: tức là, từ cõi, theo cách phân loại như “lục chi xả thuộc Dục giới, phạm trú xả thuộc Sắc giới” v.v…; từ hạng người, theo cách phân loại như “lục chi xả chỉ có ở bậc A-la-hán, phạm trú xả có ở cả ba hạng người là phàm phu, Thánh hữu học, và Thánh vô học” v.v…; từ tâm, theo cách phân loại như “lục chi xả tương ưng với tâm câu hữu với hỷ và xả” v.v…; từ đối tượng, theo cách phân loại như “lục chi xả có sáu đối tượng, phạm trú xả có chúng sanh làm đối tượng” v.v… Do cách tóm tắt theo sự bao gồm trong các uẩn, sự đồng thời trong một khoảnh khắc, và ba loại thiện: tức là, theo cách bao gồm trong các uẩn, “thọ xả được bao gồm trong thọ uẩn, chín loại còn lại được bao gồm trong hành uẩn”; theo cách đồng thời trong một khoảnh khắc, lục chi xả, phạm trú xả, giác chi xả, thiền xả, thanh tịnh xả, và trung lập xả là một về mặt ý nghĩa, do đó, trong một khoảnh khắc, khi có một loại thì không có các loại khác; tương tự, hành xả và quán xả cũng cần được hiểu như vậy; còn thọ xả và tinh tấn xả có thể phát sinh trong cùng một khoảnh khắc; theo ba loại thiện, lục chi xả là vô ký, phạm trú xả là thiện và vô ký, tương tự đối với các loại còn lại, còn thọ xả có khi cũng là bất thiện; theo cách tóm tắt, mười loại này tóm lại chỉ là bốn pháp, theo nghĩa là tinh tấn, thọ, sự trung lập, và trí tuệ.

Idāni idhādhippetāya jhānupekkhāya lakkhaṇādiṃ niddhāretvā dassento āha ‘‘lakkhaṇādito panā’’tiādi. Tattha anābhogarasāti paṇītasukhepi tasmiṃ avanatipaṭipakkhakiccāti attho. Abyāpārapaccupaṭṭhānāti satipi sukhapāramippattiyaṃ tasmiṃ sukhe abyāvaṭā hutvā paccupatiṭṭhati, sampayuttānaṃ vā tattha abyāpāraṃ paccupaṭṭhapetīti attho. Sampayuttadhammānaṃ khobhaṃ uppilavañca āvahantehi vitakkādīhi abhibhūtattā aparibyattaṃ tattha tatramajjhattatāya kiccaṃ, tadabhāvato idha paribyattanti āha ‘‘aparibyattakiccato’’ti. Tenevāha ‘‘aparibyattaṃ hī’’tiādi.
Bây giờ, để xác định và trình bày các đặc tính v.v… của thiền xả được nhắm đến ở đây, ngài nói “tuy nhiên, từ đặc tính v.v…” v.v… Ở đó, có chức năng không hướng đến: có nghĩa là, ngay cả đối với lạc thù thắng đó, nó có chức năng đối lập với việc nghiêng về. Có sự không can dự làm hiện trạng: có nghĩa là, ngay cả khi đã đạt đến đỉnh điểm của lạc, nó hiện khởi bằng cách không bận tâm đến lạc đó, hoặc nó làm cho các pháp tương ưng không can dự vào đó. Do bị các pháp như tầm v.v…, vốn mang lại sự dao động và trôi nổi cho các pháp tương ưng, lấn át, nên chức năng của sự trung lập ở đó không rõ ràng; do không có chúng ở đây, nên nó rõ ràng. Do đó, ngài nói “do chức năng không rõ ràng”. Và cũng vì thế, ngài nói “quả vậy, không rõ ràng” v.v…

Idānisato ca sampajānoti ettha ‘‘vuccatī’’ti ajjhāharitabbaṃ. Saratīti iminā ‘‘sato’’ti padassa kattusādhanatamāha. Sampajānātīti sammadeva pajānāti. Puggalenāti puggalādhiṭṭhānena. Saraṇaṃ cintanaṃ upaṭṭhānaṃ lakkhaṇametissāti saraṇalakkhaṇā. Sammussanapaṭipakkho asammussanaṃ kiccaṃ etissāti asammussanarasā. Kilesehi ārakkhā hutvā paccupatiṭṭhati, tato vā ārakkhaṃ paccupaṭṭhapetīti ārakkhapaccupaṭṭhānā. Asammuyhanaṃ sammadeva pajānanaṃ, sammohapaṭipakkho vā asammoho lakkhaṇametassāti asammohalakkhaṇaṃ. Tīraṇaṃ kiccassa pāragamanaṃ. Pavicayo vīmaṃsā. Kāmaṃ upacārajjhānādiṃ upādāya paṭhamadutiyajjhānānipi sukhumāneva, imaṃ pana uparimajjhānaṃ upādāya ‘‘oḷārikattā pana tesaṃ jhānāna’’nti vuttaṃ, sā ca oḷārikatā vitakkādithūlaṅgatāya veditabbā. Keci ‘‘bahucetasikatāyā’’ti ca vadanti. Bhūmiyaṃ viya purisassāti purisassa bhūmiyaṃ gati viyāti vuttaṃ hoti. Gati sukhā hotīti tesu jhānesu gati sukhā hoti. Abyattaṃ tattha satisampajaññakiccanti ‘‘idaṃ nāma dukkaraṃ karīyatī’’ti vattabbassa abhāvato vuttaṃ. Oḷārikaṅgappahānena pana sukhumattāti ayamattho kāmaṃ dutiyajjhānepi sambhavati, tathāpi yebhuyyena avippayogībhāvena vattamānesu pītisukhesu pītisaṅkhātassa oḷārikaṅgassa pahānena sukhumatāya idha sātisayo satipaññābyāpāroti vuttaṃ ‘‘purisassā’’tiādi. Dhenuṃ pivatīti dhenupago, dhenuyā khīraṃ pivantoti vuttaṃ hoti. Punadeva pītiṃ upagaccheyyāti hānabhāgiyaṃ jhānaṃ siyā , dutiyajjhānameva sampajjeyyāti attho. Tenāha ‘‘pītisampayuttameva siyā’’ti. Idañca atimadhuraṃ sukhanti tatiyajjhāne sukhaṃ sandhāyāha, atimadhuratā cassa pahāsodagyasabhāvāya pītiyā abhāveneva veditabbā. Idanti ‘‘sato sampajāno’’ti padadvayaṃ.
Trong câu bây giờ, vị ấy là người chánh niệm, tỉnh giác, cần phải thêm vào từ “được gọi là”. Vị ấy ghi nhớ: qua đó, ngài cho thấy cách thành lập từ ‘sato’ (chánh niệm) theo nghĩa chỉ chủ thể. Vị ấy tỉnh giác: tức là vị ấy biết một cách đúng đắn. Bởi cá nhân: tức là với sự quy chiếu vào cá nhân. Đặc tính của nó là sự ghi nhớ, sự nghĩ đến, sự có mặt, nên là có đặc tính ghi nhớ. Chức năng của nó là sự không quên lãng, đối lập với sự lãng quên, nên là có chức năng không quên lãng. Nó hiện khởi bằng cách bảo vệ khỏi các phiền não, hoặc nó làm cho sự bảo vệ khỏi các phiền não hiện khởi, nên là có sự bảo vệ làm hiện trạng. Sự không mê mờ là sự biết một cách đúng đắn, hoặc sự không mê mờ, đối lập với sự mê mờ, là đặc tính của nó, nên là có đặc tính không mê mờ. Sự thẩm xét là sự hoàn thành nhiệm vụ. Sự phân tích là sự suy xét. Mặc dù, so với cận định v.v…, sơ thiền và nhị thiền cũng đã là vi tế, nhưng so với thiền cao hơn này, mới nói “tuy nhiên, do các thiền đó thô thiển”; và sự thô thiển đó cần được hiểu là do các chi phần thô như tầm v.v… Một số người còn nói “do có nhiều tâm sở”. Giống như một người trên mặt đất: có nghĩa là, giống như sự đi của một người trên mặt đất. Sự đi là dễ chịu: tức là, trong các thiền đó, sự đi là dễ chịu. Nhiệm vụ của chánh niệm, tỉnh giác ở đó không rõ ràng: điều này được nói do không có gì để phải nói rằng “một việc khó làm như thế này đang được thực hiện”. Tuy nhiên, do sự vi tế nhờ đã từ bỏ các chi phần thô: ý nghĩa này, mặc dù cũng có thể có ở nhị thiền, nhưng do đã từ bỏ chi phần thô là hỷ, trong số hỷ và lạc vốn thường tồn tại không tách rời nhau, nên sự vận hành của niệm và tuệ ở đây là vượt trội. Do đó, mới nói “của một người” v.v… Người uống sữa bò cái là dhenupago, có nghĩa là người đang uống sữa của bò mẹ. Lại có thể đạt đến hỷ: tức là thiền có thể bị thoái hóa, có nghĩa là chỉ đạt được nhị thiền. Do đó, ngài nói “chỉ có thể là tương ưng với hỷ”. Và lạc này là vô cùng ngọt ngào: ngài nói nhắm đến lạc trong tam thiền; và sự vô cùng ngọt ngào của nó cần được hiểu là chính do sự vắng mặt của hỷ, vốn có bản chất phấn chấn. Điều này: tức là hai từ “chánh niệm, tỉnh giác”.

Sukhañca kāyena paṭisaṃvedesinti ettha kathamābhogena vinā sukhapaṭisaṃvedanāti āha ‘‘kiñcāpī’’tiādi. Yasmā tassa nāmakāyena sampayuttaṃ sukhaṃ, tasmā etamatthaṃ dassento ‘‘sukhañca kāyena paṭisaṃvedesi’’nti āhāti yojetabbaṃ. Ayaṃ panettha saṅkhepattho – ‘‘sukhaṃ vedayāmī’’ti evamābhoge asatipi nāmakāyena cetasikasukhaṃ, kāyikasukhaheturūpasamuṭṭhāpanena kāyikasukhañca jhānasamaṅgī paṭisaṃvedetīti vuccatīti. Tassāti jhānasamaṅgino. Yaṃ vā tanti yaṃ vā taṃ yathāvuttaṃ nāmakāyasampayuttaṃ sukhaṃ. Taṃsamuṭṭhānenāti tato samuṭṭhitena atipaṇītena rūpena assa jhānasamaṅgino rūpakāyo yasmā phuṭo, tasmā etamatthaṃ dassentoti sambandhitabbaṃ. Yassāti rūpakāyassa. Phuṭattāti byāpitattāti attho. Yathā hi udakena phuṭṭhasarīrassa tādise phoṭṭhabbe phuṭṭhe sukhaṃ uppajjati, evaṃ etehi jhānacittasamuṭṭhitehi rūpehi phuṭṭhasarīrassa. Jhānā vuṭṭhitopīti jhānamhā vuṭṭhitopi. Sukhaṃ paṭisaṃvedeyyāti cittasamuṭṭhitarūpehi avasesatisamuṭṭhitarūpasaṅghaṭṭanena uppannakāyaviññāṇena kāyikaṃ sukhaṃ paṭisaṃvedeyya. Etamatthanti vuttanayena cetasikakāyikasukhapaṭisaṃvedanasaṅkhātaṃ atthaṃ.
Trong câu và cảm nhận lạc bằng thân, làm thế nào có thể cảm nhận lạc mà không có sự tác ý? Mới nói: “Mặc dù…” v.v… Cần phải hiểu rằng, vì lạc của vị ấy tương ưng với danh thân, do đó, để cho thấy ý nghĩa này, mới nói “và cảm nhận lạc bằng thân”. Ý nghĩa tóm tắt ở đây là: mặc dù không có sự tác ý rằng “ta đang cảm nhận lạc”, nhưng người đã chứng thiền được cho là đang cảm nhận lạc thuộc về tâm sở bằng danh thân, và cả lạc thuộc về thân thể do sự tạo ra các sắc pháp là nhân cho lạc thuộc về thân thể. Của vị ấy: tức là của người đã chứng thiền. Hoặc cái đó: tức là cái lạc tương ưng với danh thân đã được nói ở trên. Cần phải liên kết rằng: vì sắc thân của người đã chứng thiền này được thấm nhuần bởi sắc pháp vô cùng vi tế phát sinh từ đó, do đó, để cho thấy ý nghĩa này… Của cái nào: tức là của sắc thân. Do được thấm nhuần: có nghĩa là do được lan tỏa. Giống như khi thân thể bị thấm nước, lạc phát sinh khi tiếp xúc với đối tượng xúc tương tự, cũng vậy, đối với thân thể bị thấm nhuần bởi các sắc pháp do tâm thiền này tạo ra. Ngay cả khi đã xuất thiền: tức là ngay cả khi đã ra khỏi thiền. Vẫn có thể cảm nhận lạc: tức là vẫn có thể cảm nhận lạc thuộc về thân thể bằng thân thức phát sinh do sự va chạm của các sắc pháp do tâm tạo ra với các sắc pháp do các nguyên nhân khác tạo ra. Ý nghĩa này: tức là ý nghĩa được gọi là sự cảm nhận lạc thuộc về tâm sở và thân thể theo cách đã nói.

Yanti hetuatthe nipāto, yasmāti attho. Tenāha ‘‘yaṃjhānahetū’’ti. Ācikkhantītiādīni padāni kittanatthānīti adhippāyenāha ‘‘pasaṃsantīti adhippāyo’’ti. Kintīti pasaṃsanākārapucchā. Sukhapāramippatteti sukhassa paramaṃ pariyantaṃ patte. Sukhābhisaṅgenāti sukhasmiṃ ālayena. Edisesu ṭhānesu satiggahaṇeneva sampajaññampi gahitaṃ hotīti idha pāḷiyaṃ satiyā eva gahitattā evaṃ upaṭṭhitassatitāya satimā icceva vuttaṃ, sampajānoti heṭṭhā vuttattā vā. Asaṃkiliṭṭhanti kilesehi asammissattā asaṃkiliṭṭhaṃ. Jhānakkhaṇe nippariyāyato cetasikasukhameva labbhatīti ‘‘sukhaṃ nāmakāyena paṭisaṃvedetī’’ti vuttaṃ. Tatiyanti gaṇanānupubbato tatiyantiādi heṭṭhā vuttanayānusārena veditabbaṃ.
Từ yaṃ là một tiểu từ chỉ nguyên nhân, có nghĩa là bởi vì. Do đó, ngài nói “do thiền nào là nhân”. Với chủ ý rằng các từ tuyên thuyết v.v… là những từ chỉ sự tán dương, ngài nói “chủ ý là đang tán thán”. Rằng gì?: là một câu hỏi về hình thức tán thán. Đã đạt đến đỉnh điểm của lạc: tức là đã đạt đến giới hạn cao nhất của lạc. Do sự quyến luyến với lạc: tức là do sự luyến ái trong lạc. Trong những trường hợp như thế này, việc đề cập đến niệm cũng đã bao hàm cả tỉnh giác; ở đây, trong kinh Pāḷi, do chỉ đề cập đến niệm, nên vị ấy chỉ được gọi là người có niệm do có niệm đã được thiết lập như vậy; hoặc là do tỉnh giác đã được nói đến ở dưới. Không ô nhiễm: tức là không ô nhiễm do không bị pha trộn với các phiền não. Trong khoảnh khắc của thiền, một cách trực tiếp, chỉ có lạc thuộc về tâm sở mới có được, nên mới nói “cảm nhận lạc bằng danh thân”. Câu thứ ba, theo thứ tự đếm là thứ ba v.v… cần được hiểu theo cách đã nói ở dưới.

Tatiyajjhānakathā niṭṭhitā.
Luận về Tam thiền kết thúc.

Catutthajjhānakathā
Luận về Tứ thiền

‘‘Pubbevā’’ti vuttattā ‘‘kadā pana nesaṃ pahānaṃ hotī’’ti codanaṃ samuṭṭhāpetvā āha ‘‘catunnaṃ jhānānaṃ upacārakkhaṇe’’ti. Evaṃ veditabbanti sambandho. Pahānakkamena avuttānanti ettha pahānakkamo nāma pahāyakadhammānaṃ uppattipaṭipāṭi. Tena pana vuccamāne ‘‘dukkhaṃ domanassaṃ sukhaṃ somanassa’’nti vattabbaṃ siyā, kasmā ito aññathā vacananti āha ‘‘indriyavibhaṅge’’tiādi . Uddesakkamenāti ‘‘sukhindriyaṃ dukkhindriyaṃ somanassindriyaṃ domanassindriya’’nti evaṃ pavattauddesakkamena.
Do đã nói “trước đó”, nên ngài nêu lên câu hỏi “nhưng sự từ bỏ của chúng xảy ra khi nào?” rồi trả lời “trong khoảnh khắc cận định của bốn tầng thiền”. Cần phải liên kết rằng, cần phải biết như vậy. Trong câu không được nói theo thứ tự từ bỏ, thứ tự từ bỏ ở đây là thứ tự phát sinh của các pháp có khả năng từ bỏ. Nếu nói theo thứ tự đó, thì lẽ ra phải nói là “khổ, ưu, lạc, hỷ”. Tại sao lại nói khác đi? Mới nói: “trong phần phân tích về các căn” v.v… Theo thứ tự đề mục: tức là theo thứ tự đề mục đã diễn ra như “lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn”.

Atha kasmā jhānesveva nirodho vuttoti sambandho. Kattha cuppannaṃ dukkhindriyanti attano paccayehi uppannaṃ avikkhambhitaṃ dukkhindriyaṃ. Kattha ca aparisesaṃ nirujjhatīti nirodhaṭṭhānaṃ nirodhakāraṇaṃ pucchati. Tena katthāti pucchāya etthāti vissajjanepi hetumhi bhummavacanaṃ daṭṭhabbaṃ. Jhānānubhāvanimittañhi anuppajjantaṃ dukkhindriyaṃ aparisesaṃ nirujjhatīti vuttaṃ. Atisayanirodho suṭṭhu pahānaṃ ujupaṭipakkhena vūpasamo. Nirodho pahānamattaṃ. Nānāvajjaneti yena āvajjanena appanāvīthi, tato bhinnāvajjane anekāvajjane vā. Appanāvīthiyañhi upacāro ekāvajjano, itaro anekāvajjano anekakkhattuṃ pavattanato. Visamanisajjāya uppannakilamatho visamāsanupatāpo. Pītipharaṇenāti pītiyā pharaṇarasattā pītisamuṭṭhānānaṃ vā paṇītarūpānaṃ kāyassa byāpanato vuttaṃ. Tenāha ‘‘sabbo kāyo sukhokkanto hotī’’ti. Paṇītarūpaphuṭṭhasarīrassa sukhokkantakāyattā kuto dukkhuppatti visamāsanupatāpādināti āha ‘‘paṭipakkhena avihatattā’’ti. Vitakkavicārapaccayepīti pi-saddo aṭṭhānappayutto, so ‘‘pahīnassā’’ti ettha ānetvā sambandhitabbo. Pahīnassapi domanassindriyassāti idañca ‘‘siyā uppattī’’ti iminā sambandhitabbaṃ. Etanti domanassindriyaṃ. ‘‘Uppajjatī’’ti iminā sambandho. ‘‘Tassa mayhaṃ aticiraṃ vitakkayato vicārayato kāyopi kilami, cittampi ūhaññī’’ti vacanato kāyacittakhedānaṃ vitakkavicārapaccayatā veditabbā. Vitakkavicārabhāveti ettha ‘‘uppajjati domanassindriya’’nti ānetvā sambandhitabbaṃ. Tatthassa siyā uppattīti tattha dutiyajjhānūpacāre assa pahīnassapi domanassindriyassa uppatti bhaveyya.
Vậy tại sao sự đoạn diệt chỉ được nói đến trong các tầng thiền? Cần phải hiểu như vậy. Khổ căn đã phát sinh ở đâu: tức là khổ căn chưa bị đè nén, đã phát sinh do các duyên của nó. Và nó đoạn diệt không còn dư sót ở đâu: là câu hỏi về nơi đoạn diệt và nguyên nhân đoạn diệt. Do đó, mặc dù câu hỏi là ở đâu, nhưng câu trả lời ở đó cần phải được hiểu là từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa chỉ nguyên nhân. Quả vậy, khổ căn, do không phát sinh nhờ năng lực của thiền, nên được cho là đoạn diệt không còn dư sót. Sự đoạn diệt vượt trội là sự từ bỏ một cách tốt đẹp, là sự an tịnh bằng pháp đối nghịch trực tiếp. Sự đoạn diệt chỉ là sự từ bỏ đơn thuần. Trong sự hướng tâm khác: tức là trong sự hướng tâm khác với sự hướng tâm dẫn đến lộ trình tâm an chỉ, hoặc trong nhiều sự hướng tâm. Quả vậy, trong lộ trình tâm an chỉ, cận định chỉ có một sự hướng tâm; còn các trường hợp khác có nhiều sự hướng tâm do vận hành nhiều lần. Sự mệt mỏi phát sinh do ngồi không đúng tư thế là sự thiêu đốt do ngồi không đúng tư thế. Do sự lan tỏa của hỷ: điều này được nói do hỷ có chức năng lan tỏa, hoặc do sự thấm nhuần khắp cơ thể của các sắc pháp vi tế do hỷ tạo ra. Do đó, ngài nói “toàn thân trở nên thấm nhuần lạc”. Đối với thân thể đã được thấm nhuần bởi các sắc pháp vi tế, do đã trở thành một thân thể thấm nhuần lạc, vậy làm sao khổ do ngồi không đúng tư thế v.v… có thể phát sinh? Mới nói: “do không bị pháp đối nghịch phá hủy”. Trong câu cũng trong duyên của tầm và tứ, từ pi (cũng) được dùng không đúng chỗ; nó cần được đưa đến và liên kết với từ “của cái đã được từ bỏ”. Của ưu căn đã được từ bỏ: và điều này cần được liên kết với câu “có thể phát sinh”. : tức là ưu căn. Cần liên kết với từ “phát sinh”. Cần phải biết rằng sự mệt mỏi của thân và tâm có tầm và tứ làm duyên, theo câu “Đối với tôi, do suy nghĩ và xem xét quá lâu, thân thể cũng mệt mỏi, tâm trí cũng bị tổn thương”. Trong câu khi có tầm và tứ, cần phải đưa từ “ưu căn phát sinh” đến để liên kết. Ở đó, nó có thể phát sinh: tức là, ở đó, trong cận định của nhị thiền, ưu căn, mặc dù đã được từ bỏ, vẫn có thể phát sinh.

Ettha ca yadeke vadanti ‘‘tatthassa siyā uppattīti vadantena jhānalābhīnampi domanassuppatti atthīti dassitaṃ hoti, tena ca anīvaraṇasabhāvo lobho viya dosopi atthīti dīpeti. Na hi dosena vinā domanassaṃ pavattati, na cettha paṭṭhānapāḷiyā virodho cintetabbo. Yasmā tattha parihīnajjhānaṃ ārammaṇaṃ katvā pavattamānaṃ domanassaṃ dassitaṃ, aparihīnajjhānaṃ ārammaṇaṃ katvā uppajjamānassa domanassassa asambhavato jhānalābhīnaṃ sabbaso domanassaṃ nuppajjatīti ca na sakkā vattuṃ aṭṭhasamāpattilābhino api tassa uppannattā, na heva kho so parihīnajjhāno ahosī’’ti, taṃ ayuttaṃ anīvaraṇasabhāvassa domanassassa abhāvato. Yadi siyā, rūpārūpāvacarasattānampi uppajjeyya, na ca uppajjati. Tathā hi āruppe kāmacchandanīvaraṇaṃ paṭicca thinamiddhanīvaraṇaṃ uddhaccanīvaraṇaṃ avijjānīvaraṇantiādīsu byāpādakukkuccanīvaraṇāni anuddhaṭāni, na cettha anīvaraṇatāpariyāyo kāmacchandādīnampi anīvaraṇānaṃyeva nīvaraṇasadisatāya nīvaraṇapariyāyassa vuttattā. Yaṃ pana vuttaṃ ‘‘aṭṭhasamāpattilābhino api tassa uppannattā’’ti, tampi akāraṇaṃ uppajjamānena ca domanassena jhānato parihāyanato. Lahukena pana paccayena parihīnaṃ tādisā naṃ appakasireneva paṭipākatikaṃ karontīti daṭṭhabbaṃ. ‘‘Tatthassa siyā uppattī’’ti idaṃ pana parikappanavacanaṃ upacārakkhaṇe domanassassa appahīnabhāvadassanatthaṃ. Tathā hi vuttaṃ ‘‘na tveva antoappanāya’’nti. Yadi pana tadā domanassaṃ uppajjeyya, paṭhamajjhānampissa parihīnamevāti daṭṭhabbaṃ. Pahīnampi somanassindriyaṃ pīti viya na dūreti katvā ‘‘āsannattā’’ti vuttaṃ. Nānāvajjanūpacāre pahīnampi pahānaṅgaṃ paṭipakkhena avihatattā antarantarā uppajjeyya vāti imamatthaṃ dassento ‘‘appanāppattāyā’’tiādimāha. Tādisāya āsevanāya icchitabbattā yathā maggavīthito pubbe dve tayo javanavārā sadisānupassanāva pavattanti, evamidhāpi appanāvārato pubbe dve tayo javanavārā upekkhāsahagatāva pavattantīti vadanti.
Ở đây, một số người cho rằng: “Khi nói ‘ở đó, nó có thể phát sinh’, điều đó cho thấy rằng ngay cả những người đã chứng thiền cũng có thể phát sinh ưu. Và qua đó, cho thấy rằng cũng có sân không phải là triền cái, giống như tham vậy. Quả vậy, ưu không thể vận hành nếu không có sân, và ở đây không nên lo ngại về sự mâu thuẫn với kinh Paṭṭhāna. Bởi vì ở đó, ưu được cho thấy là phát sinh do lấy thiền đã bị thoái hóa làm đối tượng; và do ưu không thể phát sinh khi lấy thiền chưa bị thoái hóa làm đối tượng, nên không thể nói rằng ưu hoàn toàn không phát sinh đối với những người đã chứng thiền, vì ngay cả đối với người đã chứng đắc tám tầng thiền, nó cũng đã từng phát sinh, nhưng vị ấy không hề bị thoái thiền”. Điều đó là không hợp lý, vì không có ưu nào không phải là triền cái. Nếu có, nó cũng sẽ phát sinh đối với các chúng sanh ở cõi sắc và vô sắc, nhưng nó không phát sinh. Quả vậy, trong cõi vô sắc, trong số các triền cái như dục tham, hôn trầm thụy miên, trạo cử, và vô minh, sân và hối quá không được đề cập, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng không phải là triền cái, vì ngay cả dục tham v.v…, vốn không phải là triền cái (ở cõi đó), cũng được gọi là triền cái do có tính chất tương tự như triền cái. Còn điều đã nói “vì ngay cả đối với người đã chứng đắc tám tầng thiền, nó cũng đã từng phát sinh”, điều đó cũng không có lý, vì khi ưu phát sinh, vị ấy bị thoái khỏi thiền. Cần phải hiểu rằng, đối với những vị như vậy, khi bị thoái do một duyên nhỏ, họ có thể phục hồi lại trạng thái ban đầu một cách không khó khăn. Còn câu “ở đó, nó có thể phát sinh” là một cách nói giả định, nhằm cho thấy rằng ưu chưa được từ bỏ trong khoảnh khắc của cận định. Do đó, mới nói “chứ không phải trong lúc an chỉ”. Và nếu lúc đó ưu phát sinh, cần phải hiểu rằng ngay cả sơ thiền của vị ấy cũng đã bị thoái hóa. Do hỷ căn, mặc dù đã được từ bỏ, không ở xa như hỷ, nên mới nói “do ở gần”. Để cho thấy rằng, chi phần từ bỏ, mặc dù đã được từ bỏ trong cận định có nhiều sự hướng tâm, nhưng do không bị pháp đối nghịch phá hủy, nên có thể phát sinh xen kẽ, ngài nói “của sự đã đạt đến an chỉ” v.v… Do cần phải có sự tu tập như vậy, nên người ta nói rằng, cũng như trước lộ trình tâm đạo, hai hoặc ba sát-na tốc hành là tuệ quán tương tự, ở đây cũng vậy, trước sát-na an chỉ, hai hoặc ba sát-na tốc hành cũng là câu hữu với xả.

Samāharīti samānesi, saṅgahetvā abhāsīti attho. Sukhumāti sukhadukkhāni viya anoḷārikattā avibhūtatāya sukhumā, tato eva anuminitabbasabhāvattā dubbiññeyyā. Duṭṭhassāti duṭṭhapayogassa, duddamassāti attho. Sakkā hoti esā gāhayitunti aññāpohananayena sakkā gāhayitunti adhippāyo. Adukkhamasukhāya cetovimuttiyāti idameva catutthaṃ jhānaṃ daṭṭhabbaṃ. Paccayadassanatthanti adhigamassa upāyabhūtapaccayadassanatthaṃ. Tenāha ‘‘dukkhappahānādayo hi tassā paccayā’’ti. Dukkhappahānādayoti ca sopacārā paṭhamajjhānādayovettha adhippetā. Pahīnāti vuttāti ‘‘pañcannaṃ orambhāgiyānaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā’’ti (ma. ni. 3.147; saṃ. ni. 5.1021) vuttattā. Etāti sukhādayo vedanā. Sukhaṃsomanassassa paccayoti vasanagandhālepanapupphābharaṇasamālepanādinibbattaṃ kāyikasukhaṃ somanassassa paccayo. ‘‘Sukhāya kho, āvuso visākha vedanāya, rāgānusayo anusetī’’ti (ma. ni. 1.465) vacanato āha ‘‘somanassaṃ rāgassa paccayo’’ti. ‘‘Dukkhāya kho, āvuso visākha, vedanāya paṭighānusayo anusetī’’ti vacanato vuttaṃ ‘‘domanassaṃ dosassa paccayo’’ti. Sukhādighātenāti sukhādīnaṃ pahānena.
Đã tổng hợp: có nghĩa là đã gom lại, đã nói một cách tổng hợp. Vi tế: do không thô thiển như lạc và khổ, do không hiển hiện, nên là vi tế; cũng chính vì thế, do có bản chất cần được suy luận, nên là khó nhận biết. Của cái khó chế ngự: tức là của hành vi khó chế ngự, có nghĩa là của cái khó điều phục. Nó có thể được nắm bắt: chủ ý là, có thể được nắm bắt bằng phương pháp loại trừ cái khác. Tâm giải thoát bất khổ bất lạc: cần phải hiểu đây chính là tứ thiền. Để cho thấy duyên: tức là để cho thấy duyên vốn là phương tiện để chứng đắc. Do đó, ngài nói “quả vậy, sự từ bỏ khổ v.v… là duyên của nó”. Và sự từ bỏ khổ v.v… ở đây được hiểu là sơ thiền v.v… cùng với cận định của chúng. Đã được nói là đã được từ bỏ: do đã được nói trong câu “do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử” (ma. ni. 3.147; saṃ. ni. 5.1021). Chúng: tức là các thọ như lạc v.v… Lạc là duyên của hỷ: tức là lạc thuộc về thân thể, phát sinh từ việc dùng nước hoa, dầu thơm, vòng hoa, đồ trang sức v.v…, là duyên của hỷ. Theo câu “Này hiền giả Visākha, tùy miên tham ái ngủ ngầm trong lạc thọ” (ma. ni. 1.465), ngài nói “hỷ là duyên của tham”. Theo câu “Này hiền giả Visākha, tùy miên sân hận ngủ ngầm trong khổ thọ”, mới nói “ưu là duyên của sân”. Do sự tiêu diệt lạc v.v…: tức là do sự từ bỏ lạc v.v…

Adukkhamasukhanti ettha na dukkhanti adukkhaṃ, dukkhavidūraṃ. Yasmā tattha dukkhaṃ natthi, tasmā vuttaṃ ‘‘dukkhābhāvenā’’ti. Asukhanti etthāpi eseva nayo. Etenāti dukkhasukhapaṭikkhepavacanena. Paṭipakkhabhūtanti idaṃ idha tatiyavedanāya dukkhādīnaṃ samatikkamavasena pattabbattā vuttaṃ, na kusalākusalānaṃ viya ujuvipaccanīkatāya. Iṭṭhāniṭṭhaviparītānubhavanalakkhaṇāti iṭṭhāniṭṭhaviparītassa majjhattārammaṇassa, iṭṭhāniṭṭhaviparītaṃ vā majjhattākārena anubhavanalakkhaṇā. Tato eva majjhattarasā. Avibhūtapaccupaṭṭhānāti sukhadukkhāni viya na vibhūtākārā piṭṭhipāsāṇe migagatamaggo viya tehi anumātabbāvibhūtākāropaṭṭhānā. Sukhanirodho nāma idha catutthajjhānūpacāro, so padaṭṭhānaṃ etissāti sukhanirodhapadaṭṭhānā. Upekkhāsatipārisuddhinti purimapade uttarapadalopenetaṃ samāsapadanti āha ‘‘upekkhāya janitasatipārisuddhi’’nti. Sabbapaccanīkadhammaparisuddhāya paccanīkasamanepi abyāvaṭāya pārisuddhupekkhāya vattamānāya catutthajjhāne sati sampahaṃsanapaññā viya suparisuddhā suvisadā ca hotīti āha ‘‘satiyā pārisuddhi, sā upekkhāya katā na aññenā’’ti. Yadi tatramajjhattatā idha ‘‘upekkhā’’ti adhippetā, kathaṃ satiyeva pārisuddhāti vuttāti āha ‘‘na kevala’’ntiādi. Satisīsenāti satiṃ uttamaṅgaṃ katvā, padhānaṃ katvāti vuttaṃ hoti.
Trong câu bất khổ bất lạc, không phải khổ là bất khổ, là xa lìa khổ. Vì ở đó không có khổ, nên mới nói “do không có khổ”. Trong câu bất lạc, cũng theo cách này. Qua đó: tức là qua lời nói phủ định khổ và lạc. Là pháp đối nghịch: điều này được nói ở đây vì thọ thứ ba này được đạt đến bằng cách vượt qua khổ v.v…, chứ không phải do đối nghịch trực tiếp như thiện và bất thiện. Có đặc tính cảm nhận đối lập với thuận và nghịch: tức là có đặc tính cảm nhận đối tượng trung tính, vốn đối lập với thuận và nghịch, hoặc cảm nhận một cách trung lập. Cũng chính vì thế, nó có chức năng trung lập. Có sự hiện khởi không rõ ràng: tức là có sự hiện khởi không rõ ràng như lạc và khổ, mà phải được suy ra, giống như dấu chân của con nai trên tảng đá. Sự đoạn diệt của lạc ở đây là cận định của tứ thiền, đó là nền tảng của nó, nên là có sự đoạn diệt của lạc làm nền tảng. Sự trong sạch của xả và niệm: đây là một hợp từ do đã lược bỏ từ ở giữa ở vế trước, nên ngài nói “sự trong sạch của niệm được tạo ra bởi xả”. Do tâm xả thanh tịnh, vốn đã trong sạch khỏi mọi pháp đối nghịch và không can dự ngay cả trong việc làm lắng dịu các pháp đối nghịch, đang tồn tại, nên niệm trong tứ thiền trở nên rất trong sạch và sáng suốt, giống như trí tuệ hân hoan. Do đó, ngài nói “sự trong sạch của niệm, nó được tạo ra bởi xả chứ không phải bởi cái khác”. Nếu sự trung lập được hiểu là “xả” ở đây, tại sao lại chỉ nói niệm là trong sạch? Mới nói: “không chỉ…” v.v… Với niệm làm đầu: tức là lấy niệm làm yếu tố hàng đầu, làm chủ đạo.

Evamapi kasmā idheva sati ‘‘upekkhāsatipārisuddhī’’ti vuttāti anuyogaṃ sandhāya ‘‘tattha kiñcāpī’’tiādi vuttaṃ. Tattha heṭṭhā tīsu jhānesu vijjamānāyapi tatramajjhattatāya paccanīkābhibhavanato sahāyapaccayavekallato ca apārisuddhi, tathā taṃsampayuttānaṃ tadabhāvato idha pārisuddhīti imamatthaṃ upamāvasena dassetuṃ ‘‘yathā panā’’tiādi vuttaṃ. Sūriyappabhābhibhavāti sūriyappabhāya abhibhuyyamānattā. Atikkhatāya candalekhā viya rattipi sommasabhāvā sabhāgāya rattiyameva ca candalekhā samujjalatīti sā tassā saṅgayhatīti dassento ‘‘sommabhāvena ca attano upakārakattena vā sabhāgāya rattiyā’’ti āha. Sesamettha uttānatthameva.
Mặc dù vậy, để trả lời câu hỏi tại sao chỉ ở đây mới nói là “sự trong sạch của xả và niệm”, ngài nói “ở đó, mặc dù…” v.v… Ở đó, mặc dù sự trung lập có mặt trong ba tầng thiền dưới, nhưng nó không trong sạch do bị các pháp đối nghịch lấn át và do thiếu các duyên hỗ trợ. Tương tự, các pháp tương ưng với nó cũng không trong sạch. Do không có những điều đó ở đây, nên nó trong sạch. Để cho thấy ý nghĩa này qua ví dụ, ngài nói “ví như…” v.v… Do bị ánh sáng mặt trời lấn át: tức là do bị ánh sáng của mặt trời chế ngự. Để cho thấy rằng, trăng lưỡi liềm, do có bản chất dịu dàng giống như đêm, chỉ tỏa sáng rực rỡ vào ban đêm, vốn tương đồng và có tính chất hỗ trợ cho nó, nên nó được bao gồm trong đó, ngài nói “do có bản chất dịu dàng và do ban đêm tương đồng, có tính chất hỗ trợ cho nó”. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Catutthajjhānakathā niṭṭhitā.
Luận về Tứ thiền kết thúc.

Pubbenivāsakathā
Luận về Túc Mạng Minh

12. Rūpavirāgabhāvanāvasena pavattaṃ catubbidhampi arūpajjhānaṃ catutthajjhānasaṅgahamevāti āha ‘‘cattāri jhānānī’’ti. Yuttaṃ tāva cittekaggatā bhavokkamanatthatā viya vipassanāpādakatāpi catunnaṃ jhānānaṃ sādhāraṇāti tesaṃ vasena ‘‘cattāri jhānānī’’ti vacanaṃ, abhiññāpādakatā pana nirodhapādakatā ca catutthasseva jhānassa āveṇikā, sā kathaṃ catunnaṃ jhānānaṃ sādhāraṇā vuttāti? Paramparādhiṭṭhānabhāvato. Padaṭṭhānapadaṭṭhānampi hi padaṭṭhānantveva vuccati, kāraṇakāraṇampi kāraṇanti yathā ‘‘tiṇehi bhattaṃ siddha’’nti. Evañca katvā payojananiddese aṭṭhasamāpattiggahaṇaṃ samatthitaṃ hoti. Cittekaggatatthānīti ittasamādhatthāni, diṭṭhadhammasukhavihāratthānīti attho. Cittekaggatāsīsena hi diṭṭhadhammasukhavihāro vutto, sukkhavipassakakhīṇāsavavasena cetaṃ vuttaṃ. Tenāha ‘‘ekaggacittā sukhaṃ divasaṃ viharissāmā’’ti. Bhavokkamanatthānīti bhavesu nibbattiatthāni. Sattāhaṃ nirodhasamāpattiyā samāpajjanato āha ‘‘sattāhaṃ acittakā hutvā’’ti. Kasmā pana sattāhameva nirodhaṃ samāpajjantīti? Tathākālaparicchedakaraṇato, tañca yebhuyyena āhārūpajīvīnaṃ sattānaṃ upādinnakappavattassa ekadivasaṃ bhuttāhārassa sattāhameva yāpanato.
12. Do bốn thiền vô sắc, vốn vận hành qua việc tu tập sự ly tham đối với sắc, cũng được bao gồm trong tứ thiền, nên ngài nói “bốn thiền”. Việc nói “bốn thiền” dựa trên cơ sở rằng sự nhất tâm, cũng như khả năng là nền tảng cho tuệ quán, là đặc tính chung của bốn thiền, giống như khả năng vượt qua các cõi tồn tại, điều này là hợp lý. Nhưng khả năng là nền tảng cho các thắng trí và khả năng là nền tảng cho sự diệt tận định là đặc tính riêng của tứ thiền, vậy tại sao chúng lại được nói là đặc tính chung của bốn thiền? Do chúng là nền tảng kế thừa. Quả vậy, nền tảng của nền tảng cũng được gọi là nền tảng, và nguyên nhân của nguyên nhân cũng được gọi là nguyên nhân, giống như câu “cơm được nấu bằng cỏ”. Và khi hiểu như vậy, việc đề cập đến tám tầng thiền trong phần trình bày về công dụng mới được chứng minh. Là nơi cho sự nhất tâm của tâm: tức là nơi cho sự định tâm, có nghĩa là nơi để an trú trong hạnh phúc hiện tại. Quả vậy, sự an trú trong hạnh phúc hiện tại được nói đến qua sự nhất tâm của tâm; và điều này được nói theo phương diện của một vị A-la-hán thuần quán. Do đó, ngài nói “với tâm nhất điểm, chúng ta sẽ an trú hạnh phúc trong ngày”. Là nơi để vượt qua các cõi tồn tại: tức là nơi để tái sanh vào các cõi tồn tại. Do có thể nhập Diệt Tận Định trong bảy ngày, nên ngài nói “trở thành người không có tâm trong bảy ngày”. Nhưng tại sao họ lại chỉ nhập Diệt Tận Định trong bảy ngày? Do đã xác định khoảng thời gian như vậy; và điều đó, phần lớn là do đối với các chúng sanh sống nhờ vật thực, thức ăn đã ăn một lần có thể duy trì mạng sống của cơ thể đã được chấp thủ trong bảy ngày.

Kā (visuddhi. 2.867-868) panāyaṃ nirodhasamāpatti nāma, ke taṃ samāpajjanti, ke na samāpajjanti, kattha samāpajjanti, kasmā samāpajjanti, kathañcassā samāpajjanaṃ hotīti? Vuccate – tattha kā panāyaṃ nirodhasamāpatti nāmāti yā anupubbanirodhavasena cittacetasikānaṃ dhammānaṃ appavatti. Ke taṃ samāpajjantike na samāpajjantīti sabbepi puthujjanasotāpannasakadāgāmino sukkhavipassakā ca anāgāmiarahanto na samāpajjanti, aṭṭhasamāpattilābhino pana anāgāmino khīṇāsavā ca samāpajjanti. Kattha samāpajjantīti pañcavokārabhave. Kasmā? Anupubbasamāpattisabbhāvato. Catuvokārabhave pana paṭhamajjhānādīnaṃ uppattiyeva natthi, tasmā na sakkā tattha samāpajjituṃ. Kasmā samāpajjantīti saṅkhārānaṃ pavattibhede ukkaṇṭhitvā ‘‘diṭṭhadhamme acittakā hutvā nirodhaṃ nibbānaṃ patvā sukhaṃ viharissāmā’’ti. Kathañcassā samāpajjanaṃ hotīti samathavipassanāvasena ussakkitvā katapubbakiccassa nevasaññānāsaññāyatanaṃ nirodhayato evamassā samāpajjanaṃ hoti. Yo hi samathavaseneva ussakkati, so nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiṃ patvā tiṭṭhati. Yopi vipassanāvaseneva ussakkati, so phalasamāpattiṃ patvā tiṭṭhati. Yo pana ubhayavaseneva ussakkitvā nevasaññānāsaññāyatanaṃ nirodheti, so taṃ samāpajjatīti ayamettha saṅkhepo.
Nhưng Diệt Tận Định này là gì, ai nhập định đó, ai không nhập, nhập ở đâu, tại sao lại nhập, và việc nhập định đó xảy ra như thế nào? Câu trả lời là: ở đó, Diệt Tận Định này là gì? Đó là sự không vận hành của các pháp tâm và tâm sở qua sự diệt tuần tự. Ai nhập định đó, ai không nhập? Tất cả các vị phàm phu, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, và các vị A-na-hàm, A-la-hán thuần quán đều không nhập định đó; nhưng các vị A-na-hàm và các bậc Lậu Tận đã chứng đắc tám tầng thiền thì có nhập. Nhập ở đâu? Trong cõi năm uẩn. Tại sao? Do có sự tồn tại của các tầng thiền tuần tự. Còn trong cõi bốn uẩn, sơ thiền v.v… không thể phát sinh, do đó không thể nhập định ở đó. Tại sao lại nhập? Do đã nhàm chán với sự vận hành của các hành, với ý nghĩ rằng: “trở thành người không có tâm trong hiện tại, đạt đến sự diệt tận là Niết-bàn, chúng ta sẽ an trú hạnh phúc”. Và việc nhập định đó xảy ra như thế nào? Đối với người đã làm các phận sự chuẩn bị bằng cách nỗ lực qua cả tu chỉ và tu quán, việc nhập định đó xảy ra khi vị ấy làm cho Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ diệt. Quả vậy, người chỉ nỗ lực bằng tu chỉ, vị ấy sẽ đạt đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ định rồi dừng lại. Người chỉ nỗ lực bằng tu quán, vị ấy sẽ đạt đến sự chứng đắc đạo quả rồi dừng lại. Nhưng người nỗ lực bằng cả hai cách và làm cho Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ diệt, vị ấy sẽ nhập định đó. Đây là phần tóm tắt.

Ayaṃ pana vitthāro – idha bhikkhu nirodhaṃ samāpajjitukāmo paṭhamajjhānaṃ samāpajjitvā vuṭṭhāya tattha saṅkhāre aniccato dukkhato anattato vipassati. Vipassanā ca panesā tividhā saṅkhārapariggaṇhanakavipassanā phalasamāpattivipassanā nirodhasamāpattivipassanāti. Tattha saṅkhārapariggaṇhanakavipassanā mandā vā tikkhā vā maggassa padaṭṭhānaṃ hotiyeva. Phalasamāpattivipassanā tikkhāva vaṭṭati maggabhāvanāsadisā. Nirodhasamāpattivipassanā pana nātimandanātitikkhā vaṭṭati, tasmā esa nātimandāya nātitikkhāya vipassanāya te saṅkhāre vipassati. Tato dutiyajjhānaṃ…pe… tato viññāṇañcāyatanaṃ samāpajjitvā vuṭṭhāya tattha saṅkhāre tatheva vipassati. Atha ākiñcaññāyatanaṃ samāpajjitvā vuṭṭhāya catubbidhaṃ pubbakiccaṃ karoti nānābaddhaavikopanaṃ saṅghapatimānanaṃ satthupakkosanaṃ addhānaparicchedanti.
Còn đây là phần chi tiết: Ở đây, một vị Tỳ-khưu muốn nhập Diệt Tận Định, vị ấy nhập sơ thiền, rồi xuất thiền, và quán các hành trong đó là vô thường, khổ, vô ngã. Tuệ quán này có ba loại: tuệ quán nhận thức các hành, tuệ quán để chứng đắc đạo quả, và tuệ quán để nhập Diệt Tận Định. Ở đó, tuệ quán nhận thức các hành, dù yếu hay mạnh, đều là nền tảng của đạo. Tuệ quán để chứng đắc đạo quả phải là tuệ quán mạnh, tương tự như sự tu tập đạo. Còn tuệ quán để nhập Diệt Tận Định thì không cần quá yếu cũng không cần quá mạnh; do đó, vị ấy quán các hành đó bằng một tuệ quán không quá yếu, không quá mạnh. Sau đó, vị ấy nhập nhị thiền… cho đến… sau đó nhập Thức Vô Biên Xứ, rồi xuất thiền, và quán các hành trong đó cũng như vậy. Sau đó, vị ấy nhập Vô Sở Hữu Xứ, rồi xuất thiền, và thực hiện bốn phận sự chuẩn bị: bảo vệ các vật dụng không gắn liền, sự chờ đợi của Tăng đoàn, sự triệu tập của Bậc Đạo Sư, và sự xác định thời gian.

Tattha nānābaddhaavikopananti yaṃ iminā bhikkhunā saddhiṃ ekābaddhaṃ na hoti, nānābaddhaṃ hutvā ṭhitaṃ pattacīvaraṃ vā mañcapīṭhaṃ vā nivāsagehaṃ vā aññaṃ vā pana yaṃ kiñci parikkhārajātaṃ, taṃ yathā na vikuppati, aggiudakavātacoraundūrādīnaṃ vasena na vinassati, evaṃ adhiṭṭhātabbaṃ. Tatridaṃ adhiṭṭhānavidhānaṃ ‘‘idañcidañca imasmiṃ sattāhabbhantare mā agginā jhāyatu, mā udakena vuyhatu, mā vātena viddhaṃsatu, mā corehi harīyatu, mā undūrādīhi khajjatū’’ti. Evaṃ adhiṭṭhite taṃ sattāhaṃ tassa na koci parissayo hoti, anadhiṭṭhahato pana aggiādīhi nassati, idaṃ nānābaddhaavikopanaṃ nāma. Yaṃ pana ekābaddhaṃ hoti nivāsanapārupanaṃ vā nisinnāsanaṃ vā, tattha visuṃ adhiṭṭhānakiccaṃ natthi, samāpattiyeva naṃ rakkhati.
Ở đó, sự bảo vệ các vật dụng không gắn liền là như sau: bất cứ vật dụng nào không gắn liền với vị Tỳ-khưu này, mà là các vật dụng riêng lẻ như y bát, giường ghế, nhà ở, hay bất kỳ vật dụng nào khác, cần phải được chú nguyện sao cho chúng không bị hư hại, không bị tiêu hủy bởi lửa, nước, gió, trộm cắp, chuột bọ v.v… Đây là cách chú nguyện: “Trong vòng bảy ngày này, mong rằng cái này và cái này đừng bị lửa đốt, đừng bị nước cuốn trôi, đừng bị gió phá hủy, đừng bị trộm cắp lấy đi, đừng bị chuột bọ v.v… gặm nhấm”. Khi đã chú nguyện như vậy, trong bảy ngày đó, vật dụng đó sẽ không gặp nguy hiểm gì. Nhưng nếu không chú nguyện, nó sẽ bị tiêu hủy bởi lửa v.v… Đây được gọi là sự bảo vệ các vật dụng không gắn liền. Còn những vật dụng gắn liền với thân như y mặc, y choàng, hay chỗ ngồi, thì không cần phải chú nguyện riêng, chính định lực sẽ bảo vệ chúng.

Saṅghapatimānananti bhikkhusaṅghassa patimānanaṃ udikkhanaṃ, yāva so bhikkhu āgacchati, tāva saṅghakammassa akaraṇanti attho. Ettha ca patimānanaṃ etassa na pubbakiccaṃ, patimānanāvajjanaṃ pana pubbakiccaṃ. Tasmā evaṃ āvajjitabbaṃ ‘‘sace mayi sattāhaṃ nirodhaṃ samāpajjitvā nisinne saṅgho apalokanakammādīsu kiñcideva kammaṃ kattukāmo hoti, yāva maṃ koci bhikkhu āgantvā na pakkosati, tāvadeva vuṭṭhahissāmī’’ti. Evaṃ katvā samāpanno hi tasmiṃ samaye vuṭṭhahatiyeva. Yo pana evaṃ na karoti, saṅgho ce sannipatitvā taṃ apassanto ‘‘asuko bhikkhu kuhi’’nti pucchitvā ‘‘nirodhaṃ samāpanno’’ti vutte kañci bhikkhuṃ peseti ‘‘taṃ pakkosāhī’’ti, athassa tena bhikkhunā savanūpacāre ṭhatvā ‘‘saṅgho taṃ āvuso patimānetī’’ti vuttamatteyeva vuṭṭhānaṃ hoti. Evaṃ garukā hi saṅghassa āṇā nāma, tasmā taṃ āvajjitvā yathā paṭhamameva vuṭṭhāti, evaṃ samāpajjitabbaṃ.
Sự chờ đợi của Tăng đoàn là sự chờ đợi, sự trông ngóng của Tăng chúng; có nghĩa là, Tăng đoàn sẽ không làm Tăng sự cho đến khi vị Tỳ-khưu đó trở về. Ở đây, sự chờ đợi đó không phải là phận sự chuẩn bị của vị ấy, mà sự tác ý đến việc chờ đợi mới là phận sự chuẩn bị. Do đó, cần phải tác ý như sau: “Nếu trong khi tôi đang ngồi nhập Diệt Tận Định trong bảy ngày, Tăng đoàn muốn làm một Tăng sự nào đó như biểu bạch sự v.v…, tôi sẽ xuất định ngay khi có một vị Tỳ-khưu nào đó đến gọi”. Quả vậy, người đã nhập định sau khi làm như vậy sẽ xuất định vào lúc đó. Còn người không làm như vậy, nếu Tăng đoàn tụ họp lại và không thấy vị ấy, hỏi rằng “vị Tỳ-khưu đó đâu?”, và sau khi được trả lời là “đã nhập Diệt Tận Định”, liền cử một vị Tỳ-khưu đi “hãy gọi vị ấy đến”, thì khi vị Tỳ-khưu đó đứng trong tầm nghe và vừa nói “Thưa hiền giả, Tăng đoàn đang chờ đợi ngài”, vị ấy sẽ xuất định. Lệnh của Tăng đoàn quả thật là quan trọng như vậy; do đó, cần phải tác ý đến điều đó và nhập định sao cho có thể xuất định ngay từ đầu.

Satthupakkosananti idhāpi satthupakkosanāvajjanameva imassa pubbakiccaṃ, tasmā tampi evaṃ āvajjitabbaṃ. Sesaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.
Sự triệu tập của Bậc Đạo Sư: ở đây, sự tác ý đến việc Bậc Đạo Sư triệu tập cũng là phận sự chuẩn bị của vị ấy; do đó, cũng cần phải tác ý như vậy. Phần còn lại cần được hiểu theo cách đã nói ở trước.

Addhānaparicchedoti jīvitaddhānassa paricchedo. Iminā bhikkhunā addhānaparicchedesu kusalena bhavitabbaṃ, ‘‘attano āyusaṅkhārā sattāhaṃ pavattissanti na pavattissantī’’ti āvajjitvāva samāpajjitabbaṃ. Sace hi sattāhabbhantare nirujjhanake āyusaṅkhāre anāvajjitvāva samāpajjati, tassa nirodhasamāpatti maraṇaṃ paṭibāhituṃ na sakkoti, antonirodhe maraṇassa natthitāya antarāva samāpattito vuṭṭhāti, tasmā etaṃ āvajjitvāva samāpajjitabbaṃ. Avasesañhi anāvajjitumpi vaṭṭati, idaṃ pana āvajjitabbamevāti vuttaṃ. So evaṃ ākiñcaññāyatanaṃ samāpajjitvā vuṭṭhāya idaṃ pubbakiccaṃ katvā nevasaññānāsaññāyatanaṃ samāpajjati, athekaṃ vā dve vā cittavāre atikkamitvā acittako hoti, nirodhaṃ phusati . Kasmā panassa dvinnaṃ cittānaṃ upari cittāni na pavattantīti? Nirodhassa payogattā. Idañhi imassa bhikkhuno dve samathavipassanādhamme yuganaddhe katvā aṭṭhasamāpattiārohanaṃ anupubbanirodhassa payogo, na nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiyāti nirodhassa payogattā dvinnaṃ cittānaṃ upari cittāni na pavattantīti.
Sự xác định thời gian là sự xác định thời gian của mạng sống. Vị Tỳ-khưu này cần phải khéo léo trong việc xác định thời gian, cần phải tác ý rằng “các hành thuộc về mạng sống của ta sẽ tồn tại trong bảy ngày hay không?” rồi mới nhập định. Quả vậy, nếu vị ấy nhập định mà không tác ý đến các hành thuộc về mạng sống sẽ diệt trong vòng bảy ngày, thì Diệt Tận Định không thể ngăn cản cái chết; do không có cái chết trong lúc nhập diệt định, vị ấy sẽ xuất định giữa chừng. Do đó, cần phải tác ý đến điều này rồi mới nhập định. Các phận sự chuẩn bị còn lại có thể không cần tác ý cũng được, nhưng điều này thì nhất định phải tác ý. Vị ấy, sau khi đã nhập Vô Sở Hữu Xứ, xuất thiền, thực hiện phận sự chuẩn bị này, rồi nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ; sau đó, sau khi trải qua một hoặc hai sát-na tâm, vị ấy trở thành người không có tâm, xúc chạm đến sự diệt tận. Nhưng tại sao sau hai tâm đó, các tâm khác không vận hành? Do đó là sự nỗ lực để đạt đến sự diệt tận. Quả vậy, việc vị Tỳ-khưu này, sau khi đã hợp nhất hai pháp chỉ và quán, đi lên qua tám tầng thiền, chính là sự nỗ lực để đạt đến sự diệt tận tuần tự, chứ không phải là để chứng đắc Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ. Do đó, vì là sự nỗ lực để đạt đến sự diệt tận, nên sau hai tâm đó, các tâm khác không vận hành.

Yasmā bodhisattena bodhimaṇḍupasaṅkamanato pubbepi carimabhave catutthajjhānaṃ nibbattitapubbaṃ, tadā pana taṃ nibbattitamattameva ahosi, na vipassanādipādakaṃ. Tasmā ‘‘bodhirukkhamūle nibbattita’’nti tato visesetvā vuttaṃ. Vipassanāpādakanti vipassanārambhe vipassanāya pādakaṃ. Abhiññāpādakanti etthāpi eseva nayo. Buddhānañhi paṭhamārambhe eva pādakajjhānena payojanaṃ ahosi, na tato paraṃ uparimaggādhigamaphalasamāpattiabhiññāvaḷañjanādiatthaṃ. Abhisambodhisamadhigamato paṭṭhāya hi sabbaṃ ñāṇasamādhikiccaṃ ākaṅkhāmattapaṭibaddhamevāti. Sabbakiccasādhakanti anupubbavihārādisabbakiccasādhakaṃ. Sabbalokiyalokuttaraguṇadāyakanti ettha vipassanābhiññāpādakattā eva catutthassa jhānassa bhagavato sabbalokiyalokuttaraguṇadāyakatā veditabbā. Sabbaññutaññāṇapadaṭṭhānañhi maggañāṇaṃ taṃpadaṭṭhānañca sabbaññutaññāṇaṃ abhisambodhi, tadadhigamasamakālameva ca bhagavato sabbe buddhaguṇā hatthagatā ahesuṃ, catutthajjhānasannissayo ca maggādhigamoti.
Bởi vì Bồ-tát, ngay cả trước khi đến Bồ-đề đoàn, trong kiếp sống cuối cùng, cũng đã từng chứng đắc tứ thiền; nhưng lúc đó, nó chỉ đơn thuần là một sự chứng đắc, chứ không phải là nền tảng cho tuệ quán v.v… Do đó, để phân biệt, mới nói là “đã chứng đắc dưới cội cây bồ-đề”. Là nền tảng cho tuệ quán: tức là nền tảng cho tuệ quán khi bắt đầu tuệ quán. Trong câu là nền tảng cho các thắng trí, cũng theo cách này. Quả vậy, đối với các vị Phật, thiền nền tảng chỉ cần thiết lúc ban đầu; sau đó, để chứng đắc các đạo quả cao hơn, các tầng thiền quả, và việc sử dụng các thắng trí v.v…, thì không cần nữa. Bởi vì, kể từ khi chứng đắc Chánh Đẳng Giác, tất cả các hoạt động của trí tuệ và thiền định đều chỉ phụ thuộc vào ý muốn mà thôi. Hoàn thành mọi nhiệm vụ: tức là hoàn thành mọi nhiệm vụ như các tầng thiền tuần tự v.v… Trong câu ban cho tất cả các phẩm chất thế gian và siêu thế, cần phải hiểu rằng, chính do là nền tảng cho tuệ quán và các thắng trí, nên tứ thiền mới có khả năng ban cho Đức Thế Tôn tất cả các phẩm chất thế gian và siêu thế. Quả vậy, đạo trí là nền tảng cho Nhất thiết trí; và Nhất thiết trí đó chính là sự giác ngộ Chánh Đẳng Giác; và ngay khi chứng đắc điều đó, tất cả các phẩm chất của một vị Phật đều nằm trong tay Đức Thế Tôn; và sự chứng đắc đạo lại nương vào tứ thiền.

‘‘Catutthaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsi’’nti vatvā ‘‘so’’ti vuttattā āha ‘‘so aha’’nti. Evaṃ samāhiteti ettha evaṃ-saddo heṭṭhā jhānattayādhigamapaṭipāṭisiddhassa catutthajjhānasamādhānassa nidassanatthoti āha ‘‘evanti catutthajjhānakkamanidassanameta’’nti. Catutthajjhānassa tassa ca adhigamamaggassa nidassanaṃ, yena samādhānānukkamena catutthajjhānasamādhi laddho, tadubhayanidassananti attho. Tenāha ‘‘iminā…pe… vuttaṃ hotī’’ti. Tattha iminā kamenāti iminā paṭhamajjhānādhigamādinā kamena. Yadipi ‘‘eva’’nti idaṃ āgamanasamādhinā saddhiṃ catutthajjhānasamādhānaṃ dīpeti, satipārisuddhisamādhi eva pana iddhiyā adhiṭṭhānabhāvato padhānanti āha ‘‘catutthajjhānasamādhinā samāhite’’ti. Sabbapaccanīkadhammupakkilesaparisuddhāya paccanīkasamanepi abyāvaṭāya pārisuddhupekkhāya vattamānāya catutthajjhānaṃ taṃsampayuttā ca dhammā suparisuddhā suvisadā ca honti, satisīsena pana tattha desanā katāti āha ‘‘upekkhāsatipārisuddhibhāvena parisuddhe’’ti, upekkhāya janitasatipārisuddhisambhavenāti attho. Parisuddhiyā eva paccayavisesena pavattiviseso pariyodātatā sudhantasuvaṇṇassa nighaṃsanena pabhassaratā viyāti āha ‘‘parisuddhattāyeva pariyodāte, pabhassareti vuttaṃ hotī’’ti.
Sau khi nói “đã chứng đắc và an trú trong tứ thiền”, lại nói “vị ấy”, do đó ngài nói “Ta, vị ấy”. Trong câu khi tâm đã được định tĩnh như vậy, từ như vậy là để chỉ sự định tĩnh của tứ thiền đã được thành tựu theo thứ tự từ ba tầng thiền dưới. Do đó, ngài nói “‘như vậy’ là sự chỉ định về thứ tự của tứ thiền”. Đó là sự chỉ định về tứ thiền và con đường chứng đắc nó; có nghĩa là, sự chỉ định về cả hai: thứ tự định tĩnh mà qua đó định của tứ thiền đã được đạt được. Do đó, ngài nói “bằng thứ tự này… cho đến… đã được nói”. Ở đó, bằng thứ tự này: tức là bằng thứ tự bắt đầu từ việc chứng đắc sơ thiền v.v… Mặc dù từ “như vậy” chỉ sự định tĩnh của tứ thiền cùng với sự định tĩnh khi đi vào, nhưng chính sự định tĩnh của sự trong sạch của niệm mới là nền tảng chính cho các thần thông. Do đó, ngài nói “khi tâm đã được định tĩnh bằng định của tứ thiền”. Do tâm xả thanh tịnh, vốn đã trong sạch khỏi mọi pháp đối nghịch và không can dự ngay cả trong việc làm lắng dịu các pháp đối nghịch, đang tồn tại, nên tứ thiền và các pháp tương ưng với nó trở nên rất trong sạch và sáng suốt; tuy nhiên, bài thuyết giảng ở đó được thực hiện với niệm làm đầu. Do đó, ngài nói “khi tâm đã trong sạch do trạng thái trong sạch của xả và niệm”, có nghĩa là do sự có mặt của sự trong sạch của niệm được tạo ra bởi xả. Sự trong sáng là một sự vận hành đặc biệt của sự trong sạch do có một duyên đặc biệt, giống như sự chiếu sáng của vàng đã được luyện kỹ sau khi được đánh bóng. Do đó, ngài nói “chính do đã trong sạch, nên đã trở nên thanh tịnh, sáng chói”.

Sukhādīnaṃ paccayānaṃ ghātenāti sukhasomanassānaṃ dukkhadomanassānañca yathākkamaṃ rāgadosapaccayānaṃ vikkhambhanena. ‘‘Sukhaṃ somanassassa paccayo, somanassaṃ rāgassa, dukkhaṃ domanassassa paccayo, domanassaṃ dosassā’’ti vuttaṃ. Yathā rāgādayo cetaso malāsucibhāvena ‘‘aṅgaṇānī’’ti vuccanti, evaṃ upagantvā kilesanaṭṭhena upakkilesāti āha ‘‘anaṅgaṇattā eva ca vigatupakkilese’’ti. Tenāha ‘‘aṅgaṇena hi cittaṃ upakkilissatī’’ti, vibādhīyati upatāpīyatīti attho. Subhāvitattāti paguṇabhāvāpādanena suṭṭhu bhāvitattā. Tenāha ‘‘vasībhāvappatte’’ti, āvajjanādinā pañcadhā cuddasavidhena vā paridamanena vasaṃ vattituṃ upagateti attho. Vase vattamānañhi cittaṃ mudūti vuccatīti vase vattamānaṃ cittaṃ paguṇabhāvāpattiyā suparimadditaṃ viya cammaṃ suparikammakatā viya ca lākhā mudūti vuccati. Kammakkhameti vikubbanādiiddhikammakkhame. Tadubhayanti mudutākammaniyadvayaṃ.
Do sự tiêu diệt các duyên như lạc v.v…: tức là do sự đè nén các duyên của tham và sân theo thứ tự là lạc và hỷ, khổ và ưu. Đã được nói rằng: “Lạc là duyên của hỷ, hỷ là duyên của tham; khổ là duyên của ưu, ưu là duyên của sân”. Giống như tham ái v.v…, do có bản chất là vết bẩn, sự không trong sạch của tâm, nên được gọi là “những vết nhơ”, cũng vậy, do chúng đến gần và làm ô nhiễm, nên được gọi là các cấu uế. Do đó, ngài nói “chính do không có vết nhơ, nên đã không còn các cấu uế”. Và cũng vì thế, ngài nói “quả vậy, tâm bị ô nhiễm bởi vết nhơ”, có nghĩa là bị làm cho phiền muộn, bị thiêu đốt. Do đã được tu tập tốt đẹp: tức là do đã được tu tập một cách tốt đẹp bằng cách làm cho thuần thục. Do đó, ngài nói “khi đã đạt đến sự thuần thục”, có nghĩa là đã có thể điều khiển bằng năm cách như hướng tâm v.v… hoặc bằng mười bốn cách. Quả vậy, tâm đang được điều khiển được gọi là mềm mại: tâm đang được điều khiển, do đã đạt đến trạng thái thuần thục, được gọi là mềm mại, giống như tấm da đã được thuộc kỹ, giống như nhựa cây đã được chế biến kỹ. Có khả năng làm việc: tức là có khả năng thực hiện các công việc thần thông như biến hóa v.v… Cả hai điều đó: tức là cả hai điều, mềm mại và có khả năng làm việc.

Nāhantiādīsu (a. ni. aṭṭha. 1.1.1) na-kāro paṭisedhattho. Ahanti satthā attānaṃ niddisati. Bhikkhaveti bhikkhū ālapati. Aññanti idāni vuccamānacittato aññaṃ. Ekadhammampīti ekampi sabhāvadhammaṃ. Na samanupassāmīti sambandho. Ayañhettha attho – ahaṃ, bhikkhave, sabbaññutaññāṇena olokentopi aññaṃ ekadhammampi na samanupassāmi, yaṃ vasībhāvāpādanena bhāvitaṃ tathā punappunaṃ karaṇena bahulīkataṃ evaṃ savisesamudubhāvappattiyā mudu kammakkhamatāya kammaniyañca hoti yathā idaṃ cittanti. Idaṃ cittanti ca attano tesañca paccakkhatāya evamāha.
Trong các câu Ta không… v.v… (a. ni. aṭṭha. 1.1.1), từ không có nghĩa là phủ định. Ta: Bậc Đạo Sư chỉ chính mình. Này các Tỳ-khưu: Ngài gọi các vị Tỳ-khưu. Một pháp nào khác: tức là một pháp nào khác ngoài cái tâm đang được nói đến. Dù chỉ một pháp: tức là dù chỉ một pháp có thực thể. Cần liên kết với câu: ta không thấy. Ý nghĩa ở đây là: Này các Tỳ-khưu, Ta, dù nhìn bằng Nhất thiết trí, cũng không thấy một pháp nào khác, mà khi được tu tập bằng cách làm cho thuần thục, được thực hành nhiều lần bằng cách làm đi làm lại, lại trở nên mềm mại, có khả năng làm việc do trạng thái mềm mại đặc biệt như vậy, giống như cái tâm này. Và ngài nói cái tâm này là do nó là điều được chứng nghiệm trực tiếp bởi chính ngài và bởi các vị ấy.

Yathā yathāvuttā parisuddhatādayo na vigacchanti, evaṃ subhāvitaṃ cittaṃ tattha avaṭṭhitaṃ idha ‘‘ṭhitaṃ āneñjappatta’’nti ca vuttanti āha ‘‘etesu parisuddhabhāvādīsuṭhitattā ṭhite, ṭhitattāyeva āneñjappatte’’ti. Yathā mudukammaññatā vasībhāvappattiyā lakkhīyati, evaṃ vasībhāvappattipi mudukammaññatāhi lakkhīyatīti ‘‘mudukammaññabhāvena vā attano vase ṭhitattā ṭhite’’ti vuttaṃ. Yathā hi kāraṇena phalaṃ niddhārīyati, evaṃ phalenapi kāraṇaṃ niddhārīyatīti niccalabhāvena avaṭṭhānaṃ āneñjappattiyā ca sampayuttadhammesu thirabhāvena paṭipakkhehi akammaniyatāya ca sambhavataṃ saddhādibalānaṃ ānubhāvena hotīti āha ‘‘saddhādīhi pariggahitattā āneñjappatte’’ti.
Khi các trạng thái trong sạch v.v… đã được nói đến không biến mất, thì tâm đã được tu tập tốt đẹp, an trú ở đó, được gọi là “vững chắc, đã đạt đến sự không lay động”. Do đó, ngài nói “do vững chắc trong các trạng thái trong sạch này v.v…, nên là vững chắc; chính do vững chắc, nên đã đạt đến sự không lay động”. Giống như sự mềm mại và khả năng làm việc được nhận biết qua sự đạt đến sự thuần thục, cũng vậy, sự đạt đến sự thuần thục cũng được nhận biết qua sự mềm mại và khả năng làm việc. Do đó, mới nói “hoặc do ở trong sự điều khiển của chính mình nhờ trạng thái mềm mại và khả năng làm việc, nên là vững chắc”. Quả vậy, giống như quả được xác định bởi nhân, nhân cũng được xác định bởi quả. Do đó, sự an trú một cách không lay động, sự đạt đến sự không lay động, và sự không bị các pháp đối nghịch chi phối do trạng thái vững vàng trong các pháp tương ưng, là do năng lực của các lực như tín v.v… có thể xảy ra. Do đó, ngài nói “do được các pháp như tín v.v… nâng đỡ, nên đã đạt đến sự không lay động”.

Idāni saṅkhepato vuttamevatthaṃ vivarituṃ ‘‘saddhāpariggahitaṃ hī’’tiādi vuttaṃ. Tattha saddhāpariggahitanti evaṃ subhāvitaṃ vasībhāvappattaṃ cittaṃ ekaṃsena abhiññāsacchikaraṇīyānaṃ dhammānaṃ abhiññāsacchikiriyāya saṃvattatīti evaṃ pavattāya saddhāya pariggahitaṃ yathāvuttasaddhābalena upatthambhitaṃ. Assaddhiyenāti tappaṭipakkhena assaddhiyena hetunā. Na iñjatīti na calati na kampati, aññadatthu uparivisesāvahabhāveneva tiṭṭhati. Vīriyapariggahitantiādīsupi imināva nayena attho veditabbo. Ayaṃ pana viseso – vīriyapariggahitanti vasībhāvāpādanaparidamanasādhanena vīriyena upatthambhitaṃ. Satipariggahitanti yathāvutte bhāvanābahulīkāre asammosādikāya kusalānañca dhammānaṃ gatiyo samanvesamānāya satiyā upatthambhitaṃ. Samādhipariggahitanti tattheva avikkhepasādhanena samādhānena upatthambhitaṃ. Paññāpariggahitanti tassā eva bhāvanāya upakārānupakāradhammānaṃ pajānanalakkhaṇāya paññāya upatthambhitaṃ. Obhāsagatanti ñāṇobhāsasahagataṃ. Obhāsabhūtena hi yathāvuttasamādhānasaṃvaddhitena ñāṇena saṃkilesapakkhaṃ yāthāvato passanto tato utrāsanto ottappanto taṃ abhibhavati, na tena abhibhuyyati. Tenāha ‘‘kilesandhakārena na iñjatī’’ti. Etena ñāṇapariggahitaṃ hirottappabalaṃ dasseti. Aṭṭhaṅgasamannāgatanti catutthajjhānasamādhinā samāhitatā parisuddhatā pariyodātatā anaṅgaṇatā vigatupakkilesatā mudubhāvo kammaniyatā āneñjappattiyā ṭhitatāti imehi aṭṭhahi aṅgehi samannāgataṃ. Atha vā samāhitassa cittassa imāni aṅgānīti ‘‘samāhite’’ti imaṃ aṅgabhāvena aggahetvā ṭhitiāneñjappattiyo visuṃ gahetvā yathāvuttehi aṭṭhahi aṅgehi samannāgatanti attho daṭṭhabbo. Abhinīhārakkhamanti iddhividhādiatthaṃ abhinīhārakkhamaṃ tadabhimukhakaraṇayoggaṃ. Tenāha ‘‘abhiññāsacchikaraṇīyānaṃ dhammānaṃ abhiññāsacchikiriyāyā’’ti.
Bây giờ, để giải thích chi tiết ý nghĩa đã được nói tóm tắt, ngài nói “quả vậy, được đức tin nâng đỡ” v.v… Ở đó, được đức tin nâng đỡ: tức là tâm đã được tu tập tốt đẹp, đã đạt đến sự thuần thục như vậy, hoàn toàn hướng đến việc chứng ngộ các pháp cần được chứng ngộ bằng thắng trí. Nó được nâng đỡ bởi đức tin vận hành như vậy, được củng cố bởi sức mạnh của đức tin đã được nói đến. Do sự không có đức tin: tức là do nguyên nhân là sự không có đức tin, vốn là pháp đối nghịch của nó. Nó không rung động: tức là không dao động, không lay động, mà chỉ đứng yên với trạng thái mang lại sự vượt trội hơn. Trong các câu được tinh tấn nâng đỡ v.v…, ý nghĩa cũng cần được hiểu theo cách này. Tuy nhiên, có sự khác biệt này: được tinh tấn nâng đỡ tức là được củng cố bởi sự tinh tấn, vốn là công cụ để rèn luyện nhằm đạt đến sự thuần thục. Được niệm nâng đỡ: tức là được củng cố bởi niệm, vốn không quên lãng trong việc tu tập và thực hành nhiều lần như đã nói, và tìm kiếm các con đường của các pháp thiện. Được định nâng đỡ: tức là được củng cố bởi sự định tĩnh, vốn là công cụ để không tán loạn trong chính sự tu tập đó. Được trí tuệ nâng đỡ: tức là được củng cố bởi trí tuệ, vốn có đặc tính nhận biết các pháp hỗ trợ và không hỗ trợ cho sự tu tập đó. Đi kèm với ánh sáng: tức là đi kèm với ánh sáng của trí tuệ. Quả vậy, với trí tuệ đã được sự định tĩnh như đã nói làm cho tăng trưởng, vốn đã trở thành ánh sáng, khi thấy rõ phe phái của phiền não đúng như thật, người ấy kinh sợ, ghê sợ nó, và chiến thắng nó, chứ không bị nó chiến thắng. Do đó, ngài nói “nó không rung động bởi bóng tối của phiền não”. Qua đó, ngài cho thấy sức mạnh của sự hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi được trí tuệ nâng đỡ. Được hợp thành bởi tám yếu tố: tức là được hợp thành bởi tám yếu tố này: sự định tĩnh bằng định của tứ thiền, sự trong sạch, sự thanh tịnh, sự không tỳ vết, sự không còn cấu uế, sự mềm mại, sự có khả năng làm việc, và sự vững chắc trong sự không lay động. Hoặc, đây là các yếu tố của tâm đã được định tĩnh, do đó, không xem “đã được định tĩnh” là một yếu tố, mà xem sự vững chắc và sự đạt đến sự không lay động là riêng biệt, cần phải hiểu ý nghĩa là được hợp thành bởi tám yếu tố đã được nói. Có khả năng hướng đến: tức là có khả năng hướng đến các mục đích như các loại thần thông v.v…, phù hợp để hướng tâm đến đó. Do đó, ngài nói “đối với việc chứng ngộ các pháp cần được chứng ngộ bằng thắng trí”.

Kāmaṃ nīvaraṇāni vikkhambhetvā eva paṭhamajjhānasamadhigamo, vitakkādivūpasamā eva ca dutiyajjhānādisamadhigamo, tathāpi na tathā te tehi dūrībhūtā, apetā vā yathā catutthajjhānato, tasmā cetaso malīnabhāvasaṅkhobhauppilābhāvakarehi nīvaraṇādīhi suṭṭhu vimuttiyā tassa parisuddhipariyodātatā ca vuttāti āha ‘‘nīvaraṇa…pe… pariyodāte’’ti. Jhānapaṭilābhapaccanīkānanti ettha ācariyadhammapālattherena ‘‘jhānapaṭilābhapaccayāna’’nti pāṭhaṃ gahetvā ‘‘jhānapaṭilābhapaccanīkāna’’nti ayaṃ pāṭho paṭikkhitto. Vuttañhi tena –
Mặc dù sự chứng đắc sơ thiền là do đã đè nén các triền cái, và sự chứng đắc nhị thiền v.v… là do đã làm lắng dịu các yếu tố như tầm v.v…, tuy nhiên, chúng không xa lìa hoặc tách rời khỏi các pháp đó như là tứ thiền. Do đó, sự trong sạch và thanh tịnh của nó đã được nói đến, do sự giải thoát hoàn toàn khỏi các triền cái v.v…, vốn làm cho tâm bị vẩn đục, dao động, và trôi nổi. Do đó, ngài nói “các triền cái… cho đến… thanh tịnh”. Trong câu các pháp đối nghịch với sự chứng đắc thiền, trưởng lão Ācariyadhammapāla đã chọn cách đọc là “các pháp là duyên của sự chứng đắc thiền” và bác bỏ cách đọc “các pháp đối nghịch với sự chứng đắc thiền”. Quả vậy, ngài đã nói:

‘‘Jhānapaṭilābhapaccayānanti jhānapaṭilābhahetukānaṃ jhānapaṭilābhaṃ nissāya uppajjanakānaṃ. Pāpakānanti lāmakānaṃ. Icchāvacarānanti icchāya avacarānaṃ icchāvasena otiṇṇānaṃ ‘aho vata mameva satthā paṭipucchitvā bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseyyā’tiādinayappavattānaṃ mānamāyāsāṭheyyādīnaṃ. Abhijjhādīnanti ādi-saddenapi tesaṃyeva saṅgaho. Abhijjhā cettha paṭhamajjhānena avikkhambhaneyyā mānādayo ca tadekaṭṭhā daṭṭhabbā jhānapaṭilābhapaccayānanti anuvattamānattā. Vikkhambhaneyyā pana nīvaraṇaggahaṇena gahitā. Kathaṃ pana paṭhamajjhānena avikkhambhaneyyā idha vigacchantīti? ‘Sabbe kusalā dhammā sabbākusalānaṃ paṭipakkhā’ti sallekhapaṭipattivasena evaṃ vuttaṃ jhānassa aparāmaṭṭhabhāvadassanato. Ye panettha ‘icchāvacarānaṃ abhijjhādīna’nti imehi padehi kopaappaccayakāmarāgabyāpādādayo gahitāti adhippāyena ‘jhānapaṭilābhapaccayāna’nti pāṭhaṃ paṭikkhipitvā ‘jhānapaṭilābhapaccanīkāna’nti pāṭhoti vadanti, taṃ tesaṃ matimattaṃ tathā pāṭhasseva abhāvato, jhānapaṭilābhapaccanīkā ca nīvaraṇā ceva tadekaṭṭhā ca, tesaṃ dūrībhāvaṃ vatvā puna tesaṃyeva abhāvavigamacodanāya ayujjamānattā. Nanu ca anaṅgaṇasuttavatthasuttesu ayamattho labbhati oḷārikānaṃyeva pāpadhammānaṃ tattha adhippetattāti. Saccametaṃ, idha pana adhigatacatutthajjhānassa vasena vuttattā sukhumāyeva te gahitā, aṅgaṇupakkilesatāsāmaññena panettha suttānaṃ apadisanaṃ. Tathā hi ‘suttānusārenā’ti vuttaṃ, na pana suttavasenā’’ti.
“Các pháp là duyên của sự chứng đắc thiền: tức là các pháp là nhân cho sự chứng đắc thiền, phát sinh do nương vào sự chứng đắc thiền. Các pháp ác: tức là các pháp thấp hèn. Các pháp thuộc về ý muốn: tức là các pháp thuộc về ý muốn, đã đi vào theo ý muốn, vận hành theo kiểu “Ôi, ước gì Bậc Đạo Sư chỉ hỏi ta rồi mới thuyết pháp cho các vị Tỳ-khưu” v.v…, tức là các pháp như ngã mạn, xảo trá, gian manh v.v… Tham lam v.v…: qua từ v.v…, chính các pháp đó cũng được bao gồm. Tham lam ở đây và ngã mạn v.v… đồng gốc với nó cần được hiểu là những pháp không thể bị đè nén bởi sơ thiền, do chúng vẫn còn là duyên của sự chứng đắc thiền. Còn những pháp có thể bị đè nén thì đã được bao gồm trong việc đề cập đến các triền cái. Nhưng làm thế nào những pháp không thể bị đè nén bởi sơ thiền lại có thể biến mất ở đây? Điều này được nói theo cách thực hành khổ hạnh để cho thấy rằng thiền không bị chấp thủ, rằng ‘tất cả các pháp thiện đều đối nghịch với tất cả các pháp bất thiện’. Những người cho rằng qua các từ ‘các pháp thuộc về ý muốn’ và ‘tham lam v.v…’ này, các pháp như sân hận, không hoan hỷ, dục tham, ác ý v.v… đã được bao gồm, và với chủ ý đó, họ bác bỏ cách đọc ‘các pháp là duyên của sự chứng đắc thiền’ và cho rằng cách đọc đúng là ‘các pháp đối nghịch với sự chứng đắc thiền’, đó chỉ là ý kiến riêng của họ, vì cách đọc như vậy không có, và vì các pháp đối nghịch với sự chứng đắc thiền chính là các triền cái và các pháp đồng gốc với chúng; sau khi đã nói về sự xa lìa chúng, việc lại nêu lên sự vắng mặt và biến mất của chính chúng là không hợp lý. Nhưng chẳng phải ý nghĩa này có được trong các kinh Anaṅgaṇa và Vattha sao, vì ở đó, chỉ có các pháp ác thô thiển được nhắm đến? Điều đó đúng, nhưng ở đây, do được nói theo phương diện của người đã chứng đắc tứ thiền, nên chỉ có các pháp vi tế được đề cập; việc trích dẫn các kinh ở đây là do sự tương đồng về bản chất là vết nhơ và cấu uế. Do đó, mới nói là ‘theo kinh’, chứ không phải là ‘dựa vào kinh’.”

Avassañcetamevaṃ sampaṭicchitabbaṃ adhigatajjhānānampi kesañci icchāvacarānaṃ pavattisabbhāvatoti . Teneva ācariyadhammapālattherena ‘‘jhānapaṭilābhapaccayāna’’nti pāṭhaṃ gahetvā ‘‘jhānapaṭilābhapaccanīkāna’’nti ayaṃ pāṭho paṭikkhitto. Mahāgaṇṭhipade visuddhimaggassa sīhaḷagaṇṭhipadepi ca ‘‘jhānapaṭilābhapaccayāna’’nti imasseva pāṭhassa attho vutto, tasmā ayameva pāṭho gahetabbo, atthopi cettha yathāvuttanayeneva veditabbo. Tena ‘‘icchāvacarānanti icchāya avacarānaṃ icchāvasena otiṇṇānaṃ pavattānaṃ nānappakārānaṃ kopaappaccayānanti attho’’ti ayampi pāṭho ayuttoyevāti gahetabbaṃ, tatoyeva ca visuddhimagge ayaṃ pāṭho sabbena sabbaṃ na dassitoti.
Và điều này nhất định phải được chấp nhận như vậy, vì ngay cả đối với một số người đã chứng đắc thiền, sự vận hành của các pháp thuộc về ý muốn vẫn có thể xảy ra. Chính vì thế, trưởng lão Ācariyadhammapāla đã chọn cách đọc là “các pháp là duyên của sự chứng đắc thiền” và bác bỏ cách đọc “các pháp đối nghịch với sự chứng đắc thiền”. Trong sách Mahāgaṇṭhipada và sách Sīhaḷagaṇṭhipada chú giải Thanh Tịnh Đạo, ý nghĩa của chính cách đọc “các pháp là duyên của sự chứng đắc thiền” này đã được nói đến. Do đó, cần phải chọn cách đọc này, và ý nghĩa ở đây cũng cần được hiểu theo cách đã nói. Do đó, cần phải hiểu rằng cách đọc này, “các pháp thuộc về ý muốn, có nghĩa là các pháp thuộc về ý muốn, đã đi vào, đã vận hành theo ý muốn, là các loại khác nhau của sự không hoan hỷ, bất mãn”, cũng là không hợp lý. Và cũng chính vì thế, trong sách Thanh Tịnh Đạo, cách đọc này hoàn toàn không được trình bày.

Iddhipādakabhāvūpagamanenāti iddhiyā pādakabhāvassa padaṭṭhānabhāvassa upagamanena. Bhāvanāpāripūriyāti ito paraṃ kattabbassa abhāvavasena abhinīhārakkhamabhāvanāya paripuṇṇattā. Paṇītabhāvūpagamanenāti tato eva padhānabhāvaṃ nītatāya uttamaṭṭhena atittikaraṭṭhena ca paṇītabhāvassa upagamanena. Ubhayañcetaṃ bhāvanāya ṭhitiyā kāraṇavacanaṃ, paripuṇṇāya bhāvanāya paṇītabhāvappattiyā ṭhiteti. Āneñjappatteti idaṃ ṭhitiyā visesanaṃ. Tenāha ‘‘yathā āneñjappattaṃ hoti, evaṃ ṭhite’’ti. Imasmiṃ pakkhe ‘‘ṭhite āneñjappatte’’ti ubhayamekaṃ aṅgaṃ, ‘‘samāhite’’ti pana idampi ekamaṅgaṃ. Tenevassa paṭhamavikappato visesaṃ sandhāyāha ‘‘evampi aṭṭhaṅgasamannāgata’’nti.
Do đã đạt đến trạng thái là nền tảng cho thần thông: tức là do đã đạt đến trạng thái là cơ sở, là nền tảng cho thần thông. Do sự viên mãn của sự tu tập: tức là do sự viên mãn của sự tu tập có khả năng hướng đến, do không còn gì phải làm thêm nữa. Do đã đạt đến trạng thái cao quý: tức là do đó mà đã được đưa đến trạng thái chủ đạo, do đã đạt đến trạng thái cao quý với ý nghĩa là tối thượng và không gây nhàm chán. Cả hai điều này là lời nói về nguyên nhân của sự vững chắc của sự tu tập; do sự tu tập viên mãn và do đạt đến trạng thái cao quý, nên nó vững chắc. Đã đạt đến sự không lay động: đây là tính từ của sự vững chắc. Do đó, ngài nói “khi đã vững chắc theo cách đã đạt đến sự không lay động”. Trong trường hợp này, “vững chắc, đã đạt đến sự không lay động” là một yếu tố, và “đã được định tĩnh” cũng là một yếu tố. Do đó, nhắm đến sự khác biệt của nó so với cách giải thích thứ nhất, ngài nói “như vậy cũng là được hợp thành bởi tám yếu tố”.

Pubbenivāsaṃ anussarati, tassa vā anussaraṇaṃ pubbenivāsānussati taṃnissayādipaccayabhūtaṃ paṭicca uppajjanato. Pubbenivāsānussatimhi yaṃ ñāṇaṃtadatthāyāti saṅkhepena vuttamatthaṃ vivaranto pubbenivāsaṃ tāva dassetvā tattha satiñāṇāni dassetuṃ ‘‘pubbenivāso’’tiādimāha. Tattha ‘‘pubbe’’ti idaṃ padaṃ ‘‘ekampi jāti’’ntiādivacanato atītabhavavisayaṃ idhādhippetanti āha ‘‘atītajātīsū’’ti. Nivāsasaddo kammasādhano, khandhavinimutto ca nivasitadhammo natthīti āha ‘‘nivutthakkhandhā’’ti. Nivutthatā cettha santāne pavattatā, tathābhūtā ca te anu anu bhūtā jātā pavattā, tattha uppajjitvā vigatā ca hontīti āha ‘‘nivutthāti ajjhāvutthā anubhūtā attano santāne uppajjitvā niruddhā’’ti. Evaṃ sasantatipariyāpannadhammavasena nivāsasaddassa atthaṃ vatvā idāni avisesena vattuṃ ‘‘nivutthadhammā vā nivutthā’’ti vatvā taṃ vivarituṃ ‘‘gocaranivāsenā’’tiādi vuttaṃ. Gocarabhūtāpi hi gocarāsevanāya āsevitā ārammaṇakaraṇavasena anubhūtā nivutthā nāma honti. Te pana duvidhā saparaviññāṇagocaratāyāti ubhayepi te dassetuṃ ‘‘attano’’tiādi vuttaṃ. Tattha ‘‘attano viññāṇena viññātā’’ti vatvā ‘‘paricchinnā’’ti vacanaṃ ye te gocaranivāsena nivutthadhammā, na te kevalaṃ viññāṇena viññātamattā, atha kho yathā pubbe nāmagottavaṇṇaliṅgāhārādīhi visesehi paricchedakārikāya paññāya paricchijja gahitā, tathevetaṃ ñāṇaṃ paricchijja gaṇhātīti imassa atthassa dīpanatthaṃ vuttaṃ. Paraviññāṇaviññātāpi vā nivutthāti sambandho. Na kevalaṃ attanova viññāṇena, atha kho paresaṃ viññāṇena viññātāpīti attho. Idhāpi ‘‘paricchinnā’’ti padaṃ ānetvā sambandhitabbaṃ, paresampi vā viññāṇena viññātā paricchinnāti. Tassa ca gahaṇe payojanaṃ vuttanayeneva vattabbaṃ.
Vị ấy nhớ lại các đời sống quá khứ, hoặc sự nhớ lại đó là túc mạng tùy niệm, do nó phát sinh tùy thuộc vào các duyên như sự nương tựa vào đó v.v… Trong câu trí tuệ về túc mạng tùy niệm, vì mục đích đó, để giải thích chi tiết ý nghĩa đã được nói tóm tắt, trước hết ngài trình bày về đời sống quá khứ, rồi để trình bày về niệm và trí tuệ ở đó, ngài nói “đời sống quá khứ” v.v… Ở đó, để cho thấy rằng từ “trước đây”, do các câu như “một đời” v.v…, được hiểu là chỉ về các kiếp sống quá khứ, ngài nói “trong các đời quá khứ”. Từ đời sống được thành lập theo nghĩa chỉ đối tượng; và do không có một pháp nào đã sống mà tách rời khỏi các uẩn, nên ngài nói “các uẩn đã từng sống”. Và sự đã từng sống ở đây là sự đã vận hành trong dòng tâm thức; và chúng đã từng tồn tại, đã sinh ra, đã vận hành như vậy, và đã phát sinh rồi hoại diệt ở đó. Do đó, ngài nói “đã từng sống tức là đã từng trải qua, đã từng kinh qua, đã phát sinh rồi hoại diệt trong dòng tâm thức của chính mình”. Sau khi đã nói về ý nghĩa của từ ‘đời sống’ theo phương diện các pháp thuộc về dòng tương tục của chính mình, bây giờ để nói một cách không phân biệt, ngài nói “hoặc các pháp đã từng sống là đời sống”, rồi để giải thích điều đó, ngài nói “do sự sống với đối tượng” v.v… Quả vậy, các pháp đã từng là đối tượng, do đã được sử dụng qua việc làm đối tượng, đã được kinh qua qua việc làm đối tượng, nên được gọi là đã từng sống. Chúng có hai loại, do là đối tượng của thức của mình và của người khác. Để cho thấy cả hai, ngài nói “của chính mình” v.v… Ở đó, sau khi nói “đã được biết bởi thức của chính mình”, việc nói thêm “đã được xác định” là để làm rõ ý nghĩa này: những pháp đã từng sống do là đối tượng đó, không chỉ đơn thuần là được biết bởi thức, mà trí tuệ này còn nắm bắt chúng bằng cách xác định đúng như chúng đã từng được nắm bắt và xác định trong quá khứ bằng trí tuệ có khả năng xác định các chi tiết như tên, họ, màu da, giới tính, thức ăn v.v… Cũng cần liên kết rằng, các pháp đã được biết bởi thức của người khác cũng là đã từng sống. Có nghĩa là, không chỉ bởi thức của chính mình, mà cả bởi thức của những người khác. Ở đây, cũng cần đưa từ “đã được xác định” đến để liên kết, rằng đã được biết và xác định bởi thức của những người khác. Và công dụng của việc nắm bắt đó cần được nói theo cách đã trình bày.

Te ca kho yasmā atītāsu eva jātīsu aññehi viññātā paricchinnā, te ca parinibbutāpi honti, yehi te viññātā, tesaṃ tadā vattamānasantānānusārena tesampi atīte pavatti viññāyatīti sikhāppattaṃ pubbenivāsānussatiñāṇassa visayabhūtaṃ pubbenivāsaṃ dassetuṃ ‘‘chinnavaṭumakānussaraṇādīsū’’ti vuttaṃ. Chinnavaṭumakā sammāsambuddhā, tesaṃ anussaraṇaṃ chinnavaṭumakānussaraṇaṃ. ‘‘Ādisaddena paccekabuddhabuddhasāvakānussaraṇāni gayhantī’’ti keci vadanti. Chinnavaṭumakā pana sabbeva anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbutā chinnasaṃsāramaggattā, tesaṃ anussaraṇaṃ nāma tesaṃ paṭipattiyā anussaraṇaṃ. Sā pana paṭipatti saṅkhepato chaḷārammaṇaggahaṇalakkhaṇāti tāni idha paraviññāṇaviññātaggahaṇena gahitāni. Tasmā purimāsu jātīsu attano viññāṇena aviññātānaṃ parinibbutānaṃ sabbesampi buddhapaccekabuddhasāvakānaṃ anussaraṇaṃ chinnavaṭumakānussaraṇanti veditabbaṃ. Ādi-saddena panettha purimāsu jātīsu attano viññāṇena aviññātānaṃ aparinibbutānampi vattamānakkhandhapaṭipāṭiyā agantvā sīhokkantikavasena anussaraṇaṃ gahitaṃ, ime pana yathāvuttachinnavaṭumakānussaraṇādayo buddhānaṃyeva labbhanti. Na hi atīte buddhā bhagavanto evaṃ vipassiṃsu, evaṃ maggaṃ bhāvesuṃ, phalanibbānāni sacchākaṃsu, evaṃ veneyye vinesunti ettha sabbathā aññesaṃ ñāṇassa gati atthīti. Ye pana purimāsu jātīsu attanova viññāṇena viññātā, te parinibbutepi khandhapaṭibaddhattā sāvakā anussarantiyeva. Yāya satiyā pubbenivāsaṃ anussarati, sā pubbenivāsānussatīti ānetvā sambandhitabbaṃ. Abhinīharinti cittaṃ jhānārammaṇato apanetvā pubbenivāsābhimukhaṃ pesesiṃ, pubbenivāsaninnaṃ pubbenivāsapoṇaṃ pubbenivāsapabbhāraṃ akāsinti attho.
Và bởi vì chúng đã được biết và xác định bởi những người khác trong các đời quá khứ, và những người đó có thể đã nhập diệt; và sự vận hành trong quá khứ của chúng cũng được biết theo dòng tương tục đang tồn tại của những người đã biết chúng. Để cho thấy đời sống quá khứ, vốn là đối tượng của trí tuệ túc mạng tùy niệm đã đạt đến đỉnh cao, ngài nói “trong sự nhớ lại những vị đã cắt đứt vòng luân hồi v.v…”. Những vị đã cắt đứt vòng luân hồi là các bậc Chánh Đẳng Giác; sự nhớ lại các vị ấy là sự nhớ lại những vị đã cắt đứt vòng luân hồi. Một số người nói rằng: “Qua từ ‘v.v…’, sự nhớ lại các vị Độc Giác Phật và các vị Thinh văn giác cũng được bao gồm”. Tuy nhiên, những vị đã cắt đứt vòng luân hồi là tất cả những vị đã nhập vô dư y Niết-bàn, do đã cắt đứt con đường sinh tử; sự nhớ lại các vị ấy chính là sự nhớ lại sự thực hành của các vị ấy. Và sự thực hành đó, tóm lại, có đặc tính là sự nắm bắt sáu đối tượng trần; chúng đã được bao gồm ở đây qua việc đề cập đến các pháp được biết bởi thức của người khác. Do đó, cần phải biết rằng, sự nhớ lại tất cả các vị Phật, Độc Giác Phật, và Thinh văn giác đã nhập diệt trong các đời quá khứ, những vị mà mình không biết đến qua thức của chính mình, chính là sự nhớ lại những vị đã cắt đứt vòng luân hồi. Qua từ v.v… ở đây, sự nhớ lại theo kiểu nhảy vọt, không theo thứ tự các kiếp sống hiện tại, ngay cả những vị chưa nhập diệt mà mình không biết đến qua thức của chính mình trong các đời quá khứ, cũng được bao gồm. Nhưng những sự nhớ lại các vị đã cắt đứt vòng luân hồi v.v… như đã nói này chỉ có ở các vị Phật. Quả vậy, trí tuệ của những người khác hoàn toàn không thể thấu đạt được rằng trong quá khứ, các vị Phật đã thấy như thế nào, đã tu tập đạo như thế nào, đã chứng ngộ quả và Niết-bàn như thế nào, đã giáo hóa các chúng sanh như thế nào. Còn những gì đã được biết bởi chính thức của mình trong các đời quá khứ, ngay cả khi đã nhập diệt, các vị Thinh văn vẫn có thể nhớ lại do chúng gắn liền với các uẩn. Cần phải liên kết rằng, niệm nào mà vị ấy dùng để nhớ lại đời sống quá khứ, niệm đó là túc mạng tùy niệm. Tôi đã hướng: tức là tôi đã đưa tâm ra khỏi đối tượng của thiền và hướng đến các đời sống quá khứ, đã làm cho tâm hướng về các đời sống quá khứ, xuôi về các đời sống quá khứ, nghiêng về các đời sống quá khứ.

Pāḷiyaṃ ‘‘abhininnāmesi’’nti uttamapurisappayogattā ‘‘so’’ti ettha ahaṃsaddo ānetvā vuccamāno tadattho pākaṭo hotīti ‘‘so aha’’nti vuttaṃ. Anekavidhanti nānābhavayonigativiññāṇaṭṭhitisattāvāsādivasena bahuvidhaṃ. Pakārehīti nāmagottādiākārehi saddhiṃ. Sahayoge cetaṃ karaṇavacanaṃ. Pavattitanti desanāvasena pavattitaṃ. Tenāha ‘‘saṃvaṇṇita’’nti, vitthāritanti attho. Nivāsanti antogadhabhedasāmaññavacanametanti te bhede byāpanicchāvasena saṅgahetvā dassento ‘‘tattha tattha nivutthasantāna’’nti āha. Anugantvā anugantvāti ñāṇagatiyā anugantvā anugantvā. Anudevāti anu eva, da-kāro padasandhivasena āgato. ‘‘Abhininnāmesi’’nti vatvā ‘‘anussarāmī’’ti vuttattā cittassa abhinīhārasamanantarabhāvasaraṇaṃ anusaddo dīpetīti āha ‘‘citte abhininnāmitamatte eva sarāmīti dassetī’’ti. Parikammaṃ vattabbaṃ siyāti ‘‘pubbenivāsaṃ anussaritukāmena ādikammikena bhikkhunā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantena rahogatena paṭisallīnena paṭipāṭiyā cattāri jhānāni samāpajjitvā abhiññāpādakacatutthajjhānato vuṭṭhāya sabbapacchimā nisajjā āvajjitabbā’’ti evamādinā pubbenivāsañāṇassa parikammabhūtaṃ pubbakaraṇaṃ vattabbaṃ bhaveyya.
Do trong kinh Pāḷi dùng ngôi thứ nhất “abhininnāmesi”, nên khi dùng từ “ahaṃ” (tôi) để chỉ “so” (vị ấy), ý nghĩa đó trở nên rõ ràng. Do đó, mới nói “Ta, vị ấy”. Nhiều loại khác nhau: tức là nhiều loại theo các phương diện như các cõi tồn tại, các loài sanh, các cảnh giới, các trú xứ của thức, các nơi ở của chúng sanh v.v… Cùng với các hình thức: tức là cùng với các hình thức như tên, họ v.v… Đây là từ chỉ phương tiện được dùng với ý nghĩa đi kèm. Đã được vận hành: tức là đã được vận hành theo cách thuyết giảng. Do đó, ngài nói “đã được chú giải”, có nghĩa là đã được giải thích chi tiết. Đời sống: đây là một từ nói chung, bao hàm các sự phân chia bên trong. Để tổng hợp và trình bày các sự phân chia đó theo cách giải thích rõ ràng, ngài nói “dòng tương tục đã từng sống ở nơi này, nơi kia”. Sau khi đã đi theo và đi theo: tức là sau khi đã đi theo và đi theo bằng sự di chuyển của trí tuệ. Anudevā: tức là anu eva (ngay sau đó), chữ ‘da’ xuất hiện do sự nối âm. Do đã nói “abhininnāmesi” (đã hướng đến) rồi lại nói “anussarāmi” (tôi nhớ lại), nên từ ‘anu’ cho thấy sự nhớ lại xảy ra ngay sau khi hướng tâm. Do đó, ngài nói “cho thấy rằng, ngay khi tâm đã được hướng đến, tôi liền nhớ lại”. Công việc chuẩn bị cần phải được nói đến: tức là, lẽ ra cần phải nói đến công việc chuẩn bị, vốn là việc làm trước cho trí tuệ túc mạng, như sau: “Vị Tỳ-khưu sơ cơ muốn nhớ lại các đời sống quá khứ, sau khi đi khất thực về, vào lúc xế trưa, đến một nơi thanh vắng, độc cư, tuần tự nhập bốn thiền, rồi xuất khỏi tứ thiền, vốn là nền tảng cho các thắng trí, và tác ý đến lần ngồi cuối cùng nhất”.

Āraddhappakāradassanattheti anussarituṃ āraddhassa pubbenivāsassa pabhedadassanatthe. Ekampi jātinti ekampi bhavaṃ. So hi ekakammanibbatto ādānanikkhepaparicchinno antogadhadhammappabhedo khandhappabandho idha ‘‘jātī’’ti adhippeto jāyatīti jātīti katvā. Tenāha ‘‘ekampi…pe… khandhasantāna’’nti. Parihāyamānoti khīyamāno vinassamāno. Kappoti asaṅkhyeyyakappo. So pana atthato kālo, tadā pavattamānasaṅkhāravasenassa parihāni veditabbā. Vaḍḍhamāno vivaṭṭakappoti etthāpi eseva nayo. Yo pana ‘‘kālaṃ khepeti, kālo ghasati bhūtāni, sabbāneva sahattanā’’ti (jā. 1.2.190) ādīsu kālassapi khayo vuccati, so idha nādhippeto aniṭṭhappasaṅgato. Saṃvaṭṭanaṃ vinassanaṃ saṃvaṭṭo, saṃvaṭṭato uddhaṃ tathāṭhāyī saṃvaṭṭaṭṭhāyīTammūlakattāti taṃpubbakattā. Vivaṭṭanaṃ nibbattanaṃ, vaḍḍhanaṃ vā vivaṭṭo.
Để cho thấy các loại đã bắt đầu: tức là để cho thấy các sự phân chia của đời sống quá khứ đã bắt đầu được nhớ lại. Dù chỉ một đời: tức là dù chỉ một kiếp sống. Nó, do một nghiệp tạo ra, được giới hạn bởi sự bắt đầu và kết thúc, là một chuỗi các uẩn với các sự phân chia pháp bên trong, ở đây được hiểu là “đời”, vì nó được sinh ra, nên gọi là đời. Do đó, ngài nói “dù chỉ một… cho đến… dòng tương tục của các uẩn”. Đang hoại diệt: tức là đang suy tàn, đang tiêu vong. Kiếp: tức là một a-tăng-kỳ kiếp. Nó, về mặt ý nghĩa, là thời gian; sự hoại diệt của nó cần được hiểu là qua các hành đang vận hành lúc đó. Kiếp đang tăng trưởng, tức là kiếp thành: ở đây cũng theo cách này. Còn điều được nói trong các kinh như “thời gian làm hao mòn, thời gian nuốt chửng các chúng sanh, tất cả cùng với chính nó” (jā. 1.2.190), tức là sự hao mòn của chính thời gian, thì không được hiểu ở đây, vì sẽ dẫn đến hệ quả không mong muốn. Sự hoại diệt là kiếp hoại; cái đứng yên như vậy sau khi đã hoại là kiếp hoại trụ. Do đó là gốc rễ: tức là do có cái đó làm tiền đề. Sự hình thành, hoặc sự tăng trưởng, là kiếp thành.

Tejena saṃvaṭṭo tejosaṃvaṭṭoSaṃvaṭṭasīmāti saṃvaṭṭanamariyādā. Saṃvaṭṭatīti vinassati. Sadāti sabbakālaṃ, tīsupi saṃvaṭṭakālesūti attho. Ekaṃ buddhakkhettanti idha yaṃ sandhāya vuttaṃ, taṃ niyametvā dassetuṃ ‘‘buddhakkhettaṃ nāma tividha’’ntiādi vuttaṃ. Yattake ṭhāne tathāgatassa paṭisandhiñāṇādiñāṇānubhāvo puññaphalasamuttejito saraseneva parijambhati, taṃ sabbampi buddhaṅkurassa nibbattanakkhettaṃ nāmāti āha ‘‘jātikkhettaṃ dasasahassacakkavāḷapariyanta’’nti. Ānubhāvo pavattatīti idha iddhimā cetovasippatto āṇākkhettapariyāpanne yattha katthaci cakkavāḷe ṭhatvā attano atthāya parittaṃ katvā tattheva aññaṃ cakkavāḷaṃ gatopi kataparitto eva hotīti katvā vuttaṃ. Atha vā tattha ekasmiṃ cakkavāḷe ṭhatvā sabbasattānaṃ atthāya paritte kate āṇākkhette sabbasattānaṃ abhisambhuṇātveva parittānubhāvo tattha devatāhi parittānaṃ sampaṭicchitabbatoti vuttaṃ ‘‘ānubhāvo pavattatī’’ti. Yaṃ yāvatā vā pana ākaṅkheyyāti vuttanti yaṃ visayakkhettaṃ sandhāya ekasmiṃyeva khaṇe sarena abhiviññāpanaṃ attano rūpadassanañca paṭijānantena bhagavatā ‘‘yāvatā vā pana ākaṅkheyyā’’ti vuttaṃ. Yatthāti yasmiṃ padese anantāparimāṇe visayakkhette. Yaṃ yaṃ ākaṅkhati, taṃ taṃ anussaratīti ākaṅkhamattapaṭibaddhavuttitāya buddhañāṇassa yaṃ yaṃ anussarituṃ icchati, taṃ taṃ anussarati. Ekaṃ āṇākkhettaṃ vinassatīti iminā tiriyato saṃvaṭṭamānaparicchedo vutto. Saṇṭhahantanti vivaṭṭamānaṃ jāyamānaṃ. Tassa vināso ca saṇṭhahanañca visuddhimagge vuttanti amhehipi heṭṭhā ‘‘lokavidū’’ti imassa atthasaṃvaṇṇanādhikāre pasaṅgato vuttattā idha na vuccati.
Sự hoại diệt do lửa là kiếp hoại do lửa. Giới hạn của sự hoại diệt: tức là ranh giới của sự hoại diệt. Nó hoại diệt: tức là nó tiêu vong. Luôn luôn: tức là mọi lúc, có nghĩa là trong cả ba thời kỳ hoại diệt. Một Phật giới: ở đây, để xác định điều đã được nói đến, ngài nói “Phật giới có ba loại” v.v… Bất cứ nơi nào mà năng lực trí tuệ của Như Lai, như trí tuệ về sự tái sanh v.v…, được sức mạnh của quả phước làm cho tỏa sáng, tự nhiên lan tỏa, thì tất cả nơi đó được gọi là nơi hình thành của mầm mống Phật. Do đó, ngài nói “sinh giới có giới hạn là mười nghìn thế giới”. Năng lực vận hành: ở đây, được nói với ý nghĩa rằng, một vị có thần thông, đã thuần thục về tâm, đứng ở bất cứ thế giới nào trong phạm vi quyền lực, sau khi đã làm một bài kinh hộ trì cho chính mình, rồi đi đến một thế giới khác, vị ấy vẫn được bảo vệ. Hoặc, khi vị ấy đứng trong một thế giới và làm một bài kinh hộ trì cho lợi ích của tất cả chúng sanh, năng lực hộ trì đó sẽ ảnh hưởng đến tất cả chúng sanh trong phạm vi quyền lực, do các vị trời ở đó phải tiếp nhận sự hộ trì đó. Do đó, mới nói “năng lực vận hành”. Điều đã được nói rằng, ngài có thể mong muốn đến đâu: tức là, nhắm đến phạm vi đối tượng mà Đức Thế Tôn, khi tuyên bố về khả năng làm cho nghe thấy tiếng và thấy hình của mình trong cùng một khoảnh khắc, đã nói “ngài có thể mong muốn đến đâu”. Ở đâu: tức là ở nơi nào, trong phạm vi đối tượng vô lượng vô biên. Ngài muốn gì, ngài nhớ lại cái đó: do sự vận hành của Phật trí chỉ phụ thuộc vào ý muốn, nên ngài muốn nhớ lại điều gì, ngài liền nhớ lại điều đó. Một quyền lực giới bị hủy diệt: qua đó, sự giới hạn theo chiều ngang của sự hoại diệt đã được nói đến. Đang hình thành: tức là đang thành, đang sinh ra. Sự hủy diệt và hình thành của nó đã được nói trong sách Thanh Tịnh Đạo: do chúng tôi cũng đã nói đến nhân tiện trong phần chú giải ý nghĩa của từ “Thế Gian Giải” ở dưới, nên ở đây không nói lại.

Evaṃ pasaṅgena saṃvaṭṭādike pakāsetvā idāni yathādhigataṃ tesaṃ anussaraṇākāraṃ dassetuṃ ‘‘ye panete saṃvaṭṭavivaṭṭā vuttā’’tiādimāha. Tattha etesūti niddhāraṇe bhummaṃ saṃvaṭṭavivaṭṭakappasamudāyato anekesaṃ saṃvaṭṭakappādīnaṃ niddhāriyamānattā. Amumhi saṃvaṭṭakappeti ettha -saddo luttaniddiṭṭho daṭṭhabbo. Tena ca aniyamatthena itarāsaṃ asaṅkhyeyyānampi saṅgaho siddhoti. Atha vā amumhi saṃvaṭṭakappeti idaṃ saṃvaṭṭakappassa ādito pāḷiyaṃ gahitattā vuttaṃ. Tatthāpi hi imassa katipayakālaṃ bhavādīsu saṃsaraṇaṃ upalabbhatīti. Saṃvaṭṭakappe vā vattamāne yesu bhavādīsu imassa upapatti ahosi, taṃdassanametaṃ daṭṭhabbaṃ. Bhave vātiādīsu kāmādibhave vā aṇḍajādiyoniyā vā devādigatiyā vā nānattakāyanānattasaññīādiviññāṇaṭṭhitiyā vā sattāvāse vā khattiyādisattanikāye vā. Yasmā idaṃ bhagavato vasena pubbenivāsānussatiñāṇaṃ āgataṃ, tasmā tasseva nāmādivasena atthaṃ yojetvā dassento āha ‘‘evaṃnāmoti vessantaro vā jotipālo vā’’tiādi. Sālimaṃsodanāhāro vāti gihikālaṃ sandhāya vuttaṃ. Pavattaphalabhojano vāti tāpasādikālaṃ sandhāya. Pavattaphalabhojanoti sayampatitaphalāhāro. Sāmisanirāmisādippabhedānanti ettha sāmisā gehassitasomanassādayo, nirāmisā nekkhammassitasomanassādayo. Ādi-saddena vivekajasamādhijasukhādīnaṃ saṅgaho.
Như vậy, sau khi đã trình bày về sự hoại diệt v.v… nhân tiện, bây giờ để cho thấy cách thức nhớ lại chúng theo như đã chứng đắc, ngài nói “nhưng những kiếp hoại và kiếp thành đã được nói đó” v.v… Ở đó, trong số chúng: từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa chỉ sự xác định, do nhiều kiếp hoại v.v… được xác định từ trong tập hợp các kiếp hoại và kiếp thành. Trong câu trong kiếp hoại kia, cần phải hiểu rằng từ hoặc đã bị lược bỏ. Và do ý nghĩa không xác định của nó, sự bao gồm cả các a-tăng-kỳ kiếp khác cũng được thành tựu. Hoặc, câu trong kiếp hoại kia được nói do kiếp hoại được đề cập đến trước trong kinh Pāḷi. Bởi vì, ở đó cũng có sự luân hồi của vị này trong các cõi tồn tại v.v… trong một khoảng thời gian nào đó. Hoặc, cần phải hiểu rằng, đây là sự cho thấy sự tái sanh của vị này trong các cõi tồn tại v.v… khi kiếp hoại đang diễn ra. Trong các câu hoặc trong cõi tồn tại v.v…, có nghĩa là, hoặc trong các cõi tồn tại như cõi dục v.v…, hoặc trong các loài sanh như noãn sanh v.v…, hoặc trong các cảnh giới như cõi trời v.v…, hoặc trong các trú xứ của thức như các loài có thân khác nhau, tưởng khác nhau v.v…, hoặc trong các nơi ở của chúng sanh, hoặc trong các loài chúng sanh như Sát-đế-lỵ v.v… Bởi vì trí tuệ túc mạng tùy niệm này được nói đến theo phương diện của Đức Thế Tôn, do đó, để giải thích và trình bày ý nghĩa theo tên v.v… của chính ngài, mới nói “có tên như vầy, là Vessantara hoặc Jotipāla” v.v… Ăn cơm với thịt nai: được nói nhắm đến thời kỳ tại gia. Hoặc ăn các loại quả cây: nhắm đến thời kỳ làm đạo sĩ v.v… Ăn các loại quả cây: tức là ăn các loại quả tự rụng. Các loại khác nhau như có vật chất, không có vật chất v.v…: ở đây, có vật chất là hỷ v.v… liên quan đến đời sống tại gia; không có vật chất là hỷ v.v… liên quan đến đời sống xuất gia. Qua từ “vân vân” (v.v…), các loại lạc như lạc do ly sanh, lạc do định v.v… được bao gồm.

Heṭṭhā sāmaññato vuttamevatthaṃ vibhajitvā dassetukāmo ‘‘atha vā’’tiādimāha. Tattha amutrāsinti sāmaññaniddesoyaṃ, byāpanicchālopo vā, amutra amutra āsinti vuttaṃ hoti. Anupubbena ārohantassa yāvadicchakaṃ anussaraṇanti ettha ārohantassāti paṭilomato ñāṇena pubbenivāsaṃ ārohantassa. Paṭinivattantassāti pubbenivāsaṃ anussaraṇavasena yāvadicchakaṃ gantvā paccāgacchantassa. Paccavekkhaṇanti anussaritānussaritassa paccavekkhaṇaṃ. Tasmāti vuttassevatthassa kāraṇabhāvena paccāmasanaṃ, paṭinivattantassa paccavekkhaṇabhāvatoti vuttaṃ hoti. Idhūpapattiyāti idha carimabhave upapattiyā. Anantaranti atītānantaramāha. Amutrāti amukasmiṃ bhaveti attho. Udapādinti uppajjiṃ. Tāhi devatāhīti tusitadevatāhi. Ekagottoti tusitagottena ekagotto. Mahābodhisattānaṃ santānassa pariyosānāvatthāyaṃ devalokūpapattijanakaṃ nāma akusalena kammunā anupaddutameva hotīti adhippāyena ‘‘dukkhaṃ pana saṅkhāradukkhamattamevā’’ti vuttaṃ. Mahāpuññānampi pana devaputtānaṃ pubbanimittuppattikālādīsu aniṭṭhārammaṇasamāyogo hotiyevāti ‘‘kadāci dukkhadukkhassapi sambhavo natthī’’ti na sakkā vattuṃ, dhammānaṃ uppādanirodhasaṅkhāradukkhanti veditabbaṃ. Sattapaññāsa…pe… pariyantoti idaṃ manussavassagaṇanāvasena vuttaṃ. Tattha devānaṃ vassagaṇanāya pana catusahassameva.
Để cho thấy ý nghĩa đã được nói một cách tổng quát ở dưới bằng cách phân chia, ngài nói “Hoặc là…” v.v… Ở đó, câu “tôi đã ở nơi kia” là một cách trình bày chung, hoặc đã có sự lược bỏ để cho súc tích; có nghĩa là, tôi đã ở nơi này, nơi kia. Trong câu sự nhớ lại theo ý muốn của người đang đi lên tuần tự, của người đang đi lên ở đây có nghĩa là của người đang đi lên các đời sống quá khứ bằng trí tuệ theo thứ tự ngược dòng. Của người đang quay trở lại: tức là của người, sau khi đã đi đến bất cứ đâu theo ý muốn bằng cách nhớ lại các đời sống quá khứ, đang quay trở về. Sự xem xét lại: tức là sự xem xét lại những gì đã được nhớ đi nhớ lại. Do đó: là sự suy xét về nguyên nhân của điều đã được nói; có nghĩa là, do có sự xem xét lại của người đang quay trở lại. Đến sự tái sanh ở đây: tức là đến sự tái sanh ở kiếp sống cuối cùng này. Kế tiếp: ngài nói về kiếp sống ngay trước đó. Ở nơi kia: có nghĩa là, ở trong kiếp sống đó. Tôi đã sinh ra. Bởi các vị trời đó: tức là bởi các vị trời ở cõi trời Đâu-suất. Cùng một họ: tức là cùng một họ Đâu-suất. Với chủ ý rằng, trong giai đoạn cuối cùng của dòng tương tục của các vị Đại Bồ-tát, nghiệp tạo ra sự tái sanh vào cõi trời hoàn toàn không bị ô nhiễm bởi nghiệp bất thiện, nên ngài nói “nhưng sự khổ chỉ là khổ do các hành mà thôi”. Tuy nhiên, ngay cả đối với các vị thiên tử có phước báu lớn, sự tiếp xúc với các đối tượng không mong muốn vẫn xảy ra vào lúc các điềm báo trước khi chết xuất hiện v.v…, do đó không thể nói rằng “hoàn toàn không có sự khổ khổ”; cần phải hiểu đó là sự khổ do sự sinh diệt của các pháp hữu vi. Câu năm mươi bảy… cho đến… giới hạn được nói theo cách tính năm của loài người. Còn theo cách tính năm của các vị trời ở đó, thì chỉ có bốn nghìn năm.

Itīti vuttatthanidassanametaṃ, tañca kho yathārahato, na yathānupubbatoti dassento ‘‘nāmagottavasenā’’tiādimāha. Uddisīyatīti disvāva aviññeyyattā ‘‘ayaṃ ko nāmo’’ti pucchite ‘‘tisso gotamo’’ti nāmagottena uddisīyati. Vaṇṇādīhīti vaṇṇāhāravedayitāyuparicchedehi. Sāmotīti ettha iti-saddo ādiattho, pakārattho vā. Tena evamādievaṃpakāranānattatoti dassitaṃ hoti. Nāmagottaṃ uddesoti uddisīyati satto etenāti uddeso nāmagottaṃ. Itare ākārāti ākarīyati disvāva satto viññāyati etehīti itare vaṇṇādayo ākārā. ‘‘No ca kho avisesenā’’ti saṅkhepato vuttamevatthaṃ vitthārena dassento āha ‘‘titthiyā hī’’tiādi. Tattha titthiyāti aññatitthiyā. Te pana kammavādino kiriyavādino tāpasādayo. Yasmā titthiyānaṃ brahmajālādīsu cattālīsāya eva saṃvaṭṭavivaṭṭānaṃ anussaraṇaṃ āgataṃ, tasmā ‘‘na tato para’’nti vatvā tattha kāraṇaṃ vadanto ‘‘dubbalapaññattā’’tiādimāha. Tena vipassanābhiyogo pubbenivāsānussatiñāṇassa visesakāraṇanti dasseti. Tatoyeva ca balavapaññattā ṭhapetvā aggasāvakamahāsāvake itare pakatisāvakā kappasatampi kappasahassampi anussarantiyevāti daṭṭhabbaṃ. Teneva vuttaṃ visuddhimagge (visuddhi. 2.402) ‘‘pakatisāvakā kappasatampi kappasahassampi anussarantiyeva balavapaññattā’’ti. Ettako hi tesaṃ abhinīhāroti kappānaṃ satasahassampi tadadhikaṃ ekaṃ dve ca asaṅkhyeyyānīti kālavasena evaṃparimāṇo yathākkamaṃ tesaṃ mahāsāvakaaggasāvakapaccekabuddhānaṃ puññañāṇābhinīhāro, sāvakapaccekabodhipāramitā siddhā. Yadi bodhisambhārasambharaṇakālaparicchinno tesaṃ tesaṃ ariyānaṃ abhiññāñāṇavibhavo, evaṃ sante buddhānampissa paricchedatā āpannāti āha ‘‘buddhānaṃ pana paricchedo natthī’’ti. ‘‘Yāvatakaṃ ñeyyaṃ, tāvatakaṃ ñāṇa’’nti (paṭi. ma. 3.5) vacanato sabbaññutaññāṇassa viya buddhānaṃ abhiññāñāṇānampi savisaye paricchedo nāma natthīti tattha yaṃ yaṃ ñātuṃ icchanti, taṃ taṃ jānanti eva. Atha vā satipi kālaparicchede kāraṇūpāyakosallapariggahādinā sātisayattā mahābodhisambhārānaṃ paññāpāramitāya pavattiānubhāvassa paricchedo nāma natthi, kuto taṃnibbattānaṃ abhiññāñāṇānanti āha ‘‘buddhānaṃ pana paricchedo natthī’’ti. Atīte ‘‘ettakānaṃ kappānaṃ asaṅkhyeyyānī’’ti evaṃ kālaparicchedo natthi anāgate anāgataṃsañāṇassa viya. Tenāha ‘‘yāva icchanti tāva sarantī’’ti.
Từ Như vậy là để chỉ điều đã được nói; và để cho thấy rằng điều đó là tùy theo trường hợp, chứ không phải theo thứ tự tuần tự, ngài nói “theo tên và họ” v.v… Được chỉ định: do không thể biết được ngay khi thấy, nên khi được hỏi “vị này tên là gì?”, vị ấy được chỉ định bằng tên và họ là “Tissa, Gotama”. Bởi màu da v.v…: tức là bởi các sự phân định về màu da, thức ăn, và cảm thọ. Trong câu màu da ngăm đen, từ iti có nghĩa là v.v…, hoặc là chỉ loại. Qua đó, cho thấy rằng có nhiều sự khác biệt như vậy và thuộc loại như vậy. Tên và họ là sự chỉ định: chúng sanh được chỉ định bằng cái đó, nên sự chỉ định là tên và họ. Các hình thức khác: chúng sanh được nhận biết ngay khi thấy qua những cái đó, nên các yếu tố khác như màu da v.v… là các hình thức. Để giải thích chi tiết ý nghĩa đã được nói tóm tắt trong câu “nhưng không phải là không có sự khác biệt”, ngài nói “quả vậy, các vị ngoại đạo…” v.v… Ở đó, các vị ngoại đạo là các vị thuộc các giáo phái khác. Họ là những người chấp nhận nghiệp, chấp nhận hành động, là các đạo sĩ khổ hạnh v.v… Bởi vì, trong các kinh như kinh Phạm Võng, sự nhớ lại của các vị ngoại đạo chỉ được nói là đến bốn mươi kiếp thành và hoại, do đó, sau khi nói “không vượt qua đó”, và nêu lên lý do, ngài nói “do có trí tuệ yếu kém” v.v… Qua đó, ngài cho thấy rằng sự nỗ lực tuệ quán là nguyên nhân đặc biệt cho trí tuệ túc mạng tùy niệm. Cũng chính vì thế, cần phải hiểu rằng, do có trí tuệ mạnh mẽ, ngoại trừ các vị thượng thủ thinh văn và đại thinh văn, các vị thinh văn thông thường cũng có thể nhớ lại một trăm kiếp, một nghìn kiếp. Do đó, đã được nói trong sách Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 2.402) rằng: “các vị thinh văn thông thường có thể nhớ lại một trăm kiếp, một nghìn kiếp, do có trí tuệ mạnh mẽ”. Sự phát nguyện của họ là chừng ấy: tức là sự phát nguyện về phước và trí của các vị đại thinh văn, thượng thủ thinh văn, và Độc Giác Phật theo thứ tự có giới hạn về thời gian là một trăm nghìn kiếp và thêm một hoặc hai a-tăng-kỳ kiếp; các ba-la-mật về thinh văn giác và độc giác giác đã được thành tựu. Nếu năng lực của trí tuệ thắng trí của các bậc Thánh đó bị giới hạn bởi thời gian tích lũy tư lương bồ-đề, thì như vậy, ngay cả của các vị Phật cũng sẽ có sự giới hạn sao? Mới nói: “nhưng đối với các vị Phật thì không có sự giới hạn”. Theo câu “đối tượng cần biết có bao nhiêu, trí tuệ có bấy nhiêu” (paṭi. ma. 3.5), cũng như Nhất thiết trí, các trí tuệ thắng trí của các vị Phật cũng không có sự giới hạn trong lĩnh vực của chúng; ở đó, các ngài muốn biết điều gì, các ngài liền biết điều đó. Hoặc, mặc dù có sự giới hạn về thời gian, nhưng do sự vượt trội trong việc khéo léo về nguyên nhân, phương tiện, và sự nắm bắt v.v…, năng lực vận hành của ba-la-mật trí tuệ của các tư lương đại bồ-đề không có sự giới hạn, huống chi là các trí tuệ thắng trí do nó tạo ra. Do đó, ngài nói “nhưng đối với các vị Phật thì không có sự giới hạn”. Trong quá khứ, không có sự giới hạn về thời gian theo kiểu “chừng này a-tăng-kỳ kiếp”, giống như trí tuệ về vị lai đối với tương lai. Do đó, ngài nói “các ngài muốn đến đâu, các ngài nhớ đến đó”.

Evaṃ pañcannaṃ janānaṃ pubbenivāsānussaraṇaṃ kālavibhāgato dassetvā idāni ārammaṇaggahaṇavasenassa pavattivisesaṃ dassento ‘‘titthiyā cā’’tiādimāha. Khandhapaṭipāṭimeva sarantīti ettha khandhapaṭipāṭi khandhānaṃ anukkamo, sā ca kho cutito paṭṭhāya uppaṭipāṭivasena. Keci panettha ‘‘iriyāpathapaṭipāṭi khandhapaṭipāṭī’’ti vadanti. Vuttamevatthaṃ byatirekato vibhāvento āha ‘‘paṭipāṭiṃ muñcitvā’’tiādi. Tattha cutipaṭisandhivasenāti attano parassa vā tasmiṃ tasmiṃ attabhāve cutiṃ disvā antarā kiñci anāmasitvā paṭisandhiyā eva gahaṇavasena. Yathā pana andhā yaṭṭhiṃ amuñcitvā gacchanti, evaṃ te khandhapaṭipāṭiṃ amuñcitvāva sarantīti āha ‘‘tesañhi andhānaṃ viya icchitappadesokkamanaṃ natthī’’ti. Sāvakāti pakatisāvakāpi mahāsāvakāpi aggasāvakāpi sāmaññato vuttā. Pakatisāvakāpi hi khandhapaṭipāṭiyāpi anussaranti , cutipaṭisandhivasenapi saṅkamanti balavapaññattā, tathā asītimahāsāvakā. Dvinnaṃ pana aggasāvakānaṃ khandhapaṭipāṭikiccaṃ natthi. Ekassa attabhāvassa cutiṃ disvā paṭisandhiṃ passanti, puna aparassa cutiṃ disvā paṭisandhinti evaṃ cutipaṭisandhivasenapi saṅkamantā gacchanti. Yathā nāma saradasamaye ṭhitamajjhanhikavelāyaṃ caturatanike gehe cakkhumato purisassa rūpagataṃ supākaṭameva hotīti lokasiddhametaṃ. Siyā pana tassa sukhumataratirokuṭṭādibhedassa rūpagatassa agocaratā, na tveva buddhānaṃ ñātuṃ icchitassa ñeyyassa agocaratā, atha kho taṃ ñāṇālokena obhāsitaṃ hatthatale āmalakaṃ viya supākaṭaṃ suvibhūtameva hoti, tathā ñeyyāvaraṇassa suppahīnattāti āha ‘‘buddhā panā’’tiādi.
Như vậy, sau khi đã trình bày sự nhớ lại các đời sống quá khứ của năm hạng người theo sự phân chia về thời gian, bây giờ để cho thấy sự vận hành đặc biệt của nó theo cách nắm bắt đối tượng, ngài nói “và các vị ngoại đạo…” v.v… Trong câu chỉ nhớ lại thứ tự của các uẩn, thứ tự của các uẩn là trình tự của các uẩn, và đó là theo thứ tự ngược dòng, bắt đầu từ cái chết. Một số người ở đây nói rằng: “thứ tự của các oai nghi là thứ tự của các uẩn”. Để làm rõ ý nghĩa đã nói bằng cách phủ định, ngài nói “sau khi đã từ bỏ thứ tự” v.v… Ở đó, theo cái chết và sự tái sanh: tức là, sau khi đã thấy cái chết của mình hoặc của người khác trong một kiếp sống nào đó, không cần xem xét bất cứ điều gì ở giữa, mà nắm bắt ngay sự tái sanh. Giống như người mù đi mà không rời cây gậy, cũng vậy, họ nhớ lại mà không rời khỏi thứ tự của các uẩn. Do đó, ngài nói “quả vậy, đối với họ, không có sự đi đến nơi mong muốn giống như người mù”. Các vị Thinh văn: được nói chung cho cả các vị thinh văn thông thường, các vị đại thinh văn, và các vị thượng thủ thinh văn. Quả vậy, các vị thinh văn thông thường cũng nhớ lại theo thứ tự của các uẩn, và cũng di chuyển theo cái chết và sự tái sanh do có trí tuệ mạnh mẽ; các vị tám mươi đại thinh văn cũng vậy. Còn đối với hai vị thượng thủ thinh văn, không cần phải theo thứ tự của các uẩn. Các ngài thấy cái chết của một kiếp sống rồi thấy sự tái sanh, lại thấy cái chết của một kiếp sống khác rồi thấy sự tái sanh; cứ như vậy, các ngài đi bằng cách di chuyển theo cái chết và sự tái sanh. Giống như đối với một người có mắt, trong một ngôi nhà có bốn loại châu báu, vào lúc giữa trưa của mùa thu, hình sắc hiện ra rất rõ ràng; điều này là điều mà thế gian thừa nhận. Có thể đối với người đó, hình sắc vi tế hơn, bị che khuất v.v… không phải là đối tượng; nhưng đối với các vị Phật, không có một đối tượng nào cần biết mà lại không phải là đối tượng. Trái lại, nó được ánh sáng của trí tuệ soi chiếu, trở nên rất rõ ràng, rất hiển hiện, giống như quả amla trong lòng bàn tay, do chướng ngại đối với đối tượng cần biết đã được từ bỏ hoàn toàn. Do đó, ngài nói “còn các vị Phật…” v.v…

Tattha sīhokkantavasenāti sīhagatipatanavasena. Yaṃ yaṃ ṭhānaṃ ākaṅkhantīti yasmiṃ kappe yasmiṃ bhave yaṃ yaṃ ṭhānaṃ jānituṃ icchanti. Taṃ sabbaṃ sarantiyevāti ñātuṃ icchitaṃ taṃ sabbaṃ sarantiyeva, na na saranti. Buddhānañhi neva khandhapaṭipāṭikiccaṃ, na ca cutipaṭisandhivasena saṅkamanakiccaṃ atthi. Tesañhi anekāsu kappakoṭīsu heṭṭhā vā upari vā yaṃ yaṃ ṭhānaṃ icchanti, taṃ taṃ pākaṭameva hoti. Tasmā yathā peyyālapāḷiṃ paṭhantā ‘‘paṭhamaṃ jhānaṃ…pe… pañcamaṃ jhāna’’ntiādipariyosānameva gaṇhantā saṅkhipitvā sajjhāyanti, na anupadaṃ, evaṃ anekāpi kappakoṭiyo peyyālapāḷiṃ viya saṅkhipitvā yaṃ yaṃ icchanti, tattha tattheva ñāṇena okkamantā sīhokkantavasena gacchanti. Evaṃ gacchantānañca tesaṃ ñāṇaṃ yathā nāma katavālavedhiparicayassa sarabhaṅgasadisassa dhanuggahassa khitto saro antarantarā rukkhalatādīsu asajjamāno lakkheyeva patati na sajjati na virajjhati, evaṃ antarantarāsu jātīsu na sajjati na virajjhati, asajjamānaṃ avirajjhamānaṃ icchiticchitaṭṭhānaṃyeva gaṇhāti.
Ở đó, theo bước nhảy của sư tử: tức là theo cách đi và nhảy của sư tử. Các ngài muốn đến nơi nào: tức là trong kiếp nào, trong cõi tồn tại nào, các ngài muốn biết nơi nào. Các ngài liền nhớ lại tất cả những điều đó: tức là, các ngài muốn biết điều gì, các ngài liền nhớ lại tất cả những điều đó, chứ không phải là không nhớ. Quả vậy, đối với các vị Phật, không cần phải theo thứ tự của các uẩn, cũng không cần phải di chuyển theo cái chết và sự tái sanh. Đối với các ngài, bất cứ nơi nào các ngài muốn, dù ở dưới hay ở trên, qua vô số kiếp, nơi đó liền hiện ra rõ ràng. Do đó, giống như những người đọc bài kinh giản lược, sau khi đọc “sơ thiền… cho đến… ngũ thiền”, họ nắm bắt ngay phần kết thúc và đọc tụng một cách tóm tắt, chứ không theo từng từ. Cũng vậy, các ngài tóm tắt vô số kiếp giống như một bài kinh giản lược, và muốn đến đâu, các ngài liền đến đó bằng trí tuệ, đi theo bước nhảy của sư tử. Và khi các ngài đi như vậy, trí tuệ của các ngài, giống như mũi tên được bắn ra bởi một cung thủ có tài bắn tên bằng lá cây, đã quen với việc bắn trúng mục tiêu, không bị vướng vào cây cối, dây leo ở giữa chừng, mà chỉ trúng vào mục tiêu, không vướng, không lệch. Cũng vậy, nó không bị vướng, không bị lệch trong các kiếp sống ở giữa, mà chỉ nắm bắt đúng nơi mong muốn.

Atītabhave khandhā tappaṭibaddhanāmagottāni ca sabbaṃ pubbenivāsantveva saṅgahitānīti āha ‘‘kiṃ viditaṃ karoti? Pubbenivāsa’’nti. Moho paṭicchādakaṭṭhena tamo viya tamoti āha ‘‘sveva moho’’tiādi. Obhāsakaraṇaṭṭhenāti kātabbato karaṇaṃ, obhāsova karaṇaṃ obhāsakaraṇaṃ, attano paccayehi obhāsabhāvena nibbattetabbaṭṭhenāti attho. Sesaṃ pasaṃsāvacananti paṭipakkhavidhamanapavattivisesānaṃ bodhanato vuttaṃ. Avijjā vihatāti etena vijānanaṭṭhena vijjāti ayampi attho dīpitoti daṭṭhabbaṃ. Kasmā? Yasmā vijjā uppannāti etena vijjāpaṭipakkhā avijjā, paṭipakkhatā cassā pahātabbabhāvena vijjāya ca pahāyakabhāvenāti dasseti. Esa nayo itarasmimpi padadvayeti iminā tamo vihato vinaṭṭho. Kasmā? Yasmā āloko uppannoti imamatthaṃ atidisati. Kilesānaṃ ātāpanaparitāpanaṭṭhena vīriyaṃ ātāpoti āha ‘‘vīriyātāpena ātāpino’’ti, vīriyavatoti attho. Pesitacittassāti yathādhippetatthasiddhiṃ pativissaṭṭhacittassa. Yathā appamattassa ātāpino pahitattassa viharatoti aññassapi kassaci mādisassāti adhippāyo. Padhānānuyogassāti sammappadhānamanuyuttassa. Sesamettha uttānattā vuttanayattā ca suviññeyyameva.
Do các uẩn trong kiếp quá khứ và các tên họ gắn liền với chúng đều được bao gồm trong đời sống quá khứ, nên ngài nói “biết được điều gì? Đời sống quá khứ”. Do có tính chất che đậy, nên si mê giống như bóng tối, được gọi là bóng tối. Do đó, ngài nói “chính si mê đó…” v.v… Với ý nghĩa làm cho sáng tỏ: tức là việc làm từ cái cần phải làm, ánh sáng chính là việc làm, sự làm cho sáng tỏ; có nghĩa là, với ý nghĩa cần phải được tạo ra với bản chất là ánh sáng bởi các duyên của nó. Phần còn lại là lời tán thán: được nói để làm rõ các chi tiết về sự vận hành trong việc phá tan các pháp đối nghịch. Vô minh đã bị phá tan: qua đó, cần phải hiểu rằng ý nghĩa này cũng được làm rõ: minh, do có tính chất biết, nên được gọi là minh. Tại sao? Bởi vì minh đã phát sinh: qua đó, cho thấy rằng vô minh là pháp đối nghịch của minh; và sự đối nghịch của nó là do nó là pháp cần phải được từ bỏ và minh là pháp có khả năng từ bỏ. Cách giải thích này cũng áp dụng cho hai vế câu còn lại: qua đó, ngài áp dụng cho ý nghĩa rằng, bóng tối đã bị phá tan, đã bị tiêu diệt. Tại sao? Bởi vì ánh sáng đã phát sinh. Do có tính chất làm cho các phiền não bị thiêu đốt, nóng bức, nên tinh tấn được gọi là sự nhiệt tâm. Do đó, ngài nói “do có sự nhiệt tâm của tinh tấn”, có nghĩa là người có tinh tấn. Của người có tâm đã được hướng đến: tức là của người có tâm đã được phó thác cho việc thành tựu mục đích đã định. Giống như một người không dể duôi, nhiệt tâm, quyết tâm đang an trú: chủ ý là, cũng giống như bất kỳ ai khác giống như ta. Của người đang nỗ lực: tức là của người đang thực hành các chánh cần. Phần còn lại ở đây, do rõ ràng và do đã được giải thích theo cách đã nói, nên rất dễ hiểu.

Pubbenivāsakathā niṭṭhitā.
Luận về Túc Mạng Minh kết thúc.

Dibbacakkhuñāṇakathā
Luận về Thiên Nhãn Trí

13.Cutiyāti cavane. Upapāteti upapajjane. Samīpatthe cetaṃ bhummavacanaṃ, cutikkhaṇasāmantā upapattikkhaṇasāmantā cāti vuttaṃ hoti. Tathā hi vakkhati ‘‘ye pana āsannacutikā’’tiādi. Yena ñāṇenāti yena dibbacakkhuñāṇena. Dibbacakkhuñāṇeneva hi sattānaṃ cuti ca upapatti ca ñāyati. Parikammaṃ vattabbaṃ siyāti ‘‘dibbacakkhuñāṇaṃ uppādetukāmena ādikammikena kulaputtena kasiṇārammaṇaṃ abhiññāpādakajjhānaṃ sabbākārena abhinīhārakkhamaṃ katvā tejokasiṇaṃ odātakasiṇaṃ ālokakasiṇanti imesu tīsu kasiṇesu aññataraṃ āsannaṃ kātabbaṃ, upacārajjhānagocaraṃ katvā vaḍḍhetvā ṭhapetabba’’ntiādinā dibbacakkhuñāṇassa parikammaṃ vattabbaṃ bhaveyya.
12. Trong sự chết: tức là trong sự qua đời. Trong sự tái sanh: tức là trong sự sinh lại. Đây là từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa chỉ sự gần gũi; có nghĩa là, gần khoảnh khắc chết và gần khoảnh khắc tái sanh. Quả vậy, ngài sẽ nói ở dưới: “nhưng những người sắp chết” v.v… Bằng trí tuệ nào: tức là bằng trí tuệ thiên nhãn nào. Quả vậy, chính bằng trí tuệ thiên nhãn mà sự chết và sự tái sanh của các chúng sanh được biết đến. Công phu chuẩn bị cần phải được nói đến: tức là, lẽ ra cần phải nói đến công phu chuẩn bị cho trí tuệ thiên nhãn như sau: “Một thiện nam tử sơ cơ muốn phát sinh trí tuệ thiên nhãn, sau khi đã làm cho thiền nền tảng cho các thắng trí có khả năng hướng đến về mọi phương diện, cần phải thực hành một trong ba loại biến xứ này: biến xứ lửa, biến xứ trắng, hoặc biến xứ ánh sáng, làm cho nó trở thành một đối tượng gần gũi, rồi phát triển và thiết lập nó, làm cho nó trở thành đối tượng của thiền cận định”.

So ahanti so katacittābhinīhāro ahaṃ. Dibbasadisattāti divi bhavanti dibbaṃ, devānaṃ pasādacakkhu, tena dibbena cakkhunā sadisattāti attho. Dibbasadisattāti ca hīnūpamādassanaṃ devatānaṃ dibbacakkhutopi imassa mahānubhāvattā. Idāni taṃ dibbasadisattaṃ vibhāvetuṃ ‘‘devatānañhī’’tiādi vuttaṃ. Tattha sucaritakammanibbattanti saddhābahulatāvisuddhadiṭṭhitāānisaṃsadassāvitādisampattiyā suṭṭhu caritattā sucaritena devūpapattijanakena puññakammena nibbattaṃ. Pittasemharuhirādīhīti ādi-saddena vātarogādīnaṃ saṅgaho. Apalibuddhanti anupaddutaṃ. Pittādīhi anupaddutattā kammassa ca uḷāratāya upakkilesavimutti veditabbā. Upakkilesadosarahitañhi kammaṃ tiṇādidosarahitaṃ viya sassaṃ uḷāraphalaṃ anupakkiliṭṭhaṃ hoti. Kāraṇūpacārena cassa phalaṃ tathā voharīyati yathā ‘‘sukkaṃ sukkavipāka’’nti. Dūrepīti pi-saddena sukhumassapi ārammaṇassa sampaṭicchanasamatthataṃ saṅgaṇhāti. Pasādacakkhūti catunnaṃ mahābhūtānaṃ pasādalakkhaṇaṃ cakkhu. Vīriyabhāvanābalanibbattanti vīriyārambhavaseneva ijjhanato sabbāpi kusalabhāvanā vīriyabhāvanā, padhānasaṅkhārasamannāgatā vā iddhipādabhāvanā visesato vīriyabhāvanā, tassā ānubhāvena nibbattaṃ vīriyabhāvanābalanibbattaṃ. Ñāṇamayaṃ cakkhu ñāṇacakkhu. Tādisamevāti upakkilesavimuttatāya dūrepi sukhumassapi ārammaṇassa sampaṭicchanasamatthatāya ca taṃsadisameva.
Ta, vị ấy: tức là Ta, người đã hướng tâm. Do tương tự như thiên nhãn: có ở cõi trời là ‘dibba’, là tịnh sắc nhãn của các vị trời; do tương tự như thiên nhãn đó. Và câu do tương tự như thiên nhãn là một sự so sánh khiêm tốn, vì trí tuệ này có năng lực lớn hơn cả thiên nhãn của các vị trời. Bây giờ, để làm rõ sự tương tự đó, ngài nói “quả vậy, của các vị trời…” v.v… Ở đó, do nghiệp thiện tạo ra: tức là do nghiệp phước, vốn là nhân sinh về cõi trời, được tạo ra bởi hành vi tốt đẹp, do có đầy đủ các yếu tố như có nhiều đức tin, có chánh kiến trong sạch, thấy được lợi ích v.v… Bởi mật, đờm, máu v.v…: qua từ v.v…, các bệnh do gió v.v… được bao gồm. Không bị cản trở: tức là không bị làm hại. Cần phải biết rằng, do không bị mật v.v… làm hại và do nghiệp có năng lực mạnh mẽ, nên nó không có các cấu uế. Quả vậy, nghiệp không có các cấu uế, giống như lúa không có các loại sâu bệnh như cỏ dại v.v…, sẽ cho quả tốt đẹp, không bị ô nhiễm. Và quả của nó được gọi như vậy theo cách dùng từ chỉ nguyên nhân, giống như câu “hành vi trong sạch cho quả báo trong sạch”. Ngay cả ở xa: qua từ pi (ngay cả), ngài bao gồm cả khả năng tiếp nhận đối tượng vi tế. Tịnh sắc nhãn: tức là mắt có đặc tính là sự trong sạch của bốn đại hiển sắc. Do năng lực của sự tu tập tinh tấn tạo ra: do thành tựu nhờ sự khởi sự tinh tấn, nên tất cả sự tu tập thiện đều là sự tu tập tinh tấn; hoặc, sự tu tập như ý túc được hợp thành bởi các hành thuộc về sự nỗ lực, đặc biệt là sự tu tập tinh tấn; do năng lực của sự tu tập đó tạo ra, nên gọi là do năng lực của sự tu tập tinh tấn tạo ra. Mắt bằng trí tuệ là trí tuệ nhãn. Cũng tương tự như vậy: tức là cũng tương tự như vậy do không có các cấu uế và do có khả năng tiếp nhận đối tượng ở xa và vi tế.

Dibbavihāravasena paṭiladdhattāti dibbavihārasaṅkhātānaṃ catunnaṃ jhānānaṃ vasena paṭiladdhattā. Iminā kāraṇavasenassa dibbabhāvamāha. Dibbavihārasannissitattāti aṭṭhaṅgasamannāgamena ukkaṃsagataṃ pādakajjhānasaṅkhātaṃ dibbavihāraṃ sannissāya pavattattā, dibbavihārapariyāpannaṃ vā attanā sampayuttaṃ rūpāvacaracatutthajjhānaṃ nissāya paccayabhūtaṃ sannissitattāti evamettha attho daṭṭhabbo. Ālokapariggahena mahājutikattāpi dibbanti kasiṇālokānuggahena pattabbattā sayaṃ ñāṇālokapharaṇabhāvena ca mahājutikabhāvatopi dibbanti attho. Mahājutikampi hi dibbanti vuccati ‘‘dibbamidaṃ byamha’’ntiādīsu. Mahāgatikattāti mahanīyagamanattā, vimhayanīyappavattikattāti attho. Vimhayanīyā hissa pavatti tirokuṭṭādigatarūpadassanato. Taṃ sabbanti ‘‘heṭṭhā vuttaṃ atthapañcakamapekkhitvā vutta’’nti vadanti. Keci pana ‘‘jutigatiatthesupi saddavidū divusaddaṃ icchantīti mahājutikattā mahāgatikattāti idameva dvayaṃ sandhāya vuttaṃ, tasmā ‘saddasatthānusārena veditabba’nti idaṃ dibbati jotayatīti dibbaṃ, dibbati gacchati asajjamānaṃ pavattatīti dibbanti imamatthaṃ dassetuṃ vutta’’nti vadanti. Ācariyadhammapālatthero pana –
Do được chứng đắc bằng các tầng thiền trú của chư thiên: tức là do được chứng đắc bằng bốn tầng thiền, được gọi là các tầng thiền trú của chư thiên. Qua đó, ngài cho thấy bản chất “thiên” của nó theo phương diện nguyên nhân. Do nương tựa vào các tầng thiền trú của chư thiên: tức là do vận hành nương vào các tầng thiền trú của chư thiên, được gọi là thiền nền tảng đã đạt đến đỉnh cao qua việc hợp thành bởi tám yếu tố; hoặc cần phải hiểu ý nghĩa ở đây là, nó nương tựa, lấy tứ thiền thuộc sắc giới tương ưng với chính nó làm duyên. Cũng là ‘thiên’ do có ánh sáng lớn nhờ nắm bắt ánh sáng: có nghĩa là, do được đạt đến với sự hỗ trợ của ánh sáng biến xứ, và do bản thân nó có bản chất lan tỏa ánh sáng của trí tuệ, nên cũng là ‘thiên’ do có ánh sáng lớn. Quả vậy, cái có ánh sáng lớn cũng được gọi là ‘thiên’, như trong câu “đây là vầng hào quang của chư thiên” v.v… Do có sự di chuyển vĩ đại: tức là do có sự đi đến đáng được tôn kính, có nghĩa là do có sự vận hành đáng kinh ngạc. Quả vậy, sự vận hành của nó là đáng kinh ngạc, do có thể thấy được các sắc pháp ở phía sau bức tường v.v… Tất cả những điều đó: người ta nói rằng, “điều này được nói nhắm đến năm ý nghĩa đã được trình bày ở dưới”. Tuy nhiên, một số người khác lại nói: “các nhà từ nguyên học cũng cho rằng từ ‘divu’ có nghĩa là chiếu sáng và di chuyển, do đó, điều này được nói nhắm đến hai ý nghĩa là có ánh sáng lớn và có sự di chuyển vĩ đại. Do đó, câu ‘cần phải hiểu theo khoa học về từ ngữ’ được nói để cho thấy ý nghĩa này: ‘dibba’ vì nó chiếu sáng, ‘dibba’ vì nó di chuyển, vận hành mà không bị vướng mắc”. Còn trưởng lão Ācariyadhammapāla thì nói:

‘‘Dibbacakkhulābhāya yogino parikammakaraṇaṃ tappaṭipakkhābhibhavassa atthato tassa vijayicchā nāma hoti, dibbacakkhulābhī ca iddhimā devatānaṃ vacanagahaṇakkhamanadhammadānavasena mahāmoggallānattherādayo viya dānaggahaṇalakkhaṇe vohāre ca pavatteyyāti evaṃ vihāravijayicchāvohārajutigatisaṅkhātānaṃ atthānaṃ vasena imassa abhiññāñāṇassa dibbacakkhubhāvasiddhito saddavidū ca tesu eva atthesu divusaddaṃ icchantīti ‘taṃ sabbaṃ saddasatthānusārena veditabba’nti vutta’’nti –
“Đối với hành giả, việc thực hiện công phu chuẩn bị để chứng đắc thiên nhãn, về mặt ý nghĩa, chính là sự mong muốn chiến thắng các pháp đối nghịch của nó. Và người đã chứng đắc thiên nhãn, có thần thông, có thể tham gia vào các giao dịch như nhận của cúng dường và ban phát chánh pháp, giống như trưởng lão Mahāmoggallāna v.v… Như vậy, do trí tuệ thắng trí này có được bản chất là thiên nhãn qua các ý nghĩa là sự an trú, sự mong muốn chiến thắng, sự giao dịch, sự chiếu sáng, và sự di chuyển; và các nhà từ nguyên học cũng cho rằng từ ‘divu’ có các ý nghĩa đó. Do đó, mới nói rằng ‘tất cả những điều đó cần được hiểu theo khoa học về từ ngữ’.”

Āha.
Ngài đã nói.

Dassanaṭṭhenāti rūpadassanabhāvena. Cakkhunā hi sattā rūpaṃ passanti. Yathā maṃsacakkhu viññāṇādhiṭṭhitaṃ samavisamaṃ ācikkhantaṃ viya pavattati, na tathā idaṃ. Idaṃ pana sayameva tato sātisayaṃ cakkhukiccakārīti āha ‘‘cakkhukiccakaraṇena cakkhumivātipi cakkhū’’ti. Diṭṭhivisuddhihetuttāti saṅkhepato vuttamatthaṃ vivarituṃ ‘‘yo hī’’tiādi vuttaṃ. Ucchedadiṭṭhiṃ gaṇhātīti parato uppattiyā adassanato ‘‘etthe vāyaṃ satto ucchinno, evamitarepī’’ti ucchedadiṭṭhiṃ gaṇhāti. Navasattapātubhāvadiṭṭhiṃ gaṇhātīti jhānalābhī adhiccasamuppanniko viya gaṇhāti. Yathā hi so asaññasattā cavitvā idhūpapanno pabbajito samāno abhiññālābhī hutvā pubbenivāsaṃ anussaranto idhūpapattimeva disvā tato paraṃ asaññabhave uppattiṃ anussaritumasakkonto ‘‘ahaṃ adhiccasamuppanno pubbe nāhosiṃ, somhi etarahi ahutvā sattatāya pariṇato, sesāpi sattā tādisāyevā’’ti abhinavasattapātubhāvadiṭṭhiṃ gaṇhāti, evamayampi upapātamattameva disvā cutiṃ apassanto navasattapātubhāvadiṭṭhiṃ gaṇhāti.
Do có tính chất thấy: tức là do có bản chất là sự thấy sắc. Quả vậy, chúng sanh thấy sắc bằng mắt. Mắt thịt, do nương vào thức, vận hành giống như đang chỉ ra sự bằng phẳng và không bằng phẳng, nhưng trí tuệ này thì không như vậy. Trái lại, chính nó thực hiện chức năng của mắt một cách vượt trội hơn. Do đó, ngài nói “do thực hiện chức năng của mắt, nên cũng giống như mắt, nên gọi là nhãn”. Để giải thích chi tiết ý nghĩa đã được nói tóm tắt trong câu do là nhân cho sự trong sạch của tri kiến, ngài nói “quả vậy, người nào…” v.v… Nắm giữ đoạn kiến: do không thấy sự phát sinh ở đời sau, nên nắm giữ đoạn kiến rằng “chúng sanh này bị đoạn diệt ở đây, những chúng sanh khác cũng như vậy”. Nắm giữ tà kiến về sự phát sinh của một chúng sanh mới: người đã chứng thiền nắm giữ tà kiến này giống như người tin vào sự ngẫu nhiên sinh. Giống như một vị, sau khi chết từ cõi vô tưởng, tái sanh vào đây, rồi xuất gia, sau khi chứng đắc thắng trí, nhớ lại các đời sống quá khứ, chỉ thấy sự tái sanh ở đây, và không thể nhớ lại sự phát sinh ở cõi vô tưởng trước đó, liền nắm giữ tà kiến về sự phát sinh của một chúng sanh mới rằng: “ta là ngẫu nhiên sinh, trước đây ta không có, bây giờ ta từ không mà hóa thành chúng sanh, các chúng sanh khác cũng như vậy”. Cũng vậy, vị này chỉ thấy sự tái sanh mà không thấy sự chết, nên nắm giữ tà kiến về sự phát sinh của một chúng sanh mới.

Idāni aññathāpi visuddhikāraṇaṃ dassento āha ‘‘ekādasaupakkilesavirahato vā’’tiādi. Yathāhāti upakkilesasutte āgatapāḷiṃ nidasseti. Tattha hi anuruddho nandiyo kimiloti ime tayo kulaputte āmantetvā dhammaṃ dassentena ‘‘anuruddhā tumhe kiṃ imehi na āluḷissanti, ahampi imehi upādāya ekādasahi upakkilesehi āluḷitapubbo’’ti dassetuṃ –
Bây giờ, để cho thấy một nguyên nhân khác của sự trong sạch, ngài nói “hoặc do không có mười một cấu uế” v.v… Như đã nói: ngài chỉ ra bài kinh đã được nói đến trong kinh Upakkilesa. Quả vậy, ở đó, sau khi đã gọi ba vị thiện nam tử là Anuruddha, Nandiya, và Kimila, và thuyết pháp cho họ, để cho thấy rằng “Này các vị Anuruddha, các ông có bị những điều này làm cho xáo trộn không? Ta trước đây cũng đã từng bị xáo trộn bởi mười một cấu uế này”, ngài đã bắt đầu bài thuyết giảng và nói rằng:

‘‘Ahampi sudaṃ anuruddhā pubbeva sambodhā anabhisambuddho bodhisattova samāno obhāsañceva sañjānāmi dassanañca rūpānaṃ, so kho pana me obhāso na cirasseva antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Tassa mayhaṃ anuruddhā etadahosi ‘ko nu kho hetu, ko paccayo, yena me obhāso antaradhāyati dassanañca rūpāna’nti. Tassa mayhaṃ anuruddhā etadahosi ‘vicikicchā kho me udapādi, vicikicchādhikaraṇañca me samādhi cavi, samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ, sohaṃ tathā karissāmi, yathā me puna na vicikicchā uppajjissatī’ti.
“Này các vị Anuruddha, Ta cũng vậy, trước khi giác ngộ, khi chưa phải là bậc Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, Ta nhận biết được ánh sáng và thấy được các sắc. Nhưng ánh sáng đó của Ta không bao lâu liền biến mất, và sự thấy các sắc cũng vậy. Này các vị Anuruddha, Ta liền suy nghĩ: ‘Do nhân gì, do duyên gì, mà ánh sáng của Ta biến mất, và sự thấy các sắc cũng vậy?’. Này các vị Anuruddha, Ta liền suy nghĩ: ‘Hoài nghi đã phát sinh trong Ta, và do hoài nghi làm nhân, định của Ta đã bị lui sụt; khi định lui sụt, ánh sáng biến mất, và sự thấy các sắc cũng vậy. Ta sẽ làm sao để sau này hoài nghi không còn phát sinh nữa’.”

‘‘So kho ahaṃ anuruddhā appamatto ātāpī pahitatto viharanto obhāsañceva sañjānāmi dassanañca rūpānaṃ, so kho pana me obhāso na cirasseva antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ. Tassa mayhaṃ anuruddhā etadahosi ‘ko nu kho hetu, ko paccayo, yena me obhāso antaradhāyati dassanañca rūpāna’nti. Tassa mayhaṃ anuruddhā etadahosi ‘amanasikāro kho me udapādi, amanasikārādhikaraṇañca pana me samādhi cavi, samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpānaṃ, sohaṃ tathā karissāmi, yathā me puna na vicikicchā uppajjissati na amanasikāro’’’ti –
“Này các vị Anuruddha, Ta, không dể duôi, nhiệt tâm, quyết tâm an trú, lại nhận biết được ánh sáng và thấy được các sắc. Nhưng ánh sáng đó của Ta không bao lâu liền biến mất, và sự thấy các sắc cũng vậy. Này các vị Anuruddha, Ta liền suy nghĩ: ‘Do nhân gì, do duyên gì, mà ánh sáng của Ta biến mất, và sự thấy các sắc cũng vậy?’. Này các vị Anuruddha, Ta liền suy nghĩ: ‘Sự không tác ý đã phát sinh trong Ta, và do sự không tác ý làm nhân, định của Ta đã bị lui sụt; khi định lui sụt, ánh sáng biến mất, và sự thấy các sắc cũng vậy. Ta sẽ làm sao để sau này hoài nghi không còn phát sinh nữa, và sự không tác ý cũng vậy’.”

Ādinā (ma. ni. 3.241) desanaṃ ārabhitvā idaṃ vuttaṃ ‘‘so kho ahaṃ anuruddhā vicikicchā cittassa upakkilesoti iti viditvā’’tiādi.
Bằng cách bắt đầu bài thuyết giảng như vậy (ma. ni. 3.241), điều này đã được nói: “Này các vị Anuruddha, Ta, sau khi đã biết rằng hoài nghi là một cấu uế của tâm…” v.v…

Tattha (ma. ni. aṭṭha. 3.241) vicikicchāti mahāsattassa ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbacakkhunā nānāvidhāni rūpāni passantassa ‘‘idaṃ nu kho ki’’nti uppannā vicikicchā. Manasikāravasena pana me rūpāni upaṭṭhahiṃsu, rūpāni passato vicikicchā uppajjati, tasmā idāni kiñci na manasi karissāmīti tuṇhī bhavati, taṃ tuṇhībhāvappattiṃ sandhāyāha ‘‘amanasikāro’’ti. Thinamiddhanti kiñci amanasikarontassa uppannaṃ thinamiddhaṃ. Tathābhūtassa hi savipphārikamanasikārassa abhāvato thinamiddhaṃ uppajjati. Chambhitattanti thinamiddhaṃ vinodetvā yathāraddhamanasikāravasena himavantābhimukhaṃ ālokaṃ vaḍḍhetvā dānavarakkhasaajagarādayo passantassa uppannaṃ chambhitattaṃ. Uppilanti ‘‘mayā diṭṭhabhayaṃ pakatiyā cakkhuviññāṇena olokiyamānaṃ na passati, adiṭṭhe parikappitasadise kiṃnāma bhaya’’nti bhayassa vinodanavasena cintentassa attano paccavekkhaṇākosallaṃ nissāya uppannaṃ uppilāvitattaṃ. Duṭṭhullanti kāyālasiyaṃ. ‘‘Mayā thinamiddhaṃ chambhitattānaṃ vūpasamanatthaṃ gāḷhaṃ vīriyaṃ paggahitaṃ, tena me uppilasaṅkhātā cittasamādhidūsitā gehassitā balavapīti uppannā’’ti vīriyaṃ sithilaṃ karontassa hi kāyaduṭṭhullaṃ kāyadaratho kāyālasiyaṃ udapādi.
Ở đó (ma. ni. aṭṭha. 3.241), hoài nghi là sự hoài nghi phát sinh khi Đại Sĩ, sau khi đã phát triển ánh sáng và đang nhìn các sắc pháp khác nhau bằng thiên nhãn, nghĩ rằng “đây là cái gì?”. Nhưng do các sắc pháp này đã hiện khởi với Ta qua sự tác ý, và khi thấy các sắc pháp thì hoài nghi phát sinh, do đó bây giờ Ta sẽ không tác ý đến bất cứ điều gì nữa, rồi trở nên im lặng. Nhắm đến sự im lặng đó, ngài nói “sự không tác ý”. Hôn trầm thụy miên là hôn trầm thụy miên phát sinh khi không tác ý đến bất cứ điều gì. Quả vậy, đối với người như vậy, do không có sự tác ý lan tỏa, nên hôn trầm thụy miên phát sinh. Sự sợ hãi là sự sợ hãi phát sinh khi, sau khi đã xua tan hôn trầm thụy miên và phát triển ánh sáng hướng về dãy Himalaya theo cách tác ý đã bắt đầu, và thấy các loài dạ xoa, quỷ dữ, trăn rắn v.v… Sự phấn chấn là trạng thái hân hoan phát sinh do nương vào sự khéo léo trong việc xem xét lại của chính mình, khi suy nghĩ theo cách xua tan sự sợ hãi rằng: “cái đáng sợ mà ta đã thấy, mắt thường không thể thấy được, vậy có gì đáng sợ trong một hình ảnh tương tự được tưởng tượng ra, vốn không được thấy?”. Sự thô trược là sự lười biếng của thân. Quả vậy, khi nghĩ rằng “để làm lắng dịu hôn trầm thụy miên và sự sợ hãi, ta đã nỗ lực một cách mạnh mẽ, do đó hỷ mạnh mẽ liên quan đến đời sống tại gia, vốn làm hư hoại định của tâm, được gọi là sự phấn chấn, đã phát sinh trong ta”, và khi làm cho tinh tấn chùng xuống, sự thô trược của thân, sự mệt mỏi của thân, sự lười biếng của thân đã phát sinh.

Accāraddhavīriyanti ‘‘mama vīriyaṃ sithilaṃ karoto duṭṭhullaṃ uppanna’’nti puna vīriyaṃ paggaṇhato uppannaṃ accāraddhavīriyaṃ. Atilīnavīriyanti ‘‘mama vīriyaṃ paggaṇhato evaṃ jāta’’nti puna vīriyaṃ sithilayato uppannaṃ atilīnavīriyaṃ. Abhijappāti devalokābhimukhaṃ ālokaṃ vaḍḍhetvā devasaṅghaṃ passato uppannā taṇhā. ‘‘Evaṃ me hotū’’ti hi abhinivisanavasena jappatīti abhijappā, taṇhā. Nānattasaññāti ‘‘mayhaṃ ekajātikaṃ rūpaṃ manasikarontassa abhijappā uppannā, nānāvidhaṃ rūpaṃ manasikāraṃ karissāmī’’ti kālena devalokābhimukhaṃ kālena manussalokābhimukhaṃ vaḍḍhetvā nānāvidhāni rūpāni manasikaroto uppannā nānattasaññā, nānatte nānāsabhāve saññāti nānattasaññā. Atinijjhāyitattanti ‘‘mayhaṃ nānāvidhāni rūpāni manasikarontassa nānattasaññā udapādi, iṭṭhaṃ vā aniṭṭhaṃ vā ekajātikameva rūpaṃ manasi karissāmī’’ti tathā manasikaroto uppannaṃ rūpānaṃ atinijjhāyitattaṃ, ativiya uttari katvā nijjhānaṃ pekkhanaṃ atinijjhāyitattaṃ. Obhāsanti parikammasamuṭṭhitaṃ obhāsaṃ. Na ca rūpāni passāmīti parikammobhāsamanasikārappasutatāya dibbacakkhunā rūpāni na passāmi. Rūpāni hi kho passāmīti tena parikammobhāsena pharitvā ṭhitaṭṭhāne dibbacakkhuno visayabhūtāni rūpagatāni passāmi.
Sự tinh tấn quá căng là sự tinh tấn quá căng phát sinh khi, sau khi nghĩ rằng “do ta làm cho tinh tấn chùng xuống, nên sự thô trược đã phát sinh”, lại nỗ lực tinh tấn. Sự tinh tấn quá chùng là sự tinh tấn quá chùng phát sinh khi, sau khi nghĩ rằng “do ta nỗ lực tinh tấn, nên đã xảy ra như vậy”, lại làm cho tinh tấn chùng xuống. Sự tham ái là ái dục phát sinh khi, sau khi phát triển ánh sáng hướng về cõi trời và thấy các chúng chư thiên. Quả vậy, do nó khao khát một cách bám víu rằng “mong cho ta được như vậy”, nên gọi là sự tham ái, tức là ái dục. Tưởng về sự khác biệt là tưởng về sự khác biệt phát sinh khi, sau khi nghĩ rằng “do ta tác ý đến một loại sắc, nên sự tham ái đã phát sinh, ta sẽ tác ý đến các loại sắc khác nhau”, và khi tác ý đến các sắc khác nhau bằng cách lúc thì phát triển ánh sáng hướng về cõi trời, lúc thì hướng về cõi người. Tưởng trong sự khác biệt, trong các bản chất khác nhau, là tưởng về sự khác biệt. Sự quán xét quá mức là sự quán xét quá mức đối với các sắc pháp, phát sinh khi, sau khi nghĩ rằng “do ta tác ý đến các sắc khác nhau, nên tưởng về sự khác biệt đã phát sinh, ta sẽ tác ý đến một loại sắc duy nhất, dù là thuận hay nghịch”, và khi tác ý như vậy; sự quán xét, sự nhìn một cách quá mức, vượt trội, là sự quán xét quá mức. Ánh sáng: tức là ánh sáng phát sinh từ công phu chuẩn bị. Và tôi không thấy các sắc: tức là, do mải mê tác ý đến ánh sáng của công phu chuẩn bị, nên tôi không thấy các sắc bằng thiên nhãn. Nhưng tôi thấy các sắc: tức là, tại nơi đã được bao trùm bởi ánh sáng của công phu chuẩn bị đó, tôi thấy các sắc pháp vốn là đối tượng của thiên nhãn.

Evamādīti ādi-saddena –
Câu như vậy v.v…: qua từ v.v…, ngài bao gồm cả bài kinh sau đây:

‘‘Kevalampi rattiṃ kevalampi divaṃ kevalampi rattindivaṃ tassa mayhaṃ anuruddhā etadahosi ‘ko nu kho hetu, ko paccayo, yvāhaṃ obhāsañhi kho sañjānāmi, na ca rūpāni passāmi, rūpāni kho passāmi, na ca obhāsaṃ sañjānāmi kevalampi rattiṃ kevalampi divaṃ kevalampi rattindiva’nti. Tassa mayhaṃ anuruddhā etadahosi ‘yasmiñhi kho ahaṃ samaye rūpanimittaṃ amanasikaritvā obhāsanimittaṃ manasi karomi. Obhāsañhi kho tasmiṃ samaye sañjānāmi, na ca rūpāni passāmi. Yasmiṃ panāhaṃ samaye obhāsanimittaṃ amanasikaritvā rūpanimittaṃ manasi karomi. Rūpāni hi kho tasmiṃ samaye passāmi, na ca obhāsaṃ sañjānāmi kevalampi rattiṃ kevalampi divaṃ kevalampi rattindiva’’nti (ma. ni. 3.243) –
“Này các vị Anuruddha, Ta liền suy nghĩ: ‘Do nhân gì, do duyên gì, mà Ta chỉ nhận biết được ánh sáng, chứ không thấy các sắc; hoặc chỉ thấy các sắc, chứ không nhận biết được ánh sáng, suốt cả đêm, suốt cả ngày, suốt cả ngày lẫn đêm?’. Này các vị Anuruddha, Ta liền suy nghĩ: ‘Vào lúc nào Ta không tác ý đến tướng của sắc mà tác ý đến tướng của ánh sáng, thì vào lúc đó Ta nhận biết được ánh sáng, chứ không thấy các sắc. Còn vào lúc nào Ta không tác ý đến tướng của ánh sáng mà tác ý đến tướng của sắc, thì vào lúc đó Ta thấy các sắc, chứ không nhận biết được ánh sáng, suốt cả đêm, suốt cả ngày, suốt cả ngày lẫn đêm’.” (ma. ni. 3.243) –

Evamādipāḷiṃ saṅgaṇhāti.
Bao gồm cả bài kinh như vậy.

Manussānaṃ idanti mānusakaṃ, manussānaṃ gocarabhūtaṃ rūpārammaṇaṃ. Tadaññassa pana dibbatirokuṭṭasukhumādibhedassa rūpassa dassanato atikkantamānusakaṃ. Evarūpaṃ tañca manussūpacāraṃ atikkantaṃ nāma hotīti āha ‘‘manussūpacāraṃ atikkamitvā rūpadassanenā’’ti. Tattha manussūpacāranti manussehi upacaritabbaṭṭhānaṃ, pakatiyā cakkhudvārena gahetabbaṃ visayanti adhippāyo. Evaṃ visayamukhena dassetvā idāni visayimukhena dassetuṃ ‘‘mānusakaṃ vā’’tiādi vuttaṃ. Tatthāpi maṃsacakkhātikkamo tassa kiccātikkameneva daṭṭhabbo. Dibbena cakkhunāti dibbacakkhuñāṇenapi daṭṭhuṃ na sakkā khaṇassa atiittaratāya atisukhumatāya kesañci rūpassa, apica dibbacakkhussa paccuppannaṃ rūpārammaṇaṃ, tañca purejātapaccayabhūtaṃ, na ca āvajjanaparikammehi vinā mahaggatassa pavatti atthi, nāpi uppajjamānameva rūpaṃ ārammaṇapaccayo bhavituṃ sakkoti, bhijjamānaṃ vā, tasmā cutūpapātakkhaṇe rūpaṃ dibbacakkhunā daṭṭhuṃ na sakkāti suvuttametaṃ.
Cái này thuộc về loài người là thuộc về loài người, là đối tượng sắc thuộc phạm vi của loài người. Còn các loại sắc khác như sắc của chư thiên, sắc ở phía sau bức tường, sắc vi tế v.v…, do có thể thấy được, nên gọi là đã vượt qua cái thuộc về loài người. Và cái như vậy được gọi là đã vượt qua phạm vi hoạt động của con người, nên ngài nói “do sự thấy sắc bằng cách vượt qua phạm vi hoạt động của con người”. Ở đó, phạm vi hoạt động của con người là nơi mà con người có thể hoạt động, chủ ý là đối tượng có thể được nắm bắt bằng cửa mắt thông thường. Sau khi đã trình bày theo phương diện đối tượng như vậy, bây giờ để trình bày theo phương diện chủ thể, ngài nói “hoặc cái thuộc về loài người…” v.v… Ở đó cũng vậy, sự vượt qua mắt thịt cần được hiểu là chính sự vượt qua chức năng của nó. Bằng thiên nhãn: tức là bằng trí tuệ thiên nhãn cũng không thể thấy được một số sắc pháp, do khoảnh khắc quá nhanh và do quá vi tế. Hơn nữa, đối tượng sắc của thiên nhãn là ở hiện tại, và nó là duyên sinh trước; và sự vận hành của tâm cao cả không thể có nếu không có sự tác ý và công phu chuẩn bị; và sắc pháp đang phát sinh hoặc đang hoại diệt cũng không thể là duyên đối tượng. Do đó, sắc pháp tại khoảnh khắc chết và tái sanh không thể được thấy bằng thiên nhãn; điều này đã được nói rất đúng.

Yadi dibbacakkhuñāṇaṃ rūpārammaṇameva, atha kasmā ‘‘satte passāmī’’ti vuttanti? Yebhuyyena sattasantānagatarūpadassanato evaṃ vuttaṃ. Sattagahaṇassa vā kāraṇabhāvato vohāravasena vuttantipi vadanti. Te cavamānāti adhippetāti sambandho. Evarūpeti na cutūpapātakkhaṇasamaṅginoti adhippāyo. Mohūpanissayaṃ nāma kammaṃ nihīnaṃ nihīnaphalaṃ hotīti āha ‘‘mohanissandayuttattā’’ti. Mohūpanissayatā ca kusalakammassa pubbabhāge mohappavattibahulatāya veditabbā. Tāya pana mohappavattiyā saṃkiliṭṭhaṃ kusalakammaṃ nihīnameva jātiādiṃ nipphādetīti nihīnajātiādayo mohassa nissandaphalānīti āha ‘‘hīnānaṃ jātikulabhogādīna’’ntiādi. Hīḷiteti garahite. Ohīḷiteti visesato garahite. Uññāteti lāmakabhāvena ñāte. Avaññāteti visesato lāmakabhāvena vidite. Amohanissandayuttattāti ettha amoho sampayuttavasena pubbabhāgavasena ca pavatto kathito, tena ca tihetukapaṭisandhike dasseti. Tabbiparīteti tassa hīḷitādibhāvassa viparīte, ahīḷite anohīḷite anuññāte anavaññāte cittīkateti attho.
Nếu trí tuệ thiên nhãn chỉ có sắc làm đối tượng, vậy tại sao lại nói “tôi thấy các chúng sanh”? Điều này được nói như vậy, phần lớn là do sự thấy sắc thuộc về dòng tương tục của chúng sanh. Hoặc có người nói rằng, điều đó được nói theo cách thông thường, do việc nắm bắt chúng sanh là nguyên nhân. Cần phải liên kết rằng, chủ ý là những chúng sanh đang chết. Trong những chúng sanh như vậy: chủ ý là, không phải là những chúng sanh đang ở trong khoảnh khắc chết và tái sanh. Do nghiệp có si mê làm nền tảng là thấp hèn và cho quả thấp hèn, nên ngài nói “do được hợp thành bởi dòng chảy của si mê”. Và sự có si mê làm nền tảng của nghiệp thiện cần được hiểu là do sự vận hành của si mê chiếm ưu thế trong giai đoạn đầu. Do nghiệp thiện bị ô nhiễm bởi sự vận hành của si mê đó chỉ tạo ra sự sinh v.v… thấp hèn, nên sự sinh thấp hèn v.v… là quả của dòng chảy của si mê. Do đó, ngài nói “của sự sinh, gia đình, của cải v.v… thấp hèn” v.v… Bị khinh miệt: tức là bị chỉ trích. Bị khinh rẻ: tức là bị chỉ trích một cách đặc biệt. Bị xem là thấp kém: tức là được biết đến với bản chất thấp hèn. Bị coi thường: tức là được biết đến một cách đặc biệt với bản chất thấp hèn. Trong câu do được hợp thành bởi dòng chảy của vô si, vô si được nói là vận hành theo cách tương ưng và theo cách ở giai đoạn đầu; và qua đó, ngài cho thấy những người có tái sanh với ba nhân lành. Đối lập với điều đó: tức là đối lập với trạng thái bị khinh miệt v.v… đó; có nghĩa là, không bị khinh miệt, không bị khinh rẻ, được công nhận, không bị coi thường, được tôn trọng.

Suvaṇṇeti sundaravaṇṇe. Dubbaṇṇeti asundaravaṇṇe. Sā panāyaṃ suvaṇṇadubbaṇṇatā yathākkamaṃ kammassa adosadosūpanissayatāya hotīti āha ‘‘adosanissandayuttattā’’tiādi. Adosūpanissayatā ca kammassa mettādīhi paribhāvitasantānappavattiyā veditabbā. Abhirūpe virūpeti idaṃ saṇṭhānavasena vuttaṃ. Saṇṭhānavacanopi hi vaṇṇasaddo hoti ‘‘mahantaṃ hatthivaṇṇaṃ abhinimminitvā’’tiādīsu (saṃ. ni. 1.138) viya. Paṭhamaṃ vutto pana attho vaṇṇavaseneva vutto. Sundaraṃ gatiṃ gatā sugatāti āha ‘‘sugatigate’’ti, sugatiṃ upapanneti attho. Alobhajjhāsayā sattā vadaññū vigatamaccherā alobhūpanissayena kammunā sugatā samiddhā hontīti āha ‘‘alobhanissandayuttattā vā aḍḍhe mahaddhane’’ti. Dukkhaṃ gatiṃ gatā duggatāti āha ‘‘duggatigate’’ti. Lobhajjhāsayā sattā luddhā maccharino lobhūpanissayena kammunā duggatā durūpā hontīti āha ‘‘lobhanissandayuttattā vā dalidde appannapāne’’ti. Upacitanti phalāvahabhāvena kataṃ. Yathā katañhi kammaṃ phaladānasamatthaṃ hoti, tathā kataṃ upacitaṃ. Cavamānetiādīhi dibbacakkhukiccaṃ vuttanti visayamukhena visayibyāpāramāha. Purimehīti ‘‘dibbena cakkhunā’’tiādīni padāni sandhāya vuttaṃ. Ādīhīti ettha ca-saddo luttaniddiṭṭho, tasmā ‘‘dibbena…pe… passāmī’’ti imehi ‘‘cavamāne’’tiādīhi ca dibbacakkhukiccaṃ vuttanti attho. Imināpana padenāti ‘‘yathākammūpage satte pajānāmī’’ti iminā vākyena. Pajjati ñāyati attho imināti hi padaṃ vākyaṃ.
Có màu da đẹp: tức là có màu da ưa nhìn. Có màu da xấu: tức là có màu da không ưa nhìn. Và sự có màu da đẹp hay xấu đó, theo thứ tự, là do nghiệp có vô sân và sân làm nền tảng. Do đó, ngài nói “do được hợp thành bởi dòng chảy của vô sân” v.v… Và sự có vô sân làm nền tảng của nghiệp cần được hiểu là do sự vận hành của dòng tâm thức đã được thấm nhuần bởi tâm từ v.v… Có hình dáng đẹp, có hình dáng xấu: điều này được nói theo phương diện hình dáng. Quả vậy, từ ‘vaṇṇa’ (màu da/hình dáng) cũng có nghĩa là hình dáng, giống như trong câu “sau khi đã hóa hiện ra hình dáng một con voi lớn” v.v… (saṃ. ni. 1.138). Còn ý nghĩa đã được nói ở trước là theo phương diện màu da. Những người đã đi đến cảnh giới tốt đẹp là những người có thiện thú. Do đó, ngài nói “đã đi đến thiện thú”, có nghĩa là đã tái sanh vào cảnh giới tốt đẹp. Do các chúng sanh có khuynh hướng vô tham, rộng rãi, không còn keo kiệt, đi đến thiện thú, trở nên giàu có nhờ nghiệp có vô tham làm nền tảng, nên ngài nói “hoặc do được hợp thành bởi dòng chảy của vô tham, nên giàu có, nhiều của cải”. Những người đã đi đến cảnh giới khổ đau là những người có ác thú. Do đó, ngài nói “đã đi đến ác thú”. Do các chúng sanh có khuynh hướng tham lam, keo kiệt, bủn xỉn, đi đến ác thú, có hình dáng xấu xí nhờ nghiệp có tham làm nền tảng, nên ngài nói “hoặc do được hợp thành bởi dòng chảy của tham, nên nghèo khổ, ít đồ ăn thức uống”. Đã được tích lũy: tức là đã được làm với khả năng mang lại quả. Nghiệp được làm như thế nào để có khả năng cho quả, thì được làm như vậy là đã được tích lũy. Bằng các câu ‘những chúng sanh đang chết’ v.v…, chức năng của thiên nhãn đã được nói đến: ngài nói về hoạt động của chủ thể qua phương diện đối tượng. Bởi các câu trước: được nói nhắm đến các từ “bằng thiên nhãn” v.v… Trong câu v.v…, từ đã bị lược bỏ; do đó, ý nghĩa là, chức năng của thiên nhãn đã được nói đến bởi các câu “bằng thiên nhãn… cho đến… tôi thấy” và các câu “những chúng sanh đang chết” v.v… Còn bằng từ này: tức là bằng câu “tôi biết rõ các chúng sanh tùy theo nghiệp của họ”. Ý nghĩa được đi đến, được biết đến bằng cái này, nên từ ‘pada’ ở đây có nghĩa là một câu.

Mahantaṃ dukkhamanubhavamāneti ettha dibbacakkhuñāṇena rūpaṃ disvā tesaṃ dukkhānubhavanaṃ kāmāvacaracitteneva jānātīti veditabbaṃ. Soti nerayikasatte paccakkhato disvā ṭhito dibbacakkhuñāṇalābhī. Evaṃ manasi karotīti tesaṃ nerayikānaṃ nirayasaṃvattanikassa kammassa ñātukāmatāvasena pādakajjhānaṃ samāpajjitvā vuṭṭhāya parikammavasena manasi karoti. Kiṃ nu khotiādi manasikāravidhidassanaṃ. Evaṃ pana parikammaṃ katvā pādakajjhānaṃ samāpajjitvā vuṭṭhitassa taṃ kammaṃ ārammaṇaṃ katvā āvajjanaṃ uppajjati, tasmiṃ niruddhe cattāri pañca vā javanāni javanti. Yesaṃ purimāni tīṇi cattāri vā parikammaupacārānulomagotrabhunāmakāni kāmāvacarāni, catutthaṃ pañcamaṃ vā appanācittaṃ rūpāvacaraṃ catutthajjhānikaṃ, tattha yaṃ tena appanācittena saddhiṃ uppannaṃ ñāṇaṃ, taṃ yathākammūpagañāṇanti veditabbaṃ. ‘‘Visuṃ parikammaṃ natthī’’ti idaṃ pana dibbacakkhuñāṇena vinā yathākammūpagañāṇassa visuṃ parikammaṃ natthīti adhippāyena vuttaṃ. Evañcetaṃ icchitabbaṃ, aññathā yathākammūpagañāṇassa mahaggatabhāvo eva na siyā. Devānaṃ dassanepi eseva nayo. Nerayikadevaggahaṇañcettha nidassanamattaṃ daṭṭhabbaṃ. Ākaṅkhamāno hi dibbacakkhulābhī aññagatikesupi evaṃ paṭipajjatiyeva. Tathā hi vakkhati ‘‘apāyaggahaṇena tiracchānayoniṃ dīpetī’’tiādi, ‘‘sugatiggahaṇena manussagatipi saṅgayhatī’’ti ca. Taṃ nirayasaṃvattaniyakammaṃ ārammaṇametassāti taṃkammārammaṇaṃ. Phārusakavanādīsūti ādi-saddena cittalatāvanādīnaṃ saṅgaho.
Trong câu đang trải qua sự khổ đau to lớn, cần phải hiểu rằng, sau khi đã thấy hình sắc bằng trí tuệ thiên nhãn, vị ấy biết được sự trải qua khổ đau của họ bằng một tâm thuộc Dục giới. Vị ấy: tức là người đã chứng đắc trí tuệ thiên nhãn, đang đứng và thấy trực tiếp các chúng sanh trong địa ngục. Vị ấy tác ý như vậy: tức là, do mong muốn biết nghiệp dẫn đến địa ngục của các chúng sanh trong địa ngục đó, vị ấy nhập thiền nền tảng, rồi xuất thiền, và tác ý theo cách chuẩn bị. Do đâu mà… v.v… là sự cho thấy phương pháp tác ý. Và sau khi đã chuẩn bị như vậy, đối với người đã nhập thiền nền tảng rồi xuất thiền, một sự hướng tâm phát sinh, lấy nghiệp đó làm đối tượng; khi nó diệt, bốn hoặc năm sát-na tốc hành khởi lên. Trong đó, ba hoặc bốn sát-na đầu tiên có tên là chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, và chuyển tộc, thuộc Dục giới; sát-na thứ tư hoặc thứ năm là tâm an chỉ, thuộc tứ thiền Sắc giới. Ở đó, trí tuệ phát sinh cùng với tâm an chỉ đó, cần phải được biết là trí tuệ biết về nghiệp của chúng sanh. Còn câu “không có công phu chuẩn bị riêng” được nói với chủ ý rằng, không có công phu chuẩn bị riêng cho trí tuệ biết về nghiệp của chúng sanh nếu không có trí tuệ thiên nhãn. Và điều này cần phải được chấp nhận, nếu không, trí tuệ biết về nghiệp của chúng sanh sẽ không thể là một pháp cao cả. Đối với việc thấy các vị trời, cũng theo cách này. Và việc đề cập đến các chúng sanh trong địa ngục và các vị trời ở đây cần được xem là một ví dụ. Quả vậy, nếu muốn, người đã chứng đắc thiên nhãn cũng có thể thực hành như vậy đối với các chúng sanh ở các cảnh giới khác. Do đó, ngài sẽ nói ở dưới: “qua việc đề cập đến ác thú, ngài cho thấy cả cảnh giới bàng sanh” v.v…, và “qua việc đề cập đến thiện thú, cảnh giới loài người cũng được bao gồm”. Nghiệp dẫn đến địa ngục đó là đối tượng của nó, nên là có nghiệp đó làm đối tượng. Trong câu trong các khu rừng gươm đao v.v…, qua từ v.v…, các khu rừng như Cittalatā v.v… được bao gồm.

Yathācimassāti yathā ca imassa yathākammūpagañāṇassa visuṃ parikammaṃ natthi, evaṃ anāgataṃsañāṇassapīti visuṃ parikammābhāvañca nidasseti. Tattha kāraṇamāha ‘‘dibbacakkhupādakāneva hi imānī’’ti. Tatrāyamadhippāyo – yathā dibbacakkhulābhī nirayādiabhimukhaṃ ālokaṃ vaḍḍhetvā nerayikādike satte disvā tehi pubbe āyūhitaṃ nirayasaṃvattaniyādikaṃ kammaṃ tādisena samādānena tajjena ca manasikārena parikkhate citte yāthāvato jānāti, evaṃ yassa yassa sattassa samanantaraṃ anāgataṃ attabhāvaṃ ñātukāmo, taṃ taṃ odissa ālokaṃ vaḍḍhetvā tena tena atīte etarahi vā āyūhitaṃ tassa nibbattakaṃ kammaṃ yathākammūpagañāṇena disvā tena tena nibbattetabbaṃ anāgataṃ attabhāvaṃ ñātukāmo tādisena samādānena tajjena ca manasikārena parikkhate citte yāthāvato jānāti. Esa nayo tato paresupi attabhāvesu. Etaṃ anāgataṃsañāṇaṃ nāma. Yasmā etaṃ dvayaṃ dibbacakkhuñāṇe sati eva sijjhati, nāsati. Tena vuttaṃ ‘‘imāni dibbacakkhunā saheva ijjhantī’’ti.
Giống như của trí tuệ này: để cho thấy rằng, giống như trí tuệ biết về nghiệp của chúng sanh này không có công phu chuẩn bị riêng, trí tuệ biết về vị lai cũng vậy, không có công phu chuẩn bị riêng. Ở đó, ngài nói ra lý do: “quả vậy, chúng đều có thiên nhãn làm nền tảng”. Chủ ý ở đó là: giống như người đã chứng đắc thiên nhãn, sau khi đã phát triển ánh sáng hướng về địa ngục v.v…, thấy các chúng sanh trong địa ngục v.v…, rồi biết rõ nghiệp dẫn đến địa ngục v.v… mà họ đã tạo tác trước đây, trong một tâm đã được thanh lọc bằng sự giữ giới và tác ý như vậy. Cũng vậy, khi muốn biết kiếp sống tương lai ngay sau đó của một chúng sanh nào, vị ấy hướng ánh sáng đến chúng sanh đó, thấy nghiệp tạo ra kiếp sống đó mà họ đã tạo tác trong quá khứ hoặc hiện tại bằng trí tuệ biết về nghiệp của chúng sanh, rồi khi muốn biết kiếp sống tương lai sẽ được tạo ra bởi nghiệp đó, vị ấy biết rõ trong một tâm đã được thanh lọc bằng sự giữ giới và tác ý như vậy. Cách này cũng áp dụng cho các kiếp sống sau đó nữa. Đây được gọi là trí tuệ biết về vị lai. Bởi vì cả hai trí tuệ này chỉ thành tựu khi có trí tuệ thiên nhãn, chứ không phải khi không có. Do đó, mới nói “chúng thành tựu cùng với thiên nhãn”.

Kāyena duccaritaṃ, kāyato vā uppannaṃ duccaritanti kāyena duṭṭhu caritaṃ, kāyato vā uppannaṃ kilesapūtikattā duṭṭhu caritaṃ kāyaduccaritanti evaṃ yathākkamaṃ yojetabbaṃ. Kāyoti cettha copanakāyo adhippeto. Kāyaviññattivasena pavattaṃ akusalaṃ kāyakammaṃ kāyaduccaritaṃ. Yasmiṃ santāne kammaṃ katupacitaṃ, asati āhārupacchede vipākārahasabhāvassa avigacchanato so tena sahitoyevāti vattabboti āha ‘‘samannāgatāti samaṅgībhūtā’’ti. Anatthakāmā hutvāti etena mātāpitaro viya puttānaṃ, ācariyupajjhāyā viya ca nissitakānaṃ atthakāmā hutvā garahakā upavādakā na hontīti dasseti. Guṇaparidhaṃsanenāti vijjamānānaṃ guṇānaṃ viddhaṃsanena, vināsanenāti attho. Nanu ca antimavatthunāpi upavādo guṇaparidhaṃsanamevāti? Saccametaṃ, guṇāti panettha jhānādivisesā uttarimanussadhammā adhippetāti sīlaparidhaṃsanaṃ visuṃ gahitaṃ. Tenāha ‘‘natthi imesaṃ samaṇadhammo’’tiādi. Samaṇadhammoti ca sīlasaṃyamaṃ sandhāya vadati. Jānaṃ vāti yaṃ upavadati, tassa ariyabhāvaṃ jānanto vā. Ajānaṃ vāti ajānanto vā. Jānanājānanañcettha appamāṇaṃ, ariyabhāvo eva pamāṇaṃ. Tenāha ‘‘ubhayathāpi ariyūpavādova hotī’’ti. ‘‘Ariyoti pana ajānato aduṭṭhacittasseva tattha ariyaguṇabhāvaṃ pavedentassa guṇaparidhaṃsanaṃ na hotīti tassa ariyūpavādo natthī’’ti vadanti. Bhāriyaṃ kammanti ānantariyasadisattā bhāriyaṃ kammaṃ, satekicchaṃ pana hoti khamāpanena, na ānantariyaṃ viya atekicchaṃ.
Thân ác hạnh, hoặc ác hạnh phát sinh từ thân: hành vi xấu xa được thực hiện bằng thân, hoặc hành vi xấu xa phát sinh từ thân do có bản chất thối rữa của phiền não, là thân ác hạnh; cần phải liên kết theo thứ tự như vậy. Thân ở đây được hiểu là thân có khả năng hành động. Bất thiện nghiệp vận hành qua thân biểu tri là thân ác hạnh. Trong dòng tâm thức nào mà nghiệp đã được thực hiện và tích lũy, do bản chất có khả năng cho quả không biến mất khi chưa bị sự cắt đứt của vật thực làm gián đoạn, nên người đó được cho là luôn đi kèm với nó. Do đó, ngài nói “được hợp thành tức là đã trở thành một thể”. Trở thành người mong muốn điều bất hạnh: qua đó, ngài cho thấy rằng họ không phải là những người chỉ trích, phỉ báng vì mong muốn lợi ích, giống như cha mẹ đối với con cái, hay thầy tổ đối với các đệ tử. Bằng cách hủy hoại các đức hạnh: tức là bằng cách phá hoại, tiêu diệt các đức hạnh đang có. Nhưng chẳng phải việc phỉ báng bằng một lý do không có thật cũng là sự hủy hoại đức hạnh sao? Điều đó đúng, nhưng ‘đức hạnh’ ở đây được hiểu là các phẩm chất đặc biệt như thiền định v.v…, là các pháp siêu nhân; do đó, sự hủy hoại giới hạnh được đề cập riêng. Do đó, ngài nói “những người này không có pháp của Sa-môn” v.v… Và pháp của Sa-môn là ngài nói nhắm đến sự thu thúc trong giới luật. Hoặc biết: tức là hoặc biết rằng người mình đang phỉ báng là một bậc Thánh. Hoặc không biết. Và việc biết hay không biết ở đây không phải là tiêu chuẩn, chính địa vị Thánh mới là tiêu chuẩn. Do đó, ngài nói “dù trong trường hợp nào, cũng là sự phỉ báng bậc Thánh”. Người ta nói rằng: “Tuy nhiên, đối với người không biết và không có ác tâm, khi chỉ ra một phẩm chất Thánh ở đó, thì không phải là sự hủy hoại đức hạnh, do đó đối với người đó, không có tội phỉ báng bậc Thánh”. Nghiệp nặng: do tương tự như nghiệp vô gián, nên là một nghiệp nặng; tuy nhiên, nó có thể được chữa trị bằng cách sám hối, chứ không phải là không thể chữa trị như nghiệp vô gián.

Tassaca āvibhāvatthanti bhāriyādisabhāvassa pakāsanatthaṃ. Taṃ jigucchīti taṃ theraṃ, taṃ vā kiriyaṃ jigucchi. Aticchātoti ativiya khudābhibhūto. Mahallakoti samaṇānaṃ sāruppamasāruppaṃ, lokasamudācāramattaṃ vā na jānātīti adhippāyena vuttattā guṇaparidhaṃsanena garahatīti veditabbaṃ. Amhākaṃ lajjitabbakaṃ akāsīti ‘‘samaṇena nāma evaṃ kata’’nti vutte mayaṃ sīsaṃ ukkhipituṃ na sakkomāti adhippāyo. Jānanto eva thero ‘‘atthi te āvuso imasmiṃ sāsane patiṭṭhā’’ti pucchi. Itaropi saccābhisamayo sāsane patiṭṭhāti āha ‘‘sotāpanno aha’’nti. Thero taṃ karuṇāyamāno ‘‘khīṇāsavo tayā upavadito’’ti attānaṃ āvi akāsi. Tenassa taṃ pākatikaṃ ahosīti tena assa taṃ kammaṃ maggāvaraṇaṃ nāhosīti adhippāyo. Pubbeva pana sotāpannattā apāyagāmīnaṃ suppahīnabhāvato saggāvaraṇamassa kātumasamatthameva taṃ kammaṃ. Attanā vuḍḍhataro hotīti ettha ‘‘ukkuṭikaṃ nisīditvā khamāpetabbo’’ti visuddhimagge vuttaṃ. Sotāpannasakadāgāmino dosenapi nakkhamanti, sesaariyā vā tassa atthakāmā hutvā āyatiṃ saṃvaraṇatthāya na khamāpeyyunti āha ‘‘sace so nakkhamatī’’ti. Attanā vuḍḍhataro hoti, ṭhitakenevāti etthāpi ‘‘ukkuṭikaṃ nisīditvā’’ti visuddhimagge (visuddhi. 2.411) vuttaṃ. Evañhi tattha vuttaṃ –
Để làm rõ điều đó: tức là để làm rõ bản chất nặng nề của nó. Vị ấy đã ghê tởm điều đó: tức là đã ghê tởm vị trưởng lão đó, hoặc hành vi đó. Bị đói quá mức: tức là bị cơn đói hành hạ một cách dữ dội. Bậc trưởng thượng: do được nói với chủ ý rằng vị ấy không biết điều gì là phù hợp hay không phù hợp đối với các vị Sa-môn, hoặc chỉ là tập tục của thế gian, nên cần phải hiểu rằng vị ấy đang chỉ trích bằng cách hủy hoại đức hạnh. Đã làm cho chúng tôi phải xấu hổ: chủ ý là, khi người ta nói “một vị Sa-môn mà lại làm như vậy”, chúng tôi không thể ngẩng đầu lên được. Vị trưởng lão, dù biết rõ, vẫn hỏi: “Này hiền giả, hiền giả có được sự an trú nào trong giáo pháp này không?”. Vị kia, cho rằng sự chứng ngộ chân lý là sự an trú trong giáo pháp, liền nói: “Tôi là một vị Tu-đà-hoàn”. Vị trưởng lão, do lòng bi mẫn, đã tiết lộ bản thân: “một bậc Lậu Tận đã bị ông phỉ báng”. Do đó, nghiệp đó của vị ấy đã trở lại bình thường: chủ ý là, nghiệp đó của vị ấy đã không trở thành chướng ngại cho đạo quả. Và do đã là một vị Tu-đà-hoàn từ trước, nên các nghiệp dẫn đến cõi dữ đã được từ bỏ hoàn toàn, nghiệp đó hoàn toàn không thể trở thành chướng ngại cho việc sinh về cõi trời của vị ấy. Là người lớn tuổi hơn mình: ở đây, trong sách Thanh Tịnh Đạo, đã nói rằng “cần phải ngồi xổm để sám hối”. Do các vị Tu-đà-hoàn và Tư-đà-hàm có thể không tha thứ do còn có sân, hoặc các vị Thánh khác, vì muốn lợi ích cho người đó và để người đó thu thúc trong tương lai, có thể không chấp nhận lời sám hối, nên ngài nói “nếu vị ấy không tha thứ”. Là người lớn tuổi hơn mình, chỉ cần đứng: ở đây, trong sách Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 2.411) cũng nói rằng “cần phải ngồi xổm”. Quả vậy, ở đó đã nói như sau:

‘‘Sace disāpakkanto hoti, sayaṃ vā gantvā saddhivihārike vā pesetvā khamāpetabbo. Sace nāpi gantuṃ, na pesetuṃ sakkā hoti, ye tasmiṃ vihāre bhikkhū vasanti, tesaṃ santikaṃ gantvā sace navakatarā honti, ukkuṭikaṃ nisīditvā, sace vuḍḍhatarā, vuḍḍhesu vuttanayeneva paṭipajjitvā ‘ahaṃ, bhante, asukaṃ nāma āyasmantaṃ idañcidañca avacaṃ, khamatu me so āyasmā’ti vatvā khamāpetabbaṃ. Sammukhā akhamantepi etadeva kātabba’’nti.
“Nếu vị ấy đã đi đến một phương khác, cần phải tự mình đi đến hoặc cử một vị đồng tu đi để sám hối. Nếu không thể đi cũng không thể cử người đi, cần phải đến gặp các vị Tỳ-khưu đang sống trong tu viện đó, nếu các vị ấy nhỏ tuổi hơn, thì ngồi xổm xuống; nếu lớn tuổi hơn, thì thực hành theo cách đã nói đối với các bậc trưởng thượng, rồi nói rằng ‘Thưa các ngài, con đã nói điều này điều này với tôn giả tên là…, xin tôn giả ấy hãy tha thứ cho con’ và sám hối. Ngay cả khi không được tha thứ trực tiếp, cũng phải làm như vậy.”

Idaṃ pana parampi tattha (visuddhi. 2.411) vuttaṃ –
Và điều này cũng được nói thêm ở đó (visuddhi. 2.411):

‘‘Sace ekacārikabhikkhu hoti, nevassa vasanaṭṭhānaṃ, na gataṭṭhānaṃ paññāyati, ekassa paṇḍitassa bhikkhuno santikaṃ gantvā ‘ahaṃ, bhante, asukaṃ nāma āyasmantaṃ idañcidañca avacaṃ, taṃ me anussarato anussarato vippaṭisāro hoti, kiṃ karomī’ti vattabbaṃ. So vakkhati ‘tumhe mā cintayittha, thero tumhākaṃ khamati, cittaṃ vūpasamethā’ti. Tenapi ariyassa gatadisābhimukhena añjaliṃ paggahetvā ‘khamatū’ti vattabba’’nti.
“Nếu đó là một vị Tỳ-khưu độc cư, không biết nơi ở cũng không biết nơi đã đi, cần phải đến gặp một vị Tỳ-khưu có trí, rồi nói rằng: ‘Thưa ngài, con đã nói điều này điều này với tôn giả tên là…, khi nhớ lại điều đó, con cảm thấy hối hận, con phải làm gì?’. Vị ấy sẽ nói: ‘Ông đừng lo lắng, vị trưởng lão tha thứ cho ông, hãy làm cho tâm lắng dịu’. Và người đó cũng phải chắp tay hướng về phía mà vị Thánh đã đi, rồi nói: ‘Xin hãy tha thứ’.”

Parinibbutamañcaṭṭhānanti pūjākaraṇaṭṭhānaṃ sandhāyāha. Pākatikameva hotīti evaṃ kate attano cittaṃ pasīdatīti taṃ kammaṃ saggāvaraṇaṃ maggāvaraṇañca na hotīti adhippāyoti keci vadanti. Cariyāpiṭake mātaṅgacaritasaṃvaṇṇanāyaṃ (cariyā. aṭṭha. 2.64) –
Nơi có bảo tháp của vị đã nhập diệt: ngài nói nhắm đến nơi để thực hiện sự cúng dường. Trở lại bình thường: một số người nói rằng, chủ ý là, khi làm như vậy, tâm của mình trở nên trong sạch, và nghiệp đó không trở thành chướng ngại cho việc sinh về cõi trời và chướng ngại cho đạo quả. Trong sách chú giải Cariyāpiṭaka, phần giải thích về hạnh của Mātaṅga (cariyā. aṭṭha. 2.64), trưởng lão Ācariyadhammapāla đã nói rằng:

‘‘Pāramitāparibhāvanasamiddhāhi nānāsamāpattivihāraparipūritāhi sīladiṭṭhisampadāhi susaṅkhatasantāne mahākaruṇādhivāse mahāsatte ariyūpavādakammaabhisapasaṅkhātaṃ pharusavacanaṃ saṃyuttaṃ mahāsattassa khettavisesabhāvato tassa ca ajjhāsayapharusatāya diṭṭhadhammavedanīyaṃ hutvā sace so mahāsattaṃ na khamāpeti, sattame divase vipaccanasabhāvaṃ jātaṃ. Khamāpite pana mahāsatte payogasampattiyā vipākassa paṭibāhitattā avipākadhammataṃ āpajji ahosikammabhāvato. Ayañhi ariyūpavādapāpassa diṭṭhadhammavedanīyassa ca dhammatā’’ti –
“Lời nói thô ác, được gọi là nghiệp phỉ báng bậc Thánh và sự nguyền rủa, được kết hợp với một bậc Đại Sĩ, một nơi nương tựa của lòng đại bi, có dòng tâm thức đã được rèn luyện tốt đẹp bằng các phẩm chất giới và kiến đã được viên mãn, được làm cho sung mãn bằng sự tu tập các ba-la-mật, và được làm cho trọn vẹn bằng các tầng thiền định khác nhau. Do bậc Đại Sĩ là một thửa ruộng đặc biệt và do sự thô ác trong tâm của người đó, nó trở thành nghiệp trổ quả trong hiện tại, và nếu người đó không sám hối bậc Đại Sĩ, nó có bản chất trổ quả vào ngày thứ bảy. Nhưng khi đã được bậc Đại Sĩ tha thứ, do sự thành tựu của hành vi (sám hối), quả báo đã bị ngăn chặn, nó trở nên có bản chất không cho quả, do đã trở thành nghiệp vô hiệu. Đây là quy luật của tội phỉ báng bậc Thánh và của nghiệp trổ quả trong hiện tại.”

Ācariyadhammapālattherena vuttattā evaṃ khamāpite taṃ kammaṃ payogasampattiyā vipākassa paṭibāhitattā ahosikammabhāvena avipākadhammataṃ āpannanti neva saggāvaraṇaṃ na mokkhāvaraṇañca hotīti evamettha attho gahetabbo.
Do đó, ở đây cần phải hiểu ý nghĩa là, khi đã được tha thứ như vậy, nghiệp đó, do sự thành tựu của hành vi (sám hối), quả báo đã bị ngăn chặn, đã trở thành nghiệp vô hiệu và có bản chất không cho quả, nên nó không trở thành chướng ngại cho việc sinh về cõi trời cũng không phải là chướng ngại cho sự giải thoát.

Viparītaṃ dassanametesanti viparītadassanā. Samādātabbaṭṭhena samādānāni, kammāni samādānāni yesaṃ te kammasamādānā, micchādiṭṭhivasena kammasamādānā micchādiṭṭhikammasamādānā, hetuatthaṃ vā antogadhaṃ katvā micchādiṭṭhivasena pare kammesu samādāpakā micchādiṭṭhikammasamādānā. Tayimaṃ atthaṃ dassento ‘‘micchādiṭṭhivasenā’’tiādimāha. Ye ca…pe… samādapenti, tepi micchādiṭṭhikammasamādānāti yojetabbaṃ. Sīlasampannotiādi paripakkindriyassa maggasamaṅgino vasena vuttaṃ, aggamaggaṭṭhe pana vattabbameva natthi. Atha vā aggamaggapariyāpannā eva sīlādayo veditabbā. Aggamaggaṭṭhassa hi diṭṭheva dhamme ekaṃsikā aññārādhanā, itaresaṃ anekaṃsikā. Aññanti arahattaṃ. Evaṃsampadamidanti ettha sampajjanaṃ sampadā, nipphatti, evaṃ avirajjhanakanipphattikanti attho, yathā taṃ avassambhāvī, evamidampīti vuttaṃ hoti . Yathā hi maggānantaraṃ avirajjhitvāva phalaṃ nibbattaṃ, evametaṃ imassapi puggalassa cutianantaraṃ avirajjhitvāva niraye paṭisandhi hotīti dasseti. Sakalasmiñhi buddhavacane na imāya upamāya gāḷhataraṃ katvā vuttaupamā atthi. Taṃ vācaṃ appahāyātiādīsu (ma. ni. aṭṭha. 1.149) ariyūpavādaṃ sandhāya ‘‘puna evarūpiṃ vācaṃ na vakkhāmī’’ti vadanto vācaṃ pajahati nāma, ‘‘puna evarūpaṃ cittaṃ na uppādessāmī’’ti cintento cittaṃ pajahati nāma, ‘‘puna evarūpiṃ diṭṭhiṃ na gaṇhissāmī’’ti pajahanto diṭṭhiṃ pajahati nāma. Tathā akaronto neva pajahati na paṭinissajjati. Yathābhataṃ nikkhitto evaṃ nirayeti yathā nirayapālehi āharitvā niraye ṭhapito, evaṃ niraye ṭhapitoyeva, nāssa nirayūpapattiyā koci vibandho. Tatrāyaṃ yutti – nirayūpago ariyūpavādī tadādāyakassa avijahanato seyyathāpi micchādiṭṭhīti. Ettha ca ‘‘taṃ vācaṃ appahāyā’’ti evamādivacanena tadādāyakassa appahāneneva ariyūpavādo antarāyiko anatthāvahova, pahānena pana accayaṃ desetvā khamāpanena na antarāyiko anatthāvaho yathā taṃ vuṭṭhitā desitā ca āpattīti dasseti. Micchādiṭṭhivasena akattabbaṃ nāma pāpaṃ natthi, yato saṃsārakhāṇubhāvopi nāma hotīti āha ‘‘micchādiṭṭhiparamāni, bhikkhave, vajjānī’’ti.
Những người có cái thấy sai lầm là người có tà kiến. Những thứ cần phải chấp nhận là sự chấp thủ; những người có sự chấp thủ về nghiệp là những người có sự chấp thủ về nghiệp; những người có sự chấp thủ về nghiệp do tà kiến là người có sự chấp thủ về nghiệp theo tà kiến; hoặc, bao gồm cả ý nghĩa về nguyên nhân, những người khuyến khích người khác trong các nghiệp theo tà kiến là người có sự chấp thủ về nghiệp theo tà kiến. Để cho thấy ý nghĩa này, ngài nói “do tà kiến…” v.v… Cần phải liên kết rằng, những người… cho đến… khuyến khích, họ cũng là những người có sự chấp thủ về nghiệp theo tà kiến. Câu người có giới hạnh v.v… được nói theo phương diện của người đã chứng đắc đạo, có các căn đã thuần thục; còn đối với người đã ở trên đạo quả cao nhất, thì không cần phải nói gì nữa. Hoặc, cần phải hiểu rằng chính các phẩm chất như giới v.v… thuộc về đạo quả cao nhất đã được đề cập. Quả vậy, đối với người ở trên đạo quả cao nhất, sự chứng đắc trí tuệ giải thoát trong hiện tại là điều chắc chắn; đối với những người khác thì không chắc chắn. Điều khác: tức là đạo quả A-la-hán. Sự thành tựu này là như vậy: ở đây, sự thành tựu là sự viên mãn, là sự hoàn thành; có nghĩa là, sự hoàn thành không sai lệch này là như vậy; có nghĩa là, giống như điều đó là không thể tránh khỏi, điều này cũng vậy. Để cho thấy rằng, giống như quả phát sinh ngay sau đạo mà không sai lệch, sự tái sanh vào địa ngục của người này cũng xảy ra ngay sau khi chết mà không sai lệch. Quả vậy, trong toàn bộ lời Phật dạy, không có ví dụ nào được nói một cách mạnh mẽ hơn ví dụ này. Trong các câu không từ bỏ lời nói đó v.v… (ma. ni. aṭṭha. 1.149), nhắm đến sự phỉ báng bậc Thánh, người nói “tôi sẽ không nói lại lời nói như vậy nữa” được gọi là người từ bỏ lời nói; người nghĩ rằng “tôi sẽ không để tâm như vậy phát sinh nữa” được gọi là người từ bỏ tâm; người từ bỏ bằng cách “tôi sẽ không nắm giữ tà kiến như vậy nữa” được gọi là người từ bỏ tà kiến. Người không làm như vậy thì không từ bỏ cũng không xả ly. Giống như được mang đến và đặt vào địa ngục: tức là, giống như bị các cai ngục địa ngục mang đến và đặt vào địa ngục, người đó giống như đã được đặt vào địa ngục; không có gì cản trở sự tái sanh vào địa ngục của người đó. Lý lẽ ở đây là: người phỉ báng bậc Thánh sẽ phải đi đến địa ngục, do không từ bỏ hành vi đó, giống như người có tà kiến. Ở đây, qua các câu như “không từ bỏ lời nói đó” v.v…, cho thấy rằng, chính do không từ bỏ hành vi đó, sự phỉ báng bậc Thánh là một chướng ngại, chỉ mang lại điều bất hạnh; nhưng qua sự từ bỏ, bằng cách sám hối tội lỗi, nó không còn là chướng ngại, không mang lại điều bất hạnh, giống như một tội lỗi đã được phát lồ và sám hối. Không có một tội lỗi nào mà người có tà kiến lại không thể làm, đến mức có thể trở thành cọc nhọn của vòng sinh tử. Do đó, ngài nói “Này các Tỳ-khưu, các tội lỗi có tà kiến là tệ hại nhất”.

‘‘Ucchinnabhavanettiko, bhikkhave, tathāgatassa kāyo tiṭṭhati (dī. ni. 1. 147), ayañceva kāyo bahiddhā ca nāmarūpa’’nti ca evamādīsu viya idha kāya-saddo khandhapañcakavisayoti āha ‘‘kāyassa bhedāti upādinnakkhandhapariccāgā’’ti. Avītarāgassa maraṇato paraṃ nāma bhavantarūpādānamevāti āha ‘‘paraṃ maraṇāti tadanantaraṃ abhinibbattakkhandhaggahaṇe’’ti. Yena tiṭṭhati, tassa upacchedeneva kāyo bhijjatīti āha ‘‘kāyassa bhedāti jīvitindriyassa upacchedā’’ti. Eti imasmā sukhanti ayo, puññanti āha ‘‘puññasammatā ayā’’ti. Āyanti etasmā sukhānīti āyo, puññakammādīnaṃ sukhasādhanaṃ. Tenāha ‘‘sukhānaṃ vā āyassa abhāvā’’ti. Vivasāti kammassa vase vattanato attano vase vattituṃ na sakkontīti vigato vaso etesanti vivasā, avasavattinoti attho. Iyati assādīyatīti ayo, assādoti āha ‘‘assādasaññito ayo’’ti.
Giống như trong các câu “Này các Tỳ-khưu, dây dẫn đến sự tồn tại của Như Lai đã bị cắt đứt, thân này vẫn còn tồn tại” (dī. ni. 1. 147), và “thân này và cả danh sắc bên ngoài”, từ thân ở đây chỉ về năm uẩn. Do đó, ngài nói “sự tan rã của thân tức là sự từ bỏ các uẩn đã được chấp thủ”. Do đối với người chưa ly tham, sau khi chết chắc chắn sẽ có sự chấp thủ một kiếp sống khác, nên ngài nói “sau khi chết tức là trong sự nắm bắt các uẩn phát sinh ngay sau đó”. Do thân bị tan rã chính là do sự cắt đứt của cái mà nhờ đó nó tồn tại, nên ngài nói “sự tan rã của thân tức là sự cắt đứt của mạng căn”. Hạnh phúc đến từ nơi này, đó là ‘ayo’, là phước. Do đó, ngài nói “các cõi được xem là phước”. Hạnh phúc đến từ đây, đó là ‘āyo’, là sự tạo ra hạnh phúc của nghiệp phước v.v… Do đó, ngài nói “hoặc do không có sự tạo ra hạnh phúc”. Không tự chủ: do vận hành theo nghiệp, không thể tự điều khiển theo ý mình, nên không có sự tự chủ, tức là không tự chủ. Cái được thưởng thức là ‘ayo’, là sự khoái lạc. Do đó, ngài nói “được gọi là sự khoái lạc”.

Nāgarājādīnanti ādi-saddena supaṇṇādīnaṃ saṅgaho. Asurasadisanti petāsurasadisaṃ. So hīti so asurakāyo. Sabbasamussayehīti sabbehi sampattisamussayehi, sabbasampattirāsitoti vuttaṃ hoti. Vuttavipariyāyenāti ‘‘suṭṭhu caritaṃ, sobhanaṃ vā caritaṃ anavajjattāti sucarita’’ntiādinā kāyaduccaritenātiādīnaṃ padānaṃ vuttassa atthassa vipariyāyena. ‘‘Ito bho sugatiṃ gacchā’’ti (itivu. 83) vacanato manussagatipi sugatiyevāti āha ‘‘sugatiggahaṇena manussagatipi saṅgayhatī’’ti. Sesamettha vuttanayattā uttānatthato ca suviññeyyameva.
Của các vua rồng v.v…: qua từ v.v…, các loài như kim xí điểu v.v… được bao gồm. Giống như a-tu-la: tức là giống như các ngạ quỷ a-tu-la. : tức là thân a-tu-la đó. Bởi tất cả sự sung túc: tức là bởi tất cả sự sung túc về tài sản; có nghĩa là bởi tất cả các kho tàng tài sản. Bằng cách ngược lại với điều đã nói: tức là, bằng cách ngược lại với ý nghĩa đã được nói của các từ “thân ác hạnh” v.v…, như “hành vi được thực hiện tốt đẹp, hoặc hành vi tốt đẹp do không có tội lỗi, là thiện hạnh”. Theo câu “Này các vị, từ đây hãy đi đến thiện thú” (itivu. 83), cảnh giới loài người cũng là thiện thú. Do đó, ngài nói “qua việc đề cập đến thiện thú, cảnh giới loài người cũng được bao gồm”. Phần còn lại ở đây, do đã được giải thích theo cách đã nói và do có ý nghĩa rõ ràng, nên rất dễ hiểu.

Dibbacakkhuñāṇakathā niṭṭhitā.
Luận về Thiên Nhãn Trí kết thúc.

Āsavakkhayañāṇakathā
Luận về Lậu Tận Trí

14.Vipassanāpādakanti vipassanāya padaṭṭhānabhūtaṃ. Vipassanā ca tividhā vipassakapuggalabhedena. Mahābodhisattānañhi paccekabodhisattānañca cintāmayañāṇasaṃvaddhitattā sayambhūñāṇabhūtā, itaresaṃ sutamayañāṇasaṃvaddhitattā paropadesasambhūtā. Sā ‘‘ṭhapetvā nevasaññānāsaññāyatanaṃ avasesarūpārūpajjhānānaṃ aññatarato vuṭṭhāyā’’tiādinā anekadhā arūpamukhavasena catudhātuvavatthāne vuttānaṃ tesaṃ tesaṃ dhātupariggahamukhānaṃ aññataramukhavasena anekadhāva visuddhimagge nānānayato vibhāvitā. Mahābodhisattānaṃ pana catuvīsatikoṭisatasahassamukhena pabhedagamanato nānānayaṃ sabbaññutaññāṇasannissayassa ariyamaggañāṇassa adhiṭṭhānabhūtaṃ pubbabhāgañāṇagabbhaṃ gaṇhāpentaṃ paripākaṃ gacchantaṃ paramagambhīraṃ saṇhasukhumataraṃ anaññasādhāraṇaṃ vipassanāñāṇaṃ hoti. Yaṃ aṭṭhakathāsu mahāvajiraññāṇanti vuccati. Yassa ca pavattivibhāgena catuvīsatikoṭisatasahassapabhedassa pādakabhāvena samāpajjiyamānā catuvīsatikoṭisatasahassasaṅkhyā devasikaṃ satthu vaḷañjanakasamāpattiyo vuccanti, svāyaṃ buddhānaṃ vipassanācāro paramatthamañjusāyaṃ visuddhimaggavaṇṇanāyaṃ uddesato dassito, atthikehi tato gahetabbo.
14. Là nền tảng cho tuệ quán: tức là là cơ sở cho tuệ quán. Và tuệ quán có ba loại, tùy theo sự khác biệt của các hạng người tuệ quán. Đối với các vị Đại Bồ-tát và Độc Giác Phật, đó là trí tuệ tự mình phát sinh, do đã được phát triển bằng trí tuệ do tư duy tạo ra. Đối với những người khác, đó là trí tuệ phát sinh do sự chỉ dạy của người khác, do đã được phát triển bằng trí tuệ do văn tạo ra. Tuệ quán đó đã được giải thích bằng nhiều cách theo nhiều phương pháp trong sách Thanh Tịnh Đạo, như sau khi đã xuất khỏi một trong các tầng thiền sắc giới và vô sắc giới, trừ Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, rồi bắt đầu bằng một trong các phương pháp nắm bắt các đại, vốn đã được nói đến trong phần phân tích về bốn đại theo phương pháp vô sắc. Tuy nhiên, đối với các vị Đại Bồ-tát, trí tuệ tuệ quán là một pháp vô cùng sâu sắc, vi tế hơn, không chung cho ai khác, nó phát triển đến mức chín muồi, mang trong mình mầm mống của trí tuệ thuộc về giai đoạn đầu, vốn là nền tảng cho trí tuệ Thánh đạo, là nơi nương tựa cho Nhất thiết trí, và có sự phân chia theo 24 trăm nghìn ức phương pháp. Trí tuệ đó được gọi là trí tuệ kim cương vĩ đại trong các sách chú giải. Và các tầng thiền mà Bậc Đạo Sư thường xuyên chứng đắc hằng ngày, có số lượng là 24 trăm nghìn ức, được gọi như vậy do chúng có vai trò là nền tảng cho trí tuệ có 24 trăm nghìn ức sự phân chia theo sự vận hành của nó. Cách tu tập tuệ quán đó của các vị Phật đã được trình bày một cách tóm tắt trong sách chú giải Thanh Tịnh Đạo tên là Paramatthamañjusā; những ai quan tâm có thể tìm hiểu từ đó.

Āsavānaṃ khepanato samucchindanato āsavakkhayo ariyamaggo, ukkaṭṭhaniddesavasena arahattamaggaggahaṇaṃ. Āsavānaṃ khaye ñāṇaṃ āsavakkhayañāṇanti dassento ‘‘tatra cetaṃ ñāṇa’’nti vatvā khayeti ca ādhāre bhummaṃ, na visayeti dassento ‘‘tappariyāpannattā’’ti āha. Idaṃ dukkhanti dukkhassa ariyasaccassa tadā paccakkhato gahitabhāvadassanaṃ. Ettakaṃ dukkhanti tassa paricchijja gahitabhāvadassanaṃ. Na ito bhiyyoti anavasesetvā gahitabhāvadassanaṃ. Tenāha ‘‘sabbampi dukkhasacca’’ntiādi. Sarasalakkhaṇapaṭivedhenāti sabhāvasaṅkhātassa lakkhaṇassa asammohato paṭivijjhanena. Asammohapaṭivedhoti ca yathā tasmiṃ ñāṇe pavatte pacchā dukkhassa sarūpādiparicchede sammoho na hoti, tathā pavatti. Tenāha ‘‘yathābhūtaṃ abbhaññāsi’’nti. Nibbattikanti nipphādentaṃ. Yaṃ ṭhānaṃ patvāti yaṃ nibbānaṃ maggassa ārammaṇapaccayaṭṭhena kāraṇabhūtaṃ āgamma. Tadubhayavato hi puggalassa patti tadubhayassa pattīti vuttaṃ. Patvāti vā pāpuṇanahetu. Appavattinti appavattinimittaṃ. Te vā na pavattanti etthāti appavatti, nibbānaṃ. Tassāti dukkhanirodhassa. Sampāpakanti sacchikiriyāvasena sammadeva pāpakaṃ.
Sự đoạn tận các lậu hoặc do sự tiêu diệt, sự cắt đứt, là sự đoạn tận các lậu hoặc, đó là Thánh đạo; theo cách trình bày cao nhất, đó là đạo quả A-la-hán. Để cho thấy rằng trí tuệ trong sự đoạn tận các lậu hoặc là trí tuệ đoạn tận các lậu hoặc, sau khi nói “và trí tuệ này ở đó”, và để cho thấy rằng từ trong sự đoạn tận là từ chỉ nơi chốn theo nghĩa là nền tảng, chứ không phải là đối tượng, ngài nói “do thuộc về nó”. Đây là khổ: cho thấy rằng chân lý về khổ đã được chứng nghiệm trực tiếp vào lúc đó. Chừng này là khổ: cho thấy rằng nó đã được nắm bắt một cách có giới hạn. Không có gì hơn thế này: cho thấy rằng nó đã được nắm bắt một cách không còn sót lại. Do đó, ngài nói “tất cả chân lý về khổ” v.v… Bằng sự thâm nhập đặc tính của nó: tức là bằng sự thâm nhập một cách không sai lầm đặc tính, vốn là bản chất của nó. Và sự thâm nhập không sai lầm là sự vận hành theo cách mà sau khi trí tuệ đó vận hành, không còn có sự sai lầm nào trong việc xác định bản chất v.v… của khổ. Do đó, ngài nói “đã biết đúng như thật”. Tạo ra: tức là làm cho phát sinh. Sau khi đã đạt đến nơi nào: tức là sau khi đã nương vào Niết-bàn nào, vốn là nguyên nhân theo nghĩa là duyên đối tượng của đạo. Quả vậy, sự đạt được của người có cả hai được gọi là sự đạt được của cả hai. Hoặc, sau khi đã đạt đến là nguyên nhân của sự đạt đến. Sự không vận hành: tức là dấu hiệu của sự không vận hành. Hoặc, chúng không vận hành ở đó, nên là sự không vận hành, tức là Niết-bàn. Của nó: tức là của sự diệt khổ. Làm cho đạt đến: tức là làm cho đạt đến một cách đúng đắn qua việc chứng ngộ.

Kilesavasenāti āsavasaṅkhātakilesavasena. Yasmā āsavānaṃ dukkhasaccapariyāyo, tappariyāpannattā, sesasaccānañca taṃsamudayādipariyāyo atthi, tasmā vuttaṃ ‘‘pariyāyato’’ti. Dassento saccānīti yojanā. Āsavānaṃyeva cettha gahaṇaṃ ‘‘āsavānaṃ khayañāṇāyā’’ti āraddhattā. Tathā hi āsavavimuttisīseneva sabbasaṃkilesavimutti vuttā. Idaṃ dukkhanti yathābhūtaṃ abbhaññāsintiādinā missakamaggo idha kathitoti ‘‘saha vipassanāya koṭippattaṃ maggaṃ kathetī’’ti vuttaṃ. Ettha ca saccappaṭivedhassa tadā atītakālikattā ‘‘yathābhūtaṃ abbhaññāsi’’nti vatvāpi abhisamayakāle tassa paccuppannataṃ upādāya ‘‘evaṃ jānato evaṃ passato’’ti vattamānakālena niddeso kato. So ca kāmaṃ maggakkhaṇato paraṃ yāvajjatanā atītakāliko eva, sabbapaṭhamaṃ panassa atītakālikattaṃ phalakkhaṇeneva veditabbanti āha ‘‘vimuccitthāti iminā phalakkhaṇaṃ dassetī’’ti. Jānato passatoti vā hetuniddesoyaṃ. Jānanahetu dassanahetu kāmāsavāpi cittaṃ vimuccitthāti yojanā. Bhavāsavaggahaṇeneva cettha bhavarāgassa viya bhavadiṭṭhiyāpi samavarodhoti diṭṭhāsavassapi saṅgaho daṭṭhabbo.
Do các phiền não: tức là do các phiền não được gọi là các lậu hoặc. Bởi vì các lậu hoặc là một cách nói gián tiếp về chân lý khổ, do thuộc về nó, và các chân lý còn lại cũng có cách nói gián tiếp là sự tập khởi của nó v.v…, do đó, mới nói “một cách gián tiếp”. Cần liên kết với câu: trong khi trình bày các chân lý. Ở đây, chỉ có các lậu hoặc được đề cập, vì đã bắt đầu bằng câu “đối với trí tuệ về sự đoạn tận các lậu hoặc”. Quả vậy, sự giải thoát khỏi tất cả các pháp ô nhiễm đã được nói đến qua sự giải thoát khỏi các lậu hoặc làm đầu. Do ở đây, đạo hỗn hợp đã được nói đến qua các câu như “đã biết đúng như thật rằng đây là khổ” v.v…, nên mới nói “nói về đạo đã đạt đến đỉnh điểm cùng với tuệ quán”. Ở đây, do sự thâm nhập các chân lý vào lúc đó đã là quá khứ, nên mặc dù nói “đã biết đúng như thật”, nhưng do nó là hiện tại vào lúc chứng ngộ, nên đã được trình bày bằng thì hiện tại “đối với người đang biết như vậy, đang thấy như vậy”. Và mặc dù, kể từ sau khoảnh khắc của đạo, cho đến ngày nay, nó đã là quá khứ, nhưng lần đầu tiên nó trở thành quá khứ là chính tại khoảnh khắc của quả. Do đó, ngài nói “qua từ ‘đã được giải thoát’, ngài cho thấy khoảnh khắc của quả”. Hoặc, của người đang biết, đang thấy là cách trình bày về nguyên nhân. Cần liên kết rằng, do nguyên nhân là sự biết, nguyên nhân là sự thấy, nên tâm đã được giải thoát khỏi cả dục lậu. Do việc đề cập đến hữu lậu cũng đã bao hàm cả hữu tham và hữu kiến, nên cần phải hiểu rằng kiến lậu cũng đã được bao gồm.

Yasmā pahīnakilesapaccavekkhaṇena vijjamānassapi kammassa āyatiṃ appaṭisandhikabhāvato ‘‘khīṇā jātī’’ti jānāti, yasmā ca maggapaccavekkhaṇādīhi vusitaṃ brahmacariyantiādiṃ pajānāti, tasmā vuttaṃ ‘‘khīṇā jātīti ādīhi tassa bhūmi’’nti. Tattha tassāti paccavekkhaṇañāṇassa. Bhūminti pavattiṭṭhānaṃ. Yenādhippāyena ‘‘katamā panā’’tiādinā codanā katā, taṃ pakāsetvā parihāraṃ vattukāmo āha ‘‘na tāvassā’’tiādi. Na tāvassa atītā jāti khīṇāti maggabhāvanāya na khīṇāti adhippāyo. Tattha kāraṇamāha ‘‘pubbeva khīṇattā’’ti. Na anāgatā assa jāti khīṇāti yojanā. Na anāgatāti ca anāgatattasāmaññaṃ gahetvā lesena vadati. Tenāha ‘‘anāgate vāyāmābhāvato’’ti. Vijjamāneyeva hi payogo sambhavati, nāvijjamāneti adhippāyo. Anāgataviseso panettha adhippeto, tassa ca khepane vāyāmopi labbhateva. Tenāha ‘‘yā pana maggassā’’tiādi. ‘‘Yā panā’’ti hi ādinā maggabhāvanāya anāgatajātiyā eva hetuvināsanadvārena khīṇabhāvo pakāsīyati. Ekacatupañcavokārabhavesūti bhavattayaggahaṇaṃ vuttanayena anavasesato jātiyā khīṇabhāvadassanatthaṃ. Tanti yathāvuttajātiṃ. Soti bhagavā.
Bởi vì, qua sự xem xét lại các phiền não đã được đoạn trừ, vị ấy biết rằng “sanh đã tận” do nghiệp hiện có sẽ không còn tái sanh trong tương lai; và bởi vì, qua sự xem xét lại đạo v.v…, vị ấy biết rõ rằng “phạm hạnh đã hoàn thành” v.v…, do đó, mới nói “đây là nền tảng của nó, qua các câu ‘sanh đã tận’ v.v…”. Ở đó, của nó tức là của trí tuệ xem xét lại. Nền tảng tức là nơi vận hành. Để làm rõ và giải đáp câu hỏi đã được đặt ra bằng các câu “nhưng đó là gì…” v.v…, ngài nói “trước hết, đối với vị ấy…” v.v… Trước hết, sanh trong quá khứ của vị ấy chưa tận: chủ ý là, chưa tận do sự tu tập đạo. Ở đó, ngài nói ra lý do: “vì đã tận từ trước”. Cần liên kết rằng, sanh trong tương lai của vị ấy chưa tận. Và chưa phải là tương lai là ngài nói một cách khéo léo, bằng cách đề cập đến tương lai một cách chung chung. Do đó, ngài nói “vì không có sự nỗ lực trong tương lai”. Chủ ý là, sự nỗ lực chỉ có thể có đối với cái đang tồn tại, chứ không phải cái chưa tồn tại. Tương lai đặc biệt được nhắm đến ở đây, và sự nỗ lực để tiêu diệt nó cũng có thể có được. Do đó, ngài nói “còn cái nào của đạo…” v.v… Quả vậy, qua các câu bắt đầu bằng “còn cái nào…”, trạng thái đã tận của sanh trong tương lai do sự tu tập đạo qua việc phá hủy nguyên nhân đã được trình bày. Trong các cõi một, bốn, và năm uẩn: việc đề cập đến ba cõi là để cho thấy trạng thái đã tận của sanh một cách không còn sót lại, theo cách đã nói. : tức là sự sanh đã được nói đến đó. Vị ấy: tức là Đức Thế Tôn.

Brahmacariyavāso nāma idha maggabrahmacariyassa nibbattanamevāti āha ‘‘niṭṭhita’’nti. Sammādiṭṭhiyā catūsu saccesu pariññādikiccasādhanavasena pavattamānāya sammāsaṅkappādīnampi dukkhasacce pariññābhisamayānuguṇā pavatti, itarasaccesu ca nesaṃ pahānābhisamayādivasena pavatti pākaṭā eva. Tena vuttaṃ ‘‘catūhi maggehi pariññāpahānasacchikiriyābhāvanābhisamayavasenā’’ti. Nāparaṃ itthattāyāti ime pakārā itthaṃ, tabbhāvo itthattaṃ, tadatthanti vuttaṃ hoti. Te pana pakārā ariyamaggabyāpārabhūtā pariññādayo idhādhippetāti āha ‘‘evaṃsoḷasakiccabhāvāyā’’ti. Te hi maggaṃ paccavekkhato maggānubhāvena pākaṭā hutvā upaṭṭhahanti , pariññādīsu ca pahānameva padhānaṃ, tadatthattāya itaresanti āha ‘‘kilesakkhayāya vā’’ti. Pahīnakilesapaccavekkhaṇavasena vā etaṃ vuttaṃ. ‘‘Nāparaṃ itthattāyāti abbhaññāsi’’nti etthāyamaparo nayo – itthattāyāti nissakke sampadānavacanaṃ. Tenāyamattho – itthattāya itthambhāvato imasmā evaṃpakārā idāni vattamānakkhandhasantānā aparaṃ anāgatakkhandhasantānaṃ mayhaṃ natthi, ime pana carimattabhāvasaṅkhātā pañcakkhandhā pariññātā appatiṭṭhā tiṭṭhanti chinnamūlakā rukkhā viya. Apariññātamūlakā hi patiṭṭhā. Yathāha ‘‘kabaḷīkāre ce, bhikkhave, āhāre atthi rāgo atthi nandī atthi taṇhā, patiṭṭhitaṃ tattha viññāṇaṃ viruḷha’’ntiādi (saṃ. ni. 2.64; kathā. 296; mahāni. 7). Te pana pañcakkhandhā carimakaviññāṇanirodhena anupādāno viya jātavedo nibbāyissantīti abbhaññāsinti.
Sự an trú trong phạm hạnh ở đây chính là sự hoàn thành phạm hạnh của đạo. Do đó, ngài nói “đã hoàn thành”. Do chánh kiến vận hành theo cách hoàn thành các nhiệm vụ như liễu tri v.v… đối với bốn chân lý, nên sự vận hành của chánh tư duy v.v… phù hợp với sự liễu tri khổ đế, và sự vận hành của chúng theo cách từ bỏ, chứng ngộ v.v… đối với các chân lý còn lại là điều đã rõ ràng. Do đó, mới nói “theo bốn đạo, qua sự liễu tri, từ bỏ, chứng ngộ, và tu tập”. Không còn gì khác cho trạng thái này: có nghĩa là, các phương cách này là như vậy, trạng thái của chúng là như vậy, vì mục đích đó. Và các phương cách đó, vốn là hoạt động của Thánh đạo, là sự liễu tri v.v…, được nhắm đến ở đây. Do đó, ngài nói “vì trạng thái có mười sáu nhiệm vụ như vậy”. Quả vậy, chúng, khi được xem xét lại từ đạo, hiện khởi một cách rõ ràng do năng lực của đạo. Và trong các nhiệm vụ như liễu tri v.v…, sự từ bỏ là quan trọng nhất; các nhiệm vụ khác là vì mục đích đó. Do đó, ngài nói “hoặc để đoạn tận các phiền não”. Hoặc điều này được nói theo phương diện xem xét lại các phiền não đã được đoạn trừ. Trong câu “đã biết rõ rằng ‘không còn gì khác cho trạng thái này’”, đây là một cách giải thích khác: cho trạng thái này là cách nói chỉ sự cho đi trong trường hợp không thể cho được. Qua đó, ý nghĩa là: cho trạng thái này, từ trạng thái này, từ loại này, từ dòng tương tục của các uẩn đang tồn tại hiện nay, đối với tôi, không còn có một dòng tương tục của các uẩn nào khác trong tương lai. Nhưng năm uẩn này, được gọi là kiếp sống cuối cùng, đã được liễu tri, không còn nơi nương tựa, tồn tại giống như những cái cây đã bị chặt gốc. Quả vậy, những cái có gốc rễ chưa được liễu tri mới có nơi nương tựa. Như đã nói: “Này các Tỳ-khưu, nếu có tham, có hỷ, có ái đối với vật thực đoàn thực, thì thức có nơi nương tựa và tăng trưởng ở đó” v.v… (saṃ. ni. 2.64; kathā. 296; mahāni. 7). Và năm uẩn đó, cùng với sự diệt của thức cuối cùng, sẽ bị dập tắt giống như ngọn lửa không còn nhiên liệu; ngài đã biết rõ như vậy.

Paccavekkhaṇañāṇapariggahitanti na paṭhamadutiyañāṇadvayādhigamaṃ viya kevalanti adhippāyo. Dassentoti nigamanavasena dassento. Sarūpato hi pubbe dassitamevāti. Sesamettha vuttanayattā suviññeyyameva.
Được trí tuệ xem xét lại nâng đỡ: chủ ý là, không chỉ đơn thuần là sự chứng đắc của hai trí tuệ đầu tiên và thứ hai. Trong khi trình bày: tức là trong khi trình bày theo cách kết luận. Quả vậy, về bản chất, nó đã được trình bày trước đó. Phần còn lại ở đây, do đã được giải thích theo cách đã nói, nên rất dễ hiểu.

Tikkhattuṃ jātoti iminā pana idaṃ dasseti ‘‘ahaṃ, brāhmaṇa, paṭhamavijjāya jātoyeva purejātassa sahajātassa vā abhāvato sabbesaṃ vuḍḍho mahallako, kimaṅgaṃ pana tīhi vijjāhi tikkhattuṃ jātoti. Pubbenivāsañāṇena atītaṃsañāṇanti atītārammaṇasabhāgatāya tabbhāvībhāvato ca pubbenivāsañāṇena atītaṃsañāṇaṃ pakāsetvāti yojetabbaṃ. Tattha atītaṃsañāṇanti atītakkhandhāyatanadhātusaṅkhāte atītakoṭṭhāse appaṭihatañāṇaṃ. Dibbacakkhuñāṇassa paccuppannārammaṇattā yathākammūpagañāṇassa anāgataṃsañāṇassa ca dibbacakkhuvaseneva ijjhanato dibbacakkhuno paribhaṇḍañāṇattā dibbacakkhumhiyeva ca ṭhitassa cetopariyañāṇasiddhito vuttaṃ ‘‘dibbacakkhunā paccuppannānāgataṃsañāṇa’’nti. Tattha dibbacakkhunāti saparibhaṇḍena dibbacakkhuñāṇena. Paccuppannaṃso ca anāgataṃso ca paccuppannānāgataṃsaṃ, tattha ñāṇaṃ paccuppannānāgataṃsañāṇaṃ. Āsavakkhayañāṇādhigameneva sabbaññutaññāṇassa viya sesāsādhāraṇañāṇadasabalañāṇaāveṇikabuddhadhammādīnampi anaññasādhāraṇānaṃ buddhaguṇānaṃ ijjhanato vuttaṃ ‘‘āsavakkhayena sakalalokiyalokuttaraguṇa’’nti. Tenāha ‘‘sabbepi sabbaññuguṇe pakāsetvā’’ti.
Qua câu được sinh ra ba lần, ngài cho thấy điều này: “Này Bà-la-môn, Ta, chỉ cần được sinh ra với minh thứ nhất, đã là bậc trưởng thượng, bậc cao cả nhất trong tất cả, vì không có ai sinh ra trước hoặc cùng lúc. Huống chi Ta lại được sinh ra đến ba lần với ba minh. Cần phải liên kết rằng, trí tuệ về quá khứ qua trí tuệ túc mạng, tức là sau khi đã làm sáng tỏ trí tuệ về quá khứ qua trí tuệ túc mạng, do nó có quá khứ làm đối tượng và do làm cho trạng thái đó trở nên rõ ràng. Ở đó, trí tuệ về quá khứ là trí tuệ không bị ngăn ngại trong các phần quá khứ, được gọi là các uẩn, xứ, và giới trong quá khứ. Do thiên nhãn có hiện tại làm đối tượng, và do trí tuệ biết nghiệp của chúng sanh và trí tuệ biết về vị lai chỉ thành tựu nhờ thiên nhãn, nên chúng là trí tuệ phụ thuộc của thiên nhãn; và do tha tâm trí thành tựu khi đã an trú trong thiên nhãn, nên mới nói “trí tuệ về hiện tại và vị lai qua thiên nhãn”. Ở đó, bằng thiên nhãn: tức là bằng trí tuệ thiên nhãn cùng với các trí tuệ phụ thuộc của nó. Phần hiện tại và phần vị lai là hiện tại và vị lai; trí tuệ về chúng là trí tuệ về hiện tại và vị lai. Do chính sự chứng đắc trí tuệ đoạn tận các lậu hoặc mà tất cả các phẩm chất độc đáo khác của một vị Phật, như Nhất thiết trí, mười lực, và các Phật pháp bất cộng v.v…, cũng được thành tựu, nên mới nói “tất cả các phẩm chất thế gian và siêu thế qua sự đoạn tận các lậu hoặc”. Do đó, ngài nói “sau khi đã làm sáng tỏ tất cả các phẩm chất của một bậc Toàn Giác”.

Āsavakkhayañāṇakathā niṭṭhitā.
Luận về Lậu Tận Trí kết thúc.

Desanānumodanakathā
Luận về sự Tùy hỷ và Thuyết giảng

15.Pītivipphāraparipuṇṇagattacittoti pītipharaṇena paripuṇṇakāyacitto. Aññāṇanti aññāṇassāti attho. Dhīsaddassa yogato hi sāmiatthe etaṃ upayogavacanaṃ. Abhikkantāti ettha atikkantā, vigatāti atthoti āha ‘‘khaye dissatī’’ti. Teneva hi ‘‘nikkhanto paṭhamo yāmo’’ti vuttaṃ. Abhikkantataro cāti ativiya kantataro manoramo, tādiso ca sundaro bhaddako nāma hotīti āha ‘‘sundare dissatī’’ti. Koti devanāgayakkhagandhabbādīsu ko katamo. Meti mama. Pādānīti pāde. Iddhiyāti imāya evarūpāya deviddhiyā. Yasasāti iminā edisena parivārena paricchedena. Jalanti vijjotamāno. Abhikkantenāti ativiya kantena kamanīyena abhirūpena. Vaṇṇenāti chavivaṇṇena sarīravaṇṇanibhāya. Sabbā obhāsayaṃ disāti dasapi disā pabhāsento cando viya sūriyo viya ca ekobhāsaṃ ekālokaṃ karontoti gāthāya attho. Abhirūpeti uḷārarūpe sampannarūpe.
15. Có thân và tâm tràn đầy sự lan tỏa của hỷ: tức là có thân và tâm tràn đầy do sự thấm nhuần của hỷ. Của sự không biết: có nghĩa là, của sự vô minh. Do đi với từ ‘dhī’ (trí tuệ), nên đây là từ chỉ sở hữu được dùng với nghĩa chỉ đối tượng. Trong câu abhikkantā, có nghĩa là đã qua, đã trôi qua. Do đó, ngài nói “được thấy với nghĩa là đã tận”. Và cũng vì thế, mới có câu “canh một đã qua”. Và vô cùng vi diệu: tức là vô cùng đáng ưa thích, đẹp lòng; và cái như vậy được gọi là tốt đẹp, thiện lành. Do đó, ngài nói “được thấy với nghĩa là tốt đẹp”. Ai: tức là, trong số các vị trời, rồng, dạ xoa, càn-thát-bà v.v…, là vị nào? Của tôi. Các bàn chân. Bằng thần thông: tức là bằng thần thông của chư thiên như thế này. Bằng uy danh: tức là bằng đoàn tùy tùng, bằng sự giới hạn như thế này. Tỏa sáng: tức là đang chiếu rọi. Với vẻ đẹp: tức là với vẻ đẹp vô cùng đáng ưa thích, đáng chiêm ngưỡng. Sắc đẹp: tức là với màu da, với ánh sáng của màu da trên cơ thể. Soi sáng khắp các phương: ý nghĩa của bài kệ là, đang làm cho mười phương trở thành một vùng sáng, một vùng ánh sáng, giống như mặt trăng, giống như mặt trời. Trong các sắc đẹp: tức là trong các sắc pháp cao quý, các sắc pháp toàn hảo.

Abhikkantaṃ bho gotama, abhikkantaṃ bho gotamāti vacanadvayassa ‘‘sādhu sādhu bho gotamā’’ti āmeḍitavasena atthaṃ dassetvā tassa visayaṃ niddhārento āha ‘‘bhaye kodhe’’tiādi. Tattha ‘‘coro coro, sappo sappo’’tiādīsu bhaye āmeḍitaṃ. ‘‘Vijjha vijjha, pahara paharā’’tiādīsu kodhe. ‘‘Sādhu sādhū’’tiādīsu pasaṃsāyaṃ. ‘‘Gaccha gaccha, lunāhi lunāhī’’tiādīsu turite. ‘‘Āgaccha āgacchā’’tiādīsu kotūhale. ‘‘Buddho buddhoti cintento’’tiādīsu (bu. vaṃ. 2.44) acchare. ‘‘Abhikkamathāyasmanto, abhikkamathāyasmanto’’tiādīsu (dī. ni. 3.20; a. ni. 9.11) hāse. ‘‘Kahaṃ ekaputtaka, kahaṃ ekaputtakā’’tiādīsu soke. ‘‘Aho sukhaṃ, aho sukha’’ntiādīsu (udā. 20; cūḷava. 332) pasādeCa-saddo avuttasamuccayattho . Tena garahaasammānādīnaṃ saṅgaho daṭṭhabbo. Tattha ‘‘pāpo pāpo’’tiādīsu garahāyaṃ. ‘‘Abhirūpaka abhirūpakā’’tiādīsu asammāne daṭṭhabbaṃ.
Sau khi đã trình bày ý nghĩa của hai câu “vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama, vi diệu thay, thưa Tôn giả Gotama” theo cách lặp lại từ “lành thay, lành thay, thưa Tôn giả Gotama”, để xác định đối tượng của nó, ngài nói “trong sự sợ hãi, trong sự tức giận” v.v… Ở đó, sự lặp lại từ được thấy trong sự sợ hãi, như trong câu “trộm, trộm; rắn, rắn” v.v…; trong sự tức giận, như trong câu “đâm, đâm; đánh, đánh” v.v…; trong sự tán thán, như trong câu “lành thay, lành thay” v.v…; trong sự vội vã, như trong câu “đi, đi; cắt, cắt” v.v…; trong sự tò mò, như trong câu “đến đây, đến đây” v.v…; trong sự kinh ngạc, như trong câu “nghĩ rằng, Phật, Phật” v.v… (bu. vaṃ. 2.44); trong sự vui mừng, như trong câu “tiến lên, thưa các hiền giả, tiến lên, thưa các hiền giả” v.v… (dī. ni. 3.20; a. ni. 9.11); trong sự sầu muộn, như trong câu “đứa con độc nhất của ta đâu, đứa con độc nhất của ta đâu” v.v…; trong sự hoan hỷ, như trong câu “ôi, sung sướng quá, ôi, sung sướng quá” v.v… (udā. 20; cūḷava. 332). Từ có ý nghĩa là tổng hợp những điều chưa được nói đến. Qua đó, cần phải hiểu là sự bao gồm cả sự chỉ trích, sự không tôn trọng v.v… Ở đó, cần phải thấy trong sự chỉ trích, như trong câu “kẻ ác, kẻ ác” v.v…; trong sự không tôn trọng, như trong câu “này anh chàng đẹp mã, này anh chàng đẹp mã” v.v…

Nayidaṃ āmeḍitavasena dvikkhattuṃ vuttaṃ, atha kho atthadvayavasenāti dassento ‘‘atha vā’’tiādimāha. Abhikkantanti vacanaṃ apekkhitvā napuṃsakaliṅgavasena vuttaṃ. Taṃ pana bhagavato vacanaṃ dhammassa desanāti katvā vuttaṃ ‘‘yadidaṃ bhoto gotamassa dhammadesanā’’ti. Atthamattadassanaṃ vā etaṃ, tasmā atthavasena liṅgavibhattivipariṇāmo veditabbo. Dutiyapadepi eseva nayo. Dosanāsanatoti rāgādikilesaviddhaṃsanato. Guṇādhigamanatoti sīlādiguṇānaṃ sampāpanato. Ye guṇe desanā adhigameti, tesu padhānabhūtā guṇā dassetabbāti te padhānabhūte guṇe tāva dassetuṃ ‘‘saddhājananato paññājananato’’ti vuttaṃ. Saddhāpamukhā hi lokiyā guṇā, paññāpamukhā lokuttarā. Sātthatotiādīsu sīlādiatthasampattiyā sātthato, sabhāvaniruttisampattiyā sabyañjanato. Suviññeyyasaddappayogatāya uttānapadato, saṇhasukhumabhāvena duviññeyyatthatāya gambhīratthato. Siniddhamudumadhurasaddappayogatāya kaṇṇasukhato, vipulavisuddhapemanīyatthatāya hadayaṅgamato. Mānātimānavidhamanena anattukkaṃsanato, thambhasārambhanimmaddanena aparavambhanato. Hitādhippāyappavattiyā paresaṃ rāgapariḷāhādivūpasamanena karuṇāsītalato, kilesandhakāravidhamanena paññāvadātato. Karavīkarutamañjutāya āpātharamaṇīyato, pubbāparāviruddhasuvisuddhatthatāya vimaddakkhamato. Āpātharamaṇīyatāya eva suyyamānasukhato, vimaddakkhamatāya hitajjhāsayappavattitāya ca vīmaṃsiyamānahitatoti evamattho veditabbo. Evamādīhīti ādi-saddena saṃsāracakkanivattanato, saddhammacakkappavattanato, micchāvādavidhamanato, sammāvādapatiṭṭhāpanato, akusalamūlasamuddharaṇato, kusalamūlasaṃropanato, apāyadvārapidhānato, saggamaggadvāravivaraṇato, pariyuṭṭhānavūpasamanato, anusayasamugghātanatoti evamādīnaṃ saṅgaho daṭṭhabbo.
Để cho thấy rằng điều này không phải được nói hai lần theo cách lặp lại từ, mà là theo hai ý nghĩa khác nhau, ngài nói “Hoặc là…” v.v… Từ vi diệu thay được nói theo giống trung, nhắm đến lời nói. Và vì lời nói của Đức Thế Tôn là sự thuyết giảng về chánh pháp, nên mới nói “đó là bài thuyết giảng về chánh pháp của Tôn giả Gotama”. Hoặc đây chỉ là sự trình bày về ý nghĩa, do đó cần phải hiểu rằng có sự thay đổi về giống và cách của từ theo ý nghĩa. Đối với vế thứ hai, cũng theo cách này. Do tiêu diệt các lỗi lầm: tức là do phá tan các phiền não như tham ái v.v… Do đạt được các đức hạnh: tức là do làm cho thành tựu các đức hạnh như giới v.v… Cần phải trình bày các đức hạnh chủ yếu mà bài thuyết giảng làm cho đạt được. Để trình bày các đức hạnh chủ yếu đó, trước hết ngài nói “do làm phát sinh đức tin, do làm phát sinh trí tuệ”. Quả vậy, các đức hạnh thế gian có đức tin làm đầu, các đức hạnh siêu thế có trí tuệ làm đầu. Trong câu do có ý nghĩa v.v…, cần phải hiểu ý nghĩa như sau: do có ý nghĩa vì có sự thành tựu về ý nghĩa của giới v.v…; do có văn cú vì có sự thành tựu về ngôn ngữ tự nhiên; do có từ ngữ rõ ràng vì sử dụng các từ ngữ dễ hiểu; do có ý nghĩa sâu sắc vì có ý nghĩa khó nhận biết do bản chất vi tế, sâu xa; do dễ nghe vì sử dụng các từ ngữ êm dịu, mềm mại, ngọt ngào; do đi vào lòng người vì có ý nghĩa bao la, trong sạch, và đáng yêu mến; do không tự đề cao vì dẹp tan ngã mạn và quá mạn; do không chê bai người khác vì dẹp tan sự cứng nhắc và tranh cãi; do mát mẻ với lòng bi vì vận hành với chủ ý mang lại lợi ích, làm lắng dịu sự thiêu đốt của tham ái v.v… của người khác; do trong sáng với trí tuệ vì xua tan bóng tối của phiền não; do thú vị ngay khi nghe vì có sự ngọt ngào như tiếng chim karavīka; do chịu được sự suy xét vì có ý nghĩa trong sạch, không mâu thuẫn trước sau; do dễ chịu khi nghe chính là vì thú vị ngay khi nghe; do có lợi ích khi suy ngẫm chính là vì chịu được sự suy xét và vì vận hành với chủ ý mang lại lợi ích. Bởi những điều như vậy v.v…: qua từ v.v…, cần phải hiểu là sự bao gồm các ý nghĩa như: do làm dừng lại bánh xe sinh tử, do làm vận hành bánh xe chánh pháp, do phá tan tà kiến, do thiết lập chánh kiến, do nhổ bật gốc rễ bất thiện, do gieo trồng gốc rễ thiện, do đóng lại cánh cửa ác đạo, do mở ra cánh cửa cõi trời và đạo quả, do làm lắng dịu các phiền não tiềm ẩn, do nhổ bật các tùy miên.

Adhomukhaṭhapitanti kenaci adhomukhaṃ ṭhapitaṃ. Heṭṭhāmukhajātanti sabhāveneva heṭṭhāmukhaṃ jātaṃ. Ugghāṭeyyāti vivaṭaṃ kareyya. Hatthegahetvāti ‘‘puratthābhimukho uttarābhimukho vā gacchā’’tiādīni avatvā hatthe gahetvā ‘‘nissandehaṃ esa maggo, evaṃ gacchā’’ti dasseyya. Kāḷapakkhacātuddasīti kāḷapakkhe cātuddasī kāḷapakkhacātuddasī. Nikkujjitaṃ ukkujjeyyāti ādheyyassa anādhārabhūtaṃ bhājanaṃ ādhārabhāvāpādanavasena ukkujjeyya. Heṭṭhāmukhajātatāya saddhammavimukhaṃ adhomukhaṭhapitatāya asaddhamme patiṭṭhitanti evaṃ padadvayaṃ yathārahaṃ yojetabbaṃ, na yathāsaṅkhyaṃ. Kāmaṃ kāmacchandādayopi paṭicchādakā nīvaraṇabhāvato, micchādiṭṭhi pana savisesaṃ paṭicchādikā satte micchābhinivesanenāti āha ‘‘micchādiṭṭhigahanapaṭicchanna’’nti. Tenāha bhagavā – ‘‘micchādiṭṭhiparamāhaṃ, bhikkhave, vajjaṃ vadāmī’’ti. Sabbo apāyagāmimaggo kummaggo kucchito maggoti katvā, sammādiṭṭhiādīnaṃ ujupaṭipakkhatāya micchādiṭṭhiādayo aṭṭha micchattadhammā micchāmaggo. Teneva hi tadubhayapaṭipakkhataṃ sandhāya ‘‘saggamokkhamaggaṃ ācikkhantenā’’ti vuttaṃ. Sappiādisannissayo padīpo na tathā, ujjalo yathā telasannissayoti telapajjotaggahaṇaṃ. Etehi pariyāyehīti etehi nikkujjitukkujjanapaṭicchannavivaraṇādiupamopamitabbappakārehi, etehi vā yathāvuttehi arasarūpatādīnaṃ attani aññathā paṭipādanapariyāyehi attano dibbavihāravibhāvanapariyāyehi vijjattayavibhāvanāpadesena attano sabbaññuguṇavibhāvanapariyāyehi ca. Tenāha ‘‘anekapariyāyena dhammo pakāsito’’ti.
Vật bị úp xuống: tức là vật bị ai đó úp xuống. Vật tự úp xuống: tức là vật tự nó sinh ra đã úp xuống. Sẽ lật ngửa lên: tức là sẽ làm cho nó được mở ra. Nắm lấy tay: tức là, thay vì nói “hãy đi về hướng đông hoặc hướng bắc” v.v…, lại nắm lấy tay và chỉ rằng “chắc chắn đây là con đường, hãy đi như thế này”. Ngày mười bốn của hắc nguyệt: tức là ngày thứ mười bốn trong tháng tối. Sẽ lật ngửa vật bị úp: tức là sẽ lật ngửa cái bình, vốn không phải là nơi chứa đựng cho vật được chứa, theo cách làm cho nó có khả năng chứa đựng. Cần phải liên kết hai vế câu một cách phù hợp, chứ không phải theo thứ tự, rằng: do tự úp xuống, nên là người quay lưng với chánh pháp; do bị úp xuống, nên là người an trú trong tà pháp. Mặc dù các pháp như dục tham v.v… cũng có tính che đậy do là các triền cái, nhưng tà kiến đặc biệt có tính che đậy hơn, do nó làm cho chúng sanh bám chấp sai lầm. Do đó, ngài nói “bị che đậy bởi rừng rậm tà kiến”. Do đó, Đức Thế Tôn đã nói: “Này các Tỳ-khưu, Ta nói rằng các tội lỗi có tà kiến là tệ hại nhất”. Tất cả con đường dẫn đến ác đạo là con đường xấu, vì là con đường đáng khinh; do đối nghịch trực tiếp với chánh kiến v.v…, nên tám pháp tà vạy như tà kiến v.v… là con đường sai lầm. Chính vì nhắm đến sự đối nghịch của cả hai, nên mới nói “bằng cách chỉ ra con đường đến cõi trời và giải thoát”. Việc đề cập đến ngọn đèn dầu là vì ngọn đèn nương vào dầu không sáng tỏ như ngọn đèn nương vào bơ sữa. Bằng các phương diện này: tức là bằng các cách thức ví dụ và được ví dụ này, như lật vật bị úp, mở vật bị che đậy v.v…; hoặc bằng các phương diện đã được nói đến này, như các phương diện trình bày một cách khác về trạng thái vô vị v.v… nơi chính mình, các phương diện làm rõ các tầng thiền trú của chư thiên của chính mình, và các phương diện làm rõ các phẩm chất của một bậc Toàn Giác của chính mình qua việc trình bày ba minh. Do đó, ngài nói “chánh pháp đã được trình bày bằng nhiều phương diện”.

Desanānumodanakathā niṭṭhitā.
Luận về sự Tùy hỷ và Thuyết giảng kết thúc.

Pasannākārakathā
Luận về Cách thức Tỏ bày Niềm tin

Pasannākāranti pasannehi kātabbaṃ sakkāraṃ. Saraṇaṃ gacchāmīti ettha iti-saddo luttaniddiṭṭhoti āha ‘‘saraṇanti gacchāmī’’ti. Ettha hi nāyaṃ gamisaddo nīsaddādayo viya dvikammako, tasmā yathā ajaṃ gāmaṃ netīti vuccati, evaṃ ‘‘gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmī’’ti vattuṃ na sakkā, ‘‘saraṇanti gacchāmī’’ti pana vattabbaṃ, tasmā ettha iti-saddo luttaniddiṭṭhoti veditabbaṃ. Saraṇanti paṭisaraṇaṃ. Tenāha ‘‘parāyaṇa’’nti. Parāyaṇabhāvo ca anatthanisedhanena atthasampaṭipādanena ca hotīti āha ‘‘aghassa tātā hitassa ca vidhātā’’ti. Aghassāti dukkhatoti vadanti, pāpatoti pana attho yutto, nissakke cetaṃ sāmivacanaṃ. Saraṇanti gamanañcettha tadadhippāyena bhajanaṃ tathā jānanaṃ vāti dassento ‘‘iti iminā adhippāyenā’’tiādimāha. Tattha gacchāmītiādīsu purimassa purimassa pacchimaṃ pacchimaṃ atthavacanaṃ. Bhajanaṃ vā saraṇādhippāyena upasaṅkamanaṃ, sevanā santikāvacaratā, payirupāsanaṃ vattappaṭivattakaraṇena upaṭṭhānanti evaṃ sabbathāpi anaññasaraṇataṃyeva dīpeti. Gacchāmīti padassa kathaṃ bujjhāmīti ayamattho labbhatīti āha ‘‘yesaṃ hī’’tiādi.
Cách thức tỏ bày niềm tin: tức là sự tôn kính mà những người có niềm tin cần phải thực hiện. Trong câu con xin quy y, để cho thấy rằng từ ‘iti’ (rằng) đã được lược bỏ, ngài nói “con xin quy y rằng đó là nơi nương tựa”. Quả vậy, ở đây, động từ ‘gami’ (đi) không phải là một động từ có hai đối cách, giống như các động từ ‘nī’ (dẫn) v.v… Do đó, không thể nói “con xin quy y Tôn giả Gotama” giống như cách nói “dẫn con dê về làng”, mà phải nói là “con xin quy y rằng Tôn giả Gotama là nơi nương tựa”. Do đó, cần phải biết rằng từ ‘iti’ ở đây đã được lược bỏ. Nơi nương tựa: tức là nơi quay về. Do đó, ngài nói “nơi quy hướng”. Và bản chất là nơi quy hướng là do ngăn chặn điều bất hạnh và mang lại điều lợi ích. Do đó, ngài nói “là người bảo vệ khỏi điều ác, và là người mang lại điều lợi ích”. Của điều ác: một số người nói là của sự khổ, nhưng ý nghĩa là của tội lỗi thì hợp lý hơn; và đây là từ chỉ sở hữu được dùng với nghĩa chỉ sự tách biệt. Và để cho thấy rằng việc quy y ở đây là sự tôn kính với chủ ý đó, hoặc là sự biết rõ như vậy, ngài nói “với chủ ý này…” v.v… Ở đó, trong các câu con xin đi theo v.v…, câu sau là lời giải thích ý nghĩa cho câu trước. Hoặc, sự tôn kính là sự đến gần với chủ ý nương tựa; sự phục vụ là sự ở gần; sự hầu hạ là sự phụng sự bằng cách làm các bổn phận. Như vậy, trong mọi trường hợp, nó đều cho thấy sự không nương tựa vào ai khác. Làm thế nào từ con xin đi theo lại có được ý nghĩa là con xin hiểu rõ? Mới nói: “quả vậy, đối với những ai…” v.v…

Adhigatamagge sacchikatanirodheti padadvayenapi phalaṭṭhā eva dassitā, na maggaṭṭhāti te dassento ‘‘yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjamāne cā’’ti āha. Nanu ca kalyāṇaputhujjanopi yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjatīti vuccatīti? Kiñcāpi vuccati, nippariyāyena pana maggaṭṭhā eva tathā vattabbā, na itare niyāmokkamanābhāvato. Tathā hi te eva ‘‘apāyesu apatamāne dhāretī’’ti vuttā. Sammattaniyāmokkamanena hi apāyavinimuttasambhavo. Akkhāyatīti ettha iti-saddo ādiattho, pakārattho vā. Tena ‘‘yāvatā, bhikkhave, dhammā saṅkhatā vā asaṅkhatā vā, virāgo tesaṃ aggamakkhāyatī’’ti (itivu. 90; a. ni. 4.34) suttapadaṃ saṅgaṇhāti, ‘‘vitthāro’’ti vā iminā. Ettha ca ariyamaggo niyyānikatāya, nibbānaṃ tassa tadatthasiddhihetutāyāti ubhayameva nippariyāyena dhammoti vutto. Nibbānañhi ārammaṇapaccayabhūtaṃ labhitvā ariyamaggassa tadatthasiddhi, tathāpi ariyaphalānaṃ ‘‘yasmā tāya saddhāya avūpasantāyā’’tiādivacanato maggena samucchinnānaṃ kilesānaṃ paṭippassaddhippahānakiccatāya niyyānānuguṇatāya niyyānapariyosānatāya ca. Pariyattidhammassa pana niyyānadhammasamadhigamahetutāyāti iminā pariyāyena vuttanayena dhammabhāvo labbhati eva, svāyamattho pāṭhāruḷho evāti dassento ‘‘na kevala’’ntiādimāha.
Trong câu trong đạo đã được chứng đắc, trong sự diệt tận đã được chứng ngộ, qua cả hai vế câu, chỉ có các vị đã ở trên quả vị được cho thấy, chứ không phải các vị đang ở trên đạo. Để cho thấy các vị đó, ngài nói “và trong những người đang thực hành theo như đã được chỉ dạy”. Nhưng chẳng phải các vị phàm phu thiện cũng được cho là đang thực hành theo như đã được chỉ dạy sao? Mặc dù được cho là như vậy, nhưng một cách trực tiếp, chỉ có các vị đang ở trên đạo mới đáng được gọi như vậy, chứ không phải những người khác, do họ chưa đi vào con đường chắc chắn. Quả vậy, chính các vị đó đã được nói là “giữ cho họ không bị rơi vào các cõi dữ”. Bởi vì, chính nhờ đi vào con đường chánh kiến chắc chắn mà sự giải thoát khỏi các cõi dữ mới có thể xảy ra. Trong câu được gọi là, từ iti có nghĩa là v.v…, hoặc là chỉ loại. Qua đó, ngài bao gồm cả câu kinh “Này các Tỳ-khưu, trong tất cả các pháp, dù là hữu vi hay vô vi, sự ly tham được gọi là cao thượng nhất” (itivu. 90; a. ni. 4.34), hoặc qua từ “sự giải thích chi tiết”. Ở đây, Thánh đạo, do có khả năng hướng xuất, và Niết-bàn, do là nguyên nhân cho sự thành tựu mục đích đó của đạo, cả hai đều được gọi là pháp một cách trực tiếp. Quả vậy, Thánh đạo, sau khi đã có được Niết-bàn làm duyên đối tượng, mới thành tựu được mục đích đó. Tương tự, đối với các Thánh quả, do các câu như “bởi vì đức tin đó chưa được lắng dịu”, do có nhiệm vụ từ bỏ bằng cách an tịnh các phiền não đã được đạo cắt đứt, do phù hợp với sự hướng xuất, và do là sự kết thúc của sự hướng xuất. Còn đối với Pháp học, do là nguyên nhân để chứng đắc các pháp hướng xuất, nên nó có được bản chất là pháp theo cách gián tiếp đã nói. Để cho thấy rằng ý nghĩa này đã có sẵn trong kinh điển, ngài nói “không chỉ…” v.v…

Rāgavirāgoti maggo kathitoti kāmarāgo bhavarāgoti evamādibhedo sabbopi rāgo virajjati pahīyati etenāti rāgavirāgoti maggo kathito. Anejamasokanti phalanti ejāsaṅkhātāya taṇhāya antonijjhānalakkhaṇassa sokassa ca taduppattiyaṃ sabbaso parikkhīṇattā anejamasokanti phalaṃ kathitaṃ. Appaṭikūlanti avirodhadīpanato kenaci aviruddhaṃ, iṭṭhaṃ paṇītanti vā attho. Paguṇarūpena pavattitattā, pakaṭṭhaguṇavibhāvanato vā paguṇaṃ. Yathāha ‘‘vihiṃsasaññī paguṇaṃ nabhāsiṃ, dhammaṃ paṇītaṃ manujesu brahme’’ti (ma. ni. 1.283; mahāva. 9). Sabbadhammakkhandhā kathitāti yojanā. Diṭṭhisīlasaṅghātenāti ‘‘yāyaṃ diṭṭhi ariyā niyyānikā niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāya, tathārūpāya diṭṭhiyā diṭṭhisāmaññagato viharatī’’ti (dī. ni. 3.324, 356; ma. ni. 1.492; 3.54) evaṃ vuttāya diṭṭhiyā ‘‘yāni tāni sīlāni akhaṇḍāni acchiddāni asabalāni akammāsāni bhujissāni viññuppasatthāni aparāmaṭṭhāni samādhisaṃvattanikāni, tathārūpehi sīlehi sīlasāmaññagato viharatī’’ti (dī. ni. 3.324, 356; ma. ni. 1.492; 3.54; a. ni. 6.12) evaṃ vuttānaṃ sīlānañca saṃhatabhāvena, diṭṭhisīlasāmaññenāti attho. Saṃhatoti ghaṭito, sametoti attho. Ariyapuggalā hi yattha katthaci dūre ṭhitāpi attano guṇasāmaggiyā saṃhatā eva. Aṭṭha ca puggalā dhammadasā teti purisayugaḷavasena cattāropi puggalavasena aṭṭheva ariyadhammassa paccakkhadassāvitāya dhammadasā. Tīṇi vatthūni saraṇanti gamanena tikkhattuṃ gamanena ca tīṇi saraṇagamanāni. Paṭivedesīti attano hadayaṅgataṃ vācāya pavedesi.
Sự ly tham đối với ái dục được gọi là đạo: tất cả các loại tham ái, như dục tham, hữu tham v.v…, đều bị phai nhạt, bị từ bỏ bởi pháp này, nên đạo được gọi là sự ly tham đối với ái dục. Quả vị là pháp không lay động, không sầu muộn: do ái dục, được gọi là sự lay động, và sầu muộn, có đặc tính là sự thiêu đốt bên trong, đã hoàn toàn bị tiêu diệt khi nó phát sinh, nên quả vị được gọi là pháp không lay động, không sầu muộn. Không đáng chán ghét: do cho thấy sự không đối nghịch, nên nó không mâu thuẫn với bất cứ điều gì; hoặc có nghĩa là đáng mong muốn, cao quý. Do vận hành một cách tốt đẹp, hoặc do làm rõ các phẩm chất cao thượng, nên là tốt đẹp. Như đã nói: “Bậc không còn sân hận đã nói một cách tốt đẹp, một chánh pháp cao quý giữa loài người, hỡi Phạm thiên” (ma. ni. 1.283; mahāva. 9). Cần liên kết rằng, tất cả các uẩn của pháp đã được nói đến. Do sự hợp nhất của tri kiến và giới hạnh: tức là, do sự hợp nhất của tri kiến đã được nói đến trong câu “vị ấy sống, đạt đến sự tương đồng về tri kiến với một tri kiến như vậy, là tri kiến của bậc Thánh, có khả năng hướng xuất, hướng đến sự đoạn tận khổ đau một cách chân chánh cho người thực hành nó” (dī. ni. 3.324, 356; ma. ni. 1.492; 3.54), và của các giới hạnh đã được nói đến trong câu “vị ấy sống, đạt đến sự tương đồng về giới hạnh với các giới hạnh không bị sứt mẻ, không bị thủng, không bị vằn vện, không bị đốm, có tính giải thoát, được các bậc hiền trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến thiền định” (dī. ni. 3.324, 356; ma. ni. 1.492; 3.54; a. ni. 6.12); có nghĩa là, do sự tương đồng về tri kiến và giới hạnh. Hợp nhất: tức là được kết nối, được đồng nhất. Quả vậy, các bậc Thánh, dù ở xa nơi đâu, cũng đều hợp nhất do sự tương đồng về các đức hạnh của họ. Và tám hạng người đó là những người thấy pháp: tức là, bốn đôi, hay tám hạng người, là những người thấy pháp do đã thấy trực tiếp Thánh pháp. Do đi đến nương tựa ba ngôi báu ba lần, nên là ba lần quy y. Đã tuyên bố: tức là đã nói ra điều đã nằm trong lòng mình.

Pasannākārakathā niṭṭhitā.
Luận về Cách thức Tỏ bày Niềm tin kết thúc.

Saraṇagamanakathā
Luận về Quy Y

Saraṇagamanassa visayappabhedaphalasaṃkilesabhedānaṃ viya kattu ca vibhāvanā tattha kosallāya hotīti ‘‘saraṇagamanesu kosallatthaṃ saraṇaṃ…pe… veditabbo’’ti vuttaṃ tena vinā saraṇagamanasseva asambhavato. Tattha saraṇanti padatthato tāva hiṃsatīti saraṇaṃ. Hiṃsatthassa hi sarasaddassa vasenetaṃ padaṃ daṭṭhabbaṃ, tasmā saraṇagatānaṃ teneva saraṇagamanena vaṭṭabhayaṃ cittutrāsaṃ kāyikaṃ dukkhaṃ duggatipariyāpannaṃ sabbampi dukkhaṃ hanati, vināsetīti attho. Ratanattayassevetaṃ adhivacanaṃ . Atha vā hite pavattanena ‘‘sampannasīlā, bhikkhave, viharathā’’tiādinā (ma. ni. 1.64) atthe niyojanena ahitā ca nivattanena ‘‘pāṇātipātassa kho pana pāpako vipāko, pāpakaṃ abhisamparāya’’ntiādinā ādīnavadassanādimukhena anatthato nivattanena sattānaṃ bhayaṃ hiṃsati, hitāhitesu appavattipavattihetukaṃ byasanaṃ apavattikaraṇena vināseti buddho. Bhavakantārauttaraṇena maggasaṅkhāto dhammo sattānaṃ bhayaṃ hiṃsati, itaro assāsadānena. Appakānampi dānavasena pūjāvasena ca upanītānaṃ sakkārānaṃ vipulaphalapaṭilābhakaraṇena sattānaṃ bhayaṃ hiṃsati saṅgho anuttaradakkhiṇeyyabhāvato, tasmā imināpi vibhajitvā vuttapariyāyena ratanattayaṃ saraṇaṃ. ‘‘Sammāsambuddho bhagavā, svākkhāto dhammo, suppaṭipanno saṅgho’’ti evaṃ pavattaratanattayapasaādataggarukatāhi vidhutadiṭṭhivicikicchāsammohaassaddhiyāditāya vihatakileso tadeva ratanattayaṃ saraṇaṃ parāyaṇaṃ gati tāṇaṃ leṇanti evaṃ pavattiyā tapparāyaṇatākārappavatto cittuppādo saraṇagamanaṃ saraṇanti gacchati etenāti katvā. Tena yathāvuttacittuppādena samannāgato satto saraṇanti gacchati, vuttappakārena cittuppādena ‘‘etāni me tīṇi ratanāni saraṇaṃ, etāni parāyaṇa’’nti evaṃ upeti bhajati sevati payirupāsati, evaṃ vā jānāti, bujjhatīti attho. Evaṃ tāva saraṇaṃ, saraṇagamanaṃ, yo ca saraṇaṃ gacchati, idaṃ tayaṃ veditabbaṃ.
Do việc phân tích về sự quy y, về sự khác biệt của đối tượng, về quả báo, và về sự ô nhiễm của nó, cũng như về người thực hiện, sẽ dẫn đến sự khéo léo trong đó, nên mới nói “để có sự khéo léo trong các sự quy y, cần phải biết về nơi nương tựa… cho đến…”, vì nếu không có điều đó thì không thể có sự quy y. Ở đó, trước hết về mặt ý nghĩa của từ, nơi nương tựa (saraṇa) có nghĩa là cái hủy diệt. Cần phải hiểu từ này theo nghĩa của động từ ‘sara’ có nghĩa là hủy diệt. Do đó, có nghĩa là, đối với những người đã quy y, chính nhờ sự quy y đó mà nó hủy diệt, tiêu trừ nỗi sợ hãi của vòng luân hồi, sự kinh hoàng của tâm, sự khổ đau về thể xác, và tất cả mọi khổ đau thuộc về ác đạo. Đây là một tên gọi khác của Tam Bảo. Hoặc, bằng cách hướng chúng sanh đến điều lợi ích qua các lời dạy như “Này các Tỳ-khưu, hãy sống có giới hạnh đầy đủ” v.v… (ma. ni. 1.64), và bằng cách ngăn cản họ khỏi điều bất hạnh qua việc cho thấy những nguy hại như “quả báo của việc sát sanh là xấu xa, tương lai sẽ xấu xa” v.v…, Đức Phật hủy diệt nỗi sợ hãi của chúng sanh, và bằng cách làm cho các tai ương, vốn là nguyên nhân cho sự không hành động trong điều lợi và hành động trong điều bất hạnh, không còn vận hành, Ngài tiêu diệt chúng. Chánh pháp, được gọi là đạo, hủy diệt nỗi sợ hãi của chúng sanh bằng cách giúp họ vượt qua sa mạc của sự tồn tại; các pháp còn lại thì hủy diệt nỗi sợ hãi bằng cách ban cho sự an ủi. Tăng đoàn, do là ruộng phước vô thượng, hủy diệt nỗi sợ hãi của chúng sanh bằng cách tạo ra quả báo to lớn từ những sự cúng dường nhỏ bé được dâng lên qua việc bố thí và cúng dường. Do đó, theo phương diện đã được phân chia và trình bày này, Tam Bảo là nơi nương tựa. Sự phát sinh của tâm vận hành theo cách rằng: do sự trong sạch và lòng tôn kính đối với Tam Bảo, vốn vận hành theo kiểu “Đức Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Chánh pháp đã được khéo thuyết, Tăng chúng đã khéo thực hành”, người đã xua tan được tà kiến, hoài nghi, si mê, và sự không có đức tin, trở thành người đã đoạn trừ phiền não, và coi chính Tam Bảo đó là nơi nương tựa, là nơi quy hướng, là nơi đi đến, là nơi bảo vệ, là nơi ẩn náu; sự phát sinh của tâm vận hành theo hình thức quy hướng như vậy là sự quy y, vì người ta đi đến nơi nương tựa bằng tâm đó. Có nghĩa là, chúng sanh được hợp thành bởi tâm phát sinh như đã nói, đi đến nơi nương tựa; bằng tâm phát sinh theo cách đã nói, vị ấy đến gần, tôn kính, phục vụ, hầu hạ rằng “ba ngôi báu này là nơi nương tựa của tôi, những thứ này là nơi quy hướng của tôi”; hoặc vị ấy biết, liễu ngộ như vậy. Như vậy, trước hết cần phải biết ba điều này: nơi nương tựa, sự quy y, và người quy y.

Saraṇagamanappabhede pana duvidhaṃ saraṇagamanaṃ lokuttaraṃ lokiyañca. Tattha lokuttaraṃ diṭṭhasaccānaṃ maggakkhaṇe saraṇagamanupakkilesasamucchedanena ārammaṇato nibbānārammaṇaṃ hutvā kiccato sakalepi ratanattaye ijjhati. Atthato catusaccādhigamo eva hi lokuttarasaraṇagamanaṃ. Tattha hi nibbānadhammo sacchikiriyābhisamayavasena, maggadhammo bhāvanābhisamayavasena paṭivijjhiyamānoyeva saraṇagamanatthaṃ sādheti, buddhaguṇā pana sāvakagocarabhūtā pariññābhisamayavasena, tathā ariyasaṅghaguṇā. Tena vuttaṃ ‘‘kiccato sakalepi ratanattaye ijjhatī’’ti . Ijjhantañca saheva ijjhati, na lokiyaṃ viya paṭipāṭiyā asammohapaṭivedhena paṭividdhattā. Ye pana vadanti ‘‘na saraṇagamanaṃ nibbānārammaṇaṃ hutvā pavattati, maggassa adhigatattā pana adhigatameva hoti ekaccānaṃ tevijjādīnaṃ lokiyavijjādayo viyā’’ti, tesaṃ lokiyameva saraṇagamanaṃ siyā, na lokuttaraṃ. Tañca ayuttaṃ duvidhassapi icchitabbattā. Lokiyaṃ pana saraṇagamanaṃ puthujjanānaṃ saraṇagamanupakkilesavikkhambhanena ārammaṇato buddhādiguṇārammaṇaṃ hutvā ijjhati. Taṃ atthato buddhādīsu vatthūsu ‘‘sammāsambuddho bhagavā’’tiādinā saddhāpaṭilābho yathāvuttasaddhāpubbaṅgamā ca sammādiṭṭhi, dasasu puññakiriyavatthūsu diṭṭhijukammanti vuccati. Ettha ca ‘‘saddhāpaṭilābho’’ti iminā mātādīhi ussāhitadārakādīnaṃ viya ñāṇavippayuttasaraṇagamanaṃ dassitanti veditabbaṃ. ‘‘Sammādiṭṭhī’’ti iminā pana ñāṇasampayuttaṃ saraṇagamanaṃ dassitaṃ buddhasubuddhataṃ dhammasudhammataṃ saṅghasuppaṭipattiñca lokiyāvabodhavaseneva sammā ñāyena dassanato.
Trong sự phân loại về sự quy y, sự quy y có hai loại: siêu thế và thế gian. Ở đó, sự quy y siêu thế xảy ra vào khoảnh khắc của đạo đối với các bậc đã thấy chân lý, bằng cách cắt đứt các cấu uế của sự quy y, và có đối tượng là Niết-bàn, nhưng về mặt chức năng, nó thành tựu đối với toàn bộ Tam Bảo. Quả vậy, về mặt ý nghĩa, sự chứng đắc bốn chân lý chính là sự quy y siêu thế. Ở đó, pháp Niết-bàn, qua sự chứng ngộ bằng cách thực chứng, và pháp đạo, qua sự chứng ngộ bằng cách tu tập, khi được thâm nhập, sẽ hoàn thành mục đích của sự quy y. Còn các phẩm chất của Đức Phật, vốn là đối tượng của các vị Thinh văn, thì qua sự chứng ngộ bằng cách liễu tri; tương tự đối với các phẩm chất của Thánh Tăng. Do đó, mới nói “về mặt chức năng, nó thành tựu đối với toàn bộ Tam Bảo”. Và khi thành tựu, nó thành tựu cùng một lúc, chứ không phải theo thứ tự như sự quy y thế gian, vì nó đã được thâm nhập bằng sự thâm nhập không sai lầm. Còn những người cho rằng “sự quy y không vận hành với đối tượng là Niết-bàn, nhưng do đã chứng đắc đạo, nên nó cũng được xem là đã được chứng đắc, giống như các pháp thế gian đối với các vị tam minh v.v…”, đối với họ, sự quy y đó chỉ có thể là thế gian, chứ không phải siêu thế. Và điều đó là không hợp lý, vì cả hai loại đều cần phải có. Còn sự quy y thế gian thì thành tựu đối với các vị phàm phu, bằng cách đè nén các cấu uế của sự quy y, và có đối tượng là các phẩm chất của Đức Phật v.v… Về mặt ý nghĩa, đó là sự thành tựu đức tin vào các đối tượng là Đức Phật v.v… qua các câu như “Đức Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác” v.v…, và là chánh kiến đi đầu bởi đức tin như đã nói, được gọi là chánh nghiệp về tri kiến trong mười nghiệp sự phước thiện. Ở đây, cần phải biết rằng, qua câu “sự thành tựu đức tin”, sự quy y không tương ưng với trí tuệ, giống như của trẻ em được cha mẹ khuyến khích, đã được trình bày. Còn qua câu “chánh kiến”, sự quy y tương ưng với trí tuệ đã được trình bày, do đã hiểu rõ một cách đúng đắn về sự giác ngộ của Đức Phật, sự tốt đẹp của Chánh pháp, và sự thực hành tốt đẹp của Tăng đoàn, theo cách liễu ngộ của thế gian.

Tayidaṃ lokiyasaraṇagamanaṃ catudhā pavattati attasanniyyātanena tapparāyaṇatāya sissabhāvūpagamanena paṇipātenāti. Tattha attasanniyyātanaṃ nāma ‘‘ajja ādiṃ katvā ahaṃ attānaṃ buddhassa niyyātemi, dhammassa, saṅghassā’’ti evaṃ buddhādīnaṃyeva saṃsāradukkhanittharaṇatthaṃ attano attabhāvassa pariccajanaṃ. Tapparāyaṇatā nāma ‘‘ajja ādiṃ katvā ahaṃ buddhaparāyaṇo dhammaparāyaṇo saṅghaparāyaṇoti maṃ dhārethā’’ti evaṃ tapparāyaṇabhāvo. Sissabhāvūpagamanaṃ nāma ‘‘ajja ādiṃ katvā ‘ahaṃ buddhassa antevāsiko, dhammassa, saṅghassā’ti maṃ dhārethā’’ti evaṃ sissabhāvūpagamo. Paṇipāto nāma ‘‘ajja ādiṃ katvā ‘ahaṃ abhivādanaṃ paccuṭṭhānaṃ añjalikammaṃ sāmīcikammaṃ buddhādīnaṃyeva tiṇṇaṃ vatthūnaṃ karomī’ti maṃ dhārethā’’ti evaṃ buddhādīsu paramanipaccakāro. Imesañhi catunnaṃ ākārānaṃ aññatarampi karontena gahitaṃyeva hoti saraṇagamanaṃ.
Sự quy y thế gian này vận hành theo bốn cách: sự hiến dâng bản thân, sự xem đó là nơi quy hướng, sự chấp nhận địa vị đệ tử, và sự đảnh lễ. Ở đó, sự hiến dâng bản thân là sự từ bỏ thân mạng của mình cho Đức Phật, Chánh pháp, và Tăng đoàn để thoát khỏi khổ đau của vòng sinh tử, bằng cách nói rằng: “kể từ hôm nay, con xin hiến dâng thân con cho Đức Phật, cho Chánh pháp, cho Tăng đoàn”. Sự xem đó là nơi quy hướng là trạng thái xem đó là nơi quy hướng, bằng cách nói rằng: “kể từ hôm nay, xin hãy xem con là người có Đức Phật làm nơi quy hướng, có Chánh pháp làm nơi quy hướng, có Tăng đoàn làm nơi quy hướng”. Sự chấp nhận địa vị đệ tử là sự chấp nhận địa vị đệ tử, bằng cách nói rằng: “kể từ hôm nay, xin hãy xem con là đệ tử tại gia của Đức Phật, của Chánh pháp, của Tăng đoàn”. Sự đảnh lễ là sự tôn kính tối thượng đối với Tam Bảo, bằng cách nói rằng: “kể từ hôm nay, xin hãy xem con là người thực hiện các hành vi đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay, và các hành vi tôn kính chỉ đối với ba ngôi báu là Đức Phật v.v…”. Quả vậy, người thực hiện bất kỳ một trong bốn hình thức này cũng đều đã thực hiện sự quy y.

Apica ‘‘bhagavato attānaṃ pariccajāmi, dhammassa saṅghassa attānaṃ pariccajāmi, jīvitaṃ pariccajāmi, pariccattoyeva me attā, pariccattaṃyeva me jīvitaṃ, jīvitapariyantikaṃ buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi, buddho me saraṇaṃ leṇaṃ tāṇa’’nti evampi attasanniyyātanaṃ veditabbaṃ. ‘‘Satthārañca vatāhaṃ passāmi, bhagavantameva passāmi, sugatañca vatāhaṃ passāmi, bhagavantameva passāmi, sammāsambuddhañca vatāhaṃ passāmi, bhagavantameva passāmī’’ti (saṃ. ni. 2.154) evaṃ mahākassapattherassa saraṇagamanaṃ viya sissabhāvūpagamanaṃ daṭṭhabbaṃ.
Hơn nữa, cần phải biết sự hiến dâng bản thân cũng có thể được thực hiện như sau: “con xin từ bỏ thân con cho Đức Thế Tôn, cho Chánh pháp, cho Tăng đoàn; con xin từ bỏ mạng sống; thân con đã được từ bỏ, mạng sống của con đã được từ bỏ; con xin quy y Phật cho đến trọn đời; Phật là nơi nương tựa, là nơi ẩn náu, là nơi bảo vệ của con”. Cần phải hiểu sự chấp nhận địa vị đệ tử giống như sự quy y của trưởng lão Mahākassapa như sau: “Quả vậy, khi tôi thấy Bậc Đạo Sư, tôi chỉ thấy Đức Thế Tôn; quả vậy, khi tôi thấy Bậc Thiện Thệ, tôi chỉ thấy Đức Thế Tôn; quả vậy, khi tôi thấy Bậc Chánh Đẳng Giác, tôi chỉ thấy Đức Thế Tôn” (saṃ. ni. 2.154).

‘‘So ahaṃ vicarissāmi, gāmā gāmaṃ purā puraṃ;
Namassamāno sambuddhaṃ, dhammassa ca sudhammataṃ. (saṃ. ni. 1.246; su. ni. 194);
‘‘Te mayaṃ vicarissāma, gāmā gāmaṃ nagā nagaṃ…pe… sudhammata’’nti. (su. ni. 182) –
“Con sẽ đi lang thang, từ làng này sang làng khác, từ thành phố này sang thành phố khác;
Đảnh lễ Bậc Chánh Đẳng Giác, và sự tốt đẹp của Chánh pháp. (saṃ. ni. 1.246; su. ni. 194);
“Chúng con sẽ đi lang thang, từ làng này sang làng khác, từ núi này sang núi khác… cho đến… sự tốt đẹp của Chánh pháp.” (su. ni. 182) –

Evampi āḷavakasātāgirahemavatādīnaṃ saraṇagamanaṃ viya tapparāyaṇatā veditabbā. Nanu cete āḷavakādayo maggeneva āgatasaraṇagamanā, kathaṃ tesaṃ tapparāyaṇatāsaraṇagamanaṃ vuttanti? Maggenāgatasaraṇagamanehipi ‘‘sohaṃ vicarissāmi gāmā gāma’’ntiādinā (saṃ. ni. 1.246; su. ni. 194) tehi tapparāyaṇatākārassa paveditattā tathā vuttaṃ. Atha kho brahmāyu brāhmaṇo uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā bhagavato pādesu sirasā nipatitvā bhagavato pādāni mukhena ca paricumbati, pāṇīhi ca parisambāhati, nāmañca sāveti ‘‘brahmāyu ahaṃ, bho gotama, brāhmaṇo, brahmāyu ahaṃ, bho gotama, brāhmaṇo’’ti (ma. ni. 2.394) evampi paṇipāto daṭṭhabbo.
Cần phải hiểu sự xem đó là nơi quy hướng cũng giống như sự quy y của các vị Āḷavaka, Sātāgira, Hemavata v.v… Nhưng chẳng phải sự quy y của các vị Āḷavaka v.v… là sự quy y đã đến bằng đạo quả sao, làm thế nào sự quy y của họ lại được nói là sự xem đó là nơi quy hướng? Do các vị ấy, mặc dù đã quy y bằng đạo quả, cũng đã tuyên bố hình thức xem đó là nơi quy hướng qua các câu như “con sẽ đi lang thang, từ làng này sang làng khác” v.v… (saṃ. ni. 1.246; su. ni. 194), nên mới được nói như vậy. Lại nữa, cần phải hiểu sự đảnh lễ cũng giống như trường hợp Bà-la-môn Brahmāyu, sau khi đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vắt áo choàng qua một bên vai, cúi đầu lạy dưới chân Đức Thế Tôn, rồi vừa hôn vừa dùng hai tay xoa bóp chân Đức Thế Tôn, và xưng tên rằng: “Thưa Tôn giả Gotama, tôi là Bà-la-môn Brahmāyu; thưa Tôn giả Gotama, tôi là Bà-la-môn Brahmāyu” (ma. ni. 2.394).

So panesa ñātibhayācariyadakkhiṇeyyatāvasena catubbidho hoti. Tattha dakkhiṇeyyatāhetukena paṇipātena saraṇagamanaṃ hoti, na itarehi ñātibhayādivasappavattehi tīhi paṇipātehi. Seṭṭhavaseneva hi saraṇaṃ gayhati, seṭṭhavasena bhijjati, tasmā yo sākiyo vā koliyo vā ‘‘buddho amhākaṃ ñātako’’ti vandati, aggahitameva hoti saraṇaṃ. Yo vā ‘‘samaṇo gotamo rājapūjito mahānubhāvo avandiyamāno anatthampi kareyyā’’ti bhayena vandati, aggahitameva hoti saraṇaṃ. Yopi bodhisattakāle bhagavato santike kiñci uggahitaṃ saramāno buddhakāle vā –
Và sự đảnh lễ đó có bốn loại, tùy theo lý do là thân tộc, sợ hãi, thầy dạy, và sự xứng đáng được cúng dường. Ở đó, sự quy y chỉ xảy ra với sự đảnh lễ do lý do là sự xứng đáng được cúng dường, chứ không phải với ba loại đảnh lễ còn lại do thân tộc, sợ hãi v.v… Quả vậy, người ta quy y chỉ do xem là bậc tối thượng, và sự quy y chỉ bị phá vỡ khi xem (ai khác) là bậc tối thượng. Do đó, người nào thuộc dòng họ Thích Ca hay Câu-ly, lạy Phật với ý nghĩ “Đức Phật là bà con của chúng ta”, thì sự quy y đó hoàn toàn chưa được thực hiện. Hoặc người nào lạy vì sợ hãi, nghĩ rằng “Sa-môn Gotama được vua chúa tôn kính, có năng lực lớn, nếu không lạy, ngài có thể sẽ làm hại mình”, thì sự quy y đó hoàn toàn chưa được thực hiện. Hoặc người nào, khi nhớ lại điều gì đó đã học được từ Đức Thế Tôn trong thời kỳ còn là Bồ-tát, hoặc trong thời kỳ đã thành Phật, chẳng hạn như lời khuyên về lợi ích hiện tại như sau:

‘‘Ekena bhogaṃ bhuñjeyya, dvīhi kammaṃ payojaye;
Catutthañca nidhāpeyya, āpadāsu bhavissatī’’ti. (dī. ni. 3.265) –
“Với một phần, nên hưởng thụ của cải; với hai phần, nên dùng để làm ăn;
Và phần thứ tư, nên cất giữ, để phòng khi có hoạn nạn.” (dī. ni. 3.265) –

Evarūpiṃ diṭṭhadhammikaṃ anusāsaniṃ uggahetvā ‘‘ācariyo me’’ti vandati, aggahitameva hoti saraṇaṃ, samparāyikaṃ pana niyyānikaṃ vā anusāsaniṃ paccāsīsanto dakkhiṇeyyapaṇipātameva karoti. Yo pana ‘‘ayaṃ loke aggadakkhiṇeyyo’’ti vandati, teneva gahitaṃ hoti saraṇaṃ.
Sau khi đã học được lời khuyên như vậy, rồi lạy với ý nghĩ “đây là thầy của ta”, thì sự quy y đó hoàn toàn chưa được thực hiện. Nhưng người nào, với hy vọng nhận được lời khuyên về lợi ích tương lai hoặc về sự giải thoát, thì chỉ thực hiện sự đảnh lễ đối với bậc xứng đáng được cúng dường. Còn người nào lạy với ý nghĩ “vị này là bậc xứng đáng được cúng dường cao cả nhất trên đời”, thì chính người đó đã thực hiện sự quy y.

Evaṃ gahitasaraṇassa ca upāsakassa vā upāsikāya vā aññatitthiyesu pabbajitampi ñātiṃ ‘‘ñātako me aya’’nti vandatopi saraṇagamanaṃ na bhijjati, pageva apabbajitaṃ. Tathā rājānaṃ bhayavasena vandato. So hi raṭṭhapūjitattā avandiyamāno anatthampi kareyyāti. Tathā yaṃ kiñci sippasikkhāpakaṃ titthiyampi ‘‘ācariyo me aya’’nti vandatopi na bhijjati. Evaṃ saraṇagamanassa pabhedo veditabbo.
Và đối với một nam cận sự hoặc nữ cận sự đã quy y như vậy, ngay cả khi lạy một người thân đã xuất gia theo ngoại đạo với ý nghĩ “đây là bà con của ta”, thì sự quy y cũng không bị phá vỡ, huống chi là người chưa xuất gia. Tương tự, khi lạy vua chúa vì sợ hãi, vì nếu không lạy, người được cả nước tôn kính đó có thể sẽ làm hại. Tương tự, ngay cả khi lạy bất kỳ một vị thầy ngoại đạo nào đã dạy cho mình một nghề nghiệp, với ý nghĩ “đây là thầy của ta”, thì sự quy y cũng không bị phá vỡ. Cần phải hiểu sự phân loại của sự quy y là như vậy.

Saraṇagamanakathā niṭṭhitā.
Luận về Quy Y kết thúc.

Saraṇagamanaphalakathā
Luận về Quả báu của sự Quy Y

Ettha ca lokuttarassa saraṇagamanassa cattāri sāmaññaphalāni vipākaphalaṃ ariyamaggasseva lokuttarasaraṇagamananti adhippetattā. Sakalassa pana vaṭṭadukkhassa anuppādanirodho ānisaṃsaphalaṃ. Vuttañhetaṃ –
Ở đây, quả báo dị thục của sự quy y siêu thế là bốn quả Sa-môn, do sự quy y siêu thế được hiểu chính là Thánh đạo. Còn quả báo lợi ích là sự không phát sinh và sự đoạn diệt của tất cả khổ đau trong vòng luân hồi. Điều này đã được nói rằng:

‘‘Yo ca buddhañca dhammañca, saṅghañca saraṇaṃ gato;
Cattāri ariyasaccāni, sammappaññāya passati.
‘‘Dukkhaṃ dukkhasamuppādaṃ, dukkhassa ca atikkamaṃ;
Ariyañcaṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ, dukkhūpasamagāminaṃ.
‘‘Etaṃ kho saraṇaṃ khemaṃ, etaṃ saraṇamuttamaṃ;
Etaṃ saraṇamāgamma, sabbadukkhā pamuccatī’’ti. (dha. pa. 190-192);
“Người nào đã quy y Phật, Pháp, và Tăng;
Thấy bốn Thánh đế, bằng chánh trí tuệ.
“Thấy Khổ, Khổ tập, và sự vượt qua Khổ;
Và Thánh đạo tám ngành, đưa đến khổ diệt.
“Đó quả là nơi nương tựa an ổn, đó là nơi nương tựa tối thượng;
Nương vào nơi nương tựa đó, sẽ thoát khỏi mọi khổ đau.” (dha. pa. 190-192);

Apica niccato anupagamanādivasena petassa ānisaṃsaphalaṃ veditabbaṃ. Vuttañhetaṃ –
Hơn nữa, cần phải hiểu quả báo lợi ích của bậc đã đoạn tận các lậu hoặc là qua việc không còn xem các pháp là thường v.v… Điều này đã được nói rằng:

‘‘Aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso, yaṃ diṭṭhisampanno puggalo kañci saṅkhāraṃ niccato upagaccheyya, sukhato upagaccheyya, kañci dhammaṃ attato upagaccheyya, mātaraṃ jīvitā voropeyya, pitaraṃ jīvitā voropeyya, arahantaṃ jīvitā voropeyya, paduṭṭhacitto tathāgatassa lohitaṃ uppādeyya, saṅghaṃ bhindeyya, aññaṃ satthāraṃ uddiseyya, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’’ti (ma. ni. 3.128; a. ni. 1.276).
“Này các Tỳ-khưu, điều này không thể xảy ra, không có cơ hội, đó là một người đã có chánh kiến lại có thể xem bất kỳ một hành nào là thường, là lạc; xem bất kỳ một pháp nào là tự ngã; giết mẹ, giết cha, giết một vị A-la-hán; với tâm ác ý làm chảy máu của Như Lai; chia rẽ Tăng đoàn; hay chọn một vị thầy khác. Điều đó không thể xảy ra.” (ma. ni. 3.128; a. ni. 1.276).

Lokiyassa pana saraṇagamanassa bhavasampadāpi bhogasampadāpi phalameva. Vuttañhetaṃ –
Còn đối với sự quy y thế gian, sự thành tựu về cõi sống và sự thành tựu về của cải đều là quả báo. Điều này đã được nói rằng:

‘‘Ye keci buddhaṃ saraṇaṃ gatāse,
Na te gamissanti apāyabhūmiṃ;
Pahāya mānusaṃ dehaṃ,
Devakāyaṃ paripūressantī’’ti.(dī. ni. 2.332; saṃ. ni. 1.37);
“Những ai đã quy y Phật,
Họ sẽ không đi đến cõi dữ;
Sau khi từ bỏ thân người,
Họ sẽ làm sung mãn thân chư thiên.” (dī. ni. 2.332; saṃ. ni. 1.37);

Aparampi vuttaṃ –
Một lần khác, đã được nói rằng:

‘‘Atha kho sakko devānamindo asītiyā devatāsahassehi saddhiṃ yenāyasmā mahāmoggallāno tenupasaṅkami…pe… ekamantaṃ ṭhitaṃ kho sakkaṃ devānamindaṃ āyasmā mahāmoggallāno etadavoca ‘sādhu kho, devānaminda, buddhasaraṇagamanaṃ hoti, buddhasaraṇagamanahetu kho, devānaminda, evamidhekacce sattā kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjanti. Te aññe deve dasahi ṭhānehi adhigaṇhanti dibbena āyunā dibbena vaṇṇena sukhena yasena ādhipateyyena dibbehi rūpehi saddehi gandhehi rasehi phoṭṭhabbehī’’’ti (saṃ. ni. 4.341).
“Khi ấy, Sakka, vua của các vị trời, cùng với tám mươi nghìn vị trời, đã đến gặp tôn giả Mahāmoggallāna… Sau khi đã đứng sang một bên, tôn giả Mahāmoggallāna đã nói với Sakka, vua của các vị trời, điều này: ‘Thưa vua của các vị trời, thật lành thay sự quy y Phật. Thưa vua của các vị trời, do nhân duyên quy y Phật, một số chúng sanh ở đây, sau khi thân hoại mạng chung, được tái sanh vào thiện thú, thiên giới. Họ vượt trội hơn các vị trời khác về mười phương diện: tuổi thọ của chư thiên, sắc đẹp của chư thiên, hạnh phúc, uy danh, quyền lực, và các sắc, thanh, hương, vị, xúc của chư thiên.’” (saṃ. ni. 4.341).

Esa nayo dhamme saṅghe ca.
Cách giải thích này cũng áp dụng cho Pháp và Tăng.

Apica velāmasuttādivasenapi saraṇagamanassa phalaviseso veditabbo. Tathā hi velāmasutte (a. ni. 9.20) ‘‘karīsassa catutthabhāgappamāṇānaṃ caturāsītisahassasaṅkhyānaṃ suvaṇṇapātirūpiyapātikaṃsapātīnaṃ yathākkamaṃ rūpiyasuvaṇṇahiraññapūrānaṃ sabbālaṅkārapaṭimaṇḍitānaṃ caturāsītiyā hatthisahassānaṃ caturāsītiyā assasahassānaṃ caturāsītiyā rathasahassānaṃ caturāsītiyā dhenusahassānaṃ caturāsītiyā kaññāsahassānaṃ caturāsītiyā pallaṅkasahassānaṃ caturāsītiyā vatthakoṭisahassānaṃ aparimāṇassa ca khajjabhojjādibhedassa āhārassa pariccajanavasena sattamāsādhikāni satta saṃvaccharāni nirantaraṃ pavattavelāmamahādānato ekassa sotāpannassa dinnaṃ mahapphalataraṃ, tato sataṃ sotāpannānaṃ dinnadānato ekassa sakadāgāmino, tato ekassa anāgāmino, tato ekassa arahato, tato ekassa paccekasambuddhassa, tato sammāsambuddhassa, tato buddhappamukhassa saṅghassa dinnadānaṃ mahapphalataraṃ, tato cātuddisaṃ saṅghaṃ uddissa vihārakaraṇaṃ, tato saraṇagamanaṃ mahapphalatara’’nti pakāsitaṃ. Vuttañhetaṃ –
Hơn nữa, quả báu đặc biệt của sự quy y cũng cần được hiểu qua các kinh như kinh Velāma v.v… Quả vậy, trong kinh Velāma (a. ni. 9.20), đã trình bày rằng: “sự bố thí lớn của Velāma, được thực hiện liên tục trong bảy năm và bảy tháng, bằng cách cúng dường tám mươi bốn nghìn bát vàng, bát bạc, bát đồng, theo thứ tự được đổ đầy bạc, vàng, và châu báu, cùng với tám mươi bốn nghìn con voi được trang hoàng đầy đủ, tám mươi bốn nghìn con ngựa, tám mươi bốn nghìn cỗ xe, tám mươi bốn nghìn con bò sữa, tám mươi bốn nghìn thiếu nữ, tám mươi bốn nghìn chiếc giường, tám mươi bốn nghìn cuộn vải, và vô số các loại thực phẩm khác nhau; việc cúng dường cho một vị Tu-đà-hoàn còn có quả báu lớn hơn thế. Việc cúng dường cho một trăm vị Tu-đà-hoàn không bằng cúng dường cho một vị Tư-đà-hàm; rồi đến một vị A-na-hàm; rồi đến một vị A-la-hán; rồi đến một vị Độc Giác Phật; rồi đến một vị Chánh Đẳng Giác. Việc cúng dường cho Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu còn có quả báu lớn hơn. Việc xây dựng một tu viện cho Tăng đoàn bốn phương còn có quả báu lớn hơn. Và sự quy y còn có quả báu lớn hơn nữa”. Điều này đã được nói rằng:

‘‘Yaṃ, gahapati, velāmo brāhmaṇo dānaṃ adāsi mahādānaṃ, yo cekaṃ diṭṭhisampannaṃ bhojeyya, idaṃ tato mahapphalatara’’nti (a. ni. 9.20) –
“Này gia chủ, sự bố thí lớn mà Bà-la-môn Velāma đã thực hiện, nếu một người cúng dường một bữa ăn cho một người có chánh kiến, thì điều này còn có quả báu lớn hơn thế.” (a. ni. 9.20) –

Ādi. Evaṃ saraṇagamanaphalaṃ veditabbaṃ.
Và các câu tiếp theo. Cần phải hiểu quả báu của sự quy y là như vậy.

Saraṇagamanaphalakathā niṭṭhitā.
Luận về Quả báu của sự Quy Y kết thúc.

Saraṇagamanasaṃkilesabhedakathā
Luận về Sự Ô nhiễm và Sự Phá vỡ của việc Quy Y

Tattha ca lokiyasaraṇagamanaṃ tīsu vatthūsu aññāṇasaṃsayamicchāñāṇādīhi saṃkilissati, na mahājutikaṃ, na ujjalaṃ aparisuddhaṃ apariyodātaṃ hoti, na mahāvipphāraṃ anuḷāraṃ. Ettha ca aññāṇaṃ nāma vatthuttayassa guṇānaṃ ajānanaṃ tattha sammoho. ‘‘Buddho nu kho, na nu kho’’tiādinā vicikicchā saṃsayo. Micchāñāṇaṃ nāma tassa guṇānaṃ aguṇabhāvaparikappanena viparītaggāhoti veditabbaṃ. Lokuttarassa pana saraṇagamanassa natthi saṃkileso. Lokiyassa ca saraṇagamanassa duvidho bhedo sāvajjo anavajjo ca. Tattha sāvajjo aññasatthārādīsu attaniyyātanādīhi hoti, so aniṭṭhaphalo. Anavajjo pana kālakiriyāya hoti. Lokiyañhi saraṇagamanaṃ sikkhāpadasamādānaṃ viya aggahitakālaparicchedakaṃ jīvitapariyantameva hoti, tasmā tassa khandhabhedena bhedo, so avipākattā aphalo. Lokuttarassa pana nevatthi bhedo. Bhavantarepi hi ariyasāvako aññaṃ satthāraṃ na uddisatīti. Evaṃ saraṇagamanassa saṃkileso ca bhedo ca veditabbo.
Ở đây, sự quy y thế gian bị ô nhiễm bởi sự không biết, sự nghi ngờ, sự biết sai lầm v.v… đối với ba ngôi báu; do đó, nó không có ánh sáng lớn, không rực rỡ, không trong sạch, không thanh tịnh, không lan tỏa rộng lớn, không cao cả. Ở đây, sự không biết là sự không biết đến các phẩm chất của ba ngôi báu, là sự si mê về chúng. Sự hoài nghi như “có phải là Phật hay không?” là sự nghi ngờ. Cần phải biết rằng, sự biết sai lầm là sự nắm bắt một cách sai lầm bằng cách tưởng tượng các phẩm chất của ngài thành không phải là phẩm chất. Còn đối với sự quy y siêu thế, thì không có sự ô nhiễm. Và sự quy y thế gian có hai loại phá vỡ: có tội và không có tội. Ở đó, sự phá vỡ có tội xảy ra do sự hiến dâng bản thân cho một vị thầy khác v.v…; nó có quả báo không mong muốn. Còn sự phá vỡ không có tội thì xảy ra khi qua đời. Quả vậy, sự quy y thế gian, giống như việc thọ trì các học giới, nếu không xác định thời gian, thì sẽ kéo dài đến trọn đời. Do đó, nó bị phá vỡ cùng với sự tan rã của các uẩn; sự phá vỡ đó không có quả báo vì không có kết quả. Còn đối với sự quy y siêu thế, thì hoàn toàn không có sự phá vỡ. Quả vậy, ngay cả trong một kiếp sống khác, một vị Thánh thinh văn cũng không chọn một vị thầy nào khác. Cần phải hiểu sự ô nhiễmsự phá vỡ của sự quy y là như vậy.

Kasmā panettha vodānaṃ na gahitaṃ, nanu vodānavibhāvanāpi tattha kosallāya hotīti? Saccametaṃ, taṃ pana saṃkilesaggahaṇena atthato dīpitaṃ hotīti na gahitaṃ. Yāni hi tesaṃ saṃkilesakāraṇāni aññāṇādīni , tesaṃ sabbena sabbaṃ anuppādanena uppannānañca pahānena vodānaṃ hotīti. Evamettha ‘‘saraṇaṃ saraṇagamana’’ntiādīnaṃ papañco veditabbo. Imassa pana yathāvuttapapañcassa idha avacane kāraṇaṃ dassento āha ‘‘so pana idha vuccamāno’’tiādi. Tattha saraṇavaṇṇanatoti sāmaññaphalasutte vuttasaraṇavaṇṇanato.
Tại sao ở đây không đề cập đến sự thanh lọc, chẳng phải sự phân tích về sự thanh lọc cũng giúp cho sự khéo léo trong đó sao? Điều đó đúng, nhưng do nó đã được làm rõ về mặt ý nghĩa qua việc đề cập đến sự ô nhiễm, nên không được đề cập. Quả vậy, sự thanh lọc xảy ra bằng cách hoàn toàn không để cho các nguyên nhân gây ô nhiễm đó, tức là sự không biết v.v…, phát sinh, và bằng cách từ bỏ chúng nếu chúng đã phát sinh. Cần phải hiểu sự giải thích chi tiết về các từ “nơi nương tựa, sự quy y” v.v… ở đây là như vậy. Tuy nhiên, để cho thấy lý do tại sao sự giải thích chi tiết như đã nói không được trình bày ở đây, ngài nói “nhưng nếu được nói ở đây…” v.v… Ở đó, do sự ca ngợi về nơi nương tựa: tức là do sự ca ngợi về nơi nương tựa đã được nói đến trong kinh Sa-môn Quả.

Saraṇagamanasaṃkilesabhedakathā niṭṭhitā.
Luận về Sự Ô nhiễm và Sự Phá vỡ của việc Quy Y kết thúc.

Upāsakattapaṭivedanākathā
Luận về Sự Tuyên xưng Địa vị Cư sĩ

Evaṃdhāretūti evaṃ jānātūti attho. Ettha ko upāsakoti sarūpapucchā, tasmā kiṃlakkhaṇo upāsakoti vuttaṃ hoti. Kasmāti hetupucchā. Tena kena pavattinimittena upāsakasaddo tasmiṃ puggale niruḷhoti dasseti. Tenāha ‘‘kasmā upāsakoti vuccatī’’ti. Saddassa hi abhidheyyapavattinimittaṃ tadatthassa tabbhāvakāraṇaṃ. Kimassa sīlanti kīdisaṃ assa upāsakassa sīlaṃ, kittakena sīlenāyaṃ sīlasampanno nāma hotīti attho. Ko ājīvoti ko assa sammāājīvo. So pana micchājīvassa parivajjanena hotīti sopi vibhajīyati. Kā vipattīti kassa sīlassa ājīvassa vā vipatti. Anantarassa hi vidhi vā paṭisedho vā. Sampattīti etthāpi eseva nayo.
Xin hãy ghi nhớ như vậy: có nghĩa là, xin hãy biết như vậy. Ở đây, câu ai là cư sĩ? là một câu hỏi về bản chất; do đó, có nghĩa là, người có đặc tính gì là một cư sĩ? Tại sao? là một câu hỏi về nguyên nhân. Qua đó, cho thấy rằng từ ‘cư sĩ’ được dùng để chỉ người đó là do dấu hiệu vận hành nào. Do đó, ngài nói “tại sao được gọi là cư sĩ?”. Quả vậy, dấu hiệu vận hành của một từ đối với đối tượng được chỉ định chính là nguyên nhân cho trạng thái đó của đối tượng đó. Giới của người đó là gì?: có nghĩa là, giới của người cư sĩ đó là như thế nào, với bao nhiêu giới thì người này được gọi là người có giới hạnh? Chánh mạng của người đó là gì?: tức là chánh mạng của người đó là gì. Và vì nó có được qua việc từ bỏ tà mạng, nên tà mạng cũng được phân tích. Sự thất bại là gì?: là sự thất bại của giới nào hay của chánh mạng nào? Quả vậy, quy định hay sự cấm đoán thường liên quan đến điều đứng ngay trước. Sự thành tựu: ở đây cũng theo cách này.

Idaṃ pakiṇṇakaṃ veditabbanti kathaṃ veditabbaṃ? Vuccate – ko upāsakoti khattiyādīsu yo koci tisaraṇaṃ gato gahaṭṭho. Saraṇagamanameva hettha kāraṇaṃ, na jātiādiviseso. Vuttañhetaṃ ‘‘yato kho, mahānāma, buddhaṃ saraṇaṃ gato hoti, dhammaṃ, saṅghaṃ saraṇaṃ gato hoti. Ettāvatā kho, mahānāma, upāsako hotī’’ti (saṃ. ni. 5.1033).
Cần phải biết phần tạp luận này: cần phải biết như thế nào? Xin thưa: ai là cư sĩ?: là bất kỳ ai trong các giai cấp như Sát-đế-lỵ v.v…, là một người tại gia đã quy y tam bảo. Chính sự quy y là nguyên nhân ở đây, chứ không phải các yếu tố khác như dòng dõi v.v… Điều này đã được nói rằng: “Này Mahānāma, khi nào đã quy y Phật, đã quy y Pháp, đã quy y Tăng, thì chừng ấy, này Mahānāma, là một vị cư sĩ.” (saṃ. ni. 5.1033).

Kasmā upāsakoti ratanattayaupāsanato. Teneva saraṇagamanena tattha ca sakkaccakiriyāya ādaragāravabahumānādiyogena payirupāsanatoti vuttaṃ hoti. So hi buddhaṃ upāsatīti upāsako. Dhammaṃ, saṅghaṃ upāsatīti upāsako.
Tại sao là cư sĩ?: do sự hầu cận Tam Bảo. Có nghĩa là, chính bằng sự quy y đó và bằng sự thực hành một cách kính cẩn ở đó, bằng sự tôn trọng, quý mến, và kính trọng, nên gọi là sự hầu cận. Quả vậy, vị ấy hầu cận Phật, nên là cư sĩ. Vị ấy hầu cận Pháp, hầu cận Tăng, nên là cư sĩ.

Kimassasīlanti pañca veramaṇiyo. Veramaṇiyoti cettha veraṃ vuccati pāṇātipātādīsu dussīlyaṃ, tassa mananato hananato vināsanato veramaṇiyo pañca viratiyo viratippadhānattā tassa sīlassa. Vuttañhetaṃ ‘‘yato kho, mahānāma, upāsako pāṇātipātā paṭivirato hoti, adinnādānā, kāmesumicchācārā, musāvādā, surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato hoti. Ettāvatā kho, mahānāma, upāsako sīlavā hotī’’ti (saṃ. ni. 5.1033).
Giới của người đó là gì?: là năm sự từ bỏ. Ở đây, trong từ veramaṇiyo (các sự từ bỏ), sự thù hận (vera) được nói đến là sự vô giới trong các việc như sát sanh v.v…; do sự suy xét, sự hủy diệt, sự tiêu diệt sự thù hận đó, nên năm sự từ bỏ này được gọi là veramaṇiyo. Do sự từ bỏ là chính, nên đó là giới của người đó. Điều này đã được nói rằng: “Này Mahānāma, khi nào một vị cư sĩ từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà dâm trong các dục, từ bỏ nói dối, từ bỏ việc dùng các chất say, rượu và men, là những thứ gây ra sự dể duôi, thì chừng ấy, này Mahānāma, là một vị cư sĩ có giới.” (saṃ. ni. 5.1033).

Ko ājīvoti pañca micchāvaṇijjā pahāya dhammena samena jīvitakappanaṃ. Vuttañhetaṃ – ‘‘pañcimā, bhikkhave, vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā. Katamā pañca? Satthavaṇijjā sattavaṇijjā maṃsavaṇijjā majjavaṇijjā visavaṇijjā. Imā kho, bhikkhave, pañca vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā’’ti (a. ni. 5.177).
Chánh mạng là gì?: là việc nuôi sống một cách đúng pháp, công bằng, sau khi đã từ bỏ năm nghề buôn bán sai trái. Điều này đã được nói rằng: “Này các Tỳ-khưu, có năm nghề buôn bán mà một vị cư sĩ không nên làm. Năm nghề đó là gì? Buôn bán vũ khí, buôn bán chúng sanh, buôn bán thịt, buôn bán rượu, và buôn bán thuốc độc. Này các Tỳ-khưu, đây là năm nghề buôn bán mà một vị cư sĩ không nên làm.” (a. ni. 5.177).

Ettha ca satthavaṇijjāti āvudhabhaṇḍaṃ katvā vā kāretvā vā yathākataṃ vā paṭilabhitvā tassa vikkayo. Sattavaṇijjāti manussavikkayo. Maṃsavaṇijjāti sūnakārādayo viya migasūkarādike posetvā maṃsaṃ sampādetvā vikkayo. Majjavaṇijjāti yaṃ kiñci majjaṃ yojetvā tassa vikkayo. Visavaṇijjāti visaṃ yojetvā saṅgahetvā vā tassa vikkayo. Tattha satthavaṇijjā paroparodhanimittatāya akaraṇīyā vuttā, sattavaṇijjā abhujissabhāvakaraṇato, maṃsavisavaṇijjā vadhahetuto, majjavaṇijjā pamādaṭṭhānatoti veditabbā.
Ở đây, buôn bán vũ khí là việc làm hoặc cho làm các loại vũ khí, hoặc sau khi đã nhận được các loại đã làm sẵn, rồi bán chúng đi. Buôn bán chúng sanh là việc buôn bán con người. Buôn bán thịt là việc nuôi các loài như hươu, heo v.v… rồi làm thịt để bán, giống như những người đồ tể. Buôn bán rượu là việc pha chế bất kỳ loại rượu nào rồi bán đi. Buôn bán thuốc độc là việc pha chế hoặc tích trữ thuốc độc rồi bán đi. Cần phải biết rằng, buôn bán vũ khí được cho là không nên làm vì nó là nguyên nhân gây hại cho người khác; buôn bán chúng sanh là do làm cho họ mất tự do; buôn bán thịt và thuốc độc là do là nguyên nhân gây ra cái chết; và buôn bán rượu là do là nơi chốn của sự dể duôi.

Kā vipattīti yā tasseva sīlassa ca ājīvassa ca vipatti bhedo kopo pakopo ca, ayamassa vipatti. Apica yāya esa caṇḍālo ceva hoti malañca paṭikuṭṭho ca, sāpissa vipattīti veditabbā. Te ca atthato assaddhiyādayo pañca dhammā honti. Yathāha –
Sự thất bại là gì?: chính sự thất bại, sự phá vỡ, sự vi phạm giới và chánh mạng đó của người ấy là sự thất bại của người ấy. Hơn nữa, cần phải biết rằng, điều gì khiến cho người này trở thành một người hạ tiện, một vết nhơ, và một người đáng bị khinh chê, thì đó cũng là sự thất bại của người ấy. Về mặt ý nghĩa, đó là năm pháp, bắt đầu từ sự không có đức tin. Như đã nói:

‘‘Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato upāsako upāsakacaṇḍālo ca hoti upāsakamalañca upāsakapaṭikuṭṭho ca. Katamehi pañcahi? Assaddho hoti, dussīlo hoti, kotūhalamaṅgaliko hoti, maṅgalaṃ pacceti, no kammaṃ , ito ca bahiddhā dakkhiṇeyyaṃ pariyesati, tattha ca pubbakāraṃ karotī’’ti (a. ni. 5.175).
“Này các Tỳ-khưu, một vị cư sĩ có đủ năm pháp sẽ trở thành một người cư sĩ hạ tiện, một vết nhơ của hàng cư sĩ, và một người cư sĩ đáng bị khinh chê. Năm pháp đó là gì? Không có đức tin, theo ác giới, tin vào điềm triệu may rủi, tin vào điềm triệu chứ không tin vào nghiệp, tìm kiếm đối tượng cúng dường ở ngoài giáo pháp này, và thực hiện việc cúng dường trước tiên ở đó.” (a. ni. 5.175).

Ettha ca upāsakapaṭikuṭṭhoti upāsakanihīno. Buddhādīsu kammakammaphalesu ca saddhāvipariyāyo assaddhiyaṃ micchādhimokkho, yathāvuttena assaddhiyena samannāgato assaddho. Yathāvuttasīlavipattiājīvavipattivasena dussīlo. ‘‘Iminā diṭṭhādinā idaṃ nāma maṅgalaṃ hotī’’ti evaṃ bālajanaparikappitakotūhalasaṅkhātena diṭṭhasutamutamaṅgalena samannāgato kotūhalamaṅgaliko. Maṅgalaṃ paccetīti diṭṭhamaṅgalādibhedaṃ maṅgalameva pattiyāyati. No kammanti kammassakataṃ no pattiyāyati. Itobahiddhāti ito sabbaññubuddhasāsanato bahiddhā bāhirakasamaye. Dakkhiṇeyyaṃ pariyesatīti duppaṭipannaṃ dakkhiṇārahasaññī gavesati. Pubbakāraṃ karotīti dānamānanādikaṃ kusalakiriyaṃ paṭhamataraṃ karoti. Ettha ca dakkhiṇeyyapaayesanapubbakāre ekaṃ katvā pañca dhammā veditabbā.
Ở đây, người cư sĩ đáng bị khinh chê là người cư sĩ thấp hèn. Sự ngược lại với đức tin vào Phật, vào nghiệp và quả của nghiệp, là sự không có đức tin, là sự tin tưởng sai lầm. Người có sự không có đức tin như đã nói là người không có đức tin. Do sự thất bại về giới và sự thất bại về chánh mạng như đã nói, nên là người theo ác giới. Do có các điềm triệu may rủi được xem là tốt lành, do những người ngu si tưởng tượng ra, như điềm lành được thấy, được nghe, được nghĩ đến, nên là người tin vào điềm triệu may rủi. Tin vào điềm triệu: tức là chỉ tin vào các loại điềm triệu như điềm lành được thấy v.v… Không tin vào nghiệp: tức là không tin vào quyền sở hữu của nghiệp. Ở ngoài đây: tức là ở ngoài giáo pháp của bậc Toàn Giác này, trong các giáo phái bên ngoài. Tìm kiếm đối tượng cúng dường: tức là tìm kiếm những người có sự thực hành sai lầm mà lại cho là xứng đáng được cúng dường. Thực hiện việc cúng dường trước tiên: tức là thực hiện các hành động thiện như bố thí, tôn kính v.v… trước tiên. Ở đây, cần phải biết rằng có năm pháp, bằng cách gộp việc tìm kiếm đối tượng cúng dường và việc cúng dường trước tiên làm một.

Kāsampattīti sāva tassa sīlasampadā ca ājīvasampadā ca sampatti, ye cassa ratanabhāvādikarā saddhādayo pañca dhammā. Yathāha –
Sự thành tựu là gì?: chính sự thành tựu về giới và sự thành tựu về chánh mạng đó là sự thành tựu của người ấy, và cả năm pháp, bắt đầu từ đức tin, vốn làm cho người ấy trở thành một viên ngọc quý. Như đã nói:

‘‘Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato upāsako upāsakaratanañca hoti upāsakapadumañca upāsakapuṇḍarīko ca. Katamehi pañcahi? Saddho hoti, sīlavā hoti, na kotūhalamaṅgaliko hoti, kammaṃ pacceti, no maṅgalaṃ, na ito bahiddhā dakkhiṇeyyaṃ pariyesati, idha ca pubbakāraṃ karotī’’ti.
“Này các Tỳ-khưu, một vị cư sĩ có đủ năm pháp sẽ trở thành một viên ngọc quý của hàng cư sĩ, một đóa hoa sen của hàng cư sĩ, và một đóa hoa sen trắng của hàng cư sĩ. Năm pháp đó là gì? Có đức tin, có giới hạnh, không tin vào điềm triệu may rủi, tin vào nghiệp chứ không tin vào điềm triệu, không tìm kiếm đối tượng cúng dường ở ngoài giáo pháp này, và thực hiện việc cúng dường trước tiên ở đây.”

Ettha ca catunnampi parisānaṃ ratijananaṭṭhena upāsakova ratanaṃ upāsakaratanaṃ, guṇasobhākittisaddasugandhatāhi upāsakova padumaṃ upāsakapadumaṃ, tathā upāsakapuṇḍarīko ca veditabbo. Sesamettha vipattiyaṃ vuttavipariyāyena viññeyyaṃ. Evamidaṃ ‘‘ko upāsako’’tiādikaṃ pakiṇṇakaṃ vitthārato veditabbaṃ. Imassa pana pakiṇṇakassa idha vitthāretvā avacane kāraṇaṃ dassento āha ‘‘taṃ atibhāriyakaraṇato’’tiādi.
Ở đây, do làm phát sinh sự vui thích cho cả bốn chúng, nên chính vị cư sĩ là một viên ngọc quý, đó là viên ngọc quý của hàng cư sĩ; do có các phẩm chất, vẻ đẹp, danh tiếng, và hương thơm của đức hạnh, nên chính vị cư sĩ là một đóa hoa sen, đó là đóa hoa sen của hàng cư sĩ; tương tự, cần phải hiểu là đóa hoa sen trắng của hàng cư sĩ. Phần còn lại ở đây cần được hiểu theo cách ngược lại với những gì đã được nói trong phần về sự thất bại. Cần phải biết chi tiết phần tạp luận bắt đầu bằng câu “ai là cư sĩ?” này là như vậy. Tuy nhiên, để cho thấy lý do tại sao phần tạp luận này không được giải thích chi tiết ở đây, ngài nói “do điều đó sẽ làm cho bài luận trở nên quá nặng nề” v.v…

Ādimhīti ādiatthe. Koṭiyanti pariyantakoṭiyaṃ. Vihāraggenāti ovarakakoṭṭhāsena, ‘‘imasmiṃ gabbhe vasantānaṃ idaṃ panasaphalaṃ pāpuṇātī’’tiādinā taṃtaṃvasanaṭṭhānakoṭṭhāsenāti attho. Ajjatanti ajja icceva attho. Pāṇehi upetanti iminā tassa saraṇagamanassa āpāṇakoṭikataṃ dassento ‘‘yāva me jīvitaṃ pavattatī’’tiādīni vatvā puna jīvitenapahaṃ vatthuttayaṃ paṭipūjento saraṇagamanañca rakkhāmīti uppannaṃ tassa brāhmaṇassa adhippāyaṃ vibhāvento ‘‘ahañhī’’tiādimāha. Pāṇehi upetanti hi yāva me pāṇā dharanti, tāva saraṇaṃ upetaṃ, upento na vācāmattena na ekavāraṃ cittuppādanamattena, atha kho pāṇānaṃ pariccajanavasena yāvajīvaṃ upetanti evamettha attho veditabbo.
Lúc ban đầu: tức là với ý nghĩa là lúc bắt đầu. Ở điểm cuối: tức là ở điểm kết thúc. Bằng phần tốt nhất của nơi ở: tức là bằng phần gian phòng, có nghĩa là, bằng phần nơi ở đó, qua các câu như “đối với những người sống trong gian phòng này, sẽ đạt được quả này” v.v… Kể từ hôm nay: có nghĩa là, chính là hôm nay. Con xin quy y cho đến trọn đời: qua đó, để cho thấy rằng sự quy y của vị ấy là cho đến khi mạng sống kết thúc, sau khi đã nói “cho đến khi mạng sống của con còn tồn tại” v.v…, và để làm rõ chủ ý của vị Bà-la-môn đó, người đang cúng dường ba ngôi báu bằng cả mạng sống và đang bảo vệ sự quy y, ngài lại nói “quả vậy, con…” v.v… Quả vậy, cần phải hiểu ý nghĩa ở đây là: con xin quy y cho đến trọn đời, tức là, chừng nào mạng sống của con còn tồn tại, chừng đó con xin quy y; sự quy y không phải chỉ bằng lời nói, không phải chỉ bằng một khoảnh khắc của tâm phát sinh, mà là quy y cho đến trọn đời bằng cách hiến dâng cả mạng sống.

Adhivāsetūti sādiyatu, taṃ pana sādiyanaṃ manasā sampaṭiggaho hotīti āha ‘‘sampaṭicchatū’’ti. Kāyaṅganti kāyameva aṅganti vadanti, kāyassa vā aṅgaṃ sīsādi kāyaṅgaṃ, sīsādi sarīrāvayavanti vuttaṃ hoti. Vācaṅganti ‘‘hotu sādhū’’ti evamādivācāya aṅgaṃ avayavaṃ. Vācaṅgassa copanaṃ vācāya pavattanamevāti veditabbaṃ. Abbhantareyevāti attano cittasantāneyeva. Khantiṃ cāretvāti khantiṃ pavattetvā, ruciṃ uppādetvāti vuttaṃ hoti. ‘‘Khantiṃ dhāretvā’’tipi pāṭho, uppannaṃ ruciṃ abbhantareyeva dhāretvā vacībhedena apakāsetvāti vuttaṃ hoti.
Xin hãy chấp nhận: tức là xin hãy nhận lấy; và sự nhận lấy đó là sự tiếp nhận bằng ý. Do đó, ngài nói “xin hãy tiếp nhận”. Người ta nói rằng thân phần là chính thân thể là một phần; hoặc, một phần của thân thể như đầu v.v… là thân phần; có nghĩa là, một bộ phận của cơ thể như đầu v.v… Khẩu phần: tức là một phần, một bộ phận của lời nói, như câu “lành thay” v.v… Cần phải biết rằng, sự thúc đẩy của khẩu phần chính là sự vận hành của lời nói. Chỉ ở bên trong: tức là chỉ trong dòng tâm thức của chính mình. Sau khi đã khởi lên sự kham nhẫn: tức là sau khi đã làm cho sự kham nhẫn vận hành; có nghĩa là, sau khi đã làm phát sinh sự ưa thích. Cũng có cách đọc là “sau khi đã giữ gìn sự kham nhẫn”; có nghĩa là, sau khi đã giữ gìn sự ưa thích đã phát sinh chỉ ở bên trong, không biểu lộ ra bằng lời nói.

Kathaṃ pana verañjo brāhmaṇo bhagavato adhivāsanaṃ aññāsi. Na hi tena sakkā bhagavato cittappavatti paccakkhato viññātuṃ, tasmā ‘‘bhagavato adhivāsanaṃ viditvā’’ti kasmā vuttanti ce? Kiñcāpi tena na sakkā cittappavatti paccakkhato viññātuṃ, tathāpi ākārasallakkhaṇakusalatāya anvayabyatirekavasena anumānato aññāsīti dassento āha ‘‘sace me samaṇo gotamo’’tiādi. Ākārasallakkhaṇakusalatāyāti cittappavattiākāravijānane chekatāya, adhippāyavijānane kusalatāyāti vuttaṃ hoti. Dasanakhasamodhānasamujjalanti dvīsu hatthesu dasannaṃ nakhānaṃ samodhānena ekībhāvena samujjalantaṃ. Añjalinti hatthapuṭaṃ. Paṭimukhoyevāti abhimukhoyeva, na bhagavato piṭṭhiṃ dassetvāti attho. Vanditvāti pañcapatiṭṭhitena vanditvā.
Nhưng làm thế nào Bà-la-môn Verañja lại biết được sự chấp nhận của Đức Thế Tôn? Quả vậy, vị ấy không thể biết được sự vận hành của tâm của Đức Thế Tôn một cách trực tiếp. Do đó, nếu có người hỏi tại sao lại nói “sau khi đã biết được sự chấp nhận của Đức Thế Tôn”? Để cho thấy rằng, mặc dù vị ấy không thể biết được sự vận hành của tâm một cách trực tiếp, nhưng do khéo léo trong việc nhận biết các biểu hiện, nên đã biết được qua sự suy luận theo phép đồng và dị, ngài nói “nếu Sa-môn Gotama…” v.v… Do sự khéo léo trong việc nhận biết các biểu hiện: tức là do sự tinh thông trong việc nhận biết các biểu hiện của sự vận hành của tâm; có nghĩa là, do sự khéo léo trong việc nhận biết chủ ý. Sự chắp tay rực rỡ do mười móng tay hợp lại: tức là đang tỏa sáng do sự hợp nhất, sự đồng nhất của mười móng tay trên hai bàn tay. Sự chắp tay: tức là hai bàn tay úp vào nhau. Chỉ hướng về phía trước: tức là chỉ hướng mặt về phía trước, chứ không quay lưng lại với Đức Thế Tôn. Sau khi đã đảnh lễ: tức là sau khi đã đảnh lễ bằng cách để năm vóc sát đất.

Upāsakattapaṭivedanākathā niṭṭhitā.
Luận về Sự Tuyên xưng Địa vị Cư sĩ kết thúc.

Dubbhikkhakathā
Luận về Nạn đói

16.Susassakālepīti sampannasassakālepi. Atisamagghepīti atisayena appagghepi, yadā kiñcideva datvā bahuṃ pubbaṇṇāparaṇṇaṃ gaṇhanti, tādise kālepīti attho. Sāliādi dhaññaṃ pubbaṇṇaṃ, muggamāsādi aparaṇṇaṃ. Dvidhā pavattaṃ īhitaṃ etthāti dvīhitikāti majjhapadalopībāhiratthasamāsoyamīti dassento āha ‘‘dvidhā pavattaīhitikā’’ti. Īhanaṃ īhitanti īhitasaddoyaṃ bhāvasādhanoti āha ‘‘īhitaṃ nāma iriyā’’ti. Tattha iriyāti kiriyā. Kassa panesā kiriyāti āha ‘‘cittairiyā’’ti, cittakiriyā cittappayogoti attho. Tenevāha ‘‘cittaīhā’’ti. Kathaṃ panettha īhitassa dvidhā pavattīti āha ‘‘lacchāma nu kho’’tiādi. Tattha lacchāma nu khoti idaṃ duggatānaṃ vasena vuttaṃ. Jīvituṃ vā sakkhissāma nu kho, noti idaṃ pana issarānaṃ vasena vuttanti veditabbaṃ. Bhikkhamānāti yācamānā. ‘‘Duhitikā’’tipi pāṭho. Tatthāpi vuttanayenevattho veditabbo. Dvi-saddassa hi du-saddādesenāyaṃ niddeso hoti. Dukkhaṃ vā īhitaṃ ettha na sakkā koci payogo sukhena kātunti duhitikā, dukkarajīvitappayogāti attho.
16. Ngay cả trong thời có mùa màng tốt tươi: tức là ngay cả trong thời có mùa màng bội thu. Ngay cả khi giá cả rất rẻ: tức là khi giá cả cực kỳ rẻ, có nghĩa là, vào thời điểm mà người ta có thể bỏ ra một ít mà nhận lại được rất nhiều ngũ cốc sớm và ngũ cốc muộn. Các loại lúa gạo v.v… là ngũ cốc sớm; các loại đậu v.v… là ngũ cốc muộn. Để cho thấy rằng, đây là một hợp từ ngoại vị có từ ở giữa bị lược bỏ, có nghĩa là, nơi có sự lo lắng vận hành theo hai cách, ngài nói “thời có sự lo lắng vận hành theo hai cách”. Sự lo lắng là ‘īhitaṃ’; từ ‘īhita’ này được thành lập theo nghĩa chỉ hành động, nên ngài nói “īhitaṃ có nghĩa là hành vi”. Ở đó, hành vi là hành động. Nhưng đây là hành động của cái gì? Mới nói: “hành vi của tâm”, có nghĩa là hành động của tâm, sự nỗ lực của tâm. Do đó, ngài nói “sự lo lắng của tâm”. Làm thế nào sự lo lắng ở đây lại vận hành theo hai cách? Mới nói: “chúng ta có được không?” v.v… Ở đó, câu “chúng ta có được không?” được nói theo phương diện của những người nghèo khó. Còn câu “chúng ta có thể sống được hay không?” cần phải được hiểu là được nói theo phương diện của những người giàu có. Trong khi xin: tức là trong khi van xin. Cũng có cách đọc là “duhitikā”. Ở đó, ý nghĩa cũng cần được hiểu theo cách đã nói. Quả vậy, cách trình bày này là do sự biến đổi của từ ‘dvi’ thành ‘du’. Hoặc, nơi mà sự lo lắng là khổ đau, không có một nỗ lực nào có thể được thực hiện một cách dễ dàng, nên là duhitikā; có nghĩa là, những nỗ lực để sinh sống là khó khăn.

Du-sadde vā ukārassa vakāraṃ katvā dvīhitikāti ayaṃ niddesoti āha ‘‘atha vā’’tiādi. Byādhi rogoti etāni ‘‘āturatā’’ti imassa vevacanāni. Tena setaṭṭikā nāma ekā rogajātīti dasseti. So pana rogo pāṇakadosena sambhavati. Eko kira pāṇako nāḷamajjhagataṃ gaṇṭhiṃ vijjhati, yena viddhattā nikkhantampi sālisīsaṃ khīraṃ gahetuṃ na sakkoti. Tenāha ‘‘pacchinnakhīra’’ntiādi.
Hoặc, trong từ ‘du’, nguyên âm ‘u’ được đổi thành ‘v’, và cách trình bày này là ‘dvīhitikā’. Do đó, ngài nói “Hoặc là…” v.v… Bệnh hoạn, bệnh tật: đây là các từ đồng nghĩa của “sự ốm yếu”. Qua đó, ngài cho thấy rằng ‘setaṭṭhikā’ (bệnh xương trắng) là một loại bệnh. Và bệnh đó phát sinh do một loại sâu bệnh. Có một loại sâu bệnh chích vào đốt ở giữa thân cây lúa; do bị chích, bông lúa dù đã trổ ra cũng không thể hút sữa được. Do đó, ngài nói “bị mất sữa” v.v…

Vuttasassanti vapitasassaṃ. Tatthāti verañjāyaṃ. Salākāmattaṃ vuttaṃ etthāti salākāvuttā, purimapade uttarapadalopenāyaṃ niddeso. Tenāha ‘‘salākā eva sampajjatī’’ti. Yaṃ tattha vuttaṃ vāpitaṃ, taṃ salākāmattameva ahosi, phalaṃ na jāyatīti attho. Sampajjatīti ca iminā ‘‘salākāvuttā’’ti etthāyaṃ vuttasaddo nipphattiatthoti dasseti. Salākāyāti veḷuvilīvatālapaṇṇādīhi katasalākāya. Dhaññavikkayakānaṃ santikanti dhaññaṃ vikkiṇantīti dhaññavikkayakā, tesaṃ samīpanti attho. Kayakesūti dhaññagaṇhanakesu. Kiṇitvāti gahetvā. Dhaññakaraṇaṭṭhāneti koṭṭhāgārassa samīpaṭṭhāne, dhaññaminanaṭṭhāneti vuttaṃ hoti . Vaṇṇajjhakkhanti kahāpaṇaparikkhakaṃ. Nasukarā uñchena paggahena yāpetunti paggayhatīti paggaho, patto. Tena paggahena pattenāti attho, pattaṃ gahetvā bhikkhācariyāya yāpetuṃ na sakkāti vuttaṃ hoti. Tenevāha ‘‘paggahena yo uñcho’’tiādi. Nasukarāti sukarabhāvo ettha natthīti nasukarā. Piṇḍāya caritvāti piṇḍāya caraṇahetu. Hetuatthepi hi tvāsaddameke icchanti.
Lúa đã gieo: tức là lúa đã được gieo trồng. Ở đó: tức là ở thành Verañjā. Cái được nói là chỉ còn lại cọng rạ, đó là salākāvuttā; cách trình bày này là do sự lược bỏ từ ở sau trong cụm từ đứng trước. Do đó, ngài nói “chỉ còn lại cọng rạ”. Có nghĩa là, lúa được gieo, được trồng ở đó, chỉ còn lại cọng rạ, không sinh ra quả. Và qua từ còn lại, ngài cho thấy rằng, trong từ “salākāvuttā”, từ ‘vutta’ có nghĩa là sự hình thành. Bằng thẻ: tức là bằng thẻ được làm từ tre, nứa, lá cọ v.v… Đến chỗ những người bán lúa: những người bán lúa là những người bán lúa; có nghĩa là, đến gần họ. Trong số những người mua: tức là trong số những người nhận lúa. Sau khi đã mua: tức là sau khi đã lấy. Tại nơi làm lúa: tức là tại nơi gần kho lúa; có nghĩa là, tại nơi đong lúa. Người kiểm tra tiền tệ. Không dễ dàng để sống bằng cách mót lượm và đi khất thực: cái được mang đi là ‘paggaha’, là cái bát. Do đó, có nghĩa là, bằng cái bát đó; có nghĩa là, không thể sống bằng cách đi khất thực với cái bát. Do đó, ngài nói “sự mót lượm bằng cái bát đó” v.v… Không dễ dàng: tức là không có sự dễ dàng ở đây. Sau khi đã đi khất thực: tức là do nguyên nhân đi khất thực. Quả vậy, một số người cũng cho rằng biến cách từ ‘tvā’ có thể có nghĩa là nguyên nhân.

Uttarāpathato āgatā, uttarāpatho vā nivāso etesanti uttarāpathakāti vattabbe niruttinayena ‘‘uttarāhakā’’ti vuttaṃ. Tenāha ‘‘uttarāpathavāsikā’’tiādi. ‘‘Uttarāpathakā’’icceva vā pāḷipāṭho veditabbo. Keci pana ‘‘uttaraṃ visiṭṭhaṃ bhaṇḍaṃ āharantīti uttarāhakā, uttaraṃ vā adhikaṃ agghaṃ nentīti uttarāhakā’’tiādinā aññena pakārena atthaṃ vaṇṇayanti. Assānaṃ uṭṭhānaṭṭhāneti assānaṃ ākaraṭṭhāne. Verañjanti verañjāyaṃ. Bhummatthe hetaṃ upayogavacanaṃ. Mandiranti assasālaṃ. Assamaṇḍalikāyoti paññāyiṃsūti parimaṇḍalākārena katattā assamaṇḍalikāyoti pākaṭā ahesuṃ. Evaṃ katānañca assasālānaṃ bahuttā bahuvacananiddeso kato. Dasannaṃ dasannaṃ assānaṃ vasanokāso ekekā assamaṇḍalikātipi vadanti. Addhānakkhamā na hontīti dīghakālaṃ pavattetuṃ khamā na honti, na cirakālappavattinoti vuttaṃ hoti.
Những người đến từ miền bắc, hoặc miền bắc là nơi ở của họ, lẽ ra phải nói là ‘uttarāpathakā’, nhưng theo quy tắc từ nguyên, đã được nói là “uttarāhakā”. Do đó, ngài nói “những người ở miền bắc” v.v… Hoặc cần phải hiểu rằng cách đọc trong kinh Pāḷi chính là “uttarāpathakā”. Tuy nhiên, một số người khác lại giải thích ý nghĩa theo một cách khác: “họ mang đến những món hàng tốt đẹp, nên là uttarāhakā; hoặc họ lấy giá cao hơn, nên là uttarāhakā”. Tại nơi xuất xứ của ngựa: tức là tại nơi có nguồn ngựa. Ở Verañjā. Đây là từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa chỉ đối tượng. Chuồng ngựa. Được biết đến là các chuồng ngựa hình tròn: do được làm theo hình tròn, nên chúng được biết đến là các chuồng ngựa hình tròn. Và do có nhiều chuồng ngựa được làm như vậy, nên đã dùng cách nói số nhiều. Một số người còn nói rằng, nơi ở của mười con ngựa là một chuồng ngựa hình tròn. Không chịu được đường dài: tức là không thể đi được trong một thời gian dài; có nghĩa là, chúng không phải là loài đi được đường dài.

Gaṅgāya dakkhiṇā disā appatirūpadeso, uttarā disā patirūpadesoti adhippāyenāha ‘‘na hi te’’tiādi. Gaṅgāya dakkhiṇatīrajātā dakkhiṇāpathamanussā. ‘‘Amhākaṃ buddho’’ti evaṃ buddhaṃ mamāyantīti buddhamāmakā. Evaṃ sesesupi. Paṭiyādetunti sampādetuṃ. Niccabhattasaṅkhepenāti niccabhattākārena. Pubbaṇhasamayanti idaṃ bhummatthe upayogavacananti āha ‘‘pubbaṇhasamayetiattho’’ti. Accantasaṃyoge vā idaṃ upayogavacananti dassetuṃ yathā accantasaṃyogattho sambhavati, tathā atthaṃ dassento āha ‘‘pubbaṇhe vā samaya’’ntiādi. Evanti evaṃ pacchā vuttanayena atthe vuccamāne. Nanu ca vihāre nisīdantāpi antaravāsakaṃ nivāsetvāva nisīdanti, tasmā ‘‘nivāsetvā’’ti idaṃ kasmā vuttanti āha ‘‘vihāranivāsanaparivattanavasenā’’tiādi. Vihāranivāsanaparivattanañca vihāre nisinnakāle nivatthampi puna gāmappavesanasamaye cāletvā ito cito ca saṇṭhapetvā sakkaccaṃ nivāsanamevāti veditabbaṃ. Tenevāha ‘‘na hi te tato pubbe anivatthā ahesu’’nti. Pattacīvaramādāyāti pattañca cīvarañca gahetvā. Gahaṇañcettha na kevalaṃ hattheneva, atha kho yena kenaci ākārena dhāraṇamevāti dassento yathāsambhavamatthayojanaṃ karoti ‘‘pattaṃ hatthehī’’tiādinā.
Với chủ ý rằng, vùng đất phía nam sông Hằng là một vùng đất không thích hợp, còn vùng đất phía bắc là một vùng đất thích hợp, ngài nói “quả vậy, họ không…” v.v… Những người sinh ra ở bờ nam sông Hằng là những người ở miền nam. Do họ yêu mến Đức Phật rằng “Đức Phật của chúng ta”, nên là những người yêu mến Phật. Tương tự đối với các trường hợp còn lại. Để chuẩn bị: tức là để sắm sửa. Theo cách vật thực thường xuyên. Câu vào lúc buổi sáng là từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa chỉ đối tượng. Do đó, ngài nói “có nghĩa là, vào lúc buổi sáng”. Hoặc, để cho thấy rằng đây là từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa chỉ sự liên tục, và để trình bày ý nghĩa theo cách mà ý nghĩa chỉ sự liên tục có thể có được, ngài nói “hoặc vào buổi sáng, thời điểm…” v.v… Như vậy: tức là, khi ý nghĩa được nói theo cách đã được trình bày ở sau. Nhưng chẳng phải khi ngồi trong tu viện, các vị cũng mặc nội y rồi mới ngồi sao, vậy tại sao lại nói “sau khi đã mặc”? Mới nói: “do việc thay đổi y mặc trong tu viện” v.v… Cần phải biết rằng, việc thay đổi y mặc trong tu viện chính là việc mặc một cách cẩn thận, bằng cách sắp xếp lại y phục đã mặc khi ngồi trong tu viện, khi chuẩn bị vào làng. Do đó, ngài nói “quả vậy, trước đó họ không phải là không mặc y”. Sau khi đã mang y bát: tức là sau khi đã lấy bát và y. Và việc lấy ở đây không chỉ đơn thuần là bằng tay, mà là việc mang theo bằng bất kỳ hình thức nào. Để cho thấy điều đó, ngài liên kết ý nghĩa một cách phù hợp: “bát thì bằng tay…” v.v…

Gatagataṭṭhāneti assamaṇḍalikāsu sampattasampattaṭṭhāne. Udukkhale koṭṭetvā koṭṭetvā paribhuñjantīti ettha kasmā pana te bhikkhū sayameva evaṃ katvā paribhuñjanti, kimevaṃ laddhaṃ kappiyakārakehi yāguṃ vā bhattaṃ vā pacāpetvā sayaṃ vā pacitvā paribhuñjituṃ na vaṭṭatīti āha ‘‘therānaṃ koci kappiyakārako natthī’’tiādi. Kappiyākappiyabhāvaṃ anapekkhitvā bhikkhūnaṃ evaṃ kātuṃ sāruppaṃ na hotīti vatvā puna akappiyabhāvampi dassento āha ‘‘na ca vaṭṭatī’’ti. Bhājanādipariharaṇavasena bahubhaṇḍikatāya abhāvato vuttaṃ ‘‘sallahukavuttitā’’ti. Sakaṃ sakaṃ paṭivīsanti attano attano koṭṭhāsaṃ. Appossukkāti samaṇadhammato aññattha nirussāhā. Tadupiyanti tadanurūpaṃ. Pisatīti cuṇṇeti. Puññañāṇavisesehi kattabbakammassa manāpatā hotīti āha ‘‘puññavatā’’tiādi. Nanti naṃ patthapulakaṃ. ‘‘Na tato paṭṭhāyā’’ti vacanato tato pubbe bhagavato piṇḍāya caraṇampi dassitanti veditabbaṃ.
Tại những nơi đã đến: tức là tại những nơi đã đến được trong các chuồng ngựa hình tròn. Trong câu giã trong cối rồi dùng, tại sao các vị Tỳ-khưu lại tự mình làm như vậy rồi dùng, tại sao lại không được phép nhờ các người tịnh nhân nấu cháo hoặc cơm từ những thứ đã nhận được, hoặc tự mình nấu rồi dùng? Mới nói: “các vị trưởng lão không có một người tịnh nhân nào” v.v… Sau khi đã nói rằng, không kể đến việc có phù hợp hay không, việc các vị Tỳ-khưu làm như vậy là không thích hợp, và để cho thấy cả sự không phù hợp, ngài lại nói “và cũng không được phép”. Do không có nhiều đồ dùng để mang theo như nồi niêu, nên mới nói “sống một cách nhẹ nhàng”. Phần của mỗi người. Ít bận rộn: tức là không bận tâm đến những việc khác ngoài pháp của Sa-môn. Tùy theo đó: tức là tùy theo hoàn cảnh. Giã: tức là nghiền thành bột. Do hành động cần phải làm đối với những người có phước báu và trí tuệ đặc biệt là một điều dễ chịu, nên ngài nói “của người có phước…” v.v… : tức là nắm lúa mạch đó. Theo câu “kể từ đó trở đi”, cần phải biết rằng, điều đó cũng cho thấy rằng trước đó Đức Thế Tôn cũng đã từng đi khất thực.

Laddhāti labhitvā. ‘‘Laddho’’ti vā pāṭho, upaṭṭhākaṭṭhānaṃ neva laddhoti attho. Kadā pana thero upaṭṭhākaṭṭhānaṃ laddhoti? Vuccate (dī. ni. aṭṭha. 2.11; a. ni. aṭṭha. 1.1.219-223) – ekadā kira bhagavā nāgasamālattherena saddhiṃ addhānamaggappaṭipanno dvedhāpathaṃ patto. Thero maggā ukkamma ‘‘bhagavā ahaṃ iminā maggena gacchāmī’’ti āha. Atha naṃ bhagavā ‘‘ehi bhikkhu, iminā gacchāmā’’ti āha. So ‘‘handa bhagavā tumhākaṃ pattacīvaraṃ gaṇhatha, ahaṃ iminā gacchāmī’’ti vatvā pattacīvaraṃ chamāyaṃ ṭhapetuṃ āraddho. Atha bhagavā ‘‘āhara bhikkhū’’ti vatvā pattacīvaraṃ gahetvā gato. Tassapi bhikkhuno itarena maggena gacchato corā pattacīvarañceva hariṃsu, sīsañca bhindiṃsu. So ‘‘bhagavā dāni me paṭisaraṇaṃ, na añño’’ti cintetvā lohitena gaḷantena bhagavato santikaṃ āgami. ‘‘Kimidaṃ bhikkhū’’ti ca vutte taṃ pavattiṃ ārocesi. Atha naṃ bhagavā ‘‘mā cintayi bhikkhu, etaṃ kāraṇaṃyeva te nivārayimhā’’ti vatvā samassāsesi.
Sau khi đã nhận được. Hoặc có cách đọc là “laddho”, có nghĩa là, vị trí thị giả chưa hề có được. Nhưng khi nào vị trưởng lão đã nhận được vị trí thị giả? Xin thưa (dī. ni. aṭṭha. 2.11; a. ni. aṭṭha. 1.1.219-223): có một lần, Đức Thế Tôn cùng với trưởng lão Nāgasamāla đang đi trên một con đường dài, đến một ngã ba. Vị trưởng lão đi lệch khỏi con đường và nói: “Bạch Đức Thế Tôn, con sẽ đi con đường này”. Khi đó, Đức Thế Tôn nói với vị ấy: “Hãy đến đây, Tỳ-khưu, chúng ta hãy đi con đường này”. Vị ấy nói: “Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy cầm lấy y bát của Ngài, con sẽ đi con đường này”, rồi bắt đầu đặt y bát xuống đất. Khi đó, Đức Thế Tôn nói: “Hãy đưa đây, Tỳ-khưu”, rồi cầm lấy y bát và đi. Và vị Tỳ-khưu đó, khi đi con đường kia, đã bị bọn cướp lấy mất y bát và đánh vỡ đầu. Vị ấy nghĩ rằng: “Bây giờ Đức Thế Tôn là nơi nương tựa của ta, chứ không phải ai khác”, rồi với máu chảy, đã đến gặp Đức Thế Tôn. Và khi được hỏi “việc gì thế này, Tỳ-khưu?”, vị ấy đã kể lại sự việc đó. Khi đó, Đức Thế Tôn nói: “Đừng lo, Tỳ-khưu, chính vì lý do này mà Ta đã ngăn cản con”, rồi an ủi vị ấy.

Ekadā pana bhagavā meghiyattherena saddhiṃ pācīnavaṃsamigadāye jantugāmaṃ agamāsi. Tatrāpi meghiyo jantugāme piṇḍāya caritvā nadītīre pāsādikaṃ ambavanaṃ disvā ‘‘bhagavā tumhākaṃ pattacīvaraṃ gaṇhatha, ahaṃ etasmiṃ ambavane samaṇadhammaṃ karomī’’ti vatvā bhagavatā tikkhattuṃ nivāriyamānopi gantvā akusalavitakkehi anvāsatto paccāgantvā taṃ pavattiṃ ārocesi. Tampi bhagavā ‘‘idameva te kāraṇaṃ sallakkhayitvā nivārayimhā’’ti vatvā anupubbena sāvatthiṃ agamāsi. Tattha gandhakuṭipariveṇe paññattavarabuddhāsane nisinno bhikkhusaṅghaparivuto bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhave, idānimhi mahallako, ekacce bhikkhū ‘iminā maggena gacchāmā’ti vutte aññena gacchanti, ekacce mayhaṃ pattacīvaraṃ bhūmiyaṃ nikkhipanti, mayhaṃ nibaddhupaṭṭhākaṃ bhikkhuṃ jānāthā’’ti. Bhikkhūnaṃ dhammasaṃvego udapādi. Athāyasmā sāriputto uṭṭhāya bhagavantaṃ vanditvā ‘‘ahaṃ, bhante, tumheyeva patthayamāno satasahassakappādhikaṃ asaṅkhyeyyaṃ pāramiyo pūresiṃ, nanu mādiso mahāpañño upaṭṭhāko nāma vaṭṭati, ahaṃ upaṭṭhahissāmī’’ti āha. Taṃ bhagavā ‘‘alaṃ, sāriputta, yassaṃ disāyaṃ tvaṃ viharasi, asuññāyeva sā disā, tava ovādo buddhānaṃ ovādasadiso, na me tayā upaṭṭhākakiccaṃ atthī’’ti paṭikkhipi. Etenevupāyena mahāmoggallānaṃ ādiṃ katvā asītimahāsāvakā uṭṭhahiṃsu. Sabbe bhagavā paṭikkhipi.
Một lần khác, Đức Thế Tôn cùng với trưởng lão Meghiya đã đến làng Jantu trong khu rừng nai Pācīnavaṃsa. Ở đó, Meghiya sau khi đã đi khất thực trong làng Jantu, thấy một vườn xoài đẹp đẽ bên bờ sông, liền nói: “Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy cầm lấy y bát của Ngài, con sẽ thực hành pháp của Sa-môn trong vườn xoài này”. Mặc dù đã được Đức Thế Tôn ngăn cản đến ba lần, vị ấy vẫn đi và bị các tư tưởng bất thiện ám ảnh, rồi quay trở lại kể lại sự việc đó. Đức Thế Tôn cũng nói với vị ấy: “Chính vì đã thấy rõ lý do này mà Ta đã ngăn cản con”, rồi tuần tự đi đến thành Sāvatthi. Ở đó, khi đang ngồi trên pháp tọa cao quý đã được soạn sẵn trong hương thất, giữa Tăng chúng, Ngài đã gọi các vị Tỳ-khưu và nói: “Này các Tỳ-khưu, nay Ta đã già, có một số Tỳ-khưu, khi được bảo ‘chúng ta hãy đi con đường này’, lại đi con đường khác; có một số lại đặt y bát của Ta xuống đất. Các ông hãy tìm cho Ta một vị Tỳ-khưu làm thị giả thường xuyên”. Lòng cảm động về chánh pháp đã phát sinh nơi các vị Tỳ-khưu. Khi đó, tôn giả Sāriputta đứng dậy, đảnh lễ Đức Thế Tôn và nói: “Bạch Thế Tôn, chính vì mong mỏi Ngài mà con đã hoàn thành các ba-la-mật trong một trăm nghìn và một a-tăng-kỳ kiếp. Chẳng phải một người có trí tuệ lớn như con là xứng đáng làm thị giả sao? Con sẽ hầu hạ Ngài”. Đức Thế Tôn đã từ chối vị ấy: “Thôi đi, Sāriputta, phương nào mà con ở, phương đó không hề trống rỗng. Lời khuyên của con giống như lời khuyên của các vị Phật. Ta không cần con làm công việc của thị giả”. Bằng cách đó, ngài đã từ chối cả tám mươi vị đại thinh văn, bắt đầu từ trưởng lão Mahāmoggallāna, những người đã đứng lên. Tất cả đều bị Đức Thế Tôn từ chối.

Ānandatthero pana tuṇhīyeva nisīdi. Atha naṃ bhikkhū āhaṃsu ‘‘āvuso, bhikkhusaṅgho upaṭṭhākaṭṭhānaṃ yācati, tvampi yācāhī’’ti. Yācitvā laddhaṭṭhānaṃ nāma āvuso kīdisaṃ hoti, kiṃ maṃ satthā na passati, sace rocessati, ‘‘ānando maṃ upaṭṭhātū’’ti vakkhatīti. Atha bhagavā ‘‘na, bhikkhave, ānando aññena ussāhetabbo, sayameva jānitvā maṃ upaṭṭhahissatī’’ti āha. Tato bhikkhū ‘‘uṭṭhehi āvuso ānanda, uṭṭhehi, āvuso ānanda, dasabalaṃ upaṭṭhākaṭṭhānaṃ yācāhī’’ti āhaṃsu. Thero uṭṭhahitvā cattāro paṭikkhepe ca catasso ca āyācanāti aṭṭha vare yāci.
Còn trưởng lão Ānanda thì chỉ im lặng ngồi. Khi đó, các vị Tỳ-khưu nói với ngài: “Thưa hiền giả, Tăng chúng đang xin vị trí thị giả, hiền giả cũng hãy xin đi”. Ngài trả lời: “Thưa các hiền giả, một vị trí có được do xin xỏ thì có ra gì? Chẳng lẽ Bậc Đạo Sư không thấy con sao? Nếu ngài muốn, ngài sẽ nói ‘Ānanda hãy hầu hạ ta’”. Khi đó, Đức Thế Tôn nói: “Này các Tỳ-khưu, không cần ai khuyến khích Ānanda, chính vị ấy sẽ tự biết và hầu hạ ta”. Sau đó, các vị Tỳ-khưu nói: “Hãy đứng dậy đi, hiền giả Ānanda, hãy đứng dậy đi, hiền giả Ānanda, hãy xin vị trí thị giả của Bậc Thập Lực”. Vị trưởng lão đứng dậy và xin tám điều, gồm bốn sự từ chối và bốn sự thỉnh cầu.

Cattāropaṭikkhepā nāma ‘‘sace me, bhante bhagavā, attanā laddhaṃ paṇītaṃ cīvaraṃ na dassati , piṇḍapātaṃ na dassati, ekagandhakuṭiyaṃ vasituṃ na dassati, nimantanaṃ gahetvā na gamissati, evāhaṃ bhagavantaṃ upaṭṭhahissāmī’’ti vatvā ‘‘kaṃ panettha, ānanda, ādīnavaṃ addasā’’ti vutte āha ‘‘sacāhaṃ, bhante, imāni vatthūni labhissāmi, bhavissanti vattāro ‘ānando dasabalena laddhaṃ paṇītaṃ cīvaraṃ paribhuñjati, piṇḍapātaṃ paribhuñjati, ekagandhakuṭiyaṃ vasati, ekanimantanaṃ gacchati, etaṃ lābhaṃ labhanto tathāgataṃ upaṭṭhāti, ko evaṃ upaṭṭhahato bhāro’’’ti. Ime cattāro paṭikkhepe yāci.
Bốn sự từ chối là: “Bạch Thế Tôn, nếu Đức Thế Tôn không cho con y phục quý giá mà Ngài nhận được, không cho con vật thực khất thực, không cho con ở trong cùng một hương thất, không mang con theo khi nhận lời mời, thì con sẽ hầu hạ Đức Thế Tôn”. Khi được hỏi “Này Ānanda, con thấy có sự nguy hại nào trong đó?”, ngài trả lời: “Bạch Thế Tôn, nếu con nhận được những thứ này, sẽ có người nói rằng: ‘Ānanda dùng y phục quý giá mà Bậc Thập Lực nhận được, dùng vật thực khất thực, ở trong cùng một hương thất, đi đến cùng một lời mời. Anh ta hầu hạ Như Lai trong khi nhận được những lợi lộc này, vậy có gì là nặng nhọc đối với một người hầu hạ như vậy?’”. Ngài đã xin bốn sự từ chối này.

Catasso āyācanā nāma ‘‘sace, bhante bhagavā, mayā gahitaṃ nimantanaṃ gamissati, sacāhaṃ tiroraṭṭhā tirojanapadā bhagavantaṃ daṭṭhuṃ āgataparisaṃ āgatakkhaṇe eva bhagavantaṃ dassetuṃ lacchāmi, yadā me kaṅkhā uppajjati, tasmiṃyeva khaṇe bhagavantaṃ upasaṅkamituṃ lacchāmi, tathā yaṃ bhagavā mayhaṃ parammukhaṃ dhammaṃ deseti, taṃ āgantvā mayhaṃ kathessati, evāhaṃ bhagavantaṃ upaṭṭhahissāmī’’ti vatvā ‘‘kaṃ panettha, ānanda, ānisaṃsaṃ passasī’’ti vutte āha ‘‘idha, bhante, saddhā kulaputtā bhagavato okāsaṃ alabhantā maṃ evaṃ vadanti ‘sveva, bhante ānanda, bhagavatā saddhiṃ amhākaṃ ghare bhikkhaṃ gaṇheyyāthā’ti. Sace bhagavā tattha na gamissati, icchitakkhaṇeyeva parisaṃ dassetuṃ kaṅkhañca vinodetuṃ okāsaṃ na lacchāmi, bhavissanti vattāro ‘kiṃ ānando dasabalaṃ upaṭṭhāti, ettakampissa anuggahaṃ bhagavā na karotī’ti. Bhagavato ca parammukhā maṃ pucchissanti ‘ayaṃ, āvuso ānanda, gāthā idaṃ suttaṃ idaṃ jātakaṃ kattha desita’nti. Sacāhaṃ taṃ na sampāyissāmi, bhavissanti vattāro ‘ettakampi, āvuso, na jānāsi, kasmā tvaṃ chāyā viya bhagavantaṃ na vijahanto dīgharattaṃ ciraṃ vicarī’ti. Tenāhaṃ parammukhā desitassapi dhammassa puna kathanaṃ icchāmī’’ti. Imā catasso āyācanā yāci. Bhagavāpissa adāsi. Evaṃ ime aṭṭha vare gahetvā nibaddhupaṭṭhāko ahosi.
Bốn sự thỉnh cầu là: “Bạch Thế Tôn, nếu Đức Thế Tôn sẽ đi đến nơi con đã nhận lời mời; nếu con sẽ được phép đưa các hội chúng từ các quốc gia và xứ sở xa xôi đến yết kiến Đức Thế Tôn ngay khi họ vừa đến; khi nào con có điều nghi vấn, con sẽ được phép đến gặp Đức Thế Tôn ngay trong khoảnh khắc đó; và nếu Đức Thế Tôn thuyết giảng một bài pháp nào đó khi con vắng mặt, Ngài sẽ về kể lại cho con; như vậy, con sẽ hầu hạ Đức Thế Tôn”. Sau khi nói vậy, và khi được hỏi “Này Ānanda, con thấy có lợi ích gì trong đó?”, ngài trả lời: “Bạch Thế Tôn, ở đây, các thiện nam tử có đức tin, khi không có cơ hội gặp Đức Thế Tôn, sẽ nói với con rằng: ‘Thưa tôn giả Ānanda, ngày mai, xin ngài hãy cùng với Đức Thế Tôn nhận vật thực tại nhà của chúng con’. Nếu Đức Thế Tôn không đi đến đó, con sẽ không có cơ hội để cho hội chúng yết kiến và để giải tỏa mối nghi ngờ ngay lúc họ muốn, và sẽ có người nói rằng: ‘Ānanda hầu hạ Bậc Thập Lực làm gì, mà ngay cả một sự trợ giúp nhỏ như vậy Đức Thế Tôn cũng không làm cho?’. Và khi Ngài vắng mặt, họ sẽ hỏi con rằng: ‘Thưa hiền giả Ānanda, bài kệ này, bài kinh này, bài bổn sanh này được thuyết ở đâu?’. Nếu con không thể trả lời được, sẽ có người nói rằng: ‘Này hiền giả, ngay cả chừng đó mà ông cũng không biết, tại sao ông lại đi theo Đức Thế Tôn không rời như hình với bóng trong một thời gian dài như vậy?’. Do đó, con mong muốn được nghe lại bài pháp đã được thuyết khi con vắng mặt”. Ngài đã xin bốn sự thỉnh cầu này. Và Đức Thế Tôn cũng đã ban cho ngài. Như vậy, sau khi đã nhận được tám điều này, ngài đã trở thành vị thị giả thường xuyên.

Tasseva ṭhānantarassa atthāya kappasatasahassaṃ pūritānaṃ pāramīnaṃ phalaṃ pāpuṇi, pāpuṇitvā ca upaṭṭhākānaṃ aggo hutvā bhagavantaṃ upaṭṭhahi. Thero hi upaṭṭhākaṭṭhānaṃ laddhakālato paṭṭhāya bhagavantaṃ duvidhena udakena tividhena dantakaṭṭhena pādaparikammena piṭṭhiparikammena gandhakuṭipariveṇasammajjanenāti evamādīhi kiccehi upaṭṭhahanto ‘‘imāya nāma velāya satthu idaṃ nāma laddhuṃ vaṭṭati, idaṃ nāma kātuṃ vaṭṭatī’’ti cintetvā taṃ taṃ nipphādento mahatiṃ daṇḍadīpikaṃ gahetvā ekarattiṃ gandhakuṭipariveṇaṃ nava vāre anupariyāyati. Evañhissa ahosi ‘‘sace me thinamiddhaṃ okkameyya, bhagavati pakkosante paṭivacanaṃ dātuṃ nāhaṃ sakkuṇeyya’’nti. Tasmā sabbarattiṃ daṇḍadīpikaṃ hatthena na muñcati, evametassa nibaddhupaṭṭhākaṭṭhānassa aladdhabhāvaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘no ca kho upaṭṭhākaṭṭhānaṃ laddhā’’ti. Nibaddhupaṭṭhāko nāma natthīti niyatupaṭṭhāko nāma natthi. Aniyatupaṭṭhākā pana bhagavato paṭhamabodhiyaṃ bahū ahesuṃ, te dassento āha ‘‘kadāci nāgasamālatthero’’tiādi. Ñāti ca so pasatthatamaguṇayogato seṭṭho cāti ñātiseṭṭhoEvarūpesu ṭhānesu ayameva patirūpoti āpadāsu āmisassa abhisaṅkharitvā dānaṃ nāma ñātakeneva kātuṃ yuttataranti adhippāyo.
Để có được vị trí đó, ngài đã đạt được quả của các ba-la-mật đã được hoàn thành trong một trăm nghìn kiếp. Và sau khi đã đạt được, ngài đã trở thành người đứng đầu trong các thị giả và đã hầu hạ Đức Thế Tôn. Quả vậy, kể từ khi nhận được vị trí thị giả, vị trưởng lão đã hầu hạ Đức Thế Tôn bằng các công việc như dâng hai loại nước, ba loại tăm xỉa răng, rửa chân, xoa bóp lưng, quét dọn hương thất và khuôn viên v.v…; và khi nghĩ rằng “vào giờ này, Bậc Đạo Sư cần phải có được thứ này, cần phải làm việc này”, ngài đã hoàn thành các việc đó. Ngài đã cầm một cây đuốc lớn và đi kinh hành quanh hương thất đến chín lần trong một đêm. Quả vậy, ngài đã nghĩ rằng: “nếu hôn trầm thụy miên xâm chiếm ta, khi Đức Thế Tôn gọi, ta sẽ không thể trả lời được”. Do đó, suốt cả đêm, ngài không rời cây đuốc khỏi tay. Nhắm đến việc ngài chưa có được vị trí thị giả thường xuyên này, mới nói “nhưng vẫn chưa nhận được vị trí thị giả”. Không có thị giả thường xuyên: tức là không có thị giả cố định. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu sau khi giác ngộ, Đức Thế Tôn đã có nhiều vị thị giả không cố định. Để cho thấy các vị đó, ngài nói “có khi là trưởng lão Nāgasamāla” v.v… Vừa là thân tộc, vừa là bậc tối thượng do có các phẩm chất đáng tán thán nhất, nên là bậc thân tộc tối thượng. Trong những hoàn cảnh như vậy, chính vị này là người thích hợp: chủ ý là, việc thu xếp và cúng dường vật thực trong những lúc khó khăn, việc đó do một người thân làm là thích hợp hơn cả.

Mārāvaṭṭanāyāti mārena katacittāvaṭṭanāya, mārānubhāvena sañjātacittasammohenāti vuttaṃ hoti. Tenevāha ‘‘āvaṭṭetvā mohetvā’’tiādi. Tiṭṭhantu…pe… tampi māro āvaṭṭeyyāti phussassa bhagavato kāle katupacitassa akusalakammassa tadā laddhokāsavasena upaṭṭhitattā. Vuttañhetaṃ apadāne –
Do sự khuấy động của Ma vương: tức là do sự khuấy động tâm trí do Ma vương gây ra; có nghĩa là, do sự mê mờ của tâm trí phát sinh do năng lực của Ma vương. Do đó, ngài nói “sau khi đã khuấy động, làm cho mê mờ” v.v… Hãy cứ để đó… cho đến… Ma vương cũng có thể khuấy động được: là do nghiệp bất thiện đã được tích lũy từ thời Đức Phật Phussa, khi có cơ hội vào lúc đó, đã hiện khởi. Điều này đã được nói trong sách Apadāna:

‘‘Phussassāhaṃ pāvacane, sāvake paribhāsayiṃ;
Yavaṃ khādatha bhuñjatha, mā ca bhuñjatha sālayo.
‘‘Tena kammavipākena, temāsaṃ khāditaṃ yavaṃ;
Nimantito brāhmaṇena, verañjāyaṃ vasiṃ tadā’’ti. (apa. thera 1.39.88-89);
“Trong giáo pháp của Đức Phật Phussa, tôi đã chế nhạo các vị thinh văn;
‘Hãy ăn lúa mạch đi, đừng ăn lúa Sāli’.
“Do quả báo của nghiệp đó, tôi đã phải ăn lúa mạch trong ba tháng;
Khi được vị Bà-la-môn mời, tôi đã ở lại Verañjā lúc đó.” (apa. thera 1.39.88-89);

Pariyuṭṭhitacittoti pariyonaddhacitto, abhibhūtacittoti attho. Āvaṭṭitapariyosāne āgamiṃsūti mārena āvaṭṭetvā gate pacchā āgamiṃsu. Avisahatāyāti asakkuṇeyyatāya. Abhihaṭabhikkhāyāti pacitvā abhihariyamānabhikkhāya. Nibaddhadānassāti ‘‘ettakaṃ kālaṃ bhagavato dassāmā’’ti niccabhattavasena paricchinditvā ṭhapitadānassa. Appitavatthassāti ‘‘idaṃ buddhassa catupaccayaparibhogattha’’nti vihāraṃ netvā dinnavatthuno. Na visahatīti na sakkoti. Abhihaṭabhikkhāsaṅkhepenāti abhihaṭabhikkhānīhārena . Byāmappabhāyāti samantato byāmamattāya pabhāya. Ettha ca anubyañjanānaṃ byāmappabhāya ca nippabhākaraṇaṃ antarāyoti daṭṭhabbaṃ. Tenevāha ‘‘candimasūriyadevabrahmānampi hī’’tiādi. Anubyañjanānaṃ byāmappabhāya ekābaddhattā vuttaṃ ‘‘anubyañjanabyāmappabhāppadesaṃ patvā’’ti. Sabbaññutaññāṇassa antarāyo nāma ñeyyadhammesu āvaraṇaṃ.
Tâm bị ám ảnh: tức là tâm bị trói buộc, tâm bị chế ngự. Họ đã đến vào lúc sự khuấy động kết thúc: tức là, sau khi Ma vương đã khuấy động rồi đi, họ mới đến. Do không thể chịu đựng được. Của vật thực khất thực được mang đến: tức là của vật thực khất thực đang được nấu và mang đến. Của sự bố thí thường xuyên: tức là của sự bố thí đã được xác định và thiết lập theo cách cúng dường thường xuyên rằng “chúng tôi sẽ cúng dường cho Đức Thế Tôn trong chừng này thời gian”. Của vật dụng đã được dâng cúng: tức là của vật dụng đã được mang đến tu viện và dâng cúng rằng “vật này để Đức Phật dùng làm bốn món vật dụng”. Không thể. Bằng cách tóm tắt về vật thực khất thực được mang đến: tức là bằng cách trình bày về vật thực khất thực được mang đến. Bởi vầng hào quang một tầm: tức là bởi vầng hào quang có phạm vi một tầm xung quanh. Ở đây, cần phải hiểu rằng việc làm cho các tướng phụ và vầng hào quang một tầm trở nên vô hiệu là một sự cản trở. Do đó, ngài nói “quả vậy, ngay cả của các vị trời như mặt trăng, mặt trời, và Phạm thiên…” v.v… Do các tướng phụ và vầng hào quang một tầm gắn liền với nhau, nên mới nói “sau khi đã đến vùng của các tướng phụ và vầng hào quang một tầm”. Sự cản trở đối với Nhất thiết trí chính là sự che lấp đối với các pháp cần được biết.

Assosi kho bhagavā udukkhalasaddanti kiṃ sayameva uppannaṃ udukkhalasaddaṃ assosīti ceti āha ‘‘patthapatthapulakaṃ koṭṭentāna’’ntiādi. Atthasañhitanti payojanasādhakaṃ. Anatthasañhiteti anatthanissite vacane. Ghātāpekkhaṃ bhummavacanaṃ. Yasmiñca yena ghāto nipphādīyati, tasseva tena ghāto kato nāma hotīti āha ‘‘maggeneva tādisassa vacanassa ghāto samucchedoti vuttaṃ hotī’’ti. Sāmiatthe vā bhummavacananti maññamāno evamāhāti daṭṭhabbaṃ. Vacanassa ca samugghāto tammūlakilesānaṃ samugghātenāti veditabbaṃ.
Đức Thế Tôn đã nghe thấy tiếng cối giã: nhưng Ngài có nghe thấy tiếng cối giã tự nó phát sinh không? Mới nói: “của những người đang giã từng nắm lúa mạch” v.v… Liên quan đến lợi ích: tức là mang lại lợi ích. Trong những lời nói không liên quan đến lợi ích: tức là trong những lời nói nương vào điều bất hạnh. Đây là từ chỉ nơi chốn được dùng với ý nghĩa chỉ sự tác động. Và sự tiêu diệt được thực hiện bởi cái gì và đối với cái gì, thì chính cái đó được cho là đã bị tiêu diệt bởi cái đó. Do đó, ngài nói “có nghĩa là, sự tiêu diệt, sự cắt đứt của một lời nói như vậy là do chính đạo”. Hoặc, cần phải hiểu rằng, ngài nói như vậy vì cho rằng đây là từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa chỉ sở hữu. Và sự nhổ bật gốc của lời nói cần được hiểu là qua sự nhổ bật gốc của các phiền não là gốc rễ của nó.

Ākaroti attano anurūpatāya samariyādaṃ saparicchedaṃ phalaṃ nipphattetīti ākāro kāraṇanti āha ‘‘ākārehīti kāraṇehī’’ti. Aṭṭhuppattiyuttanti paccuppannavatthuṃ nissāya pavattaṃ. Tāya pucchāya vītikkamaṃ pākaṭaṃ katvāti ‘‘saccaṃ kira tvaṃ bhikkhū’’tiādipucchāya tena bhikkhunā katavītikkamaṃ pakāsetvā, vītikkamappakāsanañca kimatthamidaṃ sikkhāpadaṃ paññapetīti anujānanatthaṃ.
Nó tạo ra quả tương ứng với chính nó, có giới hạn, có sự phân định, nên ākāra là nguyên nhân. Do đó, ngài nói “bằng các hình thức tức là bằng các nguyên nhân”. Có liên quan đến sự việc đã phát sinh: tức là vận hành nương vào một câu chuyện hiện tại. Sau khi đã làm rõ sự vi phạm qua câu hỏi đó: tức là, sau khi đã làm sáng tỏ sự vi phạm do vị Tỳ-khưu đó thực hiện qua câu hỏi “Này Tỳ-khưu, có thật là ông…” v.v…; và việc làm sáng tỏ sự vi phạm là để chuẩn y việc tại sao học giới này lại được chế định.

Natthi kiñci vattabbanti pubbe vuttanayattā na kiñci ettha apubbaṃ vattabbamatthīti dasseti. Tenāha ‘‘pubbe vuttameva hī’’tiādi. Sādhu sādhūti idaṃ pasaṃsāyaṃ āmeḍitavacananti āha ‘‘āyasmantaṃ ānandaṃ sampahaṃsento’’ti. Dvīsu ākāresūti dhammadesanasikkhāpadapaññattisaṅkhātesu dvīsu kāraṇesu. Ekaṃ gahetvāti dhammaṃ vā desessāmāti evaṃ vuttakāraṇaṃ gahetvā. Evaṃdubbhikkheti evaṃ dukkhena labhitabbā bhikkhā etthāti evaṃdubbhikkhe kāle, dese vā. Dullabhapiṇḍeti etasseva atthadīpanaṃ. Bhājanādipariharaṇavasena bahubhaṇḍikatāya abhāvato vuttaṃ ‘‘imāya sallahukavuttitāyā’’ti. Ettakameva alaṃ yāpetunti uttari patthanābhāvato pana ‘‘iminā ca sallekhenā’’ti vuttaṃ. Dubbhikkhaṃ vijitanti ettha hi bhikkhānaṃ abhāvo dubbhikkhaṃ ‘‘nimmakkhika’’ntiādīsu viya. Bhikkhābhāvoyeva hi taṃnimittacittavighātānaṃ abhāvato bhikkhūhi vijito vase vattito. Lobho vijitoti āmisahetu ratticchedavassacchedasamuṭṭhāpako loluppādopi tesaṃ nāhosīti āmisalolatāsaṅkhāto lobho vijito. Icchācāro vijitoti ‘‘āmisahetu aññamaññassa uttarimanussadhammappakāsanavasena guṇavaṇijjaṃ katvā jīvikaṃ kappessāmā’’ti evaṃ pavattaicchācārassa abhāvato yathāvutto icchācāro vijito. Cittuppādamattassapi anuppannabhāvaṃ sandhāya ‘‘cintā vā’’ti vuttaṃ. Punappunānusocanavasena pana cittapīḷāpi nāhosīti dassanatthaṃ ‘‘vighāto vā’’ti vuttaṃ.
Không có gì để nói: để cho thấy rằng, do đã được giải thích theo cách đã nói ở trước, nên không có gì mới để phải nói ở đây. Do đó, ngài nói “quả vậy, đã được nói ở trước” v.v… Lành thay, lành thay: đây là lời nói lặp lại trong sự tán thán. Do đó, ngài nói “trong khi tán thán tôn giả Ānanda”. Trong hai hình thức: tức là trong hai nguyên nhân, được gọi là sự thuyết pháp và sự chế định học giới. Sau khi đã chọn một: tức là, sau khi đã chọn nguyên nhân được nói rằng “tôi sẽ thuyết pháp”. Trong nạn đói như vậy: tức là, trong thời buổi, hoặc trong quốc gia, mà vật thực khất thực khó có được như vậy. Vật thực khất thực khó tìm: đây là lời giải thích ý nghĩa của câu trên. Do không có nhiều đồ dùng để mang theo như nồi niêu, nên mới nói “với lối sống nhẹ nhàng này”. Do không còn mong muốn gì hơn nữa rằng chỉ chừng đó là đủ để sống, nên mới nói “và với sự khổ hạnh này”. Đã chiến thắng nạn đói: ở đây, sự thiếu thốn vật thực khất thực là nạn đói, giống như trong câu “không có ruồi” v.v… Quả vậy, chính sự thiếu thốn vật thực khất thực, do không có sự phiền muộn của tâm vì lý do đó, đã bị các vị Tỳ-khưu chiến thắng, đã được điều khiển. Đã chiến thắng lòng tham: tức là, ngay cả sự ham muốn thấp hèn, vốn là nguyên nhân gây ra sự gián đoạn đêm và sự gián đoạn mùa mưa vì vật thực, cũng không có nơi họ. Do đó, lòng tham, được gọi là sự ham muốn vật thực, đã bị chiến thắng. Đã chiến thắng hành vi sai trái do ý muốn: do không có hành vi sai trái như đã nói, vốn vận hành theo kiểu “vì vật thực, chúng ta sẽ thực hiện việc buôn bán các phẩm chất bằng cách trình bày các pháp siêu nhân của nhau rồi nuôi mạng”, nên hành vi sai trái do ý muốn đã bị chiến thắng. Nhắm đến việc ngay cả một ý nghĩ cũng không phát sinh, mới nói “hoặc một ý nghĩ”. Còn để cho thấy rằng ngay cả sự dằn vặt của tâm theo cách than khóc nhiều lần cũng không có, mới nói “hoặc một sự phiền muộn”.

Ratticchedo vāti sattāhakaraṇīyavasena gantvā bahi aruṇuṭṭhāpanavasena ratticchedo vā na kato sattāhakiccavasenapi katthaci agatattā. Sattāhakiccavasena vippavāsañhi sandhāya ratticchedoti aṭṭhakathāvohāro, tatoyeva ca vassūpanāyikakkhandhakavaṇṇanāyaṃ (mahāva. aṭṭha. 199) ‘‘ayaṃ panettha pāḷimuttakaratticchedavinicchayo’’ti vatvā ‘‘dhammassavanatthāya animantitena gantuṃ na vaṭṭatī’’tiādinā sattāhakaraṇīyameva vibhattaṃ. Mahāaṭṭhakathāyampi vuttaṃ ‘‘sattāhakiccena gantvā ekabhikkhunāpi ratticchedo vā na kato’’ti. Evañca katvā ratticchedo nāma sattāhakaraṇīyavasena hoti, na aññathāti ratticchedalakkhaṇañca kathitanti daṭṭhabbaṃ. Ettha ca paccayavekallasaṅkhāte vassacchedakāraṇe sati ratticchedassapi vuttattā yattha vassacchedakāraṇaṃ labbhati, tattha sattāhakiccena gantumpi vaṭṭatīti siddhanti cūḷagaṇṭhipade majjhimagaṇṭhipade ca vuttaṃ, taṃ suvuttaṃ vassūpanāyikakkhandhake vassacchedādhikāre –
Hoặc sự gián đoạn đêm: tức là, sự gián đoạn đêm theo cách đi ra ngoài và để cho rạng đông mọc lên do có việc phải đi trong bảy ngày, cũng không được thực hiện, vì không đi đâu cả ngay cả khi có việc phải đi trong bảy ngày. Quả vậy, cách nói thông thường trong sách chú giải là ‘ratticcheda’ (sự gián đoạn đêm) nhắm đến việc đi vắng do có việc phải đi trong bảy ngày. Chính vì thế, trong sách chú giải về chương An cư mùa mưa (mahāva. aṭṭha. 199), sau khi đã nói “đây là sự phán quyết về sự gián đoạn đêm không có trong kinh Pāḷi”, ngài đã phân tích chính việc đi trong bảy ngày bằng các câu như “không được phép đi để nghe pháp nếu không được mời” v.v… Trong sách Đại Chú Giải cũng nói rằng “ngay cả một Tỳ-khưu cũng không có sự gián đoạn đêm do đi vì việc phải đi trong bảy ngày”. Và khi hiểu như vậy, cần phải thấy rằng sự gián đoạn đêm chỉ xảy ra do có việc phải đi trong bảy ngày, chứ không phải do cách khác, và đặc tính của sự gián đoạn đêm cũng đã được nói đến. Ở đây, do đã nói về sự gián đoạn đêm khi có sự gián đoạn mùa mưa, vốn là nguyên nhân do thiếu các vật dụng, nên khi có nguyên nhân làm gián đoạn mùa mưa, việc đi vì việc phải đi trong bảy ngày cũng được phép. Điều này đã được nói trong sách Chú giải Cương yếu nhỏ và Chú giải Cương yếu vừa, và điều đó là rất đúng, vì trong chương An cư mùa mưa, trong phần về sự gián đoạn mùa mưa, có nói:

‘‘Tena kho pana samayena aññatarasmiṃ āvāse vassūpagatānaṃ bhikkhūnaṃ gāmo corehi vuṭṭhāsi. Bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ. Anujānāmi, bhikkhave, yena gāmo tena gantu’’nti (mahāva. 201) –
“Vào lúc đó, tại một trú xứ nọ, làng của các vị Tỳ-khưu đang an cư mùa mưa đã bị bọn cướp tấn công. Các vị đã trình bày sự việc này với Đức Thế Tôn. Ngài nói: ‘Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép các con đi đến nơi nào mà dân làng đã đi’.” (mahāva. 201) –

Ettha ‘‘sace gāmo avidūragato hoti, tattha piṇḍāya caritvā vihārameva āgantvā vasitabbaṃ. Sace dūragato, sattāhavārena aruṇo uṭṭhāpetabbo. Na sakkā ce hoti, tattheva sabhāgaṭṭhāne vasitabba’’nti (mahāva. aṭṭha. 201) iminā aṭṭhakathāvacanenapi saṃsandanato. Tathā hi gāme vuṭṭhite bhikkhāya abhāvato vassacchedepi anāpattiṃ vadantena bhagavatā ‘‘anujānāmi, bhikkhave, yena gāmo tena gantu’’nti (mahāva. 201) vuttattā bhikkhāya abhāvo vassacchedakāraṇaṃ. Tattha ‘‘sace dūragato, sattāhavārena aruṇo uṭṭhāpetabbo’’ti (mahāva. aṭṭha. 201) idaṃ aṭṭhakathāvacanaṃ vassacchedakāraṇe sati sattāhakiccena gantumpi vaṭṭatīti imamatthaṃ sādheti.
Ở đó, điều này cũng phù hợp với lời chú giải sau: “Nếu làng ở không xa, cần phải đi khất thực ở đó rồi trở về tu viện để ở. Nếu ở xa, cần phải để cho rạng đông mọc lên trong vòng bảy ngày. Nếu không thể, cần phải ở tại một nơi thích hợp ở đó” (mahāva. aṭṭha. 201). Quả vậy, do Đức Thế Tôn, khi nói về việc không có tội khi gián đoạn mùa mưa do thiếu vật thực khất thực khi làng bị tấn công, đã nói “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép các con đi đến nơi nào mà dân làng đã đi” (mahāva. 201), nên sự thiếu vật thực khất thực là nguyên nhân làm gián đoạn mùa mưa. Ở đó, lời chú giải “Nếu ở xa, cần phải để cho rạng đông mọc lên trong vòng bảy ngày” (mahāva. aṭṭha. 201) chứng minh cho ý nghĩa này: khi có nguyên nhân làm gián đoạn mùa mưa, việc đi vì việc phải đi trong bảy ngày cũng được phép.

Yaṃ pana vuttaṃ kenaci –
Còn điều đã được một số người nói rằng:

‘‘Ratticchedoti sattāhakiccaṃ sandhāya vutto, sattāhakaraṇīyena gantvā ratticchedo vā vassacchedo vā ekabhikkhunāpi na katoti vuttaṃ kira mahāaṭṭhakathāyaṃ, tasmā vassacchedassa kāraṇe sati sattāhakiccaṃ kātuṃ vaṭṭatīti eke. Vinayadharā pana na icchanti, tasmā aṭṭhakathādhippāyo vīmaṃsitabbo’’ti.
“Sự gián đoạn đêm được nói đến nhắm đến việc đi bảy ngày; đã được nói trong sách Đại Chú Giải rằng, ngay cả một Tỳ-khưu cũng không có sự gián đoạn đêm hay sự gián đoạn mùa mưa do đi vì việc phải đi trong bảy ngày. Do đó, một số người cho rằng, khi có nguyên nhân làm gián đoạn mùa mưa, thì được phép làm việc phải đi trong bảy ngày. Nhưng các vị luật sư thì không chấp nhận, do đó cần phải xem xét lại chủ ý của sách chú giải.”

Taṃ pana sayaṃ sammūḷhassa paresaṃ mohuppādanamattaṃ. Na hi vinayadharānaṃ anicchāya kāraṇaṃ dissati aṭṭhakathāya virujjhanato yuttiabhāvato ca. Yañhi kāraṇaṃ vassacchedepi anāpattiṃ sādheti, tasmiṃ sati vinā vassacchedaṃ sattāhakiccena gantuṃ na vaṭṭatīti kā nāma yutti. ‘‘Pacchimikāya tattha vassaṃ upagacchāmā’’ti idaṃ tesaṃ bhikkhūnaṃ anurūpaparivitakkanapaadīpanaṃ, na pana visesatthaparidīpanaṃ. Tathā hi dubbhikkhatāya vassacchedakaraṇasabbhāvato purimikāya tāva vassacchedepi anāpatti. Pacchimikāyaṃ anupagantukāmatāya gamanepi natthi doso pacchimikāya vassūpanāyikadivasassa asampattabhāvato.
Điều đó chỉ là sự gây ra mê mờ cho người khác của một người tự mình đã mê mờ. Quả vậy, không có lý do gì để các vị luật sư không chấp nhận, vì điều đó sẽ mâu thuẫn với sách chú giải và cũng không có lý lẽ. Quả vậy, nếu một nguyên nhân đã có thể chứng minh là không có tội ngay cả khi gián đoạn mùa mưa, thì có lý lẽ nào lại nói rằng không được phép đi vì việc phải đi trong bảy ngày mà không gián đoạn mùa mưa, khi có cùng một nguyên nhân đó? Câu “chúng ta sẽ an cư mùa mưa sau ở đó” là để cho thấy sự suy xét phù hợp của các vị Tỳ-khưu đó, chứ không phải để cho thấy một ý nghĩa đặc biệt nào. Quả vậy, do nạn đói, nên ngay cả khi gián đoạn mùa mưa trước, các vị cũng không có tội. Và ngay cả khi đi với ý định không an cư mùa mưa sau, cũng không có lỗi, vì ngày an cư mùa mưa sau chưa đến.

Na kismiñci maññantīti kismiñci guṇe sambhāvanavasena na maññanti. Pakāsetvāti paṭiladdhajjhānādiguṇavasena pakāsetvā. ‘‘Pacchā sīlaṃ adhiṭṭhaheyyāmā’’ti vuttanayena kucchipaṭijaggane sati tathāpavattaicchācārassa aparisuddhabhāvato ājīvasuddhiyā ca abhāvato puna vāyamitvā saṃvare patiṭṭhātabbanti āha ‘‘pacchā sīlaṃ adhiṭṭhaheyyāmā’’ti.
Họ không cho rằng mình có bất cứ điều gì: tức là, họ không cho rằng mình có bất cứ một đức hạnh nào theo cách coi trọng. Sau khi đã trình bày: tức là, sau khi đã trình bày theo các đức hạnh như thiền định đã chứng đắc v.v… Do cách nói “chúng ta sẽ thiết lập giới hạnh sau”, và do khi còn bận tâm đến việc nuôi bụng, hành vi do ý muốn phát sinh như vậy là không trong sạch, và chánh mạng cũng không có, nên cần phải nỗ lực lại để an trú trong sự thu thúc. Do đó, ngài nói “chúng ta sẽ thiết lập giới hạnh sau”.

Kiṃ idanti garahaṇavasena vuttaṃ. Sālitaṇḍulehi sampāditaṃ maṃsena upasittaṃ odanaṃ sālimaṃsodanaṃAtimaññissatīti avaññātakaraṇavasena atikkamitvā maññissati, lāmakaṃ nihīnaṃ katvā maññissatīti vuttaṃ hoti . Tenāha ‘‘oññātaṃ avaññātaṃ karissatī’’ti. Heṭṭhā katvā nihīnaṃ katvā ñātaṃ oññātaṃAvaññātanti tasseva vevacanaṃ. Svāyanti so ayaṃ janapado. Imāya paṭipattiyāti verañjāyaṃ pūritāya sudukkarāya paṭipattiyā. Tumhe nissāyāti tumhākaṃ imaṃ appicchapaṭipadaṃ nissāya. Sabrahmacārīsaṅkhātāti chabbaggiyādayo vuttā. Tumhākaṃ antare nisīditvāti tumhākaṃ majjhe nisīditvā, tumhehi saddhiṃ nisīditvāti vuttaṃ hoti. Omānanti atimānaṃ. Atimānoyeva hettha nihīnatāya ‘‘omāna’’nti vutto, na pana hīḷetvā maññanaṃ. Tumhehi, ānanda, sappurisehi vijitaṃ sālimaṃsodanaṃ pacchimā janatā atimaññissatīti evamettha pāḷiṃ yojetvā atthaṃ vaṇṇayanti. Idaṃ vuttaṃ hoti – yaṃ laddhaṃ, teneva tussitvā sālimaṃsodanapatthanāya chinnattā ca tumhehi vijitaṃ abhibhūtaṃ sālimaṃsodanaṃ pacchimā janatā tattha patthanaṃ chindituṃ asamatthatāya atimaññissatīti.
Đây là gì?: được nói theo cách chỉ trích. Cơm được nấu từ gạo Sāli, ăn với thịt, là cơm thịt gạo Sāli. Sẽ coi thường: tức là sẽ nghĩ một cách vượt qua, theo cách coi thường; có nghĩa là, sẽ nghĩ rằng đó là điều thấp hèn, ti tiện. Do đó, ngài nói “sẽ làm cho bị xem nhẹ, bị coi thường”. Cái được biết theo cách làm cho nó ở dưới, làm cho nó thấp hèn, là oññātaṃ (bị xem nhẹ). Avaññātaṃ (bị coi thường) là từ đồng nghĩa của nó. : tức là xứ sở, dân chúng này. Bởi sự thực hành này: tức là bởi sự thực hành vô cùng khó khăn đã được hoàn thành ở Verañjā. Nương vào các ông: tức là nương vào sự thực hành thiểu dục này của các ông. Những người được gọi là bạn đồng phạm hạnh: tức là các vị thuộc nhóm sáu vị Tỳ-khưu v.v… đã được nói đến. Sau khi đã ngồi giữa các ông: tức là sau khi đã ngồi ở giữa các ông; có nghĩa là, sau khi đã ngồi cùng với các ông. Sự coi thường: tức là sự khinh mạn. Sự khinh mạn ở đây, do có tính thấp hèn, nên được gọi là “sự coi thường”, chứ không phải là sự nghĩ một cách khinh miệt. Người ta giải thích ý nghĩa của kinh Pāḷi ở đây như sau: “Này Ānanda, thế hệ sau này sẽ khinh mạn cơm thịt gạo Sāli mà các bậc thiện nam tử các ông đã chiến thắng”. Điều này có nghĩa là: cơm thịt gạo Sāli mà các ông đã chiến thắng, đã chế ngự, do đã hài lòng với những gì nhận được và do đã cắt đứt sự mong muốn đối với nó, thế hệ sau này sẽ coi thường, do không có khả năng cắt đứt sự mong muốn đó.

Dubbhikkhakathā niṭṭhitā.
Luận về Nạn đói kết thúc.

Mahāmoggallānassa sīhanādakathā
Luận về Tiếng rống Sư tử của ngài Mahāmoggallāna

17. Āyasmāti vā devānaṃpiyāti vā bhadrabhavanti vā piyasamudācāro esoti āha ‘‘āyasmātipiyavacanameta’’nti. Viññujātikā hi paraṃ piyena samudācarantā ‘‘bhava’’nti vā ‘‘devānaṃpiyā’’ti vā ‘‘āyasmā’’ti vā samudācaranti, tasmā sammukhā sambodhanavasena āvusoti, tirokkhaṃ āyasmāti ayampi samudācāro. Tayidaṃ piyavacanaṃ garugāravasappatissavasena vuccatīti āha ‘‘garugāravasappatissādhivacanameta’’nti. Guṇamahattatāya mahāmoggallāno, na cūḷamoggallānassa atthitāyāti āha ‘‘mahā ca so guṇamahantatāyā’’ti. Pappaṭakojanti pathavīsandhārakaṃ udakaṃ āhacca ṭhite mahāpathaviyā heṭṭhimatale samuṭṭhitaṃ udakoghena ajjhotthaṭe bhūmippadese sañjātakaddamapaṭalasadisaṃ atimadhurapathavīmaṇḍaṃ. Na me taṃ assa patirūpanti taṃ anāpucchā karaṇaṃ na me anucchavikaṃ bhaveyyāti attho. Anāpucchā karontena ca yathā bhagavā icchiticchitaṃ kiñci anāpucchā karoti, evamahampīti bhagavatā samānaṃ katvā attānaṃ mānena kataṃ viya bhavissatīti āha ‘‘yugaggāho viya bhagavatā saddhiṃ kato bhaveyyā’’ti. Parena hi saddhiṃ attānaṃ yugaṃ yugaḷaṃ samānaṃ katvā gāho, tassa mama vā ko visesoti gahaṇaṃ yugaggāho.
17. Do đây là một cách giao tiếp thân mật, nên ngài nói “‘hiền giả’ là một lời nói thân mật”. Quả vậy, những người có trí, khi giao tiếp với người khác một cách thân mật, họ dùng các từ như “thưa ngài”, “người được chư thiên yêu mến”, hoặc “hiền giả”. Do đó, đây cũng là một cách giao tiếp: dùng từ ‘āvuso’ (hiền đệ) khi gọi trực tiếp, và dùng từ ‘āyasmā’ (hiền giả) khi nói gián tiếp. Để cho thấy rằng lời nói thân mật này được nói với sự tôn trọng và kính nể, ngài nói “đây là một từ chỉ sự tôn trọng và kính nể”. Ngài là Mahāmoggallāna do sự vĩ đại về đức hạnh, chứ không phải do có một vị Cūḷamoggallāna. Do đó, ngài nói “và ngài là ‘Mahā’ do sự vĩ đại về đức hạnh”. Lớp vỏ trái đất: là lớp vỏ đất vô cùng ngọt ngào, tương tự như lớp bùn được hình thành trên một vùng đất bị ngập bởi một khối nước, phát sinh ở lớp dưới cùng của đại địa, nơi tiếp xúc với lớp nước nâng đỡ trái đất. Điều đó sẽ không phù hợp với con: có nghĩa là, hành động làm mà không xin phép đó sẽ không thích hợp với con. Và khi làm mà không xin phép, nó sẽ giống như việc tự cho mình ngang hàng với Đức Thế Tôn, người có thể làm bất cứ điều gì ngài muốn mà không cần xin phép ai; do đó, mới nói “sẽ giống như sự so bì với Đức Thế Tôn”. Quả vậy, việc tự cho mình là một cặp, là một đôi, là ngang hàng với người khác, và nắm giữ lấy điều đó, tức là nắm giữ lấy ý nghĩ “giữa ta và vị ấy có gì khác biệt”, đó là sự so bì.

Sampannanti sampattiyuttaṃ. Sā panettha rasasampatti adhippetā sāmaññajotanāya visese avaṭṭhānato. Tenāha ‘‘sampannanti madhuraṃ sādurasanti attho’’ti. Tividhañhi sampannaṃ paripuṇṇasamaṅgīmadhuravasena. Tattha –
Toàn hảo: tức là có sự thành tựu. Ở đây, sự thành tựu về hương vị được nhắm đến, do sự nêu bật một điều đặc biệt từ một điều chung. Do đó, ngài nói “‘toàn hảo’ có nghĩa là ngọt ngào, có hương vị thơm ngon”. Quả vậy, sự toàn hảo có ba loại: theo nghĩa là trọn vẹn, là được hợp thành, và là ngọt ngào. Ở đó:

‘‘Sampannaṃ sālikedāraṃ, suvā bhuñjanti kosiya;
Paṭivedemi te brahme, na ne vāretumussahe’’ti. (jā. 1.14.1) –
“Ruộng lúa Sāli đã chín vàng, cú ơi, vẹt đang ăn;
Con xin thưa với ngài, Phạm thiên, con không nỡ lòng nào đuổi chúng đi.” (jā. 1.14.1) –

Idaṃ paripuṇṇasampannaṃ nāma. Paripuṇṇampi hi samantato pannaṃ pattanti sampannanti vuccati. ‘‘Iminā pātimokkhasaṃvarena upeto hoti samupeto upagato samupagato sampanno samannāgato’’ti (vibha. 511) idaṃ samaṅgīsampannaṃ nāma. Samaṅgīpi hi sammadeva panno gato upagatoti sampannoti vuccati. ‘‘Tatrassa rukkho sampannaphalo ca upapannaphalo cā’’ti (ma. ni. 2.48) idaṃ madhurasampannaṃ nāma. Tattha madhurasampannaṃ idhādhippetanti veditabbaṃ. Upapannaphaloti bahuphalo. Assāti pathaviyā heṭṭhimatalassa. Opammanidassanatthanti upamāya nidassanatthaṃ. Anīḷakanti niddosaṃ. Niddosatā cettha makkhikādirahitatāyāti āha ‘‘nimmakkhika’’ntiādi. Natthi ettha makkhikāti nimmakkhikaṃ. Makkhikāsaddena cettha makkhikaṇḍakampi sāmaññato gahitanti vadanti. Teneva tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ ‘‘nimmakkhikanti imassevatthaṃ pakāsetuṃ nimmakkhikaṇḍakanti vuttaṃ, makkhikāhi tāsaṃ aṇḍakehi ca virahitanti attho’’ti. Ayaṃ panettha amhākaṃ khanti ‘‘makkhikānaṃ aṇḍāni makkhikaṇḍāni, natthi ettha makkhikaṇḍānīti nimmakkhikaṇḍanti. Iminā makkhikānaṃ aṇḍehi rahitatā vuttā, ‘nimmakkhika’nti iminā pana makkhikānaṃyeva abhāvo vutto’’ti. Etaṃ kira madhūti khuddakamakkhikāhi katamadhu. Sabbamadhūhīti mahāmakkhikabhamaramakkhikādikatehi. Agganti uttamaṃ. Seṭṭhanti pasatthatamaṃ. Surasanti sobhanarasaṃ. Ojavantanti accantamojasampannaṃ.
Đây được gọi là sự toàn hảo trọn vẹn. Quả vậy, cái đã trọn vẹn, đã đạt đến, đã chín muồi khắp nơi, cũng được gọi là toàn hảo. “Vị ấy được hợp thành, được trang bị, được đạt đến, được thành tựu, được viên mãn bởi sự thu thúc trong giới bổn này” (vibha. 511), đây được gọi là sự toàn hảo do được hợp thành. Quả vậy, người được hợp thành cũng được gọi là toàn hảo, vì đã đi đến, đã đạt đến một cách đúng đắn. “Ở đó, cây của vị ấy có quả toàn hảo và có quả sai trĩu” (ma. ni. 2.48), đây được gọi là sự toàn hảo ngọt ngào. Cần phải biết rằng, sự toàn hảo ngọt ngào được nhắm đến ở đây. Có quả sai trĩu: tức là có nhiều quả. Của nó: tức là của lớp dưới cùng của trái đất. Để cho thấy một ví dụ. Không tỳ vết: tức là không có lỗi lầm. Và sự không có lỗi lầm ở đây là do không có ruồi bọ v.v… Do đó, ngài nói “không có ruồi bọ” v.v… Nơi nào không có ruồi, nơi đó là không có ruồi. Một số người nói rằng, qua từ ‘ruồi’, trứng ruồi cũng được bao gồm một cách chung chung. Do đó, trong cả ba sách chú giải cương yếu, đã nói rằng: “để làm rõ ý nghĩa của từ ‘không có ruồi’, đã nói thêm là ‘không có trứng ruồi’; có nghĩa là, không có ruồi và cả trứng của chúng”. Đây là quan điểm của chúng tôi: “trứng của ruồi là trứng ruồi; nơi nào không có trứng ruồi, nơi đó là không có trứng ruồi. Qua đó, sự không có trứng của ruồi đã được nói đến; còn qua từ ‘không có ruồi’, sự không có của chính những con ruồi đã được nói đến”. Mật ong đó: tức là mật ong do các loài ong nhỏ làm ra. Trong tất cả các loại mật ong: tức là trong số các loại mật do ong lớn, ong mật v.v… làm ra. Thượng hạng: tức là tốt nhất. Tuyệt hảo: tức là đáng tán thán nhất. Thơm ngon: tức là có hương vị tốt đẹp. Bổ dưỡng: tức là có đầy đủ dưỡng chất một cách tột bậc.

Āyācanavacanametanti iminā sampaṭicchanasampahaṃsanādiatthaṃ nivatteti. Ekaṃ hatthanti ekaṃ pāṇitalaṃ. ‘‘Abhinimminissāmī’’ti vuttamatthaṃ pakāsetuṃ ‘‘pathavīsadisaṃ karissāmī’’ti vuttaṃ. Ayaṃ nu kho pathavī, udāhu na ayanti iminā nimmitapathaviyā pakatipathaviyā ca sandissamānattā ‘‘esā nu kho amhākaṃ pathavī, udāhu aññā’’ti uppajjamānakukkuccaṃ dasseti. Nibaddhavipulāgamo gāmo nigamo, pavattitamahāāyo mahāgāmoti vuttaṃ hoti. Na vā esa vipallāsoti pubbapakkhaṃ nidasseti. Kasmā panesa vipallāso na hotīti āha ‘‘acinteyyo hi iddhimato iddhivisayo’’ti. Iddhibaleneva tesaṃ sattānaṃ tādiso vipallāso na bhavissatīti adhippāyo. Idāni aññathā vipallāsappaṭilābhaṃ dassento āha ‘‘evaṃ panā’’tiādi. Garahantāti sammukhā garahantā. Upavadantāti parammukhā akkosantā.
Đây là lời thỉnh cầu: qua đó, ngài loại trừ các ý nghĩa như sự chấp nhận, sự tán thán v.v… Một bàn tay: tức là một lòng bàn tay. Để làm rõ ý nghĩa đã được nói trong câu “con sẽ hóa hiện”, mới nói “con sẽ làm cho nó giống như trái đất”. Đây có phải là trái đất không, hay không phải: qua đó, cho thấy sự hoài nghi sẽ phát sinh, do trái đất được hóa hiện và trái đất tự nhiên trông giống hệt nhau, rằng “đây có phải là trái đất của chúng ta không, hay là một trái đất khác?”. Một ngôi làng có nguồn thu nhập lớn và ổn định là thị trấn; có nghĩa là, một ngôi làng lớn có nguồn thu nhập lớn đang vận hành. Hoặc đó không phải là một sự sai lầm: ngài chỉ ra quan điểm trước đó. Nhưng tại sao đó lại không phải là một sự sai lầm? Mới nói: “quả vậy, phạm vi thần thông của một người có thần thông là không thể nghĩ bàn”. Chủ ý là, chính nhờ năng lực thần thông, một sự sai lầm như vậy sẽ không xảy ra đối với các chúng sanh đó. Bây giờ, để cho thấy sự nhận thức sai lầm theo một cách khác, ngài nói “tuy nhiên, như vậy…” v.v… Chỉ trích: tức là chỉ trích trực tiếp. Phỉ báng: tức là mắng nhiếc sau lưng.

Nanu ca uttarakuruṃ piṇḍāya gamanaṃ paṭisedhetvā vipallāsampi sattā paṭilabheyyunti kāraṇaṃ na vuttaṃ, tasmā kimettha kāraṇanti āha ‘‘tattha kiñcāpī’’tiādi. Yadipi na vuttaṃ, tathāpi ‘‘vipallāsampi sattā paṭilabheyyu’’nti pubbe adhikatattā teneva kāraṇena piṇḍāya uttarakurugamanampi bhagavatā paṭisiddhanti viññāyati, tasmā tadeva kāraṇaṃ idhāpi gahetabbanti dassento āha ‘‘pubbe vuttanayeneva gahetabba’’nti. Vipallāsampi sattā paṭilabheyyunti idaṃ idha avuttampi ānetvā sambandhitabbanti adhippāyo. Atthopi cassa vuttasadisameva veditabboti. ‘‘Evaṃ pana vipallāsaṃ paṭilabheyyu’’ntiādinā pacchā vuttameva atthavikappaṃ sandhāya vadati. Yaṃ pana tattha vuttaṃ ‘‘te guṇe nibbattetvā dubbhikkhakāle pathaviṃ parivattetvā pappaṭakojaṃ paribhuñjiṃsū’’ti, taṃ apanetvā te guṇe nibbattetvā dubbhikkhakāle uttarakuruṃ gantvā piṇḍāya caritvā paribhuñjiṃsūti evamettha yojanā kātabbā. Ekena padavītihārenāti ettha padassa vītiharaṇaṃ nikkhipanaṃ padavītihāro, padanikkhepo, tasmā ekena padanikkhepenāti vuttaṃ hoti. Ekena padavītihārena atikkamitabbaṭṭhānañca samagamanena dvinnaṃ padānaṃ antare muṭṭhiratanamattaṃ, tasmā. Mātikāmattaṃ adhiṭṭhahitvāti muṭṭhiratanappamāṇaṃ mātikāmattaṃ adhiṭṭhāyāti attho.
Nhưng chẳng phải khi cấm đi đến cõi Uttarakuru để khất thực, lý do rằng chúng sanh có thể nhận thức sai lầm đã không được nói đến sao, vậy lý do ở đây là gì? Mới nói: “ở đó, mặc dù…” v.v… Mặc dù không được nói đến, nhưng do đã được đề cập trước đó rằng “chúng sanh có thể nhận thức sai lầm”, nên có thể hiểu rằng chính vì lý do đó mà việc đi đến cõi Uttarakuru để khất thực cũng đã bị Đức Thế Tôn cấm. Do đó, để cho thấy rằng chính lý do đó cũng cần phải được áp dụng ở đây, ngài nói “cần phải được hiểu theo cách đã nói ở trước”. Chủ ý là, câu chúng sanh có thể nhận thức sai lầm, mặc dù không được nói ở đây, cũng cần được đưa đến để liên kết. Và ý nghĩa của nó cũng cần được hiểu tương tự như đã nói. Ngài nói nhắm đến cách giải thích ý nghĩa đã được nói ở sau, bắt đầu bằng câu “tuy nhiên, họ có thể nhận thức sai lầm như vầy”. Cần phải thay đổi cách liên kết ở đây như sau: loại bỏ câu “sau khi đã tạo ra các phẩm chất đó, trong thời đói kém, họ đã lật trái đất lên và ăn lớp vỏ trái đất”, mà thay vào đó là, sau khi đã tạo ra các phẩm chất đó, trong thời đói kém, họ đã đi đến cõi Uttarakuru, khất thực rồi dùng. Trong câu bằng một bước chân, sự di chuyển, sự đặt xuống của bàn chân là một bước chân; do đó, có nghĩa là, bằng một lần đặt chân. Và nơi cần phải vượt qua bằng một bước chân là khoảng giữa hai bàn chân khi đi đều, chỉ bằng một nắm tay và một gang tay. Do đó, sau khi đã chú nguyện một khoảng bằng đường cày: có nghĩa là, sau khi đã chú nguyện một khoảng bằng đường cày, có kích thước bằng một nắm tay và một gang tay.

Niṭṭhitā mahāmoggallānassa sīhanādakathā.
Luận về Tiếng rống Sư tử của ngài Mahāmoggallāna kết thúc.

Vinayapaññattiyācanakathā
Luận về Sự Thỉnh cầu Chế định Giới luật

18.Vinayapaññattiyāti pubbe apaññattasikkhāpadaṃ sandhāya vuttaṃ. Thero hi paññattasikkhāpadāni ṭhapetvā idāni paññapetabbasikkhāpadāni pātimokkhuddesañca sandhāya ‘‘etassa bhagavā kālo, etassa sugata kālo, yaṃ bhagavā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeyya, uddiseyya pātimokkha’’nti (pārā. 21) āha. Bhagavatāpi –
18. Về việc chế định giới luật: được nói nhắm đến các học giới chưa được chế định trước đó. Quả vậy, vị trưởng lão, sau khi đã để qua một bên các học giới đã được chế định, đã nói rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, đây là thời, bạch Thiện Thệ, đây là thời, để Đức Thế Tôn chế định học giới cho các vị thinh văn, để tụng đọc giới bổn” (pārā. 21), nhắm đến các học giới cần phải được chế định từ nay và cả việc tụng đọc giới bổn. Và Đức Thế Tôn cũng đã nói:

‘‘Ko nu kho, bhante, hetu, ko paccayo, yena pubbe appatarāni ceva sikkhāpadāni ahesuṃ, bahutarā ca bhikkhū aññāya saṇṭhahiṃsu. Ko pana, bhante, hetu, ko paccayo, yena etarahi bahutarāni ceva sikkhāpadāni honti, appatarā ca bhikkhū aññāya saṇṭhahantīti. Evametaṃ, bhaddāli, hoti, sattesu hāyamānesu saddhamme antaradhāyamāne bahutarāni ceva sikkhāpadāni honti, appatarā ca bhikkhū aññāya saṇṭhahantīti. Na tāva, bhaddāli, satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeti, yāva na idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavantī’’ti –
“Bạch Thế Tôn, do đâu là nhân, do đâu là duyên, mà trước đây các học giới thì ít hơn, nhưng các vị Tỳ-khưu chứng đắc trí tuệ lại nhiều hơn? Và bạch Thế Tôn, do đâu là nhân, do đâu là duyên, mà bây giờ các học giới thì nhiều hơn, nhưng các vị Tỳ-khưu chứng đắc trí tuệ lại ít hơn? Này Bhaddāli, sự việc là như vậy, khi chúng sanh đang suy thoái, khi chánh pháp đang biến mất, thì các học giới sẽ nhiều hơn, và các vị Tỳ-khưu chứng đắc trí tuệ sẽ ít hơn. Này Bhaddāli, Bậc Đạo Sư chưa chế định học giới cho các vị thinh văn, cho đến khi nào các pháp là nền tảng cho các lậu hoặc chưa phát sinh trong Tăng đoàn.”

Imasmiṃ bhaddālisutte (ma. ni. 2.145) viya ekaccesu paññattesupi tato paraṃ paññapetabbāni sandhāya ‘‘na tāva, sāriputta, satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapetī’’ti vuttaṃ. Idheva ca aṭṭhakathāyaṃ ‘‘sāmampi pacanaṃ samaṇasāruppaṃ na hoti, na ca vaṭṭatī’’ti vacanaṃ ‘‘ratticchedo vā vassacchedo vā na kato’’ti vacanañca pubbe paññattasikkhāpadānaṃ sabbhāve pamāṇanti daṭṭhabbaṃ. Sesasikkhāpadānañceva pātimokkhuddesassa ca therassa āyācanena paññattattā ‘‘mūlato pabhuti nidānaṃ dassetu’’nti āha. Rahogatassāti raho janavivittaṃ ṭhānaṃ upagatassa. Tena gaṇasaṅgaṇikābhāvena therassa kāyavivekamāha. Paṭisallīnassāti nānārammaṇacārato cittassa nivattiyā paṭi sammadeva nilīnassa tattha avisaṭacittassa. Tena cittasaṅgaṇikābhāvenassa pubbabhāgiyaṃ cittavivekamāha. Ciranti kālāpekkhaṃ accantasaṃyoge upayogavacanaṃ. Cirāti cirakālayuttā ṭhiti abhedena vuttā.
Giống như trong kinh Bhaddāli này (ma. ni. 2.145), mặc dù một số học giới đã được chế định, nhưng câu “Này Sāriputta, Bậc Đạo Sư chưa chế định học giới cho các vị thinh văn” được nói nhắm đến các học giới cần phải được chế định sau đó. Và ngay trong sách chú giải này, câu “việc tự mình nấu nướng không phải là điều thích hợp đối với một vị Sa-môn, và cũng không được phép” và câu “không có sự gián đoạn đêm hay sự gián đoạn mùa mưa nào được thực hiện” cần phải được xem là bằng chứng cho sự tồn tại của các học giới đã được chế định trước đó. Do các học giới còn lại và việc tụng đọc giới bổn được chế định do sự thỉnh cầu của vị trưởng lão, nên ngài nói “để cho thấy nguyên nhân từ gốc rễ trở đi”. Của người đã đi đến nơi vắng vẻ: tức là của người đã đi đến một nơi vắng vẻ, không có người. Qua đó, ngài cho thấy sự viễn ly về thân của vị trưởng lão, do không có sự tụ tập. Của người đã độc cư: tức là của người đã hoàn toàn ẩn mình, đã thu thúc tâm khỏi sự lang thang trong các đối tượng khác nhau, có tâm không buông lung ở đó. Qua đó, ngài cho thấy sự viễn ly về tâm thuộc giai đoạn đầu của vị ấy, do không có sự tụ tập của tâm. Lâu: đây là từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa chỉ sự liên tục, nhắm đến thời gian. Trong một thời gian lâu dài: tức là trạng thái kéo dài một thời gian lâu dài được nói đến một cách không phân biệt.

Etaṃna sakkotīti etaṃ vinicchinituṃ na sakkoti. Aṭṭhakathāyaṃ vuttanayaṃ dassetvā idāni theravādaṃ dassento āha ‘‘mahāpadumatthero panā’’tiādi. Aṭṭhakathāyampi ‘‘na sakkotī’’ti idaṃ yasmā jānamānopi sammadeva paricchindituṃ na sakkoti, tasmā vuttanti vadanti. Soḷasavidhāya paññāya matthakaṃ pattassāti majjhimanikāye anupadasuttantadesanāya (ma. ni. 3.93) –
Không thể làm được điều đó: tức là không thể phán quyết được điều đó. Sau khi đã trình bày cách giải thích trong sách chú giải, bây giờ để trình bày quan điểm của các vị trưởng lão, ngài nói “nhưng trưởng lão Mahāpaduma…” v.v… Trong sách chú giải cũng nói rằng, câu “không thể làm được” được nói đến là vì, mặc dù biết, nhưng cũng không thể phân định một cách hoàn toàn. Của người đã đạt đến đỉnh cao của mười sáu loại trí tuệ: theo bài thuyết giảng trong kinh Anupada thuộc Trung Bộ Kinh (ma. ni. 3.93), có sáu loại trí tuệ đã được nói đến, bắt đầu từ đại trí tuệ, như sau:

‘‘Mahāpañño bhikkhave sāriputto, puthupañño bhikkhave sāriputto, hāsapañño bhikkhave sāriputto, javanapañño bhikkhave sāriputto, tikkhapañño bhikkhave sāriputto, nibbedhikapañño bhikkhave sāriputto’’ti –
“Này các Tỳ-khưu, Sāriputta có trí tuệ lớn, này các Tỳ-khưu, Sāriputta có trí tuệ rộng, này các Tỳ-khưu, Sāriputta có trí tuệ vui, này các Tỳ-khưu, Sāriputta có trí tuệ nhanh, này các Tỳ-khưu, Sāriputta có trí tuệ sắc bén, này các Tỳ-khưu, Sāriputta có trí tuệ thâm nhập.”

Evamāgatā mahāpaññādikā cha, tasmiṃyeva sutte āgatā navānupubbavihārasamāpattipaññā, arahattamaggapaññāti imāsaṃ soḷasappabhedānaṃ paññānaṃ sāvakavisaye ukkaṭṭhakoṭippattassa.
Sáu loại đó, cùng với trí tuệ về chín tầng thiền định tuần tự đã được nói đến trong cùng bài kinh đó, và trí tuệ của đạo quả A-la-hán, là của người đã đạt đến đỉnh cao của mười sáu loại trí tuệ này trong phạm vi của một vị thinh văn.

Kasmā panettha bhagavā vipassīādīnaṃ sattannaṃyeva buddhānaṃ brahmacariyassa ciraṭṭhitikāciraṭṭhitikabhāvaṃ kathesi, na buddhavaṃsadesanāyaṃ viya pañcavīsatiyā buddhānaṃ, tato vā pana bhiyyoti? Yesaṃ sammāsambuddhānaṃ paṭivedhasāsanaṃ ekaṃsato nicchayena ajjāpi dharati, na antarahitaṃ, te eva kittento vipassīādīnaṃyeva bhagavantānaṃ brahmacariyassa ciraṭṭhitikāciraṭṭhitikabhāvaṃ idha kathesi. Tesaṃyeva hi sāvakā tadā ceva etarahi ca suddhāvāsabhūmiyaṃ ṭhitā, na aññesaṃ parinibbutattā. Siddhatthatissaphussānaṃ kira buddhānaṃ sāvakā suddhāvāsesu uppannā uppattisamanantarameva imasmiṃ sāsane upakādayo viya arahattaṃ adhigantvā na cirasseva parinibbāyiṃsu, na tattha tattha sāvakā yāvatāyukaṃ aṭṭhaṃsūti vadanti. Apubbācarimaniyamo pana aparāparaṃ saṃsaraṇakasattāvāsavasena ekissā lokadhātuyā icchitoti na tenetaṃ virujjhatīti daṭṭhabbaṃ.
Tại sao ở đây Đức Thế Tôn chỉ nói về trạng thái tồn tại lâu dài hay không lâu dài của phạm hạnh của bảy vị Phật là Vipassī v.v…, mà không phải của hai mươi lăm vị Phật như trong bài thuyết giảng về Phật sử, hay nhiều hơn nữa? Ngài chỉ đề cập đến các vị Chánh Đẳng Giác mà giáo pháp chứng ngộ của các vị ấy vẫn còn tồn tại một cách chắc chắn cho đến ngày nay, chưa bị biến mất. Do đó, ở đây ngài đã nói về trạng thái tồn tại lâu dài hay không lâu dài của phạm hạnh của chính các vị Phật là Vipassī v.v… Quả vậy, các vị thinh văn của các vị ấy, cả lúc đó và bây giờ, vẫn còn ở trong các cõi Tịnh Cư, chứ không phải của các vị khác, vì đã nhập diệt. Người ta nói rằng, các vị thinh văn của các vị Phật Siddhattha, Tissa, và Phussa, sau khi đã sinh vào các cõi Tịnh Cư, ngay sau khi sinh ra, đã chứng đắc A-la-hán giống như các vị Upaka v.v… trong giáo pháp này, rồi không lâu sau đã nhập diệt, chứ không phải các vị thinh văn ở đó đã sống cho đến hết tuổi thọ. Cần phải hiểu rằng, quy luật không có trước và sau được áp dụng cho một thế giới, theo phương diện của các chúng sanh đang luân hồi không ngừng, do đó điều này không mâu thuẫn với quy luật đó.

19. Asādhāraṇo hetu, sādhāraṇo paccayoti evamādivibhāgena idha payojanaṃ natthi, vipassīādīnaṃ pana brahmacariyassa aciraṭṭhitikatāya ciraṭṭhitikatāya ca kāraṇapucchāparattā codanāyāti āha ‘‘hetu paccayoti ubhayametaṃ kāraṇādhivacana’’nti. Hinoti tena phalanti hetūti karaṇasādhanoyaṃ hetusaddoti āha ‘‘tena tassa phala’’ntiādi. Kattusādhanopi hetusaddo no na yujjati hinoti phalassa hetubhāvaṃ upagacchatīti hetūti. Taṃ paṭicca eti pavattatīti taṃ kāraṇaṃ paṭicca tassa phalaṃ eti pavattati nibbattatīti attho.
19. Ở đây không có ích lợi gì trong việc phân chia theo kiểu nguyên nhân không chung, điều kiện chung v.v…, vì câu hỏi chỉ tập trung vào việc hỏi về nguyên nhân cho sự tồn tại không lâu dài và lâu dài của phạm hạnh của các vị Phật Vipassī v.v… Do đó, ngài nói “nhân và duyên, cả hai đều là tên gọi của nguyên nhân”. Do nó tạo ra quả, nên là nhân; từ ‘hetu’ này được thành lập theo nghĩa chỉ công cụ. Do đó, ngài nói “do đó, quả của nó…” v.v… Từ ‘hetu’ được thành lập theo nghĩa chỉ chủ thể cũng không phải là không hợp lý, vì nó làm cho quả đi đến trạng thái là nhân. Nó vận hành, nương vào cái đó; có nghĩa là, quả của nó vận hành, phát sinh, nương vào nguyên nhân đó.

Kilāsunoahesunti appossukkā ahesuṃ, nirussāhā ahesunti attho. Sā pana nirussāhatā na ālasiyavasenāti āha ‘‘na ālasiyakilāsuno’’ti, ālasiyavasena kilāsuno nāhesunti attho. Tattha kāraṇamāha ‘‘na hī’’tiādi. Ālasiyaṃ vāti iminā thinamiddhavasappavattānaṃ akusalānaṃ abhāvamāha. Osannavīriyatā vāti iminā pana ‘‘ālasiyābhāvepi antamaso annabhāranesādānampi sakkaccaṃyeva dhammaṃ desetī’’ti vacanato yassa kassacipi dhammadesanāya nirussāhatā natthīti dīpeti sabbesaṃ samakeneva ussāhena dhammadesanāya pavattanato. Tenāha ‘‘buddhā hī’’tiādi. Osannavīriyāti ohīnavīriyā, appossukkāti attho. Ussannavīriyāti adhikavīriyā, mahussāhāti attho. Vegenāti javena. Dhamme garu etesanti dhammagaruno. Dhamme gāravametesanti dhammagāravā. Vipassissa bhagavato kāle asīti vassasahassāni āyuppamāṇaṃ sikhissa sattati vassasahassāni, vessabhussa saṭṭhivassasahassāni āyuppamāṇanti āha ‘‘tesaṃ kira kāle dīghāyukā sattā’’ti. Abhisamentīti paṭivijjhanti.
Các ngài đã mệt mỏi: tức là các ngài đã ít bận tâm, đã không còn hăng hái. Và sự không hăng hái đó không phải là do lười biếng. Do đó, ngài nói “không phải mệt mỏi do lười biếng”; có nghĩa là, các ngài không phải mệt mỏi do lười biếng. Ở đó, ngài nói ra lý do: “quả vậy, không…” v.v… Qua câu hoặc sự lười biếng, ngài cho thấy sự không có của các pháp bất thiện vận hành do sự chi phối của hôn trầm thụy miên. Còn qua câu hoặc sự tinh tấn chùng xuống, ngài làm rõ rằng, ngay cả khi không có sự lười biếng, cũng không có sự không hăng hái trong việc thuyết giảng bất kỳ một pháp nào, theo câu “ngay cả việc mang gánh nặng thức ăn, ngài cũng thuyết pháp một cách cẩn trọng”; do tất cả các ngài đều vận hành trong việc thuyết pháp với cùng một sự hăng hái. Do đó, ngài nói “quả vậy, các vị Phật…” v.v… Tinh tấn chùng xuống: tức là tinh tấn suy giảm, có nghĩa là ít bận tâm. Tinh tấn hăng hái: tức là tinh tấn vượt trội, có nghĩa là rất hăng hái. Với tốc độ: tức là với sự nhanh chóng. Những người có pháp làm thầy là những người tôn trọng pháp. Những người có sự kính trọng đối với pháp là những người kính trọng pháp. Do tuổi thọ vào thời Đức Phật Vipassī là tám mươi nghìn năm, thời Đức Phật Sikhī là bảy mươi nghìn năm, và thời Đức Phật Vessabhū là sáu mươi nghìn năm, nên ngài nói “quả vậy, vào thời của các ngài, chúng sanh sống lâu”. Các vị ấy chứng ngộ.

Niddosatāyāti vītikkamadosassa abhāvato. ‘‘Imasmiṃ vītikkame ayaṃ nāma āpattī’’ti evaṃ āpattivasena apaññapetvā ‘‘pāṇātipātaṃ pahāya pāṇātipātā paṭivirato hotī’’tiādinā (dī. ni. 1.8, 194) dhammadesanāvasena ovādasikkhāpadānaṃyeva paññattattā vuttaṃ ‘‘sattāpattikkhandhavasena āṇāsikkhāpadaṃ apaññatta’’nti. Channaṃ channaṃ vassānaṃ accayenāti pāṭhaseso daṭṭhabbo. Atha vā channaṃ channaṃ vassānaṃ osānadivasaṃ apekkhitvā ‘‘sakiṃ saki’’nti vuttattā tadapekkhamidaṃ sāmivacanaṃ. Sakalajambudīpe sabbopi bhikkhusaṅgho ekasmiṃyeva ṭhāne uposathaṃ akāsīti sambandho. Katamaṃ taṃ ṭhānanti āha ‘‘bandhumatiyā rājadhāniyā’’tiādi. Isipatanaṃ tena samayena khemaṃ nāma uyyānaṃ hoti, migānaṃ pana abhayavāsatthāya dinnattā migadāyoti vuccati. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘kheme migadāye’’ti.
Do sự không có lỗi lầm: tức là do sự không có lỗi lầm của sự vi phạm. Do không chế định theo các tội như “trong sự vi phạm này, có tội tên là…” mà chỉ chế định các học giới khuyên răn theo cách thuyết pháp rằng “từ bỏ sát sanh, vị ấy tránh xa sát sanh” v.v… (dī. ni. 1.8, 194), nên mới nói “học giới có tính mệnh lệnh theo bảy nhóm tội đã không được chế định”. Cần phải hiểu rằng có phần kinh văn bị lược bỏ là: sau mỗi sáu năm. Hoặc, do nói “mỗi lần” nhắm đến ngày cuối cùng của mỗi sáu năm, nên đây là từ chỉ sở hữu nhắm đến điều đó. Cần liên kết rằng, toàn bộ Tăng chúng trong khắp cõi Diêm-phù-đề đã thực hiện lễ Bố-tát chỉ ở một nơi. Nơi đó là nơi nào? Mới nói: “tại kinh thành Bandhumatī” v.v… Vườn Isipatana vào thời đó có tên là Khema; nhưng do được dành cho các loài nai ở một cách an toàn, nên được gọi là Migadāya (Vườn Nai). Nhắm đến điều đó, mới nói “tại Vườn Nai Khema”.

Abbokiṇṇāni dasapi vīsatipi bhikkhusahassāni vasantīti visabhāgapuggalehi asaṃsaṭṭhāni dasapi vīsatipi bhikkhūnaṃ sahassāni vasanti. Dīghanikāyaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘te sabbepi dvādasasahassabhikkhugaṇhanakā mahāvihārā abhayagiricetiyapabbatacittalapabbatavihārasadisā ca ahesu’’nti vuttaṃ. Uposathārocikāti uposathārocanakā. Tā kira devatā ekamhi vasse nikkhante tattha tattha gantvā ārocenti ‘‘nikkhantaṃ kho, mārisā, ekaṃ vassaṃ, pañca dāni vassāni sesāni, pañcannaṃ vassānaṃ accayena bandhumatī rājadhānī upasaṅkamitabbā pātimokkhuddesāyā’’ti. Tathā dvīsu vassesu nikkhantesu ‘‘nikkhantāni kho, mārisā, dve vassāni , cattāri vassāni sesāni, catunnaṃ vassānaṃ accayena bandhumatī rājadhānī upasaṅkamitabbā pātimokkhuddesāyā’’ti ārocenti. Imināva nayena tīsu catūsu pañcasu vassesu atikkantesu ārocenti. Tena vuttaṃ ‘‘mārisā ekaṃ vassaṃ atikkanta’’ntiādi. Sānubhāvāti iddhānubhāvena sānubhāvā. Te kira bhikkhūti ye devatānubhāvena gacchanti, te sandhāya vadati. Pācīnasamuddanteti pācīnasamuddassa samīpadese. Gamiyavattanti gamikehi kātabbaṃ senāsanapaṭijagganādivattaṃ. Uposathagganti uposathakaraṇaṭṭhānaṃ. Gatāva hontīti devatānubhāvena gatā eva honti. Teti attano attano ānubhāvena devatānubhāvena ca gatā sabbepi.
Mười hoặc hai mươi nghìn vị Tỳ-khưu sống không hỗn tạp: tức là mười hoặc hai mươi nghìn vị Tỳ-khưu sống không bị pha trộn với những người không đồng loại. Tuy nhiên, trong sách chú giải Trường Bộ Kinh, đã nói rằng: “tất cả họ đều là những tu viện lớn có sức chứa mười hai nghìn vị Tỳ-khưu, và tương tự như các tu viện Mahāvihāra, Abhayagiri, Cetiyapabbata, và Cittalapabbata”. Những người thông báo về lễ Bố-tát. Các vị trời đó, sau khi một năm trôi qua, đã đi đến các nơi và thông báo rằng: “Thưa các ngài, một năm đã trôi qua, nay còn lại năm năm. Sau năm năm nữa, cần phải đến kinh thành Bandhumatī để nghe tụng đọc giới bổn”. Tương tự, sau khi hai năm trôi qua, họ thông báo: “Thưa các ngài, hai năm đã trôi qua, nay còn lại bốn năm. Sau bốn năm nữa, cần phải đến kinh thành Bandhumatī để nghe tụng đọc giới bổn”. Theo cách này, họ cũng thông báo sau khi ba, bốn, và năm năm đã trôi qua. Do đó, mới nói “thưa các ngài, một năm đã trôi qua” v.v… Có năng lực lớn: tức là có năng lực lớn do năng lực thần thông. Các vị Tỳ-khưu đó: ngài nói nhắm đến những vị đi bằng năng lực của các vị trời. Ở bờ biển phía đông: tức là ở vùng gần biển phía đông. Bổn phận của người đi đường: tức là các bổn phận như chăm sóc trú xứ v.v… mà những người đi đường cần phải làm. Nơi làm lễ Bố-tát. Chắc chắn sẽ đến: tức là, do năng lực của các vị trời, chắc chắn sẽ đến. Các vị ấy: tức là tất cả các vị, những người đã đến bằng năng lực của chính mình và bằng năng lực của các vị trời.

Khantī paramantiādīsu (dī. ni. aṭṭha. 2.90; dha. pa. aṭṭha. 2.185) parūpavādaṃ parāpakāraṃ sītuṇhādibhedañca guṇoparodhaṃ khamati sahati adhivāsetīti khanti. Sā pana sīlādīnaṃ paṭipakkhadhamme savisesaṃ tapati santapati vidhamatīti paramaṃ uttamaṃ tapo. Titikkhanaṃ khamanaṃ titikkhā. Khantiyāyevetaṃ vevacanaṃ. Akkharacintakā hi khamāyaṃ titikkhāsaddaṃ vaṇṇenti, tasmā evamettha attho daṭṭhabbo ‘‘titikkhāsaṅkhātā adhivāsanakhanti nāma uttamaṃ tapo’’ti. Nibbānaṃ paramaṃ vadanti buddhāti bhavena bhavantaraṃ vināti bhavanikantibhāvena saṃsibbati, sataṇhasseva vā āyatiṃ punabbhavabhāvato phalena saddhiṃ kammaṃ vināti saṃsibbatīti vānanti saṅkhyaṃ gatāya taṇhāya nikkhantaṃ nibbānaṃ tattha tassā sabbaso abhāvato. Taṃ nibbānaṃ pana santapaṇītanipuṇasivakhemādinā sabbākārena paramanti vadanti buddhā.
Trong câu kham nhẫn là khổ hạnh tối thượng v.v… (dī. ni. aṭṭha. 2.90; dha. pa. aṭṭha. 2.185), cái gì chịu đựng, nhẫn nại, kham nhẫn được sự phỉ báng của người khác, sự hãm hại của người khác, và các sự khác biệt như nóng lạnh v.v…, là sự cản trở các đức hạnh, cái đó là kham nhẫn. Và vì nó đặc biệt thiêu đốt, nung nấu, phá tan các pháp đối nghịch với giới v.v…, nên là khổ hạnh (tapo) tối thượng. Sự nhẫn nại, sự chịu đựng là titikkhā. Đây là một từ đồng nghĩa của kham nhẫn. Quả vậy, các nhà từ nguyên học giải thích từ ‘titikkhā’ trong nghĩa là kham nhẫn. Do đó, ở đây cần phải hiểu ý nghĩa là “sự kham nhẫn chịu đựng, được gọi là titikkhā, là khổ hạnh tối thượng”. Các vị Phật nói Niết-bàn là tối thượng: do nó vượt thoát khỏi sự tồn tại từ kiếp này sang kiếp khác, hoặc do người còn ái dục sẽ tiếp tục có sự tái sanh trong tương lai, nên nghiệp cùng với quả của nó bị dệt nên, bị trói buộc; cái thoát ra khỏi ái dục, được gọi là ‘vāna’ (sự dệt), là Niết-bàn, vì ở đó hoàn toàn không có ái dục. Và các vị Phật nói rằng Niết-bàn đó là tối thượng về mọi phương diện, do có sự an tịnh, cao quý, vi tế, an ổn, an toàn v.v…

Na hi pabbajito parūpaghātīti yo adhivāsanakhantirahitattā paraṃ upaghāteti bādhati vihiṃsati, so pabbajito nāma na hoti pabbājetabbadhammassa apabbājanato. Catutthapādo pana tatiyapādasseva vevacanaṃ anatthantarattā. ‘‘Na hi pabbajito’’ti etassa hi ‘‘na samaṇo hotī’’ti vevacanaṃ. ‘‘Parūpaghātī’’ti etassa ‘‘paraṃ viheṭhayanto’’ti vevacanaṃ. Atha vā parūpaghātīti sīlūpaghātī. Sīlañhi uttamaṭṭhena ‘‘para’’nti vuccati parasaddassa seṭṭhavācakattā ‘‘puggalaparoparaññū’’tiādīsu viya. Yo ca samaṇo paraṃ yaṃ kañci sattaṃ viheṭhayanto parūpaghātī hoti attano sīlavināsako, so pabbajito nāma na hotīti attho. Atha vā yo adhivāsanakhantiyā abhāvā parūpaghātī hoti, paraṃ antamaso ḍaṃsamakasampi jīvitā voropeti, so na hi pabbajito. Kiṃ kāraṇā? Pāpamalassa apabbājitattā anīhaṭattā. ‘‘Pabbājayamattano malaṃ, tasmā pabbajitoti vuccatī’’ti (dha. pa. 388) idañhi pabbajitalakkhaṇaṃ . Yopi naheva kho upaghāteti na māreti, apica daṇḍādīhi viheṭheti, sopi paraṃ viheṭhayanto samaṇo na hoti. Kiṃkāraṇā? Vihesāya asamitattā. Samitattā samaṇoti vuccatīti idañhi samaṇalakkhaṇaṃ. ‘‘Samitattā hi pāpānaṃ, samaṇoti pavuccatī’’ti (dha. pa. 265) hi vuttaṃ.
Người xuất gia không phải là người làm hại kẻ khác: người nào do không có sự kham nhẫn chịu đựng mà làm hại, não hại, hãm hại người khác, người đó không phải là người xuất gia, vì đã không từ bỏ các pháp mà một người xuất gia cần phải từ bỏ. Còn câu thứ tư chỉ là một từ đồng nghĩa của câu thứ ba, vì không có ý nghĩa khác. Quả vậy, từ “không phải là Sa-môn” là từ đồng nghĩa của “không phải là người xuất gia”; và từ “người làm não hại kẻ khác” là từ đồng nghĩa của “người làm hại kẻ khác”. Hoặc, người làm hại kẻ khác là người làm hại giới hạnh. Quả vậy, giới hạnh, do có ý nghĩa là tối thượng, nên được gọi là ‘para’ (cái khác/tối thượng), vì từ ‘para’ có nghĩa là cao cả, giống như trong câu “người biết người khác và biết điều cao cả” v.v… Và vị Sa-môn nào, trong khi làm não hại bất kỳ một chúng sanh nào khác, trở thành người làm hại kẻ khác, người hủy hoại giới hạnh của chính mình, thì người đó không phải là người xuất gia. Hoặc, người nào do không có sự kham nhẫn chịu đựng mà trở thành người làm hại kẻ khác, làm hại đến mạng sống của người khác, dù chỉ là một con muỗi, con mòng, thì người đó không phải là người xuất gia. Vì sao? Vì đã không từ bỏ, không loại trừ các cấu uế tội lỗi. Quả vậy, “vì từ bỏ các cấu uế của mình, nên được gọi là người xuất gia” (dha. pa. 388), đây là đặc tính của người xuất gia. Và người nào, mặc dù không làm hại, không giết, nhưng lại làm não hại bằng gậy gộc v.v…, thì người đó, trong khi làm não hại kẻ khác, cũng không phải là Sa-môn. Vì sao? Vì chưa làm lắng dịu sự não hại. Vì đã làm lắng dịu các pháp ác, nên được gọi là Sa-môn, đây là đặc tính của Sa-môn. Quả vậy, đã được nói rằng: “vì đã làm lắng dịu các pháp ác, nên được gọi là Sa-môn” (dha. pa. 265).

Apica bhagavā bhikkhūnaṃ pātimokkhaṃ uddisanto pātimokkhakathāya ca sīlappadhānattā sīlassa ca visesato doso paṭipakkhoti tassa niggaṇhanavidhiṃ dassetuṃ ādito ‘‘khantī paramaṃ tapo’’ti āha. Tena aniṭṭhassa paṭihananūpāyo vutto, titikkhāggahaṇena pana iṭṭhassa, tadubhayenapi uppannaṃ aratiṃ uppannaṃ ratiṃ abhibhuyya viharatīti ayamattho dassito. Taṇhāvānassa vūpasamanato nibbānaṃ paramaṃ vadanti buddhā. Tattha khantiggahaṇena payogavipattiyā abhāvo dassito, titikkhāggahaṇena āsayavipattiyā abhāvo. Tathā khantiggahaṇena parāparādhasahatā, titikkhāggahaṇena paresu anaparajjhanā dassitā. Evaṃ kāraṇamukhena anvayato pātimokkhaṃ dassetvā idāni byatirekato taṃ dassetuṃ ‘‘na hī’’tiādi vuttaṃ. Tena yathā sattānaṃ jīvitā voropanaṃ paraṃ pāṇileḍḍudaṇḍādīhi viheṭhanañca ‘‘parūpaghāto paraṃ viheṭhana’’nti vuccati, evaṃ tesaṃ sāpateyyāvaharaṇaṃ parāmasanaṃ visaṃvādanaṃ aññamaññabhedanaṃ pharusavacanena mammaghaṭṭanaṃ niratthakavippalāpo parasantakābhijjhānaṃ ucchedacintanaṃ micchābhinivesanañca upaghāto paraviheṭhanañca hotīti yassa kassaci akusalassa kammapathassa kammassa ca karaṇena pabbajito samaṇo ca na hotīti dasseti.
Hơn nữa, khi Đức Thế Tôn tụng đọc giới bổn cho các vị Tỳ-khưu, và vì trong lời nói về giới bổn, giới hạnh là quan trọng nhất, và sân hận là pháp đối nghịch đặc biệt của giới hạnh, nên để cho thấy phương pháp chế ngự nó, ngài đã nói trước tiên là “kham nhẫn là khổ hạnh tối thượng”. Qua đó, phương pháp đối phó với điều không mong muốn đã được nói đến. Còn qua việc đề cập đến sự nhẫn nại, phương pháp đối phó với điều mong muốn đã được nói đến. Qua cả hai, ý nghĩa này được cho thấy: vị ấy sống, chế ngự được sự bất mãn đã phát sinh và sự ham muốn đã phát sinh. Do sự lắng dịu của ái dục, được gọi là ‘vāna’, nên các vị Phật nói Niết-bàn là tối thượng. Ở đây, qua việc đề cập đến kham nhẫn, sự không có sự thất bại về hành vi đã được cho thấy; qua việc đề cập đến sự nhẫn nại, sự không có sự thất bại về ý định đã được cho thấy. Tương tự, qua việc đề cập đến kham nhẫn, sự chịu đựng lỗi lầm của người khác đã được cho thấy; qua việc đề cập đến sự nhẫn nại, sự không làm lỗi với người khác đã được cho thấy. Sau khi đã trình bày giới bổn một cách thuận theo chiều xuôi, qua phương diện nguyên nhân như vậy, bây giờ để trình bày nó một cách ngược lại, ngài nói “quả vậy, không…” v.v… Qua đó, ngài cho thấy rằng, giống như việc tước đoạt mạng sống của chúng sanh và việc làm não hại người khác bằng đất sét, gậy gộc v.v… được gọi là “sự làm hại kẻ khác, sự làm não hại kẻ khác”, cũng vậy, việc lấy tài sản của người khác, việc tiếp xúc (không đúng đắn), việc lừa dối, việc chia rẽ người khác, việc làm tổn thương người khác bằng lời nói ác độc, việc nói lời vô ích, việc tham lam tài sản của người khác, việc suy nghĩ tiêu diệt, và việc bám chấp sai lầm cũng là sự làm hại, sự làm não hại kẻ khác. Do đó, do việc thực hiện bất kỳ một con đường nghiệp bất thiện nào, một nghiệp nào, người đó không phải là người xuất gia và cũng không phải là Sa-môn.

Dutiyagāthāya sabbapāpassāti sabbākusalassa sabbassapi dvādasākusalassa sabbacittuppādasaṅgahitassa sāvajjadhammassa. Akaraṇanti anuppādanaṃ. Karaṇañhi nāma tassa attano santāne uppādananti tappaṭikkhepato akaraṇaṃ anuppādanaṃ. Kusalassāti catubhūmikakusalassa. ‘‘Kusalassā’’ti hi idaṃ ‘‘etaṃ buddhāna sāsana’’nti vakkhamānattā ariyamaggadhamme tesañca sambhārabhūte tebhūmikakusale dhamme bodheti. Upasampadāti upasampādanaṃ. Taṃ pana atthato tassa kusalassa samadhigamo paṭilābho. Sacittapariyodapananti attano cittassa jotanaṃ cittassa pabhassarabhāvakaraṇaṃ sabbaso parisodhanaṃ. Taṃ pana arahattena hoti. Ettha ca yasmā aggamaggasamaṅgino cittaṃ sabbaso pariyodapīyati nāma, aggaphalakkhaṇe pana pariyodapitaṃ hoti puna pariyodapetabbatāya abhāvato, tasmā pariniṭṭhitapariyodapanataṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘taṃ pana arahattena hotī’’ti. Iti sīlasaṃvarena sabbapāpaṃ pahāya lokiyalokuttarāhi samathavipassanāhi kusalaṃ sampādetvā arahattaphalena cittaṃ pariyodapetabbanti etaṃ buddhānaṃ sāsanaṃ ovādo anusiṭṭhi.
Trong bài kệ thứ hai, của tất cả các pháp ác: tức là của tất cả các pháp bất thiện, của tất cả mười hai tâm bất thiện, của tất cả các pháp có tội được bao gồm trong tất cả các tâm phát sinh. Sự không làm: tức là sự không tạo ra. Quả vậy, việc làm chính là sự tạo ra nó trong dòng tâm thức của chính mình. Do đó, sự phủ định của nó, sự không làm, là sự không tạo ra. Của các pháp thiện: tức là của các pháp thiện thuộc bốn cõi. Quả vậy, từ “của các pháp thiện” này, do sẽ nói ở sau là “đó là lời dạy của các vị Phật”, nên nó chỉ đến các pháp thuộc Thánh đạo và các pháp thiện thuộc ba cõi là nền tảng cho chúng. Sự thành tựu: tức là sự làm cho thành tựu. Và về mặt ý nghĩa, đó là sự chứng đắc, sự đạt được của pháp thiện đó. Sự thanh lọc tâm của mình: tức là sự làm cho tâm của mình sáng tỏ, sự làm cho tâm có bản chất trong sáng, sự thanh lọc hoàn toàn. Và điều đó có được là nhờ đạo quả A-la-hán. Ở đây, bởi vì tâm của người đã hợp thành với đạo quả cao nhất được gọi là được thanh lọc hoàn toàn, còn tại khoảnh khắc của quả vị cao nhất thì nó đã được thanh lọc, do không còn gì cần phải được thanh lọc nữa, do đó, nhắm đến sự thanh lọc đã hoàn tất, mới nói “và điều đó có được là nhờ đạo quả A-la-hán”. Như vậy, bằng cách từ bỏ tất cả các pháp ác qua sự thu thúc trong giới, làm cho các pháp thiện thành tựu qua các pháp thiền định và thiền quán thuộc thế gian và siêu thế, và làm cho tâm được thanh lọc bằng quả vị A-la-hán; đó là lời dạy, lời khuyên, lời giáo huấn của các vị Phật.

Tatiyagāthāya anupavādoti vācāya kassaci anupavadanaṃ. Anupaghātoti kāyena manasā ca kassaci upaghātākaraṇaṃ manasāpi paresaṃ anatthacintanādivasena upaghātakaraṇassa vajjetabbattā. Pātimokkheti yaṃ taṃ paatimokkhaṃ atipamokkhaṃ uttamaṃ sīlaṃ, pāti vā sugatibhayehi mokkheti duggatibhayehi, yo vā naṃ pāti, taṃ mokkhetīti pātimokkhanti vuccati, tasmiṃ pātimokkhe ca. Saṃvaroti sattannaṃ āpattikkhandhānaṃ avītikkamalakkhaṇo saṃvaro. Mattaññutāti bhojane mattaññutā paṭiggahaṇaparibhogavasena pamāṇaññutā. Pantañca sayanāsananti janasaṅghaṭṭavirahitaṃ nijjanasambādhaṃ vivittaṃ senāsanañca. Ettha dvīhiyeva paccayehi catupaccayasantoso dīpitoti veditabbo paccayasantosasāmaññena itaradvayassapi lakkhaṇahāranayena jotitabhāvato. Adhicitte ca āyogoti vipassanāpādakaṃ aṭṭhasamāpatticittaṃ adhicittaṃ, tatopi ca maggaphalacittameva adhicittaṃ, tasmiṃ yathāvutte adhicitte āyogo ca, anuyogoti attho. Etaṃ buddhāna sāsananti etaṃ parassa anupavadanaṃ anupaghātanaṃ pātimokkhe saṃvaro paṭiggahaṇaparibhogesu mattaññutā vivittasenāsanasevanaṃ adhicittānuyogo ca buddhānaṃ sāsanaṃ ovādo anusiṭṭhi.
Trong bài kệ thứ ba, sự không phỉ báng: tức là sự không phỉ báng bất kỳ ai bằng lời nói. Sự không làm hại: tức là sự không làm hại bất kỳ ai bằng thân và ý; do ngay cả việc làm hại bằng ý qua việc suy nghĩ điều bất hạnh cho người khác v.v… cũng cần phải được tránh. Trong giới bổn: tức là, cái gì là giới bổn, là giới tối thượng, cao cả nhất; hoặc nó bảo vệ khỏi các nỗi sợ hãi của thiện thú, giải thoát khỏi các nỗi sợ hãi của ác thú; hoặc người nào bảo vệ nó, nó sẽ giải thoát người đó, nên được gọi là giới bổn; trong giới bổn đó. Sự thu thúc: tức là sự thu thúc có đặc tính là không vi phạm bảy nhóm tội. Sự biết chừng mực: tức là sự biết chừng mực trong việc ăn uống, sự biết chừng mực trong việc nhận và dùng. Và nơi ở vắng vẻ: tức là, nơi ở vắng vẻ, không có sự tụ tập của người, không đông đúc, thanh tịnh. Ở đây, cần phải hiểu rằng sự tri túc về bốn món vật dụng đã được làm rõ chỉ qua hai món vật dụng, vì qua sự tương đồng về sự tri túc đối với vật dụng, hai món còn lại cũng được làm rõ theo phương pháp loại suy. Và sự nỗ lực trong tâm cao thượng: tức là, tâm của tám tầng thiền định, vốn là nền tảng cho tuệ quán, là tâm cao thượng; và hơn thế nữa, chính tâm của đạo và quả là tâm cao thượng; trong tâm cao thượng đã được nói đến đó, có sự nỗ lực; có nghĩa là, sự chuyên tâm. Đó là lời dạy của các vị Phật: tức là, sự không phỉ báng người khác, sự không làm hại người khác, sự thu thúc trong giới bổn, sự biết chừng mực trong việc nhận và dùng, sự ưa thích nơi ở vắng vẻ, và sự chuyên tâm vào tâm cao thượng, đó là lời dạy, lời khuyên, lời giáo huấn của các vị Phật.

Imā pana sabbabuddhānaṃ pātimokkhuddesagāthā hontīti veditabbā. Tenāha ‘‘eteneva upāyenā’’tiādi. Yāva sāsanapariyantāti dharamānakabuddhānaṃ anusāsanapariyantaṃ sandhāya vuttaṃ, yāva buddhā dharanti, tāva uddisitabbataṃ āgacchantīti vuttaṃ hoti. Ovādapātimokkhañhi buddhāyeva uddisanti, na sāvakā. Paṭhamabodhiyaṃyeva uddesamāgacchantīti sambandho. Paṭhamabodhi cettha vīsativassaparicchinnāti mahāgaṇṭhipade vuttaṃ. Tañca heṭṭhā aṭṭhakathāyameva ‘‘bhagavato hi paṭhamabodhiyaṃ vīsativassantare nibaddhupaṭṭhāko nāma natthī’’ti kathitattā ‘‘paṭhamabodhi nāma vīsativassānī’’ti gahetvā vuttaṃ. Ācariyadhammapālattherena pana ‘‘pañcacattālīsāya vassesu ādito pannarasa vassāni paṭhamabodhī’’ti vuttaṃ. Evañca sati majjhe pannarasa vassāni majjhimabodhi, ante pannarasa vassāni pacchimabodhīti tiṇṇaṃ bodhīnaṃ samappamāṇatā siyāti tampi yuttaṃ. Pannarasattikena hi pañcacattālīsa vassāni pūrenti. Aṭṭhakathāyaṃ pana pannarasavassappamāṇāya paṭhamabodhiyā vīsativassesuyeva antogadhattā ‘‘paṭhamabodhiyaṃ vīsativassantare’’ti vuttanti evampi sakkā viññātuṃ.
Cần phải biết rằng, đây là các bài kệ tụng đọc giới bổn của tất cả các vị Phật. Do đó, ngài nói “bằng cách này…” v.v… Cho đến khi giáo pháp kết thúc: được nói nhắm đến sự kết thúc của lời giáo huấn của các vị Phật đang còn tại thế; có nghĩa là, chừng nào các vị Phật còn tại thế, chừng đó chúng còn được tụng đọc. Quả vậy, giới bổn khuyên răn chỉ có các vị Phật mới tụng đọc, chứ không phải các vị thinh văn. Cần liên kết rằng, chúng được tụng đọc ngay trong thời kỳ đầu sau khi giác ngộ. Và thời kỳ đầu sau khi giác ngộ ở đây được giới hạn trong hai mươi năm, theo sách Chú giải Cương yếu lớn. Và điều đó, do đã được nói trước đó trong chính sách chú giải này rằng “quả vậy, trong vòng hai mươi năm đầu sau khi giác ngộ, Đức Thế Tôn không có thị giả thường xuyên”, nên đã được hiểu là “thời kỳ đầu sau khi giác ngộ là hai mươi năm”. Tuy nhiên, trưởng lão Ācariyadhammapāla lại nói rằng “trong bốn mươi lăm năm, mười lăm năm đầu là thời kỳ đầu sau khi giác ngộ”. Và nếu như vậy, thì mười lăm năm ở giữa là thời kỳ giữa, và mười lăm năm cuối là thời kỳ sau, như vậy ba thời kỳ sẽ có độ dài bằng nhau, điều đó cũng hợp lý. Quả vậy, bằng ba lần mười lăm năm sẽ đủ bốn mươi lăm năm. Tuy nhiên, trong sách chú giải, do thời kỳ đầu sau khi giác ngộ có độ dài mười lăm năm đã được bao gồm trong hai mươi năm, nên mới nói “trong vòng hai mươi năm đầu sau khi giác ngộ”; cũng có thể hiểu như vậy.

Nanu ca kānici sikkhāpadāni paññapetvāpi na tāva āṇāpātimokkhaṃ anuññātaṃ pacchā therassa āyācanena anuññātattā, tasmā kathametaṃ vuttaṃ ‘‘sikkhāpadapaññattikālato pana pabhuti āṇāpātimokkhameva uddisīyatī’’ti, yadipi kānici sikkhāpadāni paññapetvāva āṇāpātimokkhaṃ na anuññātaṃ, tathāpi apaññatte sikkhāpade āṇāpātimokkhaṃ natthi, kintu paññatteyevāti imamatthaṃ dassetuṃ ‘‘sikkhāpadapaññattikālato pana pabhutī’’ti vuttaṃ. Pubbārāmeti sāvatthiyā pācīnadisābhāge katattā evaṃladdhavohāre mahāvihāre. Migāramātupāsādeti migāraseṭṭhino mātuṭṭhāniyattā migāramātāti saṅkhyaṃ gatāya visākhāmahāupāsikāya kārite pāsāde. Aṭṭhānanti hetupaṭikkhepo. Anavakāsoti paccayapaṭikkhepo. Ubhayenapi kāraṇameva paṭikkhipati. Yanti yena kāraṇena.
Nhưng chẳng phải sau khi đã chế định một số học giới, giới bổn có tính mệnh lệnh vẫn chưa được cho phép, mãi về sau mới được cho phép do sự thỉnh cầu của vị trưởng lão sao, vậy tại sao lại nói rằng “kể từ khi chế định học giới, chính giới bổn có tính mệnh lệnh được tụng đọc”? Mặc dù sau khi đã chế định một số học giới, giới bổn có tính mệnh lệnh chưa được cho phép, nhưng khi chưa có học giới được chế định, thì không có giới bổn có tính mệnh lệnh, mà chỉ có khi đã được chế định. Để cho thấy ý nghĩa này, mới nói “kể từ khi chế định học giới trở đi”. Tại tu viện Pubbārāma: tức là tại tu viện lớn, có tên gọi như vậy do được xây dựng ở phía đông của thành Sāvatthi. Trong lâu đài của Migāramātā: tức là trong lâu đài do nữ đại thí chủ Visākhā, người được gọi là Migāramātā do có vai trò như mẹ của trưởng giả Migāra, xây dựng. Không thể xảy ra: là sự bác bỏ về nguyên nhân. Không có cơ hội: là sự bác bỏ về điều kiện. Cả hai đều bác bỏ nguyên nhân. Điều mà: tức là do nguyên nhân nào.

Tesanti bhikkhūnaṃ. Sammukhasāvakānaṃ santike pabbajitāti sabbantimānaṃ subhaddasadisānaṃ sammukhasāvakānaṃ santike pabbajite sandhāya vadati. Khattiyakulādivaseneva vividhā kulāti sambandho. Uccanīcauḷāruḷārabhogādikulavasena vāti uccanīcakulavasena uḷāruḷārabhogādikulavasena vāti yojetabbaṃ. Tattha khattiyabrāhmaṇavasena vā khattiyabrāhmaṇagahapatikānaṃ vasena vā uccakulatā veditabbā, sesānaṃ vasena nīcakulatāUḷāruḷārabhogādikulavasena vāti uḷārataratamaupabhogavantādikulavasena. Uḷārātisayajotanatthañhi puna uḷāraggahaṇaṃ ‘‘dukkhadukkha’’ntiādīsu viya. Ādi-saddena uḷārānuḷārānaṃ gahaṇaṃ veditabbaṃ.
Của họ: tức là của các vị Tỳ-khưu. Những người đã xuất gia với các vị thinh văn trực tiếp: ngài nói nhắm đến những người đã xuất gia với các vị thinh văn trực tiếp cuối cùng, tương tự như ngài Subhadda. Cần liên kết rằng, các dòng họ khác nhau là do các giai cấp Sát-đế-lỵ v.v… Hoặc do các dòng họ có của cải cao thấp khác nhau: cần phải liên kết là, do các dòng họ cao thấp, hoặc do các dòng họ có của cải cao thấp khác nhau. Ở đó, cần phải hiểu dòng họ cao là do giai cấp Sát-đế-lỵ và Bà-la-môn, hoặc do giai cấp Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, và gia chủ; còn dòng họ thấp là do các giai cấp còn lại. Hoặc do các dòng họ có của cải cao thấp khác nhau: tức là do các dòng họ có mức độ hưởng thụ cao thấp khác nhau. Việc lặp lại từ ‘uḷāra’ (cao) là để nhấn mạnh mức độ vượt trội, giống như trong câu “khổ khổ” v.v… Cần phải hiểu rằng qua từ v.v…, việc đề cập đến các dòng họ có của cải cao và không cao đã được bao gồm.

Brahmacariyaṃ rakkhantīti vuttamevatthaṃ pakāsetvā dassento āha ‘‘ciraṃ pariyattidhammaṃ pariharantī’’ti. Apaññattepi sikkhāpade yadi samānajātiādikā siyuṃ, attano attano kulānugataganthaṃ viya na nāseyyuṃ. Yasmā pana sikkhāpadampi apaññattaṃ, ime ca bhikkhū na samānajātiādikā, tasmā vināsesunti imamatthaṃ dassetuṃ ‘‘yasmā ekanāmā…pe… tasmā aññamaññaṃ viheṭhentā’’tiādi vuttaṃ. Yadi evaṃ kasmā ciraṭṭhitikavārepi ‘‘nānānāmā’’tiādi vuttanti? Satipi tesaṃ nānājaccādibhāve sikkhāpadapaññattiyā eva sāsanassa cirappavattīti dassanatthaṃ vuttaṃ. Sikkhāpadapaññattivaseneva sāsanassa cirappavatti. Yasmā buddhā attano parinibbānato uddhampi vinetabbasattasambhave sati sikkhāpadaṃ paññapenti, asati na paññapenti, tasmāti veditabbo. Yathā kāyavacīdvārasaṅkhātaṃ viññattiṃ samuṭṭhāpetvā pavattamānampi cittaṃ tassāyeva viññattiyā vasena pavattanato ‘‘kāyavacīdvārehi pavatta’’nti vuccati, evaṃsampadamidaṃ daṭṭhabbaṃ. Yathā tanti ettha tanti nipātamattaṃ. Vaggasaṅgahapaṇṇāsasaṅgahādīhīti sīlakkhandhavaggamahāvaggādivaggasaṅgahavasena mūlapaṇṇāsamaajhamapaṇṇāsādipaṇṇāsasaṅgahavasena. Ādi-saddena saṃyuttādisaṅgaho veditabbo.
Họ bảo vệ phạm hạnh: để làm rõ ý nghĩa đã nói, ngài nói “họ gìn giữ chánh pháp học”. Ngay cả khi chưa có học giới được chế định, nếu họ có cùng dòng dõi v.v…, họ sẽ không làm cho các kinh sách truyền thống của dòng họ mình bị mai một. Nhưng vì học giới cũng chưa được chế định, và các vị Tỳ-khưu này không có cùng dòng dõi v.v…, do đó họ sẽ làm cho nó mai một. Để cho thấy ý nghĩa này, ngài nói “bởi vì có cùng tên… cho đến… do đó, họ làm não hại lẫn nhau” v.v… Nếu vậy, tại sao trong trường hợp tồn tại lâu dài, cũng nói là “có nhiều tên khác nhau” v.v…? Điều đó được nói để cho thấy rằng, mặc dù họ có nhiều dòng dõi khác nhau, nhưng chính nhờ sự chế định học giới mà giáo pháp tồn tại lâu dài. Cần phải hiểu rằng, giáo pháp tồn tại lâu dài chính là nhờ sự chế định học giới. Bởi vì các vị Phật, nếu còn có chúng sanh cần được giáo hóa ngay cả sau khi các ngài nhập diệt, thì các ngài sẽ chế định học giới; nếu không, các ngài sẽ không chế định. Cần phải hiểu điều này giống như sau: mặc dù tâm vận hành bằng cách tạo ra các biểu tri thuộc về thân và khẩu, nhưng do nó vận hành theo chính các biểu tri đó, nên được gọi là “vận hành qua cửa thân và khẩu”. Giống như nó: ở đây, từ chỉ là một tiểu từ. Bằng các sự tập hợp theo phẩm, theo năm mươi bài kinh v.v…: tức là, theo sự tập hợp theo các phẩm như phẩm Giới Uẩn, phẩm Đại Phẩm v.v…; theo sự tập hợp theo năm mươi bài kinh như năm mươi bài kinh đầu, năm mươi bài kinh giữa v.v… Cần phải hiểu rằng qua từ v.v…, sự tập hợp của các bộ Tương Ưng v.v… đã được bao gồm.

Evaṃvitakketha, mā evaṃ vitakkayitthāti ettha evanti yathānusiṭṭhāya anusāsaniyā vidhivasena paṭisedhanavasena ca pavattitākāraparāmasanaṃ, sā ca sammāvitakkānaṃ micchāvitakkānañca pavattiākāradassanavasena pavattati atthaānisaṃsassa ādīnavassa ca vibhāvanatthaṃ. Tenāha ‘‘nekkhammavitakkādayo tayo vitakke vitakkethā’’tiādi. Ettha ādi-saddena abyāpādavitakkaavihiṃsāvitakkānaṃ gahaṇaṃ veditabbaṃ. Tattha nekkhammaṃ vuccati lobhato nikkhantattā alobho, nīvaraṇehi nikkhantattā paṭhamajjhānaṃ, sabbākusalehi nikkhantattā sabbo kusalo dhammo, sabbasaṅkhatehi nikkhantattā nibbānaṃ, upanissayato sampayogato ārammaṇakaraṇato ca nekkhammena paṭisaṃyutto vitakko nekkhammavitakko, sammāsaṅkappo. So asubhajjhānassa pubbabhāge kāmāvacaro hoti, asubhajjhāne rūpāvacaro, taṃ jhānaṃ pādakaṃ katvā uppannamaggaphalakāle lokuttaro. Byāpādassa paṭipakkho abyāpādo, kañcipi na byāpādenti etenāti vā abyāpādo, mettā. Yathāvuttena abyāpādena paṭisaṃyutto vitakko abyāpādavitakko. So mettājhānassa pubbabhāge kāmāvacaro hoti, mettābhāvanāvasena adhigate paṭhamajjhāne rūpāvacaro, taṃ jhānaṃ pādakaṃ katvā uppannamaggaphalakāle lokuttaro. Vihiṃsāya paṭipakkhā, na vihiṃsanti vā etāya satteti avihiṃsā, karuṇā. Tāya paṭisaṃyutto vitakko avihiṃsāvitakko. So karuṇājhānassa pubbabhāge kāmāvacaro, karuṇābhāvanāvasena adhigate paṭhamajjhāne rūpāvacaro, taṃ jhānaṃ pādakaṃ katvā uppannamaggaphalakāle lokuttaro.
Hãy suy tư như vầy, đừng suy tư như vậy: ở đây, từ như vầy là sự đề cập đến hình thức vận hành theo cách khẳng định và phủ định của lời giáo huấn đã được chỉ dạy; và nó vận hành theo cách cho thấy hình thức vận hành của các tư tưởng đúng đắn và các tư tưởng sai lầm, để làm rõ lợi ích và nguy hại của chúng. Do đó, ngài nói “hãy suy tư về ba loại tư tưởng, bắt đầu từ tư tưởng xuất ly” v.v… Ở đây, cần phải biết rằng qua từ v.v…, việc đề cập đến tư tưởng không sân hận và tư tưởng không làm hại đã được bao gồm. Ở đó, xuất ly được nói đến là sự không tham lam do đã thoát ra khỏi lòng tham, là thiền thứ nhất do đã thoát ra khỏi các triền cái, là tất cả các pháp thiện do đã thoát ra khỏi tất cả các pháp bất thiện, là Niết-bàn do đã thoát ra khỏi tất cả các pháp hữu vi. Tư tưởng có liên quan đến sự xuất ly do có nó làm nền tảng, do tương ưng với nó, và do lấy nó làm đối tượng, là tư tưởng xuất ly, là chánh tư duy. Nó thuộc Dục giới trong giai đoạn đầu của thiền bất tịnh; nó thuộc Sắc giới trong thiền bất tịnh; và khi lấy thiền đó làm nền tảng, nó thuộc Siêu thế vào lúc đạo và quả phát sinh. Pháp đối nghịch với sân hận là không sân hận; hoặc do người ta không sân hận với bất kỳ ai nhờ nó, nên là không sân hận, là tâm từ. Tư tưởng có liên quan đến sự không sân hận đã được nói đến đó là tư tưởng không sân hận. Nó thuộc Dục giới trong giai đoạn đầu của thiền từ; nó thuộc Sắc giới trong thiền thứ nhất đã được chứng đắc qua việc tu tập tâm từ; và khi lấy thiền đó làm nền tảng, nó thuộc Siêu thế vào lúc đạo và quả phát sinh. Pháp đối nghịch với sự làm hại, hoặc do người ta không làm hại chúng sanh nhờ nó, nên là không làm hại, là tâm bi. Tư tưởng có liên quan đến nó là tư tưởng không làm hại. Nó thuộc Dục giới trong giai đoạn đầu của thiền bi; nó thuộc Sắc giới trong thiền thứ nhất đã được chứng đắc qua việc tu tập tâm bi; và khi lấy thiền đó làm nền tảng, nó thuộc Siêu thế vào lúc đạo và quả phát sinh.

Nanu ca alobhādosāmohānaṃ aññamaññāvirahato nesaṃ vasena uppajjanakānaṃ imesaṃ nekkhammavitakkādīnaṃ aññamaññaṃ asaṅkarato vavatthānaṃ na hotīti? No na hoti. Yadā hi alobho padhāno hoti niyamitapariṇatasamudācārādivasena, tadā itare dve tadanvāyikā bhavanti. Tathā hi yadā alobhappadhāno nekkhammagaruko cittuppādo hoti, tadā laddhāvasaro nekkhammavitakko patiṭṭhahati. Taṃsampayuttassa pana adosalakkhaṇassa abyāpādassa vasena yo tasseva abyāpādavitakkabhāvo sambhaveyya, sati ca abyāpādavitakkabhāve kassacipi aviheṭhanajātikatāya avihiṃsāvitakkabhāvo ca sambhaveyya. Te itare dve tasseva nekkhammavitakkassa anugāmino sarūpato adissanato tasmiṃ sati honti, asati na hontīti anumāneyyā bhavanti. Evameva yadā mettāpadhāno cittuppādo hoti, tadā itare dve tadanvāyikā bhavanti. Yadā karuṇāpadhāno cittuppādo hoti, tadā itare dve tadanvāyikā bhavanti.
Nhưng chẳng phải do sự không thể tách rời nhau của không tham, không sân, và không si, nên sự phân định của các tư tưởng xuất ly v.v… này, vốn phát sinh do chúng, là không thể có được, vì chúng không bị pha trộn với nhau sao? Không phải là không có. Quả vậy, khi sự không tham lam là chủ đạo, qua các hành vi đã được định hướng, thuần thục v.v…, thì hai pháp còn lại sẽ đi theo nó. Quả vậy, khi có một tâm phát sinh có sự không tham lam làm chủ đạo, hướng về sự xuất ly, thì tư tưởng xuất ly, khi có được cơ hội, sẽ được thiết lập. Và trạng thái là tư tưởng không sân hận của chính nó, do có sự không sân hận, là đặc tính của sự không sân, tương ưng với nó, cũng có thể xảy ra. Và khi có trạng thái là tư tưởng không sân hận, thì trạng thái là tư tưởng không làm hại cũng có thể xảy ra, do có bản chất là không làm não hại bất kỳ ai. Hai tư tưởng còn lại đó là những pháp đi theo chính tư tưởng xuất ly đó; do không được thấy về mặt bản chất, chúng chỉ có thể được suy ra là có khi nó có, và không có khi nó không có. Tương tự như vậy, khi có một tâm phát sinh có tâm từ làm chủ đạo, thì hai pháp còn lại sẽ đi theo nó. Khi có một tâm phát sinh có tâm bi làm chủ đạo, thì hai pháp còn lại sẽ đi theo nó.

Kāmavitakkādayoti ettha ādi-saddena byāpādavitakkavihiṃsāvitakkānaṃ gahaṇaṃ veditabbaṃ. Tattha kāmapaṭisaṃyutto vitakko kāmavitakko. Ettha hi dve kāmā vatthukāmo ca kilesakāmo ca. Tattha vatthukāmapakkhe ārammaṇavasena kāmehi paṭisaṃyutto vitakko kāmavitakko, kilesakāmapakkhe pana sampayogavasena kāmena paṭisaṃyuttoti yojetabbaṃ. Byāpādapaṭisaṃyutto vitakko byāpādavitakko. Vihiṃsāpaṭisaṃyutto vitakko vihiṃsāvitakko. Tesu dve sattesupi saṅkhāresupi uppajjanti. Kāmavitakko hi piye manāpe satte vā saṅkhāre vā vitakkentassa uppajjati, byāpādavitakko appiye amanāpe satte vā saṅkhāre vā kujjhitvā olokanakālato paṭṭhāya yāva vināsanā uppajjati, vihiṃsāvitakko saṅkhāresu nuppajjati. Saṅkhāro hi dukkhāpetabbo nāma natthi, ‘‘ime sattā haññantu vā ucchijjantu vā vinassantu vā mā vā ahesu’’nti cintanakāle pana sattesu uppajjati. Atha kasmā vuttaṃ ‘‘saṅkhāro dukkhāpetabbo nāma natthī’’ti, nanu ye dukkhāpetabbāti icchitā sattasaññitā, tepi atthato saṅkhārā evāti? Saccametaṃ, te pana indriyabaddhā saviññāṇakatāya dukkhaṃ paṭisaṃvedenti, tasmā te vihiṃsāvitakkassa visayā icchitā sattasaññitā. Ye pana na dukkhaṃ paṭisaṃvedenti vuttalakkhaṇāyogato, te sandhāya ‘‘vihiṃsāvitakko saṅkhāresu nuppajjatī’’ti vuttaṃ.
Trong câu các tư tưởng về dục v.v…, ở đây, cần phải biết rằng qua từ v.v…, việc đề cập đến tư tưởng sân hận và tư tưởng làm hại đã được bao gồm. Ở đó, tư tưởng có liên quan đến dục là tư tưởng về dục. Ở đây, có hai loại dục: dục đối tượng và dục phiền não. Ở đó, về phương diện dục đối tượng, tư tưởng có liên quan đến các dục do lấy chúng làm đối tượng là tư tưởng về dục. Còn về phương diện dục phiền não, cần phải liên kết rằng, tư tưởng có liên quan đến dục do tương ưng với nó. Tư tưởng có liên quan đến sân hận là tư tưởng sân hận. Tư tưởng có liên quan đến sự làm hại là tư tưởng làm hại. Trong đó, hai loại đầu tiên phát sinh đối với cả chúng sanh và các pháp hữu vi. Quả vậy, tư tưởng về dục phát sinh khi suy tư về một chúng sanh hoặc một pháp hữu vi đáng yêu, đáng mến. Tư tưởng sân hận phát sinh đối với một chúng sanh hoặc một pháp hữu vi không đáng yêu, không đáng mến, kể từ lúc nhìn với sự tức giận cho đến lúc hủy diệt. Tư tưởng làm hại không phát sinh đối với các pháp hữu vi. Quả vậy, không có một pháp hữu vi nào có thể bị làm cho đau khổ. Nhưng nó phát sinh đối với chúng sanh, vào lúc suy nghĩ rằng “mong cho các chúng sanh này bị giết, bị tiêu diệt, bị hủy hoại, hoặc không còn tồn tại nữa”. Vậy tại sao lại nói rằng “không có một pháp hữu vi nào có thể bị làm cho đau khổ”? Chẳng phải các chúng sanh, được cho là có thể bị làm cho đau khổ, về mặt bản chất, cũng chính là các pháp hữu vi sao? Điều đó đúng, nhưng chúng, do có các giác quan và có thức, nên cảm nhận được sự đau khổ. Do đó, chúng, được gọi là chúng sanh, được cho là đối tượng của tư tưởng làm hại. Còn những pháp không cảm nhận được sự đau khổ, do không có các đặc tính đã nói, thì nhắm đến chúng mới nói rằng “tư tưởng làm hại không phát sinh đối với các pháp hữu vi”.

Anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsūti ettha āsavehīti katthuatthe karaṇaniddeso, cittānīti paccattabahuvacanaṃ, vimucciṃsūti kammasādhanaṃ, tasmā āsavehi kattubhūtehi anupādāya ārammaṇavasena aggahetvā cittāni vimuccitānīti evamettha attho gahetabboti āha ‘‘tesañhi cittānī’’tiādi. Yehi āsavehīti etthāpi kattuatthe eva karaṇaniddeso. Vimucciṃsūti kammasādhanaṃ. Na tetāni gahetvā vimucciṃsūti te āsavā tāni cittāni ārammaṇavasena na gahetvā vimucciṃsu vimocesuṃ. Ettha hi cittānīti upayogabahuvacanaṃ, vimucciṃsūti kattusādhanaṃ. Anuppādanirodhena nirujjhamānāti āyatiṃ anuppattisaṅkhātena nirodhena nirujjhamānā āsavā. Aggahetvā vimucciṃsūti ārammaṇakaraṇavasena aggahetvā cittāni vimocesuṃ. Vikasitacittā ahesunti sātisayañāṇarasmisamphassena samphullacittā ahesuṃ. Purimavacanāpekkhanti ‘‘aññatarasmiṃ bhiṃsanake vanasaṇḍe’’ti vuttavacanāpekkhaṃ. Tenāha ‘‘yaṃ vuttaṃ aññatarasmiṃ bhiṃsanake vanasaṇḍeti, tatrā’’ti. Katanti bhāvasādhanavāci idaṃ padanti āha ‘‘bhiṃsanakatasmiṃhoti, bhiṃsanakakiriyāyā’’ti. Bhiṃsanassa karaṇaṃ kiriyā bhiṃsanakataṃ, tasmiṃ bhiṃsanakatasmiṃ.
Trong câu các tâm đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc mà không còn chấp thủ, ở đây, từ bởi các lậu hoặc là cách dùng công cụ cách với nghĩa chỉ chủ thể; các tâm là cách dùng chủ cách số nhiều; đã được giải thoát là động từ được thành lập theo nghĩa bị động. Do đó, cần phải hiểu ý nghĩa ở đây là, các tâm đã được giải thoát bởi các lậu hoặc, vốn là chủ thể, mà không còn chấp thủ chúng làm đối tượng. Do đó, ngài nói “quả vậy, các tâm của họ…” v.v… Trong câu bởi các lậu hoặc nào, ở đây cũng là cách dùng công cụ cách với nghĩa chỉ chủ thể. Đã được giải thoát là động từ được thành lập theo nghĩa bị động. Chúng không nắm bắt những cái đó mà được giải thoát: tức là, các lậu hoặc đó không nắm bắt các tâm đó làm đối tượng mà được giải thoát, đã giải thoát chúng. Ở đây, từ các tâm là cách dùng đối cách số nhiều; đã được giải thoát là động từ được thành lập theo nghĩa chủ động. Trong khi đang bị đoạn diệt bằng sự đoạn diệt không còn phát sinh: tức là, các lậu hoặc đang bị đoạn diệt bằng sự đoạn diệt, được gọi là sự không còn phát sinh trong tương lai. Đã giải thoát mà không còn nắm bắt: tức là, đã giải thoát các tâm mà không còn nắm bắt chúng làm đối tượng. Các vị ấy đã có tâm nở hoa: tức là, các vị ấy đã có tâm nở rộ do sự tiếp xúc của ánh sáng trí tuệ vượt trội. Nhắm đến lời nói trước đó: tức là nhắm đến lời nói đã được nói rằng “trong một khu rừng rậm đáng sợ nào đó”. Do đó, ngài nói “điều đã được nói rằng, trong một khu rừng rậm đáng sợ nào đó, ở đó…”. Được làm: để cho thấy rằng từ này chỉ về hành động được thành lập theo nghĩa bị động, ngài nói “trong sự được làm cho đáng sợ, trong hành vi làm cho đáng sợ”. Việc làm cho đáng sợ, hành vi làm cho đáng sợ, là ‘bhiṃsanakataṃ’; trong đó là bhiṃsanakatasmiṃ.

Idāni aññathāpi atthayojanaṃ dassento āha ‘‘atha vā’’tiādi. Imasmiṃ atthavikappe bhiṃsayatīti bhiṃsano, bhiṃsano eva bhiṃsanako, tassa bhāvo bhiṃsanakattanti vattabbe ta-kārassa lopaṃ katvā ‘‘bhiṃsanakata’’nti vuttanti dassento āha ‘‘bhiṃsanakatasminti bhiṃsanakabhāveti attho’’tiādi. Yebhuyyaggahaṇaṃ lomavantavasenapi yojetabbaṃ, na lomavasenevāti āha ‘‘bahutarānaṃ vā’’tiādi.
Bây giờ, để trình bày cách liên kết ý nghĩa theo một cách khác, ngài nói “Hoặc là…” v.v… Trong cách giải thích ý nghĩa này, cái làm cho sợ hãi là ‘bhiṃsano’; chính cái làm cho sợ hãi là ‘bhiṃsanako’; trạng thái của nó lẽ ra phải là ‘bhiṃsanakattaṃ’, nhưng do đã lược bỏ chữ ‘ta’, nên đã được nói là “bhiṃsanakataṃ”. Để cho thấy điều đó, ngài nói “trong sự được làm cho đáng sợ, có nghĩa là trong trạng thái làm cho đáng sợ” v.v… Cần phải liên kết việc đề cập đến phần lớn theo phương diện của người có lông, chứ không phải chỉ theo phương diện của lông. Do đó, ngài nói “hoặc của phần lớn hơn…” v.v…

Purisayugavasenāti purisakālavasena, purisānaṃ āyuppamāṇavasenāti vuttaṃ hoti. ‘‘Sabbapacchimako subhaddasadiso’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Tasmiṃ kāle vijjamānānaṃ dvinnaṃ purisānaṃ āyuparicchedaṃ sakalameva gahetvā ‘‘satasahassaṃ…pe… aṭṭhāsī’’ti vuttaṃ. Dveyeva purisayugānīti ettha purisānaṃ yugappavattikālo purisayugaṃ. Abhilāpamattameva cetaṃ, atthato pana purisova purisayugaṃ. Dharamāne bhagavati ekaṃ purisayugaṃ, parinibbute ekanti katvā ‘‘dveyeva purisayugānī’’ti vuttaṃ. Parinibbute pana bhagavati ekameva purisayugaṃ asītiyeva vassasahassāni brahmacariyaṃ aṭṭhāsīti veditabbaṃ.
Theo thế hệ của người: tức là theo thời gian của người; có nghĩa là, theo tuổi thọ của người. Trong cả ba sách chú giải cương yếu, đã nói rằng “người cuối cùng nhất là tương tự như ngài Subhadda”. Sự giới hạn tuổi thọ của hai người đang tồn tại vào lúc đó đã được lấy một cách toàn bộ và nói rằng “một trăm nghìn… cho đến… đã tồn tại”. Trong câu chỉ có hai thế hệ người, ở đây, thời gian vận hành theo cặp của người là thế hệ của người. Và đây chỉ là cách nói, còn về mặt ý nghĩa, chính người là thế hệ của người. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế là một thế hệ người, sau khi nhập diệt là một thế hệ. Do đó, mới nói “chỉ có hai thế hệ người”. Cần phải biết rằng, sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt, chỉ có một thế hệ người, và phạm hạnh đã tồn tại chỉ trong tám mươi nghìn năm.

20.Sāvakayugānīti sāvakā eva sāvakayugāni. Asambhuṇantenāti apāpuṇantena. Gabbhaṃ gaṇhāpentassāti sabbaññutaññāṇassa vijāyanatthaṃ ñāṇagabbhaṃ gaṇhāpentassa.
20. Các thế hệ thinh văn: chính các vị thinh văn là các thế hệ thinh văn. Do không đạt đến. Của người đang làm cho mang thai: tức là, của người đang làm cho mang thai bào thai trí tuệ để sinh ra Nhất thiết trí.

21.Koanusandhīti pubbāparakathānaṃ kiṃ anusandhānaṃ, ko sambandhoti attho. Sikkhāpadapaññattiyācanāpekkhanti yācīyatīti yācanā, sikkhāpadapaññattiyeva yācanā sikkhāpadapaññattiyācanā, taṃ apekkhatīti sikkhāpadapaññattiyācanāpekkhaṃ bhummavacanaṃ, yāciyamānasikkhāpadapaññattiapekkhaṃ bhummavacananti vuttaṃ hoti. Yācanavisiṭṭhā sikkhāpadapaññattiyeva hi ‘‘tatthā’’ti iminā parāmaṭṭhā, teneva vakkhati ‘‘tattha tassā sikkhāpadapaññattiyā’’ti. Yaṃ vuttanti ‘‘sikkhāpadaṃ paññapeyyā’’ti iminā yaṃ sikkhāpadapaññapanaṃ vuttaṃ, yācitanti attho. Tattha tassā sikkhāpadapaññattiyāti tassaṃ yāciyamānasikkhāpadapaññattiyanti attho. Akālanti sikkhāpadapaññattiyā akālaṃ.
21. Sự liên kết là gì?: tức là, sự liên kết giữa các lời nói trước và sau là gì, sự liên quan là gì? Nhắm đến sự thỉnh cầu chế định học giới: cái được thỉnh cầu là sự thỉnh cầu; chính sự chế định học giới là sự thỉnh cầu, đó là sự thỉnh cầu chế định học giới; từ nhắm đến nó là từ nhắm đến sự thỉnh cầu chế định học giới, được dùng ở cách chỉ nơi chốn; có nghĩa là, từ chỉ nơi chốn nhắm đến sự chế định học giới đang được thỉnh cầu. Quả vậy, chính sự chế định học giới có đặc tính là sự thỉnh cầu đã được đề cập đến bằng từ “ở đó”; và chính vì thế, ngài sẽ nói ở sau là “ở đó, của sự chế định học giới đó”. Điều đã được nói: tức là, sự chế định học giới nào đã được nói đến, đã được thỉnh cầu, qua câu “xin hãy chế định học giới”. Ở đó, của sự chế định học giới đó: có nghĩa là, trong sự chế định học giới đang được thỉnh cầu đó. Chưa phải lúc: tức là chưa phải lúc để chế định học giới.

Āsavaṭṭhānīyāti ettha adhikaraṇe anīyasaddoti āha ‘‘āsavā tiṭṭhanti etesū’’tiādi . Ke pana te āsavā, ke ca dhammā tadadhikaraṇabhūtāti āha ‘‘yesu diṭṭhadhammikasamparāyikā’’tiādi. Diṭṭhadhammikā parūpavādādayo, samparāyikā āpāyikā apāyadukkhavisesā. Te āsavanti tena tena paccayavasena pavattantīti āsavā. Nesanti parūpavādādiāsavānaṃ. Teti vītikkamadhammā. Asati āsavaṭṭhānīye dhamme sikkhāpadapaññattiyaṃ ko doso, yenevaṃ vuttanti āha ‘‘yadi hi paññapeyyā’’tiādi, vītikkamadosaṃ adisvā yadi paññapeyyāti adhippāyo. Parammukhā akkosanaṃ parūpavādo, parehi vacanesu dosāropanaṃ parūpārambho, sammukhā garahanaṃ garahadoso.
Là nền tảng cho các lậu hoặc: ở đây, từ ‘anīya’ được dùng với nghĩa chỉ nơi chốn. Do đó, ngài nói “các lậu hoặc tồn tại trong chúng” v.v… Nhưng các lậu hoặc đó là gì, và các pháp nào là nền tảng cho chúng? Mới nói: “trong đó, các pháp hiện tại và tương lai…” v.v… Các pháp hiện tại là sự phỉ báng người khác v.v…; các pháp tương lai là các khổ đau đặc biệt ở cõi dữ, đưa đến cõi dữ. Chúng vận hành, nương vào các duyên đó, nên là các lậu hoặc. Của chúng: tức là của các lậu hoặc như sự phỉ báng người khác v.v… Chúng: tức là các pháp vi phạm. Nếu không có các pháp là nền tảng cho các lậu hoặc, thì có lỗi gì trong việc chế định học giới, mà lại nói như vậy? Mới nói: “quả vậy, nếu chế định…” v.v…; chủ ý là, nếu chế định mà không thấy lỗi lầm của sự vi phạm. Sự mắng nhiếc sau lưng là sự phỉ báng người khác; sự đổ lỗi trong lời nói của người khác là sự công kích người khác; sự chỉ trích trực tiếp là lỗi chỉ trích.

Kathañhi nāma paliveṭhessatīti sambandho, kathaṃ-saddayoge anāgatappayogo daṭṭhabbo. Anvāyikoti anuvattako. Bhogakkhandhanti bhogarāsiṃ. ‘‘Amhākamete’’ti ñāyantīti ñātī, pitāmahapituputtādivasena parivaṭṭanaṭṭhena parivaṭṭo, ñātīyeva parivaṭṭo ñātiparivaṭṭo. Ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭhāti ghāsacchādane paramatāya uttamatāya santuṭṭhā, ghāsacchādanapariyesane sallekhavasena paramatāya ukkaṭṭhabhāve saṇṭhitāti attho. Ghāsacchādanameva vā paramaṃ paramā koṭi etesaṃ na tato paraṃ kiñci asāmisajātaṃ pariyesanti paccāsīsanti cāti ghāsacchādanaparamā, tesaṃ bhāvo ghāsacchādanaparamatā, tassaṃ ghāsacchādanaparamatāya santuṭṭhā. Tesu nāma koti yathāvuttaguṇavisiṭṭhesu tesu bhikkhūsu ko nāma. Lokāmisabhūtanti lokapariyāpannaṃ hutvā kilesehi āmasitabbattā lokāmisabhūtaṃ. Pabbajjāsaṅkhepenevāti ‘‘pāṇātipātā veramaṇī’’tiādinā pabbajjāmukheneva. Etanti methunādīnaṃ akaraṇaṃ. Thāmanti sikkhāpadānaṃ paññāpanakiriyāya sāmatthiyaṃ. Balanti yāthāvato sabbadhammānaṃ paṭivedhasamatthaṃ ñāṇabalaṃ. Kuppeyyāti kuppaṃ bhaveyya. Etassevatthassa pākaṭakaraṇaṃ na yathāṭhāne tiṭṭheyyāti, paññattiṭṭhāne na tiṭṭheyyāti attho. Akusaloti tikicchituṃ yuttakālassa aparijānanato akusalo acheko. Avuddhi anayo, byasanaṃ dukkhaṃ. Paṭikaccevāti gaṇḍuppādanato paṭhamameva. Sañchaviṃ katvāti sobhanacchaviṃ katvā. Bālavejjoti apaṇḍitavejjo. Lohitakkhayañca maṃ pāpetīti vibhattivipariṇāmaṃ katvā yojetabbaṃ.
Cần liên kết rằng, làm thế nào lại có thể bọc lại được? Cần phải thấy rằng, cách dùng thì tương lai đi với từ ‘kathaṃ’ (làm thế nào). Đi theo: tức là đi theo sau. Khối tài sản: tức là đống của cải. Do chúng được biết đến là “của chúng ta”, nên là bà con; sự xoay vần theo cách là ông nội, cha, con v.v…, là sự xoay vần; chính bà con là sự xoay vần, đó là sự xoay vần của bà con. Hài lòng với sự tối thiểu là cỏ và áo che thân: tức là, hài lòng với sự tối thiểu, sự cao nhất, là cỏ và áo che thân; có nghĩa là, an trú trong trạng thái cao cả, là sự khổ hạnh, trong việc tìm kiếm cỏ và áo che thân. Hoặc, chính cỏ và áo che thân là tối thiểu, là giới hạn cuối cùng của họ, họ không tìm kiếm hay mong đợi bất cứ thứ gì không phải của mình ngoài những thứ đó, nên là những người có sự tối thiểu là cỏ và áo che thân; trạng thái của họ là sự tối thiểu là cỏ và áo che thân; họ hài lòng trong sự tối thiểu là cỏ và áo che thân đó. Trong số họ, có ai: tức là, trong số các vị Tỳ-khưu đó, những người có các phẩm chất đã được nói đến, có ai. Là vật chất của thế gian: tức là, do thuộc về thế gian và do có thể bị các phiền não xúc chạm, nên là vật chất của thế gian. Chỉ bằng sự tóm tắt của việc xuất gia: tức là, chỉ bằng việc xuất gia qua các câu như “từ bỏ sát sanh” v.v… Điều đó: tức là sự không làm các việc như giao hợp v.v… Khả năng: tức là khả năng của hành vi chế định các học giới. Năng lực: tức là năng lực của trí tuệ, có khả năng thâm nhập tất cả các pháp một cách đúng như thật. Sẽ bị hư hoại. Việc làm rõ ý nghĩa của chính câu này là sẽ không đứng vững ở vị trí của nó; có nghĩa là, sẽ không đứng vững ở vị trí đã được chế định. Không khéo léo: tức là, do không biết được thời điểm thích hợp để chữa trị, nên là không khéo léo, không tinh thông. Sự không tăng trưởng là sự suy vong; sự tai ương là sự khổ đau. Ngay từ đầu: tức là trước khi mụn nhọt phát sinh. Sau khi đã làm cho da đẹp. Thầy thuốc dốt. Và làm cho tôi bị mất máu: cần phải thay đổi cách của từ để liên kết.

Akālaṃ dassetvāti sikkhāpadapaññattiyā akālaṃ dassetvā. Rogaṃ vūpasametvāti phāsuṃ katvā. Sake ācariyaketi ācariyassa bhāvo, kammaṃ vā ācariyakaṃ, tasmiṃ attano ācariyabhāve, ācariyakamme vā. Nimittatthe cetaṃ bhummavacanaṃ. Viditānubhāvoti pākaṭānubhāvo.
Sau khi đã cho thấy là chưa phải lúc: tức là, sau khi đã cho thấy là chưa phải lúc để chế định học giới. Sau khi đã chữa lành bệnh: tức là sau khi đã làm cho dễ chịu. Trong nghề thầy của mình: trạng thái, hoặc hành động của một vị thầy, là nghề thầy; trong trạng thái là thầy, hoặc trong hành động của thầy của chính mình. Và đây là từ chỉ nơi chốn được dùng với nghĩa chỉ mục đích. Người có năng lực đã được biết đến.

Vipulabhāvenāti pabbajitānaṃ bahubhāvena. Sāsane ekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā na uppajjantīti yasmā senāsanāni pahonti, tasmā āvāsamacchariyādihetukā sāsane ekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā na uppajjanti. Iminā nayenāti etena padasodhammasikkhāpadādīnaṃ saṅgaho daṭṭhabbo.
Do sự đông đảo: tức là do số lượng người xuất gia đông. Trong giáo pháp, một số pháp là nền tảng cho các lậu hoặc không phát sinh: bởi vì các trú xứ là đủ, do đó, một số pháp là nền tảng cho các lậu hoặc trong giáo pháp, có nguyên nhân là sự bỏn xẻn về trú xứ v.v…, không phát sinh. Theo cách này: cần phải hiểu rằng, qua đó, việc đề cập đến các học giới về việc thanh lọc từ ngữ v.v… đã được bao gồm.

Lābhaggamahattanti cīvarādilabhitabbapaccayo lābho, tassa aggaṃ mahattaṃ paṇītatā bahubhāvo vā. Bahussutassa bhāvo bāhusaccaṃ. Ayoniso ummujjamānāti anupāyena abhinivisamānā, viparītato jānamānāti attho. Rasena rasaṃ saṃsanditvāti sabhāvena sabhāvaṃ saṃsanditvā, anuññātapaccattharaṇādīsu sukhasamphassasāmaññato upādinnaphassarasepi anavajjasaññitāya anupādinnaphassarasena upādinnaphassarasaṃ saṃsanditvā, samānabhāvaṃ upanetvāti attho. Uddhammaṃ ubbinayaṃsatthusāsanaṃ dīpentīti ‘‘tathāhaṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī’’tiādinā (pāci. 418) satthusāsanaṃ uddhammaṃ ubbinayaṃ katvā dīpenti.
Sự vĩ đại của lợi lộc: lợi lộc là các vật dụng có thể nhận được như y phục v.v…; sự cao cả, sự vĩ đại, sự quý giá, hoặc sự nhiều của nó. Trạng thái của người học rộng là sự học rộng. Đang lặn xuống một cách không hợp lý: tức là, đang bám chấp một cách không đúng phương pháp; có nghĩa là, đang biết một cách sai lầm. So sánh vị này với vị khác: tức là, so sánh bản chất này với bản chất khác; có nghĩa là, do sự tương đồng về sự tiếp xúc dễ chịu trong các tấm trải đã được cho phép v.v…, nên so sánh vị của sự tiếp xúc đã được chấp thủ với vị của sự tiếp xúc không được chấp thủ, do có ý niệm sai lầm về sự không có tội, rồi đưa chúng đến trạng thái tương đồng. Họ trình bày giáo pháp của Bậc Đạo Sư là phi pháp, phi luật: tức là, bằng các câu như “tôi hiểu chánh pháp do Đức Thế Tôn thuyết giảng là như vậy…” v.v… (pāci. 418), họ trình bày giáo pháp của Bậc Đạo Sư thành ra là phi pháp, phi luật.

Imasmiṃ attheti ‘‘nirabbudo hi, sāriputta, bhikkhusaṅgho’’ti (pārā. 21) evaṃ vuttabhikkhusaṅghasaññite atthe. Kathaṃ pana dussīlānaṃ corabhāvoti āha ‘‘te hi assamaṇāva hutvā’’tiādi. Kāḷakadhammayogāti dussīlatāsaṅkhātapāpadhammayogato. Pabhassaroti pabhassarasīlo. Sāroti vuccantīti sāsanabrahmacariyassa sārabhūtattā sīlādayo guṇā ‘‘sāro’’ti vuccanti.
Trong ý nghĩa này: tức là, trong ý nghĩa được chỉ đến bởi Tăng chúng, vốn đã được nói đến là “quả vậy, này Sāriputta, Tăng chúng không có một u nhọt nào” (pārā. 21). Nhưng làm thế nào những người theo ác giới lại là những kẻ trộm? Mới nói: “quả vậy, họ, tuy không phải là Sa-môn…” v.v… Do sự liên quan đến pháp đen tối: tức là, do sự liên quan đến pháp ác, được gọi là sự theo ác giới. Trong sạch: tức là có giới hạnh trong sạch. Được gọi là cốt tủy: tức là, do là cốt tủy của phạm hạnh trong giáo pháp, nên các đức hạnh như giới v.v… được gọi là “cốt tủy”.

Sabbaparittaguṇoti sabbehi nihīnaguṇo, appaguṇo vā. So sotāpannoti ānandattheraṃ sandhāya vadati. Sotaṃ āpannoti maggasotaṃ āpanno. Paṭipakkhadhammānaṃ anavasesato savanato pellanato soto ariyamaggoti āha ‘‘sototi ca maggassetaṃ adhivacana’’nti. Sotāpannoti tena samannāgatassa puggalassāti iminā maggasamaṅgī sotāpannoti vatvā tamevatthaṃ udāharaṇena sādhetvā idāni idhādhippetapuggalaṃ niddhāretvā dassento āha ‘‘idha panā’’tiādi. Idha āpannasaddo ‘‘phalasacchikiriyāya paṭipanno’’tiādīsu (saṃ. ni. 5.488) viya vattamānakālikoti āha ‘‘maggena phalassa nāmaṃ dinna’’nti. Maggena hi attanā sadisassa aṭṭhaṅgikassa vā sattaṅgikassa vā phalassa sototi nāmaṃ dinnaṃ, atītakālikatte pana sarasatova nāmalābho siyā. Maggakkhaṇe hi maggasotaṃ āpajjati nāma, phalakkhaṇe āpanno.
Toàn phần có các đức tính nhỏ là có các đức tính thấp kém hơn tất cả, hoặc có ít đức tính. Vị ấy là bậc Dự Lưu ấy là nói về trưởng lão Ānanda. Đã nhập vào dòng chảy là đã nhập vào dòng chảy của Thánh đạo. Do việc nghe không còn sót lại và do việc dẹp tan các pháp đối nghịch nên dòng chảy là Thánh đạo, ngài đã nói “Dòng chảy chính là tên gọi khác của Thánh đạo này.” Bằng câu “Bậc Dự Lưu là người đã thành tựu điều ấy,” sau khi nói rằng bậc Dự Lưu là người hợp thành với Thánh đạo, và sau khi làm rõ ý nghĩa ấy bằng ví dụ, bây giờ trong khi xác định và chỉ ra người được ám chỉ ở đây, ngài đã nói “Còn ở đây,” v.v… Ở đây, từ “āpanna” (đã nhập vào) có nghĩa ở thì hiện tại giống như trong các câu (saṃ. ni. 5.488) v.v…: “Là người đang thực hành để chứng ngộ quả vị,” ngài đã nói “Do Thánh đạo mà tên gọi của quả vị đã được đặt ra.” Thật vậy, do Thánh đạo mà tên gọi “dòng chảy” đã được đặt cho quả vị tương xứng với chính nó, là quả vị có tám chi phần hoặc bảy chi phần; tuy nhiên, trong trường hợp ở thì quá khứ, việc có được tên gọi sẽ chỉ từ bản chất của nó mà thôi. Thật vậy, trong sát-na của Thánh đạo thì gọi là đang nhập vào dòng chảy của Thánh đạo, trong sát-na của quả vị thì đã nhập vào.

Virūpaṃ sadukkhaṃ saupāyāsaṃ nipātetīti vinipāto, apāyadukkhe khipanako. Dhammoti sabhāvo. Tenāha ‘‘na attānaṃ apāyesu vinipātanasabhāvo’’ti. Atha vā dhammoti apāyesu khipanako sakkāyadiṭṭhiādiko akusaladhammo. Yassa pana so akusaladhammo natthi sabbaso pahīnattā, so yasmā apāyesu attānaṃ vinipātanasabhāvo na hoti, tasmā vuttaṃ ‘‘na attānaṃ apāyesu vinipātanasabhāvoti vuttaṃ hotī’’ti. Kasmāti avinipātanadhammatāya kāraṇaṃ pucchati. Apāyaṃ gamentīti apāyagamanīyā. Vinipātanasabhāvoti uppajjanasabhāvo. Sammattaniyāmena maggenāti sammā bhavaniyāmakena paṭiladdhamaggena. Niyatoti vā heṭṭhimantato sattamabhavato upari anuppajjanadhammatāya niyato. Sambodhīti uparimaggattayasaṅkhātā sambodhi. Sambujjhatīti hi sambodhi, ariyamaggo. So ca idha paṭhamamaggassa adhigatattā avasiṭṭho eva adhigantabbabhāvena icchitabboti. Tenāha ‘‘uparimaggattayaṃ avassaṃ sampāpako’’ti. Uparimaggattayaṃ avassaṃ sampāpuṇātīti sampāpako, sotāpanno.
Trạng thái làm rơi vào cảnh khổ sở, đau đớn, phiền muộn là sự đoạ lạc, là sự ném vào cảnh khổ của cõi dữ. Pháp là bản chất. Do đó, ngài đã nói “Không có bản chất làm cho tự thân bị đoạ lạc vào các cõi dữ.” Hoặc là, pháp là bất thiện pháp như thân kiến, v.v… là pháp ném vào các cõi dữ. Tuy nhiên, đối với người nào không có bất thiện pháp ấy do đã đoạn trừ hoàn toàn, vì người ấy không có bản chất làm cho tự thân bị đoạ lạc vào các cõi dữ, cho nên đã được nói rằng “Có nghĩa là được nói rằng không có bản chất làm cho tự thân bị đoạ lạc vào các cõi dữ.” “Tại sao?” là hỏi về nguyên nhân của việc có pháp không đoạ lạc. Các pháp dẫn đến cõi dữ là các pháp dẫn đến cõi dữ. Bản chất làm cho đoạ lạc là bản chất làm cho sanh khởi. “Bởi Thánh đạo thuộc định pháp chánh tà” là bởi Thánh đạo đã chứng đắc, là pháp quyết định sự tồn tại một cách đúng đắn. Hoặc đã được quyết định là đã được quyết định bởi pháp không sanh khởi trở lên sau kiếp sống thứ bảy, tính từ kiếp thấp nhất. Sự Giác Ngộ là sự giác ngộ được gọi là ba Thánh đạo cao hơn. Thật vậy, giác ngộ là sự giác ngộ, là Thánh đạo. Và điều ấy ở đây, do đã chứng đắc Thánh đạo đầu tiên, nên chỉ phần còn lại mới là điều cần được mong muốn với trạng thái cần phải chứng đắc. Do đó, ngài đã nói “Là người chắc chắn sẽ thành tựu ba Thánh đạo cao hơn.” Người chắc chắn sẽ thành tựu ba Thánh đạo cao hơn là người thành tựu, là bậc Dự Lưu.

Vinayapaññattiyācanakathā niṭṭhitā.
Phần luận về việc thỉnh cầu chế định giới luật đã kết thúc.

Buddhāciṇṇakathā
Phần Luận về Thông Lệ của Chư Phật

22.Anudhammatāti lokuttaradhammānugato dhammo. Anapaloketvāti padassa vivaraṇaṃ ‘‘anāpucchitvā’’ti. Janapadacārikaṃ pakkamantīti ettha iti-saddo gamyamānatāya na vutto, evaṃ aññatthāpi īdisesu ṭhānesu. Tattha janapadacārikanti janapadesu caraṇaṃ, caraṇaṃ vā cāro, so eva cārikā, janapadesu cārikā janapadacārikā. Taṃ pakkamanti, janapadagamanaṃ gacchantīti attho. Pakkamantiyevāti avadhāraṇena no na pakkamantīti dasseti. ‘‘Janapadacārikaṃ pakkamantī’’ti ettha ṭhatvā bhagavato cārikāpakkamanavidhiṃ dassento āha ‘‘janapadacārikaṃ carantā cā’’tiādi. Cārikā ca nāmesā (dī. ni. aṭṭha. 1.254; ma. ni. aṭṭha. 1.254) duvidhā turitacārikā ceva aturitacārikā ca. Tattha dūrepi bodhaneyyapuggalaṃ disvā tassa bodhanatthāya sahasā gamanaṃ turitacārikā nāma, sā mahākassapattherapaccuggamanādīsu daṭṭhabbā. Bhagavā hi mahākassapattheraṃ paccuggacchanto muhuttena tigāvutamagamāsi, āḷavakassatthāya tiṃsayojanaṃ, tathā aṅgulimālassa, pukkusātissa pana pañcacattālīsayojanaṃ, mahākappinassa vīsayojanasataṃ, dhaniyassatthāya sattayojanasatāni agamāsi, dhammasenāpatino saddhivihārikassa vanavāsītissasāmaṇerassa tigāvutādhikaṃ vīsayojanasataṃ agamāsi, ayaṃ turitacārikā. Yaṃ pana gāmanigamanagarapaṭipāṭiyā devasikaṃ yojanaaḍḍhayojanavasena piṇḍapātacariyādīhi lokaṃ anuggaṇhantassa gamanaṃ, ayaṃ aturitacārikā nāma. Imaṃ pana cārikaṃ caranto bhagavā mahāmaṇḍalaṃ majjhimamaṇḍalaṃ antimamaṇḍalanti imesaṃ tiṇṇaṃ maṇḍalānaṃ aññatarasmiṃ carati. Tattha ‘‘janapadacārika’’nti vuttattā aturitacārikāva idhādhippetā. Tameva vibhajitvā dassento āha ‘‘mahāmaṇḍalaṃ majjhimamaṇḍala’’ntiādi.
22.Pháp tùy thuận là pháp đi theo các pháp siêu thế. Sự giải thích cho từ chưa cho hay“chưa hỏi ý kiến.” Ở trong câu “ra đi du hành trong xứ,” từ “iti” (như thế) đã không được nói ra do được hiểu ngầm, tương tự như vậy ở những chỗ khác trong các trường hợp tương tự. Ở đây, sự du hành trong xứ là việc đi trong các xứ; hoặc việc đi là sự du hành, chính sự du hành ấy là cuộc du hành; cuộc du hành trong các xứ là sự du hành trong xứ. Các ngài ra đi du hành nơi ấy, có nghĩa là các ngài đi đến các xứ. Bằng sự nhấn mạnh trong câu “chắc chắn ra đi du hành,” ngài chỉ ra rằng không phải là các ngài không ra đi. Dựa vào câu “ra đi du hành trong xứ,” trong khi chỉ ra phương cách ra đi du hành của đức Thế Tôn, ngài đã nói: “Và trong khi du hành trong xứ,” v.v… Và cuộc du hành này (dī. ni. aṭṭha. 1.254; ma. ni. aṭṭha. 1.254) có hai loại: cuộc du hành nhanh và cuộc du hành không nhanh. Trong đó, việc thấy một người cần được tế độ dù ở xa và đi đến ngay lập tức với mục đích tế độ người ấy được gọi là cuộc du hành nhanh, điều này nên được thấy trong các trường hợp đi đón trưởng lão Mahākassapa, v.v… Thật vậy, đức Thế Tôn trong khi đi đón trưởng lão Mahākassapa đã đi ba gāvuta trong một khoảnh khắc; vì lợi ích của Āḷavaka, ngài đã đi ba mươi do-tuần, tương tự vì lợi ích của Aṅgulimāla; còn vì lợi ích của Pukkusāti, ngài đã đi bốn mươi lăm do-tuần; vì lợi ích của Mahākappina, ngài đã đi một trăm hai mươi do-tuần; vì lợi ích của Dhaniya, ngài đã đi bảy trăm do-tuần; vì lợi ích của sa-di Vanavāsītissa, vị đệ tử cùng trú của vị Tướng quân Chánh pháp, ngài đã đi một trăm hai mươi do-tuần và hơn ba gāvuta. Đây là cuộc du hành nhanh. Còn việc đi của ngài, là người tế độ thế gian bằng việc khất thực, v.v… theo phương cách một do-tuần hoặc nửa do-tuần mỗi ngày, theo thứ tự của các làng, thị tứ, và thành phố, đây được gọi là cuộc du hành không nhanh. Và trong khi thực hiện cuộc du hành này, đức Thế Tôn du hành trong một trong ba khu vực này: khu vực lớn, khu vực trung, và khu vực cuối cùng. Ở đây, do đã được nói là “du hành trong xứ,” nên cuộc du hành không nhanh được ám chỉ ở đây. Trong khi phân chia và chỉ ra chính điều ấy, ngài đã nói: “Khu vực lớn, khu vực trung,” v.v…

Tattha antimamaṇḍalanti khuddakamaṇḍalaṃ, itaresaṃ vā maṇḍalānaṃ antogadhattā antimamaṇḍalaṃ, abbhantarimamaṇḍalanti vuttaṃ hoti. Imesaṃ pana maṇḍalānaṃ kiṃ pamāṇanti āha ‘‘tattha mahāmaṇḍalaṃ navayojanasatika’’ntiādi. Navayojanasatikampi ṭhānaṃ majjhimadesapariyāpannameva, tato paraṃ nādhippetaṃ turitacārikāvasena agamanato. Yasmā nikkhantakālato paṭṭhāya gatagataṭṭhānassa catūsu passesu samantato yojanasataṃ ekakolāhalaṃ hoti, purimaṃ purimaṃ āgatā nimantetuṃ labhanti, itaresu dvīsu maṇḍalesu sakkāro mahāmaṇḍalaṃ osarati, tattha buddhā bhagavanto tesu tesu gāmanigamesu ekāhaṃ dvīhaṃ vasantā mahājanaṃ āmisapaṭiggahena anuggaṇhanti, dhammadānena ca vivaṭṭūpanissitaṃ kusalaṃ vaḍḍhenti, tasmā vuttaṃ ‘‘gāmanigamādīsu mahājanaṃ āmisapaṭiggahena anuggaṇhantā’’tiādi. Samathavipassanā taruṇā hontīti ettha taruṇā vipassanāti saṅkhāraparicchedane ñāṇaṃ kaṅkhāvitaraṇe ñāṇaṃ sammasane ñāṇaṃ maggāmagge ñāṇanti catunnaṃ ñāṇānaṃ adhivacanaṃ. Samathassa taruṇabhāvo pana upacārasamādhivasena veditabbo. ‘‘Sace pana antovasse bhikkhūnaṃ samathavipassanā taruṇā hontī’’ti idaṃ nidassanamattanti daṭṭhabbaṃ. Aññenapi majjhimamaṇḍale veneyyānaṃ ñāṇaparipākādikāraṇena majjhimamaṇḍale cārikaṃ caritukāmā cātumāsaṃ vasitvāva nikkhamanti.
Trong đó, khu vực cuối cùng là khu vực nhỏ; hoặc do nằm bên trong các khu vực khác nên là khu vực cuối cùng, có nghĩa là được gọi là khu vực bên trong. Về kích thước của các khu vực này, ngài đã nói: “Trong đó, khu vực lớn là chín trăm do-tuần,” v.v… Nơi chốn chín trăm do-tuần cũng chính là nơi thuộc về xứ trung tâm, nơi xa hơn không được ám chỉ vì ngài không đi đến theo cách du hành nhanh. Bởi vì kể từ lúc xuất gia, nơi chốn đã đi qua trong bốn phía xung quanh một trăm do-tuần trở thành một vùng xôn xao, những người đến trước và trước nữa có cơ hội thỉnh mời, sự cúng dường ở hai khu vực kia đều đổ dồn về khu vực lớn, ở đó, chư Phật Thế Tôn trong khi trú ngụ một ngày, hai ngày ở các làng và thị tứ ấy, các ngài tế độ đại chúng bằng việc nhận vật thực, và bằng pháp thí, các ngài làm tăng trưởng thiện pháp có khả năng đưa đến giải thoát. Do đó, đã được nói: “trong khi tế độ đại chúng ở các làng, thị tứ, v.v… bằng việc nhận vật thực,” v.v… Trong câu “sự chỉ và quán còn non yếu,” ở đây, quán còn non yếu là tên gọi khác của bốn loại trí tuệ: trí tuệ trong việc phân định các pháp hữu vi, trí tuệ trong việc vượt qua hoài nghi, trí tuệ trong việc thẩm sát, và trí tuệ về đạo và phi đạo. Còn trạng thái non yếu của sự chỉ nên được hiểu theo cách của cận định. Nên thấy rằng câu: “Tuy nhiên, nếu trong mùa mưa, sự chỉ và quán của các vị Tỳ-khưu còn non yếu” này chỉ là một ví dụ. Do một nguyên nhân khác là sự thuần thục về trí tuệ, v.v… của những chúng sanh cần được tế độ ở khu vực trung, khi muốn du hành ở khu vực trung, các ngài chỉ ở lại bốn tháng rồi ra đi.

Pavāraṇāsaṅgahaṃ datvāti anumatidānavasena datvā. Māgasirassa paṭhamadivaseti māgasiramāsassa paṭhamadivase. Idañcetarahi pavattavohāravasena kattikamāsassa aparapakkhapāṭipadadivasaṃ sandhāya vuttaṃ. Tesanti tesaṃ buddhānaṃ. Tehi vinetabbattā ‘‘tesaṃ vineyyasattā’’ti vuttaṃ. Vineyyasattāti ca cārikāya vinetabbasattā. Māgasiramāsampi tattheva vasitvā phussamāsassa paṭhamadivaseti idampi nidassanamattanti daṭṭhabbaṃ. Catumāsavutthānampi buddhānaṃ vineyyasattā aparipakkindriyā honti, tesaṃ indriyaparipākaṃ āgamayamānā aparampi ekamāsaṃ vā dviticatumāsaṃ vā tatthevavasitvā mahābhikkhusaṅghaparivārā nikkhamitvā purimanayeneva lokaṃ anuggaṇhantā sattahi vā chahi vā pañcahi vā catūhi vā māsehi cārikaṃ pariyosāpenti. Veneyyavasenevāti avadhāraṇena na cīvarādihetu carantīti dasseti. Tathā hi imesu tīsu maṇḍalesu yattha katthaci cārikaṃ carantā na cīvarādihetu caranti, atha kho ye duggatabālajiṇṇabyādhikā, te ‘‘kadā tathāgataṃ āgantvā passissanti, mayi pana cārikaṃ carante mahājano tathāgatadassanaṃ labhissati, tattha keci cittāni pasādessanti, keci mālādīhi pūjessanti, keci kaṭacchubhikkhaṃ dassanti, keci micchādassanaṃ pahāya sammādiṭṭhikā bhavissanti, taṃ nesaṃ bhavissati dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti evaṃ lokānukampāya cārikaṃ caranti.
Sau khi đã ban sự chấp thuận Tự tứ là sau khi đã ban theo cách cho phép. Vào ngày đầu tiên của tháng Māgasira là vào ngày đầu tiên của tháng Māgasira. Và điều này được nói liên quan đến ngày đầu tiên của hạ huyền tháng Kattika theo cách dùng từ hiện hành. Của các vị ấy là của các đức Phật ấy. Do cần được các vị ấy giáo hóa nên đã được nói là “chúng sanh cần được tế độ của các vị ấy.” Và chúng sanh cần được tế độ là những chúng sanh cần được giáo hóa bằng cuộc du hành. Và câu “sau khi đã ở lại chính nơi ấy luôn cả tháng Māgasira rồi ra đi vào ngày đầu tiên của tháng Phussa” này cũng nên được thấy chỉ là một ví dụ. Ngay cả sau khi đã ở lại bốn tháng, các chúng sanh cần được tế độ của chư Phật vẫn có các căn chưa thuần thục, trong khi chờ đợi các căn của họ thuần thục, các ngài ở lại chính nơi ấy thêm một tháng hoặc hai, ba, bốn tháng nữa rồi ra đi với đoàn đại Tỳ-khưu Tăng vây quanh, tế độ thế gian theo phương cách đã nêu trước và kết thúc cuộc du hành trong vòng bảy, hoặc sáu, hoặc năm, hoặc bốn tháng. Bằng sự nhấn mạnh “chỉ vì tùy thuộc vào chúng sanh cần được tế độ,” ngài chỉ ra rằng các ngài không du hành vì lý do y phục, v.v… Thật vậy, trong khi du hành ở bất cứ nơi nào trong ba khu vực này, các ngài không du hành vì lý do y phục, v.v… mà là, những người khốn khổ, ngu dốt, già cả, bệnh tật kia, “khi nào họ mới đến và thấy được Như Lai, còn khi ta đang du hành thì đại chúng sẽ có được cơ hội diện kiến Như Lai, ở đó một số người sẽ làm cho tâm tịnh tín, một số sẽ cúng dường bằng vòng hoa, v.v…, một số sẽ dâng cúng một vá cơm, một số sẽ từ bỏ tà kiến và trở thành người có chánh kiến, điều ấy sẽ đem lại lợi ích và an lạc lâu dài cho họ,” như vậy các ngài du hành vì lòng bi mẫn đối với thế gian.

Apica catūhi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti jaṅghavihāravasena sarīraphāsukatthāya, aṭṭhuppattikālābhikaṅkhanatthāya, bhikkhūnaṃ sikkhāpadapaññāpanatthāya, tattha tattha paripākagatindriye bodhaneyyasatte bodhanatthāyāti. Aparehipi catūhi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti buddhaṃ saraṇaṃ gacchissantīti vā, dhammaṃ, saṅghaṃ saraṇaṃ gacchissantīti vā, mahatā dhammavassena catasso parisā santappessāmāti vā. Aparehipi pañcahi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti pāṇātipātā viramissantīti vā, adinnādānā, kāmesumicchācārā, musāvādā, surāmerayamajjapamādaṭṭhānā viramissantīti vā. Aparehipi aṭṭhahi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti paṭhamaṃ jhānaṃ paṭilabhissantīti vā, dutiyaṃ…pe… nevasaññānāsaññāyatanasamāpattiṃ paṭilabhissantīti vā. Aparehipi aṭṭhahi kāraṇehi buddhā bhagavanto cārikaṃ caranti sotāpattimaggaṃ adhigamissantīti vā, sotāpattiphalaṃ…pe… arahattaphalaṃ sacchikarissantīti vāti.
Hơn nữa, chư Phật Thế Tôn du hành vì bốn lý do: theo cách đi bộ để thân thể được an lạc, với mục đích mong chờ thời điểm phát sanh sự việc, với mục đích chế định các học giới cho các Tỳ-khưu, và với mục đích tế độ các chúng sanh cần được tế độ có các căn đã đạt đến sự thuần thục ở các nơi ấy. Chư Phật Thế Tôn cũng du hành vì bốn lý do khác: (với ý nghĩ rằng) “họ sẽ quy y Phật,” hoặc “họ sẽ quy y Pháp, quy y Tăng,” hoặc “ta sẽ làm cho bốn chúng được thỏa mãn với cơn mưa pháp vĩ đại.” Chư Phật Thế Tôn cũng du hành vì năm lý do khác: (với ý nghĩ rằng) “họ sẽ từ bỏ việc sát sanh,” hoặc “họ sẽ từ bỏ việc lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói dối, và sử dụng các chất say là rượu men, rượu nấu, là cơ sở của sự dễ duôi.” Chư Phật Thế Tôn cũng du hành vì tám lý do khác: (với ý nghĩ rằng) “họ sẽ chứng đắc Sơ thiền,” hoặc “họ sẽ chứng đắc Đệ nhị thiền … vân vân … họ sẽ chứng đắc Nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ.” Chư Phật Thế Tôn cũng du hành vì tám lý do khác: (với ý nghĩ rằng) “họ sẽ chứng ngộ đạo Dự lưu,” hoặc “họ sẽ chứng ngộ quả Dự lưu … vân vân … họ sẽ chứng ngộ quả A-la-hán.”

Pupphāni ocinantā viya carantīti iminā yathā mālākāro bahuṃ pupphagacchaṃ disvā tattha cirampi ṭhatvā pupphāni ocinitvā pupphasuññaṃ gacchaṃ disvā tattha papañcaṃ akatvā taṃ pahāya aññattha gantvā pupphāni ocinanto vicarati, evameva buddhāpi yattha gāmanigamādīsu vineyyasattā bahū honti, tattha cirampi vasantā te vinetvā vineyyasuññagāmādīsu papañcaṃ akatvā taṃ pahāya aññattha bahuvineyyakesu gāmādīsu vasantā vicarantīti dasseti. Tatoyeva ca atikhuddakepi antimamaṇḍale upanissayavantānaṃ bahubhāvato tāva bahumpi kālaṃ sattamāsapariyantaṃ cārikaṃ caranti.
Bằng câu “Các ngài du hành như những người đang hái hoa,” ngài chỉ ra rằng giống như người làm tràng hoa khi thấy một bụi hoa có nhiều hoa thì ở lại đó một thời gian dài, hái hoa, rồi khi thấy bụi hoa đã hết hoa thì không nấn ná ở đó mà từ bỏ nó, đi đến nơi khác và tiếp tục hái hoa, cũng vậy, chư Phật ở nơi làng mạc, thị tứ, v.v… nào có nhiều chúng sanh cần được tế độ, các ngài ở lại đó một thời gian dài, giáo hóa họ, rồi ở những làng mạc, v.v… không còn chúng sanh cần được tế độ, các ngài không nấn ná mà từ bỏ nơi đó, đi đến và trú ngụ ở những làng mạc, v.v… khác có nhiều chúng sanh cần được tế độ. Và chính vì lý do đó mà ngay cả ở khu vực cuối cùng rất nhỏ, do có nhiều người có duyên lành, các ngài du hành trong một thời gian dài đến như vậy, cho đến bảy tháng.

Santasabhāvattā kilesasamaṇahetutāya vā santaṃ nibbānaṃ, sukhakāraṇatāya ca sukhanti āha ‘‘santaṃ sukhaṃ nibbānamārammaṇaṃ katvā’’ti. Dasasahassacakkavāḷeti jātikkhettabhūtāya dasasahassilokadhātuyā. Idañca devabrahmānaṃ vasena vuttaṃ, manussā pana imasmiṃyeva cakkavāḷe bodhaneyyā honti. Bodhaneyyasattasamavalokananti paṭhamaṃ mahākaruṇāya pharitvā pacchā sabbaññutaññāṇajālaṃ pattharitvā tassa anto paviṭṭhānaṃ bodhaneyyasattānaṃ samolokanaṃ. Buddhā kira mahākaruṇāsamāpattiṃ samāpajjitvā tato vuṭṭhāya ‘‘ye sattā bhabbā paripākañāṇā ajjayeva mayā vinetabbā, te mayhaṃ ñāṇassa upaṭṭhahantū’’ti cittaṃ adhiṭṭhāya samannāharanti. Tesaṃ saha samannāhārā eko vā dve vā bahū vā tadā vinayūpagā veneyyā sabbaññutaññāṇassa āpāthamāgacchanti, ayamettha buddhānubhāvo. Evaṃ āpāthamāgatānaṃ pana nesaṃ upanissayaṃ pubbacariyaṃ pubbahetuṃ sampativattamānañca paṭipattiṃ olokenti. Veneyyasattapariggaṇhanatthañhi samannāhāre kate paṭhamaṃ nesaṃ veneyyabhāveneva upaṭṭhānaṃ hoti. Atha ‘‘kiṃ nu kho bhavissatī’’ti saraṇagamanādivasena kañci nipphattiṃ vīmaṃsamānā pubbupanissayāni olokenti.
Do có bản chất an tịnh hoặc do là nguyên nhân làm cho các phiền não lắng dịu nên Niết-bàn là an tịnh, và do là nguyên nhân của sự an lạc nên là an lạc, ngài đã nói: “lấy Niết-bàn là sự an tịnh và an lạc làm đối tượng.” Trong mười ngàn thế giới là trong mười ngàn thế giới hệ là nơi sanh của ngài. Và điều này được nói theo phương diện của chư thiên và phạm thiên, còn loài người thì chỉ ở trong thế giới này là những chúng sanh cần được tế độ. Việc quan sát các chúng sanh cần được tế độ là trước hết, sau khi đã lan tỏa bằng lòng đại bi, sau đó giăng mạng lưới toàn tri và quan sát các chúng sanh cần được tế độ đã lọt vào bên trong mạng lưới ấy. Được biết, chư Phật sau khi nhập định đại bi, xuất khỏi định và quyết tâm rằng: “Những chúng sanh nào có khả năng, có trí tuệ thuần thục, cần được ta giáo hóa ngay trong ngày hôm nay, mong rằng họ hãy hiện ra trong trí tuệ của ta,” các ngài tác ý. Cùng với sự tác ý của các ngài, một, hoặc hai, hoặc nhiều chúng sanh cần được giáo hóa vào lúc đó, những người sẽ tiếp thu sự giáo huấn, liền hiện ra trong tầm hiểu biết của trí toàn tri, đây là uy lực của chư Phật ở đây. Và đối với những vị đã hiện ra như vậy, các ngài xem xét duyên lành, sự tu tập trong quá khứ, nhân trong quá khứ, và sự thực hành hiện tại của họ. Thật vậy, khi đã tác ý để thâu nhận chúng sanh cần được tế độ, trước hết họ hiện ra chính với tư cách là chúng sanh cần được tế độ. Sau đó, trong khi xem xét sự thành tựu nào đó theo cách quy y, v.v… (với ý nghĩ rằng): “Việc gì sẽ xảy ra đây?,” các ngài xem xét các duyên lành trong quá khứ.

Otiṇṇeti ārocite, parisamajjhaṃ vā otiṇṇe. Dvikkhattunti ekasmiṃ saṃvacchare dvikkhattuṃ. Buddhakāle kira ekekasmiṃ saṃvacchare dve vāre bhikkhū sannipatanti upakaṭṭhavassūpanāyikakāle ca pavāraṇākāle ca. Upakaṭṭhāya vassūpanāyikāya dasapi vīsampi tiṃsampi cattālīsampi paññāsampi bhikkhū vaggavaggā hutvā kammaṭṭhānatthāya āgacchanti. Bhagavā tehi saddhiṃ sammoditvā ‘‘kasmā, bhikkhave, upakaṭṭhāya vassūpanāyikāya vicarathā’’ti pucchati. Atha te ‘‘bhagavā kammaṭṭhānatthaṃ āgatamha, kammaṭṭhānaṃ no dethā’’ti yācanti. Satthā tesaṃ cariyavasena rāgacaritassa asubhakammaṭṭhānaṃ deti, dosacaritassa mettākammaṭṭhānaṃ, mohacaritassa ‘‘uddeso paripucchā kālena dhammassavanaṃ kālena dhammasākacchā idaṃ tuyhaṃ sappāya’’nti ācikkhati. Kiñcāpi hi mohacaritassa ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ sappāyaṃ, kammaṭṭhānabhāvanāya pana bhājanabhūtaṃ kātuṃ sammohavigamāya paṭhamaṃ uddesaparipucchādhammassavanadhammasākacchāsu niyojeti. Vitakkacaritassa ānāpānassatikammaṭṭhānaṃ deti. Saddhācaritassa visesato purimā cha anussatiyo sappāyā, tāsaṃ pana anuyuñjane ayaṃ pubbabhāgapaṭipattīti dassetuṃ pasādanīyasuttantena buddhasubodhitaṃ dhammasudhammataṃ saṅghasuppaṭipattiñca pakāseti. Ñāṇacaritassa pana maraṇassati upasamānussati catudhātuvavatthānaṃ āhārepaṭikūlasaññā visesato sappāyā, tesaṃ upakāradhammadassanatthaṃ aniccatādipaṭisaṃyutte gambhīre suttante katheti. Te kammaṭṭhānaṃ gahetvā sace sappāyaṃ hoti, satthu santike eva vasanti. No ce hoti, sappāyaṃ senāsanaṃ pucchantā gacchanti. Tepi tattha vasantā temāsikaṃ paṭipadaṃ gahetvā ghaṭentā vāyamantā sotāpannāpi honti sakadāgāminopi anāgāminopi arahantopi. Tato vutthavassā pavāretvā satthu santikaṃ gantvā ‘‘bhagavā ahaṃ tumhākaṃ santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā sotāpattiphalaṃ patto…pe… ahaṃ aggaphalaṃ arahatta’’nti paṭiladdhaguṇaṃ ārocenti, upari anadhigatassa adhigamāya kammaṭṭhānañca yācanti. Tena vuttaṃ ‘‘pure vassūpanāyikāya ca kammaṭṭhānaggahaṇatthaṃ…pe… upari kammaṭṭhānaggahaṇatthañcā’’ti.
Khi đã được trình bày là khi đã được báo cáo, hoặc khi đã đi vào giữa hội chúng. Hai lần là hai lần trong một năm. Được biết, vào thời đức Phật, trong mỗi một năm, các vị Tỳ-khưu tập trung lại hai lần: vào thời điểm gần an cư mùa mưa và vào thời điểm Tự tứ. Vào lúc gần an cư mùa mưa, mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, hoặc năm mươi vị Tỳ-khưu, hợp thành từng nhóm, đến để xin đề mục thiền định. Đức Thế Tôn sau khi thăm hỏi họ, ngài hỏi: “Này các Tỳ-khưu, tại sao các con lại đi lại vào lúc gần an cư mùa mưa?” Khi ấy, họ thỉnh cầu: “Bạch Thế Tôn, chúng con đến để xin đề mục thiền định, xin ngài hãy ban cho chúng con đề mục thiền định.” Đấng Đạo Sư ban cho người có tham ái làm tánh hạnh đề mục thiền định về sự bất tịnh, cho người có sân hận làm tánh hạnh đề mục thiền định về lòng từ, đối với người có si mê làm tánh hạnh, ngài chỉ dạy: “Việc học thuộc lòng, việc hỏi han, việc nghe pháp đúng thời, việc thảo luận pháp đúng thời, điều này là thích hợp với con.” Và mặc dù đề mục thiền định về hơi thở vô hơi thở ra là thích hợp với người có si mê làm tánh hạnh, nhưng để làm cho người ấy trở thành người có khả năng tu tập đề mục thiền định, trước hết ngài giao phó cho họ việc học thuộc lòng, hỏi han, nghe pháp và thảo luận pháp để xua tan si mê. Ngài ban đề mục thiền định về hơi thở vô hơi thở ra cho người có tầm cầu làm tánh hạnh. Đối với người có đức tin làm tánh hạnh, sáu phép tùy niệm đầu tiên là đặc biệt thích hợp, và để chỉ ra rằng đây là sự thực hành giai đoạn đầu trong việc chuyên tâm vào các phép ấy, ngài tuyên thuyết về sự giác ngộ hoàn hảo của đức Phật, về tính chất tốt đẹp của Giáo pháp, và về sự thực hành tốt đẹp của Tăng chúng qua một bài kinh gây tịnh tín. Còn đối với người có trí tuệ làm tánh hạnh, phép niệm về sự chết, phép niệm về sự an tịnh, phép phân tích bốn đại, và tưởng về sự ghê tởm trong vật thực là đặc biệt thích hợp, và để chỉ ra các pháp hỗ trợ cho các phép ấy, ngài thuyết những bài kinh sâu sắc liên quan đến vô thường, v.v… Sau khi đã nhận đề mục thiền định, nếu thấy thích hợp, họ ở lại ngay tại nơi của Đấng Đạo Sư. Nếu không thích hợp, họ hỏi và đi đến một trú xứ thích hợp. Các vị ấy, trong khi ở đó, sau khi đã thực hành pháp hành trong ba tháng, nỗ lực, cố gắng, có vị trở thành bậc Dự Lưu, có vị trở thành bậc Nhất Lai, có vị trở thành bậc Bất Lai, có vị trở thành bậc A-la-hán. Sau đó, sau khi đã mãn mùa an cư, họ làm lễ Tự tứ rồi đi đến nơi của Đấng Đạo Sư, trình bày thành quả đã chứng đắc: “Bạch Thế Tôn, con sau khi đã nhận đề mục thiền định từ nơi ngài đã chứng đắc quả Dự lưu … vân vân … con đã chứng đắc quả vị cao nhất là A-la-hán,” và họ cũng xin đề mục thiền định để chứng đắc quả vị cao hơn chưa chứng đắc. Do đó, đã được nói: “trước mùa an cư để nhận đề mục thiền định … vân vân … và để nhận đề mục thiền định cao hơn.”

Āyāmāti ettha ā-saddo ‘‘āgacchā’’ti iminā samānatthoti āha ‘‘āyāmāti āgaccha yāmā’’ti, ehi gacchāmāti attho. Ānandāti bhagavā santikāvacarattā theraṃ ālapati, na pana tadā satthu santike vasantānaṃ bhikkhūnaṃ abhāvato. Pañcasataparimāṇo hi tadā bhagavato santike bhikkhusaṅgho. Thero pana ‘‘gaṇhathāvuso pattacīvarāni, bhagavā asukaṭṭhānaṃ gantukāmo’’ti bhikkhūnaṃ āroceti. ‘‘Atha kho bhagavā āyasmantaṃ ānandaṃ āmantesī’’ti vuttattā ‘‘bhagavato paccassosī’’ti idha bhagavatoti sāmivacanaṃ āmantanavacanameva sambandhīantaraṃ apekkhatīti iminā adhippāyena ‘‘bhagavato vacanaṃ paṭiassosī’’ti vuttaṃ. Bhagavatoti pana idaṃ patissavasambandhena sampadānavacanaṃ yathā ‘‘devadattassa paṭissuṇotī’’ti. Paccassosīti ettha paṭi-saddo abhimukhavacanoti āha ‘‘abhimukho hutvā suṇī’’ti. Bhagavato mukhābhimukho hutvā adhivāsetvā suṇi, na udāsino hutvāti adhippāyo.
Trong từ “Āyāmā,” về điều này, ngài đã nói rằng tiếng “ā” có cùng ý nghĩa với từ “āgaccha” (hãy lại đây) nên là: “Āyāma là chúng ta hãy lại đây, chúng ta hãy đi,” có nghĩa là “hãy đến, chúng ta hãy đi.” Này Ānanda, đức Thế Tôn gọi vị trưởng lão như vậy do ngài là thị giả ở gần, chứ không phải do không có các vị Tỳ-khưu khác đang ở gần Đấng Đạo Sư vào lúc ấy. Thật vậy, vào lúc đó, Tỳ-khưu Tăng ở gần đức Thế Tôn có số lượng khoảng năm trăm vị. Tuy nhiên, vị trưởng lão đã thông báo cho các vị Tỳ-khưu rằng: “Thưa chư hiền, hãy lấy y bát, đức Thế Tôn muốn đi đến địa điểm kia.” Do đã được nói: “Khi ấy, đức Thế Tôn gọi tôn giả Ānanda,” nên trong câu “đã vâng lời đức Thế Tôn,” ở đây, từ “của đức Thế Tôn” là sở hữu cách, (nhưng) chính lời gọi mới đòi hỏi một mối liên hệ khác, với ý định này nên đã được nói là: “đã vâng theo lời của đức Thế Tôn.” Tuy nhiên, từ “đối với đức Thế Tôn” này là chỉ định cách do có liên quan đến sự vâng lời, giống như trong câu “vâng lời Devadatta.” Trong từ “đã vâng lời,” về điều này, ngài đã nói rằng tiếng “paṭi” có nghĩa là đối diện: “đã lắng nghe trong khi hướng về phía trước.” Có ý định là đã lắng nghe sau khi chấp thuận, trong khi hướng mặt về phía đức Thế Tôn, chứ không phải là người thờ ơ.

Tassa pāṭihāriyassa āgantukavasena katattā vuttaṃ ‘‘nagaradvārato paṭṭhāyā’’ti. Suvaṇṇarasapiñjarāhi rasmīhīti ettha rasa-saddo udakapariyāyo, piñjara-saddo hemavaṇṇapariyāyo, tasmā suvaṇṇajaladhārā viya suvaṇṇavaṇṇāhi rasmīhīti attho. Samujjotayamānoti obhāsayamāno. Assāti verañjassa brāhmaṇassa. Bhagavantaṃ upanisīditukāmoti bhagavantaṃ upagantvā nisīditukāmo, bhagavato samīpe nisīditukāmoti vuttaṃ hoti.
Do phép lạ ấy được thực hiện như một sự viếng thăm nên đã được nói: “kể từ cổng thành.” Trong câu “với những tia sáng màu vàng như vàng ròng,” ở đây, từ “rasa” là từ đồng nghĩa với nước, từ “piñjara” là từ đồng nghĩa với màu vàng; do đó, có nghĩa là với những tia sáng có màu vàng giống như những dòng nước vàng. Trong khi đang tỏa sáng rực rỡ là trong khi đang chiếu sáng. Của ông ấy là của vị Bà-la-môn Verañja. Muốn ngồi xuống gần đức Thế Tôn là muốn đi đến gần đức Thế Tôn và ngồi xuống, có nghĩa là được nói là muốn ngồi xuống ở gần đức Thế Tôn.

Brāhmaṇa tayā nimantitā vassaṃvutthā amhāti pāḷiyaṃ sambandho veditabbo. Dātabbo assāti dātabbo bhaveyya. No asantoti neva avijjamāno, kintu vijjamānoyevāti dīpeti. Vinā vā liṅgavipallāsenettha attho daṭṭhabboti āha ‘‘atha vā’’tiādi. Iminā sāmaññavacanato ettha napuṃsakaliṅganiddesoti dasseti. No natthīti no amhākaṃ natthi. Noti vā etassa vivaraṇaṃ natthīti. Kesaṃ adātukāmatā viyāti āha ‘‘yathā’’tiādi. Pahūtavittūpakaraṇānanti ettha vittīti tuṭṭhi, vittiyā upakaraṇaṃ vittūpakaraṇaṃ, tuṭṭhikāraṇanti attho. Pahūtaṃ dhanadhaññajātarūparajatanānāvidhālaṅkārasuvaṇṇabhājanādibhedaṃ vittūpakaraṇametesanti pahūtavittūpakaraṇā, tesaṃ pahūtavittūpakaraṇānaṃ maccharīnaṃ yathā adātukāmatā, evaṃ no adātukāmatāpi natthīti sambandho. Taṃ kutettha labbhāti ettha tanti taṃ kāraṇaṃ, taṃ kiccaṃ vā. Etthāti gharāvāse. Dutiye pana atthavikappe tanti deyyadhammassa parāmasanaṃ. Etthāti imasmiṃ temāsabbhantareti attho. Yanti yena kāraṇena, kiriyāparāmasanaṃ vā. Dutiye pana atthavikappe yanti yaṃ deyyadhammanti attho.
Trong câu Pāḷi, nên hiểu mối liên hệ là: “Thưa Bà-la-môn, chúng tôi đã an cư mùa mưa do ông thỉnh mời.” Nên được ban cho ông ấy là nên được ban cho. Không phải không có là ngài chỉ ra rằng không phải là không hiện hữu, mà là chắc chắn có hiện hữu. Hoặc nên thấy ý nghĩa ở đây mà không có sự thay đổi về giống (của từ), ngài đã nói: “Hoặc là,” v.v… Bằng điều này, ngài chỉ ra rằng ở đây có sự chỉ định giống trung do là một từ chung. Chúng tôi không phải là không có là chúng tôi không có. Hoặc sự giải thích cho từ “Không phải” này là “không có.” Giống như sự không muốn cho của ai, ngài đã nói: “Giống như,” v.v… Trong câu “của những người có nhiều phương tiện tạo ra sự hoan hỷ,” ở đây, “vitti” là sự hoan hỷ; phương tiện của sự hoan hỷ là phương tiện tạo ra sự hoan hỷ, có nghĩa là nguyên nhân của sự hoan hỷ. Những người có nhiều phương tiện tạo ra sự hoan hỷ, bao gồm tài sản, lúa gạo, vàng, bạc, các loại trang sức khác nhau, đồ dùng bằng vàng, v.v…, là những người có nhiều phương tiện tạo ra sự hoan hỷ; mối liên hệ là: giống như sự không muốn cho của những người keo kiệt có nhiều phương tiện tạo ra sự hoan hỷ ấy, cũng vậy, chúng tôi cũng không có sự không muốn cho. Trong câu “Làm sao có được điều ấy ở đây?,” ở đây, “điều ấy” là nguyên nhân ấy, hoặc việc ấy. “Ở đây” là trong đời sống tại gia. Còn trong cách giải thích thứ hai, “điều ấy” là sự đề cập đến vật nên cúng dường. “Ở đây” có nghĩa là trong khoảng thời gian ba tháng này. “Điều mà” là do nguyên nhân nào, hoặc là sự đề cập đến hành động. Còn trong cách giải thích thứ hai, “điều mà” có nghĩa là vật nên cúng dường nào.

Alaṃ gharāvāsapalibodhacintāyāti saññāpetvāti brāhmaṇa netaṃ gharāvāsapalibodhena kataṃ, atha kho mārāvaṭṭanenāti brāhmaṇaṃ saññāpetvā. Taṅkhaṇānurūpāyāti yādisī tadā tassa ajjhāsayappavatti, tadanurūpāyāti attho. Tassa tadā tādisassa vivaṭṭasannissitassa ñāṇaparipākassa abhāvato kevalaṃ abbhantarasannissito eva attho dassitoti āha ‘‘diṭṭhadhammikasamparāyikaṃ atthaṃ sandassetvā’’ti, paccakkhato vibhāvetvāti attho. Kusale dhammeti tebhūmake kusale dhamme. Tatthāti kusaladhamme yathāsamādapite. Nanti brāhmaṇaṃ. Samuttejetvāti sammadeva uparūpari nivesetvā puññakiriyāya tikkhavisadabhāvaṃ āpādetvā. Taṃ pana atthato tassa ussāhajananaṃ hotīti āha ‘‘saussāhaṃ katvā’’ti. Evaṃ puññakiriyāya saussāhato evarūpaguṇasamaṅgitā ca niyamato diṭṭhadhammikādiatthasampādananti evaṃ saussāhatāya aññehi ca tasmiṃ vijjamānaguṇehi sampahaṃsetvā sammadeva haṭṭhatuṭṭhabhāvaṃ āpādetvā.
Sau khi đã làm cho hiểu rõ rằng: “Hãy dừng lại việc suy nghĩ về sự bận rộn của đời sống tại gia” là sau khi đã làm cho vị Bà-la-môn hiểu rõ rằng: “Này Bà-la-môn, điều này không phải được thực hiện do sự bận rộn của đời sống tại gia, mà là do sự cản trở của Ma vương.” Tương xứng với khoảnh khắc ấy có nghĩa là tương xứng với khuynh hướng tâm của ông ấy diễn tiến như thế nào vào lúc đó. Do vào lúc đó ông ấy không có sự thuần thục về trí tuệ như vậy, là trí tuệ gần gũi với sự giải thoát, nên chỉ có ý nghĩa gần gũi bên trong mới được chỉ ra, ngài đã nói: “sau khi đã chỉ ra lợi ích trong hiện tại và trong tương lai,” có nghĩa là sau khi đã làm cho sáng tỏ một cách trực tiếp. Trong các thiện pháp là trong các thiện pháp thuộc ba cõi. Ở đó là trong thiện pháp đã được thực hành đúng đắn. Ông ấy là vị Bà-la-môn. Sau khi đã khuyến khích là sau khi đã đặt để một cách đúng đắn lên trên và lên trên nữa, đã làm cho đạt đến trạng thái sắc bén và trong sáng đối với việc làm phước. Và điều ấy về mặt ý nghĩa trở thành sự tạo ra lòng hăng hái cho ông ấy, ngài đã nói: “sau khi đã làm cho có lòng hăng hái.” Như vậy, do có lòng hăng hái đối với việc làm phước, và do sự thành tựu các đức tính như vậy một cách chắc chắn sẽ đem lại lợi ích trong hiện tại, v.v…; như vậy, bằng lòng hăng hái và bằng các đức tính khác đang hiện hữu nơi ông ấy, sau khi đã làm cho phấn khởi là sau khi đã làm cho đạt đến trạng thái vui vẻ và hài lòng một cách đúng đắn.

Yadi bhagavā dhammaratanavassaṃ vassi, atha kasmā so visesaṃ nādhigacchi? Upanissayasampattiyā abhāvato. Yadi evaṃ kasmā bhagavā tassa tathā dhammaratanavassaṃ vassīti? Vuccate – yadipi tassa visesādhigamo natthi, āyatiṃ pana nibbānādhigamatthāya vāsanābhāgiyā ca sabbā purimapacchimadhammakathā ahosīti daṭṭhabbā. Na hi bhagavato niratthakā dhammadesanā atthi. Temāsikopi deyyadhammoti temāsaṃ dātabbopi deyyadhammo. Yaṃ divasanti yasmiṃ divase.
Nếu đức Thế Tôn đã ban cơn mưa pháp bảo, vậy tại sao ông ấy đã không chứng đắc pháp đặc biệt? Do không có sự đầy đủ về duyên lành. Nếu vậy, tại sao đức Thế Tôn đã ban cơn mưa pháp bảo cho ông ấy như thế? Xin thưa rằng – mặc dù ông ấy không có sự chứng đắc đặc biệt, nhưng nên thấy rằng toàn bộ bài pháp thoại trước và sau đã trở thành phần tạo ra mầm mống cho sự chứng đắc Niết-bàn trong tương lai. Thật vậy, không có bài thuyết pháp nào của đức Thế Tôn là vô ích. Vật nên cúng dường trong ba tháng là vật nên cúng dường trong suốt ba tháng. Vào ngày nào là trong ngày nào.

23.Buddhapariṇāyakanti buddho pariṇāyako etassāti buddhapariṇāyako, bhikkhusaṅgho. Taṃ buddhapariṇāyakaṃ, buddhajeṭṭhakanti attho. Yāvadatthaṃ katvāti yāva attho, tāva bhojanena tadā katanti adhippāyo. Dātuṃ upanītabhikkhāya paṭikkhepo nāma hatthasaññāya mukhavikārena vacībhedena vā hotīti āha ‘‘hatthasaññāyā’’tiādi. Onītapattapāṇinti ettha onīto pattato pāṇi etassāti onītapattapāṇīti bhinnādhikaraṇavisayoyaṃ saddo bāhiratthasamāsoti āha ‘‘pattato onītapāṇi’’ntiādi. ‘‘Onittapattapāṇi’’ntipi pāṭho, tassattho onittaṃ nānābhūtaṃ vinābhūtaṃ āmisāpanayanena vā sucikataṃ pattaṃ pāṇito assāti onittapattapāṇi , taṃ onittapattapāṇiṃ, hatthe ca pattañca dhovitvā ekamante pattaṃ nikkhipitvā nisinnanti attho. Pattuṇṇapaṭṭapaṭe cāti pattuṇṇapaṭe ca paṭṭapaṭe ca. Tattha pattuṇṇapadese bhavā pattuṇṇā, kosiyavisesātipi vadanti. Paṭṭāni pana cīnapaṭāni. Āyogādīsu āyogoti paṭiāyogo, aṃsabaddhakaṃ pattatthavikādīsu. Bhesajjatelānanti bhesajjasampākena sādhitatelānaṃ. Tumbānīti cammamayatelabhājanāni. Ekamekassa bhikkhuno sahassagghanakaṃ telamadāsīti sambandho.
23.Có đức Phật là vị lãnh đạo là vị có đức Phật là người lãnh đạo, đó là Tỳ-khưu Tăng. (Cúng dường) đến vị có đức Phật là vị lãnh đạo, có nghĩa là có đức Phật là bậc trưởng thượng. Đã làm cho vừa đủ có ý định là vào lúc đó, đã làm cho vừa đủ với thức ăn cho đến khi cần thiết. Sự từ chối đối với vật thực đã được mang đến để cúng dường được thực hiện bằng dấu hiệu của tay, bằng sự thay đổi sắc mặt, hoặc bằng lời nói, ngài đã nói: “bằng dấu hiệu của tay,” v.v… Trong câu “người có tay đã được lấy ra khỏi bát,” ở đây, người có tay đã được lấy ra khỏi bát là người có tay đã được lấy ra khỏi bát, từ này là một từ ghép có ý nghĩa bên ngoài, thuộc về trường hợp dị sở y, ngài đã nói: “người có tay đã được lấy ra khỏi bát,” v.v… Cũng có bài đọc là “onittapattapāṇiṃ,” ý nghĩa của nó là người có bát đã được làm cho khác đi, đã được làm cho tách rời khỏi tay, hoặc đã được làm cho sạch sẽ bằng cách lấy vật thực ra là người có bát đã được làm cho khác đi, (đã đảnh lễ) vị ấy, người có bát đã được làm cho khác đi; có nghĩa là sau khi đã rửa tay và bát, đã đặt bát sang một bên và đã ngồi xuống. Và các loại vải pattuṇṇa và vải paṭṭa là trên các loại vải pattuṇṇa và trên các loại vải paṭṭa. Trong đó, loại vải được làm ở xứ Pattuṇṇa là pattuṇṇa; người ta cũng nói đó là một loại vải lụa đặc biệt. Còn các loại vải paṭṭa là vải của Trung Hoa. Trong các từ āyoga, v.v…, āyoga là dây đeo ngược lại; aṃsabaddhakaṃ là trong các túi đựng bát, v.v… Của các loại dầu thuốc là của các loại dầu được chế biến bằng cách nấu với thuốc. Các bầu đựng là các đồ đựng dầu làm bằng da. Mối liên hệ là: “ông ấy đã cúng dường dầu trị giá một ngàn cho mỗi vị Tỳ-khưu.”

Mahāyāgaṃ yajitvāti mahādānaṃ datvā. Saputtadāraṃ vanditvā nisinnanti puttadārehi saddhiṃ vanditvā nisinnaṃ. Temāsanti accantasaṃyoge upayogavacanaṃ. ‘‘Temāsaṃ sotabbadhammaṃ ajjeva suṇissāmī’’ti nisinnassa taṃ ajjhāsayaṃ pūretvā desitattā vuttaṃ ‘‘paripuṇṇasaṅkappaṃ kurumāno’’ti. Anubandhitvāti anugantvā.
Sau khi đã thực hiện một lễ tế lớn là sau khi đã thực hiện một cuộc bố thí lớn. Đã đảnh lễ và ngồi xuống cùng với vợ con là đã đảnh lễ cùng với vợ con và đã ngồi xuống. Trong ba tháng là cách nói về công dụng trong nghĩa liên tục. Do đã thuyết pháp để làm viên mãn khuynh hướng tâm của người đang ngồi (với ý nghĩ rằng): “Pháp đáng được nghe trong ba tháng, ta sẽ nghe ngay trong hôm nay,” nên đã được nói là: “trong khi làm cho ý nguyện được trọn vẹn.” Sau khi đã đi theo là sau khi đã đi theo sau.

Buddhānaṃ anabhiratiparitassitā nāma natthīti āha ‘‘yathājjhāsayaṃ yathārucitaṃ vāsaṃ vasitvā’’ti. Abhirantaṃ abhiratīti hi atthato ekaṃ. Abhirantasaddo cāyaṃ abhirucipariyāyo, na assādapariyāyo. Assādavasena ca katthaci vasantassa assādavatthuvigamanena siyā tassa tattha anabhirati, tayidaṃ khīṇāsavānaṃ natthi, pageva buddhānaṃ, tasmā abhirativasena katthaci vasitvā tadabhāvato aññattha gamanaṃ nāma buddhānaṃ natthi, vineyyavinayanatthaṃ pana katthaci vasitvā tasmiṃ siddhe vineyyavinayatthameva tato aññattha gacchanti, ayamettha yathāruci. Soreyyādīni anupagammāti mahāmaṇḍalacārikāya vīthibhūtāni soreyyanagarādīni anupagantvā. Payāgapatiṭṭhānanti gāmassapi adhivacanaṃ titthassapi. Gaṅgaṃ nadinti gaṅgaṃ nāma nadiṃ. Tadavasarīti ettha tanti karaṇatthe upayogavacananti āha ‘‘tena avasari tadavasarī’’ti.
Chư Phật không có sự không hoan hỷ và lo lắng, ngài đã nói: “sau khi đã an trú theo khuynh hướng và theo sở thích.” Thật vậy, người hoan hỷ thì hoan hỷ, về mặt ý nghĩa là một. Và từ “abhiranta” này là từ đồng nghĩa với sự ưa thích, không phải là từ đồng nghĩa với sự hưởng thụ. Và đối với người an trú ở đâu đó do sự hưởng thụ, có thể có sự không hoan hỷ ở đó do sự mất đi của đối tượng hưởng thụ, điều này không có ở các bậc đã đoạn trừ các lậu hoặc, huống hồ là chư Phật; do đó, việc chư Phật an trú ở đâu đó do sự hoan hỷ rồi đi đến nơi khác do không có sự hoan hỷ ấy là không có; tuy nhiên, các ngài an trú ở đâu đó vì mục đích giáo hóa chúng sanh cần được tế độ, và khi việc ấy đã thành tựu, các ngài đi từ nơi đó đến nơi khác cũng chính vì mục đích giáo hóa chúng sanh cần được tế độ, đây là sự tùy theo sở thích ở đây. Không đi đến Soreyya, v.v… là không đi đến thành phố Soreyya, v.v… là những nơi trên tuyến đường du hành trong khu vực lớn. Payāgapatiṭṭhāna là tên gọi khác của một ngôi làng và cũng của một bến đò. Sông Gaṅgā là con sông tên Gaṅgā. Trong từ “đã đi xuống nơi ấy,” ở đây, về điều này, ngài đã nói rằng từ “ta” là cách nói về công dụng trong nghĩa công cụ cách: “đã đi xuống bằng phương tiện ấy nên là tadavasarī.”

Buddhāciṇṇakathā niṭṭhitā.
Phần luận về thông lệ của chư Phật đã kết thúc.

Samantapāsādikāyāti samantato sabbaso pasādaṃ janetīti samantapāsādikā, tassā samantapāsādikāya. Tatridaṃ samantapāsādikāya samantapāsādikattasminti ettha tatrāti purimavacanāpekkhaṃ, idanti vakkhamānakāraṇavacanāpekkhaṃ. Tatrāyaṃ yojanā – yaṃ vuttaṃ ‘‘samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāyā’’ti, tatra yā sā samantapāsādikāti saṃvaṇṇanā vuttā , tassā samantapāsādikāya saṃvaṇṇanāya samantapāsādikattasmiṃ samantapāsādikabhāve sabbaso pasādajanakatte idaṃ hoti. Kiṃ hotīti āha ‘‘ācariyaparamparato’’tiādi.
Của bộ Samantapāsādikā là bộ Samantapāsādikā vì làm phát sanh sự tịnh tín một cách toàn diện, từ mọi phương diện; của bộ Samantapāsādikā ấy. Trong câu “Về điều này, ở trong tính chất Samantapāsādikā của bộ Samantapāsādikā,” ở đây, “về điều này” (tatra) là từ chỉ đến lời đã nói trước, “điều này” (idaṃ) là từ chỉ đến lý do sắp được nói đến. Đây là cách kết nối ở đây: – điều đã được nói là “bản Chú giải Luật tạng Samantapāsādikā,” trong đó, bản chú giải nào đã được gọi là Samantapāsādikā, ở trong tính chất Samantapāsādikā của bản chú giải Samantapāsādikā ấy, tức là trong trạng thái Samantapāsādikā, trong tính chất làm phát sanh sự tịnh tín một cách toàn diện, có điều này. Có điều gì, ngài đã nói: “Do sự kế thừa của các vị Giáo Thọ Sư,” v.v…

Ācariyaparamparatoti ‘‘upāli dāsako’’tiādinā (pari. 3). Vuttaācariyaparamparato. Nidānavatthuppabhedadīpanatoti nidānappabhedadīpanato vatthuppabhedadīpanato ca. Tattha bāhiranidānaabbhantaranidānasikkhāpadanidānadassanavasena nidānappabhedadīpanaṃ veditabbaṃ, theravādappakāsanaṃ pana vatthuppabhedadīpanaṃ. Parasamayavivajjanatoti ‘‘sakāya paṭiññāya mettiyaṃ bhikkhuniṃ nāsethā’’tiādīsu (pārā. 384) micchāpaṭipannānaṃ paresaṃ laddhinirākaraṇato, tatoyeva ca attano samayapatiṭṭhāpanena sakasamayavisuddhito.
Do sự kế thừa của các vị Giáo Thọ Sư là do sự kế thừa của các vị Giáo Thọ Sư đã được nói đến qua các câu (pari. 3): “Upāli, Dāsaka,” v.v… Do sự trình bày các loại nhân duyên và các loại sự việc là do sự trình bày các loại nhân duyên và do sự trình bày các loại sự việc. Trong đó, nên hiểu sự trình bày các loại nhân duyên theo cách chỉ ra nhân duyên bên ngoài, nhân duyên bên trong, và nhân duyên của học giới; còn sự làm sáng tỏ Thượng tọa bộ là sự trình bày các loại sự việc. Do sự loại bỏ các học thuyết khác là do sự bác bỏ chủ thuyết của những người khác có sự thực hành sai lầm trong các câu (pārā. 384) v.v…: “Các ông hãy trục xuất Tỳ-khưu-ni Mettiyā theo lời tự nhận của bà ấy;” và cũng chính vì lý do đó, do sự trong sạch của học thuyết của mình qua việc thiết lập học thuyết của chính mình.

Byañjanaparisodhanatoti pāṭhasodhanena byañjanaparisodhanaṃ veditabbaṃ, saddasatthānusārena vā nibbacanaṃ dassetvā padanipphattidassanaṃ byañjanaparisodhanaṃ. Vibhaṅganayabhedadassanatoti ‘‘tisso itthiyo’’tiādipadabhājanassa anurūpavasena nayabhedadassanato. Sampassatanti ñāṇacakkhunā sammā passantānaṃ, upaparikkhantānanti attho. Apāsādikanti appasādāvahaṃ. Etthāti samantapāsādikāya. Sampassataṃ viññūnanti sambandho. Tasmā ayaṃ saṃvaṇṇanā samantapāsādikātveva pavattāti yojetabbaṃ. Kassa kena desitassa saṃvaṇṇanāti āha ‘‘vinayassā’’tiādi.
Do sự tinh lọc văn cú là nên hiểu sự tinh lọc văn cú qua việc hiệu đính văn bản; hoặc sự chỉ ra sự hình thành của từ ngữ sau khi đã chỉ ra từ nguyên theo ngữ pháp học là sự tinh lọc văn cú. Do sự chỉ ra các loại phương pháp của Phân Tích là do sự chỉ ra các loại phương pháp tương ứng với sự phân chia các từ ngữ như: “ba người phụ nữ,” v.v… Đối với những người đang thấy rõ có nghĩa là đối với những người đang thấy một cách đúng đắn bằng con mắt trí tuệ, đang xem xét. Điều không đáng tịnh tín là điều mang lại ít sự tịnh tín. Ở đây là trong bộ Samantapāsādikā. Mối liên hệ là: “Đối với những người có trí tuệ đang thấy rõ.” Do đó, nên kết nối rằng: “Bản chú giải này được tiến hành chính với tư cách là bộ Samantapāsādikā.” Là bản chú giải của (giáo pháp) nào đã được ai thuyết giảng, ngài đã nói: “Của Luật tạng,” v.v…

Iti samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya sāratthadīpaniyaṃ
Như vậy, trong Sāratthadīpanī, (phụ chú giải) của chú giải Luật tạng Samantapāsādikā

Verañjakaṇḍavaṇṇanā samattā.
Phần giải thích về đoạn Verañja đã hoàn tất.

Paṭhamo bhāgo niṭṭhito.
Phần đầu tiên đã kết thúc.