Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi II – Phẩm Các Giới Không Xác Định
3. Aniyatakaṇḍaṃ
3. Phần Bất Định
1. Paṭhamaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā
1. Chú giải học giới Bất Định thứ nhất
443. Puttasaddena sāmaññaniddesato ekasesanayena vā puttīpi gahitāti āha ‘‘bahū dhītaro cā’’ti. Dānappadānesūti khuddakesu ceva mahantesu ca dānesu. Chaṇaṃ nāma attano gehe kattabbamaṅgalanti āha ‘‘āvāhavivāhamaṅgalādīsū’’ti. Ettha ādi-saddena phagguṇamāsādīsu uttaraphagguṇādiabhilakkhitadivasesu saparijanānaṃ manussānaṃ maṅgalakaraṇampi saṅgaṇhāti. Antarussavesūti mahussavassa antarantarā pavattitaussavesu. Āsāḷhīpavāraṇanakkhattādīsūti ettha nakkhattasaddo paccekaṃ yojetabbo. Tattha āsāḷhīnakkhattanti vassūpagamanapūjādivasaṃ sandhāya vuttaṃ, pavāraṇanakkhattanti pavāraṇapūjādivasaṃ sandhāya. Ādi-saddena yasmiṃ nakkhatte gāmanigamavāsino tayo satta vā divase nakkhattaghosanaṃ katvā yathāvibhavaṃ alaṅkatapaṭiyattā bhoge paribhuñjantā nakkhattakīḷaṃ kīḷanti, tampi saṅgaṇhāti. Imepi dārakāti attano dārake sandhāya vadanti. Tadanantaranti bhikkhūnaṃ bhojanānantaraṃ.
443. Do sự trình bày tổng quát bằng từ ‘con trai’ hoặc theo phương pháp loại suy, (từ ấy) cũng bao gồm luôn cả ‘con gái,’ vì thế đã nói là ‘và nhiều người con gái.’ (Cụm từ) ‘trong các việc cho’ có nghĩa là trong các sự bố thí nhỏ và cả trong các sự bố thí lớn. Lễ hội là các lễ lạc cần được thực hiện ở trú xứ của mình, vì thế đã nói là ‘trong các lễ tốt lành về cưới hỏi và v.v…’ Ở đây, bằng từ v.v… cũng bao gồm cả việc thực hiện lễ tốt lành của những người có quyến thuộc ở trong các tháng như Phagguṇa vào những ngày được ghi dấu là Uttaraphagguṇa và v.v… (Cụm từ) ‘trong các lễ hội xen kẽ’ có nghĩa là trong các lễ hội được tiến hành xen kẽ ở giữa đại lễ hội. Trong cụm từ ‘trong các lễ hội như lễ Āsāḷhī, lễ Tự Tứ, và v.v…’ ở đây, từ ‘lễ hội’ cần được kết hợp riêng lẻ với từng từ. Trong ấy, ‘lễ hội Āsāḷhī’ được nói đến để ám chỉ ngày cúng dường nhân dịp nhập hạ, còn ‘lễ hội Tự Tứ’ là để ám chỉ ngày cúng dường nhân dịp lễ Tự Tứ. Bằng từ v.v… cũng bao gồm cả lễ hội mà trong đó, các cư dân ở làng và thị trấn sau khi đã thông báo về lễ hội trong ba hoặc bảy ngày, đã trang hoàng và chuẩn bị theo khả năng, đang vui chơi lễ hội trong khi hưởng thụ các tài sản. (Họ) nói câu ‘cả những đứa trẻ này nữa’ là để ám chỉ những đứa con của chính họ. ‘Sau đó’ có nghĩa là sau bữa ăn của các vị Tỳ-khưu.
444-445.Taṃ kammanti taṃ ajjhācārakammaṃ. Bhikkhu nisinneti ettha bhikkhūti bhummatthe paccattavacanaṃ, bhummavacanassa vā lopaṃ katvā niddesoti āha ‘‘bhikkhumhi nisinne’’ti. Pāḷiyaṃ ‘‘sotassa raho’’ti idaṃ atthuddhāravasena vuttaṃ, ‘‘paṭicchanne āsane’’ti pana vacanato ‘‘sakkā hoti methunaṃ dhammaṃ paṭisevitu’’nti ca vuttattā cakkhussa raho idhādhippetoti dassetuṃ ‘‘kiñcāpī’’tiādi vuttaṃ. Paricchedo veditabboti raho nisajjāpattiyā paricchedo vavatthānaṃ veditabbaṃ. Idāni cakkhussa raheneva āpattiṃ paricchinditvā dassento ‘‘sacepi hī’’tiādimāha. Pihitakavāṭassāti iminā paṭicchannabhāvato cakkhussa rahosabbhāvaṃ dasseti. Apihitakavāṭassāti iminā appaṭicchannabhāvaṃ dasseti. Appaṭicchanne ca dutiyasikkhāpade āgatanayena sotassa rahavasenapi paricchedo veditabboti āha ‘‘antodvādasahatthepi okāse’’ti . ‘‘Antodvādasahatthe’’ti hi idaṃ sotassa rahābhāvaṃ sandhāya vuttaṃ. Yadi hi cakkhusseva rahābhāvaṃ sandhāya vadeyya , ‘‘antodvādasahatthe’’ti na vadeyya appaṭicchanne tato dūratare nisinnepi cakkhussa rahāsambhavato. Yasmā nisīditvā niddāyanto kapimiddhapareto kañci kālaṃ cakkhūni ummīleti, kañci kālaṃ nimīleti, na ca mahāniddaṃ okkamati, tasmā ‘‘niddāyantopi anāpattiṃ karotī’’ti vuttaṃ. Nipajjitvā niddāyanto pana tādiso na hotīti āha ‘‘nipajjitvā niddāyanto na karotī’’ti, anāpattiṃ na karotīti attho.
444-445.‘Sự việc ấy’ là hành vi vi phạm ấy. Trong câu ‘khi Tỳ-khưu đang ngồi,’ ở đây từ ‘bhikkhū’ là đơn số đối cách trong ý nghĩa của chỉ định cách, hoặc là sự trình bày được thực hiện sau khi đã lược bỏ chỉ định cách, vì thế đã nói là ‘bhikkhumhi nisinne (khi Tỳ-khưu đang ngồi).’ Trong Pāḷi, câu ‘nơi kín tai’ này được nói theo cách nêu lên ý nghĩa, tuy nhiên do đã được nói là ‘ở chỗ ngồi che khuất’ theo câu cú và ‘có thể thực hành pháp dâm dục,’ nên câu bắt đầu bằng ‘dầu cho’ đã được nói đến để chỉ ra rằng ‘nơi kín mắt’ được chủ ý ở đây. ‘Cần được biết sự phân định’ có nghĩa là cần biết sự phân định, sự xác định về tội do ngồi ở nơi kín đáo. Giờ đây, trong khi phân định và chỉ ra tội chỉ bằng (trường hợp) kín mắt, ngài đã nói câu bắt đầu bằng: ‘vì nếu như.’ Bằng câu ‘của (căn phòng) có cửa đã được đóng,’ ngài chỉ ra sự hiện hữu của nơi kín mắt do bởi tình trạng được che khuất. Bằng câu ‘của (căn phòng) có cửa không được đóng,’ ngài chỉ ra tình trạng không được che khuất. Và ở (chỗ ngồi) không che khuất, sự phân định cũng cần được biết theo trường hợp kín tai theo phương pháp đã được đề cập trong học giới thứ hai, vì thế đã nói là: ‘dầu ở nơi trong vòng mười hai hắc-tay.’ Thật vậy, câu ‘trong vòng mười hai hắc-tay’ này được nói ra để ám chỉ tình trạng không kín tai. Bởi vì nếu nói đến để chỉ ám chỉ tình trạng không kín mắt thì đã không nói là ‘trong vòng mười hai hắc-tay,’ do bởi sự có thể kín mắt dầu đang ngồi ở nơi xa hơn thế trong chỗ không che khuất. Bởi vì người đang ngồi ngủ, bị cơn buồn ngủ của con khỉ chi phối, có lúc mở mắt ra, có lúc nhắm mắt lại, và không chìm vào giấc ngủ sâu, cho nên đã được nói là: ‘người đang ngủ cũng tạo ra sự không phạm tội.’ Tuy nhiên, người đang nằm ngủ thì không giống như thế, vì thế đã nói là ‘người đang nằm ngủ thì không tạo ra,’ có nghĩa là không tạo ra sự không phạm tội.
Paṭiladdhasotāpattiphalāti antimaparicchedato ariyasāvikaṃ dasseti. Paṭividdhacatusaccāti sotāpattimaggena paṭividdhacatusaccā. Tiṇṇaṃ dhammānaṃ aññatarena kāretabboti nisajjaṃ paṭijānamānassa tiṇṇaṃ dhammānaṃ aññatarasamāyogo hotiyevāti vuttaṃ. Pārājikena pana saṅghādisesena ca pācittiyena ca tenākārena nisajjaṃ paṭijānamānova kāretabbo. Na appaṭijānamānoti alajjīpi appaṭijānamāno āpattiyā na kāretabboti avisesena vuttaṃ. So hi yāva na paṭijānāti, tāva neva suddho, na asuddhoti vā vattabbo, vattānusandhinā pana kāretabbo. Vuttañhetaṃ –
‘Đã chứng đắc quả Tu-đà-hoàn’ là để chỉ ra vị nữ Thánh đệ tử theo sự phân định cuối cùng. ‘Đã thông suốt Bốn Sự Thật’ là đã thông suốt Bốn Sự Thật bằng Tu-đà-hoàn đạo. ‘Nên bị xử lý theo một trong ba pháp’ được nói ra vì rằng sự tương ứng với một trong ba pháp chắc chắn có xảy ra đối với người đang thú nhận việc ngồi (riêng). Tuy nhiên, chỉ người đang thú nhận việc ngồi (riêng) theo cách thức ấy mới nên bị xử lý bằng tội Bất Cộng Trụ, hoặc tội Tăng Tàn, hoặc tội Ưng Đối Trị. ‘Không phải người không thú nhận’ được nói một cách không phân biệt rằng dầu là người vô liêm sỉ không thú nhận thì cũng không nên bị xử lý theo tội. Vị ấy, trong khi chưa thú nhận, trong khi ấy có thể được nói là không thanh tịnh cũng không ô nhiễm, tuy nhiên nên được xử lý theo sự liên quan đến phận sự. Điều này đã được nói rằng: –
‘‘Paṭiññā lajjīsu katā, alajjīsu evaṃ na vijjati;
Bahumpi alajjī bhāseyya, vattānusandhitena kāraye’’ti. (pari. 359);
‘Sự thú tội được thực hiện ở những người có tàm quý, ở những người vô liêm sỉ thì không có như vậy;
Dầu người vô liêm sỉ có nói nhiều đi nữa, nên cho thực hiện theo phận sự liên quan.’ (pari. 359);
Yena vā sā saddheyyavacasā upāsikā vadeyya, tena so bhikkhu kāretabboti ettha ‘‘paṭijānamāno’’ti avuttepi adhikārattā ‘‘paṭijānamānova tena so bhikkhu kāretabbo’’ti vuttaṃ. Tathārūpāya upāsikāya vacanena aññathattābhāvato diṭṭhaṃ nāma tathāpi hoti, aññathāpi hotīti dassanena aññathattasambhavaṃ dasseti. Evaṃ mahiddhikā nāma…pe… vadāpethāti idaṃ ‘‘evaṃ mahiddhikāpi tumhe evarūpe āsaṅkanīye ṭhāne kasmā anupaparikkhitvā nisinnattha, tumhādisehi nāma antaraghare nisīdantehi upaparikkhitvā patirūpe ṭhāne nisīditabba’’nti theraṃ ovadanto āha, na pana asaddahanto. Thero attano anupaparikkhitvā anisinnabhāvaṃ dassento ‘‘antaragharasseveso āvuso doso’’ti āha. Evamakāsinti attano nigūhitabbampi guṇaṃ pakāsento evaṃ viya iddhipāṭihāriyaṃ akāsiṃ. Rakkheyyāsi manti ‘‘mā maṃ aññepi evaṃ jānantū’’ti attano guṇaṃ ajānāpetukāmo vadati.
Trong câu ‘Hoặc vị nữ cận sự có lời nói đáng tin cậy ấy nói (về tội) nào, vị Tỳ-khưu ấy nên bị xử lý theo tội ấy,’ ở đây, dầu không được nói là ‘người đang thú nhận’ nhưng do có liên quan nên đã được nói là: ‘chỉ người đang thú nhận, vị Tỳ-khưu ấy mới nên bị xử lý theo tội ấy.’ Do bởi lời nói của vị nữ cận sự như thế không có sự khác đi, ngài chỉ ra sự có thể có khác đi bằng cách chỉ ra rằng: ‘điều được thấy quả thật cũng có khi là như vậy, cũng có khi là khác đi.’ Câu ‘Bậc có đại thần lực như vậy… (v.v)… hãy khiến cho nói’ này, ngài đã nói trong khi khuyên dạy vị trưởng lão rằng: ‘Dầu có đại thần lực như vậy, tại sao các ngài lại ngồi ở nơi đáng nghi ngờ như thế mà không xem xét kỹ lưỡng? Bậc như các ngài khi ngồi ở trong nhà nên xem xét kỹ lưỡng rồi ngồi ở nơi thích hợp,’ chứ không phải là không tin tưởng. Vị trưởng lão, trong khi chỉ ra việc mình đã không ngồi mà không xem xét kỹ, đã nói: ‘Này hiền hữu, đó chính là lỗi của tư gia.’ ‘Đã làm như vậy’ có nghĩa là trong khi biểu thị đức hạnh của mình vốn cần phải được che giấu, ta đã làm phép màu thần thông giống như vậy. ‘Mong ngài hãy bảo vệ tôi’ có nghĩa là ngài nói do muốn không cho người khác biết đến đức hạnh của mình rằng: ‘Mong rằng những người khác đừng biết đến tôi như vậy.’
446-451.Mātugāmassa methunaṃ dhammaṃ paṭisevantoti ettha ‘‘magge’’ti pāṭhaseso daṭṭhabboti āha ‘‘mātugāmassa magge’’ti. Raho nisajjassādassa asatipi methunarāgabhāve tappaṭibaddhakilesattā vuttaṃ ‘‘methunadhammasannissitakileso vuccatī’’ti, teneva sannissitaggahaṇaṃ kataṃ. Taṃ sandhāya agatepi asuddhacittena gatattā ‘‘assāde uppanne pācittiya’’nti vuttaṃ. Rahassādo uppajjati anāpattīti suddhacittena gantvā nisinnattā cittuppādamattenettha āpatti na hotīti vuttaṃ. Ayaṃ dhammo aniyatoti ettha tiṇṇaṃ āpattīnaṃ yaṃ āpattiṃ vā vatthuṃ vā paṭijānāti, tassa vasena kāretabbatāya aniyatoti ayamattho pākaṭoyevāti na vutto. Yaṃ āpattiṃ paṭijānāti, tassā vasenettha aṅgabhedo veditabbo.
446-451.Trong câu ‘Trong khi thực hành pháp dâm dục với người nữ,’ ở đây, phần bản văn còn lại là ‘nơi đường’ cần được hiểu, vì thế đã nói là: ‘nơi đường của người nữ.’ Do sự thích thú trong việc ngồi riêng là phiền não có liên quan đến điều ấy dầu cho không có tâm dâm dục, nên được nói là ‘phiền não nương theo pháp dâm dục,’ chính vì thế việc sử dụng (từ) nương theo đã được thực hiện. Do đi đến với tâm không trong sạch dầu cho đã đến để nhắm đến điều ấy, nên đã được nói là: ‘khi sự thích thú sanh khởi, phạm tội Ưng Đối Trị.’ Trong câu ‘Sự thích thú nơi kín đáo sanh khởi, vô tội,’ được nói ra vì rằng ở đây không có tội chỉ bằng sự sanh khởi của tâm do đã đi và ngồi với tâm trong sạch. Trong câu ‘Pháp này là bất định,’ ở đây, ý nghĩa này là hiển nhiên nên đã không được nói đến: (Pháp ấy) là bất định do cần được xử lý tùy theo tội nào hoặc sự việc nào trong ba tội mà vị ấy thú nhận. Sự phân chia các chi phần ở đây cần được hiểu tùy theo tội mà vị ấy thú nhận.
Paṭhamaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú giải học giới Bất Định thứ nhất chấm dứt.
2. Dutiyaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā
2. Chú giải học giới Bất Định thứ hai
452. ‘‘Eko’’ti vuttattā ‘‘nisajjaṃ kappetuṃ paṭikkhitta’’nti iminā sambandho na ghaṭatīti āha ‘‘yaṃ eko…pe… sambandho veditabbo’’ti. Etaṃ paccattavacananti ‘‘eko’’ti idaṃ paccattavacanaṃ.
452. Do đã được nói là ‘một mình’ nên sự kết hợp với câu ‘việc sắp đặt chỗ ngồi bị cấm’ là không phù hợp, vì thế đã nói là ‘Sự kết hợp cần được hiểu rằng… (v.v)… người nào một mình.’ ‘Đây là đơn số đối cách’ có nghĩa là từ ‘eko’ này là đơn số đối cách.
453.Bahi parikkhittanti bahi pākārādinā parikkhittaṃ. Pariveṇaṅgaṇanti pariveṇamāḷakaṃ sandhāya vuttaṃ. Itthīpi purisopīti ettha paṭhame kasmā itthisatampi anāpattiṃ na karoti, idha ekāpi kasmā anāpattiṃ karotīti? Vuccate – paṭhamasikkhāpadaṃ ‘‘sakkā hoti methunaṃ dhammaṃ paṭisevitu’’nti vuttattā methunadhammavasena āgataṃ, na ca methunassa mātugāmo dutiyo hoti. Itthiyo hi aññamaññissā vajjaṃ paṭicchādenti, teneva vesāliyaṃ mahāvane dvāraṃ vivaritvā nipanne bhikkhumhi sambahulā itthiyo yāvadatthaṃ katvā pakkamiṃsu, tasmā tattha ‘‘itthisatampi anāpattiṃ na karotī’’ti vuttaṃ. Idaṃ pana sikkhāpadaṃ duṭṭhullavācāvasena āgataṃ ‘‘alañca kho hoti mātugāmaṃ duṭṭhullāhi vācāhi obhāsitu’’nti vuttattā. Duṭṭhullavācañca sutvā mātugāmopi na paṭicchādeti. Teneva duṭṭhullavācāsikkhāpade yā tā itthiyo hirimanā, tā nikkhamitvā bhikkhū ujjhāpesuṃ, tasmā idha ‘‘itthīpi anāpattiṃ karotī’’ti vuttaṃ. Idha appaṭicchannattā itthīpi anāpattiṃ karoti, tattha paṭicchannattā itthisatampi anāpattiṃ na karotīti ca vadanti.
453.‘Được bao bọc ở bên ngoài’ là được bao bọc ở bên ngoài bằng tường rào v.v… ‘Sân của tu viện’ được nói đến để ám chỉ khuôn viên của tu viện. Trong câu ‘Cả người nữ, cả người nam,’ tại sao ở học giới đầu, một trăm người nữ cũng không tạo ra sự không phạm tội, còn ở đây, một người (nữ) lại tạo ra sự không phạm tội? Xin thưa – Học giới thứ nhất đã được ban hành liên quan đến pháp dâm dục do đã được nói là ‘có thể thực hành pháp dâm dục,’ và đối với việc dâm dục, người nữ không phải là người thứ hai (để ngăn cản). Thật vậy, những người nữ thường che giấu lỗi lầm cho nhau, chính vì thế ở Vesālī, trong khu rừng Mahāvana, khi một vị Tỳ-khưu đang nằm ngủ sau khi đã mở cửa, nhiều người nữ đã làm theo ý muốn rồi bỏ đi. Do đó, ở trường hợp ấy đã được nói là: ‘một trăm người nữ cũng không tạo ra sự không phạm tội.’ Còn học giới này được ban hành liên quan đến lời nói thô tục do đã được nói là ‘và quả thật là đủ để chọc ghẹo người nữ bằng những lời nói thô tục.’ Và người nữ, sau khi nghe lời nói thô tục, cũng không che giấu. Chính vì thế, trong học giới về lời nói thô tục, những người nữ có lòng tàm đã đi ra và khiển trách các vị Tỳ-khưu. Do đó, ở đây đã được nói là: ‘cả người nữ cũng tạo ra sự không phạm tội.’ Cũng có người nói rằng, ở đây, do không bị che khuất nên cả người nữ cũng tạo ra sự không phạm tội; ở trường hợp kia, do bị che khuất nên một trăm người nữ cũng không tạo ra sự không phạm tội.
Kāyasaṃsaggavasena anandho vutto, duṭṭhullavācāvasena abadhiro. Antodvādasahatthe okāseti sotassa rahābhāvo vutto, etena ‘‘sotassa raho dvādasahatthena paricchinditabbo’’ti dasseti . Tasmā dvādasahatthato bahi nisinno anāpattiṃ na karoti satipi cakkhussa rahābhāve sotassa rahasabbhāvato. Imasmiñhi sikkhāpade appaṭicchannattā sotassa rahoyeva adhippeto. Pāḷiyaṃ pana ‘‘cakkhussa raho’’ti atthuddhāravasena vuttaṃ. Kenaci pana ‘‘dvepi rahā idha adhippetā’’ti vuttaṃ, taṃ na gahetabbaṃ. Na hi appaṭicchanne okāse cakkhussa raho sambhavati dvādasahatthato bahi dassanavisaye dūratare nisinnassapi daṭṭhuṃ sakkuṇeyyabhāvato. Niddāyantopīti iminā ‘‘nipajjitvā niddāyantopi gahitoyevā’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. ‘‘Nipajjitvā niddāyantepi satipi cakkhussa rahe abadhirattā sotassa raho natthī’’ti gaṇṭhipadakārānaṃ adhippāyo. Yathā pana nipajjitvā niddāyanto andho viya kiñci na passatīti cakkhussa raho sambhavati, tathā badhiro viya kiñci saddaṃ na suṇātīti sotassa rahopi sambhavatīti sakkā vattuṃ. Aṭṭhakathāyañca ṭhito vā nisinno vāti ettakameva vuttaṃ, paṭhamasikkhāpade viya ‘‘nipajjitvā niddāyantopi anāpattiṃ na karotī’’ti idaṃ pana na vuttaṃ, tasmā vīmaṃsitvā yathā na virujjhati, tathā gahetabbaṃ.
Liên quan đến sự thân thể giao tiếp, người không đui được nói đến; liên quan đến lời nói thô tục, người không điếc (được nói đến). Câu ‘Ở nơi trong vòng mười hai hắc-tay’ nói lên tình trạng không kín tai. Bằng câu này, ngài chỉ ra rằng: ‘Nơi kín tai cần được phân định bằng mười hai hắc-tay.’ Do đó, người ngồi ở bên ngoài (phạm vi) mười hai hắc-tay không tạo ra sự không phạm tội dầu cho có tình trạng kín mắt, vì có sự hiện hữu của nơi kín tai. Thật vậy, trong học giới này, do không bị che khuất nên chỉ nơi kín tai được chủ ý đến. Tuy nhiên, trong Pāḷi, câu ‘nơi kín mắt’ được nói theo cách nêu lên ý nghĩa. Tuy nhiên, có vị nào đó nói rằng: ‘Cả hai nơi kín đáo đều được chủ ý ở đây,’ điều ấy không nên được chấp nhận. Bởi vì nơi kín mắt không thể có ở nơi không che khuất, do có khả năng nhìn thấy được dầu cho người ấy đang ngồi ở nơi xa hơn trong tầm nhìn bên ngoài (phạm vi) mười hai hắc-tay. Bằng từ ‘cả người đang ngủ,’ trong cả ba sách Chú thích đều nói rằng: ‘cả người đang nằm ngủ cũng được bao gồm.’ Chủ ý của các vị soạn sách Chú thích là: ‘Dầu người đang nằm ngủ có kín mắt, nhưng do không điếc nên nơi kín tai không có.’ Tuy nhiên, có thể nói rằng, giống như người đang nằm ngủ không thấy gì như người đui nên nơi kín mắt có thể có, cũng vậy, người ấy không nghe âm thanh gì như người điếc nên nơi kín tai cũng có thể có. Và trong bản Chú giải, chỉ nói vắn tắt là ‘đang đứng hoặc đang ngồi,’ còn trong học giới thứ nhất, câu ‘người đang nằm ngủ cũng không tạo ra sự không phạm tội’ lại không được nói đến. Do đó, cần phải xem xét và thọ trì theo cách không mâu thuẫn.
Sotassa rahasseva idhādhippetattā ‘‘badhiro pana cakkhumāpī’’ti vuttaṃ. Andhassa appaṭicchannampi paṭicchannapakkhaṃ bhajatīti paṭhamasikkhāpadassa visayattā vuttaṃ ‘‘andho vā abadhiropi na karotī’’ti. Yatheva hi tattha apihitakavāṭassa gabbhassa anto samīpepi ṭhito andho anāpattiṃ na karoti, evamayampīti daṭṭhabbaṃ. Ubhayatthāpīti dvīsupi aniyatesu. Yasmā dvīhi sikkhāpadehi udāyittheraṃ ārabbha visuṃ paññattā kāci āpatti nāma natthi, tasmā tassa tassa sikkhāpadassa ādikammike sandhāya ādikammikānaṃ anāpatti vuttā. Upanandattherādayo hi raho nisajjādīnaṃ ādikammikā. Bhagavatā pana paṭhamaṃ paññattasikkhāpadāniyeva gahetvā upanandavatthusmiṃ aniyatakkamo dassito. Yadi imehi sikkhāpadehi visuṃ paññattā āpatti nāma natthi, atha kasmā bhagavatā aniyatadvayaṃ paññattanti? Evarūpāyapi upāsikāya vuccamāno paṭijānamānoyeva āpattiyā kāretabbo, na appaṭijānamānoti dassentena bhagavatā yāya kāyaci āpattiyā yena kenaci codite paṭiññātakaraṇaṃyeva daḷhaṃ katvā vinayavinicchayalakkhaṇaṃ ṭhapitaṃ. Atha bhikkhunīnaṃ aniyataṃ kasmā na vuttanti? Idameva lakkhaṇaṃ sabbattha anugatanti na vuttaṃ.
Do chỉ có nơi kín tai được chủ ý ở đây, nên đã được nói là: ‘nhưng người điếc dầu có mắt.’ Đối với người đui, nơi không che khuất cũng thuộc về trường hợp che khuất, do là đối tượng của học giới thứ nhất nên đã được nói là: ‘hoặc người đui dầu không điếc cũng không tạo ra (sự không phạm tội).’ Cần phải hiểu rằng, giống như ở trường hợp kia, người đui đứng gần bên trong căn phòng có cửa không đóng cũng không tạo ra sự không phạm tội, ở đây cũng vậy. ‘Trong cả hai trường hợp’ là trong cả hai pháp Bất Định. Bởi vì không có tội nào được gọi là do hai học giới này chế định riêng biệt liên quan đến trưởng lão Udāyi, do đó sự không phạm tội của các người vi phạm đầu tiên đã được nói đến để ám chỉ những người vi phạm đầu tiên của mỗi học giới ấy. Thật vậy, trưởng lão Upananda và các vị khác là những người vi phạm đầu tiên về việc ngồi riêng v.v… Tuy nhiên, đức Thế Tôn đã lấy chính các học giới đã được chế định lúc đầu và chỉ ra trình tự của pháp Bất Định trong câu chuyện về (trưởng lão) Upananda. Nếu bởi các học giới này không có tội nào được gọi là chế định riêng biệt, vậy tại sao đức Thế Tôn lại chế định hai pháp Bất Định? Chính đức Thế Tôn, trong khi chỉ ra rằng dầu bị vị nữ cận sự như thế nói đến, chỉ người đang thú nhận mới bị xử lý theo tội chứ không phải người không thú nhận, đã đặt ra đặc tính thẩm xét về luật bằng cách làm cho vững chắc chính sự thực hiện việc thú tội khi bị bất cứ ai tố cáo về bất cứ tội nào. Vậy tại sao pháp Bất Định của các Tỳ-khưu-ni không được nói đến? Vì đặc tính này được áp dụng ở mọi nơi nên đã không được nói đến.
Dutiyaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú giải học giới Bất Định thứ hai chấm dứt.
Iti samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya sāratthadīpaniyaṃ
Như thế, trong Sāratthadīpanī, (phụ chú) của Samantapāsādikā, Chú giải Luật,
Aniyatavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần chú giải về các pháp Bất Định chấm dứt.