Phụ chú giải Tạng Luật

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi II – Phẩm Ưng Xả Đối Trị

4. Nissaggiyakaṇḍaṃ
4. Phẩm Ưng Xả Đối Trị

1. Cīvaravaggo
1. Phẩm Y

1. Paṭhamakathinasikkhāpadavaṇṇanā
1. Tường giải về học giới kaṭhina thứ nhất

459.Samitāvināti samitapāpena. Gotamake cetiyeti gotamayakkhassa cetiyaṭṭhāne katavihāro vuccati. Paribhuñjituṃ anuññātaṃ hotīti bhagavatā gahapaticīvare anuññāte bahūni cīvarāni labhitvā bhaṇḍikaṃ katvā sīsepi khandhepi kaṭiyāpi ṭhapetvā āgacchante bhikkhū disvā cīvare sīmaṃ bandhantena ticīvaraṃ paribhogatthāya anuññātaṃ, na pana adhiṭṭhānavasena. Nahāyanti etthāti nahānaṃ, nahānatitthaṃ.
459. Bởi người đã lắng dịu tội lỗi là (có nghĩa) người đã dập tắt điều ác. Ở bảo tháp Gotamaka là được gọi là ngôi trú xứ được xây dựng ở nơi bảo tháp của dạ-xoa Gotama. Đã được cho phép dùng là khi đức Thế Tôn đã cho phép về y của gia chủ, (có một số vị) sau khi nhận được nhiều y, đã gói thành một gói rồi đội trên đầu, quảy trên vai, và buộc ở hông mà đi đến, sau khi thấy các Tỳ-khưu ấy, ngài đã quy định giới hạn về y và đã cho phép tam y cho mục đích sử dụng, chứ không phải do bởi sự chú nguyện. Nơi để tắm là bến tắm.

460. Eko kira brāhmaṇo cintesi ‘‘buddharatanassa ca saṅgharatanassa ca pūjā paññāyati, kathaṃ nu kho dhammaratanaṃ pūjitaṃ nāma hotī’’ti. So bhagavantaṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ pucchi. Bhagavā āha ‘‘sacepi brāhmaṇa dhammaratanaṃ pūjetukāmo, ekaṃ bahussutaṃ pūjehī’’ti. Bahussutaṃ bhante ācikkhathāti. Bhikkhusaṅghaṃ pucchāti. So bhikkhū upasaṅkamitvā ‘‘bahussutaṃ bhante ācikkhathā’’ti āha. Ānandatthero brāhmaṇāti. Brāhmaṇo theraṃ sahassagghanakena cīvarena pūjesi. Tena vuttaṃ ‘‘paṭilābhavasena uppanna’’nti. Uppanna-saddo nipphannapariyāyopi hotīti taṃ paṭikkhipanto āha ‘‘no nipphattivasenā’’ti. Paṭhamameva hi taṃ tantavāyakammena nipphannaṃ.
460. Nghe nói có một vị Bà-la-môn đã suy nghĩ rằng: “Sự cúng dường Phật bảo và Tăng bảo thì được biết đến, nhưng làm thế nào để sự cúng dường Pháp bảo được thực hiện đây?” Vị ấy đã đi đến đảnh lễ đức Thế Tôn và đã hỏi về ý nghĩa ấy. Đức Thế Tôn đã dạy rằng: “Này Bà-la-môn, nếu có ý muốn cúng dường Pháp bảo, hãy cúng dường một vị đa văn.” “Bạch ngài, xin hãy chỉ cho con vị đa văn.” “Hãy hỏi chúng Tỳ-khưu.” Vị ấy đã đi đến (nơi chúng) Tỳ-khưu và đã nói rằng: “Bạch các ngài, xin hãy chỉ cho con vị đa văn.” “Này Bà-la-môn, đó là trưởng lão Ānanda.” Vị Bà-la-môn đã cúng dường vị trưởng lão tấm y trị giá một ngàn. Do đó, đã được nói rằng: “Đã sanh lên do bởi sự nhận được.” Từ ‘sanh lên’ cũng có nghĩa là được làm thành, để bác bỏ điều ấy, ngài đã nói: “Không phải do bởi sự làm thành.” Vì rằng, trước tiên nó đã được làm thành do công việc của người thợ dệt.

Therassa santike upajjhaṃ gāhāpetvā sayaṃ anussāvanakammaṃ karotīti ettha sāriputtattheropi tatheva karotīti daṭṭhabbaṃ. Evaṃ ekamekena attano pattacīvaraṃ datvā pabbājetvā upajjhaṃ gaṇhāpitāni pañca pañca bhikkhusatāni ahesuṃ. Āyasmantaṃ ānandaṃ ativiya mamāyatīti ānandatthero tāva mamāyatu akhīṇāsavabhāvato, sāriputtatthero kathanti? Na idaṃ mamāyanaṃ gehassitapemavasena, atha kho guṇasambhāvanāvasenāti nāyaṃ doso. Navamaṃ vā divasaṃ dasamaṃ vāti bhummatthe upayogavacanaṃ , navame vā dasame vā divaseti attho. Sace bhaveyyāti sace kassaci evaṃ siyā. Vuttasadisamevāti ettha ‘‘vuttadivasamevā’’tipi paṭhanti. Dhāretunti ettha ‘‘āhā’’ti pāṭhaseso daṭṭhabbo.
Tự mình làm Tăng sự tuyên bố sau khi đã cho thọ nhận vị Thầy tế độ ở gần vị trưởng lão ở đây, nên được hiểu rằng trưởng lão Sāriputta cũng đã làm như vậy. Như thế, do mỗi vị đã cho y bát của mình, đã cho xuất gia, đã cho thọ nhận vị Thầy tế độ, đã có năm trăm và năm trăm vị Tỳ-khưu. Rất mực thương mến tôn giả Ānanda là trưởng lão Ānanda còn thương mến do vì bản tánh chưa đoạn tận các lậu hoặc, còn trưởng lão Sāriputta thì thế nào? Sự thương mến này không phải do bởi lòng quyến luyến tại gia, mà là do bởi sự quý trọng đức hạnh, vì thế đây không phải là lỗi. Ngày thứ chín hoặc ngày thứ mười là cách nói ở thất cách (biến cách nơi chốn), có nghĩa là vào ngày thứ chín hoặc vào ngày thứ mười. Nếu có thể có là nếu có trường hợp như vậy đối với người nào đó. Tương tự như đã được nói ở đây, cũng có người đọc là “chỉ ngày đã được nói.” Hãy giữ lấy ở đây, nên được thấy phần còn thiếu của câu là “đã nói.”

462-463.Niṭṭhitacīvarasminti bhummavacanassa lopaṃ katvā niddesoti āha ‘‘niṭṭhite cīvarasmi’’nti, cīvarassa karaṇapalibodhe upacchinneti vuttaṃ hoti. Pāsapaṭṭagaṇṭhikapaṭṭapariyosānaṃ yaṃ kiñci kātabbaṃ, taṃ katvāti yojetabbaṃ. Sūciyā paṭisāmananti idaṃ sūcikammassa sammā pariniṭṭhitabhāvadassanatthaṃ vuttaṃ, sūcikammaniṭṭhānamevettha pamāṇaṃ. Etesampīti vinaṭṭhādiṃ parāmasati.
462-463. Khi y đã được làm xong là sự chỉ định được thực hiện bằng cách lược bỏ biến cách nơi chốn, ngài đã nói “khi y đã được làm xong,” có nghĩa là, đã được nói là khi sự trở ngại trong việc làm y đã được chấm dứt. Bất cứ điều gì cần phải làm cho đến việc hoàn tất miếng đắp vai và miếng đắp lưng, sau khi đã làm xong điều ấy, nên được hiểu như vậy. Việc cất giữ cây kim điều này được nói nhằm mục đích cho thấy tình trạng đã được hoàn tất một cách tốt đẹp của công việc may vá, chính sự hoàn tất công việc may vá là tiêu chuẩn ở đây. Của những điều này cũng vậy là đề cập đến (trường hợp y) bị mất và các trường hợp khác.

Kathine ca ubbhatasminti yaṃ saṅghassa kathinaṃ atthataṃ, tasmiṃ kathine ca ubbhateti attho. Dutiyassa palibodhassa abhāvaṃ dassetīti āvāsapalibodhassa abhāvaṃ dasseti. Ettha ca ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ ubbhatasmiṃ kathine’’ti imehi dvīhi padehi dvinnaṃ palibodhānaṃ abhāvadassanena atthatakathinassa pañcamāsabbhantare yāva cīvarapalibodho āvāsapalibodho ca na upacchijjati, tāva anadhiṭṭhitaṃ avikappitaṃ atirekacīvaraṃ dasāhato parampi ṭhapetuṃ vaṭṭatīti dīpeti. Atthatakathinassa hi yāva kathinassa ubbhārā anāmantacāro asamādānacāro yāvadatthacīvaraṃ gaṇabhojanaṃ yo ca tattha cīvaruppādoti ime pañcānisaṃsā labbhanti. Pakkamanaṃ anto assāti pakkamanantikā. Evaṃ sesāpi veditabbā. Vitthāro panettha āgataṭṭhāneyeva āvi bhavissati.
Và khi kaṭhina đã được xả là kaṭhina nào đã được Tăng chúng thọ, khi kaṭhina ấy đã được xả, đó là ý nghĩa. Cho thấy sự không có mặt của trở ngại thứ hai là cho thấy sự không có mặt của trở ngại về trú xứ. Và ở đây, do bởi sự cho thấy sự không có mặt của hai loại trở ngại bằng hai từ này là “khi y đã được làm xong, khi kaṭhina đã được xả,” ngài đã chỉ ra rằng đối với người đã thọ kaṭhina, trong khoảng năm tháng, chừng nào trở ngại về y và trở ngại về trú xứ chưa được chấm dứt, chừng đó được phép giữ y dư không được chú nguyện, không được tác tịnh quá mười ngày. Vì rằng đối với người đã thọ kaṭhina, cho đến khi kaṭhina được xả, năm quả báu này được nhận lãnh: được đi lại không cần xin phép, được đi lại không mang đủ tam y, được nhận y tùy thích, được dùng bữa ăn chung nhóm, và phần y phát sanh ở nơi ấy. Giới hạn của việc ra đi là sự ra đi ở bên trong. Các (giới hạn) còn lại cũng nên được hiểu như vậy. Phần chi tiết ở đây sẽ được hiển nhiên ở ngay nơi đã được đề cập.

Khomanti khomasuttehi vāyitaṃ khomapaṭacīvaraṃ, tathā sesāni. Sāṇanti sāṇavākasuttehi katacīvaraṃ. Bhaṅganti khomasuttādīni sabbāni ekaccāni vā missetvā katacīvaraṃ. Bhaṅgampi vākamayamevāti keci. Dukūlaṃ paṭṭuṇṇaṃ somārapaṭaṃ cīnapaṭaṃ iddhijaṃ devadinnanti imāni pana cha cīvarāni etesaṃyeva anulomānīti visuṃ na vuttāni. Dukūlañhi sāṇassa anulomaṃ vākamayattā. Paṭṭuṇṇadese sañjātavatthaṃ paṭṭuṇṇaṃ. ‘‘Paṭṭuṇṇakoseyyaviseso’’ti hi abhidhānakose vuttaṃ. Somāradese cīnadese ca jātavatthāni somāracīnapaṭāni. Paṭṭuṇṇādīni tīṇi koseyyassa anulomāni pāṇakehi katasuttamayattā. Iddhijaṃ ehibhikkhūnaṃ puññiddhiyā nibbattacīvaraṃ, taṃ khomādīnaṃ aññataraṃ hotīti tesaṃ eva anulomaṃ. Devatāhi dinnaṃ cīvaraṃ devadinnaṃ, taṃ kapparukkhe nibbattaṃ jāliniyā devakaññāya anuruddhattherassa dinnavatthasadisaṃ, tampi khomādīnaṃyeva anulomaṃ hoti tesu aññatarabhāvato.
Vải lanh là tấm y bằng vải lanh được dệt từ những sợi lanh; các loại còn lại cũng tương tự. Vải gai là y được làm bằng những sợi gai. Vải gai dầu là y được làm bằng cách trộn lẫn tất cả hoặc một số loại sợi như sợi lanh và các loại khác. Một số vị cho rằng vải gai dầu cũng chính là loại làm từ vỏ cây. Sáu loại y này là vải dukūla, vải paṭṭuṇṇa, vải somāra, vải Tàu, y do thần thông, và y do chư thiên dâng, vì là các loại tương tự của những thứ ấy nên đã không được đề cập riêng. Thật vậy, vải dukūla là loại tương tự của vải gai, do được làm từ vỏ cây. Tấm vải được sanh ra ở xứ Paṭṭuṇṇa là vải paṭṭuṇṇa. Thật vậy, trong sách Abhidhānakosa có nói: “Paṭṭuṇṇa là một loại lụa koseyya đặc biệt.” Những tấm vải được sanh ra ở xứ Somāra và ở xứ Tàu là vải somāra và vải Tàu. Ba loại bắt đầu bằng paṭṭuṇṇa là các loại tương tự của lụa koseyya do được làm từ sợi do các sinh vật tạo ra. Y do thần thông là y được tạo ra bởi thần thông phước báu của các vị Tỳ-khưu “hãy đến,” y ấy là một trong các loại bắt đầu bằng vải lanh, nên là loại tương tự của chúng. Tấm y được chư thiên dâng là y do chư thiên dâng, y ấy được tạo ra trên cây như ý, tương tự như tấm vải đã được thiên nữ Jālinī dâng cho trưởng lão Anuruddha, y ấy cũng là loại tương tự của các loại bắt đầu bằng vải lanh, do là một trong số chúng.

Majjhimassa purisassa vidatthiṃ sandhāya ‘‘dve vidatthiyo’’tiādi vuttaṃ. Iminā dīghato vaḍḍhakīhatthappamāṇaṃ vitthārato tato upaḍḍhappamāṇaṃ vikappanupaganti dasseti. Tathā hi ‘‘sugatavidatthi nāma idāni majjhimassa purisassa tisso vidatthiyo, vaḍḍhakīhatthena diyaḍḍho hattho hotī’’ti kuṭikārasikkhāpadaṭṭhakathāyaṃ (pārā. aṭṭha. 2.348-349) vuttaṃ, tasmā sugataṅgulena dvādasaṅgulaṃ vaḍḍhakīhatthena diyaḍḍho hatthoti siddhaṃ. Evañca katvā sugataṅgulena aṭṭhaṅgulaṃ vaḍḍhakīhatthappamāṇanti idaṃ āgatamevāti.
Liên quan đến gang tay của người đàn ông có tầm vóc trung bình, câu “hai gang tay” v.v… đã được nói đến. Điều này cho thấy rằng (tấm y) có chiều dài bằng một thước thợ mộc và chiều rộng bằng một nửa số ấy thì hợp lệ cho việc tác tịnh. Thật vậy, trong Chú giải học giới về người làm cốc (pārā. aṭṭha. 2.348-349) có nói: “Gang tay của đức Như Lai được gọi là ba gang tay của người đàn ông có tầm vóc trung bình hiện nay, bằng một thước rưỡi theo thước thợ mộc,” do đó, được xác định rằng mười hai lóng tay của đức Như Lai là một thước rưỡi theo thước thợ mộc. Và khi làm như vậy, tám lóng tay của đức Như Lai bằng một thước thợ mộc, điều này đã được đề cập đến rồi.

Taṃ atikkāmayatoti ettha tanti cīvaraṃ kālaṃ vā parāmasati. Tassa yo aruṇoti tassa cīvaruppādadivasassa yo atikkanto aruṇo. Cīvaruppādadivasena saddhinti cīvaruppādadivasassa atikkantaaruṇena saddhinti attho. Divasasaddena hi taṃdivasanissito aruṇo vutto. Bandhitvāti rajjuādīhi bandhitvā. Veṭhetvāti vatthādīti veṭhetvā.
Đối với người làm cho nó quá hạn ở đây, từ đề cập đến y hoặc thời gian. Rạng đông của ngày ấy là rạng đông đã trôi qua của ngày phát sanh y ấy. Cùng với ngày phát sanh y có nghĩa là cùng với rạng đông đã trôi qua của ngày phát sanh y. Thật vậy, bằng từ ngày, rạng đông thuộc về ngày ấy đã được nói đến. Buộc lại là buộc lại bằng dây thừng v.v… Quấn lại là quấn lại bằng vải v.v…

Vacanīyoti saṅghaṃ apekkhitvā vuttaṃ. Aññathāpi vattabbanti ettha ‘‘yāya kāyaci bhāsāya padapaṭipāṭiyā avatvāpi atthamatte vutte vaṭṭatī’’ti vadanti. Tenāti āpattiṃ paṭiggaṇhantena. Paṭiggāhakena ‘‘passasī’’ti vutte desakena vattabbavacanaṃ dasseti ‘‘āma passāmī’’ti. Puna paṭiggāhakena vattabbavacanamāha ‘‘āyatiṃ saṃvareyyāsī’’ti. Evaṃ vutte puna desakena vattabbavacanaṃ ‘‘sādhu suṭṭhu saṃvarissāmī’’ti. Iminā attano āyatiṃ saṃvare patiṭṭhitabhāvaṃ dasseti. Dvīsu pana sambahulāsu vāti dvīsu sambahulāsu vā āpattīsu purimanayeneva vacanabhedo veditabbo. Ñattiyaṃ āpattiṃ sarati vivaratīti ettha dve āpattiyoti vā sambahulā āpattiyoti vā vattabbanti adhippāyo. Cīvaradānepīti nissaṭṭhacīvarassa dānepi. Vatthuvasenāti cīvaragaṇanāya. Gaṇassa vuttā pāḷiyevettha pāḷīti dvīsu imāhaṃ āyasmantānaṃ nissajjāmīti vacane visesābhāvato vuttaṃ. Evaṃ…pe… vattuṃ vaṭṭatīti vatvā tattha kāraṇamāha ‘‘itogarukatarānī’’tiādi. Tattha itoti ito nissaṭṭhacīvaradānato. Ñattikammato ñattidutiyakammaṃ garukataranti āha ‘‘ito garukatarānī’’ti. Imāhaṃ cīvaranti ettha ‘‘imaṃ cīvara’’ntipi paṭhanti.
Nên được nói là đã được nói đến tùy thuộc vào Tăng chúng. Cũng nên được nói theo cách khác ở đây, có vị nói rằng: “Dù không nói theo thứ tự từ ngữ bằng bất cứ ngôn ngữ nào, chỉ cần nói lên ý nghĩa là được phép.” Bởi người ấy là bởi người đang nhận tội. Khi người nhận (tội) nói “có thấy không?” ngài chỉ ra lời mà người phát lồ nên nói là “vâng, con thấy.” Ngài lại nói lời mà người nhận (tội) nên nói: “Sau này nên thu thúc.” Khi được nói như vậy, lời mà người phát lồ nên nói lại là: “Lành thay, con sẽ khéo thu thúc.” Bằng cách này, vị ấy cho thấy mình đã an trú trong sự thu thúc trong tương lai. Còn trong hai hoặc trong nhiều (tội) là trong hai hoặc trong nhiều tội, sự khác biệt về lời nói nên được hiểu theo phương pháp trước. Trong Tăng sự, nhớ lại tội, trình bày ở đây, ý muốn nói rằng nên nói là hai tội hoặc nhiều tội. Trong việc dâng y cũng vậy là trong việc dâng y đã được xả bỏ cũng vậy. Tùy theo vật là theo cách đếm y. Câu Pāḷi đã được nói cho nhóm chính là câu Pāḷi ở đây là được nói do không có sự khác biệt trong lời nói “con xin xả những (tấm y) này cho các tôn giả” trong trường hợp hai (tấm y). Sau khi nói Như vậy… vân vân… được phép nói, ngài đã nêu lý do ở đó: “trọng hơn việc này” v.v… Ở đó, việc này là từ việc dâng y đã xả bỏ này. Tăng sự chỉ có một vị tuyên bố và một vị phụ tá thì trọng hơn Tăng sự chỉ có một vị tuyên bố, nên ngài nói “trọng hơn việc này.” Những tấm y này của tôi ở đây, cũng có người đọc là “tấm y này của tôi.”

468.Naidha saññā rakkhatīti idaṃ vematikaṃ anatikkantasaññañca sandhāya vuttaṃ. Yopi evaṃsaññī, tassapīti na kevalaṃ atikkante atikkantasaññissa, atha kho vematikassa anatikkantasaññissapīti attho. ‘‘Na idha saññā rakkhatī’’tiādinā vuttamatthaṃ sesattikepi atidisati. Esa nayo sabbatthāti esa nayo avinaṭṭhādīsupīti aññesaṃ cīvaresu upacikādīhi khāyitesu ‘‘mayhampi cīvaraṃ khāyita’’nti evaṃsaññī hotītiādinā yojetabbanti dasseti. Anaṭṭhato aviluttassa visesamāha ‘‘pasayhāvahāravasenā’’ti. Theyyāvahāravasena gahitañhi naṭṭhanti adhippetaṃ, pasayhāvahāravasena gahitaṃ viluttanti. Anāpatti aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjatīti idaṃ nisīdanasanthataṃ sandhāya vuttaṃ. Yaṃ yena hi purāṇasanthatassa sāmantā sugatavidatthiṃ anādiyitvā aññaṃ navaṃ nisīdanasanthataṃ kataṃ, tassa taṃ nissaggiyaṃ hoti. Tasmā ‘‘anāpatti aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjatī’’ti idaṃ parassa nissaggiyaṃ aparassa paribhuñjituṃ vaṭṭatīti imamatthaṃ sādheti. Paribhogaṃ sandhāya vuttanti anatikkante atikkantasaññissa vematikassa ca paribhuñjantasseva dukkaṭaṃ, na pana aparibhuñjitvā ṭhapentassāti adhippāyo.
468. Ở đây, tưởng không bảo vệ điều này được nói liên quan đến người có sự nghi ngờ và người có tưởng là chưa quá hạn. Người nào có tưởng như vậy, đối với người ấy cũng vậy có nghĩa là không chỉ đối với người có tưởng là đã quá hạn khi (thời gian) đã quá hạn, mà còn cả đối với người có sự nghi ngờ và người có tưởng là chưa quá hạn. Bằng câu “Ở đây, tưởng không bảo vệ” v.v…, ngài áp dụng ý nghĩa đã được nói đến cho ba trường hợp còn lại. Phương pháp này áp dụng ở mọi nơi là phương pháp này cũng áp dụng cho các trường hợp không bị mất v.v… ngài cho thấy rằng nên được kết hợp như sau: khi y của những người khác bị mối mọt v.v… ăn, vị ấy có tưởng rằng “y của tôi cũng bị ăn” v.v… Ngài nói về sự khác biệt giữa không bị mất và không bị cướp là “do bởi việc lấy đi bằng vũ lực.” Thật vậy, ý muốn nói rằng cái bị lấy đi do bởi việc trộm cắp là bị mất, cái bị lấy đi do bởi việc lấy đi bằng vũ lực là bị cướp. Vô tội, khi nhận được vật do người khác làm rồi sử dụng điều này được nói liên quan đến tấm lót ngồi. Thật vậy, tấm lót ngồi mới nào đã được người nào đó làm mà không lấy một gang tay của đức Như Lai từ xung quanh tấm lót ngồi cũ, vật ấy trở thành vật Ưng Xả Đối Trị của vị ấy. Do đó, câu “vô tội, khi nhận được vật do người khác làm rồi sử dụng” này chứng minh cho ý nghĩa rằng vật Ưng Xả Đối Trị của người này thì người khác được phép sử dụng. Được nói liên quan đến việc sử dụng ý muốn nói rằng đối với người có tưởng là đã quá hạn khi chưa quá hạn và người có sự nghi ngờ, chỉ khi sử dụng mới phạm tội tác ác, chứ không phải khi cất giữ mà không sử dụng.

469.Ticīvaraṃ adhiṭṭhātunti nāmaṃ vatvā adhiṭṭhātuṃ. Na vikappetunti nāmaṃ vatvā na vikappetuṃ. Esa nayo sabbattha. Tasmā ticīvarādīni adhiṭṭhahantena ‘‘imaṃ saṅghāṭiṃ adhiṭṭhāmī’’tiādinā nāmaṃ vatvā adhiṭṭhātabbaṃ. Vikappentena pana ‘‘imaṃ saṅghāṭi’’ntiādinā tassa tassa cīvarassa nāmaṃ aggahetvāva ‘‘imaṃ cīvaraṃ tuyhaṃ vikappemī’’ti vikappetabbaṃ. Ticīvaraṃ vā hotu aññaṃ vā, yadi taṃ taṃ nāmaṃ gahetvā vikappeti, avikappitaṃ hoti, atirekacīvaraṭṭhāneyeva tiṭṭhati. Tato paraṃ vikappetunti ‘‘catumāsato paraṃ vikappetvā paribhuñjituṃ anuññāta’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Keci pana ‘‘tato paraṃ vikappetvā yāva āgāmisaṃvacchare vassānaṃ cātumāsaṃ, tāva ṭhapetuṃ anuññāta’’ntipi vadanti. ‘‘Tato paraṃ vikappetuṃ anujānāmīti ettāvatā vassikasāṭikaṃ kaṇḍuppaṭicchādiñca taṃ taṃ nāmaṃ gahetvā vikappetuṃ anuññātanti evamattho na gahetabbo tato paraṃ vassikasāṭikādināmasseva abhāvato. Tasmā tato paraṃ vikappentenapi nāmaṃ gahetvā na vikappetabbaṃ. Ubhinnampi tato paraṃ vikappetvā paribhogassa anuññātattā tathā vikappitaṃ aññanāmena adhiṭṭhahitvā paribhuñjitabba’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ.
469. Để chú nguyện tam y là nói tên rồi chú nguyện. Không để tác tịnh là nói tên rồi không tác tịnh. Phương pháp này áp dụng ở mọi nơi. Do đó, người chú nguyện tam y v.v… nên nói tên rồi chú nguyện bằng cách nói “con xin chú nguyện tấm y tăng-già-lê này” v.v… Còn người tác tịnh, không cần nêu tên của từng tấm y bằng cách nói “tấm y tăng-già-lê này” v.v…, mà nên tác tịnh bằng cách nói “con xin tác tịnh tấm y này cho thầy.” Dù là tam y hay y khác, nếu tác tịnh bằng cách nêu tên của y ấy, y ấy trở thành chưa được tác tịnh, và vẫn ở trong tình trạng là y dư. Sau đó hãy tác tịnh là “sau bốn tháng, được phép tác tịnh rồi sử dụng” đã được nói trong cả ba sách cương yếu. Nhưng một số vị nói rằng: “Sau đó, được phép tác tịnh rồi cất giữ cho đến bốn tháng mùa mưa của năm sắp tới.” “Ta cho phép tác tịnh sau đó,” không nên hiểu ý nghĩa rằng chỉ bấy nhiêu là đã cho phép tác tịnh y tắm mưa và y che ghẻ bằng cách nêu tên của chúng, vì sau đó không còn tên gọi là y tắm mưa v.v… nữa. Do đó, người tác tịnh sau đó cũng không nên nêu tên mà tác tịnh. “Vì cả hai đều được phép tác tịnh rồi sử dụng sau đó, nên sau khi đã tác tịnh như vậy, cần phải chú nguyện bằng một tên khác rồi sử dụng” đã được nói trong cả ba sách cương yếu.

Paccuddharāmīti ṭhapemi, pariccajāmīti vā attho. Imaṃ saṅghāṭiṃ adhiṭṭhāmīti ettha ‘‘imaṃ cīvaraṃ saṅghāṭiṃ adhiṭṭhāmīti evampi vattuṃ vaṭṭatī’’ti gaṇṭhipadesu vuttaṃ, tampi ‘‘imaṃ cīvaraṃ parikkhāracoḷaṃ adhiṭṭhāmī’’ti iminā sameti. Kāyavikāraṃ karontenāti hatthena cīvaraṃ parāmasantena vā cālentena vā. Duvidhanti sammukhaparammukhabhedesu duvidhaṃ. Hatthapāseti idaṃ dvādasahatthaṃ sandhāya vuttaṃ, tasmā dvādasahatthabbhantare ṭhitaṃ ‘‘ima’’nti vatvā adhiṭṭhātabbaṃ. Tato paraṃ ‘‘eta’’nti vatvā adhiṭṭhātabbanti keci vadanti. Gaṇṭhipadesu panettha na kiñci vuttaṃ. Pāḷiyaṃ aṭṭhakathāyañca sabbattha ‘‘hatthapāso’’ti aḍḍhateyyahattho vuccati, tasmā idha visesavikappanāya kāraṇaṃ gavesitabbaṃ. Sāmantavihāro nāma yattha tadaheva gantvā nivattituṃ sakkā. ‘‘Sāmantavihāre’’ti idaṃ desanāsīsamattaṃ, tasmā ṭhapitaṭṭhānaṃ sallakkhetvā dūre ṭhitampi adhiṭṭhātabbanti vadanti. Ṭhapitaṭṭhānaṃ sallakkhetvāti ca idaṃ ṭhapitaṭṭhānasallakkhaṇaṃ anucchavikanti katvā vuttaṃ, cīvarasallakkhaṇamevettha pamāṇaṃ.
Con xin xả bỏ có nghĩa là con đặt xuống, hoặc con từ bỏ. Con xin chú nguyện tấm y tăng-già-lê này ở đây, trong các sách cương yếu có nói: “Cũng được phép nói rằng: ‘Con xin chú nguyện tấm y này làm y tăng-già-lê’,” điều đó cũng tương đương với câu “con xin chú nguyện tấm y này làm vải vật dụng phụ.” Bằng người làm hành động của thân là bằng người chạm vào hoặc lay động y bằng tay. Hai loại là hai loại trong các sự phân chia: trước mặt và sau lưng. Trong tầm tay điều này được nói liên quan đến mười hai thước, do đó vật ở trong vòng mười hai thước nên được chú nguyện bằng cách nói “vật này.” Một số vị nói rằng vật ở xa hơn nên được chú nguyện bằng cách nói “vật kia.” Trong các sách cương yếu, không có gì được nói về điều này. Trong Pāḷi và Chú giải, ở mọi nơi “tầm tay” được gọi là hai thước rưỡi, do đó ở đây cần phải tìm lý do cho sự quy định đặc biệt. Trú xứ lân cận được gọi là nơi có thể đi và trở về trong cùng một ngày. Một số vị nói rằng: “Trong trú xứ lân cận” đây chỉ là tiêu đề của phần trình bày, do đó, sau khi ghi nhận nơi đã cất giữ, vật ở xa cũng nên được chú nguyện. Và câu sau khi ghi nhận nơi đã cất giữ này được nói do việc ghi nhận nơi cất giữ là thích hợp, chính sự ghi nhận y là tiêu chuẩn ở đây.

Adhiṭṭhahitvā ṭhapitavatthehīti parikkhāracoḷanāmena adhiṭṭhahitvā ṭhapitavatthehi. Adhiṭṭhānato pubbe saṅghāṭiādivohārassa abhāvato ‘‘imaṃ paccuddharāmī’’ti parikkhāracoḷassa visuṃ paccuddhāravidhiṃ dasseti. Parikkhāracoḷanāmena pana adhiṭṭhitattā ‘‘imaṃ parikkhāracoḷaṃ paccuddharāmī’’ti vuttepi nevatthi dosoti viññāyati. Paccuddharitvā puna adhiṭṭhātabbānīti idañca saṅghāṭiādicīvaranāmena adhiṭṭhahitvā paribhuñjitukāmaṃ sandhāya vuttaṃ. Parikkhāracoḷanāmeneva adhiṭṭhahitvā paribhuñjantassa pana pubbekataadhiṭṭhānameva adhiṭṭhānaṃ. Adhiṭṭhānakiccaṃ natthīti iminā kappabindudānakiccampi natthīti dasseti. Muṭṭhipañcakāditicīvarappamāṇayuttaṃ sandhāya ‘‘ticīvaraṃ panā’’tiādi vuttaṃ. Parikkhāracoḷaṃ adhiṭṭhātunti parikkhāracoḷaṃ katvā adhiṭṭhātuṃ. Baddhasīmāyaṃ avippavāsasīmāsammutisabbhāvato cīvaravippavāsepi nevatthi dosoti na tattha dupparihāratāti āha ‘‘abaddhasīmāyaṃ dupparihāra’’nti.
Bởi các tấm vải đã được chú nguyện và cất giữ là bởi các tấm vải đã được cất giữ sau khi chú nguyện với tên gọi là vải vật dụng phụ. Do không có danh từ như y tăng-già-lê v.v… trước khi chú nguyện, ngài chỉ ra phương pháp xả bỏ riêng cho vải vật dụng phụ bằng câu “con xin xả bỏ tấm y này.” Nhưng do đã được chú nguyện với tên gọi là vải vật dụng phụ, nên được hiểu rằng cũng không có lỗi gì khi nói: “con xin xả bỏ tấm vải vật dụng phụ này.” Sau khi xả bỏ, cần phải chú nguyện lại và điều này được nói liên quan đến người muốn sử dụng sau khi đã chú nguyện với tên gọi là y tăng-già-lê v.v… Còn đối với người sử dụng sau khi đã chú nguyện với chính tên gọi là vải vật dụng phụ, thì sự chú nguyện đã làm trước đó vẫn là sự chú nguyện. Không có phận sự chú nguyện bằng điều này, ngài cho thấy rằng cũng không có phận sự chấm dấu tác tịnh. Liên quan đến (y) có kích thước của tam y là năm nắm tay v.v…, câu “Còn tam y” v.v… đã được nói đến. Để chú nguyện vải vật dụng phụ là làm thành vải vật dụng phụ rồi chú nguyện. Trong khu vực giới đã được kết, do có sự chấp thuận về giới không xa lìa (y), nên dù có xa lìa y cũng không có lỗi, ở đó không có sự khó bảo quản, nên ngài nói: “khó bảo quản trong khu vực giới chưa được kết.”

Anatirittappamāṇāti sugatavidatthiyā dīghaso cha vidatthiyo tiriyaṃ aḍḍhateyyavidatthiñca anatikkantappamāṇāti attho. Nanu ca vassikasāṭikā vassānātikkamena, kaṇḍuppaṭicchādi ābādhavūpasamena adhiṭṭhānaṃ vijahati. Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. kathinasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘vassikasāṭikā vassānamāsātikkamenapi, kaṇḍuppaṭicchādi ābādhavūpasamenapi adhiṭṭhānaṃ vijahatī’’ti vuttaṃ. Tasmā ‘‘tato paraṃ paccuddharitvā vikappetabbā’’ti kasmā vuttaṃ. Sati hi adhiṭṭhāne paccuddhāro yuttoti? Ettha tāva tīsupi gaṇṭhipadesu idaṃ vuttaṃ ‘‘paccuddharitvāti idaṃ paccuddharaṇaṃ sandhāya na vuttaṃ, paccuddharitvāti pana vassikasāṭikabhāvato apanetvāti evamattho gahetabbo. Tasmā hemantassa paṭhamadivasato paṭṭhāya antodasāhe vassikasāṭikabhāvato apanetvā vikappetabbāti imamatthaṃ dassetuṃ ‘tato paraṃ paccuddharitvā vikappetabbā’ti vutta’’nti.
Có kích thước không vượt quá có nghĩa là có kích thước không vượt quá sáu gang tay chiều dài và hai gang tay rưỡi chiều ngang theo gang tay của đức Như Lai. Chẳng phải y tắm mưa sẽ mất hiệu lực chú nguyện khi hết mùa mưa, và y che ghẻ sẽ mất hiệu lực chú nguyện khi bệnh đã hết sao? Chính vì thế, trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. kathinasikkhāpadavaṇṇanā) có nói: “Y tắm mưa mất hiệu lực chú nguyện khi hết tháng mùa mưa, và y che ghẻ cũng mất hiệu lực chú nguyện khi bệnh đã hết.” Do đó, tại sao lại nói: “sau đó cần phải xả bỏ rồi tác tịnh?” Vì rằng khi có sự chú nguyện thì việc xả bỏ mới hợp lý? Về điều này, trong cả ba sách cương yếu đã nói như sau: “Câu ‘sau khi xả bỏ’ này không được nói liên quan đến việc xả bỏ, mà nên hiểu ý nghĩa của câu ‘sau khi xả bỏ’ là loại bỏ khỏi tình trạng là y tắm mưa. Do đó, để chỉ ra ý nghĩa rằng ‘bắt đầu từ ngày đầu tiên của mùa đông, trong vòng mười ngày, cần phải loại bỏ khỏi tình trạng là y tắm mưa rồi tác tịnh,’ câu ‘sau đó cần phải xả bỏ rồi tác tịnh’ đã được nói đến.”

Keci pana ‘‘yathā kathinamāsabbhantare uppannacīvaraṃ kathinamāsātikkame nissaggiyaṃ hoti, evamayaṃ vassikasāṭikāpi vassānamāsātikkame nissaggiyā hoti, tasmā kattikapuṇṇamadivase paccuddharitvā tato paraṃ hemantassa paṭhamadivase vikappetabbāti evamattho gahetabbo. Paccuddharitvā tato paraṃ vikappetabbāti padayojanā veditabbā’’ti ca vadanti, taṃ na yuttaṃ. Kathinamāse uppannañhi cīvaraṃ atirekacīvaraṭṭhāne ṭhitattā avasānadivase anadhiṭṭhitaṃ kathinamāsātikkame nissaggiyaṃ hoti. Ayaṃ pana vassikasāṭikā adhiṭṭhahitvā ṭhapitattā na tena sadisāti vassānātikkame kathaṃ nissaggiyā hoti. Anadhiṭṭhitaavikappitameva hi taṃtaṃkālātikkame nissaggiyaṃ hoti, tasmā hemantepi vassikasāṭikā dasāhaṃ parihāraṃ labhatiyeva. Evaṃ kaṇḍuppaṭicchādipi ābādhavūpasamena adhiṭṭhānaṃ vijahati, tasmā tato paraṃ dasāhaṃ parihāraṃ labhati, dasāhaṃ pana anatikkamitvā vikappetabbāti.
Nhưng một số vị nói rằng: “Giống như y phát sanh trong tháng kaṭhina trở thành vật Ưng Xả Đối Trị khi quá tháng kaṭhina, y tắm mưa này cũng vậy, trở thành vật Ưng Xả Đối Trị khi quá các tháng mùa mưa, do đó, nên hiểu ý nghĩa rằng cần phải xả bỏ vào ngày trăng tròn tháng Kattika rồi sau đó tác tịnh vào ngày đầu tiên của mùa đông. Cần phải hiểu sự kết hợp các từ là ‘sau khi xả bỏ, sau đó cần phải tác tịnh,’” điều đó không hợp lý. Vì rằng y phát sanh trong tháng kaṭhina, do ở trong tình trạng là y dư và chưa được chú nguyện vào ngày cuối cùng, nên trở thành vật Ưng Xả Đối Trị khi quá tháng kaṭhina. Còn y tắm mưa này, do đã được cất giữ sau khi chú nguyện, nên không giống với trường hợp kia, làm sao trở thành vật Ưng Xả Đối Trị khi quá mùa mưa được? Thật vậy, chỉ có y chưa được chú nguyện, chưa được tác tịnh mới trở thành vật Ưng Xả Đối Trị khi quá thời hạn tương ứng, do đó, y tắm mưa cũng được hưởng thời hạn mười ngày trong mùa đông. Tương tự, y che ghẻ cũng mất hiệu lực chú nguyện khi bệnh đã hết, do đó, sau đó được hưởng thời hạn mười ngày, nhưng cần phải tác tịnh trước khi quá mười ngày.

Keci pana ‘‘adhiṭṭhānabhedalakkhaṇe avuttattā vassikasāṭikā vassānamāsātikkamepi, kaṇḍuppaṭicchādi ābādhe vūpasantepi adhiṭṭhānaṃ na vijahati, tasmā ‘tato paraṃ paccuddharitvā vikappetabbā’ti idaṃ vutta’’nti vadanti, taṃ mātikāṭṭhakathāya na sameti, samantapāsādikāya pana sameti. Tathā hi ‘‘vassikasāṭikā vassānamāsātikkamenapi, kaṇḍuppaṭicchādi ābādhavūpasamenapi adhiṭṭhānaṃ vijahatī’’ti idaṃ samantapāsādikāyaṃ natthi, parivāraṭṭhakathāyañca ‘‘atthāpatti hemante āpajjati, no gimhe’’ti ettha idaṃ vuttaṃ ‘‘kattikapuṇṇamāsiyā pacchime pāṭipadadivase vikappetvā ṭhapitaṃ vassikasāṭikaṃ nivāsento hemante āpajjati. Kurundiyaṃ pana ‘kattikapuṇṇamadivase apaccuddharitvā hemante āpajjatī’ti vuttaṃ, tampi suvuttaṃ. Cātumāsaṃ adhiṭṭhātuṃ, tato paraṃ vikappetunti hi vutta’’nti (pari. aṭṭha. 323).
Nhưng một số vị nói rằng: “Do không được nói đến trong các đặc điểm về sự mất hiệu lực của chú nguyện, nên y tắm mưa dù quá các tháng mùa mưa, và y che ghẻ dù bệnh đã hết, cũng không mất hiệu lực chú nguyện, do đó, câu ‘sau đó cần phải xả bỏ rồi tác tịnh’ này đã được nói đến,” điều đó không phù hợp với Chú giải Mẫu Đề, nhưng lại phù hợp với bộ Samantapāsādikā. Thật vậy, câu “y tắm mưa mất hiệu lực chú nguyện khi quá các tháng mùa mưa, và y che ghẻ cũng mất hiệu lực chú nguyện khi bệnh đã hết” này không có trong bộ Samantapāsādikā, và trong Chú giải bộ Parivāra, ở đoạn “có tội vào mùa đông, không có tội vào mùa hè,” điều này đã được nói: “Khi đắp y tắm mưa đã được tác tịnh và cất giữ vào ngày mồng một sau ngày rằm tháng Kattika, vị ấy phạm tội vào mùa đông. Nhưng trong sách Kurundī, có nói: ‘Không xả bỏ vào ngày trăng tròn tháng Kattika, vị ấy phạm tội vào mùa đông,’ điều đó cũng được nói rất hay. Vì rằng đã được nói: ‘Hãy chú nguyện trong bốn tháng, sau đó hãy tác tịnh’” (pari. aṭṭha. 323).

Tattha mahāaṭṭhakathāyaṃ nivāsanapaccayā dukkaṭaṃ vuttaṃ, kurundaṭṭhakathāyaṃ pana apaccuddhārapaccayā. Tasmā kurundiyaṃ vuttanayeneva vassikasāṭikā vassānamāsātikkamepi adhiṭṭhānaṃ na vijahatīti paññāyati. Kurundiyañhi ‘‘vassānaṃ cātumāsaṃ adhiṭṭhātuṃ, tato paraṃ vikappetu’’nti vacanato yadi kattikapuṇṇamāyaṃ na paccuddhareyya, avijahitādhiṭṭhānā vassikasāṭikā hemantaṃ sampattā vikappanakkhette adhiṭṭhānasabbhāvato dukkaṭaṃ janeti, tasmā kattikapuṇṇamāyaṃ eva paccuddharitvā hemante vikappetabbāti iminā adhippāyena ‘‘kattikapuṇṇamadivase apaccuddharitvā hemante āpajjatī’’ti vuttaṃ, tasmā vīmaṃsitvā yuttataraṃ gahetabbaṃ.
Ở đó, trong Đại Chú Giải, tội tác ác được nói là do duyên đắp y, còn trong Chú giải Kurundī là do duyên không xả bỏ. Do đó, theo phương pháp đã được nói trong sách Kurundī, có vẻ như y tắm mưa không mất hiệu lực chú nguyện ngay cả khi đã quá các tháng mùa mưa. Thật vậy, trong sách Kurundī, theo câu “Hãy chú nguyện trong bốn tháng mùa mưa, sau đó hãy tác tịnh,” nếu vị ấy không xả bỏ vào ngày rằm tháng Kattika, y tắm mưa với sự chú nguyện chưa mất hiệu lực, khi đến mùa đông, do có sự chú nguyện trong phạm vi cần tác tịnh, nên phát sanh tội tác ác, do đó, với ý định rằng “cần phải xả bỏ ngay vào ngày rằm tháng Kattika rồi tác tịnh vào mùa đông,” câu “không xả bỏ vào ngày trăng tròn tháng Kattika, vị ấy phạm tội vào mùa đông” đã được nói đến, vì vậy, cần phải xem xét và chọn lấy điều hợp lý hơn.

Nahānatthāya anuññātattā ‘‘vaṇṇabhedamattarattāpi cesā vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Dve pana na vaṭṭantīti dvinnaṃ adhiṭṭhānābhāvato vuttaṃ. ‘‘Sace vassāne aparā vassikasāṭikā uppannā hoti, purimavassikasāṭikaṃ paccuddharitvā vikappetvā ca adhiṭṭhātabbā’’ti vadanti. Pamāṇayuttanti dīghaso sugatavidatthiyā dve vidatthiyo, vitthārato diyaḍḍhā, dasā vidatthīti iminā pamāṇena yuttaṃ. Pamāṇikāti sugatavidatthiyā dīghaso catasso vidatthiyo, tiriyaṃ dve vidatthiyoti evaṃ vuttappamāṇayuttā. Paccuddharitvā vikappetabbāti ettha yaṃ vattabbaṃ, taṃ heṭṭhā vuttameva. ‘‘Sakiṃ adhiṭṭhitaṃ adhiṭṭhitameva hoti, puna na paccuddharīyati kālaparicchedābhāvato’’ti vadanti. Apare pana ‘‘ekavacanenapi vaṭṭatīti dassanatthaṃ ‘sakiṃ adhiṭṭhitaṃ adhiṭṭhitamevā’ti vutta’’nti vadanti. Ubhayatthāpi assa vacanassa idha vacane apubbaṃ payojanaṃ na dissati, teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ imasmiṃ ṭhāne ‘‘sakiṃ adhiṭṭhitaṃ adhiṭṭhitameva hotī’’ti idaṃ padaṃ na vuttaṃ.
Do được cho phép vì mục đích tắm rửa, nên đã được nói: “Và tấm y này dù chỉ được nhuộm sơ qua cũng được phép.” Nhưng hai tấm thì không được phép là được nói do không có sự chú nguyện cho hai tấm. Có vị nói rằng: “Nếu trong mùa mưa, một y tắm mưa khác phát sanh, cần phải chú nguyện sau khi đã xả bỏ và tác tịnh y tắm mưa trước.” Hợp với kích thước là hợp với kích thước này: chiều dài hai gang tay, chiều rộng một gang tay rưỡi theo gang tay của đức Như Lai, tức là mười gang tay. Có kích thước tiêu chuẩn là hợp với kích thước đã được nói như sau: chiều dài bốn gang tay, chiều ngang hai gang tay theo gang tay của đức Như Lai. Cần phải xả bỏ rồi tác tịnh ở đây, điều cần phải nói đã được nói ở dưới. Có vị nói rằng: “Vật đã được chú nguyện một lần thì xem như đã được chú nguyện, không cần phải xả bỏ lại do không có sự giới hạn về thời gian.” Nhưng những vị khác lại nói: “Câu ‘vật đã được chú nguyện một lần thì xem như đã được chú nguyện’ được nói để cho thấy rằng chỉ một lời nói cũng được phép.” Trong cả hai trường hợp, không thấy có lợi ích mới nào của lời nói này ở đây, chính vì thế, trong Chú giải Mẫu Đề, ở chỗ này, câu “vật đã được chú nguyện một lần thì xem như đã được chú nguyện” này đã không được nói đến.

‘‘Attano santakabhāvato mocetvā ṭhapitaṃ sandhāya mahāpaccariyaṃ anāpatti vuttā’’ti vadanti. Iminā bhesajjaṃ cetāpessāmi, idaṃ mātuyā dassāmīti ṭhapentena adhiṭṭhātabbaṃ, idaṃ bhesajjassa, idaṃ mātuyāti vissajjetvā sakasantakabhāvato mocite adhiṭṭhānakiccaṃ natthīti adhippāyo. Senāsanaparikkhāratthāya dinnapaccattharaṇeti ettha ‘‘anivāsetvā apārupitvā ca kevalaṃ mañcapīṭhesuyeva attharitvā paribhuñjiyamānaṃ paccattharaṇaṃ attano santakampi anadhiṭṭhātuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. Heṭṭhā pana ‘‘paccattharaṇampi adhiṭṭhātabbamevā’’ti avisesena vuttattā attano santakaṃ adhiṭṭhātabbamevāti amhākaṃ khanti, vīmaṃsitvā gahetabbaṃ.
Có vị nói rằng: “Trong sách Mahāpaccarī, sự vô tội được nói đến liên quan đến vật đã được cất giữ sau khi giải thoát khỏi tình trạng sở hữu của mình.” Ý định của điều này là: người cất giữ với ý định “tôi sẽ mua thuốc, tôi sẽ cho mẹ cái này” thì cần phải chú nguyện; còn khi đã từ bỏ bằng cách nói “cái này của thuốc, cái này của mẹ” và đã giải thoát khỏi tình trạng sở hữu của mình thì không có phận sự chú nguyện. Trong tấm trải được dâng để làm vật dụng cho trú xứ ở đây, có vị nói rằng: “Tấm trải chỉ được trải ra trên giường hoặc ghế để sử dụng mà không đắp hoặc mặc, dù là của mình, cũng được phép không chú nguyện.” Nhưng vì ở dưới đã nói chung chung rằng “tấm trải cũng cần phải được chú nguyện,” nên quan điểm của chúng tôi là vật sở hữu của mình thì cần phải được chú nguyện, cần phải xem xét và chọn lấy.

‘‘Hīnāyāvattanenāti sikkhaṃ appaccakkhāya gihibhāvūpagamanenā’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ, taṃ yuttaṃ aññassa dāne viya cīvare nirālayabhāveneva pariccattattā. Keci pana ‘‘hīnāyāvattanenāti bhikkhuniyā gihibhāvūpagamanenā’’ti evamatthaṃ gahetvā ‘‘bhikkhu pana vibbhamantopi yāva sikkhaṃ na paccakkhāti, tāva bhikkhuyevāti adhiṭṭhānaṃ na vijahatī’’ti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ ‘‘bhikkhuniyā hīnāyāvattanenā’’ti visesetvā avuttattā. Bhikkhuniyā hi gihibhāvūpagamane adhiṭṭhānavijahanaṃ visuṃ vattabbaṃ natthi tassā vibbhamaneneva assamaṇībhāvato. Sikkhāpaccakkhānenāti pana idaṃ sace bhikkhuliṅge ṭhitova sikkhaṃ paccakkhāti , tassa kāyalaggampi cīvaraṃ adhiṭṭhānaṃ vijahatīti dassanatthaṃ vuttaṃ. Kaniṭṭhaṅgulinakhavasenāti heṭṭhimaparicchedaṃ dasseti. Pamāṇacīvarassāti pacchimappamāṇaṃ sandhāya vuttaṃ. Dve cīvarāni pārupantassāti antaragharappavesanatthāya suppaṭicchannasikkhāpade vuttanayena saṅghāṭiṃ uttarāsaṅgañca ekato katvā pārupantassa. Saṅgharitaṭṭhāneti dvīsupi antesu saṅgharitaṭṭhāne. Esa nayoti iminā pamāṇayuttesu yattha katthaci chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ vijahati, mahantesu pana tato parena chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ na vijahatīti ayamattho dassito. Sabbesūti ticīvarādibhedesu sabbacīvaresu.
“Bằng sự trở lại đời thấp hèn là bằng sự đi đến tình trạng người tại gia mà không từ bỏ học giới” đã được nói trong cả ba sách cương yếu, điều đó là hợp lý, vì đã từ bỏ y với tâm không luyến tiếc giống như khi cho người khác. Nhưng một số vị, sau khi hiểu ý nghĩa “bằng sự trở lại đời thấp hèn là bằng sự đi đến tình trạng người tại gia của Tỳ-khưu-ni,” đã nói rằng: “Còn Tỳ-khưu, dù có phạm giới, chừng nào chưa từ bỏ học giới thì vẫn là Tỳ-khưu, nên sự chú nguyện không mất hiệu lực,” điều đó không nên chấp nhận, vì đã không nói một cách đặc biệt là “bằng sự trở lại đời thấp hèn của Tỳ-khưu-ni.” Thật vậy, đối với Tỳ-khưu-ni, không cần phải nói riêng về việc mất hiệu lực chú nguyện khi đi đến tình trạng người tại gia, vì vị ấy đã không còn là sa-môn do chính sự phạm giới của mình. Còn câu bằng sự từ bỏ học giới này được nói để cho thấy rằng nếu vị ấy từ bỏ học giới khi vẫn còn trong hình tướng Tỳ-khưu, thì y đang mặc trên người cũng mất hiệu lực chú nguyện. Bằng móng tay út là chỉ giới hạn dưới. Của y có kích thước là được nói liên quan đến kích thước sau cùng. Của người đắp hai y là của người đắp y tăng-già-lê và y vai trái chung lại với nhau theo cách đã được nói trong học giới về việc khéo che mình để đi vào trong xóm. Ở chỗ được gấp lại là ở chỗ được gấp lại ở cả hai đầu. Phương pháp này bằng điều này, ý nghĩa này đã được chỉ ra: trong các y có kích thước hợp lệ, lỗ thủng ở bất cứ đâu cũng làm mất hiệu lực chú nguyện, còn trong các y lớn, lỗ thủng ở xa hơn thì không làm mất hiệu lực chú nguyện. Trong tất cả là trong tất cả các loại y được phân chia như tam y v.v…

Aññaṃ pacchimappamāṇaṃ nāma natthīti sutte āgataṃ natthīti adhippāyo. Idāni tameva vibhāvetuṃ ‘‘yañhī’’tiādi vuttaṃ. ‘‘Taṃ atikkamayato chedanakaṃ pācittiya’’nti vuttattā āha ‘‘tato uttari paṭisiddhattā’’ti. Taṃ na sametīti parikkhāracoḷassa vikappanupagapacchimaṃ pacchimappamāṇanti gahetvā itaresaṃ ticīvarādīnaṃ muṭṭhipañcakādibhedaṃ pacchimappamāṇaṃ sandhāya ‘‘esa nayo’’tiādivacanaṃ na sameti tādisassa pacchimappamāṇassa sutte abhāvatoti adhippāyo. Andhakaṭṭhakathāyaṃ vuttavacanaṃ na sametīti imināva paṭikkhepena vikappanupagapacchimassa anto yattha katthaci chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ vijahatīti ayampi nayo paṭikkhittoyevāti daṭṭhabbaṃ. Ticīvarañhi ṭhapetvā sesacīvaresu chiddena adhiṭṭhānavijahanaṃ nāma natthi, tasmā adhiṭṭhahitvā ṭhapitesu sesacīvaresu vikappanupagapacchimaṃ appahontaṃ katvā khaṇḍākhaṇḍikaṃ chinnesupi adhiṭṭhānavijahanaṃ natthi. Sace pana adhiṭṭhānato pubbeyeva tādisaṃ hoti, acīvarattā adhiṭṭhānakiccaṃ natthi. Khuddakaṃ cīvaranti muṭṭhipañcakādibhedappamāṇato anūnameva khuddakacīvaraṃ. Mahantaṃ vā khuddakaṃ karotīti ettha tiṇṇaṃ cīvarānaṃ catūsu passesu yasmiṃ padese chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ na vijahati, tasmiṃ padese samantato chinditvā khuddakaṃ karontassa adhiṭṭhānaṃ na vijahatīti adhippāyo.
Không có kích thước sau cùng nào khác ý muốn nói là không có được đề cập trong kinh điển. Bây giờ, để làm rõ chính điều đó, câu “Thật vậy, cái gì” v.v… đã được nói đến. Do đã được nói “Đối với người làm quá giới hạn đó, phạm tội Ưng Đối Trị có cắt bỏ,” nên ngài nói: “vì đã bị cấm vượt quá giới hạn đó.” Điều đó không phù hợp ý muốn nói là: sau khi chấp nhận rằng giới hạn sau cùng có thể tác tịnh của vải vật dụng phụ là kích thước sau cùng, lời nói “phương pháp này” v.v… liên quan đến kích thước sau cùng được phân chia như năm nắm tay v.v… của các loại tam y khác không phù hợp, vì kích thước sau cùng như vậy không có trong kinh điển. Bằng chính sự bác bỏ lời nói được đề cập trong Chú giải của phái Andhaka này, nên được hiểu rằng phương pháp này, tức là lỗ thủng ở bất cứ đâu trong giới hạn sau cùng có thể tác tịnh cũng làm mất hiệu lực chú nguyện, cũng đã bị bác bỏ. Thật vậy, ngoại trừ tam y, không có việc mất hiệu lực chú nguyện do lỗ thủng ở các y còn lại, do đó, trong các y còn lại đã được cất giữ sau khi chú nguyện, dù bị cắt thành từng mảnh nhỏ mà không làm mất đi giới hạn sau cùng có thể tác tịnh, cũng không có việc mất hiệu lực chú nguyện. Nhưng nếu y đã ở trong tình trạng như vậy trước khi chú nguyện, thì không có phận sự chú nguyện vì không phải là y. Y nhỏ là y nhỏ không nhỏ hơn kích thước được phân chia như năm nắm tay v.v… Hoặc làm cho y lớn thành nhỏ ở đây, ý muốn nói rằng: trong bốn cạnh của ba y, ở cạnh nào mà lỗ thủng không làm mất hiệu lực chú nguyện, thì sự chú nguyện của người làm cho y nhỏ lại bằng cách cắt xung quanh ở cạnh đó không bị mất hiệu lực.

Sammukhāvikappanā parammukhāvikappanāti ettha sammukhena vikappanā parammukhena vikappanāti evamattho gahetabbo. Sannihitāsannihitabhāvanti āsannadūrabhāvaṃ. Āsannadūrabhāvo ca adhiṭṭhāne vuttanayeneva veditabbo. Paribhogādayopi vaṭṭantīti ettha adhiṭṭhānassapi antogadhattā sace saṅghāṭiādināmena adhiṭṭhahitvā paribhuñjitukāmo hoti, adhiṭṭhānaṃ kātabbaṃ. No ce, na kātabbaṃ, vikappanameva pamāṇaṃ, tasmā atirekacīvaraṃ nāma na hoti. Mittoti daḷhamitto. Sandiṭṭhoti diṭṭhamitto nātidaḷhamitto. Vikappitavikappanā nāmesā vaṭṭatīti adhiṭṭhitaadhiṭṭhānaṃ viyāti adhippāyo avisesena vuttavacananti ticīvarādiṃ adhiṭṭheti, vassikasāṭikaṃ kaṇḍuppaṭicchādiñca vikappetīti avatvā sabbacīvarānaṃ avisesena vikappetīti vuttavacanaṃ. Ticīvarasaṅkhepenāti ticīvaranīhārena, saṅghāṭiādiadhiṭṭhānavasenāti vuttaṃ hoti.
Tác tịnh trước mặt và tác tịnh sau lưng ở đây, nên hiểu ý nghĩa là tác tịnh bởi người có mặt và tác tịnh bởi người vắng mặt. Tình trạng gần và không gần là tình trạng gần và xa. Tình trạng gần và xa cũng nên được hiểu theo cách đã được nói trong phần chú nguyện. Việc sử dụng v.v… cũng được phép ở đây, do việc chú nguyện cũng được bao gồm, nên nếu vị ấy muốn sử dụng sau khi đã chú nguyện với tên gọi là y tăng-già-lê v.v…, cần phải thực hiện sự chú nguyện. Nếu không, không cần thực hiện, chính sự tác tịnh là tiêu chuẩn, do đó không có cái gọi là y dư. Bạn thân là bạn thân thiết. Bạn quen là bạn đã từng gặp, không quá thân thiết. Việc tác tịnh lại vật đã tác tịnh này được phép ý muốn nói là giống như việc chú nguyện lại vật đã chú nguyện. Lời nói được đề cập chung chung là lời nói được đề cập bằng cách nói tác tịnh một cách chung chung cho tất cả các y, mà không nói chú nguyện tam y v.v… và tác tịnh y tắm mưa và y che ghẻ. Bằng sự tóm tắt của tam y là bằng cách nêu ra tam y, có nghĩa là, do bởi sự chú nguyện y tăng-già-lê v.v…

Tuyhaṃ demītiādīsu ‘‘tasmiṃ kāle na gaṇhitukāmopi sace na paṭikkhipati, puna gaṇhitukāmatāya sati gahetuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. Itthannāmassāti parammukhe ṭhitaṃ sandhāya vadati. ‘‘Tuyhaṃ gaṇhāhī’’ti vutte ‘‘mayhaṃ gaṇhāmī’’ti vadati, sudinnaṃ suggahitañcāti ettha ‘‘yathā parato ‘tava santakaṃ karohī’ti vutte duddinnampi ‘sādhu, bhante, mayhaṃ gaṇhāmī’ti vacanena ‘suggahitaṃ hotī’ti vuttaṃ, evamidhāpi ‘tuyhaṃ gaṇhāhī’ti vutte sudinnattā ‘mayhaṃ gaṇhāmī’ti avuttepi ‘sudinnamevā’’’ti vadanti. ‘‘Gaṇhāhīti ca āṇattiyā gahaṇassa tappaṭibaddhatākaraṇavasena pavattattā tadā gaṇhāmīti citte anuppādite pacchā gahetuṃ na labhatī’’ti vadanti.
Tôi cho anh v.v… có vị nói: “Vào lúc đó, dù không muốn nhận, nhưng nếu không từ chối, thì khi có ý muốn nhận lại, được phép nhận.” Của người tên là là nói đến người đang ở vắng mặt. Khi được nói “anh hãy nhận lấy,” vị ấy nói “tôi nhận cho tôi,” (vật) được cho tốt đẹp và được nhận tốt đẹp ở đây, có vị nói: “Giống như ở sau, khi được nói ‘hãy làm thành của bạn,’ dù đã cho không tốt, nhưng bằng lời nói ‘lành thay, bạch ngài, con xin nhận cho con’ đã được nói là ‘được nhận tốt đẹp,’ ở đây cũng vậy, khi được nói ‘anh hãy nhận lấy,’ do đã được cho tốt đẹp, nên dù không nói ‘tôi nhận cho tôi,’ vẫn là ‘được cho tốt đẹp.’” Có vị nói: “Và hãy nhận lấy, do được diễn ra theo cách làm cho việc nhận phụ thuộc vào mệnh lệnh, nên khi không khởi tâm ‘tôi sẽ nhận’ vào lúc đó, thì sau này không được phép nhận.”

Taṃ na yujjatīti vinayakammassa karaṇavasena gahetvā dinnattā vuttaṃ. Sace pana paro saccatoyeva vissāsaṃ gaṇhāti, puna kenaci kāraṇena tena dinnaṃ tassa na vaṭṭatīti natthi. Nissaggiyaṃ pana cīvaraṃ jānitvā vā ajānitvā vā gaṇhantaṃ ‘‘mā gaṇhāhī’’ti nivāraṇatthaṃ vuttaṃ. Kāyavācāhi kattabbaadhiṭṭhānavikappanānaṃ akatattā hotīti āha ‘‘kāyavācāto samuṭṭhātī’’ti. Cīvarassa attano santakatā, jātippamāṇayuttatā, chinnapalibodhabhāvo, atirekacīvaratā, dasāhātikkamoti imānettha pañca aṅgāni.
Điều đó không hợp lý là được nói do đã cho sau khi đã nhận lấy theo cách thực hiện một Tăng sự. Nhưng nếu người khác thực sự tin tưởng, thì không có chuyện y do người ấy cho lại không được phép dùng cho vị ấy vì một lý do nào đó. Còn việc ngăn cản người đang nhận y Ưng Xả Đối Trị, dù biết hay không biết, bằng cách nói “đừng nhận” là được nói đến. Do không thực hiện các việc chú nguyện và tác tịnh cần phải làm bằng thân và lời, nên (tội) phát sanh, ngài nói: “phát sanh từ thân và lời.” Tình trạng y là của mình, hợp với loại và kích thước, tình trạng đã chấm dứt trở ngại, là y dư, và quá mười ngày, đây là năm yếu tố ở đây.

Paṭhamakathinasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới kaṭhina thứ nhất.

2. Udositasikkhāpadavaṇṇanā
2. Tường giải về học giới Udosita (Xa lìa y)

471-473. Dutiye athānandatthero kathaṃ okāsaṃ paṭilabhati, kiṃ karonto ca āhiṇḍatīti āha ‘‘thero kirā’’tiādi. Avippavāseti nimittatthe bhummaṃ, avippavāsatthanti attho, vippavāsapaccayā yā āpatti, tadabhāvatthanti vuttaṃ hoti.
471-473. Trong học giới thứ hai, tại sao trưởng lão Ānanda lại có được cơ hội, và ngài đang làm gì mà đi lang thang, ngài đã nói: “Nghe nói vị trưởng lão” v.v… Về việc không xa lìa là biến cách thứ bảy (nơi chốn) mang ý nghĩa mục đích, có nghĩa là vì mục đích không xa lìa; đã được nói là vì mục đích không có tội lỗi do duyên xa lìa.

475-476.Evaṃ chinnapalibodhoti evaṃ imehi cīvaraniṭṭhānakathinubbhārehi chinnapalibodho. Adhiṭṭhitesūti ticīvarādhiṭṭhānanayena adhiṭṭhitesu. Ticīvarena vippavuttho hotīti ‘‘rukkho chinno, paṭo daḍḍho’’tiādīsu viya avayavepi samudāyavohāro labbhatīti vuttaṃ.
475-476. Như vậy, đã dứt trừ trở ngại là như vậy, đã dứt trừ trở ngại bởi việc làm xong y và việc xả kaṭhina này. Khi đã được chú nguyện là khi đã được chú nguyện theo phương pháp chú nguyện tam y. Xa lìa tam y là đã được nói rằng cách nói về toàn thể cũng được áp dụng cho một bộ phận, giống như trong các câu “cây đã bị chặt, tấm vải đã bị cháy” v.v…

477-478.Parikhāyavā parikkhittoti iminā ca samantā nadītaḷākādiudakena parikkhittopi parikkhittoyevāti dasseti. Ettāvatāti ‘‘parikkhitto’’ti iminā vacanena. Ākāse aruṇaṃ uṭṭhāpetīti gharassa upari ākāse aḍḍhateyyaratanappamāṇaṃ atikkamitvā aruṇaṃ uṭṭhāpeti. Gharaṃ nivesanudositādilakkhaṇameva, na pana pāṭiyekkaṃ gharaṃ nāma atthīti āha ‘‘ettha cā’’tiādi.
477-478. Hoặc được bao bọc bởi hào nước bằng điều này, ngài cho thấy rằng (nơi) được bao bọc bởi nước sông, ao hồ v.v… xung quanh cũng chính là được bao bọc. Chỉ bấy nhiêu là bằng lời nói “được bao bọc” này. Để rạng đông mọc lên ở trên không là để rạng đông mọc lên ở trên không, phía trên ngôi nhà, vượt quá khoảng cách hai thước rưỡi. Ngôi nhà chỉ có các đặc điểm như khu nhà, khu nhà bị bỏ hoang v.v…, chứ không có một ngôi nhà riêng lẻ nào, nên ngài nói: “Và ở đây” v.v…

479. Pāḷiyaṃ vuttanayena ‘‘sabhāye’’ti avatvā ‘‘sabhāya’’nti paccattavacanaṃ sabhāya-saddassa napuṃsakaliṅgatāvibhāvanatthaṃ vuttaṃ. Sabhā-saddapariyāyopi hi sabhāya-saddo napuṃsakaliṅgayutto idha vuttoti imamatthaṃ dassento ‘‘liṅgabyattayena sabhā vuttā’’ti āha. Cīvarahatthapāse vasitabbaṃ natthīti cīvarahatthapāseyeva vasitabbanti natthi. Yaṃ tassā…pe… na vijahitabbanti ettha tassā vīthiyā sammukhaṭṭhāne sabhāyadvārānaṃ gahaṇeneva tattha sabbānipi gehāni sā ca antaravīthi gahitāyeva hoti. Atiharitvā ghare nikkhipatīti taṃ vīthiṃ muñcitvā ṭhite aññasmiṃ ghare nikkhipati. Purato vā pacchato vā hatthapāseti gharassa hatthapāsaṃ sandhāya vadati.
479. Theo phương pháp đã được nói trong Pāḷi, thay vì nói “sabhāye,” ngài đã nói “sabhāya,” một từ ở biến cách thứ nhất, để phân biệt rằng từ sabhāya thuộc trung tính. Để chỉ ra ý nghĩa rằng từ sabhāya, một từ đồng nghĩa với từ sabhā, được dùng ở đây với giống trung tính, ngài đã nói: “nhà hội được nói đến với sự thay đổi về giống.” Không có quy định phải ở trong tầm tay của y là không có quy định rằng phải ở ngay trong tầm tay của y. Cái nào của con đường ấy… vân vân… không nên xa lìa ở đây, bằng việc chỉ lấy các cửa nhà hội ở vị trí đối diện của con đường ấy, tất cả các ngôi nhà ở đó và cả con đường ở giữa cũng đã được lấy. Mang đi và cất giữ trong nhà là cất giữ trong một ngôi nhà khác, nằm ngoài con đường ấy. Trong tầm tay ở phía trước hoặc phía sau là nói đến tầm tay của ngôi nhà.

Nivesanādīsu parikkhittatāya ekūpacāratā, aparikkhittatāya nānūpacāratā ca veditabbāti dassento ‘‘etenevupāyenā’’tiādimāha. Nivesanādīni gāmato bahi sanniviṭṭhāni gahitānīti veditabbaṃ. Antogāme ṭhitānañhi gāmaggahaṇena gahitattā gāmaparihāroyevāti. Sabbatthāpīti gāmādīsu ajjhokāsapariyantesu pannarasasu. Parikkhepādivasenāti ettha ādi-saddena aparikkhepasseva gahaṇaṃ veditabbaṃ, na ekakulādīnampi.
Để chỉ ra rằng trong các khu nhà ở v.v…, do được bao bọc nên cần được hiểu là có chung một khu vực sinh hoạt, và do không được bao bọc nên có khu vực sinh hoạt riêng, ngài đã nói: “bằng phương pháp này” v.v… Cần phải hiểu rằng các khu nhà ở v.v… được lấy là những nơi được bố trí ở ngoài làng. Vì rằng những nơi nằm trong làng đã được bao gồm bởi việc lấy làng, nên có sự miễn trừ của làng. Trong tất cả là trong mười lăm nơi, từ làng mạc cho đến khoảng đất trống. Do bởi sự bao bọc v.v… ở đây, cần phải hiểu rằng bằng từ vân vân, chỉ lấy trường hợp không có sự bao bọc, chứ không lấy cả trường hợp một gia đình v.v…

480-487.Ovarako nāma gabbhassa abbhantare añño gabbhotipi vadanti. Muṇḍacchadanapāsādoti candikaṅgaṇayutto pāsādo.
480-487. Phòng trong có vị nói là một căn phòng khác bên trong một căn phòng. Lâu đài có mái bằng là lâu đài có sân thượng.

489.Satthoti jaṅghasattho sakaṭasattho vā. Pariyādiyitvāti vinivijjhitvā. Vuttamevatthaṃ vibhāveti ‘‘antopaviṭṭhena…pe… ṭhito hotī’’ti. Tattha antopaviṭṭhenāti gāmassa nadiyā vā antopaviṭṭhena. Nadīparihāro ca labbhatīti ettha ‘‘visuṃ nadīparihārassa avuttattā gāmādīhi aññattha viya cīvarahatthapāsoyeva nadīparihāro’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Vihārasīmanti avippavāsasīmaṃ sandhāyāha. Vihāraṃ gantvā vasitabbanti antosīmāya yattha katthaci vasitabbaṃ. Satthasamīpeyevāti idaṃ yathāvuttaabbhantaraparicchedavasena vuttaṃ. Pāḷiyaṃ nānākulassasattho hoti, satthe cīvaraṃ nikkhipitvā hatthapāsā na vijahitabbanti ettha hatthapāso nāma satthassa hatthapāsoti veditabbaṃ.
489. Đoàn lữ hành là đoàn lữ hành đi bộ hoặc đoàn lữ hành đi xe. Bao trùm là đi xuyên qua. Ngài làm rõ ý nghĩa đã được nói: “bởi người đã đi vào trong… vân vân… đang đứng.” Ở đó, bởi người đã đi vào trong là bởi người đã đi vào trong làng hoặc sông. Và được hưởng sự miễn trừ của sông ở đây, trong cả ba sách cương yếu có nói: “do không có sự miễn trừ riêng cho sông, nên sự miễn trừ của sông cũng chính là tầm tay của y, giống như ở những nơi khác ngoài làng mạc v.v…” Giới của trú xứ ngài nói đến giới không xa lìa (y). Nên đến ở trong trú xứ là nên ở bất cứ nơi nào trong giới. Chỉ ở gần đoàn lữ hành điều này được nói theo cách phân định bên trong đã được đề cập. Trong Pāḷi, ở câu có đoàn lữ hành của nhiều gia đình, sau khi cất y trong đoàn lữ hành, không nên xa lìa tầm tay, cần phải hiểu rằng tầm tay ở đây là tầm tay của đoàn lữ hành.

490.Ekakulassa khetteti aparikkhittaṃ sandhāya vadati. Yasmā ‘‘nānākulassa parikkhitte khette cīvaraṃ nikkhipitvā khettadvāramūle vā tassa hatthapāse vā vatthabba’’nti vuttaṃ, tasmā dvāramūlato aññattha antokhettepi vasantena cīvaraṃ hatthapāse katvāyeva vasitabbaṃ.
490. Trong ruộng của một gia đình là nói đến nơi không được bao bọc. Bởi vì đã được nói: “sau khi cất y trong ruộng được bao bọc của nhiều gia đình, nên ở tại gốc cửa ruộng hoặc trong tầm tay của nó,” do đó, khi ở nơi khác ngoài gốc cửa, ngay cả trong ruộng, cũng cần phải để y trong tầm tay mà ở.

491-494.‘‘Vihāro nāma saparikkhitto vā aparikkhitto vā sakalo āvāso’’ti vadanti. Yasmiṃ vihāreti ettha pana ekaṃ gehameva vuttaṃ. Ekakulanānākulasantakatā cettha kārāpakānaṃ vasena veditabbā. Chāyāya phuṭṭhokāsassa anto evāti yadā mahāvīthiyaṃ ujukameva gacchantaṃ sūriyamaṇḍalaṃ majjhanhikaṃ pāpuṇāti, tadā yaṃ okāsaṃ chāyā pharati, taṃ sandhāya vuttaṃ. Agamanapatheti yaṃ tadaheva gantvā puna āgantuṃ sakkā na hoti, tādisaṃ sandhāya vuttaṃ.
491-494. Có vị nói: “Trú xứ được gọi là toàn bộ nơi ở, dù có rào bao bọc hay không.” Nhưng ở đây, câu trong trú xứ nào chỉ nói đến một ngôi nhà. Sự sở hữu của một gia đình hay nhiều gia đình ở đây, cần được hiểu theo những người xây cất. Chỉ bên trong khoảng không gian mà bóng râm chạm đến là được nói liên quan đến khoảng không gian mà bóng râm bao phủ khi mặt trời đi thẳng trên con đường lớn và đến đỉnh đầu vào giữa trưa. Trên con đường không thể trở về là được nói liên quan đến nơi không thể đi và trở về ngay trong ngày.

495.Nadiṃ otaratīti hatthapāsaṃ muñcitvā otarati. Na āpajjatīti paribhogapaccayā dukkaṭaṃ nāpajjati. Tenāha ‘‘so hī’’tiādi. Aparibhogārahattāti imināva nissaggiyacīvaraṃ anissajjetvā paribhuñjantassa dukkaṭaṃ acittakanti siddhaṃ. Ekaṃ pārupitvā ekaṃ aṃsakūṭe ṭhapetvā gantabbanti idaṃ bahūnaṃ sañcāraṭṭhāne evaṃ akatvā gamanaṃ na sāruppanti katvā vuttaṃ. Bahigāme ṭhapetvā…pe… vinayakammaṃ kātabbanti vuttattā adhiṭṭhāne viya parammukhā ṭhitampi nissaggiyaṃ cīvaraṃ nissajjituṃ nissaṭṭhacīvarañca dātuṃ vaṭṭatīti veditabbaṃ.
495. Xuống sông là xuống sông sau khi đã rời khỏi tầm tay. Không phạm tội là không phạm tội tác ác do duyên sử dụng. Do đó, ngài nói: “Vì vị ấy” v.v… Do không thích hợp để sử dụng chính bằng điều này, xác định rằng tội tác ác của người sử dụng y Ưng Xả Đối Trị mà không xả bỏ là tội không có chủ tâm. Nên đi bằng cách đắp một y và để một y trên vai điều này được nói do cho rằng việc đi mà không làm như vậy ở nơi có nhiều người qua lại là không thích hợp. Sau khi cất giữ ở ngoài làng… vân vân… cần phải làm Tăng sự do đã được nói như vậy, nên được hiểu rằng cũng được phép xả bỏ y Ưng Xả Đối Trị và cho đi y đã xả bỏ dù đang ở vắng mặt, giống như trong trường hợp chú nguyện.

Gamane saussāhattā ‘‘nissayo pana na paṭippassambhatī’’ti vuttaṃ. Muhuttaṃ sayitvā…pe… nissayo ca paṭippassambhatīti ettha ‘‘ussāhe apariccattepi gamanassa upacchinnattā puna uṭṭhāya saussāhaṃ gacchantānampi antarā aruṇe uṭṭhite nissayo paṭippassambhatiyevā’’ti vadanti. Parato muhuttaṃ ṭhatvāti etthāpi eseva nayo. Aññamaññassa vacanaṃ aggahetvā gatāti ettha sace evaṃ gacchantā ‘‘purāruṇā aññamaññaṃ passissāmā’’ti ussāhaṃ vināva gatā honti, aruṇuggamane nissayapaṭippassaddhi na vattabbā paṭhamataraṃyeva paṭippassambhanato. Atha ‘‘purāruṇā passissāmā’’ti saussāhāva gacchanti, nissayapaṭippassaddhiyeva na vattabbā. Evañca sati ‘‘saha aruṇuggamanā nissayo paṭippassambhatī’’ti kasmā vuttaṃ? Vuccate – saussahattā paṭhamataraṃ paṭippassaddhi na vuttā. Satipi ca ussāhabhāve ekato gamanassa upacchinnattā ‘‘muhuttaṃ ṭhatvā’’ti ettha viya saha aruṇuggamanā paṭippassaddhiyeva vuttā.
Do có sự nỗ lực trong việc đi, nên đã được nói: “nhưng sự nương tựa không được lắng dịu.” Sau khi nằm một lát… vân vân… và sự nương tựa được lắng dịu ở đây, có vị nói: “dù nỗ lực chưa được từ bỏ, nhưng do việc đi đã bị gián đoạn, nên đối với những người đứng dậy và đi với sự nỗ lực trở lại, nếu rạng đông mọc lên ở giữa chừng, sự nương tựa vẫn được lắng dịu.” Ở sau, câu sau khi đứng một lát cũng có cùng phương pháp này. Đi mà không nghe lời của nhau ở đây, nếu những người đi như vậy đi mà không có nỗ lực rằng “chúng ta sẽ gặp nhau trước rạng đông,” thì không cần nói đến việc lắng dịu sự nương tựa khi rạng đông mọc, vì đã được lắng dịu ngay từ đầu. Còn nếu họ đi với nỗ lực rằng “chúng ta sẽ gặp nhau trước rạng đông,” thì không cần nói đến việc lắng dịu sự nương tựa. Nếu đã như vậy, tại sao lại nói: “sự nương tựa được lắng dịu cùng với lúc rạng đông mọc?” Xin thưa: Do có sự nỗ lực, nên việc lắng dịu ngay từ đầu đã không được nói đến. Và mặc dù có sự nỗ lực, nhưng do việc đi cùng nhau đã bị gián đoạn, nên việc lắng dịu cùng với lúc rạng đông mọc đã được nói đến, giống như trong trường hợp “sau khi đứng một lát.”

Antosīmāyaṃ gāmanti avippavāsasīmāsammutiyā pacchā patiṭṭhāpitagāmaṃ sandhāya vadati gāmaṃ anto katvā avippavāsasīmāsammutiyā abhāvato. Neva cīvarāni nissaggiyāni hontīti avippavāsasīmābhāvato vuttaṃ, na nissayo paṭippassambhatīti saussāhabhāvato. Antarāmaggeyeva ca nesaṃ aruṇaṃ uggacchatīti dhammaṃ sutvā āgacchantānaṃ aruṇaṃ uggacchati. Assatiyā gacchatīti assatiyā attano cīvaraṃ apaccuddharitvā therassa cīvaraṃ apaccuddharāpetvā gacchati. Evaṃ gate tasmiṃ pacchā therena saritvā paṭipajjitabbavidhiṃ dasseti ‘‘attano cīvaraṃ paccuddharitvā daharassa cīvaraṃ vissāsena gahetvā ṭhapetabba’’nti. Gantvā vattabboti āgatakiccaṃ niṭṭhapetvā vihāraṃ gatena paṭipajjitabbavidhiṃ dasseti. Anadhiṭṭhitacīvaratā, anatthatakathinatā, aladdhasammutitā, rattivippavāsoti imānettha cattāri aṅgāni.
Làng ở trong giới ngài nói đến ngôi làng được thành lập sau khi đã chấp thuận giới không xa lìa (y), do không có việc chấp thuận giới không xa lìa (y) bằng cách bao gồm ngôi làng vào trong. Y không trở thành vật Ưng Xả Đối Trị là được nói do không có giới không xa lìa (y), sự nương tựa không được lắng dịu là do có sự nỗ lực. Và rạng đông của họ mọc lên ngay trên đường là rạng đông mọc lên khi họ đang đi về sau khi nghe pháp. Đi trong sự thất niệm là đi mà không xả bỏ y của mình và không yêu cầu trưởng lão xả bỏ y của vị ấy trong sự thất niệm. Khi vị ấy đã đi như vậy, ngài chỉ ra phương pháp mà trưởng lão nên thực hành sau khi nhớ lại: “nên xả bỏ y của mình và giữ lấy y của vị trẻ với sự tin tưởng.” Sau khi đi nên được cho là ngài chỉ ra phương pháp nên được thực hành bởi người đã đến trú xứ sau khi đã hoàn thành công việc đã đến. Tình trạng y chưa được chú nguyện, tình trạng kaṭhina chưa được thọ, tình trạng chưa nhận được sự chấp thuận, và sự xa lìa qua đêm, đây là bốn yếu tố ở đây.

Udositasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới Udosita.

3. Tatiyakathinasikkhāpadavaṇṇanā
3. Tường giải về học giới kaṭhina thứ ba

497-499. Tatiye pāḷiyaṃ cīvarapaccāsā nikkhipitunti ettha cīvarapaccāsāya satiyā nikkhipitunti evamattho gahetabbo. Bhaṇḍikābaddhāni bhaṇḍikabaddhānītipi paṭhanti, bhaṇḍikaṃ katvā baddhānīti attho. Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunāti ettha purimasikkhāpade viya sāmivaseneva karaṇavacanassa attho veditabbo.
497-499. Trong học giới thứ ba, ở câu Pāḷi cất giữ với hy vọng về y, nên hiểu ý nghĩa là cất giữ khi có hy vọng về y. Cũng có người đọc là `bhaṇḍikabaddhāni`, có nghĩa là đã được gói lại thành một gói. Bởi Tỳ-khưu khi y đã được làm xong ở đây, nên hiểu ý nghĩa của biến cách thứ ba (sở dụng cách) theo nghĩa sở hữu cách, giống như trong học giới trước.

500. Anatthate kathine cīvaramāse bhikkhuno uppannacīvaraṃ anadhiṭṭhitaṃ avikappitaṃ tasmiṃ māse ṭhapetuṃ vaṭṭatīti āha ‘‘ekaṃ pacchimakattikamāsaṃ ṭhapetvā’’ti. Keci pana ‘‘kālepi ādissa dinnaṃ, etaṃ akālacīvaranti vacanato anatthate kathine pacchimakattikamāsasaṅkhāte cīvaramāse uppannacīvarassapi paccāsācīvare asati dasāhaparihāroyeva, tato paraṃ ṭhapetuṃ na vaṭṭatī’’ti vadanti, taṃ aṭṭhakathāya na sameti. Tathā hi accekacīvarasikkhāpadaṭṭhakathāyaṃ (pārā. aṭṭha. 2.646-649 ādayo) ‘‘pavāraṇamāsassa juṇhapakkhapañcamiyaṃ uppannassa accekacīvarassa anatthate kathine ekādasadivasādhiko māso, atthate kathine ekādasadivasādhikā pañca māsā parihāro’’ti vuttaṃ. Tameva ca parihāraṃ sandhāya ‘‘chaṭṭhito paṭṭhāya pana uppannaṃ anaccekacīvarampi paccuddharitvā ṭhapitacīvarampi etaṃ parihāraṃ labhatiyevā’’ti (pārā. aṭṭha. 2.646-649) vuttaṃ. Tasmā cīvaramāse dasāhato parampi anadhiṭṭhitaṃ avikappitampi ṭhapetuṃ vaṭṭati.
500. Khi kaṭhina chưa được thọ, y phát sanh cho Tỳ-khưu trong tháng y, chưa được chú nguyện, chưa được tác tịnh, được phép cất giữ trong tháng ấy, nên ngài nói: “cất giữ trong một tháng Kattika cuối cùng.” Nhưng một số vị nói rằng: “Theo câu ‘được dâng cúng chỉ định ngay trong mùa, đây là y trái mùa,’ khi kaṭhina chưa được thọ, đối với y phát sanh trong tháng y, tức là tháng Kattika cuối cùng, nếu không có y hy vọng thì cũng chỉ có thời hạn mười ngày, không được phép cất giữ quá thời hạn đó,” điều đó không phù hợp với Chú giải. Thật vậy, trong Chú giải học giới về y khẩn cấp (pārā. aṭṭha. 2.646-649 v.v…) có nói: “Đối với y khẩn cấp phát sanh vào ngày mồng năm thượng tuần của tháng Pavāraṇā, khi kaṭhina chưa được thọ, thời hạn là một tháng cộng mười một ngày; khi kaṭhina đã được thọ, thời hạn là năm tháng cộng mười một ngày.” Và liên quan đến chính thời hạn đó, có nói: “Còn y không phải là y khẩn cấp phát sanh từ ngày mồng sáu trở đi, và y đã được cất giữ sau khi xả bỏ, cũng được hưởng thời hạn này” (pārā. aṭṭha. 2.646-649). Do đó, trong tháng y, cũng được phép cất giữ quá mười ngày dù chưa được chú nguyện, chưa được tác tịnh.

Yadi evaṃ ‘‘kālepi ādissa dinnaṃ, etaṃ akālacīvara’’nti idaṃ kasmā vuttanti ce? Akālacīvarasāmaññato atthuddhāravasena vuttaṃ paṭhamāniyate sotassa raho viya. Ekādasamāse sattamāse ca uppannañhi cīvaraṃ vutthavassehi sesehi ca sammukhībhūtehi bhājetuṃ labbhatīti akālacīvaraṃ nāma jātaṃ. Kāle pana ‘‘saṅghassa idaṃ akālacīvaraṃ dammī’’ti anuddisitvā ‘‘saṅghassa dammī’’ti dinnaṃ vutthavassehiyeva bhājetabbaṃ, na aññehīti kālacīvaranti vuccati. Ādissa dinnaṃ pana sammukhībhūtehi sabbehiyeva bhājetabbanti akālacīvaraṃ, tasmā kālepi ādissa dinnassa vutthavassehi sesehi ca sampattehi bhājanīyattā akālacīvarasāmaññato ‘‘kālepi ādissa dinnaṃ, etaṃ akālacīvara’’nti atthuddhāravasena vuttaṃ. Yadi evaṃ ‘‘ekapuggalassa vā idaṃ tuyhaṃ dammīti dinna’’nti kasmā vuttaṃ. Na hi puggalassa ādissa dinnaṃ kenaci bhājanīyaṃ hotīti? Nāyaṃ virodho ādissa vacanasāmaññato labbhamānamatthaṃ dassetuṃ tathā vuttattā.
Nếu vậy, tại sao lại nói: “được dâng cúng chỉ định ngay trong mùa, đây là y trái mùa?” Xin thưa: Được nói theo cách trích dẫn ý nghĩa từ tính chất chung của y trái mùa, giống như sự ẩn mật của dòng nước trong quy luật đầu tiên. Thật vậy, y phát sanh trong mười một tháng và bảy tháng được phép chia cho những người đã an cư và những người còn lại có mặt, nên đã trở thành y trái mùa. Còn trong mùa, y được dâng cúng mà không chỉ định rằng “con xin dâng y trái mùa này cho Tăng chúng” mà chỉ nói “con xin dâng cho Tăng chúng,” thì chỉ được chia cho những người đã an cư, không phải cho những người khác, nên được gọi là y đúng mùa. Còn y được dâng cúng chỉ định thì được chia cho tất cả những người có mặt, nên là y trái mùa, do đó, do y được dâng cúng chỉ định ngay trong mùa cũng phải được chia cho những người đã an cư và những người còn lại có mặt, nên từ tính chất chung của y trái mùa, câu “được dâng cúng chỉ định ngay trong mùa, đây là y trái mùa” đã được nói theo cách trích dẫn ý nghĩa. Nếu vậy, tại sao lại nói: “hoặc được dâng cho một cá nhân bằng cách nói: ‘tôi cho anh cái này.’” Vì rằng y được dâng cúng chỉ định cho một cá nhân thì không phải chia cho ai cả? Đây không phải là mâu thuẫn, vì đã được nói như vậy để chỉ ra ý nghĩa có được từ tính chất chung của lời nói chỉ định.

Evaṃ pana avatvāti ‘‘tato ce uttari’’nti imassa ‘‘māsaparamato uttari’’nti padabhājanaṃ avatvā. Tāva uppannaṃ paccāsācīvaranti paccattavacanaṃ ‘‘attano gatikaṃ karotī’’ti karaṇakiriyāya kattubhāvato. Antarā uppannañhi paccāsācīvaraṃ māsaparamaṃ mūlacīvaraṃ ṭhapetuṃ adatvā attano dasāhaparamatāya eva paricchindatīti attano gatikaṃ karoti. Tato uddhaṃ mūlacīvaranti ettha pana mūlacīvaranti paccattavacanaṃ. Vīsatimadivasato uddhañhi uppannaṃ paccāsācīvaraṃ dasāhaparamaṃ gantuṃ adatvā mūlacīvaraṃ attanā saddhiṃ karaṇasambandhatāmattena sakakālavasena paricchindatīti attano gatikaṃ karoti. Paccāsācīvare pana labhitvā visuṃ ṭhapentassa dasāhaṃ anatikkante natthi tappaccayā āpatti. Pāḷiyaṃ dasāhā kāretabbanti ettha dasāhāti karaṇatthe nissakkavacanaṃ, dasāhenāti attho. Pañcāhuppannetiādiṃ rassaṃ katvāpi paṭhanti. Ekavīse uppanne…pe… navāhā kāretabbantiādi paccāsācīvarassa uppannadivasaṃ ṭhapetvā vuttaṃ.
Nhưng không nói như vậy là không phân tích từ “nếu quá thời hạn đó” thành “quá giới hạn một tháng.” Y hy vọng phát sanh trong khoảng thời gian đó là biến cách thứ nhất, do là chủ từ của động từ làm “tự tạo ra con đường của mình.” Thật vậy, y hy vọng phát sanh ở giữa chừng không cho phép y gốc được cất giữ đến giới hạn một tháng, mà tự giới hạn bằng giới hạn mười ngày của chính nó, nên nó tự tạo ra con đường của mình. Y gốc quá thời hạn đó ở đây, y gốc là biến cách thứ nhất. Thật vậy, y hy vọng phát sanh quá hai mươi ngày không cho phép đi đến giới hạn mười ngày, mà y gốc, chỉ bằng mối liên hệ với chính nó, tự giới hạn theo thời gian của mình, nên nó tự tạo ra con đường của mình. Còn đối với người nhận được y hy vọng và cất giữ riêng, nếu chưa quá mười ngày thì không có tội do duyên đó. Trong Pāḷi, ở câu nên được làm trong mười ngày, mười ngày là biến cách thứ năm (xuất xứ cách) mang ý nghĩa sở dụng cách, có nghĩa là bằng mười ngày. Cũng có người đọc là dạng rút gọn: khi phát sanh vào ngày thứ năm v.v… Câu khi phát sanh vào ngày hai mươi mốt… vân vân… nên được làm trong chín ngày v.v… được nói không tính ngày phát sanh của y hy vọng.

Aññaṃ paccāsācīvaraṃ…pe… kāretabbanti idaṃ satiyā eva paccāsāya vuttanti veditabbaṃ. Sace pana ‘‘ito paṭṭhāya cīvaraṃ na labhissāmī’’ti paccāsā upacchinnā, mūlacīvarampi dasāhaṃ ce sampattaṃ, tadaheva adhiṭṭhātabbaṃ. Paccāsācīvarampi parikkhāracoḷaṃ adhiṭṭhātabbanti paṭhamataraṃ uppannaṃ visabhāgapaccāsācīvaraṃ sandhāya vadati. Aññamaññanti aññaṃ aññaṃ, ayameva vā pāṭho. Aṅgaṃ panettha paṭhamakathine vuttasadisameva. Kevalañhi tattha dasāhātikkamo, idha māsātikkamoti ayaṃ viseso.
Y hy vọng khác… vân vân… nên được làm cần được hiểu rằng điều này được nói chỉ khi có hy vọng. Nhưng nếu hy vọng đã bị cắt đứt rằng “từ nay về sau, tôi sẽ không nhận được y,” và y gốc cũng đã đến hạn mười ngày, thì cần phải chú nguyện ngay trong ngày đó. Y hy vọng cũng cần được chú nguyện làm vải vật dụng phụ là nói đến y hy vọng khác loại phát sanh trước. Lẫn nhau là cái này, cái kia, hoặc đây chính là câu đọc. Yếu tố ở đây tương tự như đã được nói trong học giới kaṭhina thứ nhất. Chỉ có sự khác biệt này: ở đó là quá mười ngày, ở đây là quá một tháng.

Tatiyakathinasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới kaṭhina thứ ba.

4. Purāṇacīvarasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới y cũ

503. Catutthe bhattavissagganti pāḷipadassa bhattakiccanti attho veditabbo, ‘‘bhattasaṃvidhāna’’ntipi keci. Tattha nāma tvanti imassapi so nāma tvanti attho veditabbo, ‘‘tāya nāma tva’’nti keci.
503. Trong học giới thứ tư, cần phải hiểu ý nghĩa của từ Pāḷi bhattavissagga là phận sự về vật thực; một số vị nói là “sự chuẩn bị vật thực.” Cũng cần phải hiểu ý nghĩa của câu Tattha nāma tvaṃ này là ông tên là vậy; một số vị nói là “bà tên là vậy.”

505. Pitā ca mātā ca pitaro, pitūnaṃ pitaro pitāmahā, tesaṃyeva yugo pitāmahayugo, tasmā yāva sattamā pitāmahayugā pitāmahadvandāti evamettha attho daṭṭhabbo. Evañhi pitāmahaggahaṇeneva mātāmahopi gahitoti. ‘‘Yāva sattamā pitāmahayugā’’ti vacanato heṭṭhā ca uddhañca aṭṭhamayugo ñāti nāma na hoti. Desanāmukhameva cetanti pitāmahayugāti pitāmaha-ggahaṇaṃ desanāmukhaṃ pitāmahīmātāmahīādīnampi adhippetattā. Pitu mātā pitāmahī. Mātu pitā mātāmaho. Mātu mātā mātāmahī. Ettha kiñcāpi pañcasatasākiyānīnaṃ vasena bhikkhubhāve ṭhatvā parivattaliṅgāya bhikkhuniyā ca vasena ekatoupasampannā bhikkhunī labbhati, tathāpi pakatiniyāmeneva dassetuṃ ‘‘bhikkhunī nāma ubhatosaṅghe upasampannā’’ti vuttaṃ. ‘‘Kappaṃ katvāti vacanato dinnakappameva pācittiyaṃ janetī’’ti vadanti. ‘‘Purāṇacīvaraṃ nāma sakiṃ nivatthampi sakiṃ pārutampī’’ti idaṃ nidassanamattanti āha ‘‘antamaso paribhogasīsenā’’tiādi. ‘‘Kāyena phusitvā paribhogoyeva paribhogo nāmā’’ti kurundiyaṃ adhippāyo.
505. Cha và mẹ là cha mẹ (pitaro), cha của cha mẹ là các ông nội (pitāmahā), thế hệ của họ chính là thế hệ ông nội (pitāmahayugo), do đó, ở đây cần phải thấy ý nghĩa như sau: cho đến thế hệ ông nội thứ bảy là cặp đôi ông bà nội. Vì rằng, như vậy, bằng việc chỉ đề cập đến ông nội, ông ngoại cũng đã được bao gồm. Theo câu “cho đến thế hệ ông nội thứ bảy,” thế hệ thứ tám ở dưới và ở trên không được gọi là quyến thuộc. Và đây chỉ là cách nói mở đầu là việc đề cập đến ông nội trong câu thế hệ ông nội là cách nói mở đầu, vì bà nội, bà ngoại v.v… cũng được bao hàm. Mẹ của cha là bà nội. Cha của mẹ là ông ngoại. Mẹ của mẹ là bà ngoại. Ở đây, mặc dù có thể có Tỳ-khưu-ni đã thọ cụ túc giới một lần, theo trường hợp của năm trăm vị công nữ dòng Sākya đã tại vị Tỳ-khưu, và trường hợp của vị Tỳ-khưu-ni đã chuyển giới, tuy nhiên, để chỉ ra theo quy tắc thông thường, đã nói rằng: “Tỳ-khưu-ni được gọi là người đã thọ cụ túc giới ở hai Tăng chúng.” Có vị nói: “Theo câu sau khi thực hiện sự trao đổi, chỉ có sự trao đổi đã được thực hiện mới phát sanh tội Ưng Đối Trị.” Câu “y cũ được gọi là y đã được mặc một lần hoặc đã được đắp một lần” này chỉ là một ví dụ, nên ngài nói: “ít nhất là theo phương diện sử dụng” v.v… Trong sách Kurundī, ý muốn nói là: “Sự sử dụng được gọi là việc sử dụng sau khi đã chạm vào bằng thân.”

506.Kāyavikāraṃ katvāti idaṃ yāva ‘‘orato ṭhapetī’’ti padaṃ, tāva sabbapadesu sambandhitabbaṃ. Yathā sā ‘‘dhovāpetukāmo aya’’nti jānāti, evaṃ kāyavikāraṃ katvāti attho. ‘‘Kāyavikāraṃ katvā’’ti vacanato kāyavācāhi kañci vikāraṃ akatvā hatthena hatthe dentassapi anāpatti. Antodvādasahatthe okāseti idaṃ visesanaṃ yathāsambhavaṃ yojetabbaṃ. Tathā hi hatthena hatthe dentassa pādamūle ca ṭhapetvā dentassa ‘‘antodvādasahatthe okāse’’ti idaṃ vattabbanti natthi aññathā asambhavato. Sati hi sambhave byabhicāre ca visesanaṃ sātthakaṃ hoti. Upari ‘‘khipatī’’tiādīni pana sandhāya idaṃ visesanaṃ vuttaṃ, tasmā antodvādasahatthe okāse ṭhatvā upari khipantassa aññassa hatthe pesentassa ca āpatti. Upacāraṃ pana muñcitvā kāyavācāhi vikāraṃ katvā āṇāpentassapi anāpatti. Upacāreti antodvādasahatthameva okāsaṃ vadati. Upacāraṃ muñcitvāti dvādasahatthūpacāraṃ muñcitvā.
506. Sau khi làm cử chỉ của thân điều này cần được liên kết trong tất cả các đoạn cho đến từ “cất giữ ở gần.” Có nghĩa là, làm cử chỉ của thân theo cách để vị ấy biết rằng: “vị này muốn cho giặt.” Theo câu “sau khi làm cử chỉ của thân,” người đưa bằng tay này sang tay kia mà không làm bất cứ cử chỉ nào bằng thân và lời cũng vô tội. Trong khoảng không gian mười hai thước tính từ này cần được kết hợp tùy theo trường hợp có thể. Thật vậy, đối với người đưa bằng tay này sang tay kia và người cất giữ ở chân rồi đưa, không cần phải nói đến câu “trong khoảng không gian mười hai thước” này, vì nếu khác đi sẽ không thể xảy ra. Vì rằng, khi có khả năng xảy ra và có sự sai khác, tính từ mới có ý nghĩa. Nhưng tính từ này được nói liên quan đến các hành động “ném lên” v.v… ở trên, do đó, người đứng trong khoảng không gian mười hai thước mà ném lên trên và người gửi qua tay người khác thì phạm tội. Còn người ra lệnh bằng cách làm cử chỉ bằng thân và lời sau khi đã rời khỏi khu vực lân cận cũng vô tội. Trong khu vực lân cận là nói đến chính khoảng không gian mười hai thước. Sau khi rời khỏi khu vực lân cận là sau khi rời khỏi khu vực lân cận mười hai thước.

Ekena vatthunāti paṭhamaṃ katvā niṭṭhāpitaṃ sandhāya vuttaṃ. Rajane anāpattīti rajanaṃ paccāsīsantassapi ‘‘dhovitvā ānehī’’ti vuttattā anāpatti anāṇattiyā katattā. ‘‘Avuttā dhovatī’’ti iminā ‘‘avuttā rajati, avuttā ākoṭetī’’ti idampi vuttameva hotīti āha – ‘‘avuttā dhovatīti iminā lakkhaṇena anāpattī’’ti. Sambahulā āpattiyo āpajjatīti pācittiyena saddhiṃ dve dukkaṭāni āpajjati. Yathāvatthukamevāti nissaggiyamevāti attho. Pañca satāni parimāṇametāsanti pañcasatā.
Bằng một vật là được nói liên quan đến vật đã được làm xong trước tiên. Vô tội trong việc nhuộm là người mong đợi việc nhuộm cũng vô tội, vì đã nói “hãy giặt rồi mang đến,” do đã làm mà không có sự ra lệnh. Bằng câu “giặt mà không được bảo,” điều này cũng đã được nói: “nhuộm mà không được bảo, đập mà không được bảo,” nên ngài nói: “vô tội theo đặc điểm giặt mà không được bảo này.” Phạm nhiều tội là phạm hai tội tác ác cùng với tội Ưng Đối Trị. Chỉ theo vật có nghĩa là chỉ là vật Ưng Xả Đối Trị. Năm trăm là những vật có số lượng là năm trăm.

507.Cīvaraṃdhovāti…pe… āṇāpentassāti ettha tāya dhovanaṃ paccāsīsantassapi anāpatti. Purāṇacīvaratā, upacāre ṭhatvā aññātikāya bhikkhuniyā āṇāpanaṃ, tassā dhovanādīni cāti imānettha tīṇi aṅgāni.
507. Người sai giặt y… vân vân… ở đây, người mong đợi vị ấy giặt cũng vô tội. Tình trạng y cũ, việc ra lệnh cho Tỳ-khưu-ni không phải là quyến thuộc khi đang đứng trong khu vực lân cận, và việc vị ấy giặt v.v…, đây là ba yếu tố ở đây.

Purāṇacīvarasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới y cũ.

5. Cīvarapaṭiggahaṇasikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới nhận y

508. Pañcame apaññatte sikkhāpadeti gaṇamhā ohīyanasikkhāpade apaññatte. Vihāravāranti vihārapaṭijagganavāraṃ. Koṭṭhāsasampattīti sakalā aṅgapaccaṅgasampatti. Sabbapariyantanti chaṭṭhassa aññacīvarassa abhāvā pañcannaṃ cīvarānaṃ ekamekaṃ sabbesaṃ pariyantanti sabbapariyantaṃ. Antaravāsakādīsu hi pañcasu ekamekaṃ aññassa chaṭṭhassa abhāvā pañcannaṃ antameva hoti. Athavā pañcasu cīvaresu ekamekaṃ attano aññassa dutiyassa abhāvā antameva hotīti sabbameva pariyantanti sabbapariyantaṃ, sabbaso vā pariyantanti sabbapariyantaṃ. Tenāha – ‘‘aññaṃ…pe… natthī’’ti. Yathā tassa manoratho na pūratīti ‘‘sarīrapāripūriṃ passissāmī’’ti tassa uppanno manoratho yathā na pūrati. Evaṃ hatthataleyeva dassetvāti sarīraṃ adassetvāva dātabbacīvaraṃ hatthatale ‘‘handā’’ti dassetvā.
508. Trong học giới thứ năm, khi học giới chưa được chế định là khi học giới về việc tách ra khỏi nhóm chưa được chế định. Phiên trú xứ là phiên chăm sóc trú xứ. Sự đầy đủ về các phần là sự đầy đủ về tất cả các bộ phận lớn nhỏ. Tất cả là giới hạn cuối cùng là do không có y thứ sáu khác, nên mỗi một trong năm y đều là giới hạn cuối cùng của tất cả, do đó gọi là tất cả là giới hạn cuối cùng. Thật vậy, trong năm y từ y nội v.v…, mỗi một y, do không có y thứ sáu khác, nên chính là cái cuối cùng của năm y. Hoặc là, trong năm y, mỗi một y, do không có y thứ hai khác của chính nó, nên chính là cái cuối cùng, do đó tất cả đều là giới hạn cuối cùng, gọi là tất cả là giới hạn cuối cùng; hoặc là, giới hạn cuối cùng về mọi mặt, gọi là tất cả là giới hạn cuối cùng. Do đó, ngài nói: “vật khác… vân vân… không có.” Để cho ước muốn của người ấy không được thành tựu là để cho ước muốn “tôi sẽ thấy sự đầy đặn của thân thể” đã phát sanh của người ấy không được thành tựu. Như vậy, sau khi chỉ cho thấy ở ngay trên lòng bàn tay là sau khi chỉ cho thấy y cần phải cho trên lòng bàn tay bằng cách nói “này,” mà không cho thấy thân thể.

510.Vihatthatāyāti vihatahatthatāya, agaṇatāya appaccayatāya appaṭisaraṇatāyāti vuttaṃ hoti. Samabhitunnattāti pīḷitattā. Parivattetabbaṃ parivattaṃ, parivattameva pārivattakaṃ, parivattetvā dīyamānanti attho.
510. Do sự lúng túng là do sự bối rối, đã được nói là do sự không quan tâm, sự không tin tưởng, sự không nương tựa. Do bị bức bách là do bị áp bức. Vật cần phải được đổi chác là sự đổi chác, chính sự đổi chác là vật trao đổi, có nghĩa là được cho sau khi đã đổi chác.

512.Upacāreti dvādasahatthūpacāraṃ sandhāya vadati. Upacāraṃ vā muñcitvā khipantīti dvādasahatthaṃ muñcitvā orato ṭhapenti, na purimasikkhāpade viya dvādasahatthabbhantareyevāti adhippāyo. Aññatra pārivattakāti yaṃ antamaso harītakakhaṇḍampi datvā vā dassāmīti ābhogaṃ katvā vā pārivattakaṃ gaṇhāti, taṃ ṭhapetvā. Acittakabhāvena na sametīti yathā aññātikāya ñātikasaññissa vematikassa ca gaṇhato acittakattā āpatti , evamidhāpi ‘‘bhikkhuniyā santakaṃ ida’’nti ajānitvā gaṇhatopi āpattiyevāti adhippāyo. Vassāvāsikaṃ detīti puggalikaṃ katvā deti. Paṃsukūlaṃ attano atthāya ṭhapitabhāvaṃ jānitvā gaṇhantenapi aññassa santakaṃ gahitaṃ nāma na hotīti āha – ‘‘sace pana saṅkārakūṭādīsū’’tiādi. Asāmikañhi paṃsukūlanti vuccati. Paṃsukūlaṃ adhiṭṭhahitvāti ‘‘asāmikaṃ ida’’nti saññaṃ uppādetvā. Evaṃ pana paṃsukūlasaññaṃ anuppādetvā gaṇhituṃ na vaṭṭati.
512. Trong khu vực lân cận là nói đến khu vực lân cận mười hai thước. Hoặc ném sau khi đã rời khỏi khu vực lân cận là cất giữ ở gần sau khi đã rời khỏi khoảng cách mười hai thước, ý muốn nói là không phải chỉ ở trong khoảng mười hai thước như trong học giới trước. Ngoại trừ vật trao đổi là ngoại trừ vật trao đổi mà vị ấy nhận, sau khi đã cho đi ít nhất là một mảnh chè vè hoặc sau khi đã khởi tâm rằng “tôi sẽ cho.” Không giống với trường hợp không có chủ tâm ý muốn nói là: giống như người nhận từ người không phải là quyến thuộc mà có tưởng là quyến thuộc hoặc có sự nghi ngờ, do không có chủ tâm nên phạm tội; ở đây cũng vậy, người nhận mà không biết rằng “đây là của Tỳ-khưu-ni” cũng phạm tội. Cho làm vật dụng an cư mùa mưa là cho làm vật dụng cá nhân. Người nhận sau khi biết rằng y phấn tảo đã được cất giữ vì lợi ích của mình thì không được gọi là đã nhận vật sở hữu của người khác, nên ngài nói: “nhưng nếu ở trên đống rác v.v…” v.v… Thật vậy, vật không có chủ được gọi là y phấn tảo. Sau khi chú nguyện y phấn tảo là sau khi khởi lên tưởng rằng “đây là vật không có chủ.” Nhưng không được phép nhận mà không khởi lên tưởng là y phấn tảo như vậy.

513.Aññātikāya aññātikasaññīti tikapācittiyanti ettha iti-saddo ādiattho. Tīṇi parimāṇamassāti tikaṃ, tikañca taṃ pācittiyañcāti tikapācittiyaṃ, tīṇi pācittiyānīti attho.
513. Ba tội Ưng Đối Trị là có tưởng là không phải quyến thuộc đối với người không phải quyến thuộc ở đây, từ mang nghĩa bắt đầu. Vật có số lượng là ba được gọi là bộ ba, vừa là bộ ba vừa là tội Ưng Đối Trị, nên gọi là ba tội Ưng Đối Trị, có nghĩa là ba tội Ưng Đối Trị.

514.Pattatthavikādiṃ yaṃkiñcīti anadhiṭṭhānupagaṃ sandhāya vadati. ‘‘Cīvaraṃ nāma channaṃ cīvarānaṃ aññataraṃ cīvaraṃ vikappanupagaṃ pacchima’’nti hi vuttattā adhiṭṭhānupagaṃ yaṃkiñci na vaṭṭati. Tenevāha – ‘‘vikappanupagapacchimacīvarappamāṇa’’ntiādi. Yasmā bhisicchavi mahantāpi senāsanasaṅgahitattā cīvarasaṅkhyaṃ na gacchatīti neva adhiṭṭhānupagā na vikappanupagā ca, tasmā anadhiṭṭhānupagasāmaññato vuttaṃ. Sacepi mañcappamāṇā bhisicchavi hoti, vaṭṭatiyevāti. Ko pana vādo pattatthavikādīsūti mahatiyāpi tāva bhisicchaviyā anadhiṭṭhānupagattā anāpatti, tato khuddakataresu anadhiṭṭhānupagesu pattatthavikādīsu kimeva vattabbanti adhippāyo. Paṭiggahaṇaṃ kiriyā, aparivattanaṃ akiriyā. Vikappanupagacīvaratā, pārivattakābhāvo, aññātikāya hatthato gahaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni.
514. Bất cứ thứ gì như túi đựng bát v.v… là nói đến vật không hợp lệ để chú nguyện. Vì rằng, đã được nói: “Y được gọi là một trong sáu loại y, là y có kích thước sau cùng hợp lệ để tác tịnh,” nên bất cứ vật gì hợp lệ để chú nguyện đều không được phép (trao đổi). Chính vì thế, ngài nói: “có kích thước của y sau cùng hợp lệ để tác tịnh” v.v… Bởi vì tấm trải giường, dù lớn, do được xếp vào loại vật dụng cho trú xứ, nên không được tính vào số lượng y, do đó không hợp lệ để chú nguyện cũng không hợp lệ để tác tịnh, vì vậy đã được nói theo tính chất chung là không hợp lệ để chú nguyện. Dù tấm trải giường có kích thước bằng cái giường cũng vẫn được phép. Huống hồ gì là các vật như túi đựng bát v.v… ý muốn nói là: ngay cả tấm trải giường lớn, do không hợp lệ để chú nguyện, đã là vô tội, thì còn phải nói gì đến các vật không hợp lệ để chú nguyện nhỏ hơn như túi đựng bát v.v…? Việc nhận là hành động, việc không đổi chác là không hành động. Tình trạng y hợp lệ để tác tịnh, sự không có vật đổi chác, và việc nhận từ tay của người không phải là quyến thuộc, đây là ba yếu tố ở đây.

Cīvarapaṭiggahaṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới nhận y.

6. Aññātakaviññattisikkhāpadavaṇṇanā
6. Tường giải về học giới xin (y) từ người không phải là quyến thuộc

515. Chaṭṭhe patikiṭṭhoti nihīno, lāmakoti attho. Lolajātikoti lolasabhāvo. Paṭuyeva paṭṭo. Tenāha ‘‘cheko’’tiādi. Kismiṃ viyāti ettha ‘‘kismiṃ viyā’’ti nipātavasena samānatthaṃ ‘‘kiṃsu viyā’’ti nipātapadanti āha ‘‘kiṃsu viyā’’ti, kiṃ viyāti attho, dukkhaṃ viyāti adhippāyo. Tenāha ‘‘kileso viyā’’tiādi. Dhammavasena upacāravasena nimantanā dhammanimantanāti pāḷipadassa attho veditabbo. Sace pana ‘‘vadeyyātha, bhante, yenattho’’ti idaṃ saccameva vuttaṃ siyā, pavāritoyeva hoti. Yasmā pana pavāretvāpi adātukāmo appavāritaṭṭhāneyeva tiṭṭhati, tasmā bhagavā pavāritāpavāritabhāvaṃ avicāretvā ‘‘ñātako te, upananda, aññātako’’ti ñātakaaññātakabhāvaṃyeva vicāresi. Musiṃsūti vilumpiṃsu.
515. Trong học giới thứ sáu, bị khinh miệt là thấp hèn, có nghĩa là xấu xa. Có bản tánh tham lam là có bản chất tham lam. Khéo léo chính là lanh lợi. Do đó, ngài nói: “khéo léo” v.v… Giống như cái gì ở đây, “kismiṃ viyā” là một tiểu từ có cùng ý nghĩa với tiểu từ “kiṃsu viyā,” nên ngài nói: “giống như cái gì,” có nghĩa là giống như cái gì, ý muốn nói là giống như khổ. Do đó, ngài nói: “giống như phiền não” v.v… Cần phải hiểu ý nghĩa của từ Pāḷi sự thỉnh mời theo pháp là sự thỉnh mời theo pháp, theo cách nói xã giao. Nhưng nếu câu “bạch ngài, xin hãy nói điều ngài cần” này được nói một cách chân thật, thì vị ấy đã được thỉnh mời. Nhưng vì người không muốn cho, dù đã thỉnh mời, vẫn ở trong tình trạng chưa thỉnh mời, do đó, đức Thế Tôn đã không xét đến tình trạng đã thỉnh mời hay chưa thỉnh mời, mà chỉ xét đến tình trạng là quyến thuộc hay không phải là quyến thuộc: “Này Upananda, người ấy là quyến thuộc hay không phải là quyến thuộc của ngươi?” Đã cướp bóc là đã cướp đoạt.

517.Anupubbakathāti anupubbena vinicchayakathā. Sesaparikkhārānaṃ saddhivihārikehi gahitattā nivāsanapārupanamattameva avasiṭṭhanti āha ‘‘nivāsanapārupanamattaṃyeva haritvā’’ti. Saddhivihārikānaṃ tāva āgamanassa vā anāgamanassa vā ajānanatāya vuttaṃ ‘‘therehi neva tāva…pe… bhañjitabba’’nti. Paresampi atthāya labhantīti attano cīvaraṃ dadamānā sayaṃ sākhābhaṅgena paṭicchādentīti tesaṃ atthāyapi bhañjituṃ labhanti. ‘‘Tiṇena vā paṇṇena vā paṭicchādetvā āgantabba’’nti vacanato īdisesu bhūtagāmapātabyatāpi anuññātāyeva hotīti āha – ‘‘neva bhūtagāmapātabyatāya pācittiyaṃ hotī’’ti. Na tesaṃ dhāraṇe dukkaṭanti tesaṃ titthiyaddhajānaṃ dhāraṇepi dukkaṭaṃ natthi.
517. Lời nói tuần tự là lời phân xử theo thứ tự. Do các vật dụng phụ khác đã bị các vị cùng ở chung lấy đi, nên chỉ còn lại y mặc và y đắp, ngài nói: “chỉ mang theo y mặc và y đắp.” Do chưa biết được việc các vị cùng ở chung sẽ đến hay không đến, nên đã nói: “bởi các trưởng lão, trước tiên không nên… vân vân… bẻ gãy.” Cũng nhận được vì lợi ích của người khác là khi cho y của mình, các vị ấy tự che thân bằng cành cây gãy, nên cũng được phép bẻ gãy vì lợi ích của họ. Theo câu “nên che thân bằng cỏ hoặc lá rồi đến,” trong những trường hợp như vậy, tội phá hoại cây cỏ cũng đã được cho phép, nên ngài nói: “không có tội Ưng Đối Trị do phá hoại cây cỏ.” Không có tội tác ác trong việc mặc chúng là cũng không có tội tác ác trong việc mặc các cờ hiệu của ngoại đạo ấy.

Yāni ca nesaṃ vatthāni dentīti sambandho. Therānaṃ sayameva dinnattā vuttaṃ ‘‘acchinnacīvaraṭṭhāne ṭhitattā’’ti. Yadi laddhiṃ gaṇhāti, titthiyapakkantako nāma hoti, tasmā vuttaṃ ‘‘laddhiṃ aggahetvā’’ti. ‘‘No ce hoti saṅghassa vihāracīvaraṃ vā…pe… āpatti dukkaṭassā’’ti iminā antarāmagge paviṭṭhavihārato nikkhamitvā aññattha attano abhirucitaṭṭhānaṃ gacchantassa dukkaṭaṃ vuttaṃ. Iminā ca ‘‘yaṃ āvāsaṃ paṭhamaṃ upagacchatī’’ti vuttaṃ antarāmagge ṭhitavihārampi sace naggo hutvā gacchati, dukkaṭamevāti veditabbaṃ. Yadi evaṃ tattha kasmā na vuttanti ce? Anokāsattā. Tattha hi ‘‘anujānāmi, bhikkhave, acchinnacīvarassa vā…pe… cīvaraṃ viññāpetu’’nti iminā sambandhena saṅghikampi cīvaraṃ nivāsetuṃ pārupituñca anujānanto ‘‘yaṃ āvāsaṃ paṭhamaṃ…pe… gahetvā pārupitu’’nti āha, tasmā tattha anokāsattā dukkaṭaṃ na vuttaṃ.
Và họ cho những tấm vải nào, đó là mối liên hệ. Do được cho chính các trưởng lão, nên đã nói: “do ở trong tình trạng y chưa bị mất.” Nếu chấp nhận tà kiến, vị ấy được gọi là người theo phe ngoại đạo, do đó đã nói: “không chấp nhận tà kiến.” Bằng câu “Nếu không có y của trú xứ của Tăng chúng… vân vân… phạm tội tác ác,” tội tác ác đã được nói cho người đi ra khỏi trú xứ đã vào ở giữa đường và đi đến nơi khác theo ý thích của mình. Và bằng điều này, cần phải hiểu rằng, câu “trú xứ nào vị ấy đến đầu tiên” được nói, nếu vị ấy đi đến trú xứ nằm ở giữa đường trong tình trạng lõa thể, cũng phạm tội tác ác. Nếu vậy, tại sao ở đó lại không nói đến? Do không có cơ hội. Vì rằng, ở đó, bằng mối liên hệ với câu “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép người bị mất y… vân vân… xin y,” khi cho phép mặc và đắp cả y của Tăng chúng, ngài đã nói: “trú xứ nào… vân vân… đầu tiên, sau khi nhận, hãy đắp,” do đó, do không có cơ hội ở đó, tội tác ác đã không được nói đến.

Vihāracīvaranti senāsanacīvaraṃ. Cimilikāhīti paṭapilotikāhi. Tassa uparīti bhūmattharaṇassa upari. Videsagatenāti aññaṃ cīvaraṃ alabhitvā videsagatena. Ekasmiṃ…pe… ṭhapetabbanti ettha ‘‘lesena gahetvā agatattā ṭhapentena ca saṅghikaparibhogeneva ṭhapitattā aññasmiṃ senāsane niyamitampi aññattha ṭhapetuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. Paribhogenevāti aññaṃ cīvaraṃ alabhitvā paribhuñjanena.
Y của trú xứ là y của trú xứ (dùng cho đồ đạc). Bằng những tấm giẻ rách là bằng những mảnh vải vụn. Ở trên đó là ở trên tấm trải sàn. Bởi người đi đến xứ khác là bởi người đi đến xứ khác mà không nhận được y khác. Trong một… vân vân… nên được cất giữ ở đây, có vị nói: “do đã đến sau khi nhận bằng một lý do, và do cất giữ với sự sử dụng của Tăng chúng, nên dù đã được quy định cho một trú xứ khác, cũng được phép cất giữ ở nơi khác.” Chỉ bằng sự sử dụng là bằng việc sử dụng khi không nhận được y khác.

519-521.Paribhogajiṇṇanti yathā tena cīvarena sarīraṃ paṭicchādetuṃ na sakkā, evaṃ jiṇṇaṃ. Kappiyavohārenāti kayavikkayāpattito mocanatthaṃ vuttaṃ. ‘‘Viññāpentassā’’ti imasseva atthaṃ vibhāveti ‘‘cetāpentassa parivattāpentassā’’ti. Attano dhanena hi viññāpanaṃ nāma parivattanamevāti adhippāyo. Saṅghavasena pavāritānaṃ viññāpane vattaṃ dasseti ‘‘pamāṇameva vaṭṭatī’’ti. Saṅghavasena hi pavārite sabbesaṃ sādhāraṇattā adhikaṃ viññāpetuṃ na vaṭṭati. Yaṃ yaṃ pavāretīti yaṃ yaṃ cīvarādiṃ dassāmīti pavāreti. Viññāpanakiccaṃ natthīti vinā viññattiyā dīyamānattā viññāpetvā kiṃ karissatīti adhippāyo. Aññassatthāyāti etthāpi ‘‘ñātakānaṃ pavāritāna’’nti idaṃ anuvattatiyevāti āha ‘‘attano ñātakapavārite’’tiādi. Vikappanupagacīvaratā, samayābhāvo, aññātakaviññatti, tāya ca paṭilābhoti imānettha cattāri aṅgāni.
519-521. Mòn rách do sử dụng là mòn rách đến nỗi không thể che thân bằng tấm y đó. Bằng cách nói hợp lệ là được nói để giải thoát khỏi tội mua bán. Ngài làm rõ ý nghĩa của chính câu “của người xin”: “của người cho làm, của người cho đổi.” Ý muốn nói là, việc xin bằng tài sản của mình chính là việc đổi chác. Ngài chỉ ra phận sự trong việc xin từ những người đã thỉnh mời nhân danh Tăng chúng: “chỉ được phép đúng với số lượng.” Vì rằng, khi được thỉnh mời nhân danh Tăng chúng, do là của chung cho tất cả, nên không được phép xin nhiều hơn. Vật gì đã thỉnh mời là vật gì như y v.v… mà người ấy đã thỉnh mời sẽ cho. Không có phận sự xin ý muốn nói là: do được cho mà không cần xin, thì xin để làm gì? Vì lợi ích của người khác ở đây, câu “những người quyến thuộc đã thỉnh mời” này cũng được áp dụng, nên ngài nói: “trong số những người quyến thuộc của mình đã thỉnh mời” v.v… Tình trạng y hợp lệ để tác tịnh, sự không có thời điểm thích hợp, việc xin từ người không phải là quyến thuộc, và việc nhận được do sự xin ấy, đây là bốn yếu tố ở đây.

Aññātakaviññattisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới xin (y) từ người không phải là quyến thuộc.

7. Tatuttarisikkhāpadavaṇṇanā
7. Tường giải về học giới (xin) nhiều hơn mức ấy

522. Sattame pāḷiyaṃ paggāhikasālanti dussavāṇijakānaṃ āpaṇaṃ. ‘‘Paggāhitasāla’’ntipi paṭhanti.
522. Trong học giới thứ bảy, ở trong Pāḷi, paggāhikasāla là cửa hàng của các nhà buôn vải. Cũng có người đọc là “paggāhitasāla.”

523-524.Abhītiupasaggoti tassa visesatthābhāvaṃ dasseti. Tenāha ‘‘haritunti attho’’ti. Vara-saddassa icchāyaṃ vattamānattā āha ‘‘icchāpeyyā’’ti. Daṭṭhu khematoti ettha gāthābandhavasena anunāsikalopo daṭṭhabbo. Saantaranti antaravāsakasahitaṃ. Uttaranti uttarāsaṅgaṃ. Assa cīvarassāti sāditabbacīvarassa. Acchinnasabbacīvarenāti acchinnāni sabbāni tīṇi cīvarāni assāti acchinnasabbacīvaro, tenāti attho. Yassa hi acchindanasamaye tīṇi cīvarāni sannihitāni honti, tāni sabbāni acchinnānīti so ‘‘acchinnasabbacīvaro’’ti vuccati. Teneva ‘‘acchinnasabbacīvarena ticīvarakenā’’ti vuttaṃ. Ticīvarakenāti hi acchindanasamaye ticīvarassa sannihitabhāvaṃ sandhāya vuttaṃ, na pana vinayatecīvarikabhāvaṃ dhutaṅgatecīvarikabhāvaṃ vā sandhāya. Evaṃ paṭipajjitabbanti ‘‘santaruttaraparamaṃ tena bhikkhunā tato cīvaraṃ sāditabba’’nti vuttavidhinā paṭipajjitabbaṃ. Aññenāti acchinnaasabbacīvarena. Yassa tīsu cīvaresu ekaṃ vā dve vā cīvarāni acchinnāni honti, tenāti attho. Aññathāpīti ‘‘santaruttaraparama’’nti vuttavidhānato aññathāpi. Yassa hi tīsu dve cīvarāni acchinnāni honti, ekaṃ sāditabbaṃ. Ekasmiṃ acchinne na sāditabbanti na tassa santaruttaraparamasādiyanaṃ sambhavati, ayameva ca attho padabhājanena vibhāvito. Tenāha ‘‘taṃ vibhāgaṃ dassetu’’nti.
523-524. Tiếp đầu ngữ ‘abhi’ ngài cho thấy nó không có ý nghĩa đặc biệt. Do đó, ngài nói: “có nghĩa là mang đi.” Do từ vara có nghĩa là mong muốn, nên ngài nói: “nên mong muốn.” Để thấy sự an ổn ở đây, cần phải thấy sự lược bỏ âm mũi do quy tắc vần điệu của kệ. Cùng với y nội là cùng với y an-đà-hội. Y vai trái là y uttarāsaṅga. Của y này là của y cần được nhận. Bởi người có tất cả y chưa bị cướp là người có tất cả ba y chưa bị cướp, bởi người ấy, đó là ý nghĩa. Thật vậy, người nào có ba y hiện diện vào thời điểm bị cướp, tất cả chúng đều là chưa bị cướp, nên vị ấy được gọi là “người có tất cả y chưa bị cướp.” Chính vì thế, đã được nói: “bởi người có tất cả y chưa bị cướp, có tam y.” Thật vậy, bởi người có tam y được nói liên quan đến sự hiện diện của tam y vào thời điểm bị cướp, chứ không phải liên quan đến tình trạng là người chỉ dùng tam y theo luật hay người thực hành đầu-đà chỉ dùng tam y. Nên thực hành như vậy là nên thực hành theo phương pháp đã được nói: “bởi Tỳ-khưu ấy, nên nhận y từ đó tối đa là y nội và y vai trái.” Bởi người khác là bởi người không có tất cả y bị cướp. Có nghĩa là, người nào trong ba y có một hoặc hai y bị cướp, bởi người ấy. Theo cách khác cũng vậy là theo cách khác với phương pháp đã được nói “tối đa là y nội và y vai trái” cũng vậy. Thật vậy, người nào trong ba y có hai y bị cướp, thì được nhận một y. Khi một y bị cướp thì không được nhận, nên việc nhận tối đa là y nội và y vai trái của vị ấy không thể xảy ra, và chính ý nghĩa này đã được làm rõ bằng cách phân tích từ. Do đó, ngài nói: “để chỉ ra sự phân chia đó.”

Keci pana ‘‘ticīvarakenāti vuttattā ticīvaraṃ parikkhāracoḷavasena adhiṭṭhahitvā paribhuñjato tasmiṃ naṭṭhe bahūnipi gahetuṃ labhatī’’ti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ. Padabhājanassa hi adhippāyaṃ dassentena yasmā pana ‘‘acchinnasabbacīvarena…pe… taṃ vibhāgaṃ dassetu’’nti vuttaṃ, padabhājane ca na tādiso attho upalabbhati, tasmā taṃ na gahetabbameva. Yampi mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. tatuttarisikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ ‘‘yassa adhiṭṭhitacīvarassa tīṇi naṭṭhānī’’ti, tatthāpi adhiṭṭhitaggahaṇaṃ sarūpakathanamattanti gahetabbaṃ, na pana ticīvarādhiṭṭhānena adhiṭṭhitacīvarassevāti evamattho gahetabbo pāḷiyaṃ aṭṭhakathāyañca tathā atthassa asambhavato. Na hi ticīvarādhiṭṭhānena adhiṭṭhitacīvarasseva idaṃ sikkhāpadaṃ paññattanti sakkā viññātuṃ. Purimasikkhāpadena hi acchinnacīvarassa aññātakaviññattiyā anuññātattā pamāṇaṃ ajānitvā viññāpanavatthusmiṃ pamāṇato sādiyanaṃ anujānantena bhagavatā idaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ, tasmā ‘‘parikkhāracoḷikassa bahumpi sādituṃ vaṭṭatī’’ti ayamattho neva pāḷiyā sameti, na ca bhagavato adhippāyaṃ anulometi.
Nhưng một số vị nói rằng: “do đã được nói ‘bởi người có tam y,’ nên người sử dụng tam y sau khi đã chú nguyện làm vải vật dụng phụ, khi y đó bị mất, được phép nhận nhiều y,” điều đó không nên chấp nhận. Vì rằng, bởi người chỉ ra ý nghĩa của việc phân tích từ, đã được nói: “bởi người có tất cả y chưa bị cướp… vân vân… để chỉ ra sự phân chia đó,” và trong việc phân tích từ, không tìm thấy ý nghĩa như vậy, do đó, điều đó không nên được chấp nhận. Và điều đã được nói trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. tatuttarisikkhāpadavaṇṇanā): “người nào có ba y đã chú nguyện bị mất,” ở đó cũng nên hiểu rằng việc đề cập đến sự chú nguyện chỉ là để mô tả hình thức, chứ không nên hiểu ý nghĩa rằng chỉ dành cho y đã được chú nguyện bằng sự chú nguyện tam y, vì ý nghĩa như vậy không thể có trong Pāḷi và Chú giải. Thật vậy, không thể biết được rằng học giới này được chế định chỉ cho y đã được chú nguyện bằng sự chú nguyện tam y. Vì rằng, do học giới trước đã cho phép người bị cướp y được xin từ người không phải là quyến thuộc, nên đức Thế Tôn, khi cho phép nhận theo số lượng trong trường hợp xin mà không biết số lượng, đã chế định học giới này, do đó, ý nghĩa rằng “người dùng vải vật dụng phụ được phép nhận nhiều” này không phù hợp với Pāḷi, cũng không thuận theo ý định của đức Thế Tôn.

Yassa tīṇi naṭṭhāni, tena dve sāditabbānīti ettha yassa ticīvarato adhikampi cīvaraṃ aññattha ṭhitaṃ atthi, tadātassa cīvarassa alabbhanīyabhāvato tenapi sādituṃ vaṭṭatīti veditabbaṃ. Pakatiyāva santaruttarena caratīti sāsaṅkasikkhāpadavasena vā avippavāsasammutivasena vā tatiyassa alābhena vā carati. ‘‘Dve naṭṭhānī’’ti adhikārattā vuttaṃ ‘‘dve sāditabbānī’’ti. Ekaṃ sādiyanteneva samo bhavissatīti tiṇṇaṃ cīvarānaṃ dvīsu naṭṭhesu ekaṃ sādiyantena samo bhavissati ubhinnampi santaruttaraparamatāya avaṭṭhānato. Yassa ekaṃyeva hotīti aññena kenaci kāraṇena vinaṭṭhasesacīvaraṃ sandhāya vuttaṃ.
Người nào có ba y bị mất, bởi người ấy nên nhận hai y ở đây, cần được hiểu rằng người nào có y nhiều hơn tam y được cất giữ ở nơi khác, do không thể nhận được y vào lúc đó, nên cũng được phép nhận. Vốn dĩ chỉ dùng y nội và y vai trái là vị ấy chỉ dùng (hai y) do học giới về nơi nguy hiểm, hoặc do sự chấp thuận không xa lìa (y), hoặc do không nhận được y thứ ba. Do đề cập đến “hai y bị mất,” nên đã nói: “nên nhận hai y.” Sẽ bằng nhau chỉ khi nhận một y là trong ba y, khi hai y bị mất, sẽ bằng nhau khi nhận một y, vì cả hai đều ở trong tình trạng tối đa là y nội và y vai trái. Người nào chỉ có một y là được nói liên quan đến y còn lại sau khi các y khác đã bị mất do một lý do nào đó.

526. ‘‘Sesakaṃ tuyheva hotūti dentī’’ti vuttattā ‘‘pamāṇayuttaṃ gaṇhissāma, sesakaṃ āharissāmā’’ti vatvā gahetvā gamanasamayepi ‘‘sesakampi tumhākaññeva hotū’’ti vadanti, laddhakappiyameva. Pavāritānanti acchinnakālato pubbeyeva pavāritānaṃ. Pāḷiyā na sametīti santaruttaraparamato uttari sādiyane anāpattidassanatthaṃ ‘‘anāpatti ñātakānaṃ pavāritāna’’nti vuttattā na sameti. Santaruttaraparamaṃ sādiyantassa hi āpattippasaṅgoyeva natthi, sati ca sikkhāpadena āpattippasaṅge anāpatti yuttā dassetunti adhippāyo. Keci pana ‘‘pamāṇameva vaṭṭatīti idaṃ sallekhadassanatthaṃ vutta’’nti vadanti.
526. Do đã được nói: “họ cho và nói: ‘phần còn lại cũng là của thầy,’” nên sau khi nói: “chúng tôi sẽ nhận phần hợp với số lượng, chúng tôi sẽ mang phần còn lại đến,” và khi nhận rồi ra đi, họ cũng nói: “phần còn lại cũng là của quý vị,” đó là vật đã nhận hợp lệ. Của những người đã thỉnh mời là của những người đã thỉnh mời trước khi hết thời gian bị cướp y. Không phù hợp với Pāḷi là không phù hợp, vì để cho thấy sự vô tội trong việc nhận nhiều hơn mức tối đa là y nội và y vai trái, đã được nói: “vô tội đối với những người quyến thuộc, những người đã thỉnh mời.” Ý muốn nói là, đối với người nhận tối đa là y nội và y vai trái, không có trường hợp phạm tội, và khi có trường hợp phạm tội theo học giới, thì việc chỉ ra sự vô tội mới hợp lý. Nhưng một số vị nói rằng: “chỉ được phép đúng với số lượng điều này được nói để cho thấy sự khổ hạnh.”

Yasmā panidaṃ…pe… na vuttanti etthāyamadhippāyo – ‘‘aññassatthāyā’’ti vuccamāne aññesaṃ atthāya pamāṇaṃ atikkamitvāpi gaṇhituṃ vaṭṭatīti āpajjati, tañca aññassatthāya viññāpanavatthusmiṃ paññattattā vatthunā saṃsandiyamānaṃ na sameti. Na hi yaṃ vatthuṃ nissāya sikkhāpadaṃ paññattaṃ, tasmiṃyeva anāpattivacanaṃ yuttanti. Gaṇṭhipadesu pana tīsupi ‘‘imassa sikkhāpadassa attano sādiyanapaṭibaddhatāvasena pavattattā ‘aññassatthāyā’ti vattuṃ okāsoyeva natthi, tasmā na vutta’’nti kathitaṃ. Idha ‘‘aññassatthāyā’’ti avuttattā aññesaṃ atthāya ñātakapavāritesu adhikaṃ viññāpentassa āpattīti ce? Na, tattha purimasikkhāpadeneva anāpattisiddhito. Tatuttaritā, acchinnādikāraṇatā, aññātakaviññatti, tāya ca paṭilābhoti imānettha cattāri aṅgāni.
Vì rằng, điều này… vân vân… không được nói ở đây, ý định là như sau: nếu nói “vì lợi ích của người khác,” sẽ dẫn đến việc được phép nhận vượt quá số lượng vì lợi ích của người khác, và điều đó, khi so sánh với trường hợp được quy định trong việc xin vì lợi ích của người khác, không phù hợp với trường hợp. Vì rằng, không hợp lý khi có lời nói vô tội ngay trong chính trường hợp mà học giới đã được chế định dựa vào đó. Nhưng trong cả ba sách cương yếu, có nói: “do học giới này diễn ra theo sự ràng buộc với việc nhận của chính mình, nên không có cơ hội để nói ‘vì lợi ích của người khác,’ do đó đã không được nói.” Ở đây, nếu có người nói: do không nói “vì lợi ích của người khác,” nên có tội đối với người xin nhiều hơn từ những người quyến thuộc đã thỉnh mời vì lợi ích của người khác? Không, vì ở đó, sự vô tội đã được xác định bởi chính học giới trước. Việc (xin) nhiều hơn mức ấy, tình trạng bị cướp v.v…, việc xin từ người không phải là quyến thuộc, và việc nhận được do sự xin ấy, đây là bốn yếu tố ở đây.

Tatuttarisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới (xin) nhiều hơn mức ấy.

8. Paṭhamaupakkhaṭasikkhāpadavaṇṇanā
8. Tường giải về học giới thứ nhất liên quan đến (vật) đã được chuẩn bị

527. Aṭṭhame api mayyāti pāṭhepi soyevattho. Ayyāti pana bahuvacanena āmantanaṃ kataṃ.
527. Trong học giới thứ tám, trong câu đọc api mayyā cũng có cùng ý nghĩa đó. Nhưng sự xưng hô đã được thực hiện bằng số nhiều là ‘ayyā.’

528-529.Apadissāti ‘‘itthannāmassa bhikkhuno dassāmī’’ti evaṃ apadisitvā. Paccayaṃ katvāti kāraṇaṃ katvā. Uddissāti ettha yo kattāti ‘‘uddissā’’ti iminā vuttauddisanakiriyāya yo kattā. Cīvaraṃ cetāpenti parivattenti etenāti cīvaracetāpannaṃ. Na-kārāgamaṃ katvā cīvaracetāpannanti vuttaṃ, ‘‘cīvaracetāpana’’ntipi paṭhanti. Pacuravohāravasenāti yebhuyyavohāravasena. Yebhuyyavasena hi gharasāmikaṃ daṭṭhukāmā tassa gharaṃ gacchantīti tatheva bahulaṃ vohāro. Byañjanamattamevāti attho netabbo natthīti adhippāyo.
528-529. Sau khi chỉ định là sau khi chỉ định như vầy: “tôi sẽ dâng cho Tỳ-khưu tên là.” Sau khi làm duyên cớ là sau khi làm lý do. Ai là người thực hiện ở đây trong từ ‘uddissā’ là ai là người thực hiện hành động chỉ định đã được nói bằng từ “uddissā.” Vật mà người ta dùng để mua hoặc đổi y là tiền mua y. Từ ‘cīvaracetāpannaṃ’ được nói bằng cách thêm vào phụ âm ‘na,’ cũng có người đọc là “cīvaracetāpana.” Theo cách nói thông thường là theo cách nói đa số. Vì rằng, theo đa số, những người muốn gặp chủ nhà thì đi đến nhà của người ấy, nên cách nói đó là phổ biến. Chỉ là văn tự ý muốn nói là không cần phải hiểu theo nghĩa.

531.Samakepi pana anāpattīti yadagghanakaṃ so dātukāmo hoti, tadagghanake anāpatti mūlaṃ vaḍḍhetvā adhikavidhānaṃ anāpannattā. Ettha ca ‘‘dātukāmomhī’’ti attano santike avuttepi dātukāmataṃ sutvā yadagghanakaṃ so dātukāmo hoti, tadagghanakaṃ āharāpetuṃ vaṭṭati. Agghavaḍḍhanakañhi idaṃ sikkhāpadanti ettha agghavaḍḍhanaṃ etassa atthīti agghavaḍḍhanakaṃ, agghavaḍḍhanaṃ sandhāya idaṃ sikkhāpadaṃ paññattanti adhippāyo. Cīvaraṃ dehīti saṅghāṭiādīsu yaṃkiñci cīvaraṃ sandhāya vadati. Cīvare bhiyyokamyatā, aññātakaviññatti, tāya ca paṭilābhoti imānettha tīṇi aṅgāni.
531. Nhưng cũng vô tội trong trường hợp bằng giá là vô tội trong trường hợp bằng với giá mà người ấy muốn cho, do không phạm vào quy định về việc xin thêm sau khi đã tăng giá trị gốc. Và ở đây, dù người ấy không nói trước mặt mình rằng “chúng tôi muốn cho,” nhưng sau khi nghe được ý muốn cho, được phép cho mang đến vật có giá trị bằng với giá mà người ấy muốn cho. Vì học giới này liên quan đến việc tăng giá trị ở đây, vật có sự tăng giá trị là agghavaḍḍhanakaṃ, ý muốn nói là học giới này được chế định liên quan đến việc tăng giá trị. Hãy cho y là nói đến bất kỳ y nào trong các y tăng-già-lê v.v… Ý muốn y tốt hơn, việc xin từ người không phải là quyến thuộc, và việc nhận được do sự xin ấy, đây là ba yếu tố ở đây.

Paṭhamaupakkhaṭasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới thứ nhất liên quan đến (vật) đã được chuẩn bị.

532. Dutiyaupakkhaṭe vattabbaṃ natthi.
532. Không có gì để nói về học giới thứ hai liên quan đến (vật) đã được chuẩn bị.

10. Rājasikkhāpadavaṇṇanā
10. Tường giải về học giới liên quan đến vua

537-539. Rājasikkhāpade pana ‘‘ajjaṇho’’ti pāṭhe ‘‘ajjuṇho’’tipi paṭhanti. Bhogoti bhuñjitabbo. Yaṃ vuttaṃ mātikāṭṭhakathāyaṃ ‘‘iminā cīvaracetāpannena cīvaraṃ cetāpetvā itthannāmaṃ bhikkhuṃ cīvarena acchādehīti idaṃ āgamanasuddhiṃ dassetuṃ vuttaṃ. Sace hi ‘idaṃ itthannāmassa bhikkhuno dehī’ti peseyya, āgamanassa asuddhattā akappiyavatthuṃ ārabbha bhikkhunā kappiyakārakopi niddisitabbo na bhaveyyā’’ti, tattha āgamanassa suddhiyā vā asuddhiyā vā visesappayojanaṃ na dissati. Satipi hi āgamanassa asuddhabhāve dūto attano kusalatāya kappiyavohārena vadati, ‘‘kappiyakārako na niddisitabbo’’ti idaṃ natthi, na ca dūtena kappiyavohāravasena vutte dāyakena idaṃ kathaṃ pesitanti īdisī vicāraṇā upalabbhati, avicāretvā ca taṃ na sakkā jānituṃ, yadi pana āgamanassa asuddhattā kappiyakārako niddisitabbo na bhaveyya, cīvarānaṃ atthāya dūtassa hatthe akappiyavatthusmiṃ pesite sabbattha dāyakena kathaṃ pesitanti pucchitvāva kappiyakārako niddisitabbo bhaveyya. Tasmā asatipi āgamanasuddhiyaṃ sace so dūto attano kusalatāya kappiyavohāravasena vadati, dūtasseva vacanaṃ gahetabbaṃ. Yadi hi āgamanasuddhiyevettha pamāṇaṃ, mūlasāmikena kappiyavohāravasena pesitassa dūtassa akappiyavohāravasena vadatopi kappiyakārako niddisitabbo bhaveyya, tasmā sabbattha dūtavacanameva pamāṇanti gahetabbaṃ.
537-539. Còn trong học giới liên quan đến vua, trong câu đọc “ajjaṇho,” cũng có người đọc là “ajjuṇho.” Tài sản là vật để hưởng dụng. Điều đã được nói trong Chú giải Mẫu Đề: “Câu ‘hãy dùng tiền mua y này để mua y rồi choàng y cho Tỳ-khưu tên là’ này được nói để chỉ ra sự trong sạch của việc mang đến. Vì nếu người ấy gửi đi với lời nhắn ‘hãy cho cái này cho Tỳ-khưu tên là,’ do sự không trong sạch của việc mang đến, Tỳ-khưu cũng không nên chỉ định người làm cho hợp lệ liên quan đến vật không hợp lệ,” ở đó, không thấy có lợi ích đặc biệt nào từ sự trong sạch hay không trong sạch của việc mang đến. Vì rằng, ngay cả khi việc mang đến không trong sạch, nếu người đưa tin, do sự khéo léo của mình, nói bằng cách nói hợp lệ, thì không có chuyện “không nên chỉ định người làm cho hợp lệ,” và cũng không có sự xét hỏi nào như “thí chủ đã gửi cái này như thế nào?” khi người đưa tin đã nói bằng cách nói hợp lệ, và nếu không xét hỏi thì không thể biết được điều đó. Nếu như do sự không trong sạch của việc mang đến mà không nên chỉ định người làm cho hợp lệ, thì khi vật không hợp lệ được gửi đến trong tay người đưa tin vì mục đích y phục, ở mọi nơi đều phải hỏi “thí chủ đã gửi như thế nào?” rồi mới nên chỉ định người làm cho hợp lệ. Do đó, ngay cả khi không có sự trong sạch của việc mang đến, nếu người đưa tin ấy, do sự khéo léo của mình, nói bằng cách nói hợp lệ, thì chỉ nên chấp nhận lời của người đưa tin. Vì nếu sự trong sạch của việc mang đến là tiêu chuẩn ở đây, thì đối với người đưa tin được chủ sở hữu gốc gửi đi bằng cách nói hợp lệ, mà lại nói bằng cách nói không hợp lệ, cũng nên được chỉ định người làm cho hợp lệ. Do đó, ở mọi nơi, chỉ nên lấy lời của người đưa tin làm tiêu chuẩn.

Iminā cīvaracetāpannenātiādinā pana imamatthaṃ dasseti – kappiya vasena āgatampi cīvaramūlaṃ īdisena dūtavacanena akappiyaṃ hoti, tasmā taṃ paṭikkhipitabbanti. Tenevāha – ‘‘tena bhikkhunā so dūto evamassa vacanīyo’’tiādi. Suvaṇṇaṃ, rajataṃ, kahāpaṇo, māsakoti imāni hi cattāri nissaggiyavatthūni, muttā, maṇi, veḷuriyo, saṅkho, silā, pavāḷaṃ, lohitaṅko, masāragallaṃ, satta dhaññāni, dāsidāsaṃ, khettaṃ, vatthu, pupphārāmaphalārāmādayoti imāni dukkaṭavatthūni ca attano vā cetiyasaṅghagaṇapuggalānaṃ vā atthāya sampaṭicchituṃ na vaṭṭanti, tasmā taṃ sādituṃ na vaṭṭatīti dassanatthaṃ ‘‘na kho mayaṃ, āvuso, cīvaracetāpannaṃ paṭiggaṇhāmā’’ti vuttaṃ, ‘‘cīvarañca kho mayaṃ paṭiggaṇhāmā’’ti idaṃ pana attānaṃ uddissa ābhatattā vattuṃ vaṭṭati, tasmā vuttaṃ. ‘‘Veyyāvaccakaro niddisitabbo’’ti idaṃ ‘‘atthi panāyasmato koci veyyāvaccakaro’’ti kappiyavacanena vuttattā anuññātaṃ. Sace pana dūto ‘‘ko imaṃ gaṇhātī’’ti vā ‘‘kassa demī’’ti vā vadati, na niddisitabbo. ‘‘Ārāmiko vā upāsako vā’’ti idaṃ sāruppatāya vuttaṃ, ṭhapetvā pana pañca sahadhammike yo koci kappiyakārako vaṭṭati. ‘‘Eso kho, āvuso, bhikkhūnaṃ veyyāvaccakaro’’ti idaṃ bhikkhussa kappiyavacanadassanatthaṃ vuttaṃ. Evameva hi vattabbaṃ, ‘‘etassa dehī’’tiādi na vattabbaṃ. So vā cetāpessati vāti ettha eko -saddo padapūraṇo, ‘‘saññatto so mayā’’tiādi pana dūtena evaṃ ārociteyeva taṃ codetuṃ vaṭṭati, nevāssa hatthe datvā gatamattakāraṇenāti dassanatthaṃ vuttaṃ.
Bằng câu Bằng tiền mua y này v.v…, ngài chỉ ra ý nghĩa này: ngay cả tiền mua y được mang đến một cách hợp lệ cũng trở thành không hợp lệ do lời nói như vậy của người đưa tin, do đó, nên từ chối nó. Chính vì thế, ngài nói: “bởi Tỳ-khưu ấy, người đưa tin ấy nên được nói như vầy” v.v… Thật vậy, bốn vật này là vật Ưng Xả Đối Trị: vàng, bạc, tiền kahāpaṇa, tiền māsaka; và những vật này là vật Tác Ác: ngọc trai, ngọc ma-ni, ngọc lưu ly, vỏ ốc, đá, san hô, hồng ngọc, ngọc masāragalla, bảy loại ngũ cốc, nô tỳ nam nữ, ruộng, đất, vườn hoa, vườn cây ăn trái v.v…, không được phép nhận vì lợi ích của chính mình, của bảo tháp, của Tăng chúng, của giáo đoàn, hay của cá nhân. Do đó, để chỉ ra rằng không được phép nhận nó, đã được nói: “này hiền giả, chúng tôi không nhận tiền mua y,” còn câu “nhưng chúng tôi nhận y” này, do được mang đến chỉ định cho mình, nên được phép nói, do đó đã được nói. “Nên chỉ định người phục vụ” điều này đã được cho phép do đã được nói bằng lời nói hợp lệ: “vậy tôn giả có người phục vụ nào không?” Nhưng nếu người đưa tin nói: “ai nhận cái này?” hoặc “tôi cho ai?” thì không nên chỉ định. “Người coi vườn hoặc nam cư sĩ” điều này được nói cho thích hợp, nhưng ngoại trừ năm vị đồng phạm hạnh, bất kỳ ai cũng có thể làm người phục vụ hợp lệ. “Này hiền giả, đó là người phục vụ của các Tỳ-khưu” điều này được nói để cho thấy lời nói hợp lệ của Tỳ-khưu. Thật vậy, chỉ nên nói như vậy, không nên nói “hãy cho người này” v.v… Hoặc người ấy sẽ cho làm ở đây, một từ hoặc là để điền vào cho đủ câu; còn câu “người ấy đã được tôi dặn dò” v.v… được nói để chỉ ra rằng chỉ khi người đưa tin đã thông báo như vậy thì mới được phép nhắc nhở người ấy, chứ không phải chỉ vì lý do đã trao vào tay người ấy rồi đi.

Etānihi vacanāni…pe… na vattabboti ettha ‘‘evaṃ vadanto paṭikkhittassa katattā vattabhede dukkaṭaṃ āpajjati, codanā pana hotiyevā’’ti mahāgaṇṭhipade majjhimagaṇṭhipade ca vuttaṃ. Uddiṭṭhacodanāparicchedaṃ dassetvāti ‘‘dutiyampi vattabbo’’tiādinā dassetvā. Pucchiyamānoti ettha pucchiyamānenāti attho gahetabboti āha ‘‘karaṇatthe paccattavacana’’nti. Āgatakāraṇaṃ bhañjatīti āgatakāraṇaṃ vināseti.
Những lời nói này… vân vân… không được nhận ở đây, trong Mahāgaṇṭhipada và Majjhimagaṇṭhipada có nói: “người nói như vậy, do đã thực hiện việc từ chối, nên phạm tội tác ác trong việc vi phạm phận sự, nhưng việc nhắc nhở thì vẫn có.” Sau khi đã chỉ ra giới hạn của việc nhắc nhở đã được chỉ định là sau khi đã chỉ ra bằng câu “nên được nhận lần thứ hai” v.v… Khi được hỏi ở đây, nên hiểu ý nghĩa là bởi người được hỏi, nên ngài nói: “biến cách thứ nhất mang ý nghĩa sở dụng cách.” Phá vỡ lý do đến là làm hỏng lý do đến.

Ettha keci vadanti ‘‘āgatakāraṇaṃ nāma cīvaraggahaṇaṃ, taṃ bhañjatīti vuttattā puna taṃ cīvaraṃ yena kenaci ākārena gahetuṃ na vaṭṭatī’’ti. Keci pana ‘‘āgatakāraṇaṃ nāma kāyavācāhi codanā, taṃ bhañjatīti vuttattā puna taṃ yena kenaci ākārena codetuṃ na labhati. Sace sayameva deti, mūlasāmiko vā dāpeti, gahetuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. Apare pana ‘‘āgatakāraṇaṃ nāma ṭhānaṃ, taṃ bhañjatīti vuttattā yathā ‘attho me, āvuso, cīvarenā’ti ekāya codanāya dve ṭhānāni bhañjati, evamidhāpi sace āsane nisīdati, ekāya nisajjāya dve ṭhānāni bhañjati. Āmisaṃ ce paṭiggaṇhāti, ekena paṭiggahaṇena dve ṭhānāni bhañjati. Dhammaṃ ce bhāsati, dhammadesanāsikkhāpade vuttaparicchedāya ekāya vācāya dve ṭhānāni bhañjatī’’ti vadanti. Imesaṃ pana sabbesampi vādaṃ ‘‘ayutta’’nti paṭikkhipitvā tīsupi gaṇṭhipadesu idaṃ vuttaṃ ‘‘āgatakāraṇaṃ nāma ṭhānameva, tasmā ‘na kattabba’nti vāritassa katattā nisajjādīsu katesu chasu ṭhānesu ekaṃ ṭhānaṃ bhañjatī’’ti.
Ở đây, một số vị nói: “lý do đến chính là việc nhận y, do đã nói là phá vỡ nó, nên không được phép nhận lại y đó bằng bất cứ hình thức nào.” Một số vị khác lại nói: “lý do đến chính là sự nhắc nhở bằng thân và lời, do đã nói là phá vỡ nó, nên không được phép nhắc nhở lại người đó bằng bất cứ hình thức nào. Nếu người ấy tự mình cho, hoặc chủ sở hữu gốc cho người khác mang đến, thì được phép nhận.” Những vị khác lại nói: “lý do đến chính là chỗ đứng, do đã nói là phá vỡ nó, nên giống như câu ‘này hiền giả, tôi cần y,’ bằng một lời nhắc nhở, vị ấy đã phá vỡ hai chỗ đứng; ở đây cũng vậy, nếu vị ấy ngồi trên ghế, bằng một lần ngồi, vị ấy đã phá vỡ hai chỗ đứng. Nếu vị ấy nhận vật thực, bằng một lần nhận, vị ấy đã phá vỡ hai chỗ đứng. Nếu vị ấy thuyết pháp, bằng một lời nói theo giới hạn đã được nói trong học giới về thuyết pháp, vị ấy đã phá vỡ hai chỗ đứng.” Nhưng sau khi bác bỏ tất cả các quan điểm này là “không hợp lý,” trong cả ba sách cương yếu đã nói như sau: “lý do đến chính là chỗ đứng, do đó, do đã làm điều bị ngăn cấm là ‘không được làm,’ nên khi thực hiện các hành động ngồi v.v…, vị ấy đã phá vỡ một chỗ đứng trong sáu chỗ đứng.”

Tatratatra ṭhāne tiṭṭhatīti idaṃ codakassa ṭhitaṭṭhānato apakkamma tatra tatra uddissa ṭhānaṃyeva sandhāya vuttaṃ. ‘‘Sāmaṃ vā gantabbaṃ, dūto vā pāhetabbo’’ti idaṃ sabhāvato codetuṃ anicchantenapi kātabbamevāti vadanti. Mukhaṃ vivaritvā sayameva kappiyakārakattaṃ upagatoti mukhavevaṭikakappiyakārakoAvicāretukāmatāyāti imasmiṃ pakkhe ‘‘natthamhākaṃ kappiyakārako’’ti idaṃ ‘‘tādisaṃ karonto kappiyakārako natthī’’ti iminā adhippāyena vuttaṃ.
Đứng ở các nơi khác nhau điều này được nói liên quan đến chính chỗ đứng được chỉ định ở các nơi khác nhau sau khi đã rời khỏi chỗ đứng của người nhắc nhở. Có vị nói: “nên tự mình đi, hoặc nên cử người đưa tin,” điều này ngay cả người không muốn nhắc nhở về bản chất cũng cần phải làm. Người đã trở thành người làm cho hợp lệ bằng cách tự mình mở miệng nói là người làm cho hợp lệ bằng cách nói miệng. Do ý muốn không xét hỏi trong trường hợp này, câu “chúng tôi không có người làm cho hợp lệ” này được nói với ý định rằng “người làm như vậy thì không phải là người làm cho hợp lệ.”

‘‘Meṇḍakasikkhāpade vuttanayena paṭipajjitabba’’nti vatvā idāni taṃ meṇḍakasikkhāpadaṃ dassento ‘‘vuttañheta’’ntiādimāha. Idameva hi ‘‘santi, bhikkhave, saddhā pasannā’’tiādivacanaṃ bhesajjakkhandhake meṇḍakavatthusmiṃ (mahāva. 299) vuttattā ‘‘meṇḍakasikkhāpada’’nti vuttaṃ. Tattha hi meṇḍakena nāma seṭṭhinā –
Sau khi nói: “nên thực hành theo phương pháp đã được nói trong học giới Meṇḍaka,” bây giờ, để chỉ ra học giới Meṇḍaka đó, ngài đã nói: “Vì điều này đã được nói” v.v… Chính vì lời nói “Này các Tỳ-khưu, có những người có lòng tin, có tâm trong sạch” v.v… này đã được nói trong phẩm về thuốc men, trong câu chuyện về Meṇḍaka (mahāva. 299), nên được gọi là “học giới Meṇḍaka.” Ở đó, do trưởng giả tên là Meṇḍaka đã thỉnh cầu:

‘‘Santi , bhante, maggā kantārā appodakā appabhakkhā, na sukarā apātheyyena gantuṃ, sādhu, bhante, bhagavā bhikkhūnaṃ pātheyyaṃ anujānātū’’ti –
“Bạch ngài, có những con đường đi qua vùng hoang địa, ít nước, ít thức ăn, không dễ đi nếu không có lương thực, lành thay, bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy cho phép các Tỳ-khưu được mang theo lương thực.”

Yācitena bhagavatā –
Khi được đức Thế Tôn thỉnh cầu, ngài đã phán:

‘‘Anujānāmi, bhikkhave, pātheyyaṃ pariyesituṃ. Taṇḍulo taṇḍulatthikena, muggo muggatthikena, māso māsatthikena, loṇaṃ loṇatthikena, guḷo guḷatthikena, telaṃ telatthikena, sappi sappitthikenā’’ti –
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép tìm kiếm lương thực. Người cần gạo thì (tìm) gạo, người cần đậu xanh thì (tìm) đậu xanh, người cần đậu đen thì (tìm) đậu đen, người cần muối thì (tìm) muối, người cần đường thì (tìm) đường, người cần dầu thì (tìm) dầu, người cần bơ thì (tìm) bơ.”

Vatvā idaṃ vuttaṃ –
Sau khi nói vậy, điều này đã được nói:

‘‘Santi, bhikkhave, manussā saddhā pasannā, te kappiyakārakānaṃ hatthe hiraññaṃ upanikkhipanti ‘iminā ayyassa yaṃ kappiyaṃ, taṃ dethā’ti. Anujānāmi, bhikkhave, yaṃ tato kappiyaṃ, taṃ sādituṃ, na tvevāhaṃ bhikkhave kenaci pariyāyena jātarūparajataṃ sāditabbaṃ pariyesitabbanti vadāmī’’ti.
“Này các Tỳ-khưu, có những người có lòng tin, có tâm trong sạch, họ gửi vàng bạc vào tay những người làm cho hợp lệ và dặn rằng: ‘hãy dùng số này để dâng lên tôn giả những gì hợp lệ.’ Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép nhận những gì hợp lệ từ đó, nhưng này các Tỳ-khưu, Ta không hề nói rằng bằng bất cứ phương cách nào mà được phép tìm kiếm hay nhận vàng và bạc.”

Hiraññaṃupanikkhipantīti etthāpi bhikkhussa ārocanaṃ atthiyevāti gahetabbaṃ. Aññathā aniddiṭṭhakappiyakārakattaṃ bhajatīti na codetabbo siyā. Yadi mūlaṃ sandhāya codeti, taṃ sāditameva siyāti āha ‘‘mūlaṃ asādiyantenā’’ti.
Họ gửi vàng bạc ở đây, cũng cần phải hiểu rằng có sự thông báo cho Tỳ-khưu. Nếu không, sẽ rơi vào tình trạng người làm cho hợp lệ không được chỉ định, nên không được nhắc nhở. Nếu vị ấy nhắc nhở liên quan đến tiền vốn, thì xem như đã nhận nó, nên ngài nói: “bởi người không nhận tiền vốn.”

‘‘Aññātakaappavāritesu viya paṭipajjitabbanti idaṃ attanā codanāṭhānañca na kātabbanti dassanatthaṃ vuttaṃ. Aññaṃ pana kappiyakārakaṃ pesetvā lokacārittavasena anuyuñjitvāpi kappiyavatthuṃ āharāpetuṃ vaṭṭati attānaṃ uddissa nikkhittassa attano santakattā’’ti keci vadanti, taṃ aṭṭhakathāyaṃ ‘‘aññātakaappavāritesu viya paṭipajjitabbaṃ. Sace sayameva cīvaraṃ ānetvā denti, gahetabbaṃ. No ce, kiñci na vattabbā’’ti daḷhaṃ katvā vuttattā na gahetabbanti amhākaṃ khanti. Na hi aññātakaappavāritaṃ sayaṃ aviññāpetvā aññena viññāpetuṃ vaṭṭati, na ca yattha aññaṃ pesetvā āharāpetuṃ vaṭṭati, tattha sayaṃ gantvā na āharāpetabbanti sakkā vatthuṃ. Yadi cettha aññena āharāpetuṃ vaṭṭati, ‘‘aññātakaappavāritesu viya paṭipajjitabba’’ntiādivacanameva niratthakaṃ siyā. ‘‘Dūtenā’’ti imassa byabhicāraṃ dasseti ‘‘sayaṃ āharitvāpī’’ti. Dadantesūti iminā sambandho . Piṇḍapātādīnaṃ atthāyāti iminā pana ‘‘cīvaracetāpanna’’nti imassa byabhicāraṃ dasseti. ‘‘Eseva nayo’’ti vuttattā piṇḍapātādīnaṃ atthāya dinnepi ṭhānacodanādi sabbaṃ heṭṭhā vuttanayeneva kātabbaṃ.
“Nên thực hành như đối với những người không phải là quyến thuộc, chưa thỉnh mời điều này được nói để chỉ ra rằng chính mình không được tạo ra chỗ đứng để nhắc nhở. Một số vị nói: “nhưng được phép cử một người làm cho hợp lệ khác đi, sau khi đã hỏi han theo thông lệ thế gian, để cho mang vật hợp lệ đến, vì vật đã được gửi gắm chỉ định cho mình là thuộc sở hữu của mình,” điều đó, do trong Chú giải đã nói một cách chắc chắn rằng: “nên thực hành như đối với những người không phải là quyến thuộc, chưa thỉnh mời. Nếu họ tự mình mang y đến cho, thì nên nhận. Nếu không, không được nói gì cả,” nên quan điểm của chúng tôi là không nên chấp nhận. Vì rằng, không được phép nhờ người khác xin giúp từ người không phải là quyến thuộc, chưa thỉnh mời, mà chính mình lại không xin; và không thể nói rằng ở nơi được phép cử người khác đến mang về, thì chính mình lại không được đến mang về. Nếu ở đây được phép nhờ người khác mang về, thì chính câu nói “nên thực hành như đối với những người không phải là quyến thuộc, chưa thỉnh mời” v.v… sẽ trở nên vô nghĩa. Ngài chỉ ra sự sai khác của từ “bởi người đưa tin” bằng câu “dù tự mình mang đến.” Có sự liên kết với từ ‘dadantesu’ (khi họ cho). Bằng câu vì lợi ích của vật thực khất thực v.v…, ngài chỉ ra sự sai khác của từ “tiền mua y.” Do đã được nói “cùng một phương pháp này,” nên khi được cho vì lợi ích của vật thực khất thực v.v…, tất cả mọi việc như chỗ đứng, sự nhắc nhở v.v… cũng cần được thực hiện theo phương pháp đã được nói ở dưới.

Paṭiggahaṇepi paribhogepi āpattīti paṭiggahaṇe pācittiyaṃ, paribhoge dukkaṭaṃ. Sveva sāpattikoti dukkaṭāpattiṃ sandhāya vadati. Idañca aṭṭhakathāpamāṇeneva gahetabbaṃ. ‘‘Parassa niddosabhāvadassanatthaṃ sveva sāpattiko sadosoti vuttaṃ hotī’’tipi vadanti. ‘‘Codetīti vuttattā pana āpattiyā codetīti katvā sveva sāpattikoti idaṃ dukkaṭaṃyeva sandhāya vattuṃ yutta’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Paṭiggahaṇepi paribhogepi āpattiyevāti dukkaṭameva sandhāya vuttaṃ. Taḷākassapi khettasaṅgahitattā tassa paṭiggahaṇepi āpatti vuttā. Cattāro paccaye saṅgho paribhuñjatūti detīti ettha ‘‘bhikkhusaṅgho cattāro paccaye paribhuñcatu, taḷākaṃ dammī’’ti vā ‘‘catupaccayaparibhogatthaṃ taḷākaṃ dammī’’ti vā vadati, vaṭṭatiyeva. ‘‘Ito taḷākato uppanne cattāro paccaye dammī’’ti vutte pana vattabbameva natthi.
Phạm tội cả khi nhận lẫn khi dùng là phạm tội Ưng Đối Trị khi nhận, phạm tội tác ác khi dùng. Chính người ấy có tội là nói đến tội tác ác. Và điều này cần được hiểu theo tiêu chuẩn của Chú giải. Cũng có vị nói: “để cho thấy tình trạng vô tội của người khác, đã được nói là chính người ấy có tội, là người có lỗi.” “Nhưng do đã nói ‘nhắc nhở,’ nên hiểu là nhắc nhở về tội lỗi, do đó, câu ‘chính người ấy có tội’ này nên được hiểu là chỉ nói đến tội tác ác” đã được nói trong cả ba sách cương yếu. Phạm tội cả khi nhận lẫn khi dùng là chỉ nói đến tội tác ác. Do ao hồ cũng được bao gồm trong đất đai, nên đã nói là phạm tội cả khi nhận nó. Cho và nói: ‘xin Tăng chúng hãy hưởng dụng bốn món vật dụng’ ở đây, nếu vị ấy nói: “xin Tăng chúng hãy hưởng dụng bốn món vật dụng, tôi xin dâng ao hồ,” hoặc “tôi xin dâng ao hồ vì mục đích hưởng dụng bốn món vật dụng,” thì cũng được phép. Còn khi được nói: “tôi xin dâng bốn món vật dụng phát sanh từ ao hồ này,” thì không còn gì để nói.

Amhākaṃ ekaṃ kappiyakārakaṃ ṭhapethāti vutteti idaṃ īdisaṃyeva sandhāya vuttaṃ. Kappiyakkamena sampaṭicchitesu khettataḷākādīsu pana avuttepi kappiyakārakaṃ ṭhapetuṃ labbhatiyeva. Yasmā parasantakaṃ nāsetuṃ bhikkhūnaṃ na vaṭṭati, tasmā ‘‘na sassakāle’’ti vuttaṃ. ‘‘Janapadassa sāmikoti imināva yo taṃ janapadaṃ vicāreti, tenapi acchinditvā dinnaṃ vaṭṭatiyevā’’ti vadanti. Udakavāhakanti udakamātikaṃ. Kappiyavohārepīti ettha ‘‘vidhānaṃ vakkhāmā’’ti pāṭhaseso. Udakavasenāti udakaparibhogatthaṃ. Suddhacittānanti kevalaṃ udakaparibhogatthamevāti adhippāyo. Alajjinā kārāpite vattabbameva natthīti āha ‘‘lajjībhikkhunā’’ti. Pakatibhāgo nāma imasmiṃ raṭṭhe catuambaṇamattaṃ. Akaṭṭhapubbaṃ navasassaṃ nāma. Aparicchinnabhāgeti ‘‘ettake bhūmibhāge ettako bhāgo dātabbo’’ti evaṃ aparicchinnabhāge.
Khi được nói: ‘hãy chỉ định một người làm cho hợp lệ cho chúng tôi’ điều này được nói liên quan đến trường hợp như vậy. Còn trong các trường hợp ruộng, ao hồ v.v… đã được nhận theo thủ tục hợp lệ, thì dù không được yêu cầu cũng được phép chỉ định người làm cho hợp lệ. Bởi vì các Tỳ-khưu không được phép phá hoại tài sản của người khác, do đó đã được nói: “không phải vào mùa lúa.” Có vị nói: “‘chủ của xứ bằng điều này, người cai quản xứ đó, nếu cho mà không bị cướp đoạt, cũng được phép.’” Vật dẫn nước là mương nước. Trong cách nói hợp lệ cũng vậy ở đây, phần còn thiếu của câu là “chúng tôi sẽ nói về phương pháp.” Do bởi nước là vì mục đích sử dụng nước. Của những người có tâm trong sạch ý muốn nói là chỉ vì mục đích sử dụng nước. Không còn gì để nói khi được người không có lòng hổ thẹn cho làm, nên ngài nói: “bởi Tỳ-khưu có lòng hổ thẹn.” Phần thông thường được gọi là khoảng bốn ambaṇa trong xứ này. Lúa mới chưa từng được cày cấy được gọi là lúa mới. Trong phần chưa được phân định là trong phần chưa được phân định như “trong khoảng đất này, phải cho bao nhiêu phần.”

Rajjuyā vā daṇḍena vāti ettha ‘‘pādehipi minituṃ na vaṭṭatī’’ti vadanti. Khale vā ṭhatvā rakkhatīti ettha pana thenetvā gaṇhante disvā ‘‘mā gaṇhathā’’ti nivārento rakkhati nāma. Sace pana avicāretvā kevalaṃ tuṇhībhūtova rakkhaṇatthāya olokento tiṭṭhati, vaṭṭati. Sacepi tasmiṃ tuṇhībhūte corikāya haranti, ‘‘mayaṃ bhikkhusaṅghassa ārocessāmā’’ti evaṃ vattuṃ vaṭṭatīti vadanti. Nīharāpeti paṭisāmetīti etthāpi ‘‘sace pariyāyena vadati, vaṭṭatī’’ti vadanti. Apubbassa anuppāditattā aññesaṃ vaṭṭatīti āha ‘‘tasseva taṃ akappiya’’nti.
Bằng dây hoặc bằng gậy ở đây, có vị nói: “cũng không được phép đo bằng chân.” Hoặc đứng ở sân đập lúa và canh giữ ở đây, khi thấy kẻ trộm đang lấy, người ngăn cản bằng cách nói “đừng lấy” được gọi là canh giữ. Nhưng nếu vị ấy không xét hỏi, chỉ im lặng đứng nhìn với mục đích canh giữ, thì được phép. Có vị nói, nếu khi vị ấy im lặng mà họ lén lút mang đi, được phép nói rằng: “chúng tôi sẽ báo cho Tăng chúng.” Cho mang ra, cho cất giữ ở đây, cũng có vị nói: “nếu nói một cách vòng vo, thì được phép.” Do không tạo ra điều mới, nên được phép cho những người khác, ngài nói: “điều đó không hợp lệ chỉ đối với vị ấy.”

Nanu ca dubbicāritamattena tasseva taṃ akappiyaṃ, na sabbesaṃ rūpiyasaṃvohāre catutthapatto viya. Vuttañhi tattha (pārā. aṭṭha. 2.589) ‘‘yo pana rūpiyaṃ asampaṭicchitvā ‘therassa pattaṃ kiṇitvā dehī’ti pahitakappiyakārakena saddhiṃ kammārakulaṃ gantvā pattaṃ disvā ‘ime kahāpaṇe gahetvā imaṃ dehī’ti kahāpaṇe dāpetvā gahito, ayaṃ patto etasseva bhikkhuno na vaṭṭati dubbicāritattā, aññesaṃ pana vaṭṭati mūlassa asampaṭicchitattā’’ti. Tasmā yaṃ te āharanti, sabbesaṃ akappiyaṃKasmā? Kahāpaṇānaṃ vicāritattāti idaṃ kasmā vuttanti? Ettha keci vadanti ‘‘kahāpaṇe sādiyitvā vicāritaṃ sandhāya evaṃ vutta’’nti. Saṅghikattā ca nissajjituṃ na sakkā, tasmā sabbesaṃ na kappatīti tesaṃ adhippāyo. Keci pana ‘‘asādiyitvāpi kahāpaṇānaṃ vicāritattā rūpiyasaṃvohāro kato hoti, saṅghikattā ca nissajjituṃ na sakkā, tasmā sabbesaṃ na kappatī’’ti vadanti. Gaṇṭhipadesu pana tīsupi idaṃ vuttaṃ ‘‘catutthapatto gihisantakānaṃyeva kahāpaṇānaṃ vicāritattā aññesaṃ kappati, idha pana saṅghikānaṃ vicāritattā sabbesaṃ na kappatī’’ti. Sabbesampi vādo tena tena pariyāyena yujjatiyeva.
Chẳng phải chỉ do hành động sai trái mà điều đó không hợp lệ chỉ đối với vị ấy, chứ không phải cho tất cả, giống như trường hợp cái bát thứ tư trong việc giao dịch bằng tiền bạc sao? Thật vậy, ở đó (pārā. aṭṭha. 2.589) có nói: “Còn người không nhận tiền bạc, mà đi đến lò rèn cùng với người làm cho hợp lệ được sai đi với lời nhắn ‘hãy mua bát của trưởng lão rồi cho,’ sau khi thấy cái bát, đã cho đưa tiền kahāpaṇa và nói ‘hãy nhận những đồng kahāpaṇa này và cho cái này,’ cái bát này không được phép dùng cho chính Tỳ-khưu ấy do hành động sai trái, nhưng được phép dùng cho những người khác do không nhận tiền vốn.” Do đó, tại sao lại nói: vật mà họ mang đến cho thầy, không hợp lệ cho tất cả. Tại sao? Do đã giao dịch bằng tiền kahāpaṇa. Ở đây, một số vị nói: “đã được nói như vậy liên quan đến việc giao dịch sau khi đã nhận tiền kahāpaṇa.” Ý định của họ là: do là của Tăng chúng, nên không thể xả bỏ, do đó không hợp lệ cho tất cả. Một số vị khác lại nói: “dù không nhận, nhưng do đã giao dịch bằng tiền kahāpaṇa, nên đã thực hiện việc giao dịch bằng tiền bạc, và do là của Tăng chúng, nên không thể xả bỏ, do đó không hợp lệ cho tất cả.” Nhưng trong cả ba sách cương yếu, đã nói như sau: “cái bát thứ tư, do được giao dịch bằng tiền kahāpaṇa của chính người tại gia, nên hợp lệ cho những người khác; còn ở đây, do được giao dịch bằng (tài sản) của Tăng chúng, nên không hợp lệ cho tất cả.” Tất cả các quan điểm này đều hợp lý theo từng phương diện.

Catusāladvāreti bhojanasālaṃ sandhāya vuttaṃ. Pariyāyena kathitattāti ‘‘gaṇhā’’ti avatvā ‘‘sīmā gatā’’ti pariyāyena kathitattā. Pakatibhūmikaraṇatthaṃ ‘‘heṭṭhā gahitaṃ paṃsu’’ntiādi vuttaṃ. Dāsaṃ dammīti ettha ‘‘manussaṃ dammīti vutte vaṭṭatī’’ti vadanti. Kukkuṭasūkarā…pe… vaṭṭatīti ettha kukkuṭasūkaresu dīyamānesu ‘‘imehi amhākaṃ attho natthi, sukhaṃ jīvantu, araññe vissajjethā’’ti vattuṃ vaṭṭati. ‘‘Khettavatthupaṭiggahaṇā paṭivirato hotī’’tiādivacanato (dī. ni. 1.10, 194) khettādīnaṃ paṭiggahaṇe ayaṃ sabbo vinicchayo vutto. Kappiyakārakassa bhikkhunā niddiṭṭhabhāvo, dūtena appitatā, tatuttari vāyāmo, tena vāyāmena paṭilābhoti imānettha cattāri aṅgāni.
Ở cửa của nhà ăn bốn gian là nói đến nhà ăn. Do đã nói một cách vòng vo là do đã nói một cách vòng vo “giới hạn đã đến” mà không nói “hãy nhận lấy.” Để làm cho trở lại nền đất bình thường, đã được nói: “đất đã được lấy ở dưới” v.v… Tôi cho một người nô lệ ở đây, có vị nói: “nếu nói ‘tôi cho một người,’ thì được phép.” Gà, heo… vân vân… được phép ở đây, khi gà, heo được cho, được phép nói: “chúng tôi không cần những thứ này, hãy để chúng sống yên ổn, hãy thả chúng vào rừng.” Từ lời nói “vị ấy từ bỏ việc nhận ruộng đất” v.v… (dī. ni. 1.10, 194), toàn bộ sự phân xử này về việc nhận ruộng đất v.v… đã được nói đến. Tình trạng người làm cho hợp lệ đã được Tỳ-khưu chỉ định, sự giao phó bởi người đưa tin, sự cố gắng sau đó, và sự nhận được do sự cố gắng đó, đây là bốn yếu tố ở đây.

Rājasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới liên quan đến vua.

Niṭṭhito cīvaravaggo paṭhamo.
Kết thúc phẩm Y thứ nhất.

2. Kosiyavaggo
2. Phẩm Tơ Lụa

1. Kosiyasikkhāpadavaṇṇanā
1. Tường giải về học giới tơ lụa

542. Pāḷiyaṃ ‘‘kosiyakārake’’ti ettha kosaṃ karontīti kosakārakāti laddhavohārānaṃ pāṇakānaṃ kosato nibbattaṃ kosiyaṃ, taṃ karontīti kosiyakārakā, tantavāyā. Saṃhananaṃ saṅghāto, vināsoti attho. Kosiyamissakanti kosiyatantunā missaṃ. ‘‘Avāyima’’nti vuttattā vāyitvā ce karonti, anāpatti. Anāpatti vitānaṃ vātiādinā vitānādīnaṃ atthāya karaṇepi tenākārena paribhogepi anāpatti vuttā.
542. Trong Pāḷi, ở câu “những người làm tơ lụa,” những sinh vật có tên gọi là con tằm (kosakāraka) vì chúng làm ra kén (kosa), tơ lụa (kosiyaṃ) được tạo ra từ kén của chúng, những người làm ra thứ đó được gọi là người làm tơ lụa (kosiyakārakā), tức là những người thợ dệt. Sự hủy hoại là sự phá hủy, có nghĩa là sự tiêu diệt. Pha lẫn tơ lụa là pha lẫn với sợi tơ lụa. Do đã được nói “chưa được dệt,” nên nếu họ làm bằng cách dệt, thì vô tội. Bằng câu vô tội, hoặc là tấm trướng v.v…, sự vô tội đã được nói đến cả trong việc làm vì lợi ích của tấm trướng v.v… và trong việc sử dụng theo hình thức đó.

Evampi missetvā katameva hotīti iminā vātena āharitvā pātitepi acittakattā āpattiyevāti dasseti. Kosiyamissakatā, attano atthāya santhatassa karaṇaṃ kārāpanaṃ, paṭilābho cāti imānettha tīṇi aṅgāni.
Dù vậy cũng là đã làm pha lẫn bằng điều này, ngài cho thấy rằng ngay cả khi (sợi tơ) được gió mang đến và rơi vào, do là tội không có chủ tâm, nên vẫn phạm tội. Tình trạng pha lẫn tơ lụa, việc làm hoặc cho làm tấm lót ngồi vì lợi ích của chính mình, và sự nhận được, đây là ba yếu tố ở đây.

Kosiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới tơ lụa.

547. Suddhakāḷakasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
547. Học giới về (len) toàn màu đen thì có ý nghĩa rõ ràng.

3. Dvebhāgasikkhāpadavaṇṇanā
3. Tường giải về học giới hai phần

552. Dvebhāgasikkhāpade pana dve bhāgāti ukkaṭṭhaparicchedo kāḷakānaṃ adhikaggahaṇassa paṭikkhepavasena sikkhāpadassa paññattattā. Tatiyaṃ odātānaṃ catutthaṃ gocariyānanti ayaṃ heṭṭhimaparicchedo tesaṃ adhikaggahaṇe paṭikkhepābhāvato, tasmā kāḷakānaṃ bhāgadvayato adhikaṃ na vaṭṭati, sesānaṃ pana vuttappamāṇato adhikampi vaṭṭati. ‘‘Kāḷakānaṃyeva ca adhikaggahaṇassa paṭikkhittattā kāḷakānaṃ upaḍḍhaṃ odātānaṃ vā gocariyānaṃ vā upaḍḍhaṃ gahetvāpi kātuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti, ‘‘anāpatti bahutaraṃ odātānaṃ bahutaraṃ gocariyānaṃ ādiyitvā karoti, suddhaṃ odātānaṃ suddhaṃ gocariyānaṃ ādiyitvā karotī’’ti iminā taṃ sameti. ‘‘Kāḷake odāte ca ṭhapetvā sesā gocariyesuyeva saṅgahaṃ gacchantī’’ti vadanti. Dvekoṭṭhāsā kāḷakānanti ettha pana ‘‘ekassapi kāḷakalomassa atirekabhāve nissaggiyaṃ hotī’’ti mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. dvebhāgasikkhāpadavaṇṇanā) ttaṃ, taṃ ‘‘dhārayitvā dve tulā ādātabbā’’ti vacanato tulādhāraṇāya na sameti . Na hi lome gaṇetvā tulādhāraṇā karīyati, atha gaṇetvāva dhārayitabbaṃ siyā, kiṃ tulādhāraṇāya, tasmā evamettha adhippāyo yutto siyā – acittakattā sikkhāpadassa pubbe tulāya dhārayitvā ṭhapitesu ekampi lomaṃ tattha pateyya, nissaggiyanti. Aññathā dubbiññeyyabhāvato dve tulā nādātabbā, ūnakatarāva ādātabbā siyuṃ.
552. Còn trong học giới hai phần, hai phần là giới hạn tối đa, do học giới được chế định theo cách bác bỏ việc lấy nhiều hơn đối với len màu đen. Phần thứ ba là màu trắng, phần thứ tư là màu nâu đây là giới hạn tối thiểu, do không có sự bác bỏ trong việc lấy nhiều hơn đối với chúng, do đó, không được phép dùng len màu đen nhiều hơn hai phần, nhưng đối với các loại còn lại, được phép dùng nhiều hơn số lượng đã nói. Có vị nói: “Và do chỉ có việc lấy nhiều hơn đối với len màu đen bị bác bỏ, nên cũng được phép làm bằng cách lấy một nửa là len màu đen và một nửa là len màu trắng hoặc màu nâu,” điều đó phù hợp với câu “vô tội, khi làm bằng cách lấy nhiều len màu trắng hơn, nhiều len màu nâu hơn; khi làm bằng cách lấy toàn len màu trắng, toàn len màu nâu.” Có vị nói: “Ngoại trừ màu đen và màu trắng, các màu còn lại đều được bao gồm trong màu nâu.” Còn ở câu hai phần là len màu đen, trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. dvebhāgasikkhāpadavaṇṇanā) có nói: “khi có dư dù chỉ một sợi len màu đen, cũng trở thành vật Ưng Xả Đối Trị,” điều đó không phù hợp với việc cân bằng cân, theo câu “nên cầm hai cái cân rồi lấy.” Vì rằng, việc cân bằng cân không được thực hiện bằng cách đếm từng sợi len, nếu phải đếm rồi mới cầm, thì cần gì đến việc cân bằng cân. Do đó, ý định ở đây có lẽ là như vầy: do là tội không có chủ tâm của học giới, nên trong những thứ đã được cân bằng cân và cất giữ từ trước, nếu dù chỉ một sợi len rơi vào đó, cũng là vật Ưng Xả Đối Trị. Nếu không, do khó có thể biết được, nên không nên lấy hai cái cân, mà chỉ nên lấy cái ít hơn.

Dvebhāgasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới hai phần.

4. Chabbassasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới sáu năm

557. Chabbassasikkhāpade pana ‘‘yesaṃ no santhate dārakā uhadantipi ummihantipi, yesaṃ no santhatā undūrehipi khajjantī’’ti evaṃ pāḷipadānaṃ sambandho veditabbo. Hada karīsossagge, miha secaneti panimassatthaṃ sandhāyāha ‘‘vaccampi passāvampi karontī’’ti. Pavāraṇāuposathapāṭipadadivasesu santhataṃ karitvā puna chaṭṭhe vasse paripuṇṇe pavāraṇāuposathapāṭipadadivasesu karonto ‘‘chabbassāni karotī’’ti vuccati. Dutiyadivasato paṭṭhāya karonto pana atirekachabbassāni karoti nāma.
557. Còn trong học giới sáu năm, cần phải hiểu sự liên kết của các từ Pāḷi như vầy: “trên tấm lót ngồi của chúng tôi, trẻ con vừa đại tiện vừa tiểu tiện; tấm lót ngồi của chúng tôi bị chuột cắn.” Và để liên quan đến ý nghĩa của các từ hada trong việc đại tiện, và miha trong việc tiểu tiện, ngài đã nói: “vừa đi tiêu vừa đi tiểu.” Người làm tấm lót ngồi vào các ngày pāṭipadā của lễ uposatha pavāraṇā, rồi lại làm vào các ngày pāṭipadā của lễ uposatha pavāraṇā sau khi đã đủ sáu năm, được gọi là “làm trong sáu năm.” Còn người làm từ ngày thứ hai trở đi được gọi là làm quá sáu năm.

Chabbassasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới sáu năm.

5. Nisīdanasanthatasikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới tấm lót ngồi

565-6. Nisīdanasanthatasikkhāpade pana paññāyissatīti sace sā katikā manāpā bhavissati, manāpatāya bhikkhusaṅgho sandississati. Sace amanāpā, amanāpatāya sandississatīti adhippāyo, āraññakaṅgādīni tīṇi pāḷiyaṃ padhānaṅgavasena vuttāni, sesānipi te samādiyiṃsuyevāti veditabbaṃ. Tenevāha ‘‘santhate catutthacīvarasaññitāyā’’ti. Ujjhitvāti vissajjetvā.
565-6. Còn trong học giới về tấm lót ngồi, sẽ được biết đến ý muốn nói là: nếu thỏa thuận đó là vừa ý, Tăng chúng sẽ được thấy là có sự vừa ý; nếu không vừa ý, sẽ được thấy là có sự không vừa ý. Ba pháp như hạnh ở rừng v.v… đã được nói trong Pāḷi theo phương diện là các chi phần chính, cần phải hiểu rằng họ cũng đã thọ trì cả các pháp còn lại. Chính vì thế, ngài nói: “đối với người có tưởng là y thứ tư trên tấm lót ngồi.” Sau khi vứt bỏ là sau khi từ bỏ.

567. Nisīdanasanthatattā nivāsanapārupanakiccaṃ natthīti āha ‘‘sakiṃ nisinnañceva nipannañcā’’ti . Vidatthimattanti sugatavidatthiṃ sandhāya vadati. Idañca heṭṭhimaparicchedadassanatthaṃ vuttaṃ. ‘‘Vitānādīnaṃyeva atthāya karaṇe anāpattivacanato sace nipajjanatthāya karonti, āpattiyevā’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Akappiyattā pana ‘‘paribhuñjituṃ na vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Idañca nisīdanasanthataṃ nāma nisīdanacīvarameva, nāññanti vadanti. Nisīdanasikkhāpadepi nisīdanaṃ nāma sadasaṃ vuccatīti ca aṭṭhakathāyañcassa ‘‘santhatasadisaṃ santharitvā ekasmiṃ ante sugatavidatthiyā vidatthimatte padese dvīsu ṭhānesu phāletvā tisso dasā karīyanti, tāhi dasāhi sadasaṃ nāma vuccatī’’ti (pāci. aṭṭha. 531) vacanato idhāpi ‘‘nisīdanaṃ nāma sadasaṃ vuccatī’’ti ca ‘‘santhate catutthacīvarasaññitāyā’’ti ca vacanato taṃ yuttaṃ viya dissati. Keci pana ‘‘nisīdanasanthataṃ eḷakalomāni santharitvā santhataṃ viya karonti, taṃ avāyimaṃ anadhiṭṭhānupagaṃ, nisīdanacīvaraṃ pana channaṃ cīvarānaṃ aññatarena karoti adhiṭṭhānupagaṃ, taṃ karontā ca nantakāni santharitvā santhatasadisaṃ karontī’’ti vadanti, vīmaṃsitvā yuttataraṃ gahetabbaṃ.
567. Do là tấm lót ngồi, nên không có phận sự mặc và đắp, ngài nói: “chỉ một lần ngồi và một lần nằm.” Khoảng một gang tay là nói đến gang tay của đức Như Lai. Và điều này được nói để cho thấy giới hạn dưới. Trong cả ba sách cương yếu có nói: “do lời nói vô tội trong việc làm vì lợi ích của tấm trướng v.v…, nên nếu làm vì lợi ích để nằm, thì vẫn phạm tội.” Còn do không hợp lệ, nên đã được nói: “không được phép sử dụng.” Có vị nói rằng, tấm lót ngồi này chính là y lót ngồi, chứ không phải vật khác. Và trong học giới về tấm lót ngồi, tấm lót ngồi được gọi là có tua, và trong chú giải của nó (pāci. aṭṭha. 531) có nói: “trải ra giống như tấm lót, ở một đầu, tại một khoảng bằng một gang tay của đức Như Lai, người ta xé ở hai chỗ và làm thành ba tua, do những tua đó, nó được gọi là có tua,” theo đó, ở đây cũng vậy, câu “tấm lót ngồi được gọi là có tua” và câu “đối với người có tưởng là y thứ tư trên tấm lót ngồi,” điều đó có vẻ hợp lý. Nhưng một số vị nói rằng: “tấm lót ngồi, người ta trải len cừu ra và làm giống như tấm lót, nó không được dệt, không hợp lệ để chú nguyện; còn y lót ngồi thì được làm bằng một trong sáu loại y, hợp lệ để chú nguyện, và khi làm nó, người ta trải những miếng nỉ ra và làm giống như tấm lót,” cần phải xem xét và chọn lấy điều hợp lý hơn.

Nisīdanasanthatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới tấm lót ngồi.

6. Eḷakalomasikkhāpadavaṇṇanā
6. Tường giải về học giới len của cừu

571. Eḷalomasikkhāpade pana āsumbhīti ettha ‘‘asumbhī’’ti paṭhanti. Kilantāti iminā kilantatāya te onamitvā pātetuṃ na sakkontīti dasseti. Addhānamaggappaṭipannassāti idaṃ vatthumattadīpanavasena pāḷiyaṃ vuttaṃ. Yattha katthaci pana dhammena labhitvā gaṇhituṃ vaṭṭatiyeva. Tiyojanaparamanti ca gahitaṭṭhānato tiyojanappamāṇaṃ desanti evamattho gahetabbo.
571. Còn trong học giới về len của cừu, ở từ āsumbhī, có người đọc là “asumbhī.” Mệt mỏi bằng điều này, ngài cho thấy rằng do mệt mỏi, họ không thể cúi xuống và làm rơi nó. Của người đang đi trên đường dài điều này được nói trong Pāḷi theo cách chỉ ra trường hợp của câu chuyện. Nhưng ở bất cứ nơi nào, được phép nhận sau khi đã nhận được một cách hợp pháp. Tối đa là ba do-tuần và nên hiểu ý nghĩa là khoảng cách ba do-tuần tính từ nơi đã nhận.

572.Sahatthāti karaṇatthe nissakkavacananti āha ‘‘sahatthenā’’ti. Asante hāraketi pāḷiyaṃ bhikkhuno anurūpatādassanatthaṃ vuttaṃ, na pana hārake vijjamāne tiyojanabbhantare sahatthā harantassa āpattidassanatthaṃ. Tiyojanato bahi bahitiyojananti āha ‘‘tiyojanato bahi pātetī’’ti. Tena haritepi āpattiyevāti saussāhattā anāṇattiyā haṭattā ca. Satipi hi saussāhabhāve āṇattiyā ce harati, anāpatti ‘‘aññaṃ harāpetī’’ti vacanato. Añño harissatīti adhippāyābhāvato ‘‘suddhacittena ṭhapita’’nti vuttaṃ. Saussāhattāti tiyojanātikkamane saussāhattā. Idañca ‘‘añño harissatī’’ti asuddhacittena ṭhapitaṃ sandhāya vuttaṃ, acittakattāti idaṃ pana suddhacittena ṭhapitaṃ sandhāya. Anāpatti pāḷiyā na sametīti ‘‘tiyojanaṃ haratī’’tiādipāḷiyā, visesato ‘‘aññaṃ harāpetī’’ti pāḷiyā ca na sameti.
572. Bằng tay của mình là biến cách thứ năm (xuất xứ cách) mang ý nghĩa sở dụng cách, nên ngài nói: “bằng tay của mình.” Khi không có người mang được nói trong Pāḷi để cho thấy sự phù hợp của Tỳ-khưu, chứ không phải để cho thấy tội lỗi của người mang bằng tay của mình trong khoảng ba do-tuần khi có người mang. Ngoài ba do-tuần là ngoài ba do-tuần, nên ngài nói: “làm rơi ở ngoài ba do-tuần.” Dù được mang bởi người ấy, vẫn phạm tội là do có sự cố gắng và do được mang đi mà không có sự ra lệnh. Vì rằng, ngay cả khi có sự cố gắng, nếu mang đi do có sự ra lệnh, thì vô tội, theo câu “cho người khác mang đi.” Do không có ý định rằng người khác sẽ mang, nên đã được nói: “được cất giữ với tâm trong sạch.” Do có sự cố gắng là do có sự cố gắng trong việc vượt quá ba do-tuần. Và điều này được nói liên quan đến việc cất giữ với tâm không trong sạch rằng “người khác sẽ mang đi”; còn câu do không có chủ tâm này được nói liên quan đến việc cất giữ với tâm trong sạch. Vô tội, không phù hợp với Pāḷi là không phù hợp với Pāḷi như “mang đi ba do-tuần” v.v…, và đặc biệt là với Pāḷi “cho người khác mang đi.”

Sace sāmikaṃ jānāpetvā ṭhapeti, āṇattiyā harāpeti nāmāti āha ‘‘sāmikassa ajānantassevā’’ti. Agacchantepīti gamanaṃ upacchinditvā ṭhitayānepi. Heṭṭhā vā gacchantoti bhūmiyaṃ gacchanto. Aññaṃ harāpetīti ettha añña-ggahaṇena sāmaññato tiracchānagatāpi saṅgahitāti āha – ‘‘aññaṃ harāpetīti vacanato anāpattī’’ti. Suṅkaghāte āpatti hotīti aññaṃ harāpentassa āpatti. Tattha anāpattīti aññavihitassa theyyacittābhāvato anāpatti.
Nếu cất giữ sau khi đã cho chủ biết, thì được gọi là cho mang đi theo lệnh, nên ngài nói: “chỉ khi chủ không biết.” Ngay cả trên xe không đi là ngay cả trên xe đã dừng lại sau khi đã chấm dứt cuộc hành trình. Hoặc người đi ở dưới là người đi bộ trên đất. Cho người khác mang đi ở đây, bằng việc dùng từ người khác, các loài bàng sanh cũng được bao gồm một cách chung chung, nên ngài nói: “vô tội, theo câu ‘cho người khác mang đi.’” Phạm tội ở trạm thuế là tội của người cho người khác mang đi. Ở đó, vô tội là vô tội do người được nhờ không có ý định trộm cắp.

575.‘‘Taṃ harantassāti puna tiyojanaṃ harantassā’’ti mahāgaṇṭhipade vuttaṃ. Taṃ pana mātikāṭṭhakathāyaṃ aṅgesu ‘‘paṭhamappaṭilābho sati iminā vacanena na sameti. ‘‘Paṭhamappaṭilābho’’ti hi idaṃ dutiyappaṭilābho āpattiyā aṅgaṃ na hotīti dīpeti, tasmā pāḷiyaṃ aṭṭhakathāyañca visesābhāvato acchinnaṃ paṭilabhitvā harantassa puna tiyojanātikkamepi anāpatti vuttāti amhākaṃ khanti. Aññathā acchinnaṃ paṭilabhitvā puna tiyojanaṃ haratīti vadeyya. Vīmaṃsitvā yuttataraṃ gahetabbaṃ. Anāpatti katabhaṇḍanti ettha ‘‘kambalakojavādikatabhaṇḍampi. Pakaticīvare laggalomāni āpattiṃ janentiyevā’’ti vadanti. Tanukapattatthavikantare aghaṭṭanatthaṃ pakkhipanti. Pakkhittanti kaṇṇacchidde pakkhittaṃ. Nidhānamukhaṃ nāmāti iminā katabhaṇḍasaṅkhyaṃ na gacchatīti dasseti. Eḷakalomānaṃ akatabhaṇḍatā, paṭhamappaṭilābho, attanā ādāya vā aññassa ajānantassa yāne pakkhipitvā vā tiyojanātikkamanaṃ, āharaṇapaccāharaṇaṃ, avāsādhippāyatāti imānettha pañca aṅgāni.
575. “Của người mang nó là của người mang đi thêm ba do-tuần” đã được nói trong Mahāgaṇṭhipada. Nhưng điều đó không phù hợp với lời nói này trong Chú giải Mẫu Đề, ở phần các yếu tố: “khi có sự nhận lần đầu.” Vì rằng, câu “sự nhận lần đầu” này chỉ ra rằng sự nhận lần thứ hai không phải là yếu tố của tội lỗi, do đó, quan điểm của chúng tôi là do không có sự khác biệt trong Pāḷi và Chú giải, nên sự vô tội đã được nói cho người mang đi sau khi đã nhận lại vật bị cướp, ngay cả khi quá ba do-tuần một lần nữa. Nếu không, ngài đã nói: mang đi thêm ba do-tuần sau khi đã nhận lại vật bị cướp. Cần phải xem xét và chọn lấy điều hợp lý hơn. Vô tội, vật đã được làm thành ở đây, có vị nói: “cũng là các vật đã được làm thành như chăn, thảm v.v… Những sợi len dính vào y thông thường vẫn phát sanh tội.” Người ta nhét vào bên trong túi đựng bát mỏng để không bị cọ xát. Được nhét vào là được nhét vào trong lỗ tai. Được gọi là đầu mối cất giữ bằng điều này, ngài cho thấy nó không được tính vào số lượng vật đã được làm thành. Tình trạng len của cừu chưa phải là vật đã được làm thành, sự nhận lần đầu, việc tự mình mang đi hoặc đặt lên xe của người khác mà người ấy không biết rồi đi quá ba do-tuần, việc mang đi và mang về, và ý định ở lại, đây là năm yếu tố ở đây.

Eḷakalomasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới len của cừu.

576. Eḷakalomadhovāpanasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
576. Học giới về việc cho giặt len của cừu thì có ý nghĩa rõ ràng.

8. Rūpiyasikkhāpadavaṇṇanā
8. Tường giải về học giới tiền bạc

583-584. Rūpiyasikkhāpade pana satthuvaṇṇoti satthunā samānavaṇṇo. Satthuno vaṇṇo satthuvaṇṇo, satthuvaṇṇo viya vaṇṇo assāti satthuvaṇṇoti majjhapadalopīsamāso daṭṭhabbo. Pākatiko nāma etarahi pakatikahāpaṇo. Rukkhaphalabījamayoti tintiṇikādirukkhānaṃ phalabījena kato. Iccetaṃ sabbampīti yathāvuttabhedaṃ sabbampi catubbidhaṃ nissaggiyavatthu hotīti sambandho. Jātarūpamāsakoti suvaṇṇakahāpaṇo.
583-584. Còn trong học giới về tiền bạc, màu sắc của bậc Đạo sư là có màu sắc giống như của bậc Đạo sư. Màu sắc của bậc Đạo sư là màu sắc của bậc Đạo sư, vật có màu sắc giống như màu sắc của bậc Đạo sư được gọi là có màu sắc của bậc Đạo sư, cần phải thấy đây là hợp từ có từ ở giữa bị lược bỏ. Loại thông thường được gọi là tiền kahāpaṇa thông thường hiện nay. Làm bằng hạt của quả cây là được làm bằng hạt của quả các loại cây như cây me v.v… Tất cả những thứ này có sự liên kết rằng tất cả bốn loại vật Ưng Xả Đối Trị đã được nói đến theo các sự phân chia như trên. Đồng māsaka bằng vàng là đồng kahāpaṇa bằng vàng.

Gaṇheyyāti attano atthāya dīyamānaṃ vā katthaci ṭhitaṃ vā nippariggahaṃ disvā sayaṃ gaṇheyya. ‘‘Idaṃ ayyassa hotū’’ti evaṃ sammukhā vā ‘‘asukasmiṃ nāma ṭhāne mama hiraññasuvaṇṇaṃ atthi, taṃ tuyhaṃ hotū’’ti evaṃ parammukhā ṭhitaṃ vā kevalaṃ vācāya vā hatthamuddāya vā ‘‘tuyha’’nti vatvā pariccattassa kāyavācāhi appaṭikkhipitvā cittena sādiyanaṃ upanikkhittasādiyanaṃ nāma. ‘‘Sādiyatī’’ti vuttamevatthaṃ vibhāveti ‘‘gaṇhitukāmo hotī’’ti. ‘‘Idaṃ guttaṭṭhāna’’nti ācikkhitabbanti paccayaparibhogaṃyeva sandhāya ācikkhitabbaṃ. ‘‘Idha nikkhipāhī’’ti vutte ‘‘uggaṇhāpeyya vā’’ti vuttalakkhaṇena nissaggiyaṃ hotīti āha – ‘‘idha nikkhipāhīti na vattabba’’nti. Parato ‘‘imaṃ gaṇhā’’ti na vattabbanti etthāpi eseva nayo. Kappiyañca akappiyañca nissāya ṭhitameva hotīti yasmā tato uppannapaccayaparibhogo kappati, tasmā kappiyaṃ nissāya ṭhitaṃ. Yasmā pana dubbicāraṇāya tato uppannapaccayaparibhogopi na kappati, tasmā akappiyaṃ nissāya ṭhitanti veditabbaṃ.
Nên nhận là sau khi thấy vật được cho vì lợi ích của mình hoặc vật không có người sở hữu được đặt ở đâu đó, vị ấy nên tự mình nhận lấy. Việc không từ chối bằng thân và lời và chấp nhận bằng tâm đối với vật đã được từ bỏ bằng cách nói “của thầy” chỉ bằng lời nói hoặc bằng dấu hiệu của tay, dù là ở trước mặt như vầy: “vật này là của tôn giả,” hay ở vắng mặt như vầy: “ở nơi tên là, có vàng bạc của tôi, vật đó là của thầy,” được gọi là sự chấp nhận vật được ký gửi. Ngài làm rõ ý nghĩa đã được nói “chấp nhận”: “có ý muốn nhận lấy.” “Nên chỉ cho ‘đây là nơi an toàn’” là nên chỉ cho liên quan đến chính việc sử dụng các vật dụng. Khi được nói “hãy gửi ở đây,” nó sẽ trở thành vật Ưng Xả Đối Trị theo đặc điểm đã được nói “hoặc cho người khác nhận lấy,” nên ngài nói: “không nên nói ‘hãy gửi ở đây.’” Ở sau, câu “không nên nói ‘hãy nhận cái này’” cũng có cùng phương pháp này. Vừa dựa vào vật hợp lệ, vừa dựa vào vật không hợp lệ là cần phải hiểu rằng: vì việc sử dụng các vật dụng phát sanh từ đó là hợp lệ, nên nó dựa vào vật hợp lệ. Còn vì do sự xử lý sai trái, việc sử dụng các vật dụng phát sanh từ đó cũng không hợp lệ, nên nó dựa vào vật không hợp lệ.

Na tena kiñci kappiyabhaṇḍaṃ cetāpitanti ettha cetāpitaṃ ce, natthi paribhogupāyo, tasmā evaṃ vuttaṃ. Akappiyañhi nissaggiyaṃ vatthuṃ uggaṇhitvā taṃ anissajjitvāva cetāpitaṃ kappiyabhaṇḍaṃ saṅghassa nissaṭṭhampi sabbesaṃ na kappati. Keci pana ‘‘yasmā nissaggiyaṃ vatthuṃ paṭiggahetvā cetāpitaṃ kappiyabhaṇḍaṃ saṅghassa nissajjāmīti nissaṭṭhaṃ vināva upāyaṃ paribhuñjituṃ vaṭṭati, tasmā ‘na tena kiñci kappiyabhaṇḍaṃ cetāpita’nti vutta’’nti vadanti. ‘‘Ārāmikānaṃ vā pattabhāganti idaṃ gihīnaṃ hatthagatopi soyeva bhāgoti katvā vuttaṃ. Sace pana tena aññaṃ parivattetvā ārāmikā denti, paribhuñjituṃ vaṭṭatī’’ti majjhimagaṇṭhipade cūḷagaṇṭhipade ca vuttaṃ. Tato haritvāti aññesaṃ pattabhāgato haritvā. Kasiṇaparikammanti ālokakasiṇaparikammaṃ. Mañcapīṭhādīni vāti ettha ‘‘tato gahitamañcapīṭhādīni parivattetvā aññaṃ ce gahitaṃ, vaṭṭatī’’ti vadanti. Chāyāpīti bhojanasālādīnaṃ chāyāpi. Paricchedātikkantāti gehaparicchedaṃ atikkantā, chāyāya gatagataṭṭhānaṃ gehaṃ nāma na hotīti adhippāyo. Maggenapīti ettha ‘‘sace añño maggo natthi, maggaṃ adhiṭṭhahitvā gantuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. Kītāyāti tena vatthunā kītāya. Upanikkhepaṃ ṭhapetvā saṅgho paccaye paribhuñjatīti sace upāsako ‘‘atibahu etaṃ hiraññaṃ, idaṃ, bhante, ajjeva na vināsetabba’’nti vatvā sayaṃ upanikkhepaṃ ṭhapeti, aññena vā ṭhapāpeti, etaṃ upanikkhepaṃ ṭhapetvā tato udayaṃ paribhuñjanto saṅgho paccaye paribhuñjati, tena vatthunā gahitattā ‘‘akappiya’’nti vuttaṃ.
Không có vật dụng hợp lệ nào được mua bằng số tiền đó ở đây, nếu đã được mua, thì không có phương cách sử dụng, do đó đã được nói như vậy. Thật vậy, vật dụng hợp lệ được mua sau khi đã nhận lấy vật không hợp lệ là vật Ưng Xả Đối Trị mà không xả bỏ nó, dù đã được xả cho Tăng chúng, cũng không hợp lệ cho tất cả. Nhưng một số vị nói rằng: “vì vật dụng hợp lệ được mua sau khi đã nhận vật Ưng Xả Đối Trị, khi được xả bằng cách nói ‘tôi xin xả cho Tăng chúng,’ được phép sử dụng mà không cần phương cách nào khác, do đó đã nói ‘không có vật dụng hợp lệ nào được mua bằng số tiền đó.’” “Hoặc phần của những người coi vườn” điều này được nói do cho rằng đó cũng là phần của họ ngay cả khi đã vào tay của người tại gia. Trong Majjhimagaṇṭhipada và Cūḷagaṇṭhipada có nói: “nhưng nếu các người coi vườn dùng nó để đổi lấy vật khác rồi cho, thì được phép sử dụng.” Lấy từ đó là lấy từ phần của những người khác. Sự chuẩn bị đề mục kasiṇa là sự chuẩn bị đề mục kasiṇa ánh sáng. Hoặc giường ghế v.v… ở đây, có vị nói: “nếu giường ghế v.v… đã được lấy từ đó được đổi lấy vật khác, thì được phép.” Cả bóng râm là cả bóng râm của nhà ăn v.v… Đã vượt qua giới hạn là đã vượt qua giới hạn của ngôi nhà, ý muốn nói là nơi mà bóng râm đi đến không được gọi là ngôi nhà. Cả trên con đường ở đây, có vị nói: “nếu không có con đường nào khác, được phép đi sau khi đã chú nguyện con đường.” Được mua là được mua bằng vật đó. Tăng chúng sử dụng các vật dụng sau khi đã cất giữ khoản ký gửi là nếu nam cư sĩ nói: “số vàng bạc này quá nhiều, bạch ngài, không nên tiêu hết ngay hôm nay,” rồi tự mình cất giữ khoản ký gửi, hoặc cho người khác cất giữ, thì Tăng chúng, sau khi đã cất giữ khoản ký gửi đó và sử dụng phần lời phát sanh từ đó, được gọi là sử dụng các vật dụng; do đã được lấy bằng vật đó, nên đã được nói là “không hợp lệ.”

585.Patitokāsaṃ asamannāharantena pātetabbanti idaṃ nirapekkhabhāvadassanaparanti veditabbaṃ, tasmā patitaṭṭhāne ñātepissa gūthaṃ chaḍḍentassa viya nirapekkhabhāvoyevettha pamāṇanti veditabbaṃ. Asantasambhāvanāyāti attani avijjamānauttarimanussadhammārocanaṃ sandhāya vuttaṃ. Theyyaparibhogo nāma anarahassa paribhogo. Bhagavatā hi attano sāsane sīlavato paccayā anuññātā, na dussīlassa. Dāyakānampi sīlavato eva pariccāgo, na dussīlassa attano kārānaṃ mahapphalabhāvassa paccāsīsanato. Iti satthārā ananuññātattā dāyakehi ca apariccattattā dussīlassa paribhogo theyyaparibhogo. Iṇavasena paribhogo iṇaparibhogo, paṭiggāhakato dakkhiṇāvisuddhiyā abhāvato iṇaṃ gahetvā paribhogo viyāti attho. Tasmāti ‘‘sīlavato’’tiādinā vuttamevatthaṃ kāraṇabhāvena paccāmasati. Cīvaraṃ paribhoge paribhogeti kāyato mocetvā mocetvā paribhoge. Purebhatta…pe… pacchimayāmesu paccavekkhitabbanti sambandho. Tathā asakkontena yathāvuttakālavisesavasena ekasmiṃ divase catukkhattuṃ tikkhattuṃ dvikkhattuṃ sakiṃyeva vā paccavekkhitabbaṃ.
585. Nên làm rơi mà không để ý đến nơi rơi cần được hiểu rằng điều này nhằm mục đích cho thấy tình trạng không luyến tiếc, do đó, cần phải hiểu rằng ngay cả khi biết nơi đã rơi, tình trạng không luyến tiếc giống như người vứt bỏ phân chính là tiêu chuẩn ở đây. Do sự công bố điều không có là được nói liên quan đến việc công bố pháp thượng nhân không có nơi mình. Sự hưởng dụng trộm cắp được gọi là sự hưởng dụng của người không xứng đáng. Thật vậy, đức Thế Tôn đã cho phép các vật dụng cho người có giới trong giáo pháp của ngài, chứ không phải cho người vô giới. Sự dâng cúng của các thí chủ cũng chỉ dành cho người có giới, không phải cho người vô giới, do mong đợi các việc làm của mình sẽ có kết quả lớn. Như vậy, do không được bậc Đạo sư cho phép và do không được các thí chủ dâng cúng, nên sự hưởng dụng của người vô giới là sự hưởng dụng trộm cắp. Sự hưởng dụng theo cách mắc nợ là sự hưởng dụng mắc nợ, có nghĩa là giống như sự hưởng dụng sau khi đã vay nợ, do không có sự trong sạch của sự cúng dường từ người nhận. Do đó là ngài xem xét lại chính ý nghĩa đã được nói “của người có giới” v.v… như là một lý do. Y phục, mỗi khi sử dụng là mỗi khi sử dụng sau khi đã cởi ra khỏi thân. Có sự liên kết là nên được quán xét vào các canh trước bữa ăn… cho đến các canh sau. Người không thể làm như vậy, nên quán xét một lần trong một ngày bốn lần, ba lần, hai lần, hoặc chỉ một lần, theo sự phân chia thời gian đã được nói.

Sacassaapaccavekkhatova aruṇo uggacchati, iṇaparibhogaṭṭhāne tiṭṭhatīti ettha ‘‘hiyyo yaṃ mayā cīvaraṃ paribhuttaṃ, taṃ yāvadeva sītassa paṭighātāya…pe… hirikopīnappaṭicchādanatthaṃ, hiyyo yo mayā piṇḍapāto paribhutto, so neva davāyātiādinā sace atītaparibhogapaccavekkhaṇaṃ na kareyya, iṇaparibhogaṭṭhāne tiṭṭhatī’’ti vadanti, vīmaṃsitabbaṃ. Senāsanampi paribhoge paribhogeti pavese pavese. Evaṃ pana asakkontena purebhattādīsu paccavekkhitabbaṃ. Taṃ heṭṭhā vuttanayeneva sakkā viññātunti idha visuṃ na vuttaṃ. Satipaccayatāti satiyā paccayabhāvo, paṭiggahaṇassa paribhogassa ca paccavekkhaṇasatiyā paccayabhāvo yujjati, paccavekkhitvāva paṭiggahetabbaṃ paribhuñjitabbañcāti attho. Tenevāha ‘‘satiṃ katvā’’tiādi. Evaṃ santepīti yadipi dvīsupi ṭhānesu paccavekkhaṇā yuttā, evaṃ santepi. Apare panāhu ‘‘satipaccayatāti satibhesajjaparibhogassa paccayabhāve paccayeti attho. Evaṃ santepīti paccaye satipī’’ti, taṃ tesaṃ matimattaṃ. Tathā hi paccayasannissitasīlaṃ paccavekkhaṇāya visujjhati, na paccayasabbhāvamattena.
Nếu rạng đông mọc lên mà vị ấy chưa quán xét, vị ấy ở trong tình trạng hưởng dụng mắc nợ ở đây, có vị nói: “nếu vị ấy không thực hiện việc quán xét sự hưởng dụng trong quá khứ bằng cách nói ‘ngày hôm qua, y phục mà tôi đã sử dụng, chỉ là để ngăn ngừa cái lạnh… để che đậy sự hổ thẹn; ngày hôm qua, vật thực khất thực mà tôi đã sử dụng, không phải để vui đùa v.v…,’ thì vị ấy ở trong tình trạng hưởng dụng mắc nợ,” cần phải xem xét. Cả trú xứ, mỗi khi sử dụng là mỗi khi bước vào. Người không thể làm như vậy, nên quán xét vào các canh trước bữa ăn v.v… Điều đó có thể được biết theo phương pháp đã được nói ở dưới, nên ở đây không nói riêng. Sự duyên cho niệm là tình trạng là duyên của niệm, tình trạng là duyên của niệm quán xét đối với sự nhận và sự sử dụng là hợp lý, có nghĩa là cần phải quán xét rồi mới nhận và sử dụng. Chính vì thế, ngài nói: “sau khi đã tác niệm” v.v… Dù đã như vậy là mặc dù việc quán xét ở cả hai nơi đều hợp lý, dù đã như vậy. Nhưng những vị khác lại nói: “sự duyên cho niệm là trong tình trạng là duyên của sự sử dụng thuốc trị bệnh có niệm, có nghĩa là trong duyên. Dù đã như vậy là dù có duyên,” đó chỉ là quan điểm của họ. Thật vậy, giới liên quan đến vật dụng được thanh tịnh do sự quán xét, chứ không phải chỉ do sự có mặt của vật dụng.

Nanu ca ‘‘paribhoge karontassa anāpattī’’ti iminā pātimokkhasaṃvarasīlaṃ vuttaṃ, tasmā paccayasannissitasīlassa pātimokkhasaṃvarasīlassa ca ko visesoti? Vuccate – purimesu tāva tīsu paccayesu viseso pākaṭoyeva, gilānapaccaye pana yathā vatiṃ katvā rukkhamūle gopite tassa phalānipi rakkhitāniyeva honti, evameva paccavekkhaṇāya paccayasannissitasīle rakkhite tappaṭibaddhaṃ pātimokkhasaṃvarasīlampi nipphannaṃ nāma hoti. Gilānapaccayaṃ apaccavekkhitvā paribhuñjantassa sīlaṃ bhijjamānaṃ pātimokkhasaṃvarasīlameva bhijjati, paccayasannissitasīlaṃ pana pacchābhattapurimayāmādīsu yāva aruṇuggamanā apaccavekkhantasseva bhijjati. Purebhattañhi apaccavekkhitvāpi gilānapaccayaṃ paribhuñjantassa anāpatti, idametesaṃ nānākaraṇaṃ.
Chẳng phải bằng câu “vô tội đối với người đang sử dụng” này, giới thu thúc trong Pātimokkha đã được nói đến sao, do đó, có sự khác biệt nào giữa giới liên quan đến vật dụng và giới thu thúc trong Pātimokkha? Xin thưa: trước tiên, trong ba vật dụng đầu, sự khác biệt là rõ ràng. Còn trong vật dụng trị bệnh, giống như khi làm hàng rào và bảo vệ gốc cây, các quả của nó cũng được bảo vệ; cũng vậy, khi giới liên quan đến vật dụng được bảo vệ do sự quán xét, thì giới thu thúc trong Pātimokkha liên quan đến nó cũng được gọi là đã được hoàn thành. Đối với người sử dụng vật dụng trị bệnh mà không quán xét, giới bị vi phạm chính là giới thu thúc trong Pātimokkha; còn giới liên quan đến vật dụng chỉ bị vi phạm đối với người không quán xét vào các canh sau bữa ăn, canh đầu v.v… cho đến khi rạng đông mọc. Vì rằng, đối với người sử dụng vật dụng trị bệnh dù không quán xét trước bữa ăn cũng vô tội, đây là sự khác biệt của chúng.

Evaṃ paccayasannissitasīlassa visuddhiṃ dassetvā teneva pasaṅgena sabbāpi suddhiyo dassetuṃ ‘‘catubbidhā hi suddhī’’tiādimāha. Tattha sujjhati etāyāti suddhi, yathādhammaṃ desanāva suddhi desanāsuddhi. Vuṭṭhānassapi cettha desanāya eva saṅgaho daṭṭhabbo. Chinnamūlāpattīnaṃ pana abhikkhutāpaṭiññāva desanā. Adhiṭṭhānavisiṭṭho saṃvarova suddhi saṃvarasuddhi. Dhammena samena paccayānaṃ pariyeṭṭhi eva suddhi pariyeṭṭhisuddhi. Catūsu paccayesu vuttavidhinā paccavekkhaṇāva suddhi paccavekkhaṇasuddhi. Esa tāva suddhīsu samāsanayo. Suddhimantesu sīlesu desanā suddhi etassāti desanāsuddhi. Sesesupi eseva nayo. Na puna evaṃ karissāmīti ettha evanti saṃvarabhedaṃ sandhāyāha. Pahāyāti vajjetvā, akatvāti attho. Dātabbaṭṭhena dāyaṃ, taṃ ādiyantīti dāyādā, ananuññātesu sabbena sabbaṃ paribhogābhāvato anuññātesuyeva ca paribhogasabbhāvabhāvato bhikkhūhi paribhuñjitabbapaccayā bhagavato santakā. Dhammadāyādasuttañcettha sādhakanti –
Sau khi đã chỉ ra sự trong sạch của giới liên quan đến vật dụng như vậy, và nhân tiện đó, để chỉ ra tất cả các sự trong sạch, ngài đã nói: “vì có bốn loại trong sạch” v.v… Ở đó, vật mà người ta trong sạch nhờ nó là sự trong sạch, chính sự phát lồ đúng pháp là sự trong sạch, gọi là sự trong sạch do phát lồ. Cần phải thấy rằng sự phục hồi cũng được bao gồm trong sự phát lồ này. Còn đối với các tội đã bị cắt đứt gốc rễ, chính sự tuyên bố không còn là Tỳ-khưu là sự phát lồ. Chính sự thu thúc đặc biệt do sự chú nguyện là sự trong sạch, gọi là sự trong sạch do thu thúc. Chính sự tìm kiếm các vật dụng một cách hợp pháp, đúng pháp là sự trong sạch, gọi là sự trong sạch do tìm kiếm. Chính sự quán xét theo phương pháp đã được nói trong bốn món vật dụng là sự trong sạch, gọi là sự trong sạch do quán xét. Đó là phương pháp tóm tắt về các sự trong sạch. Trong các giới có sự trong sạch, sự trong sạch của giới này là do phát lồ, gọi là sự trong sạch do phát lồ. Trong các giới còn lại cũng có cùng phương pháp này. Tôi sẽ không làm như vậy nữa ở đây, như vậy là ngài nói đến sự vi phạm sự thu thúc. Sau khi đã từ bỏ là sau khi đã tránh xa, có nghĩa là sau khi đã không làm. Vật đáng được cho là vật thừa kế, những người nhận lấy nó là những người thừa kế; do không có sự hưởng dụng hoàn toàn đối với những vật không được cho phép, và do có sự hưởng dụng đối với những vật được cho phép, nên các vật dụng mà các Tỳ-khưu hưởng dụng là thuộc sở hữu của đức Thế Tôn. Và kinh Người Thừa Tự Pháp là bằng chứng ở đây:

‘‘Dhammadāyādā me, bhikkhave, bhavatha, mā āmisadāyādā. Atthi me tumhesu anukampā, ‘kinti me sāvakā dhammadāyādā bhaveyyuṃ, no āmisadāyādā’’’ti (ma. ni. 1.29) –
“Này các Tỳ-khưu, hãy là những người thừa tự Pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng đối với các con: ‘làm thế nào để các đệ tử của Ta là những người thừa tự Pháp, không phải là những người thừa tự tài vật.’” (ma. ni. 1.29)

Evaṃ pavattaṃ dhammadāyādasuttañca ettha etasmiṃ atthe sādhakaṃ.
Kinh Người Thừa Tự Pháp đã được thuyết giảng như vậy cũng là bằng chứng cho ý nghĩa này ở đây.

Avītarāgānaṃ taṇhāparavasatāya paccayaparibhoge sāmibhāvo natthi, tadabhāvena vītarāgānaṃ tattha sāmibhāvo yathāruci paribhogasabbhāvato. Tathā hi te paṭikūlampi appaṭikūlākārena appaṭikūlampi paṭikūlākārena tadubhayampi vajjetvā ajjhupekkhanākārena paccaye paribhuñjanti, dāyakānañca manorathaṃ paripūrenti. Tenāha – ‘‘te hi taṇhāya dāsabyaṃ atītattā sāmino hutvā paribhuñjantī’’ti. Yo panāyaṃ sīlavato paccavekkhitaparibhogo, so iṇaparibhogassa paccanīkattā āṇaṇyaparibhogo nāma hoti. Yathā hi iṇāyiko attano ruciyā icchitadesaṃ gantuṃ na labhati, evaṃ iṇaparibhogayutto lokato nissarituṃ na labhatīti tappaṭipakkhattā sīlavato paccavekkhitaparibhogo āṇaṇyaparibhogoti vuccati, tasmā nippariyāyato catuparibhogavinimutto visuṃyevāyaṃ paribhogoti veditabbo. So idha visuṃ na vutto, dāyajjaparibhogeyeva vā saṅgahaṃ gacchatīti. Sīlavāpi hi imāya sikkhāya samannāgatattā sekkhotveva vuccati. Sabbesanti ariyānaṃ puthujjanānañca.
Đối với những người chưa đoạn tận ái dục, do bị ái dục chi phối, nên không có quyền sở hữu trong việc hưởng dụng các vật dụng; do không có điều đó, nên những người đã đoạn tận ái dục có quyền sở hữu ở đó, do có sự hưởng dụng theo ý muốn. Thật vậy, họ hưởng dụng các vật dụng bằng cách (biến) vật đáng ghê tởm thành không đáng ghê tởm, (biến) vật không đáng ghê tởm thành đáng ghê tởm, hoặc tránh xa cả hai và hưởng dụng với tâm xả, và họ làm trọn vẹn ước muốn của các thí chủ. Do đó, ngài nói: “vì họ, do đã vượt qua sự nô lệ của ái dục, nên hưởng dụng với tư cách là người chủ.” Còn sự hưởng dụng có quán xét của người có giới này, do đối nghịch với sự hưởng dụng mắc nợ, nên được gọi là sự hưởng dụng không mắc nợ. Giống như người mắc nợ không được phép đi đến nơi mình muốn theo ý thích, cũng vậy, người có sự hưởng dụng mắc nợ không được phép thoát ra khỏi thế gian; do đối nghịch với điều đó, nên sự hưởng dụng có quán xét của người có giới được gọi là sự hưởng dụng không mắc nợ, do đó, cần phải hiểu rằng đây là một sự hưởng dụng hoàn toàn riêng biệt, không thuộc bốn loại hưởng dụng theo cách nói không có ngoại lệ. Nó không được nói riêng ở đây, hoặc được bao gồm trong sự hưởng dụng thừa kế. Vì rằng, người có giới cũng được gọi là bậc hữu học do đã thành tựu học giới này. Của tất cả là của các bậc Thánh và các hàng phàm phu.

Kathaṃ puthujjanānaṃ ime paribhogā sambhavantīti? Upacāravasena. Yo hi puthujjanassapi sallekhappaṭipattiyaṃ ṭhitassa paccayagedhaṃ pahāya tattha anupalittena cittena paribhogo, so sāmiparibhogo viya hoti. Sīlavato pana paccavekkhitaparibhogo dāyajjaparibhogo viya hoti dāyakānaṃ manorathassa avirādhanato. Teneva vuttaṃ ‘‘dāyajjaparibhogeyeva vā saṅgahaṃ gacchatī’’ti. Kalyāṇaputhujjanassa paribhoge vattabbameva natthi tassa sekkhasaṅgahato. Sekkhasuttañhetassa atthassa sādhakaṃ.
Làm thế nào mà các sự hưởng dụng này có thể có đối với các hàng phàm phu? Do theo cách nói xã giao. Thật vậy, sự hưởng dụng của người phàm phu đang an trú trong sự thực hành khổ hạnh, sau khi đã từ bỏ sự tham đắm trong các vật dụng và hưởng dụng với tâm không bị ô nhiễm bởi chúng, cũng giống như sự hưởng dụng của người chủ. Còn sự hưởng dụng có quán xét của người có giới cũng giống như sự hưởng dụng thừa kế, do không làm trái với ước muốn của các thí chủ. Chính vì thế, đã được nói: “hoặc được bao gồm trong sự hưởng dụng thừa kế.” Không còn gì để nói về sự hưởng dụng của người phàm phu thiện lành, do vị ấy được bao gồm trong bậc hữu học. Và kinh Sekkha là bằng chứng cho ý nghĩa này.

Lajjinā saddhiṃ paribhogo nāma lajjissa santakaṃ gahetvā paribhogo. Alajjinā saddhinti etthāpi eseva nayo. Ādito paṭṭhāya hi alajjī nāma natthīti iminā diṭṭhadiṭṭhesuyeva āsaṅkā na kātabbāti dasseti. Attano bhārabhūtā saddhivihārikādayo. Sopi nivāretabboti yo passati, tena nivāretabbo. Yasmā alajjīparibhogo nāma lajjino vuccati, tasmā āpatti nāma natthi ubhinnampi alajjībhāvato, ‘‘alajjīparibhogo’’ti idaṃ nāmamattameva na labbhatīti vuttaṃ hoti. ‘‘Āpatti pana atthiyevāti vadantī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ.
Sự hưởng dụng cùng với người có lòng hổ thẹn được gọi là sự hưởng dụng sau khi đã nhận vật sở hữu của người có lòng hổ thẹn. Cùng với người không có lòng hổ thẹn ở đây cũng có cùng phương pháp này. Vì từ ban đầu đã không có người không có lòng hổ thẹn bằng điều này, ngài cho thấy rằng không nên có sự nghi ngờ đối với những người đã thấy. Những người là gánh nặng của mình là các vị cùng ở chung v.v… Vị ấy cũng nên được ngăn cản là nên được ngăn cản bởi người đã thấy. Bởi vì sự hưởng dụng của người không có lòng hổ thẹn được gọi là của người có lòng hổ thẹn, do đó, không có tội lỗi nào do cả hai đều không có lòng hổ thẹn; đã được nói là tên gọi “sự hưởng dụng của người không có lòng hổ thẹn” này không có được. Trong cả ba sách cương yếu có nói: “nhưng có vị nói rằng vẫn có tội.”

Adhammiyoti anesanādīhi uppanno. Dhammiyoti bhikkhācariyādīhi uppanno. Saṅghasseva detīti bhattaṃ aggahetvā attanā laddhasalākaṃyeva deti. Sace pana lajjī alajjiṃ paggaṇhāti…pe… antaradhāpetīti ettha kevalaṃ paggaṇhitukāmatāya evaṃ kātuṃ na vaṭṭati, dhammassa pana sāsanassa sotūnañca anuggahatthāya vaṭṭatīti veditabbaṃ. Purimanayena ‘‘so āpattiyā kāretabbo’’ti vuttattā imassa āpattiyevāti vadanti. Uddesaggahaṇādinā dhammassa paribhogo dhammaparibhogo. Dhammānuggahena gaṇhantassa āpattiyā abhāvepi thero tassa alajjibhāvaṃyeva sandhāya ‘‘pāpo kirāya’’ntiādimāha. Tassa pana santiketi mahārakkhitattherassa santike.
Không hợp pháp là phát sanh do sự tìm kiếm bất chính v.v… Hợp pháp là phát sanh do việc đi khất thực v.v… Chỉ cho Tăng chúng là chỉ cho phiếu của mình đã nhận được mà không nhận vật thực. Nhưng nếu người có lòng hổ thẹn nâng đỡ người không có lòng hổ thẹn… vân vân… làm cho biến mất ở đây, không được phép làm như vậy chỉ vì ý muốn nâng đỡ; nhưng được phép vì lợi ích của Pháp, của giáo pháp, và của những người nghe, cần phải hiểu như vậy. Có vị nói, theo phương pháp trước, do đã được nói: “vị ấy nên bị xử phạt,” nên đây chính là tội của vị ấy. Sự hưởng dụng Pháp là sự hưởng dụng pháp bằng cách nhận sự chỉ định v.v… Mặc dù không có tội đối với người nhận với sự hỗ trợ của Pháp, nhưng trưởng lão, liên quan đến chính tình trạng không có lòng hổ thẹn của vị ấy, đã nói: “người ấy thật là xấu xa” v.v… Còn ở gần vị ấy là ở gần trưởng lão Mahārakkhita.

586.Rājorodhādayotiādi ‘‘idaṃ gaṇhissāmī’’ti cetanāmattasambhavato vuttaṃ. Assatiyā dinnanti ettha assatiyā dinnaṃ nāma apariccattaṃ hoti, tasmā dasante baddhakahāpaṇādi assatiyā dinnaṃ bhikkhunā vatthasaññāya paṭiggahitañca, tato neva rūpiyaṃ dinnaṃ, nāpi paṭiggahitañca hotīti ettha āpattidesanākiccaṃ natthi, taṃ pana dāyakānameva paṭidātabbaṃ. Tena akappiyavatthunā te ce dāyakā sappiādīni kiṇitvāna saṅghassa tassa ca bhikkhuno denti, sabbesaṃ kappati dāyakānaṃyeva santakattā. Aṭṭhakathāyaṃ pana puññakāmehi pariccajitvā dinnameva sandhāya ‘‘puññakāmā…pe… rūpiye arūpiyasaññī rūpiyaṃ paṭiggaṇhātīti veditabbo’’ti vuttaṃ, tasmā pariccajitvā dinnaṃ vatthasaññāya gaṇhatopi nissaggiyameva. Tena yadi te dāyakā no āgantvā gaṇhanti, dāyake pucchitvā attano atthāya ce pariccattaṃ, saṅghe nissajjitvā āpatti desetabbā. Tava coḷakaṃ passāhīhi iminā gihisantakepi ‘‘idaṃ gaṇhathā’’tiādiakappiyavohārena vidhānaṃ bhikkhuno na kappatīti dīpeti. Ekaparicchedānīti kiriyākiriyabhāvato ekaparicchedāni. Jātarūparajatabhāvo, attuddesikatā, kahāpaṇādīsu aññatarabhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni.
586. Các cung phi của vua v.v… v.v… được nói do chỉ có khả năng khởi lên ý định “tôi sẽ nhận cái này.” Được cho trong sự thất niệm ở đây, vật được cho trong sự thất niệm được gọi là chưa được từ bỏ, do đó, tiền kahāpaṇa v.v… được buộc ở mép y, được cho trong sự thất niệm và được Tỳ-khưu nhận với tưởng là vải, thì ở đó, tiền bạc không được cho cũng không được nhận, nên không có phận sự trình bày tội lỗi ở đây, nhưng vật đó cần phải được trả lại cho chính các thí chủ. Nếu các thí chủ đó dùng vật không hợp lệ đó để mua bơ lỏng v.v… rồi dâng cho Tăng chúng và Tỳ-khưu ấy, thì hợp lệ cho tất cả, do là của chính các thí chủ. Nhưng trong Chú giải, liên quan đến vật đã được cho sau khi đã từ bỏ bởi những người muốn làm phước, có nói: “những người muốn làm phước… vân vân… cần phải được hiểu là nhận tiền bạc với tưởng là không phải tiền bạc đối với tiền bạc,” do đó, vật được cho sau khi đã từ bỏ, dù nhận với tưởng là vải, cũng là vật Ưng Xả Đối Trị. Do đó, nếu các thí chủ đó không đến nhận lại, sau khi đã hỏi các thí chủ, nếu đã được từ bỏ vì lợi ích của chính mình, thì cần phải xả cho Tăng chúng và trình bày tội lỗi. Hãy xem cái y nhỏ của thầy bằng điều này, ngài chỉ ra rằng đối với Tỳ-khưu, việc ra lệnh bằng cách nói không hợp lệ như “hãy nhận cái này” v.v… ngay cả đối với tài sản của người tại gia cũng không hợp lệ. Có một giới hạn là có một giới hạn do tình trạng là hành động và không phải là hành động. Tình trạng là vàng bạc, tình trạng được chỉ định cho mình, và tình trạng là một trong các loại như tiền kahāpaṇa v.v…, đây là ba yếu tố ở đây.

Rūpiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới tiền bạc.

9. Rūpiyasaṃvohārasikkhāpadavaṇṇanā
9. Tường giải về học giới giao dịch bằng tiền bạc

587. Rūpiyasaṃvohārasikkhāpade jātarūpādicatubbidhampi nissaggiyavatthu idha rūpiyaggahaṇeneva gahitanti āha ‘‘jātarūparajataparivattana’’nti. Paṭiggahitaparivattaneti sāditarūpiyassa parivattane, asādiyitvā vā kappiyena gāhena paṭiggahitarūpiyaparivattane.
587. Trong học giới về giao dịch bằng tiền bạc, tất cả bốn loại vật Ưng Xả Đối Trị như vàng bạc v.v… ở đây đều được bao gồm bởi từ tiền bạc, nên ngài nói: “việc đổi chác vàng bạc.” Trong sự đổi chác vật đã nhận là trong sự đổi chác tiền bạc đã được chấp nhận, hoặc trong sự đổi chác tiền bạc đã được nhận bằng cách nhận hợp lệ mà không chấp nhận.

589.Ga-kārassa ka-kāraṃ katvā ‘‘sīsūpaka’’nti likhitaṃ, padabhājane ghanakatanti piṇḍaṃ kataṃ. Satthuvaṇṇotiādīsu ‘‘satthuvaṇṇo ca kahāpaṇo ca…pe… ye ca vohāraṃ gacchantī’’ti evaṃ sabbattha samuccayo veditabbo. Rūpiye rūpiyasaññīti sakasantakaṃ vadati. Rūpiyaṃ cetāpetīti parasantakaṃ vadati. ‘‘Nissaggiyavatthunā dukkaṭavatthuṃ vā kappiyavatthuṃ vā cetāpentassapi eseva nayo’’ti idaṃ kasmā vuttaṃ. Na hi ‘‘rūpiye rūpiyasaññī arūpiyaṃ cetāpeti , nissaggiyaṃ pācittiya’’ntiādittiko pāḷiyaṃ vuttoti āha ‘‘yo hī’’tiādi. Tassānulomattāti etthāyamadhippāyo – rūpiyasaṃvohāro nāma na kevalaṃ rūpiyena rūpiyaparivattanameva, atha kho ‘‘arūpiye rūpiyasaññī rūpiyaṃ cetāpetī’’ti vuttattā arūpiyena rūpiyacetāpanampi rūpiyasaṃvohāro nāma hotīti etasmiṃ pakkhepi rūpiye sati rūpiyasaṃvohāroyeva hotīti ayamattho avuttopi viññāyatīti. Arūpiyaṃ nāma dukkaṭavatthukappiyavatthūni. Ekantena rūpiyapakkheti ekena antena rūpiyapakkheti ayaṃ attho gahetabbo. ‘‘Ekato rūpiyapakkhe’’ti vā pāṭho veditabbo. ‘‘Ekarūpiyapakkhe’’tipi paṭhanti, tatthāpi ekato rūpiyapakkheti ayamevattho gahetabbo.
589. Chữ ga được đổi thành chữ ka và được viết là “sīsūpaka,” trong phần phân tích từ, làm thành khối là làm thành một cục. Ở các câu có màu sắc của bậc Đạo sư v.v…, cần phải hiểu sự kết hợp ở mọi nơi như vầy: “vàng và tiền kahāpaṇa… vân vân… và những thứ được lưu hành.” Có tưởng là tiền bạc đối với tiền bạc là nói đến tài sản của mình. Cho mua bằng tiền bạc là nói đến tài sản của người khác. Tại sao lại nói: “đối với người cho mua vật Tác Ác hoặc vật hợp lệ bằng vật Ưng Xả Đối Trị, cũng có cùng phương pháp này.” Vì rằng bộ ba “có tưởng là tiền bạc đối với tiền bạc, cho mua vật không phải là tiền bạc, phạm tội Ưng Xả Đối Trị là tội Ưng Đối Trị” v.v… không được nói trong Pāḷi, nên ngài nói: “Vì rằng, người nào” v.v… Do tương tự với điều đó ở đây, ý định là như sau: việc giao dịch bằng tiền bạc không chỉ là việc đổi tiền bạc lấy tiền bạc, mà theo câu “có tưởng là tiền bạc đối với vật không phải là tiền bạc, cho mua tiền bạc,” việc cho mua tiền bạc bằng vật không phải là tiền bạc cũng được gọi là việc giao dịch bằng tiền bạc; trong trường hợp này, khi có tiền bạc, đó chính là việc giao dịch bằng tiền bạc, ý nghĩa này dù không được nói đến cũng có thể được hiểu. Vật không phải là tiền bạc được gọi là vật Tác Ác và vật hợp lệ. Ở một phía có tiền bạc nên hiểu ý nghĩa này là ở một bên có phe tiền bạc. Hoặc nên hiểu câu đọc là “ekato rūpiyapakkhe” (ở một phe có tiền bạc). Cũng có người đọc là “ekarūpiyapakkhe” (ở một phe tiền bạc), ở đó cũng nên hiểu cùng ý nghĩa là ở một phe có tiền bạc.

Kappiyavatthunā kappiyavatthuno kayavikkayepi tāva nissaggiyaṃ hoti, dukkaṭavatthunā dukkaṭavatthuno kayavikkaye kasmā na hotīti andhakaṭṭhakathāya adhippāyo. Idaṃ sikkhāpadaṃ…pe… arūpiyena ca rūpiyacetāpanaṃ sandhāya vuttanti sambandho. Idhāti imasmiṃ rūpiyasaṃvohārasikkhāpade. Tatthāti kayavikkayasikkhāpade. Tenevāti kappiyavatthunāyeva.
Ý định của Chú giải của phái Andhaka là: ngay cả trong việc mua bán vật hợp lệ bằng vật hợp lệ, cũng phạm tội Ưng Xả Đối Trị, tại sao trong việc mua bán vật Tác Ác bằng vật Tác Ác lại không phạm? Có sự liên kết là học giới này… vân vân… được nói liên quan đến việc cho mua tiền bạc bằng vật không phải là tiền bạc. Ở đây là trong học giới về giao dịch bằng tiền bạc này. Ở đó là trong học giới về mua bán. Chỉ bằng vật đó là chỉ bằng vật hợp lệ.

Puna kappiyabhāvaṃ netuṃ asakkuṇeyyattā ‘‘mahāakappiyo nāmā’’ti vuttaṃ. ‘‘Na sakkā kenaci upāyena kappiyo kātunti idaṃ pañcannaṃyeva sahadhammikānaṃ antare parivattanaṃ sandhāya vuttaṃ, gihīhi pana gahetvā attano santakaṃ katvā dinnaṃ sabbesaṃ kappatī’’ti vadanti. ‘‘Na sakkā kenaci upāyena kappiyo kātu’’nti pana imināva paṭiggahitarūpiyaṃ anissajjitvāva tena cetāpitaṃ kappiyabhaṇḍampi saṅghassa nissaṭṭhaṃ paribhuñjituṃ na vaṭṭatīti siddhaṃ.
Do không thể làm cho trở lại tình trạng hợp lệ, nên đã được nói: “được gọi là vật rất không hợp lệ.” Có vị nói: “‘Không thể làm cho hợp lệ bằng bất cứ phương cách nào’ điều này được nói liên quan đến việc đổi chác chỉ giữa năm vị đồng phạm hạnh, còn vật đã được người tại gia nhận, làm thành sở hữu của mình rồi cho, thì hợp lệ cho tất cả.” Nhưng chính bằng câu “không thể làm cho hợp lệ bằng bất cứ phương cách nào” này, đã xác định rằng ngay cả vật dụng hợp lệ được mua bằng tiền bạc đã nhận mà không xả bỏ nó, dù đã được xả cho Tăng chúng, cũng không được phép sử dụng.

Ye pana ‘‘paṭiggahitarūpiyaṃ anissajjitvāpi tena parivattitaṃ kappiyabhaṇḍaṃ saṅghassa nissaṭṭhaṃ paribhuñjituṃ vaṭṭatī’’ti vadanti, tesaṃ ‘‘na sakkā kenaci upāyena kappiyo kātu’’nti idaṃ na yujjati. Te panettha evaṃ vadanti ‘‘yasmā nissajjitabbavatthuṃ anissajjitvāva uparūpari aññaṃ aññaṃyeva kataṃ, tasmā paricchedābhāvato idha nissajjituṃ avatvā ‘na sakkā kenaci upāyena kappiyo kātu’nti vuttaṃ, paricchedābhāvatoyeva ‘mūle mūlasāmikānaṃ , patte ca pattasāmikānaṃ dinne kappiyo hotī’ti ca na vutta’’nti. Yadi paṭiggahitarūpiyaṃ anissajjitvā cetāpitaṃ kappiyabhaṇḍampi saṅghassa nissaṭṭhaṃ paribhuñjituṃ vaṭṭati, evaṃ sante idhāpi avasānavatthuṃ gahetvā saṅghassa nissaṭṭhaṃ kasmā na vaṭṭati, ‘‘yo pana rūpiyaṃ uggaṇhitvā…pe… patte ca pattasāmikānaṃ dinne kappiyo hotī’’ti imināpi paṭiggahitarūpiyaṃ anissajjitvā cetāpitaṃ kappiyabhaṇḍampi saṅghassa nissaṭṭhaṃ paribhuñjituṃ na vaṭṭatīti siddhaṃ. Yadi taṃ nissaṭṭhaṃ paribhuñjituṃ vaṭṭeyya, ‘‘mūle mūlasāmikānaṃ, patte ca pattasāmikānaṃ dinne kappiyo hotī’’ti na vadeyya. Apare panettha evaṃ vadanti ‘‘yadi saṅghassa nissaṭṭhaṃ hoti, rūpiyapaṭiggāhakassa na vaṭṭati, tasmā tassapi yathā vaṭṭati, tathā dassanatthaṃ ‘mūle mūlasāmikāna’ntiādi vutta’’nti.
Còn những vị nói rằng: “ngay cả vật dụng hợp lệ được đổi chác bằng tiền bạc đã nhận mà không xả bỏ, khi đã được xả cho Tăng chúng, cũng được phép sử dụng,” thì đối với họ, câu “không thể làm cho hợp lệ bằng bất cứ phương cách nào” này không hợp lý. Ở đây, họ nói như vầy: “bởi vì vật cần phải xả bỏ, mà không xả bỏ, lại cứ tiếp tục làm ra những thứ khác, do đó, do không có sự phân định, nên ở đây, thay vì nói về việc xả bỏ, đã nói ‘không thể làm cho hợp lệ bằng bất cứ phương cách nào’; và cũng do không có sự phân định, nên đã không nói ‘khi tiền vốn được trả cho chủ sở hữu tiền vốn, và cái bát được trao cho chủ sở hữu cái bát, thì nó trở nên hợp lệ.’” Nếu vật dụng hợp lệ được mua sau khi đã nhận tiền bạc mà không xả bỏ, khi đã được xả cho Tăng chúng, được phép sử dụng, thì trong trường hợp này, tại sao vật cuối cùng, sau khi nhận, được xả cho Tăng chúng, lại không được phép? Và bằng câu “còn người nào nhận tiền bạc… vân vân… khi tiền vốn được trả cho chủ sở hữu tiền vốn, và cái bát được trao cho chủ sở hữu cái bát, thì nó trở nên hợp lệ” này, cũng đã xác định rằng ngay cả vật dụng hợp lệ được mua bằng tiền bạc đã nhận mà không xả bỏ, dù đã được xả cho Tăng chúng, cũng không được phép sử dụng. Nếu vật đã xả đó được phép sử dụng, thì ngài đã không nói: “khi tiền vốn được trả cho chủ sở hữu tiền vốn, và cái bát được trao cho chủ sở hữu cái bát, thì nó trở nên hợp lệ.” Những vị khác ở đây lại nói như vầy: “nếu đã được xả cho Tăng chúng, thì không hợp lệ cho người đã nhận tiền bạc, do đó, để chỉ ra cách làm cho nó hợp lệ cả đối với vị ấy, đã nói ‘khi tiền vốn được trả cho chủ sở hữu tiền vốn’ v.v…”

Dutiyapattasadisoyevāti iminā pañcannampi sahadhammikānaṃ na kappatīti dasseti. Tattha kāraṇamāha ‘‘mūlassa sampaṭicchitattā’’ti. Atha mūlassa sampaṭicchitattā rūpiyapaṭiggāhakassa tāva akappiyo hotu, sesānaṃ pana kasmā na kappatīti maññamāno pucchati ‘‘kasmā sesānaṃ na kappatī’’ti. Kāraṇamāha ‘‘mūlassa anissaṭṭhattā’’ti. Pattassa kappiyabhāvepi sampaṭicchitamūlassa nissajjitabbassa anissaṭṭhattā tena gahitapatto sesānampi na kappati. Yadi hi tena sampaṭicchitamūlaṃ saṅghamajjhe nissaṭṭhaṃ siyā, tena kappiyena kammena ārāmikādīhi gahetvā dinnapatto rūpiyapaṭiggāhakaṃ ṭhapetvā sesānaṃ vaṭṭati. Apare pana ‘‘mūlaṃ sampaṭicchitvā gahitapattopi yadi saṅghassa nissaṭṭho, sesānaṃ kappatī’’ti vadanti. Evaṃ sante ‘‘mūlassa anissaṭṭhattā’’ti na vattabbaṃ, ‘‘saṅghassa anissaṭṭhattā’’ti evameva vattabbaṃ.
Chỉ giống như cái bát thứ hai bằng điều này, ngài cho thấy nó không hợp lệ cho cả năm vị đồng phạm hạnh. Ở đó, ngài nêu lý do: “do tiền vốn đã được nhận.” Vậy, do tiền vốn đã được nhận, nên nó không hợp lệ đối với người đã nhận tiền bạc, nhưng tại sao lại không hợp lệ cho những người còn lại? Với suy nghĩ như vậy, vị ấy hỏi: “tại sao không hợp lệ cho những người còn lại?” Ngài nêu lý do: “do tiền vốn chưa được xả bỏ.” Ngay cả khi cái bát hợp lệ, nhưng do tiền vốn đã nhận cần phải được xả bỏ mà chưa được xả bỏ, nên cái bát đã được nhận bằng số tiền đó cũng không hợp lệ cho những người còn lại. Vì nếu tiền vốn đã được vị ấy nhận được xả bỏ giữa Tăng chúng, thì cái bát đã được nhận từ các người coi vườn v.v… bằng hành động hợp lệ đó, sẽ hợp lệ cho những người còn lại, ngoại trừ người đã nhận tiền bạc. Nhưng những vị khác lại nói: “ngay cả cái bát đã được nhận sau khi đã nhận tiền vốn, nếu đã được xả cho Tăng chúng, cũng hợp lệ cho những người còn lại.” Nếu vậy, không nên nói “do tiền vốn chưa được xả bỏ,” mà chỉ nên nói “do chưa được xả bỏ cho Tăng chúng.”

Dubbicāritattāti iminā rūpiyasaṃvohāro anena katoti dasseti. Aññesaṃ pana vaṭṭatīti yasmānena rūpiyasaṃvohāramattameva kataṃ, na mūlaṃ sampaṭicchitaṃ, tasmā vinayakammavasena saṅghassa nissaṭṭhakālato paṭṭhāya aññesaṃ vaṭṭati. Imasmiṃyeva ca atthe pamāṇaṃ dassento ‘‘mahāsumattherassa kirā’’tiādimāha. Apare pana ‘‘dubbicāritattāti iminā kevalaṃ gihisantakabhāvena ṭhite dubbicāritamattaṃ vuttaṃ, na rūpiyasaṃvohārāpajjanaṃ, tasmā rūpiyasaṃvohārābhāvato so patto nissajjituṃ na sakkāti tassa na kappati, anissaṭṭhopi aññesaṃ kappati. Anissaṭṭhasseva ca aññesaṃ kappiyabhāvadassanatthaṃ ‘mahāsumattherassa kirā’tiādivatthūni udāhaṭāni. Saṅghassa nissajjīti idañca aññesaṃ kappiyattā kevalaṃ saṅghassa pariccattabhāvaṃ sandhāya vuttaṃ, na pana vinayakammavasena saṅghassa nissaṭṭhabhāvaṃ. Imassa ca atthassa sappissa pūretvāti idaṃ vacanaṃ sādhaka’’nti vadanti.
Do hành động sai trái bằng điều này, ngài cho thấy rằng việc giao dịch bằng tiền bạc đã được người này thực hiện. Nhưng được phép cho những người khác là bởi vì người này chỉ thực hiện việc giao dịch bằng tiền bạc, chứ không nhận tiền vốn, do đó, kể từ lúc được xả cho Tăng chúng theo Tăng sự, nó được phép cho những người khác. Và để chỉ ra bằng chứng cho chính ý nghĩa này, ngài đã nói: “nghe nói, trưởng lão Mahāsuma” v.v… Nhưng những vị khác lại nói: “bằng câu ‘do hành động sai trái,’ chỉ nói đến hành động sai trái khi nó còn là sở hữu của người tại gia, chứ không phải việc phạm vào tội giao dịch bằng tiền bạc, do đó, do không có việc giao dịch bằng tiền bạc, nên cái bát đó không thể được xả bỏ, vì vậy không hợp lệ cho vị ấy, nhưng dù chưa được xả bỏ cũng hợp lệ cho những người khác. Và để cho thấy tình trạng hợp lệ cho những người khác của chính vật chưa được xả bỏ, các câu chuyện như ‘nghe nói, trưởng lão Mahāsuma’ v.v… đã được trích dẫn. Đã xả cho Tăng chúng và điều này, do hợp lệ cho những người khác, nên chỉ được nói liên quan đến tình trạng đã từ bỏ cho Tăng chúng, chứ không phải tình trạng đã được xả cho Tăng chúng theo Tăng sự. Và lời nói sau khi đổ đầy bơ lỏng này là bằng chứng cho ý nghĩa này.”

591. Rūpiyapaṭiggahaṇarūpiyasaṃvohāresu yena ekekameva kataṃ, tena tattha tattha vuttanayeneva nissajjitabbaṃ. Yena pana paṭiggahitarūpiyeneva saṃvohāro kato, tena kathaṃ nissajjitabbanti? Nayidaṃ dukkaraṃ, ‘‘ahaṃ, bhante, nānappakārakaṃ rūpiyasaṃvohāraṃ samāpajji’’nti evameva nissajjitabbaṃ. ‘‘Imasmiṃ sikkhāpadepi ‘arūpiye rūpiyasaññī, āpatti dukkaṭassā’tiādittikassa avasānapade anāpattiyā vuttattā kappiyavatthuvaseneva idaṃ tikaṃ vutta’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Keci pana ‘‘arūpiyaggahaṇena kappiyavatthudukkaṭavatthūnaṃ saṅgahoti purimapadadvayaṃ kappiyavatthudukkaṭavatthūnaṃ vasena vuttaṃ, avasānapadameva kappiyavatthuvasena vutta’’nti vadanti, taṃ na yujjati anāpattimissite avasānattike saññānānattaṃ ṭhapetvā vatthunānattassa abhāvato. Dukkaṭavatthunā pana dukkaṭavatthuno cetāpanaṃ neva idha, na tattha pāḷiyaṃ vuttanti vacanamettha sādhakaṃ. Yaṃ attano dhanena parivattati, tassa vā dhanassa vā rūpiyabhāvo ceva, parivattanañcāti imānettha dve aṅgāni.
591. Trong các trường hợp nhận tiền bạc và giao dịch bằng tiền bạc, người nào chỉ làm một trong hai, thì cần phải xả bỏ theo phương pháp đã được nói ở từng nơi. Còn người nào đã thực hiện việc giao dịch bằng chính tiền bạc đã nhận, thì nên xả bỏ như thế nào? Điều này không khó, chỉ cần xả bỏ như vầy: “bạch các ngài, con đã phạm vào việc giao dịch bằng tiền bạc nhiều loại.” Trong cả ba sách cương yếu có nói: “trong học giới này cũng vậy, do trong vế cuối cùng của bộ ba ‘có tưởng là tiền bạc đối với vật không phải là tiền bạc, phạm tội tác ác’ v.v… đã nói là vô tội, nên bộ ba này được nói chỉ dựa vào vật hợp lệ.” Nhưng một số vị nói: “do từ ‘vật không phải là tiền bạc’ bao gồm cả vật hợp lệ và vật Tác Ác, nên hai vế đầu được nói dựa vào vật hợp lệ và vật Tác Ác, chỉ có vế cuối cùng là được nói dựa vào vật hợp lệ,” điều đó không hợp lý, vì trong bộ ba cuối cùng có lẫn lộn sự vô tội, ngoại trừ sự khác biệt về tưởng, không có sự khác biệt về vật. Còn việc cho mua vật Tác Ác bằng vật Tác Ác thì không được nói ở đây cũng không được nói trong Pāḷi, lời nói ở đây là bằng chứng. Tình trạng là tiền bạc của vật mà mình đổi chác bằng tài sản của mình, hoặc của tài sản đó, và việc đổi chác, đây là hai yếu tố ở đây.

Rūpiyasaṃvohārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới giao dịch bằng tiền bạc.

10. Kayavikkayasikkhāpadavaṇṇanā
10. Tường giải về học giới mua bán

593. Kayavikkayasikkhāpade pāḷiyaṃ jānāhīti ettha upadhārehīti attho, suṭṭhu upadhāretvā gaṇha, idaṃ na manāpanti puna dātuṃ na sakkhissasīti adhippāyo.
593. Trong học giới về mua bán, ở trong Pāḷi, hãy biết ở đây có nghĩa là hãy xem xét kỹ; ý muốn nói là hãy xem xét kỹ lưỡng rồi hãy nhận, nếu vật này không vừa ý, ngươi sẽ không thể trả lại được.

594-595.Kayanti parabhaṇḍassa gahaṇaṃ. Vikkayanti attano bhaṇḍassa dānaṃ. Tenāha ‘‘iminā imaṃ dehī’’tiādi. Yasmā kayitaṃ nāma parassa hatthato gahitaṃ vuccati, vikkītañca parassa hatthe dinnaṃ, tasmā ‘‘kayitañca hoti parabhaṇḍaṃ attano hatthagataṃ karontena, vikkītañca attano bhaṇḍaṃ parahatthagataṃ karontenā’’ti vuttaṃ. Yadi evaṃ pāḷiyaṃ parato ‘‘kayitañca hoti vikkayitañcā’’ti vatvā ‘‘attano bhaṇḍaṃ parahatthagataṃ parabhaṇḍaṃ attano hatthagata’’nti kasmā vuttanti āha ‘‘iminā imantiādivacanānurūpato panā’’tiādi. Imināti hi sakasantakaṃ vuttaṃ. Tadanurūpato pāḷiyaṃ paṭhamaṃ attano bhaṇḍaṃ dassitaṃ, na kayavikkayapadānurūpato. Tañhi viparītato parasantakaggahaṇaṃ purakkhatvā ṭhitaṃ.
594-595. Mua là việc nhận hàng hóa của người khác. Bán là việc cho đi hàng hóa của mình. Do đó, ngài nói: “hãy cho cái này bằng cái này” v.v… Bởi vì vật được mua được gọi là vật đã được nhận từ tay của người khác, và vật được bán là vật đã được cho vào tay của người khác, do đó đã được nói: “và đã được mua bởi người làm cho hàng hóa của người khác vào tay mình, và đã được bán bởi người làm cho hàng hóa của mình vào tay người khác.” Nếu vậy, tại sao ở sau, trong Pāḷi, sau khi nói “đã được mua và đã được bán,” lại nói “hàng hóa của mình vào tay người khác, hàng hóa của người khác vào tay mình,” ngài đã nói: “nhưng theo sự tương ứng của lời nói ‘cái này bằng cái này’ v.v…” v.v… Thật vậy, bằng từ “bằng cái này,” vật sở hữu của mình đã được nói đến. Theo sự tương ứng đó, trong Pāḷi, hàng hóa của mình đã được chỉ ra trước, chứ không phải theo sự tương ứng của các từ mua và bán. Vì rằng, điều đó, theo cách ngược lại, đã được đặt ra với việc nhận hàng hóa của người khác làm đầu.

Kāmaṃ sesañātakepi ‘‘imaṃ dehī’’ti vadato viññatti na hoti, saddhādeyyavinipātanassapi pana abhāvaṃ dassetukāmo ‘‘mātaraṃ pana pitaraṃ vā’’ti āha. Viññatti na hotīti idaṃ visuṃ viññāpanaṃ sandhāya vuttaṃ. Aññaṃ kiñci avatvā evaṃ vadanto aññātakaṃ viññāpeti nāmāti āha – ‘‘aññātakaṃ ‘imaṃ dehī’ti vadato viññattī’’ti. Aññaṃ kiñci avatvā ‘‘imaṃ gaṇhāhī’’ti dinnaṃ aññātakassa dinnaṃ nāma hotīti vuttaṃ ‘‘saddhādeyyavinipātana’’nti. Tisso āpattiyoti aññātakaviññattisaddhādeyyavinipātanakayavikkayāpattisaṅkhātā tisso āpattiyo.
Mặc dù đối với các quyến thuộc khác, việc nói “hãy cho cái này” không phải là sự xin xỏ, nhưng để muốn chỉ ra sự không có cả việc làm hỏng vật cúng dường do đức tin, ngài đã nói: “nhưng đối với mẹ hoặc cha.” Không phải là sự xin xỏ điều này được nói liên quan đến việc xin xỏ riêng biệt. Người nói như vậy mà không nói gì khác, được gọi là xin xỏ người không phải là quyến thuộc, nên ngài nói: “sự xin xỏ đối với người nói ‘hãy cho cái này’ với người không phải là quyến thuộc.” Vật được cho bằng cách nói “hãy nhận cái này” mà không nói gì khác, được gọi là vật đã được cho cho người không phải là quyến thuộc, nên đã được nói: “sự làm hỏng vật cúng dường do đức tin.” Ba tội lỗi là ba tội lỗi được kể là tội xin xỏ người không phải là quyến thuộc, tội làm hỏng vật cúng dường do đức tin, và tội mua bán.

Imaṃ nāma karohīti vadati, vaṭṭatīti ettha bhuttosi, idāni kasmā na karosīti vatthumpi vaṭṭati. ‘‘Nissaggiyaṃ pācittiya’’nti kiñcāpi satiyeva nissaggiyavatthumhi pācittiyaṃ vuttaṃ, asatipi pana tasmiṃ pācittiyanti idaṃ aṭṭhakathāpamāṇena gahetabbanti dassetuṃ ‘‘kiñcāpī’’tiādi vuttaṃ. Paribhutteti sappiādiṃ sandhāya vuttaṃ. Yaṃ attano dhanena parivatteti, yena ca parivatteti, tesaṃ kappiyavatthutā, asahadhammikatā, kayavikkayāpajjanañcāti imānettha tīṇi aṅgāni.
Nói rằng: ‘hãy làm việc tên là này,’ thì được phép ở đây, ngay cả trường hợp nói: “ông đã ăn rồi, bây giờ tại sao không làm?” cũng được phép. Mặc dù tội Ưng Đối Trị đã được nói chỉ khi có vật Ưng Xả Đối Trị, nhưng ngay cả khi không có nó, vẫn có tội Ưng Đối Trị, để chỉ ra rằng điều này cần được hiểu theo tiêu chuẩn của Chú giải, đã được nói: “mặc dù” v.v… Khi đã được sử dụng là được nói liên quan đến bơ lỏng v.v… Tình trạng là vật hợp lệ của vật mà mình đổi chác bằng tài sản của mình và của vật được dùng để đổi chác, tình trạng không phải là đồng phạm hạnh, và việc phạm vào tội mua bán, đây là ba yếu tố ở đây.

Kayavikkayasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới mua bán.

Niṭṭhito kosiyavaggo dutiyo.
Kết thúc phẩm Tơ Lụa thứ hai.

3. Pattavaggo
3. Phẩm Bát

1. Pattasikkhāpadavaṇṇanā
1. Tường giải về học giới liên quan đến bát

598-602. Pattavaggassa paṭhame bhaṇḍanti vikketabbabhaṇḍaṃ. Yasmā vaṇṇasaddo saṇṭhānajātirūpāyatanakāraṇapamāṇaguṇapasaṃsādīsu dissati. ‘‘Mahantaṃ sapparājavaṇṇaṃ abhinimminitvā’’tiādīsu (saṃ. ni. 1.142) hi saṇṭhānaṃ vuccati. ‘‘Brāhmaṇova seṭṭho vaṇṇo, hīno añño vaṇṇo’’tiādīsu (ma. ni. 2.402) jāti. ‘‘Paramāya vaṇṇapokkharatāya samannāgato’’tiādīsu (dī. ni. 1.303) rūpāyatanaṃ.
598-602. Trong học giới đầu tiên của phẩm Bát, hàng hóa là hàng hóa để bán. Bởi vì từ vaṇṇa được thấy trong các nghĩa như hình dáng, giai cấp, sắc xứ, lý do, kích thước, đức hạnh, sự tán thán v.v… Thật vậy, trong các câu như “sau khi đã hóa hiện ra hình dáng của vị vua có quyền lực lớn” (saṃ. ni. 1.142) v.v…, nó có nghĩa là hình dáng. Trong các câu như “chỉ có Bà-la-môn là giai cấp cao thượng, giai cấp khác là hạ tiện” (ma. ni. 2.402) v.v…, nó có nghĩa là giai cấp. Trong các câu như “thành tựu vẻ đẹp tuyệt vời của dung sắc” (dī. ni. 1.303) v.v…, nó có nghĩa là sắc xứ.

‘‘Na harāmi na bhañjāmi, ārā siṅghāmi vārijaṃ;
Atha kena nu vaṇṇena, gandhatthenoti vuccatī’’ti. (saṃ. ni. 1.234; jā. 1.6.116) –
“Ta không hái, không bẻ, chỉ từ xa mà ngửi hoa sen;
Vậy thì do lý do nào, mà lại bị gọi là kẻ trộm hương?” (saṃ. ni. 1.234; jā. 1.6.116) –

Ādīsu kāraṇaṃ. ‘‘Tayo pattassa vaṇṇā’’tiādīsu (pārā. 602) pamāṇaṃ. ‘‘Kadā saññuḷhā pana te gahapati ime samaṇassa gotamassa vaṇṇā’’tiādīsu (ma. ni. 2.77) guṇo. ‘‘Vaṇṇārahassa vaṇṇaṃ bhāsatī’’tiādīsu (a. ni. 4.3) pasaṃsā. Tasmā vuttaṃ ‘‘tayo pattassa vaṇṇāti tīṇi pattassa pamāṇānī’’ti.
Trong các câu như trên, nó có nghĩa là lý do. Trong các câu như “ba loại vaṇṇa của cái bát” (pārā. 602) v.v…, nó có nghĩa là kích thước. Trong các câu như “thưa gia chủ, vậy từ khi nào mà những lời ca ngợi này về sa-môn Gotama đã được ông phổ biến?” (ma. ni. 2.77) v.v…, nó có nghĩa là đức hạnh. Trong các câu như “nói lời tán thán người đáng được tán thán” (a. ni. 4.3) v.v…, nó có nghĩa là sự tán thán. Do đó, đã được nói: “ba loại vaṇṇa của cái bát là ba kích thước của cái bát.”

Aḍḍhaterasapalā hotīti ettha ‘‘māsānaṃ aḍḍhaterasapalāni gaṇhātī’’ti vadanti. ‘‘Magadhanāḷi nāma chapasatā nāḷī’’ti keci. ‘‘Aṭṭhapasatā’’ti apare. Tattha purimānaṃ matena tipasatāya nāḷiyā dve nāḷiyo ekā magadhanāḷi hoti, pacchimānaṃ catupasatāya nāḷiyā dve nāḷiyo ekā magadhanāḷi. Ācariyadhammapālattherena pana ‘‘pakatiyā catumuṭṭhikaṃ kuḍuvaṃ, catukuḍuvaṃ nāḷikaṃ, tāya nāḷiyā soḷasa nāḷiyo doṇaṃ, taṃ pana magadhanāḷiyā dvādasa nāḷiyo hontī’’ti vuttaṃ, tasmā tena nayena ‘‘magadhanāḷi nāma pañca kuḍuvāni ekañca muṭṭhiṃ ekāya muṭṭhiyā tatiyañca bhāgaṃ gaṇhātī’’ti veditabbaṃ.
Là mười hai pala rưỡi ở đây, có vị nói: “nhận mười hai pala rưỡi māsā.” Một số vị nói: “một nāḷi của xứ Magadha là sáu pasata.” Những vị khác nói: “tám pasata.” Ở đó, theo quan điểm của những người trước, hai nāḷi loại ba pasata là một nāḷi của xứ Magadha; theo những người sau, hai nāḷi loại bốn pasata là một nāḷi của xứ Magadha. Nhưng trưởng lão Ācariyadhammapāla đã nói: “thông thường, bốn nắm tay là một kuḍuva, bốn kuḍuva là một nāḷika, mười sáu nāḷi loại đó là một doṇa, nhưng đó là mười hai nāḷi theo nāḷi của xứ Magadha,” do đó, theo phương pháp đó, cần phải hiểu rằng: “một nāḷi của xứ Magadha nhận năm kuḍuva và một nắm tay và một phần ba của một nắm tay.”

Sabbasambhārasaṅkhatoti jīrakādisabbasambhārehi saṅkhato. Ālopassa ālopassa anurūpanti ettha ‘‘byañjanassa mattā nāma odanacatuttho bhāgo’’ti brahmāyusuttassa aṭṭhakathāyaṃ (ma. ni. aṭṭha. 2.387) vuttattā ālopassa catutthabhāgappamāṇaṃ byañjanaṃ ālopassa anurūpanti gahetabbaṃ. Idha pana sūpasseva odanacatutthabhāgappamāṇataṃ dassetvā etassa lakkhaṇe dassite itarassapi dassitameva hotīti byañjanassa tathā visesetvā pamāṇaṃ na dassitaṃ.
Được chế biến với đủ thứ gia vị là được chế biến với đủ thứ gia vị như thì là v.v… Tương xứng với mỗi miếng cơm ở đây, do trong chú giải kinh Brahmāyu (ma. ni. aṭṭha. 2.387) có nói: “lượng đồ ăn là một phần tư của cơm,” nên cần phải hiểu rằng lượng đồ ăn bằng một phần tư của miếng cơm là tương xứng với miếng cơm. Nhưng ở đây, sau khi chỉ ra lượng của canh là một phần tư của cơm, khi đặc điểm này đã được chỉ ra, thì đặc điểm của các món khác cũng đã được chỉ ra, nên đã không chỉ ra kích thước của đồ ăn một cách đặc biệt như vậy.

Magadhanāḷiyā upaḍḍhappamāṇo idha patthoti āha ‘‘patthodananti magadhanāḷiyā upaḍḍhanāḷikodana’’nti. Iminā ca ‘‘patthadvayaṃ magadhanāḷī’’ti dassitaṃ hoti. Pattho ca ‘‘catupalo kuḍuvo, catukuḍuvo pattho’’ti iminā lokiyavohārena veditabbo. Bhājanaparibhogenāti udakāharaṇādinā bhājanaparibhogena.
Một pattha ở đây có kích thước bằng một nửa nāḷi của xứ Magadha, nên ngài nói: “một pattha cơm là cơm bằng một nửa nāḷi theo nāḷi của xứ Magadha.” Và bằng điều này, đã được chỉ ra rằng: “hai pattha là một nāḷi của xứ Magadha.” Và pattha cần được hiểu theo cách nói thế gian này: “bốn pala là một kuḍuva, bốn kuḍuva là một pattha.” Bằng việc sử dụng như một vật chứa là bằng việc sử dụng như một vật chứa để múc nước v.v…

607.Dhoteti paribhogāvasānadassanatthaṃ vuttaṃ, na pana dhoteyeva dukkaṭaṃ āpajjati tato puretaraṃ paribhogakāleyeva āpajjanato.
607. Khi đã rửa được nói để cho thấy sự kết thúc của việc sử dụng, chứ không phải chỉ khi đã rửa mới phạm tội tác ác, vì đã phạm ngay từ lúc sử dụng trước đó.

608.Pañcahi dvīhīti idaṃ ‘‘ettāvatā kāḷavaṇṇatā sampajjatī’’ti dassanatthaṃ vuttaṃ. ‘‘Yadi pana ekenapi pākena kāḷavaṇṇo hoti, adhiṭṭhānupagoyevā’’ti vadanti. Hatthānāgatassapi adhiṭṭhātabbabhāvadassanatthaṃ ‘‘yadihī’’tiādi vuttaṃ. Iminā ca dūre ṭhitampi adhiṭṭhātuṃ vikappetuñca labhati, ṭhapitaṭṭhānasallakkhaṇañca na pamāṇanti veditabbaṃ. Sutvā vāti pattakārakena pesitabhikkhunā anāṇatto kevalaṃ tassa kathentassa vacanamattaṃ sutvā. Na pamāṇanti tena apesitattā. Sāmantavihāreti idaṃ upacāramattaṃ, tato dūre ṭhitampi adhiṭṭhātuṃ vaṭṭatiyeva. Ṭhapitaṭṭhānaṃ sallakkhetvāti idampi upacāramattaṃ, pattasallakkhaṇamevettha pamāṇaṃ. Patte vā chiddaṃ hotīti mukhavaṭṭito heṭṭhā dvaṅgulamattokāsato paṭṭhāya yattha katthaci chiddaṃ hoti. Sesamettha paṭhamakathine vuttanayameva.
608. Bởi năm lần hoặc hai lần điều này được nói để cho thấy rằng: “chỉ bấy nhiêu là đã đạt được màu đen.” Có vị nói: “nhưng nếu chỉ bằng một lần nung mà có màu đen, thì cũng hợp lệ để chú nguyện.” Để cho thấy tình trạng cần phải chú nguyện cả đối với vật chưa đến tay, đã được nói: “vì nếu” v.v… Và bằng điều này, cần phải hiểu rằng được phép chú nguyện và tác tịnh cả vật ở xa, và việc ghi nhận nơi cất giữ không phải là tiêu chuẩn. Hoặc sau khi nghe là sau khi chỉ nghe lời nói của Tỳ-khưu được người làm bát sai đến mà không được ra lệnh. Không phải là tiêu chuẩn là do không được người ấy sai đi. Ở trú xứ lân cận điều này chỉ là cách nói xã giao, được phép chú nguyện cả vật ở xa hơn. Sau khi ghi nhận nơi cất giữ điều này cũng chỉ là cách nói xã giao, chính sự ghi nhận cái bát mới là tiêu chuẩn ở đây. Hoặc có lỗ thủng trên bát là có lỗ thủng ở bất cứ đâu, bắt đầu từ khoảng cách hai lóng tay dưới vành miệng. Phần còn lại ở đây có cùng phương pháp như đã được nói trong học giới kaṭhina thứ nhất.

Pattasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới liên quan đến bát.

2. Ūnapañcabandhanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Tường giải về học giới (cái bát) có ít hơn năm mối hàn

610. Dutiyasikkhāpade hatthesu piṇḍāya caratīti pāḷipadassa hatthesu labhitabbapiṇḍatthāya caratīti attho veditabbo.
610. Trong học giới thứ hai, cần phải hiểu ý nghĩa của từ Pāḷi đi khất thực vào trong tay là đi vì lợi ích của vật thực khất thực có thể nhận được vào trong tay.

612-613.‘‘Tassaso apattoti vacanato so patto adhiṭṭhānampi vijahati apattattā. Apattabhāvatoyeva hi ‘pañcabandhanaṃ pattaṃ cetāpetī’ti pāḷiyaṃ na vutta’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Keci pana ‘‘apattoti idaṃ ‘aññaṃ pattaṃ viññāpetuṃ vaṭṭatī’ti dassanatthaṃ vuttaṃ, so pana patto adhiṭṭhānaṃ na vijahatī’’ti vadanti, taṃ yuttaṃ viya dissati ‘‘yassa pañca ekāyeva vā dasaṅgulā, so baddhopi abaddhopi apattoyevā’’ti vakkhamānattā. Na hi mukhavaṭṭiyā pañcasu ṭhānesu dvaṅgulamattāhi rājīhi adhiṭṭhānaṃ vijahatīti sakkā vattuṃ, ekāya pana rājiyā dasaṅgulāya sace tattha vuttappamāṇo chiddo paññāyati, chiddeneva adhiṭṭhānavijahanaṃ siyāti yuttaṃ vattuṃ. Bandhanokāse sati asati vā bandhanavirahito patto abandhanoti vutto, bandhanokāsavirahitoyeva pana abandhanokāsoti vutto.
612-613. Trong cả ba sách cương yếu có nói: “Theo câu ‘cái bát ấy của vị ấy không phải là bát,’ cái bát đó cũng mất hiệu lực chú nguyện do không còn là bát. Chính vì không còn là bát, nên trong Pāḷi đã không nói: ‘cho làm một cái bát có năm mối hàn.’” Nhưng một số vị nói rằng: “‘không phải là bát’ điều này được nói để cho thấy rằng ‘được phép xin một cái bát khác,’ nhưng cái bát đó không mất hiệu lực chú nguyện,” điều đó có vẻ hợp lý, vì sẽ được nói ở sau: “cái bát nào có năm vết nứt hoặc chỉ một vết nứt dài mười lóng tay, dù đã được hàn hay chưa được hàn, cũng không còn là bát.” Vì rằng, không thể nói rằng sự chú nguyện bị mất do các vết nứt chỉ dài hai lóng tay ở năm chỗ trên vành miệng; nhưng đối với một vết nứt dài mười lóng tay, nếu có một lỗ thủng với kích thước đã được nói ở đó, thì hợp lý để nói rằng sự chú nguyện bị mất do chính lỗ thủng. Cái bát không có mối hàn dù có hoặc không có chỗ để hàn được gọi là không có mối hàn; còn cái bát không có chỗ để hàn mới được gọi là không có chỗ để hàn.

Tipusuttakena vā bandhitvāti ettha ‘‘bandhitabbo’’ti pāṭho gahetabbo. Purāṇapotthakepi hi ayameva pāṭho dissati. Suddhehi…pe… na vaṭṭatīti idaṃ uṇhabhojane pakkhitte vilīyamānattā vuttaṃ. Phāṇitaṃ jhāpetvā pāsāṇacuṇṇena bandhituṃ vaṭṭatīti pāsāṇacuṇṇena saddhiṃ phāṇitaṃ pacitvā tathāpakkena pāsāṇacuṇṇena bandhituṃ vaṭṭati.
Hoặc sau khi hàn bằng chỉ thiếc ở đây, nên lấy câu đọc là “bandhitabbo” (nên được hàn). Vì rằng, trong các sách chép tay cũ cũng thấy có câu đọc này. Bằng (kim loại) nguyên chất… vân vân… không được phép điều này được nói do chúng bị chảy ra khi thức ăn nóng được đặt vào. Được phép hàn bằng bột đá sau khi đã nấu mật mía là được phép hàn bằng bột đá đã được nấu như vậy sau khi đã nấu mật mía cùng với bột đá.

615.Anukampāya na gaṇhantassa dukkaṭanti vuttattā yassa so patto na ruccati, tassapi agaṇhantassa anāpatti. Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. ūnapañcabandhanasīkkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ ‘‘sace therassa patto na ruccati, appicchatāya vā na gaṇhāti, vaṭṭatī’’ti. Pattapariyantoti pariyantapatto, avasānapattoti attho. ‘‘Saṅghamajjhe pattaṃ gāhāpentena alajjiṃ agāhāpetuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. ‘‘Anujānāmi bhikkhave ādhārakanti vuttattā pīṭhādīsu yattha katthaci ādhāraṃ ṭhapetvā tattha pattaṃ ṭhapetuṃ vaṭṭati ādhāraṭhapanokāsassa aniyamitattā’’ti vadanti. Aparibhogenāti ayuttaparibhogena.
615. Do đã được nói: “phạm tội tác ác đối với người không nhận do lòng bi mẫn,” nên đối với người không thích cái bát đó, người không nhận cũng vô tội. Chính vì thế, trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. ūnapañcabandhanasīkkhāpadavaṇṇanā) có nói: “nếu trưởng lão không thích cái bát, hoặc không nhận do ít mong muốn, thì được phép.” Cái bát cuối cùng là cái bát sau cùng, có nghĩa là cái bát sau hết. Có vị nói: “khi cho người khác nhận bát giữa Tăng chúng, được phép không cho người không có lòng hổ thẹn nhận.” Có vị nói: “do đã được nói ‘Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cái giá đỡ,’ nên được phép đặt bát ở đó sau khi đã đặt giá đỡ ở bất cứ đâu trên ghế v.v…, do nơi đặt giá đỡ không bị quy định.” Bằng sự sử dụng không đúng cách là bằng sự sử dụng không hợp lệ.

616. Pāḷiyaṃ ‘‘abandhanena pattena abandhanaṃ pattaṃ. Ekabandhanaṃ pattaṃ… dvibandhanaṃ pattaṃ… tibandhanaṃ… catubandhanaṃ… abandhanokāsaṃ… eka… dvi… ti… catubandhanokāsaṃ pattaṃ cetāpetī’’ti evaṃ ekekena pattena dasadhā dasavidhaṃ pattaṃ cetāpanavasena ekanissaggiyapācittiyasataṃ vuttaṃ. Imasmiṃ sikkhāpade pamāṇayuttaṃ aggahitakāḷavaṇṇampi pattaṃ viññāpentassa āpattiyevāti daṭṭhabbaṃ. Adhiṭṭhānupagapattassa ūnapañcabandhanatā, attuddesikatā, akataviññatti, tāya ca paṭilābhoti imānettha cattāri aṅgāni.
616. Trong Pāḷi, đã được nói đến một trăm tội Ưng Xả Đối Trị là tội Ưng Xả Đối Trị theo cách cho làm mười loại bát bằng mỗi một loại bát như sau: “bằng cái bát không có mối hàn, cho làm cái bát không có mối hàn. Cái bát có một mối hàn… cái bát có hai mối hàn… có ba mối hàn… có bốn mối hàn… cái bát không có chỗ để hàn… một… hai… ba… bốn chỗ để hàn.” Cần phải thấy rằng, trong học giới này, người xin một cái bát dù hợp với kích thước nhưng chưa được nhuộm màu đen cũng vẫn phạm tội. Tình trạng cái bát hợp lệ để chú nguyện có ít hơn năm mối hàn, sự chỉ định cho mình, sự xin xỏ chưa được thực hiện, và sự nhận được do sự xin xỏ ấy, đây là bốn yếu tố ở đây.

Ūnapañcabandhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới có ít hơn năm mối hàn.

3. Bhesajjasikkhāpadavaṇṇanā
3. Tường giải về học giới thuốc men

622. Tatiyasikkhāpade yesaṃ maṃsaṃ kappatīti idaṃ nissaggiyavatthudassanatthaṃ vuttaṃ, na pana yesaṃ maṃsaṃ na kappati, tesaṃ sappiādīni na kappantīti dassanatthaṃ. Manussakhīrādīnipi hi no na kappanti, kuto sasassa sappīti āha ‘‘yesañhi khīraṃ atthi, sappipi tesaṃ atthiyevā’’ti. ‘‘Idañca yebhuyyena vutta’’nti vadanti. Uggahitakaṃ katvā nikkhittanti appaṭiggahitaṃ sayameva gahetvā nikkhittaṃ. Sayaṃkataṃ nirāmisameva vaṭṭatīti tadahupurebhattameva sandhāya vuttaṃ. Atha sayaṃkataṃ nirāmisaṃ bhuñjantassa kasmā sāmaṃpāko na hotīti āha – ‘‘navanītaṃ tāpentassa hi sāmaṃpāko na hotī’’ti. Savatthukapaṭiggahitassa vatthugatikattā āha – ‘‘savatthukassa paṭiggahitattā’’ti. Pacchābhattaṃ paṭiggahitehīti pacchābhattaṃ paṭiggahitakhīradadhīhi. Purebhattampi ca uggahitakehi kataṃ abbhañjanādīsu upanetabbanti sambandho. Ubhayesampīti pacchābhattaṃ paṭiggahitakhīradadhīhi ca purebhattaṃ uggahitakehi ca katānaṃ. Eseva nayoti nissaggiyaṃ hotīti attho. Akappiyamaṃsasappimhīti akappiyamaṃsasattānaṃ sappimhi. Kāraṇapatirūpakaṃ vatvāti sajātiyānaṃ sappibhāvatoti kāraṇapatirūpakaṃ vatvā.
622. Trong học giới thứ ba, của những loài có thịt hợp lệ điều này được nói để chỉ ra vật Ưng Xả Đối Trị, chứ không phải để chỉ ra rằng bơ lỏng v.v… của những loài có thịt không hợp lệ là không hợp lệ. Vì rằng, ngay cả sữa của người v.v… cũng không hợp lệ cho chúng ta, huống hồ gì là bơ lỏng của con thỏ, nên ngài nói: “vì những loài nào có sữa, thì chúng cũng có bơ lỏng.” Có vị nói: “Và điều này được nói theo đa số.” Được cất giữ sau khi đã tự mình nhận lấy là được cất giữ sau khi đã tự mình nhận lấy vật chưa được nhận. Tự mình làm, không có thực phẩm, thì được phép là được nói liên quan đến chỉ trước bữa ăn trong ngày hôm đó. Vậy tại sao người ăn vật không có thực phẩm tự mình làm lại không phải là nấu cho mình? Ngài nói: “vì rằng, đối với người nấu bơ tươi, không có tội nấu cho mình.” Do vật đã được nhận cùng với vật gốc thì theo vật gốc, nên ngài nói: “do đã được nhận cùng với vật gốc.” Bởi (các sản phẩm) đã được nhận sau bữa ăn là bởi sữa và sữa chua đã được nhận sau bữa ăn. Và có sự liên kết là vật được làm từ những thứ đã được tự mình nhận lấy trước bữa ăn cũng được dùng để xoa bóp v.v… Của cả hai là của những vật được làm từ sữa và sữa chua đã được nhận sau bữa ăn và từ những thứ đã được tự mình nhận lấy trước bữa ăn. Cùng một phương pháp này có nghĩa là trở thành vật Ưng Xả Đối Trị. Trong bơ lỏng của loài có thịt không hợp lệ là trong bơ lỏng của các loài vật có thịt không hợp lệ. Sau khi đã nói lý do tương tự là sau khi đã nói lý do tương tự rằng chúng cùng loại với bơ lỏng.

Sappinayeneva veditabbanti nirāmisameva sattāhaṃ vaṭṭatīti attho. Etthāti navanīte. Dhotaṃ vaṭṭatīti adhotaṃ ce, savatthukapaṭiggahitaṃ hoti, tasmā dhotaṃ paṭiggahetvā sattāhaṃ nikkhipituṃ vaṭṭatīti therānaṃ adhippāyo. Takkato uddhaṭamattameva khādiṃsūti ettha takkato uddhaṭamattaṃ adhotampi paṭiggahetvā paribhuñjantā dhovitvā pacitvā vā paribhuñjiṃsūti evamattho gahetabbo. Therassa hi dadhiguḷikādisahitampi paṭiggahitaṃ pacchā dhovitvā pacitvā vā paribhuñjantassa savatthukapaṭiggahaṇe doso natthīti adhippāyo, teneva therassa adhippāyaṃ dassentena ‘‘tasmā navanītaṃ paribhuñjantena…pe… ayamettha adhippāyo’’ti vuttaṃ. Keci pana ‘‘takkato uddhaṭamattameva khādiṃsū’’ti vacanassa adhippāyaṃ ajānantā ‘‘takkato uddhaṭamattaṃ adhotampi dadhiguḷikādisahitaṃ vikālepi paribhuñjituṃ vaṭṭatī’’ti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ. Na hi dadhiguḷikādiāmisena saṃsaṭṭharasaṃ navanītaṃ paribhuñjituṃ vaṭṭatīti sakkā vattuṃ. Navanītaṃ paribhuñjantenāti adhovitvā paṭiggahitanavanītaṃ paribhuñjantena. Dadhi eva dadhigataṃ yathā ‘‘gūthagataṃ muttagata’’nti (ma. ni. 2.119). Khayaṃ gamissatīti vacanato khīraṃ pakkhipitvā pakkasappiādipi vikāle kappatīti veditabbaṃ. Kukkuccāyanti kukkuccakāti iminā attanāpi tattha kukkuccasabbhāvaṃ dīpeti. Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. bhesajjasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘nibbaṭṭitasappi vā navanītaṃ vā pacituṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Tāni paṭiggahetvāti tāni khīradadhīni paṭiggahetvā.
Nên được hiểu theo phương pháp của bơ lỏng có nghĩa là chỉ được phép trong bảy ngày khi không có thực phẩm. Ở đây là trong bơ tươi. Đã được rửa thì được phép là nếu chưa được rửa, thì sẽ là vật đã được nhận cùng với vật gốc, do đó, ý định của các trưởng lão là được phép nhận sau khi đã rửa và cất giữ trong bảy ngày. Chỉ ăn ngay sau khi đã vớt ra từ sữa đông ở đây, nên hiểu ý nghĩa là những vị ăn ngay sau khi đã vớt ra từ sữa đông mà không rửa, đã ăn sau khi đã rửa hoặc nấu. Vì rằng, ý định của trưởng lão là không có lỗi trong việc nhận cùng với vật gốc đối với người nhận cả viên sữa chua v.v… rồi ăn sau khi đã rửa hoặc nấu. Chính vì thế, người chỉ ra ý định của trưởng lão đã nói: “do đó, người ăn bơ tươi… vân vân… đây là ý định ở đây.” Nhưng một số vị, do không biết ý định của câu “chỉ ăn ngay sau khi đã vớt ra từ sữa đông,” đã nói rằng: “ngay cả khi chưa được rửa, cùng với viên sữa chua v.v…, cũng được phép ăn vào lúc phi thời ngay sau khi đã vớt ra từ sữa đông,” điều đó không nên chấp nhận. Vì rằng, không thể nói rằng được phép ăn bơ tươi có vị đã trộn lẫn với thực phẩm là viên sữa chua v.v… Bởi người ăn bơ tươi là bởi người ăn bơ tươi đã được nhận mà không rửa. Sữa chua chính là vật thuộc về sữa chua, giống như “gūthagataṃ muttagataṃ” (vật thuộc về phân, vật thuộc về nước tiểu) (ma. ni. 2.119). Theo câu sẽ bị tiêu hao, cần phải hiểu rằng cả bơ lỏng v.v… được nấu bằng cách cho sữa vào cũng hợp lệ vào lúc phi thời. Những người hay áy náy thì áy náy bằng điều này, ngài cũng chỉ ra sự có mặt của sự áy náy ở đó nơi chính mình. Chính vì thế, trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. bhesajjasikkhāpadavaṇṇanā) có nói: “được phép nấu bơ lỏng đã được làm ra hoặc bơ tươi.” Sau khi đã nhận chúng là sau khi đã nhận sữa và sữa chua đó.

Paṭiggahetvā ṭhapitabhesajjehīti paṭiggahetvā ṭhapitayāvajīvikabhesajjehi. Vuttanayena yathā taṇḍulādīni na paccanti, tathā lajjīyeva sampādetvā detīti lajjīsāmaṇeraggahaṇaṃ, apica alajjinā ajjhoharitabbaṃ yaṃ kiñci abhisaṅkharāpetuṃ na vaṭṭati, tasmāpi evamāha. Tile paṭiggahetvā katatelanti attanā bhajjanādīni akatvā gahitatelaṃ. Teneva ‘‘sāmisampi vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Nibbaṭṭitattāti yāvakālikavatthuto vivecitattā. Ubhayampīti attanā ca parena ca kataṃ. Yāva aruṇassa uggamanā tiṭṭhati, nissaggiyanti sattamadivase katatelaṃ sace yāva aruṇuggamanā tiṭṭhati, nissaggiyaṃ.
Bởi các loại thuốc đã được nhận và cất giữ là bởi các loại thuốc dùng trọn đời đã được nhận và cất giữ. Theo phương pháp đã được nói, giống như gạo v.v… không được nấu, cũng vậy, chỉ có người có lòng hổ thẹn mới chuẩn bị và cho, nên đã đề cập đến sa-di có lòng hổ thẹn; hơn nữa, không được phép cho người không có lòng hổ thẹn chế biến bất cứ thứ gì để ăn, do đó cũng đã nói như vậy. Dầu được làm sau khi đã nhận mè là dầu đã được nhận mà không tự mình rang v.v… Chính vì thế, đã được nói: “có thực phẩm cũng được phép.” Do đã được làm ra là do đã được tách ra khỏi vật dùng trong một buổi. Cả hai là được làm bởi chính mình và bởi người khác. Nếu còn lại cho đến khi rạng đông mọc, là vật Ưng Xả Đối Trị là dầu được làm vào ngày thứ bảy, nếu còn lại cho đến khi rạng đông mọc, là vật Ưng Xả Đối Trị.

623.Acchavasanti dukkaṭavatthuno vasāya anuññātattā taṃsadisānaṃ dukkaṭavatthūnaṃyeva akappiyamaṃsasattānaṃ vasā anuññātā, na thullaccayavatthūnaṃ manussānaṃ vasāti āha ‘‘ṭhapetvā manussavasa’’nti . Saṃsaṭṭhanti parissāvitaṃ. ‘‘Kāle paṭiggahitaṃ vikāle anupasampannenapi nippakkaṃ saṃsaṭṭhañca paribhuñjantassa dvepi dukkaṭāni hontiyevā’’ti vadanti. Yasmā khīradadhiādīni pakkhipitvā telaṃ pacanti, tasmā kasaṭaṃ na vaṭṭati, telameva vaṭṭati. Tena vuttaṃ ‘‘pakkatelakasaṭe viya kukkuccāyatī’’ti. ‘‘Sace vasāya saddhiṃ pakkattā na vaṭṭati, idaṃ kasmā vaṭṭatī’’ti pucchantā ‘‘bhante’’tiādimāhaṃsu. Etaṃ vaṭṭatīti nanu etaṃ dadhiguḷikādīhi pakkaṃ navanītaṃ vaṭṭatīti attho.
623. Mỡ gấu là do mỡ của loài là vật Tác Ác đã được cho phép, nên mỡ của các loài vật có thịt không hợp lệ, là những vật Tác Ác tương tự, đã được cho phép, chứ không phải mỡ của người, là vật Trọng Tội, nên ngài nói: “ngoại trừ mỡ người.” Đã được trộn lẫn là đã được lọc. Có vị nói: “đối với vật đã được nhận trong mùa, nếu ăn vào lúc phi thời, dù đã được người chưa thọ cụ túc giới nấu kỹ và trộn lẫn, cũng phạm cả hai tội tác ác.” Bởi vì người ta cho sữa, sữa chua v.v… vào rồi nấu dầu, do đó, cặn thì không được phép, chỉ có dầu mới được phép. Do đó, đã được nói: “áy náy như đối với cặn dầu đã nấu.” Những vị hỏi: “nếu không được phép do đã được nấu cùng với mỡ, tại sao cái này lại được phép?” đã nói: “bạch ngài” v.v… Cái này được phép có nghĩa là chẳng phải bơ tươi được nấu với viên sữa chua v.v… này được phép sao?

‘‘Madhukarīhi nāma madhumakkhikāhīti ayaṃ khuddakamakkhikānaṃ bhamaramakkhikānañca sāmaññaniddeso’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Keci pana ‘‘daṇḍakesu madhukarā madhukarī makkhikā nāmā’’ti vatvā ‘‘tāhi madhukarīādīhi tīhi makkhikāhi kataṃ madhu nāmā’’ti vadanti. Bhamaramakkhikāhīti mahābhamaramakkhikāhi. Silesasadisanti ghanapakkaṃ vuttaṃ. Itaranti tanukamadhu. Madhupaṭalanti madhurahitaṃ kevalaṃ madhupaṭalaṃ. ‘‘Sace madhusahitaṃ paṭalaṃ paṭiggahetvā nikkhipanti, paṭalassa bhājanaṭṭhāniyattā madhuno vasena sattāhātikkame nissaggiyaṃ hotī’’ti vadanti, ‘‘madhumakkhitaṃ pana madhugatikamevā’’ti iminā taṃ na sameti.
Trong cả ba sách cương yếu có nói: “‘bởi ong mật được gọi là madhukarī’ đây là sự chỉ định chung cho các loài ong nhỏ và ong bầu.” Nhưng một số vị, sau khi nói: “trong các khu rừng, ong madhukara, ong madhukarī được gọi là ong makkhikā,” đã nói rằng: “mật ong được gọi là mật được làm bởi ba loại ong đó là madhukarī v.v…” Bởi ong bầu là bởi các loài ong bầu lớn. Giống như thạch là nói đến mật đã được nấu đặc. Loại khác là mật ong loãng. Tổ ong là chỉ có tổ ong không có mật. Có vị nói: “nếu nhận tổ ong cùng với mật rồi cất giữ, do tổ ong ở vị trí của vật chứa, nên trở thành vật Ưng Xả Đối Trị khi quá bảy ngày do bởi mật ong,” điều đó không phù hợp với câu “nhưng vật có dính mật ong thì theo mật ong.”

‘‘Phāṇitaṃ nāma ucchumhā nibbatta’’nti pāḷiyaṃ avisesena vuttattā aṭṭhakathāyañca ‘‘ucchurasaṃ upādāya…pe… avatthukā ucchuvikati ‘phāṇita’nti veditabbā’’ti vacanato ucchurasopi nikkasaṭo sattāhakālikoti veditabbo. Kenaci pana ‘‘madhumhi cattāro kālikā yathāsambhavaṃ yojetabbā, ucchumhi cā’’ti vatvā ‘‘samakkhikaṇḍaseḷakaṃ yāvakālikaṃ, aneḷakaṃ udakasambhinnaṃ yāmakālikaṃ, asambhinnaṃ sattāhakālikaṃ, madhusitthaṃ parisuddhaṃ yāvajīvikaṃ, tathā ucchu vā raso vā sakasaṭo yāvakāliko, nikkasaṭo udakasambhinno yāmakāliko, asambhinno sattāhakāliko, suddhakasaṭaṃ yāvajīvika’’nti ca vatvā uttaripi bahudhā papañcitaṃ. Tattha ‘‘udakasambhinnaṃ madhu vā ucchuraso vā udakasambhinno yāmakāliko’’ti idaṃ neva pāḷiyaṃ, na aṭṭhakathāyaṃ dissati. ‘‘Yāvakālikaṃ samānaṃ garutarampi muddikājātirasaṃ attanā saṃsaṭṭhaṃ lahukaṃ yāmakālikabhāvaṃ upanentaṃ udakaṃ lahutaraṃ sattāhakālikaṃ attanā saṃsaṭṭhaṃ garutaraṃ yāmakālikabhāvaṃ upanetī’’ti ettha kāraṇaṃ soyeva pucchitabbo, sabbattha pāḷiyaṃ aṭṭhakathāyañca udakasambhedena garutarassapi lahubhāvopagamanaṃyeva dassitaṃ. Pāḷiyampi hi ‘‘anujānāmi, bhikkhave, gilānassa guḷaṃ, agilānassa guḷodaka’’nti (mahāva. 284) vadantena agilānena paribhuñjituṃ ayuttopi guḷo udakasambhinno agilānassapi vaṭṭatīti anuññāto.
Do trong Pāḷi đã nói chung chung rằng: “mật mía được gọi là vật được làm ra từ cây mía,” và trong Chú giải, theo câu “lấy nước mía làm đầu… vân vân… sản phẩm từ cây mía không có vật gốc cần phải được biết là ‘mật mía,’” nên cần phải hiểu rằng cả nước mía không có bã cũng là vật dùng trong bảy ngày. Nhưng có một vị, sau khi nói: “trong mật ong, bốn loại thời hạn cần được kết hợp tùy theo khả năng, và trong cây mía cũng vậy,” đã nói rằng: “tổ ong cùng với ong và ấu trùng là vật dùng trong một buổi, không có ấu trùng, pha với nước là vật dùng trong một buổi sáng, không pha là vật dùng trong bảy ngày, sáp ong tinh khiết là vật dùng trọn đời; cũng vậy, cây mía hoặc nước mía có bã là vật dùng trong một buổi, không có bã, pha với nước là vật dùng trong một buổi sáng, không pha là vật dùng trong bảy ngày, bã khô là vật dùng trọn đời,” và còn phân tích ra nhiều loại nữa. Ở đó, câu “mật ong hoặc nước mía pha với nước là vật dùng trong một buổi sáng” này không thấy có trong Pāḷi cũng không có trong Chú giải. Ở điểm “nước, một vật nhẹ hơn, khi được pha với nước nho, một vật nặng hơn và là vật dùng trong một buổi, đã biến nó thành vật nhẹ hơn là vật dùng trong một buổi sáng; lại biến vật dùng trong bảy ngày, một vật nhẹ hơn, khi được pha với nó, thành vật nặng hơn là vật dùng trong một buổi sáng,” cần phải hỏi chính vị ấy về lý do. Ở mọi nơi trong Pāḷi và Chú giải, chỉ cho thấy rằng ngay cả vật nặng hơn cũng trở nên nhẹ hơn do được pha với nước. Vì rằng, trong Pāḷi cũng vậy, khi phán: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép người bệnh dùng đường, người không bệnh dùng nước đường” (mahāva. 284), ngài đã cho phép rằng ngay cả đường, một vật không hợp lệ cho người không bệnh sử dụng, khi được pha với nước, cũng được phép cho cả người không bệnh.

Yampi ca ‘‘ucchu ce yāvakāliko, ucchuraso ce yāmakāliko, phāṇitaṃ ce sattāhakālikaṃ, taco ce yāvajīviko’’ti aṭṭhakathāvacanaṃ dassetvā ‘‘ucchuraso udakasambhinno yāmakāliko’’ti aññena kenaci vuttaṃ, tampi tathāvidhassa aṭṭhakathāvacanassa imissā samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya abhāvato na sārato paccetabbaṃ. Tatoyeva ca ‘‘ucchuraso udakena sambhinnopi asambhinnopi sattāhakālikoyevā’’ti keci ācariyā vadanti. Bhesajjakkhandhake ca ‘‘anujānāmi, bhikkhave, ucchurasa’’nti (mahāva. 300) ettha tīsupi gaṇṭhipadesu avisesena vuttaṃ ‘‘ucchuraso sattāhakāliko’’ti.
Và lời chú giải mà một vị khác đã chỉ ra: “nếu cây mía là vật dùng trong một buổi, nước mía là vật dùng trong một buổi sáng, mật mía là vật dùng trong bảy ngày, và vỏ cây là vật dùng trọn đời,” rồi nói: “nước mía pha với nước là vật dùng trong một buổi sáng,” điều đó cũng không nên tin theo một cách chắc chắn, do không có lời chú giải như vậy trong bộ Samantapāsādikā, chú giải Luật này. Chính vì thế, một số vị thầy nói rằng: “nước mía dù pha hay không pha với nước cũng là vật dùng trong bảy ngày.” Và trong phẩm về thuốc men, ở câu “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng nước mía” (mahāva. 300), trong cả ba sách cương yếu đã nói chung chung rằng: “nước mía là vật dùng trong bảy ngày.”

Sayaṃkataṃ nirāmisameva vaṭṭatīti ettha aparissāvitaṃ paṭiggahitampi karaṇasamaye parissāvetvā kasaṭaṃ apanetvāva attanā katanti gahetabbaṃ. Jhāmaucchuphāṇitanti agginā daḍḍhe ucchukhette jhāmaucchunā kataphāṇitaṃ. Koṭṭitaucchuphāṇitanti khuddānukhuddakaṃ chinditvā koṭṭetvā nippīḷetvā pakkaṃ yebhuyyena ca sakasaṭaṃ phāṇitaṃ. Tādisassa ca kasaṭassa abbohārikattā ‘‘taṃ yutta’’nti vuttaṃ. Sītudakena katanti madhukapupphāni sītodake pakkhipitvā madditvā puppharase udakagate sati taṃ udakaṃ gahetvā pacitvā kataphāṇitaṃ. Khīraṃ pakkhipitvā kataṃ madhukaphāṇitaṃ yāvakālikanti ettha khīraṃ pakkhipitvā pakkatelaṃ kasmā vikāle vaṭṭatīti ce? Tele pakkhittakhīraṃ telameva hoti, aññaṃ pana khīraṃ pakkhipitvā kataṃ khīrabhāvaṃ gaṇhātīti idamettha kāraṇaṃ. Yadi evaṃ khaṇḍasakkharampi khīraṃ pakkhipitvā karonti, taṃ kasmā vaṭṭatīti āha ‘‘khaṇḍasakkharaṃ panā’’tiādi. Tattha khīrajallikanti khīrapheṇaṃ.
Tự mình làm, không có thực phẩm, thì được phép ở đây, cần phải hiểu rằng ngay cả vật đã được nhận mà chưa được lọc, khi làm, cũng cần phải lọc và loại bỏ cặn rồi mới được xem là tự mình làm. Mật mía làm từ mía cháy là mật mía được làm bằng mía cháy trong ruộng mía đã bị lửa đốt. Mật mía làm từ mía giã là mật mía được nấu sau khi đã cắt nhỏ, giã, và ép, và thường là có bã. Và do bã như vậy không phải là vật để ăn, nên đã được nói: “điều đó hợp lý.” Được làm bằng nước lạnh là mật mía được làm bằng cách nấu nước đó sau khi đã lấy nước đó khi nước đã có vị ngọt của hoa sau khi đã cho hoa cam thảo vào nước lạnh và vò. Mật mía cam thảo được làm bằng cách cho sữa vào là vật dùng trong một buổi ở đây, nếu có người hỏi: tại sao dầu được nấu bằng cách cho sữa vào lại được phép dùng vào lúc phi thời? Ở đây, lý do là: sữa được cho vào dầu thì trở thành dầu, còn vật khác được làm bằng cách cho sữa vào thì mang tính chất của sữa. Nếu vậy, tại sao đường phèn, người ta cũng cho sữa vào làm, lại được phép? Ngài nói: “còn đường phèn” v.v… Ở đó, bọt sữa là váng sữa.

Bhesajjodissaṃ dassentena ‘‘sattavidhañhi odissaṃ nāmā’’tiādinā itarānipi atthuddhāravasena vuttāni. Vikaṭānīti apakatibhesajjattā vikaṭāni, virūpānīti attho. Dukkaṭavatthūnampi akappiyamaṃsānaṃ vasāya anuññātattā ‘‘vasodissa’’nti vuttaṃ. Oḷārikānampi āhāratthaṃ pharituṃ samatthānaṃ sappiādīnaṃ bhesajjanāmena anuññātattā ‘‘bhesajjodissa’’nti vuttaṃ . ‘‘Pacchābhattato paṭṭhāya sati paccayeti vuttattā paṭiggahitabhesajjāni dutiyadivasato paṭṭhāya purebhattampi sati paccaye paribhuñjitabbāni, na āhāratthaṃ bhesajjatthāya paṭiggahitattā’’ti vadanti.
Khi chỉ ra sự chỉ định làm thuốc men, bằng câu “vì có bảy loại được gọi là được chỉ định” v.v…, các loại khác cũng đã được nói theo cách trích dẫn ý nghĩa. Vật khác thường là vật khác thường do không phải là thuốc men theo bản chất, có nghĩa là vật dị thường. Do mỡ của các loài có thịt không hợp lệ, là vật Tác Ác, đã được cho phép, nên đã được nói: “sự chỉ định mỡ.” Do các vật thô như bơ lỏng v.v…, có khả năng nuôi dưỡng như thức ăn, đã được cho phép với tên gọi là thuốc men, nên đã được nói: “sự chỉ định làm thuốc men.” Có vị nói: “do đã được nói ‘từ sau bữa ăn trở đi, khi có duyên cớ,’ nên các loại thuốc đã được nhận, từ ngày thứ hai trở đi, cũng nên được sử dụng trước bữa ăn khi có duyên cớ, không phải vì mục đích ăn uống, do đã được nhận vì mục đích làm thuốc.”

624.Dvāravātapānakavāṭesūti mahādvārassa vātapānānañca kavāṭaphalakesu. Kasāve pakkhittāni tāni attano sabhāvaṃ pariccajanti, tasmā ‘‘makkhetabbānī’’ti vuttaṃ, ghuṇapāṇakādiparihāratthaṃ makkhetabbānīti attho. Adhiṭṭhetīti ‘‘idāni mayhaṃ ajjhoharaṇīyaṃ na bhavissati , bāhiraparibhogatthāya gamissatī’’ti cittaṃ uppādetīti attho. Tenevāha – ‘‘sappiñca telañca vasañca muddhani telaṃ vā abbhañjanaṃ vā’’tiādi. ‘‘Evaṃ adhiṭṭhitañca paṭiggahaṇaṃ vijahatī’’ti vadanti.
624. Trên các cánh cửa chính và cửa sổ là trên các tấm ván của các cánh cửa chính và cửa sổ. Khi được cho vào thuốc nhuộm, chúng từ bỏ bản chất của mình, do đó đã được nói: “nên được phết,” có nghĩa là nên được phết để tránh mối mọt v.v… Chú nguyện có nghĩa là khởi lên tâm rằng: “từ nay, nó sẽ không phải là vật để ta ăn, nó sẽ được dùng cho mục đích bên ngoài.” Chính vì thế, ngài nói: “bơ lỏng, dầu, và mỡ, hoặc dầu trên đầu, hoặc thuốc xoa bóp” v.v… Có vị nói: “và vật đã được chú nguyện như vậy thì mất hiệu lực của sự nhận.”

625.Sace dvinnaṃ santakaṃ ekena paṭiggahitaṃ avibhattaṃ hoti, paribhuñjituṃ pana na vaṭṭatīti ettha majjhe pāṭho parihīno, evaṃ panettha pāṭho veditabbo ‘‘sace dvinnaṃ santakaṃ ekena paṭiggahitaṃ avibhattaṃ hoti, sattāhātikkame dvinnampi anāpatti, paribhuñjituṃ pana na vaṭṭatī’’ti. Aññathā pana saddappayogopi na saṅgacchati. Gaṇṭhipadepi ca ayameva pāṭho dassito. Tattha dvinnampi anāpattīti yathā aññassa santakaṃ ekena paṭiggahitaṃ sattāhātikkamena nissaggiyaṃ na hoti parasantakabhāvato, evamidampi avibhattattā ubhayasādhāraṇampi avinibbhogabhāvato nissaggiyaṃ na hotīti adhippāyo. Paribhuñjituṃ pana na vaṭṭatīti bhikkhunā paṭiggahitattā sattāhātikkame yassa kassaci bhikkhuno paribhuñjituṃ na vaṭṭati paṭiggahitasappiādīnaṃ paribhogassa sattāheneva paricchinnattā. ‘‘Tāni paṭiggahetvā sattāhaparamaṃ sannidhikārakaṃ paribhuñjitabbānī’’ti hi vuttaṃ. Gaṇṭhipadesu pana tīsupi idha pāṭhassa parihīnabhāvaṃ asallakkhetvā ‘‘paribhuñjituṃ pana na vaṭṭatīti idaṃ antosattāhe paribhogaṃ sandhāya vuttanti saññāya vissāsaggāhābhāvato paribhuñjituṃ na vaṭṭatī’’ti evamattho vutto, so na gahetabbo.
625. Nếu vật sở hữu của hai người, được một người nhận, chưa được phân chia, nhưng không được phép sử dụng ở đây, có một đoạn văn ở giữa đã bị thiếu, cần phải hiểu đoạn văn ở đây như vầy: “nếu vật sở hữu của hai người, được một người nhận, chưa được phân chia, khi quá bảy ngày, cả hai đều vô tội, nhưng không được phép sử dụng.” Nếu không, ngay cả cách dùng từ cũng không hợp lý. Và trong Gaṇṭhipada, cũng đã chỉ ra chính đoạn văn này. Ở đó, cả hai đều vô tội ý muốn nói là: giống như vật sở hữu của người khác, được một người nhận, không trở thành vật Ưng Xả Đối Trị khi quá bảy ngày do là sở hữu của người khác; ở đây cũng vậy, do chưa được phân chia, dù là của chung của cả hai, nhưng do không thể tách rời, nên không trở thành vật Ưng Xả Đối Trị. Nhưng không được phép sử dụng là do đã được Tỳ-khưu nhận, nên khi quá bảy ngày, bất kỳ Tỳ-khưu nào cũng không được phép sử dụng, do việc sử dụng bơ lỏng v.v… đã được nhận đã bị giới hạn chỉ trong bảy ngày. Vì rằng, đã được nói: “sau khi đã nhận chúng, nên sử dụng trong vòng bảy ngày, cất giữ.” Nhưng trong cả ba sách cương yếu, do không nhận thấy sự thiếu sót của đoạn văn ở đây, đã nói ý nghĩa như vầy: “câu ‘nhưng không được phép sử dụng’ này được nói liên quan đến việc sử dụng trong vòng bảy ngày, do không có sự tin tưởng nên không được phép sử dụng,” điều đó không nên chấp nhận.

Āvuso, imaṃ telaṃ sattāhamattaṃ paribhuñja tvanti iminā yena paṭiggahitaṃ, tena antosattāheyeva parassa vissajjitabhāvaṃ dasseti. Kassa āpattīti paṭhamaṃ tāva ubhinnaṃ sādhāraṇattā anāpatti vuttā. Idāni pana ekena itarassa vissaṭṭhabhāvato ubhayasādhāraṇatā natthīti vibhattasadisaṃ hutvā ṭhitaṃ, tasmā ettha paṭiggahitassa sattāhātikkame ekassa āpattiyā bhavitabbanti maññamāno ‘‘kiṃ paṭiggahaṇapaccayā paṭiggāhakassa āpatti, udāhu yassa santakaṃ jātaṃ, tassā’’ti pucchati. Nissaṭṭhabhāvatoyeva ca idha ‘‘avibhattabhāvato’’ti kāraṇaṃ avatvā ‘‘yena paṭiggahitaṃ, tena vissajjitattā’’ti vuttaṃ. Idañca vissaṭṭhabhāvato ubhayasādhāraṇataṃ pahāya ekassa santakaṃ hontampi yena paṭiggahitaṃ, tato aññassa santakaṃ jātaṃ, tasmā parasantakapaṭiggahaṇe viya paṭiggāhakassa paṭiggahaṇapaccayā natthi āpattīti dassanatthaṃ vuttaṃ, na pana ‘‘yena paṭiggahitaṃ, tena vissajjitattā’’ti vacanato avissajjite sati avibhattepi sattāhātikkame āpattīti dassanatthaṃ avissajjite avibhattabhāvatoyeva anāpattiyā siddhattā. Sace pana itaro yena paṭiggahitaṃ, tasseva antosattāhe attano bhāgampi vissajjeti, sattāhātikkame siyā āpatti yena paṭiggahitaṃ, tasseva santakabhāvamāpannattā itarassa appaṭiggahitattā. Iminā tassa santakabhāvepi aññena paṭiggahitasakasantake viya tena appaṭiggahitabhāvato anāpattīti dīpeti. Idaṃ pana adhippāyaṃ ajānitvā ito aññathā gaṇṭhipadakārādīhi papañcitaṃ, na taṃ sārato paccetabbaṃ.
Này hiền giả, anh hãy dùng dầu này trong bảy ngày bằng điều này, ngài cho thấy tình trạng đã được từ bỏ cho người khác ngay trong vòng bảy ngày bởi người đã nhận. Tội lỗi của ai là trước tiên, đã nói là vô tội do là của chung của cả hai. Nhưng bây giờ, do một người đã từ bỏ cho người kia, nên không còn là của chung của cả hai, đã trở nên giống như đã được phân chia. Do đó, ở đây, khi quá bảy ngày đối với vật đã được nhận, một người phải có tội, với suy nghĩ như vậy, vị ấy hỏi: “phải chăng tội lỗi của người nhận do duyên nhận, hay là của người đã trở thành chủ sở hữu?” Và chính vì tình trạng đã được từ bỏ, nên ở đây, thay vì nói lý do là “do chưa được phân chia,” đã nói: “do đã được từ bỏ bởi người đã nhận.” Và điều này được nói để chỉ ra rằng: dù đã trở thành sở hữu của một người do đã từ bỏ và không còn là của chung của cả hai, nhưng nó đã trở thành sở hữu của người khác với người đã nhận, do đó, giống như trong trường hợp nhận tài sản của người khác, người nhận không có tội do duyên nhận; chứ không phải để chỉ ra rằng nếu không từ bỏ, ngay cả khi chưa được phân chia, cũng có tội khi quá bảy ngày, vì khi không từ bỏ, đã xác định là vô tội do chính tình trạng chưa được phân chia. Nhưng nếu người kia, ngay trong vòng bảy ngày, cũng từ bỏ phần của mình cho chính người đã nhận, thì sẽ có tội khi quá bảy ngày, do đã trở thành sở hữu của chính người đã nhận, vì người kia đã không nhận. Bằng điều này, ngài chỉ ra rằng ngay cả trong tình trạng là sở hữu của vị ấy, cũng vô tội do tình trạng chưa được vị ấy nhận, giống như tài sản của mình được người khác nhận. Nhưng do không biết ý định này, các tác giả Gaṇṭhipada v.v… đã phân tích khác đi, điều đó không nên tin theo một cách chắc chắn.

Aparibhogaṃ hotīti kassaci amanuññassa patitattā paribhogārahaṃ na hoti. Yena cittenāti yena pariccajitukāmatācittena. ‘‘Antosattāhe’’ti adhikārattā ‘‘antosattāhe anapekkho datvā paṭilabhitvā paribhuñjatī’’ti imaṃ sambandhaṃ sandhāya mahāsumattherena ‘‘evaṃ antosattāhe datvā’’tiādi vuttaṃ. Mahāpadumatthero pana yadi evaṃ ‘‘vissajjetī’’ti imināva taṃ siddhaṃ, sattāhātikkantaṃ pana nissaṭṭhaṃ paṭilabhitvā paribhuñjituṃ na vaṭṭati, tasmā tassa paribhogamukhadassanamidanti āha – ‘‘nayidaṃ yācitabba’’ntiādi. Aññena bhikkhunāti ettha suddhacittena dinnattā sayampi āharāpetvā paribhuñjituṃ vaṭṭatiyeva. Sappiādīnaṃ paṭiggahitabhāvo, attano santakatā, sattāhātikkamoti imānettha tīṇi aṅgāni.
Trở thành không thể sử dụng là không còn xứng đáng để sử dụng do có vật gì đó không vừa ý rơi vào. Bởi tâm nào là bởi tâm muốn từ bỏ nào. Do đề cập đến “trong vòng bảy ngày,” và liên quan đến mối liên hệ “trong vòng bảy ngày, sau khi đã cho đi không luyến tiếc và nhận lại rồi sử dụng,” trưởng lão Mahāsumatthera đã nói: “như vậy, sau khi đã cho đi trong vòng bảy ngày” v.v… Còn trưởng lão Mahāpaduma, nếu vậy, điều đó đã được xác định bởi chính câu “từ bỏ,” nhưng vật đã xả sau khi quá bảy ngày, không được phép nhận lại và sử dụng, do đó, đây là sự chỉ ra phương cách sử dụng nó, nên ngài nói: “điều này không nên được xin” v.v… Bởi Tỳ-khưu khác ở đây, do đã được cho với tâm trong sạch, nên cũng được phép cho người khác mang đến rồi sử dụng. Tình trạng đã được nhận của bơ lỏng v.v…, tình trạng là sở hữu của mình, và sự quá bảy ngày, đây là ba yếu tố ở đây.

Bhesajjasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới thuốc men.

4. Vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới y tắm mưa

627. Catutthe sibbanarajanakappapariyosānena niṭṭhāpetvāti sūcikammaniṭṭhānena sakimpi vaṇṇabhedamattarajanena kappabindukaraṇena ca niṭṭhāpetvā. Samayeti vassānasamaye.
627. Trong học giới thứ tư, sau khi đã hoàn tất bằng việc may, nhuộm, và làm dấu hợp lệ là sau khi đã hoàn tất bằng việc may xong, nhuộm dù chỉ sơ qua để khác màu, và làm dấu kappabindu. Trong mùa là trong mùa mưa.

628.Kucchisamayoti antosamayo. ‘‘Ayameko aḍḍhamāso pariyesanakkhettañceva karaṇakkhettañca. Etasmiñhi antare vassikasāṭikaṃ aladdhaṃ pariyesituṃ laddhaṃ kātuñca vaṭṭati, nivāsetuṃ adhiṭṭhātuñca na vaṭṭatī’’ti potthakesu pāṭho dissati, so apāṭho. Evaṃ panettha pāṭhena bhavitabbaṃ ‘‘ayameko aḍḍhamāso pariyesanakkhettaṃ. Etasmiñhi antare vassikasāṭikaṃ aladdhaṃ pariyesituṃ vaṭṭati, laddhaṃ kātuṃ nivāsetuṃ adhiṭṭhātuñca na vaṭṭatī’’ti. Na hi gimhānaṃ pacchimamāsassa paṭhamo aḍḍhamāso karaṇakkhettaṃ hoti. ‘‘Aḍḍhamāso seso gimhānanti katvā nivāsetabba’’nti vacanato pana gimhānaṃ pacchimamāsassa pacchimo aḍḍhamāso karaṇakkhettañceva nivāsanakkhettañca hoti. Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. vahisakasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘gimhānaṃ pacchimo māso pariyesanakkhettaṃ, pacchimo aḍḍhamāso karaṇanivāsanakkhettampī’’ti vuttaṃ. Tasmā pāḷiyā mātikāṭṭhakathāya ca avirodhaṃ icchantena vuttanayeneva pāṭho gahetabbo.
628. Mùa bên trong là thời gian bên trong. Trong các sách chép tay có thấy đoạn văn: “Nửa tháng này vừa là khu vực tìm kiếm vừa là khu vực làm. Vì rằng, trong khoảng thời gian này, được phép tìm kiếm y tắm mưa chưa nhận được và làm y đã nhận được, nhưng không được phép mặc và chú nguyện,” đó là đoạn văn sai. Ở đây, đoạn văn nên là như vầy: “Nửa tháng này là khu vực tìm kiếm. Vì rằng, trong khoảng thời gian này, được phép tìm kiếm y tắm mưa chưa nhận được, nhưng không được phép làm, mặc, và chú nguyện y đã nhận được.” Vì rằng, nửa tháng đầu của tháng cuối cùng mùa hạ không phải là khu vực làm. Nhưng theo câu “nên mặc sau khi đã làm vào nửa tháng cuối cùng của mùa hạ,” nửa tháng cuối cùng của tháng cuối cùng mùa hạ vừa là khu vực làm vừa là khu vực mặc. Chính vì thế, trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. vahisakasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā) có nói: “tháng cuối cùng của mùa hạ là khu vực tìm kiếm, nửa tháng cuối cùng cũng là khu vực làm và mặc.” Do đó, người muốn không mâu thuẫn với Pāḷi và Chú giải Mẫu Đề, nên lấy đoạn văn theo phương pháp đã được nói.

‘‘Viññattiṃ katvā nipphādentassa aññātakaviññattisikkhāpadena anāpattī’’ti vadantena ‘‘piṭṭhisamayattā iminā sikkhāpadena āpattī’’ti dīpitā hoti. Na hi ñātakapavāritaṭṭhānato piṭṭhisamaye satuppādakaraṇamattenapi sambhavantī āpatti tato garukatarāya viññattiyā na hotīti sakkā vattuṃ. Teneva bhadantabuddhadattācariyena vuttaṃ –
Người nói: “vô tội theo học giới về việc xin từ người không phải là quyến thuộc đối với người làm ra sau khi đã xin” đã chỉ ra rằng: “phạm tội theo học giới này do là thời gian sau đó.” Vì rằng, không thể nói rằng tội lỗi, vốn có thể xảy ra chỉ bằng việc tạo ra sự phát sanh trong thời gian sau đó từ nơi của người quyến thuộc đã thỉnh mời, lại không xảy ra do sự xin xỏ, một việc trọng hơn. Chính vì thế, giáo thọ sư Bhadantabuddhadatta đã nói:

‘‘Katvā pana satuppādaṃ, vassikasāṭicīvaraṃ;
Nipphādentassa bhikkhussa, samaye piṭṭhisammate.
“Nhưng đối với Tỳ-khưu, sau khi đã tạo ra sự phát sanh, y tắm mưa;
Khi làm ra trong thời gian được xem là sau đó.

‘‘Hoti nissaggiyāpatti, ñātakāñātakādino;
Tesuyeva ca viññattiṃ, katvā nipphādane tathā’’ti.
“Phạm tội Ưng Xả Đối Trị, từ người quyến thuộc, không phải quyến thuộc v.v…;
Và cũng vậy khi làm ra sau khi đã xin từ chính họ.”

Kenassahoti āpattīti assa mātaraṃ cīvaraṃ yācantassa kena sikkhāpadena āpattīti pucchati. ‘‘Pariṇataṃ viññāpentassa pariṇāmanasikkhāpadena āpattī’’ti codanābhāvaṃ dasseti no ca saṅghe pariṇatanti. Atha aññātakaviññattisikkhāpadenāti ce, etampi natthīti āha ‘‘anāpatti ca ñātake’’ti. ‘‘Ñātake viññāpentassā’’ti pāṭhaseso. Imamatthaṃ sandhāyāti piṭṭhisamaye vassikasāṭikatthaṃ ñātakapavāritaṭṭhāne satuppādakaraṇena āpattiṃ, aññātakaviññattisikkhāpadena anāpattiñca sandhāya.
Vị ấy phạm tội theo (học giới) nào là vị ấy hỏi: người xin y từ mẹ của mình phạm tội theo học giới nào? Ngài chỉ ra sự không có sự tố cáo: “phạm tội theo học giới về việc làm thay đổi đối với người xin vật đã được dự định,” bằng câu nhưng không phải đã được dự định cho Tăng chúng. Vậy nếu nói là theo học giới về việc xin từ người không phải là quyến thuộc, điều này cũng không có, nên ngài nói: “và vô tội đối với người quyến thuộc.” Phần còn thiếu của câu là “đối với người xin từ người quyến thuộc.” Liên quan đến ý nghĩa này là liên quan đến việc phạm tội do tạo ra sự phát sanh để có y tắm mưa vào thời gian sau đó từ nơi của người quyến thuộc đã thỉnh mời, và sự vô tội theo học giới về việc xin từ người không phải là quyến thuộc.

Aññātakaappavāritaṭṭhānato…pe… dukkaṭanti idaṃ vassikasāṭikaṃ adinnapubbe sandhāya vuttaṃ. Tenevettha vattabhede dukkaṭaṃ vuttaṃ, dinnapubbesu pana vattabhedo natthi. Tenevāha – ‘‘ye manussā…pe… vattabhedo natthī’’ti. Idanti yathāvuttanissaggiyapācittiyaṃ. Viññattiṃ katvā nipphādentassāti aññātakaappavāritaṭṭhānato viññattiṃ katvā nipphādentassa. Pakatiyā vassikasāṭikadāyakā nāma saṅghavasena vā puggalavasena vā apavāretvā anusaṃvaccharaṃ vassikasāṭikānaṃ dāyakā. Aññātakaviññattisikkhāpadena anāpattīti ettha imināpi sikkhāpadena anāpattīti veditabbaṃ. Kucchisamaye hi attano ñātakapavāritaṭṭhānato ‘‘detha me vassikasāṭika’’ntiādinā viññāpentassapi anāpatti. Tenevāha – ‘‘na vattabbā detha meti idañhi pariyesanakāle aññātakaappavārite eva sandhāya vutta’’nti. Mātikāṭṭhakathāyañhi (kaṅkhā. aṭṭha. vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ ‘‘attano ñātakapavāritaṭṭhānato pana ‘detha me vassikasāṭikacīvara’ntiādikāya viññattiyāpi pariyesitabba’’nti.
Từ nơi của người không phải là quyến thuộc, chưa thỉnh mời… vân vân… tội tác ác điều này được nói liên quan đến việc y tắm mưa chưa từng được cho trước đây. Chính vì thế, ở đây đã nói là phạm tội tác ác trong việc vi phạm phận sự; còn trong những trường hợp đã được cho trước đây, thì không có việc vi phạm phận sự. Chính vì thế, ngài nói: “những người… vân vân… không có việc vi phạm phận sự.” Điều này là tội Ưng Xả Đối Trị là tội Ưng Xả Đối Trị đã được nói ở trên. Của người làm ra sau khi đã xin là của người làm ra sau khi đã xin từ nơi của người không phải là quyến thuộc, chưa thỉnh mời. Những người thường dâng y tắm mưa được gọi là những người dâng y tắm mưa hàng năm nhân danh Tăng chúng hoặc nhân danh cá nhân mà không cần thỉnh mời. Vô tội theo học giới về việc xin từ người không phải là quyến thuộc ở đây, cần phải hiểu rằng cũng vô tội theo học giới này. Vì rằng, trong mùa bên trong, người xin từ nơi của người quyến thuộc đã thỉnh mời của mình bằng cách nói “hãy cho tôi y tắm mưa” v.v… cũng vô tội. Chính vì thế, ngài nói: “‘không nên nói: hãy cho tôi,’ điều này chỉ được nói liên quan đến những người không phải là quyến thuộc, chưa thỉnh mời trong thời gian tìm kiếm.” Vì rằng, trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā) có nói: “còn từ nơi của người quyến thuộc đã thỉnh mời của mình, nên tìm kiếm cả bằng sự xin xỏ như ‘hãy cho tôi y tắm mưa’ v.v…”

629.‘‘Ākāsato patitaudakenevāti vacanato chadanakoṭiyā patitaudakena nahāyantassa anāpattī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ.
629. Trong cả ba sách cương yếu có nói: “Theo câu ‘chỉ bằng nước rơi từ trên không,’ vô tội đối với người tắm bằng nước rơi từ mép mái che.”

630.Cha māse parihāraṃ labhatīti etena antovassepi yāva vassānassa pacchimadivasā akatā parihāraṃ labhatīti dīpitaṃ hoti. Yasmā mūlacīvaraṃ karontena hemantassa pacchimuposathadivaseyeva kātabbaṃ, tasmā gimhānato ekūnatiṃsadivase parihāraṃ labhati, evaṃ santepi appakaṃ ūnamadhikaṃ vā gaṇanūpagaṃ na hotīti katvā ‘‘tato parampi…pe… ekamāsa’’nti vuttaṃ. Ekāhadvīhādivasena…pe… laddhā ceva niṭṭhitā cāti iminā ekāhānāgatāya vassūpanāyikāya laddhā ceva niṭṭhitā ca, dvīhānāgatāya…pe… dasāhānāgatāya vassūpanāyikāya laddhā ceva niṭṭhitā ca, antovasse vā laddhā ceva niṭṭhitā cāti ayamattho dassito. Tattha āsāḷhimāsassa juṇhapakkhapuṇṇamiyaṃ laddhā ceva niṭṭhitā ca vassikasāṭikā ‘‘ekāhānāgatāya vassūpanāyikāya laddhā ceva niṭṭhitā cā’’ti vuccati. Eteneva nayena juṇhapakkhassa chaṭṭhiyaṃ laddhā ceva niṭṭhitā ca ‘‘dasāhānāgatāya vassūpanāyikāya laddhā ceva niṭṭhitā cā’’ti vuccati. Yāva paṭhamakattikatemāsapuṇṇamī, tāva antotemāse laddhā ceva niṭṭhitā ca ‘‘antovasse laddhā ceva niṭṭhitā cā’’ti vuccati. Paṭhamakattikatemāsapuṇṇamito parañhi laddhā ceva niṭṭhitā ca yāva cīvarakālo nātikkamati, tāva anadhiṭṭhahitvā ṭhapetuṃ vaṭṭatīti na tatrāyaṃ vicāraṇā sambhavati.
630. Được hưởng thời hạn sáu tháng bằng điều này, đã được chỉ ra rằng ngay cả trong mùa mưa, y chưa được làm cũng được hưởng thời hạn cho đến ngày cuối cùng của mùa mưa. Bởi vì người làm y gốc cần phải làm ngay vào ngày lễ uposatha cuối cùng của mùa đông, do đó, được hưởng thời hạn hai mươi chín ngày kể từ mùa hạ, dù đã như vậy, do sự thiếu hoặc thừa một chút không đáng kể, nên đã được nói: “quá thời hạn đó… vân vân… một tháng.” Được nhận và làm xong… vân vân… theo từng ngày, hai ngày v.v… bằng điều này, ý nghĩa này đã được chỉ ra: được nhận và làm xong khi mùa mưa còn một ngày nữa mới đến, được nhận và làm xong khi còn hai ngày nữa… vân vân… được nhận và làm xong khi còn mười ngày nữa mới đến, hoặc được nhận và làm xong trong mùa mưa. Ở đó, y tắm mưa được nhận và làm xong vào ngày rằm thượng tuần của tháng Āsāḷhi được gọi là “được nhận và làm xong khi mùa mưa còn một ngày nữa mới đến.” Theo cùng phương pháp này, y được nhận và làm xong vào ngày mồng sáu thượng tuần được gọi là “được nhận và làm xong khi mùa mưa còn mười ngày nữa mới đến.” Y được nhận và làm xong trong khoảng ba tháng cho đến ngày rằm của tháng Kattika đầu tiên được gọi là “được nhận và làm xong trong mùa mưa.” Vì rằng, y được nhận và làm xong sau ngày rằm của tháng Kattika đầu tiên, chừng nào thời gian nhận y chưa qua, được phép cất giữ mà không cần chú nguyện, nên sự xét hỏi này không thể có ở đó.

Tasmiṃyeva antodasāhe adhiṭṭhātabbāti avisesena vuttepi vassānato pubbe ekāhadvīhādivasena anāgatāya vassūpanāyikāya laddhā tehi divasehi saddhiṃ dasāhaṃ anatikkamantena vassūpanāyikadivasato paṭṭhāya adhiṭṭhānakkhettaṃ sampattāyeva adhiṭṭhātabbā, na tato pubbe adhiṭṭhānassa akhettattā. Antovasse pana laddhā tasmiṃyeva antovasse laddhadivasato paṭṭhāya dasāhaṃ anatikkāmetvā adhiṭṭhātabbā.
Nên được chú nguyện ngay trong vòng mười ngày đó là dù đã được nói chung chung, nhưng đối với y được nhận khi mùa mưa còn một, hai ngày v.v… nữa mới đến, cần phải được chú nguyện sau khi đã đến khu vực chú nguyện, bắt đầu từ ngày vào mùa mưa, không được quá mười ngày cùng với các ngày đó, chứ không phải trước đó, do chưa phải là khu vực chú nguyện. Còn y được nhận trong mùa mưa, cần phải được chú nguyện ngay trong vòng mười ngày kể từ ngày nhận trong mùa mưa đó.

Nanu ca vassānato pubbe anadhiṭṭhahitvā dasāhaṃ atikkāmetuṃ vaṭṭatiyeva, tasmā adhiṭṭhānassa akhettabhūtepi divase gahetvā ‘‘antodasāhe adhiṭṭhātabba’’nti kasmā vuttaṃ? Yathā ‘‘antovasse laddhāpi yāva na niṭṭhāti, tāva anadhiṭṭhahitvā dasāhaṃ atikkāmetuṃ vaṭṭatī’’ti akatāya anadhiṭṭhānakkhettasadisāpi atikkantadivasā dasāhaṃ atikkāmetvā niṭṭhitāya gaṇanūpagā hontīti niṭṭhitadivaseyeva adhiṭṭhātabbā, evamidhāpi vassānato pubbe anadhiṭṭhānakkhettabhūtāpi divasā laddhadivasato paṭṭhāya gaṇanūpagā hontīti dassanatthaṃ vuttaṃ. Yadi evaṃ ‘‘tasmiṃyeva antodasāhe’’ti avisesena vuttattā dasāhānāgatāya vassūpanāyikāya chaṭṭhiyaṃ laddhā puṇṇamiyaṃ adhiṭṭhātabbāti āpajjatīti? Nāpajjati ‘‘cātumāsaṃ adhiṭṭhātu’’nti vacaneneva paṭikkhittattā. Evaṃ sante ‘‘dasāhānāgatāyā’’ti iminā kiṃ payojananti ce? Vassānato pubbeyeva dasāhe atikkante vassūpanāyikadivase niṭṭhitā tadaheva adhiṭṭhātabbāti dassanatthaṃ vuttanti idamettha payojanaṃ. Tenevāha – ‘‘dasāhātikkame niṭṭhitā tadaheva adhiṭṭhātabbā’’ti.
Chẳng phải trước mùa mưa, được phép để quá mười ngày mà không chú nguyện sao, do đó, tại sao lại nói: “nên được chú nguyện trong vòng mười ngày” khi đã nhận vào ngày chưa phải là khu vực chú nguyện? Giống như “y được nhận trong mùa mưa, chừng nào chưa làm xong, được phép để quá mười ngày mà không chú nguyện,” đối với y chưa làm, dù giống như khu vực chưa chú nguyện, nhưng các ngày đã qua, khi đã quá mười ngày và đã làm xong, cũng được tính vào, nên cần phải được chú nguyện ngay vào ngày làm xong; ở đây cũng vậy, đã được nói để cho thấy rằng: các ngày trước mùa mưa, dù là khu vực chưa chú nguyện, cũng được tính vào kể từ ngày nhận. Nếu vậy, do đã được nói chung chung “trong vòng mười ngày đó,” nên y được nhận vào ngày mồng sáu khi mùa mưa còn mười ngày nữa mới đến, phải được chú nguyện vào ngày rằm, điều này sẽ xảy ra sao? Không xảy ra, do đã bị bác bỏ bởi chính lời nói “hãy chú nguyện trong bốn tháng.” Nếu vậy, câu “khi còn mười ngày nữa mới đến” này có lợi ích gì? Ở đây, lợi ích là: đã được nói để cho thấy rằng y đã làm xong vào ngày vào mùa mưa sau khi đã quá mười ngày trước mùa mưa, cần phải được chú nguyện ngay trong ngày đó. Chính vì thế, ngài nói: “đã làm xong khi đã quá mười ngày, cần phải được chú nguyện ngay trong ngày đó.”

Dasāhe appahonte cīvarakālaṃ nātikkametabbāti temāsabbhantare dasāhe appahonte laddhā ceva niṭṭhitā ca cīvarakālaṃ nātikkametabbāti attho. Idaṃ vuttaṃ hoti ‘‘paṭhamakattikatemāsapuṇṇamito pubbe sattamito paṭṭhāya laddhā ceva niṭṭhitā ca vassikasāṭikā dasāhe anatikkanteyeva cīvarakālaṃ otiṇṇattā tattha anadhiṭṭhahitvāpi ṭhapetuṃ vaṭṭatī’’ti. Iminā ca imaṃ dīpeti – akatā ce vassikasāṭikā, vassānaṃ cātumāsaṃ akatattāyeva parihāraṃ labhati, katāya pana dasāhaparamasikkhāpadaṃ avikopetvā parihāro vattabboti.
Khi mười ngày không đủ, không nên để quá thời gian nhận y có nghĩa là y được nhận và làm xong trong vòng ba tháng khi mười ngày không đủ, không nên để quá thời gian nhận y. Điều này đã được nói: “y tắm mưa được nhận và làm xong từ ngày mồng bảy trở đi trước ngày rằm của tháng Kattika đầu tiên, do đã vào thời gian nhận y khi chưa quá mười ngày, nên được phép cất giữ ở đó mà không cần chú nguyện.” Và bằng điều này, ngài chỉ ra điều này: nếu y tắm mưa chưa được làm, nó được hưởng thời hạn bốn tháng mùa mưa do chính tình trạng chưa được làm; còn đối với y đã được làm, cần phải nói đến thời hạn mà không vi phạm học giới giới hạn mười ngày.

Yadā vā tadā vā adhiṭṭhātuṃ vaṭṭatīti cātumāsabbhantare dasāhe atikkantepi natthi dosoti adhippāyo. ‘‘Kadā adhiṭṭhātabbā…pe… yadi nappahoti, yāva kattikapuṇṇamā parihāraṃ labhatī’’ti imināpi kurundivacanena akatāya vassikasāṭikāya cātumāsaṃ parihāro, katāya dasāhameva parihāroti ayamattho dīpitoyevāti āha ‘‘apicā’’tiādi.
Được phép chú nguyện bất cứ lúc nào ý muốn nói là: ngay cả khi đã quá mười ngày trong vòng bốn tháng, cũng không có lỗi. Bằng lời nói của sách Kurundī này: “khi nào nên được chú nguyện… vân vân… nếu không đủ, được hưởng thời hạn cho đến ngày rằm tháng Kattika,” cũng đã chỉ ra ý nghĩa này: đối với y tắm mưa chưa làm, thời hạn là bốn tháng; đối với y đã làm, thời hạn chỉ là mười ngày, nên ngài nói: “hơn nữa” v.v…

Pāḷiyaṃ acchinnacīvarassa naṭṭhacīvarassātiādinā nissaggiyena anāpatti vuttā, udāhu naggassa nahāyato dukkaṭena anāpatti vuttāti? Kimettha pucchitabbaṃ. Sabbasikkhāpadesu hi yattha yattha mūlasikkhāpadena āpattippasaṅgo, tattha tattha anāpattidassanatthaṃ anāpattivāro ārabhīyatīti idhāpi nissaggiyena anāpattidassanatthanti yuttaṃ vattuṃ. Na hi mūlāpattiyā anāpattiṃ adassetvā antarā vuttāya eva āpattiyā anāpattidassanatthaṃ anāpattivāro ārabhīyatīti. Teneva tīsupi gaṇṭhipadesu idaṃ vuttaṃ ‘‘acchinnacīvarassa naṭṭhacīvarassa cāti ettha acchinnasesacīvarassa naṭṭhasesacīvarassa ca asamaye nivāsentassa pariyesantassa ca anāpatti . Āpadāsūti ettha anivatthaṃ corā harantīti asamaye nivāsentassa anāpattī’’ti. Mātikāṭṭhakathāyampi (kaṅkhā. aṭṭha. vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ ‘‘acchinnacīvarassa vā naṭṭhacīvarassa vā anivatthaṃ corā harantīti evaṃ āpadāsu vā nivāsayato ummattakādīnañca anāpattī’’ti. Aṭṭhakathāyaṃ pana naggassa nahāyato dukkaṭeneva anāpattiṃ sandhāya ‘‘acchinnacīvarassāti etaṃ vassikasāṭikameva sandhāya vuttaṃ. Tesañhi naggānaṃ kāyovassāpane anāpatti. Ettha ca mahagghavassikasāṭikaṃ nivāsetvā nahāyantassa corupaddavo āpadā nāmā’’ti yaṃ vuttaṃ, tattha kāraṇaṃ pariyesitabbaṃ.
Trong Pāḷi, bằng câu của người bị cướp y, của người bị mất y v.v…, sự vô tội đã được nói cho tội Ưng Xả Đối Trị, hay là sự vô tội đã được nói cho tội tác ác của người tắm lõa thể? Cần phải hỏi gì ở đây? Vì rằng, trong tất cả các học giới, ở bất cứ đâu có khả năng phạm vào tội theo học giới gốc, ở đó, chương về sự vô tội được bắt đầu để chỉ ra sự vô tội, nên ở đây, hợp lý để nói rằng đó là để chỉ ra sự vô tội cho tội Ưng Xả Đối Trị. Vì rằng, chương về sự vô tội không được bắt đầu để chỉ ra sự vô tội chỉ cho tội lỗi đã được nói ở giữa mà không chỉ ra sự vô tội cho tội gốc. Chính vì thế, trong cả ba sách cương yếu, điều này đã được nói: “ở câu ‘của người bị cướp y, của người bị mất y,’ vô tội đối với người mặc và tìm kiếm vào lúc trái mùa khi có y còn lại bị cướp, y còn lại bị mất. Ở câu ‘trong các trường hợp nguy hiểm,’ vô tội đối với người mặc vào lúc trái mùa khi bọn cướp đang cướp y chưa mặc.” Trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā) cũng có nói: “vô tội đối với người bị cướp y hoặc bị mất y, hoặc trong các trường hợp nguy hiểm như bọn cướp đang cướp y chưa mặc, hoặc đối với người điên v.v… khi mặc.” Nhưng trong Chú giải, liên quan đến sự vô tội cho tội tác ác của người tắm lõa thể, điều đã được nói: “câu ‘của người bị cướp y’ này được nói chỉ liên quan đến chính y tắm mưa. Vô tội đối với những người lõa thể đó khi tắm mưa. Và ở đây, hiểm họa do bọn cướp được gọi là trường hợp nguy hiểm đối với người tắm sau khi đã mặc y tắm mưa đắt tiền,” ở đó, cần phải tìm kiếm lý do.

Atha ubhayenapi anāpattidassanatthaṃ ‘‘acchinnacīvarassā’’tiādi āraddhanti evamadhippāyo siyā, evampi ‘‘acchinnacīvarassāti etaṃ vassikasāṭikameva sandhāya vutta’’ntiādinā visesetvā na vattabbaṃ. Evañhi vattabbaṃ siyā ‘‘acchinnasesacīvarassa naṭṭhasesacīvarassa vā asamaye nivāsentassa pariyesantassa ca nissaggiyena anāpatti, acchinnavassikasāṭikassa naṭṭhavassikasāṭikassa vā naggassa nahāyato dukkaṭena anāpatti, āpadāsu anivatthaṃ corā harantīti asamaye nivāsayato nissaggiyena anāpatti, mahagghavassikasāṭikaṃ nivāsetvā nahāyantassa corā haranti, naggassa nahāyato dukkaṭena anāpattī’’ti. Sesamettha uttānameva.
Vậy, nếu có ý định rằng câu “của người bị cướp y” v.v… được bắt đầu để chỉ ra sự vô tội cho cả hai, thì cũng không nên nói một cách đặc biệt bằng câu “câu ‘của người bị cướp y’ này được nói chỉ liên quan đến chính y tắm mưa” v.v… Đáng lẽ nên nói như vầy: “vô tội cho tội Ưng Xả Đối Trị đối với người mặc và tìm kiếm vào lúc trái mùa khi có y còn lại bị cướp hoặc y còn lại bị mất; vô tội cho tội tác ác đối với người tắm lõa thể khi có y tắm mưa bị cướp hoặc y tắm mưa bị mất; trong các trường hợp nguy hiểm, vô tội cho tội Ưng Xả Đối Trị đối với người mặc vào lúc trái mùa khi bọn cướp đang cướp y chưa mặc; khi bọn cướp cướp y tắm mưa đắt tiền của người đang tắm sau khi đã mặc, vô tội cho tội tác ác đối với người tắm lõa thể.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.

Aṅgesu pana vassikasāṭikāya attuddesikatā, asamaye pariyesanatā, tāya ca paṭilābhoti imāni tāva pariyesanāpattiyā tīṇi aṅgāni. Sacīvaratā, āpadābhāvo, vassikasāṭikāya sakabhāvo, asamaye nivāsananti imāni nivāsanāpattiyā cattāri aṅgāni.
Còn trong các yếu tố, sự chỉ định cho mình của y tắm mưa, sự tìm kiếm vào lúc trái mùa, và sự nhận được do sự tìm kiếm ấy, đây là ba yếu tố của tội tìm kiếm. Tình trạng có y, sự không có trường hợp nguy hiểm, tình trạng y tắm mưa là của mình, và sự mặc vào lúc trái mùa, đây là bốn yếu tố của tội mặc.

Vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới y tắm mưa.

5. Cīvaraacchindanasikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới giật lại y

631. Pañcame yampi tyāhanti ettha yanti kāraṇavacanaṃ, tasmā evamettha sambandho veditabbo – mayā saddhiṃ janapadacārikaṃ pakkamissatīti yaṃ kāraṇaṃ nissāya ahaṃ te, āvuso, cīvaraṃ adāsiṃ, taṃ na karosīti kupito anattamano acchindīti. Yanti vā cīvaraṃ parāmasati, tattha ‘‘mayā saddhiṃ janapadacārikaṃ pakkamissatīti yampi te ahaṃ cīvaraṃ adāsiṃ, taṃ cīvaraṃ gaṇhissāmīti kupito anattamano acchindī’’ti sambandhitabbaṃ.
631. Trong học giới thứ năm, ở câu yampi tyāhaṃ, yaṃ là từ chỉ lý do, do đó, cần phải hiểu sự liên kết ở đây như vầy: do lý do rằng ngươi sẽ cùng ta du hành đến các xứ, mà ta đã cho ngươi y, này hiền giả, ngươi đã không làm điều đó, nên vị ấy đã nổi giận, không hài lòng và đã giật lại. Hoặc yaṃ là từ chỉ cái y, ở đó cần phải liên kết như vầy: “cái y mà ta đã cho ngươi vì ngươi sẽ cùng ta du hành đến các xứ, ta sẽ lấy lại cái y đó,” vị ấy đã nổi giận, không hài lòng và đã giật lại.

633.Āṇatto bahūni gaṇhāti, ekaṃ pācittiyanti ‘‘cīvaraṃ gaṇhā’’ti āṇattiyā ekacīvaravisayattā ekameva pācittiyaṃ. Vācāya vācāya dukkaṭanti ettha acchinnesu vatthugaṇanāya pācittiyāni. Ekavācāya sambahulā āpattiyoti idaṃ acchinnesu vatthugaṇanāya āpajjitabbaṃ pācittiyāpattiṃ sandhāya vuttaṃ. Āṇattiyā āpajjitabbaṃ pana dukkaṭaṃ ekameva.
633. Người được sai bảo lấy nhiều, một tội Ưng Đối Trị là do lệnh “hãy lấy y” chỉ liên quan đến một y, nên chỉ có một tội Ưng Đối Trị. Phạm tội tác ác theo từng lời nói ở đây, các tội Ưng Đối Trị được tính theo số lượng vật đã bị giật lại. Nhiều tội lỗi bằng một lời nói điều này được nói liên quan đến tội Ưng Đối Trị cần phải phạm theo số lượng vật đã bị giật lại. Còn tội tác ác cần phải phạm do sự ra lệnh thì chỉ có một.

634.Evanti iminā ‘‘vatthugaṇanāya dukkaṭānī’’ti idaṃ parāmasati. Eseva nayoti sithilaṃ gāḷhañca pakkhittāsu āpattiyā bahuttaṃ ekattañca atidissati.
634. Như vậy bằng điều này, ngài đề cập đến câu “các tội tác ác theo số lượng vật.” Cùng một phương pháp này là ngài áp dụng sự nhiều và sự một của tội lỗi cho các trường hợp đã được đặt để một cách lỏng lẻo và chặt chẽ.

635.Āvuso, mayantiādīsu gaṇhitukāmatāya evaṃ vuttepi teneva dinnattā anāpatti. Amhākaṃ santike upajjhaṃ gaṇhissatīti idaṃ sāmaṇerassapi dānaṃ dīpeti. Tasmā kiñcāpi pāḷiyaṃ ‘‘bhikkhussa sāmaṃ cīvaraṃ datvā’’ti vuttaṃ, tathāpi anupasampannakāle datvāpi upasampannakāle acchindantassa pācittiyamevāti veditabbaṃ. Acchindanasamaye upasampannabhāvoyeva hettha pamāṇaṃ. Detīti tuṭṭho vā kupito vā deti. Rundhathāti nivāretha. Evaṃ pana dātuṃ na vaṭṭatīti ettha evaṃ dinnaṃ na tāva tassa santakanti anadhiṭṭhahitvāva paribhuñjitabbanti veditabbaṃ. Āharāpetuṃ pana vaṭṭatīti evaṃ dinnaṃ bhatisadisattā āharāpetuṃ vaṭṭati. Cajitvā dinnanti vuttanayena adatvā anapekkhena hutvā tasseva dinnaṃ. Bhaṇḍagghena kāretabboti sakasaññāya vinā gaṇhanto bhaṇḍaṃ agghāpetvā āpattiyā kāretabbo. Vikappanupagapacchimacīvaratā, sāmaṃ dinnatā, sakasaññitā, upasampannatā, kodhavasena acchindanaṃ acchindāpanaṃ vāti imānettha pañca aṅgāni.
635. Này hiền giả, chúng tôi v.v… dù đã được nói như vậy do ý muốn nhận, cũng vô tội do chính vị ấy đã cho. Sẽ nhận Thầy tế độ ở gần chúng tôi điều này chỉ ra việc cho cả sa-di. Do đó, mặc dù trong Pāḷi đã được nói: “sau khi đã tự mình cho y cho Tỳ-khưu,” tuy nhiên, cần phải hiểu rằng người cho khi còn là người chưa thọ cụ túc giới, mà giật lại khi đã thọ cụ túc giới, cũng vẫn phạm tội Ưng Đối Trị. Tình trạng đã thọ cụ túc giới vào thời điểm giật lại chính là tiêu chuẩn ở đây. Cho là cho dù vui lòng hay tức giận. Hãy ngăn cản là hãy ngăn chặn. Nhưng không được phép cho như vậy ở đây, cần phải hiểu rằng vật được cho như vậy chưa phải là sở hữu của vị ấy, nên cần phải sử dụng mà không chú nguyện. Nhưng được phép cho mang đến là vật được cho như vậy, do giống như tiền công, nên được phép cho mang đến. Vật đã được cho sau khi đã từ bỏ là vật đã được cho cho chính vị ấy sau khi đã không còn luyến tiếc, không cho theo cách đã nói. Nên bị xử phạt theo giá trị của vật là người nhận mà không có tưởng là của mình, nên bị xử phạt theo tội lỗi sau khi đã định giá vật. Tình trạng là y sau cùng hợp lệ để tác tịnh, sự tự mình cho, tưởng là của mình, tình trạng đã thọ cụ túc giới, và việc giật lại hoặc cho giật lại do bởi sự tức giận, đây là năm yếu tố ở đây.

Cīvaraacchindanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới giật lại y.

6. Suttaviññattisikkhāpadavaṇṇanā
6. Tường giải về học giới xin chỉ

636. Chaṭṭhe pāḷiyaṃ cīvarakārasamayeti iminā vassaṃvutthabhikkhūnaṃ cīvarakammasamayattā cīvaramāso vutto, athaññopi pana cīvarakammakālo cīvarakārasamayoti vattuṃ vaṭṭati.
636. Trong học giới thứ sáu, ở trong Pāḷi, bằng câu vào mùa làm y, tháng y đã được nói đến do là mùa làm y của các Tỳ-khưu đã an cư mùa mưa; nhưng bất kỳ thời gian làm y nào khác cũng có thể được gọi là mùa làm y.

638.Pañcahipimissetvāti khomādīhi pañcahi missetvā. Vītavītaṭṭhānaṃ yattha saṃharitvā ṭhapenti, tassa turīti adhivacanaṃ. Suttaṃ pavesetvā yena ākoṭentā ghanabhāvaṃ sampādenti, taṃ vemanti vuccati. Yaṃ yanti yaṃ yaṃ payogaṃ. Tantūnaṃ attano santakattā vītavītaṭṭhānaṃ paṭiladdhameva hotīti āha ‘‘dīghato…pe… vīte nissaggiyaṃ pācittiya’’nti. Pāḷiyampi hi imināva adhippāyena ‘‘paṭilābhena nissaggiya’’nti vuttaṃ, tasmā yāva cīvaraṃ vaḍḍhati, tāva iminā pamāṇena āpattiyo vaḍḍhanti.
638. Pha lẫn với năm loại là pha lẫn với năm loại từ vải lanh v.v… Nơi mà người ta gom lại và cất giữ phần đã dệt xong có tên gọi là khung dệt. Vật mà người ta dùng để đưa chỉ vào rồi đập để tạo ra sự chắc chắn được gọi là con thoi. Bất cứ nỗ lực nào là bất cứ sự cố gắng nào. Do các sợi chỉ là sở hữu của mình, nên phần đã dệt xong xem như đã được nhận, ngài nói: “khi đã dệt được chiều dài… vân vân… một gang tay, phạm tội Ưng Xả Đối Trị là tội Ưng Xả Đối Trị.” Trong Pāḷi cũng vậy, với chính ý định này, đã được nói: “là vật Ưng Xả Đối Trị do sự nhận được,” do đó, chừng nào y còn được dệt thêm, chừng đó các tội lỗi cũng tăng thêm theo kích thước này.

Seso kappiyoti ettha hatthakammayācanavasena. Pubbe vuttanayena nissaggiyanti dīghaso vidatthimatte tiriyaṃ hatthamatte ca vīte nissaggiyaṃ. Tenevāti akappiyatantavāyena. Tatheva dukkaṭanti paricchede paricchede dukkaṭaṃ. Kedārabaddhādīhīti ādi-saddena acchimaṇḍalabaddhādi gahitaṃ. Tante ṭhitaṃyeva adhiṭṭhātabbanti ettha ‘‘pacchā vītaṭṭhānaṃ adhiṭṭhitagatikameva hoti, puna adhiṭṭhānakiccaṃ natthi. Sace pana paricchedaṃ dassetvā antarantarā avītaṃ hoti, puna adhiṭṭhātabba’’nti vadanti. Eseva nayoti vikappanupagappamāṇamatte vīte tante ṭhitaṃyeva adhiṭṭhātabbanti attho. Cīvaratthāya viññāpitasuttaṃ, attuddesikatā, akappiyatantavāyena vāyāpananti imānettha tīṇi aṅgāni.
Phần còn lại là hợp lệ ở đây, là theo cách xin công lao động. Là vật Ưng Xả Đối Trị theo phương pháp đã được nói trước đây là là vật Ưng Xả Đối Trị khi đã dệt được chiều dài khoảng một gang tay và chiều ngang khoảng một thước. Chỉ bởi người đó là bởi người thợ dệt không hợp lệ. Tội tác ác cũng tương tự là tội tác ác theo từng khoảng. Bằng các kiểu dệt như ô ruộng v.v… là bằng từ v.v…, các kiểu dệt như hình mắt lưới v.v… được bao gồm. Nên được chú nguyện ngay khi còn trên khung dệt ở đây, có vị nói: “sau đó, phần đã dệt xong xem như đã được chú nguyện, không cần phải chú nguyện lại. Nhưng nếu đã chỉ ra khoảng cách và có phần chưa được dệt ở giữa, thì cần phải chú nguyện lại.” Cùng một phương pháp này có nghĩa là khi đã dệt được khoảng kích thước hợp lệ để tác tịnh, nên được chú nguyện ngay khi còn trên khung dệt. Chỉ đã được xin vì lợi ích của y, sự chỉ định cho mình, và việc cho dệt bởi người thợ dệt không hợp lệ, đây là ba yếu tố ở đây.

Mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. suttaviññattisikkhāpadavaṇṇanā) pana vāyāpeyyāti ettha ‘‘cīvaraṃ me, āvuso, vāyathāti akappiyaviññattiyā vāyāpeyyā’’ti atthaṃ vatvā aṅgesupi ‘‘akappiyatantavāyena akappiyaviññattiyā vāyāpana’’nti visesetvā vuttaṃ, tathāvidhaṃ pana visesavacanaṃ neva pāḷiyaṃ, na aṭṭhakathāyaṃ upalabbhati. Pāḷiyampi ‘‘ñātakānaṃ pavāritāna’’nti ettakameva anāpattivāre vuttaṃ, aṭṭhakathāyañca suttatantavāyānameva kappiyākappiyabhāvena bahudhā nayo dassito , na kappiyākappiyaviññattivasenāti. ‘‘Akappiyaviññattiyā vāyāpeyyā’’ti ca visesetvā vadantena ayaṃ nāma kappiyaviññattīti visuṃ na dassitaṃ, tasmā vīmaṃsitvā gahetabbaṃ.
Còn trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. suttaviññattisikkhāpadavaṇṇanā), ở từ ‘vāyāpeyya’ (nên cho dệt), sau khi đã nói ý nghĩa là “nên cho dệt bằng sự xin xỏ không hợp lệ: ‘này hiền giả, hãy dệt y cho tôi,’” và trong các yếu tố, cũng đã nói một cách đặc biệt: “việc cho dệt bởi người thợ dệt không hợp lệ bằng sự xin xỏ không hợp lệ,” nhưng lời nói đặc biệt như vậy không được tìm thấy trong Pāḷi cũng không có trong Chú giải. Trong Pāḷi cũng vậy, trong chương về sự vô tội, chỉ nói đến “đối với những người quyến thuộc, những người đã thỉnh mời,” và trong Chú giải, phương pháp đã được chỉ ra nhiều lần theo tình trạng hợp lệ và không hợp lệ của chính chỉ và người thợ dệt, chứ không phải theo sự xin xỏ hợp lệ hay không hợp lệ. Và người nói một cách đặc biệt “nên cho dệt bằng sự xin xỏ không hợp lệ” đã không chỉ ra riêng rằng đây là sự xin xỏ hợp lệ, do đó, cần phải xem xét.

Suttaviññattisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới xin chỉ.

7. Mahāpesakārasikkhāpadavaṇṇanā
7. Tường giải về học giới (gợi ý) thợ dệt lớn

642. Sattame kiñcimattaṃ anupadajjeyyāti idaṃ tassa kattabbākāramattadassanaṃ, dānaṃ panettha aṅgaṃ na hoti suttavaḍḍhanavaseneva āpajjitabbattā. Teneva padabhājanepi ‘‘tassa vacanena āyataṃ vā vitthataṃ vā appitaṃ vā karoti, payoge dukkaṭaṃ, paṭilābhena nissaggiya’’nti suttavaḍḍhanākārameva dassetvā āpatti vuttā. Mātikāṭṭhakathāyampi (kaṅkhā. aṭṭha. mahāpesakārasikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ ‘‘na bhikkhuno piṇḍapātadānamattena taṃ nissaggiyaṃ hoti. Sace pana te tassa vacanena cīvarasāmikānaṃ hatthato suttaṃ gahetvā īsakampi āyataṃ vā vitthataṃ vā appitaṃ vā karonti, atha tesaṃ payoge bhikkhuno dukkaṭaṃ, paṭilābhena nissaggiyaṃ hotī’’ti. Āyatādīsu sattasu ākāresu ādimhi tayo ākāre suttavaḍḍhanena vinā na sakkā kātunti āha ‘‘suttavaḍḍhanaākārameva dassetī’’ti. Suvītādayo hi ākāre vināpi suttavaḍḍhanena sakkā kātuṃ. Sesamettha uttānameva. Aññātakaappavāritānaṃ tantavāye upasaṅkamitvā vikappamāpajjanatā, cīvarassa attuddesikatā, tassa vacanena suttavaḍḍhanaṃ, cīvarassa paṭilābhoti imānettha cattāri aṅgāni.
642. Trong học giới thứ bảy, nên cho thêm một chút điều này chỉ là sự chỉ ra hình thức cần phải làm của vị ấy, việc cho ở đây không phải là một yếu tố, do cần phải phạm tội theo chính sự tăng thêm chỉ. Chính vì thế, trong phần phân tích từ, sau khi đã chỉ ra chính hình thức tăng thêm chỉ: “do lời nói của vị ấy, người ấy làm cho dài hơn, hoặc rộng hơn, hoặc được dệt thêm, phạm tội tác ác trong khi cố gắng, là vật Ưng Xả Đối Trị khi nhận được,” tội lỗi đã được nói đến. Trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. mahāpesakārasikkhāpadavaṇṇanā) cũng có nói: “điều đó không trở thành vật Ưng Xả Đối Trị đối với Tỳ-khưu chỉ bằng việc cho vật thực khất thực. Nhưng nếu họ, do lời nói của vị ấy, lấy chỉ từ tay của các chủ sở hữu y và làm cho nó dài hơn một chút, hoặc rộng hơn một chút, hoặc được dệt thêm một chút, thì trong khi họ cố gắng, Tỳ-khưu ấy phạm tội tác ác, và trở thành vật Ưng Xả Đối Trị khi nhận được.” Trong bảy hình thức từ dài hơn v.v…, ba hình thức đầu không thể được thực hiện nếu không có sự tăng thêm chỉ, nên ngài nói: “chỉ chỉ ra hình thức tăng thêm chỉ.” Vì rằng, các hình thức như dệt tốt v.v… có thể được thực hiện ngay cả khi không có sự tăng thêm chỉ. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Sự đi đến thợ dệt của những người không phải là quyến thuộc, chưa thỉnh mời và phạm vào sự lựa chọn; sự chỉ định y cho mình; sự tăng thêm chỉ do lời nói của vị ấy; và sự nhận được y, đây là bốn yếu tố ở đây.

Mahāpesakārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới (gợi ý) thợ dệt lớn.

8. Accekacīvarasikkhāpadavaṇṇanā
8. Tường giải về học giới y khẩn cấp

646. Aṭṭhame asammohatthanti dasāhānāgatapade asammohatthaṃ. Paṭhamapadassāti dasāhānāgatapadassa. Tāni divasānīti tesu divasesu. Uppajjeyyāti saṅghato vā gaṇato vā ujukaṃ attanoyeva vā uppajjeyya. Pañcamitoti ettha vassaṃ vasantassa saṅghassa pañcamito pubbe uppannaṃ accekacīvaraṃ pañcamiyaṃ vibhajitvā gahitaṃ accekacīvaraparihārameva labhati. Ujukaṃ attanoyeva uppannaṃ ce, pañcamiyaṃ uppannameva accekacīvaraparihāraṃ labhati, na tato pubbeti daṭṭhabbaṃ.
646. Trong học giới thứ tám, để không bị nhầm lẫn là để không bị nhầm lẫn trong vế “khi còn mười ngày nữa mới đến.” Của vế đầu tiên là của vế “khi còn mười ngày nữa mới đến.” Những ngày đó là trong những ngày đó. Nên phát sanh là nên phát sanh từ Tăng chúng, hoặc từ giáo đoàn, hoặc trực tiếp cho chính mình. Từ ngày mồng năm ở đây, y khẩn cấp phát sanh trước ngày mồng năm cho Tăng chúng đang an cư mùa mưa, khi được chia và nhận vào ngày mồng năm, chỉ được hưởng thời hạn của y khẩn cấp. Còn nếu phát sanh trực tiếp cho chính mình, chỉ khi phát sanh vào ngày mồng năm mới được hưởng thời hạn của y khẩn cấp, không phải trước đó, cần phải được thấy như vậy.

Saddhāmattakanti dhammassavanādīhi taṅkhaṇuppannaṃ saddhāmattakaṃ. Ārocitaṃ cīvaranti ārocetvā dinnacīvaraṃ. Chaṭṭhiyaṃ uppannacīvarassa ekādasamo aruṇo cīvarakāle uṭṭhātīti āha ‘‘chaṭṭhito paṭṭhāyā’’tiādi. Ṭhapitacīvarampīti padhānacīvaradassanamukhena sabbampi atirekacīvaraṃ vuttaṃ. Atha ‘‘cīvaramāsepi atirekacīvaraṃ nikkhipituṃ vaṭṭatī’’ti idaṃ kuto laddhanti ce? ‘‘Visuṃ ananuññātepi imasmiṃ sikkhāpade ‘cīvarakālasamayo nāma anatthate kathine vassānassa pacchimo māso, atthate kathine pañca māsā’ti vadantena tatiyakathinasikkhāpade ‘akālacīvaraṃ nāma anatthate kathine ekādasamāse uppannaṃ, atthate kathine sattamāse uppanna’nti vadantena ca anuññātameva hotī’’ti vadanti. ‘‘Aṭṭhakathāvacanappamāṇena gahetabba’’nti ca keci.
Chỉ do đức tin là chỉ do đức tin phát sanh ngay lúc đó do nghe pháp v.v… Y đã được thông báo là y đã được cho sau khi đã thông báo. Rạng đông thứ mười một của y phát sanh vào ngày mồng sáu mọc lên vào mùa nhận y, nên ngài nói: “từ ngày mồng sáu trở đi” v.v… Cả y đã được cất giữ là tất cả y dư đã được nói đến qua việc chỉ ra y chính. Vậy, từ đâu mà có được điều này: “trong tháng y cũng được phép cất giữ y dư?” Có vị nói: “dù không được cho phép riêng, nhưng trong học giới này, do vị nói ‘thời gian mùa nhận y được gọi là tháng cuối cùng của mùa mưa khi kaṭhina chưa được thọ, là năm tháng khi kaṭhina đã được thọ,’ và trong học giới kaṭhina thứ ba, do vị nói ‘y trái mùa được gọi là y phát sanh trong mười một tháng khi kaṭhina chưa được thọ, trong bảy tháng khi kaṭhina đã được thọ,’ nên đã được cho phép.” Và một số vị nói: “nên được hiểu theo tiêu chuẩn của lời Chú giải.”

650. Idāni paṭhamakathinādisikkhāpadehi tassa tassa cīvarassa labbhamānaṃ parihāraṃ idheva upasaṃharitvā dassento ‘‘iti atirekacīvarassa dasāhaṃ parihāro’’tiādimāha. ‘‘Anatthate kathine ekādasadivasādhiko māso, atthate kathine ekādasadivasādhikā pañca māsā’’ti ayameva pāṭho gahetabbo. Keci panettha ‘‘kāmañcesa ‘dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāretabba’nti imināva siddho, aṭṭhuppattivasena pana apubbaṃ viya atthaṃ dassetvā sikkhāpadaṃ ṭhapita’’nti pāṭhaṃ vatvā ‘‘dasadivasādhiko māso, dasadivasādhikā pañca māsāti pāṭhena bhavitabba’’nti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ tassa pamādapāṭhattā. Na hi dasāhena asampattāya kattikatemāsikapuṇṇamāya cīvarakālato pubbe dasa divasā adhikā honti. Evañhi sati ‘‘navāhānāgataṃ kattikatemāsikapuṇṇama’’nti vattabbaṃ.
650. Bây giờ, để tóm tắt và chỉ ra ngay ở đây thời hạn được phép cho từng loại y theo các học giới từ học giới kaṭhina thứ nhất v.v…, ngài đã nói: “như vậy, thời hạn mười ngày đối với y dư” v.v… Nên lấy chính câu đọc này: “khi kaṭhina chưa được thọ, là một tháng cộng mười một ngày; khi kaṭhina đã được thọ, là năm tháng cộng mười một ngày.” Một số vị ở đây, sau khi nói câu đọc: “mặc dù điều này đã được xác định bởi câu ‘nên giữ y dư tối đa là mười ngày,’ nhưng học giới đã được đặt ra sau khi đã chỉ ra một ý nghĩa như là mới mẻ theo sự phát sanh của câu chuyện,” đã nói rằng: “nên có câu đọc là ‘một tháng cộng mười ngày, năm tháng cộng mười ngày,’” điều đó không nên chấp nhận, do đó là câu đọc sai sót. Vì rằng, mười ngày không thể nhiều hơn trước mùa nhận y vào ngày rằm tháng Kattika thứ ba chưa đến mười ngày. Nếu vậy, đáng lẽ phải nói: “ngày rằm tháng Kattika thứ ba khi còn chín ngày nữa mới đến.”

Mātikāṭṭhakathāyampi (kaṅkhā. aṭṭha. accekacīvarasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘pavāraṇamāsassa juṇhapakkhapañcamito paṭṭhāya uppannassa cīvarassa nidhānakālo dassito hotī’’ti vatvā ‘‘kāmañcesa ‘dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāretabba’nti imināva siddho, aṭṭhuppattivasena pana apubbaṃ viya atthaṃ dassetvā sikkhāpadaṃ ṭhapita’’nti pāṭho dassito, sopi pamādapāṭhoyeva. ‘‘Juṇhapakkhapañcamito paṭṭhāyā’’ti ca vuttattā tattheva pubbāparavirodhopi siyā, chaṭṭhito paṭṭhāyāti vattabbaṃ. Evañhi sati ‘‘dasāhaparamasikkhāpadeneva siddha’’nti sakkā vattuṃ. Imameva ca pamādapāṭhaṃ gahetvā bhadantabuddhadattācariyena ca –
Và trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. accekacīvarasikkhāpadavaṇṇanā), sau khi nói: “thời gian cất giữ của y phát sanh từ ngày mồng năm thượng tuần của tháng Pavāraṇā trở đi đã được chỉ ra,” đoạn văn đã được chỉ ra: “mặc dù điều này đã được xác định bởi câu ‘nên giữ y dư tối đa là mười ngày,’ nhưng học giới đã được đặt ra sau khi đã chỉ ra một ý nghĩa như là mới mẻ theo sự phát sanh của câu chuyện,” đó cũng là câu đọc sai sót. Và do đã được nói “từ ngày mồng năm thượng tuần trở đi,” nên ngay ở đó cũng có thể có sự mâu thuẫn trước sau, nên nói là từ ngày mồng sáu trở đi. Nếu vậy, có thể nói rằng “đã được xác định bởi chính học giới giới hạn mười ngày.” Và sau khi đã lấy chính câu đọc sai sót này, giáo thọ sư Bhadantabuddhadatta đã nói:

‘‘Tassāccāyikavatthassa, kathine tu anatthate;
Parihārekamāsova, dasāhaparamo mato.
‘‘Atthate kathine tassa, pañca māsā pakāsitā;
Parihāro munindena, dasāhaparamā panā’’ti. –
“Đối với vật khẩn cấp ấy, khi kaṭhina chưa được thọ;
Thời hạn một tháng, được cho là hơn mười ngày.
“Khi kaṭhina đã được thọ, đối với nó, năm tháng đã được công bố;
Thời hạn bởi bậc Mâu-ni, lại là hơn mười ngày.”

Vuttaṃ.
Đã được nói.

Accekacīvarakāle uppannattā ‘‘accekacīvarasadise’’ti vuttaṃ. ‘‘Pañcamiyaṃ uppannaṃ anaccekacīvaraṃ dasāhaṃ atikkāmayato cīvarakālato pubbeyeva āpatti hoti, na cīvarakālātikkame, tasmā cīvarakālātikkame puna āpajjitabbāya āpattiyā abhāvaṃ sandhāya ‘anaccekacīvare anaccekacīvarasaññī anāpattī’ti vutta’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Vikappanupagapacchimappamāṇassa accekacīvarassa attano santakatā, dasāhānāgatāya kattikatemāsikapuṇṇamāya uppannabhāvo, anadhiṭṭhitaavikappitatā, cīvarakālātikkamoti imānettha cattāri aṅgāni.
Do phát sanh vào thời gian của y khẩn cấp, nên đã được nói: “tương tự như y khẩn cấp.” Trong cả ba sách cương yếu có nói: “đối với người để y không phải là y khẩn cấp phát sanh vào ngày mồng năm quá mười ngày, tội lỗi phát sanh ngay cả trước mùa nhận y, không phải khi quá mùa nhận y, do đó, liên quan đến sự không có tội lỗi cần phải phạm lại khi quá mùa nhận y, đã được nói ‘vô tội đối với người có tưởng là y không phải là y khẩn cấp đối với y không phải là y khẩn cấp.’” Tình trạng là y khẩn cấp có kích thước sau cùng hợp lệ để tác tịnh thuộc sở hữu của mình, tình trạng phát sanh khi ngày rằm tháng Kattika thứ ba còn mười ngày nữa mới đến, tình trạng chưa được chú nguyện, chưa được tác tịnh, và sự quá thời gian nhận y, đây là bốn yếu tố ở đây.

Accekacīvarasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới y khẩn cấp.

9. Sāsaṅkasikkhāpadavaṇṇanā
9. Tường giải về học giới nơi có sự nguy hiểm

652. Navame antaraghareti antare gharāni ettha, etassāti vā antaragharanti laddhavohāre gocaragāme. Tenāha ‘‘antogāme’’ti. Pāḷiyaṃ vippavasantīti idaṃ yasmiṃ vihāre vasantā antaraghare cīvaraṃ nikkhipiṃsu, tato aññattha vasante sandhāya vuttaṃ. Tasmiñhi vihāre antaraghare cīvaraṃ nikkhipitvā vasituṃ anuññātattā tattha vāso vippavāso nāma na hoti. Dubbalacoḷā duccoḷā virūpacoḷā vā, duccoḷattā eva lūkhacīvarā.
652. Trong học giới thứ chín, trong làng là trong làng khất thực có tên gọi là antaraghara, vì các ngôi nhà ở trong đó. Do đó, ngài nói: “trong làng.” Trong Pāḷi, sống xa điều này được nói liên quan đến những vị sống ở nơi khác với trú xứ mà họ đã ở khi cất y trong làng. Vì rằng, đã được cho phép cất y trong làng khi đang ở trong trú xứ đó, nên việc ở đó không được gọi là sống xa. Y phục yếu kém là y phục xấu, hoặc y phục không đẹp; chính vì là y phục xấu nên là y phục thô xấu.

653. ‘‘Paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharatī’’ti imassa vibhaṅge ‘‘upasampajjā’’ti uddharitabbe ‘‘upasampajja’’nti uddharitvā ‘‘yo paṭhamassa jhānassa lābho paṭilābho’’tiādi vuttaṃ, taṃ sandhāyāha ‘‘upasampajjantiādīsu viyā’’ti. Ādi-saddena ‘‘anāpucchaṃ vā pakkameyyā’’tiādīnaṃ saṅgaho daṭṭhabbo. Upagantvāti upa-saddassa atthamāha. Vasitvāti akhaṇḍaṃ vasitvā. ‘‘Yena yassa hi sambandho, dūraṭṭhampi ca tassa ta’’nti vacanato ‘‘imassa…pe… iminā sambandho’’ti vuttaṃ. Tattha imassāti ‘‘upavassa’’nti padassa. Nikkhipeyyāti ṭhapeyya.
653. Trong Vibhaṅga, đối với câu “sau khi chứng và trú trong thiền thứ nhất,” đáng lẽ phải trích dẫn là “upasampajjā,” nhưng đã trích dẫn là “upasampajja” và đã nói: “sự đắc, sự chứng đắc thiền thứ nhất” v.v…, liên quan đến điều đó, ngài nói: “giống như trong các câu ‘upasampajja’ v.v…” Bằng từ v.v…, cần phải thấy sự bao gồm các câu như “hoặc ra đi mà không xin phép” v.v… Sau khi đã đến gần là ngài nói về ý nghĩa của tiếp đầu ngữ upa. Sau khi đã ở là sau khi đã ở không gián đoạn. Theo câu “vật nào có liên hệ với vật nào, thì vật đó thuộc về vật ấy dù ở xa,” đã được nói: “của cái này… vân vân… có sự liên hệ với cái này.” Ở đó, của cái này là của từ “upavassa.” Nên cất giữ là nên đặt.

Ettāvatā ca purimikāya upagantvā akhaṇḍaṃ katvā vutthavassena āraññakesu senāsanesu viharantena sakalaṃ kattikamāsaṃ ticīvarena vippavasituṃ anuññātaṃ hoti. Anatthatakathinassa hi cīvaramāse vippavāso na vaṭṭati atthatakathinānaṃyeva asamādānacārassa anuññātattā. Keci pana ‘‘anatthatakathinānaṃ cīvaramāsepi asamādānacāro labbhatī’’ti vatvā bahudhā papañcenti, taṃ na gahetabbaṃ. Byañjanavicāraṇanti ‘‘upavassa upavassitvā’’tiādivicāraṇaṃ . Tassapīti ‘‘vutthavassāna’’nti vibhaṅgapadassa. Vutthavassānanti ca niddhāraṇe sāmivacanaṃ. Tenāha – ‘‘evarūpānaṃ bhikkhūnaṃ abbhantare’’ti. Senāsanesūti ettha tathārūpesūti sambandhitabbaṃ.
Và chỉ bấy nhiêu, đã được cho phép cho người đã an cư mùa mưa một cách trọn vẹn sau khi đã đến trước và đang ở trong các trú xứ trong rừng, được sống xa tam y trong suốt tháng Kattika. Vì rằng, đối với người chưa thọ kaṭhina, việc sống xa trong tháng y không được phép, do việc đi lại không mang đủ y chỉ được cho phép cho những người đã thọ kaṭhina. Nhưng một số vị nói rằng: “đối với những người chưa thọ kaṭhina, việc đi lại không mang đủ y cũng được phép cả trong tháng y,” rồi phân tích ra nhiều loại, điều đó không nên chấp nhận. Sự xét về văn tự là sự xét về các từ “upavassa, upavassitvā” v.v… Của vị ấy cũng vậy là của từ trong Vibhaṅga “vutthavassānaṃ.” Và vutthavassānaṃ là sở hữu cách trong sự chỉ định. Do đó, ngài nói: “trong số các Tỳ-khưu như vậy.” Trong các trú xứ ở đây, cần phải liên kết là trong các trú xứ như vậy.

Parikkhepārahaṭṭhānatoti ettha ‘‘parikkhepārahaṭṭhānaṃ nāma dve leḍḍupātā’’ti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ. Aparikkhittassa pana gāmassa pariyante ṭhitagharūpacārato paṭṭhāya eko leḍḍupāto parikkhepārahaṭṭhānanti idamettha sanniṭṭhānaṃ. Teneva visuddhimaggepi (visuddhi. 1.31) vuttaṃ ‘‘aparikkhittassa paṭhamaleḍḍupātato paṭṭhāyā’’ti. Sabbapaṭhamanti gāmābhimukhadisābhāgato sabbapaṭhamaṃ. Taṃ paricchedaṃ katvāti taṃ paṭhamasenāsanādiṃ paricchedaṃ katvā. Idañca vinayadharānaṃ matena vuttaṃ, majjhimabhāṇakānaṃ matena pana ‘‘senāsanādīnaṃ upacāre ṭhitassa ekaleḍḍupātaṃ muñcitvā minitabba’’nti majjhimabhāṇakā vadanti. Teneva majjhimanikāyaṭṭhakathāyaṃ ‘‘vihārassapi gāmasseva upacāraṃ nīharitvā ubhinnaṃ leḍḍupātānaṃ antarā minitabba’’nti vuttaṃ. Pañcadhanusatikanti āropitena ācariyadhanunā pañcadhanusatappamāṇaṃ. Tato tato maggaṃ pidahatīti tattha tattha khuddakamaggaṃ pidahati. Dhutaṅgacoroti iminā imassapi sikkhāpadassa aṅgasampattiyā abhāvaṃ dīpeti.
Từ nơi thích hợp để rào ở đây, có vị nói: “nơi thích hợp để rào là hai cú ném đất,” điều đó không nên chấp nhận. Nhưng ở đây, kết luận là: một cú ném đất bắt đầu từ khu vực lân cận của ngôi nhà ở bìa làng không có rào bao bọc là nơi thích hợp để rào. Chính vì thế, trong Visuddhimagga (visuddhi. 1.31) cũng có nói: “bắt đầu từ cú ném đất đầu tiên của (làng) không có rào bao bọc.” Đầu tiên hết là đầu tiên hết từ phía hướng về làng. Sau khi đã lấy đó làm giới hạn là sau khi đã lấy trú xứ đầu tiên đó v.v… làm giới hạn. Và điều này được nói theo quan điểm của các bậc Trì Luật; còn theo quan điểm của các bậc Tụng Trung Bộ, các bậc Tụng Trung Bộ nói rằng: “nên đo sau khi đã trừ đi một cú ném đất ở khu vực lân cận của các trú xứ v.v…” Chính vì thế, trong Chú giải Trung Bộ có nói: “cũng nên đo ở giữa hai cú ném đất sau khi đã trừ đi khu vực lân cận của trú xứ và của chính làng.” Năm trăm cung là khoảng cách năm trăm cung theo cung của vị thầy đã được giương lên. Chặn đường ở các nơi là chặn các con đường nhỏ ở các nơi đó. Kẻ trộm hạnh đầu-đà bằng điều này, ngài chỉ ra sự không có sự thành tựu về các yếu tố của chính học giới này.

‘‘Sāsaṅkānī’’ti sammatānīti corānaṃ niviṭṭhokāsādidassanena ‘‘sāsaṅkānī’’ti sammatāni. Sannihitabalavabhayānīti corehi manussānaṃ hataviluttākoṭitabhāvadassanato sannihitabalavabhayānīti attho. Sace pacchimikāyātiādinā vuttamevatthaṃ byatirekamukhena vibhāveti. Yatra hi piṇḍāyātiādinā vuttappamāṇameva visesetvā dasseti. Sāsaṅkasappaṭibhayamevāti ettha sāsaṅkaṃ vā sappaṭibhayaṃ vā hotu, vaṭṭatiyeva.
Được xem là “có sự nguy hiểm” là được xem là “có sự nguy hiểm” do thấy nơi ở của bọn cướp v.v… Nơi có sự sợ hãi mạnh mẽ hiện hữu có nghĩa là nơi có sự sợ hãi mạnh mẽ hiện hữu do thấy người bị cướp, bị đánh đập bởi bọn cướp. Bằng câu nếu vào mùa sau v.v…, ngài làm rõ chính ý nghĩa đã được nói theo cách nói phủ định. Bằng câu ở đâu mà vì vật thực khất thực v.v…, ngài chỉ ra một cách đặc biệt chính kích thước đã được nói. Chỉ có sự nguy hiểm và có sự sợ hãi ở đây, dù là có sự nguy hiểm hay có sự sợ hãi, cũng đều được phép.

Pāḷiyaṃ ‘‘siyā ca tassa bhikkhuno kocideva paccayo tena cīvarena vippavāsāya, chārattaparamaṃ tena bhikkhunā tena cīvarena vippavasitabba’’nti iminā antaraghare cīvaraṃ nikkhipitvā tasmiṃ vihāre vasantassa aññattha gamanakicce sati vihārato bahi chārattaṃ vippavāso anuññāto. Vasanaṭṭhānato hi aññattha chārattaṃ vippavāso vutto, na tasmiṃ vihāre vasantassa. Tena ca ‘‘puna gāmasīmaṃ okkamitvāti ettha sace gocaragāmato puratthimāya disāya senāsanaṃ, ayañca pacchimadisaṃ gato hotī’’tiādi vuttaṃ. Tatoyeva ca mātikāṭṭhakathāyampi (kaṅkhā. aṭṭha. sāsaṅkasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘tato ce uttari vippavaseyyā’’ti ettha ‘‘chārattato uttari tasmiṃ senāsane sattamaṃ aruṇaṃ uṭṭhāpeyyā’’ti attho vutto. Bhadantabuddhadattācariyena pana pākaṭataraṃ katvā ayamevattho vutto. Vuttañhi tena –
Trong Pāḷi, bằng câu “và nếu Tỳ-khưu ấy có duyên cớ nào đó để sống xa y, Tỳ-khưu ấy được phép sống xa y đó tối đa là sáu đêm,” sự sống xa trong sáu đêm bên ngoài trú xứ đã được cho phép cho người cất y trong làng và ở trong trú xứ đó khi có việc phải đi nơi khác. Vì rằng, sự sống xa trong sáu đêm ở nơi khác với nơi ở đã được nói đến, chứ không phải đối với người đang ở trong trú xứ đó. Và do đó, đã được nói: “sau khi đã bước vào ranh giới của làng, ở đây, nếu trú xứ ở phía đông của làng khất thực, và vị này đã đi về phía tây.” Chính vì thế, trong Chú giải Mẫu Đề (kaṅkhā. aṭṭha. sāsaṅkasikkhāpadavaṇṇanā), ở câu “nếu vị ấy sống xa quá thời hạn đó,” ý nghĩa đã được nói là “nếu vị ấy để rạng đông thứ bảy mọc lên ở trú xứ đó, quá sáu đêm.” Còn giáo thọ sư Bhadantabuddhadatta đã nói chính ý nghĩa này một cách rõ ràng hơn. Vì rằng, ngài đã nói:

‘‘Yaṃ gāmaṃ gocaraṃ katvā, bhikkhu āraññake vase;
Tasmiṃ gāme ṭhapetuṃ taṃ, māsamekantu vaṭṭati.
‘‘Aññattheva vasantassa, chārattaparamaṃ mataṃ;
Ayamassa adhippāyo, paṭicchanno pakāsito’’ti.
“Làng nào Tỳ-khưu lấy làm nơi khất thực, và ở trong rừng;
Trong làng đó, được phép để y ấy, chỉ một tháng thôi.
“Đối với người ở nơi khác, tối đa sáu đêm được cho là;
Đây là ý nghĩa của ngài, được che giấu, nay được tỏ bày.”

‘‘Kosambiyaṃ aññataro bhikkhu gilāno hotī’’ti āgatattā ‘‘kosambakasammuti anuññātā’’ti vuttaṃ. Kosambakassa bhikkhuno sammuti kosambakasammutiSenāsanaṃ āgantvāti vusitavihārasseva sandhāya vuttattā tasmiṃ gāmūpacārepi aññasmiṃ vihāre aruṇaṃ uṭṭhāpetuṃ na vaṭṭati. Vasitvāti aruṇaṃ uṭṭhāpetvā. Gataṭṭhānassa atidūrattā ‘‘evaṃ asakkontenā’’ti vuttaṃ. Tatthevāti tasmiṃyeva gataṭṭhāne.
Do có câu “ở Kosambī, có một Tỳ-khưu bị bệnh,” nên đã được nói: “sự chấp thuận của Kosambī đã được cho phép.” Sự chấp thuận của Tỳ-khưu ở Kosambī là sự chấp thuận của Kosambī. Sau khi đã đến trú xứ là do được nói chỉ liên quan đến chính trú xứ đã ở, nên không được phép để rạng đông mọc lên ở trú xứ khác ngay cả trong khu vực lân cận của làng đó. Sau khi đã ở là sau khi đã để rạng đông mọc lên. Do nơi đã đi đến quá xa, nên đã được nói: “bởi người không thể làm như vậy.” Ngay ở đó là ngay ở chính nơi đã đi đến.

Sāsaṅkasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới nơi có sự nguy hiểm.

10. Pariṇatasikkhāpadavaṇṇanā
10. Tường giải về học giới (vật) đã được dự định

657-659. Dasame uddissa ṭhapitabhāgeti attano gharepi uddisitvā visuṃ ṭhapitakoṭṭhāse. ‘‘Ekaṃ mayhaṃ, ekaṃ imassa dehī’’ti evaṃ ekavācāya āpajjitabbattā ‘‘āpajjeyya ekato’’ti vuttaṃ. Tumhākaṃ sappiādīni ābhatānīti tumhākaṃ atthāya ābhatāni sappiādīni. Pariṇatabhāvaṃ jānitvāpi vuttavidhinā viññāpentena tesaṃ santakameva viññāpitaṃ nāma hotīti āha – ‘‘mayhampi dethāti vadati, vaṭṭatī’’ti.
657-659. Trong học giới thứ mười, trong phần đã được cất giữ và chỉ định là trong các phần đã được cất giữ riêng sau khi đã chỉ định ngay cả trong nhà của mình. Do cần phải phạm tội bằng một lời nói như “một phần cho tôi, một phần hãy cho vị này,” nên đã được nói: “nên phạm tội cùng một lúc.” Bơ lỏng v.v… đã được mang đến cho quý vị là bơ lỏng v.v… đã được mang đến vì lợi ích của quý vị. Dù biết tình trạng đã được dự định, nhưng người xin theo phương pháp đã được nói, được gọi là đã xin chính vật sở hữu của họ, nên ngài nói: “nói rằng: ‘hãy cho cả tôi,’ thì được phép.”

660.Pupphampi āropetuṃ na vaṭṭatīti idaṃ pariṇataṃ sandhāya vuttaṃ. Sace pana ekasmiṃ cetiye pūjitaṃ pupphaṃ gahetvā aññasmiṃ cetiye pūjeti, vaṭṭati. Ṭhitaṃ disvāti sesakaṃ gahetvā ṭhitaṃ disvā. Imassa sunakhassa mā dehi, etassa dehīti idaṃ pariṇateyeva. Tiracchānagatassa pariccajitvā dinne pana taṃ palāpetvā aññaṃ bhuñjāpetuṃ vaṭṭati. ‘‘Kattha demātiādinā ekenākārena pāḷiyaṃ anāpatti dassitā, evaṃ pana apucchitepi apariṇataṃ idanti jānantena attano ruciyā yattha icchati, tattha dāpetuṃ vaṭṭatī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Yattha icchatha, tattha dethāti etthāpi ‘‘tumhākaṃ ruciyā’’ti vuttattā yattha icchati, tattha dāpetuṃ labhati. Pāḷiyaṃ āgatanayenevāti ‘‘yattha tumhākaṃ deyyadhammo’’tiādinā nayena. Saṅghapariṇatabhāvo, taṃ ñatvā attano pariṇāmanaṃ, paṭilābhoti imānettha tīṇi aṅgāni.
660. Cũng không được phép dâng hoa điều này được nói liên quan đến vật đã được dự định. Nhưng nếu nhận hoa đã được cúng dường ở một bảo tháp và cúng dường ở bảo tháp khác, thì được phép. Sau khi thấy đang đứng là sau khi thấy đang cầm phần còn lại. Đừng cho con chó này, hãy cho con chó kia điều này chỉ trong trường hợp đã được dự định. Còn trong trường hợp đã được từ bỏ và cho loài bàng sanh, được phép đuổi nó đi và cho con khác ăn. Trong cả ba sách cương yếu có nói: “bằng câu ‘chúng con nên cho ở đâu’ v.v…, sự vô tội đã được chỉ ra trong Pāḷi bằng một hình thức; nhưng ngay cả khi không được hỏi như vậy, người biết rằng đây là vật chưa được dự định, được phép cho người khác dâng ở nơi mình muốn theo ý thích.” Nơi nào quý vị muốn, hãy cho ở đó ở đây cũng vậy, do đã được nói “theo ý thích của quý vị,” nên được phép cho người khác dâng ở nơi mình muốn. Chỉ theo phương pháp đã được đề cập trong Pāḷi là theo phương pháp bằng câu “nơi nào là vật cúng dường của quý vị” v.v… Tình trạng đã được dự định cho Tăng chúng, việc biết điều đó và làm thay đổi cho mình, và sự nhận được, đây là ba yếu tố ở đây.

Pariṇatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần tường giải về học giới (vật) đã được dự định.

Niṭṭhito pattavaggo tatiyo.
Kết thúc phẩm Bát thứ ba.

Iti samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya sāratthadīpaniyaṃ
Như vậy, trong bộ Sāratthadīpanī, chú giải Luật Samantapāsādikā

Nissaggiyavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần tường giải về các tội Ưng Xả Đối Trị đã kết thúc.

Dutiyo bhāgo niṭṭhito.
Phần thứ hai đã kết thúc.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang