Phụ chú giải Tạng Luật

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi III – Phẩm Kathina

7. Kathinakkhandhakaṃ
7. Thiên Kaṭhina

Kathinānujānanakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Cho Phép Lễ Kaṭhina

306. Kathinakkhandhake sīsavasenāti padhānaṅgavasena. ‘‘Kathinanti pañcānisaṃse antokaraṇasamatthatāya thiranti attho’’ti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. ‘‘So nesaṃ bhavissatī’’ti yujjatīti ‘‘so tumhāka’’nti avatvā ‘‘nesa’’nti vacanaṃ yujjati. Ye atthatakathināti na kevalaṃ tumhākameva, ye aññepi atthatakathinā, tesampi bhavissatīti attho. Anāmantetvā caraṇanti cārittasikkhāpade vuttanayena anāpucchitvā kulesu caraṇaṃ. Matakacīvaranti matassa santakaṃ cīvaraṃ. Tatruppādena ābhatanti vihārasantakena khettavatthuādinā ānītaṃ.
306. Trong thiên Kaṭhina, theo phương diện chính là theo phương diện yếu tố chủ đạo. Trong Gaṇṭhipadā có nói: “‘Kaṭhina’ có nghĩa là vững chắc do có khả năng bao gồm năm lợi ích.” “Nó sẽ là của họ” thì hợp lý là việc nói “của họ” thay vì nói “của các ngươi” là hợp lý. Những người đã trải y kaṭhina có nghĩa là không chỉ của riêng các ngươi, mà còn của cả những người khác đã trải y kaṭhina. Việc đi lại mà không xin phép là việc đi lại trong các gia đình mà không hỏi trước theo cách đã được nói trong điều học về hạnh kiểm. Y của người đã chết là y thuộc về người đã chết. Y được mang đến từ sản vật của tu viện đó là y được mang đến từ ruộng đất, v.v., thuộc về tu viện.

Paṭhamapavāraṇāya pavāritāti idaṃ vassacchedaṃ akatvā vassaṃvutthabhāvasandassanatthaṃ vuttaṃ antarāyena appavāritānampi vutthavassānaṃ kathinatthārasambhavato. Teneva ‘‘appavāritā vā’’ti avatvā ‘‘chinnavassā vā pacchimikāya upagatā vā na labhantī’’ti ettakameva vuttaṃ. Aññasmiṃ vihāre vutthavassāpi na labhantīti nānāsīmāya aññasmiṃ vihāre vutthavassā imasmiṃ vihāre kathinatthāraṃ na labhantīti attho. Khalimakkhitasāṭakoti ahatavatthaṃ sandhāya vuttaṃ. Dānakammavācāti kathinadussadānakammavācā. Akātuṃ na labbhatīti iminā anādariyena akarontassa dukkaṭanti dīpeti. Kammavācā pana ekāyeva vaṭṭatīti kathinatthārasāṭakassa dānakāle vuttā ekāyeva kammavācā vaṭṭati. Puna tassa aññasmiṃ vatthe diyyamāne kammavācāya dātabbakiccaṃ natthi, apalokanameva alanti adhippāyo.
Đã tự tứ trong lễ Tự tứ đầu tiên, điều này được nói để chỉ ra tình trạng đã an cư mùa mưa mà không làm gián đoạn an cư, vì lễ trải y kaṭhina có thể diễn ra ngay cả đối với những người đã an cư mùa mưa nhưng chưa tự tứ do có trở ngại. Chính vì thế, thay vì nói “hoặc chưa tự tứ,” chỉ có câu “những người đã gián đoạn an cư hoặc đã nhập hậu an cư thì không được nhận” được nói đến. Những người đã an cư mùa mưa ở một tu viện khác cũng không được nhận có nghĩa là những người đã an cư mùa mưa ở một tu viện khác có giới sīmā khác thì không được nhận lễ trải y kaṭhina ở tu viện này. Một tấm vải mới là nói về một tấm vải chưa được may mặc. Tăng sự tuyên ngôn về việc cúng dường là Tăng sự tuyên ngôn về việc cúng dường tấm vải kaṭhina. Không được phép không làm, bằng câu này, ngài chỉ ra rằng người không làm do không tôn trọng sẽ phạm tội Tác Ác. Nhưng chỉ một Tăng sự tuyên ngôn là được phép, ý muốn nói rằng, vào lúc cúng dường tấm vải để trải y kaṭhina, chỉ một Tăng sự tuyên ngôn đã được đọc là đủ. Sau đó, khi một tấm vải khác được cúng dường, không cần phải cúng dường bằng Tăng sự tuyên ngôn, chỉ cần biểu quyết chấp thuận là đủ.

308.Mahābhūmikanti mahāvisayaṃ, catuvīsatiākāravantatāya mahāvitthārikanti vuttaṃ hoti. Pañcakanti pañcakhaṇḍaṃ. Esa nayo sesesupi. Paṭhamacimilikāti kathinavatthato aññā attano pakaticimilikā. ‘‘Kucchicimilikaṃ katvā sibbitamattenāti thirajiṇṇānaṃ cimilikānaṃ ekato katvā sibbanassetaṃ adhivacana’’nti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Mahāpaccariyaṃ kurundiyañca ‘‘vuttavacananidassanaṃ byañjane eva bhedo, atthe natthīti dassanatthaṃ kata’’nti vadanti. Piṭṭhianuvātāropanamattenāti dīghato anuvātassa āropanamattena. Kucchianuvātāropanamattenāti puthulato anuvātassa āropanamattena. Sāruppaṃ hotīti samaṇasāruppaṃ hoti. Rattinissaggiyenāti rattiatikkantena.
308.Có nền tảng lớn là có phạm vi lớn, có nghĩa là có quy mô rộng lớn do có hai mươi bốn thể loại. Năm mảnh là năm mảnh vải. Phương pháp này cũng tương tự trong các trường hợp còn lại. Miếng vá ban đầu là miếng vá thông thường của mình, khác với tấm vải kaṭhina. Trong Gaṇṭhipadā có nói: “Chỉ bằng việc may sau khi đã làm miếng vá bụng, đây là tên gọi của việc may sau khi đã gom những miếng vá cũ và mới lại với nhau.” Trong Mahāpaccarī và Kurundī, người ta nói: “việc trình bày câu nói đã được trích dẫn được thực hiện để chỉ ra rằng chỉ có sự khác biệt về từ ngữ, không có sự khác biệt về ý nghĩa.” Chỉ bằng việc đắp miếng vá dọc theo lưng là chỉ bằng việc đắp miếng vá dọc theo chiều dài. Chỉ bằng việc đắp miếng vá dọc theo bụng là chỉ bằng việc đắp miếng vá dọc theo chiều rộng. Là điều thích hợp là điều thích hợp với một vị sa-môn. Do đã quá đêm là do đã trôi qua đêm.

Kathinānujānanakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về việc cho phép lễ Kaṭhina.

Ādāyasattakādikathāvaṇṇanā
Giải Thích về Bảy Trường Hợp Mang Đi, v.v.

311.Ayanti āsāvacchediko kathinuddhāro. Idha na vuttoti pāḷiyaṃ mātikāpadabhājane savanantikānantaraṃ na vutto. Tatthāti tasmiṃ sīmātikkantike kathinuddhāre. ‘‘Sīmātikkantiko nāma cīvarakālasīmātikkantiko’’ti kenaci vuttaṃ. ‘‘Bahisīmāyaṃ cīvarakālasamayassa atikkantattā sīmātikkantiko’’ti ayaṃ amhākaṃ khanti. Sahubbhāre ‘‘so katacīvaro’’ti pāṭho dissati, evañca sati cīvarapalibodho paṭhamaṃ chijjatīti viññāyati, idha pana parivārapāḷiyañca ‘‘dve palibodhā apubbaṃ acarimaṃ chijjantī’’ti (pari. 415) vacanato taṃ na sameti, tasmā vīmaṃsitabbamettha kāraṇaṃ.
311.Điều này là sự xả kaṭhina do mất hy vọng về y. Không được nói ở đây là không được nói trong Pāḷi, trong phần phân tích các đề mục, ngay sau phần về sự nghe tin. Ở đó là trong trường hợp xả kaṭhina do đi quá giới sīmā đó. Một người nào đó đã nói: “Sự xả kaṭhina do đi quá giới sīmā là sự xả kaṭhina do đi quá giới sīmā của thời gian làm y.” Quan điểm của chúng tôi là: “do đã quá thời gian làm y ở bên ngoài giới sīmā, nên gọi là sự xả kaṭhina do đi quá giới sīmā.” Trong bản Sahubbhāra, có thấy câu “vị ấy đã làm xong y,” và nếu vậy, có thể hiểu rằng sự ràng buộc về y được chấm dứt trước tiên, nhưng ở đây, trong kinh Parivāra, theo câu “hai sự ràng buộc được chấm dứt không trước không sau” (pari. 415), điều đó không phù hợp, do đó cần phải xem xét lý do ở đây.

312. ‘‘Samādāyavāro ādāyavārasadiso, upasaggamattamettha viseso’’ti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Keci pana ‘‘sabbaṃ attano parikkhāraṃ anavasesetvā pakkamanto ‘samādāya pakkamatī’ti vuccatī’’ti vadanti. Puna samādāyavārepi teyeva dassitāti sambandho. Vippakatacīvare pakkamanantikassa kathinuddhārassa asambhavato ‘‘yathāsambhava’’nti vuttaṃ. Pakkamanantiko hi kathinuddhāro niṭṭhitacīvarasseva vasena vutto ‘‘bhikkhu atthatakathino katacīvaraṃ ādāya pakkamatī’’ti vuttattā, tasmā so vippakatacīvaro na sambhavatīti chaḷeva ubbhārā tattha dassitā.
312. Trong Gaṇṭhipadā có nói: “Trường hợp mang đi tất cả giống như trường hợp mang đi một phần, ở đây chỉ khác nhau về tiếp đầu ngữ.” Nhưng một số người nói: “người ra đi mà không để lại bất kỳ tài sản nào của mình được gọi là ‘ra đi và mang theo tất cả.’” Được liên kết với câu: lại trong trường hợp mang đi tất cả cũng chỉ ra những điều tương tự. Do không thể có sự xả kaṭhina ngay sau khi ra đi đối với y đang làm dở, nên đã nói: “tùy theo trường hợp có thể.” Thật vậy, sự xả kaṭhina ngay sau khi ra đi chỉ được nói theo trường hợp của người đã làm xong y, vì đã có nói: “một vị Tỳ-khưu đã được trải y kaṭhina, sau khi đã làm xong y, mang đi và ra đi,” do đó, điều đó không thể xảy ra đối với y đang làm dở, vì vậy chỉ có sáu trường hợp xả kaṭhina được chỉ ra ở đó.

Tatrāyaṃ ādito paṭṭhāya vāravibhāvanā – ādāyavārā satta, tathā samādāyavārāti dve sattakavārā, tato pakkamanantikaṃ vajjetvā vippakatacīvarassa ādāyasamādāyavāravasena dve chakkavārā, tato paraṃ niṭṭhānasanniṭṭhānanāsanantikānaṃ vasena tīṇi tikāni dassitāni. Tattha paṭhamattikaṃ antosīmāyaṃ ‘‘paccessaṃ na paccessa’’nti imaṃ vidhiṃ anāmasitvā bahisīmāyameva ‘‘na paccessa’’nti pavattaṃ, tasmā pakkamanantikasīmātikkantikasaubbhārā tattha na yujjanti. Dutiyattikaṃ antosīmāyaṃ ‘‘na paccessa’’nti pavattaṃ. Tatiyattikaṃ anadhiṭṭhita-padena visesetvā pavattaṃ, atthato paṭhamattikena sameti. Anadhiṭṭhitenāti ca ‘‘paccessaṃ na paccessa’’nti evaṃ anadhiṭṭhitena, aniyamitenāti attho. Tatiyattikānantaraṃ catutthattikaṃ sambhavantaṃ antosīmāyaṃ ‘‘paccessa’’nti vacanavisesena sambhavati. Tathā ca yojiyamānaṃ itarehi savanantikādīhi aviruddhaṃ hotīti catutthattikaṃ ahutvā chakkaṃ jātanti veditabbaṃ. Evaṃ tīṇi tikāni ekaṃ chakkañcāti paṭhamaṃ pannarasakaṃ veditabbaṃ.
Ở đây, đây là sự phân tích các trường hợp từ đầu – có bảy trường hợp mang đi một phần, cũng vậy có các trường hợp mang đi tất cả, nên có hai bộ bảy trường hợp; sau đó, ngoại trừ trường hợp ngay sau khi ra đi, có hai bộ sáu trường hợp theo phương diện mang đi một phần và mang đi tất cả đối với y đang làm dở; sau đó, ba bộ ba trường hợp được chỉ ra theo phương diện hoàn thành, quyết định, và mất hy vọng. Trong đó, bộ ba đầu tiên diễn ra khi ở bên ngoài giới sīmā và quyết định “sẽ không trở lại,” mà không đề cập đến phương pháp “sẽ trở lại, sẽ không trở lại” khi ở trong giới sīmā, do đó các trường hợp xả kaṭhina ngay sau khi ra đi, do đi quá giới sīmā, và cùng lúc xả không phù hợp ở đó. Bộ ba thứ hai diễn ra khi ở trong giới sīmā và quyết định “sẽ không trở lại.” Bộ ba thứ ba diễn ra với sự phân biệt bằng từ không quyết định, về mặt ý nghĩa, nó giống với bộ ba đầu tiên. Bởi không quyết định có nghĩa là không quyết định, không xác định rằng “sẽ trở lại, sẽ không trở lại.” Sau bộ ba thứ ba, bộ ba thứ tư có thể xảy ra, nó xảy ra với sự phân biệt bằng lời nói “sẽ trở lại” khi ở trong giới sīmā. Và khi được áp dụng như vậy, nó không mâu thuẫn với các trường hợp khác như nghe tin, v.v., do đó cần phải hiểu rằng thay vì là bộ ba thứ tư, nó đã trở thành một bộ sáu. Như vậy, cần phải hiểu có ba bộ ba và một bộ sáu, tức là bộ mười lăm đầu tiên.

316-320. Tato idameva pannarasakaṃ upasaggavisesena dutiyaṃ samādāyapannarasakaṃ nāma kataṃ. Puna ‘‘vippakatacīvaraṃ ādāyā’’ti tatiyaṃ pannarasakaṃ, ‘‘samādāyā’’ti catutthaṃ pannarasakaṃ dassitanti evaṃ cattāri pannarasakāni veditabbāni. Tattha paṭhamadutiyesu pannarasakesu sabbena sabbaṃ akatacīvaraṃ adhippetaṃ, itaresu dvīsu vippakatanti veditabbaṃ. Tato paraṃ ‘‘cīvarāsāya pakkamatī’’tiādinā nayena niṭṭhānasanniṭṭhānanāsanaāsāvacchedikavasena eko vāroti idamekaṃ catukkaṃ jātaṃ, tasmā pubbe vuttāni tikāni āsāvacchedikāni tīṇi ca tikānīti etaṃ anāsāyadvādasakanti veditabbaṃ. Tadanantare āsāyadvādasake kiñcāpi paṭhamaṃ dvādasakaṃ labbhati, tathāpi taṃ nibbisesanti tamekaṃ dvādasakaṃ avuttasiddhaṃ katvā visesato dassetuṃ ādito paṭṭhāya ‘‘antosīmāyaṃ paccessa’’nti vuttaṃ. Taṃ dutiyacatukke ‘‘so bahisīmagato suṇātī’’tiādivacanassa tatiyacatukke savanantikādīnañca okāsakaraṇatthanti veditabbaṃ. Idaṃ pana dvādasakaṃ anāsāyavasenapi labbhamānaṃ iminā avuttasiddhaṃ katvā na dassitanti veditabbaṃ. Evamettha dve dvādasakāni uddharitabbāni. Karaṇīyadvādasakepi yathādassitaṃ anāsāyadvādasakaṃ avuttasiddhaṃ āsāyadvādasakañcāti dve dvādasakāni uddharitabbāni.
316-320. Sau đó, chính bộ mười lăm này, với sự khác biệt về tiếp đầu ngữ, đã trở thành bộ mười lăm thứ hai, được gọi là bộ mười lăm mang đi tất cả. Lại nữa, “mang đi y đang làm dở” là bộ mười lăm thứ ba, “mang đi tất cả” là bộ mười lăm thứ tư được chỉ ra, như vậy cần phải hiểu có bốn bộ mười lăm. Trong đó, trong hai bộ mười lăm đầu tiên, ý muốn nói đến y hoàn toàn chưa được làm, trong hai bộ còn lại, cần phải hiểu là y đang làm dở. Sau đó, theo cách “ra đi vì hy vọng về y,” v.v., có một trường hợp theo phương diện hoàn thành, quyết định, mất hy vọng và mất hy vọng về y, đây trở thành một bộ bốn, do đó cần phải hiểu rằng các bộ ba đã nói trước đây là ba bộ ba mất hy vọng về y, và đây là bộ mười hai không có hy vọng. Trong bộ mười hai có hy vọng tiếp theo, mặc dù bộ mười hai đầu tiên có thể được áp dụng, nhưng vì nó không có gì đặc biệt, nên bộ mười hai đó được xem là đã được hiểu ngầm và không được nói ra, và để chỉ ra một cách đặc biệt, từ đầu đã nói: “sẽ trở lại khi ở trong giới sīmā.” Điều đó cần được hiểu là để tạo cơ hội cho các lời nói như “vị ấy nghe tin khi đã ra ngoài giới sīmā,” v.v., trong bộ bốn thứ hai, và cho các trường hợp nghe tin, v.v., trong bộ bốn thứ ba. Nhưng cần phải hiểu rằng bộ mười hai này, dù có thể được áp dụng theo phương diện không có hy vọng, đã được xem là đã được hiểu ngầm và không được chỉ ra bằng cách này. Như vậy, ở đây cần phải nêu ra hai bộ mười hai. Trong bộ mười hai có công việc, cũng cần phải nêu ra hai bộ mười hai: bộ mười hai không có hy vọng đã được chỉ ra như là đã được hiểu ngầm, và bộ mười hai có hy vọng.

321-322. Yasmā disaṃgamikanavake ‘‘disaṃgamiko pakkamatī’’ti vacaneneva ‘‘na paccessa’’nti idaṃ avuttasiddhameva, tasmā taṃ na vuttaṃ. Ettāvatā ca āvāsapalibodhābhāvo dassito. Cīvarapaṭivīsaṃ apavilāyamānoti iminā cīvarapalibodhasamaṅgitamassa dasseti. Tattha cīvarapaṭivīsanti attano pattabbacīvarabhāgaṃ. Apavilāyamānoti ākaṅkhamāno. Tassa cīvaralābhe sati vassaṃvutthāvāse niṭṭhānasanniṭṭhānanāsanantikānaṃ vasena ekaṃ tikaṃ, tesaṃyeva vasena antarāmagge ekaṃ, gataṭṭhāne ekanti tiṇṇaṃ tikānaṃ vasena ekaṃ navakaṃ veditabbaṃ.
321-322. Bởi vì trong chín trường hợp đi xa, chỉ bằng lời nói “người đi xa ra đi,” điều “sẽ không trở lại” này đã được hiểu ngầm, do đó nó đã không được nói ra. Bằng chừng ấy, tình trạng không có sự ràng buộc về trú xứ đã được chỉ ra. Không từ bỏ phần y của mình, bằng câu này, ngài chỉ ra tình trạng của người có sự ràng buộc về y. Ở đây, phần y là phần y mà mình sẽ được nhận. Không từ bỏ là đang mong đợi. Đối với người đó, khi có được y, có một bộ chín trường hợp được hiểu theo phương diện của ba bộ ba: một bộ ba theo phương diện hoàn thành, quyết định, và mất hy vọng tại trú xứ đã an cư mùa mưa, một bộ ba theo phương diện của chúng trên đường đi, và một bộ ba tại nơi đã đến.

324. Tato paraṃ niṭṭhānasanniṭṭhānanāsanantikasīmātikkantikasaubbhārānaṃ vasena phāsuvihārapañcakaṃ vuttaṃ. Sesamettha pāḷito aṭṭhakathāto ca suviññeyyameva.
324. Sau đó, một bộ năm trường hợp sống thoải mái đã được nói theo phương diện của các trường hợp hoàn thành, quyết định, mất hy vọng, đi quá giới sīmā, và cùng lúc xả. Phần còn lại ở đây có thể được hiểu rõ từ Pāḷi và chú giải.

Ādāyasattakādikathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về bảy trường hợp mang đi, v.v.

Kathinakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích thiên Kaṭhina.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang