Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi III – Phẩm Ưng Đối Trị
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Giác
Vinayapiṭake
Trong tạng Luật
Sāratthadīpanī-ṭīkā (tatiyo bhāgo)
Sāratthadīpanī-ṭīkā (phần thứ ba)
5. Pācittiyakaṇḍaṃ
5. Phẩm Ưng Đối Trị
1. Musāvādavaggo
1. Phẩm Nói Dối
1. Musāvādasikkhāpadavaṇṇanā
1. Sự giải về điều học nói dối
1. Musāvādavaggassa paṭhamasikkhāpade khuddakānanti ettha ‘‘khuddaka-saddo bahu-saddapariyāyo . Bahubhāvato imāni khuddakāni nāma jātānī’’ti vadanti. Tatthāti tesu navasu vaggesu, tesu vā khuddakesu. Kāraṇena kāraṇantarapaṭicchādanameva vibhāvetuṃ ‘‘rūpaṃ anicca’’ntiādimāha. Rūpaṃ aniccanti paṭijānitvā tattha kāraṇaṃ vadanto ‘‘jānitabbato’’ti āha. ‘‘Yadi evaṃ nibbānassapi aniccatā āpajjatī’’ti parena vutto taṃ kāraṇaṃ paṭicchādetuṃ puna ‘‘jātidhammato’’ti aññaṃ kāraṇaṃ vadati.
1. Trong điều học đầu tiên của Phẩm Nói Dối, ở đây có từ của các điều nhỏ nhặt, về điều này, có người nói rằng: “‘nhỏ nhặt’ là từ đồng nghĩa với từ ‘nhiều.’ Do có nhiều nên những điều này được gọi là nhỏ nhặt.” Ở đó nghĩa là trong chín phẩm ấy, hoặc trong các điều nhỏ nhặt ấy. Để làm rõ việc che đậy một lý do bằng một lý do khác, ngài đã nói: “Sắc là vô thường” v.v… Sau khi thừa nhận sắc là vô thường, khi nói về lý do ở đó, vị ấy đã nói: “Vì là đối tượng cần được biết đến.” Khi bị người khác nói: “Nếu vậy, Niết-bàn cũng sẽ trở thành vô thường,” để che đậy lý do đó, vị ấy lại nói một lý do khác là: “Vì có bản chất sanh khởi.”
‘‘Sampajānaṃ musā bhāsatī’’ti vattabbe sampajāna musā bhāsatīti anunāsikalopena niddesoti āha ‘‘jānanto musā bhāsatī’’ti.
Đáng lẽ phải nói là “cố ý nói dối,” nhưng lại được chỉ định là cố ý nói dối với việc lược bỏ âm mũi, nên ngài nói là “biết mà nói dối.”
2.Jānitvā jānantassa ca musā bhaṇaneti pubbabhāgepi jānitvā vacanakkhaṇepi jānantassa musā bhaṇane. Bhaṇanañca nāma idha abhūtassa vā bhūtataṃ bhūtassa vā abhūtataṃ katvā kāyena vā vācāya vā viññāpanapayogo. Sampajānamusāvādeti ca nimittatthe bhummavacanaṃ, tasmā yo sampajāna musā vadati, tassa taṃnimittaṃ taṃhetu tappaccayā pācittiyaṃ hotīti evamettha aññesu ca īdisesu attho veditabbo.
2.Trong việc biết và nói dối với người biết nghĩa là, đã biết ở giai đoạn trước và cũng biết vào khoảnh khắc nói ra, trong việc nói dối. Và ở đây, việc nói dối có tên là sự nỗ lực thông báo bằng thân hoặc bằng lời, bằng cách làm cho điều không có thật thành có thật, hoặc điều có thật thành không có thật. Về việc cố ý nói dối, đây là cách dùng biến cách thứ bảy với ý nghĩa là dấu hiệu. Do đó, vị nào cố ý nói dối, vị ấy bị tội Ưng Đối Trị do dấu hiệu ấy, do nguyên nhân ấy, do duyên ấy; ý nghĩa ở đây và ở những trường hợp tương tự khác nên được hiểu như vậy.
3. Visaṃvādenti etenāti visaṃvādanaṃ, vañcanādhippāyavasappavattaṃ cittaṃ. Tenāha ‘‘visaṃvādanacittaṃ purato katvā vadantassā’’ti. Vadati etāyāti vācā, vacanasamuṭṭhāpikā cetanā. Tenāha ‘‘micchāvācā…pe… cetanā’’ti. Pabhedagatā vācāti anekabhedabhinnā. Evaṃ paṭhamapadena suddhacetanā…pe… kathitāti veditabbāti iminā imaṃ dīpeti – suddhacetanā vā suddhasaddo vā suddhaviññatti vā musāvādo nāma na hoti, viññattiyā saddena ca sahitā taṃsamuṭṭhāpikā cetanā musāvādoti. Cakkhuvasena aggahitārammaṇanti cakkhusannissitena viññāṇena aggahitamārammaṇaṃ. Ghānādīnaṃ tiṇṇaṃ indriyānaṃ sampattavisayaggāhakattā vuttaṃ ‘‘tīhi indriyehi ekābaddhaṃ viya katvā’’ti. ‘‘Dhanunā vijjhatī’’tiādīsu viya ‘‘cakkhunā diṭṭha’’nti ayaṃ vohāro loke pākaṭoti āha ‘‘oḷārikeneva nayenā’’ti.
3. Người ta lừa dối bằng cái này, nên được gọi là sự lừa dối, đó là tâm khởi lên do ý định lừa gạt. Do đó, ngài nói: “của người nói với tâm lừa dối đi trước.” Người ta nói bằng cái này nên gọi là lời nói, đó là tác ý làm khởi sanh lời nói. Do đó, ngài nói: “lời nói sai trái… cho đến… tác ý.” Lời nói đã đi đến sự phân loại nghĩa là đã được phân chia thành nhiều loại. Như vậy, cần phải biết rằng bằng thành phần đầu tiên, tác ý đơn thuần… cho đến… đã được nói đến, qua điều này, ngài chỉ ra rằng: Tác ý đơn thuần, hoặc lời nói đơn thuần, hoặc sự biểu đạt đơn thuần thì không gọi là nói dối; chính tác ý làm khởi sanh lời nói và sự biểu đạt đi kèm với nó mới là nói dối. Đối tượng không được nắm bắt qua nhãn căn nghĩa là đối tượng không được nắm bắt bởi thức nương vào nhãn căn. Do ba căn là khứu giác v.v… có khả năng nắm bắt đối tượng đã đến, nên được nói rằng “giống như đã được kết hợp làm một bởi ba căn.” Giống như trong các câu “bắn bằng cung” v.v…, cách nói “thấy bằng mắt” này đã trở nên phổ biến trong thế gian, nên ngài nói “chỉ theo phương pháp thô thiển.”
11.Avīmaṃsitvāti anupaparikkhitvā. Anupadhāretvāti avinicchinitvā. Jaḷattāti aññāṇatāya. Dārusakaṭaṃ yojetvā gatoti dārusakaṭaṃ yojetvā tattha nisīditvā gatoti adhippāyo. Gato bhavissatīti tatheva sanniṭṭhānaṃ katvā vuttattā musāvādo jāto. Keci pana ‘‘keḷiṃ kurumānoti vuttattā evaṃ vadanto dubbhāsitaṃ āpajjatī’’ti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ . Jātiādīhiyeva hi dasahi akkosavatthūhi davakamyatāya vadantassa dubbhāsitaṃ vuttaṃ. Vuttañhetaṃ –
11.Không thẩm xét nghĩa là không xem xét kỹ lưỡng. Không suy xét nghĩa là không quyết định chắc chắn. Do sự ngu dốt nghĩa là do sự không hiểu biết. Đã thắng xe gỗ rồi đi có ý nghĩa là đã thắng xe gỗ, ngồi lên đó rồi đi. “Chắc là đã đi rồi,” do đã nói sau khi đưa ra kết luận như vậy nên đã trở thành nói dối. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “Do đã nói là ‘đang nói đùa,’ nên khi nói như vậy sẽ phạm tội Tác Ác,” điều đó không nên được chấp nhận. Thật vậy, tội Tác Ác đã được nói đến cho người nói với ý muốn trêu chọc bằng mười sự phỉ báng là dòng dõi v.v… Về điều này đã được nói rằng –
‘‘Hīnukkaṭṭhehi ukkaṭṭhaṃ, hīnaṃ vā jātiādihi;
Ujuṃ vāññāpadesena, vade dubbhāsitaṃ davā’’ti.
“Kẻ cao quý bởi điều thấp hèn, hoặc kẻ thấp hèn bởi dòng dõi v.v…;
Nói thẳng hay nói bóng gió, nói trêu chọc là Tác Ác”.
Cittena thokatarabhāvaṃyeva aggahetvā bahubhāvaṃyeva gahetvā vuttattā ‘‘gāmo ekatelo’’tiādināpi musāvādo jāto. Cāresunti upanesuṃ. Visaṃvādanapurekkhāratā, visaṃvādanacittena yamatthaṃ vattukāmo, tassa puggalassa viññāpanapayogo cāti imānettha dve aṅgāni . Uttarimanussadhammārocanatthaṃ musā bhaṇantassa pārājikaṃ, amūlakena pārājikena anuddhaṃsanatthaṃ saṅghādiseso, saṅghādisesena anuddhaṃsanatthaṃ pācittiyaṃ, ācāravipattiyā dukkaṭaṃ, ‘‘yo te vihāre vasatī’’tiādipariyāyena uttarimanussadhammārocanatthaṃ paṭivijānantassa musā bhaṇite thullaccayaṃ, appaṭivijānantassa dukkaṭaṃ, kevalaṃ musā bhaṇantassa idha pācittiyaṃ vuttaṃ.
Do tâm không nắm bắt tình trạng ít hơn mà chỉ nắm bắt tình trạng nhiều hơn, nên khi nói câu: “Ngôi làng có một người bán dầu” v.v…, cũng đã trở thành nói dối. “Các sứ giả” có nghĩa là họ đã trình lên. Việc có ý định lừa dối đi trước, và sự nỗ lực thông báo cho người mà mình muốn nói với tâm lừa dối về một sự việc nào đó; đây là hai chi phần ở trường hợp này. Khi nói dối nhằm mục đích khoe khoang pháp thượng nhân thì phạm tội Bất Cộng Trụ; khi nhằm mục đích vu khống (người khác) bằng tội Bất Cộng Trụ không có căn cứ thì phạm tội Tăng Tàn; khi nhằm mục đích vu khống bằng tội Tăng Tàn thì phạm tội Ưng Đối Trị; do sự hư hỏng về oai nghi thì phạm tội Tác Ác; khi nói dối nhằm mục đích khoe khoang pháp thượng nhân bằng cách nói quanh co như: “vị nào sống trong trú xứ của ngài…” đối với người hiểu biết thì phạm tội Trọng Tội, đối với người không hiểu biết thì phạm tội Tác Ác; ở đây, tội Ưng Đối Trị được nói đến cho người chỉ đơn thuần nói dối.
Musāvādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học nói dối đã kết thúc.
2. Omasavādasikkhāpadavaṇṇanā
2. Sự giải về điều học nói lời miệt thị
12. Dutiye kaṇṇakaṭukatāya amanāpaṃ vadantā kaṇṇesu vijjhantā viya hontīti āha ‘‘omasantīti ovijjhantī’’ti. Padhaṃsentīti abhibhavanti.
12. Ở điều học thứ hai, do sự chói tai, những người nói lời không vừa ý thì giống như đang đâm vào tai, nên ngài nói: “‘Miệt thị’ có nghĩa là ‘đâm xoi.’” “Hủy mắng” có nghĩa là lấn át.
13.Bodhisatto tena samayena hotīti tena samayena bodhisatto nandivisālo nāma ahosīti attho. Atītatthe vattamānavacanaṃ, kiriyākālavacanicchāya vā vattamānappayogo saddantarasannidhānena bhūtatāvagamo siyāti. Paccesīti ‘‘amanāpaṃ ida’’nti aññāsi. Heṭṭhārukkhe datvāti upatthambhake datvā. Pubbe patiṭṭhitārappadesaṃ puna are patteti pubbe ujukaṃ heṭṭhāmukhaṃ patiṭṭhitaarassa bhūmippadesaṃ puna tasmiṃyeva are parivattetvā heṭṭhāmukhabhāvena sampatte, paṭhamaṃ bhūmiyaṃ patiṭṭhitanemippadese parivattetvā puna bhūmiyaṃ patiṭṭhiteti vuttaṃ hoti. Sithilakaraṇanti sithilakiriyā.
13.Câu “Vị Bồ-tát vào lúc bấy giờ” có nghĩa là vào lúc bấy giờ, vị Bồ-tát có tên là Nandivisāla. Đây là cách dùng thì hiện tại với ý nghĩa quá khứ, hoặc là cách dùng thì hiện tại do mong muốn diễn tả thời gian của hành động, và sự nhận biết về thì quá khứ có thể có được nhờ vào sự liên kết với các từ khác. “Đã nhận thấy” có nghĩa là đã biết rằng: “Điều này không vừa ý.” “Sau khi đã đặt các cây chống ở dưới” có nghĩa là sau khi đã đặt các trụ chống. “Khi nơi chốn của căm xe đã được thiết lập trước đây một lần nữa chạm đến căm xe,” điều này được nói có nghĩa là: sau khi xoay tròn phần vành bánh xe vốn đã được thiết lập ở mặt đất lần đầu tiên, nó lại được thiết lập ở mặt đất một lần nữa. “Sự làm cho lỏng lẻo” có nghĩa là hành động nới lỏng.
15.Pubbeti aṭṭhuppattiyaṃ. Tacchakakammanti vaḍḍhakīkammaṃ. Koṭṭakakammanti vā pāsāṇakoṭṭakakammaṃ . Hatthamuddāgaṇanāti aṅgulisaṅkoceneva gaṇanā. Pādasikamilakkhakādayo viya navantavasena gaṇanā acchiddakagaṇanā. Ādi-saddena saṅkalanapaṭuppādanavoklanabhāgahārādivasena pavattā piṇḍagaṇanā gahitā. Yassa sā paguṇā hoti, so rukkhampi disvā ‘‘ettakāni ettha paṇṇānī’’ti jānāti. Yabha methuneti vacanato ya-kāra bha-kāre ekato yojite asaddhammavacanaṃ hoti.
15.“Trước đây” nghĩa là trong phần sự tích. “Việc của thợ chạm” là việc của thợ mộc. Hoặc “việc của thợ đập” là việc của thợ đập đá. “Việc tính bằng dấu tay” là việc tính toán chỉ bằng cách co các ngón tay. Việc tính toán theo cách thức mới mẻ giống như những người Milakkha ở Pāda, là sự tính toán không có sai sót. Bằng từ v.v…, sự tính gộp được thực hiện theo cách cộng, nhân, trừ, chia, v.v… được bao gồm. Người nào thành thạo việc ấy, vị ấy thậm chí khi thấy một cái cây cũng biết rằng: “Ở đây có chừng này lá.” Do (quy tắc) ‘Yabha methune,’ khi mẫu tự ‘ya’ và mẫu tự ‘bha’ được kết hợp lại với nhau thì trở thành lời nói về việc phi pháp.
16-26.Āpattiyākāretabboti pācittiyena kāretabbo upasaggādimattavisiṭṭhānaṃ aticaṇḍālādipadānaṃ pāḷiyaṃ āgatesuyeva saṅgahitattā. Corosītiādīnaṃ pana kenaci pariyāyena pāḷiyaṃ anāgatattā dukkaṭaṃ vuttaṃ. Hasādhippāyatāti purimapadassa atthavivaraṇaṃ. Pāḷiyaṃ avuttepi ‘‘jātiādīhi akkosavatthūhi parammukhā akkosantassa vatthūnaṃ anaññabhāvato yathā dukkaṭaṃ, tathā davakamyatāya parammukhā vadantassapi dubbhāsitamevā’’ti ācariyā vadanti. Sabbasattāti ettha vacanatthavijānanapakatikā tiracchānagatāpi gahetabbā.
16-26.“Nên được xử tội” nghĩa là nên được xử tội Ưng Đối Trị, do các từ như ‘aticaṇḍāla’ (hạ tiện hơn người Chiên-đà-la) v.v… vốn chỉ được phân biệt bằng tiếp đầu ngữ v.v… đã được bao gồm trong Pāḷi. Tuy nhiên, đối với các câu như “Ngươi là kẻ trộm” v.v…, do không được đề cập trong Pāḷi bằng bất kỳ cách nói nào, nên tội Tác Ác đã được quy định. “Do có ý định nói đùa” là phần giải thích ý nghĩa của từ đứng trước. Mặc dù không được nói trong Pāḷi, các vị Giáo Thọ Sư nói rằng: “Giống như người mắng nhiếc sau lưng bằng những sự phỉ báng về dòng dõi v.v… phạm tội Tác Ác do các sự việc không có gì khác biệt, cũng vậy, người nói sau lưng với ý muốn trêu chọc cũng phạm tội Tác Ác.” Ở đây, trong từ “tất cả chúng sanh,” ngay cả các loài bàng sanh có bản chất hiểu được ý nghĩa của lời nói cũng cần được bao gồm.
35. Anusāsanipurekkhāratāya ṭhatvā vadantassa cittassa lahuparivattibhāvato antarā kope uppannepi anāpatti. Yaṃ akkosati, tassa upasampannatā, anaññāpadesena jātiādīhi akkosanaṃ, ‘‘maṃ akkosatī’’ti jānanā, atthapurekkhāratādīnaṃ abhāvatāti imānettha cattāri aṅgāni.
35. Đối với người đứng trên lập trường có ý muốn giáo huấn mà nói, do tâm có bản chất thay đổi nhanh chóng, nên dầu cho sân hận có khởi lên ở khoảng giữa thì cũng vô tội. Người bị mắng nhiếc, sự kiện người ấy là vị đã cụ túc viên mãn, việc mắng nhiếc bằng dòng dõi v.v… không dùng lời bóng gió, sự biết rằng “người ấy đang mắng ta,” và sự không có ý định lợi ích đi trước v.v…; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Omasavādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học nói lời miệt thị đã kết thúc.
3. Pesuññasikkhāpadavaṇṇanā
3. Sự giải về điều học nói đâm thọc
36. Tatiye bhaṇḍanaṃ jātaṃ etesanti bhaṇḍanajātā. Sammantananti raho saṃsandanaṃ. Hatthaparāmāsādivasena matthakaṃ patto kalaho jāto etesanti kalahajātā. Anāpattigāmikaṃ viruddhavādabhūtaṃ vivādaṃ āpannāti vivādāpannā. Viggahasaṃvattanikā kathā viggāhikakathā. Pisatīti pisuṇā, vācā, samagge satte avayavabhūte vagge bhinne karotīti attho. Pisuṇā eva pesuññaṃ. Tāya vācāya vā samannāgato pisuṇo, tassa kammaṃ pesuññaṃ. Piyabhāvassa suññakaraṇavācanti iminā pana ‘‘piyasuññakaraṇato pisuṇā’’ti niruttinayena atthaṃ vadati.
36. Ở điều học thứ ba, sự cãi cọ đã sanh khởi cho họ, nên họ là những người có sự cãi cọ đã sanh khởi. “Sự bàn bạc” nghĩa là sự trao đổi ở nơi kín đáo. Do việc đụng chạm tay v.v…, sự ẩu đả đã đạt đến đỉnh điểm đã sanh khởi cho họ, nên họ là những người có sự ẩu đả đã sanh khởi. Đã rơi vào sự tranh chấp, vốn là lời nói chống trái và đưa đến vô tội, nên là những người đã rơi vào sự tranh chấp. Lời nói dẫn đến sự tranh cãi là lời nói gây tranh cãi. ‘Nghiền nát,’ nên là lời nói đâm thọc. Đó là lời nói, có nghĩa là làm cho các chúng sanh đang hòa hợp, vốn như là các chi phần của một tập thể, trở nên chia rẽ. Chính lời nói đâm thọc là sự đâm thọc. Hoặc người được phú cho lời nói ấy là người hay đâm thọc, hành động của người ấy là sự đâm thọc. Tuy nhiên, bằng câu “lời nói làm cho tình thân trở nên trống rỗng” này, ngài nói lên ý nghĩa theo phương pháp từ nguyên là: “là lời nói đâm thọc do làm cho tình thân trở nên trống rỗng.”
Idhāpi ‘‘dasahākārehi pesuññaṃ upasaṃharatī’’ti vacanato dasavidhaakkosavatthuvaseneva pesuññaṃ upasaṃharantassa pācittiyaṃ. Pāḷimuttakānaṃ corotiādīnaṃ vasena pana dukkaṭamevāti veditabbaṃ . ‘‘Anakkosavatthubhūtaṃ pana pesuññakaraṃ tassa kiriyaṃ vacanaṃ vā piyakamyatāya upasaṃharantassa kiñcāpi iminā sikkhāpadena āpatti na dissati, tathāpi dukkaṭenettha bhavitabba’’nti vadanti. Jātiādīhi anaññāpadesena akkosantassa bhikkhuno sutvā bhikkhussa upasaṃharaṇaṃ, piyakamyatābhedādhippāyesu aññataratā, tassa vijānanāti imānettha tīṇi aṅgāni.
Ở đây cũng vậy, theo như câu “mang lời đâm thọc đến bằng mười cách,” đối với người mang lời đâm thọc đến bằng mười sự phỉ báng thì phạm tội Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, cần phải biết rằng, đối với các trường hợp ngoài Pāḷi như câu “là kẻ trộm” v.v… thì chỉ phạm tội Tác Ác. Có người nói rằng: “Tuy nhiên, đối với người vì muốn được thương mến mà mang đến hành động hoặc lời nói gây chia rẽ nhưng không phải là sự phỉ báng, mặc dù không thấy có tội theo điều học này, tuy nhiên ở đây nên có tội Tác Ác.” Việc nghe một Tỳ-khưu mắng nhiếc (người khác) bằng dòng dõi v.v… không dùng lời bóng gió rồi đi thuật lại cho Tỳ-khưu (bị mắng), một trong hai ý định là muốn được thương mến hoặc muốn gây chia rẽ, và sự kiện người kia hiểu được điều ấy; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Pesuññasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học nói đâm thọc đã kết thúc.
4. Padasodhammasikkhāpadavaṇṇanā
4. Sự giải về điều học đọc Pháp từng chữ
45. Catutthe ekatoti anupasampannena saddhiṃ. Purimabyañjanena sadisaṃ pacchābyañjananti ‘‘rūpaṃ anicca’’nti ettha anicca-saddena sadisaṃ ‘‘vedanā aniccā’’ti ettha anicca-saddaṃ vadati. Akkharasamūhoti avibhattiko akkharasamūho. Akkharānubyañjanasamūho padanti vibhattiantaṃ padamāha. Vibhattiantameva padaṃ gahetvā ‘‘paṭhamapadaṃ padameva, dutiyaṃ anupada’’nti vuttaṃ.
45. Ở điều học thứ tư, “cùng nhau” nghĩa là cùng với người chưa cụ túc viên mãn. “Phụ âm sau giống với phụ âm trước” nghĩa là, trong câu “sắc là vô thường,” vị ấy nói từ “vô thường” trong câu “thọ là vô thường” giống với từ “vô thường” (trong câu trước). “Tập hợp các mẫu tự” là tập hợp các mẫu tự không có biến cách. “Tập hợp các mẫu tự và phụ âm là một từ”, ngài nói đến từ có tận cùng bằng biến cách. Sau khi đã lấy từ có tận cùng bằng biến cách, câu “từ đầu tiên chính là một từ, từ thứ hai là từ theo sau” đã được nói đến.
Ekaṃ padanti gāthāpadaṃ sandhāya vadati. Padagaṇanāyāti gāthāpadagaṇanāya. Apāpuṇitvāti saddhiṃ akathetvā. Runti opātetīti ettha anunāsiko āgamavasena vutto, saṃyogapubbassa rassattaṃ katanti veditabbaṃ. Tenāha ‘‘rū-kāramattamevā’’ti. Ettha ca ‘‘rūpaṃ aniccanti bhaṇa sāmaṇerā’’ti vuccamāno sace rū-kāraṃ avatvā ru-iti rassaṃ katvā vadati, aññaṃ bhaṇitaṃ nāma hoti, tasmā anāpatti. Evañca katvā ‘‘vedanā aniccā’’ti etthāpi anicca-saddamatteneva āpatti hotīti veditabbaṃ. Esa nayoti ekamevakkharaṃ vatvā ṭhānaṃ. ‘‘Manopubbaṅgamā dhammā’’ti vuccamāno hi ma-kāramattameva vatvā tiṭṭhati. ‘‘Evaṃ me suta’’ntiādisuttaṃ bhaṇāpiyamāno e-kāraṃ vatvā tiṭṭhati ce, anvakkharena pācittiyaṃ, aparipuṇṇapadaṃ vatvā ṭhite anubyañjanena. Padesu ekaṃ paṭhamapadaṃ virajjhati, dutiyena anupadena pācittiyaṃ.
“Một câu”, ngài nói ám chỉ đến một câu kệ. “Bằng cách đếm câu” là bằng cách đếm câu kệ. “Không đạt đến” là không nói cùng. Trong câu “runti opātetī”, cần phải biết rằng âm mũi được nói theo cách thêm vào, và sự rút ngắn (nguyên âm) đứng trước một phụ âm kép đã được thực hiện. Do đó, ngài nói: “chỉ có mẫu tự ‘rū.’” Và ở đây, khi được bảo: “Này sa-di, hãy đọc ‘sắc là vô thường,’” nếu vị ấy không nói mẫu tự ‘rū’ mà lại rút ngắn thành ‘ru,’ thì đó được gọi là đã nói một điều khác, do đó vô tội. Và làm như vậy, cần phải biết rằng trong câu “thọ là vô thường,” tội chỉ có thể xảy ra với từ “vô thường” mà thôi. “Đây là phương pháp” là trường hợp nói một mẫu tự duy nhất rồi dừng lại. Khi được bảo đọc: “Các pháp do ý dẫn đầu,” vị ấy chỉ nói mẫu tự ‘ma’ rồi dừng lại. Khi được yêu cầu đọc kinh như: “Tôi nghe như vầy,” nếu vị ấy nói mẫu tự ‘e’ rồi dừng lại, thì phạm tội Ưng Đối Trị theo từng mẫu tự; khi dừng lại sau khi đã nói một từ chưa trọn vẹn thì (phạm tội) theo từng phụ âm. Trong các từ, vị ấy bỏ sót từ đầu tiên, (và) phạm tội Ưng Đối Trị với từ thứ hai theo sau.
Anaṅgaṇasuttaṃ (ma. ni. 1.57 ādayo) sammādiṭṭhisuttaṃ (ma. ni. 1.89 ādayo) mahāvedallañca (ma. ni. 1.449 ādayo) dhammasenāpatinā bhāsitaṃ, anumānasuttaṃ (ma. ni. 1.181 ādayo) mahāmoggallānattherena, cūḷavedallasuttaṃ (ma. ni. 1.460 ādayo) dhammadinnāya theriyā bhāsitaṃ. Paccekabuddhabhāsitampi buddhabhāsiteyeva saṅgahaṃ gacchati. Aṭṭhakathānissitoti pubbe magadhabhāsāya vuttaṃ dhammasaṅgahāruḷhaṃ aṭṭhakathaṃ sandhāya vadati. Idānipi ‘‘yathāpi dīpiko nāma, nilīyitvā gaṇhate mige’’ti (mi. pa. 6.1.5) evamādikaṃ saṅgahāruḷhaṃ aṭṭhakathāvacanaṃ gahetabbanti vadanti. Pāḷinissitoti ‘‘makkaṭī vajjiputtā cā’’tievamādinā (pārā. 66) pāḷiyaṃyeva āgato. Vivaṭṭūpanissitanti nibbānupanissitaṃ. Vivaṭṭanissitaṃ pana sāmaññato gahetabbanti āha ‘‘kiñcāpī’’tiādi. Therassāti nāgasenattherassa. Maggakathādīni pakaraṇāni. ‘‘Akkharena vāceti, akkharakkhare āpatti pācittiyassā’’ti vattabbe ‘‘akkharāya vāceti, akkharakkharāya āpatti pācittiyassā’’ti pāḷiyaṃ vuttaṃ.
Kinh Anaṅgaṇa (ma. ni. 1.57 ādayo), kinh Sammādiṭṭhi (ma. ni. 1.89 ādayo), và kinh Mahāvedalla (ma. ni. 1.449 ādayo) đã được vị Thống Soái Chánh Pháp thuyết giảng; kinh Anumāna (ma. ni. 1.181 ādayo) do trưởng lão Mahāmoggallāna thuyết; kinh Cūḷavedalla (ma. ni. 1.460 ādayo) do trưởng lão ni Dhammadinnā thuyết. Lời thuyết của vị Phật Độc Giác cũng được xếp vào lời Phật dạy. “Nương vào Chú giải”, ngài nói ám chỉ đến Chú giải đã được đưa vào bộ sưu tập Chánh Pháp và đã được nói bằng tiếng Magadha trước đây. Cũng vậy ngày nay, có người nói rằng lời Chú giải đã được đưa vào bộ sưu tập như: “cũng như con báo, ẩn mình bắt con nai” (mi. pa. 6.1.5) v.v… cần được chấp nhận. “Nương vào Pāḷi” là đã có trong chính Pāḷi qua câu: “con khỉ và các người con Vajjī” (pārā. 66) v.v… “Nương vào sự vén mở” là nương vào Niết-bàn. Tuy nhiên, nương vào sự vén mở được hiểu một cách tổng quát, nên ngài nói “dầu rằng” v.v… “Của vị Trưởng lão” là của trưởng lão Nāgasena. “Luận về đạo lộ” v.v… là các bộ luận. Đáng lẽ phải nói: “dạy đọc từng mẫu tự, phạm tội Ưng Đối Trị cho mỗi mẫu tự,” nhưng trong Pāḷi lại nói là: “dạy đọc từng mẫu tự, phạm tội Ưng Đối Trị cho mỗi mẫu tự.”
48.Anupasampannena saddhiṃ gaṇhantassa anāpattīti anupasampannena saha nisīditvā uddesaṃ gaṇhantassa anāpatti vuttā. Daharabhikkhu nisinno…pe… bhaṇato anāpattīti ettha dvīsupi ṭhitesu nisinnesu vā upasampannassa bhaṇāmīti bhaṇantassa anāpattiyeva. Upacāraṃ muñcitvāti parisapariyantato dvādasahatthaṃ muñcitvā. ‘‘Nisinne vācemī’’ti bhaṇantassapi upacāraṃ muñcitvā nisinnattā anāpatti. Sace pana dūre nisinnampi vācemīti visuṃ sallakkhetvā bhaṇati, āpattiyeva. Eko pādo na āgacchatīti pubbe paguṇoyeva pacchā asarantassa na āgacchati, taṃ ‘‘evaṃ bhaṇāhī’’ti ekato bhaṇantassa anāpatti. Opātetīti saddhiṃ katheti. Sesamettha uttānameva. Anupasampannatā, vuttalakkhaṇadhammaṃ padaso vācanatā, ekato bhaṇanañcāti imānettha tīṇi aṅgāni.
48.“Vô tội đối với người học cùng với người chưa cụ túc viên mãn”, sự vô tội đã được nói đến cho người ngồi cùng với người chưa cụ túc viên mãn để học thuộc lòng. Trong câu “Tỳ-khưu trẻ ngồi… cho đến… người đọc thì vô tội,” ở đây, dầu cho cả hai cùng đứng hoặc cùng ngồi, đối với người đọc với ý nghĩ “tôi đang đọc cho vị đã cụ túc viên mãn” thì vẫn vô tội. “Sau khi đã rời khỏi khu vực cận tiếp” là sau khi đã rời khỏi phạm vi của hội chúng mười hai hắc tay. Đối với người nói “tôi đang dạy đọc cho người ngồi,” do đã ngồi cách xa khỏi khu vực cận tiếp nên vô tội. Tuy nhiên, nếu vị ấy đọc với sự ghi nhận riêng biệt rằng “tôi đang dạy đọc cho cả người ngồi ở xa” thì vẫn phạm tội. “Một câu không thuộc” là người trước đây vốn thông thạo nhưng sau đó không nhớ ra được, đối với người đọc cùng với ý nghĩ “hãy đọc như thế này” thì vô tội. “Nhắc bài” là nói cùng. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Sự kiện là người chưa cụ túc viên mãn, việc đọc Pháp có đặc điểm đã nêu từng chữ một, và việc đọc cùng nhau; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Padasodhammasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học đọc Pháp từng chữ đã kết thúc.
5. Sahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā
5. Sự giải về điều học cùng ngủ chung
49-50. Pañcame vikūjamānāti nitthunantā. Kākacchamānāti rodantā. Tatridaṃ vatthunidassanaṃ vā. Tena nu kho pātitanti pucchāvasena kathitattā natthi musāvādo. Keci pana ‘‘sandehavasena vacanaṃ musā nāma na hoti, tasmā evaṃ vutta’’nti vadanti. Santikaṃ agantvāti ‘‘yaṃ etesaṃ na kappati, taṃ tesampi na kappatī’’ti adhippāyena agantvā.
49-50. Ở điều học thứ năm, “đang rên rỉ” là đang than van. “Đang than khóc” là đang khóc lóc. Hoặc ở đây, đây là sự chỉ dẫn về câu chuyện. “Có phải nó bị rơi xuống do duyên ấy không?”, do được nói theo cách hỏi nên không phải là nói dối. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “Lời nói theo cách nghi vấn thì không gọi là nói dối, do đó đã được nói như vậy.” “Sau khi không đi đến gần”, sau khi không đi đến với ý nghĩ rằng: “Điều gì không hợp lệ cho những người này thì cũng không hợp lệ cho những người kia.”
51.Dirattatirattanti ettha vacanasiliṭṭhatāmattena diratta-ggahaṇaṃ katanti veditabbaṃ. Tirattañhi sahavāse labbhamāne diratte vattabbameva natthīti dirattaggahaṇaṃ visuṃ na yojeti. Tenevāha ‘‘uttaridirattatirattanti bhagavā sāmaṇerānaṃ saṅgahakaraṇatthāya tirattaparihāraṃ adāsī’’ti. Nirantaraṃ tirattadassanatthaṃ vā dirattaggahaṇaṃ kataṃ. Kevalañhi tirattanti vutte aññattha vāsena antarikampi tirattaṃ gaṇheyya, dirattavisiṭṭhaṃ pana tirattaṃ vuccamānaṃ tena anantarikameva tirattaṃ dīpeti. Sayanaṃ seyyā, sayanti etthātipi seyyāti āha ‘‘kāyappasāraṇasaṅkhāta’’ntiādi. Tasmāti yasmā ubhayampi pariggahitaṃ, tasmā. Pañcahi chadanehīti iṭṭhakasilāsudhātiṇapaṇṇasaṅkhaātehi pañcahi chadanehi. Vācuggatavasenāti paguṇavasena. Diyaḍḍhahatthubbedho vaḍḍhakīhatthena gahetabbo. Ekūpacāroti vaḷañjanadvārassa ekattaṃ sandhāya vuttaṃ. Satagabbhaṃ vā catussālaṃ ekūpacāraṃ hotīti sambandho.
51.Trong câu “hai hoặc ba đêm,” cần phải biết rằng việc đề cập đến “hai đêm” được thực hiện chỉ để cho lời nói được trôi chảy. Thật vậy, khi việc ở chung được phép đến ba đêm, thì không cần phải nói đến hai đêm, do đó việc đề cập đến hai đêm không được áp dụng một cách riêng biệt. Chính vì thế ngài đã nói: “‘Sau hai hoặc ba đêm,’ đức Thế Tôn đã ban cho các vị sa-di sự miễn trừ ba đêm để thu phục họ.” Hoặc việc đề cập đến hai đêm được thực hiện nhằm mục đích chỉ ra ba đêm liên tục. Nếu chỉ nói ba đêm, người ta có thể tính cả ba đêm không liên tục do có ở nơi khác xen vào, nhưng khi nói ba đêm được phân biệt bằng hai đêm, điều đó chỉ ra ba đêm liên tục. Việc ngủ là chỗ ngủ, và người ta ngủ ở đó nên cũng là chỗ ngủ, do đó ngài nói: “được gọi là sự duỗi dài thân thể” v.v… “Do đó” nghĩa là vì cả hai đều được bao gồm, do đó. “Bởi năm loại mái che” là bởi năm loại mái che được gọi là gạch, đá, vôi vữa, cỏ, và lá cây. “Theo cách thuộc lòng” là theo cách thông thạo. “Chiều cao một thước rưỡi” nên được hiểu là bằng thước của thợ mộc. “Cùng một khu vực cận tiếp” được nói ám chỉ đến sự duy nhất của cửa ra vào. Hoặc, một tòa nhà trăm phòng hay một tòa nhà bốn gian có cùng một khu vực cận tiếp, đây là mối liên hệ.
Uparimatalena saddhiṃ asambaddhabhittikassāti idaṃ tulāya abbhantare sayitvā puna teneva susirena nikkhamitvā bhittiantarena heṭṭhimatalaṃ pavisituṃ yoggepi uparimatalena asambaddhabhittike senāsane anāpattiyā vuttāya tathā pavisituṃ asakkuṇeyye sambaddhabhittike vattabbameva natthīti dassanatthaṃ vuttaṃ, na pana sambaddhabhittike āpattīti dassanatthaṃ vuttaṃ. Heṭṭhāpāsāde sayitabhikkhussa anāpattīti idampi tādise senāsane heṭṭhimatale sayitasseva āpattippasaṅkā siyāti taṃnivāraṇatthaṃ vuttaṃ, na pana uparimatale sayitassa āpattīti dassanatthaṃ. Nānūpacāreti yattha bahi nisseṇiṃ katvā uparimatalaṃ ārohanti, tādisaṃ sandhāya vuttaṃ. Uparimatalepi ākāsaṅgaṇe nipajjantassa āpattiyā abhāvato ‘‘chadanabbhantare’’ti vuttaṃ.
Đối với (nơi ở) có bức tường không nối liền với tầng trên, điều này được nói ra nhằm mục đích chỉ ra rằng, đối với một nơi ở có tường không nối liền với tầng trên, ngay cả trong trường hợp có thể ngủ bên trong rầm nhà rồi lại đi ra qua cùng một khe hở và đi vào tầng dưới qua khoảng trống giữa các bức tường, do đã nói là vô tội, thì đối với nơi ở có tường nối liền mà không thể đi vào như vậy, lại càng không cần phải nói đến (sự vô tội); chứ không phải được nói ra nhằm mục đích chỉ ra rằng có tội trong trường hợp có tường nối liền. Vô tội đối với Tỳ-khưu ngủ ở tầng dưới của lâu đài, điều này cũng được nói ra nhằm mục đích ngăn chặn sự phạm tội có thể bị cho là có đối với người ngủ ở tầng dưới trong một nơi ở như vậy; chứ không phải để chỉ ra rằng có tội đối với người ngủ ở tầng trên. “Trong khu vực cận tiếp khác nhau,” điều này được nói ám chỉ đến nơi mà người ta leo lên tầng trên bằng cầu thang bên ngoài. Do không có tội đối với người nằm ở khoảng sân trống trên tầng trên, nên đã nói là “bên trong mái che.”
Sabhāsaṅkhepenāti sabhākārena. Aḍḍhakuṭṭake senāsaneti ettha ‘‘aḍḍhakuṭṭakaṃ nāma yattha ekaṃ passaṃ muñcitvā tīsu passesu bhittiyo baddhā honti, yattha vā ekasmiṃ passe bhittiṃ uṭṭhāpetvā ubhosu passesu upaḍḍhaṃ upaḍḍhaṃ katvā bhittiyo uṭṭhāpenti, tādisaṃ senāsana’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Gaṇṭhipade pana ‘‘aḍḍhakuṭṭaketi chadanaṃ aḍḍhena asampattakuṭṭake’’ti vuttaṃ, tampi no na yuttaṃ. ‘‘Vāḷasaṅghāṭo nāma thambhānaṃ upari vāḷarūpehi katasaṅghāṭo vuccatī’’ti vadanti. Parikkhepassa bahigateti ettha yasmiṃ passe parikkhepo natthi, tatthāpi parikkhepārahappadesato bahigate anāpattiyevāti daṭṭhabbaṃ. Aparicchinnagabbhūpacāreti ettha majjhe vivaṭaṅgaṇavantāsu pamukhamahācatussālāsu yathā ākāsaṅgaṇaṃ anotaritvā pamukheneva gantvā sabbagabbhe pavisituṃ na sakkā hoti, evaṃ ekekagabbhassa dvīsu passesu kuṭṭaṃ nīharitvā kataṃ paricchinnagabbhūpacāraṃ nāma, idaṃ pana tādisaṃ na hotīti ‘‘aparicchinnagabbhūpacāre’’ti vuttaṃ. Sabbagabbhe pavisantīti gabbhūpacārassa aparicchinnattā ākāsaṅgaṇaṃ anotaritvā pamukheneva gantvā taṃ taṃ gabbhaṃ pavisanti. Atha kuto tassa parikkhepoyeva sabbaparicchannattāti vuttanti āha ‘‘gabbhaparikkhepoyeva hissa parikkhepo’’ti. Idañca samantā gabbhabhittiyo sandhāya vuttaṃ. Catussālavasena sanniviṭṭhepi senāsane gabbhapamukhaṃ visuṃ aparikkhittampi samantā ṭhitagabbhabhittīnaṃ vasena parikkhittaṃ nāma hoti.
“Theo kiểu một gian hội trường” là theo hình dạng một gian hội trường. Về câu “trong một nơi ở có nửa vách ngăn,” trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Nơi ở có nửa vách ngăn là nơi mà các bức tường được xây ở ba phía, chừa lại một phía; hoặc là nơi mà sau khi dựng một bức tường ở một phía, người ta dựng các bức tường ở cả hai phía còn lại mỗi bên một nửa.” Tuy nhiên, trong sách nghĩa giải có nói rằng: “Nơi ở có nửa vách ngăn là nơi có mái che chưa hoàn thành một nửa,” điều đó cũng không hợp lý. Người ta nói rằng: “‘kết cấu hình thú’ được gọi là kết cấu được làm bằng các hình con thú ở trên các cột trụ.” “Bên ngoài hàng rào,” ở đây cần phải hiểu rằng, ngay cả ở phía không có hàng rào, nếu ở bên ngoài khu vực đáng lẽ phải có hàng rào thì vẫn vô tội. “Trong khu vực cận tiếp của phòng không được phân định,” ở đây, trong các tòa nhà bốn gian lớn có sân trống ở giữa, cũng giống như người ta không thể đi vào tất cả các phòng chỉ bằng cách đi qua hiên mà không cần đi xuống sân trống, thì nơi ở được gọi là “có khu vực cận tiếp của phòng được phân định” là nơi được làm bằng cách xây một bức tường ở hai bên của mỗi phòng. Nhưng nơi này không phải như vậy, nên được nói là “trong khu vực cận tiếp của phòng không được phân định.” “Đi vào tất cả các phòng,” do khu vực cận tiếp của các phòng không được phân định, nên họ đi vào từng phòng chỉ bằng cách đi qua hiên mà không cần đi xuống sân trống. Vậy thì tại sao hàng rào của nó lại được cho là bao quanh tất cả? Về điều này, ngài nói: “Chính hàng rào của các phòng là hàng rào của nó.” Điều này được nói ám chỉ đến các bức tường của các phòng xung quanh. Ngay cả trong một nơi ở được bố trí theo kiểu tòa nhà bốn gian, hiên trước của các phòng dù không được rào riêng cũng được xem là đã được rào bởi các bức tường của các phòng đứng xung quanh.
‘‘Nanu ca ‘aparikkhitte pamukhe anāpattī’ti andhakaṭṭhakathāyaṃ avisesena vuttaṃ, tasmā catussālavasena sanniviṭṭhepi senāsane visuṃ aparikkhitte pamukhe anāpattiyevā’’ti yo vadeyya, tassa vādaparimocanatthaṃ idaṃ vuttaṃ ‘‘yaṃ pana…pe… pāṭekkasannivesā ekacchadanā gabbhapāḷiyo sandhāya vutta’’nti. Idaṃ vuttaṃ hoti – ‘‘aparikkhitte pamukhe anāpattīti yaṃ vuttaṃ, taṃ na catussālavasena sanniviṭṭhā gabbhapāḷiyo sandhāya vuttaṃ, kiñcarahi visuṃ sanniviṭṭhaṃ ekameva gabbhapāḷiṃ sandhāya. Tādisāya hi gabbhapāḷiyā aparikkhitte pamukhe anāpatti, na catussālavasena sanniviṭṭhāyā’’ti. Ekāya ca gabbhapāḷiyā tassa tassa gabbhassa upacāraṃ paricchinditvā antamaso ubhosu passesu khuddakabhittīnaṃ uṭṭhāpanamattenapi pamukhaṃ parikkhittaṃ nāma hoti, catussālavasena sanniviṭṭhāsu pana gabbhapāḷīsu ubhosu passesu gabbhabhittīnaṃ vasenapi pamukhaṃ parikkhittaṃ nāma hoti. Tasmā yaṃ iminā lakkhaṇena parikkhittaṃ pamukhaṃ, tattha āpatti, itarattha anāpattīti idamettha sanniṭṭhānaṃ.
Nếu có ai đó nói rằng: “Chẳng phải trong Chú giải của phái Andhaka đã nói một cách không phân biệt rằng ‘vô tội ở hiên trước không có hàng rào’ sao? Do đó, ngay cả trong một nơi ở được bố trí theo kiểu tòa nhà bốn gian, ở hiên trước không có hàng rào riêng thì vẫn vô tội,” để bác bỏ lập luận của người ấy, điều này đã được nói: “Điều mà… cho đến… được nói ám chỉ đến dãy phòng có mái che chung và được bố trí riêng lẻ.” Điều này có nghĩa là: “Điều được nói rằng ‘vô tội ở hiên trước không có hàng rào’ không phải được nói ám chỉ đến dãy phòng được bố trí theo kiểu tòa nhà bốn gian, mà là ám chỉ đến một dãy phòng duy nhất được bố trí riêng biệt. Đối với một dãy phòng như vậy, ở hiên trước không có hàng rào thì vô tội, chứ không phải đối với dãy phòng được bố trí theo kiểu tòa nhà bốn gian.” Và đối với một dãy phòng, hiên trước được xem là đã có hàng rào chỉ bằng cách phân định khu vực cận tiếp của từng phòng, hoặc ít nhất là bằng cách dựng lên những bức tường nhỏ ở cả hai bên. Nhưng đối với các dãy phòng được bố trí theo kiểu tòa nhà bốn gian, hiên trước cũng được xem là đã có hàng rào bởi các bức tường của các phòng ở cả hai bên. Do đó, kết luận ở đây là: hiên trước nào được rào theo đặc điểm này thì có tội, còn ở nơi khác thì vô tội.
Idāni ‘‘aparikkhitte pamukhe anāpattī’’ti vatvā tasseva vacanassa adhippāyaṃ pakāsentena yaṃ vuttaṃ ‘‘bhūmiyaṃ vinā jagatiyā pamukhaṃ sandhāya kathita’’nti, tassa ayuttatāvibhāvanatthaṃ ‘‘yañca tatthā’’tiādi āraddhaṃ. Bhūmiyaṃ vinā jagatiyā pamukhaṃ sandhāya kathitanti hi imassa vacanassa ayamadhippāyo – ‘‘aparikkhitte pamukhe anāpattī’’ti yaṃ vuttaṃ, taṃ vinā vatthuṃ bhūmiyaṃ katagehassa pamukhaṃ sandhāya kathitaṃ. Sace pana uccavatthukaṃ pamukhaṃ hoti, parikkhittasaṅkhyaṃ na gacchatīti. Tenevāha ‘‘dasahatthubbedhāpi hi jagati parikkhepasaṅkhyaṃ na gacchatī’’ti. Heṭṭhāpi idameva manasi sannidhāya vuttaṃ ‘‘uccavatthukaṃ cepi hoti, pamukhe sayito gabbhe sayitānaṃ āpattiṃ na karotī’’ti. Tatthāti andhakaṭṭhakathāyaṃ. Jagatiyā pamāṇaṃ vatvāti ‘‘sace jagatiyā otaritvā bhūmiyaṃ sayito, jagatiyā upari sayitaṃ na passatī’’ti evaṃ jagatiyā ubbedhena pamāṇaṃ vatvā. Ekasālādīsu ujukameva dīghaṃ katvā sannivesito pāsādo ekasālasanniveso. Dvisālasannivesādayopi vuttānusārato veditabbā. Sālappabhedadīpanameva cettha heṭṭhā vuttato viseso.
Bây giờ, sau khi đã nói “vô tội ở hiên trước không có hàng rào,” và để làm sáng tỏ ý định của chính câu nói đó, điều đã được nói là “được nói ám chỉ đến hiên trước ở trên nền đất chứ không phải trên mặt đất,” để chỉ ra sự không hợp lý của điều đó, phần bắt đầu bằng “Và điều mà ở đó” đã được khởi đầu. Ý định của câu nói “được nói ám chỉ đến hiên trước ở trên nền đất chứ không phải trên mặt đất” là như thế này: “Điều được nói rằng ‘vô tội ở hiên trước không có hàng rào’ được nói ám chỉ đến hiên trước của một ngôi nhà được xây trên mặt đất mà không có nền móng. Nhưng nếu là một hiên trước có nền móng cao, thì nó không được tính là có hàng rào.” Chính vì thế ngài nói: “Vì ngay cả một nền đất cao mười hắc tay cũng không được tính là hàng rào.” Ở phần dưới cũng đã nói với ý này trong tâm: “Và nếu nó có nền móng cao, người ngủ ở hiên trước không gây ra tội cho những người ngủ trong phòng.” “Ở đó” là trong Chú giải của phái Andhaka. “Sau khi đã nói về kích thước của nền đất,” là sau khi đã nói về kích thước bằng chiều cao của nền đất như sau: “nếu một người xuống khỏi nền đất và ngủ trên mặt đất, thì không thấy người ngủ ở trên nền đất.” Một tòa lâu đài được bố trí thẳng và dài trong một dãy nhà v.v… là bố trí một dãy nhà. Các cách bố trí hai dãy nhà v.v… cũng cần được hiểu theo cách đã nói. Sự khác biệt ở đây so với phần đã nói ở dưới chỉ là sự trình bày về các loại dãy nhà.
Majjhepākāraṃ karontīti etthāpi parikkhepassa heṭṭhimaparicchedena diyaḍḍhahatthubbedhattā diyaḍḍhahatthaṃ cepi majjhe pākāraṃ karonti, nānūpacārameva hotīti veditabbaṃ. Na hi chiddena gehaṃ ekūpacāraṃ nāma hotīti ettha sace ubbedhena diyaḍḍhahatthabbhantare manussānaṃ sañcārappahonakaṃ chiddaṃ hoti, tampi dvāramevāti ekūpacāraṃ hoti. Kiṃ parikkhepoviddhastoti pamukhassa parikkhepaṃ sandhāya vadati. Sabbattha pañcannaṃyeva chadanānaṃ āgatattā vadati ‘‘pañcannaṃ aññatarena chadanena channā’’ti.
“Họ làm một bức tường ở giữa,” ở đây cũng cần phải hiểu rằng, do giới hạn dưới của hàng rào là cao một thước rưỡi, nên nếu họ làm một bức tường cao một thước rưỡi ở giữa thì vẫn là khu vực cận tiếp khác nhau. “Một ngôi nhà không thể được gọi là có cùng một khu vực cận tiếp chỉ vì có một cái lỗ,” ở đây, nếu có một cái lỗ trong phạm vi chiều cao một thước rưỡi đủ cho người qua lại, thì nó cũng là một cánh cửa, do đó là cùng một khu vực cận tiếp. “Phải chăng hàng rào đã bị phá vỡ?”, ngài nói ám chỉ đến hàng rào của hiên trước. Do ở khắp nơi chỉ có năm loại mái che được đề cập đến, ngài nói: “được lợp bởi một trong năm loại mái che.”
53. Pāḷiyaṃ ‘‘seyyā nāma sabbacchannā sabbaparicchannā yebhuyyenacchannā yebhuyyenaparicchannā’’ti vadantena yebhuyyenacchannayebhuyyenaparicchannasenāsanaṃ pācittiyassa avasānaṃ viya katvā dassitaṃ, ‘‘upaḍḍhacchanne upaḍḍhaparicchanne āpatti dukkaṭassā’’ti vadantena ca upaḍḍhacchannaupaḍḍhaparicchannasenāsanaṃ dukkaṭassa ādiṃ katvā dassitaṃ, ubhinnamantarā kena bhavitabbaṃ pācittiyena, udāhu dukkaṭenāti? Lokavajjasikkhāpadasseva anavasesaṃ katvā paññāpanato imassa ca paṇṇattivajjattā yebhuyyenacchannayebhuyyenaparicchannassa upaḍḍhacchannaupaḍḍhaparicchannassa ca antarā pācittiyaṃ anivāritameva, tasmā vinayavinicchaye ca garukeyeva ṭhātabbattā aṭṭhakathāyampi pācittiyameva dassitaṃ. Satta pācittiyānīti pāḷiyaṃ vuttapācittiyaṃ sāmaññato ekattena gahetvā vuttaṃ. Visuṃ pana gayhamāne ‘‘sabbacchanne sabbaparicchanne pācittiyaṃ, yebhuyyenacchanne yebhuyyenaparicchanne pācittiya’’nti aṭṭheva pācittiyāni honti.
53. Trong Pāḷi, khi nói “chỗ ngủ là nơi được che kín hoàn toàn, được rào kín hoàn toàn, được che kín phần lớn, được rào kín phần lớn,” ngài đã chỉ ra nơi ở được che kín phần lớn và rào kín phần lớn như là giới hạn cuối cùng của tội Ưng Đối Trị. Và khi nói “ở nơi được che kín một nửa, được rào kín một nửa thì phạm tội Tác Ác,” ngài đã chỉ ra nơi ở được che kín một nửa và rào kín một nửa như là sự khởi đầu của tội Tác Ác. Vậy giữa hai trường hợp đó nên là tội gì, Ưng Đối Trị hay Tác Ác? Do điều học về tội bị thế gian chê bai này được chế định một cách không có ngoại lệ, và điều học này là tội do chế định, nên tội Ưng Đối Trị không bị ngăn cản ở khoảng giữa nơi được che kín/rào kín phần lớn và nơi được che kín/rào kín một nửa. Do đó, vì trong việc quyết định về luật, cần phải đứng về phía nặng hơn, nên trong Chú giải cũng đã chỉ ra là tội Ưng Đối Trị. “Bảy tội Ưng Đối Trị” được nói bằng cách tính chung tội Ưng Đối Trị đã được nói trong Pāḷi là một. Nhưng nếu tính riêng thì có tám tội Ưng Đối Trị: “tội Ưng Đối Trị ở nơi được che kín hoàn toàn, được rào kín hoàn toàn; tội Ưng Đối Trị ở nơi được che kín phần lớn, được rào kín phần lớn.”
Senambamaṇḍapavaṇṇaṃ hotīti sīhaḷadīpe kira uccavatthuko sabbacchanno sabbaaparicchanno evaṃnāmako sannipātamaṇḍapo atthi, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Yadi jagatiparikkhepasaṅkhyaṃ gacchati, uccavatthukattā maṇḍapassa sabbaaparicchannatā na yujjatīti āha ‘‘imināpetaṃ veditabba’’ntiādi. Cūḷakacchannādīni cettha evaṃ veditabbāni – yassa catūsu bhāgesu eko channo, sesā acchannā, idaṃ cūḷakacchannaṃ. Yassa tīsu bhāgesu dve channā, eko acchanno, idaṃ yebhuyyenacchannaṃ. Yassa dvīsu bhāgesu eko channo, eko acchanno, idaṃ upaḍḍhacchannaṃ nāma senāsanaṃ. Cūḷakaparicchannādīnipi imināva nayena veditabbāni. Sesaṃ uttānameva. Pācittiyavatthukasenāsanaṃ, tattha tattha anupasampannena saha nipajjanaṃ, catutthadivase sūriyatthaṅgamananti imānettha tīṇi aṅgāni.
“Nó có màu của gian đình Senamba,” nghe nói ở đảo Tích Lan có một gian đình hội họp tên như vậy, có nền móng cao, được che kín hoàn toàn và không được rào kín hoàn toàn. Điều này được nói ám chỉ đến gian đình đó. Nếu nền đất được tính là hàng rào, thì việc gian đình không được rào kín hoàn toàn do có nền móng cao là không hợp lý, do đó ngài nói: “Qua điều này cũng cần phải biết rằng” v.v… Và ở đây, nơi được che kín một phần nhỏ v.v… cần được hiểu như sau: nơi mà một trong bốn phần được che, còn lại không được che, đó là nơi được che kín một phần nhỏ. Nơi mà hai trong ba phần được che, một phần không được che, đó là nơi được che kín phần lớn. Nơi mà một trong hai phần được che, một phần không được che, đó là nơi ở được gọi là nơi được che kín một nửa. Nơi được rào kín một phần nhỏ v.v… cũng cần được hiểu theo phương pháp này. Phần còn lại đã rõ ràng. Nơi ở là đối tượng của tội Ưng Đối Trị, việc nằm xuống ở đó cùng với người chưa cụ túc viên mãn, và mặt trời lặn vào ngày thứ tư; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Sahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học cùng ngủ chung đã kết thúc.
6. Dutiyasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā
6. Sự giải về điều học cùng ngủ chung thứ hai
55. Chaṭṭhe ‘‘paṭhamasikkhāpade ‘bhikkhuṃ ṭhapetvā avaseso anupasampanno nāmā’ti vuttattā ‘mātugāmopi anupasampannaggahaṇena gahitoyevā’ti catutthadivase mātugāmena saddhiṃ sayantassa dvīhi sikkhāpadehi dve pācittiyāni hontī’’ti vadanti. Gaṇṭhipadesu pana tīsupi ‘‘imasmiṃ sikkhāpade mātugāmassa visuṃ vuccamānattā paṭhamasikkhāpade ‘bhikkhuṃ ṭhapetvā avaseso anupasampanno nāmā’ti purisasseva gahaṇaṃ anucchavika’’nti vuttaṃ, tadeva ca yuttataraṃ.
55. Ở điều học thứ sáu, có người nói rằng: “Do trong điều học thứ nhất đã nói rằng ‘ngoại trừ Tỳ-khưu, phần còn lại được gọi là người chưa cụ túc viên mãn,’ nên ‘người nữ cũng được bao gồm trong sự nắm bắt (thuật ngữ) người chưa cụ túc viên mãn.’ Do đó, đối với người ngủ chung với người nữ vào ngày thứ tư, có hai tội Ưng Đối Trị theo hai điều học.” Tuy nhiên, trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Vì trong điều học này, người nữ được nói đến một cách riêng biệt, nên trong điều học thứ nhất, câu nói ‘ngoại trừ Tỳ-khưu, phần còn lại được gọi là người chưa cụ túc viên mãn’ chỉ nên được hiểu là áp dụng cho người nam mà thôi,” và điều đó hợp lý hơn.
Yañca idha ‘‘paṭhamadivasepīti pi-saddena catutthadivasepīti vuttaṃ hotī’’ti kāraṇaṃ vadanti, tampi akāraṇaṃ pi-saddo sampiṇḍanatthoyevāti niyamābhāvato avadhāraṇatthassa ca sambhavato. Sambhāvane vā pi-saddo daṭṭhabbo. Tena idha paṭhamadivasepi tāva āpatti, dutiyādidivase kimeva vattabbanti imamatthaṃ dīpeti. Sampiṇḍanatthepi pi-sadde gayhamāne imināva sikkhāpadena āpajjitabbāpattiyā aññasmimpi divase āpajjanaṃ dīpeti, na paṭhamasikkhāpadena āpajjitabbāpattiyāti akāraṇameva tanti daṭṭhabbaṃ. ‘‘Matitthī pārājikavatthubhūtāpi anupādinnapakkhe ṭhitattā sahaseyyāpattiṃ na janetī’’ti vadanti. ‘‘Atthaṅgate sūriye mātugāme nipanne bhikkhu nipajjatī’’ti vacanato divā sayantassa sahaseyyāpatti na hotiyevāti daṭṭhabbaṃ. Pācittiyavatthukasenāsanaṃ, tattha mātugāmena saha nipajjanaṃ, sūriyatthaṅgamananti imānettha tīṇi aṅgāni.
Và lý do mà một số người đưa ra ở đây rằng: “‘Ngay cả trong ngày đầu tiên,’ bằng từ ‘pi,’ có nghĩa là cũng bao gồm cả ngày thứ tư,” lý do đó cũng không có cơ sở, vì không có quy tắc nào cho rằng từ ‘pi’ chỉ có nghĩa là gộp chung, và vì nó cũng có thể có nghĩa là nhấn mạnh. Hoặc từ ‘pi’ cần được hiểu theo nghĩa khả năng. Do đó, ở đây nó chỉ ra ý nghĩa này: ngay cả trong ngày đầu tiên đã có tội, thì còn cần phải nói gì về những ngày thứ hai v.v…? Ngay cả khi từ ‘pi’ được hiểu theo nghĩa gộp chung, nó cũng chỉ chỉ ra rằng tội phải phạm theo điều học này cũng có thể xảy ra vào một ngày khác, chứ không phải là tội phải phạm theo điều học thứ nhất, do đó cần phải thấy rằng đó không phải là lý do. Có người nói rằng: “Một người nữ đã chết, mặc dù là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ, nhưng do thuộc về phía không có sự chấp thủ, nên không tạo ra tội ngủ chung.” Theo như câu “Khi mặt trời đã lặn, người nữ nằm xuống, Tỳ-khưu nằm xuống,” cần phải hiểu rằng đối với người ngủ ban ngày thì không có tội ngủ chung. Nơi ở là đối tượng của tội Ưng Đối Trị, việc nằm xuống ở đó cùng với người nữ, và sự kiện mặt trời lặn; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Dutiyasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học cùng ngủ chung thứ hai đã kết thúc.
7. Dhammadesanāsikkhāpadavaṇṇanā
7. Sự giải về điều học thuyết Pháp
60-64. Sattame gharaṃ nayatīti gharaṇī, gharanāyikā. Tenāha ‘‘gharasāminī’’ti. Suṇhāti suṇisā. Na yakkhenātiādīnaṃ ‘‘aññatrā’’ti iminā sambandho. Purisaviggahaṃ gahetvā ṭhitena yakkhena vā petena vā tiracchānena vā saddhiṃ ṭhitāyapi desetuṃ na vaṭṭati. Akkharāya desetīti ettha ‘‘chappañcavācato uttari ‘imaṃ padaṃ bhāsissāmī’ti ekampi akkharaṃ vatvā tiṭṭhati, āpattiyevā’’ti vadanti.
60-64. Ở điều học thứ bảy, người cai quản ngôi nhà là người nội trợ, là người lãnh đạo trong nhà. Do đó, ngài nói là “nữ gia chủ.” “Con dâu” là nàng dâu. Câu “không phải với dạ-xoa” v.v… có liên quan đến từ “ngoại trừ.” Cũng không được phép thuyết Pháp cho người nữ đang đứng cùng với dạ-xoa, ngạ quỷ, hay bàng sanh đã hiện thành hình người nam. Về câu “thuyết từng mẫu tự,” có người nói rằng: “Sau sáu hoặc năm lời, nếu vị ấy nói dù chỉ một mẫu tự với ý nghĩ ‘tôi sẽ nói từ này’ rồi dừng lại, thì vẫn phạm tội.”
66.‘‘Eko gāthāpādoti idaṃ gāthābandhameva sandhāya vuttaṃ, aññattha pana vibhattiantapadameva gahetabba’’nti vadanti. ‘‘Aṭṭhakathaṃ dhammapadaṃ jātakādivatthuṃ vāti imināpi porāṇaṃ saṅgītiāruḷhameva aṭṭhakathādi vutta’’nti vadanti. Aṭṭhakathādipāṭhaṃ ṭhapetvā damiḷādibhāsantarena yathāruci kathetuṃ vaṭṭati. Padasodhamme vuttappabhedoti iminā aññattha anāpattīti dīpeti. Uṭṭhahitvā puna nisīditvāti iriyāpathaparivattananayena nānāiriyāpathenapi anāpattīti dīpeti. Sabbaṃ cepi dīghanikāyaṃ kathetīti yāva na niṭṭhāti, tāva punadivasepi katheti.
66.Có người nói rằng: “‘Một câu kệ’, điều này được nói chỉ ám chỉ đến thể kệ, còn ở những nơi khác thì phải hiểu là một từ có biến cách ở cuối.” Có người nói rằng: “‘Chú giải, Pháp Cú, hay câu chuyện Bổn Sanh v.v…’, bằng câu này, cũng chỉ nói đến Chú giải v.v… xưa đã được đưa vào kỳ kết tập.” Ngoài bản văn Chú giải v.v…, được phép nói chuyện theo ý muốn bằng các ngôn ngữ khác như tiếng Damiḷa. Bằng câu “loại đã được nói trong điều học đọc Pháp từng chữ,” ngài chỉ ra rằng ở những nơi khác thì vô tội. “Sau khi đứng dậy rồi ngồi xuống lại,” ngài chỉ ra rằng bằng cách thay đổi oai nghi, ngay cả với các oai nghi khác nhau cũng vô tội. “Dầu cho có nói toàn bộ Trường Bộ,” (có nghĩa là) cho đến khi chưa xong, vị ấy vẫn tiếp tục nói vào ngày hôm sau.
Dutiyassa viññūpurisassa aggahaṇaṃ akiriyā. Mātugāmena saddhiṃ ṭhitassa ca viññūpurisassa ca upacāro aniyatesu vuttanayeneva gahetabbo. Sesaṃ uttānameva. Vuttalakkhaṇassa dhammassa channaṃ vācānaṃ upari desanā, vuttalakkhaṇo mātugāmo, iriyāpathapaavattanābhāvo, viññūpurisābhāvo, apañhavissajjanāti imāni panettha pañca aṅgāni.
Việc không có người nam hiểu biết thứ hai là sự không hành động. Khu vực cận tiếp của người nữ và người nam hiểu biết đang đứng cùng nhau nên được hiểu theo cách đã nói trong các trường hợp không xác định. Phần còn lại đã rõ ràng. Việc thuyết Pháp có đặc điểm đã nêu trên sáu lời, người nữ có đặc điểm đã nêu, sự không thay đổi oai nghi, sự không có mặt của người nam hiểu biết, và việc không trả lời câu hỏi; đây là năm chi phần trong trường hợp này.
Dhammadesanāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học thuyết Pháp đã kết thúc.
8. Bhūtārocanasikkhāpadavaṇṇanā
8. Sự giải về điều học nói thật (về pháp thượng nhân)
77. Aṭṭhame antarāti parinibbānasamayato aññasmiṃ kāle. Atikaḍḍhiyamānenāti ‘‘vadatha, bhante, kiṃ tumhehi adhigata’’nti evaṃ nippīḷiyamānena. Anatikaḍḍhiyamānenapi pucchite vā apucchite vā tathārūpe kāraṇe sati ārocetuṃ vaṭṭatiyeva. Teneva aññatarena daharabhikkhunā upavadito aññataro thero ‘‘āvuso, uparimaggatthāya vāyāmaṃ mā akāsi, khīṇāsavo tayā upavadito’’ti āha. Therena ca ‘‘atthi te, āvuso, imasmiṃ sāsane patiṭṭhā’’ti vutto daharabhikkhu ‘‘āma, bhante, sotāpanno aha’’nti avoca. ‘‘Kārako aya’’nti ñatvāpi paṭipattiyā amoghabhāvadassanena samuttejanāya sampahaṃsanāya ca ariyā attānaṃ pakāsentiyeva. Sutapariyattisīlaguṇanti sutaguṇaṃ pariyattiguṇaṃ sīlaguṇañca. Ummattakassa idha avacane kāraṇaṃ vadantena khittacittavedanaṭṭānampi avacane kāraṇaṃ vuttamevāti daṭṭhabbaṃ. Iti-saddena vā ādiatthena khittacittavedanaṭṭe saṅgaṇhāti. Teneva vadati ‘‘cittakkhepassa vā abhāvā’’ti. Diṭṭhisampannānanti maggaphaladiṭṭhiyā samannāgatānaṃ. Ariyānameva hi ummattakādibhāvo natthi. Jhānalābhino pana tasmiṃ sati jhānā parihāyanti, tasmā tesaṃ abhūtārocanapaccayā anāpatti vattabbā, na bhūtārocanapaccayā. Tenevāha ‘‘bhūtārocanapaccayā anāpatti na vattabbā’’ti.
77. Ở điều học thứ tám, “giữa chừng” là vào một thời điểm khác với lúc Bát-niết-bàn. “Do bị ép hỏi quá mức” là do bị thúc ép như vầy: “Bạch ngài, xin hãy nói, ngài đã chứng đắc điều gì?” Ngay cả khi không bị ép hỏi quá mức, khi có lý do thích hợp, dầu được hỏi hay không được hỏi, vẫn được phép nói ra. Chính vì thế, một vị trưởng lão bị một Tỳ-khưu trẻ tuổi chê bai đã nói: “Này hiền giả, đừng cố gắng vì đạo quả cao hơn nữa, hiền giả đã chê bai một vị lậu tận rồi.” Và khi được vị trưởng lão hỏi: “Này hiền giả, hiền giả có chỗ đứng trong giáo pháp này không?”, vị Tỳ-khưu trẻ đã nói: “Thưa vâng, bạch ngài, tôi là bậc Tu-đà-hoàn.” Các bậc Thánh vẫn tự mình tuyên bố (sự chứng đắc) để khích lệ và làm cho hoan hỷ bằng cách chỉ ra sự không vô ích của việc thực hành, khi biết rằng: “Người này có khả năng thực hành.” “Đức hạnh về văn, học, và giới” là đức hạnh về điều đã nghe, đức hạnh về sự học thuộc, và đức hạnh về giới. Cần phải hiểu rằng, khi nói về lý do không đề cập đến người điên ở đây, lý do không đề cập đến người có tâm trí rối loạn và người đang chịu đựng cảm thọ đau đớn cũng đã được nói đến. Bằng từ “v.v…”, hoặc với ý nghĩa ban đầu, ngài bao gồm cả người có tâm trí rối loạn và người đang chịu đựng cảm thọ đau đớn. Chính vì thế ngài nói: “hoặc do không có sự loạn tâm.” “Của những vị có đầy đủ chánh kiến” là của những vị đã được phú cho chánh kiến về đạo và quả. Chỉ có các bậc Thánh mới không bị điên loạn. Tuy nhiên, những người đắc thiền, nếu có trạng thái đó, sẽ bị lui sụt khỏi thiền định. Do đó, đối với họ, sự vô tội cần được nói đến do duyên nói không thật, chứ không phải do duyên nói thật. Chính vì thế ngài nói: “sự vô tội do duyên nói thật không cần được nói đến.”
Pubbe avuttehīti catutthapārājike avuttehi. Idañca sikkhāpadaṃ paṇṇattiajānanavasena acittakasamuṭṭhānaṃ hoti. Ariyā cettha paṇṇattiṃ jānantā vītikkamaṃ na karonti, puthujjanā pana paṇṇattiṃ jānitvāpi vītikkamaṃ karonti, te ca satthuno āṇāvītikkamacetanāya balavaakusalabhāvato jhānā parihāyantīti daṭṭhabbaṃ, ukkaṭṭhaparicchedena ariyapuggale eva sandhāya ‘‘kusalābyākatacittehi dvicitta’’nti vuttaṃ. Paṇṇattiṃ ajānantā pana jhānalābhī puthujjanā vatthumhi lobhavasena akusalacittenapi na ārocentīti natthi. Idha dukkhavedanāya abhāvato ‘‘dvivedana’’nti imassa anurūpaṃ katvā dvicittanti idaṃ vuttanti evaṃ vā ettha adhippāyo gahetabbo. Sesaṃ uttānameva. Uttarimanussadhammassa bhūtatā, anupasampannassa ārocanaṃ, taṅkhaṇavijānanā, anaññappadesoti imāni panettha cattāri aṅgāni.
“Bởi những điều chưa được nói trước đây” là những điều chưa được nói trong tội Bất Cộng Trụ thứ tư. Và điều học này, do không biết điều quy định, nên phát sinh không do tác ý. Và ở đây, các bậc Thánh, do biết điều quy định, nên không vi phạm. Nhưng phàm nhân, ngay cả khi biết điều quy định, vẫn vi phạm, và họ bị lui sụt khỏi thiền định do ác nghiệp mạnh mẽ từ tác ý vi phạm mệnh lệnh của Bậc Đạo Sư. Ám chỉ đến bậc Thánh nhân theo sự phân định cao nhất mà câu “hai tâm với tâm thiện và vô ký” đã được nói. Tuy nhiên, không có trường hợp phàm nhân đắc thiền, do không biết điều quy định, lại không nói ra đối tượng bằng tâm bất thiện do tham ái. Hoặc ở đây, cần hiểu ý định như sau: do không có khổ thọ, nên để tương ứng với câu “hai thọ,” câu “hai tâm” này đã được nói. Phần còn lại đã rõ ràng. Sự thật về pháp thượng nhân, việc nói ra cho người chưa cụ túc viên mãn, sự hiểu biết của người kia ngay lúc đó, và việc không dùng lời bóng gió; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Bhūtārocanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học nói thật đã kết thúc.
9. Duṭṭhullārocanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Sự giải về điều học nói về tội trọng
78. Navame duṭṭhullasaddatthadassanatthanti duṭṭhullasaddassa atthadassanatthaṃ. Atthe hi dassite saddopi ‘‘ayaṃ etesu atthesu vattatī’’ti dassitoyeva hoti. ‘‘Yaṃ yaṃ duṭṭhullasaddena abhidhīyati, taṃ sabbaṃ dassetuṃ pārājikāni vuttānī’’ti ayañhettha adhippāyo. Tatrāyaṃ vicāraṇāti tatra pāḷiyaṃ ayaṃ vicāraṇā, tatra pāḷiaṭṭhakathāsu vā ayaṃ vicāraṇā. Tattha bhaveyyāti tattha kassaci vimati evaṃ bhaveyya. Anupasampannassa duṭṭhullārocane viya dukkaṭena bhavitabbanti āha ‘‘dukkaṭaṃ āpajjatī’’ti. Akkosantopi dukkaṭaṃ āpajjeyyāti omasavādena dukkaṭaṃ āpajjeyya. Adhippāyaṃ ajānantenapi aṭṭhakathācariyānaṃ vacaneyeva ṭhātabbanti dīpanatthaṃ ‘‘aṭṭhakathācariyāva ettha pamāṇa’’nti vuttaṃ. Punapi aṭṭhakathāvacanameva upapattito daḷhaṃ katvā patiṭṭhapento ‘‘imināpi ceta’’ntiādimāha.
78. Ở điều học thứ chín, “nhằm mục đích chỉ ra ý nghĩa của từ ‘tội trọng’” là nhằm mục đích chỉ ra ý nghĩa của từ ‘tội trọng’. Thật vậy, khi ý nghĩa được chỉ ra, thì từ ngữ cũng được xem như đã được chỉ ra rằng: “từ này được dùng trong những ý nghĩa này.” Ý định ở đây là thế này: “Bất cứ điều gì được gọi bằng từ ‘tội trọng,’ để chỉ ra tất cả những điều đó, các tội Bất Cộng Trụ đã được nói đến.” “Ở đó có sự xem xét này” là ở đó trong Pāḷi có sự xem xét này, hoặc ở đó trong Pāḷi và Chú giải có sự xem xét này. “Ở đó có thể có” là ở đó có thể có sự hoài nghi của ai đó như vầy. Giống như trong trường hợp nói về tội trọng cho người chưa cụ túc viên mãn, nên phạm tội Tác Ác, do đó ngài nói: “phạm tội Tác Ác.” “Ngay cả người mắng nhiếc cũng có thể phạm tội Tác Ác” là có thể phạm tội Tác Ác do lời miệt thị. Nhằm mục đích chỉ ra rằng, ngay cả người không biết ý định cũng phải dựa vào lời của các vị Chú Giải Sư, nên đã nói: “chính các vị Chú Giải Sư là thẩm quyền ở đây.” Một lần nữa, để thiết lập vững chắc lời của Chú giải bằng lý lẽ, ngài đã nói: “Và cũng qua điều này” v.v…
80. ‘‘Aññatra bhikkhusammutiyā’’ti vuttattā sammuti atthīti gahetabbāti āha ‘‘idha vuttattāyevā’’tiādi.
80. Do đã nói “ngoại trừ sự đồng thuận của Tỳ-khưu,” nên cần phải hiểu rằng có sự đồng thuận, do đó ngài nói: “chính vì đã được nói ở đây” v.v…
82.Ādito pañca sikkhāpadānīti pāṇātipātādīni pañca sikkhāpadāni. ‘‘Sesānīti vikālabhojanādīni pañcā’’ti vadanti. Keci pana ‘‘ādito paṭṭhāya pañca sikkhāpadānīti sukkavissaṭṭhiādīni pañcā’’ti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ. Pāṇātipātādīni hi daseva sikkhāpadāni sāmaṇerānaṃ paññattāni. Vuttañhetaṃ –
82.“Năm điều học đầu tiên” là năm điều học về sát sanh v.v… Có người nói rằng: “‘Những điều còn lại’ là năm điều về ăn uống phi thời v.v…” Tuy nhiên, một số người nói rằng: “Năm điều học kể từ đầu là năm điều về xuất tinh v.v…”, điều đó không nên được chấp nhận. Thật vậy, chỉ có mười điều học về sát sanh v.v… đã được chế định cho các vị Sa-di. Về điều này đã được nói rằng –
‘‘Atha kho sāmaṇerānaṃ etadahosi ‘kati nu kho amhākaṃ sikkhāpadāni, kattha ca amhehi sikkhitabba’nti? Bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ. Anujānāmi, bhikkhave, sāmaṇerānaṃ dasa sikkhāpadāni, tesu ca sāmaṇerehi sikkhituṃ, pāṇātipātā veramaṇī adinnādānā veramaṇī’’tiādi (mahāva. 106).
“Khi ấy, các vị Sa-di đã suy nghĩ rằng: ‘Chúng ta có bao nhiêu điều học, và chúng ta phải học tập ở đâu?’ Họ đã trình bày sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ‘Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép các Sa-di mười điều học, và các Sa-di phải học tập trong những điều ấy: từ bỏ việc sát sanh, từ bỏ việc lấy của không cho’” v.v… (mahāva. 106).
Tesaṃ paññattesuyeva sikkhāpadesu duṭṭhullāduṭṭhullavicāraṇā kātabbā, na ca sukkavissaṭṭhiādīni visuṃ tesaṃ paññattāni atthīti. Atha bhikkhuno duṭṭhullasaṅkhātāni sukkavissaṭṭhiādīni anupasampannassa kiṃ nāma hontīti āha ‘‘sukkavissaṭṭhi…pe… ajjhācāro nāmāti vutta’’nti. Imināpi cetaṃ siddhaṃ ‘‘anupasampannassa sukkavissaṭṭhiādi duṭṭhullaṃ nāma na hotī’’ti. Ajjhācāro nāmāti hi vadanto anupasampannassa sukkavissaṭṭhiādi kevalaṃ ajjhācāro nāma hoti, na pana duṭṭhullo nāma ajjhācāroti dīpeti. ‘‘Ajjhācāro nāmāti ca aṭṭhakathāyaṃ vuttattā akattabbarūpattā ca anupasampannassa sukkavissaṭṭhiādīni daṇḍakammavatthupakkhaṃ bhajanti, tāni ca aññassa anupasampannassa avaṇṇakāmatāya ārocento bhikkhu dukkaṭaṃ āpajjatī’’ti vadanti. Idha pana anupasampannaggahaṇena sāmaṇerasāmaṇerīsikkhamānānaṃ gahaṇaṃ veditabbaṃ. Sesamettha uttānameva. Antimavatthuṃ anajjhāpannassa bhikkhuno savatthuko saṅghādiseso, anupasampannassa ārocanaṃ, bhikkhusammutiyā abhāvoti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
Sự xem xét về tội trọng và không phải tội trọng chỉ nên được thực hiện đối với những điều học đã được chế định cho họ, và các điều như xuất tinh v.v… không được chế định riêng cho họ. Vậy thì, những điều được xem là tội trọng của Tỳ-khưu như xuất tinh v.v…, đối với người chưa cụ túc viên mãn thì được gọi là gì? Về điều này, ngài nói: “Việc xuất tinh… cho đến… được gọi là sự vi phạm.” Qua điều này cũng chứng minh được rằng: “Đối với người chưa cụ túc viên mãn, việc xuất tinh v.v… không được gọi là tội trọng.” Thật vậy, khi nói “được gọi là sự vi phạm,” ngài chỉ ra rằng đối với người chưa cụ túc viên mãn, việc xuất tinh v.v… chỉ đơn thuần được gọi là sự vi phạm, chứ không phải là sự vi phạm được gọi là tội trọng. Có người nói rằng: “Và do trong Chú giải đã nói là ‘được gọi là sự vi phạm,’ và do là việc không nên làm, nên việc xuất tinh v.v… của người chưa cụ túc viên mãn thuộc về đối tượng của hình phạt, và Tỳ-khưu nào nói ra những điều ấy cho một người chưa cụ túc viên mãn khác với ý muốn bêu xấu thì phạm tội Tác Ác.” Nhưng ở đây, cần phải hiểu rằng việc nắm bắt từ “người chưa cụ túc viên mãn” là bao gồm Sa-di, Sa-di-ni, và cô ni tu tập sự. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Tội Tăng Tàn có đối tượng đối với Tỳ-khưu không phạm tội cuối cùng (tức là Bất Cộng Trụ), việc nói ra cho người chưa cụ túc viên mãn, và sự không có sự đồng thuận của Tỳ-khưu; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Duṭṭhullārocanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học nói về tội trọng đã kết thúc.
10. Pathavīkhaṇanasikkhāpadavaṇṇanā
10. Sự giải về điều học đào đất
84-86. Dasame ekindriyanti ‘‘kāyindriyaṃ atthī’’ti maññamānā vadanti. Muṭṭhippamāṇāti muṭṭhinā saṅgahetabbappamāṇā. Ettha kiñcāpi yebhuyyapaṃsuṃ appapaṃsuñca pathaviṃ vatvā upaḍḍhapaṃsukā pathavī na vuttā, tathāpi paṇṇattivajjasikkhāpadesu sāvasesapaññattiyāpi sambhavato upaḍḍhapaṃsukāyapi pathaviyā pācittiyamevāti gahetabbaṃ. Keci pana ‘‘sabbacchannādīsu upaḍḍhe dukkaṭassa vuttattā idhāpi dukkaṭaṃ yutta’’nti vadanti, taṃ na yuttaṃ pācittiyavatthukañca anāpattivatthukañca duvidhaṃ pathaviṃ ṭhapetvā aññissā dukkaṭavatthukāya tatiyāya pathaviyā abhāvato. Dveyeva hi pathaviyo vuttā ‘‘jātā ca pathavī ajātā ca pathavī’’ti. Tasmā dvīsu aññatarāya pathaviyā bhavitabbaṃ, vinayavinicchaye ca sampatte garukeyeva ṭhātabbattā na sakkā ettha anāpattiyā bhavituṃ. Sabbacchannādīsu pana upaḍḍhe dukkaṭaṃ yuttaṃ tattha tādisassa dukkaṭavatthuno sabbhāvā.
84-86. Ở điều học thứ mười, “có một căn”, những người cho rằng “có thân căn” đã nói như vậy. “Kích thước bằng một nắm tay” là kích thước có thể nắm được bằng một nắm tay. Ở đây, mặc dù sau khi đã nói về đất có phần lớn là đất và đất có ít đất, trường hợp đất có một nửa là đất không được nói đến, tuy nhiên cần phải hiểu rằng trong các điều học về tội do chế định, do cũng có thể có sự chế định không trọn vẹn, nên đối với đất có một nửa là đất cũng phạm tội Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “Do trong trường hợp được che kín hoàn toàn v.v…, ở mức một nửa thì đã nói là tội Tác Ác, nên ở đây tội Tác Ác cũng hợp lý,” điều đó không hợp lý, vì không có loại đất thứ ba là đối tượng của tội Tác Ác, ngoài hai loại đất là đối tượng của tội Ưng Đối Trị và đối tượng của sự vô tội. Thật vậy, chỉ có hai loại đất được nói đến là “đất đã sanh và đất chưa sanh.” Do đó, nó phải thuộc một trong hai loại đất. Và khi phải quyết định về luật, cần phải đứng về phía nặng hơn, nên ở đây không thể là vô tội. Còn trong trường hợp được che kín hoàn toàn v.v…, tội Tác Ác ở mức một nửa là hợp lý, vì ở đó có đối tượng của tội Tác Ác như vậy.
‘‘Pokkharaṇiṃ khaṇā’’ti vadati, vaṭṭatīti ‘‘imasmiṃ okāse’’ti aniyametvā vuttattā vaṭṭati. ‘‘Imaṃ valliṃ khaṇā’’ti vuttepi pathavīkhaṇanaṃ sandhāya pavattavohārattā imināva sikkhāpadena āpatti, na bhūtagāmapātabyatāya. Kuṭehīti ghaṭehi. Tanukakaddamoti udakamissakakaddamo. So ca udakagatikattā vaṭṭati. Omakacātumāsanti ūnacātumāsaṃ. Ovaṭṭhanti devena ovaṭṭhaṃ. Akatapabbhāreti avaḷañjanaṭṭhānadassanatthaṃ vuttaṃ. Tādise hi vammikassa sabbhāvoti. Mūsikukkuraṃ nāma mūsikāhi khaṇitvā bahi katapaṃsurāsi. Eseva nayoti omakacātumāsaovaṭṭhoyeva vaṭṭatīti attho.
“Hãy đào ao sen”, vị ấy nói như vậy, thì được phép, do đã nói mà không xác định: “tại địa điểm này.” Ngay cả khi được nói: “Hãy đào dây leo này,” do là cách nói liên quan đến việc đào đất, nên phạm tội theo chính điều học này, chứ không phải do tội phá hoại thảo mộc. “Bằng những cái lu” là bằng những cái ghè. “Bùn loãng” là bùn có lẫn nước. Và nó được phép vì có tính chất của nước. “Ít hơn bốn tháng” là chưa đủ bốn tháng. “Đã bị mưa xối” là đã bị trời mưa xối. “Ở nơi dốc không được làm” được nói để chỉ ra nơi không thường dùng. Vì ở nơi như vậy mới có tổ mối. “Đống đất chuột” là đống đất do chuột đào và vun ra ngoài. “Đây là phương pháp” có nghĩa là chỉ được phép đối với trường hợp ít hơn bốn tháng và đã bị mưa xối.
Ekadivasampi na vaṭṭatīti ovaṭṭhaekadivasātikkantopi vikopetuṃ na vaṭṭati. ‘‘Heṭṭhābhūmisambandhepi ca gokaṇṭake bhūmito chinditvā uddhaṃ ṭhitattā accuggatamatthakato chinditvā gahetuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. Sakaṭṭhāne atiṭṭhamānaṃ katvā pādehi madditvā chinditvā āloḷitakaddamampi gahetuṃ vaṭṭati. Tatoti tato purāṇasenāsanato. Iṭṭhakaṃ gaṇhāmītiādi suddhacittaṃ sandhāya vuttaṃ. Udakenāti ujukaṃ ākāsatoyeva patanakaudakena. ‘‘Sace pana aññattha paharitvā patitena udakena temitaṃ hoti, vaṭṭatī’’ti vadanti. Uccāletvāti ukkhipitvā. Tena apadesenāti tena lesena.
“Dầu chỉ một ngày cũng không được phép” là đã qua một ngày sau khi bị mưa xối cũng không được phép làm hư hoại. Có người nói rằng: “Và ngay cả khi có sự liên kết với mặt đất ở dưới, đối với gai gokantaka, do đã bị tách khỏi mặt đất và đứng thẳng lên, nên được phép cắt lấy từ phần ngọn nhô cao.” Cũng được phép lấy cả bùn đã được khuấy lên sau khi đã làm cho nó không còn ở vị trí của mình bằng cách dùng chân giẫm nát. “Từ đó” là từ nơi ở cũ đó. “Tôi lấy viên gạch” v.v… được nói ám chỉ đến tâm trong sạch. “Bởi nước” là bởi nước rơi thẳng từ trên trời xuống. Có người nói rằng: “Còn nếu nó bị ướt bởi nước đã văng vào nơi khác rồi rơi xuống thì được phép.” “Sau khi nhấc lên” là sau khi nâng lên. “Bằng cớ đó” là bằng lý do đó.
87-88.Avisayattāanāpattīti ettha sacepi nibbāpetuṃ sakkā hoti, paṭhamaṃ suddhacittena dinnattā ‘‘dahatū’’ti sallakkhetvāpi tiṭṭhati, anāpatti. Ovaṭṭhaṃ channanti paṭhamaṃ ovaṭṭhaṃ pacchā channaṃ. Sesaṃ uttānameva. Jātapathavī, pathavīsaññitā, khaṇanakhaṇāpanānaṃ aññataranti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
87-88.Về câu “vô tội do không phải là đối tượng,” ở đây, ngay cả khi có thể dập tắt (lửa), do ban đầu đã cho với tâm trong sạch, nên dù có nhận thấy rằng “cứ để nó cháy” rồi đứng yên, vẫn vô tội. “Đã bị mưa xối rồi được lợp” là trước tiên bị mưa xối, sau đó được lợp. Phần còn lại đã rõ ràng. Đất đã sanh, có tưởng là đất, và một trong hai việc đào hoặc bảo người khác đào; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Pathavīkhaṇanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học đào đất đã kết thúc.
Niṭṭhito musāvādavaggo paṭhamo.
Phẩm Nói Dối, là phẩm thứ nhất, đã kết thúc.
2. Bhūtagāmavaggo
2. Phẩm Thảo Mộc
1. Bhūtagāmasikkhāpadavaṇṇanā
1. Sự giải về điều học Thảo Mộc
89. Senāsanavaggassa paṭhame niggahetuṃ asakkontoti sandhāretuṃ asakkonto. Iminā pana vacanena dārakassa tattha upanītabhāvo tena ca diṭṭhabhāvo vuttoyevāti daṭṭhabbaṃ. Tena hi bhikkhunā taṃ rukkhaṃ chindituṃ āraddhe tattha nibbattā ekā taruṇaputtā devadhītā puttaṃ aṅkenādāya ṭhitā taṃ yāci ‘‘mā me sāmi vimānaṃ chindi, na sakkhissāmi puttakaṃ ādāya anāvāsā vicaritu’’nti. So ‘‘ahaṃ aññattha īdisaṃ rukkhaṃ na labhissāmī’’ti tassā vacanaṃ nādiyi. Sā ‘‘imampi tāva dārakaṃ oloketvā oramissatī’’ti puttaṃ rukkhasākhāya ṭhapesi. So bhikkhu ukkhittaṃ pharasuṃ sandhāretuṃ asakkonto dārakassa bāhaṃ chindi. Evañca sayito vimāne sayito nāma hotīti katvā vuttaṃ ‘‘rukkhaṭṭhakadibbavimāne nipannassā’’ti.
89. Ở điều học đầu tiên của Phẩm Nơi Ở, “không thể kềm giữ được” là không thể ngăn lại được. Và cần phải hiểu rằng, bằng lời nói này, việc đứa trẻ đã được mang đến đó và đã được vị ấy nhìn thấy cũng đã được nói đến. Thật vậy, khi vị Tỳ-khưu ấy bắt đầu chặt cây đó, một vị thiên nữ trẻ tuổi sanh ra ở đó, bế con trên tay, đứng lại và van xin vị ấy rằng: “Thưa ngài, xin đừng chặt thiên cung của tôi, tôi không thể mang con đi lang thang không nơi ở được.” Vị ấy không để tâm đến lời của nàng và nói: “Tôi không thể tìm được cây nào như thế này ở nơi khác.” Nàng nghĩ: “Có lẽ khi nhìn thấy đứa trẻ này, ông ta sẽ dừng lại,” rồi đặt con lên một cành cây. Vị Tỳ-khưu ấy không thể kềm giữ được chiếc búa đã giơ lên, đã chặt đứt cánh tay của đứa trẻ. Và do việc ngủ như vậy cũng được gọi là ngủ trong thiên cung, nên đã nói: “của người đang nằm trong thiên cung thần thánh gắn liền với cây.”
Rukkhaṭṭhakadibbavimāneti ca sākhaṭṭhakavimānaṃ sandhāya vuttaṃ. Rukkhassa upari nibbattañhi vimānaṃ rukkhapaṭibaddhattā ‘‘rukkhaṭṭhakavimāna’’nti vuccati. Sākhaṭṭhakavimānaṃ pana sabbasākhāsannissitaṃ hutvā tiṭṭhati. Tattha yaṃ rukkhaṭṭhakavimānaṃ hoti, taṃ yāva rukkhassa mūlamattampi tiṭṭhati, tāva na nassati. Sākhaṭṭhakavimānaṃ pana sākhāsu bhijjamānāsu tattha tattheva bhijjitvā sabbasākhāsu bhinnāsu sabbaṃ bhijjati, idampi ca vimānaṃ sākhaṭṭhakaṃ, tasmā rukkhe chinne taṃ vimānaṃ sabbaso vinaṭṭhaṃ, teneva sā devatā bhagavato santikā laddhe aññasmiṃ vimāne vasi. Bāhuṃ thanamūleyeva chindīti aṃsena saddhiṃ bāhaṃ chindi. Iminā ca rukkhadevatānaṃ gattāni chijjanti, na cātumahārājikādīnaṃ viya acchejjānīti daṭṭhabbaṃ. Rukkhadhammeti rukkhapakatiyaṃ, rukkhasabhāveti attho. Rukkhānaṃ viya chedanādīsu akuppanañhi rukkhadhammo nāma.
Và câu “trong thiên cung thần thánh gắn liền với cây” được nói ám chỉ đến thiên cung gắn liền với cành cây. Thật vậy, thiên cung sanh ra ở trên cây, do gắn liền với cây, nên được gọi là “thiên cung gắn liền với cây.” Còn thiên cung gắn liền với cành cây thì tồn tại nương vào tất cả các cành. Trong đó, thiên cung nào gắn liền với cây thì không bị hủy hoại cho đến khi gốc cây vẫn còn. Còn thiên cung gắn liền với cành cây thì khi các cành bị gãy, nó bị gãy ở chính những nơi đó, và khi tất cả các cành bị gãy, toàn bộ thiên cung bị gãy. Và thiên cung này cũng là loại gắn liền với cành cây, do đó khi cây bị chặt, thiên cung đó bị hủy hoại hoàn toàn. Chính vì thế, vị thiên nữ ấy đã ở trong một thiên cung khác do đức Thế Tôn ban cho. “Đã chặt cánh tay ngay tại gốc vú” là đã chặt cánh tay cùng với vai. Và qua điều này, cần phải hiểu rằng thân thể của các vị thọ thần bị chặt đứt, chứ không phải là không thể bị chặt đứt như của các vị trời thuộc cõi Tứ Đại Thiên Vương v.v… “Trong bản chất của cây” có nghĩa là trong tập tính của cây, trong bản tánh của cây. Thật vậy, việc không tức giận khi bị chặt đốn v.v… như cây cối được gọi là bản chất của cây.
Uppatitanti uppannaṃ. Bhantanti dhāvantaṃ. Vārayeti niggaṇheyya. Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā nāma cheko sārathi ativegena dhāvantaṃ rathaṃ niggahetvā yathicchakaṃ peseti, evaṃ yo puggalo uppannaṃ kodhaṃ vāraye niggaṇhituṃ sakkoti, tamahaṃ sārathiṃ brūmi. Itaro pana rājauparājādīnaṃ rathasārathijano rasmiggāho nāma hoti, na uttamasārathīti.
“Đã sanh khởi” là đã phát sinh. “Đang lao đi” là đang chạy. “Ngăn lại” là kềm chế. Điều này có nghĩa là: cũng như một người đánh xe tài giỏi kềm chế cỗ xe đang lao đi quá nhanh và điều khiển nó theo ý muốn, cũng vậy, người nào có thể ngăn lại, kềm chế được cơn giận đã sanh khởi, người đó Ta gọi là người đánh xe. Còn người khác, là người đánh xe cho vua, thái tử v.v…, chỉ được gọi là người cầm cương, chứ không phải là người đánh xe bậc cao.
Dutiyagāthāya pana ayamattho – yoti (su. ni. aṭṭha. 1.1) yo yādiso khattiyakulā vā pabbajito brāhmaṇakulā vā pabbajito navo vā majjhimo vā thero vā. Uppatitanti uddhamuddhaṃ patitaṃ, gataṃ pavattanti attho, uppannanti vuttaṃ hoti. Kodhanti ‘‘anatthaṃ me caratīti āghāto jāyatī’’tiādinā (dī. ni. 3.340; a. ni. 9.29) nayena sutte vuttānaṃ navannaṃ, ‘‘atthaṃ me na caratī’’tiādīnañca tappaṭipakkhato siddhānaṃ navannamevāti aṭṭhārasannaṃ khāṇukaṇṭakādinā aṭṭhānena saddhiṃ ekūnavīsatiyā āghātavatthūnaṃ aññatarāghātavatthusambhavaṃ āghātaṃ. Visaṭanti vitthataṃ. Sappavisanti sappassa visaṃ. Ivāti opammavacanaṃ. I-kāralopaṃ katvā va-icceva vuttaṃ. Osadhehīti agadehi. Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā visatikicchako vejjo sappena daṭṭho sabbaṃ kāyaṃ pharitvā ṭhitaṃ visaṭaṃ sappavisaṃ mūlakhandhatacapattapupphādīnaṃ aññatarehi, nānābhesajjehi payojetvā katehi vā osadhehi khippameva vineyya, evameva yo yathāvuttena āghātavatthunā uppatitaṃ cittasantānaṃ byāpetvā ṭhitaṃ kodhaṃ vinayanupāyesu tadaṅgavinayādīsu yena kenaci upāyena vineti nādhivāseti pajahati vinodeti byantiṃ karoti, so bhikkhu jahāti orapāraṃ. So evaṃ kodhaṃ vinento bhikkhu yasmā kodho tatiyamaggena sabbaso pahīyati, tasmā orapārasaññitāni pañcorambhāgiyasaṃyojanāni jahātīti. Avisesena hi pāranti tīrassa nāmaṃ, tasmā orāni ca tāni saṃsārasāgarassa pārabhūtāni cāti katvā ‘‘orapāra’’nti vuccati.
Còn ý nghĩa của câu kệ thứ hai là như vầy: người nào (su. ni. aṭṭha. 1.1) là người xuất gia từ dòng dõi Sát-đế-lỵ hay xuất gia từ dòng dõi Bà-la-môn, là người mới tu, trung niên, hay trưởng lão. “Đã sanh khởi” là đã nổi lên, đã đi đến, đã diễn tiến, có nghĩa là đã phát sinh. “Cơn giận” là sự tức giận phát sinh từ một trong mười chín nguyên nhân gây tức giận, bao gồm chín nguyên nhân đã được nói trong kinh theo phương pháp: “sự tức giận phát sinh vì ‘hắn đã làm điều bất lợi cho ta’” (dī. ni. 3.340; a. ni. 9.29) v.v…, chín nguyên nhân đối nghịch với chúng như: “hắn không làm điều lợi cho ta” v.v…, và trường hợp vô cớ như vấp phải gốc cây, gai nhọn v.v… “Lan rộng” là lan tỏa. “Nọc rắn” là nọc của con rắn. “Như” là từ chỉ sự so sánh. Mẫu tự ‘i’ đã bị lược bỏ và chỉ còn lại là ‘va.’ “Bằng thuốc giải” là bằng thuốc trị độc. Điều này có nghĩa là: cũng như một thầy thuốc trị độc bị rắn cắn, nhanh chóng chế ngự được nọc rắn đã lan rộng khắp toàn thân bằng các loại thuốc được làm từ rễ, thân, vỏ, lá, hoa v.v… của cây, hoặc bằng các loại thuốc được pha chế từ nhiều loại dược liệu khác nhau, cũng vậy, Tỳ-khưu nào chế ngự, không dung dưỡng, từ bỏ, loại trừ, làm cho chấm dứt cơn giận đã phát sinh do một nguyên nhân gây tức giận đã nói trên và đang lan tỏa trong tâm, bằng bất kỳ phương pháp nào trong các phương pháp chế ngự như chế ngự từng phần v.v…, vị Tỳ-khưu ấy từ bỏ bờ bên này và bờ bên kia. Vị Tỳ-khưu ấy, khi chế ngự cơn giận như vậy, vì cơn giận được đoạn trừ hoàn toàn bằng đạo quả thứ ba, nên từ bỏ năm hạ phần kiết sử được gọi là bờ bên này và bờ bên kia. Thật vậy, một cách không phân biệt, “bờ bên kia” là tên gọi của một bờ, do đó, chúng vừa là bờ bên này vừa là bờ bên kia của đại dương sanh tử, nên được gọi là “bờ bên này và bờ bên kia.”
Atha vā yo uppatitaṃ vineti kodhaṃ visaṭaṃ sappavisaṃva osadhehi, so tatiyamaggena sabbaso kodhaṃ vinetvā anāgāmiphale ṭhito bhikkhu jahāti orapāraṃ. Tattha oranti sakattabhāvo. Pāranti parattabhāvo. Oraṃ vā cha ajjhattikāni āyatanāni, pāraṃ cha bāhirāyatanāni. Tathā oraṃ manussaloko, pāraṃ devaloko. Oraṃ kāmadhātu, pāraṃ rūpārūpadhātu. Oraṃ kāmarūpabhavo, pāraṃ arūpabhavo. Oraṃ attabhāvo, pāraṃ attabhāvasukhupakaraṇāni. Evametasmiṃ orapāre catutthamaggena chandarāgaṃ pajahanto ‘‘jahāti orapāra’’nti vuccati. Ettha ca kiñcāpi anāgāmino kāmarāgassa pahīnattā idhattabhāvādīsu chandarāgo eva natthi, apica kho panassa vaṇṇappakāsanatthaṃ sabbametaṃ orapārabhedaṃ saṅgahetvā tattha chandarāgappahānena ‘‘jahāti orapāra’’nti vuttaṃ.
Hoặc là, người nào chế ngự cơn giận đã sanh khởi, lan rộng như nọc rắn bằng thuốc giải, vị Tỳ-khưu ấy, sau khi đã chế ngự hoàn toàn cơn giận bằng đạo quả thứ ba và an trú trong quả A-na-hàm, từ bỏ bờ bên này và bờ bên kia. Ở đó, “bờ bên này” là tự thân. “Bờ bên kia” là tha thân. Hoặc bờ bên này là sáu nội xứ, bờ bên kia là sáu ngoại xứ. Tương tự, bờ bên này là cõi người, bờ bên kia là cõi trời. Bờ bên này là Dục giới, bờ bên kia là Sắc giới và Vô sắc giới. Bờ bên này là Dục hữu và Sắc hữu, bờ bên kia là Vô sắc hữu. Bờ bên này là tự thân, bờ bên kia là những tiện nghi cho sự sung sướng của tự thân. Khi từ bỏ lòng tham muốn đối với bờ bên này và bờ bên kia đó bằng đạo quả thứ tư, vị ấy được gọi là “từ bỏ bờ bên này và bờ bên kia.” Và ở đây, mặc dù bậc A-na-hàm đã đoạn trừ lòng tham ái trong cõi dục, nên không còn lòng tham muốn đối với tự thân ở cõi này v.v…, tuy nhiên, để làm rạng rỡ phẩm chất của vị ấy, tất cả sự phân biệt về bờ bên này và bờ bên kia này đã được bao gồm, và qua việc đoạn trừ lòng tham muốn ở đó, đã nói là “từ bỏ bờ bên này và bờ bên kia.”
Idāni tassatthassa vibhāvanatthāya upamaṃ āha ‘‘urago jiṇṇamivattacaṃ purāṇa’’nti. Tattha urena gacchatīti urago, sappassetaṃ adhivacanaṃ. So duvidho kāmarūpī ca akāmarūpī ca. Kāmarūpīpi duvidho jalajo thalajo ca. Jalajo jale eva kāmarūpaṃ labhati, na thale saṅkhapālajātake (jā. 2.17.143 ādayo) saṅkhapālanāgarājā viya. Thalajo thale eva, na jale. So jajjarabhāvena jiṇṇaṃ, cirakālatāya purāṇañcāti saṅkhaṃ gataṃ tacaṃ jahanto catubbidhena jahati sajātiyaṃ ṭhito jigucchanto nissāya thāmenāti. Sajāti nāma sappajāti dīghattabhāvo. Uragā hi pañcasu ṭhānesu sajātiṃ nātivattanti upapattiyaṃ cutiyaṃ vissaṭṭhaniddokkamane sajātiyā methunapaṭisevane jiṇṇatacāpanayane cāti. Tasmā yadā tacaṃ jahati, tadā sajātiyaṃyeva ṭhatvā jahati. Sajātiyaṃ ṭhitopi ca jigucchanto jahati. Jigucchanto nāma yadā upaḍḍhaṭṭhāne mutto hoti, upaḍḍhaṭṭhāne amutto olambati, tadā naṃ aṭṭīyanto jahati, evaṃ jigucchantopi ca daṇḍantaraṃ vā mūlantaraṃ vā pāsāṇantaraṃ vā nissāya jahati. Nissāya jahantopi ca thāmaṃ janetvā ussāhaṃ karitvā vīriyena vaṅkaṃ naṅguṭṭhaṃ katvā passasantova phaṇaṃ karitvā jahati. Evaṃ jahitvā yenakāmaṃ pakkamati.
Bây giờ, để làm rõ ý nghĩa đó, ngài đưa ra ví dụ: “như con rắn lột bỏ lớp da cũ đã già.” Ở đó, loài đi bằng ngực là loài rắn, đây là một tên gọi khác của con rắn. Loài đó có hai loại: có thể biến hình theo ý muốn và không thể biến hình theo ý muốn. Loại có thể biến hình theo ý muốn cũng có hai loại: sống dưới nước và sống trên cạn. Loại sống dưới nước chỉ có thể biến hình theo ý muốn ở dưới nước, không phải trên cạn, như long vương Saṅkhapāla trong kinh Bổn Sanh Saṅkhapāla (jā. 2.17.143 ādayo). Loại sống trên cạn chỉ có thể (biến hình) trên cạn, không phải dưới nước. Nó từ bỏ lớp da đã trở nên già cỗi do hư hoại và cũ kỹ do thời gian lâu dài theo bốn cách: đứng vững trong bản chất của mình, với sự ghê tởm, bằng cách nương tựa, và bằng sức mạnh. Bản chất của mình là bản chất của loài rắn, tức là thân hình dài. Loài rắn không vượt qua bản chất của mình ở năm trường hợp: khi sanh, khi chết, khi xuất tinh, khi giao phối theo bản chất của mình, và khi lột bỏ lớp da cũ. Do đó, khi lột da, nó đứng vững trong bản chất của mình mà lột. Dù đứng vững trong bản chất của mình, nó lột da với sự ghê tởm. Lột da với sự ghê tởm là khi nó đã lột được một nửa, còn một nửa chưa lột được đang treo lủng lẳng, lúc đó nó lột da với sự khó chịu. Dù lột da với sự ghê tởm như vậy, nó vẫn nương vào một khe gậy, khe rễ cây, hay khe đá mà lột. Dù nương tựa mà lột, nó vẫn tạo ra sức mạnh, cố gắng, và dùng sức lực uốn cong đuôi như đang thở và phùng mang mà lột. Sau khi lột như vậy, nó đi đến nơi nào nó muốn.
Evameva ayampi bhikkhu orapāraṃ jahitukāmo catubbidhena jahati sajātiyaṃ ṭhito jigucchanto nissāya thāmenāti. Sajāti nāma bhikkhuno ‘‘ariyāya jātiyā jāto’’ti (ma. ni. 2.351) vacanato sīlaṃ. Tenevāha ‘‘sīle patiṭṭhāya naro sapañño’’ti (saṃ. ni. 1.23, 192). Evametissaṃ sajātiyaṃ ṭhito bhikkhu taṃ sakattabhāvādibhedaṃ orapāraṃ jiṇṇapurāṇattacamiva taṃ dukkhaṃ janentaṃ tattha tattha ādīnavadassanena jigucchanto kalyāṇamitte nissāya adhimattasammāvāyāmasaṅkhātaṃ thāmaṃ janetvā ‘‘divasaṃ caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodhetī’’ti (a. ni. 3.16; 4.37) vuttanayena rattindivaṃ chadhā vibhajitvā ghaṭento vāyamanto urago viya vaṅkaṃ naṅguṭṭhaṃ pallaṅkaṃ ābhujitvā urago viya passasanto ayampi asithilaparakkamatāya vāyamanto uragova phaṇaṃ karitvā ayampi ñāṇavipphāraṃ janetvā uragova tacaṃ orapāraṃ jahati, jahitvā ca urago viya ohitataco yenakāmaṃ pakkamati, ayampi ohitabhāro anupādisesanibbānadhātudisaṃ pakkamatīti.
Cũng vậy, vị Tỳ-khưu này, khi muốn từ bỏ bờ bên này và bờ bên kia, cũng từ bỏ theo bốn cách: đứng vững trong bản chất của mình, với sự ghê tởm, bằng cách nương tựa, và bằng sức mạnh. Bản chất của mình của vị Tỳ-khưu là giới hạnh, theo như câu: “được sanh ra bằng sự sanh của bậc Thánh” (ma. ni. 2.351). Chính vì thế ngài nói: “người có trí tuệ, an trú trong giới hạnh” (saṃ. ni. 1.23, 192). Vị Tỳ-khưu đứng vững trong bản chất của mình như vậy, xem bờ bên này và bờ bên kia đã được phân loại là tự thân v.v… như lớp da cũ đã già, sinh ra khổ đau, và ghê tởm nó bằng cách thấy sự nguy hại ở khắp nơi, nương tựa vào các thiện hữu, tạo ra sức mạnh được gọi là sự tinh tấn chân chánh tột bậc, và theo phương pháp đã nói: “ban ngày kinh hành, ngồi thiền, thanh lọc tâm khỏi các pháp chướng ngại” (a. ni. 3.16; 4.37), sau khi đã chia ngày đêm thành sáu phần, nỗ lực, cố gắng, giống như con rắn uốn cong đuôi, vị này cũng bắt tréo chân thành thế kiết-già; giống như con rắn đang thở, vị này cũng cố gắng với sự tinh tấn không懈怠; giống như con rắn phùng mang, vị này cũng phát sinh trí tuệ sáng suốt; giống như con rắn lột da, vị này cũng từ bỏ bờ bên này và bờ bên kia; và sau khi đã từ bỏ, giống như con rắn đã lột da đi đến nơi nào nó muốn, vị này cũng đã đặt gánh nặng xuống và đi về hướng Vô Dư Y Niết-bàn.
90.Bhavantīti iminā viruḷhamūle nīlabhāvaṃ āpajjitvā vaḍḍhamānake taruṇagacche dasseti. Ahuvunti iminā pana vaḍḍhitvā ṭhite mahante rukkhagacchādike dasseti. Bhavantīti imassa vivaraṇaṃ ‘‘jāyanti vaḍḍhantī’’ti, ahuvunti imassa ‘‘jātā vaḍḍhitā’’ti. Rāsīti suddhaṭṭhakadhammasamūho. Bhūtānanti tathāladdhasamaññānaṃ aṭṭhadhammānaṃ. ‘‘Bhūtānaṃ gāmo’’ti vuttepi avayavavinimuttassa samudāyassa abhāvato bhūtasaññitā teyeva tiṇarukkhalatādayo gayhanti. ‘‘Bhūmiyaṃ patiṭṭhahitvā haritabhāvamāpannā rukkhagacchādayo devatāhi pariggayhanti, tasmā bhūtānaṃ nivāsaṭṭhānatāya bhūtānaṃ gāmo’’tipi vadanti. Rukkhādīnanti ādi-saddena osadhigacchalatādayo veditabbā.
90.Bằng từ “đang là,” ngài chỉ ra các bụi cây non đang mọc rễ, trở nên xanh tươi và đang lớn lên. Còn bằng từ “đã là,” ngài chỉ ra các cây cối lớn v.v… đã lớn lên và đứng vững. Sự giải thích của từ “đang là” là “đang mọc, đang lớn.” Của từ “đã là” là “đã mọc, đã lớn.” “Sự tập hợp” là sự tập hợp của tám pháp đơn thuần. “Của các loài thảo mộc” là của tám pháp có tên gọi như vậy. Mặc dù nói “nhóm của các loài thảo mộc,” nhưng do không có một tập hợp nào tách rời khỏi các thành phần của nó, nên chính các loài cỏ, cây, dây leo v.v… có tên là thảo mộc được hiểu. Cũng có người nói rằng: “Cây cối v.v… sau khi đã bén rễ trong đất và trở nên xanh tươi thì được các vị trời chiếm hữu, do đó, do là nơi ở của các loài thảo mộc, nên được gọi là nhóm của các loài thảo mộc.” “Của cây cối v.v…,” bằng từ v.v…, cần phải hiểu là các loại dược thảo, bụi cây, dây leo v.v…
Nanu ca rukkhādayo cittarahitatāya na jīvā, cittarahitatā ca paripphandābhāvato chinnepi ruhanato visadisajātikabhāvato catuyoniapariyāpannato ca veditabbā, vuḍḍhi pana pavāḷasilālavaṇānampi vijjatīti na tesaṃ jīvabhāve kāraṇaṃ, visayaggahaṇañca nesaṃ parikappanāmattaṃ supanaṃ viya ciñcādīnaṃ, tathā dohaḷādayo, tattha kasmā bhūtagāmassa chedanādipaccayā pācittiyaṃ vuttanti? Samaṇasāruppato taṃnivāsasattānurakkhaṇato ca. Tenevāha ‘‘jīvasaññino hi moghapurisā manussā rukkhasmi’’ntiādi.
Chẳng phải cây cối v.v… không phải là sinh vật vì không có tâm thức, và sự không có tâm thức cần được biết là do không có sự rung động, do vẫn mọc lại khi bị chặt, do có bản chất khác loại, và do không thuộc bốn loài sanh sao? Còn sự tăng trưởng thì ngay cả san hô, đá, và muối cũng có, nên đó không phải là lý do cho việc chúng là sinh vật. Và sự nhận biết đối tượng của chúng chỉ là sự tưởng tượng, giống như giấc mơ của cây me v.v… Tương tự là việc ốm nghén v.v… Vậy tại sao việc chặt đốn nhóm thảo mộc lại bị quy định là tội Ưng Đối Trị? Do đó là việc phù hợp với sa-môn và để bảo vệ các chúng sanh cư ngụ trong đó. Chính vì thế ngài đã nói: “Này các kẻ ngu kia, con người có tưởng là sinh vật ở trong cây” v.v…
91. ‘‘Mūle jāyantī’’tiādīsu attho upari attanā vuccamānappakārena sīhaḷaṭṭhakathāyaṃ vuttoti āha ‘‘evaṃ santepi…pe… na samentī’’ti. Vijāta-saddo idha vi-saddalopaṃ katvā niddiṭṭhoti āha ‘‘vijātānī’’ti. Vijāta-saddo ca ‘‘vijātā itthī’’tiādīsu viya pasūtavacanoti āha ‘‘pasūtānī’’ti. Pasūti ca nāmettha nibbattapaṇṇamūlatāti āha ‘‘nibbattapaṇṇamūlānī’’ti. Iminā imaṃ dīpeti ‘‘nibbattapaṇṇamūlāni bījāni bhūtagāmasaṅkhameva gacchanti, tesu ca vattamāno bījajāta-saddo ruḷhīvasena rukkhādīsupi vattatī’’ti. Purimasmiṃ atthavikappe pana bījehi jātānaṃ rukkhalatādīnaṃyeva bhūtagāmatā vuttā.
91. Về ý nghĩa của các câu “mọc ở rễ” v.v…, do đã được nói trong Chú giải tiếng Sīhaḷa theo cách mà chính ngài sẽ nói ở phần sau, nên ngài nói: “Dầu cho là như vậy… cho đến… không lắng dịu.” Từ “vijāta” ở đây đã được chỉ định với sự lược bỏ mẫu tự ‘vi,’ nên ngài nói là “vijātāni.” Và từ “vijāta” có nghĩa là đã sanh, giống như trong các câu “người phụ nữ đã sanh con” v.v…, nên ngài nói là “đã sanh.” Và sự sanh ở đây là việc lá và rễ đã mọc ra, nên ngài nói là “những hạt có lá và rễ đã mọc.” Qua điều này, ngài chỉ ra rằng: “những hạt có lá và rễ đã mọc thì được xếp vào nhóm thảo mộc, và từ ‘bījajāta’ (mọc từ hạt) đang được dùng cho chúng, theo cách dùng thông thường, cũng được dùng cho cây cối v.v…” Còn trong cách giải thích ý nghĩa trước đó, chỉ có cây cối, dây leo v.v… mọc từ hạt mới được cho là nhóm thảo mộc.
Tāni dassentoti tāni bījāni dassento. Mūlabījantiādīsu mūlameva bījaṃ mūlabījaṃ. Sesesupi eseva nayo. Phaḷubījanti pabbabījaṃ. Paccayantarasamavāye sadisaphaluppattiyā visesakāraṇabhāvato viruhanasamatthe sāraphale niruḷho bīja-saddo. Tadatthasaṃsiddhiyā mūlādīsupi kesuci pavattatīti mūlādito nivattanatthaṃ ekena bījasaddena visesetvā vuttaṃ ‘‘bījabīja’’nti ‘‘rūparūpaṃ, dukkhadukkha’’nti ca yathā. Bījato nibbattena bījaṃ dassitanti kāriyopacārena kāraṇaṃ dassitanti dīpeti.
“Khi chỉ ra những hạt đó” là khi chỉ ra những hạt giống đó. Trong các câu “hạt giống từ rễ” v.v…, chính rễ là hạt giống, nên là hạt giống từ rễ. Ở các câu còn lại cũng theo phương pháp này. “Hạt giống từ đốt” là hạt giống từ mắt cây. Từ “hạt giống” được dùng theo nghĩa thông thường cho quả có tinh chất, có khả năng nảy mầm, do là nguyên nhân đặc biệt cho việc sinh ra quả tương tự khi có sự kết hợp của các duyên khác. Để phân biệt với rễ v.v…, do nó được dùng cho một số trong số chúng để đạt được mục đích đó, nên đã nói là “hạt giống từ hạt” bằng cách phân biệt với một từ hạt giống, giống như trong các câu “sắc của sắc, khổ của khổ.” “Đã chỉ ra hạt giống bằng cái mọc ra từ hạt giống,” ngài chỉ ra rằng đã chỉ ra nguyên nhân bằng cách dùng phép ẩn dụ về kết quả.
92.Bīje bījasaññīti ettha kāraṇūpacārena kāriyaṃ vuttanti dassento ‘‘tattha yathā’’tiādimāha. Bhūtagāmaparimocanaṃ katvāti bhūtagāmato mocetvā, viyojetvāti attho. Yaṃ bījaṃ bhūtagāmo nāma hotīti bījāni ca tāni jātāni cāti vuttamatthaṃ sandhāya vadati. Tattha yaṃ bījanti yaṃ nibbattapaṇṇamūlaṃ bījaṃ. Tasmiṃ bījeti tasmiṃ bhūtagāmasaññite bīje. Ettha ca bījajāta-saddassa viya ruḷhīvasena rukkhādīsu bīja-saddassapi pavatti veditabbā. Yathārutanti yathāpāḷi.
92.Về câu “đối với hạt giống, có tưởng là hạt giống,” để chỉ ra rằng kết quả đã được nói bằng cách dùng phép ẩn dụ về nguyên nhân, ngài đã nói: “Ở đó, cũng như” v.v… “Sau khi đã làm cho thoát khỏi nhóm thảo mộc” là sau khi đã giải thoát khỏi nhóm thảo mộc, có nghĩa là đã tách rời. “Hạt giống nào được gọi là nhóm thảo mộc,” ngài nói ám chỉ đến ý nghĩa đã được nêu là “những hạt giống đó đã mọc.” Ở đó, “hạt giống nào” là hạt giống nào có lá và rễ đã mọc. “Đối với hạt giống đó” là đối với hạt giống được gọi là nhóm thảo mộc đó. Và ở đây, cần phải biết rằng, giống như từ ‘bījajāta,’ từ ‘bīja’ cũng được dùng cho cây cối v.v… theo cách dùng thông thường. “Theo như đã nghe” là theo như Pāḷi.
Yattha katthacīti mūle agge majjhe vā. Sañcicca ukkhipituṃ na vaṭṭatīti ettha sacepi sarīre laggabhāvaṃ jānantova udakato uṭṭhahati, ‘‘taṃ uddharissāmī’’ti saññāya abhāvato vaṭṭati. Uppāṭitānīti uddhaṭāni. Bījagāme saṅgahaṃ gacchantīti bhūtagāmato parimocitattā vuttaṃ. Anantaka-ggahaṇena sāsapamattikā gahitā. Nāmañhetaṃ tassā sevālajātiyā . Mūlapaṇṇānaṃ asampuṇṇattā ‘‘asampuṇṇabhūtagāmo nāmā’’ti vuttaṃ. Abhūtagāmamūlattāti ettha bhūtagāmo mūlaṃ kāraṇaṃ etassāti bhūtagāmamūlo, bhūtagāmassa vā mūlaṃ kāraṇanti bhūtagāmamūlaṃ. Bījagāmo hi nāma bhūtagāmato sambhavati, bhūtagāmassa ca kāraṇaṃ hoti, ayaṃ pana tādiso na hotīti ‘‘abhūtagāmamūlattā’’ti vuttaṃ. Tatraṭṭhakattā vuttaṃ ‘‘so bījagāmena saṅgahito’’ti. Idañca ‘‘abhūtagāmamūlattā’’ti ettha paṭhamaṃ vuttaatthasambhavato vuttaṃ. Kiñcāpi hi tālanāḷikerādīnaṃ khāṇu uddhaṃ avaḍḍhanato bhūtagāmassa kāraṇaṃ na hoti, tathāpi bhūtagāmasaṅkhyupagatanibbattapaṇṇamūlabījato sambhūtattā bhūtagāmato uppanno nāma hotīti bījagāmena saṅgahaṃ gacchati.
“Ở bất cứ nơi nào” là ở rễ, ngọn, hay thân. Về câu “không được phép cố ý nhổ lên,” ở đây, ngay cả khi biết rằng nó dính vào thân thể mà vẫn ra khỏi nước, do không có ý nghĩ “tôi sẽ nhổ nó lên,” nên được phép. “Đã bị nhổ lên” là đã bị bứng lên. “Được xếp vào nhóm hạt giống,” được nói như vậy vì đã được giải thoát khỏi nhóm thảo mộc. Bằng việc đề cập đến “loài anantaka,” các loại cải và đất sét được bao gồm. Đó là tên của một loại rong rêu. Do rễ và lá chưa hoàn chỉnh, nên đã nói là “nhóm thảo mộc chưa hoàn chỉnh.” Về câu “do không phải là gốc của nhóm thảo mộc,” ở đây, nhóm thảo mộc là gốc, là nguyên nhân của nó, nên là ‘bhūtagāmamūlo’; hoặc gốc, là nguyên nhân của nhóm thảo mộc, nên là ‘bhūtagāmamūlaṃ.’ Thật vậy, nhóm hạt giống phát sinh từ nhóm thảo mộc, và là nguyên nhân của nhóm thảo mộc, nhưng cái này không phải như vậy, nên đã nói là “do không phải là gốc của nhóm thảo mộc.” Do ở tại đó, nên đã nói: “nó được xếp vào nhóm hạt giống.” Và điều này được nói do có khả năng xảy ra ý nghĩa đã được nêu đầu tiên trong câu “do không phải là gốc của nhóm thảo mộc.” Thật vậy, mặc dù gốc cây của các loài như cọ, dừa v.v… không phải là nguyên nhân của nhóm thảo mộc do không mọc lên trên, tuy nhiên, do phát sinh từ hạt giống có lá và rễ đã mọc và được xếp vào nhóm thảo mộc, nên nó được gọi là phát sinh từ nhóm thảo mộc và được xếp vào nhóm hạt giống.
‘‘Aṅkure harite’’ti vatvā tameva vibhāveti ‘‘nīlapaṇṇavaṇṇe jāte’’ti, nīlapaṇṇassa vaṇṇasadise vaṇṇe jāteti attho. ‘‘Nīlavaṇṇe jāte’’ti vā pāṭho gahetabbo. Amūlakabhūtagāme saṅgahaṃ gacchatīti nāḷikerassa āveṇikaṃ katvā vadati. ‘‘Pānīyaghaṭādīnaṃ bahi sevālo udake aṭṭhitattā bījagāmānulomattā ca dukkaṭavatthū’’ti vadanti. Kaṇṇakampi abbohārikamevāti nīlavaṇṇampi abbohārikameva. Seleyyakaṃ nāma silāya sambhūtā ekā sugandhajāti. ‘‘Rukkhattacaṃ vikopetīti vuttattā rukkhe jātaṃ yaṃ kiñci chattakaṃ rukkhattacaṃ avikopetvā matthakato chinditvā gahetuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. Rukkhato muccitvā tiṭṭhatīti ettha ‘‘yadipi kiñcimattaṃ rukkhe allīnā hutvā tiṭṭhati, rukkhato gayhamāno pana rukkhacchaviṃ na vikopeti, vaṭṭatī’’ti vadanti. Allarukkhato na vaṭṭatīti etthāpi rukkhattacaṃ avikopetvā matthakato tacchetvā gahetuṃ vaṭṭatīti veditabbaṃ. Hatthakukkuccenāti hatthānaṃ asaṃyatabhāvena, hatthacāpallenāti vuttaṃ hoti. Pānīyaṃ na vāsetabbanti idaṃ attano atthāya nāmitaṃ sandhāya vuttaṃ. Kevalaṃ anupasampannassa atthāya nāmite pana pacchā tato labhitvā na vāsetabbanti natthi. ‘‘Yesaṃ rukkhānaṃ sākhā ruhatīti vuttattā yesaṃ sākhā na ruhati, tattha kappiyakaraṇakiccaṃ natthī’’ti vadanti.
Sau khi đã nói “khi mầm còn xanh,” ngài giải thích chính điều đó: “khi đã có màu của lá xanh,” có nghĩa là khi đã có màu giống như màu của lá xanh. Hoặc nên lấy bản văn là “khi đã có màu xanh.” “Được xếp vào nhóm thảo mộc không có rễ,” ngài nói bằng cách phân biệt riêng cho cây dừa. Có người nói rằng: “Rong rêu ở bên ngoài các vật chứa nước v.v…, do không ở trong nước và tương tự như nhóm hạt giống, nên là đối tượng của tội Tác Ác.” “Ngay cả nấm cũng không phải là đối tượng tranh chấp,” ngay cả nấm có màu xanh cũng không phải là đối tượng tranh chấp. “Seleyyakaṃ” là một loại hương liệu mọc trên đá. Có người nói rằng: “Do đã nói là ‘làm hư hoại vỏ cây,’ nên bất cứ loại nấm nào mọc trên cây, nếu cắt lấy từ trên ngọn mà không làm hư hoại vỏ cây thì được phép.” Về câu “tách rời khỏi cây mà đứng,” ở đây, có người nói rằng: “Nếu nó chỉ dính một chút vào cây, và khi lấy từ cây mà không làm hư hoại lớp vỏ cây thì được phép.” Về câu “từ cây tươi thì không được phép,” ở đây cũng cần phải biết rằng nếu đẽo lấy từ trên ngọn mà không làm hư hoại vỏ cây thì được phép. “Do sự không cẩn thận của tay” là do sự không thu thúc của tay, có nghĩa là do sự hấp tấp của tay. “Không nên ướp nước,” điều này được nói ám chỉ đến việc bẻ cành vì lợi ích của chính mình. Còn trong trường hợp bẻ cành chỉ vì lợi ích của người chưa cụ túc viên mãn, thì không có chuyện sau đó được lấy từ đó để ướp. Có người nói rằng: “Do đã nói là ‘những cây nào có cành mọc lại,’ nên đối với những cây nào có cành không mọc lại, thì không cần phải làm cho hợp lệ.”
93.Pañcahisamaṇakappehīti pañcahi samaṇavohārehi. Kiñcāpi hi bījānaṃ agginā phuṭṭhamattena nakhādīhi vilikhanamattena ca aviruḷhīdhammatā na hoti, tathāpi evaṃ kateyeva samaṇānaṃ kappatīti aggiparijitādayo samaṇavohārā nāma jātā, tasmā tehi samaṇavohārehi karaṇabhūtehi phalaṃ paribhuñjituṃ anujānāmīti adhippāyo. Abījanibbaṭṭabījānipi samaṇānaṃ kappantīti paññattapaṇṇattibhāvato samaṇavohārāicceva saṅkhaṃ gatāni. Atha vā aggiparijitādīnaṃ pañcannaṃ kappiyabhāvatoyeva pañcahi samaṇakappiyabhāvasaṅkhātehi kāraṇehi phalaṃ paribhuñjituṃ anujānāmīti evamettha adhippāyo veditabbo. Aggiparijitantiādīsu ‘‘paricita’’ntipi paṭhanti. Abījaṃ nāma taruṇambaphalādi. Nibbaṭṭabījaṃ nāma ambapanasādi, yaṃ bījaṃ nibbaṭṭetvā visuṃ katvā paribhuñjituṃ sakkā hoti. ‘‘Kappiya’’nti vatvāva kātabbanti yo kappiyaṃ karoti, tena kattabbākārasseva vuttattā bhikkhunā avuttepi kātuṃ vaṭṭatīti na gahetabbaṃ. Puna ‘‘kappiyaṃ kāretabba’’nti kārāpanassa paṭhamameva kathitattā bhikkhunā ‘‘kappiyaṃ karohī’’ti vutteyeva anupasampannena ‘‘kappiya’’nti vatvā aggiparijitādi kātabbanti gahetabbaṃ. ‘‘Kappiyanti vacanaṃ pana yāya kāyaci bhāsāya vattuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. ‘‘Kappiyanti vatvāva kātabba’’nti vacanato paṭhamaṃ ‘‘kappiya’’nti vatvā pacchā aggiādinā phusanādi kātabbanti veditabbaṃ. ‘‘Paṭhamaṃ aggiṃ nikkhipitvā nakhādinā vā vijjhitvā taṃ anuddharitvāva ‘kappiya’nti vattumpi vaṭṭatī’’ti vadanti.
93.“Bằng năm cách hợp lệ cho sa-môn” là bằng năm cách xử sự của sa-môn. Thật vậy, mặc dù việc hạt giống không còn khả năng nảy mầm không thể xảy ra chỉ bằng cách chạm vào lửa hay cào bằng móng tay v.v…, tuy nhiên, chỉ khi làm như vậy thì mới hợp lệ cho các sa-môn, nên các cách như chạm vào lửa v.v… đã trở thành cách xử sự của sa-môn. Do đó, ý định là: Ta cho phép hưởng dụng quả bằng các cách xử sự của sa-môn đó, vốn là phương tiện. Các hạt giống không được sinh ra từ hạt giống cũng hợp lệ cho các sa-môn, và do là sự quy định của quy định, nên chúng được gọi là cách xử sự của sa-môn. Hoặc ở đây, cần phải hiểu ý định như sau: chính vì năm cách như chạm vào lửa v.v… là hợp lệ, nên Ta cho phép hưởng dụng quả bằng năm nguyên nhân được gọi là sự hợp lệ cho sa-môn. Trong các câu “được chạm vào lửa” v.v…, cũng có bản đọc là “paricita.” “Không có hạt giống” là quả xoài non v.v… “Đã được lấy hạt” là quả xoài, mít v.v…, loại quả mà có thể lấy hạt ra riêng rồi hưởng dụng. Về câu “phải nói ‘hợp lệ’ rồi mới làm,” do chỉ nói về cách thức phải làm của người làm cho hợp lệ, nên không nên hiểu rằng Tỳ-khưu không cần nói mà vẫn được phép làm. Do việc yêu cầu làm cho hợp lệ đã được nói ngay từ đầu, nên cần phải hiểu rằng chỉ khi Tỳ-khưu nói: “hãy làm cho hợp lệ,” thì người chưa cụ túc viên mãn mới nói “hợp lệ” rồi làm các việc như chạm vào lửa v.v… Có người nói rằng: “Còn lời nói ‘hợp lệ’ thì được phép nói bằng bất kỳ ngôn ngữ nào.” Theo câu “phải nói ‘hợp lệ’ rồi mới làm,” cần phải biết rằng trước tiên phải nói “hợp lệ,” sau đó mới làm các việc như chạm vào lửa v.v… Có người nói rằng: “Trước tiên đặt lửa vào hoặc đâm bằng móng tay v.v…, rồi không cần lấy ra mà vẫn có thể nói ‘hợp lệ’ cũng được.”
Ekasmiṃ bīje vātiādīsu ‘‘ekaṃyeva kāremīti adhippāye satipi ekābaddhattā sabbaṃ katameva hotī’’ti vadanti. Dāruṃ vijjhatīti ettha ‘‘jānitvāpi vijjhati vā vijjhāpeti vā, vaṭṭatiyevā’’ti vadanti. Bhattasitthe vijjhatīti etthāpi eseva nayo. ‘‘Taṃ vijjhati, na vaṭṭatīti rajjuādīnaṃ bhājanagatikattā’’ti vadanti. Maricapakkādīhi missetvāti ettha bhattasitthasambandhavasena ekābaddhatā veditabbā, na phalānaṃyeva aññamaññaṃ sambandhavasena. Bhindāpetvā kappiyaṃ kārāpetabbanti bījato muttassa kaṭāhassa bhājanagatikattā vuttaṃ.
Về các câu “hoặc trong một hạt giống” v.v…, có người nói rằng: “Mặc dù chỉ có ý định làm cho một hạt hợp lệ, nhưng do dính liền với nhau, nên tất cả đều được xem là đã được làm.” Về câu “đâm vào gỗ,” ở đây, có người nói rằng: “Dù biết mà vẫn đâm hoặc bảo người khác đâm, thì vẫn được phép.” Về câu “đâm vào cơm,” ở đây cũng theo phương pháp này. Có người nói rằng: “‘Đâm vào cái đó thì không được phép,’ là do dây thừng v.v… thuộc về vật chứa.” Về câu “trộn với tiêu v.v…,” ở đây cần phải hiểu sự dính liền là do liên quan đến cơm, chứ không phải chỉ là sự dính liền giữa các loại quả với nhau. “Sau khi đã đập vỡ, phải nhờ người làm cho hợp lệ,” được nói như vậy vì cái chảo đã được tách khỏi hạt giống thuộc về vật chứa.
Nikkhāmetunti taṃ bhikkhuṃ nikkhāmetuṃ. ‘‘Sace etassa anuloma’’nti senāsanarakkhaṇatthāya anuññātampi paṭaggidānādiṃ attanāpi kātuṃ vaṭṭatīti ettakeneva idampi etassa anulomanti evamadhippāyo siyā. Paṭaggidānaṃ parittakaraṇañca attano parassa vā senāsanarakkhaṇatthāya vaṭṭatiyeva. Tasmā sace tassa suttassa etaṃ anulomaṃ siyā, attano na vaṭṭati, aññassa vaṭṭatīti ayaṃ viseso kuto labbhatīti āha ‘‘attano na vaṭṭati…pe… na sakkā laddhu’’nti. Sesamettha uttānameva. Bhūtagāmo, bhūtagāmasaññitā, vikopanaṃ vā vikopāpanaṃ vāti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
“Hãy đuổi ra” là hãy đuổi Tỳ-khưu đó ra. “Nếu điều này phù hợp với vị ấy,” có lẽ ý định là như thế này: ngay cả việc cho lửa ngược chiều gió v.v… đã được cho phép để bảo vệ nơi ở, nếu có thể tự mình làm, thì chỉ cần chừng đó cũng là phù hợp với vị ấy. Việc cho lửa ngược chiều gió và việc làm lễ hộ trì thì được phép để bảo vệ nơi ở của mình hoặc của người khác. Do đó, nếu điều đó phù hợp với kinh ấy, tại sao lại có sự khác biệt này là mình thì không được phép, người khác thì được phép? Về điều này, ngài nói: “mình thì không được phép… cho đến… không thể có được.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Nhóm thảo mộc, có tưởng là nhóm thảo mộc, và việc làm hư hoại hoặc bảo người khác làm hư hoại; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Bhūtagāmasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học Thảo Mộc đã kết thúc.
2. Aññavādakasikkhāpadavaṇṇanā
2. Sự giải về điều học nói sang chuyện khác
94-98. Dutiye aññaṃ vacananti yaṃ codakena cuditakassa dosavibhāvanavacanaṃ vuttaṃ, taṃ tato aññeneva vacanena paṭicarati. Atha vā aññenaññaṃ paṭicaratīti aññena kāraṇena aññaṃ kāraṇaṃ paṭicaratīti evamettha attho veditabbo, yaṃ codakena cuditakassa dosavibhāvanakāraṇaṃ vuttaṃ, tato aññena codanāya amūlakabhāvadīpakena kāraṇena paṭicaratīti vuttaṃ hoti. Paṭicaratīti ca paṭicchādanavasena carati, pavattatīti attho. Paṭicchādanattho eva vā carati-saddo anekatthattā dhātūnaṃ. Tenāha ‘‘paṭicchādetī’’ti. Ko āpannotiādinā pāḷiyaṃ codanaṃ avissajjetvā vikkhepāpajjanavasena aññena aññaṃ paṭicaraṇaṃ dassitaṃ. Aparampi pana codanaṃ vissajjetvā bahiddhā kathāapanāmavasena pavattaṃ pāḷimuttakaṃ aññenaññaṃ paṭicaraṇaṃ veditabbaṃ. ‘‘Itthannāmaṃ āpattiṃ āpannosī’’ti puṭṭho ‘‘pāṭaliputtaṃ gatomhī’’ti vatvā puna ‘‘na tava pāṭaliputtagamanaṃ pucchāma, āpattiṃ pucchāmā’’ti vutte ‘‘tato rājagahaṃ gatomhī’’ti vatvā ‘‘rājagahaṃ vā yāhi brāhmaṇagahaṃ vā, āpattiṃ āpannosī’’ti vutte ‘‘tattha me sūkaramaṃsaṃ laddha’’ntiādīni vatvāva kathaṃ bahiddhā vikkhipantopi hi ‘‘aññenaññaṃ paṭicarati’’cceva saṅkhaṃ gacchati.
94-98. Ở điều học thứ hai, “lời nói khác” là, lời nói vạch tội của người chất vấn đã được nói ra cho người bị chất vấn, vị ấy đối phó lại bằng một lời nói khác với lời nói đó. Hoặc là, “đối phó việc này bằng việc khác”, ở đây cần phải hiểu ý nghĩa như sau: đối phó một lý do này bằng một lý do khác. Điều này có nghĩa là, đối với lý do vạch tội của người chất vấn đã được nói ra cho người bị chất vấn, vị ấy đối phó lại bằng một lý do khác, là lý do chỉ ra sự vô căn cứ của lời chất vấn. Và “đối phó” có nghĩa là hành động, diễn tiến theo cách che đậy. Hoặc chính từ ‘carati’ có nghĩa là che đậy, do các động từ gốc có nhiều nghĩa. Do đó, ngài nói: “che đậy.” Bằng câu “Ai phạm?” v.v…, trong Pāḷi đã chỉ ra việc đối phó việc này bằng việc khác theo cách lảng tránh mà không trả lời lời chất vấn. Tuy nhiên, cần phải biết về một trường hợp đối phó việc này bằng việc khác khác, vốn là cách lái câu chuyện ra ngoài sau khi đã trả lời lời chất vấn, và không có trong Pāḷi. Khi được hỏi: “Ngươi đã phạm tội tên như vầy,” vị ấy nói: “Chúng tôi đã đi Pāṭaliputta.” Khi được nói lại: “Chúng tôi không hỏi về việc ngươi đi Pāṭaliputta, chúng tôi hỏi về tội,” vị ấy nói: “Từ đó chúng tôi đã đi Rājagaha.” Khi được nói: “Ngươi đi Rājagaha hay đi nhà của Bà-la-môn cũng được, ngươi có phạm tội không?”, vị ấy nói những điều như: “Ở đó tôi đã được thịt heo” v.v…, và lái câu chuyện ra ngoài, thì cũng được xem là “đối phó việc này bằng việc khác.”
Yadetaṃ aññena aññaṃ paṭicaraṇavasena pavattavacanaṃ, tadeva pucchitamatthaṃ ṭhapetvā aññaṃ vadatīti aññavādakanti āha ‘‘aññenaññaṃ paṭicaraṇassetaṃ nāma’’nti. Tuṇhībhūtassetaṃ nāmanti tuṇhībhāvassetaṃ nāmaṃ, ayameva vā pāṭho. Aññavādakaṃ āropetūti aññavādakakammaṃ āropetu, aññavādakattaṃ vā idāni kariyamānena kammena āropetūti attho. Vihesakaṃ āropetūti etthāpi vihesakakammaṃ vihesakabhāvaṃ vā āropetūti evamattho daṭṭhabbo.
Lời nói diễn tiến theo cách đối phó việc này bằng việc khác đó, chính là việc bỏ qua vấn đề đã được hỏi và nói sang chuyện khác, nên được gọi là lời nói khác, do đó ngài nói: “đó là tên gọi của việc đối phó việc này bằng việc khác.” “Đó là tên gọi của người im lặng” là tên gọi của sự im lặng, hoặc đây chính là bản văn. “Hãy gán cho tội nói sang chuyện khác” có nghĩa là hãy gán cho hành vi nói sang chuyện khác, hoặc hãy gán cho bản chất nói sang chuyện khác bằng hành vi đang được thực hiện. Ở câu “Hãy gán cho tội làm phiền nhiễu,” ở đây cũng cần phải hiểu ý nghĩa như sau: hãy gán cho hành vi làm phiền nhiễu hoặc bản chất làm phiền nhiễu.
Anāropite aññavādake vuttadukkaṭaṃ pāḷiyaṃ āgataaññenaññaṃpaṭicaraṇavasena yujjati . Aṭṭhakathāyaṃ āgatena pana pāḷimuttakaaññenaññaṃpaṭicaraṇavasena anāropite aññavādake musāvādena pācittiyaṃ, āropite imināva pācittiyanti veditabbaṃ. Keci pana ‘‘āropite aññavādake musāvādena iminā ca pācittiyadvayaṃ hotī’’ti vadanti, taṃ vīmaṃsitvā gahetabbaṃ. Yā sā ādikammikassa anāpatti vuttā, sāpi pāḷiyaṃ āgataaññenaññaṃpaṭicaraṇavasena vuttāti daṭṭhabbā, iminā sikkhāpadena anāpattidassanatthaṃ vā. Sesaṃ uttānameva. Dhammakammena āropitatā, āpattiyā vā vatthunā vā anuyuñjiyamānatā, chādetukāmatāya aññenaññaṃ paṭicaraṇaṃ vā tuṇhībhāvo vāti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
Tội Tác Ác đã được nói đến khi chưa bị gán tội nói sang chuyện khác thì phù hợp với trường hợp đối phó việc này bằng việc khác đã có trong Pāḷi. Tuy nhiên, cần phải biết rằng đối với trường hợp đối phó việc này bằng việc khác ngoài Pāḷi đã có trong Chú giải, khi chưa bị gán tội nói sang chuyện khác thì phạm tội Ưng Đối Trị do nói dối, còn khi đã bị gán tội thì phạm tội Ưng Đối Trị theo chính điều học này. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “Khi đã bị gán tội nói sang chuyện khác, có hai tội Ưng Đối Trị là do nói dối và theo điều học này,” điều đó cần phải được xem xét rồi mới chấp nhận. Sự vô tội đã được nói đến cho người phạm tội đầu tiên, điều đó cũng cần phải được hiểu là đã được nói theo trường hợp đối phó việc này bằng việc khác đã có trong Pāḷi, hoặc là để chỉ ra sự vô tội theo điều học này. Phần còn lại đã rõ ràng. Việc đã bị gán tội bằng một Tăng sự hợp pháp, việc đang bị chất vấn về một tội hay một sự việc, và việc đối phó việc này bằng việc khác hoặc im lặng với ý muốn che đậy; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Aññavādakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học nói sang chuyện khác đã kết thúc.
3. Ujjhāpanakasikkhāpadavaṇṇanā
3. Sự giải về điều học xúi giục
103. Tatiye dhātupāṭhe jhe-saddo cintāyaṃ paṭhitoti āha ‘‘lāmakato vā cintāpentī’’tiādi. Ayameva ca anekatthattā dhātūnaṃ olokanatthopi hotīti daṭṭhabbaṃ. ‘‘Akkharāya vācetī’’tiādīsu (pāci. 46) viya ‘‘chandāyā’’ti liṅgavipallāsavasena vuttanti āha ‘‘chandenā’’ti.
103. Ở điều học thứ ba, trong Dhātupāṭha, do từ ‘jhe’ được đọc với nghĩa là suy nghĩ, nên ngài nói: “hoặc làm cho suy nghĩ một cách thấp hèn” v.v… Và cần phải hiểu rằng, do các động từ gốc có nhiều nghĩa, nên chính từ này cũng có nghĩa là nhìn xem. Giống như trong các câu “dạy đọc từng mẫu tự” v.v… (pāci. 46), câu “chandāyā” đã được nói theo cách thay đổi giống (ngữ pháp), nên ngài nói là “do thiên vị.”
105.Yena vacanenāti yena ‘‘chandāya itthannāmo idaṃ nāma karotī’’tiādivacanena. Yena ca khiyyantīti yena ‘‘chandāya itthannāmo’’tiādivacanena tattha tattha bhikkhūnaṃ savanūpacāre ṭhatvā avaṇṇaṃ pakāsenti.
105.“Bằng lời nói nào” là bằng lời nói như: “do thiên vị, người tên như vầy đã làm việc tên như vầy.” “Và bằng lời nói nào họ bị chê bai” là bằng lời nói như: “do thiên vị, người tên như vầy,” họ công bố lời nói xấu trong phạm vi nghe thấy của các Tỳ-khưu ở khắp nơi.
106.Aññaṃ anupasampannaṃ ujjhāpetīti aññena anupasampannena ujjhāpeti. Tassa vā taṃ santike khiyyatīti tassa anupasampannassa santike taṃ saṅghena sammataṃ upasampannaṃ khiyyati, avaṇṇaṃ vadanto vā pakāseti. Anupasampannaṃ saṅghena sammatanti ettha sammatapubbo sammatoti vutto. Tenāha ‘‘kiñcāpī’’tiādi. Yasmā ujjhāpanaṃ khiyyanañca musāvādavaseneva pavattaṃ, tasmā ādikammikassa anāpattīti pācittiyaṭṭhāne dukkaṭaṭṭhāne ca imināva anāpattidassanatthaṃ vuttanti gahetabbaṃ. Evañca katvā ujjhāpentassa khiyyantassa ca ekakkhaṇe dve dve āpattiyo hontīti āpannaṃ. Atha vā īdisaṃ sikkhāpadaṃ musāvādato paṭhamaṃ paññattanti gahetabbaṃ. Sesamettha uttānameva. Dhammakammena sammatatā, upasampannatā, agatigamanābhāvo , tassa avaṇṇakāmatā, yassa santike vadati, tassa upasampannatā, ujjhāpanaṃ vā khiyyanaṃ vāti imāni panettha cha aṅgāni.
106.“Xúi giục một người chưa cụ túc viên mãn khác” là xúi giục bằng một người chưa cụ túc viên mãn khác. “Hoặc người ấy bị chê bai ở gần người đó” là, ở gần người chưa cụ túc viên mãn đó, người đã cụ túc viên mãn được Tăng chúng đồng thuận bị chê bai, hoặc là vị ấy nói hay công bố lời nói xấu. Ở câu “người chưa cụ túc viên mãn được Tăng chúng đồng thuận,” ở đây, người trước đây đã được đồng thuận được gọi là người đã được đồng thuận. Do đó, ngài nói: “dầu rằng” v.v… Vì việc xúi giục và chê bai đều diễn tiến do nói dối, nên cần phải hiểu rằng sự vô tội của người phạm tội đầu tiên đã được nói đến nhằm mục đích chỉ ra sự vô tội theo chính điều học này ở cả trường hợp phạm tội Ưng Đối Trị và tội Tác Ác. Và làm như vậy, dẫn đến việc người xúi giục và người chê bai cùng một lúc phạm hai tội. Hoặc là, cần phải hiểu rằng điều học như thế này đã được chế định trước điều học nói dối. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc đã được đồng thuận bằng một Tăng sự hợp pháp, việc là người đã cụ túc viên mãn, sự không đi theo thiên kiến, ý muốn nói xấu người ấy, việc người mà mình nói gần là người đã cụ túc viên mãn, và việc xúi giục hoặc chê bai; đây là sáu chi phần trong trường hợp này.
Ujjhāpanakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học xúi giục đã kết thúc.
4. Paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā
4. Sự giải về điều học nơi ở thứ nhất
108-110. Catutthe himavassenāti himameva vuttaṃ. Apaññāteti appatīte, appasiddheti attho. ‘‘Maṇḍape vā rukkhamūle vāti vacanato vivaṭaṅgaṇepi nikkhipituṃ vaṭṭatī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Gocarappasutāti gocaraṭṭhānaṃ paṭipannā. ‘‘Aṭṭha māse’’ti iminā vassānaṃ cātumāsaṃ cepi devo na vassati, paṭikkhittamevāti āha ‘‘aṭṭha māseti vacanato…pe… nikkhipituṃ na vaṭṭatiyevā’’ti. Tattha cattāro māseti vassānassa cattāro māse. Avassikasaṅketeti iminā anuññātepi aṭṭha māse yattha hemante devo vassati, tattha aparepi cattāro māsā paṭikkhittāti āha ‘‘avassikasaṅketeti vacanato’’tiādi. Iminā imaṃ dīpeti ‘‘yasmiṃ dese hemante devo vassati, tattha aṭṭha māse paṭikkhipitvā cattāro māsā anuññātā. Yattha pana vassāneyeva vassati, tattha cattāro māse paṭikkhipitvā aṭṭha māsā anuññātā’’ti.
108-110. Ở điều học thứ tư, “bởi mưa tuyết” là chính tuyết đã được nói đến. “Ở nơi không được biết đến” là ở nơi không rõ ràng, có nghĩa là không bị cản trở. Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Theo câu ‘trong gian đình hoặc dưới gốc cây,’ nên được phép đặt cả ở ngoài sân trống.” “Đã đi đến nơi kiếm ăn” là đã đi đến chỗ kiếm ăn. Bằng câu “tám tháng,” ngài nói rằng ngay cả khi trời không mưa trong bốn tháng của mùa mưa, thì vẫn bị cấm, do đó ngài nói: “do câu ‘tám tháng’… cho đến… không được phép đặt ra.” Ở đó, “bốn tháng” là bốn tháng của mùa mưa. Bằng câu “trong thời điểm không có mưa,” ngài nói rằng ngay cả trong tám tháng đã được cho phép, ở nơi nào trời mưa vào mùa đông, thì bốn tháng còn lại cũng bị cấm, do đó ngài nói: “do câu ‘trong thời điểm không có mưa’” v.v… Qua điều này, ngài chỉ ra rằng: “Ở xứ nào trời mưa vào mùa đông, thì cấm tám tháng và cho phép bốn tháng. Còn ở nơi nào chỉ mưa vào mùa mưa, thì cấm bốn tháng và cho phép tám tháng.”
Imināva nayena majjhimapadese yattha hemante himavassaṃ vassati, tatthāpi aṭṭheva māsā paṭikkhittāti veditabbā. Tasmā vassānakāle pakatiajjhokāse ovassakamaṇḍape rukkhamūle ca santharituṃ na vaṭṭati, hemantakāle pakatiajjhokāse ovassakamaṇḍapādīsupi vaṭṭati. Tañca kho yattha himavassena senāsanaṃ na temati, gimhakālepi pakatiajjhokāsādīsu vaṭṭatiyeva, tañca kho akālameghādassane, kākādīnaṃ nibaddhavāsarukkhamūle pana kadācipi na vaṭṭatīti evamettha vinicchayo veditabbo.
Theo phương pháp này, cần phải biết rằng ở vùng trung du, nơi có mưa tuyết vào mùa đông, thì cũng bị cấm tám tháng. Do đó, vào mùa mưa, không được phép trải (giường ghế) ở ngoài trời theo thường lệ, trong gian đình bị mưa tạt, và dưới gốc cây. Vào mùa đông, được phép (trải) cả ở ngoài trời theo thường lệ và trong gian đình bị mưa tạt v.v… Nhưng đó là ở nơi mà nơi ở không bị ướt bởi mưa tuyết. Vào mùa hè, cũng được phép ở ngoài trời theo thường lệ v.v…, nhưng đó là khi không thấy có mây trái mùa. Còn dưới gốc cây mà quạ v.v… thường xuyên về đậu thì không bao giờ được phép. Ở đây, cần phải hiểu sự quyết định như vậy.
Imañca pana atthavisesaṃ gahetvā bhagavatā paṭhamameva sikkhāpadaṃ paññattanti visuṃ anupaññatti na vuttā. Teneva hi mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ ‘‘iti yattha ca yadā ca santharituṃ na vaṭṭati, taṃ sabbamidha ajjhokāsasaṅkhameva gata’’nti. Atha vā avisesena ajjhokāse santharaṇasantharāpanāni paṭikkhipitvā ‘‘īdise kāle īdise ca padese ṭhapethā’’ti anujānanamatteneva alanti na sikkhāpade visuṃ anupaññatti uddhaṭāti veditabbā. Parivāre (pari. 65-67) pana imasseva sikkhāpadassa anurūpavasena paññattattā ‘‘ekā anupaññattī’’ti vuttaṃ.
Và do đức Thế Tôn đã chế định điều học ngay từ đầu sau khi đã xem xét sự khác biệt về ý nghĩa này, nên một sự bổ sung riêng biệt đã không được nói đến. Chính vì thế, trong Chú giải của Mātikā (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā) đã nói: “Như vậy, ở đâu và khi nào không được phép trải, tất cả những trường hợp đó ở đây đều được xem là ở ngoài trời.” Hoặc là, cần phải hiểu rằng sau khi đã cấm việc trải và bảo người khác trải ở ngoài trời một cách không phân biệt, chỉ cần cho phép rằng “hãy đặt ở nơi như thế này vào thời điểm như thế này” là đủ, nên một sự bổ sung riêng biệt đã không được nêu lên trong điều học. Tuy nhiên, trong bộ Parivāra (pari. 65-67), do đã được chế định theo cách tương ứng với chính điều học này, nên đã nói là “một sự bổ sung.”
Navavāyimo sīghaṃ na nassatīti āha ‘‘navavāyimo vā’’ti. Onaddhakoti cammena onaddho. Ukkaṭṭhaabbhokāsikoti idaṃ tassa parivitakkadassanamattaṃ, ukkaṭṭhaabbhokāsikassa pana cīvarakuṭi na vaṭṭatīti natthi. Kāyānugatikattāti bhikkhuno tattheva sannihitabhāvaṃ sandhāya vuttaṃ. Iminā ca tasmiṃyeva kāle anāpatti vuttā, cīvarakuṭito nikkhamitvā pana aññattha gacchantassa piṇḍāya pavisantassapi āpattiyeva. ‘‘Yasmā pana dāyakehi dānakāleyeva sahassagghanakampi kambalaṃ ‘pādapuñchaniṃ katvā paribhuñjathā’ti dinnaṃ tatheva paribhuñjituṃ vaṭṭati, tasmā ‘imaṃ mañcapīṭhādisenāsanaṃ abbhokāsepi yathāsukhaṃ paribhuñjathā’ti dāyakehi dinnaṃ ce, sabbasmimpi kāle abbhokāse nikkhipituṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. Pesetvā gantabbanti ettha ‘‘yo bhikkhu imaṃ ṭhānaṃ āgantvā vasati, tassa dethā’’ti vatvā pesetabbaṃ.
Vật mới dệt không nhanh hỏng, nên ngài nói: “hoặc vật mới dệt.” “Được bọc” là được bọc bằng da. “Người khổ hạnh ở ngoài trời bậc cao,” đây chỉ là sự trình bày về suy nghĩ của vị ấy, chứ không có chuyện lều bằng y không được phép cho người khổ hạnh ở ngoài trời bậc cao. “Do theo sát thân thể,” được nói ám chỉ đến sự hiện diện của Tỳ-khưu ngay tại đó. Và qua điều này, sự vô tội đã được nói đến chỉ trong thời điểm đó. Còn đối với người đi ra khỏi lều y và đi đến nơi khác, ngay cả khi đi vào làng để khất thực, vẫn phạm tội. Có người nói rằng: “Vì tấm thảm len trị giá ngàn vàng do thí chủ dâng cúng ngay lúc làm phước với lời dặn ‘hãy dùng làm đồ chùi chân’ thì được phép dùng đúng như vậy, do đó, nếu giường ghế v.v… được thí chủ dâng cúng với lời dặn ‘hãy dùng thoải mái ngay cả ở ngoài trời,’ thì được phép đặt ở ngoài trời vào mọi lúc.” “Phải gửi đi rồi mới đi,” ở đây, phải gửi đi bằng cách nói rằng: “Hãy đưa cho Tỳ-khưu nào đến và ở tại nơi này.”
Valāhakānaṃ anuṭṭhitabhāvaṃ sallakkhetvāti iminā ca gimhānepi meghe uṭṭhite mañcapīṭhādiṃ yaṃkiñci senāsanaṃ ajjhokāse nikkhipituṃ na vaṭṭatīti dīpitanti veditabbaṃ. ‘‘Pādaṭṭhānābhimukhāti nisīdantānaṃ pādapatanaṭṭhānābhimukha’’nti keci. ‘‘Sammajjantassa pādaṭṭhānābhimukha’’nti apare. ‘‘Bahi vālukāya agamananimittaṃ pādaṭṭhānābhimukhā vālikā haritabbāti vutta’’nti eke . Kacavaraṃ hatthehi gahetvā bahi chaṭṭetabbanti iminā kacavaraṃ chaḍḍessāmīti vālikā na chaḍḍetabbāti dīpeti.
“Sau khi đã nhận thấy tình trạng các đám mây chưa khởi lên,” cần phải biết rằng qua câu này, ngài chỉ ra rằng ngay cả trong mùa hè, khi mây đã khởi lên, cũng không được phép đặt bất cứ nơi ở nào như giường ghế v.v… ở ngoài trời. “Đối diện với chỗ để chân,” một số người giải thích là: “đối diện với chỗ đặt chân của những người đang ngồi.” Những người khác thì nói: “đối diện với chỗ để chân của người đang quét dọn.” Một số người lại nói: “đã được nói rằng cát phải được mang đến đối diện với chỗ để chân để làm dấu hiệu không đi trên cát ở bên ngoài.” “Rác phải được lấy bằng tay và vứt ra ngoài,” bằng câu này, ngài chỉ ra rằng không được vứt cát đi với ý nghĩ “tôi sẽ vứt rác.”
111.Anto saṃveṭhetvā baddhanti erakapattādīhi veṇiṃ katvā tāya veṇiyā ubhosu passesu vitthataṭṭhānesu bahuṃ veṭhetvā tato paṭṭhāya yāva majjhaṭṭhānaṃ, tāva anto ākaḍḍhanavasena veṭhetvā majjhe saṅkhipitvā tiriyaṃ tattha tattha bandhitvā kataṃ. Kappaṃ labhitvāti gacchāti vuttavacanena kappaṃ labhitvā. Therassa hi āṇattiyā gacchantassa anāpatti. Purimanayenevāti ‘‘nisīditvā sayaṃ gacchanto’’tiādinā pubbe vuttanayeneva. Aññattha gacchatīti taṃ maggaṃ atikkamitvā aññattha gacchati. Leḍḍupātupacārato bahi ṭhitattā ‘‘pāduddhārena kāretabbo’’ti vuttaṃ, aññattha gacchantassa paṭhamapāduddhāre dukkaṭaṃ, dutiyapāduddhāre pācittiyanti attho. Pākatikaṃ akatvāti appaṭisāmetvā. Antarasannipāteti antarantarā sannipāte.
111.“Được cuộn vào trong và buộc lại” là, sau khi đã làm thành bím tóc bằng lá cói v.v…, dùng bím tóc đó quấn nhiều vòng ở những chỗ rộng ở cả hai bên, rồi từ đó cuộn vào trong cho đến chỗ giữa, thâu lại ở giữa, buộc ngang ở nhiều chỗ rồi làm thành. “Sau khi đã nhận được sự cho phép” là sau khi đã nhận được sự cho phép bằng lời nói “hãy đi.” Thật vậy, đối với người đi theo mệnh lệnh của vị trưởng lão thì vô tội. “Theo phương pháp trước đó” là theo phương pháp đã được nói trước đó bằng câu “ngồi xuống rồi tự mình đi.” “Đi đến nơi khác” là sau khi đã đi qua con đường đó, vị ấy đi đến nơi khác. Do đứng ở ngoài khu vực cận tiếp một tầm ném đất, nên đã nói là “phải được xử (tội) bằng việc nhấc chân,” có nghĩa là đối với người đi đến nơi khác, phạm tội Tác Ác khi nhấc chân thứ nhất, và phạm tội Ưng Đối Trị khi nhấc chân thứ hai. “Không làm cho trở lại bình thường” là không dọn dẹp. “Trong các buổi hội họp xen kẽ” là trong các buổi hội họp ở khoảng giữa.
Āvāsikānaṃyeva palibodhoti ettha āgantukehi āgantvā kiñci avatvā tattha nisinnepi āvāsikānaṃyeva palibodhoti adhippāyo. Mahāpaccarivāde pana ‘‘aññesu āgantvā nisinnesū’’ti idaṃ amhākanti vatvā vā avatvā vā nisinnesūti adhippāyo. Mahāaṭṭhakathāvāde ‘‘āpattī’’ti pācittiyameva vuttaṃ. Mahāpaccariyaṃ pana santharaṇasantharāpane sati pācittiyena bhavitabbanti anāṇattiyā paññattattā dukkaṭaṃ vuttaṃ. ‘‘Idaṃ ussārakassa, idaṃ dhammakathikassā’’ti visuṃ paññattattā anāṇattiyā paññattepi pācittiyeneva bhavitabbanti adhippāyena ‘‘tasmiṃ āgantvā nisinne tassa palibodho’’ti vuttaṃ. Keci pana vadanti ‘‘anāṇattiyā paññattepi dhammakathikassa anuṭṭhāpanīyattā pācittiyena bhavitabbaṃ, āgantukassa pana pacchā āgatehi vuḍḍhatarehi uṭṭhāpetabbattā dukkaṭaṃ vutta’’nti.
Về câu “chỉ có các Tỳ-khưu trú tại đó mới có trách nhiệm,” ở đây, ý định là ngay cả khi các Tỳ-khưu khách đến và ngồi ở đó mà không nói gì, thì chỉ có các Tỳ-khưu trú tại đó mới có trách nhiệm. Tuy nhiên, trong bộ Mahāpaccari, câu “khi những người khác đến và ngồi” có ý định là dù có nói “đây là của chúng tôi” hay không nói mà ngồi, (thì vẫn có trách nhiệm). Trong lập trường của Mahāaṭṭhakathā, “phạm tội” được nói chính là tội Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, trong bộ Mahāpaccari, do đã được chế định không do ra lệnh rằng “nếu có việc trải và bảo người khác trải thì phải phạm tội Ưng Đối Trị,” nên đã nói là tội Tác Ác. Do đã được quy định riêng rằng “cái này dành cho người hướng dẫn, cái này dành cho người thuyết pháp,” nên với ý định rằng “ngay cả khi được quy định không do ra lệnh cũng phải phạm tội Ưng Đối Trị,” đã nói là “khi vị ấy đến và ngồi vào đó, vị ấy có trách nhiệm.” Tuy nhiên, một số người nói rằng: “Ngay cả khi được quy định không do ra lệnh, do người thuyết pháp không thể bị yêu cầu đứng dậy, nên phải phạm tội Ưng Đối Trị. Còn đối với Tỳ-khưu khách, do có thể bị các vị lớn tuổi hơn đến sau yêu cầu đứng dậy, nên đã nói là tội Tác Ác.”
112.Bhūmiyaṃ attharitabbāti cimilikāya sati tassā upari, asati suddhabhūmiyaṃ attharitabbā. Sīhacammādīnaṃ pariharaṇeyeva paṭikkhepo veditabboti iminā –
112.“Phải được trải trên đất,” nếu có chiếu, thì trải trên chiếu; nếu không, thì trải trên nền đất sạch. “Sự cấm đoán cần phải được hiểu là chỉ đối với việc mang đi,” bằng câu này –
‘‘Na , bhikkhave, mahācammāni dhāretabbāni sīhacammaṃ byagghacammaṃ dīpicammaṃ, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 255) –
“Này các Tỳ-khưu, không được dùng các loại da lớn: da sư tử, da cọp, da báo. Vị nào dùng, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 255) –
Evaṃ vuttāya khandhakapāḷiyā adhippāyaṃ vibhāveti. Idaṃ vuttaṃ hoti – ‘‘antopi mañce paññattāni honti, bahipi mañce paññattāni hontī’’ti imasmiṃ vatthusmiṃ sikkhāpadassa paññattattā mañcapīṭhesu attharitvā paribhogoyeva paṭikkhitto, bhūmattharaṇavasena paribhogo pana appaṭikkhittoti. Yadi evaṃ ‘‘pariharaṇeyeva paṭikkhepo’’ti idaṃ kasmā vuttanti? Yathā ‘‘anujānāmi, bhikkhave, sabbaṃ pāsādaparibhoga’’nti (cūḷava. 320) vacanato puggalikepi senāsane senāsanaparibhogavasena niyamitaṃ suvaṇṇaghaṭādikaṃ paribhuñjituṃ vaṭṭamānampi kevalaṃ attano santakaṃ katvā paribhuñjituṃ na vaṭṭati, evamidaṃ bhūmattharaṇavasena paribhuñjiyamānampi attano santakaṃ katvā taṃ taṃ vihāraṃ haritvā paribhuñjituṃ na vaṭṭatīti dassanatthaṃ ‘‘pariharaṇeyeva paṭikkhepo veditabbo’’ti vuttaṃ. Dārumayapīṭhanti phalakamayameva pīṭhaṃ vuttaṃ. Pādakathalikanti adhotapādaṭṭhapanakaṃ. Ajjhokāse rajanaṃ pacitvā…pe… paṭisāmetabbanti ettha theve asati rajanakamme niṭṭhite paṭisāmetabbaṃ.
Ngài làm sáng tỏ ý định của bản Pāḷi trong các Thiên như vậy. Điều này có nghĩa là: do điều học đã được chế định trong câu chuyện “chúng được quy định ở trong giường, chúng được quy định ở ngoài giường,” nên chỉ có việc hưởng dụng bằng cách trải trên giường ghế mới bị cấm, còn việc hưởng dụng bằng cách trải trên đất thì không bị cấm. Nếu vậy, tại sao lại nói “sự cấm đoán chỉ đối với việc mang đi”? Cũng như, theo câu “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép tất cả sự hưởng dụng lâu đài” (cūḷava. 320), mặc dù được phép hưởng dụng các vật dụng như bình vàng v.v… đã được quy định cho việc hưởng dụng nơi ở ngay cả trong nơi ở cá nhân, nhưng không được phép hưởng dụng bằng cách biến nó thành của riêng mình. Cũng vậy, mặc dù được hưởng dụng bằng cách trải trên đất, nhưng không được phép hưởng dụng bằng cách biến nó thành của riêng mình rồi mang đến các tu viện khác nhau. Để chỉ ra điều đó, đã nói “sự cấm đoán cần phải được hiểu là chỉ đối với việc mang đi.” “Ghế bằng gỗ” là ghế chỉ làm bằng ván gỗ đã được nói đến. “Miếng lót chân” là vật để đặt chân chưa rửa. Về câu “Sau khi đã nấu thuốc nhuộm ở ngoài trời… cho đến… phải được dọn dẹp,” ở đây, khi không còn hơi nước, sau khi việc nhuộm đã xong, phải được dọn dẹp.
113.‘‘Bhikkhu vā sāmaṇero vā ārāmiko vā lajjī hotīti vuttattā alajjiṃ āpucchitvā gantuṃ na vaṭṭatī’’ti vadanti. Otāpento gacchatīti ettha ‘‘kiñcāpi ‘ettakaṃ dūraṃ gantabba’nti paricchedo natthi, tathāpi leḍḍupātaṃ atikkamma nātidūraṃ gantabba’’nti vadanti. Sesamettha uttānameva. Mañcādīnaṃ saṅghikatā, vuttalakkhaṇe dese santharaṇaṃ vā santharāpanaṃ vā, apalibuddhatā, āpadāya abhāvo, leḍḍupātātikkamoti imāni panettha pañca aṅgāni.
113.Có người nói rằng: “‘Do đã nói ‘Tỳ-khưu, hoặc Sa-di, hoặc người phục vụ trong tự viện là người có liêm sỉ,’ nên không được phép đi sau khi đã hỏi người không có liêm sỉ.’” Về câu “đi trong khi đang phơi nắng,” ở đây, có người nói rằng: “Mặc dù không có giới hạn ‘phải đi xa chừng này,’ tuy nhiên, cần phải đi qua khoảng cách một tầm ném đất nhưng không quá xa.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc giường ghế v.v… thuộc về Tăng chúng, việc trải hoặc bảo người khác trải ở nơi có đặc điểm đã nêu, việc không có người trông coi, sự không có trường hợp nguy cấp, và việc đi qua khỏi một tầm ném đất; đây là năm chi phần trong trường hợp này.
Mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā) pana anāpucchaṃ vā gaccheyyāti ettha ‘‘yo bhikkhu vā sāmaṇero vā ārāmiko vā lajjī hoti, attano palibodhaṃ viya maññati, tathārūpaṃ anāpucchitvā taṃ senāsanaṃ tassa aniyyātetvā nirapekkho gacchati, thāmamajjhimassa purisassa leḍḍupātaṃ atikkameyya, ekena pādena leḍḍupātātikkame dukkaṭaṃ, dutiyapādātikkame pācittiya’’nti vatvā aṅgesupi nirapekkhatāya saddhiṃ cha aṅgāni vuttāni. Pāḷiyaṃ pana aṭṭhakathāyañca ‘‘nirapekkho gacchatī’’ti ayaṃ viseso na dissati. ‘‘Otāpento gacchatī’’ti ca otāpanavisaye eva sāpekkhagamane anāpatti vuttā. Yadi aññatthāpi sāpekkhagamane anāpatti siyā, ‘‘anāpatti sāpekkho gacchatī’’ti avisesena vattabbaṃ bhaveyya, tasmā vīmaṃsitvā yuttataraṃ gahetabbanti.
Tuy nhiên, trong Chú giải của Mātikā (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā), ở câu “hoặc đi mà không hỏi,” đã nói rằng: “Tỳ-khưu, hoặc Sa-di, hoặc người phục vụ trong tự viện nào là người có liêm sỉ, xem đó như là trách nhiệm của mình, nếu đi mà không hỏi người như vậy, không giao lại nơi ở đó cho người ấy, và đi một cách không bận tâm, khi đi qua một tầm ném đất của một người đàn ông có sức mạnh trung bình, phạm tội Tác Ác khi một chân đi qua một tầm ném đất, và phạm tội Ưng Đối Trị khi chân thứ hai đi qua,” và trong các chi phần cũng đã nói là sáu chi phần cùng với sự không bận tâm. Tuy nhiên, trong Pāḷi và Chú giải, không thấy có sự khác biệt này là “đi một cách không bận tâm.” Và câu “đi trong khi đang phơi nắng” đã nói về sự vô tội khi đi có bận tâm chỉ trong trường hợp phơi nắng. Nếu ở nơi khác cũng có sự vô tội khi đi có bận tâm, thì đáng lẽ phải nói một cách không phân biệt rằng “vô tội khi đi có bận tâm.” Do đó, cần phải xem xét rồi chấp nhận điều hợp lý hơn.
Paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học nơi ở thứ nhất đã kết thúc.
5. Dutiyasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā
5. Sự giải về điều học nơi ở thứ hai
116. Dutiyasenāsanasikkhāpade ettakameva vuttanti aṭṭhakathāsu vuttaṃ. ‘‘Idañca aṭṭhakathāsu tathāvuttabhāvadassanatthaṃ vuttaṃ, aññampi tādisaṃ mañcapīṭhesu attharitaṃ paccattharaṇamevā’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Mātikāṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘paccattharaṇaṃ nāma pāvāro kojavoti ettakamevā’’ti niyametvā vuttaṃ, tasmā gaṇṭhipadesu vuttaṃ iminā na sameti, vīmaṃsitvā gahetabbaṃ. Senāsanatoti sabbapacchimasenāsanato. Yo kocīti tassa ñātako vā aññātako vā yo koci.
116. Ở điều học nơi ở thứ hai, “chỉ có chừng ấy được nói đến” là đã được nói đến trong các bộ Chú giải. Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Điều này được nói ra nhằm mục đích chỉ ra rằng trong các bộ Chú giải đã nói như vậy, và bất cứ tấm trải nào khác tương tự được trải trên giường ghế cũng là tấm trải.” Tuy nhiên, trong Chú giải của Mātikā, đã nói một cách hạn định rằng: “tấm trải chỉ là tấm choàng hoặc tấm thảm len,” do đó, điều được nói trong các sách nghĩa giải không đồng nhất với điều này, cần phải xem xét rồi mới chấp nhận. “Từ nơi ở” là từ nơi ở cuối cùng nhất. “Bất cứ ai” là bất cứ ai, dù là người quen hay không quen của vị ấy.
117.Pariveṇanti ekekassa vihārassa parikkhepabbhantaraṃ. Kurundaṭṭhakathāyaṃ vuttamevatthaṃ savisesaṃ katvā dassetuṃ ‘‘kiñcāpi vutto’’tiādi āraddhaṃ. ‘‘Aparicchanne maṇḍape’’ti visuṃ yojetabbaṃ. Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘aparicchannamaṇḍape vā paricchanne vāpi bahūnaṃ sannipātabhūte’’ti vuttaṃ. Bhojanasālāyampi ayaṃ viseso labbhatiyeva. Vattabbaṃ natthīti visesetvā kiñci vattabbaṃ natthi. Palujjatīti vinassati. Nasseyyāti corādīhi vinasseyya.
117.“Khuôn viên” là khu vực bên trong hàng rào của mỗi tu viện. Để làm rõ và đặc biệt hóa ý nghĩa đã được nói trong Chú giải Kurundi, phần bắt đầu bằng “dầu rằng đã được nói” đã được khởi đầu. Câu “trong gian đình không có vách ngăn” nên được kết hợp một cách riêng biệt. Chính vì thế, trong Chú giải của Mātikā (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā) đã nói: “trong gian đình không có vách ngăn, hoặc có vách ngăn nhưng là nơi hội họp của nhiều người.” Sự khác biệt này cũng có thể có được ngay cả trong nhà ăn. “Không cần phải nói” là không cần phải nói điều gì đặc biệt. “Bị hư hỏng” là bị hủy hoại. “Có thể bị mất” là có thể bị hủy hoại bởi trộm cắp v.v…
118. Yena mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā vinanti, taṃ mañcapīṭhakavānaṃ. Siluccayaleṇanti siluccaye leṇaṃ, pabbataguhāti attho. ‘‘Senāsanaṃ upacikāhi khāyita’’nti imasmiṃ vatthusmiṃ paññattattā vatthuanurūpavasena aṭṭhakathāyaṃ upacikāsaṅkāya abhāve anāpatti vuttā. Vattakkhandhake gamikavattaṃ paññapentena ‘‘senāsanaṃ āpucchitabba’’nti vuttattā kevalaṃ itikattabbākāramattadassanatthaṃ ‘‘āpucchanaṃ pana vatta’’nti vuttaṃ, na pana vattabhedena dukkaṭanti dassanatthaṃ. Teneva andhakaṭṭhakathāyaṃ ‘‘senāsanaṃ āpucchitabba’’nti ettha ‘‘yaṃ pāsāṇapiṭṭhiyaṃ vā pāsāṇatthambhesu vā katasenāsanaṃ yattha upacikā nārohanti, taṃ anāpucchantassapi anāpattī’’ti vakkhati, tasmā yaṃ vuttaṃ gaṇṭhipade ‘‘tādise senāsane anāpucchā gacchantassa pācittiyaṃ natthi, gamikavattavasena pana anāpucchā gacchato vattabhedo hoti, tasmā dukkaṭaṃ āpajjatī’’ti, taṃ na gahetabbaṃ.
118. Vật liệu mà người ta dùng để đan giường hoặc ghế là vật liệu để đan giường ghế. “Hang ở nơi vách đá” là hang ở vách đá, có nghĩa là hang núi. Do đã được chế định trong câu chuyện “nơi ở bị mối ăn,” nên trong Chú giải đã nói về sự vô tội khi không có nỗi lo về mối, theo cách tương ứng với câu chuyện. Do trong Thiên về các phận sự, khi chế định phận sự của Tỳ-khưu khách, đã nói rằng “phải hỏi về nơi ở,” nên đã nói “việc hỏi chỉ là phận sự” chỉ nhằm mục đích chỉ ra cách thức phải làm, chứ không phải để chỉ ra rằng đó là tội Tác Ác do vi phạm phận sự. Chính vì thế, trong Chú giải của phái Andhaka sẽ nói về câu “phải hỏi về nơi ở” rằng: “Đối với nơi ở được làm trên nền đá hoặc trên các cột đá, nơi mà mối không thể leo lên, thì vô tội ngay cả đối với người không hỏi.” Do đó, điều đã được nói trong sách nghĩa giải rằng: “Đối với nơi ở như vậy, người đi mà không hỏi thì không phạm tội Ưng Đối Trị, nhưng do đi mà không hỏi theo phận sự của Tỳ-khưu khách, nên có sự vi phạm phận sự, do đó phạm tội Tác Ác,” điều đó không nên được chấp nhận.
Pacchimassa ābhogena mutti natthīti tassa pacchato gacchantassa aññassa abhāvato vuttaṃ. Ekaṃ vā pesetvā āpucchitabbanti ettha gamanacittassa uppannaṭṭhānato anāpucchitvā gacchato dutiyapāduddhāre pācittiyaṃ. Kiñcāpi mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā ajjhokāse nikkhipitvā gacchantassa idha visuṃ āpatti na vuttā, tathāpi akāle ajjhokāse mañcapīṭhāni paññapetvā gacchantassa leḍḍupātātikkame purimasikkhāpadena pācittiyaṃ, parikkhepātikkame iminā dukkaṭanti veditabbaṃ. ‘‘Maṇḍape vā rukkhamūle vā’’ti iminā ajjhokāsopi saṅgahitoyevāti tatthāpi dukkaṭaṃ idha vuttamevāti daṭṭhabbaṃ. Seyyaṃ pana ajjhokāse santharitvā gacchantassa ubhayenapi dukkaṭameva. ‘‘Saṅghike vihāre saṅghikaṃyeva seyyaṃ santharitvā pakkamantassa pācittiyaṃ vuttanti ubhosu ekekasmiṃ saṅghike dukkaṭa’’nti vadanti. Sesamettha uttānameva. Vuttalakkhaṇaseyyā, tassā saṅghikatā, vuttalakkhaṇe vihāre santharaṇaṃ vā santharāpanaṃ vā, apalibuddhatā, āpadāya abhāvo, anapekkhassa disāpakkamanaṃ, upacārasīmātikkamoti imāni panettha satta aṅgāni.
“Không có sự miễn trừ bằng cách thông báo cho người cuối cùng,” được nói như vậy vì không có người nào khác đi sau vị ấy. “Hoặc phải gửi một người đi hỏi,” ở đây, đối với người đi mà không hỏi từ nơi đã phát sinh ý định đi, phạm tội Ưng Đối Trị khi nhấc chân thứ hai. Mặc dù ở đây không nói đến tội riêng biệt đối với người đặt giường hoặc ghế ở ngoài trời rồi đi, tuy nhiên, cần phải biết rằng đối với người sắp đặt giường ghế ở ngoài trời không đúng lúc rồi đi, phạm tội Ưng Đối Trị theo điều học trước khi đi qua khỏi một tầm ném đất, và phạm tội Tác Ác theo điều học này khi đi qua khỏi hàng rào. Cần phải thấy rằng, bằng câu “trong gian đình hoặc dưới gốc cây,” cả khu vực ngoài trời cũng đã được bao gồm, do đó tội Tác Ác cũng đã được nói đến ở đây. Tuy nhiên, đối với người trải giường ở ngoài trời rồi đi, thì chỉ phạm tội Tác Ác do cả hai (điều học). Có người nói rằng: “Do đã nói là phạm tội Ưng Đối Trị đối với người trải giường của Tăng chúng trong tu viện của Tăng chúng rồi bỏ đi, nên phạm tội Tác Ác đối với mỗi một trong hai trường hợp (giường và tu viện) thuộc về Tăng chúng.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Giường ngủ có đặc điểm đã nêu, việc nó thuộc về Tăng chúng, việc trải hoặc bảo người khác trải trong tu viện có đặc điểm đã nêu, việc không có người trông coi, sự không có trường hợp nguy cấp, việc ra đi của người không bận tâm, và việc đi qua khỏi ranh giới của khu vực cận tiếp; đây là bảy chi phần trong trường hợp này.
Dutiyasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học nơi ở thứ hai đã kết thúc.
6. Anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā
6. Sự giải về điều học chen lấn
119-121. Chaṭṭhe anupavisitvāti samīpaṃ pavisitvā. Bahūpakārataṃ guṇavisiṭṭhatañca sallakkhentoti bhaṇḍāgārikassa bahūpakārataṃ dhammakathikādīnaṃ guṇavisiṭṭhatañca sallakkhento. Samantā diyaḍḍho hatthoti majjhe paññattamañcapīṭhaṃ sandhāya vuttaṃ.
119-121. Ở điều học thứ sáu, “sau khi đi vào” là sau khi đi vào gần. “Khi nhận thấy sự giúp đỡ nhiều và sự ưu việt về đức hạnh,” là khi nhận thấy sự giúp đỡ nhiều của người giữ kho và sự ưu việt về đức hạnh của người thuyết pháp v.v… “Một thước rưỡi xung quanh” được nói ám chỉ đến giường ghế được đặt ở giữa.
122.Upacāraṃṭhapetvāti vuttalakkhaṇaṃ upacāraṃ ṭhapetvā. Ekavihāreti ekasmiṃ senāsane. Ekapariveṇeti tassa vihārassa parikkhepabbhantare. ‘‘Gilāno pavisatītiādīsu anāpattikāraṇasabbhāvato gilānāditāya pavisissāmīti upacāraṃ pavisantassa satipi sambādhetukāmatāya anāpatti vuttāyevā’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Evañca sati agilānādibhāvopi visuṃ aṅgesu vattabbo siyā, mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā) pana ‘‘saṅghikavihāratā, anuṭṭhāpanīyabhāvajānanaṃ, sambādhetukāmatā, upacāre nisīdanaṃ vā nipajjanaṃ vāti imāni panettha cattāri aṅgānī’’ti ettakameva vuttaṃ, tasmā vīmaṃsitabbaṃ.
122.“Sau khi đã chừa ra khu vực cận tiếp” là sau khi đã chừa ra khu vực cận tiếp có đặc điểm đã nêu. “Trong một tu viện” là trong một nơi ở. “Trong một khuôn viên” là khu vực bên trong hàng rào của tu viện đó. Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Do có sự tồn tại của lý do vô tội trong các trường hợp ‘người bệnh đi vào’ v.v…, nên đối với người đi vào khu vực cận tiếp với ý nghĩ ‘tôi sẽ đi vào với tư cách là người bệnh v.v…’, sự vô tội đã được nói đến ngay cả khi có ý muốn làm cho chật chội.” Và nếu như vậy, tình trạng không phải là người bệnh v.v… cũng nên được kể riêng trong các chi phần. Tuy nhiên, trong Chú giải của Mātikā (kaṅkhā. aṭṭha. anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā), chỉ có chừng này được nói đến: “việc tu viện thuộc về Tăng chúng, việc biết rằng không thể yêu cầu đứng dậy, ý muốn làm cho chật chội, và việc ngồi hoặc nằm trong khu vực cận tiếp; đây là bốn chi phần trong trường hợp này,” do đó, cần phải xem xét.
Anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học chen lấn đã kết thúc.
7. Nikkaḍḍhanasikkhāpadavaṇṇanā
7. Sự giải về điều học đuổi ra
126. Sattame koṭṭhakānīti dvārakoṭṭhakāni. ‘‘Nikkhamāti vacanaṃ sutvāpi attano ruciyā nikkhamati, anāpattī’’ti vadanti.
126. Ở điều học thứ bảy, “các gian phòng” là các gian phòng ở cổng. Có người nói rằng: “Ngay cả khi nghe lời nói ‘hãy đi ra,’ nếu vị ấy đi ra theo ý muốn của mình thì vô tội.”
128.Alajjiṃ nikkaḍḍhatītiādīsu paṭhamaṃ alajjīādibhāvena nikkaḍḍhissāmīti cintetvā nikkaḍḍhantassa cittassa lahuparivattitāya kope uppannepi anāpatti. Sesamettha uttānameva. Saṅghikavihāro, upasampannassa bhaṇḍanakārakabhāvādivinimuttatā, kopena nikkaḍḍhanaṃ vā nikkaḍḍhāpanaṃ vāti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
128.Về các câu “Đuổi người không có liêm sỉ ra” v.v…, đối với người ban đầu suy nghĩ “tôi sẽ đuổi ra với tư cách là người không có liêm sỉ v.v…” rồi mới đuổi ra, ngay cả khi sân hận có khởi lên do tâm thay đổi nhanh chóng, vẫn vô tội. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Tu viện thuộc về Tăng chúng, việc người đã cụ túc viên mãn không phải là người gây gổ v.v…, việc đuổi ra hoặc bảo người khác đuổi ra do sân hận; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Nikkaḍḍhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học đuổi ra đã kết thúc.
8. Vehāsakuṭisikkhāpadavaṇṇanā
8. Sự giải về điều học cốc ở trên không
129-131. Aṭṭhame uparimatale padarānaṃ asantharitattā ‘‘upariacchannatalāyā’’ti vuttaṃ. Pubbe vuttanayenevāti anupakhajjasikkhāpade vuttanayeneva. Sesaṃ suviññeyyameva. Saṅghiko vihāro , asīsaghaṭṭā vehāsakuṭi , heṭṭhā saparibhogatā, apaṭāṇidinne āhaccapādake nisīdanaṃ vā nipajjanaṃ vāti imāni panettha cattāri aṅgāni.
129-131. Ở điều học thứ tám, do các tấm ván ở tầng trên chưa được trải, nên đã nói là “có tầng trên không được che.” “Theo phương pháp đã nói trước đó” là theo phương pháp đã được nói trong điều học chen lấn. Phần còn lại rất dễ hiểu. Tu viện thuộc về Tăng chúng, cốc ở trên không không chạm đầu, tầng dưới có người dùng, và việc ngồi hoặc nằm trên giường có chân có thể tháo rời chưa được chống đỡ; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Vehāsakuṭisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học cốc ở trên không đã kết thúc.
9. Mahallakavihārasikkhāpadavaṇṇanā
9. Sự giải về điều học tu viện lớn
135. Navame ‘‘mahallako nāma vihāro sasāmiko’’ti vuttattā saññācikāya kuṭiyā anāpatti. ‘‘Aḍḍhateyyahatthampī’’ti ukkaṭṭhaparicchedena vuttavacanaṃ pāḷiyā sametīti āha ‘‘taṃ suvutta’’nti. ‘‘Pāḷiyaṃ aṭṭhakathāyañca ukkaṭṭhaparicchedena aḍḍhateyyahatthappamāṇassa okāsassa dassitattā kavāṭaṃ aḍḍhateyyahatthavitthārato ūnakaṃ vā hotu adhikaṃ vā, aḍḍhateyyahatthappamāṇaṃyeva okāso’’ti vadanti.
135. Ở điều học thứ chín, do đã nói “tu viện lớn là tu viện có chủ,” nên vô tội đối với cốc được làm do xin. Do lời nói được nêu ra theo sự phân định cao nhất là “ngay cả hai thước rưỡi” phù hợp với Pāḷi, nên ngài nói: “điều đó đã được nói rất hay.” Có người nói rằng: “Do trong Pāḷi và Chú giải, khoảng trống có kích thước hai thước rưỡi đã được chỉ ra theo sự phân định cao nhất, nên dù cánh cửa có chiều rộng ít hơn hay nhiều hơn hai thước rưỡi, khoảng trống vẫn là hai thước rưỡi.”
Yassa vemajjheti yassa vihārassa vemajjhe. Sā aparipūraupacārāpi hotīti vivariyamānaṃ kavāṭaṃ yaṃ bhittiṃ āhanati, sā samantā kavāṭavitthārappamāṇaupacārarahitāpi hotīti attho. Ālokaṃ sandheti pidhetīti ālokasandhi. ‘‘Punappunaṃ chādāpesi, punappunaṃ limpāpesīti imasmiṃ vatthusmiṃ uppannadosena sikkhāpadassa paññattattā lepaṃ anujānantena ca dvārabandhassa samantā aḍḍhateyyahatthappamāṇeyeva padese punappunaṃ lepassa anuññātattā tato aññattha punappunaṃ limpentassa vā limpāpentassa vā bhittiyaṃ mattikāya kattabbakiccaṃ niṭṭhāpetvā puna catutthalepe dinne pācittiyena bhavitabba’’nti vadanti. Gaṇṭhipadesu pana tīsupi ‘‘punappunaṃ lepadānassa vuttappamāṇato aññattha paṭikkhittamattaṃ ṭhapetvā pācittiyassa avuttattā dukkaṭaṃ anurūpa’’nti vuttaṃ.
“Ở giữa của cái nào” là ở giữa của tu viện nào. “Nó cũng có khu vực cận tiếp không đầy đủ,” có nghĩa là, cánh cửa khi mở ra đập vào bức tường nào, thì bức tường đó cũng không có khu vực cận tiếp bằng với chiều rộng của cánh cửa ở xung quanh. Cái làm cho ánh sáng thông suốt và bịt kín là khe cửa sổ. Có người nói rằng: “Do điều học đã được chế định với tội lỗi phát sinh trong câu chuyện ‘đã cho lợp lại nhiều lần, đã cho trát lại nhiều lần,’ và do khi cho phép việc trát, chỉ cho phép trát lại nhiều lần ở khu vực có kích thước hai thước rưỡi xung quanh khung cửa, nên đối với người trát hoặc bảo người khác trát lại nhiều lần ở nơi khác, sau khi đã hoàn thành công việc phải làm bằng đất sét trên tường, nếu trát lớp thứ tư thì phải phạm tội Ưng Đối Trị.” Tuy nhiên, trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Do ngoài việc cấm trát lại nhiều lần ở nơi khác với kích thước đã nêu, tội Ưng Đối Trị không được nói đến, nên tội Tác Ác là phù hợp.”
Adhiṭṭhātabbanti saṃvidhātabbaṃ. Appahariteti ettha appa-saddo ‘‘appiccho’’tiādīsu viya abhāvatthoti āha ‘‘aharite’’ti. Patanokāsoti patanokāsattā tatra ṭhitassa bhikkhuno upari pateyyāti adhippāyo. Sace harite ṭhito adhiṭṭheti, āpatti dukkaṭassāti vacanena imamatthaṃ dīpeti – sace vihārassa samantā vuttappamāṇe paricchede pubbaṇṇādīni na santi, tattha vihāro kāretabbo. Yattha pana santi, tattha kārāpentassa dukkaṭanti.
“Phải được trông nom” là phải được sắp đặt. Về câu “ở nơi không có cây xanh,” ở đây, từ ‘appa’ có nghĩa là không có, giống như trong các câu “người ít ham muốn” v.v…, nên ngài nói là “ở nơi không có cây xanh.” “Nơi có thể rơi xuống” có nghĩa là, do là nơi có thể rơi xuống, nên có thể rơi xuống đầu Tỳ-khưu đang đứng ở đó. Bằng lời nói “Nếu đứng ở nơi có cây xanh mà trông nom, thì phạm tội Tác Ác,” ngài chỉ ra ý nghĩa này: nếu ở khu vực được phân định xung quanh tu viện theo kích thước đã nêu không có lúa sớm v.v…, thì tu viện nên được làm ở đó. Còn ở nơi nào có, thì người cho làm ở đó phạm tội Tác Ác.
136. Ekekaṃ maggaṃ ujukameva uṭṭhapetvā chādanaṃ maggena chādanaṃ nāma hotīti dassetuṃ ‘‘maggena chādentassā’’ti vuttaṃ. Iminā pana nayena sabbasmiṃ vihāre ekavāraṃ chādite taṃ chadanaṃ ekamagganti gahetvā ‘‘dve magge’’tiādi vuttaṃ. ‘‘Pariyāyena chādanepi imināva nayena yojetabba’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ, taṃ ‘‘punappunaṃ chādāpesī’’ti imāya pāḷiyā ‘‘sabbampi cetaṃ chadanaṃ chadanūpari veditabba’’nti iminā aṭṭhakathāvacanena ca sameti, tasmā dve magge adhiṭṭhahitvā tatiyāya maggaṃ āṇāpetvā pakkamitabbanti ettha dve chadanāni adhiṭṭhahitvā tatiyaṃ chadanaṃ ‘‘evaṃ chādehī’’ti āṇāpetvā pakkamitabbanti evamattho gahetabbo.
136. Để chỉ ra rằng việc lợp bằng tranh là việc dựng thẳng từng bó tranh lên rồi lợp, nên đã nói là “đối với người lợp bằng tranh.” Và theo phương pháp này, sau khi đã lợp một lần trên toàn bộ tu viện, xem lớp lợp đó là một lớp tranh, rồi mới nói đến “hai lớp tranh” v.v… Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Đối với việc lợp theo từng đợt cũng nên được áp dụng theo phương pháp này,” điều đó phù hợp với câu Pāḷi này: “đã cho lợp lại nhiều lần,” và với câu Chú giải này: “và tất cả lớp lợp này cần được hiểu là ở trên lớp lợp (trước),” do đó, ở câu “phải trông nom hai lớp tranh, ra lệnh về lớp thứ ba rồi đi,” cần phải hiểu ý nghĩa như sau: sau khi đã trông nom hai lớp lợp, ra lệnh về lớp lợp thứ ba rằng “hãy lợp như thế này” rồi đi.
Keci pana ‘‘paṭhamaṃ tāva ekavāraṃ aparisesaṃ chādetvā puna chadanadaṇḍake bandhitvā dutiyavāraṃ tatheva chādetabbaṃ, tatiyavāracatutthavāre sampatte dve magge adhiṭṭhahitvā āṇāpetvā pakkamitabba’’nti vadanti. Apare pana ‘‘paṭhamavāreyeva tayopi magge adhiṭṭhātuṃ vaṭṭati, catutthato paṭṭhāya āpatti pācittiya’’nti vadanti. Tadubhayampi pāḷiyā aṭṭhakathāya ca na sameti. Tatiyāya magganti ettha tatiyāyāti upayogatthe sampadānavacanaṃ, tatiyaṃ magganti attho. Tiṇṇaṃ maggānanti maggavasena chāditānaṃ tiṇṇaṃ chadanānaṃ. Tiṇṇaṃ pariyāyānanti etthāpi eseva nayo. Catutthe magge vā pariyāye vāti ca tathā chādentānaṃ catutthaṃ chādanameva vuttaṃ. Sesaṃ uttānameva. Mahallakavihāratā, attano vāsāgāratā, uttari adhiṭṭhānanti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
Tuy nhiên, một số người nói rằng: “Trước tiên, phải lợp một lần cho hết, rồi lại buộc các thanh lợp và lợp lần thứ hai cũng như vậy. Khi đến lần thứ ba và thứ tư, phải trông nom hai lớp tranh, ra lệnh rồi đi.” Những người khác lại nói: “Ngay trong lần đầu tiên, được phép trông nom cả ba lớp tranh, từ lần thứ tư trở đi thì phạm tội Ưng Đối Trị.” Cả hai ý kiến đó đều không phù hợp với Pāḷi và Chú giải. Ở câu “lớp tranh thứ ba,” ở đây, “tatiyāya” là cách cho được dùng với nghĩa đối cách, có nghĩa là “lớp tranh thứ ba.” “Của ba lớp tranh” là của ba lớp lợp đã được lợp theo cách lợp bằng tranh. Ở câu “của ba đợt,” ở đây cũng theo phương pháp này. Và câu “ở lớp tranh hoặc đợt thứ tư” cũng chỉ nói đến lớp lợp thứ tư của những người đang lợp như vậy. Phần còn lại đã rõ ràng. Việc là tu viện lớn, việc là nơi ở của chính mình, và sự trông nom quá mức; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Mahallakavihārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học tu viện lớn đã kết thúc.
10. Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā
10. Sự giải về điều học (dùng nước) có chúng sanh
140. Dasame imassa sikkhāpadassa ‘‘siñceyya vā siñcāpeyya vā’’ti bāhiraparibhogavasena paṭhamaṃ paññattattā ‘‘sappāṇakaṃ udakaṃ paribhuñjeyyā’’ti sikkhāpadaṃ attano nahānapānādiparibhogavasena paññattanti veditabbaṃ. Tasmiṃ vā paṭhamaṃ paññattepi attano paribhogavaseneva paññattattā puna imaṃ sikkhāpadaṃ bāhiraparibhogavaseneva paññattanti gahetabbaṃ.
140. Ở điều học thứ mười, do điều học này, câu “tưới hoặc bảo người khác tưới,” đã được chế định trước tiên theo cách dùng bên ngoài, nên cần phải biết rằng điều học “dùng nước có chúng sanh” đã được chế định theo cách dùng cho chính mình như tắm, uống v.v… Hoặc là, ngay cả khi điều học đó đã được chế định trước tiên, do đã được chế định theo cách dùng cho chính mình, nên cần phải hiểu rằng điều học này lại được chế định theo cách dùng bên ngoài.
Sappāṇakasaññissa ‘‘paribhogena pāṇakā marissantī’’ti pubbabhāge jānantassapi siñcanasiñcāpanaṃ ‘‘padīpe nipatitvā paṭaṅgādipāṇakā marissantī’’ti jānantassa padīpujjalanaṃ viya vināpi vadhakacetanāya hotīti āha ‘‘paṇṇattivajja’’nti. Sesaṃ uttānatthameva . Udakassa sappāṇakatā, ‘‘siñcanena pāṇakā marissantī’’ti jānanaṃ, tādisameva ca udakaṃ, vinā vadhakacetanāya kenacideva karaṇīyena tiṇādīnaṃ siñcananti imāni panettha cattāri aṅgāni.
Đối với người có tưởng là có chúng sanh, ngay cả khi biết trước rằng “do việc dùng (nước) này, các chúng sanh sẽ chết,” việc tưới và bảo người khác tưới cũng giống như việc thắp đèn của người biết rằng “các chúng sanh như thiêu thân v.v… sẽ chết khi lao vào đèn,” là việc xảy ra không có tác ý sát hại, do đó ngài nói là “tội do chế định.” Phần còn lại có ý nghĩa rõ ràng. Việc nước có chúng sanh, việc biết rằng “do việc tưới, các chúng sanh sẽ chết,” việc nước đúng là như vậy, và việc tưới cỏ v.v… vì một công việc nào đó mà không có tác ý sát hại; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học (dùng nước) có chúng sanh đã kết thúc.
Niṭṭhito senāsanavaggo dutiyo.
Phẩm Nơi Ở, là phẩm thứ hai, đã kết thúc.
Bhūtagāmavaggotipi imasseva nāmaṃ.
Phẩm Thảo Mộc cũng là tên của phẩm này.
3. Ovādavaggo
3. Phẩm Giáo Giới
1. Ovādasikkhāpadavaṇṇanā
1. Sự giải về điều học giáo giới
144. Bhikkhunivaggassa paṭhamasikkhāpade kathānusārenāti ‘‘so thero kiṃsīlo kiṃsamācāro katarakulā pabbajito’’tiādinā pucchantānaṃ pucchākathānusārena. Kathetuṃ vaṭṭantīti nirāmiseneva cittena kathetuṃ vaṭṭanti. Aniyyānikattā saggamokkhamaggānaṃ tiracchānabhūtā kathā tiracchānakathāti āha ‘‘saggamaggagamanepī’’tiādi. Api-saddena pageva mokkhamaggagamaneti dīpeti. Tiracchānabhūtanti tirokaraṇabhūtaṃ, bādhikanti vuttaṃ hoti. Laddhāsevanā hi tiracchānakathā saggamokkhānaṃ bādhikāva hoti. Samiddhoti paripuṇṇo. Sahitatthoti yuttattho. Atthagambhīratādiyogato gambhīro. Bahurasoti attharasādibahuraso. Lakkhaṇapaṭivedhasaṃyuttoti aniccādilakkhaṇapaṭivedharasaāvahanato lakkhaṇapaṭivedhasaṃyutto.
144. Ở điều học đầu tiên của Phẩm Tỳ-khưu-ni, “theo câu chuyện,” là theo câu chuyện hỏi của những người đang hỏi: “Vị trưởng lão ấy có giới hạnh như thế nào, có tư cách như thế nào, xuất gia từ dòng dõi nào?” v.v… “Được phép nói,” là được phép nói với tâm không có vật chất. Câu chuyện do không đưa đến các con đường của trời và giải thoát, nên là câu chuyện thấp hèn, đó là câu chuyện bàng sanh, do đó ngài nói: “ngay cả trong việc đi trên con đường đến cõi trời” v.v… Bằng từ “ngay cả,” ngài chỉ ra rằng lại càng không (đưa đến) việc đi trên con đường đến giải thoát. “Là thấp hèn” là có tính cách ngăn cản, có nghĩa là là chướng ngại. Thật vậy, câu chuyện bàng sanh khi đã quen thuộc thì chính là chướng ngại của các cõi trời và giải thoát. “Sung mãn” là trọn vẹn. “Có ý nghĩa phù hợp” là có ý nghĩa thích hợp. Do sự kết hợp với sự sâu sắc về ý nghĩa v.v…, nên là sâu sắc. “Nhiều hương vị” là nhiều hương vị về ý nghĩa v.v… “Kết hợp với sự thấu triệt các tướng,” do mang lại hương vị của sự thấu triệt các tướng như vô thường v.v…, nên là kết hợp với sự thấu triệt các tướng.
145-147.Paratoti parattha, uttarinti attho. Karontovāti paribāhire karontoyeva. Pātimokkhoti cārittavārittappabhedaṃ sikkhāpadasīlaṃ . Tañhi yo naṃ pāti rakkhati, taṃ mokkheti moceti āpāyikādīhi dukkhehi, tasmā ‘‘pātimokkha’’nti vuccati. Saṃvaraṇaṃ saṃvaro, kāyavacīdvārānaṃ pidahanaṃ. Yena hi te saṃvutā pihitā honti, so saṃvaro, kāyikavācasikassa avītikkamassetaṃ nāmaṃ. Pātimokkhasaṃvarena saṃvutoti pātimokkhasaṃvarena pihitakāyavacīdvāro. Tathābhūto ca yasmā tena samaṅgī nāma hoti, tasmā vuttaṃ ‘‘samannāgato’’ti . Vattatīti attabhāvaṃ pavatteti. Viharatīti iminā pātimokkhasaṃvarasīle ṭhitassa bhikkhuno iriyāpathavihāro dassito.
145-147.“Hơn nữa” là ở nơi khác, có nghĩa là vượt lên. “Hoặc đang làm,” là đang làm ở bên ngoài. “Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa” là giới hạnh thuộc các điều học được phân loại là điều nên làm và điều nên tránh. Thật vậy, giới ấy giữ gìn, bảo vệ người nào giữ gìn nó, và giải thoát, cứu vớt người ấy khỏi các khổ đau ở cõi dữ v.v…, do đó được gọi là “Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa.” Sự thu thúc là sự thu thúc, là sự đóng lại các cửa ngõ thân và lời. Cái gì làm cho chúng được thu thúc, được đóng lại, thì cái đó là sự thu thúc; đó là tên gọi của sự không vi phạm về thân và lời. “Được thu thúc bằng sự thu thúc của Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa,” là người có các cửa ngõ thân và lời nói được che đậy bằng sự thu thúc của Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa. Và vì người như vậy được gọi là người thành tựu giới ấy, nên đã nói là “thành tựu.” “Hành trì” là làm cho tự thân được diễn tiến. Bằng từ “trú,” oai nghi của vị Tỳ-khưu an trú trong giới hạnh thu thúc của Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa được chỉ ra.
Saṅkhepato vuttamatthaṃ vitthārato pāḷiyā vibhāvetuṃ ‘‘vuttañheta’’ntiādi āraddhaṃ. Tattha vibhaṅgeti jhānavibhaṅge. Sīlaṃ patiṭṭhātiādīni pātimokkhasseva vevacanāni. Tattha (vibha. aṭṭha. 511) sīlanti kāmañcetaṃ saha kammavācāpariyosānena ijjhanakassa pātimokkhasseva vevacanaṃ, evaṃ santepi dhammato etaṃ sīlaṃ nāma pāṇātipātādīhi vā viramantassa vattapaṭipattiṃ vā pūrentassa cetanādayo dhammā veditabbā. Yasmā pana pātimokkhasīlena bhikkhu sāsane patiṭṭhāti nāma, tasmā taṃ ‘‘patiṭṭhā’’ti vuttaṃ. Patiṭṭhahati vā ettha bhikkhu, kusaladhammā eva vā ettha patiṭṭhahantīti patiṭṭhā. Ayamattho ‘‘sīle patiṭṭhāya naro sapañño’’ti (saṃ. ni. 1.23, 192) ca ‘‘patiṭṭhā, mahārāja, sīlaṃ sabbesaṃ kusalānaṃ dhammāna’’nti (mi. pa. 2.1.9) ca ‘‘sīle patiṭṭhitassa kho, mahārāja, sabbe kusalā dhammā na parihāyantī’’ti ca ādisuttavasena veditabbo.
Để làm sáng tỏ ý nghĩa đã được nói một cách tóm tắt bằng Pāḷi một cách chi tiết, phần bắt đầu bằng “Và điều này đã được nói” đã được khởi đầu. Ở đó, “trong bộ Phân Tích” là trong Phân Tích về Thiền. Các câu “Giới là nền tảng” v.v… là các từ đồng nghĩa của chính Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa. Ở đó (vibha. aṭṭha. 511), mặc dù từ ‘giới’ này là từ đồng nghĩa của chính Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, vốn thành tựu cùng với sự kết thúc của nghiệp và lời nói, tuy nhiên, về mặt pháp, cần phải biết rằng giới này là các pháp như tác ý v.v… của người đang từ bỏ việc sát sanh v.v… hoặc đang làm tròn phận sự thực hành. Và vì Tỳ-khưu được gọi là có chỗ đứng trong giáo pháp nhờ vào giới hạnh Ba-la-đề-mộc-xoa, nên giới ấy được gọi là “nền tảng.” Hoặc là Tỳ-khưu đứng vững ở đó, hoặc chính các thiện pháp đứng vững ở đó, nên là nền tảng. Ý nghĩa này cần phải được biết qua các kinh như: “người có trí tuệ, an trú trong giới hạnh” (saṃ. ni. 1.23, 192), và “Thưa đại vương, giới là nền tảng của tất cả các thiện pháp” (mi. pa. 2.1.9), và “Thưa đại vương, đối với người đã an trú trong giới, tất cả các thiện pháp không bị suy giảm” v.v…
Tadetaṃ pubbuppattiatthena ādi. Vuttampi cetaṃ –
Giới ấy, với ý nghĩa là sự phát sinh trước, nên là sự khởi đầu. Và điều này đã được nói rằng –
‘‘Tasmātiha tvaṃ, uttiya, ādimeva visodhehi kusalesu dhammesu. Ko cādi kusalānaṃ dhammānaṃ? Sīlañca suvisuddhaṃ diṭṭhi ca ujukā’’ti (saṃ. ni. 5.382).
“Vì vậy, này Uttiya, ở đây, ngươi hãy thanh lọc ngay từ đầu trong các thiện pháp. Và cái gì là sự khởi đầu của các thiện pháp? Chính là giới trong sạch và chánh kiến ngay thẳng.” (saṃ. ni. 5.382).
Yathā hi nagaravaḍḍhakī nagaraṃ māpetukāmo paṭhamaṃ nagaraṭṭhānaṃ sodheti, tato aparabhāge vīthicatukkasiṅghāṭakādiparicchedena vibhajitvā nagaraṃ māpeti, evameva yogāvacaro ādimhi sīlaṃ sodheti, tato aparabhāge samādhivipassanāmaggaphalanibbānāni sacchikaroti. Yathā vā pana rajako paṭhamaṃ tīhi khārehi vatthaṃ dhovitvā parisuddhe vatthe yadicchakaṃ raṅgajātaṃ upaneti, yathā vā pana cheko cittakāro rūpaṃ likhitukāmo ādito bhittiparikammaṃ karoti, tato aparabhāge rūpaṃ samuṭṭhāpeti, evameva yogāvacaro āditova sīlaṃ visodhetvā aparabhāge samathavipassanādayo dhamme sacchikaroti. Tasmā sīlaṃ ‘‘ādī’’ti vuttaṃ.
Thật vậy, cũng như người thợ xây thành muốn xây một thành phố, trước tiên dọn dẹp khu đất xây thành, sau đó phân chia thành các khu phố, ngã tư, ngã ba v.v… rồi mới xây thành; cũng vậy, hành giả lúc ban đầu thanh lọc giới hạnh, sau đó chứng ngộ thiền định, tuệ giác, đạo, quả và Niết-bàn. Hoặc là, cũng như người thợ nhuộm trước tiên giặt quần áo bằng ba loại xà phòng, rồi trên tấm vải đã sạch, nhuộm bất cứ màu nào mình muốn; hoặc là, cũng như người họa sĩ tài ba muốn vẽ một bức tranh, ban đầu chuẩn bị bức tường, sau đó mới vẽ nên hình ảnh; cũng vậy, hành giả ngay từ đầu thanh lọc giới hạnh, sau đó mới chứng ngộ các pháp như chỉ, quán v.v… Do đó, giới được gọi là “sự khởi đầu.”
Tadetaṃ caraṇasarikkhatāya caraṇaṃ. ‘‘Caraṇā’’ti pādā vuccanti. Yathā hi chinnacaraṇassa purisassa disaṃgamanābhisaṅkhāro na jāyati, paripuṇṇapādasseva jāyati, evameva yassa sīlaṃ bhinnaṃ hoti khaṇḍaṃ aparipuṇṇaṃ, tassa nibbānagamanāya ñāṇagamanaṃ na sampajjati. Yassa pana taṃ abhinnaṃ hoti akhaṇḍaṃ paripuṇṇaṃ, tassa nibbānagamanāya ñāṇagamanaṃ sampajjati. Tasmā sīlaṃ ‘‘caraṇa’’nti vuttaṃ.
Giới ấy, do tương tự như đôi chân, nên là đôi chân. “Caraṇā” được gọi là đôi chân. Thật vậy, cũng như người bị cụt chân không phát sinh ý muốn đi đến các phương hướng, chỉ có người có đôi chân đầy đủ mới phát sinh, cũng vậy, người nào có giới bị vi phạm, bị sứt mẻ, không trọn vẹn, thì trí tuệ đi đến Niết-bàn của người ấy không thành tựu. Còn người nào có giới ấy không bị vi phạm, không bị sứt mẻ, trọn vẹn, thì trí tuệ đi đến Niết-bàn của người ấy thành tựu. Do đó, giới được gọi là “đôi chân.”
Tadetaṃ saṃyamanavasena saṃyamo, saṃvaraṇavasena saṃvaroti ubhayenapi sīlasaṃyamo ceva sīlasaṃvaro ca kathito. Vacanattho panettha saṃyameti vītikkamavipphandanaṃ, puggalaṃ vā saṃyameti vītikkamavasena tassa vipphandituṃ na detīti saṃyamo, vītikkamassa pavesanadvāraṃ saṃvarati pidahatīti saṃvaro. Mokkhanti uttamaṃ mukhabhūtaṃ vā. Yathā hi sattānaṃ catubbidho āhāro mukhena pavisitvā aṅgamaṅgāni pharati, evaṃ yoginopi catubhūmakakusalaṃ sīlamukhena pavisitvā atthasiddhiṃ sampādeti. Tena vuttaṃ ‘‘mokkha’’nti. Pamukhe sādhūti pamokkhaṃ, pubbaṅgamaṃ seṭṭhaṃ padhānanti attho. Kusalānaṃ dhammānaṃ samāpattiyāti catubhūmakakusalānaṃ paṭilābhatthāya pamokkhaṃ pubbaṅgamaṃ seṭṭhaṃ padhānanti veditabbaṃ.
Giới ấy, theo cách chế ngự, là sự chế ngự; theo cách thu thúc, là sự thu thúc; do đó, bằng cả hai cách, sự chế ngự bằng giới và sự thu thúc bằng giới đã được nói đến. Ý nghĩa của từ ở đây là: chế ngự sự dao động do vi phạm, hoặc chế ngự một người, không cho người ấy dao động do vi phạm, nên là sự chế ngự; đóng lại, che đậy cửa ngõ cho sự vi phạm đi vào, nên là sự thu thúc. “Chỗ thoát” là tối thượng hoặc là cửa ngõ. Thật vậy, cũng như bốn loại thức ăn của chúng sanh đi vào qua miệng rồi nuôi dưỡng các chi phần, cũng vậy, thiện pháp ở bốn cõi của hành giả đi vào qua cửa ngõ là giới rồi mang lại sự thành tựu về lợi ích. Do đó đã được nói là “chỗ thoát.” Điều tốt lành ở hàng đầu là hàng đầu, có nghĩa là đi trước, cao tột, chủ yếu. “Để chứng đắc các thiện pháp,” cần phải biết rằng đó là hàng đầu, đi trước, cao tột, chủ yếu để chứng đắc các thiện pháp ở bốn cõi.
Kāyiko avītikkamoti tividhaṃ kāyasucaritaṃ. Vācasikoti catubbidhaṃ vacīsucaritaṃ. Kāyikavācasikoti tadubhayaṃ. Iminā ājīvaṭṭhamakasīlaṃ pariyādāya dasseti. Saṃvutoti pihito, saṃvutindriyo pihitindriyoti attho. Yathā hi saṃvutadvāraṃ gehaṃ ‘‘saṃvutagehaṃ pihitageha’’nti vuccati, evamidha saṃvutindriyo ‘‘saṃvuto’’ti vutto. Pātimokkhasaṃvarenāti pātimokkhasaṅkhātena saṃvarena. Upetotiādīni sabbāni aññamaññavevacanāni.
“Sự không vi phạm về thân” là ba loại thân thiện hạnh. “Về lời” là bốn loại khẩu thiện hạnh. “Về thân và lời” là cả hai điều đó. Bằng điều này, ngài chỉ ra giới thứ tám về mạng sống đã được bao gồm. “Được thu thúc” là được che đậy, có nghĩa là người được thu thúc các căn, người được che đậy các căn. Thật vậy, cũng như ngôi nhà có cửa đã được đóng lại được gọi là “nhà đã được đóng, nhà đã được che đậy,” cũng vậy, ở đây, người được thu thúc các căn được gọi là “người được thu thúc.” “Bằng sự thu thúc của Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa” là bằng sự thu thúc được gọi là Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa. Các từ “được phú cho” v.v… đều là từ đồng nghĩa của nhau.
Iriyatītiādīhi sattahipi padehi pātimokkhasaṃvarasīle ṭhitassa bhikkhuno iriyāpathavihāro kathito. Tattha iriyatīti catunnaṃ iriyāpathānaṃ aññatarasamaṅgibhāvato iriyati. Tehi iriyāpathacatukkehi kāyasakaṭavattanena vattati. Ekaṃ iriyāpathadukkhaṃ aparena iriyāpathena vicchinditvā ciraṭṭhitibhāvena sarīrarakkhaṇato pāleti. Ekasmiṃ iriyāpathe asaṇṭhahitvā sabbairiyāpathe vattanato yapeti. Tena tena iriyāpathena tathā tathā kāyassa yāpanato yāpeti. Cirakālavattāpanato carati. Iriyāpathena iriyāpathaṃ vicchinditvā jīvitaharaṇato viharati.
Bằng bảy từ “đi đứng” v.v…, oai nghi của vị Tỳ-khưu an trú trong giới hạnh thu thúc của Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa đã được nói đến. Ở đó, “đi đứng,” do thành tựu một trong bốn oai nghi, nên là đi đứng. Bằng bốn oai nghi đó, với sự vận hành của cỗ xe thân thể, nên là hành trì. Do đoạn trừ khổ đau của một oai nghi bằng một oai nghi khác, và do bảo vệ thân thể bằng cách tồn tại lâu dài, nên là bảo hộ. Do không đứng yên trong một oai nghi mà hành trì trong tất cả các oai nghi, nên là duy trì. Do duy trì thân thể như vậy bằng oai nghi này hay oai nghi khác, nên là nuôi mạng. Do hành trì lâu dài, nên là sống. Do đoạn trừ một oai nghi bằng một oai nghi khác và mang theo sự sống, nên là trú.
Micchājīvapaṭisedhakenāti –
“Bằng (sự thực hành) đối nghịch với tà mạng” là –
‘‘Idhekacco veḷudānena vā pattadānena vā puppha phala sinānadantakaṭṭhadānena vā cāṭukamyatāya vā muggasūpyatāya vā pāribhaṭayatāya vā jaṅghapesanikena vā aññataraññatarena vā buddhapaṭikuṭṭhena micchāājīvena jīvikaṃ kappeti, ayaṃ vuccati anācāro’’ti (vibha. 513) –
“Ở đây, có người nuôi mạng bằng tà mạng bị đức Phật quở trách như: cho tre, cho bát, cho hoa, quả, đồ tắm, tăm xỉa răng, hoặc bằng sự nịnh hót, bằng sự nói bóng gió, bằng sự hầu hạ, bằng nghề đưa tin, hoặc bằng bất cứ cách nào khác. Đây được gọi là hành vi không đúng đắn.” (vibha. 513) –
Evaṃ vuttaanācārasaṅkhātamicchājīvapaṭipakkhena.
Bằng (sự thực hành) đối nghịch với tà mạng đã được gọi là hành vi không đúng đắn như vậy.
Na veḷudānādinā ācārenāti –
“Bằng tư cách không phải là cho tre v.v…” là –
‘‘Idhekacco na veḷudānena na patta na puppha na phala na sināna na dantakaṭṭha na cāṭukamyatāya na muggasūpyatāya na pāribhaṭayatāya na jaṅghapesanikena na aññataraññatarena buddhapaṭikuṭṭhena micchāājīvena jīvikaṃ kappeti, ayaṃ vuccati ācāro’’ti (vibha. 513) –
“Ở đây, có người không nuôi mạng bằng tà mạng bị đức Phật quở trách như: không cho tre, không cho bát, hoa, quả, đồ tắm, tăm xỉa răng, không nịnh hót, không nói bóng gió, không hầu hạ, không làm nghề đưa tin, hoặc bằng bất cứ cách nào khác. Đây được gọi là tư cách.” (vibha. 513) –
Evaṃ vuttena na veḷudānādinā ācārena.
Bằng tư cách không phải là cho tre v.v… đã được nói như vậy.
Vesiyādiagocaraṃ pahāyāti –
“Sau khi đã từ bỏ nơi lui tới không thích hợp như gái điếm v.v…” là –
‘‘Idhekacco vesiyagocaro vā hoti vidhava thullakumāri paṇḍaka bhikkhuni pānāgāragocaro vā, saṃsaṭṭho viharati rājūhi rājamahāmattehi titthiyehi titthiyasāvakehi ananulomikena saṃsaggena, yāni pana tāni kulāni assaddhāni appasannāni anopānabhūtāni akkosakaparibhāsakāni anatthakāmāni ahitakāmāni aphāsukakāmāni ayogakkhemakāmāni bhikkhūnaṃ bhikkhunīnaṃ upāsakānaṃ upāsikānaṃ, tathārūpāni kulāni sevati bhajati payirupāsati, ayaṃ vuccati agocaro’’ti (vibha. 514) –
“Ở đây, có người lui tới gái điếm, hoặc góa phụ, gái già, người ái nam ái nữ, Tỳ-khưu-ni, quán rượu; sống giao du với vua chúa, các đại thần, các du sĩ ngoại đạo, các đệ tử của du sĩ ngoại đạo bằng sự giao du không thích hợp; hoặc thường lui tới, giao du, thân cận với những gia đình không có đức tin, không có lòng trong sạch, không phải là nơi nương tựa, hay mắng nhiếc, chê bai, không mong muốn lợi ích, không mong muốn điều tốt lành, không mong muốn sự an ổn, không mong muốn sự thoát khỏi ách nạn cho các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, cận sự nam, cận sự nữ. Đây được gọi là nơi lui tới không thích hợp.” (vibha. 514) –
Evamāgataṃ vesiyādiagocaraṃ pahāya.
Sau khi đã từ bỏ nơi lui tới không thích hợp như gái điếm v.v… đã được nêu ra như vậy.
Saddhāsampannakulādināti ettha ādi-saddena upanissayagocarādiṃ saṅgaṇhāti. Tividho hi gocaro upanissayagocaro ārakkhagocaro upanibandhagocaroti. Katamo upanissayagocaro? Dasakathāvatthuguṇasamannāgato kalyāṇamitto, yaṃ nissāya asutaṃ suṇāti, sutaṃ pariyodapeti, kaṅkhaṃ vitarati, diṭṭhiṃ ujuṃ karoti, cittaṃ pasādeti. Yassa vā pana anusikkhamāno saddhāya vaḍḍhati, sīlena sutena cāgena paññāya vaḍḍhati, ayaṃ upanissayagocaro. Katamo ārakkhagocaro? Idha bhikkhu antaragharaṃ paviṭṭho vīthiṃ paṭipanno okkhittacakkhu yugamattadassāvī saṃvuto gacchati, na hatthiṃ olokento, na assaṃ, na rathaṃ, na pattiṃ, na itthiṃ, na purisaṃ olokento, na uddhaṃ olokento, na adho olokento, na disāvidisaṃ vipekkhamāno gacchati, ayaṃ ārakkhagocaro. Katamo upanibandhagocaro? Cattāro satipaṭṭhānā, yattha cittaṃ upanibandhati. Vuttañhetaṃ bhagavatā ‘‘ko ca, bhikkhave, bhikkhuno gocaro sako pettiko visayo? Yadidaṃ cattāro satipaṭṭhānā’’ti (saṃ. ni. 5.372), ayaṃ upanibandhagocaro. Iti ayaṃ tividho gocaro idha ādi-saddena saṅgahitoti daṭṭhabbo.
Ở đây, bằng từ “về các gia đình có đức tin v.v…,” ngài bao gồm cả nơi lui tới có tính cách nương tựa v.v… Thật vậy, có ba loại nơi lui tới: nơi lui tới có tính cách nương tựa, nơi lui tới có tính cách bảo vệ, và nơi lui tới có tính cách ràng buộc. Nơi lui tới có tính cách nương tựa là gì? Là vị thiện hữu thành tựu mười đức hạnh là đề tài của câu chuyện, người mà khi nương tựa, vị ấy được nghe điều chưa từng nghe, làm cho điều đã nghe được trong sạch, vượt qua sự hoài nghi, làm cho chánh kiến được ngay thẳng, làm cho tâm được trong sạch. Hoặc là người mà khi noi theo, vị ấy tăng trưởng về đức tin, giới, văn, thí, và trí tuệ. Đây là nơi lui tới có tính cách nương tựa. Nơi lui tới có tính cách bảo vệ là gì? Ở đây, Tỳ-khưu khi đã đi vào trong làng, đi trên đường, đi với mắt nhìn xuống, chỉ nhìn một tầm ách, có sự thu thúc, không nhìn voi, không nhìn ngựa, xe, bộ binh, không nhìn phụ nữ, không nhìn đàn ông, không nhìn lên, không nhìn xuống, không nhìn ngang liếc dọc mà đi. Đây là nơi lui tới có tính cách bảo vệ. Nơi lui tới có tính cách ràng buộc là gì? Là Tứ Niệm Xứ, nơi mà tâm được ràng buộc vào. Và điều này đã được đức Thế Tôn nói rằng: “Này các Tỳ-khưu, cảnh giới nào là nơi lui tới, là lãnh địa thuộc về tổ tiên của Tỳ-khưu? Chính là Tứ Niệm Xứ.” (saṃ. ni. 5.372). Đây là nơi lui tới có tính cách ràng buộc. Như vậy, cần phải thấy rằng ba loại nơi lui tới này đã được bao gồm ở đây bằng từ v.v…
Appamattakesu vajjesūti asañcicca āpannasekhiyaakusalacittuppādādibhedesu vajjesu. Bhayato dassanasīloti paramāṇumattaṃ vajjaṃ aṭṭhasaṭṭhiyojanasatasahassubbedhasinerupabbatasadisaṃ katvā dassanasabhāvo, sabbalahukaṃ vā dubbhāsitamattaṃ pārājikasadisaṃ katvā dassanasabhāvo. Sammā ādāyāti sammadeva sakkaccaṃ sabbaso vā ādiyitvā.
“Trong các lỗi lầm nhỏ nhặt,” là trong các lỗi lầm được phân loại là sự phạm tội không cố ý, sự khởi sinh của tâm bất thiện trong các điều học về oai nghi, v.v… “Người có thói quen thấy với sự sợ hãi” là người có bản chất thấy một lỗi lầm nhỏ như hạt nguyên tử thành lớn như núi Sineru cao một trăm sáu mươi tám ngàn do-tuần, hoặc có bản chất thấy một lời nói xấu nhỏ nhất thành lớn như tội Bất Cộng Trụ. “Sau khi đã tiếp nhận một cách đúng đắn” là sau khi đã tiếp nhận một cách hoàn toàn, một cách kính cẩn, hoặc một cách trọn vẹn.
Vaṭṭadukkhanissaraṇatthikehi sotabbato sutaṃ, pariyattidhammo. Taṃ dhāretīti sutadharo, sutassa ādhārabhūto. Yassa hi ito gahitaṃ etto palāyati, chiddaghaṭe udakaṃ viya na tiṭṭhati, parisamajjhe ekaṃ suttaṃ vā jātakaṃ vā kathetuṃ vā vācetuṃ vā na sakkoti, ayaṃ na sutadharo nāma. Yassa pana uggahitaṃ buddhavacanaṃ uggahitakālasadisameva hoti, dasapi vīsatipi vassāni sajjhāyaṃ akarontassa na nassati, ayaṃ sutadharo nāma. Tenevāha ‘‘yadassa ta’’ntiādi. Ekapadampi ekakkharampi avinaṭṭhaṃ hutvā sanniciyatīti sannicayo, sutaṃ sannicayo etasminti sutasannicayoti āha ‘‘sutaṃ sannicitaṃ asminti sutasannicayo’’ti. Yassa hi sutaṃ hadayamañjusāyaṃ sannicitaṃ silāya lekhā viya suvaṇṇaghaṭe pakkhittā sīhavasā viya ca sādhu tiṭṭhati, ayaṃ sutasannicayo nāma. Tenāha ‘‘etena…pe… avināsaṃ dassetī’’ti.
Do đáng được những người mong muốn thoát khỏi khổ đau của vòng luân hồi lắng nghe, nên là điều đã nghe, đó là giáo pháp học thuộc. Người gìn giữ điều đó là người gìn giữ điều đã nghe, là người làm nền tảng cho điều đã nghe. Thật vậy, người nào mà điều đã học từ đây lại trôi đi từ kia, không đọng lại như nước trong bình thủng, không thể nói hay đọc một bài kinh hoặc một câu chuyện bổn sanh giữa hội chúng, người ấy không được gọi là người gìn giữ điều đã nghe. Còn người nào mà lời Phật dạy đã học thuộc vẫn giống như lúc mới học, dù không tụng đọc trong mười hay hai mươi năm cũng không mất đi, người ấy được gọi là người gìn giữ điều đã nghe. Chính vì thế ngài nói: “điều nào của vị ấy” v.v… Ngay cả một từ, một mẫu tự cũng không bị mất đi mà được tích lũy lại, nên là sự tích lũy; điều đã nghe là sự tích lũy trong người này, nên là người tích lũy điều đã nghe, do đó ngài nói: “điều đã nghe được tích lũy trong người này, nên là người tích lũy điều đã nghe.” Thật vậy, người nào mà điều đã nghe được tích lũy trong rương tâm, tồn tại tốt đẹp như chữ viết trên đá, như mỡ sư tử được đựng trong bình vàng, người ấy được gọi là người tích lũy điều đã nghe. Do đó, ngài nói: “bằng điều này… cho đến… ngài chỉ ra sự không mất đi.”
Dhātāti paguṇā vācuggatā. Ekassa hi uggahitabuddhavacanaṃ niccakālikaṃ na hoti, ‘‘asukasuttaṃ vā jātakaṃ vā kathehī’’ti vutte ‘‘sajjhāyitvā aññehi saṃsanditvā paripucchāvasena atthaṃ ogāhitvā jānissāmī’’ti vadati. Ekassa paguṇaṃ pabandhavicchedābhāvato gaṅgāsotasadisaṃ bhavaṅgasotasadisañca akittimaṃ sukhappavatti hoti, ‘‘asukasuttaṃ vā jātakaṃ vā kathehī’’ti vutte uddharitvā tameva katheti. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘dhātā’’ti. Vācāya paguṇā katāti suttadasakavaggadasakapaṇṇāsadasakavasena vācāya sajjhāyitā, dasa suttāni gatāni, dasa vaggāni gatānītiādinā sallakkhetvā vācāya sajjhāyitāti attho. Suttekadesassa hi suttamattassa ca vacasā paricayo idha nādhippeto, atha kho vaggādivaseneva. Manasā anupekkhitāti manasā anu anu pekkhitā, bhāgaso nijjhāyitā cintitāti attho. Āvajjantassāti vācāya sajjhāyituṃ buddhavacanaṃ manasā cintentassa. Suṭṭhu paṭividdhāti nijjaṭaṃ niggumbaṃ katvā suṭṭhu yāthāvato paṭividdhā.
“Đã được ghi nhớ” là đã thuần thục, đã thuộc lòng. Đối với một người, lời Phật dạy đã học thuộc không tồn tại mãi mãi; khi được bảo: “hãy nói kinh này hoặc chuyện bổn sanh này,” vị ấy nói: “tôi sẽ tụng đọc, trao đổi với những người khác, tìm hiểu ý nghĩa bằng cách hỏi han rồi sẽ biết.” Đối với một người khác, do không có sự gián đoạn trong dòng chảy, nên có sự diễn tiến dễ dàng, không gượng ép, giống như dòng sông Hằng và dòng hữu phần; khi được bảo: “hãy nói kinh này hoặc chuyện bổn sanh này,” vị ấy trích ra và nói chính kinh đó. Ám chỉ đến người đó mà đã nói là “đã được ghi nhớ.” “Đã được làm cho thuần thục bằng lời,” có nghĩa là đã được tụng đọc bằng lời theo từng chục kinh, chục phẩm, chục năm mươi, và đã được ghi nhận bằng cách nói: “đã thuộc mười kinh, đã thuộc mười phẩm” v.v… Thật vậy, ở đây không có ý nói đến việc quen thuộc bằng lời chỉ một phần của kinh hay chỉ một bài kinh, mà là theo từng phẩm v.v… “Đã được quán xét bằng ý,” có nghĩa là đã được quán xét, suy ngẫm từng phần bằng ý. Hoặc “của người đang suy niệm” là của người đang suy ngẫm trong tâm về lời Phật dạy để tụng đọc bằng lời. “Đã được thấu triệt một cách tốt đẹp” là đã được thấu triệt một cách đúng đắn, làm cho không còn vướng mắc, không còn rắc rối.
Dve mātikāti bhikkhumātikā bhikkhunīmātikā ca. Vācuggatāti purimasseva vevacanaṃ. Tisso anumodanāti saṅghabhatte dānānisaṃsapaṭisaṃyuttaanumodanā, vihārādimaṅgale maṅgalasuttādianumodanā, matakabhattādiavamaṅgale tirokuṭṭādianumodanāti imā tisso anumodanā . Kammākammavinicchayoti parivārāvasāne kammavagge vuttavinicchayo. ‘‘Vipassanāvasena uggaṇhantena catudhātuvavatthānamukhena uggahetabba’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Catūsu disāsu appaṭihatattā catasso disā etassāti catuddiso, catuddisoyeva cātuddiso, catasso vā disā arahati, catūsu vā disāsu sādhūti cātuddiso.
“Hai bộ Mātikā” là bộ Mātikā của Tỳ-khưu và bộ Mātikā của Tỳ-khưu-ni. “Thuộc lòng” là từ đồng nghĩa của từ đứng trước. “Ba bài tùy hỷ” là ba bài tùy hỷ này: bài tùy hỷ liên quan đến phước báu của việc cúng dường trong bữa ăn của Tăng chúng, bài tùy hỷ về kinh Hạnh Phúc v.v… trong lễ khánh thành tu viện v.v…, và bài tùy hỷ về kinh Tirokuṭṭa v.v… trong bữa ăn cúng cho người đã mất và các lễ không may khác. “Sự quyết định về Tăng sự và không phải Tăng sự” là sự quyết định đã được nói trong Phẩm về Tăng sự ở cuối bộ Parivāra. Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Người học theo cách tuệ giác thì phải học theo phương pháp phân tích tứ đại.” Do không bị cản trở ở bốn phương, nên người này có bốn phương, đó là người thuộc bốn phương; hoặc là người xứng đáng với bốn phương, hoặc là người tốt lành ở bốn phương, nên là người thuộc bốn phương.
Abhivinayeti sakale vinayapiṭake. Vinetunti sikkhāpetuṃ. ‘‘Dve vibhaṅgā paguṇā vācuggatā kātabbāti idaṃ paripucchāvasena uggahaṇampi sandhāya vutta’’nti vadanti. Ekassa pamuṭṭhaṃ, itarassa paguṇaṃ hotīti āha ‘‘tīhi janehi saddhiṃ parivattanakkhamā kātabbā’’ti. Abhidhammeti nāmarūpaparicchede. Heṭṭhimā vā tayo vaggāti mahāvaggato heṭṭhā sagāthakavaggo nidānavaggo khandhakavaggoti ime tayo vaggā. ‘‘Dhammapadampi saha vatthunā uggahetuṃ vaṭṭatī’’ti mahāpaccariyaṃ vuttattā jātakabhāṇakena sāṭṭhakathaṃ jātakaṃ uggahetvāpi dhammapadampi saha vatthunā uggahetabbameva.
“Trong tạng Luật cao tột” là trong toàn bộ Tạng Luật. “Để dạy dỗ” là để chỉ dạy. Có người nói rằng: “‘Phải làm cho hai bộ Phân Tích được thuần thục, thuộc lòng,’ điều này được nói cũng ám chỉ đến việc học bằng cách hỏi han.” Một người quên, người kia thì thuần thục, nên ngài nói: “phải làm cho có thể trao đổi với ba người.” “Trong tạng Vi Diệu Pháp” là trong sự phân định về danh và sắc. “Hoặc ba phẩm ở dưới” là ba phẩm này ở dưới Mahāvagga: Sagāthakavagga, Nidānavagga, và Khandhakavagga. Do trong bộ Mahāpaccari đã nói rằng “được phép học Kinh Pháp Cú cùng với câu chuyện,” nên người kể chuyện bổn sanh sau khi đã học thuộc kinh Bổn Sanh cùng với chú giải, cũng phải học thuộc Kinh Pháp Cú cùng với câu chuyện.
Kalyāṇā sundarā parimaṇḍalapadabyañjanā vācā assāti kalyāṇavāco. Tenāha ‘‘sithiladhanitādīnaṃ…pe… vācāya samannāgato’’ti. Tattha parimaṇḍalapadabyañjanāyāti ṭhānakaraṇasampattiyā sikkhāsampattiyā ca katthacipi anūnatāya parimaṇḍalapadāni byañjanāni akkharāni etissāti parimaṇḍalapadabyañjanā, padameva vā atthassa byañjanato padabyañjanaṃ, taṃ akkharapāripūriṃ katvā sithiladhanitādidasavidhaṃ byañjanabuddhiṃ aparihāpetvā vuttaṃ parimaṇḍalaṃ nāma hoti. Akkharapāripūriyā hi padabyañjanassa parimaṇḍalatā. Tena vuttaṃ ‘‘sithiladhanitādīnaṃyathāvidhānavacanenā’’ti, parimaṇḍalaṃ padabyañjanaṃ etissāti parimaṇḍalapadabyañjanā. Atha vā pajjati ñāyati attho etenāti padaṃ, nāmādi. Yathādhippetamatthaṃ byañjetīti byañjanaṃ, vākyaṃ. Tesaṃ paripuṇṇatāya parimaṇḍalapadabyañjanā.
Người có lời nói tốt lành, đẹp đẽ, có từ ngữ và văn tự tròn trịa là người có lời nói tốt lành. Do đó, ngài nói: “người thành tựu lời nói… cho đến… về các âm lơi, âm nhấn v.v…” Ở đó, “có từ ngữ và văn tự tròn trịa,” do sự thành tựu về vị trí phát âm và sự thành tựu về sự học tập, nên không bị thiếu sót ở bất cứ đâu, có các từ ngữ, văn tự, và mẫu tự tròn trịa, nên là người có từ ngữ và văn tự tròn trịa. Hoặc chính từ ngữ, do làm rõ ý nghĩa, nên là từ ngữ văn tự; điều đó, khi được nói bằng cách làm cho đầy đủ các mẫu tự và không làm mất đi mười loại trí tuệ về văn tự như âm lơi, âm nhấn v.v…, thì được gọi là tròn trịa. Thật vậy, sự tròn trịa của từ ngữ và văn tự là do sự đầy đủ của các mẫu tự. Do đó đã được nói: “bằng cách nói đúng theo quy định về các âm lơi, âm nhấn v.v…”; có từ ngữ và văn tự tròn trịa, nên là người có từ ngữ và văn tự tròn trịa. Hoặc là, ý nghĩa được biết đến bằng cái này, nên là từ, tức là danh từ v.v… Làm rõ ý nghĩa như đã định, nên là văn tự, tức là câu. Do sự đầy đủ của chúng, nên là người có từ ngữ và văn tự tròn trịa.
Apica yo bhikkhu parisati dhammaṃ desento suttaṃ vā jātakaṃ vā nikkhipitvā aññaṃ upārambhakaraṃ suttaṃ āharati, tassa upamaṃ katheti, tadatthaṃ otāreti, evaṃ idaṃ gahetvā ettha khipanto ekapasseneva pariharanto kālaṃ ñatvā vuṭṭhahati, nikkhittasuttaṃ pana nikkhittamattameva hoti, tassa kathā aparimaṇḍalā nāma hoti atthassa aparipuṇṇabhāvato. Yo pana suttaṃ vā jātakaṃ vā nikkhipitvā bahi ekapadampi agantvā yathānikkhittassa suttassa atthasaṃvaṇṇanāvaseneva suttantarampi ānento pāḷiyā anusandhiñca pubbāparañca apekkhanto ācariyehi dinnanaye ṭhatvā tulikāya paricchindanto viya taṃ taṃ atthaṃ suvavatthitaṃ katvā dassento gambhīramātikāya udakaṃ pesento viya gambhīramatthaṃ gamento vaggihārigatiyā pade padaṃ koṭṭento sindhavājānīyo viya ekaṃyeva padaṃ anekehi pariyāyehi punappunaṃ saṃvaṇṇanto gacchati, tassa kathā parimaṇḍalā nāma hoti dhammato atthato anusandhito pubbāparato ācariyuggahatoti sabbaso paripuṇṇabhāvato. Evarūpampi kathaṃ sandhāya ‘‘parimaṇḍalapadabyañjanāyā’’ti vuttaṃ.
Hơn nữa, Tỳ-khưu nào khi thuyết pháp trong hội chúng, sau khi đã nêu lên một bài kinh hoặc một câu chuyện bổn sanh, lại đưa ra một bài kinh khác gây tranh cãi, kể ví dụ về nó, dẫn giải ý nghĩa đó, cứ như vậy lấy cái này ném vào cái kia, trình bày một cách phiến diện, rồi biết thời điểm mà đứng dậy, còn bài kinh đã nêu thì chỉ là nêu ra mà thôi, lời nói của vị ấy được gọi là không tròn trịa do ý nghĩa không được đầy đủ. Còn người nào sau khi đã nêu lên một bài kinh hoặc một câu chuyện bổn sanh, không đi ra ngoài dù chỉ một từ, mà chỉ theo cách diễn giải ý nghĩa của bài kinh đã nêu, và khi đưa ra một bài kinh khác, vẫn xem xét sự liên kết và trước sau của Pāḷi, đứng vững trên phương pháp do các vị thầy đã dạy, giống như người đo lường bằng cân, chỉ ra ý nghĩa đó một cách có hệ thống, giống như người dẫn nước vào một mương sâu, dẫn đến ý nghĩa sâu sắc, giống như con ngựa thuần chủng giống Sindhava dậm chân từng bước, diễn giải đi diễn giải lại chỉ một từ bằng nhiều cách khác nhau, lời nói của vị ấy được gọi là tròn trịa do đầy đủ về mọi mặt: từ pháp, từ ý nghĩa, từ sự liên kết, từ trước sau, và từ sự học hỏi của các vị thầy. Ám chỉ đến cả loại lời nói như vậy mà đã nói: “có từ ngữ và văn tự tròn trịa.”
Guṇaparipuṇṇabhāvena pure bhavāti porī, tassa bhikkhuno tenetaṃ bhāsitabbaṃ atthassa guṇaparipuṇṇabhāvena pure puṇṇabhāve bhavāti attho. Pure vā bhavattā poriyā nāgarikitthiyā sukhumālattanena sadisāti porī, pure saṃvaḍḍhanārī viya sukumārāti attho. Purassa esātipi porī, purassa esāti nagaravāsīnaṃ kathāti attho. Nagaravāsino hi yuttakathā honti pitimattaṃ ‘‘pitā’’ti, bhātimattaṃ ‘‘bhātā’’ti vadanti. Evarūpī hi kathā bahuno janassa kantā hoti manāpā, tāya poriyā.
Do sự đầy đủ về đức hạnh, nên có ở phía trước, đó là lời nói lịch sự; do đó, điều đó phải được vị Tỳ-khưu ấy nói ra do sự đầy đủ về đức hạnh của ý nghĩa, có ở phía trước, ở trạng thái đầy đủ. Hoặc do có ở phía trước, nên giống với sự tinh tế của người phụ nữ thành thị, đó là lời nói lịch sự, có nghĩa là tinh tế như người phụ nữ được nuôi dưỡng trong thành phố. Của thành phố, nên là lời nói lịch sự; của thành phố, có nghĩa là lời nói của người dân thành thị. Thật vậy, người dân thành thị có lời nói thích hợp, họ gọi người đáng gọi là cha là “cha,” người đáng gọi là anh là “anh.” Lời nói như vậy được nhiều người ưa thích, đẹp lòng; do lời nói lịch sự đó.
Vissaṭṭhāyāti pittasemhādīhi apalibuddhāya sandiṭṭhavilambitādidosarahitāya. Atha vā nātisīghaṃ nātisaṇikaṃ nirantaraṃ ekarasañca katvā parisāya ajjhāsayānurūpaṃ dhammaṃ kathentassa vācā vissaṭṭhā nāma. Yo hi bhikkhu dhammaṃ kathento suttaṃ vā jātakaṃ vā ārabhitvā āraddhakālato paṭṭhāya turitaturito araṇiṃ manthento viya uṇhakhādanīyaṃ khādanto viya pāḷiyā anusandhipubbāparesu gahitaṃ gahitameva, aggahitaṃ aggahitameva katvā purāṇapaṇṇantaresu caramānaṃ godhaṃ uṭṭhāpento viya tattha tattha paharanto osāpetvā uṭṭhāya gacchati . Purāṇapaṇṇantaresu hi paripātiyamānā godhā kadāci dissati kadāci na dissati, evamekaccassa atthavaṇṇanā katthaci dissati katthaci na dissati. Yopi dhammaṃ kathento kālena sīghaṃ, kālena saṇikaṃ, kālena mandaṃ, kālena mahāsaddaṃ, kālena khuddakasaddaṃ karoti, yathā nijjhāmataṇhikapetassa mukhato niccharaṇakaaggi kālena jalati kālena nibbāyati, evaṃ petadhammakathiko nāma hoti, parisāya uṭṭhātukāmāya puna ārabhati. Yopi kathento tattha tattha vitthāyati, appaṭibhānatāya āpajjati, kenaci rogena nitthunanto viya kandanto viya katheti, imesaṃ sabbesampi kathā vissaṭṭhā nāma na hoti sukhena appavattabhāvato. Yo pana suttaṃ āharitvā ācariyehi dinnanaye ṭhito ācariyuggahaṃ amuñcanto yathā ca ācariyā taṃ taṃ suttaṃ saṃvaṇṇesuṃ, teneva nayena saṃvaṇṇento nātisīghaṃ nātisaṇikantiādinā vuttanayena kathāpabandhaṃ avicchinnaṃ katvā nadīsoto viya pavatteti, ākāsagaṅgāto bhassamānaudakaṃ viya nirantarakathaṃ pavatteti, tassa kathā vissaṭṭhā nāma hoti. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘vissaṭṭhāyā’’ti.
“Rõ ràng,” là không bị cản trở bởi đờm, dãi v.v…, không có các lỗi như nói ngập ngừng, nói quá chậm v.v… Hoặc là, lời nói của người nói pháp phù hợp với tâm tư của hội chúng bằng cách nói không quá nhanh, không quá chậm, liên tục và đồng đều, thì được gọi là lời nói rõ ràng. Thật vậy, Tỳ-khưu nào khi nói pháp, sau khi đã bắt đầu một bài kinh hoặc một câu chuyện bổn sanh, từ lúc bắt đầu đã nói rất vội vàng, giống như người đang quay cây lấy lửa, giống như người đang ăn món nóng, đối với sự liên kết và trước sau của Pāḷi, cái nào đã nắm được thì nắm, cái nào chưa nắm được thì bỏ qua, giống như người đang đuổi con kỳ đà chạy trong đám lá cũ, đập vào chỗ này chỗ kia rồi kết thúc và đứng dậy bỏ đi. Thật vậy, con kỳ đà khi bị đuổi trong đám lá cũ, lúc thì thấy, lúc thì không; cũng vậy, sự diễn giải ý nghĩa của một số người lúc thì thấy, lúc thì không. Người nào khi nói pháp, lúc thì nhanh, lúc thì chậm, lúc thì nhỏ tiếng, lúc thì lớn tiếng, lúc thì lí nhí, giống như ngọn lửa phát ra từ miệng của con ngạ quỷ bị đói khát, lúc thì cháy, lúc thì tắt, người như vậy được gọi là người thuyết pháp theo kiểu ngạ quỷ; khi hội chúng muốn đứng dậy thì lại bắt đầu lại. Người nào khi nói, lan man chỗ này chỗ kia, rơi vào tình trạng không biết nói gì, nói như người đang rên rỉ hoặc khóc lóc vì một bệnh nào đó, lời nói của tất cả những người này không được gọi là rõ ràng do không được diễn tiến một cách dễ dàng. Còn người nào sau khi đã đưa ra một bài kinh, đứng vững trên phương pháp do các vị thầy đã dạy, không từ bỏ sự học hỏi của các vị thầy, và diễn giải theo đúng cách mà các vị thầy đã diễn giải bài kinh đó, diễn tiến dòng chảy của lời nói một cách không gián đoạn theo phương pháp đã nói là không quá nhanh, không quá chậm v.v…, giống như dòng sông, diễn tiến lời nói liên tục như nước chảy từ sông Hằng trên trời, lời nói của vị ấy được gọi là rõ ràng. Ám chỉ đến điều đó mà đã nói “rõ ràng.”
Anelagaḷāyāti elagaḷavirahitāya. Kassaci hi kathentassa elaṃ gaḷati, lālā paggharati, kheḷaphusitāni vā nikkhamanti, tassa vācā elagaḷā nāma hoti, tabbiparītāyāti attho. Atthassa viññāpaniyāti ādimajjhapariyosānaṃ pākaṭaṃ katvā bhāsitatthassa viññāpanasamatthatāya atthañāpane sādhanāya.
“Không có nước bọt,” là không có nước bọt. Thật vậy, đối với một số người khi nói, nước bọt chảy ra, nước dãi rỉ ra, hoặc các giọt đờm văng ra, lời nói của người ấy được gọi là có nước bọt; có nghĩa là trái ngược với điều đó. “Làm cho hiểu được ý nghĩa,” là có khả năng làm cho hiểu được ý nghĩa đã nói bằng cách làm cho phần đầu, phần giữa, và phần cuối được rõ ràng; là phương tiện để biết được ý nghĩa.
Vācāva karaṇanti vākkaraṇaṃ, udāhāraghoso. Kalyāṇaṃ madhuraṃ vākkaraṇaṃ assāti kalyāṇavākkaraṇo. Tenevāha ‘‘madhurassaro’’ti. Hīḷetīti avajānāti. Mātugāmoti sambandho. Manaṃ apāyati vaḍḍhetīti manāpo. Tenāha ‘‘manavaḍḍhanako’’ti. Vaṭṭabhayena tajjetvāti yobbanamadādimattā bhikkhuniyo saṃsārabhayena tāsetvā. Gihikāleti attano gihikāle. Bhikkhuniyā methunena bhikkhunīdūsako hotīti bhikkhuniyā kāyasaṃsaggameva vadati. Sikkhamānāsāmaṇerīsu pana methunenapi bhikkhunīdūsako na hotīti āha ‘‘sikkhamānāsāmaṇerīsu methunadhamma’’nti. ‘‘Kāsāyavatthavasanāyā’’ti vacanato dussīlāsu bhikkhunīsikkhamānāsāmaṇerīsu garudhammaṃ ajjhāpannapubbo paṭikkhittoyevāti daṭṭhabbaṃ. Tassā bhikkhuniyā abhāvepi yā yā tassā vacanaṃ assosuṃ, tā tā tatheva maññantīti āha ‘‘mātugāmo hī’’tiādi.
Chính lời nói là phương tiện, đó là sự phát âm, là tiếng nói. Người có sự phát âm tốt lành, ngọt ngào là người có sự phát âm tốt lành. Chính vì thế ngài nói: “người có giọng nói ngọt ngào.” “Khinh miệt” là coi thường. Liên quan đến người nữ. Làm cho tâm vui thích, tăng trưởng, nên là dễ thương. Do đó ngài nói: “làm cho tâm tăng trưởng.” “Sau khi đã răn đe bằng sự sợ hãi về vòng luân hồi,” là sau khi đã làm cho các Tỳ-khưu-ni say sưa vì tuổi trẻ v.v… phải sợ hãi về sanh tử. “Vào thời tại gia” là vào thời tại gia của chính mình. “Do giao hợp với Tỳ-khưu-ni mà trở thành người làm ô uế Tỳ-khưu-ni,” nên ngài chỉ nói đến sự tiếp xúc thân thể với Tỳ-khưu-ni. Còn đối với cô ni tu tập sự và sa-di-ni, ngay cả khi giao hợp cũng không trở thành người làm ô uế Tỳ-khưu-ni, nên ngài nói: “giao hợp với cô ni tu tập sự và sa-di-ni.” Theo câu “do mặc y cà-sa,” cần phải thấy rằng người trước đây đã phạm trọng giới đối với các Tỳ-khưu-ni, cô ni tu tập sự, và sa-di-ni không có giới hạnh thì đã bị cấm. Ngay cả khi Tỳ-khưu-ni đó không có mặt, những người nữ nào đã nghe lời của vị ấy, họ vẫn nghĩ như vậy, nên ngài nói: “Vì người nữ” v.v…
Idāni aṭṭha aṅgāni samodhānetvā dassetuṃ ‘‘ettha cā’’tiādi āraddhaṃ. Imehi pana aṭṭhahaṅgehi asamannāgataṃ ñatticatutthena kammena sammannento dukkaṭaṃ āpajjati, bhikkhu pana sammatoyeva hoti.
Bây giờ, để chỉ ra bằng cách tổng hợp tám chi phần, phần bắt đầu bằng “Và ở đây” đã được khởi đầu. Tuy nhiên, người bổ nhiệm bằng Tăng sự tứ bạch đối với (vị Tỳ-khưu) không thành tựu tám chi phần này thì phạm tội Tác Ác, nhưng vị Tỳ-khưu đó vẫn được xem là đã được bổ nhiệm.
148.Garukehīti garukātabbehi. Ekatoupasampannāyāti upayogatthe bhummavacanaṃ. ‘‘Ovadatī’’ti vā imassa ‘‘vadatī’’ti atthe sati sampadānavacanampi yujjati. Bhikkhūnaṃ santike upasampannā nāma parivattaliṅgā vā pañcasatasākiyāniyo vā.
148.“Bởi những người đáng kính” là bởi những người đáng được kính trọng. “Đối với người đã cụ túc viên mãn từ một phía,” đây là cách dùng biến cách thứ bảy với ý nghĩa mục đích. Hoặc nếu động từ “ovadati” có nghĩa là “nói,” thì cách dùng biến cách thứ tư cũng hợp lý. Những người đã cụ túc viên mãn từ phía các Tỳ-khưu là những người đã chuyển giới hoặc năm trăm cô gái dòng họ Sākya.
149.Āsanaṃ paññapetvāti ettha ‘‘sace bhūmi manāpā hoti, āsanaṃ apaññāpetumpi vaṭṭatī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Mātugāmaggahaṇena bhikkhunīpi saṅgahitāti āha ‘‘dhammadesanāpattimocanattha’’nti. Sammatassa bhikkhuno santikaṃ pāṭipade ovādatthāya sabbāhi bhikkhunīhi āgantabbato ‘‘samaggāttha bhaginiyo’’ti iminā sabbāsaṃ āgamanaṃ pucchatīti āha ‘‘sabbā āgatātthā’’ti. Gilānāsu anāgatāsupi gilānānaṃ anāgamanassa anuññātattā āgantuṃ samatthāhi ca sabbāhi āgatattā ‘‘samaggāmhayyā’’ti vattuṃ vaṭṭati. Antogāme vātiādīsu yattha pañca aṅgāni bhūmiyaṃ patiṭṭhāpetvā vandituṃ na sakkā hoti, tattha ṭhitāya eva kāyaṃ purato nāmetvā ‘‘vandāmi ayyā’’ti añjaliṃ paggayha gantumpi vaṭṭati. Antaragharanti katthaci nagaradvārassa bahiindakhīlato paṭṭhāya antogāmo vuccati, katthaci gharummārato paṭṭhāya antogehaṃ. Idha pana ‘‘antogāme vā’’ti visuṃ vuttattā ‘‘antaraghare vā’’ti antogehaṃ sandhāya vuttanti daṭṭhabbaṃ. Yattha katthacīti antogāmādīsu yattha katthaci.
149.Về câu “Sau khi đã sắp đặt chỗ ngồi,” trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “nếu nền đất dễ chịu, thì không cần sắp đặt chỗ ngồi cũng được.” Do Tỳ-khưu-ni cũng được bao gồm trong sự nắm bắt từ “người nữ,” nên ngài nói: “để thoát khỏi tội thuyết pháp.” Do tất cả các Tỳ-khưu-ni phải đến để nghe giáo giới vào ngày đầu tháng, nên bằng câu “thưa các chị, các chị có hòa hợp không?”, vị ấy hỏi về sự có mặt của tất cả, do đó ngài nói: “tất cả đã đến rồi chứ ạ?” Ngay cả khi các Tỳ-khưu-ni bị bệnh không đến, do việc không đến của người bệnh đã được cho phép, và do tất cả những người có thể đến đã đến, nên được phép nói: “chúng tôi đã hòa hợp.” Về các câu “Hoặc trong làng” v.v…, ở nơi nào không thể lạy bằng cách đặt năm chi phần xuống đất, thì được phép chỉ đứng và cúi người về phía trước, chắp tay và nói: “con xin đảnh lễ ngài” rồi đi. “Trong nhà,” ở một số nơi, từ cổng thành bên ngoài cột trụ Indra trở vào được gọi là trong làng; ở một số nơi, từ ngưỡng cửa nhà trở vào được gọi là trong nhà. Tuy nhiên, ở đây, do đã nói riêng là “hoặc trong làng,” nên cần phải thấy rằng câu “hoặc trong nhà” được nói ám chỉ đến trong nhà. “Ở bất cứ nơi nào” là ở bất cứ nơi nào trong làng v.v…
Vaṭṭatīti ‘‘vasatha ayye, mayaṃ bhikkhū ānessāmā’’ti vuttavacanaṃ saddahantīhi vasituṃ vaṭṭati. Na nimantitā hutvā gantukāmāti manussehi nimantitā hutvā gantukāmā na hontīti attho, tattheva vassaṃ upagantukāmā hontīti adhippāyo. Yatoti bhikkhunupassayato. Yācitvāti ‘‘tumhehi ānītaovādeneva mayampi vasissāmā’’ti yācitvā. Tatthāti tasmiṃ bhikkhunupassaye. Āgatānaṃ santike ovādena vasitabbanti pacchimikāya vassaṃ vasitabbaṃ. Abhikkhukāvāse vasantiyā āpattīti codanāmukhena sāmaññato āpattippasaṅgaṃ vadati, na pana tassā āpatti. Vassacchedaṃ katvā gacchantiyāpi āpattīti vassānupagamamūlaṃ āpattiṃ vadati. Itarāya āpattiyā anāpattikāraṇasabbhāvato ‘‘sā rakkhitabbā’’ti vuttaṃ, sā vassānupagamamūlā āpatti rakkhitabbāti attho, abhikkhukepi āvāse īdisāsu āpadāsu vassaṃ upagantabbanti adhippāyo. Tenāha ‘‘āpadāsu hi…pe… anāpatti vuttā’’ti. Itarāya pana āpattiyā anāpatti, kāraṇe asati pacchimikāyapi vassaṃ na upagantabbaṃ. Santesu hi bhikkhūsu vassaṃ anupagacchantiyā āpatti. Tattha gantvā pavāretabbanti ettha apavārentīnaṃ āpattisambhavato. Sace dūrepi bhikkhūnaṃ vasanaṭṭhānaṃ hoti, sakkā ca hoti navamiyaṃ gantvā pavāretuṃ, tattha gantvā pavāretabbaṃ. Sace pana navamiyaṃ nikkhamitvā sampāpuṇituṃ na sakkā hoti, agacchantīnaṃ anāpatti.
“Được phép,” là được phép ở lại khi tin vào lời nói: “xin các ngài cứ ở lại, chúng tôi sẽ đi mời các Tỳ-khưu.” “Không có ý định đi sau khi đã được thỉnh mời,” có nghĩa là không có ý định đi sau khi đã được các gia chủ thỉnh mời, ý định là muốn an cư mùa mưa ngay tại đó. “Từ nơi” là từ trú xứ của Tỳ-khưu-ni. “Sau khi đã xin,” là sau khi đã xin rằng: “chúng tôi cũng sẽ sống bằng lời giáo giới do các ngài mang về.” “Ở đó” là ở tại trú xứ của Tỳ-khưu-ni đó. “Phải sống bằng lời giáo giới của những người đã đến,” là phải an cư mùa mưa muộn. “Phạm tội đối với người sống trong nơi ở không có Tỳ-khưu,” ngài nói đến sự có thể phạm tội một cách tổng quát bằng cách chất vấn, chứ không phải là vị ấy phạm tội. “Ngay cả đối với người đi sau khi đã làm cho gián đoạn mùa mưa cũng phạm tội,” ngài nói đến tội gốc là không an cư mùa mưa. Do có lý do vô tội đối với tội kia, nên đã nói: “vị ấy phải được bảo vệ,” có nghĩa là, tội gốc là không an cư mùa mưa đó phải được bảo vệ; ý định là, ngay cả trong nơi ở không có Tỳ-khưu, trong những trường hợp nguy cấp như vậy, cũng được phép an cư mùa mưa. Do đó, ngài nói: “Thật vậy, trong các trường hợp nguy cấp… cho đến… đã nói là vô tội.” Còn đối với tội kia thì vô tội. Khi không có lý do, ngay cả mùa an cư muộn cũng không được thực hiện. Thật vậy, khi có các Tỳ-khưu mà không an cư mùa mưa thì phạm tội. “Phải đi đến đó để tự tứ,” ở đây, là do có khả năng phạm tội đối với những người không tự tứ. Nếu nơi ở của các Tỳ-khưu ở xa, và có thể đi đến để tự tứ vào ngày mồng chín, thì phải đi đến đó để tự tứ. Còn nếu đi ra vào ngày mồng chín mà không thể đến kịp, thì những người không đi đến sẽ vô tội.
Uposathassa pucchanaṃ uposathapucchā, sāyeva ka-ppaccayaṃ rassattañca katvā uposathapucchakanti vuttāti āha ‘‘uposathapucchana’’nti. Uposatho pucchitabboti ‘‘kadā, ayya, uposatho’’ti pucchitabbo. Bhikkhunāpi ‘‘sve, bhagini, uposatho’’ti vattabbaṃ. Bhikkhū kadāci kenaci kāraṇena pannarasikaṃ vā cātuddasīuposathaṃ, cātuddasikaṃ vā pannarasīuposathaṃ karonti, yasmiñca divase bhikkhūhi uposatho kato, tasmiṃyeva bhikkhunīhipi uposatho kātabboti adhippāyena ‘‘pakkhassa terasiyaṃyeva gantvā’’tiādi vuttaṃ. Evaṃ pucchitena bhikkhunā sace cātuddasiyaṃ uposathaṃ karonti, ‘‘cātuddasiko bhaginī’’ti vattabbaṃ. Sace pana pannarasiyaṃ karonti, ‘‘pannarasiko bhaginī’’ti ācikkhitabbaṃ. Ovādatthāyāti ovādayācanatthāya. Pāṭipadadivasato pana paṭṭhāya dhammasavanatthāya gantabbanti pāṭipadadivase ovādaggahaṇatthāya dutiyadivasato paṭṭhāya antarantarā dhammasavanatthāya gantabbaṃ. Ovādaggahaṇampi hi ‘‘dhammasavanamevā’’ti abhedena vuttaṃ. Nirantaraṃ vihāraṃ upasaṅkamiṃsūti yebhuyyena upasaṅkamanaṃ sandhāya vuttaṃ. Vuttañhetantiādinā yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjissāmāti sabbāsaṃyeva bhikkhunīnaṃ upasaṅkamanadīpanatthaṃ pāḷi nidassitā. Ovādaṃ gacchatīti ovādaṃ yācituṃ gacchati. Dve tissoti dvīhi tīhi. Karaṇatthe cetaṃ paccattavacanaṃ.
Việc hỏi về ngày Bố-tát là sự hỏi về ngày Bố-tát; chính từ đó, sau khi đã thêm hậu tố ‘ka’ và rút ngắn, đã được nói là uposathapucchaka, do đó ngài nói là “sự hỏi về ngày Bố-tát.” “Phải hỏi về ngày Bố-tát,” là phải hỏi: “Thưa ngài, khi nào là ngày Bố-tát?” Tỳ-khưu cũng phải nói: “Thưa chị, ngày mai là ngày Bố-tát.” Các Tỳ-khưu đôi khi vì một lý do nào đó mà làm lễ Bố-tát ngày rằm vào ngày mười bốn, hoặc lễ Bố-tát ngày mười bốn vào ngày rằm. Và vào ngày nào các Tỳ-khưu đã làm lễ Bố-tát, thì vào chính ngày đó các Tỳ-khưu-ni cũng phải làm lễ Bố-tát, với ý định đó mà đã nói: “phải đi ngay vào ngày mười ba của nửa tháng” v.v… Tỳ-khưu được hỏi như vậy, nếu họ làm lễ Bố-tát vào ngày mười bốn, thì phải nói: “Thưa chị, là ngày mười bốn.” Còn nếu họ làm vào ngày rằm, thì phải báo rằng: “Thưa chị, là ngày rằm.” “Để được giáo giới” là để xin được giáo giới. “Còn từ ngày đầu tháng trở đi, phải đi để nghe pháp,” là vào ngày đầu tháng đi để nhận lời giáo giới, từ ngày thứ hai trở đi, thỉnh thoảng đi để nghe pháp. Việc nhận lời giáo giới cũng được nói một cách không phân biệt là “nghe pháp.” “Đã thường xuyên đến tu viện,” được nói ám chỉ đến việc đến lui phần lớn. Bằng câu “Và điều này đã được nói” v.v…, Pāḷi đã được chỉ ra nhằm mục đích cho thấy sự đến lui của tất cả các Tỳ-khưu-ni để nói rằng: “chúng tôi sẽ thực hành theo như đã được chỉ dạy.” “Đi nghe giáo giới” là đi để xin giáo giới. “Hai, ba (Tỳ-khưu-ni)” là bởi hai hoặc ba (Tỳ-khưu-ni). Đây là cách dùng từ biệt lập với nghĩa công cụ.
Pāsādikenāti pasādajanakena niddosena kāyakammādinā. Sampādetūti tividhaṃ sikkhaṃ sampādetu. Sace pātimokkhuddesakaṃyeva disvā tāhi bhikkhunīhi ovādo yācito bhaveyya, tena kiṃ kātabbanti? Uposathagge sannipatite bhikkhusaṅghe pubbakiccavasena ‘‘atthi kāci bhikkhuniyo ovādaṃ yācamānā’’ti pucchiyamāne ‘‘evaṃ vadehī’’ti ovādapaṭiggāhakena vattabbavacanaṃ aññena bhikkhunā kathāpetvā pātimokkhuddesakena vattabbavacanaṃ attanā vatvā puna sayameva gantvā bhikkhunīnaṃ ārocetabbaṃ, aññena vā bhikkhunā tasmiṃ divase pātimokkhaṃ uddisāpetabbaṃ. Etaṃ vuttanti ‘‘tāhī’’ti etaṃ bahuvacanaṃ vuttaṃ.
“Bằng cách làm cho phát sinh lòng trong sạch” là bằng hành động về thân không có lỗi lầm, làm phát sinh lòng trong sạch v.v… “Hãy làm cho thành tựu” là hãy làm cho thành tựu ba loại học. Nếu các Tỳ-khưu-ni đó chỉ thấy người đọc Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa rồi xin giáo giới, thì vị ấy phải làm gì? Khi Tăng chúng đã tập trung tại nhà Bố-tát, và khi được hỏi theo các phận sự ban đầu rằng: “có Tỳ-khưu-ni nào xin giáo giới không?”, người nhận lời giáo giới phải nhờ một Tỳ-khưu khác nói những lời cần nói là “hãy nói như vầy,” còn người đọc Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa thì tự mình nói những lời cần nói, rồi lại tự mình đi báo cho các Tỳ-khưu-ni. Hoặc là, một Tỳ-khưu khác phải đọc Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa vào ngày đó. “Điều đó đã được nói,” là đại từ số nhiều “tāhi” (bởi họ) đó đã được nói.
Ekā bhikkhunī vāti idaṃ bahūhi bhikkhunupassayehi ekāya eva bhikkhuniyā sāsanapaṭiggahaṇaṃ sandhāya vuttaṃ, na pana dutiyikāya abhāvaṃ sandhāya. Bahūhi bhikkhunupassayehīti antarāmagge vā tasmiṃyeva vā gāme bahūhi bhikkhunupassayehi. ‘‘Bhikkhunisaṅgho ca ayya bhikkhuniyo ca bhikkhunī cā’’ti iminā nānāupassayehi sāsanaṃ gahetvā āgatabhikkhuniyā vattabbavacanaṃ dasseti. Idañca ekena pakārena mukhamattanidassanatthaṃ vuttaṃ, tasmiṃ tasmiṃ pana bhikkhunupassaye bhikkhunīnaṃ pamāṇaṃ sallakkhetvā tadanurūpena nayena vattabbaṃ. Bhikkhusaṅghassa ayyānaṃ ayyassāti idaṃ saṅkhipitvā vuttaṃ.
“Hoặc một Tỳ-khưu-ni,” điều này được nói ám chỉ đến việc một Tỳ-khưu-ni duy nhất tiếp nhận thông điệp từ nhiều trú xứ của Tỳ-khưu-ni, chứ không phải ám chỉ đến việc không có người thứ hai. “Từ nhiều trú xứ của Tỳ-khưu-ni” là từ nhiều trú xứ của Tỳ-khưu-ni ở dọc đường hoặc ngay trong làng đó. Bằng câu “Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, và các vị Tỳ-khưu-ni, và một Tỳ-khưu-ni,” ngài chỉ ra lời cần nói của Tỳ-khưu-ni đã nhận thông điệp từ các trú xứ khác nhau rồi đến. Và điều này được nói chỉ để làm ví dụ về một cách thức. Tuy nhiên, ở mỗi trú xứ của Tỳ-khưu-ni, phải nhận thấy số lượng Tỳ-khưu-ni rồi nói theo cách tương ứng. “Của Tăng chúng Tỳ-khưu, của các ngài, của ngài,” điều này đã được nói một cách tóm tắt.
Pātimokkhuddesakenapīti idaṃ saṅghuposathavaseneva dassitaṃ. Yattha pana tiṇṇaṃ dvinnaṃ vā vasanaṭṭhāne pātimokkhuddeso natthi, tatthāpi ñattiṭhapanakena itarena vā bhikkhunā imināva nayena vattabbaṃ. Ekapuggalenapi uposathadivase ovādayācanaṃ sampaṭicchitvā pāṭipade āgatānaṃ bhikkhunīnaṃ ‘‘natthi kocī’’tiādi vattabbameva. Sace sayameva, ‘‘sammato aha’’nti vattabbaṃ. Imaṃ vidhiṃ ajānanto idha bāloti adhippeto.
“Ngay cả bởi người đọc Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa,” điều này được chỉ ra chỉ theo trường hợp Bố-tát của Tăng chúng. Tuy nhiên, ở nơi ở có ba hoặc hai vị, nơi không có việc đọc Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, thì Tỳ-khưu lập biểu quyết hoặc Tỳ-khưu khác cũng phải nói theo phương pháp này. Ngay cả một người duy nhất vào ngày Bố-tát cũng phải chấp nhận lời xin giáo giới, và khi các Tỳ-khưu-ni đến vào ngày đầu tháng, phải nói: “không có vị nào” v.v… Nếu là chính mình, thì phải nói: “tôi đã được bổ nhiệm.” Người không biết quy tắc này ở đây được xem là kẻ ngu.
150.Adhammakamme adhammakammasaññī vaggaṃ bhikkhunisaṅghaṃ vaggasaññī ovadati, āpatti pācittiyassātiādīsu vijjamānesupi vaggādibhāvanimittesu dukkaṭesu adhammakammamūlakaṃ pācittiyameva pāḷiyaṃ sabbattha vuttanti āha ‘‘adhammakamme dvinnaṃ navakānaṃ vasena aṭṭhārasa pācittiyānī’’ti. Sesamettha uttānameva. Asammatatā, bhikkhuniyā paripuṇṇūpasampannatā, ovādavasena aṭṭhagarudhammabhaṇananti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
150.Về các câu “Trong Tăng sự phi pháp, có tưởng là Tăng sự phi pháp, giáo giới cho Tăng chúng Tỳ-khưu-ni bị chia rẽ, có tưởng là bị chia rẽ, thì phạm tội Ưng Đối Trị” v.v…, mặc dù có các tội Tác Ác là nhân tố cho tình trạng chia rẽ v.v… đang hiện hữu, nhưng tội Ưng Đối Trị có gốc rễ từ Tăng sự phi pháp đã được nói đến ở khắp nơi trong Pāḷi, do đó ngài nói: “trong Tăng sự phi pháp, có mười tám tội Ưng Đối Trị theo hai nhóm chín.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc không được bổ nhiệm, việc Tỳ-khưu-ni đã cụ túc viên mãn một cách trọn vẹn, và việc nói tám pháp nghiêm trọng theo cách giáo giới; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Ovādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học giáo giới đã kết thúc.
2. Atthaṅgatasikkhāpadavaṇṇanā
2. Sự giải về điều học (giáo giới sau khi) mặt trời lặn
153. Dutiye kusalānaṃ dhammānaṃ sātaccakiriyāyāti pubbabhāgappaṭipattivasena vuttaṃ. Munātīti jānāti. Tena ñāṇenāti tena arahattaphalapaññāsaṅkhātena ñāṇena. Pathesūti upāyamaggesu. Arahato pariniṭṭhitasikkhattā āha ‘‘idañca…pe… vutta’’nti. Atha vā ‘‘appamajjato sikkhato’’ti imesaṃ padānaṃ hetuatthatā daṭṭhabbā, tasmā appamajjanahetu sikkhanahetu ca adhicetasoti attho. Sokāti cittasantāpā. Ettha ca adhicetasoti iminā adhicittasikkhā, appamajjatoti iminā adhisīlasikkhā, munino monapathesu sikkhatoti etehi adhipaññāsikkhā, muninoti vā etena adhipaññāsikkhā, monapathesu sikkhatoti etena tāsaṃ lokuttarasikkhānaṃ pubbabhāgappaṭipadā, sokā na bhavantītiādīhi sikkhāpāripūriyā ānisaṃsā pakāsitāti veditabbaṃ.
153. Ở điều học thứ hai, “về việc liên tục thực hành các thiện pháp,” được nói theo cách thực hành ở giai đoạn đầu. “Biết” là nhận biết. “Bằng trí tuệ đó” là bằng trí tuệ được gọi là trí tuệ của quả A-la-hán. “Trên các con đường” là trên các con đường phương tiện. Do bậc A-la-hán đã hoàn tất việc học, nên ngài nói: “Và điều này… cho đến… đã được nói.” Hoặc là, các từ “do không dể duôi” và “do học tập” cần phải được hiểu theo nghĩa nguyên nhân; do đó, ý nghĩa là: do nguyên nhân là không dể duôi và do nguyên nhân là học tập, nên có tâm cao thượng. “Các sầu muộn” là sự buồn rầu của tâm. Và ở đây, cần phải biết rằng, bằng từ “tâm cao thượng,” tăng thượng tâm học được chỉ ra; bằng từ “do không dể duôi,” tăng thượng giới học được chỉ ra; bằng các từ “của bậc ẩn sĩ đang học tập trên các con đường của sự tịch tịnh,” tăng thượng tuệ học được chỉ ra. Hoặc là, bằng từ “của bậc ẩn sĩ,” tăng thượng tuệ học được chỉ ra; bằng từ “đang học tập trên các con đường của sự tịch tịnh,” sự thực hành ở giai đoạn đầu của các sự học siêu thế đó được chỉ ra; bằng các từ “các sầu muộn không có” v.v…, các phước báu của sự viên mãn trong việc học được công bố.
Kokanudanti padumavisesanaṃ yathā ‘‘kokāsaya’’nti, taṃ kira bahupattaṃ vaṇṇasampannaṃ ativiya sugandhañca hoti. ‘‘Kokanudaṃ nāma setapaduma’’ntipi vadanti. Pātoti pageva. Ayañhettha attho – yathā kokanudasaṅkhātaṃ padumaṃ pāto sūriyuggamanavelāyaṃ phullaṃ vikasitaṃ avītagandhaṃ siyā virocamānaṃ, evaṃ sarīragandhena guṇagandhena ca sugandhaṃ saradakāle antalikkhe ādiccamiva attano tejasā tapantaṃ aṅgehi niccharaṇajutitāya aṅgīrasaṃ sammāsambuddhaṃ passāti.
“Kokanuda” là một loại hoa sen đặc biệt, giống như trong câu “kokāsaya”; nghe nói loại sen đó có nhiều cánh, màu sắc đẹp đẽ và hương thơm ngào ngạt. Cũng có người nói rằng: “Kokanuda là hoa sen trắng.” “Vào buổi sáng” là vào lúc sớm. Ý nghĩa ở đây là như vầy: cũng như hoa sen được gọi là Kokanuda, vào buổi sáng, lúc mặt trời mọc, nở rộ, khoe sắc, hương thơm chưa tan, tỏa sáng rực rỡ; cũng vậy, hãy nhìn đấng Chánh Đẳng Giác, bậc Aṅgīrasa, người có hương thơm của thân thể và hương thơm của đức hạnh, người tỏa sáng bằng तेज của mình như mặt trời trên bầu trời vào mùa thu, và có ánh sáng phát ra từ các chi phần.
Abhabboti paṭipattisāramidaṃ sāsanaṃ, paṭipatti ca pariyattimūlikā, tvañca pariyattiṃ uggahetuṃ asamattho, tasmā abhabboti adhippāyo. Suddhaṃ pilotikakhaṇḍanti iddhiyā abhisaṅkhataṃ parisuddhaṃ coḷakhaṇḍaṃ. Tadā kira bhagavā ‘‘na sajjhāyaṃ kātuṃ asakkonto mama sāsane abhabbo nāma hoti, mā soci bhikkhū’’ti taṃ bāhāyaṃ gahetvā vihāraṃ pavisitvā iddhiyā pilotikakhaṇḍaṃ abhinimminitvā ‘‘handa, bhikkhu, imaṃ parimajjanto ‘rajoharaṇaṃ rajoharaṇa’nti punappunaṃ sajjhāyaṃ karohī’’ti vatvā adāsi tattha pubbekatādhikārattā.
“Không có khả năng,” ý định là: giáo pháp này có cốt lõi là sự thực hành, và sự thực hành có gốc rễ từ sự học thuộc, còn ngươi thì không có khả năng học thuộc giáo pháp, do đó là người không có khả năng. “Mảnh vải trong sạch” là mảnh vải trong sạch đã được tạo ra bằng thần thông. Nghe nói, lúc bấy giờ đức Thế Tôn đã nói: “Không phải người không thể tụng đọc là người không có khả năng trong giáo pháp của Ta, đừng buồn, này Tỳ-khưu,” rồi Ngài nắm tay vị ấy dẫn vào tu viện, dùng thần thông hóa ra một mảnh vải, và do vị ấy đã có duyên lành từ trước, Ngài đã trao cho và nói rằng: “Này Tỳ-khưu, hãy lau mảnh vải này và tụng đi tụng lại câu ‘vật lau bụi, vật lau bụi.’”
So kira pubbe rājā hutvā nagaraṃ padakkhiṇaṃ karonto nalāṭato sede muccante parisuddhena sāṭakena nalāṭaṃ puñchi, sāṭako kiliṭṭho ahosi . So ‘‘imaṃ sarīraṃ nissāya evarūpo parisuddhasāṭako pakatiṃ jahitvā kiliṭṭho jāto, aniccā vata saṅkhārā’’ti aniccasaññaṃ paṭilabhati, tena kāraṇenassa rajoharaṇameva paccayo jāto. Rajaṃ haratīti rajoharaṇaṃ. Saṃvegaṃ paṭilabhitvāti asubhasaññaṃ aniccasaññañca upaṭṭhapento saṃvegaṃ paṭilabhitvā. So hi yoniso ummajjanto ‘‘parisuddhaṃ vatthaṃ, natthettha doso, attabhāvassa panāyaṃ doso’’ti asubhasaññaṃ aniccasaññañca paṭilabhitvā nāmarūpapariggahādinā pañcasu khandhesu ñāṇaṃ otāretvā kalāpasammasanādikkamena vipassanaṃ vaḍḍhetvā udayabbayañāṇādipaapāṭiyā vipassanaṃ anulomagotrabhusamīpaṃ pāpesi. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘vipassanaṃ ārabhī’’ti. Obhāsagāthaṃ abhāsīti obhāsavissajjanapubbakabhāsitagāthā obhāsagāthā, taṃ abhāsīti attho.
Nghe nói, trước đây vị ấy từng là một vị vua, khi đi diễu quanh thành phố, mồ hôi chảy ra từ trán, vị ấy đã dùng một tấm vải sạch lau trán, tấm vải đã bị dơ. Vị ấy đã có được tưởng về vô thường rằng: “Do nương vào thân thể này mà tấm vải sạch như thế này đã mất đi bản chất của nó và trở nên dơ bẩn, các pháp hữu vi quả thật là vô thường.” Do nguyên nhân đó, chính vật lau bụi đã trở thành duyên cho vị ấy. Loại bỏ bụi bẩn, nên là vật lau bụi. “Sau khi đã có được sự xúc động,” là sau khi đã có được sự xúc động bằng cách làm cho tưởng về sự bất tịnh và tưởng về sự vô thường hiện khởi. Thật vậy, vị ấy, khi quán xét một cách như lý, đã có được tưởng về sự bất tịnh và tưởng về sự vô thường rằng: “tấm vải vốn trong sạch, không có lỗi ở đó, nhưng đây là lỗi của tự thân,” rồi hướng trí tuệ vào năm uẩn bằng cách phân tích danh sắc v.v…, phát triển tuệ giác theo tiến trình phân tích các nhóm v.v…, và đưa tuệ giác đến gần với thuận thứ và chuyển tánh bằng trình tự của các trí tuệ về sanh diệt v.v… Ám chỉ đến điều đó mà đã nói: “đã bắt đầu tuệ giác.” “Đã nói lên bài kệ phát quang,” có nghĩa là đã nói lên bài kệ được nói trước khi phóng hào quang.
Ettha ca ‘‘adhicetasoti imaṃ obhāsagāthaṃ abhāsī’’ti idheva vuttaṃ. Visuddhimagge (visuddhi. 2.386) pana dhammapadaṭṭhakathāyaṃ (dha. pa. aṭṭha. 1.cūḷapanthakattheravatthu) theragāthāsaṃvaṇṇanāyañca (theragā. aṭṭha. 2.566) –
Và ở đây, chỉ nói rằng: “tâm cao thượng, đã nói lên bài kệ phát quang này.” Tuy nhiên, trong Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 2.386), Chú giải kinh Pháp Cú (dha. pa. aṭṭha. 1.cūḷapanthakattheravatthu), và Sự giải về Trưởng Lão Kệ (theragā. aṭṭha. 2.566) đã nói rằng: –
‘‘Rāgo rajo na ca pana reṇu vuccati;
Rāgassetaṃ adhivacanaṃ rajoti;
Etaṃ rajaṃ vippajahitvā paṇḍitā;
Viharanti te vigatarajassa sāsane.
‘‘Doso…pe… sāsane.
‘‘Moho rajo na ca pana reṇu vuccati;
Mohassetaṃ adhivacanaṃ rajoti;
Etaṃ rajaṃ vippajahitvā paṇḍitā;
Viharanti te vigatarajassa sāsaneti. –
“Tham ái là bụi bẩn, chứ không phải là bụi đất;
Tham ái, đó là một tên gọi khác của bụi bẩn;
Các bậc hiền trí, sau khi đã từ bỏ bụi bẩn đó,
Họ sống trong giáo pháp của bậc đã thoát ly bụi bẩn.
“Sân hận… cho đến… trong giáo pháp.
“Si mê là bụi bẩn, chứ không phải là bụi đất;
Si mê, đó là một tên gọi khác của bụi bẩn;
Các bậc hiền trí, sau khi đã từ bỏ bụi bẩn đó,
Họ sống trong giáo pháp của bậc đã thoát ly bụi bẩn.” –
Imā tisso obhāsagāthā abhāsī’’ti vuttaṃ. Adhicetasoti ca ayaṃ cūḷapanthakattherassa udānagāthāti imissāyeva pāḷiyā āgataṃ. Theragāthāyaṃ pana cūḷapanthakattherassa udānagāthāsu ayaṃ anāruḷhā, ‘‘ekudāniyattherassa pana ayaṃ udānagāthā’’ti (theragā. aṭṭha. 1.ekudāniyattheragāthāvaṇṇanā) tattha vuttaṃ. Evaṃ santepi imissā pāḷiyā aṭṭhakathāya ca evamāgatattā cūḷapanthakattherassapi ayaṃ udānagāthā obhāsagāthāvasena ca bhagavatā bhāsitāti gahetabbaṃ. Arahattaṃ pāpuṇīti abhiññāpaṭisambhidāparivāraṃ arahattaṃ pāpuṇi. Abhabbo tvantiādivacanato anukampāvasena saddhivihārikādiṃ saṅghikavihārā nikkaḍḍhāpentassa anāpatti viya dissati. Abhabbo hi thero sañcicca taṃ kātuṃ, nikkaḍḍhanasikkhāpade vā apaññatte therena evaṃ katanti gahetabbaṃ.
“Đã nói lên ba bài kệ phát quang này.” Và câu “tâm cao thượng” là bài kệ cảm hứng của trưởng lão Cūḷapanthaka đã có trong chính bản Pāḷi này. Tuy nhiên, trong Trưởng Lão Kệ, bài kệ này không nằm trong các bài kệ cảm hứng của trưởng lão Cūḷapanthaka, mà ở đó đã nói rằng: “đây là bài kệ cảm hứng của trưởng lão Ekudāniya” (theragā. aṭṭha. 1.ekudāniyattheragāthāvaṇṇanā). Dầu cho là như vậy, do đã có trong Pāḷi và Chú giải của kinh này như vậy, nên cần phải hiểu rằng đây cũng là bài kệ cảm hứng của trưởng lão Cūḷapanthaka và đã được đức Thế Tôn nói lên như là một bài kệ phát quang. “Đã đắc A-la-hán” là đã đắc quả A-la-hán cùng với các thắng trí và vô ngại giải. Do lời nói “Ngươi không có khả năng” v.v…, dường như có sự vô tội đối với người cho đuổi một vị đồng梵行 v.v… ra khỏi tu viện của Tăng chúng vì lòng bi mẫn. Thật vậy, vị trưởng lão không có khả năng cố ý làm điều đó, hoặc cần phải hiểu rằng trưởng lão đã làm như vậy khi điều học về việc đuổi ra chưa được chế định.
156.Ovadantassa pācittiyanti atthaṅgate sūriye garudhammehi vā aññena vā dhammeneva ovadantassa sammatassapi pācittiyaṃ. Sesamettha uttānameva. Atthaṅgatasūriyatā, paripuṇṇūpasampannatā, ovadananti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
156.“Phạm tội Ưng Đối Trị đối với người giáo giới,” là đối với người đã được bổ nhiệm, khi giáo giới bằng các pháp nghiêm trọng hoặc bằng bất kỳ pháp nào khác sau khi mặt trời đã lặn, thì phạm tội Ưng Đối Trị. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc mặt trời đã lặn, việc (Tỳ-khưu-ni) đã cụ túc viên mãn một cách trọn vẹn, và việc giáo giới; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Atthaṅgatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học (giáo giới sau khi) mặt trời lặn đã kết thúc.
3. Bhikkhunupassayasikkhāpadavaṇṇanā
3. Sự giải về điều học trú xứ của Tỳ-khưu-ni
162. Tatiyaṃ uttānatthameva. Upassayūpagamanaṃ, paripuṇṇūpasampannatā, samayābhāvo, garudhammehi ovadananti imāni panettha cattāri aṅgāni.
162. Ở điều học thứ ba, ý nghĩa đã rõ ràng. Việc đi đến trú xứ, việc (Tỳ-khưu-ni) đã cụ túc viên mãn một cách trọn vẹn, sự không có thời điểm (thích hợp), và việc giáo giới bằng các pháp nghiêm trọng; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Bhikkhunupassayasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học trú xứ của Tỳ-khưu-ni đã kết thúc.
4. Āmisasikkhāpadavaṇṇanā
4. Sự giải về điều học vật chất
164. Catutthe ‘‘upasampannaṃ…pe… bhikkhunovādaka’’nti imesaṃ ‘‘maṅkukattukāmo’’ti iminā sambandho. ‘‘Avaṇṇaṃ kattukāmo ayasaṃ kattukāmo’’ti imesaṃ pana vasena ‘‘upasampanna’’ntiādīsu ‘‘upasampannassā’’ti vibhattivipariṇāmo kātabboti imamatthaṃ sandhāya ‘‘ujjhāpanake vuttanayenevattho veditabbo’’ti vuttaṃ. ‘‘Cīvarahetu ovadatī’’tiādinā bhaṇantassa ekekasmiṃ vacane niṭṭhite pācittiyaṃ veditabbaṃ. ‘‘Upasampannaṃ saṅghena asammata’’nti pāḷivacanato ‘‘sammatena vā saṅghena vā bhāraṃ katvā ṭhapito’’ti aṭṭhakathāvacanato ca aṭṭhahi aṅgehi samannāgato sammatena vā vippavasitukāmena ‘‘yāvāhaṃ āgamissāmi, tāva te bhāro hotū’’ti yācitvā ṭhapito tassābhāvato saṅghena vā tatheva bhāraṃ katvā ṭhapito aṭṭhahi garudhammehi aññena vā dhammena ovadituṃ labhatīti veditabbaṃ. Tasmā ‘‘yo pana, bhikkhu, asammato bhikkhuniyo ovadeyya, pācittiya’’nti idaṃ pageva bhāraṃ katvā aṭṭhapitaṃ sandhāya vuttanti gahetabbaṃ.
164. Ở điều học thứ tư, các từ “người đã cụ túc viên mãn… cho đến… người giáo giới Tỳ-khưu-ni” này có liên quan đến từ “người có ý muốn làm cho hổ thẹn.” Còn theo các từ “người có ý muốn nói xấu, người có ý muốn làm cho mất danh dự,” cần phải thay đổi biến cách của các từ “người đã cụ túc viên mãn” v.v… thành “của người đã cụ túc viên mãn,” ám chỉ đến ý nghĩa này mà đã nói: “ý nghĩa cần phải được hiểu theo phương pháp đã được nói trong điều học xúi giục.” Cần phải biết rằng đối với người nói những câu như “giáo giới vì lý do y” v.v…, phạm tội Ưng Đối Trị khi mỗi một lời nói được kết thúc. Do câu Pāḷi “người đã cụ túc viên mãn chưa được Tăng chúng bổ nhiệm” và do câu Chú giải “hoặc người đã được bổ nhiệm bởi người đã được Tăng chúng bổ nhiệm, hoặc người đã được Tăng chúng giao phó trách nhiệm,” cần phải biết rằng người đã được bổ nhiệm thành tựu tám chi phần, hoặc người đã được người đã được bổ nhiệm sắp đi xa giao phó trách nhiệm bằng cách xin rằng “cho đến khi tôi trở về, trách nhiệm đó thuộc về thầy,” hoặc người đã được Tăng chúng giao phó trách nhiệm như vậy trong trường hợp vị kia vắng mặt, thì được phép giáo giới bằng tám pháp nghiêm trọng hoặc bằng pháp nào khác. Do đó, cần phải hiểu rằng câu “Tuy nhiên, Tỳ-khưu nào chưa được bổ nhiệm mà giáo giới các Tỳ-khưu-ni thì phạm tội Ưng Đối Trị” đã được nói ám chỉ đến người chưa được giao phó trách nhiệm.
168.Anāpatti pakatiyā cīvarahetu…pe… ovadantaṃ bhaṇatīti ettha āmisahetu ovadantaṃ ‘‘āmisahetu ovadatī’’ti saññāya evaṃ bhaṇantassa anāpatti, ‘‘na āmisahetu ovadatī’’ti saññino pana dukkaṭaṃ, na āmisahetu ovadantaṃ pana ‘‘āmisahetu ovadatī’’ti saññāya bhaṇantassapi anāpatti sacittakattā sikkhāpadassa. Sesamettha uttānameva. Upasampannatā, dhammena laddhasammutitā, anāmisantaratā, avaṇṇakāmatāya evaṃ bhaṇananti imāni panettha cattāri aṅgāni.
168.Về câu “Vô tội đối với người nói về người đang giáo giới vì lý do y theo thực tế… cho đến…”, ở đây, vô tội đối với người nói như vậy với tưởng rằng “vị ấy giáo giới vì lý do vật chất” về một người đang giáo giới vì lý do vật chất. Nhưng đối với người có tưởng rằng “vị ấy không giáo giới vì lý do vật chất” thì phạm tội Tác Ác. Tuy nhiên, đối với người nói về một người không giáo giới vì lý do vật chất với tưởng rằng “vị ấy giáo giới vì lý do vật chất,” cũng vô tội do điều học này thuộc về tâm. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là người đã cụ túc viên mãn, việc được bổ nhiệm hợp pháp, sự không có yếu tố vật chất, và việc nói như vậy với ý muốn nói xấu; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Āmisasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học vật chất đã kết thúc.
169. Pañcamaṃ uttānatthameva.
169. Ở điều học thứ năm, ý nghĩa đã rõ ràng.
6. Cīvarasibbāpanasikkhāpadavaṇṇanā
6. Sự giải về điều học nhờ may y
175. Chaṭṭhe sace sā bhikkhunī taṃ cīvaraṃ āditova pārupeyya, aññā bhikkhuniyo disvā ujjhāpeyyuṃ, tato mahājano passituṃ na labhatīti maññamāno ‘‘yathāsaṃhaṭaṃ haritvā nikkhipitvā’’tiādimāha.
175. Ở điều học thứ sáu, nếu Tỳ-khưu-ni ấy mặc y đó ngay từ đầu, các Tỳ-khưu-ni khác thấy sẽ xúi giục, và do đó quần chúng sẽ không có dịp thấy, nghĩ như vậy nên ngài đã nói: “sau khi đã mang đi như đã được gấp lại và đặt xuống” v.v…
176.Nīharatīti sakiṃ nīharati. Yepi tesaṃ nissitakāti sambandho. Kathinavattanti ‘‘sabrahmacārīnaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti itikattabbatāvasena sūcikammakaraṇaṃ. Ācariyupajjhāyānaṃ dukkaṭanti akappiyasamādānavasena dukkaṭaṃ. Vañcetvāti ‘‘tava ñātikāyā’’ti avatvā ‘‘ekissā bhikkhuniyā’’ti ettakameva vatvā. ‘‘Ekissā bhikkhuniyā’’ti sutvā te aññātikasaññino bhaveyyunti āha ‘‘akappiye niyojitattā’’ti . ‘‘Idaṃ te mātu cīvara’’ntiādīni avatvāpi ‘‘idaṃ cīvaraṃ sibbehī’’ti suddhacittena sibbāpentassapi anāpatti.
176.“Mang ra” là mang ra một lần. Những ai là người nương tựa của họ, đây là mối liên hệ. “Phận sự về kaṭhina” là việc làm công việc may vá theo cách thức phải làm là “được phép làm cho các vị đồng梵行.” “Tội Tác Ác đối với thầy giáo thọ và thầy tế độ” là tội Tác Ác do cách chấp nhận điều không hợp lệ. “Sau khi đã lừa dối” là không nói “của quyến thuộc của thầy” mà chỉ nói chừng ấy là “của một Tỳ-khưu-ni.” Sau khi nghe “của một Tỳ-khưu-ni,” họ có thể có tưởng là không phải quyến thuộc, nên ngài nói: “do đã giao phó việc không hợp lệ.” Ngay cả khi không nói “đây là y của mẹ thầy” v.v…, đối với người nhờ may với tâm trong sạch rằng “hãy may y này,” cũng vô tội.
179.Upāhanatthavikādinti ādi-saddena yaṃ cīvaraṃ nivāsetuṃ vā pārupituṃ vā na sakkā hoti, tampi saṅgaṇhāti. Sesamettha uttānameva. Aññātikāya bhikkhuniyā santakatā, nivāsanapārupanūpagatā, vuttanayena sibbanaṃ vā sibbāpanaṃ vāti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
179.Về câu “túi đựng giày dép v.v…,” bằng từ v.v…, ngài bao gồm cả y nào không thể mặc hoặc choàng được. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc y thuộc về Tỳ-khưu-ni không phải là quyến thuộc, việc y phù hợp để mặc và choàng, và việc may hoặc nhờ may theo cách đã nêu; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Cīvarasibbāpanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học nhờ may y đã kết thúc.
7. Saṃvidahanasikkhāpadavaṇṇanā
7. Sự giải về điều học sắp đặt (cuộc hành trình)
181. Sattame ‘‘pacchā gacchantīnaṃ corā acchindiṃsū’’ti ettha ‘‘pattacīvara’’nti pāṭhasesoti āha ‘‘pacchā gacchantīnaṃ pattacīvara’’nti. Tā bhikkhuniyoti pacchā gacchantiyo bhikkhuniyo. ‘‘Pacchā gacchantīna’’nti ca vibhattivipariṇāmenettha sambandho veditabbo. Pāḷiyaṃ ‘‘gacchāma bhagini, gacchāma ayyā’’ti bhikkhupubbakaṃ saṃvidhānaṃ vuttaṃ, ‘‘gacchāma ayya, gacchāma bhaginī’’ti bhikkhunīpubbakaṃ. Ekaddhānamagganti ekaṃ addhānasaṅkhātaṃ maggaṃ, ekato vā addhānamaggaṃ. Hiyyoti suve. Pareti tatiyadivase.
181. Ở điều học thứ bảy, trong câu “những tên cướp đã cướp của những người đi sau,” do có phần còn lại của bản văn là “bát y,” nên ngài nói: “bát y của những người đi sau.” “Các Tỳ-khưu-ni đó” là các Tỳ-khưu-ni đi sau. Và ở đây, cần phải hiểu sự liên quan bằng cách thay đổi biến cách của câu “của những người đi sau.” Trong Pāḷi, sự sắp đặt có Tỳ-khưu đi trước đã được nói đến: “chúng ta hãy đi, thưa chị; chúng ta hãy đi, thưa ngài.” Sự sắp đặt có Tỳ-khưu-ni đi trước là: “chúng ta hãy đi, thưa ngài; chúng ta hãy đi, thưa chị.” “Con đường dài” là một con đường được gọi là dài, hoặc là con đường dài đi cùng nhau. “Hôm qua” là ngày mai. “Ngày kia” là ngày thứ ba.
182-183.Dvidhā vuttappakāroti pādagamanavasena pakkhagamanavasena vāti dvidhā vuttappabhedo . Catunnaṃ maggānaṃ sambandhaṭṭhānaṃ catukkaṃ, tiṇṇaṃ maggānaṃ sambandhaṭṭhānaṃ siṅghāṭakaṃ. ‘‘Gāmantare gāmantare’’ti ettha añño gāmo gāmantaranti āha ‘‘nikkhamane anāpatti…pe… bhikkhuno pācittiya’’nti. ‘‘Saṃvidhāyā’’ti pāḷiyaṃ avisesena vuttattā ‘‘neva pāḷiyā sametī’’ti vuttaṃ, ‘‘etthantare saṃvidahitepi bhikkhuno dukkaṭa’’nti vuttattā ‘‘na sesaaṭṭhakathāya sametī’’ti vuttaṃ. Addhayojanaṃ atikkamantassāti asati gāme addhayojanaṃ atikkamantassa. Yattha hi addhayojanabbhantare añño gāmo na hoti, taṃ idha agāmakaṃ araññanti adhippetaṃ, addhayojanabbhantare pana gāme sati gāmantaragaṇanāya eva āpatti.
182-183.“Loại đã được nói theo hai cách” là loại đã được phân loại theo hai cách là đi bộ và đi theo từng chặng. Nơi nối liền của bốn con đường là ngã tư; nơi nối liền của ba con đường là ngã ba. Ở câu “giữa các làng,” một làng khác là khoảng cách giữa các làng, nên ngài nói: “vô tội khi ra khỏi làng… cho đến… Tỳ-khưu phạm tội Ưng Đối Trị.” Do trong Pāḷi đã nói một cách không phân biệt là “sau khi đã sắp đặt,” nên đã nói là “không phù hợp với Pāḷi.” Do đã nói rằng “ngay cả khi sắp đặt ở khoảng giữa đó, Tỳ-khưu cũng phạm tội Tác Ác,” nên đã nói là “không phù hợp với các bộ Chú giải còn lại.” “Đối với người đi qua nửa do-tuần,” là đối với người đi qua nửa do-tuần khi không có làng. Thật vậy, ở đâu trong phạm vi nửa do-tuần không có một làng nào khác, thì nơi đó ở đây được xem là khu rừng không có làng. Còn khi có làng trong phạm vi nửa do-tuần, thì phạm tội theo cách tính khoảng cách giữa các làng.
185.Raṭṭhabhedeti raṭṭhavilope. Cakkasamāruḷhāti iriyāpathacakkaṃ sakaṭacakkaṃ vā samāruḷhā. Sesaṃ uttānameva. Dvinnampi saṃvidahitvā maggappaṭipatti , avisaṅketaṃ, samayābhāvo, anāpadā, gāmantarokkamanaṃ vā addhayojanātikkamo vāti imāni panettha pañca aṅgāni. Ekatoupasampannādīhi saddhiṃ gacchantassa pana mātugāmasikkhāpadena āpatti.
185.“Khi xứ bị loạn” là khi xứ bị cướp phá. “Đã lên xe,” là đã lên xe oai nghi hoặc xe bò. Phần còn lại đã rõ ràng. Việc cả hai cùng sắp đặt và đi trên đường, việc không có hẹn trước, sự không có thời điểm (thích hợp), sự không có trường hợp nguy cấp, và việc đi vào làng khác hoặc đi qua nửa do-tuần; đây là năm chi phần trong trường hợp này. Tuy nhiên, đối với người đi cùng với người đã cụ túc viên mãn từ một phía v.v…, thì phạm tội theo điều học về người nữ.
Saṃvidahanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học sắp đặt đã kết thúc.
8. Nāvābhiruhanasikkhāpadavaṇṇanā
8. Sự giải về điều học lên thuyền
188. Aṭṭhame lokassādamittasanthavavasena kīḷāpurekkhārā saṃvidahitvāti ayaṃ viseso ‘‘evamime…pe… bhikkhunīhi saddhiṃ nāvāya kīḷantī’’ti iminā ‘‘uddhaṃgāminiṃ vā adhogāminiṃ vā’’ti iminā ca siddho.
188. Ở điều học thứ tám, “sau khi đã sắp đặt với ý định vui đùa theo cách thưởng thức thế gian và thân mật với bạn bè,” sự khác biệt này được chứng minh bằng câu “như vậy những người này… cho đến… vui đùa trên thuyền cùng với các Tỳ-khưu-ni” và bằng câu “hoặc đi ngược dòng, hoặc đi xuôi dòng.”
189. Nadiyā kuto gāmantaranti āha ‘‘yassā nadiyā’’tiādi. ‘‘Tassā sagāmakatīrapassena…pe… addhayojanagaṇanāyāti ekekapasseneva gamanaṃ sandhāya vuttattā tādisikāya nadiyā majjhena gacchantassa gāmantaragaṇanāya addhayojanagaṇanāya ca āpattī’’ti vadanti. Sabbaaṭṭhakathāsūtiādinā attanā vuttamevatthaṃ samattheti. ‘‘Kīḷāpurekkhāratāya bhikkhuniyā saddhiṃ saṃvidhāya nāvaṃ abhiruhantassa nadiyaṃyeva pācittiyassa vuttattā vāpisamuddādīsu kīḷāpurekkhāratāya dukkaṭameva, na pācittiya’’nti vadanti. ‘‘Lokassādamittasanthavavasena kīḷāpurekkhārā saṃvidahitvā’’ti vacanato keci ‘‘imaṃ sikkhāpadaṃ akusalacittaṃ lokavajja’’nti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ. Kīḷāpurekkhāratāya hi abhiruhitvāpi gāmantarokkamane addhayojanātikkame vā kusalābyākatacittasamaṅgīpi hutvā āpattiṃ āpajjati . Yadi hi so saṃvegaṃ paṭilabhitvā arahattaṃ vā sacchikareyya, niddaṃ vā okkameyya, kammaṭṭhānaṃ vā manasi karonto gaccheyya, kuto tassa akusalacittasamaṅgitā, yenidaṃ sikkhāpadaṃ akusalacittaṃ lokavajjanti vuccati, tasmā paṇṇattivajjaṃ ticittanti siddhaṃ. Sesamettha uttānameva.
189. Làm sao có khoảng cách giữa các làng ở trên sông? Về điều này, ngài nói: “Đối với con sông nào” v.v… Có người nói rằng: “Do đã nói là ‘bằng cách đi theo bờ có làng… cho đến… bằng cách tính nửa do-tuần,’ chỉ ám chỉ đến việc đi theo một bên bờ, nên đối với người đi giữa con sông như vậy, phạm tội theo cách tính khoảng cách giữa các làng và cách tính nửa do-tuần.” Bằng câu “Trong tất cả các bộ Chú giải” v.v…, ngài củng cố ý nghĩa mà chính mình đã nói. Có người nói rằng: “Do tội Ưng Đối Trị đã được nói đến ngay trên sông đối với người lên thuyền sau khi đã sắp đặt cùng với Tỳ-khưu-ni với ý định vui đùa, nên ở các hồ, biển v.v…, với ý định vui đùa thì chỉ phạm tội Tác Ác, không phải tội Ưng Đối Trị.” Theo câu “sau khi đã sắp đặt với ý định vui đùa theo cách thưởng thức thế gian và thân mật với bạn bè,” một số người nói rằng: “điều học này là tội bị thế gian chê bai do tâm bất thiện,” điều đó không nên được chấp nhận. Thật vậy, ngay cả khi đã lên thuyền với ý định vui đùa, khi đi vào làng khác hoặc đi qua nửa do-tuần, vị ấy vẫn phạm tội ngay cả khi đang có tâm thiện hoặc vô ký. Nếu vị ấy có được sự xúc động và chứng đắc quả A-la-hán, hoặc chìm vào giấc ngủ, hoặc đi trong khi đang tác ý đến đề mục thiền, thì làm sao có được tâm bất thiện, để mà điều học này được gọi là tội bị thế gian chê bai do tâm bất thiện? Do đó, đã chứng minh được rằng đây là tội do chế định và thuộc về ba loại tâm. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng.
Nāvābhiruhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học lên thuyền đã kết thúc.
9. Paripācitasikkhāpadavaṇṇanā
9. Sự giải về điều học (vật thực) do Tỳ-khưu-ni sắp đặt
194. Navame paṭiyāditanti bhikkhūnaṃ atthāya sampāditaṃ. Ñātakā vā honti pavāritā vāti ettha sacepi bhikkhuno aññātakā appavāritā ca siyuṃ, bhikkhuniyā ñātakā pavāritā ce, vaṭṭati.
194. Ở điều học thứ chín, “đã được chuẩn bị” là đã được sắm sửa vì lợi ích của các Tỳ-khưu. “Hoặc là quyến thuộc, hoặc là đã được thỉnh mời,” ở đây, ngay cả khi họ là người không quen biết và chưa được thỉnh mời đối với Tỳ-khưu, nếu họ là quyến thuộc và đã được thỉnh mời đối với Tỳ-khưu-ni, thì được phép.
197. Pāpabhikkhūnaṃ pakkhupacchedāya idaṃ paññattaṃ, tasmā pañcabhojaneyeva āpatti vuttā. Pañca bhojanāni ṭhapetvā sabbattha anāpattīti idaṃ pana iminā sikkhāpadena anāpattidassanatthaṃ vuttaṃ. Viññattiyā uppannaṃ paribhuñjantassa hi aññattha vuttanayena dukkaṭaṃ. Sesaṃ uttānameva. Bhikkhuniparipācitabhāvo, jānanaṃ, gihisamārambhābhāvo, odanādīnaṃ aññataratā, tassa ajjhoharaṇanti imāni panettha pañca aṅgāni.
197. Điều này đã được chế định để cắt đứt phe phái của các Tỳ-khưu xấu, do đó tội chỉ được nói đến đối với năm loại vật thực. “Vô tội ở khắp nơi trừ năm loại vật thực,” điều này được nói nhằm mục đích chỉ ra sự vô tội theo điều học này. Thật vậy, đối với người hưởng dụng vật thực phát sinh do sự gợi ý, thì phạm tội Tác Ác theo phương pháp đã được nói ở nơi khác. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc vật thực do Tỳ-khưu-ni sắp đặt, sự biết, sự không có sự khởi xướng của gia chủ, việc là một trong các loại cơm v.v…, và việc nuốt vào; đây là năm chi phần trong trường hợp này.
Paripācitasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học (vật thực) do Tỳ-khưu-ni sắp đặt đã kết thúc.
10. Rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā
10. Sự giải về điều học ngồi ở nơi kín đáo
198. Dasame upanandassa catutthasikkhāpadenāti appaṭicchanne mātugāmena saddhiṃ rahonisajjasikkhāpadaṃ sandhāya vuttaṃ. Kiñcāpi taṃ acelakavagge pañcamasikkhāpadaṃ hoti, upanandattheraṃ ārabbha paññattesu pana catutthabhāvato ‘‘upanandassa catutthasikkhāpadenā’’ti vuttaṃ. Catutthasikkhāpadassa vatthuto imassa sikkhāpadassa vatthuno paṭhamaṃ uppannattā idaṃ sikkhāpadaṃ paṭhamaṃ paññattaṃ. Iminā ca sikkhāpadena kevalaṃ bhikkhuniyā eva rahonisajjāya āpatti paññattā, upari mātugāmena saddhiṃ rahonisajjāya āpatti visuṃ paññattāti daṭṭhabbaṃ.
198. Ở điều học thứ mười, “bằng điều học thứ tư của Upananda,” được nói ám chỉ đến điều học về việc ngồi ở nơi kín đáo không có vách che cùng với người nữ. Mặc dù đó là điều học thứ năm trong Phẩm Acelaka, nhưng do là điều học thứ tư trong số các điều học được chế định liên quan đến trưởng lão Upananda, nên đã nói là “bằng điều học thứ tư của Upananda.” Do câu chuyện của điều học thứ tư đã phát sinh trước câu chuyện của điều học này, nên điều học này đã được chế định trước tiên. Và cần phải thấy rằng, bằng điều học này, chỉ có tội ngồi ở nơi kín đáo với một Tỳ-khưu-ni mới được chế định; sau này, tội ngồi ở nơi kín đáo với một người nữ đã được chế định riêng.
Rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học ngồi ở nơi kín đáo đã kết thúc.
Niṭṭhito bhikkhunivaggo tatiyo.
Phẩm Tỳ-khưu-ni, là phẩm thứ ba, đã kết thúc.
4. Bhojanavaggo
4. Phẩm về Vật Thực
1. Āvasathapiṇḍasikkhāpadavaṇṇanā
1. Sự giải về điều học vật thực khất thực ở nhà nghỉ
206. Bhojanavaggassa paṭhamasikkhāpade addhayojanaṃ vā yojanaṃ vā gantuṃ sakkotīti ettha tattakaṃ gantuṃ sakkontassapi tāvatakaṃ gantvā aladdhabhikkhassa ito bhuñjituṃ vaṭṭati. Imesaṃyevāti imesaṃ pāsaṇḍānaṃyeva. Ettakānanti imasmiṃ pāsaṇḍe ettakānaṃ. Ekadivasaṃ bhuñjitabbanti ekadivasaṃ sakiṃyeva bhuñjitabbaṃ. ‘‘Ekadivasaṃ bhuñjitabba’’nti vacanato pana ekasmiṃ divase punappunaṃ bhuñjituṃ vaṭṭatīti na gahetabbaṃ. Puna ādito paṭṭhāya bhuñjituṃ na vaṭṭatīti iminā paṭhamaṃ bhuttaṭṭhānesu puna ekasmimpi ṭhāne bhuñjituṃ na vaṭṭatīti dasseti.
206. Ở điều học đầu tiên của Phẩm về Vật Thực, về câu “có thể đi nửa do-tuần hoặc một do-tuần,” ở đây, ngay cả đối với người có thể đi chừng ấy, sau khi đã đi chừng ấy mà không nhận được vật thực khất thực, cũng được phép ăn từ nơi này. “Chỉ của những người này” là chỉ của những người ngoại đạo này. “Của chừng ấy người” là của chừng ấy người trong nhóm ngoại đạo này. “Phải được ăn một ngày” là phải được ăn chỉ một lần trong một ngày. Tuy nhiên, theo câu “phải được ăn một ngày,” không nên hiểu rằng được phép ăn nhiều lần trong một ngày. “Không được phép ăn lại từ đầu,” bằng câu này, ngài chỉ ra rằng không được phép ăn lại dù chỉ ở một nơi trong số những nơi đã ăn trước đây.
208.‘‘Gacchanto vā āgacchanto vāti idaṃ addhayojanavasena gahetabba’’nti vadanti. Antarāmagge gataṭṭhāneti ekasseva santakaṃ sandhāya vuttaṃ. ‘‘Āgacchantepi eseva nayo’’ti saṅkhepena vuttamevatthaṃ vibhāvento ‘‘gantvā paccāgacchanto’’tiādimāha. Āpattiṭṭhāneyeva puna bhuñjantassa anāpatti vattabbāti gamane āgamane ca paṭhamaṃ bhojanaṃ avatvā antarāmagge ekadivasaṃ gataṭṭhāne ca ekadivasanti punappunaṃ bhojanameva dassitaṃ, gamanadivase pana āgamanadivase ca ‘‘gamissāmi āgamissāmī’’ti bhuñjituṃ vaṭṭatiyeva. Suddhacittena punappunaṃ bhuñjantassapi punappunaṃ bhojane anāpatti. Aññassatthāya uddisitvā paññattaṃ bhikkhuno gahetumeva na vaṭṭatīti āha ‘‘bhikkhūnaṃyeva atthāyā’’ti. Sesamettha uttānameva. Āvasathapiṇḍatā, agilānatā, anuvasitvā bhojananti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
208.Có người nói rằng: “‘Hoặc đang đi, hoặc đang đến,’ điều này cần phải được hiểu theo cách nửa do-tuần.” “Ở nơi đã đi trên đường,” được nói ám chỉ đến tài sản của chỉ một người. Để giải thích ý nghĩa đã được nói một cách tóm tắt là “khi đến cũng theo phương pháp này,” ngài đã nói: “sau khi đã đi và đang trở về” v.v… Cần phải nói về sự vô tội đối với người ăn lại ngay tại nơi phạm tội, do đó, trong lúc đi và lúc về, việc ăn nhiều lần là ở nơi đã đi trên đường một ngày và một ngày (khác) đã được chỉ ra, mà không nói đến việc ăn lần đầu. Còn vào ngày đi và ngày về, được phép ăn với ý nghĩ “tôi sẽ đi, tôi sẽ về.” Đối với người ăn nhiều lần với tâm trong sạch, cũng vô tội trong việc ăn nhiều lần. Vật thực được chỉ định và chuẩn bị vì lợi ích của người khác, Tỳ-khưu không được phép nhận, do đó ngài nói: “chỉ vì lợi ích của các Tỳ-khưu.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là vật thực khất thực ở nhà nghỉ, tình trạng không bị bệnh, và việc ăn sau khi đã ở lại; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Āvasathapiṇḍasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học vật thực khất thực ở nhà nghỉ đã kết thúc.
2. Gaṇabhojanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Sự giải về điều học bữa ăn chung nhóm
209. Dutiye abhimāreti abhigantvā bhagavato māraṇatthāya niyojite dhanuddhare. Guḷhapaṭicchannoti apākaṭo. Pavijjhīti vissajjesi. Nanu rājānampi mārāpesīti vacanato idaṃ sikkhāpadaṃ ajātasattuno kāle paññattanti siddhaṃ, evañca sati parato anupaññattiyaṃ –
209. Ở điều học thứ hai, “trong cuộc tấn công,” là các cung thủ đã được giao nhiệm vụ đến gần để ám sát đức Thế Tôn. “Được che giấu kín đáo” là không lộ liễu. “Đã bắn” là đã phóng ra. Chẳng phải theo câu “cũng đã cho giết cả vua,” đã chứng minh được rằng điều học này được chế định vào thời của vua Ajātasattu sao? Và nếu như vậy, tại sao trong phần bổ sung sau đó lại nói điều này: –
‘‘Tena kho pana samayena rañño māgadhassa seniyassa bimbisārassa ñātisālohito ājīvakesu pabbajito hoti. Atha kho so ājīvako yena rājā māgadho seniyo bimbisāro tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā rājānaṃ māgadhaṃ seniyaṃ bimbisāraṃ etadavoca…pe… kukkuccāyantā nādhivāsentī’’ti –
“Và vào lúc bấy giờ, người có họ hàng với vua Bimbisāra xứ Māgadha đã xuất gia trong phái Lõa Thể. Khi ấy, vị Lõa Thể đó đã đi đến nơi vua Bimbisāra xứ Māgadha, sau khi đến, đã nói với vua Bimbisāra xứ Māgadha điều này… cho đến… do phân vân nên không nhận.” –
Idaṃ kasmā vuttanti? So kira ājīvako taṃ dānaṃ dento bimbisārakālato paṭṭhāya adāsi, pacchā ajātasattukāle sikkhāpadapaññattito paṭṭhāya bhikkhū kukkuccāyantā taṃ dānaṃ na paṭiggaṇhiṃsu, tasmā ādito paṭṭhāya taṃ vatthu dassitanti veditabbaṃ. ‘‘Atha kho so ājīvako bhikkhūnaṃ santike dūtaṃ pāhesī’’ti idañca tato pabhuti so ājīvako antarantarā bhikkhū nimantetvā dānaṃ dento ajātasattukāle sikkhāpade paññatte yaṃ bhikkhūnaṃ santike dūtaṃ pāhesi, taṃ sandhāya vuttaṃ.
Nghe nói, vị Lõa Thể đó, khi cúng dường vật thực đó, đã cúng dường từ thời vua Bimbisāra. Sau này, vào thời vua Ajātasattu, từ khi điều học được chế định, các Tỳ-khưu do phân vân nên đã không nhận vật thực cúng dường đó. Do đó, cần phải biết rằng câu chuyện đó đã được chỉ ra từ đầu. Câu “Khi ấy, vị Lõa Thể đó đã gửi một sứ giả đến chỗ các Tỳ-khưu,” điều này được nói ám chỉ đến việc vị Lõa Thể đó, từ lúc đó, thỉnh thoảng thỉnh mời các Tỳ-khưu và cúng dường vật thực, và vào thời vua Ajātasattu, khi điều học đã được chế định, vị ấy đã gửi một sứ giả đến chỗ các Tỳ-khưu.
215. Aññamaññavisiṭṭhattā visadisaṃ rajjaṃ virajjaṃ, tato āgatā, tattha vā jātā, bhavāti vā verajjā, te eva verajjakā. Te pana yasmā gottacaraṇādivibhāgena nānappakārā, tasmā vuttaṃ ‘‘nānāverajjake’’ti. Aṭṭhakathāyaṃ pana nānāvidhehi aññarajjehi āgateti rajjānaṃyeva vasena nānappakāratā vuttā.
215. Do sự khác biệt với nhau, vương quốc không giống nhau là vương quốc khác; những người đến từ đó, hoặc được sinh ra ở đó, hoặc tồn tại ở đó, là những người ở vương quốc khác; chính họ là những người ở vương quốc khác. Tuy nhiên, vì họ có nhiều loại khác nhau do sự phân chia về dòng dõi, tư cách v.v…, nên đã nói là “những người ở các vương quốc khác nhau.” Tuy nhiên, trong Chú giải, đã nói về sự đa dạng chỉ theo các vương quốc là “những người đến từ các vương quốc khác nhau.”
217-218. Imassa sikkhāpadassa viññattiṃ katvā bhuñjanavatthusmiṃ paññattattā viññattito gaṇabhojanaṃ vatthuvaseneva pākaṭanti taṃ avatvā ‘‘gaṇabhojanaṃ nāma yattha…pe… nimantitā bhuñjantī’’ti nimantanavaseneva padabhājane gaṇabhojanaṃ vuttaṃ. ‘‘Kiñci pana sikkhāpadaṃ vatthuananurūpampi siyāti padabhājane vuttanayena nimantanavaseneva gaṇabhojanaṃ hotīti kesañci āsaṅkā bhaveyyā’’ti taṃnivattanatthaṃ ‘‘taṃ panetaṃ gaṇabhojanaṃ dvīhākārehi pasavatī’’ti vuttaṃ. Pañcannaṃ bhojanānaṃ nāmaṃ gahetvāti ettha ‘‘bhojanaṃ gaṇhathāti vuttepi gaṇabhojanaṃ hotiyevā’’ti vadanti. ‘‘Heṭṭhā addhānagamanavatthusmiṃ nāvābhiruhanavatthusmiñca ‘idheva, bhante, bhuñjathā’ti vutte yasmā kukkuccāyantā na paṭiggaṇhiṃsu, tasmā ‘bhuñjathā’ti vuttepi gaṇabhojanaṃ na hotiyevā’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. ‘‘Pañcannaṃ bhojanānaṃ nāmaṃ gahetvā nimantetī’’ti vuttattā pana ‘‘odanaṃ bhuñjathā’’ti vā ‘‘bhattaṃ bhuñjathā’’ti vā bhojananāmaṃ gahetvāva vutte gaṇabhojanaṃ hoti, na aññathā. ‘‘Idheva, bhante, bhuñjathā’’ti etthāpi ‘‘odana’’nti vā ‘‘bhatta’’nti vā vatvāva te evaṃ nimantesunti gahetabbaṃ. Gaṇavasena vā nimantitattā te bhikkhū apakataññutāya kukkuccāyantā na paṭiggaṇhiṃsūti ayaṃ amhākaṃ khanti, vīmaṃsitvā yuttataraṃ gahetabbaṃ.
217-218. Do điều học này đã được chế định trong câu chuyện về việc ăn sau khi đã gợi ý, nên bữa ăn chung nhóm từ việc gợi ý đã rõ ràng ngay từ trong câu chuyện. Không nói đến điều đó, trong phần phân tích từ ngữ, bữa ăn chung nhóm đã được nói theo cách thỉnh mời là “bữa ăn chung nhóm là nơi… cho đến… những người đã được thỉnh mời cùng ăn.” “Tuy nhiên, một số điều học có thể không tương ứng với câu chuyện, nên có thể có sự nghi ngờ của một số người rằng bữa ăn chung nhóm chỉ xảy ra theo cách thỉnh mời như đã được nói trong phần phân tích từ ngữ,” để loại bỏ sự nghi ngờ đó, đã nói: “Và bữa ăn chung nhóm đó phát sinh theo hai cách.” Về câu “Sau khi đã nêu tên của năm loại vật thực,” ở đây, có người nói rằng: “ngay cả khi nói ‘hãy nhận vật thực,’ cũng trở thành bữa ăn chung nhóm.” Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Do trong câu chuyện về việc đi đường dài ở dưới và câu chuyện về việc lên thuyền, khi được nói ‘xin các ngài hãy ăn ngay tại đây,’ các vị ấy do phân vân nên đã không nhận, do đó, ngay cả khi nói ‘hãy ăn,’ cũng không trở thành bữa ăn chung nhóm.” Tuy nhiên, do đã nói là “thỉnh mời sau khi đã nêu tên của năm loại vật thực,” nên chỉ khi nói “hãy ăn cơm” hoặc “hãy ăn vật thực” bằng cách nêu tên của vật thực, thì mới trở thành bữa ăn chung nhóm, không phải cách khác. Ở câu “xin các ngài hãy ăn ngay tại đây,” cũng cần phải hiểu rằng chính họ đã nói “cơm” hoặc “vật thực” rồi mới thỉnh mời như vậy. Hoặc là, do đã được thỉnh mời theo cách chung nhóm, nên các Tỳ-khưu đó do lòng vô ơn mà phân vân không nhận; đây là sự chấp nhận của chúng tôi, cần phải xem xét rồi chấp nhận điều hợp lý hơn.
Ekato gaṇhantīti ettha aññamaññassa dvādasahatthaṃ amuñcitvā ṭhitā ekato gaṇhanti nāmāti gahetabbaṃ. ‘‘Amhākaṃ catunnampi bhattaṃ dehīti vā viññāpeyyu’’nti vacanato heṭṭhā ‘‘tvaṃ ekassa bhikkhuno bhattaṃ dehi, tvaṃ dvinnanti evaṃ viññāpetvā’’ti vacanato ca attano atthāya aññehi viññattampi sādiyantassa gaṇabhojanaṃ hotiyevāti daṭṭhabbaṃ. Evaṃ viññattito pasavatīti ettha viññattiyā sati gaṇhantassa ekato hutvā gahaṇe iminā sikkhāpadena āpatti, visuṃ gahaṇe paṇītabhojanasūpodanaviññattīhi āpatti veditabbā.
“Cùng nhau nhận,” ở đây, cần phải hiểu rằng những người đứng không rời nhau trong khoảng cách mười hai hắc tay được gọi là cùng nhau nhận. Theo câu “hoặc họ có thể gợi ý rằng ‘hãy cho vật thực cho cả bốn người chúng tôi’” ở dưới, và theo câu “sau khi đã gợi ý rằng ‘thầy hãy cho vật thực cho một Tỳ-khưu, thầy hãy cho cho hai người,’” cần phải thấy rằng đối với người chấp nhận vật thực đã được những người khác gợi ý vì lợi ích của mình, cũng trở thành bữa ăn chung nhóm. “Phát sinh từ việc gợi ý như vậy,” ở đây, khi có sự gợi ý, đối với người nhận, nếu nhận cùng nhau thì phạm tội theo điều học này; nếu nhận riêng thì phạm tội theo các điều học về việc gợi ý vật thực hảo hạng và cơm canh, cần phải biết như vậy.
Vicāretīti pañcakhaṇḍādivasena saṃvidahati. Ghaṭṭetīti anuvātaṃ chinditvā hatthena daṇḍakena vā ghaṭṭeti. Suttaṃ karotīti suttaṃ vaṭṭeti. Valetīti daṇḍake vā hatthe vā āvaṭṭeti. ‘‘Abhinavasseva cīvarassa karaṇaṃ idha cīvarakammaṃ nāma, purāṇacīvare sūcikammaṃ nāma na hotī’’ti vadanti. ‘‘Catutthe āgate na yāpentīti vacanato sace añño koci āgacchanto natthi, cattāroyeva ca tattha nisinnā yāpetuṃ na sakkonti, na vaṭṭatī’’ti vadanti.
“Phân chia” là sắp đặt theo năm phần v.v… “Cào” là cào bằng tay hoặc bằng gậy sau khi đã cắt lớp màng. “Làm thành chỉ” là xe chỉ. “Quấn” là quấn vào gậy hoặc vào tay. Có người nói rằng: “Việc làm y mới ở đây được gọi là công việc làm y, còn việc vá trên y cũ thì không được gọi là công việc may vá.” Có người nói rằng: “Theo câu ‘khi người thứ tư đến, họ không thể tiếp tục,’ nếu không có ai khác đang đến, và chỉ có bốn người ngồi đó không thể tiếp tục, thì không được phép.”
220. Gaṇabhojanāpattijanakanimantanabhāvato ‘‘akappiyanimantana’’nti vuttaṃ. Sampavesetvāti nisīdāpetvā. Gaṇo bhijjatīti gaṇo āpattiṃ na āpajjatīti adhippāyo. ‘‘Yattha cattāro bhikkhū…pe… bhuñjantī’’ti imāya pāḷiyā saṃsandanato ‘‘itaresaṃ pana gaṇapūrako hotī’’ti vuttaṃ. Avisesenāti ‘‘gilāno vā cīvarakārako vā’’ti avisesetvā sabbasādhāraṇavacanena. Tasmāti avisesitattā. Bhutvā gatesūti ettha agatesupi bhojanakicce niṭṭhite gaṇhituṃ vaṭṭati . Tāni ca tehi ekato na gahitānīti yehi bhojanehi visaṅketo natthi, tāni bhojanāni tehi bhikkhūhi ekato na gahitāni ekena pacchā gahitattā. Mahāthereti bhikkhū sandhāya vuttaṃ. Dūtassa puna paṭipathaṃ āgantvā ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti vacanabhayena ‘‘gāmadvāre aṭṭhatvāvā’’ti vuttaṃ. Tattha tattha gantvāti antaravīthiādīsu tattha tattha ṭhitānaṃ santikaṃ gantvā. Bhikkhūnaṃ atthāya gharadvāre ṭhapetvā diyyamānepi eseva nayo. Nivattathāti vuttapade nivattituṃ vaṭṭatīti ‘‘nivattathā’’ti vicchinditvā pacchā ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti vuttattā vaṭṭati. Sesamettha uttānameva. Gaṇabhojanatā, samayābhāvo, ajjhoharaṇanti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
220. Do là sự thỉnh mời tạo ra tội bữa ăn chung nhóm, nên đã nói là “sự thỉnh mời không hợp lệ.” “Sau khi đã cho vào” là sau khi đã cho ngồi. “Nhóm bị phá vỡ,” ý định là nhóm không phạm tội. Do sự so sánh với câu Pāḷi này: “nơi mà bốn Tỳ-khưu… cho đến… cùng ăn,” nên đã nói là “còn đối với những người khác thì là người bổ sung cho đủ nhóm.” “Một cách không phân biệt,” là bằng lời nói chung cho tất cả, không phân biệt là “người bệnh hoặc người làm y.” “Do đó” là do không phân biệt. “Khi họ đã ăn xong và đi,” ở đây, ngay cả khi họ chưa đi, nếu công việc ăn đã xong, cũng được phép nhận. “Và những vật thực đó không được họ nhận cùng nhau,” là những vật thực nào không có hẹn trước, những vật thực đó không được các Tỳ-khưu đó nhận cùng nhau do có một người nhận sau. “Các vị trưởng lão” được nói ám chỉ đến các Tỳ-khưu. Do sợ rằng sứ giả sẽ quay lại trên đường và nói: “hãy nhận vật thực,” nên đã nói là “hoặc sau khi đã đứng ở cổng làng.” “Sau khi đã đi đến từng nơi,” là sau khi đã đi đến chỗ của những người đang đứng ở từng nơi trong các con hẻm v.v… Ngay cả khi vật thực được đặt ở cửa nhà vì lợi ích của các Tỳ-khưu rồi mới được cúng dường, cũng theo phương pháp này. “Được phép quay lại ở chỗ đã được bảo là ‘hãy quay lại’,” do đã nói “hãy quay lại” để ngắt quãng, rồi sau đó mới nói “hãy nhận vật thực,” nên được phép. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là bữa ăn chung nhóm, sự không có thời điểm (thích hợp), và việc nuốt vào; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Gaṇabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học bữa ăn chung nhóm đã kết thúc.
3. Paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Sự giải về điều học bữa ăn nối tiếp
221. Tatiye kulapaṭipāṭiyā abbocchinnaṃ katvā nirantaraṃ diyyamānattā ‘‘bhattapaṭipāṭi aṭṭhitā hotī’’ti pāḷiyaṃ vuttaṃ, antarā aṭṭhatvā nirantaraṃ pavattāti vuttaṃ hoti. Upacāravasenāti vohāravasena. Na hi so badaramattameva deti, upacāravasena pana evaṃ vadati. Badaracuṇṇasakkharādīhi payojitaṃ ‘‘badarasāḷava’’nti vuccati.
221. Ở điều học thứ ba, do được cúng dường liên tục không gián đoạn theo thứ tự các gia đình, nên trong Pāḷi đã nói: “thứ tự các bữa ăn đã được thiết lập,” có nghĩa là diễn ra liên tục không bị gián đoạn ở khoảng giữa. “Theo cách nói lịch sự” là theo cách nói thông thường. Thật vậy, vị ấy không chỉ cho một quả táo, nhưng nói như vậy theo cách nói lịch sự. Món ăn được chế biến từ bột táo, đường v.v… được gọi là “món salad táo.”
226. Vikappanāvaseneva taṃ bhattaṃ asantaṃ nāma hotīti anupaññattivasena vikappanaṃ aṭṭhapetvā yathāpaññattaṃ sikkhāpadameva ṭhapitaṃ. Parivāre pana vikappanāya anujānanampi anupaññattisamānanti katvā ‘‘catasso anupaññattiyo’’ti vuttaṃ. Mahāpaccariādīsu vuttanayaṃ pacchā vadanto pāḷiyā saṃsandanato parammukhāvikappanameva patiṭṭhāpesi. Keci pana ‘‘tadā attano santike ṭhapetvā bhagavantaṃ aññassa abhāvato thero sammukhāvikappanaṃ nākāsi, bhagavatā ca visuṃ sammukhāvikappanā na vuttā, tathāpi sammukhāvikappanāpi vaṭṭatī’’ti vadanti. Teneva mātikāaṭṭhakathāyampi (kaṅkhā. aṭṭha. paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘yo bhikkhu pañcasu sahadhammikesu aññatarassa ‘mayhaṃ bhattapaccāsaṃ tuyhaṃ dammī’ti vā ‘vikappemī’ti vā evaṃ sammukhā vā ‘itthannāmassa dammī’ti vā ‘vikappemī’ti vā evaṃ parammukhā vā paṭhamanimantanaṃ avikappetvā pacchā nimantitakule laddhabhikkhato ekasitthampi ajjhoharati, pācittiya’’nti vuttaṃ.
226. Do vật thực đó được xem như không có chỉ bằng cách chuyển giao, nên sau khi đã gác lại việc chuyển giao như là một sự bổ sung, điều học đã được chế định y như vậy đã được giữ lại. Tuy nhiên, trong bộ Parivāra, do việc cho phép chuyển giao cũng tương tự như một sự bổ sung, nên đã nói là “bốn sự bổ sung.” Vừa trình bày phương pháp đã được nói trong Mahāpaccari v.v… sau, ngài đã thiết lập chính việc chuyển giao trong lúc vắng mặt do sự so sánh với Pāḷi. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “lúc bấy giờ, do ngoài đức Thế Tôn ra, không có ai khác ở gần mình, nên vị trưởng lão đã không làm việc chuyển giao trong lúc có mặt, và đức Thế Tôn cũng không nói riêng về việc chuyển giao trong lúc có mặt; tuy nhiên, việc chuyển giao trong lúc có mặt cũng được phép.” Chính vì thế, trong Chú giải của Mātikā (kaṅkhā. aṭṭha. paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā) cũng đã nói: “Tỳ-khưu nào, đối với một trong năm vị đồng梵行, nói rằng ‘tôi cho thầy phần ăn của tôi’ hoặc ‘tôi chuyển giao,’ như vậy là trong lúc có mặt; hoặc nói rằng ‘tôi cho người tên như vầy’ hoặc ‘tôi chuyển giao,’ như vậy là trong lúc vắng mặt; sau khi không chuyển giao lời thỉnh mời đầu tiên, nếu nuốt dù chỉ một hạt cơm từ vật thực khất thực nhận được ở gia đình đã thỉnh mời sau, thì phạm tội Ưng Đối Trị.”
229. Pañcahi bhojanehi nimantitassa yena yena paṭhamaṃ nimantito, tassa tassa bhojanato uppaṭipāṭiyā avikappetvā vā parassa parassa bhojanaṃ paramparabhojananti āha ‘‘sace pana mūlanimantanaṃ heṭṭhā hoti, pacchimaṃ pacchimaṃ upari, taṃ uparito paṭṭhāya bhuñjantassa āpattī’’ti. Hatthaṃ anto pavesetvā sabbaheṭṭhimaṃ gaṇhantassa majjhe ṭhitampi antohatthagataṃ hotīti āha ‘‘hatthaṃ pana…pe… yathā tathā vā bhuñjantassa anāpattī’’ti. Khīrassa rasassa ca bhattena amissaṃ hutvā upari ṭhitattā ‘‘khīraṃ vā rasaṃ vā pivato anāpattī’’ti vuttaṃ.
229. Đối với người đã được thỉnh mời bằng năm loại vật thực, nếu không chuyển giao theo thứ tự từ trên xuống đối với từng loại vật thực mà mình đã được thỉnh mời trước, mà lại ăn vật thực của người khác, thì đó là bữa ăn nối tiếp, do đó ngài nói: “Tuy nhiên, nếu lời thỉnh mời ban đầu ở dưới, còn những lời thỉnh mời sau ở trên, đối với người ăn từ trên xuống thì phạm tội.” Đối với người thọc tay vào trong và lấy phần ở dưới cùng, phần ở giữa cũng lọt vào trong tay, nên ngài nói: “Tuy nhiên, tay… cho đến… đối với người ăn như thế nào cũng được thì vô tội.” Do sữa và nước canh không trộn lẫn với cơm mà ở trên, nên đã nói: “đối với người uống sữa hoặc nước canh thì vô tội.”
Mahāupāsakoti gehasāmiko. ‘‘Mahāaṭṭhakathāyaṃ ‘āpattī’ti vacanena kurundiyaṃ ‘vaṭṭatī’ti vacanaṃ viruddhaṃ viya dissati, dvinnampi adhippāyo mahāpaccariyaṃ vibhāvito’’ti mahāgaṇṭhipadesu vuttaṃ. Sabbe nimantentīti akappiyanimantanena nimantenti. ‘‘Paramparabhojanaṃ nāma pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarena bhojanena nimantito, taṃ ṭhapetvā aññaṃ pañcannaṃ bhojanānaṃ aññataraṃ bhojanaṃ bhuñjati, etaṃ paramparabhojanaṃ nāmā’’ti vuttattā satipi bhikkhācariyāya paṭhamaṃ laddhabhāve ‘‘piṇḍāya caritvā laddhabhattaṃ bhuñjati, āpattī’’ti vuttaṃ. Avikappavasena ‘‘vacīkamma’’nti vuttaṃ. Sesamettha uttānameva. Paramparabhojanatā, samayābhāvo, ajjhoharaṇanti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
“Đại thí chủ” là chủ nhà. Trong Mahāgaṇṭhipada đã nói: “Trong Mahāaṭṭhakathā, do lời nói ‘phạm tội,’ dường như có sự mâu thuẫn với lời nói ‘được phép’ trong Kurundī; ý định của cả hai đã được làm sáng tỏ trong Mahāpaccari.” “Tất cả đều thỉnh mời” là thỉnh mời bằng sự thỉnh mời không hợp lệ. Do đã nói rằng: “Bữa ăn nối tiếp là khi đã được thỉnh mời bằng một trong năm loại vật thực, rồi bỏ qua bữa đó mà ăn một loại vật thực khác trong năm loại vật thực, đó được gọi là bữa ăn nối tiếp,” nên mặc dù đã nhận được trước trong lúc đi khất thực, vẫn nói là “ăn vật thực nhận được sau khi đi khất thực thì phạm tội.” Do cách không chuyển giao, nên đã nói là “hành động bằng lời.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là bữa ăn nối tiếp, sự không có thời điểm (thích hợp), và việc nuốt vào; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học bữa ăn nối tiếp đã kết thúc.
4. Kāṇamātāsikkhāpadavaṇṇanā
4. Sự giải về điều học mẹ của Kāṇā
230-231. Catutthe kāṇāya mātāti kāṇāti laddhanāmāya dārikāya mātā. Kasmā panesā kāṇā nāma jātāti āha ‘‘sā kirassā’’tiādi. Imissā daharakāle mātāpitaro sinehavasena ‘‘amma kāṇe, amma kāṇe’’ti vohariṃsu, sā tadupādāya kāṇā nāma jātā, tassā ca mātā ‘‘kāṇamātā’’ti pākaṭā ahosīti evamettha kāraṇaṃ vadanti. Paṭiyālokanti pacchimaṃ disaṃ, paccādiccanti vuttaṃ hoti.
230-231. Ở điều học thứ tư, “mẹ của Kāṇā” là mẹ của cô bé có tên là Kāṇā. Tại sao cô bé ấy lại có tên là Kāṇā? Về điều này, ngài nói: “Nghe nói rằng, cô bé ấy” v.v… Có người nói về nguyên nhân ở đây như sau: khi cô bé này còn nhỏ, cha mẹ vì lòng thương yêu đã gọi là “con gái Kāṇā yêu quý, con gái Kāṇā yêu quý,” từ đó cô bé có tên là Kāṇā, và mẹ của cô bé ấy đã nổi tiếng là “mẹ của Kāṇā.” “Nơi có ánh sáng phản chiếu” là hướng tây, có nghĩa là hướng mặt trời lặn.
233.Pūvagaṇanāya pācittiyanti mukhavaṭṭiyā heṭṭhimalekhato upariṭṭhitapūvagaṇanāya pācittiyaṃ. ‘‘Dvattipattapūrā paṭiggahetabbā’’ti hi vacanato mukhavaṭṭiyā heṭṭhimalekhaṃ anatikkante dve vā tayo vā pattapūre gahetuṃ vaṭṭati.
233.“Phạm tội Ưng Đối Trị theo số lượng bánh,” là phạm tội Ưng Đối Trị theo số lượng bánh ở trên vạch dưới của miệng bát. Thật vậy, theo câu “phải nhận hai hoặc ba bát đầy,” được phép nhận hai hoặc ba bát bánh đầy mà không vượt qua vạch dưới của miệng bát.
235.Aṭṭhakathāsu pana…pe… vuttanti idaṃ aṭṭhakathāsu tathā āgatabhāvamattadīpanatthaṃ vuttaṃ, na pana tassa vādassa patiṭṭhāpanatthaṃ. Aṭṭhakathāsu vuttañhi pāḷiyā na sameti. Tatuttarigahaṇe anāpattidassanatthañhi ‘‘ñātakānaṃ pavāritāna’’nti vuttaṃ. Aññathā ‘‘anāpatti dvattipattapūre paṭiggaṇhātī’’ti imināva pamāṇayuttaggahaṇe anāpattisiddhito ‘‘ñātakānaṃ pavāritāna’’nti visuṃ na vattabbaṃ. Yadi evaṃ ‘‘taṃ pāḷiyā na sametī’’ti kasmā na vuttanti? Heṭṭhā tatuttarisikkhāpade vuttanayeneva sakkā viññātunti na vuttaṃ. Vuttañhi tattha (pārā. aṭṭha. 2.526) ‘‘aṭṭhakathāsu pana ñātakapavāritaṭṭhāne pakatiyāva bahumpi vaṭṭati, acchinnakāraṇā pamāṇameva vaṭṭatīti vuttaṃ, taṃ pāḷiyā na sametī’’ti. ‘‘Apātheyyādiatthāya paṭiyādita’’nti saññāya gaṇhantassapi āpattiyeva acittakattā sikkhāpadassa. Attanoyeva gahaṇatthaṃ ‘‘imassa hatthe dehī’’ti vacanenapi āpajjanato ‘‘vacīkamma’’nti vuttaṃ. Sesaṃ uttānameva . Vuttalakkhaṇapūvamanthatā, asesakatā, apaṭippassaddhagamanatā, na ñātakāditā, atirekapaṭiggahaṇanti imāni panettha pañca aṅgāni.
235.Về câu “Tuy nhiên, trong các bộ Chú giải… cho đến… đã được nói,” điều này được nói chỉ nhằm mục đích chỉ ra rằng trong các bộ Chú giải đã có như vậy, chứ không phải nhằm mục đích thiết lập lập trường đó. Điều đã được nói trong các bộ Chú giải không phù hợp với Pāḷi. Thật vậy, để chỉ ra sự vô tội trong việc nhận thêm sau đó, đã nói là “của những người quyến thuộc, những người đã thỉnh mời.” Nếu không, do sự vô tội đã được chứng minh trong việc nhận đúng số lượng bằng câu “vô tội khi nhận hai hoặc ba bát đầy,” thì không cần phải nói riêng là “của những người quyến thuộc, những người đã thỉnh mời.” Nếu vậy, tại sao không nói rằng: “điều đó không phù hợp với Pāḷi”? Do có thể biết được theo phương pháp đã được nói trong điều học về việc nhận thêm sau đó ở dưới, nên đã không nói. Thật vậy, ở đó đã nói: (pārā. aṭṭha. 2.526) “Tuy nhiên, trong các bộ Chú giải đã nói rằng ở nơi của quyến thuộc và người đã thỉnh mời, theo thường lệ thì được phép nhận nhiều, còn không có lý do liên tục thì chỉ được phép nhận đúng số lượng; điều đó không phù hợp với Pāḷi.” Đối với người nhận với tưởng rằng “được chuẩn bị vì lợi ích của việc làm lương thực đi đường v.v…,” cũng phạm tội do điều học này thuộc về tâm. Do phạm tội ngay cả bằng lời nói “hãy đưa vào tay của người này” để chính mình nhận, nên đã nói là “hành động bằng lời.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là bánh hoặc bột có đặc điểm đã nêu, việc nhận hết, việc chưa đi khỏi, việc không phải là quyến thuộc v.v…, và việc nhận thêm; đây là năm chi phần trong trường hợp này.
Kāṇamātāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học mẹ của Kāṇā đã kết thúc.
5. Paṭhamapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā
5. Sự giải về điều học từ chối (vật thực) thứ nhất
236. Pañcame bhuttāvīti bhuttāvino bhuttavanto, katabhattakiccāti vuttaṃ hoti. Pavāritāti ettha catūsu pavāraṇāsu yāvadatthapavāraṇā paṭikkhepapavāraṇā ca labbhatīti āha ‘‘brāhmaṇena…pe… paṭikkhepapavāraṇāya pavāritā’’ti. Catubbidhā hi pavāraṇā vassaṃvutthapavāraṇā, paccayapavāraṇā , paṭikkhepapavāraṇā, yāvadatthapavāraṇāti. Tattha ‘‘anujānāmi, bhikkhave, vassaṃvutthānaṃ bhikkhūnaṃ tīhi ṭhānehi pavāretu’’nti (mahāva. 209) ayaṃ vassaṃvutthapavāraṇā. Pakārehi diṭṭhādīhi vāreti saṅghādike bhajāpeti bhatte karoti etāyāti pavāraṇā, āpattivisodhanāya attavossaggokāsadānaṃ. Sā pana yasmā yebhuyyena vassaṃvutthehi kātabbā vuttā, tasmā ‘‘vassaṃvutthapavāraṇā’’ti vuccati. ‘‘Icchāmahaṃ, bhante, saṅghaṃ cātumāsaṃ bhesajjena pavāretu’’nti (pāci. 303) ca, ‘‘aññatra puna pavāraṇāya aññatra niccapavāraṇāyā’’ti (pāci. 306) ca ayaṃ paccayapavāraṇā pavāreti paccaye icchāpeti etāyāti katvā, cīvarādīhi upanimantanāyetaṃ adhivacanaṃ. ‘‘Pavārito nāma asanaṃ paññāyati, bhojanaṃ paññāyati, hatthapāse ṭhito abhiharati, paṭikkhepo paññāyati, eso pavārito nāmā’’ti (pāci. 239) ayaṃ paṭikkhepapavāraṇā. Vippakatabhojanatādipañcaṅgasahito bhojanapaṭikkhepoyeva hettha pakārayuttā vāraṇāti pavāraṇā. ‘‘Paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresī’’ti (ma. ni. 1.363) ayaṃ yāvadatthapavāraṇā. Yāvadatthaṃ bhojanassa pavāraṇā yāvadatthapavāraṇā.
236. Ở điều học thứ năm, “người đã ăn xong” là người đã ăn, người đã xong bữa ăn, có nghĩa là đã xong công việc ăn vật thực. “Đã từ chối,” ở đây, trong bốn loại từ chối, sự từ chối bằng cách nói đủ và sự từ chối bằng cách cản lại có thể có được, do đó ngài nói: “bởi người Bà-la-môn… cho đến… đã từ chối bằng cách cản lại.” Thật vậy, có bốn loại từ chối: sự tự tứ sau mùa an cư, sự thỉnh mời về tứ vật dụng, sự từ chối bằng cách cản lại, và sự từ chối bằng cách nói đủ. Ở đó, “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép các Tỳ-khưu đã an cư mùa mưa được tự tứ bằng ba trường hợp” (mahāva. 209), đây là sự tự tứ sau mùa an cư. Bằng các cách, tức là bằng những điều đã thấy v.v…, mà ngăn cản, làm cho Tăng chúng v.v… được hưởng dụng, làm cho trở thành vật thực, đó là sự tự tứ; đó là sự cho phép xả bỏ bản thân để thanh lọc tội lỗi. Tuy nhiên, do nó được nói là phải được thực hiện phần lớn bởi những người đã an cư mùa mưa, nên được gọi là “sự tự tứ sau mùa an cư.” “Bạch ngài, con muốn thỉnh mời Tăng chúng về thuốc men trong bốn tháng” (pāci. 303), và “ngoại trừ sự thỉnh mời lại, ngoại trừ sự thỉnh mời thường xuyên” (pāci. 306), đây là sự thỉnh mời về tứ vật dụng, do bằng cách đó mà thỉnh mời, mong muốn về các vật dụng, nên đây là tên gọi khác của việc mời mọc bằng y áo v.v… “Người đã từ chối được biết đến khi thức ăn được dâng, vật thực được dâng, người đứng trong tầm tay mang đến, và sự cản lại được biết đến; đó được gọi là người đã từ chối.” (pāci. 239) đây là sự từ chối bằng cách cản lại. Chính sự cản lại vật thực cùng với năm chi phần như đang ăn dang dở v.v… ở đây là sự ngăn cản có lý do, nên là sự từ chối. “Đã làm cho no đủ, đã làm cho thỏa mãn bằng vật thực và món ăn hảo hạng bằng chính tay mình” (ma. ni. 1.363), đây là sự từ chối bằng cách nói đủ. Sự từ chối vật thực cho đến khi đủ là sự từ chối bằng cách nói đủ.
237.Ti-kāraṃ avatvā…pe… vattuṃ vaṭṭatīti idaṃ vattabbākāradassanatthaṃ vuttaṃ. ‘‘Ti-kāre pana vuttepi akataṃ nāma na hotī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ.
237.“Không cần nói âm ‘ti’… cho đến… được phép nói,” điều này được nói nhằm mục đích chỉ ra cách thức phải nói. Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Tuy nhiên, ngay cả khi nói âm ‘ti,’ cũng không phải là không làm.”
238-239.Pavāritoti paṭikkhepito. Yo hi bhuñjanto parivesakena upanītaṃ bhojanaṃ anicchanto paṭikkhipati, so tena pavārito paṭikkhepito nāma hoti. Byañjanaṃ pana anādiyitvā atthamattameva dassetuṃ ‘‘katapavāraṇo katapaṭikkhepo’’ti vuttaṃ. Yasmā ‘‘asana’’nti imināva padena ‘‘bhuttāvī’’ti imassa attho vutto, tasmā na tassa kiñci payojanaṃ visuṃ upalabbhati. Yadi hi upalabbheyya, pavāraṇā chaḷaṅgasamannāgatā āpajjeyyāti manasi katvā pañcasamannāgatattaṃyeva dassetuṃ ‘‘vuttampi ceta’’ntiādinā pāḷiṃ āharati. Keci pana ‘‘hatthapāse ṭhito abhiharatī’’ti ekameva aṅgaṃ katvā ‘‘caturaṅgasamannāgatā pavāraṇā’’tipi vadanti.
238-239.“Người đã từ chối” là người đã được làm cho cản lại. Thật vậy, người nào đang ăn, khi không muốn vật thực do người phục vụ mang đến, đã cản lại, người đó được gọi là người đã từ chối, đã được làm cho cản lại bởi người đó. Tuy nhiên, để chỉ ra ý nghĩa mà không đi theo từ ngữ, đã nói là “người đã làm sự từ chối, người đã làm sự cản lại.” Vì ý nghĩa của từ “người đã ăn xong” đã được nói bằng chính từ “thức ăn,” nên không thấy có lợi ích gì riêng biệt của nó. Do nghĩ rằng nếu có thể thấy được, thì sự từ chối phải thành tựu sáu chi phần, nên để chỉ ra rằng nó chỉ thành tựu năm chi phần, ngài đã dẫn Pāḷi bằng câu “Và điều này đã được nói” v.v… Tuy nhiên, một số người gộp “người đứng trong tầm tay mang đến” thành một chi phần duy nhất và nói rằng: “sự từ chối thành tựu bốn chi phần.”
Ambilapāyāsādīsūti ādi-saddena khīrapāyāsādiṃ saṅgaṇhāti. Tattha ambilapāyāsaggahaṇena takkādiambilasaṃyuttā ghanayāgu vuttā. Khīrapāyāsaggahaṇena khīrasaṃyuttā yāgu saṅgayhati. Pavāraṇaṃ na janetīti anatirittabhojanāpattinibandhanaṃ paṭikkhepaṃ na sādheti. Katopi paṭikkhepo anatirittabhojanāpattinibandhano na hotīti akataṭṭhāneyeva tiṭṭhatīti āha ‘‘pavāraṇaṃ na janetī’’ti. ‘‘Yāgu-saddassa pavāraṇajanakayāguyāpi sādhāraṇattā ‘yāguṃ gaṇhathā’ti vuttepi pavāraṇā hotīti pavāraṇaṃ janetiyevāti vutta’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ, taṃ parato tattheva ‘‘bhattamissakaṃ yāguṃ āharitvā’’ti ettha vuttakāraṇena na sameti. Vuttañhi tattha ‘‘heṭṭhā ayāguke nimantane udakakañjikakhīrādīhi saddhiṃ madditaṃ bhattameva sandhāya ‘yāguṃ gaṇhathā’ti vuttattā pavāraṇā hoti, ‘bhattamissakaṃ yāguṃ āharitvā’ti ettha pana visuṃ yāguyā vijjamānattā pavāraṇā na hotī’’ti. Tasmā tattha vuttanayeneva khīrādīhi saṃmadditaṃ bhattameva sandhāya ‘‘yāguṃ gaṇhathā’’ti vuttattā yāguyā ca tattha abhāvato pavāraṇā hotīti evamettha kāraṇaṃ vattabbaṃ. Evañhi sati parato ‘‘yenāpucchito, tassa atthitāyā’’ti aṭṭhakathāyaṃ vuttakāraṇenapi saṃsandati, aññathā gaṇṭhipadesuyeva pubbāparavirodho āpajjati. Aṭṭhakathāvacanena ca na sameti. Sace…pe… paññāyatīti iminā vuttappamāṇassa macchamaṃsakhaṇḍassa nahāruno vā sabbhāvamattaṃ dasseti. Tāhīti puthukāhi.
Về câu “trong các món cháo chua v.v…,” bằng từ v.v…, ngài bao gồm cả cháo sữa v.v… Ở đó, bằng việc đề cập đến cháo chua, cháo đặc có pha sữa chua v.v… đã được nói đến. Bằng việc đề cập đến cháo sữa, cháo có pha sữa được bao gồm. “Không tạo ra sự từ chối,” là không thực hiện được sự cản lại, vốn là nền tảng cho tội ăn vật thực chưa được cho phép làm phần ăn thêm. Sự cản lại dù đã được làm cũng không trở thành nền tảng cho tội ăn vật thực chưa được cho phép làm phần ăn thêm, nên nó đứng ở vị trí như chưa được làm, do đó ngài nói: “không tạo ra sự từ chối.” Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Do từ ‘cháo’ cũng thông thường cho cả loại cháo tạo ra sự từ chối, nên ngay cả khi nói ‘hãy nhận cháo,’ sự từ chối vẫn xảy ra, do đó đã nói là tạo ra sự từ chối,” điều đó không phù hợp với lý do đã được nói ở chính nơi đó về sau, trong câu “sau khi đã mang đến cháo có lẫn cơm.” Thật vậy, ở đó đã nói: “Ở dưới, trong lời thỉnh mời không phải là cháo, do đã nói ‘hãy nhận cháo’ chỉ ám chỉ đến cơm đã được trộn với nước, cháo loãng, sữa v.v…, nên có sự từ chối. Còn ở câu ‘sau khi đã mang đến cháo có lẫn cơm,’ do có sự hiện hữu của cháo một cách riêng biệt, nên không có sự từ chối.” Do đó, ở đây cần phải nói lý do như sau: theo phương pháp đã được nói ở đó, do đã nói ‘hãy nhận cháo’ chỉ ám chỉ đến cơm đã được trộn với sữa v.v…, và do ở đó không có cháo, nên có sự từ chối. Vì làm như vậy, nó sẽ tương ứng với lý do đã được nói trong Chú giải về sau, rằng “bởi sự hiện hữu của cái mà người ấy đã hỏi.” Nếu không, sẽ có sự mâu thuẫn trước sau ngay trong các sách nghĩa giải, và cũng không phù hợp với lời của Chú giải. “Nếu… cho đến… được biết đến,” bằng câu này, ngài chỉ ra sự tồn tại của miếng cá, thịt, hoặc gân có kích thước đã nêu. “Bởi chúng” là bởi các hạt cốm.
Sālivīhiyavehi katasattūti yebhuyyanayena vuttaṃ, satta dhaññāni pana bhajjitvā katopi sattuyeva. Tenevāha ‘‘kaṅguvaraka…pe… sattusaṅgahameva gacchatī’’ti. Sattumodakoti sattuyo piṇḍetvā kato apakko sattuguḷo. Pañcannaṃ bhojanānaṃ aññataravasena vippakatabhojanabhāvassa upacchinnattā ‘‘mukhe sāsapamattampi…pe… na pavāretī’’ti vuttaṃ. ‘‘Akappiyamaṃsaṃ paṭikkhipati, na pavāretī’’ti vacanato sace saṅghikaṃ lābhaṃ attano apāpuṇantaṃ jānitvā vā ajānitvā vā paṭikkhipati, na pavāreti paṭikkhipitabbasseva paṭikkhittattā. Alajjisantakaṃ paṭikkhipantopi na pavāreti. Avatthutāyāti anatirittāpattisādhikāya pavāraṇāya avatthubhāvato. Etena paṭikkhipitabbasseva paṭikkhittabhāvaṃ dīpeti . Yañhi paṭikkhipitabbaṃ hoti, tassa paṭikkhepo āpattiaṅgaṃ na hotīti taṃ ‘‘pavāraṇāya avatthū’’ti vuccati.
“Bột rang làm từ lúa sāli, lúa mì, và lúa mạch,” được nói theo cách phần lớn; tuy nhiên, bột rang làm từ bảy loại ngũ cốc cũng là bột rang. Chính vì thế ngài nói: “kê, lúa cẩm… cho đến… cũng được xem là bột rang.” “Bánh bột rang” là viên bột rang chưa nấu, được làm bằng cách vo tròn bột rang. Do tình trạng là vật thực đã được chế biến theo cách là một trong năm loại vật thực đã bị cắt đứt, nên đã nói: “dù chỉ một hạt cải trong miệng… cho đến… không làm cho từ chối.” Theo câu “từ chối thịt không hợp lệ thì không phải là sự từ chối,” nếu vị ấy từ chối phần cúng dường của Tăng chúng mà mình không được nhận, dù biết hay không biết, thì không phải là sự từ chối do đã cản lại chính cái phải được cản lại. Ngay cả khi từ chối tài sản của người không có liêm sỉ, cũng không phải là sự từ chối. “Do không phải là đối tượng,” là do không phải là đối tượng của sự từ chối, vốn là cái xác nhận tội về vật thực chưa được cho phép làm phần ăn thêm. Bằng điều này, ngài chỉ ra tình trạng đã cản lại chính cái phải được cản lại. Thật vậy, cái gì phải được cản lại, thì sự cản lại cái đó không phải là một chi phần của tội, nên nó được gọi là “không phải là đối tượng của sự từ chối.”
Upanāmetīti iminā kāyābhihāraṃ dasseti. Hatthapāsato bahi ṭhitassa satipi dātukāmābhihāre paṭikkhipantassa dūrabhāveneva pavāraṇāya abhāvato therassapi dūrabhāvamattaṃ gahetvā pavāraṇāya abhāvaṃ dassento ‘‘therassa dūrabhāvato’’ti āha, na pana therassa abhihārasabbhāvato. Sacepi gahetvā gato hatthapāse ṭhito hoti, kiñci pana avatvā ādhārakaṭṭhāne ṭhitattā abhihāro nāma na hotīti ‘‘dūtassa ca anabhiharaṇato’’ti vuttaṃ. ‘‘Gahetvā gatena ‘bhattaṃ gaṇhathā’ti vutte abhihāro nāma hotīti ‘sace pana gahetvā āgato bhikkhu…pe… pavāraṇā hotī’ti vutta’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Keci pana ‘‘pattaṃ kiñci upanāmetvā ‘imaṃ bhattaṃ gaṇhathā’ti vuttanti gahetabba’’nti vadanti, taṃ yuttaṃ viya dissati vācābhihārassa idha anadhippetattā.
Bằng từ “dâng lên,” ngài chỉ ra sự mang đến bằng thân. Đối với người đứng ở ngoài tầm tay, ngay cả khi có sự mang đến của người muốn cho, nếu từ chối, thì không có sự từ chối chính vì khoảng cách xa. Và để chỉ ra sự không có sự từ chối chỉ do khoảng cách xa của vị trưởng lão, ngài đã nói: “do sự ở xa của vị trưởng lão,” chứ không phải do có sự mang đến cho vị trưởng lão. Ngay cả khi người mang đi đã đứng trong tầm tay, nhưng do đứng ở chỗ có vật chứa mà không nói gì, thì không được gọi là sự mang đến, nên đã nói: “và do sự không mang đến của người đưa tin.” Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Do người mang đi nói ‘hãy nhận vật thực,’ thì được gọi là sự mang đến, nên đã nói: ‘tuy nhiên, nếu Tỳ-khưu mang đến… cho đến… có sự từ chối.’” Tuy nhiên, một số người nói rằng: “cần phải hiểu là đã dâng lên bát một chút rồi nói ‘hãy nhận vật thực này,’” điều đó dường như hợp lý, vì sự mang đến bằng lời không được chủ ý ở đây.
Parivesanāyāti bhattagge. Abhihaṭāva hotīti parivesakeneva abhihaṭā hoti. Tato dātukāmatāya gaṇhantaṃ paṭikkhipantassa pavāraṇā hotīti ettha agaṇhantampi paṭikkhipato pavāraṇā hotiyeva. Kasmā? Dātukāmatāya abhihaṭattā. ‘‘Tasmā sā abhihaṭāva hotī’’ti hi vuttaṃ. Teneva tīsupi gaṇṭhipadesu ‘‘dātukāmābhihāre sati kevalaṃ ‘dassāmī’ti gahaṇameva abhihāro nāma na hoti, ‘dassāmī’ti gaṇhantepi agaṇhantepi dātukāmābhihārova abhihāro nāma hoti, tasmā gahaṇasamaye vā aggahaṇasamaye vā taṃ paṭikkhipato pavāraṇā hotī’’ti vuttaṃ. Idāni asati tassa dātukāmābhihāre gahaṇasamayepi paṭikkhipato pavāraṇā na hotīti dassetuṃ ‘‘sace panā’’tiādi vuttaṃ.
“Trong lúc phục vụ” là tại bàn ăn. “Đã được mang đến rồi,” là đã được mang đến bởi chính người phục vụ. “Do đó, đối với người từ chối người đang nhận với ý muốn cho, thì có sự từ chối,” ở đây, ngay cả đối với người từ chối người không nhận, cũng có sự từ chối. Tại sao? Do đã được mang đến với ý muốn cho. Thật vậy, đã nói là “do đó, nó đã được mang đến rồi.” Chính vì thế, trong cả ba sách nghĩa giải đều nói: “khi có sự mang đến của người muốn cho, việc chỉ nhận với ý nghĩ ‘tôi sẽ cho’ thì không được gọi là sự mang đến; dù nhận hay không nhận với ý nghĩ ‘tôi sẽ cho,’ chính sự mang đến của người muốn cho mới được gọi là sự mang đến, do đó, vào lúc nhận hay không nhận, nếu từ chối điều đó thì có sự từ chối.” Bây giờ, để chỉ ra rằng khi không có sự mang đến của người muốn cho đó, ngay cả khi từ chối vào lúc nhận cũng không có sự từ chối, đã nói: “Tuy nhiên, nếu” v.v…
‘‘Rasaṃ gaṇhathā’’ti apavāraṇajanakassa nāmaṃ gahetvā vuttattā ‘‘taṃ sutvā paṭikkhipato pavāraṇā natthī’’ti vuttaṃ. Maccharasaṃ maṃsarasanti ettha pana na kevalaṃ macchassa rasaṃ maccharasamicceva viññāyati, atha kho maccho ca maccharasañca maccharasanti evaṃ pavāraṇajanakasādhāraṇanāmavasenapi viññāyamānattā taṃ paṭikkhipato pavāraṇāva hoti. Parato macchasūpanti etthāpi eseva nayo. ‘‘Idaṃ gaṇhathā’’ti vuttepīti ettha evaṃ avatvāpi pavāraṇapahonakaṃ yaṃkiñci abhihaṭaṃ paṭikkhipato pavāraṇā hotiyevāti daṭṭhabbaṃ. Karambakoti missakādhivacanametaṃ. Yañhi aññenaññena missetvā karonti, so ‘‘karambako’’ti vuccati. So sacepi maṃsena missetvā katova hoti, ‘‘karambakaṃ gaṇhathā’’ti apavāraṇārahassa nāmena vuttattā paṭikkhipato pavāraṇā na hoti. ‘‘Maṃsakarambakaṃ gaṇhathā’’ti vutte pana maṃsamissakaṃ gaṇhathāti vuttaṃ hoti, tasmā pavāraṇāva hoti.
Do đã nói bằng cách nêu tên của cái không tạo ra sự từ chối là “hãy nhận nước canh,” nên đã nói: “nghe điều đó mà từ chối thì không có sự từ chối.” Tuy nhiên, trong câu “nước canh cá, nước canh thịt,” không chỉ được hiểu là nước canh của cá, mà còn được hiểu theo cách dùng tên chung tạo ra sự từ chối là cá và nước canh cá, nên đối với người từ chối điều đó, thì có sự từ chối. Về sau, ở câu “canh cá,” cũng theo phương pháp này. “Ngay cả khi nói ‘hãy nhận cái này,’” ở đây, cần phải thấy rằng ngay cả khi không nói như vậy, đối với người từ chối bất cứ thứ gì có khả năng gây ra sự từ chối đã được mang đến, thì vẫn có sự từ chối. “Karambaka,” đây là tên gọi khác của món trộn. Thật vậy, cái gì được làm bằng cách trộn lẫn với nhau, cái đó được gọi là “karambaka.” Ngay cả khi nó được làm bằng cách trộn với thịt, nếu nói “hãy nhận karambaka” bằng tên của cái không đáng bị từ chối, thì đối với người từ chối, không có sự từ chối. Tuy nhiên, nếu nói “hãy nhận karambaka thịt,” thì có nghĩa là đã nói hãy nhận món có trộn thịt, do đó có sự từ chối.
‘‘Uddissakata’’nti maññamānoti ettha ‘‘vatthuno kappiyattā akappiyasaññāya paṭikkhipatopi acittakattā imassa sikkhāpadassa pavāraṇā hotī’’ti vadanti. ‘‘Heṭṭhā ayāguke nimantane udakakañjikakhīrādīhi saddhiṃ madditaṃ bhattameva sandhāya ‘yāguṃ gaṇhathā’ti vuttattā pavāraṇā hoti, ‘bhattamissakaṃ yāguṃ āharitvā’ti ettha pana visuṃ yāguyā vijjamānattā pavāraṇā na hotī’’ti vadanti. Ayamettha adhippāyoti ‘‘yenāpucchito’’tiādinā vuttamevatthaṃ sandhāya vadati. Kāraṇaṃ panettha duddasanti ettha eke tāva vadanti ‘‘yasmā yāgumissakaṃ nāma bhattameva na hoti, khīrādikampi hotiyeva, tasmā karambake viya pavāraṇāya na bhavitabbaṃ. Evañca sati yāgu bahutarā vā hoti samasamā vā, na pavāreti. ‘Yāgu mandā, bhattaṃ bahutaraṃ, pavāretī’ti ettha kāraṇaṃ duddasa’’nti. Keci pana vadanti ‘‘yāgumissakaṃ nāma bhattaṃ, tasmā taṃ paṭikkhipato pavāraṇāya eva bhavitabbaṃ. Evañca sati ‘idha pavāraṇā hoti na hotī’ti ettha kāraṇaṃ duddasa’’nti.
Về câu “nghĩ rằng ‘đã được làm riêng,’” ở đây, có người nói rằng: “do đối tượng là hợp lệ, nên ngay cả đối với người từ chối với tưởng là không hợp lệ, do điều học này thuộc về tâm, nên vẫn có sự từ chối.” Có người nói rằng: “Ở dưới, trong lời thỉnh mời không phải là cháo, do đã nói ‘hãy nhận cháo’ chỉ ám chỉ đến cơm đã được trộn với nước, cháo loãng, sữa v.v…, nên có sự từ chối. Còn ở câu ‘sau khi đã mang đến cháo có lẫn cơm,’ do có sự hiện hữu của cháo một cách riêng biệt, nên không có sự từ chối.” “Ý định ở đây là thế này,” ngài nói ám chỉ đến chính ý nghĩa đã được nêu bằng câu “bởi cái mà người ấy đã hỏi” v.v… “Lý do ở đây khó thấy,” ở đây, một số người nói rằng: “vì món có lẫn cháo không phải chỉ là cơm, mà còn có cả sữa v.v…, nên không thể có sự từ chối giống như trong trường hợp karambaka. Và nếu như vậy, dù cháo nhiều hơn hay bằng nhau, cũng không làm cho từ chối. Ở câu ‘cháo ít, cơm nhiều hơn, làm cho từ chối,’ lý do khó thấy.” Một số người khác lại nói: “món có lẫn cháo là cơm, do đó đối với người từ chối nó, phải có sự từ chối. Và nếu như vậy, ở câu ‘ở đây có sự từ chối, không có,’ lý do khó thấy.”
Yathā cettha kāraṇaṃ duddasaṃ, evaṃ parato ‘‘missakaṃ gaṇhathā’’ti etthāpi kāraṇaṃ duddasamevāti veditabbaṃ. Na hi pavāraṇappahonakassa appabahubhāvo pavāraṇāya bhāvābhāvanimittaṃ, kiñcarahi pavāraṇajanakassa nāmaggahaṇamevettha pamāṇaṃ, tasmā ‘‘idañca karambakena na samānetabba’’ntiādinā yampi kāraṇaṃ vuttaṃ, tampi pubbe vuttena saṃsandiyamānaṃ na sameti. Yadi hi ‘‘missaka’’nti bhattamissakeyeva ruḷhaṃ siyā, evaṃ sati yathā ‘‘bhattamissakaṃ gaṇhathā’’ti vutte bhattaṃ bahutaraṃ vā samaṃ vā appataraṃ vā hoti, pavāretiyeva, evaṃ ‘‘missakaṃ gaṇhathā’’ti vuttepi appatarepi bhatte pavāraṇāya bhavitabbaṃ missakanti bhattamissakeyeva ruḷhattā. Tathā hi ‘‘missakanti bhattamissakeyeva ruḷhavohārattā idaṃ pana ‘bhattamissakamevā’ti vutta’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Atha ‘‘missaka’’nti bhattamissake ruḷhaṃ na hoti, missakabhattaṃ pana sandhāya ‘‘missakaṃ gaṇhathā’’ti vuttanti. Evampi yathā ayāguke nimantane khīrādīhi saddhiṃ madditaṃ bhattameva sandhāya ‘‘yāguṃ gaṇhathā’’ti vutte pavāraṇā hoti, evamidhāpi missakabhattameva sandhāya ‘‘missakaṃ gaṇhathā’’ti vutte bhattaṃ appaṃ vā hotu bahu vā, pavāraṇā eva siyā. Tasmā ‘‘missaka’’nti bhattamissake ruḷhaṃ vā hotu sandhāyabhāsitaṃ vā, ubhayatthāpi pubbenāparaṃ na sametīti kimettha kāraṇacintāya, īdisesu pana ṭhānesu aṭṭhakathāpamāṇeneva gantabbanti ayaṃ amhākaṃ khanti.
Và cũng như ở đây lý do khó thấy, cần phải biết rằng về sau ở câu “hãy nhận món trộn,” lý do cũng khó thấy. Thật vậy, số lượng ít hay nhiều của cái có khả năng gây ra sự từ chối không phải là nhân tố cho sự có hay không có của sự từ chối; mà chính việc nêu tên của cái tạo ra sự từ chối mới là tiêu chuẩn ở đây. Do đó, lý do nào đã được nêu bằng câu “và điều này không nên được xem giống như karambaka” v.v…, lý do đó khi được so sánh với điều đã nói trước đó cũng không phù hợp. Nếu từ “món trộn” chỉ được dùng thông thường cho món có lẫn cơm, thì trong trường hợp đó, cũng như khi nói “hãy nhận món có lẫn cơm,” dù cơm nhiều hơn, bằng nhau, hay ít hơn, vẫn làm cho từ chối; cũng vậy, khi nói “hãy nhận món trộn,” ngay cả khi cơm ít hơn, cũng phải có sự từ chối do từ “món trộn” đã được dùng thông thường cho món có lẫn cơm. Thật vậy, trong cả ba sách nghĩa giải đều nói: “do từ ‘món trộn’ là cách nói thông thường chỉ dùng cho món có lẫn cơm, nên ở đây đã nói là ‘chính là món có lẫn cơm.’” Còn nếu từ “món trộn” không được dùng thông thường cho món có lẫn cơm, mà nói “hãy nhận món trộn” là ám chỉ đến món cơm trộn. Ngay cả như vậy, cũng như trong lời thỉnh mời không phải là cháo, khi nói “hãy nhận cháo” chỉ ám chỉ đến cơm đã được trộn với sữa v.v… thì có sự từ chối, cũng vậy ở đây, khi nói “hãy nhận món trộn” chỉ ám chỉ đến món cơm trộn, thì dù cơm ít hay nhiều, cũng phải có sự từ chối. Do đó, dù từ “món trộn” được dùng thông thường cho món có lẫn cơm hay chỉ là cách nói ám chỉ, trong cả hai trường hợp, phần sau không phù hợp với phần trước, vậy thì suy nghĩ về lý do ở đây làm gì? Tuy nhiên, trong những trường hợp như thế này, phải đi theo tiêu chuẩn của Chú giải; đây là sự chấp nhận của chúng tôi.
‘‘Visuṃkatvā detīti bhattassa upari ṭhitaṃ rasādiṃ visuṃ gahetvā detī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Kenaci pana ‘‘yathā bhattasitthaṃ na patati, tathā gāḷhaṃ hatthena pīḷetvā parissāvetvā detī’’ti vuttaṃ. Tathāpi kāraṇaṃ na dissati. Yathā hi bhattamissakaṃ yāguṃ āharitvā ‘‘yāguṃ gaṇhathā’’ti vatvā yāgumissakaṃ bhattampi dentaṃ paṭikkhipato pavāraṇā na hoti, evamidhāpi bahukhīrarasādīsu bhattesu ‘‘khīraṃ gaṇhathā’’tiādīni vatvā khīrādīni vā detu khīrādimissakabhattaṃ vā, ubhayathāpi pavāraṇāya na bhavitabbaṃ, tasmā ‘‘visuṃ katvā detī’’ti tenākārena dentaṃ sandhāya vuttaṃ, na pana bhattamissakaṃ katvā diyyamānaṃ paṭikkhipato pavāraṇā hotīti dassanatthanti gahetabbaṃ. Yadi pana bhattamissakaṃ katvā diyyamāne pavāraṇā hotīti adhippāyena aṭṭhakathāyaṃ ‘‘visuṃ katvā detī’’ti vuttaṃ, evaṃ sati aṭṭhakathāyevettha pamāṇanti gahetabbaṃ, na pana kāraṇantaraṃ gavesitabbaṃ.
Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói: “‘Cho bằng cách tách riêng,’ là sau khi đã tách riêng nước canh v.v… ở trên cơm rồi mới cho.” Tuy nhiên, có người nói: “cho bằng cách vắt kiệt bằng tay để cơm không bị rơi ra.” Như vậy cũng không thấy có lý do. Thật vậy, cũng như sau khi đã mang đến cháo có lẫn cơm, rồi nói “hãy nhận cháo” và cho cả cơm có lẫn cháo, đối với người từ chối cũng không có sự từ chối; cũng vậy ở đây, trong các món cơm có nhiều sữa, nước canh v.v…, dù nói “hãy nhận sữa” v.v… rồi cho sữa v.v… hay cho cơm có lẫn sữa v.v…, trong cả hai trường hợp cũng không thể có sự từ chối. Do đó, cần phải hiểu rằng câu “cho bằng cách tách riêng” được nói ám chỉ đến việc cho theo cách đó, chứ không phải để chỉ ra rằng đối với người từ chối món được cho sau khi đã trộn với cơm thì có sự từ chối. Tuy nhiên, nếu trong Chú giải đã nói “cho bằng cách tách riêng” với ý định rằng khi cho sau khi đã trộn với cơm thì có sự từ chối, thì trong trường hợp đó, phải xem chính Chú giải là tiêu chuẩn, không nên tìm kiếm lý do nào khác.
Sace ukkuṭikaṃ nisinno pāde amuñcitvāpi bhūmiyaṃ nisīdati, iriyāpathaṃ vikopento nāma hotīti ukkuṭikāsanaṃ avikopetvāva sukhena nisīdituṃ ‘‘tassa pana heṭṭhā…pe… nisīdanakaṃ dātabba’’nti vuttaṃ. ‘‘Āsanaṃ acāletvāti pīṭhe phuṭṭhokāsato ānisadamaṃsaṃ amocetvā, anuṭṭhahitvāti vuttaṃ hoti, adinnādāne viya ṭhānācāvanaṃ na gahetabba’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ.
Nếu người ngồi xổm, dù không nhấc chân lên mà ngồi xuống đất, thì được gọi là người đang làm hư hoại oai nghi, nên để có thể ngồi một cách thoải mái mà không làm hư hoại thế ngồi xổm, đã nói: “tuy nhiên, ở dưới người đó… cho đến… phải được đặt một cái đệm ngồi.” Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói: “‘Không di chuyển chỗ ngồi,’ là không nhấc phần thịt mông lên khỏi chỗ đã tiếp xúc trên ghế, có nghĩa là không đứng dậy; không nên hiểu là di chuyển khỏi vị trí như trong tội trộm cắp.”
Akappiyakatanti ettha akappiyakatasseva anatirittabhāvato kappiyaṃ akārāpetvā tasmiṃ patte pakkhittamūlaphalādiyeva atirittaṃ na hoti, sesaṃ pana pattapariyāpannaṃ atirittameva hoti, paribhuñjituṃ vaṭṭati. Taṃ pana mūlaphalādiṃ paribhuñjitukāmena tato nīharitvā kappiyaṃ kārāpetvā aññasmiṃ bhājane ṭhapetvā atirittaṃ kārāpetvā bhuñjitabbaṃ.
Về câu “vật đã được làm cho không hợp lệ,” ở đây, do chính vật đã được làm cho không hợp lệ không phải là phần ăn thêm, nên sau khi không nhờ người làm cho hợp lệ, chỉ có các loại rễ, quả v.v… được đặt trong bát đó mới không phải là phần ăn thêm; còn các thứ khác nằm trong bát thì là phần ăn thêm, được phép hưởng dụng. Tuy nhiên, người muốn hưởng dụng các loại rễ, quả v.v… đó, phải lấy ra khỏi đó, nhờ người làm cho hợp lệ, đặt vào một vật chứa khác, nhờ người làm thành phần ăn thêm rồi mới ăn.
So puna kātuṃ na labhatīti tasmiṃyeva bhājane kariyamānaṃ paṭhamaṃ katena saddhiṃ kataṃ hotīti puna soyeva kātuṃ na labhati, añño labhati. Aññasmiṃ pana bhājane tena vā aññena vā kātuṃ vaṭṭati. Tenāha ‘‘yena akataṃ, tena kātabbaṃ. Yañca akataṃ, taṃ kātabba’’nti. Tenapīti ettha pi-saddo na kevalaṃ aññena vāti imamatthaṃ dīpeti. Evaṃ katanti aññasmiṃ bhājane kataṃ. Pesetvāti anupasampannassa hatthe pesetvā. Imassa vinayakammabhāvato ‘‘anupasampannassa hatthe ṭhitaṃ na kāretabba’’nti vuttaṃ.
“Người đó không được làm lại,” là việc được làm trong cùng một vật chứa được xem như đã được làm cùng với lần làm đầu tiên, nên chính người đó không được làm lại, người khác thì được. Tuy nhiên, trong một vật chứa khác, người đó hoặc người khác đều được phép làm. Do đó, ngài nói: “người nào chưa làm thì phải làm. Và cái nào chưa được làm thì phải được làm.” Về câu “ngay cả bởi người đó,” ở đây, từ “ngay cả” chỉ ra ý nghĩa là không chỉ bởi người khác. “Đã được làm như vậy” là đã được làm trong một vật chứa khác. “Sau khi đã gửi đi” là sau khi đã gửi vào tay của người chưa cụ túc viên mãn. Do đây là một hành vi thuộc luật, nên đã nói: “không được làm khi nó đang ở trong tay của người chưa cụ túc viên mãn.”
Sace pana āmisasaṃsaṭṭhānīti ettha sace mukhagatenapi anatirittena āmisena saṃsaṭṭhāni honti , pācittiyamevāti veditabbaṃ. Tasmā pavāritena bhojanaṃ atirittaṃ kārāpetvā bhuñjantenapi yathā akatena missaṃ na hoti, evaṃ mukhañca hatthañca suddhaṃ katvā bhuñjitabbaṃ. Kiñcāpi appavāritassa purebhattaṃ yāmakālikādīni āhāratthāya paribhuñjatopi anāpatti, pavāritassa pana pavāraṇamūlakaṃ dukkaṭaṃ hotiyevāti ‘‘yāmakālikaṃ…pe… ajjhohāre āpatti dukkaṭassā’’ti pāḷiyaṃ vuttaṃ.
Về câu “Tuy nhiên, nếu chúng có dính vật chất,” ở đây, cần phải biết rằng nếu chúng có dính vật chất không phải là phần ăn thêm, dù chỉ là đã vào miệng, thì vẫn phạm tội Ưng Đối Trị. Do đó, người đã từ chối, sau khi đã nhờ người làm cho vật thực thành phần ăn thêm rồi mới ăn, cũng phải làm sạch miệng và tay rồi mới ăn để không bị lẫn với vật chưa được làm (phần ăn thêm). Mặc dù đối với người chưa từ chối, ngay cả khi hưởng dụng các loại thuốc được phép dùng trong khoảng thời gian từ trưa đến rạng đông ngày hôm sau v.v… vì mục đích ăn uống trước giữa ngọ, cũng vô tội; nhưng đối với người đã từ chối, thì vẫn phạm tội Tác Ác có gốc rễ từ sự từ chối, do đó trong Pāḷi đã nói: “đối với việc nuốt… cho đến… các loại thuốc được phép dùng trong khoảng thời gian từ trưa đến rạng đông ngày hôm sau, phạm tội Tác Ác.”
241. Kāyena bhuñjanato vācāya āṇāpetvā atirittaṃ akārāpanato ca āpajjatīti ‘‘kāyavācato’’ti vuttaṃ. Sesamettha uttānameva. Pavāritabhāvo, āmisassa anatirittatā, kāle ajjhoharaṇanti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
241. Do phạm tội vì ăn bằng thân và không nhờ người làm thành phần ăn thêm bằng cách ra lệnh bằng lời, nên đã nói là “do thân và lời.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Tình trạng đã từ chối, việc vật chất không phải là phần ăn thêm, và việc nuốt vào đúng lúc; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Paṭhamapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học từ chối (vật thực) thứ nhất đã kết thúc.
6. Dutiyapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā
6. Sự giải về điều học từ chối (vật thực) thứ hai
243. Chaṭṭhe sādhāraṇamevāti ‘‘handa bhikkhu khāda vā’’tiādinā vuttapavāraṇāya sādhāraṇaṃ. ‘‘Bhuttasmiṃ pācittiya’’nti mātikāyaṃ vuttattā bhojanapariyosāne āpatti, na ajjhohāre ajjhohāre. Abhihaṭṭhuṃ pavāreti, āpatti pācittiyassāti idañca bhojanapariyosānaṃyeva sandhāya vuttanti veditabbaṃ. Sesamettha uttānameva. Pavāritatā, pavāritasaññitā, āsādanāpekkhatā, anatirittena abhihaṭṭhuṃ pavāraṇā, bhojanapariyosānanti imāni panettha pañca aṅgāni.
243. Ở điều học thứ sáu, “chung cho cả hai,” là chung cho cả sự từ chối đã được nói bằng câu “này Tỳ-khưu, hãy ăn” v.v… Do trong Mātikā đã nói “phạm tội Ưng Đối Trị khi đã ăn xong,” nên phạm tội khi kết thúc bữa ăn, không phải là mỗi khi nuốt vào. “Từ chối để được dâng thêm, phạm tội Ưng Đối Trị,” và điều này cần phải được biết là cũng ám chỉ đến việc kết thúc bữa ăn. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Tình trạng đã từ chối, có tưởng là đã từ chối, sự mong muốn được dọn lên, việc từ chối để được dâng thêm vật thực chưa được cho phép làm phần ăn thêm, và sự kết thúc bữa ăn; đây là năm chi phần trong trường hợp này.
Dutiyapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học từ chối (vật thực) thứ hai đã kết thúc.
7. Vikālabhojanasikkhāpadavaṇṇanā
7. Sự giải về điều học ăn uống phi thời
247. Sattame aggasamajjoti uttamaṃ naccaṃ. Taṃ kira pabbatamatthake ṭhatvā ekaṃ devataṃ uddissa karonti. Naṭānaṃ nāṭakāni naṭanāṭakāni, sītāharaṇādīni. Apaññatte sikkhāpadeti ūnavīsativassasikkhāpade apaññatte. Adaṃsūti ‘‘vihāraṃ netvā khādissathā’’ti adaṃsu.
247. Ở điều học thứ bảy, “lễ hội bậc nhất” là điệu múa tối thượng. Nghe nói họ tổ chức lễ hội đó trên đỉnh núi để cúng dường một vị trời. Các vở kịch của các vũ công là các vở kịch của vũ công, như vở Sītāharaṇa v.v… “Khi điều học chưa được chế định,” là khi điều học về người chưa đủ hai mươi tuổi chưa được chế định. “Họ đã cho,” là họ đã cho với lời dặn: “hãy mang về tu viện và ăn.”
248-249. Mūlakamūlādīni upadesatoyeva veditabbāni. Na hi tāni pariyāyantarena vuccamānānipi sakkā viññātuṃ. Pariyāyantarepi hi vuccamāne taṃ taṃ nāmaṃ ajānantānaṃ sammohoyeva siyā, tasmā tattha na kiñci vakkhāma. Khādanīyatthanti khādanīyena kattabbakiccaṃ. Neva pharantīti na nipphādenti. Tesu tesu janapadesūti ettha ‘‘ekasmiṃ janapade āhārakiccaṃ sādhentaṃ sesajanapadesupi na kappatī’’ti vadanti. Rukkhavalliādīnanti heṭṭhā vuttameva sampiṇḍetvā vuttaṃ. Antopathavīgatoti sālakalyāṇīkhandhaṃ sandhāya vuttaṃ. Sabbakappiyānīti mūlakhandhatacapattādivasena sabbaso kappiyāni. Tesampi nāmavasena na sakkā pariyantaṃ dassetunti sambandho. Acchivādīnaṃ aparipakkāneva phalāni yāvajīvikānīti dassetuṃ ‘‘aparipakkānī’’ti vuttaṃ.
248-249. Các loại rễ cây v.v… cần phải được biết chỉ qua sự chỉ dạy. Thật vậy, ngay cả khi chúng được nói bằng cách khác, cũng không thể biết được. Thật vậy, ngay cả khi được nói bằng cách khác, đối với những người không biết tên gọi đó, chắc chắn sẽ có sự nhầm lẫn, do đó chúng tôi sẽ không nói gì ở đó. “Công dụng của vật nhai,” là công việc phải làm với vật nhai. “Không thực hiện được” là không hoàn thành được. Về câu “trong các xứ đó,” ở đây, có người nói rằng: “cái gì thực hiện được công dụng của thức ăn ở một xứ, thì ở các xứ còn lại cũng không hợp lệ.” “Của cây cối, dây leo v.v…,” là đã tóm tắt lại điều đã được nói ở dưới. “Nằm trong lòng đất,” được nói ám chỉ đến thân cây sālakalyāṇī. “Tất cả đều hợp lệ,” là tất cả đều hợp lệ theo cách là rễ, thân, vỏ, lá v.v… Ngay cả tên gọi của chúng cũng không thể chỉ ra hết được, đây là mối liên hệ. Để chỉ ra rằng chỉ có quả chưa chín của cây acchi v.v… mới là vật thực được phép dùng suốt đời, nên đã nói là “chưa chín.”
Harītakādīnaṃ aṭṭhīnīti ettha miñjaṃ paṭicchādetvā ṭhitakapālāni yāvajīvikānīti ācariyā. Miñjampi yāvajīvikanti eke. Hiṅgūti hiṅgurukkhato paggharitaniyyāso. Hiṅgujatuādayopi hiṅguvikatiyo eva. Tattha hiṅgujatu nāma hiṅgurukkhassa daṇḍapattāni pacitvā kataniyyāso, hiṅgusipāṭikaṃ nāma hiṅgupattāni pacitvā kataniyyāso. ‘‘Aññena missetvā kato’’tipi vadanti. Takanti aggakoṭiyā nikkhantasileso. Takapattinti pattato nikkhantasileso. Takapaṇṇinti palāse bhajjitvā katasileso. ‘‘Daṇḍato nikkhantasileso tipi vadanti. Sesamettha uttānameva. Vikālatā, yāvakālikatā, ajjhoharaṇanti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
Về câu “hạt của cây harītaka v.v…,” ở đây, các vị thầy nói rằng vỏ cứng bao bọc nhân hột là vật thực được phép dùng suốt đời. Một số người nói rằng cả nhân hột cũng là vật thực được phép dùng suốt đời. “A-ngùy” là nhựa chảy ra từ cây a-ngùy. Các loại như nhựa a-ngùy v.v… cũng là các chế phẩm của a-ngùy. Ở đó, nhựa a-ngùy là nhựa được làm bằng cách nấu thân và lá của cây a-ngùy. Sipāṭikaṃ a-ngùy là nhựa được làm bằng cách nấu lá a-ngùy. Cũng có người nói rằng: “được làm bằng cách trộn với thứ khác.” “Taka” là chất nhờn chảy ra từ ngọn cây. “Takapatti” là chất nhờn chảy ra từ lá. “Takapaṇṇi” là chất nhờn được làm bằng cách rang lá. Cũng có người nói rằng: “chất nhờn chảy ra từ thân cây.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là phi thời, việc là vật thực được phép dùng trong buổi sáng, và việc nuốt vào; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Vikālabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học ăn uống phi thời đã kết thúc.
8. Sannidhikārakasikkhāpadavaṇṇanā
8. Sự giải về điều học cất giữ (vật thực)
252-3. Aṭṭhame tādisanti asūpabyañjanaṃ. Yaṃkiñci yāvakālikaṃ vā yāmakālikaṃ vāti ettha ‘‘yāmakālika’’nti iminā na kevalaṃ yāvakālike eva sannidhipaccayā pācittiyaṃ, atha kho yāmakālikepīti dasseti. Nanu ca yāmakālikaṃ neva khādanīyesu antogadhaṃ, na bhojanīyesu. Teneva padabhājanīye ‘‘khādanīyaṃ nāma pañca bhojanāni yāmakālikaṃ sattāhakālikaṃ yāvajīvikaṃ ṭhapetvā avasesaṃ khādanīyaṃ nāma. Bhojanīyaṃ nāma pañca bhojanānī’’ti vuttaṃ, ‘‘yo pana bhikkhu sannidhikārakaṃ khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā khādeyya vā bhuñjeyya vā, pācittiya’’nti ca vuttaṃ, tasmā yāmakālike pācittiyena bhavitabbanti kathaṃ viññāyatīti? Vuccate – padabhājane khādanīya-saddassa atthadassanatthaṃ ‘‘yāmakālikaṃ ṭhapetvā’’ti vuttaṃ, na pana sannidhipaccayā anāpattidassanatthaṃ. Khāditabbañhi yaṃkiñci khādanīyanti adhippetaṃ, na ca yāmakālikesu kiñci khāditabbaṃ atthi pātabyabhāvato. Tasmā kiñcāpi yāmakālikaṃ khādanīyabhojanīyehi na saṅgahitaṃ, tathāpi anāpattiṃ dassentena ‘‘anāpatti yāmakālikaṃ yāme nidahitvā bhuñjatī’’ti vacanato yāmātikkame sannidhipaccayā pācittiyena bhavitabbanti viññāyati. ‘‘Yāmakālikena, bhikkhave, sattāhakālikaṃ yāvajīvikaṃ tadahupaṭiggahitaṃ yāme kappati, yāmātikkante na kappatī’’ti (mahāva. 305) imināpi cāyamattho siddho. Teneva bhagavato adhippāyaññūhi aṭṭhakathācariyehi yāmakālike pācittiyameva vuttaṃ.
252-3. Ở điều học thứ tám, “như vậy” là không có canh và đồ ăn kèm. “Bất cứ vật thực được phép dùng trong buổi sáng nào hoặc vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày nào,” ở đây, bằng từ “vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày,” ngài chỉ ra rằng tội Ưng Đối Trị do duyên cất giữ không chỉ có đối với vật thực được phép dùng trong buổi sáng, mà còn có cả đối với vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày. Chẳng phải vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày không thuộc nhóm vật nhai, cũng không thuộc nhóm vật ăn sao? Chính vì thế, trong phần phân tích từ ngữ đã nói: “Vật nhai là, trừ năm loại vật thực, vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày, vật thực được phép dùng trong bảy ngày, và vật thực được phép dùng suốt đời, phần còn lại được gọi là vật nhai. Vật ăn là năm loại vật thực,” và cũng đã nói: “Tuy nhiên, Tỳ-khưu nào nhai hoặc ăn vật nhai hoặc vật ăn đã được cất giữ, thì phạm tội Ưng Đối Trị.” Do đó, làm thế nào để biết rằng phải phạm tội Ưng Đối Trị đối với vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày? Xin thưa: trong phần phân tích từ ngữ, để chỉ ra ý nghĩa của từ “vật nhai,” đã nói là “trừ vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày,” chứ không phải để chỉ ra sự vô tội do duyên cất giữ. Thật vậy, bất cứ thứ gì có thể nhai được đều được xem là vật nhai, và trong các loại vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày, không có thứ gì có thể nhai được do có tính chất là để uống. Do đó, mặc dù vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày không được bao gồm trong vật nhai và vật ăn, tuy nhiên, do vị chỉ ra sự vô tội đã nói rằng: “vô tội đối với người ăn vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày sau khi đã cất giữ trong khoảng thời gian một ngày,” nên có thể biết rằng phải phạm tội Ưng Đối Trị do duyên cất giữ khi quá thời hạn một ngày. Bằng câu này: “Này các Tỳ-khưu, vật thực được phép dùng trong bảy ngày và vật thực được phép dùng suốt đời, sau khi đã nhận vào ngày đó, thì hợp lệ trong khoảng thời gian một ngày cùng với vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày; khi đã quá thời hạn một ngày thì không hợp lệ” (mahāva. 305), ý nghĩa này cũng được chứng minh. Chính vì thế, các vị Chú Giải Sư, những người hiểu ý của đức Thế Tôn, đã nói rằng chỉ phạm tội Ưng Đối Trị đối với vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày.
Paṭiggahaṇeti gahaṇameva sandhāya vuttaṃ. Paṭiggahitameva hi taṃ, puna paṭiggahaṇakiccaṃ natthi. Teneva ‘‘ajjhoharitukāmatāya gaṇhantassa paṭiggahaṇe’’ti vuttaṃ. Mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. sannidhikārakasikkhāpadavaṇṇanā) pana ‘‘ajjhoharissāmīti gaṇhantassa paṭiggahaṇe’’icceva vuttaṃ. Yanti yaṃ pattaṃ. Sandissatīti yāguyā upari sandissati. Telavaṇṇe patte satipi nisnehabhāve aṅguliyā ghaṃsantassa vaṇṇavaseneva lekhā paññāyati, tasmā tattha anāpattīti dassanatthaṃ ‘‘sā abbohārikā’’ti vuttaṃ. Sayaṃ paṭiggahetvā apariccattameva hi dutiyadivase na vaṭṭatīti ettha paṭiggahaṇe anapekkhavissajjanena anupasampannassa nirapekkhadānena vā vijahitapaṭiggahaṇaṃ pariccattameva hotīti ‘‘apariccatta’’nti iminā ubhayathāpi avijahitapaṭiggahaṇameva vuttaṃ. Tasmā yaṃ parassa pariccajitvā adinnampi sace paṭiggahaṇe nirapekkhavissajjanena vijahitapaṭiggahaṇaṃ hoti, tampi dutiyadivase vaṭṭatīti veditabbaṃ.
“Trong lúc nhận,” được nói ám chỉ đến chính việc lấy. Thật vậy, nó đã được nhận rồi, không cần phải nhận lại nữa. Chính vì thế đã nói: “trong lúc nhận của người đang lấy với ý muốn nuốt vào.” Tuy nhiên, trong Chú giải của Mātikā (kaṅkhā. aṭṭha. sannidhikārakasikkhāpadavaṇṇanā) chỉ nói là: “trong lúc nhận của người đang lấy với ý nghĩ ‘tôi sẽ nuốt vào.’” “Cái nào” là cái bát nào. “Được thấy” là được thấy ở trên mặt cháo. Ngay cả khi trên bát có màu dầu, do không có chất nhờn, nếu dùng ngón tay cọ xát, chỉ thấy có vệt theo màu sắc, do đó để chỉ ra sự vô tội ở đó, đã nói: “điều đó không phải là đối tượng tranh chấp.” Về câu “Vật thực đã tự mình nhận mà chưa từ bỏ thì không được phép (dùng) vào ngày thứ hai,” ở đây, việc nhận đã được từ bỏ bằng cách cho đi mà không bận tâm đến người chưa cụ túc viên mãn hoặc bằng cách xả bỏ mà không luyến tiếc, thì được xem là đã từ bỏ; do đó, bằng từ “chưa từ bỏ,” việc nhận chưa được từ bỏ bằng cả hai cách đã được nói đến. Do đó, cần phải biết rằng, vật thực nào dù chưa được từ bỏ và cho người khác, nếu việc nhận đã được từ bỏ bằng cách xả bỏ mà không luyến tiếc khi nhận, thì vật thực đó cũng được phép (dùng) vào ngày thứ hai.
Yadi evaṃ ‘‘patto duddhoto hotī’’tiādīsu kasmā āpatti vuttāti? ‘‘Paṭiggahaṇaṃ avissajjetvāva sayaṃ vā aññena vā tucchaṃ katvā na sammā dhovitvā niṭṭhāpite patte laggampi avijahitapaṭiggahaṇameva hotīti tattha āpattī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Keci pana ‘‘sāmaṇerānaṃ pariccajantīti imasmiṃ adhikāre ṭhatvā ‘apariccattamevā’ti vuttattā anupasampannassa pariccattameva vaṭṭati, apariccattaṃ na vaṭṭatīti āpannaṃ, tasmā nirālayabhāvena paṭiggahaṇe vijahitepi anupasampannassa apariccattaṃ na vaṭṭatī’’ti vadanti, taṃ yuttaṃ viya na dissati. Yadaggena hi paṭiggahaṇaṃ vijahati, tadaggena sannidhimpi na karoti vijahitapaṭiggahaṇassa appaṭiggahitasadisattā. Paṭiggahetvā nidahiteyeva ca sannidhipaccayā āpatti vuttā. ‘‘Paṭiggahetvā ekarattaṃ vītināmitassetaṃ adhivacana’’nti hi vuttaṃ.
Nếu vậy, tại sao lại nói là phạm tội trong các trường hợp “bát được rửa chưa sạch” v.v…? Trong cả ba sách nghĩa giải đều nói rằng: “Do chưa từ bỏ việc nhận mà tự mình hoặc nhờ người khác làm cho (bát) trống rỗng rồi không rửa sạch sẽ, nên vật thực còn dính trong bát cũng là vật thực có việc nhận chưa được từ bỏ, do đó có tội ở đó.” Tuy nhiên, một số người nói rằng: “Do đã nói ‘chưa từ bỏ’ khi đang trong quyền hạn ‘họ từ bỏ cho các Sa-di,’ nên đã dẫn đến việc chỉ có vật thực đã được từ bỏ cho người chưa cụ túc viên mãn mới được phép, còn vật chưa được từ bỏ thì không được phép. Do đó, ngay cả khi đã từ bỏ việc nhận do không còn luyến tiếc, vật chưa được từ bỏ cho người chưa cụ túc viên mãn cũng không được phép,” điều đó dường như không hợp lý. Vì ngay khi từ bỏ việc nhận, vị ấy cũng không làm việc cất giữ, do vật có việc nhận đã được từ bỏ cũng giống như vật chưa được nhận. Và tội do duyên cất giữ đã được nói đến chỉ đối với vật đã nhận rồi cất giữ. Thật vậy, đã nói là: “đây là tên gọi khác của vật đã được cất giữ qua một đêm sau khi đã nhận.”
Pāḷiyaṃ ‘‘sattāhakālikaṃ yāvajīvikaṃ āhāratthāya paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassā’’tiādinā sannihitesu sattāhakālikayāvajīvikesu purebhattampi āhāratthāya ajjhoharaṇepi dukkaṭassa vuttattā yāmakālikepi āhāratthāya ajjhoharaṇe visuṃ dukkaṭenapi bhavitabbanti āha ‘‘āhāratthāya ajjhoharato dukkaṭena saddhiṃ pācittiya’’nti. Pakatiāmiseti odanādikappiyāmise. Yāmakālikaṃ sati paccaye sāmisena mukhena ajjhoharato dveti hiyyo paṭiggahitayāmakālikaṃ ajja purebhattaṃ sāmisena mukhena bhuñjato sannihitayāmakālikapaccayā ekaṃ pācittiyaṃ, sannihitena saṃsaṭṭhaāmisapaccayā ekanti dve pācittiyāni. Vikappadvayepīti sāmisena nirāmisenāti vuttavidhānadvaye. Dukkaṭaṃ vaḍḍhatīti āhāratthāya ajjhoharaṇapaccayā dukkaṭaṃ vaḍḍhati. Thullaccayañca dukkaṭañca vaḍḍhatīti manussamaṃse thullaccayaṃ, sesaakappiyamaṃsesu dukkaṭaṃ vaḍḍhati.
Trong Pāḷi, do đã nói là phạm tội Tác Ác ngay cả khi nuốt vào trước giữa ngọ vì mục đích ăn uống đối với các loại vật thực được phép dùng trong bảy ngày và vật thực được phép dùng suốt đời đã được cất giữ, bằng các câu như “nhận vật thực được phép dùng trong bảy ngày, vật thực được phép dùng suốt đời vì mục đích ăn uống, thì phạm tội Tác Ác” v.v…, nên đối với vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày, khi nuốt vào vì mục đích ăn uống, cũng phải phạm tội Tác Ác một cách riêng biệt, do đó ngài nói: “đối với người nuốt vào vì mục đích ăn uống, phạm tội Ưng Đối Trị cùng với tội Tác Ác.” “Trong vật chất thông thường,” là trong vật chất hợp lệ như cơm v.v… “Đối với người nuốt vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày bằng miệng có dính vật chất khi có lý do, thì có hai (tội),” là đối với người ăn vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày đã nhận ngày hôm qua bằng miệng có dính vật chất vào trước giữa ngọ hôm nay, có một tội Ưng Đối Trị do duyên vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày đã được cất giữ, và một tội do duyên vật chất đã bị dính với vật đã được cất giữ, nên là hai tội Ưng Đối Trị. “Trong cả hai trường hợp,” là trong hai cách thức đã được nói là có dính vật chất và không có dính vật chất. “Tội Tác Ác tăng thêm,” là tội Tác Ác tăng thêm do duyên nuốt vào vì mục đích ăn uống. “Tội Trọng Tội và tội Tác Ác tăng thêm,” là tội Trọng Tội tăng thêm đối với thịt người, và tội Tác Ác tăng thêm đối với các loại thịt không hợp lệ còn lại.
255.Paṭiggahaṇapaccayā tāva dukkaṭanti ettha sannihitattā purebhattampi dukkaṭameva. Sati paccaye pana sannihitampi sattāhakālikaṃ yāvajīvikaṃ bhesajjatthāya gaṇhantassa paribhuñjantassa ca anāpattiyeva. Sesamettha uttānameva. Yāvakālikayāmakālikatā, sannidhibhāvo, tassa ajjhoharaṇanti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
255.“Do duyên nhận, trước hết là tội Tác Ác,” ở đây, do đã cất giữ, nên ngay cả trước giữa ngọ cũng là tội Tác Ác. Tuy nhiên, khi có lý do, đối với người nhận và hưởng dụng vật thực được phép dùng trong bảy ngày và vật thực được phép dùng suốt đời đã được cất giữ vì mục đích thuốc men, thì vẫn vô tội. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là vật thực được phép dùng trong buổi sáng hoặc vật thực được phép dùng trong khoảng thời gian một ngày, tình trạng đã cất giữ, và việc nuốt vào; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Sannidhikārakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học cất giữ đã kết thúc.
9. Paṇītabhojanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Sự giải về điều học vật thực hảo hạng
257-259. Navame paṇītasaṃsaṭṭhāni bhojanāni paṇītabhojanāni. Yathā hi ājaññayutto ratho ‘‘ājaññaratho’’ti vuccati, evamidhāpi paṇītasaṃsaṭṭhāni sattadhaññanibbattāni bhojanāni ‘‘paṇītabhojanānī’’ti vuttāni. Yehi pana paṇītehi saṃsaṭṭhāni, tāni ‘‘paṇītabhojanānī’’ti vuccanti, tesaṃ pabhedadassanatthaṃ ‘‘seyyathidaṃ, sappi navanīta’’ntiādi pāḷiyaṃ vuttaṃ. ‘‘Yesaṃ maṃsaṃ kappatī’’ti idañca pācittiyavatthuparicchedadassanatthaṃ vuttaṃ, na pana kappiyavatthuparicchedadassanatthaṃ. Na hi akappiyamaṃsasattānaṃ sappiādīni na kappanti. Ekañhi manussavasātelaṃ ṭhapetvā sabbesaṃ khīrasappinavanītavasātelesu akappiyaṃ nāma natthi. Sappibhattanti ettha kiñcāpi sappisaṃsaṭṭhaṃ bhattaṃ sappibhattaṃ, sappi ca bhattañca sappibhattantipi viññāyati, aṭṭhakathāsu pana ‘‘sālibhattaṃ viya sappibhattaṃ nāma natthī’’ti kāraṇaṃ vatvā dukkaṭasseva daḷhataraṃ katvā vuttattā na sakkā aññaṃ vattuṃ. Aṭṭhakathācariyā eva hi īdisesu ṭhānesu pamāṇaṃ.
257-259. Ở điều học thứ chín, các loại vật thực có trộn lẫn vật thực hảo hạng là vật thực hảo hạng. Thật vậy, cũng như cỗ xe có ngựa quý được gọi là “xe ngựa quý,” cũng vậy ở đây, các loại vật thực được làm từ bảy loại ngũ cốc có trộn lẫn vật thực hảo hạng được gọi là “vật thực hảo hạng.” Còn những vật thực hảo hạng nào được trộn lẫn vào, chúng được gọi là “vật thực hảo hạng”; để chỉ ra sự phân loại của chúng, trong Pāḷi đã nói: “đó là, bơ, dầu” v.v… Và câu “những loài có thịt hợp lệ” này được nói nhằm mục đích chỉ ra sự phân định về đối tượng của tội Ưng Đối Trị, chứ không phải nhằm mục đích chỉ ra sự phân định về đối tượng hợp lệ. Thật vậy, không phải là bơ v.v… của các loài có thịt không hợp lệ thì không hợp lệ. Thật vậy, trừ mỡ và dầu của người, trong các loại sữa, bơ, dầu, mỡ của tất cả các loài, không có loại nào là không hợp lệ. Về câu “cơm bơ,” ở đây, mặc dù cơm có trộn bơ là cơm bơ, và cũng có thể hiểu là bơ và cơm là cơm bơ; tuy nhiên, trong các bộ Chú giải, do đã nói lý do rằng “không có loại cơm bơ giống như cơm sāli,” và do đã nói một cách chắc chắn hơn về tội Tác Ác, nên không thể nói khác được. Thật vậy, chính các vị Chú Giải Sư là thẩm quyền trong những trường hợp như thế này.
Mūlanti kappiyabhaṇḍaṃ sandhāya vuttaṃ. Anāpattīti visaṅketattā sabbāhiyeva āpattīhi anāpatti. Keci pana ‘‘pācittiyeneva anāpatti vuttā, sūpodanaviññattidukkaṭaṃ pana hotiyevā’’ti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ. Kappiyasappinā akappiyasappināti ca idaṃ kappiyākappiyamaṃsānaṃ vasena vuttaṃ, tasmā kappiyamaṃsasappinā akappiyamaṃsasappināti evamettha attho gahetabbo. Nānāvatthukānīti sappinavanītādīnaṃ vasena vuttaṃ.
“Vốn” được nói ám chỉ đến vật phẩm hợp lệ. “Vô tội,” là vô tội đối với tất cả các tội do không có hẹn trước. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “chỉ vô tội đối với tội Ưng Đối Trị, còn tội Tác Ác do gợi ý canh thì vẫn có,” điều đó không nên được chấp nhận. Và câu “bằng bơ hợp lệ, bằng bơ không hợp lệ” này được nói theo các loại thịt hợp lệ và không hợp lệ, do đó, ở đây cần phải hiểu ý nghĩa như sau: bằng bơ từ thịt hợp lệ, bằng bơ từ thịt không hợp lệ. “Có nhiều đối tượng khác nhau,” được nói theo các loại bơ, dầu v.v…
261.Mahānāmasikkhāpadena kāretabboti ettha –
261.Về câu “phải được xử theo điều học Mahānāma,” ở đây –
‘‘Agilānena bhikkhunā catumāsapaccayapavāraṇā sāditabbā aññatra punapavāraṇāya aññatra niccapavāraṇāya, tato ce uttari sādiyeyya, pācittiya’’nti (pāci. 306) –
“Tỳ-khưu không bị bệnh, có thể nhận sự thỉnh mời về tứ vật dụng trong bốn tháng, ngoại trừ sự thỉnh mời lại, ngoại trừ sự thỉnh mời thường xuyên. Nếu nhận quá hơn, thì phạm tội Ưng Đối Trị.” (pāci. 306) –
Idaṃ mahānāmasikkhāpadaṃ nāma. Iminā ca sikkhāpadena saṅghavasena gilānapaccayapavāraṇāya pavāritaṭṭhāne sace tattha rattīhi vā bhesajjehi vā paricchedo kato hoti, ettakāyeva rattiyo ettakāni vā bhesajjāni viññāpetabbānīti. Atha tato rattipariyantato vā bhesajjapariyantato vā uttari na bhesajjakaraṇīyena vā bhesajjaṃ aññabhesajjakaraṇīyena vā aññaṃ bhesajjaṃ viññāpentassa pācittiyaṃ vuttaṃ. Tasmā agilāno gilānasaññī hutvā pañca bhesajjāni viññāpento na bhesajjakaraṇīyena bhesajjaṃ viññāpento nāma hotīti ‘‘mahānāmasikkhāpadena kāretabbo’’ti vuttaṃ. Etāni pāṭidesanīyavatthūnīti pāḷiyaṃ āgatasappiādīni sandhāya vuttaṃ. Pāḷiyaṃ anāgatāni pana akappiyasappiādīni bhikkhunīnampi dukkaṭavatthūnīti veditabbaṃ. Sūpodanaviññattiyanti bhikkhūnaṃ pācittiyavatthūni bhikkhunīnaṃ pāṭidesanīyavatthūni ca ṭhapetvā avasesaviññattiṃ sandhāya vuttaṃ. Sesamettha uttānameva. Paṇītabhojanatā, agilānatā, akataviññattiyā paṭilābho, ajjhoharaṇanti imāni panettha cattāri aṅgāni.
Đây được gọi là điều học Mahānāma. Và theo điều học này, ở nơi đã được thỉnh mời về các dược phẩm cho người bệnh theo cách của Tăng chúng, nếu ở đó có sự giới hạn bằng số đêm hoặc bằng các loại thuốc, thì chỉ nên gợi ý chừng ấy đêm hoặc chừng ấy loại thuốc. Còn nếu gợi ý quá hơn giới hạn về đêm hoặc giới hạn về thuốc đó, hoặc gợi ý thuốc khi không có việc cần dùng thuốc, hoặc gợi ý một loại thuốc khác khi cần dùng một loại thuốc khác, thì đã nói là phạm tội Ưng Đối Trị. Do đó, người không bị bệnh, có tưởng là bị bệnh, khi gợi ý năm loại thuốc, thì được gọi là người gợi ý thuốc khi không có việc cần dùng thuốc, nên đã nói là “phải được xử theo điều học Mahānāma.” “Đây là các đối tượng của tội Ưng Phát Lộ,” được nói ám chỉ đến bơ v.v… đã có trong Pāḷi. Tuy nhiên, cần phải biết rằng các loại bơ không hợp lệ v.v… không có trong Pāḷi thì là đối tượng của tội Tác Ác ngay cả đối với các Tỳ-khưu-ni. “Bằng sự gợi ý canh,” được nói ám chỉ đến sự gợi ý còn lại, sau khi đã trừ ra các đối tượng của tội Ưng Đối Trị của các Tỳ-khưu và các đối tượng của tội Ưng Phát Lộ của các Tỳ-khưu-ni. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là vật thực hảo hạng, tình trạng không bị bệnh, sự nhận được do sự gợi ý đã làm, và việc nuốt vào; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Paṇītabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học vật thực hảo hạng đã kết thúc.
10. Dantaponasikkhāpadavaṇṇanā
10. Sự giải về điều học vật làm sạch răng
263. Dasame ayyavosāṭitakānīti pitupiṇḍassetaṃ adhivacanaṃ. Ummāreti susāne katagehassa attano gehassa vā ummāre. Ghanabaddhoti ghanamaṃsena sambaddho, kathinasaṃhatasarīroti vuttaṃ hoti.
263. Ở điều học thứ mười, “những thứ do các ngài vứt bỏ” là tên gọi khác của vật cúng cho tổ tiên. “Ở ngưỡng cửa,” là ở ngưỡng cửa của ngôi nhà được làm trong nghĩa địa hoặc của nhà mình. “Thân hình rắn chắc,” là được kết nối bằng thịt rắn chắc, có nghĩa là có thân hình cứng cáp, vạm vỡ.
264.Mukhadvāranti galanāḷikaṃ. Āhāranti ajjhoharitabbaṃ yaṃkiñci yāvakālikādiṃ. Āhareyyāti mukhadvāraṃ paveseyya. Mukhena vā paviṭṭhaṃ hotu nāsikāya vā, galena ajjhoharaṇīyattā sabbampi taṃ mukhadvāraṃ pavesitameva hoti. Yasmā pana te bhikkhū anāhārepi udake āhārasaññāya dantapone ca mukhadvāraṃ āhaṭaṃ idanti saññāya kukkuccāyiṃsu, tasmā vuttaṃ ‘‘te bhikkhū adinnaṃ…pe… sammā atthaṃ asallakkhetvā kukkuccāyiṃsū’’ti. Udakañhi yathāsukhaṃ pātuṃ dantakaṭṭhañca dantaponaparibhogena paribhuñjituṃ vaṭṭati, tassa pana rasaṃ gilituṃ na vaṭṭati. Sacepi dantakaṭṭharaso ajānantassa anto pavisati, pācittiyameva. Anajjhoharantena pana dantakaṭṭhaṃ vā hotu aññaṃ vā, kiñci mukhe pakkhipituṃ vaṭṭati.
264.“Cửa miệng” là cuống họng. “Thức ăn” là bất cứ thứ gì phải được nuốt vào như vật thực được phép dùng trong buổi sáng v.v… “Đưa vào,” là đưa vào cửa miệng. Dù đi vào bằng miệng hay bằng mũi, do phải được nuốt xuống bằng cổ họng, nên tất cả đều được xem là đã được đưa vào cửa miệng. Tuy nhiên, vì các Tỳ-khưu đó, ngay cả đối với nước không phải là thức ăn, cũng có tưởng là thức ăn, và đối với vật làm sạch răng cũng có tưởng là “đây là vật đã được đưa vào cửa miệng,” nên đã phân vân. Do đó, đã nói: “các Tỳ-khưu đó, do chưa được cho… cho đến… đã phân vân do không nhận thấy đúng ý nghĩa.” Thật vậy, nước thì được phép uống tùy thích, và tăm xỉa răng cũng được phép dùng với công dụng làm sạch răng, nhưng không được phép nuốt nước của nó. Ngay cả nếu nước tăm xỉa răng đi vào trong mà không biết, cũng phạm tội Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, đối với người không nuốt vào, được phép đặt bất cứ thứ gì vào miệng, dù là tăm xỉa răng hay thứ khác.
265.Akallakoti gilāno sahatthā paribhuñjituṃ asakkonto mukhena paṭiggaṇhāti. Uccāraṇamattanti ukkhipanamattaṃ. Ekadesenapīti aṅguliyāpi phuṭṭhamattena. Taṃ ce paṭiggaṇhāti, sabbaṃ paṭiggahitamevāti veṇukoṭiyā bandhitvā ṭhapitattā. Sacepi bhūmiyaṃ ṭhitameva ghaṭaṃ dāyakena hatthapāse ṭhatvā ghaṭaṃ dassāmīti dinnaveṇukoṭiggahaṇavasena paṭiggaṇhāti, ubhayakoṭibaddhaṃ sabbampi paṭiggahitameva hoti. Bhikkhussa atthāya apīḷetvā pakatiyā pīḷiyamānaucchurasaṃ sandhāya ‘‘gaṇhathā’’ti vuttattā ‘‘abhihāro na paññāyatī’’ti vuttaṃ. Hatthapāse ṭhitassa pana bhikkhussa atthāya pīḷiyamānā ucchuto paggharantaṃ rasaṃ gaṇhituṃ vaṭṭati, doṇikāya sayaṃ paggharantaṃ ucchurasaṃ majjhe āvaritvā āvaritvā vissajjitampi gaṇhituṃ vaṭṭati. Katthaci aṭṭhakathāsu.
265.“Người ốm yếu” là người bệnh, không thể tự mình hưởng dụng, nên nhận bằng miệng. “Chỉ là sự nâng lên,” là chỉ là việc nhấc lên. “Dù chỉ một phần,” là dù chỉ chạm bằng ngón tay. “Nếu nhận cái đó, thì tất cả đều được xem là đã nhận,” là do đã được buộc vào đầu ống sậy. Ngay cả khi nhận cái bát đang được đặt trên đất bằng cách nhận đầu ống sậy do người cho đứng trong tầm tay đưa cho với ý nghĩ “tôi sẽ cho cái bát,” thì tất cả những gì được buộc ở hai đầu cũng đều được xem là đã nhận. Do đã nói “hãy nhận” ám chỉ đến nước mía đang tự chảy ra mà không phải do ép vì lợi ích của Tỳ-khưu, nên đã nói: “sự dâng cúng không được biết đến.” Tuy nhiên, đối với Tỳ-khưu đang đứng trong tầm tay, được phép nhận nước mía đang chảy ra từ cây mía đang được ép vì lợi ích của mình. Cũng được phép nhận cả nước mía tự chảy trong máng, sau khi đã ngăn lại ở giữa rồi lại cho chảy đi. “Ở một số nơi,” là trong các bộ Chú giải.
Asaṃhārimeti thāmamajjhimena purisena asaṃhāriye. ‘‘Tintiṇikādipaṇṇesū’’ti vacanato sākhāsu paṭiggahaṇaṃ ruhatīti daṭṭhabbaṃ. Puñchitvā paṭiggahetvāti ettha ‘‘puñchite paṭiggahaṇakiccaṃ natthi, tasmā puñchitvā gahetvāti evamattho gahetabbo’’ti vadanti. Puñchitvā paṭiggahetvā vāti evamettha attho daṭṭhabbo. Patte patitarajanacuṇṇañhi abbhantaraparibhogatthāya aparihaṭabhāvato paṭiggahetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Pubbābhogassa anurūpena ‘‘anupasampannassa datvā…pe… vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Yasmā pana taṃ ‘‘aññassa dassāmī’’ti cittuppādamattena parasantakaṃ nāma na hoti, tasmā tassa adatvāpi paṭiggahetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati.
“Vật không thể di chuyển được,” là vật không thể di chuyển được bởi một người đàn ông có sức mạnh trung bình. Theo câu “trong các loại lá như lá me v.v…,” cần phải thấy rằng việc nhận trên các cành cây thì được phép. Về câu “sau khi đã lau và nhận,” ở đây, có người nói rằng: “đối với vật đã được lau, thì không cần phải nhận, do đó cần phải hiểu ý nghĩa là sau khi đã lau và lấy.” Ở đây, cần phải hiểu ý nghĩa là sau khi đã lau hoặc nhận. Thật vậy, bụi phấn rơi vào bát, do không được mang đi vì mục đích hưởng dụng bên trong, nên được phép nhận và hưởng dụng. Tương ứng với sự suy xét trước đó, đã nói: “sau khi đã cho người chưa cụ túc viên mãn… cho đến… thì được phép.” Tuy nhiên, vì nó không trở thành tài sản của người khác chỉ bằng sự khởi tâm “tôi sẽ cho người khác,” nên ngay cả khi chưa cho người đó, cũng được phép nhận và hưởng dụng.
Bhikkhussa detīti aññassa bhikkhussa deti. Kañjikanti khīrarasādiṃ yaṃkiñci dravaṃ sandhāya vuttaṃ. Hatthato mocetvā puna gaṇhāti, uggahitakaṃ hotīti āha ‘‘hatthato amocentenevā’’ti. Ālulentānanti ālolentānaṃ, ayameva vā pāṭho. Āharitvā bhūmiyaṃ ṭhapitattā abhihāro natthīti āha ‘‘patto paṭiggahetabbo’’ti. Paṭhamataraṃ uḷuṅkato thevā patte patantīti ettha ‘‘yathā paṭhamataraṃ patitatheve doso natthi, tathā ākiritvā apanentānaṃ pacchā patitathevepi abhihaṭattā nevatthi doso’’ti vadanti. Carukenāti khuddakabhājanena. Mukhavaṭṭiyāpi gahetuṃ vaṭṭatīti mukhavaṭṭiṃ ukkhipitvā hatthe phusāpite gaṇhituṃ vaṭṭati. Kecīti abhayagirivāsino. Esa nayoti kāyapaṭibaddhapaṭibaddhampi kāyapaṭibaddhamevāti ayaṃ nayo. Tathā ca tattha kāyapaṭibaddhe taṃpaṭibaddhe ca thullaccayameva vuttaṃ.
“Cho Tỳ-khưu,” là cho một Tỳ-khưu khác. “Cháo loãng,” được nói ám chỉ đến bất cứ chất lỏng nào như sữa, nước canh v.v… Nếu buông khỏi tay rồi nhận lại, thì trở thành vật đã được cầm lên, nên ngài nói: “chỉ khi không buông khỏi tay.” “Của những người đang khuấy,” là của những người đang trộn, hoặc đây chính là bản văn. Do đã được mang đến và đặt trên đất, nên không có sự dâng cúng, do đó ngài nói: “bát phải được nhận.” Về câu “hơi nước rơi vào bát trước tiên,” ở đây, có người nói rằng: “cũng như đối với hơi nước rơi vào trước tiên không có lỗi, cũng vậy, đối với hơi nước rơi vào sau khi họ đã đổ đi và dọn dẹp, do đã được dâng cúng, nên cũng không có lỗi.” “Bằng cái bát nhỏ,” là bằng vật chứa nhỏ. “Cũng được phép nhận bằng miệng bát,” là sau khi đã nhấc miệng bát lên và được chạm vào tay, thì được phép nhận. “Một số người,” là các vị ở Abhayagiri. “Đây là phương pháp,” là, vật gắn liền với vật gắn liền với thân cũng chính là vật gắn liền với thân, đây là phương pháp. Và ở đó, đối với vật gắn liền với thân và vật gắn liền với nó, đã nói là tội Trọng Tội.
Tenāti yassa bhikkhuno santikaṃ gataṃ, tena. Tasmāti yasmā mūlaṭṭhasseva paribhogo anuññāto, tasmā. Taṃ divasaṃ hatthena gahetvā dutiyadivase paṭiggahetvā paribhuñjantassa uggahitakapaṭiggahitaṃ hotīti āha ‘‘anāmasitvā’’ti. Appaṭiggahitattā ‘‘sannidhipaccayā anāpattī’’ti vuttaṃ. Appaṭiggahetvā paribhuñjantassa adinnamukhadvārāpatti hotīti āha ‘‘paṭiggahetvā pana paribhuñjitabba’’nti. ‘‘Taṃ divasaṃ…pe… na tato para’’nti vacanato taṃ divasaṃ hatthena gahetvā vā aggahetvā vā ṭhapitaṃ dutiyadivase appaṭiggahetvā paribhuñjantassa adinnamukhadvārāpatti hoti, hatthena gahetvā ṭhapitaṃ dutiyadivase paṭiggahetvā paribhuñjantassa pana uggahitakapaṭiggahitaṃ hoti. Appaṭiggahitameva hi hatthena gahetvā ṭhapitaṃ. ‘‘Sāmaṃ gahetvā paribhuñjitu’’nti hi vacanato appaṭiggahitasseva tasmiṃ divase paribhogo anuññāto. Tasmā yaṃ vuttaṃ gaṇṭhipade ‘‘taṃ diyyamānaṃ patatīti ettha yathā gaṇabhojanādīsu gilānādīnaṃ kukkuccāyantānaṃ gaṇabhojanaṃ anuññātaṃ, evamidhāpi bhagavatā paṭiggahitameva kukkuccavinodanatthaṃ anuññāta’’nti, taṃ na gahetabbaṃ. ‘‘Taṃ diyyamānaṃ patatī’’ti avisesena vuttattā catūsupi kālikesu ayaṃ nayo veditabbo.
“Bởi người đó,” là bởi Tỳ-khưu mà nó đã đến. “Do đó,” là vì sự hưởng dụng của vật ở gốc đã được cho phép, do đó. Đối với người cầm bằng tay vào ngày đó và nhận vào ngày thứ hai rồi hưởng dụng, thì trở thành vật đã được nhận sau khi đã cầm lên, nên ngài nói: “sau khi không chạm vào.” Do chưa được nhận, nên đã nói: “vô tội do duyên cất giữ.” Đối với người hưởng dụng mà không nhận, thì phạm tội đưa vật chưa được cho vào miệng, nên ngài nói: “tuy nhiên, phải nhận rồi mới hưởng dụng.” Theo câu “vào ngày đó… cho đến… không phải sau đó,” vật được đặt xuống vào ngày đó, dù có cầm bằng tay hay không, nếu hưởng dụng vào ngày thứ hai mà không nhận, thì phạm tội đưa vật chưa được cho vào miệng. Còn vật đã được cầm bằng tay và đặt xuống, nếu nhận vào ngày thứ hai rồi hưởng dụng, thì trở thành vật đã được nhận sau khi đã cầm lên. Thật vậy, chính vật chưa được nhận đã được cầm bằng tay và đặt xuống. Theo câu “tự mình lấy và hưởng dụng,” sự hưởng dụng của vật chưa được nhận chỉ được cho phép trong ngày đó. Do đó, điều đã được nói trong sách nghĩa giải rằng: “‘nó rơi xuống trong khi đang được cho,’ ở đây, cũng như trong các trường hợp bữa ăn chung nhóm v.v…, bữa ăn chung nhóm đã được cho phép cho những người bệnh v.v… đang phân vân, cũng vậy ở đây, đức Thế Tôn đã cho phép chính vật đã được nhận để xua tan sự phân vân,” điều đó không nên được chấp nhận. Do đã nói một cách không phân biệt là “nó rơi xuống trong khi đang được cho,” nên phương pháp này cần phải được biết trong cả bốn loại vật thực theo thời gian.
Satthakenāti paṭiggahitasatthakena. Kasmā panettha uggahitapaccayā sannidhipaccayā vā doso na siyāti āha ‘‘na hi taṃ paribhogatthāya pariharantī’’ti. Imināva bāhiraparibhogatthaṃ sāmaṃ gahetvā anupasampannena dinnaṃ vā gahetvā pariharituṃ vaṭṭatīti dīpeti. Tasmā pattasammakkhanādiatthaṃ sāmaṃ gahetvā parihaṭatelādiṃ sace paribhuñjitukāmo hoti, paṭiggahetvā paribhuñjantassa anāpatti. Abbhantaraparibhogatthaṃ pana sāmaṃ gahitaṃ paṭiggahetvā paribhuñjantassa uggahitakapaṭiggahitaṃ hoti, appaṭiggahetvā paribhuñjantassa adinnamukhadvārāpatti hoti, abbhantaraparibhogatthameva anupasampannena dinnaṃ gahetvā pariharantassa siṅgīloṇakappo viya sannidhipaccayā āpatti hoti. Keci pana ‘‘thāmamajjhimassa purisassa uccāraṇamattaṃ hotītiādinā vuttapañcaṅgasampattiyā paṭiggahaṇassa ruhanato bāhiraparibhogatthampi sace anupasampannena dinnaṃ gaṇhāti, paṭiggahitamevā’’ti vadanti. Evaṃ sati idha bāhiraparibhogatthaṃ anupasampannena dinnaṃ gahetvā pariharantassa sannidhipaccayā āpatti vattabbā siyā, ‘‘na hi taṃ paribhogatthāya pariharantī’’ti ca na vattabbaṃ, tasmā bāhiraparibhogatthaṃ gahitaṃ paṭiggahitaṃ nāma na hotīti veditabbaṃ. Yadi evaṃ pañcasu paṭiggahaṇaṅgesu ‘‘paribhogatthāyā’’ti visesanaṃ vattabbanti? Na vattabbaṃ. Paṭiggahaṇañhi paribhogatthameva hotīti ‘‘paribhogatthāyā’’ti visuṃ avatvā ‘‘tañce bhikkhu kāyena vā kāyapaṭibaddhena vā paṭiggaṇhātī’’ti ettakameva vuttaṃ. Apare pana ‘‘satipi paṭiggahaṇe ‘na hi taṃ paribhogatthāya pariharantī’ti idha aparibhogatthāya pariharaṇe anāpatti vuttā’’ti vadanti. Udukkhalamusalāni khiyyantīti ettha udukkhalamusalānaṃ khayena pisitakoṭṭitabhesajjesu sace āgantukavaṇṇo paññāyati, na vaṭṭati.
“Bằng dao,” là bằng dao đã được nhận. Tại sao ở đây lại không có lỗi do duyên vật đã cầm lên hoặc duyên cất giữ? Về điều này, ngài nói: “thật vậy, họ không mang nó đi vì mục đích hưởng dụng.” Bằng điều này, ngài chỉ ra rằng được phép tự mình lấy hoặc nhận vật đã được người chưa cụ túc viên mãn cho vì mục đích hưởng dụng bên ngoài rồi mang đi. Do đó, dầu, v.v… đã được tự mình lấy và mang đi vì mục đích lau bát, v.v…, nếu muốn hưởng dụng, thì đối với người nhận và hưởng dụng, vô tội. Tuy nhiên, đối với người nhận và hưởng dụng vật đã được tự mình lấy vì mục đích hưởng dụng bên trong, thì trở thành vật đã được nhận sau khi đã cầm lên; đối với người hưởng dụng mà không nhận, thì phạm tội đưa vật chưa được cho vào miệng; đối với người nhận và mang đi vật đã được người chưa cụ túc viên mãn cho chính vì mục đích hưởng dụng bên trong, thì phạm tội do duyên cất giữ, giống như trường hợp muối siṅgī. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “do sự nhận được thành tựu với năm chi phần đã được nói bằng các câu như ‘chỉ là sự nâng lên của một người đàn ông có sức mạnh trung bình’ v.v…, nên ngay cả vì mục đích hưởng dụng bên ngoài, nếu nhận vật đã được người chưa cụ túc viên mãn cho, thì cũng là đã nhận.” Nếu vậy, ở đây phải nói là phạm tội do duyên cất giữ đối với người nhận và mang đi vật đã được người chưa cụ túc viên mãn cho vì mục đích hưởng dụng bên ngoài, và cũng không nên nói “thật vậy, họ không mang nó đi vì mục đích hưởng dụng.” Do đó, cần phải biết rằng vật được lấy vì mục đích hưởng dụng bên ngoài thì không được gọi là đã nhận. Nếu vậy, trong năm chi phần của sự nhận, có nên nói thêm sự phân biệt “vì mục đích hưởng dụng” không? Không nên nói. Thật vậy, sự nhận chính là vì mục đích hưởng dụng, nên không cần nói riêng là “vì mục đích hưởng dụng,” mà chỉ nói chừng ấy là “nếu Tỳ-khưu đó nhận bằng thân hoặc bằng vật gắn liền với thân.” Những người khác lại nói: “ngay cả khi có sự nhận, do ở đây đã nói là vô tội khi mang đi vì mục đích không phải là hưởng dụng là ‘thật vậy, họ không mang nó đi vì mục đích hưởng dụng.’” Về câu “cối và chày bị mòn,” ở đây, do sự mòn của cối và chày, nếu trong các loại thuốc đã được giã và nghiền, có màu sắc lạ xuất hiện, thì không được phép.
Suddhaṃ udakaṃ hotīti rukkhasākhādīhi gaḷitvā patanaudakaṃ sandhāya vuttaṃ. Patto vāssa paṭiggahetabboti etthāpi pattagataṃ chupitvā dentassa hatthalaggena āmisena dosābhāvatthaṃ pattapaṭiggahaṇanti abbhantaraparibhogatthameva paṭiggahaṇaṃ veditabbaṃ. Yaṃ sāmaṇerassa patte patati…pe… paṭiggahaṇaṃ na vijahatīti ettha punappunaṃ gaṇhantassa attano patte pakkhittameva ‘‘attano santaka’’nti sanniṭṭhānakaraṇato hatthagataṃ paṭiggahaṇaṃ na vijahati, paricchinditvā dinnaṃ pana gaṇhantassa gahaṇasamayeyeva ‘‘attano santaka’’nti sanniṭṭhānassa katattā hatthagataṃ paṭiggahaṇaṃ vijahati. Kesañci atthāya odanaṃ pakkhipatīti ettha anupasampannassa atthāya pakkhipantepi ‘‘āgantvā gaṇhissatī’’ti sayameva pakkhipitvā ṭhapanato paṭiggahaṇaṃ na vijahati, anupasampannassa hatthe pakkhittaṃ pana anupasampanneneva ṭhapitaṃ nāma hotīti paṭiggahaṇaṃ vijahati pariccattabhāvato. Tena vuttaṃ ‘‘sāmaṇera…pe… pariccattattā’’ti.
“Là nước trong,” được nói ám chỉ đến nước rơi xuống sau khi đã lọc qua các cành cây v.v… “Hoặc bát của vị ấy phải được nhận,” ở đây cũng vậy, để không có lỗi do vật chất dính ở tay của người đang cho sau khi đã chạm vào bát, nên việc nhận bát, tức là việc nhận vì chính mục đích hưởng dụng bên trong, cần phải được biết. “Cái gì rơi vào bát của Sa-di… cho đến… không từ bỏ việc nhận,” ở đây, đối với người nhận đi nhận lại, do xác định rằng “chính vật được đặt trong bát của mình là của mình,” nên việc nhận đã được cầm bằng tay không bị từ bỏ. Còn đối với người nhận vật đã được cho sau khi đã phân định, do đã xác định ngay lúc nhận rằng “đây là của mình,” nên việc nhận đã được cầm bằng tay bị từ bỏ. “Đặt cơm vì lợi ích của một số người,” ở đây, ngay cả khi đặt vì lợi ích của người chưa cụ túc viên mãn, do tự mình đặt xuống với ý nghĩ “họ sẽ đến nhận,” nên việc nhận không bị từ bỏ. Còn vật được đặt vào tay của người chưa cụ túc viên mãn thì được gọi là đã được đặt bởi chính người chưa cụ túc viên mãn, nên việc nhận bị từ bỏ do đã được xả bỏ. Do đó đã được nói: “Sa-di… cho đến… do đã được xả bỏ.”
Paṭiggahaṇūpagaṃ bhāraṃ nāma thāmamajjhimassa purisassa ukkhepārahaṃ. Kiñcāpi avissajjetvāva aññena hatthena pidahantassa doso natthi, tathāpi na pidahitabbanti aṭṭhakathāpamāṇeneva gahetabbaṃ. Macchikavāraṇatthanti ettha ‘‘sacepi sākhāya laggarajaṃ patte patati, sukhena paribhuñjituṃ sakkāti sākhāya paṭiggahitattā abbhantaraparibhogatthamevidha paṭiggahaṇanti mūlapaṭiggahaṇameva vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Apare pana ‘‘macchikavāraṇatthanti ettha vacanamattaṃ gahetvā bāhiraparibhogatthaṃ gahita’’nti vadanti. Tasmimpi asatīti cāṭiyā vā kuṇḍake vā asati. Anupasampannaṃ gāhāpetvāti taṃyeva ajjhoharaṇīyabhaṇḍaṃ anupasampannena gāhāpetvā. Therassa pattaṃ anutherassāti therassa pattaṃ attanā gahetvā anutherassa deti. Tuyhaṃ yāguṃ mayhaṃ dehīti ettha evaṃ vatvā sāmaṇerassa pattaṃ gahetvā attanopi pattaṃ tassa deti. Ettha panāti paṇḍito sāmaṇerotiādipattaparivattanakathāya. Kāraṇaṃ upaparikkhitabbanti yathā mātuādīnaṃ telādīni haranto tathārūpe kicce anupasampannena aparivattetvāva paribhuñjituṃ labhati, evamidha pattaparivattanaṃ akatvā paribhuñjituṃ na labhatīti ettha kāraṇaṃ vīmaṃsitabbanti attho.
Vật nặng có thể được nhận là vật có thể được nâng lên bởi một người đàn ông có sức mạnh trung bình. Mặc dù không có lỗi đối với người che đậy bằng một tay khác mà không buông ra, tuy nhiên, cần phải hiểu theo tiêu chuẩn của Chú giải là không nên che đậy. Về câu “để ngăn ruồi,” ở đây, đã nói rằng: “ngay cả nếu bụi dính trên cành cây rơi vào bát, cũng có thể hưởng dụng một cách dễ dàng, do đã được nhận bằng cành cây, nên việc nhận ở đây là vì mục đích hưởng dụng bên trong, do đó chỉ có việc nhận ở gốc mới được phép.” Những người khác lại nói: “ở câu ‘để ngăn ruồi,’ chỉ lấy lời nói mà hiểu là đã lấy vì mục đích hưởng dụng bên ngoài.” “Ngay cả khi không có cái đó,” là khi không có cái chum hoặc cái chậu. “Sau khi đã nhờ người chưa cụ túc viên mãn cầm,” là sau khi đã nhờ người chưa cụ túc viên mãn cầm chính vật phẩm có thể nuốt vào đó. “Bát của vị trưởng lão cho vị hạ lạp hơn,” là tự mình nhận bát của vị trưởng lão rồi đưa cho vị hạ lạp hơn. “Hãy cho tôi cháo của thầy,” ở đây, sau khi nói như vậy, vị ấy nhận bát của Sa-di và cũng đưa bát của mình cho vị ấy. “Tuy nhiên, ở đây,” là trong câu chuyện về việc đổi bát của Sa-di thông thái v.v… “Phải xem xét lý do,” có nghĩa là, cũng như khi mang dầu v.v… cho mẹ v.v…, trong công việc như vậy, được phép hưởng dụng mà không cần đổi với người chưa cụ túc viên mãn; cũng vậy ở đây, tại sao lại không được phép hưởng dụng mà không đổi bát, phải xem xét lý do ở đó.
Ettha pana ‘‘sāmaṇerehi gahitataṇḍulesu parikkhīṇesu avassaṃ amhākaṃ sāmaṇerā saṅgahaṃ karontīti vitakkuppatti sambhavati, tasmā taṃ parivattetvāva paribhuñjitabbaṃ. Mātāpitūnaṃ atthāya pana chāyatthāya vā gahaṇe paribhogāsā natthi, tasmā taṃ vaṭṭatī’’ti kāraṇaṃ vadanti. Teneva ācariyabuddhadattattherenapi vuttaṃ –
Tuy nhiên, ở đây, có người nói lý do rằng: “khi gạo do các Sa-di lấy đã hết, có khả năng phát sinh suy nghĩ rằng ‘chắc chắn các Sa-di của chúng ta sẽ giúp đỡ,’ do đó phải đổi rồi mới hưởng dụng. Còn trong việc mang vì lợi ích của cha mẹ hoặc vì bóng mát, không có hy vọng về sự hưởng dụng, do đó được phép.” Chính vì thế, trưởng lão Buddhadata cũng đã nói: –
‘‘Mātāpitūnamatthāya, telādiharatopi ca;
Sākhaṃ chāyādiatthāya, imesaṃ na visesati.
‘‘Tasmā hissa visesassa, cintetabbaṃ tu kāraṇaṃ;
Tassa sālayabhāvaṃ tu, visesaṃ takkayāma ta’’nti.
“Đối với người mang dầu v.v… vì lợi ích của cha mẹ;
Và cành cây vì bóng mát v.v…, đối với những điều này không có sự khác biệt.
“Do đó, đối với sự khác biệt của vị ấy, cần phải suy nghĩ về lý do;
Chúng ta suy đoán rằng tình trạng có nơi nương tựa của vị ấy chính là sự khác biệt.”
Idamevettha yuttataraṃ avassaṃ tathāvidhavitakkuppattiyā sambhavato. Na sakkā hi ettha vitakkaṃ sodhetunti. Mātādīnaṃ atthāya haraṇe pana nāvassaṃ tathāvidhavitakkuppattīti sakkā vitakkaṃ sodhetuṃ. Yattha hi vitakkaṃ sodhetuṃ sakkā, tattha nevatthi doso. Teneva vakkhati ‘‘sace pana sakkoti vitakkaṃ sodhetuṃ, tato laddhaṃ khāditumpi vaṭṭatī’’ti.
Chính điều này ở đây hợp lý hơn, do chắc chắn có khả năng phát sinh suy nghĩ như vậy. Thật vậy, ở đây không thể thanh lọc được suy nghĩ. Còn trong việc mang vì lợi ích của cha mẹ v.v…, không nhất thiết có sự phát sinh suy nghĩ như vậy, nên có thể thanh lọc được suy nghĩ. Ở đâu có thể thanh lọc được suy nghĩ, ở đó không có lỗi. Chính vì thế, về sau sẽ nói: “tuy nhiên, nếu có thể thanh lọc được suy nghĩ, thì được phép ăn cả vật thực nhận được từ đó.”
Niccāletuṃ na sakkotīti niccāletvā sakkharā apanetuṃ na sakkoti. Ādhārake patto ṭhapitohotīti paṭiggahetabbapattaṃ sandhāya vuttaṃ. Cāletīti vinā kāraṇaṃ cāleti. Satipi kāraṇe bhikkhūnaṃ paribhogārahaṃ cāletuṃ na vaṭṭati. Kiñcāpi ‘‘anujānāmi, bhikkhave, amanussikābādhe āmakamaṃsaṃ āmakalohita’’nti (mahāva. 264) tādise ābādhe attano atthāya āmakamaṃsapaṭiggahaṇaṃ anuññātaṃ, ‘‘āmakamaṃsapaṭiggahaṇā paṭivirato hotī’’ti ca sāmaññato paṭikkhittaṃ, tathāpi attano aññassa vā bhikkhuno atthāya aggahitattā ‘‘sīhavighāsādiṃ…pe… vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Sakkoti vitakkaṃ sodhetunti mayhampi detīti vitakkassa anuppannabhāvaṃ sallakkhetuṃ sakkoti, sāmaṇerassa dassāmīti suddhacittena mayā gahitanti vā sallakkhetuṃ sakkoti.
“Không thể làm cho lay động,” là không thể làm cho lay động để loại bỏ sỏi. “Bát được đặt trên giá đỡ,” được nói ám chỉ đến cái bát phải được nhận. “Làm cho lay động,” là làm cho lay động mà không có lý do. Ngay cả khi có lý do, cũng không được phép làm lay động vật đáng được các Tỳ-khưu hưởng dụng. Mặc dù trong bệnh do phi nhân, việc nhận thịt sống và máu tươi vì lợi ích của chính mình đã được cho phép bằng câu: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép thịt sống và máu tươi trong bệnh do phi nhân” (mahāva. 264), và đã bị cấm một cách tổng quát bằng câu: “là người từ bỏ việc nhận thịt sống,” tuy nhiên, do không nhận vì lợi ích của chính mình hay của Tỳ-khưu khác, nên đã nói: “thịt thừa của sư tử v.v… cho đến… thì được phép.” “Có thể thanh lọc được suy nghĩ,” là có thể nhận thấy tình trạng không phát sinh suy nghĩ rằng “họ cũng sẽ cho mình,” hoặc có thể nhận thấy rằng “tôi đã nhận với tâm trong sạch là sẽ cho Sa-di.”
Sace pana mūlepi paṭiggahitaṃ hotīti ettha ‘‘gahetvā gate mayhampi dadeyyunti saññāya sace paṭiggahitaṃ hotī’’ti vadanti. Koṭṭhāse karotīti bhikkhusāmaṇerā ca attano attano abhirucitaṃ koṭṭhāsaṃ gaṇhantūti sabbesaṃ samake koṭṭhāse karoti. Gahitāvasesanti sāmaṇerehi gahitakoṭṭhāsato avasesaṃ. Gaṇhitvāti ‘‘mayhaṃ idaṃ gaṇhissāmī’’ti gahetvā. Idha gahitāvasesaṃ nāma tena gaṇhitvā puna ṭhapitaṃ. Paṭiggahetvāti tadahu paṭiggahetvā. Teneva ‘‘yāvakālikena yāvajīvikasaṃsagge doso natthī’’ti vuttaṃ. Sace pana purimadivase paṭiggahetvā ṭhapitā hoti, sāmisena mukhena tassā vaṭṭiyā dhūmaṃ pivituṃ na vaṭṭati. Samuddodakenāti appaṭiggahitasamuddodakena. Yasmā katakaṭṭhi udakaṃ pasādetvā visuṃ tiṭṭhati, tasmā ‘‘abbohārika’’nti vuttaṃ. Laggatīti mukhe hatthe ca udake sukkhe setavaṇṇaṃ dassentaṃ laggati. Pānīyaṃ gahetvāti attanoyeva atthāya gahetvā. Sace pana pītāvasesaṃ tattheva ākirissāmīti gaṇhāti, puna paṭiggahaṇakiccaṃ natthi. Vikkhambhetvāti viyūhitvā, apanetvāti attho.
“Tuy nhiên, nếu ở gốc cũng đã được nhận,” ở đây, có người nói rằng: “nếu đã được nhận với tưởng rằng ‘khi họ mang đi, họ cũng có thể cho mình.’” “Chia thành các phần,” là chia thành các phần bằng nhau cho tất cả để các Tỳ-khưu và Sa-di có thể nhận phần mình thích. “Phần còn lại sau khi đã lấy,” là phần còn lại từ các phần đã được các Sa-di lấy. “Sau khi đã lấy,” là sau khi đã lấy với ý nghĩ “tôi sẽ lấy cái này của tôi.” Ở đây, phần còn lại sau khi đã lấy là vật đã được vị ấy lấy rồi lại đặt xuống. “Sau khi đã nhận,” là sau khi đã nhận vào ngày đó. Chính vì thế đã nói: “không có lỗi trong việc trộn lẫn vật thực được phép dùng suốt đời với vật thực được phép dùng trong buổi sáng.” Tuy nhiên, nếu nó đã được nhận và đặt xuống vào ngày hôm trước, thì không được phép hút thuốc từ điếu thuốc đó bằng miệng có dính vật chất. “Bằng nước biển,” là bằng nước biển chưa được nhận. Vì vôi đã được xử lý làm cho nước trong lại và lắng xuống riêng, nên đã nói là “không phải là đối tượng tranh chấp.” “Dính lại,” là khi nước khô đi, màu trắng hiện ra dính lại trong miệng và trên tay. “Sau khi đã lấy nước,” là sau khi đã lấy vì lợi ích của chính mình. Tuy nhiên, nếu lấy với ý nghĩ “tôi sẽ đổ phần đã uống còn lại ngay tại đó,” thì không cần phải nhận lại. “Sau khi đã dọn dẹp,” là sau khi đã dời đi, sau khi đã loại bỏ.
Mahābhūtesūti sarīranissitesu mahābhūtesu. Patatīti vicchinditvā patati. Vicchinditvā patitameva hi paṭiggahetabbaṃ, na itaraṃ. Alladāruṃ rukkhato chinditvāpi kātuṃ vaṭṭatīti ettha mattikatthāya pathaviṃ khaṇitumpi vaṭṭatīti veditabbaṃ. Sappadaṭṭhakkhaṇeyeva vaṭṭatīti asati kappiyakārake sāmaṃ gahetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati, aññadā paṭiggahāpetvā paribhuñjitabbaṃ. Sesamettha uttānameva. Appaṭiggahitatā, ananuññātatā, dhūmādiabbohārikābhāvo, ajjhoharaṇanti imāni panettha cattāri aṅgāni.
“Trong các đại chủng,” là trong các đại chủng nương vào thân thể. “Rơi xuống,” là rơi xuống sau khi đã bị tách rời. Thật vậy, chỉ có vật đã rơi xuống sau khi đã bị tách rời mới phải được nhận, không phải vật khác. Về câu “được phép chặt cả cây tươi từ trên cây xuống để làm,” ở đây, cần phải biết rằng cũng được phép đào đất để lấy đất sét. “Chỉ được phép ngay lúc bị rắn cắn,” là khi không có người làm cho hợp lệ, được phép tự mình lấy và hưởng dụng; vào lúc khác, phải nhờ người nhận rồi mới hưởng dụng. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Tình trạng chưa được nhận, tình trạng chưa được cho phép, việc không phải là vật không thể tranh cãi như khói v.v…, và việc nuốt vào; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Dantaponasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học vật làm sạch răng đã kết thúc.
Niṭṭhito bhojanavaggo catuttho.
Phẩm về Vật Thực, là phẩm thứ tư, đã kết thúc.
5. Acelakavaggo
5. Phẩm Lõa Thể
1. Acelakasikkhāpadavaṇṇanā
1. Sự giải về điều học người lõa thể
273. Acelakavaggassa paṭhamasikkhāpade tesanti titthiyānaṃ. Tatthāti bhājane. Itoti pattato. Sace titthiyo vadatīti ‘‘paṭhamameva maṃ sandhāya abhiharitvā ṭhapitaṃ mayhaṃ santakaṃ hoti, imasmiṃ bhājane ākirathā’’ti vadati, vaṭṭati. Sesamettha uttānameva. Aññatitthiyatā, ajjhoharaṇīyatā , ajjhoharaṇatthāya sahatthā anikkhittabhājane dānanti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
273. Ở điều học đầu tiên của Phẩm Lõa Thể, “của họ” là của các du sĩ ngoại đạo. “Trong đó” là trong vật chứa. “Từ đây” là từ trong bát. “Nếu du sĩ ngoại đạo nói,” là nếu du sĩ ngoại đạo nói rằng: “vật thực đã được mang đến và đặt xuống vì tôi ngay từ đầu là của tôi, hãy đổ vào vật chứa này,” thì được phép. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là du sĩ ngoại đạo khác, việc là vật có thể nuốt vào, và việc cho vào vật chứa không được đặt xuống bằng chính tay mình vì mục đích nuốt vào; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Acelakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học người lõa thể đã kết thúc.
2. Uyyojanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Sự giải về điều học đuổi đi
274. Dutiyaṃ uttānatthameva. Anācāraṃ ācaritukāmatā, tadatthameva upasampannassa uyyojanā, evaṃ uyyojentassa upacārātikkamoti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
274. Ở điều học thứ hai, ý nghĩa đã rõ ràng. Ý muốn thực hành hành vi không đúng đắn, việc đuổi người đã cụ túc viên mãn đi chỉ vì mục đích đó, và việc đi qua khỏi khu vực cận tiếp của người đang đuổi đi như vậy; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Uyyojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học đuổi đi đã kết thúc.
3. Sabhojanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Sự giải về điều học (phòng) có người
280. Tatiye piṭṭhasaṅghāṭoti dvārabāhāyetaṃ adhivacanaṃ. Khuddakaṃ nāma sayanigharaṃ vitthārato pañcahatthappamāṇaṃ hoti, tassa ca majjhimaṭṭhānaṃ piṭṭhasaṅghāṭato aḍḍhateyyahatthappamāṇameva hoti, tasmā tādise sayanighare piṭṭhasaṅghāṭato hatthapāsaṃ vijahitvā nisinno piṭṭhivaṃsaṃ atikkamitvā nisinno nāma hoti. Evaṃ nisinno ca majjhaṃ atikkamitvā nisinno nāma hotīti āha ‘‘iminā majjhātikkamaṃ dassetī’’ti. Yathā vā tathā vā katassāti piṭṭhivaṃsaṃ āropetvā vā anāropetvā vā katassa. Sacittakanti anupavisitvā nisīdanacittena sacittakaṃ. Sesamettha uttānameva. Pariyuṭṭhitarāgajāyampatikānaṃ sannihitatā, sayanigharatā, dutiyassa bhikkhuno abhāvo, anupakhajja nisīdananti imāni panettha cattāri aṅgāni.
280. Ở điều học thứ ba, “khung cửa” là một tên gọi khác của cột cửa. Một phòng ngủ nhỏ thường có chiều rộng khoảng năm hắc tay, và vị trí giữa của nó chỉ cách khung cửa khoảng hai thước rưỡi. Do đó, trong một phòng ngủ như vậy, người ngồi cách khung cửa một tầm tay được gọi là người ngồi đã đi qua xà nhà giữa. Và người ngồi như vậy được gọi là người ngồi đã đi qua khoảng giữa, do đó ngài nói: “bằng điều này, ngài chỉ ra sự đi qua khoảng giữa.” “Của người đã làm cách này hay cách khác,” là của người đã làm dù có đặt trên xà nhà giữa hay không. “Có tâm,” là có tâm do có ý định đi vào và ngồi. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Sự hiện diện của vợ chồng có lòng tham ái nổi lên, việc là phòng ngủ, sự không có mặt của Tỳ-khưu thứ hai, và việc chen lấn vào ngồi; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Sabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học (phòng) có người đã kết thúc.
284-289. Catutthapañcamesu natthi kiñci vattabbaṃ.
284-289. Ở điều học thứ tư và thứ năm, không có gì để nói.
6. Cārittasikkhāpadavaṇṇanā
6. Sự giải về điều học đi tuần tự
298. Chaṭṭhe pakativacanenāti ettha yaṃ dvādasahatthabbhantare ṭhitena sotuṃ sakkā bhaveyya, taṃ pakativacanaṃ nāma. Āpucchitabboti ‘‘ahaṃ itthannāmassa gharaṃ gacchāmī’’ti vā ‘‘cārittaṃ āpajjāmī’’ti vā īdisena vacanena āpucchitabbo. Sesamettha uttānameva. Pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarena nimantanasādiyanaṃ, santaṃ bhikkhuṃ anāpucchanā, bhattiyagharato aññagharappavesanaṃ, majjhanhikānatikkamo, samayassa vā āpadānaṃ vā abhāvoti imāni panettha pañca aṅgāni.
298. Ở điều học thứ sáu, về câu “bằng lời nói thông thường,” ở đây, lời nói nào có thể được nghe bởi người đứng trong phạm vi mười hai hắc tay, thì được gọi là lời nói thông thường. “Phải được hỏi,” là phải được hỏi bằng lời nói như: “tôi sẽ đi đến nhà của người tên như vầy” hoặc “tôi sẽ đi tuần tự.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc chấp nhận lời thỉnh mời bằng một trong năm loại vật thực, việc không hỏi Tỳ-khưu đang có mặt, việc đi vào một nhà khác ngoài nhà đã thỉnh mời, việc chưa quá giữa trưa, và sự không có thời điểm (thích hợp) hoặc các trường hợp nguy cấp; đây là năm chi phần trong trường hợp này.
Cārittasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học đi tuần tự đã kết thúc.
7. Mahānāmasikkhāpadavaṇṇanā
7. Sự giải về điều học Mahānāma
303. Sattame mahānāmo nāmāti anuruddhattherassa bhātā bhagavato cūḷapitu putto. Suddhodano sakkodano sukkodano dhotodano amitodanoti ime hi pañca janā bhātaro. Amitā nāma devī tesaṃ bhaginī, tissatthero tassā putto. Tathāgato ca nandatthero ca suddhodanassa puttā, mahānāmo ca anuruddhatthero ca sukkodanassa, ānandatthero amitodanassa. So bhagavato kaniṭṭho, mahānāmo mahallakataro sakadāgāmī ariyasāvako. Tena vuttaṃ ‘‘mahānāmo nāma…pe… ariyasāvako’’ti.
303. Ở điều học thứ bảy, “tên là Mahānāma,” là em trai của trưởng lão Anuruddha, là con của chú của đức Thế Tôn. Thật vậy, Suddhodana, Sakkodana, Sukkodana, Dhotodana, và Amitodana, năm người này là anh em. Công nương tên là Amitā là em gái của họ, trưởng lão Tissa là con của bà. Đức Như Lai và trưởng lão Nanda là con của vua Suddhodana, Mahānāma và trưởng lão Anuruddha là con của vua Sukkodana, trưởng lão Ānanda là con của vua Amitodana. Vị ấy là em út của đức Thế Tôn, Mahānāma lớn tuổi hơn, là một vị thánh đệ tử Nhất Lai. Do đó đã được nói: “tên là Mahānāma… cho đến… một vị thánh đệ tử.”
305-306. Pāḷiyaṃ ajjaṇhoti ajja ekadivasanti attho, ‘‘ajjano’’ti vā attho gahetabbo, no amhākaṃ. Kālaṃ āharissathāti sve harissatha. Tato ce uttari sādiyeyyāti sace tattha rattīhi vā bhesajjehi vā paricchedo kato hoti ‘‘ettakāyeva vā rattiyo ettakāni vā bhesajjāni viññāpetabbānī’’ti, tato rattipariyantato vā bhesajjapariyantato vā uttari viññāpento sādiyeyya. ‘‘Imehi tayā bhesajjehi pavāritamha, amhākañca imināva bhesajjena attho’’ti ācikkhitvā viññāpetumpi gilānova labhati.
305-306. Trong Pāḷi, “ajjaṇho” có nghĩa là hôm nay một ngày, hoặc nên hiểu nghĩa là “ajjano,” “no” là của chúng tôi. “Hãy mang đến vào lúc đó,” là hãy mang đến vào ngày mai. “Nếu nhận quá hơn từ đó,” là nếu ở đó có sự giới hạn bằng số đêm hoặc bằng các loại thuốc là “chỉ nên gợi ý chừng ấy đêm hoặc chừng ấy loại thuốc,” nếu gợi ý và nhận quá hơn giới hạn về đêm hoặc giới hạn về thuốc đó. Ngay cả việc gợi ý sau khi đã báo rằng: “chúng tôi đã được ông thỉnh mời bằng các loại thuốc này, và chúng tôi cần chính loại thuốc này,” cũng chỉ người bệnh mới được phép.
310. Yasmā saṅghapavāraṇāyamevāyaṃ vidhi, tasmā ‘‘ye attano puggalikāya pavāraṇāya pavāritā’’ti vuttaṃ. Sesaṃ uttānameva. Saṅghapavāraṇatā , bhesajjaviññatti, agilānatā, pariyantātikkamoti imāni panettha cattāri aṅgāni.
310. Vì quy tắc này chỉ áp dụng cho sự thỉnh mời của Tăng chúng, do đó đã nói: “những người đã được thỉnh mời bằng sự thỉnh mời cá nhân của họ.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là sự thỉnh mời của Tăng chúng, sự gợi ý về thuốc men, tình trạng không bị bệnh, và việc vượt quá giới hạn; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Mahānāmasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học Mahānāma đã kết thúc.
8. Uyyuttasenāsikkhāpadavaṇṇanā
8. Sự giải về điều học đoàn quân đã dàn trận
311. Aṭṭhamaṃ uttānatthameva. Uyyuttasenā, dassanatthāya gamanaṃ, anuññātokāsato aññatra dassanaṃ, tathārūpapaccayassa āpadāya vā abhāvoti imāni panettha cattāri aṅgāni.
311. Ở điều học thứ tám, ý nghĩa đã rõ ràng. Đoàn quân đã dàn trận, việc đi đến để xem, việc xem ở một nơi khác ngoài nơi đã được cho phép, và sự không có lý do hoặc trường hợp nguy cấp tương tự; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Uyyuttasenāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học đoàn quân đã dàn trận đã kết thúc.
9. Senāvāsasikkhāpadavaṇṇanā
9. Sự giải về điều học ở trong quân đội
317. Navamasikkhāpadampi uttānameva. Tirattātikkamo, senāya sūriyassa atthaṅgamo, gilānatādīnaṃ abhāvoti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
317. Điều học thứ chín cũng có ý nghĩa rõ ràng. Việc quá ba đêm, mặt trời lặn trong lúc đang ở trong quân đội, và sự không có bệnh tật v.v…; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Senāvāsasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học ở trong quân đội đã kết thúc.
10. Uyyodhikasikkhāpadavaṇṇanā
10. Sự giải về điều học trận giả
322. Dasame kati te lakkhāni laddhānīti tava sarappahārassa lakkhaṇabhūtā kittakā janā tayā laddhāti attho, kittakā tayā viddhāti vuttaṃ hoti. Sesamettha uttānameva. Uyyodhikādidassanatthāya gamanaṃ, anuññātokāsato aññatra dassanaṃ, tathārūpapaccayassa āpadāya vā abhāvoti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
322. Ở điều học thứ mười, “ngươi đã bắn trúng bao nhiêu mục tiêu?” có nghĩa là có bao nhiêu người là mục tiêu của mũi tên của ngươi mà ngươi đã bắn trúng, tức là có bao nhiêu người đã bị ngươi bắn. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc đi đến để xem trận giả v.v…, việc xem ở một nơi khác ngoài nơi đã được cho phép, và sự không có lý do hoặc trường hợp nguy cấp tương tự; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Uyyodhikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học trận giả đã kết thúc.
Niṭṭhito acelakavaggo pañcamo.
Phẩm Lõa Thể, là phẩm thứ năm, đã kết thúc.
6. Surāpānavaggo
6. Phẩm Uống Rượu
1. Surāpānasikkhāpadavaṇṇanā
1. Sự giải về điều học uống rượu
326-328. Surāpānavaggassa paṭhamasikkhāpade vatiyāti gāmaparikkhepavatiyā. Pāḷiyaṃ piṭṭhasurādīsu piṭṭhaṃ bhājane pakkhipitvā tajjaṃ udakaṃ datvā madditvā katā piṭṭhasurā. Evaṃ pūve odane ca bhājane pakkhipitvā tajjaṃ udakaṃ datvā madditvā katā pūvasurā odanasurāti ca vuccati. ‘‘Kiṇṇā’’ti pana tassā surāya bījaṃ vuccati. Ye surāmodakātipi vuccanti, te pakkhipitvā katā kiṇṇapakkhittā. Harītakīsāsapādinānāsambhārehi saṃyojitā sambhārasaṃyuttā.
326-328. Ở điều học đầu tiên của Phẩm Uống Rượu, “hàng rào” là hàng rào bao quanh làng. Trong Pāḷi, trong các loại rượu từ bột v.v…, rượu được làm bằng cách cho bột vào vật chứa, cho nước vừa đủ vào và trộn lên là rượu bột. Tương tự, rượu được làm bằng cách cho bánh hoặc cơm vào vật chứa, cho nước vừa đủ vào và trộn lên được gọi là rượu bánh và rượu cơm. Còn “men” là tên gọi của mầm của loại rượu đó. Những thứ cũng được gọi là bánh men rượu, khi cho vào và làm thành, đó là rượu được cho men vào. Rượu được kết hợp từ nhiều nguyên liệu như cây harītakī, hạt cải v.v… là rượu được kết hợp từ nhiều nguyên liệu.
Madhukatālanāḷikerādipuppharaso ciraparivāsito pupphāsavo. Panasādiphalaraso phalāsavo. Muddikāraso madhvāsavo. Ucchuraso guḷāsavo. Harītakāmalakakaṭukabhaṇḍādinānāsambhārānaṃ raso ciraparivāsito sambhārasaṃyutto. Bījato paṭṭhāyāti sambhāre paṭiyādetvā cāṭiyaṃ pakkhittakālato, tālanāḷikerādīnaṃ puppharasassa gahitaabhinavakālatoyeva ca paṭṭhāya.
Nước cốt hoa của các cây như madhuka, cọ, dừa v.v… được ủ lâu ngày là rượu hoa. Nước cốt quả của các cây như mít v.v… là rượu quả. Nước nho là rượu mật. Nước mía là rượu đường. Nước cốt của nhiều nguyên liệu như harītaka, āmalaka, các loại gia vị cay v.v… được ủ lâu ngày là rượu được kết hợp từ nhiều nguyên liệu. “Kể từ lúc có mầm,” là kể từ lúc chuẩn bị các nguyên liệu và cho vào chum, và kể từ lúc mới lấy được nước cốt hoa của các cây như cọ, dừa v.v…
329.Loṇasovīrakaṃ suttañca anekehi bhesajjehi abhisaṅkhato amajjabhūto āsavaviseso. Vāsaggāhāpanatthanti sugandhibhāvaggāhāpanatthaṃ. Acittakaṃ lokavajjanti ettha yaṃ vattabbaṃ, taṃ paṭhamapārājikavaṇṇanāyaṃ vuttanayena veditabbaṃ. Sesamettha uttānameva. Majjabhāvo, tassa pānañcāti imāni panettha dve aṅgāni.
329.Nước muối loãng và giấm là một loại rượu đặc biệt không gây say, được chế biến từ nhiều loại thuốc. “Để cho có mùi hương” là để cho có được mùi thơm. “Tội bị thế gian chê bai không do tác ý,” ở đây, điều cần phải nói cần được biết theo phương pháp đã được nói trong sự giải về tội Bất Cộng Trụ thứ nhất. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là chất gây say, và việc uống nó; đây là hai chi phần trong trường hợp này.
Surāpānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học uống rượu đã kết thúc.
2. Aṅgulipatodakasikkhāpadavaṇṇanā
2. Sự giải về điều học chọc lét bằng ngón tay
330. Dutiye bhikkhunīpi anupasampannaṭṭhāne ṭhitāti ettha bhikkhupi bhikkhuniyā anupasampannaṭṭhāne ṭhitoti veditabbo. Sesamettha uttānameva. Hasādhippāyatā, upasampannassa kāyena kāyāmasananti imāni panettha dve aṅgāni.
330. Ở điều học thứ hai, về câu “Tỳ-khưu-ni cũng ở vị trí của người chưa cụ túc viên mãn,” ở đây, cần phải biết rằng Tỳ-khưu cũng ở vị trí của người chưa cụ túc viên mãn đối với Tỳ-khưu-ni. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Ý định vui đùa, và sự tiếp xúc thân thể với người đã cụ túc viên mãn; đây là hai chi phần trong trường hợp này.
Aṅgulipatodakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học chọc lét bằng ngón tay đã kết thúc.
3. Hasadhammasikkhāpadavaṇṇanā
3. Sự giải về điều học vui đùa
335. Tatiyaṃ uttānatthameva. Uparigopphakatā, hasādhippāyena kīḷananti imāni panettha dve aṅgāni.
335. Ở điều học thứ ba, ý nghĩa đã rõ ràng. Việc ở trên mắt cá chân, và việc vui đùa với ý định vui đùa; đây là hai chi phần trong trường hợp này.
Hasadhammasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học vui đùa đã kết thúc.
4. Anādariyasikkhāpadavaṇṇanā
4. Sự giải về điều học không tôn trọng
344. Catutthe gārayho ācariyuggaho na gahetabboti yasmā ucchuraso sattāhakāliko, tassa kasaṭo yāvajīviko, dvinnaṃyeva samavāyo ucchuyaṭṭhi, tasmā vikāle ucchuyaṭṭhiṃ khādituṃ vaṭṭati guḷaharītakaṃ viyāti evamādiko gārayhācariyavādo na gahetabbo. Lokavajje ācariyuggaho na vaṭṭatīti lokavajjasikkhāpade āpattiṭṭhāne yo ācariyavādo, so na gahetabbo, lokavajjaṃ atikkamitvā ‘‘idaṃ amhākaṃ ācariyuggaho’’ti vadantassa uggaho na vaṭṭatīti adhippāyo. Suttānulomaṃ nāma aṭṭhakathā. Paveṇiyā āgatasamodhānaṃ gacchatīti ‘‘paveṇiyā āgato ācariyuggahova gahetabbo’’ti evaṃ vutte mahāaṭṭhakathāvādeyeva saṅgahaṃ gacchatīti adhippāyo. Sesamettha uttānameva. Upasampannassa paññattena vacanaṃ, anādariyakaraṇanti imāni panettha dve aṅgāni.
344. Ở điều học thứ tư, “sự học hỏi theo thầy đáng bị chê trách không nên được chấp nhận,” là vì nước mía là vật thực được phép dùng trong bảy ngày, bã của nó là vật thực được phép dùng suốt đời, sự kết hợp của cả hai chính là cây mía, do đó, lập trường đáng bị chê trách của các vị thầy như: “được phép ăn cây mía vào lúc phi thời, giống như quả harītaka có đường” v.v… không nên được chấp nhận. “Sự học hỏi theo thầy trong tội bị thế gian chê bai thì không được phép,” ý định là, lập trường của vị thầy nào ở trong phạm vi của một tội trong các điều học về tội bị thế gian chê bai, thì lập trường đó không nên được chấp nhận; việc học hỏi của người vi phạm tội bị thế gian chê bai rồi nói rằng: “đây là sự học hỏi theo thầy của chúng tôi” thì không được phép. “Phù hợp với kinh” là tên gọi của Chú giải. “Đi đến sự hợp nhất đã có từ truyền thống,” ý định là khi nói “chỉ nên chấp nhận sự học hỏi theo thầy đã có từ truyền thống,” thì đi đến sự bao gồm trong chính lập trường của Mahāaṭṭhakathā. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Lời nói đã được chế định của người đã cụ túc viên mãn, và hành động không tôn trọng; đây là hai chi phần trong trường hợp này.
Anādariyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học không tôn trọng đã kết thúc.
5. Bhiṃsāpanasikkhāpadavaṇṇanā
5. Sự giải về điều học dọa nạt
345. Pañcamaṃ uttānatthameva. Upasampannatā, tassa dassanasavanavisaye bhiṃsāpetukāmatāya vāyamananti imāni panettha dve aṅgāni.
345. Ở điều học thứ năm, ý nghĩa đã rõ ràng. Việc là người đã cụ túc viên mãn, và sự cố gắng với ý muốn dọa nạt trong phạm vi thấy và nghe của người ấy; đây là hai chi phần trong trường hợp này.
Bhiṃsāpanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học dọa nạt đã kết thúc.
6. Jotisikkhāpadavaṇṇanā
6. Sự giải về điều học về lửa
350. Chaṭṭhe bhaggā nāma janapadino rājakumārā, tesaṃ nivāso ekopi janapado ruḷhīsaddena ‘‘bhaggā’’ti vuccati. Tena vuttaṃ ‘‘bhaggāti janapadassa nāma’’nti. Susumāragireti evaṃnāmake nagare. Tassa kira nagarassa māpanatthaṃ vatthuvijjācariyena nagaraṭṭhānassa pariggaṇhanadivase avidūre susumāro saddamakāsi giraṃ nicchāresi. Atha anantarāyena nagare māpite tameva susumāragiraṇaṃ subhanimittaṃ katvā susumāragiraṃtvevassa nāmaṃ akaṃsu. Keci pana ‘‘susumārasaṇṭhānattā susumāro nāma eko giri, so tassa nagarassa samīpe, tasmā taṃ susumāragiri etassa atthīti ‘susumāragirī’ti vuccatī’’ti vadanti. Tathā vā hotu aññathā vā, nāmametaṃ tassa nagarassāti āha ‘‘susumāragiranti nagarassa nāma’’nti. Bhesakaḷāti ghampaṇḍanāmako gacchaviseso. Keci ‘‘setarukkho’’tipi vadanti. Tesaṃ bahulatāya pana taṃ vanaṃ bhesakaḷāvanantveva paññāyittha. ‘‘Bhesagaḷāvane’’tipi pāṭho. ‘‘Bheso nāma eko yakkho ayuttakārī, tassa tato gaḷitaṭṭhānatāya taṃ vanaṃ bhesagaḷāvanaṃ nāma jāta’’nti hi keci.
350. Ở điều học thứ sáu, những người Bhaggā là các vị hoàng tử của xứ; nơi ở của họ, dù chỉ là một xứ, cũng được gọi là “Bhaggā” theo cách dùng thông thường. Do đó đã được nói: “‘Bhaggā’ là tên của một xứ.” “Tại Susumāragiri,” là tại thành phố có tên như vậy. Nghe nói, vào ngày người thầy về kiến trúc địa lý nhận khu đất để xây dựng thành phố đó, một con cá sấu ở không xa đã kêu lên, phát ra tiếng gầm. Sau đó, khi thành phố được xây dựng không gặp trở ngại, họ đã lấy chính tiếng gầm của con cá sấu đó làm điềm lành và đặt tên cho nó là Susumāragira. Tuy nhiên, một số người nói rằng: “do có hình dạng giống con cá sấu, nên có một ngọn núi tên là Susumāra ở gần thành phố đó, do đó nó được gọi là ‘Susumāragirī,’ có nghĩa là thành phố có ngọn núi Susumāragiri.” Dù là như vậy hay cách khác, đây là tên của thành phố đó, do đó ngài nói: “‘Susumāragira’ là tên của một thành phố.” “Bhesakaḷā” là một loại cây đặc biệt có tên là ghampaṇḍa. Một số người cũng nói là “cây trắng.” Tuy nhiên, do có nhiều loại cây đó, nên khu rừng đó đã được biết đến là rừng Bhesakaḷā. Cũng có bản đọc là “Bhesagaḷāvane.” Thật vậy, một số người nói rằng: “Bheso là tên của một dạ-xoa hay làm điều sai trái, do là nơi mà hắn đã bị sa ngã từ đó, nên khu rừng đó có tên là rừng Bhesagaḷā.”
352.Jotikaraṇeti aggikaraṇe. Sesamettha uttānameva. Agilānatā, anuññātakaraṇābhāvo, visibbetukāmatā, samādahananti imāni panettha cattāri aṅgāni.
352.“Trong việc nhóm lửa” là trong việc làm ra lửa. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Tình trạng không bị bệnh, sự không có lý do được cho phép, ý muốn sưởi ấm, và sự nhóm lửa; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Jotisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học về lửa đã kết thúc.
7. Nahānasikkhāpadavaṇṇanā
7. Sự giải về điều học tắm
357. Sattamasikkhāpadassa pāḷiyaṃ asambhinnenāti amakkhitena, anaṭṭhenāti attho. Orenaddhamāsaṃ nahāyeyyāti nahātadivasato paṭṭhāya addhamāse aparipuṇṇe nahāyeyya. Sesamettha uttānameva. Majjhimadeso, ūnakaddhamāse nahānaṃ, samayānaṃ vā nadīpāragamanassa vā āpadānaṃ vā abhāvoti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
357. Trong Pāḷi của điều học thứ bảy, “không bị dính” là không bị bôi, có nghĩa là không bị hư hỏng. “Nên tắm trong vòng nửa tháng,” là nên tắm khi chưa đủ nửa tháng kể từ ngày đã tắm. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Vùng trung du, việc tắm khi chưa đủ nửa tháng, và sự không có các thời điểm (thích hợp), hoặc việc đi qua sông, hoặc các trường hợp nguy cấp; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Nahānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học tắm đã kết thúc.
8. Dubbaṇṇakaraṇasikkhāpadavaṇṇanā
8. Sự giải về điều học làm cho đổi màu
368. Aṭṭhame ‘‘cammakāranīlaṃ nāma pakatinīla’’nti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Gaṇṭhipade pana ‘‘cammakārā udake tipumalaṃ ayagūthañca pakkhipitvā cammaṃ kāḷaṃ karonti, taṃ cammakāranīla’’nti vuttaṃ. Sesamettha uttānameva. Vuttappakārassa cīvarassa akatakappatā, anaṭṭhacīvarāditā, nivāsanaṃ vā pārupanaṃ vāti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
368. Ở điều học thứ tám, trong cả ba sách nghĩa giải đều nói: “‘màu xanh của thợ nhuộm da’ là màu xanh tự nhiên.” Tuy nhiên, trong sách nghĩa giải có nói: “các thợ nhuộm da cho gỉ sắt và phân sắt vào nước rồi làm cho da có màu đen, đó là màu xanh của thợ nhuộm da.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc y thuộc loại đã nêu chưa được làm cho hợp lệ, việc không phải là y đã bị hư hỏng v.v…, và việc mặc hoặc choàng; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Dubbaṇṇakaraṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học làm cho đổi màu đã kết thúc.
9. Vikappanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Sự giải về điều học chuyển giao
374. Navame apaccuddhāraṇanti ‘‘mayhaṃ santakaṃ paribhuñja vā vissajjehi vā’’tiādinā akatapaccuddhāraṃ. Yena vinayakammaṃ katanti yena saddhiṃ vinayakammaṃ kataṃ. Tiṃsakavaṇṇanāyanti nissaggiyavaṇṇanāyaṃ. Paribhogena kāyakammaṃ, apaccuddhārāpanena vacīkammaṃ. Sesamettha uttānameva. Sāmaṃ vikappitassa apaccuddhāro, vikappanupagacīvaratā, paribhogoti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
374. Ở điều học thứ chín, “chưa thu hồi” là chưa thu hồi bằng cách nói: “hãy hưởng dụng hoặc từ bỏ vật của tôi” v.v… “Người mà Tăng sự về luật đã được làm,” là người mà cùng với người đó, Tăng sự về luật đã được làm. “Trong sự giải về ba mươi (điều),” là trong sự giải về các điều Ưng Xả Đối Trị. Bằng việc hưởng dụng là hành động bằng thân; bằng việc không cho thu hồi là hành động bằng lời. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Sự chưa thu hồi của vật đã tự mình chuyển giao, việc là y có thể được chuyển giao, và việc hưởng dụng; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Vikappanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học chuyển giao đã kết thúc.
10. Cīvaraapanidhānasikkhāpadavaṇṇanā
10. Sự giải về điều học giấu y
377. Dasamaṃ uttānatthameva. Upasampannassa santakānaṃ pattādīnaṃ apanidhānaṃ, vihesetukāmatā vā hasādhippāyatā vāti imāni panettha dve aṅgāni.
377. Ở điều học thứ mười, ý nghĩa đã rõ ràng. Việc giấu bát v.v… của người đã cụ túc viên mãn, và ý muốn làm phiền nhiễu hoặc ý định vui đùa; đây là hai chi phần trong trường hợp này.
Cīvaraapanidhānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học giấu y đã kết thúc.
Niṭṭhito surāpānavaggo chaṭṭho.
Phẩm Uống Rượu, là phẩm thứ sáu, đã kết thúc.
7. Sappāṇakavaggo
7. Phẩm có Chúng Sanh
1. Sañciccasikkhāpadavaṇṇanā
1. Sự giải về điều học cố ý
382. Sappāṇakavaggassa paṭhamasikkhāpade usuṃ saraṃ assati khipatīti issāso, dhanusippakusaloti āha ‘‘dhanuggahācariyo’’ti. Paṭisattuvidhamanatthaṃ dhanuṃ gaṇhantīti dhanuggahā, tesaṃ ācariyo dhanuggahācariyo. Appamattena vattaṃ kātabbanti yathā te pāṇā na maranti, evaṃ sūpaṭṭhitassatinā senāsane vattaṃ kātabbaṃ. Sesamettha uttānameva. Aṅgānipi manussaviggahe vuttanayena veditabbānīti.
382. Ở điều học đầu tiên của Phẩm có Chúng Sanh, người ném, phóng mũi tên, tên, là người bắn cung; là người giỏi về nghề cung, nên ngài nói: “người thầy dạy bắn cung.” Những người cầm cung để tiêu diệt kẻ thù là những người cầm cung; thầy của họ là người thầy dạy bắn cung. “Phải làm phận sự một cách không dể duôi,” là phải làm phận sự trong nơi ở với niệm được thiết lập kỹ lưỡng để các chúng sanh đó không bị chết. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Và các chi phần cần phải được biết theo phương pháp đã được nói trong trường hợp giết người.
Sañciccasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học cố ý đã kết thúc.
2. Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā
2. Sự giải về điều học (dùng nước) có chúng sanh
387. Dutiye udakasaṇṭhānakappadeseti yattha bhūmibhāge udakaṃ nikkhittaṃ santiṭṭhati, na sahasā parikkhayaṃ gacchati, tādise padese. Sesamettha uttānameva. Aṅgāni siñcanasikkhāpade vuttanayāneva.
387. Ở điều học thứ hai, “ở nơi thích hợp cho nước đọng lại,” là ở nơi nào trên mặt đất mà nước khi được đổ ra vẫn đọng lại, không nhanh chóng cạn đi, ở nơi như vậy. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Các chi phần cũng giống như phương pháp đã được nói trong điều học về việc tưới (nước).
Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học (dùng nước) có chúng sanh đã kết thúc.
3. Ukkoṭanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Sự giải về điều học lật lại (vấn đề)
392. Tatiye yathāpatiṭṭhitabhāvena patiṭṭhātuṃ na dentīti tesaṃ pavattiākāradassanatthaṃ vuttaṃ. Yaṃ pana dhammena adhikaraṇaṃ nihataṃ, taṃ sunihatameva. Sace vippakate kamme paṭikkosati, taṃ saññāpetvāva kātabbaṃ. Itarathā kammañca kuppati, kārakānañca āpatti. Sesamettha uttānameva. Yathādhammaṃ nihatabhāvo, jānanā, ukkoṭanāti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
392. Ở điều học thứ ba, “không cho phép được đứng vững theo cách đã được thiết lập,” được nói nhằm mục đích chỉ ra cách thức diễn tiến của chúng. Tuy nhiên, vụ tranh chấp nào đã được giải quyết hợp pháp, thì vụ đó đã được giải quyết tốt đẹp. Nếu vị ấy phản đối Tăng sự đã được làm sai, thì phải làm cho vị ấy hiểu rõ rồi mới làm. Nếu không, Tăng sự cũng bị hư hoại, và những người làm cũng phạm tội. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Tình trạng đã được giải quyết hợp pháp, sự biết, và sự lật lại; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Ukkoṭanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học lật lại (vấn đề) đã kết thúc.
4. Duṭṭhullasikkhāpadavaṇṇanā
4. Sự giải về điều học về tội trọng
399. Catutthe tassevāti yo āpanno, tasseva. Ārocetīti paṭicchādanatthameva mā kassaci ārocesīti vadati. Vatthupuggaloti āpannapuggalo. Yenassa ārocitanti yena dutiyena assa tatiyassa ārocitaṃ. Koṭi chinnā hotīti yasmā paṭicchādanapaccayā āpattiṃ āpajjitvāva dutiyena tatiyassa ārocitaṃ, tasmā tappaccayā puna tena āpajjitabbāpattiyā abhāvato āpattiyā koṭi chinnā nāma hoti.
399. Ở điều học thứ tư, “của chính người đó,” là của chính người đã phạm tội. “Nói,” là chỉ nói vì mục đích che đậy rằng: “đừng nói cho ai biết.” “Người có liên quan đến câu chuyện,” là người đã phạm tội. “Người mà nó đã được nói cho,” là người thứ ba mà người thứ hai đã nói cho. “Đầu mối đã bị cắt đứt,” là vì sau khi đã phạm tội do duyên che đậy, người thứ hai mới nói cho người thứ ba, do đó, do không có tội nào khác mà người đó phải phạm do duyên đó, nên đầu mối của tội được gọi là đã bị cắt đứt.
400.‘‘Anupasampannassa sukkavissaṭṭhi ca kāyasaṃsaggo cāti ayaṃ duṭṭhullaajjhācāro nāmā’’ti idaṃ duṭṭhullārocanasikkhāpadaṭṭhakathāya na sameti. Vuttañhi tattha (pāci. aṭṭha. 82) ‘‘anupasampannassa duṭṭhullaṃ vā aduṭṭhullaṃ vā ajjhācāranti ettha ādito pañca sikkhāpadāni duṭṭhullo nāma ajjhācāro, sesāni aduṭṭhullo, sukkavissaṭṭhikāyasaṃsaggaduṭṭhullaattakāmā panassa ajjhācāro nāmā’’ti. ‘‘Ārocane anupasampannassa duṭṭhullaṃ aññathā adhippetaṃ, paṭicchādane aññathā’’ti etthāpi visesakāraṇaṃ na dissati, tasmā aṭṭhakathāya pubbenāparaṃ na sameti. Avirodhaṃ icchantena pana vīmaṃsitabbamettha kāraṇaṃ. Sesamettha uttānameva. Upasampannassa duṭṭhullāpattijānanaṃ, paṭicchādetukāmatāya nārocessāmīti dhuranikkhepoti imāni panettha dve aṅgāni.
400.“Đối với người chưa cụ túc viên mãn, việc xuất tinh và việc tiếp xúc thân thể, đây được gọi là sự vi phạm trọng tội,” điều này không phù hợp với Chú giải của điều học về việc nói về tội trọng. Thật vậy, ở đó đã nói: (pāci. aṭṭha. 82) “Đối với người chưa cụ túc viên mãn, dù là trọng tội hay không phải trọng tội, cũng là sự vi phạm. Ở đây, năm điều học đầu tiên được gọi là sự vi phạm trọng tội, các điều còn lại là không phải trọng tội. Còn việc xuất tinh, tiếp xúc thân thể, và tội trọng tự tìm kiếm lạc thú của người này thì được gọi là sự vi phạm.” Ở đây cũng không thấy có lý do đặc biệt nào để nói rằng: “Trong việc nói ra, tội trọng của người chưa cụ túc viên mãn được hiểu theo một cách khác, còn trong việc che đậy thì lại theo một cách khác,” do đó, phần sau của Chú giải không phù hợp với phần trước. Tuy nhiên, người muốn không có sự mâu thuẫn, cần phải xem xét lý do ở đây. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc biết về tội trọng của người đã cụ túc viên mãn, và việc buông bỏ trách nhiệm với ý nghĩ “tôi sẽ không nói ra” để che đậy; đây là hai chi phần trong trường hợp này.
Duṭṭhullasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học về tội trọng đã kết thúc.
5. Ūnavīsativassasikkhāpadavaṇṇanā
5. Sự giải về điều học (truyền giới cho người) chưa đủ hai mươi tuổi
402. Pañcame rūpasuttanti heraññikānaṃ suttaṃ. Duruttānanti akkosavasena duruttānaṃ, duruttattāyeva durāgatānaṃ. Vacanapathānanti ettha vacanameva tadatthaṃ ñātukāmānaṃ ñāpetukāmānañca pathoti vacanapatho. Dukkhamānanti dukkhena khamitabbānaṃ.
402. Ở điều học thứ năm, “kinh về hình sắc” là kinh của những người thợ bạc. “Của những lời nói xấu,” là của những lời nói xấu theo cách mắng nhiếc; chính vì là lời nói xấu nên là “của những điều đến một cách tồi tệ.” “Của các con đường lời nói,” ở đây, chính lời nói là con đường cho những người muốn biết và những người muốn làm cho biết về ý nghĩa đó, nên là con đường lời nói. “Của những điều khó chịu đựng,” là của những điều phải chịu đựng một cách khó khăn.
404. Gabbhe sayitakālena saddhiṃ vīsatimaṃ vassaṃ assāti gabbhavīso. Hāyanavaḍḍhananti gabbhamāsesu adhikesu uttarihāyanaṃ, ūnesu vaḍḍhananti veditabbaṃ. Ekūnavīsativassanti dvādasamāse mātukucchismiṃ vasitvā mahāpavāraṇāya jātakālato paṭṭhāya ekūnavīsativassaṃ. Pāṭipadadivaseti pacchimikāya vassūpagamanadivase. ‘‘Tiṃsarattidivo māso’’ti (a. ni. 3.71; 8.43; vibha. 1023) vacanato ‘‘cattāro māsā parihāyantī’’ti vuttaṃ. Vassaṃ ukkaḍḍhantīti vassaṃ uddhaṃ kaḍḍhanti, tatiye saṃvacchare ekamāsaṃ adhikamāsavasena pariccajantā vassaṃ uddhaṃ kaḍḍhantīti attho, tasmā tatiyo saṃvaccharo terasamāsiko hoti, saṃvaccharassa pana dvādasamāsikattā aṭṭhārasasu vassesu adhikamāse visuṃ gahetvā ‘‘cha māsā vaḍḍhantī’’ti vuttaṃ. Tatoti chamāsato. Nikkaṅkhā hutvāti adhikamāsehi saddhiṃ paripuṇṇavīsativassattā nibbematikā hutvā. Yaṃ pana vuttaṃ tīsu gaṇṭhipadesu ‘‘aṭṭhārasannaṃyeva vassānaṃ adhikamāse gahetvā gaṇitattā sesavassadvayassapi adhikāni divasāni honteva, tāni adhikadivasāni sandhāya ‘nikkaṅkhā hutvā’ti vutta’’nti, taṃ na gahetabbaṃ. Na hi dvīsu vassesu adhikadivasāni nāma visuṃ upalabbhanti tatiye vasse vassukkaḍḍhanavasena adhikamāse pariccatteyeva atirekamāsasambhavato. Tasmā dvīsu vassesu atirekadivasāni nāma visuṃ na sambhavanti.
404. Người có hai mươi tuổi cùng với thời gian ở trong bụng mẹ là người hai mươi tuổi tính cả trong bụng mẹ. “Sự giảm và tăng của năm,” cần phải biết là, khi các tháng trong bụng mẹ nhiều hơn thì năm sau đó giảm đi, khi ít hơn thì tăng lên. “Mười chín tuổi,” là mười chín tuổi kể từ lúc sinh ra vào ngày Bố-tát lớn, sau khi đã ở trong bụng mẹ mười hai tháng. “Vào ngày đầu tháng,” là vào ngày an cư mùa mưa muộn. Theo câu “một tháng có ba mươi ngày đêm” (a. ni. 3.71; 8.43; vibha. 1023), đã nói là “bốn tháng bị giảm đi.” “Họ kéo dài năm ra,” là họ kéo năm lên trên, có nghĩa là, vào năm thứ ba, họ bỏ qua một tháng như là tháng nhuận và kéo dài năm lên trên. Do đó, năm thứ ba có mười ba tháng. Tuy nhiên, do một năm chỉ có mười hai tháng, nên sau khi đã lấy riêng các tháng nhuận trong mười tám năm, đã nói là “sáu tháng được tăng thêm.” “Từ đó” là từ sáu tháng đó. “Sau khi đã hết hoài nghi,” là sau khi đã không còn do dự do đã đủ hai mươi tuổi cùng với các tháng nhuận. Tuy nhiên, điều đã được nói trong cả ba sách nghĩa giải rằng: “do đã tính bằng cách lấy các tháng nhuận của chỉ mười tám năm, nên hai năm còn lại cũng phải có các ngày nhuận, và ám chỉ đến các ngày nhuận đó mà đã nói ‘sau khi đã hết hoài nghi,’” điều đó không nên được chấp nhận. Thật vậy, trong hai năm, không thể có các ngày nhuận một cách riêng biệt, do chỉ có thể có tháng dư ra khi bỏ qua tháng nhuận bằng cách kéo dài năm vào năm thứ ba. Do đó, trong hai năm, không thể có các ngày dư ra một cách riêng biệt.
Nanu ca ‘‘te dve māse gahetvā vīsativassāni paripuṇṇāni hontī’’ti kasmā vuttaṃ, ekūnavīsativassamhi puna aparasmiṃ vasse pakkhitte vīsativassāni paripuṇṇāni hontīti āha ‘‘ettha pana…pe… vutta’’nti. Anekatthattā nipātānaṃ pana-saddo hi-saddatthe, ettha hīti vuttaṃ hoti. Idañhi vuttassevatthassa samatthanavasena vuttaṃ. Iminā ca imaṃ dīpeti ‘‘yaṃ vuttaṃ ‘ekūnavīsativassaṃ sāmaṇeraṃ nikkhamanīyapuṇṇamāsiṃ atikkamma pāṭipadadivase upasampādentī’ti, tattha gabbhamāsepi aggahetvā dvīhi māsehi aparipuṇṇavīsativassaṃ sandhāya ‘ekūnavīsativassa’nti vuttaṃ, tasmā adhikamāsesu dvīsu gahitesu vīsativassāni paripuṇṇāni nāma hontī’’ti. Tasmāti yasmā gabbhamāsāpi gaṇanūpagā honti, tasmā. Ekavīsativasso hotīti jātadivasato paṭṭhāya vīsativasso samāno gabbhamāsehi saddhiṃ ekavīsativasso hoti.
Chẳng phải tại sao lại nói: “sau khi đã lấy hai tháng đó, thì đủ hai mươi tuổi”? Khi thêm một năm nữa vào năm thứ mười chín, thì đủ hai mươi tuổi. Về điều này, ngài nói: “Tuy nhiên, ở đây… cho đến… đã được nói.” Do các tiểu từ có nhiều nghĩa, từ “pana” có nghĩa của từ “hi,” có nghĩa là “thật vậy, ở đây.” Thật vậy, điều này được nói nhằm mục đích củng cố ý nghĩa đã được nêu. Và qua điều này, ngài chỉ ra rằng: “điều đã được nói là ‘họ truyền giới cho Sa-di mười chín tuổi vào ngày đầu tháng sau khi đã qua ngày rằm xuất gia,’ ở đó, đã nói là ‘mười chín tuổi’ ám chỉ đến người chưa đủ hai mươi tuổi hai tháng mà không tính các tháng trong bụng mẹ; do đó, khi tính cả hai tháng nhuận, thì được gọi là đủ hai mươi tuổi.” “Do đó,” là vì các tháng trong bụng mẹ cũng được tính, do đó. “Trở thành hai mươi mốt tuổi,” là, người đã hai mươi tuổi kể từ ngày sinh, cùng với các tháng trong bụng mẹ thì trở thành hai mươi mốt tuổi.
406.Aññaṃupasampādetīti upajjhāyo kammavācācariyo vā hutvā upasampādeti. Sesamettha uttānameva. Ūnavīsativassatā, ūnakasaññitā, upasampādananti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
406.“Truyền giới cho người khác,” là truyền giới với tư cách là thầy tế độ hoặc thầy Yết-ma. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc chưa đủ hai mươi tuổi, có tưởng là chưa đủ tuổi, và việc truyền giới; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Ūnavīsativassasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học (truyền giới cho người) chưa đủ hai mươi tuổi đã kết thúc.
6. Theyyasatthasikkhāpadavaṇṇanā
6. Sự giải về điều học đoàn lữ hành của kẻ trộm
407. Chaṭṭhasikkhāpadaṃ uttānatthameva. Theyyasatthakabhāvo, jānanaṃ, saṃvidhānaṃ, avisaṅketena gamananti imāni panettha cattāri aṅgāni.
407. Ở điều học thứ sáu, ý nghĩa đã rõ ràng. Tình trạng là đoàn lữ hành của kẻ trộm, sự biết, sự sắp đặt, và việc đi không có hẹn trước; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Theyyasatthasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học đoàn lữ hành của kẻ trộm đã kết thúc.
412. Sattame natthi kiñci vattabbaṃ.
412. Ở điều học thứ bảy, không có gì để nói.
8. Ariṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā
8. Sự giải về điều học Ariṭṭha
417. Aṭṭhame bādhayiṃsūti haniṃsu. Taṃtaṃsampattiyā vibandhanavasena sattasantānassa antare vemajjhe eti āgacchatīti antarāyo, diṭṭhadhammikādianattho. Anatikkamanaṭṭhena tasmiṃ antarāye niyuttā, antarāyaṃ vā phalaṃ arahanti, antarāyassa vā karaṇasīlāti antarāyikā. Tenāha ‘‘antarāyaṃ karontīti antarāyikā’’ti. Ānantariyadhammāti ānantarikasabhāvā cetanādhammā. Tatrāyaṃ vacanattho – cutianantaraphalaṃ anantaraṃ nāma, tasmiṃ anantare niyuttā, taṃnibbattanena anantarakaraṇasīlā, anantarappayojanāti vā ānantarikā, te eva ānantariyāti vuttā. Kammāni eva antarāyikāti kammantarāyikā. Mokkhasseva antarāyaṃ karoti, na saggassāti micchācāralakkhaṇābhāvato vuttaṃ. Na hi bhikkhuniyā dhammarakkhitabhāvo atthi. Pākatikabhikkhunīvasena cetaṃ vuttaṃ. Ariyāya pana pavattaṃ apāyasaṃvattanikameva, nandamāṇavako cettha nidassanaṃ. Ubhinnaṃ samānacchandatāvasena vā na saggantarāyikatā , mokkhantarāyikatā pana mokkhatthāya paṭipattiyā vidūsanato. Abhibhavitvā pana pavattiyaṃ saggantarāyikatāpi na sakkā nivāretunti.
417. Ở điều học thứ tám, “đã cản trở” là đã giết. Cái gì đến, đi vào giữa dòng tâm của chúng sanh bằng cách trói buộc vào các thành tựu này hay thành tựu kia, thì đó là chướng ngại, là sự bất lợi trong hiện tại v.v… Do có tác dụng không thể vượt qua, nên được dùng trong chướng ngại đó; hoặc chúng đáng phải nhận quả là chướng ngại; hoặc có tính chất tạo ra chướng ngại, nên là các pháp gây chướng ngại. Do đó, ngài nói: “‘chúng tạo ra chướng ngại,’ nên là các pháp gây chướng ngại.” “Các pháp có quả báo nhãn tiền,” là các pháp tác ý có bản chất có quả báo nhãn tiền. Ở đó, ý nghĩa của từ là như vầy: quả báo ngay sau khi chết được gọi là nhãn tiền; được dùng trong quả báo nhãn tiền đó, có tính chất tạo ra quả báo nhãn tiền bằng cách tạo ra nó, hoặc có mục đích là quả báo nhãn tiền, nên là có quả báo nhãn tiền; chính chúng được gọi là có quả báo nhãn tiền. “Các nghiệp gây chướng ngại,” là chính các nghiệp là pháp gây chướng ngại. “Chỉ tạo ra chướng ngại cho sự giải thoát, không phải cho cõi trời,” được nói như vậy do không có đặc điểm của hành vi tà vạy. Thật vậy, không có việc Tỳ-khưu-ni được pháp bảo vệ. Và điều này được nói theo trường hợp Tỳ-khưu-ni thông thường. Tuy nhiên, hành vi xảy ra đối với bậc Thánh thì chắc chắn dẫn đến cõi dữ, thanh niên Nanda là ví dụ ở đây. Hoặc do ý muốn của cả hai giống nhau nên không gây chướng ngại cho cõi trời; tuy nhiên, gây chướng ngại cho sự giải thoát là do làm hư hoại sự thực hành vì mục đích giải thoát. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra do sự cưỡng ép, thì không thể ngăn cản được cả sự chướng ngại cho cõi trời.
Ahetukadiṭṭhiakiriyadiṭṭhinatthikadiṭṭhiyova niyatabhāvaṃ pattā niyatamicchādiṭṭhidhammā. Paṭisandhidhammāti paṭisandhicittuppādamāha. Paṇḍakādiggahaṇañcettha nidassanamattaṃ sabbāyapi ahetukapaṭisandhiyā vipākantarāyikabhāvato. Yāhi ariye upavadati, tā cetanā ariyūpavādā jātā. Tato paranti khamāpanato upari. Yaṃ panettha vattabbaṃ, taṃ dibbacakkhukathāyaṃ vuttameva. Sañcicca āpannā āpattiyoti sañcicca vītikkantā satta āpattikkhandhā. Sañcicca vītikkantañhi antamaso dukkaṭadubbhāsitampi saggamaggaphalānaṃ antarāyaṃ karoti. Yāva bhikkhubhāvaṃ paṭijānāti pārājikaṃ āpanno, na vuṭṭhāti sesagarukāpattiṃ āpanno, na deseti lahukāpattiṃ āpanno.
Chính tà kiến đoạn diệt, tà kiến vô hành, và tà kiến hư vô khi đã đạt đến trạng thái cố định là các pháp tà kiến cố định. “Các pháp tái sanh,” ngài nói đến sự khởi sinh của tâm tái sanh. Và việc đề cập đến người ái nam ái nữ v.v… ở đây chỉ là ví dụ, do tất cả các sự tái sanh không có nhân đều có tính chất là chướng ngại cho quả báo. Những tác ý nào mà người ta dùng để vu khống các bậc Thánh, thì những tác ý đó trở thành sự vu khống các bậc Thánh. “Sau đó,” là sau khi đã xin lỗi. Điều cần phải nói ở đây đã được nói trong phần luận về thiên nhãn. “Các tội đã phạm một cách cố ý,” là bảy nhóm tội đã vi phạm một cách cố ý. Thật vậy, điều đã vi phạm một cách cố ý, dù chỉ là tội Tác Ác hay lời nói xấu, cũng tạo ra chướng ngại cho các cõi trời, đạo và quả. “Miễn là còn thừa nhận thân phận Tỳ-khưu,” là người đã phạm tội Bất Cộng Trụ; “không phục hồi,” là người đã phạm các trọng tội còn lại; “không sám hối,” là người đã phạm các tội nhẹ.
Ayaṃ bhikkhūti ariṭṭho bhikkhu. Rasena rasaṃ saṃsanditvāti anavajjena paccayaparibhuñjanarasena sāvajjakāmaguṇaparibhogarasaṃ samānetvā. Yoniso paccavekkhaṇena natthi ettha chandarāgoti nicchandarāgo, paccayaparibhogo. Upanento viyāti bandhanaṃ upanento viya. ‘‘Ghaṭento viyā’’tipi pāṭho. Upasaṃharanto viyāti sadisataṃ upasaṃharanto viya ekantasāvajje anavajjabhāvapakkhepanato. Pāpakanti lāmakaṭṭhena duggatisampāpanaṭṭhena ca pāpakaṃ. Mahāsamuddaṃ bandhantena viyāti setukaraṇavasena mahāsāgaraṃ bandhantena viya. Sabbaññutaññāṇena saddhiṃ paṭivirujjhantoti sabbaññutaññāṇena ‘‘sāvajja’’nti diṭṭhaṃ ‘‘anavajja’’nti gahaṇena tena saha paṭivirujjhanto. Āṇācakketi paṭhamapārājikasikkhāpadasaṅkhāte, ‘‘abrahmacariyaṃ pahāyā’’tiādidesanāsaṅkhāte ca āṇācakke.
“Tỳ-khưu này,” là Tỳ-khưu Ariṭṭha. “Sau khi đã so sánh hương vị này với hương vị kia,” là sau khi đã so sánh hương vị của việc hưởng dụng các dục có tội lỗi với hương vị của việc hưởng dụng các vật dụng không có tội lỗi. Do sự quán xét như lý, nên không có tham muốn ở đó, đó là sự không có tham muốn, là sự hưởng dụng các vật dụng. “Giống như đang mang đến,” là giống như đang mang đến sự trói buộc. Cũng có bản đọc là “giống như đang cố gắng.” “Giống như đang gộp lại,” là giống như đang gộp lại sự giống nhau, do việc gán bản chất không có tội lỗi vào điều hoàn toàn có tội lỗi. “Tồi tệ,” là tồi tệ do tính chất thấp hèn và do tính chất đưa đến cõi dữ. “Giống như người đang trói buộc đại dương,” là giống như người đang trói buộc đại dương bằng cách làm một cây cầu. “Chống trái với Nhất thiết trí,” là chống trái với Nhất thiết trí bằng cách chấp nhận điều đã được thấy là “có tội lỗi” là “không có tội lỗi.” “Trong vòng quay của mệnh lệnh,” là trong vòng quay của mệnh lệnh được gọi là điều học Bất Cộng Trụ thứ nhất, và được gọi là lời dạy “hãy từ bỏ hành vi không trong sạch” v.v…
Aṭṭhikaṅkalaṃ nāma uraṭṭhi vā piṭṭhikaṇṭakaṃ vā sīsaṭṭhi vā. Tañhi nimmaṃsattā ‘‘kaṅkala’’nti vuccati. Vigatamaṃsāya hi aṭṭhisaṅkhalikāya ekaṭṭhimhi vā kaṅkala-saddo niruḷho. Anudahanaṭṭhenāti anupāyapaṭipattiyā sampati āyatiñca anudahanaṭṭhena. Mahābhitāpanaṭṭhena anavaṭṭhitasabhāvatāya, ittarapaccupaṭṭhānaṭṭhena muhuttakaraṇīyatāya, tāvakālikaṭṭhena parehi abhibhavanatāya, sabbaṅgapaccaṅgapalibhañjanaṭṭhena bhedanādiadhikaraṇabhāvena, ugghāṭasadisatāya adhikuṭṭanaṭṭhena, avaṇe vaṇaṃ uppādetvā anto anupavisanabhāvatāya vinivijjhanaṭṭhena, diṭṭhadhammikasamparāyikaanatthanimittatāya sāsaṅkasappaṭibhayaṭṭhena.
“Bộ xương,” là xương ngực, hoặc xương sống, hoặc xương sọ. Thật vậy, do không có thịt, nên nó được gọi là “bộ xương.” Từ “bộ xương” được dùng thông thường cho một bộ xương đã hết thịt hoặc cho một khúc xương. “Với ý nghĩa thiêu đốt,” là với ý nghĩa thiêu đốt ngay trong hiện tại và cả trong tương lai do sự thực hành sai lầm. “Với ý nghĩa làm cho nóng nảy nhiều,” do bản chất không ổn định; “với ý nghĩa hiện khởi trong chốc lát,” do là việc làm trong khoảnh khắc; “với ý nghĩa tạm thời,” do bị những người khác chế ngự; “với ý nghĩa làm gãy nát tất cả các chi phần,” do là nền tảng của sự chia rẽ v.v…; “với ý nghĩa đánh đập,” do giống với việc mở ra; “với ý nghĩa đâm xuyên,” do tạo ra vết thương nơi không có vết thương rồi đi vào trong; “với ý nghĩa đáng lo ngại và đáng sợ hãi,” do là dấu hiệu của sự bất lợi trong hiện tại và tương lai.
Pāḷiyaṃ ‘‘thāmasā parāmāsā’’tiādīsu evamattho veditabbo. Thāmasāti diṭṭhithāmena, tassā diṭṭhiyā thāmagatabhāvenāti attho. Parāmāsāti diṭṭhiparāmāsena, diṭṭhisaṅkhātaparāmāsenāti attho. Diṭṭhiyeva hi dhammasabhāvaṃ atikkamitvā parato āmasanena parāmāso. Abhinivissāti taṇhābhinivesapubbaṅgamena diṭṭhābhinivesena ‘‘idamettha sacca’’nti abhinivisitvā. Voharatīti katheti. Yato ca kho te bhikkhūti yadā te bhikkhū. Evaṃbyākho ahaṃ, bhante, bhagavatāti idaṃ esa attano laddhiṃ nigūhitukāmatāya natthīti vattukāmopi bhagavato ānubhāvena sampaṭicchati. Buddhānaṃ kira sammukhā dve kathā kathetuṃ samattho nāma natthi. Kassa nu kho nāma tvaṃ moghapurisāti tvaṃ moghapurisa kassa khattiyassa vā brāhmaṇassa vā vessassa vā suddassa vā gahaṭṭhassa vā pabbajitassa vā devassa vā manussassa vā mayā evaṃ dhammaṃ desitaṃ ājānāsi. Sesamettha uttānameva. Dhammakammatā, samanubhāsanā, appaṭinissajjananti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
Trong Pāḷi, ở các câu “một cách mạnh mẽ, bằng sự chấp thủ” v.v…, ý nghĩa cần phải được hiểu như sau: “Một cách mạnh mẽ,” là bằng sức mạnh của tà kiến, có nghĩa là do tà kiến đó đã trở nên mạnh mẽ. “Bằng sự chấp thủ,” là bằng sự chấp thủ của tà kiến, có nghĩa là bằng sự chấp thủ được gọi là tà kiến. Thật vậy, chính tà kiến, do vượt qua bản chất của các pháp và sờ mó một cách sai lầm, nên là sự chấp thủ. “Sau khi đã khư khư cố chấp,” là sau khi đã khư khư cố chấp rằng “chỉ có điều này là sự thật” bằng sự cố chấp của tà kiến, vốn có sự cố chấp của tham ái đi trước. “Nói,” là trình bày. “Và khi các Tỳ-khưu đó,” là khi các Tỳ-khưu đó. “Bạch ngài, con đã được đức Thế Tôn giải thích như vậy,” người này, dù muốn nói là không có để che giấu lập trường của mình, nhưng do uy lực của đức Thế Tôn mà đã chấp nhận. Nghe nói, không có ai có khả năng nói hai lời trước mặt các đức Phật. “Này kẻ ngu kia, ngươi đã biết Ta thuyết pháp như vậy cho ai?” là, này kẻ ngu kia, ngươi đã biết Ta thuyết pháp như vậy cho người Sát-đế-lỵ, hay Bà-la-môn, hay Vệ-xá, hay Thủ-đà-la, hay tại gia, hay xuất gia, hay chư thiên, hay nhân loại nào? Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là Tăng sự hợp pháp, sự khiển trách, và sự không từ bỏ; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Ariṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học Ariṭṭha đã kết thúc.
9. Ukkhittasambhogasikkhāpadavaṇṇanā
9. Sự giải về điều học giao du với người bị cử tội
424. Navame payogagaṇanāyāti dānaggahaṇappayogagaṇanāya. Saṃvāse kammapariyosānavasena, sahaseyyāya ekasmiṃ nipanne itarassa nipajjanapayogavasena āpattiparicchedo veditabbo. Ettha ca padabhājane ‘‘ekacchanne’’ti avisesena vuttattā nānūpacārepi ekacchanne nipajjantassa āpatti. Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. ukkhittasambhogasikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ ‘‘saha vā seyyaṃ kappeyyāti nānūpacārepi ekacchanne nipajjeyyā’’ti. Paṇṇattiṃ ajānantena arahatāpi kiriyābyākatacittena āpajjitabbattā ‘‘ticitta’’nti vuttaṃ. Yaṃ pana kenaci vuttaṃ ‘‘ticittanti ettha vipākābyākatacittena saha vā seyyaṃ kappeyyāti evamattho daṭṭhabbo, aññathā sacittakattā sikkhāpadassa kiriyābyākataṃ sandhāya na yujjatī’’ti, taṃ na gahetabbaṃ. Na hi sacittakasikkhāpadavītikkamo arahato na sambhavati. Teneva pathavīkhaṇanādīsu sacittakasikkhāpadesu ticittameva vuttaṃ. Sesamettha uttānameva. Akatānudhammatā, jānanā, sambhogādikaraṇanti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
424. Ở điều học thứ chín, “theo cách tính về sự nỗ lực,” là theo cách tính về sự nỗ lực nhận của cúng dường. Trong việc sống chung, sự phân định về tội cần phải được biết theo sự kết thúc của Tăng sự; trong việc ngủ chung, theo sự nỗ lực nằm xuống của người kia khi một người đã nằm. Và ở đây, do trong phần phân tích từ ngữ đã nói một cách không phân biệt là “dưới một mái che,” nên ngay cả trong khu vực cận tiếp khác nhau, đối với người nằm dưới một mái che, cũng phạm tội. Chính vì thế, trong Chú giải của Mātikā (kaṅkhā. aṭṭha. ukkhittasambhogasikkhāpadavaṇṇanā) đã nói: “‘hoặc ngủ chung,’ là nằm dưới một mái che ngay cả trong khu vực cận tiếp khác nhau.” Do phải phạm ngay cả bởi bậc A-la-hán, người không biết điều quy định, với tâm duy tác vô ký, nên đã nói là “thuộc về ba loại tâm.” Tuy nhiên, điều mà một số người đã nói rằng: “ở đây, cần phải hiểu ý nghĩa là ‘thuộc về ba loại tâm’ bao gồm cả tâm quả vô ký, nếu không, do điều học này thuộc về tâm, nên không phù hợp khi ám chỉ đến tâm duy tác vô ký,” điều đó không nên được chấp nhận. Thật vậy, không phải là sự vi phạm điều học thuộc về tâm không thể xảy ra đối với bậc A-la-hán. Chính vì thế, trong các điều học thuộc về tâm như đào đất v.v…, chỉ nói là thuộc về ba loại tâm. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc không thực hành theo pháp, sự biết, và hành động giao du v.v…; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Ukkhittasambhogasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học giao du với người bị cử tội đã kết thúc.
10. Kaṇṭakasikkhāpadavaṇṇanā
10. Sự giải về điều học Kaṇṭaka
428. Dasame pireti nipātapadaṃ. Sambodhane vattamānaṃ para-saddena samānatthaṃ vadantīti āha ‘‘para amāmakā’’ti, amhākaṃ anajjhattikabhūtāti attho. Pireti vā ‘‘parato’’ti iminā samānatthaṃ nipātapadaṃ, tasmā cara pireti parato gaccha, mā idha tiṭṭhāti evampettha attho veditabbo. Sesamettha purimasikkhāpadadvaye vuttanayameva.
428. Ở điều học thứ mười, “pire” là một tiểu từ. Có người nói rằng nó được dùng trong cách gọi và có ý nghĩa tương tự như từ “para,” do đó ngài nói: “này người kia, không phải của chúng tôi,” có nghĩa là người không thuộc về chúng tôi. Hoặc “pire” là một tiểu từ có ý nghĩa tương tự như “parato” (xa hơn), do đó, ở đây cần phải hiểu ý nghĩa là: “hãy đi đi, pire,” là hãy đi xa hơn, đừng đứng ở đây. Phần còn lại ở đây cũng theo phương pháp đã được nói trong hai điều học trước.
Kaṇṭakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học Kaṇṭaka đã kết thúc.
Niṭṭhito sappāṇakavaggo sattamo.
Phẩm có Chúng Sanh, là phẩm thứ bảy, đã kết thúc.
8. Sahadhammikavaggo
8. Phẩm Theo Pháp
1. Sahadhammikasikkhāpadavaṇṇanā
1. Sự giải về điều học theo pháp
434. Sahadhammikavaggassa paṭhamasikkhāpade vācāya vācāya āpattīti anādariyabhayā lesena evaṃ vadantassa āpatti. Sesamettha uttānameva. Upasampannassa paññattena vacanaṃ, asikkhitukāmatāya evaṃ vacananti imāni panettha dve aṅgāni.
434. Ở điều học đầu tiên của Phẩm Theo Pháp, “phạm tội theo từng lời nói,” là đối với người nói như vậy bằng một lý do nào đó do sợ hãi sự không tôn trọng, thì phạm tội. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Lời nói đã được chế định của người đã cụ túc viên mãn, và việc nói như vậy với ý muốn không học tập; đây là hai chi phần trong trường hợp này.
Sahadhammikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học theo pháp đã kết thúc.
2. Vilekhanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Sự giải về điều học làm cho hoang mang
438. Dutiye vinayassa pariyāpuṇanaṃ vinayapariyattīti āha ‘‘vinayaṃ pariyāpuṇantāna’’ntiādi. Suguttoti yathā karaṇḍake pakkhittamaṇikkhandho viya na nassati vipattiṃ na pāpuṇāti, evaṃ suṭṭhu gopito. Surakkhitoti tasseva pariyāyavacanaṃ. Yathā hi kilesacorehi avilumpanīyo hoti, evaṃ sabbadā sūpaṭṭhitassatitāya suṭṭhu rakkhito. Kukkuccapakatānanti kappiyākappiyaṃ nissāya uppannakukkuccena abhibhūtānaṃ. Sārajjanaṃ sārado, byāmohabhayaṃ. Vigato sārado etassāti visārado. Sahadhammenāti sakāraṇena vacanena. Suniggahitaṃ niggaṇhātīti yathā na puna sīsaṃ ukkhipanti, atha kho appaṭibhānā maṅkubhūtāyeva honti, evaṃ suṭṭhu niggaṇhāti.
438. Ở điều học thứ hai, sự học thuộc lòng tạng Luật là sự học thuộc tạng Luật, do đó ngài nói: “của những người đang học thuộc tạng Luật” v.v… “Được hộ trì tốt,” là được che chở kỹ lưỡng, giống như một viên ngọc được đặt trong hộp, không bị mất đi, không gặp tai họa. “Được bảo vệ tốt,” là từ đồng nghĩa của chính từ đó. Cũng như không thể bị các tên trộm phiền não cướp đi, cũng vậy, được bảo vệ kỹ lưỡng bằng niệm được thiết lập kỹ lưỡng luôn luôn. “Của những người có bản chất hay phân vân,” là của những người bị sự phân vân phát sinh do nương vào điều hợp lệ và không hợp lệ chế ngự. Sự bối rối, đó là sự sợ hãi do mê muội. Người đã thoát khỏi sự bối rối đó là người không bối rối. “Bằng lời nói hợp pháp,” là bằng lời nói có lý do. “Chế ngự một cách tốt đẹp,” là chế ngự một cách tốt đẹp để họ không ngóc đầu lên lại được, mà trở nên không còn lanh lợi, bị hổ thẹn.
Alajjitāti ya-kāralopena niddeso, alajjitāyāti vuttaṃ hoti. Aññāṇatātiādīsupi eseva nayo. Mando momūhoti aññāṇabhāvena mando, avisayato momūho, mahāmūḷhoti attho.
“Sự không biết xấu hổ,” là sự chỉ định với việc lược bỏ mẫu tự ‘ya,’ có nghĩa là đã nói là ‘alajjitāya.’ Ở các câu “sự không hiểu biết” v.v… cũng theo phương pháp này. “Người ngu đần, mê muội,” là ngu đần do bản chất không hiểu biết, là mê muội do không phải là đối tượng, có nghĩa là người đại ngu si.
Attapaccatthikāti attano paccatthikā. Vajjiputtakā dasavatthudīpakā. Parūpahāraaññāṇakaṅkhāparavitāraṇādivādāti ettha ye arahattaṃ paṭijānantānaṃ appatte pattasaññīnaṃ adhimānikānaṃ kuhakānaṃ vā arahattaṃ paṭijānantānaṃ sukkavissaṭṭhiṃ disvā mārakāyikā devatā ‘‘arahato asuciṃ upasaṃharantī’’ti maññanti seyyathāpi pubbaseliyā aparaseliyā ca, te parūpahāravādā. Yesaṃ pana arahato itthipurisādīnaṃ nāmagottādīsu ñāṇappavattiyā abhāvena atthi arahato aññāṇaṃ, tattheva sanniṭṭhānābhāvena atthi arahato kaṅkhā, yasmā cassa tāni vatthūni pare vitārenti pakāsenti ācikkhanti, tasmā atthi arahato paravitāraṇāti imā tisso laddhiyo seyyathāpi etarahi pubbaseliyānaṃ, te aññāṇakaṅkhāparavitāraṇavādā. Niggaho pana nesaṃ kathāvatthuppakaraṇe vuttanayeneva veditabbo.
“Những người chống đối mình,” là những người chống đối của chính mình. Các Tỳ-khưu Vajjī là những người nêu lên mười sự việc. Về câu “các lập trường như sự mang đến của người khác, sự không hiểu biết, sự hoài nghi, sự giải thích của người khác v.v…,” ở đây, những người cho rằng, đối với các bậc A-la-hán đang tự nhận là A-la-hán, hoặc những người ngã mạn, giả dối tự nhận là A-la-hán trong khi chưa chứng đắc, khi thấy có sự xuất tinh, các vị trời thuộc chúng của ma nghĩ rằng “họ đang mang vật bất tịnh đến cho bậc A-la-hán,” cũng như các vị thuộc phái Pubbaseliya và Aparaseliya, những vị đó là những người theo lập trường về sự mang đến của người khác. Còn những người có ba lập trường này: do bậc A-la-hán không có sự diễn tiến của trí tuệ về tên họ v.v… của nam nữ, nên có sự không hiểu biết của bậc A-la-hán; do không có sự quyết định chắc chắn ở đó, nên có sự hoài nghi của bậc A-la-hán; và vì những sự việc đó được người khác giải thích, trình bày, chỉ dạy cho vị ấy, nên có sự giải thích của người khác đối với bậc A-la-hán, cũng như các vị thuộc phái Pubbaseliya hiện nay, những vị đó là những người theo lập trường về sự không hiểu biết, sự hoài nghi, và sự giải thích của người khác. Tuy nhiên, sự bác bỏ các lập trường của họ cần phải được biết theo phương pháp đã được nói trong bộ Luận về các điểm tranh cãi.
Cattāro maggā ca phalāni cāti ukkaṭṭhaniddesavasena vuttaṃ, catasso paṭisambhidā tisso vijjā cha abhiññāti ayampi adhigamasaddhammoyeva. Ca-kāro vā avuttasampiṇḍanattho daṭṭhabbo. Keci therāti dhammakathikā. Āhaṃsūti paṃsukūlikattherā evaṃ āhaṃsu.
“Bốn đạo và các quả,” được nói theo cách chỉ định cao nhất; bốn Vô Ngại Giải, ba Minh, và sáu Thắng Trí, đây cũng chính là chánh pháp về sự chứng đắc. Hoặc cần phải thấy rằng từ “và” có ý nghĩa tóm lược những điều chưa được nói đến. “Một số vị trưởng lão,” là các vị pháp sư. “Đã nói,” là các vị trưởng lão hạnh phấn tảo đã nói như vậy.
Kadā panāyaṃ kathā udapādīti? Ayañhettha anupubbikathā (a. ni. aṭṭha. 1.1.130) – imasmiṃ kira dīpe caṇḍālatissamahābhaye sakko devarājā mahāuḷumpaṃ māpetvā bhikkhūnaṃ ārocāpesi ‘‘mahantaṃ bhayaṃ bhavissati, na sammā devo vassissati, bhikkhū paccayehi kilamantā pariyattiṃ sandhāretuṃ na sakkhissanti, paratīraṃ gantvā ayyehi jīvitaṃ rakkhituṃ vaṭṭati. Imaṃ mahāuḷumpaṃ āruyha gacchatha bhante, yesaṃ ettha nisajjaṭṭhānaṃ nappahoti, te kaṭṭhakhaṇḍepi uraṃ ṭhapetvā gacchantu, sabbesaṃ bhayaṃ na bhavissatī’’ti. Tadā samuddatīraṃ patvā saṭṭhi bhikkhū katikaṃ katvā ‘‘amhākaṃ ettha gamanakiccaṃ natthi, mayaṃ idheva hutvā tepiṭakaṃ rakkhissāmā’’ti tato nivattitvā dakkhiṇamalayajanapadaṃ gantvā kandamūlapaṇṇehi jīvikaṃ kappentā vasiṃsu, kāye vahante nisīditvā sajjhāyaṃ karonti, avahante vālikaṃ ussāretvā parivāretvā sīsāni ekaṭṭhāne katvā pariyattiṃ sammasanti. Iminā niyāmena dvādasa saṃvaccharāni sāṭṭhakathaṃ tepiṭakaṃ paripuṇṇaṃ katvā dhārayiṃsu.
Vậy thì câu chuyện này đã phát sinh khi nào? Đây là câu chuyện tuần tự ở đây (a. ni. aṭṭha. 1.1.130): nghe nói, ở hòn đảo này, trong nạn đói lớn thời vua Caṇḍālatissa, trời Đế Thích đã hóa ra một chiếc bè lớn và cho các Tỳ-khưu biết rằng: “sẽ có một nạn đói lớn, trời sẽ không mưa thuận gió hòa, các Tỳ-khưu sẽ khốn khổ vì các vật dụng và không thể gìn giữ giáo pháp học thuộc được. Các ngài nên đi sang bờ bên kia để bảo toàn mạng sống. Xin các ngài hãy lên chiếc bè lớn này mà đi, những ai không có đủ chỗ ngồi ở đây, hãy ôm lấy các mảnh gỗ mà đi, tất cả sẽ không gặp nguy hiểm.” Lúc bấy giờ, sau khi đã đến bờ biển, sáu mươi vị Tỳ-khưu đã giao ước với nhau rằng: “chúng ta không cần phải đi đâu cả, chúng ta sẽ ở lại đây và bảo vệ Tam Tạng,” rồi từ đó quay trở lại, đi đến xứ Dakkhhiṇamalaya và sống bằng cách dùng các loại củ, rễ, lá cây, khi thân thể còn mang nổi thì ngồi tụng đọc, khi không còn mang nổi thì vun cát lên bao quanh và chụm đầu vào nhau, ôn lại giáo pháp. Theo cách này, trong mười hai năm, các vị ấy đã gìn giữ trọn vẹn Tam Tạng cùng với Chú giải.
Bhaye vūpasante sattasatā bhikkhū attano gataṭṭhāne sāṭṭhakathe tepiṭake ekakkharampi ekabyañjanampi avināsetvā imameva dīpamāgamma kallagāmajanapade maṇḍalārāmavihāraṃ pavisiṃsu. Therānaṃ āgatapavattiṃ sutvā imasmiṃ dīpe ohīnā saṭṭhi bhikkhū ‘‘there passissāmā’’ti gantvā therehi saddhiṃ tepiṭakaṃ sodhentā ekakkharampi ekabyañjanampi asamentaṃ nāma na passiṃsu. Tasmiṃ ṭhāne therānaṃ ayaṃ kathā udapādi ‘‘pariyatti nu kho sāsanassa mūlaṃ, udāhu paṭipattī’’ti. Paṃsukūlikattherā ‘‘paṭipatti mūla’’nti āhaṃsu, dhammakathikā ‘‘pariyattī’’ti . Atha ne therā ‘‘tumhākaṃ dvinnampi janānaṃ vacanamatteneva na sakkā viññātuṃ, jinabhāsitaṃ suttaṃ āharathā’’ti āhaṃsu. Suttaṃ āharituṃ na bhāroti –
Khi nạn đói đã qua, bảy trăm vị Tỳ-khưu, sau khi đã không làm mất đi dù chỉ một mẫu tự hay một văn tự nào trong Tam Tạng cùng với Chú giải ở nơi mình đã đến, đã quay trở lại hòn đảo này và đi vào tu viện Maṇḍalārāma ở xứ Kallagāma. Sau khi nghe tin các vị trưởng lão đã trở về, sáu mươi vị Tỳ-khưu đã suy yếu ở hòn đảo này đã đi đến với ý nghĩ “chúng ta sẽ đến thăm các vị trưởng lão,” và khi cùng các vị trưởng lão đó soát lại Tam Tạng, họ đã không thấy có sự sai khác nào dù chỉ một mẫu tự hay một văn tự. Tại nơi đó, cuộc tranh luận này đã nảy sinh giữa các vị trưởng lão: “giáo pháp học thuộc là gốc rễ của giáo pháp, hay là sự thực hành?” Các vị trưởng lão hạnh phấn tảo đã nói: “sự thực hành là gốc rễ.” Các vị pháp sư thì nói: “giáo pháp học thuộc.” Khi ấy, các vị trưởng lão đã nói với họ: “chỉ bằng lời nói của cả hai nhóm các ông thì không thể biết được, hãy dẫn kinh do đấng Chinh Phục đã nói ra.” Việc dẫn kinh không có gì nặng nhọc –
‘‘Ime ca, subhadda, bhikkhū sammā vihareyyuṃ, asuñño loko arahantehi assā’’ti (dī. ni. 2.214). ‘‘Paṭipattimūlakaṃ, mahārāja, satthusāsanaṃ , paṭipattisārakaṃ, mahārāja, satthusāsanaṃ, paṭipatti tiṭṭhantī tiṭṭhatī’’ti (mi. pa. 4.1.7) –
“Và này Subhadda, nếu các Tỳ-khưu này sống đúng chánh pháp, thế gian sẽ không trống rỗng các bậc A-la-hán.” (dī. ni. 2.214). “Thưa đại vương, giáo pháp của Bậc Đạo Sư có sự thực hành làm gốc rễ; thưa đại vương, giáo pháp của Bậc Đạo Sư có sự thực hành làm cốt lõi; khi sự thực hành còn tồn tại, thì giáo pháp còn tồn tại.” (mi. pa. 4.1.7) –
Suttaṃ āhariṃsu.
Họ đã dẫn kinh.
Imaṃ suttaṃ sutvā dhammakathikā attano vādaṭṭhapanatthāya imaṃ suttaṃ āhariṃsu –
Sau khi nghe kinh này, các vị pháp sư, để thiết lập lập trường của mình, đã dẫn kinh này –
‘‘Yāva tiṭṭhanti suttantā, vinayo yāva dippati;
Tāva dakkhanti ālokaṃ, sūriye abbhuṭṭhite yathā.
‘‘Suttantesu asantesu, pamuṭṭhe vinayamhi ca;
Tamo bhavissati loke, sūriye atthaṅgate yathā.
‘‘Suttante rakkhite sante, paṭipatti hoti rakkhitā;
Paṭipattiyaṃ ṭhito dhīro, yogakkhemā na dhaṃsatī’’ti.
“Chừng nào các kinh điển còn tồn tại, tạng Luật còn tỏa sáng;
Chừng đó, người ta sẽ thấy ánh sáng, như khi mặt trời mọc.
“Khi các kinh điển không còn, tạng Luật đã bị lãng quên;
Bóng tối sẽ bao trùm thế gian, như khi mặt trời lặn.
“Khi kinh điển được bảo vệ, sự thực hành cũng được bảo vệ;
Bậc trí tuệ, an trú trong sự thực hành, sẽ không đánh mất sự giải thoát khỏi ách nạn.”
Imasmiṃ sutte āhaṭe paṃsukūlikattherā tuṇhī ahesuṃ. Dhammakathikattherānaṃyeva vacanaṃ purato ahosi. Yathā hi gavasatassa gavasahassassa vā antare paveṇipālikāya dhenuyā asati so vaṃso sā paveṇī na ghaṭīyati, evameva āraddhavipassakānaṃ bhikkhūnaṃ satepi sahassepi vijjamāne pariyattiyā asati ariyamaggapaṭivedho nāma na hoti. Yathā ca nidhikumbhiyā jānanatthāya pāsāṇapiṭṭhe akkharesu upanibaddhesu yāva akkharāni dharanti, tāva nidhikumbhī naṭṭhā nāma na hoti, evameva pariyattiyā dharamānāya sāsanaṃ antarahitaṃ nāma na hotīti. Tassādheyyoti tassāyatto.
Khi kinh này được dẫn ra, các vị trưởng lão hạnh phấn tảo đã im lặng. Lời nói của các vị trưởng lão pháp sư đã được đặt lên hàng đầu. Thật vậy, cũng như trong một đàn bò trăm con hay ngàn con, nếu không có con bò cái đầu đàn của dòng dõi, thì dòng dõi đó, truyền thống đó không được tiếp nối; cũng vậy, dù có hàng trăm, hàng ngàn Tỳ-khưu đã bắt đầu tu tập tuệ giác, nếu không có giáo pháp học thuộc, thì sự thấu triệt đạo quả của bậc Thánh không thể xảy ra. Và cũng như, để biết được hũ kho báu, khi các chữ viết đã được khắc trên phiến đá, chừng nào các chữ viết còn tồn tại, chừng đó hũ kho báu không được xem là đã mất; cũng vậy, khi giáo pháp học thuộc còn tồn tại, giáo pháp không được xem là đã biến mất. “Tùy thuộc vào đó,” là phụ thuộc vào đó.
439.Sopanāti so pātimokkho. Sesamettha uttānameva. Garahitukāmatā, upasampannassa santike sikkhāpadavivaṇṇanañcāti imāni panettha dve aṅgāni.
439.“Bậc thang,” là chính Giới Bổn Ba-la-đề-mộc-xoa đó. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Ý muốn chê bai, và sự giải thích sai về điều học trước mặt người đã cụ túc viên mãn; đây là hai chi phần trong trường hợp này.
Vilekhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học làm cho hoang mang đã kết thúc.
3. Mohanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Sự giải về điều học làm cho mê muội
443. Tatiyaṃ uttānameva. Mohāropanaṃ, mohetukāmatā, vuttanayena sutabhāvo, mohananti imāni panettha cattāri aṅgāni.
443. Ở điều học thứ ba, ý nghĩa đã rõ ràng. Việc gán cho sự mê muội, ý muốn làm cho mê muội, tình trạng đã nghe theo cách đã nêu, và sự làm cho mê muội; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Mohanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học làm cho mê muội đã kết thúc.
4. Pahārasikkhāpadavaṇṇanā
4. Sự giải về điều học đánh đập
452. Catutthe rattacittoti kāyasaṃsaggarāgena rattacitto. Sace pana methunarāgena ratto pahāraṃ deti, dukkaṭameva. Sesamettha uttānameva. Kupitatā, na mokkhādhippāyatā, upasampannassa pahāradānanti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
452. Ở điều học thứ tư, “tâm tham ái” là tâm tham ái do lòng tham về sự tiếp xúc thân thể. Tuy nhiên, nếu người có lòng tham về việc giao hợp mà đánh đập, thì chỉ phạm tội Tác Ác. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Sự tức giận, sự không có ý định giải thoát, và việc đánh đập người đã cụ túc viên mãn; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Pahārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học đánh đập đã kết thúc.
5. Talasattikasikkhāpadavaṇṇanā
5. Sự giải về điều học giơ tay (đe dọa)
457. Pañcame na paharitukāmatāya dinnattā dukkaṭanti ettha paharitukāmatāya pahaṭe purimasikkhāpadena pācittiyaṃ, uccāretukāmatāya kevalaṃ uggiraṇamatte kate iminā pācittiyaṃ. Iminā pana virajjhitvā pahāro dinno, tasmā dukkaṭaṃ. Kimidaṃ dukkaṭaṃ pahārapaccayā, udāhu uggiraṇapaccayāti? Tattha keci tāva vadanti ‘‘pahārapaccayā eva dukkaṭaṃ, uggiraṇapaccayā pācittiyanti sadukkaṭaṃ pācittiyaṃ yujjati. Purimañhi uggiraṇaṃ, pacchā pahāro, na ca pacchā pahāraṃ nissāya purimaṃ uggiraṇaṃ anāpattivatthukaṃ bhavitumarahatī’’ti.
457. Ở điều học thứ năm, về câu “phạm tội Tác Ác do đã cho mà không có ý định đánh,” ở đây, nếu đánh với ý định đánh thì phạm tội Ưng Đối Trị theo điều học trước; nếu chỉ giơ tay lên với ý định dọa nạt thì phạm tội Ưng Đối Trị theo điều học này. Tuy nhiên, do đã thất bại trong việc này mà một cú đánh đã được tung ra, do đó là tội Tác Ác. Tội Tác Ác này là do duyên đánh đập, hay do duyên giơ tay lên? Về điều đó, một số người nói rằng: “tội Tác Ác là do duyên đánh đập, còn tội Ưng Đối Trị là do duyên giơ tay lên, nên hợp lý là phạm tội Ưng Đối Trị kèm theo tội Tác Ác. Thật vậy, việc giơ tay lên trước, việc đánh đập sau, và việc giơ tay lên trước không thể trở thành đối tượng của sự vô tội chỉ vì nương vào việc đánh đập sau đó.”
Mayaṃ panettha evaṃ takkayāma ‘‘uggiraṇassa attano sabhāveneva asaṇṭhitattā tappaccayā pācittiyena na bhavitabbaṃ, asuddhacittena katapayogattā pana na sakkā ettha anāpattiyā bhavitunti dukkaṭaṃ vuttaṃ. ‘Na paharitukāmatāya dinnattā’ti iminā ca pahārapaccayā purimasikkhāpadena pācittiyāsambhave kāraṇaṃ vuttaṃ, na pana pahārapaccayā dukkaṭasambhave. Na hi apaharitukāmatāya pahāre dinne purimasikkhāpadena pahārapaccayā pācittiyena dukkaṭena vā bhavituṃ yutta’’nti. ‘‘Tiracchānādīnaṃ asucikaraṇādiṃ disvā kujjhitvāpi uggirantassa mokkhādhippāyo evā’’ti vadanti. Sesamettha uttānameva. Kupitatā, na mokkhādhippāyatā, upasampannassa talasattiuggiraṇanti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
Chúng tôi ở đây suy luận như sau: “do việc giơ tay lên tự bản chất của nó không đứng vững, nên không thể phạm tội Ưng Đối Trị do duyên đó. Tuy nhiên, do là sự nỗ lực được làm với tâm không trong sạch, nên ở đây không thể là vô tội, do đó đã nói là tội Tác Ác. Và bằng câu ‘do đã cho mà không có ý định đánh,’ lý do cho việc không có tội Ưng Đối Trị theo điều học trước do duyên đánh đập đã được nói đến, chứ không phải cho việc có tội Tác Ác do duyên đánh đập. Thật vậy, khi một cú đánh được tung ra mà không có ý định đánh, thì không hợp lý để phạm tội Ưng Đối Trị hay Tác Ác do duyên đánh đập theo điều học trước.” Có người nói rằng: “ngay cả khi giơ tay lên do tức giận khi thấy các loài bàng sanh v.v… làm điều bất tịnh, thì cũng chỉ có ý định giải thoát.” Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Sự tức giận, sự không có ý định giải thoát, và việc giơ tay đe dọa người đã cụ túc viên mãn; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Talasattikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học giơ tay (đe dọa) đã kết thúc.
6. Amūlakasikkhāpadavaṇṇanā
6. Sự giải về điều học (vu khống) không có căn cứ
459. Chaṭṭhaṃ uttānatthameva. Upasampannatā, saṅghādisesassa amūlakatā, anuddhaṃsanā, taṅkhaṇavijānanāti imāni panettha cattāri aṅgāni.
459. Ở điều học thứ sáu, ý nghĩa đã rõ ràng. Việc là người đã cụ túc viên mãn, việc tội Tăng Tàn không có căn cứ, sự vu khống, và sự hiểu biết ngay lúc đó; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Amūlakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học (vu khống) không có căn cứ đã kết thúc.
7. Sañciccasikkhāpadavaṇṇanā
7. Sự giải về điều học cố ý (gây phiền não)
464. Sattamampi uttānatthameva. Upasampannatā, aphāsukāmatā, kukkuccuppādananti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
464. Điều học thứ bảy cũng có ý nghĩa rõ ràng. Việc là người đã cụ túc viên mãn, ý muốn gây phiền não, và việc tạo ra sự phân vân; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Sañciccasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học cố ý (gây phiền não) đã kết thúc.
8. Upassutisikkhāpadavaṇṇanā
8. Sự giải về điều học nghe lén
471. Aṭṭhame sutisamīpanti saddasamīpaṃ. Suyyatīti hi suti, saddassetaṃ adhivacanaṃ. Tassa samīpaṃ upassuti, saddasamīpanti vuttaṃ hoti. Gaṇṭhipadesu ca suyyatīti sutīti saddova vutto. Yattha pana ṭhitena sakkā hoti saddaṃ sotuṃ, tattha tiṭṭhanto saddasamīpe ṭhito nāma hotīti āha ‘‘yattha ṭhatvā’’tiādi. Keci pana ‘‘suṇāti etthāti suti. Yattha ṭhito suṇāti, tassa ṭhānassetaṃ nāmaṃ. Tassa samīpaṃ upassutī’’ti vadanti, evaṃ pana gayhamāne yasmiṃ ṭhāne ṭhito suṇāti, tassa āsanne aññasmiṃ padese tiṭṭhatīti āpajjati. Aṭṭhakathāyañca upassuti-saddasseva atthaṃ dassetuṃ ‘‘yattha ṭhatvā sakkā hoti, tesaṃ vacanaṃ sotu’’nti vuttaṃ, na suti-saddassa. Tasmā pubbanayovettha pasatthataro. Atha vā upecca suyyati etthāti upassuti, ṭhānaṃ. Yaṃ ṭhānaṃ upagatena sakkā hoti kathentānaṃ saddaṃ sotuṃ, tatthāti evamattho gahetabbo. Mantentanti bhummatthe upayogavacananti āha ‘‘mantayamāne’’ti.
471. Ở điều học thứ tám, “gần chỗ nghe” là gần tiếng động. Thật vậy, cái được nghe là sự nghe, đó là một tên gọi khác của tiếng động. Gần cái đó là sự nghe lén, có nghĩa là gần tiếng động. Và trong các sách nghĩa giải, suyyatīti sutīti saddova vutto. Tuy nhiên, ở nơi nào mà khi đứng, có thể nghe được tiếng động, thì người đứng ở đó được gọi là người đứng gần tiếng động, do đó ngài nói: “đứng ở nơi nào” v.v… Tuy nhiên, một số người nói: “nghe ở đó, nên là sự nghe. Nơi nào mà khi đứng, người ta nghe, đó là tên gọi của nơi đó. Gần nơi đó là sự nghe lén,” nhưng nếu hiểu như vậy, sẽ dẫn đến việc đứng ở một nơi khác gần nơi mà mình đang đứng để nghe. Và trong Chú giải, để chỉ ra ý nghĩa của chính từ upassuti, đã nói: “đứng ở nơi nào có thể nghe được lời nói của họ,” chứ không phải ý nghĩa của từ suti. Do đó, phương pháp trước đó ở đây là ưu việt hơn. Hoặc là, đến gần và nghe được ở đó, nên là sự nghe lén, đó là một nơi. Nơi nào mà khi đã đến, có thể nghe được tiếng động của những người đang nói, thì ý nghĩa nên được hiểu như vậy. “Khi đang bàn bạc,” đây là cách dùng biến cách chỉ mục đích với nghĩa của biến cách thứ bảy, nên ngài nói: “đối với người đang bàn bạc.”
473.Ekaparicchedānīti ‘‘siyā kiriyaṃ, siyā akiriya’’nti iminā nayena ekaparicchedāni. Imāni hi tīṇi sikkhāpadāni kadāci kiriyato samuṭṭhahanti, kadāci akiriyato, na ekakkhaṇeyeva kiriyākiriyato samuṭṭhahanti. Sesamettha uttānameva. Upasampannatā, codanādhippāyo, savananti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
473.“Có một sự phân định,” là có một sự phân định theo phương pháp “hoặc là hành động, hoặc là không phải hành động.” Thật vậy, ba điều học này đôi khi phát sinh từ hành động, đôi khi từ không phải hành động; chúng không phát sinh từ hành động và không phải hành động trong cùng một khoảnh khắc. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là người đã cụ túc viên mãn, ý định chất vấn, và sự nghe; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Upassutisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học nghe lén đã kết thúc.
9. Kammapaṭibāhanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Sự giải về điều học cản trở Tăng sự
474. Navamaṃ uttānatthameva. Dhammakammatā, dhammakammanti saññā, chandaṃ datvā khiyyananti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
474. Ở điều học thứ chín, ý nghĩa đã rõ ràng. Việc là Tăng sự hợp pháp, có tưởng là Tăng sự hợp pháp, và việc chê bai sau khi đã cho sự đồng thuận; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Kammapaṭibāhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học cản trở Tăng sự đã kết thúc.
10. Chandaṃ adatvā gamanasikkhāpadavaṇṇanā
10. Sự giải về điều học đi mà không cho sự đồng thuận
479. Dasamaṃ uttānatthameva. Vinicchayakathāya pavattamānatā, dhammakammatā, dhammakammasaññitā, samānasīmāyaṃ ṭhitatā, samānasaṃvāsakatā, kopetukāmatāya hatthapāsavijahananti imāni panettha cha aṅgāni.
479. Ở điều học thứ mười, ý nghĩa đã rõ ràng. Việc câu chuyện quyết định đang được diễn ra, việc là Tăng sự hợp pháp, có tưởng là Tăng sự hợp pháp, việc đang ở trong cùng một ranh giới, việc cùng sống chung, và việc rời khỏi tầm tay với ý muốn làm cho tức giận; đây là sáu chi phần trong trường hợp này.
Chandaṃ adatvā gamanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học đi mà không cho sự đồng thuận đã kết thúc.
11. Dubbalasikkhāpadavaṇṇanā
11. Sự giải về điều học làm suy yếu (quyết định)
484. Ekādasamampi uttānatthameva. Upasampannatā, dhammena laddhasammutitā, saṅghena saddhiṃ vikappanupagacīvaradānaṃ, pacchā khīyitukāmatāya khiyyanāti imāni panettha cattāri aṅgāni.
484. Điều học thứ mười một cũng có ý nghĩa rõ ràng. Việc là người đã cụ túc viên mãn, việc được bổ nhiệm hợp pháp, việc cho y có thể được chuyển giao cùng với Tăng chúng, và việc chê bai với ý muốn chê bai sau đó; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Dubbalasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học làm suy yếu (quyết định) đã kết thúc.
489. Dvādasame natthi kiñci vattabbaṃ.
489. Ở điều học thứ mười hai, không có gì để nói.
Niṭṭhito sahadhammikavaggo aṭṭhamo.
Phẩm Theo Pháp, là phẩm thứ tám, đã kết thúc.
9. Rājavaggo
9. Phẩm về Vua
1. Antepurasikkhāpadavaṇṇanā
1. Sự giải về điều học nội cung
497-499. Rājavaggassa paṭhamasikkhāpade aṭṭhakathāyaṃ sabbaṃ uttānatthameva. Pāḷiyaṃ pana ayamanuttānapadattho. Kataṃ vā karissanti vāti methunavītikkamanaṃ kataṃ vā karissanti vā. Imesanti padaṃ vibhattivipariṇāmaṃ katvā ubhayattha yojetabbaṃ ‘‘imehi kataṃ ime karissantī’’ti. Ratananti maṇiratanādīsu yaṃkiñci. Ubhatoti dvīhi pakkhehi. ‘‘Ubhato sujāto’’ti ettake vutte yehi kehici dvīhi bhāgehi sujātatā viññāyeyya, sujāta-saddo ca ‘‘sujāto cārudassano’’tiādīsu ārohasampattipariyāyoti jātivaseneva sujātataṃ vibhāvetuṃ ‘‘mātito ca pitito cā’’ti vuttaṃ. Anorasaputtavasenapi loke mātupitusamaññā dissati, idha pana sā orasaputtavaseneva icchitāti dassetuṃ ‘‘saṃsuddhagahaṇiko’’ti vuttaṃ. Gabbhaṃ gaṇhāti dhāretīti gahaṇī, gabbhāsayasaññito mātukucchippadeso. Saṃsuddhā gahaṇī assāti saṃsuddhagahaṇiko, saṃsuddhā tassa mātukucchīti vuttaṃ hoti. ‘‘Samavepākiniyā gahaṇiyā’’ti ettha pana yathābhuttassa āhārassa vipācanavasena gaṇhanato achaḍḍanato kammajatejodhātu ‘‘gahaṇī’’ti vuccati.
497-499. Ở điều học đầu tiên của Phẩm về Vua, trong Chú giải, tất cả đều có ý nghĩa rõ ràng. Tuy nhiên, trong Pāḷi, đây là ý nghĩa của từ không rõ ràng. “Đã làm hoặc sẽ làm,” là sự vi phạm về việc giao hợp đã được làm hoặc sẽ được làm. Từ “của những người này,” sau khi đã thay đổi biến cách, nên được kết hợp ở cả hai nơi là: “đã được làm bởi những người này, những người này sẽ làm.” “Báu vật,” là bất cứ thứ gì trong các loại báu vật như ngọc ma-ni v.v… “Từ cả hai phía,” là từ hai phía. Nếu chỉ nói “thuần chủng từ cả hai phía,” thì có thể hiểu là sự thuần chủng từ bất kỳ hai phía nào. Và từ “thuần chủng” trong các câu như “dáng người cao ráo, ưa nhìn” v.v… là từ đồng nghĩa với sự thành tựu về vóc dáng, nên để làm rõ sự thuần chủng chỉ về mặt dòng dõi, đã nói là “từ phía mẹ và từ phía cha.” Do trong thế gian, danh xưng cha mẹ cũng được thấy ngay cả đối với con nuôi, nên để chỉ ra rằng ở đây chỉ muốn nói đến con ruột, đã nói là “có bào thai trong sạch.” Nắm giữ, chứa đựng bào thai, nên là bào thai; đó là vùng bụng của người mẹ được gọi là tử cung. Người có bào thai trong sạch là người có bào thai trong sạch, có nghĩa là tử cung của mẹ người ấy trong sạch. Tuy nhiên, ở câu “của người có bào thai tiêu hóa đều đặn,” do việc nhận lấy thức ăn đã dùng theo cách tiêu hóa và không nôn ra, nên hỏa đại do nghiệp tạo ra được gọi là “bào thai.”
Yāvasattamā pitāmahayugāti ettha pitu pitā pitāmaho, pitāmahassa yugaṃ pitāmahayugaṃ. ‘‘Yuga’’nti āyuppamāṇaṃ vuccati. Abhilāpamattameva cetaṃ, atthato pana pitāmahoyeva pitāmahayugaṃ. Pitā ca mātā ca pitaro, pitūnaṃ pitaro pitāmahā, tesaṃ yugo pitāmahayugo, tasmā yāva sattamā pitāmahayugā, pitāmahadvandāti evamettha attho daṭṭhabbo. Evañhi pitāmahaggahaṇeneva mātāmahopi gahito hoti. Yuga-saddo cettha ekasesena daṭṭhabbo yugo ca yugo ca yugoti. Evañhi tattha tattha dvandaṃ gahitameva hoti, tasmā tato uddhaṃ sabbepi pubbapurisā pitāmahayugaggahaṇeneva gahitā. Evaṃ yāva sattamo pitāmahayugo, tāva saṃsuddhagahaṇiko.
Về câu “cho đến đời ông nội thứ bảy,” ở đây, cha của cha là ông nội; thế hệ của ông nội là thế hệ ông nội. “Thế hệ” được gọi là tuổi thọ. Và đây chỉ là cách nói thông thường, còn về mặt ý nghĩa, chính ông nội là thế hệ ông nội. Cha và mẹ là cha mẹ; cha mẹ của cha mẹ là các ông bà; thế hệ của họ là thế hệ ông bà. Do đó, ở đây cần phải hiểu ý nghĩa như sau: cho đến đời ông bà thứ bảy, tức là các cặp ông bà. Vì làm như vậy, bằng việc đề cập đến ông nội, bà ngoại cũng đã được bao gồm. Và ở đây, cần phải thấy rằng từ “thế hệ” được dùng theo cách lược bỏ một từ trong cặp đôi, tức là thế hệ và thế hệ là các thế hệ. Vì làm như vậy, ở mỗi nơi, cặp đôi đã được bao gồm. Do đó, tất cả các tổ tiên xa hơn nữa cũng đã được bao gồm bằng việc đề cập đến thế hệ ông bà. Như vậy, cho đến đời ông bà thứ bảy, là người có bào thai trong sạch.
Akkhittoti ‘‘apanetha etaṃ, kiṃ iminā’’ti evaṃ akkhitto anavakkhitto. Anupakuṭṭhoti na upakuṭṭho, na akkosaṃ vā nindaṃ vā pattapubbo. Kena kāraṇenāti āha ‘‘jātivādenā’’ti. Ettha ca ‘‘ubhato…pe… pitāmahayugā’’ti etena tassa yonidosābhāvo dassito saṃsuddhagahaṇikabhāvakittanato, ‘‘akkhitto’’ti iminā kiriyāparādhābhāvo. Kiriyāparādhena hi sattā khepaṃ pāpuṇanti. ‘‘Anupakuṭṭho’’ti iminā ayuttasaṃsaggābhāvo. Ayuttasaṃsaggañhi paṭicca sattā akkosaṃ labhanti. Sesamettha uttānameva. Khattiyatā, abhisittatā, ubhinnampi sayanigharato anikkhantatā, appaṭisaṃviditatā, indakhīlātikkamoti imāni panettha pañca aṅgāni.
“Không bị xua đuổi,” là không bị xua đuổi, không bị khinh miệt bằng cách nói: “hãy đuổi kẻ này đi, kẻ này thì có ích gì.” “Không bị chê bai,” là chưa bị chê bai, chưa từng bị mắng nhiếc hay chỉ trích. Do nguyên nhân gì? Ngài nói: “bằng lời nói về dòng dõi.” Và ở đây, bằng câu “từ cả hai phía… cho đến… thế hệ ông bà,” sự không có lỗi về dòng dõi của người ấy đã được chỉ ra, do đã tán dương về việc có bào thai trong sạch. Bằng từ “không bị xua đuổi,” sự không có lỗi về hành động đã được chỉ ra. Thật vậy, chúng sanh bị xua đuổi do lỗi về hành động. Bằng từ “không bị chê bai,” sự không có sự giao du không thích hợp đã được chỉ ra. Thật vậy, chúng sanh bị mắng nhiếc do nương vào sự giao du không thích hợp. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là dòng dõi Sát-đế-lỵ, việc đã được làm lễ đăng quang, việc cả hai đều chưa ra khỏi phòng ngủ, việc không được cho biết, và việc đi qua khỏi cột trụ Indra; đây là năm chi phần trong trường hợp này.
Antepurasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học nội cung đã kết thúc.
2. Ratanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Sự giải về điều học báu vật
502. Dutiye mahālataṃ nāmāti patikulaṃ gacchantiyā kira tassā pitā mahālatāpiḷandhanaṃ nāma kārāpesi. Tasmiṃ piḷandhane catasso vajiranāḷiyo tattha tattha appetabbaṭṭhāne appanavasena viniyogaṃ agamaṃsu, muttānaṃ ekādasa nāḷiyo, pavāḷassa dvāvīsati nāḷiyo, maṇīnaṃ tettiṃsa nāḷiyo. Iti etehi ca aññehi ca veḷuriyalohitaṅkamasāragallādīhi sattavaṇṇehi ca ratanehi niṭṭhānaṃ agamāsi . Taṃ sīse paṭimukkaṃ yāva pādapiṭṭhiyā bhassati, pañcannaṃ hatthīnaṃ balaṃ dhārayamānāva itthī naṃ dhāretuṃ sakkoti. Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
502. Ở điều học thứ hai, “tên là Mahālatā,” nghe nói, khi cô ấy về nhà chồng, cha cô ấy đã cho làm một đồ trang sức tên là Mahālatāpiḷandhana. Trong đồ trang sức đó, bốn ống kim cương đã được sử dụng bằng cách gắn vào những vị trí cần được gắn; mười một ống ngọc trai, hai mươi hai ống san hô, và ba mươi ba ống ngọc ma-ni. Như vậy, nó đã được hoàn thành bằng bảy loại báu vật này và các loại khác như ngọc lưu ly, hồng ngọc, mã não v.v… Khi được đội trên đầu, nó rủ xuống đến mu bàn chân, và chỉ có người phụ nữ có sức mạnh của năm con voi mới có thể mang nổi. Ám chỉ đến điều đó mà đã được nói.
506. Āvasathassa pana suppapāto vā musalapāto vā upacāro nāmāti yojetabbaṃ. Āvasathoti cettha antoārāme vā hotu aññattha vā, attano vasanaṭṭhānaṃ vuccati. Chandenapi bhayenapīti vaḍḍhakīādīsu chandena, rājavallabhesu bhayena. Tameva bhikkhuṃ āsaṅkantīti vissaritvā gamanakāle attano pacchato aññassābhāvā āsaṅkanti. Patirūpaṃ nāma ratanasammate paṃsukūlaggahaṇaṃ vā ratane nirussukkagamanaṃ vā. Yadi hi taṃ ratanasammataṃ āmāsaṃ ce, ‘‘natthi etassa sāmī’’ti paṃsukūlaṃ gahessati. Anāmāsaṃ ce, ‘‘natthi etassa sāmī’’ti paṃsukūlachinnapalibodho nirapekkho gamissati. Samādapetvāti aññaṃ samādapetvā, ‘‘uddissa ariyā tiṭṭhanti, esā ariyānayācanā’’ti (jā. 1.7.59) vuttanayena yācitvāti attho. Sesamettha uttānameva. Ananuññātakaraṇaṃ, parasantakatā, vissāsaggāhapaṃsukūlasaññānaṃ abhāvo, uggahaṇaṃ vā uggahāpanaṃ vāti imāni panettha cattāri aṅgāni.
506. Tuy nhiên, khu vực cận tiếp của một nhà nghỉ được gọi là nơi chày rơi hoặc nơi chổi rơi, cần phải được kết hợp. “Nhà nghỉ,” ở đây, dù là ở trong tu viện hay ở nơi khác, được gọi là nơi ở của mình. “Do thiên vị hoặc do sợ hãi,” là do thiên vị đối với những người thợ mộc v.v…, do sợ hãi đối với những người được vua sủng ái. “Họ nghi ngờ chính Tỳ-khưu đó,” là, khi đi mà đãng trí, do không có ai khác ở sau mình, nên họ nghi ngờ. “Điều thích hợp” là, đối với vật được xem là báu vật, việc nhận lấy như vật phấn tảo hoặc việc đi mà không luyến tiếc đối với báu vật đó. Nếu vật được xem là báu vật đó có thể chạm vào, vị ấy sẽ nhận lấy như vật phấn tảo với ý nghĩ “vật này không có chủ.” Nếu không thể chạm vào, vị ấy sẽ đi một cách không luyến tiếc, đã cắt đứt sự ràng buộc của vật phấn tảo với ý nghĩ “vật này không có chủ.” “Sau khi đã khích lệ,” là sau khi đã khích lệ người khác, có nghĩa là sau khi đã xin theo phương pháp đã được nói: “các bậc Thánh đang đứng chờ, đây là sự xin của các bậc Thánh” (jā. 1.7.59). Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc làm điều chưa được cho phép, việc là tài sản của người khác, sự không có tưởng là vật vô chủ hay vật phấn tảo, và việc nhặt lên hoặc bảo người khác nhặt lên; đây là bốn chi phần trong trường hợp này.
Ratanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học báu vật đã kết thúc.
3. Vikālagāmappavisanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Sự giải về điều học đi vào làng phi thời
508. Tatiye ariyamaggassāti ettha saggamaggopi saṅgahetabbo. Aniyyānikattā saggamokkhamaggānaṃ tiracchānabhūtā hi kathā tiracchānakathā. Tiracchānabhūtanti tirokaraṇabhūtaṃ vibandhanabhūtaṃ. Rājapaṭisaṃyuttaṃ kathanti (dī. ni. aṭṭha. 1.17; ma. ni. aṭṭha. 2.223; saṃ. ni. aṭṭha. 3.5.1080; a. ni. aṭṭha. 3.10.69-70) rājānaṃ ārabbha ‘‘mahāsammato mandhātā dhammāsoko evaṃmahānubhāvo’’tiādinā nayena pavattakathaṃ. Ettha ca ‘‘asuko rājā abhirūpo dassanīyo’’tiādinā nayena gehassitakathāva tiracchānakathā hoti. ‘‘Sopi nāma evaṃmahānubhāvo khayaṃ gato’’ti evaṃ pavattā pana aniccatāpaṭisaṃyuttā kammaṭṭhānabhāve tiṭṭhati. Coresupi ‘‘mūladevo evaṃmahānubhāvo, meghamālo evaṃmahānubhāvo’’ti tesaṃ kammaṃ paṭicca ‘‘aho sūrā’’ti gehassitakathāva tiracchānakathā. Yuddhepi bharatayuddhādīsu ‘‘asukena asuko evaṃ mārito evaṃ viddho’’ti kāmassādavaseneva kathā tiracchānakathā. ‘‘Tepi nāma khayaṃ gatā’’ti evaṃ pavattā pana sabbattha kammaṭṭhānameva hoti.
508. Ở điều học thứ ba, ở câu “của thánh đạo,” ở đây, con đường đến cõi trời cũng cần được bao gồm. Thật vậy, câu chuyện do không đưa đến các con đường của trời và giải thoát, nên là câu chuyện thấp hèn, đó là câu chuyện bàng sanh. “Là thấp hèn” là có tính cách ngăn cản, có tính cách trói buộc. “Câu chuyện liên quan đến vua,” (dī. ni. aṭṭha. 1.17; ma. ni. aṭṭha. 2.223; saṃ. ni. aṭṭha. 3.5.1080; a. ni. aṭṭha. 3.10.69-70) là câu chuyện được kể liên quan đến vua theo phương pháp: “vua Mahāsammata, Mandhātā, Dhammāsoka có đại uy lực như vậy” v.v… Và ở đây, câu chuyện liên quan đến gia đình theo phương pháp: “vua nọ có dung mạo ưa nhìn, đáng xem” v.v… chính là câu chuyện bàng sanh. Tuy nhiên, câu chuyện được kể rằng: “ngay cả người có đại uy lực như vậy cũng đã đi đến chỗ hoại diệt,” thì lại đứng ở vị trí là đề mục thiền liên quan đến sự vô thường. “Trong các câu chuyện về kẻ trộm,” câu chuyện liên quan đến gia đình như: “Mūladeva có đại uy lực như vậy, Meghamāla có đại uy lực như vậy,” và liên quan đến hành động của họ như: “ồ, thật là những người dũng cảm,” chính là câu chuyện bàng sanh. “Trong các câu chuyện về chiến tranh,” trong các cuộc chiến như chiến tranh Bhārata v.v…, câu chuyện theo cách thưởng thức dục lạc như: “người này đã giết người kia như thế này, đã bắn như thế kia,” là câu chuyện bàng sanh. Tuy nhiên, câu chuyện được kể rằng: “ngay cả những người đó cũng đã đi đến chỗ hoại diệt,” thì ở khắp nơi đều là đề mục thiền.
Apica annādīsu ‘‘evaṃ vaṇṇavantaṃ gandhavantaṃ rasavantaṃ phassasampannaṃ khādimha bhuñjimha pivimha paribhuñjimhā’’ti kāmassādavasena kathetuṃ na vaṭṭati, sātthakaṃ pana katvā ‘‘pubbe evaṃ vaṇṇādisampannaṃ annaṃ pānaṃ vatthaṃ sayanaṃ mālāgandhaṃ sīlavantānaṃ adamha, cetiyapūjaṃ akarimhā’’ti kathetuṃ vaṭṭati. Ñātikathādīsupi ‘‘amhākaṃ ñātakā sūrā samatthā’’ti vā ‘‘pubbe mayaṃ evaṃ vicitrehi yānehi vicarimhā’’ti vā assādavasena vattuṃ na vaṭṭati, sātthakaṃ pana katvā ‘‘tepi no ñātakā khayaṃ gatā’’ti vā ‘‘pubbe mayaṃ evarūpā upāhanā saṅghassa adamhā’’ti vā kathetabbaṃ. Gāmakathāpi suniviṭṭhadunniviṭṭhasubhikkhadubbhikkhādivasena vā ‘‘asukagāmavāsino sūrā samatthā’’ti vā evaṃ assādavasena na vaṭṭati, sātthakaṃ pana katvā ‘‘saddhā pasannā’’ti vā ‘‘khayavayaṃ gatā’’ti vā vattuṃ vaṭṭati. Nigamanagarajanapadakathāsupi eseva nayo.
Hơn nữa, trong các câu chuyện về thức ăn v.v…, không được phép nói theo cách thưởng thức dục lạc rằng: “chúng tôi đã nhai, đã ăn, đã uống, đã hưởng dụng (món ăn) có màu sắc, hương thơm, mùi vị, và sự xúc chạm tốt đẹp như vậy.” Tuy nhiên, được phép nói một cách có ý nghĩa rằng: “trước đây chúng tôi đã cúng dường thức ăn, thức uống, y phục, chỗ ở, vòng hoa, và hương thơm có màu sắc v.v… tốt đẹp như vậy cho những người có giới hạnh, đã làm lễ cúng dường bảo tháp.” Trong các câu chuyện về quyến thuộc v.v…, cũng không được phép nói theo cách thưởng thức rằng: “quyến thuộc của chúng tôi là những người dũng cảm, có năng lực,” hoặc “trước đây chúng tôi đã đi lại bằng những cỗ xe lộng lẫy như vậy.” Tuy nhiên, phải nói một cách có ý nghĩa rằng: “những người quyến thuộc đó của chúng tôi cũng đã đi đến chỗ hoại diệt,” hoặc “trước đây chúng tôi đã cúng dường những đôi giày như vậy cho Tăng chúng.” Câu chuyện về làng cũng vậy, không được phép nói theo cách thưởng thức về việc làng được bố trí tốt hay xấu, sung túc hay đói kém v.v…, hoặc “dân làng nọ là những người dũng cảm, có năng lực.” Tuy nhiên, được phép nói một cách có ý nghĩa rằng: “họ có đức tin, có lòng trong sạch,” hoặc “đã đi đến chỗ hoại diệt.” Trong các câu chuyện về thị trấn, thành phố, và xứ sở cũng theo phương pháp này.
Itthikathāpi vaṇṇasaṇṭhānādīni paṭicca assādavasena na vaṭṭati, ‘‘saddhā pasannā, khayaṃ gatā’’ti evaṃ vattuṃ vaṭṭati. Sūrakathāpi ‘‘nandimitto nāma yodho sūro ahosī’’ti assādavasena na vaṭṭati, ‘‘saddho ahosi, khayaṃ gato’’ti evameva vaṭṭati. Visikhākathāpi ‘‘asukā visikhā suniviṭṭhā dunniviṭṭhā sūrā samatthā’’ti assādavaseneva na vaṭṭati, ‘‘saddhā pasannā, khayaṃ gatā’’icceva vaṭṭati.
Câu chuyện về phụ nữ cũng không được phép nói theo cách thưởng thức liên quan đến dung mạo, hình dáng v.v… Được phép nói rằng: “họ có đức tin, có lòng trong sạch, đã đi đến chỗ hoại diệt.” Câu chuyện về người dũng cảm cũng không được phép nói theo cách thưởng thức rằng: “chiến binh tên là Nandimitta là một người dũng cảm.” Chỉ được phép nói rằng: “ông ấy đã có đức tin, đã đi đến chỗ hoại diệt.” Câu chuyện về đường phố cũng không được phép nói theo cách thưởng thức rằng: “đường phố nọ được bố trí tốt, xấu, có những người dũng cảm, có năng lực.” Chỉ được phép nói: “họ có đức tin, có lòng trong sạch, đã đi đến chỗ hoại diệt.”
Kumbhaṭṭhānakathāti kuṭaṭṭhānakathā udakatitthakathā vuccati, kumbhadāsīkathā vā. Sāpi ‘‘pāsādikā naccituṃ gāyituṃ chekā’’ti assādavasena na vaṭṭati, ‘‘saddhā pasannā’’tiādinā nayeneva vaṭṭati. Pubbapetakathāti atītañātikathā. Tattha vattamānañātikathāsadisova vinicchayo.
“Câu chuyện ở chỗ đặt chum nước,” được gọi là câu chuyện ở bến nước; hoặc là câu chuyện về các cô gái gánh nước. Câu chuyện đó cũng không được phép nói theo cách thưởng thức rằng: “họ có dáng vẻ uy nghi, giỏi múa hát.” Chỉ được phép nói theo phương pháp “họ có đức tin, có lòng trong sạch” v.v… “Câu chuyện về người đã mất,” là câu chuyện về quyến thuộc đã qua đời. Ở đó, sự quyết định cũng giống như câu chuyện về quyến thuộc đang còn sống.
Nānattakathāti purimapacchimakathāvimuttā avasesā nānāsabhāvā niratthakakathā. Lokakkhāyikāti ‘‘ayaṃ loko kena nimmito, asukena pajāpatinā brahmunā issarena vā nimmito, kāko seto aṭṭhīnaṃ setattā, bakā rattā lohitassa rattattā’’ti evamādikā lokāyatavitaṇḍasallāpakathā. Uppattiṭhitisaṃhārādivasena lokaṃ akkhāyatīti lokakkhāyikā. Samuddakkhāyikā nāma kasmā samuddo sāgaro, sāgarassa rañño puttehi khatattā sāgaro. Khato amhehīti hatthamuddāya niveditattā samuddoti evamādikā niratthakā samuddakkhāyikakathā.
“Câu chuyện phiếm,” là các câu chuyện vô ích, có nhiều bản chất khác nhau, ngoài các câu chuyện đã nói trước và sau. “Truyện kể về thế gian,” là các câu chuyện bàn luận ngụy biện về vũ trụ như: “thế gian này do ai tạo ra? Do vị प्रजापति, vị Phạm Thiên, hay vị Thượng Đế nào đó tạo ra. Con quạ màu trắng vì xương của nó màu trắng; con diệc màu đỏ vì máu của nó màu đỏ.” Kể về thế gian theo cách sanh, trụ, hoại v.v…, nên là truyện kể về thế gian. “Truyện kể về đại dương” là các câu chuyện vô ích về đại dương như: tại sao đại dương lại là sāgara? Vì được các con của vua Sāgara đào, nên là sāgara. Do đã thông báo bằng dấu tay rằng “đã được chúng tôi đào,” nên là samudra.
Iti bhavo iti abhavoti yaṃ vā taṃ vā niratthakakāraṇaṃ vatvā pavattitakathā itibhavābhavakathā. Ettha ca bhavoti sassataṃ, abhavoti ucchedaṃ. Bhavoti vuddhi, abhavoti hāni . Bhavoti kāmasukhaṃ, abhavoti attakilamatho. Iti imāya chabbidhāya itibhavābhavakathāya saddhiṃ bāttiṃsa tiracchānakathā nāma hoti. Atha vā pāḷiyaṃ sarūpato anāgatāpi araññapabbatanadīdīpakathā iti-saddena saṅgahetvā chattiṃsa tiracchānakathāti vuccati. Iti vāti hi ettha iti-saddo pakāratthe, vā-saddo vikappatthe. Idaṃ vuttaṃ hoti – ‘‘evaṃpakāraṃ ito aññaṃ vā tādisaṃ niratthakakathaṃ kathentī’’ti. Ādiatthe vā iti-saddo ‘‘iti vā iti evarūpā naccagītavāditavisūkadassanā paṭivirato’’tiādīsu (dī. ni. 1.10, 194) viya, evamādiṃ aññampi tādisaṃ kathaṃ kathentīti attho.
Câu chuyện được kể bằng cách nói một lý do vô ích nào đó rằng “như vậy là có, như vậy là không có,” là câu chuyện về sự có và không có. Và ở đây, “sự có” là thường kiến; “sự không có” là đoạn kiến. “Sự có” là sự thịnh vượng; “sự không có” là sự suy tàn. “Sự có” là dục lạc; “sự không có” là sự hành xác. Cùng với sáu loại câu chuyện về sự có và không có này, có ba mươi hai loại câu chuyện bàng sanh. Hoặc là, ngay cả các câu chuyện về rừng, núi, sông, đảo không có trong Pāḷi một cách rõ ràng, cũng được bao gồm bằng từ “v.v…” và được gọi là ba mươi sáu loại câu chuyện bàng sanh. Thật vậy, ở đây, trong câu “hoặc là như vậy,” từ “iti” có nghĩa là loại, từ “vā” có nghĩa là lựa chọn. Điều này có nghĩa là: “họ nói những câu chuyện vô ích loại như vậy hoặc tương tự khác.” Hoặc từ “iti” có nghĩa là ban đầu, giống như trong các câu: “hoặc là như vậy, từ bỏ việc xem các loại múa hát, đàn ca, diễn xướng” v.v… (dī. ni. 1.10, 194), có nghĩa là họ nói những câu chuyện tương tự khác như vậy.
512.Aparikkhittassa gāmassa upacāro adinnādāne vuttanayeneva veditabboti iminā dutiyaleḍḍupāto idha upacāroti dasseti. Sesamettha uttānameva. Santaṃ bhikkhuṃ anāpucchanā, anuññātakāraṇābhāvo, vikāle gāmappavisananti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
512.“Khu vực cận tiếp của một làng không có hàng rào cần phải được hiểu theo phương pháp đã được nói trong tội trộm cắp,” bằng câu này, ngài chỉ ra rằng khu vực cận tiếp ở đây là một tầm ném đất thứ hai. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc không hỏi Tỳ-khưu đang có mặt, sự không có lý do được cho phép, và việc đi vào làng phi thời; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Vikālagāmappavisanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học đi vào làng phi thời đã kết thúc.
4. Sūcigharasikkhāpadavaṇṇanā
4. Sự giải về điều học hộp đựng kim
517. Catutthe taṃ assa atthīti paṭhamaṃ bhinditvā pacchā desetabbattā taṃ bhedanakaṃ tassa pācittiyassa atthīti bhedanakaṃ, pācittiyaṃ. Assatthiatthe a-kārapaccayo daṭṭhabbo. Vāsijaṭeti vāsidaṇḍake. Sesamettha uttānameva. Sūcigharatā, aṭṭhimayāditā, attano atthāya karaṇaṃ vā kārāpetvā vā paṭilābhoti imāni panettha tīṇi aṅgāni.
517. Ở điều học thứ tư, “nó có cái đó,” là do phải được phá vỡ trước rồi mới sám hối, nên việc phá vỡ đó thuộc về tội Ưng Đối Trị đó, nên là việc phá vỡ, tức là tội Ưng Đối Trị. Cần phải thấy hậu tố ‘a’ có nghĩa là sở hữu. “Trong cán rìu,” là trong cán của cái rìu. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc là hộp đựng kim, việc làm bằng xương v.v…, và sự nhận được sau khi đã làm hoặc nhờ làm vì lợi ích của chính mình; đây là ba chi phần trong trường hợp này.
Sūcigharasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học hộp đựng kim đã kết thúc.
5. Mañcapīṭhasikkhāpadavaṇṇanā
5. Sự giải về điều học giường và ghế
522. Pañcame chedanakaṃ vuttanayamevāti chedanameva chedanakaṃ, taṃ tassa atthīti chedanakanti imamatthaṃ atidissati. Sesamettha uttānameva. Pamāṇātikkantamañcapīṭhatā, attano atthāya karaṇaṃ vā kārāpetvā vā paṭilābhoti imāni panettha dve aṅgāni.
522. Ở điều học thứ năm, “việc cắt” cũng theo phương pháp đã được nói, ngài chỉ ra ý nghĩa này: chính việc cắt là việc cắt, nó có cái đó, nên là việc cắt. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc giường và ghế vượt quá kích thước, và sự nhận được sau khi đã làm hoặc nhờ làm vì lợi ích của chính mình; đây là hai chi phần trong trường hợp này.
Mañcapīṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học giường và ghế đã kết thúc.
6. Tūlonaddhasikkhāpadavaṇṇanā
6. Sự giải về điều học (giường ghế) nhồi bông gòn
526. Chaṭṭhe tūlaṃ pakkhipitvāti heṭṭhā cimilikaṃ pattharitvā tassa upari tūlaṃ pakkhipitvāti attho. Poṭakitūlanti erakatūlādi yaṃkiñci tiṇajātīnaṃ tūlaṃ. Sesamettha uttānameva. Tūlonaddhamañcapīṭhatā, attano atthāya karaṇaṃ vā kārāpetvā vā paṭilābhoti imāni panettha dve aṅgāni. Attanā kārāpitassa hi paṭilābhamatteneva pācittiyaṃ. Teneva padabhājane ‘‘paṭilābhena uddāletvā pācittiyaṃ desetabba’’nti vuttaṃ. Kenaci pana ‘‘paṭilābhena uddāletvā pācittiyaṃ desetabbanti ettha kiñcāpi paṭilābhamatteneva pācittiyaṃ viya dissati, paribhogeyeva āpatti daṭṭhabbā. ‘Aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjati, āpatti dukkaṭassā’ti vacanaṃ ettha sādhaka’’nti vuttaṃ, taṃ tassa matimattaṃ. Na hi ‘‘aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjati, āpatti dukkaṭassā’’ti idaṃ attanā kārāpitaṃ sandhāya vuttaṃ, karaṇakārāpanapaccayā ca iminā sikkhāpadena pācittiyaṃ vuttaṃ, na paribhogapaccayā. ‘‘Na, bhikkhave, tūlonaddhaṃ mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā paribhuñjitabbaṃ, yo paribhuñjeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti hi khandhake vuttattā attanā vā kataṃ hotu aññena vā, paribhuñjantassa paribhogapaccayā dukkaṭameva, na pācittiyaṃ.
526. Ở điều học thứ sáu, “sau khi đã cho bông gòn vào,” có nghĩa là sau khi đã trải chiếu ở dưới rồi cho bông gòn lên trên. “Bông gòn từ cây poṭaki,” là bông gòn của bất cứ loại cỏ nào như bông gòn từ cây lau sậy v.v… Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Việc giường và ghế được nhồi bông gòn, và sự nhận được sau khi đã làm hoặc nhờ làm vì lợi ích của chính mình; đây là hai chi phần trong trường hợp này. Thật vậy, đối với vật đã nhờ làm, chỉ cần nhận được là phạm tội Ưng Đối Trị. Chính vì thế, trong phần phân tích từ ngữ đã nói: “sau khi đã nêu lên bằng sự nhận được, phải sám hối tội Ưng Đối Trị.” Tuy nhiên, có người nói rằng: “ở câu ‘sau khi đã nêu lên bằng sự nhận được, phải sám hối tội Ưng Đối Trị,’ mặc dù dường như chỉ cần nhận được là phạm tội Ưng Đối Trị, nhưng cần phải thấy rằng tội chỉ có khi hưởng dụng. Lời nói ‘khi hưởng dụng vật do người khác làm sau khi đã nhận, thì phạm tội Tác Ác’ là bằng chứng ở đây,” đó chỉ là ý kiến của người đó. Thật vậy, câu “khi hưởng dụng vật do người khác làm sau khi đã nhận, thì phạm tội Tác Ác” không phải được nói ám chỉ đến vật đã tự mình nhờ làm. Và tội Ưng Đối Trị theo điều học này đã được nói đến do duyên làm và nhờ làm, không phải do duyên hưởng dụng. Thật vậy, do trong các Thiên đã nói: “Này các Tỳ-khưu, không được hưởng dụng giường hoặc ghế nhồi bông gòn. Vị nào hưởng dụng, phạm tội Tác Ác,” nên dù là tự mình làm hay người khác làm, đối với người hưởng dụng, chỉ phạm tội Tác Ác do duyên hưởng dụng, không phải tội Ưng Đối Trị.
Tūlonaddhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học (giường ghế) nhồi bông gòn đã kết thúc.
7. Nisīdanasikkhāpadavaṇṇanā
7. Sự giải về điều học tấm lót ngồi
531. Sattame yaṃ vattabbaṃ, taṃ nisīdanasanthatasikkhāpade vuttameva. Nisīdanassa pamāṇātikkantatā, attano atthāya karaṇaṃ vā kārāpetvā vā paṭilābhoti imāni panettha dve aṅgāni.
531. Ở điều học thứ bảy, điều cần phải nói đã được nói trong điều học về tấm lót ngồi và tấm trải. Việc tấm lót ngồi vượt quá kích thước, và sự nhận được sau khi đã làm hoặc nhờ làm vì lợi ích của chính mình; đây là hai chi phần trong trường hợp này.
Nisīdanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Sự giải về điều học tấm lót ngồi đã kết thúc.
537-542. Aṭṭhamanavamadasamesu natthi vattabbaṃ, aṅgānipi sattameva vuttanayeneva veditabbāni.
537-542. Ở điều học thứ tám, thứ chín, và thứ mười, không có gì để nói, các chi phần cũng cần phải được biết theo chính phương pháp đã được nói ở điều thứ bảy.
Niṭṭhito rājavaggo navamo.
Phẩm về Vua, là phẩm thứ chín, đã kết thúc.
Iti samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya sāratthadīpaniyaṃ
Như vậy, trong Sāratthadīpanī, (phần phụ chú của) Chú giải Luật tạng Samantapāsādikā,
Khuddakavaṇṇanā samattā.
Sự giải về các điều nhỏ đã hoàn tất.
Pācittiyakaṇḍaṃ niṭṭhitaṃ.
Phẩm Ưng Đối Trị đã kết thúc.