Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi III – Phẩm Về Bổn Phận
8. Vattakkhandhakaṃ
8. Thiên Bổn Phận
Āgantukavattakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Bổn Phận Của Tỳ-khưu Khách
356-357. Vattakkhandhake uparipiṭṭhitoti piṭṭhisaṅghāṭassa uparibhāgato, dvārabāhassa uparipadesatoti attho. Vissajjetabbanti sukkhāpanatthaṃ ātape vissajjitabbaṃ. Abhivādāpetabboti tassa vasse pucchite yadi daharo hoti, sayameva vandissati, tadā imināva vandāpito nāma hoti. Nilloketabboti oloketabbo. Yathābhāganti pubbe paññattaṃ padesabhāgaṃ anatikkamitvā. Santānakanti uṇṇanābhisuttaṃ. Ullokāti gehassa uparibhāgato paṭṭhāya, paṭhamaṃ uparibhāgo sammajjitabboti vuttaṃ hoti.
356-357. Từ phía trên của tấm phản nghĩa là từ phần trên của thanh chắn giường, tức là từ phần trên của thanh cửa. Nên được phơi ra nghĩa là nên được phơi ra nắng để cho khô. Nên được làm cho đảnh lễ nghĩa là khi hỏi về tuổi hạ của vị ấy, nếu là vị nhỏ tuổi hơn, vị ấy sẽ tự mình đảnh lễ, khi đó được gọi là đã được vị này làm cho đảnh lễ. Nên được nhìn nghĩa là nên được quan sát. Theo phần đã định nghĩa là không vượt quá phần không gian đã được quy định trước. Sợi tơ nghĩa là sợi tơ nhện. Từ phía trên nghĩa là bắt đầu từ phần trên của ngôi nhà, có nghĩa là phần trên nên được quét dọn trước.
Āvāsikavattakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Bổn Phận Của Tỳ-khưu Trụ Trì
359.Mahāāvāseti mahāvihārasadise mahāāvāse.
359. Trong trú xứ lớn nghĩa là trong các trú xứ lớn giống như đại tu viện.
Anumodanavattakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Bổn Phận Tùy Hỷ
362.Pañcame nisinneti anumodanatthāya nisinne. Upanisinnakathā nāma bahūsu sannipatitesu parikathākathanaṃ.
362. Khi người thứ năm đã ngồi xuống nghĩa là đã ngồi xuống để tùy hỷ. Lời nói chuyện bên lề là việc nói chuyện phiếm khi nhiều người tụ tập.
Bhattaggavattakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Bổn Phận Tại Nhà Ăn
364.Manussānaṃ parivisanaṭṭhānanti yattha manussā saputtadārā āvasitvā denti. Hatthadhovanaudakaṃ sandhāyāti bhuttāvissa bhojanāvasāne hatthadhovanaudakaṃ sandhāya. Tenevāha ‘‘antarā pipāsitena pana…pe… hatthā na dhovitabbā’’ti. Potthakesu pana ‘‘pānīyaṃ pivitvā hatthā na dhovitabbā’’ti likhanti, ‘‘hatthā dhovitabbā’’ti pāṭhena bhavitabbanti amhākaṃ khanti. Aññathā ‘‘na tāva udakanti idaṃ hatthadhovanaudakaṃ sandhāya vutta’’nti vatvā ‘‘antarā pipāsitena panā’’tiādinā vuttaviseso na upalabbhati. Atha mataṃ ‘‘na tāva therena udakaṃ paṭiggahetabbanti idaṃ kiṃ pānīyapaṭiggahaṇaṃ sandhāya vuttaṃ, udāhu hatthadhovanaudakaggahaṇaṃ sandhāyāti āsaṅkānivattanatthaṃ ‘idaṃ hatthadhovanaudakaṃ sandhāya vutta’ntiādi kathita’’nti, tañca na, tattha āsaṅkāya eva asambhavato. Na hi bhagavā ‘‘yāva aññe na bhuttāvino honti, tāva pānīyaṃ na pātabba’’nti vakkhatīti sakkā viññātuṃ. Yadi cetaṃ pānīyapaṭiggahaṇaṃ sandhāya vuttaṃ, ‘‘na tāva therena udakaṃ paṭiggahetabba’’nti udakasaddappayogo ca na kattabbo siyā, aṭṭhakathāyañca ‘‘idaṃ hatthadhovanaudakaṃ sandhāya vutta’’nti vatvā tena nivattitabbamatthaṃ dassentena ‘‘antarā pipāsitena pana gale vilaggāmisena vā pānīyaṃ pivitabba’’nti ettakameva vattabbaṃ, ‘‘pānīyaṃ pivitvā hatthā na dhovitabbā’’ti evaṃ pana na vattabbanti. Dhure nisinnā hontīti dvārasamīpe nisinnā honti.
364. Nơi phục vụ của các thí chủ nghĩa là nơi mà các thí chủ cùng với vợ con ở và dâng cúng. Liên quan đến nước rửa tay nghĩa là liên quan đến nước rửa tay sau khi ăn xong của người đã dùng bữa. Do đó, Ngài đã nói “tuy nhiên, người khát nước ở giữa chừng… cho đến… không nên rửa tay”. Tuy nhiên, trong các bản kinh sách, họ viết là “sau khi uống nước, không nên rửa tay,” nhưng theo quan điểm của chúng tôi, câu văn phải là “nên rửa tay.” Nếu không, lời giải thích đặc biệt được nói bằng câu “tuy nhiên, người khát nước ở giữa chừng” v.v… sau khi đã nói “câu ‘chưa được dùng nước’ này được nói liên quan đến nước rửa tay” sẽ không được tìm thấy. Nếu cho rằng “câu ‘trước hết, vị trưởng lão không nên nhận nước’ này được nói liên quan đến việc nhận nước uống hay liên quan đến việc nhận nước rửa tay?’ để giải tỏa sự nghi ngờ đó, đã nói rằng ‘điều này được nói liên quan đến nước rửa tay’” v.v…, điều đó cũng không đúng, vì ở đó không thể có sự nghi ngờ. Không thể nào hiểu rằng đức Thế Tôn sẽ nói “chừng nào những người khác chưa ăn xong, chừng đó không được uống nước.” Và nếu điều này được nói liên quan đến việc nhận nước uống, thì việc sử dụng từ “nước” trong câu “trước hết, vị trưởng lão không nên nhận nước” cũng không nên được thực hiện, và trong chú giải, sau khi nói “điều này được nói liên quan đến nước rửa tay,” khi chỉ ra ý nghĩa cần được loại bỏ bằng câu đó, chỉ nên nói rằng “tuy nhiên, người khát nước ở giữa chừng hoặc có miếng thịt bị mắc ở cổ họng, nên uống nước,” chứ không nên nói rằng “sau khi uống nước, không nên rửa tay.” Những người ngồi ở hàng đầu nghĩa là những người ngồi gần cửa.
Piṇḍacārikavattakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Bổn Phận Khi Đi Khất Thực
366.Parāmasatīti gaṇhāti. Ṭhapeti vāti ‘‘tiṭṭhatha, bhante’’ti vadantī ṭhapeti nāma.
366. Tiếp xúc nghĩa là nhận lấy. Hoặc đặt xuống nghĩa là khi họ nói “xin ngài hãy đứng lại,” đó được gọi là đặt xuống.
Āraññikavattakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Bổn Phận Của Tỳ-khưu Sống Trong Rừng
367.Kenajja, bhante, yuttanti kena nakkhattena ajja cando yuttoti evaṃ vadantena nakkhattaṃ pucchitaṃ hoti.
367. Thưa ngài, hôm nay (mặt trăng) hợp với (sao) gì? nghĩa là khi nói như vậy, người đó đã hỏi về chòm sao.
Senāsanavattakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Bổn Phận Đối Với Trú Xứ
369-370.Aṅgaṇeti abbhokāse. Na vuḍḍhaṃ anāpucchāti ettha tassa ovarake tadupacāre ca āpucchitabbanti vadanti. Bhojanasālādīsupi evameva paṭipajjitabbanti bhojanasālādīsupi uddesadānādi āpucchitvāva kātabbanti attho.
369-370. Ở ngoài sân nghĩa là ở ngoài trời. Không hỏi vị trưởng lão trước, ở đây họ nói rằng nên hỏi ý kiến trong phòng riêng của vị ấy và trong khu vực thuộc quyền quản lý của vị ấy. Cũng nên thực hành như vậy ở nhà ăn v.v… nghĩa là ở nhà ăn v.v…, việc chỉ định và phân phát cũng phải được thực hiện sau khi hỏi ý kiến.
Vaccakuṭivattakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Bổn Phận Đối Với Nhà Vệ Sinh
373-374.Idaṃativivaṭanti idaṃ ṭhānaṃ gumbādīhi appaṭicchannattā ativiya pakāsanaṃ. Nibaddhagamanatthāyāti attano nibaddhagamanatthāya. Puggalikaṭṭhānaṃ vāti attano vihāraṃ sandhāya vuttaṃ. Sesamettha suviññeyyameva.
373-374. Nơi này quá trống trải nghĩa là nơi này quá lộ liễu vì không được che chắn bởi bụi cây v.v… Để đi lại thường xuyên nghĩa là để đi lại thường xuyên của mình. Hoặc nơi cá nhân được nói liên quan đến tu viện của mình. Phần còn lại ở đây đều dễ hiểu.
Imasmiṃ vattakkhandhake āgatāni āgantukāvāsikagamiyānumodanabhattaggapiṇḍacārikāraññika senāsana jantāghara vaccakuṭi upajjhācariya saddhivihārika antevāsikavattāni cuddasa mahāvattāni nāma, ito aññāni pana kadāci tajjanīyakammakatādikāleyeva caritabbāni asīti khandhakavattānīti veditabbāni. Gaṇṭhipadesu pana ‘‘imāniyeva cuddasa mahāvattāni aggahitaggahaṇena gahiyamānāni asīti khandhakavattāānī’’ti vuttaṃ, taṃ na gahetabbaṃ.
Trong thiên Bổn Phận này, các bổn phận của Tỳ-khưu khách, Tỳ-khưu trụ trì, Tỳ-khưu đi xa, bổn phận tùy hỷ, tại nhà ăn, khi đi khất thực, của Tỳ-khưu sống trong rừng, đối với trú xứ, nhà tắm hơi, nhà vệ sinh, đối với thầy tế độ, thầy giáo thọ, Tỳ-khưu cùng ở, và đệ tử, được gọi là mười bốn bổn phận lớn; còn các bổn phận khác chỉ phải thực hành vào những lúc như khi bị khiển trách v.v… được biết là tám mươi bổn phận của thiên. Tuy nhiên, trong các sách chú giải sơ lược, có nói rằng “chính mười bốn bổn phận lớn này, khi được thọ trì theo cách chưa từng thọ trì, trở thành tám mươi bổn phận của thiên,” điều đó không nên được chấp nhận.
Vattakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích Thiên Bổn Phận đã hoàn tất.