Phụ chú giải Tạng Luật

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi III – Phẩm Về Thuốc Men

6. Bhesajjakkhandhakaṃ
6. Thiên Dược Phẩm

Pañcabhesajjādikathāvaṇṇanā
Giải Thích về Năm Loại Dược Phẩm, v.v.

261. Bhesajjakkhandhake nacchādentīti ruciṃ na uppādenti.
261. Trong thiên Dược Phẩm, chúng không làm cho thích thú là chúng không làm phát sinh sự ưa thích.

262.Susukāti samudde bhavā ekā macchajāti. Kumbhīlātipi vadanti. Saṃsaṭṭhanti parissāvitaṃ. Telaparibhogenāti sattāhakālikaparibhogaṃ sandhāya vuttaṃ.
262.Một loài cá biển là một loài cá sinh sống trong đại dương. Cũng có người nói là cá sấu. Đã được lọc là đã được lọc qua. Bằng cách dùng dầu là được nói đến liên quan đến việc sử dụng trong bảy ngày.

263.Piṭṭhehīti pisitehi. Ubbhidaṃ nāma ūsarapaṃsumayaṃ.
263.Bằng các loại bột là bằng các thứ đã được nghiền. Loại đất mặn là loại đất có chứa muối.

264.Chakaṇanti gomayaṃ. Pākatikacuṇṇaṃ nāma apakkakasāvacuṇṇaṃ. Tena ṭhapetvā gandhacuṇṇaṃ sabbaṃ vaṭṭatīti vadanti.
264.Phân bò là phân của con bò. Bột thuốc chưa được nấu là bột thuốc đắng chưa được nấu. Do đó, người ta nói rằng ngoại trừ bột thơm, tất cả đều được phép.

265.Suvaṇṇagerukoti suvaṇṇatutthādi. Añjanūpapisananti añjanatthāya upapisitabbaṃ yaṃ kiñci cuṇṇajātaṃ.
265.Phèn vàng là phèn vàng, v.v. Bất kỳ loại bột nào để nghiền chung với thuốc nhỏ mắt là bất kỳ loại bột nào cần được nghiền chung để làm thuốc nhỏ mắt.

268.Sāmaṃ gahetvāti ettha sappadaṭṭhassa atthāya aññena bhikkhunā gahitampi sāmaṃ gahitasaṅkhameva gacchatīti veditabbaṃ.
268.Tự mình lấy, ở đây, cần phải hiểu rằng, vì lợi ích của người bị rắn cắn, ngay cả khi một vị Tỳ-khưu khác lấy, cũng được kể là tự mình lấy.

269.Gharadinnakābādho nāma vasīkaraṇatthāya gharaṇiyā dinnabhesajjasamuṭṭhito ābādho. Tenāha ‘‘vasīkaraṇapāṇakasamuṭṭhitarogo’’ti. Ghara-saddo cettha abhedena gharaṇiyā vattamāno adhippeto. ‘‘Akaṭayūsenāti anabhisaṅkhatena muggayūsena. Kaṭākaṭenāti mugge pacitvā acāletvāva parissāvitena muggasūpenā’’ti gaṇṭhipadesu vuttaṃ.
269.Bệnh do thuốc của người vợ cho là bệnh phát sinh từ thuốc do người vợ cho để làm bùa mê. Do đó, ngài nói “bệnh phát sinh từ thức uống có bùa mê.” Ở đây, từ ghara được hiểu là chỉ người vợ một cách không phân biệt. Trong Gaṇṭhipadā có nói: “Bằng nước đậu xanh không gia vị là bằng nước đậu xanh không được chế biến. Bằng nước súp đậu xanh là bằng nước súp đậu xanh đã được lọc sau khi đã nấu đậu xanh mà không khuấy.”

Guḷādianujānanakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Cho Phép Đường Phèn, v.v.

272.Guḷakaraṇanti guḷakaraṇaṭṭhānaṃ, ucchusālanti vuttaṃ hoti.
272.Nơi làm đường phèn là nơi làm đường phèn, có nghĩa là nhà máy mía.

274.Avissatthāti sāsaṅkā.
274.Có sự nghi ngờ là có sự e dè.

276.Appamattakepipavārentīti appamattakepi gahite pavārenti, ‘‘bahumhi gahite aññesaṃ nappahotī’’ti maññamānā appamattakaṃ gahetvā pavārentīti adhippāyo. Paṭisaṅkhāpi paṭikkhipantīti ‘‘divā bhojanatthāya bhavissatī’’ti sallakkhetvāpi paṭikkhipanti.
276.Họ từ chối ngay cả khi nhận được một ít là họ từ chối ngay cả khi đã nhận được một ít, ý muốn nói rằng, do nghĩ rằng “nếu nhận nhiều, những người khác sẽ không đủ,” nên họ nhận một ít rồi từ chối. Họ từ chối ngay cả khi đã suy xét là họ từ chối ngay cả khi đã nhận ra rằng “sẽ dùng để ăn vào ban ngày.”

279. Sambādhe dahanakammaṃ paṭikkhepābhāvo vaṭṭati.
279. Ở nơi chật hẹp, việc không ngăn cấm việc hỏa thiêu là được phép.

280.Ubhatopasannāti ubhayato pasannā. Māghātoti ‘‘mā ghātetha pāṇino’’ti evaṃ māghātaghositadivaso.
280.Có lòng tin ở cả hai phía là có lòng tin từ cả hai bên. Ngày cấm sát sanh là ngày được công bố cấm giết hại chúng sanh bằng cách nói: “đừng giết hại chúng sanh.”

Yāgumadhugoḷakādikathāvaṇṇanā
Giải Thích về Cháo, Bánh Mật, v.v.

282.Madhugoḷakanti sakkarādisaṃyuttapūvaṃ. Āyuṃ detīti āyudānaṃ deti. Vaṇṇanti sarīravaṇṇaṃ. Sukhanti kāyikacetasikasukhaṃ. Balanti sarīrathāmaṃ. Paṭibhānanti yuttamuttapaṭibhānaṃ. Vātaṃ anulometīti vātaṃ anulometvā harati. Vatthiṃ sodhetīti dhamaniyo suddhaṃ karoti. Āmāvasesaṃ pācetīti sace āmāvasesakaṃ hoti, taṃ pāceti. Anuppavecchatīti deti. Vātañca byapanetīti sambandhitabbaṃ.
282.Bánh có pha đường là bánh có pha đường, v.v. Mang lại tuổi thọ là mang lại sự cho đi tuổi thọ. Sắc đẹp là sắc đẹp của cơ thể. Hạnh phúc là hạnh phúc về thân và tâm. Sức mạnh là sức mạnh của cơ thể. Trí tuệ biện tài là trí tuệ biện tài phù hợp và tự do. Làm cho gió thuận chiều là làm cho gió thuận chiều và đưa đi. Làm sạch bàng quang là làm cho các mạch máu được trong sạch. Làm tiêu hóa thức ăn còn sót lại là nếu có thức ăn chưa tiêu hóa, nó sẽ làm cho tiêu hóa. Mang lại là cho. Cần phải được liên kết với câu “và xua tan gió.”

283. Nanu ca ‘‘paramparabhojanena kāretabbo’’ti kasmā vuttaṃ. Paramparabhojanañhi pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarena nimantitassa taṃ ṭhapetvā aññaṃ pañcannaṃ bhojanānaṃ aññataraṃ bhuñjantassa hoti, ime ca bhikkhū bhojjayāguṃ paribhuñjiṃsu, pañcasu bhojanesu aññataranti āha ‘‘bhojjayāguyā hi pavāraṇā hotī’’ti. Yasmā pañcannaṃ bhojanānaṃ aññataraṃ paṭikkhipantassa vuttā pavāraṇā bhojjayāguṃ paṭikkhipantassapi hotiyeva, tasmā bhojjayāgupi odanagatikāyevāti adhippāyo.
283. Chẳng phải tại sao lại nói: “phải bị phạt do ăn xen kẽ”? Thật vậy, việc ăn xen kẽ xảy ra đối với người đã được mời bằng một trong năm loại vật thực, sau khi đã từ chối món đó, lại ăn một trong năm loại vật thực khác, và các vị Tỳ-khưu này đã dùng cháo được xem là vật thực, là một trong năm loại vật thực, do đó nói: “thật vậy, có sự từ chối đối với cháo được xem là vật thực.” Ý muốn nói rằng, bởi vì sự từ chối đã được quy định đối với người từ chối một trong năm loại vật thực cũng xảy ra đối với người từ chối cháo được xem là vật thực, do đó cháo được xem là vật thực cũng được xếp vào loại cơm.

284.Sukhumojaṃpakkhipiṃsūti ‘‘bhagavā paribhuñjissatī’’ti maññamānā pakkhipiṃsu.
284.Họ đã cho thêm chất dinh dưỡng tinh tế là họ đã cho thêm do nghĩ rằng “đức Thế Tôn sẽ dùng.”

Pāṭaligāmavatthukathāvaṇṇanā
Giải Thích về Câu Chuyện ở Làng Pāṭali

285.Pāṭaligāmoti (udā. aṭṭha. 76) evaṃnāmako magadharaṭṭhe eko gāmo. Tassa kira gāmassa māpanadivase gāmaṅgaṇaṭṭhāne dve tayo pāṭalaṅkurā pathavito ubbhijjitvā nikkhamiṃsu. Tena taṃ ‘‘pāṭaligāmo’’ tveva vohariṃsu. Tadavasarīti taṃ pāṭaligāmaṃ avasari anupāpuṇi. Pāṭaligāmikāti pāṭaligāmavāsino. Upāsakāti te kira bhagavato paṭhamadassanena keci saraṇesu ca sīlesu ca patiṭṭhitā. Tena vuttaṃ ‘‘upāsakā’’ti. Yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsūti pāṭaligāme kira ajātasattuno licchavirājūnañca manussā kālena kālaṃ gantvā gehasāmike gehato nīharitvā māsampi aḍḍhamāsampi vasanti. Tena pāṭaligāmavāsino manussā niccupaddutā ‘‘etesañceva āgatakāle vasanaṭṭhānaṃ bhavissatīti ekapasse issarānaṃ bhaṇḍapaṭisāmanaṭṭhānaṃ, ekapasse vasanaṭṭhānaṃ, ekapasse āgantukānaṃ addhikamanussānaṃ, ekapasse daliddānaṃ kapaṇamanussānaṃ, ekapasse gilānānaṃ vasanaṭṭhānaṃ bhavissatī’’ti sabbesaṃ aññamaññaṃ aghaṭṭetvā vasanappahonakaṃ nagaramajjhe mahatiṃ sālaṃ kāresuṃ, tassa nāmaṃ āvasathāgāranti. Āgantvā vasanti ettha āgantukāti āvasatho, tadeva āgāraṃ āvasathāgāraṃ.
285.Làng Pāṭali (udā. aṭṭha. 76) là một ngôi làng có tên như vậy ở xứ Magadha. Tương truyền rằng, vào ngày xây dựng ngôi làng đó, hai ba chồi non của cây kèn hồng đã từ lòng đất vươn lên và mọc ra ở sân làng. Do đó, họ gọi nơi đó là “làng Pāṭali.” Đã đến đó là đã đến, đã tới ngôi làng Pāṭali đó. Người làng Pāṭali là những người sống ở làng Pāṭali. Các nam cư sĩ, tương truyền rằng, một số người trong họ đã an trú trong ba pháp quy y và các giới ngay từ lần đầu diện kiến đức Thế Tôn. Do đó đã nói là “các nam cư sĩ.” Đã đến nơi có đức Thế Tôn, tương truyền rằng, ở làng Pāṭali, người của vua Ajātasattu và các vua Licchavi thỉnh thoảng đến, đuổi chủ nhà ra khỏi nhà và ở lại cả tháng hoặc nửa tháng. Do đó, những người dân làng Pāṭali thường xuyên bị quấy nhiễu, đã cho xây một hội trường lớn ở giữa thành phố, đủ chỗ cho tất cả mọi người ở mà không va chạm nhau, với ý nghĩ: “Đây sẽ là nơi ở cho họ khi đến, một bên là nơi cất giữ tài sản của các bậc quyền quý, một bên là nơi ở, một bên là nơi cho khách vãng lai, những người đi đường, một bên là nơi cho người nghèo khó, khốn cùng, một bên là nơi ở cho người bệnh,” và đặt tên cho nó là nhà nghỉ công cộng. Khách vãng lai đến và ở tại đây nên gọi là āvasatha, chính ngôi nhà đó là āvasathāgāra.

Taṃ divasañca taṃ niṭṭhānaṃ agamāsi. Te tattha gantvā iṭṭhakakammasudhākammacittakammādivasena supariniṭṭhitaṃ susajjitaṃ devavimānasadisaṃ dvārakoṭṭhakato paṭṭhāya oloketvā ‘‘idaṃ āvasathāgāraṃ ativiya manoramaṃ sassirikaṃ, kena nu kho paṭhamaṃ paribhuttaṃ amhākaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya assā’’ti cintesuṃ, tasmiṃyeva ca khaṇe ‘‘bhagavā taṃ gāmaṃ anuppatto’’ti assosuṃ, tena te uppannapītisomanassā ‘‘amhehi bhagavā gantvāpi ānetabbo siyā, so sayameva amhākaṃ vasanaṭṭhānaṃ sampatto, ajja mayaṃ bhagavantaṃ idha vasāpetvā paṭhamaṃ paribhuñjāpessāma, tathā bhikkhusaṅghaṃ, bhikkhusaṅghe āgate tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ āgatameva bhavissati, satthāraṃ maṅgalaṃ vadāpessāma, dhammaṃ kathāpessāma, iti tīhi ratanehi paribhutte pacchā amhākaṃ paresañca paribhogo bhavissati, evaṃ no dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissatī’’ti sanniṭṭhānaṃ katvā etadatthameva bhagavantaṃ upasaṅkamiṃsu. Tasmā evamāhaṃsu ‘‘adhivāsetu no, bhante, bhagavāāvasathāgāra’’nti. Tenupasaṅkamiṃsūti (dī. ni. aṭṭha. 3.297-298; ma. ni. aṭṭha. 2.22) kiñcāpi taṃ divasameva pariniṭṭhitattā devavimānaṃ viya susajjitaṃ supaṭijaggitaṃ, buddhārahaṃ pana katvā na paññattaṃ. Buddhā hi nāma araññajjhāsayā araññārāmā, antogāme vaseyyuṃ vā no vā, tasmā bhagavato ruciṃ jānitvāva paññapessāmāti cintetvā te bhagavantaṃ upasaṅkamiṃsu, idāni bhagavato ruciṃ jānitvā tathā paññāpetukāmā yenāvasathāgāraṃ tenupasaṅkamiṃsu. Sabbasanthariṃ āvasathāgāraṃ santharitvāti ettha santharaṇaṃ santhari, sabbo sakalo santhari etthāti sabbasanthari. Atha vā santhatanti santhari, sabbaṃ santhari sabbasanthari, taṃ sabbasanthariṃ. Bhāvanapuṃsakaniddesovāyaṃ, yathā sabbameva santhataṃ hoti, evaṃ santharitvāti attho. Sabbapaṭhamaṃ tāva ‘‘gomayaṃ nāma sabbamaṅgalesu vaṭṭatī’’ti sudhāparikammakatampi bhūmiṃ allagomayena opuñjāpetvā parisukkhabhāvaṃ ñatvā yathā akkantaṭṭhāne padaṃ paññāyati, evaṃ cātujjātiyagandhehi limpetvā upari nānāvaṇṇakaṭasārake santharitvā tesaṃ upari mahāpiṭṭhikakojave ādiṃ katvā hatthattharaṇādīhi nānāvaṇṇehi attharaṇehi santharitabbayuttakaṃ sabbokāsaṃ santharāpesuṃ. Tena vuttaṃ ‘‘sabbasanthariṃ āvasathāgāraṃ santharitvā’’ti.
Và vào ngày đó, công trình ấy đã hoàn thành. Họ đến đó, sau khi nhìn ngắm từ cổng vào, thấy nó được hoàn thành tốt đẹp, trang hoàng lộng lẫy như một thiên cung, với các công trình bằng gạch, vôi vữa, tranh vẽ, v.v., họ đã suy nghĩ: “Nhà nghỉ công cộng này vô cùng đẹp đẽ, huy hoàng, ai sẽ là người đầu tiên sử dụng để mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho chúng ta?” Và ngay lúc đó, họ nghe tin: “Đức Thế Tôn đã đến ngôi làng đó,” do đó, với lòng hoan hỷ và vui mừng dâng trào, họ đã quyết định: “Dù có phải đi, chúng ta cũng nên mời đức Thế Tôn đến, nhưng chính Ngài đã đến nơi ở của chúng ta, hôm nay chúng ta sẽ thỉnh đức Thế Tôn ở lại đây và sử dụng trước tiên, cũng như Tăng chúng Tỳ-khưu, khi Tăng chúng Tỳ-khưu đến, Tam Tạng Lời Phật dạy cũng sẽ như đã đến, chúng ta sẽ xin bậc Đạo Sư ban lời chúc phúc, xin Ngài thuyết pháp, như vậy, sau khi đã được Tam Bảo sử dụng, sau đó chúng ta và những người khác sẽ sử dụng, như vậy sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho chúng ta,” và chính vì mục đích này mà họ đã đến gặp đức Thế Tôn. Do đó, họ đã nói như vầy: “Bạch ngài, xin Thế Tôn hãy nhận lời ở tại nhà nghỉ công cộng của chúng con.” Đã đến đó (dī. ni. aṭṭha. 3.297-298; ma. ni. aṭṭha. 2.22), mặc dù vào ngày đó, do mới hoàn thành, nó đã được trang hoàng lộng lẫy, chăm chút kỹ lưỡng như một thiên cung, nhưng vẫn chưa được chuẩn bị và dâng cúng cho một vị Phật. Thật vậy, các đức Phật thường có tâm hướng về rừng núi, ưa thích rừng núi, các ngài có thể ở hoặc không ở trong làng, do đó, sau khi nghĩ rằng: “chỉ sau khi biết được ý thích của đức Thế Tôn, chúng ta mới chuẩn bị,” họ đã đến gặp đức Thế Tôn, bây giờ, sau khi đã biết được ý thích của đức Thế Tôn, muốn chuẩn bị theo ý đó, họ đã đi đến nhà nghỉ công cộng. Sau khi đã trải khắp nhà nghỉ công cộng, ở đây, sự trải ra là santhari, tất cả, toàn bộ được trải ra ở đây, nên gọi là sabbasanthari. Hoặc, cái được trải ra là santhari, tất cả cái được trải ra là sabbasanthari, đó là sabbasanthariṃ. Đây là cách dùng danh từ chỉ hành động ở trung tính, có nghĩa là đã trải ra sao cho tất cả đều được trải. Trước hết, với ý nghĩ “phân bò là vật hợp lệ trong mọi lễ phúc,” họ đã cho trét phân bò tươi lên cả nền đất đã được tô vôi, sau khi biết nó đã khô ráo, họ đã cho thoa bốn loại nước hoa sao cho dấu chân có thể hiện ra ở nơi đã bước qua, rồi trải các loại chiếu có màu sắc khác nhau lên trên, và trên đó, họ đã cho trải khắp mọi nơi có thể trải bằng các loại thảm có màu sắc khác nhau, bắt đầu bằng các loại thảm lớn và dày, thảm lót tay, v.v. Do đó đã nói “sau khi đã trải khắp nhà nghỉ công cộng.”

Āsanānīti majjhaṭṭhāne tāva maṅgalatthambhaṃ nissāya mahārahaṃ buddhāsanaṃ paññapetvā tattha yaṃ yaṃ mudukañca manoramañca paccattharaṇaṃ, taṃ taṃ attharitvā ubhatolohitakaṃ manuññadassanaṃ upadhānaṃ upadahitvā upari suvaṇṇarajatatārakavicittavitānaṃ bandhitvā gandhadāmapupphadāmapattādāmādīhi alaṅkaritvā samantā dvādasahatthe ṭhāne pupphajālaṃ kāretvā tiṃsahatthamattaṃ ṭhānaṃ paṭasāṇiyā parikkhipāpetvā pacchimabhittiṃ nissāya bhikkhusaṅghassa pallaṅkapīṭhaapassayapīṭhamuṇḍapīṭhādīni paññapāpetvā upari setapaccattharaṇehi paccattharāpetvā sālāya pācīnapassaṃ attano nisajjāyoggaṃ kāresuṃ. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘āsanāni paññapetvā’’ti.
Các chỗ ngồi, trước hết, ở giữa, dựa vào cây cột phúc, họ đã cho chuẩn bị một chỗ ngồi cao quý dành cho đức Phật, ở đó, họ đã trải mọi loại thảm lót mềm mại và đẹp đẽ, đặt một chiếc gối ôm màu đỏ ở cả hai đầu trông rất đẹp mắt, giăng một tấm màn che được trang trí bằng các ngôi sao bằng vàng và bạc ở trên, trang trí bằng các tràng hoa thơm, hoa tươi, lá cây, v.v., cho làm một giàn hoa trong khoảng mười hai khuỷu tay xung quanh, cho bao quanh một khu vực rộng ba mươi khuỷu tay bằng một tấm rèm vải, dựa vào bức tường phía sau, họ đã cho chuẩn bị các loại giường ghế, ghế dựa, ghế tròn, v.v., cho Tăng chúng Tỳ-khưu, và cho trải các tấm thảm lót màu trắng lên trên, và họ đã chuẩn bị phần phía đông của hội trường làm nơi ngồi cho mình. Chính điều đó được nói đến trong câu “sau khi đã chuẩn bị các chỗ ngồi.”

Udakamaṇikanti mahākucchikaṃ samekhalaṃ udakacāṭiṃ. Evaṃ bhagavā bhikkhusaṅgho ca yathāruciyā hatthapāde dhovissanti, mukhaṃ vikkhālessantīti tesu tesu ṭhānesu maṇivaṇṇassa udakassa pūretvā vāsatthāya nānāpupphāni ceva udakavāsacuṇṇāni ca pakkhipitvā kadalipaṇṇehi pidahitvā patiṭṭhapesuṃ. Tena vuttaṃ ‘‘udakamaṇikaṃ patiṭṭhāpetvā’’ti.
Một cái chum nước là một cái chum nước lớn có đai. Như vậy, đức Thế Tôn và Tăng chúng Tỳ-khưu sẽ rửa tay chân, súc miệng theo ý thích, họ đã đổ đầy nước có màu như ngọc vào các chum ở những nơi đó, và để cho thơm, họ đã bỏ nhiều loại hoa và bột thơm vào nước, rồi lấy lá chuối đậy lại và đặt ở đó. Do đó đã nói “sau khi đã đặt một cái chum nước.”

Telapadīpaṃ āropetvāti rajatasuvaṇṇādimayadaṇḍāsu daṇḍadīpikāsu yonakarūpakādīnaṃ hatthe ṭhapitasuvaṇṇarajatādimayakapallikāsu ca telapadīpe jalayitvā. Yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsūti ettha pana te pāṭaligāmikaupāsakā na kevalaṃ āvasathāgārameva, atha kho sakalasmimpi gāme vīthiyo sajjāpetvā dhaje ussāpetvā gehadvāresu puṇṇaghaṭe ca kadaliādayo ca ṭhapāpetvā sakalagāmaṃ dīpamālāhi vippakiṇṇatārakaṃ viya katvā ‘‘khīrapake dārake khīraṃ pāyetha, daharakumāre lahuṃ lahuṃ bhojetvā sayāpetha, uccāsaddaṃ mā karittha, ajja ekarattiṃ satthā antogāme vasissati, buddhā nāma appasaddakāmā hontī’’ti bheriṃ carāpetvā sayaṃ daṇḍadīpikā ādāya yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu.
Sau khi đã thắp đèn dầu là sau khi đã thắp các ngọn đèn dầu trên các giá đèn bằng bạc, vàng, v.v., và trong các đĩa đèn bằng vàng, bạc, v.v., được đặt trên tay của các bức tượng người Hy Lạp, v.v. Đã đến nơi có đức Thế Tôn, ở đây, các nam cư sĩ làng Pāṭali không chỉ trang hoàng nhà nghỉ công cộng, mà còn cho trang hoàng các con đường trong toàn bộ ngôi làng, cho dựng cờ, cho đặt các bình nước đầy và cây chuối, v.v., ở cửa nhà, làm cho cả ngôi làng rực rỡ với các vòng đèn như một bầu trời đầy sao, cho đánh trống rao rằng: “Hãy cho trẻ còn bú sữa uống sữa, hãy cho trẻ nhỏ ăn nhanh rồi cho đi ngủ, đừng làm ồn ào, hôm nay bậc Đạo Sư sẽ ở lại trong làng một đêm, các đức Phật thường ưa thích sự yên tĩnh,” rồi tự mình mang theo các giá đèn và đi đến nơi có đức Thế Tôn.

Atha kho bhagavā nivāsetvā pattacīvaramādāya saddhiṃ bhikkhusaṅghena yena āvasathāgāraṃ tenupasaṅkamīti ‘‘yassa dāni, bhante, bhagavā kālaṃ maññatī’’ti evaṃ kira tehi kāle ārocite bhagavā lākhārasena tintarattakoviḷārapupphavaṇṇaṃ surattaṃ dupaṭṭaṃ kattariyā padumaṃ kantento viya, saṃvidhāya timaṇḍalaṃ paṭicchādento nivāsetvā suvaṇṇapāmaṅgena padumakalāpaṃ parikkhipanto viya, vijjulatāsassirikaṃ kāyabandhanaṃ bandhitvā rattakambalena gajakumbhaṃ pariyonandhanto viya, ratanasatubbedhe suvaṇṇagghike pavāḷajālaṃ khipamāno viya, mahati suvaṇṇacetiye rattakambalakañcukaṃ paṭimuñcanto viya, gacchantaṃ puṇṇacandaṃ rattavalāhakena paṭicchādayamāno viya, kañcanagirimatthake supakkalākhārasaṃ parisiñcanto viya, cittakūṭapabbatamatthakaṃ vijjulatājālena parikkhipanto viya ca sacakkavāḷasineruyugandharamahāpathaviṃ cāletvā gahitanigrodhapallavasamānavaṇṇaṃ rattavarapaṃsukūlaṃ pārupitvā vanagahanato kesarasīho viya, udayapabbatakūṭato puṇṇacando viya, bālasūriyo viya ca attanā nisinnatarusaṇḍato nikkhami.
Bấy giờ, đức Thế Tôn, sau khi đã đắp y, mang theo y bát, cùng với Tăng chúng Tỳ-khưu, đã đi đến nhà nghỉ công cộng, tương truyền rằng, sau khi họ đã thông báo thời gian như vậy: “Bạch ngài, bây giờ xin Thế Tôn hãy xem xét thời gian thích hợp,” đức Thế Tôn, như một người thợ may đang cắt một đóa hoa sen bằng một tấm vải hai lớp màu đỏ thẫm như màu hoa kèn đỏ đã được nhuộm bằng nhựa cánh kiến, đã đắp y che kín ba vòng, như một người đang bao bọc một bó hoa sen bằng một chiếc vòng vàng, đã thắt dây lưng rực rỡ như một tia chớp, như một người đang quấn một tấm thảm len đỏ quanh bướu của con voi, như một người đang ném một tấm lưới san hô lên một viên ngọc vàng có giá trị bằng một trăm cây cầu, như một người đang mặc một chiếc áo bằng thảm len đỏ cho một bảo tháp lớn bằng vàng, như một người đang che vầng trăng tròn đang di chuyển bằng một đám mây đỏ, như một người đang tưới nhựa cánh kiến đã chín kỹ lên đỉnh núi vàng, như một người đang bao bọc đỉnh núi Cittakūṭa bằng một mạng lưới tia chớp, và sau khi đã làm rung chuyển cả trái đất lớn cùng với núi Cakkavāḷa, Sineru và Yugandhara, đã khoác lên mình tấm y phấn tảo thượng hạng màu đỏ, có màu giống như lá đa non đã được hái, và đã xuất hiện từ lùm cây nơi Ngài đang ngồi, như một con sư tử chúa từ rừng rậm, như vầng trăng tròn từ đỉnh núi Udaya, và như mặt trời non.

Athassa kāyato meghamukhato vijjukalāpā viya rasmiyo nikkhamitvā suvaṇṇarasadhārāparisekapiñjarapattapupphaphalasākhāviṭape viya samantato rukkhe kariṃsu. Tāvadeva attano attano pattacīvaramādāya mahābhikkhusaṅgho bhagavantaṃ parivāresi. Te ca naṃ parivāretvā ṭhitabhikkhū evarūpā ahesuṃ appicchā santuṭṭhā pavivittā asaṃsaṭṭhā āraddhavīriyā vattāro vacanakkhamā codakā pāpagarahino sīlasampannā samādhisampannā paññāsampannā vimuttisampannā vimuttiñāṇadassanasampannā. Tehi parivārito bhagavā rattakambalaparikkhitto viya suvaṇṇakkhandho, rattapadumasaṇḍamajjhagatā viya suvaṇṇanāvā, pavāḷavedikāparikkhitto viya suvaṇṇapāsādo virocittha. Mahākassapappamukhā pana mahātherā meghavaṇṇaṃ paṃsukūlacīvaraṃ pārupitvā maṇivammavammitā viya mahānāgā parivārayiṃsu vītarāgā bhinnakilesā vijaṭitajaṭā chinnabandhanā kule vā gaṇe vā alaggā.
Bấy giờ, từ thân của Ngài, các tia sáng đã phát ra như những chùm tia chớp từ miệng mây, làm cho các cây cối xung quanh trở nên có lá, hoa, quả, cành và nhánh màu vàng cam như được tưới bằng những dòng nhựa vàng. Ngay lúc đó, đại chúng Tỳ-khưu, mỗi vị mang theo y bát của mình, đã vây quanh đức Thế Tôn. Và các vị Tỳ-khưu đứng vây quanh Ngài có những phẩm chất như sau: ít ham muốn, biết đủ, sống độc cư, không giao du, tinh tấn, là những người nói lời khuyên, chịu đựng được lời nói, khiển trách và ghét bỏ điều ác, có giới hạnh hoàn hảo, có định hoàn hảo, có tuệ hoàn hảo, có giải thoát hoàn hảo, và có giải thoát tri kiến hoàn hảo. Được các vị ấy vây quanh, đức Thế Tôn tỏa sáng như một khối vàng được bao bọc bởi một tấm thảm len đỏ, như một con thuyền vàng giữa một rừng sen đỏ, như một cung điện vàng được bao quanh bởi một lan can bằng san hô. Các vị đại Trưởng lão, đứng đầu là ngài Mahākassapa, khoác lên mình tấm y phấn tảo màu mây, đã vây quanh như những con rồng lớn được trang bị áo giáp bằng ngọc, các vị ấy đã ly tham, đã phá tan phiền não, đã gỡ rối những mớ bòng bong, đã cắt đứt ràng buộc, không dính mắc trong gia đình hay đoàn thể.

Iti bhagavā sayaṃ vītarāgo vītarāgehi, vītadoso vītadosehi, vītamoho vītamohehi , nittaṇho nittaṇhehi, nikkileso nikkilesehi, sayaṃ buddho anubuddhehi parivārito pattaparivāritaṃ viya kesaraṃ, kesaraparivāritā viya kaṇṇikā, aṭṭhanāgasahassaparivārito viya chaddanto nāgarājā, navutihaṃsasahassaparivārito viya dhataraṭṭho haṃsarājā, senaṅgaparivārito viya cakkavattī, marugaṇaparivārito viya sakko devarājā, brahmagaṇaparivārito viya hāritamahābrahmā, tārāgaṇaparivuto viya puṇṇacando asamena buddhavesena aparimāṇena buddhavilāsena pāṭaligāmīnaṃ maggaṃ paṭipajji.
Như vậy, đức Thế Tôn, tự mình đã ly tham, được các vị đã ly tham vây quanh; tự mình đã ly sân, được các vị đã ly sân vây quanh; tự mình đã ly si, được các vị đã ly si vây quanh; tự mình đã hết ái, được các vị đã hết ái vây quanh; tự mình đã hết phiền não, được các vị đã hết phiền não vây quanh; tự mình là Phật, được các vị đã giác ngộ theo vây quanh, như nhụy hoa được cánh hoa vây quanh, như đài hoa được nhụy hoa vây quanh, như vua voi Chaddanta được tám ngàn con voi vây quanh, như vua ngỗng Dhataraṭṭha được chín mươi ngàn con ngỗng vây quanh, như vị Chuyển Luân Vương được các binh chủng vây quanh, như Đế Thích, vua của các vị trời, được các vị thần Maru vây quanh, như Đại Phạm Thiên Hārita được các vị Phạm thiên vây quanh, như vầng trăng tròn được các vì sao vây quanh, đã đi vào con đường của làng Pāṭali với một phong thái của Phật không gì sánh bằng và một vẻ uy nghi của Phật không giới hạn.

Athassa puratthimakāyato suvaṇṇavaṇṇā ghanabuddharasmiyo uṭṭhahitvā asītihatthaṃ ṭhānaṃ aggahesuṃ, pacchimakāyato dakkhiṇapassato vāmapassato suvaṇṇavaṇṇā ghanarasmiyo uṭṭhahitvā asītihatthaṃ ṭhānaṃ aggahesuṃ, uparikesantato paṭṭhāya sabbakesāvattehi moragīvavaṇṇā ghanabuddharasmiyo uṭṭhahitvā gaganatale asītihatthaṃ ṭhānaṃ aggahesuṃ, heṭṭhāpādatalehi pavāḷavaṇṇā rasmiyo uṭṭhahitvā ghanapathaviyaṃ asītihatthaṃ ṭhānaṃ aggahesuṃ, dantato akkhīnaṃ setaṭṭhānato, nakhānañca maṃsavinimuttaṭṭhānato odātā ghanabuddharasmiyo uṭṭhahitvā asītihatthaṃ ṭhānaṃ aggahesuṃ, rattapītavaṇṇānaṃ sambhinnaṭṭhānato mañjiṭṭhavaṇṇā rasmiyo uṭṭhahitvā asītihatthaṃ ṭhānaṃ aggahesuṃ, sabbatthakameva pabhassarā rasmiyo uṭṭhahiṃsu. Evaṃ samantā asītihatthamattaṃ ṭhānaṃ chabbaṇṇā buddharasmiyo vijjotamānā vipphandamānā vidhāvamānā kañcanadaṇḍadīpikāhi niccharitvā ākāsaṃ pakkhandamānā mahāpadīpajālā viya, cātuddīpikamahāmeghato nikkhantavijjulatā viya ca disodisaṃ pakkhandiṃsu. Yāhi sabbadisābhāgā suvaṇṇacampakapupphehi vikiriyamānā viya, suvaṇṇaghaṭato nikkhantasuvaṇṇarasadhārāhi āsiñciyamānā viya, pasāritasuvaṇṇapaṭṭaparikkhittā viya, verambhavātasamuddhatakiṃsukakaṇikārakikirātapupphacuṇṇasamokiṇṇā viya cīnapiṭṭhacuṇṇasamparirañjitā viya ca virociṃsu.
Bấy giờ, từ phía trước thân của Ngài, các tia sáng Phật dày đặc màu vàng đã phát ra và bao trùm một khu vực rộng tám mươi khuỷu tay, từ phía sau, từ bên phải, từ bên trái, các tia sáng dày đặc màu vàng đã phát ra và bao trùm một khu vực rộng tám mươi khuỷu tay, từ chân tóc trở lên, từ tất cả các lọn tóc xoắn, các tia sáng Phật dày đặc màu cổ công đã phát ra và bao trùm một khu vực rộng tám mươi khuỷu tay trên không trung, từ lòng bàn chân bên dưới, các tia sáng màu san hô đã phát ra và bao trùm một khu vực rộng tám mươi khuỷu tay trên mặt đất cứng, từ răng, từ phần trắng của mắt, và từ phần không có thịt của móng tay, các tia sáng Phật dày đặc màu trắng đã phát ra và bao trùm một khu vực rộng tám mươi khuỷu tay, từ những nơi pha trộn giữa màu đỏ và màu vàng, các tia sáng màu hoa dâm bụt đã phát ra và bao trùm một khu vực rộng tám mươi khuỷu tay, và các tia sáng rực rỡ đã phát ra ở khắp mọi nơi. Như vậy, trong một khu vực rộng tám mươi khuỷu tay xung quanh, sáu màu tia sáng Phật chiếu rọi, rung động, lan tỏa, như những ngọn lửa đèn lớn phát ra từ các giá đèn bằng vàng và bay lên không trung, và như những tia chớp phát ra từ một đám mây lớn bao trùm bốn châu lục, đã lan ra khắp mọi hướng. Nhờ chúng, tất cả các phương hướng đều rực rỡ như được rắc những bông hoa champaka bằng vàng, như được tưới bằng những dòng nhựa vàng chảy ra từ những chiếc bình vàng, như được bao bọc bởi những tấm lụa vàng đã được giăng ra, như được phủ đầy bởi bột của các loài hoa kiṃsuka, kaṇikāra, và kirāta bị gió Verambha thổi bay, và như được tô điểm bằng bột gạo Trung Hoa.

Bhagavatopi asītianubyañjanabyāmappabhāparikkhepasamujjalaṃ dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇapaṭimaṇḍitaṃ sarīraṃ abbhamahikādiupakkilesavimuttaṃ samujjalatārakapabhāsitaṃ viya gaganatalaṃ, vikasitaṃ viya padumavanaṃ, sabbapāliphullo viya yojanasatiko pāricchattako, paṭipāṭiyā ṭhapitānaṃ dvattiṃsacandānaṃ dvattiṃsasūriyānaṃ dvattiṃsacakkavattīnaṃ dvattiṃsadevarājānaṃ dvattiṃsamahābrahmānaṃ siriyā siriṃ abhibhavamānaṃ viya virocittha, yathā taṃ dasahi pāramīhi dasahi upapāramīhi dasahi paramatthapāramīhīti sammadeva paripūritāhi samatiṃsāya pāramīhi alaṅkataṃ kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni dinnena dānena rakkhitena sīlena katena kalyāṇakammena ekasmiṃ attabhāve samosaritvā vipākaṃ dātuṃ okāsaṃ alabhamānena sambādhappattena viya nibbattitaṃ nāvāsahassassa bhaṇḍaṃ ekaṃ nāvaṃ āropanakālo viya, sakaṭasahassassa bhaṇḍaṃ ekaṃ sakaṭaṃ āropanakālo viya, pañcavīsatiyā gaṅgānaṃ sambhijja mukhadvāre ekato rāsībhūtakālo viya ca ahosi.
Thân thể của đức Thế Tôn, rực rỡ với tám mươi vẻ đẹp phụ và hào quang một tầm bao quanh, được trang hoàng bằng ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân, tỏa sáng như bầu trời không có mây, sương mù, v.v., các cấu uế, được soi sáng bởi các vì sao lấp lánh; như một rừng sen đang nở rộ; như cây san hô Pāricchattaka cao một trăm do-tuần đang trổ hoa khắp cành; và như thể đang vượt qua vẻ huy hoàng của ba mươi hai vầng trăng, ba mươi hai mặt trời, ba mươi hai vị Chuyển Luân Vương, ba mươi hai vị thiên chủ, và ba mươi hai vị Đại Phạm Thiên được đặt theo thứ tự, và nó được hình thành như thể do các việc thiện đã được làm, do sự bố thí đã được cho, do giới đã được giữ gìn trong bốn a-tăng-kỳ và hơn một trăm ngàn đại kiếp, được trang hoàng bằng ba mươi Ba-la-mật đã được hoàn thiện một cách trọn vẹn – mười Ba-la-mật, mười thượng Ba-la-mật, và mười thắng nghĩa Ba-la-mật – đã hội tụ trong một kiếp sống và không có cơ hội để cho quả báo, đang bị dồn nén, giống như lúc chất hàng hóa của một ngàn con thuyền lên một con thuyền, giống như lúc chất hàng hóa của một ngàn cỗ xe lên một cỗ xe, và giống như lúc hai mươi lăm con sông Hằng hợp lại và tụ về một chỗ ở cửa sông.

Imāya buddharasmiyā obhāsamānassapi bhagavato purato anekāni daṇḍadīpikāsahassāni ukkhipiṃsu, tathā pacchato vāmapasse dakkhiṇapasse. Jātisumanacampakavanamālikārattuppalanīluppalabakulasinduvārādipupphāni ceva nīlapītādivaṇṇasugandhagandhacuṇṇāni ca cātuddīpikamahaāmeghavissaṭṭhā salilavuṭṭhiyo viya vippakiriṃsu. Pañcaṅgikatūriyanigghosā ceva buddhadhammasaṅghaguṇapaṭisaṃyuttā thutighosā ca sabbā disā pūrayamānā mukharā viya akaṃsu. Devasupaṇṇanāgayakkhagandhabbamanussānaṃ akkhīni amatapānaṃ viya labhiṃsu. Imasmiṃ pana ṭhāne ṭhatvā padasahassehi gamanavaṇṇaṃ vattuṃ vaṭṭati. Tatridaṃ mukhamattaṃ (ma. ni. aṭṭha. 2.22; udā. aṭṭha. 76) –
Ngay cả khi đức Thế Tôn đang tỏa sáng với hào quang Phật này, hàng ngàn giá đèn vẫn được giơ lên ở phía trước, cũng như ở phía sau, bên trái và bên phải. Các loài hoa như nhài, champaka, lài rừng, sen đỏ, sen xanh, bakula, sinduvāra, v.v., và các loại bột thơm có màu xanh, vàng, v.v., đã được tung lên như những cơn mưa từ một đám mây lớn bao trùm bốn châu lục. Tiếng của năm loại nhạc cụ và tiếng tán thán liên quan đến các phẩm chất của Phật, Pháp và Tăng đã vang dội khắp mọi hướng như thể đang làm cho chúng trở nên ồn ào. Mắt của các vị trời, chim thần, rồng, dạ xoa, càn-thát-bà và con người đã được thưởng thức như thể đang uống nước cam lồ. Ở đây, có thể nói về vẻ đẹp của dáng đi bằng một ngàn từ. Đây chỉ là phần mở đầu (ma. ni. aṭṭha. 2.22; udā. aṭṭha. 76) –

‘‘Evaṃ sabbaṅgasampanno, kampayanto vasundharaṃ;
Aheṭhayanto pāṇāni, yāti lokavināyako.
“Như vậy, bậc hoàn hảo về mọi phương diện, làm rung chuyển quả đất;
Không làm hại chúng sanh, bậc Đạo sư của thế gian ra đi.

‘‘Dakkhiṇaṃ paṭhamaṃ pādaṃ, uddharanto narāsabho;
Gacchanto sirisampanno, sobhate dvipaduttamo.
“Bậc Nhân Ngưu nhấc chân phải lên trước;
Ra đi với vẻ huy hoàng, bậc tối thượng trong loài hai chân tỏa sáng.

‘‘Gacchato buddhaseṭṭhassa, heṭṭhāpādatalaṃ mudu;
Samaṃ samphusate bhūmiṃ, rajasānupalimpati.
“Khi bậc tối thượng của các đức Phật ra đi, lòng bàn chân mềm mại;
Chạm nhẹ nhàng lên mặt đất, không dính bụi trần.

‘‘Ninnaṃ ṭhānaṃ unnamati, gacchante lokanāyake;
Unnatañca samaṃ hoti, pathavī ca acetanā.
“Nơi thấp trở nên cao, khi bậc Dẫn đường của thế gian ra đi;
Và nơi cao trở nên bằng phẳng, dù trái đất vô tri.

‘‘Pāsāṇā sakkharā ceva, kathalā khāṇukaṇṭakā;
Sabbe maggā vivajjanti, gacchante lokanāyake.
“Đá, sỏi, gạch vụn, gốc cây và gai nhọn;
Tất cả đều tránh đường, khi bậc Dẫn đường của thế gian ra đi.

‘‘Nātidūre uddharati, nāccāsanne ca nikkhipaṃ;
Aghaṭṭayanto niyyāti, ubho jāṇū ca gopphake.
“Ngài không nhấc chân quá xa, cũng không đặt xuống quá gần;
Không va chạm vào nhau, cả hai đầu gối và mắt cá chân.

‘‘Nātisīghaṃ pakkamati, sampannacaraṇo muni;
Na cātisaṇikaṃ yāti, gacchamāno samāhito.
“Bậc Mâu-ni có dáng đi hoàn hảo, không đi quá nhanh;
Cũng không đi quá chậm, Ngài ra đi với tâm định tĩnh.

‘‘Uddhaṃ adho tiriyañca, disañca vidisaṃ tathā;
Na pekkhamāno so yāti, yugamattañhi pekkhati.
“Trên, dưới, ngang, và các hướng, các phương cũng vậy;
Ngài không nhìn khi đi, chỉ nhìn trong khoảng một tầm ách.

‘‘Nāgavikkantacāro so, gamane sobhate jino;
Cāru gacchati lokaggo, hāsayanto sadevake.
“Dáng đi của Ngài oai vệ như voi chúa, Ngài, bậc Chiến Thắng, tỏa sáng khi đi;
Bậc đứng đầu thế gian đi một cách duyên dáng, làm cho các vị trời hoan hỷ.

‘‘Usabharājāva sobhanto, cātucārīva kesarī;
Tosayanto bahū satte, gāmaseṭṭhaṃ upāgamī’’ti. (ma. ni. aṭṭha. 2.22; udā. aṭṭha. 76);
“Tỏa sáng như vua bò tót, oai vệ như sư tử chúa;
Làm cho nhiều chúng sanh hoan hỷ, Ngài đã đến ngôi làng bậc nhất.” (ma. ni. aṭṭha. 2.22; udā. aṭṭha. 76);

Vaṇṇakālo nāma kiresa. Evaṃvidhesu kālesu bhagavato sarīravaṇṇe vā guṇavaṇṇe vā dhammakathikassa thāmoyeva pamāṇaṃ. Cuṇṇiyapadehi gāthābandhehi vā yattakaṃ sakkoti, tattakaṃ vattabbaṃ, ‘‘dukkathita’’nti vā ‘‘atitthena pakkhando’’ti vā na vattabbo. Aparimāṇavaṇṇā hi buddhā bhagavanto, tesaṃ buddhāpi anavasesato vaṇṇaṃ vattuṃ asamatthā. Sakalampi hi kappaṃ vadantā pariyosāpetuṃ na sakkonti, pageva itarā pajāti. Iminā sirivilāsena alaṅkatapaṭiyattaṃ pāṭaligāmaṃ pavisitvā bhagavā pasannacittena janena pupphagandhadhūmavāsacuṇṇādīhi pūjiyamāno āvasathāgāraṃ pāvisi. Tena vuttaṃ ‘‘atha kho bhagavā nivāsetvā pattacīvaramādāya saddhiṃ bhikkhusaṅghena yena āvasathāgāraṃ tenupasaṅkamī’’ti.
Tương truyền rằng, đây là lúc để tán thán. Vào những lúc như thế này, sức mạnh của người thuyết pháp là thước đo cho việc tán thán vẻ đẹp thân thể hay phẩm chất của đức Thế Tôn. Dù bằng văn xuôi hay thi kệ, người ấy nên nói nhiều nhất có thể, không nên bị khiển trách là “nói dở” hay “chen ngang khi người khác chưa thỏa mãn.” Thật vậy, các đức Thế Tôn có vô lượng phẩm chất, ngay cả các đức Phật cũng không thể tán thán hết phẩm chất của một vị Phật khác. Thật vậy, dù có nói suốt cả một đại kiếp cũng không thể kết thúc được, huống gì là chúng sanh khác. Sau khi vào làng Pāṭali, được trang hoàng với vẻ huy hoàng này, đức Thế Tôn, được dân chúng có tâm trong sạch cúng dường bằng hoa, hương, khói, bột thơm, v.v., đã đi vào nhà nghỉ công cộng. Do đó đã nói “Bấy giờ, đức Thế Tôn, sau khi đã đắp y, mang theo y bát, cùng với Tăng chúng Tỳ-khưu, đã đi đến nhà nghỉ công cộng.”

Pāde pakkhāletvāti yadipi bhagavato pāde rajojallaṃ na upalimpati, tesaṃ pana upāsakānaṃ kusalābhivuddhiṃ ākaṅkhanto paresaṃ diṭṭhānugatiṃ āpajjanatthaṃ bhagavā pāde pakkhālesi. Apica upādinnakasarīraṃ nāma sītikātabbampi hotīti tadatthampi bhagavā nahānapādadhovanāni karotiyeva. Bhagavantaṃyeva purakkhatvāti bhagavantaṃ purato katvā. Tattha bhagavā bhikkhūnañceva upāsakānañca majjhe nisinno gandhodakena nahāpetvā dukūlacumbaṭena vodakaṃ katvā jātihiṅgulakena majjitvā rattakambalapaliveṭhite pīṭhe ṭhapitā rattasuvaṇṇaghanapaṭimā viya ativiya virocittha. Ayaṃ panettha porāṇānaṃ vaṇṇabhaṇanamaggo –
Sau khi đã rửa chân, mặc dù chân của đức Thế Tôn không bị dính bùn đất, nhưng vì mong muốn sự tăng trưởng thiện pháp cho các nam cư sĩ đó và để người khác noi theo gương, đức Thế Tôn đã rửa chân. Hơn nữa, thân thể do nghiệp sanh này cũng cần được làm cho mát mẻ, do đó đức Thế Tôn cũng thường tắm và rửa chân. Đặt đức Thế Tôn ở phía trước là để đức Thế Tôn đi đầu. Ở đó, đức Thế Tôn ngồi giữa các vị Tỳ-khưu và các nam cư sĩ, tỏa sáng rực rỡ như một pho tượng vàng khối đã được tắm bằng nước hoa thơm, được lau khô bằng một chiếc khăn lụa, được xoa bằng bột thần sa, và được đặt trên một chiếc ghế đẩu bọc thảm len đỏ. Đây là cách tán thán của các vị cổ sư:

‘‘Gantvāna maṇḍalamāḷaṃ, nāgavikkantacāraṇo;
Obhāsayanto lokaggo, nisīdi varamāsane.
“Sau khi đến hội trường, bậc có dáng đi oai vệ như voi chúa;
Làm bừng sáng, bậc đứng đầu thế gian đã ngự trên tòa sen tối thượng.

‘‘Tahiṃ nisinno naradammasārathi,
Devātidevo satapuññalakkhaṇo;
Buddhāsane majjhagato virocati,
Suvaṇṇanekkhaṃ viya paṇḍukambale.
“Ngự nơi ấy, bậc Đánh Xe điều ngự những người đáng điều ngự,
Bậc Thiên Trung Thiên, có trăm tướng phước;
Ngự giữa tòa Phật, Ngài tỏa sáng,
Như một khối vàng trên tấm thảm len paṇḍu.

‘‘Nekkhaṃ jambonadasseva, nikkhittaṃ paṇḍukambale;
Virocati vītamalo, maṇi verocano yathā.
“Như một khối vàng của sông Jambū, được đặt trên tấm thảm len paṇḍu;
Bậc không còn cấu uế tỏa sáng, như viên ngọc Verocana.

‘‘Mahāsālova samphullo, merurājāvalaṅkato;
Suvaṇṇathūpasaṅkāso, padumo kosako yathā.
“Như cây sāla lớn đang trổ hoa, như núi Tu-di được trang hoàng;
Như một bảo tháp vàng, như một đóa sen trong đài sen.

‘‘Jalanto dīparukkhova, pabbatagge yathā sikhī;
Devānaṃ pāricchattova, sabbaphullo virocathā’’ti. (ma. ni. aṭṭha. 2.22; udā. aṭṭha. 76);
“Như một cây đèn đang cháy, như ngọn lửa trên đỉnh núi;
Như cây san hô Pāricchattaka của các vị trời, Ngài tỏa sáng với hoa nở khắp cành.” (ma. ni. aṭṭha. 2.22; udā. aṭṭha. 76);

Pāṭaligāmike upāsake āmantesīti yasmā tesu upāsakesu bahū janā sīle patiṭṭhitā, tasmā paṭhamaṃ tāva sīlavipattiyā ādīnavaṃ pakāsetvā pacchā sīlasampadāya ānisaṃsaṃ dassetuṃ ‘‘pañcime gahapatayo’’tiādinā dhammadesanatthaṃ āmantesi. Tattha dussīloti nissīlo (dī. ni. aṭṭha. 2.149; a. ni. aṭṭha. 3.5.213; udā. aṭṭha. 76). Abhāvattho hettha du-saddo ‘‘duppañño’’tiādīsu viya. Sīlavipannoti vipannasīlo bhinnasaṃvaro. Ettha ca ‘‘dussīlo’’ti padena puggalassa sīlābhāvo vutto. So panassa sīlābhāvo duvidho asamādānena vā samādinnassa bhedena vāti. Tesu purimo na tathā sāvajjo, yathā dutiyo sāvajjataro. Yathādhippetādīnavanimittaṃ sīlābhāvaṃ puggalādhiṭṭhānāya desanāya dassetuṃ ‘‘sīlavipanno’’ti vuttaṃ, tena ‘‘dussīlo’’ti padassa atthaṃ dasseti. Pamādādhikaraṇanti pamādakāraṇā. Idañca suttaṃ gahaṭṭhānaṃ vasena āgataṃ, pabbajitānampi pana labbhateva. Gahaṭṭho hi yena yena sippaṭṭhānena jīvikaṃ kappeti yadi kasiyā yadi vaṇijjāya yadi gorakkhena. Pāṇātipātādivasena pamatto taṃ taṃ yathākālaṃ sampādetuṃ na sakkoti, athassa kammaṃ vinassati. Māghātakāle pāṇātipātaṃ pana adinnādānādīni ca karonto daṇḍavasena mahatiṃ bhogajāniṃ nigacchati. Pabbajito dussīlo pamādakāraṇā sīlato buddhavacanato jhānato sattaariyadhanato ca jāniṃ nigacchati.
Đã gọi các nam cư sĩ làng Pāṭali, bởi vì trong số các nam cư sĩ đó, nhiều người đã an trú trong giới, do đó, trước tiên, để tuyên bố sự nguy hại của việc giới bị hư hỏng, và sau đó để chỉ ra lợi ích của việc giới được trọn vẹn, Ngài đã gọi họ để thuyết pháp bằng các câu bắt đầu bằng “Này các gia chủ, có năm điều này.” Ở đây, người ác giới là người không có giới (dī. ni. aṭṭha. 2.149; a. ni. aṭṭha. 3.5.213; udā. aṭṭha. 76). Ở đây, tiếp đầu ngữ du có nghĩa là không có, giống như trong các từ “người thiểu trí,” v.v. Người có giới bị hư hỏng là người có giới đã bị hư hỏng, sự phòng hộ đã bị phá vỡ. Ở đây, bằng từ “người ác giới,” tình trạng không có giới của một người được nói đến. Và tình trạng không có giới đó của người ấy có hai loại: do không thọ nhận hoặc do đã thọ nhận rồi phá vỡ. Trong số đó, loại đầu không có tội bằng, trong khi loại thứ hai có tội hơn. Để chỉ ra sự nguy hại được ngụ ý của tình trạng không có giới bằng một bài thuyết giảng lấy cá nhân làm đối tượng, đã có nói: “người có giới bị hư hỏng,” bằng câu đó, ngài giải thích ý nghĩa của từ “người ác giới.” Do nhân duyên dể duôi là do nguyên nhân dể duôi. Và kinh này được trình bày theo trường hợp của người tại gia, nhưng cũng có thể áp dụng cho người xuất gia. Thật vậy, người tại gia, dù sinh sống bằng nghề nghiệp nào, nếu là nông nghiệp, nếu là thương mại, nếu là chăn nuôi, khi dể duôi qua việc sát sanh, v.v., không thể hoàn thành công việc đó đúng thời hạn, thì công việc của người ấy sẽ bị thất bại. Vào thời điểm cấm giết hại, người làm việc sát sanh, trộm cắp, v.v., sẽ bị tổn thất tài sản lớn do bị trừng phạt. Người xuất gia ác giới, do nguyên nhân dể duôi, sẽ bị tổn thất về giới, về lời Phật dạy, về thiền, và về bảy thánh tài.

Pāpako kittisaddoti gahaṭṭhassa ‘‘asuko asukakule jāto dussīlo pāpadhammo pariccattaidhalokaparaloko salākabhattamattampi na detī’’ti catuparisamajjhe pāpako kittisaddo abbhuggacchati. Pabbajitassa ‘‘asuko nāma satthusāsane pabbajitvā nāsakkhi sīlāni rakkhituṃ, na buddhavacanaṃ uggahetuṃ, vejjakammādīhi jīvati, chahi agāravehi samannāgato’’ti evaṃ pāpako kittisaddo abbhuggacchati.
Tiếng xấu, đối với người tại gia, tiếng xấu lan truyền giữa bốn hội chúng rằng: “người kia, sinh ra trong gia đình nọ, là người ác giới, có pháp ác, đã từ bỏ cả đời này và đời sau, ngay cả một suất ăn theo phiếu cũng không cho.” Đối với người xuất gia, tiếng xấu lan truyền rằng: “người tên là như vậy, đã xuất gia trong giáo pháp của bậc Đạo Sư mà không thể giữ giới, không thể học thuộc lời Phật dạy, sống bằng nghề y, v.v., có sáu điều bất kính.”

Avisāradoti gahaṭṭho tāva ‘‘avassaṃ bahūnaṃ sannipātaṭṭhāne koci mama kammaṃ jānissati, atha maṃ niggaṇhissantī’’ti vā, ‘‘rājakulassa vā dassantī’’ti sabhayo upasaṅkamati, maṅkubhūto pattakkhandho adhomukho nisīdati, visārado hutvā kathetuṃ na sakkoti. Pabbajitopi ‘‘bahū bhikkhū sannipatitā, avassaṃ koci mama kammaṃ jānissati, atha me uposathampi pavāraṇampi ṭhapetvā sāmaññato cāvetvā nikkaḍḍhissantī’’ti sabhayo upasaṅkamati, visārado hutvā kathetuṃ na sakkoti. Ekacco pana dussīlopi samāno dappito viya vadati, sopi ajjhāsayena maṅku hotiyeva vippaṭisārībhāvato.
Không tự tin, người tại gia, trước hết, đi đến với lòng sợ hãi rằng: “chắc chắn ở nơi tụ họp đông người, ai đó sẽ biết việc làm của ta, rồi họ sẽ khiển trách ta,” hoặc, “họ sẽ báo cho hoàng gia,” người ấy ngồi xuống với vẻ bối rối, cúi đầu, không thể nói chuyện một cách tự tin. Người xuất gia cũng đi đến với lòng sợ hãi rằng: “nhiều vị Tỳ-khưu đã tụ họp, chắc chắn ai đó sẽ biết việc làm của ta, rồi họ sẽ hoãn lễ Bố-tát và lễ Tự Tứ của ta, truất phế khỏi sa-môn hạnh và đuổi đi,” người ấy không thể nói chuyện một cách tự tin. Một người, dù ác giới, lại nói chuyện như thể kiêu ngạo, nhưng người ấy trong thâm tâm cũng bối rối do có sự hối hận.

Sammūḷhokālaṃ karotīti dussīlassa hi maraṇamañce nipannassa dussīlyakammānaṃ samādāya vattitaṭṭhānāni āpāthamāgacchanti. So ummīletvā attano puttadārādidassanavasena idhalokaṃ passati, nimīletvā gatinimittupaṭṭhānavasena paralokaṃ passati, tassa cattāro apāyā kammānurūpaṃ upaṭṭhahanti. Sattisatena pahariyamāno viya aggijālāya āliṅgiyamāno viya ca hoti. So ‘‘vāretha vārethā’’ti viravantova marati. Tena vuttaṃ ‘‘sammūḷho kālaṃ karotī’’ti.
Chết một cách mê muội, đối với người ác giới, khi đang nằm trên giường bệnh, những nơi đã thực hành các hành vi ác giới hiện ra trong tâm trí. Người ấy mở mắt ra và thấy thế giới này qua việc nhìn thấy con cái, vợ chồng, v.v., nhắm mắt lại và thấy thế giới bên kia qua sự hiện khởi của các tướng điềm báo về cảnh giới tái sanh, bốn cõi ác hiện ra tương ứng với nghiệp. Người ấy cảm thấy như bị đâm bằng một trăm ngọn giáo, như bị một ngọn lửa bao bọc. Người ấy chết trong khi đang la hét: “cứu với, cứu với.” Do đó đã nói: “chết một cách mê muội.”

Kāyassa bhedāti upādinnakakkhandhapariccāgā. Paraṃ maraṇāti tadanantaraṃ abhinibbattakkhandhaggahaṇe. Atha vā kāyassa bhedāti jīvitindriyassa upacchedā. Paraṃ maraṇāti cutito uddhaṃ. Apāyantiādi sabbaṃ nirayavevacanaṃ. Nirayo hi saggamokkhahetubhūtā puññasaṅkhātā ayā apetattā, sukhānaṃ vā āyassa āgamanassa abhāvā apāyo. Dukkhassa gati paṭisaraṇanti duggati, dosabahulatāya vā duṭṭhena kammunā nibbattā gatīti duggati. Vivasā nipatanti ettha dukkaṭakārinoti vinipāto, vinassantā vā ettha nipatanti saṃbhijjamānaṅgapaccaṅgāti vinipāto. Natthi ettha assādasaññito ayoti nirayo.
Sau khi thân hoại là sau khi từ bỏ khối uẩn đã được chấp thủ. Mạng chung là trong việc nắm bắt khối uẩn tái sinh ngay sau đó. Hoặc, sau khi thân hoại là sau khi mạng căn bị cắt đứt. Sau khi chết là sau khi mệnh chung. Ác đạo, v.v., tất cả đều là từ đồng nghĩa của địa ngục. Thật vậy, địa ngục được gọi là ác đạo (apāya) vì đã xa lìa (apeta) điều thiện (aya) là nhân của thiên giới và giải thoát, hoặc vì không có sự đến (āgamana) của hạnh phúc (āya). Nơi đi đến, nơi nương tựa của khổ là khổ thú (duggati), hoặc là cảnh giới được tạo ra bởi nghiệp xấu do có nhiều lỗi lầm, nên gọi là khổ thú. Những người làm ác rơi vào đây một cách bất lực, nên gọi là đọa xứ (vinipāto), hoặc họ rơi vào đây trong khi đang bị hủy hoại, với các chi phần bị tan nát, nên gọi là đọa xứ. Không có điều thiện (aya) được gọi là sự vui thích ở đây, nên gọi là địa ngục (nirayo).

Atha vā apāyaggahaṇena tiracchānayoniṃ dīpeti. Tiracchānayoni hi apāyo sugatito apetattā, na duggati mahesakkhānaṃ nāgarājādīnaṃ sambhavato. Duggatiggahaṇena pettivisayaṃ dīpeti. So hi apāyo ceva duggati ca sugatito apetattā dukkhassa ca gatibhūtattā, na tu vinipāto asurasadisaṃ avinipatitattā. Petamahiddhikānaṃ vimānānipi nibbattanti. Vinipātaggahaṇena asurakāyaṃ dīpeti. So hi yathāvuttenatthena apāyo ceva duggati ca sabbasampattisamussayehi vinipātattā vinipātoti ca vuccati. Nirayaggahaṇena pana avīciādikaṃ anekappakāraṃ nirayameva dīpeti. Upapajjatīti nibbattati.
Hoặc, bằng từ ác đạo, ngài chỉ cõi súc sanh. Thật vậy, cõi súc sanh là ác đạo vì đã xa lìa thiện thú, không phải là khổ thú vì có những vị vua rồng, v.v., có thần lực lớn. Bằng từ khổ thú, ngài chỉ cõi ngạ quỷ. Cõi đó vừa là ác đạo vừa là khổ thú vì đã xa lìa thiện thú và là nơi đi đến của khổ, nhưng không phải là đọa xứ vì không bị rơi rụng như các vị a-tu-la. Ngay cả các vị ngạ quỷ có thần lực lớn cũng có các thiên cung được tạo ra. Bằng từ đọa xứ, ngài chỉ loài a-tu-la. Loài đó, theo ý nghĩa đã nói, vừa là ác đạo vừa là khổ thú, và được gọi là đọa xứ vì đã bị rơi rụng khỏi mọi sự hoàn hảo. Còn bằng từ địa ngục, ngài chỉ chính các địa ngục có nhiều loại như Vô Gián, v.v. Tái sanh là được sinh ra.

Ānisaṃsakathā vuttavipariyāyena veditabbā. Ayaṃ pana viseso – sīlavāti samādānavasena sīlavā. Sīlasampannoti parisuddhaṃ paripuṇṇañca katvā sīlassa sampādanena sīlasampanno. Bhogakkhandhanti bhogarāsiṃ. Sugatiṃ saggaṃ lokanti ettha sugatiggahaṇena manussagatipi saṅgayhati, saggaggahaṇena devagati eva. Tattha sundarā gatīti sugati, rūpādīhi visayehi suṭṭhu aggoti saggo, so sabbopi lujjanapalujjanaṭṭhena lokoti.
Lời nói về các lợi ích cần được hiểu theo cách ngược lại với những gì đã nói. Nhưng đây là sự khác biệt – người có giới là người có giới do đã thọ nhận. Người có giới được trọn vẹn là người có giới được trọn vẹn do đã làm cho giới trong sạch và đầy đủ. Một khối tài sản là một đống tài sản. Thiện thú, thiên giới, thế gian, ở đây, bằng từ thiện thú, cõi người cũng được bao gồm, bằng từ thiên giới, chỉ có cõi trời. Ở đây, cảnh giới tốt đẹp là thiện thú, vượt trội về các đối tượng như sắc, v.v., là thiên giới, tất cả những cõi đó, do có tính chất hoại diệt và tan rã, được gọi là thế gian.

Pāṭaligāmike upāsake bahudeva rattiṃ dhammiyā kathāyāti aññāyapi pāḷimuttāya dhammakathāya ceva āvasathānumodanakathāya ca. Tadā hi bhagavā yasmā ajātasattunā tattha pāṭaliputtanagaraṃ māpentena aññāsu gāmanigamarājadhānīsu ye sīlācārasampannā kuṭumbikā, te ānetvā dhanadhaññāni gharavatthukhettavatthādīni ceva parihārañca dāpetvā nivesiyanti, tasmā pāṭaligāmikā upāsakā ānisaṃsadassāvitāya visesato sīlagarukāti sabbaguṇānañca sīlassa adhiṭṭhānabhāvato tesaṃ paṭhamaṃ sīlānisaṃse pakāsetvā tato paraṃ ākāsagaṅgaṃ otārento viya pathavojaṃ ākaḍḍhanto viya mahājambuṃ matthake gahetvā cālento viya yojanappamāṇaṃ mahāmadhuṃ cakkayantena pīḷetvā sumadhurarasaṃ pāyamāno viya ca pāṭaligāmikānaṃ upāsakānaṃ hitasukhāvahaṃ pakiṇṇakakathaṃ kathentopi ‘‘āvāsadānaṃ nāmetaṃ gahapatayo mahantaṃ puññaṃ, tumhākaṃ āvāso mayā paribhutto, bhikkhusaṅghena paribhutto, mayā ca bhikkhusaṅghena ca paribhutte dhammaratanenapi paribhuttoyeva hoti, evaṃ tīhi ratanehi paribhutte aparimeyyova vipāko, apica āvāsadānasmiṃ dinne sabbadānaṃ dinnameva hoti, bhūmaṭṭhakapaṇṇasālāya vā sākhāmaṇḍapassa vā saṅghaṃ uddissa katassa ānisaṃso paricchindituṃ na sakkā. Āvāsadānānubhāvena hi bhave nibbattamānassapi sampīḷitagabbhavāso nāma na hoti, dvādasahattho ovarako viyassa mātukucchi asambādhova hotī’’ti evaṃ nānānayavicittaṃ bahuṃ dhammakathaṃ kathetvā –
(Đã khích lệ) các nam cư sĩ làng Pāṭali phần lớn đêm bằng pháp thoại là bằng cả pháp thoại ngoài kinh điển và pháp thoại tùy hỷ về nhà nghỉ. Tương truyền rằng, vào thời điểm đó, vì vua Ajātasattu, khi cho xây dựng thành phố Pāṭaliputta ở đó, đã cho mời các gia chủ có giới hạnh và phẩm cách tốt đẹp từ các làng, thị trấn, và kinh thành khác đến, cấp cho họ tiền bạc, lúa gạo, đất đai nhà cửa, ruộng vườn, v.v., và cả sự miễn trừ thuế, rồi cho định cư, do đó, các nam cư sĩ làng Pāṭali đặc biệt coi trọng giới hạnh do đã được thấy rõ lợi ích, và vì giới là nền tảng của mọi phẩm chất, nên đức Thế Tôn trước tiên đã tuyên bố các lợi ích của giới cho họ, sau đó, như thể đang đưa dòng sông trên không trung xuống, như thể đang kéo lấy tinh chất của đất, như thể đang nắm lấy ngọn cây đại táo và rung chuyển, như thể đang ép mật ong từ một tảng mật ong lớn bằng một cỗ máy và cho uống vị ngọt ngào, Ngài đã thuyết giảng một bài pháp thoại tạp loại mang lại lợi ích và hạnh phúc cho các nam cư sĩ làng Pāṭali, rằng: “Này các gia chủ, việc cúng dường trú xứ này là một phước báu lớn lao, trú xứ của các vị đã được Ta sử dụng, đã được Tăng chúng Tỳ-khưu sử dụng, và khi đã được Ta và Tăng chúng Tỳ-khưu sử dụng, thì cũng có nghĩa là đã được Pháp bảo sử dụng, như vậy, khi đã được Tam Bảo sử dụng, quả báo sẽ không thể lường được, hơn nữa, khi đã cúng dường trú xứ, thì cũng có nghĩa là đã cúng dường tất cả. Lợi ích của việc xây một túp lều lợp lá trên mặt đất hoặc một nhà lều bằng cành cây dâng cúng cho Tăng chúng không thể đo lường được. Thật vậy, nhờ vào năng lực của việc cúng dường trú xứ, ngay cả khi tái sanh trong các cõi, người ấy cũng không bao giờ phải ở trong một bào thai chật chội, bụng mẹ của người ấy sẽ rộng rãi như một căn phòng mười hai khuỷu tay,” như vậy, Ngài đã thuyết giảng một bài pháp thoại dài, đa dạng với nhiều phương pháp khác nhau:

‘‘Sītaṃ uṇhaṃ paṭihanti, tato vāḷamigāni ca;
Sarīsape ca makase, sisire cāpi vuṭṭhiyo.
“Nó ngăn lạnh, ngăn nóng, và cả các loài dã thú;
Cả loài bò sát và muỗi, và cả những cơn mưa trong mùa đông.

‘‘Tato vātātapo ghoro, sañjāto paṭihaññati;
Leṇatthañca sukhatthañca, jhāyituñca vipassituṃ.
“Rồi gió và nắng gắt, phát sinh cũng bị ngăn chặn;
Để ẩn náu và để an lạc, để thiền định và để quán chiếu.

‘‘Vihāradānaṃ saṅghassa, aggaṃ buddhena vaṇṇitaṃ;
Tasmā hi paṇḍito poso, sampassaṃ atthamattano.
“Việc cúng dường tu viện cho Tăng chúng, đã được đức Phật tán thán là tối thượng;
Do đó, người hiền trí, thấy rõ lợi ích của mình.

‘‘Vihāre kāraye ramme, vāsayettha bahussute;
Tesaṃ annañca pānañca, vatthasenāsanāni ca.
“Nên xây những tu viện khả ái, và cho các bậc đa văn ở đó;
Và cúng dường cho các vị ấy thức ăn, thức uống, y phục và chỗ ở.

‘‘Dadeyya ujubhūtesu, vippasannena cetasā;
Te tassa dhammaṃ desenti, sabbadukkhāpanūdanaṃ;
Yaṃ so dhammaṃ idhaññāya, parinibbāti anāsavo’’ti. (cūḷava. 295, 315) –
“Nên cúng dường cho những bậc ngay thẳng, với tâm trong sạch;
Các vị ấy sẽ thuyết pháp cho người đó, pháp đoạn trừ mọi khổ đau;
Nhờ biết được pháp đó ở đây, người ấy tịch tịnh Niết-bàn, không còn lậu hoặc.” (cūḷava. 295, 315) –

Evaṃ ayampi āvāsadāne ānisaṃso ayampi āvāsadāne ānisaṃsoti bahudeva rattiṃ atirekadiyaḍḍhayāmaṃ āvāsadānānisaṃsaṃ kathesi. Tattha imā gāthāva saṅgahaṃ āruḷhā, pakiṇṇakadhammadesanā pana saṅgahaṃ na ārohati. Sandassetvātiādīni vuttatthāneva.
Như vậy, Ngài đã thuyết giảng về lợi ích của việc cúng dường trú xứ trong phần lớn đêm, hơn một canh rưỡi, rằng “đây là lợi ích của việc cúng dường trú xứ, đây cũng là lợi ích của việc cúng dường trú xứ.” Ở đây, chỉ có những bài kệ này được đưa vào tập hợp, còn bài pháp thoại tạp loại thì không được đưa vào. Sau khi đã chỉ dạy, v.v., có ý nghĩa như đã nói.

Abhikkantāti atikkantā dve yāmā gatā. Yassadāni tumhe kālaṃ maññathāti yassa gamanassa tumhe kālaṃ maññatha, gamanakālo tumhākaṃ, gacchathāti vuttaṃ hoti. Kasmā pana bhagavā te uyyojesīti? Anukampāya. Tiyāmarattiñhi nisīditvā vītināmentānaṃ tesaṃ sarīre ābādho uppajjeyya, bhikkhusaṅghopi ca mahā, tassa sayananisajjānaṃ okāsaṃ laddhuṃ vaṭṭati, iti ubhayānukampāya uyyojesi.
Đã trôi qua là hai canh đã trôi qua, đã qua. Bây giờ, các ngươi hãy xem xét thời gian thích hợp cho việc gì có nghĩa là các ngươi hãy xem xét thời gian thích hợp cho việc ra về nào, đã đến lúc các ngươi ra về, hãy đi đi. Nhưng tại sao đức Thế Tôn lại cho họ về? Vì lòng bi mẫn. Thật vậy, nếu họ ngồi suốt ba canh đêm, bệnh tật có thể phát sinh trong cơ thể họ, và Tăng chúng Tỳ-khưu cũng rất đông, cần phải có chỗ để họ nằm và ngồi, do đó Ngài đã cho họ về vì lòng bi mẫn đối với cả hai bên.

Suññāgāranti pāṭiyekkaṃ suññāgāraṃ nāma tattha natthi. Te kira gahapatayo tasseva āvasathāgārassa ekapasse paṭasāṇiṃ parikkhipāpetvā kappiyamañcaṃ paññapetvā tattha kappiyapaccattharaṇāni attharitvā upari suvaṇṇarajatatārakagandhamālādidāmapaṭimaṇḍitaṃ vitānaṃ bandhitvā gandhatelapadīpaṃ āropayiṃsu ‘‘appeva nāma satthā dhammāsanato vuṭṭhāya thokaṃ vissametukāmo idha nipajjeyya, evaṃ no idaṃ āvasathāgāraṃ bhagavatā catūhi iriyāpathehi paribhuttaṃ dīgharattaṃ hitāya sukhāya bhavissatī’’ti. Satthāpi tadeva sandhāya tattha saṅghāṭiṃ paññapetvā sīhaseyyaṃ kappesi. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘suññāgāraṃ pāvisī’’ti. Tattha pādadhovanaṭṭhānato paṭṭhāya yāva dhammāsanā agamāsi, ettake ṭhāne gamanaṃ nipphannaṃ. Dhammāsanaṃ patvā thokaṃ aṭṭhāsi, idaṃ tattha ṭhānaṃ. Dve yāme dhammāsane nisīdi, ettake ṭhāne nisajjā nipphannā. Upāsake uyyojetvā dhammāsanato oruyha yathāvutte ṭhāne sīhaseyyaṃ kappesi . Etaṃ ṭhānaṃ bhagavatā catūhi iriyāpathehi paribhuttaṃ ahosīti.
Căn phòng trống, ở đó không có một căn phòng trống riêng biệt nào. Tương truyền rằng, các gia chủ đó đã cho giăng một tấm rèm vải ở một bên của chính nhà nghỉ công cộng đó, chuẩn bị một chiếc giường hợp lệ, trải các tấm thảm lót hợp lệ lên đó, giăng một tấm màn che được trang hoàng bằng các vòng hoa thơm, hoa vàng, hoa bạc, v.v., ở trên, và thắp một ngọn đèn dầu thơm với ý nghĩ: “Mong rằng bậc Đạo Sư, sau khi rời khỏi pháp tòa, nếu muốn nghỉ ngơi một chút, sẽ nằm ở đây, như vậy, nhà nghỉ công cộng này của chúng con, được đức Thế Tôn sử dụng bằng cả bốn oai nghi, sẽ mang lại lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho chúng con.” Bậc Đạo Sư cũng, với ý đó, đã cho trải y tăng-già-lê ở đó và nằm xuống theo thế nằm của sư tử. Chính điều đó được nói đến trong câu “đã đi vào căn phòng trống.” Ở đây, từ nơi rửa chân cho đến khi Ngài đến pháp tòa, trong khoảng đó, oai nghi đi đã được hoàn thành. Sau khi đến pháp tòa, Ngài đã đứng một lúc, đây là oai nghi đứng ở đó. Ngài đã ngồi trên pháp tòa trong hai canh, trong khoảng đó, oai nghi ngồi đã được hoàn thành. Sau khi cho các nam cư sĩ về, Ngài rời khỏi pháp tòa và nằm xuống theo thế nằm của sư tử ở nơi đã nói. Nơi đó đã được đức Thế Tôn sử dụng bằng cả bốn oai nghi.

Pāṭaligāmavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về câu chuyện ở làng Pāṭali.

Sunidhavassakāravatthukathāvaṇṇanā
Giải Thích về Câu Chuyện của Sunidha và Vassakāra

286.Sunidhavassakārāti (dī. ni. 2.153; udā. aṭṭha. 76) sunidho ca vassakāro ca dve brāhmaṇā. Magadhamahāmattāti magadharañño mahāamaccā, magadharaṭṭhe vā mahāmattā, mahatiyā issariyamattāya samannāgatāti magadhamahāmattā. Pāṭaligāme nagaraṃ māpentīti pāṭaligāmantasaṅkhāte bhūmippadese nagaraṃ māpenti, pubbe ‘‘pāṭaligāmo’’ti laddhanāmaṃ ṭhānaṃ idāni nagaraṃ katvā māpentīti attho. Vajjīnaṃ paṭibāhāyāti licchavirājūnaṃ āyamukhapacchindanatthaṃ. Vatthūnīti gharavatthūni gharapatiṭṭhāpanaṭṭhānāni. Cittāni namanti nivesanāni māpetunti rañño rājamahāmattānañca nivesanāni māpetuṃ vatthuvijjāpāṭhakānaṃ cittāni namanti. Te kira attano sippānubhāvena heṭṭhāpathaviyaṃ tiṃsahatthamatte ṭhāne ‘‘idha nāgānaṃ nivāsapariggaho, idha yakkhānaṃ, idha bhūtānaṃ nivāsapariggaho, idha pāsāṇo vā khāṇuko vā atthī’’ti jānanti, te tadā sippaṃ jappitvā tādisaṃ sārambhaṭṭhānaṃ pariharitvā anārambhe ṭhāne tāhi vatthupariggāhikāhi devatāhi saddhiṃ mantayamānā viya taṃtaṃgehāni māpenti.
286.Sunidha và Vassakāra (dī. ni. 2.153; udā. aṭṭha. 76) là hai vị bà-la-môn. Các đại thần của xứ Magadha là các vị đại quan của vua xứ Magadha, hoặc là các đại thần ở xứ Magadha, các đại thần của xứ Magadha là những người có được quyền lực và tài sản lớn. Đang cho xây dựng một thành phố ở làng Pāṭali là đang cho xây dựng một thành phố ở một khu vực đất đai được gọi là làng Pāṭali, có nghĩa là họ đang cho xây dựng một nơi trước đây đã có tên là “làng Pāṭali” thành một thành phố. Để chống lại các vị vua Vajjī là để cắt đứt đường thu nhập của các vị vua Licchavi. Các nền nhà là các nền nhà, những nơi để xây dựng nhà cửa. Tâm của họ hướng về việc cho xây dựng các dinh thự là tâm của các nhà kiến trúc hướng về việc cho xây dựng các dinh thự của vua và các đại thần. Tương truyền rằng, bằng năng lực nghề nghiệp của mình, họ biết được trong một khu vực rộng ba mươi khuỷu tay dưới lòng đất rằng: “đây là nơi cư ngụ của loài rồng, đây là của loài dạ xoa, đây là của các loài phi nhân, đây có đá hoặc gốc cây,” và khi đó, sau khi đã tụng niệm, họ tránh những nơi có chướng ngại như vậy và cho xây dựng các ngôi nhà ở những nơi không có chướng ngại, như thể đang bàn bạc với các vị thiên thần cai quản đất đai đó.

Atha vā nesaṃ sarīre devatā adhimuccitvā tattha tattha nivesanāni māpetuṃ cittaṃ nāmenti. Tā catūsu koṇesu khāṇuke koṭṭetvā vatthumhi gahitamatte paṭivigacchanti. Saddhānaṃ kulānaṃ saddhā devatā tathā karonti, assaddhānaṃ kulānaṃ assaddhā devatā ca. Kiṃ kāraṇā? Saddhānañhi evaṃ hoti ‘‘idha manussā nivesanaṃ māpentā paṭhamaṃ bhikkhusaṅghaṃ nisīdāpetvā maṅgalaṃ vadāpessanti, atha mayaṃ sīlavantānaṃ dassanaṃ dhammakathaṃ pañhavissajjanaṃ anumodanañca sotuṃ labhissāma, manussādānaṃ datvā amhākaṃ pattiṃ dassantī’’ti. Assaddhā devatāpi ‘‘attano icchānurūpaṃ tesaṃ paṭipattiṃ passituṃ kathañca sotuṃ labhissāmā’’ti tathā karonti.
Hoặc là các vị chư thiên nhập vào thân thể của họ và làm cho tâm của họ hướng về việc cho xây dựng các dinh thự ở những nơi đó. Sau khi đã đóng cọc ở bốn góc và đã xác định được nền đất, các vị ấy liền rời đi. Các vị chư thiên có đức tin làm như vậy đối với các gia đình có đức tin, và các vị chư thiên không có đức tin cũng làm như vậy đối với các gia đình không có đức tin. Tại sao? Vì những người có đức tin nghĩ rằng: “Ở đây, khi con người xây dựng dinh thự, trước tiên họ sẽ cho Tăng chúng Tỳ-khưu ngồi và ban lời chúc phúc, khi đó chúng ta sẽ được thấy các bậc có giới, nghe pháp thoại, nghe giải đáp thắc mắc và lời tùy hỷ, và sau khi đã cúng dường cho con người, họ sẽ hồi hướng công đức cho chúng ta.” Các vị chư thiên không có đức tin cũng làm như vậy để “có thể thấy được hành vi và nghe được lời nói của họ theo ý muốn của mình.”

Tāvatiṃsehīti yathā hi ekasmiṃ kule ekaṃ paṇḍitaṃ manussaṃ, ekasmiñca vihāre ekaṃ bahussutaṃ bhikkhuṃ upādāya ‘‘asukakule manussā paṇḍitā, asukavihāre bhikkhū bahussutā’’ti saddo abbhuggacchati, evamevaṃ sakkaṃ devarājānaṃ vissakammañca devaputtaṃ upādāya ‘‘tāvatiṃsā paṇḍitā’’ti saddo abbhuggato. Tenāha ‘‘tāvatiṃsehī’’ti. Seyyathāpītiādinā devehi tāvatiṃsehi saddhiṃ mantetvā viya sunidhavassakārā nagaraṃ māpentīti dasseti.
Với các vị trời ở cõi Ba Mươi Ba, giống như trong một gia đình, do có một người hiền trí, và trong một tu viện, do có một vị Tỳ-khưu đa văn, mà tiếng tăm lan truyền rằng: “những người trong gia đình kia là người hiền trí, các vị Tỳ-khưu trong tu viện kia là người đa văn,” cũng vậy, do có Đế Thích, vua của các vị trời, và thiên tử Vissakamma, mà tiếng tăm lan truyền rằng: “các vị trời ở cõi Ba Mươi Ba là người hiền trí.” Do đó, ngài nói “với các vị trời ở cõi Ba Mươi Ba.” Bằng câu bắt đầu bằng “Giống như,” v.v., ngài chỉ ra rằng Sunidha và Vassakāra cho xây dựng thành phố như thể đã bàn bạc với các vị trời ở cõi Ba Mươi Ba.

Yāvatā ariyaṃ āyatananti yattakaṃ ariyamanussānaṃ osaraṇaṭṭhānaṃ nāma atthi. Yāvatā vaṇippathoti yattakaṃ vāṇijānaṃ āhaṭabhaṇḍassa rāsivaseneva kayavikkayaṭṭhānaṃ nāma, vāṇijānaṃ vasanaṭṭhānaṃ vā atthi. Idaṃ agganagaranti tesaṃ ariyāyatanavaṇippathānaṃ idaṃ nagaraṃ aggaṃ bhavissati jeṭṭhakaṃ pāmokkhaṃ. Puṭabhedananti bhaṇḍapuṭabhedanaṭṭhānaṃ, bhaṇḍaganthikānaṃ mocanaṭṭhānanti vuttaṃ hoti. Sakalajambudīpe aladdhabhaṇḍampi hi idheva labhissati, aññattha vikkayaṃ agacchantampi idha vikkayaṃ gacchissati, tasmā idheva puṭaṃ bhindissatīti attho. Āyanti yāni catūsu dvāresu cattāri, sabhāyaṃ ekanti evaṃ divase divase pañcasatasahassāni tattha uṭṭhahissanti, tānissa bhāvīni āyāni dasseti. Aggito vātiādīsu ca-kārattho -saddo, agginā ca udakena ca mithubhedena ca nassissatīti attho. Tassa hi eko koṭṭhāso agginā nassissati, nibbāpetumpi naṃ na sakkhissati, ekaṃ koṭṭhāsaṃ gaṅgā gahetvā gamissati, eko iminā akathitaṃ amussa, amunā akathitaṃ imassa vadantānaṃ pisuṇavācānaṃ vasena bhinnānaṃ manussānaṃ aññamaññabhedena vinassissati.
Trong phạm vi là nơi lui tới của các bậc Thánh là trong chừng mực có một nơi được gọi là nơi lui tới của những người thuộc dòng dõi Thánh. Trong phạm vi là con đường của thương nhân là trong chừng mực có một nơi được gọi là nơi mua bán bằng cách chất đống hàng hóa do các thương nhân mang đến, hoặc là nơi ở của các thương nhân. Thành phố này sẽ là thành phố hàng đầu là thành phố này sẽ là thành phố hàng đầu, quan trọng nhất, đứng đầu của những nơi lui tới của các bậc Thánh và những con đường của thương nhân đó. Nơi mở các gói hàng là nơi mở các gói hàng, có nghĩa là nơi tháo các túi hàng. Thật vậy, ngay cả những món hàng không có được ở khắp cõi Diêm-phù-đề cũng sẽ có được ở đây, và ngay cả những món hàng không bán được ở nơi khác cũng sẽ bán được ở đây, do đó có nghĩa là các gói hàng sẽ được mở ở đây. Những khoản thu nhập sẽ phát sinh ở đó, năm trăm ngàn mỗi ngày, tức là một ở bốn cổng và một ở hội trường, ngài chỉ ra những khoản thu nhập trong tương lai của nó. Do lửa hoặc, v.v., từ có nghĩa là từ và, có nghĩa là nó sẽ bị hủy hoại do lửa, do nước, và do sự chia rẽ nội bộ. Thật vậy, một phần của nó sẽ bị lửa hủy hoại, và người ta cũng không thể dập tắt được, một phần sẽ bị sông Hằng cuốn trôi, và một phần sẽ bị hủy hoại do sự chia rẽ nội bộ của những người nói lời đâm thọc, nói điều này chưa được nói với người kia, nói điều người kia chưa được nói với người này.

Evaṃ vatvā bhagavā paccūsakāle gaṅgātīraṃ gantvā katamukhadhovano bhikkhācārakālaṃ āgamayamāno nisīdi. Sunidhavassakārāpi ‘‘amhākaṃ rājā samaṇassa gotamassa upaṭṭhāko, so amhe upagate pucchissati ‘satthā kira pāṭaligāmaṃ agamāsi, kiṃ tassa santikaṃ upasaṅkamittha, na upasaṅkamitthā’ti, ‘upasaṅkamimhā’ti ca vutte ‘nimantayittha, na nimantayitthā’ti pucchissati, ‘na nimantayimhā’ti ca vutte amhākaṃ dosaṃ āropetvā niggaṇhissati, idañcāpi mayaṃ akataṭṭhāne nagaraṃ māpema, samaṇassa kho pana gotamassa gatagataṭṭhāne kāḷakaṇṇisattā paṭikkamanti, taṃ mayaṃ nagaramaṅgalaṃ vācāpessāmā’’ti cintetvā satthāraṃ upasaṅkamitvā nimantayiṃsu. Tena vuttaṃ ‘‘atha kho sunidhavassakārā’’tiādi. Pubbaṇhasamayanti pubbaṇhakāle. Nivāsetvāti gāmappavesananīhārena nivāsanaṃ nivāsetvā kāyabandhanaṃ bandhitvā. Pattacīvaramādāyāti pattañca cīvarañca ādiyitvā kāyapaṭibaddhaṃ katvā, cīvaraṃ pārupitvā pattaṃ hatthena gahetvāti attho.
Sau khi nói như vậy, đức Thế Tôn đã đi đến bờ sông Hằng vào lúc rạng đông, sau khi đã rửa mặt, Ngài ngồi chờ đến giờ khất thực. Sunidha và Vassakāra cũng nghĩ rằng: “Vua của chúng ta là người hộ độ của sa-môn Gotama, khi chúng ta đến, ông ấy sẽ hỏi: ‘Tương truyền rằng bậc Đạo Sư đã đến làng Pāṭali, các ngươi có đến gặp ngài không?’ và khi nói: ‘chúng tôi đã đến gặp,’ ông ấy sẽ hỏi: ‘các ngươi có thỉnh mời không?’ và khi nói: ‘chúng tôi đã không thỉnh mời,’ ông ấy sẽ đổ lỗi và trừng phạt chúng ta, và hơn nữa, chúng ta đang cho xây dựng một thành phố ở một nơi chưa từng được xây dựng, và ở bất cứ nơi nào sa-môn Gotama đi đến, những kẻ bất tường đều lui đi, chúng ta sẽ nhờ ngài ban lời chúc phúc cho thành phố,” và đã đến gặp bậc Đạo Sư và thỉnh mời. Do đó đã nói: “Bấy giờ, Sunidha và Vassakāra,” v.v. Vào buổi sáng là vào thời gian buổi sáng. Sau khi đã đắp y là sau khi đã đắp y theo cách thức vào làng, đã thắt dây lưng. Mang theo y bát là sau khi đã mang theo bát và y, đã buộc vào thân, có nghĩa là sau khi đã khoác y và cầm bát bằng tay.

Sīlavantetthāti sīlavante ettha attano vasanaṭṭhāne. Saññateti kāyavācācittehi saññate. Tāsaṃ dakkhiṇamādiseti saṅghassa dinne cattāro paccaye tāsaṃ gharadevatānaṃ ādiseyyapattiṃ dadeyya. Pūjitā pūjayantīti ‘‘ime manussā amhākaṃ ñātakāpi na honti, tathāpi no pattiṃ dentīti ārakkhaṃ susaṃvihitaṃ karothā’’ti suṭṭhu ārakkhaṃ karonti. Mānitā mānayantīti kālānukālaṃ balikammakaraṇena mānitā ‘‘ete manussā amhākaṃ ñātakāpi na honti, tathāpi catumāsachamāsantare no balikammaṃ karontī’’ti mānenti uppannaparissayaṃ haranti. Tato nanti tato naṃ paṇḍitajātikaṃ manussaṃ. Orasanti ure ṭhapetvā saṃvaḍḍhitaṃ, yathā mātā orasaṃ puttaṃ anukampati, uppannaparissayaharaṇatthamevassa vāyamati, evaṃ anukampantīti attho. Bhadrāni passatīti sundarāni passati.
Các bậc có giới ở đây là các bậc có giới ở nơi ở của mình. Những bậc được chế ngự là những bậc được chế ngự về thân, khẩu, ý. Nên hồi hướng công đức cho họ là nên hồi hướng, nên cho đi phần công đức của bốn vật dụng đã được dâng cúng cho Tăng chúng cho các vị thiên thần ở trong nhà đó. Được cúng dường, họ sẽ cúng dường lại là “những người này không phải là bà con của chúng ta, vậy mà họ vẫn hồi hướng công đức cho chúng ta, hãy bảo vệ họ thật tốt,” họ sẽ bảo vệ một cách chu đáo. Được tôn trọng, họ sẽ tôn trọng lại là được tôn trọng bằng cách cúng dường theo thời gian, họ sẽ tôn trọng lại rằng: “những người này không phải là bà con của chúng ta, vậy mà cứ bốn tháng, sáu tháng họ lại cúng dường cho chúng ta,” họ sẽ xua tan những tai họa đã phát sinh. Sau đó đối với người ấy là sau đó đối với người hiền trí ấy. Con ruột là người được nuôi dưỡng bằng cách đặt trên ngực, giống như người mẹ thương yêu đứa con ruột của mình, chỉ cố gắng để xua tan những tai họa đã phát sinh cho nó, có nghĩa là họ cũng thương yêu như vậy. Thấy những điều tốt lành là thấy những điều tốt đẹp.

Anumoditvāti tehi tadā pasutapuññassa anumodanavasena tesaṃ dhammakathaṃ katvā. Sunidhavassakārāpi ‘‘yā tattha devatā āsuṃ, tāsaṃ dakkhiṇamādise’’ti bhagavato vacanaṃ sutvā devatānaṃ pattiṃ adaṃsu. Taṃ gotamadvāraṃ nāma ahosīti tassa nagarassa yena dvārena bhagavā nikkhami, taṃ gotamadvāraṃ nāma ahosi. Gaṅgāya pana uttaraṇatthaṃ anotiṇṇattā gotamatitthaṃ nāma nāhosi. Pūrāti puṇṇā. Samatittikāti tīrasamaṃ udakassa tittā bharitā. Kākapeyyāti tīre ṭhitakākehi pātuṃ sakkuṇeyyaudakā. Tīhipi padehi ubhatokūlasamaṃ paripuṇṇabhāvameva vadati. Uḷumpanti pāragamanatthāya lahuke dārudaṇḍe gahetvā kavāṭaphalake viya aññamaññasambandhe kātuṃ āṇiyo koṭṭetvā nāvāsaṅkhepena kataṃ. Kullanti veḷunaḷādike saṅgharitvā valliādīhi kalāpavasena bandhitvā kataṃ.
Sau khi đã tùy hỷ là sau khi đã thuyết pháp cho họ theo cách tùy hỷ công đức mà họ đã gieo trồng vào lúc đó. Sunidha và Vassakāra cũng, sau khi nghe lời của đức Thế Tôn: “nên hồi hướng công đức cho các vị chư thiên ở đó,” đã hồi hướng công đức cho các vị chư thiên. Nơi đó đã được gọi là cổng Gotama là cổng của thành phố đó, nơi mà đức Thế Tôn đã đi ra, đã được gọi là cổng Gotama. Nhưng vì Ngài không xuống nước để qua sông Hằng, nên không có tên là bến Gotama. Đầy là đầy ắp. Nước ngang bờ là nước đầy ngang bằng với bờ. Quạ có thể uống được là nước mà những con quạ đứng trên bờ có thể uống được. Bằng cả ba từ, ngài chỉ nói về tình trạng đầy ắp ngang bằng cả hai bờ. Chiếc bè là một vật được làm một cách vội vã giống như một chiếc thuyền, bằng cách lấy những thanh gỗ nhẹ để qua bờ bên kia, đóng đinh để nối chúng lại với nhau như những tấm ván cửa. Chiếc phao là một vật được làm bằng cách thu gom tre, sậy, v.v., và buộc lại thành bó bằng dây leo, v.v.

Etamatthaṃviditvāti etaṃ mahājanassa gaṅgudakamattassapi kevalaṃ tarituṃ asamatthataṃ, attano pana bhikkhusaṅghassa ca atigambhīravitthataṃ saṃsāramahaṇṇavaṃ taritvā ṭhitabhāvañca sabbākārato viditvā tadatthaparidīpanaṃ imaṃ udānaṃ udānesi. Udānagāthāya attho pana aṭṭhakathāyaṃ dassitoyeva. Tattha udakaṭṭhānassetaṃ adhivacananti yathāvuttassa yassa kassaci udakaṭṭhānassa etaṃ aṇṇavanti adhivacanaṃ, na samuddassevāti adhippāyo. Saranti idha nadī adhippetā sarati sandatīti katvā. Gambhīraṃ vitthatanti agādhaṭṭhena gambhīraṃ, sakalalokattayabyāpitāya vitthataṃ. Visajjāti anāsajja appatvā eva pallalāni tesaṃ ataraṇato. Kullañhi jano bandhatīti kullaṃ bandhituṃ āyāsaṃ āpajjati. Vinā eva kullenāti īdisaṃ udakaṃ kullena īdisena vinā eva. Tiṇṇā medhāvino janāti ariyamaggañāṇasaṅkhātāya medhāya samannāgatattā medhāvino buddhā ca buddhasāvakā ca tiṇṇā paratīre patiṭṭhitā.
Sau khi biết được ý nghĩa này là sau khi đã biết được từ mọi phương diện sự bất lực của đám đông này trong việc vượt qua dù chỉ là một khối nước sông, và tình trạng của chính mình và của Tăng chúng Tỳ-khưu đã vượt qua và an trú sau khi đã vượt qua đại dương luân hồi vô cùng sâu rộng, ngài đã thốt lên lời cảm hứng này để làm sáng tỏ ý nghĩa đó. Còn ý nghĩa của bài kệ cảm hứng đã được trình bày trong chính chú giải. Ở đây, đây là tên gọi của nơi có nước, ý muốn nói rằng, đây là tên gọi ‘biển cả’ của bất kỳ nơi nào có nước như đã nói, chứ không chỉ của đại dương. Dòng sông, ở đây, sông được ngụ ý, vì nó chảy, nó trôi. Sâu và rộng là sâu do không có đáy, rộng do bao trùm cả ba thế giới. Tránh xa là không chạm vào, không đến gần các vũng lầy vì không thể vượt qua chúng. Người ta phải khó nhọc kết bè là phải chịu khó nhọc để kết bè. Mà không cần bè là không cần bè để vượt qua loại nước như thế này. Những người có trí tuệ đã vượt qua là các đức Phật và các vị đệ tử của Phật, những người có trí tuệ do được trang bị bằng trí tuệ được gọi là trí tuệ thánh đạo, đã vượt qua và an trú ở bờ bên kia.

Sunidhavassakāravatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về câu chuyện của Sunidha và Vassakāra.

Koṭigāme saccakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Lời Dạy về các Chân Lý ở Làng Koṭi

287.Koṭigāmoti mahāpanādassa rañño pāsādakoṭiyaṃ katagāmo, patitassa pāsādassa thupikāya patiṭṭhitaṭṭhāne niviṭṭhagāmoti attho. Ariyasaccānanti ye paṭivijjhanti, tesaṃ ariyabhāvakarānaṃ saccānaṃ. Ananubodhāti abujjhanena ajānanena. Appaṭivedhāti appaṭivijjhanena. Anubodho cettha pubbabhāgiyañāṇaṃ, paṭivedho maggañāṇena abhisamayo. Tattha yasmā anubodhapubbako paṭivedho anubodhena vinā na hoti, anubodhopi ekacco paṭivedhasambandho tadubhayābhāvahetukañca vaṭṭe saṃsaraṇaṃ, tasmā vuttaṃ ‘‘ananubodhā…pe… tumhākañcā’’ti. Tattha sandhāvitanti paṭisandhiggahaṇavasena bhavato bhavantarupagamanena sandhāvitaṃ. Saṃsaritanti aparāparaṃ cavanupapajjanavasena saṃsaritaṃ. Mamañceva tumhākañcāti mayā ca tumhehi ca. Atha vā sandhāvitaṃ saṃsaritanti sandhāvanaṃ saṃsaraṇaṃ mamañceva tumhākañca ahosīti evamettha attho veditabbo.
287.Làng Koṭi là ngôi làng được xây dựng trên đỉnh cung điện của vua Mahāpanāda, có nghĩa là ngôi làng được thành lập ở nơi có bảo tháp của cung điện đã bị sụp đổ. Của các Thánh đế là của các chân lý làm cho những người chứng ngộ chúng trở thành bậc Thánh. Do không giác ngộ là do không hiểu, do không biết. Do không chứng ngộ là do không thể nhập. Ở đây, sự giác ngộ là trí tuệ trong giai đoạn đầu, sự chứng ngộ là sự thể nhập bằng trí tuệ của đạo. Ở đây, bởi vì sự chứng ngộ có sự giác ngộ đi trước, nên không có sự chứng ngộ nếu không có sự giác ngộ, và một số sự giác ngộ lại có liên quan đến sự chứng ngộ, và việc lang thang trong vòng luân hồi là do không có cả hai điều đó, do đó đã nói: “do không giác ngộ… tóm lại… của Ta và của các ngươi.” Ở đây, đã trôi lăn là đã trôi lăn bằng cách đi từ cõi này sang cõi khác qua việc thọ nhận tái sanh. Đã lang thang là đã lang thang bằng cách chết đi và tái sanh liên tục. Của Ta và của các ngươi là bởi Ta và bởi các ngươi. Hoặc, đã trôi lăn, đã lang thang, ý nghĩa ở đây cần được hiểu là sự trôi lăn, sự lang thang đã xảy ra cho Ta và cho các ngươi.

Saṃsitanti saṃsaritaṃ. Bhavanetti samūhatāti dīgharajjuyā baddhasakuṇaṃ viya rajjuhattho puriso desantaraṃ, taṇhārajjuyā baddhasattasantānaṃ abhisaṅkhāro bhavantaraṃ neti etāyāti bhavanetti, sā bhavato bhavaṃ nayanasamatthā taṇhārajju ariyamaggasatthena suṭṭhu hatā chinnā appavattikatāti bhavanetti samūhatā.
Đã lang thang là đã trôi lăn. Dây dẫn đến cõi hữu đã được nhổ bật, giống như một người đàn ông có sợi dây trong tay dẫn con chim đã bị buộc bằng một sợi dây dài đi đến một nơi khác, hành động tạo tác dẫn dắt dòng chúng sanh đã bị buộc bằng sợi dây ái đi đến một cõi hữu khác, do đó nó được gọi là dây dẫn đến cõi hữu, sợi dây ái đó, có khả năng dẫn dắt từ cõi này sang cõi khác, đã bị cắt đứt, đã bị chặt đứt một cách hoàn toàn bằng thanh gươm của thánh đạo, đã trở nên không còn hoạt động, do đó là dây dẫn đến cõi hữu đã được nhổ bật.

Ambapālīvatthukathāvaṇṇanā
Giải Thích về Câu Chuyện của Ambapālī

288.Yānassabhūmīti yattha sakkā hoti yānaṃ āruyha yānena gantuṃ, ayaṃ yānassa bhūmi nāma. Yānā paccorohitvāti vihārassa bahidvārakoṭṭhake yānato orohitvā.
288.Nơi có thể đi bằng xe là nơi có thể lên xe và đi bằng xe, đây được gọi là nơi có thể đi bằng xe. Xuống xe là xuống xe ở cổng ngoài của tu viện.

Licchavīvatthukathāvaṇṇanā
Giải Thích về Câu Chuyện của các Vị Licchavi

289.Nīlāti idaṃ sabbasaṅgāhakavacanaṃ. Nīlavaṇṇātiādi tasseva vibhāgadassanatthaṃ. Tattha na tesaṃ pakativaṇṇo nīlo, nīlavilepanavilittattā panetaṃ vuttaṃ. Nīlavatthāti paṭadukūlakoseyyādīnipi nesaṃ nīlāneva honti. Nīlālaṅkārāti nīlamaṇialaṅkārehi nīlapupphehi ca alaṅkatā. Te kira alaṅkārā suvaṇṇavicittāpi indanīlamaṇiobhāsehi ekanīlā viya khāyanti, rathāpi nesaṃ nīlamaṇikhacitā nīlavatthaparikkhittā nīladhajanīlavammikehi nīlābharaṇehi nīlaassehi yuttā, patodayaṭṭhiyopi nīlāyevāti iminā nayena sabbapadesu attho veditabbo. Paṭivaṭṭesīti pahari. Kissa je ambapālīti je-ti ālapanaṃ, bhoti ambapāli kiṃkāraṇāti vuttaṃ hoti. Sāhāranti ettha āharanti imasmā rājapurisā balinti āhāro, tabbhuttajanapado. Tena sahitaṃ sāhāraṃ, sajanapadanti attho. Aṅguliṃ phoṭesunti aṅguliṃ cālesuṃ. Ambakāyāti mātugāmena. Upacāravacanañhetaṃ, itthīsu yadidaṃ ambakā mātugāmo jananikāti. Olokethāti passatha. Apalokethāti apavattitvā oloketha, punappunaṃ passathāti attho. Upasaṃharathāti upanetha, imaṃ licchavīparisaṃ tumhākaṃ cittena tāvatiṃsasadisaṃ upasaṃharatha upanetha allīyāpetha. Yatheva tāvatiṃsā abhirūpā pāsādikā nīlādinānāvaṇṇā, evamime licchavīrājānopīti tāvatiṃsehi samake katvā passathāti attho.
289.Màu xanh, đây là từ bao hàm tất cả. Có màu xanh, v.v., là để chỉ ra sự phân chia của nó. Ở đây, màu sắc tự nhiên của họ không phải là màu xanh, mà điều này được nói ra do họ đã thoa thuốc mỡ màu xanh. Mặc y phục màu xanh là các loại vải lụa, vải bông, v.v., của họ cũng đều là màu xanh. Trang sức màu xanh là được trang hoàng bằng các trang sức bằng ngọc xanh và hoa màu xanh. Tương truyền rằng, các trang sức đó, dù được trang trí bằng vàng, cũng trông như chỉ có một màu xanh do ánh sáng của ngọc indanīla, xe của họ cũng được khảm bằng ngọc xanh, được bao bọc bởi vải màu xanh, được trang bị cờ màu xanh, áo giáp màu xanh, trang sức màu xanh và ngựa màu xanh, ngay cả roi ngựa cũng là màu xanh, ý nghĩa trong tất cả các câu cần được hiểu theo phương pháp này. Đã va phải là đã đâm vào. Này Ambapālī, tại sao?, từ je là một từ gọi, có nghĩa là thưa bà Ambapālī, tại sao? Cùng với xứ sở, ở đây, nơi mà các quan chức của vua thu thuế từ đó được gọi là āhāra, tức là vùng đất của những người ăn thuế đó. Cùng với nó là sāhāra, có nghĩa là cùng với xứ sở. Họ búng ngón tay là họ cử động ngón tay. Bởi người phụ nữ là bởi người đàn bà. Và đây là cách nói lịch sự, trong số các từ chỉ phụ nữ, có các từ ambakā, mātugāmo, jananikā. Hãy nhìn là hãy xem. Hãy ngắm nhìn là hãy quay lại và nhìn, có nghĩa là hãy nhìn đi nhìn lại nhiều lần. Hãy so sánh là hãy đưa lại gần, hãy so sánh, hãy đưa lại gần, hãy kết hợp đoàn Licchavi này với tâm của các ngươi sao cho giống như cõi trời Ba Mươi Ba. Giống như các vị trời ở cõi Ba Mươi Ba đẹp đẽ, đáng kính, có nhiều màu sắc như xanh, v.v., các vị vua Licchavi này cũng vậy, có nghĩa là hãy xem họ ngang bằng với các vị trời ở cõi Ba Mươi Ba.

Kasmā pana bhagavā anekasatehi suttehi cakkhādīnaṃ rūpādīsu nimittaggāhaṃ paṭisedhetvā idha mahantena ussāhena nimittaggāhe niyojetīti? Hitakāmatāya tesaṃ bhikkhūnaṃ yathā āyasmato nandassa hitakāmatāya saggasampattidassanatthaṃ. Tatra kira ekacce bhikkhū osannavīriyā, te sampattiyā palobhento ‘‘appamādena samaṇadhammaṃ karontānaṃ evarūpā issariyasampatti sulabhā’’ti samaṇadhamme ussāhajananatthaṃ āha. Atha vā nayidaṃ nimittaggāhe niyojanaṃ, kevalaṃ pana ‘‘dibbasampattisadisā etesaṃ rājūnaṃ issariyasampattī’’ti anupubbikathāya sampattikathanaṃ viya daṭṭhabbaṃ. Aniccalakkhaṇavibhāvanatthañcāpi evamāha. Na cirasseva hi sabbepime ajātasattussa vasena vināsaṃ pāpuṇissanti, atha nesaṃ rajjasirisampattiṃ disvā ṭhitabhikkhū ‘‘tathārūpāyapi nāma sirisampattiyā vināso paññāyissatī’’ti aniccalakkhaṇaṃ bhāvetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ pāpuṇissantīti aniccalakkhaṇavibhāvanatthaṃ āha.
Nhưng tại sao đức Thế Tôn, sau khi đã ngăn cấm việc nắm bắt các tướng nơi mắt, v.v., đối với các đối tượng như sắc, v.v., trong hàng trăm bài kinh, ở đây lại dùng nỗ lực lớn để chỉ định việc nắm bắt các tướng? Vì lòng mong muốn lợi ích cho các vị Tỳ-khưu đó, giống như vì lòng mong muốn lợi ích cho Tôn giả Nanda mà Ngài đã cho thấy sự huy hoàng của thiên giới. Tương truyền rằng, trong số đó có một số vị Tỳ-khưu lười biếng, Ngài đã dùng sự huy hoàng để lôi cuốn họ, và nói rằng: “Đối với những người không dể duôi thực hành sa-môn pháp, sự huy hoàng về quyền lực như thế này rất dễ có được,” để tạo ra sự hăng hái trong sa-môn pháp. Hoặc, đây không phải là sự chỉ định việc nắm bắt các tướng, mà chỉ đơn thuần là giống như việc nói về sự huy hoàng trong bài pháp thoại tuần tự rằng: “sự huy hoàng về quyền lực của các vị vua này giống như sự huy hoàng của cõi trời.” Và Ngài cũng đã nói như vậy để làm sáng tỏ tướng vô thường. Thật vậy, không bao lâu nữa, tất cả những vị này sẽ bị hủy diệt do tay của vua Ajātasattu, khi đó, các vị Tỳ-khưu đã từng thấy sự huy hoàng về vương quốc của họ, sẽ tu tập tướng vô thường rằng: “sự hủy diệt của một sự huy hoàng về quyền lực như vậy cũng sẽ được biết đến,” và sẽ đạt đến A-la-hán quả cùng với các trí vô ngại giải, do đó Ngài đã nói để làm sáng tỏ tướng vô thường.

Adhivāsetūti ambapāliyā nimantitabhāvaṃ ñatvāpi kasmā nimantentīti? Asaddahanatāya ca vattasīsena ca. Sā hi dhuttā itthī animantetvāpi ‘‘nimantesi’’nti vadeyyāti tesaṃ ahosi. Dhammaṃ sutvā gamanakāle ca nimantetvā gamanaṃ nāma manussānaṃ vattameva.
Xin hãy nhận lời, tại sao họ lại thỉnh mời khi biết rằng Ambapālī đã thỉnh mời rồi? Do không tin và do theo thông lệ. Thật vậy, họ đã nghĩ rằng người phụ nữ lẳng lơ đó, dù không thỉnh mời, cũng có thể nói là “đã thỉnh mời.” Và việc thỉnh mời sau khi nghe pháp và trước khi ra về là thông lệ của con người.

Licchavīvatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về câu chuyện của các vị Licchavi.

Sīhasenāpativatthukathāvaṇṇanā
Giải Thích về Câu Chuyện của Tướng quân Sīha

290.Abhiññātāti (a. ni. aṭṭha. 3.8.12) ñātā paññātā pākaṭā. Santhāgāreti mahājanassa santhambhanāgāre vissamanatthāya kate agāre. Sā kira santhāgārasālā nagaramajjhe ahosi, catūsu dvāresu ṭhitānaṃ paññāyati, catūhi disāhi āgatamanussā paṭhamaṃ tattha vissamitvā pacchā attano attano phāsukaṭṭhānaṃ gacchanti. Rājakulānaṃ rajjakiccasantharaṇatthaṃ kataṃ agārantipi vadantiyeva. Tattha hi nisīditvā licchavīrājāno rajjakiccaṃ santharanti karonti vicārenti. Sannisinnāti tesaṃ nisīdanatthaṃyeva paññattesu mahārahapaccattharaṇesu samussitasetacchattesu āsanesu sannisinnā. Anekapariyāyena buddhassa vaṇṇaṃ bhāsantīti rājakulakiccañceva lokatthakiriyañca vicāretvā anekehi kāraṇehi buddhassa vaṇṇaṃ bhāsanti. Paṇḍitā hi te rājāno saddhāsampannā sotāpannāpi sakadāgāminopi anāgāminopi ariyasāvakā, te sabbepi lokiyajaṭaṃ bhinditvā buddhādīnaṃ tiṇṇaṃ ratanānaṃ vaṇṇaṃ bhāsanti.
290.Nổi tiếng (a. ni. aṭṭha. 3.8.12) là được biết đến, được công nhận, được tỏ bày. Trong hội trường là trong ngôi nhà được xây dựng để dân chúng nghỉ ngơi trong hội trường. Tương truyền rằng, hội trường đó nằm ở giữa thành phố, những người đứng ở bốn cổng đều có thể nhìn thấy, những người đến từ bốn phương trước tiên sẽ nghỉ ngơi ở đó rồi sau đó mới đi đến nơi ở thuận tiện của mình. Cũng có người nói đó là ngôi nhà được xây dựng để các hoàng tộc thảo luận việc nước. Thật vậy, các vị vua Licchavi ngồi ở đó để thảo luận, thực hiện và xem xét việc nước. Đang ngồi là đang ngồi trên những chiếc ghế đã được chuẩn bị sẵn cho họ, với những tấm thảm lót cao quý và những chiếc lọng trắng được giương lên. Họ tán thán đức Phật bằng nhiều cách là sau khi đã xem xét việc của hoàng gia và các hoạt động vì lợi ích thế gian, họ tán thán đức Phật bằng nhiều lý do. Thật vậy, các vị vua đó là những người hiền trí, có đức tin, là các vị Thánh đệ tử bậc Dự lưu, Nhất lai, và cả Bất lai, tất cả họ đều phá vỡ những rắc rối của thế gian và tán thán ba ngôi báu là Phật, v.v.

Tattha tividho buddhavaṇṇo nāma cariyavaṇṇo sarīravaṇṇo guṇavaṇṇoti. Tatrime rājāno cariyāya vaṇṇaṃ ārabhiṃsu – ‘‘dukkaraṃ vata kataṃ sammāsambuddhena kappasatasahassādhikāni cattāri asaṅkhyeyyāni dasa pāramiyo dasa upapāramiyo dasa paramatthapāramiyoti samatiṃsa pāramiyo pūrentena ñātatthacariyaṃ lokatthacariyaṃ buddhatthacariyaṃ matthakaṃ pāpetvā pañca mahāpariccāge pariccajantenā’’ti aḍḍhacchakkehi jātakasatehi buddhavaṇṇaṃ kathentā tusitabhavanaṃ pāpetvā ṭhapayiṃsu. Dhammassa vaṇṇaṃ bhāsantā panete ‘‘bhagavatā dhammo desito, nikāyato pañca nikāyā honti, piṭakato tīṇi piṭakāni, aṅgato nava aṅgāni, khandhato caturāsītidhammakkhandhasahassānī’’ti koṭṭhāsavasena dhammaguṇaṃ kathayiṃsu. Saṅghassa vaṇṇaṃ bhāsantā ‘‘satthu dhammadesanaṃ sutvā paṭiladdhasaddhā kulaputtā bhogakkhandhañceva ñātiparivaṭṭañca pahāya setacchattauparajjasenāpatiseṭṭhibhaṇḍāgārikaṭṭhānantarādīni agaṇayitvā nikkhamma satthu varasāsane pabbajanti, setacchattaṃ pahāya pabbajitānaṃ bhaddiyamahārājamahākappinapukkusātiādirājapabbajitānaṃyeva buddhakāle asīti sahassāni ahesuṃ, anekakoṭidhanaṃ pahāya pabbajitānaṃ pana yasakulaputtasoṇaseṭṭhiputtaraṭṭhapālaputtādīnaṃ paricchedo natthi, evarūpā ca evarūpā ca kulaputtā satthu sāsane pabbajantī’’ti pabbajjāsaṅkhepavasena saṅghaguṇaṃ kathayiṃsu.
Ở đây, có ba loại tán thán đức Phật, đó là tán thán về hạnh nguyện, tán thán về thân thể, và tán thán về phẩm chất. Các vị vua này đã bắt đầu bằng việc tán thán về hạnh nguyện: “Bậc Chánh Đẳng Giác quả thật đã làm một việc khó làm, trong bốn a-tăng-kỳ và hơn một trăm ngàn đại kiếp, Ngài đã hoàn thiện ba mươi Ba-la-mật – mười Ba-la-mật, mười thượng Ba-la-mật, và mười thắng nghĩa Ba-la-mật – đã đưa ba hạnh nguyện là hạnh nguyện vì lợi ích quyến thuộc, hạnh nguyện vì lợi ích thế gian, và hạnh nguyện vì Phật quả đến đỉnh cao, và đã thực hiện năm đại thí,” họ đã tán thán đức Phật bằng sáu mươi lăm mươi câu chuyện tiền thân, đưa Ngài đến cõi trời Tusita và dừng lại ở đó. Khi tán thán về Pháp, họ đã nói về các phẩm chất của Pháp theo từng phần: “Pháp đã được đức Thế Tôn thuyết giảng, theo bộ kinh thì có năm bộ, theo tạng thì có ba tạng, theo thể loại thì có chín thể loại, theo uẩn thì có tám mươi bốn ngàn pháp uẩn.” Khi tán thán về Tăng, họ đã nói về các phẩm chất của Tăng theo sự tóm tắt về việc xuất gia: “Các thiện gia nam tử, sau khi nghe pháp của bậc Đạo Sư và có được đức tin, đã từ bỏ khối tài sản và đoàn thể quyến thuộc, không màng đến các vị trí như lọng trắng, phó vương, tướng quân, trưởng giả, và quan coi kho, đã từ bỏ và xuất gia trong giáo pháp cao quý của bậc Đạo Sư, số lượng các vị vua đã từ bỏ lọng trắng và xuất gia như vua Bhaddiya, vua Mahākappina, và vua Pukkusāti, v.v., trong thời đức Phật đã có tám mươi ngàn vị, còn số lượng những người đã từ bỏ hàng triệu triệu tài sản và xuất gia như thiện gia nam tử Yasa, con trai của trưởng giả Soṇa, và con trai của Raṭṭhapāla, v.v., thì không thể đếm xuể, và những thiện gia nam tử như vậy đã xuất gia trong giáo pháp của bậc Đạo Sư.”

Sīho senāpatīti evaṃnāmako senāya adhipati. Vesāliyañhi satta sahassāni satta satāni satta ca rājāno, te sabbepi sannipatitvā sabbesaṃ manaṃ gahetvā ‘‘raṭṭhaṃ vicāretuṃ samatthaṃ ekaṃ vicinathā’’ti vicinantā sīharājakumāraṃ disvā ‘‘ayaṃ sakkhissatī’’ti sanniṭṭhānaṃ katvā tassa rattamaṇivaṇṇakambalapariyonaddhaṃ senāpaticchattaṃ adaṃsu. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘sīho senāpatī’’ti. Nigaṇṭhasāvakoti nigaṇṭhassa nāṭaputtassa paccayadāyako upaṭṭhāko. Jambudīpatalasmiñhi tayo janā nigaṇṭhānaṃ aggupaṭṭhākā – nāḷandāyaṃ upāli gahapati, kapilapure vappo sakko, vesāliyaṃ ayaṃ sīho senāpatīti. Nisinno hotīti sesarājūnampi parisāya antare āsanāni paññāpayiṃsu, sīhassa pana majjhe ṭhāneti tasmiṃ paññatte mahārahe rājāsane nisinno hoti. Nissaṃsayanti nibbicikicchaṃ addhā ekaṃsena. Na hete yassa vā tassa vā appesakkhassa evaṃ anekasatehi kāraṇehi vaṇṇaṃ bhāsanti.
Tướng quân Sīha là vị chỉ huy của quân đội có tên như vậy. Ở Vesālī, có bảy ngàn bảy trăm lẻ bảy vị vua, tất cả họ đã tụ họp lại và sau khi đã được sự đồng thuận của tất cả, họ đã tìm kiếm rằng: “hãy tìm một người có khả năng cai quản đất nước,” và khi đang tìm kiếm, họ đã thấy hoàng tử Sīha và đã quyết định rằng: “vị này sẽ có thể,” và đã trao cho vị ấy chiếc lọng tướng quân được bao bọc bởi một tấm thảm len màu đỏ như ngọc. Chính điều đó được nói đến trong câu “Tướng quân Sīha.” Một đệ tử của Nigaṇṭha là người cúng dường vật dụng, người hộ độ cho Nigaṇṭha Nāṭaputta. Thật vậy, trên khắp cõi Diêm-phù-đề, có ba người là những người hộ độ hàng đầu cho các vị Nigaṇṭha: ở Nāḷandā là gia chủ Upāli, ở Kapilapura là Vappa người dòng Sakya, và ở Vesālī là Tướng quân Sīha này. Đang ngồi là trong số các vị vua khác, các chỗ ngồi cũng đã được chuẩn bị, nhưng đối với Sīha thì ở vị trí trung tâm, do đó vị ấy đang ngồi trên chiếc ghế vua cao quý đã được chuẩn bị đó. Không nghi ngờ là không hoài nghi, chắc chắn, một cách tuyệt đối. Thật vậy, họ không tán thán người này người nọ không có đức hạnh bằng hàng trăm lý do như vậy.

Yena nigaṇṭho nāṭaputto tenupasaṅkamīti nigaṇṭho kira nāṭaputto ‘‘sacāyaṃ sīho kassacideva samaṇassa gotamassa vaṇṇaṃ kathentassa sutvā samaṇaṃ gotamaṃ dassanāya upasaṅkamissati, mayhaṃ parihāni bhavissatī’’ti cintetvā paṭhamataraṃyeva sīhaṃ senāpatiṃ etadavoca ‘‘senāpati imasmiṃ loke ‘ahaṃ buddho ahaṃ buddho’ti bahū vadanti, sace tvaṃ kañci dassanāya upasaṅkamitukāmo ahosi, maṃ puccheyyāsi, ahaṃ te yuttaṭṭhānaññeva pesessāmi, ayuttaṭṭhānato nivāressāmī’’ti. So taṃ kathaṃ anussaritvā ‘‘sace maṃ pesessati, gamissāmi. No ce, na gamissāmī’’ti cintetvā yena nigaṇṭho nāṭaputto tenupasaṅkami.
Đã đến nơi có Nigaṇṭha Nāṭaputta, tương truyền rằng Nigaṇṭha Nāṭaputta đã nghĩ: “nếu Sīha này, sau khi nghe ai đó tán thán sa-môn Gotama, mà đến gặp sa-môn Gotama, thì ta sẽ bị tổn thất,” và đã nói với Tướng quân Sīha trước rằng: “Này Tướng quân, trên thế gian này có nhiều người nói rằng ‘tôi là Phật, tôi là Phật,’ nếu ông muốn đến gặp ai, hãy hỏi ta, ta sẽ chỉ cho ông đến nơi thích hợp, và ngăn cản ông khỏi nơi không thích hợp.” Vị ấy nhớ lại lời nói đó và nghĩ: “nếu ông ấy cho phép, ta sẽ đi. Nếu không, ta sẽ không đi,” và đã đến nơi có Nigaṇṭha Nāṭaputta.

Athassa vacanaṃ sutvā nigaṇṭho mahāpabbatena viya balavasokena otthaṭo ‘‘yattha dānissāhaṃ gamanaṃ na icchāmi, tattheva gantukāmo jāto, hatohamasmī’’ti anattamano hutvā ‘‘paṭibāhanupāyamassa karissāmī’’ti cintetvā ‘‘kiṃ pana tva’’ntiādimāha. Evaṃ vadanto carantaṃ goṇaṃ tuṇḍe paharanto viya jalamānaṃ padīpaṃ nibbāpento viya bhattabharitaṃ pattaṃ nikujjanto viya ca sīhassa uppannaṃ pītiṃ vināsesi. Gamikābhisaṅkhāroti hatthiyānādīnaṃ yojāpanagandhamālādiggahaṇavasena pavatto payogo. So paṭippassambhīti so vūpasanto.
Sau khi nghe lời nói của vị ấy, Nigaṇṭha, như thể bị một tảng núi lớn đè lên, bị một nỗi buồn mạnh mẽ bao trùm, đã nghĩ: “nơi mà ta không muốn ông ấy đi, chính là nơi ông ấy muốn đến, ta đã bị hại rồi,” và trở nên không vui, đã nghĩ: “ta sẽ tìm cách ngăn cản ông ấy,” và đã nói những câu bắt đầu bằng “Nhưng này ông.” Khi nói như vậy, ông ta đã phá hủy niềm hoan hỷ đã khởi lên nơi Sīha, giống như đánh vào mõm con bò đang ăn cỏ, như dập tắt ngọn đèn đang cháy, và như úp xuống chiếc bát đầy cơm. Sự chuẩn bị cho chuyến đi là sự nỗ lực đã được tiến hành qua việc chuẩn bị xe voi, v.v., và mang theo hương hoa, v.v. Nó đã lắng xuống là nó đã dịu đi.

Dutiyampi khoti dutiyavārampi. Imasmiñca vāre buddhassa vaṇṇaṃ bhāsantā tusitabhavanato paṭṭhāya yāva mahābodhipallaṅkā dasabalassa heṭṭhā pādatalehi upari kesaggehi paricchinditvā dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇaasītianubyañjanabyāmappabhāvasena sarīravaṇṇaṃ kathayiṃsu. Dhammassa vaṇṇaṃ bhāsantā ‘‘ekapadepi ekabyañjanepi avakkhalitaṃ nāma natthī’’ti sukathitavaseneva dhammaguṇaṃ kathayiṃsu. Saṅghassa vaṇṇaṃ bhāsantā ‘‘evarūpaṃ yasasirivibhavaṃ pahāya satthu sāsane pabbajitā na kosajjapakatikā honti, terasasu pana dhutaguṇesu paripūrakārino hutvā sattasu anupassanāsu kammaṃ karonti, aṭṭhatiṃsa ārammaṇavibhattiyo vaḷañjentī’’ti paṭipadāvasena saṅghaguṇe kathayiṃsu.
Lần thứ hai là vào lần thứ hai. Và trong lần này, khi tán thán đức Phật, họ đã nói về vẻ đẹp thân thể, bắt đầu từ cõi trời Tusita cho đến tòa bồ-đề, giới hạn bởi mười lực ở dưới lòng bàn chân và các lọn tóc ở trên, qua ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân, tám mươi vẻ đẹp phụ, và hào quang một tầm. Khi tán thán về Pháp, họ đã nói về các phẩm chất của Pháp qua việc Pháp đã được khéo thuyết, rằng: “ngay cả trong một từ, một chữ cũng không có gì sai sót.” Khi tán thán về Tăng, họ đã nói về các phẩm chất của Tăng qua sự thực hành rằng: “những người đã từ bỏ vinh hoa phú quý như vậy và xuất gia trong giáo pháp của bậc Đạo Sư không phải là những người biếng nhác, mà là những người hoàn thiện mười ba hạnh đầu-đà, thực hành bảy phép quán, và thuần thục trong ba mươi tám đề mục phân tích.”

Tatiyavāre pana buddhassa vaṇṇaṃ bhāsamānā ‘‘itipi so bhagavā’’ti suttantapariyāyeneva buddhaguṇe kathayiṃsu, ‘‘svākkhāto bhagavatā dhammo’’tiādinā suttantapariyāyeneva dhammaguṇe, ‘‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho’’tiādinā suttantapariyāyeneva saṅghaguṇe ca kathayiṃsu. Tato sīho cintesi ‘‘imesaṃ licchavīrājakulānaṃ tatiyadivasato paṭṭhāya buddhadhammasaṅghaguṇe kathentānaṃ mukhaṃ nappahoti, addhā anomaguṇasamannāgato so bhagavā, imaṃ dāni uppannaṃ pītiṃ avijahitvāva ahaṃ ajja sammāsambuddhaṃ passissāmī’’ti. Athassa ‘‘kiñhi me karissanti nigaṇṭhā’’ti vitakko udapādi. Tattha kiñhi me karissantīti kiṃ nāma mayhaṃ nigaṇṭhā karissanti. Apalokitā vā anapalokitā vāti āpucchitā vā anāpucchitā vā. Na hi me te āpucchitā yānavāhanasampattiissariyayasavisesaṃ dassanti, nāpi anāpucchitā māressanti, aphalaṃ etesaṃ āpucchananti adhippāyo.
Nhưng vào lần thứ ba, khi tán thán đức Phật, họ đã nói về các phẩm chất của Phật theo cách của kinh tạng: “Đức Thế Tôn là bậc như vậy,” họ đã nói về các phẩm chất của Pháp theo cách của kinh tạng, bắt đầu bằng “Pháp đã được đức Thế Tôn khéo thuyết,” và họ đã nói về các phẩm chất của Tăng theo cách của kinh tạng, bắt đầu bằng “Tăng chúng đệ tử của Thế Tôn là bậc khéo thực hành.” Sau đó, Sīha nghĩ: “các vị vua Licchavi này, bắt đầu từ ngày thứ ba, đã nói về các phẩm chất của Phật, Pháp và Tăng mà miệng không thể nói hết, chắc chắn đức Thế Tôn đó có những phẩm chất không tầm thường, hôm nay, ta sẽ không để niềm hoan hỷ đã khởi lên này mất đi và sẽ đến gặp bậc Chánh Đẳng Giác.” Bấy giờ, ý nghĩ khởi lên nơi vị ấy: “các vị Nigaṇṭha sẽ làm gì được ta?” Ở đây, họ sẽ làm gì được ta là các vị Nigaṇṭha sẽ làm gì được ta. Dù được phép hay không được phép là dù đã hỏi hay chưa hỏi. Thật vậy, dù đã hỏi, họ cũng không cho ta sự huy hoàng về xe cộ, quyền lực và danh vọng đặc biệt, và dù chưa hỏi, họ cũng không giết ta, việc hỏi họ là vô ích, đó là ý nghĩa.

Divā divassāti divassa divā majjhanhike atikkantamatte. Vesāliyā niyyāsīti yathā hi gimhakāle deve vuṭṭhe udakaṃ sandamānaṃ nadiṃ otaritvā thokameva gantvā tiṭṭhati nappavattati, evaṃ sīhassa paṭhamadivase ‘‘dasabalaṃ passissāmī’’ti uppannāya pītiyā nigaṇṭhena paṭibāhitakālo, yathā dutiyadivase deve vuṭṭhe udakaṃ sandamānaṃ nadiṃ otaritvā thokaṃ gantvā vālikāpuñjaṃ paharitvā appavattaṃ hoti, evaṃ sīhassa dutiyadivase ‘‘dasabalaṃ passissāmī’’ti uppannāya pītiyā nigaṇṭhena paṭibāhitakālo, yathā tatiyadivase deve vuṭṭhe udakaṃ sandamānaṃ nadiṃ otaritvā purāṇapaṇṇasukkhadaṇḍakanaḷakacavarādīni parikaḍḍhantaṃ vālikāpuñjaṃ bhinditvā samuddaninnameva hoti, evaṃ sīho tatiyadivase tiṇṇaṃ vatthūnaṃ guṇakathaṃ sutvā uppanne pītipāmojje ‘‘aphalā nigaṇṭhā, nipphalā nigaṇṭhā, kiṃ me ime karissanti, gamissāmahaṃ satthu santika’’nti gamanaṃ abhinīharitvā vesāliyā niyyāsi. Niyyanto ca ‘‘cirassāhaṃ dasabalassa santikaṃ gantukāmo jāto, na kho pana me yuttaṃ aññātakavesena gantu’’nti ‘‘ye keci dasabalassa santikaṃ gantukāmo, sabbe nikkhamantū’’ti ghosanaṃ kāretvā pañca rathasatāni yojāpetvā uttamarathe ṭhito tehi ceva pañcahi rathasatehi mahatiyā ca parisāya parivuto gandhapupphacuṇṇavāsādīni gāhāpetvā niyyāsi.
Vào ban ngày là ngay sau khi đã qua giữa trưa của ban ngày. Đã rời khỏi Vesālī, giống như vào mùa hè, khi trời mưa, nước chảy xuống sông, chỉ đi được một đoạn ngắn rồi dừng lại, không chảy tiếp, đó là lúc niềm hoan hỷ “tôi sẽ đến gặp bậc Thập Lực” của Sīha vào ngày đầu tiên bị Nigaṇṭha ngăn cản; giống như vào ngày thứ hai, khi trời mưa, nước chảy xuống sông, đi được một đoạn ngắn rồi bị một đống cát chặn lại và không chảy, đó là lúc niềm hoan hỷ “tôi sẽ đến gặp bậc Thập Lực” của Sīha vào ngày thứ hai bị Nigaṇṭha ngăn cản; giống như vào ngày thứ ba, khi trời mưa, nước chảy xuống sông, cuốn theo lá cây cũ, cành cây khô, lau sậy và rác rưởi, phá vỡ đống cát và chỉ hướng ra biển, cũng vậy, Sīha vào ngày thứ ba, sau khi nghe lời tán thán phẩm chất của ba ngôi báu, với niềm hoan hỷ và vui mừng dâng trào, đã quyết định ra đi: “các vị Nigaṇṭha là vô ích, các vị Nigaṇṭha là vô dụng, họ sẽ làm gì được ta, ta sẽ đến gặp bậc Đạo Sư,” và đã rời khỏi Vesālī. Khi ra đi, vị ấy đã nghĩ: “từ lâu ta đã muốn đến gặp bậc Thập Lực, nhưng ta không nên đi với dáng vẻ của một người lạ,” và đã cho rao rằng: “ai muốn đến gặp bậc Thập Lực, tất cả hãy ra đi,” và đã cho chuẩn bị năm trăm cỗ xe, đứng trên cỗ xe tốt nhất, được vây quanh bởi năm trăm cỗ xe đó và một đoàn tùy tùng lớn, đã cho mang theo hương, hoa, bột thơm, v.v., và đã ra đi.

Yena bhagavā tenupasaṅkamīti ārāmaṃ pavisanto dūratova asītianubyañjanabyāmappabhādvattiṃsamahāpurisalakkhaṇāni chabbaṇṇā ghanabuddharasmiyo disvā ‘‘evarūpaṃ nāma purisaṃ evaṃ āsanne vasantaṃ ettakaṃ kālaṃ nāddasaṃ, vañcito vatamhi, alābhā vata me’’ti cintetvā mahānidhiṃ disvā daliddapuriso viya sañjātapītipāmojjo yena bhagavā tenupasaṅkami. Dhammassa cānudhammaṃ byākarontīti bhotā gotamena vuttakāraṇassa anukāraṇaṃ kathenti. Kāraṇavacano hettha dhamma-saddo ‘‘hetumhi ñāṇaṃ dhammapaṭisambhidā’’tiādīsu (vibha. 720) viya. Kāraṇanti cettha tathāpavattassa saddassa attho adhippeto tassa pavattihetubhāvato. Atthappayutto hi saddappayogo. Anukāraṇanti ca so evaṃ parehi tathā vuccamāno. Sahadhammiko vādānuvādoti parehi vuttakāraṇena sakāraṇo hutvā tumhākaṃ vādo vā tato paraṃ tassa anuvādo vā koci appamattakopi viññūhi garahitabbaṃ ṭhānaṃ kāraṇaṃ na āgacchati. Idaṃ vuttaṃ hoti – kiṃ sabbākārenapi tava vāde gārayhakāraṇaṃ natthīti. Anabbhakkhātukāmāti na abhūtena vattukāmā.
Đã đến nơi có đức Thế Tôn, khi đang vào tu viện, từ xa, vị ấy đã thấy tám mươi vẻ đẹp phụ, hào quang một tầm, ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân, và sáu màu tia sáng Phật dày đặc, và đã nghĩ: “một người như vậy mà ta lại ở gần đến thế, trong một thời gian dài như vậy mà không được thấy, ta đã bị lừa dối, thật là bất hạnh cho ta,” và với niềm hoan hỷ và vui mừng dâng trào như một người nghèo khó thấy được một kho báu lớn, vị ấy đã đến nơi có đức Thế Tôn. Họ giải thích điều phụ tùy theo pháp là họ giải thích lý do phụ theo lý do đã được ông Gotama nói. Ở đây, từ pháp có nghĩa là lý do, giống như trong các câu: “trí tuệ về nguyên nhân là pháp vô ngại giải” (vibha. 720). Và ở đây, lý do được hiểu là ý nghĩa của lời nói đã được diễn ra như vậy, vì nó là nguyên nhân cho sự diễn ra đó. Thật vậy, việc dùng lời nói là có liên quan đến ý nghĩa. Và lý do phụ là chính điều đó được người khác nói như vậy. Lời nói và lời nói phụ có tính chất hợp pháp là lời nói của ông hoặc lời nói phụ của nó sau đó, có lý do cùng với lý do đã được người khác nói, không có bất kỳ một điểm nào, một lý do nào dù nhỏ nhất đáng bị các nhà thông thái khiển trách. Điều này có nghĩa là – có phải trong lời nói của ông không có lý do nào đáng bị khiển trách về mọi phương diện không? Không muốn vu khống là không muốn nói bằng điều không thật.

291-292.Atthi sīha pariyāyotiādīnaṃ attho verañjakaṇḍe āgatanayeneva veditabbo. Paramena assāsenāti catumaggacatuphalasaṅkhātena uttamaassāsena. Assāsāya dhammaṃ desetīti assāsanatthāya santhambhanatthāya dhammaṃ deseti. Iti bhagavā aṭṭhahaṅgehi sīhasenāpatissa dhammaṃ deseti.
291-292.Ý nghĩa của các câu bắt đầu bằng Có một cách giải thích, này Sīha, v.v., cần được hiểu theo phương pháp đã có trong phẩm Verañja. Bằng sự an ủi tối thượng là bằng sự an ủi tối cao được gọi là bốn đạo và bốn quả. Thuyết pháp để an ủi là thuyết pháp để an ủi, để trấn an. Như vậy, đức Thế Tôn đã thuyết pháp cho Tướng quân Sīha bằng tám yếu tố.

293.Anuviccakāranti anuviditvā cintetvā tulayitvā kātabbaṃ karohīti vutta hoti. Sādhu hotīti sundaro hoti. Tumhādisasmiñhi maṃ disvā maṃ saraṇaṃ gacchante nigaṇṭhaṃ disvā nigaṇṭhaṃ saraṇaṃ gacchante ‘‘kiṃ ayaṃ sīho diṭṭhadiṭṭhameva saraṇaṃ gacchatī’’ti garahā uppajjati, tasmā anuviccakāro tumhādisānaṃ sādhūti dasseti. Paṭākaṃ parihareyyunti te kira evarūpaṃ sāvakaṃ labhitvā ‘‘asuko nāma rājā vā rājamahāmatto vā seṭṭhi vā amhākaṃ saraṇaṃ gato sāvako jāto’’ti paṭākaṃ ukkhipitvā nagare ghosentā āhiṇḍanti. Kasmā? ‘‘Evaṃ no mahantabhāvo āvi bhavissatī’’ti ca, sace panassa ‘‘kimahaṃ ete saraṇaṃ gato’’ti vippaṭisāro uppajjeyya, tampi so ‘‘etesaṃ me saraṇagatabhāvaṃ bahū jānanti, dukkaraṃ dāni paṭinivattitu’’nti vinodetvā na paṭikkamissatīti ca. Tenāha ‘‘paṭākaṃ parihareyyu’’nti. Opānabhūtanti paṭiyattaudapāno viya ṭhitaṃ. Kulanti tava nivesanaṃ. Dātabbaṃ maññeyyāsīti pubbepi dasapi vīsatipi saṭṭhipi jane āgate disvā natthīti avatvā desi, idāni maṃ saraṇaṃ gatakāraṇamatteneva mā imesaṃ deyyadhammaṃ upacchindittha, sampattānañhi dātabbamevāti ovadati. Sutaṃ me taṃ bhanteti kuto sutaṃ? Nigaṇṭhānaṃ santikā. Te kira kulagharesu evaṃ pakāsenti ‘‘mayaṃ yassa kassaci sampattassa dātabbanti vadāma, samaṇo pana gotamo ‘mayhameva dānaṃ dātabbaṃ…pe… na aññesaṃ sāvakānaṃ dinnaṃ mahapphala’nti evaṃ vadatī’’ti. Taṃ sandhāya ayaṃ ‘‘sutaṃ me ta’’ntiādimāha.
293.Hành động sau khi đã suy xét có nghĩa là hãy làm điều cần làm sau khi đã biết, đã suy nghĩ, đã cân nhắc. Là điều tốt đẹp là điều tốt đẹp. Thật vậy, đối với người như ông, khi thấy ta thì theo ta làm nơi nương tựa, khi thấy Nigaṇṭha thì theo Nigaṇṭha làm nơi nương tựa, sự khiển trách sẽ phát sinh rằng: “Sīha này thấy ai thì theo người đó làm nơi nương tựa hay sao,” do đó ngài chỉ ra rằng hành động sau khi đã suy xét là điều tốt đẹp đối với người như ông. Họ sẽ mang cờ đi khắp nơi, tương truyền rằng, khi có được một đệ tử như vậy, họ sẽ giương cờ lên và đi rao trong thành phố rằng: “vị vua tên là như vậy, hoặc đại thần của vua, hoặc trưởng giả, đã theo chúng ta làm nơi nương tựa và đã trở thành đệ tử.” Tại sao? Để “làm cho sự vĩ đại của chúng ta được tỏ bày,” và nếu sự hối hận khởi lên nơi vị ấy rằng: “tại sao ta lại theo họ làm nơi nương tựa,” thì vị ấy cũng, do nghĩ rằng: “nhiều người biết việc ta đã theo họ làm nơi nương tựa, bây giờ khó mà quay lại,” sẽ xua tan sự hối hận đó và sẽ không quay lại. Do đó, ngài nói “họ sẽ mang cờ đi khắp nơi.” Giống như một giếng nước đã được chuẩn bị là giống như một giếng nước đã được chuẩn bị sẵn. Gia đình là dinh thự của ông. Ông nên nghĩ là phải cho là trước đây, khi có mười, hai mươi, hay sáu mươi người đến, ông đã không nói là không có mà vẫn cho, bây giờ chỉ vì lý do đã theo ta làm nơi nương tựa, đừng cắt đứt vật phẩm cúng dường cho họ, đối với những người đã đến, phải cho, đó là lời khuyên. Bạch Thế Tôn, con đã nghe điều đó, đã nghe từ đâu? Từ các vị Nigaṇṭha. Tương truyền rằng, họ đã công bố trong các gia đình như sau: “chúng tôi nói rằng phải cho bất cứ ai đã đến, còn sa-môn Gotama thì lại nói rằng: ‘chỉ nên cúng dường cho ta… tóm lại… việc cúng dường cho các đệ tử của người khác không có quả báo lớn.’” Chính điều đó mà vị này đã nói bắt đầu bằng “Bạch Thế Tôn, con đã nghe điều đó.”

294.Pavattamaṃsanti pakatiyā pavattaṃ kappiyamaṃsaṃ, mūlaṃ gahetvā antarāpaṇe pariyesāhīti adhippāyo. Sambahulā nigaṇṭhāti pañcasatamattā nigaṇṭhā. Thūlaṃ pasunti thūlaṃ mahāsarīraṃ gokaṇṇamahiṃsasūkarasaṅkhātaṃ pasuṃ. Uddissakatanti attānaṃ uddisitvā kataṃ, māritanti attho. Paṭiccakammanti ettha kamma-saddo kammasādhano atītakālikoti āha ‘‘attānaṃ paṭicca kata’’nti. Nimittakammassetaṃ adhivacanaṃ ‘‘paṭicca kammaṃ phusatī’’tiādīsu (jā. 1.4.75) viya. Nimittakammassāti nimittabhāvena laddhabbakammassa, na karaṇakārāpanavasena. Paṭiccakammaṃ ettha atthīti maṃsaṃ paṭiccakammaṃ yathā ‘‘buddhaṃ etassa atthīti buddho’’ti. Atha vā paṭicca kammaṃ phusatīti pāṭhaseso daṭṭhabbo, svāyaṃ etaṃ maṃsaṃ paṭicca taṃ pāṇavadhakakammaṃ phusatīti attho. Tañhi akusalaṃ upaḍḍhaṃ dāyakassa, upaḍḍhaṃ paṭiggāhakassa hotīti nesaṃ laddhi. Upakaṇṇaketi kaṇṇamūle. Alanti paṭikkhepavacanaṃ, hotu kiṃ imināti attho. Na ca pana teti ete āyasmantā dīgharattaṃ avaṇṇakāmā hutvā avaṇṇaṃ bhāsantāpi abbhācikkhantā na jiridanti, abbhakkhānassa antaṃ na gacchantīti attho. Atha vā lajjanatthe idaṃ jiridantīti padaṃ daṭṭhabbaṃ, na lajjantīti attho.
294.Thịt có sẵn là thịt hợp lệ có sẵn một cách tự nhiên, ý muốn nói là hãy lấy tiền và tìm mua ở chợ. Nhiều vị Nigaṇṭha là khoảng năm trăm vị Nigaṇṭha. Con vật to lớn là con vật có thân hình to lớn, được gọi là bò, trâu, heo. Thịt được làm riêng là thịt được làm, được giết riêng cho mình, đó là ý nghĩa. Hành động có liên quan, ở đây, từ hành động là một danh từ chỉ hành động ở thì quá khứ, do đó nói “hành động đã được làm liên quan đến mình.” Đây là tên gọi của hành động có dấu hiệu, giống như trong các câu: “hành động có liên quan chạm đến” (jā. 1.4.75). Của hành động có dấu hiệu là của hành động có thể nhận biết được qua dấu hiệu, không phải qua việc làm hoặc sai bảo làm. Ở đây có hành động có liên quan là thịt là hành động có liên quan, giống như “người này có đức Phật, nên là Phật tử.” Hoặc, cần phải hiểu phần còn lại của câu là “hành động có liên quan chạm đến,” có nghĩa là hành động sát sanh đó chạm đến thịt này. Thật vậy, theo quan điểm của họ, điều bất thiện đó một nửa thuộc về người cho, một nửa thuộc về người nhận. Bên tai là ở gốc tai. Đủ rồi là một lời từ chối, có nghĩa là đủ rồi, cần gì cái này. Nhưng họ không biết xấu hổ là các Tôn giả này, dù từ lâu đã không muốn bị chê bai và đã nói lời chê bai, cũng không nao núng khi vu khống, không dừng lại việc vu khống, đó là ý nghĩa. Hoặc, từ jiridantī này cần được hiểu theo nghĩa xấu hổ, có nghĩa là họ không biết xấu hổ.

Sīhasenāpativatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về câu chuyện của Tướng quân Sīha.

Kappiyabhūmianujānanakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Cho Phép Đất Hợp Lệ

295.Abhilāpamattanti desanāmattaṃ. Āmisakhādanatthāyāti tattha tattha chaḍḍitassa āmisassa khādanatthāya. Anuppageyevāti pātoyeva. Oravasaddanti mahāsaddaṃ. Taṃ pana avatvāpīti andhakaṭṭhakathāyaṃvuttanayena avatvāpi. Pi-saddena tathā vacanampi anujānāti. Aṭṭhakathāsu vuttanayenāti sesaaṭṭhakathāsu vuttanayena. ‘‘Kappiyakuṭiṃ karomā’ti vā, ‘kappiyakuṭī’ti vā vutte sādhāraṇalakkhaṇa’’nti sabbaaṭṭhakathāsu vuttaussāvanantikākuṭikaraṇalakkhaṇaṃ. Cayanti adhiṭṭhānaṃ. Yato paṭṭhāyāti yato iṭṭhakato silato mattikāpiṇḍato vā paṭṭhāya. Paṭhamiṭṭhakādīnaṃ heṭṭhā na vaṭṭantīti bhittiyā paṭhamiṭṭhakādīnaṃ heṭṭhā bhūmiyaṃ patiṭṭhāpiyamānā iṭṭhakādayo bhūmigatikattā ‘‘kappiyakuṭiṃ karomā’’ti vatvā patiṭṭhāpetuṃ na vaṭṭanti. Yadi evaṃ bhūmiyaṃ nikhaṇitvā patiṭṭhāpiyamānā thambhā kasmā tathā vatvā patiṭṭhāpetuṃ vaṭṭantīti āha ‘‘thambhā pana…pe… vaṭṭantī’’ti. Saṅghasantakamevāti vāsatthāya kataṃ saṅghikasenāsanaṃ sandhāya vadati. Bhikkhusantakanti vāsatthāya eva kataṃ bhikkhussa puggalikasenāsanaṃ. Mukhasannidhīti iminā antovutthadukkaṭameva dīpitaṃ.
295.Chỉ là lời nói là chỉ là sự thuyết giảng. Để ăn thịt là để ăn thịt đã được vứt ở nơi này nơi kia. Vào buổi sáng sớm là ngay từ sáng sớm. Tiếng ồn lớn là tiếng động lớn. Nhưng ngay cả khi không nói điều đó là ngay cả khi không nói theo cách đã được trình bày trong chú giải Andhaka. Bằng từ pi, ngài cũng cho phép nói như vậy. Theo cách đã được nói trong các bản chú giải là theo cách đã được nói trong các bản chú giải còn lại. “Đặc điểm chung khi nói ‘chúng ta làm một nhà bếp hợp lệ’ hoặc ‘đây là nhà bếp hợp lệ’” là đặc điểm của việc làm một cái am nhỏ gần nơi thông báo, đã được nói trong tất cả các bản chú giải. Sự chất đống là sự quyết nguyện. Kể từ khi là kể từ viên gạch, viên đá, hoặc cục đất sét nào. Không được phép ở bên dưới viên gạch đầu tiên, v.v. là các viên gạch, v.v., được đặt trên mặt đất bên dưới viên gạch đầu tiên, v.v., của bức tường, do thuộc về đất, nên không được phép đặt sau khi nói “chúng ta làm một nhà bếp hợp lệ.” Nếu vậy, tại sao các cây cột được chôn xuống đất và dựng lên lại được phép đặt sau khi nói như vậy? Ngài giải thích: “Nhưng các cây cột… tóm lại… thì được phép.” Chỉ thuộc về Tăng chúng là nói về chỗ ở thuộc về Tăng chúng đã được làm để ở. Thuộc về Tỳ-khưu là chỗ ở cá nhân của một vị Tỳ-khưu đã được làm chỉ để ở. Sự gần miệng, bằng câu này, chỉ có tội Tác Ác do cất giữ qua đêm được chỉ ra.

Kappiyabhūmianujānanakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về việc cho phép đất hợp lệ.

Keṇiyajaṭilavatthukathāvaṇṇanā
Giải Thích về Câu Chuyện của Đạo sĩ bện tóc Keṇiya

300.Yenaāpaṇaṃ tadavasarītiādīsu āpaṇanti ekassa nigamassetaṃ adhivacanaṃ. Tasmiṃ kira nigame vīsati āpaṇamukhasahassāni vibhattāni ahesuṃ. Iti so āpaṇānaṃ ussannattā ‘‘āpaṇa’’ntveva saṅkhaṃ gato. Tassa pana nigamassa avidūre nadītīre ghanacchāyo ramaṇīyabhūmibhāgo mahāvanasaṇḍo, tasmiṃ bhagavā viharati. Keṇiyoti tassa nāmaṃ. Jaṭiloti āharimajaṭādharo tāpaso. So kira brāhmaṇamahāsālo, dhanarakkhaṇatthāya pana tāpasapabbajjaṃ samādāya rañño paṇṇākāraṃ datvā bhūmibhāgaṃ gahetvā tattha assamaṃ kāretvā pañcahi sakaṭasatehi vaṇijjaṃ payojetvā kulasahassassa nissayo hutvā vasati. Assamepi cassa eko tālarukkho divase divase ekaṃ sovaṇṇamayaṃ phalaṃ muñcatīti vadanti. So divā kāsāvāni dhāreti, jaṭā ca bandhati, rattiṃ kāmasampattiṃ anubhavati.
300.Đã đến khu chợ, v.v., khu chợ là tên gọi của một thị trấn. Tương truyền rằng, trong thị trấn đó có hai mươi ngàn cửa chợ được phân chia. Do đó, vì có nhiều khu chợ, nó đã được gọi là “khu chợ.” Và không xa thị trấn đó, bên bờ sông, có một khu rừng lớn với bóng mát rậm rạp và một vùng đất đẹp đẽ, đức Thế Tôn đang ở đó. Keṇiya là tên của vị ấy. Đạo sĩ bện tóc là một vị tu khổ hạnh có mái tóc được kết lại một cách nhân tạo. Tương truyền rằng, vị ấy là một vị bà-la-môn giàu có, nhưng đã thực hành khổ hạnh để bảo vệ tài sản, sau khi đã nộp cống phẩm cho vua và nhận lấy một vùng đất, đã cho xây một am tu ở đó, kinh doanh bằng năm trăm cỗ xe, và sống như một người bảo trợ cho một ngàn gia đình. Người ta nói rằng, trong am tu của vị ấy, có một cây thốt nốt mỗi ngày cho một trái bằng vàng. Ban ngày, vị ấy mặc y cà-sa và bện tóc, ban đêm thì hưởng thụ các dục lạc.

Pavattāroti (dī. ni. aṭṭha. 1.285; ma. ni. aṭṭha. 2.427; a. ni. aṭṭha. 3.5.192) pavattayitāro , pāvacanavasena vattāroti attho. Yesanti yesaṃ santakaṃ. Mantapadanti mantasadde bahikatvā raho bhāsitabbaṭṭhena mantā eva taṃtaṃatthapaṭipattihetutāya padanti mantapadaṃ, vedavacanaṃ. Gītanti aṭṭhakādīhi dasahi porāṇabrāhmaṇehi udāttānudāttādisarasampattivasena sajjhāyitaṃ. Pavuttanti pāvacanavasena aññesaṃ vuttaṃ, vācitanti attho. Samihitanti samupabyūḷhaṃ rāsikataṃ, iruvedayajuvedasāmavedādivasena tatthāpi paccekaṃ mantabrāhmaṇādivasena sajjhāyanavācakādivasena ca piṇḍaṃ katvā ṭhapitanti attho. Tadanugāyantīti etarahi brāhmaṇā taṃ tehi pubbe gītaṃ anugāyanti anusajjhāyanti. Tadanubhāsantīti taṃ anubhāsanti, idaṃ purimasseva vevacanaṃ. Bhāsitamanubhāsantīti tehi bhāsitaṃ sajjhāyitaṃ anusajjhāyanti. Vācitamanuvācentīti tehi aññesaṃ vācitaṃ anuvācenti. Seyyathidanti te katameti attho. Aṭṭhakotiādīni tesaṃ nāmāni. Te kira dibbacakkhuparibhaṇḍena yathākammūpagañāṇena sattānaṃ kammassakatādiṃ pubbenivāsañāṇena atītakappe brāhmaṇānaṃ mantajjhenavidhiñca oloketvā parūpaghātaṃ akatvā kassapasammāsambuddhassa bhagavato vaṭṭasannissitena vacanena saha saṃsanditvā mante ganthesuṃ. Aparāpare pana okkākarājakālādīsu uppannabrāhmaṇā pāṇātipātādīni pakkhipitvā tayo vede bhinditvā buddhavacanena saddhiṃ viruddhe akaṃsu. Rattibhojanaṃ ratti, tato uparatāti rattūparatā. Atikkante majjhanhike yāva sūriyatthaṅgamanā bhojanaṃ vikālabhojanaṃ nāma, tato viratattā viratā vikālabhojanā. Paṭiyādāpetvāti sappimadhusakkarādīhi ceva maricehi ca susaṅkhataṃ pānaṃ paṭiyādāpetvā.
Những người truyền bá (dī. ni. aṭṭha. 1.285; ma. ni. aṭṭha. 2.427; a. ni. aṭṭha. 3.5.192) là những người làm cho lan truyền, có nghĩa là những người nói theo cách truyền khẩu. Của những vị nào là thuộc về những vị nào. Lời kinh Vệ-đà, trong số các từ chỉ kinh, từ ‘manta’ được dùng với ý nghĩa là điều cần được nói một cách bí mật sau khi đã loại bỏ các từ khác, và chính những câu kinh đó là nhân cho sự thực hành các ý nghĩa tương ứng, nên gọi là mantapada, tức là lời kinh Vệ-đà. Được tụng đọc là được tụng đọc với sự hoàn hảo về các âm điệu như âm cao, âm thấp, v.v., bởi mười vị bà-la-môn cổ xưa như Aṭṭhaka, v.v. Được truyền dạy là được nói cho người khác theo cách truyền khẩu, có nghĩa là đã được dạy. Đã được thu thập là đã được tập hợp lại, đã được gom lại thành đống, có nghĩa là đã được gom lại thành một khối theo các bộ kinh như Irubeda, Yajubeda, Sāmaveda, v.v., và trong đó cũng được phân chia theo từng phần như kinh, chú giải, v.v., và theo cách đọc tụng, giảng dạy, v.v. Họ tụng đọc theo là bây giờ các vị bà-la-môn tụng đọc theo những gì đã được các vị trước đó tụng đọc. Họ nói theo là họ nói theo điều đó, đây là từ đồng nghĩa của từ trước. Họ tụng đọc theo điều đã được nói là họ tụng đọc theo những gì đã được các vị trước đó nói, tụng đọc. Họ dạy lại điều đã được dạy là họ dạy lại những gì đã được các vị trước đó dạy cho người khác. Đó là những vị nào có nghĩa là những vị đó là ai. Aṭṭhaka, v.v., là tên của các vị đó. Tương truyền rằng, các vị ấy, bằng các phương tiện phụ trợ của thiên nhãn, đã nhìn thấy các nghiệp của chúng sanh, v.v., bằng trí tuệ biết nghiệp của chúng sanh, và bằng trí tuệ biết các kiếp quá khứ, đã nhìn thấy phương pháp thiền định về kinh của các vị bà-la-môn trong các kiếp quá khứ, đã không làm hại người khác, và đã biên soạn các kinh bằng cách đối chiếu với lời dạy có liên quan đến vòng luân hồi của đức Thế Tôn, bậc Chánh Đẳng Giác Kassapa. Nhưng các vị bà-la-môn xuất hiện sau này vào thời vua Okkāka, v.v., đã thêm vào các điều như sát sanh, v.v., đã phá vỡ ba bộ kinh Vệ-đà và làm cho chúng mâu thuẫn với lời Phật dạy. Buổi tối là ratti, từ bỏ buổi tối đó là rattūparatā. Việc ăn sau khi đã quá trưa cho đến khi mặt trời lặn được gọi là ăn phi thời, do đã từ bỏ điều đó nên là tránh xa việc ăn phi thời. Sau khi đã cho chuẩn bị là sau khi đã cho chuẩn bị một loại thức uống đã được chế biến kỹ lưỡng với bơ, mật ong, đường phèn, v.v., và cả tiêu.

‘‘Mahā kho keṇiya bhikkhusaṅgho’’ti kasmā bhagavā punappunaṃ paṭikkhipi? Titthiyānaṃ paṭikkhepapasannatāya. Titthiyā hi ‘‘aho vatāyaṃ appiccho, yo nimantiyamānopi na sādiyatī’’ti upanimantiyamānassa paṭikkhepe pasīdantīti keci, akāraṇañcetaṃ. Natthi buddhānaṃ paccayahetu evarūpaṃ kohaññaṃ, ayaṃ pana aḍḍhatelasāni bhikkhusatāni disvā ettakānaṃyeva bhikkhaṃ paṭiyādessati, sveva selo brāhmaṇo tīhi purisasatehi saddhiṃ pabbajissati, ayuttaṃ kho pana navake aññato pesetvā imeheva saddhiṃ gantuṃ, ime vā aññato pesetvā navakehi saddhiṃ gantuṃ. Athāpi sabbeva gahetvā gamissāmi, bhikkhāhāro nappahossati. Tato bhikkhūsu piṇḍāya carantesu manussā ujjhāyissanti ‘‘cirassampi keṇiyo samaṇaṃ gotamaṃ nimantetvā yāpanamattaṃ dātuṃ nāsakkhī’’ti, sayañca vippaṭisārī bhavissati. Paṭikkhepe pana kate ‘‘samaṇo gotamo punappunaṃ ‘tvañca brāhmaṇesu abhippasanno’ti brāhmaṇānaṃ nāmaṃ gaṇhātī’’ti cintetvā brāhmaṇepi nimantetukāmo bhavissati, tato brāhmaṇe pāṭiyekkaṃ nimantessati, te tena nimantitā bhikkhū hutvā bhuñjissanti, evamassa saddhā anurakkhitā bhavissatīti punappunaṃ paṭikkhipi. Kiñcāpi kho bho gotamāti iminā idaṃ dīpeti ‘‘bho gotama, kiṃ jātaṃ, yadi ahaṃ brāhmaṇesu abhippasanno, adhivāsetu bhavaṃ gotamo, ahaṃ brāhmaṇānampi dātuṃ sakkomi tumhākampī’’ti. Ṭhapetvā dhaññaphalarasanti ettha taṇḍuladhovanodakampi dhaññarasoyevāti vadanti. Anujānāmi, bhikkhave, ucchurasanti ettha nikkasaṭo ucchuraso sattāhakālikoti veditabbaṃ.
“Thưa ngài Keṇiya, Tăng chúng Tỳ-khưu rất đông,” tại sao đức Thế Tôn lại từ chối nhiều lần? Vì sự trong sạch trong việc từ chối đối với các vị ngoại đạo. Một số người nói rằng, các vị ngoại đạo thường hoan hỷ khi một người được mời mà từ chối, họ nghĩ: “Ồ, vị này thật là ít ham muốn, dù được mời cũng không nhận lời,” nhưng điều đó không có lý. Các đức Phật không có sự giả dối như vậy vì lợi ích. Nhưng đây là lý do: khi thấy mười hai trăm năm mươi vị Tỳ-khưu, vị ấy sẽ chỉ chuẩn bị vật thực cho chừng đó, nhưng ngày mai, bà-la-môn Sela cùng với ba trăm người sẽ xuất gia, và thật không hợp lý khi gửi các vị mới xuất gia đi nơi khác và đi cùng với những vị này, hoặc gửi những vị này đi nơi khác và đi cùng với các vị mới xuất gia. Hơn nữa, nếu Ta mang tất cả đi, sẽ không đủ vật thực khất thực. Khi đó, khi các vị Tỳ-khưu đi khất thực, dân chúng sẽ phàn nàn: “Dù đã lâu, Keṇiya, sau khi đã mời sa-môn Gotama, cũng không thể cúng dường đủ vật thực,” và chính vị ấy cũng sẽ hối hận. Nhưng nếu từ chối, vị ấy sẽ nghĩ: “Sa-môn Gotama đã nhiều lần nhắc đến tên của các vị bà-la-môn rằng ‘ông có lòng tin trong sạch đối với các vị bà-la-môn,’” và sẽ muốn mời cả các vị bà-la-môn, khi đó vị ấy sẽ mời riêng các vị bà-la-môn, và những người được mời đó sẽ trở thành Tỳ-khưu và dùng bữa, như vậy đức tin của vị ấy sẽ được bảo vệ, do đó Ngài đã từ chối nhiều lần. Thưa ngài Gotama, dù có chuyện gì đi nữa, bằng câu này, vị ấy chỉ ra rằng: “Thưa ngài Gotama, có chuyện gì vậy, nếu tôi có lòng tin trong sạch đối với các vị bà-la-môn, xin ngài Gotama hãy nhận lời, tôi có thể cúng dường cho cả các vị bà-la-môn và cả ngài.” Ngoại trừ nước cốt trái cây và ngũ cốc, ở đây, người ta nói rằng ngay cả nước vo gạo cũng là nước cốt ngũ cốc. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng nước mía, ở đây, cần phải hiểu rằng nước mía đã được lọc bỏ bã là vật dụng được phép dùng trong bảy ngày.

Imāhigāthāhīti (ma. ni. aṭṭha. 2.400) imāhi keṇiyassa cittānukūlāhi gāthāhi. Tattha aggiparicariyaṃ vinā brāhmaṇānaṃ yaññābhāvato ‘‘aggihuttamukhā yaññā’’ti vuttaṃ, aggihuttaseṭṭhā aggijuhanappadhānāti attho. Brāhmaṇā hi ‘‘aggimukhā devā’’ti aggijuhanapubbakaṃ yaññaṃ vidahanti. Vede sajjhāyantehi paṭhamaṃ sajjhāyitabbato sāvittī ‘‘chandaso mukha’’nti vuttā, sāvittī vedassa pubbaṅgamāti attho taṃpubbakattā vedasavanassa. Manussānaṃ seṭṭhabhāvato rājā ‘‘mukha’’nti vutto. Ogāhantīnaṃ nadīnaṃ ādhārabhāvato gantabbaṭṭhānabhāvena paṭisaraṇato ca sāgaro ‘‘mukha’’nti vutto. Candasamāyogena ‘‘ajja kattikā, ajja rohiṇī’’ti saññāyanato nakkhattāni abhibhavitvā ālokakaraṇato nakkhattehi ativisesasommabhāvato ca ‘‘nakkhattānaṃ mukhaṃ cando’’ti vuttaṃ. ‘‘Dīpasikhā aggijālā asanivicakka’’nti evamādīnaṃ tapantānaṃ vijjulatānaṃ aggattā ādicco ‘‘tapataṃ mukha’’nti vutto. Dakkhiṇeyyānaṃ pana aggattā visesena tasmiṃ samaye buddhappamukhaṃ saṅghaṃ sandhāya ‘‘puññaṃ ākaṅkhamānānaṃ, saṅgho ve yajataṃ mukha’’nti vuttaṃ. Tena saṅgho puññassa āyamukhaṃ aggadakkhiṇeyyabhāvenāti dasseti.
Bằng những bài kệ này (ma. ni. aṭṭha. 2.400) là bằng những bài kệ phù hợp với tâm của Keṇiya này. Ở đây, vì các vị bà-la-môn không có lễ tế nào nếu không có việc cúng dường lửa, nên đã nói: “việc cúng dường lửa là hàng đầu của các lễ tế,” có nghĩa là các lễ tế có việc cúng dường lửa là quan trọng nhất, có việc dâng cúng lửa là chính. Thật vậy, các vị bà-la-môn thực hiện lễ tế sau khi đã dâng cúng lửa với ý nghĩ: “các vị trời có lửa là miệng.” Vì phải được tụng đọc đầu tiên khi tụng các kinh Vệ-đà, nên kinh Sāvitrī được gọi là “hàng đầu của các kinh Vệ-đà,” có nghĩa là kinh Sāvitrī là phần mở đầu của các kinh Vệ-đà, vì việc nghe các kinh Vệ-đà có nó làm phần mở đầu. Vì là bậc tối thượng trong loài người, nên vua được gọi là “hàng đầu.” Vì là nơi chứa đựng các con sông chảy vào, là nơi nương tựa do là nơi cần đến, nên biển được gọi là “hàng đầu.” Do sự kết hợp với mặt trăng mà có sự nhận biết rằng: “hôm nay là sao Kṛttikā, hôm nay là sao Rohiṇī,” do làm lu mờ các vì sao và tạo ra ánh sáng, và do có vẻ dịu mát đặc biệt hơn các vì sao, nên “mặt trăng là hàng đầu của các vì sao” đã được nói. Vì là bậc tối thượng trong số các vật phát sáng như “ngọn đèn, ngọn lửa, tia sét,” v.v., nên mặt trời được gọi là “hàng đầu của các vật phát sáng.” Nhưng vì là bậc tối thượng trong số những người đáng được cúng dường, và đặc biệt vào thời điểm đó, liên quan đến Tăng chúng có đức Phật đứng đầu, nên đã nói: “đối với những người cúng dường mong cầu phước báu, Tăng chúng là hàng đầu.” Bằng câu đó, ngài chỉ ra rằng Tăng chúng là cửa ngõ của phước báu do là những người đáng được cúng dường cao quý nhất.

Keṇiyajaṭilavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về câu chuyện của đạo sĩ bện tóc Keṇiya.

Rojamallavatthukathāvaṇṇanā
Giải Thích về Câu Chuyện của Roja người dòng Malla

301. Rojavatthumhi vihāroti gandhakuṭiṃ sandhāya āhaṃsu. Ataramānoti aturanto, saṇikaṃ padappamāṇaṭṭhāne padaṃ nikkhipanto vattaṃ katvā susammaṭṭhaṃ muttādalasinduvārasantharasadisaṃ vālikaṃ avināsentoti attho. Āḷindanti pamukhaṃ. Ukkāsitvāti ukkāsitasaddaṃ katvā. Aggaḷanti kavāṭaṃ. Ākoṭehīti agganakhena īsakaṃ kuñcikachiddasamīpe koṭehīti vuttaṃ hoti. Dvāraṃ kira atiupari amanussā, atiheṭṭhā tiracchānajātikā koṭenti, tathā akoṭetvā majjhe chiddasamīpe manussā koṭenti, idaṃ dvārakoṭakavattanti dīpentā vadanti. Vivaribhagavā dvāranti na bhagavā uṭṭhāya dvāraṃ vivari, vivaratūti pana hatthaṃ pasāresi. Tato ‘‘bhagavā tumhehi anekāsu kappakoṭīsu dānaṃ dadamānehi na sahatthā dvāravivaraṇakammaṃ kata’’nti sayameva dvāraṃ vivaṭaṃ. Taṃ pana yasmā bhagavato manena vivaṭaṃ, tasmā ‘‘vivari bhagavā dvāra’’nti vuttaṃ.
301. Trong câu chuyện của Roja, tu viện là các vị ấy nói về hương thất. Không vội vã là không vội vàng, đặt chân ở nơi có thể đặt chân một cách từ tốn, không làm hỏng lớp cát được rải đều, trông giống như một lớp bột ngọc trai, bằng cách thực hành theo hạnh. Hành lang phía trước là phần hiên trước. Sau khi đã hắng giọng là sau khi đã làm ra tiếng hắng giọng. Then cửa là cánh cửa. Hãy gõ có nghĩa là hãy dùng đầu móng tay gõ nhẹ gần lỗ khóa. Tương truyền rằng, các loài phi nhân thường gõ cửa ở phía trên, các loài súc sanh gõ ở phía dưới, con người thì không gõ như vậy mà gõ ở giữa, gần lỗ khóa, những người giải thích nói rằng đây là hạnh gõ cửa để chỉ ra điều đó. Đức Thế Tôn đã mở cửa là không phải đức Thế Tôn đã đứng dậy và mở cửa, mà Ngài đã đưa tay ra với ý muốn “cửa hãy mở ra.” Khi đó, cửa đã tự mở ra như thể nghĩ rằng: “đức Thế Tôn, trong vô số triệu đại kiếp, khi đang bố thí, cũng chưa từng tự tay làm việc mở cửa.” Nhưng vì nó đã được mở bằng ý của đức Thế Tôn, do đó đã nói “đức Thế Tôn đã mở cửa.”

Rojamallavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về câu chuyện của Roja người dòng Malla.

Vuḍḍhapabbajitavatthukathāvaṇṇanā
Giải Thích về Câu Chuyện của Vị Tỳ-khưu Già Mới Xuất Gia

303. Ātumāvatthumhi aññataro vuḍḍhapabbajitoti subhaddo nāma aññataro bhikkhu vuḍḍhakāle pabbajitattā ‘‘vuḍḍhapabbajito’’ti vutto. Dve dārakāti sāmaṇerabhūmiyaṃ ṭhitā dve puttā. Nāḷiyāvāpakenāti nāḷiyā ceva thavikāya ca. Saṃhariṃsūti yasmā manussā te dārake mañjubhāṇine paṭibhānavante disvā kāretukāmāpi akāretukāmāpi kārentiyeva, katakāle ca ‘‘kiṃ gaṇhissatha tātā’’ti pucchanti. Te vadanti ‘‘na amhākaṃ aññena kenaci attho, pitā pana no bhagavato āgatakāle yāgudānaṃ kātukāmo’’ti. Taṃ sutvā manussā aparigaṇetvāva yaṃ te sakkonti harituṃ, sabbaṃ denti. Yampi na sakkonti, manussehi pesenti. Tasmā te dārakā bahuṃ loṇampi telampi sappimpi taṇḍulampi khādanīyampi saṃhariṃsu.
303. Trong câu chuyện ở Ātumā, một vị Tỳ-khưu già mới xuất gia là một vị Tỳ-khưu tên là Subhadda, được gọi là “vị Tỳ-khưu già mới xuất gia” vì đã xuất gia khi đã lớn tuổi. Hai đứa trẻ là hai người con trai đang ở trong giai đoạn sa-di. Bằng một cái túi và một cái ống đong là bằng một cái ống đong và một cái túi. Họ đã thu gom được, bởi vì khi dân chúng thấy hai đứa trẻ đó nói năng dễ thương, có tài biện luận, dù muốn hay không muốn làm, họ cũng vẫn làm, và sau khi đã làm xong, họ hỏi: “các con muốn lấy gì?” Chúng nói: “chúng con không cần gì khác, chỉ là cha của chúng con muốn cúng dường cháo khi đức Thế Tôn đến.” Nghe vậy, dân chúng không tính toán mà cho tất cả những gì chúng có thể mang đi. Những gì chúng không thể mang đi, họ nhờ người mang hộ. Do đó, hai đứa trẻ đó đã thu gom được rất nhiều muối, dầu, bơ, gạo và các món ăn khác.

Ātumāyaṃ viharatīti ātumaṃ nissāya viharati. Bhusāgāreti bhusamaye agārake. Tattha kira mahantaṃ palālapuñjaṃ abbhantarato palālaṃ nikkaḍḍhitvā sālāsadisaṃ pabbajitānaṃ vasanayoggaṭṭhānasadisaṃ kataṃ, tadā bhagavā tattha vasi. Atha bhagavati ātumaṃ āgantvā bhusāgārakaṃ paviṭṭhe subhaddo sāyanhasamayaṃ gāmadvāraṃ gantvā manusse āmantesi ‘‘upāsakā nāhaṃ tumhākaṃ santikā aññaṃ kiñci paccāsīsāmi, mayhaṃ dārakehi ānītatelādīniyeva saṅghassa pahonti, hatthakammamattaṃ me dethā’’ti. Kiṃ, bhante, karomāti? ‘‘Idañcidañca gaṇhathā’’ti sabbūpakaraṇāni gāhetvā vihāre uddhanāni kāretvā ekaṃ kāḷakaṃ kāsāvaṃ nivāsetvā tādisameva pārupitvā ‘‘idaṃ karotha, idaṃ karothā’’ti sabbarattiṃ vicārento satasahassaṃ vissajjetvā bhojjayāguñca madhugoḷakañca paṭiyādāpesi. Bhojjayāgu nāma paṭhamaṃ bhuñjitvā pātabbayāgu, tattha sappimadhuphāṇitamacchamaṃsapupphaphalarasādi yaṃkiñci khādanīyaṃ nāma, sabbaṃ pavisati, kīḷitukāmānaṃ sīsamakkhanayoggā hoti sugandhagandhā.
Ngài đang ở tại Ātumā là Ngài đang ở gần Ātumā. Trong một ngôi nhà bằng rơm là trong một ngôi nhà nhỏ làm bằng rơm. Tương truyền rằng, ở đó có một đống rơm lớn, người ta đã lấy rơm từ bên trong ra để tạo thành một nơi giống như một hội trường, phù hợp cho các vị xuất gia ở, và lúc đó đức Thế Tôn đã ở đó. Bấy giờ, khi đức Thế Tôn đã đến Ātumā và vào trong ngôi nhà bằng rơm, vào buổi chiều, Subhadda đã đi đến cổng làng và gọi dân chúng: “Này các nam cư sĩ, tôi không mong đợi gì khác từ các vị, chỉ cần các loại dầu, v.v., mà các con của tôi đã mang về là đủ cho Tăng chúng rồi, chỉ cần giúp tôi một tay.” Làm gì ạ, thưa ngài? “Hãy lấy cái này, cái kia,” vị ấy đã cho họ lấy tất cả các dụng cụ, cho xây các lò nấu trong tu viện, mặc một chiếc y cà-sa màu đen, khoác một chiếc y tương tự, và đi qua đi lại suốt đêm, nói rằng: “hãy làm cái này, hãy làm cái kia,” đã chi ra một trăm ngàn, và đã cho chuẩn bị cháo đặc và bánh mật. Cháo đặc là loại cháo có thể ăn trước rồi mới uống, trong đó có tất cả các món ăn như bơ, mật ong, đường phèn, cá, thịt, hoa, và nước cốt trái cây, v.v., nó có mùi thơm, phù hợp để xoa đầu cho những người muốn vui chơi.

Atha bhagavā kālasseva sarīrapaṭijagganaṃ katvā bhikkhusaṅghaparivuto piṇḍāya carituṃ ātumagāmanagarābhimukho pāyāsi. Manussā tassa ārocesuṃ ‘‘bhagavā piṇḍāya gāmaṃ pavisati, tayā kassa yāgu paṭiyāditā’’ti. So yathānivatthapāruteheva tehi kāḷakakāsāvehi ekena hatthena dabbiñca kaṭacchuñca gahetvā brahmā viya dakkhiṇajāṇumaṇḍalaṃ bhūmiyaṃ patiṭṭhāpetvā vanditvā ‘‘paṭiggaṇhātu me, bhante, bhagavā yāgu’’nti āha. Tena vuttaṃ ‘‘atha kho so vuḍḍhapabbajito tassā rattiyā accayena bahutaraṃ yāguṃ paṭiyādāpetvā bhagavato upanāmesī’’ti. Jānantāpi tathāgatā pucchantītiādi vuttanayameva. Kutāyanti kuto ayaṃ. Sesamettha uttānameva.
Bấy giờ, đức Thế Tôn, sau khi đã vệ sinh cá nhân từ sáng sớm, được Tăng chúng Tỳ-khưu vây quanh, đã đi về phía thành phố làng Ātumā để khất thực. Dân chúng đã báo cho vị ấy: “đức Thế Tôn đang vào làng khất thực, ông đã chuẩn bị cháo cho ai vậy?” Vị ấy, vẫn mặc những chiếc y cà-sa màu đen đó, một tay cầm muôi và vá, đã quỳ gối phải xuống đất như một vị Phạm thiên, đảnh lễ và nói: “Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy nhận cháo của con.” Do đó đã nói: “Bấy giờ, vị Tỳ-khưu già mới xuất gia đó, sau khi đêm đã qua, đã cho chuẩn bị rất nhiều cháo và dâng lên đức Thế Tôn.” Các đấng Như Lai, dù biết, vẫn hỏi, v.v., có ý nghĩa như đã nói. Từ đâu là từ đâu mà có cái này. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

304.Dasabhāgaṃ datvāti dasamabhāgaṃ datvā. Tenevāha ‘‘dasa koṭṭhāse katvā eko koṭṭhāso bhūmisāmikānaṃ dātabbo’’ti.
304.Sau khi đã cho một phần mười là sau khi đã cho đi phần thứ mười. Chính vì thế, ngài đã nói: “sau khi đã chia làm mười phần, một phần phải được cho cho những người chủ đất.”

Vuḍḍhapabbajitavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về câu chuyện của vị Tỳ-khưu già mới xuất gia.

Catumahāpadesakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Bốn Đại Tham Chiếu

305.Parimaddantāti upaparikkhantā. Pattuṇṇadese sañjātavatthaṃ pattuṇṇaṃ. Koseyyavisesoti hi abhidhānakose vuttaṃ. Cīnadese somāradese ca sañjātavatthāni cīnasomārapaṭāni. Pattuṇṇādīni tīṇi koseyyassa anulomāni pāṇakehi katasuttamayattā. Iddhimayikaṃ ehibhikkhūnaṃ puññiddhiyā nibbattacīvaraṃ. Taṃ khomādīnaṃ aññataraṃ hotīti tesaṃyeva anulomaṃ. Devatāhi dinnacīvaraṃ devadattiyaṃ. Taṃ kapparukkhe nibbattaṃ jālinīdevakaññāya anuruddhattherassa dinnavatthasadisaṃ. Tampi khomādīnaññeva anulomaṃ hoti tesu aññatarabhāvato. Dve paṭā desanāmeneva vuttāti tesaṃ sarūpadassanaparametaṃ, nāññaṃ nivattanaparaṃ pattuṇṇapaṭassapi desanāmeneva vuttattā. Tumbāti bhājanāni . Phalatumboti lābuādi. Udakatumboti udakukkhipanakakuṭako. Kilañjacchattanti veḷuvilīvehi vāyitvā katachattaṃ. Sambhinnarasanti sammissitarasaṃ. Pānakaṃ paṭiggahitaṃ hotīti ambapānādipānakaṃ paṭiggahitaṃ hoti, taṃ vikālepi kappati asambhinnarasattā. Tena tadahupaṭiggahitena saddhinti tena sattāhakālikena tadahupaṭiggahitena saddhiṃ. Sesamettha suviññeyyameva.
305.Khi đang xem xét là khi đang kiểm tra. Vải được sản xuất ở xứ Pattuṇṇa là pattuṇṇa. Trong từ điển Abhidhāna, nó được gọi là một loại lụa. Vải được sản xuất ở Trung Quốc và xứ Somāra là vải Trung Quốc và vải Somāra. Ba loại pattuṇṇa, v.v., là tương ứng với lụa vì chúng được làm từ sợi do các con vật tạo ra. Y do thần thông tạo ra là y được tạo ra bằng thần thông phước báu của các vị Tỳ-khưu “hãy đến.” Nó là một trong các loại vải lanh, v.v., nên là tương ứng với chúng. Y do chư thiên cúng dường là y do chư thiên cúng dường. Nó giống như tấm vải được tạo ra trên cây ước, đã được thiên nữ Jālinī cúng dường cho Trưởng lão Anuruddha. Nó cũng là tương ứng với vải lanh, v.v., vì là một trong số chúng. Hai loại vải được nói theo tên của xứ sở, điều này chỉ là để chỉ ra hình dạng của chúng, không phải để loại trừ các loại khác, vì vải pattuṇṇa cũng được nói theo tên của xứ sở. Các loại bầu là các vật chứa. Bầu làm từ quả là quả bầu, v.v. Bầu múc nước là gáo múc nước. Lọng được đan bằng nan tre là lọng được làm bằng cách đan các nan tre. Nước cốt đã bị pha trộn là nước cốt đã được trộn lẫn. Thức uống đã được thọ nhận là các loại thức uống như nước xoài, v.v., đã được thọ nhận, chúng được phép dùng ngay cả trong phi thời vì là nước cốt không bị pha trộn. Cùng với vật dụng được phép dùng trong bảy ngày đã được thọ nhận trong ngày đó là cùng với vật dụng đó, được phép dùng trong bảy ngày, đã được thọ nhận trong ngày đó. Phần còn lại ở đây có thể được hiểu rõ.

Catumahāpadesakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về Bốn Đại Tham Chiếu.

Bhesajjakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích thiên Dược Phẩm.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang