Phụ chú giải Tạng Luật

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi III – Phẩm Về Trú Xứ

6. Senāsanakkhandhakaṃ
6. Chương Về Trú Xứ

Vihārānujānanakathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Cho Phép Về Chỗ Ở

294. Senāsanakkhandhake senāsanaṃ apaññattaṃ hotīti vihārasenāsanaṃ sandhāya vuttaṃ. Catubbidhañhi (ma. ni. aṭṭa. 1.296) senāsanaṃ vihārasenāsanaṃ mañcapīṭhasenāsanaṃ santhatasenāsanaṃ okāsasenāsananti. Tattha ‘‘mañcopi senāsanaṃ, pīṭhampi bhisipi bimbohanampi vihāropi aḍḍhayogopi pāsādopi hammiyampi guhāpi aṭṭopi māḷopi leṇampi veḷugumbopi rukkhamūlampi maṇḍapopi senāsanaṃ. Yattha vā pana bhikkhū paṭikkamanti, sabbametaṃ senāsana’’nti (vibha. 527) vacanato vihāro aḍḍhayogo pāsādo hammiyaṃ guhāti idaṃ vihārasenāsanaṃ nāma. Mañco pīṭhaṃ bhisi bimbohananti idaṃ mañcapīṭhasenāsanaṃ nāma. Cimilikā cammakhaṇḍo tiṇasanthāro paṇṇasanthāroti idaṃ santhatasenāsanaṃ nāma. Yattha vā pana bhikkhū paṭikkamantīti idaṃ okāsasenāsanaṃ nāma.
294. Trong chương Về Trú Xứ, trú xứ chưa được quy định được nói liên quan đến trú xứ là chỗ ở. Vì trú xứ có bốn loại (ma. ni. aṭṭa. 1.296) là: trú xứ là chỗ ở, trú xứ là giường ghế, trú xứ là tấm trải, và trú xứ là không gian. Trong đó, theo lời dạy “giường cũng là trú xứ, ghế cũng là, nệm ngồi cũng là, gối cũng là, chỗ ở cũng là, nhà nửa mái cũng là, lâu đài cũng là, nhà có mái bằng cũng là, hang động cũng là, tháp canh cũng là, nhà gác cũng là, nơi ẩn náu cũng là, bụi tre cũng là, gốc cây cũng là, nhà lều cũng là trú xứ. Hoặc bất cứ nơi nào các Tỳ-khưu lui tới, tất cả những nơi đó đều là trú xứ” (vibha. 527), thì chỗ ở, nhà nửa mái, lâu đài, nhà có mái bằng, hang động, được gọi là trú xứ là chỗ ở. Giường, ghế, nệm ngồi, gối, được gọi là trú xứ là giường ghế. Thảm trải, miếng da, tấm trải bằng cỏ, tấm trải bằng lá, được gọi là trú xứ là tấm trải. “Hoặc bất cứ nơi nào các Tỳ-khưu lui tới” được gọi là trú xứ là không gian.

Rukkhamūletiādīsu rukkhamūlasenāsanaṃ nāma yaṃkiñci sandacchāyaṃ vivittaṃ rukkhamūlaṃ. Pabbato nāma selo. Tattha hi udakasoṇḍīsu udakakiccaṃ katvā sītāya rukkhacchāyāya nisinnā nānādisāsu khāyamānāsu sītena vātena bījiyamānā samaṇadhammaṃ karonti. Kandareti kaṃ vuccati udakaṃ, tena dārito udakena bhinno pabbatappadeso kandaraṃ. Yaṃ ‘‘nitamba’’ntipi ‘‘nadīkuñja’’ntipi vadanti. Tattha hi rajatapaṭṭasadisā vālikā hoti, matthake maṇivitānaṃ viya vanagahanaṃ, maṇikkhandhasadisaṃ udakaṃ sandati, evarūpaṃ kandaraṃ oruyha pānīyaṃ pivitvā gattāni sītaṃ katvā vālikaṃ ussāpetvā paṃsukūlacīvaraṃ paññapetvā tattha nisinnā te bhikkhū samaṇadhammaṃ karonti. Giriguhā nāma dvinnaṃ pabbatānaṃ antarā, ekasmiṃyeva vā umaṅgasadisaṃ mahāvivaraṃ.
Trong các loại như gốc cây, trú xứ là gốc cây là bất kỳ gốc cây nào có bóng mát, thanh vắng. Núi là núi đá. Ở đó, các vị Tỳ-khưu làm các việc liên quan đến nước ở các khe nước, rồi ngồi dưới bóng cây mát mẻ, khi các phương trời hiện rõ, được gió mát thổi, họ thực hành sa-môn pháp. Hang động: kaṃ được gọi là nước, vùng núi bị nước đó khoét sâu, bị nước phá vỡ là kandaraṃ. Nơi này cũng được gọi là “sườn núi” hay “thung lũng sông.” Ở đó, có cát trắng như tấm bạc, trên đầu là rừng rậm như tán lọng bằng ngọc, nước chảy như những khối ngọc. Các vị Tỳ-khưu ấy xuống hang động như vậy, uống nước, làm mát thân thể, vun cát lên, trải y phấn tảo ra, và ngồi đó thực hành sa-môn pháp. Hang núi là khoảng giữa của hai ngọn núi, hoặc là một lỗ hổng lớn giống như đường hầm trong cùng một ngọn núi.

‘‘Vanapatthanti dūrānametaṃ senāsanānaṃ adhivacana’’ntiādivacanato (vibha. 531) yattha na kasanti na vapanti, tādisaṃ manussānaṃ upacāraṭṭhānaṃ atikkamitvā ṭhitaṃ araññakasenāsanaṃ ‘‘vanapattha’’nti vuccati. Ajjhokāso nāma kenaci acchanno padeso. Ākaṅkhamānā panettha cīvarakuṭiṃ katvā vasanti. Palālapuñjeti palālarāsimhi. Mahāpalālapuñjato hi palālaṃ nikkaḍḍhitvā pabbhāraleṇasadise ālaye karonti, gacchagumbādīnampi upari palālaṃ parikkhipitvā heṭṭhā nisinnā samaṇadhammaṃ karonti, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Pañca leṇānīti pañca līyanaṭṭhānāni. Nilīyanti ettha bhikkhūti leṇāni, vihārādīnametaṃ adhivacanaṃ. Supaṇṇavaṅkagehanti garuḷapakkhasaṇṭhānena katagehaṃ.
Theo lời dạy như “chốn rừng sâu là tên gọi của những trú xứ ở xa” (vibha. 531), nơi nào người ta không cày cấy, không gieo trồng, trú xứ trong rừng ở nơi vượt quá phạm vi lui tới của con người được gọi là “chốn rừng sâu.” Nơi trống trải là một khu vực không bị che đậy bởi bất cứ thứ gì. Nếu muốn, các vị Tỳ-khưu có thể làm lều bằng y để ở tại đây. Trong đống rơm: trong đống rạ. Từ đống rơm lớn, họ kéo rơm ra và làm những nơi ở giống như hang động trên sườn núi, họ cũng rải rơm lên trên các bụi cây và ngồi dưới đó thực hành sa-môn pháp, điều này được nói liên quan đến việc đó. Năm nơi ẩn náu: năm nơi để ẩn mình. Các Tỳ-khưu ẩn mình ở đây nên gọi là nơi ẩn náu, đây là tên gọi của chỗ ở v.v… Ngôi nhà hình cánh chim Supaṇṇa: ngôi nhà được làm theo hình dạng cánh chim garuḷa.

295. Anumodanagāthāsu sītanti ajjhattadhātukkhobhavasena vā bahiddhautuvipariṇāmavasaena vā uppajjanakasītaṃ. Uṇhanti aggisantāpaṃ, tassa vanadāhādīsu vā sambhavo daṭṭhabbo. Paṭihantīti bādhati. Yathā tadubhayavasena kāyacittānaṃ bādhanaṃ na hoti, evaṃ karoti. Sītuṇhabbhāhate hi sarīre vikkhittacitto bhikkhu yoniso padahituṃ na sakkoti. Vāḷamigānīti sīhabyagghādivāḷamige. Guttasenāsanañhi pavisitvā dvāraṃ pidhāya nisinnassa te parissayā na honti. Sarīsapeti ye keci sarante gacchante dīghajātike. Makaseti nidassanamattametaṃ, ḍaṃsādīnampi eteneva saṅgaho daṭṭhabbo. Sisireti sisirakālavasena sattāhavaddhalikādivasena ca uppanne sisirasamphasse. Vuṭṭhiyoti yadā tadā uppannā vassavuṭṭhiyo.
295. Trong các kệ tán thán, lạnh là cái lạnh phát sinh do sự xáo trộn của các yếu tố bên trong cơ thể hoặc do sự thay đổi của thời tiết bên ngoài. Nóng là sức nóng của lửa, sự phát sinh của nó nên được hiểu là do cháy rừng v.v… Ngăn ngừa: gây trở ngại. Làm thế nào để sự trở ngại cho thân và tâm do cả hai điều đó không xảy ra. Vì khi thân thể bị nóng lạnh hành hạ, Tỳ-khưu có tâm tán loạn không thể nỗ lực một cách như lý. Các loài thú dữ: các loài thú dữ như sư tử, cọp v.v… Vì khi vào một trú xứ được bảo vệ, đóng cửa lại và ngồi, những nguy hiểm đó sẽ không xảy ra. Các loài bò sát: bất kỳ loài nào có thân dài di chuyển bằng cách trườn. Muỗi: đây chỉ là một ví dụ, nên hiểu rằng ruồi trâu v.v… cũng được bao gồm trong đây. Trong sương giá: trong sự tiếp xúc của sương giá phát sinh do mùa đông và do những đợt mưa dầm bảy ngày v.v… Những cơn mưa: những cơn mưa rào phát sinh bất cứ lúc nào.

Vātātapo ghoroti rukkhagacchādīnaṃ ummūlabhañjanādivasena pavattiyā ghoro sarajaarajādibhedo vāto ceva gimhapariḷāhasamayesu uppattiyā ghoro sūriyātapo ca paṭihaññati paṭibāhīyati. Leṇatthanti nānārammaṇato cittaṃ nivattetvā paṭisallānārāmatthaṃ. Sukhatthanti vuttaparissayābhāvena phāsuvihāratthaṃ. Jhāyitunti aṭṭhatiṃsārammaṇesu yattha katthaci cittaṃ upanijjhāyituṃ. Vipassitunti aniccādito saṅkhāre sammasituṃ.
Gió và nắng gắt: gió có nhiều loại như gió có bụi, gió gắt do diễn tiến bằng cách nhổ bật gốc và làm gãy cây cối, và nắng gắt của mặt trời phát sinh trong thời gian oi bức mùa hè, bị ngăn chặn, bị đẩy lùi. Vì mục đích ẩn mình: để rút tâm khỏi các đối tượng khác nhau và để tận hưởng sự tĩnh lặng. Vì mục đích an lạc: vì sự an trú thoải mái do không có những nguy hiểm đã nói. Để thiền định: để tập trung tâm trí vào bất kỳ đối tượng nào trong ba mươi tám đối tượng thiền. Để quán chiếu: để quán xét các pháp hữu vi theo khía cạnh vô thường v.v…

Vihāreti patissaye. Kārayeti kārāpeyya. Rammeti manorame nivāsasukhe. Vāsayettha bahussuteti kāretvā pana ettha vihāresu bahussute sīlavante kalyāṇadhamme nivāseyya. Te nivāsento pana tesaṃ bahussutānaṃ yathā paccayehi kilamatho na hoti, evaṃ annañca pānañca vatthasenāsanāni ca dadeyya ujubhūtesu ajjhāsayasampannesu kammaphalānaṃ ratanattayaguṇānañca saddahanena vippasannena cetasā.
Trong các chỗ ở: trong các nơi trú ngụ. Nên cho làm: nên cho xây dựng. Dễ chịu: dễ chịu cho tâm, an lạc khi ở. Nên cho các bậc đa văn ở đó: sau khi cho xây dựng, nên cho các bậc đa văn, có giới hạnh, có thiện pháp ở trong các chỗ ở đó. Khi cho họ ở, nên cúng dường thức ăn, nước uống, y phục và trú xứ để các bậc đa văn đó không bị mệt mỏi vì các vật dụng, với tâm trong sạch tin tưởng vào quả của nghiệp và đức tính của Tam Bảo đối với những người ngay thẳng, có tâm ý tốt đẹp.

Idāni gahaṭṭhapabbajitānaṃ aññamaññupakāritaṃ dassetuṃ ‘‘te tassā’’ti gāthamāha. Tattha teti te bahussutā. Tassāti upāsakassa. Dhammaṃ desentīti sakalavaṭṭadukkhāpanūdanaṃ saddhammaṃ desenti. Yaṃ so dhammaṃ idhaññāyāti so puggalo yaṃ saddhammaṃ imasmiṃ sāsane sammā paṭipajjanena jānitvā aggamaggādhigamena anāsavo hutvā parinibbāyati.
Bây giờ, để chỉ ra sự tương trợ lẫn nhau giữa tại gia và xuất gia, Ngài đã nói kệ “họ đối với vị ấy.” Ở đó, họ là những bậc đa văn ấy. Đối với vị ấy là đối với người cư sĩ. Thuyết giảng Chánh Pháp: họ thuyết giảng Chánh Pháp chân chính, loại bỏ mọi khổ đau trong vòng luân hồi. Người ấy, sau khi hiểu rõ Chánh Pháp ở đây: người đó, sau khi biết rõ Chánh Pháp trong giáo pháp này bằng sự thực hành đúng đắn, trở thành bậc vô lậu do chứng đắc đạo quả cao nhất và nhập Niết-bàn.

So ca sabbadado hotīti āvāsadānasmiṃ dinne sabbadānaṃ dinnameva hotīti katvā vuttaṃ. Tathā hi (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.42) dve tayo gāme piṇḍāya caritvā kiñci aladdhā āgatassapi chāyūdakasampannaṃ ārāmaṃ pavisitvā nahāyitvā patissaye muhuttaṃ nipajjitvā uṭṭhāya nisinnassa kāye balaṃ āharitvā pakkhittaṃ viya hoti, bahi vicarantassa ca kāye vaṇṇadhātu vātātapehi kilamati, patissayaṃ pavisitvā dvāraṃ pidhāya muhuttaṃ nipannassa visabhāgasantati vūpasammati, sabhāgasantati patiṭṭhāti, vaṇṇadhātu āharitvā pakkhittā viya hoti, bahi vicarantassa ca pāde kaṇṭako vijjhati, khāṇu paharati, sarīsapādiparissayā ceva corabhayañca uppajjati, patissayaṃ pavisitvā dvāraṃ pidhāya nipannassa sabbe parissayā na honti, sajjhāyantassa dhammapītisukhaṃ, kammaṭṭhānaṃ manasikarontassa upasamasukhañca uppajjati bahiddhāvikkhepābhāvato, bahi vicarantassa ca sedā muccanti, akkhīni phandanti, senāsanaṃ pavisanakkhaṇe mañcapīṭhāni na paññāyanti, muhuttaṃ nisinnassa pana akkhipasādo āharitvā pakkhitto viya hoti, dvāravātapānamañcapīṭhādīni paññāyanti, etasmiñca āvāse vasantaṃ disvā manussā catūhi paccayehi sakkaccaṃ upaṭṭhahanti. Tena vuttaṃ ‘‘so ca sabbadado hoti, yo dadāti upassaya’’nti.
Và người ấy trở thành người cho tất cả: được nói như vậy vì khi đã cho nơi ở, thì tất cả các sự cho khác cũng đã được cho. Thật vậy (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.42), ngay cả đối với người đã đi khất thực ở hai ba làng mà không nhận được gì, khi trở về, vào một tu viện có đủ bóng mát và nước, tắm rửa, nằm nghỉ một lát trong nơi trú ngụ rồi dậy ngồi, sức lực trong cơ thể như được mang đến và đặt vào. Và đối với người đi lang thang bên ngoài, sắc tố trong cơ thể bị mệt mỏi bởi gió và nắng, khi vào nơi trú ngụ, đóng cửa lại và nằm nghỉ một lát, dòng tâm không tương hợp lắng dịu, dòng tâm tương hợp được thiết lập, sắc tố như được mang đến và đặt vào. Và đối với người đi lang thang bên ngoài, chân bị gai đâm, cọc nhọn va phải, các nguy hiểm từ loài bò sát và nỗi sợ hãi kẻ trộm phát sinh. Khi vào nơi trú ngụ, đóng cửa lại và nằm, tất cả các nguy hiểm đều không xảy ra. Khi tụng đọc, hỷ lạc của Chánh Pháp phát sinh. Khi tác ý đến đề mục thiền, an lạc của sự tĩnh lặng phát sinh do không có sự tán loạn bên ngoài. Và đối với người đi lang thang bên ngoài, mồ hôi tuôn ra, mắt rung động, khi bước vào trú xứ, giường ghế không hiện rõ. Nhưng sau khi ngồi một lát, thị lực như được mang đến và đặt vào, cửa ra vào, cửa sổ, giường ghế v.v… đều hiện rõ. Và khi thấy người đó đang ở trong trú xứ này, người ta sẽ cung kính phục vụ bằng bốn món vật dụng. Do đó, có câu nói: “và người ấy trở thành người cho tất cả, người nào cho nơi trú ngụ.”

296.Āviñchanacchiddanti yattha aṅguliṃ pavesetvā dvāraṃ ākaḍḍhantā dvārabāhaṃ phusāpenti, tassetaṃ adhivacanaṃ. Āviñchanarajjunti kavāṭeyeva chiddaṃ katvā tattha pavesetvā yena rajjukena kaḍḍhantā dvāraṃ phusāpenti, taṃ āviñchanarajjukaṃ. Senāsanaparibhoge akappiyacammaṃ nāma natthīti dassanatthaṃ ‘‘sacepi dīpinaṅguṭṭhena katā hoti, vaṭṭatiyevā’’ti vuttaṃ. Cetiye vedikāsadisanti vātapānabāhāsu cetiye vedikāya viya paṭṭikādīhi dassetvā kataṃ. Thambhakavātapānaṃ nāma tiriyaṃ dārūni adatvā ujukaṃ ṭhitehi eva veṇusalākādīhi kataṃ.
296.Lỗ để kéo: nơi người ta đưa ngón tay vào để kéo cửa, làm cho nó chạm vào khung cửa, đây là tên gọi của nó. Sợi dây để kéo: sợi dây được luồn qua một lỗ khoan trên cánh cửa, người ta dùng sợi dây đó để kéo cửa, làm cho nó chạm vào. Sợi dây kéo đó. Để chỉ ra rằng không có loại da nào không thích hợp trong việc sử dụng trú xứ, có câu nói: “dù được làm bằng đuôi báo, cũng vẫn được phép.” Giống như lan can ở tháp: được làm bằng cách trang trí bằng các thanh gỗ v.v… trên khung cửa sổ, giống như lan can ở tháp. Cửa sổ có song dọc là loại cửa sổ được làm bằng các thanh tre v.v… dựng thẳng đứng mà không có các thanh gỗ ngang.

Vihārānujānanakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Chú Giải Về Lời Nói Cho Phép Về Chỗ Ở đã chấm dứt.

Mañcapīṭhādianujānanakathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Cho Phép Về Giường Ghế v.v…

297.Poṭakitūlanti erakatiṇatūlaṃ. Poṭakigahaṇañcettha tiṇajātīnaṃ nidassanamattanti āha ‘‘yesaṃ kesañci tiṇajātikāna’’nti. Pañcavidhaṃ uṇṇāditūlampi vaṭṭatīti etthāpi ‘‘bimbohane’’ti ānetvā sambandhitabbaṃ. ‘‘Tūlapūritaṃ bhisiṃ apassayituṃ na vaṭṭatī’’ti keci vadanti, vaṭṭatīti apare. Upadahantīti ṭhapenti. Sīsappamāṇanti yattha galavāṭakato paṭṭhāya sabbasīsaṃ upadahanti, taṃ sīsappamāṇaṃ. Tañca ukkaṭṭhaparicchedato tiriyaṃ muṭṭhiratanaṃ hotīti dassetuṃ ‘‘yassa vitthārato tīsu kaṇṇesū’’tiādimāha. Majjhaṭṭhānaṃ muṭṭhiratanaṃ hotīti bimbohanassa majjhaṭṭhānaṃ tiriyato muṭṭhiratanappamāṇaṃ hoti. Masūraketi cammamayabhisiyaṃ. Phusitāni dātunti saññākaraṇatthaṃ bindūni dātuṃ.
297.Bông gòn Poṭaki: bông gòn của cỏ eraka. Việc đề cập đến Poṭaki ở đây là một ví dụ cho các loại cỏ, nên Ngài đã nói “của bất kỳ loại cỏ nào.” Năm loại bông gòn như len v.v… cũng được phép: ở đây cũng phải liên kết với từ “trong gối.” Một số người nói: “không được phép dựa vào nệm ngồi được nhồi bằng bông gòn,” những người khác nói rằng được phép. Đặt lên: đặt để. Kích thước đầu: nơi người ta đặt toàn bộ đầu từ cổ trở lên, đó là kích thước đầu. Và để chỉ ra rằng kích thước tối đa của nó theo chiều ngang là một nắm tay, Ngài đã nói “cái mà ở ba góc theo chiều rộng.” Phần giữa là một nắm tay: phần giữa của cái gối có kích thước theo chiều ngang là một nắm tay. Trên nệm da: trên nệm ngồi bằng da. Để đánh dấu: để chấm các điểm nhằm mục đích ghi nhớ.

298. Na nibandhatīti anibandhanīyo, na allīyatīti attho. Paṭibāhetvāti maṭṭhaṃ katvā.
298. Không bị buộc chặt là không thể buộc, có nghĩa là không bị dính vào. Sau khi làm nhẵn: sau khi làm cho láng mịn.

Iṭṭhakācayādianujānanakathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Cho Phép Về Nền Gạch v.v…

300.Rukkhaṃ vijjhitvāti rukkhadāruṃ vijjhitvā. Khāṇuke ākoṭetvāti dve dve khāṇuke ākoṭetvā. Taṃ āharimaṃ bhittipādanti vuttanayena khāṇuke ākoṭetvā kataṃyeva sandhāya vuttaṃ. Bhūmiyaṃ patiṭṭhāpetunti mūlena bhūmiyaṃ patiṭṭhāpetvā bhittipādassa upatthambhanavasena ussāpetvā khāṇukehi bhittipādaṃ ussāpetvā ṭhapetunti adhippāyo. Ubhato kuṭṭaṃ nīharitvā katapadesassāti yathā antodvārasamīpe nisinnehi ujukaṃ bahi oloketuṃ na sakkā hoti, evaṃ ubhohi passehi kuṭṭaṃ nīharitvā abhimukhe bhittiṃ upaṭṭhapetvā katapadesassa. Samantā pariyāgāroti samantato āviddhapamukhaṃ. Ugghāṭanakiṭikanti daṇḍehi ukkhipitvā ṭhapanakapadarakiṭikaṃ.
300.Sau khi khoan gỗ: sau khi khoan gỗ cây. Sau khi đóng cọc: sau khi đóng hai cọc một. Nền móng di động đó: được nói liên quan đến nền móng được làm bằng cách đóng cọc theo cách đã nói. Để đặt trên mặt đất: ý muốn nói là đặt gốc xuống đất, nâng lên để làm trụ đỡ cho nền móng, rồi dùng cọc nâng nền móng lên và đặt để. Của nơi được làm bằng cách xây tường ở cả hai bên: của nơi được làm bằng cách xây tường ở hai bên và dựng một bức tường đối diện để người ngồi gần cửa bên trong không thể nhìn thẳng ra ngoài được. Hành lang bao quanh: hiên nhà có mái che bao quanh. Cửa sổ lật: cửa sổ được làm bằng các thanh gỗ, được nâng lên và chống đỡ.

Anāthapiṇḍikavatthukathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Câu Chuyện Của Anāthapiṇḍika

304. Anāthapiṇḍikaseṭṭhivatthumhi (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.242) kenacideva karaṇīyenāti vāṇijjakammaṃ adhippetaṃ. Anāthapiṇḍiko kira rājagahaseṭṭhi ca aññamaññaṃ bhaginipatikā honti. Yadā rājagahe uṭṭhānakabhaṇḍaṃ samagghaṃ hoti, tadā rājagahaseṭṭhi taṃ gahetvā sakaṭasatehi sāvatthiṃ gantvā yojanamatte ṭhito attano āgatabhāvaṃ jānāpeti. Anāthapiṇḍiko paccuggantvā tassa mahāsakkāraṃ katvā ekaṃ yānaṃ āropetvā sāvatthiṃ pavisati. So sace bhaṇḍaṃ lahukaṃ vikkīyati, vikkiṇāti. No ce, bhaginighare ṭhapetvā pakkamati. Anāthapiṇḍikopi tatheva karoti. Svāyaṃ tadāpi teneva karaṇīyena agamāsi. Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
304. Trong câu chuyện về trưởng giả Anāthapiṇḍika (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.242), vì một công việc nào đó: ám chỉ công việc buôn bán. Được biết, Anāthapiṇḍika và trưởng giả thành Rājagaha là anh em cột chèo của nhau. Khi hàng hóa sản xuất ở Rājagaha có giá rẻ, trưởng giả thành Rājagaha sẽ lấy hàng đó, chất lên hàng trăm cỗ xe, đi đến Sāvatthi, và khi còn cách khoảng một yojana, ông cho người báo tin mình đã đến. Anāthapiṇḍika sẽ ra đón, tiếp đãi ông một cách trọng thể, mời ông lên một cỗ xe và vào thành Sāvatthi. Nếu hàng hóa được bán nhanh, ông sẽ bán. Nếu không, ông sẽ để lại ở nhà em gái rồi ra đi. Anāthapiṇḍika cũng làm như vậy. Lần này ông cũng đi vì công việc đó. Điều này được nói liên quan đến sự việc đó.

Taṃ divasaṃ pana rājagahaseṭṭhi yojanamatte ṭhitena anāthapiṇḍikena āgatabhāvajānanatthaṃ pesitaṃ paṇṇaṃ na suṇi, dhammassavanatthāya vihāraṃ agamāsi. So dhammakathaṃ sutvā svātanāya buddhappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ nimantetvā attano ghare uddhanakhaṇāpanadāruphālanādīni kāresi. Anāthapiṇḍikopi ‘‘idāni mayhaṃ paccuggamanaṃ karissati, idāni karissatī’’ti gharadvārepi paccuggamanaṃ alabhitvā antogharaṃ paviṭṭho paṭisanthārampi na bahuṃ alattha. ‘‘Kiṃ mahāseṭṭhi kusalaṃ dārakarūpānaṃ, nasi magge kilanto’’ti ettakova paṭisanthāro ahosi. Tena vuttaṃ ‘‘atha kho anāthapiṇḍikassa gahapatissa etadahosī’’tiādi.
Tuy nhiên, vào ngày hôm đó, trưởng giả thành Rājagaha không nghe tin nhắn được Anāthapiṇḍika gửi đến từ khoảng cách một yojana, vì ông đã đến tu viện để nghe pháp. Sau khi nghe pháp thoại, ông đã thỉnh mời Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu cho ngày hôm sau, và đã cho người đào bếp, chẻ củi v.v… tại nhà mình. Anāthapiṇḍika cũng nghĩ “bây giờ ông ấy sẽ ra đón mình, bây giờ ông ấy sẽ ra,” nhưng không được đón tiếp ngay cả ở cổng nhà, và khi vào trong nhà, ông cũng không được tiếp đãi nhiều. Lời tiếp đãi chỉ có “thưa đại trưởng giả, các cháu có khỏe không, ngài có mệt mỏi trên đường không.” Do đó, có câu nói “bấy giờ, gia chủ Anāthapiṇḍika đã suy nghĩ như thế này” v.v…

Buddhoti tvaṃ gahapati vadesīti tassa kira mukhato buddhasaddaṃ sutvā anāthapiṇḍiko pañcavaṇṇaṃ pītiṃ paṭilabhati, sā tassa sīse uṭṭhahitvā yāva pādapiṭṭhiyā, pādapiṭṭhiyā uṭṭhāya yāva sīsā gacchati, ubhato uṭṭhāya majjhe osarati, majjhe uṭṭhāya ubhato gacchati. So pītiyā nirantaraṃ phuṭo ‘‘buddhoti tvaṃ gahapati vadesī’’ti evaṃ tikkhattuṃ pucchi. Akālo kho, gahapati, imaṃ kālaṃ taṃ bhagavantaṃdassanāya upasaṅkamitunti ‘‘buddhā nāma durāsadā āsīvisasadisā honti, satthā ca sivathikāya samīpe vasati, na sakkā tattha imāya velāya iminā gantu’’nti maññamāno evamāha. Buddhagatāya satiyā nipajjīti aññaṃ kiñci acintetvā buddhagatāya eva satiyā nipajji. Taṃ divasaṃ kirassa bhaṇḍasakaṭesu vā upaṭṭhākesu vā cittampi nuppajji, sāyamāsampi na akāsi. Sattabhūmikaṃ pana pāsādaṃ āruyha supaññattālaṅkatavarasayane ‘‘buddho buddho’’ti sajjhāyaṃ karontova nipajjitvā niddaṃ okkami. Tikkhattuṃ vuṭṭhāsi pabhātaṃ maññamānoti paṭhamayāme tāva vītivatte uṭṭhāya buddhaṃ anussari, athassa balavappasādo udapādi, pītiāloko ahosi, sabbatamaṃ vigacchi, dīpasahassujjalanaṃ viya canduṭṭhānasūriyuṭṭhānaṃ viya ca jātaṃ. So ‘‘pamādaṃ āpannomhi, vañcitomhi, sūriyo uggato’’ti uṭṭhāya ākāsatale ṭhatvā candaṃ oloketvā ‘‘ekova yāmo gato, aññe dve atthī’’ti puna pavisitvā nipajji, etenupāyena majjhimayāmāvasānepi pacchimayāmāvasānepi tikkhattuṃ uṭṭhāsi. Pacchimayāmāvasāne pana balavapaccūseyeva uṭṭhāya ākāsatalaṃ āgantvā mahādvārābhimukho ahosi, sattabhūmikadvāraṃ sayameva vivaṭaṃ ahosi, pāsādā oruyha antaravīthiṃ paṭipajji.
Thưa gia chủ, ông nói là Phật ư?: được biết, khi nghe tiếng “Phật” từ miệng của ông, Anāthapiṇḍika đã cảm nhận được năm loại hỷ lạc, nó dâng lên từ đầu ông cho đến mu bàn chân, rồi từ mu bàn chân dâng lên đến đầu, dâng lên từ cả hai phía rồi lắng xuống ở giữa, dâng lên từ giữa rồi lan ra cả hai phía. Ông, bị hỷ lạc bao phủ không gián đoạn, đã hỏi ba lần như vậy: “thưa gia chủ, ông nói là Phật ư?” Thưa gia chủ, chưa phải lúc, đây không phải là thời điểm thích hợp để đến viếng Đức Thế Tôn đó: nghĩ rằng “các Đức Phật khó gặp, giống như rắn độc, và Bậc Đạo Sư đang ở gần nghĩa địa, người này không thể đi đến đó vào giờ này,” nên đã nói như vậy. Đã nằm xuống với niệm hướng về Đức Phật: đã nằm xuống với niệm hướng về Đức Phật mà không nghĩ đến bất cứ điều gì khác. Được biết, vào ngày hôm đó, tâm trí của ông cũng không khởi lên suy nghĩ về các cỗ xe hàng hay những người phục vụ, và ông cũng không ăn bữa tối. Ông lên tòa lâu đài bảy tầng, nằm xuống trên chiếc giường cao sang được trang hoàng đẹp đẽ và chỉ tụng niệm “Phật, Phật” rồi chìm vào giấc ngủ. Đã thức dậy ba lần vì ngỡ trời đã sáng: khi canh đầu vừa trôi qua, ông thức dậy và tưởng nhớ đến Đức Phật, lúc đó niềm tin mãnh liệt đã khởi lên trong ông, ánh sáng của hỷ lạc đã xuất hiện, mọi bóng tối đều tan biến, giống như hàng ngàn ngọn đèn được thắp sáng, giống như mặt trăng và mặt trời mọc. Ông nghĩ “mình đã lơ là, mình đã bị lừa, mặt trời đã mọc,” rồi đứng dậy, nhìn lên bầu trời và thấy mặt trăng, ông biết “mới chỉ qua một canh, còn hai canh nữa,” rồi lại vào nằm xuống. Cứ như vậy, ông đã thức dậy ba lần vào cuối canh giữa và cuối canh cuối. Tuy nhiên, vào cuối canh cuối, ông thức dậy vào lúc rạng đông, đi ra ngoài trời và hướng về phía cổng chính, cánh cửa của tòa lâu đài bảy tầng đã tự mở, ông xuống khỏi lâu đài và đi vào con hẻm.

305.Amanussāti adhigatavisesā devatā. Tathā hi tā seṭṭhissa bhāvinisampattiṃ paccakkhato sampassamānā ‘‘ayaṃ mahāseṭṭhi ‘buddhupaṭṭhānaṃ gamissāmī’ti nikkhanto paṭhamadassaneneva sotāpattiphale patiṭṭhāya tiṇṇaṃ ratanānaṃ aggupaṭṭhāko hutvā asadisaṃ saṅghārāmaṃ katvā cātuddisassa ariyasaṅghassa anāvaṭadvāro bhavissati, na yuttamassa dvāraṃ pidahitu’’nti cintetvā dvāraṃ vivariṃsu. Antaradhāyīti rājagahaṃ kira ākiṇṇamanussaṃ, antonagare nava koṭiyo bahinagare navāti taṃ upanissāya aṭṭhārasa manussakoṭiyo vasanti. Avelāya matamanusse bahi nīharituṃ asakkontā aṭṭālake ṭhatvā bahidvāre khipanti. Mahāseṭṭhi nagarato bahi nikkhantamattova allasarīraṃ pādena akkami, aparampi piṭṭhipādena pahari, makkhikā uppatitvā pakiriṃsu, duggandho nāsāpuṭaṃ abhihani, buddhappasādo tanuttaṃ gato. Tenassa āloko antaradhāyi andhakāro pāturahosi pītivegassa tanubhāve taṃsamuṭṭhitarūpānaṃ paridubbalabhāvato . Saddamanussāvesīti ‘‘seṭṭhissa ussāhaṃ janessāmī’’ti suvaṇṇakiṅkiṇikaṃ ghaṭṭento viya madhurassarena saddaṃ anussāvesi.
305.Các vị phi nhân: các vị thiên thần đã chứng đắc đặc biệt. Thật vậy, các vị ấy, khi thấy rõ sự thành tựu trong tương lai của vị trưởng giả, đã suy nghĩ “vị đại trưởng giả này ra đi với ý định ‘ta sẽ đến phục vụ Đức Phật,’ ngay từ lần gặp đầu tiên, ông sẽ chứng đắc quả vị Tu-đà-hoàn, trở thành người hộ trì hàng đầu cho Tam Bảo, xây dựng một tu viện vô song và trở thành người có cánh cửa rộng mở cho Thánh Tăng bốn phương, không nên đóng cửa đối với ông,” và đã mở cửa. Đã biến mất: được biết, thành Rājagaha đông đúc dân cư, trong thành có chín mươi triệu người, ngoài thành có chín mươi triệu, tổng cộng có một trăm tám mươi triệu người sống dựa vào đó. Khi không thể mang người chết ra ngoài vào giờ không thích hợp, họ sẽ đứng trên tháp canh và ném ra ngoài cổng. Vị đại trưởng giả vừa ra khỏi thành đã giẫm phải một thi thể còn ướt, rồi lại dùng gót chân đá phải một thi thể khác, ruồi nhặng bay lên và bu lại, mùi hôi thối xộc vào mũi, niềm tin vào Đức Phật đã giảm sút. Do đó, ánh sáng của ông đã biến mất và bóng tối hiện ra, vì khi sự mãnh liệt của hỷ lạc giảm đi, các sắc pháp do nó sinh ra cũng trở nên yếu ớt. Đã phát ra âm thanh: nghĩ rằng “ta sẽ tạo ra sự hăng hái cho vị trưởng giả,” vị ấy đã phát ra âm thanh với giọng nói ngọt ngào như đang rung một chiếc chuông vàng.

Sataṃ kaññāsahassānīti purimapadānipi imināva sahassa-padena saddhiṃ sambandhitabbāni. Yatheva hi sataṃ kaññāsahassāni, evaṃ sataṃ sahassāni hatthī, sataṃ sahassāni assā, sataṃ sahassāni rathāti ayamettha attho, iti ekekaṃ satasahassaṃ dīpitaṃ hoti. Padavītihārassāti padaṃ vītiharati etthāti padavītihāro. So dutavilambitaṃ akatvā samagamane dvinnaṃ padānaṃ antare muṭṭhiratanamattaṃ. Kalaṃ nāgghanti soḷasinti taṃ ekaṃ padavītihāraṃ soḷasa bhāge katvā tato eko koṭṭhāso puna soḷasadhā, tato eko soḷasadhāti evaṃ soḷasa vāre soḷasadhā bhinnassa eko koṭṭhāso soḷasī kalā nāma, taṃ soḷasiṃ kalaṃ etāni cattāri satasahassāni na agghanti. Idaṃ vuttaṃ hoti – sataṃ hatthisahassāni sataṃ assasahassāni sataṃ rathasahassāni sataṃ kaññāsahassāni, tā ca kho āmukkamaṇikuṇḍalā sakalajambudīparājadhītarovāti imasmā ettakā lābhā vihāraṃ gacchantassa tasmiṃ soḷasikalāsaṅkhāte padese laṅghanasādhanavasena pavattacetanāva uttaritarāti. Padaṃ vā vītiharati etenāti padavītihāro, tathāpavattā kusalacetanā, tassā phalaṃ soḷasadhā katvāti ca vadanti. Idaṃ pana vihāragamanaṃ kassa vasena gahitanti? Vihāraṃ gantvā anantarāyena sotāpattiphale patiṭṭhahantassa vasena gahitaṃ. ‘‘Gandhamālādīhi pūjaṃ karissāmi, cetiyaṃ vandissāmi, dhammaṃ sossāmi, dīpapūjaṃ karissāmi, saṅghaṃ nimantetvā dānaṃ dassāmi, sikkhāpadesu vā saraṇesu vā patiṭṭhahissāmī’’ti gacchatopi vasena vaṭṭatiyeva.
Một trăm ngàn thiếu nữ: các từ trước cũng phải được liên kết với từ “ngàn” này. Cũng như có một trăm ngàn thiếu nữ, cũng có một trăm ngàn con voi, một trăm ngàn con ngựa, một trăm ngàn cỗ xe, đây là ý nghĩa ở đây, như vậy mỗi loại được chỉ ra là một trăm ngàn. Của một bước chân: nơi người ta bước chân qua là padavītihāro. Đó là khoảng cách bằng một nắm tay giữa hai bước chân khi đi đều mà không do dự. Không bằng một phần mười sáu: một bước chân đó được chia làm mười sáu phần, rồi một phần trong đó lại được chia làm mười sáu phần, một phần trong đó lại được chia làm mười sáu phần, cứ như vậy, một phần của lần chia thứ mười sáu được gọi là một phần mười sáu (soḷasī kalā), bốn trăm ngàn này không bằng một phần mười sáu đó. Điều này được nói như sau: một trăm ngàn con voi, một trăm ngàn con ngựa, một trăm ngàn cỗ xe, một trăm ngàn thiếu nữ, và những thiếu nữ đó lại là công chúa của toàn cõi Jambudīpa, đeo bông tai ngọc quý, tất cả những lợi ích này, so với tâm thiện phát sinh như là phương tiện để vượt qua khoảng không gian được gọi là một phần mười sáu đó khi đi đến tu viện, thì tâm thiện đó còn cao quý hơn. Hoặc người ta cũng nói rằng: cái mà người ta dùng để bước chân qua là padavītihāro, đó là tâm thiện phát sinh như vậy, quả của nó được chia làm mười sáu phần. Nhưng việc đi đến tu viện này được xem xét dựa trên cơ sở nào? Nó được xem xét dựa trên cơ sở của người đi đến tu viện và chứng đắc quả vị Tu-đà-hoàn không bị gián đoạn. Cũng được phép xem xét dựa trên cơ sở của người đi với ý định “tôi sẽ cúng dường bằng hương hoa, tôi sẽ đảnh lễ tháp, tôi sẽ nghe pháp, tôi sẽ cúng dường đèn, tôi sẽ thỉnh mời Tăng đoàn và cúng dường, tôi sẽ thọ trì các học giới hoặc các nơi nương tựa.”

Andhakāro antaradhāyīti so kira cintesi ‘‘ahaṃ ekakoti saññaṃ karomi, amanussā ca me anugāmino sahāyā atthi, kasmā bhāyāmī’’ti sūro ahosi. Athassa balavā buddhappasādo udapādi, tasmā andhakāro antaradhāyi. Sesavāresupi eseva nayo. Āloko pāturahosīti purimabuddhesu cirakālaparicayasambhūtassa balavato pasādassa vasena uppannāya uḷārāya buddhārammaṇāya pītiyā samuṭṭhāpito vipassanobhāsasadiso sātisayo cittapaccayautusamuṭṭhāno āloko pāturahosi. Devatāhi katotipi vadanti, purimoyevettha yuttataro. Ehi sudattāti so kira seṭṭhi gacchamānova cintesi ‘‘imasmiṃ loke bahū pūraṇakassapādayo titthiyā ‘mayaṃ buddhā, mayaṃ buddhā’ti vadanti, kathaṃ nu kho ahaṃ satthu buddhabhāvaṃ jāneyya’’nti. Athassa etadahosi ‘‘mayhaṃ guṇavasena uppannaṃ nāmaṃ mahājano jānāti, kuladattiyaṃ pana me nāmaṃ aññatra mayā na koci jānāti, sace buddho bhavissati, kuladattikanāmena maṃ ālapissatī’’ti. Satthā tassa cittaṃ ñatvā evamāha.
Bóng tối đã tan biến: được biết, ông đã suy nghĩ “ta chỉ có một mình, nhưng lại có các vị phi nhân là bạn đồng hành, tại sao ta phải sợ hãi,” và trở nên can đảm. Sau đó, niềm tin mãnh liệt vào Đức Phật đã khởi lên trong ông, do đó bóng tối đã tan biến. Cách thức này cũng áp dụng cho các lần khác. Ánh sáng đã hiện ra: do niềm tin mãnh liệt được tích lũy từ lâu trong các đời chư Phật trước, một ánh sáng siêu việt, giống như ánh sáng của tuệ quán, được sinh ra từ hỷ lạc lấy Đức Phật làm đối tượng, do tâm và thời tiết sinh, đã hiện ra. Người ta cũng nói rằng ánh sáng đó do các vị thiên thần tạo ra, nhưng cách giải thích trước đây hợp lý hơn. Hãy đến đây, Sudatta: được biết, vị trưởng giả vừa đi vừa suy nghĩ “trong thế gian này có nhiều người theo ngoại đạo như Pūraṇa Kassapa v.v… nói rằng ‘chúng tôi là Phật, chúng tôi là Phật,’ làm thế nào ta có thể biết được đức tính Phật của Bậc Đạo Sư?” Sau đó, ông nảy ra ý nghĩ “tên gọi phát sinh do đức tính của ta thì đại chúng đều biết, nhưng tên do gia đình đặt cho ta thì ngoài ta ra không ai biết, nếu Ngài là Phật, Ngài sẽ gọi ta bằng tên do gia đình đặt.” Bậc Đạo Sư biết được tâm của ông nên đã nói như vậy.

Parinibbutoti kilesaparinibbānena parinibbuto. Āsattiyoti rūpādīsu āsañjanaṭṭhena āsattiyo, taṇhāyo. Santinti kilesavūpasamaṃ. Pappuyyāti aggamaggena patvā. Sesamettha pāḷianusāreneva veditabbaṃ. Yañcettha anuttānamatthaṃ, taṃ aṭṭhakathāyaṃ vuttameva.
Đã tịch tịnh: đã tịch tịnh bằng sự tịch tịnh của phiền não. Các ái luyến: do có ý nghĩa bám víu vào các đối tượng như sắc v.v… nên là các ái luyến, tức là các ái dục. Sự an tịnh: sự lắng dịu của phiền não. Sau khi đạt đến: sau khi đạt đến bằng đạo quả cao nhất. Phần còn lại ở đây nên được hiểu theo bản văn Pāḷi. Và những gì không rõ nghĩa ở đây, đã được nói trong sách chú giải.

306. Vayameva veyyāyikanti āha ‘‘veyyāyikanti vayakaraṇaṃ vuccatī’’ti.
306. Chính sự chi tiêu là veyyāyika, nên đã nói “veyyāyikanti được gọi là sự chi tiêu.”

Anāthapiṇḍikavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Chú Giải Về Câu Chuyện Của Anāthapiṇḍika đã chấm dứt.

Aggāsanādianujānanakathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Cho Phép Về Chỗ Ngồi Hàng Đầu v.v…

310-311.Dakkhiṇodakanti aggato upanīyamānaṃ dakkhiṇodakaṃ. Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesīti (jā. aṭṭha. 1.1.36 tittirajātakavaṇṇanā) tehi bhikkhūhi attano attano rucivasena aggāsanādirahānaṃ kathitakāle ‘‘na, bhikkhave, mayhaṃ sāsane aggāsanādīni patvā khattiyakulā pabbajito pamāṇaṃ, na brāhmaṇakulā, na gahapatikulā pabbajito, na vinayadharo, na suttantiko, na ābhidhammiko, na paṭhamajjhānādilābhino, na sotāpannādayo pamāṇaṃ, atha kho, bhikkhave, imasmiṃ sāsane yathāvuḍḍhaṃ abhivādanaṃ paccuṭṭhānaṃ añjalikammaṃ sāmīcikammaṃ kattabbaṃ, aggāsanaṃ aggodakaṃ aggapiṇḍo laddhabbo, idamettha pamāṇaṃ, tasmā vuḍḍhataro bhikkhu etesaṃ anucchaviko. Idāni kho pana, bhikkhave, sāriputto mayhaṃ aggasāvako anudhammacakkappavattako mamānantarasenāsanaṃ laddhuṃ arahati. So imaṃ rattiṃ senāsanaṃ alabhanto rukkhamūle vītināmesi. Tumhe idāneva evaṃ agāravā appatissā, gacchante gacchante kāle kinti katvā viharissathā’’ti vatvā atha nesaṃ ovādadānatthāya ‘‘pubbe, bhikkhave, tiracchānagatāpi ‘na kho panetaṃ amhākaṃ patirūpaṃ, yaṃ mayaṃ aññamaññaṃ agāravā appatissā asabhāgavuttino vihareyyāma, amhesu mahallakataraṃ jānitvā tassa abhivādanādīni karissāmā’ti sādhukaṃ vīmaṃsitvā ‘ayaṃ mahallako’ti ñatvā tassa abhivādanādīni katvā devapathaṃ pūrayamānā gatā’’ti vatvā atītaṃ āharitvā dassetuṃ bhikkhū āmantesi.
310-311.Nước cúng dường: nước cúng dường được dâng lên trước tiên. Khi ấy, Đức Thế Tôn đã gọi các Tỳ-khưu: (jā. aṭṭha. 1.1.36 tittirajātakavaṇṇanā) khi các Tỳ-khưu đó, theo sở thích của mình, nói về việc không có chỗ ngồi hàng đầu v.v…, Ngài đã nói: “này các Tỳ-khưu, trong giáo pháp của Ta, người xuất gia từ dòng dõi vua chúa không phải là tiêu chuẩn để được hưởng chỗ ngồi hàng đầu v.v…, người xuất gia từ dòng dõi bà-la-môn cũng không, người xuất gia từ dòng dõi gia chủ cũng không, người thông thạo Luật cũng không, người thông thạo Kinh cũng không, người thông thạo Vi Diệu Pháp cũng không, những người chứng đắc sơ thiền v.v… cũng không, các bậc Tu-đà-hoàn v.v… cũng không phải là tiêu chuẩn. Mà này các Tỳ-khưu, trong giáo pháp này, việc đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay, hành vi kính trọng phải được thực hiện theo tuổi hạ, chỗ ngồi hàng đầu, nước uống hàng đầu, vật thực khất thực hàng đầu phải được nhận. Đây mới là tiêu chuẩn. Do đó, Tỳ-khưu có tuổi hạ cao hơn là người xứng đáng với những điều này. Nhưng bây giờ, này các Tỳ-khưu, Sāriputta là vị thượng thủ đệ tử của Ta, người chuyển vận bánh xe pháp theo Ta, xứng đáng nhận được trú xứ ngay sau Ta. Nhưng đêm nay, vị ấy không có được trú xứ và đã phải trải qua đêm ở gốc cây. Các ngươi ngay từ bây giờ đã không kính trọng, không tôn trọng như vậy, thời gian trôi qua, các ngươi sẽ sống như thế nào?” Sau khi nói vậy, để giáo huấn họ, Ngài đã nói: “này các Tỳ-khưu, thuở xưa, ngay cả các loài súc sinh cũng đã suy nghĩ ‘việc chúng ta sống với nhau mà không kính trọng, không tôn trọng, không có hành vi hòa hợp là không xứng đáng, chúng ta hãy tìm ra người lớn tuổi nhất trong chúng ta và thực hiện việc đảnh lễ v.v… đối với vị ấy,’ rồi sau khi suy xét cẩn thận và biết rằng ‘vị này là người lớn tuổi nhất,’ họ đã thực hiện việc đảnh lễ v.v… đối với vị ấy và đã đi đến cõi trời,” rồi Ngài đã kể lại câu chuyện quá khứ và gọi các Tỳ-khưu.

Ye vuḍḍhamapacāyantīti jātivuḍḍho vayovuḍḍho guṇavuḍḍhoti tayo vuḍḍhā. Tesu jātisampanno jātivuḍḍho nāma, vaye ṭhito vayovuḍḍho nāma, guṇasampanno guṇavuḍḍho nāma. Tesu guṇasampanno vayovuḍḍho imasmiṃ ṭhāne vuḍḍhoti adhippeto. Apacāyantīti jeṭṭhāpacāyikakammena pūjenti. Dhammassa kovidāti jeṭṭhāpacāyanadhammassa kovidā kusalā. Diṭṭheva dhammeti imasmiṃyeva attabhāve. Pāsaṃsāti pasaṃsārahā. Samparāye ca suggatīti samparetabbe imaṃ lokaṃ hitvā gantabbe paralokepi tesaṃ sugatiyeva hotīti attho. Ayaṃ panettha piṇḍattho – bhikkhave, khattiyā vā hontu brāhmaṇā vā vessā vā suddā vā gahaṭṭhā vā pabbajitā vā tiracchānagatā vā, ye keci sattā jeṭṭhāpacitikamme chekā kusalā guṇasampannānaṃ vayovuḍḍhānaṃ apacitiṃ karonti, te imasmiñca attabhāve jeṭṭhāpacitikārakāti pasaṃsaṃ vaṇṇanaṃ thomanaṃ labhanti, kāyassa ca bhedā sagge nibbattantīti.
Những người tôn kính bậc trưởng thượng: có ba loại trưởng thượng: trưởng thượng về dòng dõi, trưởng thượng về tuổi tác, và trưởng thượng về đức hạnh. Trong đó, người có dòng dõi cao quý được gọi là trưởng thượng về dòng dõi, người có tuổi tác cao được gọi là trưởng thượng về tuổi tác, người có đức hạnh được gọi là trưởng thượng về đức hạnh. Trong đó, người có đức hạnh và tuổi tác cao được xem là trưởng thượng trong trường hợp này. Tôn kính: tôn kính bằng hành động tôn kính bậc trưởng thượng. Thông thạo Chánh Pháp: thông thạo, giỏi giang về pháp tôn kính bậc trưởng thượng. Ngay trong hiện tại: ngay trong kiếp sống này. Đáng được tán thán: xứng đáng được tán thán. Và ở đời sau được sanh về cõi lành: có nghĩa là ở đời sau, sau khi rời bỏ thế giới này và đi đến thế giới khác, họ cũng sẽ được sanh về cõi lành. Đây là ý nghĩa tóm tắt: này các Tỳ-khưu, dù là vua chúa, bà-la-môn, thương gia, hay tiện dân, dù là tại gia hay xuất gia, dù là loài súc sinh, bất kỳ chúng sinh nào giỏi giang, khéo léo trong việc tôn kính bậc trưởng thượng, thực hiện sự tôn kính đối với những người có đức hạnh và tuổi tác cao, họ sẽ nhận được sự tán thán, ca ngợi, tán dương trong kiếp sống này vì là người tôn kính bậc trưởng thượng, và sau khi thân hoại mạng chung, họ sẽ được sanh về cõi trời.

Aggāsanādianujānanakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Chú Giải Về Lời Nói Cho Phép Về Chỗ Ngồi Hàng Đầu v.v… đã chấm dứt.

Āsanappaṭibāhanādikathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Ngăn Cản Chỗ Ngồi v.v…

313-4.Uddissakatanti gihīhi saṅghaṃ uddissa kataṃ. Gihivikatanti gihīhi kataṃ paññattaṃ, gihisantakanti vuttaṃ hoti. Atisamīpaṃ agantvāti bhikkhūnaṃ āsannataraṃ ṭhānaṃ agantvā.
313-4.Được làm với sự chỉ định: được các vị tại gia làm với sự chỉ định cho Tăng chúng. Vật dụng của tại gia: vật dụng do các vị tại gia làm và quy định, có nghĩa là được nói là tài sản của tại gia. Không đi đến quá gần: không đi đến nơi ở gần hơn của các Tỳ-khưu.

Senāsanaggāhāpakasammutikathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Bổ Nhiệm Người Giao Trú Xứ

318.Paccayenevahi taṃ paṭijagganaṃ labhissatīti tasmiṃ senāsane mahātherā tassa paccayassa kāraṇā aññattha agantvā vasantāyeva naṃ paṭijaggissantīti attho. Ubbhaṇḍikā bhavissantīti ukkhittabhaṇḍā bhavissanti, attano attano parikkhāre gahetvā tattha tattha vicarissantīti attho. Dīghasālāti caṅkamanasālā. Maṇḍalamāḷo upaṭṭhānasālā. Anudahatīti pīḷeti. Jambudīpe panāti ariyadese bhikkhū sandhāya vuttaṃ. Te kira tathā paññāpenti. Na gocaragāmo ghaṭṭetabboti vuttamevatthaṃ vibhāveti ‘‘na tattha manussā vattabbā’’tiādinā. Vitakkaṃ chinditvāti ‘‘iminā nīhārena gacchantaṃ disvā nivāretvā paccaye dassantī’’ti evarūpaṃ vitakkaṃ anuppādetvā. Tesu ce ekoti tesu manussesu eko paṇḍitapuriso. Bhaṇḍapaṭicchādananti paṭicchādanakabhaṇḍaṃ, sarīrapaṭicchādanaṃ cīvaranti attho.
318.Chắc chắn việc chăm sóc đó sẽ nhận được nhờ vật dụng: có nghĩa là, trong trú xứ ấy, các vị Đại Trưởng lão, vì lý do vật dụng đó, sẽ không đi nơi khác mà sẽ ở lại và chăm sóc nó. Sẽ là những người có đồ đạc được dọn dẹp: sẽ là những người có đồ đạc được thu dọn, có nghĩa là họ sẽ lấy các vật dụng cá nhân của mình và đi đây đó. Trường lang: sảnh đường để đi kinh hành. Nhà tròn: nhà hội họp. Gây áp lực: gây phiền nhiễu. Còn ở cõi Jambudīpa: được nói liên quan đến các Tỳ-khưu ở xứ sở của các bậc Thánh. Được biết, họ quy định như vậy. Không được làm phiền làng khất thực: làm rõ ý nghĩa đã được nói bằng câu “không được nói với người dân ở đó” v.v… Sau khi dứt bỏ ý nghĩ: không khởi lên ý nghĩ rằng “khi thấy ta đi theo cách này, họ sẽ ngăn lại và cúng dường vật dụng.” Nếu một người trong số họ: một người trí thức trong số những người dân đó. Vật dụng che đậy đồ đạc: vật dụng để che đậy, có nghĩa là y phục che thân.

Paṭijaggitabbānīti sammajjanādīhi paṭijaggitabbāni. Muṇḍavedikāyāti cetiyassa hammiyavedikāya. Hammiyavedikāti ca cetiyassa upari caturassavediyo vuccati. Paṭikkammāti vihārato apasakkitvā. Upanikkhepanti khettaṃ vā nāḷikerādiārāmaṃ vā kahāpaṇādīni vā ārāmikādīnaṃ niyyātetvā ‘‘ito uppannā vaḍḍhi vassāvāsikatthāya hotū’’ti dinnaṃ. Vattaṃ katvāti tasmiṃ senāsane kattabbavattaṃ katvā.
Cần được chăm sóc: cần được chăm sóc bằng cách quét dọn v.v… Của lan can trần: của lan can trên sân thượng của tháp. Lan can trên sân thượng được gọi là các lan can hình vuông ở phía trên của tháp. Sau khi rời khỏi: sau khi rời khỏi chỗ ở. Sự ký thác: việc giao phó ruộng đất, vườn dừa v.v…, hoặc tiền bạc v.v… cho những người phục vụ trong tu viện và nói rằng “lợi tức phát sinh từ đây hãy dành cho những người an cư mùa mưa.” Sau khi làm phận sự: sau khi làm phận sự phải làm trong trú xứ ấy.

Puggalavaseneva kātabbanti parato vakkhamānanayena ‘‘bhikkhū cīvarena kilamanti, ettakaṃ nāma taṇḍulabhāgaṃ bhikkhūnaṃ cīvaraṃ kātuṃ ruccatī’’tiādinā puggalaparāmāsavaseneva kātabbaṃ, ‘‘saṅgho cīvarena kilamatī’’tiādinā pana saṅghaparāmāsavasena na kātabbaṃ. Cīvarapaccayanti cīvarasaṅkhātaṃ paccayaṃ. Vuttanti mahāaṭṭhakathāyaṃvuttaṃ. Kasmā evaṃ vuttanti āha ‘‘evañhi navako vuḍḍhatarassa, vuḍḍho ca navakassa gāhessatī’’ti, yasmā attanāva attano pāpetuṃ na sakkā, tasmā dvīsu sammatesu navako vuḍḍhatarassa, vuḍḍho ca navakassāti ubho aññamaññaṃ gāhessantīti adhippāyo. Sammatasenāsanaggāhāpakassa āṇattiyā aññena gāhitepi gāho ruhatiyevāti veditabbaṃ. Aṭṭhapi soḷasapi janesammannituṃ vaṭṭatīti kiṃ visuṃ visuṃ sammannituṃ vaṭṭati, udāhu ekatoti? Ekatopi vaṭṭati. Niggahakammameva hi saṅgho saṅghassa na karoti, sammutidānaṃ pana bahūnampi ekato kātuṃ vaṭṭati, teneva sattasatikakkhandhake ubbāhikasammutiyaṃ aṭṭhapi janā ekato sammatāti.
Nên được thực hiện theo cá nhân: nên được thực hiện theo cách nói đến cá nhân như sẽ được nói sau này: “các Tỳ-khưu đang thiếu thốn y phục, xin hoan hỷ cho chừng này phần gạo để may y cho các Tỳ-khưu” v.v…, chứ không nên thực hiện theo cách nói đến Tăng chúng như: “Tăng chúng đang thiếu thốn y phục” v.v… Vật dụng y phục: vật dụng được gọi là y phục. Đã được nói: đã được nói trong đại Chú giải. Tại sao lại nói như vậy? (Đáp): “Vì như vậy, vị trẻ sẽ nhận cho vị lớn tuổi hơn, và vị lớn tuổi sẽ nhận cho vị trẻ hơn,” vì không thể tự mình nhận cho mình, do đó, khi hai người được bổ nhiệm, vị trẻ sẽ nhận cho vị lớn tuổi hơn, và vị lớn tuổi sẽ nhận cho vị trẻ hơn, đây là ý muốn nói. Cần phải hiểu rằng, khi một người khác nhận theo lệnh của người được bổ nhiệm giao trú xứ, việc nhận đó vẫn có hiệu lực. Được phép bổ nhiệm tám người hoặc mười sáu người: được phép bổ nhiệm riêng lẻ hay cùng một lúc? Cùng một lúc cũng được phép. Vì Tăng chúng không thực hiện Tăng sự khiển trách đối với Tăng chúng, nhưng việc ban sự bổ nhiệm thì có thể thực hiện cho nhiều người cùng một lúc, do đó trong chương Bảy Trăm Vị, trong sự bổ nhiệm người thẩm tra, tám người đã được bổ nhiệm cùng một lúc.

Maggoti magge katadīghasālā. Pokkharaṇīti nahāyantānaṃ pokkharaṇiyaṃ katasālā. Rukkhamūlādayo channā kavāṭabaddhāva senāsanaṃ. Vijaṭetvāti viyojetvā, visuṃ visuṃ katvāti attho. Āvāsesūti senāsanesu. Pakkhipitvāti ettha pakkhipanaṃ nāma tesu vasantānaṃ ito uppannavassāvāsikadānaṃ. Pavisitabbanti aññehi bhikkhūhi tasmiṃ mahālābhe pariveṇe vasitvā cetiye vattaṃ katvāva lābho gahetabboti adhippāyo.
Nhà dài: nhà dài được xây dựng trên đường đi. Ao sen: nhà được xây dựng tại ao sen của những người đi tắm. Gốc cây v.v…, sáu loại có cửa đóng kín mới là trú xứ. Sau khi tách ra: sau khi chia ra, có nghĩa là làm riêng rẽ. Trong các nơi ở: trong các trú xứ. Sau khi gộp vào: ở đây, việc gộp vào là việc cúng dường vật dụng an cư mùa mưa phát sinh từ đó cho những người đang ở. Nên được vào: có nghĩa là các Tỳ-khưu khác, sau khi ở trong khu nhà ở riêng có nhiều lợi lộc đó và làm phận sự tại tháp, mới được nhận lợi lộc.

Paccayaṃ vissajjetīti cīvarapaccayaṃ nādhivāseti. Ayampīti tena vissaṭṭhapaccayopi. Upanibandhitvā gāhetabbanti ‘‘imasmiṃ rukkhe vā maṇḍape vā vasitvā cetiye vattaṃ katvā gaṇhathā’’ti evaṃ upanibandhitvā gāhetabbaṃ. ‘‘Kattha nu kho vasissāmi, kattha vasantassa phāsu bhavissati, kattha vā paccayo bhavissatī’’ti evaṃ uppannena vitakkena caratīti vitakkacāriko. Araññavihāresu parissayavijānanatthaṃ icchitabbattā ‘‘pañca pañca ukkā koṭṭetabbā’’ti vuttaṃ.
Từ bỏ vật dụng: không thọ nhận vật dụng y phục. Cả điều này nữa: cả vật dụng đã được vị ấy từ bỏ. Nên được nhận với điều kiện ràng buộc: nên được nhận với điều kiện ràng buộc rằng “sau khi ở tại gốc cây này hoặc nhà lều này và làm phận sự tại tháp, quý vị hãy nhận.” Người đi lang thang với ý nghĩ rằng “ta sẽ ở đâu đây, ở đâu thì sẽ được thoải mái, ở đâu thì sẽ có vật dụng” được gọi là người đi lang thang với ý nghĩ. Vì cần phải biết các nguy hiểm trong các trú xứ trong rừng, nên đã nói rằng “nên đốn năm cây đuốc cho mỗi người.”

Vattanti katikavattaṃ. Tividhampīti pariyattipaṭipattipaṭivedhavasena tividhampi. Sodhetvā pabbājethāti bhabbe ācārakulaputte upaparikkhitvā pabbājetha. Dasavatthukakathā nāma appicchakathā santuṭṭhikathā pavivekakathā asaṃsaggakathā vīriyārambhakathā sīlakathā samādhikathā paññākathā vimuttikathā vimuttiñāṇadassanakathā.
Phận sự: phận sự theo quy ước. Cả ba loại: cả ba loại theo phương diện pháp học, pháp hành, và pháp thành. Sau khi thanh lọc, hãy cho xuất gia: sau khi xem xét kỹ lưỡng những thiện gia nam tử xứng đáng, hãy cho họ xuất gia. Mười câu chuyện là: chuyện thiểu dục, chuyện tri túc, chuyện độc cư, chuyện không hội họp, chuyện tinh tấn, chuyện giới hạnh, chuyện thiền định, chuyện trí tuệ, chuyện giải thoát, chuyện giải thoát tri kiến.

Viggahasaṃvattanikavacanaṃ viggāhikaṃ. Caturārakkhaṃ ahāpentāti buddhānussati mettā asubhaṃ maraṇassatīti imaṃ caturārakkhaṃ aparihāpentā. Dantakaṭṭhakhādanavattaṃ ācikkhitabbanti ettha dantakaṭṭhakhādanavattaṃ yo devasikaṃ saṅghamajjhe osarati, tena sāmaṇerādīhi āharitvā bhikkhūnaṃ yathāsukhaṃ paribhuñjanatthāya dantakaṭṭhamāḷake nikkhittesu dantakaṭṭhesu divase divase ekameva dantakaṭṭhaṃ gahetabbaṃ. Yo pana devasikaṃ na osarati, padhānaghare vasitvā dhammassavane vā uposathagge vā dissati, tena pamāṇaṃ sallakkhetvā cattāri pañca dantakaṭṭhāni attano vasanaṭṭhāne ṭhapetvā khāditabbāni. Tesu khīṇesu sace punapi dantakaṭṭhamāḷake bahūni hontiyeva, punapi āharitvā khāditabbāni. Yadi pana pamāṇaṃ asallakkhetvā āharati, tesu akhīṇesuyeva māḷake khīyati, tato keci therā ‘‘yehi gahitāni, te paṭiharantū’’ti vadeyyuṃ, keci ‘‘khādantu, puna sāmaṇerā āharissantī’’ti. Tasmā vivādaparihāratthaṃ pamāṇaṃ sallakkhetabbaṃ. Gahaṇe pana doso natthi, maggaṃ gacchantenapi ekaṃ vā dve vā thavikāya pakkhipitvā gantabbanti. Bhikkhācāravattaṃ vattakkhandhake piṇḍacārikavatte āvi bhavissati.
Lời nói gây ra tranh cãi là lời nói gây tranh cãi. Không từ bỏ bốn pháp hộ trì: không từ bỏ bốn pháp hộ trì này là niệm Phật, tâm từ, quán bất tịnh, và niệm sự chết. Nên chỉ dạy phận sự nhai tăm xỉa răng: ở đây, phận sự nhai tăm xỉa răng là người nào mỗi ngày đến giữa Tăng chúng, thì mỗi ngày chỉ nên lấy một cây tăm trong số những cây tăm đã được các vị sa-di v.v… mang đến và đặt ở nơi để tăm cho các Tỳ-khưu dùng tùy ý. Còn người nào mỗi ngày không đến, ở trong nhà chuyên tu và chỉ xuất hiện khi nghe pháp hoặc ở nhà bố-tát, thì nên xem xét số lượng và để bốn năm cây tăm ở nơi ở của mình rồi dùng. Khi dùng hết, nếu ở nơi để tăm vẫn còn nhiều, thì lại có thể mang về dùng. Nhưng nếu không xem xét số lượng mà mang về, trong khi những cây tăm đó chưa dùng hết thì ở nơi để tăm đã hết, lúc đó một số vị trưởng lão có thể nói “những ai đã lấy thì hãy mang trả lại,” một số lại nói “cứ dùng đi, các sa-di sẽ mang thêm về.” Do đó, để tránh tranh cãi, cần phải xem xét số lượng. Tuy nhiên, việc lấy thì không có lỗi, người đi đường cũng có thể bỏ một hai cây vào túi rồi đi. Phận sự đi khất thực sẽ được làm rõ trong phẩm về phận sự, trong phận sự của người đi khất thực.

Pattaṭṭhāneti vassaggena āgantukabhikkhuno pattaṭṭhāne. Tesaṃ chinnavassattā ‘‘sādiyantāpi hi te neva vassāvāsikassa sāmino’’ti vuttaṃ, paṭhamaṃyeva katikāya katattā khīyantāpi ca āvāsikā neva adātuṃ labhantīti vuttaṃ. Bhatiniviṭṭhanti bhatiṃ katvā viya niviṭṭhaṃ pariyiṭṭhaṃ. Saṅghikaṃ pana apalokanakammaṃ katvā gāhitanti tatruppādaṃ sandhāya vuttaṃ. Paccayavasena gāhitanti dāyakānaṃ vassāvāsikapaccayavasena gāhitaṃ sandhāya vuttaṃ. ‘‘Idha, bhikkhave, vassaṃvuttho bhikkhu vibbhamati, saṅghasseveta’’nti (mahāva. 374-375) vacanato ‘‘gataṭṭhāne…pe… saṅghikaṃ hotī’’ti vuttaṃ. Manusseti dāyakamanusse. Varabhāgaṃ sāmaṇerassāti paṭhamabhāgassa gāhitattā vuttaṃ.
Tại nơi để bát: tại nơi để bát của Tỳ-khưu khách đến vào mùa mưa. Vì họ đã hết mùa mưa, nên đã nói rằng “dù họ có nhận, họ cũng không phải là chủ nhân của vật dụng an cư mùa mưa,” và vì đã có quy ước từ trước, nên dù (vật dụng) có hết, các Tỳ-khưu trú ngụ cũng không thể không cho, điều này đã được nói. Được nhận như tiền công: được tìm kiếm, được nhận như đã làm công. Nhưng vật của Tăng chúng đã được nhận sau khi làm Tăng sự biểu quyết: được nói liên quan đến vật phát sinh tại đó. Được nhận do vật dụng: được nói liên quan đến việc nhận do vật dụng an cư mùa mưa của các thí chủ. Theo lời dạy “này các Tỳ-khưu, ở đây, Tỳ-khưu đã an cư mùa mưa rồi bỏ đi, vật đó thuộc về Tăng chúng” (mahāva. 374-375), nên đã nói “ở nơi đã đi… Tỳ-khưu… là của Tăng chúng.” Những người dân: những thí chủ. Phần tốt nhất cho vị sa-di: được nói vì đã nhận phần đầu tiên.

Senāsanaggāhāpakasammutikathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Chú Giải Về Lời Nói Bổ Nhiệm Người Giao Trú Xứ đã chấm dứt.

Upanandavatthukathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Câu Chuyện Của Upananda

319.Yaṃ tayā tattha senāsanaṃ gahitaṃ…pe… idha muttaṃ hotīti yaṃ tayā tattha gāmakāvāse pacchā senāsanaṃ gahitaṃ, taṃ te gaṇhanteneva idha sāvatthiyaṃ paṭhamagahitasenāsanaṃ muttaṃ hoti. Idha dānāhaṃ…pe… tatrāpi muttanti ‘‘idānāhaṃ, āvuso, imasmiṃ gāmakāvāse gahitasenāsanaṃ muñcāmī’’ti vadantena tatrāpi gāmakāvāse gahitasenāsanaṃ muttaṃ.
319.Trú xứ mà thầy đã nhận ở đó… Tỳ-khưu… đã được từ bỏ ở đây: trú xứ mà thầy đã nhận sau này ở trú xứ trong làng đó, ngay khi thầy nhận nó thì trú xứ đã nhận trước tiên ở Sāvatthi này đã được từ bỏ. Bây giờ tôi ở đây… Tỳ-khưu… cũng đã được từ bỏ ở đó: người nói rằng “thưa hiền giả, bây giờ tôi từ bỏ trú xứ đã nhận ở trú xứ trong làng này,” thì trú xứ đã nhận ở trú xứ trong làng đó cũng đã được từ bỏ.

320.Dīghāsanaṃ nāma mañcapīṭhavinimuttaṃ yaṃ kiñci ekato sukhaṃ nisīdituṃ pahoti. Hatthimhi nakho assāti hatthinakho. ‘‘Pāsādassa nakho nāma heṭṭhimaparicchedo, so ca hatthikumbhe patiṭṭhito’’ti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Gihivikatanīhārena labbhantīti gihivikatanīhārena paribhuñjituṃ labbhanti, tehi attharitvā dinnāneva nisīdituṃ labbhanti, na sayaṃ atthatāni attharāpitāni vā.
320.Ghế dài là bất kỳ loại nào ngoài giường và ghế, có thể ngồi thoải mái cùng nhau. Móng của voi là hatthinakho. Trong các sách chú giải có nói: “móng của lâu đài là phần giới hạn phía dưới, và nó được đặt trên các ụ đầu voi.” Được nhận theo cách của vật dụng tại gia: được nhận để sử dụng theo cách của vật dụng tại gia, chỉ được phép ngồi trên những thứ đã được họ trải ra, chứ không phải những thứ tự mình trải hoặc cho người khác trải.

Avissajjiyavatthukathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Câu Chuyện Vật Không Thể Chuyển Nhượng

321.Arañjaroti bahuudakagaṇhanakā mahācāṭi. Jalaṃ gaṇhituṃ alanti arañjaro. ‘‘Vaṭṭacāṭi viya hutvā thokaṃ dīghamukho majjhe paricchedaṃ dassetvā kato’’ti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Pañcanimmalalocanoti maṃsadibbadhammabuddhasamantacakkhuvasena pañcalocano.
321.Bình lớn: chum lớn để chứa nhiều nước. Có khả năng chứa nước là arañjaro. Trong các sách chú giải có nói: “được làm giống như chum tròn, miệng hơi dài, có ngấn ở giữa.” Người có năm loại nhãn thanh tịnh: người có năm loại nhãn theo phương diện nhục nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn, và toàn nhãn.

Thāvarenaca thāvaraṃ garubhaṇḍena ca garubhaṇḍanti ettha pañcasu koṭṭhāsesu purimadvayaṃ thāvaraṃ, pacchimattayaṃ garubhaṇḍanti veditabbaṃ. Jānāpetvāti bhikkhusaṅghaṃ jānāpetvā. Kappiyamañcā sampaṭicchitabbāti ‘‘saṅghassa demā’’ti dinnaṃ sandhāya vuttaṃ. Sace pana ‘‘vihārassa demā’’ti vadanti, suvaṇṇarajatamayādiakappiyamañcepi sampaṭicchituṃ vaṭṭati. Na kevalaṃ…pe… parivattetuṃ vaṭṭantīti iminā athāvarena thāvarampi athāvarampi parivattetuṃ vaṭṭatīti dasseti. Thāvarena athāvarameva hi parivattetuṃ na vaṭṭati. Akappiyaṃ vā mahagghaṃ kappiyaṃ vāti ettha akappiyaṃ nāma suvaṇṇamayamañcādi akappiyabhisibimbohanāni ca. Mahagghaṃ kappiyaṃ nāma dantamayamañcādi pāvārādikappiyaattharaṇādīni ca.
Vật cố định đổi vật cố định, và vật nặng đổi vật nặng: ở đây, cần phải hiểu rằng trong năm phần, hai phần đầu là vật cố định, ba phần sau là vật nặng. Sau khi cho biết: sau khi cho Tăng chúng biết. Nên nhận những chiếc giường thích hợp: được nói liên quan đến vật được cúng dường với lời nói “chúng con xin cúng dường cho Tăng chúng.” Nhưng nếu họ nói “chúng con xin cúng dường cho tu viện,” thì dù là những chiếc giường không thích hợp như bằng vàng bạc v.v… cũng được phép nhận. Không chỉ… Tỳ-khưu… được phép đổi: bằng câu này, chỉ ra rằng được phép dùng vật không cố định để đổi lấy cả vật cố định và vật không cố định. Chỉ không được phép dùng vật cố định để đổi lấy vật không cố định. Vật không thích hợp hoặc vật đắt tiền nhưng thích hợp: ở đây, vật không thích hợp là giường bằng vàng v.v… và nệm gối không thích hợp. Vật đắt tiền nhưng thích hợp là giường bằng ngà v.v… và các loại tấm trải thích hợp như áo choàng v.v…

Pārihāriyaṃ na vaṭṭatīti attano santakaṃ viya gahetvā pariharituṃ na vaṭṭati. ‘‘Gihivikatanīhāreneva paribhuñjitabba’’nti iminā sace ārāmikādayo paṭisāmetvā paṭidenti, paribhuñjituṃ vaṭṭatīti dasseti. ‘‘Paṇṇasūci nāma lekhanī’’ti mahāgaṇṭhipade vuttaṃ.
Không được phép sử dụng riêng: không được phép lấy và sử dụng như tài sản của mình. Bằng câu “nên được sử dụng theo cách của vật dụng tại gia,” chỉ ra rằng nếu những người phục vụ trong tu viện v.v… cất giữ và giao lại, thì được phép sử dụng. “Bút lá là bút viết,” được nói trong đại Chú giải.

‘‘Aḍḍhabāhūti kapparato paṭṭhāya yāva aṃsakūṭa’’nti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Aḍḍhabāhu nāma vidatthicaturaṅgulantipi vadanti. Tatthajātakāti saṅghikabhūmiyaṃ jātā. Aṭṭhaṅgulasūcidaṇḍamattoti dīghato aṭṭhaṅgulamatto pariṇāhato paṇṇasūcidaṇḍamatto. Muñjapabbajānaṃyeva pāḷiyaṃ visuṃ āgatattā ‘‘muñjaṃ pabbajañca ṭhapetvā’’ti vuttaṃ. Aṭṭhaṅgulappamāṇoti dīghato aṭṭhaṅgulappamāṇo. Ghaṭṭanaphalakaṃ nāma yattha ṭhapetvā rajitacīvaraṃ hatthena ghaṭṭenti. Ghaṭṭanamuggaro nāma anuvātādighaṭṭanatthaṃ katoti vadanti. Ambaṇanti phalakehi pokkharaṇīsadisaṃ katapānīyabhājanaṃ. Rajanadoṇīti yattha pakkarajanaṃ ākiritvā ṭhapenti. Bhūmattharaṇaṃ kātuṃ vaṭṭatīti akappiyacammaṃ sandhāya vuttaṃ. Paccattharaṇagatikanti iminā mañcapīṭhepi attharituṃ vaṭṭatīti dīpeti. Pāvārādipaccattharaṇampi garubhaṇḍanti eke, noti apare, vīmaṃsitvā gahetabbaṃ. Muṭṭhipaṇṇanti tālapaṇṇaṃ sandhāya vuttaṃ.
“Nửa cánh tay là từ khuỷu tay đến chỏm vai,” được nói trong các sách chú giải. Nửa cánh tay cũng được nói là một gang tay và bốn ngón tay. Mọc tại đó: mọc trên đất của Tăng chúng. Chỉ bằng cây kim dài tám ngón tay: dài bằng tám ngón tay, rộng bằng cây kim khâu lá. Vì chỉ có cỏ muñja và pabbaja được nói riêng trong kinh điển, nên đã nói “ngoại trừ cỏ muñja và pabbaja.” Kích thước tám ngón tay: dài bằng tám ngón tay. Tấm ván để chà là nơi người ta đặt y đã nhuộm lên rồi dùng tay chà. Chày để chà được nói là được làm để chà theo chiều gió v.v… Thùng gỗ: đồ chứa nước được làm bằng các tấm ván giống như ao sen. Thuyền nhuộm: nơi người ta đổ thuốc nhuộm đã nấu vào và để đó. Được phép làm tấm trải sàn: được nói liên quan đến da không thích hợp. Có tính chất của tấm trải: bằng câu này, chỉ ra rằng cũng được phép trải trên giường và ghế. Một số người cho rằng tấm trải như áo choàng v.v… cũng là vật nặng, những người khác lại cho rằng không phải, cần phải xem xét rồi quyết định. Lá cầm tay: được nói liên quan đến lá cọ.

Navakammadānakathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Giao Công Việc Xây Dựng Mới

323.Kiñcideva samādapetvā kāressatīti sāmikoyeva kañci bhikkhuṃ samādapetvā kāressati. Utukāle paṭibāhituṃ na labhatīti hemantagimhesu aññe sampattabhikkhū paṭibāhituṃ na labhati. Tibhāganti tatiyabhāgaṃ. Sace saddhivihārikānaṃ dātukāmo hotīti sace so saṅghassa bhaṇḍakaṭhapanaṭṭhānaṃ vā navakānaṃ vā vasanaṭṭhānaṃ dātuṃ na icchati, attano saddhivihārikānaññeva dātukāmo hotīti attho. Etañhi saddhivihārikānaṃ dātuṃ labhatīti etaṃ tatiyabhāgaṃ upaḍḍhabhāgaṃ vā dātuṃ labhati. Akataṭṭhāneti senāsanato bahi cayādīnaṃ akataṭṭhāne. Bahikuṭṭeti kuṭṭato bahi.
323.Sẽ cho làm sau khi đã giao phó cho ai đó: chính người chủ sẽ giao phó cho một Tỳ-khưu nào đó rồi cho làm. Không được phép ngăn cản vào mùa: vào mùa đông và mùa hè, không được phép ngăn cản các Tỳ-khưu khác đã đến. Một phần ba: phần thứ ba. Nếu muốn cho các vị cùng ở: có nghĩa là nếu vị ấy không muốn cho nơi để đồ của Tăng chúng hoặc nơi ở của các vị Tỳ-khưu mới, mà chỉ muốn cho các vị cùng ở với mình. Vì được phép cho các vị cùng ở phần này: được phép cho phần thứ ba hoặc một nửa phần này. Ở nơi chưa làm: ở nơi chưa xây dựng nền móng v.v… bên ngoài trú xứ. Ở ngoài tường: ở bên ngoài bức tường.

Aññatraparibhogapaṭikkhepādikathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Cấm Sử Dụng Ngoài Mục Đích, v.v…

324.Cakkalikanti kambalādīhi veṭhetvā cakkasaṇṭhānena pādapuñchanayoggaṃ kataṃ. Paribhaṇḍakatā bhūmi nāma saṇhamattikāhi katā kāḷavaṇṇādibhūmi. Senāsanaṃ mañcapīṭhādi. Tatheva vaḷañjetuṃ vaṭṭatīti aññehi āvāsikabhikkhūhi paribhuttanīhārena paribhuñjituṃ vaṭṭati. ‘‘Nevāsikā pakatiyā anatthatāya bhūmiyā ṭhapenti ce, tesampi anāpattiyevā’’ti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Dvārampītiādinā vuttadvāravātapānādayo aparikammakatāpi na apassayitabbā. Lomesūti lomesu phusantesu.
324.Thảm tròn: được làm bằng cách quấn chăn v.v… theo hình dạng bánh xe, thích hợp để lau chân. Nền đất đã được xử lý là nền đất màu đen v.v… được làm bằng đất mịn. Trú xứ: giường ghế v.v… Được phép sử dụng như vậy: được phép sử dụng theo cách mà các Tỳ-khưu trú ngụ khác đã sử dụng. Trong các sách chú giải có nói: “nếu các Tỳ-khưu thường trú thường đặt trên nền đất không trải, họ cũng không phạm tội.” Cả cửa ra vào v.v…, cửa ra vào và cửa sổ đã được nói, dù chưa được xử lý cũng không nên dựa vào. Trên lông: khi chạm vào lông.

Saṅghabhattādianujānanakathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Cho Phép Về Bữa Ăn Của Tăng Chúng v.v…

325.Uddesabhattaṃnimantananti imaṃ vohāraṃ pattānīti ettha iti-saddo ādiattho, ‘‘uddesabhattaṃ nimantana’’ntiādivohāraṃ pattānīti ayamettha attho. Tampi anto katvāti āyatiṃ bhikkhūnaṃ kukkuccavinodanatthāya tampi saṅghabhattaṃ anto katvā.
325.Đã đạt đến cách nói này là bữa ăn chỉ định, bữa ăn mời: ở đây, từ iti có nghĩa là v.v…, có nghĩa là đã đạt đến cách nói “bữa ăn chỉ định, bữa ăn mời” v.v… Cũng bao gồm cả điều đó: để giải tỏa sự áy náy cho các Tỳ-khưu trong tương lai, cũng bao gồm cả bữa ăn của Tăng chúng đó.

Uddesabhattakathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Về Bữa Ăn Chỉ Định

Attano vihāradvāreti vihārassa dvārakoṭṭhakasamīpaṃ sandhāya vuttaṃ. Bhojanasālāyāti bhattuddesaṭṭhānabhūtāya bhojanasālāya. ‘‘Dinnaṃ panā’’ti vatvā yathā so dāyako deti, taṃ vidhiṃ dassetuṃ ‘‘saṅghato bhante’’tiādimāha. Antaraghareti antogehe. Antoupacāragatānanti ettha gāmadvāravīthicatukkesu dvādasahatthabbhantaraṃ antoupacāro nāma. Antaragharassa upacāre pana labbhamānavisesaṃ dassetuṃ ‘‘gharūpacāro cetthā’’tiādimāha. Ekavaḷañjanti ekena dvārena vaḷañjitabbaṃ. Nānānivesanesūti nānākulassa nivesanesu. Lajjī pesalo agatigamanaṃ vajjetvā medhāvī ca upaparikkhitvā uddisissatīti āha ‘‘pesalo lajjī medhāvī icchitabbo’’ti. Nisinnassapi niddāyantassapīti anādare sāmivacanaṃ. Ticīvaraparivāranti ettha ‘‘udakapattalābhī viya aññopi uddesabhattaṃ alabhitvā vatthādimanekappakārakaṃ labhati ce, tasseva ta’’nti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Attano rucivasena yaṃ kiñci vatvā āharituṃ vissajjitattā vissaṭṭhadūto nāma. Yaṃ icchatīti ‘‘uddesapattaṃ dethā’’tiādīni vadanto yaṃ icchati. Pucchāsabhāgenāti pucchāsadisena.
Tại cổng tu viện của mình: được nói liên quan đến khu vực gần cổng vòm của tu viện. Của nhà ăn: của nhà ăn là nơi chỉ định bữa ăn. Sau khi nói “còn vật đã được cúng dường,” để chỉ ra phương pháp mà thí chủ đó cúng dường, Ngài đã nói “bạch ngài, từ Tăng chúng” v.v… Trong nhà: trong nhà. Của những người ở trong phạm vi phụ cận: ở đây, phạm vi phụ cận bên trong là khoảng mười hai hắt tay ở cổng làng, đường phố, và ngã tư. Để chỉ ra sự khác biệt có được trong phạm vi phụ cận của nhà, Ngài đã nói “và ở đây, phạm vi phụ cận của nhà” v.v… Một lối vào: phải đi qua một cửa. Trong các nhà ở khác nhau: trong các nhà ở của các gia đình khác nhau. Vị Tỳ-khưu có lòng hổ thẹn, có đức hạnh, tránh đi đến những nơi không nên đến, và có trí tuệ sẽ xem xét rồi chỉ định, nên đã nói “nên muốn một người có đức hạnh, có lòng hổ thẹn, có trí tuệ.” Cả người đang ngồi và người đang ngủ: cách dùng sở hữu cách trong ý nghĩa không quan tâm. Cùng với ba y: ở đây, trong các sách chú giải có nói: “giống như người nhận được bát nước, người khác không nhận được bữa ăn chỉ định mà nhận được nhiều loại vật dụng như y phục v.v…, thì vật đó thuộc về người ấy.” Vì đã được sai đi để nói bất cứ điều gì theo ý thích của mình, nên được gọi là sứ giả được ủy quyền. Điều mà vị ấy muốn: khi nói “xin hãy cho bát chỉ định” v.v…, điều mà vị ấy muốn. Bằng cách hỏi: bằng cách tương tự như hỏi.

‘‘Ekā kūṭaṭṭhitikā nāma hotī’’ti vatvā tameva ṭhitikaṃ vibhāvento ‘‘rañño vā hī’’tiādimāha. Aññehi uddesabhattehi amissetvā visuṃyeva ṭhitikāya gahetabbattā ‘‘ekacārikabhattānī’’ti vuttaṃ. Theyyāya harantīti pattahārakā haranti. Gīvā hotīti āṇāpakassa gīvā hoti. ‘‘Manussānaṃ vacanaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti gacchantīti ‘‘manussānaṃ vacanaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti tena bhikkhunā vuttā gacchanti. Akatabhāgo nāmāti āgantukabhāgo nāma. ‘‘Sabbo saṅgho paribhuñjatū’’tivutteti ettha ‘‘paṭhamameva ‘sabbaṃ saṅghikaṃ pattaṃ dethā’ti vatvā pacchā ‘sabbo saṅgho paribhuñjatū’ti avuttepi bhājetvāva paribhuñjitabba’’nti gaṇṭhipadesu vuttaṃ.
Sau khi nói “có một quy định về phần cố định,” để phân tích chính quy định đó, Ngài đã nói “của vua hoặc” v.v… Vì phải nhận riêng biệt mà không trộn lẫn với các bữa ăn chỉ định khác, nên đã được nói là “các bữa ăn riêng lẻ.” Mang đi vì trộm cắp: những người mang bát mang đi. Là cổ họng: là cổ họng của người ra lệnh. “Được phép làm theo lời của người dân” rồi đi: được các Tỳ-khưu đó nói “được phép làm theo lời của người dân” rồi đi. Gọi là phần chưa làm: gọi là phần của người khách. Khi được nói “toàn thể Tăng chúng hãy dùng”: ở đây, trong các sách chú giải có nói: “ngay từ đầu, sau khi nói ‘xin hãy cho tất cả các bát của Tăng chúng,’ sau đó dù không được nói ‘toàn thể Tăng chúng hãy dùng,’ cũng phải chia ra rồi mới dùng.”

Nimantanabhattakathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Về Bữa Ăn Mời

‘‘Ettake bhikkhū saṅghato uddisitvā dethā’’tiādīni avatvā ‘‘ettakānaṃ bhikkhūnaṃ bhattaṃ gaṇhathā’’ti vatvā dinnaṃ saṅghikaṃ nimantanaṃ nāma. Piṇḍapātikānampi vaṭṭatīti bhikkhāpariyāyena vuttattā vaṭṭati. Paṭipāṭiyāti laddhapaṭipāṭiyā. Vicchinditvāti ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti padaṃ avatvā. Tenevāha ‘‘bhattanti avadantenā’’ti. Ālopasaṅkhepenāti ekekapiṇḍavasena. Ayañca nayo nimantaneyeva, na uddesabhatte. Tattha hi ekassa pahonakappamāṇaṃyeva bhājetabbaṃ, tasmā uddesabhatte ālopaṭṭhitikā nāma natthi. Acchatīti tiṭṭhati. ‘‘Ekavāranti yāva tasmiṃ āvāse vasanti bhikkhū, sabbe labhantī’’ti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Ayaṃ panettha adhippāyo – ekavāranti na ekadivasaṃ sandhāya vuttaṃ, yattakā pana bhikkhū tasmiṃ āvāse vasanti, te sabbe. Ekasmiṃ divase gahitabhikkhū aññadā aggahetvā yāva ekavāraṃ sabbe bhikkhū bhojitā honti, tāva ye jānanti, te gahetvā gantabbanti.
Không nói “xin hãy chỉ định và cho bấy nhiêu Tỳ-khưu từ Tăng chúng” v.v…, mà nói “xin hãy nhận bữa ăn cho bấy nhiêu Tỳ-khưu,” rồi cúng dường, được gọi là bữa ăn mời của Tăng chúng. Cũng được phép cho những người đi khất thực: vì đã được nói theo cách đi khất thực nên được phép. Theo thứ tự: theo thứ tự đã nhận được. Sau khi ngắt quãng: không nói từ “bữa ăn.” Do đó, Ngài đã nói “người không nói là bữa ăn.” Bằng cách tính vắt cơm: bằng cách tính từng vắt cơm. Cách thức này chỉ áp dụng cho bữa ăn mời, không áp dụng cho bữa ăn chỉ định. Vì ở đó, chỉ phải chia phần đủ cho một người, do đó, trong bữa ăn chỉ định không có quy định về phần vắt cơm. Ở lại: ở lại. “Một lần, trong các sách chú giải có nói: ‘cho đến khi tất cả các Tỳ-khưu ở trong trú xứ đó đều nhận được.’” Đây là ý muốn nói: một lần không phải là nói đến một ngày, mà là tất cả các Tỳ-khưu ở trong trú xứ đó. Các Tỳ-khưu đã nhận trong một ngày, ngày khác không nhận nữa, cho đến khi tất cả các Tỳ-khưu đều được ăn một lần, thì những người biết, hãy nhận rồi đi.

Salākabhattakathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Về Bữa Ăn Theo Thẻ

Upanibandhitvāti likhitvā. Niggahena datvāti anicchantampi niggahena sampaṭicchāpetvā . Ekagehavasenāti ekāya gharapāḷiyā vasena. Uddisitvāti ‘‘tuyhañca tuyhañca pāpuṇātī’’ti vatvā. Dūrattā niggahetvāpi vārena gāhetabbagāmo vāragāmo. Vihāravāre niyuttā vihāravārikā, vārena vihārarakkhaṇakā. Aññathattanti pasādaññathattaṃ. Phātikammameva bhavantīti vihārarakkhaṇatthāya saṅghena dātabbaatirekalābhā honti. Saṅghanavakena laddhakāleti divase divase ekekassa pāpitāni dve tīṇi ekacārikabhattāni teneva niyāmena attano pāpuṇanaṭṭhāne saṅghanavakena laddhakāle. Yassa kassaci sammukhībhūtassa pāpetvāti ettha ‘‘yebhuyyena ce bhikkhū bahisīmagatā honti, sammukhībhūtassa yassa kassaci pāpetabbaṃ sabhāgattā ekena laddhaṃ sabbesaṃ hoti, tasmimpi asati attano pāpetvā dātabba’’nti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Rasasalākanti ucchurasasalākaṃ.
Sau khi ràng buộc: sau khi viết. Sau khi cho bằng cách ép buộc: dù không muốn cũng ép buộc nhận. Theo từng nhà: theo từng dãy nhà. Sau khi chỉ định: sau khi nói “phần này thuộc về thầy và thầy.” Làng mà phải đi theo phiên và ép buộc nhận vì ở xa là làng theo phiên. Những người được giao nhiệm vụ theo phiên ở tu viện là người coi tu viện theo phiên, người giữ gìn tu viện theo phiên. Sự thay đổi khác: sự thay đổi của lòng tin. Trở thành lợi ích chung: trở thành lợi ích phụ thêm mà Tăng chúng phải cho để giữ gìn tu viện. Vào lúc Tăng chúng mới nhận được: vào lúc Tăng chúng mới nhận được hai ba bữa ăn riêng lẻ đã được chia cho mỗi người mỗi ngày theo quy tắc đó tại nơi nhận của mình. Sau khi chia cho bất kỳ ai có mặt: ở đây, trong các sách chú giải có nói: “nếu phần lớn các Tỳ-khưu đã đi ra ngoài giới trường, thì nên chia cho bất kỳ ai có mặt, vì là tài sản chung nên một người nhận được thì tất cả đều được, nếu không có người đó thì nên chia cho chính mình rồi cho.” Thẻ nước ép: thẻ nước ép mía.

‘‘Saṅghato nirāmisasalākāpi vihāre pakkabhattampi vaṭṭatiyevā’’ti sādhāraṇaṃ katvā visuddhimagge (visuddhi. 1.26) vuttattā ‘‘evaṃ gāhite sāditabbaṃ, evaṃ na sāditabba’’nti visesetvā avuttattā ca bhesajjādisalākāyo cettha kiñcāpi piṇḍapātikānampi vaṭṭanti, salākavasena gāhitattā pana na sāditabbāti ettha adhippāyo vīmaṃsitabbo. Yadi hi bhesajjādisalākā salākavasena gāhitā na sāditabbā siyā, saṅghato nirāmisasalākā vaṭṭatiyevāti na vadeyya, ‘‘atirekalābho saṅghabhattaṃ uddesabhatta’’ntiādivacanato (mahāva. 128) ‘‘atirekalābhaṃ paṭikkhipāmī’’ti salākavasena gāhetabbaṃ bhattameva paṭikkhittaṃ, na bhesajjaṃ. Saṅghabhattādīni hi cuddasa bhattāniyeva tena na sāditabbānīti vuttāni, khandhakabhāṇakānaṃ vā matena idha evaṃ vuttanti gahetabbaṃ. Aggato dātabbabhikkhā aggabhikkhā. Laddhā vā aladdhā vāti labhitvā vā alabhitvā vā. Nibaddhāya aggabhikkhāya appamattikāya eva sambhavato labhitvāpi punadivase gaṇhituṃ vuttaṃ. Aggabhikkhāmattanti hi ettha matta-saddo bahubhāvaṃ nivatteti.
Vì trong Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 1.26) đã nói chung rằng “cả thẻ không có vật thực từ Tăng chúng và bữa ăn đã nấu trong tu viện cũng đều được phép,” và vì không nói riêng rằng “nên nhận khi được nhận như thế này, không nên nhận khi được nhận như thế kia,” nên ở đây, dù các thẻ thuốc men v.v… cũng được phép cho những người đi khất thực, nhưng vì đã được nhận theo cách của thẻ, nên không nên nhận, ý muốn nói ở đây cần phải được xem xét. Vì nếu thẻ thuốc men v.v… đã được nhận theo cách của thẻ mà không được nhận, thì Ngài sẽ không nói “thẻ không có vật thực của Tăng chúng là được phép.” Theo lời dạy “lợi ích phụ thêm là bữa ăn của Tăng chúng, bữa ăn chỉ định” (mahāva. 128), chỉ có bữa ăn phải nhận theo cách của thẻ đã bị cấm là “tôi từ chối lợi ích phụ thêm,” chứ không phải thuốc men. Vì chỉ có mười bốn loại bữa ăn như bữa ăn của Tăng chúng v.v… đã được nói là không nên nhận bởi vị ấy, hoặc nên hiểu rằng ở đây đã được nói như vậy theo quan điểm của các vị tụng đọc các chương. Bữa ăn khất thực phải được cho trước tiên là bữa ăn hàng đầu. Đã nhận được hoặc chưa nhận được: đã nhận được hoặc chưa nhận được. Vì bữa ăn hàng đầu cố định chỉ có thể có một ít, nên dù đã nhận được, cũng được nói là nhận vào ngày hôm sau. Vì ở đây, từ matta trong aggabhikkhāmatta có nghĩa là loại bỏ số nhiều.

Salākabhattaṃ nāma vihāreyeva uddisīyati vihārameva sandhāya diyyamānattāti āha ‘‘vihāre apāpitaṃ panā’’tiādi. Tatra āsanasālāyāti tasmiṃ gāme āsanasālāya. Vihāraṃ ānetvā gāhetabbanti tathā vatvā tasmiṃ divase dinnabhattaṃ vihārameva ānetvā ṭhitikāya gāhetabbaṃ. Tatthāti tasmiṃ disābhāge. Taṃ gahetvāti taṃ vāragāmasalākaṃ attanā gahetvā. Tenāti yo attano pattaṃ vāragāmasalākaṃ disaṃgamikassa adāsi, tena. Anatikkanteyeva tasmiṃ tassa salākā gāhetabbāti yasmā upacārasīmaṭṭhasseva salākā pāpuṇāti, tasmā tasmiṃ disaṃgamike upacārasīmaṃ anatikkanteyeva tassa disaṃgamikassa pattasalākā attano pāpetvā gahetabbā.
Bữa ăn theo thẻ được chỉ định ngay tại tu viện vì nó được cúng dường liên quan đến tu viện, nên đã nói “còn vật chưa được mang đến tu viện” v.v… Tại nhà hội họp ở đó: tại nhà hội họp ở làng đó. Nên mang về tu viện rồi nhận: sau khi nói như vậy, bữa ăn được cúng dường trong ngày đó nên được mang về tu viện rồi nhận theo quy định. Ở đó: ở phương đó. Sau khi nhận lấy nó: sau khi tự mình nhận lấy thẻ của làng theo phiên đó. Bởi vị ấy: bởi vị đã cho thẻ của làng theo phiên thuộc phần của mình cho người đi nơi khác. Nên nhận thẻ của vị ấy ngay khi vị ấy chưa đi qua: vì chỉ có người ở trong giới trường phụ cận mới nhận được thẻ, do đó, ngay khi người đi nơi khác đó chưa đi qua giới trường phụ cận, nên nhận thẻ thuộc phần của người đi nơi khác đó cho mình.

Anāgatadivaseti ettha kathaṃ tesaṃ bhikkhūnaṃ āgatānāgatabhāvo viññāyatīti ce? Yasmā tato tato āgatā bhikkhū tasmiṃ gāme āsanasālāya sannipatanti, tasmā tesaṃ āgatānāgatabhāvo sakkā viññātuṃ. Amhākaṃ gocaragāmeti salākabhattadāyakānaṃ gāme. Bhuñjituṃ āgacchantīti ‘‘mahāthero ekakova vihāre ohīno avassaṃ sabbasalākā attano pāpetvā ṭhito’’ti maññamānā āgacchanti.
Vào ngày chưa đến: ở đây, nếu hỏi làm thế nào để biết được tình trạng đến và chưa đến của các Tỳ-khưu đó? Vì các Tỳ-khưu đến từ những nơi khác nhau đều tụ tập tại nhà hội họp ở làng đó, do đó có thể biết được tình trạng đến và chưa đến của họ. Trong làng khất thực của chúng tôi: trong làng của những người cúng dường bữa ăn theo thẻ. Đến để dùng bữa: nghĩ rằng “vị Đại Trưởng lão ở một mình trong tu viện, chắc chắn đã nhận tất cả các thẻ cho mình rồi,” nên họ đến.

Pakkhikabhattādikathāvaṇṇanā
Chú Giải Về Lời Nói Về Bữa Ăn Theo Tuần v.v…

Abhilakkhitesu catūsu pakkhadivasesu dātabbabhattaṃ pakkhikaṃ. Abhilakkhitesūti ettha abhīti upasaggamattaṃ, lakkhaṇīyesu icceva attho, uposathasamādānadhammassavanapūjāsakkārādikaraṇatthaṃ lakkhitabbesu sallakkhetabbesu upalakkhetabbesūti vuttaṃ hoti. Sve pakkhoti ‘‘ajja pakkhikaṃ na gāhetabba’’nti pakkhikassa aniyamattā vuttaṃ. ‘‘Sve amhākaṃ ghare lūkhabhattaṃ bhavissatī’’ti potthakesu likhanti, ‘‘pakkhabhattaṃ bhavissatī’’ti pāṭhena bhavitabbaṃ. Uposathe dātabbaṃ bhattaṃ uposathikaṃ. Nibandhāpitanti ‘‘asukavihārassā’’ti niyamitaṃ. Gāhetvā bhuñjitabbanti tasmiṃ senāsane vasantehi ṭhitikāya gāhetvā bhuñjitabbaṃ. Taṇḍulādīnipesenti…pe… vaṭṭatīti abhihaṭabhikkhattā vaṭṭati. Tathā paṭiggahitattāti bhikkhānāmena paṭiggahitattā. Pattaṃ pūretvā thaketvā dinnanti ‘‘guḷakabhattaṃ demā’’ti dinnaṃ. Guḷapiṇḍepi…pe… dātabboti ettha guḷapiṇḍaṃ tālapakkappamāṇanti veditabbaṃ. Sesamettha suviññeyyamevāti.
Bữa ăn được cúng dường vào bốn ngày trong tuần đã được đánh dấu là pakkhikaṃ. Trong những ngày đã được đánh dấu: ở đây, abhī chỉ là một tiếp đầu ngữ, có nghĩa là trong những ngày đáng được ghi nhận, được nói là trong những ngày cần được ghi nhận, cần được xem xét, cần được nhận biết để thực hiện việc giữ Bố-tát, nghe pháp, cúng dường, tôn kính v.v… Ngày mai là ngày pakkhika: được nói vì bữa ăn pakkhika không cố định, rằng “hôm nay không nên nhận bữa ăn pakkhika.” Trong các sách ghi rằng “ngày mai ở nhà chúng tôi sẽ có bữa ăn đơn sơ,” đáng lẽ phải là “sẽ có bữa ăn pakkhika.” Bữa ăn được cúng dường vào ngày Bố-tát là uposathikaṃ. Đã được quy định: đã được quy định là “cho tu viện nào đó.” Nên nhận rồi dùng: những người ở trong trú xứ đó nên nhận theo quy định rồi dùng. Họ gửi gạo v.v… Tỳ-khưu… được phép: được phép vì là vật khất thực được mang đến. Vì đã được nhận như vậy: vì đã được nhận nhân danh khất thực. Được cho sau khi đã đổ đầy bát và đóng lại: được cho với lời nói “chúng con xin cúng dường bữa ăn vắt.” Cả trong viên đường… Tỳ-khưu… nên được cho: ở đây, cần phải hiểu rằng viên đường có kích thước bằng quả cọ. Phần còn lại ở đây có thể được hiểu rõ.

Senāsanakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Chú Giải Về Chương Về Trú Xứ đã chấm dứt.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang