Phụ chú giải Tạng Luật

Phụ Chú Giải Tập Yếu Luật Tạng – 19. Luận giải về khu vực hợp pháp (kappiya) được phép sử dụng

19. Kappiyabhūmivinicchayakathā

19. Lời Thuyết Về Sự Quyết Định các Khu Vực Hợp Lệ

101. Kappiyācatubhūmiyoti ettha ‘‘anujānāmi, bhikkhave, catasso kappiyabhūmiyo ussāvanantikaṃ gonisādikaṃ gahapatiṃ sammuti’’nti (mahāva. 295) ussāvanantikā gonisādikā gahapati sammutīti imā catasso kappiyabhūmiyo veditabbā. Tattha (mahāva. aṭṭha. 295) ussāvanantikā tāva evaṃ kātabbā – yo thambhānaṃ vā upari bhittipāde vā nikhanitvā vihāro karīyati, tassa heṭṭhā thambhapaṭicchakā pāsāṇā bhūmigatikā eva. Paṭhamatthambhaṃ pana paṭhamabhittipādaṃ vā patiṭṭhāpentehi bahūhi samparivāretvā ‘‘kappiyakuṭiṃ karoma, kappiyakuṭiṃ karomā’’ti vācaṃ nicchārentehi manussesu ukkhipitvā patiṭṭhāpentesu āmasitvā vā sayaṃ ukkhipitvā vā thambho vā bhittipādo vā patiṭṭhāpetabbo. Kurundimahāpaccarīsu pana ‘‘kappiyakuṭi kappiyakuṭīti vatvā patiṭṭhāpetabba’’nti vuttaṃ. Andhakaṭṭhakathāyaṃ ‘‘saṅghassa kappiyakuṭiṃ adhiṭṭhāmī’’ti vuttaṃ, taṃ pana avatvāpi aṭṭhakathāsu vuttanayena vutte doso natthi. Idaṃ panettha sādhāraṇalakkhaṇaṃ ‘‘thambhapatiṭṭhāpanañca vacanapariyosānañca samakālaṃ vaṭṭatī’’ti. Sace hi aniṭṭhite vacane thambho patiṭṭhāti, appatiṭṭhite vā tasmiṃ vacanaṃ niṭṭhāti, akatā hoti kappiyakuṭi. Teneva mahāpaccariyaṃ vuttaṃ ‘‘bahūhi samparivāretvā vattabbaṃ, avassañhi ettha ekassapi vacananiṭṭhānañca thambhapatiṭṭhānañca ekato bhavissatī’’ti. Iṭṭhakāsilāmattikākuṭṭakāsu pana kuṭīsu heṭṭhā cayaṃ bandhitvā vā abandhitvā vā karontu, yato paṭṭhāya bhittiṃ uṭṭhāpetukāmā honti, taṃ sabbapaṭhamaṃ iṭṭhakaṃ vā silaṃ vā mattikāpiṇḍaṃ vā gahetvā vuttanayeneva kappiyakuṭi kātabbā, iṭṭhakādayo bhittiyaṃ paṭhamiṭṭhakādīnaṃ heṭṭhā na vaṭṭanti, thambhā pana upari uggacchanti, tasmā vaṭṭanti. Andhakaṭṭhakathāyaṃ ‘‘thambhehi kariyamāne catūsu koṇesu cattāro thambhā, iṭṭhakādikuṭṭe catūsu koṇesu dve tisso iṭṭhakā adhiṭṭhātabbā’’ti vuttaṃ. Tathā pana akatāyapi doso natthi, aṭṭhakathāsu hi vuttameva pamāṇaṃ.
101. Bốn khu vực hợp lệ, ở đây, nên biết có bốn khu vực hợp lệ này: khu vực được tác thành bằng lời tuyên bố, khu vực không rào chắn, khu vực của gia chủ, và khu vực được biểu quyết, theo như lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép bốn khu vực hợp lệ: khu vực được tác thành bằng lời tuyên bố, khu vực không rào chắn, khu vực của gia chủ, và khu vực được biểu quyết.” (mahāva. 295). Trong đó, khu vực được tác thành bằng lời tuyên bố phải được làm như sau – đối với tu viện được xây trên các cột hoặc trên móng tường, các tảng đá đỡ cột ở bên dưới phải nằm trên mặt đất. Khi dựng cột đầu tiên hoặc móng tường đầu tiên, nhiều người phải vây quanh và đọc lớn: “Chúng ta làm một am thất hợp lệ, chúng ta làm một am thất hợp lệ.” Trong khi họ đang nhấc lên và dựng, Tỳ-khưu phải chạm vào hoặc tự mình nhấc lên và dựng cột hoặc móng tường đó. Tuy nhiên, trong Kurundimahāpaccarīsu có nói: “Phải nói ‘am thất hợp lệ, am thất hợp lệ’ rồi dựng lên.” Trong Andhakaṭṭhakathāyaṃ có nói: “Tôi xin tác ý am thất hợp lệ này cho Tăng đoàn,” nhưng dù không nói như vậy mà chỉ nói theo cách đã nêu trong các sách Chú giải thì cũng không có lỗi. Đặc điểm chung ở đây là: “Việc dựng cột và việc kết thúc lời nói phải diễn ra đồng thời thì mới được phép.” Nếu cột được dựng trước khi lời nói kết thúc, hoặc lời nói kết thúc trước khi cột được dựng, thì am thất hợp lệ đó chưa được thực hiện. Chính vì vậy, trong mahāpaccariyaṃ có nói: “Phải có nhiều người vây quanh và cùng nói, chắc chắn rằng việc kết thúc lời nói và việc dựng cột của một người nào đó trong số họ sẽ diễn ra đồng thời.” Tuy nhiên, đối với các am thất có tường bằng gạch, đá, hoặc đất, dù có xây móng ở dưới hay không, khi họ muốn bắt đầu xây tường, phải lấy viên gạch, tảng đá, hoặc cục đất đầu tiên và làm thành am thất hợp lệ theo cách đã nói. Gạch v.v. ở dưới viên gạch đầu tiên của bức tường thì không được phép, nhưng các cột thì được dựng lên cao, vì vậy được phép. Trong Andhakaṭṭhakathāyaṃ có nói: “Khi làm bằng cột, phải tác ý bốn cột ở bốn góc. Đối với tường bằng gạch v.v., phải tác ý hai hoặc ba viên gạch ở bốn góc.” Nhưng dù không làm như vậy cũng không có lỗi, vì những gì đã nói trong các sách Chú giải mới là tiêu chuẩn.

Gonisādikā duvidhā ārāmagonisādikā vihāragonisādikāti. Tāsu yattha neva ārāmo, na senāsanāni parikkhittāni honti, ayaṃ ārāmagonisādikā nāma. Yattha senāsanāni sabbāni vā ekaccāni vā parikkhittāni, ārāmo aparikkhitto, ayaṃ vihāragonisādikā nāma. Iti ubhayatrāpi ārāmassa aparikkhittabhāvoyeva pamāṇaṃ. ‘‘Ārāmo pana upaḍḍhaparikkhittopi bahutaraṃ parikkhittopi parikkhittoyeva nāmā’’ti kurundimahāpaccarīsu vuttaṃ, ettha kappiyakuṭiṃ laddhuṃ vaṭṭati.
Khu vực không rào chắn có hai loại: khu vực chùa không rào chắn và khu vực tu viện không rào chắn. Trong đó, nơi nào cả khuôn viên chùa và các sàng tọa đều không được rào quanh, nơi đó được gọi là khu vực chùa không rào chắn. Nơi nào tất cả hoặc một số sàng tọa được rào quanh, nhưng khuôn viên chùa không được rào quanh, nơi đó được gọi là khu vực tu viện không rào chắn. Như vậy, trong cả hai trường hợp, việc khuôn viên chùa không được rào quanh là tiêu chuẩn. Trong kurundimahāpaccarīsu có nói: “Khuôn viên chùa dù chỉ được rào một nửa hay phần lớn cũng đều được gọi là đã được rào,” ở nơi đó được phép có một am thất hợp lệ.

Gahapatīti manussā āvāsaṃ katvā ‘‘kappiyakuṭiṃ dema, paribhuñjathā’’ti vadanti, esā gahapati nāma, ‘‘kappiyakuṭiṃ kātuṃ demā’’ti vuttepi vaṭṭatiyeva. Andhakaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘yasmā bhikkhuṃ ṭhapetvā sesasahadhammikānaṃ sabbesañca devamanussānaṃ hatthato paṭiggaho ca sannidhi ca antovutthañca tesaṃ santakaṃ bhikkhussa vaṭṭati, tasmā tesaṃ gehāni vā tehi dinnakappiyakuṭi vā gahapatīti vuccatī’’ti vuttaṃ, punapi vuttaṃ ‘‘bhikkhusaṅghassa vihāraṃ ṭhapetvā bhikkhunupassayo vā ārāmikānaṃ vā titthiyānaṃ vā devatānaṃ vā nāgānaṃ vā api brahmānaṃ vimānaṃ kappiyakuṭi hotī’’ti, taṃ suvuttaṃ. Saṅghasantakameva hi bhikkhusantakaṃ vā gehaṃ gahapatikuṭikā na hoti.
Khu vực của gia chủ là khi người đời xây dựng một nơi ở và nói rằng: “Chúng tôi xin dâng một am thất hợp lệ, xin các ngài hãy thọ dụng,” đó được gọi là khu vực của gia chủ. Ngay cả khi họ nói: “Chúng tôi xin phép xây một am thất hợp lệ,” cũng được phép. Tuy nhiên, trong Andhakaṭṭhakathāyaṃ có nói: “Vì trừ Tỳ-khưu ra, việc nhận, cất giữ, và ở qua đêm trong tài sản của tất cả các hạng đồng phạm hạnh khác và của cả trời và người đều được phép đối với Tỳ-khưu, nên nhà của họ hoặc am thất hợp lệ do họ dâng cúng được gọi là khu vực của gia chủ.” Lại có nói: “Trừ tu viện của Tỳ-khưu Tăng, nơi ở của Tỳ-khưu-ni, của những người phục vụ trong chùa, của các du sĩ ngoại đạo, của chư thiên, của loài rồng, hay thậm chí cả cung điện của Phạm thiên cũng có thể là một am thất hợp lệ,” điều đó là rất đúng. Chỉ có nhà thuộc sở hữu của Tăng hoặc của Tỳ-khưu thì mới không phải là am thất của gia chủ.

Sammuti nāma ñattidutiyakammavācāya sāvetvā sammatā. Evañca pana, bhikkhave, sammannitabbā, byattena bhikkhunā paṭibalena saṅgho ñāpetabbo –
Khu vực được biểu quyết là khu vực được biểu quyết thông qua bằng một Tăng sự với một lời tuyên cáo và một lời biểu quyết. Và này các Tỳ-khưu, phải biểu quyết như sau. Một Tỳ-khưu có năng lực và khả năng phải trình Tăng:

‘‘Suṇātu me, bhante, saṅgho. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthannāmaṃ vihāraṃ kappiyabhūmiṃ sammanneyya, esā ñatti.

“Kính bạch chư Đại đức Tăng, xin hãy lắng nghe. Nếu Tăng nhận thấy thời gian thích hợp, Tăng nên biểu quyết tu viện tên là… làm khu vực hợp lệ. Đây là lời tuyên cáo.

‘‘Suṇātu me, bhante, saṅgho. Saṅgho itthannāmaṃ vihāraṃ kappiyabhūmiṃ sammannati. Yassāyasmato khamati itthannāmassa vihārassa kappiyabhūmiyā sammuti, so tuṇhassa. Yassa nakkhamati, so bhāseyya.

Kính bạch chư Đại đức Tăng, xin hãy lắng nghe. Tăng biểu quyết tu viện tên là… làm khu vực hợp lệ. Vị nào chấp thuận việc biểu quyết tu viện tên là… làm khu vực hợp lệ, xin hãy im lặng. Vị nào không chấp thuận, xin hãy lên tiếng.

‘‘Sammato saṅghena itthannāmo vihāro kappiyabhūmi khamati saṅghassa, tasmā tuṇhī, evametaṃ dhārayāmī’’ti (mahāva. 295).

Tu viện tên là… đã được Tăng biểu quyết làm khu vực hợp lệ. Tăng đã chấp thuận, vì vậy Tăng im lặng. Tôi xin ghi nhận điều này như vậy.” (mahāva. 295).

Kammavācaṃ avatvā apalokanakammavasena sāvetvā katāpi sammatā eva.
Tăng sự được thực hiện bằng cách thông báo qua hình thức biểu quyết công khai mà không cần đọc lời biểu quyết cũng được xem là đã được biểu quyết.

102. Yaṃ (mahāva. aṭṭha. 295) imāsu catūsu kappiyabhūmīsu vuttaṃ āmisaṃ, taṃ sabbaṃ antovutthasaṅkhyaṃ na gacchati. Bhikkhūnañca bhikkhunīnañca antovutthaantopakkamocanatthañhi kappiyakuṭiyo anuññātā. Yaṃ pana akappiyabhūmiyaṃ sahaseyyappahonake gehe vuttaṃ saṅghikaṃ vā puggalikaṃ vā bhikkhussa bhikkhuniyā vā santakaṃ ekarattampi ṭhapitaṃ, taṃ antovutthaṃ, tattha pakkañca antopakkaṃ nāma hoti, etaṃ na kappati. Sattāhakālikaṃ pana yāvajīvikañca vaṭṭati.
102. Bất cứ vật thực nào được nói đến trong bốn khu vực hợp lệ này, tất cả chúng đều không bị xem là ở qua đêm. Các am thất hợp lệ được cho phép là để giải trừ tội ở qua đêm và nấu trong cùng khu vực cho các Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni. Bất cứ vật gì của Tăng hay của cá nhân thuộc sở hữu của Tỳ-khưu hay Tỳ-khưu-ni, được để dù chỉ một đêm trong một ngôi nhà có thể ở chung trong một khu vực không hợp lệ, thì vật đó bị xem là ở qua đêm, và vật được nấu ở đó được gọi là nấu trong cùng khu vực; điều này không hợp lệ. Tuy nhiên, vật dụng dùng trong bảy ngày và vật dụng dùng trọn đời thì được phép.

Tatrāyaṃ vinicchayo – sāmaṇero bhikkhussa taṇḍulādikaṃ āmisaṃ āharitvā kappiyakuṭiyaṃ nikkhipitvā punadivase pacitvā deti, antovutthaṃ na hoti. Tattha akappiyakuṭiyaṃ nikkhittasappiādīsu kiñci pakkhipitvā deti. Mukhasannidhi nāma hoti. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘antovutthaṃ hotī’’ti vuttaṃ. Tattha nāmamattameva nānākaraṇaṃ, bhikkhu akappiyakuṭiyaṃ ṭhapitasappiñca yāvajīvikapaṇṇañca ekato pacitvā paribhuñjati, sattāhaṃ nirāmisaṃ vaṭṭati. Sace āmisasaṃsaṭṭhaṃ katvā paribhuñjati, antovutthañceva sāmaṃpakkañca hoti. Etenupāyena sabbasaṃsaggā veditabbā. Yaṃ kiñci āmisaṃ bhikkhuno pacituṃ na vaṭṭati. Sacepissa uṇhayāguyā sulasipaṇṇāni vā siṅgiveraṃ vā loṇaṃ vā pakkhipanti, tampi cāletuṃ na vaṭṭati, ‘‘yāguṃ nibbāpemī’’ti pana cāletuṃ vaṭṭati. Uttaṇḍulabhattaṃ labhitvā pidahituṃ na vaṭṭati. Sace pana manussā pidahitvā denti, vaṭṭati. ‘‘Bhattaṃ mā nibbāyatū’’ti pidahituṃ vaṭṭati, khīratakkādīsu pana sakiṃ kuthitesu aggiṃ kātuṃ vaṭṭati punapākassa anuññātattā.
Đây là sự quyết định – một sa-di mang vật thực như gạo v.v. của một Tỳ-khưu, cất giữ trong một am thất hợp lệ, rồi ngày hôm sau nấu và dâng lên, thì không bị xem là ở qua đêm. Nếu vị ấy cho một ít bơ sữa đã lọc v.v. đã được cất giữ trong một am thất không hợp lệ vào đó và dâng lên, thì bị xem là tội cất giữ trong miệng. Tuy nhiên, trong Mahāpaccariyaṃ có nói: “bị xem là ở qua đêm.” Ở đây chỉ là sự khác biệt về tên gọi. Nếu một Tỳ-khưu nấu chung bơ sữa đã lọc và lá cây dùng trọn đời đã được cất giữ trong một am thất không hợp lệ rồi dùng, thì được phép dùng không có thức ăn đặc trong bảy ngày. Nếu làm thành món ăn có trộn lẫn vật thực rồi dùng, thì vừa bị tội ở qua đêm vừa bị tội tự nấu. Theo phương pháp này, nên hiểu tất cả các trường hợp trộn lẫn. Tỳ-khưu không được phép nấu bất kỳ vật thực nào. Ngay cả khi người ta cho lá húng quế, gừng, hoặc muối vào cháo nóng của vị ấy, vị ấy cũng không được khuấy, nhưng được phép khuấy với ý nghĩ: “Tôi làm cho cháo nguội.” Khi nhận được cơm còn hơi nóng, không được đậy lại. Nhưng nếu người đời đậy lại và dâng, thì được phép. Được phép đậy lại với ý nghĩ: “Để cơm không bị nguội.” Tuy nhiên, đối với sữa, sữa bơ v.v., sau khi đã sôi một lần, được phép đun lại vì việc nấu lại đã được cho phép.

Imā pana kappiyakuṭiyo kadā jahitavatthukā honti? Ussāvanantikā tāva yā thambhānaṃ upari bhittipāde vā nikhanitvā katā, sā sabbesu thambhesu ca bhittipādesu ca apanītesu jahitavatthukā hoti. Sace pana thambhe vā bhittipāde vā parivattenti, yo yo ṭhito, tattha tattha patiṭṭhāti, sabbesupi parivattitesu ajahitavatthukāva hoti. Iṭṭhakādīhi katā cayassa upari bhittiatthāya ṭhapitaṃ iṭṭhakaṃ vā silaṃ vā mattikāpiṇḍaṃ vā ādiṃ katvā vināsitakāle jahitavatthukāva hoti. Yehi pana iṭṭhakādīhi adhiṭṭhitā, tesu apanītesupi tadaññesu patiṭṭhātīti ajahitavatthukāva hoti. Gonisādikā pākārādīhi parikkhepe kate jahitavatthukāva hoti. Puna tasmiṃ ārāme kappiyakuṭiṃ laddhuṃ vaṭṭati. Sace pana punapi pākārādayo tattha tattha khaṇḍā honti, tato tato gāvo pavisanti, puna kappiyakuṭi hoti. Itarā pana dve gopānasīmattaṃ ṭhapetvā sabbasmiṃ chadane vinaṭṭhe jahitavatthukāva honti. Sace gopānasīnaṃ upari ekampi pakkhapāsakamaṇḍalaṃ atthi, rakkhati.
Nhưng khi nào thì các am thất hợp lệ này bị mất tư cách? Đối với khu vực được tác thành bằng lời tuyên bố, loại được xây trên các cột hoặc trên móng tường, khi tất cả các cột và móng tường bị dỡ bỏ, nó sẽ mất tư cách. Nhưng nếu người ta thay đổi các cột hoặc móng tường, cột nào còn đứng vững thì nó vẫn đứng ở đó, dù tất cả đều được thay đổi thì nó vẫn không mất tư cách. Đối với loại làm bằng gạch v.v., khi viên gạch, tảng đá, hoặc cục đất được đặt làm móng cho bức tường bị phá hủy, nó sẽ mất tư cách. Nhưng nếu những viên gạch v.v. đã được tác ý bị dỡ bỏ mà nó vẫn đứng vững trên những viên khác, thì nó vẫn không mất tư cách. Đối với khu vực không rào chắn, khi được rào quanh bằng tường rào v.v., nó sẽ mất tư cách. Sau đó, trong khuôn viên chùa đó lại được phép có một am thất hợp lệ. Nhưng nếu tường rào v.v. lại bị hư hỏng ở chỗ này chỗ kia, bò có thể đi vào từ những chỗ đó, thì nó lại trở thành khu vực hợp lệ. Hai loại còn lại, khi toàn bộ mái che bị phá hủy, chỉ còn lại các vì kèo chính, thì chúng sẽ mất tư cách. Nếu trên các vì kèo còn có dù chỉ một tấm lợp, thì nó vẫn được bảo vệ.

103. Yatra panimā catassopi kappiyabhūmiyo natthi, tattha kiṃ kātabbanti? Anupasampannassa datvā tassa santakaṃ katvā paribhuñjitabbaṃ. Tatridaṃ vatthu – karavikatissatthero kira vinayadharapāmokkho mahāsīvattherassa santikaṃ agamāsi. So dīpālokena sappikumbhaṃ passitvā ‘‘bhante, kimeta’’nti pucchi. Thero ‘‘āvuso, gāmato sappikumbho ābhato lūkhadivase sappinā bhuñjanatthāyā’’ti āha. Tato naṃ tissatthero ‘‘na vaṭṭati, bhante’’ti āha. Thero punadivase pamukhe nikkhipāpesi. Tissatthero puna ekadivasaṃ āgato taṃ disvā tatheva pucchitvā ‘‘bhante, sahaseyyappahonakaṭṭhāne ṭhapetuṃ na vaṭṭatī’’ti āha. Thero punadivase bahi nīharāpetvā nikkhipāpesi, taṃ corā hariṃsu. So puna ekadivasaṃ āgataṃ tissattheramāha ‘‘āvuso, tayā ‘na vaṭṭatī’ti vutte so kumbho bahi nikkhitto corehi haṭo’’ti. Tato naṃ tissatthero āha ‘‘nanu, bhante, anupasampannassa dātabbo assa, anupasampannassa hi datvā tassa santakaṃ katvā paribhuñjituṃ vaṭṭatī’’ti.
103. Vậy ở nơi không có cả bốn khu vực hợp lệ này, phải làm gì? Phải cho một người chưa thọ Cụ túc giới, làm thành sở hữu của người đó, rồi mới thọ dụng. Có câu chuyện này – nghe nói rằng, trưởng lão Karavikatissatthero, một bậc thầy về giới luật, đã đến thăm trưởng lão Mahāsīvatthero. Dưới ánh đèn, ngài thấy một hũ bơ sữa đã lọc và hỏi: “Thưa ngài, đây là gì vậy?” Trưởng lão trả lời: “Thưa hiền hữu, đó là hũ bơ sữa đã lọc được mang từ làng về để dùng vào những ngày ăn kham khổ.” Bấy giờ, trưởng lão Tissatthero nói: “Thưa ngài, điều đó không được phép.” Ngày hôm sau, trưởng lão cho đặt hũ đó ở ngoài hiên. Một hôm khác, trưởng lão Tissatthero lại đến, thấy vậy và hỏi như trước, rồi nói: “Thưa ngài, không được phép để ở nơi có thể ở chung.” Ngày hôm sau, trưởng lão cho mang ra ngoài và đặt ở đó, thì bị trộm lấy mất. Lần khác, ngài nói với trưởng lão Tissatthero khi ngài đến: “Thưa hiền hữu, vì thầy nói ‘không được phép’, nên hũ đó đã được đặt ra ngoài và bị trộm lấy mất.” Bấy giờ, trưởng lão Tissatthero nói với ngài: “Thưa ngài, lẽ ra phải cho một người chưa thọ Cụ túc giới, vì sau khi cho một người chưa thọ Cụ túc giới, làm thành sở hữu của người đó, rồi thọ dụng thì được phép.”

Iti pāḷimuttakavinayavinicchayasaṅgahe

Như thế này trong Tập hợp phân tích giới luật ngoài Tam Tạng Pāḷi,

Kappiyabhūmivinicchayakathā samattā.

Lời Thuyết Về Sự Quyết Định các Khu Vực Hợp Lệ đã chấm dứt.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang