Phụ Chú Giải Tập Yếu Luật Tạng – 22. Luận giải các quy định giới luật liên quan đến việc xuất gia
22. Pabbajjāvinicchayakathā
22. Câu chuyện về sự thẩm định việc xuất gia
123. Pabbajjāti ettha pana pabbajjāpekkhaṃ kulaputtaṃ pabbājentena ye pāḷiyaṃ ‘‘na bhikkhave pañcahi ābādhehi phuṭṭho pabbājetabbo’’tiādinā (mahāva. 89) paṭikkhittā puggalā, te vajjetvā pabbajjādosavirahito puggalo pabbājetabbo. Tatrāyaṃ vinicchayo (mahāva. aṭṭha. 88) – kuṭṭhaṃ gaṇḍo kilāso soso apamāroti imehi pañcahi ābādhehi phuṭṭho na pabbājetabbo, pabbājento pana dukkaṭaṃ āpajjati ‘‘yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti vuttattā. Tattha kuṭṭhanti rattakuṭṭhaṃ vā hotu kāḷakuṭṭhaṃ vā, yaṃ kiñci kiṭibhadaddaukacchuādippabhedampi sabbaṃ kuṭṭhamevāti vuttaṃ. Tañce nakhapiṭṭhippamāṇampi vaḍḍhanakapakkhe ṭhitaṃ hoti, na pabbājetabbo. Sace pana nivāsanapāvuraṇehi pakatipaṭicchannaṭṭhāne nakhapiṭṭhippamāṇaṃ avaḍḍhanakapakkhe ṭhitaṃ hoti, vaṭṭati. ‘‘Mukhe pana hatthapādapiṭṭhīsu vā sacepi avaḍḍhanakapakkhe ṭhitaṃ, nakhapiṭṭhito ca khuddakatarampi na vaṭṭatiyevā’’ti kurundiyaṃ vuttaṃ. Tikicchāpetvā pabbājentenapi pakativaṇṇe jāteyeva pabbājetabbo, godhāpiṭṭhisadisacuṇṇaokiraṇasarīrampi pabbājetuṃ na vaṭṭati.
123. Xuất gia: Ở đây, khi cho một thiện gia nam tử mong cầu xuất gia được xuất gia, vị ấy nên tránh xa những hạng người đã bị từ chối trong Pāḷi qua câu ‘Này các Tỳ-khưu, không nên cho người bị mắc phải năm loại bệnh tật được xuất gia’ v.v… (Đại Phẩm, 89), và chỉ nên cho người không có các khuyết điểm về việc xuất gia được xuất gia. Về điều ấy, đây là sự thẩm định (Đại Phẩm Chú Giải, 88) – người bị mắc phải năm loại bệnh tật này: bệnh cùi (phong), ung nhọt, bạch biến, lao phổi, và động kinh thì không nên được cho xuất gia. Vị nào cho xuất gia thì phạm tội Tác Ác do đã được nói rằng: ‘Vị nào cho xuất gia, phạm tội Tác Ác.’ Ở đây, bệnh cùi (phong) nghĩa là dù là phong đỏ hay phong đen, bất cứ loại nào, kể cả các loại như ghẻ lở, hắc lào, chàm v.v… đều được gọi là bệnh cùi. Nếu bệnh đó dù chỉ bằng móng tay và đang trong giai đoạn phát triển, thì không nên cho xuất gia. Tuy nhiên, nếu ở nơi kín đáo được che đậy bởi y phục, bệnh chỉ bằng móng tay và không trong giai đoạn phát triển, thì được phép. Trong sách Kurundī có nói: “Còn ở trên mặt, mu bàn tay hoặc mu bàn chân, dù không trong giai đoạn phát triển, và dù nhỏ hơn móng tay, cũng đều không được phép.” Vị nào cho xuất gia sau khi chữa trị thì phải đợi đến khi da trở lại màu sắc bình thường mới được cho xuất gia; người có thân thể đầy vảy như da kỳ đà cũng không được phép cho xuất gia.
Gaṇḍoti medagaṇḍo vā hotu añño vā, yo koci kolaṭṭhimattakopi ce vaḍḍhanakapakkhe ṭhito gaṇḍo hoti, na pabbājetabbo. Paṭicchannaṭṭhāne pana kolaṭṭhimatte avaḍḍhanakapakkhe ṭhite vaṭṭati, mukhādike appaṭicchannaṭṭhāne avaḍḍhanakapakkhe ṭhitepi na vaṭṭati. Tikicchāpetvā pabbājentenapi sarīraṃ sacchaviṃ kārāpetvā pabbājetabbo. Uṇṇigaṇḍā nāma honti gothanakā viya aṅgulikā viya ca tattha tattha lambanti, etepi gaṇḍāyeva, tesu sati pabbājetuṃ na vaṭṭati. Daharakāle khīrapīḷakā yobbannakāle ca mukhe kharapīḷakā nāma honti, mahallakakāle nassanti, na tā gaṇḍasaṅkhyaṃ gacchanti, tāsu sati pabbājetuṃ vaṭṭati. Aññā pana sarīre kharapīḷakā nāma, aparā padumakaṇṇikā nāma honti, aññā sāsapabījakā nāma sāsapamattāyeva sakalasarīraṃ pharanti, sabbā kuṭṭhajātikāva, tāsu sati na pabbājetabbo.
Ung nhọt nghĩa là dù là bướu mỡ hay loại khác, bất cứ loại ung nhọt nào, dù chỉ bằng hột táo và đang trong giai đoạn phát triển, cũng không nên cho xuất gia. Tuy nhiên, ở nơi kín đáo, nếu khối u bằng hột táo và không trong giai đoạn phát triển thì được phép; ở những nơi không che đậy như mặt v.v… dù không trong giai đoạn phát triển cũng không được phép. Vị nào cho xuất gia sau khi chữa trị thì phải làm cho thân thể trở lại bình thường rồi mới cho xuất gia. Có những loại gọi là bướu thịt, chúng lủng lẳng chỗ này chỗ kia như vú bò hoặc như ngón tay, chúng cũng là ung nhọt, nếu có những thứ ấy thì không được phép cho xuất gia. Lúc còn nhỏ có mụn sữa, lúc tuổi dậy thì có mụn trứng cá trên mặt, đến lúc già thì chúng biến mất, những thứ đó không được tính là ung nhọt, có chúng thì được phép cho xuất gia. Lại có những loại mụn nhọt trên cơ thể, loại khác gọi là mụn cóc hoa sen, loại khác nữa gọi là mụn hột cải, chỉ bằng hột cải nhưng lan khắp toàn thân; tất cả đều thuộc loại bệnh cùi, có chúng thì không nên cho xuất gia.
Kilāsoti na bhijjanakaṃ na paggharaṇakaṃ padumapuṇḍarīkapattavaṇṇaṃ kuṭṭhaṃ. Yena gunnaṃ viya sabalaṃ sarīraṃ hoti, tasmiṃ kuṭṭhe vuttanayeneva vinicchayo veditabbo. Sosoti sosabyādhi. Tasmiṃ sati na pabbājetabbo. Apamāroti pittummādo vā yakkhummādo vā. Tattha pubbaverikena amanussena gahito duttikiccho hoti, appamattakepi pana apamāre sati na pabbājetabbo.
Bạch biến là một loại bệnh cùi không vỡ, không chảy mủ, có màu như lá sen hay lá súng trắng. Người có thân thể loang lổ như bò bị bệnh này, sự thẩm định về bệnh ấy nên được hiểu theo cách đã nói. Lao phổi là bệnh ho lao. Có bệnh này thì không nên cho xuất gia. Động kinh là chứng điên do mật hoặc chứng điên do quỷ ám. Trong đó, người bị phi nhân là kẻ thù cũ ám thì khó chữa trị; dù chỉ bị động kinh nhẹ cũng không nên cho xuất gia.
124. ‘‘Na, bhikkhave, rājabhaṭo pabbājetabbo, yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 90) rājabhaṭopi na pabbājetabbo. Ettha ca amacco vā hotu mahāmatto vā sevako vā kiñci ṭhānantaraṃ patto vā appatto vā, yo koci rañño bhattavetanabhaṭo, sabbo rājabhaṭoti saṅkhyaṃ gacchati, so na pabbājetabbo. Tassa pana puttanattabhātukā ye rājato bhattavetanaṃ na gaṇhanti, te pabbājetuṃ vaṭṭati. Yo pana rājato laddhaṃ nibaddhabhogaṃ vā māsasaṃvaccharaparibbayaṃ vā raññoyeva niyyādeti, puttabhātuke vā taṃ ṭhānaṃ sampaṭicchāpetvā rājānaṃ ‘‘na dānāhaṃ devassa bhaṭo’’ti āpucchati, yena vā yaṃkāraṇā vetanaṃ gahitaṃ, taṃ kammaṃ kataṃ hoti, yo vā ‘‘pabbajassū’’ti raññā anuññāto hoti, tampi pabbājetuṃ vaṭṭati.
124. “Này các Tỳ-khưu, không nên cho quan chức của vua xuất gia, vị nào cho xuất gia, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 90) Quan chức của vua cũng không nên được cho xuất gia. Ở đây, dù là đại thần, quan lớn, hay người hầu, dù đã đạt được địa vị nào đó hay chưa, bất cứ ai là người hưởng lương bổng của vua đều được kể là quan chức của vua, người ấy không nên được cho xuất gia. Tuy nhiên, con, cháu, anh em của người ấy, những người không nhận lương bổng từ vua, thì được phép cho xuất gia. Còn người nào trả lại cho vua bổng lộc cố định hay chi phí hàng tháng, hàng năm đã nhận từ vua, hoặc giao lại địa vị đó cho con hay anh em, rồi xin phép vua rằng: “Từ nay, thần không còn là người của đức vua nữa,” hoặc người đã hoàn thành công việc mà vì đó mình nhận lương, hoặc người được vua cho phép “Hãy xuất gia đi,” những người như vậy cũng được phép cho xuất gia.
125. Coropi dhajabandho na pabbājetabbo ‘‘na, bhikkhave, dhajabandho coro pabbājetabbo, yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 91) vuttattā. Tattha dhajaṃ bandhitvā viya vicaratīti dhajabandho, mūladevādayo viya loke pākaṭoti vuttaṃ hoti. Tasmā yo gāmaghātaṃ vā panthaduhanaṃ vā nagare sandhicchedādikammaṃ vā karonto vicarati, paññāyati ca ‘‘asuko nāma idaṃ idaṃ karotī’’ti, so na pabbājetabbo. Yo pana rājaputto rajjaṃ patthento gāmaghātādīni karoti, so pabbājetabbo. Rājāno hi tasmiṃ pabbajite tussanti, sace pana na tussanti, na pabbājetabbo. Pubbe mahājane pākaṭo coro pacchā corakammaṃ pahāya pañca sīlāni samādiyati, tañce manussā evaṃ jānanti, pabbājetabbo. Ye pana ambalabujādicorakā sandhicchedādicorā eva vā adissamānā theyyaṃ karonti, pacchāpi ‘‘iminā nāma idaṃ kata’’nti na paññāyanti, tepi pabbājetuṃ vaṭṭati.
125. Tên cướp trứ danh cũng không được cho xuất gia, vì đã có lời dạy rằng: “Này các Tỳ-khưu, không được cho tên cướp trứ danh xuất gia; vị nào cho xuất gia, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 91). Ở đây, trứ danh có nghĩa là kẻ đi lại như thể trương cờ, được hiểu là kẻ nổi tiếng trong thiên hạ như Mūladeva và những tên khác. Do đó, kẻ nào đi cướp làng, chặn đường, hoặc thực hiện các hành vi như khoét vách trong thành phố, và bị nhận diện là “người tên là X đã làm việc này việc nọ”, thì không được cho xuất gia. Tuy nhiên, nếu một hoàng tử mưu cầu vương vị mà thực hiện các hành vi cướp làng, thì được phép cho xuất gia. Các vị vua thường hoan hỷ khi người ấy xuất gia; nhưng nếu họ không hoan hỷ, thì không được cho xuất gia. Một tên cướp từng nổi tiếng trong dân chúng, sau đó từ bỏ hành vi trộm cướp và thọ trì năm giới, nếu dân chúng biết như vậy, thì có thể cho xuất gia. Còn những tên cướp vặt như trộm xoài, trộm mít, hoặc những tên cướp khoét vách, hành nghề trộm cắp một cách kín đáo, và sau đó không bị nhận diện là “người tên là X đã làm việc này”, thì cũng được phép cho xuất gia.
126. Kārabhedako pana coro na pabbājetabbo ‘‘na, bhikkhave, kārabhedako coro pabbājetabbo, yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 92) vuttattā. Tattha kāro vuccati bandhanāgāraṃ. Idha pana andubandhanaṃ vā hotu saṅkhalikabandhanaṃ vā rajjubandhanaṃ vā gāmabandhanaṃ vā nigamabandhanaṃ vā nagarabandhanaṃ vā purisagutti vā janapadabandhanaṃ vā dīpabandhanaṃ vā, yo etesu yaṃ kiñci bandhanaṃ bhinditvā vā chinditvā vā muñcitvā vā vivaritvā vā apassamānānaṃ vā palāyati, so kārabhedakoti saṅkhyaṃ gacchati. Tasmā īdiso kārabhedako coro dīpabandhanaṃ bhinditvā dīpantaraṃ gatopi na pabbājetabbo. Yo pana na coro, kevalaṃ hatthakammaṃ akaronto ‘‘evaṃ no apalāyanto karissatī’’ti rājayuttādīhi baddho, so kāraṃ bhinditvā palātopi pabbājetabbo. Yo pana gāmanigamapaṭṭanādīni keṇiyā gahetvā taṃ asampādento bandhanāgāraṃ pavesito hoti, sopi palāyitvā āgato na pabbājetabbo. Yopi kasikammādīhi dhanaṃ sampādetvā jīvanto ‘‘nidhānaṃ iminā laddha’’nti pesuññaṃ upasaṃharitvā kenaci bandhāpito hoti, taṃ tattheva pabbājetuṃ na vaṭṭati, palāyitvā gataṃ pana gataṭṭhāne pabbājetuṃ vaṭṭati.
126. Còn tên cướp vượt ngục thì không được cho xuất gia, vì đã có lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được cho tên cướp vượt ngục xuất gia; vị nào cho xuất gia, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 92). Ở đây, “kārā” được gọi là nhà tù. Ở đây, dù là bị cùm tay, cùm chân, trói bằng dây thừng, giam ở làng, giam ở thị trấn, giam ở thành phố, bị quản thúc cá nhân, giam ở quận, hay giam ở đảo; kẻ nào phá, cắt, cởi, mở bất kỳ hình thức giam giữ nào trong số đó, hoặc trốn thoát khỏi sự canh gác, thì được kể là kẻ vượt ngục. Do đó, một tên cướp vượt ngục như vậy, dù đã phá vỡ sự giam giữ ở đảo và đi đến một hòn đảo khác, cũng không được cho xuất gia. Tuy nhiên, người nào không phải là cướp, chỉ vì không chịu làm việc chân tay mà bị các quan chức của vua bắt giam với ý nghĩ “làm vậy nó sẽ không trốn mà làm việc”, người đó dù phá ngục trốn thoát cũng được phép cho xuất gia. Người nào thuê mướn làng, thị trấn, thành phố v.v… rồi không hoàn thành hợp đồng mà bị bỏ tù, người đó nếu trốn thoát đến cũng không được cho xuất gia. Cả người nào sống bằng nghề nông v.v… rồi bị ai đó vu khống là “người này tìm được kho báu” mà bị bắt giam, không được phép cho người đó xuất gia ngay tại đó; nhưng nếu người đó trốn thoát và đi đến nơi khác, thì được phép cho xuất gia tại nơi đã đến.
127. ‘‘Na, bhikkhave, likhitako coro pabbājetabbo, yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 93) likhitako coro na pabbājetabbo. Tattha likhitako nāma yo koci corikaṃ vā aññaṃ vā garuṃ rājāparādhaṃ katvā palāto, rājā ca naṃ paṇṇe vā potthake vā ‘‘itthannāmo yattha dissati, tattha gahetvā māretabbo’’ti vā ‘‘hatthapādādīni assa chinditabbānī’’ti vā ‘‘ettakaṃ nāma daṇḍaṃ āharāpetabbo’’ti vā likhāpeti, ayaṃ likhitako nāma, so na pabbājetabbo.
127. “Này các Tỳ-khưu, không được cho tên cướp bị truy nã xuất gia; vị nào cho xuất gia, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 93) Tên cướp bị truy nã không được cho xuất gia. Ở đây, bị truy nã là bất kỳ ai đã phạm tội trộm cắp hoặc một tội nặng khác đối với nhà vua rồi bỏ trốn, và nhà vua ra lệnh ghi trên giấy hoặc trong sổ sách rằng “ai thấy người có tên này ở đâu thì bắt và giết đi”, hoặc “phải chặt tay chân của nó”, hoặc “phải phạt nó một số tiền nhất định”, người này được gọi là kẻ bị truy nã, không được cho xuất gia.
128. Kasāhato katadaṇḍakammopi na pabbājetabbo ‘‘na, bhikkhave, kasāhato katadaṇḍakammo pabbājetabbo, yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 94) anuyāya. Ettha pana yo vacanapesanādīni akaronto haññati, na so katadaṇḍakammo. Yo pana keṇiyā vā aññathā vā kiñci gahetvā khāditvā puna dātuṃ asakkonto ‘‘ayameva te daṇḍo hotū’’ti kasāhi haññati, ayameva kasāhato katadaṇḍakammo. So ca kasāhi vā hato hotu aḍḍhadaṇḍakādīnaṃ vā aññatarena, yāva allavaṇo hoti, na tāva pabbājetabbo, vaṇe pana pākatike katvā pabbājetabbo. Sace pana jāṇūhi vā kapparehi vā nāḷikerapāsāṇādīhi vā ghātetvā mutto hoti, sarīre cassa gaṇṭhiyo paññāyanti, na pabbājetabbo, phāsukaṃ katvā eva gaṇṭhīsu sannisinnāsu pabbājetabbo.
128. Người đã bị đánh bằng roi và chịu hình phạt cũng không được cho xuất gia, theo lời dạy “Này các Tỳ-khưu, không được cho người bị đánh bằng roi và chịu hình phạt xuất gia; vị nào cho xuất gia, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 94). Ở đây, người nào bị đánh vì không tuân theo lời sai bảo thì không phải là người đã chịu hình phạt. Nhưng người nào thuê mướn hoặc bằng cách khác lấy thứ gì đó rồi dùng hết, không thể trả lại, bị đánh bằng roi và nói rằng “đây là hình phạt của ngươi”, người này chính là người bị đánh bằng roi và chịu hình phạt. Người đó, dù bị đánh bằng roi hay bằng các loại hình phạt khác như đánh nửa chừng, chừng nào vết thương còn tươi thì chưa được cho xuất gia; khi vết thương đã lành hẳn thì có thể cho xuất gia. Nếu người đó bị đánh bằng đầu gối, cùi chỏ, dừa, đá v.v… rồi được thả ra, và trên người có những vết sưng, thì không được cho xuất gia; chỉ khi các vết sưng đã xẹp xuống, ổn định rồi mới được cho xuất gia.
129. Lakkhaṇāhato pana katadaṇḍakammo na pabbājetabbo ‘‘na, bhikkhave, lakkhaṇahato katadaṇḍakammo pabbājetabbo, yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 95) anuyāya. Etthapi katadaṇḍakammabhāvo purimanayeneva veditabbo. Yassa pana nalāṭe vā ūruādīsu vā tattena lohena lakkhaṇaṃ āhataṃ hoti, so sace bhujisso, yāva allavaṇo hoti, tāva na pabbājetabbo. Sacepissa vaṇā ruḷhā honti chaviyā samaparicchedā, lakkhaṇaṃ na paññāyati, timaṇḍalaṃ nivatthassa uttarāsaṅge kate paṭicchannokāse ce hoti, pabbājetuṃ vaṭṭati, appaṭicchannokāse ce, na vaṭṭati.
129. Còn người đã chịu hình phạt bị đóng dấu thì không được cho xuất gia, theo lời dạy “Này các Tỳ-khưu, không được cho người đã chịu hình phạt bị đóng dấu xuất gia; vị nào cho xuất gia, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 95). Ở đây, việc chịu hình phạt cũng được hiểu theo cách đã nói trước đó. Người nào bị đóng dấu bằng sắt nung trên trán hoặc đùi v.v…, nếu người đó là người tự do, chừng nào vết thương còn tươi thì chưa được cho xuất gia. Nếu vết thương của người đó đã lành, bằng phẳng với da, không còn thấy dấu hiệu, và khi mặc y che ba vòng (timaṇḍala), khoác thượng y thì dấu đó được che kín, thì được phép cho xuất gia; nếu ở chỗ không che kín, thì không được phép.
130. ‘‘Na, bhikkhave, iṇāyiko pabbājetabbo, yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 96) anuyāya iṇāyikopi na pabbājetabbo. Tattha iṇāyiko nāma yassa pitipitāmahehi vā iṇaṃ gahitaṃ hoti, sayaṃ vā iṇaṃ gahitaṃ hoti, yaṃ vā āṭhapetvā mātāpitūhi kiñci gahitaṃ hoti, so taṃ iṇaṃ paresaṃ dhāretīti iṇāyiko. Yaṃ pana aññe ñātakā āṭhapetvā kiñci gaṇhanti, so na iṇāyiko. Na hi te taṃ āṭhapetuṃ issarā, tasmā taṃ pabbājetuṃ vaṭṭati, itaraṃ na vaṭṭati. Sace panassa ñātisālohitā ‘‘mayaṃ dassāma, pabbājetha na’’nti iṇaṃ attano bhāraṃ karonti, añño vā koci tassa ācārasampattiṃ disvā ‘‘pabbājetha naṃ, ahaṃ iṇaṃ dassāmī’’ti vadati, pabbājetuṃ vaṭṭati. Tesu asati bhikkhunā tathārūpassa upaṭṭhākassapi ārocetabbaṃ ‘‘sahetuko satto iṇapalibodhena na pabbajatī’’ti. Sace so paṭipajjati, pabbājetabbo. Sacepi attano kappiyabhaṇḍaṃ atthi, ‘‘etaṃ dassāmī’’ti pabbājetabbo. Sace pana neva ñātakādayo paṭipajjanti, na attano dhanaṃ atthi, ‘‘pabbājetvā bhikkhāya caritvā mocessāmī’’ti pabbājetuṃ na vaṭṭati. Sace pabbājeti, dukkaṭaṃ. Palātopi ānetvā dātabbo. No ce deti, sabbaṃ iṇaṃ gīvā hoti. Ajānitvā pabbājayato anāpatti, passantena pana ānetvā iṇasāmikānaṃ dassetabbo, apassantassa gīvā na hoti.
130. “Này các Tỳ-khưu, không được cho người mắc nợ xuất gia; vị nào cho xuất gia, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 96) theo đó, người mắc nợ cũng không được cho xuất gia. Ở đây, người mắc nợ là người có món nợ do cha ông để lại, hoặc tự mình vay nợ, hoặc cha mẹ đã đứng tên bảo lãnh để vay mượn, người đó mắc nợ người khác nên gọi là người mắc nợ. Còn người nào mà các bà con khác đứng tên bảo lãnh để vay mượn, người đó không phải là người mắc nợ. Vì họ không có quyền bảo lãnh cho người đó, do đó có thể cho người đó xuất gia, còn trường hợp kia thì không được. Tuy nhiên, nếu bà con thân thuộc của người đó nói rằng “chúng tôi sẽ trả, xin hãy cho người này xuất gia” và nhận món nợ về phần mình, hoặc có người khác thấy tư cách đạo đức của người đó mà nói “xin hãy cho vị này xuất gia, tôi sẽ trả nợ”, thì được phép cho xuất gia. Nếu không có những người đó, Tỳ-khưu nên báo cho thí chủ của người có duyên đó biết rằng “người có duyên này không thể xuất gia vì vướng bận nợ nần”. Nếu người đó nhận lời, thì nên cho xuất gia. Nếu người đó có tài sản hợp pháp của mình, thì nên cho xuất gia với ý định “tôi sẽ dùng cái này để trả”. Nhưng nếu cả bà con v.v… đều không nhận trả, và bản thân không có tài sản, thì không được phép cho xuất gia với ý nghĩ “cho xuất gia rồi đi khất thực để trả nợ”. Nếu cho xuất gia, phạm tội Tác Ác. Dù người đó bỏ trốn cũng phải mang về trả. Nếu không trả, toàn bộ món nợ sẽ thuộc về mình. Nếu cho xuất gia mà không biết thì không có tội, nhưng khi thấy thì phải mang trả cho chủ nợ; nếu không thấy thì không phải chịu trách nhiệm.
Sace iṇāyiko aññaṃ desaṃ gantvā pucchiyamānopi ‘‘nāhaṃ kassaci kiñci dhāremī’’ti vatvā pabbajati, iṇasāmiko ca taṃ pariyesanto tattha gacchati, daharo taṃ disvā palāyati, so theraṃ upasaṅkamitvā ‘‘ayaṃ, bhante, kena pabbājito, mama ettakaṃ nāma dhanaṃ gahetvā palāto’’ti vadati, therena vattabbaṃ ‘‘mayā, upāsaka, ‘aṇaṇo aha’nti vadanto pabbājito, kiṃ dāni karomi, passa me pattacīvara’’nti. Ayaṃ tattha sāmīci. Palāte pana gīvā na hoti. Sace pana naṃ therassa sammukhāva disvā ‘‘ayaṃ mama iṇāyiko’’ti vadati, ‘‘tava iṇāyikaṃ tvameva jānāhī’’tio, evampi gīvā na hoti. Sacepi so ‘‘pabbajito ayaṃ dāni kuhiṃ gamissatī’’ti vadati, therena ‘‘tvaṃyeva jānāhī’’tio. Evampissa palāte gīvā na hoti. Sace pana thero ‘‘kuhiṃ dāni ayaṃ gamissati, idheva acchatū’’ti vadati, so ce palāyati, gīvā hoti. Sace so sahetuko satto hoti vattasampanno, therena ‘‘īdiso aya’’nti vattabbaṃ. Iṇasāmiko ce ‘‘sādhū’’ti vissajjeti, iccetaṃ kusalaṃ, ‘‘upaḍḍhupaḍḍhaṃ dethā’’ti vadati, dātabbaṃ. Aparena samayena atiārādhako hoti, ‘‘sabbaṃ dethā’’ti vuttepi dātabbameva. Sace pana uddesaparipucchādīsu kusalo hoti bahūpakāro bhikkhūnaṃ, bhikkhācāravattena pariyesitvāpi iṇaṃ dātabbameva.
Nếu một người mắc nợ đi đến một xứ khác, khi được hỏi cũng nói rằng “tôi không nợ ai bất cứ thứ gì” rồi xuất gia, và chủ nợ tìm kiếm người đó rồi đến đó, chú tiểu thấy người đó liền bỏ trốn. Người đó đến gặp vị trưởng lão và nói: “Thưa ngài, ai đã cho người này xuất gia? Anh ta đã lấy của tôi một số tiền rồi bỏ trốn.” Vị trưởng lão nên nói: “Thưa cư sĩ, tôi đã cho người này xuất gia vì anh ta nói ‘tôi không có nợ’, bây giờ tôi biết làm gì, hãy xem y bát của tôi đây.” Đây là cách xử sự đúng đắn trong trường hợp đó. Khi người đó bỏ trốn thì không phải chịu trách nhiệm. Nếu người đó thấy con nợ ngay trước mặt trưởng lão và nói “đây là con nợ của tôi”, vị trưởng lão nói “con nợ của ông thì ông tự biết”, như vậy cũng không phải chịu trách nhiệm. Nếu người đó nói “bây giờ anh ta đã xuất gia, sẽ đi đâu được nữa”, trưởng lão nói “ông tự biết”, như vậy, khi người đó bỏ trốn, vị trưởng lão cũng không phải chịu trách nhiệm. Nhưng nếu trưởng lão nói “bây giờ nó sẽ đi đâu, cứ ở lại đây đi”, và nếu người đó bỏ trốn, vị trưởng lão phải chịu trách nhiệm. Nếu người đó là người có duyên, có phẩm hạnh, trưởng lão nên nói “người này là như vậy”. Nếu chủ nợ nói “tốt lắm” và cho qua, đó là điều thiện. Nếu nói “hãy trả một nửa”, thì phải trả. Một thời gian sau, người đó trở nên rất đáng quý, dù bị yêu cầu “hãy trả tất cả”, cũng phải trả. Nếu người đó giỏi về việc học thuộc lòng, hỏi đáp v.v…, có nhiều lợi ích cho các Tỳ-khưu, thì dù phải đi khất thực cũng phải tìm cách trả nợ.
131. Dāsopi na pabbājetabbo ‘‘na, bhikkhave, dāso pabbājetabbo, yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 97) anuyāya. Tattha cattāro dāsā antojāto dhanakkīto karamarānīto sāmaṃ dāsabyaṃ upagatoti. Tattha antojāto nāma jātiyā dāso gharadāsiyā putto. Dhanakkīto nāma mātāpitūnaṃ santikā putto vā sāmikānaṃ santikā dāso vā dhanaṃ datvā dāsacārittaṃ āropetvā kīto. Ete dvepi na pabbājetabbā. Pabbājentena tattha tattha cārittavasena adāse katvā pabbājetabbā. Karamarānīto nāma tiroraṭṭhaṃ vilopaṃ vā katvā upalāpetvā vā tiroraṭṭhato bhujissamānusakāni āharanti, antoraṭṭheyeva vā katāparādhaṃ kiñci gāmaṃ rājā ‘‘vilumpathā’’ti ca āṇāpeti, tato mānusakānipi āharanti, tattha sabbe purisā dāsā, itthiyo dāsiyo. Evarūpo karamarānīto dāso yehi ānīto, tesaṃ santike vasanto vā bandhanāgāre baddho vā purisehi rakkhiyamāno vā na pabbājetabbo, palāyitvā pana gato gataṭṭhāne pabbājetabbo. Raññā tuṭṭhena ‘‘karamarānītake muñcathā’’ti vatvā vā sabbasādhāraṇena vā nayena bandhanamokkhe kate pabbājetabbova.
131. Người nô lệ cũng không được cho xuất gia, theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được cho nô lệ xuất gia; vị nào cho xuất gia, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 97). Ở đây, có bốn loại nô lệ: sinh ra trong nhà, mua bằng tiền, bị bắt làm tù binh, và tự nguyện làm nô lệ. Trong đó, sinh ra trong nhà là nô lệ từ khi sinh ra, là con của nữ nô lệ trong nhà. Mua bằng tiền là người được mua từ cha mẹ hoặc từ chủ nô, trả tiền để biến họ thành nô lệ. Cả hai loại này đều không được cho xuất gia. Khi cho xuất gia, phải làm cho họ trở thành người tự do theo thông lệ ở từng nơi rồi mới cho xuất gia. Bị bắt làm tù binh là những người bị mang về từ nước ngoài sau khi cướp bóc hoặc lừa gạt, những người tự do từ nước ngoài bị mang về. Hoặc trong nước, một làng nào đó phạm tội, vua ra lệnh “hãy cướp phá”, và họ cũng mang người về từ đó; trong đó tất cả đàn ông là nô lệ, đàn bà là nữ nô lệ. Người nô lệ bị bắt làm tù binh như vậy, khi còn sống với những người đã bắt mình, hoặc bị giam trong tù, hoặc bị người canh giữ, thì không được cho xuất gia. Nhưng nếu trốn thoát đến nơi khác, thì được phép cho xuất gia ở nơi đã đến. Khi vua hoan hỷ nói “hãy thả những người bị bắt làm tù binh” hoặc khi có lệnh ân xá chung, thì đương nhiên được phép cho xuất gia.
Sāmaṃ dāsabyaṃ upagato nāma jīvitahetu vā ārakkhahetu vā ‘‘ahaṃ te dāso’’tio dāsabhāvaṃ upagato rājūnaṃ hatthiassagomahiṃsagopakādayo viya. Tādiso dāso na pabbājetabbo. Rañño vaṇṇadāsīnaṃ puttā honti amaccaputtasadisā, tepi na pabbājetabbā. Bhujissitthiyo asaññatā vaṇṇadāsīhi saddhiṃ vicaranti, tāsaṃ putte pabbājetuṃ vaṭṭati. Saceo paṇṇaṃ āropenti, na vaṭṭati. Bhaṭiputtagaṇādīnaṃ dāsāpi tehi adinnā na pabbājetabbā. Vihāresu rājūhi ārāmikadāsā nāma dinnā honti, tepi pabbājetuṃ na vaṭṭati, bhujisse katvā pana pabbājetuṃ vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ ‘‘antojātadhanakkītake ānetvā bhikkhusaṅghassa ‘ārāmike demā’ti denti, takkaṃ sīse āsittakasadisāva honti, te pabbājetuṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Kurundiyaṃ pana ‘‘ārāmikaṃ demāti kappiyavohārena denti, yena kenaci vohārena dinno hotu, neva pabbājetabbo’’ti vuttaṃ. Duggatamanussā ‘‘saṅghaṃ nissāya jīvissāmā’’ti vihāre kappiyakārakā honti, ete pabbājetuṃ vaṭṭati. Yassa mātāpitaro dāsā, mātā eva vā dāsī, pitā adāso, taṃ pabbājetuṃ na vaṭṭati. Yassa pana mātā adāsī, pitā dāso, taṃ pabbājetuṃ vaṭṭati. Bhikkhussa ñātakā vā upaṭṭhākā vā dāsaṃ denti ‘‘imaṃ pabbājetha, tumhākaṃ veyyāvaccaṃ karissatī’’ti, attano vāssa dāso atthi, bhujisso katova pabbājetabbo. Sāmikā dāsaṃ denti ‘‘imaṃ pabbājetha, sace abhiramissati, adāso. Vibbhamissati ce, amhākaṃ dāsova bhavissatī’’ti, ayaṃ tāvakāliko nāma, taṃ pabbājetuṃ na vaṭṭatīti kurundiyaṃ vuttaṃ. Nissāmikadāso hoti, sopi bhujisso katova pabbājetabbo. Ajānanto pabbājetvā upasampādetvā vā pacchā jānanti, bhujissaṃ kātumeva vaṭṭati.
Tự nguyện làm nô lệ là người vì mạng sống hoặc vì được bảo vệ mà chấp nhận làm nô lệ, nói rằng “tôi là nô lệ của ông”, giống như những người chăn voi, ngựa, bò, trâu của vua. Nô lệ như vậy không được cho xuất gia. Con trai của các nữ nô lệ phục vụ vua, dù giống như con của các quan đại thần, cũng không được cho xuất gia. Những phụ nữ tự do không nết na sống chung với các nữ nô lệ phục vụ vua, con của họ được phép cho xuất gia. Nếu họ bị ghi vào sổ, thì không được. Nô lệ của các nhóm lính đánh thuê v.v… nếu không được họ cho phép, cũng không được cho xuất gia. Trong các tu viện, có những người được vua ban tặng làm nô lệ phục vụ tự viện, họ cũng không được phép cho xuất gia; nhưng sau khi làm cho họ thành người tự do thì được phép cho xuất gia. Trong sách Mahāpaccariya nói rằng: “Những người sinh ra trong nhà và bị mua bằng tiền được mang đến dâng cho Tăng đoàn rằng ‘chúng tôi dâng làm người phục vụ tự viện’, họ giống như được đổ sữa đông lên đầu, có thể cho họ xuất gia.” Nhưng trong sách Kurundī lại nói rằng: “Họ dâng với cách nói hợp pháp là ‘chúng tôi dâng làm người phục vụ tự viện’, dù được dâng bằng cách nói nào, cũng không được cho xuất gia.” Những người nghèo khó, với ý nghĩ “chúng ta sẽ sống nương tựa vào Tăng đoàn”, trở thành những người giúp việc hợp pháp trong tu viện, những người này được phép cho xuất gia. Người có cha mẹ là nô lệ, hoặc chỉ có mẹ là nữ nô lệ, cha là người tự do, thì không được phép cho xuất gia. Nhưng người có mẹ là người tự do, cha là nô lệ, thì được phép cho xuất gia. Bà con hoặc thí chủ của một Tỳ-khưu dâng một người nô lệ và nói “xin hãy cho người này xuất gia, anh ta sẽ phục vụ ngài”, hoặc chính vị Tỳ-khưu có nô lệ của mình, thì phải làm cho người đó thành người tự do rồi mới được cho xuất gia. Các chủ nhân dâng một người nô lệ và nói “xin hãy cho người này xuất gia, nếu anh ta thích thú thì sẽ là người tự do. Nếu hoàn tục, anh ta sẽ lại là nô lệ của chúng tôi”, người này được gọi là nô lệ tạm thời, sách Kurundī nói rằng không được phép cho người đó xuất gia. Có người nô lệ không có chủ, người đó cũng phải được làm cho thành người tự do rồi mới được cho xuất gia. Nếu không biết mà cho xuất gia hoặc cho thọ cụ túc giới, sau đó mới biết, thì phải làm cho họ thành người tự do.
Imassa ca atthassa pakāsanatthaṃ idaṃ vatthuṃ vadanti – ekā kira kuladāsī ekena saddhiṃ anurādhapurā palāyitvā rohaṇe vasamānā puttaṃ paṭilabhi, so pabbajitvā upasampannakāle lajjī kukkuccako ahosi. Athekadivasaṃ mātaraṃ pucchi ‘‘kiṃ upāsike tumhākaṃ bhātā vā bhaginī vā natthi, na kiñci ñātakaṃ passāmī’’ti. Tāta, ahaṃ anurādhapure kuladāsī, tava pitarā saddhiṃ palāyitvā idha vasāmīti. Sīlavā bhikkhu ‘‘asuddhā kira me pabbajjā’’ti saṃvegaṃ labhitvā mātaraṃ tassa kulassa nāmagottaṃ pucchitvā anurādhapuraṃ āgamma tassa kulassa gharadvāre aṭṭhāsi, ‘‘aticchatha, bhante’’ti vuttepi nātikkami. Te āgantvā ‘‘kiṃ, bhante’’ti pucchiṃsu. ‘‘Tumhākaṃ itthannāmā dāsī palātā atthī’’ti? ‘‘Atthi, bhante’’. Ahaṃ tassā putto, sace maṃ tumhe anujānātha, pabbajjaṃ labhāmi, tumhe mayhaṃ sāmikāti. Te haṭṭhatuṭṭhā hutvā ‘‘suddhā, bhante, tumhākaṃ pabbajjā’’ti taṃ bhujissaṃ katvā mahāvihāre vasāpesuṃ catūhi paccayehi paṭijaggantā. Thero taṃ kulaṃ nissāya vasamānoyeva arahattaṃ pāpuṇīti.
Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, người ta kể câu chuyện sau đây – Có một nữ nô lệ trong một gia đình quý tộc, cùng với một người đàn ông trốn khỏi Anurādhapura đến sống ở Rohaṇa và sinh được một người con trai. Người con trai đó xuất gia và khi thọ cụ túc giới, vị ấy là người biết hổ thẹn, hay áy náy. Một ngày nọ, vị ấy hỏi mẹ: “Thưa cư sĩ, bà không có anh em hay chị em gì sao, con không thấy có bà con nào cả.” Thưa con, mẹ là nữ nô lệ ở Anurādhapura, đã cùng với cha con trốn đến đây sống. Vị Tỳ-khưu có giới đức, nghĩ rằng “việc xuất gia của ta quả là không trong sạch” liền cảm thấy xúc động, hỏi mẹ về tên họ của gia đình đó, rồi trở về Anurādhapura, đứng ở cửa nhà của gia đình đó. Dù được nói “xin mời vào, thưa ngài”, vị ấy cũng không vào. Họ ra hỏi “có việc gì, thưa ngài?” “Nhà các vị có nữ nô lệ tên là X bỏ trốn không?” “Có, thưa ngài.” “Tôi là con trai của bà ấy, nếu các vị cho phép, tôi mới có thể xuất gia, các vị là chủ của tôi.” Họ vui mừng hoan hỷ, nói rằng “việc xuất gia của ngài là trong sạch, thưa ngài”, rồi làm cho vị ấy thành người tự do và cho ở lại Đại Tự Viện (Mahāvihāra), chăm sóc bằng bốn món vật dụng. Vị trưởng lão nương nhờ gia đình đó mà sống và đã chứng đắc A-la-hán.
132. ‘‘Na, bhikkhave, hatthacchinno pabbājetabbo. Na pādacchinno, na hatthapādacchinno, na kaṇṇacchinno, na kaṇṇanāsacchinno, na aṅgulicchinno, na aḷacchinno, na kaṇḍaracchinno, na phaṇahatthako, na khujjo, na vāmano na galagaṇḍī, na lakkhaṇāhato, na kasāhato, na likhitako, na sīpadī, na pāparogī, na parisadūsako, na kāṇo, na kuṇī, na khañjo, na pakkhahato, na chinniriyāpatho, na jarādubbalo, na andho, na mūgo, na badhiro, na andhamūgo, na andhabadhiro, na mūgabadhiro, na andhamūgabadhiro pabbājetabbo, yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 119) anuyāya pana hatthacchinnādayopi na pabbājetabbā.
132. “Này các Tỳ-khưu, không được cho người bị chặt tay xuất gia. Không cho người bị chặt chân, không cho người bị chặt cả tay và chân, không cho người bị xẻo tai, không cho người bị xẻo cả tai và mũi, không cho người bị chặt ngón tay, không cho người bị chặt ngón tay cái, không cho người bị đứt gân, không cho người có tay dính liền, không cho người gù, không cho người lùn, không cho người có bướu cổ, không cho người bị đóng dấu, không cho người bị đánh bằng roi, không cho người bị truy nã, không cho người bị bệnh chân voi, không cho người có bệnh nan y, không cho người làm ô uế đại chúng, không cho người chột, không cho người què tay, không cho người què chân, không cho người bại liệt, không cho người mất khả năng đi lại, không cho người già yếu, không cho người mù, không cho người câm, không cho người điếc, không cho người vừa mù vừa câm, không cho người vừa mù vừa điếc, không cho người vừa câm vừa điếc, không cho người vừa mù vừa câm vừa điếc xuất gia; vị nào cho xuất gia, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 119) Theo đó, những người bị chặt tay v.v… cũng không được cho xuất gia.
Tattha hatthacchinnoti yassa hatthatale vā maṇibandhe vā kappare vā yattha katthaci eko vā dve vā hatthā chinnā honti. Pādacchinnoti yassa aggapāde vā gopphakesu vā jaṅghāya vā yattha katthaci eko vā dve vā pādā chinnā honti. Hatthapādacchinnoti yassa vuttappakāreneva catūsu hatthapādesu dve vā tayo vā sabbe vā hatthapādā chinnā honti. Kaṇṇacchinnoti yassa kaṇṇamūle vā kaṇṇasakkhalikāya vā eko vā dve vā kaṇṇā chinnā honti. Yassa pana kaṇṇāvaṭṭe chijjanti, sakkā ca hoti saṅghāṭetuṃ, so kaṇṇaṃ saṅghāṭetvā pabbājetabbo. Nāsacchinnoti yassa ajapadake vā agge vā ekapuṭe vā yattha katthaci nāsā chinnā hoti. Yassa pana nāsikā sakkā hoti sandhetuṃ, so taṃ phāsukaṃ katvā pabbājetabbo. Kaṇṇanāsacchinno ubhayavasena veditabbo. Aṅgulicchinnoti yassa nakhasesaṃ adassetvā ekā vā bahū vā aṅguliyo chinnā honti. Yassa pana suttatantumattampi nakhasesaṃ paññāyati, taṃ pabbājetuṃ vaṭṭati. Aḷacchinnoti yassa catūsu aṅguṭṭhakesu aṅguliyaṃ vuttanayeneva eko vā bahū vā aṅguṭṭhakā chinnā honti. Kaṇḍaracchinnoti yassa kaṇḍaranāmakā mahānhārū purato vā pacchato vā chinnā honti, yesu ekassapi chinnattā aggapādena vā caṅkamati, mūlena vā caṅkamati, na pādaṃ patiṭṭhāpetuṃ sakkoti.
Ở đây, người bị chặt tay là người có một hoặc hai tay bị chặt ở lòng bàn tay, cổ tay, cùi chỏ, hoặc bất cứ đâu. Người bị chặt chân là người có một hoặc hai chân bị chặt ở bàn chân, mắt cá, cẳng chân, hoặc bất cứ đâu. Người bị chặt cả tay và chân là người có hai, ba, hoặc tất cả tay chân bị chặt theo cách đã nói. Người bị xẻo tai là người có một hoặc hai tai bị xẻo ở gốc tai hoặc vành tai. Tuy nhiên, người bị rách ở dái tai và có thể khâu lại được, thì sau khi khâu tai lại có thể cho xuất gia. Người bị xẻo mũi là người bị xẻo mũi ở sống mũi, chóp mũi, một bên cánh mũi, hoặc bất cứ đâu. Tuy nhiên, người có thể vá lại mũi, thì sau khi làm cho ổn thỏa có thể cho xuất gia. Người bị xẻo cả tai và mũi được hiểu theo cả hai trường hợp. Người bị chặt ngón tay là người có một hoặc nhiều ngón tay bị chặt mà không còn sót lại móng. Tuy nhiên, người nào còn sót lại móng dù chỉ bằng một sợi chỉ, thì có thể cho xuất gia. Người bị chặt ngón tay cái là người có một hoặc nhiều ngón tay cái bị chặt theo cách đã nói đối với ngón tay. Người bị đứt gân là người có các gân lớn gọi là “kaṇḍara” bị đứt ở phía trước hoặc phía sau, mà khi chỉ một gân bị đứt, người đó phải đi bằng đầu ngón chân hoặc gót chân, không thể đặt bàn chân xuống được.
Phaṇahatthakoti yassa vaggulipakkhakā viya aṅguliyo sambaddhā honti, etaṃ pabbājetukāmena aṅgulantarikāyo phāletvā sabbaṃ antaracammaṃ apanetvā phāsukaṃ katvā pabbājetabbo. Yassapi cha aṅguliyo honti, taṃ pabbājetukāmena adhikaṃ aṅguliṃ chinditvā phāsukaṃ katvā pabbājetabbo. Khujjoti yo urassa vā piṭṭhiyā vā passassa vā nikkhantattā khujjasarīro. Yassa pana kiñci kiñci aṅgapaccaṅgaṃ īsakaṃ vaṅkaṃ, taṃ pabbājetuṃ vaṭṭati. Mahāpuriso eva hi brahmujugatto, avaseso satto akhujjo nāma natthi. Vāmanoti jaṅghavāmano vā kaṭivāmano vā ubhayavāmano vā. Jaṅghavāmanassa kaṭito paṭṭhāya heṭṭhimakāyo rasso hoti, uparimakāyo paripuṇṇo. Kaṭivāmanassa kaṭito paṭṭhāya uparimakāyo rasso hoti, heṭṭhimakāyo paripuṇṇo. Ubhayavāmanassa ubhopi kāyā rassā honti, yesaṃ rassattā bhūtānaṃ viya parivaṭumo mahākucchighaṭasadiso attabhāvo hoti, taṃ tividhampi pabbājetuṃ na vaṭṭati.
Người có tay dính liền là người có các ngón tay dính liền với nhau như cánh dơi. Người muốn cho người này xuất gia, phải tách các kẽ ngón tay, loại bỏ hết phần da ở giữa, làm cho ổn thỏa rồi mới cho xuất gia. Người nào có sáu ngón tay, người muốn cho xuất gia phải cắt bỏ ngón thừa, làm cho ổn thỏa rồi mới cho xuất gia. Người gù là người có thân hình gù do ngực, lưng hoặc hông nhô ra. Tuy nhiên, người nào có một vài bộ phận cơ thể hơi cong một chút, thì có thể cho xuất gia. Chỉ có bậc Đại nhân mới có thân hình thẳng như Phạm thiên, những chúng sinh còn lại không ai là không gù. Người lùn là người lùn cẳng chân, lùn phần eo, hoặc lùn cả hai. Người lùn cẳng chân có phần thân dưới từ eo trở xuống ngắn, phần thân trên đầy đủ. Người lùn phần eo có phần thân trên từ eo trở lên ngắn, phần thân dưới đầy đủ. Người lùn cả hai có cả hai phần thân đều ngắn, do sự ngắn đó mà thân hình của họ tròn trịa như của quỷ, bụng to như cái ghè; cả ba loại này đều không được phép cho xuất gia.
Galagaṇḍīti yassa kumbhaṇḍaṃ viya gale gaṇḍo hoti. Desanāmattameva cetaṃ, yasmiṃ kismiñci pana padese gaṇḍe sati na pabbājetabbo. Tattha vinicchayo ‘‘na, bhikkhave, pañcahi ābādhehi phuṭṭho pabbājetabbo’’ti (mahāva. 89) ettha vuttanayeneva veditabbo. Lakkhaṇāhatakasāhatalikhitakesu yaṃ vattabbaṃ, taṃ heṭṭhā vuttameva. Sīpadīti bhārapādo vuccati. Yassa pādo thūlo hoti sañjātapīḷako kharo, so na pabbājetabbo. Yassa pana na tāva kharabhāvaṃ gaṇhāti, sakkā hoti upanāhaṃ bandhitvā udakaāvāṭe pavesetvā udakavālikāya pūretvā yathā sirā paññāyanti, jaṅghā ca telanāḷikā viya hoti, evaṃ milāpetuṃ, tassa pādaṃ īdisaṃ katvā taṃ pabbājetuṃ vaṭṭati. Sace puna vaḍḍhati, upasampādentenapi tathā katvāva upasampādetabbo. Pāparogīti arisabhagandarapittasemhakāsasosādīsu yena kenaci rogena niccāturo atekiccharogo jeguccho amanāpo, ayaṃ na pabbājetabbo.
Người có bướu cổ là người có bướu ở cổ như quả bầu. Đây chỉ là tên gọi theo địa phương, nhưng nếu có bướu ở bất kỳ bộ phận nào thì không được cho xuất gia. Sự thẩm định ở đây nên được hiểu theo cách đã được nói trong đoạn “Này các Tỳ-khưu, không được cho người bị mắc phải năm loại bệnh tật xuất gia.” (mahāva. 89). Những điều cần nói về người bị đóng dấu, bị đánh bằng roi, bị truy nã đã được nói ở trên. Người bị bệnh chân voi được gọi là người có chân nặng. Người có chân to, sưng đau và chai cứng, thì không được cho xuất gia. Tuy nhiên, người nào chưa đến mức chai cứng, có thể dùng thuốc đắp, ngâm trong chậu nước, đổ đầy nước và cát để các mạch máu hiện ra, cẳng chân trở nên như ống dầu, làm cho chân xẹp xuống như vậy, thì sau khi làm cho chân trở nên như vậy, có thể cho người đó xuất gia. Nếu bệnh tái phát, người cho thọ cụ túc giới cũng phải làm như vậy rồi mới cho thọ. Người có bệnh nan y là người thường xuyên ốm yếu do bất kỳ bệnh nào trong các bệnh như trĩ, rò hậu môn, bệnh do mật, đờm, ho, lao v.v…, là bệnh khó chữa, đáng ghê tởm, khó chịu; người này không được cho xuất gia.
133. Parisadūsakoti yo attano virūpatāya parisaṃ dūseti, atidīgho vā hoti aññesaṃ sīsappamāṇanābhippadeso, atirasso vā ubhayavāmanabhūtarūpaṃ viya, atikāḷo vā jhāpitakkhette khāṇuko viya, accodāto vā dadhitakkādīhi pamajjitatambalohavaṇṇo, atikiso vā mandamaṃsalohito aṭṭhisirācammasarīro viya, atithūlo vā bhāriyamaṃso mahodaro mahābhūtasadiso, abhimahantasīso vā pacchiṃ sīse katvā ṭhito viya, atikhuddakasīso vā sarīrassa ananurūpena atikhuddakena sīsena samannāgato, kūṭakūṭasīso vā tālaphalapiṇḍisadisena sīsena samannāgato, sikharasīso vā uddhaṃ anupubbatanukena sīsena samannāgato, nāḷisīso vā mahāveṇupabbasadisena sīsena samannāgato, kappasīso vā pabbhārasīso vā catūsu passesu yena kenaci passena onatena sīsena samannāgato, vaṇasīso vā pūtisīso vā kaṇṇikakeso vā pāṇakehi khāyitakedāre sassasadisehi tahiṃ tahiṃ uṭṭhitehi kesehi samannāgato, nillomasīso vā thūlathaddhakeso vā tālahīrasadisehi kesehi samannāgato, jātipalitehi paṇḍarakeso vā pakatitambakeso vā ādittehi viya kesehi samannāgato, āvaṭṭasīso vā gunnaṃ sarīre āvaṭṭasadisehi uddhaggehi kesāvaṭṭehi samannāgato, sīsalomehi saddhiṃ ekābaddhabhamukalomo vā jālabaddhena viya nalāṭena samannāgato.
133. Người làm ô uế đại chúng là người làm xấu đi đại chúng vì hình dạng dị thường của mình: hoặc quá cao, vùng rốn cao ngang đầu người khác; hoặc quá thấp, hình dạng như quỷ lùn; hoặc quá đen, như khúc cây cháy trong ruộng rẫy; hoặc quá trắng, màu như đồng đỏ được chùi bằng sữa chua và bơ lỏng; hoặc quá gầy, ít thịt và máu, như một cơ thể chỉ có xương, gân và da; hoặc quá mập, nhiều thịt, bụng to, giống như một con quỷ lớn; hoặc đầu quá to, như đội một cái giỏ trên đầu; hoặc đầu quá nhỏ, có cái đầu quá nhỏ không tương xứng với cơ thể; hoặc đầu nhọn, có cái đầu giống như quả thốt nốt; hoặc đầu hình chóp, có cái đầu thon dần lên trên; hoặc đầu hình ống, có cái đầu giống như đốt tre lớn; hoặc đầu dẹt, đầu nghiêng, có cái đầu nghiêng về một trong bốn phía; hoặc đầu có ghẻ lở, đầu có mủ, tóc có chỏm, có những chùm tóc mọc đây đó như lúa trong ruộng bị sâu ăn; hoặc đầu không có tóc, hoặc tóc dày và cứng, tóc như xơ cây thốt nốt; hoặc tóc bạc trắng do bẩm sinh, hoặc tóc có màu đồng tự nhiên, tóc như bị cháy; hoặc đầu có xoáy, có những xoáy tóc dựng đứng giống như xoáy trên mình bò; hoặc lông mày liền với tóc trên đầu, có trán như bị lưới bao phủ.
Sambaddhabhamuko vā nillomabhamuko vā makkaṭabhamuko vā atimahantakkhi vā atikhuddakakkhi vā mahiṃsacamme vāsikoṇena paharitvā katachiddasadisehi akkhīhi samannāgato, visamakkhi vā ekena mahantena, ekena khuddakena akkhinā samannāgato, visamacakkalo vā ekena uddhaṃ, ekena adhoti evaṃ visamajātehi akkhicakkehi samannāgato, kekaro vā gambhīrakkhi vā yassa gambhīre udapāne udakatārakā viya akkhitārakā paññāyanti, nikkhantakkhi vā yassa kakkaṭasseva akkhitārakā nikkhantā honti, hatthikaṇṇo vā mahantāhi kaṇṇasakkhalīhi samannāgato, mūsikakaṇṇo vā jatukakaṇṇo vā khuddakāhi kaṇṇasakkhalīhi samannāgato, chiddamattakaṇṇo vā yassa vinā kaṇṇasakkhalīhi kaṇṇacchiddamattameva hoti, aviddhakaṇṇo vā, yonakajātiko pana parisadūsako na hoti, sabhāvoyeva hi so tassa. Kaṇṇabhagandariko vā niccapūtinā kaṇṇena samannāgato, gaṇḍakaṇṇo vā sadā paggharitapubbena kaṇṇena samannāgato, ṭaṅkitakaṇṇo vā gobhattanāḷikāya aggasadisehi kaṇṇehi samannāgato, atipiṅgalakkhi vā, madhupiṅgalaṃ pana pabbājetuṃ vaṭṭati. Nippakhumakkhi vā assupaggharaṇakkhi vā pupphitakkhi vā akkhipākena samannāgatakkhi vā.
Hoặc lông mày dính liền, hoặc không có lông mày, hoặc lông mày như khỉ; hoặc mắt quá to, hoặc mắt quá nhỏ, có đôi mắt như những lỗ được khoét bằng góc nhọn của một cái túi da trâu; hoặc mắt không đều, có một mắt to, một mắt nhỏ; hoặc tròng mắt không đều, có các tròng mắt mọc không đều, một cái hướng lên, một cái hướng xuống; hoặc mắt lé, hoặc mắt sâu, người có tròng mắt trông như những ngôi sao nước trong một cái giếng sâu; hoặc mắt lồi, người có tròng mắt lồi ra như của con cua; hoặc tai voi, có vành tai lớn; hoặc tai chuột, tai dơi, có vành tai nhỏ; hoặc chỉ có lỗ tai, người chỉ có lỗ tai mà không có vành tai; hoặc tai không xỏ lỗ; tuy nhiên, người gốc Yona không phải là người làm ô uế đại chúng, vì đó là bản chất tự nhiên của họ. Hoặc tai bị rò mủ, có tai luôn chảy mủ; hoặc tai có bướu, có tai luôn chảy mủ; hoặc tai cụp, có tai giống như đầu ống sáo bằng sừng bò; hoặc mắt quá vàng; tuy nhiên, người có mắt màu mật ong thì được phép cho xuất gia. Hoặc mắt không có lông mi, hoặc mắt chảy nước mắt, hoặc mắt có màng, hoặc mắt bị viêm.
Atimahantanāsiko vā atikhuddakanāsiko vā cipiṭanāsiko vā majjhe appatiṭṭhahitvā ekapasse ṭhitavaṅkanāsiko vā dīghanāsiko vā sukatuṇḍasadisāya jivhāya lehituṃ sakkuṇeyyāya nāsikāya samannāgato, niccaṃ paggharitasiṅghāṇikanāso vā, mahāmukho vā yassa paṭaṅgamaṇḍūkasseva mukhanimittaṃyeva mahantaṃ hoti, mukhaṃ pana lābusadisaṃ atikhuddakaṃ, bhinnamukho vā vaṅkamukho vā mahāoṭṭho vā ukkhalimukhavaṭṭisadisehi oṭṭhehi samannāgato, tanukaoṭṭho vā bhericammasadisehi dante pidahituṃ asamatthehi oṭṭhehi samannāgato, mahādharoṭṭho vā tanukauttaroṭṭho vā tanukaadharoṭṭho vā mahāuttaroṭṭho vā oṭṭhachinnako vā eḷamukho vā uppakkamukho vā saṅkhatuṇḍako vā bahi setehi anto atirattehi oṭṭhehi samannāgato, duggandhakuṇapamukho vā, mahādanto vā aṭṭhakadantasadisehi dantehi samannāgato, asuradanto vā heṭṭhā vā upari vā bahi nikkhantadanto, yassa pana sakkā hoti oṭṭhehi pidahituṃ, kathentasseva paññāyati, no akathentassa, taṃ pabbājetuṃ vaṭṭati. Pūtidanto vā niddanto vā atikhuddakadanto vā yassa pana dantantare kalandakadanto viya sukhumadanto hoti, taṃ pabbājetuṃ vaṭṭati.
Hoặc mũi quá to, hoặc mũi quá nhỏ, hoặc mũi tẹt, hoặc mũi vẹo không nằm ở giữa mà lệch sang một bên, hoặc mũi dài, có mũi giống như mỏ vẹt có thể liếm được bằng lưỡi; hoặc mũi luôn chảy nước mũi; hoặc miệng rộng, người có tướng miệng to như con thiêu thân, con ếch, nhưng miệng lại rất nhỏ như quả bầu; hoặc miệng hở, hoặc miệng méo; hoặc môi dày, có môi như vành miệng cối; hoặc môi mỏng, có môi như da trống không thể che kín răng; hoặc môi dưới dày, môi trên mỏng; hoặc môi dưới mỏng, môi trên dày; hoặc bị sứt môi; hoặc miệng cừu, hoặc miệng hếch; hoặc mỏ ốc xà cừ, có môi ngoài trắng trong đỏ rực; hoặc miệng hôi thối như xác chết; hoặc răng to, có răng như răng cưa; hoặc răng quỷ, răng hàm dưới hoặc hàm trên nhô ra ngoài; tuy nhiên, người nào có thể che kín bằng môi, chỉ thấy khi nói, không thấy khi không nói, thì được phép cho xuất gia. Hoặc răng thối, hoặc không có răng, hoặc răng quá nhỏ; tuy nhiên, người nào có răng nhỏ mịn như răng cá lóc giữa các kẽ răng, thì được phép cho xuất gia.
Mahāhanuko vā gohanusadisena hanunā samannāgato, dīghahanuko vā cipiṭahanuko vā antopaviṭṭhena viya atirassena hanukena samannāgato, bhinnahanuko vā vaṅkahanuko vā nimmassudāṭhiko vā bhikkhunīsadisamukho, dīghagalo vā bakagalasadisena galena samannāgato, rassagalo vā antopaviṭṭhena viya galena samannāgato, bhinnagalo vā bhaṭṭhaaṃsakūṭo vā ahattho vā ekahattho vā atirassahattho vā atidīghahattho vā bhinnauro vā bhinnapiṭṭhi vā kacchugatto vā kaṇḍugatto vā daddugatto vā godhāgatto vā yassa godhāya viya gattato cuṇṇāni patanti. Sabbañcetaṃ virūpakaraṇaṃ sandhāya vitthāritavasena vuttaṃ, vinicchayo panettha pañcābādhesu vuttanayena veditabbo.
Hoặc hàm lớn, có hàm giống như hàm bò; hoặc hàm dài, hoặc hàm bạnh, có hàm rất ngắn như bị thụt vào trong; hoặc hàm vỡ, hoặc hàm lệch; hoặc không có râu quai nón, mặt giống như Tỳ-khưu-ni; hoặc cổ dài, có cổ giống như cổ hạc; hoặc cổ ngắn, có cổ như bị thụt vào trong; hoặc cổ gãy; hoặc vai sụp; hoặc không tay, hoặc một tay, hoặc tay quá ngắn, hoặc tay quá dài; hoặc ngực vỡ, hoặc lưng gãy; hoặc thân mình bị ghẻ, hoặc thân mình bị ngứa, hoặc thân mình bị hắc lào, hoặc thân mình như da kỳ đà, người có vảy rơi ra từ người như kỳ đà. Tất cả những điều này được nói một cách chi tiết nhằm mục đích làm rõ những dị dạng. Sự thẩm định ở đây nên được hiểu theo cách đã nói trong phần về năm loại bệnh.
Bhaṭṭhakaṭiko vā mahāānisado vā uddhanakūṭasadisehi ānisadamaṃsehi accuggatehi samannāgato, mahāūruko vā vātaṇḍiko vā mahājāṇuko vā saṅghaṭṭanajāṇuko vā dīghajaṅgho vā yaṭṭhisadisajaṅgho, vikaṭo vā saṅghaṭṭo vā ubbaddhapiṇḍiko vā, so duvidho heṭṭhā oruḷhāhi vā upari āruḷhāhi vā mahatīhi jaṅghapiṇḍikāhi samannāgato, mahājaṅgho vā thūlajaṅghapiṇḍiko vā mahāpādo vā mahāpaṇhi vā piṭṭhikapādo vā pādavemajjhato uṭṭhitajaṅgho, vaṅkapādo vā, so duvidho anto vā bahi vā parivattapādo, gaṇṭhikaṅguli vā siṅgiveraphaṇasadisāhi aṅgulīhi samannāgato, andhanakho vā kāḷavaṇṇehi pūtinakhehi samannāgato, sabbopi esa parisadūsako. Evarūpo parisadūsako na pabbājetabbo.
Hoặc eo gãy; hoặc mông lớn, có bắp thịt mông nhô cao như miệng lò; hoặc đùi lớn; hoặc bìu lớn; hoặc đầu gối lớn, hoặc hai đầu gối chạm nhau; hoặc cẳng chân dài, cẳng chân như cây gậy; hoặc dị dạng, hoặc dính liền, hoặc bắp chân phồng; loại này có hai dạng: có bắp chân lớn xệ xuống dưới hoặc phồng lên trên; hoặc cẳng chân lớn, bắp chân to; hoặc bàn chân lớn, hoặc gót chân lớn; hoặc bàn chân bẹt, cẳng chân mọc từ giữa bàn chân; hoặc bàn chân vẹo; loại này có hai dạng: bàn chân cong vào trong hoặc ra ngoài; hoặc ngón chân có đốt, có các ngón chân giống như củ gừng; hoặc móng đen, có móng màu đen và thối; tất cả những người này đều là người làm ô uế đại chúng. Người làm ô uế đại chúng như vậy không được cho xuất gia.
134. Kāṇoti pasannandho vā hotu pupphādīhi vā upahatapasādo, dvīhi vā ekena vā akkhinā na passati, so na pabbājetabbo. Mahāpaccariyaṃ pana ekakkhikāṇo ‘‘kāṇo’’ti vutto, dviakkhikāṇo andhena saṅgahito. Mahāaṭṭhakathāyaṃ jaccandho ‘‘andho’’ti vutto. Tasmā ubhayampi pariyāyena yujjati. Kuṇīti hatthakuṇī vā pādakuṇī vā aṅgulikuṇī vā, yassa etesu hatthādīsu yaṃ kiñci vaṅkaṃ paññāyati. Khañjoti natajāṇuko vā bhinnajaṅgho vā majjhe saṃkuṭitapādattā kuṇṭhapādako vā piṭṭhipādamajjhena caṅkamanto, agge saṃkuṭitapādattā kuṇṭhapādako vā piṭṭhipādaggena caṅkamanto, aggapādeneva caṅkamanakhañjo vā paṇhikāya caṅkamanakhañjo vā pādassa bāhirantena caṅkamanakhañjo vā pādassa abbhantarena caṅkamanakhañjo vā gopphakānaṃ upari bhaggattā sakalena piṭṭhipādena caṅkamanakhañjo vā. Sabbopesa khañjoyeva, na pabbājetabbo.
134. Người chột là người bị mù trong, hoặc thị lực bị tổn thương do màng mắt v.v…, không nhìn thấy bằng cả hai mắt hoặc một mắt; người đó không được cho xuất gia. Tuy nhiên, trong sách Mahāpaccariya, người chột một mắt được gọi là “kāṇa”, người chột cả hai mắt được xếp vào loại người mù. Trong Mahāaṭṭhakathāyaṃ, người mù bẩm sinh được gọi là “andha”. Do đó, cả hai cách hiểu đều hợp lý theo từng trường hợp. Người què tay là người què tay, què chân, hoặc què ngón tay, người có bất kỳ bộ phận nào trong số đó bị cong vẹo. Người què chân là người có đầu gối cong, hoặc cẳng chân gãy, hoặc chân bị co rút ở giữa nên đi khập khiễng, hoặc đi bằng mu bàn chân, hoặc chân bị co rút ở đầu nên đi khập khiễng, hoặc đi bằng đầu ngón chân, hoặc đi bằng gót chân, hoặc đi bằng cạnh ngoài của bàn chân, hoặc đi bằng cạnh trong của bàn chân, hoặc bị gãy trên mắt cá nên đi bằng cả mu bàn chân. Tất cả những người này đều là người què chân, không được cho xuất gia.
Pakkhahatoti yassa eko hattho vā pādo vā addhasarīraṃ vā sukhaṃ na vahati. Chinniriyāpathoti pīṭhasappī vuccati. Jarādubbaloti jiṇṇabhāvena dubbalo attano cīvararajanādikammampi kātuṃ asamattho. Yo pana mahallakopi balavā hoti, attānaṃ paṭijaggituṃ sakkoti, so pabbājetabbo. Andhoti jaccandho vuccati. Mūgoti yassa vacībhedo na pavattati, yassapi pavattati, saraṇagamanaṃ pana paripuṇṇaṃ bhāsituṃ na sakkoti, tādisaṃ mammanampi pabbājetuṃ na vaṭṭati. Yo pana saraṇagamanatmattaṃ paripuṇṇaṃ bhāsituṃ sakkoti, taṃ pabbājetuṃ vaṭṭati. Badhiroti yo sabbena sabbaṃ na suṇāti. Yo pana mahāsaddaṃ suṇāti, taṃ pabbājetuṃ vaṭṭati. Andhamūgādayo ubhayadosavasena vuttā. Yesañca pabbajjā paṭikkhittā, upasampadāpi tesaṃ paṭikkhittāva. Sace pana ne saṅgho upasampādeti, sabbepi sūpasampannā, kārakasaṅgho pana ācariyupajjhāyā ca āpattito na muccanti.
Người bại liệt là người có một tay hoặc một chân hoặc nửa thân mình không hoạt động bình thường. Người mất khả năng đi lại được gọi là người phải lết bằng ghế. Người già yếu là người yếu do tuổi già, không có khả năng tự làm các việc như nhuộm y v.v… Tuy nhiên, người nào dù già nhưng còn khỏe mạnh, có thể tự chăm sóc bản thân, thì được phép cho xuất gia. Người mù được gọi là người mù bẩm sinh. Người câm là người không thể nói được, hoặc dù nói được nhưng không thể đọc trọn vẹn lời quy y, người nói ngọng như vậy cũng không được phép cho xuất gia. Người nào có thể đọc trọn vẹn lời quy y, thì được phép cho xuất gia. Người điếc là người hoàn toàn không nghe thấy gì. Người nào nghe được tiếng lớn, thì được phép cho xuất gia. Người vừa mù vừa câm v.v… được nói đến do có cả hai khuyết điểm. Những người bị cấm xuất gia thì cũng bị cấm thọ cụ túc giới. Tuy nhiên, nếu Tăng đoàn cho họ thọ cụ túc giới, tất cả họ đều được xem là đã thọ cụ túc giới hợp lệ, nhưng Tăng đoàn làm lễ và các vị Giáo Thọ Sư, Hòa thượng không thoát khỏi tội.
135. Paṇḍako ubhatobyañjanako theyyasaṃvāsako titthiyapakkantako tiracchānagato mātughātako pitughātako arahantaghātako lohituppādako saṅghabhedako bhikkhunīdūsakoti ime pana ekādasa puggalā ‘‘paṇḍako, bhikkhave, anupasampanno na upasampādetabbo, upasampanno nāsetabbo’’ti (mahāva. 109) ādivacanato abhabbā, neva nesaṃ pabbajjā, na upasampadā ca ruhati, tasmā na pabbājetabbā na upasampādetabbā, jānitvā pabbājento upasampādento ca dukkaṭaṃ āpajjati. Ajānitvāpi pabbājitā upasampāditā ca jānitvā liṅganāsanāya nāsetabbā.
135. Người ái nam ái nữ, người có cả hai giới tính, người sống chung lén lút, người đã theo ngoại đạo, người giao hợp với loài vật, kẻ giết mẹ, kẻ giết cha, kẻ giết A-la-hán, kẻ làm chảy máu Phật, kẻ chia rẽ Tăng đoàn, kẻ cưỡng hiếp Tỳ-khưu-ni – mười một hạng người này, theo lời dạy bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, người ái nam ái nữ chưa thọ cụ túc giới thì không được cho thọ, đã thọ thì phải trục xuất” (mahāva. 109), là những người không đủ tư cách; cả việc xuất gia lẫn thọ cụ túc giới của họ đều không thành tựu, do đó không được cho xuất gia, không được cho thọ cụ túc giới. Vị nào biết mà vẫn cho xuất gia và thọ cụ túc giới thì phạm tội Tác Ác. Những người đã được cho xuất gia và thọ cụ túc giới mà không biết, khi biết ra phải bị trục xuất bằng cách tước bỏ y phục.
Tattha paṇḍakoti āsittapaṇḍako usūyapaṇḍako opakkamikapaṇḍako pakkhapaṇḍako napuṃsakapaṇḍakoti pañca paṇḍakā. Tesu yassa paresaṃ aṅgajātaṃ mukhena gahetvā asucinā āsittassa pariḷāho vūpasammati, ayaṃ āsittapaṇḍako. Yassa paresaṃ ajjhācāraṃ passato usūyāya uppannāya pariḷāho vūpasammati, ayaṃ usūyapaṇḍako. Yassa upakkamena bījāni apanītāni, ayaṃ opakkamikapaṇḍako. Ekacco pana akusalavipākānubhāvena kāḷapakkhe paṇḍako hoti, juṇhapakkhe panassa pariḷāho vūpasammati, ayaṃ pakkhapaṇḍako. Yo pana paṭisandhiyaṃyeva abhāvako uppanno, ayaṃ na puṃsakapaṇḍako. Tesu āsittapaṇḍakassa ca usūyapaṇḍakassa ca pabbajjā na vāritā, itaresaṃ tiṇṇaṃ vāritā. ‘‘Tesupi pakkhapaṇḍakassa yasmiṃ pakkhe paṇḍako hoti, tasmiṃyevassa pakkhe pabbajjā vāritā’’ti kurundiyaṃ vuttaṃ.
Ở đây, người ái nam ái nữ có năm loại: người thỏa mãn khi được xuất tinh vào miệng, người thỏa mãn khi ghen tỵ, người bị thiến, người ái nam ái nữ theo chu kỳ, và người bất lực bẩm sinh. Trong số đó, người nào mà sự ham muốn chỉ nguôi đi khi ngậm bộ phận sinh dục của người khác và được xuất tinh vào, người đó là người thỏa mãn khi được xuất tinh vào miệng. Người nào mà sự ham muốn nguôi đi khi thấy người khác hành dâm và nảy sinh lòng ghen tỵ, người đó là người thỏa mãn khi ghen tỵ. Người nào bị cắt bỏ tinh hoàn, người đó là người bị thiến. Có người do quả báo của nghiệp bất thiện mà trở thành ái nam ái nữ vào kỳ trăng khuyết, còn vào kỳ trăng tròn thì ham muốn của họ nguôi đi, người đó là người ái nam ái nữ theo chu kỳ. Người nào ngay từ khi tái sanh đã không có khả năng sinh dục, người đó là người bất lực bẩm sinh. Trong số đó, người thỏa mãn khi được xuất tinh vào miệng và người thỏa mãn khi ghen tỵ không bị cấm xuất gia, ba loại còn lại thì bị cấm. Sách Kurundī nói rằng: “Đối với người ái nam ái nữ theo chu kỳ, việc xuất gia chỉ bị cấm trong chu kỳ mà họ là người ái nam ái nữ.”
136. Ubhatobyañjanakoti (mahāva. aṭṭha. 116) itthinimittuppādanakammato ca purisanimittuppādanakammato ca ubhatobyañjanamassa atthīti ubhatobyañjanako. So duvidho hoti itthiubhatobyañjanako purisaubhatobyañjanakoti. Tattha itthiubhatobyañjanakassa itthinimittaṃ pākaṭaṃ hoti, purisanimittaṃ paṭicchannaṃ. Purisaubhatobyañjanakassa purisanimittaṃ pākaṭaṃ, itthinimittaṃ paṭicchannaṃ. Itthiubhatobyañjanakassa itthīsu purisattaṃ karontassa itthinimittaṃ paṭicchannaṃ hoti, purisanimittaṃ pākaṭaṃ. Purisaubhatobyañjanakassa purisānaṃ itthibhāvaṃ upagacchantassa purisanimittaṃ paṭicchannaṃ hoti, itthinimittaṃ pākaṭaṃ hoti. Itthiubhatobyañjanako sayañca gabbhaṃ gaṇhāti, parañca gaṇhāpeti, purisaubhatobyañjanako pana sayaṃ na gaṇhāti, paraṃ pana gaṇhāpetīti idametesaṃ nānākaraṇaṃ. Imassa pana duvidhassapi ubhatobyañjanakassa neva pabbajjā atthi, na upasampadā.
136. Người có cả hai giới tính (mahāva. aṭṭha. 116) là người có cả hai bộ phận sinh dục, do nghiệp tạo ra bộ phận sinh dục nữ và nghiệp tạo ra bộ phận sinh dục nam. Người này có hai loại: người lưỡng tính nữ và người lưỡng tính nam. Trong đó, người lưỡng tính nữ có bộ phận sinh dục nữ rõ ràng, bộ phận sinh dục nam ẩn. Người lưỡng tính nam có bộ phận sinh dục nam rõ ràng, bộ phận sinh dục nữ ẩn. Khi người lưỡng tính nữ hành xử như nam giới với nữ giới, bộ phận sinh dục nữ của họ ẩn đi, bộ phận sinh dục nam hiện ra. Khi người lưỡng tính nam chấp nhận vai trò nữ giới với nam giới, bộ phận sinh dục nam của họ ẩn đi, bộ phận sinh dục nữ hiện ra. Người lưỡng tính nữ vừa có thể thụ thai, vừa có thể làm người khác thụ thai. Người lưỡng tính nam thì không thể tự thụ thai, nhưng có thể làm người khác thụ thai; đây là sự khác biệt giữa họ. Cả hai loại người có cả hai giới tính này đều không được phép xuất gia và thọ cụ túc giới.
137. Theyyasaṃvāsakoti tayo theyyasaṃvāsakā liṅgatthenako saṃvāsatthenako ubhayatthenakoti. Tattha yo sayaṃ pabbajitvā vihāraṃ gantvā na bhikkhuvassāni gaṇeti, na yathāvuḍḍhaṃ vandanaṃ sādiyati, na āsanena paṭibāhati, na uposathapavāraṇādīsu sandissati, ayaṃ liṅgamattasseva thenitattā liṅgatthenako nāma. Yo pana bhikkhūhi pabbājito sāmaṇero samāno videsaṃ gantvā ‘‘ahaṃ dasavasso vā vīsativasso vā’’ti musā vatvā bhikkhuvassāni gaṇeti, yathāvuḍḍhaṃ vandanaṃ sādiyati, āsanena paṭibāhati, uposathapavaāraṇādīsu sandissati, ayaṃ saṃvāsamattasseva thenitattā saṃvāsatthenako nāma. Bhikkhuvassagaṇanādiko hi sabbopi kiriyabhedo imasmiṃ atthe ‘‘saṃvāso’’ti veditabbo. Sikkhaṃ paccakkhāya ‘‘na maṃ koci jānātī’’ti puna evaṃ paṭipajjantepi eseva nayo. Yo pana sayaṃ pabbajitvā vihāraṃ gantvā bhikkhuvassāni gaṇeti, yathāvuḍḍhaṃ vandanaṃ sādiyati, āsanena paṭibāhati, uposathapavāraṇādīsu sandissati, ayaṃ liṅgassa ceva saṃvāsassa ca thenitattā ubhayatthenako nāma. Ayaṃ tividhopi theyyasaṃvāsako anupasampanno na upasampādetabbo, upasampanno nāsetabbo, puna pabbajjaṃ yācantopi na pabbājetabbo.
137. Người sống chung lén lút có ba loại: kẻ trộm hình thức, kẻ trộm sự chung sống, và kẻ trộm cả hai. Trong đó, người tự xuất gia, đến tu viện không tính tuổi hạ của Tỳ-khưu, không chấp nhận sự đảnh lễ theo thứ bậc, không nhường chỗ ngồi, không tham gia các buổi lễ Uposatha, Pavāraṇā v.v…, người này chỉ trộm hình thức nên được gọi là kẻ trộm hình thức. Người nào là Sa-di được các Tỳ-khưu cho xuất gia, đi đến một nơi khác, nói dối rằng “tôi đã mười tuổi hạ hoặc hai mươi tuổi hạ”, tính tuổi hạ của Tỳ-khưu, chấp nhận sự đảnh lễ theo thứ bậc, nhường chỗ ngồi, tham gia các buổi lễ Uposatha, Pavāraṇā v.v…, người này chỉ trộm sự chung sống nên được gọi là kẻ trộm sự chung sống. Tất cả các hành vi khác nhau như tính tuổi hạ của Tỳ-khưu v.v… trong ý nghĩa này được hiểu là “sự chung sống”. Người nào đã hoàn tục rồi lại hành động như vậy với ý nghĩ “không ai biết mình”, cũng áp dụng cách thức này. Người nào tự xuất gia, đến tu viện, tính tuổi hạ của Tỳ-khưu, chấp nhận sự đảnh lễ theo thứ bậc, nhường chỗ ngồi, tham gia các buổi lễ Uposatha, Pavāraṇā v.v…, người này trộm cả hình thức lẫn sự chung sống nên được gọi là kẻ trộm cả hai. Cả ba loại người sống chung lén lút này, nếu chưa thọ cụ túc giới thì không được cho thọ, nếu đã thọ thì phải trục xuất; dù xin xuất gia lại cũng không được cho xuất gia.
138. Ettha ca asammohatthaṃ idaṃ pakiṇṇakaṃ veditabbaṃ –
138. Ở đây, để tránh nhầm lẫn, cần biết điều tạp lục này –
‘‘Rājadubbhikkhakantāra, rogaveribhayena vā;
Cīvarāharaṇatthaṃ vā, liṅgaṃ ādiyatīdha yo.
‘‘Saṃvāsaṃ nādhivāseti, yāva so suddhamānaso;
Theyyasaṃvāsako nāma, tāva esa na vuccatī’’ti. (mahāva. aṭṭha. 110);
“Do sợ vua, nạn đói, đường xa,
Bệnh tật, kẻ thù, hoặc vì muốn mang y;
Người nào ở đây nhận lấy hình thức,
Chừng nào tâm còn trong sạch, không chấp nhận sự chung sống,
Thì người ấy chưa được gọi là kẻ sống chung lén lút.” (mahāva. aṭṭha. 110);
Tatrāyaṃ vitthāranayo – idhekaccassa rājā kuddho hoti, so ‘‘evaṃ me sotthi bhavissatī’’tio liṅgaṃ gahetvā palāyati. Taṃ disvā rañño ārocenti, rājā ‘‘sace pabbajito, na taṃ labbhā kiñci kātu’’nti tasmiṃ kodhaṃ paṭivineti. So ‘‘vūpasantaṃ me rājabhaya’’nti saṅghamajjhaṃ anosaritvāva gihiliṅgaṃ gahetvā āgato pabbājetabbo. Athāpi ‘‘sāsanaṃ nissāya mayā jīvitaṃ laddhaṃ, handa dāni ahaṃ pabbajāmī’’ti uppannasaṃvego teneva liṅgena āgantvā āgantukavattaṃ na sādiyati, bhikkhūhi puṭṭho vā apuṭṭho vā yathābhūtamattānaṃ āvikatvā pabbajjaṃ yācati, liṅgaṃ apanetvā pabbājetabbo. Sace pana so vattaṃ sādiyati, pabbajitālayaṃ dasseti, sabbaṃ pubbe vuttaṃ vassagaṇanādibhedaṃ vidhiṃ paṭipajjati, ayaṃ na pabbājetabbo.
Đây là lời giải thích chi tiết – Có người bị vua nổi giận, người đó nghĩ rằng “làm vậy ta sẽ được an toàn” liền lấy hình thức tu sĩ rồi bỏ trốn. Người ta thấy vậy báo cho vua, vua nói “nếu đã xuất gia, không thể làm gì được” rồi nguôi giận. Người đó nghĩ “mối nguy từ vua đã qua”, không vào giữa Tăng đoàn mà lấy lại hình thức cư sĩ, khi đến thì có thể cho xuất gia. Hoặc nếu người đó nảy sinh lòng cảm kích rằng “nhờ nương tựa giáo pháp mà ta được sống, giờ ta hãy xuất gia”, với hình thức đó mà đến, không thực hành phận sự của khách Tăng, dù được các Tỳ-khưu hỏi hay không hỏi, tự mình nói ra sự thật rồi xin xuất gia, thì nên tước bỏ hình thức cũ rồi cho xuất gia. Nhưng nếu người đó thực hành phận sự, tỏ ra muốn xuất gia, tuân thủ tất cả các quy định đã nói trước đó về tuổi hạ v.v…, thì người này không được cho xuất gia.
Idha panekacco dubbhikkhe jīvituṃ asakkontoo liṅgaṃ gahetvā sabbapāsaṇḍiyabhattāni bhuñjanto dubbhikkhe vītivatte saṅghamajjhaṃ anosaritvāva gihiliṅgaṃ gahetvā āgatoti sabbaṃ purimasadisameva.
Ở đây, có người trong nạn đói không thể sống nổi, liền lấy hình thức tu sĩ, ăn các bữa ăn của tất cả các giáo phái, khi nạn đói qua đi, không vào giữa Tăng đoàn mà lấy lại hình thức cư sĩ rồi đến, tất cả đều giống như trường hợp trước.
Aparo mahākantāraṃ nittharitukāmo hoti, satthavāho ca pabbajite gahetvā gacchati. So ‘‘evaṃ maṃ satthavāho gahetvā gamissatī’’tio liṅgaṃ gahetvā satthavāhena saddhiṃ kantāraṃ nittharitvā khemantaṃ patvā saṅghamajjhaṃ anosaritvāva gihiliṅgaṃ gahetvā āgatoti sabbaṃ purimasadisameva.
Người khác muốn vượt qua một hoang mạc lớn, và người dẫn đoàn chỉ dẫn những người đã xuất gia đi. Người đó nghĩ “làm vậy người dẫn đoàn sẽ dẫn mình đi” liền lấy hình thức tu sĩ, cùng với người dẫn đoàn vượt qua hoang mạc, đến nơi an toàn, không vào giữa Tăng đoàn mà lấy lại hình thức cư sĩ rồi đến, tất cả đều giống như trường hợp trước.
Aparo rogabhaye uppanne jīvituṃ asakkontoo liṅgaṃ gahetvā sabbapāsaṇḍiyabhattāni bhuñjanto rogabhaye vūpasante saṅghamajjhaṃ anosaritvāva gihiliṅgaṃ gahetvā āgatoti sabbaṃ purimasadisameva.
Người khác khi có dịch bệnh, không thể sống nổi, liền lấy hình thức tu sĩ, ăn các bữa ăn của tất cả các giáo phái, khi dịch bệnh qua đi, không vào giữa Tăng đoàn mà lấy lại hình thức cư sĩ rồi đến, tất cả đều giống như trường hợp trước.
Aparassa eko veriko kuddho hoti, ghātetukāmo naṃ vicarati. So ‘‘evaṃ me sotthi bhavissatī’’tio liṅgaṃ gahetvā palāyati. Veriko ‘‘kuhiṃ so’’ti pariyesanto ‘‘pabbajitvā palāto’’ti sutvā ‘‘sace pabbajito, na taṃ labbhā kiñci kātu’’nti tasmiṃ kodhaṃ paṭivineti. So ‘‘vūpasantaṃ me veribhaya’’nti saṅghamajjhaṃ anosaritvāva gihiliṅgaṃ gahetvā āgatoti sabbaṃ purimasadisameva.
Có người bị một kẻ thù nổi giận, muốn giết mình. Người đó nghĩ “làm vậy ta sẽ được an toàn” liền lấy hình thức tu sĩ rồi bỏ trốn. Kẻ thù tìm kiếm và hỏi “anh ta ở đâu”, nghe nói “đã xuất gia và bỏ trốn”, liền nghĩ “nếu đã xuất gia, không thể làm gì được” rồi nguôi giận. Người đó nghĩ “mối nguy từ kẻ thù đã qua”, không vào giữa Tăng đoàn mà lấy lại hình thức cư sĩ rồi đến, tất cả đều giống như trường hợp trước.
Aparo ñātikulaṃ gantvā sikkhaṃ paccakkhāya gihī hutvā ‘‘imāni cīvarāni idha nassissanti, sacepi imāni gahetvā vihāraṃ gamissāmi, antarāmagge maṃ ‘coro’ti gahessanti, yaṃnūnāhaṃ kāyaparihāriyāni katvā gaccheyya’’nti cīvarāharaṇatthaṃ nivāsetvā ca pārupitvā ca vihāraṃ gacchati. Taṃ dūratova āgacchantaṃ disvā sāmaṇerā ca daharā ca abbhuggacchanti, vattaṃ dassenti. So na sādiyati, yathābhūtamattānaṃ āvikaroti. Sace bhikkhū ‘‘na dāni mayaṃ taṃ muñcissāmā’’ti balakkārena pabbājetukāmā honti, kāsāyāni apanetvā puna pabbājetabbo. Sace pana ‘‘nayime maṃ hīnāyāvattabhāvaṃ jānantī’’ti taṃyeva bhikkhubhāvaṃ paṭijānitvā sabbaṃ pubbe vuttaṃ vassagaṇanādibhedaṃ vidhiṃ paṭipajjati, ayaṃ na pabbājetabbo.
Người khác đến nhà bà con, hoàn tục và trở thành cư sĩ, rồi nghĩ “những y này để đây sẽ hỏng, nếu mang những y này về tu viện, giữa đường người ta sẽ bắt mình vì tưởng là trộm, ta nên mặc chúng như y phục thường ngày rồi đi”, vì muốn mang y về, liền mặc và khoác y rồi đi đến tu viện. Các Sa-di và các Tỳ-khưu trẻ thấy người đó từ xa đến liền ra đón, tỏ ý làm phận sự. Người đó không chấp nhận, nói ra sự thật về mình. Nếu các Tỳ-khưu muốn ép buộc xuất gia và nói “bây giờ chúng tôi sẽ không thả ông đi”, thì nên tước bỏ y cà sa rồi cho xuất gia lại. Nhưng nếu người đó nghĩ “những người này không biết mình đã hoàn tục” và nhận mình là Tỳ-khưu, tuân thủ tất cả các quy định đã nói trước đó về tuổi hạ v.v…, thì người này không được cho xuất gia.
Aparo mahāsāmaṇero ñātikulaṃ gantvā uppabbajitvā kammantānuṭṭhānena ubbāḷho puna ‘‘dāni ahaṃ sāmaṇero bhavissāmi, theropi me uppabbajitabhāvaṃ na jānātī’’ti tadeva pattacīvaraṃ ādāya vihāraṃ gacchati, tamatthaṃ bhikkhūnaṃ na āroceti, sāmaṇerabhāvaṃ paṭijānāti, ayaṃ theyyasaṃvāsakoyeva, pabbajjaṃ na labhati. Sacepissa liṅgaggahaṇakāle evaṃ hoti ‘‘nāhaṃ kassaci ārocessāmī’’ti, vihārañca gato āroceti, gahaṇeneva theyyasaṃvāsako. Athāpissa gahaṇakāle ‘‘ācikkhissāmī’’ti cittaṃ uppannaṃ hoti, vihārañca gantvā ‘‘kuhiṃ tvaṃ, āvuso, gato’’ti vutto ‘‘na dāni maṃ ime jānantī’’ti vañcetvā nācikkhati, ‘‘nācikkhissāmī’’ti saha dhuranikkhepena ayampi theyyasaṃvāsakova. Sace panassa gahaṇakālepi ‘‘ācikkhissāmī’’ti hoti, vihāraṃ gantvāpi ācikkhati, ayaṃ puna pabbajjaṃ labhati.
Một Sa-di lớn khác đến nhà bà con, hoàn tục, rồi chán nản với công việc, lại nghĩ “bây giờ ta sẽ làm Sa-di lại, trưởng lão cũng không biết ta đã hoàn tục”, liền lấy y bát đó về tu viện, không báo cho các Tỳ-khưu biết, tự nhận mình là Sa-di, người này chính là kẻ sống chung lén lút, không được xuất gia. Dù ngay lúc lấy hình thức tu sĩ, người đó đã nghĩ “ta sẽ không báo cho ai biết”, và khi đến tu viện cũng báo, người đó vẫn là kẻ sống chung lén lút ngay từ lúc lấy. Hoặc nếu lúc lấy, người đó có ý định “ta sẽ báo”, nhưng khi đến tu viện, bị hỏi “anh đi đâu vậy, thưa hiền giả?”, người đó lừa dối và không báo vì nghĩ “bây giờ họ không biết mình”, ngay khi quyết định không báo, người này cũng trở thành kẻ sống chung lén lút. Nhưng nếu lúc lấy, người đó có ý định “ta sẽ báo”, và khi đến tu viện cũng báo, người này được phép xuất gia lại.
Aparo daharasāmaṇero mahanto vā pana abyatto. So purimanayeneva uppabbajitvā ghare vacchakagorakkhaṇādīni kammāni kātuṃ na icchati. Tamenaṃ ñātakā tāniyeva kāsāyāni acchādetvā thālakaṃ vā pattaṃ vā hatthe datvā ‘‘gaccha, samaṇova hohī’’ti gharā nīharanti. So vihāraṃ gacchati, neva naṃ bhikkhū jānanti ‘‘ayaṃ uppabbajitvā punao pabbajito’’ti, nāpi sayaṃ jānāti ‘‘yo evaṃ pabbajati, so theyyasaṃvāsako nāma hotī’’ti. Sace pana taṃ paripuṇṇavassaṃ upasampādenti, sūpasampanno. Sace pana anupasampannakāleyeva vinayavinicchaye vattamāne suṇāti ‘‘yo evaṃ pabbajati, so theyyasaṃvāsako nāma hotī’’ti, tena ‘‘mayā evaṃ kata’’nti bhikkhūnaṃ ācikkhitabbaṃ. Evaṃ puna pabbajjaṃ labhati. Sace pana ‘‘dāni na maṃ koci jānātī’’ti nāroceti, dhuraṃ nikkhittamatteyeva theyyasaṃvāsako.
Một Sa-di nhỏ khác, hoặc một người lớn nhưng không hiểu biết. Người đó hoàn tục theo cách đã nói trước, rồi không muốn làm các công việc ở nhà như chăn bò con. Bà con liền khoác cho người đó những chiếc y cà sa đó, đưa cho một cái bát hoặc một cái tô và nói “đi đi, cứ làm Sa-môn đi” rồi đuổi ra khỏi nhà. Người đó đến tu viện, các Tỳ-khưu không biết “người này đã hoàn tục rồi lại xuất gia”, và chính người đó cũng không biết “ai xuất gia như vậy thì gọi là kẻ sống chung lén lút”. Nếu người đó được cho thọ cụ túc giới khi đủ tuổi hạ, thì vẫn là thọ giới hợp lệ. Nhưng nếu trong thời gian chưa thọ cụ túc giới, khi nghe giảng về luật, biết rằng “ai xuất gia như vậy thì gọi là kẻ sống chung lén lút”, người đó phải báo cho các Tỳ-khưu biết “con đã làm như vậy”. Như vậy sẽ được xuất gia lại. Nhưng nếu người đó nghĩ “bây giờ không ai biết” và không báo, ngay khi quyết định như vậy, người đó trở thành kẻ sống chung lén lút.
Bhikkhu sikkhaṃ paccakkhāya liṅgaṃ anapanetvā dussīlakammaṃ katvā vā akatvā vā puna sabbaṃ pubbe vuttaṃ vassagaṇanādibhedaṃ vidhiṃ paṭipajjati, theyyasaṃvāsako hoti. Sikkhaṃ appaccakkhāya saliṅge ṭhito methunaṃ paṭisevitvā vassagaṇanādibhedaṃ vidhiṃ āpajjanto theyyasaṃvāsako na hoti, pabbajjāmattaṃ labhati. Andhakaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘eso theyyasaṃvāsako’’ti vuttaṃ, taṃ na gahetabbaṃ.
Một Tỳ-khưu hoàn tục, không bỏ y, dù có làm điều bất chính hay không, rồi lại tuân thủ tất cả các quy định đã nói trước đó về tuổi hạ v.v…, thì trở thành kẻ sống chung lén lút. Nếu không hoàn tục, vẫn còn mặc y, phạm tội giao cấu rồi tuân thủ các quy định về tuổi hạ v.v…, thì không phải là kẻ sống chung lén lút, chỉ được phép xuất gia. Tuy nhiên, trong Andhakaṭṭhakathāyaṃ nói rằng “người này là kẻ sống chung lén lút”, điều đó không nên chấp nhận.
Eko bhikkhu kāsāye saussāhova odātaṃ nivāsetvā methunaṃ paṭisevitvā puna kāsāyāni nivāsetvā vassagaṇanādibhedaṃ vidhiṃ āpajjati, ayampi theyyasaṃvāsako na hoti, pabbajjāmattaṃ labhati. Sace pana kāsāye dhuraṃ nikkhipitvā odātaṃ nivāsetvā methunaṃ paṭisevitvā puna kāsāyāni nivāsetvā vassagaṇanādibhedaṃ vidhiṃ āpajjati, theyyasaṃvāsako hoti. Sāmaṇero saliṅge ṭhito methunādiassamaṇakaraṇadhammaṃ āpajjitvāpitheyyasaṃvāsako na hoti. Sacepi kāsāye saussāhova kāsāyāni apanetvā methunaṃ paṭisevitvā puna kāsāyāni nivāseti, neva theyyasaṃvāsako hoti. Sace pana kāsāye dhuraṃ nikkhipitvā naggo vā odātavattho vā methunasevanādīhi assamaṇo hutvā kāsāyaṃ nivāseti, theyyasaṃvāsako hoti.
Một Tỳ-khưu, trong khi vẫn còn ý muốn giữ y cà sa, mặc đồ trắng, giao cấu, rồi lại mặc y cà sa và tuân thủ các quy định về tuổi hạ v.v…, người này cũng không phải là kẻ sống chung lén lút, chỉ được phép xuất gia. Nhưng nếu người đó từ bỏ ý muốn giữ y cà sa, mặc đồ trắng, giao cấu, rồi lại mặc y cà sa và tuân thủ các quy định về tuổi hạ v.v…, thì trở thành kẻ sống chung lén lút. Một Sa-di, trong khi vẫn còn mặc y, dù phạm các điều làm mất tư cách Sa-môn như giao cấu v.v…, cũng không phải là kẻ sống chung lén lút. Dù trong khi vẫn còn ý muốn giữ y cà sa, cởi y cà sa, giao cấu, rồi lại mặc y cà sa, cũng không phải là kẻ sống chung lén lút. Nhưng nếu từ bỏ ý muốn giữ y cà sa, trần truồng hoặc mặc đồ trắng, trở thành người không phải Sa-môn qua việc giao cấu v.v…, rồi lại mặc y cà sa, thì trở thành kẻ sống chung lén lút.
Sace gihibhāvaṃ patthayamāno kāsāyaṃ ovaṭṭikaṃ katvā aññena vā ākārena gihinivāsanena nivāseti ‘‘sobhati nu kho me gihiliṅgaṃ, na sobhatī’’ti vīmaṃsanatthaṃ, rakkhati tāva. ‘‘Sobhatī’’ti sampaṭicchitvā pana puna liṅgaṃ sādiyanto theyyasaṃvāsako hoti. Odātaṃ nivāsetvā vīmaṃsanasampaṭicchanesupi eseva nayo. Sace pana nivatthakāsāvassa upari odātaṃ nivāsetvā vīmaṃsati vā sampaṭicchati vā, rakkhatiyeva. Bhikkhuniyāpi eseva nayo. Sāpi gihibhāvaṃ patthayamānā sace kāsāyaṃ gihinivāsanaṃ nivāseti ‘‘sobhati nu kho me gihiliṅgaṃ, na sobhatī’’ti vīmaṃsanatthaṃ, rakkhatiyeva. Sace ‘‘sobhatī’’ti sampaṭicchati, na rakkhati. Odātaṃ nivāsetvā vīmaṃsanasampaṭicchanesupi eseva nayo. Nivatthakāsāyassa pana upari odātaṃ nivāsetvā vīmaṃsatu vā sampaṭicchatu vā, rakkhatiyeva.
Nếu một người muốn trở thành cư sĩ, mặc y cà sa theo kiểu vắt qua vai hoặc theo cách khác của cư sĩ để xem xét “hình thức cư sĩ có hợp với mình không?”, thì chừng đó vẫn giữ được tư cách. Nhưng sau khi chấp nhận rằng “hợp” rồi lại quay lại chấp nhận hình thức tu sĩ, thì trở thành kẻ sống chung lén lút. Khi mặc đồ trắng để xem xét và chấp nhận, cũng áp dụng cách thức này. Nhưng nếu mặc đồ trắng bên ngoài y cà sa đã mặc để xem xét hoặc chấp nhận, thì vẫn giữ được tư cách. Đối với Tỳ-khưu-ni cũng áp dụng cách thức này. Vị ấy, nếu muốn trở thành cư sĩ, mặc y cà sa theo kiểu của cư sĩ để xem xét “hình thức cư sĩ có hợp với mình không?”, thì chừng đó vẫn giữ được tư cách. Nếu chấp nhận rằng “hợp”, thì không giữ được. Khi mặc đồ trắng để xem xét và chấp nhận, cũng áp dụng cách thức này. Nhưng nếu mặc đồ trắng bên ngoài y cà sa đã mặc để xem xét hoặc chấp nhận, thì vẫn giữ được tư cách.
Sace koci vuḍḍhapabbajito vassāni agaṇetvā pāḷiyampi aṭṭhatvā ekapassena gantvā mahāpeḷādīsu kaṭacchunā ukkhitte bhattapiṇḍe pattaṃ upanāmetvā seno viya maṃsapesiṃ gahetvā gacchati, theyyasaṃvāsako na hoti, bhikkhuvassāni pana gaṇetvā gaṇhanto theyyasaṃvāsako hoti. Sayaṃ sāmaṇerova sāmaṇerapaṭipāṭiyā kūṭavassāni gaṇetvā gaṇhanto theyyasaṃvāsako na hoti. Bhikkhu bhikkhupaṭipāṭiyā kūṭavassāni gaṇetvā gaṇhanto bhaṇḍagghena kāretabbo.
Nếu một người xuất gia đã lâu, không tính tuổi hạ, không đứng vào hàng ngũ trong Pāḷi, đi một bên, đưa bát vào những cái chậu lớn v.v… để nhận những vắt cơm được múc bằng vá, lấy một miếng thịt như diều hâu rồi đi, thì không phải là kẻ sống chung lén lút. Nhưng nếu tính tuổi hạ của Tỳ-khưu để nhận, thì là kẻ sống chung lén lút. Tự mình là Sa-di, tính tuổi hạ giả trong hàng Sa-di để nhận, thì không phải là kẻ sống chung lén lút. Một Tỳ-khưu, tính tuổi hạ giả trong hàng Tỳ-khưu để nhận, thì phải bị phạt theo giá trị của vật phẩm.
139. Titthiyapakkantakoti titthiyesu pakkanto paviṭṭhoti titthiyapakkantako, sopi na pabbājetabbo. Tatrāyaṃ vinicchayo – upasampanno bhikkhu ‘‘titthiyo bhavissāmī’’ti saliṅgeneva tesaṃ upassayaṃ gacchati, padavāre padavāre dukkaṭaṃ, tesaṃ liṅge ādinnamatte titthiyapakkantako hoti. Yopio ‘‘titthiyo bhavissa’’nti kusacīrādīni nivāseti, titthiyapakkantako hotiyeva. Yo pana naggo nahāyanto attānaṃ oloketvā ‘‘sobhati me ājīvakabhāvo, ājīvako bhavissa’’nti kāsāyāni anādāya naggo ājīvakānaṃ upassayaṃ gacchati, padavāre padavāre dukkaṭaṃ. Sace panassa antarāmagge hirottappaṃ uppajjati, dukkaṭāni desetvā muccati. Tesaṃ upassayaṃ gantvāpi tehi vā ovadito attanā vā ‘‘imesaṃ pabbajjā atidukkhā’’ti disvā nivattantopi muccatiyeva. Sace pana ‘‘kiṃ tumhākaṃ pabbajjāya ukkaṭṭha’’nti pucchitvā ‘‘kesamassuluñcanādīnī’’ti vutto ekakesampi luñcāpeti, ukkuṭikappadhānādīni vā vattāni ādiyati, morapiñchādīni vā nivāseti, tesaṃ liṅgaṃ gaṇhāti, ‘‘ayaṃ pabbajjā seṭṭhā’’ti seṭṭhabhāvaṃ vā upagacchati, na muccati, titthiyapakkantako hoti. Sace pana ‘‘sobhati nu kho me titthiyapabbajjā, nanu kho sobhatī’’ti vīmaṃsanatthaṃ kusacīrādīni vā nivāseti, jaṭaṃ vā bandhati, khārikājaṃ vā ādiyati, yāva na sampaṭicchati laddhiṃ, tāva rakkhati, sampaṭicchitamatte titthiyapakkantako hoti. Acchinnacīvaro pana kusacīrādīni nivāsento rājabhayādīhi vā titthiyaliṅgaṃ gaṇhanto laddhiyā abhāvena neva titthiyapakkantako hoti. ‘‘Ayañca titthiyapakkantako nāma upasampannabhikkhunā kathito, tasmā sāmaṇero saliṅgena titthiyāyatanaṃ gatopi puna pabbajjañca upasampadañca labhatī’’ti kurundiyaṃ vuttaṃ. Purimo pana theyyasaṃvāsako anupasampannena kathito, tasmā upasampanno kūṭavassaṃ gaṇentopi assamaṇo na hoti. Liṅge saussāho pārājikaṃ āpajjitvā bhikkhuvassādīni gaṇhantopi theyyasaṃvāsako na hoti.
139. Người đã theo ngoại đạo là người đã gia nhập, đi vào hàng ngũ của ngoại đạo; người đó cũng không được cho xuất gia. Đây là sự thẩm định: một Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới, với ý định “ta sẽ trở thành ngoại đạo”, vẫn mặc y của mình mà đi đến trú xứ của họ, mỗi bước chân là một tội Tác Ác; ngay khi nhận lấy hình thức của họ, liền trở thành người đã theo ngoại đạo. Cả người nào với ý định “ta sẽ trở thành ngoại đạo” mà mặc y cỏ kusa v.v…, cũng trở thành người đã theo ngoại đạo. Người nào đang tắm truồng, nhìn mình và nghĩ “hình thức của phái ājīvaka hợp với ta, ta sẽ trở thành ājīvaka”, không lấy y cà sa mà đi đến trú xứ của phái ājīvaka trong tình trạng khỏa thân, mỗi bước chân là một tội Tác Ác. Nhưng nếu giữa đường, lòng hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi nảy sinh, người đó sám hối các tội Tác Ác và được tha. Dù đã đến trú xứ của họ, nhưng sau khi được họ khuyên bảo hoặc tự mình thấy rằng “việc xuất gia của họ quá khổ hạnh” mà quay về, cũng được tha. Nhưng nếu sau khi hỏi “điều gì là cao quý nhất trong việc xuất gia của các vị?” và được trả lời là “nhổ tóc, râu v.v…”, liền cho họ nhổ dù chỉ một sợi tóc, hoặc chấp nhận các hạnh tu như ngồi chồm hổm v.v…, hoặc mặc lông công v.v…, hoặc nhận lấy hình thức của họ, hoặc chấp nhận rằng “việc xuất gia này là cao quý nhất”, thì không được tha, trở thành người đã theo ngoại đạo. Nhưng nếu để xem xét “việc xuất gia ngoại đạo có hợp với mình không?” mà mặc y cỏ kusa v.v…, hoặc bện tóc, hoặc mang bình nước, chừng nào chưa chấp nhận giáo lý của họ, thì vẫn giữ được tư cách; ngay khi chấp nhận, liền trở thành người đã theo ngoại đạo. Còn người chưa bỏ y, nếu mặc hình thức ngoại đạo do sợ vua v.v…, vì không có giáo lý của họ, nên không trở thành người đã theo ngoại đạo. Sách Kurundī nói rằng: “Người đã theo ngoại đạo này được nói đến trong trường hợp của Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới, do đó, một Sa-di dù đến trú xứ của ngoại đạo trong khi vẫn mặc y của mình, vẫn được phép xuất gia và thọ cụ túc giới lại.” Còn người sống chung lén lút đã nói trước đây được đề cập trong trường hợp người chưa thọ cụ túc giới, do đó, một Tỳ-khưu dù tính tuổi hạ giả cũng không trở thành người không phải Sa-môn. Người vẫn còn ý muốn giữ hình thức tu sĩ, sau khi phạm tội Bất Cộng Trụ mà vẫn tính tuổi hạ Tỳ-khưu v.v…, không phải là kẻ sống chung lén lút.
140. Tiracchānagatoti nāgo vā hotu supaṇṇamāṇavakādīnaṃ vā aññataro antamaso sakkaṃ devarājānaṃ upādāya yo koci amanussajātiyo, sabbova imasmiṃ atthe ‘‘tiracchānagato’’ti veditabbo. So ca neva upasampādetabbo na pabbājetabbo, upasampannopi nāsetabbo.
140. Người thuộc loài bàng sanh là rồng (rắn), hay một trong các hạng như chàng trai kim sí điểu v.v…, cho đến cả vua trời Đế-thích, bất cứ loài nào không phải là người, tất cả trong ý nghĩa này đều được hiểu là “người thuộc loài bàng sanh”. Người đó không được cho thọ cụ túc giới, không được cho xuất gia, nếu đã thọ giới rồi cũng phải trục xuất.
141. Mātughātakādīsu pana yena manussitthibhūtā janikā mātā sayampi manussajātikeneva sabhā sañcicca jīvitā voropitā, ayaṃ ānantariyena mātughātakakammena mātughātako. Etassa pabbajjā ca upasampadā ca paṭikkhittā. Yena pana manussitthibhūtāpi ajanikā posāvanikā mātā vā cūḷamātā vā janikāpi vā na manussitthibhūtā mātā ghātitā, tassa pabbajjā na vāritā, na ca ānantariko hoti. Yena sayaṃ tiracchānabhūtena manussitthibhūtā mātā ghātitā, sopi ānantariko na hoti, tiracchānagatattā panassa pabbajjā paṭikkhittā. Pitughātakepi eseva nayo. Sacepi hi vesiyā putto hoti, ‘‘ayaṃ me pitā’’ti na jānāti, yassa sambhavena nibbatto, so ce anena ghātito, pitughātakotveva saṅkhyaṃ gacchati, ānantariyañca phusati.
141. Trong các tội như giết mẹ, người nào là người, đã cố ý giết chết người mẹ ruột của mình, cũng là một người nữ, thì người đó là kẻ giết mẹ do phạm nghiệp vô gián giết mẹ. Việc xuất gia và thọ cụ túc giới của người này bị cấm. Tuy nhiên, người nào giết mẹ nuôi là người nữ nhưng không phải mẹ ruột, hoặc dì, hoặc mẹ ruột nhưng không phải là người nữ, thì việc xuất gia của người đó không bị cấm, và người đó không phạm tội vô gián. Người nào là loài bàng sanh mà giết mẹ là người nữ, người đó cũng không phạm tội vô gián, nhưng việc xuất gia của họ bị cấm vì là loài bàng sanh. Trong trường hợp kẻ giết cha cũng áp dụng cách thức này. Dù là con của một người kỹ nữ, không biết “đây là cha của mình”, nhưng nếu người đã sinh ra mình bị mình giết, thì vẫn được kể là kẻ giết cha và phạm tội vô gián.
Arahantaghātakopi manussaarahantavaseneva veditabbo. Manussajātiyañhi antamaso apabbajitampi khīṇāsavaṃ dārakaṃ vā dārikaṃ vā sañcicca jīvitā voropento arahantaghātakova hoti, ānantariyañca phusati, pabbajjā cassa vāritā. Amanussajātikaṃ pana arahantaṃ manussajātikaṃ vā avasesaṃ ariyapuggalaṃ ghātetvā ānantariko na hoti, pabbajjāpissa na vāritā, kammaṃ pana balavaṃ hoti. Tiracchāno manussaarahantampi ghātetvā ānantariko na hoti, kammaṃ pana bhāriyanti ayamettha vinicchayo.
Kẻ giết A-la-hán cũng được hiểu theo trường hợp A-la-hán là người. Một người, dù là một đứa trẻ trai hay gái chưa xuất gia nhưng đã đắc quả vị tận trừ lậu hoặc, nếu cố ý giết chết vị ấy, thì trở thành kẻ giết A-la-hán, phạm tội vô gián, và việc xuất gia của người đó bị cấm. Tuy nhiên, nếu giết một vị A-la-hán không phải là người, hoặc một bậc Thánh nhân khác là người, thì không phạm tội vô gián, việc xuất gia cũng không bị cấm, nhưng nghiệp thì rất nặng. Một con vật dù giết một vị A-la-hán là người cũng không phạm tội vô gián, nhưng nghiệp thì rất nặng; đây là sự thẩm định trong trường hợp này.
Yo pana devadatto viya duṭṭhacittena vadhakacittena tathāgatassa jīvamānakasarīre khuddakamakkhikāya pivanamattampi lohitaṃ uppādeti, ayaṃ lohituppādako nāma. Etassa pabbajjā ca upasampadā ca vāritā. Yo pana rogavūpasamatthaṃ jīvako viya satthena phāletvā pūtimaṃsalohitaṃ haritvā phāsukaṃ karoti, bahuṃ so puññaṃ pasavatīti.
Người nào, giống như Devadatta, với tâm ác, tâm muốn giết, làm cho dù chỉ một chút máu như con ruồi nhỏ có thể uống được chảy ra từ thân thể còn sống của Như Lai, người đó được gọi là kẻ làm chảy máu Phật. Việc xuất gia và thọ cụ túc giới của người này bị cấm. Còn người nào, giống như Jīvaka, vì mục đích chữa bệnh mà dùng dao mổ để loại bỏ thịt mủ và máu mủ, làm cho bệnh nhân được dễ chịu, người đó tạo ra nhiều phước báu.
Yo devadatto viya sāsanaṃ uddhammaṃ ubbinayaṃ katvā catunnaṃ kammānaṃ aññataravasena saṅghaṃ bhindati, ayaṃ saṅghabhedako nāma. Etassa pabbajjā ca upasampadā ca vāritā.
Người nào, giống như Devadatta, làm cho giáo pháp trở thành phi pháp, phi luật, rồi chia rẽ Tăng đoàn bằng một trong bốn loại tăng sự, người đó được gọi là kẻ chia rẽ Tăng đoàn. Việc xuất gia và thọ cụ túc giới của người này bị cấm.
Yo pana pakatattaṃ bhikkhuniṃ tiṇṇaṃ maggānaṃ aññatarasmiṃ dūseti, ayaṃ bhikkhunīdūsako nāma. Etassa pabbajjā ca upasampadā ca vāritā. Yo pana kāyasaṃsaggena sīlavināsaṃ pāpeti, tassa pabbajjā ca upasampadā ca na vāritā. Balakkārena odātavatthavasanaṃ katvā anicchamānaṃyeva dūsentopi bhikkhunīdūsakoyeva, balakkārena pana odātavatthavasanaṃ katvā icchamānaṃ dūsento bhikkhunīdūsako na hoti. Kasmā? Yasmā gihibhāve sampaṭicchi tamatteyeva sā abhikkhunī hoti. Sakiṃsīlavipannaṃ pacchā dūsento sikkhamānasāmaṇerīsu ca vippaṭipajjanto neva bhikkhunīdūsako hoti, pabbajjampi upasampadampi labhati. Iti ime ekādasa abhabbapuggalā veditabbā.
Người nào làm ô uế một Tỳ-khưu-ni bình thường trong một trong ba đường, người đó được gọi là kẻ cưỡng hiếp Tỳ-khưu-ni. Việc xuất gia và thọ cụ túc giới của người này bị cấm. Người nào làm mất giới hạnh qua việc tiếp xúc thân thể, việc xuất gia và thọ cụ túc giới của người đó không bị cấm. Người nào dùng vũ lực bắt mặc đồ trắng và làm ô uế Tỳ-khưu-ni dù vị ấy không muốn, cũng là kẻ cưỡng hiếp Tỳ-khưu-ni. Nhưng nếu dùng vũ lực bắt mặc đồ trắng rồi làm ô uế vị ấy trong khi vị ấy đồng ý, thì không phải là kẻ cưỡng hiếp Tỳ-khưu-ni. Tại sao? Vì ngay khi chấp nhận trong trạng thái cư sĩ, vị ấy đã không còn là Tỳ-khưu-ni. Người nào làm ô uế một người đã từng bị mất giới hạnh một lần, hoặc có hành vi sai trái với cô ni tu tập sự và sa-di-ni, thì không phải là kẻ cưỡng hiếp Tỳ-khưu-ni, và được phép xuất gia và thọ cụ túc giới. Như vậy, cần biết mười một hạng người không đủ tư cách này.
142. Ūnavīsativassassa pana upasampadāyeva paṭikkhittā, na pabbajjā, tasmā paṭisandhiggahaṇato paṭṭhāya paripuṇṇavīsativasso upasampādetabbo. Gabbhavīsopi hi paripuṇṇavīsativassotveva saṅkhyaṃ gacchati. Yathāha bhagavā –
142. Đối với người chưa đủ hai mươi tuổi, chỉ có việc thọ cụ túc giới là bị cấm, không phải việc xuất gia; do đó, người đã đủ hai mươi tuổi tính từ lúc thọ thai thì mới được cho thọ cụ túc giới. Người hai mươi tuổi trong bụng mẹ cũng được kể là đã đủ hai mươi tuổi. Như Đức Thế Tôn đã dạy:
‘‘Yaṃ, bhikkhave, mātukucchismiṃ paṭhamaṃ cittaṃ uppannaṃ, paṭhamaṃ viññāṇaṃ pātubhūtaṃ, tadupādāya sāvassa jāti. Anujānāmi, bhikkhave, gabbhavīsaṃ upasampādetu’’nti (mahāva. 124).
“Này các Tỳ-khưu, tâm đầu tiên khởi lên, thức đầu tiên xuất hiện trong bụng mẹ, từ đó trở đi là sự sanh của người ấy. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cho người đủ hai mươi tuổi trong bụng mẹ được thọ cụ túc giới.” (mahāva. 124).
Tattha (pāci. aṭṭha. 404) yo dvādasa māse mātukucchismiṃ vasitvā mahāpavāraṇāya jāto, so tato paṭṭhāya yāva ekūnavīsatime vasse mahāpavāraṇā, taṃ atikkamitvā pāṭipade upasampādetabbo. Etenupāyena hāyanavaḍḍhanaṃ veditabbaṃ. Porāṇakattherā pana ekūnavīsativassaṃ sāmaṇeraṃ nikkhamanīyapuṇṇamāsiṃ atikkamma pāṭipadadivase upasampādenti. Kasmā? Ekasmiṃ vasse cha cātuddasikauposathā honti, iti vīsatiyā vassesu cattāro māsā parihāyanti, rājāno tatiye tatiye gasse vassaṃ ukkaḍḍhanti, iti aṭṭhārasavassesu cha māsā vaḍḍhanti, tato uposathavasena parihīne cattāro māse apanetvā dve māsā avasesā honti, te dve māse gahetvā vīsati vassāni paripuṇṇāni hontīti nikkaṅkhā hutvā nikkhamanīyapuṇṇamāsiṃ atikkamma pāṭipade upasampādenti.
Ở đây (pāci. aṭṭha. 404), người nào ở trong bụng mẹ mười hai tháng rồi sinh ra vào ngày đại tự tứ, người đó từ lúc ấy cho đến ngày đại tự tứ của năm thứ mười chín, sau khi qua ngày đó, vào ngày mồng một hôm sau thì được cho thọ cụ túc giới. Cần phải hiểu sự tăng giảm năm tháng theo cách này. Các vị trưởng lão xưa kia thường cho một sa-di mười chín tuổi thọ cụ túc giới vào ngày mồng một sau khi qua rằm tháng xuất gia. Tại sao? Vì trong một năm có sáu ngày lễ bố-sát vào ngày mười bốn, như vậy trong hai mươi năm sẽ thiếu bốn tháng; các vị vua cứ ba năm lại thêm một tháng nhuận, như vậy trong mười tám năm sẽ thêm sáu tháng; sau khi trừ đi bốn tháng bị thiếu do lễ bố-sát, còn lại hai tháng; lấy hai tháng đó cộng vào là đủ hai mươi năm, do đó họ không còn nghi ngờ gì và cho thọ cụ túc giới vào ngày mồng một sau rằm tháng xuất gia.
Ettha pana yo pavāretvā vīsativasso bhavissati, taṃ sandhāya ‘‘ekūnavīsativassa’’nti vuttaṃ. Tasmā yo mātukucchismiṃ dvādasa māse vasi, so ekavīsativasso hoti. Yo satta māse vasi, so sattamāsādhikavīsativasso. Chamāsajāto pana na jīvati, ūnavīsativassaṃ pana ‘‘paripuṇṇavīsativasso’’ti saññāya upasampādentassa anāpatti, puggalo pana anupasampannova hoti. Sace pana so dasavassaccayena aññaṃ upasampādeti, tañce muñcitvā gaṇo pūrati, sūpasampanno. Sopi ca yāva na jānāti, tāvassa neva saggantarāyo na mokkhantarāyo, ñatvā pana puna upasampajjitabbaṃ.
Ở đây, câu “người mười chín tuổi” được nói đến để chỉ người sẽ đủ hai mươi tuổi sau khi tự tứ. Do đó, người ở trong bụng mẹ mười hai tháng thì sẽ là hai mươi mốt tuổi. Người ở bảy tháng thì sẽ là hai mươi tuổi và bảy tháng. Người sinh sau sáu tháng thì không sống được. Người nào cho một người chưa đủ hai mươi tuổi thọ cụ túc giới vì tưởng rằng người đó đã đủ hai mươi tuổi thì không có tội, nhưng người đó vẫn chưa được thọ cụ túc giới. Nếu sau mười năm, người đó lại cho người khác thọ cụ túc giới, và nếu không kể người đó mà Tăng chúng vẫn đủ số, thì người kia được thọ cụ túc giới hợp lệ. Còn người đó, chừng nào chưa biết, thì không bị cản trở đường lên cõi trời hay đường đến giải thoát; nhưng khi biết rồi thì phải thọ cụ túc giới lại.
143. Iti imehi pabbajjādosehi virahitopi ‘‘na, bhikkhave, ananuññāto mātāpitūhi putto pabbājetabbo’’ti (mahāva. 105) anuyāya mātāpitūhi ananuññāto na pabbājetabbo. Tattha (mahāva. aṭṭha. 105) mātāpitūhīti janake sandhāya vuttaṃ. Sace dvepi atthi, dvepi āpucchitabbā. Sace pitā mato hoti mātā vā, yo jīvati, so āpucchi tabbo, pabbajitāpi āpucchitabbāva. Āpucchantena sayaṃ vā gantvā āpucchitabbaṃ, añño vā pesetabbo. So eva vā pesetabbo ‘‘gaccha mātāpitaro āpucchitvā ehī’’ti. Sace ‘‘anuññātomhī’’ti vadati, saddahantena pabbājetabbo. Pitā sayaṃ pabbajito puttampi pabbājetukāmo hoti, mātaraṃ āpucchitvā pabbājetu. Mātā vā dhītaraṃ pabbājetukāmā pitaraṃ āpucchitvāva pabbājetu. Pitā puttadārena anatthiko palāyi, mātā ‘‘imaṃ pabbajethā’’ti puttaṃ bhikkhūnaṃ deti, ‘‘pitāssa kuhi’’nti vutte ‘‘cittakeḷiṃ kīḷituṃ palāto’’ti vadati, taṃ pabbājetuṃ vaṭṭati. Mātā kenaci purisena saddhiṃ palātā hoti, pitā pana ‘‘pabbājethā’’ti vadati, etthāpi eseva nayo. Pitā vippavuttho hoti, mātā puttaṃ ‘‘pabbājethā’’ti anujānāti, ‘‘pitāssa kuhi’’nti vutte ‘‘kiṃ tumhākaṃ pitarā, ahaṃ jānissāmī’’ti vadati, pabbājetuṃ vaṭṭatīti kurundiyaṃ vuttaṃ.
143. Dù người không có các khuyết điểm về việc xuất gia như vậy, nhưng theo lời dạy “Này các Tỳ-khưu, không được cho con trai xuất gia nếu chưa được cha mẹ cho phép” (mahāva. 105), người chưa được cha mẹ cho phép thì không được cho xuất gia. Ở đây (mahāva. aṭṭha. 105), cha mẹ được nói đến để chỉ cha mẹ ruột. Nếu cả hai còn sống, phải xin phép cả hai. Nếu cha hoặc mẹ đã mất, phải xin phép người còn sống; dù họ đã xuất gia cũng phải xin phép. Khi xin phép, có thể tự mình đến xin, hoặc cử người khác đi. Hoặc có thể sai chính người đó đi “con hãy đi xin phép cha mẹ rồi trở lại”. Nếu người đó nói “con đã được phép”, nếu tin lời thì có thể cho xuất gia. Người cha đã xuất gia, muốn cho con mình cũng xuất gia, thì phải xin phép người mẹ rồi mới cho xuất gia. Hoặc người mẹ muốn cho con gái mình xuất gia, cũng phải xin phép người cha rồi mới cho xuất gia. Người cha không còn quan tâm đến vợ con và đã bỏ đi, người mẹ đưa con trai cho các Tỳ-khưu và nói “xin hãy cho nó xuất gia”, khi được hỏi “cha nó đâu?”, bà nói “ông ấy đã bỏ đi chơi bời”, trường hợp đó có thể cho xuất gia. Người mẹ đã bỏ đi theo một người đàn ông khác, còn người cha nói “xin hãy cho nó xuất gia”, ở đây cũng áp dụng cách thức này. Người cha đi vắng, người mẹ cho phép con trai “xin hãy cho nó xuất gia”, khi được hỏi “cha nó đâu?”, bà nói “cha nó thì có liên quan gì đến các ngài, tôi sẽ lo”, sách Kurundī nói rằng trường hợp đó có thể cho xuất gia.
Mātāpitaro matā, dārako cūḷamātādīnaṃ santike saṃvaddho, tasmiṃ pabbājiyamāne ñātakā kalahaṃ vā karonti khiyyanti vā, tasmā vivādupacchedanatthaṃ āpucchitvā pabbājetabbo, anāpucchitvā pabbājentassa pana āpatti natthi. Daharakāle gahetvā posakā mātāpitaro nāma honti, tesupi eseva nayo. Putto attānaṃ nissāya jīvati, na mātāpitaro. Sacepi rājā hoti, āpucchitvāva pabbājetabbo. Mātāpitūhi anuññāto pabbajitvā puna vibbhamati, sacepi satakkhattuṃ pabbajitvā vibbhamati, āgatāgatakāle punappunaṃ āpucchitvāva pabbājetabbo. Sacepi evaṃ vadanti ‘‘ayaṃ vibbhamitvā gehaṃ āgato, amhākaṃ kammaṃ na karoti, pabbajitvā tumhākaṃ vattaṃ na pūreti, natthi imassa āpucchanakiccaṃ, āgatāgataṃ naṃ pabbājeyyāthā’’ti, evaṃ nissaṭṭhaṃ puna anāpucchāpi pabbājetuṃ vaṭṭati.
Cha mẹ đã mất, đứa trẻ được dì v.v… nuôi nấng, khi cho đứa trẻ đó xuất gia, nếu bà con gây gổ hoặc tức giận, thì để chấm dứt tranh cãi, nên xin phép rồi mới cho xuất gia; tuy nhiên, vị nào cho xuất gia mà không xin phép thì không có tội. Có những người được gọi là cha mẹ nuôi vì đã nuôi nấng từ nhỏ, đối với họ cũng áp dụng cách thức này. Đứa con sống tự lập, không nương tựa vào cha mẹ. Dù là vua cũng phải xin phép rồi mới được cho xuất gia. Người đã được cha mẹ cho phép xuất gia rồi lại hoàn tục, dù có xuất gia rồi hoàn tục cả trăm lần, mỗi khi trở lại cũng phải xin phép lại rồi mới được cho xuất gia. Nếu họ nói rằng “nó hoàn tục về nhà cũng không làm việc cho chúng tôi, xuất gia cũng không hoàn thành phận sự cho các ngài, không cần phải xin phép nó nữa, nó đến lúc nào thì cứ cho nó xuất gia lúc đó”, người đã được từ bỏ như vậy thì có thể cho xuất gia lại mà không cần xin phép.
Yopi daharakāleyeva ‘‘ayaṃ tumhākaṃ dinno, yadā icchatha, tadā pabbājeyyāthā’’ti evaṃ dinno hoti, sopi āgatāgato puna anāpucchitvāva pabbājetabbo. Yaṃ pana daharakāleyeva ‘‘imaṃ, bhante, pabbājeyyāthā’’ti anujānitvā pacchā vuḍḍhippattakāle nānujānanti, ayaṃ na anāpucchā pabbājetabbo. Eko mātāpitūhi saddhiṃ bhaṇḍitvā ‘‘pabbājetha ma’’nti āgacchati, ‘‘āpucchitvā ehī’’ti ca vutto ‘‘nāhaṃ gacchāmi, sace maṃ na pabbājetha, vihāraṃ vā jhāpemi, satthena vā tumhe paharāmi, tumhākaṃ ñātakānaṃ vā upaṭṭhākānaṃ vā ārāmacchedanādīhi anatthaṃ uppādemi, rukkhā vā patitvā marāmi, coramajjhaṃ vā pavisāmi, desantaraṃ vā gacchāmī’’ti vadati, taṃ tasseva rakkhaṇatthāya pabbājetuṃ vaṭṭati. Sace panassa mātāpitaro āgantvā ‘‘kasmā amhākaṃ puttaṃ pabbājayitthā’’ti vadanti, tesaṃ tamatthaṃ ārocetvā ‘‘rakkhaṇatthāya naṃ pabbājayimha, paññāyatha tumhe puttenā’’ti vattabbā. ‘‘Rukkhā patissāmī’’ti abhiruhitvā pana hatthapāde muñcantaṃ pabbājetuṃ vaṭṭatiyeva.
Người nào từ nhỏ đã được cho đi với lời dặn “người này đã được cho các ngài, khi nào muốn thì cứ cho nó xuất gia”, người đó mỗi khi trở lại cũng có thể được cho xuất gia mà không cần xin phép lại. Nhưng người nào từ nhỏ đã được cho phép, nhưng sau khi lớn lên lại không cho phép nữa, người này không được cho xuất gia mà không xin phép. Có người cãi nhau với cha mẹ rồi đến xin “xin hãy cho con xuất gia”, và khi được bảo “hãy đi xin phép rồi trở lại”, người đó nói “con không đi, nếu các ngài không cho con xuất gia, con sẽ đốt tu viện, hoặc dùng dao đâm các ngài, hoặc gây hại cho bà con, thí chủ của các ngài bằng cách phá hoại vườn tược, hoặc con sẽ trèo lên cây nhảy xuống chết, hoặc đi vào giữa đám cướp, hoặc đi đến xứ khác”, để bảo vệ chính người đó, có thể cho người đó xuất gia. Nếu cha mẹ người đó đến và hỏi “tại sao các ngài lại cho con chúng tôi xuất gia?”, nên trình bày sự việc cho họ và nói rằng “chúng tôi cho nó xuất gia để bảo vệ nó, các vị hãy tự liệu với con mình”. Người nào trèo lên cây nói “tôi sẽ nhảy xuống” rồi buông tay buông chân, cũng có thể cho người đó xuất gia.
Eko videsaṃ gantvā pabbajjaṃ yācati, āpucchitvā ce gato, pabbājetabbo. No ce, daharabhikkhuṃ pesetvā āpucchāpetvā pabbājetabbo. Atidūrañce hoti, pabbājetvāpi bhikkhūhi saddhiṃ pesetvā dassetuṃ vaṭṭati. Kurundiyaṃ pana vuttaṃ ‘‘sace dūraṃ hoti, maggo ca mahākantāro, ‘gantvā āpucchissāmī’ti pabbājetuṃ vaṭṭatī’’ti. Sace pana mātāpitūnaṃ bahū puttā honti, evañca vadanti ‘‘bhante, etesaṃ dārakānaṃ yaṃ icchatha, taṃ pabbājeyyāthā’’ti, dārake vīmaṃsitvā yaṃ icchati, so pabbājetabbo. Sacepi sakalena kulena vā gāmena vā anuññāto hoti ‘‘bhante, imasmiṃ kule vā gāme vā yaṃ icchatha, taṃ pabbājeyyāthā’’ti, yaṃ icchati, so pabbājetabboti.
Có người đi đến xứ khác và xin xuất gia, nếu đã xin phép rồi mới đi, thì có thể cho xuất gia. Nếu chưa, nên cử một Tỳ-khưu trẻ đi xin phép rồi mới cho xuất gia. Nếu ở quá xa, có thể cho xuất gia rồi cử đi cùng các Tỳ-khưu để trình diện. Tuy nhiên, sách Kurundī nói rằng “nếu ở xa, và đường đi là một hoang mạc lớn, có thể cho xuất gia với lời hứa ‘tôi sẽ đi xin phép’”. Nếu cha mẹ có nhiều con, và họ nói rằng “thưa ngài, trong số những đứa trẻ này, ngài muốn cho đứa nào xuất gia cũng được”, thì nên xem xét các đứa trẻ và cho đứa nào muốn xuất gia. Nếu được cả dòng họ hoặc cả làng cho phép rằng “thưa ngài, trong dòng họ này hoặc trong làng này, ngài muốn cho ai xuất gia cũng được”, thì có thể cho người nào muốn xuất gia.
144. Evaṃ (mahāva. aṭṭha. 34) pabbajjādosavirahitaṃ mātāpitūhi anuññātaṃ pabbājentenapi ca sace acchinnakeso hoti, ekasīmāyañca aññepi bhikkhū atthi, kesacchedanatthāya bhaṇḍukammaṃ āpucchitabbaṃ. Tatrāyaṃ āpucchanavidhi (mahāva. aṭṭha. 98) – sīmāpariyāpanne bhikkhū sannipātetvā pabbajjāpekkhaṃ tattha netvā ‘‘saṅghaṃ, bhante, imassa dārakassa bhaṇḍukammaṃ āpucchāmī’’ti tikkhattuṃ vā dvikkhattuṃ vā sakiṃ vā vattabbaṃ. Ettha ca ‘‘imassa dārakassa bhaṇḍukammaṃ āpucchāmī’’tipi ‘‘imassa samaṇakaraṇaṃ āpucchāmī’’tipi ‘‘ayaṃ samaṇo hotukāmo’’tipi ‘‘ayaṃ pabbajitukāmo’’tipi vattuṃ vaṭṭatiyeva. Sace sabhāgaṭṭhānaṃ hoti, dasa vā vīsati vā tiṃsaṃ vā bhikkhū vasantīti paricchedo paññāyati, tesaṃ ṭhitokāsaṃ vā nisinnokāsaṃ vā gantvāpi purimanayeneva āpucchitabbaṃ. Pabbajjāpekkhaṃ vināva daharabhikkhū vā sāmaṇere vā pesetvāpi ‘‘eko, bhante, pabbajjāpekkho atthi, tassa bhaṇḍukammaṃ āpucchāmā’’tiādinā nayena āpucchāpetuṃ vaṭṭati. Sace keci bhikkhū senāsanaṃ vā gumbādīni vā pavisitvā niddāyanti vā samaṇadhammaṃ vā karonti, āpucchakā ca pariyesantāpi adisvā ‘‘sabbe āpucchitā amhehī’’ti saññino honti, pabbajjā nāma lahukakammaṃ, tasmā pabbajito supabbajito, pabbājentassapi anāpatti.
144. Như vậy (mahāva. aṭṭha. 34), dù người đó không có các khuyết điểm về việc xuất gia và đã được cha mẹ cho phép, nhưng nếu người đó chưa cạo tóc và trong cùng một giới trường có các Tỳ-khưu khác, thì phải xin phép về việc cạo đầu. Đây là cách xin phép (mahāva. aṭṭha. 98) – tập hợp các Tỳ-khưu trong giới trường, đưa người xin xuất gia đến đó và nói ba lần, hai lần, hoặc một lần rằng “Thưa Tăng chúng, con xin phép được cạo đầu cho cậu bé này”. Ở đây, cũng có thể nói “con xin phép được cạo đầu cho cậu bé này”, “con xin phép được làm lễ xuất gia cho người này”, “người này muốn trở thành Sa-môn”, hoặc “người này muốn xuất gia”. Nếu có một nơi chung, và biết rõ có mười, hai mươi, hoặc ba mươi Tỳ-khưu đang ở đó, cũng có thể đến nơi họ đang đứng hoặc ngồi và xin phép theo cách đã nói trước. Cũng có thể cử các Tỳ-khưu trẻ hoặc các sa-di đi xin phép mà không cần có mặt người xin xuất gia, theo cách thức “Thưa ngài, có một người muốn xuất gia, chúng con xin phép được cạo đầu cho người đó” v.v… Nếu có một số Tỳ-khưu vào trong trú xứ hoặc bụi rậm để ngủ hoặc hành đạo, và những người đi xin phép dù tìm kiếm cũng không thấy và nghĩ rằng “chúng ta đã xin phép tất cả mọi người”, vì việc xuất gia là một nghiệp sự nhẹ, do đó người được xuất gia vẫn được xem là đã xuất gia hợp lệ, và người cho xuất gia cũng không có tội.
Sace pana vihāro mahā hoti anekabhikkhusahassāvāso, sabbe bhikkhū sannipātāpetumpi dukkaraṃ, pageva paṭipāṭiyā āpucchituṃ, khaṇḍasīmāya vā ṭhatvā nadīsamuddādīni vā gantvā pabbājetabbo. Yo pana navamuṇḍo vā hoti vibbhantako vā nigaṇṭhādīsu aññataro vā dvaṅgulakeso vā ūnadvaṅgulakeso vā, tassa kesacchedanakiccaṃ natthi, tasmā bhaṇḍukammaṃ anāpucchitvāpi tādisaṃ pabbājetuṃ vaṭṭati. Dvaṅgulātirittakeso pana yo hoti antamaso ekasikhāmattadharopi, so bhaṇḍukammaṃ āpucchitvāva pabbājetabbo.
Tuy nhiên, nếu tu viện lớn, có hàng ngàn Tỳ-khưu trú ngụ, việc tập hợp tất cả các Tỳ-khưu là khó khăn, huống chi là xin phép từng người một; thì nên đứng trong một giới trường nhỏ, hoặc đến bờ sông, bờ biển v.v… để cho xuất gia. Còn người nào đã cạo trọc đầu, hoặc là người hoàn tục, hoặc là một trong các phái ngoại đạo như Nigantha, hoặc tóc dài hai ngón tay hay ngắn hơn, thì không cần phải cạo tóc, do đó có thể cho người như vậy xuất gia mà không cần xin phép. Nhưng người nào có tóc dài hơn hai ngón tay, dù chỉ còn một chỏm tóc, cũng phải xin phép rồi mới được cho xuất gia.
145. Evaṃ āpucchitvā pabbājentena ca paripuṇṇapattacīvarova pabbājetabbo. Sace tassa natthi, yācitakenapi pattacīvarena pabbājetuṃ vaṭṭati, sabhāgaṭṭhāne vissāsena gahetvāpi pabbājetuṃ vaṭṭati. Sace (mahāva. aṭṭha. 118) pana apakkaṃ pattaṃ cīvarūpagāni ca vatthāni gahetvā āgato hoti, yāva patto paccati, cīvarāni ca karīyanti, tāva vihāre vasantassa anāmaṭṭhapiṇḍapātaṃ dātuṃ vaṭṭati, thālakesu bhuñjituṃ vaṭṭati. Purebhattaṃ sāmaṇerabhāgasamako āmisabhāgo dātuṃ vaṭṭati, senāsanaggāho pana salākabhattauddesabhattanimantanādīni ca na vaṭṭanti. Pacchābhattampi sāmaṇerabhāgasamo telataṇḍulamadhuphāṇitādibhesajjabhāgo vaṭṭati. Sace gilāno hoti, bhesajjamassa kātuṃ vaṭṭati, sāmaṇerassa viya sabbaṃ paṭijagganakammaṃ. Upasampadāpekkhaṃ pana yācitakena pattacīvarena upasampādetuṃ na vaṭṭati. ‘‘Na, bhikkhave, yācitakena pattacīvarena upasampādetabbo, yo upasampādeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 118) vuttaṃ. Tasmā so paripuṇṇapattacīvaroyeva upasampādetabbo. Sace tassa natthi, ācariyupajjhāyā cassa dātukāmā honti, aññe vā bhikkhū nirapekkhehi nissajjitvā adhiṭṭhānupagaṃ pattacīvaraṃ dātabbaṃ. Yācitakena pana pattena vā cīvarena vā upasampādentasseva āpatti hoti, kammaṃ pana na kuppati.
145. Khi cho xuất gia sau khi đã xin phép như vậy, phải cho xuất gia với y bát đầy đủ. Nếu người đó không có, có thể cho xuất gia bằng y bát đi mượn. Ở nơi chung, cũng có thể lấy y bát một cách tin tưởng rồi cho xuất gia. Nếu (mahāva. aṭṭha. 118) người đó đến với một cái bát chưa nung và vải để may y, trong thời gian chờ bát được nung và y được may, có thể cho người đó ở trong tu viện và dùng vật thực khất thực chưa được chạm đến, có thể ăn trong đĩa. Trước buổi trưa, có thể cho phần thức ăn bằng phần của sa-di, nhưng không được nhận trú xứ, phiếu thực phẩm, vật thực cúng dường theo thứ tự, vật thực cúng dường theo lời mời v.v… Sau buổi trưa, có thể cho phần thuốc men như dầu, gạo, mật ong, đường phèn v.v… bằng phần của sa-di. Nếu người đó bị bệnh, có thể chữa bệnh cho người đó, chăm sóc mọi thứ như một sa-di. Tuy nhiên, khi cho một người mong cầu thọ cụ túc giới, không được cho thọ giới bằng y bát đi mượn. Có lời dạy rằng: “Này các Tỳ-khưu, không được cho thọ cụ túc giới bằng y bát đi mượn; vị nào cho thọ giới, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 118). Do đó, người đó phải được cho thọ cụ túc giới với y bát đầy đủ. Nếu người đó không có, giáo thọ sư và hòa thượng nếu muốn cho, hoặc các Tỳ-khưu khác, phải cho y bát đã được xả bỏ và chú nguyện. Vị nào cho thọ cụ túc giới bằng bát hoặc y đi mượn thì phạm tội, nhưng tăng sự đó không bị hỏng.
146. Paripuṇṇapattacīvaraṃ (mahāva. aṭṭha. 34) pabbājentenapi sace okāso hoti, sayaṃ pabbājetabbo. Sace uddesaparipucchādīhi byāvaṭo hoti, okāsaṃ na labhati, eko daharabhikkhuo ‘‘etaṃ pabbājehī’’ti. Avuttopi ce daharabhikkhu upajjhāyaṃ uddissa pabbājeti, vaṭṭati. Sace daharabhikkhu natthi, sāmaṇeropio ‘‘etaṃ khaṇḍasīmaṃ netvā pabbājetvā kāsāyāni acchādetvā ehī’’ti. Saraṇāni pana sayaṃ dātabbāni. Evaṃ bhikkhunāva pabbājito hoti. Purisañhi bhikkhuto añño pabbājetuṃ na labhati, mātugāmaṃ bhikkhunīto añño, sāmaṇero pana sāmaṇerī vā āṇattiyā kāsāyāni dātuṃ labhanti, kesoropanaṃ yena kenaci kataṃ sukataṃ.
146. Khi cho người có y bát đầy đủ xuất gia (mahāva. aṭṭha. 34), nếu có cơ hội, nên tự mình cho xuất gia. Nếu bận rộn với việc dạy học, hỏi đáp v.v… và không có cơ hội, có thể bảo một Tỳ-khưu trẻ “hãy cho người này xuất gia”. Dù không được bảo, nếu một Tỳ-khưu trẻ cho xuất gia nhân danh hòa thượng, cũng được phép. Nếu không có Tỳ-khưu trẻ, cũng có thể bảo một sa-di “hãy dẫn người này đến giới trường nhỏ, cho xuất gia và mặc y cà sa cho người đó rồi trở lại”. Nhưng các lời quy y thì phải tự mình truyền. Như vậy, người đó được xem là đã được chính Tỳ-khưu cho xuất gia. Vì một người nam, không ai khác ngoài Tỳ-khưu có thể cho xuất gia; một người nữ, không ai khác ngoài Tỳ-khưu-ni. Nhưng một sa-di hoặc sa-di-ni có thể trao y cà sa theo lệnh; việc cạo tóc thì ai làm cũng được.
Sace pana bhabbarūpo hoti sahetuko ñāto yasassī kulaputto, okāsaṃ katvāpio pabbājetabbo, ‘‘mattikāmuṭṭhiṃ gahetvā nahāyitvā āgacchāhī’’ti ca na pana vissajjetabbo. Pabbajitukāmānañhi paṭhamaṃ balavaussāho hoti, pacchā pana kāsāyāni ca kesaharaṇasatthakañca disvā utrasanti, ettoyeva palāyanti, tasmāo nahānatitthaṃ netvā sace nātidaharo, ‘‘nahāhī’’tio, kesā panassao mattikaṃ gahetvā dhovitabbā. Daharakumārako pana sayaṃ udakaṃ otaritvā gomayamattikāhi ghaṃsitvā nahāpetabbo. Sacepissa kacchu vā piḷakā vā honti, yathā mātā puttaṃ na jigucchati, evamevaṃ ajigucchantena sādhukaṃ hatthapādato ca sīsato ca paṭṭhāya ghaṃsitvā ghaṃsitvā nahāpetabbo. Kasmā? Ettakena hi upakārena kulaputtā ācariyupajjhāyesu ca sāsane ca balavasinehā tibbagāravā anivattidhammā honti, uppannaṃ anabhiratiṃ vinodetvā therabhāvaṃ pāpuṇanti, kataññukatavedino honti.
Tuy nhiên, nếu người đó là người có tư cách, một thiện gia nam tử có học thức, danh tiếng, thì dù phải tạo cơ hội cũng nên cho xuất gia; và không nên bảo người đó “hãy cầm một nắm đất sét đi tắm rồi trở lại”. Vì những người muốn xuất gia, lúc đầu có lòng nhiệt thành mạnh mẽ, nhưng sau đó khi thấy y cà sa và dao cạo tóc thì họ sợ hãi, và chính vì vậy mà họ bỏ trốn. Do đó, nên dẫn người đó đến bến tắm, nếu không quá nhỏ, thì bảo “hãy tắm đi”, còn tóc của người đó thì nên lấy đất sét để gội. Còn một cậu bé nhỏ thì nên tự mình xuống nước, dùng phân bò và đất sét chà rửa và tắm cho cậu bé. Dù cậu bé có bị ghẻ lở hay mụn nhọt, cũng không nên ghê tởm, giống như mẹ không ghê tởm con mình, mà phải chà rửa kỹ càng từ tay chân đến đầu. Tại sao? Vì nhờ sự giúp đỡ nhỏ nhặt như vậy mà các thiện gia nam tử sẽ có lòng thương yêu mạnh mẽ, kính trọng sâu sắc đối với giáo thọ sư, hòa thượng và giáo pháp, trở thành những người không thoái chuyển, vượt qua được sự chán nản khởi lên và đạt đến bậc trưởng lão, trở thành những người biết ơn và đền ơn.
Evaṃ nahāpanakāle pana kesamassuṃ oropanakāle vā ‘‘tvaṃ ñāto yasassī, idāni mayaṃ taṃ nissāya paccayehi na kilamissāmā’’ti nao, aññāpi aniyyānikakathā na vattabbā, atha khvassa ‘‘āvuso, suṭṭhu upadhārehi, satiṃ upaṭṭhāpehī’’ti vatvā tacapañcakakammaṭṭhānaṃ ācikkhitabbaṃ. Ācikkhantena ca vaṇṇasaṇṭhānagandhāsayokāsavasena asucijegucchapaṭikkūlabhāvaṃ nijjīvanissattabhāvaṃ vā pākaṭaṃ karontena ācikkhitabbaṃ. Sace hi so pubbe madditasaṅkhāro hoti bhāvitabhāvano kaṇṭakavedhāpekkho viya paripakkagaṇḍo sūriyuggamanāpekkhaṃ viya ca pariṇatapadumaṃ, athassa āraddhamatte kammaṭṭhānaṃ manasikāre indāsani viya pabbate kilesapabbate cuṇṇayamānaṃyeva ñāṇaṃ pavattati, khuraggeyeva arahattaṃ pāpuṇāti. Ye hi keci khuragge arahattaṃ pattā, sabbe te evarūpaṃ savanaṃ labhitvā kalyāṇamittena ācariyena dinnanayaṃ nissāya, no anissāya. Tasmāssa āditova evarūpī kathā kathetabbāti.
Trong khi tắm hoặc cạo tóc và râu như vậy, không nên nói những lời không phù hợp như “ông là người có danh tiếng, bây giờ nhờ ông mà chúng tôi sẽ không còn phải vất vả về các vật dụng nữa”. Trái lại, nên nói với người đó rằng “Này hiền giả, hãy quán xét kỹ, hãy thiết lập chánh niệm”, rồi giảng giải đề mục quán năm thể trược. Khi giảng giải, nên làm cho rõ ràng về tính chất bất tịnh, đáng ghê tởm, đáng kinh tởm qua màu sắc, hình dạng, mùi, nơi chốn, vị trí, và tính chất vô tri, vô ngã của chúng. Vì nếu người đó đã có sự tu tập từ trước, đã trau dồi thiền định, giống như người chờ được nhổ gai, như mụn nhọt đã chín muồi, và như hoa sen đã nở chờ mặt trời mọc, thì ngay khi bắt đầu, trí tuệ của người đó sẽ tiến triển, nghiền nát ngọn núi phiền não như sấm sét của trời Đế-thích đánh vào ngọn núi, và chứng đắc quả A-la-hán ngay trên lưỡi dao cạo. Tất cả những ai đã chứng đắc quả A-la-hán trên lưỡi dao cạo, đều là nhờ được nghe những lời dạy như vậy từ một vị thầy, một người bạn lành, chứ không phải không có. Do đó, ngay từ đầu nên nói với người đó những lời dạy như vậy.
Kasesu pana oropitesu haliddicuṇṇena vā gandhacuṇṇena vā sīsañca sarīrañca ubbaṭṭetvā gihigandhaṃ apanetvā kāsāyāni tikkhattuṃ vā dvikkhattuṃ vā sakiṃ vā paṭiggāhāpetabbo. Athāpissa hatthe adatvā ācariyo vā upajjhāyo vāo acchādeti, vaṭṭati. Sace aññaṃ daharaṃ vā sāmaṇeraṃ vā upāsakaṃ vā āṇāpeti ‘‘āvuso, etāni kāsāyāni gahetvā etaṃ acchādehī’’ti, taññeva vā āṇāpeti ‘‘etāni gahetvā acchādehī’’ti, sabbaṃ taṃ vaṭṭati, sabbaṃ tena bhikkhunāva dinnaṃ hoti. Yaṃ pana nivāsanaṃ vā pārupanaṃ vā anāṇattiyā nivāseti vā pārupati vā, taṃ apanetvā puna dātabbaṃ. Bhikkhunā hi sahatthena vā āṇattiyā vā dinnameva kāsāyaṃ vaṭṭati, adinnaṃ na vaṭṭati. Sacepi tasseva santakaṃ hoti, ko pana vādo upajjhāyamūlake.
Sau khi cạo tóc, nên dùng bột nghệ hoặc bột thơm xoa lên đầu và thân thể để loại bỏ mùi của người thế tục, rồi cho người đó nhận y cà sa ba lần, hai lần, hoặc một lần. Hoặc nếu giáo thọ sư hay hòa thượng mặc cho người đó mà không trao vào tay, cũng được phép. Nếu ra lệnh cho một người trẻ khác, một sa-di, hoặc một cư sĩ “Này hiền giả, hãy lấy những y cà sa này và mặc cho người này”, hoặc ra lệnh cho chính người đó “hãy lấy những y này và mặc vào”, tất cả đều được phép, tất cả đều được xem là do chính Tỳ-khưu đó trao. Nhưng y nội hoặc y khoác nào mà người đó tự mặc mà không có lệnh, thì phải cởi ra và trao lại. Vì y cà sa phải do chính tay Tỳ-khưu trao hoặc trao theo lệnh mới hợp lệ, y không được trao thì không hợp lệ. Dù đó là tài sản của chính người đó, huống chi là tài sản thuộc về hòa thượng.
147. Evaṃ pana dinnāni kāsāyāni acchādāpetvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ kārāpetvā ye tattha sannipatitā bhikkhū, tesaṃ pāde vandāpetvā atha saraṇagahaṇatthaṃ ukkuṭikaṃ nisīdāpetvā añjaliṃ paggaṇhāpetvā ‘‘evaṃ vadehī’’tio, ‘‘yamahaṃ vadāmi, taṃ vadehī’’tio. Athassa upajjhāyena vā ācariyena vā ‘‘buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmī’’tiādinā nayena saraṇāni dātabbāni yathāvuttapaṭipāṭiyāva, na uppaṭipāṭiyā. Sace hi ekapadampi ekakkharampi uppaṭipāṭiyā deti, buddhaṃ saraṇaṃyeva vā tikkhattuṃ datvā puna itaresu ekekaṃ tikkhattuṃ deti, adinnāni honti saraṇāni.
147. Sau khi cho mặc y cà sa đã được trao như vậy, cho khoác thượng y lệch một bên, cho đảnh lễ chân các Tỳ-khưu đã tập hợp ở đó, sau đó để nhận quy y, cho ngồi chồm hổm, cho chắp tay và bảo “hãy nói như vầy”, hoặc “hãy nói theo những gì ta nói”. Sau đó, hòa thượng hoặc giáo thọ sư nên truyền các lời quy y cho người đó theo cách “con xin quy y Phật” v.v…, theo đúng thứ tự đã quy định, không được sai thứ tự. Vì nếu truyền sai thứ tự dù chỉ một từ, một chữ, hoặc truyền “con xin quy y Phật” ba lần rồi mới truyền từng câu còn lại ba lần, thì các lời quy y đó không được xem là đã truyền.
Imañca pana saraṇagamanupasampadaṃ paṭikkhipitvā anuññātaupasampadā ekatosuddhiyā vaṭṭati, sāmaṇerapabbajjā pana ubhatosuddhiyāva vaṭṭati, no ekatosuddhiyā. Tasmā upasampadāya sace ācariyo ñattidosañceva kammavācādosañca vajjetvā kammaṃ karoti, sukataṃ hoti. Pabbajjāya pana imāni tīṇi saraṇāni bu-kāra dha-kārādīnaṃ byañjanānaṃ ṭhānakaraṇasampadaṃ ahāpentena ācariyenapi antevāsikenapi vattabbāni. Sace ācariyo vattuṃ sakkoti, antevāsiko na sakkoti, antevāsiko vā sakkoti, ācariyo na sakkoti, ubhopi vā na sakkonti, na vaṭṭati. Sace pana ubhopi sakkonti, vaṭṭati. Imāni ca pana dadamānena ‘‘buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmī’’ti evaṃ ekasambandhāni anunāsikantāni vā katvā dātabbāni, ‘‘buddhama saraṇama gacchāmī’’ti evaṃ vicchinditvā makārantāni vā katvā dātabbāni. Andhakaṭṭhakathāyaṃ ‘‘nāmaṃ sāvetvā ‘ahaṃ, bhante, buddharakkhito yāvajīvaṃ buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmī’’ti vuttaṃ, taṃ ekaṭṭhakathāyampi natthi, pāḷiyampi na vuttaṃ, tesaṃ rucimattameva, tasmā na gahetabbaṃ. Na hi tathā avadantassa saraṇaṃ kuppati. Ettāvatā ca sāmaṇerabhūmiyaṃ patiṭṭhito hoti.
Việc thọ cụ túc giới bằng cách quy y này đã bị bãi bỏ, và việc thọ cụ túc giới được cho phép thì chỉ cần một bên trong sạch là hợp lệ; nhưng việc xuất gia sa-di thì phải cả hai bên đều trong sạch mới hợp lệ, một bên trong sạch thì không. Do đó, trong việc thọ cụ túc giới, nếu vị giáo thọ sư làm tăng sự mà tránh được các lỗi về yết-ma và lỗi về lời đọc, thì tăng sự đó được xem là tốt đẹp. Nhưng trong việc xuất gia, ba lời quy y này phải được cả giáo thọ sư và đệ tử đọc, không làm mất đi sự hoàn hảo của vị trí và cách phát âm các phụ âm như ‘bu’, ‘dha’ v.v… Nếu giáo thọ sư có thể đọc, nhưng đệ tử không thể, hoặc đệ tử có thể, nhưng giáo thọ sư không thể, hoặc cả hai đều không thể, thì không hợp lệ. Nhưng nếu cả hai đều có thể, thì hợp lệ. Khi truyền các lời quy y này, nên truyền thành một câu liền mạch, kết thúc bằng âm mũi như “buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi”, hoặc truyền từng từ riêng biệt, kết thúc bằng âm ‘m’ như “buddhama saraṇama gacchāmi”. Trong Chú Giải Andhaka có nói “sau khi xưng tên, nói rằng ‘Thưa ngài, con là Buddharakkhita, suốt đời xin quy y Phật’”, điều này không có trong bất kỳ chú giải nào, cũng không được nói trong Pāḷi, đó chỉ là ý thích của họ, do đó không nên chấp nhận. Vì người không nói như vậy thì việc quy y không bị hỏng. Đến đây, người đó đã được thiết lập trong địa vị sa-di.
148. Sace panesa gatimā hoti paṇḍitajātiko, athassa tasmiṃyeva ṭhāne sikkhāpadāni uddisitabbāni. Kathaṃ? Yathā bhagavatā uddiṭṭhāni. Vuttañhetaṃ –
148. Nếu người này có trí tuệ, thuộc dòng dõi người trí, thì ngay tại nơi đó nên đọc các học giới cho người đó. Như thế nào? Như Đức Thế Tôn đã đọc. Có lời dạy rằng:
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, sāmaṇerānaṃ dasa sikkhāpadāni, tesu ca sāmaṇerehi sikkhituṃ. Pāṇātipātā veramaṇi, adinnādānā veramaṇi, abrahmacariyā veramaṇi, musāvādā veramaṇi, surāmerayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇi, vikālabhojanā veramaṇi, naccagītavādita visūkadassanā veramaṇi, mālāgandha vilepana dhāraṇa maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramaṇi, uccāsayanamahāsayanā veramaṇi, jātarūparajatapaṭiggahaṇā veramaṇī’’ti (mahāva. 106).
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép mười học giới cho các sa-di, và các sa-di phải học tập theo đó. Tránh xa sự sát sanh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa hành vi không phạm hạnh, tránh xa lời nói dối, tránh xa việc dùng các chất say gây nghiện như rượu, tránh xa việc ăn sai giờ, tránh xa việc xem múa hát nhạc kịch, tránh xa việc trang điểm, đeo vòng hoa, dùng nước hoa, tránh xa việc nằm ngồi trên giường cao, giường lớn, tránh xa việc nhận vàng bạc.” (mahāva. 106).
Andhakaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘ahaṃ, bhante, itthannāmo yāvajīvaṃ pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmī’’ti evaṃ saraṇadānaṃ viya sikkhāpadadānampi vuttaṃ, taṃ neva pāḷiyaṃ, na aṭṭhakathāsu atthi, tasmā yathāpāḷiyāva uddisitabbāni. Pabbajjā hi saraṇagamaneheva siddhā, sikkhāpadāni pana kevalaṃ sikkhāpadapūraṇatthaṃ jānitabbāni, tasmā pāḷiyā āgatanayeneva uggahetuṃ asakkontassa yāya kāyaci bhāsāya atthavasenapi ācikkhituṃ vaṭṭati. Yāva pana attanā sikkhitabbasikkhāpadāni na jānāti, saṅghāṭipattacīvaradhāraṇaṭṭhānanisajjādīsu pānabhojanādividhimhi ca na kusalo hoti, tāva bhojanasālaṃ vā salākabhājanaṭṭhānaṃ vā aññaṃ vā tathārūpaṭṭhānaṃ na pesetabbo, santikāvacaroyeva kātabbo, bāladārako viya paṭipajjitabbo, sabbamassa kappiyākappiyaṃ ācikkhitabbaṃ, nivāsanapārupanādīsu abhisamācārikesu vinetabbo. Tenapi –
Tuy nhiên, trong Chú Giải Andhaka, việc truyền học giới cũng được nói giống như việc truyền quy y, rằng “Thưa ngài, con tên là X, suốt đời xin thọ trì học giới tránh xa sự sát sanh”, điều này không có trong Pāḷi, cũng không có trong các chú giải, do đó nên đọc theo như trong Pāḷi. Vì việc xuất gia đã thành tựu qua các lời quy y, còn các học giới chỉ cần biết để hoàn thành học giới, do đó, đối với người không thể học thuộc theo cách đã được truyền lại trong Pāḷi, có thể giải thích ý nghĩa bằng bất kỳ ngôn ngữ nào. Chừng nào người đó chưa biết các học giới mình phải học, chưa thành thạo trong việc mang y tăng-già-lê, bát, y, trong việc đứng, ngồi, và trong các quy tắc về ăn uống v.v…, thì không nên cho người đó đến nhà ăn, nơi chia phiếu thực phẩm, hoặc những nơi tương tự khác; nên để người đó ở gần mình, đối xử như một đứa trẻ nhỏ, dạy cho người đó tất cả những gì hợp và không hợp, rèn luyện trong các quy tắc ứng xử về việc mặc y v.v… Về phần mình, người đó cũng nên:
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, dasahaṅgehi samannāgataṃ sāmaṇeraṃ nāsetuṃ. Pāṇātipātī hoti, adinnādāyī hoti, abrahmacārī hoti, musāvādī hoti, majjapāyī hoti, buddhassa avaṇṇaṃ bhāsati, dhammassa avaṇṇaṃ bhāsati, saṅghassa avaṇṇaṃ bhāsati, micchādiṭṭhiko hoti, bhikkhunīdūsako hotī’’ti (mahāva. 108) –
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép trục xuất một sa-di có mười điều sau: sát sanh, trộm cắp, không phạm hạnh, nói dối, uống rượu, nói xấu Phật, nói xấu Pháp, nói xấu Tăng, có tà kiến, cưỡng hiếp Tỳ-khưu-ni.” (mahāva. 108) –
Evaṃ vuttāni dasa nāsanaṅgāni ārakā parivajjetvā ābhisamācārikaṃ paripūrentena dasavidhe sīle sādhukaṃ sikkhitabbaṃ.
Như vậy, cần phải tránh xa mười điều gây ra sự trục xuất đã được nói đến, hoàn thành các quy tắc ứng xử và học tập kỹ càng trong mười loại giới.
149. Yo pana (mahāva. aṭṭha. 108) pāṇātipātādīsu dasasu nāsanaṅgesu ekampi kammaṃ karoti, so liṅganāsanāya nāsetabbo. Tīsu hi nāsanāsu liṅganāsanāyeva idhādhippetā. Yathā ca bhikkhūnaṃ pāṇātipātādīsu tā tā āpattiyo honti, na tathā sāmaṇerānaṃ. Sāmaṇero hi kuntha kipillikampi māretvā maṅgulaṇḍakampi bhinditvā nāsetabbataṃyeva pāpuṇāti, tāvadevassa saraṇagamanāni ca upajjhāyaggahaṇañca senāsanaggāho ca paṭippassambhanti, saṅghalābhaṃ na labhati, liṅgamattameva ekaṃ avasiṭṭhaṃ hoti. So sace ākiṇṇadosova hoti, āyatiṃ saṃvare na tiṭṭhati, nikkaḍḍhitabbo. Atha sahasā virajjhitvā ‘‘duṭṭhu mayā kata’’nti puna saṃvare ṭhātukāmo hoti, liṅganāsanakiccaṃ natthi, yathānivatthapārutasseva saraṇāni dātabbāni, upajjhāyo dātabbo. Sikkhāpadāni pana saraṇagamaneneva ijjhanti. Sāmaṇerānañhi saraṇagamanaṃ bhikkhūnaṃ upasampadakammavācāsadisaṃ, tasmā bhikkhūnaṃ viya catupārisuddhisīlaṃ imināpi dasa sīlāni samādinnāneva honti, evaṃ santepi daḷhīkaraṇatthaṃ āyatiṃ saṃvare patiṭṭhāpanatthaṃ puna dātabbāni. Sace purimikāya puna saraṇāni gahitāni, pacchimikāya vassāvāsikaṃ lacchati. Sace pacchimikāya gahitāni, saṅghena apaloketvā lābho dātabbo. Adinnādāne tiṇasalākamattenapi vatthunā, abrahmacariye tīsu maggesu yattha katthaci vippaṭipattiyā, musāvāde hasādhippāyatāyapi musā bhaṇite assamaṇo hoti, nāsetabbataṃ āpajjati, majjapāne pana bhikkhuno ajānitvāpi bījato paṭṭhāya majjaṃ pivantassa pācittiyaṃ. Sāmaṇero jānitvā pivantova sīlabhedaṃ āpajjati, na ajānitvā. Yāni panassa itarāni pañca sikkhāpadāni, etesu bhinnesu na nāsetabbo, daṇḍakammaṃ kātabbaṃ. Sikkhāpade pana puna dinnepi adinnepi vaṭṭati, daṇḍakammena pana pīḷetvā āyatiṃ saṃvare ṭhapanatthāya dātabbameva.
149. Người nào (mahāva. aṭṭha. 108) làm một trong mười nghiệp gây ra sự trục xuất như sát sanh v.v…, người đó phải bị trục xuất bằng cách tước bỏ y phục. Trong ba loại trục xuất, ở đây chỉ đề cập đến việc trục xuất bằng cách tước bỏ y phục. Giống như các Tỳ-khưu phạm các tội tương ứng trong việc sát sanh v.v…, các sa-di thì không như vậy. Một sa-di, dù chỉ giết một con kiến, con mối, hay làm vỡ một quả trứng thằn lằn, cũng đã đến mức phải bị trục xuất; ngay lúc đó, việc quy y, việc nhận hòa thượng, việc nhận trú xứ của người đó đều bị đình chỉ, không được nhận lợi lộc của Tăng, chỉ còn lại hình thức tu sĩ mà thôi. Nếu người đó phạm lỗi nặng, không giữ gìn trong tương lai, thì phải bị đuổi đi. Nhưng nếu người đó phạm tội một cách bất ngờ và hối hận rằng “ta đã làm điều xấu”, muốn giữ gìn lại trong tương lai, thì không cần phải trục xuất bằng cách tước bỏ y phục; cứ để nguyên y phục mà truyền lại các lời quy y, truyền lại hòa thượng. Còn các học giới thì đã thành tựu qua việc quy y. Đối với các sa-di, việc quy y giống như lời tác bạch trong lễ thọ cụ túc giới của các Tỳ-khưu, do đó, giống như bốn giới thanh tịnh của Tỳ-khưu, người này cũng được xem là đã thọ trì mười giới; dù vậy, để củng cố và để người đó giữ gìn trong tương lai, nên truyền lại. Nếu với việc quy y lần trước, người đó nhận được chỗ ở an cư mùa mưa; thì với việc quy y lần sau, Tăng chúng phải thông qua rồi mới cho lợi lộc. Trong việc trộm cắp, dù chỉ với vật nhỏ như một cọng cỏ, một cái thẻ; trong việc không phạm hạnh, nếu có hành vi sai trái trong một trong ba đường; trong việc nói dối, dù nói dối với ý định đùa giỡn, cũng trở thành người không phải sa-môn, đến mức phải bị trục xuất. Còn trong việc uống rượu, một Tỳ-khưu dù không biết mà uống rượu từ khi nó còn là hạt giống, cũng phạm tội Ưng Đối Trị. Một sa-di, chỉ khi biết mà uống mới phạm giới, không biết thì không. Còn năm học giới khác của người đó, nếu vi phạm những học giới này thì không bị trục xuất, mà phải chịu hình phạt. Dù có truyền lại học giới hay không cũng được, nhưng để trừng phạt và để người đó giữ gìn trong tương lai, nên truyền lại.
Avaṇṇabhāsane pana ‘‘arahaṃ sammāsambuddho’’tiādīnaṃ paṭipakkhavasena buddhassa vā ‘‘svākkhāto’’tiādīnaṃ paṭipakkhavasena dhammassa vā ‘‘suppaṭipanno’’tiādīnaṃ paṭipakkhavasena saṅghassa vā avaṇṇaṃ bhāsanto ratanattayaṃ nindanto garahanto ācariyupajjhāyādīhi ‘‘mā evaṃ avacā’’ti avaṇṇabhāsane ādīnavaṃ dassetvā nivāretabbo. ‘‘Sace yāvatatiyaṃ vuccamāno na oramati, kaṇṭakanāsanāya nāsetabbo’’ti kurundiyaṃ vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘sace evaṃ vuccamāno taṃ laddhiṃ nissajjati, daṇḍakammaṃ kāretvā accayaṃ desāpetabbo. Sace na nissajjati, tatheva ādāya paggayha tiṭṭhati, liṅganāsanāya nāsetabbo’’ti vuttaṃ, taṃ yuttaṃ. Ayameva hi nāsanā idhādhippetāti. Micchādiṭṭhikepi eseva nayo. Sassatucchedānañhi aññataradiṭṭhiko sace ācariyādīhi ovadiyamāno nissajjati, daṇḍakammaṃ kāretvā accayaṃ desāpetabbo, apaṭinissajjantova nāsetabbo. Bhikkhunīdūsako cettha kāmaṃ abrahmacāriggahaṇena gahitova, abrahmacāriṃ pana āyatiṃ saṃvare ṭhātukāmaṃ saraṇāni datvā upasampādetuṃ vaṭṭati. Bhikkhunīdūsako āyatiṃ saṃvare ṭhātukāmopi pabbajjampi na labhati, pageva upasampadanti etamatthaṃ dassetuṃ ‘‘bhikkhunīdūsako’’ti idaṃ visuṃ dasamaṃ aṅgaṃ vuttanti veditabbaṃ.
Trong việc nói xấu, nếu nói xấu Phật ngược lại với các danh hiệu như “A-la-hán, Chánh Đẳng Giác” v.v…, hoặc nói xấu Pháp ngược lại với các danh hiệu như “được khéo thuyết giảng” v.v…, hoặc nói xấu Tăng ngược lại với các danh hiệu như “là bậc thiện hạnh” v.v…, phỉ báng Tam Bảo, thì các vị giáo thọ sư, hòa thượng v.v… phải ngăn cản bằng cách chỉ ra sự nguy hại của việc nói xấu. Sách Kurundī nói rằng: “Nếu đã được nhắc nhở đến lần thứ ba mà không dừng lại, phải trục xuất bằng cách trục xuất như nhổ gai”. Nhưng trong Đại Chú Giải nói rằng: “Nếu được nhắc nhở như vậy mà từ bỏ tà kiến đó, thì nên cho chịu hình phạt và sám hối lỗi lầm. Nếu không từ bỏ, vẫn giữ và đề cao tà kiến đó, thì phải trục xuất bằng cách tước bỏ y phục”, điều này hợp lý. Vì ở đây chỉ đề cập đến việc trục xuất này. Trong trường hợp người có tà kiến cũng áp dụng cách thức này. Người có tà kiến thường kiến hoặc đoạn kiến, nếu được giáo thọ sư v.v… khuyên bảo mà từ bỏ, thì nên cho chịu hình phạt và sám hối lỗi lầm; chỉ khi không từ bỏ mới bị trục xuất. Kẻ cưỡng hiếp Tỳ-khưu-ni, dù đã được bao gồm trong tội không phạm hạnh, nhưng người không phạm hạnh nếu muốn giữ gìn trong tương lai, có thể truyền lại quy y và cho thọ cụ túc giới. Kẻ cưỡng hiếp Tỳ-khưu-ni, dù muốn giữ gìn trong tương lai, cũng không được xuất gia, huống chi là thọ cụ túc giới; để chỉ ra ý nghĩa này, điều “kẻ cưỡng hiếp Tỳ-khưu-ni” đã được nói riêng thành điều thứ mười, cần phải hiểu như vậy.
150. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatassa sāmaṇerassa daṇḍakammaṃ kātuṃ. Bhikkhūnaṃ alābhāya parisakkati, bhikkhūnaṃ anatthāya parisakkati, bhikkhūnaṃ avāsāya parisakkati, bhikkhū akkosati, paribhāsati, bhikkhū bhikkhūhi bhedetī’’ti (mahāva. 107) ‘‘vacanato pana imāni pañca aṅgāni, sikkhāpadesu ca pacchimāni vikālabhojanādīni pañcāti dasa daṇḍakammavatthūni. Kiṃpanettha daṇḍakammaṃ kattabba’’nti? ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, yattha vā vasati, yattha vā paṭikkamati, tattha āvaraṇaṃ kātu’’nti (mahāva. 107) anuyāya yattha (mahāva. aṭṭha. 107) vasati vā pavisati vā, tattha āvaraṇaṃ kātabbaṃ ‘‘mā idha pavisā’’ti. Ubhayenapi attano pariveṇañca vassaggena pattasenāsanañca vuttaṃ. Tasmā na sabbo saṅghārāmo āvaraṇaṃ kātabbo, karonto ca dukkaṭaṃ āpajjati ‘‘na, bhikkhave, sabbo saṅghārāmo āvaraṇaṃ kātabbo, yo kareyya, āpatti dukkaṭassā’’ti vuttattā. Na ca mukhadvāriko āhāro āvaraṇaṃ kātabbo, karonto ca dukkaṭaṃ āpajjati ‘‘na, bhikkhave, mukhadvāriko āhāro āvaraṇaṃ kātabbo, yo kareyya, āpatti dukkaṭassā’’ti vuttattā. Tasmā ‘‘ajja mā khāda mā bhuñjā’’ti vadatopi ‘‘āhārampi nivāressāmī’’ti pattacīvaraṃ anto nikkhipatopi sabbapayogesu dukkaṭaṃ. Anācārassa pana dubbacasāmaṇerassa daṇḍakammaṃ katvā yāguṃ vā bhattaṃ vā pattacīvaraṃ vā dassetvā ‘‘ettake nāma daṇḍakamme āhaṭe idaṃ lacchasī’’ti vattuṃ vaṭṭati. Bhagavatā hi āvaraṇameva daṇḍakammaṃ vuttaṃ. Dhammasaṅgāhakattherehi pana ‘‘aparādhānurūpaṃ udakadāruvālikādīnaṃ āharāpanampi kātabba’’nti vuttaṃ, tasmā tampi kātabbaṃ, tañca kho ‘‘oramissati viramissatī’’ti anukampāya, na ‘‘nassissati vibbhamissatī’’tiādinayappavattena pāpajjhāsayena. ‘‘Daṇḍakammaṃ karomī’’ti ca uṇhapāsāṇe vā nipajjāpetuṃ pāsāṇiṭṭhakādīni vā sīse nikkhipāpetuṃ udakaṃ vā pavesetuṃ na vaṭṭati.
150. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép thi hành hình phạt đối với một sa-di có năm điều sau: cố gắng làm cho các Tỳ-khưu không có lợi lộc, cố gắng làm hại các Tỳ-khưu, cố gắng làm cho các Tỳ-khưu không có chỗ ở, mắng nhiếc, phỉ báng các Tỳ-khưu, chia rẽ các Tỳ-khưu với nhau.” (mahāva. 107) Theo lời dạy, năm điều này, và năm điều cuối trong các học giới là ăn sai giờ v.v…, tổng cộng là mười điều để thi hành hình phạt. “Vậy phải thi hành hình phạt gì ở đây?” “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ngăn cấm nơi người đó ở, nơi người đó đi lại.” (mahāva. 107) Theo đó (mahāva. aṭṭha. 107), nơi người đó ở hoặc vào, phải ngăn cấm và nói rằng “đừng vào đây”. Cả hai đều chỉ đến khu vực riêng của mình và trú xứ được cấp theo tuổi hạ. Do đó, không được ngăn cấm toàn bộ tu viện; vị nào làm vậy thì phạm tội Tác Ác, vì có lời dạy rằng: “Này các Tỳ-khưu, không được ngăn cấm toàn bộ tu viện; vị nào làm vậy, phạm tội Tác Ác.” Và không được ngăn cấm thức ăn đưa vào miệng; vị nào làm vậy thì phạm tội Tác Ác, vì có lời dạy rằng: “Này các Tỳ-khưu, không được ngăn cấm thức ăn đưa vào miệng; vị nào làm vậy, phạm tội Tác Ác.” Do đó, dù chỉ nói “hôm nay đừng ăn, đừng dùng”, hay giấu y bát đi với ý định “ta sẽ cấm cả thức ăn”, trong mọi hành vi đều phạm tội Tác Ác. Tuy nhiên, đối với một sa-di ngỗ ngược, không biết điều, sau khi thi hành hình phạt, có thể cho cháo, cơm, hoặc y bát và nói rằng “khi nào ngươi chịu một hình phạt nhất định, ngươi sẽ nhận được cái này”. Vì Đức Thế Tôn chỉ nói đến việc ngăn cấm là hình phạt. Nhưng các vị trưởng lão kết tập tạng Pháp đã nói rằng “cũng nên cho thi hành việc mang nước, củi, cát v.v… tương ứng với lỗi lầm”, do đó cũng nên làm như vậy, và phải làm với lòng thương xót rằng “nó sẽ dừng lại, sẽ thôi”, chứ không phải với ý xấu rằng “nó sẽ hư hỏng, sẽ hoàn tục” v.v… Và khi nói “ta thi hành hình phạt”, không được bắt nằm trên đá nóng, hoặc đặt đá, gạch v.v… lên đầu, hoặc dìm xuống nước.
Upajjhāyaṃ anāpucchāpi daṇḍakammaṃ na kāretabbaṃ ‘‘na, bhikkhave, upajjhāyaṃ anāpucchā āvaraṇaṃ kātabbaṃ, yo kareyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 108) anuyāya. Ettha pana ‘‘tumhākaṃ sāmaṇerassa ayaṃ nāma aparādho, daṇḍakammamassa karothā’’ti tikkhattuṃ vutte sace so upajjhāyo daṇḍakammaṃ na karoti, sayaṃ kātuṃ vaṭṭati. Sacepi ādito upajjhāyo vadati ‘‘mayhaṃ sāmaṇerānaṃ dose sati tumhe daṇḍakammaṃ karothā’’ti, kātuṃ vaṭṭatiyeva. Yathā ca sāmaṇerānaṃ, evaṃ saddhivihārikantevāsikānampi daṇḍakammaṃ kātuṃ vaṭṭati, aññesaṃ pana parisā na apalāḷetabbā, apalāḷento dukkaṭaṃ āpajjati ‘‘na, bhikkhave, aññassa parisā apalāḷetabbā, yo apalāḷeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 108) anuyāya. Tasmā ‘‘tumhākaṃ pattaṃ dema, cīvaraṃ demā’’ti attano upaṭṭhānakaraṇatthaṃ saṅgaṇhitvā sāmaṇerā vā hontu upasampannā vā, antamaso dussīlabhikkhussapi parassa parisabhūte bhinditvā gaṇhituṃ na vaṭṭati, ādīnavaṃ pana vattuṃ vaṭṭati ‘‘tayā nahāyituṃ āgatena gūthamakkhanaṃ viya kataṃ dussīlaṃ nissāya viharantenā’’ti. Sace soo jānitvā upajjhaṃ vā nissayaṃ vā yācati, dātuṃ vaṭṭati.
Không được thi hành hình phạt mà không hỏi ý kiến hòa thượng, theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được ngăn cấm mà không hỏi ý kiến hòa thượng; vị nào làm vậy, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 108). Ở đây, nếu đã nói đến lần thứ ba rằng “sa-di của ngài đã phạm lỗi này, xin ngài hãy thi hành hình phạt đối với nó”, mà vị hòa thượng đó không thi hành hình phạt, thì có thể tự mình thi hành. Nếu ngay từ đầu, vị hòa thượng đã nói “nếu các sa-di của tôi có lỗi, các vị cứ thi hành hình phạt”, thì cũng có thể thi hành. Giống như đối với các sa-di, cũng có thể thi hành hình phạt đối với các đệ tử sống chung và đệ tử; nhưng không được lôi kéo đồ chúng của người khác, vị nào lôi kéo thì phạm tội Tác Ác, theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được lôi kéo đồ chúng của người khác; vị nào lôi kéo, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 108). Do đó, dù là sa-di hay người đã thọ cụ túc giới, không được lôi kéo đồ chúng của người khác, dù đó là một Tỳ-khưu không có giới hạnh, bằng cách nói rằng “chúng tôi sẽ cho ông bát, cho ông y” để họ trở thành người phục vụ mình. Nhưng có thể nói ra sự nguy hại rằng “ông đang sống nương tựa vào một người không có giới hạnh, giống như người đi tắm mà lại bôi phân lên người”. Nếu người đó biết vậy và xin theo làm đệ tử hoặc nương tựa, thì có thể chấp nhận.
Iti pāḷimuttakavinayavinicchayasaṅgahe
Như vậy, trong bộ Tập hợp phân tích giới luật ngoài Tam Tạng Pāḷi,
Pabbajjāvinicchayakathā samattā.
Câu chuyện về sự thẩm định việc xuất gia đã kết thúc.