Phụ Chú Giải Tập Yếu Luật Tạng – 5. Luận giải về việc thân cận – chăm lo – quan hệ đúng pháp với gia chủ
5. Kulasaṅgahavinicchayakathā
5. Lời Bàn về Phán Định việc Thu Phục Các Gia Đình
27.Kulasaṅgahoti pupphaphalādīhi kulānaṃ saṅgaho kulasaṅgaho. Tatrāyaṃ vinicchayo (pārā. aṭṭha. 2.431) – kulasaṅgahatthāya mālāvacchādīni ropetuṃ vā ropāpetuṃ vā siñcituṃ vā siñcāpetuṃ vā pupphāni ocinituṃ vā ocināpetuṃ vā ganthituṃ vā ganthāpetuṃ vā na vaṭṭati. Tattha akappiyavohāro kappiyavohāro pariyāyo obhāso nimittakammanti imāni pañca jānitabbāni.
27.Thu phục các gia đình là việc thu phục các gia đình bằng hoa, quả… Về vấn đề ấy, đây là lời phán định (pārā. aṭṭha. 2.431): Để thu phục các gia đình, không được phép trồng hoặc nhờ trồng cây hoa…, tưới hoặc nhờ tưới, hái hoặc nhờ hái hoa, kết hoặc nhờ kết hoa. Về vấn đề ấy, cần phải biết năm điều này: lời nói không hợp lệ, lời nói hợp lệ, lời nói bóng gió, lời gợi ý, và việc làm dấu hiệu.
28. Tattha akappiyavohāro nāma allaharitānaṃ koṭṭanaṃ koṭṭāpanaṃ, āvāṭassa khaṇanaṃ khaṇāpanaṃ, mālāvacchassa ropanaṃ ropāpanaṃ, āḷiyā bandhanaṃ bandhāpanaṃ, udakassa secanaṃ secāpanaṃ, mātikāya sammukhakaraṇaṃ, kappiyaudakasiñcanaṃ, hatthapādamukhadhovananahānodakasiñcanaṃ. Kappiyavohāro nāma ‘‘imaṃ rukkhaṃ jāna, imaṃ āvāṭaṃ jāna, imaṃ mālāvacchaṃ jāna, ettha udakaṃ jānā’’tiādivacanaṃ sukkhamātikāya ujukaraṇañca. Pariyāyo nāma ‘‘paṇḍitena mālāvacchādayo ropāpetabbā, nacirasseva upakārāya saṃvattantī’’tiādivacanaṃ. Obhāso nāma kudālakhaṇittādīni ca mālāvacche ca gahetvā ṭhānaṃ. Evaṃ ṭhitañhi sāmaṇerādayo disvā ‘‘thero kārāpetukāmo’’ti gantvā karonti. Nimittakammaṃ nāma kudālakhaṇittivāsipharasuudakabhājanāni āharitvā samīpe ṭhapanaṃ.
28. Ở đây, lời nói không hợp lệ là việc cuốc hoặc nhờ cuốc đất tươi, đào hoặc nhờ đào hố, trồng hoặc nhờ trồng cây hoa, đắp hoặc nhờ đắp bờ, tưới hoặc nhờ tưới nước, làm cho mương nước hướng đến, tưới bằng nước không hợp lệ, tưới bằng nước rửa tay, chân, mặt và nước tắm. Lời nói hợp lệ là lời nói như: “Hãy biết cái cây này, hãy biết cái hố này, hãy biết cây hoa này, hãy biết nước ở đây,” và việc làm thẳng mương nước đã khô. Lời nói bóng gió là lời nói như: “Người trí nên nhờ trồng cây hoa…, không bao lâu chúng sẽ trở nên hữu ích.” Lời gợi ý là việc cầm cuốc, xẻng… và cây hoa rồi đứng. Thật vậy, khi các vị sa-di… thấy vị ấy đứng như vậy, họ nghĩ: “Vị trưởng lão muốn nhờ làm,” rồi đến làm. Việc làm dấu hiệu là việc mang cuốc, xẻng, búa, rìu, bình nước đến đặt ở gần.
29. Imāni pañcapi kulasaṅgahatthāya ropanaropāpanādīsu na vaṭṭanti. Phalaparibhogatthāya kappiyākappiyavohāradvayameva na vaṭṭati, itarattayaṃ vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘kappiyavohāropi vaṭṭati, yañca attano paribhogatthāya vaṭṭati, taṃ aññapuggalassa vā saṅghassa vā cetiyassa vā atthāyapi vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Ārāmatthāya pana vanatthāya chāyatthāya ca akappiyavohāramattameva na vaṭṭati, sesaṃ vaṭṭati. Na kevalañca sesaṃ, yaṃ kiñci mātikampi ujuṃ kātuṃ kappiyaudakaṃ siñcituṃ nahānakoṭṭhakaṃ katvā nahāyituṃ hatthapādamukhadhovanaudakāni ca tattha chaḍḍetumpi vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana kurundiyañca ‘‘kappiyapathaviyaṃ sayaṃ ropetumpi vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Ārāmādiatthāya pana ropitassa vā ropāpitassa vā phalaṃ paribhuñjitumpi vaṭṭati.
29. Cả năm điều này đều không hợp lệ trong việc trồng, nhờ trồng… để thu phục các gia đình. Để hưởng dụng quả, chỉ có hai loại lời nói hợp lệ và không hợp lệ là không được phép, ba loại kia thì được phép. Tuy nhiên, trong Đại Chú Giải Paccarī có nói: “Lời nói hợp lệ cũng được phép, và điều gì hợp lệ cho việc hưởng dụng của bản thân, thì cũng hợp lệ cho lợi ích của người khác, của Tăng chúng, hoặc của tháp.” Nhưng vì mục đích làm vườn, làm rừng, và lấy bóng mát, chỉ có lời nói không hợp lệ là không được phép, các cách còn lại thì được phép. Không chỉ các cách còn lại, mà ngay cả việc làm thẳng bất kỳ mương nước nào, tưới nước hợp lệ, làm nhà tắm để tắm, và đổ nước rửa tay, chân, mặt ở đó cũng được phép. Tuy nhiên, trong Đại Chú Giải Paccarī và trong Chú Giải Kurunda có nói: “Cũng được phép tự mình trồng trên đất hợp lệ.” Và cũng được phép hưởng dụng quả của cây đã trồng hoặc nhờ trồng vì mục đích làm vườn…
30. Ayaṃ pana ādito paṭṭhāya vitthārena āpattivinicchayo – kuladūsanatthāya akappiyapathaviyaṃ mālāvacchaṃ ropentassa pācittiyañceva dukkaṭañca, tathā akappiyavohārena ropāpentassa. Kappiyapathaviyaṃ ropanepi ropāpanepi dukkaṭameva. Ubhayatrāpi sakiṃ āṇattiyā bahūnampi ropane ekameva sapācittiyadukkaṭaṃ vā suddhadukkaṭaṃ vā hoti. Paribhogatthāya kappiyabhūmiyaṃ vā akappiyabhūmiyaṃ vā kappiyavohārena ropāpane anāpatti. Ārāmādiatthāyapi akappiyapathaviyaṃ ropentassa vā akappiyavacanena ropāpentassa vā pācittiyaṃ. Ayaṃ pana nayo mahāaṭṭhakathāyaṃ na suṭṭhu vibhatto, mahāpaccariyaṃ pana vibhattoti.
30. Và đây là lời phán định chi tiết về các tội từ đầu: người trồng cây hoa trên đất không hợp lệ để làm hư hỏng gia đình thì phạm tội Ưng Đối Trị và Tác Ác, cũng như người nhờ trồng bằng lời nói không hợp lệ. Khi trồng hoặc nhờ trồng trên đất hợp lệ thì chỉ phạm tội Tác Ác. Trong cả hai trường hợp, với một lần ra lệnh mà trồng nhiều cây, chỉ có một tội Ưng Đối Trị kèm Tác Ác hoặc một tội Tác Ác thuần túy. Vì mục đích hưởng dụng, khi nhờ trồng trên đất hợp lệ hoặc không hợp lệ bằng lời nói hợp lệ, thì không phạm tội. Ngay cả vì mục đích làm vườn…, người trồng trên đất không hợp lệ hoặc người nhờ trồng bằng lời nói không hợp lệ cũng phạm tội Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, phương pháp này trong Đại Chú Giải không được phân tích rõ ràng, nhưng trong Đại Chú Giải Paccarī thì đã được phân tích.
Siñcanasiñcāpane pana akappiyaudakena sabbattha pācittiyaṃ, kuladūsanaparibhogatthāya dukkaṭampi. Kappiyena tesaṃyeva dvinnaṃ atthāya dukkaṭaṃ, paribhogatthāya cettha kappiyavohārena siñcāpane anāpatti. Āpattiṭṭhāne pana dhārāvacchedavasena payogabahulatāya ca āpattibahulatā veditabbā.
Còn về việc tưới và nhờ tưới, nếu dùng nước không hợp lệ thì ở đâu cũng phạm tội Ưng Đối Trị, và phạm thêm tội Tác Ác nếu vì mục đích làm hư hỏng gia đình hoặc hưởng dụng. Nếu dùng nước hợp lệ, chỉ phạm tội Tác Ác vì hai mục đích đó, và ở đây, khi nhờ tưới vì mục đích hưởng dụng bằng lời nói hợp lệ thì không phạm tội. Ở những trường hợp phạm tội, cần biết rằng số lượng tội tăng lên tùy theo sự ngắt quãng của dòng nước và sự nhiều lần của hành động.
Kulasaṅgahatthāya ocinane pupphagaṇanāya dukkaṭapācittiyāni, aññattha pācittiyāneva. Bahūni pana pupphāni ekapayogena ocinanto payogavasena kāretabbo. Ocināpane kuladūsanatthāya sakiṃ āṇatto bahumpi ocināti, ekameva sapācittiyadukkaṭaṃ, aññatra pācittiyameva.
Để thu phục các gia đình, khi hái hoa, các tội Tác Ác và Ưng Đối Trị được tính theo số lượng hoa, trong các trường hợp khác chỉ có tội Ưng Đối Trị. Nhưng người hái nhiều hoa trong một hành động thì bị xử tội theo hành động. Khi nhờ hái hoa để làm hư hỏng gia đình, dù người được ra lệnh một lần hái nhiều hoa, chỉ có một tội Ưng Đối Trị kèm Tác Ác, trong các trường hợp khác chỉ có tội Ưng Đối Trị.
31. Ganthanaganthāpanesu pana sabbāpi cha pupphavikatiyo veditabbā – ganthimaṃ gopphimaṃ vedhimaṃ veṭhimaṃ pūrimaṃ vāyimanti. Tattha ganthimaṃ nāma sadaṇḍakesu vā uppalapadumādīsu aññesu vā dīghavaṇṭesu pupphesu daṭṭhabbaṃ. Daṇḍakena vā daṇḍakaṃ, vaṇṭena vā vaṇṭaṃ ganthetvā katameva hi ganthimaṃ. Taṃ bhikkhussa vā bhikkhuniyā vā kātumpi akappiyavacanena kārāpetumpi na vaṭṭati, ‘‘evaṃ jāna, evaṃ kate sobheyya, yathā etāni pupphāni na vikiriyanti, tathā karohī’’tiādinā pana kappiyavacanena kārāpetuṃ vaṭṭati.
31. Về việc kết và nhờ kết hoa, cần phải biết tất cả sáu loại trang trí bằng hoa: kết lại, bện lại, xỏ lại, quấn lại, chất đầy, và dệt lại. Ở đây, việc kết lại được thấy ở hoa sen xanh, sen hồng… có cành hoặc các loại hoa khác có cuống dài. Việc kết lại chính là dùng cành kết với cành, hoặc cuống kết với cuống. Việc đó, một Tỳ-khưu hay Tỳ-khưu ni không được phép làm hoặc nhờ làm bằng lời nói không hợp lệ, nhưng được phép nhờ làm bằng lời nói hợp lệ như: “Hãy biết như thế này, làm thế này sẽ đẹp, hãy làm sao cho những bông hoa này không bị rơi rụng.”
Gopphimaṃ nāma suttena vā vākādīhi vā vassikapupphādīnaṃ ekatovaṇṭikaubhatovaṇṭikamālāvasena gopphanaṃ, vākaṃ vā rajjuṃ vā diguṇaṃ katvā tattha avaṇṭakāni nīpapupphādīni pavesetvā paṭipāṭiyā bandhanti, etampi gopphimameva. Sabbaṃ purimanayeneva na vaṭṭati.
Việc bện lại là việc bện hoa nhài… thành vòng hoa một cuống hoặc hai cuống bằng chỉ hoặc vỏ cây…, hoặc lấy vỏ cây hay sợi dây gập đôi rồi cho các hoa không cuống như hoa nipa… vào và buộc lại theo thứ tự, đây cũng là việc bện lại. Tất cả đều không hợp lệ theo cách đã nói ở trước.
Vedhimaṃ nāma savaṇṭakāni vassikapupphādīni vaṇṭe, avaṇṭakāni vakulapupphādīni attano chiddesu sūcitālahīrādīhi vinivijjhitvā āvunanti, etaṃ vedhimaṃ nāma. Taṃ purimanayeneva na vaṭṭati. Keci pana kadalikkhandhamhi kaṇṭake vā tālahīrādīni vā pavesetvā tattha pupphāni vinivijjhitvā ṭhapenti, keci kaṇṭakasākhāsu, keci pupphachattapupphakūṭāgārakaraṇatthaṃ chatte ca bhittiyañca pavesetvā ṭhapitakaṇṭakesu, keci dhammāsanavitāne baddhakaṇṭakesu, keci kaṇikārapupphādīni salākāhi vijjhanti, chattādhichattaṃ viya karonti, taṃ atioḷārikameva. Pupphavijjhanatthaṃ pana dhammāsanavitāne kaṇṭakampi bandhituṃ kaṇṭakādīhi vā ekapupphampi vijjhituṃ puppheyeva vā pupphaṃ pavesetuṃ na vaṭṭati. Jālavitānavedikanāgadantakapupphapaṭicchakatālapaṇṇaguḷakādīnaṃ pana chiddesu asokapiṇḍiyā vā antaresu pupphāni pavesetuṃ na doso. Na hetaṃ vedhimaṃ hoti. Dhammarajjuyampi eseva nayo.
Việc xỏ lại là việc dùng kim, nan lá cọ… xỏ qua các hoa nhài… có cuống ở phần cuống, và xỏ qua các hoa vakula… không cuống ở các lỗ của chúng rồi kết lại, đây gọi là việc xỏ lại. Việc đó không hợp lệ theo cách đã nói ở trước. Một số vị cắm gai hoặc nan lá cọ… vào thân chuối rồi xỏ hoa vào đó để trang trí, một số cắm vào cành gai, một số cắm vào các gai đã được gắn trên dù và tường để làm dù hoa, tháp hoa, một số cắm vào các gai đã được buộc trên tán của pháp tòa, một số dùng que xỏ hoa kaṇikāra…, làm thành hình dù chồng lên dù, điều đó lại càng thô thiển hơn. Để xỏ hoa, không được phép buộc cả gai lên tán của pháp tòa, hoặc dùng gai… xỏ dù chỉ một bông hoa, hoặc cài hoa lên hoa. Nhưng không có lỗi khi cài hoa vào các lỗ của tán lưới, lan can, răng rồng, tấm che hoa, quả cầu bằng lá cọ… hoặc vào các kẽ của cụm hoa asoka. Vì đây không phải là việc xỏ lại. Đối với dây Pháp cũng tương tự.
Veṭhimaṃ nāma pupphadāmapupphahatthakesu daṭṭhabbaṃ. Keci hi matthakadāmaṃ karontā heṭṭhā ghaṭakākāraṃ dassetuṃ pupphehi veṭhenti, keci aṭṭha aṭṭha vā dasa dasa vā uppalapupphādīni suttena vā vākena vā daṇḍakesu bandhitvā uppalahatthake vā padumahatthake vā karonti, taṃ sabbaṃ purimanayeneva na vaṭṭati. Sāmaṇerehi uppāṭetvā thale ṭhapitauppalādīni kāsāvena bhaṇḍikampi bandhituṃ na vaṭṭati. Tesaṃyeva pana vākena vā daṇḍakena vā bandhituṃ aṃsabhaṇḍikaṃ vā kātuṃ vaṭṭati. Aṃsabhaṇḍikaṃ nāma khandhe ṭhapitakāsāvassa ubho ante āharitvā bhaṇḍikaṃ katvā tasmiṃ pasibbake viya pupphāni pakkhipanti, ayaṃ vuccati aṃsabhaṇḍikā, etaṃ kātuṃ vaṭṭati. Daṇḍakehi paduminipaṇṇaṃ vijjhitvā uppalādīni paṇṇena veṭhetvā gaṇhanti, tatrāpi pupphānaṃ upari paduminipaṇṇameva bandhituṃ vaṭṭati, heṭṭhā daṇḍakaṃ pana bandhituṃ na vaṭṭati.
Việc quấn lại được thấy ở các tràng hoa và bó hoa. Một số vị khi làm tràng hoa đội đầu, để tạo hình bình nước ở phía dưới, họ dùng hoa quấn quanh, một số vị lấy tám hoặc mười bông sen xanh… dùng chỉ hoặc vỏ cây buộc vào cành rồi làm thành bó hoa sen xanh hoặc bó hoa sen hồng, tất cả những việc đó đều không hợp lệ theo cách đã nói ở trước. Không được phép dùng y ca-sa buộc thành bị để đựng hoa sen… do các sa-di hái và đặt trên đất. Nhưng được phép dùng vỏ cây hoặc cành cây buộc chúng lại hoặc làm thành bị đeo vai. Bị đeo vai là lấy hai đầu của y ca-sa đặt trên vai, buộc lại thành một cái bị rồi cho hoa vào đó như trong một cái túi, đây gọi là bị đeo vai, việc này được phép làm. Họ dùng cành cây xỏ qua lá sen rồi dùng lá quấn hoa sen… và cầm lấy, trong trường hợp đó, chỉ được phép dùng lá sen buộc phía trên các bông hoa, không được phép buộc cành cây ở phía dưới.
Pūrimaṃ nāma mālāguṇe ca pupphapaṭe ca daṭṭhabbaṃ. Yo hi mālāguṇena cetiyaṃ vā bodhiṃ vā vedikaṃ vā parikkhipanto puna ānetvā purimaṭṭhānaṃ atikkāmeti, ettāvatā pūrimaṃ nāma hoti, ko pana vādo anekakkhattuṃ parikkhipantassa. Nāgadantakantarehi pavesetvā haranto olambakaṃ katvā puna nāgadantakaṃ parikkhipati, etampi pūrimaṃ nāma. Nāgadantake pana pupphavalayaṃ pavesetuṃ vaṭṭati. Mālāguṇehi pupphapaṭaṃ karonti, tatrāpi ekameva mālāguṇaṃ harituṃ vaṭṭati. Puna paccāharato pūrimameva hoti. Taṃ sabbaṃ purimanayeneva na vaṭṭati. Mālāguṇehi pana bahūhipi kataṃ pupphadāmaṃ labhitvā āsanamatthakādīsu bandhituṃ vaṭṭati. Atidīghaṃ pana mālāguṇaṃ ekavāraṃ haritvā parikkhipitvā puna itarassa bhikkhuno dātuṃ vaṭṭati, tenapi tatheva kātuṃ vaṭṭati.
Việc chất đầy được thấy ở các vòng hoa và tấm vải hoa. Người nào dùng vòng hoa quấn quanh tháp, cây bồ đề, hoặc lan can rồi lại mang đến quấn chồng lên chỗ cũ, chừng đó đã gọi là việc chất đầy, huống chi là người quấn nhiều lần. Người luồn vòng hoa qua các khoảng trống giữa các răng rồng, làm cho nó rủ xuống rồi lại quấn quanh răng rồng, đây cũng gọi là việc chất đầy. Nhưng được phép cài một vòng hoa lên răng rồng. Họ dùng các vòng hoa để làm một tấm vải hoa, trong trường hợp đó cũng chỉ được phép giăng một vòng hoa. Nếu mang trở lại lần nữa thì chính là việc chất đầy. Tất cả những việc đó đều không hợp lệ theo cách đã nói ở trước. Nhưng được phép nhận một tràng hoa được làm từ nhiều vòng hoa rồi buộc lên đầu pháp tòa… Một tràng hoa rất dài, sau khi giăng và quấn một vòng, được phép đưa cho một Tỳ-khưu khác, vị đó cũng được phép làm tương tự.
Vāyimaṃ nāma pupphajālapupphapaṭapuppharūpesu daṭṭhabbaṃ. Cetiye pupphajālaṃ karontassa ekamekamhi jālachiddake dukkaṭaṃ. Bhittichattabodhitthambhādīsupi eseva nayo. Pupphapaṭaṃ pana parehi pūritampi vāyituṃ na labbhati. Gopphimapuppheheva hatthiassādirūpakāni karonti, tānipi vāyimaṭṭhāne tiṭṭhanti. Purimanayeneva sabbaṃ na vaṭṭati. Aññehi kataparicchede pana pupphāni ṭhapentena hatthiassādirūpakampi kātuṃ vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana kaḷambakena aḍḍhacandakena ca saddhiṃ aṭṭha pupphavikatiyo vuttā.
Việc dệt lại được thấy ở các lưới hoa, vải hoa, và hình tượng bằng hoa. Người làm lưới hoa ở tháp, mỗi một mắt lưới phạm tội Tác Ác. Đối với tường, dù, và cột bồ đề… cũng tương tự. Còn vải hoa, dù đã được người khác làm đầy, cũng không được phép dệt. Họ dùng các hoa đã được bện để làm hình con voi, con ngựa…, những hình đó cũng thuộc về việc dệt lại. Tất cả đều không hợp lệ theo cách đã nói ở trước. Nhưng được phép làm cả hình con voi, con ngựa… bằng cách đặt hoa vào trong một khuôn khổ đã được người khác làm. Tuy nhiên, trong Đại Chú Giải Paccarī có nói đến tám loại trang trí bằng hoa, cùng với kaḷambaka và aḍḍhacandaka.
32. Tattha kaḷambakoti aḍḍhacandakantare ghaṭikadāmaolambako vutto. Aḍḍhacandakoti aḍḍhacandākārena mālāguṇaparikkhepo. Tadubhayampi pūrimeyeva paviṭṭhaṃ. Kurundiyaṃ pana ‘‘dve tayo mālāguṇe ekato katvā pupphadāmakaraṇampi vāyimaṃyevā’’ti vuttaṃ. Tampi idha pūrimaṭṭhāneyeva paviṭṭhaṃ. Na kevalañca pupphadāmameva, piṭṭhamayadāmampi geṇḍukapupphadāmampi kurundiyaṃ vuttaṃ. Kharapattadāmampi sikkhāpadassa sādhāraṇattā bhikkhūnampi bhikkhunīnampi neva kātuṃ, na kārāpetuṃ vaṭṭati, pūjānimittaṃ pana kappiyavacanaṃ sabbattha vattuṃ vaṭṭati. Pariyāyaobhāsanimittakammāni vaṭṭantiyeva.
32. Ở đây, kaḷambaka được gọi là một tràng hoa hình bình nước rủ xuống giữa các hình nửa vầng trăng. Aḍḍhacandaka là việc quấn một tràng hoa theo hình nửa vầng trăng. Cả hai đều đã được bao gồm trong việc chất đầy. Tuy nhiên, trong Chú Giải Kurunda có nói: “Việc lấy hai ba vòng hoa gộp lại để làm một tràng hoa cũng chính là việc dệt lại.” Điều đó ở đây cũng đã được bao gồm trong việc chất đầy. Không chỉ tràng hoa, mà cả tràng hoa bằng bột, tràng hoa hình quả bóng cũng được nói đến trong Chú Giải Kurunda. Cả tràng hoa bằng lá ráp, do học giới này là chung, các Tỳ-khưu và Tỳ-khưu ni đều không được phép làm, cũng không được phép nhờ làm, nhưng ở đâu cũng được phép dùng lời nói hợp lệ vì mục đích cúng dường. Lời nói bóng gió, lời gợi ý, và việc làm dấu hiệu thì luôn được phép.
Yo haritvā vā harāpetvā vā pakkositvā vā pakkosāpetvā vā sayaṃ vā upagatānaṃ yaṃ kiñci attano santakaṃ pupphaṃ kulasaṅgahatthāya deti, tassa dukkaṭaṃ, parasantakaṃ deti, dukkaṭameva. Theyyacittena deti, bhaṇḍagghena kāretabbo. Esa nayo saṅghikepi. Ayaṃ pana viseso – senāsanatthāya niyamitaṃ issaravatāya dadato thullaccayanti.
Người nào mang đi, nhờ mang đi, gọi đến, hoặc nhờ gọi đến, hoặc cho người tự đến bất cứ loại hoa nào thuộc sở hữu của mình để thu phục các gia đình, vị ấy phạm tội Tác Ác, nếu cho hoa của người khác cũng phạm tội Tác Ác. Nếu cho với tâm trộm cắp, vị ấy phải bị xử tội theo giá trị của vật phẩm. Đối với vật của Tăng chúng cũng tương tự. Nhưng có sự khác biệt này: người có quyền thế cho vật đã được chỉ định cho chỗ ở thì phạm tội Trọng Tội.
33. Pupphaṃ nāma kassa dātuṃ vaṭṭati, kassa na vaṭṭatīti? Mātāpitūnaṃ tāva haritvāpi harāpetvāpi pakkositvāpi pakkosāpetvāpi dātuṃ vaṭṭati , sesañātakānaṃ pakkosāpetvāva. Tañca kho vatthupūjanatthāya, maṇḍanatthāya pana sivaliṅgādipūjanatthāya vā kassacipi dātuṃ na vaṭṭati. Mātāpitūnañca harāpentena ñātisāmaṇereheva harāpetabbaṃ. Itare pana yadi sayameva icchanti, vaṭṭati. Sammatena pupphabhājakena pupphabhājanakāle sampattānaṃ sāmaṇerānaṃ upaḍḍhabhāgaṃ dātuṃ vaṭṭati. Kurundiyaṃ pana ‘‘sampattagihīnaṃ upaḍḍhabhāgaṃ’’, mahāpaccariyaṃ ‘‘cūḷakaṃ dātuṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Asammatena apaloketvā dātabbaṃ. Ācariyupajjhāyesu sagāravā sāmaṇerā bahūni pupphāni āharitvā rāsiṃ katvā ṭhapenti, therā pātova sampattānaṃ saddhivihārikādīnaṃ upāsakādīnaṃ vā ‘‘tvaṃ idaṃ gaṇha, tvaṃ idaṃ gaṇhā’’ti denti, pupphadānaṃ nāma na hoti. ‘‘Cetiyaṃ pūjessāmā’’ti gahetvā gacchantāpi pūjaṃ karontāpi tattha tattha sampattānaṃ cetiyapūjanatthāya denti, etampi pupphadānaṃ nāma na hoti. Upāsake akkapupphādīhi pūjente disvā ‘‘vihāre kaṇikārapupphādīni atthi, upāsakā tāni gahetvā pūjethā’’ti vattumpi vaṭṭati. Bhikkhū pupphapūjaṃ katvā divātaraṃ gāmaṃ paviṭṭhe ‘‘kiṃ, bhante, atidivā paviṭṭhatthā’’ti pucchanti, ‘‘vihāre pupphāni bahūni, pūjaṃ akarimhā’’ti vadanti. Manussā ‘‘bahūni kira vihāre pupphānī’’ti punadivase pahūtaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ gahetvā vihāraṃ gantvā pupphapūjañca karonti dānañca denti, vaṭṭati.
33. Vậy, hoa được phép cho ai, không được phép cho ai? Trước hết, được phép mang, nhờ mang, gọi đến, hoặc nhờ gọi đến để cho cha mẹ, đối với các bà con khác, chỉ được nhờ gọi đến. Và điều đó chỉ vì mục đích cúng dường vật thể, không được phép cho bất cứ ai để trang điểm hoặc để cúng dường sivaliṅga… Và khi nhờ mang cho cha mẹ, phải nhờ các sa-di là bà con. Còn những người khác, nếu họ tự nguyện, thì được phép. Người chia hoa đã được chấp thuận, vào lúc chia hoa, được phép cho các vị sa-di có mặt một nửa phần. Tuy nhiên, trong Chú Giải Kurunda nói: “một nửa phần cho các người thế tục có mặt”, còn trong Đại Chú Giải Paccarī nói: “được phép cho một phần nhỏ.” Người không được chấp thuận phải thông báo rồi mới cho. Các vị sa-di vì kính trọng các vị Giáo Thọ Sư và Hòa Thượng nên mang nhiều hoa đến chất thành đống. Các vị trưởng lão vào buổi sáng cho các vị đồng trú… hoặc các nam cận sự… có mặt rằng: “Con hãy lấy cái này, con hãy lấy cái kia,” thì không gọi là cho hoa. Những người cầm hoa đi với ý định “chúng ta sẽ cúng dường tháp,” hoặc đang cúng dường, cho những người có mặt ở các nơi để cúng dường tháp, việc này cũng không gọi là cho hoa. Khi thấy các nam cận sự đang cúng dường bằng hoa sữa bò…, cũng được phép nói: “Này các nam cận sự, trong tu viện có hoa kaṇikāra…, hãy lấy những hoa đó mà cúng dường.” Các Tỳ-khưu sau khi cúng hoa, đi vào làng muộn hơn thường lệ, bị hỏi: “Bạch ngài, sao ngài vào làng muộn thế?”, họ trả lời: “Trong tu viện có nhiều hoa, chúng tôi đã cúng dường.” Người ta nghĩ: “Trong tu viện có nhiều hoa,” ngày hôm sau họ mang nhiều đồ ăn thức uống đến tu viện, vừa cúng hoa vừa cúng dường, điều đó hợp lệ.
34. Manussā ‘‘mayaṃ, bhante, asukadivasaṃ nāma pūjessāmā’’ti pupphavāraṃ yācitvā anuññātadivase āgacchanti, sāmaṇerehi ca pageva pupphāni ocinitvā ṭhapitāni honti, te rukkhesu pupphāni apassantā ‘‘kuhiṃ, bhante, pupphānī’’ti vadanti, sāmaṇerehi ocinitvā ṭhapitāni, tumhe pana pūjetvā gacchatha, saṅgho aññaṃ divasaṃ pūjessatīti. Te pūjetvā dānaṃ datvā gacchanti, vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana kurundiyañca ‘‘therā sāmaṇerehi dāpetuṃ na labhanti, sace sayameva tāni pupphāni tesaṃ denti, vaṭṭati. Therehi pana ‘sāmaṇerehi ocinitvā ṭhapitānī’ti ettakameva vattabba’’nti vuttaṃ. Sace pana pupphavāraṃ yācitvā anocitesu pupphesu yāgubhattādīni ādāya āgantvā sāmaṇere ‘‘ocinitvā dethā’’ti vadanti, ñābhisāmaṇerānaṃyeva ocinitvā dātuṃ vaṭṭati. Aññātake ukkhipitvā rukkhasākhāya ṭhapenti, na orohitvā palāyitabbaṃ, ocinitvā dātuṃ vaṭṭati . Sace pana koci dhammakathiko ‘‘bahūni upāsakā vihāre pupphāni, yāgubhattādīni ādāya gantvā pupphapūjaṃ karothā’’ti vadati, tasseva na kappatīti mahāpaccariyañca kurundiyañca vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘etaṃ akappiyaṃ na vaṭṭatī’’ti avisesena vuttaṃ.
34. Người ta xin một lượt cúng hoa rằng: “Bạch ngài, chúng con sẽ cúng dường vào ngày kia,” rồi đến vào ngày đã được cho phép, nhưng các sa-di đã hái hoa và để sẵn từ sáng sớm. Họ không thấy hoa trên cây liền nói: “Bạch ngài, hoa đâu rồi?”, “Các sa-di đã hái và để sẵn, các vị cứ cúng dường rồi về, Tăng chúng sẽ cúng dường vào ngày khác.” Họ cúng dường, cúng dường đồ ăn rồi ra về, điều đó hợp lệ. Tuy nhiên, trong Đại Chú Giải Paccarī và trong Chú Giải Kurunda có nói: “Các vị trưởng lão không được phép nhờ các sa-di cho, nếu các sa-di tự mình cho họ những hoa đó thì được phép. Các vị trưởng lão chỉ nên nói chừng này: ‘Các sa-di đã hái và để sẵn’.” Nhưng nếu sau khi đã xin một lượt cúng hoa, khi hoa chưa được hái, họ mang cháo, cơm… đến rồi nói với các sa-di: “Hãy hái và cho chúng tôi,” thì chỉ được phép cho các sa-di là bà con hái và cho. Nếu họ trèo lên cây và đặt (quà) trên cành cây của người không phải là bà con, không được trèo xuống rồi bỏ đi, mà được phép hái và cho. Nhưng nếu có một vị pháp sư nào nói: “Này các nam cận sự, trong tu viện có nhiều hoa, hãy mang cháo, cơm… đến cúng hoa,” thì chính vị đó là người không hợp lệ, theo như lời nói **trong Đại Chú Giải Paccarī và Chú Giải Kurunda**. Tuy nhiên, **trong Đại Chú Giải** nói một cách không phân biệt: “Điều này không hợp lệ, không được phép.”
35. Phalampi attano santakaṃ vuttanayeneva mātāpitūnañca sesañātīnañca dātuṃ vaṭṭati. Kulasaṅgahatthāya pana dentassa vuttanayeneva attano santake parasantake saṅghike senāsanatthāya niyamite ca dukkaṭādīni veditabbāni. Attano santakaṃyeva gilānamanussānaṃ vā sampattaissarānaṃ vā khīṇaparibbayānaṃ vā dātuṃ vaṭṭati, phaladānaṃ na hoti. Phalabhājakenapi sammatena saṅghassa phalabhājanakāle sampattamanussānaṃ upaḍḍhabhāgaṃ dātuṃ vaṭṭati, asammatena apaloketvā dātabbaṃ. Saṅghārāmepi phalaparicchedena vā rukkhaparicchedena vā katikā kātabbā ‘‘tato gilānamanussānaṃ vā aññesaṃ vā phalaṃ yācantānaṃ yathāparicchedena cattāri pañca phalāni dātabbāni, rukkhā vā dassetabbā ‘ito gahetuṃ labbhatī’’’ti. ‘‘Idha phalāni sundarāni, ito gaṇhathā’’ti evaṃ pana na vattabbaṃ. Attano santakaṃ sirīsacuṇṇaṃ vā aññaṃ vā yaṃ kiñci kasāvaṃ kulasaṅgahatthāya deti, dukkaṭaṃ. Parasantakādīsupi vuttanayeneva vinicchayo veditabbo. Ayaṃ pana viseso – saṅghassa rakkhitagopitāpi rukkhachalli garubhaṇḍamevāti. Mattikadantakaṭṭhaveḷupaṇṇesupi garubhaṇḍūpagaṃ ñatvā cuṇṇe vuttanayeneva vinicchayo veditabbo.
35. Quả cây thuộc sở hữu của mình cũng được phép cho cha mẹ và các bà con khác theo cách đã nói. Nhưng người cho để thu phục các gia đình, đối với vật của mình, của người khác, của Tăng chúng, và vật đã được chỉ định cho chỗ ở, cần phải biết các tội Tác Ác… theo cách đã nói. Được phép cho quả cây của mình cho người bệnh, cho các vị quyền thế có mặt, hoặc cho những người đã hết đồ dùng, đây không phải là việc cho quả cây. Người chia quả đã được chấp thuận, vào lúc chia quả cho Tăng chúng, được phép cho những người có mặt một nửa phần, người không được chấp thuận phải thông báo rồi mới cho. Ngay cả trong vườn của Tăng chúng, cũng phải lập quy ước theo sự phân chia quả hoặc phân chia cây rằng: “Từ đó, phải cho bốn năm quả theo sự phân chia cho những người bệnh hoặc những người khác xin quả, hoặc phải chỉ cho họ các cây và nói ‘được phép lấy từ đây.’” Nhưng không được nói như vầy: “Quả ở đây ngon, hãy lấy từ đây.” Người nào cho bột cây sirīsa hoặc bất cứ loại chất chát nào thuộc sở hữu của mình để thu phục các gia đình, thì phạm tội Tác Ác. Đối với vật của người khác…, phán định cũng phải được hiểu theo cách đã nói. Nhưng có sự khác biệt này: vỏ cây được Tăng chúng giữ gìn, trông coi cũng chính là vật nặng. Đối với đất sét, tăm xỉa răng, tre, và lá, sau khi biết chúng thuộc loại vật nặng, phán định cũng phải được hiểu theo cách đã nói đối với bột.
36.Jaṅghapesaniyanti gihīnaṃ dūteyyaṃ sāsanaharaṇakammaṃ vuccati, taṃ na kātabbaṃ. Gihīnañhi sāsanaṃ gahetvā gacchantassa pade pade dukkaṭaṃ. Taṃ kammaṃ nissāya laddhabhojanaṃ bhuñjantassapi ajjhohāre ajjhohāre dukkaṭaṃ. Paṭhamaṃ sāsanaṃ aggahetvāpi pacchā ‘‘ayaṃ dāni so gāmo, handa naṃ sāsanaṃ ārocemī’’ti maggā okkamantassapi pade pade dukkaṭaṃ. Sāsanaṃ ārocetvā laddhabhojanaṃ bhuñjato purimanayeneva dukkaṭaṃ. Sāsanaṃ aggahetvā āgatena pana ‘‘bhante, tasmiṃ gāme itthannāmassa kā pavattī’’ti pucchiyamānena kathetuṃ vaṭṭati, pucchitapañhe doso natthi. Pañcannaṃ pana sahadhammikānaṃ mātāpitūnaṃ paṇḍupalāsassa attano veyyāvaccakarassa sāsanaṃ harituṃ vaṭṭati, gihīnañca kappiyasāsanaṃ, tasmā ‘‘mama vacanena bhagavato pāde vandathā’’ti vā ‘‘cetiyaṃ paṭimaṃ bodhiṃ saṅghattheraṃ vandathā’’ti vā ‘‘cetiye gandhapūjaṃ karothā’’ti vā ‘‘pupphapūjaṃ karothā’’ti vā ‘‘bhikkhū sannipātetha, dānaṃ dassāma, dhammaṃ desāpayissāmā’’ti vā īdisesu sāsanesu kukkuccaṃ na kātabbaṃ. Kappiyasāsanāni hi etāni, na gihīnaṃ gihikammapaṭisaṃyuttānīti. Imehi pana aṭṭhahi kuladūsakakammehi uppannapaccayā pañcannampi sahadhammikānaṃ na kappanti. Abhūtārocanarūpiyasaṃvohārehi uppannapaccayasadisāva honti.
36.Việc đi đưa tin được gọi là công việc làm người đưa tin, mang thư tín cho người thế tục, việc đó không được làm. Thật vậy, người mang thư tín của người thế tục đi, mỗi bước đi phạm tội Tác Ác. Người ăn vật thực nhận được nhờ vào công việc đó, mỗi miếng ăn phạm tội Tác Ác. Người lúc đầu không nhận thư tín, nhưng sau đó nghĩ: “Bây giờ đã đến làng đó, thôi ta báo tin cho họ,” rồi rẽ khỏi đường đi, mỗi bước đi cũng phạm tội Tác Ác. Người ăn vật thực nhận được sau khi đã báo tin, phạm tội Tác Ác theo cách đã nói ở trước. Nhưng người đến mà không nhận thư tín, khi được hỏi: “Bạch ngài, ở làng kia có chuyện gì với người tên này?”, thì được phép kể lại, không có lỗi trong câu hỏi đã được hỏi. Nhưng được phép mang tin tức cho năm hạng đồng phạm hạnh, cho cha mẹ, cho người đã hoàn tục, và cho người phục vụ của mình, và được phép mang tin tức hợp lệ của người thế tục, do đó, đối với các tin tức như: “Nhân danh tôi, xin hãy đảnh lễ chân đức Thế Tôn,” hoặc “xin hãy đảnh lễ tháp, tượng, cây bồ đề, vị trưởng lão Tăng,” hoặc “xin hãy cúng dường hương ở tháp,” hoặc “xin hãy cúng dường hoa,” hoặc “xin hãy triệu tập các Tỳ-khưu, chúng tôi sẽ cúng dường, sẽ thỉnh thuyết pháp,” không cần phải bận tâm. Vì đây là những tin tức hợp lệ, không liên quan đến các công việc thế tục của người thế tục. Nhưng các vật dụng phát sinh từ tám việc làm hư hỏng gia đình này thì không hợp lệ cho cả năm hạng đồng phạm hạnh. Chúng giống như các vật dụng phát sinh từ việc nói điều không thật và việc trao đổi bằng tiền bạc.
Pabbājanīyakammakato pana yasmiṃ gāme vā nigame vā kuladūsakakammaṃ kataṃ, yasmiñca vihāre vasati, neva tasmiṃ gāme vā nigame vā carituṃ labhati, na vihāre vasituṃ. Paṭippassaddhakammenapi ca tena yesu kulesu pubbe kuladūsakakammaṃ kataṃ, tato uppannapaccayā na gahetabbā, āsavakkhayapattenapi na gahetabbā, akappiyāva honti. ‘‘Kasmā na gaṇhathā’’ti pucchitena ‘‘pubbe evaṃ katattā’’ti vutte sace vadanti ‘‘na mayaṃ tena kāraṇena dema, idāni sīlavantatāya demā’’ti, gahetabbā. Pakatiyā dānaṭṭhāneyeva kuladūsakakammaṃ kataṃ hoti, tato pakatidānameva gahetuṃ vaṭṭati. Yaṃ vaḍḍhetvā denti, taṃ na vaṭṭati. Yasmā ca pucchitapañhe doso natthi, tasmā aññampi bhikkhuṃ pubbaṇhe vā sāyanhe vā antaragharaṃ paviṭṭhaṃ koci puccheyya ‘‘kasmā, bhante, carathā’’ti. Yenatthena carati, taṃ ācikkhitvā ‘‘laddhaṃ na laddha’’nti vutte sace na laddhaṃ, ‘‘na laddha’’nti vatvā yaṃ so deti, taṃ gahetuṃ vaṭṭati.
Còn người đã bị xử phạt trục xuất, không được phép đi lại trong làng hay thị trấn nơi đã thực hiện việc làm hư hỏng gia đình, cũng không được phép ở trong tu viện nơi vị ấy đang ở. Và ngay cả khi đã được phục hồi, vị ấy cũng không được nhận các vật dụng phát sinh từ các gia đình mà trước đây vị ấy đã làm hư hỏng, ngay cả khi đã đắc quả A-la-hán cũng không được nhận, chúng vẫn là vật không hợp lệ. Khi được hỏi: “Tại sao ngài không nhận?”, và trả lời: “Vì trước đây đã làm như vậy,” nếu họ nói: “Chúng con không cho vì lý do đó, bây giờ chúng con cho vì ngài là người có giới hạnh,” thì được phép nhận. Nếu việc làm hư hỏng gia đình được thực hiện ngay tại nơi cúng dường thường xuyên, thì chỉ được phép nhận sự cúng dường thường xuyên đó. Phần họ cho thêm thì không hợp lệ. Và vì không có lỗi trong câu hỏi đã được hỏi, do đó, nếu có người nào hỏi một Tỳ-khưu khác đã vào trong nhà vào buổi sáng hoặc buổi chiều: “Bạch ngài, ngài đi đâu vậy?”, vị ấy kể lại mục đích mình đi, khi được hỏi: “Đã nhận được chưa hay chưa nhận được?”, nếu chưa nhận được, sau khi nói “chưa nhận được,” được phép nhận vật người đó cho.
37. ‘‘Na ca, bhikkhave, paṇidhāya araññe vatthabbaṃ, yo vaseyya, āpatti dukkaṭassa. Na ca, bhikkhave, paṇidhāya piṇḍāya caritabbaṃ…pe… na ca, bhikkhave, paṇidhāya caṅkamitabbaṃ…pe… na ca, bhikkhave, paṇidhāya ṭhātabbaṃ…pe… na ca, bhikkhave, paṇidhāya nisīditabbaṃ…pe… na ca, bhikkhave, paṇidhāya seyyā kappetabbā, yo kappeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (pārā. 223 ādayo) vuttattā ‘‘evaṃ (pārā. aṭṭha. 2.223) araññe vasantaṃ maṃ jano arahatte vā sekkhabhūmiyaṃ vā sambhāvessati, tato lokassa sakkato bhavissāmi garukato mānito pūjito’’ti evaṃ patthanaṃ katvā araññe na vasitabbaṃ. Evaṃ paṇidhāya ‘‘araññe vasissāmī’’ti gacchantassa padavāre padavāre dukkaṭaṃ, tathā araññe kuṭikaraṇacaṅkamananisīdananivāsanapārupanādīsu sabbakiccesu payoge payoge dukkaṭaṃ, tasmā evaṃ araññe na vasitabbaṃ. Evaṃ vasanto hi sambhāvanaṃ labhatu vā mā vā, dukkaṭaṃ āpajjati. Yo pana samādinnadhutaṅgo ‘‘dhutaṅgaṃ rakkhissāmī’’ti vā ‘‘gāmante me vasato cittaṃ vikkhipati, araññaṃ sappāya’’nti cintetvā vā ‘‘addhā araññe tiṇṇaṃ vivekānaṃ aññataraṃ pāpuṇissāmī’’ti vā ‘‘araññaṃ pavisitvā arahattaṃ apāpuṇitvā na nikkhamissāmī’’ti vā ‘‘araññavāso nāma bhagavatā pasattho, mayi ca araññe vasante bahū sabrahmacārī gāmantaṃ hitvā āraññakā bhavissantī’’ti vā evaṃ anavajjavāsaṃ vasitukāmo hoti, teneva vasitabbaṃ. Piṇḍāya carantassapi ‘‘abhikkantādīni saṇṭhapetvā piṇḍāya carissāmī’’ti nivāsanapārupanakiccato pabhuti yāva bhojanapariyosānaṃ, tāva payoge payoge dukkaṭaṃ, sambhāvanaṃ labhatu vā mā vā, dukkaṭameva. Khandhakavattasekhiyavattaparipūraṇatthaṃ pana sabrahmacārīnaṃ diṭṭhānugatiāpajjanatthaṃ vā pāsādikehi abhikkamapaṭikkamādīhi piṇḍāya pavisanto anupavajjo viññūnaṃ. Caṅkamanādīsupi eseva nayo.
37. Vì đã được nói: “Và này các Tỳ-khưu, không được ở trong rừng với ý đồ, ai ở thì phạm tội Tác Ác. Và này các Tỳ-khưu, không được đi khất thực với ý đồ… này các Tỳ-khưu, không được đi kinh hành với ý đồ… này các Tỳ-khưu, không được đứng với ý đồ… này các Tỳ-khưu, không được ngồi với ý đồ… này các Tỳ-khưu, không được nằm nghỉ với ý đồ, ai làm vậy thì phạm tội Tác Ác” (pārā. 223 v.v.), nên không được ở trong rừng với sự mong cầu rằng: “Khi ta ở trong rừng như thế này (pārā. aṭṭha. 2.223), người ta sẽ tôn kính ta ở bậc A-la-hán hoặc bậc Thánh hữu học, từ đó ta sẽ được thế gian cung kính, trọng vọng, tôn trọng, cúng dường.” Người đi vào rừng với ý đồ như vậy, mỗi bước chân phạm tội Tác Ác, cũng như trong tất cả các công việc ở trong rừng như làm am, kinh hành, ngồi, đắp y, mặc y…, mỗi hành động phạm tội Tác Ác, do đó không được ở trong rừng như vậy. Người ở như vậy dù có được tôn kính hay không, vẫn phạm tội Tác Ác. Nhưng người đã thọ trì đầu-đà, nghĩ rằng: “Ta sẽ giữ gìn hạnh đầu-đà,” hoặc “khi ở gần làng, tâm ta bị phân tán, rừng là nơi thích hợp,” hoặc “chắc chắn ở trong rừng ta sẽ đạt được một trong ba sự vắng lặng,” hoặc “vào rừng rồi, nếu chưa đắc A-la-hán thì sẽ không ra,” hoặc “việc ở rừng đã được đức Thế Tôn tán thán, và khi ta ở trong rừng, nhiều vị đồng phạm hạnh sẽ rời bỏ xóm làng để trở thành những vị ở rừng,” nếu muốn sống một cuộc sống không đáng chê trách như vậy, thì nên ở như thế. Người đi khất thực, từ việc đắp y, mặc y… với ý nghĩ: “Ta sẽ đi khất thực với các oai nghi tiến tới… hoàn hảo,” cho đến khi kết thúc bữa ăn, mỗi hành động phạm tội Tác Ác, dù có được tôn kính hay không, vẫn phạm tội Tác Ác. Nhưng người đi vào làng khất thực với các oai nghi tiến tới, lui tới… trang nghiêm để hoàn thành các phận sự trong thiên và phận sự trong học giới, hoặc để các vị đồng phạm hạnh noi theo gương tốt, thì không bị các người trí chê trách. Đối với việc kinh hành… cũng tương tự.
Iti pāḷimuttakavinayavinicchayasaṅgahe
Trong tập hợp những phán định về luật ngoài Pāḷi,
Kulasaṅgahavinicchayakathā samattā.
Lời Bàn về Phán Định việc Thu Phục Các Gia Đình chấm dứt.