Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải Thái kinh Tăng Chi Bộ III – Chương 6 – 2. Phẩm Cần Phải Nhớ

อรรถกถา อังคุตตรนิกาย ฉักกนิบาต ปฐมปัณณาสก์ สาราณิยาทิวรรคที่ ๒
Chú giải Kinh Tăng Chi Bộ, Chương Sáu Phẩm, Phần Đầu Tiên – Phẩm Sārāṇīya thứ hai.

๑. สาราณิยสูตรที่ ๑
1. Kinh Sārāṇīya thứ nhất.

สาราณิยาทิวรรคที่ ๒
Phẩm Sārāṇīya thứ hai.

อรรถกถาปฐมสาราณียสูตรที่ ๑
Chú giải Kinh Sārāṇīya thứ nhất.

พึงทราบวินิจฉัยในปฐมสาราณียสูตรที่ ๑ แห่งสาราณียาทิวรรคที่ ๒ ดังต่อไปนี้ :-
Nên biết rõ lời giải thích về Kinh Sārāṇīya thứ nhất trong phẩm Sārāṇīya thứ hai như sau:

บทว่า สาราณียา ได้แก่ ธรรมที่ควรให้ระลึกถึงกัน.
Cụm từ “Sārāṇīya” nghĩa là các pháp nên được nhớ đến.

บทว่า เมตฺตํ กายกมฺมํ ได้แก่ กายกรรมที่พึงกระทำด้วยจิตประกอบด้วยเมตตา.
Cụm từ “Mettāṃ Kāyakammaṃ” nghĩa là hành động thân thể được thực hiện với tâm từ bi.

แม้ในวจีกรรมและมโนกรรมทั้งหลาย ก็มีนัยนี้เหมือนกัน.
Cũng tương tự như vậy đối với hành động qua lời nói và ý nghĩ.

ก็แลเมตตากายกรรมเป็นต้นเหล่านี้ ตรัสไว้ด้วยสามารถแห่งภิกษุทั้งหลาย. แม้คฤหัสถ์ทั้งหลายก็นำไปใช้ได้.
Những hành động từ bi qua thân thể như vậy được giảng dạy dành cho chư Tỳ-khưu, nhưng ngay cả cư sĩ cũng có thể thực hành.

อธิบายว่า สำหรับภิกษุทั้งหลายการบำเพ็ญธรรม คืออภิสมาจาริกวัตรด้วยเมตตาจิต ชื่อว่าเมตตากายกรรม.
Giải thích rằng, đối với Tỳ-khưu, việc thực hành pháp, tức là các bổn phận thanh tịnh với tâm từ bi, được gọi là hành động thân từ bi.

สำหรับคฤหัสถ์ทั้งหลาย กรรมมีอาทิอย่างนี้ว่า การเดินทางไป เพื่อไหว้พระเจดีย์ เพื่อไหว้โพธิพฤกษ์ เพื่อนิมนต์พระสงฆ์ การเห็นภิกษุทั้งหลายผู้เข้าไปสู่บ้าน เพื่อบิณฑบาต แล้วลุกขึ้นต้อนรับ การรับบาตร การปูลาดอาสนะและการตามส่ง ชื่อว่าเมตตากายกรรม.
Đối với cư sĩ, các hành động như đi hành hương để đảnh lễ tháp thờ, cây Bồ-đề, thỉnh chư Tăng, thấy chư Tỳ-khưu vào làng khất thực mà đứng dậy đón tiếp, nhận bát, trải tọa cụ và đưa tiễn được gọi là hành động thân từ bi.

สำหรับภิกษุทั้งหลาย การบอกสอนอาจารบัญญัติ การบอกกรรมฐาน การแสดงธรรม การบอกพระพุทธพจน์ คือพระไตรปิฎก (แก่ภิกษุ สามเณร) ด้วยเมตตาจิต ชื่อว่าเมตตาวจีกรรม.
Đối với chư Tỳ-khưu, việc giảng dạy giới luật, hướng dẫn thiền quán, thuyết giảng giáo pháp, và truyền đạt lời dạy của Đức Phật từ Tam Tạng kinh điển đến Tỳ-khưu và Sa-di với tâm từ bi được gọi là hành động lời nói từ bi (Mettāvācīkamma).

สำหรับคฤหัสถ์ทั้งหลาย ในเวลาที่กล่าวคำเป็นต้นว่า พวกเราจักไปเพื่อไหว้พระเจดีย์ พวกเราจักไปเพื่อไหว้โพธิพฤกษ์ พวกเราจักกระทำการฟังธรรม พวกเราจักกระทำการบูชาด้วยประทีป ระเบียบและดอกไม้ พวกเราจักสมาทานซึ่งสุจริต ๓ พวกเราจักถวายสลากภัตรเป็นต้น พวกเราจักถวายผ้าจำนำพรรษา วันนี้พวกเราจักถวายปัจจัย ๔ แก่พระสงฆ์ ท่านทั้งหลายจงนิมนต์พระสงฆ์แล้วจัดแจงของขบฉันเป็นต้น พวกท่านจงปูลาดอาสนะ พวกท่านจงตั้งน้ำดื่ม พวกท่านจงต้อนรับนำพระสงฆ์มา พวกท่านจงให้พระสงฆ์นั่งบนอาสนะที่ปูลาดแล้ว เกิดอุตสาหะ กระทำไวยาวัจกิจ ดังนี้ ชื่อว่าเมตตาวจีกรรม.
Đối với cư sĩ, những lời nói như: “Chúng tôi sẽ đi đảnh lễ tháp thờ, đi lễ cây Bồ-đề, nghe pháp, dâng đèn, tràng hoa, thực hành ba thiện nghiệp, dâng cúng thực phẩm, dâng y mùa an cư, hôm nay chúng tôi sẽ cúng dường tứ vật dụng cho chư Tăng. Hãy thỉnh chư Tăng và chuẩn bị thức ăn, trải tọa cụ, dâng nước uống, đón chư Tăng, mời chư Tăng ngồi trên tọa cụ đã chuẩn bị” cùng với sự nỗ lực thực hành các công việc hỗ trợ này được gọi là hành động lời nói từ bi (Mettāvācīkamma).

สำหรับภิกษุทั้งหลาย การลุกขึ้นแต่เช้าตรู่ กระทำการปฏิบัติสรีระก็ดี กระทำวัตรที่ลานพระเจดีย์ เป็นต้นก็ดี นั่งบนอาสนะที่สงัดแล้วคิดว่า ภิกษุทั้งหลายในวิหารนี้ จงมีความสุข ไม่มีเวร ไม่มีทุกข์ ดังนี้ ชื่อว่าเมตตามโนกรรม.
Đối với chư Tỳ-khưu, việc thức dậy từ sáng sớm, thực hành các hoạt động chăm sóc thân thể, quét dọn khu vực xung quanh tháp thờ, và ngồi trên tọa cụ thanh vắng với suy nghĩ rằng: “Mong rằng các Tỳ-khưu trong tịnh xá này đều được an vui, không gặp tai họa hay khổ đau,” được gọi là hành động ý từ bi (Mettāmanokamma).

สำหรับคฤหัสถ์ทั้งหลาย การคิดว่า ขอพระผู้เป็นเจ้าทั้งหลายจงอยู่เป็นสุข ไม่มีเวร ไม่มีทุกข์ ดังนี้ ชื่อว่าเมตตามโนกรรม.
Đối với cư sĩ, việc suy nghĩ rằng: “Mong rằng các bậc thánh nhân đều được an vui, không gặp tai họa hay khổ đau,” được gọi là hành động ý từ bi (Mettāmanokamma).

บทว่า อาวิ เจว รโห จ ความว่า ทั้งต่อหน้า และลับหลัง.
Cụm từ “Āvi ceva raho ca” nghĩa là cả trước mặt và sau lưng.

ในสองอย่างนั้น การถึงความเป็นสหาย (การช่วยเหลือ) ในจีวรกรรมเป็นต้นของภิกษุใหม่ทั้งหลาย ชื่อว่ากายกรรมต่อหน้า.
Trong hai trường hợp đó, việc hỗ trợ như giúp Tỳ-khưu mới với y phục được gọi là hành động thân trước mặt.

ส่วนวจีกรรมทุกอย่าง แม้ต่างโดยการถวายน้ำล้างเท้าแก่พระเถระเป็นต้น ชื่อว่ากายกรรมต่อหน้า.
Các hành động lời nói, chẳng hạn như dâng nước rửa chân cho các vị trưởng lão, cũng được xem là hành động thân trước mặt.

การช่วยเก็บงำสิ่งของทั้งหลายมีฟืนเป็นต้นที่ภิกษุใหม่และพระเถระทั้งสองฝ่ายเก็บไว้ไม่เรียบร้อย ไม่ทำให้เสียหาย ในภัณฑะเหล่านั้น ดุจเก็บงำของที่ตนเก็บไว้ไม่ดีให้เรียบร้อยฉะนั้น ชื่อว่าเมตตากายกรรมลับหลัง.
Việc giúp dọn dẹp các vật dụng như củi hoặc những thứ được cất giữ không gọn gàng bởi Tỳ-khưu mới và các vị trưởng lão, đảm bảo không làm hư hỏng và sắp xếp chúng ngăn nắp, được gọi là hành động thân từ bi sau lưng.

การกล่าวยกย่องอย่างนี้ว่า ท่านเทวเถระ ท่านติสสเถระ ดังนี้ ชื่อว่าเมตตาวจีกรรมต่อหน้า.
Việc ca ngợi trực tiếp như: “Thượng tọa Deva, Thượng tọa Tissa” được gọi là hành động lời nói từ bi trước mặt (Mettāvācīkamma).

ก็และเมื่อจะสอบถามถึงพระเถระผู้ไม่อยู่ในวิหาร การกล่าวคำน่ารักอย่างนี้ว่า ท่านเทวเถระของเราไปไหน ท่านติสสเถระของเราไปไหน เมื่อไรจักมาหนอ ดังนี้ ชื่อว่าเมตตาวจีกรรมลับหลัง.
Khi hỏi về các vị trưởng lão không có mặt trong tịnh xá, những lời nói yêu thương như: “Thượng tọa Deva của chúng ta đang ở đâu? Thượng tọa Tissa của chúng ta khi nào sẽ trở về?” được gọi là hành động lời nói từ bi sau lưng (Mettāvācīkamma).

ส่วนการลืมตา อันสนิทสนมด้วยสิเนหา มองดูด้วยใบหน้าอันแจ่มใส ชื่อว่าเมตตามโนกรรมต่อหน้า.
Việc mở mắt với ánh nhìn thân thiện, và khuôn mặt rạng rỡ được gọi là hành động ý từ bi trước mặt (Mettāmanokamma).

การมุ่งดี (เอาใจช่วย) ว่า ขอท่านเทวเถระ ท่านติสสเถระ จงไม่มีโรค ไม่มีอาพาธ ดังนี้ ชื่อว่าเมตตามโนกรรมลับหลัง.
Ý niệm tốt đẹp, cầu mong rằng: “Thượng tọa Deva, Thượng tọa Tissa không gặp bệnh tật, không có đau khổ” được gọi là hành động ý từ bi sau lưng (Mettāmanokamma).

บทว่า ลาภา ได้แก่ ปัจจัยที่ได้มา มีจีวรเป็นต้น.
Từ “Lābhā” nghĩa là các vật phẩm nhận được, như y phục và các tứ vật dụng khác.

บทว่า ธมฺมิกา ได้แก่ ลาภที่เกิดขึ้นด้วยภิกขาจริยวัตรโดยธรรม สม่ำเสมอ โดยเว้นมิจฉาอาชีวะ ต่างโดยโกหก (หลอกลวง) เป็นต้น.
Từ “Dhammikā” nghĩa là những vật phẩm được nhận thông qua hành vi khất thực chân chánh, không liên quan đến tà mạng như nói dối hoặc lừa gạt.

บทว่า อนฺตมโส ปตฺต ปริยาปนฺนตฺตมฺปิ ความว่า โดยที่สุดแม้เพียงภิกษา ๒-๓ ทัพพีที่เนื่องแล้วในบาตร คืออยู่ติดก้นบาตร.
Cụm từ “Antamasa pattapariyāpannatampi” nghĩa là ngay cả một vài muỗng cơm nằm sát đáy bát cũng được xem là tài sản chung của Tăng đoàn.

ในบทว่า อปฺปฏิวิภตฺตโภคี นี้ การแบ่งปันมี ๒ อย่าง คือการแบ่งปันอามิส ๑ การแบ่งปันบุคคล ๑.
Trong cụm từ “Appaṭivibhattabhogī,” có hai cách chia sẻ: chia sẻ vật chất và chia sẻ với người khác.

ในสองอย่างนั้น การแบ่งปันโดยคิดอย่างนี้ว่า เราจักให้เท่านี้ ไม่ให้เท่านี้ดังนี้ ชื่อว่าแบ่งปันอามิส.
Trong hai cách, việc chia sẻ với suy nghĩ: “Ta sẽ cho như thế này và không cho như thế kia” được gọi là chia sẻ vật chất (Āmisa).

การแบ่งปันโดยคิดอย่างนี้ว่า เราจักให้แก่ภิกษุรูปโน้น ไม่ให้รูปโน้นดังนี้ ชื่อว่าแบ่งปันบุคคล.
Chia sẻ với suy nghĩ: “Ta sẽ cho vị Tỳ-khưu này và không cho vị Tỳ-khưu kia” được gọi là chia sẻ với người khác.

ภิกษุผู้ไม่หวงลาภบริโภค โดยไม่กระทำทั้งสองอย่างนั้น ชื่อว่า อปฺปฏิวิภตฺตโภคี.
Vị Tỳ-khưu không giữ riêng tài sản và không thực hiện hai cách chia sẻ trên được gọi là người sử dụng tài sản không phân biệt (Appaṭivibhattabhogī).

ลักษณะของผู้บริโภคร่วมกัน ในบทว่า สีลวนฺเตหิ สพฺรหฺมจารีหิ สาธารณโภคี นี้ มีดังนี้
Đặc điểm của người chia sẻ tài sản chung, như được đề cập trong cụm từ “Sīlavantehi sabrahmacārīhi sādhāraṇabhogī,” là như sau:

ภิกษุได้อาหารใดๆ ที่ประณีต ไม่ยอมให้แก่คฤหัสถ์ทั้งหลายโดยมุ่งเอาลาภต่อลาภ (ทั้ง) ไม่บริโภคด้วยตนเอง และเมื่อจะรับก็รับด้วยคิดว่าจงเป็นของสาธารณะกับหมู่สงฆ์ ย่อมเห็นเหมือนเป็นของสงฆ์ ที่จะต้องตีระฆังให้มาบริโภคร่วมกัน.
Vị Tỳ-khưu nhận được thức ăn ngon nhưng không giữ riêng hay sử dụng cho bản thân, cũng không trao đổi với cư sĩ vì lợi ích cá nhân. Khi nhận, vị ấy xem thức ăn đó là tài sản chung của Tăng đoàn, và đánh chuông để mọi người cùng dùng chung.

ถามว่า ก็ใครบำเพ็ญสาราณียธรรมนี้ให้บริบูรณ์ได้ ใครไม่บำเพ็ญให้บริบูรณ์?
Hỏi: Ai có thể thực hành đầy đủ các pháp Sārāṇīya này và ai không thể thực hành đầy đủ?

ตอบว่า ผู้ทุศีลย่อมบำเพ็ญให้บริบูรณ์ไม่ได้ ก่อน เพราะภิกษุผู้มีศีลทั้งหลายจะไม่ยอมรับสิ่งของของผู้ทุศีลนั้น.
Đáp: Người không giữ giới không thể thực hành đầy đủ, bởi các Tỳ-khưu có giới sẽ không chấp nhận vật phẩm từ những người như vậy.

ส่วนภิกษุผู้มีศีลบริสุทธิ์ไม่ยอมให้วัตรด่างพร้อย ย่อมบำเพ็ญให้บริบูรณ์ได้.
Ngược lại, các Tỳ-khưu giữ giới trong sạch và không để hành vi của mình bị vấy bẩn sẽ có thể thực hành đầy đủ.

ในการบำเพ็ญสาราณียกรรมให้บริบูรณ์ได้นั้น มีธรรมเนียม ดังนี้
Để thực hành đầy đủ các pháp Sārāṇīya, có các quy tắc như sau:

ก็ภิกษุใดตั้งใจให้ของแก่มารดาก็ดี แก่บิดาก็ดี แก่อาจารย์และอุปัชฌาย์เป็นต้นก็ดี ภิกษุนั้น (ชื่อว่า) ย่อมให้สิ่งที่ควรให้ (แก่คนที่ควรให้) แต่ไม่ชื่อว่ามีสาราณียธรรม มีแต่เพียงการปฏิบัติผู้ที่ควรห่วงใย.
Nếu một Tỳ-khưu dâng vật phẩm cho mẹ, cha, thầy dạy hoặc thầy tế độ, thì Tỳ-khưu đó được xem là đã trao tặng đúng đối tượng. Tuy nhiên, điều này không được gọi là thực hành Sārāṇīya, mà chỉ là thực hiện nghĩa vụ đối với những người đáng được quan tâm.

เพราะว่า สาราณียธรรมย่อมเหมาะแก่ผู้ที่พ้นจากปลิโพธี (ความห่วงใย) แล้ว.
Bởi các pháp Sārāṇīya thích hợp với những người đã vượt qua mọi sự lo lắng và ràng buộc.

ก็ผู้ที่จะบำเพ็ญสาราณียธรรมนั้น เมื่อจะให้โดยเจาะจง ควรให้แก่ภิกษุไข้ ผู้พยาบาลภิกษุไข้ ภิกษุอาคันตุกะและภิกษุผู้เตรียมตัวจะเดินทาง และภิกษุผู้บวชใหม่ยังไม่รู้การรับสังฆาฏิและการรับบาตร.
Người muốn thực hành pháp Sārāṇīya một cách đúng đắn, nên dâng tặng đặc biệt cho các Tỳ-khưu bệnh, người chăm sóc Tỳ-khưu bệnh, các Tỳ-khưu khách, các Tỳ-khưu sắp đi đường, và các Tỳ-khưu mới xuất gia chưa biết cách nhận y và bát.

ครั้นให้แก่ภิกษุเหล่านี้แล้ว ยังมีของเหลือ นับจำเดิมแต่อาสนะแห่งพระเถระไป ภิกษุใดจะรับเท่าใด ควรให้ภิกษุนั้นเท่านั้น โดยไม่ให้องค์ละเล็กละน้อย.
Sau khi đã dâng tặng cho những vị trên, nếu còn dư, nên chia từ vị trí của các trưởng lão trở đi. Mỗi Tỳ-khưu nhận bao nhiêu thì nên cho bấy nhiêu, không chia nhỏ lẻ từng chút.

เมื่อไม่มีของเหลือ ออกไปบิณฑบาตอีก ควรให้ส่วนที่ประณีตนั้นๆ จำเดิมแต่อาสนะแห่งพระเถระไป (ตัวเอง) บริโภคส่วนที่เหลือ.
Nếu không còn dư, khi đi khất thực tiếp, nên dâng phần tốt nhất từ vị trí của các trưởng lão trở đi. Phần còn lại, người hành giả tự sử dụng.

เพราะมีพระบาลีว่า สีลวนฺเตหิ ดังนี้ ถึงจะไม่ให้แก่ภิกษุผู้ทุศีลก็ควร.
Bởi vì trong kinh văn có đoạn nói rằng: “Sīlavantehi” (với những người có giới hạnh), nên không cần phải dâng cho các Tỳ-khưu không giữ giới.

ก็สาราณียธรรมนี้บำเพ็ญได้ง่ายในบริษัทที่ศึกษาดีแล้ว เพราะในหมู่บริษัทที่ศึกษาดีแล้ว ภิกษุใดได้ (อาหาร) มาจากที่อื่น ภิกษุนั้นจะไม่ยอมรับ ถึงแม้จะไม่ได้มาจากที่อื่น ก็จะรับแต่พอประมาณเท่านั้น ไม่รับจนเหลือเฟือ.
Các pháp Sārāṇīya dễ dàng thực hành trong cộng đồng đã được giáo dục tốt, vì trong cộng đồng đó, bất kỳ Tỳ-khưu nào nhận được thức ăn từ nơi khác sẽ không chấp nhận. Ngay cả khi không có thức ăn từ nơi khác, họ cũng chỉ nhận vừa đủ, không nhận quá mức cần thiết.

ก็สาราณียธรรมนี้ เมื่อภิกษุจะให้ของที่ตนไปบิณฑบาตได้มาบ่อยๆ อย่างนี้.
Các pháp Sārāṇīya được thực hành khi một Tỳ-khưu thường xuyên chia sẻ những vật phẩm mình khất thực được.

จะบำเพ็ญให้บริบูรณ์ได้ ต้องใช้เวลา ๑๒ ปี ต่ำกว่านั้นบริบูรณ์ไม่ได้.
Để thực hành đầy đủ, cần thời gian 12 năm. Dưới thời gian đó, không thể hoàn thiện.

เพราะถ้าเธอบำเพ็ญสาราณียธรรมในปีที่ ๑๒ วางบาตรที่เต็มด้วยอาหารไว้บนอาสนศาลา แล้วไปอาบน้ำ และพระสังฆเถระ มาถามว่า นี่บาตรของใคร?
Nếu trong năm thứ 12, vị ấy đặt bát đầy thức ăn trong giảng đường, rồi đi tắm, và một vị trưởng lão đến hỏi: “Bát này của ai?”

เมื่อเขาตอบว่า บาตรของผู้บำเพ็ญสาราณียธรรม ก็จะกล่าวว่า จงนำเอาบาตรนั้นมา แล้วเลือกฉันบิณฑบาตนั้นจนหมดทุกอย่าง ตั้งบาตรเปล่าไว้.
Khi vị ấy trả lời: “Đây là bát của người thực hành Sārāṇīya,” vị trưởng lão sẽ bảo: “Hãy mang bát này lại,” rồi dùng hết thức ăn trong bát và để bát trống.

ครั้นภิกษุนั้นมาเห็นบาตรเปล่า ก็จะเกิดโทมนัสว่า ภิกษุทั้งหลายฉันเสียหมด ไม่เหลือไว้ให้เราเลย.
Khi Tỳ-khưu ấy trở lại và thấy bát trống rỗng, sẽ buồn bã nghĩ: “Các Tỳ-khưu đã ăn hết, không để lại gì cho ta.”

สาราณียธรรมจะแตก ต้องบำเพ็ญใหม่อีก ๑๒ ปี คล้ายกับติตถิยปริวาส.
Các pháp Sārāṇīya sẽ bị phá vỡ, và vị ấy phải thực hành lại trong 12 năm, giống như việc tái thực hành tịnh giới.

ภิกษุนั้น เมื่อสาราณียธรรมด่างพร้อยคราวเดียว ต้องบำเพ็ญใหม่อีก.
Nếu các pháp Sārāṇīya bị vi phạm một lần, vị ấy phải bắt đầu lại từ đầu.

ส่วนภิกษุใดเกิดโสมนัสว่า เป็นลาภของเราหนอ เราได้ดีแล้วหนอที่เพื่อนสพรหมจารี ไม่สอบถามถึงอาหารที่อยู่ในบาตรของเราแล้วฉัน ดังนี้.
Ngược lại, nếu một Tỳ-khưu nghĩ vui vẻ: “Thật là phước báu của ta! Thật may mắn khi đồng tu của ta không hỏi han về thức ăn trong bát mà ăn,” thì…

สาราณียธรรมของภิกษุนั้น ชื่อว่าสมบูรณ์แล้ว.
Các pháp Sārāṇīya của vị ấy được xem là đã hoàn thiện.

ก็ภิกษุผู้มีสาราณียธรรมบริบูรณ์อย่างนี้ ย่อมไม่มีความริษยา ไม่มีความตระหนี่.
Một Tỳ-khưu có các pháp Sārāṇīya hoàn thiện sẽ không có ganh ghét, không có keo kiệt.

ย่อมเป็นที่รักของมนุษย์ทั้งหลาย เป็นที่รักของอมนุษย์ทั้งหลาย.
Vị ấy sẽ được yêu mến bởi cả loài người và chư thiên.

หาปัจจัยได้ง่าย แม้ของที่เขาถวายแก่เธอผู้มีสาราณียธรรมบริบูรณ์ ย่อมไม่สิ้นไป.
Vị ấy dễ dàng nhận được vật phẩm cần thiết, và những gì được cúng dường sẽ không bao giờ cạn kiệt.

เธอย่อมได้สิ่งของมีค่า ในฐานะที่เธอจำแนกแจกสิ่งของ.
Vị ấy sẽ nhận được những vật phẩm quý giá nhờ vào việc phân phát chúng.

เมื่อประสบภัยหรือความหิวโหย เทวดาทั้งหลายย่อมช่วยเหลือ.
Khi gặp nguy hiểm hoặc đói kém, chư thiên sẽ trợ giúp.

ในข้อนั้น มีเรื่องดังต่อไปนี้เป็นตัวอย่าง.
Trong trường hợp này, có một câu chuyện sau làm ví dụ.

เรื่องพระติสสเถระ
Câu chuyện về Tỳ-khưu Tissa.

เล่ากันมาว่า พระติสสเถระ ชาวเลณคิรีวิหาร อยู่อาศัยบ้านชื่อว่ามหาขีระ.
Người ta kể rằng, Tỳ-khưu Tissa cư ngụ tại ngôi chùa ở vùng núi Lenagiri và sống tại ngôi làng có tên Mahākīra.

พระมหาเถระ ๕๐ รูปเดินทางไปไหว้นาคทีปเจดีย์ เที่ยวบิณฑบาตในขีรคาม ไม่ได้อะไรเลย จึงพากันออกไป.
Năm mươi vị đại trưởng lão đi đến lễ bái tại tháp Nāgadīpa, sau đó đi khất thực ở làng Kīrakāma nhưng không nhận được gì, nên họ cùng rời đi.

พระติสสเถระเข้าไปเห็นพระเถระเหล่านั้น จึงถามว่า ท่านขอรับ ท่านได้ (อาหาร) แล้วหรือ?
Tỳ-khưu Tissa nhìn thấy các vị trưởng lão ấy và hỏi: “Thưa ngài, ngài đã nhận được thức ăn chưa?”

พระเถระเหล่านั้นตอบว่า คุณ พวกเราไปมาแล้ว.
Các trưởng lão trả lời: “Thưa ngài, chúng tôi đã đi khất thực rồi.”

ท่านรู้ว่า พระเถระเหล่านั้นไม่ได้อาหาร จึงกล่าวว่า ท่านขอรับ ขอพวกท่านจงรออยู่ในที่นี้แหละจนกว่าผมจะกลับมา.
Khi biết rằng các trưởng lão không có thức ăn, Tỳ-khưu Tissa nói: “Thưa ngài, xin hãy chờ ở đây cho đến khi tôi quay lại.”

พระเถระเหล่านั้นกล่าวว่า คุณ! พวกเรามีถึง ๕๐ รูปยังไม่ได้แม้แต่เพียงน้ำล้างบาตร.
Các trưởng lão nói: “Ngài ơi! Chúng tôi có đến 50 người mà thậm chí chưa nhận được cả nước rửa bát.”

ท่านพระติสสเถระกล่าวว่า ท่านขอรับ ขึ้นชื่อว่าภิกษุผู้เป็นเจ้าของถิ่น ย่อมเป็นผู้สามารถ ถึงแม้จะไม่ได้ภิกษา ก็ย่อมรู้ช่องทางภิกษาจาร.
Tỳ-khưu Tissa trả lời: “Thưa ngài, một Tỳ-khưu bản địa thường có khả năng xoay xở, ngay cả khi không nhận được thức ăn, cũng biết cách tìm kiếm thực phẩm.”

พระเถระทั้งหลายคอยอยู่แล้ว พระติสสเถระเข้าไปสู่บ้านแล้ว มหาอุบาสิกาจัดขีรภัตร (ไว้คอยท่า) ในหมู่บ้านใกล้ๆ นั่นเอง.
Các trưởng lão chờ đợi, còn Tỳ-khưu Tissa đi vào làng. Một nữ cư sĩ đã chuẩn bị sẵn thức ăn (kīrabhattā) tại ngôi làng gần đó.

ยืนมองดูพระเถระอยู่แล้ว พอพระเถระมาถึงประตูเท่านั้น ก็ถวายอาหารจนเต็มบาตร.
Nữ cư sĩ đang đứng chờ và ngay khi Tỳ-khưu Tissa đến cửa, bà đã dâng đầy thức ăn vào bát.

ท่านถือเอาบาตรนั้น ตรงไปยังสำนักของพระเถระทั้งหลาย แล้วกล่าวกับพระสังฆเถระว่า นิมนต์รับเถิดขอรับ.
Ngài cầm bát thức ăn và trở lại nơi các trưởng lão đang chờ, rồi nói với vị trưởng lão: “Xin mời ngài dùng bát thức ăn này.”

พระเถระคิดว่า พวกเราจำนวนเท่านี้ยังไม่ได้อะไรเลย ภิกษุรูปนี้ถือเอาบาตรไป กลับมาเร็วแท้ นี้อะไรกันหนอ.
Vị trưởng lão nghĩ: “Chúng tôi đông người như vậy mà không nhận được gì, sao vị Tỳ-khưu này lại có thể nhanh chóng mang đầy bát thức ăn về? Điều này là gì đây?”

ดังนี้แล้ว มองหน้าพระเถระที่เหลือทั้งหลาย.
Rồi ngài nhìn về phía các trưởng lão khác.

พระติสสเถระรู้โดยอาการที่มองหน้านั่นแหละ กล่าวว่า ท่านขอรับ บิณฑบาต ผมได้มาโดยชอบธรรม ขอท่านทั้งหลายอย่ารังเกียจเลย นิมนต์รับเถิด.
Tỳ-khưu Tissa nhận thấy ánh mắt ấy, liền nói: “Thưa ngài, bát thức ăn này tôi đã khất thực một cách chân chính. Xin đừng ngại, xin hãy dùng.”

แล้วถวายบิณฑบาตแก่พระเถระทุกรูป พอแก่ความต้องการ ส่วนตนเองก็ฉันจนอิ่ม.
Sau đó, ngài dâng thức ăn cho tất cả các trưởng lão đến khi họ no đủ, và bản thân cũng ăn đến khi no.

ครั้นในเวลาเสร็จภัตกิจ พระเถระทั้งหลายถามท่านว่า คุณ! คุณบรรลุโลกุตรธรรมเมื่อไร?
Sau khi hoàn tất bữa ăn, các trưởng lão hỏi: “Ngài đã chứng đắc Pháp siêu thế (lokuttara-dhamma) vào lúc nào?”

ท่านตอบว่า ท่านขอรับ ผมยังไม่มีโลกุตรธรรม.
Ngài trả lời: “Thưa các ngài, tôi vẫn chưa đạt được Pháp siêu thế.”

พระเถระทั้งหลายถามว่า อาวุโส คุณได้ฌานหรือ?
Các trưởng lão hỏi tiếp: “Thưa ngài, ngài đã đạt được các bậc thiền (jhāna) chưa?”

ท่านตอบว่า ท่านขอรับ ถึงฌานผมก็ยังไม่ได้.
Ngài trả lời: “Thưa các ngài, tôi cũng chưa đạt được các bậc thiền.”

พระเถระทั้งหลายถามว่า หรือคุณมีปาฏิหาริย์?
Các trưởng lão hỏi: “Vậy ngài có thần thông (pāṭihāriya) chăng?”

ท่านตอบว่า ผมบำเพ็ญสาราณียธรรมขอรับ ตั้งแต่เวลาที่ผมบำเพ็ญสาราณียธรรมบริบูรณ์แล้ว แม้หากจะมีภิกษุตั้ง ๑๐๐,๐๐๐ รูป อาหารที่อยู่ในบาตรก็ไม่หมดสิ้น.
Ngài trả lời: “Tôi đã thực hành các pháp Sārāṇīya. Từ khi tôi hoàn thành thực hành này, ngay cả khi có đến 100.000 Tỳ-khưu, thức ăn trong bát của tôi cũng không bao giờ cạn.”

พระเถระเหล่านั้น กล่าวว่า สาธุ สาธุ ท่านสัตบุรุษ ข้อนี้สมควรแก่ท่านแล้ว ดังนี้.
Các trưởng lão nói: “Lành thay, lành thay! Hỡi bậc chân nhân, điều này thật phù hợp với ngài.”

เท่าที่เล่ามานี้เป็นตัวอย่างในข้อว่า อาหารที่อยู่ในบาตรไม่หมดสิ้นไปก่อน.
Những gì được kể trên là minh chứng cho việc thức ăn trong bát không bao giờ cạn.

ก็พระติสสเถระองค์เดียวกันนี้แหละไปสู่ที่ถวายทาน เพื่อมหาบูชาในเจติยบรรพต ชื่อว่าคิริกัณฑะ แล้วถามว่า ในการให้ทานนี้มีอะไรเป็นของประเสริฐที่สุด.
Tỳ-khưu Tissa này đã đến lễ hội đại cúng dường tại ngọn núi thiêng Jetiyapabbata, tên là Kīrikanda, và hỏi rằng: “Trong buổi cúng dường này, vật phẩm nào là quý giá nhất?”

คนทั้งหลายตอบว่า มีผ้าสาฎก ๒ ผืนขอรับ.
Mọi người trả lời: “Thưa ngài, có hai tấm vải sāṭaka là quý giá nhất.”

พระเถระกล่าวว่า ผ้าสาฎกคู่นี้จักถึงแก่เรา.
Ngài nói: “Hai tấm vải sāṭaka này sẽ thuộc về tôi.”

อำมาตย์ได้ยินคำนั้นแล้วไปกราบทูลพระราชาว่าภิกษุหนุ่มรูปหนึ่งกล่าวอย่างนี้.
Một vị quan nghe được điều này và báo lại với nhà vua rằng một Tỳ-khưu trẻ đã nói như vậy.

พระราชาตรัสว่า ภิกษุหนุ่มมีความคิดอย่างนี้ (แต่) ผ้าสาฎกเนื้อละเอียดเหมาะแก่พระมหาเถระทั้งหลาย.
Nhà vua phán: “Tỳ-khưu trẻ có ý nghĩ như vậy, nhưng hai tấm vải sāṭaka mịn màng này phù hợp để dâng lên các đại trưởng lão.”

แล้วทรงวางคู่ผ้าสาฎกด้วยทรงดำริว่า เราจักถวายแก่พระมหาเถระทั้งหลาย.
Nhà vua đặt hai tấm vải sāṭaka sang một bên với ý định sẽ dâng lên các đại trưởng lão.

เมื่อท้าวเธอถวาย (ผ้า) ในภิกษุสงฆ์ผู้ยืนอยู่ตามลำดับ ผ้าสาฎกที่วางไว้บนก็ไม่ติดพระหัตถ์ ผ้าผืนอื่นกลับติดพระหัตถ์.
Khi nhà vua lần lượt dâng vải cho các Tỳ-khưu đang đứng xếp hàng, hai tấm vải sāṭaka lại không bám vào tay ngài, mà thay vào đó là những tấm vải khác.

แต่ในเวลาถวายแก่ภิกษุหนุ่ม ผ้าสาฎกทั้งสองผืนนั้น กลับติดพระหัตถ์.
Nhưng khi dâng cho Tỳ-khưu trẻ, hai tấm vải sāṭaka lại bám vào tay nhà vua.

ท้าวเธอทรงวางไว้บนมือของภิกษุหนุ่มแล้ว ทรงมองดูหน้าอำมาตย์.
Nhà vua đặt hai tấm vải vào tay Tỳ-khưu trẻ và nhìn về phía viên quan.

นิมนต์ให้ภิกษุหนุ่มนั่ง ถวายทาน ทรงละภิกษุสงฆ์แล้ว ประทับในสำนักของภิกษุหนุ่ม.
Ngài mời Tỳ-khưu trẻ ngồi xuống, dâng lễ cúng và sau đó rời khỏi Tăng đoàn, ở lại chỗ của Tỳ-khưu trẻ.

ตรัสว่า ข้าแต่ท่านผู้เจริญ พระคุณท่านบรรลุธรรมนี้ เมื่อไร?
Nhà vua hỏi: “Thưa bậc tôn giả, ngài đã chứng đắc Pháp này từ khi nào?”

เธอไม่ทูลคุณธรรมที่ไม่มีอยู่โดยอ้อมค้อม แต่กลับทูลว่า ขอถวายพระพร มหาบพิตร โลกุตรธรรมของอาตมภาพไม่มี.
Tỳ-khưu trẻ không nói những phẩm chất mình không có, mà trả lời thẳng thắn: “Thưa Đại vương, con không có bất kỳ pháp siêu thế nào.”

พระราชาตรัสถามว่า ข้าแต่ท่านผู้เจริญ เมื่อก่อนพระคุณเจ้าก็ได้พูดไว้แล้วมิใช่หรือ?
Nhà vua hỏi: “Thưa bậc tôn giả, trước đây ngài đã nói điều này, phải không?”

ภิกษุหนุ่มตอบว่า ขอถวายพระพร มหาบพิตร ถูกแล้ว อาตมภาพบำเพ็ญสาราณียธรรม เริ่มแต่เวลาที่อาตมภาพบำเพ็ญสาราณียธรรมบริบูรณ์แล้ว ในที่ที่เขาแจกสิ่งของ (ทุกแห่ง) ของมีค่ามากจะตก (แก่อาตมภาพ).
Tỳ-khưu trẻ trả lời: “Thưa Đại vương, đúng vậy. Con đã thực hành các pháp Sārāṇīya. Từ khi hoàn thành thực hành này, bất kỳ nơi nào có sự phân phát vật phẩm, những vật phẩm giá trị nhất sẽ thuộc về con.”

พระราชาตรัสว่า สาธุ สาธุ พระคุณเจ้า ผ้าสาฎกคู่นี้สมควรแก่พระคุณเจ้าแล้ว เสด็จหลีกไป.
Nhà vua nói: “Lành thay, lành thay, thưa ngài! Hai tấm vải sāṭaka này thật phù hợp với ngài.” Sau đó, nhà vua rời đi.

เรื่องที่เล่ามานี้ เป็นตัวอย่างในข้อว่า ในที่ที่เขาแจกของกัน ของมีค่าจะตก (แก่ผู้บำเพ็ญสาราณียธรรม).
Câu chuyện này là một ví dụ cho điều rằng: Ở những nơi phân phát vật phẩm, các vật phẩm giá trị nhất sẽ thuộc về người thực hành các pháp Sārāṇīya.

ก็ชาวบ้านผู้อาศัยอยู่ในภารตคาม ไม่ทันได้บอกกล่าวพระนาคเถรี รีบหนีไป ในเพราะพรหมติสสภัย.
Người dân ở làng Bhārata đã không kịp báo cho trưởng lão ni Nāga mà vội vã bỏ chạy vì nạn Pramathissa.

ในวันรุ่งขึ้น พระเถรีพูดกับภิกษุณีสาวชื่อว่าจัณฑาลติสสะว่า บ้านเงียบเหลือเกิน เธอทั้งหลายจงไปตรวจสอบดูก่อน.
Sáng hôm sau, trưởng lão ni nói với một ni trẻ tên Candālatissa rằng: “Ngôi làng thật yên lặng. Các con hãy đi kiểm tra xem có chuyện gì xảy ra.”

ภิกษุณีสาวเหล่านั้นไปแล้ว รู้ข้อที่คนทั้งปวงหนีไป จึงกลับมาบอกแก่พระเถรี.
Các ni trẻ đi kiểm tra và phát hiện rằng mọi người đã bỏ chạy. Họ trở về báo lại cho trưởng lão ni.

พระเถรีฟังแล้วจึงพูดว่า พวกเธอย่าคิดถึงข้อที่คนเหล่านั้นหนีไปเลย จงทำความเพียรในอุเทศ การสอบถามและโยนิโสมนิการของตนไว้เถิด.
Nghe vậy, trưởng lão ni nói: “Các con đừng lo lắng về việc người dân đã bỏ đi. Hãy tiếp tục tinh tấn trong việc học hỏi, thực hành và quán chiếu đúng đắn.”

ดังนี้แล้ว ในเวลาภิกขาจาร ห่มจีวรแล้ว (รวม) ๑๒ รูปทั้งตัวเอง ได้พากันไปยืนอยู่ที่โคนต้นไทร ใกล้ประตูบ้าน.
Sau đó, vào giờ khất thực, bà cùng với 12 Tỳ-khưu ni, trong đó có mình, mặc y và đứng dưới gốc cây si gần cổng làng.

เทวดาผู้สิงอยู่ที่ต้นไม้ได้ถวายบิณฑบาตแก่ภิกษุทั้ง ๑๒ รูป แล้วกล่าวว่า ข้าแต่คุณแม่เจ้า ขอท่านอย่าไปที่อื่นเลย นิมนต์มาที่นี้แห่งเดียวเป็นประจำ.
Một vị thần trú tại cây si đã dâng thức ăn cho tất cả 12 Tỳ-khưu ni và nói: “Thưa tôn giả, xin ngài đừng đi nơi khác nữa. Hãy thường xuyên đến nơi này.”

ก็ (ในที่นั้น) มีพระเถระองค์หนึ่งนามว่านาคะ เป็นน้องชายของพระเถรี.
Ở nơi đó, có một vị trưởng lão tên Nāga, em trai của trưởng lão ni.

ท่านคิดว่าภัยใหญ่ (เหลือเกิน) เราไม่สามารถจะดำรงชีวิตอยู่ได้ เราจักไปฝั่งโน้น.
Ngài suy nghĩ: “Mối nguy hiểm này thật lớn, ta không thể tiếp tục sống ở đây. Ta sẽ sang phía bên kia.”

รวมเป็น ๑๒ รูปทั้งตัวท่านเองออกจากที่อยู่ของตนๆ มาสู่ภารตคามด้วยคิดว่า เราจักไปเยี่ยมพระเถรี.
Cùng với 11 vị khác, tổng cộng 12 người, ngài rời nơi ở của mình đến làng Bhārata với ý định thăm trưởng lão ni.

พระเถรีได้ทราบว่า พระเถระมาจึงไปยังสำนักของพระเถระเหล่านั้น แล้วถามว่า มีเรื่องอะไรหรือ พระคุณเจ้า?
Khi biết các trưởng lão đến, trưởng lão ni đã đến gặp họ và hỏi: “Thưa các ngài, có chuyện gì xảy ra vậy?”

พระเถระแจ้งพฤติการณ์นั้นแล้ว.
Các trưởng lão đã kể lại tình hình.

พระเถรีพูดว่า วันนี้ นิมนต์พวกท่านอยู่ในวิหารนี้ (สัก) วันหนึ่ง รุ่งขึ้นค่อยไป.
Trưởng lão ni nói: “Hôm nay, xin mời các ngài ở lại tịnh xá này một ngày. Ngày mai hãy tiếp tục hành trình.”

พระเถระทั้งหลายได้ไปยังวิหารแล้ว.
Các trưởng lão đã đến tịnh xá.

ในวันรุ่งขึ้น พระเถรีไปบิณฑบาตที่ควงไม้ แล้วเข้าไปหาพระเถระ พูดว่า นิมนต์พวกท่านฉันบิณฑบาตนี้.
Sáng hôm sau, trưởng lão ni đi khất thực gần khu vực cây cối, rồi mang thức ăn đến cho các trưởng lão và nói: “Xin mời các ngài thọ thực phần thức ăn này.”

พระเถระไม่พูดว่าจักสมควร ดังนี้แล้วยืนนิ่งเสีย.
Các trưởng lão không trả lời liệu điều này có phù hợp hay không, mà đứng im lặng.

พระเถรีกล่าวว่า พระคุณท่าน บิณฑบาตนี้เป็นของชอบธรรม ขอท่านทั้งหลายอย่ารังเกียจเลย จงฉันเถิด ดังนี้.
Trưởng lão ni nói: “Thưa các ngài, phần thức ăn này là hợp pháp. Xin các ngài đừng ngại, hãy thọ thực.”

พระเถระกล่าวว่า จะเหมาะหรือพระเถรี?
Các trưởng lão hỏi: “Điều này có phù hợp không, thưa trưởng lão ni?”

พระเถรีนั้นหยิบบาตร (ของพระเถระ) แล้วโยนไปในอากาศ. บาตรได้ลอยอยู่บนอากาศ.
Trưởng lão ni cầm bát của trưởng lão và ném lên không trung. Cái bát lơ lửng trong không khí.

พระเถระกล่าวว่า ดูก่อนพระเถรี ภัตที่ลอยอยู่บนอากาศสูง ๗ ชั่วลำตาลเป็นภัตตาหารสำหรับภิกษุณีเท่านั้น.
Các trưởng lão nói: “Thưa trưởng lão ni, thức ăn lơ lửng trên không trung cao bảy cây thốt nốt chỉ dành cho các ni cô.”

ดังนี้แล้ว กล่าวต่อไปว่า ขึ้นชื่อว่าภัย จะไม่มีอยู่ทุกเมื่อเชื่อวัน.
Sau đó, các trưởng lão tiếp tục: “Nguy hiểm không phải lúc nào cũng hiện hữu.”

เมื่อภัยสงบแล้ว เราผู้กล่าวอริยวงศ์ ถูกจิตกล่าวเตือนอยู่เนืองๆ ว่า ท่านผู้ถือบิณฑบาตเป็นวัตรผู้เจริญ ท่านทั้งหลายจะฉันภัตตาหารของภิกษุณี แล้วปล่อยให้เวลาว่างไปหรือดังนี้.
“Khi nguy hiểm qua đi, tâm trí sẽ nhắc nhở chúng ta, những người thực hành hạnh khất thực rằng: ‘Làm sao các ngài có thể thọ thực thức ăn của ni cô và để thời gian trôi qua một cách lãng phí?'”

จักไม่สามารถจะอยู่ต่อไปได้ ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย ขอท่านทั้งหลายจงเป็นผู้ไม่ประมาทเถิด.
“Chúng ta không thể tiếp tục sống như vậy. Thưa các Tỳ-khưu, xin hãy luôn tinh tấn và không phóng dật.”

ฝ่ายรุกขเทวดาก็คิดว่า ถ้าพระเถระจักฉันบิณฑบาตจากมือของพระเถรีแล้วไซร้ เราจักไม่ให้ท่านกลับ ถ้าไม่ฉัน เราจักให้ท่านกลับ.
Vị thần cây nghĩ: “Nếu các trưởng lão thọ thực từ tay của trưởng lão ni, ta sẽ không để họ quay về. Nếu họ không thọ thực, ta sẽ để họ quay về.”

ยืนดูการเดินไปของพระเถระ แล้วลงจากต้นไม้ กล่าวว่า ข้าแต่ท่านผู้เจริญ พระคุณเจ้าจงให้บาตรแก่ข้าพเจ้า.
Thần cây quan sát bước đi của các trưởng lão, sau đó từ trên cây bước xuống và nói: “Thưa tôn giả, xin ngài trao bát cho tôi.”

แล้วรับบาตร นำพระเถระไปยังควงไม้นั่นแหละ ปูอาสนะ ถวายบิณฑบาต.
Thần nhận lấy bát, dẫn các trưởng lão đến khu vực cây, trải tọa cụ và dâng thức ăn.

ให้พระเถระที่เสร็จภัตกิจแล้ว กระทำปฏิญญา (รับคำ) บำรุงทั้งภิกษุณี ๑๒ รูป ทั้งภิกษุ ๑๒ รูป อยู่เป็นเวลาถึง ๗ ปี.
Sau khi các trưởng lão hoàn tất bữa ăn, thần đã hứa sẽ chăm sóc cả 12 Tỳ-khưu ni và 12 Tỳ-khưu trong vòng 7 năm.

นี้เป็นตัวอย่างในข้อว่า เทวดาทั้งหลายย่อมขวนขวาย.
Đây là một minh chứng cho điều rằng: “Chư thiên luôn sẵn lòng giúp đỡ.”

เพราะในเรื่อง (ที่เป็นตัวอย่าง) นั้น พระเถรีได้บำเพ็ญสาราณียธรรรมมาจนครบบริบูรณ์.
Trong câu chuyện này, trưởng lão ni đã hoàn thành việc thực hành các pháp Sārāṇīya một cách toàn diện.

พึงทราบวินิจฉัยในบทมีอาทิว่า อขณฺฑานิ เป็นต้น ดังต่อไปนี้.
Hãy hiểu rõ ý nghĩa của các đoạn kinh văn, bắt đầu với cụm từ “Akhaṇḍāni” như sau:

บรรดากองอาบัติทั้ง ๗ กอง ผู้ใดมีสิกขาบทขาดในตอนปลายหรือตอนต้น ศีลของผู้นั้นชื่อว่าขาด เหมือนผ้าขาดที่ชาย.
Trong bảy nhóm giới luật, nếu ai đó vi phạm ở phần đầu hoặc phần cuối của một giới, giới luật của họ được gọi là “bị đứt,” giống như một mảnh vải bị rách ở mép.

ส่วนผู้ใดมีสิกขาบทขาดที่ท่ามกลาง ศีลของผู้นั้นชื่อว่าทะลุ เหมือนผ้าที่ทะลุ (ตรงกลาง).
Nếu một người vi phạm ở giữa, giới luật của họ được gọi là “bị thủng,” giống như một mảnh vải bị thủng ở giữa.

ผู้ใดมีสิกขาบท ๒-๓ สิกขาบทขาดตามลำดับ ศีลของผู้นั้นชื่อว่าด่าง เหมือนแม่โคมีสีดำสีแดงเป็นต้นสีใดสีหนึ่ง โดยมีสีตัดกันปรากฏที่หลังหรือที่ท้อง.
Nếu một người vi phạm hai hoặc ba giới một cách liên tiếp, giới luật của họ được gọi là “bị loang lổ,” giống như một con bò có các mảng màu đỏ và đen xen kẽ trên lưng hoặc bụng.

ผู้ใดมีสิกขาบทขาดในระหว่างๆ ศีลของผู้นั้นชื่อว่าพร้อย เหมือนแม่โคที่มีจุดแพรวพราว สลับกันในระหว่างๆ.
Nếu một người vi phạm giới ở những chỗ rải rác, giới luật của họ được gọi là “bị lốm đốm,” giống như một con bò có những đốm màu xen kẽ.

ส่วนผู้ใดมีสิกขาบททั้งหมดไม่ขาดเลย ผู้นั้นชื่อว่ามีศีลไม่ขาด ไม่ทะลุ ไม่ด่าง ไม่พร้อย.
Người giữ trọn vẹn tất cả giới luật, không vi phạm, được gọi là người có giới không đứt, không thủng, không loang lổ, không lốm đốm.

แต่ว่าสิกขาบทเหล่านี้นั้น ท่านเรียกว่า ชื่อว่าภุชิสฺส (เป็นไท) เพราะกระทำความเป็นไท โดยพ้นจากความเป็นทาสของตัณหา.
Các giới luật này được gọi là “Bhujissa” (sự tự do), vì chúng giải phóng khỏi sự nô lệ của tham ái.

ชื่อว่าวิญญูปสัตถะ (อันวิญญูชนสรรเสริญ) เพราะวิญญูชนทั้งหลายมีพระพุทธเจ้าเป็นต้นทรงสรรเสริญ.
Chúng được gọi là “Viññūpasattha” (được bậc trí tuệ tán thán), vì các bậc trí tuệ như Đức Phật đã tán thán chúng.

ชื่อว่า อปรามัฏฐะ เพราะตัณหาและทิฏฐิไม่ลูบคลำ (ไม่เกาะเกี่ยว) และเพราะใครๆ ไม่สามารถปรามาสได้ว่า ท่านเคยต้องอาบัติชื่อนี้มา.
Được gọi là “Aparamatta” vì không bị tham ái và tà kiến chạm vào (không bám víu), và không ai có thể chê trách rằng ngài đã từng phạm giới này.

และท่านเรียกว่า ชื่อว่า สมาธิสังวัตตนิกา เพราะยังอุปจารสมาธิหรืออัปปนาสมาธิให้เป็นไป.
Được gọi là “Samādhisaṅvattanikā” vì dẫn đến sự phát triển của cận định hoặc an chỉ định.

บทว่า สีลสามญฺญคโต วิหรติ ความว่า เป็นผู้มีปกติเข้าถึงความเป็นผู้เสมอกันด้วยภิกษุทั้งหลายผู้อยู่ในทิศาภาคเหล่านั้นๆ อยู่.
Cụm từ “Sīlasāmaññagato viharati” có nghĩa là người thường đạt được sự đồng nhất về giới với các Tỳ-khưu ở các phương khác nhau.

เพราะว่าศีลของพระโสดาบันเป็นต้นย่อมเป็นศีลเสมอกันด้วยศีลของพระอริยะเหล่าอื่นมีพระโสดาบันเป็นต้น ผู้อยู่ในะหว่างแห่งมหาสมุทรบ้าง ในเทวโลกนั่นแหละบ้าง.
Bởi vì giới của bậc Tu-đà-hoàn và các bậc Thánh khác, dù ở giữa đại dương hay trên cõi trời, đều đồng nhất.

เพราะฉะนั้นในมรรคศีล (ศีลในองค์มรรค) จึงไม่มีความแตกต่างกัน.
Do đó, giới thuộc đạo lộ (maggasīla) không có sự khác biệt.

พระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสคำว่า สีลสามญฺญคโต วิหรติ นี้ไว้โดยทรงหมายเอาศีลของพระโสดาบันเป็นต้นนั้น.
Đức Thế Tôn thuyết câu “Sīlasāmaññagato viharati” để chỉ giới của các bậc Tu-đà-hoàn và các bậc Thánh khác.

บทว่า ยายํ ทิฏฺฐิ ได้แก่ สัมมาทิฏฐิที่สัมปยุตด้วยมรรค.
Cụm từ “Yāyaṃ diṭṭhi” nghĩa là chánh kiến kết hợp với đạo lộ.

บทว่า อริยา คือ ไม่มีโทษ.
Cụm từ “Ariyā” có nghĩa là không lỗi lầm.

ทิฏฐิ ชื่อว่า นิยยนิกา เพราะเป็นเหตุนำสัตว์ออกไปจากภพ.
Chánh kiến được gọi là “Niyyānika” vì nó dẫn chúng sinh ra khỏi sự tái sinh trong các cõi.

บทว่า ตกฺกรสฺส ความว่า ได้แก่ ผู้ที่ทำอย่างนั้น.
Cụm từ “Takkarassa” nghĩa là người thực hành như vậy.

บทว่า ทุกฺขกฺขยาย ความว่า เพื่อสิ้นสรรพทุกข์.
Cụm từ “Dukkhakkhaya” nghĩa là để chấm dứt mọi khổ đau.

บทว่า ทิฏฺฐิสามญฺญคโต ความว่า เป็นผู้เข้าถึงความเป็นผู้มีทิฏฐิเสมอกันอยู่.
Cụm từ “Diṭṭhisāmaññagato” nghĩa là người đạt đến sự đồng nhất trong chánh kiến.

จบอรรถกถาปฐมสาราณียสูตรที่ ๑
Kết thúc chú giải Sārāṇīya Sutta số 1.

อรรถกถาทุติยสาราณียสูตรที่ ๒
Chú giải “Sārāṇīya Sutta” thứ 2.

พึงทราบวินิจฉัยในสาราณียสูตรที่ ๒ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ ý nghĩa của “Sārāṇīya Sutta” thứ 2 như sau:

สาราณียธรรม ชื่อว่า ปิยกรณา เพราะกระทำผู้ที่บำเพ็ญธรรมเหล่านั้นให้บริบูรณ์ ให้เป็นที่รักของเพื่อสพรหมจารีทั้งหลาย.
Các pháp “Sārāṇīya” được gọi là “Piyakarana” vì làm cho người thực hành những pháp này trở nên viên mãn và được các đồng phạm hạnh yêu mến.

ชื่อว่า ครุกรณา เพราะกระทำให้เป็นผู้น่าเคารพ.
Được gọi là “Garukarana” vì làm cho người thực hành trở nên đáng kính trọng.

บทว่า สงฺคหาย ได้แก่ เพื่อประโยชน์แก่การสงเคราะห์.
Cụm từ “Saṅgahāya” có nghĩa là vì lợi ích của sự hòa hợp và đoàn kết.

บทว่า อวิวาทาย ได้แก่ เพื่อประโยชน์แก่การไม่ทำการวิวาทกัน.
Cụm từ “Avivādāya” có nghĩa là vì lợi ích của sự không tranh cãi, không xung đột.

บทว่า สามคฺคิยา ได้แก่ เพื่อประโยชน์แก่ความสามัคคี.
Cụm từ “Sāmaggiyā” có nghĩa là vì lợi ích của sự hòa hợp.

บทว่า เอกีภาวาย ได้แก่ เพื่อประโยชน์แก่ความเป็นอันเดียวกัน.
Cụm từ “Ekībhāvāya” có nghĩa là vì lợi ích của sự đồng nhất và thống nhất.

บทว่า สํวตฺตนฺติ ได้แก่ ย่อมเป็นไป คือเป็นไปทั่ว.
Cụm từ “Saṃvattanti” có nghĩa là các pháp này vận hành, lan tỏa khắp nơi.

จบอรรถกถาทุติยสาราณียสูตรที่ ๒
Kết thúc chú giải “Sārāṇīya Sutta” thứ 2.

อรรถกถาเมตตาสูตรที่ ๓
Chú giải “Mettā Sutta” thứ 3.

พึงทราบวินิจฉัยในเมตตาสูตรที่ ๓ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ ý nghĩa của “Mettā Sutta” thứ 3 như sau:

บทว่า นิสฺสาราณียา ธาตุโย ได้แก่ ธาตุที่เป็นทางออกไป.
Cụm từ “Nissaraṇiyā Dhātuyo” có nghĩa là những yếu tố dẫn đến sự thoát khỏi.

ในบทว่า เมตฺตา หิ โข เม เจโตวิมุตฺติ นี้ มีอธิบายว่า เมตตานั่นแหละที่เป็นไปในฌานหมวด ๓ หรือหมวด ๔ ชื่อว่าเมตตาเจโตวิมุตติ เพราะหลุดพ้นจากธรรมที่เป็นข้าศึกทั้งหลาย.
Trong cụm từ “Mettā hi kho me cetovimutti,” có giải thích rằng tâm từ vận hành trong các thiền bậc ba hoặc bậc bốn, được gọi là “Mettā Cetovimutti” vì giải thoát khỏi các pháp thù địch.

บทว่า ภาวิตา คือ ให้เจริญแล้ว.
Cụm từ “Bhāvitā” nghĩa là đã được tu tập.

บทว่า พหุลีกตา คือ กระทำแล้วบ่อยๆ.
Cụm từ “Bahulīkatā” nghĩa là đã được thực hành thường xuyên.

บทว่า ยานีกตา คือ ทำให้เป็นเช่นกับยานที่เทียมแล้ว.
Cụm từ “Yānikatā” nghĩa là đã được làm giống như một phương tiện.

บทว่า วตฺถุกตา คือ ทำให้เป็นที่ตั้ง.
Cụm từ “Vatthukatā” nghĩa là đã trở thành nền tảng.

บทว่า อนุฏฺฐิตา คือ ตั้งมั่นแล้ว.
Cụm từ “Anuṭṭhitā” nghĩa là đã được thiết lập vững chắc.

บทว่า ปริจิตา ความว่า ก่อตั้ง คือสั่งสม ได้แก่อบรมแล้วโดยชอบ.
Cụm từ “Paricitā” nghĩa là đã được thiết lập, tích lũy và tu dưỡng một cách đúng đắn.

บทว่า สุสมารทฺธา ได้แก่ ปรารภด้วยดี โดยกระทำให้ช่ำชองคล่องแคล่วเป็นอย่างดี.
Cụm từ “Susamāraddhā” nghĩa là đã được thực hiện tốt, thành thục và khéo léo.

บทว่า ปริยาทาย ติฏฺฐติ ได้แก่ ยึด คือถือไว้ ดำรงอยู่.
Cụm từ “Pariyādāya ṭhati” nghĩa là nắm giữ và duy trì.

บทว่า มา เหวนฺติสฺส วจนีโย ความว่า เพราะเหตุที่ภิกษุนั้นพยากรณ์ข้อพยากรณ์ที่ไม่เป็นจริง ฉะนั้น เธอจึงถูกภิกษุทั้งหลายกล่าวว่า เธออย่าพูดอย่างนี้.
Cụm từ “Mā hevaṃ tassa vacanīyo” nghĩa là bởi vì vị Tỳ-khưu đó đưa ra những lời tiên đoán không đúng sự thật, nên đã bị các Tỳ-khưu khác nhắc nhở rằng: “Đừng nói như vậy.”

บทว่า ยทิทํ เมตฺตาเจโตวิมุตฺติ ได้แก่ เมตตาเจโตวิมุตติ นี้ใด
Cụm từ “Yadidaṃ Mettācetovimutti” có nghĩa là “Mettācetovimutti” này.

คำว่า เมตตาเจโตวิมุตติ นี้เป็นทางออกไปแห่งพยาบาท. อธิบายว่า เป็นการสลัดพยาบาทออกไป.
Cụm từ “Mettācetovimutti” này là con đường thoát khỏi sân hận. Giải thích rằng đó là sự loại bỏ sân hận.

ก็ผู้ใดออกจากฌานหมวด ๓ หมวด ๔ ด้วยเมตตา (ภาวนา) แล้ว พิจารณาสังขารทั้งหลาย บรรลุมรรคที่ ๓ รู้ว่าพยาบาทจะไม่มีอีกดังนี้ ย่อมเห็นพระนิพพานด้วยตติยผล จิตของผู้นั้นเป็นทางออกไปโดยส่วนเดียวแห่งพยาบาท.
Người nào ra khỏi các thiền bậc ba và bậc bốn bằng tâm từ (bhāvanā), sau đó quán chiếu các hành (saṅkhāra), chứng đạt đạo thứ ba và nhận ra rằng sân hận sẽ không còn, người ấy sẽ thấy Niết-bàn với quả thứ ba. Tâm của người ấy là con đường duy nhất thoát khỏi sân hận.

ในทุกๆ บท พึงทราบอธิบาย โดยอุบายนี้.
Trong mỗi câu kinh, nên hiểu và giải thích theo cách này.

บทว่า อนิมิตฺตาเจโตวิมุตฺติ ได้แก่ วิปัสสนาที่มีกำลัง.
Cụm từ “Animittacetovimutti” nghĩa là Vipassanā có sức mạnh.

ส่วนอาจารย์ผู้กล่าวคัมภีร์ทีฆนิกายกล่าวว่า ได้แก่สมาบัติที่สัมปยุตด้วยอรหัตผล.
Theo các bậc thầy chú giải Kinh Trường Bộ, nó được định nghĩa là sự nhập định liên kết với quả vị A-la-hán.

อรหัตผลสมาบัตินั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสว่า หานิมิตมิได้ เพราะไม่มีเครื่องหมาย คือราคะเป็นต้น เครื่องหมายคือรูปเป็นต้น และเครื่องหมายว่าเที่ยงเป็นต้น.
Sự nhập định của quả vị A-la-hán, như Đức Thế Tôn đã dạy, không thể được gọi là “hữu tướng” vì không có dấu hiệu như tham ái, hình tướng, hay sự bền vững.

บทว่า นิมิตฺตานุสารี ได้แก่ มีการตามระลึกถึงนิมิต. มีประเภทดังกล่าวแล้ว เป็นสภาพ.
Cụm từ “Nimittānusārī” nghĩa là sự quán sát và nhớ đến các dấu hiệu, đã được đề cập trước đó.

บทว่า อสฺมิ ได้แก่ อัสมิมานะ.
Cụm từ “Asmi” nghĩa là “Asmi-māna” (tưởng về cái ta).

บทว่า อยมหมสฺมิ ความว่า เราชื่อว่าเป็นสิ่งนี้ (อัตตา) ในขันธ์ ๕. ด้วยคำเพียงเท่านี้แล ชื่อว่าเป็นอันพยากรณ์อรหัตผลแล้ว.
Cụm từ “Ayaṃ ahamasmi” nghĩa là “Ta là cái này” (ngã) trong năm uẩn. Chỉ với lời nói này, quả vị A-la-hán đã được xác định.

บทว่า วิจิกิจฺฉากถํกถาสลฺลํ ได้แก่ ลูกศรคือความสงสัยเคลือบแคลง.
Cụm từ “Vicikicchākathṃkathāsallaṃ” nghĩa là mũi tên của sự nghi ngờ.

บทว่า มา เหวนฺติสฺส วจนีโย ความว่า ถ้าว่าวิจิกิจฉาที่ปฐมมรรคจะพึงฆ่า เกิดขึ้นแก่ท่านไซร้ การพยากรณ์อรหัตผลย่อมผิดพลาด เพราะฉะนั้น ท่านต้องถูกห้ามว่า อย่าพูดเรื่องไม่จริง.
Cụm từ “Mā hevaṃ tassa vacanīyo” nghĩa là nếu sự nghi ngờ lẽ ra bị loại trừ ở đạo lộ đầu tiên nảy sinh trong bạn, thì việc tuyên bố về quả vị A-la-hán sẽ sai lầm. Vì vậy, bạn phải được nhắc nhở không nói điều không đúng sự thật.

บทว่า อสฺมีติ มานสมุคฺฆาโต ได้แก่ อรหัตมรรค.
Cụm từ “Asmīti mānasamugghāto” nghĩa là đoạn tận ngã mạn (Asmi-māna) qua A-la-hán đạo.

อธิบายว่า เมื่อเห็นพระนิพพานด้วยอรหัตมรรคแล้ว อัสมิมานะย่อมไม่มีอีก เพราะฉะนั้น อรหัตมรรค พระผู้มีพระภาคเจ้าจึงตรัสเรียกว่า ถอนขึ้นได้ซึ่งมานะว่าเรามี.
Giải thích: Khi chứng đắc Niết-bàn bằng A-la-hán đạo, ngã mạn (Asmi-māna) sẽ không còn. Vì vậy, Đức Thế Tôn đã gọi A-la-hán đạo là sự đoạn tận hoàn toàn ngã mạn “ta là”.

ในพระสูตรนี้ ตรัสให้ชื่อว่า อภูตพยากรณ์ (พยากรณ์เรื่องไม่จริง) ด้วยประการดังพรรณนามาฉะนี้.
Trong kinh này, điều được tuyên bố là “Abhūta-vyākaraṇa” (lời tuyên bố không đúng sự thật), như đã được giải thích.

จบอรรถกถาเมตตาสูตรที่ ๓
Kết thúc chú giải “Mettā Sutta” thứ 3.

อรรถกถาภัททกสูตรที่ ๔
Chú giải “Bhaddaka Sutta” thứ 4.

พึงทราบวินิจฉัยในภัททกสูตรที่ ๔ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ ý nghĩa của “Bhaddaka Sutta” thứ 4 như sau:

บทว่า น ภทฺทกํ ความว่า ไม่ได้.
Cụm từ “Na Bhaddakaṃ” nghĩa là “không tốt.”

อธิบายว่า ในสองอย่างนั้น ผู้ใดกลัวมากแล้ว ตาย ผู้นั้นชื่อว่าตายไม่ดี. (ส่วน) ผู้ใดถือปฏิสนธิในอบายผู้นั้น (ชื่อว่า) มีกาลกิริยาไม่ดี.
Giải thích: Trong hai trường hợp, ai chết trong nỗi sợ hãi lớn được gọi là “chết không tốt.” Còn ai tái sinh vào cõi khổ được gọi là “kết thúc cuộc đời không tốt.”

ในบทมีอาทิว่า กมฺมาราโม ดังนี้
Trong đoạn văn bắt đầu với “Kammārāmo” như sau:

สิ่งที่มายินดี ชื่อว่าอารามะ. อธิบายว่า ได้แก่ความยินดียิ่ง.
Những thứ mang lại niềm vui được gọi là “Ārāma.” Giải thích: đây là sự hài lòng lớn.

บุคคล ชื่อว่า กมฺมาราโม เพราะมีความยินดีในนวกรรมมีการสร้างวิหารเป็นต้น.
Người được gọi là “Kammārāmo” vì họ hài lòng với các công việc như xây dựng tịnh xá.

ชื่อว่า กมฺมรโต เพราะยินดีในกรรมนั้นๆ นั่นแหละ.
Được gọi là “Kammarato” vì hài lòng với chính những hành động ấy.

ชื่อว่า อนุยุตฺโต เพราะประกอบความที่เป็นผู้มีกรรมเป็นที่มายินดีนั่นแหละบ่อยๆ.
Được gọi là “Anuyutto” vì thường xuyên gắn bó với những công việc mang lại niềm vui.

ในบททั้งปวงก็มีนัยนี้.
Trong tất cả các đoạn, ý nghĩa này đều được áp dụng.

ก็การพูดคุยกัน (เรื่องหญิงเรื่องชาย) ชื่อว่าภัสสะ ในที่นี้.
Việc trò chuyện (về nam nữ) trong trường hợp này được gọi là “Phassa.”

บทว่า นิทฺทา ได้แก่ความหลับ.
Cụm từ “Niddā” nghĩa là giấc ngủ.

บทว่า สงฺคณิกา ได้แก่ เป็นผู้คลุกคลีด้วยหมู่ การคลุกคลีด้วยหมู่นั้น พึงทราบโดยนัยมีอาทิว่า เมื่อคนเดียวก็เพิ่มเป็นสอง เมื่อมีสองคน ก็มีคนที่สาม.
Cụm từ “Saṅgaṇikā” nghĩa là hòa mình vào nhóm. Sự hòa mình này có thể hiểu là: khi một người thì trở thành hai, khi hai người thì có thêm người thứ ba.

บทว่า สํสคฺโค ได้แก่ ความเป็นผู้เกี่ยวข้องกัน อันเป็นไปแล้วด้วยสามารถแห่งการเกี่ยวเนื่องกัน ด้วยการฟัง การเห็น การเจรจา การร่วมกันและการเกี่ยวเนื่องกันทางกาย.
Cụm từ “Saṃsagga” nghĩa là sự liên kết, được tạo thành bởi các yếu tố như lắng nghe, nhìn thấy, nói chuyện, sống chung, và tiếp xúc thân thể.

บทว่า ปปญฺโจ ได้แก่ ธรรมเครื่องเนิ่นช้าคือกิเลส อันเป็นไปแล้วด้วยสามารถแห่งตัณหา ทิฏฐิและมานะ อันดำรงอยู่ด้วยอาการมึนเมา.
Cụm từ “Papañca” nghĩa là các pháp gây chướng ngại, như tham ái, tà kiến và ngã mạn, tồn tại trong trạng thái mê muội.

บทว่า สกฺกายํ ได้แก่ วัฏฏะอันเป็นไปในภูมิ ๓.
Cụm từ “Sakkāya” nghĩa là vòng luân hồi trong ba cõi.

บทว่า สมฺมาทุกฺขสฺส อนฺตกิริยาย ความว่า เพื่อกระทำการตัดขาดแห่งวัฏทุกข์ทั้งสิ้นโดยเหตุ โดยนัย.
Cụm từ “Sammādukkhassa Antakiriyāya” nghĩa là để chấm dứt hoàn toàn khổ đau luân hồi thông qua nhân duyên và đạo lý.

บทว่า มโค ได้แก่ เช่นมฤค.
Cụm từ “Mago” nghĩa là giống như con nai.

บทว่า นิปฺปปญฺจปเท ได้แก่ ในธรรมเครื่องถึงซึ่งพระนิพพาน.
Cụm từ “Nippapañcapade” nghĩa là pháp đưa đến Niết-bàn.

บทว่า อาธารยิ ความว่า ให้บริบูรณ์ ได้แก่ ยังวัตรปฏิบัตินั้นให้ถึงพร้อม.
Cụm từ “Ādhārayi” nghĩa là làm viên mãn, hoàn thiện việc hành trì.

จบอรรถกถาภัททกสูตรที่ ๔
Kết thúc chú giải “Bhaddaka Sutta” thứ 4.

อรรถกถาอนุตัปปิยสูตรที่ ๕
Chú giải “Anutappiya Sutta” thứ 5.

พึงทราบวินิจฉัยในอนุตัปปิยสูตรที่ ๕ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ ý nghĩa của “Anutappiya Sutta” thứ 5 như sau:

บทว่า อนุตปฺปา ความว่า ต้องโศกเศร้าในภายหลัง คือทำความเดือดร้อนให้ในภายหลัง.
Cụm từ “Anutappā” nghĩa là sự hối tiếc sau này, gây ra nỗi đau khổ trong tương lai.

ในพระสูตรแม้ทั้งสองเหล่านี้ก็ดี ในคาถาทั้งหลายก็ดี พระสารีบุตรกล่าวไว้ทั้งวัฏฏะและวิวัฏฏะ.
Trong kinh này cũng như trong các bài kệ, Tôn giả Xá-lợi-phất đã giảng dạy cả về luân hồi (vòng xoay) và sự giải thoát.

จบอรรถกถาอนุตัปปิยสูตรที่ ๕
Kết thúc chú giải “Anutappiya Sutta” thứ 5.

อรรถกถานกุลสูตรที่ ๖
Chú giải “Nakulā Sutta” thứ 6.

พึงทราบวินิจฉัยในนกุลสูตรที่ ๖ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ ý nghĩa của “Nakulā Sutta” thứ 6 như sau:

บทว่า พาฬฺหคิลาโน แปลว่า เป็นไข้หนักมาก.
Cụm từ “Pāḷhagilāno” nghĩa là bị bệnh nặng.

บทว่า เอตทโวจ ความว่า คหปตานีผู้เป็นนกุลมารดา เมื่อไม่สามารถจะจัดยาระงับพยาธิของสามีได้ บัดนี้ เมื่อจะระงับพยาธิ โดยการบันลือสีหนาท ทำสัจกิริยา จึงนั่งใกล้สามีแล้วกล่าวคำนี้มีอาทิว่า มา โข ตฺวํ (ท่านอย่ากังวลเลย) ดังนี้.
Cụm từ “Etadovāca” nghĩa là Nakulamātā (vợ của Nakulapitā), khi không thể tìm thuốc chữa bệnh cho chồng, đã ngồi gần ông và thực hiện lời tuyên bố chân thật bằng cách nói: “Mā kho tvaṃ” (Ngài đừng lo lắng).

บทว่า สาเปกฺโข ได้แก่ ยังมีตัณหา.
Cụm từ “Sāpekkho” nghĩa là vẫn còn tham ái.

น อักษร ในบทว่า น นกุลมาตา นี้ ต้องประกอบเข้าโดยบทหลังอย่างนี้ว่า น เปกฺขติ.
Chữ “Na” trong cụm từ “Na Nakulamātā” phải được hiểu cùng với phần sau là “Na pekkhati” (không mong cầu).

บทว่า สนฺถริตุํ ความว่า เพื่อกระทำให้ไม่มีช่อง. อธิบายว่า ปู (ให้เต็ม).
Cụm từ “Santharituṃ” nghĩa là để lấp đầy những khoảng trống, tức là trải ra hoàn toàn.

บทว่า เวณึ โอลิขิตุํ ความว่า เพื่อเตรียมขนแกะ เอามาสางทำให้เป็นช้อง.
Cụm từ “Veṇiṃ olikhituṃ” nghĩa là chuẩn bị lông cừu và chải chuốt thành sợi.

บทว่า อญฺญํ ภตฺตารํ คมิสฺสติ ความว่า เราจักมีสามีใหม่อีก.
Cụm từ “Aññaṃ bhattāraṃ gamissati” nghĩa là “Ta sẽ có người chồng mới.”

บทว่า โสฬส วสฺสานิ คหฏฺฐพฺรหฺมจริยํ สมาจิณฺณํ ความว่า นับย้อนหลังจากนี้ไป ๑๖ ปี ดิฉันได้ประพฤติพรหมจรรย์ของคฤหัสถ์อย่างสม่ำเสมอ.
Cụm từ “Soḷasa vassāni gahaṭṭhabrahmacariyaṃ samāciṇṇaṃ” nghĩa là “Tính từ đây trở về trước 16 năm, tôi đã giữ trọn phẩm hạnh của người tại gia một cách đều đặn.”

บทว่า ทสฺสนกามตรา ความว่า อยากจะเฝ้า (พระพุทธเจ้า) โดยยิ่งๆ ขึ้นไป.
Cụm từ “Dassanakāmatarā” nghĩa là mong muốn được gặp gỡ (Đức Phật) một cách mạnh mẽ hơn nữa.

นางได้บันลือสีหนาทโดยองค์ ๓ เหล่านี้แล้ว ได้ทำสัจกิริยาว่า ด้วยความสัตย์จริง ขอพยาธิในร่างกายของท่าน (จงเหือดหาย) กลายเป็นความสำราญ.
Người phụ nữ đã tuyên bố chân thật bằng ba yếu tố này và thực hiện hành động chân thật rằng: “Với sự thật này, cầu mong bệnh tật trong cơ thể của ngài biến mất và thay vào đó là sự an lạc.”

บัดนี้ เพื่อจะอ้างพระผู้มีพระภาคเจ้าเป็นสักขีพยาน ทำสัจกิริยา แม้โดยคุณมีศีลเป็นต้นของตน นางจึงได้กล่าวคำมีอาทิว่า สิยา โข ปน เต ดังนี้.
Để thỉnh Đức Thế Tôn làm nhân chứng và thực hiện hành động chân thật dựa trên phẩm hạnh của mình như giới đức, bà đã nói những lời như: “Siyā kho pana te” (Cầu mong điều này xảy ra với ngài).

บรรดาบทเหล่านั้น บทว่า ปริปูรการินี ได้แก่ กระทำให้สมบูรณ์.
Trong các từ đó, cụm từ “Paripūrakārinī” nghĩa là làm cho viên mãn.

บทว่า เจโตสมถสฺส ได้แก่ สมาธิกัมมัฏฐาน.
Cụm từ “Cetosamathassa” nghĩa là thiền định tâm.

บทว่า โอคาธปฺปตฺตา ได้แก่ ถึงการหยั่งลง คือเข้าถึงเนืองๆ.
Cụm từ “Ogādappattā” nghĩa là đạt được sự thâm nhập, tức là sự tiếp xúc thường xuyên.

บทว่า ปฏิคาธปฺปตฺตา ได้แก่ ถึงการหยั่งลงเฉพาะ คือมั่นคง.
Cụm từ “Paṭigādappattā” nghĩa là đạt được sự thâm nhập riêng biệt, tức là sự vững chắc.

บทว่า อสฺสาสปฺปตฺตา ได้แก่ ถึงความปลอดโปร่ง คือเอาเป็นที่พึ่งได้.
Cụm từ “Assāsappattā” nghĩa là đạt được sự thoải mái, tức là một nơi nương tựa.

บทว่า เวสารชฺชปฺปตฺตา ได้แก่ ถึงโสมนัสญาณ.
Cụm từ “Vesārajjappattā” nghĩa là đạt được trí tuệ hân hoan.

บทว่า อปรปฺปจฺจยา ความว่า ศรัทธาเนื่องด้วยผู้อื่น คือปฏิปทาที่ต้องอาศัยผู้อื่น ท่านเรียกว่า ปรปัจจยะ (มีผู้อื่นเป็นปัจจัย). อธิบายว่า เว้นจากการมีผู้อื่นเป็นปัจจัยนั้น.
Cụm từ “Aparappaccayā” nghĩa là lòng tin không phụ thuộc vào người khác, tức là con đường không cần dựa vào ai khác. Giải thích rằng: Không cần bất kỳ yếu tố ngoại lai nào làm điều kiện.

นางคฤหปตานีผู้เป็นมารดาของนกุลมาณพ ได้ทำสัจกิริยา ปรารภคุณความดีของตน ด้วยองค์ ๓ เหล่านี้.
Người nữ gia chủ, mẹ của Nakulapita, đã thực hiện hành động chân thật dựa trên các đức hạnh của mình với ba yếu tố này.

บทว่า คิลานา วุฏฺฐิโต ความว่า เป็นไข้แล้วหาย.
Cụm từ “Gilānā Vuṭṭhito” nghĩa là bị bệnh và sau đó bình phục.

บทว่า ยาวตา ได้แก่ หมู่ของผู้บำเพ็ญเพียร.
Cụm từ “Yāvatā” nghĩa là nhóm người tu tập tinh tấn.

บทว่า ตาสํ อญฺญตรา ได้แก่ เป็นคนหนึ่งในระหว่างสาวิกาเหล่านั้น.
Cụm từ “Tāsam Aññatarā” nghĩa là một trong những nữ đệ tử đó.

บทว่า อนุกมฺปิกา ได้แก่ ผู้อนุเคราะห์ด้วยประโยชน์เกื้อกูล.
Cụm từ “Anukampikā” nghĩa là người hỗ trợ với lòng từ bi và lợi ích.

บทว่า โอวาทิกา ได้แก่ ผู้ให้โอวาท.
Cụm từ “Ovādikā” nghĩa là người khuyên bảo.

บทว่า อนุสาสิกา ได้แก่ ผู้ให้การพร่ำสอน.
Cụm từ “Anusāsikā” nghĩa là người giảng dạy.

จบอรรถกถานกุลสูตรที่ ๖
Kết thúc chú giải “Nakulā Sutta” thứ 6.

อรรถกถากุสลสูตรที่ ๗
Chú giải “Kusala Sutta” thứ 7.

พึงทราบวินิจฉัยในกุสลสูตรที่ ๗ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ ý nghĩa của “Kusala Sutta” thứ 7 như sau:

บทว่า ปฏิสลฺลานา วุฏฺฐิโต ความว่า ออกจากวิหารธรรมคือผลสมาบัติ ที่ทนต่อการเพ่งธรรม เพื่อความเป็นผู้ๆ เดียว.
Cụm từ “Paṭisallānā Vuṭṭhito” nghĩa là rời khỏi sự nhập định quả, nơi chịu đựng sự tập trung vào pháp, để đạt sự tĩnh lặng đơn độc.

บทว่า ยถาวิหารํ ได้แก่ วิหารอันเป็นที่อยู่ของตนๆ.
Cụm từ “Yathāvihāraṃ” nghĩa là nơi ở của chính mình.

บทว่า นวา ได้แก่ ยังใหม่ต่อบรรพชา.
Cụm từ “Navā” nghĩa là còn mới mẻ trong sự xuất gia.

ภิกษุเหล่านั้นมีประมาณ ๕๐๐ รูป.
Các vị Tỳ-khưu đó gồm khoảng 500 người.

บทว่า กากจฺฉมานา ได้แก่ การทำเสียงกรอดๆ (คือนอนกัดฟัน).
Cụm từ “Kākacchamānā” nghĩa là tạo âm thanh nghiến răng (nằm nghiến răng khi ngủ).

บทว่า เถรา ได้แก่ ภิกษุผู้ทำความเป็นผู้มั่นคง.
Cụm từ “Therā” nghĩa là những vị Tỳ-khưu đạt sự kiên định và vững chắc.

บทว่า เตน โน แปลว่า เธอทั้งหลายเป็นพระเถระได้อย่างไรหนอ.๑-
Cụm từ “Tena No” nghĩa là “Các ngài làm sao trở thành bậc trưởng lão được chứ?”

๑- ปาฐะว่า เตน นุ ฉบับใบลานเป็น เก นุ โข แปลตามใบลาน.
1- Đoạn kinh văn là “Tena Nu” theo bản viết lá cọ được ghi là “Ke Nu Kho,” dịch theo bản lá cọ.

บทว่า เสยฺยสุขา เป็นต้นมีใจความดังกล่าวแล้วในหนหลังนั่นแล.
Cụm từ “Seyyasukhā” và những điều tương tự đã được giải thích trước đó.

ผู้ปกครองรัฐ ชื่อว่า รฏฺฐิโก.
Người cai quản một quốc gia được gọi là “Raṭṭhiko.”

ผู้ปกครองรัฐ ต่อเนื่องจากที่มารดาบิดาปกครอง ชื่อว่า เปตฺตณิโก.
Người cai quản quốc gia tiếp nối từ cha mẹ mình được gọi là “Pettaṇiko.”

ผู้เป็นหัวหน้าแห่งเสนา (แม่ทัพ) ชื่อว่า เสนาปติกะ.
Người đứng đầu quân đội (vị tướng) được gọi là “Senāpatika.”

ผู้ปกครองหมู่บ้าน ชื่อว่า คามคามณิโก.
Người cai quản một ngôi làng được gọi là “Gāmagāmaṇiko.”

ผู้เป็นหัวหน้าหมู่ ชื่อว่า ปูคคามณิโก.
Người đứng đầu một nhóm được gọi là “Pūgagāmaṇiko.”

บทว่า อวิปสฺสโก กุสลานํ ธมฺมานํ ความว่า เป็นผู้ไม่แสวงหา คือไม่แสวงหากุศลธรรมทั้งหลาย.
Cụm từ “Avipassako Kusālānaṃ Dhammānaṃ” nghĩa là không tìm kiếm, tức là không tìm cầu các pháp thiện.

บทว่า โพธิปกฺขิยานํ ธมฺมานํ ได้แก่ โพธิปักขิยธรรม ๓๗ ประการ.
Cụm từ “Bodhipakkhiyānaṃ Dhammānaṃ” nghĩa là 37 pháp trợ đạo (Bồ-đề phần pháp).

จบอรรถกถากุสลสูตรที่ ๗
Kết thúc chú giải “Kusala Sutta” thứ 7.

อรรถกถามัจฉสูตรที่ ๘
Chú giải “Maccha Sutta” thứ 8.

พึงทราบวินิจฉัยในมัจฉสูตรที่ ๘ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ ý nghĩa của “Maccha Sutta” thứ 8 như sau:

บทว่า มจฺฉิกํ ได้แก่ ผู้ฆ่าปลา.
Cụm từ “Macchikaṃ” nghĩa là người giết cá.

บุคคลชื่อว่า หตฺถียายี เพราะไปด้วยช้าง.
Người được gọi là “Hatthiyāyī” vì di chuyển bằng voi.

แม้ศัพท์ต่อไปข้างหน้า ก็มีนัยนี้.
Các từ tiếp theo cũng mang ý nghĩa tương tự.

บทว่า วชฺเฌ แปลว่า ที่จะต้องฆ่า.
Cụm từ “Vajjhe” nghĩa là những thứ cần phải bị giết.

บทว่า วธายานีเต ความว่า สัตว์ที่เขานำไปเพื่อฆ่า.
Cụm từ “Vadhāyānīte” nghĩa là các loài vật được mang đi để giết.

บทว่า ปาปเกน มนสา ความว่า ด้วยจิตคิดจะฆ่าอันลามก. แต่ในพระบาลี ท่านเขียนไว้ว่า วธายุปนีเต.
Cụm từ “Pāpakena Manasā” nghĩa là với tâm ác muốn giết. Tuy nhiên, trong kinh văn, từ “Vadhāyupanīte” được sử dụng.

บทว่า มาควิโก ได้แก่ ผู้ฆ่าเนื้อ.
Cụm từ “Māgaviko” nghĩa là người săn bắn, giết thịt.

บทว่า โก ปน วาโท มนุสฺสภูตํ ความว่า สำหรับผู้ที่มีใจลามก เข้าไปเพ่งเล็งมนุษย์ ไม่มีอะไรที่จะต้องพูดถึง ในความไม่มีสมบัติ.
Cụm từ “Ko pana vādo Manussabhūtaṃ” nghĩa là với những người có tâm ác nhắm vào con người, không có gì để nói thêm về sự không có đức hạnh.

ข้อนี้พระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสไว้ เพื่อทรงแสดงถึงความที่บาปกรรมมีผลที่ไม่ปรารถนา.
Điều này Đức Thế Tôn đã dạy để chỉ ra rằng nghiệp ác mang lại những kết quả không mong muốn.

แต่เมื่อแม้ผู้ใดกระทำบาปกรรมเช่นนั้น ผู้นั้นกลับได้ยศ ข้อนั้นพึงเข้าใจว่ากุศลให้ผลแก่เขาเหล่านั้น โดยอาศัยอกุศลนั้น แต่วิบากจะไม่ยั่งยืนไปตลอดกาลนาน เพราะเขาจะถูกอกุศลกรรมนั้น ตัดรอน.
Nhưng nếu ai đó làm ác mà lại được phước báu, điều này nên hiểu rằng thiện nghiệp trong quá khứ đang cho quả thông qua ác nghiệp, nhưng phước báo đó sẽ không bền lâu vì ác nghiệp sẽ chấm dứt nó.

ในพระสูตรนี้ พระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสธรรมที่เป็นฝ่ายอกุศลไว้อย่างเดียว.
Trong kinh này, Đức Thế Tôn chỉ giảng dạy về các pháp bất thiện.

จบอรรถกถามัจฉสูตรที่ ๘
Kết thúc chú giải “Maccha Sutta” thứ 8.

อรรถกถาปฐมมรณัสสติสูตรที่ ๙
Chú giải “Paṭhama Maraṇassati Sutta” thứ 9.

พึงทราบวินิจฉัยในปฐมมรณัสสติสูตรที่ ๙ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ ý nghĩa của “Paṭhama Maraṇassati Sutta” thứ 9 như sau:

บทว่า นาทิเก ได้แก่ ในบ้านที่มีชื่ออย่างนี้.
Cụm từ “Nādike” nghĩa là trong ngôi làng có tên như vậy.

บทว่า คิญฺชกาวสเถ ได้แก่ ในปราสาทที่ก่อด้วยอิฐ.
Cụm từ “Kiñjakāvasathe” nghĩa là trong cung điện xây bằng gạch.

บทว่า อมโตคธา ได้แก่ หยั่งลงสู่พระนิพพาน. อธิบายว่า เข้าสู่พระนิพพาน.
Cụm từ “Amatogadhā” nghĩa là thâm nhập vào Niết-bàn. Giải thích: Đi vào Niết-bàn.

บทว่า อโห วต เป็นนิบาตลงในอรรถว่าที่สุด.
Cụm từ “Aho Vata” là thán từ được dùng với ý nghĩa tột cùng.

บทว่า ภาเวถ โน แปลว่า จงเจริญเถิด.
Cụm từ “Bhāvetha No” nghĩa là “Hãy tu tập.”

บทว่า มรณสฺสตึ ได้แก่ มรณสติกัมมัฏฐาน.
Cụm từ “Maraṇassatiṃ” nghĩa là thiền quán niệm về cái chết.

ศัพท์ว่า อโห วต เป็นนิบาต ลงในอรรถว่าปรารถนา.
Từ “Aho Vata” là thán từ dùng với ý nghĩa ước muốn.

บทว่า อหุ วต เม กตํ อสฺส ความว่า กิจของข้าพระองค์ในศาสนาของพระองค์ พึงเป็นกิจที่ข้าพระองค์กระทำให้มาก.
Cụm từ “Ahu Vata Me Kataṃ Assa” nghĩa là công việc của con trong giáo pháp của Ngài sẽ là công việc mà con đã làm thật nhiều.

บทว่า ตทนฺตรํ ความว่า ในระหว่างคือขณะ ได้แก่โอกาสนั้น.
Cụm từ “Tadantaraṃ” nghĩa là trong khoảng thời gian giữa, tức là cơ hội đó.

ในบทว่า อสฺสสิตฺวา วา ปสฺสสามิ นี้ ลมที่เข้าไปข้างใน ท่านเรียกว่าอัลสาสะ. ลมที่ออกมาภายนอก ท่านเรียกว่าปัสสาสะ.
Trong cụm từ “Assasittvā vā Passissāmi,” hơi thở đi vào bên trong được gọi là “assāsa,” và hơi thở đi ra bên ngoài được gọi là “passāsa.”

ภิกษุนี้ปรารถนาจะดำรงชีวิตอยู่ ชั่วเวลาที่ลมเข้าไปข้างใน กลับออกมาข้างนอก ลมที่ออกไปข้างนอก กลับเข้ามาข้างใน จึงได้ทูลอย่างนี้ ด้วยประการฉะนี้.
Vị Tỳ-khưu này mong muốn duy trì sự sống trong thời gian hơi thở đi vào và ra, do đó đã trình bày điều này như vậy.

บทว่า ทนฺธํ ได้แก่ เป็นไปอ่อนๆ หนัก คือไม่เร็ว.
Cụm từ “Dandhaṃ” nghĩa là diễn ra chậm rãi, không nhanh.

บทว่า อาสวานํ ขยาย ได้แก่ เพื่อพระอรหัตผล.
Cụm từ “Āsavānaṃ Khayāya” nghĩa là vì mục tiêu đạt được quả A-la-hán.

ในพระสูตรนี้ พระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสมรณสติไปจนถึงพระอรหัตผล.
Trong kinh này, Đức Phật đã giảng về niệm chết cho đến khi đạt được quả A-la-hán.

จบอรรถกถาปฐมมรณัสสติสูตรที่ ๙
Kết thúc chú giải “Paṭhama Maraṇassati Sutta” thứ 9.

อรรถกถาทุติยมรณัสสติสูตรที่ ๑๐
Chú giải “Dutiya Maraṇassati Sutta” thứ 10.

พึงทราบวินิจฉัยในทุติยมรณัสสติสูตรที่ ๑๐ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ ý nghĩa của “Dutiya Maraṇassati Sutta” thứ 10 như sau:

บทว่า ปฏิหิตาย แปลว่า ดำเนินไปแล้ว.
Cụm từ “Paṭihitāya” nghĩa là đã được thực hiện hoặc đã đi qua.

บทว่า อิติ ปฏิสญฺจิกฺขติ ความว่า ย่อมพิจารณาอย่างนี้.
Cụm từ “Iti Paṭisañcikkhati” nghĩa là suy xét theo cách này.

ในบทนี้ว่า โส มมสฺส อนฺตราโย ดังนี้
Trong cụm từ “So Mamassa Antarāyo,” ý nghĩa được giải thích như sau:

อันตรายมี ๓ อย่าง คือ อันตรายแห่งชีวิต ๑ อันตรายแห่งสมณธรรม ๑ อันตรายแห่งสวรรค์ อันตรายแห่งมรรคสำหรับผู้ทำกาลกิริยาของปุถุชน ๑. พระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสหมายถึงอันตรายทั้ง ๓ อย่างนั้นทีเดียว.
Có 3 loại trở ngại: trở ngại đối với sinh mạng, trở ngại đối với đời sống xuất gia, và trở ngại đối với thiên giới. Đức Phật đề cập đến cả 3 loại trở ngại này.

บทว่า พฺยาปชฺเชยฺย ความว่า พึงวิบัติไป ด้วยสามารถแห่งการไม่ย่อยเป็นต้น.
Cụm từ “Byāpajjeyya” nghĩa là sẽ gặp sự suy thoái, chẳng hạn như không thể phát triển.

บทว่า อธิมตฺโต แปลว่า มีกำลัง.
Cụm từ “Adhimatto” nghĩa là mạnh mẽ, có năng lực.

ความพอใจคือความเป็นผู้ใคร่เพื่อจะทำ ชื่อว่าฉันทะ.
Sự hài lòng và mong muốn thực hiện được gọi là “Chanda” (ý chí).

ความเพียรในการประกอบกิจ ชื่อว่าวายามะ.
Nỗ lực trong việc thực hiện công việc được gọi là “Vāyāma” (tinh tấn).

ความเพียรที่เป็นเหตุ แห่งความกระตือรือร้น ชื่อว่าอุตสาหะ.
Sự siêng năng làm động lực cho sự nhiệt tình được gọi là “Utsāha.”

ความเพียรที่เป็นเหตุให้ถึงพร้อม (สำเร็จ) ชื่อว่าอุสโสฬหิ.
Sự nỗ lực dẫn đến sự hoàn hảo được gọi là “Ussoḷhi.”

ความไม่ท้อถอย คือความไม่หดกลับ ชื่อว่าอัปปฏิวานี.
Sự không thoái chí, không lùi bước được gọi là “Appaṭivānī.”

คำที่เหลือในบททั้งปวงมีเนื้อความง่ายทั้งนั้น ฉะนี้แล.
Các từ còn lại trong tất cả các đoạn đều có ý nghĩa dễ hiểu.

จบอรรถกถาทุติยมรณัสสติสูตรที่ ๑๐
Kết thúc chú giải “Dutiya Maraṇassati Sutta” thứ 10.

จบสาราณิยาทิวรรควรรณนาที่ ๒
Kết thúc phần chú giải chương Sārāṇīya thứ 2.

รวมพระสูตรที่มีในวรรคนี้ คือ
Danh sách các bài kinh trong chương này bao gồm:

1. สาราณิยสูตรที่ ๑
Sārāṇīya Sutta thứ 1

2. สาราณิยสูตรที่ ๒
Sārāṇīya Sutta thứ 2

3. เมตตสูตร
Mettā Sutta

4. ภัททกสูตร
Bhaddaka Sutta

5. อนุตัปปิยสูตร
Anutappiya Sutta

6. นกุลสูตร
Nakula Sutta

7. กุสลสูตร
Kusala Sutta

8. มัจฉสูตร
Maccha Sutta

9. มรณัสสติสูตรที่ ๑
Maraṇassati Sutta thứ 1

10. มรณัสสติสูตรที่ ๒
Maraṇassati Sutta thứ 2

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang