Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi III – Phẩm Nói Về Nghi Lễ Tự Tứ

4. Pavāraṇakkhandhakaṃ
4. Thiên Tự Tứ

Aphāsukavihārakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Sống không Thoải Mái

209. Pavāraṇakkhandhake ādito lāpo ālāpo, vacanapaṭivacanavasena samaṃ lāpo sallāpo. Piṇḍāya paṭikkameyyāti gāme piṇḍāya caritvā paccāgaccheyya. Avakkārapātiṃ dhovitvā upaṭṭhāpeyyāti atirekapiṇḍapātaṃ apanetvā ṭhapanatthāya ekaṃ samuggapātiṃ dhovitvā ṭhapeyya. Samuggapāti nāma samuggapuṭasadisā pāti. Appahariteti aparūḷhaharite, yasmiṃ ṭhāne piṇḍapātajjhottharaṇena vinassanadhammāni tiṇāni natthi, tasminti attho. Tena nittiṇañca mahātiṇagahanañca yattha sakaṭenapi chaḍḍite piṇḍapāte tiṇāni na vinassanti, tañca ṭhānaṃ pariggahitaṃ hoti. Bhūtagāmasikkhāpadassa hi avikopanatthametaṃ vuttaṃ. Appāṇaketi nippāṇake, piṇḍapātajjhottharaṇena maritabbapāṇakarahite vā mahāudakakkhandhe. Parittodake eva hi bhattapakkhepena āluḷite sukhumapāṇakā maranti, na mahātaḷākādīsūti. Pāṇakānurakkhaṇatthañhi etaṃ vuttaṃ. Opilāpeyyāti nimujjāpeyya.
209. Trong thiên Tự Tứ, lời nói ban đầu là sự nói chuyện, lời nói qua lại tương xứng là sự đối đáp. Nên đi khất thực rồi trở về là nên đi khất thực trong làng rồi quay lại. Nên rửa một cái bát đựng thức ăn thừa rồi đặt đó là nên rửa một cái bát nhỏ để đựng thức ăn thừa sau khi đã dọn đi. Cái bát nhỏ là cái bát giống như hộp nhỏ. Nơi có ít cỏ xanh là nơi cỏ xanh chưa mọc, có nghĩa là nơi mà cỏ cây có thể bị hủy hoại do việc đổ thức ăn thừa không có. Do đó, nơi không có cỏ và nơi cỏ rậm rạp mà dù có đổ thức ăn thừa bằng xe bò cỏ cây cũng không bị hủy hoại, nơi đó được bao gồm. Điều này được nói ra để không vi phạm điều học về cây cỏ. Nơi không có chúng sanh nhỏ là nơi không có chúng sanh, hoặc trong một khối nước lớn không có chúng sanh nhỏ có thể bị chết do việc đổ thức ăn thừa. Thật vậy, chỉ trong nước ít, khi bị khuấy động do việc đổ cơm vào, các chúng sanh nhỏ mới chết, chứ không phải trong các hồ lớn, v.v. Điều này được nói ra để bảo vệ các chúng sanh nhỏ. Nên nhận chìm là nên làm cho chìm xuống.

Vaccaghaṭanti ācamanakumbhī. Rittanti rittakaṃ. Tucchanti tasseva vevacanaṃ. Avisayhanti ukkhipituṃ asakkuṇeyyaṃ atibhārikaṃ. Hatthavikārenāti hatthasaññāya. Hatthehi ukkhipanaṃ hatthavilaṅghanaṃ. Tenāha ‘‘hatthukkhepakenā’’ti. Atha vā vilaṅgheti desantaraṃ pāpeti etenāti vilaṅghako, hattho eva vilaṅghako hatthavilaṅghako, tena hatthavilaṅghakena, aññamaññaṃ saṃsibbitahatthenāti vuttaṃ hoti. Dve hi janā hatthena hatthaṃ saṃsibbetvā dvīsu hatthesu ṭhapetvā uṭṭhapentā hatthavilaṅghakena uṭṭhapenti nāma. Titthiyasamādānanti titthiyehi samādātabbaṃ.
Bình nước rửa là bình nước để rửa tay chân. Rỗng là trống không. Trống không là từ đồng nghĩa của nó. Không thể nhấc nổi là quá nặng đến nỗi không thể nhấc lên được. Bằng cử chỉ tay là bằng dấu hiệu tay. Việc nhấc bằng tay là sự vung tay. Do đó, ngài nói “bằng cách đưa tay lên.” Hoặc, cái làm cho di chuyển đến nơi khác là vilaṅghaka, tay chính là vilaṅghaka, nên là hatthavilaṅghaka, bằng cách đan tay vào nhau, có nghĩa là bằng tay đã được đan vào nhau. Thật vậy, hai người đan tay vào tay nhau rồi đặt vật lên hai tay và nhấc lên được gọi là nhấc lên bằng cách đan tay vào nhau. Sự thực hành của ngoại đạo là điều cần được thực hành bởi các vị ngoại đạo.

Aphāsukavihārakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về việc sống không thoải mái.

Pavāraṇābhedakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Sự Phân Loại Lễ Tự Tứ

212.Dvemābhikkhave, pavāraṇā cātuddasikā ca pannarasikā cāti ettha purimavassaṃvutthānaṃ pubbakattikapuṇṇamā, tesaṃyeva sace bhaṇḍanakārakehi upaddutā pavāraṇaṃ paccukkaḍḍhanti, atha kattikamāsassa kāḷapakkhacātuddaso vā pacchimakattikapuṇṇamā vā, pacchimavassaṃvutthānañca pacchimakattikapuṇṇamā eva vāti ime tayo pavāraṇadivasāti veditabbā. Idañca pakaticārittavasena vuttaṃ, tathārūpapaccaye pana sati dvinnaṃ kattikapuṇṇamānaṃ purimesu cātuddasesupi pavāraṇaṃ kātuṃ vaṭṭati, teneva mahāvihāre bhikkhū cātuddasiyā pavāretvā pannarasiyā kāyasāmaggiṃ denti, cetiyagirimahadassanatthampi aṭṭhamiyā gacchanti, tampi cātuddasiyaṃ pavāretukāmānaññeva hoti.
212.Này các Tỳ-khưu, có hai lễ Tự Tứ: ngày 14 và ngày 15, ở đây, ngày mãn hạ của những vị an cư tiền an cư là ngày rằm tháng Kattika đầu tiên, nếu lễ Tự Tứ của họ bị hoãn lại do bị những người gây gổ quấy nhiễu, thì ngày đó là ngày 14 của hạ tuần tháng Kattika hoặc ngày rằm tháng Kattika sau, và ngày mãn hạ của những vị an cư hậu an cư chính là ngày rằm tháng Kattika sau, như vậy cần phải hiểu có ba ngày Tự Tứ này. Và điều này được nói theo thông lệ bình thường, nhưng khi có duyên cớ thích hợp, cũng được phép làm lễ Tự Tứ vào các ngày 14 trước hai ngày rằm tháng Kattika, chính vì thế, các Tỳ-khưu ở Đại Tu Viện làm lễ Tự Tứ vào ngày 14 và làm lễ hòa hợp thân thể vào ngày rằm, và họ cũng đi vào ngày mồng 8 để xem đại lễ ở núi Cetiyagiri, điều đó cũng chỉ dành cho những người muốn làm lễ Tự Tứ vào ngày 14.

Pavāraṇādānānujānanakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Cho Phép Trao Lễ Tự Tứ

213.Sace pana vuḍḍhataro hotīti sace pavāraṇadāyako bhikkhu vuḍḍhataro hoti. Tena ca bhikkhunāti pavāraṇadāyakena bhikkhunā.
213.Nhưng nếu là vị lớn tuổi hơn là nếu vị Tỳ-khưu trao lễ Tự Tứ lớn tuổi hơn. Và bởi vị Tỳ-khưu ấy là bởi vị Tỳ-khưu trao lễ Tự Tứ.

Anāpattipannarasakakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Trường Hợp không Phạm Tội trong Ngày Rằm

222. Pannarasakesu pavāritamatteti pavāritasamanantaraṃ. Avuṭṭhitāya parisāyāti pavāretvā pacchā aññamaññaṃ kathentiyā. Ekaccāya vuṭṭhitāyāti ekaccesu yathānisinnesu ekaccesu sakasakaṭṭhānaṃ gatesu. Puna pavāritabbanti punapi sabbehi samāgantvā pavāretabbaṃ. Āgacchanti samasamā, tesaṃ santike pavāretabbanti gate anānetvā nisinnānaññeva santike pavāretabbaṃ. Sabbāya vuṭṭhitāya parisāya āgacchanti samasamā, tesaṃ santike pavāretabbanti yadi sabbe vuṭṭhahitvā gatā sannipātetuñca na sakkā, ekacce sannipātetvā pavāretuṃ vaṭṭati, ñattiṃ ṭhapetvā kattabbasaṅghakammābhāvā vaggaṃ na hoti. Uposathepi eseva nayo.
222. Trong các trường hợp ngày rằm, ngay khi vừa tự tứ xong là ngay sau khi đã tự tứ. Khi hội chúng chưa đứng dậy là khi đang nói chuyện với nhau sau khi đã tự tứ. Khi một số đã đứng dậy là khi một số vẫn ngồi như cũ và một số đã đi về chỗ của mình. Phải tự tứ lại là tất cả phải tụ họp lại và tự tứ lại. Những người ngang bằng đến, phải tự tứ trước mặt họ là không cần gọi những người đã đi về mà chỉ cần tự tứ trước mặt những người đang ngồi. Khi toàn thể hội chúng đã đứng dậy, những người ngang bằng đến, phải tự tứ trước mặt họ là nếu tất cả đã đứng dậy và đi về và không thể triệu tập lại được, thì được phép triệu tập một số người và tự tứ, không thành bè phái vì không có Tăng sự nào cần phải làm sau khi đã tuyên ngôn. Trong lễ Bố-tát, phương pháp cũng tương tự.

Pavāraṇāṭhapanakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Hoãn Lễ Tự Tứ

237. ‘‘Natthi dinna’’ntiādinayappavattā dasavatthukā micchādiṭṭhi. ‘‘Hoti tathāgato paraṃ maraṇā , na hoti tathāgato paraṃ maraṇā’’tiādinā sassatucchedasaṅkhātaṃ antaṃ gaṇhātīti antaggāhikā.
237. Tà kiến mười điều được tiến hành theo cách “Không có quả báo của việc cho,” v.v. Chấp thủ biên kiến là chấp lấy hai cực đoan được gọi là thường kiến và đoạn kiến qua các câu như: “Như Lai có tồn tại sau khi chết, Như Lai không tồn tại sau khi chết,” v.v.

Bhaṇḍanakārakavatthukathāvaṇṇanā
Giải Thích về Câu Chuyện của Những Người Gây Tranh Cãi

240.Catutthekate suṇantīti catutthe pannarasikuposathe kate amhākaṃ pavāraṇaṃ ṭhapessantīti suṇanti. Evampi dve cātuddasikā hontīti tatiyena saddhiṃ dve cātuddasikā honti.
240.Họ nghe rằng vào lần thứ tư là họ nghe rằng sau khi lễ Bố-tát ngày rằm thứ tư được thực hiện, lễ Tự Tứ của họ sẽ bị hoãn lại. Như vậy cũng có hai ngày 14 là cùng với ngày thứ ba, có hai ngày 14.

Pavāraṇāsaṅgahakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Gộp Lễ Tự Tứ

241. Ayaṃ pavāraṇāsaṅgaho ekassa dinnopi sabbesaṃ dinnova hotīti āha ‘‘ekassapi vasena dātabbo’’ti. Āgantukā tesaṃ senāsanaṃ gahetuṃ na labhantīti sacepi saṭṭhivassabhikkhū āgacchanti, tesaṃ senāsanaṃ gahetuṃ na labhanti. Pavāretvā pana antarāpi cārikaṃ pakkamituṃ labhantīti pavāraṇāsaṅgahe kate antarā pakkamitukāmā saṅghaṃ sannipātāpetvā pavāretuṃ labhanti. Sesamettha pāḷito aṭṭhakathāto ca suviññeyyameva.
241. Việc gộp lễ Tự Tứ này, dù chỉ được trao cho một người, cũng được xem là đã trao cho tất cả, do đó nói “phải được trao nhân danh một người.” Các vị khách Tăng không được phép lấy chỗ ở của họ là ngay cả khi có các vị Tỳ-khưu sáu mươi tuổi hạ đến, họ cũng không được phép lấy chỗ ở của những vị kia. Nhưng sau khi đã tự tứ, họ được phép du hành giữa chừng là sau khi việc gộp lễ Tự Tứ đã được thực hiện, những người muốn du hành giữa chừng được phép triệu tập Tăng chúng và làm lễ Tự Tứ. Phần còn lại ở đây có thể được hiểu rõ từ Pāḷi và chú giải.

Pavāraṇakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích thiên Tự Tứ.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang