Phụ Chú Giải Tạng Luật – Hai Mẫu Đề – Phẩm Ưng Đối Trị (Tỳ-khưu-ni)

Pācittiyakaṇḍo
Phẩm Ưng Đối Trị

1. Lasuṇavaggo
1. Phẩm Tỏi

1. Lasuṇasikkhāpadavaṇṇanā
1. Tường giải về học giới liên quan đến tỏi

Pācittiyesu lasuṇavaggassa tāva paṭhame lasuṇanti magadharaṭṭhe jātaṃ āmakaṃ bhaṇḍikalasuṇameva, na ekadvitimiñjakaṃ. Tañhi ‘‘khādissāmī’’ti paṭiggaṇhantiyā dukkaṭaṃ, ajjhohāre ajjhohāre pācittiyaṃ.
Trong các điều Ưng Đối Trị, trước tiên, trong phẩm Tỏi, ở điều thứ nhất, từ ‘tỏi’ chính là loại tỏi củ còn sống mọc ở xứ Ma-kiệt-đà, không phải loại có một hoặc hai ba múi. Thật vậy, đối với vị đang nhận lấy với ý nghĩ “Ta sẽ ăn” thì phạm Tác Ác, mỗi khi nuốt vào thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha lasuṇaṃ harāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, alasuṇe dvikadukkaṭaṃ. Tasmiṃ pana alasuṇasaññāya, palaṇḍuke, bhañjanake, haritake, cāpalasuṇe, sūpasampāke, maṃsasampāke, telasampāke, sāḷave, uttaribhaṅge, ummattikādīnañca anāpatti. Āmakalasuṇañceva, ajjhoharaṇañcāti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc cho mang tỏi đi. Là tam Ưng Đối Trị, ở trường hợp không phải tỏi là nhị Tác Ác. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: có nhận thức là không phải tỏi, (ăn) hành củ, bhañjanaka, haritaka, tỏi dây leo, gia vị cho canh, gia vị cho thịt, gia vị cho dầu, đồ ăn phụ, thức ăn thêm, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: tỏi sống và sự nuốt vào. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Lasuṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến tỏi đã kết thúc.

2. Sambādhalomasikkhāpadavaṇṇanā
2. Tường giải về học giới liên quan đến việc cạo lông ở chỗ kín

Dutiye sambādheti paṭicchannokāse, upakacchakesu ca muttakaraṇe cāti attho. Saṃharāpeyyāti ettha khurasaṇḍāsakattariādīsu yena kenaci saṃharāpentiyā payogagaṇanāya pācittiyaṃ, na lomagaṇanāya.
Ở điều thứ hai, ‘ở chỗ kín’ có nghĩa là ở nơi được che kín, ở vùng nách và ở bộ phận sinh dục. ‘Cho nhổ,’ ở đây khi cho nhổ bằng bất cứ dụng cụ nào như dao cạo, nhíp, kéo, v.v… thì phạm Ưng Đối Trị theo số lần cố gắng, không phải theo số sợi lông.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiyā bhikkhuniyo ārabbha sambādhe lomaṃ saṃharāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, attano atthāya aññaṃ āṇāpentiyā sāṇattikaṃ, āpattibhedonatthi. Ābādhapaccayā, ummattikādīnañca anāpatti. Ābādhābhāvo, sambādhe lomasaṃharaṇanti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni bhikkhuniyā saddhiṃ ekaddhānamaggagamanasikkhāpadasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu-ni, trong sự việc cho nhổ lông ở chỗ kín. Khi ra lệnh cho người khác vì lợi ích của chính mình, đó là do sai bảo, không có sự phân biệt tội. Không phạm tội do duyên bệnh tật, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: không có bệnh tật, và sự nhổ lông ở chỗ kín. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về việc đi cùng một quãng đường với Tỳ-khưu.

Sambādhalomasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc cạo lông ở chỗ kín đã kết thúc.

3. Talaghātakasikkhāpadavaṇṇanā
3. Tường giải về học giới liên quan đến việc đánh vào bộ phận sinh dục

Tatiye talaghātaketi antamaso uppalakesarenāpi muttakaraṇassa talaghātane muttakaraṇamhi pahāradāne pācittiyanti attho.
Ở điều thứ ba, ‘việc đánh vào bộ phận sinh dục,’ có nghĩa là phạm Ưng Đối Trị trong việc đánh vào bộ phận sinh dục, dù chỉ bằng nhụy hoa sen.

Sāvatthiyaṃ dve bhikkhuniyo ārabbha talaghātakaraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, purimanayeneva sāṇattikaṃ, āpattibhedo natthi. Ito paraṃ pana yattha natthi, tattha avatvāva gamissāma. Ābādhapaccayā gaṇḍaṃ vā vaṇaṃ vā paharantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Ābādhābhāvo, muttakaraṇe pahāradānaṃ, phassasādiyananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến hai vị Tỳ-khưu-ni, trong sự việc thực hiện việc đánh vào bộ phận sinh dục. Việc sai bảo cũng giống như cách thức trước, không có sự phân biệt tội. Từ đây trở đi, ở những chỗ không có (sự phân biệt), chúng tôi sẽ đi tiếp mà không đề cập đến. Không phạm tội trong các trường hợp: do duyên bệnh tật, đánh vào chỗ mụn nhọt hay vết thương, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: không có bệnh tật, việc đánh vào bộ phận sinh dục, và sự tận hưởng việc tiếp xúc. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội Bất Cộng Trụ thứ nhất.

Talaghātakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc đánh vào bộ phận sinh dục đã kết thúc.

4. Jatumaṭṭhakasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới liên quan đến que bằng nhựa chai

Catutthe jatumaṭṭhaketi jatunā kate maṭṭhadaṇḍake. Vatthuvasenetaṃ vuttaṃ, kāmarāgena pana uppalakesarampi pavesentiyā āpatti.
Ở điều thứ tư, ‘que bằng nhựa chai’ là que được làm bằng nhựa chai. Điều này được nói theo sự việc. Tuy nhiên, vị nào đưa vào dù chỉ là nhụy hoa sen do lòng tham ái thì phạm tội.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha jatumaṭṭhakasādiyanavatthusmiṃ paññattaṃ, sesaṃ tatiyasadisamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc tận hưởng que bằng nhựa chai. Phần còn lại tương tự như điều thứ ba.

Jatumaṭṭhakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến que bằng nhựa chai đã kết thúc.

5. Udakasuddhikasikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới liên quan đến việc rửa bằng nước

Pañcame udakasuddhikanti muttakaraṇassa dhovanaṃ. Ādiyamānāyāti karontiyā. Dvaṅgulapabbaparamaṃādātabbanti dvīsu aṅgulīsu ekekaṃ katvā dvaṅgulapabbaparamaṃ ādātabbaṃ. Taṃ atikkāmentiyāti sace dhovanakāle rāgavasena vitthārato tatiyāya aṅguliyā aggapabbaṃ, gambhīrato ekissāva aṅguliyā tatiyapabbaṃ paveseti pācittiyaṃ.
Ở điều thứ năm, ‘việc rửa bằng nước’ là việc rửa bộ phận sinh dục. ‘Khi đang thực hiện,’ là khi đang làm. ‘Nên nhận lấy tối đa là hai đốt ngón tay,’ là nên nhận lấy tối đa là hai đốt ngón tay, mỗi lần một ngón. ‘Khi vượt quá mức ấy,’ nếu trong lúc rửa, do lòng tham dục, đưa vào đốt đầu ngón tay thứ ba về chiều rộng, hoặc đốt thứ ba của chỉ một ngón tay về chiều sâu, thì phạm Ưng Đối Trị.

Sakkesu aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha atigambhīraṃ udakasuddhikaṃ ādiyanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, ūnakadvaṅgulapabbe dvikadukkaṭaṃ. Tasmiṃ pana ūnakasaññāya, dvaṅgulapabbaparamaṃ ādiyantiyā, ābādhapaccayā atirekampi, ummattikādīnañca anāpatti, sesaṃ tatiyasadisamevāti.
(Học giới này) được chế định ở xứ Sakka, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc thực hiện việc rửa bằng nước quá sâu. Là tam Ưng Đối Trị, trường hợp ít hơn hai đốt ngón tay là nhị Tác Ác. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: có nhận thức là ít hơn, khi thực hiện tối đa hai đốt ngón tay, do duyên bệnh tật dù có vượt quá, và các vị bị mất trí, v.v. Phần còn lại tương tự như điều thứ ba.

Udakasuddhikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc rửa bằng nước đã kết thúc.

6. Upatiṭṭhanasikkhāpadavaṇṇanā
6. Tường giải về học giới liên quan đến việc đứng hầu

Chaṭṭhe bhuñjantassāti pañcannaṃ bhojanānaṃ aññataraṃ bhuñjato. Pānīyenāti suddhena vā udakena, takkādīsu vā aññatarena. Vidhūpanenāti yāya kāyaci bījaniyā. Upatiṭṭheyyāti yā etesu dvīsu aññataraṃ gahetvā hatthapāse tiṭṭhati, tassā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ sáu, ‘đối với người đang ăn’ là người đang ăn một trong năm loại vật thực. ‘Bằng nước uống’ là bằng nước trong, hoặc bằng một loại nào khác như sữa chua, v.v. ‘Bằng quạt’ là bằng bất cứ loại quạt nào. ‘Nên đứng hầu,’ vị nào cầm một trong hai thứ ấy và đứng trong tầm tay, vị ấy phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha bhuñjantassa evaṃ tiṭṭhanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, hatthapāsaṃ vijahitvā khādanīyaṃ khādantassa upatiṭṭhantiyā dukkaṭaṃ, anupasampanne tikadukkaṭaṃ. ‘‘Imaṃ pivatha, iminā bījathā’’ti evaṃ dentiyā vā, dāpentiyā vā, anupasampannaṃ vā upatiṭṭhāpanatthaṃ āṇāpentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Bhuñjantassa bhikkhuno hatthapāse ṭhānaṃ, pānīyassa vā vidhūpanassa vā gahaṇanti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc đứng hầu người đang ăn như vậy. Là tam Ưng Đối Trị. Vị nào đứng hầu người đang ăn vật thực cứng ngoài tầm tay thì phạm Tác Ác. Đối với người chưa thọ Cụ túc giới là tam Tác Ác. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào cho với ý nói “Hãy uống cái này, hãy quạt bằng cái này,” hoặc cho người khác cho, hoặc ra lệnh cho người chưa thọ Cụ túc giới đứng hầu, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: việc đứng trong tầm tay của Tỳ-khưu đang ăn, và việc cầm nước uống hoặc quạt. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Upatiṭṭhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc đứng hầu đã kết thúc.

7. Āmakadhaññasikkhāpadavaṇṇanā
7. Tường giải về học giới liên quan đến ngũ cốc sống

Sattame viññatvāti antamaso mātarampi yācitvā. Bhuñjeyyāti ajjhohareyya. Ettha ca viññatti ceva bhojanañca pamāṇaṃ, tasmā sayaṃ viññatvā aññāya bhajjanādīni kārāpetvā vā , aññāya viññāpetvā sayaṃ bhajjanādīni katvā vā paṭiggahaṇato paṭṭhāya yāva dantehi saṃkhādanaṃ, tāva pubbappayogesu dukkaṭāni, ajjhohāre ajjhohāre pācittiyaṃ.
Ở điều thứ bảy, ‘sau khi xin’ là sau khi xin, dù chỉ là xin mẹ của mình. ‘Nên ăn’ là nên nuốt vào. Ở đây, việc xin và việc ăn là tiêu chuẩn. Do đó, sau khi tự mình xin rồi cho người khác rang, v.v., hoặc sau khi cho người khác xin rồi tự mình rang, v.v., kể từ lúc nhận cho đến khi nhai bằng răng, trong các cố gắng ban đầu thì phạm các tội Tác Ác, mỗi khi nuốt vào thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha āmakadhaññaṃ viññāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, sayaṃ vā aññāya vā aviññattiyā laddhaṃ bhajjanādīni katvā vā kāretvā vā bhuñjantiyā dukkaṭaṃ, aññāya viññattiyā laddhaṃ pana sayaṃ bhajjanādīni katvāpi kāretvāpi bhuñjantiyā dukkaṭameva. Ābādhe sati sedakammādīnaṃ atthāya viññāpentiyā, aviññattiyā labbhamānaṃ navakammatthāya sampaṭicchantiyā, ñātakappavāritaṭṭhāne muggamāsādiaparaṇṇaṃ viññāpentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Sattannaṃ dhaññānaṃ aññatarassa viññāpanaṃ vā viññāpāpanaṃ vā, paṭilābho, bhajjanādīni katvā vā kāretvā vā ajjhoharaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni addhānamaggasikkhāpadasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc cho xin ngũ cốc sống. Vị nào nhận được do không xin, dù tự mình hay người khác, sau khi rang, v.v. rồi ăn thì phạm Tác Ác. Vị nào nhận được do người khác xin, sau khi tự mình rang, v.v. hay cho người khác rang, v.v. rồi ăn thì cũng chỉ phạm Tác Ác. Không phạm tội trong các trường hợp: khi có bệnh, cho xin vì mục đích xông hơi, v.v., nhận lấy những gì được cho mà không xin vì mục đích công việc mới, cho xin các loại đậu khác như đậu xanh, đậu đen ở những nơi thân quen đã được mời, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: việc xin hoặc cho xin một trong bảy loại ngũ cốc, sự nhận được, và việc ăn sau khi đã rang, v.v. hoặc cho người khác rang, v.v. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về đường dài.

Āmakadhaññasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến ngũ cốc sống đã kết thúc.

8. Paṭhamauccārachaḍḍanasikkhāpadavaṇṇanā
8. Tường giải về học giới thứ nhất liên quan đến việc vứt bỏ phân

Aṭṭhame saṅkāranti kacavaraṃ. Vighāsanti yaṃkiñci paribhuttāvasesaṃ ucchiṭṭhodakampi dantakaṭṭhampi, aṭṭhikacalakesu pana vattabbameva natthi. Tirokuṭṭe vā tiropākāre vāti yassakassaci kuṭṭassa vā pākārassa vā parato. Chaḍḍeyya vā chaḍḍāpeyya vāti sabbānipetāni ekato chaḍḍentiyā ekappayoge ekāpatti, sakiṃ āṇattiyā bahukepi chaḍḍite ekāva.
Ở điều thứ tám, ‘rác’ là đồ dơ bẩn. ‘Đồ thừa’ là bất cứ thứ gì còn sót lại sau khi đã dùng, cả nước súc miệng và tăm xỉa răng, còn đối với xương, vảy, lông tóc thì không cần phải nói. ‘Bên ngoài tường hoặc bên ngoài hàng rào’ là bên ngoài tường hoặc hàng rào của bất cứ ai. ‘Nên vứt bỏ hoặc cho vứt bỏ,’ khi vứt bỏ tất cả những thứ này cùng một lúc trong một lần cố gắng thì phạm một tội. Dù ra lệnh một lần mà vứt bỏ nhiều lần cũng chỉ phạm một tội.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha uccāraṃ tirokuṭṭe chaḍḍanavatthusmiṃ paññattaṃ, sāṇattikaṃ, bhikkhussa dukkaṭaṃ , oloketvā vā avalañje vā chaḍḍentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Uccārādibhāvo, anolokanaṃ, valañjanaṭṭhānaṃ, tirokuṭṭatiropākāratā, chaḍḍanaṃ vā chaḍḍāpanaṃ vāti imānettha pañca aṅgāni. Samuṭṭhānādīni sañcarittasadisāni, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc vứt phân ra ngoài tường. Là do sai bảo. Đối với Tỳ-khưu là Tác Ác. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào vứt bỏ sau khi nhìn hoặc vứt ở nơi được phép, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có năm chi phần này: có phân, v.v., không nhìn, nơi được phép, bên ngoài tường, bên ngoài hàng rào, và việc vứt bỏ hoặc cho vứt bỏ. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội môi giới, nhưng đây là hành động và không phải hành động.

Paṭhamauccārachaḍḍanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới thứ nhất liên quan đến việc vứt bỏ phân đã kết thúc.

9. Dutiyauccārachaḍḍanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Tường giải về học giới thứ hai liên quan đến việc vứt bỏ phân

Navame hariteti khette vā nāḷikerādiārāme vā yatthakatthaci ropimaharitaṭṭhāne. Tāni vatthūni chaḍḍentiyā vā chaḍḍāpentiyā vā purimanayeneva āpatti, tādise ṭhāne nisīditvā antamaso udakaṃ pivitvā matthakacchinnaṃ nāḷikerampi chaḍḍentiyā āpattiyeva.
Ở điều thứ chín, ‘trên cây cỏ xanh’ là trên ruộng hoặc trong vườn dừa, v.v., ở bất cứ nơi nào có cây cỏ xanh được trồng. Khi vứt bỏ hoặc cho vứt bỏ những vật ấy, tội phạm theo cách thức trước. Khi ngồi ở nơi như vậy, dù chỉ uống nước rồi vứt bỏ trái dừa đã bị chặt đầu cũng phạm tội.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha uccārādīni harite chaḍḍanavatthusmiṃ paññattaṃ, sāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, bhikkhuno dukkaṭaṃ, bhikkhuniyāpi nikkhittabīje khette yāva aṅkuro na uṭṭhahati, tāva dukkaṭaṃ, aharite dvikadukkaṭaṃ. Tasmiṃ pana aharitasaññāya chaḍḍitakhette vā, sāmike apaloketvā vā chaḍḍentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Sesaṃ aṭṭhamasadisamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc vứt phân, v.v. trên cây cỏ xanh. Là do sai bảo. Là tam Ưng Đối Trị. Đối với Tỳ-khưu là Tác Ác. Đối với Tỳ-khưu-ni, trên ruộng đã gieo hạt, cho đến khi mầm chưa mọc lên, thì phạm Tác Ác. Ở nơi không có cây cỏ xanh là nhị Tác Ác. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: trên ruộng đã vứt bỏ với nhận thức không có cây cỏ xanh, hoặc vứt bỏ sau khi đã hỏi chủ, và các vị bị mất trí, v.v. Phần còn lại tương tự như điều thứ tám.

Dutiyauccārachaḍḍanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới thứ hai liên quan đến việc vứt bỏ phân đã kết thúc.

10. Naccagītasikkhāpadavaṇṇanā
10. Tường giải về học giới liên quan đến múa, hát

Dasame naccanti antamaso moranaccampi. Gītanti antamaso dhammabhāṇakagītampi. Vāditanti antamaso udakabherivāditampi. Dassanāyāti etesu yaṃkiñci dassanāya gacchantiyā pade pade dukkaṭaṃ, yattha ṭhitā passati vā suṇāti vā, ekappayoge ekāpatti, taṃ taṃ disaṃ olokentiyā payoge payoge āpatti.
Ở điều thứ mười, ‘múa’ dù chỉ là điệu múa của con công. ‘Hát’ dù chỉ là bài hát của người thuyết pháp. ‘Nhạc cụ’ dù chỉ là tiếng trống nước. ‘Để xem,’ vị nào đi xem bất cứ thứ gì trong số này, mỗi bước chân là một tội Tác Ác. Khi đứng ở nơi nào mà thấy hoặc nghe, trong một lần cố gắng là một tội. Khi nhìn về hướng này hướng kia, mỗi lần cố gắng là một tội.

Rājagahe chabbaggiyā bhikkhuniyo ārabbha naccādīni dassanāya gamanavatthusmiṃ paññattaṃ, sayaṃ tāni vatthūni karontiyā, aññaṃ vā āṇāpentiyā, ‘‘cetiyassa upahāraṃ dethā’’ti īdisena pariyāyena vā bhaṇantiyā, ‘‘cetiyassa upahāraṃ karomā’’ti vā vutte ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchantiyā ca pācittiyamevāti sabbaaṭṭhakathāsu (pāci. aṭṭha. 835-837) vuttaṃ, bhikkhuno sabbattha dukkaṭaṃ. ‘‘Tumhākaṃ cetiyassa upaṭṭhānaṃ karomā’’ti vutte pana ‘‘upaṭṭhānakaraṇaṃ nāma sundara’’nti īdisaṃ pariyāyaṃ bhaṇantiyā, ārāme ṭhatvā passantiyā vā suṇantiyā vā, tathā attano ṭhitokāsaṃ āgantvā payojitaṃ paṭipathaṃ gacchantiyā sammukhībhūtaṃ salākabhattādike sati karaṇīye gantvā, āpadāsu vā samajjaṭṭhānaṃ pavisitvāpi passantiyā vā suṇantiyā vā, ummattikādīnañca anāpatti. Naccādīnaṃ aññataratā, aññatra anuññātakāraṇā gamanaṃ, dassanaṃ vā savanaṃ vāti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisāni, idaṃ pana lokavajjaṃ, akusalacittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Rājagaha, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu-ni, trong sự việc đi xem múa, v.v. Trong tất cả các sách Chú giải (pāci. aṭṭha. 835-837) đều nói rằng: vị nào tự mình thực hiện những việc ấy, hoặc ra lệnh cho người khác, hoặc nói bằng cách nói bóng gió như “Hãy cúng dường cho bảo tháp,” hoặc khi có người nói “Chúng tôi làm lễ cúng dường cho bảo tháp” mà chấp nhận bằng cách nói “Tốt lắm” thì cũng phạm Ưng Đối Trị. Đối với Tỳ-khưu, ở mọi nơi đều phạm Tác Ác. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: khi có người nói “Chúng tôi sẽ phục vụ cho bảo tháp của các ngài” mà nói bóng gió như “Việc phục vụ là tốt đẹp,” hoặc khi đứng trong tu viện mà xem hay nghe, cũng như khi có việc cần phải làm như nhận phiếu thức ăn, v.v., đi rồi gặp phải trên đường, hoặc khi gặp hoạn nạn, vào nơi hội hè mà xem hay nghe, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: một trong các việc múa, v.v., việc đi xem ngoài lý do được cho phép, và việc xem hoặc nghe. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu, nhưng đây là lỗi thế gian, tâm bất thiện, có ba cảm thọ.

Naccagītasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến múa, hát đã kết thúc.

Lasuṇavaggo paṭhamo .
Phẩm Tỏi là phẩm thứ nhất.

2. Rattandhakāravaggo
2. Phẩm Bóng Tối Ban Đêm

1. Rattandhakārasikkhāpadavaṇṇanā
1. Tường giải về học giới liên quan đến bóng tối ban đêm

Andhakāravaggassa paṭhame rattandhakāreti rattiandhakāre. Appadīpeti pajjotacandasūriyaaggīsu ekekenāpi anobhāsite. Purisenāti santiṭṭhituṃ sallapituñca viññunā manussapurisena saddhiṃ. Santiṭṭheyya vāti hatthapāse ṭhitamattāya pācittiyaṃ. Sallapeyyāti tattha ṭhatvā gehasitakathaṃ kathentiyāpi pācittiyameva.
Ở điều thứ nhất của phẩm Bóng Tối, ‘trong bóng tối ban đêm’ là trong bóng tối của ban đêm. ‘Không có đèn’ là nơi không được chiếu sáng bởi một trong các thứ: đèn, mặt trăng, mặt trời, lửa. ‘Với người nam’ là với một người nam hiểu biết để có thể đứng gần và trò chuyện. ‘Nên đứng gần hoặc,’ chỉ cần đứng trong tầm tay là phạm Ưng Đối Trị. ‘Nên trò chuyện,’ vị nào đứng ở đó mà nói chuyện thế gian cũng phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha evaṃ santiṭṭhanavatthusmiṃ paññattaṃ, purisassa hatthapāsaṃ vijahitvā, yakkhādīnaṃ hatthapāsaṃ avijahitvāpi santiṭṭhantiyā, sallapentiyā vā dukkaṭaṃ, yaṃkiñci viññuṃ dutiyaṃ gahetvā evaṃ karontiyā, arahopekkhāya, aññavihitāya, ummattikādīnañca anāpatti. Rattandhakāratā, purisassa hatthapāse ṭhānaṃ vā sallapanaṃ vā, sahāyābhāvo, rahopekkhatāti imānettha cattāri aṅgāni. Theyyasatthasamuṭṭhānaṃ, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc đứng gần như vậy. Vị nào đứng gần hoặc trò chuyện ngoài tầm tay của người nam, hoặc đứng gần dù không ngoài tầm tay của dạ-xoa, v.v. thì phạm Tác Ác. Vị nào làm như vậy khi có một người thứ hai hiểu biết đi cùng, với ý muốn ở nơi vắng vẻ, khi đang bận việc khác, và các vị bị mất trí, v.v. thì không phạm tội. Ở đây có bốn chi phần này: bóng tối ban đêm, việc đứng trong tầm tay của người nam hoặc trò chuyện, không có bạn đồng hành, và ý muốn ở nơi vắng vẻ. Khởi sanh từ trộm cắp và dao găm, là hành động, giải thoát do nhận thức, có chủ tâm, lỗi thế gian, thân nghiệp, khẩu nghiệp, tâm bất thiện, có ba cảm thọ.

Rattandhakārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến bóng tối ban đêm đã kết thúc.

2. Paṭicchannokāsasikkhāpadavaṇṇanā
2. Tường giải về học giới liên quan đến nơi kín đáo

Dutiye paṭicchanne okāseti kuṭṭādīsu yena kenaci paṭicchanne, idamevettha nānattaṃ.
Ở điều thứ hai, ‘ở nơi kín đáo’ là nơi được che kín bởi bất cứ thứ gì như tường, v.v., chỉ có sự khác biệt này ở đây.

Paṭicchannokāsasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến nơi kín đáo đã kết thúc.

3. Ajjhokāsasallapanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Tường giải về học giới liên quan đến việc trò chuyện ở nơi trống trải

Tatiye ajjhokāseti nānaṃ, sesaṃ ubhayatthāpi paṭhamasadisamevāti.
Ở điều thứ ba, ‘ở nơi trống trải’ là khác, phần còn lại ở cả hai nơi đều tương tự như điều thứ nhất.

Ajjhokāsasallapanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc trò chuyện ở nơi trống trải đã kết thúc.

4. Dutiyikauyyojanasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới liên quan đến việc cho người thứ hai đi

Catutthe rathikāyāti racchāyaṃ. Byūheti anividdharacchāyaṃ . Siṅghāṭaketi caccare. Nikaṇṇikaṃ vā jappeyyāti kaṇṇamūle kiñci jappeyya. Uyyojeyyāti anācāraṃ caritukāmatāya ‘‘gaccha tva’’nti dutiyikaṃ uyyojeyya. Pācittiyanti purimanayeneva tāva santiṭṭhanādīsu tīṇi pācittiyāni, uyyojentiyā pana uyyojane ca hatthapāsavijahane ca dukkaṭaṃ, vijahite pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tư, ‘ở đường phố’ là ở con đường. ‘Ở nơi đông người’ là ở con đường không có rào chắn. ‘Ở ngã tư’ là ở ngã ba đường. ‘Nên nói thầm hoặc,’ nên nói thầm điều gì đó vào tai. ‘Nên cho đi,’ nên cho người thứ hai đi với ý muốn làm điều không đúng đắn. ‘Ưng Đối Trị,’ theo cách thức trước, có ba tội Ưng Đối Trị trong việc đứng gần, v.v. Còn vị nào cho đi, khi cho đi và khi rời khỏi tầm tay thì phạm Tác Ác, khi đã rời khỏi thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha evaṃ santiṭṭhanavatthusmiṃ paññattaṃ, sesaṃ purimattayasadisameva. Anāpattiyaṃ pana ‘‘na anācāraṃ ācaritukāmā, sati karaṇīye dutiyikaṃ bhikkhuniṃ uyyojetī’’ti (pāci. 852) ettakaṃ adhikanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc đứng gần như vậy. Phần còn lại tương tự như ba điều trước. Trong phần không phạm tội, có thêm điểm này: “Không có ý muốn làm điều không đúng đắn, khi có việc cần làm, cho Tỳ-khưu-ni thứ hai đi” (pāci. 852).

Dutiyikauyyojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc cho người thứ hai đi đã kết thúc.

5. Anāpucchāpakkamanasikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới liên quan đến việc rời đi mà không hỏi

Pañcame purebhattanti aruṇuggamanaṃ upādāya yāva majjhanhikaṃ. Āsaneti pallaṅkassokāsabhūte. Sāmike anāpucchāti tasmiṃ kule yaṃkiñci viññuṃ manussaṃ anāpucchā. Pakkameyyāti ettha channassa anto nisīditvā anovassakaṃ ajjhokāse upacāraṃ atikkāmentiyā paṭhamapāde dukkaṭaṃ, dutiye pācittiyaṃ.
Ở điều thứ năm, ‘trước bữa ăn’ là từ lúc bình minh cho đến giữa trưa. ‘Trên chỗ ngồi’ là ở nơi có thể đặt giường nhỏ. ‘Mà không hỏi chủ nhà’ là không hỏi bất cứ người nào hiểu biết trong gia đình đó. ‘Nên rời đi,’ ở đây vị nào ngồi trong nhà có mái che, khi đi quá phạm vi không có mưa ở ngoài trời, ở bước chân thứ nhất phạm Tác Ác, ở bước chân thứ hai phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha anāpucchā pakkamanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, pallaṅkassa anokāse dukkaṭaṃ, tathā āpucchite anāpucchitasaññāya ceva vematikāya ca. Āpucchitasaññāya pana, asaṃhārime, gilānāya, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Purebhattatā, antaraghare nisajjā, āsanassa pallaṅkokāsatā, aññatra anuññātakāraṇā anāpucchanaṃ, vuttaparicchedātikkamoti imānettha pañca aṅgāni. Samuṭṭhānādīni kathinasadisāni, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc rời đi mà không hỏi. Là tam Ưng Đối Trị. Ở nơi không thể đặt giường nhỏ thì phạm Tác Ác. Tương tự như vậy khi đã hỏi mà có nhận thức là chưa hỏi và khi nghi ngờ. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: có nhận thức là đã hỏi, ở nơi không thể mang đi, khi bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có năm chi phần này: trước bữa ăn, ngồi trong nhà, chỗ ngồi là nơi có thể đặt giường nhỏ, không hỏi ngoài lý do được cho phép, và việc đi quá giới hạn đã nói. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về Kathina, nhưng đây là hành động và không phải hành động.

Anāpucchāpakkamanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc rời đi mà không hỏi đã kết thúc.

6. Anāpucchāabhinisīdanasikkhāpadavaṇṇanā
6. Tường giải về học giới liên quan đến việc ngồi xuống mà không hỏi

Chaṭṭhe pacchābhattanti majjhanhike vītivatte yāva sūriyassa atthaṅgamā. Abhinisīdeyya vāti ādimhi nisīditvā gacchantiyā ekā āpatti, anisīditvā nipajjitvāva gacchantiyāpi ekā, nisīditvā nipajjantiyā dve.
Ở điều thứ sáu, ‘sau bữa ăn’ là sau khi đã qua giữa trưa cho đến khi mặt trời lặn. ‘Nên ngồi xuống hoặc,’ vị nào ngồi xuống lúc đầu rồi đi thì phạm một tội. Vị nào không ngồi mà chỉ nằm rồi đi cũng phạm một tội. Vị nào ngồi rồi nằm thì phạm hai tội.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha āsane abhinisīdanavatthusmiṃ paññattaṃ , sesaṃ pañcamasadisameva. Yathā pana tattha asaṃhārime, evamidha dhuvapaññatte anāpattīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc ngồi xuống trên chỗ ngồi. Phần còn lại tương tự như điều thứ năm. Tuy nhiên, như ở đó có trường hợp không thể mang đi, ở đây không phạm tội trong trường hợp đã được chỉ định thường xuyên.

Anāpucchāabhinisīdanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc ngồi xuống mà không hỏi đã kết thúc.

7. Anāpucchāsantharaṇasikkhāpadavaṇṇanā
7. Tường giải về học giới liên quan đến việc trải ra mà không hỏi

Sattame vikāleti atthaṅgate sūriye. Seyyanti antamaso paṇṇasanthārampi, sesaṃ chaṭṭhasadisameva.
Ở điều thứ bảy, ‘vào lúc trái thời’ là sau khi mặt trời đã lặn. ‘Giường nằm’ là dù chỉ là tấm trải bằng lá cây. Phần còn lại tương tự như điều thứ sáu.

Idaṃ pana sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha vikāle kulāni upasaṅkamitvā sāmike anāpucchitvā seyyaṃ santharitvā abhinisīdanavatthusmiṃ paññattaṃ, anāpattiyañcettha dhuvapaññattaṃ nāma natthīti.
Điều này được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc đi đến các gia đình vào lúc trái thời, trải giường nằm rồi ngồi xuống mà không hỏi chủ nhà. Và ở đây không có trường hợp nào được gọi là đã được chỉ định thường xuyên trong phần không phạm tội.

Anāpucchāsantharaṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc trải ra mà không hỏi đã kết thúc.

8. Paraujjhāpanakasikkhāpadavaṇṇanā
8. Tường giải về học giới liên quan đến việc làm cho người khác bực mình

Aṭṭhame duggahitena dūpadhāritenāti yaṃ vuttaṃ, tato aññathā gahitena ca upadhāritena ca. Paranti ‘‘ahaṃ kirayye ayyaṃ na sakkaccaṃ upaṭṭhahāmī’’tiādinā (pāci. 869) nayena upasampannaṃ ujjhāpentiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tám, ‘do nắm bắt sai và ghi nhớ sai,’ là do nắm bắt và ghi nhớ khác với những gì đã được nói. ‘Người khác,’ vị nào làm cho người đã thọ Cụ túc giới bực mình bằng cách nói như sau: “Thưa ni trưởng, nghe nói con không chăm sóc ni trưởng một cách kính cẩn” (pāci. 869), thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha evaṃ paraṃ ujjhāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampannāya tikadukkaṭaṃ, ummattikādīnaṃyeva anāpatti. Duggahitatā, ujjhāpanaṃ, yaṃ ujjhāpeti, tassā upasampannatāti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc làm cho người khác bực mình như vậy. Là tam Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ Cụ túc giới là tam Tác Ác. Chỉ có các vị bị mất trí, v.v. là không phạm tội. Ở đây có ba chi phần này: việc nắm bắt sai, việc làm cho bực mình, và người bị làm cho bực mình đã thọ Cụ túc giới. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội trộm cắp, nhưng đây là cảm thọ khổ.

Paraujjhāpanakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc làm cho người khác bực mình đã kết thúc.

9. Paraabhisapanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Tường giải về học giới liên quan đến việc nguyền rủa người khác

Navame abhisapeyyāti sapathaṃ kareyya. Tattha ‘‘niraye upapajjāmi, niraye upapajjatū’’tievamādīni vadamānā nirayena abhisapati nāma, akkosatīti attho. ‘‘Gihinī homi, gihinī hotū’’tievamādīni vadamānā brahmacariyena. Tassā vācāya vācāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ chín, ‘nên nguyền rủa’ là nên thề thốt. Ở đó, người nào nói những lời như: “Tôi sẽ sanh vào địa ngục, mong rằng cô ấy sẽ sanh vào địa ngục,” được gọi là ‘nguyền rủa bằng địa ngục,’ có nghĩa là mắng nhiếc. Người nào nói những lời như: “Tôi sẽ làm người tại gia, mong rằng cô ấy sẽ làm người tại gia,” là nguyền rủa bằng ‘phạm hạnh.’ Mỗi lời nói của vị ấy đều phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ caṇḍakāḷiṃ ārabbha evaṃ abhisapanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampannāya tikadukkaṭaṃ, tiracchānayoniyā vā pettivisayena vā manussadobhaggena vā abhisapane dukkaṭaṃ. Atthadhammānusāsanipurekkhārānaṃ ummattikādīnañca anāpatti. Nirayena vā brahmacariyena vā abhisapanaṃ , upasampannatā, atthadhammapurekkhārādīnaṃ abhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni aṭṭhamasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī, trong sự việc nguyền rủa như vậy. Là tam Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ Cụ túc giới là tam Tác Ác. Khi nguyền rủa bằng cảnh giới súc sanh, cảnh giới ngạ quỷ hoặc sự bất hạnh của con người thì phạm Tác Ác. Không phạm tội trong các trường hợp: những người có ý định giáo huấn về pháp và lợi ích, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: việc nguyền rủa bằng địa ngục hoặc phạm hạnh, người bị nguyền rủa đã thọ Cụ túc giới, và không có ý định giáo huấn về pháp và lợi ích, v.v. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như điều thứ tám.

Paraabhisapanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc nguyền rủa người khác đã kết thúc.

10. Rodanasikkhāpadavaṇṇanā
10. Tường giải về học giới liên quan đến việc khóc lóc

Dasame vadhitvāti hatthādīhi paharitvā, ubhayaṃ karontiyāva pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười, ‘sau khi đánh’ là sau khi đánh bằng tay, v.v. Vị nào làm cả hai việc mới phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ caṇḍakāḷiṃ ārabbha attānaṃ vadhitvā rodanavatthusmiṃ paññattaṃ, kevalaṃ vadhantiyā vā rodantiyā vā dukkaṭameva. Ñātirogabhogabyasanehi phuṭṭhāya kevalaṃ rodantiyā eva na vadhantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Attānaṃ vadhanañceva, rodanañcāti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni samanubhāsanasadisāni, idaṃ pana kiriyamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī, trong sự việc tự đánh mình rồi khóc lóc. Vị nào chỉ đánh hoặc chỉ khóc thì chỉ phạm Tác Ác. Vị nào chỉ khóc mà không đánh khi gặp phải tai họa về thân quyến, bệnh tật, tài sản, và các vị bị mất trí, v.v. thì không phạm tội. Ở đây có hai chi phần này: việc tự đánh mình và việc khóc lóc. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội cảnh cáo, nhưng đây chỉ là hành động.

Rodanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc khóc lóc đã kết thúc.

Rattandhakāravaggo dutiyo.
Phẩm Bóng Tối Ban Đêm là phẩm thứ hai.

3. Naggavaggo
3. Phẩm Lõa Lồ

1. Naggasikkhāpadavaṇṇanā
1. Tường giải về học giới liên quan đến việc lõa lồ

Naggavaggassa paṭhame naggāti anivatthā vā apārutā vā. Evañhi nahāyantiyā sabbappayogesu dukkaṭaṃ, nahānapariyosāne pācittiyaṃ.
Ở điều thứ nhất của phẩm Lõa Lồ, ‘lõa lồ’ là không mặc hoặc không khoác y. Vị nào tắm như vậy, trong tất cả các cố gắng đều phạm Tác Ác, khi kết thúc việc tắm thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha evaṃ nahānavatthusmiṃ paññattaṃ, udakasāṭikacīvare acchinne vā naṭṭhe vā, ‘‘mahagghaṃ idaṃ disvā corāpi hareyyu’’nti evarūpāsu āpadāsu vā nahāyantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Naggatā, anuññātakāraṇābhāvo, nahānapariyosānanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc tắm như vậy. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào tắm khi y tắm bị cướp hoặc bị mất, hoặc trong các trường hợp hoạn nạn như: “Thấy y này quý giá, bọn trộm cũng có thể lấy đi,” và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: sự lõa lồ, không có lý do được cho phép, và việc kết thúc tắm. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Naggasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc lõa lồ đã kết thúc.

2. Udakasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā
2. Tường giải về học giới liên quan đến y tắm

Dutiye sāvatthiyaṃ chabbaggiyā bhikkhuniyo ārabbha appamāṇikāyo udakasāṭikāyo dhāraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, sesamettha sabbaṃ ratanavagge nisīdanasikkhāpade vuttanayeneva veditabbanti.
Ở điều thứ hai, (học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu-ni, trong sự việc giữ các y tắm không đúng kích cỡ. Phần còn lại ở đây nên được hiểu theo cách đã được nói trong học giới về chỗ ngồi trong phẩm về vật báu.

Udakasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến y tắm đã kết thúc.

3. Cīvarasibbanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Tường giải về học giới liên quan đến việc may y

Tatiye visibbetvāti dussibbitaṃ punasibbanatthāya visibbetvā. Anantarāyikinīti dasasu antarāyesu ekekasmimpi asati. Aññatra catūhapañcāhāti visibbitadivasato pañca divase atikkāmetvā ‘‘neva sibbissāmi , na sibbāpanāya ussukkaṃ karissāmī’’ti dhuraṃ nikkhittamatte pācittiyaṃ.
Ở điều thứ ba, ‘sau khi tháo ra’ là sau khi tháo y đã được may không tốt để may lại. ‘Không có trở ngại’ là khi không có một trong mười điều trở ngại. ‘Ngoài ra từ bốn đến năm ngày,’ sau khi đã quá năm ngày kể từ ngày tháo ra, ngay khi buông bỏ trách nhiệm với ý nghĩ “Ta sẽ không may, cũng không cố gắng cho người khác may,” thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha cīvaraṃ visibbetvā na sibbanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampannāya tikadukkaṭaṃ, tathā ubhinnampi aññasmiṃ parikkhāre. Yā pana antarāyikinī vā hoti, pariyesitvā vā kiñci na labhati, karontī vā pañcāhaṃ atikkāmeti, tassā ca, gilānāya ca, āpadāsu ca, ummattikādīnañca anāpatti. Nivāsanapārupanupagacīvaratā, upasampannāya santakatā, sibbanatthāya visibbanaṃ vā visibbāpanaṃ vā, aññatra anuññātakāraṇā pañcāhātikkamo, dhuranikkhepoti imānettha pañca aṅgāni. Samuṭṭhānādīni samanubhāsanasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc tháo y ra mà không may lại. Là tam Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ Cụ túc giới là tam Tác Ác. Tương tự như vậy đối với các vật dụng khác của cả hai. Vị nào có trở ngại, hoặc tìm kiếm mà không nhận được gì, hoặc đang làm mà quá năm ngày, vị ấy, và vị bị bệnh, và trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. thì không phạm tội. Ở đây có năm chi phần này: là y nội, y vai trái hoặc y mặc trong, thuộc sở hữu của người đã thọ Cụ túc giới, việc tháo ra hoặc cho tháo ra để may, quá năm ngày ngoài lý do được cho phép, và việc buông bỏ trách nhiệm. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội cảnh cáo.

Cīvarasibbanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc may y đã kết thúc.

4. Saṅghāṭicārasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới liên quan đến việc luân phiên y tăng-già-lê

Catutthe pañca ahāni pañcāhaṃ, pañcāhameva pañcāhikaṃ. Saṅghāṭīnaṃ cāro saṅghāṭicāro, paribhogavasena vā otāpanavasena vā saṅghaṭitaṭṭhena ‘saṅghāṭī’ti laddhanāmaṃ ticīvaraṃ, udakasāṭikā, saṃkaccikāti imesaṃ pañcannaṃ cīvarānaṃ parivattananti attho. Atikkāmeyya pācittiyanti chaṭṭhe aruṇuggamane ekasmiṃ cīvare vuttanayena aparivattite ekā āpatti, pañcasu pañca.
Ở điều thứ tư, năm ngày là ‘pañcāhaṃ,’ chính năm ngày là ‘pañcāhikaṃ.’ Việc luân phiên các y tăng-già-lê là ‘saṅghāṭicāro,’ có nghĩa là sự thay đổi năm loại y này: ba y được gọi là ‘saṅghāṭī’ do được kết lại với nhau để sử dụng hoặc để phơi, y tắm, và áo lót. ‘Nên vượt quá thì phạm Ưng Đối Trị,’ vào lúc bình minh của ngày thứ sáu, nếu một trong các y không được thay đổi theo cách đã nói, thì phạm một tội; nếu cả năm y thì phạm năm tội.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha cīvaraṃ nikkhipitvā santaruttarena janapadacārikaṃ pakkamanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, pañcāhānatikkante dvikadukkaṭaṃ. Tasmiṃ pana anatikkantasaññāya, pañcamaṃ divasaṃ pañca cīvarāni nivāsentiyā vā pārupantiyā vā otāpentiyā vā, gilānāya, ‘‘idaṃ me cīvaraṃ mahagghaṃ īdise corabhaye na sakkā dhāretu’’nti evarūpāsu āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Pañcannaṃ cīvarānaṃ aññataratā, pañcāhātikkamo, anuññātakāraṇābhāvo, aparivattananti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni kathinasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc cất y rồi đi du hành trong nước với y mặc bên trong và y vai trái. Là tam Ưng Đối Trị. Khi chưa quá năm ngày là nhị Tác Ác. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: vị nào có nhận thức là chưa quá, vào ngày thứ năm mặc, khoác hoặc phơi năm y; vị bị bệnh; trong các trường hợp hoạn nạn như: “Y này của tôi quý giá, trong cơn hoạn nạn trộm cướp này không thể giữ được;” và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có bốn chi phần này: một trong năm loại y, việc quá năm ngày, không có lý do được cho phép, và việc không thay đổi. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về Kathina.

Saṅghāṭicārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc luân phiên y tăng-già-lê đã kết thúc.

5. Cīvarasaṅkamanīyasikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới liên quan đến y cần được chuyển giao

Pañcame cīvarasaṅkamanīyanti saṅkametabbaṃ cīvaraṃ, aññissā santakaṃ anāpucchā gahitaṃ puna paṭidātabbaṃ pañcannaṃ aññataraṃ cīvaranti attho. Dhāreyyāti sace taṃ nivāseti vā pārupati vā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ năm, ‘y cần được chuyển giao’ là y phải được chuyển giao, có nghĩa là một trong năm loại y thuộc sở hữu của người khác được lấy mà không hỏi và phải được trả lại. ‘Nên giữ,’ nếu vị ấy mặc hoặc khoác y đó thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha bhikkhuniyā cīvaraṃ ādāya anāpucchā pārupanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampannāya tikadukkaṭaṃ. Yā pana tāya vā dinnaṃ, taṃ vā āpucchā, acchinnanaṭṭhacīvarikā vā hutvā, ‘‘idaṃ me cīvaraṃ mahagghaṃ īdise corabhaye na sakkā dhāretu’’nti evarūpāsu āpadāsu vā dhāreti, tassā, ummattikādīnañca anāpatti. Cīvarasaṅkamanīyatā, upasampannāya santakatā, anuññātakāraṇābhāvo, dhāraṇanti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamakathinasadisāni, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc lấy y của Tỳ-khưu-ni rồi khoác mà không hỏi. Là tam Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ Cụ túc giới là tam Tác Ác. Vị nào giữ y đã được người kia cho, hoặc đã hỏi người kia, hoặc là người bị cướp mất y, hoặc giữ trong các trường hợp hoạn nạn như: “Y này của tôi quý giá, trong cơn hoạn nạn trộm cướp này không thể giữ được,” vị ấy, và các vị bị mất trí, v.v. thì không phạm tội. Ở đây có bốn chi phần này: y cần được chuyển giao, thuộc sở hữu của người đã thọ Cụ túc giới, không có lý do được cho phép, và việc giữ. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về Kathina thứ nhất, nhưng đây là hành động và không phải hành động.

Cīvarasaṅkamanīyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến y cần được chuyển giao đã kết thúc.

6. Gaṇacīvarasikkhāpadavaṇṇanā
6. Tường giải về học giới liên quan đến y của nhóm

Chaṭṭhe gaṇassāti bhikkhunisaṅghassa. Cīvaralābhanti vikappanupagampi pacchimaṃ labhitabbaṃ cīvaraṃ. Antarāyaṃ kareyyāti yathā te dātukāmā na denti, evaṃ parakkameyya. Pācittiyanti sace tassā vacanena te na denti, bhikkhuniyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ sáu, ‘của nhóm’ là của Tăng chúng Tỳ-khưu-ni. ‘Sự được lợi về y’ là y cuối cùng có thể nhận được, kể cả y dùng để làm tịnh thí. ‘Nên gây trở ngại,’ nên cố gắng để những người có ý định cho không cho nữa. ‘Ưng Đối Trị,’ nếu do lời nói của vị ấy mà họ không cho, Tỳ-khưu-ni ấy phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha gaṇassa cīvaralābhantarāyakaraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, aññasmiṃ parikkhāre dukkaṭaṃ, sambahulānaṃ pana ekabhikkhuniyā vā cīvaralābhepi dukkaṭameva. ‘‘Samagghakāle dassathā’’ti evaṃ ānisaṃsaṃ dassetvā nivārentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Vikappanupagapacchimatā, saṅghassa pariṇatabhāvo, vinā ānisaṃsadassanena antarāyakaraṇanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc gây trở ngại cho sự được lợi về y của nhóm. Đối với vật dụng khác thì phạm Tác Ác. Đối với sự được lợi về y của nhiều người hoặc của một Tỳ-khưu-ni cũng chỉ phạm Tác Ác. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào ngăn cản bằng cách chỉ ra lợi ích như: “Hãy cho vào lúc hòa hợp;” và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: là y cuối cùng có thể dùng để làm tịnh thí, đã được hướng đến Tăng chúng, và việc gây trở ngại mà không chỉ ra lợi ích. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội trộm cắp.

Gaṇacīvarasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến y của nhóm đã kết thúc.

7. Paṭibāhanasikkhāpadavaṇṇanā
7. Tường giải về học giới liên quan đến việc ngăn cản

Sattame dhammikaṃ cīvaravibhaṅganti samaggena saṅghena sannipatitvā karīyamānaṃ cīvaravibhaṅga. Paṭibāheyyāti paṭisedheyya, evaṃ paṭisedhentiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ bảy, ‘việc phân chia y hợp pháp’ là việc phân chia y được thực hiện bởi Tăng chúng đã tụ họp trong sự hòa hợp. ‘Nên ngăn cản,’ nên phản đối. Vị nào phản đối như vậy thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha dhammikaṃ cīvaravibhaṅgaṃ paṭibāhanavatthusmiṃ paññattaṃ, dhammike vematikāya, adhammike dhammikasaññāya ceva vematikāya ca dukkaṭaṃ. Ubhayattha adhammikasaññāya, ānisaṃsaṃ dassetvā paṭibāhantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Cīvaravibhaṅgassa dhammikatā, dhammikasaññitā, vinā ānisaṃsena paṭibāhananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc ngăn cản việc phân chia y hợp pháp. Khi nghi ngờ về tính hợp pháp, khi có nhận thức là không hợp pháp đối với việc hợp pháp và khi nghi ngờ, thì phạm Tác Ác. Khi có nhận thức là không hợp pháp đối với cả hai trường hợp, vị nào ngăn cản bằng cách chỉ ra lợi ích, và các vị bị mất trí, v.v. thì không phạm tội. Ở đây có ba chi phần này: việc phân chia y là hợp pháp, có nhận thức là hợp pháp, và việc ngăn cản mà không có lợi ích. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội trộm cắp.

Paṭibāhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc ngăn cản đã kết thúc.

8. Cīvaradānasikkhāpadavaṇṇanā
8. Tường giải về học giới liên quan đến việc cho y

Aṭṭhame samaṇacīvaranti kappakataṃ nivāsanapārupanupagaṃ, evarūpaṃ ṭhapetvā pañca sahadhammike mātāpitaro ca yassa kassaci gahaṭṭhassa vā pabbajitassa vā pariccajitvā dentiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tám, ‘y của Sa-môn’ là y nội, y vai trái và y mặc trong đã được làm đúng luật. Vị nào cho vĩnh viễn y như vậy cho bất cứ người tại gia hay xuất gia nào, ngoại trừ năm vị đồng phạm hạnh và cha mẹ, thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha agārikassa samaṇacīvaradānavatthusmiṃ paññattaṃ, bhikkhuno dukkaṭaṃ. Mātāpitūnaṃ pariccajitvāpi, aññesaṃ tāvakālikameva dentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Samaṇacīvaratā, ṭhapetvā sahadhammike ca mātāpitaro ca aññesaṃ dānaṃ, atāvakālikatāti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni sañcarittasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc cho y của Sa-môn cho người tại gia. Đối với Tỳ-khưu là Tác Ác. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào cho vĩnh viễn cho cha mẹ, cho những người khác chỉ là tạm thời, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: là y của Sa-môn, việc cho những người khác ngoài các vị đồng phạm hạnh và cha mẹ, và không phải là tạm thời. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội môi giới.

Cīvaradānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc cho y đã kết thúc.

9. Kālaatikkamanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Tường giải về học giới liên quan đến việc quá thời hạn

Navame dubbalacīvarapaccāsāyāti dubbalāya cīvarapaccāsāya, ‘‘sace sakkoma dassāmā’’ti ettakamattaṃ sutvā uppāditāya āsāyāti attho . Cīvarakālasamayaṃ atikkāmeyyāti vassaṃvuṭṭhabhikkhunīhi kālacīvare bhājiyamāne ‘‘āgameyyātha, ayye, atthi saṅghassa cīvarapaccāsā’’ti vatvā taṃ cīvaravibhaṅgaṃ cīvarakālaṃ atikkāmeyya, tassā anatthate kathine vassānassa pacchimamāsaṃ, atthate kathine kathinubbhāradivasaṃ atikkāmentiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ chín, ‘do hy vọng mong manh về y’ có nghĩa là do hy vọng mong manh về y, là hy vọng được nảy sinh sau khi nghe chỉ chừng này: “Nếu có thể, chúng tôi sẽ cho.” ‘Nên để quá thời hạn của mùa y,’ khi các Tỳ-khưu-ni đã an cư xong đang phân chia y theo mùa, vị nào nói: “Thưa các ni trưởng, xin hãy chờ, Tăng chúng có hy vọng về y,” rồi để việc phân chia y đó quá thời hạn của mùa y. Đối với vị ấy, nếu Kathina chưa được trải, khi để quá tháng cuối của mùa an cư thì phạm Ưng Đối Trị; nếu Kathina đã được trải, khi để quá ngày xả Kathina thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha dubbalacīvarapaccāsāya cīvarakālasamayaṃ atikkamanavatthusmiṃ paññattaṃ, dubbalacīvare vematikāya, adubbalacīvare dubbalacīvarasaññāya ceva vematikāya ca dukkaṭaṃ. Ubhayattha adubbalacīvarasaññāya, kiñcāpi ‘na sakkomā’ti vadanti, ‘‘idāni pana tesaṃ kappāso vā uppajjissati, saddho vā puriso āgamissati, tasmiṃ āgate addhā dassantī’’ti evaṃ ānisaṃsaṃ dassetvā nivārentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Dubbalacīvaratā, dubbalasaññitā, vinā ānisaṃsena nivāraṇanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc để quá thời hạn của mùa y do hy vọng mong manh về y. Khi nghi ngờ về y mong manh, khi có nhận thức là y mong manh đối với y không mong manh và khi nghi ngờ, thì phạm Tác Ác. Khi có nhận thức là y không mong manh đối với cả hai trường hợp, mặc dù họ nói ‘chúng tôi không thể,’ vị nào ngăn cản bằng cách chỉ ra lợi ích như: “Bây giờ bông gòn của họ sẽ mọc, hoặc một người có đức tin sẽ đến, khi người ấy đến chắc chắn họ sẽ cho,” và các vị bị mất trí, v.v. thì không phạm tội. Ở đây có ba chi phần này: y là mong manh, có nhận thức là mong manh, và việc ngăn cản mà không có lợi ích. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội trộm cắp.

Kālaatikkamanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc quá thời hạn đã kết thúc.

10. Kathinuddhārasikkhāpadavaṇṇanā
10. Tường giải về học giới liên quan đến việc xả Kathina

Dasame dhammikaṃ kathinuddhāranti sabbāsaṃ bhikkhunīnaṃ akālacīvaraṃ dātukāmena upāsakena yattako atthāramūliko ānisaṃso, tato adhikaṃ vā samakaṃ vā datvā yācitena samaggena bhikkhunisaṅghena yaṃ kathinaṃ ñattidutiyakammena antarā uddharīyati, tassa so uddhāro ‘dhammiko’ti vuccati, evarūpaṃ kathinuddhāranti attho. Paṭibāheyyāti nivāreyya, tassa evarūpaṃ kathinuddhāraṃ nivārentiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười, ‘việc xả Kathina hợp pháp’ có nghĩa là, khi một người cư sĩ muốn cho y trái mùa cho tất cả các Tỳ-khưu-ni, sau khi đã cho bằng hoặc nhiều hơn lợi ích của người trải y, và Tăng chúng Tỳ-khưu-ni hòa hợp đã được thỉnh cầu, Kathina được xả giữa chừng bằng Tăng sự với một lần bạch và một lần yết-ma, việc xả đó được gọi là ‘hợp pháp.’ ‘Nên ngăn cản,’ nên cản trở. Vị nào cản trở việc xả Kathina như vậy thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha kathinuddhāraṃ paṭibāhanavatthusmiṃ paññattaṃ, sesaṃ sattame vuttanayeneva veditabbanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc ngăn cản việc xả Kathina. Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã được nói ở điều thứ bảy.

Kathinuddhārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc xả Kathina đã kết thúc.

Naggavaggo tatiyo.
Phẩm Lõa Lồ là phẩm thứ ba.

4. Tuvaṭṭavaggo
4. Phẩm Cùng Nằm

1. Ekamañcatuvaṭṭanasikkhāpadavaṇṇanā
1. Tường giải về học giới liên quan đến việc cùng nằm trên một giường

Tuvaṭṭavaggassa paṭhame tuvaṭṭeyyunti nipajjeyyuṃ. Tāsu pana ekāya vā nipannāya aparā nipajjatu, dvepi vā saheva nipajjantu, dvinnampi pācittiyaṃ.
Ở điều thứ nhất của phẩm Cùng Nằm, ‘cùng nằm’ là cùng nằm xuống. Trong số họ, hoặc một người đã nằm rồi người kia nằm xuống, hoặc cả hai cùng nằm xuống một lúc, cả hai đều phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha dvinnaṃ ekamañce tuvaṭṭanavatthusmiṃ paññattaṃ, sace pana ekāya nipannāya ekā nisīdati, ubho vā nisīdanti, tāsaṃ, ummattikādīnañca anāpatti. Ekamañcatā, dvinnaṃ tuvaṭṭananti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc hai người cùng nằm trên một giường. Tuy nhiên, nếu một người đã nằm mà một người ngồi, hoặc cả hai cùng ngồi, thì họ và các vị bị mất trí, v.v. không phạm tội. Ở đây có hai chi phần này: một giường, và việc hai người cùng nằm. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Ekamañcatuvaṭṭanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc cùng nằm trên một giường đã kết thúc.

2. Ekattharaṇatuvaṭṭanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Tường giải về học giới liên quan đến việc cùng nằm trên một tấm trải

Dutiye ekaṃ attharaṇañceva pāvuraṇañca etāsanti ekattharaṇapāvuraṇā, saṃhārimānaṃ pāvārattharaṇakaṭasārakādīnaṃ ekaṃ antaṃ attharitvā ekaṃ pārupitvā tuvaṭṭentīnametaṃ adhivacanaṃ. Pācittiyanti taṃyeva attharitvā taṃ pārupitvā nipajjantīnaṃ pācittiyaṃ.
Ở điều thứ hai, ‘những người có chung một tấm trải và tấm đắp’ là những người có chung một tấm trải và tấm đắp. Đây là tên gọi cho những người trải một đầu của các vật có thể mang đi như tấm đắp, tấm trải, chiếu, v.v., rồi đắp một đầu và cùng nằm. ‘Ưng Đối Trị’ là những người trải chính vật đó và đắp chính vật đó rồi nằm xuống thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha evaṃ tuvaṭṭanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, attharaṇe vā pāvuraṇe vā ekasmiṃ dukkaṭaṃ, nānattharaṇapāvuraṇe dvikadukkaṭaṃ. Tasmiṃ pana nānattharaṇapāvuraṇasaññāya, vavatthānaṃ dassetvā nipajjantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Sesaṃ paṭhamasadisamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc cùng nằm như vậy. Là tam Ưng Đối Trị. Trong trường hợp chỉ có một tấm trải hoặc một tấm đắp thì phạm Tác Ác. Khi có tấm trải và tấm đắp khác nhau là nhị Tác Ác. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: có nhận thức là tấm trải và tấm đắp khác nhau, vị nào nằm xuống sau khi đã chỉ ra ranh giới, và các vị bị mất trí, v.v. Phần còn lại tương tự như điều thứ nhất.

Ekattharaṇatuvaṭṭanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc cùng nằm trên một tấm trải đã kết thúc.

3. Aphāsukaraṇasikkhāpadavaṇṇanā
3. Tường giải về học giới liên quan đến việc làm cho không thoải mái

Tatiye aphāsunti ‘‘iminā imissā aphāsu bhavissatī’’ti anāpucchā purato caṅkamanaṭṭhānanissajjādayo vā uddisauddisāpanaparipucchanasajjhāyaṃ vā karontiyā caṅkamane nivattanagaṇanāya, ṭhānādīsu payogagaṇanāya, uddesādīsu padagaṇanāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ ba, ‘không thoải mái,’ vị nào, với ý nghĩ “Bằng việc này, vị kia sẽ không thoải mái,” mà không hỏi, đi kinh hành, đứng, ngồi, v.v. ở phía trước, hoặc đọc thuộc lòng, cho đọc thuộc lòng, hỏi, tụng đọc, thì phạm Ưng Đối Trị theo số lần quay lại khi kinh hành, theo số lần cố gắng khi đứng, v.v., và theo số câu khi đọc thuộc lòng, v.v.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha sañcicca aphāsukaraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampannāya tikadukkaṭaṃ, na aphāsukāmatāya, āpucchā purato caṅkamanādīni karontiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Upasampannatā, aphāsukāmatā, aphāsukaraṇaṃ, anāpucchananti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana kiriyākiriyaṃ, dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc cố ý làm cho không thoải mái. Là tam Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ Cụ túc giới là tam Tác Ác. Không phạm tội trong các trường hợp: không có ý muốn làm cho không thoải mái, vị nào đi kinh hành, v.v. ở phía trước sau khi đã hỏi, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có bốn chi phần này: người kia đã thọ Cụ túc giới, có ý muốn làm cho không thoải mái, việc làm cho không thoải mái, và không hỏi. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội trộm cắp, nhưng đây là hành động và không phải hành động, cảm thọ khổ.

Aphāsukaraṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc làm cho không thoải mái đã kết thúc.

4. Naupaṭṭhāpanasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới liên quan đến việc không chăm sóc

Catutthe dukkhitanti gilānaṃ. Sahajīvininti saddhivihāriniṃ. Neva upaṭṭhaheyyāti tassā upaṭṭhānaṃ sayaṃ vā akarontiyā, parehi vā akārentiyā dhuraṃ nikkhittamatte pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tư, ‘bị đau khổ’ là bị bệnh. ‘Bạn đồng trú’ là vị cùng ở. ‘Không chăm sóc,’ vị nào không tự mình chăm sóc, hoặc không nhờ người khác chăm sóc, ngay khi buông bỏ trách nhiệm thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha dukkhitaṃ sahajīviniṃ anupaṭṭhānavatthusmiṃ paññattaṃ, antevāsiniyā vā anupasampannāya vā dukkaṭaṃ, dasasu aññatarantarāye sati pariyesitvā alabhantiyā, gilānāya, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Gilānatā, saddhivihāritā, anuññātakāraṇābhāvo, upaṭṭhāne dhuranikkhepoti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni samanubhāsanasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc không chăm sóc bạn đồng trú bị đau khổ. Đối với đệ tử hoặc người chưa thọ Cụ túc giới thì phạm Tác Ác. Không phạm tội trong các trường hợp: khi có một trong mười điều trở ngại, vị nào tìm kiếm mà không tìm được, bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có bốn chi phần này: bị bệnh, là bạn đồng trú, không có lý do được cho phép, và việc buông bỏ trách nhiệm chăm sóc. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội cảnh cáo.

Naupaṭṭhāpanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc không chăm sóc đã kết thúc.

5. Nikkaḍḍhanasikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới liên quan đến việc đuổi đi

Pañcame upassayaṃ datvāti sakavāṭabaddhaṃ attano puggalikavihāraṃ datvā. Nikkaḍḍheyyāti bahūnipi dvārāni ekappayogena nikkaḍḍhentiyā ekā āpatti, nānāpayogehi payogagaṇanāya āpattiyo, āṇattiyampi eseva nayo. Sace pana ‘‘imañcimañca dvāraṃ atikkāmehī’’ti āṇāpeti, ekāya āṇattiyā eva dvāragaṇanāya āpattiyo.
Ở điều thứ năm, ‘sau khi đã cho chỗ ở’ là sau khi đã cho trú xứ cá nhân của mình có cổng rào. ‘Nên đuổi đi,’ vị nào đuổi đi qua nhiều cửa trong một lần cố gắng thì phạm một tội. Với nhiều cố gắng khác nhau thì phạm tội theo số lần cố gắng. Trong trường hợp ra lệnh cũng theo cách này. Tuy nhiên, nếu ra lệnh rằng “Hãy đi qua cửa này và cửa này,” chỉ với một lần ra lệnh mà phạm tội theo số cửa.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha etādise vatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, akavāṭabaddhato dukkaṭaṃ, anupasampannāya tikadukkaṭaṃ, sakavāṭabaddhato vā akavāṭabaddhato vā ubhinnampi parikkhāranikkaḍḍhane dukkaṭameva, sesaṃ saṅghikavihāranikkaḍḍhanasikkhāpade vuttanayamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến sự việc tương tự. Là tam Ưng Đối Trị. Từ nơi không có cổng rào thì phạm Tác Ác. Đối với người chưa thọ Cụ túc giới là tam Tác Ác. Việc đuổi đi các vật dụng của cả hai từ nơi có cổng rào hoặc không có cổng rào cũng chỉ phạm Tác Ác. Phần còn lại theo cách đã được nói trong học giới về việc đuổi đi khỏi trú xứ của Tăng chúng.

Nikkaḍḍhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc đuổi đi đã kết thúc.

6. Saṃsaṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā
6. Tường giải về học giới liên quan đến việc sống chung lẫn lộn

Chaṭṭhaṃ uttānapadatthameva. Sāvatthiyaṃ caṇḍakāḷiṃ ārabbha saṃsaṭṭhavihāravatthusmiṃ paññattaṃ, sesamettha paṭhamaariṭṭhasikkhāpade vuttavinicchayasadisamevāti.
Điều thứ sáu có ý nghĩa rõ ràng. (Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī, trong sự việc sống chung lẫn lộn. Phần còn lại ở đây tương tự như sự quyết đoán đã được nói trong học giới thứ nhất về Ariṭṭha.

Saṃsaṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc sống chung lẫn lộn đã kết thúc.

7. Antoraṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā
7. Tường giải về học giới liên quan đến việc ở trong xứ

Sattame antoraṭṭheti yassa vijite viharati, tassa raṭṭhe. Asatthikā cārikanti vinā satthena gacchantiyā, gāmantaragaṇanāya, agāmake araññe addhayojanagaṇanāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ bảy, ‘trong xứ’ là trong xứ của vị vua mà mình đang ở. ‘Du hành không có vũ khí,’ vị nào đi mà không có vũ khí, phạm Ưng Đối Trị theo số làng đi qua, trong rừng không có làng thì theo số nửa do-tuần.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha vuttanayeneva desacārikaṃ pakkamanavatthusmiṃ paññattaṃ. Satthena saha gacchantiyā, kheme appaṭibhaye, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Antoraṭṭhatā, akhematā, anuññātakāraṇābhāvo, cārikaṃ pakkamananti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc đi du hành trong nước theo cách đã nói. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào đi cùng với vũ khí, ở nơi an toàn, không có nguy hiểm, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có bốn chi phần này: ở trong xứ, không an toàn, không có lý do được cho phép, và việc đi du hành. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Antoraṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc ở trong xứ đã kết thúc.

8. Tiroraṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā
8. Tường giải về học giới liên quan đến việc ở ngoài xứ

Aṭṭhame tiroraṭṭheti yassa vijite viharati, taṃ ṭhapetvā aññassa raṭṭhe. Sesaṃ sattame vuttanayeneva veditabbaṃ, nagaraṃ panettha rājagahanti.
Ở điều thứ tám, ‘ngoài xứ’ là ở xứ của vị vua khác, ngoại trừ xứ mà mình đang ở. Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã nói ở điều thứ bảy. Thành phố ở đây là Rājagaha.

Tiroraṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc ở ngoài xứ đã kết thúc.

9. Antovassasikkhāpadavaṇṇanā
9. Tường giải về học giới liên quan đến việc ở trong mùa an cư

Navame antovassanti purimaṃ vā temāsaṃ, pacchimaṃ vā temāsaṃ avasitvā tassa vassassa antoyeva. Idha sattāhakaraṇīyena vā kenaci ubbaḷhāya vā āpadāsu vā gacchantiyā ummattikādīnañca anāpatti. Sesaṃ aṭṭhamasadisamevāti.
Ở điều thứ chín, ‘trong mùa an cư’ là sau khi đã trải qua ba tháng đầu hoặc ba tháng cuối, và vẫn còn trong mùa an cư đó. Ở đây, không phạm tội trong các trường hợp: vị nào đi do có việc cần làm trong bảy ngày, hoặc do bị thúc ép, hoặc trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Phần còn lại tương tự như điều thứ tám.

Antovassasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc ở trong mùa an cư đã kết thúc.

10. Cārikanapakkamanasikkhāpadavaṇṇanā
10. Tường giải về học giới liên quan đến việc không đi du hành

Dasame vassaṃvuṭṭhāti purimaṃ vā temāsaṃ, pacchimaṃ vā temāsaṃ vuṭṭhā. Chappañcayojanānīti ettha pavāretvā pañca yojanāni gantumpi vaṭṭati, chasu vattabbameva natthi. Sace pana tīṇi gantvā teneva maggena paccāgacchati, na vaṭṭati, aññena āgantuṃ vaṭṭati. ‘‘Vuttappamāṇaṃ addhānaṃ na gacchissāmī’’ti dhure nikkhittamatte pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười, ‘đã an cư xong’ là đã trải qua ba tháng đầu hoặc ba tháng cuối. ‘Năm hoặc sáu do-tuần,’ ở đây sau khi đã làm lễ Tự tứ, được phép đi đến năm do-tuần, còn sáu do-tuần thì không cần phải nói. Tuy nhiên, nếu đi được ba (do-tuần) rồi quay về bằng con đường đó thì không được phép. Được phép quay về bằng con đường khác. Ngay khi buông bỏ trách nhiệm với ý nghĩ “Ta sẽ không đi quãng đường theo quy định,” thì phạm Ưng Đối Trị.

Rājagahe sambahulā bhikkhuniyo ārabbha vassaṃ vasitvā cārikaṃ apakkamanavatthusmiṃ paññattaṃ. Antarāye sati, pariyesitvā dutiyikaṃ bhikkhuniṃ alabhantiyā, gilānāya, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Vassaṃvuṭṭhatā, anuññātakāraṇābhāvo, pañcayojanānatikkamoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisāni, idaṃ pana akiriyaṃ, dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Rājagaha, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc không đi du hành sau khi đã an cư. Không phạm tội trong các trường hợp: khi có trở ngại, vị nào tìm kiếm mà không tìm được Tỳ-khưu-ni thứ hai, bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: đã an cư xong, không có lý do được cho phép, và không đi quá năm do-tuần. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội Bất Cộng Trụ thứ nhất, nhưng đây là không hành động, cảm thọ khổ.

Cārikanapakkamanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc không đi du hành đã kết thúc.

Tuvaṭṭavaggo catuttho.
Phẩm Cùng Nằm là phẩm thứ tư.

5. Cittāgāravaggo
5. Phẩm Nhà Tranh

1. Rājāgārasikkhāpadavaṇṇanā
1. Tường giải về học giới liên quan đến cung điện của vua

Cittāgāravaggassa paṭhame rājāgāranti rañño kīḷanagharaṃ. Cittāgāranti kīḷanacittasālaṃ. Ārāmanti kīḷanaupavanaṃ. Uyyānanti kīḷanuyyānaṃ. Pokkharaṇinti kīḷanapokkharaṇiṃ. Dassanāyāti ‘‘etesu yaṃkiñci passissāmī’’ti gacchantiyā pade pade dukkaṭaṃ, yattha ṭhatvā passati, tattha padaṃ anuddharitvā pañcāpi passantiyā ekāva āpatti. Sace pana taṃ taṃ viloketvā passati, gīvaṃ parivattanappayogagaṇanāya āpattiyo, na ummīlanagaṇanāya.
Ở điều thứ nhất của phẩm Nhà Tranh, ‘cung điện của vua’ là nhà vui chơi của vua. ‘Nhà tranh’ là phòng tranh để vui chơi. ‘Khu vườn’ là khu rừng nhỏ để vui chơi. ‘Vườn cảnh’ là vườn cảnh để vui chơi. ‘Hồ sen’ là hồ sen để vui chơi. ‘Để xem,’ vị nào đi với ý nghĩ “Ta sẽ xem bất cứ thứ gì trong số này,” mỗi bước chân là một tội Tác Ác. Khi đứng ở nơi nào mà xem, dù xem cả năm thứ mà không nhấc chân lên thì chỉ phạm một tội. Tuy nhiên, nếu nhìn qua nhìn lại mà xem, thì phạm tội theo số lần cố gắng xoay cổ, không phải theo số lần mở mắt.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiyā bhikkhuniyo ārabbha cittāgāraṃ dassanāya gamanavatthusmiṃ paññattaṃ, bhikkhussa sabbattha dukkaṭaṃ, avaseso vinicchayo naccadassanasikkhāpade vuttanayeneva veditabboti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu-ni, trong sự việc đi xem nhà tranh. Đối với Tỳ-khưu, ở mọi nơi đều phạm Tác Ác. Sự quyết đoán còn lại nên được hiểu theo cách đã được nói trong học giới về việc xem múa.

Rājāgārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến cung điện của vua đã kết thúc.

2. Āsandiparibhuñjanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Tường giải về học giới liên quan đến việc sử dụng ghế cao

Dutiye āsandī nāma atikkantappamāṇā vuccati. Pallaṅko nāma saṃhārimena vāḷena katoti vutto. Paribhuñjeyyāti ettha pana nisīdananipajjanappayogagaṇanāya pācittiyaṃ veditabbaṃ.
Ở điều thứ hai, ‘ghế cao’ được gọi là loại vượt quá kích cỡ. ‘Giường nhỏ’ được nói là loại được làm bằng lông đuôi ngựa có thể mang đi. Ở đây, ‘nên sử dụng,’ nên hiểu là phạm Ưng Đối Trị theo số lần cố gắng ngồi và nằm.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha āsandipallaṅkaparibhogavatthusmiṃ paññattaṃ, āsandiyā pāde chinditvā, pallaṅkassa vāḷe bhinditvā paribhuñjantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Āsandipallaṅkatā, nisīdanaṃ nipajjanaṃ vāti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc sử dụng ghế cao và giường nhỏ. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào sử dụng sau khi đã chặt chân của ghế cao, hoặc làm gãy lông đuôi ngựa của giường nhỏ, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: là ghế cao và giường nhỏ, và việc ngồi hoặc nằm. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Āsandiparibhuñjanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc sử dụng ghế cao đã kết thúc.

3. Suttakantanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Tường giải về học giới liên quan đến việc kéo sợi

Tatiye suttanti channaṃ aññataraṃ. Kanteyyāti ettha yattakaṃ hatthena añchitaṃ hoti, tasmiṃ takkamhi veṭhite ekā āpatti. Idañhi sandhāya padabhājanīye (pāci. 988) ‘‘ujjavujjave’’ti vuttaṃ.
Ở điều thứ ba, ‘sợi’ là một trong sáu loại. Ở đây, ‘nên kéo,’ bao nhiêu sợi được kéo bằng tay, khi quấn vào con suốt đó thì phạm một tội. Điều này được nói đến trong phần phân tích từ (pāci. 988) với câu “ujjavujjave.”

Sāvatthiyaṃ chabbaggiyā bhikkhuniyo ārabbha suttaṃ kantanavatthusmiṃ paññattaṃ, kantanato pubbe kappāsavicinanaṃ ādiṃ katvā sabbappayogesu hatthavāragaṇanāya dukkaṭaṃ. Kantitasuttaṃ kantantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Akantitatā, kantananti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu-ni, trong sự việc kéo sợi. Trước khi kéo sợi, bắt đầu từ việc nhặt bông, trong tất cả các cố gắng, phạm Tác Ác theo số lần ra tay. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào kéo sợi đã được kéo, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: chưa được kéo, và việc kéo. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Suttakantanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc kéo sợi đã kết thúc.

4. Gihiveyyāvaccasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới liên quan đến việc phục vụ người tại gia

Catutthe gihiveyyāvaccanti gihīnaṃ veyyāvaccaṃ. Sacepi hi mātāpitaro attano kiñci kammaṃ akārāpetvā tesaṃ yāgupacanādīni karonti, pubbappayogesu payogagaṇanāya dukkaṭāni āpajjitvā yāguādīsu bhājanagaṇanāya, khādanīyādīsu pūvagaṇanāya pācittiyaṃ āpajjati.
Ở điều thứ tư, ‘việc phục vụ người tại gia’ là việc phục vụ của người tại gia. Ngay cả khi cha mẹ không sai làm bất cứ công việc gì cho mình, mà vị ấy làm các việc như nấu cháo cho họ, sau khi đã phạm các tội Tác Ác theo số lần cố gắng trong các công việc ban đầu, thì phạm Ưng Đối Trị theo số bát cháo, v.v., và theo số bánh trong các loại vật thực cứng, v.v.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha gihīnaṃ veyyāvaccakaraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, manussehi saṅghassa yāgupāne vā bhatte vā cetiyapūjāya vā karīyamānāya tesaṃ sahāyabhāvena yāgupacanādīni, attano veyyāvaccakarassa ca tāniyeva karontiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Gihiveyyāvaccakaraṇaṃ, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc làm công việc phục vụ cho người tại gia. Không phạm tội trong các trường hợp: khi các cư sĩ đang nấu cháo, dâng cơm cho Tăng chúng, hoặc làm lễ cúng dường bảo tháp, vị nào giúp họ nấu cháo, v.v., và vị nào làm những việc đó cho người phục vụ mình, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: việc làm công việc phục vụ người tại gia, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Gihiveyyāvaccasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc phục vụ người tại gia đã kết thúc.

5. Adhikaraṇasikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới liên quan đến vấn đề

Pañcame adhikaraṇanti catunnaṃ aññataraṃ. Pācittiyanti idha cīvarasibbane viya dhuraṃ nikkhittamatte pācittiyaṃ, ekāhampi parihāro natthi.
Ở điều thứ năm, ‘vấn đề’ là một trong bốn loại. ‘Ưng Đối Trị,’ ở đây, giống như trong việc may y, ngay khi buông bỏ trách nhiệm thì phạm Ưng Đối Trị, không có sự giảm nhẹ dù chỉ một ngày.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha adhikaraṇaṃ navūpasamanavatthusmiṃ paññattaṃ, sesamettha cīvarasibbanasikkhāpade vuttanayeneva veditabbanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc không làm lắng dịu vấn đề mới phát sinh. Phần còn lại ở đây nên được hiểu theo cách đã được nói trong học giới về việc may y.

Adhikaraṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến vấn đề đã kết thúc.

6. Bhojanadānasikkhāpadavaṇṇanā
6. Tường giải về học giới liên quan đến việc cho vật thực

Chaṭṭhe sahatthāti kāyena vā kāyappaṭibaddhena vā nissaggiyena vā ṭhapetvā pañcasahadhammike avasesānaṃ aññatra udakadantaponā yaṃkiñci ajjhoharaṇīyaṃ dadantiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ sáu, ‘tự tay,’ vị nào cho bất cứ vật gì có thể nuốt được, ngoại trừ nước và tăm xỉa răng, bằng thân, bằng vật dính liền với thân, hoặc bằng vật có thể từ bỏ, cho những người khác ngoài năm vị đồng phạm hạnh, thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha agārikassa khādanīyabhojanīyadānavatthusmiṃ paññattaṃ, udakadantapone dukkaṭaṃ. Yā pana dāpeti na deti, upanikkhipitvā deti, bāhiralepaṃ deti, tassā, ummattikādīnañca anāpatti. Aññatra udakadantaponā ajjhoharaṇiyaṃ, ṭhapetvā pañca sahadhammike aññassa sahatthā dānanti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc cho vật thực cứng và vật thực mềm cho người tại gia. Đối với nước và tăm xỉa răng thì phạm Tác Ác. Vị nào sai cho mà không tự cho, đặt gần rồi cho, cho vật phết bên ngoài, vị ấy, và các vị bị mất trí, v.v. thì không phạm tội. Ở đây có hai chi phần này: vật có thể nuốt được ngoài nước và tăm xỉa răng, và việc tự tay cho người khác ngoài năm vị đồng phạm hạnh. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Bhojanadānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc cho vật thực đã kết thúc.

7. Āvasathacīvarasikkhāpadavaṇṇanā
7. Tường giải về học giới liên quan đến y của nhà trọ

Sattame āvasathacīvaranti ‘‘utuniyo bhikkhuniyo paribhuñjantū’’ti dinnacīvaraṃ. Anissajjitvāti catutthe divase dhovitvā aññissā antamaso sāmaṇeriyāpi utuniyā adatvā. Pācittiyanti evaṃ anissajjitvā paribhuñjantiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ bảy, ‘y của nhà trọ’ là y được dâng cúng với ý nghĩ “Mong các Tỳ-khưu-ni theo mùa hãy sử dụng.” ‘Mà không từ bỏ,’ vào ngày thứ tư, sau khi đã giặt mà không cho một Tỳ-khưu-ni theo mùa khác, dù chỉ là một cô ni tu tập sự. ‘Ưng Đối Trị,’ vị nào sử dụng mà không từ bỏ như vậy thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha āvasathacīvaraṃ anissajjitvā paribhuñjanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, nissajjite dvikadukkaṭaṃ. Tasmiṃ pana nissajjitasaññāya, puna pariyāyena vā, aññāsaṃ utunīnaṃ abhāvena vā, acchinnanaṭṭhacīvarikāya vā, āpadāsu vā paribhuñjantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Āvasathacīvaratā, catutthadivasatā, dhovitvā anissajjanaṃ, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni kathinasadisāni, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc sử dụng y của nhà trọ mà không từ bỏ. Là tam Ưng Đối Trị. Khi đã từ bỏ là nhị Tác Ác. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: vị nào sử dụng với nhận thức đã từ bỏ, hoặc theo vòng luân phiên, hoặc do không có các Tỳ-khưu-ni theo mùa khác, hoặc là người bị cướp mất y, hoặc trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có bốn chi phần này: là y của nhà trọ, là ngày thứ tư, giặt mà không từ bỏ, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về Kathina, nhưng đây là hành động và không phải hành động.

Āvasathacīvarasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến y của nhà trọ đã kết thúc.

8. Āvasathavihārasikkhāpadavaṇṇanā
8. Tường giải về học giới liên quan đến trú xứ của nhà trọ

Aṭṭhame āvasathanti kavāṭabaddhavihāraṃ. Anissajjitvāti rakkhaṇatthāya adatvā, ‘‘idaṃ jaggeyyāsī’’ti evaṃ anāpucchitvāti attho. Cārikaṃ pakkameyya pācittiyanti ettha sakagāmato aññaṃ gāmaṃ ekarattivāsatthāyapi pakkamantiyā parikkhittassa āvasathassa parikkhepaṃ, aparikkhittassa upacāraṃ paṭhamapādena atikkantamatte dukkaṭaṃ, dutiyena pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tám, ‘nhà trọ’ là trú xứ có cổng rào. ‘Mà không từ bỏ,’ là không giao lại để trông coi, có nghĩa là không hỏi như thế này: “Cô hãy trông coi cái này.” ‘Nên đi du hành thì phạm Ưng Đối Trị,’ ở đây, vị nào đi đến một làng khác, dù chỉ để ở một đêm, ngay khi vượt qua hàng rào của nhà trọ có rào bằng bước chân đầu tiên thì phạm Tác Ác, bằng bước chân thứ hai thì phạm Ưng Đối Trị; đối với nhà trọ không có rào thì là phạm vi.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha āvasathaṃ anissajjitvā cārikaṃ pakkamanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, akavāṭabaddhe dukkaṭaṃ, nissajjite dvikadukkaṭaṃ. Tasmiṃ pana nissajjitasaññāya, sati antarāye, paṭijaggikaṃ pariyesitvā alabhantiyā, gilānāya, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Sakavāṭabaddhatā, vuttanayena pakkamanaṃ, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni kathinasadisānīti, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc đi du hành mà không từ bỏ nhà trọ. Là tam Ưng Đối Trị. Ở nơi không có cổng rào thì phạm Tác Ác. Khi đã từ bỏ là nhị Tác Ác. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: vị nào đi với nhận thức đã từ bỏ, khi có trở ngại, tìm kiếm người trông coi mà không tìm được, bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: có cổng rào, việc đi theo cách đã nói, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về Kathina, nhưng đây là hành động và không phải hành động.

Āvasathavihārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến trú xứ của nhà trọ đã kết thúc.

9. Tiracchānavijjāpariyāpuṇanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Tường giải về học giới liên quan đến việc học tà thuật

Navame tiracchānavijjanti yaṃkiñci bāhirakaṃ anatthasaṃhitaṃ hatthiassarathadhanutharusippaāthabbaṇakhilanavasīkaraṇasosāpanamantāgadappayogādibhedaṃ parūpaghātakaraṃ vijjaṃ. Pariyāpuṇeyyāti ettha yassa kassaci santike taṃ padādivasena pariyāpuṇantiyā padagaṇanāya ceva akkharagaṇanāya ca pācittiyanti.
Ở điều thứ chín, ‘tà thuật’ là bất cứ loại học thuật nào của ngoại đạo, không liên quan đến lợi ích, có nhiều loại khác nhau như thuật điều khiển voi, ngựa, xe, cung, kiếm; bùa chú, bùa hộ mệnh, bùa yêu, bùa làm cho khô héo, bùa chú sử dụng tại nghĩa địa, bùa chú về thuốc độc, gây hại cho người khác. ‘Nên học,’ ở đây, vị nào học thuật đó từ bất cứ ai theo từng câu, v.v., thì phạm Ưng Đối Trị theo số câu và theo số chữ.

Tiracchānavijjāpariyāpuṇanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc học tà thuật đã kết thúc.

10. Tiracchānavijjāvācanasikkhāpadavaṇṇanā
10. Tường giải về học giới liên quan đến việc dạy tà thuật

Dasame vāceyyāti padaṃ viseso. Ubhayampi sāvatthiyaṃ chabbaggiyā ceva sambahulā bhikkhuniyo ca ārabbha tiracchānavijjaṃ pariyāpuṇanavācanavatthusmiṃ paññattaṃ. Lekhe, dhāraṇāya ca, guttatthāya ca yakkhaparittanāgamaṇḍalādike sabbaparitte, ummattikādīnañca anāpatti. Tiracchānavijjatā, pariyāpuṇanavācanā, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha dvīsupi tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni padasodhammasadisānīti.
Ở điều thứ mười, ‘nên dạy’ là điểm khác biệt về từ ngữ. Cả hai đều được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu-ni và nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc học và dạy tà thuật. Không phạm tội trong các trường hợp: trong văn tự, để ghi nhớ, để bảo vệ, tất cả các bài kinh hộ trì như bài kinh về dạ-xoa, về vòng tròn của rồng, và các vị bị mất trí, v.v. Ở cả hai học giới đều có ba chi phần này: là tà thuật, việc học và dạy, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về việc chỉ trích đúng pháp.

Tiracchānavijjāvācanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc dạy tà thuật đã kết thúc.

Cittāgāravaggo pañcamo.
Phẩm Nhà Tranh là phẩm thứ năm.

6. Ārāmavaggo
6. Phẩm Tu Viện

1. Ārāmapavisanasikkhāpadavaṇṇanā
1. Tường giải về học giới liên quan đến việc vào tu viện

Ārāmavaggassa paṭhame sabhikkhukaṃ ārāmanti yattha bhikkhū rukkhamūlepi vasanti, taṃ padesaṃ. Anāpucchāti ettha bhikkhusāmaṇeraārāmikesu yaṃkiñci anāpucchā, parikkhittassa ārāmassa parikkhepaṃ atikkamantiyā, aparikkhittassa upacāraṃ okkamantiyā paṭhamapāde dukkaṭaṃ, dutiyapāde pācittiyaṃ.
Ở điều thứ nhất của phẩm Tu Viện, ‘tu viện có Tỳ-khưu’ là nơi có các Tỳ-khưu cư ngụ, dù là dưới gốc cây. Ở đây, ‘không hỏi’ là không hỏi bất cứ ai trong số các Tỳ-khưu, Sa-di, người coi sóc tu viện. Vị nào vượt qua hàng rào của tu viện có rào, hoặc đi vào phạm vi của tu viện không có rào, ở bước chân đầu tiên phạm Tác Ác, ở bước chân thứ hai phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha anāpucchā ārāmaṃ pavisanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘santaṃ bhikkhuṃ anāpucchā’’ti ca ‘‘jānaṃ sabhikkhuka’’nti ca imānettha dve anupaññattiyo, sabhikkhuke vematikāya, abhikkhuke sabhikkhukasaññāya ceva vematikāya ca dukkaṭaṃ. Tasmiṃ pana duvidhepi abhikkhukasaññāya, santaṃ bhikkhuṃ āpucchā pavisantiyā, paṭhamappaviṭṭhānaṃ vā bhikkhunīnaṃ sīsaṃnulokikāya, yattha vā bhikkhuniyo sannipatitā, tattha ‘‘tāsaṃ santikaṃ gacchāmī’’ti saññāya, ārāmena vā maggo hoti, tena gacchantiyā, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Sabhikkhukārāmatā , sabhikkhukasaññitā, vuttaparicchedātikkamo, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha cattāri aṅgāni. Samanubhāsanasamauṭṭhānaṃ, kiriyākiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc vào tu viện mà không hỏi. Ở đây có hai điều chế định bổ sung này: “không hỏi Tỳ-khưu đang có mặt” và “biết là có Tỳ-khưu.” Khi nghi ngờ về việc có Tỳ-khưu, khi có nhận thức là có Tỳ-khưu đối với nơi không có Tỳ-khưu và khi nghi ngờ, thì phạm Tác Ác. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: có nhận thức là không có Tỳ-khưu trong cả hai trường hợp, vị nào vào sau khi đã hỏi Tỳ-khưu đang có mặt, hoặc đi theo sau các Tỳ-khưu-ni đã vào trước, hoặc có nhận thức “Ta đi đến chỗ các vị ấy” nơi các Tỳ-khưu-ni đã tụ họp, hoặc có con đường đi qua tu viện, vị nào đi theo con đường đó, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có bốn chi phần này: tu viện có Tỳ-khưu, có nhận thức là có Tỳ-khưu, việc vượt qua giới hạn đã nói, và không có lý do được cho phép. Khởi sanh từ việc cảnh cáo, là hành động và không phải hành động, giải thoát do nhận thức, có chủ tâm, lỗi do chế định, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ba loại tâm, ba loại cảm thọ.

Ārāmapavisanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc vào tu viện đã kết thúc.

2. Bhikkhuakkosanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Tường giải về học giới liên quan đến việc mắng nhiếc Tỳ-khưu

Dutiye akkoseyyāti dasannaṃ akkosavatthūnaṃ aññatarena sammukhā vā parammukhā vā akkoseyya. Paribhāseyyāti bhayamassa upadaṃseyya. Pācittiyanti tassā evaṃ karontiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ hai, ‘nên mắng nhiếc’ là nên mắng nhiếc trước mặt hoặc sau lưng bằng một trong mười sự việc mắng nhiếc. ‘Nên hăm dọa’ là nên gây ra sự sợ hãi cho vị ấy. ‘Ưng Đối Trị’ là vị nào làm như vậy thì phạm Ưng Đối Trị.

Vesāliyaṃ chabbaggiyā bhikkhuniyo ārabbha āyasmantaṃ upāliṃ akkosanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampanne tikadukkaṭaṃ, atthadhammaanusāsanipurekkhārāya, ummattikādīnañca anāpatti. Upasampannatā, akkosanaparibhāsanaṃ, atthapurekkhāratādīnaṃ abhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Vesālī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu-ni, trong sự việc mắng nhiếc trưởng lão Upāli. Là tam Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ Cụ túc giới là tam Tác Ác. Không phạm tội trong các trường hợp: có ý định giáo huấn về pháp và lợi ích, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: người kia đã thọ Cụ túc giới, việc mắng nhiếc và hăm dọa, và không có ý định giáo huấn về lợi ích, v.v. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội trộm cắp, nhưng đây là cảm thọ khổ.

Bhikkhuakkosanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc mắng nhiếc Tỳ-khưu đã kết thúc.

3. Gaṇaparibhāsanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Tường giải về học giới liên quan đến việc hăm dọa nhóm

Tatiye caṇḍikatāti kuddhā. Gaṇanti bhikkhunisaṅghaṃ. Paribhāseyyāti ettha ‘‘bālā etā abyattā etā, netā jānanti kammaṃ vā kammadosaṃ vā kammasampattiṃ vā kammavipattiṃ vā’’ti evaṃ yattha katthaci paribhāsantiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ ba, ‘bị nổi giận’ là nổi giận. ‘Nhóm’ là Tăng chúng Tỳ-khưu-ni. Ở đây, ‘nên hăm dọa,’ vị nào hăm dọa ở bất cứ nơi nào bằng cách nói: “Các vị này ngu dốt, các vị này không hiểu biết, các vị này không biết việc làm, hay lỗi của việc làm, hay sự thành tựu của việc làm, hay sự thất bại của việc làm,” thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha gaṇaṃ paribhāsanavatthusmiṃ paññattaṃ, sambahulā vā ekaṃ vā anupasampannaṃ vā paribhāsantiyā dukkaṭaṃ. Sesaṃ dutiyasadisamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc hăm dọa nhóm. Vị nào hăm dọa nhiều người, một người, hoặc người chưa thọ Cụ túc giới thì phạm Tác Ác. Phần còn lại tương tự như điều thứ hai.

Gaṇaparibhāsanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc hăm dọa nhóm đã kết thúc.

4. Pavāritasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới liên quan đến người đã được mời

Catutthe gaṇabhojane vuttanayena nimantitā, pavāraṇāsikkhāpade vuttanayena pavāritā veditabbā. Pācittiyanti tassā purebhattaṃ ṭhapetvā yāguñceva sesāni ca tīṇi kālikāni aññaṃ yaṃkiñci āmisaṃ ajjhoharaṇatthāya paṭiggaṇhantiyā gahaṇe dukkaṭaṃ, ajjhohāre ajjhohāre pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tư, ‘được mời’ nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới về bữa ăn của nhóm; ‘đã mãn nguyện’ nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới về sự mãn nguyện. ‘Ưng Đối Trị,’ vị ấy, ngoại trừ trước bữa ăn, khi nhận bất cứ vật thực nào khác ngoài cháo và ba loại vật thực theo thời hạn còn lại để nuốt vào, thì phạm Tác Ác khi nhận, mỗi khi nuốt vào thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha aññatra bhuñjanavatthusmiṃ paññattaṃ, tīṇi kālikāni āhāratthāya paṭiggaṇhantiyāpi ajjhoharantiyāpi dukkaṭaṃ. Yā pana nimantitā appavāritā yāguṃ pivati, sāmike apaloketvā bhuñjati, tīṇi kālikāni sati paccaye paribhuñjati, tassā, ummattikādīnañca anāpatti. Nimantitā vā pavāritā vā taṃ ubhayaṃ vā, purebhattaṃ vuttalakkhaṇassa āmisassa ajjhohāro, sāmikānaṃ anāpucchananti imānettha tīṇi aṅgāni. Addhānasamuṭṭhānaṃ, nimantitāya anāpucchā bhuñjantiyā āpattisambhavato siyā kiriyākiriyaṃ, pavāritāya kappiyaṃ kāretvāpi akāretvāpi paribhuñjantiyā āpattisambhavato siyā kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc ăn ở nơi khác. Vị nào nhận ba loại vật thực theo thời hạn để ăn, cả khi nhận và khi nuốt vào đều phạm Tác Ác. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: vị nào được mời mà chưa mãn nguyện, uống cháo; ăn sau khi đã hỏi chủ; sử dụng ba loại vật thực theo thời hạn khi có duyên; vị ấy, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: được mời hoặc đã mãn nguyện hoặc cả hai, việc nuốt vào vật thực có đặc tính đã nói trước bữa ăn, và việc không hỏi chủ. Khởi sanh từ đường dài, có thể là hành động và không phải hành động do có khả năng phạm tội khi người được mời ăn mà không hỏi, có thể là hành động do có khả năng phạm tội khi người đã mãn nguyện sử dụng sau khi đã làm cho hợp lệ hoặc không làm cho hợp lệ, không phải giải thoát do nhận thức, không có chủ tâm, lỗi do chế định, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ba loại tâm, ba loại cảm thọ.

Pavāritasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến người đã được mời đã kết thúc.

5. Kulamaccharinīsikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới liên quan đến người keo kiệt với gia đình

Pañcame kule maccharo kulamaccharo, kulamaccharo etissā atthi, kulaṃ vā maccharāyatīti kulamaccharinī. Assāti yā īdisī bhaveyya. Pācittiyanti tassā ‘‘yaṃ kulaṃ bhikkhunīnaṃ paccaye dātukāmaṃ, kathaṃ nāma tattha bhikkhuniyo na gaccheyyu’’nti bhikkhunīnaṃ vā santike kulassa, ‘‘kathaṃ nāma ime tāsaṃ kiñci na dajjeyyu’’nti kulassa vā santike bhikkhunīnaṃ avaṇṇaṃ bhāsantiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ năm, sự keo kiệt trong gia đình là ‘kulamaccharo,’ người có sự keo kiệt trong gia đình, hoặc làm cho gia đình trở nên keo kiệt là ‘kulamaccharinī.’ ‘Của người ấy,’ là người nào trở nên như vậy. ‘Ưng Đối Trị,’ vị ấy, khi nói xấu Tăng chúng Tỳ-khưu-ni với gia đình với ý nghĩ “Tại sao các Tỳ-khưu-ni không đến gia đình muốn cúng dường vật dụng cho Tăng chúng Tỳ-khưu-ni,” hoặc nói xấu gia đình với Tăng chúng Tỳ-khưu-ni với ý nghĩ “Tại sao những người này không cho họ bất cứ thứ gì,” thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha kulamaccharāyanavatthusmiṃ paññattaṃ. Amaccharāyitvā santaṃyeva ādīnavaṃ ācikkhantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Bhikkhunīnaṃ alābhakāmatā, kulassa vā santike bhikkhunīnaṃ bhikkhunīnaṃ vā santike kulassa avaṇṇabhaṇananti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc trở nên keo kiệt với gia đình. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào chỉ ra lỗi lầm đang có mà không keo kiệt, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: ý muốn làm cho Tăng chúng Tỳ-khưu-ni không được lợi, và việc nói xấu Tăng chúng Tỳ-khưu-ni với gia đình hoặc nói xấu gia đình với Tăng chúng Tỳ-khưu-ni. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội trộm cắp, nhưng đây là cảm thọ khổ.

Kulamaccharinīsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến người keo kiệt với gia đình đã kết thúc.

6. Abhikkhukāvāsasikkhāpadavaṇṇanā
6. Tường giải về học giới liên quan đến trú xứ không có Tỳ-khưu

Chaṭṭhe sace bhikkhunupassayato addhayojanabbhantare ovādadāyakā bhikkhū na vasanti, maggo vā akhemo hoti na sakkā anantarāyena gantuṃ , ayaṃ abhikkhuko nāma āvāso. Tattha ‘‘vassaṃ vasissāmī’’ti senāsanapaññāpanapānīyaupaṭṭhāpanādīni karontiyā dukkaṭaṃ , saha aruṇuggamanā pācittiyaṃ. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana samantapāsādikāyaṃ (pāci. aṭṭha. 144 ādayo) vutto.
Ở điều thứ sáu, nếu trong vòng nửa do-tuần kể từ trú xứ của Tỳ-khưu-ni không có Tỳ-khưu nào ban lời giáo giới cư ngụ, hoặc con đường không an toàn, không thể đi mà không gặp trở ngại, đây được gọi là ‘trú xứ không có Tỳ-khưu.’ Ở đó, vị nào làm các việc như chuẩn bị chỗ ở, chuẩn bị nước uống, v.v. với ý nghĩ “Ta sẽ an cư mùa mưa,” thì phạm Tác Ác. Cùng với lúc bình minh lên thì phạm Ưng Đối Trị. Đây là phần tóm tắt ở đây, còn phần chi tiết đã được nói trong bộ Samantapāsādikā (pāci. aṭṭha. 144 ff.).

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha abhikkhuke āvāse vassaṃ vasanavatthusmiṃ paññattaṃ, yattha pana vassūpagatā bhikkhū pakkantā vā honti vibbhantā vā kālaṅkatā vā pakkhasaṅkantā vā tattha vasantiyā, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Abhikkhukāvāsatā, vassūpagamanaṃ, aruṇuggamananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc an cư mùa mưa ở trú xứ không có Tỳ-khưu. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: vị nào cư ngụ ở nơi mà các Tỳ-khưu đã nhập hạ đã rời đi, hoặc đã hoàn tục, hoặc đã viên tịch, hoặc đã chuyển sang phái khác; trong các trường hợp hoạn nạn; và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: trú xứ không có Tỳ-khưu, việc nhập hạ, và lúc bình minh lên. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Abhikkhukāvāsasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến trú xứ không có Tỳ-khưu đã kết thúc.

7. Apavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā
7. Tường giải về học giới liên quan đến việc không Tự tứ

Sattame vassaṃvuṭṭhāti purimaṃ vā pacchimaṃ vā temāsaṃ vuṭṭhā. Ubhatosaṅgheti bhikkhunisaṅghe ceva bhikkhusaṅghe ca. Ayaṃ panettha vinicchayakathā – bhikkhunīhi cātuddaseyeva sannipatitvā ‘‘suṇātu me, ayye, saṅgho, ajja pavāraṇā cātuddasī, yadi saṅghassa pattakallaṃ, saṅgho pavāreyyā’’ti evaṃ sabbasaṅgāhikañattiṃ vā, ‘‘tevācikaṃ pavāreyyā’’ti evaṃ tevācikañattiṃ vā, sati antarāye ‘‘dvevācikaṃ, ekavācikaṃ, samānavassikaṃ pavāreyyā’’ti evaṃ dvevācikādiñattiṃ vā ṭhapetvā sabbasaṅgāhikañatti ce ṭhapitā, ‘‘saṅghaṃ, ayye, pavāremi diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadantu maṃ ayyāyo anukampaṃ upādāya, passantī paṭikarissāmī’’ti (cūḷava. 427) evaṃ sakiṃ vā, ‘‘dutiyampi, ayye, saṅghaṃ…pe… tatiyampi, ayye, saṅghaṃ…pe… paṭikarissāmī’’ti evaṃ dvattikkhattuṃ vā vatvā paṭipāṭiyā pavāretabbaṃ. Tevācikāya ñattiyā vacanaṃ na hāpetabbaṃ, dvevācikādīsu vaḍḍhetuṃ vaṭṭati, hāpetuṃ na vaṭṭati. Evaṃ bhikkhunisaṅghe pavāretvā tattheva ekā bhikkhunī bhikkhunikkhandhake (cūḷava. 427) vuttena ñattidutiyakammena bhikkhunisaṅghassatthāya bhikkhusaṅghaṃ pavāretuṃ sammannitabbā. Tāya sammatāya bhikkhuniyā pannarase bhikkhunisaṅghaṃ ādāya bhikkhusaṅghaṃ upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo ‘‘bhikkhunisaṅgho ayya bhikkhusaṅghaṃ pavāreti diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadatāyya bhikkhusaṅgho bhikkhunisaṅghaṃ anukampaṃ upādāya, passanto paṭikarissati, dutiyampi ayya…pe… tatiyampi ayya…pe… passanto paṭikarissatī’’ti evaṃ pavāretabbaṃ.
Ở điều thứ bảy, ‘đã an cư xong’ là đã trải qua ba tháng đầu hoặc ba tháng cuối. ‘Ở cả hai Tăng chúng’ là ở Tăng chúng Tỳ-khưu-ni và ở Tăng chúng Tỳ-khưu. Đây là lời giải thích về sự quyết đoán ở đây – các Tỳ-khưu-ni phải tụ họp vào ngày mười bốn, sau khi đã thực hiện một trong các Tăng sự: Tăng sự bao gồm tất cả với lời bạch “Kính bạch chư ni trưởng, Tăng chúng hãy nghe con, hôm nay là ngày Tự tứ mười bốn, nếu Tăng chúng đã đến thời, Tăng chúng hãy làm lễ Tự tứ;” hoặc Tăng sự ba lần với lời bạch “Hãy làm lễ Tự tứ ba lần;” hoặc khi có trở ngại, Tăng sự hai lần, một lần, hoặc Tự tứ theo tuổi hạ với lời bạch “Hãy làm lễ Tự tứ hai lần, v.v.” Nếu Tăng sự bao gồm tất cả được thực hiện, thì phải Tự tứ theo thứ tự sau khi đã nói một lần “Kính bạch chư ni trưởng, con xin Tự tứ với Tăng chúng về điều đã thấy, đã nghe, hoặc đã nghi. Mong chư ni trưởng vì lòng bi mẫn mà chỉ dạy con, khi thấy con sẽ sửa đổi” (cūḷava. 427), hoặc hai ba lần “Lần thứ hai, kính bạch chư ni trưởng, con xin Tự tứ với Tăng chúng… cho đến… con sẽ sửa đổi. Lần thứ ba, kính bạch chư ni trưởng, con xin Tự tứ với Tăng chúng… cho đến… con sẽ sửa đổi.” Với Tăng sự ba lần, không được bỏ sót lời nói. Với Tăng sự hai lần, v.v., được phép tăng thêm, không được phép bỏ bớt. Sau khi đã Tự tứ trong Tăng chúng Tỳ-khưu-ni như vậy, ngay tại đó, một Tỳ-khưu-ni phải được Tăng chúng Tỳ-khưu-ni ủy nhiệm bằng Tăng sự với một lần bạch và một lần yết-ma như đã nói trong chương về Tỳ-khưu-ni (cūḷava. 427) để Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu thay mặt cho Tăng chúng Tỳ-khưu-ni. Vị Tỳ-khưu-ni đã được ủy nhiệm đó vào ngày rằm phải cùng Tăng chúng Tỳ-khưu-ni đến Tăng chúng Tỳ-khưu, vắt y vai trái qua một bên, chắp tay và nói như sau: “Kính bạch chư tôn đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu về điều đã thấy, đã nghe, hoặc đã nghi. Mong Tăng chúng Tỳ-khưu vì lòng bi mẫn mà chỉ dạy Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, khi thấy sẽ sửa đổi. Lần thứ hai, kính bạch chư tôn đức… cho đến… Lần thứ ba, kính bạch chư tôn đức… cho đến… khi thấy sẽ sửa đổi.” Phải Tự tứ như vậy.

Sace pañcavaggo bhikkhunisaṅgho na pūrati, catūhi vā tīhi vā gaṇañattiṃ ṭhapetvā, dvīhi vinā ñattiyā aññamaññaṃ pavāretabbaṃ. Ekāya ‘‘ajja me pavāraṇā’’ti adhiṭṭhātabbaṃ.
Nếu Tăng chúng Tỳ-khưu không đủ năm vị, với bốn hoặc ba vị thì thực hiện Tăng sự của nhóm, với hai vị thì Tự tứ với nhau mà không cần Tăng sự. Với một vị thì phải quyết tâm “Hôm nay là ngày Tự tứ của tôi.”

Vihāraṃ pana gantvā ‘‘bhikkhuniyo, ayya, bhikkhusaṅghaṃ pavārenti diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadatāyya bhikkhusaṅgho bhikkhuniyo anukampaṃ upādāya, passantiyo paṭikarissantī’’ti ca, ‘‘ahaṃ, ayya, bhikkhusaṅghaṃ pavāremi diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadatu maṃ, ayya, bhikkhusaṅgho anukampaṃ upādāya, passantī paṭikarissāmī’’ti ca evaṃ tikkhattuṃ vattabbaṃ.
Khi đến tu viện, phải nói ba lần như sau: “Kính bạch chư tôn đức, các Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu về điều đã thấy, đã nghe, hoặc đã nghi. Mong Tăng chúng Tỳ-khưu vì lòng bi mẫn mà chỉ dạy các Tỳ-khưu-ni, khi thấy các vị ấy sẽ sửa đổi,” và “Kính bạch chư tôn đức, con xin Tự tứ với Tăng chúng Tỳ-khưu về điều đã thấy, đã nghe, hoặc đã nghi. Mong Tăng chúng Tỳ-khưu vì lòng bi mẫn mà chỉ dạy con, khi thấy con sẽ sửa đổi.”

Sace bhikkhusaṅgho na pūrati, ‘‘bhikkhunisaṅgho, ayya, ayye pavāreti diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadantu ayyā bhikkhunisaṅghaṃ anukampaṃ upādāya, passanto paṭikarissatī’’ti ca, ‘‘bhikkhunisaṅgho, ayya, ayyaṃ pavāreti diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadatāyyo bhikkhunisaṅghaṃ anukampaṃ upādāya, passanto paṭikarissatī’’ti ca evaṃ tikkhattuṃ vattabbaṃ.
Nếu Tăng chúng Tỳ-khưu không đủ số, phải nói ba lần như sau: “Kính bạch chư tôn đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với chư tôn đức về điều đã thấy, đã nghe, hoặc đã nghi. Mong chư tôn đức vì lòng bi mẫn mà chỉ dạy Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, khi thấy sẽ sửa đổi,” và “Kính bạch chư tôn đức, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với tôn đức về điều đã thấy, đã nghe, hoặc đã nghi. Mong tôn đức vì lòng bi mẫn mà chỉ dạy Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, khi thấy sẽ sửa đổi.”

Ubhinnaṃ aparipūriyā ‘‘bhikkhuniyo, ayyā, ayye pavārenti diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadantāyyā bhikkhuniyo anukampaṃ upādāya, passantiyo paṭikarissantī’’ti ca, ‘‘bhikkhuniyo, ayya, ayyaṃ pavārenti diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā, vadatāyyo bhikkhuniyo anukampaṃ upādāya, passantiyo paṭikarissantī’’ti ca, ‘‘ahaṃ, ayyā, ayye pavāremi diṭṭhena vā sutena vā…pe… vadantu maṃ, ayyā, anukampaṃ upādāya, passantī paṭikarissāmī’’ti ca, ‘‘ahaṃ, ayya, ayyaṃ pavāremi diṭṭhena vā sutena vā…pe… vadatu maṃ, ayyo, anukampaṃ upādāya, passantī paṭikarissāmī’’ti ca evaṃ tikkhattuṃ vattabbaṃ. Sabbāheva hi iminā nayena ubhatosaṅghe pavāritā hoti, yā pana vassaṃvuṭṭhā ‘‘ubhatosaṅghe evaṃ na pavāressāmī’’ti dhuraṃ nikkhipati, tassā saha dhuranikkhepena pācittiyaṃ.
Khi cả hai bên đều không đủ số, phải nói ba lần như sau: “Kính bạch chư ni trưởng, các Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với chư ni trưởng về điều đã thấy, đã nghe, hoặc đã nghi. Mong chư ni trưởng vì lòng bi mẫn mà chỉ dạy các Tỳ-khưu-ni, khi thấy các vị ấy sẽ sửa đổi,” và “Kính bạch chư ni trưởng, các Tỳ-khưu-ni xin Tự tứ với ni trưởng về điều đã thấy, đã nghe, hoặc đã nghi. Mong ni trưởng vì lòng bi mẫn mà chỉ dạy các Tỳ-khưu-ni, khi thấy các vị ấy sẽ sửa đổi,” và “Kính bạch chư ni trưởng, con xin Tự tứ với chư ni trưởng về điều đã thấy, đã nghe… cho đến… Mong chư ni trưởng vì lòng bi mẫn mà chỉ dạy con, khi thấy con sẽ sửa đổi,” và “Kính bạch ni trưởng, con xin Tự tứ với ni trưởng về điều đã thấy, đã nghe… cho đến… Mong ni trưởng vì lòng bi mẫn mà chỉ dạy con, khi thấy con sẽ sửa đổi.” Theo cách này, tất cả đều đã Tự tứ ở cả hai Tăng chúng. Vị nào đã an cư xong mà buông bỏ trách nhiệm với ý nghĩ “Ta sẽ không Tự tứ ở cả hai Tăng chúng như vậy,” vị ấy phạm Ưng Đối Trị cùng với việc buông bỏ trách nhiệm.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha vassaṃ vasitvā na pavāraṇāvatthusmiṃ paññattaṃ. Antarāye pana sati, pariyesitvā bhikkhū alabhantiyā, gilānāya, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Vassaṃvuṭṭhatā, na ubhatosaṅghe pavāraṇā, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni samanubhāsanasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc không Tự tứ sau khi đã an cư. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: khi có trở ngại, vị nào tìm kiếm mà không tìm được Tỳ-khưu, bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: đã an cư xong, không Tự tứ ở cả hai Tăng chúng, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội cảnh cáo.

Apavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc không Tự tứ đã kết thúc.

8. Ovādasikkhāpadavaṇṇanā
8. Tường giải về học giới liên quan đến việc giáo giới

Aṭṭhame ovādāyāti garudhammassavanatthāya. Saṃvāsāyāti uposathapucchanatthāya ceva pavāraṇatthāya ca. Pācittiyanti ‘‘etesaṃ atthāya na gacchāmī’’ti dhuraṃ nikkhittamatte pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tám, ‘để nghe giáo giới’ là để nghe các pháp quan trọng. ‘Để được sống chung’ là để hỏi về lễ Bố-tát và để Tự tứ. ‘Ưng Đối Trị,’ ngay khi buông bỏ trách nhiệm với ý nghĩ “Ta không đi vì những mục đích này,” thì phạm Ưng Đối Trị.

Sakkesu chabbaggiyā bhikkhuniyo ārabbha ovādāya agamanavatthusmiṃ paññattaṃ. Antarāye pana sati, pariyesitvā dutiyikaṃ alabhantiyā, gilānāya, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Ovādasaṃvāsānaṃ atthāya agamanaṃ, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisāni, idaṃ pana akiriyaṃ, dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở xứ Sakka, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu-ni, trong sự việc không đi nghe giáo giới. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: khi có trở ngại, vị nào tìm kiếm mà không tìm được người thứ hai, bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: không đi vì mục đích nghe giáo giới và sống chung, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội Bất Cộng Trụ thứ nhất, nhưng đây là không hành động, cảm thọ khổ.

Ovādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc giáo giới đã kết thúc.

9. Ovādūpasaṅkamanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Tường giải về học giới liên quan đến việc đến nghe giáo giới

Navame anvaddhamāsanti addhamāse addhamāse. Uposathapucchakanti uposathapucchanaṃ. Ovādūpasaṅkamananti ovādatthāya upasaṅkamanaṃ. Taṃ atikkāmentiyāti ettha bhikkhunīhi terase vā cātuddase vā ārāmaṃ gantvā ‘‘ayaṃ uposatho cātuddaso pannaraso’’ti pucchitabbaṃ, uposathadivase nidānavaṇṇanāyaṃ vuttanayena ovādūpasaṅkamanaṃ yācitabbaṃ. Yā bhikkhunī vuttappakāre kāle tadubhayaṃ na karoti, sā taṃ atikkāmeti nāma, tassā ‘‘uposathampi na pucchissāmi, ovādampi na yācissāmī’’ti dhuraṃ nikkhittamatte pācittiyaṃ.
Ở điều thứ chín, ‘mỗi nửa tháng’ là trong mỗi nửa tháng. ‘Việc hỏi về lễ Bố-tát’ là việc hỏi về lễ Bố-tát. ‘Việc đến nghe giáo giới’ là việc đến để nghe giáo giới. Ở đây, ‘khi vượt quá điều đó,’ các Tỳ-khưu-ni phải đi đến tu viện vào ngày mười ba hoặc mười bốn và hỏi “Lễ Bố-tát này là ngày mười bốn hay mười lăm?” Vào ngày Bố-tát, phải xin đến nghe giáo giới theo cách đã nói trong phần tường giải về Duyên khởi. Tỳ-khưu-ni nào không làm cả hai việc đó vào thời điểm đã quy định, vị ấy được gọi là vượt quá điều đó. Vị ấy phạm Ưng Đối Trị ngay khi buông bỏ trách nhiệm với ý nghĩ “Ta sẽ không hỏi về lễ Bố-tát, cũng không xin nghe giáo giới.”

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha uposathaovādānaṃ apucchanaayācanavatthusmiṃ paññattaṃ , anāpatti aṭṭhamasadisāyeva. Uposathovādānaṃ apucchanaayācanāyaṃ dhuranikkhepo, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni samanubhāsanasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc không hỏi và không xin về lễ Bố-tát và giáo giới. Phần không phạm tội tương tự như điều thứ tám. Ở đây có hai chi phần này: việc buông bỏ trách nhiệm trong việc không hỏi và không xin về lễ Bố-tát và giáo giới, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội cảnh cáo.

Ovādūpasaṅkamanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc đến nghe giáo giới đã kết thúc.

10. Pasākhejātasikkhāpadavaṇṇanā
10. Tường giải về học giới liên quan đến (mụn nhọt) mọc ở vùng háng

Dasame pasākheti nābhiyā heṭṭhā jāṇumaṇḍalānaṃ uparipadese. Tato hi yasmā rukkhassa sākhā viya ubho ūrū pabhijjitvā gatā, tasmā so ‘‘pasākho’’ti vuccati, tasmiṃ pasākhe. Gaṇḍanti yaṃkiñci gaṇḍaṃ. Rudhitanti vaṇaṃ. Bhedāpeyya vātiādīsu sace ‘‘bhinda phālehī’’ti sabbāni āṇāpeti, so ca tatheva karoti, cha dukkaṭāni cha ca pācittiyāni. Athāpi ‘‘yaṃkiñci ettha kattabbaṃ, taṃ sabbaṃ karohī’’ti evaṃ āṇāpeti, so ca sabbānipi bhedanādīni karoti, ekavācāya cha dukkaṭāni cha ca pācittiyāni. Sace pana bhedanādīsu ekaṃyeva ‘‘idaṃ nāma karohī’’ti āṇāpeti, so ca sabbāni karoti. Yaṃ āṇattaṃ, tasseva karaṇe pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười, ‘ở vùng háng’ là ở vùng phía trên đầu gối và dưới rốn. Bởi vì từ đó, hai đùi tách ra giống như cành cây, nên nơi đó được gọi là ‘vùng háng.’ ‘Mụn nhọt’ là bất cứ loại mụn nhọt nào. ‘Vết thương’ là vết loét. ‘Nên cho rạch, v.v.,’ nếu ra lệnh tất cả: “Hãy rạch, hãy mổ,” và người đó làm đúng như vậy, thì phạm sáu tội Tác Ác và sáu tội Ưng Đối Trị. Hoặc nếu ra lệnh như thế này: “Bất cứ điều gì cần làm ở đây, hãy làm tất cả,” và người đó cũng làm tất cả các việc rạch, v.v., với một lời nói thì phạm sáu tội Tác Ác và sáu tội Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, nếu chỉ ra lệnh một trong các việc rạch, v.v. rằng “Hãy làm việc này,” và người đó làm tất cả, thì chỉ phạm Ưng Đối Trị khi làm việc đã được ra lệnh.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha pasākhe jātaṃ gaṇḍaṃ purisena bhedāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, apaloketvā vā viññuṃ vā yaṃkañci dutiyikaṃ gahetvā evaṃ karontiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Pasākhe jātatā, anapalokanaṃ, dutiyikābhāvo, purisena bhedādīnaṃ kārāpananti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni kathinasadisāni, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc cho người nam rạch mụn nhọt mọc ở vùng háng. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào làm như vậy sau khi đã hỏi hoặc có một người thứ hai hiểu biết đi cùng, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có bốn chi phần này: mọc ở vùng háng, không hỏi, không có người thứ hai, và việc cho người nam làm các việc rạch, v.v. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về Kathina, nhưng đây là hành động và không phải hành động.

Pasākhejātasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến (mụn nhọt) mọc ở vùng háng đã kết thúc.

Ārāmavaggo chaṭṭho.
Phẩm Tu Viện là phẩm thứ sáu.

7. Gabbhinīvaggo
7. Phẩm Phụ Nữ Có Thai

1. Gabbhinīsikkhāpadavaṇṇanā
1. Tường giải về học giới liên quan đến phụ nữ có thai

Gabbhinivaggassa paṭhame ‘‘gabbhinī’’ti jānitvā upajjhāyāya vuṭṭhāpentiyā gaṇapariyesanādīsu ca ñattikammavācādvaye ca dukkaṭaṃ, kammavācāpariyosāne pācittiyaṃ.
Ở điều thứ nhất của phẩm Phụ Nữ Có Thai, khi biết là ‘phụ nữ có thai,’ vị Hòa thượng ni cho xuất gia thì phạm Tác Ác trong việc tìm kiếm nhóm, v.v., và trong hai lời bạch và yết-ma; khi kết thúc lời yết-ma thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha gabbhiniṃ vuṭṭhāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, gabbhiniyā vematikāya agabbhiniyā gabbhinisaññāya ceva vematikāya ca dukkaṭaṃ. Ubhosu agabbhinisaññāya, ummattikādīnañca anāpatti. Gabbhinitā, ‘gabbhinī’ti jānanaṃ, vuṭṭhāpananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana paṇṇattivajjaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc cho phụ nữ có thai xuất gia. Khi nghi ngờ về người có thai, khi có nhận thức là có thai đối với người không có thai và khi nghi ngờ, thì phạm Tác Ác. Khi có nhận thức là không có thai trong cả hai trường hợp, và các vị bị mất trí, v.v. thì không phạm tội. Ở đây có ba chi phần này: có thai, biết là ‘có thai,’ và việc cho xuất gia. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội trộm cắp, nhưng đây là lỗi do chế định, ba loại tâm, ba loại cảm thọ.

Gabbhinīsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến phụ nữ có thai đã kết thúc.

2. Pāyantīsikkhāpadavaṇṇanā
2. Tường giải về học giới liên quan đến người cho con bú

Dutiye pāyantinti thaññaṃ pāyamānaṃ, yaṃ pāyeti, tassa mātā vā, dhāti vā. Idaṃ vatthumattamevettha viseso, sesaṃ paṭhamasikkhāpadasadisamevāti.
Ở điều thứ hai, ‘người cho con bú’ là người đang cho bú sữa, dù là mẹ hay vú nuôi của đứa bé. Ở đây chỉ có sự khác biệt về sự việc này, phần còn lại tương tự như học giới thứ nhất.

Pāyantīsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến người cho con bú đã kết thúc.

3. Paṭhamasikkhamānasikkhāpadavaṇṇanā
3. Tường giải về học giới thứ nhất liên quan đến cô ni tu tập sự

Tatiye dve vassānīti pavāraṇāvasena dve saṃvaccharāni. Chasu dhammesūti pāṇātipātāveramaṇiādīsu vikālabhojanāveramaṇipariyosānesu chasu sikkhāpadesu. Asikkhitasikkhanti padabhājane (pāci. 1077) vuttanayeneva adinnasikkhaṃ vā kupitasikkhaṃ vā. Sikkhamānaṃ vuṭṭhāpeyyāti tesu chasu dhammesu sikkhanato, te vā sikkhāsaṅkhāte dhamme mānanato evaṃladdhanāmaṃ anupasampannaṃ upasampādeyya. Pācittiyanti paṭhamasikkhāpade vuttanayeneva kammavācāpariyosāne pācittiyaṃ.
Ở điều thứ ba, ‘hai năm’ là hai năm tính theo lễ Tự tứ. ‘Trong sáu pháp’ là trong sáu học giới, bắt đầu từ việc từ bỏ sát sanh cho đến việc từ bỏ ăn uống trái thời. ‘Người chưa được rèn luyện trong các học giới’ là người chưa được trao truyền học giới hoặc đã làm hỏng học giới, theo cách đã nói trong phần phân tích từ (pāci. 1077). ‘Nên cho cô ni tu tập sự xuất gia,’ nên cho người chưa thọ Cụ túc giới, được gọi tên như vậy do việc tu tập trong sáu pháp đó, hoặc do tôn trọng các pháp được gọi là học giới đó, được thọ Cụ túc giới. ‘Ưng Đối Trị,’ theo cách đã nói trong học giới thứ nhất, khi kết thúc lời yết-ma thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha evarūpaṃ sikkhamānaṃ vuṭṭhāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, dhammakamme tikapācittiyaṃ, adhammakamme tikadukkaṭaṃ. Dve vassāni chasu dhammesu sikkhitasikkhaṃ sikkhamānaṃ vuṭṭhāpentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Vuttanayena asikkhitasikkhatā, dhammakammatā, kammavācāpariyosānanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhame vuttanayānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc cho cô ni tu tập sự như vậy xuất gia. Với Tăng sự hợp pháp là tam Ưng Đối Trị, với Tăng sự không hợp pháp là tam Tác Ác. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào cho cô ni tu tập sự đã được rèn luyện trong sáu pháp trong hai năm xuất gia, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: chưa được rèn luyện trong các học giới theo cách đã nói, Tăng sự hợp pháp, và việc kết thúc lời yết-ma. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như cách đã nói ở điều thứ nhất.

Paṭhamasikkhamānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới thứ nhất liên quan đến cô ni tu tập sự đã kết thúc.

4. Dutiyasikkhamānasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới thứ hai liên quan đến cô ni tu tập sự

Catutthe saṅghena asammatanti yassā saṅghena antamaso upasampadāmāḷakepi padabhājane (pāci. 1086) vuttā upasampadāsammuti na dinnā hoti, taṃ imā dvepi mahāsikkhamānā nāma. Idha saṅghena sammataṃ vuṭṭhāpentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Sesaṃ tatiye vuttasadisameva, idaṃ pana kiriyākiriyaṃ hotīti.
Ở điều thứ tư, ‘không được Tăng chúng chấp thuận’ là người mà Tăng chúng chưa cho phép thọ Cụ túc giới như đã nói trong phần phân tích từ (pāci. 1086), dù chỉ là ở giới đàn thọ Cụ túc giới. Cả hai loại này đều được gọi là ‘cô ni tu tập sự lớn.’ Ở đây, không phạm tội trong các trường hợp: vị nào cho người đã được Tăng chúng chấp thuận xuất gia, và các vị bị mất trí, v.v. Phần còn lại tương tự như điều thứ ba, nhưng đây là hành động và không phải hành động.

Dutiyasikkhamānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới thứ hai liên quan đến cô ni tu tập sự đã kết thúc.

5. Paṭhamagihigatasikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới thứ nhất liên quan đến người đã có gia đình

Pañcame gihigatanti purisantaragataṃ, idhāpi idaṃ vatthumattameva viseso. Ūnadvādasavassañca paripuṇṇasaññāya vuṭṭhāpentiyā kiñcāpi anāpatti, sā pana anupasampannāva hoti. Sesaṃ paṭhamasikkhāpadasadisamevāti.
Ở điều thứ năm, ‘người đã có gia đình’ là người đã có chồng. Ở đây cũng chỉ có sự khác biệt về sự việc này. Vị nào cho người dưới mười hai tuổi xuất gia với nhận thức là đã đủ tuổi, tuy không phạm tội nhưng người đó vẫn chưa thọ Cụ túc giới. Phần còn lại tương tự như học giới thứ nhất.

Paṭhamagihigatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới thứ nhất liên quan đến người đã có gia đình đã kết thúc.

6-7. Dutiyatatiyagihigatasikkhāpadavaṇṇanā
6-7. Tường giải về học giới thứ hai và thứ ba liên quan đến người đã có gia đình

Chaṭṭhe sabbaṃ tatiye vuttanayena. Sattamepi sabbaṃ catutthe vuttanayeneva veditabbanti.
Ở điều thứ sáu, tất cả đều theo cách đã nói ở điều thứ ba. Ở điều thứ bảy, tất cả cũng nên được hiểu theo cách đã nói ở điều thứ tư.

Dutiyatatiyagihigatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới thứ hai và thứ ba liên quan đến người đã có gia đình đã kết thúc.

8. Paṭhamasahajīvinisikkhāpadavaṇṇanā
8. Tường giải về học giới thứ nhất liên quan đến bạn đồng trú

Aṭṭhame sahajīvininti saddhivihāriniṃ. Neva anuggaṇheyyāti sayaṃ uddesādīhi nānuggaṇheyya. Na anuggaṇhāpeyyāti ‘‘imissā, ayye, uddesādīni dehī’’ti evaṃ na aññāya anuggaṇhāpeyya. Pācittiyanti dhure nikkhittamatte pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tám, ‘bạn đồng trú’ là vị cùng ở. ‘Không giúp đỡ,’ là không tự mình giúp đỡ bằng việc dạy đọc, v.v. ‘Không cho người khác giúp đỡ,’ là không nhờ người khác giúp đỡ bằng cách nói: “Thưa ni trưởng, xin hãy dạy đọc, v.v. cho vị này.” ‘Ưng Đối Trị,’ ngay khi buông bỏ trách nhiệm thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha evarūpe vatthusmiṃ paññattaṃ, sesamettha tuvaṭṭavagge dukkhitasahajīvinisikkhāpade vuttasadisamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc tương tự. Phần còn lại ở đây tương tự như học giới về bạn đồng trú bị bệnh trong phẩm Cùng Nằm.

Paṭhamasahajīvinisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới thứ nhất liên quan đến bạn đồng trú đã kết thúc.

9. Nānubandhanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Tường giải về học giới liên quan đến việc không đi theo

Navame vuṭṭhāpitaṃ pavattininti vuṭṭhāpitaṃ pavattiniṃ yāya upasampāditā, taṃ upajjhāyininti attho. Nānubandheyyāti cuṇṇena mattikāya dantakaṭṭhena mukhodakenāti evaṃ tena tena karaṇīyena na upaṭṭhaheyya. Pācittiyanti nānubandhissanti dhure nikkhittamatte pācittiyaṃ.
Ở điều thứ chín, ‘vị thầy tế độ đã cho xuất gia’ có nghĩa là vị Hòa thượng ni đã cho người đó thọ Cụ túc giới. ‘Không đi theo,’ là không chăm sóc bằng những việc cần làm như dâng bột thơm, đất sét, tăm xỉa răng, nước súc miệng. ‘Ưng Đối Trị,’ ngay khi buông bỏ trách nhiệm với ý nghĩ sẽ không đi theo thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha nānubandhanavatthusmiṃ paññattaṃ. Bālaṃ pana alajjiniṃ vā ananubandhantiyā, gilānāya, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Vuṭṭhāpitappavattinitā, dve vassāni ananubandhane dhuranikkhepo, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisāni, idaṃ pana akiriyaṃ, dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc không đi theo. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: vị nào không đi theo người ngu dốt hoặc không có lòng hổ thẹn, bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: là vị thầy tế độ đã cho xuất gia, việc buông bỏ trách nhiệm không đi theo trong hai năm, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội Bất Cộng Trụ thứ nhất, nhưng đây là không hành động, cảm thọ khổ.

Nānubandhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc không đi theo đã kết thúc.

10. Dutiyasahajīvinisikkhāpadavaṇṇanā
10. Tường giải về học giới thứ hai liên quan đến bạn đồng trú

Dasame neva vūpakāseyyāti na gahetvā gaccheyya. Na vūpakāsāpeyyāti ‘‘imaṃ, ayye, gahetvā gacchāhī’’ti aññaṃ na āṇāpeyya. Pācittiyanti dhure nikkhittamatte pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười, ‘không dẫn đi cùng,’ là không mang theo. ‘Không cho người khác dẫn đi cùng,’ là không ra lệnh cho người khác: “Thưa ni trưởng, hãy mang vị này đi.” ‘Ưng Đối Trị,’ ngay khi buông bỏ trách nhiệm thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha sahajīviniyā avūpakāsanavatthusmiṃ paññattaṃ. Sati pana antarāye, pariyesitvā dutiyikaṃ alabhantiyā, gilānāya , āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Sahajīvinitā, vūpakāsavūpakāsāpane dhuranikkhepo, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni samanubhāsanasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc không dẫn bạn đồng trú đi cùng. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: khi có trở ngại, vị nào tìm kiếm mà không tìm được người thứ hai, bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: là bạn đồng trú, việc buông bỏ trách nhiệm trong việc dẫn đi cùng và cho người khác dẫn đi cùng, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội cảnh cáo.

Dutiyasahajīvinisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới thứ hai liên quan đến bạn đồng trú đã kết thúc.

Gabbhinīvaggo sattamo.
Phẩm Phụ Nữ Có Thai là phẩm thứ bảy.

8. Kumāribhūtavaggo
8. Phẩm Trinh Nữ

1-2-3. Paṭhamakumāribhūtādisikkhāpadavaṇṇanā
1-2-3. Tường giải về các học giới đầu tiên liên quan đến trinh nữ, v.v.

Kumāribhūtavaggassa paṭhamadutiyatatiyāni tīhi gihigatasikkhāpadehi sadisāneva. Yā pana tā sabbapaṭhamā dve mahāsikkhamānā, tā atikkantavīsativassāti veditabbā. Tā hi gihigatā vā hontu, agihigatā vā, sammutikammādīsu ‘‘sikkhamānā’’icceva vattabbā, ‘‘gihigatā’’ti vā ‘‘kumāribhūtā’’ti vā na vattabbā. Gihigatāya dasavassakāle sikkhāsammutiṃ datvā dvādasavassakāle upasampadā kātabbā, ekādasavassakāle datvā terasavassakāle kātabbā, dvādasaterasacuddasapannarasasoḷasasattarasaaṭṭhārasavassakāle sikkhāsammutiṃ datvā vīsativassakāle upasampadā kātabbā. Aṭṭhārasavassakālato paṭṭhāya ca panāyaṃ ‘‘gihigatā’’tipi ‘‘kumāribhūtā’’tipi vattuṃ vaṭṭati. Yā panāyaṃ ‘‘kumāribhūtā’’ti vuttā sāmaṇerī , sā ‘‘gihigatā’’ti na vattabbā, ‘‘kumāribhūtā’’icceva vattabbā. Sikkhāsammutidānavasena pana sabbāpi ‘‘sikkhamānā’’ti vattuṃ vaṭṭatīti.
Ba điều đầu tiên của phẩm Trinh Nữ tương tự như ba học giới về người đã có gia đình. Cần hiểu rằng hai cô ni tu tập sự lớn đầu tiên đó đã quá hai mươi tuổi. Dù họ đã có gia đình hay chưa, trong các Tăng sự chấp thuận, v.v., họ chỉ nên được gọi là ‘cô ni tu tập sự,’ không nên gọi là ‘người đã có gia đình’ hay ‘trinh nữ.’ Đối với người đã có gia đình, sau khi đã cho sự chấp thuận học giới vào năm mười tuổi, việc thọ Cụ túc giới phải được thực hiện vào năm mười hai tuổi; nếu cho vào năm mười một tuổi thì phải thực hiện vào năm mười ba tuổi; nếu cho sự chấp thuận học giới vào năm mười hai, mười ba, mười bốn, mười lăm, mười sáu, mười bảy, mười tám tuổi, việc thọ Cụ túc giới phải được thực hiện vào năm hai mươi tuổi. Và từ năm mười tám tuổi trở đi, được phép gọi là ‘người đã có gia đình’ hoặc ‘trinh nữ.’ Sa-di-ni được gọi là ‘trinh nữ,’ không nên gọi là ‘người đã có gia đình,’ mà chỉ nên gọi là ‘trinh nữ.’ Tuy nhiên, về mặt cho sự chấp thuận học giới, tất cả đều được phép gọi là ‘cô ni tu tập sự.’

Paṭhamakumāribhūtādisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về các học giới đầu tiên liên quan đến trinh nữ, v.v. đã kết thúc.

4. Ūnadvādasavassasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới liên quan đến người dưới mười hai tuổi hạ

Catutthe ūnadvādasavassāti upasampadāvasena aparipuṇṇadvādasavassā. Pācittiyanti upajjhāyā hutvā vuṭṭhāpentiyā vuttanayeneva dukkaṭāni antarā, kammavācāpariyosāne pācittiyanti.
Ở điều thứ tư, ‘người dưới mười hai tuổi hạ’ là người chưa đủ mười hai tuổi hạ tính theo Cụ túc giới. ‘Ưng Đối Trị,’ vị nào làm Hòa thượng ni cho xuất gia, ở giữa phạm các tội Tác Ác theo cách đã nói, khi kết thúc lời yết-ma thì phạm Ưng Đối Trị.

Ūnadvādasavassasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến người dưới mười hai tuổi hạ đã kết thúc.

5. Paripuṇṇadvādasavassasikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới liên quan đến người đủ mười hai tuổi hạ

Pañcame saṅghena asammatāti yassā saṅghena padabhājane (pāci. 1132) vuttā vuṭṭhāpanasammuti na dinnā. Sesaṃ ubhayatthāpi mahāsikkhamānāsikkhāpadadvayasadisamevāti.
Ở điều thứ năm, ‘không được Tăng chúng chấp thuận’ là người mà Tăng chúng chưa cho phép xuất gia như đã nói trong phần phân tích từ (pāci. 1132). Phần còn lại ở cả hai nơi đều tương tự như hai học giới về cô ni tu tập sự lớn.

Paripuṇṇadvādasavassasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến người đủ mười hai tuổi hạ đã kết thúc.

6. Khīyanadhammasikkhāpadavaṇṇanā
6. Tường giải về học giới liên quan đến việc bất bình

Chaṭṭhe alaṃ tāva te ayye vuṭṭhāpitenāti vuccamānāti vuṭṭhāpanasammutiyā yācitāya saṅghena upaparikkhipitvā ‘‘yasmā bālā abyattā ca alajjinī ca hoti, tasmā alaṃ tāva tuyhaṃ upasampāditenā’’ti evaṃ nivārīyamānā. Pacchā khīyanadhammanti pacchā aññāsaṃ byattānaṃ lajjinīnaṃ vuṭṭhāpanasammutiṃ diyyamānaṃ disvā ‘‘ahameva nūna bālā’’tiādīni bhaṇamānā yattha katthaci khīyeyya. Pācittiyanti evaṃ khīyanadhammaṃ āpajjantiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ sáu, ‘khi bị nói: ‘Thưa ni trưởng, ni trưởng hãy tạm dừng việc cho xuất gia,’’ là khi đã xin phép cho xuất gia, bị Tăng chúng xem xét và ngăn cản rằng: “Bởi vì cô ngu dốt, không hiểu biết và không có lòng hổ thẹn, cho nên cô hãy tạm dừng việc cho thọ Cụ túc giới.” ‘Sau đó có thái độ bất bình,’ là sau đó khi thấy những người khác thông thái, có lòng hổ thẹn được phép cho xuất gia, vị ấy bất bình ở bất cứ nơi nào, nói rằng: “Chắc chắn ta là người ngu dốt,” v.v. ‘Ưng Đối Trị,’ vị nào phạm vào thái độ bất bình như vậy thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ caṇḍakāḷiṃ ārabbha evaṃ khīyanadhammaṃ āpajjanavatthusmiṃ paññattaṃ, pakatiyā chandādīnaṃ vasena karontīnaṃ khīyantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Vuṭṭhāpanasammutiyā yācanaṃ, upaparikkhitvā na chandādivasena paṭikkhittāya ‘‘sādhū’’ti paṭissavo, pacchākhīyananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Caṇḍakāḷī, trong sự việc phạm vào thái độ bất bình như vậy. Không phạm tội trong các trường hợp: những người có thái độ bất bình do tham muốn, v.v. theo lẽ thường, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: việc xin phép cho xuất gia, sự chấp nhận “Tốt lắm” sau khi đã bị từ chối do xem xét chứ không phải do tham muốn, v.v., và thái độ bất bình sau đó. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội trộm cắp, nhưng đây là cảm thọ khổ.

Khīyanadhammasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc bất bình đã kết thúc.

7-8. Sikkhamānanavuṭṭhāpanapaṭhamadutiyasikkhāpadavaṇṇanā
7-8. Tường giải về học giới thứ nhất và thứ hai liên quan đến việc không cho cô ni tu tập sự xuất gia

Sattame sā pacchāti sikkhamānāya upasampadāya yāciyamānāya sā bhikkhunī evaṃ vatvā laddhe cīvare pacchā asati antarāye ‘‘neva vuṭṭhāpessāmi , na vuṭṭhāpanāya ussukkaṃ karissāmī’’ti dhuraṃ nikkhipeyya, tassā saha dhuranikkhepena pācittiyanti. Aṭṭhamepi eseva nayo.
Ở điều thứ bảy, ‘sau đó vị ấy,’ là khi cô ni tu tập sự xin thọ Cụ túc giới, Tỳ-khưu-ni đó sau khi đã nói như vậy và nhận được y, sau đó khi không có trở ngại mà buông bỏ trách nhiệm rằng: “Ta sẽ không cho xuất gia, cũng không cố gắng để cho xuất gia,” vị ấy phạm Ưng Đối Trị cùng với việc buông bỏ trách nhiệm. Ở điều thứ tám cũng theo cách này.

Ubhayampi sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha etesu vatthūsu paññattaṃ, dvīsupi sati antarāye, pariyesitvā alabhantiyā, gilānāya, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Ubhayattha ‘‘evāhaṃ taṃ vuṭṭhāpessāmī’’ti paṭiññā, ākaṅkhitanipphatti, pacchā dhuranikkhepo, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni samanubhāsanasadisānīti.
Cả hai đều được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong những sự việc này. Ở cả hai trường hợp, không phạm tội trong các trường hợp: khi có trở ngại, vị nào tìm kiếm mà không tìm được, bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở cả hai nơi, có bốn chi phần này: lời hứa “Ta sẽ cho con xuất gia như vậy,” sự hoàn thành mong muốn, việc buông bỏ trách nhiệm sau đó, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như tội cảnh cáo.

Sikkhamānanavuṭṭhāpanapaṭhamadutiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới thứ nhất và thứ hai liên quan đến việc không cho cô ni tu tập sự xuất gia đã kết thúc.

9. Sokāvāsasikkhāpadavaṇṇanā
9. Tường giải về học giới liên quan đến người mang lại sầu muộn

Navame sokāvāsanti saṅketaṃ katvā āgacchamānā purisānaṃ antosokaṃ pavesetīti sokāvāsā, taṃ sokāvāsaṃ. Atha vā gharaṃ viya gharasāmikā ayampi purisasamāgamaṃ alabhamānā sokaṃ āvisati, iti yaṃ āvisati, svāssā āvāso hotīti sokāvāsā. Tenevassa padabhājane (pāci. 1160) ‘‘sokāvāsā nāma paresaṃ dukkhaṃ uppādeti, sokaṃ āvisatī’’ti dvidhā attho vutto. Pācittiyanti evarūpaṃ vuṭṭhāpentiyā vuttanayeneva kammavācāpariyosāne upajjhāyāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ chín, ‘người mang lại sầu muộn,’ là người dẫn dắt đàn ông vào nơi sầu muộn sau khi đã hẹn hò, nên được gọi là người mang lại sầu muộn. Hoặc, giống như chủ nhà, người này khi không được gặp gỡ đàn ông thì đi vào sầu muộn, do đó nơi mà người ấy đi vào trở thành trú xứ của người ấy, nên được gọi là người mang lại sầu muộn. Chính vì vậy, trong phần phân tích từ (pāci. 1160), ý nghĩa được giải thích theo hai cách: “Người mang lại sầu muộn là người gây ra đau khổ cho người khác, đi vào sầu muộn.” ‘Ưng Đối Trị,’ vị Hòa thượng ni cho người như vậy xuất gia, theo cách đã nói, khi kết thúc lời yết-ma thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha evarūpaṃ sikkhamānaṃ vuṭṭhāpanavatthusmiṃ paññattaṃ. Ajānantiyā , ummattikādīnañca anāpatti. Sokāvāsatā, jānanaṃ, vuṭṭhāpananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni gabbhinivuṭṭhāpanasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc cho cô ni tu tập sự như vậy xuất gia. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào không biết, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: là người mang lại sầu muộn, sự biết, và việc cho xuất gia. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về việc cho người có thai xuất gia.

Sokāvāsasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến người mang lại sầu muộn đã kết thúc.

10. Ananuññātasikkhāpadavaṇṇanā
10. Tường giải về học giới liên quan đến người không được phép

Dasame mātāpitūhīti vijātamātarā ca janakapitarā ca. Sāmikenāti yena pariggahitā, tena. Ananuññātanti upasampadatthāya ananuññātaṃ. Dvikkhattuñhi bhikkhunīhi āpucchitabbaṃ, pabbajjākāle ca upasampadākāle ca, bhikkhūnaṃ pana sakiṃ āpucchitepi vaṭṭati . Tasmā yā upasampadākāle anāpucchā upasampādeti, tassā vuttanayeneva pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười, ‘bởi cha mẹ’ là bởi người mẹ đã sinh ra và người cha đã sinh thành. ‘Bởi người chồng,’ là bởi người đã cưới cô ấy. ‘Người không được phép,’ là người không được phép để thọ Cụ túc giới. Các Tỳ-khưu-ni phải hỏi hai lần, vào lúc xuất gia và vào lúc thọ Cụ túc giới. Còn các Tỳ-khưu, dù chỉ hỏi một lần cũng được. Do đó, vị nào cho thọ Cụ túc giới vào lúc thọ Cụ túc giới mà không hỏi, vị ấy phạm Ưng Đối Trị theo cách đã nói.

Sāvatthiyaṃ thullanandaṃ ārabbha ananuññātavuṭṭhāpanavatthusmiṃ paññattaṃ. Apaloketvā vuṭṭhāpentiyā, tesaṃ atthibhāvaṃ ajānantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Anapalokanaṃ, atthibhāvajānanaṃ, vuṭṭhāpananti imānettha tīṇi aṅgāni. Ananuññātasamuṭṭhānaṃ, kiriyākiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc cho người không được phép xuất gia. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào cho xuất gia sau khi đã hỏi, không biết về sự tồn tại của họ, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: không hỏi, biết về sự tồn tại, và việc cho xuất gia. Khởi sanh từ việc không được phép, là hành động và không phải hành động, không phải giải thoát do nhận thức, không có chủ tâm, lỗi do chế định, thân nghiệp, khẩu nghiệp, ba loại tâm, ba loại cảm thọ.

Ananuññātasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến người không được phép đã kết thúc.

11. Pārivāsikasikkhāpadavaṇṇanā
11. Tường giải về học giới liên quan đến việc gián đoạn

Ekādasame pārivāsikachandadānenāti pārivāsiyena chandadānena. Tattha catubbidhaṃ pārivāsiyaṃ parisapārivāsiyaṃ rattipārivāsiyaṃ chandapārivāsiyaṃ ajjhāsayapārivāsiyanti.
Ở điều thứ mười một, ‘bằng sự đồng thuận bị gián đoạn’ là bằng sự đồng thuận đã bị gián đoạn. Ở đó, sự gián đoạn có bốn loại: gián đoạn do Tăng chúng, gián đoạn do đêm, gián đoạn do sự đồng thuận, và gián đoạn do ý định.

Tattha parisapārivāsiyaṃ nāma bhikkhū kenacideva karaṇīyena sannipatitā honti, atha megho vā uṭṭhahati, ussāraṇā vā karīyati, manussā vā ajjhottharantā āgacchanti, bhikkhū ‘‘anokāsā mayaṃ, aññatra gacchāmā’’ti chandaṃ avissajjitvāva uṭṭhahanti, idaṃ parisapārivāsiyaṃ nāma, kiñcāpi parisapārivāsiyaṃ, chandassa pana avissaṭṭhattā kammaṃ kātuṃ vaṭṭati.
Trong đó, gián đoạn do Tăng chúng là khi các Tỳ-khưu đã tụ họp vì một công việc nào đó, rồi mây kéo đến, hoặc có lệnh giải tán, hoặc có người đi vào lấn át, các Tỳ-khưu đứng dậy mà không rút lại sự đồng thuận, nghĩ rằng: “Chúng ta không có chỗ, chúng ta hãy đi nơi khác,” đây được gọi là sự gián đoạn do Tăng chúng. Mặc dù là sự gián đoạn do Tăng chúng, nhưng vì sự đồng thuận chưa được rút lại, nên vẫn được phép thực hiện Tăng sự.

Puna bhikkhū ‘‘uposathādīni karissāmā’’ti rattiṃ sannipatitvā ‘‘yāva sabbe sannipatanti, tāva dhammaṃ suṇissāmā’’ti ekaṃ ajjhesanti, tasmiṃ dhammakathaṃ kathenteyeva aruṇo uggacchati. Sace ‘‘cātuddasikaṃ uposathaṃ karissāmā’’ti nisinnā, ‘‘pannaraso’’ti kātuṃ vaṭṭati. Sace pannarasikaṃ kātuṃ nisinnā, pāṭipade anuposathe uposathaṃ kātuṃ na vaṭṭati. Aññaṃ pana saṅghakiccaṃ kātuṃ vaṭṭati, idaṃ rattipārivāsiyaṃ nāma.
Lại nữa, các Tỳ-khưu tụ họp vào ban đêm để làm lễ Bố-tát, v.v., và thỉnh một vị rằng: “Trong khi chờ tất cả mọi người tụ họp, chúng ta hãy nghe pháp.” Trong khi vị ấy đang thuyết pháp, bình minh ló dạng. Nếu họ ngồi với ý định làm lễ Bố-tát ngày mười bốn, thì được phép làm vào ngày rằm. Nếu họ ngồi để làm vào ngày rằm, thì không được phép làm lễ Bố-tát vào ngày mồng một là ngày không có lễ Bố-tát. Tuy nhiên, được phép làm các Tăng sự khác. Đây được gọi là sự gián đoạn do đêm.

Puna bhikkhū ‘‘kiñcideva abbhānādisaṅghakammaṃ karissāmā’’ti sannisinnā honti, tatreko nakkhattapāṭhako bhikkhu evaṃ vadati ‘‘ajja nakkhattaṃ dāruṇaṃ, mā idaṃ kammaṃ karothā’’ti. Te tassa vacanena chandaṃ vissajjetvā tattheva nisinnā honti, athañño āgantvā ‘‘nakkhattaṃ patimānentaṃ, attho bālaṃ upajjhagā (jā. 1.1.49), kiṃ nakkhattena karothā’’ti vadati, idaṃ chandapārivāsiyañceva ajjhāsayapārivāsiyañca. Etasmiṃ pārivāsiye puna chandapārisuddhiṃ anāharitvā kammaṃ kātuṃ na vaṭṭati, idaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘pārivāsikachandadānenā’’ti. Pācittiyanti evaṃ vuṭṭhāpentiyā vuttanayeneva kammavācāpariyosāne pācittiyaṃ.
Lại nữa, các Tỳ-khưu đã ngồi lại với nhau để làm một Tăng sự nào đó như phục vị, v.v., ở đó có một Tỳ-khưu xem sao nói rằng: “Hôm nay sao xấu, đừng làm Tăng sự này.” Họ nghe lời vị ấy, rút lại sự đồng thuận và ngồi yên tại đó. Rồi một vị khác đến nói: “Kẻ ngu dốt chờ đợi sao tốt, lợi ích đã vuột mất (jā. 1.1.49), sao tốt thì làm được gì?” Đây là sự gián đoạn do sự đồng thuậnsự gián đoạn do ý định. Trong sự gián đoạn này, không được phép làm Tăng sự nếu không thu lại sự thanh tịnh của sự đồng thuận. Điều này được nói đến với câu “bằng sự đồng thuận bị gián đoạn.” ‘Ưng Đối Trị,’ vị nào cho xuất gia như vậy, theo cách đã nói, khi kết thúc lời yết-ma thì phạm Ưng Đối Trị.

Rājagahe thullanandaṃ ārabbha evaṃ vuṭṭhāpanavatthusmiṃ paññattaṃ. Chandaṃ avissajjetvāva avuṭṭhitāya parisāya vuṭṭhāpentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Pārivāsikachandadānatā, vuṭṭhāpananti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni gambhinisikkhāpadasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Rājagaha, liên quan đến Tỳ-khưu-ni Thullanandā, trong sự việc cho xuất gia như vậy. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào cho xuất gia khi Tăng chúng chưa đứng dậy mà không rút lại sự đồng thuận, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: sự đồng thuận bị gián đoạn, và việc cho xuất gia. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về người có thai.

Pārivāsikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc gián đoạn đã kết thúc.

12. Anuvassasikkhāpadavaṇṇanā
12. Tường giải về học giới liên quan đến việc (cho xuất gia) hàng năm

Dvādasame anuvassanti anusaṃvaccharaṃ. Evaṃ vuṭṭhāpentiyāpi vuttanayeneva pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười hai, ‘hàng năm’ là mỗi năm. Vị nào cho xuất gia như vậy cũng phạm Ưng Đối Trị theo cách đã nói.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha anuvassaṃ vuṭṭhāpanavatthusmiṃ paññattaṃ. Ekantarikaṃ vuṭṭhāpentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Anuvassatā, vuṭṭhāpananti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni ekādasame vuttanayānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc cho xuất gia hàng năm. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào cho xuất gia cách một năm, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: hàng năm, và việc cho xuất gia. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như cách đã nói ở điều thứ mười một.

Anuvassasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc (cho xuất gia) hàng năm đã kết thúc.

13. Ekavassasikkhāpadavaṇṇanā
13. Tường giải về học giới liên quan đến việc (cho xuất gia) cách một năm

Terasame ekantarikaṃ ekaṃ vuṭṭhāpentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Sesaṃ dvādasamena sadisamevāti.
Ở điều thứ mười ba, không phạm tội trong các trường hợp: vị nào cho một người xuất gia cách một năm, và các vị bị mất trí, v.v. Phần còn lại tương tự như điều thứ mười hai.

Ekavassasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc (cho xuất gia) cách một năm đã kết thúc.

Kumāribhūtavaggo aṭṭhamo.
Phẩm Trinh Nữ là phẩm thứ tám.

9. Chattupāhanavaggo
9. Phẩm Dù và Giày

1. Chattupāhanasikkhāpadavaṇṇanā
1. Tường giải về học giới liên quan đến dù và giày

Chattavaggassa paṭhame chattupāhananti padabhājane (pāci. 1178-1182) vuttalakkhaṇaṃ chattañca upāhanāyo ca. Dhāreyyāti paribhogavasena maggagamane ekappayogeneva divasampi dhārentiyā ekā āpatti. Sace pana tādisaṃ ṭhānaṃ patvā chattampi apanāmetvā upāhanāpi omuñcitvā punappunaṃ dhāreti, payogagaṇanāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ nhất của phẩm Dù, ‘dù và giày’ là dù và giày có đặc điểm đã được nói trong phần phân tích từ (pāci. 1178-1182). ‘Nên mang,’ vị nào mang vì mục đích sử dụng khi đi đường, dù chỉ trong một ngày với một lần cố gắng, thì phạm một tội. Tuy nhiên, nếu sau khi đến nơi như vậy, cất dù và cởi giày rồi mang lại nhiều lần, thì phạm Ưng Đối Trị theo số lần cố gắng.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiyā bhikkhuniyo ārabbha chattupāhanadhāraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘agilānā’’ti ayamettha anupaññatti , chattasseva upāhanānaṃyeva vā dhāraṇe dukkaṭaṃ, agilānāya tikapācittiyaṃ, gilānāya dvikadukkaṭaṃ. Gilānasaññāya pana, ārāme ārāmūpacāre dhārentiyā, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Ubhinnaṃ dhāraṇaṃ, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu-ni, trong sự việc mang dù và giày. Ở đây có điều chế định bổ sung này: “không bị bệnh.” Khi mang chỉ dù hoặc chỉ giày thì phạm Tác Ác. Khi không bị bệnh là tam Ưng Đối Trị, khi bị bệnh là nhị Tác Ác. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: có nhận thức là bị bệnh, mang trong tu viện và phạm vi tu viện, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: việc mang cả hai, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Chattupāhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến dù và giày đã kết thúc.

2. Yānasikkhāpadavaṇṇanā
2. Tường giải về học giới liên quan đến xe cộ

Dutiye yānenāti vayhādinā. Etthāpi orohitvā punappunaṃ abhiruhantiyā payogagaṇanāya pācittiyaṃ. Anāpattiyaṃ ‘‘ārāme ārāmūpacāre’’ti natthi, sesaṃ paṭhame vuttanayeneva veditabbanti.
Ở điều thứ hai, ‘bằng xe cộ,’ là bằng kiệu, v.v. Ở đây cũng vậy, vị nào xuống rồi lên lại nhiều lần, thì phạm Ưng Đối Trị theo số lần cố gắng. Trong phần không phạm tội, không có “trong tu viện và phạm vi tu viện.” Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã nói ở điều thứ nhất.

Yānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến xe cộ đã kết thúc.

3. Saṅghāṇisikkhāpadavaṇṇanā
3. Tường giải về học giới liên quan đến đai lưng

Tatiye saṅghāṇinti yaṃkiñci kaṭūpagaṃ. Dhāreyyāti kaṭiyaṃ paṭimuñceyya. Etthāpi omuñcitvā omuñcitvā dhārentiyā payogagaṇanāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ ba, ‘đai lưng’ là bất cứ vật gì dùng để buộc ở eo. ‘Nên mang,’ là nên buộc ở eo. Ở đây cũng vậy, vị nào cởi ra rồi mang lại nhiều lần, thì phạm Ưng Đối Trị theo số lần cố gắng.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha saṅghāṇiṃ dhāraṇavatthusmiṃ paññattaṃ. Ābādhapaccayā kaṭisuttaṃ dhārentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ, idaṃ pana akusalacittanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc mang đai lưng. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào mang dây lưng do duyên bệnh tật, và các vị bị mất trí, v.v. Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã nói, nhưng đây là tâm bất thiện.

Saṅghāṇisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến đai lưng đã kết thúc.

4. Itthālaṅkārasikkhāpadavaṇṇanā
4. Tường giải về học giới liên quan đến trang sức của phụ nữ

Catutthe itthālaṅkāranti sīsūpagādīsu aññataraṃ yaṃkiñci piḷandhanaṃ. Idha tassa tassa vasena vatthugaṇanāya āpatti veditabbā.
Ở điều thứ tư, ‘trang sức của phụ nữ’ là bất cứ đồ trang sức nào, một trong các loại như đồ trang sức trên đầu, v.v. Ở đây, cần hiểu là phạm tội theo số lượng vật phẩm tùy theo từng loại.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiyā bhikkhuniyo ārabbha itthālaṅkāraṃ dhāraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, ābādhapaccayā kiñcideva dhārentiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Sesaṃ vuttasadisamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu-ni, trong sự việc mang trang sức của phụ nữ. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào mang bất cứ thứ gì do duyên bệnh tật, và các vị bị mất trí, v.v. Phần còn lại tương tự như đã nói.

Itthālaṅkārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến trang sức của phụ nữ đã kết thúc.

5. Gandhavaṇṇakasikkhāpadavaṇṇanā
5. Tường giải về học giới liên quan đến hương liệu và phấn sáp

Pañcame gandhavaṇṇakenāti yenakenaci gandhena ca vaṇṇakena ca. Idha gandhādiyojanato paṭṭhāya pubbapayoge dukkaṭaṃ, nahānapariyosāne pācittiyaṃ. Ābādhapaccayā, ummattikādīnañca anāpatti. Sesaṃ catutthasadisamevāti.
Ở điều thứ năm, ‘bằng hương liệu và phấn sáp,’ là bằng bất cứ loại hương liệu và phấn sáp nào. Ở đây, kể từ khi pha chế hương liệu, v.v., trong các cố gắng ban đầu phạm Tác Ác, khi kết thúc việc tắm thì phạm Ưng Đối Trị. Không phạm tội do duyên bệnh tật, và các vị bị mất trí, v.v. Phần còn lại tương tự như điều thứ tư.

Gandhavaṇṇakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến hương liệu và phấn sáp đã kết thúc.

6. Vāsitakasikkhāpadavaṇṇanā
6. Tường giải về học giới liên quan đến (bột) ướp hương

Chaṭṭhe vāsitakenāti gandhavāsitakena. Piññākenāti tilapiṭṭhena. Sesaṃ pañcamasadisamevāti.
Ở điều thứ sáu, ‘bằng (bột) ướp hương,’ là bằng (bột) được ướp hương thơm. ‘Bằng bột mè,’ là bằng bột từ hạt mè. Phần còn lại tương tự như điều thứ năm.

Vāsitakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến (bột) ướp hương đã kết thúc.

7. Bhikkhuniummaddāpanasikkhāpadavaṇṇanā
7. Tường giải về học giới liên quan đến việc để Tỳ-khưu-ni xoa bóp

Sattame ummaddāpeyyāti ubbaṭṭāpeyya. Parimaddāpeyyāti sambāhāpeyya. Ettha ca hatthaṃ amuñcitvā ubbaṭṭane ekāva āpatti, mocetvā mocetvā ubbaṭṭane payogagaṇanāya āpattiyo. Sambāhanepi eseva nayo.
Ở điều thứ bảy, ‘nên cho xoa bóp,’ là nên cho thoa thuốc. ‘Nên cho đấm bóp,’ là nên cho đấm bóp. Ở đây, khi thoa thuốc mà không nhấc tay lên, chỉ phạm một tội. Khi nhấc tay lên rồi thoa lại nhiều lần, phạm tội theo số lần cố gắng. Trong việc đấm bóp cũng theo cách này.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha bhikkhuniyā ummaddāpanaparimaddāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, gilānāya, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Idha maggagamanaparissamopi gelaññaṃ, corabhayādīhi sarīrakampanādayopi āpadā. Sesaṃ catutthe vuttanayeneva veditabbanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc để Tỳ-khưu-ni xoa bóp và đấm bóp. Không phạm tội trong các trường hợp: bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây, sự mệt mỏi do đi đường cũng là bệnh tật; sự run rẩy của cơ thể, v.v. do sợ trộm cướp, v.v. cũng là hoạn nạn. Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã nói ở điều thứ tư.

Bhikkhuniummaddāpanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc để Tỳ-khưu-ni xoa bóp đã kết thúc.

8-9-10. Sikkhamānaummaddāpanādisikkhāpadavaṇṇanā
8-9-10. Tường giải về các học giới liên quan đến việc để cô ni tu tập sự xoa bóp, v.v.

Aṭṭhamanavamadasamesupi sikkhamānāya sāmaṇeriyā gihiniyāti ettakameva nānaṃ. Sesaṃ sattamasadisamevāti.
Ở điều thứ tám, thứ chín và thứ mười cũng chỉ có sự khác biệt là: bởi cô ni tu tập sự, bởi Sa-di-ni, bởi người nữ tại gia. Phần còn lại tương tự như điều thứ bảy.

Sikkhamānaummaddāpanādisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về các học giới liên quan đến việc để cô ni tu tập sự xoa bóp, v.v. đã kết thúc.

11. Anāpucchāsikkhāpadavaṇṇanā
11. Tường giải về học giới liên quan đến việc không hỏi

Ekādasame bhikkhussa puratoti na abhimukhamevāti attho, idaṃ pana upacāraṃ sandhāya kathitanti veditabbaṃ. Tasmā bhikkhussa upacāre antamaso chamāyapi ‘‘nisīdāmi, ayyā’’ti anāpucchitvā nisīdantiyā pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười một, ‘trước mặt Tỳ-khưu,’ không có nghĩa là chỉ ở phía đối diện, nhưng cần hiểu rằng điều này được nói đến phạm vi. Do đó, vị nào ngồi trong phạm vi của Tỳ-khưu, dù chỉ là trên mặt đất, mà không hỏi: “Thưa tôn đức, con xin ngồi,” thì phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha anāpucchā nisīdanavatthusmiṃ paññattaṃ, tikapācittiyaṃ, āpucchite dvikadukkaṭaṃ. Tasmiṃ āpucchitasaññāya, gilānāya, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Bhikkhussa anāpucchā, upacāre nisajjā, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni kathinasadisāni, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc ngồi mà không hỏi. Là tam Ưng Đối Trị. Khi đã hỏi là nhị Tác Ác. Không phạm tội trong các trường hợp: có nhận thức là đã hỏi, bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: không hỏi Tỳ-khưu, việc ngồi trong phạm vi, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về Kathina, nhưng đây là hành động và không phải hành động.

Anāpucchāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc không hỏi đã kết thúc.

12. Pañhāpucchanasikkhāpadavaṇṇanā
12. Tường giải về học giới liên quan đến việc hỏi câu hỏi

Dvādasame anokāsakatanti ‘‘asukasmiṃ nāma ṭhāne pucchāmī’’ti evaṃ akataokāsaṃ, tasmā suttante okāsaṃ kārāpetvā vinayaṃ vā abhidhammaṃ vā pucchantiyā pācittiyaṃ. Sesesupi eseva nayo, sabbaso akārite pana vattabbameva natthi.
Ở điều thứ mười hai, ‘người chưa được cho phép,’ là người chưa được cho phép bằng cách nói: “Tôi sẽ hỏi ở nơi kia.” Do đó, vị nào xin phép về Kinh tạng rồi hỏi về Luật tạng hoặc tạng Vi Diệu Pháp thì phạm Ưng Đối Trị. Trong các trường hợp khác cũng theo cách này. Nếu hoàn toàn không xin phép thì không cần phải nói.

Sāvatthiyaṃ sambahulā bhikkhuniyo ārabbha anokāsakataṃ bhikkhuṃ pañhaṃ pucchanavatthusmiṃ paññattaṃ. Tattha tattha okāsaṃ kārāpetvā pucchantiyā, anodissa okāsaṃ kārāpetvā yattha katthaci pucchantiyā, ummattikādīnañca anāpatti. Bhikkhussa anokāsakārāpanaṃ, pañhaṃ pucchananti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni padasodhammasadisāni, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu-ni, trong sự việc hỏi câu hỏi Tỳ-khưu chưa cho phép. Không phạm tội trong các trường hợp: vị nào hỏi sau khi đã xin phép ở từng nơi, vị nào hỏi ở bất cứ đâu sau khi đã xin phép không chỉ định, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có hai chi phần này: việc không xin phép Tỳ-khưu, và việc hỏi câu hỏi. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như học giới về việc chỉ trích đúng pháp, nhưng đây là hành động và không phải hành động.

Pañhāpucchanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc hỏi câu hỏi đã kết thúc.

13. Asaṃkaccikasikkhāpadavaṇṇanā
13. Tường giải về học giới liên quan đến việc không mặc áo lót

Terasame asaṃkaccikāti adhakkhakaubbhanābhimaṇḍalasaṅkhātassa sarīrassa paṭicchādanatthaṃ anuññātasaṃkaccikavirahitā. Gāmaṃ paviseyyāti ettha parikkhittassa gāmassa parikkhepaṃ, aparikkhittassa upacāraṃ atikkamantiyā vā okkamantiyā vā paṭhamapāde dukkaṭaṃ, dutiye pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười ba, ‘không mặc áo lót,’ là không có áo lót được cho phép để che thân, được gọi là vùng từ dưới rốn đến trên đầu gối. Ở đây, ‘nên vào làng,’ vị nào vượt qua hàng rào của làng có rào, hoặc đi vào phạm vi của làng không có rào, ở bước chân đầu tiên phạm Tác Ác, ở bước chân thứ hai phạm Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuniṃ ārabbha asaṃkaccikāya gāmaṃ pavisanavatthusmiṃ paññattaṃ. Yassā pana saṃkaccikacīvaraṃ acchinnaṃ vā naṭṭhaṃ vā, tassā, gilānāya, āpadāsu, ummattikādīnañca anāpatti. Asaṃkaccikatā, vuttaparicchedātikkamo, anuññātakāraṇābhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu-ni nọ, trong sự việc vào làng không mặc áo lót. Tuy nhiên, không phạm tội trong các trường hợp: vị nào bị cướp hoặc mất y lót, vị ấy, bị bệnh, trong các trường hợp hoạn nạn, và các vị bị mất trí, v.v. Ở đây có ba chi phần này: không có áo lót, việc vượt qua giới hạn đã nói, và không có lý do được cho phép. Các pháp khởi sanh, v.v… tương tự như (học giới) về lông con cừu.

Asaṃkaccikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về học giới liên quan đến việc không mặc áo lót đã kết thúc.

Chattupāhanavaggo navamo.
Phẩm Dù và Giày là phẩm thứ chín.

10…Pe…16. musāvādādivaggo
10… cho đến… 16. Phẩm Nói Dối, v.v.

Musāvādādisikkhāpadavaṇṇanā
Tường giải về các học giới liên quan đến nói dối, v.v.

Ito paresu musāvādavaggādīsu sattasu vaggesu bhikkhupātimokkhavaṇṇanāyaṃ vuttanayeneva vinicchayo veditabboti.
Trong bảy phẩm tiếp theo, từ phẩm Nói Dối trở đi, sự quyết đoán nên được hiểu theo cách đã được nói trong phần tường giải Giới Bổn của Tỳ-khưu.

Soḷasamavaggo.
Phẩm thứ mười sáu.

Uddiṭṭhākho ayyāyo chasaṭṭhisatā pācittiyā dhammāti bhikkhū ārabbha paññattā sādhāraṇā sattati, asādhāraṇā channavutīti evaṃ chasaṭṭhisatā. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Kính bạch chư ni trưởng, 166 pháp Ưng Đối Trị đã được tuyên đọc, là 70 điều chung được chế định liên quan đến Tỳ-khưu, và 96 điều riêng, tổng cộng là 166 điều. Phần còn lại ở mọi nơi đều rõ ràng.

Kaṅkhāvitaraṇiyā pātimokkhavaṇṇanāya
Trong bộ Kaṅkhāvitaraṇī, Tường giải Giới Bổn

Bhikkhunipātimokkhe
Trong Giới Bổn của Tỳ-khưu-ni

Suddhapācittiyavaṇṇanā niṭṭhitā.
Tường giải về các điều thuần Ưng Đối Trị đã kết thúc.

Tatrāyaṃ saṅkhepato asādhāraṇasikkhāpadesu samuṭṭhānavinicchayo – giraggasamajjā cittāgārasikkhāpadaṃ saṅghāṇī itthālaṅkāro gandhavaṇṇako vāsitakapiññāko bhikkhuniādīhi ummaddanaparimaddanāti imāni dasa sikkhāpadāni acittakāni lokavajjāni akusalacittāni. Ayaṃ panettha adhippāyo, vināpi cittena āpajjitabbattā acittakāni, citte pana sati akusaleneva āpajjitabbattā lokavajjāni ceva akusalacittāni cāti. Avasesāni sacittakāni paṇṇattivajjāneva. Corivuṭṭhāpanaṃ gāmantaraṃ ārāmasikkhāpadaṃ gabbhinivagge ādito paṭṭhāya satta, kumāribhūtavagge ādito paṭṭhāya pañca purisādisaṃsaṭṭhaṃ pārivāsikachandadānaṃ anuvassavuṭṭhāpanaṃ ekantarikavuṭṭhāpananti imāni ekūnavīsati sikkhāpadāni sacittakāni paṇṇattivajjāni. Avasesāni sacittakāni lokavajjānevāti.
Ở đó, đây là sự quyết đoán về các pháp khởi sanh trong các học giới riêng một cách tóm tắt – học giới về lễ hội trên đỉnh núi, nhà tranh, đai lưng, trang sức của phụ nữ, hương liệu và phấn sáp, bột ướp hương, và việc xoa bóp, đấm bóp bởi Tỳ-khưu-ni, v.v., mười học giới này không có chủ tâm, là lỗi thế gian, tâm bất thiện. Đây là ý nghĩa ở đây: được gọi là không có chủ tâm vì có thể phạm mà không cần có tâm, nhưng khi có tâm thì chỉ có thể phạm với tâm bất thiện, do đó vừa là lỗi thế gian vừa là tâm bất thiện. Các học giới còn lại có chủ tâm, chỉ là lỗi do chế định. Việc cho kẻ trộm xuất gia, đi đến làng khác, học giới về tu viện, bảy học giới đầu tiên trong phẩm Phụ Nữ Có Thai, năm học giới đầu tiên trong phẩm Trinh Nữ, việc sống chung lẫn lộn với đàn ông, v.v., sự đồng thuận bị gián đoạn, việc cho xuất gia hàng năm, việc cho xuất gia cách một năm, mười chín học giới này có chủ tâm, là lỗi do chế định. Các học giới còn lại có chủ tâm, chỉ là lỗi thế gian.

Exit mobile version