Phụ Chú Giải Tạng Luật – Trí Tuệ Kim Cương – Luận giải về giới Ưng Đối Trị

Mục lục

Pācittiyavaṇṇanā

Phần giải về Ưng Đối Trị

5. Pācittiyakaṇḍo

5. Phẩm Ưng Đối Trị

1. Musāvādavaggo

1. Phẩm Nói Dối

1. Musāvādasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học nói dối

1. Vādakkhittoti ettha avisesena vādajappavitaṇḍasaṅkhāto tividhopi kathāmaggo ‘‘vādo’’ icceva vuttoti veditabbo. Tesu ‘‘titthiyehi saddhi’’nti vacanato ṭhapetvā vādaṃ ‘‘sesā’’ti vadanti. Chalajātiniggahaṭṭhānakusalatāya kadāci katthaci avajānitvā paṭijānāti, tathā pubbe kiñci vacanaṃ paṭijānitvā pacchā avajānāti. Evaṃ vā aññathā vā aññenaññaṃ paṭicarati. Evaṃ pavatto sampajānamusā bhāsaṃ paṭissuṇitvā asaccāyanto saṅketaṃ katvā visaṃvādento evaṃ so vādakkhitto samāno pācittiyavatthuñca paripūrento vicaratīti evamadhippāyo veditabbo. Attano vādeti ettha ‘‘sabbe dhammā anattā’’ti (dha. pa. 279; cūḷani. ajitamāṇavapucchāniddesa 7; netti. 5; mahāni. 27) paṭhamamāraddhe attano vāde. ‘‘Yaṃ dukkhaṃ tadanattā’’ti (saṃ. ni. 3.15) no samayo. ‘‘Sabbe dhammā’’ti vutte nibbānampi saṅgahaṃ gacchati . ‘‘Nibbānaṃ paramaṃ sukha’’nti (dha. pa. 203-204; ma. ni. 2.215) vuttattā pana taṃ na dukkhaṃ. No ṭhānametaṃ vijjati. Ayaṃ paravādī ‘‘yaṃ dukkhaṃ tadanattā’’ti suttaṃ dassetvā siddhantaṃ sambhametvā ‘‘virodhi viruddho’’ti vuttaṃ dosaṃ āropessatīti tasmiṃ paṭhamavāde kañci dosaṃ sallakkhento āropite vā dose anāropite vā ‘‘nāyaṃ mama vādo’’ti taṃ avajānitvā ‘‘nibbānantveva sassata’’nti, ‘‘anattā iti nicchayā’’ti ca suttaṃ disvā tassa paṭhamavādassa niddosataṃ sallakkhetvā ‘‘mameva ayaṃ vādo’’ti tameva pacchā paṭijānāti. Evaṃ tattha yathāvuttamānisaṃsaṃ sallakkhento taṃ paṭijānitvā yadi anattā sabbe dhammā, dhammā eva na te bhavanti. Sabhāvaṃ dhārentīti hi ‘‘dhammā’’ti vuccanti.
1. Bị luận chiến lôi cuốn: Ở đây, nên được hiểu rằng ba loại đường lối đàm luận được gọi chung là “luận chiến,” bao gồm luận chiến (vāda), tranh luận (jappa), và ngụy biện (vitaṇḍa), không có sự phân biệt. Trong số đó, một số vị nói rằng, theo câu “cùng với các người ngoại đạo,” ngoài luận chiến ra, còn có “các loại khác.” Do khéo léo trong việc sử dụng sáu loại bắt bẻ (chalajātiniggahaṭṭhāna), đôi khi ở đâu đó, vị ấy khinh thường rồi thừa nhận, cũng vậy, sau khi đã thừa nhận một lời nói nào đó trước đây, sau đó lại khinh thường. Hoặc bằng cách này hay cách khác, vị ấy dùng cái này để đối phó cái khác. Khi hành động như vậy, sau khi nghe lời nói dối có chủ ý, không nói thật, đã ra dấu hiệu rồi nói sai, vị ấy bị luận chiến lôi cuốn, đồng thời hoàn thành vật của tội Ưng Đối Trị, ý nghĩa nên được hiểu như vậy. Trong luận điểm của mình: Ở đây, trong luận điểm của mình được bắt đầu trước tiên là “tất cả các pháp là vô ngã” (dha. pa. 279; cūḷani. ajitamāṇavapucchāniddesa 7; netti. 5; mahāni. 27). Đây không phải là thời điểm cho câu “cái gì khổ, cái đó là vô ngã” (saṃ. ni. 3.15). Khi nói “tất cả các pháp,” Niết-bàn cũng được bao gồm. Nhưng vì đã nói “Niết-bàn là an lạc tối thượng” (dha. pa. 203-204; ma. ni. 2.215), nên nó không phải là khổ. Điều này không có cơ sở. Người có luận điểm khác này, sau khi chỉ ra kinh “cái gì khổ, cái đó là vô ngã,” làm cho lập trường trở nên rối loạn và sẽ quy kết lỗi lầm đã được nói là “mâu thuẫn, trái ngược.” Thấy có lỗi nào đó trong luận điểm đầu tiên ấy, hoặc khi lỗi đã được quy kết hay chưa được quy kết, vị ấy khinh thường nó và nói “đây không phải là luận điểm của tôi,” rồi sau khi thấy kinh nói “chỉ có Niết-bàn là thường hằng” và “vô ngã là điều chắc chắn,” vị ấy nhận ra tính vô tội của luận điểm đầu tiên ấy và sau đó thừa nhận lại rằng “đây chính là luận điểm của tôi.” Như vậy, khi nhận thấy lợi ích đã được nói ở đó, vị ấy thừa nhận điều đó. Nếu tất cả các pháp là vô ngã, thì chúng không phải là pháp nữa. Vì chúng mang giữ tự tánh, nên được gọi là “pháp.”

Ayañca atta-saddo sabhāvavācīti evaṃ āropite vā dose anāropite vā dosoti sallakkhetvā ‘‘nāyaṃ mama vādo’’ti tameva paṭhamavādaṃ pacchā avajānāti. Atha so paravādī sapakkhaṃ paṭisedhe paṭijānanattāpanayanaṃ . Paṭijānāti patyāssa iti vacanato ‘‘paṭiññā aññā so nāma te niggaho’’ti vutto. Sabhāvātirittaṃ atthaṃ paṭisedhādhippāyato sabhāvato atirittaṃ bālaparikappitamattānaṃ sandhāya ‘‘anattā sabbe dhammā’’ti me paṭiññātakathā, sā ca tadavatthāyevāti na me taṃ paṭiññātattāpanayanaṃ atthi, ‘‘nāyaṃ mama vādo’’ti avajānanaṃ pana sabhāvasaṅkhātaṃ attānaṃ sandhāya ‘‘anattā sabbe dhammā’’ti na vadāmīti adhippāyena katanti iminā aññena kāraṇena taṃ pubbe paṭiññātattāpanayanaṃ kāraṇaṃ paṭicchādeti. ‘‘Anattā sabbeva dhammā’’ti na vattabbaṃ ‘‘atta-saddassa sabhāvavācittā’’ti idaṃ kāraṇaṃ paṭicca tena pubbe paṭiññātattāpanayanaṃ kataṃ. Tamaññakāraṇaṃ pacchā dassitena aññena kāraṇena paṭicchādetīti adhippāyo.
Và từ ngã này có nghĩa là tự tánh. Như vậy, khi lỗi đã được quy kết hay chưa được quy kết, nhận thấy đó là lỗi, vị ấy nói “đây không phải là luận điểm của tôi” và sau đó khinh thường chính luận điểm đầu tiên ấy. Bấy giờ, người có luận điểm khác, do bác bỏ lập trường của mình, đã thừa nhận sự loại bỏ. Do câu “sự thừa nhận khác, đó là sự bắt bẻ của ông,” nên được nói là “sự thừa nhận khác, đó là sự bắt bẻ của ông.” Lời tuyên bố của tôi “tất cả các pháp là vô ngã” là nhắm đến cái ngã do người ngu tưởng tượng ra, khác với tự tánh, với ý định bác bỏ ý nghĩa khác với tự tánh, và lời tuyên bố đó vẫn ở trạng thái đó, nên tôi không có sự loại bỏ điều đã thừa nhận đó. Còn việc khinh thường nói rằng “đây không phải là luận điểm của tôi” là được thực hiện với ý định rằng tôi không nói “tất cả các pháp là vô ngã” khi nhắm đến cái ngã được gọi là tự tánh. Bằng lý do khác này, vị ấy che đậy lý do loại bỏ điều đã thừa nhận trước đây. Việc loại bỏ điều đã thừa nhận trước đây của vị ấy được thực hiện do lý do “từ ‘ngã’ có nghĩa là tự tánh, nên không được nói ‘tất cả các pháp là vô ngã.’” Lý do khác đó được che đậy bằng một lý do khác được đưa ra sau đó, đó là ý nghĩa.

Yasmā na kevalaṃ yathādassitanayena so atthameva avajānāti, paṭijānāti ca, kintu vacanampi, tasmā aṭṭhakathāyaṃ (pāci. aṭṭha. 1) ‘‘jānitabbato’’ti paṭhamaṃ kāraṇaṃ vatvā paravādinā ‘‘yadi jānitabbato aniccaṃ, nibbānaṃ te aniccaṃ siyā’’ti vutte ‘‘na mayā ‘jānitabbato’ti kāraṇaṃ vuttaṃ, ‘jātidhammato’ti mayā vuttaṃ, taṃ tayā badhiratāya aññena sallakkhitantiādīni vadatīti adhippāyo. ‘Jānitabbato’ti vatvā puna ‘jātidhammato’tiādīni vadatī’’ti vuttaṃ. ‘‘Avajānitvā puna paṭijānanto taṃ avajānanaṃ iminā paṭicchādeti nāmā’’ti likhitaṃ.
Bởi vì vị ấy không chỉ khinh thường và thừa nhận ý nghĩa theo cách đã chỉ ra, mà còn cả lời nói, do đó trong chú giải (pāci. aṭṭha. 1) đã nói: sau khi nói lý do đầu tiên là “do có thể được biết,” khi người có luận điểm khác nói “nếu do có thể được biết mà là vô thường, thì Niết-bàn của ông sẽ là vô thường,” vị ấy nói những điều như “không phải tôi đã nói lý do là ‘do có thể được biết,’ mà tôi đã nói là ‘do có sanh pháp,’ điều đó do ông điếc nên đã hiểu lầm khác đi,” đó là ý nghĩa. Sau khi nói “do có thể được biết,” lại nói “do có sanh pháp,” v.v. đã được viết. “Sau khi khinh thường rồi lại thừa nhận, vị ấy che đậy sự khinh thường đó bằng cách này.”

2. Jānitvā jānantassa cāti jānitvā vā jānantassa vāti atthadvayaṃ dīpetīti.
2. Sau khi biết và của người đang biết: có nghĩa là làm sáng tỏ hai ý nghĩa: sau khi biết hoặc của người đang biết.

3. Apica micchāvācāpariyāpannāti catubbidhamicchāvācāpariyāpannā. Sīhaḷādināmabhedagatāti keci, tasmā evaṃ vadato vacanaṃ, taṃsamuṭṭhāpikā cetanāti ubhayaṃ vuttanti mātikāyaṃ ubhinnaṃ saṅgahitattā. Vibhaṅge taṃ vacanaṃ yasmā vinā viññattiyā natthi, tasmā ‘‘vācasikā viññattī’’ti viññatti ca dassitā. ‘‘Evaṃ vadato vacana’’nti lokavohārena vatvā paramatthato dassento ‘‘taṃsamuṭṭhāpikā vā cetanāti vutta’’nti ca vadati. Oḷārikenevāti cetanāsamuṭṭhānavācānaṃ sukhumattā visayavaseneva katāti.
3. Hơn nữa, thuộc về tà ngữ: là thuộc về bốn loại tà ngữ. Một số người nói rằng đó là sự khác biệt về tên gọi như Tích Lan, v.v., do đó lời nói của người nói như vậy và tâm sở đồng sanh khởi với nó, cả hai đều được nói đến, bởi vì trong đề mục cả hai đều được bao gồm. Trong Phân Tích, vì lời nói đó không tồn tại nếu không có thân biểu tri, do đó “thân biểu tri thuộc về lời nói” và thân biểu tri đã được chỉ ra. Sau khi nói “lời nói của người nói như vậy” theo cách nói của thế gian, để chỉ ra theo nghĩa chân đế, vị ấy nói “hoặc tâm sở đồng sanh khởi với nó đã được nói đến.” Chỉ bằng cách thô thiển: được thực hiện chỉ do đối tượng, do sự vi tế của lời nói sanh khởi từ tâm sở.

9. Diṭṭhassahotīti diṭṭho assa, anena vā upacārajjhānavasena na mayā abyāvaṭo mato, ‘‘na mayā pavanto paṭo diṭṭho’’tiādiṃ bhaṇantassa ca paramatthasuññataṃ upādāya eva ‘‘itthiṃ na passāmi, na ca purisa’’nti bhaṇantassa ca na musāvādo.
9. Của người đã thấy: là thấy của người ấy, hoặc do người này, bằng thiền định ước lệ, không phải tôi đã thấy người chết không hoạt động, và của người nói rằng “tôi không thấy tấm vải đang trôi,” v.v., và của người nói rằng “tôi không thấy người nữ, cũng không thấy người nam” do tính không theo nghĩa chân đế, thì không phải là nói dối.

11. Āpattiṃ āpajjatiyevāti ettha ‘‘dubbhāsitāpattī’’ti vadanti. Kasmā? ‘‘Keḷiṃ kurumāno’’ti vuttattā. ‘‘Vācā girā…pe… vācasikā viññattī’’ti ujukaṃ sandhāya, kāyo na ujuko.
11. Phạm tội: Ở đây, các vị nói là “phạm tội Tác Ác.” Tại sao? Vì đã nói “đang nói đùa.” Trực tiếp nhắm đến “lời nói, câu nói… thân biểu tri thuộc về lời nói,” còn thân thì không trực tiếp.

Musāvādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học nói dối đã hoàn tất.

2. Omasavādasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học nói lời miệt thị

13. ‘‘Puna are patteti puna taṃ ṭhānaṃ parivaṭṭetvā āgate aññasmiṃ are’’ti likhitaṃ. Patiṭṭhitārappadesanti bhūmiṃ. Puna areti puna tasmiṃyeva are bhūmiṃ patteti atthoti keci, taṃ na sundaraṃ viya. Jāpitoti parājito, ‘‘parājito’’ti vā pāṭho. Pāpesīti abhibhavasi. Manāpaṃ bhāsamānassa brāhmaṇassa garuṃ bhāraṃ. Udabbahīti ākaḍḍhīti attho, anādaratthe vā sāmivacanaṃ. Dhanañca naṃ alābhesīti yathā so dhanaṃ alabhi, tathā akāsīti adhippāyo.
13. “Lại đến đầu căm xe”: được viết là “sau khi quay lại chỗ đó, đến một đầu căm xe khác.” Chỗ có đầu căm xe vững chắc: là mặt đất. Một số người nói rằng ý nghĩa là “lại ở đầu căm xe”, tức là lại đến mặt đất ở chính đầu căm xe đó, điều này có vẻ không hợp lý. Bị làm cho biết: là bị thua, hoặc có bản đọc là “bị thua.” Ngươi đã làm hại: ngươi đã áp đảo. Gánh nặng của vị Bà-la-môn đang nói lời hay ý đẹp. Đã kéo đi: có nghĩa là đã kéo lê, hoặc là cách nói ở ngôi thứ sáu với nghĩa không tôn trọng. Và đã làm cho người ấy không được của cải: có nghĩa là đã làm cho người ấy không nhận được của cải, đó là ý nghĩa.

15. Pubbeti nidāne. Avakaṇṇakanti chinnakaṇṇakanāmaṃ. Javakaṇṇakanti vaṅkakaṇṇakanāmaṃ. Dhaniṭṭhakaṃ dhanavaḍḍhakanāmaṃ, sirivaḍḍhakanāmaṃ kulavaḍḍhakasseva nāmaṃ. Tacchakakammanti khaṇanakammakārā koṭṭhakā, pāsāṇakammakārāti keci. ‘‘Muddāti pabbagaṇanā. Gaṇanāti mahāgaṇanā’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ. ‘‘Madhumehaṃ omeha’’nti likhitaṃ. Thūlakāyassa maṃsūpacayoti eke. Yabha methune. Vītarāgatādīhi akkosantopi kileseheva kira akkosati nāma, tathā ‘‘sotāpanno’’ti akkosanto āpattiyā akkosati nāmāti eke. Liṅgāyattattā accodātādipi liṅgameva jātaṃ.
15. Trước đây: trong phần nhân duyên. Kẻ tai cụt: tên là kẻ bị cắt tai. Kẻ tai cong: tên là kẻ tai cong. Người làm tăng của cải: tên là người làm tăng của cải, cũng là tên của người làm tăng trưởng dòng họ. Việc của thợ mộc: là những người thợ đào bới, những người làm nhà kho, một số nói là những người thợ đá. Trong sách cổ chú giải đã nói: “Muddā là việc đếm đốt ngón tay. Gaṇanā là việc đếm số lượng lớn.” “Bệnh đái tháo đường tiểu ra mật” đã được viết. Một số người nói là sự tích tụ thịt của người mập. Chữ “yabha” trong giao hợp. Ngay cả khi mắng nhiếc những người đã hết tham ái, v.v., người ta vẫn mắng nhiếc bằng phiền não, cũng vậy, một số người nói rằng khi mắng nhiếc “người nhập lưu,” người ấy mắng nhiếc bằng tội lỗi. Do phụ thuộc vào giới tính, nên ngay cả những người quá trong sạch, v.v., cũng đã trở thành giới tính.

16. Sabbattha vadetīti uddeso. Bhaṇatīti vitthāro. Vadetīti vā iminā paraviññāpanaṃ dīpeti.
16. Ở mọi nơi, nói là phần đề cương. Thốt ra là phần chi tiết. Hoặc nói bằng cách này để làm sáng tỏ sự thông báo cho người khác.

26. Aññāpadesavāresu pana ‘‘evaṃ vadetī’’ti vuttaṃ. Kasmā? Pubbe dassitauddesakkamanidassanatthaṃ. Pubbepi ‘‘hīnena hīnaṃ, hīnena ukkaṭṭhaṃ, ukkaṭṭhena hīnaṃ, ukkaṭṭhena ukkaṭṭha’’nti jātyādīsu ekekasmiṃ catudhā catudhā dassitauddesakkamassa nidassanaṃ ‘‘eva’’nti iminā karoti. ‘‘Hīnena hīnaṃ vadetī’’ti vuttaṭṭhāneyeva hi ‘‘evaṃ vadetī’’ti vutte so ākāro nidassito hotīti adhippāyo. Aññathā aññāpadesena so ākāro na sambhavatīti āpajjati. Na sambhavati evāti ce? Na, visesakāraṇābhāvā, tattha anāpattippasaṅgato, aniyamaniddesena aniyamatthasambhavato ca. ‘‘Santi idhekacce caṇḍālā’’tiādinā hi aniyamaniddesena caṇḍālaṃ vā acaṇḍālaṃ vā sandhāya bhaṇantassa āpattīti aniyamattho sambhavatīti adhippāyo. Yadi evaṃ ettakameva vattabbaṃ tāvatā pubbe dassitauddesakkamanidassanasiddhitoti? Na, ‘‘vadetī’’ti iminā ayojite ‘‘eva’’nti pade imaṃ nāma ākāraṃ dassetīti anavabodhato. Aññāpadesanayepi paraviññāpaneyeva dukkaṭapācittiyaṃ viyāti niyamanapayojanaṃ vā ‘‘vadetī’’ti padanti veditabbaṃ. Atha vā attano samīpe ṭhatvā aññaṃ bhikkhuṃ āṇāpento hīnena hīnaṃ vadeti bhaṇati, āpatti pācittiyassa. Sace sayaṃ hīno hīnena hīnaṃ caṇḍālaṃ…pe… pukkusaṃ ‘‘pukkuso’’ti bhaṇati āpatti vācāya vācāya pācittiyassa, esa nayo aññāpadesavāresupīti yojanā veditabbā. Ayamattho duṭṭhadosesu pariyesitabbo. Aññathā ‘‘vadeti bhaṇatī’’ti etesaṃ aññataraṃ ubhayattha anaññāpadesavāraaññāpadesavāresu, visesena vā aññāpadesavāresu niratthakaṃ āpajjati vināyeva tena vacanasiliṭṭhatāsambhavato. Attato pāḷiyaṃ avuttattā panettha ‘‘sāṇattika’’nti vuttanti veditabbaṃ. Tatrāyaṃ padasandhi vadetīti vada itīti. Asammukhā vadantassa dukkaṭaṃ ‘‘sammukhā pana sattahipi āpattikkhandhehi vadantassa dukkaṭa’’nti andhakaṭṭhakathāyaṃ vuttattā. Davakamyatā nāma keḷi, taṃ dassetuṃ ‘‘hasādhippāyatā’’ti vuttaṃ. ‘‘Asammukhāpi davakamyatāya vadantassa dubbhāsitamevā’’ti ācariyā vadanti. Pāpagarahitāya kujjhitvāpi vadantassa dukkaṭaṃ, asammukhā anāpattīti.
26. Trong các trường hợp nói bóng gió, đã nói là “nói như vậy.” Tại sao? Để chỉ ra trình tự của đề cương đã được trình bày trước đó. Trước đây, trong các vấn đề về giai cấp, v.v., mỗi loại được chia làm bốn, bốn cách đã được trình bày là “người thấp kém với người thấp kém, người thấp kém với người cao quý, người cao quý với người thấp kém, người cao quý với người cao quý.” Việc chỉ ra trình tự của đề cương đó được thực hiện bằng từ “như vậy.” Khi nói “nói như vậy” ở nơi đã nói “nói người thấp kém với người thấp kém,” thì cách thức đó được chỉ ra, đó là ý nghĩa. Nếu không, cách thức đó không thể có được bằng cách nói bóng gió, và sẽ phạm tội. Nếu nói rằng chắc chắn không thể có được thì sao? Không phải, vì không có lý do đặc biệt, do có nguy cơ không phạm tội ở đó, và do có thể có ý nghĩa không xác định do sự chỉ dẫn không xác định. Bằng câu “có một số người hạ tiện ở đây,” v.v., ý nghĩa không xác định có thể có được, tức là có tội đối với người nói nhắm đến người hạ tiện hoặc người không phải hạ tiện, đó là ý nghĩa. Nếu vậy, chỉ cần nói bấy nhiêu là đủ để chỉ ra trình tự của đề cương đã được trình bày trước đó? Không phải, vì khi từ “như vậy” không được kết hợp với từ “nói,” người ta không hiểu được rằng nó chỉ ra một cách thức có tên này. Hoặc nên biết rằng từ “nói” có mục đích giới hạn rằng ngay cả trong cách nói bóng gió, tội Tác Ác và Ưng Đối Trị cũng giống như trong việc thông báo cho người khác. Hoặc, đứng gần mình ra lệnh cho một Tỳ-khưu khác, vị ấy nói và thốt ra lời thấp kém với người thấp kém, phạm tội Ưng Đối Trị. Nếu chính mình là người thấp kém, nói và thốt ra lời thấp kém với người thấp kém là người hạ tiện… cho đến… người Pukkusa là “người Pukkusa,” phạm tội Ưng Đối Trị cho mỗi lời nói, cách này cũng nên được hiểu trong các trường hợp nói bóng gió. Ý nghĩa này cần được tìm hiểu trong các trường hợp có ý xấu. Nếu không, một trong hai từ “nói” và “thốt ra” ở cả hai nơi, trường hợp không nói bóng gió và trường hợp nói bóng gió, hoặc đặc biệt là trong các trường hợp nói bóng gió, sẽ trở nên vô nghĩa, vì sự trôi chảy của lời nói có thể có được mà không cần đến nó. Vì không được nói trong kinh điển, nên ở đây đã nói là “có thể ra lệnh,” nên được hiểu như vậy. Ở đó, sự kết hợp từ là vadetīti vada itīti. Tội Tác Ác đối với người nói vắng mặt, vì trong chú giải của trường phái Andhaka đã nói rằng “còn đối với người nói trước mặt bằng bảy uẩn tội, thì là tội Tác Ác.” Sự ham muốn đùa cợt là trò đùa, để chỉ ra điều đó, đã nói là “có ý định vui đùa.” Các vị đạo sư nói rằng “ngay cả khi nói vắng mặt với ý muốn đùa cợt, cũng là lời nói xấu.” Còn đối với người nói với sự tức giận do chê bai điều ác, thì là tội Tác Ác, còn nói vắng mặt thì không có tội.

Omasavādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học nói lời miệt thị đã hoàn tất.

3. Pesuññasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học nói đâm thọc

36-7. ‘‘Imassa sutvā amussā’’ti pāṭho. ‘‘Imesaṃ sutvā’’ti na sundaraṃ. Bhedāyapīti bhedāya. Tiṇṇampi bhikkhubhāvatoyeva nipajjanato ‘‘bhikkhūnaṃ pesuññe’’ti bahuvacanaṃ kataṃ.
36-7. Bản đọc là “nghe của người này rồi nói cho người kia.” Bản đọc “nghe của những người này” không hay. Cũng để chia rẽ: là để chia rẽ. Vì cả ba đều sanh ra từ thân phận Tỳ-khưu, nên đã dùng số nhiều là “trong sự nói đâm thọc của các Tỳ-khưu.”

38-9. ‘‘Itthannāmo āyasmā caṇḍālo…pe… pukkusoti bhaṇatī’’ti vatvā pesuññaṃ upasaṃharatīti yojanā. Aññathā ‘‘pukkusoti bhaṇatī’’ti vattabbatā āpajjati. Ettha anupasampannavāro labbhamānopi na uddhaṭo omasavāde dassitanayattā, saṅkhepato ante dassetukāmatāya vā. Tathā hi ante tīṇi dukkaṭāni dassitāni. Tāni pana dassento bhagavā yasmā ‘‘upasampannassa sutvā upasampannassa pesuññaṃ upasaṃharatī’’ti vuttānaṃ dvinnaṃ padānaṃ aññataravipallāsavasena vā ubhayavipallāsavasena vā pācittiyanti katvā dvepi tāni ekato vuttānīti dassetukāmo, tasmā sabbapaṭhamaṃyeva ‘‘upasampanno upasampannassa sutvā upasampannassa pesuññaṃ upasaṃharati, āpatti pācittiyassā’’ti āha. ‘‘Dvīsu panetesu yasmā pārājikaṃ ajjhāpannopi upasampanno tādisaṃyeva upasampannaṃ khuṃsetukāmo omasati, tādisassa sutvā tādisassa pesuññaṃ upasaṃharati, āpatti pācittiyassa, tasmā ‘upasampanno’ti idaṃ ādipadaṃ sabbattha vutta’’nti keci vadanti, taṃ na yuttaṃ, anavasesaāpattiṃ āpannassa puna āpattiyā asambhavato, tasmā kevalaṃ mātikāyaṃ bhikkhupadābhāvatoyeva ‘‘bhaṇati upasaṃharatī’’ti padānaṃ kārakaniddesābhāve asambhavato eva taṃ ādipadaṃ vuttanti veditabbaṃ. Idaṃ pāḷilesābhāvato anāṇattikameva. ‘‘Na piyakamyassa, na bhedādhippāyassā’’ti upasaṃharaṇāpekkhaṃ sāmivacanaṃ tuṇhībhūtassa vacanappayojanābhāvato, tena vuttaṃ ‘‘pāpagarahitāya bhaṇantassa anāpattī’’ti.
38-9. Nên kết hợp như sau: sau khi nói “vị thượng tọa tên là này là người hạ tiện… cho đến… là người Pukkusa,” vị ấy kết thúc bằng sự nói đâm thọc. Nếu không, sẽ phải nói là “nói là người Pukkusa.” Ở đây, trường hợp người chưa thọ cụ túc giới, mặc dù có thể có được, nhưng không được nêu ra vì đã được trình bày trong điều học nói lời miệt thị, hoặc vì muốn trình bày tóm tắt ở cuối. Thật vậy, ở cuối đã trình bày ba tội Tác Ác. Nhưng khi trình bày những điều đó, Đức Thế Tôn muốn chỉ ra rằng tội Ưng Đối Trị được tạo ra do sự thay đổi một trong hai từ đã được nói là “nghe của người đã thọ cụ túc giới rồi nói đâm thọc cho người đã thọ cụ túc giới” hoặc do sự thay đổi của cả hai, và cả hai đều được nói chung một lúc, do đó ngay từ đầu Ngài đã nói “người đã thọ cụ túc giới nghe của người đã thọ cụ túc giới rồi nói đâm thọc cho người đã thọ cụ túc giới, phạm tội Ưng Đối Trị.” Trong hai điều này, bởi vì ngay cả người đã phạm tội Bất Cộng Trụ cũng là người đã thọ cụ túc giới, muốn mắng nhiếc một người đã thọ cụ túc giới tương tự, nên đã miệt thị, nghe của người như vậy rồi nói đâm thọc cho người như vậy, phạm tội Ưng Đối Trị, do đó một số người nói rằng “từ ‘người đã thọ cụ túc giới’ là từ đầu tiên được nói ở mọi nơi,” điều đó không đúng, vì người đã phạm tội không còn lại thì không thể phạm tội nữa, do đó chỉ vì trong đề mục không có từ Tỳ-khưu, nên từ đầu tiên đó đã được nói để chỉ ra tác nhân của các từ “thốt ra” và “nói đâm thọc,” nên được hiểu như vậy. Điều này không phải là lệnh cấm vì không có dấu hiệu trong kinh điển. “Không phải của người muốn được yêu mến, không phải của người có ý định chia rẽ” là cách nói ở ngôi thứ sáu liên quan đến sự kết thúc, vì không có mục đích nói của người im lặng, do đó đã nói “không có tội đối với người thốt ra vì chê bai điều ác.”

Pesuññasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học nói đâm thọc đã hoàn tất.

4. Padasodhammasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học dạy pháp theo từng chữ

45-6. Sabbametaṃpadaso dhammo nāmāti ettha dhammo nāma buddhabhāsitoti evaṃ sambandho. Akkharasamūhoti asamattapade. Paccekabuddhabhāsitaṃ buddhabhāsite eva. Anupāsakagahaṭṭhehi bhāsito isibhāsitādisaṅgahaṃ gacchatīti veditabbaṃ. Katthaci potthake ‘‘devatābhāsito’’ti padaṃ natthi, yattha atthi, sā pāḷi. Gāthābandhepi ca esa nayoti ekameva akkharaṃ vatvā ṭhānaṃ labbhati eva. ‘‘Evaṃ me suta’’ntiādisuttaṃ bhaṇāpiyamāno ekāraṃ vatvā tiṭṭhati ce, anvakkharena pācittiyaṃ, aparipuṇṇapadaṃ vatvā ṭhite anubyañjanena. Padesu ekaṃ paṭhamapadaṃ virujjhati ce, anupadena pācittiyaṃ. Aṭṭhakathānissitoti aṭṭhakathānissitavasena ṭhito. Pubbe pakatibhāsāya vuttaṃ aṭṭhakathaṃ sandhāya. Pāḷinissitoti pāḷiyaṃ evāgato. Maggakathādīnipi pakaraṇāni.
45-6. Tất cả những điều này đều được gọi là pháp theo từng chữ: Ở đây, pháp được gọi là lời Phật dạy, nên kết hợp như vậy. Tập hợp các chữ cái: là trong câu chưa hoàn chỉnh. Lời nói của Phật Độc Giác cũng chính là lời Phật dạy. Nên được hiểu rằng lời nói của các cư sĩ không phải là cận sự nam được bao gồm trong lời nói của các vị ẩn sĩ, v.v. Trong một số sách, không có từ “lời nói của chư thiên,” nơi nào có, đó là kinh điển. Trong các câu kệ cũng theo cách này: là chỉ nói một chữ rồi dừng lại cũng được. Khi đang được yêu cầu tụng kinh “Như vầy tôi nghe,” v.v., nếu dừng lại sau khi nói chữ “e,” thì phạm tội Ưng Đối Trị theo từng chữ, nếu dừng lại sau khi nói một từ chưa hoàn chỉnh, thì theo từng âm. Trong các câu, nếu một câu đầu tiên bị sai, thì phạm tội Ưng Đối Trị theo từng câu. Dựa vào chú giải: là đứng trên cơ sở dựa vào chú giải. Nhắm đến chú giải đã được nói bằng ngôn ngữ tự nhiên trước đây. Dựa vào kinh điển: là chỉ đến trong kinh điển. Các luận giải như Maggakathā v.v. cũng vậy.

48. Upacāranti dvādasahatthaṃ. ‘‘Opātetīti ekato bhaṇati samāgacchatī’’ti likhitaṃ. Kiñcāpi apalāladamanampi sīlupadesopi bhagavato kāle uppanno, atha kho tesu yaṃ yaṃ buddhavacanato āharitvā vuttaṃ, taṃ tadeva āpattivatthu hotīti viññāpanatthaṃ mahāaṭṭhakathāyaṃ ‘‘vadantī’’ti vacanehi sithilaṃ kataṃ. Buddhavacanato āharitvā vuttassa bahulatāya tabbahulanayena tesu āpatti vuttā, tasmā mahāpaccariyaṃ tassādhippāyo pakāsitoti attho. ‘‘Sabbesameva vacananti apare’’ti vuttaṃ. Sace ācariyo ṭhito nisinnānaṃ pāṭhaṃ deti, ‘‘na ṭhito nisinnassa dhammaṃ desessāmī’’ti vuttāpattiṃ nāpajjatīti eke. Tesampi pāṭhadānaṃ dhammadesanato na aññanti taṃ na yuttaṃ, chattapāṇikādīnaṃ pāṭhadānena anāpattippasaṅgato, āpattibhāvo ca siddho. Vuttañhetaṃ –
48. Phạm vi: là mười hai hắt tay. “Cùng tụng: là cùng nói, cùng đến với nhau” đã được viết. Mặc dù việc chế ngự những kẻ nói nhảm và việc thuyết giảng về giới luật cũng đã phát sanh vào thời Đức Thế Tôn, nhưng trong số đó, những gì được trích dẫn từ lời Phật dạy và được nói ra, chính những điều đó trở thành vật của tội, để làm cho điều này được biết, trong đại chú giải đã làm cho lỏng lẻo bằng những lời nói “họ nói.” Do tính đa dạng của những gì được trích dẫn từ lời Phật dạy và được nói ra, tội đã được nói đến trong số đó theo tính đa dạng đó, do đó trong đại sớ giải, ý định đó được làm sáng tỏ, đó là ý nghĩa. Đã nói “một số người khác nói là lời nói của tất cả.” Nếu vị thầy đứng dạy bài cho những người ngồi, một số người nói rằng vị ấy không phạm tội đã được nói là “người đứng không nên thuyết pháp cho người ngồi.” Việc dạy bài của họ cũng không khác gì việc thuyết pháp, nên điều đó không đúng, do có nguy cơ không phạm tội khi dạy bài cho những người cầm lọng, v.v., và tình trạng phạm tội đã được xác định. Điều này đã được nói:

‘‘Ubho atthaṃ na jānanti, ubho dhammaṃ na passare;
Yo cāyaṃ mantaṃ vāceti, yo cādhammenadhīyatī’’ti. (pāci. 647);
“Cả hai không biết nghĩa, cả hai không thấy pháp;
Người nào tụng kinh, và người nào học trái pháp.” (pāci. 647);

Ettha adhīyatīti attho, tasmā pāṭhadānampi dhammadesanāva. Sekhiyaṭṭhakathāyaṃ (pāci. aṭṭha. 634) ‘‘dhammaparicchedo panettha padasodhamme vuttanayena veditabbo’’ti vuttaṃ , tasmā ayameva dhammo sabbattha dhammapaṭisaṃyuttasikkhāpadesu veditabbo. Yadi evaṃ saṅkhārabhāsādivasena cittadhammaṃ desentassa sekhiyavasena anāpatti siyā, tato chapakajātakavirodho. Tattha mantānaṃ bāhiraganthattāti ce? Na, tadadhippāyājānanato. Ayañhi tattha adhippāyo ‘‘bāhirakaganthsaṅkhātampi mantaṃ ucce āsane nisinnassa vācetuṃ me bhikkhave amanāpaṃ, pageva dhammaṃ desetu’’nti. ‘‘Tadāpi me, bhikkhave, amanāpaṃ nīce āsane nisīditvā ucce āsane nisinnassa mantaṃ vācetuṃ, kimaṅgaṃ pana etarahi…pe… dhammaṃ desetu’’nti (pāci. 647) hi ayaṃ pāḷi yathāvuttameva adhippāyaṃ dīpeti, na aññaṃ. Teneva ‘‘mantaṃ vācetuṃ dhammaṃ desetu’’nti vacanabhedo kato. Aññathā ubhayattha ‘‘dhammaṃ desetu’’micceva vattabbanti.
Ở đây, “học” là ý nghĩa, do đó việc dạy bài cũng là thuyết pháp. Trong chú giải về các điều học (pāci. aṭṭha. 634) đã nói “sự phân định pháp ở đây nên được hiểu theo cách đã nói trong điều học dạy pháp theo từng chữ,” do đó chính pháp này nên được hiểu trong tất cả các điều học liên quan đến pháp. Nếu vậy, đối với người thuyết giảng về tâm pháp theo ngôn ngữ Sankhara, v.v., sẽ không có tội theo các điều học, điều đó mâu thuẫn với Chapakajātaka. Nếu nói rằng đó là vì các câu thần chú trong đó là kinh sách bên ngoài thì sao? Không phải, vì không biết ý định đó. Đây là ý định ở đó: “Này các Tỳ-khưu, đối với tôi, việc tụng một câu thần chú, dù là kinh sách bên ngoài, cho người ngồi trên ghế cao là điều không hài lòng, huống chi là thuyết pháp.” “Ngay cả khi đó, này các Tỳ-khưu, đối với tôi, việc ngồi trên ghế thấp tụng một câu thần chú cho người ngồi trên ghế cao là điều không hài lòng, huống chi là bây giờ… cho đến… thuyết pháp” (pāci. 647) kinh điển này làm sáng tỏ chính ý định đã nói, không phải ý định khác. Chính vì vậy mà đã có sự phân biệt lời nói “tụng thần chú, thuyết pháp.” Nếu không, ở cả hai nơi sẽ chỉ nói là “thuyết pháp.”

Mayāsaddhiṃ mā vadātiādimhi pana anugaṇṭhipade evaṃ vutto ‘‘sace bhikkhu sāmaṇerena saddhiṃ vattukāmo, tathā sāmaṇeropi bhikkhunā saddhiṃ vattukāmo sahasā opāteti, ‘yebhuyyena paguṇaṃ ganthaṃ bhaṇantaṃ opātetī’’tiādīsu viya anāpatti, na hi ettāvatā bhikkhu sāmaṇerassa uddisati nāma hoti. Yasmā mahāaṭṭhakathāyaṃ natthi, tasmāpi yuttamevetaṃ. Sace tattha vicāretvā paṭikkhittaṃ siyā āpatti, kiriyākiriyañca nāpajjati. Kasmā? Yasmā cittena ekato vattukāmo, atha kho naṃ ‘ekato mā vadā’ti paṭikkhipitvāpi ekato vadanto āpajjati. Avattukāmassa sahasā virajjhitvā ekato vadantassa anāpatti, tena vuttaṃ ‘mayā saddhiṃ mā vadāti vutto yadi vadati, anāpattī’ti. Tathāpi ācariyānaṃ matimanuvattantena evarūpesu ṭhānesu yathāvuttanayeneva paṭipajjitabbaṃ. Kasmā? Yasmā mahāaṭṭhakathāyaṃ natthi, natthibhāvatoyeva āpatti. Sace tattha anāpattiavacanaṃ na sambhavati ayamaṭṭhānattā’’ti.
Còn trong câu “đừng nói cùng với tôi,” v.v., trong sách phụ chú giải đã nói như sau: “Nếu Tỳ-khưu muốn nói cùng với sa-di, và sa-di cũng muốn nói cùng với Tỳ-khưu, rồi đột ngột cùng tụng, thì không có tội, giống như trong các trường hợp ‘cùng tụng một bài kinh đã thuộc lòng,’ v.v., vì bấy nhiêu đó không được gọi là Tỳ-khưu chỉ định cho sa-di. Vì không có trong đại chú giải, nên điều này cũng hợp lý. Nếu ở đó đã được xem xét và bác bỏ, thì sẽ có tội, và không phạm tội hành động và không hành động. Tại sao? Vì tâm muốn nói cùng nhau, nhưng sau khi bị ngăn cản ‘đừng nói cùng nhau’ mà vẫn nói cùng nhau, thì phạm tội. Đối với người không muốn nói, đột ngột không đồng ý mà nói cùng nhau, thì không có tội, do đó đã nói ‘nếu người được bảo ‘đừng nói cùng với tôi’ mà vẫn nói, thì không có tội.’ Tuy nhiên, theo quan điểm của các vị đạo sư, trong những trường hợp như vậy, nên thực hành theo cách đã nói. Tại sao? Vì không có trong đại chú giải, chính vì không có nên có tội. Nếu ở đó không thể có lời nói không có tội, thì đó là do không có cơ sở.”

Tatrāyaṃ vicāraṇā – ‘‘mayā saddhiṃ mā vadā’’ti vutto yadi vadati, bhikkhuno anāpattīti yuttametaṃ bhikkhuno vattukāmatāyābhāvato, bhāvepi sajjhāyakaraṇādīsu tīsu anāpattito ca. Atha sāmaṇerena byattatāya ‘‘mayā saddhiṃ mā vadā’’ti vutto bhikkhuꗩatāya vadati, āpatti eva vattukāmatāsabbhāvato. Sahasā ce vadati, anāpatti tadabhāvato. Sace bhikkhu evaṃ ‘‘mayā saddhiṃ mā vadā’’ti vatvā tena saddhiṃ sayaṃ vadati, āpatti eva. Na hi etaṃ sikkhāpadaṃ kiriyākiriyaṃ. Yadi etaṃ sikkhāpadaṃ kiriyākiriyaṃ bhaveyya, yuttaṃ. Tattha anāpattīti adhippāyo. Mahāpaccariyaṃ imināva adhippāyena ‘‘mayā saddhiṃ mā vadā’’ti vuttaṃ siyā. Na hi sāmaṇerassa kiriyā idha pamāṇanti, imasmiṃ pana adhippāye vutte atiyuttaṃvāti attho. Akkharattho byañjanattho. Kiñcāpi ‘‘yañca padaṃ yañca anupadaṃ yañca anvakkharaṃ yañca anubyañjanaṃ, sabbametaṃ padasodhammo nāmā’’ti vuttaṃ, tathāpi ‘‘padena vāceti, pade pade āpatti pācittiyassa, akkharāya vāceti, akkharakkharāya āpatti pācittiyassā’’ti idameva dvayaṃ yojitaṃ, taṃ kasmāti ce? Padena anupadaanubyañjanānaṃ saṅgahitattā. Vuttañhetaṃ ‘‘anupadanti dutiyapādo. Anubyañjananti purimabyañjanena sadisaṃ pacchābyañjana’’nti (pāci. aṭṭha. 45), tasmā anupadekadesamattameva anubyañjananti siddhaṃ. ‘‘Akkharānubyañjanasamūho pada’’nti ca vuttattā padamattameva vattabbaṃ tena anupadādittayaggahaṇatoti ce? Na vattabbaṃ vacanavisesato. Padena vācento hi pade vā anupade vā anubyañjane vā āpattiṃ āpajjati. Na akkharena. Akkharena vācento pana padādīsu aññatarasmiṃ āpajjati. Na hi ‘‘varo varaññū varado varāharo’’tiādimhi paṭhamaṃ va-kāraṃ vācento dutiyādiva-kāre opāteti, paṭhamaṃ ro-kāraṃ vācento dutiyaro-kāre opāteti, paṭhamaṃ ra-kāraṃ vācento dutiyara-kāre opāteti, āpatti pācittiyassāti sambhavati. Anubyañjanānulomato sambhavati evāti ce? Na, ‘‘pade pade āpatti pācittiyassā’’ti iminā viruddhattā. Idañhi vacanaṃ ekasmiṃ pade ekā āpattīti dīpeti. ‘‘Rūpaṃ aniccanti vuccamāno rūti opātetī’’ti vacanato sakalaṃ pādaṃ vācentassa paṭhamaakkharamatte ekato vutte āpattīti siddhanti ce? Na, ‘‘akkharakkharāya āpatti pācittiyassā’’ti iminā viruddhattā, tasmā rūti opātetīti vattuṃ asambhavato rū-kārassa yathāvuttadhammapariyāpannabhāvasiddhito taṃ avatvā kevalaṃ akkharāya vācentassa yathāvuttadhammapariyāpannaakkharabhāvadassanatthaṃ ‘‘rūpaṃ aniccanti vuccamāno’’ti vuttaṃ, vacanasiliṭṭhatāvasena vā anubyañjane vedanāvacanaṃ viyāti veditabbaṃ.
Ở đó, sự xem xét này là: “Nếu người được bảo ‘đừng nói cùng với tôi’ mà vẫn nói, thì Tỳ-khưu không có tội,” điều này hợp lý vì Tỳ-khưu không có ý muốn nói, và cũng không có tội trong ba trường hợp tụng kinh, v.v. Nhưng nếu sa-di, do lanh lợi, nói “đừng nói cùng với tôi,” Tỳ-khưu, do ngu dốt, nói theo, thì phạm tội vì có ý muốn nói. Nếu nói đột ngột, thì không có tội vì không có ý muốn đó. Nếu Tỳ-khưu nói “đừng nói cùng với tôi” rồi chính mình nói cùng với người đó, thì phạm tội. Vì điều học này không phải là hành động và không hành động. Nếu điều học này là hành động và không hành động, thì hợp lý. Ở đó, ý định là không có tội. Trong đại sớ giải, có thể đã nói “đừng nói cùng với tôi” với ý định này. Vì hành động của sa-di ở đây không phải là tiêu chuẩn, nhưng khi ý định này được nói ra, thì rất hợp lý, đó là ý nghĩa. Nghĩa của chữ, nghĩa của âm. Mặc dù đã nói “câu, câu phụ, chữ, và âm phụ, tất cả những điều này được gọi là pháp theo từng chữ,” tuy nhiên chỉ có hai điều này được áp dụng: “dạy theo từng câu, phạm tội Ưng Đối Trị cho mỗi câu, dạy theo từng chữ, phạm tội Ưng Đối Trị cho mỗi chữ,” tại sao lại như vậy? Vì câu bao gồm câu phụ và âm phụ. Đã nói “câu phụ là câu thứ hai. Âm phụ là âm sau giống với âm trước” (pāci. aṭṭha. 45), do đó âm phụ chỉ là một phần của câu phụ, điều này đã được xác định. Nếu nói rằng “tập hợp các chữ và âm phụ là câu,” nên chỉ cần nói câu là đủ để bao gồm cả ba thứ câu phụ, v.v.? Không cần nói, do sự khác biệt của lời nói. Người dạy theo từng câu, phạm tội ở câu, câu phụ, hoặc âm phụ. Không phải ở chữ. Còn người dạy theo từng chữ, phạm tội ở một trong ba thứ câu, v.v. Vì không thể có chuyện “khi tụng ‘varo varaññū varado varāharo,’ v.v., tụng chung chữ va đầu tiên với chữ va thứ hai, v.v., tụng chung chữ ro đầu tiên với chữ ro thứ hai, tụng chung chữ ra đầu tiên với chữ ra thứ hai, phạm tội Ưng Đối Trị.” Nếu nói rằng có thể có được theo sự tương tự của âm phụ thì sao? Không được, vì mâu thuẫn với câu “phạm tội Ưng Đối Trị cho mỗi câu.” Câu này làm sáng tỏ rằng trong một câu có một tội. Nếu nói rằng “khi đang nói ‘sắc là vô thường,’ tụng chung chữ rū,” do đó khi tụng cả câu, chỉ tụng chung chữ đầu tiên đã phạm tội, điều này đã được xác định? Không được, vì mâu thuẫn với câu “phạm tội Ưng Đối Trị cho mỗi chữ,” do đó không thể nói “tụng chung chữ rū,” vì chữ rū đã được xác định là thuộc về pháp đã nói, nên không nói điều đó, mà chỉ để chỉ ra rằng chữ đó thuộc về pháp đã nói đối với người dạy theo từng chữ, đã nói “khi đang nói ‘sắc là vô thường,’” hoặc nên được hiểu là giống như lời nói về cảm thọ trong âm phụ, do sự trôi chảy của lời nói.

Padasodhammasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học dạy pháp theo từng chữ đã hoàn tất.

5. Paṭhamasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học thứ nhất về ngủ chung

50. ‘‘Na sahaseyyaṃ kappetabba’’nti bhāvavasena vuttaṃ, kesuci ‘‘na sahaseyyā kappetabbā’’ti pāṭho, na kappetabbā bhikkhunāti paññattanti adhippāyo. ‘‘Apassenaṃ vāti vāyimamañcakameva hotī’’ti likhitaṃ. Yaṃ etesaṃ na kappati, taṃ tesampīti upajjhāyādīnaṃ santikaṃ agantvā sahaseyyaṃ kappeyyāti pāṭhaseso.
50. “Không được sắp đặt ngủ chung” đã được nói theo nghĩa hành động, trong một số bản đọc là “không được sắp đặt các chỗ ngủ chung,” ý định là Tỳ-khưu không được sắp đặt, đó là điều quy định. “Ngay cả không thấy người ấy, giường dệt bằng dây cũng vậy” đã được viết. Cái gì không hợp lệ cho những người này, cũng không hợp lệ cho những người kia, tức là không đến gần các vị thầy tế độ, v.v., mà sắp đặt ngủ chung, là phần còn lại của bản văn.

52. ‘‘Anupasampanno nāma bhikkhuṃ ṭhapetvā avaseso’ti vuttattā mātugāmo anupasampannoti catuttharattiyaṃ mātugāmo dvepi sahaseyyāpattiyo janetīti apare’’ti vuttaṃ, ‘‘bhikkhuṃ ṭhapetvā…pe… pannoti pārājikavatthubhūto tiracchānapuriso adhippeto’’ti ca, ubhayampi vīmaṃsitabbaṃ. Dutiyasikkhāpade mātugāmo nāmāti manussitthiṃyeva gahetvā yakkhī petī tiracchānagatā pārājikavatthubhūtā na gahitā tesu dukkaṭattā. ‘‘Sace pana attanopi sikkhāpade dukkaṭaṃ bhaveyya, atha kasmā paṭhamasikkhāpade pācittiya’’nti ca vuttaṃ. ‘‘Aparikkhitte pamukhe anāpattī’’ti sīhaḷaṭṭhakathāvacanaṃ, tassatthaṃ dīpetuṃ andhakaṭṭhakathāyaṃ ‘‘bhūmiyaṃ vinā jagatiyā pamukhaṃ sandhāya kathita’’nti vuttaṃ. Puna vasatīti catutthadivase vasati. Bhikkhunipanneti bhikkhumhi nipanne. Sannipatitamaṇḍapaṃ nāma mahāvihāre sannipātaṭṭhānaṃ. ‘‘Tīṇi ca divasāni dukkaṭakhette vasitvā catutthe divase sahaseyyāpattipahonake sayati, pācittiyevā’’ti ekacce vadanti kira, taṃ na yuttaṃ.
52. “Người chưa thọ cụ túc giới là người còn lại ngoài Tỳ-khưu đã được nói đến, do đó người nữ là người chưa thọ cụ túc giới, vào đêm thứ tư, người nữ gây ra cả hai tội ngủ chung, một số người khác nói vậy,” và “ngoài Tỳ-khưu… là người đàn ông thú vật là vật của tội Bất Cộng Trụ được nhắm đến,” cả hai điều này cần được xem xét. Trong điều học thứ hai, người nữ được gọi là chỉ lấy người phụ nữ, còn nữ dạ xoa, nữ ngạ quỷ, nữ thú vật là vật của tội Bất Cộng Trụ không được lấy, vì trong những trường hợp đó là tội Tác Ác. Và đã nói “nếu trong điều học của chính mình cũng là tội Tác Ác, vậy tại sao trong điều học thứ nhất lại là tội Ưng Đối Trị?” “Không có tội ở hiên nhà không có rào chắn” là lời của chú giải Tích Lan, để làm sáng tỏ ý nghĩa của nó, trong chú giải của trường phái Andhaka đã nói “nói nhắm đến hiên nhà không có nền móng trên mặt đất.” Lại ở: là ở vào ngày thứ tư. Khi Tỳ-khưu nằm: là khi Tỳ-khưu nằm. Nhà hội họp: là nơi hội họp ở Đại Tự. “Sau khi ở trong khu vực tội Tác Ác ba ngày, vào ngày thứ tư ngủ ở nơi có thể phạm tội ngủ chung, thì phạm tội Ưng Đối Trị,” một số người nói vậy, điều đó không đúng.

Paṭhamasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ nhất về ngủ chung đã hoàn tất.

6. Dutiyasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học thứ hai về ngủ chung

55. ‘‘Atha kho te manussā’’ti ca ‘‘te addhikā’’ti ca pāṭho. ‘‘Ekaratta’’ntipi atthi, so na sundaro. Paṇḍake pāḷiyaṃ dukkaṭassa vuttattā ‘‘ubhatobyañjanehi mūlāpattīti dissatī’’ti, ‘‘animittādayo itthiyovā’’ti ca vadanti ubhatobyañjanake vuttaṃ viya. Kiñcāpi matitthī pārājikavatthu hoti, anupādinnapakkhe ṭhitattā pana idha āpattiṃ na karoti. Pārājikāpattiṭṭhānañcettha na oloketabbaṃ.
55. Bản đọc là “bấy giờ những người đó” và “những người đi đường đó.” Cũng có bản đọc là “một đêm,” bản đọc đó không hay. Đối với người bán nam bán nữ, trong kinh điển, do tội Tác Ác đã được nói đến, nên “dường như có tội gốc đối với người lưỡng tính,” và “người không có tướng, v.v., là phụ nữ” cũng được nói giống như đã nói về người lưỡng tính. Mặc dù người phụ nữ đã chết là vật của tội Bất Cộng Trụ, nhưng do ở trong phe không chấp thủ, nên ở đây không gây ra tội. Và nơi phạm tội Bất Cộng Trụ ở đây không cần xem xét.

Dutiyasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ hai về ngủ chung đã hoàn tất.

7. Dhammadesanāsikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học thuyết pháp

66. ‘‘Viññū paṭibalā’’ti aviññū itthiyāpi desentassa anāpatti. Idha yakkhīādayo manussitthī viya anoḷārikattā dukkaṭavatthukā jātā. Tiracchānagatamanussaviggahitthiyā paṭibalatāya vuttattā itarāpi dukkaṭavatthuyevāti eke. ‘‘Mātugāmāyā’’ti liṅgavipallāsena vuttaṃ. ‘‘Aṭṭhakathādipāṭhaṃ ṭhapetvā damiḷādinā yathāruci kathetuṃ labhati kirā’’ti likhitaṃ, yathā yakkhīādayo dukkaṭavatthukā jātā, tathā purisaviggahaṃ gahetvā ṭhitena yakkhādinā saddhiṃ ṭhitassa mātugāmassa dhammaṃ desento dukkaṭaṃ anāpajjitvā kasmā pācittiyamāpajjatīti ce? Īsakampi dutiyapakkhaṃ abhajanato. Manussamātugāmopi na dutiyo, pageva yakkhādayoti. Na dutiyāniyate tassa dutiyattāti ce? Na tattha duṭṭhullavācāpekkhā dutiyatā, kintu nisajjāpekkhā, idha ca na nisajjamattaṃ, kintu desanā idhādhippetā. Sā ca nipajjanato oḷārikā, tasmā asamatthanidassanaṃ.
66. “Người trí có khả năng”: không có tội đối với người thuyết pháp cho cả người phụ nữ không có trí. Ở đây, nữ dạ xoa, v.v., do không thô thiển như người phụ nữ, đã trở thành vật của tội Tác Ác. Do người phụ nữ mang hình dạng người nhưng là loài thú được nói là có khả năng, nên một số người cho rằng những người khác cũng là vật của tội Tác Ác. “Của người nữ”: đã được nói với sự thay đổi giới tính. “Dường như được phép nói theo ý muốn bằng tiếng Tamil, v.v., ngoài bài chú giải, v.v.” đã được viết. Nếu hỏi tại sao người thuyết pháp cho người nữ đang đứng cùng với dạ xoa, v.v., mang hình dạng đàn ông, lại phạm tội Ưng Đối Trị mà không phạm tội Tác Ác, giống như nữ dạ xoa, v.v., đã trở thành vật của tội Tác Ác? Là do không hề nghiêng về phe thứ hai. Ngay cả người nữ cũng không phải là thứ hai, huống chi là dạ xoa, v.v. Nếu nói rằng người ấy là thứ hai trong trường hợp không xác định thứ hai? Không phải, ở đó tính thứ hai là liên quan đến lời nói thô tục, còn ở đây không chỉ là ngồi mà là thuyết pháp được nhắm đến. Và điều đó thô thiển hơn việc nằm, do đó là sự chỉ ra không tương xứng.

Dhammadesanāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thuyết pháp đã hoàn tất.

8. Bhūtārocanasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học nói thật

67. ‘‘Catutthapārājikavatthu ca idañca ekamevā’’ti vuttaṃ, na yuttaṃ. Kasmā? Tattha ‘‘moghapurisā’’ti vuttattā. Te ariyamissakā na hontīti dvepi ekasadisānīti mama takko. ‘‘Ariyāpi paṭijāniṃsu, tesampi abbhantare vijjamānattā uttarimanussadhammassā’’ti likhitaṃ. ‘‘Sabbepi bhūtaṃ bhagavāti puthujjanaariyānaṃ uttarimanussadhammassa ārocitattā ‘bhūta’nti vuttaṃ, na attano uttarimanussadhammaṃ sandhāyāti apare’’ti vuttaṃ.
67. “Vật của tội Bất Cộng Trụ thứ tư và điều này là một” đã được nói, điều này không đúng. Tại sao? Vì ở đó đã nói là “hỡi những người ngu si.” Những người đó không phải là thánh nhân có pha tạp, nên cả hai đều giống nhau, đó là suy đoán của tôi. “Các vị thánh cũng đã thừa nhận, vì pháp thượng nhân cũng tồn tại bên trong các vị ấy” đã được viết. “Tất cả đều là sự thật, hỡi Đức Thế Tôn”: do đã nói về pháp thượng nhân của các vị phàm phu và thánh nhân, nên được gọi là “sự thật,” một số người khác nói rằng không phải nhắm đến pháp thượng nhân của chính mình.

77. Pubbe avuttehīti catutthapārājike avuttehīti.
77. Bởi những điều chưa được nói trước đây: là bởi những điều chưa được nói trong tội Bất Cộng Trụ thứ tư.

Bhūtārocanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học nói thật đã hoàn tất.

9. Duṭṭhullārocanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học báo cáo tội trọng

78-80. ‘‘Teneva hatthena upakkamitvā asuciṃ mocesī’’ti pāṭho sampatipāṭho sundaro. Apaloketvāva kātabbā. No ce, pāḷiyaṃyeva vuttaṃ siyā. ‘‘Ottappenā’’ti vattabbe ruḷhīvasena paresu ‘‘hirottappenā’’ti vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ uttānattā na vuttaṃ, pācittiyāsambhavadassaneneva hi dukkaṭanti siddhaṃ.
78-80. Bản đọc là “sau khi cố gắng bằng chính tay đó, đã xuất tinh không trong sạch,” bản đọc hiện tại là hay. Phải được thực hiện sau khi đã báo cho biết. Nếu không, đã được nói trong kinh điển rồi. Mặc dù nên nói là “do hổ thẹn,” nhưng theo cách dùng thông thường đối với người khác, đã nói là “do tàm quý.” Trong đại chú giải, do đã rõ ràng nên không nói, vì chỉ cần chỉ ra sự không thể có tội Ưng Đối Trị là đã xác định được là tội Tác Ác.

83. Tattha ‘‘kamma’’nti vuttaajjhācārepi pariyāpannattā taṃ tassa daṇḍakammavatthu. ‘‘Tattha kammaṃ āpanno’’ti pubbepi likhitaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ ‘‘attakāmaṃ āpanno’’ti pāṭho, ‘‘ayameva gahetabbo’’ti vadanti, vīmaṃsitabbaṃ.
83. Ở đó, “việc làm” cũng bao gồm cả hành vi sai trái đã được nói đến, nên đó là vật của hình phạt cho việc làm đó. “Phạm phải việc làm ở đó” cũng đã được viết trước đây. Trong đại chú giải, bản đọc là “phạm phải ý muốn của mình,” các vị nói rằng “chỉ nên lấy bản đọc này,” điều này cần được xem xét.

Duṭṭhullārocanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học báo cáo tội trọng đã hoàn tất.

10. Pathavīkhaṇanasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học đào đất

86. Kaṭasakkharā setamattikā viya mudukā sakkharajāti. ‘‘Akatapabbhāreti avalañjitabbaṭṭhānadassanatthaṃ vutta’’nti likhitaṃ. ‘‘Anovassakaṭṭhānadassanattha’’nti vattabbaṃ. Mūsikukkuranti mūsikāhi uddhaṭapaṃsu. Suddhacittāti kiñcāpi ‘‘evaṃ pavaṭṭite pathavī bhijjissatī’’ti jānanti, no pana ce pathavībhedatthikā, suddhacittā nāma honti. Paṃsuādayo dve koṭṭhāsā āpattikarā. Keci ‘‘sabbacchannādīsu upaḍḍhe dukkaṭassa vuttattā sace dukkaṭaṃ, yutta’’nti vadanti. Tattha yuttaṃ tādisassa vatthuno sambhavā, idha pana jātapathavī ca ajātapathavī cāti dveyeva vatthūni, tasmā dvinnaṃ ekena bhavitabbanti na yuttaṃ. Etthāpi dukkaṭavacanaṃ atthīti ce? Taṃ pana saññāvasena, na vatthuvasenāti na yuttameva.
86. Sỏi vụn là một loại sỏi mềm như đất sét trắng. “Ở nơi không có mái che: đã được nói để chỉ ra nơi có thể vứt bỏ” đã được viết. Nên nói là “để chỉ ra nơi không bị mưa ướt.” Đất chuột đào: là đất do chuột đào lên. Tâm trong sạch: mặc dù biết rằng “nếu làm như vậy, đất sẽ bị vỡ,” nhưng không có ý định làm vỡ đất, thì được gọi là tâm trong sạch. Bụi đất, v.v., hai phần gây ra tội. Một số người nói rằng “vì trong các trường hợp được che phủ hoàn toàn, v.v., tội Tác Ác đã được nói đến cho một nửa, nên nếu là tội Tác Ác thì hợp lý.” Ở đó, điều đó hợp lý vì có vật như vậy, nhưng ở đây chỉ có hai vật là đất đã sanh và đất chưa sanh, do đó phải là một trong hai, nên không hợp lý. Nếu nói rằng ở đây cũng có lời nói về tội Tác Ác? Nhưng điều đó là do tưởng, không phải do vật, nên không hợp lý.

87. Aggiṃ kātuṃ vaṭṭatīti ettha ettāvatā usumaṃ gaṇhāti, tasmā vaṭṭatīti keci. Evaṃ sati pathaviyā aggimhi kate dūratopi bhūmi uṇhā hoti, tattakaṃ kopetabbaṃ siyā, na ca kappati, tasmā yasmiṃ ṭhāne patati, taṃ so aggi ḍahati, tasmā vaṭṭatīti eke. Aḍahitepi ‘‘adaḍḍhāyapathaviyā aggiṃ ṭhapetuṃ na vaṭṭatī’’ti vuttattā attanā pātanāyeva doso patite upadāheti veditabbaṃ.
87. Được phép đốt lửa: ở đây, bấy nhiêu đó là đủ để lấy hơi ấm, do đó một số người nói là được phép. Nếu vậy, khi lửa được đốt trên đất, mặt đất ở xa cũng trở nên nóng, có thể phải làm cho nguội đi, và điều đó không được phép, do đó nơi nào lửa rơi xuống, lửa sẽ đốt cháy nơi đó, do đó một số người nói là được phép. Ngay cả khi không đốt, vì đã nói “không được phép đặt lửa trên đất chưa được đốt,” nên nên biết rằng lỗi là do chính mình làm rơi, còn khi đã rơi thì đốt cháy.

Pathavīkhaṇanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học đào đất đã hoàn tất.

Samatto vaṇṇanākkamena musāvādavaggo paṭhamo .

Phẩm Nói Dối thứ nhất, theo trình tự giải thích, đã hoàn tất.

2. Bhūtagāmavaggo

2. Phẩm Cây Cỏ

1. Bhūtagāmasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học về cây cỏ

89. Pharasuṃ niggahetuṃ asakkontoti dassitabhāvaṃ jānāpeti. Kasmā ayaṃ pharasuṃ uggirīti ce? Manussānantiādi tassa parihāro. ‘‘Ākoṭesi chindīti ca vacanato rukkhadevatānaṃ hatthāni chijjanti, na cātumahārājikādīnaṃ viya acchejjānī’’ti vadanti.
89. Không thể cầm giữ cái rìu: cho biết tình trạng đã được chỉ ra. Tại sao người này lại ném rìu lên? Của con người, v.v., là lời giải thích của ông ta. “Do câu ‘đã chặt, đã đốn,’ tay của các vị thần cây bị chặt đứt, và không phải là không thể bị chặt như của các vị Tứ Đại Thiên Vương, v.v.,” các vị nói.

90-92. Bhavanti ahuvuñcāti dvikāliko bhūtasaddo. Yadi bījato nibbattena bījaṃ dassitaṃ, tadeva santakaṃ yadidaṃ. Sova kukkuṭo maṃsimakkhitoti ayameva hi parihāro. Aṭṭhakathāsupi hi ‘‘bīje bījasaññī’’ti likhitaṃ. Yaṃ bījaṃ bhūtagāmo nāma hoti, tasmiṃ bīje bhūtagāmabījeti yojetvā. Amūlakattā kira sampuṇṇabhūtagāmo na hoti, ‘‘samūlapatto eva hi bhūtagāmo nāmā’’ti kāraṇaṃ vadanti. ‘‘Abhūtagāmamūlattāti bhūtagāmato anuppannattā abhūtagāmamūlaṃ, bhūtagāmassa amūlakattā vā. Na hi tato añño bhūtagāmo uppajjatī’’ti dvidhāpi likhitaṃ. Piyaṅgu asanarukkho vaḍḍhanattaco khajjaphalo, ‘‘pītasālo’’tipi vuccati. Amūlakabhūtagāme saṅgahaṃ gacchatīti nāḷikerassevāyaṃ. Ghaṭapiṭṭhijātattā, bījagāmānulomattā ca dukkaṭavatthu. Na vāsetabbaṃ ‘‘durūpaciṇṇattā’’ti likhitaṃ, ‘‘yesaṃ rukkhānaṃ sākhā ruhatīti vacanato yesaṃ na ruhati, tesaṃ sākhāya kappiyakaraṇakiccaṃ natthīti siddha’’nti vuttaṃ. Muddatiṇanti tassa nāmaṃ. ‘‘Muñjatiṇanti pāṭho’’ti likhitaṃ.
90-92. Hiện có và đã từng có: là từ “sinh vật” có hai thời. Nếu hạt giống được chỉ ra bởi cái gì sanh từ hạt giống, thì chính cái đó tồn tại, đó là cái này. Chính con gà đó là con gà đã được ướp thịt, đây chính là lời giải thích. Ngay cả trong các chú giải cũng đã viết “có tưởng là hạt giống trong hạt giống.” Hạt giống nào được gọi là cây cỏ, nên kết hợp là trong hạt giống đó là hạt giống cây cỏ. Dường như vì không có rễ nên không phải là cây cỏ hoàn chỉnh, các vị đưa ra lý do là “chỉ có cây cỏ có rễ mới được gọi là cây cỏ.” “Vì là rễ không phải của cây cỏ”: vì không sanh từ cây cỏ nên là rễ không phải của cây cỏ, hoặc vì cây cỏ không có rễ. “Vì không có cây cỏ nào khác mọc từ đó,” đã được viết theo cả hai cách. Cây Priyaṅgu là cây asana, có vỏ dày, quả ăn được, cũng được gọi là “cây pītasāla.” Được bao gồm trong cây cỏ không có rễ: đây là của cây dừa. Do mọc trên vỏ dừa, và do tương tự như hạt giống, nên là vật của tội Tác Ác. Không được ở: “vì khó tu tập” đã được viết, “do câu ‘những cành cây nào mọc được,’ nên những cành cây nào không mọc được, thì không cần phải làm cho hợp lệ,” điều này đã được xác định. Cỏ Mudda: là tên của nó. “Bản đọc là ‘cỏ Muñja’” đã được viết.

Samaṇakappehīti samaṇavohārehi, tasmā vattabbaṃ bhikkhunā ‘‘kappiyaṃ karohī’’ti. Tassa āṇattiyā karontenāpi sāmaṇerādinā ‘‘kappiya’’nti vatvāva aggiparijitaṃ kātabbanti siddhaṃ. Aggiparijitādīni viya kappiyattā abījanibbaṭṭabījānipi ‘‘pañcahi samaṇakappehī’’ti (cūḷava. 250) ettha paviṭṭhāni, yathālābhato vā samaṇakappavacanaṃ gahetabbaṃ. ‘‘Kappiya’nti vattukāmo ‘kappa’nti ce vadati, ‘vaṭṭatī’ti vadantī’’ti vuttaṃ. ‘‘Kappiya’nti vacanaṃ sakasakabhāsāyapi vaṭṭatī’’ti vadanti. ‘‘Kappiyanti vatvā’’ti vuttattā bhikkhunā ‘kappiyaṃ’icceva vattabbaṃ, ‘‘itarena pana yāya kāyaci bhāsāyā’’ti vadanti, vīmaṃsitabbaṃ. ‘‘Ucchuṃ kappiyaṃ karissāmīti dāruṃ vijjhatī’’ti vacanato kappiyaṃ kātabbaṃ sandhāya viraddheti vuttaṃ hoti, ācariyā pana ‘‘kappiyaṃ kāretabbaṃ sandhāya kappiyanti sitthādiṃ kāreti, vaṭṭatī’’ti vadanti, tassa kāraṇaṃ vadantā kātuṃ vaṭṭanabhāveneva virajjhitvā katepi kappiyaṃ jātaṃ. Yadi na vaṭṭeyya, sitthādimhi kate na vaṭṭeyyāti, upaparikkhitabbaṃ. Uṭṭhitasevālaghaṭaṃ ātape nikkhipituṃ vaṭṭati, vikopetukāmatāya sati dukkaṭaṃ yuttaṃ viya. ‘‘Puppharajjubhājanagatikā, tasmā na vaṭṭati. Nāḷe vā baddhapupphakalāpe nāḷasmiṃ katepi vaṭṭati tasmiṃ pupphassa atthitāyā’’ti vadanti. Porāṇagaṇṭhipade ‘‘bījagāmena bhūtagāmo dassito anavasesapariyādānattha’’nti vuttaṃ.
Bởi những cách thực hành của sa-môn: là bởi những cách nói của sa-môn, do đó Tỳ-khưu phải nói “hãy làm cho hợp lệ.” Do mệnh lệnh của vị ấy, sa-di, v.v., khi làm, cũng phải nói “hợp lệ” rồi mới được dùng lửa đốt, điều này đã được xác định. Giống như việc dùng lửa đốt, v.v., vì là hợp lệ, nên ngay cả những hạt giống không sanh từ hạt giống cũng được bao gồm trong câu “bởi năm cách thực hành của sa-môn” (cūḷava. 250), hoặc nên lấy lời nói về cách thực hành của sa-môn tùy theo những gì có được. “Nếu muốn nói ‘hợp lệ’ mà nói ‘hợp,’ thì các vị nói là ‘được phép’” đã được nói. Các vị nói rằng “lời nói ‘hợp lệ’ cũng được phép nói bằng ngôn ngữ của mỗi người.” Vì đã nói “sau khi nói ‘hợp lệ,’” Tỳ-khưu phải nói chính xác là “hợp lệ,” “còn người khác thì bằng bất kỳ ngôn ngữ nào,” các vị nói, điều này cần được xem xét. “Do câu ‘tôi sẽ làm cho mía hợp lệ rồi đâm vào cây,’” có nghĩa là đã nói là làm sai với ý định làm cho hợp lệ. Nhưng các vị đạo sư nói rằng “nhắm đến việc phải làm cho hợp lệ, vị ấy làm cho bột gạo, v.v., hợp lệ bằng cách nói ‘hợp lệ,’ thì được phép.” Khi nói về lý do của điều đó, đã làm sai ngay cả khi đã làm với ý muốn làm cho hợp lệ, thì vật đó cũng đã trở thành hợp lệ. Nếu không được phép, thì khi làm với bột gạo, v.v., sẽ không được phép, điều này cần được kiểm tra. Được phép phơi nắng bình rêu đã mọc, nếu có ý định làm hỏng thì dường như là tội Tác Ác. Các vị nói rằng “có tính chất của bình chứa dây hoa, do đó không được phép. Trong ống hoặc trong bó hoa đã buộc, ngay cả khi làm trên ống cũng được phép vì có hoa trong đó.” Trong sách cổ chú giải đã nói “cây cỏ được chỉ ra bằng hạt giống để bao gồm tất cả không sót.”

Bhūtagāmasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về cây cỏ đã hoàn tất.

2. Aññavādakasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học nói khác

98-9. Aññaṃ vadatīti aññavādakaṃ, ‘‘vacanaṃ kareyyā’’ti likhitaṃ. ‘‘Tuṇhībhūtassetaṃ nāma’’nti pāṭho. Ugghātetukāmoti samohanitukāmo, antarāyaṃ kattukāmoti porāṇā.
98-9. Người nói khác là người nói khác, “nên nói lời” đã được viết. Bản đọc là “đây là tên của người im lặng.” Muốn làm cho quên đi: là muốn làm cho lầm lẫn, các vị xưa nói là muốn gây trở ngại.

100. ‘‘Sudiṭṭho bhante, na paneso kahāpaṇotiādīsu anāropite dukkaṭena musāvādapācittiyaṃ, aropite pācittiyadvayaṃ hotī’’ti vadanti, vīmaṃsitabbaṃ.
100. “Trong các trường hợp như ‘thưa ngài, đã thấy rõ, nhưng đó không phải là đồng tiền,’ v.v., khi chưa quy kết, tội Ưng Đối Trị do nói dối với tội Tác Ác, khi đã quy kết, có hai tội Ưng Đối Trị,” các vị nói, điều này cần được xem xét.

102. Adhammena vā vaggena vā na kammārahassa vāti ettha ‘‘mayi vutte maṃ vā aññaṃ vā saṅgho adhammena vā kammaṃ, vaggena vā kammaṃ karissati, na kammārahassa vā me, aññassa vā kammaṃ karissatī’’ti na kathetīti yojetabbaṃ.
102. Bằng cách phi pháp hoặc chia rẽ hoặc đối với người không đáng bị phạt: Ở đây, nên kết hợp như sau: “nếu nói về tôi, Tăng chúng sẽ phạt tôi hoặc người khác một cách phi pháp hoặc chia rẽ, hoặc sẽ phạt tôi hoặc người khác là người không đáng bị phạt,” vị ấy không nói.

Aññavādakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học nói khác đã hoàn tất.

3. Ujjhāpanakasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học xúi giục

103. ‘‘Chandāyā’’ti akkharakkharāyātiādi viya liṅgavipallāsena vuttaṃ, chandatthanti vā attho. Yesaṃ senāsanāni paññapeti, tesaṃ attani chandatthanti adhippāyo.
103. “Vì ý muốn”: đã được nói với sự thay đổi giới tính, giống như “cho mỗi chữ,” v.v., hoặc có nghĩa là vì lợi ích của ý muốn. Ý định là vì ý muốn của những người mà vị ấy sắp xếp sàng tọa.

106. Anupasampannantiādīsu karaṇattho gahetabbo. Aññaṃ anupasampannanti aññena anupasampannena. Tassa ti anupasampannassa. ‘‘Sammutikāle pañcaṅgavirahādayo asammatā nāmā’’ti, ‘‘upasampannena laddhasammuti sikkhāpaccakkhānena vinassatī’’ti ca vuttaṃ. Saṅghenāti sabbena saṅghena kammavācāya assāvetvā ‘‘taveso bhāro’’ti kevalaṃ āropitabhāro. Kevala-saddo hettha kammavācāya assāvitabhāvamattameva dīpeti. Sayamevāti itaresaṃ bhikkhūnaṃ anumatiyā. Abhūtena khīyanakassa ādikammikassa kathaṃ anāpattīti ce? Iminā sikkhāpadena. Musāvāde āpattiyeva dve pācittiyo vuttā viya dissanti pubbapayoge rukkhādichindanādīsu viya, vicāretabbaṃ.
106. Người chưa thọ cụ túc giới, v.v.: nên lấy nghĩa công cụ. Người chưa thọ cụ túc giới khác: là bởi một người chưa thọ cụ túc giới khác. Của người đó: là của người chưa thọ cụ túc giới. “Vào thời điểm được chấp thuận, những người không đủ năm yếu tố, v.v., được gọi là không được chấp thuận,” và “sự chấp thuận đã nhận được bởi người đã thọ cụ túc giới bị mất đi do việc từ bỏ điều học,” đã được nói. Bởi Tăng chúng: là gánh nặng chỉ được giao phó sau khi đã thông báo cho toàn thể Tăng chúng bằng lời tuyên bố của Tăng sự. Từ chỉ ở đây chỉ làm sáng tỏ việc chỉ được thông báo bằng lời tuyên bố của Tăng sự. Chính mình: là với sự đồng ý của các Tỳ-khưu khác. Nếu hỏi làm thế nào mà người phạm tội đầu tiên, người bị chê bai một cách không thật, lại không có tội? Là do điều học này. Dường như có hai tội Ưng Đối Trị đã được nói trong tội nói dối, giống như trong việc chặt cây, v.v., trong hành động ban đầu, điều này cần được xem xét.

Ujjhāpanakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học xúi giục đã hoàn tất.

4. Paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học thứ nhất về sàng tọa

110. ‘‘Evañcidaṃ bhagavatā bhikkhūnaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ hotī’’ti, parivāre ‘‘ekā paññatti, ekā anupaññattī’’ti (pari. 226) ca idha atthi anupaññattīti siddhaṃ. Kiñcāpi siddhaṃ, ‘‘evañca pana, bhikkhave, imaṃ sikkhāpadaṃ uddiseyyāthā’’tiādinā pana paññattiṭṭhānaṃ na paññāyati, kevalaṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, aṭṭhamāse…pe… nikkhipitu’’nti ettakameva vuttaṃ, taṃ kasmāti ce? Paṭhamapaññattiyaṃ vuttanayeneva vattabbato avisesattā na vuttaṃ. Yadi evaṃ kā ettha anupaññattīti? Ajjhokāseti. Ayamanupaññatti paññattiyampi atthīti ce? Atthi, taṃ pana okāsamattadīpanaṃ, dutiyaṃ cātuvassikamāsasaṅkhātakāladīpanaṃ. Yasmā ubhayampi ekaṃ kālokāsaṃ ekato katvā ‘‘ajjhokāse’’ti vuttanti dīpento bhagavā ‘‘anujānāmi, bhikkhave…pe… nikkhipitu’’nti āhāti veditabbaṃ. Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ ‘‘yattha ca yadā ca santharituṃ na vaṭṭati, taṃ sabbamidha ajjhokāsasaṅkhyameva gatanti veditabba’’nti. Hemantakālassa anāpattisamayattā idaṃ sikkhāpadaṃ nidānānapekkhanti siddhaṃ, tathā hi ajjhokāsapadasāmatthiyena ayaṃ viseso – vassānakāle ovassakaṭṭhāne ajjhokāse, maṇḍapādimhi ca na vaṭṭati. Hemantakāle pakatiajjhokāse na vaṭṭati, sabbamidha ovassakepi maṇḍapādimhi vaṭṭati, tañca kho yattha himavassena senāsanaṃ na temeti, gimhakāle pakatiajjhokāsepi vaṭṭati, tañca kho akālameghādassaneyevāti ayaṃ viseso ‘‘aṭṭha māse’’ti ca ‘‘avassikasaṅkete’’ti ca etesaṃ dvinnaṃ padānaṃ sāmatthiyatopi siddho.
110. “Như vậy, điều học này đã được Đức Thế Tôn quy định cho các Tỳ-khưu,” và trong Tập Yếu “một quy định, một quy định bổ sung” (pari. 226) ở đây có quy định bổ sung, điều này đã được xác định. Mặc dù đã được xác định, nhưng nơi quy định không được biết đến qua câu “và này các Tỳ-khưu, hãy đọc điều học này như vậy,” v.v., chỉ có bấy nhiêu được nói “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép… cho đến… cất giữ,” tại sao lại như vậy? Vì không có sự khác biệt, nên không được nói, do cách nói trong quy định đầu tiên. Nếu vậy, quy định bổ sung ở đâu? Ở ngoài trời. Nếu nói rằng quy định bổ sung này cũng có trong quy định? Có, nhưng đó chỉ là sự chỉ ra nơi chốn, thứ hai là sự chỉ ra thời gian là bốn tháng mùa mưa. Bởi vì cả hai, một là thời gian và một là nơi chốn, được gộp lại thành một và được nói là “ở ngoài trời,” để làm sáng tỏ điều này, Đức Thế Tôn đã nói “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép… cho đến… cất giữ,” nên được hiểu như vậy. Chính vì vậy mà trong chú giải đề mục (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā) đã nói “nơi nào và khi nào không được phép trải, tất cả những điều đó ở đây được bao gồm trong từ ‘ngoài trời,’ nên được hiểu như vậy.” Vì mùa đông là thời gian không có tội, nên điều học này không phụ thuộc vào nhân duyên, điều này đã được xác định. Thật vậy, do năng lực của từ “ngoài trời,” sự khác biệt này là: trong mùa mưa, ở nơi có mái che, ở ngoài trời, và trong nhà tạm, v.v., không được phép. Trong mùa đông, ở nơi ngoài trời tự nhiên không được phép, tất cả những điều này ở nơi có mái che, trong nhà tạm, v.v., đều được phép, và điều đó chỉ khi sàng tọa không bị ướt bởi sương giá. Trong mùa hè, ngay cả ở nơi ngoài trời tự nhiên cũng được phép, và điều đó chỉ khi không thấy mây trái mùa, v.v. Sự khác biệt này cũng được xác định do năng lực của hai từ “tám tháng” và “dấu hiệu không có mưa.”

Kiñca bhiyyo – aṭṭhakathāyaṃ sandassitavisesova. Cammādinā onaddhako vā navavāyimo vā na sīghaṃ vinassati. Kāyānugatikattāti kāye yattha, tattha gatattā. Saṅghikamañcādimhi kāyaṃ phusāpetvā viharituṃ na vaṭṭatīti dhammasiritthero. ‘‘Saṅghikaṃ pana ‘ajjhokāsaparibhogena paribhuñjatha, bhante, yathāsukha’nti dāyakā denti senāsanaṃ, evarūpe anāpattī’’ti andhakaṭṭhakathāyaṃ, idha ca paṭikkhepābhāvato vaṭṭati. ‘‘Aññañca evarūpanti apare’’ti vuttaṃ. ‘‘Pādaṭṭhānābhimukhāti nisīdantassa pādapatanaṭṭhānābhimukhā’’ti likhitaṃ. Sammajjantassa pādaṭṭhānābhimukhanti ācariyassa takko.
Hơn nữa, sự khác biệt đã được chỉ ra trong chú giải. Giường được bọc da, v.v., hoặc giường mới dệt không nhanh hỏng. Do đi theo thân: là do đi đến nơi nào thân ở đó. Trưởng lão Dhammasiri nói rằng không được phép ở, để thân chạm vào giường, v.v., của Tăng chúng. “Nhưng nếu các thí chủ cho sàng tọa của Tăng chúng và nói ‘thưa các ngài, hãy sử dụng theo cách sử dụng ngoài trời, tùy thích,’ thì trong trường hợp như vậy không có tội,” trong chú giải của trường phái Andhaka, và ở đây vì không có sự bác bỏ nên được phép. “Một số người khác nói là trường hợp khác tương tự như vậy” đã được nói. “Hướng về chỗ đặt chân”: được viết là “hướng về chỗ chân rơi xuống của người ngồi.” Suy đoán của vị đạo sư là hướng về chỗ đặt chân của người quét dọn.

111. ‘‘Pāduddhārenāti bahiupacāre ṭhitattā’’ti likhitaṃ. Gacchanti, dukkaṭaṃ dhammakathikassa viya. Kasmā na pācittiyaṃ? Pacchā āgatehi vuḍḍhatarehi uṭṭhāpetvā gahetabbato. Dhammakathikassa pana anuṭṭhapetabbattā. ‘‘Anāṇattiyā paññattiyampi tassa bhāro’’ti vuttaṃ.
111. “Bằng cách nhấc chân”: được viết là “vì đứng ở phạm vi bên ngoài.” Họ đi, tội Tác Ác giống như của người thuyết pháp. Tại sao không phải là tội Ưng Đối Trị? Vì những người lớn tuổi hơn đến sau có thể yêu cầu đứng dậy và lấy. Còn người thuyết pháp thì không thể bị yêu cầu đứng dậy. “Ngay cả trong quy định không ra lệnh, gánh nặng cũng thuộc về người đó” đã được nói.

112. Pariharaṇeyevāti ettha gahetvā vicāraṇeti dhammasiritthero. Attano santakakaraṇeti upatissatthero. Bījanīpattakaṃ caturassabījanī.
112. Chỉ trong việc quản lý: ở đây, trưởng lão Dhammasiri nói là lấy và xem xét. Trưởng lão Upatissa nói là làm thành của riêng mình. Quạt lá sen là quạt vuông.

113. ‘‘Yo bhikkhu vā sāmaṇero vā…pe… lajjī hotī’ti vuttattā alajjiṃ āpucchitvā gantuṃ na vaṭṭatī’’ti vadanti. Pāṭhe ‘‘kenaci palibuddhaṃ hotī’’ti ca aṭṭhakathāyaṃ ‘‘palibuddha’’nti ca senāsanaṃyeva sandhāya vuttaṃ, tasmā tathāpi atthīti gahetabbaṃ. ‘‘Anāpucchaṃ vā’’ti pāṭho.
113. “Do đã nói ‘Tỳ-khưu nào hoặc sa-di nào… là người biết xấu hổ,’ nên không được phép đi sau khi hỏi một người không biết xấu hổ,” các vị nói. Trong bản văn “bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì” và trong chú giải “bị ràng buộc” đã được nói nhắm đến chính sàng tọa, do đó nên chấp nhận rằng cũng có ý nghĩa như vậy. Bản đọc là “hoặc không hỏi.”

Paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ nhất về sàng tọa đã hoàn tất.

5. Dutiyasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học thứ hai về sàng tọa

116-7. Ettakameva vuttamaṭṭhakathāsu, tathāpi padaṭṭhādayopi labbhanti eva. Anugaṇṭhipade ‘‘aññaṃ attharaṇādi akappiyattā na vutta’’nti vuttaṃ. ‘‘Mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā vihāre vā vihārūpacāre vā’ti imināpi saṃsandanatthaṃ ‘kiñcāpi vutto, atha kho’tiādi āraddha’’nti ca vuttaṃ. Upacāramattañcetaṃ ‘‘rukkhamūle’’ti, tattha vattabbaṃ natthi.
116-7. Chỉ bấy nhiêu được nói trong các chú giải, tuy nhiên, các chú giải về từ, v.v., cũng có thể có được. Trong sách phụ chú giải đã nói “các vật trải khác, v.v., không được nói đến vì không hợp lệ.” “Để tương ứng với câu ‘giường hoặc ghế trong tự viện hoặc trong phạm vi tự viện,’ đã bắt đầu bằng câu ‘mặc dù đã được nói, nhưng’, v.v.” cũng đã được nói. “Dưới gốc cây” này chỉ là một cách nói ước lệ, không có gì để nói ở đó.

118. Anāpucchitvāpi gantuṃ vaṭṭatīti asatiyā gacchatopi anāpatti, āpucchanaṃ pana vattaṃ sañcicca anāpucchato vattabhedadukkaṭattā. Puggalikasenāsane saṅghikaseyyaṃ, saṅghikasenāsane vā puggalikaseyyaṃ attharitvā gacchantassa dukkaṭaṃ yuttaṃ viya. Kasmā? ‘‘Seyyāmattameva nasseyyā’’ti vuttattā. Idha pana ‘‘palibuddhaṃ palibuddho’’ti duvidhampi atthi.
118. Được phép đi ngay cả khi không hỏi: ngay cả người đi do quên cũng không có tội, nhưng việc hỏi là phận sự, vì người cố ý không hỏi phạm tội Tác Ác do vi phạm phận sự. Trải giường của Tăng chúng trong sàng tọa cá nhân, hoặc trải giường cá nhân trong sàng tọa của Tăng chúng rồi đi, dường như là tội Tác Ác. Tại sao? Vì đã nói “chỉ có giường bị mất.” Nhưng ở đây có cả hai loại “bị ràng buộc” và “người bị ràng buộc.”

Dutiyasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ hai về sàng tọa đã hoàn tất.

6. Anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học xâm phạm

121. Chabbaggiyesuyeva therā bhikkhūti keci. Pāde dhovitvātiādimhi pavisantassa vā pādadhovanapāsāṇato yāva mañcapīṭhaṃ passāvatthāya nikkhamantassa vā yāva passāvaṭṭhānanti yojanā kātabbā. Evaṃ sante ‘‘passāvatthāya nikkhamantassa vā’’ti na vattabbaṃ, ‘‘passāvaṭṭhānato nikkhamantassa vā’’ti vattabbaṃ. Passāvaṭṭhānanti katthaci potthake. Tathā hi mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘pavisantassa pādadhovanapāsāṇato yāva mañcapīṭhaṃ nikkhamantassa mañcapīṭhato yāva passāvaṭṭhānaṃ, tāva upacāro’’ti vuttaṃ, tasmā ‘‘pāde dhovitvā pavisantassa, passāvatthāya nikkhamantassa ca dvāre nikkhittapādadhovanapāsāṇato, passāvaṭṭhānato ca mañcapīṭha’’nti katthaci potthake pāṭho, so apāṭho. Kasmā? Mañcapīṭhānaṃ upacārassa vuttattā. Pavisantassa yāva mañcapīṭhānaṃ upacāro, nikkhamantassa tato paṭṭhāya yāva passāvaṭṭhānaṃ vaccakuṭicaṅkamaṭṭhānanti iminā atthena yathā saṃsandati, tathāvidho pāṭhoti ācariyo.
121. Một số người cho rằng các vị Tỳ-khưu trưởng lão chỉ là nhóm Lục sư. Trong câu sau khi rửa chân, v.v., nên kết hợp như sau: của người đi vào, từ tảng đá rửa chân cho đến giường ghế, hoặc của người đi ra để đi tiểu, cho đến nơi đi tiểu. Nếu vậy, không nên nói “hoặc của người đi ra để đi tiểu,” mà nên nói “hoặc của người đi ra từ nơi đi tiểu.” Nơi đi tiểu: trong một số sách. Thật vậy, trong chú giải đề mục (kaṅkhā. aṭṭha. anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā) đã nói “của người đi vào, từ tảng đá rửa chân cho đến giường ghế, của người đi ra, từ giường ghế cho đến nơi đi tiểu, bấy nhiêu là phạm vi,” do đó trong một số sách có bản đọc “của người đi vào sau khi rửa chân, và của người đi ra để đi tiểu, từ tảng đá rửa chân đặt ở cửa, và từ nơi đi tiểu đến giường ghế,” bản đọc đó không phải là bản gốc. Tại sao? Vì phạm vi của giường ghế đã được nói đến. Của người đi vào, phạm vi cho đến giường ghế, của người đi ra, từ đó trở đi cho đến nơi đi tiểu, nhà vệ sinh, nơi kinh hành, vị đạo sư cho rằng bản đọc phải có ý nghĩa tương ứng như vậy.

122. Upacāraṃ ṭhapetvāti idha vuttaupacāraṃ ṭhapetvā. ‘‘Dassanasavanūpacārepi santharantassā’’ti likhitaṃ.
122. Trừ phạm vi: là trừ phạm vi đã nói ở đây. “Cũng của người trải trong phạm vi nhìn thấy và nghe thấy” đã được viết.

Anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học xâm phạm đã hoàn tất.

7. Nikkaḍḍhanasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học đuổi ra

126-7. Chasattakoṭṭhakāni vāti ettha dvārakoṭṭhakaṃ adhippetaṃ. ‘‘Nikkhamā’’ti vacanaṃ sutvāpi attano ruciyā nikkhamati, anāpatti; idha aggisālādi eva upacāroti.
126-7. Hoặc sáu bảy gian: ở đây, gian cửa được nhắm đến. Ngay cả khi nghe lời “hãy đi ra” mà vẫn đi ra theo ý thích của mình, thì không có tội; ở đây, chỉ có nhà lửa, v.v., là phạm vi.

Nikkaḍḍhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học đuổi ra đã hoàn tất.

8. Vehāsakuṭisikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học về am thất trên cao

129. ‘‘Pamāṇamajjhimassa galappamāṇe dinnatulāpi vehāsakuṭiyevā’’ti likhitaṃ, ‘‘na sā idha adhippetā’’ti vuttaṃ.
129. “Xà ngang được đặt ở độ cao ngang cổ của người có kích thước trung bình cũng là am thất trên cao” đã được viết, “nhưng đó không phải là điều được nhắm đến ở đây” đã được nói.

Vehāsakuṭisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về am thất trên cao đã hoàn tất.

9. Mahallakavihārasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học về tự viện lớn

135. Yāvadvārakosāti dvārasamīpā, yāva bhittīti attho, taṃ suvuttaṃ. Kavāṭavitthārappamāṇoti hatthapāsassādhippetattā, samantā kavāṭavitthārappamāṇaupacārassa gahitattā aparipūraupacārāpi hoti. Ālokaṃ karotīti ālokaṃ sandheti pidhetīti sandhi eva ālokasandhināmakā honti. Vātapānakavāṭalepakamme appaharitaṭṭhānakiccaṃ natthi.
135. Cho đến khung cửa: là gần cửa, có nghĩa là cho đến bức tường, điều đó được nói rất hay. Kích thước chiều rộng của cánh cửa: vì tay và bên cạnh được nhắm đến, và vì phạm vi có kích thước chiều rộng của cánh cửa xung quanh đã được lấy, nên cũng có trường hợp phạm vi không đầy đủ. Làm cho có ánh sáng là nối liền ánh sáng, che khuất là nối liền, do đó được gọi là các khe nối ánh sáng. Trong công việc trát vữa cửa sổ, không cần phải có nơi không có cây xanh.

136. Iṭṭhakāti chadanakapālāsilādiiṭṭhakā. Chadanūparīti ettha paṭhamaṃ tāva ekavāraṃ aparisesaṃ chādetvā puna chādanadaṇḍake bandhitvā dutiyavāraṃ tatheva chādetabbaṃ. ‘‘Tatiyavāracatutthavāre sampatte dve magge adhiṭṭhahitvā tatiyamaggaṃ āṇāpetvā pakkamitabba’’nti vuttaṃ, taṃ ‘‘punappunaṃ chādāpetī’’ti iminā yujjati.
136. Gạch: là gạch ngói, gạch đá, v.v., để lợp. Trên mái lợp: ở đây, trước tiên phải lợp một lần không còn sót lại, sau đó buộc các thanh lợp và lợp lần thứ hai cũng như vậy. “Khi đến lần thứ ba, thứ tư, phải chỉ định hai đường rồi ra lệnh cho đường thứ ba rồi đi,” đã được nói, điều đó phù hợp với câu “cho lợp đi lợp lại.”

Porāṇā pana ‘‘paṭhamavāreyeva tayo magge adhiṭṭhātuṃ vaṭṭati, catutthato paṭṭhāya āpatti pācittiyaṃ, catutthalepato paṭṭhāya āpattī’’ti vadanti. Tattha chadane vuttavidhinidānena sameti, lepe vuttavidhitikacchedena sameti. Tathāpi so na yuttova. Nidāne, aṭṭhakathāyañca siddhalepattā sabbasovāpi acchanne, channevāpi anekaso pariyāyassa tatiyasseva adhiṭṭhānanti no sametīti ācariyo. ‘‘Dve magge’’ti, ‘‘dve chadane’’ti ca ‘‘tatiyavārato paṭṭhāya evaṃ chādāpehī’ti āṇāpetvā pakkamitabba’’nti ca upatissatthero vadati kira.
Nhưng các vị xưa nói rằng “ngay trong lần đầu tiên, được phép chỉ định ba đường, từ lần thứ tư trở đi là tội Ưng Đối Trị, từ lần trát thứ tư trở đi là phạm tội.” Ở đó, điều đó phù hợp với quy định về việc lợp, và phù hợp với sự quyết định theo ba cách về việc trát. Tuy nhiên, điều đó cũng không hợp lý. Vị đạo sư nói rằng vì trong nhân duyên và chú giải, vữa đã được trát xong, nên không phù hợp với việc chỉ định lần thứ ba của nhiều lần lợp trên toàn bộ mái nhà chưa được lợp hoặc đã được lợp. Trưởng lão Upatissa dường như nói rằng “hai đường” và “hai mái lợp” và “từ lần thứ ba trở đi, phải ra lệnh ‘hãy lợp như vậy’ rồi đi.”

Mahallakavihārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về tự viện lớn đã hoàn tất.

10. Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học về nước có sinh vật

140. Sappāṇakasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
140. Điều học về nước có sinh vật có ý nghĩa rõ ràng.

Samatto vaṇṇanākkamena bhūtagāmavaggo dutiyo.

Phẩm Cây Cỏ thứ hai, theo trình tự giải thích, đã hoàn tất.

3. Ovādavaggo

3. Phẩm Giáo Giới

1. Ovādasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học về giáo giới

144. Kathānusārenāti yo bhikkhunovādakatthiko kiṃsīlo kiṃsamācāro katarakulā pabbajitotiādi kathānusārenāti attho. Saggamaggagamanepīti api-saddena mokkhagamanepi. ‘‘Lakkhaṇappaṭivedhapaṭisaṃyutto’’ti aṭṭhagarudhammānusārena vattabbaṃ dhammakathaṃ sandhāya vuttaṃ.
144. Theo câu chuyện: có nghĩa là vị Tỳ-khưu thuyết giảng giáo giới đó có giới hạnh gì, có आचार gì, xuất gia từ gia đình nào, v.v., theo câu chuyện. Ngay cả trên con đường đến cõi trời: từ ngay cả cũng bao gồm cả trên con đường đến giải thoát. “Liên quan đến sự thấu hiểu các tướng”: đã được nói nhắm đến bài pháp thoại phải được nói theo tám pháp trọng.

145-147. Nissīmanti vihāre baddhasīmato aññaṃ abaddhasīmaṃ, gāmasīmādinti attho. ‘‘Supinantenapī’’ti na sabbesanti idha bāhullanayena vuttaṃ. Chabbaggiyā hi keci vīsativassāpi atthi atirekavīsativassāpīti iminā imaṃ majjhimabodhikāle paññattanti viññāyati. ‘‘Sīlavā hotī’’ti vatvā tassa catubbidhattā idha adhippetasīlameva dassetuṃ ‘‘pātimokkhasaṃvarasaṃvuto’’tiādi vuttaṃ. Gaṇṭhānugaṇṭhipadesu ‘‘satisaṃvarādayo idha nādhippetā, tena vibhaṅgapāṭhaṃ dasseti aṭṭhakathācariyo’’ti vuttaṃ. Atthatoti pāḷiatthato. Kāraṇatoti kāraṇūpapattito, aṭṭhakathātoti adhippāyo. Atha vā kāraṇatoti dhammato, tena atthato dhammatoti vuttaṃ hoti. Atha vā atthatoti phalato. ‘‘Kāraṇatoti hetuto. Dhammapadampi jātakena sahā’’ti likhitaṃ. Pañhaṃ kathetunti ‘‘pañhaṃ puṭṭho kathetī’’ti ettha bhikkhuniyā puṭṭhena ‘‘na jānāmī’’ti na sakkā kathetuṃ. ‘‘Na kho pana taṃ bhagavanta’’nti pāṭho. ‘‘Na kho paneta’’nti ca likhanti, taṃ na sundaraṃ. ‘‘Kāsāyavatthavasanāyā’’ti pārājikāyapi na vaṭṭati. Bhikkhuniyā kāyasaṃsaggameva vuttaṃ. Methunena hi bhikkhunīdūsako hoti.
145-147. Ngoài ranh giới: là ranh giới không được kết trong tự viện, khác với ranh giới đã được kết, có nghĩa là ranh giới làng, v.v. “Ngay cả trong giấc mơ”: không phải cho tất cả mọi người, ở đây đã được nói theo cách nói chung. Vì trong nhóm Lục sư, một số vị đã hai mươi tuổi, cũng có những vị hơn hai mươi tuổi, do đó có thể biết rằng điều này được quy định vào thời kỳ giác ngộ trung bình. Sau khi nói “là người có giới,” vì giới có bốn loại, để chỉ ra giới được nhắm đến ở đây, đã nói “được thu thúc trong sự thu thúc của Giới Bổn,” v.v. Trong các sách cổ chú giải và phụ chú giải đã nói “sự thu thúc bằng niệm, v.v., không được nhắm đến ở đây, do đó vị đạo sư chú giải chỉ ra bài kinh Phân Tích.” Về mặt ý nghĩa: là về mặt ý nghĩa của kinh điển. Về mặt lý do: là về mặt sự phù hợp của lý do, ý định là từ chú giải. Hoặc về mặt lý do: là về mặt pháp, do đó đã nói là về mặt ý nghĩa và về mặt pháp. Hoặc về mặt ý nghĩa: là về mặt kết quả. “Về mặt lý do: là về mặt nguyên nhân. Câu kinh Pháp Cú cùng với chuyện tiền thân” đã được viết. Kể câu hỏi: là “khi được hỏi câu hỏi, vị ấy kể,” ở đây, khi được Tỳ-khưu-ni hỏi, không thể nói “tôi không biết.” Bản đọc là “nhưng không phải Đức Thế Tôn đó.” Cũng có người viết là “nhưng không phải điều này,” điều đó không hay. “Đối với người mặc y cà sa”: cũng không được phép đối với người phạm tội Bất Cộng Trụ. Chỉ có sự tiếp xúc thân thể với Tỳ-khưu-ni đã được nói đến. Vì do giao hợp mà trở thành người làm ô uế Tỳ-khưu-ni.

148-9. Bhikkhūnaṃ santike upasampannā nāma parivattaliṅgā, pañcasatā sākiyāniyo vā. ‘‘Dhammadesanāpattimocanatthaṃ panā’’ti mātugāmaggahaṇena sabbattha bhikkhunīsaṅgahaṃ gacchatīti siddhaṃ. Bhikkhuniggahaṇena pana mātugāmo tiriyaṃ taraṇasikkhāpade (pāci. 187-190) saṅgahito, na aññattha. ‘‘Osāretabbā’’ti pāḷipāṭho, pāḷi osāretabbāti attho . ‘‘Osāretabba’’nti aṭṭhakathāpāḷi. Ekasmiṃ ṭhāne vandite dosābhāvato bahūsu ekāya vandite vaṭṭatīti ce? Bhikkhūhi kattabbaṃ natthi, bhikkhuniyāyeva kattabbaṃ, tasmā na vaṭṭati . ‘‘Yattha katthaci nisinnāyāti antodvādasahatthe nisinnāyā’’ti vadanti. Na nimantitā hutvā gantukāmāti nimantitā hutvā gantukāmā bhikkhū idha nādhippetā, vassaṃ upagantukāmāva adhippetāti attho. Yato panāti bhikkhunīvihārato. Tatthāti bhikkhunīvihāre. Kiñcāpi ‘‘ovādadāyakā bhikkhū’’ti ovādadāyakeheva sabhikkhuko āvāso hoti, na sabbehīti āpanno, tathāpi asati bhikkhunovādake ovādasaṃvāsānaṃ atthāya yācanatthāya avassaṃ gantabbattā aññehipi bhikkhūhi sabhikkhukopi sabhikkhuko evāti veditabbo. Sā rakkhitabbāti vassacchedāpatti rakkhitabbā. Kasmā? Āpadāsu hītiādi. ‘‘Ayaṃ uposatho cātuddasikoti pucchitabba’’nti vuttaṃ, tampi terasiyaṃyeva, etarahi pana bhikkhuniyo cātuddasiyaṃyeva gantvā ‘‘kadā ayya uposatho’’ti pucchanti. ‘‘Jāyāyo vā jāriyo vā’’ti adhippāyena vuttaṃ kira. ‘‘Gaccheyya ce, āpattī’’ti pāṭho. Dve tissoti dvīhi tīhi. Ekato āgatānaṃ vasena ‘‘tāhī’’ti bahuvacanaṃ vuttanti adhippāyo. ‘‘Ekā bhikkhunī vā bahū bhikkhunī vā bahūhi bhikkhunupassayehi ovādatthāya pesitā’’ti vacanassa vitthāro ‘‘bhikkhunisaṅgho ca ayya bhikkhuniyo cā’’tiādinā vutto. ‘‘Bhikkhunisaṅgho ca ayya bhikkhuniyo cā’tiādi nānāupassayehi pesitāya vacana’’nti ca ‘‘aparipuṇṇasaṅghapuggalanānāvāsadutiyavacanavasena pañcakkhattuṃ upasaṅkamanaṃ vutta’’nti ca likhitaṃ. Yasmiṃ āvāse pātimokkhuddeso na pavattati, tatthāpi yācanaṃ sampaṭicchitvā punadivase yena paṭiggahitaṃ, tena ‘‘natthi koci bhikkhu bhikkhunovādako sammato’’tiādi vattabbaṃ. Atthi ce sammato, niddisitabbo. ‘‘Sayameva ce sammato, aha’nti vattabba’’nti vuttaṃ. Sace sammato vā ovādapaṭiggāhako vā pātimokkhaṃ uddisati, aññena ārocāpetabbanti eke, ‘‘attanāpi ārocetuṃ vaṭṭatī’’ti ca vadanti. Kesuci potthakesu ‘‘ayyānaṃ pavāretī’’ti likhitaṃ, evaṃ sati ‘‘ayyassa pavāremī’’ti vattabbaṃ, potthake natthi.
148-9. Những người đã thọ cụ túc giới gần các Tỳ-khưu là những người đã thay đổi giới tính, hoặc năm trăm người nữ họ Thích. “Nhưng để giải thoát khỏi tội thuyết pháp,” do việc lấy người nữ, nên Tỳ-khưu-ni được bao gồm ở mọi nơi, điều này đã được xác định. Nhưng do việc lấy Tỳ-khưu-ni, người nữ được bao gồm trong điều học vượt qua sông (pāci. 187-190), không ở nơi khác. “Nên được rút lại” là bản đọc kinh điển, có nghĩa là kinh điển nên được rút lại. “Nên được rút lại” là bản kinh chú giải. Nếu nói rằng vì không có lỗi khi đảnh lễ ở một nơi, nên được phép khi một người đảnh lễ ở nhiều nơi? Các Tỳ-khưu không có gì để làm, chỉ có Tỳ-khưu-ni phải làm, do đó không được phép. Các vị nói rằng “của người ngồi ở bất cứ đâu”: là của người ngồi trong phạm vi mười hai hắt tay. Không phải là người muốn đi sau khi được mời: là các Tỳ-khưu muốn đi sau khi được mời không được nhắm đến ở đây, chỉ có người muốn vào mùa an cư được nhắm đến, đó là ý nghĩa. Từ đâu: là từ tự viện Tỳ-khưu-ni. Ở đó: là trong tự viện Tỳ-khưu-ni. Mặc dù trú xứ có Tỳ-khưu là do chính các Tỳ-khưu giảng dạy, không phải do tất cả, nên đã phạm tội, tuy nhiên, khi không có người giảng dạy Tỳ-khưu, vì sự tồn tại của việc giáo giới và chung sống, và vì cần phải đi để thỉnh cầu, nên nên được hiểu rằng ngay cả trú xứ có Tỳ-khưu bởi các Tỳ-khưu khác cũng là trú xứ có Tỳ-khưu. Nên bảo vệ điều đó: là nên bảo vệ khỏi tội gián đoạn mùa an cư. Tại sao? Vì trong những lúc hoạn nạn, v.v. “Nên hỏi ‘lễ Bố-tát này là ngày mười bốn phải không’” đã được nói, điều đó cũng là vào ngày mười ba, nhưng bây giờ các Tỳ-khưu-ni đi vào chính ngày mười bốn và hỏi “thưa ngài, khi nào là lễ Bố-tát?” Dường như đã được nói với ý định “là vợ hay là nhân tình.” Bản đọc là “nếu đi, thì có tội.” Hai ba: là bởi hai, ba người. Do đến cùng một lúc, đã dùng số nhiều là “bởi họ,” đó là ý nghĩa. “Một Tỳ-khưu-ni hoặc nhiều Tỳ-khưu-ni được gửi đi từ nhiều trú xứ của Tỳ-khưu-ni để xin giáo giới” là phần chi tiết của lời nói được nói bằng câu “thưa ngài, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni và các Tỳ-khưu-ni,” v.v. “Câu ‘thưa ngài, Tăng chúng Tỳ-khưu-ni và các Tỳ-khưu-ni,’ v.v., là lời nói của người được gửi đi từ các trú xứ khác nhau,” và “việc đến năm lần đã được nói theo cách nói thứ hai của các cá nhân ở các trú xứ khác nhau trong Tăng chúng chưa đầy đủ,” đã được viết. Trong trú xứ nào mà việc đọc Giới Bổn không được thực hiện, ở đó cũng sau khi chấp nhận lời thỉnh cầu, vào ngày hôm sau, người đã nhận phải nói “không có Tỳ-khưu nào được chấp thuận để giảng dạy Tỳ-khưu,” v.v. Nếu có người được chấp thuận, thì phải chỉ ra. “Nếu chính mình được chấp thuận, thì phải nói ‘là tôi’” đã được nói. Nếu người được chấp thuận hoặc người nhận lời giáo giới đọc Giới Bổn, một số người nói rằng phải nhờ người khác thông báo, và cũng có người nói rằng “cũng được phép tự mình thông báo.” Trong một số sách, đã viết “tự tứ cho các ngài,” nếu vậy, phải nói “tôi tự tứ cho ngài,” nhưng trong sách không có.

Ovādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về giáo giới đã hoàn tất.

2. Atthaṅgatasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học về mặt trời lặn

153. Munātīti jānāti. Antaradhāyatipīti ettha taduttamaṃ ce atthi, taṃ passāmi, yaṃ vicittaṃ vā, tadatthañca. Taggha kāraṇaṃ. Saha uppādamanantarā kiriyā. Yamā ca te manasā katatra netvāti. Yathā pāto siyā pāto bhavaṃ pātova udakato uggantvā ṭhitaṃ, tathā virocamānaṃ aṅgīrasaṃ buddhaṃ passa, na kevalaṃ padumaṃ viya, virocamānaṃ tapantamādiccamivantalikkheti sambandho. Atha vā aṅgīrasaṃ buddhaṃ padumaṃva virocamānaṃ sūriyaṃva tapantaṃ passa buddhaṃ. Yathā pāto siyā phullamavītagandhaṃ kokanudasaṅkhātaṃ padumaṃ passasi, tathā virocamānaṃ aṅgīrasaṃ buddhaṃ passa. Ubhayeneva hi bhagavato kanti dīpitāti katvā dīpitaguṇasubhaṃ buddhaṃ sakkatvā taṃ kantiṃ pūjeyya. Pūjaneyyatopi vītināmeyya iti lakkhaye. ‘‘Ekato upasampannāyā’’ti pāḷi.
153. Biết: là biết. Cũng biến mất: ở đây, nếu có cái gì cao hơn, tôi thấy cái đó, cái gì đa dạng, và cả ý nghĩa của nó. Đó là lý do. Hành động xảy ra ngay sau khi sanh khởi. Và những gì ông đã tạo ra bằng tâm trí của mình, hãy đưa đến đó. Giống như buổi sáng, đấng Bhavam buổi sáng, sau khi trồi lên khỏi mặt nước và đứng yên, hãy thấy Đức Phật Aṅgīrasa rực rỡ như vậy, không chỉ như hoa sen, mà còn rực rỡ như mặt trời đang chiếu sáng trên bầu trời, nên kết hợp như vậy. Hoặc hãy thấy Đức Phật Aṅgīrasa rực rỡ như hoa sen, chiếu sáng như mặt trời. Hoặc hãy thấy Đức Phật Aṅgīrasa rực rỡ như hoa sen kokanuda nở vào buổi sáng, hương thơm không phai. Bởi vì vẻ đẹp của Đức Thế Tôn được làm sáng tỏ bằng cả hai cách, nên sau khi tôn kính Đức Phật có phẩm chất tốt đẹp đã được làm sáng tỏ, nên cúng dường vẻ đẹp đó. Nên hiểu rằng nên trải qua cả sự đáng được cúng dường. “Của người đã thọ cụ túc giới cùng một lúc” là kinh điển.

156. ‘‘Ekato upasampannāna’’nti aṭṭhakathāpāṭho. ‘‘Abhabbo tva’’ntiādivacanato anukampāvasena saddhivihārikādiṃ saṅghikā vihārā nikkaḍḍhāpentassa anāpatti viya dissati. Abhabbo hi thero sañcicca taṃ kātuṃ, gavesitabbāva ettha yuttīti keci. Therena sikkhāpadapaññattito pubbe katanti mama takko.
156. “Của những người đã thọ cụ túc giới cùng một lúc” là bản đọc chú giải. Do lời nói “ông không xứng đáng,” v.v., dường như không có tội đối với người đuổi đệ tử, v.v., ra khỏi tự viện của Tăng chúng vì lòng từ bi. Một số người nói rằng trưởng lão không xứng đáng cố ý làm điều đó, lý lẽ ở đây cần được tìm hiểu. Suy đoán của tôi là trưởng lão đã làm điều đó trước khi điều học được quy định.

Atthaṅgatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về mặt trời lặn đã hoàn tất.

3. Bhikkhunupassayasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học về trú xứ Tỳ-khưu-ni

162. ‘‘Ekarattampi vasantī’’ti (pāci. 161) yattha rattiyaṃ na vasanti, tattha gantvā ovadituṃ vaṭṭatīti eke. Yadi evaṃ saṅketaṭṭhānaṃ gantvā ovadituṃ vaṭṭatīti siddhaṃ. ‘‘Tato addhayojaneyeva sabhikkhuko āvāso icchitabbo’’ti na vattabbaṃ. Bhikkhunovādako ce addhayojanaṃ gantvā ovaditukāmo hoti, bhikkhunisaṅgho ca addhayojanaṃ gantvā sotukāmo, ‘‘vaṭṭatī’’ti vattabbaṃ siyā, tañca na vuttaṃ, tasmā na vaṭṭati. Heṭṭhimaparicchedena pana ‘‘ekarattampī’’ti vuttaṃ. Tato paṭṭhāya upassayaṃ hoti, na upassayasaṅkhepena katamattenāti vuttaṃ hoti. Yattha vāsūpagatā bhikkhuniyo, so upassayasaṅkhyaṃ gacchati , tattha na gantvā ovādo dātabbo. Ekāvāse divā vaṭṭatīti eke, vicāretvā yuttataraṃ gahetabbaṃ.
162. Một số người cho rằng vì đã nói “ở lại dù chỉ một đêm” (pāci. 161), nên được phép đi giáo giới ở nơi họ không ở lại ban đêm. Nếu vậy, được phép đi giáo giới ở nơi hẹn hò, điều này đã được xác định. Không nên nói “chỉ nên tìm trú xứ có Tỳ-khưu ở khoảng cách nửa do tuần.” Nếu vị Tỳ-khưu giáo giới muốn đi nửa do tuần để giáo giới, và Tăng chúng Tỳ-khưu-ni cũng muốn đi nửa do tuần để nghe, thì lẽ ra phải nói là “được phép,” nhưng điều đó không được nói, do đó không được phép. Nhưng theo giới hạn thấp hơn, đã nói là “dù chỉ một đêm.” Từ đó trở đi, nó trở thành trú xứ, không phải chỉ bằng việc làm ngắn gọn của trú xứ, đã được nói như vậy. Nơi nào có các Tỳ-khưu-ni đã vào mùa an cư, nơi đó được kể là trú xứ, không được đi đến đó để giáo giới. Một số người nói rằng trong cùng một trú xứ, được phép vào ban ngày, cần xem xét và lấy điều hợp lý hơn.

Bhikkhunupassayasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về trú xứ Tỳ-khưu-ni đã hoàn tất.

4. Āmisasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học về lợi dưỡng

164. ‘‘Upasampannaṃ saṅghena asammata’’nti pāḷivacanato, ‘‘sammatena vā saṅghena vā bhāraṃ katvā ṭhapito’’ti aṭṭhakathāvacanato ca aṭṭhahaṅgehi samannāgato sammatena vā vippavasitukāmena ‘‘yāvāhaṃ āgamissāmi, tāva te bhāro hotū’’ti yācitvā ṭhapito, tassābhāvato saṅghena vā tatheva bhāraṃ katvā ṭhapito aṭṭhahi garudhammehi ovadituṃ labhati, pageva aññena dhammenāti siddhaṃ. ‘‘Yo pana bhikkhu asammato bhikkhuniyo ovadeyya, pācittiya’’nti pageva bhāraṃ katvā aṭṭhapitaṃ sandhāya vuttanti veditabbaṃ. Abhayagirivāsīnampi idameva mataṃ, anugaṇṭhipade pana imaṃ nayaṃ paṭikkhipitvā ‘‘natthi kocī’’tiādinā ‘‘etarahi ovādako asammato bhikkhunovādako nāmā’’ti vatvā ‘‘yaṃ pana andhakaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ ‘upasampannaṃ saṅghena kammavācāya asammataṃ, bhikkhusaṅghena pana bhikkhunisaṅghassa anuggahaṃ karotha, bhikkhuniyo ovadatha, bhikkhusaṅghassa ca karotha phāsuvihāranti evaṃ yācitvā ṭhapito bhikkhusaṅghaṃ āpucchitvā, tato so thero bhikkhuniyo ovadati, evarūpaṃ bhikkhusaṅghena asammatanti, tatra vuttanayeneva attho gahetabbo’’ti vuttaṃ. Porāṇagaṇṭhipade pana ‘‘asammato gāmaṃ ovādatthāya āgatānaṃ bhikkhunīnaṃ vacanaṃ sutvā paṭivacanaṃ dento saṅghānumatiyā, na ñatticatutthenā’’ti vuttaṃ, taṃ anugaṇṭhipadamatena sameti, andhakaṭṭhakathāyaṃ vuttavacanaṃ tena sameti, tañca pāḷivacanaṃ, na hi ovādapaṭiggāhako, pātimokkhuddesako vā ‘‘pāsādikena sampādetū’’ti vacanamattena bhikkhunovādako nāma hoti. Hotīti ce, anupasampannopi tattakena vacanena ‘‘bhikkhunovādako hotū’’ti vattabbo. Hotīti ce, yaṃ vuttaṃ gaṇṭhānugaṇṭhipadesu ‘‘asammato nāma asammatabhāvena ‘bahussuto tvaṃ ovadāhī’ti saṅghena bhāraṃ katvā ṭhapito’’ti. Ettha bāhusaccena kiṃ payojanaṃ. Anugaṇṭhipadeyeva ‘‘abhayagirivāsī vadatīti sutvā sammatena vā āṇatto ovadituṃ labhatīti dhammasiritthero pacchā anujānātī’’ti vuttaṃ. Kiṃ bahukāya. ‘‘Pāsādikena sampādetū’’ti ettakamattena bhikkhunovādako hoti. Aṭṭhakathāyaṃ ‘‘bhāraṃ katvā’’ti iminā kiṃ payojanaṃ, tattakampi vattuṃ añño na labhati, tena ca ‘‘anujānāmi, bhikkhave, ṭhapetvā bālaṃ gilānaṃ gamikaṃ avasesehi ovādaṃ gahetu’’nti (cūḷava. 414) ayaṃ pāḷi virujjheyya. Kathaṃ? Tassa hi ‘‘na, bhikkhave, ovādo na paccāharitabbo’’ti (cūḷava. 415) canato sammatāsammatabhāvena natthi kocīti ‘‘pāsādikena sampādetū’’ti vattabbaṃ siyā, vadanto ca idha paṭhamena āpattiyā kāretabbo hotīti. Hotu asammatattā, akatabhārattā ca. Imassa ca bhikkhunovādakatte imassa khīyanena dukkaṭaṃ siyā, sabbametaṃ aniṭṭhaṃ, tasmā aṭṭhakathāyaṃ ‘‘ayamettha bhikkhunovādako nāmā’’ti avuttattā tathā bhāraṃ katvā ṭhapito ovadituṃ labhatiyeva, nāññoti ācariyo.
164. Do lời kinh điển “người đã thọ cụ túc giới không được Tăng chúng chấp thuận,” và do lời chú giải “hoặc được Tăng chúng chấp thuận hoặc được giao phó trách nhiệm,” nên người có đủ tám yếu tố, hoặc được người muốn đi xa thỉnh cầu “cho đến khi tôi trở về, trách nhiệm đó thuộc về ông” và được giao phó, hoặc khi không có người đó, được Tăng chúng giao phó trách nhiệm cũng như vậy, được phép giáo giới bằng tám pháp trọng, huống chi là bằng pháp khác, điều này đã được xác định. Nên được hiểu rằng câu “Tỳ-khưu nào không được chấp thuận mà giáo giới Tỳ-khưu-ni, phạm tội Ưng Đối Trị” là nhắm đến người chưa được giao phó trách nhiệm. Quan điểm của các vị ở Abhayagiri cũng là như vậy. Nhưng trong sách phụ chú giải, sau khi bác bỏ cách giải thích này, đã nói bằng câu “không có ai,” v.v., rằng “bây giờ người giáo giới không được chấp thuận được gọi là người giáo giới Tỳ-khưu-ni,” và “điều đã được nói trong chú giải của trường phái Andhaka ‘người đã thọ cụ túc giới không được Tăng chúng chấp thuận bằng lời tuyên bố của Tăng sự, nhưng được Tăng chúng Tỳ-khưu thỉnh cầu ‘hãy hỗ trợ Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, hãy giáo giới các Tỳ-khưu-ni, và hãy làm cho Tăng chúng Tỳ-khưu được an lạc,’ sau khi đã hỏi ý kiến Tăng chúng Tỳ-khưu, sau đó vị trưởng lão đó giáo giới các Tỳ-khưu-ni, người như vậy không được Tăng chúng Tỳ-khưu chấp thuận, ý nghĩa ở đó nên được lấy theo cách đã nói,’ đã được nói.” Trong sách cổ chú giải đã nói “người không được chấp thuận, sau khi nghe lời của các Tỳ-khưu-ni đến làng để xin giáo giới, trả lời với sự đồng ý của Tăng chúng, không phải bằng Tăng sự tứ phần,” điều đó phù hợp với quan điểm của sách phụ chú giải, lời nói trong chú giải của trường phái Andhaka phù hợp với điều đó, và đó là lời kinh điển. Vì người nhận lời giáo giới hoặc người đọc Giới Bổn không được gọi là người giáo giới Tỳ-khưu-ni chỉ bằng lời nói “hãy làm cho trang nghiêm.” Nếu nói là có, thì ngay cả người chưa thọ cụ túc giới cũng có thể được gọi là “người giáo giới Tỳ-khưu-ni” chỉ bằng lời nói đó. Nếu nói là có, thì điều đã được nói trong các sách cổ chú giải và phụ chú giải “người không được chấp thuận là người được Tăng chúng giao phó trách nhiệm bằng cách nói ‘ông là người đa văn, hãy giáo giới’” có lợi ích gì với sự đa văn đó. Ngay trong sách phụ chú giải đã nói “sau khi nghe nói rằng các vị ở Abhayagiri nói, trưởng lão Dhammasiri sau đó đã cho phép rằng người được chấp thuận hoặc được ra lệnh được phép giáo giới.” Cần gì nhiều lời. Chỉ bấy nhiêu lời “hãy làm cho trang nghiêm” là trở thành người giáo giới Tỳ-khưu-ni. Trong chú giải, từ “giao phó trách nhiệm” có lợi ích gì, người khác không được phép nói bấy nhiêu, và do đó, kinh điển “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép, trừ người ngu, người bệnh, người đi đường, hãy nhận lời giáo giới từ những người còn lại” (cūḷava. 414) sẽ bị mâu thuẫn. Như thế nào? Vì theo câu “Này các Tỳ-khưu, không được từ chối lời giáo giới” (cūḷava. 415) của Ngài, không có ai do tình trạng được chấp thuận hay không được chấp thuận, nên lẽ ra phải nói “hãy làm cho trang nghiêm,” và người nói ở đây sẽ bị bắt phạm tội đầu tiên. Cứ cho là vậy, do không được chấp thuận và do chưa được giao phó trách nhiệm. Và nếu người này là người giáo giới Tỳ-khưu-ni, thì sẽ có tội Tác Ác do sự chê bai của người này, tất cả những điều này đều không mong muốn. Do đó, trong chú giải, vì không nói “người này ở đây được gọi là người giáo giới Tỳ-khưu-ni,” nên người được giao phó trách nhiệm như vậy được phép giáo giới, không phải người khác, vị đạo sư nói.

Āmisasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về lợi dưỡng đã hoàn tất.

5. Cīvaradānasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học về việc cho y

169. Sādiyissasīti pucchā.
169. Ngươi sẽ nhận chứ?: là câu hỏi.

Cīvaradānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc cho y đã hoàn tất.

6. Cīvarasibbanasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học về việc may y

176. Vañcetvāti ‘‘tava ñātikāyā’’ti avatvā ‘‘ekissā bhikkhuniyā’’ti ettakameva vatvā, te hi ‘‘ekissā’’ti vacanaṃ sutvā aññātikāya santakasaññino sibbesuṃ. Imasmiṃ sikkhāpade ‘‘cīvaraṃ nāma channaṃ cīvarānaṃ aññataraṃ cīvara’’nti ettakameva pāḷi, tena vuttaṃ ‘‘cīvaranti yaṃ nivāsetuṃ vā pārupituṃ vā’’tiādi. ‘‘Vikappanupagaṃ pacchima’’nti ca likhitaṃ, so pamādalekho.
176. Sau khi lừa gạt: là không nói “của bà con của ông” mà chỉ nói “của một Tỳ-khưu-ni,” họ nghe lời “của một người” rồi có tưởng là của người không phải bà con nên đã may. Trong điều học này, kinh điển chỉ có bấy nhiêu “y là một trong sáu loại y,” do đó đã nói “y là thứ để mặc hoặc để choàng,” v.v. Và đã được viết “vật cuối cùng có thể được chia sớt,” đó là một sự ghi chép sai lầm.

Cīvarasibbanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc may y đã hoàn tất.

7. Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học về việc hẹn hò

181. Tā bhikkhuniyo dūsayiṃsūti vipariṇāmo kātabbo.
181. Nên thay đổi thành: các Tỳ-khưu-ni đó đã làm ô uế.

182-4. Sampadantīti padasā gacchanti. Vuttanayenevāti ‘‘sampatanti etthāti sampāto’’tiādinā. Padagate upacāro na labbhati, accāsannattā missaṃ viya hotīti. Kukkuṭavassitaparicchinno mahāaṭṭhakathāyaṃ. ‘‘Tampi vohārenā’’ti likhitaṃ. ‘‘Yebhuyyena tathā sanniveso hotīti katvā aṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ, tasmā na pamādalekho’’ti ca, ‘‘ukkaṭṭhaparicchedena vuttaṃ aṭṭhakathāyaṃ, tato uddhaṃ addhayojanalakkhaṇasampattaṃ nāma hotīti gahetabba’’nti ca vuttaṃ. ‘‘Kappiyabhūmi kirāyaṃ…pe… na vadantī’’ti vuttaṃ. Duddasañhettha kāraṇaṃ. Kataraṃ pana tanti? ‘‘Gacchāmāti saṃvidahati, āpatti dukkaṭassā’’ti vuttaṃ. Tattha ‘‘gacchāmā’’ti vattamānavacanantañca, amagge bhikkhunupassayādimhi na sambhavatiyeva manussānaṃ antaragharādimhi maggasaṅkhepagamanato, uccāsayanādiuppattiṭṭhānattā ca. Na titthiyaseyyāya vā pabbajitāvāsattā. Dvāreti samīpatthe bhummaṃ, tasmā taṃ dassetuṃ puna ‘‘rathikāyā’’ti āha. Sesaaṭṭhakathāyaṃ ‘‘etthantare saṃvidahitepi bhikkhuno dukkaṭa’’nti āgatattā na sameti. ‘‘Gāmantare’’ti aññagāmassa upacārokkamane eva āpatti. ‘‘Addhayojane’’ti atikkamaneyeva yuttaṃ.
182-4. Cùng đi: là đi theo dấu chân. Chính bằng cách đã nói: là bằng cách nói “nơi họ cùng đến là nơi hẹn hò,” v.v. Phạm vi không được áp dụng trên đường đi, vì quá gần nhau nên giống như lẫn lộn. Ranh giới được xác định bằng tiếng gà gáy trong đại chú giải. “Điều đó cũng chỉ là theo cách nói thông thường” đã được viết. Và “vì thường có sự sắp xếp như vậy nên đã được nói trong chú giải, do đó không phải là ghi chép sai lầm,” và “đã được nói trong chú giải theo ranh giới tối đa, nên được hiểu rằng từ đó trở lên được gọi là đến nơi có đặc điểm nửa do tuần.” “Dường như đây là đất hợp lệ… họ không nói” đã được nói. Lý do ở đây khó thấy. Vậy, đâu là kinh điển? Đã nói “hẹn hò rằng ‘chúng ta hãy đi,’ phạm tội Tác Ác.” Ở đó, câu “chúng ta hãy đi” là thì hiện tại, và không thể có ở nơi không phải là đường như trú xứ của Tỳ-khưu-ni, v.v., vì con người thường đi đường tắt trong nhà, v.v., và vì đó là nơi phát sinh giường cao, v.v. Không phải do là nơi ở của người ngoại đạo hay nơi ở của người xuất gia. Ở cửa: là cách dùng địa sở cách với nghĩa gần, do đó để chỉ ra điều đó, lại nói “trên đường.” Trong các chú giải khác, không phù hợp vì đã có câu “ngay cả khi hẹn hò trong khoảng này, Tỳ-khưu cũng phạm tội Tác Ác.” “Trong làng khác”: chỉ phạm tội khi bước vào phạm vi của làng khác. “Nửa do tuần”: hợp lý là chỉ khi vượt qua.

185. Raṭṭhabhedeti vilope. Porāṇagaṇṭhipade ‘‘tayopi saṅketā kāladivasamaggavasena, tattha pacchimeneva āpattī’’ti vuttaṃ. ‘‘Iminā maggenā’’ti vissajjetvā aññena gacchanti ce, āpattiyevāti attho.
185. Trong sự tan rã của quốc gia: là trong sự cướp bóc. Trong sách cổ chú giải đã nói “cả ba loại hẹn hò là theo thời gian, ngày, và đường đi, trong đó chỉ phạm tội với loại cuối cùng.” Có nghĩa là nếu sau khi thỏa thuận “bằng con đường này” mà lại đi bằng con đường khác, thì vẫn phạm tội.

Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc hẹn hò đã hoàn tất.

8. Nāvābhiruhanasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học về việc lên thuyền

189. Nadiyā kuto gāmantaranti ce? ‘‘Yassā nadiyā’’tiādimāha. Gāmantaragaṇanāyāti yasmiṃ gāmatitthe āruḷho, taṃ ṭhapetvā aññagāmagaṇanāya. ‘‘Mātugāmopi idha saṅgahaṃ gacchatī’’ti ācariyassa takko, teneva ‘‘ubhayattha ekato upasampannāya dukkaṭaṃ, sikkhamānāya sāmaṇeriyā anāpattī’’ti ca na vuttaṃ. Eseva nayo aññesupi evarūpesu.
189. Nếu hỏi từ đâu có làng khác trên sông? Ngài đã nói “sông nào,” v.v. Trong việc đếm làng khác: là bằng cách đếm làng khác, trừ bến sông của làng mà vị ấy đã lên. Suy đoán của vị đạo sư là “người nữ cũng được bao gồm ở đây,” chính vì vậy mà không nói “đối với người nữ đã thọ cụ túc giới cùng lúc thì phạm tội Tác Ác, đối với cô ni tu tập sự và sa-di-ni thì không có tội.” Cách này cũng áp dụng cho các trường hợp tương tự khác.

191. ‘‘Lokassādamittasanthavavasena keḷipurekkhārā saṃvidahitvā’’ti vuttattā akusalacittaṃ lokavajjanti vattabbanti? Na vattabbaṃ, ‘‘keḷipurekkhārā’’ti vacanaṃ yebhuyyatāya vuttaṃ. Porāṇagaṇṭhipade ca ‘‘tīṇi cittāni tisso vedanā’’ti vuttaṃ, saṃvidahanakāle vā keḷipurekkhāro bhikkhu saṃvidahati, āpatti bhikkhuno gāmantarokkamane, addhayojanātikkame vā. Kusalacitto vā hoti paccavekkhanto, cetiyādīni vā passanto, abyākatacitto vā hoti kilamathavasena niddāyantoti ticittāni gahitānīti veditabbā.
191. Do đã nói “sau khi hẹn hò với ý định đùa cợt theo kiểu thân mật với những người không quen biết,” có nên nói rằng tâm bất thiện là điều thế gian chê trách không? Không nên nói, vì lời “với ý định đùa cợt” đã được nói theo cách nói chung. Và trong sách cổ chú giải đã nói “ba tâm, ba thọ,” hoặc vào lúc hẹn hò, Tỳ-khưu hẹn hò với ý định đùa cợt, Tỳ-khưu phạm tội khi vào làng khác, hoặc khi vượt qua nửa do tuần. Hoặc có tâm thiện khi đang quán xét, hoặc khi đang thấy tháp miếu, v.v., hoặc có tâm vô ký khi đang ngủ gật do mệt mỏi, nên được hiểu là đã lấy ba tâm.

Nāvābhiruhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc lên thuyền đã hoàn tất.

9. Paripācitasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học về thực phẩm do Tỳ-khưu-ni sắp đặt

192. Ceṭaketi dārake. Taruṇapotaketi porāṇā. ‘‘Pāpabhikkhūnaṃ pakkhupacchedāya idaṃ paññattaṃ, tasmā pañca bhojaneyevāpatti vuttā’’ti likhitaṃ.
192. Các bé trai: là các đứa trẻ. Các vị xưa nói là các con non. “Điều này được quy định để cắt đứt phe phái của các Tỳ-khưu xấu, do đó tội đã được nói đến chỉ trong năm loại thực phẩm,” đã được viết.

194-7. Nipphāditanti viññattiyā na hoti, kintu parikathādīhi, tasmā iminā sikkhāpadena anāpatti, taṃ sandhāya ‘‘sabbattha anāpattī’’ti vuttaṃ. ‘‘Kathānusārena tattha pasīditvā denti, idaṃ paripācitaṃ na hoti, vaṭṭantī’’ti paṭhamasikkhāpade vuttattāti dhammasiritthero, upatissatthero pana ‘‘itarampi vaṭṭatiyevā’’ti āha. Porāṇagaṇṭhipade pana ‘‘yasmā devadatto pakatiyā tattha bhikkhuniparipācitaṃ bhuñjati, tasmā imaṃ aṭṭhuppattiṃ nidānaṃ katvā idaṃ sikkhāpadaṃ paññatta’’nti vuttaṃ.
194-7. Được làm ra: không phải do xin, mà do nói chuyện bên lề, v.v., do đó không có tội theo điều học này, nhắm đến điều đó đã nói “không có tội trong mọi trường hợp.” Trưởng lão Dhammasiri nói rằng “theo câu chuyện, họ hoan hỷ ở đó rồi cho, điều này không phải là do sắp đặt, được phép,” do đã được nói trong điều học thứ nhất. Nhưng trưởng lão Upatissa nói “cả cái kia cũng được phép.” Trong sách cổ chú giải đã nói “vì Devadatta thường ăn thực phẩm do Tỳ-khưu-ni sắp đặt ở đó, do đó lấy sự kiện này làm nhân duyên và quy định điều học này.”

Paripācitasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về thực phẩm do Tỳ-khưu-ni sắp đặt đã hoàn tất.

10. Rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học về việc ngồi riêng

198. ‘‘Upanandassa catutthasikkhāpadena cā’’ti pāṭho.
198. Bản đọc là “và bởi điều học thứ tư của Upananda.”

Rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc ngồi riêng đã hoàn tất.

Samatto vaṇṇanākkamena ovādavaggo tatiyo.

Phẩm Giáo Giới thứ ba, theo trình tự giải thích, đã hoàn tất.

4. Bhojanavaggo

4. Phẩm Ăn Uống

1. Āvasathapiṇḍasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học về vật thực ở nhà trọ

203-4. Pūgassāti pūgena. Kukkuccāyantoti nissaraṇenettha bhavitabbaṃ, taṃ mayaṃ na jānāmāti sanniṭṭhānassa karaṇavasena ‘‘kukkuccāyanto’’ti vuccati. Yathā hi āyasmā upāli nayaggāhena ‘‘anāpatti āvuso supinantenā’’ti (pārā. 78) āha, tathā theropi ‘‘anāpatti gilānassā’’ti kasmā na paricchindatīti? Anattādhikārattā vinayapaññattiyā, ‘‘nāyaṃ attano okāso’’ti paṭikkhittattā, sikkhāpadassa aparipuṇṇattā. Paṭhamapārājikasikkhāpade paripuṇṇaṃ katvā paññatteyeva hi so thero ‘‘anāpatti supinantenā’’ti āha ‘‘aññatra supinantā’’ti vuttapadānusārenāti. Yasmā odissa ayāvadattheva dāyakānaṃ pīḷā natthi, tasmā ‘‘anodissa yāvadattho’’ti vuttaṃ.
203-4. Của nhóm: là bởi nhóm. Đang áy náy: là lẽ ra phải có sự ra đi, nhưng chúng tôi không biết điều đó, do việc đưa ra kết luận nên được gọi là “đang áy náy.” Giống như trưởng lão Upāli, bằng cách nắm bắt nguyên tắc, đã nói “thưa các hiền giả, không có tội trong giấc mơ” (pārā. 78), tại sao vị trưởng lão cũng không phân định rằng “không có tội đối với người bệnh”? Vì quy định của luật thuộc về vô ngã, vì đã bị bác bỏ rằng “đây không phải là cơ hội của mình,” và vì điều học chưa hoàn chỉnh. Vì chỉ khi điều học về tội Bất Cộng Trụ thứ nhất được quy định một cách hoàn chỉnh, vị trưởng lão đó mới nói “không có tội trong giấc mơ” theo câu đã được nói “ngoại trừ trong giấc mơ.” Bởi vì không có sự phiền hà cho các thí chủ khi không chỉ định cho đến khi đủ, do đó đã nói “không chỉ định cho đến khi đủ.”

208. ‘‘Antarāmagge ekadivasa’nti ekaṃyeva sandhāya vutta’’nti ca ‘‘eseva nayoti vuttanayameva dassetuṃ gantvā paccāgacchanto hītiādimāhā’’ti ca ‘‘suddhacitto hutvā pakatigamaneva bhuñjituṃ labhatī’’ti ca ‘‘agilānassa gilānasaññino kāyena samuṭṭhātī’’ti ca likhitaṃ.
208. “Trên đường đi một ngày, chỉ nhắm đến một người” và “cách này cũng vậy, để chỉ ra cách đã nói, ngài đã nói ‘sau khi đi rồi quay lại,’ v.v.,” và “sau khi có tâm trong sạch, được phép ăn khi đi bình thường,” và “đối với người không bệnh mà có tưởng là bệnh, sanh khởi từ thân,” đã được viết.

Āvasathapiṇḍasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về vật thực ở nhà trọ đã hoàn tất.

2. Gaṇabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học về ăn chung một nhóm

209-218. Guḷhapaṭicchannoti apākaṭova. Eko puttenāti ekassekaṃ bhattaṃ ‘‘ahaṃ aññena nimantito’’ti na vuccati. ‘‘Sace ekato gaṇhanti, gaṇabhojanaṃ hotī’’ti (pāci. aṭṭha. 217-218) vuttattā cattāro upāsakā cattāro bhikkhū visuṃ visuṃ nimantetvā hatthapāse ṭhitānaṃ ce denti, gaṇabhojanaṃ hoti evāti eke, taṃ na yuttaṃ viya. ‘‘Viññattito pasavane gaṇassa ekato gahaṇe iminā sikkhāpadena āpatti, visuṃ gahaṇe paṇītabhojanasūpodanaviññattīhī’’ti likhitaṃ. ‘‘Viññattito pasavanaṃ aṭṭhuppattivasena aṭṭhakathāyaṃ anuññātaṃ. Sūpodanādivasena tattha āpatti evā’’ti vuttaṃ, taṃ na yuttaṃ. Kasmā? Parivāre (pari. 168) eva dvinnaṃ ākārānaṃ āgatattā, tasmā aṭṭhakathāyaṃ ‘‘anuññāta’’nti duvuttaṃ. Aṭṭhuppattiyaṃyeva pākaṭanti ‘‘padabhājane na vutta’’nti vattabbaṃ. Ekato gaṇhantīti gahitabhattāpi aññe yāva gaṇhanti, tāva ce tiṭṭhanti, ekato gaṇhantiyeva nāma. ‘‘Gacchati ce, anāpattī’’ti vadanti.
209-218. Được che giấu kỹ: là không công khai. Một người với một người con trai: một bữa ăn cho một người không được nói là “tôi đã được mời bởi người khác.” Vì đã nói “nếu họ nhận chung, thì là ăn chung một nhóm” (pāci. aṭṭha. 217-218), một số người nói rằng nếu bốn cận sự nam mời riêng bốn Tỳ-khưu rồi dâng cho những người đứng trong tầm tay, thì cũng là ăn chung một nhóm, điều đó có vẻ không đúng. “Do xin mà được dâng, nếu nhóm nhận chung, thì có tội theo điều học này, nếu nhận riêng, thì do xin súp và cơm là thực phẩm hảo hạng,” đã được viết. “Việc dâng do xin đã được cho phép trong chú giải do sự kiện phát sanh. Ở đó, chắc chắn có tội do súp và cơm, v.v.,” đã được nói, điều đó không đúng. Tại sao? Vì cả hai cách đều đã có trong Tập Yếu (pari. 168), do đó trong chú giải, “đã được cho phép” là một cách nói sai. Rõ ràng ngay trong sự kiện phát sanh, nên phải nói là “không được nói trong phần phân tích từ.” Họ nhận chung: ngay cả những người đã nhận vật thực, nếu họ đứng đợi cho đến khi những người khác nhận, thì cũng được gọi là nhận chung. Các vị nói rằng “nếu đi, thì không có tội.”

Etthāha – ‘‘paṭiggahaṇameva hettha pamāṇa’’nti vuttaṃ, atha kasmā pāḷiyaṃ ‘‘gaṇabhojanaṃ nāma yattha cattāro…pe… bhuñjanti, etaṃ gaṇabhojanaṃ nāmā’’ti (pāci. 218) vuttanti? Vuccati – yatthāti upayogatthe bhummavacanaṃ. Cattāroti gaṇassa heṭṭhimaparicchedanidassanaṃ. Pañcannaṃ bhojanānanti āpattippahonakabhojananidassanaṃ. Aññatarena bhojanena nimantitāti akappiyanimantananidassanaṃ. Nimantanavaseneva pana gaṇabhojanassa vuttattā ‘‘nimantitā bhuñjantīti vutta’’nti vuttaṃ. ‘‘Aññataraṃ bhojanaṃ viññāpetvā bhuñjantī’’ti pana na vuttaṃ aṭṭhuppattiyaṃyeva pākaṭattā. Yaṃ bhuñjantīti evaṃ sambandho veditabbo. Tattha bhuñjantīti paṭiggāhakaniyamavacanaṃ. Na hi appaṭiggahitakaṃ bhikkhū bhuñjanti. Idaṃ vuttaṃ hoti ‘‘gaṇassa yato paṭiggahitāhārabhojanahetu pācittiya’’nti. Āgantukapaṭṭaṃ moghasuttena sibbitvā ṭhapenti, tattha anuvāte yathā ekatalaṃ hoti, tathā hatthehi ghaṭṭeti. Valetīti āvaṭṭeti. Parivattananti suttaṃ gaṇhantānaṃ sukhaggahaṇatthaṃ suttaparivattanaṃ karoti, paṭṭaṃ sibbantānaṃ sukhasibbanatthaṃ paṭṭaparivattanañca. Navacīvarakārako idhādhippeto, na itaroti. ‘‘Bimbisāraṃ āpucchitvā sambhāre kayiramāneyeva kālā atikkantā, pacchā gaṇabhojanasikkhāpade paññatte bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pucchī’’ti vadanti, aññathā aṭṭhakathāya virujjhanato.
Ở đây có người nói: “việc nhận chính là tiêu chuẩn ở đây,” đã được nói, vậy tại sao trong kinh điển lại nói “ăn chung một nhóm là nơi bốn người… ăn… đó được gọi là ăn chung một nhóm” (pāci. 218)? Xin thưa: nơi nào là cách dùng địa sở cách với nghĩa sử dụng. Bốn người là sự chỉ ra giới hạn dưới của nhóm. Trong năm loại thực phẩm là sự chỉ ra thực phẩm có thể gây ra tội. Được mời bằng một trong các loại thực phẩm là sự chỉ ra sự mời không hợp lệ. Nhưng vì ăn chung một nhóm đã được nói theo cách mời, nên đã nói “được mời rồi ăn.” Còn câu “xin một loại thực phẩm rồi ăn” thì không được nói vì đã rõ ràng trong sự kiện phát sanh. Nên hiểu sự kết hợp như sau: cái mà họ ăn. Ở đó, họ ăn là lời quy định về người nhận. Vì các Tỳ-khưu không ăn những thứ chưa được nhận. Điều này đã được nói: “tội Ưng Đối Trị là do việc ăn thực phẩm đã được nhận từ nhóm.” Họ may và cất giữ tấm lót của khách bằng chỉ thừa, ở đó, xuôi theo chiều gió, họ xoa bằng tay để nó trở thành một mặt phẳng. Cuộn lại: là cuộn lại. Việc cuộn lại: là cuộn chỉ để những người lấy chỉ dễ lấy, và cuộn tấm lót để những người may tấm lót dễ may. Người làm y mới được nhắm đến ở đây, không phải người khác. Các vị nói rằng “sau khi hỏi vua Bimbisāra, thời gian đã trôi qua trong khi đang chuẩn bị vật liệu, sau đó khi điều học về ăn chung một nhóm được quy định, ông đã đến hỏi Đức Thế Tôn,” nếu không sẽ mâu thuẫn với chú giải.

220. ‘‘Dve tayo ekatoti yepi akappiyanimantanaṃ sādiyitvā’’tiādivacanena akappiyanimantanapaccayā eva anāpatti, viññattito āpattiyevāti dīpeti. Animantito catuttho yassa tadetaṃ animantitacatutthaṃ. Esa nayo sabbattha. Pavesetvāti nisīdāpetvā. Cīvaradānasamayaladdhakacatukkaṃ cīvarakārasamayaladdhakacatukkanti evamādīni. Tāni cāti yehi bhojanehi visaṅketo natthi, tāni. Mahāthereti upasampanne. Aṭṭhatvāti ṭhitena nimittaṃ dassitaṃ hoti. Tattha tattha gantvāti rathikādīsu bhikkhusamīpe gantvā. Imasmiṃ pana sikkhāpade katthaci potthake ‘‘anujānāmi, bhikkhave, cīvaradānasamaye gaṇabhojanaṃ bhuñjituṃ. Evañcidaṃ bhagavatā bhikkhūna’’nti pāṭho dissati. Katthaci ‘‘bhuñjitu’’nti vatvā ‘‘evañca pana, bhikkhave, imaṃ sikkhāpadaṃ uddiseyyāthā’’ti pāṭho, ayaṃ sobhano.
220. Bằng lời nói “hai ba người cùng nhau, ngay cả những người đã chấp nhận lời mời không hợp lệ,” v.v., cho thấy rằng không có tội chỉ do nhân duyên của lời mời không hợp lệ, còn do xin thì vẫn có tội. Cái gì mà người thứ tư không được mời, đó là người thứ tư không được mời. Cách này áp dụng cho mọi nơi. Sau khi cho vào: là sau khi cho ngồi. Nhóm bốn người nhận được trong thời gian cho y, nhóm bốn người nhận được trong thời gian làm y, v.v. Và những thứ đó: là những thực phẩm không có sự hẹn hò khác. Trong các vị trưởng lão: là trong những người đã thọ cụ túc giới. Sau khi không đứng: là dấu hiệu đã được đưa ra bởi người đang đứng. Sau khi đi đến các nơi đó: là sau khi đi đến gần các Tỳ-khưu ở trên đường, v.v. Nhưng trong điều học này, trong một số sách có bản đọc “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ăn chung một nhóm trong thời gian cho y. Như vậy, điều này do Đức Thế Tôn… cho các Tỳ-khưu.” Ở đâu đó, sau khi nói “ăn,” có bản đọc “và này các Tỳ-khưu, hãy đọc điều học này như vậy,” bản đọc này hay.

Gaṇabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về ăn chung một nhóm đã hoàn tất.

3. Paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học về ăn nối tiếp

221. Adhiṭṭhitāti niccappavattā. Badaracuṇṇasakkarādīhi yojitaṃ badarasāḷavaṃ. Kirakammakārenāti kirassa kammakārena.
221. Đã được thiết lập: là thường xuyên diễn ra. Nước táo dại được pha với bột táo dại và đường. Bởi người làm sáp: là bởi người làm sáp ong.

226. ‘‘Vikappetvā gaṇhāhī’’ti etthāhu porāṇattherā ‘‘bhagavato sammukhā avikappetvā gehato nikkhamitvā rathikāya aññatarassa bhikkhuno santike vikappesi, vikappentena pana ‘mayhaṃ bhattapaccāsaṃ itthannāmassa dammī’ti vattabbaṃ, itarena vattabbaṃ ‘tassa santakaṃ paribhuñja vā yathāpaccayaṃ vā karohī’’’ti. Pañcasusahadhammikesūti sammukhā ṭhitassa sahadhammikassa yassa vikappetukāmo, taṃ sahadhammikaṃ adisvā gahaṭṭhassa vā santike, sayameva vā ‘‘pañcasu sahadhammikesu itthannāmassa vikappemī’’ti vatvā bhuñjitabbanti eke, evaṃ sati thero tasmiṃyeva nisinnova tathā vācaṃ nicchāretvā paṭiggaṇhātīti takko dissati. Mahāpaccariyādīsu pana parammukhā vikappanāva vuttā, sā ‘‘tena hānanda, vikappetvā gaṇhāhī’’ti iminā sameti, tathāpi mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘tasmā yo bhikkhu pañcasu sahadhammikesu aññatarassa ‘mayhaṃ bhattapaccāsaṃ tuyhaṃ dammī’ti vā ‘vikappemī’ti vā evaṃ sammukhā vā ‘itthannāmassa dammī’ti vā ‘vikappemī’ti vā evaṃ parammukhā vā’’ti sahadhammikassa santike eva vattabbaṃ, na sayamevāti dissati. Yasmā ayaṃ pacchimanayo porāṇagaṇṭhipadenapi sameti, tasmā idha mātikāṭṭhakathānusārena attho veditabbo. Ettha kiñcāpi ‘‘te manussā…pe… bhojanamadaṃsū’’ti akappiyanimantanaṃ paññāyati, tathāpi therassa kukkuccuppattikāraṇena bhattena so nimantitoti veditabbo. Aññathā parato ‘‘dve tayo nimantane ekato bhuñjatī’’ti vacanena, anāpattivārena ca virujjhati.
226. Về câu “hãy chia sớt rồi nhận,” các vị trưởng lão xưa đã nói: “sau khi nhận mà không chia sớt trước mặt Đức Thế Tôn, ra khỏi nhà rồi chia sớt tại nơi ở của một Tỳ-khưu khác trên đường, và người chia sớt phải nói ‘tôi cho phần ăn của tôi cho người tên là này,’ người kia phải nói ‘hãy dùng của cải của ông ấy hoặc làm theo duyên.’” Một số người nói rằng trong năm người đồng phạm hạnh: là khi không thấy người đồng phạm hạnh đang đứng trước mặt mà mình muốn chia sớt, thì tại nơi ở của cư sĩ hoặc tự mình nói “tôi chia sớt cho người tên là này trong năm người đồng phạm hạnh” rồi ăn. Nếu vậy, dường như có suy đoán rằng vị trưởng lão, ngay khi đang ngồi ở đó, đã nói ra lời như vậy rồi nhận. Nhưng trong Đại Sớ Giải, v.v., chỉ nói về việc chia sớt vắng mặt, điều đó phù hợp với câu “vậy thì, này Ānanda, hãy chia sớt rồi nhận.” Tuy nhiên, trong chú giải đề mục (kaṅkhā. aṭṭha. paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā) có câu “do đó, Tỳ-khưu nào nói với một trong năm người đồng phạm hạnh rằng ‘tôi cho phần ăn của tôi cho ông’ hoặc ‘tôi chia sớt’ như vậy trước mặt, hoặc ‘tôi cho người tên là này’ hoặc ‘tôi chia sớt’ như vậy vắng mặt,” dường như phải nói tại nơi ở của người đồng phạm hạnh, không phải tự mình. Bởi vì cách giải thích sau này cũng phù hợp với sách cổ chú giải, do đó ở đây ý nghĩa nên được hiểu theo chú giải đề mục. Ở đây, mặc dù lời mời không hợp lệ được hiểu qua câu “những người đó… đã dâng thực phẩm,” tuy nhiên nên được hiểu rằng vị ấy đã được mời bằng vật thực do sự áy náy của vị trưởng lão. Nếu không, sẽ mâu thuẫn với câu “ăn chung trong hai ba lời mời” và với phần không có tội ở sau.

229. Etthāyaṃ vicāraṇā – ‘‘añño manusso pattaṃ gaṇhāti, na dātabba’’nti aparabhāge akappiyanimantanena natthi payojanaṃ, pubbabhāgeyeva akappiyanimantanena payojananti svepi bhante āgaccheyyāthāti ettha kataraṃ akappiyanimantanaṃ, tasmā adhippāyo cettha pamāṇanti. Na, ‘‘piṇḍāya caritvā laddhabhattaṃ bhuñjati, āpattī’’ti vacanatoti. Tattha ‘‘svepi bhante’’ti ettha yathā vacanamattaṃ aggahetvā akappiyanimantanakkamena attho gahito, tathā ‘‘piṇḍāya caritvā’’ti etthāpi antarā akappiyanimantanena laddhabhattaṃ sandhāya vuttanti attho gahetabbo. Piṇḍāya hi carantaṃ disvā ‘‘ettha, bhante, bhattaṃ gaṇhathā’’ti dinnampi akappiyanimantanena laddhaṃ nāma hoti. Vohārena pana ‘‘piṇḍāya caritvā laddhabhatta’’nti vuccati, evaṃsampadamidaṃ daṭṭhabbaṃ. Aññathā mātikāṭṭhakathāyaṃ ‘‘gaṇabhojane vuttanayeneva pañcahi bhojanehi nimantitassa…pe… parassa parassa bhojane’’ti vuttavacanavirodho. Idañhi vacanaṃ yena paṭhamaṃ nimantito, tato paṭhamanimantitaṃ ādāya gato parassa parassa nimantanakadāyakassa bhojaneti atthaparidīpanato nimantanato laddhabhattassa bhojaneyeva āpattīti dīpeti. ‘‘Dve tayo nimantane ekato’’ti vacanenapi sameti, aññathā ‘‘yena nimantito, tassa bhojanato parassa bhojane’’ti ettakaṃ vattabbaṃ siyā, pāḷiyaṃ vā ‘‘nimantanena ekatobhuñjatī’’ti ettakaṃ vattabbaṃ siyā. Dutiyanimantanassa paṭhamabhojane āpattippasaṅganivāraṇatthaṃ ‘‘yena yenā’’tiādi vuttaṃ. Nimantanapaṭipāṭiyā bhuñjatīti pāḷīti ce? Na, ‘‘anāpatti niccabhatte’’tiādipāḷivirodhato.
229. Ở đây có sự xem xét này: “một người khác nhận bình bát, không được cho,” trong phần sau, lời mời không hợp lệ không có lợi ích, chỉ có lợi ích trong phần trước, vậy trong câu “ngày mai thưa các ngài cũng hãy đến,” đâu là lời mời không hợp lệ, do đó ý định là tiêu chuẩn ở đây. Không phải, vì có câu “ăn vật thực nhận được sau khi đi khất thực, có tội.” Ở đó, trong câu “ngày mai thưa các ngài cũng,” giống như ý nghĩa được lấy theo trình tự mời không hợp lệ mà không lấy chỉ lời nói, cũng vậy, trong câu “sau khi đi khất thực,” nên lấy ý nghĩa là nhắm đến vật thực nhận được do lời mời không hợp lệ ở giữa. Vì ngay cả vật thực được dâng khi thấy người đang đi khất thực và nói “thưa ngài, hãy nhận vật thực ở đây” cũng được gọi là nhận được do lời mời không hợp lệ. Nhưng theo cách nói thông thường, được gọi là “vật thực nhận được sau khi đi khất thực,” nên xem xét điều này một cách trọn vẹn. Nếu không, sẽ mâu thuẫn với lời nói trong chú giải đề mục “theo cách đã nói trong phần ăn chung một nhóm, của người được mời bằng năm loại thực phẩm… của thực phẩm của người sau, người sau.” Vì lời nói này, bằng cách làm sáng tỏ ý nghĩa rằng “thực phẩm của thí chủ mời người sau, người sau, sau khi đã đi với lời mời đầu tiên từ người đã mời đầu tiên,” cho thấy rằng tội chỉ có trong việc ăn vật thực nhận được từ lời mời. Cũng phù hợp với câu “cùng nhau trong hai ba lời mời,” nếu không, lẽ ra phải nói bấy nhiêu là “từ thực phẩm của người đã mời, đến thực phẩm của người sau,” hoặc trong kinh điển, lẽ ra phải nói bấy nhiêu là “ăn chung bằng lời mời.” Để ngăn chặn nguy cơ phạm tội với thực phẩm đầu tiên của lời mời thứ hai, đã nói “bởi người nào, người nào,” v.v. Nếu nói rằng kinh điển là ăn theo thứ tự mời? Không phải, vì mâu thuẫn với kinh điển “không có tội với vật thực thường xuyên,” v.v.

Gaṇṭhipade pana ‘‘piṇḍāya caritvā laddhabhattaṃ kasmā bhuñjituṃ na labhatīti ce? ‘Paramparabhojanaṃ nāma pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarena bhojanena nimantito, taṃ ṭhapetvā pañcannaṃ bhojanānaṃ aññataraṃ bhojanaṃ bhuñjati, etaṃ paramparabhojanaṃ nāmā’ti vuttattā’’ti likhitaṃ. Yadi evaṃ niccabhattādikampi na vaṭṭatīti āpajjatīti niccabhattādi odissakanti ce? Taṃ na, tadaññassa attano dhanena nipphannassa, saṅghato laddhassa vā pāto pacanakayāgu ce ghanā hoti, tassāpi, ekakuṭikaṃ gāmaṃ upanissāya viharato bhikkhācariyavasena labhitabbaniccabhattassa ca akappiyabhāvappasaṅgato. Tattha bhikkhācariyavasena laddhaṃ na kappati nimantanakānaṃ appasādāvahanatoti ce? Na, ‘‘pañca bhojanāni ṭhapetvā sabbattha anāpattī’’ti vacanavirodhato. Khādanīyampi hi parassa khāditvā bhuttattā nimantanabhojanaṃ abhuñjanto appasādaṃ karoti eva, tasmā appasādāvahaṃ appamāṇaṃ, tasmā niccabhattādi odissakaṃ na sambhavati. Apica heṭṭhā vuttanayena saddhiṃ idha vuttanayena saṃsanditvā yaṃ yaṃ khamati, taṃ taṃ gahetabbanti sabbopi kesañci ācariyānaṃ vinicchayo. Ācariyassa pana vinicchayo ante āvi bhavissati. ‘‘Khīraṃ vā rasaṃ vā pivato amissampīti adhippāyo’’ti vuttaṃ. Gaṇṭhipade ‘‘heṭṭhā odanenāmissetvā upari tiṭṭhatī’’ti likhitaṃ.
Trong sách chú giải đã viết: “Nếu hỏi tại sao không được ăn vật thực nhận được sau khi đi khất thực? Vì đã nói ‘ăn nối tiếp là được mời bằng một trong năm loại thực phẩm, trừ cái đó ra, ăn một trong năm loại thực phẩm, đó được gọi là ăn nối tiếp.’” Nếu vậy, sẽ dẫn đến việc ngay cả vật thực thường xuyên, v.v., cũng không được phép. Nếu nói rằng vật thực thường xuyên, v.v., là được chỉ định? Điều đó không đúng, vì có nguy cơ trở thành không hợp lệ đối với vật thực khác được làm bằng của cải của mình, hoặc nhận được từ Tăng chúng, hoặc cháo đặc được nấu vào buổi sáng, và cả vật thực thường xuyên có thể nhận được theo cách khất thực của người ở gần một ngôi làng chỉ có một am thất. Nếu nói rằng vật thực nhận được theo cách khất thực ở đó không hợp lệ vì gây mất thiện cảm cho những người mời? Không phải, vì mâu thuẫn với lời nói “không có tội trong mọi trường hợp trừ năm loại thực phẩm.” Vì ngay cả đồ ăn vặt, sau khi ăn của người khác, không ăn thực phẩm của lời mời, cũng gây mất thiện cảm, do đó việc gây mất thiện cảm không phải là tiêu chuẩn, do đó vật thực thường xuyên, v.v., không thể là được chỉ định. Hơn nữa, bằng cách kết hợp cách đã nói ở dưới với cách đã nói ở đây, cái gì phù hợp thì lấy cái đó, đó là quyết định của một số vị đạo sư. Nhưng quyết định của vị đạo sư sẽ được làm rõ ở cuối. “Ý định là ngay cả khi uống sữa hoặc nước trái cây không pha trộn” đã được nói. Trong sách chú giải đã viết “đặt lên trên mà không trộn với cơm ở dưới.”

Mahāupāsakoti gehasāmiko. Mahāaṭṭhakathāyaṃ ‘‘āpattī’’ti vacanena kurundiyaṃ ‘‘vaṭṭatī’’ti vacanaṃ viruddhaṃ viya dissati. ‘‘Dvinnampi adhippāyo mahāpaccariyaṃ vicārito’’ti likhitaṃ. ‘‘Cārittatoti ‘santaṃ bhikkhuṃ anāpucchā’ti parato vattabbato’’ti vuttaṃ. Vacīkammaṃ avikappanaṃ. Ettha ‘‘mahāupāsako bhikkhū nimanteti…pe… pacchā laddhaṃ bhattaṃ bhuñjantassa āpatti. Piṇḍāya caritvā laddhabhattaṃ bhuñjati, āpattī’’ti aṭṭhakathāyaṃ, ‘‘kālasseva piṇḍāya caritvā bhuñjimhā’’ti pāḷito, khandhake ‘‘na ca, bhikkhave, aññatra nimantane aññassa bhojjayāgu paribhuñjitabbā, yo paribhuñjeyya, yathādhammo kāretabbo’’ti (mahāva. 283) ca nimantetvā vā pavedetu animantetvā vā, paṭhamagahitanimantanassa bhikkhuno paṭhamanimantanabhojanato aññaṃ yaṃ kiñci parasantakaṃ bhojanaṃ paramparabhojanāpattiṃ karoti. Attano santakaṃ, saṅghagaṇato laddhaṃ vā agahaṭṭhasantakaṃ vaṭṭati, nimantanato paṭhamaṃ nibaddhattā pana niccabhattādi parasantakampi vaṭṭati. Khandhake ‘‘na ca , bhikkhave…pe… yathādhammo kāretabbo’’ti (mahāva. 283) vacanaṃ parasantakabhojanavuttaniyamanaṃ. Tato hatthakova no takkoti ācariyo.
Vị đại cận sự nam: là chủ nhà. Trong đại chú giải, lời “có tội” dường như mâu thuẫn với lời “được phép” trong Kurundī. “Ý định của cả hai đã được xem xét trong đại sớ giải” đã được viết. “Từ thông lệ”: đã được nói “vì sẽ nói ở sau ‘không hỏi Tỳ-khưu có mặt.’” Hành động bằng lời nói là sự không chia sớt. Ở đây, trong chú giải có câu “vị đại cận sự nam mời các Tỳ-khưu… người ăn vật thực nhận được sau phạm tội. Ăn vật thực nhận được sau khi đi khất thực, có tội,” từ kinh điển có câu “chúng tôi đã ăn sau khi đi khất thực đúng giờ,” và trong Các phẩm Luật có câu “và này các Tỳ-khưu, không được dùng cháo của người khác ngoài lời mời, ai dùng, phải bị xử lý theo pháp” (mahāva. 283), dù được mời hay được thông báo mà không được mời, đối với Tỳ-khưu đã nhận lời mời đầu tiên, bất kỳ thực phẩm nào của người khác ngoài thực phẩm của lời mời đầu tiên đều gây ra tội ăn nối tiếp. Của cải của mình, hoặc nhận được từ Tăng chúng, nhóm, hoặc của cải của người không phải cư sĩ thì được phép. Nhưng vật thực thường xuyên, v.v., mặc dù là của người khác, cũng được phép vì đã được ràng buộc trước lời mời. Trong Các phẩm Luật, câu “và này các Tỳ-khưu… phải bị xử lý theo pháp” (mahāva. 283) là quy định về việc nói đến thực phẩm của người khác. Vị đạo sư nói rằng từ đó không có suy đoán của chúng tôi.

Paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về ăn nối tiếp đã hoàn tất.

4. Kāṇamātāsikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học về mẹ của Kāṇā

31-3. Paṭiyālokanti pacchimaṃ desaṃ. Pūvagaṇanāyāti atirittapūvagaṇanāyāti attho. Sace ‘‘apātheyyādiatthāya sajjita’’nti saññāya gaṇhāti, acittakattā sikkhāpadassa āpatti eva. Atha uggahitaṃ gaṇhāti, na muccatiyeva. Asaṃvibhāge pana anāpatti akappiyattā. Acittakatā paññattijānanābhāveneva, na vatthujānanābhāvenāti eke. Na, mātikāṭṭhakathāyaṃ ‘‘pātheyyādiatthāya sajjitabhāvajānana’’nti aṅgesu avuttattā. Porāṇagaṇṭhipade panevaṃ vuttaṃ ‘‘ekena vā anekehi vā dvattipattapūresu gahitesu tesaṃ anārocanena vā sayaṃ vā jānitvā yo aññaṃ gaṇhāti, tassa dukkaṭaṃ. Ekato tīsu, catūsu vā paviṭṭhesu ekena ce dvepattapūrā gahitā, dutiye dve gaṇhante paṭhamo ce na nivāreti, paṭhamassa pācittiyaṃ. Nivāreti ce, anāpatti, dutiyasseva dukkaṭa’’nti. Sace sañcicca na vadati, porāṇagaṇṭhipade vuttanayena pācittiyaṃ, mātikāṭṭhakathāvasena (kaṅkhā. aṭṭha. kāṇamātāsikkhāpadavaṇṇanā) dukkaṭaṃ. ‘‘Atirekapaṭiggahaṇa’’nti tattha pañcamaṃ aṅgaṃ vuttaṃ, tasmā appaṭiggahitattā na pācittiyaṃ, kattabbākaraṇato pana dukkaṭaṃ. Aññathā kiriyākiriyaṃ idaṃ āpajjati, anivāraṇaṃ, anārocanaṃ vā chaṭṭhaṅgaṃ vattabbaṃ siyā. Ekanikāyikānaṃ vāti ettha ‘‘āsannavihārabhikkhū, āsannaāsanasālāgatā vā sace visabhāgehi ānītaṃ na paṭiggaṇhanti, ‘ārāmikādīnaṃyeva vā dāpentī’ti jānāti, yattha paribhogaṃ gacchati , tattha dātuṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. ‘‘Dvattipattapūrā’ti vacanato pacchiādīsu adhikampi gaṇhato anāpattī’’ti keci vinayadharamānino vadanti, taṃ tesaṃyeva nisīdatu, ācariyā pana ‘‘pacchiādīsupi ukkaṭṭhapattassa pamāṇavasena dvattipattapūrā gahetabbā. Ukkaṭṭhaparicchedakathā hesā’’ti vadanti.
31-3. Vùng phía sau: là vùng phía sau. Trong việc đếm bánh: có nghĩa là trong việc đếm bánh dư. Nếu nhận với tưởng rằng “được chuẩn bị cho mục đích làm lương thực đi đường, v.v.,” thì vẫn phạm tội vì điều học này không phụ thuộc vào tâm. Nếu nhận vật đã được lấy, thì không thể thoát tội. Nhưng không có tội trong việc không chia sẻ vì đó là không hợp lệ. Một số người nói rằng việc không phụ thuộc vào tâm là do không biết quy định, không phải do không biết vật. Không phải, vì trong chú giải đề mục, trong các yếu tố, không nói đến “việc biết rằng đã được chuẩn bị cho mục đích làm lương thực đi đường, v.v.” Nhưng trong sách cổ chú giải đã nói như sau: “khi một hoặc nhiều người đã lấy hai ba đĩa bánh, ai biết được điều đó do họ không thông báo hoặc tự mình biết mà lấy thêm, người đó phạm tội Tác Ác. Khi ba hoặc bốn người cùng vào, nếu một người đã lấy hai đĩa bánh, khi người thứ hai lấy hai đĩa, nếu người đầu tiên không ngăn cản, người đầu tiên phạm tội Ưng Đối Trị. Nếu ngăn cản, thì không có tội, chỉ có người thứ hai phạm tội Tác Ác.” Nếu cố ý không nói, thì phạm tội Ưng Đối Trị theo cách đã nói trong sách cổ chú giải, và tội Tác Ác theo chú giải đề mục (kaṅkhā. aṭṭha. kāṇamātāsikkhāpadavaṇṇanā). “Việc nhận thêm” ở đó được nói là yếu tố thứ năm, do đó không phải là tội Ưng Đối Trị vì chưa nhận, nhưng là tội Tác Ác vì không làm điều phải làm. Nếu không, điều này sẽ trở thành hành động và không hành động, lẽ ra phải nói yếu tố thứ sáu là không ngăn cản hoặc không thông báo. Hoặc của những người cùng một bộ phái: ở đây đã nói “nếu biết rằng các Tỳ-khưu ở tự viện gần, hoặc những người đến nhà nghỉ gần đó không nhận những thứ do những người khác bộ phái mang đến, hoặc ‘họ cho chính những người làm vườn, v.v.,’ thì được phép cho ở nơi nào có sự tiêu thụ.” Một số người tự cho mình là người giữ luật nói rằng “do câu ‘hai ba đĩa bánh,’ nên không có tội đối với người nhận nhiều hơn trong giỏ, v.v.,” điều đó hãy để cho họ tự suy xét, nhưng các vị đạo sư nói rằng “ngay cả trong giỏ, v.v., cũng phải lấy hai ba đĩa bánh theo kích thước của đĩa tối đa. Vì đây là lời nói về giới hạn tối đa.”

Kāṇamātāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về mẹ của Kāṇā đã hoàn tất.

5. Paṭhamapavāraṇasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học thứ nhất về tự tứ

236. Yāvadatthapavāraṇāya pavāritā kiñcāpi ‘‘pavāritā’’icceva adhippetā aṭṭhuppattiyāva, atha kho pacchimāva idhādhippetā.
236. Mặc dù những người đã được tự tứ bằng cách tự tứ cho đến khi đủ được nhắm đến chính là “những người đã được tự tứ” do sự kiện phát sanh, tuy nhiên, chỉ có loại sau được nhắm đến ở đây.

237. ‘‘Alametaṃ sabba’’nti vuttattā atirittaṃ nāma hoti. Bhikkhussa idampi te adhikaṃ, ito aññaṃ na lacchatīti kira attho.
237. Do đã nói “tất cả những thứ này là đủ,” nên được gọi là vật dư. Dường như có nghĩa là đối với Tỳ-khưu, ngay cả cái này cũng là thừa, ông sẽ không nhận được cái gì khác ngoài cái này.

238-9. ‘‘Asanaṃ paññāyatī’’ti eteneva ‘‘bhuttāvī’’ti etassa siddhattā visuṃ atthasiddhi natthi. Yadi atthi, aṅgānaṃ chakkattadassananti. Vuttampi cetantiādi pavāraṇaṅgānaṃ pañcakattadassanaṃ. Varakoti yo koci varako. ‘‘Pavāraṇaṃ pana janetiyevāti visuṃ sitthaṃ vodakaṃ karonti, pavāraṇaṃ na janeti. Yāguṃ vā pivanto paṭhamaṃ udakaṃ pivati, vaṭṭati. Avasiṭṭhaṃ heṭṭhāsitthaṃ pavāraṇaṃ na janetī’’ti likhitaṃ. Upatissatthero ‘‘janetiyevā’’ti vadati, taṃ na icchanti ācariyā. Bhajjitapiṭṭhanti taṇḍulacuṇṇameva. Bhajjitasattuyo piṇḍetvā katamodako sattumodako.
238-9. Chỉ bằng câu “thức ăn được biết đến” là đã xác định được “đã ăn,” nên không có sự xác định ý nghĩa riêng. Nếu có, thì là sự chỉ ra sáu yếu tố. Và điều này đã được nói, v.v., là sự chỉ ra năm yếu tố của việc tự tứ. Varako: là bất kỳ loại varako nào. “Nhưng chắc chắn gây ra sự tự tứ: nếu họ làm cho hạt cơm và nước riêng biệt, thì không gây ra sự tự tứ. Hoặc khi đang uống cháo, nếu uống nước trước, thì được phép. Phần cơm còn lại ở dưới không gây ra sự tự tứ,” đã được viết. Trưởng lão Upatissa nói “chắc chắn gây ra,” nhưng các vị đạo sư không muốn vậy. Bột rang: chính là bột gạo. Bánh được làm bằng cách trộn bột rang sattu là bánh sattu.

‘‘Yāgusitthamattāneva dve…pe… paṭikkhipati, na pavāretī’’ti vuttattā paracaṅkamacchādayo pakkhipitvā pakkayāguṃ pivanto sace aññaṃ tādisaṃyeva paṭikkhipati, pavāraṇā na hotīti kira dhammasiritthero. Sace aññaṃ paṭikkhipati, na pavāreti. Kasmā? Asanasaṅkhātassa vippakatabhojanassābhāvato. Bhojanasālāyaṃ bhuñjanto ce, attano apāpuṇanakoṭṭhāsaṃ abhihaṭaṃ paṭikkhipati, na pavāreti. Kāmaṃ paṭikkhipati, patte pana ārāmiko ākirati, tato bhuñjituṃ na vaṭṭati. Idañhi buddhappaṭikuṭṭhaanesanāya uppanneyeva saṅgahaṃ gacchati . Yathā hi saṅghato uddhaṭapiṇḍaṃ dussīlo deti, taṃ paṭikkhipati, na pavāreti, evaṃsampadamidaṃ. ‘‘Visabhāgo lajjī ce deti, taṃ tena sambhogaṃ akattukāmatāya paṭikkhipati, pavāretīti apare’’ti vuttaṃ. Parivesanāyāti bhattagge. ‘‘Maṃsena rasaṃ, maṃsañca rasañca maṃsarasanti āpajjanato ‘maṃsarasa’nti vutte paṭikkhepato hoti, maṃsassa rasaṃ maṃsarasanti viggaho nādhippeto’’ti vuttaṃ. Maṃsakarambako nāma…pe… vaṭṭatīti suddhayāgu eva hoti. Appavāraṇamissakakarambakoyeva hoti, tasmā na pavāreti, tena vuttaṃ parato ‘‘idañca karambakena na samānetabba’’ntiādi, tasmā ‘‘taṃ abhiharitvā kañjiyaṃ gaṇhathā’ti vadantaṃ paṭikkhipati, pavāraṇā na hotī’’ti ca ‘‘missakayāguṃ gaṇhathā’ti avuttattā ‘sammissitaṃ visuṃ katvā detī’ti vuttattā’’ti ca vuttaṃ, yasmā yāgumissakanti ettha padadvaye pavāraṇārahassa nāmaggahaṇaṃ natthi, tasmā tatra ce yāgu bahutarā vā hoti samasamā vā, na pavāreti. Kasmā? Tattha abhihārakapaṭikkhepakānaṃ yāgusaññattā. Yāgu ce mandā, bhattaṃ bahutaraṃ, pavāreti. Kasmā? Tesaṃ ubhinnampi tattha bhinnsaññattāti takko ācariyassa. Bhattamissake pavāraṇārahassa nāmassa sabbhāvato sabbadā pavāreti eva. Missake pana vuttanayena kāraṇaṃ vattabbaṃ. Visuṃ katvā detīti yathā bhattasiṭṭhaṃ na patati, tathā gāḷhaṃ hatthena pīḷetvā parissāvetvā deti.
Vì đã nói “chỉ hai hạt cháo… từ chối, không tự tứ,” trưởng lão Dhammasiri dường như nói rằng khi uống cháo được nấu bằng cách cho cá, v.v., của người khác vào, nếu từ chối một thứ tương tự khác, thì không phải là tự tứ. Nếu từ chối một thứ khác, thì không tự tứ. Tại sao? Vì không có thực phẩm đã bị biến đổi được gọi là thức ăn. Nếu đang ăn trong nhà ăn, nếu từ chối phần không thuộc về mình đã được mang đến, thì không tự tứ. Cứ từ chối, nhưng nếu người làm vườn đổ vào bát, thì không được phép ăn từ đó. Vì điều này chỉ được bao gồm trong những gì phát sanh từ sự tìm kiếm bị Đức Phật chê trách. Giống như một người vô giới cho vật thực đã được lấy từ Tăng chúng, nếu từ chối, thì không tự tứ, điều này cũng tương tự. “Một số người khác nói rằng nếu một người khác bộ phái biết xấu hổ cho, nếu từ chối vì không muốn chung sống với người đó, thì là tự tứ,” đã được nói. Trong việc dọn ăn: là trong bữa ăn. “Vì từ thịt có nước, và thịt và nước là nước thịt, nên khi nói ‘nước thịt’ mà từ chối, thì có, không nhắm đến sự phân tích ‘nước của thịt là nước thịt,’” đã được nói. Món hầm thịt là… được phép: chỉ là cháo suông. Chỉ là món hầm trộn không tự tứ, do đó không tự tứ, do đó đã nói ở sau “và món hầm này không nên được coi là giống như món hầm,” v.v., do đó “nếu từ chối người nói ‘hãy mang nó đi và nhận cháo loãng,’ thì không phải là tự tứ,” và “vì không nói ‘hãy nhận cháo trộn,’ mà nói ‘cho riêng sau khi đã trộn,’” đã được nói. Bởi vì trong câu cháo trộn, ở hai từ, không có tên của vật đáng được tự tứ, do đó nếu ở đó cháo nhiều hơn hoặc bằng nhau, thì không tự tứ. Tại sao? Vì ở đó người mang đến và người từ chối đều có tưởng là cháo. Nếu cháo ít, cơm nhiều, thì tự tứ. Tại sao? Vì ở đó cả hai đều có tưởng khác nhau, đó là suy đoán của vị đạo sư. Trong cơm trộn, vì có tên của vật đáng được tự tứ, nên luôn luôn tự tứ. Nhưng trong món trộn, phải nói lý do theo cách đã nói. Cho riêng sau khi đã làm: là sau khi vắt kỹ bằng tay để hạt cơm không rơi ra, lọc rồi cho.

Akappiyakatanti ettha ‘‘kappiyaṃ akārāpitehi kadalipphalādīhi saddhiṃ atirittaṃ kappiyaṃ kārāpetvāpi taṃ kadalipphalādiṃ ṭhapetvā avasesaṃ bhuñjituṃ vaṭṭati. Amissakarasattā puna tāni kappiyaṃ kārāpetvā aññasmiṃ bhājane ṭhapetvā atirittaṃ kāretvā bhuñjituṃ vaṭṭati. Kasmā? Pubbe tesu vinayakammassa anāruḷhattā’’ti vadanti. ‘‘Bhuttāvinā ca pavāritena āsanā vuṭṭhitena kata’’nti vacanato bhuttāvinā appavāritena āsanā vuṭṭhitena kattabbanti siddhaṃ, tasmā ‘‘pātova addhānaṃ gacchantesu dvīsu eko pavārito avuṭṭhito tattha nisīdati, so itarena piṇḍāya caritvā laddhaṃ bhikkhaṃ attanā abhutvāpi ‘alametaṃ sabba’nti kātuṃ labhati evā’’ti vuttaṃ, taṃ sukkapakkhe ‘‘bhuttāvinā kataṃ hotī’’ti imināva siddhaṃ, tasmiṃ pakkhe attano sattaṅgāni na pūrenti, kaṇhapakkhe paṭibhāgena satta vuttānīti veditabbaṃ. Bhuttāvinā appavāritena āsanā vuṭṭhitena, avuṭṭhitena vā kataṃ hoti, vaṭṭati. ‘‘Pavāritena āsanā avuṭṭhitenevā’’ti imaṃ pana atthavikappaṃ dīpetuṃ ‘‘sattaṅgāni vuttānī’’tipi vattuṃ vaṭṭati. So puna kātuṃ na labhati paṭhamaṃ katassa puna teneva kattabbappasaṅgato. Yañca akataṃ, taṃ kattabbanti hi vuttaṃ. Atha sova paṭhamo puna kattukāmo hoti, aññasmiṃ bhājane pubbe akataṃ kātuṃ labhati. Dutiyo paṭhamabhājanepi kātuṃ labhati. ‘‘Yena akataṃ, tena kātabba’’nti hi vuttaṃ. Imamevatthaṃ sandhāya ‘‘yena yaṃ paṭhamaṃ kappiyaṃ kataṃ, tameva so puna kātuṃ na labhati, aññena kātabba’’nti likhitaṃ. Tattha tanti taṃ paṭhamaṃ katanti attho. Pesetvā kāretabbanti ettha anupasampanno ce gato, tatraṭṭhena ekena bhikkhunā paṭiggāhetvā aparena kāretabbanti tattha ekova evameva kātuṃ na labhatīti. ‘‘Yaṃ kiñci gilānaṃ uddissā’tiādivacanato vihārādīsu gilānassa pāpuṇanakoṭṭhāsampi gilānātirittaṃ nāma, tasmā vaṭṭatī’’ti vadanti. Āhāratthāyāti vikāle evāti eke.
Về việc làm không hợp lệ ở đây, các vị nói rằng “cùng với các loại trái cây chuối, v.v., chưa được làm cho hợp lệ, ngay cả khi đã làm cho vật dư hợp lệ, cũng được phép ăn phần còn lại, trừ các loại trái cây chuối đó. Vì là nước không trộn lẫn, nên được phép làm cho chúng hợp lệ lại, đặt trong một cái đĩa khác, làm cho dư rồi ăn. Tại sao? Vì trước đó, Tăng sự của luật chưa được áp dụng lên chúng.” “Và được làm bởi người đã ăn, đã tự tứ, đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi” dựa theo lời dạy được xác định là phải được làm bởi người đã ăn, chưa tự tứ, đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi, do đó đã nói “khi hai người đi đường từ sáng sớm, một người đã tự tứ, chưa đứng dậy, ngồi ở đó, người đó được phép làm cho vật thực mà người kia đã nhận được sau khi đi khất thực thành ‘tất cả những thứ này là đủ,’ ngay cả khi chính mình chưa ăn,” điều đó, trong phe sáng, đã được xác định chỉ bằng câu “được làm bởi người đã ăn.” Trong phe đó, họ không hoàn thành bảy yếu tố của mình, nên được hiểu là bảy yếu tố đã được nói theo tỷ lệ trong phe tối. Được làm bởi người đã ăn, chưa tự tứ, đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi, hoặc chưa đứng dậy, thì được phép. Để làm sáng tỏ sự phân biệt ý nghĩa này “chỉ bởi người đã tự tứ, chưa đứng dậy khỏi chỗ ngồi,” cũng có thể nói “bảy yếu tố đã được nói.” Người đó không được phép làm lại, do có nguy cơ người đã làm lần đầu phải làm lại. Vì đã nói rằng cái gì chưa được làm thì phải làm. Nếu người đầu tiên đó muốn làm lại, thì được phép làm cái chưa được làm trước đây trong một cái đĩa khác. Người thứ hai cũng được phép làm trong cái đĩa đầu tiên. Vì đã nói “người nào chưa làm thì phải làm.” Chính nhắm đến ý nghĩa này mà đã viết “cái gì người nào đã làm hợp lệ lần đầu, chính người đó không được phép làm lại, phải do người khác làm.” Ở đó, cái đó có nghĩa là cái đã được làm lần đầu. Về câu phải gửi đi làm ở đây, nếu một người chưa thọ cụ túc giới đã đi, một Tỳ-khưu ở đó phải nhận rồi một người khác làm, do đó chỉ có một người không được phép làm như vậy. Các vị nói rằng “do lời nói ‘nhắm đến bất kỳ người bệnh nào,’ v.v., nên phần thuộc về người bệnh trong tự viện, v.v., cũng được gọi là vật dư của người bệnh, do đó được phép.” Vì mục đích ăn uống: một số người nói là chỉ trong phi thời.

241. Kāyakammaṃ ajjhoharaṇato. Vacīkammaṃ vācāya ‘‘atirittaṃ karotha bhante’’ti akārāpanenāti veditabbaṃ.
241. Hành động của thân là do việc ăn. Nên được hiểu rằng hành động của lời nói là do không yêu cầu bằng lời nói “thưa các ngài, hãy làm cho dư.”

Paṭhamapavāraṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ nhất về tự tứ đã hoàn tất.

6. Dutiyapavāraṇasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học thứ hai về tự tứ

243. Sādhāraṇamevāti sabbapavāraṇānaṃ sādhāraṇaṃ ‘‘yāvattakaṃ icchasī’’ti idaṃ.
243. Chung cho tất cả: câu “bao nhiêu tùy thích” này chung cho tất cả các loại tự tứ.

Dutiyapavāraṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ hai về tự tứ đã hoàn tất.

7. Vikālabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học về ăn phi thời

247-9. Naṭānaṃ nāṭakāni naṭanāṭakāni, sītāharaṇādīni. Mūlañca taṃ khādanīyañcāti mūlakhādanīyaṃ. Esa nayo sabbattha. Piṭṭhanti cuṇṇaṃ. Khārakamūlanti yūpasamūlaṃ. Caccumūlaṃ neḷiyamūlaṃ. Tambakaṃ vacaṃ. Taṇḍuleyyakaṃ cūḷakuhu. Vatthuleyyakaṃ mahākuhu. Vajakali nikoṭṭhaṃ. Jajjharī hirato.
247-9. Các vở kịch của các diễn viên là các vở kịch của diễn viên, như Sītāharaṇa, v.v. Rễ và cũng là đồ ăn vặt là rễ ăn vặt. Cách này áp dụng cho mọi nơi. Bột là bột mịn. Rễ khāraka là rễ yūpa. Rễ caccu là rễ neḷiya. Tambakaṃ là cây thủy xương bồ. Taṇḍuleyyakaṃ là rau dền nhỏ. Vatthuleyyakaṃ là rau dền lớn. Vajakali là nikoṭṭha. Jajjharī là hirato.

Koṭṭhaṃ jaraṭṭhaṃ vuccati. Gaṇṭhi muhukulamudu vicayattha vajamuju vaduḷavi.
Koṭṭha được gọi là jaraṭṭha. Gaṇṭhi muhukulamudu vicayattha vajamuju vaduḷavi.
Dịch lần 2:
Cây Cốt Khí được gọi là [dịch nghĩa: xương của sự lão suy]. Củ [từ cổ không xác định].

Vajjayetime kiṃsukaṃ, haliddi. Kaseruko, kaṭibalavanti tassa nāmaṃ. Ambāṭakaṃ amūlakaṃ piḍhala kakkula. Masālu kinaḷa. Āluva kaḷi taḍḍhiaḷi alasa kaṭissala namedati mera. Siggu sīri koḷa kālakaṃ nekaḷavi. Khīravallikando tumūroriyo hoti. Saṅkhato dhovanameva. Ayaṃ ‘‘parisaṅkhāro’’ti likhitaṃ. Khīrakākolī kirikaveḷi. Jīvikaṃ jīvihi. Usabhaka ummasuviyi.
Tránh những thứ này: cây kiṃsuka, nghệ. Kaseruko, tên của nó là kaṭibalavanti. Ambāṭakaṃ amūlakaṃ piḍhala kakkula. Masālu kinaḷa. Āluva kaḷi taḍḍhiaḷi alasa kaṭissala namedati mera. Siggu sīri koḷa kālakaṃ nekaḷavi. Củ khīravalli là tumūroriyo. Được làm sạch chỉ là rửa. “Sự làm sạch” này đã được viết. Khīrakākolī kirikaveḷi. Jīvikaṃ jīvihi. Usabhaka ummasuviyi.

Hintālaṃ kitili. Kuntāla toho tilisatā padikaḷiro paṭasevalakaḷi. Karamandakaṃ karamba daṇḍokira udakajoti kaṇḍako. ‘‘Siṅghatakotipi vuccatī’’ti likhitaṃ. Phaggava hakiḷi. Nattamālanti karañji.
Hintālaṃ kitili. Kuntāla toho tilisatā padikaḷiro paṭasevalakaḷi. Karamandakaṃ karamba daṇḍokira udakajoti kaṇḍako. “Cũng được gọi là Siṅghataka” đã được viết. Phaggava hakiḷi. Nattamāla là karañji.
Dịch lần 2:
Cây Chà Là Rừng, tức cây Kítul. Cỏ thơm Kuntāla [từ cổ không xác định]. Cây Bồ Quân, cũng gọi là cây Karamba, [từ cổ không xác định]. “Cũng được gọi là Siṅghataka” đã được viết. Dây leo Phaggava [từ cổ không xác định]. Cây Dầu Dè là cây Karanji.

Sellu loholiyaṃ. Kāsamaddaka kuduvavali anasikina. Ummādiya melelidiya. Cīnamuggo venamutti huramugga. Rājamāso māhaviliti. Aggimanto muñci. Sunipaṇṇako tipilavanināḷikā tilaka. Bhūmiyaṃ jātaloṇīti ettha loṇīnāmassa sādhāraṇattā ‘‘bhūmiya’’nti visesetvā vuttaṃ. Brahmīpattaṃ demeteye paṇasā. ‘‘Dīpavāsino vadantī’’ti sithilaṃ katvā kasmā vuttanti ce? ‘‘Khādanīyatthaṃ pharatīti lakkhaṇena asamānattā’’ti vuttaṃ. Padeliviniteki. Sulasipaṇṇanti tasāpalikaṃ.
Sellu loholiyaṃ. Kāsamaddaka kuduvavali anasikina. Ummādiya melelidiya. Đậu xanh Trung Quốc venamutti huramugga. Đậu tây māhaviliti. Aggimanto muñci. Sunipaṇṇako tipilavanināḷikā tilaka. Rau sam mọc trên đất: ở đây, vì tên rau sam là chung, nên đã được phân biệt bằng cách nói “trên đất.” Lá rau đắng demeteye paṇasā. Nếu hỏi tại sao lại nói một cách lỏng lẻo “những người ở đảo nói”? Đã được nói “vì không giống với đặc điểm lan tỏa cho mục đích ăn vặt.” Padeliviniteki. Lá húng quế là tasāpalikaṃ.
Dịch lần 2:
Cây Bồ Đề Dại [từ cổ không xác định]. Cốt Khí Tía [từ cổ không xác định]. Cây Lanh [từ cổ không xác định]. Đậu xanh Trung Quốc [từ cổ không xác định]. Đậu tây [từ cổ không xác định]. Cây Bọ Mẩy [từ cổ không xác định]. Cỏ Bợ [từ cổ không xác định]. Rau sam mọc trên đất: ở đây, vì tên rau sam là chung, nên đã được phân biệt bằng cách nói “trên đất.” Lá rau đắng [từ cổ không xác định]. Nếu hỏi tại sao lại nói một cách lỏng lẻo “những người ở đảo nói”? Đã được nói “vì không giống với đặc điểm lan tỏa cho mục đích ăn vặt.” [từ cổ không xác định]. Lá húng quế là tasāpalikaṃ.

Agandhikapupphaṃ karissayeti cekavādidapupphaṃ celepatimalaṃ. Jīvantīpupphaṃ jīvitandigamala. Bakula muthuvala. Kuyyaka punapunnāmapunnarā, jātisumana. Navamālikā cehemala.
Hoa không mùi karissayeti cekavādidapupphaṃ celepatimalaṃ. Hoa jīvantī jīvitandigamala. Hoa bakula muthuvala. Kuyyaka punapunnāmapunnarā, hoa lài. Navamālikā cehemala.
Dịch lần 2:
Hoa không mùi [từ cổ không xác định]. Hoa jīvantī [từ cổ không xác định]. Hoa bakula [từ cổ không xác định]. Hoa lài Kuyyaka [từ cổ không xác định], hoa lài. Hoa Lài Ả Rập [từ cổ không xác định].

Tintiṇika kacinī vileyi. Mātuluṅga lavano. Pussaphala supuli. Timbarūsaka tigibberehiti susatudhuta. Tipusavātiṅgaṇa dhutatikeṇa paṭiyi. Coca variyiyeli. Moca atireli. Goṭṭhaphalaṃ pūvaphalanti eke. Koṭṭhase kira acchiva.
Me kacinī vileyi. Thanh yên lavano. Pussaphala supuli. Timbarūsaka tigibberehiti susatudhuta. Dưa leo và cà tím dhutatikeṇa paṭiyi. Coca variyiyeli. Moca atireli. Quả Goṭṭha: một số người nói là quả bánh. Dường như trong kho có acchiva.
Dịch lần 2:
Cây Meda [từ cổ không xác định]. Thanh yên [từ cổ không xác định]. Quả A-ma-la [từ cổ không xác định]. Cây Thị Rừng [từ cổ không xác định]. Dưa leo và cà tím [từ cổ không xác định]. Dừa [từ cổ không xác định]. Chuối [từ cổ không xác định]. Quả mọc ở chuồng bò: một số người nói là quả bánh. Dường như trong kho có [từ cổ không xác định].

Asamussi bimba iti keci. Kāsmarīti sepaṇṇi. Atitemeti kariyametissa. Jātiphalaṃ kataṃmeti. Kaṭukaphalaṃ tiriraka.
Một số người nói Asamussi bimba. Kāsmarī là sepaṇṇi. Atitemeti kariyametissa. Nhục đậu khấu kataṃmeti. Quả đắng tiriraka.
Dịch lần 2:
Một số người nói Asamussi là Bầu Nậm. Cây Gáo Trắng là [từ cổ không xác định]. [từ cổ không xác định]. Nhục đậu khấu [từ cổ không xác định]. Quả đắng [từ cổ không xác định].

Taruṇaphalaṃ kiriupulu. Pokkharaṭṭhi kiñcakkhaṭṭhi. Siddhatthakaṃ sāsapaṃ setavaṇṇaṃ. Rājikaṃ rattaṃ hoti.
Quả non kiriupulu. Hạt sen kiñcakkhaṭṭhi. Hạt cải trắng sāsapaṃ màu trắng. Hạt cải đỏ là màu đỏ.
Dịch lần 2:
Quả non [từ cổ không xác định]. Hạt sen [từ cổ không xác định]. Hạt cải trắng màu trắng. Hạt cải đỏ là màu đỏ.

Hiṅguṃ hiṅgujatunti sabbāpi hiṅguvikatiyo. Ettha hiṅgujatu nāma pattasākhā pacitvā kātabbā. Sākhā pacitvā katā sipāṭikā. Aññehi missetvā katāti keci. Takaṃ kaṭṭhajanti aggikeḷini. Nikitissākālesayo. Timera, takapatti pasākhāpatte pacitvā kātabbā. ‘‘Takapaṇṇi sāvati eva kātabbā’’ti likhitaṃ.
A ngùy và nhựa a ngùy: là tất cả các loại biến chế của a ngùy. Ở đây, nhựa a ngùy phải được làm bằng cách nấu lá và cành. Vỏ cây được làm bằng cách nấu cành. Một số người nói là được làm bằng cách trộn với những thứ khác. Takaṃ kaṭṭhajanti aggikeḷini. Nikitissākālesayo. Timera, lá taka phải được làm bằng cách nấu lá non. “Takapaṇṇi phải được làm ngay lập tức” đã được viết.

Vikālabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về ăn phi thời đã hoàn tất.

8. Sannidhikārakasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học về tích trữ

253. Aparajju sannidhi nāma hotīti attho. Ajja paṭiggahitanti na kevalaṃ paṭiggahitameva, atha kho uggahitakampi, teneva aṭṭhakathāyaṃ ‘‘paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassāti evaṃ sannidhikataṃ yaṃ kiñci yāvakālikaṃ vā yāmakālikaṃ vā ajjhoharitukāmatāya gaṇhantassa paṭiggahaṇe tāva āpatti dukkaṭassā’’ti vuttaṃ. Yadi taṃ paṭhamameva paṭiggahitaṃ, ‘‘paṭiggahaṇe tāvā’’ti na vattabbaṃ, tasmā veditabbametaṃ ‘‘attano kāle gahitaṃ ajja paṭiggahita’nti vutta’’nti.
253. Có nghĩa là vào ngày hôm sau, nó trở thành vật tích trữ. Đã nhận hôm nay: không chỉ là đã nhận, mà còn là đã lấy, chính vì vậy trong chú giải đã nói “nhận, phạm tội Tác Ác, như vậy, bất kỳ vật nào đã được tích trữ, dù là vật dùng trong một buổi hay vật dùng trong một ngày, nếu nhận với ý định ăn, thì ngay khi nhận đã phạm tội Tác Ác.” Nếu vật đó đã được nhận lần đầu, thì không nên nói “ngay khi nhận.” Do đó, nên hiểu rằng “vật đã được nhận trong thời gian của mình được gọi là ‘đã nhận hôm nay.’”

Etthāha – yathā pañca bhesajjāni uggahitakāni anadhippetāni. Sattāhātikkame anāpatti anajjhoharaṇīyattā, tathā idhāpi uggahitakaṃ nādhippetanti? Ettha vuccati – bhesajjasikkhāpade (pārā. 618 ādayo) uggahitakaṃ nādhippetanti yuttaṃ attano kālātikkamanamattena tattha āpattippasaṅgato. Ettha na yuttaṃ attano kālātikkamanamattena āpattippasaṅgābhāvato. Ajjhoharaṇeneva hi ettha āpattīti adhippāyo, tasmā anugaṇṭhipadamatena ajja uggahetvā punadivase bhuñjanto dve āpattiyo āpajjati.
Ở đây có người nói: giống như năm loại thuốc không được nhắm đến là những vật đã được lấy. Không có tội khi quá bảy ngày vì không thể ăn, cũng vậy, ở đây vật đã được lấy không được nhắm đến? Ở đây xin thưa: trong điều học về thuốc (pārā. 618, v.v.), vật đã được lấy không được nhắm đến là hợp lý, vì ở đó có nguy cơ phạm tội chỉ do quá thời gian của mình. Ở đây không hợp lý vì không có nguy cơ phạm tội chỉ do quá thời gian của mình. Vì ở đây tội chỉ có do việc ăn, đó là ý định, do đó theo quan điểm của sách phụ chú giải, người lấy hôm nay rồi ăn vào ngày hôm sau phạm hai tội.

Tatrāyaṃ vicāraṇā – attanā bhuñjitukāmo ajja uggahetvā punadivase bhuñjati, dve āpattiyo āpajjati. Sāmaṇerādīnaṃyeva atthāya uggahetvā gahitaṃ punadivase paṭiggahetvā bhuñjanto āpattiyā na kāretabboti. Paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassāti etthāyamadhippāyo – sace belaṭṭhasīso viya dutiyatatiyādidivasatthāya ajja paṭiggahetvā sāmaṇerādīnaṃ gopanatthāya deti, tassa punadivase ajjhoharaṇatthaṃ paṭiggahaṇe āpatti dukkaṭassāti sambhavati. Sayameva sace taṃ gopetvā ṭhapeti, punadivase patitaṃ kacavaraṃ disvā vimativasena vā paṭiggaṇhato paṭiggahaṇatova āpatti dukkaṭassāti sambhavati. No ce paṭiggaṇhāti, taṃ dukkaṭaṃ natthi. ‘‘Idañhi ‘ekaṃ pādaṃ atikkāmeti, āpatti thullaccayassā’tiādi viyā’’ti vuttaṃ. Yo pana ekappahāreneva dvepi pāde atikkāmeti, tassa taṃ thullaccayaṃ natthi, evaṃsampadamidanti veditabbaṃ. Ettha paṭiggahitabhāvaṃ avijahantameva sannidhiṃ janetīti dhammasiritthero, taṃ ‘‘paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassā’’ti pāḷiyā virujjhati. Kapālena pīto pana sneho abbohāriko. Kiñcāpi uṇhe otāpentassa paggharati, tathāpi ‘‘bhesajjasikkhāpade viyā’’ti vuttaṃ. Itarathā kapālena pītā sappiādayopi sattāhātikkame āpattiṃ janeyyunti. Sayaṃ paṭiggahetvāti idhāpi pubbe vuttavidhiyeva. Duddhotapattakathāpi etena sameti viya . Āhāratthāyāti kālepi labbhati. Pakatiāmiseti kappiyāmise. Sāmisena mukhena ajjhoharato dveti ‘‘hiyyo paṭiggahitayāmakālikaṃ ajja purebhattaṃ sāmisena mukhena ajjhoharato dve pācittiyānī’’ti likhitaṃ. Ajja paṭiggahitaṃ yāvakālikampi hi yāmātikkantapānakena saṃsaṭṭhaṃ sannidhiṃ karoti. Akappiyamaṃsesu manussamaṃse thullaccayaṃ, sesamaṃse dukkaṭañca vaḍḍhati.
Ở đó, sự xem xét này là: nếu muốn ăn cho chính mình, lấy hôm nay rồi ăn vào ngày hôm sau, thì phạm hai tội. Nếu lấy chỉ vì lợi ích của sa-di, v.v., rồi nhận lại vào ngày hôm sau và ăn, thì không bị bắt phạm tội. Về câu nhận, phạm tội Tác Ác, ý định ở đây là: nếu giống như Belaṭṭhasīsa, nhận hôm nay cho ngày thứ hai, thứ ba, v.v., rồi cho sa-di, v.v., để giữ hộ, thì khi nhận lại vào ngày hôm sau để ăn, có thể phạm tội Tác Ác. Nếu tự mình giữ hộ, vào ngày hôm sau thấy rác rơi vào, nếu nhận lại do nghi ngờ, thì có thể phạm tội Tác Ác ngay từ khi nhận. Nếu không nhận, thì không có tội Tác Ác đó. “Điều này giống như ‘bước qua một bước, phạm tội Trọng Tội,’ v.v.” đã được nói. Nhưng người nào bước qua cả hai bước chỉ bằng một lần, thì không có tội Trọng Tội đó, nên hiểu điều này một cách trọn vẹn. Trưởng lão Dhammasiri nói rằng vật tích trữ chỉ được tạo ra khi không từ bỏ tình trạng đã nhận, điều đó mâu thuẫn với kinh điển “nhận, phạm tội Tác Ác.” Nhưng dầu mỡ đã được bát đất sét hút thì không phải là vật ăn uống. Mặc dù nó chảy ra khi phơi nắng, tuy nhiên đã được nói là “giống như trong điều học về thuốc.” Nếu không, bơ, v.v., đã được bát đất sét hút cũng sẽ gây ra tội khi quá bảy ngày. Tự mình nhận: ở đây cũng theo cách đã nói trước đây. Câu chuyện về bát khó rửa dường như cũng phù hợp với điều này. Vì mục đích ăn uống: cũng được phép trong thời gian quy định. Trong thực phẩm thông thường: là trong thực phẩm hợp lệ. Hai tội khi ăn bằng miệng có thức ăn: “ăn vật dùng trong một ngày đã nhận hôm qua vào buổi sáng hôm nay bằng miệng có thức ăn, phạm hai tội Ưng Đối Trị” đã được viết. Ngay cả vật dùng trong một buổi đã nhận hôm nay, nếu trộn với nước uống đã quá một ngày, cũng tạo thành vật tích trữ. Trong các loại thịt không hợp lệ, tội Trọng Tội tăng thêm với thịt người, và tội Tác Ác với các loại thịt khác.

255. Sattāhakālikaṃ yāvajīvikaṃ āhāratthāyāti kālepi dukkaṭameva sannidhiṃ anāpajjanatoti keci. Tadahu paṭiggahitaṃ tadahu purebhattaṃ vaṭṭatīti ce? Na, pāḷiyampi aṭṭhakathāyampi visesassa natthitāya. Bhesajjasikkhāpade purebhattaṃ yathāsukhaṃ paribhuñjanaṃ vuttanti ce? Āhāre sappiādi saṅgahaṃ yāti, tena taggatikavasena vuttaṃ, na bhesajjavasena vuttanti upatisso.
255. Một số người nói rằng vật dùng trong bảy ngày, vật dùng trọn đời, vì mục đích ăn uống: ngay cả trong thời gian quy định cũng chỉ là tội Tác Ác vì không phạm tội tích trữ. Nếu nói rằng vật đã nhận trong ngày đó được phép dùng trong ngày đó trước bữa ăn? Không phải, vì không có sự phân biệt trong cả kinh điển và chú giải. Nếu nói rằng trong điều học về thuốc, việc dùng tùy thích trước bữa ăn đã được nói đến? Upatissa nói rằng bơ, v.v., được bao gồm trong thức ăn, do đó đã được nói theo tính chất của nó, không phải được nói theo tính chất của thuốc.

Sannidhikārakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về tích trữ đã hoàn tất.

9. Paṇītabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học về thực phẩm hảo hạng

259. Akappiyasappināti yesaṃ maṃsaṃ na kappati, tesaṃ sappinā. ‘‘Vasātelañhi ṭhapetvā akappiyasappi nāma natthī’’ti likhitaṃ. Visaṅketanti ettha ‘‘sūpodanaviññattipi na hotī’’ti vuttaṃ. Kāyikānīti kāyena āpajjitabbāni.
259. Bằng bơ không hợp lệ: là bằng bơ của những con vật mà thịt của chúng không hợp lệ. “Ngoài mỡ và dầu ra, không có bơ nào gọi là không hợp lệ” đã được viết. Về sự hẹn hò khác, ở đây đã nói “cũng không phải là xin súp và cơm.” Thuộc về thân: là những tội phải phạm bằng thân.

261. Mahānāmasikkhāpadena kāretabboti saṅghavasena pavārite bhesajjatthāya sappiādipañcakaṃ viññāpeti ce, tattha ‘‘na bhesajjena karaṇīyena bhesajja’’nti ettha saṅgahaṃ gacchati , tasmā ‘‘tena pācittiya’’nti vuttaṃ. Pāḷimuttakesu ‘‘bhikkhunīnampi dukkaṭa’’nti likhitaṃ.
261. Phải bị xử lý theo điều học về Mahānāma: nếu xin năm loại bơ, v.v., vì mục đích chữa bệnh khi đã được Tăng chúng tự tứ, thì được bao gồm trong câu “không xin thuốc khi không cần thuốc,” do đó đã nói “có tội Ưng Đối Trị với điều đó.” Trong các kinh ngoài kinh điển, đã viết “cũng có tội Tác Ác đối với Tỳ-khưu-ni.”

Paṇītabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về thực phẩm hảo hạng đã hoàn tất.

10. Dantaponasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học về tăm xỉa răng

264-5. Mukhadvāranti kaṇṭhanāḷi. Uccāraṇamattanti ukkhipitabbamattakaṃ. Kasaṭaṃ chaḍḍetvāti samudācāravasena, achaḍḍitepi ‘‘vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Hatthapāsātikkamanti dāyakassa. Bhikkhussa detīti aññassa bhikkhussa. Kañjikanti yaṃ kiñci dravaṃ. Patto paṭiggahetabboti bhūmiyaṃ ṭhapite abhihārābhāvato. ‘‘Yathā paṭhamataraṃ patitatheve doso natthi, tathā ākiritvā apanentānaṃ patitathevepi abhihaṭattā nevatthi doso’’ti likhitaṃ. Carukenāti khuddakapiṇḍena. Jāgarantassapīti ‘‘api-saddena suttassapī’’ti likhitaṃ. Kecīti abhayagirivāsino. Tehi kāyasaṃsagge kāyapaṭibaddhenāpi tappaṭibaddhenāpi thullaccayāpatti dassitā evāti attho. Kāyapaṭibaddhapaṭibaddhenāti vacanamattamevetaṃ. ‘‘Satthakenāti paṭiggahitakenā’’ti likhitaṃ, taṃ dullikhitaṃ satipi male puna paṭiggahetabbakiccābhāvato. Kesañci atthāyāti anupasampannānaṃ atthāya. ‘‘Sāmaṇerassa hatthaṃ phuṭṭhamattameva taṃ pariccatta’’nti likhitaṃ.
264-5. Cửa miệng: là ống họng. Chỉ cần nhấc lên: là chỉ cần nhấc lên. Sau khi vứt bỏ rác: là theo cách hành xử thông thường, ngay cả khi không vứt bỏ, đã được nói là “được phép.” Vượt qua tầm tay: là của thí chủ. Cho Tỳ-khưu: là cho một Tỳ-khưu khác. Nước cháo loãng: là bất kỳ chất lỏng nào. Phải nhận bình bát: vì không có sự mang đến khi đặt trên đất. “Giống như không có lỗi khi rơi xuống lần đầu, cũng vậy, không có lỗi đối với những người đổ đi rồi dọn đi, ngay cả khi rơi xuống, vì đã được mang đến,” đã được viết. Bằng một miếng nhỏ: là bằng một nắm cơm nhỏ. Ngay cả của người đang thức: bằng từ “ngay cả,” đã được viết là “cũng của người đang ngủ.” Một số: là các vị ở Abhayagiri. Có nghĩa là họ đã chỉ ra tội Trọng Tội đối với sự tiếp xúc thân thể, cả bằng vật gắn liền với thân và vật gắn liền với vật đó. Bằng vật gắn liền với vật gắn liền với thân: đây chỉ là một cách nói. “Bằng dao: là bằng con dao đã được nhận” đã được viết, đó là một sự ghi chép sai lầm vì không cần phải nhận lại ngay cả khi có vết bẩn. Vì lợi ích của một số người: là vì lợi ích của những người chưa thọ cụ túc giới. “Chỉ cần chạm vào tay của sa-di là vật đó đã được từ bỏ,” đã được viết.

Paṭiggahaṇupagabhāraṃ nāma majjhimapurisena ukkhipitabbakaṃ. Mūlapaṭiggahaṇameva vaṭṭatīti ettha ‘‘macchikavāraṇatthanti vuttattā ‘abhuñjanatthāyāpi paṭiggahetvā gahite vaṭṭatī’’’ti ye vadanti, te vattabbā ‘‘sīsamakkhanatelaṃ paṭiggahetvā ‘idaṃ sīsamakkhana’nti anābhogeneva sattāhaṃ atikkāmentassa kiṃ nissaggiyaṃ bhaveyyā’’tiādi, suttādhippāyo pana evaṃ gahetabbo ‘‘macchikavāraṇatthaṃ bījantassa tasmiṃ laggarajādimhi patte patite sukhaṃ paribhuñjituṃ sakkā’ti saññāya pubbe paṭiggahitabba’’nti vuttaṃ. Parivattanakathāyaṃ ‘‘amhākaṃ taṇḍulesu khīṇesu etehi amhākaṃ hatthagatehi sāmaṇerasantakehipi sakkā patiṭṭhapetu’nti bhikkhūnaṃ cittuppādo ce sambhavati, ‘parivattanaṃ sātthaka’nti upatissatthero’’ti vuttaṃ. Yadi evaṃ suddhacittānaṃ niratthakanti āpannameva, tathā ‘‘paṇḍito esa sāmaṇero pattaparivattanaṃ katvā dassati, mayameva ca imassa vissāsena vā yācitvā vā bhuñjissāmā’’ti citte sati bhuñjituṃ na vaṭṭati katepi parivattaneti ca āpannaṃ, kiṃ bahunā. Nirapekkheheva gaṇhitabbaṃ, na sāpekkhehīti dassanatthaṃ vuttanti ācariyo. Ayamevattho ‘‘sace pana sakkoti vitakkaṃ sodhetuṃ, tato laddhaṃ khāditumpi vaṭṭatī’’ti vacanena siddhova. Ādhārake patto ṭhapito hoti yathāpaṭiggahitabhāve nirālayo. Samuddodakena appaṭiggahitakena. Meṇḍakassa khīraṃ khīrattāva vaṭṭati. ‘‘Attano pana khīraṃ mukheneva pivantassa anāpattīti dassetuṃ vutta’’nti vuttaṃ. ‘‘Sarīranissitamahābhūtāni hi idhādhippetānī’’ti likhitaṃ, tadubhayampi ‘‘kappiyamaṃsakhīraṃ vā’’tiādinā nayena virujjhati.
Vật nặng có thể được nhận: là vật có thể được một người đàn ông trung bình nhấc lên. Về câu chỉ được phép nhận gốc, ở đây, những người nói rằng “vì đã nói ‘để ngăn ruồi,’ nên ‘ngay cả khi nhận với ý định không ăn, cũng được phép,’” họ nên được hỏi “đối với người thoa dầu lên đầu, nếu để quá bảy ngày mà không có ý định, liệu có trở thành vật phải xả không,” v.v. Nhưng ý định của kinh nên được hiểu như sau: “đã được nói là phải nhận trước với tưởng rằng ‘khi đang quạt để đuổi ruồi, nếu bụi bặm, v.v., dính vào đó rơi vào bát, thì có thể ăn một cách thoải mái.’” Trong câu chuyện về việc đổi, đã nói “trưởng lão Upatissa nói rằng ‘nếu có ý nghĩ phát sanh trong các Tỳ-khưu rằng ‘khi gạo của chúng ta hết, có thể dùng những thứ này của sa-di trong tay chúng ta để thay thế,’ thì ‘việc đổi là có ý nghĩa.’” Nếu vậy, sẽ dẫn đến việc vô ích đối với những người có tâm trong sạch. Cũng vậy, nếu có ý nghĩ rằng “sa-di này thông minh, sẽ đổi bát rồi cho, và chính chúng ta, do tin tưởng hoặc xin, sẽ ăn,” thì không được phép ăn ngay cả khi đã đổi, cần gì nhiều lời. Vị đạo sư nói rằng đã được nói để chỉ ra rằng phải nhận với tâm không mong cầu, không phải với tâm mong cầu. Chính ý nghĩa này đã được xác định bằng lời nói “nhưng nếu có thể thanh lọc được ý nghĩ, thì được phép ăn cả những gì nhận được từ đó.” Bát được đặt trên giá đỡ không có sự luyến tiếc về tình trạng đã nhận. Bằng nước biển chưa được nhận. Sữa của cừu được phép vì là sữa. “Đã được nói để chỉ ra rằng không có tội đối với người uống sữa của chính mình bằng miệng” đã được nói. “Vì các đại địa trong cơ thể được nhắm đến ở đây” đã được viết, cả hai điều đó đều mâu thuẫn với nguyên tắc “hoặc thịt, sữa hợp lệ,” v.v.

Apica ‘‘appaṭiggahitabhājane aññabhikkhusantake attano piṇḍapātaṃ pakkhipati, ‘taṃ thoka’nti vā aññena vā kāraṇena vadati, taṃ sabbesaṃ na kappati. Kasmā? Vinayadukkaṭattā . Attanā paṭiggahetvā pakkhipitabbaṃ vinayavidhiṃ akatvā dukkaṭanti adhippāyo. Evaṃ tādisaṃ kimatthaṃ na bhuñjatīti? Aṭṭhakathāyaṃ ‘uggahitako hotī’ti vuttattā. Evañhi tattha vuttaṃ bhūmiyaṃ vā bhājane vā phalaṃ vā yaṃ kiñci āmisaṃ vā yāvajīvikampi appaṭiggahitakaṃ ajānanto āmasati, na vaṭṭati, uggahitakaṃ hotī’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ, tasmā imassa matena bhikkhu bhikkhussa sace patte appaṭiggahite piṇḍaṃ ṭhapeti, taṃ akappiyaṃ uggahitakanti siddhaṃ. Ayamevattho ‘‘sace attano vā bhikkhūnaṃ vā yāgupacanakabhājane…pe… nirāmisaṃ katvā paribhuñjitabba’’nti vacanena saṃsanditvā kathetabbo. ‘‘Kappiyamaṃsakhīraṃ vā’’ti pasaṅgavasena vuttaṃ. Dadhi ce paṭiladdhaṃ, tañca adhippetanti keci.
Hơn nữa, “nếu bỏ vật khất thực của mình vào bát chưa được nhận của một Tỳ-khưu khác, nếu nói ‘cái đó ít quá’ hoặc vì một lý do nào khác, thì vật đó không hợp lệ cho tất cả mọi người. Tại sao? Vì là tội Tác Ác của luật. Ý định là phạm tội Tác Ác vì không làm theo nghi thức của luật là phải tự mình nhận rồi mới bỏ vào. Vậy tại sao không ăn vật như vậy? Vì trong chú giải đã nói ‘trở thành vật đã được lấy.’ Thật vậy, ở đó đã nói ‘nếu không biết mà chạm vào quả cây hoặc bất kỳ thực phẩm nào, dù là vật dùng trọn đời, chưa được nhận, ở trên đất hoặc trong đĩa, thì không được phép, nó trở thành vật đã được lấy,’” trong sách phụ chú giải đã nói, do đó theo quan điểm này, nếu một Tỳ-khưu đặt vật khất thực vào bát chưa được nhận của một Tỳ-khưu khác, thì vật đó không hợp lệ, là vật đã được lấy, điều này đã được xác định. Chính ý nghĩa này phải được nói sau khi kết hợp với lời nói “nếu trong nồi nấu cháo của mình hoặc của các Tỳ-khưu… phải làm cho không có thức ăn rồi mới dùng.” “Hoặc thịt, sữa hợp lệ”: đã được nói theo cách nói rộng. Một số người nói rằng nếu sữa chua được nhận lại, thì đó cũng được nhắm đến.

Dantaponasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về tăm xỉa răng đã hoàn tất.

Samatto vaṇṇanākkamena bhojanavaggo catuttho.

Phẩm Ăn Uống thứ tư, theo trình tự giải thích, đã hoàn tất.

5. Acelakavaggo

5. Phẩm Lõa Thể

1. Acelakasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học về người lõa thể

269. Vighāsādānaṃ antarā pūvalābhena aññatarā paribbājikā pavisitvā ṭhitā. Dāpetīti anupasampannena.
269. Trong lúc đang ăn đồ ăn thừa, một nữ du sĩ đã đi vào và đứng chờ vì được bánh. Cho: là bởi một người chưa thọ cụ túc giới.

Acelakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về người lõa thể đã hoàn tất.

2. Uyyojanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học về việc xua đuổi

276. Vijahantassāti anādaratthe sāmivacanaṃ. Uyyojakassa vijahantassa sato āpatti dukkaṭassātipi attho. Idha anupasampanno nāma sāmaṇerovādhippeto.
276. Của người từ bỏ: là cách dùng ở ngôi thứ sáu với nghĩa không tôn trọng. Cũng có nghĩa là có tội Tác Ác đối với người xua đuổi đang từ bỏ. Ở đây, người chưa thọ cụ túc giới được nhắm đến là sa-di.

Uyyojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc xua đuổi đã hoàn tất.

3. Sabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học về cùng ăn

280. Sabhojaneti ettha paṭhamavikappo ‘‘itthī ca puriso cā’’ti iminā tatiyapadena yujjati, dutiyavikappo paṭhamehi dvīhi. Kuleti ghare. Anupavisitvā nisīdanacittena sacittakaṃ.
280. Về cùng ăn, ở đây, sự lựa chọn đầu tiên phù hợp với từ thứ ba “người nữ và người nam,” sự lựa chọn thứ hai phù hợp với hai từ đầu tiên. Trong gia đình: là trong nhà. Có tâm với tâm muốn vào rồi ngồi.

Sabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về cùng ăn đã hoàn tất.

4. Rahopaṭicchannasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học về nơi kín đáo che khuất

284. Idha pañcamaṃ upanandassa catutthaṃ hoti, tasmā bhikkhunivaggassa dasamaṭṭhakathāyaṃ upari upanandassa ‘‘tatiyasikkhāpadenā’’ti na pāṭho, ‘‘catutthenā’’ti pāṭhoti veditabbo.
284. Ở đây, điều thứ năm trở thành điều thứ tư của Upananda, do đó nên được hiểu rằng trong chú giải thứ mười của phẩm Tỳ-khưu-ni ở trên, không có bản đọc “bởi điều học thứ ba” của Upananda, mà là “bởi điều thứ tư.”

Rahopaṭicchannasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về nơi kín đáo che khuất đã hoàn tất.

5. Rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học về việc ngồi riêng

289. Rahonisajjasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
289. Điều học về việc ngồi riêng có ý nghĩa rõ ràng.

6. Cārittasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học về thông lệ

294. Sabhattoti nimantanabhattoti porāṇā.
294. Có vật thực: các vị xưa nói là vật thực của lời mời.

Purebhattañca piṇḍāya, caritvā yadi bhuñjati;
Siyā paramparāpatti, pacchābhattaṃ na sā siyā.
Trước bữa ăn và đi khất thực, nếu ăn;
Sẽ có tội ăn nối tiếp, sau bữa ăn thì không có.

Pacchābhattañca gamiko, pubbagehaṃ yadi gacche;
Eke āpattiyevāti, anāpattīti ekacce.
Sau bữa ăn và là người đi đường, nếu đến nhà trước;
Một số nói chắc chắn có tội, một số khác nói không có tội.

Kulantarassokkamane , āpattimatayo hi te;
Samānabhattapaccāsā, iti āhu idhāpare.
Khi vào một gia đình khác, họ có ý kiến là có tội;
Ở đây, những người khác lại nói, vì có cùng hy vọng về vật thực.

Matā gaṇikabhattena, samenti naṃ nimantane;
Vissajjanaṃ samānanti, eke sammukhatāpare.
Với vật thực của nhóm, họ đồng ý trong lời mời;
Một số nói là sự từ chối, những người khác nói là sự đối mặt.

Sanniṭṭhānatthikeheva, vicāretabbabhedato;
Do sự khác biệt cần được xem xét bởi những người có ý định kết luận;

Viññū cārittamicceva, sikkhāpadamidaṃ vidūti.
Người trí biết điều học này chính là thông lệ.

Cārittasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về thông lệ đã hoàn tất.

7. Mahānāmasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học về Mahānāma

310. Kālanti so. Yasmā saṅghapavāraṇāyamevāyaṃ vidhi, tasmā ‘‘ñātakānaṃ pavāritāna’’nti vuttaṃ. ‘‘Iminā hi tayā pavāritamha, amhākañca iminā ca iminā ca attho’’ti yathābhūtaṃ ācikkhitvā viññāpetuṃ gilānova labhati. Yaṃ pana vuttaṃ paṇītabhojanasikkhāpade ‘‘mahānāmasikkhāpadena kāretabbo’’ti, taṃ saṅghavasena pavāritaṃ, bhesajjatthāya sappiādibhesajjapañcakaṃ viññāpeti ce, ‘‘na bhesajjena karaṇīyena bhesajjaṃ viññāpetī’ti vacanena pācittiyanti attho’’ti (pāci. 309) likhitaṃ.
310. Ông ấy vào thời điểm đó. Bởi vì nghi thức này chỉ có trong việc tự tứ của Tăng chúng, do đó đã nói “của những người bà con đã được tự tứ.” “Bởi vì chúng tôi đã được ông tự tứ, và chúng tôi cần cái này và cái kia,” chỉ có người bệnh mới được phép xin sau khi đã nói rõ sự thật. Điều đã được nói trong điều học về thực phẩm hảo hạng “phải bị xử lý theo điều học về Mahānāma,” có nghĩa là đã được tự tứ theo cách của Tăng chúng, nếu xin năm loại thuốc bơ, v.v., vì mục đích chữa bệnh, thì có tội Ưng Đối Trị do lời nói “không xin thuốc khi không cần thuốc” (pāci. 309), đã được viết.

Mahānāmasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về Mahānāma đã hoàn tất.

8. Uyyuttasenāsikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học về đội quân dàn trận

311-5. Maṃ diṭṭhenāti mayā diṭṭhena, mama dassanena vā. Ekampi sarahatthaṃ purisanti aṅgapariyāpannaṃ.
311-5. Bằng cái đã thấy của tôi: là bằng cái tôi đã thấy, hoặc bằng sự thấy của tôi. Ngay cả một người lính bắn cung: là người thuộc thành phần.

Uyyuttasenāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về đội quân dàn trận đã hoàn tất.

9. Senāvāsasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học về ở trong quân đội

319. Navame senāparikkhepena vā parikkhepārahaṭṭhānena vā sañcaraṇaṭṭhānapariyantena vā paricchinditabbā.
319. Trong điều thứ chín, phải được xác định bằng vòng vây của quân đội, hoặc bằng nơi đáng được vây, hoặc bằng giới hạn của nơi di chuyển.

Senāvāsasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về ở trong quân đội đã hoàn tất.

10. Uyyodhikasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học về xem trận chiến

324. Dasame ekamekaṃ dassanāya gacchati , āpatti dukkaṭassa. Yattha ṭhito passati, āpatti pācittiyassātiādi. Aṭṭhame pana ekamekaṃ dassanāya gacchati , āpatti dukkaṭassa. Yattha ṭhito passati, āpatti dukkaṭassāti pāḷi. Kasmā? Aṅgappamāṇābhedepi anīkavisesato. Dasame pana aṭṭhamaṅgassa dassanena dukkaṭaṃ siyāti.
324. Trong điều thứ mười, đi xem từng người một, phạm tội Tác Ác. Đứng ở đâu thấy, phạm tội Ưng Đối Trị, v.v. Nhưng trong điều thứ tám, đi xem từng người một, phạm tội Tác Ác. Đứng ở đâu thấy, phạm tội Tác Ác, đó là kinh điển. Tại sao? Mặc dù kích thước của các bộ phận không khác nhau, nhưng do sự khác biệt của đội quân. Còn trong điều thứ mười, có thể có tội Tác Ác do thấy bộ phận thứ tám.

Uyyodhikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về xem trận chiến đã hoàn tất.

Samatto vaṇṇanākkamena acelakavaggo pañcamo.

Phẩm Lõa Thể thứ năm, theo trình tự giải thích, đã hoàn tất.

6. Surāpānavaggo

6. Phẩm Uống Rượu

1. Surāpānasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học về uống rượu

Āyasmato yaṃ muni sāgatassa,
Mahiddhikattassa nidassanena;
Pānassa doso tassa dassanatthaṃ,
Pubbeva so bhaddavatiṃ payāto.
Của trưởng lão mà bậc ẩn sĩ Sāgata,
Bằng việc chỉ ra sự có đại thần lực;
Để chỉ ra lỗi của việc uống,
Ông đã đến Bhaddavatī từ trước.

Tasmā passaṃ nāgamapothayitvā,
Vinissaṭaṃ sāgataṃ iddhiyā ca;
Nato surāpānanisedhanatthaṃ,
Kosambimevajjhagamāti ñeyyaṃ.
Do đó, thấy con rồng bị chế ngự,
Và Sāgata đã thoát ra bằng thần thông;
Sau đó, để cấm uống rượu,
Nên biết rằng ngài đã đến Kosambī.

326-8. Pasupālakāti ajapālakā. Yena majjati, tassa bījato paṭṭhāya. Keci ‘‘sacittakapakkhe cittaṃ akusalamevāti (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamapārājikavaṇṇanā) vuttattā vatthuṃ jānitvā pivato akusala’’nti vadanti. Evaṃ sati ‘‘akusaleneva pātabbatāyāti na vattabba’’nti vutte ‘‘sacittakapakkhameva sandhāyā’’ti vadanti. Evaṃ sati ‘‘kusalākusalābyākatacittanti vattabba’’nti vutte tampi ‘‘tabbahulanayena vutta’’nti vadanti. Kaṅkhāvitaraṇiyampi avisesetvā ‘‘akusalacitta’’nti (kaṅkhā. aṭṭha. surāpānasikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ, tasmā ‘‘taṃ akusaleneva pivatī’’ti vadantīti.
326-8. Những người chăn nuôi: là những người chăn dê. Từ hạt giống của cái gì gây say. Một số người nói rằng “vì trong phe có tâm, tâm chỉ là bất thiện (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamapārājikavaṇṇanā), nên người biết vật mà uống là bất thiện.” Nếu vậy, khi được nói “không nên nói là phải uống chỉ bằng tâm bất thiện,” họ nói “nhắm đến chính phe có tâm.” Nếu vậy, khi được nói “nên nói là tâm thiện, bất thiện, và vô ký,” họ cũng nói “điều đó đã được nói theo cách nói chung.” Trong Kaṅkhāvitaraṇī cũng không phân biệt mà nói “tâm bất thiện” (kaṅkhā. aṭṭha. surāpānasikkhāpadavaṇṇanā), do đó họ nói “người đó uống chỉ bằng tâm bất thiện.”

Surāpānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về uống rượu đã hoàn tất.

2. Aṅgulipatodakasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học về chọc lét bằng ngón tay

330. Aṅgulipatodakasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
330. Điều học về chọc lét bằng ngón tay có ý nghĩa rõ ràng.

3. Hasadhammasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học về đùa giỡn

336. Tatiye kathaṃ tivedanaṃ? Hasādhippāyeneva ‘‘parassa dukkhaṃ uppādessāmī’’ti udakaṃ khipantassa dukkhavedanaṃ. Sesaṃ uttānaṃ.
336. Trong điều thứ ba, tại sao lại có ba thọ? Khi té nước với ý định “tôi sẽ gây khổ cho người khác” chỉ với ý muốn đùa giỡn, có khổ thọ. Phần còn lại rõ ràng.

Idaṃ saññāvimokkhañce, tikapācittiyaṃ kathaṃ;
Kīḷitaṃva akīḷāti, micchāgāhena taṃ siyā.
Nếu điều này là giải thoát bằng tưởng, tại sao lại có tội Ưng Đối Trị ba loại?
Như chơi mà không chơi, đó có thể là do sự chấp thủ sai lầm.

Ettāvatā kathaṃ kīḷā, iti kīḷāyaṃ evāyaṃ;
Akīḷāsaññī hotettha, vinayatthaṃ samādaye.
Bấy nhiêu đó sao gọi là chơi, chính trong sự chơi này;
Người có tưởng là không chơi, hãy chấp nhận ý nghĩa của luật.

Ekantākusalo yasmā, kīḷāyābhiratamano;
Tasmā akusalaṃ cittaṃ, ekamevettha labbhatīti.
Vì tâm ham thích chơi đùa hoàn toàn là bất thiện;
Do đó, chỉ có một tâm bất thiện được tìm thấy ở đây.

Hasadhammasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về đùa giỡn đã hoàn tất.

4. Anādariyasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học về không tôn trọng

344. ‘‘Lokavajjaṃ atikkamitvā ‘idaṃ amhākaṃ ācariyuggaho’ti vadantassa na vaṭṭatī’’ti likhitaṃ. Yaṃ saṃkiliṭṭheneva cittena āpajjati, yaṃ vā ariyapuggalo apaññatte sikkhāpade ajjhācarati, idaṃ lokavajjanti sabbatthikavādīādīni ācariyakulāni. Tattha dutiyatatiyavikappo idha na adhippeto sekhiyānaṃ lokavajjattā.
344. “Vượt qua điều thế gian chê trách, người nói ‘đây là sự chấp thủ của thầy chúng tôi’ thì không được phép,” đã được viết. Cái gì phạm phải chỉ với tâm ô uế, hoặc cái gì mà bậc thánh nhân phạm phải trong điều học chưa được quy định, đây là điều thế gian chê trách, theo các trường phái như Sarvāstivāda, v.v. Ở đây, sự lựa chọn thứ hai và thứ ba không được nhắm đến vì các điều học thuộc về thế gian.

Gārayho ācariyuggahoti ettha ‘‘yasmā ucchuraso sattāhakāliko, tassa kasaṭo yāvajīviko, dvinnaṃyeva samavāyo ucchuyaṭṭhi, tasmā vikāle ucchuyaṭṭhiṃ khādituṃ vaṭṭati guḷaharīṭakaṃ viyā’ti evamādiko sampati nibbatto gārayhācariyavādo na gahetabbo’’ti ca, paṇṇattivajje pana vaṭṭatīti ‘‘na pattahatthena kavāṭo paṇāmetabbo’ti imassa ‘yena hatthena patto gahito, tena hatthena na paṇāmetabbo, itarena paṇāmetabbo’ti atthaṃ gahetvā tathā ācaranto na āpattiyā kāretabbo. ‘Tathā buddhabodhicetiyānaṃ pupphaṃ gaṇhituṃ vaṭṭatīti tathā ācaranto’’ti ca. Tathā ācarati abhayagirivāsiko. Mahāvihāravāsino ce evaṃ vadanti, ‘‘mā evaṃ vadā’’ti apasādetabbo. Tena vuttaṃ ‘‘suttaṃ suttānulomañca uggahitakānaṃyevā’’tiādi. ‘‘Idaṃ sabbaṃ upatissatthero āhā’’ti ca vuttaṃ. ‘‘Suttānulomaṃ aṭṭhakathā ’’ti likhitaṃ.
Về câu sự chấp thủ của thầy đáng bị chê trách, ở đây đã nói “vì nước mía là vật dùng trong bảy ngày, cặn của nó là vật dùng trọn đời, sự kết hợp của cả hai chính là cây mía, do đó được phép ăn cây mía vào phi thời, giống như đường phèn và quả harīṭaka, v.v., quan điểm của thầy đáng bị chê trách mới phát sinh gần đây này không nên được chấp nhận,” và trong điều cấm của quy định thì được phép: là “không được đẩy cửa bằng tay cầm bát,” lấy ý nghĩa của câu này là “không được đẩy bằng tay nào đã cầm bát, phải đẩy bằng tay kia,” người hành động như vậy không bị bắt phạm tội. Và “được phép lấy hoa của tháp thờ Phật và cây bồ đề, người hành động như vậy.” Các vị ở Abhayagiri hành động như vậy. Nếu các vị ở Mahāvihāra nói như vậy, thì phải bị bác bỏ rằng “đừng nói như vậy.” Do đó đã nói “chỉ của những người đã học kinh và những gì phù hợp với kinh,” v.v. Và đã nói “tất cả những điều này do trưởng lão Upatissa nói.” “Phù hợp với kinh là chú giải,” đã được viết.

Anādariyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về không tôn trọng đã hoàn tất.

5. Bhiṃsāpanasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học về dọa nạt

345. Bhiṃsāpanasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
345. Điều học về dọa nạt có ý nghĩa rõ ràng.

6. Jotisikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học về lửa

354. ‘‘Visibbanāpekkho’’ti yassa apekkhā natthi, tassa anāpatti.
354. “Người mong muốn được may”: không có tội đối với người không có sự mong muốn.

Jotisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về lửa đã hoàn tất.

7. Nahānasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học về tắm

364. Nahānasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
364. Điều học về tắm có ý nghĩa rõ ràng.

8. Dubbaṇṇakaraṇasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học về làm cho y có tì vết

368. Alabhītilabho. Yathā ‘‘pacatīti paco, pathatīti patho’’ti vuccati, evaṃ ‘‘labhatīti labho’’ti kasmā na vuttaṃ? Pariniṭṭhitalābhasseva idhādhippetattā. Maggeti sibbinimagge. Kappakatena saddhiṃ akappakataṃ sibbeti. Yāvatā adhiṭṭhānaṃ na vijahati, tāvatā pubbaṃ kappameva. Kappaṃ na vijahati ce, puna kappaṃ dātabbanti ācariyassa takko.
368. Lợi lộc không có được: là lợi lộc. Giống như được nói “người nấu là paco, người đi là patho,” tại sao không nói “người nhận được là labho”? Vì ở đây chỉ nhắm đến lợi lộc đã hoàn toàn có được. Trên đường: là trên đường may. May vật không hợp lệ cùng với vật đã làm hợp lệ. Chừng nào chưa từ bỏ sự chú nguyện, chừng đó vẫn là sự làm hợp lệ trước đó. Suy đoán của vị đạo sư là nếu chưa từ bỏ sự làm hợp lệ, thì phải làm hợp lệ lại.

Dubbaṇṇakaraṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về làm cho y có tì vết đã hoàn tất.

9. Vikappanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học về sự phân chia

374. Paribhogo ettha kāyakammaṃ. Apaccuddhāraṇaṃ vacīkammaṃ.
374. Việc sử dụng ở đây là hành động của thân. Việc không thu hồi là hành động của lời nói.

Vikappanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về sự phân chia đã hoàn tất.

10. Cīvarāpanidhānasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học về cất giấu y

379. Dasame yasmā nisīdanasanthataṃ cīvaranisīdanampīti ubhayampi sadasameva, tasmā taṃ ubhayampi ekato katvā ‘‘nisīdanaṃ nāma sadasaṃ vuccatī’’ti āha. Tatthāpi cīvaraggahaṇena cīvaranisīdanaṃ gahitamevāti atthato santhatanisīdanameva vuttaṃ hoti. Yadi evaṃ ‘‘nisīdanasanthataṃ nāma sadasaṃ vuccatī’’ti vattabbanti? Na, itarassa anisīdanaadasabhāvappasaṅgato. Ettha nisīdanasanthatassa pācittiyavatthuttā itarampi pācittiyavatthumevāti veditabbaṃ tajjātikattā. Sassāmike sūcighare sūcigaṇanāya āpattiyoti porāṇā.
379. Trong điều thứ mười, vì cả hai, tọa cụ đã trải và tọa cụ y, đều là cùng một loại, do đó ngài đã gộp cả hai lại và nói “tọa cụ được gọi là cùng một loại.” Ngay cả ở đó, do việc lấy y, tọa cụ y cũng đã được bao gồm, do đó về mặt ý nghĩa, chỉ có tọa cụ đã trải được nói đến. Nếu vậy, có nên nói “tọa cụ đã trải được gọi là cùng một loại” không? Không nên, vì có nguy cơ cái kia trở thành không phải tọa cụ và không cùng loại. Ở đây, vì tọa cụ đã trải là vật của tội Ưng Đối Trị, nên nên được hiểu rằng cái kia cũng là vật của tội Ưng Đối Trị vì cùng một loại. Các vị xưa nói rằng có tội theo số lượng kim trong hộp kim có chủ.

Cīvarāpanidhānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về cất giấu y đã hoàn tất.

Samatto vaṇṇanākkamena surāpānavaggo chaṭṭho.

Phẩm Uống Rượu thứ sáu, theo trình tự giải thích, đã hoàn tất.

7. Sappāṇakavaggo

7. Phẩm Có Chúng Sanh

1. Sañciccapāṇasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học về cố ý giết chúng sanh

382. Sañciccapāṇasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
382. Điều học về cố ý giết chúng sanh có ý nghĩa rõ ràng.

2. Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học về (dùng nước) có chúng sanh

387. ‘‘Pāṇo atthī’’ti jānantopi ‘‘marissantī’’ti avicāretvā pivatice, anāpatti.
387. Ngay cả khi biết rằng “có chúng sanh,” nếu uống mà không suy nghĩ rằng “chúng sẽ chết,” thì không có tội.

Jale pakkhipanaṃ pupphaṃ, jalappavesanaṃ idaṃ;
Evaṃ ubhinnaṃ nānattaṃ, ñeyyaṃ ñāṇavatā sadāti.
Hoa thả vào nước, đây là sự đưa vào nước;
Như vậy, sự khác biệt của cả hai nên được người trí biết.

Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về (dùng nước) có chúng sanh đã hoàn tất.

3. Ukkoṭanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học về lật lại (vụ việc)

392. Tatiye dvādasa ukkoṭā veditabbā. Tattha akataṃ kammaṃ, dukkaṭaṃ kammaṃ, puna kātabbaṃ kammanti anuvādādhikaraṇe labbhanti. Anihaṭaṃ, dunnihaṭaṃ, na puna haritabbanti vivādādhikaraṇe labbhanti, avinicchitaṃ, duvinicchitaṃ, puna vinicchitabbanti āpattādhikaraṇe labbhanti. Avūpasantaṃ, duvūpasantaṃ, puna vūpasametabbanti kiccādhikaraṇe labbhantīti aṭṭhakathānayo, pāḷiyaṃ panettha mukhamattameva dassitaṃ.
392. Trong điều thứ ba, nên biết có mười hai cách lật lại. Ở đó, Tăng sự chưa làm, Tăng sự làm sai, Tăng sự phải làm lại, được tìm thấy trong tranh chấp về thẩm quyền. Việc chưa xử lý, xử lý sai, không được xử lý lại, được tìm thấy trong tranh chấp về tranh cãi. Việc chưa phân xử, phân xử sai, được phân xử lại, được tìm thấy trong tranh chấp về tội. Việc chưa dàn xếp, dàn xếp sai, được dàn xếp lại, được tìm thấy trong tranh chấp về công việc, đó là nguyên tắc của chú giải, trong kinh điển ở đây chỉ trình bày phần mở đầu.

Ukkoṭanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về lật lại (vụ việc) đã hoàn tất.

4. Duṭṭhullasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học về tội trọng

399. ‘‘Pārājikānīti atthuddhāravasena dassitānī’’ti kathaṃ viññāyatīti ce? Parivārapāḷito. Vuttañhi tattha ‘‘āpattādhikaraṇapaccayā kati āpattiyo āpajjati. Āpattādhikaraṇapaccayā catasso āpattiyo āpajjati. Bhikkhunī jānaṃ pārājikaṃ dhammaṃ paṭicchādeti, āpatti pārājikassa. Vematikā paṭicchādeti, āpatti thullaccayassa. Bhikkhu saṅghādisesaṃ paṭicchādeti, āpatti pācittiyassa. Ācāravipattiṃ paṭicchādeti , āpatti dukkaṭassā’’ti (pari. 290). Pārājikaṃ paṭicchādento bhikkhu anāpatti, no āpattiṃ āpajjati avuttattāti ce? Na, saṃkiliṭṭhena cittena paṭicchādane vinā āpattiyā asambhavato. Dukkaṭavāre vattabbāpi pārājikāpattiyo paṭhamaṃ atthuddhāravasena saṅghādisesehi saha vuttattā na sakkā puna vattunti na vuttāti veditabbā.
399. Nếu hỏi làm thế nào để biết rằng “các tội Bất Cộng Trụ đã được chỉ ra theo cách trích dẫn ý nghĩa”? Là từ kinh Tập Yếu. Thật vậy, ở đó đã nói “do nhân duyên của tranh chấp về tội, phạm bao nhiêu tội? Do nhân duyên của tranh chấp về tội, phạm bốn tội. Tỳ-khưu-ni biết mà che giấu pháp Bất Cộng Trụ, phạm tội Bất Cộng Trụ. Nghi ngờ mà che giấu, phạm tội Trọng Tội. Tỳ-khưu che giấu tội Tăng Tàn, phạm tội Ưng Đối Trị. Che giấu sự sai phạm về hạnh kiểm, phạm tội Tác Ác” (pari. 290). Nếu nói rằng Tỳ-khưu che giấu tội Bất Cộng Trụ không có tội, không phạm tội vì không được nói đến? Không phải, vì không thể không có tội khi che giấu với tâm ô uế. Nên được hiểu rằng các tội Bất Cộng Trụ, mặc dù phải được nói trong phần tội Tác Ác, nhưng không được nói vì đã được nói trước cùng với các tội Tăng Tàn theo cách trích dẫn ý nghĩa, nên không thể nói lại.

Yāva koṭi na chijjatīti cettha yo antamaso paṭicchādanatthaṃ aññassa ārocetu vā, mā vā, paṭicchādanacitteneva āpattiṃ āpanno. Tassa puna aññassa paṭicchādanatthaṃ anārocaneneva na koṭi chinnā hoti, kiṃ puna paṭinivattitvā vacanena payojananti na antimassa anārocanena chinnā hoti, appaṭicchādanena eva chinnā hoti, tato appaṭicchādanatthaṃ apubbassa ārocetabbaṃ, tato paṭṭhāya koṭi chinnā hoti, tadabhāvo paṭinivattitvā appaṭicchādanatthaṃ ārocetabbaṃ, evampi koṭi chinnā hotīti evaṃ no paṭibhātīti ācariyo. Tatiyena dutiyassāti ettha ‘‘dutiyo nāma paṭhamo ’’ti vadantānaṃ ‘‘vatthu puggalo naस्मैपदी’’ti vāritattā na sundaraṃ. Aññassa catutthassa ārocanepi na sundaraṃ. Kasmā? Pubbeva sutvā aññassa anārocitattā. ‘‘Sutena aññassa ārocetabbaṃ siyā’’ti vadanti.
Về câu cho đến khi đầu mối chưa bị cắt đứt, ở đây, người nào, ít nhất là để che giấu, dù có báo cho người khác hay không, đã phạm tội chỉ với tâm che giấu. Đối với người đó, đầu mối chưa bị cắt đứt chỉ do việc không báo cho người khác để che giấu, huống chi là có lợi ích gì với lời nói sau khi đã quay lại, nên đầu mối không bị cắt đứt do việc không báo cho người cuối cùng, mà chỉ bị cắt đứt do việc không che giấu, từ đó phải báo cho người mới để không che giấu, từ đó trở đi đầu mối bị cắt đứt, nếu không có điều đó, phải quay lại báo để không che giấu, ngay cả như vậy đầu mối cũng bị cắt đứt, vị đạo sư nói rằng chúng tôi không thấy như vậy. Về câu bởi người thứ ba cho người thứ hai, ở đây, đối với những người nói “người thứ hai là người đầu tiên,” điều đó không hay vì đã bị cấm rằng “không được lấy vật và người.” Ngay cả khi báo cho một người thứ tư khác cũng không hay. Tại sao? Vì đã nghe trước mà không báo cho người khác. Các vị nói rằng “lẽ ra người đã nghe phải báo cho người khác.”

Duṭṭhullasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về tội trọng đã hoàn tất.

5. Ūnavīsativassasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học về người chưa đủ hai mươi tuổi

404. Punappunaṃ uppajjanato bahudhā. Hāyanavaḍḍhananti mātukucchismiṃ ce dvādasannaṃ māsānaṃ ūnatāya hāyanaṃ kataṃ. Pasūtassa vaḍḍhanaṃ kātabbaṃ. Mātukucchismiṃ ce vaḍḍhanaṃ kataṃ. Pasūtassa hāyanaṃ kātabbaṃ. Nikkhamanīyapuṇṇamāsī nāma sāvaṇamāsassa puṇṇamāsī. ‘‘Pāṭipadadivaseti dutiye upagacchati divase’’ti likhitaṃ. So hi pasūtadivasato paṭṭhāya paripuṇṇavīsativasso hoti. Avasesānaṃ dvinnaṃ vassānaṃ adhikadivasāni honteva, tasmā nikkaṅkhā hutvā upasampādenti. Taṃ sandhāyāti gabbhavassañca pavāretvā laddhavassañca agaṇetvā jātadivasato paṭṭhāya gaṇetvā ekūnavīsativassaṃ. Ekūnavīsativassoti ‘‘gabbhavassaṃ eva pahāyā’’ti likhitaṃ, taṃ dullikhitaṃ.
404. Nhiều lần do sanh đi sanh lại. Giảm và tăng năm: nếu trong bụng mẹ, năm đã được giảm do thiếu mười hai tháng. Sau khi sanh ra, phải tăng năm. Nếu trong bụng mẹ, năm đã được tăng. Sau khi sanh ra, phải giảm năm. Ngày rằm xuất gia là ngày rằm của tháng Sāvaṇa. “Vào ngày mùng một: là vào ngày thứ hai sau khi nhập hạ” đã được viết. Vì người đó đã đủ hai mươi tuổi kể từ ngày sanh. Hai năm còn lại chắc chắn có những ngày dư, do đó họ thọ cụ túc giới mà không có sự nghi ngờ. Nhắm đến điều đó: là không tính năm trong bụng mẹ và năm nhận được sau khi tự tứ, mà tính từ ngày sanh, người mười chín tuổi. Người mười chín tuổi: “chỉ bỏ năm trong bụng mẹ” đã được viết, đó là một sự ghi chép sai lầm.

406. Aññaṃ upasampādetīti upajjhāyo vā ācariyo vā hutvā upasampādeti. ‘‘Opapātikassa soḷasavassuddesikabhāvato puna cattāro vasse atikkamitvā upasampadā kātabbā’’ti ācariyā vadantīti keci.
406. Thọ cụ túc giới cho người khác: là làm thầy tế độ hoặc thầy giáo thọ để thọ cụ túc giới. Một số người nói rằng các vị đạo sư nói rằng “đối với người hóa sanh, sau khi đã là người hướng dẫn mười sáu tuổi, phải đợi thêm bốn năm nữa mới được thọ cụ túc giới.”

Ūnavīsativassasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về người chưa đủ hai mươi tuổi đã hoàn tất.

6. Theyyasatthasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học về đoàn người trộm cướp

409. Theyyasattho ce suddhamātugāmo dve āpattiyo. Atha bhikkhuniyo, samayo rakkhati. Theyyasatthabhāvassa ṭhānaṃ katvā rakkhaṇīyattā sahadhammikānaṃ rakkhatiyevāti eke. Theyyabhāve na sahadhammikatā, tasmā na rakkhati evāti eke. Apārājikatheyyabhāve sati sahadhammikabhāvoti ce? Itarasmiṃ itaranti samayo anissaṭo āpajjati. Bhikkhu theyyasattho ce, yathāvatthukameva. Theyyasatthe theyyasatthsaññī saddhiṃ saṃvidhāyāti ca. ‘‘Saddhi’’nti padaṃ kesuci natthi, taṃ ananurūpaṃ. Tathā dutiyepi.
409. Nếu đoàn người trộm cướp là người nữ thuần túy, thì có hai tội. Nếu là các Tỳ-khưu-ni, thì thời gian bảo vệ. Một số người nói rằng vì phải bảo vệ sau khi đã xác định tình trạng là đoàn người trộm cướp, nên chắc chắn phải bảo vệ các người đồng phạm hạnh. Một số người khác nói rằng trong tình trạng trộm cướp, không có tình trạng đồng phạm hạnh, do đó chắc chắn không bảo vệ. Nếu nói rằng có tình trạng đồng phạm hạnh khi có tình trạng trộm cướp không phải là tội Bất Cộng Trụ? Thì sẽ dẫn đến tình trạng không dứt khoát là cái này trong cái kia. Nếu Tỳ-khưu là đoàn người trộm cướp, thì tùy theo vật. Và có tưởng là đoàn người trộm cướp trong đoàn người trộm cướp, hẹn hò cùng đi. Trong một số bản, không có từ “cùng,” điều đó không phù hợp. Cũng vậy trong trường hợp thứ hai.

Theyyasatthasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về đoàn người trộm cướp đã hoàn tất.

7. Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học về việc hẹn hò

412. ‘‘Tena kho pana samayena aññatarā itthī’’ti ca pāṭho atthi, kesuci natthi. Natthibhāvo sundaro ‘‘tena kho samayenā’’ti adhikārattāti keci. Idha ekatoupasampannā, sikkhamānā, sāmaṇerīti imāpi tisso saṅgahaṃ gacchanti. Imāsaṃ pana samayo rakkhati, ayamimāsaṃ, mātugāmassa ca viseso.
412. Cũng có bản đọc “vào lúc đó, một người phụ nữ,” một số bản không có. Một số người nói rằng việc không có là hay hơn vì đã có phần mở đầu “vào lúc đó.” Ở đây, cả ba người này: người đã thọ cụ túc giới cùng lúc, cô ni tu tập sự, và sa-di-ni, cũng được bao gồm. Nhưng thời gian bảo vệ những người này, đây là sự khác biệt giữa những người này và người nữ.

414. Apicettha ‘‘viññū paṭibalā’’ti vacanato appaṭibalā anāpattivatthukāti eke, taṃ na yuttaṃ dukkaṭavatthukattā. ‘‘Bhikkhu saṃvidahati, mātugāmo na saṃvidahati, āpatti dukkaṭassā’’ti hi vuttaṃ. Tathā hi upaparikkhitabbaṃ.
414. Hơn nữa, ở đây, một số người cho rằng vì đã nói “người trí có khả năng” dựa theo lời dạy người không có khả năng là vật không có tội, điều đó không đúng vì là vật của tội Tác Ác. Vì đã nói “Tỳ-khưu hẹn hò, người nữ không hẹn hò, phạm tội Tác Ác.” Thật vậy, cần phải kiểm tra.

Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc hẹn hò đã hoàn tất.

8. Ariṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học về Ariṭṭha

417. Gahaṭṭhassāpi bhikkhunīdūsakakammaṃ mokkhantarāyikameva, tasmā tassa pabbajjāpi paṭikkhittā. Vipākantarāyikā ahetukattā. Pubbe sañcicca āpannā sammuṭṭhā suddhasaññino antarāyikā eva. Sesāti jātikā. Rasenāti bhāvena. Adhikuṭṭanaṭṭhenāti adhikaraṇaṃ katvā kuṭṭanaṭṭhena chindanaṭṭhena. Asisūnūpamā kusaladhammacchedanaṭṭhena. Sattisūlūpamā cittavitudanaṭṭhenāti porāṇā. Anāpattipāḷiyaṃ ‘‘ādikammikassā’’ti mukhāruḷhavasena likhitaṃ.
417. Ngay cả việc làm của cư sĩ làm ô uế Tỳ-khưu-ni cũng là chướng ngại cho sự giải thoát, do đó việc xuất gia của người đó cũng bị cấm. Chướng ngại cho quả báo là do không có nhân. Những người đã cố ý phạm tội trước đây, có tưởng trong sạch sau khi đã quên, chắc chắn là chướng ngại. Những người còn lại: là những người thuộc dòng dõi. Bằng hương vị: là bằng bản chất. Với ý nghĩa cắt đứt thêm: là với ý nghĩa cắt đứt bằng cách làm thành một vụ việc. Giống như con dao sắc: với ý nghĩa cắt đứt các thiện pháp. Các vị xưa nói giống như ngọn giáo: với ý nghĩa làm đau đớn tâm. Trong kinh không có tội, “của người phạm tội đầu tiên” đã được viết theo cách nói quen miệng.

Ariṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về Ariṭṭha đã hoàn tất.

9. Ukkhittasambhogasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học về chung sống với người bị cử tội

425. ‘‘Taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissaṭṭhenāti iminā laddhinānāsaṃvāsakataṃ dīpetī’’ti vuttaṃ. Ticittanti ettha vipākābyākatacittena sahavāseyyaṃ kappeyyāti evamattho daṭṭhabbo. Aññathā sacittakattā sikkhāpadassa kiriyābyākataṃ sandhāya na yujjati.
425. “Bằng việc không từ bỏ tà kiến đó, cho thấy đã bị làm cho có cách sống khác biệt về quan điểm,” đã được nói. Về ba tâm, ở đây, nên xem ý nghĩa là nên sắp đặt chung sống với tâm quả vô ký. Nếu không, vì điều học này có tâm, nên không phù hợp khi nhắm đến tâm duy tác vô ký.

Ukkhittasambhogasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về chung sống với người bị cử tội đã hoàn tất.

10. Kaṇṭakasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học về Kaṇṭaka

428. Yatthate na passāmāti teti taṃ. Atha vā tava rūpādiṃ na passāma. Ayaṃ samaṇuddeso pārājiko hoti. ‘‘Sace taṃ diṭṭhiṃ paṭinissajjati, saṅghassa ārocetvā saṅghānumatiyā pabbājetabbo’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ, taṃ na yuttaṃ, daṇḍakammanāsanā hi idhādhippetā. Yadi so pārājiko, liṅganāsanā nāma siyā. Te paṭisevato nālaṃ antarāyāyāti ca diṭṭhi satthari asatthādidiṭṭhi na hoti. Sace sā yassa uppajjati, so pārājiko hoti, tasmimpi evameva paṭipajjitabbaṃ saṃvare atiṭṭhanto liṅganāsanāyeva nāsetabboti ācariyassa takko.
428. Nơi nào chúng tôi không thấy các ông, các ông: là ông ấy. Hoặc chúng tôi không thấy hình sắc, v.v., của ông. Sa-di này phạm tội Bất Cộng Trụ. Trong sách cổ chú giải đã nói “nếu từ bỏ tà kiến đó, phải thông báo cho Tăng chúng và được Tăng chúng cho phép xuất gia,” điều đó không đúng, vì ở đây nhắm đến sự trục xuất do hình phạt. Nếu người đó phạm tội Bất Cộng Trụ, thì sẽ là sự trục xuất khỏi giới tính. Và câu việc thực hành những điều đó không đủ để gây trở ngại: là tà kiến đối với bậc Đạo sư không phải là tà kiến không phải là bậc Đạo sư. Nếu tà kiến đó phát sanh nơi ai, người đó phạm tội Bất Cộng Trụ, đối với người đó cũng phải thực hành như vậy, người không giữ gìn trong sự thu thúc phải bị trục xuất khỏi giới tính, đó là suy đoán của vị đạo sư.

Kaṇṭakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về Kaṇṭaka đã hoàn tất.

Samatto vaṇṇanākkamena sappāṇakavaggo sattamo.

Phẩm Có Chúng Sanh thứ bảy, theo trình tự giải thích, đã hoàn tất.

8. Sahadhammikavaggo

8. Phẩm Đồng Phạm Hạnh

1. Sahadhammikasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học về người đồng phạm hạnh

434. Sahadhammikasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
434. Điều học về người đồng phạm hạnh có ý nghĩa rõ ràng.

2. Vilekhanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học về việc làm khó chịu

438. Āpattiñca satisammosāyāti ettha ca-saddo kattabbañca na karotīti dīpeti, na cattāri evāti vuttaṃ hoti. Raṭṭhekadeso janapado. Buddhakāle ariṭṭhakaṇṭakā sāsanapaccatthikā. ‘‘Nālaṃ antarāyāyā’’ti vacanena hi te bhagavato asabbaññutaṃ dīpenti. Parinibbute bhagavati dasavatthudīpakā vajjiputtakā. Te hi vinayasāsanapaccatthikā. Parūpahārādivādā pana suttantābhidhammappaccatthikā. Ke pana te? Ekacce mahāsaṅghikādayo, na sabbeti dīpanatthaṃ ‘‘parūpahārā…pe… vādā’’ti visesanavacanamāha. Tattha ye kuhakā pāpicchakā abhūtaṃ ullapitvā paṭiladdhavarabhojanāni bhuñjitvā muṭṭhassatī niddaṃ okkamitvā sukkavissaṭṭhiṃ pattā, aññehi taṃ disvā ‘‘atthi arahato sukkavissaṭṭhī’’ti vutte ‘‘mārakāyikā upasaṃharantī’’ti vatvā janaṃ vañcenti. Ye ca sammāpaṭipannā akuhakā, tepi taṃ vacanaṃ sutvā keci taṃdiṭṭhikā honti adhimānino ca. Attano sukkavissaṭṭhiṃ passitvāpi nādhimuccanti, anadhigate adhikatasaññinova honti. Tathā atthi arahato aññāṇakaṅkhāvitaraṇā nāmagottādīsu viya saccesu paravitaraṇā parehi paññattā nāmānīti adhippāyo yathāsambhavaṃ yojetabbo. Tattha vinayadharo ‘‘aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso , yaṃ arahato asuci mucceyya (kathā. 313; mahāva. 353). Diṭṭhadhammā…pe… aparappaccayā satthusāsane’’tiādīni (mahāva. 30) suttapadāni dassetvā te sāsanapaccatthikesu niggahitaṃ niggaṇhātīti adhippāyo. Itare ‘‘pariyatti mūla’’nti vādino. ‘‘Pātimokkhe uddissamāne’’ti nidānavasena vuttaṃ. Tathāgatassa vibhaṅgapadāni siddhāni. Siddheyeva kiṃ imassa aṅgāni? Garahitukāmatā upasampannassa santike sikkhāpadavivaṇṇanañcāti.
438. Về câu và tội do thất niệm, ở đây, từ ‘và’ cho thấy rằng cũng không làm điều phải làm, có nghĩa là đã nói không chỉ có bốn điều. Một phần của quốc gia là xứ sở. Vào thời Đức Phật, Ariṭṭha và Kaṇṭaka là những kẻ thù của giáo pháp. Vì bằng lời nói “không đủ để gây trở ngại,” họ đã chỉ ra sự không phải là bậc toàn giác của Đức Thế Tôn. Sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt, các vị Vajjiputtakā là những người trình bày mười sự việc. Họ là những kẻ thù của giáo pháp luật. Còn các quan điểm như cho rằng có sự hiến tặng của người khác, v.v., là những kẻ thù của kinh tạng và tạng Vi Diệu Pháp. Vậy họ là ai? Để chỉ ra rằng đó là một số vị Mahāsaṅghikā, v.v., không phải tất cả, ngài đã nói lời phân biệt “quan điểm… cho rằng có sự hiến tặng của người khác…”. Ở đó, những kẻ đạo đức giả, có ý muốn xấu, sau khi khoe khoang những điều không thật, ăn những thực phẩm hảo hạng nhận được, rồi ngủ mê mệt thất niệm, bị xuất tinh, khi bị người khác thấy và nói “A-la-hán có xuất tinh không,” họ nói “do chúng ma đưa đến” và lừa gạt dân chúng. Và những vị chân chánh tu hành, không đạo đức giả, sau khi nghe lời đó, một số trở thành người có tà kiến đó và ngã mạn. Ngay cả khi thấy mình xuất tinh cũng không tin, chỉ có tưởng là đã chứng đắc trong khi chưa chứng đắc. Cũng vậy, A-la-hán có sự không biết, sự nghi ngờ, và sự vượt qua, giống như trong tên họ, v.v., ý định là có những tên gọi do người khác quy định trong các chân lý, nên được kết hợp tùy theo khả năng. Ở đó, vị thông luật, sau khi chỉ ra các câu kinh như “Này các Tỳ-khưu, điều này là không thể, không có cơ hội, để A-la-hán xuất ra vật không trong sạch (kathā. 313; mahāva. 353). Trong các pháp đã thấy… không do duyên người khác trong giáo pháp của bậc Đạo sư” (mahāva. 30), v.v., đã khiển trách những kẻ thù của giáo pháp, đó là ý định. Những người khác là những người có quan điểm “pháp học là gốc rễ.” “Khi Giới Bổn đang được đọc” đã được nói theo nhân duyên. Các từ phân tích của Như Lai đã được xác định. Trong những điều đã được xác định, đâu là các yếu tố của điều này? Là ý muốn chê bai và sự giải thích sai về điều học tại nơi ở của người đã thọ cụ túc giới.

Vilekhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc làm khó chịu đã hoàn tất.

3. Mohanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học về việc làm cho mê muội

444. Mohanasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
444. Điều học về việc làm cho mê muội có ý nghĩa rõ ràng.

4. Pahārasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học về việc đánh đập

452. Rattacittoti kāyasaṃsaggarāgena. Viheṭhetukāmaṃ pana disvā ‘‘sace ahaṃ imaṃ māremi, natthi me mokkho’’ti cintetvā kupito sattasaññaṃ purekkhatvā pahāraṃ deti, tassa yathāvatthukameva.
452. Tâm tham ái: là do lòng tham trong sự tiếp xúc thân thể. Nhưng khi thấy người muốn làm hại, suy nghĩ rằng “nếu ta giết người này, ta sẽ không có sự giải thoát,” rồi nổi giận, với tưởng là chúng sanh, ra tay đánh, đối với người đó thì tùy theo vật.

Pahārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc đánh đập đã hoàn tất.

5. Talasattikasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học về việc giơ tay

456. ‘‘Kāyaṃ vā kāyapaṭibaddhaṃ vā’’ti (pāci. 456) vacanato kāyādīsu yaṃ uccāreti , taṃ talaṃ nāma. Talameva talasattikaṃ. Pothanasamatthaṭṭhena sattikanti eke. Taṃ ‘‘uppalapattampī’’ti iminā niyameti. Evaṃ kupitā hi kopavasena pothanāsamatthataṃ avicāretvā yaṃ kiñci hatthagataṃ paṭikkhipanti, sukhasamphassampi hotu, pācittiyameva. Yasmā paharitukāmatāya pahaṭe purimena pācittiyaṃ. Kevalaṃ uccāretukāmatāya uggiraṇamatte kate iminā pācittiyaṃ. Iminā pana virajjhitvā pahāro dinno, tasmā na paharitukāmatāya dinnattā dukkaṭaṃ. Kimidaṃ dukkaṭaṃ pahārapaccayā, udāhu uggiraṇapaccayāti? Pahārapaccayā eva dukkaṭaṃ. Purimaṃ uggiraṇapaccayā pācittiyanti sadukkaṭaṃ pācittiyaṃ yujjati. Purimañhi uggiraṇaṃ, pacchā pahāro. Na ca pacchimapahāraṃ nissāya purimaṃ uggiraṇaṃ anāpattivatthukaṃ bhavitumarahatīti no takkoti ācariyo. ‘‘Tena pahārena hatthādīsu yaṃ kiñci bhijjati, dukkaṭamevā’’ti imināpi pahārapaccayā dukkaṭaṃ. Uggiraṇaṃ yathāvatthukamevāti siddhaṃ, suṭṭhu vīmaṃsitabbaṃ. ‘‘Tiracchānādīnaṃ asucikaraṇādīni disvā kujjhitvāpi uggirantassa mokkhādhippāyo evā’’ti vadanti.
456. “Thân hoặc vật gắn liền với thân” (pāci. 456), cái gì mà vị ấy giơ lên ở thân, v.v., cái đó được gọi là bàn tay. Bàn tay chính là vật như bàn tay. Một số người nói là vật sắc bén với ý nghĩa có khả năng đánh. Điều đó được giới hạn bởi câu “ngay cả lá hoa súng.” Vì những người nổi giận như vậy, do cơn giận, không suy xét đến khả năng đánh, đã ném đi bất cứ thứ gì trong tay, dù là vật có xúc chạm êm dịu, cũng phạm tội Ưng Đối Trị. Bởi vì khi đánh với ý muốn đánh, thì phạm tội Ưng Đối Trị theo điều học trước. Chỉ khi giơ lên với ý muốn giơ lên, thì phạm tội Ưng Đối Trị theo điều học này. Nhưng nếu do sai sót mà đánh, thì không phải là đánh với ý muốn đánh, nên là tội Tác Ác. Tội Tác Ác này là do duyên đánh, hay do duyên giơ lên? Tội Tác Ác là do duyên đánh. Tội Ưng Đối Trị trước là do duyên giơ lên, nên tội Ưng Đối Trị có kèm theo tội Tác Ác là hợp lý. Vì giơ lên trước, đánh sau. Và việc giơ lên trước không thể trở thành vật không có tội do việc đánh sau, vị đạo sư không nghĩ vậy. “Nếu có bất cứ thứ gì ở tay, v.v., bị vỡ do cú đánh đó, thì chỉ là tội Tác Ác,” bằng câu này, tội Tác Ác là do duyên đánh. Việc giơ lên thì tùy theo vật, điều này đã được xác định, cần phải xem xét kỹ. Các vị nói rằng “ngay cả khi giơ lên với sự tức giận khi thấy chúng sanh, v.v., làm những việc không trong sạch, v.v., thì cũng chỉ có ý định giải thoát.”

Talasattikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc giơ tay đã hoàn tất.

6. Amūlakasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học về việc vô căn cứ

462. Upasampanne anupasampannasaññī amūlakena saṅghādisesenāti sukkavissaṭṭhikāyasaṃsaggādinā saṅghādisesāpattiyā vatthunāti veditabbaṃ. Na hi anupasampannassa saṅghādisesāpatti nāma atthi.
462. Đối với người đã thọ cụ túc giới mà có tưởng là người chưa thọ cụ túc giới, bằng tội Tăng Tàn vô căn cứ: nên được hiểu là bằng vật của tội Tăng Tàn do xuất tinh, tiếp xúc thân thể, v.v. Vì người chưa thọ cụ túc giới không có tội Tăng Tàn.

Amūlakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc vô căn cứ đã hoàn tất.

7. Sañciccasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học về việc cố ý

468. Ūnavīsativasso maññeti ettha sayaṃ saññāya tathā amaññanto kukkuccuppādanatthaṃ ‘‘maññe’’ti vadanto kiṃ musāvādena kāretabboti? Na siyā aṅgasampattiyā, na ca kevalaṃ ‘‘maññe’’ti iminā niyamato aṅgasampatti hoti. Paramatthavihitaṃ katthaci hoti. ‘‘Udakaṃ maññe āditta’’ntiādimhi paro kukkuccaṃ uppādetu vā , mā vā, taṃ appamāṇanti mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. sañciccasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘kukkuccuppādana’’nti tassa adhippāyavasena vuttanti.
468. Về câu tôi nghĩ là người chưa đủ hai mươi tuổi, ở đây, nếu tự mình không nghĩ như vậy theo tưởng, mà nói “tôi nghĩ” để gây ra sự áy náy, liệu có bị xử phạt vì tội nói dối không? Không thể, do sự đầy đủ các yếu tố, và không phải chỉ bằng từ “tôi nghĩ” mà các yếu tố luôn được đầy đủ. Đôi khi nó phù hợp với chân đế. Trong câu “tôi nghĩ nước đang cháy,” v.v., dù người khác có phát sanh sự áy náy hay không, điều đó không phải là tiêu chuẩn, do đó trong chú giải đề mục (kaṅkhā. aṭṭha. sañciccasikkhāpadavaṇṇanā) đã nói “việc gây ra sự áy náy” là theo ý định của người đó.

Sañciccasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc cố ý đã hoàn tất.

8. Upassutisikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học về việc nghe lén

473. Imesaṃsutvāti ettha ‘‘vacana’’nti pāṭhaseso. Ekaparicchedānīti siyā kiriyā siyā akiriyāti iminā nayena ekaparicchedāni. Ettha kiñcāpi aññavādakapaccayāpatti kiriyā ca vihesakapaccayāpatti akiriyā ca, tadubhayaṃ pana ekasikkhāpadanti katvā taṃ aññavādakasaṅkhātaṃ sikkhāpadaṃ siyā kiriyā paṭhamassa vasena, siyā akiriyā dutiyassa vasenāti evamattho daṭṭhabbo.
473. Về câu sau khi nghe của những người này, ở đây, phần còn lại của câu là “lời nói.” Có một sự phân định: là có thể là hành động, có thể không phải là hành động, theo cách này mà có một sự phân định. Ở đây, mặc dù tội do duyên nói khác là hành động và tội do duyên làm phiền là không hành động, nhưng cả hai đều là một điều học, do đó điều học được gọi là nói khác đó có thể là hành động theo người thứ nhất, có thể không phải là hành động theo người thứ hai, nên xem ý nghĩa như vậy.

Upassutisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc nghe lén đã hoàn tất.

9. Kammapaṭibāhanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học về việc cản trở Tăng sự

474. ‘‘Dhammikānaṃ kammāna’’nti (pāci. 475) vacanato ekacce bhikkhū dhammikānaṃ kammānaṃ ‘‘chandaṃ dammī’’ti chandaṃ denti, taṃ tesaṃ matimattameva, na paṭipatti. Adhammaṃ nissāya khiyyati, taṃ vā ukkoṭeti, anāpatti neva hotīti? Na, tathā chandadānakāle akatvā pacchā adhammakammakhiyyanādipaccayā anāpattivāre vuttattā. Adhammena vā vaggena vā na kammārahassa vā kammakaraṇapaccayā āpattimokkhakaraṇato avisesameva tathāvacananti ce? Na, chandadānakāle adhammakammakaraṇānumatiyā abhāvato, kārakasseva vajjappasaṅgato ca. Gaṇassa dukkaṭanti ce? Pārisuddhichandadāyakāva te, na gaṇo akammappattattā, parivārepi (pari. 482 ādayo) kammavagge kammappattachandadāyakā visuṃ vuttā. Tathāpi adhammakammassa chando na dātabbo dente akappiyānumatidukkaṭato. Tattha hi yojanadukkaṭato na muccantīti no takkoti ācariyo.
474. “Của các Tăng sự hợp pháp” (pāci. 475), một số Tỳ-khưu cho sự đồng thuận đối với các Tăng sự hợp pháp bằng cách nói “tôi cho sự đồng thuận,” đó chỉ là ý kiến của họ, không phải là sự thực hành. Nếu bị chê bai do dựa vào điều phi pháp, hoặc lật lại điều đó, thì không phải là không có tội sao? Không phải, vì đã được nói trong phần không có tội do các duyên như sự chê bai Tăng sự phi pháp, v.v., sau khi đã không làm vào lúc cho sự đồng thuận. Nếu nói rằng do duyên thực hiện Tăng sự một cách phi pháp hoặc chia rẽ hoặc đối với người không đáng bị phạt, việc nói như vậy không khác gì việc giải thoát khỏi tội? Không phải, vì không có sự đồng ý thực hiện Tăng sự phi pháp vào lúc cho sự đồng thuận, và vì có nguy cơ chỉ có người thực hiện mới có lỗi. Nếu nói rằng đó là tội Tác Ác của nhóm? Họ chỉ là những người cho sự đồng thuận trong sạch, không phải là nhóm vì không đủ tư cách thực hiện Tăng sự, ngay cả trong Tập Yếu (pari. 482 ādayo) trong phẩm Tăng sự, những người cho sự đồng thuận đủ tư cách thực hiện Tăng sự cũng đã được nói riêng. Tuy nhiên, không được cho sự đồng thuận đối với Tăng sự phi pháp, nếu cho thì phạm tội Tác Ác do đồng ý với điều không hợp lệ. Ở đó, họ không thoát khỏi tội Tác Ác do sự kết hợp, vị đạo sư không nghĩ vậy.

Kammapaṭibāhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc cản trở Tăng sự đã hoàn tất.

10. Chandaṃadatvāgamanasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học về việc ra đi mà không cho sự đồng thuận

481. Sannipātaṃ anāgantvā ce chandaṃ na deti, anāpattīti eke. Dukkaṭanti eke dhammakammantarāyakaraṇādhippāyattā. Saṅghamajjhe chandaṃ dātuṃ labhatīti keci. Dinnachande saṅghamajjhaṃ pavisitvā puna gatepi chando na paṭippassambheyyāti ce? Paṭippassambhati. Kasmā? ‘‘Ahatthapāso chandāraho’’tiādīhi virujjhanato. Pāḷiyaṃ pana dātukāmatāya hatthapāsaṃ atikkamantaṃ sandhāya vuttanti keci.
481. Một số người nói rằng nếu không đến cuộc họp mà không cho sự đồng thuận, thì không có tội. Một số người nói là tội Tác Ác vì có ý định gây trở ngại cho Tăng sự hợp pháp. Một số người nói rằng được phép cho sự đồng thuận giữa Tăng chúng. Nếu nói rằng ngay cả khi đã vào giữa Tăng chúng với sự đồng thuận đã cho rồi lại đi, sự đồng thuận cũng không bị hủy bỏ? Bị hủy bỏ. Tại sao? Vì mâu thuẫn với các câu “người xứng đáng cho sự đồng thuận là người ở ngoài tầm tay,” v.v. Nhưng một số người nói rằng trong kinh điển, đã được nói nhắm đến người vượt qua tầm tay với ý muốn cho.

Chandaṃadatvāgamanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc ra đi mà không cho sự đồng thuận đã hoàn tất.

11. Dubbalasikkhāpadavaṇṇanā

11. Giải thích điều học về việc yếu kém

484-5. Adāsīti apaloketvā adāsi. Bhikkhūti ettha te chabbaggiyā attānaṃ parivajjayitvā ‘‘saṅgho’’ti avatvā ‘‘bhikkhū’’ti āhaṃsu. Pariṇāmentīti nenti. Tattha lābhoti paduddhārakaraṇaṃ idha anadhippetassapi yassa kassaci atthuddhāravasena lābhadīpanatthaṃ. Cīvarameva hi idhādhippetaṃ, teneva ‘‘aññaṃ parikkhāraṃ dinnaṃ khīyati, āpatti dukkaṭassā’’ti vuttaṃ. Dinnanti ca parikkhāranti ca bhummatthe upayogavacanaṃ.
484-5. Đã cho: là đã cho mà không thông báo. Về các Tỳ-khưu, ở đây, nhóm Lục sư, trừ chính họ ra, không nói “Tăng chúng” mà nói “các Tỳ-khưu.” Họ chuyển hướng: là họ mang đi. Ở đó, lợi lộc: là để chỉ ra lợi lộc theo cách trích dẫn ý nghĩa của bất kỳ ai, ngay cả khi không được nhắm đến ở đây là việc lấy lại. Vì ở đây chỉ nhắm đến y, chính vì vậy mà đã nói “nếu vật dụng khác đã được cho bị chê bai, thì phạm tội Tác Ác.” Đã được chovật dụng là cách dùng chỉ sự sử dụng trong ý nghĩa địa sở.

Dubbalasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc yếu kém đã hoàn tất.

12. Pariṇāmanasikkhāpadavaṇṇanā

12. Giải thích điều học về việc chuyển hướng

491. Ñātakampi parassa dātukāmaṃ aññassa dāpeti, āpatti eva. Sabbattha āpucchitvā dātukāmaṃ yathāsukhaṃ vicāretuṃ labhati.
491. Ngay cả khi người có ý muốn cho người bà con mà lại cho người khác, thì vẫn phạm tội. Trong mọi trường hợp, người có ý muốn cho sau khi đã hỏi ý kiến được phép xem xét tùy thích.

Pariṇāmanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc chuyển hướng đã hoàn tất.

Samatto vaṇṇanākkamena sahadhammikavaggo aṭṭhamo.

Phẩm Đồng Phạm Hạnh thứ tám, theo trình tự giải thích, đã hoàn tất.

9. Ratanavaggo

9. Phẩm Báu Vật

1. Antepurasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học về hậu cung

494-7. Yathā bhagavantaṃ payirupāsati, evamākārena nārahatāyaṃ puriso pāpo hotuṃ, na hoti pāpoti attho, kāraṇatthaṃ vā. Tanti nipātamattaṃ, yatoti vā attho. Hatthisammaddanti saṅghāṭasammaddo, akkamanaṃ cuṇṇatāti attho.
494-7. Giống như người ấy hầu cận Đức Thế Tôn, theo cách đó, người đàn ông này không thể là người xấu, có nghĩa là không phải là người xấu, hoặc là vì lý do. Đó: chỉ là một trợ từ, hoặc có nghĩa là “do đó.” Sự va chạm của voi: là sự va chạm của y tăng-già-lê, có nghĩa là sự giẫm đạp, nghiền nát.

498. Ratanaṃ nāma aggamahesī, tathāpi idha aññāpi devigottā na rakkhati, anāpattivāre ‘‘na mahesī hotī’’ti vacanābhāvato. Sace khattiyova hoti, nābhisitto. Abhisittoyeva hoti, na khattiyo rakkhatīti ācariyo. Anāpattivāre mātikāṭṭhakathāyaṃ aṅgabhāvena ca vuttattā abhisittabhāvovapamāṇaṃ. Sesaṃ ukkaṭṭhaparicchedoti eke.
498. Báu vật là hoàng hậu, tuy nhiên ở đây, ngay cả những người thuộc dòng dõi hoàng tộc khác cũng không bảo vệ, vì trong phần không có tội không có lời nói “không phải là hoàng hậu.” Vị đạo sư nói rằng nếu là người dòng dõi vua, nhưng chưa được tấn phong. Nếu đã được tấn phong, nhưng không phải là người dòng dõi vua, thì bảo vệ. Trong phần không có tội, trong chú giải đề mục, do đã được nói là một yếu tố, nên tình trạng đã được tấn phong là tiêu chuẩn. Một số người nói rằng phần còn lại là giới hạn tối đa.

500-501. ‘‘Na sayanighare sayanigharasaññī’’ti tikacchedopi ettha labbhati. Na sayanigharaṃ nāma aparikkhittarukkhamūlādi.
500-501. “Không phải là phòng ngủ mà có tưởng là phòng ngủ,” sự phân chia theo ba cách này cũng được áp dụng ở đây. Không phải là phòng ngủ là dưới gốc cây không có rào chắn, v.v.

Antepurasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về hậu cung đã hoàn tất.

2. Ratanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học về báu vật

504. ‘‘Adhivāsentu gahapatino bhatta’’nti ca ‘‘me gahapatino’’ti ca atthi.
504. Có bản đọc “các gia chủ hãy chấp nhận bữa ăn” và “của các gia chủ của tôi.”

506. Kurundivacanena gharepi yadi bhikkhū āsaṅkanti, tattha ṭhatvā ācikkhitabbanti vuttaṃ hoti. Patirūpāti ‘‘ratanasammate paṃsukūlaggahaṇaṃ vā ratane nirussukkagamanaṃ vā’’ti likhitaṃ. ‘‘Tāvakālikavasenapi anāmāsaṃ paṭiggaṇhituṃ na labhatī’’ti vadanti. Samādapetvāti yācitvā ‘‘uddissa ariyā tiṭṭhanti, esā ariyāna yācanā’’ti (jā. 1.7.59) vuttanayena.
506. Bằng lời của Kurundi, có nghĩa là ngay cả trong nhà, nếu các Tỳ-khưu nghi ngờ, thì phải đứng ở đó và nói rõ. Phù hợp: “việc nhặt đồ phấn tảo được coi là báu vật hoặc việc đi mà không có lòng tham đối với báu vật” đã được viết. Các vị nói rằng “ngay cả khi chỉ mượn tạm thời, cũng không được phép nhận vật không thể chạm vào.” Sau khi thuyết phục: là sau khi xin theo cách đã nói “các bậc thánh đứng đó để được cúng dường, đây là sự xin của các bậc thánh” (jā. 1.7.59).

Ratanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về báu vật đã hoàn tất.

3. Vikālagāmappavisanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học về việc vào làng phi thời

511-2. Ahinā ḍaṭṭhavatthumhi so bhikkhu santaṃ bhikkhuṃ anāpucchā gato, tassa kukkuccaṃ udapādi. Adinnādāne vuttanayenāti gāmo gāmūpacāroti idaṃ sandhāya vuttaṃ.
511-2. Trong câu chuyện bị rắn cắn, Tỳ-khưu đó đã đi mà không hỏi ý kiến Tỳ-khưu có mặt, vị ấy đã phát sanh sự áy náy. Theo cách đã nói trong tội trộm cắp: đã được nói nhắm đến điều này: làng và phạm vi của làng.

Vikālagāmappavisanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về việc vào làng phi thời đã hoàn tất.

4. Sūcigharasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học về hộp kim

517. Tanti bhedanakaṃ. Assāti pācittiyassa paṭhamaṃ bhedanakaṃ katvā pacchā desetabbattā. Esa nayo itaresupi.
517. Cái đó: là vật để phá. Của nó: là của tội Ưng Đối Trị, vì phải làm vật để phá trước rồi mới sám hối. Cách này cũng áp dụng cho các trường hợp khác.

520. Vāsijaṭeti vāsidaṇḍake.
520. Cán rìu: là cán rìu.

Sūcigharasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về hộp kim đã hoàn tất.

5. Mañcasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học về giường

521-2. ‘‘Ucce mañce’’ti ca ‘‘uccā mañce’’ti ca katthaci. Āyatoti vitthato. Aṭṭhaṅgulapādakanti bhāvanapuṃsakaṃ, aṭṭhaṅgulappamāṇaṃ pādakaṃ vā.
521-2. Ở đâu đó có bản đọc “trên giường cao” và “cao trên giường.” Chiều dài: là chiều rộng. Chân giường tám ngón tay: là trung tính theo nghĩa hành động, hoặc là chân giường có kích thước tám ngón tay.

Mañcasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về giường đã hoàn tất.

6. Tūlonaddhasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học về vật nhồi bông

528. Poṭakitūlanti yaṃ kiñci tiṇatūlaṃ. Paṭilābhena uddāletvā pācittiyaṃ desetabbanti ettha kiñcāpi paṭilābhamatteneva pācittiyanti viya dissati, paribhogeyeva pana āpatti daṭṭhabbā, ‘‘aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjati, āpatti dukkaṭassā’’ti vacanaṃ ettha sādhakaṃ.
528. Bông cỏ: là bất kỳ loại bông cỏ nào. Về câu sau khi nhận được, phải xé ra rồi sám hối tội Ưng Đối Trị, ở đây, mặc dù dường như có tội Ưng Đối Trị chỉ do việc nhận được, nhưng nên hiểu tội chỉ có trong việc sử dụng, lời nói “nhận vật do người khác làm rồi sử dụng, phạm tội Tác Ác” là bằng chứng ở đây.

Tūlonaddhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về vật nhồi bông đã hoàn tất.

7. Nisīdanasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học về tọa cụ

531. Kiñcāpi nisīdanassa jāti na dissati ettha, tathāpi cīvarakkhandhake anuññātattā, ‘‘nava cīvarāni adhiṭṭhātabbānī’’ti ettha ca pariyāpannattā cīvarajātiyevassa jātīti veditabbā. ‘‘Santhatasadisaṃ santharitvāti sadasa’’nti pubbe vuttanisīdanasanthatattā upameti. Lābhe sadasaṃ, alābhe adasampi vaṭṭatīti eke, taṃ na yuttaṃ. ‘‘Nisīdanaṃ nāma sadasaṃ vuccatī’’ti tassa saṇṭhānaniyamanato.
531. Mặc dù ở đây không thấy loại của tọa cụ, tuy nhiên nên được hiểu rằng loại của nó chính là loại y, vì đã được cho phép trong phẩm về y và được bao gồm trong câu “chín loại y phải được chú nguyện.” “Trải giống như tấm lót, nên là cùng loại,” so sánh với tọa cụ đã trải được nói trước đây. Một số người nói rằng khi có thì cùng loại, khi không có thì cả không cùng loại cũng được phép, điều đó không đúng. Vì đã quy định hình dạng của nó bằng câu “tọa cụ được gọi là cùng loại.”

Nisīdanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về tọa cụ đã hoàn tất.

8. Kaṇḍupaṭicchādisikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học về y che ghẻ

539. Yadi kaṇḍupaṭicchādi nāma adhonābhi ubbhajāṇumaṇḍalā uppannakaṇḍupīḷakādipaṭicchādikā adhippetā, tassa sugatassa sugatavidatthiyā dīghaso catasso vidatthiyo tiriyaṃ dveti idampi atimahantaṃ pamāṇaṃ dissati. Sabbo hi puriso attano attano vidatthiyā sattavidatthiko hoti, sugatassa ca ekāvidatthi majjhimassa purisassa tisso vidatthiyo honti, tasmā kaṇḍupaṭicchādi pakatipurisassa pamāṇaṃ āpajjati tiriyaṃ, dīghaso pana diguṇaṃ āpajjatīti. Āpajjatu, ukkaṭṭhaparicchedo tassā, ce icchati, sabbampi sarīraṃ paṭicchādessati, sabbasarīragatasaṅghāṭi viya bahuguṇaṃ katvā nivāsetukāmo nivāsessatīti ayaṃ bhagavato adhippāyo siyā.
539. Nếu y che ghẻ được nhắm đến là y che mụn nhọt, ghẻ lở phát sanh từ dưới rốn đến trên đầu gối, thì kích thước này của Đức Thế Tôn, dài bốn gang, ngang hai gang, cũng dường như quá lớn. Vì tất cả mọi người đều cao bảy gang theo gang của chính mình, và một gang của Đức Thế Tôn bằng ba gang của người trung bình, do đó y che ghẻ của người bình thường sẽ có kích thước ngang bằng, nhưng chiều dài sẽ gấp đôi. Cứ cho là vậy, đó là giới hạn tối đa của nó, nếu muốn, nó sẽ che được cả thân, giống như y tăng-già-lê che cả thân, người muốn mặc nó bằng cách làm cho có nhiều nếp gấp sẽ mặc, đây có thể là ý định của Đức Thế Tôn.

Kaṇḍupaṭicchādisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về y che ghẻ đã hoàn tất.

9. Vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học về y tắm mưa

542. Vassikasāṭikāpi ukkaṭṭhapaṭicchedavasena anuññātā. Vassakāle keci saṅghāṭiparibhogeneva paribhuñjissantīti ayaṃ bhagavato adhippāyo siyā. Kiñcāpi iminā takkena anuññātā, ‘‘appamāṇikāyo kaṇḍupaṭicchādiyo dhārenti, vassikasāṭikāyo dhārentī’’ti imasmiṃ vatthusmiṃ paññattattā pana aññathā puṇṇaparicchedato adhikappamāṇāyo te bhikkhū dhāresunti katvā etaparamatā tāsaṃ anuññātāti veditabbā. Eseva nayo dasamepi.
542. Y tắm mưa cũng đã được cho phép theo giới hạn tối đa. Ý định của Đức Thế Tôn có thể là trong mùa mưa, một số vị sẽ chỉ sử dụng y tăng-già-lê. Mặc dù đã được cho phép theo suy đoán này, nhưng nên được hiểu rằng vì đã được quy định trong câu chuyện “họ mặc y che ghẻ và y tắm mưa không có kích thước,” nên các Tỳ-khưu đó đã mặc những y có kích thước vượt quá giới hạn tối đa, do đó sự cho phép đó là giới hạn cao nhất của chúng. Cách này cũng áp dụng trong điều thứ mười.

Vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về y tắm mưa đã hoàn tất.

10. Nandattherasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học về trưởng lão Nanda

551. Tattha bhisiṃ vā bibbohanaṃ vā karotīti dīghaso bahūnaṃ bhikkhūnaṃ sādhāraṇatthaṃ karotīti yujjati.
551. Ở đó, câu làm nệm hoặc gối phù hợp với việc làm cho nhiều Tỳ-khưu cùng sử dụng theo chiều dài.

Nandattherasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học về trưởng lão Nanda đã hoàn tất.

Samatto vaṇṇanākkamena ratanavaggo navamo.

Phẩm Báu Vật thứ chín, theo trình tự giải thích, đã hoàn tất.

Pācittiyakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích Phẩm Ưng Đối Trị đã hoàn tất.

6. Pāṭidesanīyakaṇḍo

6. Phẩm Cần Phải Sám Hối

1. Paṭhamapāṭidesanīyasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học thứ nhất về việc cần phải sám hối

553-5. ‘‘Paṭidesetabbākāradassana’’nti aṭṭhakathāyaṃ vuttattā pāḷiyaṃ āgatavaseneva āpatti desetabbā, na aññathā. ‘‘Antaraghare antaragharasaññī’’tiādinā ca ‘‘khādanīyabhojanīye akhādanīyaabhojanīyasaññī’’tiādinā ca ‘‘bhikkhuniyā abhikkhunisaññī’’tiādinā ca nayena aparepi tayo tikacchedā yojetvā dassetabbā.
553-5. Vì trong chú giải đã nói “chỉ ra cách thức cần phải sám hối,” nên phải sám hối tội theo cách đã đến trong kinh điển, không phải cách khác. Và nên chỉ ra bằng cách kết hợp thêm ba bộ ba phân chia khác theo nguyên tắc “trong nhà mà có tưởng là trong nhà,” v.v., và “trong đồ ăn thức uống mà có tưởng không phải là đồ ăn thức uống,” v.v., và “trong Tỳ-khưu-ni mà có tưởng không phải là Tỳ-khưu-ni,” v.v.

Paṭhamapāṭidesanīyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ nhất về việc cần phải sám hối đã hoàn tất.

2. Dutiyapāṭidesanīyasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học thứ hai về việc cần phải sám hối

559. ‘‘Nimantitā bhuñjantīti pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarena bhojanena nimantitā bhuñjantī’’ti kiñcāpi vuttaṃ, atha kho akappiyanimantanena nimantitatā ettha na aṅgaṃ, mātikāṭṭhakathāyaṃ vā idha vā anāpattivāre lesābhāvato, tasmā ‘‘nimantitā’’ti padassa attho pubbe āciṇṇavaseneva vutto. Aparepi tayo tikacchedā yojetvā dassetabbā padabhājane vuttattāti veditabbaṃ. Yathā tathā hi bhuñjantānaṃ tādisaṃ bhikkhuniṃ avārentānaṃ pāṭidesanīyameva. ‘‘Esā vosāsati nāma, vosāsantī’’ti ca duvidho pāṭho. ‘‘Ajjhohāre ajjhohāre’’ti vacanena puna ‘‘gārayhaṃ āvuso dhamma’’nti ekavacanaṃ viruddhanti. Paṭhamaṃ ajjhohāreyeva āpannaṃ sandhāya vuttaṃ, tathā aññatrāpi āgacchati ‘‘āpajjimhā’’ti vacanato. Ekena bahūnampi vaṭṭatīti keci, taṃ na sundaraṃ. ‘‘Tehi bhikkhūhī’’tiādinā pāṭhe vuttattāti mama takko. Ekena saheva ‘‘ahaṃ āpajji’’ntipi vattabbanti ekena dvīhi tīhi desetabbato, sabbehi evaṃ vattuṃ vaṭṭati. ‘‘Āpajjimhāti sahevā’’ti vadanti. Ekena ce avārito, ‘‘ahaṃ, āvuso, gārayhaṃ dhammaṃ āpajji’’ntipi vattabbaṃ.
559. Mặc dù đã nói “được mời rồi ăn, là được mời bằng một trong năm loại thực phẩm rồi ăn,” tuy nhiên, việc được mời bằng lời mời không hợp lệ ở đây không phải là một yếu tố, vì không có dấu hiệu trong chú giải đề mục hoặc trong phần không có tội ở đây, do đó ý nghĩa của từ “được mời” đã được nói theo cách đã quen thuộc trước đây. Nên được hiểu là thêm ba bộ ba phân chia khác nên được kết hợp và chỉ ra vì đã được nói trong phần phân tích từ. Vì đối với những người ăn theo cách nào đi nữa, việc không ngăn cản một Tỳ-khưu-ni như vậy chắc chắn là tội cần phải sám hối. Có hai bản đọc “đây được gọi là sự buông thả, đang buông thả.” Bằng lời nói “cho mỗi miếng ăn,” lời nói một ngôi “thưa hiền giả, pháp đáng bị chê trách” trở nên mâu thuẫn. Đã được nói nhắm đến tội đã phạm ngay từ miếng ăn đầu tiên, cũng vậy, ở nơi khác cũng có câu “chúng tôi đã phạm.” Một số người nói rằng một người cũng được phép cho nhiều người, điều đó không hay. Suy đoán của tôi là vì đã được nói trong bản văn bằng câu “bởi các Tỳ-khưu đó,” v.v. Cùng với một người, cũng có thể nói “tôi đã phạm,” do đó một người, hai người, ba người có thể sám hối, tất cả đều được phép nói như vậy. Các vị nói “chúng tôi đã phạm là cùng nhau.” Nếu không bị một người ngăn cản, cũng phải nói “thưa hiền giả, tôi đã phạm một pháp đáng bị chê trách.”

Dutiyapāṭidesanīyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ hai về việc cần phải sám hối đã hoàn tất.

562-570. Tatiyacatutthasikkhāpadāni uttānatthāniyeva.
562-570. Các điều học thứ ba và thứ tư có ý nghĩa rõ ràng.

Pāṭidesanīyakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích Phẩm Cần Phải Sám Hối đã hoàn tất.

7. Sekhiyakaṇḍo

7. Phẩm Các Điều Học

1. Parimaṇḍalavaggavaṇṇanā

1. Giải thích phẩm Mặc Y Chỉnh Tề

576. ‘‘Sikkhitasikkhenāti catūhi maggehī’’ti vuttaṃ. Yasmā aṭṭhaṅgulamattaṃ otāretvā nivatthameva nisinnassa caturaṅgulamattaṃ hoti, tasmā ubhopete aṭṭhakathāvādā ekaparicchedā, ‘‘aḍḍhateyyahattha’’nti sukhumaṃ, ekapattaṃ vā sandhāya vuttaṃ. Tañhi yathāṭhānena tiṭṭhati. Dupaṭṭaṃ sandhāya ‘‘dvihatthappamāṇampī’’ti vuttanti upatissatthero. Ekapaṭṭaṃ, dvipaṭṭaṃ vā heṭṭhimaparicchedena ‘‘dvihatthappamāṇa’’nti vuttanti veditabbaṃ. Vuttañhi nissaggiyaaṭṭhakathāyaṃ ‘‘tiriyaṃ dvihatthopi vaṭṭatī’’ti, tañca kho alābhe eva ‘‘alābhe tiriyaṃ dvihatthappamāṇampi vaṭṭatī’’ti vuttattā. Idaṃ sabbaṃ adhiṭṭhānupagaṃ sandhāya vuttaṃ. Viruddhaṃ disvā sajjetabbaṃ. No ce sajjeti, dukkaṭaṃ. Sacittakaṃ paṇṇattivijānanacitteneva ‘‘anādariyaṃ paṭiccā’’ti vuttattā, na vatthuvijānanacittena ‘‘idamevaṃ kata’’nti jānatopi āpattiyā abhāvato. Phussadevattheravādopi ekena pariyāyena yujjati. Tathā upatissattheravādopi. Paññattepi sikkhāpade apaññattepi yaṃ pakatiyā vajjaṃ, taṃ lokavajjaṃ. Idaṃ pana paññatteyeva vajjaṃ, nāpaññatte, tasmā itaralokavajjena asadisattā na lokavajjaṃ. Paṇṇattito paṭṭhāya vajjato paṇṇattivajjaṃ. Anādariyacitteneva āpajjitabbattā sacittakaṃ, tassa cittassa tivedanattā tivedanaṃ. Yasmā anādariyacittatā nāma kevalaṃ akusalameva, tañca pakatiyā vajjaṃ, tasmā idaṃ lokavajjaṃ. Sañcicca vītikkamanaṃ nāma domanassikasseva hotīti dukkhavedanaṃ. Gaṇṭhipade pana ‘‘pāṇātipātādi viya nivāsanādidoso lokagarahito na hotīti paṇṇattivajjanti phussadevatthero’’ti likhitaṃ.
576. “Bởi người đã học các điều học”: đã được nói là “bằng bốn thánh đạo.” Bởi vì chỉ khi mặc y thấp xuống tám ngón tay, khi ngồi mới là bốn ngón tay, do đó cả hai quan điểm chú giải này là một, “hai tay rưỡi” đã được nói nhắm đến y một lớp mỏng. Vì y đó đứng yên đúng vị trí. Trưởng lão Upatissa nói rằng “ngay cả kích thước hai tay” đã được nói nhắm đến y hai lớp. Nên được hiểu là y một lớp hoặc hai lớp đã được nói là “kích thước hai tay” theo giới hạn thấp nhất. Thật vậy, trong chú giải về tội Xả Ưng Đối Trị đã nói “ngang hai tay cũng được phép,” và điều đó chỉ khi không có, vì đã nói “khi không có, ngang hai tay cũng được phép.” Tất cả những điều này đã được nói nhắm đến vật có thể chú nguyện. Thấy có sự mâu thuẫn thì phải sửa lại. Nếu không sửa, thì phạm tội Tác Ác. Có tâm chỉ bằng tâm biết quy định, vì đã nói “do không tôn trọng,” không phải bằng tâm biết vật, vì không có tội ngay cả khi biết “cái này đã được làm như vậy.” Quan điểm của trưởng lão Phussadeva cũng phù hợp theo một cách. Cũng vậy quan điểm của trưởng lão Upatissa. Dù trong điều học đã quy định hay chưa quy định, cái gì tự nhiên là lỗi, cái đó là lỗi của thế gian. Nhưng cái này chỉ là lỗi khi đã quy định, không phải khi chưa quy định, do đó không giống với lỗi của thế gian khác, nên không phải là lỗi của thế gian. Từ khi quy định mà có lỗi, nên là lỗi do quy định. Chỉ phạm tội với tâm không tôn trọng, nên là có tâm, vì tâm đó có ba thọ, nên là ba thọ. Bởi vì tâm không tôn trọng chỉ là bất thiện, và đó tự nhiên là lỗi, do đó đây là lỗi của thế gian. Sự cố ý vi phạm chỉ xảy ra với người có tâm sân, nên là khổ thọ. Nhưng trong sách chú giải đã viết “trưởng lão Phussadeva nói rằng lỗi trong việc mặc y, v.v., không bị thế gian chê trách như việc sát sanh, v.v., nên là lỗi do quy định.”

577. Vihārepīti buddhupaṭṭhānādikāle, tasmā ‘‘pārupitabba’’nti uttarāsaṅgakiccavasena vuttaṃ. Paṭhamadutiyasikkhāpadesu pariḷāhādipaccayā kappati, na antaragharapaṭisaṃyuttesu.
577. Ngay cả trong tự viện: là vào lúc hầu cận Đức Phật, v.v., do đó “phải choàng” đã được nói theo phận sự của y vai trái. Trong các điều học thứ nhất và thứ hai, được phép do các duyên như nóng nực, v.v., không phải trong những điều liên quan đến nhà dân.

582. ‘‘Ekasmiṃpana ṭhāne ṭhatvā’’ti ettha ‘‘gacchantopi parissayābhāvaṃ oloketuṃ labhatiyeva. Tathā gāme pūja’’nti likhitaṃ, taṃ pana ‘‘ekasmiṃ ṭhāne ṭhatvā’’ti vuttattā tādisaṃ antarāyaṃ sandhāya vuttanti veditabbaṃ.
582. Về câu “đứng ở một nơi,” ở đây đã viết “ngay cả khi đang đi cũng được phép nhìn để xem có nguy hiểm không. Cũng vậy, sự cúng dường trong làng.” Nhưng nên được hiểu rằng đã được nói nhắm đến một sự nguy hiểm như vậy, vì đã nói “đứng ở một nơi.”

Parimaṇḍalavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Mặc Y Chỉnh Tề đã hoàn tất.

2. Ujjagghikavaggavaṇṇanā

2. Giải thích phẩm Cười Lớn

586. Hasanīyasminti hetvatthe bhummaṃ, hasitabbavatthukāraṇāti attho. Antaraghare uccāsaddena anumodanādiṃ karontassa anāpatti kira. Tathā hi mahindattheropi hatthisālādīsu mahājanassa kathesi.
586. Trong điều đáng cười: là cách dùng địa sở cách với nghĩa nguyên nhân, có nghĩa là do nguyên nhân là vật đáng cười. Dường như không có tội đối với người tùy hỷ, v.v., bằng tiếng lớn trong nhà dân. Thật vậy, trưởng lão Mahinda cũng đã thuyết giảng cho đại chúng ở chuồng voi, v.v.

591. Keci bhikkhū ‘‘parikkhāraṭṭhapanamattena vāsūpagato hotī’’ti vadanti, taṃ tesaṃ matimattameva. Bhikkhuniyo ce vāsūpagā honti, bhikkhunupassayova kappiyabhūmi. ‘‘Yattha bhikkhuniyo ekarattampi vasanti, ayaṃ bhikkhunupassayo’’ti (pāci. 161) vacanato tāsaṃ samīpaṃ vā tāhi gahitavāsāgāraṃ vā ‘‘gacchāmī’’ti gacchato yathāsukhaṃ gantuṃ vaṭṭati. Na hi tāvatā taṃ gharaṃ antaragharasaṅkhyaṃ gacchatīti no takkoti ācariyo.
591. Một số Tỳ-khưu nói rằng “chỉ cần đặt vật dụng là đã vào mùa an cư,” đó chỉ là ý kiến của họ. Nếu các Tỳ-khưu-ni vào mùa an cư, thì trú xứ của Tỳ-khưu-ni là đất hợp lệ. “Nơi nào các Tỳ-khưu-ni ở dù chỉ một đêm, đó là trú xứ của Tỳ-khưu-ni” (pāci. 161), vị đạo sư không nghĩ rằng người đi đến gần họ hoặc đến nhà ở mà họ đã nhận với ý định “tôi sẽ đi” được phép đi tùy thích. Vì bấy nhiêu đó không làm cho ngôi nhà đó trở thành nhà dân.

Ujjagghikavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Cười Lớn đã hoàn tất.

3. Khambhakatavaggavaṇṇanā

3. Giải thích phẩm Chống Nạnh

604. Sūpo pattappamāṇavaṇṇanāyaṃ vuttākāro. Oloṇī vuccati kudhitaṃ, gorasato pūrā thūpitoti attho.
604. Súp có hình dạng đã được nói trong giải thích về kích thước của bát. Được đổ đầy được gọi là đã nấu chín, có nghĩa là được đổ đầy cho đến khi vun lên từ các sản phẩm sữa.

605. Heṭṭhā orohatīti ettha ‘‘orohanappamāṇe sati ekadese thūpīkatepi anāpattī’’ti vadanti. ‘‘Pattassa pana heṭṭhā ca upari ca paduminipaṇṇādīhi paṭicchādetvā odahantiyā laddhaṃ nāma vaṭṭatī’’ti ca vadanti. Ettha ‘‘yasmā ‘samatittiko piṇḍapāto paṭiggahetabbo’ti vacanaṃ piṇḍapāto samapuṇṇo paṭiggahetabboti dīpeti, tasmā attano hatthagate patte piṇḍapāto diyyamāno thūpīkatopi ce hoti, vaṭṭatīti dīpeti. ‘Thūpīkataṃ piṇḍapātaṃ paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassā’ti hi vacanaṃ paṭhamaṃ thūpīkataṃ piṇḍapātaṃ pacchā paṭiggaṇhato, āpattīti dīpeti. Pattena paṭiggaṇhato cepi thūpīkataṃ hoti, vaṭṭati athūpīkatassa paṭiggahitattā. Payogo pana natthi aññatra pubbadesā’’ti ca ‘‘samatittikanti vā bhāvanapuṃsaka’’nti ca vadanti, tasmā vicāretvā gahetabbaṃ.
605. Về câu hạ xuống dưới, ở đây các vị nói rằng “khi có kích thước hạ xuống, ngay cả khi chỉ vun lên ở một phần, cũng không có tội.” Và các vị nói rằng “nhưng được phép nhận vật được dâng sau khi đã che đậy ở dưới và ở trên bát bằng lá sen, v.v.” Ở đây, các vị nói rằng “vì câu ‘phải nhận vật khất thực bằng miệng bát’ cho thấy rằng phải nhận vật khất thực đầy bằng, do đó cho thấy rằng ngay cả khi vật khất thực được dâng vào bát trong tay mình mà có vun lên, cũng được phép. Vì câu ‘nhận vật khất thực đã được vun lên, phạm tội Tác Ác’ cho thấy rằng người nhận sau vật khất thực đã được vun lên trước, thì phạm tội. Ngay cả khi nhận bằng bát mà có vun lên, cũng được phép vì đã nhận vật chưa được vun lên. Nhưng không có cách thực hành nào khác ngoài các nước phía Đông,” và “hoặc ‘bằng miệng bát’ là trung tính theo nghĩa hành động,” do đó cần phải xem xét rồi mới chấp nhận.

Khambhakatavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Chống Nạnh đã hoàn tất.

4. Sakkaccavaggavaṇṇanā

4. Giải thích phẩm Cung Kính

609. Sūpodanaviññattisikkhāpade ‘‘sūpo nāma dve sūpā’’ti na vuttaṃ sūpaggahaṇena paṇītabhojanehi avasesānaṃ sabbabhojanānaṃ saṅgaṇhanatthaṃ. Anāpattivāre cassa ‘‘ñātakānaṃ pavāritānaṃ aññassatthāya attano dhanenā’’ti idaṃ adhikaṃ. Katthaci potthake ‘‘anāpatti asañcicca asatiyā ajānantassa gilānassa āpadāsū’’ti ettakameva vuttaṃ, taṃ na, ‘‘samasūpakaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī’’ti imassa anāpattivāre ‘‘aññassatthāyā’’ti katthaci likhitaṃ, tañca pamādavasena likhitaṃ. ‘‘Mukhe pakkhipitvā puna vippaṭisārī hutvā ogilitukāmassapi sahasā ce pavisati, ettha ‘asañciccā’ti vuccati. Viññattampi aviññattampi ekasmiṃ ṭhāne ṭhitaṃ sahasā anupadhāretvā gahetvā bhuñjanto ‘asatiyā’ti vuccatī’’ti likhitaṃ, anāpattivāre ekaccesu potthakesu ‘‘rasaraseti likhitaṃ, taṃ gahetabba’’nti vuttaṃ.
609. Trong điều học về việc xin súp và cơm, không nói “súp là hai loại súp” để bao gồm tất cả các loại thực phẩm còn lại ngoài các thực phẩm hảo hạng bằng việc lấy súp. Trong phần không có tội của điều này, “của những người bà con, những người đã được tự tứ, vì lợi ích của người khác, bằng của cải của mình” là phần thêm. Ở đâu đó trong sách đã nói bấy nhiêu là “không có tội đối với người không cố ý, không có niệm, không biết, người bệnh, trong những lúc hoạn nạn,” điều đó không phải, trong phần không có tội của điều này “tôi sẽ ăn vật khất thực có súp bằng nhau,” ở đâu đó đã viết “vì lợi ích của người khác,” và đó đã được viết do sơ suất. “Sau khi bỏ vào miệng, rồi lại hối hận, ngay cả khi muốn nuốt, nếu nó tự vào, ở đây được gọi là ‘không cố ý.’ Người không suy xét kỹ mà lấy và ăn vật đã xin hoặc chưa xin ở cùng một nơi, được gọi là ‘không có niệm,’” đã được viết. Trong phần không có tội, trong một số sách đã viết “vì hương vị,” nên lấy điều đó.

Sakkaccavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Cung Kính đã hoàn tất.

5. Kabaḷavaggavaṇṇanā

5. Giải thích phẩm Vắt Cơm

618. ‘‘Sabbaṃ hattha’’nti vacanato ekadesaṃ mukhe pakkhipantassa anāpattīti ekacce. ‘‘Sabbanti vacanato ekadesampi na vaṭṭatī’’ti vadanti, taṃ yuttaṃ anāpattivāre avisesitattā.
618. Về “toàn bộ bàn tay,” một số người nói rằng không có tội đối với người bỏ một phần vào miệng. Các vị nói rằng “sabbaṃ, ngay cả một phần cũng không được phép,” điều đó đúng vì không có sự phân biệt trong phần không có tội.

624. Sitthāvakārake ‘‘kacavaraṃ chaḍḍentaṃ sitthaṃ chaḍḍiyyatī’’ti ca ‘‘kacavaraṃ chaḍḍento’’ti ca pāṭho.
624. Về chỗ bỏ cơm thừa, có bản đọc là “khi vứt rác, cơm bị vứt theo” và “khi vứt rác.”

Kabaḷavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Vắt Cơm đã hoàn tất.

6. Surusuruvaggavaṇṇanā

6. Giải thích phẩm Ăn Sột Soạt

627. ‘‘Surusuru’’nti ca ‘‘surosuro’’ti ca pāṭho. Sītīkatoti sītaṅko. ‘‘Silakabuddhoti ariyānaṃ parihāsavacanameveta’’nti likhitaṃ.
627. Có bản đọc “sột soạt” và “soạt soạt.” Đã được làm nguội: là đã làm nguội. “Vị Phật bằng đá: đây chỉ là lời nói đùa của các bậc thánh,” đã được viết.

631. Paṭikkūlavasenāti ettha yadi paṭikkūlavasena paṭikkhittaṃ, ‘‘seyyathāpi kāmabhogino’’ti na vattabbaṃ. Na hi te paṭikkūlaṃ karontīti ce? Na, issariyaliṅgavasena gahaṇasambhavato. Te hi anādarā honti. Pattadhovananti pattadhovanodakaṃ bhojanapaṭisaṃyuttaṃ.
631. Về do ghê tởm, ở đây, nếu đã từ chối do ghê tởm, thì không nên nói “giống như những người hưởng thụ dục lạc.” Nếu nói rằng vì họ không làm điều ghê tởm? Không phải, vì có thể lấy theo dấu hiệu của sự quyền quý. Vì họ không tôn trọng. Nước rửa bát: là nước rửa bát liên quan đến việc ăn uống.

634. ‘‘Chattapādukāya’’nti ca ‘‘chattapāde’’ti ca pāṭho.
634. Có bản đọc “với lọng và dép” và “lọng và chân.”

637. Cāpoti sattakhādanavadho. ‘‘Sesā sabbā dhanuvikati kodaṇḍe paviṭṭhā’’ti ca likhitaṃ, paṭimukkanti pavesitaṃ, laggitaṃ hotīti attho.
637. Cung: là sự giết hại bằng bảy loại vũ khí. “Tất cả các loại cung khác đều được bao gồm trong cung,” đã được viết. Đã được đeo: là đã được đưa vào, có nghĩa là đã được gắn vào.

Surusuruvaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Ăn Sột Soạt đã hoàn tất.

7. Pādukavaggavaṇṇanā

7. Giải thích phẩm Dép

640. Sayaṃ yānagato hutvā, yathā yānagatassa ve.
640. Tự mình đi trên xe, giống như người đi trên xe.

Alaṃ vattuṃ tathā nālaṃ, sachatto chattapāṇino.
Không thể nói như vậy, đối với người cầm lọng.

Yathā ettha, evaṃ aññatrāpi.
Giống như ở đây, cũng vậy ở nơi khác.

647. Chapakavatthusmiṃ ‘‘sacāhaṃ na labhissāmī’’ti pāṭho, ‘‘dasa ce na labhissāmī’’ti ca atthi, ‘‘vatthusmiṃ agilānassā’’ti ca āgacchati, taṃ na sundaraṃ, sikkhāpadeyeva sundaraṃ. Thomitoti ahampi jānāmīti sambandho . Yā dhanayasalābhasaṅkhātā vutti vinipātena hoti samparāye apāyesu vinipātahetu hutvā pavattati. Atha vā vinipātenāti hetvatthe karaṇavacanaṃ, vinipātanāya pavattatīti adhippāyo. Adhammacaraṇena adhammacaraṇāya. ‘‘Asmā kumbhimivā’’ti ca paṭhanti.
647. Trong câu chuyện về Chapaka, có bản đọc “nếu tôi không nhận được,” và cũng có bản đọc “nếu không nhận được mười,” và “trong câu chuyện, đối với người không bệnh” cũng có, điều đó không hay, trong điều học thì hay. Được ca ngợi: tôi cũng biết, nên kết hợp như vậy. Sự sống bằng sự sa đọa được gọi là lợi lộc về của cải và danh vọng xảy ra do sự sa đọa, tồn tại bằng cách trở thành nguyên nhân của sự sa đọa trong các cõi dữ ở đời sau. Hoặc bằng sự sa đọa: là cách dùng công cụ cách với nghĩa nguyên nhân, ý định là tồn tại do sự sa đọa. Bằng sự hành xử phi pháp: vì sự hành xử phi pháp. Cũng có người đọc là “từ chúng ta như từ cái nồi.”

Pādukavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Dép đã hoàn tất.

Pakiṇṇakavaṇṇanā

Giải thích các điều lặt vặt

Kāyavācācittato samuṭṭhahantīti katvā ‘‘samanubhāsanasamuṭṭhānānī’’ti vuttāni. Samanubhāsanaṃ kiriyaṃ. Imāni kiriyāni. Dhammadesanasamuṭṭhānāni vācācittatoti ettha kāyavacīviññattibhāvato ujjagghikauccāsaddādīsu viya ‘‘kāyavācācittato’’ti vattabbānīti ce? Na vattabbāni. Nisīdanagamanāhārapakkhipanādikāyaviññattiyā sabbhāvā tattha yuttaṃ, na dhammadesane tādisassābhāvā.
Vì chúng sanh khởi từ thân, lời, và ý, nên được gọi là “các điều sanh khởi từ sự khiển trách.” Sự khiển trách là hành động. Những điều này là hành động. Về câu các điều sanh khởi từ việc thuyết pháp là từ lời và ý, ở đây, nếu nói rằng vì có thân biểu tri và lời biểu tri, nên phải nói là “từ thân, lời, và ý,” giống như trong việc cười lớn, nói lớn tiếng, v.v.? Không cần nói. Ở đó, điều đó đúng vì có thân biểu tri như ngồi, đi, bỏ thức ăn vào, v.v., còn trong việc thuyết pháp thì không có điều tương tự.

Pakiṇṇakavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích các điều lặt vặt đã hoàn tất.

Sekhiyakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích Phẩm Các Điều Học đã hoàn tất.

8. Sattādhikaraṇasamathavaṇṇanā

8. Giải thích bảy cách dập tắt tranh cãi

‘‘Yebhuyyasikā kātabbā…pe… tiṇavatthārako kātabbo, so puggalo’’ti ca likhitaṃ.
“Phải thực hiện theo đa số… phải thực hiện bằng cách phủ cỏ, người đó,” đã được viết.

Sattādhikaraṇasamathavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích bảy cách dập tắt tranh cãi đã hoàn tất.

Bhikkhuvibhaṅgo niṭṭhito.

Phân Tích Tỳ-khưu đã hoàn tất.

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Chánh Giác

Bhikkhunīvibhaṅgavaṇṇanā

Giải thích Phân Tích Tỳ-khưu-ni

1. Pārājikakaṇḍavaṇṇanā

1. Giải thích Phẩm Bất Cộng Trụ

Ganthārambhavaṇṇanā

Giải thích phần mở đầu

Vibhaṅge viya bhikkhūnaṃ, vitthāramabhisaṅkhataṃ;
Akatvā bhikkhunīnampi, vakkhe gaṇṭhipadakkamaṃ.
Giống như trong Phân Tích của các Tỳ-khưu, đã được giải thích chi tiết;
Không làm vậy, đối với các Tỳ-khưu-ni, tôi sẽ nói về trình tự chú giải.

Yo bhikkhunīnaṃ vibhaṅgo assa, tassa saṃvaṇṇanākkamo pattoti attho.
Có nghĩa là đã đến lúc giải thích về Phân Tích của các Tỳ-khưu-ni.

Ganthārambhavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phần mở đầu đã hoàn tất.

1. Paṭhamapārājikasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học Bất Cộng Trụ thứ nhất

656-7. Tattha tattha ṭhānuppattikapaññā vīmaṃsā. Padapaṭipāṭiyā evāti mātikāpadapaṭipāṭiyā eva. ‘‘Vuttanti saṅgītikānaṃ upasaṅkappanānaṃ vibhājanaṃ vutta’’nti likhitaṃ.
656-7. Ở các nơi đó, trí tuệ phát sanh tùy theo trường hợp là sự xem xét. Chính theo thứ tự các từ: là chính theo thứ tự các từ trong đề mục. “Đã được nói: là sự phân tích các sự tổng hợp của những người kết tập đã được nói,” đã được viết.

658. ‘‘Ehibhikkhunīti bhikkhunī, tīhi saraṇagamanehi upasampannāti bhikkhunī’’ti idaṃ pana desanāvilāsavasena vuttanti eke. Aññabuddhakāle atthīti eke, taṃ na yuttaṃ viya dissati amhākampi buddhakāle sambhavappasaṅgato, ehibhikkhuniyā paṭisedhachāyādissanato ca. Yathāha dhammapade visākhāvatthusmiṃ (dha. pa. aṭṭha. 1. visākhāvatthu) ‘‘tassa cīvaradānassa nissandena imaṃ mahālatāpasādhanaṃ labhi. Itthīnañhi cīvaradānaṃ mahālatāpasādhanabhaṇḍena matthakaṃ pappoti, purisānaṃ iddhimayapattcīvarenā’’ti. Tīhi saraṇagamanehi upasampannāya pana bhikkhuniyā sambhavo aññabuddhakāle kadāci siyā, nattheva amhākaṃ buddhakāle. Desanāvilāsena pana bhikkhudesanākkameneva bhikkhuniniddeso vutto, teneva bhikkhusaṅghavasena ekatoupasampannā bhikkhuniyo vijjamānāpi tattha na vuttā. Tāsaṃ atthitā imāya parivārakathāya veditabbā –
658. Một số người nói rằng “Tỳ-khưu-ni là người đã đến, Tỳ-khưu-ni là người đã thọ cụ túc giới bằng ba lần quy y” đã được nói theo cách nói hoa mỹ. Một số người nói rằng có vào thời của các vị Phật khác, điều đó dường như không đúng vì có nguy cơ xảy ra ngay cả vào thời của vị Phật chúng ta, và vì thấy có dấu hiệu cấm Tỳ-khưu-ni đã đến. Giống như đã nói trong câu chuyện về Visākhā trong Kinh Pháp Cú (dha. pa. aṭṭha. 1. visākhāvatthu): “do kết quả của việc cúng dường y đó, bà đã nhận được bộ trang sức Mahālatā này. Vì đối với phụ nữ, việc cúng dường y đạt đến đỉnh cao với bộ trang sức Mahālatā, còn đối với đàn ông, thì với y và bát do thần thông hóa hiện.” Nhưng sự tồn tại của Tỳ-khưu-ni đã thọ cụ túc giới bằng ba lần quy y có thể có vào thời của các vị Phật khác, nhưng chắc chắn không có vào thời của vị Phật chúng ta. Nhưng theo cách nói hoa mỹ, sự chỉ dẫn về Tỳ-khưu-ni đã được nói theo chính trình tự thuyết giảng về Tỳ-khưu, chính vì vậy mà các Tỳ-khưu-ni đã thọ cụ túc giới cùng lúc theo Tăng chúng Tỳ-khưu, mặc dù có mặt, cũng không được nói đến ở đó. Sự tồn tại của họ nên được biết qua câu chuyện trong Tập Yếu này:

‘‘Ubho ekato upasampannā,
Ubhinnaṃ hatthato cīvaraṃ paṭiggaṇheyya;
Siyā āpattiyo nānā,
Pañhā mesā kusalehi cintitā’’ti. (pari. 479);
“Cả hai đã thọ cụ túc giới cùng một lúc,
Nên nhận y từ tay của cả hai;
Có thể có nhiều tội khác nhau,
Đây là câu hỏi được các người trí suy ngẫm.” (pari. 479);

Atha vā puthujjanakāle ehibhikkhusaraṇagamanena upasampannova itthiliṅgapātubhāvena bhikkhunibhāve ṭhitā purisūpasampannaṃ upādāya ‘‘ehibhikkhunī’’ti, ‘‘tīhi saraṇagamanehi upasampannā bhikkhunī’’ti ca saṅkhyaṃ gacchati . No ce, taṃ vacanaṃ virujjheyyāti eke, vicāretvā gahetabbaṃ. ‘‘Viññū paṭibalo’’ti dvinnaṃ avassavabhāvassa ijjhanato vuttaṃ. Ettha yasmā yaṃ kiñci āmisaṃ paṭiggaṇhantīnaṃ aggahatthā purisānaṃ hatthehi kadāci missībhāvaṃ gacchanti, vandantānaṃ vā purisānaṃ sirāni aggapādehi missitāni kadāci honti, kesacchedanakāle vā siraṃ purisānaṃ hatthehi missitaṃ hoti, cittaṃ nāmetaṃ atiraddhagavesi, durakkhiyaṃ vā, tasmā ‘‘mā atilahuṃ pārājikāpatti bhikkhunīnaṃ hotū’’ti buddhā bhagavanto kāruññena pārājikakkhettaparicchedaṃ, thullaccayakkhettaparicchedañca visuṃ visuṃ desesunti veditabbaṃ.
Hoặc một số người nói rằng người đã thọ cụ túc giới bằng cách đến và quy y vào thời còn là phàm phu, sau khi hiện ra tướng nữ và ở trong thân phận Tỳ-khưu-ni, được kể là “Tỳ-khưu-ni đã đến” và “Tỳ-khưu-ni đã thọ cụ túc giới bằng ba lần quy y” do dựa vào sự thọ cụ túc giới của đàn ông. Nếu không, lời nói đó sẽ bị mâu thuẫn, điều này cần được xem xét và chấp nhận. “Người trí có khả năng” đã được nói do sự thành tựu của tình trạng bắt buộc của cả hai. Ở đây, bởi vì khi nhận bất kỳ thực phẩm nào, tay trên của họ đôi khi chạm vào tay của đàn ông, hoặc khi đảnh lễ, đầu của đàn ông đôi khi chạm vào chân trên của họ, hoặc khi cắt tóc, đầu của họ chạm vào tay của đàn ông, tâm này thì tìm kiếm sự buông thả quá mức, hoặc khó giữ gìn, do đó nên được hiểu rằng các vị Phật, do lòng từ bi, đã thuyết giảng riêng biệt về sự phân định khu vực Bất Cộng Trụ và sự phân định khu vực Trọng Tội, để “tội Bất Cộng Trụ không dễ dàng xảy ra cho các Tỳ-khưu-ni.”

659. Tabbahulanayenasā vuttāti ettha ayamanugaṇṭhipadakkamo – yebhuyyena kiriyasamuṭṭhānattā ‘‘kiriyasamuṭṭhāna’’nti vuttaṃ. ‘‘Kāyasaṃsaggaṃ samāpajjeyyā’’ti avatvā pana ‘‘sādiyeyyā’’ti vuttattā akiriyatopi samuṭṭhātīti veditabbaṃ. Yathā cettha, evaṃ heṭṭhā ‘‘manussitthiyā tayo magge methunaṃ dhammaṃ paṭisevantassa āpatti pārājikassā’’tiādinā nayena kiriyasamuṭṭhānataṃ vatvā tadanantaraṃ ‘‘bhikkhupaccatthikā…pe… so ce pavesanaṃ sādiyati, āpatti pārājikassā’’tiādinā (pārā. 56) nayena akiriyasamuṭṭhānatāyapi vuttattā paṭhamapārājikassāpi tabbahulanayeneva kiriyasamuṭṭhānatā veditabbā. Na hi pavesanasādiyanādimhi kiriyasamuṭṭhānatā dissati. Aṅgajātacalanañcettha na sārato daṭṭhabbaṃ ‘‘so ce pavesanaṃ na sādiyati, paviṭṭhaṃ na sādiyati, ṭhitaṃ na sādiyati, uddharaṇaṃ sādiyati, āpatti pārājikassā’’ti (pārā. 58) ettha ṭhita na sādiyane pakatiyāpi paripuṇṇacalanattā. Sādiyanapaccayā hi sevanacalanañcettha na dissatevāti tabbahulanayeneva kiriyasamuṭṭhānatā gahetabbā. Tattha tattha aṭṭhakathāsu kasmā tabbahulanayo avuttoti ce? ‘‘Yo pana bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyyā’’ti (pārā. 39, 42) mātikāyaṃ kiriyasamuṭṭhānassa sarūpena vuttattā tadanurūpavasena vibhaṅganayamanoloketvā ‘‘kiriyasamuṭṭhāna’’micceva vuttaṃ. Yathā cetesu tabbahulanayena kiriyasamuṭṭhānatā vuttā, tathā surādīnaṃ akusaleneva pātabbatā, na itarathā ‘‘yaṃ akusaleneva āpajjati, ayaṃ lokavajjā, sesā paṇṇattivajjā’’ti (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamapārājikavaṇṇanā) vutte lokavajjapaṇṇattivajjānaṃ niyamanalakkhaṇasiddhi hoti, tathā taṃ avatvā ‘‘yassā sacittakapakkhe cittaṃ akusalameva hoti, ayaṃ lokavajjā. Sesā paṇṇattivajjā’’ti vutte lokavajjavacanaṃ niratthakaṃ siyā vatthuajānanapakkhepi akusaleneva pātabbattā. Yasmā tattha surāpānavītikkamassa akusalacittuppādo natthi, tasmā khandhakaṭṭhakathāyaṃ (mahāva. aṭṭha. 108) ‘‘majjapāne pana bhikkhuno ajānitvāpi bījato paṭṭhāya majjaṃ pivantassa pācittiyaṃ, sāmaṇero jānitvā pivanto sīlabhedaṃ āpajjati, na ajānitvā’’ti vuttaṃ, na vuttaṃ ‘‘vatthuajānanapakkhe pāṇātipātādīnaṃ siddhikaraakusalacittuppādasadise cittuppāde satipi sāmaṇero sīlabhedaṃ nāpajjatī’’ti. Abhinivesavacanaṃ pāṇātipātādīhi samānajātikattā sāmaṇerānaṃ surāpānassa. ‘‘Surādayo panime’’ti vatthuṃ jānitvā pātabbatādivasena vītikkamantassa akusalassa asambhavo natthi. Tena vuttaṃ ‘‘yassa sacittakapakkhe’’tiādi.
659. Về câu điều đó đã được nói theo cách nói chung, ở đây, trình tự chú giải phụ này là: vì thường sanh khởi từ hành động, nên được gọi là “sanh khởi từ hành động.” Nhưng nên được hiểu rằng vì không nói “phạm vào sự tiếp xúc thân thể” mà nói “chấp nhận,” nên cũng sanh khởi từ sự không hành động. Giống như ở đây, cũng vậy ở dưới, sau khi nói về sự sanh khởi từ hành động theo nguyên tắc “đối với người phụ nữ, phạm tội Bất Cộng Trụ khi thực hành pháp giao hợp ở ba đường,” v.v., ngay sau đó, do đã nói về sự sanh khởi từ sự không hành động theo nguyên tắc “những kẻ thù của Tỳ-khưu… nếu người đó chấp nhận sự đưa vào, thì phạm tội Bất Cộng Trụ,” v.v. (pārā. 56), nên nên được hiểu rằng sự sanh khởi từ hành động của tội Bất Cộng Trụ thứ nhất cũng là theo cách nói chung. Vì trong việc chấp nhận sự đưa vào, v.v., không thấy có sự sanh khởi từ hành động. Và sự chuyển động của bộ phận sinh dục ở đây không nên được xem là điều cốt yếu, vì trong câu “nếu người đó không chấp nhận sự đưa vào, không chấp nhận khi đã vào, không chấp nhận khi đang ở trong, chấp nhận sự rút ra, thì phạm tội Bất Cộng Trụ” (pārā. 58), khi không chấp nhận khi đang ở trong, tự nhiên cũng có sự chuyển động hoàn toàn. Vì do duyên chấp nhận, sự chuyển động của việc giao hợp ở đây không thấy có, nên sự sanh khởi từ hành động phải được lấy theo cách nói chung. Nếu hỏi tại sao trong các chú giải ở các nơi đó không nói về cách nói chung? Vì trong đề mục “Tỳ-khưu nào thực hành pháp giao hợp” (pārā. 39, 42), sự sanh khởi từ hành động đã được nói một cách rõ ràng, nên không xem xét đến nguyên tắc phân tích theo cách phù hợp với điều đó, mà chỉ nói là “sanh khởi từ hành động.” Giống như trong những điều này, sự sanh khởi từ hành động đã được nói theo cách nói chung, cũng vậy, việc uống rượu, v.v., chỉ phải uống bằng tâm bất thiện, không phải cách khác, khi nói “cái gì phạm phải chỉ bằng tâm bất thiện, cái đó là lỗi của thế gian, những cái còn lại là lỗi do quy định” (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamapārājikavaṇṇanā), thì sự xác định đặc điểm của lỗi của thế gian và lỗi do quy định được thành tựu. Cũng vậy, nếu không nói điều đó mà nói “cái gì mà trong phe có tâm, tâm chỉ là bất thiện, cái đó là lỗi của thế gian. Những cái còn lại là lỗi do quy định,” thì lời nói về lỗi của thế gian sẽ trở nên vô nghĩa, vì ngay cả trong phe không biết vật, cũng phải uống bằng tâm bất thiện. Bởi vì ở đó không có sự phát sanh của tâm bất thiện trong việc vi phạm uống rượu, do đó trong chú giải về Các phẩm Luật (mahāva. aṭṭha. 108) đã nói “còn trong việc uống rượu, Tỳ-khưu dù không biết mà uống rượu từ hạt giống trở đi, cũng phạm tội Ưng Đối Trị, sa-di biết mà uống thì phạm tội phá giới, không biết thì không,” không nói “trong phe không biết vật, ngay cả khi có sự phát sanh của tâm giống như sự phát sanh của tâm bất thiện gây ra sự thành tựu của việc sát sanh, v.v., sa-di cũng không phạm tội phá giới.” Lời nói về sự cố chấp là do cùng loại với việc sát sanh, v.v., của sa-di trong việc uống rượu. “Còn những thứ rượu này,” không phải là không thể có tâm bất thiện đối với người vi phạm bằng cách biết vật và có thể uống, v.v. Do đó đã nói “cái gì mà trong phe có tâm,” v.v.

Kiñcettha yuttivacanena arahantānaṃ appavisanato sacittakācittakapakkhesu akusalaniyamoti ce? Na, dhammatāvasena sekkhānampi appavisanato. Acittakapakkhe akusalaniyamābhāvadassanatthaṃ supantassa mukhe pakkhittajalabindumiva surābinduādayo udāharitabbāti. Tabbahulanayena hi atthe gahite pubbenāparaṃ aṭṭhakathāya sameti. ‘‘Saddhiṃ pāḷiyā avisesattho parato āvi bhavissatīti apare’’ti vuttaṃ. Idamettha vicāretabbaṃ . Yadi vatthujānanapakkhe vinā akusalena majjapānaṃ siyā, kasmā nāḷimajjhaṃ nātikkamati ariyānaṃ pānakādisaññīnanti? Sīlabhedavatthuvītikkamo vināpi cittena ariyānaṃ dhammatāvaseneva na sambhavatīti ce, na, cakkhupālattheravatthu (dha. pa. aṭṭha. 1.1) ādivirodhatoti. Apica bhikkhunopi sāmaṇerassa viya surāpānaṃ sacittakameva kasmā na jātanti? Appatirūpattāti ce, sāmaṇerānampi appatirūpameva. Sahadhammikā eva hi te. Mahāsāvajjattāti ce? Sāmaṇerānampi tādisameva. Sāmaṇerānaṃ sacittakameva pārājikaṃ, itaraṃ daṇḍakammavatthūti ce? Bhikkhūnampi majjapāne natthi. Ettha tikapācittiyena na bhavitabbaṃ. Majje amajjasaññissa dukkaṭāpatti paññāpetabbā siyā. Bhikkhussa pācittiyavatthu sāmaṇerānaṃ pārājikaṃ hoti tiracchānagatasāmaṇerānaṃ viyāti ce? Acittakampi majjapānādīnaṃ sāmaṇerānaṃ pārājikaṃ paññāpetabbaṃ siyā. Nācittakaṃ pārājikaṃ sambhavatīti ce? Na, paṇṇattivajjampi pārājikaṃ sambhavatīti. Nikāyantarapakkhe ayameva doso. Amhākañhi lokavajjameva majjapānanti. Kasmā panettha surāpānameva dhammatāvasena ariyā na karontīti? Na kevalaṃ surāpānameva dhammatāvasena ariyā na karonti, pāṇesupi kodhavasena pāṇasaññitāya sīsacchedanādīni na karonti, sadārasaññāya paradāraṃ na vītikkamanti, anatthabhañjakasaññāya atthabhañjakamusā na vadanti, sammādiṭṭhisaññāya micchādiṭṭhiṃ na paṭipajjantīti veditabbā. Ācariyāpi surāpāne akusalaniyamābhāvameva vadanti, tasmā eva mātikāṭṭhakathāya gaṇṭhipade lokavajjapaṇṇattivajjādhikāre ‘‘sacittakapakkheakusalanti surāpānādisaṅgahatthaṃ, itarathā yassa akusalamevāti vadeyyā’’ti likhitaṃ. Kiriyasamuṭṭhānatā panassa tabbahulanayameva, na paṭhamapārājike. Kathaṃ? Kāyasaṃsaggasikkhāpadaṃ paṭhamapārājikasamuṭṭhānaṃ. Ettha bhikkhussa ca bhikkhuniyā ca kāyasaṃsaggabhāve sati bhikkhunī kāyaṅgamacopayamānāpi citteneva adhivāsentī āpajjati, na evaṃ bhikkhu. Bhikkhu pana copayamānova āpajjati, evameva paṭhamapārājikepi copane sati eva āpajjati, nāsati. Pavesanaṃ sādiyatīti ettha pavesanasādiyanaṃ nāma sevanacittassuppādananti, evaṃ santepi ‘‘vīmaṃsitvā gahetabba’’nti vuttaṃ.
Nếu nói rằng ở đây, bằng lời nói hợp lý, vì các vị A-la-hán không phạm, nên có sự quy định về tâm bất thiện trong các phe có tâm và không có tâm? Không phải, vì các vị hữu học cũng không phạm theo pháp tánh. Để chỉ ra sự không có quy định về tâm bất thiện trong phe không có tâm, nên lấy ví dụ về giọt rượu, v.v., giống như giọt nước được đổ vào miệng người đang ngủ. Vì khi lấy ý nghĩa theo cách nói chung, chú giải trước và sau đều phù hợp. “Một số người khác nói rằng ý nghĩa không khác biệt với kinh điển sẽ được làm rõ ở sau,” đã được nói. Điều này cần được xem xét ở đây. Nếu trong phe biết vật, có thể có việc uống rượu mà không có tâm bất thiện, tại sao các vị thánh, với tưởng là nước uống, v.v., lại không uống quá một nāḷi? Nếu nói rằng sự vi phạm vật phá giới không thể xảy ra đối với các vị thánh theo pháp tánh ngay cả khi không có tâm, thì không phải, vì mâu thuẫn với câu chuyện về trưởng lão Cakkhupāla (dha. pa. aṭṭha. 1.1), v.v. Hơn nữa, tại sao việc uống rượu của Tỳ-khưu cũng không trở thành chỉ có tâm giống như của sa-di? Nếu nói là vì không phù hợp, thì đối với sa-di cũng không phù hợp. Vì họ là những người đồng phạm hạnh. Nếu nói là vì có tội lớn, thì đối với sa-di cũng tương tự. Nếu nói rằng đối với sa-di, chỉ có tâm mới là tội Bất Cộng Trụ, còn lại là vật của hình phạt? Thì đối với Tỳ-khưu, trong việc uống rượu, không có. Ở đây, không thể có tội Ưng Đối Trị ba loại. Lẽ ra phải quy định tội Tác Ác đối với người có tưởng không phải là rượu trong rượu. Nếu nói rằng vật của tội Ưng Đối Trị của Tỳ-khưu trở thành tội Bất Cộng Trụ của sa-di, giống như của sa-di là loài thú? Thì lẽ ra phải quy định tội Bất Cộng Trụ đối với sa-di trong việc uống rượu, v.v., ngay cả khi không có tâm. Nếu nói rằng không thể có tội Bất Cộng Trụ không có tâm? Không phải, vì cũng có thể có tội Bất Cộng Trụ là lỗi do quy định. Trong phe của các bộ phái khác, đây chính là lỗi. Vì đối với chúng tôi, việc uống rượu là lỗi của thế gian. Tại sao ở đây các vị thánh không làm việc uống rượu theo pháp tánh? Không chỉ việc uống rượu mà các vị thánh không làm theo pháp tánh, mà họ cũng không làm những việc như chặt đầu, v.v., đối với chúng sanh với tưởng là chúng sanh do cơn giận, không vi phạm vợ người khác với tưởng là vợ mình, không nói dối phá hoại lợi ích với tưởng là phá hoại lợi ích, không thực hành tà kiến với tưởng là chánh kiến, nên được hiểu như vậy. Các vị đạo sư cũng nói rằng không có sự quy định về tâm bất thiện trong việc uống rượu, do đó trong sách chú giải của chú giải đề mục, trong phần về lỗi của thế gian và lỗi do quy định, đã viết “tâm bất thiện trong phe có tâm là để bao gồm việc uống rượu, v.v., nếu không, sẽ nói là chỉ có tâm bất thiện.” Nhưng sự sanh khởi từ hành động của nó là theo cách nói chung, không phải trong tội Bất Cộng Trụ thứ nhất. Như thế nào? Điều học về sự tiếp xúc thân thể là sự sanh khởi của tội Bất Cộng Trụ thứ nhất. Ở đây, khi có sự tiếp xúc thân thể giữa Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni, Tỳ-khưu-ni dù không cử động thân thể, chỉ chấp nhận bằng tâm cũng phạm tội, Tỳ-khưu thì không như vậy. Nhưng Tỳ-khưu chỉ phạm tội khi cử động, cũng vậy, trong tội Bất Cộng Trụ thứ nhất, chỉ phạm tội khi có sự cử động, không có thì không. Trong câu “chấp nhận sự đưa vào,” sự chấp nhận sự đưa vào là sự phát sanh của tâm giao hợp, ngay cả như vậy cũng đã nói là “phải xem xét rồi mới chấp nhận.”

Paṭhamapārājikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Bất Cộng Trụ thứ nhất đã hoàn tất.

2. Dutiyapārājikasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học Bất Cộng Trụ thứ hai

‘‘Kissa pana tvaṃ ayye jānaṃ pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpanna’’nti vacanato, ‘‘aṭṭhannaṃ pārājikānaṃ aññataraṃ pārājikaṃ ajjhāpanna’’nti (pāci. 666) vacanato, ante ‘‘uddiṭṭhā kho ayyāyo aṭṭha pārājikā dhammā’’tiādivacanato (pāci. 677), parivāre ‘‘sādhāraṇapaññatti ubhatopaññattī’’ti (pari. 201) vacanato ca bhikkhunivibhaṅgaṃ patvā bhagavā sādhāraṇāni sikkhāpadāni bhikkhūnaṃ uppannavatthusmiṃyeva ‘‘yā pana bhikkhunī chandaso methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyya antamaso tiracchānagatenapi pārājikā hoti asaṃvāsā’’tiādinā nayena savisesampi avisesampi mātikaṃ nikkhipitvā anukkamena padabhājanaṃ, āpattibhedaṃ, tikacchedaṃ, anāpattivārañca anavasesaṃ vatvā vitthāresi. Saṅgītikārakehi pana asādhāraṇapaññattiyoyeva idha vitthāritāti veditabbā.
“Tại sao, thưa ni sư, ngài biết mà phạm pháp Bất Cộng Trụ,” “phạm một trong tám pháp Bất Cộng Trụ” (pāci. 666), ở cuối “thưa các ni sư, tám pháp Bất Cộng Trụ đã được đọc,” v.v. (pāci. 677), và trong Tập Yếu “quy định chung là quy định cho cả hai” (pari. 201), nên được hiểu rằng sau khi đến phần Phân Tích Tỳ-khưu-ni, Đức Thế Tôn, ngay trong câu chuyện phát sanh của các Tỳ-khưu, đã đặt ra đề mục có phân biệt và không phân biệt theo nguyên tắc “Tỳ-khưu-ni nào cố ý thực hành pháp giao hợp, dù chỉ với loài thú, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ, không được chung sống,” v.v., rồi đã giải thích chi tiết theo thứ tự về phần phân tích từ, sự phân biệt tội, sự phân chia theo ba cách, và phần không có tội. Nhưng chỉ có các quy định không chung đã được các vị kết tập giải thích chi tiết ở đây.

666. Tattha ‘‘aṭṭhannaṃ pārājikāna’’nti idaṃ kevalaṃ saṅgītikārakānaṃyeva nayato nikkhittavacanaṃ ito pubbe chaṭṭhasattamaṭṭhamānaṃ pārājikānaṃ apaññattattā. Bhagavatā pana idaṃ paññāpitamādisikkhāpadampi upādāya ‘‘channaṃ pārājikāna’’nti vuttaṃ siyā. Ito uddhaṃ paññattānipi upādāya ‘‘aṭṭhannaṃ pārājikāna’’nti vacanaṃ aparabhāge uppannanti ekacce ācariyā. Aṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘idañca pārājikaṃ pacchā paññattaṃ, tasmā ‘aṭṭhanna’nti vibhaṅge vutta’’ntiādi vuttaṃ, tasmā aṭṭhakathācariyānaṃ matena siddhametaṃ yathāpaññattānukkamavaseneva saṅgītānīti. Aññāsīti na gahetabbo. ‘‘Duṭṭhullasikkhāpade vuttanayenevā’’ti vacanato vajjapaṭicchādikaṃ yā paṭicchādeti, sāpi vajjapaṭicchādikaāyevāti siddhaṃ. Kiñcāpi vajjapaṭicchādanaṃ pemavasena hoti, tathāpi sikkhāpadavītikkamacittaṃ domanassikameva hotīti katvā ‘‘dukkhavedana’’nti vuttaṃ.
666. Ở đó, “của tám pháp Bất Cộng Trụ”, đây chỉ là lời nói được đặt ra theo nguyên tắc của các vị kết tập, vì trước đó các pháp Bất Cộng Trụ thứ sáu, thứ bảy, và thứ tám chưa được quy định. Nhưng Đức Thế Tôn, dựa vào cả điều học đầu tiên đã được quy định này, có thể đã nói là “của sáu pháp Bất Cộng Trụ.” Một số vị đạo sư nói rằng lời nói “của tám pháp Bất Cộng Trụ,” dựa vào cả những điều được quy định sau này, đã phát sanh ở phần sau. Nhưng trong chú giải đã nói “và tội Bất Cộng Trụ này đã được quy định sau, do đó đã nói là ‘của tám’ trong phần Phân Tích,” v.v., do đó theo quan điểm của các vị đạo sư chú giải, điều này đã được xác định là đã được kết tập theo chính thứ tự đã được quy định. Bản đọc là “bà đã biết.” Không nên lấy là “bà đã biết.” “Chính theo cách đã nói trong điều học về tội trọng,” người nào che giấu lỗi, người đó cũng chính là người che giấu lỗi, điều này đã được xác định. Mặc dù việc che giấu lỗi là do tình thương, tuy nhiên, vì tâm vi phạm điều học chỉ là tâm sân, nên đã nói là “khổ thọ.”

Dutiyapārājikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Bất Cộng Trụ thứ hai đã hoàn tất.

3. Tatiyapārājikasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học Bất Cộng Trụ thứ ba

669. Imaṃ adhippāyamattanti ‘‘codetvā sāretvā’’ti etaṃ. Etthāyaṃ vicāraṇā – yo bhikkhu ukkhittakabhikkhunā samānadiṭṭhiko laddhinānāsaṃvāsako hoti, so avandanīyo, kammākamme ukkhittako viya na gaṇapūraṇo, sahaseyyampi na labhati, na tathā bhikkhunī. Sā hi yāva na samanubhaṭṭhā, tāva gaṇapūrakā ca hoti, saṃvāsañca labhati. Laddhinānāsaṃvāsikānuvattikāpi ukkhittānuvattikāva hoti. Ukkhitto ce kālaṅkato, tadanuvattako bhikkhu laddhinānāsaṃvāsako hotiyeva. Tathā vibbhantepi tasmiṃ titthiyapakkantakepi sikkhaṃ paccakkhāya sāmaṇerabhūmiyaṃ ṭhitepīti eke. Tesaṃ matena ukkhittake tathābhūtepi bhikkhunī tadanuvattikā samanubhāsitabbāvāti āpajjati. Samanubhāsanakammaṃ saṅghāyattaṃ, saṅghena sañcicca purimakāpattiṃ apanetuṃ na yuttaṃ viya khāyati. Ukkhepanīyakammañca āpattiadassanamatte, appaṭikammamatte, kudiṭṭhiappaṭinissajjanamatte ca kariyati, tassa anuvattanamattena samanubhāsitvā sāsanato cāvetabbānīti na yuttanti ce? Na vattabbameva, idaṃ apārājikavatthūsupi tappasaṅgato, anaññavisayattā ca vinayassa.
669. Chỉ ý định này: là “sau khi khiển trách, sau khi nhắc nhở,” đó là điều này. Ở đây có sự xem xét này: Tỳ-khưu nào có cùng quan điểm với Tỳ-khưu bị cử tội, là người có cách sống khác biệt về quan điểm, người đó không đáng được đảnh lễ, không được tính vào số lượng Tăng chúng trong các Tăng sự có thể và không thể làm, giống như người bị cử tội, cũng không được ngủ chung, Tỳ-khưu-ni thì không như vậy. Vì vị ấy, chừng nào chưa bị khiển trách, vẫn được tính vào số lượng Tăng chúng và được chung sống. Người theo sau người có cách sống khác biệt về quan điểm cũng là người theo sau người bị cử tội. Nếu người bị cử tội qua đời, Tỳ-khưu theo sau người đó vẫn là người có cách sống khác biệt về quan điểm. Một số người nói rằng cũng vậy khi người đó đã lầm lạc, đã đi theo ngoại đạo, đã từ bỏ giới và ở trong thân phận sa-di. Theo quan điểm của họ, sẽ dẫn đến việc ngay cả khi người bị cử tội đã như vậy, Tỳ-khưu-ni theo sau người đó vẫn phải bị khiển trách. Nếu nói rằng Tăng sự khiển trách phụ thuộc vào Tăng chúng, Tăng chúng không nên cố ý xóa bỏ tội đã phạm trước đó, dường như là vậy. Và Tăng sự cử tội được thực hiện chỉ do không thấy tội, chỉ do không sửa đổi, và chỉ do không từ bỏ tà kiến, việc khiển trách và đuổi ra khỏi giáo pháp chỉ do theo sau người đó là không hợp lý? Không cần phải nói, vì điều đó cũng có nguy cơ xảy ra trong các vật không phải là tội Bất Cộng Trụ, và vì luật không có đối tượng nào khác.

Tatiyapārājikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Bất Cộng Trụ thứ ba đã hoàn tất.

4. Catutthapārājikasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học Bất Cộng Trụ thứ tư

675. ‘‘Lokassādasaṅkhātassa mittasanthavassa vasena taṃ dassetuṃ kāyasaṃsaggarāgenāti vutta’’nti likhitaṃ. Tissitthiyoti tīsu itthīsu, tisso vā itthiyo. Taṃ na seveti tāsu na sevati. Anariyāti ubhatobyañjanā. Byañjanasminti attano byañjane. Na seveti na sevati. Na cācareti nācarati. Vaṇṇāvaṇṇoti dvīhipi sukkavissaṭṭhi. Gamanuppādananti sañcarittaṃ.
675. “Do sự thân mật với bạn bè được gọi là sự ham muốn của thế gian, để chỉ ra điều đó, đã nói do lòng tham trong sự tiếp xúc thân thể,” đã được viết. Ba người phụ nữ: là trong ba người phụ nữ, hoặc là ba người phụ nữ. Không giao hợp với người đó: là không giao hợp với họ. Không phải là người cao quý: là người lưỡng tính. Trong bộ phận sinh dục: là trong bộ phận sinh dục của mình. Không giao hợp: là không giao hợp. Và không hành xử: là không hành xử. Màu sắc khác nhau: là sự xuất tinh của cả hai. Sự phát sanh của việc đi lại: là sự môi giới.

676. ‘‘Nivatthaṃ vā pārutaṃ vā’’ti ettha nivatthassa vā pārutassa vā vatthassa gahaṇaṃ sādiyatīti attho.
676. Về câu “y đã mặc hoặc đã choàng,” ở đây, có nghĩa là chấp nhận việc cầm y đã mặc hoặc đã choàng.

Catutthapārājikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Bất Cộng Trụ thứ tư đã hoàn tất.

Pārājikakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích Phẩm Bất Cộng Trụ đã hoàn tất.

2. Saṅghādisesakaṇḍavaṇṇanā

2. Giải thích Phẩm Tăng Tàn

1. Paṭhamasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học Tăng Tàn thứ nhất

681. Āhatakoti ānīto, niyatakoti adhippāyo. Akappiyaaḍḍo nāma saṅghassa vā ārāmikapuggalassa vā vatthussa kāraṇā saṅghassa vārikabhāvena sayameva vā adhikaraṇaṭṭhānaṃ gantvā ‘‘amhākaṃ eso dāso, dāsī, vāpī, khettaṃ , ārāmo, ārāmavatthu, gāvo, gāvī, mahiṃsī, ajā, kukkuṭā’’tiādinā voharati, akappiyaṃ. ‘‘Ayaṃ amhākaṃ ārāmiko ārāmikā, ayaṃ vāpī itthannāmena saṅghassa hatthe dohanatthāya dinnā. Ito khettato ārāmato uppajjanakacatupaccayā ito gāvito mahiṃsito ajāto uppajjanakagorasā itthannāmena saṅghassa dinnā’’ti pucchite vā apucchite vā vattuṃ vaṭṭati. ‘‘Kata’’nti avatvā ‘‘karontī’’ti vacanena kira anenakataṃ ārabbha ācikkhitā nāma hoti. Gīvāti kevalaṃ gīvā eva hoti, na pārājikaṃ. Kārāpetvā dātabbāti ettha sace āvudhabhaṇḍaṃ hoti, tassa dhārā na kāretabbā, aññena pana ākārena saññāpetabbaṃ. ‘‘Ticittaṃ tivedana’’nti vuttattā ‘‘mānussayavasena kodhussayavasenā’’ti tabbahulanayena vuttanti veditabbaṃ.
681. Đã được mang đến: là đã được mang đến, ý định là đã được chỉ định. Tòa án không hợp lệ là khi đi đến nơi xử án vì lý do của Tăng chúng hoặc của người làm vườn, với tư cách là người đại diện của Tăng chúng hoặc tự mình, và tranh cãi bằng những lời như “người đó là nô lệ của chúng tôi, người hầu gái, hồ nước, ruộng, vườn, đất vườn, bò đực, bò cái, trâu cái, dê, gà,” thì là không hợp lệ. Được phép nói, dù được hỏi hay không, rằng “người này là người làm vườn của chúng tôi, người hầu gái, hồ nước này đã được dâng vào tay Tăng chúng bởi người tên là này để vắt sữa. Bốn vật dụng phát sanh từ ruộng này, vườn này, các sản phẩm sữa phát sanh từ bò đực này, trâu cái này, dê này đã được dâng cho Tăng chúng bởi người tên là này.” Dường như bằng lời nói “đang làm” thay vì “đã làm,” người ấy được gọi là người đã kể lại về việc chưa được làm. Cổ: chỉ là cổ, không phải là tội Bất Cộng Trụ. Về câu phải được làm rồi mới cho, ở đây, nếu là vũ khí, thì không được làm lưỡi dao, mà phải được nhận biết bằng cách khác. Vì đã nói “ba tâm, ba thọ,” nên nên được hiểu rằng đã được nói theo cách nói chung “do lòng tham, do cơn giận.”

Paṭhamasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Tăng Tàn thứ nhất đã hoàn tất.

2. Dutiyasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học Tăng Tàn thứ hai

683. Bhaṭiputtakānaṃ kumārabhaṭikānaṃ gaṇā bhaṭiputtagaṇā. Kappanti kappiyaṃ. Kappagatikanti kappiyasabhāvaṃ. Pakkantāsupīti attano parisaṃ ṭhapetvā itarāsu pakkantāsu. Paṇṇattiṃ ajānantā ariyāpi vuṭṭhāpentīti katvā vā kammavācāpariyosāne āpattikkhaṇe vipākābyākatasamaṅgitāvasena vā ‘‘ticitta’’nti vuttanti veditabbaṃ. ‘‘Pabbājane na dukkaṭa’’nti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ.
683. Các nhóm của những người con trai lính đánh thuê, những chàng trai lính đánh thuê, là các nhóm của những người con trai lính đánh thuê. Hợp lệ: là hợp lệ. Có tính chất hợp lệ: là có bản chất hợp lệ. Ngay cả khi đã đi: là sau khi đã để lại đoàn tùy tùng của mình, khi những người khác đã đi. Nên được hiểu rằng đã nói “ba tâm” hoặc do các vị thánh không biết quy định cũng cho xuất gia, hoặc do là người có tâm quả vô ký vào lúc phạm tội khi kết thúc lời tuyên bố của Tăng sự. Trong sách cổ chú giải đã nói “không có tội Tác Ác trong việc cho xuất gia.”

Dutiyasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Tăng Tàn thứ hai đã hoàn tất.

3. Tatiyasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học Tăng Tàn thứ ba

687. Bhaddākāpilānī mahākassapassa purāṇadutiyā kira. Ñātīnaṃ kulaṃ yasmiṃ gāmake, tadetaṃ gāmakaṃ ñātikulaṃ, kulasannihitaṃ gāmakaṃ agamāsīti attho. ‘‘Ajaṃ gāmaṃ netī’’tiādīsu viya vā dvikammikaṃ katvā gāmakaṃ agamāsi ñātikulaṃ agamāsītipi yujjati.
687. Dường như Bhaddā Kāpilānī là người vợ cũ của Mahākassapa. Ngôi làng nhỏ nơi có gia đình của bà con, đó là làng của bà con, có nghĩa là đã đi đến ngôi làng nhỏ gần gia đình. Hoặc có thể kết hợp là đã làm cho có hai hành động, giống như trong câu “dẫn dê về làng,” v.v., là đã đi đến ngôi làng nhỏ, đã đi đến gia đình của bà con.

692. ‘‘Aparikkhittassa gāmassa upacāraṃ atikkāmentiyā’’ti vacanenapi evaṃ veditabbaṃ – vikālagāmappavesane dvinnaṃ leḍḍupātānaṃyeva vasena upacāro paricchinditabbo, itarathā yathā ettha parikkhepārahaṭṭhānaṃ parikkhepaṃ viya katvā ‘‘atikkāmentiyā’’ti vuttaṃ, evaṃ tatthāpi ‘‘aparikkhittassa gāmassa upacāraṃ atikkamantassā’’ti vadeyya. Yasmā pana tattha parikkhepārahaṭṭhānato uttari eko leḍḍupāto upacāroti adhippeto, tasmā tadatthadīpanatthaṃ ‘‘aparikkhittassa gāmassa upacāraṃ okkamantassā’’ti vuttaṃ. Yaṃ pana andhakaṭṭhakathāyaṃ ‘‘parikkhepārahaṭṭhānaṃyeva ‘upacāra’nti sallakkhetvā parikkhepaparikkhepārahaṭṭhānānaṃ ninnānākāraṇadīpanatthaṃ ‘upacāraṃ okkamantassā’ti vuttaṃ pāḷivisesamasallakkhetvāva aparikkhittassa gāmassa upacāraṃ atikkamantassa idha upacāro parikkhepo yathā bhaveyya, taṃ upacāraṃ paṭhamaṃ pādaṃ atikkamantassa āpatti dukkaṭassa. Dutiyaṃ pādaṃ atikkamantassa āpatti pācittiyassā’’ti vuttaṃ, taṃ na gahetabbameva pāḷiyā visesasabbhāvatoti. ‘‘Aparikkhittassa gāmassa upacāraṃ okkamantiyātipi ekaccesu dissati, taṃ na gahetabbanti apare’’ti vuttaṃ. Tattha ‘‘pāḷivisesamasallakkhetvā’’ti duvuttaṃ, kasmā? Vikālagāmappavesanasikkhāpadepi katthaci ‘‘upacāraṃ atikkamantassā’’ti pāṭho dissatīti, so andhakaṭṭhakathāpāṭhato gahitoti ācariyo. Aparikkhittassa upacārokkamanameva pāṭho yujjati, na atikkamanaṃ. Kasmā? Bahūsu ṭhānesu pāḷiyā aṭṭhakathāhi virujjhanato, imasmiṃ vāpi sikkhāpade virujjhati. Kathaṃ? Gaṇamhā ohīyamānāya araññe āpatti hoti, na gāme. Atha ca pana nidassanampi ‘‘sikkhāpadā buddhavarenā’’ti (pari. 479) gāthā dassitā, tasmā upacārokkamanapariyāpannanadiṃ atikkāmentiyā hoti. Kiñca bhiyyo ‘‘gacchantassa catasso āpattiyo, ṭhitassa cāpi tattakātiādīnaṃ (pari. 475) parivāragāthānaṃ aṭṭhakathāhi upacārokkamanameva pāṭhoti niṭṭhaṃ gantabba’’nti ca vuttaṃ, suṭṭhu sallakkhetvā kathetabbaṃ.
692. Cũng nên được hiểu như vậy bằng lời nói “của người vượt qua phạm vi của làng không có rào chắn”: trong việc vào làng phi thời, phạm vi phải được xác định chỉ bằng hai lần ném đất, nếu không, giống như ở đây, đã nói “của người vượt qua” sau khi đã làm cho nơi đáng được rào chắn giống như rào chắn, cũng vậy ở đó sẽ nói “của người vượt qua phạm vi của làng không có rào chắn.” Nhưng vì ở đó, một lần ném đất ngoài nơi đáng được rào chắn được nhắm đến là phạm vi, do đó để chỉ ra ý nghĩa đó, đã nói “của người bước vào phạm vi của làng không có rào chắn.” Điều đã được nói trong chú giải của trường phái Andhaka “chỉ nơi đáng được rào chắn được coi là ‘phạm vi,’ để chỉ ra sự không khác biệt giữa rào chắn và nơi đáng được rào chắn, đã nói ‘của người bước vào phạm vi’ mà không để ý đến sự khác biệt của kinh điển, của người vượt qua phạm vi của làng không có rào chắn, ở đây phạm vi là rào chắn, khi bước qua phạm vi đó bằng chân đầu tiên, phạm tội Tác Ác. Khi bước qua bằng chân thứ hai, phạm tội Ưng Đối Trị,” điều đó không nên được chấp nhận vì có sự khác biệt của kinh điển. “Ở đâu đó cũng thấy có bản đọc ‘của người bước vào phạm vi của làng không có rào chắn,’ một số người khác nói rằng không nên chấp nhận,” đã được nói. Ở đó, “không để ý đến sự khác biệt của kinh điển” là một cách nói sai, tại sao? Vì ngay cả trong điều học về việc vào làng phi thời, ở đâu đó cũng thấy có bản đọc “của người vượt qua phạm vi,” vị đạo sư nói rằng đó đã được lấy từ bản đọc chú giải của trường phái Andhaka. Đối với làng không có rào chắn, bản đọc bước vào phạm vi là phù hợp, không phải là vượt qua. Tại sao? Vì mâu thuẫn với kinh điển và chú giải ở nhiều nơi, hoặc cũng mâu thuẫn trong chính điều học này. Như thế nào? Đối với người tụt hậu khỏi nhóm, có tội ở trong rừng, không phải ở trong làng. Tuy nhiên, ví dụ cũng đã được chỉ ra bằng câu kệ “điều học do bậc Chánh Giác” (pari. 479), do đó tội xảy ra đối với người vượt qua con sông thuộc phạm vi bước vào. Hơn nữa, “bằng các câu kệ trong Tập Yếu ‘bốn tội đối với người đi, và cũng bấy nhiêu đối với người đứng,’ v.v. (pari. 475), nên đi đến kết luận rằng bản đọc của các chú giải là chỉ bước vào phạm vi,” cũng đã được nói, cần phải suy xét kỹ rồi mới nói.

‘‘Padasā gamanameva hi idhādhippetaṃ, teneva paṭhamaṃ pādaṃ atikkāmentiyātiādimāhā’’ti ettha vikālagāmappavesanasikkhāpadādīsu tadabhāvā yānena vā iddhiyā vā pavisato, addhānaṃ gacchato ca āpattīti dīpeti. Tattha asāruppattā āpattimokkho natthīti eke, vicāretvā gahetabbaṃ. Bhikkhunīvihārabhūmi ‘‘gāmantara’’nti na vuccati gāmantarapariyāpannāyapi kappiyabhūmittā. ‘‘Parato ‘sace bhikkhunīsu mahābodhiyaṅgaṇaṃ pavisantīsu ekā bahi tiṭṭhati, tassā āpattī’tiādivacanato bhikkhuvihāro na kappiyabhūmīti siddhaṃ, tasmā kañcinagare khandhadhammavihāro viya, kāvīrapaṭṭane sārīdhammavihāro viya ca aññopi so vihāro, tasmā sīmabaddhasukhatthaṃ gāmantarabhāve nirantarā adhiṭṭhānatthaṃ pavisantiyā, nikkhamantiyāpi gāmantarāpatti hotīti apare’’ti vuttaṃ. Catugāmasādhāraṇattāti ettha evaṃvidhe vihāre sīmaṃ bandhantehi cattāropi te gāmā sodhetabbāti veditabbā. Saṃvidahitvā bhikkhuniyā vā mātugāmena vā theyyasatthena vā saddhiṃ taṃ vihāraṃ okkamantiyā catasso āpattiyo ekatova honti. ‘‘Gāmantare gāmantare āpatti pācittiyassā’’ti vuttāti eke.
Về câu “chỉ việc đi bộ được nhắm đến ở đây, chính vì vậy mà đã nói ‘của người bước qua bằng chân đầu tiên,’ v.v.”, ở đây, trong các điều học về việc vào làng phi thời, v.v., do không có điều đó, cho thấy có tội đối với người vào bằng xe hoặc bằng thần thông, và đối với người đi đường. Một số người nói rằng ở đó không có sự giải thoát khỏi tội vì không phù hợp, cần phải xem xét và chấp nhận. Đất của tự viện Tỳ-khưu-ni không được gọi là “làng khác” ngay cả khi thuộc về làng khác, vì là đất hợp lệ. “Một số người khác nói rằng do lời nói ở sau ‘nếu khi các Tỳ-khưu-ni đang vào sân cây bồ đề lớn, một người đứng ở ngoài, thì người đó có tội,’ v.v., đã xác định rằng tự viện Tỳ-khưu không phải là đất hợp lệ, do đó giống như tự viện Khandhadhamma ở thành phố Kañci, và tự viện Sārīdhamma ở cảng Kāvīra, tự viện đó cũng khác, do đó đối với người vào để chú nguyện không gián đoạn trong làng khác vì sự an lạc của ranh giới đã được kết, và cả người đi ra, cũng có tội về làng khác,” đã được nói. Về do là chung cho bốn làng, ở đây, nên được hiểu rằng khi kết ranh giới trong một tự viện như vậy, cả bốn làng đó đều phải được thanh lọc. Sau khi hẹn hò, đối với người bước vào tự viện đó cùng với Tỳ-khưu-ni hoặc người nữ hoặc đoàn người trộm cướp, bốn tội xảy ra cùng một lúc. Một số người nói rằng “đã được nói ‘ở mỗi làng khác nhau, phạm tội Ưng Đối Trị.’”

Dutiyapāduddhāre saṅghādisesoti ettha sace dutiyo pāduddhāro kappiyabhūmiyaṃ hoti, na saṅghādiseso, akappiyabhūmiyaṃ eva saṅghādiseso. ‘‘Ubhayatīresu vicaranti, vaṭṭatīti dassanūpacārassettha sambhavā’’ti likhitaṃ, taṃ yuttaṃ. Savanūpacāro hettha nadīpāre, gāmantare vā appamāṇanti. Andhakaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘paratīrato nadiṃ otaritvā dassanūpacārato dārūni, paṇṇānivā maggitvā āneti, anāpatti. Ticīvarāni paratīre otāpeti, anāpattī’’ti vuttaṃ. ‘‘Orimatīrameva āgacchati, āpattī’’ti atikkamitukāmatāya paviṭṭhattā vuttaṃ. ‘‘Nhāyanādikiccena paviṭṭhānaṃ katthevālayasambhavā vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Gāmantare pamāṇanti aṭṭhakathāyaṃ paratīrato nadiṃ otaritvā dassanūpacārato dārūni paṇṇāni sakagāmato thokampi taraṇavārena na vaṭṭati kira nikkhamitvā pavisituṃ.
Về tội Tăng Tàn khi nhấc chân thứ hai, ở đây, nếu việc nhấc chân thứ hai xảy ra ở đất hợp lệ, thì không phải là tội Tăng Tàn, chỉ ở đất không hợp lệ mới là tội Tăng Tàn. “Họ đi lại ở cả hai bờ, được phép: do có thể có phạm vi nhìn thấy ở đây,” đã được viết, điều đó đúng. Vì phạm vi nghe ở bên kia sông hoặc ở làng khác là không có giới hạn. Nhưng trong chú giải của trường phái Andhaka đã nói “sau khi xuống sông từ bờ bên kia, xin củi, lá ở phạm vi nhìn thấy rồi mang về, thì không có tội. Phơi ba y ở bờ bên kia, thì không có tội.” “Chỉ đến bờ bên này, có tội”: đã được nói vì đã vào với ý định vượt qua. “Đã được nói là được phép vì có thể có sự lưu luyến ở đâu đó đối với những người vào với mục đích tắm, v.v.” Tiêu chuẩn ở làng khác, trong chú giải, sau khi xuống sông từ bờ bên kia, dường như không được phép đi một chút nào từ làng của mình bằng cách qua sông để xin củi, lá ở phạm vi nhìn thấy, rồi ra khỏi và vào lại.

Agāmakearaññeti agāmalakkhaṇe araññeti attho. Iminā āpattikhettaṃ dassitaṃ. Yasmā idaṃ āpattikhettaṃ, tasmā yā bhikkhunupassayato gāmassa indakhīlaṃ atikkamati, sā asante gāme gaṇamhā ohīyanāpattiṃ āpajjati. Dassanasavanūpacārābhāvepi pageva gāme indakhīlātikkamanakkhaṇeyeva āpajjati. Sace tattha ekā bhikkhunī atthi, tassā dassanasavanūpacārātikkamanakkhaṇe āpajjati, araññamaggagamanakāle evāyaṃ vidhīti na gahetabbaṃ. Gāmato pana nikkhamantī ito paṭṭhāya āpajjatīti dassanatthaṃ ‘‘agāmakaṃ arañña’’nti vuttaṃ. Vuttañhetaṃ ‘‘ārādhikā ca honti saṅgāhikā lajjiniyo, tā kopetvā aññattha na gantabbaṃ. Gacchati ce, gāmantaranadīpārarattivippavāsagaṇamhā ohīyanāpattīhi na muccatī’’tiādi. Tattha ‘‘gaṇamhā ohīyanāpatti sakiṃyevāpajjati. Itarā gāme gāme pāre pāre aruṇe aruṇe cāti veditabba’’nti vuttaṃ. Tattha ‘‘vuttañheta’’ntiādīni asādhakāni yathāsambhavaṃ gahetabbattā. ‘‘Mahābodhiyaṅgaṇantiādi evaṃ gāmassa āsannaṭṭhānepi imaṃ āpattiṃ āpajjatīti dassanatthaṃ vutta’’nti likhitaṃ.
Trong rừng không có làng: có nghĩa là trong rừng có đặc điểm không có làng. Bằng cách này, khu vực phạm tội đã được chỉ ra. Bởi vì đây là khu vực phạm tội, do đó người nào vượt qua cột mốc của làng từ trú xứ của Tỳ-khưu-ni, người đó phạm tội tụt hậu khỏi nhóm khi không có làng. Ngay cả khi không có phạm vi nhìn thấy và nghe, vẫn phạm tội ngay từ lúc vượt qua cột mốc trong làng. Nếu ở đó có một Tỳ-khưu-ni, thì phạm tội vào lúc vượt qua phạm vi nhìn thấy và nghe của vị ấy, không nên hiểu rằng đây là quy định chỉ khi đi trên đường trong rừng. Nhưng đã được nói “rừng không có làng” để chỉ ra rằng người đi ra khỏi làng phạm tội từ đây trở đi. Điều này đã được nói: “và những người có thể nhờ vả, là những người tốt, biết xấu hổ, không nên làm họ tức giận rồi đi nơi khác. Nếu đi, thì không thoát khỏi các tội về làng khác, bờ sông khác, qua đêm, và tụt hậu khỏi nhóm,” v.v. Ở đó, “tội tụt hậu khỏi nhóm chỉ phạm một lần. Những tội khác thì ở mỗi làng, mỗi bờ, mỗi lúc rạng đông, nên được hiểu như vậy,” đã được nói. Ở đó, “điều này đã được nói,” v.v., không phải là bằng chứng, vì phải được lấy tùy theo khả năng. “Sân cây bồ đề lớn, v.v., đã được nói để chỉ ra rằng ngay cả ở nơi gần làng như vậy, cũng phạm tội này,” đã được viết.

Tatiyasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Tăng Tàn thứ ba đã hoàn tất.

4. Catutthasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học Tăng Tàn thứ tư

694. Paṭivattāti paṭivacanaṃ denti. Kammadosanti ‘‘anaññāya gaṇassa chandanti evamādī’’ti likhitaṃ. Kattabbaṭṭhānadosanti porāṇā. Kārakagaṇassāti kārakasaṅghassa. ‘‘Bhikkhunisaṅghaṃ sannipātetvā’ti vuttattā kārakasaṅghopi ayamevāti ce? Paṭhamameva kārakasaṅghaṃ na āmantetvā balakkārenāyaṃ thullanandā taṃ bhikkhuniṃ osāresī’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ, tasmā kārakabhikkhūnaṃ sammukhāpi tesaṃ anumatiṃ paṭhamaṃ aggahetvā taṃ kammaṃ na paṭippassambhetabbanti siddhaṃ hoti, paṭippassaddhaṃ balakkārena na kātabbamevāti adhippāyo. ‘‘Bhikkhunīpi diṭṭhāvikammaṃ kātuṃ labhatī’’ti ca tattha vuttaṃ.
694. Họ trả lời: là họ trả lời. Lỗi của Tăng sự: “không có sự đồng thuận của nhóm,” v.v., đã được viết. Các vị xưa nói là lỗi của nơi phải làm. Của nhóm thực hiện: là của Tăng chúng thực hiện. Nếu nói rằng vì đã nói “sau khi triệu tập Tăng chúng Tỳ-khưu-ni,” nên Tăng chúng thực hiện cũng chính là đây? Trong sách cổ chú giải đã nói “Thullanandā này, sau khi không mời Tăng chúng thực hiện trước, đã dùng vũ lực trục xuất Tỳ-khưu-ni đó,” do đó đã xác định rằng ngay cả trước mặt các Tỳ-khưu thực hiện, cũng không được hủy bỏ Tăng sự đó mà không nhận được sự đồng ý của họ trước, ý định là không được dùng vũ lực làm điều đã bị hủy bỏ. “Tỳ-khưu-ni cũng được phép làm Tăng sự xét lại,” cũng đã được nói ở đó.

698. Asante kammakārakasaṅghe osāreti, anāpattīti ettha kittāvatā asanto nāma hotīti? Idaṃ sabbattha na vicāritaṃ. Kārakānaṃ kālakiriyāyāti eke. Ekassapi abhāvenāti eke. Ekasmiṃ rajjeti eke. Ekaraṭṭheti eke. Ekagāmeti eke. Ekasmiṃ āvāseti eke. Yattha sakkā apaloketunti eke. Antoaddhayojaneti eke. Tattha tasmiṃ āvāse asante kārakasaṅghe osāreti, anāpattīti idaṃ pasaṃsanti ācariyā. Yattha sakkā apaloketunti sāmīci.
698. Nếu trục xuất khi không có Tăng chúng thực hiện Tăng sự, thì không có tội, ở đây, đến mức nào thì được gọi là không có? Điều này không được xem xét ở mọi nơi. Một số người nói là khi những người thực hiện đã qua đời. Một số người nói là khi không có dù chỉ một người. Một số người nói là trong một vương quốc. Một số người nói là trong một quốc gia. Một số người nói là trong một làng. Một số người nói là trong một trú xứ. Một số người nói là ở nơi có thể thông báo. Một số người nói là trong phạm vi nửa do tuần. Ở đó, các vị đạo sư khen ngợi điều này: nếu trục xuất khi không có Tăng chúng thực hiện Tăng sự trong trú xứ đó, thì không có tội. Ở nơi có thể thông báo là hợp lý.

Catutthasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Tăng Tàn thứ tư đã hoàn tất.

5. Pañcamasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học Tăng Tàn thứ năm

701. Etaṃna vuttanti bhikkhuniyā avassutabhāvo daṭṭhabboti etaṃ niyamanaṃ na vuttaṃ. Taṃ avacanaṃ pāḷiyā sameti. Katarapāḷiyāti? ‘‘Anavassutoti jānantī paṭiggaṇhātī’’ti imāya. Yadi hi puggalassa avassutabhāvo na pamāṇaṃ, kiṃ imāya pāḷiyā payojanaṃ, ‘‘anāpatti ubho anavassutā honti, anavassutā paṭiggaṇhātī’’ti ettakameva vattabbaṃ siyā. Attano hi anavassutabhāvoyeva pamāṇanti. Imassa pana anāpattivārassa ayamattho – ubho ce anavassutā, sabbathāpi anāpatti. Atha bhikkhunī anavassutā samānā avassutampi ‘‘anavassuto’’ti saññāya tassa hatthato paṭiggaṇhāti, evampi anāpattīti. Atha sā anavassutāpi aññaṃ anavassutaṃ vā avassutaṃ vā ‘‘avassuto’’ti jānāti, dukkaṭameva. Vuttañhetaṃ anantarasikkhāpade ‘‘kissa tvaṃ ayye na paṭiggaṇhāsīti. Avassuto ayyeti…pe… nāhaṃ avassutā’’ti.
701. Điều này không được nói: là tình trạng không bị kích động của Tỳ-khưu-ni phải được xem xét, quy định này không được nói. Việc không nói đó phù hợp với kinh điển. Kinh điển nào? Kinh này: “biết là người không bị kích động mà nhận.” Vì nếu tình trạng không bị kích động của người đó không phải là tiêu chuẩn, thì kinh điển này có lợi ích gì, lẽ ra phải nói bấy nhiêu là “không có tội khi cả hai đều không bị kích động, người không bị kích động nhận.” Vì tình trạng không bị kích động của chính mình mới là tiêu chuẩn. Nhưng ý nghĩa của phần không có tội này là: nếu cả hai đều không bị kích động, thì hoàn toàn không có tội. Nếu Tỳ-khưu-ni, trong khi không bị kích động, nhận từ tay của người đó với tưởng rằng người đó cũng không bị kích động, thì cũng không có tội. Nếu vị ấy, dù không bị kích động, biết rằng người khác, dù không bị kích động hay bị kích động, là “người bị kích động,” thì chỉ là tội Tác Ác. Điều này đã được nói trong điều học kế tiếp: “tại sao, thưa ni sư, ngài không nhận? Thưa ngài, người này bị kích động… tôi không bị kích động.”

Pañcamasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Tăng Tàn thứ năm đã hoàn tất.

6. Chaṭṭhasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học Tăng Tàn thứ sáu

705. Tenāti tasmā. Yasmā uyyojikā na deti na paṭiggaṇhāti, tasmā paṭiggaho na vijjatīti attho. Itarissā paribhogapaccayā. ‘‘Akusalacitta’’nti bāhullena vuttaṃ. ‘‘Vaṭṭatīti saññāya vadantiyāpi āpattī’’ti vadanti.
705. Do đó: là do đó. Bởi vì người xúi giục không cho, không nhận, do đó không có sự nhận, đó là ý nghĩa. Do duyên sử dụng của người kia. “Tâm bất thiện”: đã được nói theo cách nói chung. Các vị nói rằng “ngay cả khi nói với tưởng là được phép, cũng có tội.”

Chaṭṭhasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Tăng Tàn thứ sáu đã hoàn tất.

7. Sattamasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học Tăng Tàn thứ bảy

712-4. Kammavācato pubbe āpannāpattiyo na paṭippassambhanti. Ñattiyā dukkaṭathullaccayā paṭippassambhanti saṅghādisese patteti porāṇā. Taṃ ‘‘ajjhāpajjantiyā’’ti pāḷiyā sameti. ‘‘Sutvā na vadantī’’ti ettha sace jīvitabrahmacariyantarāyabhayā na vadanti, anāpatti . ‘‘Adhammakamme adhammakammasaññā āpatti dukkaṭassā’’ti vuttattā ‘‘anāpatti asamanubhāsantiyā’’ti saṅghādisesaṃ sandhāya vuttaṃ.
712-4. Các tội đã phạm trước khi tuyên bố Tăng sự không bị hủy bỏ. Các tội Tăng Tàn, Tác Ác và Trọng Tội do tuyên ngôn bị hủy bỏ, các vị xưa nói. Điều đó phù hợp với kinh điển “của người đang phạm.” Về câu “nghe mà không nói,” ở đây, nếu không nói vì sợ nguy hiểm đến tính mạng hoặc phạm hạnh, thì không có tội. Vì đã nói “đối với Tăng sự phi pháp mà có tưởng là Tăng sự phi pháp, thì phạm tội Tác Ác,” nên đã nói “không có tội đối với người không khiển trách” nhắm đến tội Tăng Tàn.

Sattamasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Tăng Tàn thứ bảy đã hoàn tất.

8. Aṭṭhamasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học Tăng Tàn thứ tám

715. Paccākatāti parājitā. Kuladūsakasikkhāpadassa, imassa ca nidānamattameva nānākaraṇaṃ. Vuttañhi tattha ‘‘tassa vacanassa paṭinissaggāya eva vacanīyo, na kuladūsananivāraṇatthāyā’’ti. Evaṃ sante ubhopetā āpattiyo aññamaññaṃ sabhāgatthā, tasmā idaṃ tassa anupaññattisadisaṃ āpajjati, tato idaṃ niratthakameva āpajjatīti? Na evaṃ daṭṭhabbaṃ. Vatthuvisesato, kammavācāvisesato ca ubhinnaṃ nānākaraṇaṃ.
715. Bị đánh bại: là bị thua. Chỉ có nhân duyên của điều học về người làm hại gia đình và điều này là khác nhau. Thật vậy, ở đó đã nói “chỉ nên nói để từ bỏ lời nói đó, không phải để ngăn chặn việc làm hại gia đình.” Nếu vậy, cả hai tội này đều có ý nghĩa tương đồng với nhau, do đó điều này trở thành giống như một quy định bổ sung của điều đó, từ đó điều này trở nên vô nghĩa? Không nên xem như vậy. Sự khác biệt của cả hai là do sự khác biệt về vật và sự khác biệt về lời tuyên bố của Tăng sự.

Aṭṭhamasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Tăng Tàn thứ tám đã hoàn tất.

9. Navamasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học Tăng Tàn thứ chín

723. ‘‘Kāyikavācasikena saṃsaggenā’’ti pāṭhaseso.
723. Phần còn lại của bản văn là “bằng sự tiếp xúc thân thể và lời nói.”

Navamasaṅghādisesasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Tăng Tàn thứ chín đã hoàn tất.

Saṅghādisesakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích Phẩm Tăng Tàn đã hoàn tất.

3. Nissaggiyakaṇḍavaṇṇanā

3. Giải thích Phẩm Ưng Xả Đối Trị

1. Paṭhamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ nhất

733. Paṭhamanissaggiyapācittiyasikkhāpadaṃ uttānameva.
733. Điều học Ưng Xả Đối Trị thứ nhất có ý nghĩa rõ ràng.

2. Dutiyanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ hai

740. Vatthusampattattā vā na tassā anāpannakāmatāya vā anāṇattikatāya vā akālacīvaramadaṃsu. Yathādāne eva upanetabbaṃ, na bhājetabbaṃ puggalikattāti adhippāyo. Atthato hi itarampi yathādāne eva upanetabbameva. Gaṇṭhipade pana ‘‘ayyāya dammīti evaṃ paṭiladdhanti nissaṭṭhapaṭiladdhaṃ. Yathādāneti dāyakehi pariccattavidhānena. Upanetabbanti akālacīvarabhāvena bhājetabbanti adhippāyo. Idha bhājāpitāya laddhacīvarameva nissaggiyaṃ hoti, taṃ vinayakammaṃ katvāpi attanā na labhatī’’ti likhitaṃ. Yadi nissaṭṭhapaṭiladdhaṃ sandhāya idaṃ vuttaṃ siyā, ‘‘nissajjitabbaṃ saṅghassa vā gaṇassa vā puggalassa vā dadeyya, dadeyyuṃ, ayyāya dammī’’ti vuttattā tīṇipetāni padāni vattabbāni siyuṃ, tasmā na kevalaṃ nissaṭṭhapaṭiladdhameva yathādāne upanetabbaṃ, aññāhi bhikkhunīhi laddhakoṭṭhāsampi yathādāneyeva upanetabbaṃ.
740. Do vật đã được đầy đủ hoặc do vị ấy không có ý muốn không phạm, hoặc do không phải là lệnh cấm, họ đã cho y phi thời. Phải được dâng cúng chính như khi được cho, không được chia, vì là của cá nhân, đó là ý định. Vì về mặt ý nghĩa, cái kia cũng phải được dâng cúng chính như khi được cho. Nhưng trong sách chú giải đã viết “vật đã nhận lại sau khi đã xả là đã nhận lại bằng cách nói ‘tôi cho ni sư.’ Như khi được cho: là theo cách thức đã được các thí chủ từ bỏ. Phải được dâng cúng: ý định là phải được chia theo tính chất của y phi thời. Ở đây, chỉ có y nhận được sau khi đã được chia mới trở thành vật phải xả, ngay cả sau khi đã làm Tăng sự luật, cũng không được tự mình nhận.” Nếu điều này đã được nói nhắm đến vật đã nhận lại sau khi đã xả, thì lẽ ra phải nói cả ba từ “phải xả, nên cho Tăng chúng hoặc nhóm hoặc cá nhân, họ nên cho, tôi cho ni sư,” do đã được nói. Do đó, không chỉ vật đã nhận lại sau khi đã xả mới phải được dâng cúng như khi được cho, mà cả phần nhận được từ các Tỳ-khưu-ni khác cũng phải được dâng cúng chính như khi được cho.

741. ‘‘Akālacīvare kālacīvarasaññāya anāpattī’’ti pana bhājanapaccayā āpajjitabbāpattiṃ nāpajjatīti ettakameva dīpeti, na paṭiladdhaṃ, na yathādāne dātabbanti imamatthaṃ dīpeti. Lesena pana gaṇhāti ce, bhaṇḍagghena kāretabbā.
741. “Không có tội khi có tưởng là y đúng thời trong y phi thời” chỉ cho thấy rằng không phạm tội phải phạm do duyên chia, không cho thấy rằng không nhận lại, không phải cho như khi được cho. Nhưng nếu nhận bằng cách lừa gạt, thì phải bị phạt bằng giá trị của vật.

Dutiyanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ hai đã hoàn tất.

3. Tatiyanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ ba

744. Sakasaññāya gahitattā pācittiyaṃ, dukkaṭañca vuttaṃ. Itarathā bhaṇḍagghena kāretabbaṃ.
744. Đã nói tội Ưng Đối Trị và tội Tác Ác vì đã lấy với tưởng là của mình. Nếu không, phải bị phạt bằng giá trị của vật.

Tatiyanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ ba đã hoàn tất.

4. Catutthanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ tư

752. Lesena gahetukāmatā, aññassa viññussa viññāpanaṃ, paṭilābhoti tīṇi aṅgāni, tasmā paṭhamaṃ viññattaṃ alabhitvā aññaṃ tato ūnatarampi labheyya, nissaggiyameva aṅgasampattito. Esa nayo aññatthāpi.
752. Ý muốn nhận bằng cách lừa gạt, việc xin một người trí khác, và việc nhận được là ba yếu tố, do đó sau khi không nhận được vật đã xin lần đầu, dù nhận được vật khác có giá trị thấp hơn, cũng là vật phải xả do đầy đủ các yếu tố. Cách này cũng áp dụng cho các nơi khác.

Catutthanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ tư đã hoàn tất.

5. Pañcamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ năm

753. ‘‘Telaṃ gopetvā sappimpi me attano kulagharā’’ti kira pāṭho.
753. Dường như bản đọc là “giữ dầu lại, ngay cả bơ cũng từ nhà của gia đình tôi.”

Pañcamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ năm đã hoàn tất.

6. Chaṭṭhanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ sáu

758-762. Pāvārikassāti dussavāṇijakassa. Yāya cetāpitaṃ, tassā nissaggiyaṃ, nissaṭṭhapaṭilābho ca. ‘‘Itarāsaṃ pana jānitvā vassaggena pattakoṭṭhāsaṃ sādiyantīnampi na nissaggiyaṃ, kevalaṃ yathādāne eva tāhipi upanetabba’’nti vadanti. ‘‘Nissaṭṭhaṃ paṭilabhitvāpi yathādāne upanetabba’nti vuttattā sesāhi gahitaṃ suggahita’’nti vadanti. Ettha gilānāyapi na mokkho.
758-762. Của người bán vải: là của người buôn vải. Đối với người đã được đổi, đó là vật phải xả, và là vật nhận lại sau khi đã xả. Các vị nói rằng “nhưng đối với những người khác, ngay cả khi biết mà chấp nhận phần đã mua bằng giá, cũng không phải là vật phải xả, chỉ phải được họ dâng cúng chính như khi được cho.” Các vị nói rằng “vì đã được nói ‘sau khi nhận lại vật đã xả, phải dâng cúng như khi được cho,’ nên vật đã được những người còn lại nhận là đã được nhận đúng cách.” Ở đây, ngay cả người bệnh cũng không được miễn trừ.

Chaṭṭhanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ sáu đã hoàn tất.

7. Sattamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ bảy

764. Sattame ‘‘sayaṃ yācitakenā’’ti kiñcāpi avisesena vuttaṃ. Tathāpi aññadatthikena attuddesikena saññācikenāti attho veditabbo. Ayamattho ‘‘bhikkhuniyo tena ca parikkhārena sayampi yācitvā bhesajjaṃ cetāpetvā paribhuñjiṃsū’’ti imissā pāḷiyā atthena saṃsanditvā veditabbo. Tassāyamattho – tena parikkhārena bhesajjaṃ cetāpetvā ca-saddena saññācikena ca bhesajjaṃ cetāpetvāti imamatthaṃ dīpento ‘‘sayampi yācitvā bhesajjaṃ cetāpetvā’’ti āha. Aññathā ‘‘tena parikkhārena bhesajjaṃ cetāpetvā sayampi yācitvā paribhuñjiṃsū’’ti iminā anukkamena pāḷi vattabbā siyā.
764. Trong điều thứ bảy, “bằng vật đã được tự mình xin”, mặc dù đã được nói một cách không phân biệt. Tuy nhiên, nên được hiểu ý nghĩa là bằng vật đã được xin vì mục đích khác, vì mục đích của mình. Ý nghĩa này nên được hiểu sau khi kết hợp với ý nghĩa của kinh điển này “các Tỳ-khưu-ni, sau khi đã đổi thuốc bằng vật dụng đó và cũng tự mình xin, đã dùng.” Ý nghĩa của nó là: sau khi đổi thuốc bằng vật dụng đó và, bằng từ “và,” sau khi đổi thuốc bằng vật đã được xin, để chỉ ra ý nghĩa này, đã nói “cũng tự mình xin, sau khi đã đổi thuốc.” Nếu không, lẽ ra kinh điển phải nói theo thứ tự này “sau khi đổi thuốc bằng vật dụng đó, cũng tự mình xin rồi dùng.”

Padabhājane pana ‘‘saṃyācikenāti sayaṃ yācitvā’’ti tasseva padassa adhippāyamattaṃ vuttaṃ. Sā hi padabhājanadhammatā. ‘‘Saṅghikaṃ lābhaṃ pariṇata’’ntiādipadānaṃ bhājane pana sā pākaṭā. Aññathā saṃyācikapadena ko añño atirekattho saṅgahito siyā, so na dissatīti tadeva padaṃ nippayojanaṃ, idañca sikkhāpadaṃ purimena ninnānākaraṇaṃ siyā. Attano hi santakaṃ yathākāmaṃ karaṇīyanti. Ettha ca saṅghassa yācanāya vasena ekato hutvā yācanāya laddhaṃ saṃyācikanti veditabbaṃ. Aññathā ito parena saṃyācika-saddena idaṃ nibbisesaṃ āpajjatīti ‘‘puggalikena saṃyācikenā’’ti idañca sikkhāpadaṃ visuṃ na vattabbaṃ siyā idheva tena āpajjitabbāpattiyā saṅgahitattā, na ca saṅgahitā āpattidvayabhāvato. Missetvā cetāpitattā hi ekameva āpattīti ce? Na, saṃyācikapadassa nippayojanabhāvappasaṅgato, evaṃ saṅghikamahājanikapuggalikāni missitvā cetāpane ekāpattibhāvappasaṅgato ca.
Nhưng trong phần phân tích từ, “bằng vật đã được xin chung là tự mình xin,” chỉ ý định của chính từ đó đã được nói. Vì đó là bản chất của phần phân tích từ. Nhưng trong phần phân tích các từ “chuyển hướng lợi lộc của Tăng chúng,” v.v., điều đó đã rõ ràng. Nếu không, ý nghĩa phụ nào khác sẽ được bao gồm bởi từ “vật đã được xin chung,” điều đó không thấy có, do đó chính từ đó trở nên vô ích, và điều học này sẽ không có sự khác biệt với điều học trước. Vì của cải của chính mình thì có thể làm theo ý muốn. Và ở đây, nên được hiểu rằng vật đã được xin chung là vật nhận được do xin cùng nhau theo cách xin của Tăng chúng. Nếu không, từ “vật đã được xin chung” sau này sẽ không có sự khác biệt, do đó điều học này “bằng vật đã được xin chung của cá nhân” lẽ ra không cần phải nói riêng, vì tội phải phạm do nó đã được bao gồm ở đây, nhưng không được bao gồm vì là hai tội khác nhau. Nếu nói rằng chỉ có một tội vì đã đổi sau khi đã trộn lẫn? Không phải, vì có nguy cơ từ “vật đã được xin chung” trở nên vô ích, và như vậy có nguy cơ chỉ có một tội khi đổi sau khi đã trộn lẫn của Tăng chúng, đại chúng, và cá nhân.

Sattamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ bảy đã hoàn tất.

8. Aṭṭhamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ tám

769. Gaṇassāti ābhidhammikādigaṇassa, ūnacatuvaggassa ca.
769. Của nhóm: là của nhóm học Vi Diệu Pháp, v.v., và của nhóm chưa đủ bốn người.

Aṭṭhamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ tám đã hoàn tất.

9. Navamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ chín

774. Saññācikenāti gaṇayācanāya laddheneva, na aññena.
774. Bằng vật đã được xin chung: là chỉ bằng vật nhận được do xin của nhóm, không phải vật khác.

Navamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ chín đã hoàn tất.

10. Dasamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ mười

779. Dasame pana ‘‘yā pana bhikkhunī aññadatthikena parikkhārena aññuddisikena puggalikena aññaṃ cetāpeyya, nissaggiyaṃ pācittiya’’nti evaṃvidhena bhavitabbaṃ, ‘‘puggalikena saṃyācikenā’’ti iminā ekādasamena bhavitabbaṃ siyā yathākkamena sambhavato. Kāmameva cetaṃ aṭṭhuppattiyā abhāvato na vuttaṃ, atthato pana gahetabbameva. Ettha pana saṅghagaṇapuggalānaṃ pavāritaṭṭhāne, puggalasseva ñātakaṭṭhāne ca anāpattichāyā dissati, idaṃ sabbaṃ amhākaṃ takkānusāravaseneva vuttanti katvā na sārato daṭṭhabbaṃ. Vicāretvā yathā niccalakāraṇaṃ disvā yaṃ vā vinayakkamakovidā anujānanti, taṃ tadeva gahetabbaṃ. Porāṇagaṇṭhipade pana ‘‘āpadāsupi aññaṃ garubhaṇḍameva cetāpetabbaṃ, itaraṃ na vaṭṭati, bhikkhussa pana vaṭṭatī’’ti vuttaṃ.
779. Nhưng trong điều thứ mười, lẽ ra phải là “Tỳ-khưu-ni nào đổi vật khác bằng vật dụng vì mục đích khác, vì mục đích của người khác, của cá nhân, thì phạm tội Ưng Xả Đối Trị,” điều thứ mười một này lẽ ra phải là “bằng vật đã được xin chung của cá nhân,” do có thể có theo thứ tự. Dù điều này không được nói do không có sự kiện phát sanh, nhưng về mặt ý nghĩa thì phải được chấp nhận. Nhưng ở đây, dường như có dấu hiệu không có tội ở nơi đã được Tăng chúng, nhóm, và cá nhân tự tứ, và ở nơi của bà con của cá nhân, tất cả những điều này đã được nói chỉ theo suy đoán của chúng tôi, nên không được xem là điều cốt yếu. Phải xem xét, sau khi thấy lý do chắc chắn, hoặc điều gì mà các vị thông thạo về trình tự của luật cho phép, thì phải chấp nhận chính điều đó. Nhưng trong sách cổ chú giải đã nói “ngay cả trong những lúc hoạn nạn, cũng chỉ được đổi vật nặng khác, còn lại thì không được phép, nhưng đối với Tỳ-khưu thì được phép.”

Dasamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ mười đã hoàn tất.

11. Ekādasamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā

11. Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ mười một

784. ‘‘Dutiyavaggassa paṭhame’’ti avatvā ‘‘ekādasame’’ti idha vuttaṃ. Kasmā? Bhikkhunivibhaṅge tiṃsakakaṇḍaṃ patvā vaggakkamassa avuttattā. Yasmā pavāritaṭṭhāne viññatti nāma na paṭisedhetabbā, tasmā bhagavā aññātikaappavāritaṭṭhāne dhammanimantanavasena vadeyya ‘‘yenattho’’ti vuttāya ‘‘catukkaṃsaparamaṃ viññāpetabba’’nti paricchedaṃ dassetīti veditabbaṃ. Aññathā ‘‘nidānena sikkhāpadaṃ na sameti, sikkhāpadena ca anāpattivāro’’ti ca ‘‘akataviññattiyā catukkaṃsaparamaṃ viññāpetabba’’nti ca aniṭṭhaṃ āpajjati, tasmā mātikāṭṭhakathāyaṃ cetāpetabbanti ṭhapetvā sahadhammike ca ñātakapavārite ca aññena kismiñcideva guṇena, parituṭṭhena ca vadeyya ‘‘yenattho’’ti vuttassa ‘‘viññāpetabba’’nti vuttanayena attho daṭṭhabbo. Porāṇagaṇṭhipade pana ‘‘idaṃ paricchinnapavāraṇaṃ sandhāya vuttaṃ. Anāpatti ñātakānaṃ pavāritānanti pana sabbappakārena pavattaṃ niccapavāraṇaṃ sandhāya vuttaṃ. Niccapavāraṇā nāma yadā yenattho, tadā taṃ vadeyyāthāti evaṃ pavattā . ‘Handa sītapāvuraṇa’nti dentānaṃ pana atirekacatukkaṃsampi gahetuṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Ayameva nayo dasamepīti.
784. Ở đây, thay vì nói “trong điều đầu tiên của phẩm thứ hai,” đã nói “trong điều thứ mười một.” Tại sao? Vì trong phần Phân Tích Tỳ-khưu-ni, sau khi đến phẩm ba mươi, trình tự của các phẩm không được nói đến. Bởi vì việc xin ở nơi đã được tự tứ không nên bị cấm, do đó nên được hiểu rằng Đức Thế Tôn, khi nói theo cách mời pháp ở nơi không phải là bà con, không được tự tứ, đối với người đã nói “cần gì,” đã chỉ ra giới hạn “được phép xin tối đa bốn kamsa.” Nếu không, sẽ dẫn đến điều không mong muốn là “điều học không phù hợp với nhân duyên, và phần không có tội không phù hợp với điều học,” và “được phép xin tối đa bốn kamsa khi chưa xin.” Do đó, trong chú giải đề mục, trừ việc đổi, nên xem ý nghĩa theo cách đã nói “được phép xin” đối với người được nói “cần gì” do một phẩm chất nào đó, hoặc do hài lòng, trong những người đồng phạm hạnh và những người bà con đã được tự tứ. Nhưng trong sách cổ chú giải đã nói “điều này đã được nói nhắm đến sự tự tứ có giới hạn. Nhưng câu ‘không có tội đối với những người bà con, những người đã được tự tứ’ đã được nói nhắm đến sự tự tứ thường xuyên diễn ra theo mọi cách. Sự tự tứ thường xuyên là sự tự tứ diễn ra bằng cách nói ‘khi nào cần gì, thì hãy nói.’ Nhưng đối với những người cho và nói ‘hãy lấy y che lạnh,’ được phép nhận cả vật vượt quá bốn kamsa.” Cách này cũng áp dụng trong điều thứ mười.

Ekādasamanissaggiyapācittiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học Ưng Xả Đối Trị thứ mười một đã hoàn tất.

Bhikkhunīvibhaṅge tiṃsakavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích ba mươi điều trong Phân Tích Tỳ-khưu-ni đã hoàn tất.

Nissaggiyakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích Phẩm Ưng Xả Đối Trị đã hoàn tất.

4. Pācittiyakaṇḍavaṇṇanā

4. Giải thích Phẩm Ưng Đối Trị

1. Lasuṇavaggo

1. Phẩm Tỏi

1. Paṭhamalasuṇasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học thứ nhất về tỏi

793-7. Ahaṃlasuṇenāti ettha ‘‘pavāremī’’ti pāṭhaseso. Badarasāḷavaṃ kira badaraphalāni sukkhāpetvā cuṇṇetvā kattabbā khādanīyavikati.
793-7. Về câu tôi bằng tỏi, ở đây, phần còn lại của bản văn là “tự tứ.” Dường như nước táo dại là một loại đồ ăn vặt phải được làm bằng cách phơi khô quả táo dại rồi nghiền thành bột.

Paṭhamalasuṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ nhất về tỏi đã hoàn tất.

2. Dutiyasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học thứ hai

800. Saṃharāpeyyāti ‘‘saṃharati vā saṃharāpeti vā’’ti padabhājanaṃ veditabbaṃ. Kiñcāpi ettha āpattibhedo na dassito, tathāpi khurasaṇḍāsakattariādipariyesanaghaṃsanādīsu pubbapayogesu dukkaṭaṃ yujjati, yathā cettha, evaṃ talaghātakādimhi ca āpattibhedo pāḷiyaṃ na vutto. Yathāsambhavaṃ pana pubbapayogesu dukkaṭaṃ sambhavati. Evaṃ bhikkhussa ettha ca lasuṇe ca dukkaṭaṃ. Idaṃ kiriyākiriyanti porāṇā. Tattha ‘‘kiriyākiriya’’nti na vuttaṃ.
800. Nên cho nhổ: nên được hiểu phần phân tích từ là “nhổ hoặc cho nhổ.” Mặc dù ở đây sự phân biệt tội không được chỉ ra, tuy nhiên tội Tác Ác là phù hợp trong các hành động ban đầu như tìm kiếm, mài, v.v., dao cạo, nhíp, kéo, giống như ở đây, cũng vậy trong việc giết bằng bàn tay, v.v., sự phân biệt tội không được nói đến trong kinh điển. Nhưng tội Tác Ác có thể có trong các hành động ban đầu tùy theo khả năng. Như vậy, Tỳ-khưu ở đây và trong việc ăn tỏi phạm tội Tác Ác. Các vị xưa nói rằng đây là hành động và không hành động. Ở đó, “hành động và không hành động” không được nói đến.

Dutiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ hai đã hoàn tất.

802-6. Tatiyacatutthasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
802-6. Điều học thứ ba và thứ tư có ý nghĩa rõ ràng.

5. Pañcamasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học thứ năm

812. Pañcame udakasuddhipaccaye satipi phassasādiyane yathāvuttaparicchede anāpatti. Tattha dvinnaṃ pabbānanti ‘‘dvinnaṃ aṅgulānaṃ sahapavesane ekekaaṅgulassa ekekaṃ pabbaṃ katvā dve pabbā, ekaṅgulappavesane dvinnaṃ pabbānaṃ upari na vaṭṭatīti veditabbaṃ. Mahāpaccariyampi ayameva nayo dassito’’ti likhitaṃ.
812. Trong điều thứ năm, không có tội trong giới hạn đã được nói đến khi chấp nhận sự tiếp xúc, ngay cả khi có duyên làm sạch bằng nước. Ở đó, của hai đốt ngón tay: nên được hiểu là khi đưa vào cùng lúc hai ngón tay, mỗi ngón tay được tính là một đốt, thành hai đốt, khi đưa vào một ngón tay, không được phép quá hai đốt. Ngay cả trong đại sớ giải, cách này cũng đã được chỉ ra.

Pañcamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ năm đã hoàn tất.

815. Chaṭṭhasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
815. Điều học thứ sáu có ý nghĩa rõ ràng.

7. Sattamasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học thứ bảy

820-822. ‘‘Nagaraṃ atiharantī’’ti pāṭho. ‘‘Nagaradvāre atiharantī’’ti katthaci, tattha dvārenāti attho. Ayameva vā pāṭho. Taṃ pubbāparaviruddhanti ‘‘punapi vutta’’nti vuttaṃ vādaṃ sandhāya, na tato pubbe tattha vuttaṃ vādaṃ. Ettha ‘‘mātarampi viññāpetvāti vacanena virujjhatī’’ti likhitaṃ, taṃ dullikhitaṃ, na hi tena virodhaṃ sandhāya idaṃ vuttanti. Karaṇe ce pācittiyaṃ, kārāpanepi pācittiyeneva bhavitabbaṃ. Atha kārāpane dukkaṭaṃ, karaṇepi dukkaṭeneva bhavitabbaṃ. Na hi karaṇe vā kārāpane vā viseso atthi āpajjane satīti adhippāyo.
820-822. Bản đọc là “mang qua thành phố.” Ở đâu đó là “mang qua cửa thành,” ở đó có nghĩa là bằng cửa. Hoặc chính bản đọc này. Điều đó mâu thuẫn trước sau: nhắm đến quan điểm đã được nói “cũng đã được nói lại,” không phải là quan điểm đã được nói trước đó ở đó. Ở đây, “mâu thuẫn với lời nói ‘ngay cả xin mẹ,’” đã được viết, đó là một sự ghi chép sai lầm, vì điều này không được nói nhắm đến sự mâu thuẫn đó. Nếu phạm tội Ưng Đối Trị khi làm, thì khi cho làm cũng phải là tội Ưng Đối Trị. Nếu khi cho làm là tội Tác Ác, thì khi làm cũng phải là tội Tác Ác. Vì không có sự khác biệt giữa việc làm và việc cho làm khi có sự phạm tội, đó là ý định.

823. Sampaṭicchituṃ vaṭṭatīti appaṭikkhipitvā ‘‘sādhū’’ti vattuṃ vaṭṭatīti adhippāyo. Na hi paṭiggahetuṃ vaṭṭati. Anāmāsattā ‘‘āmakadhaññaṃ pana ñātakapavāritaṭṭhānepi na vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Anugaṇṭhipade pana ‘‘kappiyena laddhaṃ dhaññaṃ bhajjitvā bhuñjantiyā dukkaṭaṃ. Aparaṇṇepi eseva nayo’’ti ca ‘‘anāpatti ābādhapaccayāti vacanato satta dhaññānipi anāmāsānīti siddhaṃ, teneva heṭṭhā aṭṭhakathāyaṃ dukkaṭavatthumhi satta dhaññānipi gahitāni anāmāsānī’’ti ca vuttāni. Āmāsāni kappiyavatthūni ca yadi bhaveyyuṃ, yathā ñātakapavārite sandhāya ‘‘aparaṇṇaṃ viññāpetī’’ti avisesena vuttaṃ, evaṃ ‘‘anāpatti ñātakānaṃ pavāritānaṃ aññassa atthāya viññāpeti, ummattikāya ādikammikāyā’’ti vattabbaṃ. Yasmā dukkaṭavatthuttā ca anāmāsattā ca mātarampi sattavidhaṃ dhaññaṃ viññāpetuṃ na vaṭṭati , tasmā tadatthadīpanatthaṃ sattavidhaṃ dhaññaṃ sandhāya ‘‘anāpatti ābādhapaccayā’’ti vuttaṃ, yathā bhikkhuniyā ābādhapaccayā vaṭṭati, tathā bhikkhussāpīti ca. Yathā vā pana bhikkhuniyā bhajjanādīni kārāpetuṃ na vaṭṭati, evaṃ bhikkhussāpi. Vuttampi cetaṃ andhakaṭṭhakathāyaṃ ‘‘aññataro bālabhikkhu kappiyaṃ ajānanto etadavoca ‘āmakadhaññaṃ sampaṭicchituṃ bhikkhūnaṃ na vaṭṭati. Etaṃ dhaññaṃ bhajjitvā koṭṭetvā pacitvā yāgukhajjakaṃ bhattañca dethā’ti, āṇāpakasseva bhikkhussa āpatti, sabbesaṃ anāpattī’’ti. Tasmā ‘‘saṅghavārikānaṃ dhaññaṃ koṭṭethā’’ti ārāmikānaṃ vattuñca na vaṭṭati. ‘‘Divasaṃ paribbayaṃ gaṇhatha, taṇḍule sampādetha, tvaṃ ettake gaṇha, tvaṃ ettake’’ti evamādīni pana vattuṃ vaṭṭatīti ca. Yaṃ pana ‘‘aviññattiyā labbhamānaṃ pana navakammatthāya sampaṭicchituṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ, tampi heṭṭhā ‘‘imaṃ taḷākaṃ khettaṃ vatthuṃ vihārassa demā’ti vutte ‘sampaṭicchituṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ nayaṃ sandhāya vuttattā suvuttameva. ‘‘Navakammatthāya dhaññaṃ demā’’ti vutte ‘‘sādhū’’ti vattabbaṃ. Yaṃ pana heṭṭhā ‘‘tattha nissaggiyavatthuṃ attano vā saṅghagaṇapuggalacetiyānaṃ vā atthāya sampaṭicchituṃ na vaṭṭati…pe… dukkaṭavatthuṃ sabbesampi atthāya sampaṭicchato dukkaṭamevā’’ti vuttaṃ, tampi suvuttameva. Kasmā? ‘‘Cetiyassa atthāya dhaññaṃ dātukāmomhi, tumhe bhante tadatthāya sampaṭicchathā’’ti vutte paṭiggahetuṃ akappiyattā. ‘‘Idaṃ pana tādisaṃ na hotī’’ti ca vuttaṃ. Sabbopāyaṃ upatissattheravādo kira. Dhammasiritthero panevamāha ‘‘pubbepi navakammatthāya paṭiggaho na vārito, saṅghassatthāya paṭiggahitampi paṭiggāhakasseva akappiya’’nti.
823. Được phép chấp nhận: ý định là được phép nói “lành thay” mà không từ chối. Vì không được phép nhận. Do không thể chạm vào, đã được nói “còn ngũ cốc sống thì ngay cả ở nơi của bà con, người đã được tự tứ cũng không được phép.” Nhưng trong sách phụ chú giải đã nói “tội Tác Ác đối với người ăn ngũ cốc nhận được bằng cách hợp lệ sau khi đã rang. Cách này cũng áp dụng cho các loại đậu khác,” và “không có tội do duyên bệnh, bảy loại ngũ cốc cũng không thể chạm vào, điều này đã được xác định, chính vì vậy mà ở dưới, trong chú giải, trong vật của tội Tác Ác, bảy loại ngũ cốc cũng đã được lấy là không thể chạm vào.” Nếu chúng là những vật có thể chạm vào và hợp lệ, thì giống như đã được nói một cách không phân biệt “xin các loại đậu khác” nhắm đến nơi của bà con, người đã được tự tứ, cũng vậy, lẽ ra phải nói “không có tội khi xin vì lợi ích của người khác, của những người bà con, những người đã được tự tứ, của người mất trí, của người phạm tội đầu tiên.” Bởi vì do là vật của tội Tác Ác và do không thể chạm vào, nên không được phép xin mẹ bảy loại ngũ cốc, do đó để chỉ ra ý nghĩa đó, đã nói “không có tội do duyên bệnh” nhắm đến bảy loại ngũ cốc, giống như được phép đối với Tỳ-khưu-ni do duyên bệnh, cũng vậy đối với Tỳ-khưu. Hoặc giống như không được phép cho Tỳ-khưu-ni làm những việc như rang, v.v., cũng vậy đối với Tỳ-khưu. Điều này đã được nói trong chú giải của trường phái Andhaka: “một Tỳ-khưu ngu dốt không biết điều hợp lệ đã nói rằng ‘các Tỳ-khưu không được phép chấp nhận ngũ cốc sống. Hãy rang, giã, nấu ngũ cốc này rồi cho cháo, đồ ăn vặt, và cơm,’ Tỳ-khưu ra lệnh phạm tội, tất cả những người khác không có tội.” Do đó, cũng không được phép nói với những người làm vườn “hãy giã ngũ cốc của Tăng chúng.” Nhưng được phép nói những điều như “hãy lấy chi phí trong ngày, hãy chuẩn bị gạo, ông lấy bấy nhiêu, ông lấy bấy nhiêu.” Điều đã được nói “nhưng được phép chấp nhận những gì nhận được mà không xin vì mục đích công việc mới,” điều đó cũng đã được nói rất hay, vì đã được nói nhắm đến nguyên tắc đã được nói ở dưới “khi được nói ‘chúng tôi cho hồ nước này, ruộng này, đất này cho tự viện,’ được phép chấp nhận.” Khi được nói “chúng tôi cho ngũ cốc vì mục đích công việc mới,” phải nói “lành thay.” Điều đã được nói ở dưới “ở đó, không được phép chấp nhận vật phải xả vì lợi ích của chính mình hoặc của Tăng chúng, nhóm, cá nhân, và tháp miếu… còn vật của tội Tác Ác, khi chấp nhận vì lợi ích của tất cả mọi người, cũng chỉ là tội Tác Ác,” điều đó cũng đã được nói rất hay. Tại sao? Vì không hợp lệ để nhận khi được nói “tôi muốn cho ngũ cốc vì lợi ích của tháp miếu, thưa các ngài, hãy chấp nhận vì mục đích đó.” “Nhưng cái này không phải là như vậy,” cũng đã được nói. Dường như tất cả các cách giải thích này là quan điểm của trưởng lão Upatissa. Nhưng trưởng lão Dhammasiri đã nói như sau: “trước đây, việc nhận vì mục đích công việc mới không bị cấm, ngay cả vật đã được nhận vì lợi ích của Tăng chúng cũng không hợp lệ đối với người nhận.”

Sattamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ bảy đã hoàn tất.

8. Aṭṭhamasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học thứ tám

824. Porāṇā ‘‘nibbiṭṭharājabhaṭo’’ti paṭhanti. Tassattho vāritabhattavetano rājabhaṭoti. ‘‘Taññeva bhaṭapathanti taṃyeva bhattavetana’’nti atthaṃ vadanti. Ummukanti alātaṃ.
824. Các vị xưa đọc là “người lính hoàng gia đã bị sa thải.” Ý nghĩa của nó là người lính hoàng gia đã bị cấm lương thực. Các vị nói ý nghĩa là “chính con đường của người lính đó: là chính lương thực đó.” Đuốc: là đuốc.

826. Ettha chaḍḍitaṃ kiriyā. Anolokanaṃ akiriyā.
826. Ở đây, việc vứt bỏ là hành động. Việc không nhìn là không hành động.

Aṭṭhamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ tám đã hoàn tất.

9. Navamasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học thứ chín

832. ‘‘Sāmike apaloketvā chaḍḍetī’’ti katthaci potthake natthi, katthaci atthi, atthibhāvova seyyo kiriyākiriyattā sikkhāpadassa. Idha khettapālakā, ārāmādigopakā ca sāmikā eva. ‘‘Saṅghassa khette, ārāme ca tattha kacavaraṃ na chaḍḍetabbanti katikā ce natthi, bhikkhussa chaḍḍetuṃ vaṭṭati saṅghapariyāpannattā, na bhikkhunīnaṃ. Tāsampi bhikkhunisaṅghasantake vuttanayena vaṭṭati, na tattha bhikkhussa, evaṃ santepi sāruppavaseneva kātabba’’nti vuttaṃ.
832. Ở đâu đó trong sách không có câu “vứt bỏ sau khi đã thông báo cho chủ,” ở đâu đó có, việc có là tốt hơn vì điều học này là hành động và không hành động. Ở đây, những người canh ruộng, những người coi vườn, v.v., chính là chủ. “Nếu không có quy định rằng không được vứt rác trong ruộng, vườn của Tăng chúng, thì Tỳ-khưu được phép vứt vì thuộc về Tăng chúng, Tỳ-khưu-ni thì không. Đối với họ, cũng được phép theo cách đã nói trong tài sản của Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, Tỳ-khưu thì không ở đó, ngay cả như vậy cũng phải được làm theo cách phù hợp,” đã được nói.

Navamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ chín đã hoàn tất.

10. Dasamasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học thứ mười

833. Sādhukīḷitagītaṃ vāti ettha pāciṇṇagītampi sotuṃ na vaṭṭati. ‘‘Gītupasañhitaṃ pana dhammaṃ sotuṃ vaṭṭatīti dīghanikāyaṭṭhakathāyaṃ vutta’’nti vuttaṃ. Porāṇagaṇṭhipade pana ‘‘dhammagītampi na vaṭṭatī’’ti vatvā ‘‘buddhassa gāyāma vādemāti vutte sampaṭicchituṃ na vaṭṭati, dukkaṭaṃ hotī’’ti vuttaṃ, ‘‘pūjaṃ karoma, jātakaṃ vā vatthuṃ vā desemāti vutte ‘sādhū’ti sampaṭicchituṃ vaṭṭatī’’ti ca vuttaṃ.
833. Về câu hoặc bài hát được chơi hay, ở đây, ngay cả bài hát thông thường cũng không được phép nghe. “Nhưng được phép nghe pháp có kèm theo bài hát, đã được nói trong chú giải Trường Bộ Kinh,” đã được nói. Nhưng trong sách cổ chú giải, sau khi nói “ngay cả bài hát pháp cũng không được phép,” đã nói “khi được nói ‘chúng tôi sẽ hát, sẽ chơi nhạc cho Đức Phật,’ không được phép chấp nhận, có tội Tác Ác,” và “khi được nói ‘chúng tôi sẽ cúng dường, sẽ thuyết giảng chuyện tiền thân hoặc câu chuyện,’ được phép chấp nhận bằng cách nói ‘lành thay,’” cũng đã được nói.

836. Ekapayogo nāma ekadivasāvalokanaṃ. Tesaṃyevāti yesaṃ naccaṃ passati. ‘‘Bhikkhunī sayampi naccituṃ vā gāyituṃ vā vādituṃ vā na labhatī’’tiādi idha sikkhāpade natthi. Kasmā? Eḷakalomasamuṭṭhānattā. Yadi evaṃ kasmā vuttanti ce? Suttānulomamahāpadesato. Yadi naccādīni passituṃ vā sotuṃ vā na labhati, pageva attanā kātunti nayato labbhamānattā vuttaṃ. Itarathā mahāpadesā niratthakā siyuṃ. Evamaññatthāpi nayo netabbo. ‘‘Samuṭṭhānampi idha vuttameva aggahetvā chasamuṭṭhānavasena gahetabba’’nti likhitaṃ. Taṃ ‘‘aññe nacca, gāya, vādehī’’ti vattuṃ na labbhatītiādivacīkammaṃ sandhāya likhitañce, taṃ sulikhitaṃ eḷakalomasamuṭṭhāne vācāya abhāvato. ‘‘Sayampi naccitu’’ntiādikāyakammañce sandhāya likhitaṃ, dullikhitaṃ. Eḷakalomasamuṭṭhānañhi ekantato kāyakammaṃ hoti, tasmā uddhaṭaṃ aggahetvā ādisaddena saṅgahitameva idha gahetabbanti. Etaṃ eḷakalomasamuṭṭhānattāti ettha kāraṇavacane suttānulomamahāpadesatoti ettha pana uddhaṭaṃ gahetabbaṃ, evaṃ yathālābhavasena taṃ likhitanti veditabbaṃ. ‘‘Āhaccabhāsitasikkhāpadavasena eḷakalomasamuṭṭhāna’’nti vuttanti upatissatthero. ‘‘Eḷakalomasamuṭṭhānañce idaṃ sikkhāpadaṃ, āṇāpako mucceyya, na ca muccatī’’ti vuttaṃ. Taṃ ‘‘kasmā’’ti vutte ‘‘sabbaaṭṭhakathāsu vutta’’nti aṭṭhakathācariyo āhāti dhammasiritthero.
836. Một lần sử dụng là việc xem trong một ngày. Của chính họ: là của những người mà vị ấy xem múa. “Tỳ-khưu-ni không được phép tự mình múa, hát, hoặc chơi nhạc,” v.v., không có trong điều học này. Tại sao? Vì sanh khởi từ việc cừu bị vướng lông. Nếu vậy, tại sao lại được nói? Là do nguyên tắc đại giáo pháp phù hợp với kinh. Nếu không được phép xem hoặc nghe múa, v.v., thì huống chi là tự mình làm, nên được nói vì có thể nhận được theo nguyên tắc đó. Nếu không, các đại giáo pháp sẽ trở nên vô nghĩa. Cũng vậy, nguyên tắc nên được áp dụng ở các nơi khác. “Sự sanh khởi cũng nên được lấy theo sáu cách sanh khởi, không lấy theo cách đã được nói ở đây,” đã được viết. Nếu điều đó đã được viết nhắm đến hành động bằng lời nói như “không được phép nói ‘người khác hãy múa, hát, chơi nhạc,’” thì đó là một sự ghi chép đúng, vì không có lời nói trong sự sanh khởi từ việc cừu bị vướng lông. Nếu đã được viết nhắm đến hành động bằng thân như “cũng tự mình múa,” v.v., thì là một sự ghi chép sai lầm. Vì sự sanh khởi từ việc cừu bị vướng lông hoàn toàn là hành động của thân, do đó nên lấy chính những gì đã được bao gồm bằng từ “v.v.,” không lấy những gì đã được trích dẫn. Ở đây, trong lời nói về nguyên nhân “vì sanh khởi từ việc cừu bị vướng lông,” và ở đây, trong “theo nguyên tắc đại giáo pháp phù hợp với kinh,” nên lấy những gì đã được trích dẫn, như vậy nên được hiểu là đã được viết theo những gì có được. Trưởng lão Upatissa nói rằng “đã được nói ‘sanh khởi từ việc cừu bị vướng lông’ theo điều học về việc nói đột ngột.” “Nếu điều học này sanh khởi từ việc cừu bị vướng lông, thì người ra lệnh sẽ được miễn trừ, nhưng không được miễn trừ,” đã được nói. Khi được hỏi “tại sao,” trưởng lão Dhammasiri nói rằng vị đạo sư chú giải đã nói “đã được nói trong tất cả các chú giải.”

837. Ārāme ṭhatvāti na kevalaṃ ṭhatvā, tato gantvā pana sabbiriyāpathehipi labhati. ‘‘Ārāme ṭhitāti pana ārāmapariyāpannāti attho, itarathā nisinnāpi na labheyyā’’ti likhitaṃ, taṃ sulikhitameva.
837. Đứng trong tự viện: không chỉ là đứng, mà còn được phép ở mọi tư thế sau khi đã đi từ đó. “Đứng trong tự viện: có nghĩa là thuộc về tự viện, nếu không, ngay cả khi ngồi cũng không được phép,” đã được viết, đó là một sự ghi chép rất đúng.

Dasamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ mười đã hoàn tất.

Lasuṇavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Tỏi đã hoàn tất.

2. Andhakāravaggavaṇṇanā

2. Giải thích phẩm Tối Tăm

1. Paṭhamasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học thứ nhất

839. ‘‘Divāpi andhakāraṃ atthi, tappaṭisedhanatthaṃ ‘rattandhakāre’ti vutta’’nti vadanti porāṇā. Santiṭṭheyyāti ettha ṭhānāpadesena catubbidhopi iriyāpatho saṅgahito, tasmā purisassa hatthapāse tena saddhiṃ caṅkamanādiṃ karontiyā pācittiyameva. ‘‘Sallapeyya vā’’ti kevalaṃ nidānavasena vuttaṃ visesābhāvato. ‘‘Sallapeyyavāti purisassa hatthapāse ṭhitā sallapati, āpatti pācittiyassā’’ti hi vuttaṃ, taṃ na yuttanti eke. Kasmā? Yasmā tassa purisassa hatthapāse ṭhiteneva ekaṃ pācittiyaṃ. Sallapanenapi aparampi ekaṃ āpajjatīti nāpajjati, kathaṃ paññāyatīti? Aṅgavasena. Imassa hi rattandhakāratā, purisassa hatthapāse ṭhānaṃ vā sallapanaṃ vā, sahāyābhāvo, rahopekkhatāti imāni cattāri aṅgāni vuttāni. Tattha yadi ṭhānapaccayā ekā āpatti visuṃ siyā, tassā cattāri aṅgāni siyuṃ. Yadi sallapanapaccayā ekā, tassāpi pañca aṅgāni siyuṃ. Tasmā mātikāṭṭhakathāyaṃ ‘‘cattāri vā pañca vā aṅgānī’’ti vattabbaṃ siyā, na ca vuttaṃ, tasmā sallapanapaccayā visuṃ natthīti. Atthiyeva, mātikāṭṭhakathāvacanañca tadatthamevāti eke. Kathaṃ? Sahuppattito dvinnaṃ āpattīnaṃ. Kiṃ vuttaṃ hoti? Sallapane sati ṭhānapaccayā āpajjitabbaṃ caturaṅgikaṃ, sallapanapaccayā āpajjitabbaṃ caturaṅgikanti dve pācittiyāni sahuppannāni ekato āpajjantīti. Idaṃ ayuttaṃ pāḷivirodhato. Pāḷiyañhi ‘‘sallapeyya vāti purisassa hatthapāse ṭhitā sallapati, āpatti pācittiyassā’’ti vuttaṃ. Yadi dve siyuṃ, ‘‘āpatti dvinnaṃ pācittiyāna’’nti na vattabbatā siyāti. Ayaṃ nayo dutiyādīsupi yathāyogaṃ veditabbo. Ettha dutiyenāpi saddhiṃ yadi bhikkhuniyā rahopekkhatā atthi, so ce puriso, na dutiyo, purisagaṇanāya āpattiyo. Atha dutiyā bhikkhunī hoti, tassā ca tena purisena saddhiṃ rahopekkhatā atthi, sā ca bhikkhunī na dutiyā hoti. Ubhinnampi āpajjatīti eke, vicāretvā pana gahetabbaṃ. Porāṇagaṇṭhipade pana vuttaṃ ‘‘hatthapāse ṭhānena dukkaṭa’’nti, taṃ pāḷiyā virujjhati. ‘‘Purisassa hatthapāse tiṭṭhati, āpatti pācittiyassā’’ti hi pāḷi, kiṃbahunā. Catutthasikkhāpade mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyikauyyojanasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘santiṭṭhanādīsu tīṇi pācittiyānī’’tiādivacanato vatthugaṇanāya āpatti veditabbā. ‘‘Aṅgāni cettha cattāri pañca vā’’ti vattabbanti sanniṭṭhānaṃ.
839. Các vị xưa nói rằng “ngay cả ban ngày cũng có bóng tối, để cấm điều đó, đã nói ‘trong bóng tối ban đêm.’” Về nên đứng cùng, ở đây, bằng việc chỉ ra việc đứng, cả bốn tư thế đều được bao gồm, do đó đối với người làm những việc như đi kinh hành, v.v., cùng với người đàn ông trong tầm tay, cũng chỉ là tội Ưng Đối Trị. “Hoặc nói chuyện”: chỉ được nói theo nhân duyên, vì không có sự khác biệt. Vì đã được nói “hoặc nói chuyện là đứng trong tầm tay của người đàn ông và nói chuyện, phạm tội Ưng Đối Trị,” một số người nói rằng điều đó không đúng. Tại sao? Bởi vì chỉ do việc đứng trong tầm tay của người đàn ông đó đã là một tội Ưng Đối Trị. Không thể phạm thêm một tội khác do việc nói chuyện, làm sao để biết? Là do các yếu tố. Vì điều này có bốn yếu tố được nói đến là: bóng tối ban đêm, việc đứng hoặc nói chuyện trong tầm tay của người đàn ông, không có người bạn đồng hành, và có ý định ở nơi vắng vẻ. Ở đó, nếu có một tội riêng do duyên đứng, thì nó sẽ có bốn yếu tố. Nếu có một tội riêng do duyên nói chuyện, thì nó cũng sẽ có năm yếu tố. Do đó, trong chú giải đề mục lẽ ra phải nói “bốn hoặc năm yếu tố,” nhưng không được nói, do đó không có tội riêng do duyên nói chuyện. Một số người nói rằng chắc chắn có, và lời nói trong chú giải đề mục cũng có ý nghĩa đó. Như thế nào? Là do sự đồng sanh của hai tội. Điều gì đã được nói? Là khi có sự nói chuyện, tội bốn yếu tố phải phạm do duyên đứng và tội bốn yếu tố phải phạm do duyên nói chuyện, hai tội Ưng Đối Trị đồng sanh này được phạm cùng một lúc. Điều này không đúng vì mâu thuẫn với kinh điển. Vì trong kinh điển đã nói “hoặc nói chuyện là đứng trong tầm tay của người đàn ông và nói chuyện, phạm tội Ưng Đối Trị.” Nếu có hai tội, thì lẽ ra phải nói “phạm hai tội Ưng Đối Trị.” Nguyên tắc này cũng nên được hiểu tùy theo trường hợp trong các điều thứ hai, v.v. Ở đây, nếu Tỳ-khưu-ni có ý định ở nơi vắng vẻ ngay cả với người thứ hai, nếu người đó là đàn ông, thì không phải là người thứ hai, có tội theo số lượng đàn ông. Nếu người thứ hai là Tỳ-khưu-ni, và vị ấy có ý định ở nơi vắng vẻ với người đàn ông đó, thì vị ấy không phải là người thứ hai. Một số người nói rằng cả hai đều phạm tội, nhưng cần phải xem xét rồi mới chấp nhận. Nhưng trong sách cổ chú giải đã nói “tội Tác Ác do việc đứng trong tầm tay,” điều đó mâu thuẫn với kinh điển. Vì kinh điển là “đứng trong tầm tay của người đàn ông, phạm tội Ưng Đối Trị,” cần gì nhiều lời. Do lời nói trong chú giải đề mục của điều học thứ tư (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyikauyyojanasikkhāpadavaṇṇanā) “ba tội Ưng Đối Trị trong việc đứng cùng, v.v.,” nên được hiểu tội theo số lượng vật. Kết luận là nên nói “các yếu tố ở đây là bốn hoặc năm.”

Paṭhamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ nhất đã hoàn tất.

2-3-4. Dutiyatatiyacatutthasikkhāpadavaṇṇanā

2-3-4. Giải thích các điều học thứ hai, thứ ba, và thứ tư

842-6. Dutiyatatiyacatutthāni uttānāni. Sabbattha ‘‘sallapatīti yaṃ kiñci tiracchānakathaṃ kathetī’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ.
842-6. Các điều thứ hai, thứ ba, và thứ tư đều rõ ràng. Trong tất cả các nơi, trong sách cổ chú giải đã nói “nói chuyện là nói bất kỳ câu chuyện thế gian nào.”

852. Catutthe panāyaṃ viseso – ‘‘ekenekā’’ti paṭhamaṃ vuttattā dutiyikaṃ vā bhikkhunīnaṃ uyyojeyya, pācittiyaṃ na sambhavatīti ce? Sambhavati. Kasmā? Santiṭṭhanādittayamattāpekkhattā, tassa vacanassāpi vā aññāyapi rahopekkhanassādasambhave sati ubhinnaṃ ekatthasambhavato ca sādhitametaṃ. ‘‘Hatthapāsaṃ vijahitvā santiṭṭhati vā sallapati vā’’ti ettakameva vuttaṃ. Kasmā ‘‘nikaṇṇikaṃ vā jappetī’’ti na vuttaṃ? Hatthapāsātikkame asambhavato. Tassa tatiyassa padassa pacchinnattā sambhavantampi ‘‘dutiyikaṃ vā uyyojetī’’ti na vuttaṃ, tasmā atthato hatthapāsaṃ vijahitvā santiṭṭhati vā sallapati vā dutiyikaṃ vā uyyojeti, āpatti dukkaṭassāti vuttaṃ hoti. Esa nayo yakkhena vātiādīsupi. Tattha ‘‘hatthapāse’’ti vā ‘‘hatthapāsaṃ vijahitvā’’ti vā na vuttaṃ ubhayattha dukkaṭattā. Anāpattivārepi asambhavato ‘‘nikaṇṇikaṃ vā jappetī’’ti na vuttanti ce? Sambhavati sati karaṇīye nikaṇṇikaṃ vā jappetīti sambhavato. Atha kasmā evaṃ na vuttanti ce? Anavajjakathāyaṃ nikaṇṇikajappane payojanābhāvā, dhammakathāyampi udāyiṃ ārabbha paṭisiddhattā ca.
852. Nhưng trong điều thứ tư có sự khác biệt này: nếu nói rằng vì đã nói trước “một người với một người,” nên dù xua đuổi người bạn đồng hành hay các Tỳ-khưu-ni, tội Ưng Đối Trị cũng không thể có? Có thể có. Tại sao? Vì chỉ phụ thuộc vào ba việc đứng cùng, v.v., và vì điều đó đã được chứng minh do sự tồn tại ở một nơi của cả hai khi không thể có ý định ở nơi vắng vẻ của người khác. Chỉ có bấy nhiêu được nói “đứng hoặc nói chuyện sau khi đã rời khỏi tầm tay.” Tại sao không nói “hoặc nói thầm vào tai”? Vì không thể có khi vượt qua tầm tay. Vì từ thứ ba đó đã bị cắt đứt, nên ngay cả khi có thể, cũng không nói “hoặc xua đuổi người bạn đồng hành,” do đó về mặt ý nghĩa, có nghĩa là đã nói: đứng hoặc nói chuyện sau khi đã rời khỏi tầm tay, hoặc xua đuổi người bạn đồng hành, phạm tội Tác Ác. Nguyên tắc này cũng áp dụng cho các trường hợp “hoặc với dạ xoa,” v.v. Ở đó, không nói “trong tầm tay” hoặc “sau khi đã rời khỏi tầm tay,” vì cả hai đều là tội Tác Ác. Nếu nói rằng ngay cả trong phần không có tội, cũng không nói “hoặc nói thầm vào tai” vì không thể có? Có thể có, vì có thể có việc nói thầm vào tai khi có việc cần làm. Vậy tại sao không nói như vậy? Vì không có lợi ích gì trong việc nói thầm trong câu chuyện vô hại, và vì đã bị cấm trong câu chuyện pháp liên quan đến Udāyi.

Dutiyatatiyacatutthasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích các điều học thứ hai, thứ ba, và thứ tư đã hoàn tất.

5. Pañcamasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học thứ năm

856. ‘‘Kulaṃ nāma cattāri kulānī’’ti vuttattā titthiyārāme kappati tassa kulavohārābhāvatoti eke. Titthiyānaṃ khattiyādipariyāpannattā na kappatīti eke. Tassa kappiyabhūmittā na yuttanti ce? Na, yathāvuttakhattiyādīnaṃ sambhavato. Tathāpi gocarakulaṃ idhādhippetaṃ. ‘‘Upacāro dvādasahattho’’ti likhitaṃ.
856. Vì đã nói “gia đình là bốn gia đình,” một số người cho rằng được phép ở trong vườn của người ngoại đạo vì không có cách nói về gia đình, một số người khác cho rằng không được phép vì người ngoại đạo thuộc về dòng dõi vua, v.v. Nếu nói rằng không đúng vì đó là đất hợp lệ? Không phải, vì có thể có những người dòng dõi vua, v.v., như đã nói. Tuy nhiên, ở đây nhắm đến gia đình đi khất thực. “Phạm vi là mười hai hắt tay,” đã được viết.

Pañcamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ năm đã hoàn tất.

6. Chaṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học thứ sáu

860. ‘‘Nisīdantiyā ekā, nipajjantiyā ekā’’ti avatvā ‘‘nisīditvā gacchantiyā’’tiādi na vattabbaṃ. Na hi gamanapaccayā esā āpattīti? Na, pariyosānādhippāyavasena vuttattā. ‘‘Nisīditvā nipajjantiyā dve’’ti vacanenapi gamanaṃ idha nādhippetanti dassitaṃ hoti, tathā ‘‘nipajjitvā nisīdantiyā dve’’tipi vattabbaṃ. Yadi evaṃ ‘‘tasmiṃ abhinipajjati, āpatti dvinnaṃ pācittiyāna’’nti kasmā na vuttanti ce? Anisīditvāpi nipajjanasambhavato. Nipajjanatthāya nisīditvā nipajjantiyā nipajjanakapayogattā ekā āpattīti keci.
860. Lẽ ra không nên nói “của người đi sau khi đã ngồi,” v.v., mà nên nói “một tội khi ngồi, một tội khi nằm.” Vì tội này không phải do duyên đi? Không phải, vì đã được nói theo ý định kết thúc. Bằng lời nói “hai tội đối với người nằm sau khi đã ngồi,” cũng cho thấy rằng việc đi không được nhắm đến ở đây, cũng vậy, lẽ ra phải nói “hai tội đối với người ngồi sau khi đã nằm.” Nếu vậy, tại sao không nói “nằm trên đó, phạm hai tội Ưng Đối Trị”? Vì có thể nằm mà không ngồi. Một số người nói rằng đối với người nằm sau khi đã ngồi để nằm, đó là một tội vì là hành động nằm.

Chaṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ sáu đã hoàn tất.

7. Sattamasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải thích điều học thứ bảy

867. Anāpattivāre ‘‘dhuvapaññatte’’ti na vuttaṃ ‘‘santharitvā vā santharāpetvā vā’’ti vuttattā . Idha chaṭṭhe vuttanayena pakatiyā paññatte abhinisīdati vā abhinipajjati vā, pācittiyameva. Aññattha dhuvapaññattaṃ. Idha vuttanayena santharitvā vā santharāpetvā vā abhinisīdati vā abhinipajjati vā, pācittiyameva. Ubhayatthāpi pañcame vuttanayena anāpucchā pakkameyya, pācittiyameva, anāpattivāre mātikāyaṃ vuttakālato aññakālassa aparāmaṭṭhattāti no takkoti ācariyo. Apica atthāpattikāle āpajjati, no vikāletiādittike, atthāpatti rattiṃ āpajjati, no divātiādittike ca aṭṭhakathāyaṃ idha pañcamachaṭṭhasattamasikkhāpadehi saṅgahitāpattīnaṃ aparāmaṭṭhattā yathāsambhavaṃ tividhakāle tividhametaṃ yojetvā dassetuṃ vaṭṭati eva mahāpadesanayānulomato.
867. Trong phần không có tội, không nói “được quy định thường xuyên,” vì đã nói “sau khi đã trải hoặc cho trải.” Ở đây, theo cách đã nói trong điều thứ sáu, nếu ngồi hoặc nằm trên vật đã được quy định theo cách thông thường, thì chỉ là tội Ưng Đối Trị. Ở nơi khác, được quy định thường xuyên. Ở đây, theo cách đã nói, sau khi đã trải hoặc cho trải, nếu ngồi hoặc nằm, thì chỉ là tội Ưng Đối Trị. Ở cả hai nơi, theo cách đã nói trong điều thứ năm, nếu ra đi mà không hỏi ý kiến, thì chỉ là tội Ưng Đối Trị, vì trong đề mục của phần không có tội, không đề cập đến thời gian khác với thời gian đã được nói, vị đạo sư không nghĩ vậy. Hơn nữa, trong các bộ ba như “phạm tội vào lúc có tội, không phải vào phi thời,” và “phạm tội vào ban đêm, không phải vào ban ngày,” vì trong chú giải, các tội được bao gồm bởi các điều học thứ năm, thứ sáu, và thứ bảy ở đây không được đề cập, nên được phép chỉ ra bằng cách kết hợp ba điều này trong ba loại thời gian tùy theo khả năng, theo nguyên tắc đại giáo pháp.

Sattamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ bảy đã hoàn tất.

8. Aṭṭhamasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học thứ tám

869. Aṭṭhame bhikkhussa dukkaṭaṃ sambhavati.
869. Trong điều thứ tám, Tỳ-khưu có thể phạm tội Tác Ác.

Aṭṭhamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ tám đã hoàn tất.

9. Navamasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học thứ chín

875-7. Duggāhavasena vā suggāhavasena vā yathāvuttanayena sapathakaraṇe āpattīti veditabbaṃ. Yasmā mātikāyaṃ ‘‘attānaṃ vā paraṃ vā’’ti vuttaṃ, tasmā yā attānameva ārabbha sapathaṃ kareyya, tassā ekā . Paramevārabbha tassā ekā. Ubhopi ārabbha tassā dve āpattiyo sambhavanti. Tikacchedo panettha paramevārabbha sapathakaraṇaṃ sandhāya pavatto.
875-7. Nên được hiểu là có tội khi thề theo cách đã nói, dù là do chấp thủ sai hay chấp thủ đúng. Bởi vì trong đề mục đã nói “chính mình hoặc người khác,” do đó người nào thề chỉ liên quan đến chính mình, người đó có một tội. Chỉ liên quan đến người khác, người đó có một tội. Liên quan đến cả hai, người đó có thể có hai tội. Sự phân chia theo ba cách ở đây diễn ra nhắm đến việc thề chỉ liên quan đến người khác.

Navamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ chín đã hoàn tất.

10. Dasamasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học thứ mười

882. Dasame anāpattivāro rodanasseva, na vadhassa, tasmā ñātibyasanādīhi phuṭṭhāpi attānaṃ vadhati eva, na rodati, dukkaṭameva.
882. Trong điều thứ mười, phần không có tội chỉ dành cho việc khóc, không phải cho việc đánh, do đó ngay cả khi bị ảnh hưởng bởi sự bất hạnh của bà con, v.v., mà chỉ đánh mình, không khóc, cũng chỉ là tội Tác Ác.

Dasamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ mười đã hoàn tất.

Andhakāravaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Tối Tăm đã hoàn tất.

3. Naggavaggavaṇṇanā

3. Phẩm Lõa Thể

1-2. Paṭhamadutiyasikkhāpadavaṇṇanā

1-2. Giải thích các điều học thứ nhất và thứ hai

883. Naggavaggassa paṭhamadutiyāni uttānāni. Paṭhame ayaṃ viseso – bhikkhussa tathā nhāyantassa dukkaṭaṃ aññatra jantāgharaudakapaṭicchādīhi. Na ca vigarahi tattha bhagavā attanāva ananuññātattā udakasāṭikāyāti porāṇā. ‘‘Ekameva nivāsetvā, pārupitvā ca nahāyituṃ na vaṭṭatī’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ.
883. Các điều thứ nhất và thứ hai của phẩm Lõa Thể đều rõ ràng. Trong điều thứ nhất có sự khác biệt này: Tỳ-khưu tắm như vậy phạm tội Tác Ác, trừ khi có nhà tắm hơi và vật che bằng nước. Và Đức Thế Tôn không chê trách ở đó vì chính Ngài chưa cho phép y tắm, các vị xưa nói. Trong sách cổ chú giải đã nói “không được phép chỉ mặc một y và choàng rồi tắm.”

Paṭhamadutiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích các điều học thứ nhất và thứ hai đã hoàn tất.

3. Tatiyasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học thứ ba

894. Tatiye antocatūhapañcāhaṃ dhuraṃ nikkhipantiyāpi āpatti eva. Liṅgaparivatte dhuraṃ nikkhipantiyā dukkaṭaṃ tikadukkaṭattā. ‘‘Sambahulāhi bhikkhunīhi saddhinti ettha catassopi sambahulā’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ.
894. Trong điều thứ ba, ngay cả người bỏ trách nhiệm trong vòng bốn năm ngày cũng phạm tội. Người bỏ trách nhiệm khi thay đổi giới tính phạm tội Tác Ác vì là tội Tác Ác ba loại. Trong sách cổ chú giải đã nói “về câu ‘cùng với nhiều Tỳ-khưu-ni,’ ở đây, cả bốn người cũng là nhiều người.”

Tatiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ ba đã hoàn tất.

4. Catutthasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học thứ tư

898. Catutthe saṅghāṭicāranti ettha saṅghāṭiādivasena adhiṭṭhitānaṃyevāyaṃ vidhi, netarāsaṃ kira. Tattha ticīvare eva vippavāsapaccayā nissaggiyaṃ. Antocīvarakālepi pañcāhikaṃ saṅghāṭicāraṃ atikkāmentiyā āpattiyeva. ‘‘Vinā etehi cīvarehi upasampadaṃ kātuṃ na vaṭṭatī’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ.
898. Về việc đi lại với y tăng-già-lê, ở đây, quy định này chỉ dành cho những y đã được chú nguyện theo y tăng-già-lê, v.v., dường như không phải cho những y khác. Ở đó, chỉ có ba y mới là vật phải xả do duyên xa lìa. Ngay cả trong thời gian có y, người vượt quá năm ngày đi lại với y tăng-già-lê cũng phạm tội. Trong sách cổ chú giải đã nói “không được phép thọ cụ túc giới mà không có những y này.”

Catutthasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ tư đã hoàn tất.

5. Pañcamasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải thích điều học thứ năm

906. Pañcamassa anāpattivāre tāya vā avippavāsāyāti atthato labbhati.
906. Trong phần không có tội của điều thứ năm, có thể nhận được theo ý nghĩa là do không xa lìa vị ấy.

Pañcamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ năm đã hoàn tất.

907-911. Chaṭṭhasattamāni uttānāni.
907-911. Các điều thứ sáu và thứ bảy đều rõ ràng.

8. Aṭṭhamasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải thích điều học thứ tám

916. Sokajjhāyikā nāma kira māyākārā. Vilumpakā bhaṇḍakāti ca porāṇā.
916. Dường như những người than khóc là những người ảo thuật. Các vị xưa cũng nói là những người cướp bóc, những tên trộm.

Aṭṭhamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ tám đã hoàn tất.

9. Navamasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học thứ chín

920. ‘‘Kathañhi nāma atikkāmessatī’’ti vuttattā thullanandā cīvarakālasamayaṃ āgamethāti atikkamāpesīti siddhaṃ hoti.
920. Vì đã nói “làm sao mà lại vượt qua,” nên đã xác định rằng Thullanandā đã cho vượt qua thời gian làm y bằng cách nói “các người hãy đến.”

Navamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ chín đã hoàn tất.

10. Dasamasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học thứ mười

927. Dasame ekakulaṃ etadavocunti ettha kulaṃ nāma tasmiṃ manussā, tasmā bahuvacanaṃ.
927. Về câu một gia đình đã nói như vầy, ở đây, gia đình là những người trong đó, do đó dùng số nhiều.

Dasamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ mười đã hoàn tất.

Naggavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Lõa Thể đã hoàn tất.

4. Tuvaṭṭavaggavaṇṇanā

4. Giải thích phẩm Cuộn Lại

1. Paṭhamasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học thứ nhất

934-5. Ekāya nipannāya aparā nipajjati, āpatti pācittiyassāti ‘‘ubhinnampi paṭhamanipannāya anuṭṭhāpanā’’ti vatvā ettha kiriyākiriyanti eke, taṃ aṭṭhakathāya virujjhati. ‘‘Kiriya’’nti hi aṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Atha kassā āpattīti? Ubhinnampi nipajjanakiriyaṃ paṭicca. Imassa anāpattivāre ‘‘vavatthānaṃ dassetvā’’ti natthi, tasmā vavatthānaṃ katvā nipajjituṃ na vaṭṭatīti eke. Vipulatare vaṭṭatīti eke. ‘‘Antaraṃ katvā nipajjituṃ vaṭṭatī’’ti porāṇagaṇṭhipade likhitaṃ.
934-5. Một người đang nằm, người khác nằm theo, phạm tội Ưng Đối Trị: một số người nói rằng “việc không yêu cầu người nằm trước đứng dậy” ở đây là hành động và không hành động, điều đó mâu thuẫn với chú giải. Vì trong chú giải đã nói là “hành động.” Vậy ai phạm tội? Là do hành động nằm của cả hai. Trong phần không có tội của điều này, không có câu “sau khi đã chỉ ra sự ngăn cách,” do đó một số người nói rằng không được phép nằm sau khi đã làm sự ngăn cách. Một số người khác nói rằng được phép ở nơi rộng hơn. Trong sách cổ chú giải đã viết “được phép nằm sau khi đã tạo ra khoảng cách.”

Paṭhamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ nhất đã hoàn tất.

2. Dutiyasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học thứ hai

940. Vavatthānaṃ dassetvāti ettha upari pārupanampi majjhe obhogaṃ katvā ubhinnaṃ antare otāreti, vaṭṭatīti eke. Vavatthānañca yathā ṭhāne na tiṭṭhati, tathā atikkamitvā tuvaṭṭentiyā āpattiyevāti. ‘‘Kiriyākiriya’’nti ca porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ.
940. Về sau khi đã chỉ ra sự ngăn cách, ở đây, một số người nói rằng ngay cả y choàng ở trên, nếu làm cho có một khoảng trống ở giữa và hạ xuống giữa hai người, thì được phép. Và người cuộn lại sau khi đã vượt qua sự ngăn cách không còn ở đúng vị trí, thì vẫn phạm tội. Và trong sách cổ chú giải đã nói là “hành động và không hành động.”

Dutiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ hai đã hoàn tất.

3. Tatiyasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học thứ ba

941. Attano sajjhāyanaṭṭhāne ce vuḍḍhatarā āgacchati, vandanakāle vā, āpucchanakiccaṃ natthi. Ekasmiṃ ovarake āpucchitabbaṃ. ‘‘Atha ovarake mahātherī vasati, sammukhe itarā, āpucchitabbā tassā upacārattā’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ.
941. Nếu một vị lớn tuổi hơn đến nơi tụng kinh của mình, hoặc vào lúc đảnh lễ, thì không cần phải hỏi ý kiến. Trong một phòng riêng, phải hỏi ý kiến. Trong sách cổ chú giải đã nói “nếu một vị đại trưởng lão ở trong phòng riêng, và người khác ở đối diện, thì phải hỏi ý kiến vì đó là phạm vi của vị ấy.”

Tatiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ ba đã hoàn tất.

946-950. Catutthapañcamasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
946-950. Điều học thứ tư và thứ năm có ý nghĩa rõ ràng.

6. Chaṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học thứ sáu

956. Gahapati nāma ṭhapetvā sahadhammike veditabbo, tasmā bhikkhunā vā sāmaṇerena vā ananulomikena saṃsaggena saṃsaṭṭhāpi na samanubhāsitabbāti sambhavati eva.
956. Gia chủ nên được hiểu là trừ những người đồng phạm hạnh, do đó có thể có trường hợp ngay cả khi có mối quan hệ không phù hợp với Tỳ-khưu hoặc sa-di, cũng không bị khiển trách.

Chaṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ sáu đã hoàn tất.

961-5. Sattamaaṭṭhama sikkhāpadaṃ uttānatthameva.
961-5. Điều học thứ bảy và thứ tám có ý nghĩa rõ ràng.

9. Navamasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học thứ chín

969. Ekindriyanti kāyindriyeneva ekindriyaṃ, nigaṇṭhānaṃ acelakānaṃ mataṃ. Kāpilā pana ‘‘pañcindriyā’’ti maññantā evaṃ vadanti ‘‘sacakkhukattā alābumāluvādayo yattha ālambanaṃ, tattha gacchanti. Sasotakattā kadaliyo meghagajjitaṃ sutvā gabbhaṃ gaṇhanti. Saghānakattā panasādayo kuṇapagandhena phalanti. Sajivhakattā udakaṃ pivanti yena, sabbepi ‘pādapā’ti vuccanti. Sakāyapasādattā itthisamphassena asokarukkhā pupphantī’’ti. Saṅghātanti vināsaṃ.
969. Một giác quan: là chỉ có một giác quan là thân giác quan, đó là quan điểm của những người Nigaṇṭha, những người lõa thể. Nhưng những người Kāpila, cho rằng có “năm giác quan,” đã nói như sau: “vì có mắt, nên bầu bí, v.v., đi đến nơi nào có đối tượng. Vì có tai, nên cây chuối nghe tiếng sấm sét mà mang thai. Vì có mũi, nên cây mít, v.v., ra quả do mùi xác chết. Vì có lưỡi, nên chúng uống nước, do đó tất cả đều được gọi là ‘cây.’ Vì có thân tịnh sắc, nên cây asoka ra hoa do sự tiếp xúc của phụ nữ.” Sự hủy diệt: là sự hủy hoại.

970. Idha ca vassacchedena dukkaṭaṃ. Paṭhamaṃ āvasitvā pacchā cārikā caraṇapaccayā pācittiyaṃ āpajjatīti veditabbaṃ. Atha vassaṃ avasitvā carati, avassupagamanapaccayā dukkaṭaṃ āpajjati. Porāṇagaṇṭhipade pana ‘‘antosattāhe antovasse cārikaṃ carantiyā pācittiyaṃ. Sattāhakaraṇīyena pana vaṭṭati, bhikkhuno dukkaṭaṃ hotī’’ti vuttaṃ.
970. Và ở đây, có tội Tác Ác do gián đoạn mùa an cư. Nên được hiểu là phạm tội Ưng Đối Trị do duyên đi du hành sau khi đã ở lần đầu. Nếu đi du hành mà không ở lại mùa an cư, thì phạm tội Tác Ác do duyên không vào mùa an cư. Nhưng trong sách cổ chú giải đã nói “có tội Ưng Đối Trị đối với người đi du hành trong vòng bảy ngày và trong mùa an cư. Nhưng được phép do công việc bảy ngày, Tỳ-khưu thì phạm tội Tác Ác.”

972. Kenaci ubbāḷhāti vassacchedakāraṇenāti no takkoti ācariyo. Kittāvatā cārikā hotīti? Idaṃ na sabbattha vicāritaṃ. Anantarasikkhāpade ‘‘antamaso chappañcayojanānipī’’ti vuttattā so ca maññe heṭṭhimaparicchedoti.
972. Vị đạo sư không nghĩ rằng bị ai đó thúc ép là do nguyên nhân gián đoạn mùa an cư. Đến mức nào thì được gọi là du hành? Điều này không được xem xét ở mọi nơi. Vì trong điều học kế tiếp đã nói “ít nhất là năm sáu do tuần,” và tôi nghĩ đó là giới hạn thấp nhất.

Navamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ chín đã hoàn tất.

10. Dasamasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải thích điều học thứ mười

973. Dasame ‘‘āhundarikā’’ti paṭhanti kira.
973. Dường như trong điều thứ mười, họ đọc là “những người đi lang thang.”

Dasamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ mười đã hoàn tất.

Tuvaṭṭavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Cuộn Lại đã hoàn tất.

5. Cittāgāravaggavaṇṇanā

5. Giải thích phẩm Nhà Tranh

1. Paṭhamasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích điều học thứ nhất

978. Kīḷanaupavanaṃ nāma kañcinagarassa nagarupavanaṃ viya daṭṭhabbaṃ. Uyyānaṃ nāma tattheva nandavanauyyānaṃ viya daṭṭhabbaṃ. ‘‘Tattheva ṭhatvā taṃ taṃ disābhāgaṃ viloketvā passantiyā pana pāṭekkā āpattiyo’’ti pāṭho. Evaṃ vutte yaṃ pubbe vuttaṃ padaṃ ‘‘anuddharamānā’’ti, taṃ ekasmiṃyeva disābhāgeti siddhanti eke. Upacāro dve leḍḍupātoti ca.
978. Vườn vui chơi nên được xem giống như vườn ngoại ô của thành phố Kañci. Công viên nên được xem giống như công viên Nandavana ở đó. Bản đọc là “nhưng đối với người đứng ở đó, nhìn xung quanh và xem các hướng, thì có các tội riêng biệt.” Một số người nói rằng khi nói như vậy, đã xác định rằng từ đã được nói trước đó “không ngước lên” là chỉ ở một hướng. Và phạm vi là hai lần ném đất.

Paṭhamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ nhất đã hoàn tất.

2. Dutiyasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học thứ hai

984. ‘‘Āharimehi vāḷehī’’ti ‘‘asaṃhārimenā’’ti ca duvidho pāṭho. ‘‘Visuṃ katvā pacchā saddhiṃ tehi vāḷehī’’ti likhitaṃ. Yathā tathā vāḷarūpe uṭṭhapetvā katapādaṃ ‘‘pallaṅka’’nti vuccati anāpattivāre ‘‘asaṃhārimehi vāḷehi kataṃ paribhuñjatī’’ti vacanābhāvato.
984. Có hai bản đọc “bằng lông có thể mang đi” và “bằng vật không thể mang đi.” “Sau khi đã làm riêng, sau đó cùng với những chiếc lông đó,” đã được viết. Giường có chân được làm bằng cách dựng lên các hình dạng lông, dù là theo cách nào, được gọi là “giường,” vì trong phần không có tội không có lời nói “sử dụng vật được làm bằng lông không thể mang đi.”

Dutiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ hai đã hoàn tất.

3. Tatiyasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải thích điều học thứ ba

988. ‘‘Ujjavujjaveti hatthappasāraṇe’’ti likhitaṃ, taṃ na yuttaṃ ‘‘yattakaṃ hatthena añchitaṃ hoti, tasmiṃ takkamhi veṭhite ekāpattī’’ti vacanato.
988. “Ujjavujjave: là trong việc duỗi tay,” đã được viết, điều đó không đúng, vì “khi một đoạn chỉ được quấn trong khoảng cách mà tay có thể với tới, thì có một tội.”

Tatiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ ba đã hoàn tất.

4. Catutthasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học thứ tư

993. ‘‘Yāgupāneti yāgudāne’’ti likhitaṃ. Porāṇagaṇṭhipade ‘‘mātāpitūnaṃ dātuṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ.
993. “Trong việc uống cháo: là trong việc cho cháo,” đã được viết. Trong sách cổ chú giải đã nói “được phép cho cha mẹ.”

Catutthasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ tư đã hoàn tất.

994. Pañcamasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
994. Điều học thứ năm có ý nghĩa rõ ràng.

6. Chaṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải thích điều học thứ sáu

1001. Chaṭṭhe bhikkhuvibhaṅge acelakasikkhāpadena ekaparicchedaṃ. Idha agāriko viseso, tasmā ‘‘asādhāraṇa’’nti vadanti.
1001. Trong điều thứ sáu, có một sự phân định với điều học về người lõa thể trong Phân Tích Tỳ-khưu. Ở đây, người tại gia là sự khác biệt, do đó các vị nói là “không chung.”

Chaṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ sáu đã hoàn tất.

1003-8. Sattamaṭṭhamesu vattabbaṃ natthi.
1003-8. Không có gì để nói trong các điều thứ bảy và thứ tám.

9. Navamasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải thích điều học thứ chín

1015. ‘‘Khīlanamantaṃ dārusārakhīlaṃ mantetvā pathaviyaṃ pavesetvā māraṇamantaṃ. Nāgamaṇḍalaṃnāma nāgarodhamantaṃ, piṭṭhādīhi vā parikkhepaṃ katvā tattha manusse pavesenti guttatthāyā’’ti likhitaṃ.
1015. “Thần chú cọc là thần chú giết người sau khi đã niệm chú vào cọc gỗ và đóng xuống đất. Vòng tròn rắn là thần chú thuần phục rắn, hoặc sau khi đã làm một vòng vây bằng bột, v.v., họ cho người vào đó để được bảo vệ,” đã được viết.

Navamasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ chín đã hoàn tất.

1017. Dasamasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
1017. Điều học thứ mười có ý nghĩa rõ ràng.

Cittāgāravaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Nhà Tranh đã hoàn tất.

6. Ārāmavaggavaṇṇanā

6. Giải thích phẩm Tự Viện

1021. Paṭhamasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
1021. Điều học thứ nhất có ý nghĩa rõ ràng.

2. Dutiyasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích điều học thứ hai

1030. Bhikkhunī ce bhikkhuṃ akkosati, iminā sikkhāpadena pācittiyaṃ. Bhikkhuniṃ ce akkosati, omasavādena āpajjati. Omasavāde sammukhāva ruhati, idha pana parammukhāpi.
1030. Nếu Tỳ-khưu-ni mắng nhiếc Tỳ-khưu, thì phạm tội Ưng Đối Trị theo điều học này. Nếu mắng nhiếc Tỳ-khưu-ni, thì phạm tội theo điều học nói lời miệt thị. Trong điều học nói lời miệt thị, chỉ có hiệu lực khi nói trước mặt, còn ở đây thì cả khi nói vắng mặt.

Tatrāyaṃ vicāraṇā – bhikkhuvibhaṅge osamavādasikkhāpade bhikkhunī anupasampannaṭṭhāne tiṭṭhatīti katvā bhikkhunivibhaṅgepi omasavādasikkhāpade bhikkhu bhikkhuniyā anupasampannaṭṭhāne tiṭṭhatīti siddhaṃ. Idha ca anupasampannassa akkosane dukkaṭaṃ vuttaṃ, bhikkhussa upasampannassa akkosane pācittiyaṃ vuttaṃ, tasmā imāni dve sikkhāpadāni bhikkhumhi saṃsandiyamānāni aññamaññaṃ na samenti. Yathā samenti, tathā jānitabbaṃ. Tattha porāṇagaṇṭhipade vuttanayena bhikkhunīnaṃ omasavādasikkhāpade anupasampannoti na gahetabbo, idamettha yuttaṃ. Paribhāseyyāti aññatra akkosavatthūhi. Tesu hi aññatarasmiṃ sati omasavādapācittiyamevāti eke, taṃ na yuttaṃ . Omasavāde pāḷimuttakaakkose hi dukkaṭaṃ hotīti. Dukkaṭokāse idaṃ pācittiyaṃ tehi niddiṭṭhaṃ hoti, tasmā ‘‘bālā etā’’ti pāḷiyaṃ idha āgatapadānaṃyeva vasena paribhāsanaṃ veditabbaṃ.
Ở đó, sự xem xét này là: trong điều học nói lời miệt thị trong Phân Tích Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni đứng ở vị trí của người chưa thọ cụ túc giới, do đó trong điều học nói lời miệt thị trong Phân Tích Tỳ-khưu-ni, Tỳ-khưu cũng đứng ở vị trí của người chưa thọ cụ túc giới của Tỳ-khưu-ni, điều này đã được xác định. Và ở đây, đã nói tội Tác Ác khi mắng nhiếc người chưa thọ cụ túc giới, và tội Ưng Đối Trị khi mắng nhiếc Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới, do đó hai điều học này, khi được kết hợp với Tỳ-khưu, không phù hợp với nhau. Phải biết làm thế nào để chúng phù hợp. Ở đó, theo cách đã nói trong sách cổ chú giải, trong điều học nói lời miệt thị của Tỳ-khưu-ni, không nên lấy là người chưa thọ cụ túc giới, điều này ở đây là hợp lý. Nên mắng nhiếc: là ngoài các vật mắng nhiếc. Một số người nói rằng vì khi có một trong số đó, thì chỉ là tội Ưng Đối Trị nói lời miệt thị, điều đó không đúng. Vì trong điều học nói lời miệt thị, khi mắng nhiếc ngoài kinh điển, thì có tội Tác Ác. Trong trường hợp có tội Tác Ác, tội Ưng Đối Trị này đã được họ chỉ ra, do đó nên được hiểu việc mắng nhiếc chỉ bằng các từ đã đến trong kinh điển ở đây “những người này ngu ngốc.”

Dutiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ hai đã hoàn tất.

1033. Tatiyasikkhāpadaṃ uttānatthameva.
1033. Điều học thứ ba có ý nghĩa rõ ràng.

4. Catutthasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải thích điều học thứ tư

1038. Nimantitā vā pavāritā vāti ettha porāṇagaṇṭhipade tāva evaṃ vuttaṃ ‘‘pavāritāpi yāguṃ pātuṃ labhati, bhojjayāguṃ na labhati. Yāgu panettha khādanīyabhojanīyasaṅkhyaṃ na gacchati . Nimantitā bhikkhunī piṇḍāya caritvā bhuñjitukāmā sāmike apaloketvāva bhuñjituṃ labhati. Paramparabhojanāpatti bhikkhunīnaṃ natthi. Nimantitā taṃ bhattaṃ bhuñjitvā vā abhuñjitvā vā pavāritā kappiyaṃ kārāpetvā bhuñjituṃ na labhati, akappiyanimantanena nimantiyamānā dve nimantanāni sampaṭicchituñca na labhatī’’ti. Tattha ‘‘pavāritāpi yāguṃ pātuṃ labhatī’’ti vuttaṃ pāḷiyaṃ, aṭṭhakathāyañca anuññātattā. ‘‘Nimantitā appavāritā yāguṃ pivatī’’ti hi pāḷiyaṃ vuttaṃ. Tatridaṃ sikkhāpadavaṇṇanāpubbaṅgamasanniṭṭhānaṃ – nimantitā vā pavāritā vāti ettha vāsaddena akappiyanimantanena nimantitā appavāritā ṭhapetvā yāguṃ aññaṃ khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā khādeyya vā bhuñjeyya vā, pācittiyaṃ aññatra sāmikānaṃ apalokanā. Paramparabhojanābhāvena bhikkhunīnaṃ ko guṇo jātoti? Na etāsaṃ guṇalābho, kevalaṃ pākaṭataraṃ jātaṃ. Bhikkhūpi vikappetvā missetvāva bhuñjituṃ labhanti. Samaye yathāsukhaṃ labhanti. Iminā apalokanena kinti? Pavāritā vā animantitā vā na kiñci kappiyaṃ kārāpetvā gilānātirittampi labhanti, nimantitā ca pavāritā ca yāgumpi na labhanti, apaloketvāpi na labhantīti.
1038. Về được mời hoặc được tự tứ, ở đây, trong sách cổ chú giải đã nói như sau: “người đã được tự tứ cũng được phép uống cháo, không được phép uống cháo đặc. Ở đây, cháo không được kể là đồ ăn vặt và thực phẩm. Tỳ-khưu-ni đã được mời, nếu muốn ăn sau khi đi khất thực, được phép ăn sau khi đã thông báo cho chủ. Tỳ-khưu-ni không có tội ăn nối tiếp. Tỳ-khưu-ni đã được mời, dù đã ăn hay chưa ăn bữa ăn đó, đã được tự tứ, không được phép ăn sau khi đã làm cho hợp lệ, và không được phép chấp nhận hai lời mời khi được mời bằng lời mời không hợp lệ.” Ở đó, “người đã được tự tứ cũng được phép uống cháo” đã được nói trong kinh điển, và vì đã được cho phép trong chú giải. Vì trong kinh điển đã nói “người đã được mời, chưa được tự tứ, uống cháo.” Ở đó, kết luận trước khi giải thích điều học này là: về câu được mời hoặc được tự tứ, bằng từ “hoặc,” người được mời bằng lời mời không hợp lệ, chưa được tự tứ, nếu ăn hoặc dùng bất kỳ đồ ăn vặt hoặc thực phẩm nào khác ngoài cháo, thì phạm tội Ưng Đối Trị, trừ khi đã thông báo cho chủ. Có phẩm chất gì phát sanh cho Tỳ-khưu-ni do không có tội ăn nối tiếp? Họ không có được phẩm chất gì, chỉ là trở nên rõ ràng hơn. Các Tỳ-khưu cũng chỉ được phép ăn sau khi đã chia sớt và trộn lẫn. Vào thời điểm thích hợp, họ được phép tùy thích. Bằng việc thông báo này, thì sao? Người đã được tự tứ hoặc không được mời, không được phép nhận bất cứ thứ gì, ngay cả vật dư của người bệnh, sau khi đã làm cho hợp lệ, và người đã được mời và đã được tự tứ cũng không được phép nhận cháo, ngay cả sau khi đã thông báo cũng không được phép.

Catutthasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích điều học thứ tư đã hoàn tất.

Ārāmavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Tự Viện đã hoàn tất.

7. Gabbhinivaggavaṇṇanā

7. Giải thích phẩm Có Thai

1. Paṭhamādisikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải thích các điều học đầu tiên, v.v.

1067. ‘‘Gabbhini’’nti dassanādīhipi gabbhasambhavato vuttaṃ. Padabhājanepi pavāritabhāvo na dissati.
1067. “Người có thai”: đã được nói do có thể có thai bằng cách nhìn, v.v. Ngay cả trong phần phân tích từ, cũng không thấy có tình trạng đã được tự tứ.

1074. Dhāti vāti ettha dārakaṃ sāmikānaṃ datvā āhaṭe vaḍḍheti, tathā mātāpīti keci.
1074. Về hoặc người giữ trẻ, ở đây, sau khi đã giao con cho chủ, nuôi dưỡng khi được mang về, cũng vậy là mẹ và cha, một số người nói.

1080. ‘‘Sikkhamāna’’nti pāṭhaṃ dīpavāsino rocenti kiriyākiriyattā, jambudīpavāsino ‘‘sikkhamānā’’ti. Tassattho sikkhādhammamānanato sikkhamānāti. Idha kiriyā na hoti, saññāva adhippetā. Na etāsu asikkhitā upasampādetabbā upajjhāyinīādīnaṃ āpattibhāvā. ‘‘Tassā upasampadā hoti evā’’ti vadanti.
1080. Những người ở đảo dường như thích bản đọc “sikkhamānaṃ” vì là hành động và không hành động, những người ở Jambudīpa thì là “sikkhamānā.” Ý nghĩa của nó là người đang học vì tôn trọng các điều học. Ở đây, không phải là hành động, chỉ có tưởng được nhắm đến. Trong số họ, người chưa được học không được thọ cụ túc giới vì tình trạng phạm tội của thầy tế độ, v.v. Các vị nói rằng “sự thọ cụ túc giới của vị ấy chắc chắn có.”

1082. Dhammakammeti upasampadakammaṃ adhippetaṃ.
1082. Trong Tăng sự hợp pháp: Tăng sự thọ cụ túc giới được nhắm đến.

1112. Vuṭṭhāpitanti sāmaṇeribhūmito yāya theriyā upasampadāpekkhā vuṭṭhapitā, sā therī vuṭṭhāpitā nāma, teneva puna visesanatthaṃ ‘‘pavattini’’nti āha.
1112. Đã được nâng đỡ: người đã được một vị trưởng lão nâng đỡ từ thân phận sa-di-ni để xin thọ cụ túc giới, vị trưởng lão đó được gọi là người đã nâng đỡ, chính vì vậy mà để phân biệt thêm, đã nói “người hướng dẫn.”

Paṭhamādisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích các điều học đầu tiên, v.v. đã hoàn tất.

Gabbhinivaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích phẩm Có Thai đã hoàn tất.

8. Kumāribhūtavaggavaṇṇanā

8. Giải thích phẩm Nữ Đồng Trinh

2. Dutiyādisikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải thích các điều học thứ hai, v.v.

1124. ‘‘Anujānāmi , bhikkhave, aṭṭhārasavassāya kumāribhūtāya…pe… sikkhāsammutiṃ dātu’’nti idha vuttaṃ viya ‘‘anujānāmi, bhikkhave, dasavassāya gihigatāya…pe… sikkhāsammutiṃ dātu’’nti na vuttaṃ, tasmā ‘‘paripuṇṇadvādasavassāya eva gihigatāya sikkhāsammuti dātabbā’’ti vuttaṃ. Gihigatāya sikkhāsammuti dātabbāti eketi katvā dasavassāyapi vaṭṭati . Kasmā? ‘‘Anāpatti paripuṇṇadvādasavassaṃ paripuṇṇasaññā vuṭṭhāpetī’ti (pāci. 1093-1095) ca ‘anāpatti paripuṇṇadvādasavassaṃ gihigataṃ…pe… sikkhitasikkhaṃ vuṭṭhāpetī’ti (pāci. 1097-1101) ca vuttattā’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ. Kiṃ iminā parihārena. ‘‘Dasavassāya gihigatāya sikkhāsammuti dātabbā’’ti hi vuttaṃ. ‘‘Gihigatātipi vattuṃ na vaṭṭatī’ti sace vadanti, kammaṃ kuppatī’’ti likhitaṃ.
1124. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cho sự chấp thuận học đối với nữ đồng trinh mười tám tuổi…”, giống như đã được nói ở đây, không được nói là “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cho sự chấp thuận học đối với người đã có gia đình mười tuổi…”, do đó đã được nói “chỉ nên cho sự chấp thuận học đối với người đã có gia đình đủ mười hai tuổi.” Nên cho sự chấp thuận học đối với người đã có gia đình, một số người cho rằng vì là một, nên ngay cả người mười tuổi cũng được phép. Tại sao? “Vì đã được nói ‘không có tội khi cho xuất gia người đủ mười hai tuổi, có tưởng là đủ’ (pāci. 1093-1095) và ‘không có tội khi cho xuất gia người đã có gia đình đủ mười hai tuổi… đã được học các điều học’ (pāci. 1097-1101),” trong sách cổ chú giải đã nói. Cần gì lời giải thích này. Vì đã được nói “nên cho sự chấp thuận học đối với người đã có gia đình mười tuổi.” “Nếu họ nói rằng ngay cả ‘người đã có gia đình’ cũng không được phép nói, thì Tăng sự sẽ bị hỏng,” đã được viết.

1146. Ahameva nūna…pe… alajjinī, yā saṅghoti ettha yā ahameva nūna bālāti attho. ‘‘Yaṃ saṅgho’’tipi atthi, tattha yaṃ yasmā deti, tasmā ahameva nūna bālāti attho.
1146. Chắc chắn chính tôi… là người không biết xấu hổ, mà Tăng chúng: Ở đây, ý nghĩa là, chắc chắn chính tôi là người ngu dốt. Cũng có bản đọc “Bởi vì Tăng chúng,” ở đó ý nghĩa là, bởi vì Tăng chúng cho, do đó chắc chắn chính tôi là người ngu dốt.

1159. Purisasaṃsaṭṭhā kumārakasaṃsaṭṭhā caṇḍī sokāvāsāvakathaṃ sikkhamānāti vuccati, padabhājane eva cāyaṃ sikkhamānā ‘‘chasu dhammesu sikkhitasikkhā’’ti kasmā vuttanti? Pubbe gahitasikkhattā, pubbe paripuṇṇasikkhattā ca evaṃ vuccatīti veditabbaṃ.
1159. Người giao du với đàn ông, giao du với các chàng trai, hung dữ, có lời nói gây sầu muộn được gọi là cô ni tu tập sự. Nên được hiểu rằng, trong phần phân tích từ, tại sao cô ni tu tập sự này lại được gọi là “đã được rèn luyện trong sáu pháp”? Là vì đã nhận sự rèn luyện trước đây, và vì đã hoàn thành sự rèn luyện trước đây, nên được nói như vậy.

1166-7. Pahūtaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ passitvāti ettha ‘‘sikkhamānāya ñātakā kira sampādayiṃsu, taṃ passitvā there bhikkhū uyyojesi. Uyyojetvā tesaṃ chandaṃ gahetvā pubbe chandadāyake gaṇaṃ katvā sesānaṃ chandaṃ chandameva katvā kammaṃ kārāpesī’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ. Chandaṃ vissajjetvāti ettha anugaṇṭhipade evaṃ vuttaṃ ‘‘idaṃ kammaṃ ajja na kattabbaṃ. ‘Yathāsukha’nti vatvā vissajjitaṃ hoti, tasmā yo koci mukharo, bālo vā kiñcāpi ‘yathāsukha’nti vadati, therāyattattā pana therassa anumatiyā satiyā vissajjito hoti, asatiyā na hoti, tathāpi puna chandaṃ gahetvāva kammaṃ karonti, ayaṃ payogo. Gahaṇe payojanaṃ pana natthi. Saṅghatthero ce vissajjeti, chandaṃ gahetvāva kātabbaṃ. Chandaṃ vissajjetvā kāyena vuṭṭhitāyāti ettha idha sambādho, ‘amukamhi ṭhāne karissāmā’ti hatthapāsaṃ vijahitvāpi gacchanti ce, natthi doso. Kiñcāpi natthi, tā pana hatthapāsaṃ avijahitvāva gacchanti, ayaṃ payogo’’ti. ‘‘Rattipārivāsiye uposathapavāraṇāva na vaṭṭati, aññakammaṃ pana vaṭṭati. Uposathapavāraṇāpi anuposathapavāraṇadivase na vaṭṭanti, itaraṃ sabbakālaṃ vaṭṭati. Parisapārivāsiye hatthapāsaṃ avijahitvā catūsu gatesu catuvaggakaraṇīye aññasmiṃ pañcasu dasasu vīsatīsu gatesu sesehi visuṃ tahiṃ tahiṃ gantvāpi puna sannipātaṭṭhānaṃ āgantvā kātuṃ vaṭṭati. Ajjhāsayapārivāsiye hatthapāsaṃ avijahitvā yathānisinnāva nisinnā ce, puna kātuṃ vaṭṭati hatthapāsassa avijahitattā’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ. Tesaṃ porāṇānaṃ matena chandapārivāsiyamevekaṃ na vaṭṭatīti āpannaṅgañca dassitaṃ, idhāpi taṃ visuṃ na dassitaṃ asambhavatoti eke. Chandadāyake parisaṃ patvā gate tassa pubbachandadānaṃ chandapārivāsiyanti no takkoti ācariyo.
1166-7. Sau khi thấy nhiều đồ ăn và vật thực: Ở đây, trong sách cổ chú giải đã nói: “Dường như bà con của cô ni tu tập sự đã chuẩn bị, sau khi thấy vậy, vị ấy đã xúi giục các Tỳ-khưu trưởng lão. Sau khi xúi giục, lấy sự đồng thuận của họ, tập hợp những người đã cho sự đồng thuận trước thành một nhóm, rồi lấy sự đồng thuận của những người còn lại chỉ như là sự đồng thuận và cho tiến hành Tăng sự.” Về câu sau khi từ bỏ sự đồng thuận, trong sách phụ chú giải đã nói như sau: “Tăng sự này hôm nay không được làm. Sau khi nói ‘tùy ý,’ sự đồng thuận đã được từ bỏ. Do đó, bất kỳ ai nói nhiều, hoặc người ngu dốt, mặc dù nói ‘tùy ý,’ nhưng vì phụ thuộc vào vị trưởng lão, nên khi có sự cho phép của vị trưởng lão thì sự đồng thuận mới được từ bỏ, khi không có thì không. Tuy nhiên, họ vẫn tiến hành Tăng sự sau khi đã lấy lại sự đồng thuận, đây là một thực hành tốt. Nhưng không có lợi ích gì trong việc lấy lại. Nếu vị trưởng lão của Tăng chúng từ bỏ, thì phải tiến hành sau khi đã lấy lại sự đồng thuận. Về câu đối với người đã đứng dậy sau khi từ bỏ sự đồng thuận, ở đây có sự chật chội, nếu họ đi ngay cả khi đã rời khỏi tầm tay với ý định ‘chúng ta sẽ làm ở chỗ kia,’ thì không có lỗi. Mặc dù không có, nhưng họ đi mà không rời khỏi tầm tay, đây là một thực hành tốt.” Trong sách cổ chú giải đã nói: “Đối với việc cách đêm, lễ Bố-tát và Tự tứ là không hợp lệ, nhưng các Tăng sự khác thì hợp lệ. Lễ Bố-tát và Tự tứ cũng không hợp lệ vào ngày không phải Bố-tát và Tự tứ, còn lại thì hợp lệ vào mọi lúc. Đối với việc cách hội chúng, sau khi bốn người đã đi mà không rời khỏi tầm tay trong một Tăng sự cần bốn người, hoặc trong một Tăng sự khác khi năm, mười, hai mươi người đã đi, những người còn lại có thể đi riêng đến các nơi khác rồi lại tập trung tại nơi họp để tiến hành. Đối với việc cách ý định, nếu họ vẫn ngồi như cũ mà không rời khỏi tầm tay, thì có thể làm lại vì chưa rời khỏi tầm tay.” Theo quan điểm của các vị xưa đó, chỉ có một trường hợp là cách sự đồng thuận là không hợp lệ, và yếu tố dẫn đến điều đó đã được chỉ ra. Ở đây, điều đó cũng không được chỉ ra riêng vì không thể xảy ra, một số người nói vậy. Vị đạo sư cho rằng việc người cho sự đồng thuận trước đó đi đến hội chúng không được coi là cách sự đồng thuận.

Tatridaṃ sanniṭṭhānaṃ – parisapārivāsiye aṭṭhakathāyaṃ ‘‘aññatra gacchāmāti chandaṃ avissajjetvāva uṭṭhahanti…pe… kammaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vuttavacane hatthapāsā vijahanaṃ na paññāyati. Ettha pana kammappattānaṃ hatthapāsassa avijahanameva icchitabbanti katvā porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ. Kiñcāpi na paññāyati, appaṭikkhittattā pana vaṭṭatīti ce? Na, paṭikkhittattā. Kathaṃ? Chando nāma kammappattesu bhikkhūsu ekasīmāya sannipatitesu āgacchati, nāsannipatitesu. Idha hi ‘‘chandaṃ avissajjetvā’’ti ca ‘‘chandassa pana avissaṭṭhattā’’ti ca vuttaṃ. ‘‘Ajjhāsayaṃ avissajjetvā’’ti ca ‘‘ajjhāsayassa avissaṭṭhattā’’ti ca na vuttaṃ, tasmā chandassa avissajjanaṃ kammappattānaṃ hatthapāsāvijahaneneva hoti, na vijahaneti siddhaṃ.
Ở đó, kết luận này là: về việc cách hội chúng, trong chú giải, lời nói “họ đứng dậy mà không từ bỏ sự đồng thuận với ý định ‘chúng ta sẽ đi nơi khác’… được phép làm Tăng sự” không cho thấy việc không rời khỏi tầm tay. Nhưng ở đây, vì mong muốn rằng những người đủ tư cách tham gia Tăng sự không được rời khỏi tầm tay, nên đã được nói trong sách cổ chú giải. Nếu nói rằng mặc dù không cho thấy nhưng vẫn hợp lệ vì không bị cấm? Không phải, vì đã bị cấm. Như thế nào? Sự đồng thuận chỉ có hiệu lực khi các Tỳ-khưu đủ tư cách tham gia Tăng sự đã tập trung trong cùng một ranh giới, không phải khi chưa tập trung. Vì ở đây đã nói “mà không từ bỏ sự đồng thuận” và “vì sự đồng thuận chưa được từ bỏ.” Không có nói “mà không từ bỏ ý định” và “vì ý định chưa được từ bỏ.” Do đó, việc không từ bỏ sự đồng thuận chỉ có được khi những người đủ tư cách tham gia Tăng sự không rời khỏi tầm tay, không phải khi rời đi, điều này đã được xác định.

Hoti cettha –
Và ở đây có câu:

‘‘Yato āgamanaṃ yassa, tadabhāvassa niggahe;
Tasmā sannipatitesu, bhikkhūsu tassa bhedato’’ti.
“Sự đến từ đâu của cái gì, trong sự bác bỏ sự không có mặt của cái đó;
Do đó, trong các Tỳ-khưu đã tập trung, do sự khác biệt của nó.”

Rattipārivāsiyachando viya rattipārivāsiyapārisuddhipīti tadanulomena vaṭṭati svātanāya chando vā pārisuddhi vā pavāraṇā vā, tāya kammaṃ kātuṃ vaṭṭati. Uposathapavāraṇā pana anuposathadivase na vaṭṭati, itaraṃ vaṭṭati. Pannarasiuposathaṃ cātuddasiyaṃ kātuṃ vaṭṭati khettattā. Na cātuddasiuposathaṃ pannarasiyaṃ akhettattā anuposathadivasattā pāṭipadadivasattāti ekacce ācariyā, tasmā tesaṃ matena cātuddasiuposathaṃ tatiyaṃ, sattamaṃ vā pannarasiyaṃ kātuṃ na vaṭṭati. Yaṃ panettha vuttaṃ aṭṭhakathāyaṃ ‘‘sace cātuddasikaṃ uposathaṃ karissāmāti nisinnā, pannarasoti kātuṃ vaṭṭatī’’ti. Tato ‘‘pannarasiyameva ‘cātuddasikaṃ uposathaṃ karissāmā’ti nisinnā punadivase attano taṃ uposathaṃ ‘pannaraso’ti kātuṃ vaṭṭatīti attho’’ti evaṃ pariharanti, taṃ tesaṃ mataṃ ‘‘tathārūpapaccaye sati aññasmimpi cātuddase uposathaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti (kaṅkhā. aṭṭha. nidānavaṇṇanā) iminā mātikāṭṭhakathāvacanena na sameti. Na hi tattha ‘‘aññasmimpi pannarase cātuddasikaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Evaṃ santepi ‘‘sakiṃ pakkhassa cātuddase vā pannarase vā’’ti anuññātadivase pariyāpannattā channaṃ cātuddasikānaṃ pacchimā pannarasī anuposathadivaso na hotīti siddhaṃ hoti. Kiñcāpi siddhaṃ, iminā pana ‘‘āvāsikānaṃ pannaraso, āgantukānaṃ cātuddaso, āgantukehi āvāsikānaṃ samasamehi vā appatarehi vā anuvattitabba’’nti vacanamettha niratthakaṃ hotīti veditabbaṃ.
Giống như sự đồng thuận cách đêm, sự thanh tịnh cách đêm cũng vậy, theo đó, sự đồng thuận, sự thanh tịnh, hoặc lễ Tự tứ cho ngày hôm sau là hợp lệ, và được phép làm Tăng sự với nó. Nhưng lễ Bố-tát và Tự tứ thì không hợp lệ vào ngày không phải Bố-tát. Còn lại thì hợp lệ. Được phép làm lễ Bố-tát ngày rằm vào ngày mười bốn vì đó là phạm vi. Không được làm lễ Bố-tát ngày mười bốn vào ngày rằm vì không phải là phạm vi, vì là ngày không phải Bố-tát và là ngày mùng một, một số vị đạo sư nói vậy. Do đó, theo quan điểm của họ, không được phép làm lễ Bố-tát ngày mười bốn vào ngày mười lăm thứ ba hoặc thứ bảy. Điều đã được nói trong chú giải ở đây là “nếu họ ngồi với ý định ‘chúng ta sẽ làm lễ Bố-tát ngày mười bốn,’ thì được phép làm vào ngày rằm.” Từ đó, họ giải thích rằng “ý nghĩa là, vào chính ngày rằm, sau khi đã ngồi với ý định ‘chúng ta sẽ làm lễ Bố-tát ngày mười bốn,’ thì vào ngày hôm sau, được phép làm lễ Bố-tát đó của mình vào ngày rằm.” Quan điểm đó của họ không phù hợp với lời nói trong chú giải đề mục này: “khi có duyên như vậy, được phép làm lễ Bố-tát vào một ngày mười bốn khác” (kaṅkhā. aṭṭha. nidānavaṇṇanā). Vì ở đó không nói “cũng được phép làm lễ Bố-tát ngày mười bốn vào một ngày rằm khác.” Mặc dù vậy, vì được bao gồm trong những ngày được cho phép “một lần trong nửa tháng vào ngày mười bốn hoặc ngày rằm,” nên ngày rằm cuối cùng của sáu ngày mười bốn không phải là ngày không Bố-tát, điều này đã được xác định. Mặc dù đã được xác định, nhưng nên được hiểu rằng lời nói “đối với các vị ở tại chỗ là ngày rằm, đối với các vị khách là ngày mười bốn, các vị khách phải theo các vị ở tại chỗ nếu số lượng bằng nhau hoặc ít hơn” ở đây trở nên vô nghĩa.

Dutiyādisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích các điều học từ thứ hai trở đi đã hoàn tất.

Kumāribhūtavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải về Phẩm Thiếu Nữ đã hoàn tất.

9. Chattupāhanavaggavaṇṇanā

9. Phần giải về Phẩm Dù và Giày

11. Ekādasamādisikkhāpadavaṇṇanā

11. Giải thích các điều học từ thứ mười một trở đi

1214. Upacāraṃ sandhāya kathitanti ‘‘dvādasahatthaṃ upacāro’’ti likhitaṃ.
1214. Đã được nói nhắm đến phạm vi: đã được viết là “phạm vi là mười hai hắt tay.”

1221. Suttante okāsaṃ kārāpetvā vinayaṃ vā abhidhammaṃ vā pucchatīti ettha ca tīṇi piṭakāni attano attano nāmena vuttānīti katvā abhidhammo buddhena bhāsito evāti dīpitaṃ hoti.
1221. Sau khi xin phép trong kinh, hỏi về Luật hoặc Vi Diệu Pháp: Ở đây, vì ba tạng đã được nói bằng tên riêng của chúng, nên được chỉ ra rằng tạng Vi Diệu Pháp chắc chắn đã được Đức Phật thuyết giảng.

1224-5. Thano ca udaro ca thanudarā. ‘‘Saṃkaccikāya pamāṇaṃ tiriyaṃ diyaḍḍhahatthā’’ti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ. ‘‘Aparikkhittassa gāmassa upacāraṃ okkamantiyā’’ti bahūsu potthakesu, saṅghādisesakaṇḍe viya ‘‘upacāraṃ atikkamantiyā’’ti pāṭho appakesu, sova pāṭho. Aṭṭhakathāyaṃ ‘‘parikkhepaṃ atikkamantiyāti ekena pādena atikkante dukkaṭaṃ, dutiyena pācittiyaṃ. Upacārepi eseva nayo’’ti vacanampi ‘‘upacāraṃ atikkamantiyā’’ti pāṭhoti dīpetīti no takkoti ācariyo.
1224-5. Ngực và bụng là ngực-bụng. Trong sách cổ chú giải đã nói “kích thước của y nội là một hắt tay rưỡi theo chiều ngang.” Trong nhiều sách, bản đọc là “khi đi vào phạm vi của một ngôi làng không có rào chắn,” giống như trong phẩm Tăng Tàn, bản đọc “khi đi qua phạm vi” có trong ít sách hơn, và đó mới là bản đọc đúng. Vị đạo sư cho rằng lời nói trong chú giải “khi đi qua hàng rào, bước qua bằng một chân thì phạm tội Tác Ác, bằng chân thứ hai thì phạm tội Ưng Đối Trị. Trong phạm vi cũng theo cách này” cũng chỉ ra rằng bản đọc là “khi đi qua phạm vi.”

Ekādasamādisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải thích các điều học từ thứ mười một trở đi đã hoàn tất.

Chattupāhanavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải về Phẩm Dù và Giày đã hoàn tất.

Nigamanavaṇṇanā

Phần giải về Lời kết

Giraggasamajjādīni ‘‘acittakāni lokavajjānī’’ti vuttattā ‘‘nacca’’nti vā ‘‘gandho’’ti vā ajānitvāpi dassanena, vilimpanena vā āpajjanato vatthuajānanacittena acittakāni. ‘‘Nacca’’nti vā ‘‘gandho’’ti vā jānitvā passantiyā, vilimpantiyā ca akusalattā eva lokavajjāni. Corivuṭṭhāpanādīni ‘‘corī’’tiādinā vatthuṃ jānitvā karaṇe eva āpattisabbhāvato sacittakāni. Upasampadādīnaṃ ekantena akusalacitteneva akattabbattā paṇṇattivajjāni. ‘‘Idha sacittakācittakatā paṇṇattijānanājānanatāya aggahetvā vatthujānanājānanatāya gahetabbā’’ti likhitaṃ. Anugaṇṭhipade pana ‘‘giraggasamajjādīni ‘acittakāni lokavajjānī’ti vuttattā ‘nacca’nti vā ‘saṅghāṇī’ti vā ‘gandho’ti vā tassa nāmavasena ajānitvā māyākārassa māyāni sīsaṭṭhiādīni paṭisaṅkhāya passantiyā, akkhamālādiatthāya saṅghāṇiṃ kaṭiyā bandhantiyā, ‘sedagandhaṃ apanetvā buddhapūjaṃ karissāmī’ti uppannena cittena gandhaṃ vilimpetvā nahāyantiyā ca āpattisabbhāvato nāmena saddhiṃ nāmavasena vā vatthussa ajānanacittena acittakāni nāma. Na andhakāre ‘kaṭisuttamida’nti saññāya saṅghāṇiṃ gahetvā kaṭiyaṃ dhāraṇakāle, mattikāsaññāya ca gandhaṃ gahetvā vilimpanakāle āpattisabbhāvato ‘acittakānī’ti vattabbāni. Tasmiṃ kāle anāpatti, teneva saṅghāṇiyā asaṅghāṇisaññāvārepi ‘āpatti pācittiyassā’ti pāḷi na vuttā. Yathā ‘khettaābādhapaccayā, kaṭisuttakaṃ dhāretī’ti vacanato vināpi akusalena saṅghāṇiādīni sakkā dhāretunti siddhaṃ, evaṃ ābādhapaccayā vināpi akusalena na sakkā suraṃ pātunti siddhaṃ ‘anāpatti ābādhapaccayā majjaṃ pivatī’ti pāḷiyā abhāvato. Akusalena vinā madhupuṇṇamuṭṭhiyaṃ pakkhittamajjassa ajjhoharaṇakālādīsu surāpānāpattiṃ āpajjatīti ca siddhaṃ ‘majje amajjasaññī pivati, āpatti pācittiyassā’ti (pāci. 328) vuttattā. Kiṃbahunā, kāmabhogasaññāya saddhiṃ ‘saṅghāṇī’ti ca ‘gandho’ti ca jānitvā vinā anāpattikāraṇena dhārentiyā ekantākusalattā lokavajjāni nāma vuccanti. Iminā upāyena sesesupi nayo netabbo. Ettha surāpānādhikāre upatissattheravādo’’ti vuttaṃ. Asaṃkaccikasikkhāpade ‘‘aparikkhittassa gāmassa upacāraṃ okkamantiyāti pāṭho’’ti ca ‘‘paṇītabhojanaviññatti, acelakasikkhāpadaṃ, nimantitassa cārittāpajjanaṃ, duṭṭhullappaṭicchādanaṃ, ūnavīsativassupasampadaṃ, mātugāmena saddhiṃ saṃvidhāya addhānagamanaṃ, rājantepurappavesanaṃ, santaṃ bhikkhuṃ anāpucchā vikāle gāmappavesanaṃ, nisīdanaṃ, vassikasāṭikanti pāṭho’’ti ca vuttaṃ.
Các lễ hội trên đỉnh núi, v.v., vì đã được nói là “những điều thế gian chê trách không do cố ý,” nên là những điều không do cố ý vì phạm tội ngay cả khi xem hoặc xức mà không biết đó là “vũ điệu” hay “hương thơm,” với tâm không biết về vật. Là những điều thế gian chê trách vì chắc chắn là bất thiện đối với người xem hoặc xức mà biết đó là “vũ điệu” hay “hương thơm.” Các việc như giúp đỡ kẻ trộm, v.v., là những điều có cố ý vì chỉ có tội khi thực hiện mà biết vật đó là “kẻ trộm,” v.v. Các việc như thọ cụ túc giới, v.v., là những điều cấm do quy định vì không thể được thực hiện chỉ bằng tâm bất thiện. “Ở đây, sự có cố ý và không có cố ý không nên được lấy theo việc biết hay không biết quy định, mà phải được lấy theo việc biết hay không biết vật,” đã được viết. Trong sách phụ chú giải đã nói: “Các lễ hội trên đỉnh núi, v.v., vì đã được nói là “những điều thế gian chê trách không do cố ý,” nên là những điều không do cố ý với tâm không biết về vật theo tên của nó hoặc cùng với tên, đối với người xem xét các trò ảo thuật của nhà ảo thuật, xương sọ, v.v., mà không biết đó là “vũ điệu” hay “vòng hoa” hay “hương thơm,” đối với người buộc vòng hoa vào eo vì mục đích làm chuỗi hạt, v.v., đối với người tắm sau khi xức hương thơm với tâm phát sanh rằng ‘tôi sẽ loại bỏ mùi mồ hôi và làm lễ cúng dường Đức Phật,’ vì có tội. Không phải được gọi là ‘những điều không do cố ý’ vì có tội trong lúc buộc vòng hoa vào eo trong bóng tối với tưởng rằng ‘đây là sợi dây thắt lưng,’ và trong lúc xức sau khi lấy hương thơm với tưởng là đất sét. Vào lúc đó không có tội, chính vì vậy mà trong kinh không nói ‘phạm tội Ưng Đối Trị’ ngay cả trong trường hợp có tưởng không phải là vòng hoa đối với vòng hoa. Giống như đã được xác định rằng có thể đeo vòng hoa, v.v., mà không có tâm bất thiện, theo câu ‘do nhân duyên bệnh ở vùng bụng, đeo một sợi dây thắt lưng,’ cũng vậy, đã được xác định rằng không thể uống rượu mà không có tâm bất thiện do nhân duyên bệnh tật, vì không có kinh nào nói ‘không có tội khi uống rượu do nhân duyên bệnh tật.’ Và cũng đã được xác định rằng phạm tội uống rượu trong lúc ăn rượu được cho vào một nắm mật ong mà không có tâm bất thiện, vì đã nói ‘uống rượu mà có tưởng không phải là rượu, phạm tội Ưng Đối Trị’ (pāci. 328). Cần gì nhiều lời, được gọi là những điều thế gian chê trách vì hoàn toàn bất thiện đối với người đeo mà không có lý do không có tội, sau khi đã biết đó là ‘vòng hoa’ và ‘hương thơm’ cùng với tưởng về sự hưởng thụ dục lạc. Theo cách này, nguyên tắc cũng nên được áp dụng cho các trường hợp còn lại. Ở đây, trong phần về uống rượu, đã nói là ‘quan điểm của trưởng lão Upatissa.’” Trong điều học về không mặc y nội, đã nói rằng “bản đọc là ‘khi đi vào phạm vi của một ngôi làng không có rào chắn,’” và “bản đọc là ‘xin thực phẩm hảo hạng, điều học về người lõa thể, phạm tội theo thông lệ đối với người được mời, che giấu tội trọng, thọ cụ túc giới cho người chưa đủ hai mươi tuổi, hẹn hò đi đường cùng với người nữ, vào hậu cung của vua, vào làng phi thời mà không hỏi ý kiến Tỳ-khưu có mặt, tọa cụ, y tắm mưa.’”

Nigamanavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải về Lời kết đã hoàn tất.

Pācittiyakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải về Phẩm Ưng Đối Trị đã hoàn tất.

Ubhatovibhaṅgaṭṭhakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải về Chú giải của Phân Tích Cả Hai Phần đã hoàn tất.

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Chánh Giác

Exit mobile version