Phụ Chú Giải Tạng Luật – Xua Tan Hoài Nghi II – 5. Phẩm về Ưng Đối Trị

Mục lục

5. Pācittiyakaṇḍaṃ

5. Phẩm Ưng Đối Trị

1. Musāvādavaggo

1. Phẩm Nói Dối

1. Musāvādasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải Thích Điều Học Về Nói Dối

1. Musāvādavaggassa paṭhamasikkhāpade khuddakānanti ettha ‘‘khuddaka-saddo bahu-saddapariyāyo’’ti vadanti. Tatthāti tesu vaggesu, khuddakesu vā. ‘‘Jānitabbato’’ti hetuno vipakkhepi nibbāne vattanato anekantikatte parehi vutte ‘‘na mayā ayaṃ hetu vutto’’ti taṃ kāraṇaṃ paṭicchādetuṃ puna ‘‘jātidhammatoti mayā vutta’’ntiādīni vadati. ‘‘Sampajāna’’nti vattabbe anunāsikalopena niddesoti āha ‘‘jānanto’’ti.
1. Ở trong điều học thứ nhất của Phẩm Nói Dối, trong câu ‘của những điều nhỏ nhặt’, có vị nói rằng: “Từ ‘nhỏ nhặt’ là từ đồng nghĩa với từ ‘nhiều.’” ‘Ở đó’ tức là trong các phẩm ấy, hoặc trong các điều nhỏ nhặt ấy. “Bởi cần phải được biết” vì là nhân tố nên cũng có ở trong đối cực là quả vị Niết-bàn, do là điều không chắc chắn nên đã bị các vị khác nói đến, để che đậy nguyên nhân ấy (vị ấy nói) rằng: “Đây không phải là nhân tố đã được tôi nói đến,” rồi lại nói những câu như: “Ta đã nói là do có bản chất sanh,” v.v. Đáng lẽ phải nói là “cố ý” nhưng là lời trình bày do sự lược bỏ phụ âm mũi nên đã nói “biết rõ”.

2.Sampajānamusāvādeti attanā vuccamānassa atthassa vitathabhāvaṃ pubbepi jānitvā, vacanakkhaṇe ca jānantassa musāvādabhaṇane. Tenāha ‘‘jānitvā’’tiādi. Musāvādeti ca nimittatthe bhummaṃ, tasmā musābhaṇananimittaṃ pācittiyanti evamettha, ito paresupi īdisesu attho veditabbo.
2.Trong trường hợp cố ý nói dối có nghĩa là trong việc nói lời nói dối của người đã biết rõ sự sai trái của nội dung đang được mình trình bày từ trước và cũng đang biết rõ vào khoảnh khắc nói. Do đó, ngài đã nói: “đã biết” v.v. Và ‘trong sự nói dối’ là cách dùng ở sở y cách có ý nghĩa về nguyên nhân; do đó, ở đây, ở những trường hợp tương tự sau điều này, ý nghĩa cần được hiểu là: Tội Ưng Đối Trị là do nguyên nhân nói lời nói dối.

3. Vadanti etāyāti vācāti āha ‘‘micchā’’tiādi. ‘‘Dhanunā vijjhatī’’tiādīsu viya ‘‘cakkhunā diṭṭha’’nti pākaṭavasena vuttanti āha ‘‘oḷārikenā’’ti.
3. Nói năng bằng cái ấy nên là lời nói, ngài đã nói: “sai trái” v.v. Tương tự như trong các câu “bắn bằng cung,” v.v. câu “đã thấy bằng mắt” được nói theo cách thức rõ ràng nên ngài đã nói “một cách thô thiển”.

11.Gato bhavissatīti etthāpi sanniṭṭhānato vuttattā musāvādo jāto. Āpattinti pācittiyāpattiṃ, na dubbhāsitaṃ. Jātiādīhi dasahi akkosavatthūhi paraṃ davā vadantassa hi taṃ hoti. Cāresunti upanesuṃ. Vatthuviparītatā, visaṃvādanapurekkhāratā, yamatthaṃ vatthukāmo, tassa puggalassa viññāpanapayogo cāti imānettha tīṇi aṅgāni. Vatthuviparītatāya hi asati visaṃvādanapurekkhāratāya viññāpitepi musāvādo na hoti, dukkaṭamattameva hoti. Tasmā sāpi aṅgamevāti gahetabbaṃ. Uttarimanussadhammārocanatthaṃ musā bhaṇantassa pārājikaṃ, pariyāyena thullaccayaṃ, amūlakena pārājikena anuddhaṃsanatthaṃ saṅghādiseso, saṅghādisesenānuddhaṃsanaomasavādādīsu pācittiyaṃ, anupasampannesu dukkaṭaṃ, ukkaṭṭhahīnajātiādīhi davā akkosantassa dubbhāsitaṃ, kevalaṃ musā bhaṇantassa idha pācittiyaṃ vuttaṃ.
11.‘Sẽ ra đi,’ ở đây cũng vậy, do được nói ra từ sự quả quyết nên đã thành sự nói dối. ‘Tội’ là tội Ưng Đối Trị, không phải lời nói xấu. Thật vậy, tội ấy có đối với người mắng nhiếc người khác bằng mười đề tài mắng nhiếc là dòng dõi, v.v. ‘Trong bốn trường hợp’ là đã được nêu lên. Có ba chi phần ở đây là: sự việc trái ngược, chủ tâm lừa dối, và sự cố gắng làm cho người kia hiểu được điều mà người nói muốn. Thật vậy, khi không có sự việc trái ngược, dù có thông báo với chủ tâm lừa dối cũng không thành tội nói dối, chỉ bị tội Tác Ác. Do đó, điều ấy cũng nên được xem là một chi phần. Khi nói dối nhằm mục đích khoe khoang pháp thượng nhân thì phạm tội Bất Cộng Trụ, nói quanh co thì phạm tội Trọng Tội, khi vu khống người khác bằng tội Bất Cộng Trụ vô căn cứ thì phạm tội Tăng Tàn, trong các trường hợp vu khống bằng tội Tăng Tàn, nói lời miệt thị, v.v. thì phạm tội Ưng Đối Trị, đối với người chưa thọ Cụ túc giới thì phạm tội Tác Ác, khi mắng nhiếc chê bai bằng dòng dõi cao quý hay thấp hèn, v.v. thì phạm tội nói xấu, ở đây, việc chỉ nói dối đơn thuần đã được nói là tội Ưng Đối Trị.

Musāvādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Nói Dối.

2. Omasavādasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải Thích Điều Học Về Nói Lời Miệt Thị

13. Dutiye pubbe patiṭṭhitārappadesaṃ puna are patteti paṭhamaṃ bhūmiyaṃ patiṭṭhitanemippadese parivattetvā puna bhūmiyaṃ patiṭṭhiteti attho.
13. Ở điều học thứ hai, câu ‘phần vành xe đã chạm đất trước đây, khi quay lại lại chạm đất’ có nghĩa là phần vành xe đã chạm đất trước tiên, sau khi quay một vòng, lại chạm đất.

15.Pubbeti aṭṭhuppattiyaṃ. Pupphachaḍḍakā nāma gabbhamalādihārakā. Tacchakakammanti pāsāṇakoṭṭanādivaḍḍhakīkammaṃ . Hatthamuddāgaṇanāti aṅgulisaṅkocaneneva gaṇanā. Acchiddakagaṇanā nāma ekaṭṭhānadasaṭṭhānādīsu sāriyo ṭhapetvā anukkamena gaṇanā. Ādi-saddena saṅkalanapaṭauppādanavoklanabhāgahārādivasena pavattā piṇḍagaṇanā gahitā. Yassa sā paguṇā, so rukkhampi disvā ‘‘ettakāni ettha paṇṇānī’’ti jānāti. Yabha-methuneti酉 āha ‘‘ya-kāra-bha-kāre’’tiādi.
15.‘Trước đây’ là trong phần sự sanh khởi của sự việc. ‘Những người hốt hoa’ là những người mang nhau thai, v.v. ‘Việc làm của thợ mộc’ là công việc của thợ mộc như đẽo đá, v.v. ‘Việc đếm bằng cử chỉ tay’ là việc đếm chỉ bằng cách co ngón tay. ‘Việc đếm không gián đoạn’ là việc đếm theo thứ tự bằng cách đặt các viên sỏi vào các vị trí hàng đơn vị, hàng chục, v.v. Với từ ‘v.v.’, phép tính nhẩm được thực hiện bằng cách cộng, trừ, nhân, chia, v.v. đã được đề cập. Người nào thành thạo phép tính ấy, người ấy thậm chí chỉ cần nhìn thấy một cái cây là biết được: “Có bao nhiêu chiếc lá ở đây.” Về giao hợp, dựa theo lời dạy, ngài đã nói: “vần ‘ya,’ vần ‘bha’” v.v.

16.Na purimenāti musāvādasikkhāpadena. Sopi āpattiyāti upasaggādivisiṭṭhehipi vadanto pācittiyāpattiyāva kāretabbo.
16.‘Không phải bằng (điều học) trước’ là điều học về nói dối. ‘Vị ấy cũng bị tội’ là người nói bằng những từ có tiếp đầu ngữ, v.v. cũng phải bị xử tội Ưng Đối Trị.

26.Dubbhāsitanti sāmaññato vuttattā pāḷiyaṃ anāgatehipi parammukhā vadantassapi dubbhāsitamevāti ācariyā vadanti tato lāmakāpattiyā abhāvā, anāpattiyāpettha bhavituṃ ayuttattā. Sabbasattāti ettha vacanavidūhi tiracchānādayopi gahitā.
26.‘Lời nói xấu’ do được nói một cách chung chung, các vị Giáo Thọ Sư nói rằng ngay cả người nói sau lưng bằng những (lời) không được đề cập trong Pāḷi cũng chỉ là lời nói xấu, bởi vì không có tội nhẹ hơn tội ấy, và cũng không hợp lý để trở thành vô tội trong trường hợp này. Ở đây, ‘tất cả chúng sanh’ được các vị thông thạo ngôn ngữ hiểu là bao gồm cả các loài bàng sanh, v.v.

35. Anusāsanīpurekkhāratāya vā pāpagarahitāya vā vadantānaṃ cittassa lahuparivattibhāvato antarantarā kope uppannepi anāpatti. Kāyavikāramattenapi omasanasambhavato ‘‘tisamuṭṭhānaṃ, kāyakamma’’nti ca vuttaṃ. Parivāre pana ‘‘catutthena āpattisamuṭṭhānena…pe… dubbhāsitaṃ āpajjeyyāti. Na hīti vattabba’’ntiādinā (pari. 276) itarāni samuṭṭhānāni paṭikkhipitvā pañcamasseva vuttattā āha ‘‘dubbhāsitāpatti panettha vācācittato samuṭṭhātī’’ti. Davakamyatāya hi kāyavācācittehi omasantassapi vācācittameva āpattiyā aṅgaṃ hoti, na pana kāyo vijjamānopi dhammadesanāpatti viya kevalaṃ kāyavikāreneva. Omasantassa pana kiñcāpi idha dubbhāsitāpattiyā anāpatti, atha kho kāyakīḷāpaṭikkhepasikkhāpadena dukkaṭamevāti daṭṭhabbaṃ. Upasampannaṃ jātiādīhi anaññāpadesena akkosanaṃ, tassa jānanaṃ, atthapurekkhāratādīnaṃ abhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni.
35. Đối với những người nói với chủ ý giáo huấn hoặc với ý khiển trách điều ác, do tâm tánh của họ dễ thay đổi, nên dù có sanh khởi sự tức giận xen kẽ cũng là vô tội. Do việc miệt thị có thể xảy ra chỉ bằng hành động của thân, nên đã nói “có ba nguồn gốc, là hành động của thân.” Tuy nhiên, trong tập Parivāra, sau khi bác bỏ các nguồn gốc khác bằng câu “với nguồn gốc thứ tư của tội… này khác… nên phạm tội nói xấu. Không phải vậy, cần phải nói,” v.v. (pari. 276) và chỉ nói về nguồn gốc thứ năm, ngài đã nói: “Tội nói xấu ở đây khởi sanh từ lời nói và tâm.” Thật vậy, đối với người miệt thị bằng thân, khẩu, ý do ý muốn chê bai, chỉ có lời nói và tâm là chi phần của tội, chứ không phải thân, mặc dù nó hiện hữu, giống như tội thuyết pháp chỉ bằng hành động của thân. Tuy nhiên, đối với người miệt thị, mặc dù ở đây không phạm tội nói xấu, nhưng cần phải hiểu rằng chỉ phạm tội Tác Ác theo điều học cấm chỉ sự đùa giỡn bằng thân. Có ba chi phần ở đây là: mắng nhiếc một vị Tỳ-khưu đã thọ Cụ túc giới bằng dòng dõi, v.v. không dùng cách nói ám chỉ; người kia biết điều đó; và không có chủ ý vì lợi ích, v.v.

Omasavādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Nói Lời Miệt Thị.

3. Pesuññasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải Thích Điều Học Về Đâm Thọc

36. Tatiye bhaṇḍanaṃ jātaṃ etesanti bhaṇḍanajātā. Pisatīti pisuṇā, vācā, samagge bhinne karotīti attho. Tāya vācāya samannāgato pisuṇo, tassa kammaṃ pesuññanti evamettha attho veditabbo.
36. Ở điều học thứ ba, những người có sự cãi vã phát sinh là những người có sự cãi vã. Lời nói làm chia rẽ là lời nói đâm thọc, có nghĩa là làm cho những người hòa hợp trở nên chia rẽ. Người có lời nói ấy là người đâm thọc, hành động của người ấy là sự đâm thọc, ý nghĩa ở đây cần được hiểu như vậy.

Idhāpi jātiādīhi dasahi vatthūhi pesuññaṃ upasaṃharantasseva pācittiyaṃ, itarehi akkosavatthūhi dukkaṭaṃ. Anakkosavatthūhi pana upasaṃharantassa dukkaṭamevāti vadanti. Jātiādīhi anaññāpadesena akkosantassa bhikkhuno sutvā bhikkhussa upasaṃharaṇaṃ, piyakamyatābhedādhippāyesu aññataratā, tassa vijānanāti imānettha tīṇi aṅgāni.
Ở đây cũng vậy, chỉ có tội Ưng Đối Trị đối với người thực hiện việc đâm thọc bằng mười sự việc là dòng dõi, v.v.; với các sự việc mắng nhiếc khác thì bị tội Tác Ác. Nhưng các vị nói rằng, đối với người thực hiện bằng những sự việc không phải là mắng nhiếc thì chỉ bị tội Tác Ác. Có ba chi phần ở đây: một Tỳ-khưu sau khi nghe lời mắng nhiếc (một Tỳ-khưu khác) không ám chỉ bằng dòng dõi, v.v., đã đi kể lại cho Tỳ-khưu (bị mắng); có một trong các ý định là muốn được yêu mến hoặc muốn chia rẽ; và người kia hiểu rõ điều đó.

Pesuññasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Đâm Thọc.

4. Padasodhammasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải Thích Điều Học Về Việc Dạy Pháp Từng Chữ

45. Catutthe purimabyañjanena sadisanti ‘‘rūpaṃ anicca’’nti ettha anicca-saddena sadisaṃ ‘‘vedanā aniccā’’ti ettha anicca-saddaṃ vadati. Akkharasamūhoti avibhattiko vutto. Padanti vibhattiantaṃ vuttaṃ.
45. Ở điều học thứ tư, ‘giống với chữ trước’ là trong câu “sắc là vô thường,” vị ấy nói từ “vô thường” trong câu “thọ là vô thường” giống với từ “vô thường.” ‘Nhóm chữ cái’ được nói là không có biến cách. ‘Từ’ được nói là có biến cách ở cuối.

Ekaṃ padanti gāthāpadameva sandhāya vadati. Padagaṇanāyāti gāthāpadagaṇanāya. Apāpuṇitvāti saddhiṃ akathetvā. Etena gāthāya pacchimapāde vuccamāne sāmaṇero paṭhamapādādiṃ vadati, āpattiyeva, tasmiṃ nissadde eva itarena vattabbanti dasseti.
‘Một từ’ là chỉ nói về một câu kệ. ‘Theo số lượng từ’ là theo số lượng từ của câu kệ. ‘Không đạt đến’ là không nói cùng lúc. Điều này cho thấy rằng khi câu cuối của một bài kệ đang được nói, nếu vị Sa-di nói câu đầu, v.v., thì vẫn bị tội; người kia chỉ nên nói khi vị ấy đã im lặng.

Aṭṭhakathānissitoti saṅgītittayāruḷhaṃ porāṇaṭṭhakathaṃ sandhāya vadati. Idānipi ‘‘yathāpi dīpiko nāma, nilīyitvā gaṇhate mige’’ti (mi. pa. 6.1.5; visuddhi. 1.217; dī. ni. aṭṭha. 2.374; ma. ni. aṭṭha. 1.107; pārā. aṭṭha. 2.165; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163) evamādikaṃ aṭṭhakathāvacanaṃ attheva, buddhaghosācariyādīhi porāṇaṭṭhakathānayena vuttampi idha saṅgahetabbanti vadanti. Pāḷinissitoti udānavaggasaṅgahādiko. Vivaṭṭūpanissitanti nibbānanissitaṃ. Therassāti nāgasenattherassa. Maggakathādīni pakaraṇāni.
‘Y cứ vào Chú giải’ là chỉ nói đến bản Chú giải xưa đã được kết tập trong ba kỳ kết tập. Ngay cả bây giờ, vẫn có những lời Chú giải như: “Như một người săn bắn, ẩn mình để bắt những con nai,” v.v. (mi. pa. 6.1.5; visuddhi. 1.217; dī. ni. aṭṭha. 2.374; ma. ni. aṭṭha. 1.107; pārā. aṭṭha. 2.165; paṭi. ma. aṭṭha. 2.1.163). Các vị nói rằng những gì được các vị Giáo Thọ Sư như ngài Buddhaghosa, v.v. nói theo phương pháp Chú giải xưa cũng được bao gồm ở đây. ‘Y cứ vào Pāḷi’ là các bộ sưu tập như Udānavagga, v.v. ‘Y cứ vào sự giải thoát’ là y cứ vào Niết-bàn. ‘Của vị Trưởng lão’ là của trưởng lão Nāgasena. ‘Những bài giảng về đạo lộ’, v.v. là các bộ luận.

46. Pāḷiyaṃ akkharāyātiādi liṅgavipallāsena vuttaṃ, akkharenātiādinā attho gahetabbo.
46. Trong Pāḷi, câu ‘bởi chữ’ v.v. được nói với sự thay đổi về giới tính, ý nghĩa cần được hiểu là “bởi chữ,” v.v.

48.Upacāraṃmuñcitvāti parisāya dvādasahatthaṃ muñcitvā ekato ṭhitassa vā nisinnassa vā anupasampannassa akathetvā aññe uddissa bhaṇantassāpi anāpatti. Sace pana dūre nisinnampi uddissa bhaṇati, āpatti eva. Opātetīti saddhiṃ katheti. Anupasampannatā, vuttalakkhaṇadhammaṃ padaso vācanatā, ekato bhaṇanañcāti imānettha tīṇi aṅgāni.
48.Bỏ qua khoảng cách gần là bỏ qua khoảng cách mười hai khuỷu tay của hội chúng, cũng không có tội đối với người đang đứng hoặc ngồi một mình, không nói với người chưa thọ Cụ túc giới mà lại nói hướng đến những người khác. Nhưng nếu vị ấy nói hướng đến cả người ngồi xa, thì vẫn bị tội. ‘Làm cho rơi xuống’ là nói cùng lúc. Có ba chi phần ở đây là: là người chưa thọ Cụ túc giới; đọc từng chữ một giáo pháp có đặc điểm đã nêu; và đọc cùng một lúc.

Padasodhammasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Dạy Pháp Từng Chữ.

5. Sahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải Thích Điều Học Về Việc Cùng Ngủ Chung

50-51. Pañcame tatridaṃ nidassananti seso. Dirattatirattanti ettha dirattaggahaṇaṃ vacanālaṅkāratthaṃ, nirantaraṃ tissova rattiyo vasitvā catutthadivasādīsu sayantasseva āpatti, na ekantarikādivasena sayantassāti dassanatthampīti daṭṭhabbaṃ. Dirattavisiṭṭhañhi tirattaṃ vuccamānaṃ, tena anantarikameva tirattaṃ dīpetīti. Pañcahi chadanehīti iṭṭhakasilāsudhātiṇapaṇṇehi. Vācuggatavasenāti paguṇavasena. Diyaḍḍhahatthubbedho vaḍḍhakīhatthena gahetabbo. Ekūpacāro ekena maggena pavisitvā abbhokāsaṃ anukkamitvā sabbattha anuparigamanayoggo, etaṃ bahudvārampi ekūpacārova. Tattha pana kuṭṭādīhi rundhitvā visuṃ dvāraṃ yojenti, nānūpacāro hoti. Sace pana rundhati eva, visuṃ dvāraṃ na yojenti, ‘‘etampi ekūpacārameva mattikādīhi pihitadvāro viya gabbho’’ti gahetabbaṃ. Aññathā gabbhe pavisitvā pamukhādīsu nipannānupasampannehi sahaseyyāparimuttiyā gabbhadvāraṃ mattikādīhi pidahāpetvā uṭṭhite aruṇe vivarāpentassapi anāpatti bhaveyyāti.
50-51. Ở điều học thứ năm, phần còn lại là “đây là ví dụ.” ‘Hai ba đêm’, ở đây việc dùng từ “hai đêm” là để trang trí cho lời nói, và cũng cần được hiểu là để chỉ rằng chỉ người ngủ ba đêm liên tục rồi ngủ vào ngày thứ tư, v.v. mới phạm tội, chứ không phải người ngủ cách đêm, v.v. Thật vậy, ba đêm được nói đến với đặc điểm là hai đêm, điều đó cho thấy ba đêm ấy là liên tục. ‘Bằng năm loại mái che’ là bằng gạch, đá, vôi, cỏ, và lá. ‘Theo cách học thuộc lòng’ là theo cách thông thạo. ‘Chiều cao một khuỷu tay rưỡi’ cần được hiểu là theo khuỷu tay của thợ mộc. ‘Một khu vực chung’ là nơi có thể đi vào bằng một lối, đi ra ngoài trời, và đi vòng quanh khắp nơi; nơi này dù có nhiều cửa cũng vẫn là một khu vực chung. Nhưng ở đó, nếu họ dùng vách ngăn, v.v. để ngăn lại và làm một cửa riêng, thì đó là nhiều khu vực khác nhau. Nhưng nếu họ chỉ ngăn lại mà không làm cửa riêng, thì “nơi này cũng cần được coi là một khu vực chung giống như một căn phòng có cửa được bịt kín bằng đất sét, v.v.” Nếu không, một người vào trong phòng, rồi cho bịt cửa phòng bằng đất sét, v.v. trong khi những người chưa thọ Cụ túc giới nằm ngủ ở hiên ngoài, v.v., và cho mở cửa khi trời rạng đông, người ấy cũng sẽ không bị tội.

Tesaṃ payoge payoge bhikkhussa āpattīti ettha keci ‘‘anuṭṭhahanena akiriyasamuṭṭhānā āpatti vuttā tasmiṃ khaṇe sayantassa kiriyābhāvā. Idañhi sikkhāpadaṃ siyā kiriyāya samuṭṭhāti, siyā akiriyāya samuṭṭhāti. Kiriyāsamuṭṭhānatā cassa tabbahulavasena vuttāti vadati. Yathā cetaṃ, evaṃ divāsayanampi. Anuṭṭhahanena, hi dvārāsaṃvaraṇena cetaṃ akiriyasamauṭṭhānampi hotī’’ti vadanti. Idañca yuttaṃ viya dissati, vīmaṃsitvā gahetabbaṃ.
‘Trong mỗi lần thực hiện của họ, vị Tỳ-khưu phạm tội,’ ở đây, một số vị nói rằng “tội được nói là do không hành động, do không đứng dậy, vì vào lúc đó, người đang ngủ không có hành động. Điều học này có thể sanh khởi do hành động, có thể sanh khởi do không hành động. Việc sanh khởi do hành động được nói đến là do tính phổ biến của nó. Giống như điều này, việc ngủ ban ngày cũng vậy. Thật vậy, do không đứng dậy và do không đóng cửa, nó cũng có thể sanh khởi do không hành động.” Điều này có vẻ hợp lý, cần phải xem xét và chấp nhận.

‘‘Uparimatalenasaddhiṃ asambaddhabhittikassā’’ti idaṃ sambaddhabhittike vattabbameva natthīti dassanatthaṃ vuttaṃ. Uparimatale sayitassa saṅkā eva natthīti ‘‘heṭṭhāpāsāde’’tiādi vuttaṃ. Nānūpacāreti bahi nisseṇiyā ārohaṇīye.
“Của nơi có vách tường không nối liền với tầng trên” được nói để chỉ rằng không cần phải nói gì về nơi có vách tường nối liền. Người ngủ ở tầng trên không có gì phải nghi ngờ, nên đã nói “ở tầng dưới của tòa nhà”, v.v. “Ở các khu vực khác nhau” là ở nơi có thể leo lên bằng thang bên ngoài.

Sabhāsaṅkhepenāti sabhākārena. ‘‘Aḍḍhakuṭṭake’’ti iminā saṇṭhānaṃ dasseti. Yattha tīsu dvīsu vā passesu bhittiyo baddhā, chadanaṃ vā asampattā aḍḍhabhitti, idaṃ aḍḍhakuṭṭakaṃ nāma. Vāḷasaṅghāṭo nāma parikkhepassa anto thambhādīnaṃ upari vāḷarūpehi katasaṅghāṭo. Parikkhepassa bahigateti ettha yasmiṃ passe parikkhepo natthi, tattha sace bhūmito vatthu uccaṃ hoti, ubhato uccavatthuto heṭṭhā bhūmiyaṃ nibbakosabbhantarepi anāpatti eva tattha senāsanavohārābhāvato. Atha vatthu nīcaṃ bhūmisamameva senāsanassa heṭṭhimatale tiṭṭhati, tattha parikkheparahitadisāya nibbakosabbhantare sabbattha āpatti hoti, paricchedābhāvato parikkhepassa bahi eva anāpattīti daṭṭhabbaṃ. Parimaṇḍalaṃ vātiādi majjhe udakapatanatthāya ākāsaṅgaṇavantaṃ senāsanaṃ sandhāya vuttaṃ. Tattha aparicchinnagabbhūpacāreti ekekagabbhassa dvīsu passesu pamukhena gamanaṃ paricchinditvā diyaḍḍhahatthubbedhato anūnaṃ kuṭṭaṃ katvā ākāsaṅgaṇena pavesaṃ karonti, evaṃ akatoti attho. Gabbhaparikkhepoti caturassapāsādādīsu samantā ṭhitagabbhabhittiyo sandhāya vuttaṃ.
‘Theo hình thức của một hội trường’ là theo kiểu một hội trường. “Ở một nửa vách ngăn”, điều này chỉ ra hình dạng. Nơi có tường được xây ở ba hoặc hai bên, hoặc tường xây dở dang chưa chạm mái, đây được gọi là một nửa vách ngăn. ‘Hàng rào bằng tre’ là hàng rào được làm bằng các hình tre ở trên các cột, v.v. bên trong một khu vực được rào lại. ‘Bên ngoài hàng rào,’ ở đây, về phía không có hàng rào, nếu nền đất cao hơn mặt đất, thì ngay cả trong phạm vi không có rào cản bên dưới hai nền đất cao, cũng không có tội, vì ở đó không có khái niệm về chỗ ở. Nhưng nếu nền đất thấp, bằng với mặt đất, nằm ở tầng dưới của chỗ ở, thì ở phía không có hàng rào, trong phạm vi không có rào cản, ở mọi nơi đều có tội, vì không có sự phân định, nên cần hiểu rằng chỉ bên ngoài hàng rào mới không có tội. ‘Hoặc hình tròn,’ v.v. được nói đến để chỉ chỗ ở có sân trời ở giữa để nước mưa rơi xuống. Ở đó, ‘trong khu vực phòng không được phân định’ có nghĩa là phân định lối đi ở hiên trước ở hai bên của mỗi phòng, làm một vách ngăn không thấp hơn một khuỷu tay rưỡi, và làm lối vào qua sân trời; (nhưng ở đây) không làm như vậy. ‘Hàng rào của phòng’ được nói đến để chỉ các bức tường phòng đứng xung quanh trong các tòa nhà hình vuông, v.v.

Pāṭekkasannivesāti ekekadisāya gabbhapāḷiyo itaradisāsu gabbhapāḷīnaṃ abhāvena, bhāvepi vā aññamaññabhitticchadanehi asambandhatāya pāṭekkasannivesā nāma vuccati. Taṃ…pe… sandhāya vuttanti tattha pācittiyena anāpattīti vuttaṃ, na dukkaṭena. Tādisāya hi gabbhapāḷiyā pamukhaṃ tīsu disāsu bhittīnaṃ abhāvena ekadisāya gabbhabhittimattena sabbacchannaṃ cūḷaparicchannaṃ nāma hoti. Tasmā dukkaṭameva. Yadi pana tassa pamukhassa itaradisāsupi ekissaṃ, sabbāsu vā bhittiṃ karonti, tadā sabbacchannaupaḍḍhaparicchannādibhāvato pācittiyameva hotīti daṭṭhabbaṃ. Bhūmiyaṃ vinā jagatiyā pamukhaṃ sandhāyāti ettha uccavatthuṃ akatvā bhūmiyaṃ katagehassa pamukhaṃ sandhāya aparikkhitte pācittiyena anāpattīti idaṃ kathitaṃ . Uccavatthukaṃ ce pamukhaṃ hoti, tena vatthunā parikkhittasaṅkhyameva pamukhaṃ gacchatīti adhippāyo. Tatthāti andhakaṭṭhakathāyaṃ. Jagatiyā pamāṇaṃ vatvāti pakatibhūmiyā nipanno yathā jagatiyā upari sayitaṃ na passati, evaṃ uccātiuccavatthussa ubbedhappamāṇaṃ vatvā. Ekadisāya ujukameva dīghaṃ katvā sannivesito pāsādo ekasālasanniveso. Dvīsu, tīsu vā catūsupi vā disāsu siṅghāṭakasaṇṭhānādivasena katā dvisālādisannivesā veditabbā. Sālappabhedadīpanameva cettha purimato visesoti. Parikkhepo viddhastoti pamukhassa parikkhepaṃ sandhāya vadati.
‘Các cấu trúc riêng lẻ’ là các dãy phòng ở một phía, do không có các dãy phòng ở các phía khác, hoặc dù có nhưng không liên kết với nhau bằng tường và mái, nên được gọi là các cấu trúc riêng lẻ. ‘Điều đó… này khác… được nói đến để chỉ’ ở đó đã được nói là không phạm tội Ưng Đối Trị, nhưng không phải không phạm tội Tác Ác. Thật vậy, hiên trước của một dãy phòng như vậy, do không có tường ở ba phía và chỉ có một bức tường phòng ở một phía, được gọi là một nơi được che phủ hoàn toàn nhưng có một phần nhỏ không được che. Do đó, chỉ phạm tội Tác Ác. Nhưng nếu họ xây tường ở một hoặc tất cả các phía khác của hiên trước đó, thì do trở thành một nơi được che phủ hoàn toàn, một nửa được che phủ, v.v., nên cần hiểu rằng sẽ phạm tội Ưng Đối Trị. ‘Chỉ hiên trước trên mặt đất không có nền’ ở đây, không làm nền cao, đã nói rằng hiên trước của ngôi nhà xây trên mặt đất, nếu không được rào lại, thì không phạm tội Ưng Đối Trị. Ý định là nếu hiên trước có nền cao, thì hiên trước đó được tính là đã được rào lại bằng chính nền đó. ‘Ở đó’ là trong Chú giải Andhaka. ‘Sau khi nói về kích thước của nền’ là sau khi nói về chiều cao của nền đất cao nhất để người nằm trên mặt đất tự nhiên không thể thấy người nằm trên nền. Tòa nhà được xây dựng dài thẳng ở một phía là ‘cấu trúc một sảnh.’ Các cấu trúc hai sảnh, v.v. được xây dựng ở hai, ba hoặc cả bốn phía theo hình chữ thập, v.v. cần được hiểu. Sự khác biệt so với trước đây chính là sự trình bày về các loại sảnh. ‘Hàng rào bị phá vỡ’ là chỉ nói đến hàng rào của hiên trước.

53. Upaḍḍhacchannaupaḍḍhaparicchannaṃ senāsanaṃ dukkaṭassa ādiṃ vatvā pāḷiyaṃ dassitattā tato adhikaṃ sabbacchannaupaḍḍhaparicchannādikampi sabbaṃ pāḷiyaṃ avuttampi pācittiyasseva vatthubhāvena dassitaṃ sikkhāpadassa paṇṇattivajjattā, garuke ṭhātabbato cāti veditabbaṃ. Satta pācittiyānīti pāḷiyaṃ vuttapācittiyadvayaṃ sāmaññato ekattena gahetvā vuttaṃ.
53. Cần phải biết rằng, chỗ ở được che phủ một nửa và được rào lại một nửa, sau khi được nói là khởi đầu của tội Tác Ác, đã được chỉ ra trong Pāḷi, do đó, những chỗ ở cao cấp hơn như được che phủ hoàn toàn và được rào lại một nửa, v.v., mặc dù không được nói trong Pāḷi, cũng được chỉ ra là đối tượng của tội Ưng Đối Trị, vì điều học này là tội do quy định, và vì cần phải tuân thủ điều nặng hơn. ‘Bảy tội Ưng Đối Trị’ được nói bằng cách gộp chung hai tội Ưng Đối Trị đã được nói trong Pāḷi thành một cách tổng quát.

54. Pāḷiyaṃ ‘‘tatiyāya rattiyā purāruṇā nikkhamitvā puna vasatī’’ti idaṃ ukkaṭṭhavasena vuttaṃ, anikkhamitvā pana purāruṇā uṭṭhahitvā antochadane nisinnassāpi punadivase sahaseyyena anāpatti eva. Senambamaṇḍapavaṇṇaṃ hotīti sīhaḷadīpe kira uccavatthuko sabbacchanno sabbaaparicchanno evaṃnāmako sannipātamaṇḍapo atthi, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Ettha catutthabhāgo cūḷakaṃ, dve bhāgā upaḍḍhaṃ, tīsu bhāgesu dve bhāgā yebhuyyanti iminā nayena cūḷakacchannaparicchannatādīni veditabbāni. Pācittiyavatthukasenāsanaṃ, tattha anupasampannena saha nipajjanaṃ, catutthadivase sūriyatthaṅgamananti imānettha tīṇi aṅgāni.
54. Trong Pāḷi, câu “vào đêm thứ ba, ra đi trước khi trời sáng rồi lại ở” được nói theo cách tối đa; nhưng người không ra đi, chỉ thức dậy trước khi trời sáng và ngồi trong phạm vi mái che, cũng không phạm tội ngủ chung vào ngày hôm sau. ‘Trở thành loại nhà hội họp bằng vải bạt’ được nói đến để chỉ một nhà hội họp ở đảo Tích Lan, có nền cao, được che phủ hoàn toàn, không được rào lại hoàn toàn, có tên như vậy. Ở đây, một phần tư là ‘phần nhỏ,’ hai phần là ‘một nửa,’ hai trong ba phần là ‘phần lớn,’ theo cách này, các khái niệm như được che phủ một phần nhỏ, được rào lại một phần nhỏ, v.v. cần được hiểu. Có ba chi phần ở đây là: chỗ ở là đối tượng của tội Ưng Đối Trị; nằm ngủ cùng với người chưa thọ Cụ túc giới ở đó; và mặt trời lặn vào ngày thứ tư.

Sahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Cùng Ngủ Chung.

6. Dutiyasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải Thích Điều Học Về Việc Cùng Ngủ Chung Lần Thứ Hai

55. Chaṭṭhe mātugāmena saddhiṃ catutthadivase sayantassāpi iminā sikkhāpadena ekāva āpatti. Keci pana purimasikkhāpadenāpīti dve āpattiyo vadanti, taṃ na yuttaṃ ‘‘anupasampannenā’’ti anitthiliṅgena vuttattā napuṃsakena pana catutthadivase sayantassa sadukkaṭapācittiyaṃ vattuṃ yuttaṃ. Kiñcāpettha pāḷiyaṃ paṇḍakavaseneva dukkaṭaṃ vuttaṃ, tadanulomikā pana purisaubhatobyañjanakena saha sayantassa iminā dukkaṭaṃ, purimena catutthadivase sadukkaṭapācittiyaṃ. Itthiubhatobyañjanako itthigatikovāti ayaṃ amhākaṃ khanti. Matitthiyā anāpattīti vadanti. Pācittiyavatthukasenāsanaṃ, tattha mātugāmena saddhiṃ nipajjanaṃ, sūriyatthaṅgamananti imānettha tīṇi aṅgāni.
55. Ở điều học thứ sáu, người ngủ cùng với một người nữ vào ngày thứ tư cũng chỉ phạm một tội theo điều học này. Nhưng một số vị nói rằng có hai tội, vì cũng (phạm) theo điều học trước, điều đó không hợp lý vì đã được nói bằng từ “với người chưa thọ Cụ túc giới” ở dạng trung tính; tuy nhiên, hợp lý để nói rằng người ngủ với một người trung tính vào ngày thứ tư thì phạm tội Ưng Đối Trị cùng với tội Tác Ác. Mặc dù ở đây trong Pāḷi chỉ nói là tội Tác Ác đối với trường hợp người ái nam ái nữ, nhưng tương tự như vậy, người ngủ cùng với người có hai bộ phận sinh dục nam thì phạm tội Tác Ác theo điều học này, và phạm tội Ưng Đối Trị cùng với tội Tác Ác theo điều học trước vào ngày thứ tư. Người có hai bộ phận sinh dục nữ cũng thuộc loại nữ, đây là quan điểm của chúng tôi. Các vị nói rằng không có tội đối với người nữ đã chết. Có ba chi phần ở đây là: chỗ ở là đối tượng của tội Ưng Đối Trị; nằm ngủ cùng với người nữ ở đó; và mặt trời lặn.

Dutiyasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Cùng Ngủ Chung Lần Thứ Hai.

7. Dhammadesanāsikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải Thích Điều Học Về Thuyết Pháp

60. Sattame na yakkhenātiādīnaṃ ‘‘aññatra viññunā’’ti iminā sambandho. Aññatra viññunā purisaviggahena, na yakkhādināpīti evamattho gahetabboti adhippāyo. Tādisenapi hi saha ṭhitāya desetuṃ na vaṭṭati. Taṃtaṃdesabhāsāya atthaṃ yathāruci vaṭṭati eva.
60. Ở điều học thứ bảy, các câu ‘không phải bởi dạ-xoa’, v.v. có liên quan đến câu “ngoại trừ người có trí.” Ý định là ý nghĩa cần được hiểu là: ngoại trừ người nam có trí, không phải bởi dạ-xoa, v.v. Thật vậy, không được phép thuyết pháp cho người nữ đang đứng cùng với một người như vậy. Việc giải thích ý nghĩa bằng ngôn ngữ của từng địa phương theo ý muốn là được phép.

Iriyāpathāparivattanaṃ, purisaṃ vā dvādasahatthūpacāre apakkosāpanaṃ ettha akiriyā. Vuttalakkhaṇassa dhammassa channaṃ vācānaṃ upari desanā, vuttalakkhaṇo mātugāmo, iriyāpathapaavattanābhāvo, viññūpurisābhāvo, apañhavissajjanāti imānettha pañca aṅgāni.
Việc không thay đổi oai nghi, hoặc không gọi một người nam vào trong khoảng cách gần mười hai khuỷu tay là sự không hành động ở đây. Có năm chi phần ở đây là: thuyết giảng giáo pháp có đặc điểm đã nêu trên sáu câu; người nữ có đặc điểm đã nêu; không thay đổi oai nghi; không có người nam có trí; và không phải là trả lời câu hỏi.

Dhammadesanāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Thuyết Pháp.

8. Bhūtārocanasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải Thích Điều Học Về Việc Tuyên Bố Sự Thật

77. Aṭṭhame antarāti parinibbānakālato pubbepi. Atikaḍḍhiyamānenāti ‘‘vadatha, bhante, kiṃ tumhehi adhigata’’nti evaṃ nippīḷiyamānena atibaddhiyamānena. Tathārūpe paccaye sati vattabbameva. Sutapariyattisīlaguṇanti ettha atthakusalatā sutaguṇo, pāḷipāṭhakusalatā pariyattiguṇoti daṭṭhabbaṃ. ‘‘Cittakkhepassa vā abhāvā’’ti iminā khittacittavedanāṭṭatāpi ariyānaṃ natthīti dasseti.
77. Ở điều học thứ tám, ‘trong khoảng thời gian’ là ngay cả trước khi nhập diệt. ‘Bị ép buộc quá mức’ là bị thúc ép và bị ép buộc quá mức rằng: “Bạch ngài, xin hãy nói ngài đã chứng đắc điều gì?” Khi có một lý do như vậy, thì nên nói. ‘Phẩm chất về sự học rộng, giới hạnh’, ở đây, cần hiểu rằng sự thông thạo về ý nghĩa là phẩm chất của sự học rộng, sự thông thạo về bài kinh Pāḷi là phẩm chất của sự đa văn. “Hoặc do không có sự rối loạn tâm trí”, điều này cho thấy rằng ngay cả những vị Thánh cũng không có trạng thái đau khổ do tâm trí rối loạn.

Pubbeavuttehīti catutthapārājike avuttehi. Idañca sikkhāpadaṃ paṇṇattiajaānanavasena ekantato acittakasamuṭṭhānameva hoti ariyānaṃ paṇṇattivītikkamābhāvā. Jhānalābhīnañca satthu āṇāvītikkamapaṭighacittassa jhānaparihānato bhūtārocanaṃ na sambhavati. Uttarimanussadhammassa bhūtatā, anupasampannassa ārocanaṃ, taṅkhaṇavijānanā, anaññāpadesoti imānettha cattāri aṅgāni.
‘Bởi những điều chưa được nói đến trước đây’ là những điều chưa được nói đến trong tội Bất Cộng Trụ thứ tư. Điều học này, do không biết đến quy định, hoàn toàn là không có sự cố ý. Các bậc Thánh không vi phạm quy định. Và đối với những người đã chứng đắc thiền, việc tuyên bố sự thật là không thể xảy ra vì thiền định sẽ bị suy giảm do tâm chống đối với lệnh của Bậc Đạo Sư. Có bốn chi phần ở đây là: pháp thượng nhân là có thật; tuyên bố cho người chưa thọ Cụ túc giới; biết rõ vào khoảnh khắc đó; và không nói ám chỉ.

Bhūtārocanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Tuyên Bố Sự Thật.

9. Duṭṭhullārocanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải Thích Điều Học Về Việc Tuyên Bố Tội Nặng

78. Navame tattha bhaveyyāti tattha kassaci mati evaṃ bhaveyya. Aṭṭhakathāvacanameva upapattito daḷhaṃ katvā patiṭṭhapento ‘‘imināpi ceta’’ntiādimāha.
78. Ở điều học thứ chín, ‘có thể có ở đó’ là ở đó có thể có ý kiến của ai đó như vậy. Để củng cố và xác lập lời của Chú giải bằng lý lẽ, ngài đã nói: “và bởi điều này”, v.v.

82.Ādito pañca sikkhāpadānīti pāṇātipātādīni pañca. Sesānīti vikālabhojanādīni . Sukkavissaṭṭhiādi ajjhācārova. Antimavatthuṃ anajjhāpannassa bhikkhuno savatthuko saṅghādiseso, anupasampannassa ārocanaṃ, bhikkhusammutiyā abhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni.
82.‘Năm điều học đầu tiên’ là năm điều học về sát sanh, v.v. ‘Các điều còn lại’ là ăn vào giờ phi thời, v.v. Việc xuất tinh, v.v. là sự vi phạm. Có ba chi phần ở đây là: một vị Tỳ-khưu không phạm tội cuối cùng nhưng lại phạm tội Tăng Tàn có căn cứ; báo cáo cho một người chưa thọ Cụ túc giới; và không có sự đồng thuận của Tỳ-khưu.

Duṭṭhullārocanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Tuyên Bố Tội Nặng.

10. Pathavīkhaṇanasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải Thích Điều Học Về Đào Đất

86. Dasame appapaṃsumattikāya pathaviyā anāpattivatthubhāvena vuttattā upaḍḍhapaṃsumattikāyapi pācittiyamevāti gahetabbaṃ. Na hetaṃ dukkaṭavatthūti sakkā vattuṃ jātājātavinimuttāya tatiyapathaviyā abhāvato.
86. Ở điều học thứ mười, do đất có ít bụi đã được nói là đối tượng không phạm tội, nên cần hiểu rằng đất có một nửa là bụi cũng phạm tội Ưng Đối Trị. Không thể nói rằng đây là đối tượng của tội Tác Ác, vì không có loại đất thứ ba không thuộc loại đất nguyên thủy hay không nguyên thủy.

Vaṭṭatīti imasmiṃ ṭhāne pokkharaṇiṃ khaṇāti okāsassa aniyamitattā vaṭṭati. Imaṃ valliṃ khaṇāti pathavīkhaṇanaṃ sandhāya vuttattā imināva sikkhāpadena āpatti, na bhūtagāmasikkhāpadena. Ubhayampi sandhāya vutte pana dvepi pācittiyā honti. Udakapappaṭakoti udake antobhūmiyaṃ paviṭṭhe tassa uparibhāgaṃ chādetvā tanukapaṃsu vā mattikā vā paṭalaṃ hutvā patamānā tiṭṭhati, tasmiṃ udake sukkhepi taṃ paṭalaṃ vātena calamānā tiṭṭhati, taṃ udakapappaṭako nāma.
‘Được phép’ là đào một cái ao ở nơi này, do không gian không được xác định, nên được phép. ‘Đào dây leo này,’ do nói đến việc đào đất, nên phạm tội theo chính điều học này, không phải theo điều học về thực vật. Nhưng nếu nói đến cả hai, thì phạm cả hai tội Ưng Đối Trị. ‘Lớp váng nước’ là khi nước thấm vào bên trong đất, một lớp bụi hoặc đất mỏng bao phủ bề mặt trên và đọng lại; ngay cả khi nước đó khô đi, lớp váng đó vẫn còn và lay động trong gió, đó được gọi là lớp váng nước.

Akatapabbhāreti avaḷañjanaṭṭhānadassanatthaṃ vuttaṃ. Tādise eva hi vammikassa sambhavoti. Mūsikukkaraṃ nāma mūsikāhi khanitvā bahi katapaṃsurāsi. Acchadanantiādivuttattā ujukaṃ ākāsato patitavassodakena ovaṭṭhameva jātapathavī hoti, na chadanādīsu patitvā tato pavattaudakena tintanti veditabbaṃ. Maṇḍapatthambhanti sākhāmaṇḍapatthambhaṃ. Uccāletvāti ukkhipitvā. Tatoti purāṇasenāsanato.
‘Ở nơi dốc không được làm,’ được nói để chỉ nơi bỏ hoang. Thật vậy, chỉ ở nơi như vậy mới có thể có gò mối. ‘Đống đất chuột’ là đống bụi do chuột đào và vứt ra ngoài. ‘Không che đậy,’ v.v. do đã được nói, nên đất được hình thành chỉ do nước mưa rơi thẳng từ trên trời xuống, không phải do nước rơi trên mái che, v.v. rồi chảy xuống làm ướt, điều này cần được biết. ‘Cột của nhà tạm’ là cột của nhà tạm bằng cành cây. ‘Nâng lên’ là nhấc lên. ‘Từ đó’ là từ chỗ ở cũ.

88.Mahāmattikanti bhittilepanaṃ. Jātapathavitā, tathāsaññitā, khaṇanakhaṇāpanānaṃ aññataranti imānettha tīṇi aṅgāni.
88.‘Vữa lớn’ là vữa trát tường. Có ba chi phần ở đây là: là đất nguyên thủy; có nhận thức như vậy; và một trong hai việc đào hoặc sai người đào.

Pathavīkhaṇanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Đào Đất.

Niṭṭhito musāvādavaggo paṭhamo .

Dứt Phẩm Nói Dối Thứ Nhất.

2. Bhūtagāmavaggo

2. Phẩm Thực Vật

1. Bhūtagāmasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải Thích Điều Học Về Thực Vật

89. Dutiyavaggassa paṭhame niggahetuṃ asakkontoti sākhaṭṭhakavimāne sākhāya chijjamānāya chijjante tattha achedanatthāya devatāya upanītaṃ puttaṃ disvāpi kuṭhārinikkhepavegaṃ nivattetuṃ asakkontoti attho. Rukkhadhammeti rukkhassa pavattiyaṃ. Rukkhānaṃ viya chedanādīsu akuppanañhi rukkhadhammo nāma.
89. Ở điều học thứ nhất của phẩm thứ hai, ‘không thể kìm lại’ có nghĩa là trong lâu đài trên cành cây, khi cành cây đang bị chặt, mặc dù thấy đứa con được vị thiên nữ mang đến để ngăn chặn việc chặt, vị ấy vẫn không thể kìm lại được lực vung rìu. ‘Trong pháp của cây’ là trong sự tồn tại của cây. Thật vậy, việc không tức giận khi bị chặt, v.v. như cây cối được gọi là pháp của cây.

Uppatitanti uppannaṃ. Bhantanti dhāvantaṃ. Vārayeti niggaṇheyya. Itaroti uppannaṃ kodhaṃ aniggaṇhanto rājauparājādīnaṃ rasmimattaggāhakajano viya na uttamasārathīti attho. Visaṭaṃ sappavisanti sarīre dāṭhāvaṇānusārena vitthiṇṇaṃ byāpetvā ṭhitaṃ kaṇhasappavisaṃ viya. Jahāti orapāranti pañcorambhāgiyasaññojanāni tatiyamaggena jahāti. ‘‘Orapāra’’nti hi orimatīraṃ vuccati . Atha vā soti tatiyamaggena kodhaṃ vinetvā ṭhito bhikkhu arahattamaggena orapāraṃ jahātīti attho. Tattha oraṃ nāma sakattabhāvo, ajjhattikāni vā āyatanāni. Pāraṃ nāma paraattabhāvo, bāhirāni vā āyatanāni. Tadubhaye pana chandarāgaṃ jahanto ‘‘jahāti orimapāra’’nti vuccati.
‘Đã sanh khởi’ là đã nảy sinh. ‘Đang chạy’ là đang lao tới. ‘Nên ngăn chặn’ là nên kìm lại. ‘Người khác’ là người không kìm hãm được cơn giận đã sanh khởi, giống như người chỉ biết cầm cương của vua, thái tử, v.v., không phải là người đánh xe giỏi, ý là vậy. ‘Nọc độc rắn lan rộng’ giống như nọc độc của rắn hổ mang đã lan rộng và tồn tại trong cơ thể theo vết răng cắn. ‘Từ bỏ bờ bên này và bờ bên kia’ là từ bỏ năm hạ phần kiết sử bằng đạo quả thứ ba. “Bờ bên này và bờ bên kia” thật ra được gọi là bờ bên này. Hoặc là, ‘vị ấy’ là vị Tỳ-khưu đã loại bỏ cơn giận bằng đạo quả thứ ba, từ bỏ bờ bên này và bờ bên kia bằng đạo quả A-la-hán, ý là vậy. Ở đó, ‘bờ bên này’ là tự thân, hoặc các nội xứ. ‘Bờ bên kia’ là tha thân, hoặc các ngoại xứ. Người từ bỏ tham ái ở cả hai được gọi là “từ bỏ bờ bên này và bờ bên kia.”

90.Bhavantīti vaḍḍhanti. Ahuvuntīti babhūvu. Tenāha ‘‘jātā vaḍḍhitā’’ti. Bhūtānaṃ gāmoti mahābhūtānaṃ haritatiṇādibhāvena samaggānaṃ samūho. Tabbinimuttassa gāmassa abhāvaṃ dassetuṃ ‘‘bhūtā eva vā gāmo’’ti vuttaṃ. Pātabya-saddassa pāneti dhātvatthaṃ sandhāyāha ‘‘paribhuñjitabbatā’’ti. Sā ca pātabyatā chedanādi eva hotīti āha ‘‘tassā…pe… bhūtagāmassa jātā chedanādipaccayā’’ti.
90.‘Trở thành’ là tăng trưởng. ‘Đã là’ là đã trở thành. Do đó, ngài đã nói “đã sanh và đã tăng trưởng.” ‘Quần thể của những gì đã sanh’ là tập hợp của các đại chủng hòa hợp với nhau dưới dạng cỏ xanh, v.v. Để chỉ ra rằng không có quần thể nào tách rời khỏi điều đó, ngài đã nói “hoặc chính những gì đã sanh là quần thể.” Về từ ‘cần phải uống,’ dựa vào ý nghĩa của động từ ‘pā’ là uống, ngài đã nói “do cần phải được tiêu thụ.” Và việc cần phải uống ấy chính là việc chặt, v.v., nên ngài đã nói “của thực vật đã sanh đó… này khác… những nguyên nhân gây ra sự chặt đứt đã sanh.”

91.Jāta-saddo ettha vijātapariyāyoti ‘‘puttaṃ vijātā itthī’’tiādīsu viya pasūtavacanoti āha ‘‘pasūtānī’’ti, nibbattapaṇṇamūlānīti attho.
91. Từ ‘jāta’ ở đây là đồng nghĩa với ‘vijāta,’ có nghĩa là ‘pasūta’ (sanh ra) như trong câu “người phụ nữ đã sanh con,” v.v., nên ngài đã nói “đã sanh ra,” có nghĩa là lá và rễ đã phát triển.

Tānidassentoti tāni bījāni dassento. Kāriyadassanamukheneva kāraṇañca gahitanti āha ‘‘bījato nibbattena bījaṃ dassita’’nti.
‘Chỉ ra những điều ấy’ là chỉ ra những hạt giống ấy. Bằng cách trình bày kết quả, nguyên nhân cũng đã được bao gồm, nên ngài đã nói “hạt giống được chỉ ra bởi những gì nảy mầm từ hạt giống.”

92.‘‘Bījato sambhūto bhūtagāmo bīja’’nti iminā uttarapadalopena ‘‘padumagacchato nibbattaṃ pupphaṃ paduma’’ntiādīsu viyāyaṃ vohāroti dasseti. Yaṃ bījaṃ bhūtagāmo nāma hotīti nibbattapaṇṇamūlaṃ sandhāya vadati. Yathārutanti yathāpāṭhaṃ.
92.“Thực vật nảy mầm từ hạt giống là hạt giống”, điều này cho thấy rằng cách gọi này, bằng cách lược bỏ từ sau, giống như trong các câu “bông hoa mọc từ bụi sen là hoa sen,” v.v. ‘Hạt giống nào được gọi là thực vật’ là chỉ nói đến lá và rễ đã phát triển. ‘Theo như đã nghe’ là theo như bài đọc.

‘‘Sañciccā’’ti vuttattā sarīre laggabhāvaṃ ñatvāpi uṭṭhahati, ‘‘taṃ uddharissāmī’’tisaññāya abhāvato vaṭṭati. Anantaka-ggahaṇena sāsapamattikā gahitā, nāmañhetaṃ tassā sevālajātiyā. Mūlapaṇṇānaṃ abhāvena ‘‘asampuṇṇabhūtagāmo nāmā’’ti vuttaṃ. So bījagāmena saṅgahitoti. Avaḍḍhamānepi bhūtagāmamūlakattā vuttaṃ ‘‘amūlakabhūtagāme saṅgahaṃ gacchatī’’ti. Nāḷikerassa āveṇikaṃ katvā vadati.
“Cố ý” do đã được nói, nên dù biết rằng có vật bám trên cơ thể, vị ấy vẫn đứng dậy, do không có ý định “tôi sẽ lấy nó ra,” nên được phép. Bằng việc dùng từ ‘anantaka,’ rong rêu đã được bao gồm, đó là tên của loại rêu ấy. Do không có rễ và lá, nên được nói là “thực vật chưa hoàn chỉnh.” Nó được bao gồm trong nhóm hạt giống. Mặc dù không tăng trưởng, nhưng do có nguồn gốc từ thực vật, nên đã được nói là “được bao gồm trong thực vật không có rễ.” Ngài nói riêng về cây dừa.

Seleyyakaṃ nāma silāya sambhūtā ekā gandhajāti. Pupphitakālato paṭṭhāyāti vikasitakālato pabhuti. Chattakaṃ gaṇhantoti vikasitaṃ gaṇhanto. Makuḷaṃ pana rukkhattacaṃ akopentenapi gahetuṃ na vaṭṭati, phullaṃ vaṭṭati. Hatthakukkuccenāti hatthacāpallena.
‘Seleyyakaṃ’ là một loại hương liệu mọc trên đá. ‘Từ lúc ra hoa trở đi’ là từ lúc nở. ‘Lấy nấm’ là lấy nấm đã nở. Nhưng nấm búp thì không được phép lấy ngay cả khi không làm tổn thương vỏ cây, còn nấm nở thì được phép. ‘Do sự táy máy của tay’ là do sự nghịch ngợm của tay.

‘‘Pānīyaṃ na vāsetabba’’nti idaṃ attano pivanapānīyaṃ sandhāya vuttaṃ, aññesaṃ pana vaṭṭati anuggahitattā. Tenāha ‘‘attanā khāditukāmenā’’ti. Yesaṃ rukkhānaṃ sākhā ruhatīti mūlaṃ anotāretvā paṇṇamattaniggamanamattenapi vaḍḍhati. Tattha kappiyampi akaronto chinnanāḷikeraveḷudaṇḍādayo kopetuṃ vaṭṭati.
“Không được giữ lại nước uống” được nói đến để chỉ nước uống của chính mình, nhưng đối với người khác thì được phép vì là sự giúp đỡ. Do đó, ngài đã nói “do người muốn ăn.” ‘Những cây nào có cành mọc lại’ là dù không cắm rễ xuống đất, nó vẫn phát triển chỉ bằng việc ra lá. Ở đó, ngay cả khi không làm cho nó hợp lệ, cũng được phép làm hỏng những cành dừa, tre, v.v. đã bị chặt.

‘‘Caṅkamitaṭṭhānaṃ dassessāmī’’ti vuttattā kevalaṃ caṅkamanādhippāyena vā maggagamanādhippāyena vā akkamantassa, tiṇānaṃ upari nisīdanādhippāyena nisīdantassa ca doso natthi.
“Tôi sẽ chỉ cho nơi kinh hành” do đã được nói, nên không có lỗi đối với người đi lại chỉ với ý định kinh hành hoặc đi trên đường, và đối với người ngồi với ý định ngồi trên cỏ.

Samaṇakappehīti samaṇānaṃ kappiyavohārehi, abījanibbaṭṭabījānipi kappiyabhāvato ‘‘samaṇakappānī’’ti vuttāni. Abījaṃ nāma taruṇaambaphalādīni. Nibbaṭṭetabbaṃ viyojetabbaṃ bījaṃ yasmiṃ , taṃ panasādi nibbaṭṭabījaṃ nāma. Kappiyanti vatvāvāti pubbakālakiriyāvasena vuttepi vacanakkhaṇeva aggisatthādinā bījagāme vaṇaṃ kātabbanti酉 pana pubbe kātuṃ na vaṭṭati, tañca dvidhā akatvā chedanabhedanameva dassetabbaṃ. Karontena ca bhikkhunā ‘‘kappiyaṃ karohī’’ti yāya kāyaci bhāsāya vutteyeva kātabbaṃ. Bījagāmaparimocanatthaṃ puna kappiyaṃ kāretabbanti kārāpanassa paṭhamameva adhikatattā. ‘‘Kaṭāhepi kātuṃ vaṭṭatī’’ti vuttattā kaṭāhato nīhatāya miñjāya vā bīje vā yattha katthaci vijjhituṃ vaṭṭati eva. Bhūtagāmo, bhūtagāmasaññitā, vikopanaṃ vā vikopāpanaṃ vāti imānettha tīṇi aṅgāni.
‘Bằng những vật hợp lệ cho Sa-môn’ là bằng những cách nói hợp lệ của các vị Sa-môn; ngay cả những hạt giống không nảy mầm từ hạt giống cũng được gọi là “những vật hợp lệ cho Sa-môn” vì chúng hợp lệ. ‘Không phải hạt giống’ là những quả xoài non, v.v. Hạt giống cần được loại bỏ khỏi cái gì, đó được gọi là ‘hạt giống đã được loại bỏ,’ như quả me, v.v. ‘Sau khi nói là hợp lệ,’ mặc dù được nói bằng động từ ở quá khứ, nhưng vào chính lúc nói, cần phải làm một vết thương trên hạt giống bằng lửa, dao, v.v., dựa theo lời dạy, nhưng không được phép làm trước đó, và không nên làm thành hai phần, chỉ nên chỉ ra việc chặt và phá. Và người làm cần phải làm chỉ khi được vị Tỳ-khưu nói bằng bất kỳ ngôn ngữ nào rằng “hãy làm cho nó hợp lệ.” ‘Để giải thoát hạt giống, cần phải cho làm hợp lệ lại’ vì việc sai khiến đã có mức độ cao hơn ngay từ đầu. “Cũng được phép làm trong chảo” do đã được nói, nên được phép đâm vào lõi hoặc hạt đã được lấy ra từ chảo ở bất cứ đâu. Có ba chi phần ở đây là: là thực vật; có nhận thức là thực vật; và làm hỏng hoặc sai người làm hỏng.

Bhūtagāmasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Thực Vật.

2. Aññavādakasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải Thích Điều Học Về Nói Lảng Tránh

94. Dutiye aññaṃ vacananti yaṃ dosavibhāvanatthaṃ parehi vuttavacanaṃ taṃ tassa ananucchavikena aññena vacanena paṭicarati.
94. Ở điều học thứ hai, ‘lời nói khác’ là lời nói mà người khác đã nói để làm rõ lỗi lầm, vị ấy lại trả lời bằng một lời nói khác không phù hợp với lời nói đó.

98. Yadetaṃ aññenaññaṃ paṭicaraṇavasena pavattavacanaṃ, tadeva pucchitamatthaṃ ṭhapetvā aññaṃ vadati pakāsetīti aññavādakanti āha ‘‘aññenaññaṃ paṭicaraṇassetaṃ nāma’’nti. Tuṇhībhūtassetaṃ nāmanti tuṇhībhāvassetaṃ nāmaṃ, ayameva vā pāṭho. Aññavādakaṃ āropetunti aññavāde āropetuṃ. Vihesakanti vihesakattaṃ.
98. Lời nói diễn ra theo cách trả lời lảng tránh này, chính nó, sau khi gác lại vấn đề được hỏi, lại nói và giải thích điều khác, nên được gọi là nói lảng tránh, ngài đã nói: “đó là tên của việc trả lời lảng tránh.” ‘Đó là tên của người im lặng’ là tên của sự im lặng, hoặc đây chính là bài đọc. ‘Quy cho việc nói lảng tránh’ là quy vào tội nói lảng tránh. ‘Người gây phiền hà’ là bản chất gây phiền hà.

99. Pāḷiyaṃ na ugghāṭetukāmoti paṭicchādetukāmo.
99. Trong Pāḷi, ‘không muốn tiết lộ’ là muốn che giấu.

100.Anāropite aññavādaketi vuttadukkaṭaṃ pāḷiyaṃ āgataaññenaññapaṭicaraṇavasena yujjati, aṭṭhakathāyaṃ āgatanayena pana musāvādena aññenaññaṃ paṭicarantassa pācittiyena saddhiṃ dukkaṭaṃ, āropite imināva pācittiyaṃ. Keci pana ‘‘musāvādapācittiyena saddhiṃ pācittiyadvaya’’nti vadanti, vīmaṃsitabbaṃ. Ādikammikassapi musāvāde imināva anāpattīti daṭṭhabbaṃ. Dhammakammena āropitatā, āpattiyā vā vatthunā vā anuyuñjiyamānatā, chādetukāmatāya aññenaññaṃ paṭicaraṇaṃ, tuṇhībhāvo cāti imānettha tīṇi aṅgāni.
100.‘Khi chưa bị quy vào tội nói lảng tránh,’ tội Tác Ác đã được đề cập là phù hợp với cách trả lời lảng tránh được nói đến trong Pāḷi; nhưng theo phương pháp trong Chú giải, người trả lời lảng tránh bằng lời nói dối thì phạm tội Tác Ác cùng với tội Ưng Đối Trị, còn khi đã bị quy tội thì phạm tội Ưng Đối Trị theo chính điều này. Tuy nhiên, một số vị nói rằng “hai tội Ưng Đối Trị cùng với tội Ưng Đối Trị do nói dối,” điều này cần được xem xét. Cần hiểu rằng ngay cả người vi phạm lần đầu cũng không bị tội nói dối theo điều này. Có ba chi phần ở đây là: bị quy tội bởi một Tăng sự hợp pháp; đang bị chất vấn về một tội hoặc một sự việc; và trả lời lảng tránh hoặc im lặng vì muốn che giấu.

Aññavādakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Nói Lảng Tránh.

3. Ujjhāpanakasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải Thích Điều Học Về Việc Kích Động Chỉ Trích

103. Tatiye cintāyanatthassa jhe-dhātussa anekatthatāya olokanatthasambhavato vuttaṃ ‘‘olokāpentī’’ti. Chandāyāti liṅgavipallāsoti āha ‘‘chandenā’’ti.
103. Ở điều học thứ ba, do động từ ‘jhe’ có nghĩa là suy nghĩ có nhiều nghĩa, và có thể có nghĩa là nhìn, nên đã nói “làm cho nhìn.” ‘Do ý muốn,’ do là sự thay đổi về giới tính, nên ngài đã nói “bằng ý muốn.”

105. Bhikkhuṃ lāmakato cintāpanatthaṃ aññesaṃ taṃ avaṇṇakathanaṃ ujjhāpanaṃ nāma. Aññesaṃ pana avatvā aññamaññaṃ samullapanavasena bhikkhuno dosappakāsanaṃ khiyyanaṃ nāmāti ayametesaṃ bhedo.
105. Việc kể xấu một Tỳ-khưu cho người khác để làm cho họ nghĩ xấu về vị Tỳ-khưu ấy được gọi là sự kích động chỉ trích. Việc không nói với người khác mà lại công khai lỗi lầm của một Tỳ-khưu qua việc bàn tán với nhau được gọi là sự phỉ báng, đây là sự khác biệt giữa chúng.

106.Aññaṃ anupasampannaṃ ujjhāpetīti aññena anupasampannena ujjhāpeti. Tassa vā taṃ santiketi tassa anupasampannassa santike taṃ saṅghena sammataṃ upasampannaṃ khiyyati. Idhāpi musāvādena ujjhāpanādīnaṃ sambhavato dukkaṭaṭṭhānāni ca ādikammikassa anāpatti ca iminā eva sikkhāpadena vuttāti veditabbaṃ sabbattha musāvādapācittiyassa anivattito. Dhammakammena sammatatā, upasampannatā, agatigamanābhāvo, tassa avaṇṇakāmatā, yassa santike vadati. Tassa upasampannatā, ujjhāpanaṃ vā khiyyanaṃ vāti imānettha cha aṅgāni.
106.‘Kích động một người chưa thọ Cụ túc giới khác’ là kích động bởi một người chưa thọ Cụ túc giới khác. ‘Hoặc ở gần người ấy,’ là ở gần người chưa thọ Cụ túc giới ấy, phỉ báng vị đã thọ Cụ túc giới được Tăng chúng chấp thuận. Ở đây cũng vậy, do có thể có sự kích động, v.v. bằng lời nói dối, nên các trường hợp bị tội Tác Ác và trường hợp không bị tội đối với người vi phạm lần đầu cũng được nói đến trong chính điều học này, bởi vì tội Ưng Đối Trị do nói dối không hề bị loại trừ trong mọi trường hợp. Có sáu chi phần ở đây là: được Tăng chúng chấp thuận bằng một Tăng sự hợp pháp; đã thọ Cụ túc giới; không đi đến nơi không nên đến; có ý muốn nói xấu vị ấy; người mà mình nói đến gần là một vị đã thọ Cụ túc giới; và là sự kích động chỉ trích hoặc sự phỉ báng.

Ujjhāpanakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Kích Động Chỉ Trích.

4. Paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải Thích Điều Học Về Chỗ Ở (Thứ Nhất)

110. Catutthe apaññāteti aviddhe. Imaṃ pana aṭṭha māse maṇḍapādīsu ṭhapanasaṅkhātaṃ atthavisesaṃ gahetvā bhagavatā paṭhamameva sikkhāpadaṃ paññattanti adhippāyaṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, aṭṭhamāse’’tiādivacanena anupaññattisadisena pakāsetvā visuṃ anupaññatti na vuttā. Parivāre panetaṃ anujānanavacanaṃ anupaññattiṭṭhānanti ‘‘ekā anupaññattī’’ti (pari. 65-67) vuttaṃ.
110. Ở điều học thứ tư, ‘chưa được biết đến’ là chưa được thấy rõ. Với ý định rằng Đức Thế Tôn đã ban hành điều học ngay từ đầu bằng cách lấy một ý nghĩa đặc biệt này là việc đặt ở nhà tạm, v.v. trong tám tháng, ngài đã tuyên bố bằng lời nói giống như một sự bổ sung rằng “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép (trong) tám tháng,” v.v. mà không nói riêng một sự bổ sung. Tuy nhiên, trong tập Parivāra, lời cho phép này ở vị trí của một sự bổ sung, nên đã được nói là “một sự bổ sung” (pari. 65-67).

Navavāyimoti adhunā suttena vītakacchena paliveṭhitamañco. Onaddhoti kappiyacammena onaddho. Te hi vassena sīghaṃ na nassanti. ‘‘Ukkaṭṭhaabbhokāsiko’’ti idaṃ tassa sukhapaṭipattidassanamattaṃ, ukkaṭṭhassāpi pana cīvarakuṭi vaṭṭateva. Kāyānugatikattāti bhikkhuno tattheva nisīdanabhāvaṃ dīpeti, tena ca vassabhayena sayaṃ aññattha gacchantassa āpattīti dasseti . Abbhokāsikānaṃ temanatthāya niyametvā dāyakehi dinnampi attānaṃ rakkhantena rakkhitabbameva.
‘Giường mới dệt’ là giường được quấn bằng dây thừng mới, chưa được làm sạch. ‘Được bọc’ là được bọc bằng da hợp lệ. Những thứ này không bị hỏng nhanh do mùa mưa. “Người ở ngoài trời tối thượng”, điều này chỉ là sự trình bày về sự thực hành thoải mái của vị ấy, nhưng ngay cả đối với người ở mức tối thượng, một túp lều bằng y cũng được phép. ‘Do theo sát thân thể’ cho thấy rằng vị Tỳ-khưu ngồi ngay tại đó, và điều đó cũng cho thấy rằng người tự mình đi đến nơi khác vì sợ mưa thì bị tội. Ngay cả những vật được thí chủ cúng dường đặc biệt để cho những người ở ngoài trời bị ướt, người tự bảo vệ mình cũng phải bảo vệ chúng.

‘‘Valāhakānaṃ anuṭṭhitabhāvaṃ sallakkhetvā’’ti iminā gimhānepi meghe uṭṭhite abbhokāse nikkhipituṃ na vaṭṭatīti dīpeti. Tatra tatrāti cetiyaṅgaṇādike tasmiṃ tasmiṃ abbhokāse niyametvā nikkhittā. Majjhato paṭṭhāya pādaṭṭhānābhimukhāti yattha samantato sammajjitvā aṅgaṇamajjhe sabbadā kacavarassa saṅkaḍḍhanena majjhe vālikā sañcitā hoti. Tattha kattabbavidhidassanatthaṃ vuttaṃ. Uccavatthupādaṭṭhānābhimukhaṃ vā vālikā haritabbā. Yattha vā pana koṇesu vālikā sañcitā, tattha tato paṭṭhāya aparadisābhimukhā haritabbāti keci atthaṃ vadanti. Keci pana ‘‘sammaṭṭhaṭṭhānassa padavaḷañjena avikopanatthāya sayaṃ asammaṭṭhaṭṭhāne ṭhatvā attano pādābhimukhaṃ vālikā haritabbāti vutta’’nti vadanti, tattha ‘‘majjhato paṭṭhāyā’’ti vacanassa payojanaṃ na dissati.
“Sau khi nhận thấy rằng mây chưa kéo đến”, điều này cho thấy rằng ngay cả trong mùa hè, khi mây đã kéo đến, không được phép để (đồ đạc) ở ngoài trời. ‘Ở những nơi đó’ là những vật được để ở những nơi ngoài trời được chỉ định như sân tháp, v.v. ‘Từ giữa hướng về phía chân tường’ là nơi mà sau khi quét dọn xung quanh, cát được gom lại ở giữa sân do rác luôn được kéo vào giữa. Điều này được nói để chỉ ra phương pháp cần làm ở đó. Hoặc cát nên được mang về phía chân tường cao. Hoặc ở nơi cát được gom lại ở các góc, một số vị giải thích ý nghĩa là nên mang cát từ đó về phía đối diện. Một số vị khác nói rằng “để không làm hỏng dấu chân ở nơi đã quét, người đó nên đứng ở nơi chưa quét và mang cát về phía chân mình,” trong trường hợp đó, không thấy được mục đích của câu “từ giữa.”

111. Vaṅkapādatāmattena kuḷīrapādakassa sesehi viseso, na aṭanīsu pādappavesanavisesenāti dassetuṃ ‘‘yo vā pana kocī’’tiādi vuttaṃ. Tassāti upasampannasseva.
111. Sự khác biệt của người có chân cua với những người khác chỉ là ở chỗ chân cong, không phải ở sự khác biệt về việc đưa chân vào các thanh giường, để chỉ ra điều này, ngài đã nói: “hoặc bất kỳ ai”, v.v. ‘Của người ấy’ là của chính người đã thọ Cụ túc giới.

Nisīditvā…pe… pācittiyanti ettha meghuṭṭhānābhāvaṃ ñatvā ‘‘pacchā āgantvā uddharissāmī’’ti ābhogena gacchantassa anāpatti, tena punāgantabbameva. Kappaṃ labhitvāti ‘‘gaccha, mā idha tiṭṭhā’’ti vuttavacanaṃ labhitvā.
‘Sau khi ngồi… này khác… tội Ưng Đối Trị,’ ở đây, người ra đi với ý định “sau này sẽ quay lại dọn dẹp” sau khi biết rằng mây chưa kéo đến thì không có tội, do đó, người ấy phải quay lại. ‘Sau khi nhận được sự cho phép’ là sau khi nhận được lời nói “hãy đi đi, đừng ở đây.”

Āvāsikānaṃyeva palibodhoti āgantukesu kiñci avatvā nisīditvā ‘‘āvāsikā eva uddharissantī’’ti gatesupi āvāsikānameva palibodho. Mahāpaccarivāde pana ‘‘idaṃ amhāka’’nti avatvāpi nisinnānamevāti adhippāyo. ‘‘Santharitvā vā santharāpetvā vā’’ti vuttattā anāṇattiyā paññāpitattāpi dukkaṭe kāraṇaṃ vuttaṃ. Ussārakoti sarabhāṇako. So hi uddhaṃ uddhaṃ pāḷipāṭhaṃ sāreti pavattetīti ussārakoti vuccati.
‘Trách nhiệm chỉ thuộc về những người ở tại trú xứ,’ ngay cả khi những người khách đến, không nói gì, ngồi xuống rồi ra đi với ý nghĩ “những người ở tại trú xứ sẽ dọn dẹp,” trách nhiệm vẫn thuộc về những người ở tại trú xứ. Tuy nhiên, trong Mahāpaccari, ý định là trách nhiệm thuộc về chính những người đã ngồi xuống dù không nói “đây là của chúng tôi.” “Sau khi trải ra hoặc sai người trải ra” do đã được nói, nên lý do của tội Tác Ác cũng được nói đến do đã được chỉ định mà không có mệnh lệnh. ‘Người tụng đọc’ là người tụng đọc có giai điệu. Thật vậy, người ấy làm cho bài kinh Pāḷi vang lên và tiếp diễn từ trên cao, nên được gọi là người tụng đọc.

112.Vaṇṇānurakkhaṇatthaṃ katāti paṭakhaṇḍādīhi sibbitvā katā. Bhūmiyaṃ attharitabbāti cimilikāya sati tassā upari, asati suddhabhūmiyaṃ attharitabbā. ‘‘Sīhacammādīnaṃ pariharaṇeyeva paṭikkhepo’’ti iminā mañcapīṭhādīsu attharitvā puna saṃharitvā ṭhapanādivasena attano atthāya pariharaṇameva na vaṭṭati, bhūmattharaṇādivasena paribhogo pana attano pariharaṇaṃ na hotīti dasseti. Khandhake hi ‘‘antopi mañce paññattāni honti, bahipi mañce paññattāni hontī’’ti evaṃ attano attano atthāya mañcādīsu paññapetvā pariharaṇavatthusmiṃ
112.‘Được làm để bảo vệ màu sắc’ là được làm bằng cách may các mảnh vải, v.v. lại với nhau. ‘Nên được trải trên đất’ là nếu có tấm trải, thì trải trên nó, nếu không có, thì trải trên đất sạch. “Sự cấm chỉ chỉ đối với việc sử dụng da hổ, v.v.”, điều này cho thấy rằng việc sử dụng cho mục đích cá nhân bằng cách trải trên giường, ghế, v.v. rồi lại cất đi là không được phép, nhưng việc sử dụng bằng cách trải trên đất, v.v. thì không phải là sử dụng cho cá nhân. Thật vậy, trong Các phẩm Luật, sau khi chỉ định trên các giường, v.v. cho mục đích cá nhân của mỗi người, trong đối tượng sử dụng

‘‘Na, bhikkhave, mahācammāni dhāretabbāni sīhacammaṃ byagghacammaṃ dīpicammaṃ. Yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 255) –

“Này các Tỳ-khưu, không được giữ những tấm da lớn: da sư tử, da cọp, da báo. Ai giữ, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 255) –

Paṭikkhepo kato. Tasmā vuttanayenevettha adhippāyo daṭṭhabbo. Dārumayapīṭhanti phalakamayapīṭhameva. Pādakathalikanti adhotapādaṃ yasmiṃ ghaṃsantā dhovanti, taṃ dāruphalakādi.
Sự cấm chỉ đã được thực hiện. Do đó, ý định ở đây cần được hiểu theo cách đã nói. ‘Ghế bằng gỗ’ chính là ghế bằng ván. ‘Tấm lót chân’ là tấm ván gỗ, v.v. mà người ta chà chân lên khi rửa chân sau khi đã rửa sạch.

113. ‘‘Āgantvā uddharissāmīti gacchatī’’ti vuttattā aññenapi kāraṇena anotāpentassapi āgamane sāpekkhassa anāpatti. Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ ‘‘mañcādīnaṃ saṅghikatā, vuttalakkhaṇe dese santharaṇaṃ vā santharāpanaṃ vā, apalibuddhatā, āpadāya abhāvo, nirapekkhatā, leḍḍupātātikkamo’’ti (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā) evamettha nirapekkhatāya saddhiṃ cha aṅgāni vuttāni.
113. “Ra đi với ý định sẽ quay lại dọn dẹp” do đã được nói, nên người không có ý định để ướt vì bất kỳ lý do nào khác, nếu có ý định quay lại thì không có tội. Do đó, trong Chú giải Mātikā , “tính chất của Tăng chúng đối với giường, v.v.; việc trải ra hoặc sai người trải ra ở nơi có đặc điểm đã nêu; không có sự ràng buộc; không có tai nạn; không có sự quyến luyến; vượt quá khoảng cách một cục đất ném” (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā), ở đây, sáu chi phần đã được nói đến cùng với sự không quyến luyến.

Paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Chỗ Ở (Thứ Nhất).

5. Dutiyasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải Thích Điều Học Về Chỗ Ở (Thứ Hai)

116. Pañcame pāvāro kojavoti paccattharaṇatthāyeva ṭhapitā uggatalomā attharaṇavisesā. Ettakameva vuttanti aṭṭhakathāsu vuttaṃ. Senāsanatoti sabbapacchimasenāsanato.
116. Ở điều học thứ năm, ‘vải len là tấm trải’ là những tấm trải đặc biệt có lông dài được để chỉ để làm tấm lót. ‘Chỉ nói đến chừng đó’ là được nói trong các bản chú giải. ‘Từ chỗ ở’ là từ chỗ ở cuối cùng.

117.Kurundaṭṭhakathāyaṃ vuttamevatthaṃ savisesaṃ katvā dassetuṃ ‘‘kiñcāpi vutto’’tiādi āraddhaṃ. Vattabbaṃ natthīti rukkhamūlassa pākaṭattā vuttaṃ. Palujjatīti vinassati.
117.Để trình bày một cách đặc biệt hơn về nội dung đã được nói trong Chú giải Kurunda, ngài đã bắt đầu bằng câu “mặc dù đã được nói” v.v. ‘Không có gì để nói’ được nói vì cội cây là điều hiển nhiên. ‘Bị hư hỏng’ là bị phá hủy.

118. Yena mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā vīnanti, taṃ mañcapīṭhakavānaṃ. Siluccayaleṇanti pabbataguhā. ‘‘Āpucchanaṃ pana vatta’’nti iminā āpatti natthīti dasseti. Vuttalakkhaṇaseyyā, tassā saṅghikatā, vuttalakkhaṇe vihāre santharaṇaṃ vā santharāpanaṃ vā, apalibuddhatā, āpadāya abhāvo, anapekkhassa disāpakkamanaṃ, upacārasīmātikkamoti imānettha satta aṅgāni.
118. Cái mà người ta dùng để đan giường hoặc ghế, đó là ‘dây đan giường ghế.’ ‘Hang núi đá’ là hang động trên núi. “Nhưng việc hỏi thì nên làm”, điều này cho thấy rằng không có tội. Có bảy chi phần ở đây là: chỗ ngủ có đặc điểm đã nêu; thuộc về Tăng chúng; trải ra hoặc sai người trải ra trong tu viện có đặc điểm đã nêu; không có sự ràng buộc; không có tai nạn; ra đi đến một phương khác mà không quyến luyến; và vượt qua ranh giới của khu vực gần.

Dutiyasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Chỗ Ở (Thứ Hai).

6. Anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải Thích Điều Học Về Việc Xâm Nhập

119. Chaṭṭhe anupavisitvāti samīpaṃ pavisitvā.
119. Ở điều học thứ sáu, ‘sau khi đi vào’ là sau khi đi vào gần.

122.Upacāraṃ ṭhapetvāti diyaḍḍhahatthūpacāraṃ ṭhapetvā. Saṅghikavihāratā, anuṭṭhāpanīyabhāvajānanaṃ, sambādhetukāmatā, upacāre nisīdanaṃ vā nipajjanaṃ vāti imānettha cattāri aṅgāni.
122.‘Gác lại khu vực gần’ là gác lại khu vực gần một khuỷu tay rưỡi. Có bốn chi phần ở đây là: là tu viện của Tăng chúng; biết rằng người kia không thể bị đuổi đi; có ý định làm phiền; và ngồi hoặc nằm trong khu vực gần.

Anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Xâm Nhập.

7. Nikkaḍḍhanasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải Thích Điều Học Về Việc Đuổi Đi

126. Sattame koṭṭhakānīti dvārakoṭṭhakāni.
126. Ở điều học thứ bảy, ‘các khung cửa’ là các ô cửa.

128.‘‘Sakalasaṅghārāmato nikkaḍḍhituṃ na vaṭṭatī’’ti idaṃ ananurūpato vuttaṃ. Pāpagarahitāya hi akupitacittena nikkaḍḍhāpentassa iminā sikkhāpadena āpatti natthi ‘‘kupito anattamano’’ti vuttattā. Aññāpekkhā āpatti na dissati. Pāḷiyaṃ ‘‘alajjiṃ nikkaḍḍhatī’’tiādīsu cittassa lahuparivattitāya antarantarā kope uppannepi anāpatti alajjitādipaccayeneva nikkaḍḍhanassa āraddhattā. Saṅghikavihāro, upasampannassa bhaṇḍanakārakabhāvādivinimuttatā, kopena nikkaḍḍhanaṃ vā nikkaḍḍhāpanaṃ vāti imānettha tīṇi aṅgāni.
128.“Không được phép đuổi ra khỏi toàn bộ tu viện của Tăng chúng” được nói do sự không phù hợp. Thật vậy, đối với người sai đuổi đi với tâm không tức giận vì ghét điều ác, không có tội theo điều học này vì đã nói “tức giận, không hài lòng.” Không thấy có tội do phụ thuộc vào người khác. Trong Pāḷi, trong các câu “đuổi một người không biết hổ thẹn đi” v.v., do tâm dễ thay đổi, nên dù có sanh khởi sự tức giận xen kẽ cũng không có tội, vì việc đuổi đi đã được bắt đầu do chính nguyên nhân là sự không biết hổ thẹn, v.v. Có ba chi phần ở đây là: là tu viện của Tăng chúng; người đã thọ Cụ túc giới không phải là người gây gổ, v.v.; và đuổi đi hoặc sai người đuổi đi với sự tức giận.

Nikkaḍḍhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Đuổi Đi.

8. Vehāsakuṭisikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải Thích Điều Học Về Căn Gác

129. Aṭṭhamaṃ uttānameva. Saṅghiko vihāro, asīsaghaṭṭavehāsakuṭi, heṭṭhāparibhogatā, apaṭāṇidinne āhaccapādake nisīdanaṃ vā nipajjanaṃ vāti imānettha cattāri aṅgāni.
129. Điều học thứ tám đã rõ ràng. Có bốn chi phần ở đây là: là tu viện của Tăng chúng; căn gác không chạm đầu; có người sử dụng ở dưới; và ngồi hoặc nằm trên một chiếc giường có chân cắm vào mà không có ván lót.

Vehāsakuṭisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Căn Gác.

9. Mahallakavihārasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải Thích Điều Học Về Tu Viện Lớn

135. Navame ‘‘mahallako nāma vihāro sassāmiko’’ti vuttattā saññācikāya kuṭiyā anāpattīti vadanti. Yassāti vihārassa. Sā aparipūrūpacārāpi hotīti vivariyamānaṃ kavāṭaṃ yaṃ bhittiṃ āhanati, sā sāmantā kavāṭavitthārappamāṇā upacārarahitāpi hotīti attho. Ālokaṃ vātapānaṃ sandheti ghaṭayatīti ālokasandhīti kavāṭaṃ vuccati. Dvāravātapānūpacārato aññattha punappunaṃ limpanādiṃ karontassa piṇḍagaṇanāya pācittiyaṃ.
135. Ở điều học thứ chín, “tu viện lớn là tu viện có chủ” do đã được nói, nên các vị nói rằng không có tội đối với một căn lều xin được. ‘Của cái nào’ là của tu viện. ‘Nó cũng có thể có khu vực gần chưa hoàn chỉnh’ có nghĩa là cánh cửa khi được mở ra, đập vào bức tường nào, thì bức tường đó, ở xung quanh, có thể không có khu vực gần bằng chiều rộng của cánh cửa. Chốt nối hoặc làm khớp với cửa sổ lấy sáng được gọi là ‘chốt cửa sổ’, tức là cánh cửa. Người liên tục trát vữa, v.v. ở nơi khác ngoài khu vực gần cửa ra vào và cửa sổ thì phạm tội Ưng Đối Trị theo cách đếm từng chút một.

Keci pana ‘‘pāḷiyaṃ pācittiyassa avuttattā dukkaṭa’’nti vadanti. Adhiṭṭhātabbanti saṃvidhātabbaṃ. Harite ṭhito adhiṭṭhāti. Āpatti dukkaṭassāti haritayutte khette ṭhatvā chādentassa dukkaṭanti attho. Keci pana ‘‘tādise khette vihāraṃ karontassa dukkaṭa’’nti vadanti, taṃ pāḷiyā na sameti.
Tuy nhiên, một số vị nói rằng “do tội Ưng Đối Trị không được nói trong Pāḷi, nên là tội Tác Ác.” ‘Cần phải quyết định’ là cần phải sắp xếp. ‘Đứng trên thảm cỏ xanh mà quyết định. Tội Tác Ác’ có nghĩa là người lợp mái trong khi đứng trên một cánh đồng có cỏ xanh thì phạm tội Tác Ác. Tuy nhiên, một số vị nói rằng “người làm một tu viện trên một cánh đồng như vậy thì phạm tội Tác Ác,” điều đó không phù hợp với Pāḷi.

136.Ujukameva chādananti chādanamukhavaṭṭito paṭṭhāya yāva piṭṭhivaṃsakūṭāgārakaṇṇikādi, tāva iṭṭhakādīhi ujukaṃ chādanaṃ. Iminā pana yena sabbasmiṃ vihāre ekavāraṃ chādite taṃ chādanaṃ ekamagganti gahetvā pāḷiyaṃ ‘‘dve magge’’tiādi vuttaṃ. Pariyāyena chādanampi imināva nayena yojetabbanti vadanti, taṃ ‘‘punappunaṃ chādāpesī’’ti imāya pāḷiyā ca ‘‘sabbampi cetaṃ chadanaṃ chadanūpari veditabba’’nti iminā aṭṭhakathāvacanena ca sameti.
136.‘Lợp mái thẳng’ là lợp mái thẳng bằng gạch, v.v. từ mép mái cho đến nóc nhà, chóp mái, v.v. Bằng điều này, các vị nói rằng, khi toàn bộ tu viện đã được lợp một lần, lớp lợp đó được coi là một lớp, và trong Pāḷi, “hai lớp,” v.v. đã được nói. Việc lợp mái theo từng đợt cũng nên được áp dụng theo cách này, điều đó phù hợp với câu Pāḷi “đã cho lợp đi lợp lại nhiều lần” và với lời Chú giải “tất cả các lớp lợp này cần được hiểu là lợp chồng lên lớp lợp.”

Pāḷiyaṃ ‘‘maggena chādentassa pariyāyena chādentassā’’ti idañca iṭṭhakādīhi, tiṇapaṇṇehi ca chādanappakārabhedadassanatthaṃ vuttaṃ. Keci pana ‘‘pantiyā chāditassa chadanassa upari chadanamukhavaṭṭito paṭṭhāya uddhaṃ ujukameva ekavāraṃ chādanaṃ ekamagganti gahetvā ‘dve magge’tiādi vuttaṃ, na pana sakalavihārachādanaṃ. Esa nayo pariyāyena chādanepī’’ti vadanti, taṃ pāḷiaṭṭhakathāhi na sameti.
Trong Pāḷi, câu “của người lợp theo từng lớp, của người lợp theo từng đợt” được nói để chỉ ra sự khác biệt trong cách lợp mái bằng gạch, v.v. và bằng cỏ, lá. Tuy nhiên, một số vị nói rằng “sau khi đã lợp một hàng, việc lợp thẳng một lần từ mép mái lên trên lớp lợp đó được coi là một lớp, và ‘hai lớp,’ v.v. đã được nói, chứ không phải là lợp toàn bộ tu viện. Cách này cũng áp dụng cho việc lợp theo từng đợt,” điều đó không phù hợp với Pāḷi và Chú giải.

Tatiyāya magganti ettha tatiyāyāti upayogatthe sampadānavacanaṃ, tatiyaṃ magganti attho. Ayameva vā pāṭho. Tiṇapaṇṇehi labbhatīti tiṇapaṇṇehi chādetvā upari ullittāvalittakaraṇaṃ sandhāya vuttaṃ. Kevalaṃ tiṇakuṭiyā hi anāpatti vuttā. Tiṇṇaṃ maggānanti maggavasena chāditānaṃ tiṇṇaṃ chadanānaṃ. Tiṇṇaṃ pariyāyānanti etthāpi eseva nayo. Mahallakavihāratā, attano vāsāgāratā, uttari adhiṭṭhānanti imānettha tīṇi aṅgāni.
‘Lớp thứ ba,’ ở đây, ‘thứ ba’ là chỉ định cách ở sở hữu cách được dùng với ý nghĩa sử dụng, có nghĩa là lớp thứ ba. Hoặc đây chính là bài đọc. ‘Được phép với cỏ và lá’ được nói đến để chỉ việc lợp bằng cỏ và lá rồi trát vữa lên trên. Thật vậy, đối với một túp lều chỉ bằng cỏ, đã được nói là không có tội. ‘Của ba lớp’ là của ba lớp lợp đã được lợp theo từng lớp. ‘Của ba đợt,’ ở đây cũng theo cách tương tự. Có ba chi phần ở đây là: là một tu viện lớn; là nơi ở của chính mình; và quyết định thêm.

Mahallakavihārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Tu Viện Lớn.

10. Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải Thích Điều Học Về Nước Có Sinh Vật

140. Dasame mātikāyaṃ sappāṇakaudakaṃ tiṇena vā mattikāya vā siñceyya, chaḍḍeyyāti attho. Atha vā udakaṃ gahetvā bahi siñceyya, tasmiñca udake tiṇaṃ vā mattikaṃ vā āharitvā pakkhipeyyāti ajjhāharitvā attho veditabbo. Tenāha ‘‘sakaṭabhāramattañcepī’’tiādi. Idanti tiṇamattikapakkhipanavidhānaṃ. Vuttanti mātikāyaṃ ‘‘tiṇaṃ vā mattikaṃ vā’’ti evaṃ vuttaṃ, aṭṭhakathāsu vā vuttaṃ.
140. Ở điều học thứ mười, ‘trong mương nước,’ nên tưới hoặc đổ nước có sinh vật bằng cỏ hoặc đất, ý là vậy. Hoặc, nên lấy nước rồi tưới ra ngoài, và trong nước đó, nên mang cỏ hoặc đất đến bỏ vào, ý nghĩa cần được hiểu bằng cách thêm vào. Do đó, ngài đã nói: “ngay cả chỉ bằng một gánh xe” v.v. ‘Điều này’ là phương pháp bỏ cỏ và đất vào. ‘Đã được nói’ là đã được nói trong Mātikā là “cỏ hoặc đất,” hoặc đã được nói trong các bản chú giải.

Idañca sikkhāpadaṃ bāhiraparibhogaṃ sandhāya vatthuvasena vuttaṃ abbhantaraparibhogassa visuṃ vakkhamānattā. Tadubhayampi ‘‘sappāṇaka’’nti katvā vadhakacittaṃ vināva siñcane paññattattā ‘‘paṇṇattivajja’’nti vuttaṃ. Vadhakacitte pana sati sikkhāpadantareneva pācittiyaṃ, na imināti daṭṭhabbaṃ. Udakassa sappāṇakatā, ‘‘siñcanena pāṇakā marissantī’’ti jānanaṃ, tādisameva ca udakaṃ vinā vadhakacetanāya kenacideva karaṇīyena tiṇādīnaṃ siñcananti imānettha cattāri aṅgāni.
Điều học này được nói dựa trên đối tượng là sự sử dụng bên ngoài, vì sự sử dụng bên trong sẽ được nói đến riêng. Cả hai điều đó, được gọi là “có sinh vật,” đã được quy định khi tưới mà không có ý định giết, nên được gọi là “tội do quy định.” Nhưng nếu có ý định giết, thì phạm tội Ưng Đối Trị theo một điều học khác, không phải điều này, điều này cần được biết. Có bốn chi phần ở đây là: nước có sinh vật; biết rằng “các sinh vật sẽ chết do việc tưới;” và tưới cỏ, v.v. bằng chính nước đó vì một công việc nào đó mà không có ý định giết.

Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Nước Có Sinh Vật.

Niṭṭhito senāsanavaggo dutiyo.

Dứt Phẩm Chỗ Ở Thứ Hai.

‘‘Bhūtagāmavaggo’’tipi etasseva nāmaṃ.

Cũng có tên là “Phẩm Thực Vật.”

3. Ovādavaggo

3. Phẩm Giáo Huấn

1. Ovādasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải Thích Điều Học Về Giáo Huấn

144. Tatiyavaggassa paṭhame tiracchānabhūtanti tirokaraṇabhūtaṃ, bāhirabhūtanti attho. Samiddhoti paripuṇṇo. Sahitattho atthayutto. Atthagambhīratādinā gambhīro.
144. Ở điều học thứ nhất của phẩm thứ ba, ‘đã trở thành chướng ngại’ là đã trở thành vật cản, có nghĩa là đã trở thành vật bên ngoài. ‘Thành công’ là viên mãn. ‘Có ý nghĩa’ là có liên quan đến ý nghĩa. ‘Sâu sắc’ do sự sâu sắc về ý nghĩa, v.v.

145-147.Paratoti uttari. Karontovāti paribāhire karonto . Vibhaṅgeti jhānavibhaṅge. Caraṇanti nibbānagamanāya pādaṃ.
145-147.‘Hơn nữa’ là về sau. ‘Hoặc đang làm’ là đang làm ở bên ngoài. ‘Trong Phân Tích’ là trong Phân Tích về Thiền. ‘Bước chân’ là bước chân để đi đến Niết-bàn.

Yadassāti yaṃ assa. Dhāretīti avinassamānaṃ dhāreti. Parikathanatthanti pakiṇṇakakathāvasena paricchinnadhammakathanatthaṃ. Tisso anumodanāti saṅghabhattādīsu dānānisaṃsappaṭisaṃyuttā nidhikuṇḍasuttādi (khu. pā. 8.1 ādayo) -anumodanā, gehappavesamaṅgalādīsu maṅgalasuttādi (khu. pā. 5.1 ādayo; su. ni. maṅgalasutta) -anumodanā, matakabhattādiamaṅgalesu tirokuṭṭādi (khu. pā. 7.1 ādayo; pe. va. 14 ādayo) -anumodanāti imā tisso anumodanā. Kammākammavinicchayoti parivārāvasāne kammavagge (pari. 482 ādayo) vuttavinicchayo. Samādhivasenāti samathapubbakavasena. Vipassanāvasena vāti diṭṭhivisuddhiādikāya sukkhavipassanāya vasena. Attano sīlarakkhaṇatthaṃ aparānapekkhatāya yena kāmaṃ gantuṃ catasso disā arahati, assa vā santi, tāsu vā sādhūti cātuddiso.
‘Cái gì của nó’ là cái gì của vị ấy. ‘Giữ gìn’ là giữ gìn không để mất mát. ‘Mục đích kể lại’ là mục đích kể lại một giáo pháp đã được phân định theo cách nói chuyện tản mạn. ‘Ba sự tùy hỷ’ là ba sự tùy hỷ này: sự tùy hỷ liên quan đến phước báu của việc cúng dường trong các bữa ăn của Tăng chúng, v.v., như kinh Nidhikuṇḍa, v.v. (khu. pā. 8.1 trở đi); sự tùy hỷ trong các dịp tốt lành như lễ nhập trạch, v.v., như kinh Maṅgala, v.v. (khu. pā. 5.1 trở đi; su. ni. maṅgalasutta); và sự tùy hỷ trong các dịp không may mắn như cúng dường cho người đã khuất, v.v., như kinh Tirokuṭṭa, v.v. (khu. pā. 7.1 trở đi; pe. va. 14 trở đi). ‘Sự phân định về hành động và không hành động’ là sự phân định được nói đến trong Phẩm Kammavagga ở cuối tập Parivāra (pari. 482 trở đi). ‘Theo cách thiền định’ là theo cách thiền chỉ đi trước. ‘Hoặc theo cách thiền quán’ là theo cách thiền quán khô, bắt đầu bằng thanh tịnh về kiến. Người xứng đáng đi đến bốn phương tùy ý để bảo vệ giới hạnh của mình mà không cần phụ thuộc vào người khác, hoặc người có bốn phương, hoặc người tốt lành ở trong bốn phương đó, là người thuộc bốn phương.

Abhivinayeti pātimokkhasaṃvarasaṅkhāte saṃvaravinaye, tappakāsake vā vinayapiṭake . Vinetunti sikkhāpetuṃ pakāsetuṃ. Paguṇā vācuggatāti pāṭhato ca atthato ca paguṇā mukhe sannidhāpanavasena vācuggatā kātabbā. Atthamattavasenapettha yojanaṃ karonti. Abhidhammeti lakkhaṇarasādivasena paricchinne nāmarūpadhamme. Pubbe kira mahātherā pariyattianantaradhānāya ekekassa gaṇassa dīghanikāyādiekekadhammakoṭṭhāsaṃ niyyātentā ‘‘tumhe etaṃ pāḷito ca aṭṭhakathāto ca pariharatha, sakkontā uttaripi uggaṇhathā’’ti evaṃ sakaladhammaṃ ganthavasena niyyātenti, tattha te ca bhikkhū ganthanāmena dīghabhāṇakā majjhimabhāṇakāti voharīyanti, te ca attano bhārabhūtaṃ koṭṭhāsaṃ pariccajitvā aññaṃ uggahetuṃ na labhanti. Taṃ sandhāyāha ‘‘sace majjhimabhāṇako hotī’’tiādi.
‘Trong luật tối thượng’ là trong luật chế ngự được gọi là sự thu thúc trong Giới Bổn, hoặc trong tạng Luật giải thích về điều đó. ‘Để rèn luyện’ là để dạy dỗ, để giải thích. ‘Thông thạo hoặc thuộc lòng’ là cần phải làm cho thông thạo về cả văn bản Pāḷi và ý nghĩa, và thuộc lòng bằng cách ghi nhớ. Ở đây, họ cũng giải thích theo ý nghĩa. ‘Trong Vi Diệu Pháp’ là trong các pháp danh và sắc đã được phân định theo đặc tính, vai trò, v.v. Trước đây, các vị Đại Trưởng Lão, để không làm cho sự học thuộc bị gián đoạn, đã giao cho mỗi nhóm một phần giáo pháp như Trường Bộ, v.v. và nói rằng: “Các vị hãy duy trì điều này từ cả Pāḷi và Chú giải, nếu có thể, hãy học thêm nữa.” Như vậy, họ đã giao toàn bộ giáo pháp dưới dạng văn bản. Ở đó, các vị Tỳ-khưu đó được gọi bằng tên của văn bản là Vị tụng đọc Trường Bộ, Vị tụng đọc Trung Bộ. Và họ không được phép từ bỏ phần gánh nặng của mình để học phần khác. Dựa vào đó, ngài đã nói: “nếu là Vị tụng đọc Trung Bộ” v.v.

Tattha heṭṭhimā vā tayo vaggāti mahāvaggato heṭṭhimā sagāthakavaggo (saṃ. ni. 1.1 ādayo), nidānavaggo (saṃ. ni. 2.1 ādayo), khandhavaggoti (saṃ. ni. 3.1 ādiyo) ime tayo vaggā. Tikanipātato paṭṭhāya heṭṭhāti ekakanipātadukanipāte sandhāya vuttaṃ. Dhammapadampi saha vatthunā jātakabhāṇakena attano jātakena saddhiṃ uggahetabbaṃ. Tato oraṃ na vaṭṭatīti mahāpaccarivādassa adhippāyo. Tato tatoti dīghanikāyādito. Uccinitvā uggahitaṃ saddhammassa ṭhitiyā, bhikkhunopi pubbāparānusandhiādikusalatāya ca na hotīti ‘‘taṃ na vaṭṭatī’’ti paṭikkhittaṃ. Abhidhamme kiñci uggahetabbanti na vuttanti ettha yasmā vinaye kusalattikādivibhāgo, suttantesu samathavipassanāmaggo ca abhidhammapāṭhaṃ vinā na viññāyati, andhakāre paviṭṭhakālo viya hoti, tasmā suttavinayānaṃ gahaṇavasena abhidhammaggahaṇaṃ vuttamevāti visuṃ na vuttanti veditabbaṃ. Yathā ‘‘bhojanaṃ bhuñjitabba’’nti vutte ‘‘byañjanaṃ khāditabba’’nti avuttampi vuttameva hoti tadavinābhāvato, evaṃsampadamidaṃ daṭṭhabbaṃ.
Ở đó, ‘hoặc ba phẩm dưới’ là ba phẩm này: Sagāthakavagga (saṃ. ni. 1.1 trở đi), Nidānavagga (saṃ. ni. 2.1 trở đi), và Khandhavagga (saṃ. ni. 3.1 trở đi), là những phẩm dưới Mahāvagga. ‘Bên dưới từ Chương Ba Pháp trở đi’ được nói đến để chỉ Chương Một Pháp và Chương Hai Pháp. Kinh Pháp Cú cùng với câu chuyện cũng cần được Vị tụng đọc Bổn Sanh học cùng với các câu chuyện Bổn Sanh của mình. ‘Không được phép học thấp hơn thế’ là ý kiến của Đại Chú Giải. Việc học lỏm ‘từ những nơi đó’ là từ Trường Bộ, v.v. không giúp cho sự tồn tại của chánh pháp, cũng như không giúp cho Tỳ-khưu thông thạo về sự liên kết trước sau, v.v., nên đã bị bác bỏ là “điều đó không được phép.” ‘Trong Vi Diệu Pháp, không có nói gì về việc học’ ở đây, vì trong tạng Luật, sự phân chia ba loại thiện, v.v., và trong các kinh, con đường thiền chỉ và thiền quán không thể được hiểu nếu không có bài đọc Vi Diệu Pháp, giống như một thời kỳ chìm trong bóng tối, do đó, bằng việc học tạng Kinh và tạng Luật, việc học Vi Diệu Pháp cũng đã được nói đến, nên không được nói riêng, điều này cần được biết. Giống như khi nói “cần phải ăn cơm,” thì việc “cần phải ăn thức ăn kèm” dù không được nói đến cũng đã được nói đến vì chúng không thể tách rời, điều này cần được hiểu như vậy.

Parimaṇḍalapadabyañjanāyāti parimaṇḍalāni paripuṇṇāni padesu sithiladhanitādibyañjanāni yassaṃ, tāya. Purassa esāti porī, nagaravāsīnaṃ kathāti attho. Anelagaḷāyāti ettha elāti kheḷaṃ taggaḷanavirahitāya. Kalyāṇavākkaraṇoti ettha vācā eva vākkaraṇaṃ, udāharaṇaghoso. Kalyāṇaṃ madhuraṃ vākkaraṇamassāti kalyāṇavākkaraṇo. Upasampannāya methuneneva abhabbo hoti, na sikkhamānāsāmaṇerīsūti āha ‘‘bhikkhuniyā kāyasaṃsaggaṃ vā’’tiādi.
‘Của (lời nói) có từ và chữ tròn trịa,’ là lời nói có các chữ như phụ âm nhẹ, phụ âm nặng, v.v. trong các từ đều tròn trịa, đầy đủ. Của người ở thành phố là ‘của người thành thị,’ có nghĩa là lời nói của những người sống trong thành phố. ‘Của (lời nói) không có đờm dãi,’ ở đây, ‘elā’ là đờm dãi, là lời nói không có sự nuốt nước bọt. ‘Người có giọng nói hay,’ ở đây, lời nói chính là giọng nói, là tiếng vang khi phát âm. Người có giọng nói hay và ngọt ngào là người có giọng nói hay. Đối với người đã thọ Cụ túc giới, chỉ có hành vi giao hợp mới là không thể, còn đối với cô ni tu tập sự và sa-di-ni thì không, nên ngài đã nói: “hoặc sự tiếp xúc thân thể với một Tỳ-khưu-ni” v.v.

148.Garukehīti garukabhaṇḍehi. Ekatoupasampannāyāti upayogatthe bhummavacanaṃ. Bhikkhūnaṃ santike upasampannā nāma parivattaliṅgā vā pañcasatasākiyāniyo vā. Etā pana ekatoupasampannā ovadantassa pācittiyameva.
148.‘Bởi những vật nặng’ là bởi những vật dụng nặng. ‘Của người đã thọ Cụ túc giới từ một phía,’ là cách nói chỉ nơi chốn trong ý nghĩa của việc sử dụng. ‘Những người đã thọ Cụ túc giới ở gần các Tỳ-khưu’ là những người đã thay đổi giới tính hoặc năm trăm phụ nữ dòng Thích-ca. Những người này, nếu giáo huấn người đã thọ Cụ túc giới từ một phía, thì chỉ phạm tội Ưng Đối Trị.

149.Na nimantitā hutvā gantukāmāti nimantitā hutvā bhojanapariyosāne gantukāmā na honti, tattheva vasitukāmā hontīti attho. Yatoti bhikkhunupassayato. Yācitvāti ‘‘tumhehi ānītaovādeneva mayampi vasissāmā’’ti yācitvā. Tatthāti tasmiṃ bhikkhunupassaye. Abhikkhukāvāse vassaṃ vasantiyā pācittiyaṃ, apagacchantiyā dukkaṭaṃ.
149.‘Không phải là người được mời mà muốn đi’ có nghĩa là những người được mời, sau khi kết thúc bữa ăn, không muốn đi, mà muốn ở lại đó. ‘Từ đâu’ là từ tu viện của các Tỳ-khưu-ni. ‘Sau khi xin’ là sau khi xin rằng “chúng tôi cũng sẽ sống bằng chính lời giáo huấn mà các ngài mang đến.” ‘Ở đó’ là trong tu viện của Tỳ-khưu-ni đó. Người ở lại qua mùa mưa trong một trú xứ không có Tỳ-khưu thì phạm tội Ưng Đối Trị, người ra đi thì phạm tội Tác Ác.

Imāsu katarāpatti pariharitabbāti codanaṃ pariharanto āha ‘‘sā rakkhitabbā’’ti. Sā vassānugamanamūlikā āpatti rakkhitabbā, itarāya anāpattikāraṇaṃ atthīti adhippāyo. Tenāha ‘‘āpadāsu hī’’tiādi.
Trong những tội này, tội nào cần được tránh? Để giải đáp thắc mắc đó, ngài nói: “tội đó cần được giữ gìn.” Tội có nguồn gốc từ việc đi theo qua mùa mưa cần được giữ gìn, ý định là có lý do để không phạm tội kia. Do đó, ngài đã nói: “thật vậy, trong những lúc nguy cấp” v.v.

Ovādatthāyāti ovāde yācanatthāya. Dve tissoti dvīhi tīhi, karaṇatthe cetaṃ paccattavacanaṃ. Pāsādikenāti pasādajanakena kāyakammādinā. Sampādetūti tividhaṃ sikkhaṃ sampādetu. Asammatatā, bhikkhuniyā paripuṇṇūpasampannatā, ovādavasena aṭṭhagarudhammadānanti imānettha tīṇi aṅgāni.
‘Vì mục đích giáo huấn’ là vì mục đích xin giáo huấn. ‘Hai ba’ là bởi hai, ba, đây là chỉ định cách ở công cụ cách. ‘Bằng cách làm cho hoan hỷ’ là bằng hành động của thân, v.v. làm phát sinh sự hoan hỷ. ‘Hãy hoàn thành’ là hãy hoàn thành ba loại học. Có ba chi phần ở đây là: không được chấp thuận; Tỳ-khưu-ni đã thọ Cụ túc giới trọn vẹn; và ban tám pháp kính trọng theo cách giáo huấn.

Ovādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Giáo Huấn.

2. Atthaṅgatasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải Thích Điều Học Về Lúc Mặt Trời Lặn

153. Dutiye kokanadanti padumavisesaṃ, taṃ kira bahupattaṃ vaṇṇasampannaṃ. Ayañhettha attho – yathā kokanadasaṅkhātaṃ padumaṃ, evaṃ phullamukhapadumaṃ avītaguṇagandhaṃ nimmale antalikkhe ādiccaṃ viya ca attano tejasā tapantaṃ tato eva virocamānaṃ aṅgehi niccharaṇakajutiyā aṅgīrasaṃ sammāsambuddhaṃ passāti. Rajoharaṇanti sarīre rajaṃ puñchatīti rajoharaṇanti puñchanacoḷassa nāmaṃ. Obhāsavissajjanapubbakā bhāsitagāthā obhāsagāthā nāma. Visuddhimaggādīsu (visuddhi. 2.386) pana ‘‘rāgo rajo na ca pana reṇu vuccatī’’tiādi obhāsagāthā vuttā, na panesā ‘‘adhicetaso’’ti gāthā. Ayañca cūḷapanthakattherassa udānagāthāti udānapāḷiyaṃ natthi, ekudāniyattherassa (theragā. 1.67 ekudāniyattheragāthāvaṇṇanā) nāyaṃ udānagāthāti tattha vuttaṃ. Idha pana pāḷiyā eva vuttattā therassāpi udānagāthāti gahetabbaṃ. Idha ca agarudhammenāpi ovadato pācittiyameva. Atthaṅgatasūriyatā, paripuṇṇūpasampannatā, ovadananti imānettha tīṇi aṅgāni.
153. Ở điều học thứ hai, ‘kokanada’ là một loại hoa sen đặc biệt, nó có nhiều cánh và màu sắc đẹp. Ý nghĩa ở đây là: hãy nhìn Đức Chánh Đẳng Chánh Giác, bậc Aṅgīrasa, người có khuôn mặt như hoa sen nở rộ, không mất đi hương thơm của phẩm hạnh, tỏa sáng bằng hào quang của chính mình như mặt trời trên bầu trời trong xanh, và do đó, tỏa sáng rực rỡ bởi ánh sáng phát ra từ các chi thể của Ngài. ‘Vật lau bụi’ là vật lau bụi trên cơ thể, nên là tên của chiếc khăn lau. Bài kệ được nói sau khi phát ra ánh sáng được gọi là ‘bài kệ ánh sáng.’ Tuy nhiên, trong Thanh Tịnh Đạo, v.v. (visuddhi. 2.386), bài kệ “tham ái là bụi chứ không phải là bụi đất” được nói là bài kệ ánh sáng, chứ không phải bài kệ “của người có tâm cao thượng” này. Và bài kệ này là bài kệ cảm hứng của trưởng lão Cūḷapanthaka, nhưng không có trong kinh Udāna, và của trưởng lão Ekudāniya (theragā. 1.67 ekudāniyattheragāthāvaṇṇanā) đây không phải là bài kệ cảm hứng, điều đó đã được nói ở đó. Nhưng ở đây, do được nói trong chính Pāḷi, nên cần được coi là bài kệ cảm hứng của vị trưởng lão. Và ở đây, ngay cả người giáo huấn bằng pháp không kính trọng cũng chỉ phạm tội Ưng Đối Trị. Có ba chi phần ở đây là: mặt trời đã lặn; đã thọ Cụ túc giới trọn vẹn; và giáo huấn.

Atthaṅgatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Lúc Mặt Trời Lặn.

3. Bhikkhunupassayasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải Thích Điều Học Về Tu Viện Tỳ-khưu-ni

162. Tatiyaṃ uttānameva. Upassayūpagamanaṃ, paripuṇṇūpasampannatā, samayābhāvo, garudhammehi ovadananti imānettha cattāri aṅgāni.
162. Điều học thứ ba đã rõ ràng. Có bốn chi phần ở đây là: đến tu viện; đã thọ Cụ túc giới trọn vẹn; không có lý do; và giáo huấn bằng các pháp kính trọng.

Bhikkhunupassayasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Tu Viện Tỳ-khưu-ni.

4. Āmisasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải Thích Điều Học Về Vật Thực

164. Catutthe āmisanirapekkhampi āmisahetu ovadatītisaññāya bhaṇantassapi anāpatti sacittakattā sikkhāpadassa. Sesamettha uttānameva. Upasampannatā, dhammena laddhasammutitā, anāmisantaratā, avaṇṇakāmatāya evaṃ bhaṇananti imānettha cattāri aṅgāni.
164. Ở điều học thứ tư, ngay cả người không trông mong vật thực, nhưng lại nói với nhận thức rằng mình đang giáo huấn vì vật thực, cũng không phạm tội, vì điều học này là có liên quan đến tâm. Phần còn lại ở đây đã rõ ràng. Có bốn chi phần ở đây là: đã thọ Cụ túc giới; được sự chấp thuận hợp pháp; không phải vì vật thực; và nói như vậy vì có ý muốn nói xấu.

Āmisasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Vật Thực.

169. Pañcamaṃ cīvaradānasikkhāpadaṃ uttānameva.
169. Điều học thứ năm về việc cho y phục đã rõ ràng.

6. Cīvarasibbanasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải Thích Điều Học Về Việc May Y Phục

176. Chaṭṭhe kathinavattanti kathinamāse cīvaraṃ karontānaṃ sabrahmacārīnaṃ sahāyabhāvūpagamanaṃ sandhāya vuttaṃ. Vañcetvāti ‘‘tava ñātikāyā’’ti avatvā ‘‘ekissā bhikkhuniyā’’ti ettakameva vatvā ‘‘ekissā bhikkhuniyā’’ti sutvā te aññātikasaññino ahesunti āha ‘‘akappiye niyojitattā’’ti. Aññātikāya bhikkhuniyā santakatā, nivāsanapārupanūpagatā, vuttanayena sibbanaṃ vā sibbāpanaṃ vāti imānettha tīṇi aṅgāni.
176. Ở điều học thứ sáu, ‘việc làm trong lễ Kathina’ được nói đến để chỉ việc giúp đỡ các bạn đồng phạm hạnh đang làm y trong tháng Kathina. ‘Lừa dối’ là không nói “của người thân của bạn” mà chỉ nói “của một vị Tỳ-khưu-ni,” và sau khi nghe “của một vị Tỳ-khưu-ni,” họ đã có nhận thức là người không phải thân quyến, ngài đã nói: “do đã sai khiến vào việc không hợp lệ.” Có ba chi phần ở đây là: thuộc sở hữu của một Tỳ-khưu-ni không phải là thân quyến; là y nội hoặc y vai; và may hoặc sai người may theo cách đã nêu.

Cīvarasibbanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc May Y Phục.

7. Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải Thích Điều Học Về Việc Hẹn Hò

183. Sattame pāḷiyaṃ gacchāma bhagini gacchāmāyyāti bhikkhupubbakaṃ saṃvidhānaṃ, itaraṃ bhikkhunipubbakaṃ . Ekaddhānamagganti ekato addhānasaṅkhātaṃ maggaṃ. Hiyyoti suve. Pareti tatiye divase.
183. Ở điều học thứ bảy, trong Pāḷi, ‘chúng ta đi thôi, thưa chị, chúng ta đi thôi, thưa bà’ là sự hẹn hò do Tỳ-khưu khởi xướng, còn lại là do Tỳ-khưu-ni khởi xướng. ‘Con đường dài cùng nhau’ là con đường dài được gọi là một cuộc hành trình cùng nhau. ‘Hôm qua’ là ngày mai. ‘Ngày kia’ là ngày thứ ba.

Dvidhā vuttappakāroti pādagamane pakkhagamaneti dvidhā vuttappakāro. Upacāro na labbhatīti yo parikkhittādigāmassa ekaleḍḍupātādiupacāro vutto, so idha na labbhati āsannattā. Etena ca antaraghareyevettha gāmoti adhippeto, na sakalaṃ gāmakhettaṃ. Tatthāpi yattha upacāro labbhati, tattha upacārokkamane eva āpattīti dasseti. Tenāha ‘‘ratanamattantaro’’tiādi. Upacārokkamanañcettha upacārabbhantare pavisanameva hoti. Tattha appavisitvāpi upacārato bahi addhayojanabbhantaragatena maggena gacchantopi maggassa dvīsu passesu addhayojanabbhantaragataṃ gāmūpacāraṃ sabbaṃ okkamitvā gacchaticceva vuccati. Addhayojanato bahi gatena maggena gacchanto na gāmūpacāragaṇanāya kāretabbo, addhayojanagaṇanāyeva kāretabbo. Evañca sati anantarasikkhāpade nāvāyeva gāmatīrapassena gacchantassa gāmūpacāragaṇanāya āpatti samatthitā hoti. Na hi sakkā nāvāya gāmūpacārabbhantare pavisituṃ. Tiṇṇaṃ maggānaṃ sambandhaṭṭhānaṃ siṅghāṭakaṃ. Etthantare saṃvidahiteti ettha na kevalaṃ yathāvuttarathikādīsu eva saṃvidahane dukkaṭaṃ, antarāmaggepīti adhippāyo.
‘Hai loại đã được nói’ là hai loại đã được nói: đi bộ và đi theo nhóm. ‘Không có khu vực gần’ là khu vực gần một cục đất ném, v.v. của một ngôi làng được rào lại, v.v. đã được nói, ở đây không có được vì quá gần. Bằng điều này, ý định ở đây là chính ngôi làng ở giữa, không phải toàn bộ khu vực làng. Ở đó cũng vậy, ở nơi có khu vực gần, chỉ khi vượt qua khu vực gần mới phạm tội, điều này cho thấy. Do đó, ngài đã nói: “cách nhau khoảng một tầm tên bắn” v.v. Và việc vượt qua khu vực gần ở đây chính là việc đi vào bên trong khu vực gần. Ở đó, ngay cả người không đi vào mà đi trên con đường nằm trong phạm vi nửa do-tuần bên ngoài khu vực gần, cũng được gọi là đã đi qua toàn bộ khu vực gần của làng nằm trong phạm vi nửa do-tuần ở hai bên đường. Người đi trên con đường nằm ngoài phạm vi nửa do-tuần thì không bị xử phạt theo cách tính khu vực gần của làng, mà chỉ bị xử phạt theo cách tính nửa do-tuần. Và như vậy, trong điều học tiếp theo, tội của người đi thuyền dọc theo bờ làng đã được xác định theo cách tính khu vực gần của làng. Không thể đi thuyền vào bên trong khu vực gần của làng. Nơi giao nhau của ba con đường là ngã ba. ‘Khi hẹn hò ở trong khoảng này,’ ở đây, không chỉ phạm tội Tác Ác khi hẹn hò ở những con đường, v.v. đã nói, mà còn cả ở trên đường đi, ý là vậy.

Addhayojanaṃ atikkamantassāti asati gāme addhayojanaṃ atikkamantassa. Yasmiñhi gāmakhettabhūtepi araññe addhayojanabbhantare gāmo na hoti, tampi idha agāmakaṃ araññanti adhippetaṃ, na viñjhāṭavādayo.
‘Của người vượt qua nửa do-tuần’ là của người vượt qua nửa do-tuần khi không có làng. Ngay cả trong khu rừng là khu vực làng, nếu không có làng nào trong phạm vi nửa do-tuần, nơi đó cũng được coi là một khu rừng không có làng ở đây, không phải là rừng Vindhya, v.v., ý định là vậy.

185.Raṭṭhabhedeti raṭṭhavilope. Cakkasamāruḷhāti iriyāpathacakkaṃ, sakaṭacakkaṃ vā samāruḷhā. Dvinnampi saṃvidahitvā maggappaṭipatti, avisaṅketaṃ, samayābhāvo, anāpadā, gāmantarokkamanaṃ vā addhayojanātikkamo vāti imānettha pañca aṅgāni. Ekatoupasampannādīhi saddhiṃ saṃvidhāya gacchantassa pana mātugāmasikkhāpadena āpatti.
185.‘Khi đất nước bị chia cắt’ là khi đất nước bị cướp phá. ‘Những người đã lên bánh xe’ là những người đã lên bánh xe của oai nghi, hoặc bánh xe của xe bò. Có năm chi phần ở đây là: việc cả hai cùng hẹn hò đi trên một con đường; không có dấu hiệu; không có lý do; không có tai nạn; và đi vào một ngôi làng khác hoặc vượt quá nửa do-tuần. Nhưng đối với người đi cùng với những người đã thọ Cụ túc giới từ một phía, v.v. sau khi đã hẹn hò, thì phạm tội theo điều học về người nữ.

Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Hẹn Hò.

8. Nāvābhiruhanasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải Thích Điều Học Về Lên Thuyền

189. Aṭṭhame ekaṃ tīraṃ…pe… nirantaranti nadito addhayojanabbhantare padese niviṭṭhagāmehi nirantaratā vuttā. Ekaṃ agāmakaṃ araññanti tathā niviṭṭhagāmābhāvena vuttaṃ. Agāmakatīrapassenātiādi pana atirekaaddhayojanavitthataṃ nadiṃ sandhāya vuttaṃ. Tato ūnavitthārāya hi nadiyā majjhenāpi gamane tīradvayassāpi addhayojanabbhantare gatattā gāmantaragaṇanāya, addhayojanagaṇanāya ca āpattiyo paricchinditabbā. Teneva ‘‘yojanavitthatā…pe… addhayojanagaṇanāya pācittiyānī’’ti vuttaṃ. Teneva hi yojanato ūnāya nadiyā addhayojanabbhantaragatatīravaseneva āpattigaṇanaṃ vuttameva hoti. ‘‘Sabbaaṭṭhakathāsū’’tiādinā vuttamevatthaṃ samattheti. Tattha kiñcāpi samuddataḷākādīsu pācittiyaṃ na vuttaṃ, tathāpi kīḷāpurekkhārassa tattha dukkaṭamevāti gahetabbaṃ, paṭhamaṃ kīḷāpurekkhārassāpi pacchā nāvāya niddupagatassa, yoniso vā manasi karontassa gāmantarokkamanādīsupi āpattisambhavato paṇṇattivajjatā, ticittatā cassa sikkhāpadassa vuttāti veditabbaṃ. Sesaṃ suviññeyyameva.
189. Ở điều học thứ tám, ‘một bờ… này khác… liên tục’ sự liên tục được nói đến bởi các ngôi làng nằm trong phạm vi nửa do-tuần từ con sông. ‘Một khu rừng không có làng’ được nói đến do không có các ngôi làng nằm như vậy. ‘Bằng cách đi dọc theo bờ không có làng,’ v.v. được nói đến để chỉ một con sông rộng hơn nửa do-tuần. Thật vậy, đối với một con sông hẹp hơn, ngay cả khi đi giữa dòng, do đã đi trong phạm vi nửa do-tuần của cả hai bờ, các tội cần được phân định theo cách tính đi vào làng khác và cách tính nửa do-tuần. Do đó, đã được nói: “một con sông rộng một do-tuần… này khác… các tội Ưng Đối Trị theo cách tính nửa do-tuần.” Thật vậy, do đó, đối với một con sông hẹp hơn một do-tuần, việc tính tội theo cách đi trong phạm vi nửa do-tuần của bờ đã được nói đến. “Trong tất cả các bản Chú giải,” v.v. đã xác nhận chính điều đã được nói. Ở đó, mặc dù tội Ưng Đối Trị không được nói đến ở biển, hồ, v.v., nhưng cần hiểu rằng chỉ có tội Tác Ác đối với người có ý định vui chơi ở đó; và cần biết rằng điều học này được nói là tội do quy định và có ba tâm, vì ngay cả người có ý định vui chơi lúc đầu, sau đó ngủ gật trên thuyền, hoặc người có tâm chánh niệm, cũng có thể phạm tội khi đi vào làng khác, v.v. Phần còn lại rất dễ hiểu.

Nāvābhiruhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Lên Thuyền.

9. Paripācitasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải Thích Điều Học Về Vật Thực Được Nấu Riêng

197. Navame pāḷiyaṃ ‘‘sikkhamānā…pe… pañca bhojanāni ṭhapetvā sabbattha anāpattī’’ti idaṃ iminā sikkhāpadena anāpattiṃ sandhāya vuttaṃ. Pañcahi sahadhammikehi kataviññattiparikathādīhi uppannaṃ paribhuñjantassa dukkaṭameva. Bhikkhuniyā paripācitatā, tathā jānanaṃ, gihisamārambhābhāvo, bhojanatā, tassa ajjhoharaṇanti imānettha pañca aṅgāni.
197. Ở điều học thứ chín, trong Pāḷi, “cô ni tu tập sự… này khác… ngoại trừ năm loại thực phẩm, ở mọi nơi đều không có tội” được nói đến để chỉ sự không phạm tội theo điều học này. Người tiêu thụ vật thực phát sinh từ sự xin xỏ, bàn bạc, v.v. được thực hiện bởi năm người đồng phạm hạnh thì chỉ phạm tội Tác Ác. Có năm chi phần ở đây là: được nấu riêng bởi một Tỳ-khưu-ni; biết như vậy; không có sự khởi xướng của cư sĩ; là thực phẩm; và ăn vật đó.

Paripācitasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Vật Thực Được Nấu Riêng.

10. Rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải Thích Điều Học Về Việc Ngồi Ở Nơi Kín Đáo

198. Dasame upanandassa catutthasikkhāpadenāti mātugāmena rahonisajjasikkhāpadaṃ sandhāya vuttaṃ, taṃ pana acelakavagge pañcamampi upanandaṃ ārabbha paññattesu catutthattā evaṃ vuttanti daṭṭhabbaṃ.
198. Ở điều học thứ mười, ‘bởi điều học thứ tư của Upananda’ là chỉ nói đến điều học về việc ngồi ở nơi kín đáo với một người nữ, nhưng điều đó, mặc dù là điều học thứ năm trong phẩm Acelaka, được nói như vậy vì là điều thứ tư trong số những điều được ban hành liên quan đến Upananda, điều này cần được biết.

Rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Ngồi Ở Nơi Kín Đáo.

Niṭṭhito ovādavaggo tatiyo.

Dứt Phẩm Giáo Huấn Thứ Ba.

4. Bhojanavaggo

4. Phẩm Thực Phẩm

1. Āvasathapiṇḍasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải Thích Điều Học Về Vật Thực Ở Quán Trọ

206. Catutthavaggassa paṭhame imesaṃyevāti imesaṃ pāsaṇḍānaṃyeva. Ettakānanti imasmiṃ pāsaṇḍe ettakānaṃ.
206. Ở điều học thứ nhất của phẩm thứ tư, ‘của chính những người này’ là của chính những người ngoại đạo này. ‘Của bao nhiêu người này’ là của bao nhiêu người trong nhóm ngoại đạo này.

208.‘‘Gacchanto vā āgacchanto vā’’ti idaṃ addhayojanavasena gahetabbaṃ. Aññe uddissa paññattañca bhikkhūsu appasannehi titthiyehi sāmaññatopi paññattampi bhikkhūnaṃ na vaṭṭati eva. Āvasathapiṇḍatā, agilānatā, anuvasitvā bhojananti imānettha tīṇi aṅgāni.
208.“Hoặc đang đi hoặc đang đến” cần được hiểu theo cách tính nửa do-tuần. Và những gì được chỉ định cho người khác, ngay cả những gì được chỉ định một cách chung chung bởi những người ngoại đạo không có thiện cảm với các Tỳ-khưu, cũng không được phép cho các Tỳ-khưu. Có ba chi phần ở đây là: là vật thực ở quán trọ; không bị bệnh; và ăn sau khi đã ở lại.

Āvasathapiṇḍasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Vật Thực Ở Quán Trọ.

2. Gaṇabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải Thích Điều Học Về Ăn Theo Nhóm

209. Dutiye abhimāreti abhibhavitvā bhagavantaṃ māraṇatthāya payojite dhanudhare. Nanu ‘‘rājānampi mārāpesī’’ti酉 idaṃ sikkhāpadaṃ ajātasattuno kāle paññattanti siddhaṃ, evañca sati pāḷiyaṃ ‘‘tena kho pana samayena rañño māgadhassa…pe… ñātisālohito ājīvakesu pabbajito hoti…pe… bimbisāraṃ etadavocā’’tiādi virujjhatīti? Na virujjhati. So kira ājīvako bimbisārakālato pabhuti antarantarā bhikkhū nimantetvā dānaṃ dento ajātasattukālepi sikkhāpade paññattepi bhikkhūnaṃ santike dūtaṃ pāhesi, bhikkhū ca kukkuccāyantā nivāresuṃ. Tasmā ādito paṭṭhāya taṃ vatthu dassitanti veditabbaṃ.
209. Ở điều học thứ hai, ‘đối với kẻ chinh phục’ là đối với các cung thủ được cử đi để chinh phục và giết Đức Thế Tôn. Chẳng phải điều học “cũng đã sai người giết vua”, dựa theo lời dạy, đã được xác định là được ban hành vào thời của vua Ajātasattu sao? Và như vậy, câu trong Pāḷi “Vào lúc ấy, của vua xứ Māgadha… này khác… một người bà con thân thuộc đã xuất gia trong phái Ājīvaka… này khác… đã nói với vua Bimbisāra điều này” chẳng phải là mâu thuẫn sao? Không mâu thuẫn. Vị Ājīvaka ấy, từ thời vua Bimbisāra, đã thỉnh thoảng mời các Tỳ-khưu và cúng dường, ngay cả vào thời vua Ajātasattu, khi điều học đã được ban hành, vị ấy vẫn sai sứ giả đến các Tỳ-khưu, và các Tỳ-khưu do do dự nên đã từ chối. Do đó, cần hiểu rằng sự việc đó đã được trình bày từ đầu.

215. Aññamaññaṃ visadisaṃ rajjaṃ virajjaṃ, virajjato āgatā verajjakā. Te ca yasmā jātigottādito nānāvidhā, tasmā nānāverajjaketipi attho.
215. Vương quốc không giống nhau là vương quốc khác nhau, những người đến từ vương quốc khác nhau là những người từ nhiều xứ. Và vì họ có nguồn gốc dòng dõi, gia tộc, v.v. khác nhau, nên ý nghĩa cũng là những người từ nhiều xứ khác nhau.

217-8. Imassa sikkhāpadassa vatthuvaseneva viññattito gaṇabhojanatthatā siddhāti taṃ avatvā padabhājane asiddhameva nimantanato gaṇabhojanaṃ dassitanti veditabbaṃ. Tenāha ‘‘dvīhākārehī’’tiādi. ‘‘Yena kenaci vevacanenā’’ti vuttattā ‘‘bhojanaṃ gaṇhathā’’tiādisāmaññanāmenāpi gaṇabhojanaṃ hoti. Yaṃ pana pāḷiyaṃ addhānagamanādivatthūsu ‘‘idheva bhuñjathā’’ti vuttavacanassa kukkuccāyanaṃ, tampi odanādināmaṃ gahetvā vuttattā eva katanti veditabbaṃ. Ekato gaṇhantīti aññamaññassa dvādasahatthaṃ amuñcitvā ekato ṭhatvā gaṇhanti.
217-8. Do điều học này đã được xác định là ăn theo nhóm chỉ dựa trên sự việc, nên không nói đến điều đó, mà trong phần phân tích từ, chỉ trình bày việc ăn theo nhóm do sự mời mọc vốn chưa được xác định, điều này cần được biết. Do đó, ngài đã nói: “bằng hai cách” v.v. “Bằng bất kỳ từ đồng nghĩa nào” do đã được nói, nên ngay cả bằng một tên gọi chung chung như “hãy nhận thực phẩm,” v.v. cũng trở thành ăn theo nhóm. Và việc do dự đối với lời nói “hãy ăn ở đây” trong các trường hợp đi đường xa, v.v. trong Pāḷi, cũng đã được thực hiện như vậy do đã được nói bằng cách lấy tên của cơm, v.v., điều này cần được biết. ‘Họ nhận cùng một lúc’ là họ đứng cùng một lúc mà không rời khỏi khoảng cách mười hai khuỷu tay của nhau và nhận.

‘‘Amhākaṃ catunnampi bhattaṃ dehī’’ti vuttattā pāḷi (vaṇṇanā) yaṃ ‘‘tvaṃ ekassa bhikkhuno bhattaṃ dehī’’tiādino vuttattā ca bhojananāmena viññattameva gaṇabhojanaṃ hoti, tañca aññena viññattampi ekato gaṇhantānaṃ sabbesampi hotīti daṭṭhabbaṃ. Visuṃ gahitaṃ pana viññattaṃ bhuñjato paṇītabhojanādisikkhāpadehi āpatti eva.
“Hãy cho chúng tôi bốn phần ăn” do đã được nói, và trong Pāḷi (chú giải) do đã được nói bằng câu “bạn hãy cho một vị Tỳ-khưu một phần ăn,” v.v., nên chỉ việc xin bằng tên của thực phẩm mới trở thành ăn theo nhóm, và điều đó, ngay cả khi được người khác xin, cũng xảy ra cho tất cả những người nhận cùng một lúc, điều này cần được biết. Nhưng người ăn vật xin được nhận riêng thì vẫn phạm tội theo các điều học về thực phẩm hảo hạng, v.v.

Āgantukapaṭṭanti acchinditvā anvādhiṃ āropetvā karaṇacīvaraṃ sandhāya vuttaṃ. Ṭhapetīti ekaṃ antaṃ cīvare bandhanavasena ṭhapeti. Paccāgataṃ sibbatīti tasseva dutiyaantaṃ parivattitvā āhataṃ sibbati. Āgantukapaṭṭaṃ bandhatīti cīvarena laggaṃ karonto punappunaṃ tattha tattha suttena bandhati. Ghaṭṭetīti pamāṇena gahetvā daṇḍādīhi ghaṭṭeti. Suttaṃ karotīti guṇādibhāvena vaṭṭeti. Valetīti anekaguṇasuttaṃ hatthena vā cakkadaṇḍena vā vaṭṭeti ekattaṃ karoti. Parivattanaṃ karotīti parivattanadaṇḍayantakaṃ karoti, yasmiṃ suttaguḷaṃ pavesetvā veḷunāḷikādīsu ṭhapetvā paribbhamāpetvā suttakoṭito paṭṭhāya ākaḍḍhanti.
‘Miếng vá cho khách’ được nói đến để chỉ y phục được làm bằng cách không cắt mà thêm vào một lớp lót. ‘Đặt’ là đặt một đầu vào y phục bằng cách buộc. ‘May miếng vá đã được đưa lại’ là may đầu thứ hai của chính miếng vá đó sau khi đã lật lại và mang đến. ‘Buộc miếng vá cho khách’ là buộc bằng chỉ ở nhiều nơi để làm cho nó dính vào y phục. ‘Cán’ là lấy theo kích thước và cán bằng gậy, v.v. ‘Làm chỉ’ là xe thành sợi, v.v. ‘Xe’ là xe sợi nhiều lớp bằng tay hoặc bằng trục quay để làm thành một. ‘Làm trục quay’ là làm một trục quay, trong đó người ta đưa cuộn chỉ vào và đặt trong ống tre, v.v. rồi cho quay, và kéo từ đầu sợi chỉ.

220.Animantitacatutthanti animantito catuttho yassa bhikkhucatukkassa, taṃ animantitacatutthaṃ. Evaṃ sesesupi. Tenāha ‘‘pañcannaṃ catukkāna’’nti. Sampavesetvāti tehi yojetvā. Gaṇo bhijjatīti nimantitasaṅgho na hotīti attho.
220.‘Bốn người với người thứ tư không được mời’ là nhóm bốn Tỳ-khưu mà người thứ tư không được mời. Tương tự trong các trường hợp còn lại. Do đó, ngài đã nói: “của năm nhóm bốn người.” ‘Gộp vào’ là kết hợp với họ. ‘Nhóm bị phá vỡ’ có nghĩa là không còn là Tăng chúng được mời.

Adhivāsetvāgatesūti ettha akappiyanimantanādhivāsanakkhaṇe pubbapayoge dukkaṭampi natthi, viññattito pasavane pana viññattikkhaṇe itarasikkhāpadehi dukkaṭaṃ hotīti gahetabbaṃ. Nimantanaṃ sādiyathāti nimantanabhattaṃ paṭiggaṇhatha. Tāni cāti kummāsādīni ca tehi bhikkhūhi ekena pacchā gahitattā ekato na gahitāni.
‘Sau khi đã chấp nhận và ra đi,’ ở đây, ngay cả trong lúc chấp nhận lời mời không hợp lệ, cũng không có tội Tác Ác trong hành động ban đầu; nhưng trong việc phát sinh từ sự xin, vào lúc xin, có tội Tác Ác theo các điều học khác, điều này cần được biết. ‘Hãy chấp nhận lời mời’ là hãy nhận vật thực được mời. ‘Và những thứ đó’ là cháo đặc, v.v. và những thứ đó không được nhận cùng một lúc vì đã được các Tỳ-khưu đó nhận sau.

‘‘Bhattuddesakena paṇḍitena bhavitabbaṃ…pe… mocetabbā’’ti etena bhattuddesakena akappiyanimantane sādite sabbesampi sāditaṃ hoti. Ekato gaṇhantānaṃ gaṇabhojanāpatti ca hotīti dasseti. Dūtassa dvāre āgantvā puna ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti vacanabhayena ‘‘gāmadvāre aṭṭhatvā’’ti vuttaṃ. Gaṇabhojanatā, samayābhāvo, ajjhoharaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni.
“Người chia vật thực cần phải là người thông thái… này khác… cần phải được giải thoát,” điều này cho thấy rằng khi người chia vật thực chấp nhận lời mời không hợp lệ, thì tất cả mọi người cũng đã chấp nhận. Và nó cũng cho thấy rằng những người nhận cùng một lúc thì phạm tội ăn theo nhóm. “Sau khi đã đứng ở cửa làng” được nói do sợ rằng sứ giả sẽ quay lại và nói “hãy nhận vật thực” ở cửa. Có ba chi phần ở đây là: ăn theo nhóm; không có lý do; và ăn.

Gaṇabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Ăn Theo Nhóm.

3. Paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải Thích Điều Học Về Ăn Liên Tiếp

221. Tatiye pāḷiyaṃ bhattapaṭipāṭi aṭṭhitāti kulapaṭipāṭiyā dātabbā bhattapaṭipāṭi aṭṭhitā na ṭhitā, abbocchinnā nirantarappavattāti attho. Badaraphalāni pakkhipitvā pakkayāguādikaṃ ‘‘badarasāḷava’’nti vuccati.
221. Ở điều học thứ ba, trong Pāḷi, ‘thứ tự vật thực không bị gián đoạn’ có nghĩa là thứ tự vật thực cần được cúng dường theo thứ tự của các gia đình không bị gián đoạn, mà diễn ra liên tục. Cháo, v.v. được nấu bằng cách cho quả táo ta vào được gọi là “súp táo ta.”

Pāḷiyaṃ paramparabhojaneti yena paṭhamaṃ nimantito, tassa bhojanato parassa bhojanassa bhuñjane. Vikappanāva idha anupaññattivasena mātikāyaṃ anāropitāpi parivāre ‘‘catasso anupaññattiyo’’ti (pari. 86) anupaññattiyaṃ gaṇitā. Tattha kiñcāpi aṭṭhakathāyaṃ mahāpaccarivādassa pacchā kathanena parammukhāvikappanā patiṭṭhapitā, tathāpi sammukhāvikappanāpi gahetabbāva. Teneva mātikāṭṭhakathāyampi ‘‘yo bhikkhu pañcasu sahadhammikesu aññatarassa ‘mayhaṃ bhattapaccāsaṃ tuyhaṃ dammī’ti vā ‘vikappemī’ti vā evaṃ sammukhā’’tiādi (kaṅkhā. aṭṭha. paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ.
Trong Pāḷi, ‘trong việc ăn liên tiếp’ là trong việc ăn một bữa ăn khác sau bữa ăn của người đã mời trước. Việc từ bỏ ở đây, mặc dù không được đưa vào Mātikā như một sự bổ sung, nhưng trong tập Parivāra, nó đã được tính vào sự bổ sung trong câu “có bốn sự bổ sung” (pari. 86). Ở đó, mặc dù trong Chú giải, bằng cách nói sau về Mahāpaccari, việc từ bỏ khi vắng mặt đã được xác lập, nhưng việc từ bỏ khi có mặt cũng nên được chấp nhận. Do đó, trong Chú giải Mātikā cũng đã nói: “Vị Tỳ-khưu nào, đối với một trong năm người đồng phạm hạnh, nói rằng ‘tôi cho bạn phần vật thực của tôi’ hoặc ‘tôi từ bỏ,’ như vậy khi có mặt” v.v. (kaṅkhā. aṭṭha. paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā).

229.Khīraṃ vā rasaṃ vāti pañcabhojanāmisaṃ bhattato upari ṭhitaṃ sandhāya vuttaṃ. Tañhi abhojanattā uppaṭipāṭiyā pivatopi anāpatti. Tenāha ‘‘bhuñjantenā’’tiādi.
229.‘Sữa hoặc nước cốt’ được nói đến để chỉ vật thực là năm loại thực phẩm nằm trên vật thực. Vì nó không phải là thực phẩm, nên ngay cả người uống không theo thứ tự cũng không có tội. Do đó, ngài đã nói: “bởi người đang ăn” v.v.

Vikappanāya akaraṇato akiriyāvasena idaṃ vācāyapi samuṭṭhitanti āha ‘‘vacīkamma’’nti. Paramparabhojanatā, samayābhāvo, ajjhoharaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni.
Do không thực hiện việc từ bỏ, điều này cũng khởi sanh từ lời nói theo cách không hành động, nên ngài đã nói: “hành động của lời nói.” Có ba chi phần ở đây là: ăn liên tiếp; không có lý do; và ăn.

Paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Ăn Liên Tiếp.

4. Kāṇamātāsikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải Thích Điều Học Về Mẹ Kāṇā

231. Catutthe pāḷiyaṃ paṭiyālokanti pacchimadisaṃ, pacchādisanti attho. Apātheyyādiatthāya paṭiyāditantisaññāya gaṇhantassāpi āpatti eva acittakattā sikkhāpadassa. Attano atthāya ‘‘imassa hatthe dehī’’ti vacanenāpi āpajjanato ‘‘vacīkamma’’nti vuttaṃ. Vuttalakkhaṇapūvamanthatā, asesakatā, appaṭippassaddhagamanatā, aññātakāditā, atirekapaṭiggahaṇanti imānettha pañca aṅgāni.
231. Ở điều học thứ tư, trong Pāḷi, ‘hướng về phía sau’ có nghĩa là hướng về phía tây, phía sau. Ngay cả người nhận với nhận thức rằng mình nhận để làm lương thực đi đường, v.v. cũng vẫn phạm tội, vì điều học này không liên quan đến tâm. Do được phạm ngay cả bằng lời nói “hãy đưa vào tay người này” vì lợi ích của chính mình, nên đã được nói là “hành động của lời nói.” Có năm chi phần ở đây là: là bánh hoặc bột rang có đặc điểm đã nêu; không còn sót lại; không quay trở lại; không phải là người quen, v.v.; và nhận thêm.

Kāṇamātāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Mẹ Kāṇā.

5. Paṭhamapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải Thích Điều Học Về Việc Từ Chối (Thứ Nhất)

237. Pañcame ‘‘ti-kāraṃ avatvā’’ti iminā kātabbasaddasāmatthiyā laddhaṃ iti-padaṃ katakāle na vattabbanti dasseti. Idha pana ajānantehi iti-sadde payuttepi atirittaṃ katameva hotīti daṭṭhabbaṃ.
237. Ở điều học thứ năm, “không nói từ ‘ti’”, điều này cho thấy rằng từ “iti” có được nhờ năng lực của từ “kātabba” không được nói vào lúc đã làm. Nhưng ở đây, cần biết rằng ngay cả khi những người không biết sử dụng từ ‘iti,’ thì việc làm dư thừa cũng đã được thực hiện.

238-9. ‘‘Pavārito’’ti idañca kattuatthe nipphannanti dassetuṃ ‘‘katapavāraṇo’’tiādi vuttaṃ. Bhuttāvī-padassa niratthakabhāvameva sādhetuṃ ‘‘vuttampi ceta’’ntiādi vuttaṃ. Tāhīti puthukāhi. Sattumodakoti sattuṃ temetvā kato apakko. Sattuṃ pana pisitvā piṭṭhaṃ katvā temetvā pūvaṃ katvā pacanti, taṃ na pavāreti. ‘‘Paṭikkhipitabbaṭṭhāne ṭhitameva paṭikkhipati nāmā’’ti vuttattā yaṃ yaṃ alajjisantakaṃ vā attano apāpuṇakasaṅghikādiṃ vā paṭikkhepato pavāraṇā na hotīti daṭṭhabbaṃ.
238-9. “Người đã từ chối,” để chỉ ra rằng điều này được hình thành ở thể chủ động, ngài đã nói: “người đã thực hiện sự từ chối” v.v. Để chứng minh rằng từ “bhuttāvī” không có ý nghĩa, ngài đã nói: “và điều này cũng đã được nói” v.v. ‘Bởi những cái đó’ là bởi những hạt cốm. ‘Bánh bột rang’ là bánh chưa chín được làm bằng cách trộn bột rang. Còn bột rang được xay thành bột, trộn rồi làm thành bánh và nướng thì không làm cho việc từ chối bị vô hiệu. “Chỉ khi đứng ở nơi cần phải từ chối mới được gọi là từ chối” do đã được nói, nên cần biết rằng sự từ chối không xảy ra do việc từ chối bất cứ thứ gì thuộc sở hữu của người không biết hổ thẹn hoặc của Tăng chúng mà mình không được phép nhận.

Āsannataraṃ aṅganti hatthapāsato bahi ṭhatvā onamitvā dentassa sīsaṃ āsannataraṃ hoti, tassa orimantena paricchinditabbaṃ.
‘Chi phần gần hơn’ là khi người dâng cúng đứng ngoài tầm tay và cúi xuống dâng, đầu của vị ấy sẽ gần hơn, cần phải được phân định bằng giới hạn gần nhất của nó.

Apanāmetvāti abhimukhaṃ haritvā. ‘‘Imaṃ bhattaṃ gaṇhā’’ti vadatīti kiñci anāmetvā vadati. Kevalaṃ vācābhihārassa anadhippetattā gaṇhathāti gahetuṃ āraddhaṃ kaṭacchunā anukkhittampi pubbepi evaṃ abhihaṭattā pavāraṇā hotīti ‘‘abhihaṭāva hotī’’ti vuttaṃ. Uddhaṭamatteti bhājanato viyojitamatte. Dvinnaṃ samabhārepīti parivesakassa ca aññassa ca bhattapacchibhājanavahane samakepīti attho.
‘Sau khi di chuyển đi’ là sau khi mang đến trước mặt. “Nói rằng ‘hãy nhận vật thực này’” là nói mà không di chuyển bất cứ thứ gì. Do việc chỉ dâng bằng lời nói không được mong đợi, nên khi nói “hãy nhận,” vật chưa được múc bằng muỗng nhưng đã được dâng lên như vậy trước đó cũng trở thành sự từ chối, nên đã được nói: “đã được dâng lên rồi.” ‘Ngay khi được múc lên’ là ngay khi được tách ra khỏi bát. ‘Ngay cả khi cả hai đều mang nặng như nhau’ có nghĩa là ngay cả khi người phục vụ và người khác đều mang bát đựng thức ăn thừa nặng như nhau.

Rasaṃ gaṇhathāti ettha kevalaṃ maṃsarasassa apavāraṇājanakassa nāmena vuttattā paṭikkhipato pavāraṇā na hoti. Maccharasantiādīsu maccho ca rasañcāti atthassa sambhavato vatthunopi tādisattā pavāraṇā hoti, ‘‘idaṃ gaṇhathā’’tipi avatvā tuṇhībhāvena abhihaṭaṃ paṭikkhipatopi hoti eva. Karambakoti missakādhivacanametaṃ. Yañhi bahūhi missetvā karonti, so ‘‘karambako’’ti vuccati.
‘Hãy nhận nước cốt,’ ở đây, do chỉ được nói bằng tên của nước cốt thịt vốn không tạo ra sự từ chối, nên sự từ chối không xảy ra đối với người từ chối. Trong các câu ‘nước cốt cá,’ v.v., do có thể có ý nghĩa là “cá và nước cốt,” và đối tượng cũng như vậy, nên sự từ chối xảy ra; ngay cả người từ chối vật được dâng lên trong im lặng mà không nói “hãy nhận cái này” cũng vẫn xảy ra. ‘Karambako’ là một từ đồng nghĩa với hỗn hợp. Bất cứ thứ gì được làm bằng cách trộn nhiều thứ lại với nhau đều được gọi là “karambako.”

‘‘Uddissa kata’’nti maññamānoti ettha vatthuno kappiyattā ‘‘pavāritova hotī’’ti vuttaṃ. Tañce uddissa katameva hoti, paṭikkhepo natthi. Ayamettha adhippāyoti ‘‘yenāpucchito’’tiādinā vuttamevatthaṃ sandhāya vadati. Kāraṇaṃ panettha duddasanti bhattassa bahutarabhāvena pavāraṇāsambhavakāraṇaṃ duddasaṃ, aññathā karambakepi macchādibahubhāve pavāraṇā bhaveyyāti adhippāyo. Yathā cettha kāraṇaṃ duddasaṃ, evaṃ parato ‘‘missakaṃ gaṇhathā’’ti etthāpi kāraṇaṃ duddasamevāti daṭṭhabbaṃ. Yañca ‘‘idaṃ pana bhattamissakamevā’’tiādi kāraṇaṃ vuttaṃ, tampi ‘‘appataraṃ na pavāretī’’ti vacanena na sameti. Visuṃ katvā detīti ‘‘rasaṃ gaṇhathā’’tiādinā vācāya visuṃ katvā detīti attho gahetabbo. Na pana kāyena rasādiṃ viyojetvāti. Tathā aviyojitepi paṭikkhipato pavāraṇāya asambhavato appavāraṇāpahoṇakassa nāmena vuttattā bhattamissakayāguṃ āharitvā ‘‘yāguṃ gaṇhathā’’ti vuttaṭṭhānādīsu viya, aññathā vā ettha yathā pubbāparaṃ na virujjhati, tathā adhippāyo gahetabbo.
“Nghĩ rằng ‘được làm riêng cho mình,’” ở đây, do đối tượng là hợp lệ, nên đã được nói: “đã được từ chối rồi.” Nếu nó thực sự được làm riêng cho mình, thì không có sự từ chối. ‘Ý định ở đây là’ là chỉ nói đến chính điều đã được nói bằng câu “người được hỏi” v.v. ‘Lý do ở đây khó thấy’ là lý do có thể xảy ra sự từ chối do vật thực có nhiều hơn là khó thấy; nếu không, ngay cả trong món hỗn hợp, nếu có nhiều cá, v.v., sự từ chối cũng sẽ xảy ra, ý định là vậy. Và như lý do ở đây khó thấy, thì về sau, trong câu “hãy nhận món hỗn hợp,” lý do cũng khó thấy, điều này cần được biết. Và lý do đã được nói là “nhưng đây chỉ là món cơm trộn,” v.v. cũng không phù hợp với câu “ít hơn thì không từ chối.” ‘Đưa riêng ra’ cần được hiểu là đưa riêng ra bằng lời nói như “hãy nhận nước cốt,” v.v., chứ không phải là tách nước cốt, v.v. ra bằng thân. Nếu không tách ra như vậy, do không thể có sự từ chối đối với người từ chối, và do đã được nói bằng tên của vật không đủ để từ chối, giống như ở những nơi đã nói “hãy nhận cháo” sau khi mang đến món cháo trộn vật thực, hoặc nếu không, ở đây, cần hiểu ý định sao cho không mâu thuẫn với trước sau.

Nāvā vā setu vātiādimhi nāvādiabhiruhanādikkhaṇe kiñci ṭhatvāpi abhiruhanādikātabbattepi gamanatapparatāya ṭhānaṃ nāma na hoti, janasammaddena pana anokāsādibhāvena kātuṃ na vaṭṭati. Acāletvāti vuttaṭṭhānato aññasmimpi padese vā uddhaṃ vā apesetvā tasmiṃ eva pana ṭhāne parivattetuṃ labhati. Tenāha ‘‘yena passenā’’tiādi.
‘Thuyền hoặc cầu,’ v.v., vào lúc lên thuyền, v.v., mặc dù có thể đứng một chút rồi mới lên, nhưng do bận rộn với việc đi lại, nên không được gọi là đứng; nhưng do đám đông, không có chỗ, v.v. nên không được phép làm. ‘Không di chuyển’ là không di chuyển đi nơi khác so với nơi đã nói, hoặc lên trên, nhưng được phép xoay trở ngay tại nơi đó. Do đó, ngài đã nói: “bằng phía nào” v.v.

Akappiyabhojanaṃ vāti kuladūsanādinā uppannaṃ, taṃ ‘‘akappiya’’nti iminā tena missaṃ odanādi atirittaṃ hoti evāti dasseti. Tasmā yaṃ tattha akappakataṃ kandaphalādi, taṃ apanetvā sesaṃ bhuñjitabbameva.
‘Hoặc thực phẩm không hợp lệ’ là thực phẩm phát sinh do việc làm xấu gia đình, v.v., nó, bằng từ “không hợp lệ,” cho thấy rằng cơm, v.v. trộn với nó cũng trở thành vật dư thừa. Do đó, củ quả, v.v. không hợp lệ ở đó cần phải được loại bỏ, còn phần còn lại thì nên ăn.

So puna kātuṃ na labhatīti tasmiññeva bhājane kariyamānaṃ paṭhamakatena saddhiṃ kataṃ hotīti puna so eva kātuṃ na labhati, añño labhati. Aññena hi katato añño puna kātuṃ labhati. Aññasmiṃ pana bhājane tena vā aññena vā kātuṃ vaṭṭati. Tenāha ‘‘yena akataṃ, tena kātabbaṃ, yañca akataṃ, taṃ kātabba’’nti. Evaṃ katanti aññasmiṃ bhājane kataṃ. Sace pana āmisasaṃsaṭṭhānīti ettha mukhādīsu laggampi āmisaṃ sodhetvāva atirittaṃ bhuñjitabbanti veditabbaṃ.
‘Người đó không được phép làm lại’ là khi làm trong cùng một cái bát, nó được coi là đã làm cùng với cái đã làm trước đó, nên chính người đó không được phép làm lại, người khác thì được phép. Thật vậy, người khác có thể làm lại cái mà người khác đã làm. Nhưng trong một cái bát khác, người đó hoặc người khác đều được phép làm. Do đó, ngài đã nói: “ai chưa làm, thì nên làm, và cái gì chưa được làm, thì nên làm.” ‘Đã được làm như vậy’ là đã được làm trong một cái bát khác. ‘Nhưng nếu chúng được trộn với vật thực,’ ở đây, cần biết rằng ngay cả vật thực dính ở miệng, v.v. cũng cần phải được làm sạch rồi mới ăn vật dư thừa.

241. Vācāya āṇāpetvā atirittaṃ akārāpanato akiriyasamuṭṭhānanti daṭṭhabbaṃ. Pavāritabhāvo, āmisassa anatirittatā, kāle ajjhoharaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni.
241. Cần biết rằng đây là sự khởi sanh do không hành động, vì không sai người làm vật dư thừa bằng lời nói. Có ba chi phần ở đây là: đã bị từ chối; vật thực không phải là vật dư thừa; và ăn vào đúng thời điểm.

Paṭhamapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Từ Chối (Thứ Nhất).

6. Dutiyapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải Thích Điều Học Về Việc Từ Chối (Thứ Hai)

243. Chaṭṭhe ‘‘bhuttasmi’’nti mātikāyaṃ vuttattā bhojanapariyosāne pācittiyaṃ. Pavāritatā, tathāsaññitā, āsādanāpekkhatā, anatirittena abhihaṭapavāraṇā, bhojanapaayosānanti imānettha pañca aṅgāni.
243. Ở điều học thứ sáu, “khi đã ăn” do đã được nói trong Mātikā , nên phạm tội Ưng Đối Trị vào cuối bữa ăn. Có năm chi phần ở đây là: đã bị từ chối; có nhận thức như vậy; có ý định nhận; từ chối vật được dâng không phải là vật dư thừa; và kết thúc bữa ăn.

Dutiyapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Từ Chối (Thứ Hai).

7. Vikālabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải Thích Điều Học Về Ăn Sai Giờ

247. Sattame naṭānaṃ nāṭakāti naṭanāṭakā, sītāharaṇādīni.
247. Ở điều học thứ bảy, các vở kịch của các diễn viên là các vở kịch của diễn viên, như vở Sītāharaṇa, v.v.

248-9.Khādanīye khādanīyatthanti pūvādikhādanīye vijjamānakhādanīyakiccaṃ khādanīyehi kātabbaṃ jighacchāharaṇasaṅkhātaṃ atthaṃ payojanaṃ neva pharanti na nipphādenti. Ekasmiṃ dese āhārakiccaṃ sādhentaṃ vā aññasmiṃ dese uṭṭhitabhūmirasādibhedena āhārakiccaṃ asādhentampi vā sambhaveyyāti āha ‘‘tesu tesu janapadesū’’tiādi. Keci pana ‘‘ekasmiṃ janapade āhārakiccaṃ sādhentaṃ sesajanapadesupi vikāle na kappati evāti dassanatthaṃ idaṃ vutta’’ntipi (sārattha. ṭī. pācittiyakaṇḍa 3.248-249) vadanti. Pakatiāhāravasenāti aññehi yāvakālikehi ayojitaṃ attano pakatiyāva āhārakiccakaraṇavasena. Sammohoyeva hotīti anekatthānaṃ nāmānaṃ, aviddhānañca sambhavato sammoho eva siyā. Tenevettha mayampi mūlakamūlādīnaṃ pariyāyantaradassanena adassanaṃ karimha upadesatova gahetabbato.
248-9.‘Đối với vật ăn được, mục đích của vật ăn được’ là mục đích cần được thực hiện bằng các vật ăn được, là việc loại bỏ cơn đói, các vật ăn được như bánh, v.v. không hề mang lại, không hoàn thành. Có thể xảy ra trường hợp ở một nơi, nó thực hiện chức năng của thức ăn, trong khi ở một nơi khác, do sự khác biệt về địa vị, v.v. của đất, nó không thực hiện chức năng của thức ăn, ngài đã nói: “ở các quốc gia đó” v.v. Tuy nhiên, một số vị cũng nói rằng “điều này được nói để chỉ ra rằng ngay cả ở một quốc gia, nếu nó thực hiện chức năng của thức ăn, thì ở các quốc gia khác, nó cũng không được phép vào giờ phi thời” (sārattha. ṭī. pācittiyakaṇḍa 3.248-249). ‘Theo cách thức ăn thông thường’ là không được kết hợp với các loại thực phẩm dùng trong thời gian giới hạn khác, theo cách thức thực hiện chức năng ăn uống tự nhiên của nó. ‘Chỉ là sự nhầm lẫn’ là do có nhiều tên gọi có nhiều nghĩa và không được xác định rõ ràng, nên chỉ có thể là sự nhầm lẫn. Do đó, ở đây, chúng tôi cũng đã không trình bày bằng cách chỉ ra các từ đồng nghĩa khác của củ, rễ, v.v. vì chúng cần được hiểu chỉ từ lời dạy.

Yanti vaṭṭakandaṃ. Muḷālanti thūlataruṇamūlameva, rukkhavalliādīnaṃ matthakoti heṭṭhā vuttameva sampiṇḍetvā vuttaṃ. Acchivādīnaṃ aparipakkāneva phalāni yāvajīvikānīti dassetuṃ ‘‘aparipakkānī’’ti vuttaṃ. Harītakādīnaṃ aṭṭhīnīti ettha miñjaṃ yāvakālikanti keci vadanti, taṃ na yuttaṃ aṭṭhakathāyaṃ avuttattā.
‘Cái gì’ là củ khoai mỡ. ‘Củ sen’ chính là rễ non mập, ‘ngọn của cây, dây leo, v.v.’ là phần đã được nói ở trên, được tóm tắt lại. Để chỉ ra rằng chỉ có quả chưa chín của cây acchi, v.v. mới được dùng trọn đời, ngài đã nói: “chưa chín.” ‘Hạt của quả harītaka, v.v.,’ ở đây, một số vị nói rằng nhân là thực phẩm dùng trong thời gian giới hạn, điều đó không hợp lý vì không được nói trong Chú giải.

Hiṅgurukkhato paggharitaniyyāso hiṅgu nāma. Hiṅgujatuādayo ca hiṅguvikatiyova. Tattha hiṅgujatu nāma hiṅgurukkhassa daṇḍapattāni pacitvā kataniyyāso. Hiṅgusipāṭikā nāma hiṅgupattāni pacitvā kataniyyāso. Aññena missetvā katotipi vadanti. Takanti aggakoṭiyā nikkhantasileso. Takapattinti pattato nikkhantasileso. Takapaṇṇinti palāse bhajjitvā katasileso. Daṇḍato nikkhantasilesotipi vadanti. Vikālatā, yāvakālikatā, ajjhoharaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni.
Nhựa chảy ra từ cây hiṅgu được gọi là hiṅgu. ‘Nhựa hiṅgu,’ v.v. là các biến thể của hiṅgu. Ở đó, ‘nhựa hiṅgu’ là nhựa được làm bằng cách nấu cành và lá của cây hiṅgu. ‘Nhựa hiṅgu sipāṭikā’ là nhựa được làm bằng cách nấu lá hiṅgu. Các vị cũng nói là được làm bằng cách trộn với thứ khác. ‘Taka’ là chất nhầy chảy ra từ ngọn. ‘Takapatti’ là chất nhầy chảy ra từ lá. ‘Takapaṇṇi’ là chất nhầy được làm bằng cách rang trong lá. Các vị cũng nói là chất nhầy chảy ra từ cành. Có ba chi phần ở đây là: là giờ phi thời; là thực phẩm dùng trong thời gian giới hạn; và ăn.

Vikālabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Ăn Sai Giờ.

8. Sannidhikārakasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải Thích Điều Học Về Tích Trữ

252-3. Aṭṭhame tādisanti asūpabyañjanaṃ. Yāvakālikaṃ vā yāmakālikaṃ vā…pe… pācittiyanti ettha kiñcāpi pāḷiyaṃ khādanīyabhojanīyapadehi yāvakālikameva saṅgahitaṃ, na yāmakālikaṃ. Tathāpi ‘‘anāpatti yāmakālikaṃ yāme nidahitvā bhuñjatī’’ti idha ceva –
252-3. Ở điều học thứ tám, ‘như vậy’ là không có canh. ‘Thực phẩm dùng trong thời gian giới hạn hoặc thực phẩm dùng trong một buổi… này khác… tội Ưng Đối Trị,’ ở đây, mặc dù trong Pāḷi, chỉ có thực phẩm dùng trong thời gian giới hạn được bao gồm bởi các từ “vật ăn được” và “vật nhai được,” chứ không phải thực phẩm dùng trong một buổi. Tuy nhiên, “không có tội đối với người cất giữ thực phẩm dùng trong một buổi trong một buổi rồi ăn” ở đây và –

‘‘Yāmakālikena , bhikkhave, sattāhakālikaṃ…pe… yāvajīvikaṃ tadahupaṭiggahitaṃ yāme kappati, yāmātikkante na kappatī’’ti (mahāva. 305) –

“Này các Tỳ-khưu, với thực phẩm dùng trong một buổi, thực phẩm dùng trong bảy ngày… này khác… thực phẩm dùng trọn đời được nhận trong ngày đó, thì được phép trong một buổi, quá một buổi thì không được phép” (mahāva. 305) –

Aññattha ca vuttattā, ‘‘yāmakālika’’nti vacanasāmatthiyato ca bhagavato adhippāyaññūhi aṭṭhakathāc vattabbūhi yāmakālikaṃ sannidhikārakakataṃ pācittiyavatthumeva vuttanti daṭṭhabbaṃ. Yanti pattaṃ, ghaṃsanakiriyāpekkhāya cetaṃ upayogavacanaṃ. Aṅgulilekhā paññāyatīti sinehābhāvepi pattassa succhavitāya paññāyati. Yanti yāvakālikaṃ, yāmakālikañca. Apariccattamevāti nirapekkhatāya anupasampannassa adinnaṃ, apariccattañca yāvakālikādivatthumeva sandhāya vadati, na pana taggatapaṭiggahaṇaṃ. Na hi vatthuṃ apariccajitvā tatthagatapaṭiggahaṇaṃ pariccajituṃ sakkā, na ca tādisaṃ vacanamatthi. Yadi bhaveyya, ‘‘sace patto duddhoto hoti…pe… bhuñjantassa pācittiya’’nti vacanaṃ virujjheyya. Na hi dhovanena āmisaṃ apanetuṃ vāyamantassa paṭiggahaṇe apekkhā vattati. Yena punadivase bhuñjato pācittiyaṃ janeyya, patte pana vattamānā apekkhā taggatike āmisepi vattati evanāmāti āmise anapekkhatā ettha na labbhati, tato āmise avijahitapaṭiggahaṇaṃ punadivase pācittiyaṃ janetīti idaṃ vuttaṃ. Atha mataṃ ‘‘yadaggenettha āmisānapekkhatā na labbhati. Tadaggena paṭiggahaṇānapekkhāpi na labbhatī’’ti. Tathā sati yattha āmisāpekkhā atthi, tattha paṭiggahaṇāpekkhāpi na vigacchatīti āpannaṃ, evañca paṭiggahaṇe anapekkhavissajjanaṃ visuṃ na vattabbaṃ siyā. Aṭṭhakathāyañcetampi paṭiggahaṇavijahanakāraṇattena abhimataṃ siyā, idaṃ suṭṭhutaraṃ katvā visuṃ vattabbaṃ cīvarāpekkhāya vattamānāyapi paccuddhārena adhiṭṭhānavijahanaṃ viya. Etasmiñca upāye sati gaṇṭhikāhatapattesu avaṭṭanatā nāma na siyāti vuttovāyamattho. Tasmā yaṃ vuttaṃ sāratthadīpaniyaṃ ‘‘yaṃ parassa pariccajitvā adinnampi sace paṭiggahaṇe nirapekkhanissajjanena vijahitapaṭiggahaṇaṃ hoti, tampi dutiyadivase vaṭṭatī’’tiādi (sārattha. ṭī. pācittiyakaṇḍa 3.252-253), taṃ na sārato paccetabbaṃ.
Ở nơi khác cũng đã được nói, và do năng lực của từ “thực phẩm dùng trong một buổi,” cần biết rằng các vị Chú giải, những người hiểu rõ ý định của Đức Thế Tôn, đã nói rằng thực phẩm dùng trong một buổi được tích trữ cũng là đối tượng của tội Ưng Đối Trị. ‘Cái gì’ là cái bát, đây là cách dùng ở công cụ cách đối với hành động cọ rửa. ‘Vết ngón tay hiện ra’ là ngay cả khi không có dầu mỡ, nó vẫn hiện ra do bề mặt của bát nhẵn bóng. ‘Cái gì’ là thực phẩm dùng trong thời gian giới hạn và thực phẩm dùng trong một buổi. ‘Vẫn chưa được từ bỏ’ là chỉ nói đến vật thực dùng trong thời gian giới hạn, v.v. chưa được cho người chưa thọ Cụ túc giới một cách không luyến tiếc và chưa được từ bỏ, chứ không phải là sự thọ nhận đã đi vào đó. Thật vậy, không thể từ bỏ sự thọ nhận đã đi vào đó mà không từ bỏ vật đó, và cũng không có lời nói nào như vậy. Nếu có, thì câu “nếu bát được rửa không sạch… này khác… người ăn phạm tội Ưng Đối Trị” sẽ trở nên mâu thuẫn. Thật vậy, đối với người đang cố gắng loại bỏ vật thực bằng cách rửa, sự luyến tiếc đối với việc thọ nhận không tồn tại. Bởi cái gì mà người ăn vào ngày hôm sau sẽ phạm tội Ưng Đối Trị, sự luyến tiếc còn tồn tại trong bát cũng tồn tại trong vật thực ở đó, nên sự không luyến tiếc đối với vật thực ở đây không có được, do đó, đã nói rằng việc thọ nhận chưa được từ bỏ đối với vật thực sẽ gây ra tội Ưng Đối Trị vào ngày hôm sau. Nếu cho rằng “nếu ở đây không có sự không luyến tiếc đối với vật thực, thì cũng không có sự không luyến tiếc đối với việc thọ nhận.” Nếu vậy, ở đâu có sự luyến tiếc đối với vật thực, ở đó sự luyến tiếc đối với việc thọ nhận cũng không mất đi, điều này sẽ xảy ra, và như vậy, việc từ bỏ sự không luyến tiếc trong việc thọ nhận sẽ không cần phải được nói riêng. Trong Chú giải, điều này cũng có thể được coi là lý do để từ bỏ việc thọ nhận, nếu làm cho điều này rõ ràng hơn và nói riêng thì sẽ giống như việc từ bỏ sự quyết định bằng cách trả lại mặc dù vẫn còn luyến tiếc đối với y. Và nếu có phương pháp này, thì sẽ không có chuyện không được phép đối với những chiếc bát được mang trong túi. Do đó, những gì đã được nói trong Sāratthadīpanī là “ngay cả những gì đã được từ bỏ và cho người khác, nếu việc thọ nhận được từ bỏ bằng cách không luyến tiếc trong việc thọ nhận, thì cũng được phép vào ngày thứ hai,” v.v. (sārattha. ṭī. pācittiyakaṇḍa 3.252-253), điều đó không nên được chấp nhận một cách cốt lõi.

Pakatiāmiseti odanādikappiyayāvakālike. Dveti purebhattaṃ paṭiggahitaṃ yāmakālikaṃ purebhattaṃ sāmisena mukhena bhuñjato sannidhipaccayā ekaṃ, yāmakālikasaṃsaṭṭhatāya yāvakālikattabhajanena anatirittapaccayā ekanti dve pācittiyāni. Vikappadvayeti sāmisanirāmisapakkhadvaye. Thullaccayañca dukkaṭañcāti manussamaṃse thullaccayaṃ, sesesu dukkaṭaṃ. Yāvakālikayāmakālikatā, sannidhibhāvo, tassa ajjhoharaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni.
‘Trong vật thực thông thường’ là trong thực phẩm dùng trong thời gian giới hạn hợp lệ như cơm, v.v. ‘Hai’ là thực phẩm dùng trong một buổi được nhận trước bữa ăn, khi ăn bằng miệng có dính vật thực trước bữa ăn, có một tội Ưng Đối Trị do tích trữ, và một tội do không phải là vật dư thừa vì đã trở thành thực phẩm dùng trong thời gian giới hạn do bị trộn lẫn với thực phẩm dùng trong một buổi, nên có hai tội Ưng Đối Trị. ‘Trong hai trường hợp’ là trong hai trường hợp có dính vật thực và không có dính vật thực. ‘Tội Trọng Tội và tội Tác Ác’ là tội Trọng Tội đối với thịt người, và tội Tác Ác đối với các loại thịt khác. Có ba chi phần ở đây là: là thực phẩm dùng trong thời gian giới hạn hoặc thực phẩm dùng trong một buổi; tình trạng tích trữ; và ăn vật đó.

Sannidhikārakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Tích Trữ.

9. Paṇītabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải Thích Điều Học Về Thực Phẩm Hảo Hạng

259. Navame paṇītasaṃsaṭṭhāni bhojanāni paṇītabhojanānīti pāḷiyaṃ pana bhojanāni pubbe vuttattā pākaṭānīti adassitāni, tādisehi paṇītehi missattā paṇītabhojanāni nāma honti. Tesaṃ pabhedadassanatthaṃ ‘‘seyyathidaṃ sappi navanīta’’ntiādi vuttaṃ. Sappibhattanti ettha kiñcāpi sappinā saṃsaṭṭhaṃ bhattaṃ, sappi ca bhattañcātipi attho viññāyati, aṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘sālibhattaṃ viya sappibhattaṃ nāma natthī’’tiādinā vuttattā na sakkā aññaṃ vatthuṃ. Aṭṭhakathācariyā eva hi īdisesu ṭhānesu pamāṇaṃ.
259. Ở điều học thứ chín, ‘các loại thực phẩm trộn với vật hảo hạng là thực phẩm hảo hạng,’ nhưng trong Pāḷi, do các loại thực phẩm đã được nói trước đó và đã rõ ràng, nên không được chỉ ra; do được trộn với các vật hảo hạng như vậy, chúng được gọi là thực phẩm hảo hạng. Để chỉ ra các loại của chúng, ngài đã nói: “ví dụ như bơ lỏng, bơ tươi” v.v. ‘Cơm bơ,’ ở đây, mặc dù có thể hiểu là cơm trộn với bơ, hoặc bơ và cơm, nhưng trong Chú giải, do đã nói rằng “không có loại nào gọi là cơm bơ giống như cơm nấu bằng gạo thơm,” v.v., nên không thể nói khác được. Thật vậy, chính các vị Chú giải là tiêu chuẩn ở những nơi như thế này.

Mūlanti kappiyabhaṇḍaṃ vuttaṃ. Tasmā anāpattīti ettha visaṅketena pācittiyābhāvepi sūpodanadukkaṭā na muccatīti vadanti. ‘‘Kappiyasappinā, akappiyasappinā’’ti ca idaṃ kappiyākappiyamaṃsasattānaṃ vasena vuttaṃ.
‘Gốc’ được nói là vật dụng hợp lệ. ‘Do đó, không có tội,’ ở đây, mặc dù không có tội Ưng Đối Trị do không có sự hẹn trước, nhưng các vị nói rằng không thoát khỏi tội Tác Ác đối với canh và cơm. “Bằng bơ hợp lệ, bằng bơ không hợp lệ” được nói dựa trên các chúng sanh có thịt hợp lệ và không hợp lệ.

261.Mahānāmasikkhāpadaṃ nāma upari cātumāsapaccayapavāraṇāsikkhāpadaṃ (pāci. 303 ādayo). Agilāno hi appavāritaṭṭhāne viññāpentopi kālaparicchedaṃ, bhesajjaparicchedaṃ vā katvā saṅghavasena pavāritaṭṭhānato taduttari viññāpentena, paricchedabbhantarepi na bhesajjakaraṇīyena rogena bhesajjaṃ viññāpentena ca samo hotīti ‘‘mahānāmasikkhāpadena kāretabbo’’ti vuttaṃ. Paṇītabhojanatā, agilānatā, akataviññattiyā paṭilābho, ajjhoharaṇanti imānettha cattāri aṅgāni.
261.‘Điều học Mahānāma’ là điều học về việc từ chối các nhu yếu phẩm trong bốn tháng ở phần sau (pāci. 303 trở đi). Người không bệnh, ngay cả khi xin ở nơi chưa từ chối, cũng giống như người xin vượt quá giới hạn đã được Tăng chúng cho phép bằng cách đặt ra giới hạn về thời gian hoặc giới hạn về thuốc, hoặc người xin thuốc vì một căn bệnh không cần dùng thuốc ngay cả trong giới hạn đã đặt ra, nên đã được nói: “cần phải bị xử phạt theo điều học Mahānāma.” Có bốn chi phần ở đây là: là thực phẩm hảo hạng; không bị bệnh; nhận được mà không xin; và ăn.

Paṇītabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học Về Thực Phẩm Hảo Hạng.

10. Dantaponasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải Thích Điều Học về Tăm Xỉa Răng

263. Dasame ghanabaddhoti ghanamaṃsena sambaddho, kathinasaṃhatasarīroti attho.
263. Ở điều học thứ mười, ‘rắn chắc’ là gắn liền với thịt chắc, có nghĩa là thân thể cứng cáp, rắn rỏi.

264.Mukhadvāranti mukhato heṭṭhā dvāraṃ mukhadvāraṃ, galanāḷikanti attho. Evañca nāsikāya paviṭṭhampi mukhadvāraṃ paviṭṭhameva hoti, mukhe pakkhittamattañca appaviṭṭhaṃ. Āhāranti ajjhoharitabbaṃ kālikaṃ adhippetaṃ, na udakaṃ. Tañhi bhesajjasaṅgahitampi akālikameva paṭiggahitasseva kālikattā. Udake hi paṭiggahaṇaṃ na ruhati. Teneva bhikkhunā tāpitena udakena cirapaṭiggahitena ca akappiyakuṭiyaṃ vutthena ca saha āmisaṃ bhuñjantassāpi sāmapākādidoso na hoti. Vakkhati hi ‘‘bhikkhu yāguatthāya…pe… udakaṃ tāpeti, vaṭṭatī’’tiādi (pāci. aṭṭha. 265). Bhikkhū pana etaṃ adhippāyaṃ tadā na jāniṃsu. Tenāha ‘‘sammā atthaṃ asallakkhetvā’’tiādi.
264.‘Cửa miệng’ là cửa ở dưới miệng, là cửa miệng, có nghĩa là ống cổ họng. Và như vậy, vật đi vào qua mũi cũng là đi vào cửa miệng, còn vật chỉ được cho vào miệng thì chưa đi vào. ‘Thức ăn’ là chỉ những vật thuộc thời hạn cần phải ăn, không phải nước. Nước, dù được bao gồm trong dược phẩm, cũng là vật không thuộc thời hạn, vì chỉ vật được nhận mới có thời hạn. Đối với nước, việc nhận không phát sinh. Do đó, ngay cả khi một Tỳ-khưu ăn vật thực cùng với nước được hâm nóng, nước đã được nhận từ lâu, và đã ở trong một túp lều không hợp lệ, cũng không có lỗi tự nấu, v.v. Sẽ được nói: “Một Tỳ-khưu… này khác… hâm nóng nước để làm cháo, được phép,” v.v. (pāci. aṭṭha. 265). Nhưng các Tỳ-khưu lúc đó không biết ý định này. Do đó, ngài đã nói: “do không nhận thức đúng ý nghĩa” v.v.

265.Rathareṇumpīti rathe gacchante uṭṭhahanareṇusadisareṇuṃ. Tena tato sukhumaṃ ākāse paribbhamanakaṃ dissamānampi abbohārikanti dasseti. Akallakoti gilāno.
265.‘Ngay cả bụi xe’ là bụi giống như bụi bay lên khi xe đang chạy. Điều đó cho thấy rằng ngay cả bụi nhỏ hơn, bay lơ lửng trong không khí và có thể nhìn thấy, cũng không được coi là vật thực. ‘Không khỏe’ là bị bệnh.

‘‘Gahetuṃ vā…pe… tassa orimantenā’’ti iminā ākāse ujuṃ ṭhatvā parena ukkhittaṃ gaṇhantassāpi āsannaṅgabhūtapādatalato paṭṭhāya hatthapāso paricchinditabbo, na pana sīsantato paṭṭhāyāti dasseti. Tattha ‘‘orimantenā’’ti imassa heṭṭhimantenāti attho gahetabbo.
“Để nhận hoặc… này khác… bằng giới hạn gần nhất của nó,” điều này cho thấy rằng ngay cả đối với người đứng thẳng trên không và nhận vật được người khác ném lên, khoảng cách tay cũng phải được xác định từ lòng bàn chân là bộ phận gần nhất, chứ không phải từ đỉnh đầu. Ở đó, “bằng giới hạn gần nhất” cần được hiểu là có nghĩa là bằng giới hạn dưới cùng.

Ettha ca pavāraṇāsikkhāpadaṭṭhakathāyaṃ ‘‘sace bhikkhu nisinno hoti, āsanassa pacchimantato paṭṭhāyā’’tiādinā (pāci. aṭṭha. 238-239) paṭiggāhakānaṃ āsannaṅgassa pārimantato paṭṭhāya paricchedassa dassitattā idhāpi ākāse ṭhitassa paṭiggāhakassa āsannaṅgabhūtapādaṅgulassa pārimantabhūtato paṇhipariyantassa heṭṭhimatalato paṭṭhāya, dāyakassa pana orimantabhūtato pādaṅgulassa heṭṭhimatalato paṭṭhāya hatthapāso paricchinditabboti daṭṭhabbaṃ. Imināva nayena bhūmiyaṃ nipajjitvā ussīse nisinnassa hatthato paṭiggaṇhantassapi āsannasīsaṅgassa pārimantabhūtato gīvantato paṭṭhāyeva hatthapāso minitabbo, na pādatalato paṭṭhāya. Evaṃ nipajjitvā dānepi yathānurūpaṃ veditabbaṃ. ‘‘Yaṃ āsannataraṃ aṅga’’nti hi vuttaṃ.
Và ở đây, trong chú giải điều học về sự từ chối, do đã chỉ ra sự phân định bắt đầu từ giới hạn xa nhất của bộ phận gần nhất của người nhận bằng câu “nếu Tỳ-khưu đang ngồi, thì từ mép sau của chỗ ngồi,” v.v. (pāci. aṭṭha. 238-239), nên ở đây cũng vậy, cần phải hiểu rằng khoảng cách tay phải được xác định bắt đầu từ mặt dưới của gót chân là giới hạn xa nhất của ngón chân là bộ phận gần nhất của người nhận đang đứng trên không, và bắt đầu từ mặt dưới của ngón chân là giới hạn gần nhất của người cho. Theo cách này, ngay cả đối với người nằm trên đất và nhận từ tay người ngồi ở phía đầu, khoảng cách tay cũng phải được đo từ cổ là giới hạn xa nhất của đầu là bộ phận gần nhất, chứ không phải từ lòng bàn chân. Ngay cả khi cho trong tư thế nằm, cũng cần phải hiểu theo cách tương ứng. Thật vậy, đã được nói: “bộ phận nào gần hơn.”

Paṭiggahaṇasaññāyāti ‘‘mañcādinā paṭiggahessāmī’’ti uppāditasaññāya. Iminā ‘‘paṭiggaṇhāmī’’ti vācāya vattabbakiccaṃ natthīti dasseti. Katthaci aṭṭhakathāsu, padesesu vā. Asaṃhārime phalaketi thāmamajjhimena purisena asaṃhāriye. Puñchitvā paṭiggahetvāti puñchitepi rajanacuṇṇasaṅkāya sati paṭiggahaṇatthāya vuttaṃ, nāsati. Taṃ panāti patitarajaṃ appaṭiggahetvā upari gahitapiṇḍapātaṃ. Anāpattīti durupaciṇṇādidoso natthi. ‘‘Anupasampannassa dassāmī’’tiādipi vinayadukkaṭaparihārāya vuttaṃ. Tathā akatvā gahitepi paṭiggahetvā paribhuñjato anāpatti eva. ‘‘Anupasampannassa datvā’’ti idampi purimābhogānuguṇatāya vuttaṃ.
‘Với nhận thức về việc nhận,’ là với nhận thức được tạo ra rằng “tôi sẽ nhận bằng giường, v.v.” Điều này cho thấy rằng không có việc gì phải nói bằng lời là “tôi nhận.” ‘Ở một số nơi’ là trong các bản chú giải, hoặc trong các đoạn văn. ‘Trên tấm ván không thể di chuyển được’ là tấm ván mà một người đàn ông có sức khỏe trung bình không thể di chuyển được. ‘Sau khi đã phủi và nhận,’ được nói đến cho mục đích nhận khi có nghi ngờ về bột màu ngay cả khi đã phủi, không phải khi không có. ‘Và cái đó’ là vật thực khất thực được nhận ở trên mà không nhận bụi đã rơi xuống. ‘Không có tội’ là không có lỗi như khó nuôi dưỡng, v.v. “Tôi sẽ cho người chưa thọ Cụ túc giới,” v.v. cũng được nói để tránh tội Tác Ác trong luật. Ngay cả khi nhận mà không làm như vậy, người nhận và tiêu thụ cũng không có tội. “Sau khi đã cho người chưa thọ Cụ túc giới” cũng được nói theo ý định ban đầu.

Carukenāti khuddakabhājanena. Abhihaṭattāti diyyamānakkhaṇaṃ sandhāya vuttaṃ. Datvā apanayanakāle pana chārikā vā bindūni vā patanti, puna paṭiggahetabbaṃ abhihārassa vigatattāti vadanti. Taṃ yathā na patati, tathā apanessāmīti pariharante yujjati. Pakatisaññāya apanente abhihāro na chijjati, taṃ paṭiggahitameva hoti. Mukhavaṭṭiyāpi gahetuṃ vaṭṭatīti abhihariyamānassa pattassa mukhavaṭṭiyā uparibhāge hatthaṃ pasāretvā phusituṃ vaṭṭati.
‘Bằng một cái bát nhỏ’ là bằng một cái bình nhỏ. ‘Do đã được dâng’ được nói đến để chỉ khoảnh khắc đang được cho. Nhưng các vị nói rằng, vào lúc lấy đi sau khi đã cho, nếu tro hoặc giọt nước rơi xuống, thì phải nhận lại vì sự dâng đã mất đi. Điều đó hợp lý khi người đó mang đi với ý định “tôi sẽ lấy đi sao cho nó không rơi xuống.” Khi người đó lấy đi với nhận thức thông thường, sự dâng không bị gián đoạn, nó được coi là đã được nhận. ‘Cũng được phép nhận bằng vành miệng bát’ là được phép đưa tay qua vành miệng của bát đang được dâng và chạm vào phần trên.

Pādena pelletvāti ‘‘pādena paṭiggahessāmī’’tisaññāya akkamitvā. Kecīti abhayagirivāsino. Vacanamattamevāti paṭibaddhappaṭibaddhanti saddamattameva nānaṃ, kāyapaṭibaddhameva hoti. Tasmā tesaṃ vacanaṃ na gahetabbanti adhippāyo.
‘Đẩy bằng chân,’ là không giẫm lên với nhận thức “tôi sẽ nhận bằng chân.” ‘Một số vị’ là các vị ở chùa Abhayagiri. ‘Chỉ là lời nói’ là chỉ là âm thanh “liên quan, liên quan,” chứ không phải là sự liên quan thực sự, mà là sự liên quan về thân thể. Do đó, ý định là không nên chấp nhận lời nói của họ.

Tena āharāpetunti yassa bhikkhuno santikaṃ gataṃ, taṃ idha ānehīti āṇāpetvā tena āharāpetuṃ itarassa vaṭṭatīti attho. Na tato paranti tadaheva sāmaṃ appaṭiggahitaṃ sandhāya vuttaṃ. Tadaheva paṭiggahitaṃ pana punadivasādīsu appaṭiggahetvāpi paribhuñjituṃ vaṭṭatīti vadanti.
‘Cho mang đến bằng người đó,’ có nghĩa là, vật đã đến tay Tỳ-khưu nào, thì người kia được phép ra lệnh “hãy mang nó đến đây” và cho người đó mang đến. ‘Không quá ngày đó,’ được nói đến để chỉ vật chưa được tự mình nhận trong chính ngày đó. Nhưng các vị nói rằng, vật đã được nhận trong chính ngày đó thì được phép tiêu thụ vào những ngày sau ngay cả khi không nhận lại.

Khiyyantīti khayaṃ gacchanti, tesaṃ cuṇṇehi thullaccayaappaṭiggahaṇāpattiyo na hontīti adhippāyo. ‘‘Navasamuṭṭhita’’nti eteneva ucchuādīsu abhinavalaggattā abbohārikaṃ na hotīti dasseti. Eseva nayoti sannidhidosādiṃ sandhāya vadati. Tenāha ‘‘na hī’’tiādi. Tena ca paṭiggahaṇaṅgesu pañcasupi samiddhesu ajjhoharitukāmatāya gahitameva paṭiggahitaṃ nāma hoti ajjhoharitabbesu eva paṭiggahaṇassa anuññātattāti dasseti. Tathā bāhiraparibhogatthāya gahetvā ṭhapitatelādiṃ ajjhoharitukāmatāya sati paṭiggahetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati.
‘Bị hao mòn’ là bị tiêu hao, ý định là không có tội không nhận và tội Trọng Tội do bột của chúng. “Mới phát sinh,” chính điều này cho thấy rằng do mới dính vào mía, v.v., nó không được coi là vật thực. ‘Đây là cách tương tự,’ là chỉ nói đến lỗi tích trữ, v.v. Do đó, ngài đã nói: “thật vậy, không phải” v.v. Và điều đó cho thấy rằng, khi cả năm yếu tố của việc nhận đã hoàn thành, chỉ vật được lấy với ý định ăn mới được gọi là đã nhận, vì việc nhận chỉ được cho phép đối với những vật có thể ăn được. Tương tự như vậy, dầu, v.v. được lấy và cất giữ để sử dụng bên ngoài, khi có ý định ăn, thì được phép nhận và tiêu thụ.

Kesañcītiādīsu anupasampannānaṃ atthāya katthaci ṭhapiyamānampi hatthato muttamatte eva paṭiggahaṇaṃ na vijahati, atha kho bhājane patitameva paṭiggahaṇaṃ vijahati. Bhājanañca bhikkhunā punadivasatthāya apekkhitamevāti taggatampi āmisaṃ duddhotapattagataṃ viya paṭiggahaṇaṃ na vijahatīti āsaṅkāya ‘‘sāmaṇerassa hatthe pakkhipitabba’’nti vuttanti veditabbaṃ. Īdisesu hi yutti na gavesitabbā, vuttanayeneva paṭipajjitabbaṃ. ‘‘Pattagatā yāgū’’ti iminā pattamukhavaṭṭiyā phuṭṭhepi kūṭe yāgu paṭiggahitā, uggahitā vā na hoti bhikkhuno anicchāya phuṭṭhattāti dasseti. Āropetīti hatthaṃ phusāpeti. Paṭiggahaṇūpagaṃ bhāraṃ nāma majjhimassa purisassa ukkhepārahaṃ. Na pidahitabbanti hatthato muttaṃ sandhāya vuttaṃ, hatthagataṃ pana itarena hatthena pidahato, hatthato muttampi vā aphusitvā uparipidhānaṃ pātentassa na doso.
‘Của một số vị,’ v.v., ngay cả khi được đặt ở một nơi nào đó vì lợi ích của những người chưa thọ Cụ túc giới, việc nhận không mất đi ngay khi rời khỏi tay, mà chỉ mất đi khi rơi vào bát. Và cái bát đó cũng được Tỳ-khưu mong đợi cho ngày hôm sau, nên do nghi ngờ rằng vật thực trong đó cũng không mất đi sự nhận, giống như vật thực trong bát được rửa không sạch, nên đã được nói: “phải được đặt vào tay của một vị Sa-di,” điều này cần được biết. Trong những trường hợp như vậy, không nên tìm kiếm lý lẽ, mà phải thực hành theo cách đã được nói. “Cháo trong bát,” điều này cho thấy rằng ngay cả khi cháo ở trên đỉnh chạm vào vành miệng bát, nó cũng không được coi là đã được nhận hoặc đã được lấy lên, vì nó chạm vào do sự vô ý của Tỳ-khưu. ‘Làm cho chạm vào’ là làm cho tay chạm vào. ‘Gánh nặng có thể nhận được’ là vật mà một người đàn ông trung bình có thể nâng được. ‘Không được che đậy,’ được nói đến để chỉ vật đã rời khỏi tay, nhưng không có lỗi đối với người che bằng tay kia khi vật còn trong tay, hoặc người làm rơi một vật che lên trên mà không chạm vào vật đã rời khỏi tay.

Paṭiggaṇhātīti chāyatthāya upari dhārayamānā mahāsākhā yena kenaci chijjeyya, tattha laggarajaṃ mukhe pāteyya cāti kappiyaṃ kārāpetvā paṭiggaṇhāti. Kuṇḍaketi mahāghaṭe. Tasmimpīti cāṭighaṭepi. Gāhāpetvāti appaṭiggahitaṃ kālikaṃ gāhāpetvā.
‘Nhận,’ là một cành cây lớn đang được giữ ở trên để che bóng có thể bị ai đó chặt đứt, và bụi dính trên đó có thể rơi vào miệng, nên vị ấy cho làm hợp lệ rồi nhận. ‘Trong một cái chum’ là trong một cái bình lớn. ‘Ngay cả trong đó,’ là ngay cả trong cái chum hoặc bình đó. ‘Cho cầm lấy,’ là cho cầm lấy vật thuộc thời hạn chưa được nhận.

Dutiyattherassāti ‘‘therassa pattaṃ mayhaṃ dethā’’ti tena attano pariccajāpetvā dutiyattherassa deti. Ettha panāti pattaparivattane. Kāraṇanti ettha yathā ‘‘sāmaṇerā ito amhākampi dentī’’ti vitakko uppajjati, na tathāti kāraṇaṃ vadanti, tañca yuttaṃ. Yassa pana tādiso vitakko natthi, tena aparivattetvāpi bhuñjituṃ vaṭṭati.
‘Của vị trưởng lão thứ hai,’ là vị ấy cho vị trưởng lão thứ hai sau khi đã bảo người kia từ bỏ và nói rằng “hãy đưa bát của vị trưởng lão cho tôi.” ‘Nhưng ở đây,’ là trong việc đổi bát. ‘Lý do,’ ở đây, các vị nói lý do là, giống như ý nghĩ “các vị Sa-di cũng sẽ cho chúng ta từ đây” không nảy sinh, điều đó là hợp lý. Nhưng người nào không có ý nghĩ như vậy, thì được phép ăn ngay cả khi không đổi.

Niccāletunti cāletvā pāsāṇasakkharādiapanayaṃ kātuṃ. Uddhanaṃ āropetabbanti anaggikaṃ uddhanaṃ sandhāya vuttaṃ. Uddhane paccamānassa āluḷane upari apakkataṇḍulā heṭṭhā pavisitvā paccatīti āha ‘‘sāmaṃpākañceva hotī’’ti.
‘Để sàng sảy,’ là để sàng sảy và loại bỏ đá, sỏi, v.v. ‘Phải được đặt lên bếp,’ được nói đến để chỉ một cái bếp không có lửa. Khi đang được nấu trên bếp, khi khuấy, gạo chưa chín ở trên sẽ chìm xuống dưới và chín, nên ngài đã nói: “nó trở thành tự chín.”

Ādhārake patto ṭhapitoti appaṭiggahitāmiso patto puna paṭiggahaṇatthāya ṭhapito. Ekaggahaṇenevāti sāmaṇerānaṃ gahitassa puna acchaḍḍanavasena gahaṇena. Bhuñjituṃ vaṭṭatīti dhūmavaṭṭiyā tadahupaṭiggahitattā vuttaṃ. Bhattuggārotiādi abbohārikappasaṅgena vikālabhojanavinicchayadassanaṃ. Samuddodakenāti appaṭiggahitena. Himakarakā nāma kadāci vassodakena saha patanakā pāsāṇalekhā viya ghanībhūtaudakavisesā, tesu paṭiggahaṇakiccaṃ natthi. Tenāha ‘‘udakagatikā evā’’ti. Purebhattameva vaṭṭatīti appaṭiggahitāpattīhi abbohārikampi vikālabhojanāpattīhi sabbohārikanti dasseti.
‘Bát được đặt trên giá đỡ,’ là bát có vật thực chưa được nhận, được đặt để nhận lại. ‘Chỉ bằng một lần nhận,’ là bằng cách nhận mà không bỏ lại vật đã được các vị Sa-di nhận. ‘Được phép ăn,’ được nói do điếu thuốc cuốn đã được nhận trong ngày. ‘Ợ ra thức ăn,’ v.v. là sự trình bày về sự phân định việc ăn sai giờ do liên quan đến vật không phải là thức ăn. ‘Bằng nước biển,’ là bằng nước chưa được nhận. ‘Hạt mưa đá’ là những loại nước đông đặc đặc biệt giống như những đường vân đá, đôi khi rơi xuống cùng với nước mưa, đối với chúng, không có việc nhận. Do đó, ngài đã nói: “chúng chỉ thuộc loại nước.” ‘Chỉ được phép trước bữa ăn,’ cho thấy rằng ngay cả vật không phải là thức ăn đối với các tội không nhận, cũng là thức ăn đối với các tội ăn sai giờ.

Laggatīti mukhe ca hatthe ca mattikāvaṇṇaṃ dasseti. Bahalanti hatthamukhesu alagganakampi paṭiggahetabbaṃ. Vāsamattanti reṇukhīrābhāvaṃ dasseti. Ākirati paṭiggahetabbanti puppharasassa paññāyanato vuttaṃ.
‘Dính,’ là cho thấy màu đất sét trên miệng và tay. ‘Dày,’ là ngay cả vật không dính vào tay và miệng cũng phải được nhận. ‘Chỉ là mùi hương,’ cho thấy không có bụi và sữa. ‘Rắc vào, phải được nhận,’ được nói do mật hoa có thể nhận biết được.

Mahābhūtesūti pāṇasarīrasannissitesu pathavīādimahābhūtesu. Sabbaṃ vaṭṭatīti attano, paresañca sarīranissitaṃ sabbaṃ vaṭṭati. Akappiyamaṃsānulomatāya thullaccayādiṃ na janetīti adhippāyo. Patatīti attano sarīrato vicchinditvā patati. ‘‘Rukkhato chinditvā’’ti vuttattā mattikatthāya pathaviṃ khaṇituṃ, aññampi yaṃkiñci mūlapaṇṇādivisabhesajjaṃ chinditvā chārikaṃ akatvāpi appaṭiggahitampi paribhuñjituṃ vaṭṭatīti daṭṭhabbaṃ. Appaṭiggahitatā, ananuññātatā, dhūmādiabbohārikatābhāvo, ajjhoharaṇanti imānettha cattāri aṅgāni.
‘Trong các đại chủng,’ là trong các đại chủng như đất, v.v. nương vào cơ thể của chúng sanh. ‘Tất cả đều được phép,’ là tất cả những gì nương vào cơ thể của mình và của người khác đều được phép. Ý định là nó không gây ra tội Trọng Tội, v.v. do tương tự như thịt không hợp lệ. ‘Rơi xuống,’ là tách ra khỏi cơ thể và rơi xuống. “Chặt từ cây” do đã được nói, nên cần phải hiểu rằng được phép đào đất để lấy đất sét, và cũng được phép tiêu thụ bất kỳ loại thuốc độc nào khác như rễ, lá, v.v. sau khi chặt mà không làm thành tro và ngay cả khi chưa được nhận. Có bốn chi phần ở đây là: chưa được nhận; chưa được cho phép; không phải là vật không phải là thức ăn như khói, v.v.; và ăn.

Dantaponasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Tăm Xỉa Răng.

Niṭṭhito bhojanavaggo catuttho.

Dứt Phẩm Thực Phẩm Thứ Tư.

5. Acelakavaggo

5. Phẩm Lõa Thể

1. Acelakasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải Thích Điều Học về Người Lõa Thể

273. Pañcamavaggassa paṭhame mayhaṃ nāmāti bhikkhunā bhūmiyaṃ ṭhapetvā dinnampi sandhāya vadati. Aññatitthiyatā, ananuññātatā, ajjhoharaṇīyatā, ajjhoharaṇatthāya sahatthā anikkhittabhājane dānanti imānettha cattāri aṅgāni.
273. Ở điều học thứ nhất của phẩm thứ năm, ‘tên của tôi’ là chỉ nói đến cả vật được Tỳ-khưu đặt trên đất và cho đi. Có bốn chi phần ở đây là: là người ngoại đạo; không được cho phép; có thể ăn được; và cho vào một cái bát chưa được đặt xuống bằng chính tay mình để ăn.

Acelakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Người Lõa Thể.

2. Uyyojanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải Thích Điều Học về Việc Xua Đuổi

274. Dutiye anācāraṃ ācaritukāmatā, tadatthameva upasampannassa uyyojanā, tassa upacārātikkamoti imānettha tīṇi aṅgāni.
274. Ở điều học thứ hai, có ba chi phần là: có ý định làm điều sai trái; xua đuổi một người đã thọ Cụ túc giới chỉ vì mục đích đó; và việc người đó vượt qua khu vực gần.

Uyyojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Xua Đuổi.

3. Sabhojanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải Thích Điều Học về Việc Ăn Cùng

281. Tatiye pāḷiyaṃ khuddake ghareti ettha khuddakaṃ gharaṃ nāma pañcahatthato ūnakavitthāraṃ adhippetaṃ. Tattha ca piṭṭhasaṅghāṭato hatthapāse avijahitepi piṭṭhivaṃsātikkamo hotīti āha ‘‘piṭṭhivaṃsaṃ atikkamitvā’’ti. Yathā tathā vā katassāti piṭṭhivaṃsaṃ āropetvā vā anāropetvā vā katassa.
281. Ở điều học thứ ba, trong Pāḷi, ‘trong một ngôi nhà nhỏ,’ ở đây, một ngôi nhà nhỏ được hiểu là có chiều rộng dưới năm khuỷu tay. Và ở đó, ngay cả khi không rời khỏi khoảng cách tay từ bức tường phía sau, cũng có sự vượt qua bức tường sau, nên ngài đã nói: “sau khi đã vượt qua bức tường sau.” ‘Của ngôi nhà được làm theo bất kỳ cách nào,’ là của ngôi nhà được làm có đặt trên bức tường sau hoặc không đặt.

283. Pāḷiyaṃ vītarāgāti apariyuṭṭhitarāgānaṃ, anāgāmīnañca saṅgaho. Sacittakanti anupavisitvā nisīdanacittena sacittakaṃ. Pariyuṭṭhitarāgajāyampatikānaṃ sannihitatā, sayanigharatā, dutiyassa bhikkhuno abhāvo, anupakhajja nisīdananti imānettha cattāri aṅgāni.
283. Trong Pāḷi, ‘những người đã ly tham,’ là bao gồm cả những người có tham ái chưa khởi lên và các vị Bất Lai. ‘Có tâm,’ là có tâm bằng tâm ngồi sau khi đã đi vào. Có bốn chi phần ở đây là: sự có mặt của vợ chồng có tham ái khởi lên; là nhà ngủ; không có Tỳ-khưu thứ hai; và ngồi gần.

Sabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Ăn Cùng.

284-289. Catutthapañcamāni vuttatthāni.
284-289. Điều thứ tư và thứ năm có ý nghĩa đã được nói.

6. Cārittasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải Thích Điều Học về Phép Đi Lại

298. Chaṭṭhe ‘‘pariyesitvā ārocanakiccaṃ nāma natthī’’ti vuttattā yo apariyesitabbo upasaṅkamituṃ yuttaṭṭhāne dissati, so sacepi pakativacanassa savanūpacāraṃ atikkamma ṭhito upagantvā āpucchitabbo. Tenāha ‘‘api ca…pe… yaṃ passati, so āpucchitabbo’’tiādi.
298. Ở điều học thứ sáu, “không có việc gì phải tìm kiếm và báo cáo” do đã được nói, nên người không cần phải tìm kiếm, nếu được thấy ở một nơi thích hợp để đến gần, thì phải đến gần và hỏi ngay cả khi người đó đứng ngoài tầm nghe của lời nói thông thường. Do đó, ngài đã nói: “nhưng mà… này khác… người nào thấy, thì phải hỏi” v.v.

302. Anāpattivāre cettha antarārāmādīnaññeva vuttattā vihārato gāmavīthiṃ anuññātakāraṇaṃ vinā atikkamantassāpi āpatti hoti, na pana gharūpacāraṃ atikkamantasseva.
302. Trong phần không có tội, do chỉ nói đến khu vực giữa các tu viện, v.v., nên ngay cả người vượt qua con đường làng từ tu viện mà không có lý do được phép cũng phạm tội, chứ không phải chỉ người vượt qua khu vực gần nhà.

Yaṃ pana pāḷiyaṃ ‘‘aññassa gharūpacāraṃ okkamantassa…pe… paṭhamaṃ pādaṃ ummāraṃ atikkāmetī’’tiādi vuttaṃ. Taṃ gāme paviṭṭhaṃ sandhāya vuttaṃ, tathāpi aññassa gharūpacāraṃ anokkamitvā vīthimajjheneva gantvā icchiticchitagharadvārābhimukhe ṭhatvā manusse oloketvā gacchantassāpi pācittiyameva. Tattha keci ‘‘vīthiyaṃ atikkamantassa gharūpacāragaṇanāya āpattiyo’’ti vadanti. Aññe pana ‘‘yāni kulāni uddissa gato, tesaṃ gaṇanāyā’’ti. Pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarena nimantanasādiyanaṃ, santaṃ bhikkhuṃ anāpucchanā, bhattiyagharato aññagharūpasaṅkamanaṃ, majjhanhikānatikkamo, samayāpadānaṃ abhāvoti imānettha pañca aṅgāni.
Nhưng những gì được nói trong Pāḷi là “của người đi vào khu vực gần nhà của người khác… này khác… đặt bước chân đầu tiên qua ngưỡng cửa,” v.v. Điều đó được nói đến để chỉ người đã vào làng, tuy nhiên, ngay cả người không đi vào khu vực gần nhà của người khác mà đi ngay giữa đường, đứng trước cửa nhà mình muốn đến và nhìn người rồi đi, cũng phạm tội Ưng Đối Trị. Ở đó, một số vị nói rằng “các tội của người đi qua đường phố được tính theo khu vực gần nhà.” Những vị khác thì nói “theo số lượng các gia đình mà vị ấy đã đến.” Có năm chi phần ở đây là: chấp nhận lời mời bằng một trong năm loại thực phẩm; không hỏi một vị Tỳ-khưu đang có mặt; đến một nhà khác ngoài nhà có tín tâm; quá giờ ngọ; và không có lý do hoặc tai nạn.

Cārittasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Phép Đi Lại.

7. Mahānāmasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải Thích Điều Học về Mahānāma

303. Sattame mahānāmoti sukkodanassa putto anuruddhattherassa, satthu ca jeṭṭhabhātā. Ānandatthero amitodanassa putto, nandatthero pana suddhodanasseva.
303. Ở điều học thứ bảy, Mahānāma là con trai của Sukkodana, anh cả của trưởng lão Anuruddha và của Đức Thế Tôn. Trưởng lão Ānanda là con trai của Amitodana, còn trưởng lão Nanda là con trai của chính Suddhodana.

305. Pāḷiyaṃ kālaṃ āharissathāti ajjatanaṃ kālaṃ vītināmessatha, sve bhesajjaṃ harissathāti vā attho. ‘‘Atthi pavāraṇā bhesajjapariyantā ca rattipariyantā cā’’ti tatiyakoṭṭhāse niyamitameva bhesajjaṃ niyamitakālantareyeva gahetabbaṃ, na tato bahi. Itarathā visuṃ payojanaṃ natthīti daṭṭhabbaṃ. Sapariyantā saṅghapavāraṇā, taduttari bhesajjaviññatti, agilānatāti imānettha tīṇi aṅgāni.
305. Trong Pāḷi, ‘hãy mang đến thời gian,’ có nghĩa là hãy trải qua thời gian của ngày hôm nay, hoặc hãy mang thuốc vào ngày mai. “Có sự từ chối giới hạn bởi dược phẩm và giới hạn bởi đêm,” trong phần thứ ba, dược phẩm đã được quy định chỉ nên được nhận trong khoảng thời gian đã được quy định, không được nhận ngoài khoảng thời gian đó. Nếu không, cần hiểu rằng không có mục đích riêng biệt. Có ba chi phần ở đây là: sự từ chối có giới hạn của Tăng chúng; xin dược phẩm vượt quá giới hạn đó; và không bị bệnh.

Mahānāmasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Mahānāma.

8. Uyyuttasenāsikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải Thích Điều Học về Đội Quân Dàn Trận

315. Aṭṭhame ekamekanti ettha duvaṅginīpi tivaṅginīpi senā saṅgayhati. Uyyuttacaturaṅgasenādassanāya tathārūpapaccayādiṃ vinā gamanaṃ, ananuññātokāse dassananti imānettha dve aṅgāni.
315. Ở điều học thứ tám, ‘từng đội quân một,’ ở đây, cả đội quân hai binh chủng và đội quân ba binh chủng đều được bao gồm. Có hai chi phần ở đây là: đi xem đội quân bốn binh chủng dàn trận mà không có lý do tương tự, v.v.; và xem ở một nơi không được phép.

Uyyuttasenāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Đội Quân Dàn Trận.

9. Senāvāsasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải Thích Điều Học về Việc Ở Trong Doanh Trại

319. Navame senāya catuttho sūriyatthaṅgamo, agilānatāti imānettha dve aṅgāni.
319. Ở điều học thứ chín, có hai chi phần là: mặt trời lặn lần thứ tư tại doanh trại; và không bị bệnh.

Senāvāsasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Ở Trong Doanh Trại.

10. Uyyodhikasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải Thích Điều Học về Việc Xem Diễn Võ

322. Dasame pāḷiyaṃ kati te lakkhāni laddhānīti kittakā tayā laddhāti attho. Uyyodhikādidassanāya tathārūpapaccayaṃ vinā gamanaṃ, ananuññātokāse dassananti imānettha dve aṅgāni.
322. Ở điều học thứ mười, trong Pāḷi, ‘bạn đã nhận được bao nhiêu chiến lợi phẩm,’ có nghĩa là bạn đã nhận được bao nhiêu. Có hai chi phần ở đây là: đi xem diễn võ, v.v. mà không có lý do tương tự; và xem ở một nơi không được phép.

Uyyodhikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Xem Diễn Võ.

Niṭṭhito acelakavaggo pañcamo.

Dứt Phẩm Lõa Thể Thứ Năm.

6. Surāpānavaggo

6. Phẩm Uống Rượu

1. Surāpānasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải Thích Điều Học về Uống Rượu

328. Chaṭṭhavaggassa paṭhame pāḷiyaṃ kiṇṇapakkhittāti piṭṭhapūvādiṃ apakkhipitvā kiṇṇasaṅkhātaṃ dhaññaṅkurādisurābījaṃ pakkhipitvā katā. Sambhārasaṃyuttāti sāsapādianekasambhārehi saññuttā.
328. Ở điều học thứ nhất của phẩm thứ sáu, trong Pāḷi, ‘được cho men vào,’ là được làm bằng cách cho men làm từ mầm ngũ cốc, v.v. là hạt giống của rượu, mà không cho bột, bánh, v.v. vào. ‘Kết hợp với các nguyên liệu,’ là kết hợp với nhiều nguyên liệu như hạt cải, v.v.

Madhukatālanāḷikerādipupphādiraso ciraparivāsito pupphāsavo nāma. Tathā panasādi phalāsavo. Muddikaraso madhvāsavo. Ucchuraso guḷāsavo. Tiphalatikaṭukādinānāsambhārānaṃ raso ciraparivāsito sambhārasaṃyutto. Bījato paṭṭhāyāti yathāvuttānaṃ piṭṭhādīnaṃ majjatthāya bhājane pakkhittakālato paṭṭhāya.
Nước cốt từ hoa, v.v. của cây madhuka, cây thốt nốt, cây dừa, v.v. được để lâu ngày được gọi là rượu hoa. Tương tự, rượu từ quả me, v.v. là rượu trái cây. Nước cốt nho là rượu nho. Nước mía là rượu mật. Nước cốt của nhiều nguyên liệu như ba loại quả, ba loại gia vị cay, v.v. được để lâu ngày là rượu kết hợp. ‘Từ lúc làm hạt giống,’ là từ lúc cho bột, v.v. đã nói vào một cái bình để làm men.

329.Loṇasovīrakaṃ suttañca anekehi dabbasambhārehi abhisaṅkhato bhesajjaviseso. Uyyuttasikkhāpadānaṃ acittakalokavajjesu lokavajjatā pubbe vuttanayāvāti tattha kiñcipi avatvā idha tehi asādhāraṇavatthuvisesasiddhāya acittakapakkhepi akusalacittatāya taṃ lokavajjatādivisesaṃ dassetumeva ‘‘vatthuajānanatāya cetthā’’tiādinā vuttanti veditabbaṃ. Yaṃ panettha vattabbaṃ, taṃ paṭhamapārājikavaṇṇanāyaṃ vitthārato sāratthadīpaniyaṃ viraddhaṭṭhānavisodhanavasena vuttanti tattheva gahetabbaṃ. Majjabhāvo, tassa pānañcāti imānettha dve aṅgāni.
329.Nước canh Loṇasovīraka là một loại thuốc đặc biệt được chế biến từ nhiều loại nguyên liệu. Các tội do không cố ý trong các điều học về quân đội dàn trận là tội thế gian theo cách đã được nói trước đây, nên không nói gì ở đó, ở đây, để chỉ ra sự khác biệt về tội thế gian đó do có tâm bất thiện ngay cả trong trường hợp không cố ý, vốn được xác định bởi sự khác biệt về đối tượng không chung với chúng, đã được nói bằng câu “và ở đây do không biết đối tượng,” v.v. điều này cần được biết. Những gì cần phải nói ở đây, đã được nói một cách chi tiết trong phần giải thích tội Bất Cộng Trụ thứ nhất trong Sāratthadīpanī bằng cách làm rõ những điểm sai sót, nên cần phải hiểu ở đó. Có hai chi phần ở đây là: là chất say; và uống nó.

Surāpānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Uống Rượu.

2. Aṅgulipatodakasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải Thích Điều Học về Chọc Léc Bằng Ngón Tay

330. Dutiye hasādhippāyatā, upasampannassa kāyena kāyāmasananti imānettha dve aṅgāni.
330. Ở điều học thứ hai, có hai chi phần là: có ý định đùa giỡn; và tiếp xúc thân thể với một người đã thọ Cụ túc giới.

Aṅgulipatodakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Chọc Léc Bằng Ngón Tay.

3. Hasadhammasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải Thích Điều Học về Đùa Giỡn

338. Tatiye pāḷiyaṃ hasadhamme hasadhammasaññītiādīsu uplavādimattaṃ kiṃ hasadhammo hotīti gahaṇavasena sati karaṇīye kariyamānaṃ hasadhammaṃ hasadhammoti gahaṇavasena attho veditabbo. Ussārentoti udake ṭhitaṃ nāvaṃ tīre āropento.
338. Ở điều học thứ ba, trong Pāḷi, trong các câu ‘có nhận thức là đùa giỡn trong việc đùa giỡn,’ v.v., cần phải hiểu ý nghĩa theo cách nhận biết rằng việc đùa giỡn đang được thực hiện là việc đùa giỡn, khi có việc phải làm bằng cách nhận biết rằng chỉ việc nổi lên, v.v. có phải là việc đùa giỡn hay không. ‘Đẩy lên,’ là đẩy thuyền đang ở dưới nước lên bờ.

Patanuppatanavāresūti udakassa uparitale maṇḍūkagatiyā patanuppatanavasena gamanatthaṃ khittāya ekissā kathalāya vasena vuttaṃ. Udakassa uparigopphakatā, hasādhippāyena kīḷananti dve aṅgāni.
‘Trong các lần rơi và nổi lên,’ được nói theo cách của một mảnh sành được ném để đi trên mặt nước theo kiểu đi của con ếch, bằng cách rơi xuống và nổi lên. Có hai chi phần là: mặt nước bị sủi bọt; và chơi đùa với ý định đùa giỡn.

Hasadhammasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Đùa Giỡn.

4. Anādariyasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải Thích Điều Học về Sự Không Kính Trọng

344. Catutthe suttānulomanti mahāpadesā. Aṭṭhakathātipi vadanti. Upasampannassa paññattena vacanaṃ, anādariyakaraṇanti dve aṅgāni.
344. Ở điều học thứ tư, ‘theo kinh,’ là các đại giáo pháp. Các vị cũng nói là chú giải. Có hai chi phần là: lời nói đã được quy định cho người đã thọ Cụ túc giới; và hành vi không kính trọng.

Anādariyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Sự Không Kính Trọng.

5. Bhiṃsāpanasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải Thích Điều Học về Việc Hù Dọa

345. Pañcame upasampannatā, tassa dassanasavanavisaye bhiṃsāpetukāmatāya vāyamananti dve aṅgāni.
345. Ở điều học thứ năm, có hai chi phần là: đã thọ Cụ túc giới; và cố gắng hù dọa trong tầm nhìn và tầm nghe của người đó.

Bhiṃsāpanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Hù Dọa.

6. Jotisikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải Thích Điều Học về Lửa

354. Chaṭṭhe alātaṃ patitanti aggikapālato bahi patitaṃ. Vijjhātanti vijjhātaṃ alātaṃ kapālaggimhi pakkhipitvā jālentassa pācittiyaṃ, tathā kevalaṃ indhanaṃ pātentassapi vijjhātaṃ kapālaggiṃ mukhavātādinā ujjālentassapi. Gilānatādikāraṇābhāvo, visibbetukāmatā, samādahananti tīṇi aṅgāni.
354. Ở điều học thứ sáu, ‘tàn lửa đã rơi xuống,’ là đã rơi ra ngoài lò lửa. ‘Đã tắt,’ là tội Ưng Đối Trị đối với người đốt lửa bằng cách đặt tàn lửa đã tắt vào lò lửa, tương tự như vậy đối với người chỉ đổ củi vào, và đối với người thổi bùng lò lửa đã tắt bằng miệng, v.v. Có ba chi phần là: không có lý do như bị bệnh, v.v.; có ý định sưởi ấm; và nhóm lửa.

Jotisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Lửa.

7. Nahānasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải Thích Điều Học về Việc Tắm

357. Sattame pāḷiyaṃ nagare thakiteti ettha raññā ciraṃ nahāyitukāmena ‘‘ahaṃ bahi uyyāne katārakkho vasissāmi, nagaraṃ thaketvā gopethā’’ti anuññātā, te thakiṃsūti daṭṭhabbaṃ. Asambhinnenāti anaṭṭhena, taṃ divasaṃ puna aggahitālaṅkārena pabuddhamattenāti adhippāyo. Majjhimadese ūnakaddhamāsanahānaṃ, samayādīnaṃ abhāvoti dve aṅgāni.
357. Ở điều học thứ bảy, trong Pāḷi, ‘khi thành phố bị đóng cửa,’ ở đây, cần hiểu rằng vua, do muốn tắm lâu, đã cho phép: “Ta sẽ ở trong một khu vườn được bảo vệ bên ngoài, các ngươi hãy đóng cửa và canh giữ thành phố,” và họ đã đóng cửa. ‘Bởi người không lộn xộn,’ là bởi người chưa trang điểm, ý định là người vừa mới thức dậy vào ngày đó. Có hai chi phần là: tắm ít hơn nửa tháng ở xứ Trung tâm; và không có lý do, v.v.

Nahānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Tắm.

8. Dubbaṇṇakaraṇasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải Thích Điều Học về Việc Làm Cho Mất Màu

368. Aṭṭhame paṭiladdhanavacīvarenāti ettha pubbe akatakappaṃ katipāhaṃ nivāsanatthāya tāvakālikavasena laddhampi saṅgayhatīti vadanti.
368. Ở điều học thứ tám, các vị nói rằng ‘với chiếc y mới nhận được,’ ở đây, ngay cả chiếc y chưa được làm phép mà được nhận tạm thời để mặc trong vài ngày cũng được bao gồm.

369. ‘‘Navaṃ nāma akatakappa’’nti sāmaññato vuttattā aññena bhikkhunā kappabinduṃ datvā paribhuttaṃ cīvaraṃ, tena vā, tato labhitvā aññena vā kenaci dinnampi katakappameva navaṃ nāma na hotīti daṭṭhabbaṃ. ‘‘Nivāsetuṃ vā pārupituṃ vā’’ti vuttattā aṃsabaddhakāsāvampi pārupitabbato kappaṃ kātabbanti vadanti. Cammakāranīlaṃ nāma cammaṃ nīlavaṇṇaṃ kātuṃ yojiyamānaṃ nīlaṃ. Pakatinīlamevāti keci. Yathāvuttacīvarassa akatakappatā, anaṭṭhacīvarāditā, nivāsanāditāti tīṇi aṅgāni.
369. “Mới là chưa được làm phép” do được nói một cách chung chung, nên cần hiểu rằng chiếc y đã được một Tỳ-khưu khác đặt dấu phép và đã được sử dụng, hoặc chiếc y được người đó hoặc người khác nhận từ người đó và cho đi, đã được làm phép rồi thì không còn gọi là mới nữa. “Để mặc hoặc để choàng” do đã được nói, nên các vị nói rằng ngay cả chiếc y ca-sa được buộc trên vai cũng phải được làm phép vì nó được dùng để choàng. ‘Màu xanh của thợ nhuộm da’ là màu xanh được dùng để làm cho da có màu xanh. Một số vị nói là màu xanh tự nhiên. Có ba chi phần là: chiếc y đã nói chưa được làm phép; không phải là y bị mất, v.v.; và mặc, v.v.

Dubbaṇṇakaraṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Làm Cho Mất Màu.

9. Vikappanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải Thích Điều Học về Sự Từ Bỏ Quyền Sở Hữu

374. Navame yenāti yena saddhiṃ, yassa santiketi attho. Sāmaṃ vikappitassa apaccuddhāro, vikappanupagacīvaratā, avissāsena paribhogoti tīṇi aṅgāni.
374. Ở điều học thứ chín, ‘bởi ai,’ có nghĩa là cùng với ai, ở gần ai. Có ba chi phần là: không nhận lại vật đã tự mình từ bỏ quyền sở hữu; là chiếc y có thể từ bỏ quyền sở hữu; và sử dụng mà không có sự tin cậy.

Vikappanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Sự Từ Bỏ Quyền Sở Hữu.

10. Cīvaraapanidhānasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải Thích Điều Học về Việc Giấu Y Phục

378. Dasame pāḷiyaṃ antamaso hasāpekkhopīti api-saddena atheyyacittaṃ kodhena dukkhāpetukāmaṃ, avaṇṇaṃ pakāsetukāmañca saṅgayhati. Teneva ‘‘tivedana’’nti vuttaṃ. Upasampannassa pattādīnaṃ apanidhānaṃ, vihesetukāmatādīti dve aṅgāni.
378. Ở điều học thứ mười, trong Pāḷi, ‘ngay cả chỉ với ý định đùa giỡn,’ với từ ‘api,’ cũng bao gồm cả tâm không trộm cắp, muốn làm cho đau khổ vì tức giận, và muốn phơi bày điều xấu. Do đó, đã được nói là “có ba cảm thọ.” Có hai chi phần là: giấu bát, v.v. của một người đã thọ Cụ túc giới; và có ý định làm phiền, v.v.

Cīvaraapanidhānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Giấu Y Phục.

Niṭṭhito surāpānavaggo chaṭṭho.

Dứt Phẩm Uống Rượu Thứ Sáu.

7. Sappāṇakavaggo

7. Phẩm Có Sinh Vật

1. Sañciccapāṇasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải Thích Điều Học về Cố Ý Giết Sinh Vật

382. Sattamassa paṭhame usuṃ saraṃ asati khipatīti issāso. Na hettha kiñci jīvitaṃ nāma visuṃ tiṭṭhatīti sambandho. Tattha pāṇeti satte. Appamattena vattaṃ kātabbanti yathā pāṇakānaṃ vihesāpi na hoti, evaṃ sallakkhetvā otāpanasammajjanādivattaṃ kātabbaṃ. Sesaṃ vuttanayameva.
382. Ở điều học thứ nhất của phẩm thứ bảy, người bắn tên khi không có cung là cung thủ. Không có một sinh mạng nào tồn tại riêng biệt ở đây, đây là mối liên hệ. Ở đó, ‘trong các sinh vật’ là trong các chúng sanh. ‘Phải làm việc với sự không buông thả,’ là phải làm các công việc như phơi nắng, quét dọn, v.v. bằng cách chú ý sao cho không gây hại cho các sinh vật. Phần còn lại theo cách đã được nói.

Sañciccapāṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Cố Ý Giết Sinh Vật.

2. Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải Thích Điều Học về Nước Có Sinh Vật

387. Dutiye udakasaṇṭhānakappadeseti kaddamapāsāṇādibhūmiyaṃ. Tatthāti āsitte kappiyaudake. Sesaṃ vuttanayameva.
387. Ở điều học thứ hai, ‘ở một nơi hợp lệ có dạng nước,’ là trên đất bùn, đá, v.v. ‘Ở đó,’ là trong nước hợp lệ đã được đổ vào. Phần còn lại theo cách đã được nói.

Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Nước Có Sinh Vật.

3. Ukkoṭanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải Thích Điều Học về Việc Lật Lại Vụ Việc

392. Tatiye ‘‘tassa bhikkhuno santikaṃ gantvā’’ti vuttattā yassa adhikaraṇaṃ saṅghakammena nihataṃ, tassa sammukhe eva ukkoṭentassa pācittiyaṃ. Parammukhe pana dukkaṭameva.
392. Ở điều học thứ ba, “sau khi đã đến gần Tỳ-khưu đó” do đã được nói, nên tội Ưng Đối Trị chỉ xảy ra đối với người lật lại vụ việc ngay trước mặt người có vụ việc đã được giải quyết bằng một Tăng sự. Nhưng ở sau lưng thì chỉ có tội Tác Ác.

395.‘‘Dhammakammeadhammakammasaññī ukkoṭeti, anāpattī’’ti vuttattā anādariyatādi viya ukkoṭanaṃ sayaṃ akusalaṃ na hoti, dhammakammasaññāya, pana vimatiyā ca ukkoṭaneneva akusalaṃ hoti. Yathādhammaṃ nihatatā, jānanā, ukkoṭanāti tīṇi aṅgāni.
395.“Trong một Tăng sự hợp pháp, người có nhận thức là Tăng sự không hợp pháp lật lại vụ việc, không có tội” do đã được nói, nên việc lật lại vụ việc tự nó không phải là bất thiện, giống như sự không kính trọng, v.v., nhưng chỉ trở thành bất thiện khi lật lại vụ việc với nhận thức là Tăng sự hợp pháp và với sự nghi ngờ. Có ba chi phần là: đã được giải quyết theo đúng pháp; biết điều đó; và lật lại vụ việc.

Ukkoṭanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Lật Lại Vụ Việc.

4. Duṭṭhullasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải Thích Điều Học về Tội Nặng

399. Catutthe āpattiṃ āpajjatiyevāti dhuranikkhepapakkhe vuttaṃ. Vatthupuggaloti āpannapuggalo. Chādetukāmatāya hi sati eva avassaṃ aññassa ārocanaṃ vuttaṃ, vatthupuggalassa ca ārocanā nāma na hotīti paṭicchādanamevāti adhippāyo. Koṭi chinnā hotīti chādessāmīti dhuranikkhepe satipi puggalaparamparāya gacchantī āpattikoṭi chijjati.
399. Ở điều học thứ tư, ‘phạm tội,’ được nói về phía từ bỏ trách nhiệm. ‘Người và vật,’ là người đã phạm tội. Thật vậy, chỉ khi có ý định che giấu, việc báo cáo cho người khác mới được nói là cần thiết, và việc báo cáo người và vật thì không có, nên ý định là chỉ có sự che giấu. ‘Mối dây đã bị cắt đứt,’ là ngay cả khi có sự từ bỏ trách nhiệm rằng “tôi sẽ che giấu,” mối dây tội lỗi đi qua các thế hệ người cũng bị cắt đứt.

400.‘‘Anupasampannassa sukkavissaṭṭhi ca kāyasaṃsaggo cāti ayaṃ duṭṭhullaajjhācāro nāmā’’ti idaṃ duṭṭhullārocanasikkhāpadaṭṭhakathāyaṃ ‘‘anupasampannassa…pe… ādito pañca sikkhāpadāni duṭṭhullo nāma ajjhācāro, sesāni aduṭṭhullo. Sukkavissaṭṭhikāyasaṃsaggaduṭṭhullaattakāmā panassa ajjhācāro nāmā’’ti (pāci. aṭṭha. 82) iminā vacanena virujjhatīti vīmaṃsitabbaṃ. Puggalapemena chādayato cettha ‘‘aññe garahissantī’’ti bhayavasena chādanakkhaṇe paṭighova uppajjatīti ‘‘dukkhavedana’’nti vuttanti daṭṭhabbaṃ. Upasampannassa duṭṭhullāpattijānanaṃ, paṭicchādanatukāmatāya dhuranikkhepoti dve aṅgāni.
400.“Đối với người chưa thọ Cụ túc giới, việc xuất tinh và việc tiếp xúc thân thể, đây được gọi là sự vi phạm nặng”, điều này mâu thuẫn với câu trong chú giải điều học về việc báo cáo tội nặng: “đối với người chưa thọ Cụ túc giới… này khác… năm điều học đầu tiên là sự vi phạm nặng, các điều còn lại là không nặng. Nhưng việc xuất tinh, tiếp xúc thân thể, tội nặng, và sự tự thỏa mãn là sự vi phạm của người đó” (pāci. aṭṭha. 82), điều này cần được xem xét. Ở đây, đối với người che giấu vì tình cảm cá nhân, vào lúc che giấu, sự bất bình chỉ nảy sinh do sợ rằng “người khác sẽ chỉ trích,” nên đã được nói là “cảm thọ khổ,” điều này cần được biết. Có hai chi phần là: biết tội nặng của một người đã thọ Cụ túc giới; và từ bỏ trách nhiệm với ý định che giấu.

Duṭṭhullasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Tội Nặng.

5. Ūnavīsativassasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải Thích Điều Học về Người Dưới Hai Mươi Tuổi

402. Pañcame rūpasippanti heraññikasippaṃ. Gabbhe sayitakālena saddhiṃ vīsatimaṃ vassaṃ paripuṇṇamassāti gabbhavīso.
402. Ở điều học thứ năm, ‘nghệ thuật tạo hình,’ là nghệ thuật của thợ bạc. Người tròn hai mươi tuổi tính cả thời gian nằm trong bụng mẹ là người hai mươi tuổi tính cả trong bụng mẹ.

404.Nikkhamanīyapuṇṇamāsīti sāvaṇamāsassa puṇṇamiyā āsāḷhīpuṇṇamiyā anantarapuṇṇamī. Pāṭipadadivaseti pacchimikāya vassūpanāyikāya. Dvādasa māse mātu kucchismiṃ vasitvā mahāpavāraṇāya jātaṃ upasampādentīti attho. ‘‘Tiṃsa rattindivo māso, dvādasamāsiko saṃvaccharo’’ti (a. ni. 3.71; 8.43; vibha. 1023)酉 ‘‘cattāro māsā parihāyantī’’ti vuttaṃ. Vassaṃ ukkaḍḍhantīti vassaṃ uddhaṃ kaḍḍhanti, ‘‘ekamāsaṃ adhikamāso’’ti chaḍḍetvā vassaṃ upagacchantīti attho. Tasmā tatiyo tatiyo saṃvaccharo terasamāsiko hoti. Te dve māse gahetvāti nikkhamanīyapuṇṇamāsato yāva jātadivasabhūtā mahāpavāraṇā. Tāva ye dve māsā anāgatā, tesaṃ atthāya adhikamāsato laddhe dve māse gahetvā. Tenāha ‘‘yo pavāretvā vīsativasso bhavissatī’’tiādi. ‘‘Nikkaṅkhā hutvā’’ti idaṃ aṭṭhārasannaṃ vassānaṃ ekaadhikamāse gahetvā tato vīsatiyā vassesupi cātuddasīatthāya catunnaṃ māsānaṃ parihāpanena sabbadā paripuṇṇavīsativassataṃ sandhāya vuttaṃ. Pavāretvā vīsativasso bhavissatīti mahāpavāraṇādivase atikkante gabbhavassena saha vīsativasso bhavissatīti attho. Tasmāti yasmā gabbhamāsāpi gaṇanūpagā honti, tasmā. Ekavīsativassoti jātiyā vīsativassaṃ sandhāya vuttaṃ.
404.‘Ngày rằm xuất gia,’ là ngày rằm sau ngày rằm tháng Āsāḷhī của tháng Sāvaṇa. ‘Vào ngày mùng một,’ là của mùa an cư mưa sau. Có nghĩa là họ truyền giới Cụ túc cho một người đã ở trong bụng mẹ mười hai tháng và được sinh ra vào ngày Đại Tự Tứ. “Một tháng có ba mươi ngày đêm, một năm có mười hai tháng,” (a. ni. 3.71; 8.43; vibha. 1023) dựa theo lời dạy, đã được nói là “bốn tháng bị trừ đi.” ‘Họ kéo dài năm,’ là họ kéo dài năm lên, có nghĩa là họ bỏ qua “một tháng là tháng nhuận” và bước vào năm. Do đó, cứ ba năm một lần, năm đó có mười ba tháng. ‘Sau khi đã lấy hai tháng đó,’ là từ ngày rằm xuất gia cho đến ngày Đại Tự Tứ là ngày sinh. Hai tháng chưa đến đó, họ lấy hai tháng có được từ tháng nhuận cho mục đích đó. Do đó, ngài đã nói: “người nào sau khi tự tứ sẽ được hai mươi tuổi,” v.v. “Sau khi đã hết nghi ngờ,” được nói đến để chỉ sự tròn hai mươi tuổi vào mọi lúc, bằng cách lấy một tháng nhuận trong mười tám năm và sau đó trừ đi bốn tháng cho mục đích ngày mười bốn trong hai mươi năm. ‘Sau khi tự tứ sẽ được hai mươi tuổi,’ có nghĩa là sau khi ngày Đại Tự Tứ đã trôi qua, người đó sẽ được hai mươi tuổi tính cả năm trong bụng mẹ. ‘Do đó,’ là vì các tháng trong bụng mẹ cũng được tính, do đó. ‘Hai mươi mốt tuổi,’ được nói đến để chỉ hai mươi tuổi tính từ khi sinh.

406.Aññaṃ upasampādetīti upajjhāyo, ācariyo vā hutvā upasampādeti. Sopīti upasampādentopi anupasampanno. Ūnavīsativassatā, taṃ ñatvā upajjhāyena hutvā upasampādananti dve aṅgāni.
406.‘Truyền giới Cụ túc cho người khác,’ là làm thầy tế độ hoặc thầy giáo thọ để truyền giới Cụ túc. ‘Người đó cũng,’ là cả người truyền giới Cụ túc cũng là người chưa thọ Cụ túc giới. Có hai chi phần là: dưới hai mươi tuổi; và biết điều đó mà làm thầy tế độ để truyền giới Cụ túc.

Ūnavīsativassasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Người Dưới Hai Mươi Tuổi.

6. Theyyasatthasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải Thích Điều Học về Đoàn Lữ Hành Trộm Cướp

409. Chaṭṭhe theyyasatthabhāvo, ñatvā saṃvidhānaṃ, avisaṅketena gamananti tīṇi aṅgāni.
409. Ở điều học thứ sáu, có ba chi phần là: là đoàn lữ hành trộm cướp; biết và hẹn hò; và đi mà không có tín hiệu.

Theyyasatthasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Đoàn Lữ Hành Trộm Cướp.

412. Sattamaṃ vuttanayameva.
412. Điều thứ bảy theo cách đã được nói.

8. Ariṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải Thích Điều Học về Ariṭṭha

417. Aṭṭhame antarāyanti antarā vemajjhe eti āgacchatīti antarāyo, diṭṭhadhammikādianattho. Ānantariyadhammāti anantare bhave phalanibbattane niyuttā cetanādidhammāti attho. ‘‘Na saggassā’’ti idaṃ bhikkhunidūsanakammassa ānantariyattābhāvato vuttaṃ. Ariyasāvikāsu, pana kalyāṇaputhujjanabhūtāya ca balakkārena dūsentassa ānantariyasaasameva. Mokkhantarāyikatā pana lolāyapi pakatattabhikkhuniyā dūsakassa tasmiṃ attabhāve magguppattiyā abhāvato vuttā.
417. Ở điều học thứ tám, ‘chướng ngại,’ là cái đến ở giữa, ở trung gian, là chướng ngại, là điều bất lợi trong hiện tại, v.v. ‘Các pháp có quả báo tức thì,’ có nghĩa là các pháp như ý chí, v.v. được định sẵn để tạo ra quả trong đời sau ngay lập tức. “Không phải của cõi trời,” được nói do hành động làm hại Tỳ-khưu-ni không phải là tội có quả báo tức thì. Nhưng đối với các nữ Thánh đệ tử, và đối với người làm hại bằng vũ lực một người nữ phàm phu thiện lành, thì cũng tương tự như tội có quả báo tức thì. Nhưng việc cản trở sự giải thoát được nói đến vì người làm hại một Tỳ-khưu-ni bình thường dù có ham muốn cũng không thể phát sinh đạo quả trong kiếp đó.

Tasmiṃ attabhāve anivattanakā ahetukaakiriyanatthikadiṭṭhiyova niyatamicchādiṭṭhidhammā. Paṇḍakādīnaṃ gahaṇaṃattaṃ. Sabbāpi duhetukāhetukapaṭisandhiyo vipākantarāyikāva duhetukānampi maggānuppattito.
Những tà kiến vô nhân, vô tác, hư vô không thể thay đổi trong kiếp đó là các pháp tà kiến cố định. Việc chấp nhận người ái nam ái nữ, v.v. Các loại tái sanh vô nhân và hai nhân đều là chướng ngại cho quả báo, vì ngay cả những người có hai nhân cũng không thể phát sinh đạo quả.

Ayanti ariṭṭho. Rasena rasanti anavajjena paccayaparibhuñjanarasena pañcakāmaguṇapaabhogarasaṃ samānetvā. Upanento viyāti ghaṭento viya, so eva vā pāṭho.
‘Người này,’ là Ariṭṭha. ‘Hương vị bằng hương vị,’ là bằng cách so sánh hương vị của việc hưởng thụ các duyên không có tội với hương vị của việc hưởng thụ năm dục. ‘Như đang mang đến gần,’ là như đang làm cho khớp, hoặc đó chính là bài đọc.

Aṭṭhikaṅkalūpamāti ettha aṭṭhi eva nimmaṃsatāya kaṅkalanti ca vuccati. Palibhañjanaṭṭhenāti avassaṃ patanaṭṭhena. Adhikuṭṭanaṭṭhenāti ati viya kuṭṭanaṭṭhena. Pāḷiyaṃ ‘‘tathāhaṃ bhagavatā…pe… nālaṃ antarāyāyā’’ti idaṃ vatthuanurūpato vuttaṃ. Evaṃ pana aggahetvā aññenapi ākārena yaṃ kiñci bhagavatā vuttaṃ viparītato gahetvā parehi vuttepi amuñcitvā voharantassāpi vuttanayānusārena tadanuguṇaṃ samanubhāsanakammavācaṃ yojetvā āpattiyā āropetuṃ, āpattiyā adassanādīsu tīsu yaṃ kiñci abhirucitaṃ nimittaṃ katvā ukkhepanīyakammaṃ kātuñca labbhati. Samanubhāsanaṃ akatvāpi ‘‘māyasmā evaṃ avacā’’ti bhikkhūhi vuttamatte laddhiyā appaṭinissajjanapaccayāya dukkaṭāpattiyāpi ukkhepanīyakammaṃ kātumpi vaṭṭatevāti daṭṭhabbaṃ. Dhammakammatā, samanubhāsanāya appaṭinissajjananti dve aṅgāni.
‘Ví dụ về bộ xương,’ ở đây, chính xương được gọi là bộ xương do không có thịt. ‘Theo nghĩa là bị gãy,’ là theo nghĩa là chắc chắn sẽ rơi xuống. ‘Theo nghĩa là bị đập nát,’ là theo nghĩa là bị đập nát quá mức. Trong Pāḷi, “cũng như tôi, bởi Đức Thế Tôn… này khác… không đủ để làm chướng ngại,” điều này được nói theo đối tượng. Nhưng nếu không hiểu như vậy, mà lại hiểu sai bất cứ điều gì Đức Thế Tôn đã nói theo một cách khác, và ngay cả khi bị người khác nói cũng không từ bỏ mà vẫn nói, thì cũng được phép áp dụng lời Tăng sự nhắc nhở tương ứng theo cách đã được nói và quy vào tội, và cũng được phép thực hiện hành động biệt trú bằng cách lấy bất kỳ dấu hiệu nào mình thích trong ba điều: không thấy tội, v.v. Cần phải hiểu rằng ngay cả khi không thực hiện việc nhắc nhở, chỉ cần được các Tỳ-khưu nói rằng “thưa ngài, đừng nói như vậy,” thì cũng được phép thực hiện hành động biệt trú do tội Tác Ác phát sinh do không từ bỏ tà kiến. Có hai chi phần là: là Tăng sự hợp pháp; và không từ bỏ sau khi được nhắc nhở.

Ariṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Ariṭṭha.

9. Ukkhittasambhogasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải Thích Điều Học về Việc Giao Tiếp Với Người Bị Biệt Trú

424. Navame ‘‘ukkhitto anosārito’’ti vuttattā ariṭṭhassa ukkhepanīyakammaṃ katanti daṭṭhabbaṃ.
424. Ở điều học thứ chín, “người bị biệt trú, chưa được phục hồi” do đã được nói, nên cần hiểu rằng hành động biệt trú đã được thực hiện đối với Ariṭṭha.

425. Pāḷiyaṃ ‘‘ekacchanne’’ti sāmaññato vuttattā nānūpacārepi ekacchanne nipajjane paṇṇattiṃ ajānantassa arahatopi ukkhittānuvattakānampi pācittiyameva. Akatānudhammatā, ñatvā sambhogādikaraṇanti dve aṅgāni.
425. Trong Pāḷi, “dưới một mái nhà” do được nói một cách chung chung, nên ngay cả khi ở các khu vực khác nhau nhưng dưới một mái nhà, tội Ưng Đối Trị cũng xảy ra đối với cả vị A-la-hán không biết quy định và những người theo người bị biệt trú. Có hai chi phần là: không tuân thủ pháp; và biết mà vẫn giao tiếp, v.v.

Ukkhittasambhogasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Giao Tiếp Với Người Bị Biệt Trú.

10. Kaṇṭakasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải Thích Điều Học về Kaṇṭaka

428. Dasame pireti sambodhanatthe nipātapadaṃ. Sesaṃ anantarasikkhāpadadvaye vuttanayameva.
428. Ở điều học thứ mười, ‘này bạn,’ là một tiểu từ ở hô cách. Phần còn lại theo cách đã được nói trong hai điều học trước.

Kaṇṭakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Kaṇṭaka.

Niṭṭhito sappāṇakavaggo sattamo.

Dứt Phẩm Có Sinh Vật Thứ Bảy.

8. Sahadhammikavaggo

8. Phẩm Đồng Phạm Hạnh

1. Sahadhammikasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải Thích Điều Học về Đồng Phạm Hạnh

434. Aṭṭhamavaggassa paṭhame upasampannassa paññattena vacanaṃ, asikkhitukāmassa lesena evaṃ vacananti dve aṅgāni.
434. Ở điều học thứ nhất của phẩm thứ tám, có hai chi phần là: lời nói đã được quy định cho người đã thọ Cụ túc giới; và lời nói như vậy bằng cách lảng tránh của người không muốn học.

Sahadhammikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Đồng Phạm Hạnh.

2. Vilekhanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải Thích Điều Học về Việc Làm Hoang Mang

438. Dutiye alajjitāti alajjitāya. Evaṃ sesesupi. Sañcicca āpattiṃ āpajjatītiādi bhikkhubhikkhunīnaññeva vuttaṃ alajjilakkhaṇaṃ, sāmaṇerādīnaṃ, pana gahaṭṭhānañca sādhāraṇavasena yathāsakaṃ sikkhāpadavītikkamanapaṭigūhanādito veditabbaṃ. Lajjilakkhaṇepi eseva nayo. Kiñcāpi kukkucce uppannepi madditvā karonto , kappiye akappiyasaññitāya karontopi taṅkhaṇikāya alajjitāya evaṃ karonti. Tathāpi kukkuccādibhede visuṃ gahitāti daṭṭhabbaṃ.
438. Ở điều học thứ hai, ‘sự không biết hổ thẹn,’ là do sự không biết hổ thẹn. Tương tự trong các trường hợp còn lại. ‘Cố ý phạm tội,’ v.v. là đặc điểm của người không biết hổ thẹn chỉ được nói đến đối với Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni, còn đối với Sa-di, v.v. và cả cư sĩ, cần được hiểu một cách chung chung theo việc vi phạm, che giấu, v.v. các điều học của riêng họ. Đối với đặc điểm của người biết hổ thẹn cũng theo cách tương tự. Mặc dù ngay cả khi có sự hối hận nảy sinh, người đó vẫn cố gắng làm, hoặc làm với nhận thức là không hợp lệ trong khi nó là hợp lệ, họ cũng làm như vậy do sự không biết hổ thẹn tức thời. Tuy nhiên, cần hiểu rằng chúng được xem xét riêng biệt trong các trường hợp hối hận, v.v. khác nhau.

Vajjiputtakā dasavatthudīpakā. Parūpahāraaññāṇakaṅkhāparavitāraṇādivādāti ettha arahattaṃ paṭijānantānaṃ kuhakānaṃ sukkavissaṭṭhiṃ disvā ‘‘mārakāyikā devatā asuciṃ upasaṃharantī’’tigāhino parūpahāravādā nāma. Arahato sabbesaṃ itthipurisādīnaṃ nāmādiajānane aññāṇaṃ, tattha sanniṭṭhānabhāvena kaṅkhā, parato sutvā nāmādijānanena paravitāraṇo atthītivādino aññāṇavādā, kaṅkhāvādā, paravitāraṇavādā ca tesaṃ, mahāsaṅghikādīnañca vibhāgo kathāvatthuppakaraṇe vutto.
Các vị Tỳ-khưu Vajjī là những người trình bày mười sự việc. Các học thuyết về sự hiến dâng cho người khác, sự không biết, sự nghi ngờ, sự vượt qua nghi ngờ của người khác, v.v., ở đây, những người lừa dối tự nhận là A-la-hán, sau khi thấy việc xuất tinh, đã chấp nhận rằng “các vị trời thuộc quân đội của Ma vương mang đến vật ô uế,” được gọi là học thuyết về sự hiến dâng cho người khác. Đối với một vị A-la-hán, sự không biết về tên, v.v. của tất cả nam nữ, v.v. là sự không biết, ở đó, do không có sự quả quyết, là sự nghi ngờ, sau đó nghe và biết tên, v.v. là sự vượt qua nghi ngờ của người khác, những người theo học thuyết rằng có sự không biết, học thuyết về sự nghi ngờ, và học thuyết về sự vượt qua nghi ngờ của người khác, sự phân biệt của họ và của các vị Mahāsaṅghika, v.v. đã được nói trong Luận Sự.

Cattāro maggā ca phalāni cāti ettha ca-kārena abhiññāpaṭisambhidāpi saṅgahitāti daṭṭhabbaṃ. Kecīti pariyattidharā dhammakathikā. Puna kecīti paṭipattidharā paṃsukūlikattherā. Itare panātiādīsu ayaṃ adhippāyo – dhammakathikattherā pana paṃsukūlikattherehi ābhataṃ suttaṃ sutvā –
‘Bốn đạo và bốn quả,’ ở đây, cần hiểu rằng với từ ‘và,’ cả các thắng trí và các vô ngại giải cũng được bao gồm. ‘Một số vị,’ là các vị pháp sư trì tụng pháp học. Lại nữa, ‘một số vị,’ là các vị trưởng lão tu hạnh đầu đà. ‘Nhưng những vị khác,’ v.v., ý định ở đây là – các vị trưởng lão pháp sư, sau khi nghe bài kinh do các vị trưởng lão tu hạnh đầu đà mang đến –

‘‘Yāva tiṭṭhanti suttantā, vinayo yāva dippati;

Tāva dakkhanti ālokaṃ, sūriye abbhuṭṭhite yathā.

“Chừng nào kinh điển còn tồn tại, chừng nào luật còn tỏa sáng;

Chừng đó, chúng sanh sẽ thấy ánh sáng, như khi mặt trời mọc.

‘‘Suttantesu asantesu, pamuṭṭhe vinayamhi ca;

Tamo bhavissati loke, sūriye atthaṅgate yathā.

“Khi kinh điển không còn, khi luật đã bị lãng quên;

Thế gian sẽ chìm trong bóng tối, như khi mặt trời lặn.

‘‘Suttante rakkhite sante, paṭipatti hoti rakkhitā;

Paṭipattiyaṃ ṭhito dhīro, yogakkhemā na dhaṃsatī’’ti. (a. ni. aṭṭha. 1.1.130) –

“Khi kinh điển được bảo vệ, sự thực hành cũng được bảo vệ;

Người trí tuệ vững vàng trong sự thực hành, sẽ không đánh mất sự an ổn khỏi các ách.” (a. ni. aṭṭha. 1.1.130) –

Idaṃ suttaṃ āharitvā attanova vādaṃ patiṭṭhapentā pārājikānāpajjanavasena ṭhitā paṭipattisaṅgahitā pariyattiyeva mūlanti āhaṃsūti. Tenāha ‘‘sace pañca bhikkhū cattāri pārājikāni rakkhaṇakā…pe… sāsanaṃ vuḍḍhiṃ viruḷhiṃ gamayissantī’’ti. Etena ca parikkhīṇe kāle lajjigaṇaṃ alabhantena vinayadharena alajjinopi pakatatte saṅgahetvā tehi saha dhammāmisasambhogaṃ saṃvāsaṃ karontena bahū kulaputte upasampādetvā sāsanaṃ paggahetuṃ vaṭṭatīti idaṃ sijjhatīti daṭṭhabbaṃ. Garahitukāmatā, upasampannassa santike sikkhāpadavivaṇṇananti dve aṅgāni.
Mang đến bài kinh này và xác lập học thuyết của chính mình, họ nói rằng pháp học, vốn được bao gồm trong sự thực hành và tồn tại theo cách không phạm tội Bất Cộng Trụ, là gốc rễ. Do đó, ngài đã nói: “nếu có năm Tỳ-khưu giữ gìn bốn tội Bất Cộng Trụ… này khác… họ sẽ làm cho giáo pháp phát triển, tăng trưởng.” Và bằng điều này, cần hiểu rằng vào thời kỳ suy tàn, một vị luật sư không tìm được một nhóm người biết hổ thẹn, cũng được phép tập hợp cả những người không biết hổ thẹn, cùng họ hưởng thụ pháp và vật thực, sống chung, truyền giới Cụ túc cho nhiều con trai của gia đình và nâng đỡ giáo pháp. Có hai chi phần là: có ý định chỉ trích; và nói xấu các điều học ở gần một người đã thọ Cụ túc giới.

Vilekhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Làm Hoang Mang.

3. Mohanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải Thích Điều Học về Việc Làm Cho Lú Lẫn

444. Tatiye pāḷiyaṃ ko pana vādo bhiyyoti tehi aññehi bhikkhūhi diṭṭhadvattivārato bhiyyo pana vitthārena uddisiyamāne pātimokkhe nisinnapubbatā atthi ce, tattha kimeva vattabbaṃ, āpattimokkho natthi evāti adhippāyo. Tañca yathādhammo kāretabboti tanti kāraṇatthe upayogavacanaṃ, tāyāti attho. Yathā dhammo ca vinayo ca ṭhito, tathā tāya āpattiyā kāretabboti vuttaṃ hoti. Mohāropanaṃ, tikkhattuṃ sutabhāvo, mohetukāmassa mohananti tīṇi aṅgāni.
444. Ở điều học thứ ba, trong Pāḷi, ‘còn nói gì hơn nữa,’ là nếu có việc đã ngồi trước trong Giới Bổn đang được tụng đọc một cách chi tiết hơn so với hai mươi ba lần đã được các Tỳ-khưu khác thấy, thì còn có thể nói gì ở đó, chắc chắn không có sự thoát khỏi tội, ý định là vậy. ‘Và người đó phải bị xử phạt theo đúng pháp,’ ‘taṃ’ là cách dùng ở công cụ cách có ý nghĩa về nguyên nhân, có nghĩa là bởi điều đó. Pháp và luật đứng vững như thế nào, thì phải bị xử phạt bởi tội đó như vậy, điều này đã được nói. Có ba chi phần là: bị quy tội làm cho lú lẫn; đã nghe ba lần; và làm cho người muốn làm cho lú lẫn bị lú lẫn.

Mohanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Làm Cho Lú Lẫn.

4. Pahārasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải Thích Điều Học về Việc Đánh

451. Catutthe pāḷiyaṃ kāyapaṭibaddhena vāti ettha pāsāṇādinissaggiyapahāropi saṅgahito.
451. Ở điều học thứ tư, trong Pāḷi, ‘hoặc bằng vật gắn liền với thân,’ ở đây, cả việc đánh bằng vật ném đi như đá, v.v. cũng được bao gồm.

452.Rattacittoti kāyasaṃsaggarāgena vuttaṃ. Methunarāgena pana pahārato purisādīsu dukkaṭameva. Mokkhādhippāyena daṇḍakoṭiyā sappādiṃ ghaṭṭetvā maṇḍūkādiṃ mocentassapi anāpatti eva. Kupitatā, upasampannassa na mokkhādhippāyena pahāroti dve aṅgāni.
452.‘Tâm tham ái,’ được nói do sự tham ái trong việc tiếp xúc thân thể. Nhưng với sự tham ái trong việc giao hợp, chỉ có tội Tác Ác đối với nam giới, v.v. từ việc đánh. Ngay cả đối với người, với ý định giải thoát, đập vào rắn, v.v. bằng đầu gậy và giải thoát ếch, v.v. cũng không có tội. Có hai chi phần là: có sự tức giận; và đánh một người đã thọ Cụ túc giới không với ý định giải thoát.

Pahārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Đánh.

5. Talasattikasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải Thích Điều Học về Việc Giơ Tay

457. Pañcame na paharitukāmatāya dinnattā dukkaṭanti ettha kimidaṃ dukkaṭaṃ, pahārapaccayā, udāhu uggiraṇapaccayāti? Uggiraṇapaccayāva, na pahārapaccayā. Na hi paharitukāmatāya asati tappaccayā kāci āpatti yuttā, uggiraṇassa pana attano sabhāvena asaṇṭhitattā tappaccayā pācittiyaṃ na jātaṃ, asuddhacittena katapayogattā ca ettha anāpatti na yuttāti dukkaṭaṃ vuttanti gahetabbaṃ.
457. Ở điều học thứ năm, ‘do được cho không với ý định đánh, nên bị tội Tác Ác,’ ở đây, tội Tác Ác này là do nguyên nhân đánh, hay do nguyên nhân giơ lên? Chỉ do nguyên nhân giơ lên, không phải do nguyên nhân đánh. Thật vậy, nếu không có ý định đánh, thì không có tội nào hợp lý do nguyên nhân đó; nhưng do việc giơ lên không ổn định theo bản chất của nó, nên tội Ưng Đối Trị không phát sinh do nguyên nhân đó, và do hành động được thực hiện với tâm không trong sạch, nên không hợp lý để không có tội ở đây, nên đã được nói là tội Tác Ác, điều này cần được biết.

458.Pubbeti anantarasikkhāpade. Sesaṃ anantarasadisameva.
458.‘Trước đây,’ là trong điều học ngay trước. Phần còn lại tương tự như điều trước.

Talasattikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Giơ Tay.

6. Amūlakasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải Thích Điều Học về Tội Vô Căn Cứ

459. Chaṭṭhe ‘‘attaparittāṇaṃ karontā’’ti idaṃ na ca veramūlikā anuddhaṃsanāti dassanatthaṃ vuttaṃ. Anuddhaṃsanakkhaṇe pana kopacittameva uppajjati. Teneva ‘‘dukkhavedana’’nti vuttaṃ. Sesaṃ vuttanayameva.
459. Ở điều học thứ sáu, “trong khi đang tự bảo vệ,” được nói để chỉ ra rằng đó không phải là sự vu khống có nguồn gốc từ hận thù. Nhưng vào lúc vu khống, tâm tức giận chỉ nảy sinh. Do đó, đã được nói là “cảm thọ khổ.” Phần còn lại theo cách đã được nói.

Amūlakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Tội Vô Căn Cứ.

7. Kukkuccuppādanasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải Thích Điều Học về Việc Gây Hối Hận

464. Sattame upasampannassa aphāsukāmatā, kukkuccuppādananti dve aṅgāni.
464. Ở điều học thứ bảy, có hai chi phần là: có ý định làm cho một người đã thọ Cụ túc giới không thoải mái; và gây ra sự hối hận.

Kukkuccuppādanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Gây Hối Hận.

8. Upassutisikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải Thích Điều Học về Việc Nghe Lén

471. Aṭṭhame suyyatīti suti, vacanaṃ. Tassā samīpaṃ upassuti. Suyyati etthāti sutīti evañhi atthe gayhamāne savanaṭṭhānasamīpe aññasmiṃ assavanaṭṭhāne tiṭṭhatīti āpajjati. Aṭṭhakathāyañca upassuti-saddasseva atthaṃ dassetuṃ ‘‘yattha ṭhatvā’’tiādi vuttaṃ, na suti-saddamattassa.
471. Ở điều học thứ tám, cái được nghe là ‘suti,’ lời nói. Gần với nó là ‘upassuti’. Nơi mà người ta nghe là suti, nếu hiểu ý nghĩa như vậy, thì sẽ dẫn đến việc đứng ở một nơi không nghe khác gần nơi nghe. Và trong Chú giải, để chỉ ra ý nghĩa của chính từ upassuti, đã được nói: “nơi mà người ta đứng,” v.v., chứ không phải chỉ từ suti.

473.Ekaparicchedānīti kadāci akiriyato, kadāci kiriyato samuṭṭhānasāmaññena vuttaṃ. Upasampannena codanādhippāyo, savananti dve aṅgāni.
473.‘Có một sự phân định,’ được nói do sự tương đồng về sự khởi sanh, đôi khi từ sự không hành động, đôi khi từ sự hành động. Có hai chi phần là: có ý định chất vấn bởi một người đã thọ Cụ túc giới; và nghe.

Upassutisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Nghe Lén.

9. Khiyyanasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải Thích Điều Học về Việc Phê Phán

474. Navame dhammakammatā, jānanaṃ, chandaṃ datvā khiyyananti tīṇi aṅgāni.
474. Ở điều học thứ chín, có ba chi phần là: là một Tăng sự hợp pháp; biết điều đó; và phê phán sau khi đã đồng ý.

Khiyyanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Phê Phán.

10. Pakkamanasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải Thích Điều Học về Việc Bỏ Đi

481. Dasame vinicchayakathāya dhammikatā, taṃ ñatvā kammato paṭṭhāya ekasīmaṭṭhassa samānasaṃvāsikassa hatthapāsavijahananti dve aṅgāni.
481. Ở điều học thứ mười, có hai chi phần là: cuộc thảo luận để phân xử là hợp pháp; và biết điều đó mà rời khỏi tầm tay của một người sống chung trong cùng một ranh giới kể từ khi bắt đầu Tăng sự.

Pakkamanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Bỏ Đi.

11. Dubbalasikkhāpadavaṇṇanā

11. Giải Thích Điều Học về Y Kém Chất Lượng

484. Ekādasame upasampannassa dhammena laddhasammutitā, saṅghena saddhiṃ cīvaraṃ datvā khiyyitukāmatāya khiyyananti dve aṅgāni.
484. Ở điều học thứ mười một, có hai chi phần là: được một người đã thọ Cụ túc giới chấp thuận một cách hợp pháp; và phê phán với ý định phê phán sau khi đã cùng Tăng chúng cho y.

Dubbalasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Y Kém Chất Lượng.

489. Dvādasamaṃ vuttanayameva.
489. Điều thứ mười hai theo cách đã được nói.

Niṭṭhito sahadhammikavaggo aṭṭhamo.

Dứt Phẩm Đồng Phạm Hạnh Thứ Tám.

9. Rājavaggo

9. Phẩm Vua Chúa

1. Antepurasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải Thích Điều Học về Hậu Cung

499. Navamavaggassa paṭhame pāḷiyaṃ saṃsuddhagahaṇikoti ettha gahaṇīti gabbhāsayasaññito mātu kucchippadeso, purisantarasukkāsamphuṭṭhatāya saṃsuddhagahaṇiko. Abhisittakhattiyatā, ubhinnampi sayanigharato anikkhantatā, appaṭisaṃviditassa indakhīlātikkamoti tīṇi aṅgāni.
499. Ở điều học thứ nhất của phẩm thứ chín, trong Pāḷi, ‘người có bào thai trong sạch,’ ở đây, ‘gahaṇī’ là khu vực trong bụng mẹ được gọi là tử cung, là người có bào thai trong sạch do đã tiếp xúc với tinh dịch của người đàn ông khác. Có ba chi phần ở đây là: là vua đã được tấn phong; cả hai đều chưa ra khỏi nhà ngủ; và vượt qua ngưỡng cửa mà không được báo trước.

Antepurasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Hậu Cung.

2. Ratanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải Thích Điều Học về Bảo Vật

506. Dutiye āvasathassāti ettha antoārāme vā hotu aññattha vā, yattha katthaci attano vasanaṭṭhānaṃ āvasatho nāma. Chandenapi bhayenapīti vaḍḍhakiādīsu chandena, rājavallabhesu bhayena. Ākiṇṇamanussepi jāte…pe… āsaṅkantīti tasmiṃ nimmanussaṭṭhāne pacchā ākiṇṇamanusse jātepi visaritvā gamanakāle aññassa adiṭṭhattā tameva bhikkhuṃ āsaṅkanti. Patirūpaṃ nāma kappiyabhaṇḍe sayaṃ paṃsukūlaṃ gahetvā akappiyabhaṇḍe patirūpānaṃ upāsakādīnaṃ dassetvā cetiyādipuññe niyojanaṃ vā dāpetvā nirapekkhagamanaṃ vā. Samādapetvāti yācitvā. Parasantakatā, vissāsaggāhapaṃsukūlasaññānaṃ abhāvo, ananuññātakāraṇā uggahaṇādi cāti tīṇi aṅgāni.
506. Ở điều học thứ hai, ‘của một nơi ở,’ ở đây, dù ở trong tu viện hay ở nơi khác, bất cứ nơi nào mình ở đều được gọi là một nơi ở. ‘Bởi ý thích và bởi sự sợ hãi,’ là bởi ý thích đối với thợ mộc, v.v., bởi sự sợ hãi đối với những người thân cận của vua. ‘Ngay cả khi nơi đó đã có đông người… này khác… họ nghi ngờ,’ là ngay cả khi nơi không có người đó sau này đã có đông người, vào lúc ra đi sau khi đã quên, do không có ai khác nhìn thấy, họ chỉ nghi ngờ chính vị Tỳ-khưu đó. ‘Vật tương xứng,’ là đối với các vật dụng hợp lệ, tự mình lấy đồ phấn tảo, đối với các vật dụng không hợp lệ, thì chỉ cho các thiện nam tín nữ tương xứng và giao phó cho các công đức như xây tháp, v.v., hoặc cho đi và ra đi mà không luyến tiếc. ‘Sau khi đã xin,’ là sau khi đã yêu cầu. Có ba chi phần là: thuộc sở hữu của người khác; không có nhận thức là lấy đồ của người thân tín hoặc đồ phấn tảo; và lấy, v.v. mà không có lý do được phép.

Ratanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Bảo Vật.

3. Vikālagāmappavisanasikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải Thích Điều Học về Việc Vào Làng Sai Giờ

508. Tatiye pāḷiyaṃ bhayakathanti rājacorādibhayaṃ vā rogāmanussadubbhikkhakantārādibhayaṃ vā ārabbha pavattaṃ. Visikhākathanti suniviṭṭhādivīthikathaṃ. Kumbhaṭṭhānakathanti udakatitthakathaṃ, kumbhadāsīkathaṃ vā. Pubbapetakathanti atītañātikathaṃ. Nānattakathanti vuttāhi, vakkhamānāhi ca vimuttaṃ nānāsabhāvaṃ niratthakakathaṃ. Lokakkhāyikanti ‘‘ayaṃ loko kena nimmito’’tiādinā lokasabhāvakkhānavasena pavattanakathā. Evaṃ samuddakkhāyikā veditabbā. Iti bhavo iti abhavoti yaṃ vā taṃ vā niratthakakāraṇaṃ vatvā pavattitakathā itibhavābhavakathā. Ettha ca bhavo sassataṃ, vuḍḍhi, kāmasukhañcāti tividho, abhavo tabbiparītavasena. Iti imāya chabbidhāya itibhavābhavakathāya saddhiṃ dvattiṃsatiracchānakathā nāma honti. Atha vā pāḷiyaṃ sarūpato anāgatāpi araññapabbatanadīdīpakathā iti-saddena saṅgahetvā dvattiṃsatiracchānakathāti vuccanti. Iti vāti ettha iti-saddo pakāratthe. -saddo vikappatthe. Tasmā evaṃ pakāraṃ ito aññaṃ vā tādisaṃ niratthakakathaṃ kathetīti attho சைவமணி.
508. Ở điều học thứ ba, trong Pāḷi, ‘câu chuyện về sự sợ hãi,’ là câu chuyện được kể liên quan đến sự sợ hãi vua, trộm cướp, v.v. hoặc sự sợ hãi bệnh tật, phi nhân, nạn đói, hoang mạc, v.v. ‘Câu chuyện về đường phố,’ là câu chuyện về các con đường được xây dựng tốt, v.v. ‘Câu chuyện về nơi đặt chum nước,’ là câu chuyện về bến nước, hoặc câu chuyện về các nữ tỳ xách nước. ‘Câu chuyện về những người đã khuất,’ là câu chuyện về những người thân đã qua đời. ‘Câu chuyện về nhiều thứ khác nhau,’ là câu chuyện vô ích có nhiều bản chất khác nhau, khác với những gì đã được nói và sẽ được nói. ‘Truyện kể về thế gian,’ là câu chuyện được kể theo cách giải thích về bản chất của thế gian bằng câu “thế gian này được tạo ra bởi ai,” v.v. Tương tự, ‘truyện kể về biển cả’ cũng cần được hiểu. Đây là sự tồn tại, đây là sự không tồn tại, câu chuyện được kể bằng cách nói một lý do vô ích nào đó là ‘câu chuyện về sự tồn tại và không tồn tại.’ Ở đây, sự tồn tại có ba loại: thường hằng, thịnh vượng, và lạc thú của các dục; sự không tồn tại thì ngược lại. Cùng với sáu loại câu chuyện về sự tồn tại và không tồn tại này, có ba mươi hai loại câu chuyện thế gian. Hoặc, mặc dù không có trong Pāḷi một cách cụ thể, các câu chuyện về rừng, núi, sông, đảo cũng được bao gồm bằng từ “iti” và được gọi là ba mươi hai loại câu chuyện thế gian. ‘Hoặc như vậy,’ ở đây, từ ‘iti’ có nghĩa là loại. Từ ‘vā’ có nghĩa là lựa chọn. Do đó, cần hiểu ý nghĩa là kể một câu chuyện vô ích như vậy hoặc một câu chuyện tương tự khác.

512.Ussāhaṃ paṭippassambhetvā vihāraṃ gacchantāti ettha gāmūpacārato bahi nikkhante antarārāmādīnamupacāraṃ paviṭṭhe sandhāya vuttaṃ. Gāmūpacārabbhantare pana paṭipassaddhussāhānampi puna tameva vā aññaṃ vā gāmaṃ pavisitukāmatāya sati āpucchanakiccaṃ natthi. ‘‘Kulaghare vā…pe… gantabba’’nti idaṃ pana purebhattaṃ paviṭṭhānaṃ vikāle sañjāte vikāle gāmappavesassa āpucchitabbatāya vuttaṃ. Adinnādāne vuttanayenāti dutiyaleḍḍupātaṃ sandhāya vuttaṃ.
512.‘Sau khi đã dập tắt sự cố gắng và đi về tu viện,’ ở đây, được nói đến để chỉ việc đi vào khu vực gần của khu vực giữa các tu viện, v.v. sau khi đã ra khỏi khu vực gần của làng. Nhưng trong khu vực gần của làng, ngay cả những người đã dập tắt sự cố gắng, nếu có ý định vào lại chính ngôi làng đó hoặc một ngôi làng khác, thì không có việc gì phải hỏi. “Trong nhà của gia đình hoặc… này khác… phải đi,” điều này được nói do những người đã vào trước bữa ăn, khi đến giờ phi thời, thì việc vào làng vào giờ phi thời phải được hỏi. ‘Theo cách đã được nói trong tội trộm cắp,’ được nói đến để chỉ việc ném cục đất thứ hai.

515.Antarārāmantiādīsūti ettha ussavadivasādīsu manussehi gāme padakkhiṇaṃ kārentaṃ jinabimbādiṃ pūjetukāmehi vā rogavūpasamādiyatthaṃ manussehi yācitehi vā bhikkhūhi suppaṭicchannādividhiṃ akatvāpi vīthimajjheneva gāmaṃ padakkhiṇaṃ kātuṃ vaṭṭatīti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ anāpattivāre avuttattā, ‘‘maggā anokkamitvā…pe… pācittiya’’nti (kaṅkhā. aṭṭha. vikālagāmappavesanasikkhāpadavaṇṇanā) paṭikkhittattā ca. Vesāliṃ anupariyāyitvā parittaṃ karontenāpi ānandattherena suppaṭicchannatādiṃ akopenteneva, apaññatte vā sikkhāpade katanti daṭṭhabbaṃ. Keci pana ‘‘antarārāmādigāmantare ṭhitehi garuṭṭhānīyānaṃ paccuggamanānuggamanādivasena gāmavīthiṃ otarituṃ vaṭṭatī’’ti vadanti, tampi antaragharaṃ pavisantaṃ pati kātuṃ na vaṭṭati eva. Antarārāmādikappiyabhūmiṃ pana uddissa gacchantaṃ pati kātuṃ vaṭṭatīti khāyati, vīmaṃsitabbaṃ. Santaṃ bhikkhuṃ anāpucchanā , ananuññātakāraṇā vikāle gāmappavesoti dve aṅgāni.
515.‘Trong khu vực giữa các tu viện, v.v.,’ ở đây, các vị nói rằng, vào những ngày lễ hội, v.v., các Tỳ-khưu, do được những người muốn cúng dường tượng Phật, v.v. đang được rước kiệu quanh làng, hoặc do được người dân yêu cầu để cầu cho bệnh tật được tiêu tan, v.v., được phép đi rước kiệu quanh làng ngay giữa đường mà không cần phải che đậy kỹ lưỡng, v.v., điều đó không nên được chấp nhận vì không được nói trong phần không có tội, và vì đã bị bác bỏ bằng câu “không đi ra khỏi đường… này khác… tội Ưng Đối Trị” (kaṅkhā. aṭṭha. vikālagāmappavesanasikkhāpadavaṇṇanā). Cần phải hiểu rằng ngay cả trưởng lão Ānanda, khi đi quanh Vesāli và làm lễ trì chú, cũng đã làm điều đó mà không vi phạm quy định về che đậy kỹ lưỡng, v.v., hoặc đã làm khi điều học chưa được ban hành. Một số vị nói rằng “những người đứng ở giữa các tu viện, v.v. trong làng, được phép đi xuống đường làng để đi ra đón và tiễn những người đáng kính,” điều đó cũng không được phép làm đối với người đang đi vào trong nhà. Nhưng có vẻ như được phép làm đối với người đang đi đến một nơi hợp lệ như khu vực giữa các tu viện, v.v., điều này cần được xem xét. Có hai chi phần là: không hỏi một vị Tỳ-khưu đang có mặt; và vào làng sai giờ mà không có lý do được phép.

Vikālagāmappavisanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Việc Vào Làng Sai Giờ.

4. Sūcigharasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải Thích Điều Học về Hộp Kim

520. Catutthe pāḷiyaṃ vāsijaṭeti vāsidaṇḍake. Aṭṭhimayādisūcigharatā, karaṇakārāpanādivasena attano paṭilābhoti dve aṅgāni.
520. Ở điều học thứ tư, trong Pāḷi, ‘cán rìu,’ là cán của cây rìu. Có hai chi phần là: là hộp kim làm bằng xương, v.v.; và nhận được nó cho chính mình bằng cách làm hoặc sai người làm.

Sūcigharasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Hộp Kim.

5. Mañcapīṭhasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải Thích Điều Học về Giường Ghế

521. Pañcame pāḷiyaṃ āsayato, bhikkhave, moghapuriso veditabboti hīnajjhāsayavasena ayaṃ tucchapurisoti ñātabbo, hīnāya paccaye lolatāya puggalassa tucchatā ñātabbāti adhippāyo. Imasmiṃ sikkhāpade, ito paresu ca pañcasu attanā kārāpitassa paṭilābhe eva pācittiyaṃ. Paribhoge panassa, aññesañca dukkaṭameva. Pamāṇātikkantamañcapīṭhatā, attano karaṇakārāpanavasena paṭilābhoti dve aṅgāni.
521. Ở điều học thứ năm, trong Pāḷi, ‘này các Tỳ-khưu, một kẻ ngu si phải được biết qua ý định của nó,’ là phải được biết là một kẻ trống rỗng qua ý định thấp hèn, ý định là sự trống rỗng của một người phải được biết qua sự ham muốn các duyên thấp hèn. Trong điều học này, và trong năm điều học sau, tội Ưng Đối Trị chỉ xảy ra khi nhận được vật do chính mình sai làm. Nhưng đối với việc sử dụng nó, và đối với những người khác, chỉ có tội Tác Ác. Có hai chi phần là: giường ghế vượt quá kích thước; và nhận được nó bằng cách tự làm hoặc sai người làm.

Mañcapīṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Giường Ghế.

6. Tūlonaddhasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải Thích Điều Học về (Nệm) Nhồi Bông Gòn

526. Chaṭṭhe poṭakitūlanti tiṇagacchajātikānaṃ tūlaṃ. Sesaṃ vuttanayameva.
526. Ở điều học thứ sáu, ‘bông gòn từ cây,’ là bông gòn từ các loại cây cỏ. Phần còn lại theo cách đã được nói.

Tūlonaddhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về (Nệm) Nhồi Bông Gòn.

7. Nisīdanasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải Thích Điều Học về Tấm Lót Ngồi

531-536. Sattame nisīdanassa pamāṇātikkantatā, attano karaṇādinā paṭilābhoti dve aṅgāni.
531-536. Ở điều học thứ bảy, có hai chi phần là: tấm lót ngồi vượt quá kích thước; và nhận được nó bằng cách tự làm, v.v.

Nisīdanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt Phần Giải Thích Điều Học về Tấm Lót Ngồi.

537-547. Iminā nayena aṭṭhamanavamadasamesupi aṅgāni veditabbāni. Sesaṃ sabbattha suviññeyyamevāti.
537-547. Theo cách này, các chi phần trong các điều học thứ tám, thứ chín và thứ mười cũng cần được biết. Phần còn lại ở mọi nơi đều rất dễ hiểu.

Niṭṭhito rājavaggo navamo.

Dứt Phẩm Vua Chúa Thứ Chín.

Khuddakavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Dứt Phương Pháp Giải Thích Phần Nhỏ.

Exit mobile version