Phụ Chú Giải Tập Yếu Luật Tạng – 34. Luận giải về các điều luật hỗn hợp
34. Pakiṇṇakavinicchayakathā
34. Chuyện phân tích về các vấn đề tạp lục
1. Idāni pakiṇṇakakathā ca veditabbā. ‘‘Gaṇabhojane aññatra samayā pācittiya’’nti (pāci. 217) vuttaṃ gaṇabhojanaṃ (pāci. aṭṭha. 217-218) dvīhi ākārehi pasavati viññattito vā nimantanato vā. Kathaṃ viññattito pasavati? Cattāro bhikkhū ekato ṭhitā vā nisinnā vā upāsakaṃ disvā ‘‘amhākaṃ catunnampi bhattaṃ dehī’’ti vā viññāpeyyuṃ, pāṭekkaṃ vā passitvā ‘‘mayhaṃ dehi, mayhaṃ dehī’’ti evaṃ ekato vā nānāto vā viññāpetvā ekato vā gacchantu nānāto vā, bhattaṃ gahetvāpi ekato vā bhuñjantu nānāto vā. Sace ekato gaṇhanti, gaṇabhojanaṃ hoti, sabbesaṃ āpatti. Paṭiggahaṇameva hettha pamāṇaṃ. Evaṃ viññattito pasavati.
1. Giờ đây, cũng nên biết về chuyện tạp lục. Điều đã được nói: “Ưng Đối Trị trong trường hợp dùng bữa theo nhóm, ngoại trừ trường hợp hợp thời” (pāci. 217), việc dùng bữa theo nhóm (pāci. aṭṭha. 217-218) được phát sanh theo hai cách: do sự xin xỏ hoặc do sự thỉnh mời. Phát sanh do sự xin xỏ là như thế nào? Bốn vị Tỳ-khưu đang đứng chung hoặc ngồi chung với nhau, sau khi thấy một người cận sự nam, có thể ngỏ lời rằng: “Hãy cho vật thực đến cả bốn người chúng tôi,” hoặc sau khi gặp riêng từng người rồi nói rằng: “Hãy cho tôi, hãy cho tôi,” sau khi đã ngỏ lời chung với nhau hoặc riêng lẻ như thế, họ đi chung với nhau hoặc riêng lẻ, và sau khi đã nhận vật thực, họ dùng chung với nhau hoặc riêng lẻ. Nếu họ nhận chung với nhau thì trở thành việc dùng bữa theo nhóm, tất cả đều phạm tội. Chính việc nhận lãnh ở đây là tiêu chuẩn. Việc dùng bữa theo nhóm phát sanh do sự xin xỏ là như vậy.
Kathaṃ nimantanato pasavati? Cattāro bhikkhū upasaṅkamitvā ‘‘tumhe, bhante, odanena nimantemi, odanaṃ me gaṇhatha ākaṅkhatha oloketha adhivāsetha paṭimānethā’’ti evaṃ yena kenaci vevacanena vā bhāsantarena vā pañcannaṃ bhojanānaṃ nāmaṃ gahetvā nimanteti. Evaṃ ekato nimantitā paricchinnakālavasena ajjatanāya vā svātanāya vā ekato gacchanti, ekato gaṇhanti, ekato bhuñjanti, gaṇabhojanaṃ hoti, sabbesaṃ āpatti. Ekato nimantitā ekato vā nānāto vā gacchanti, ekato gaṇhanti, ekato vā nānāto vā bhuñjanti, āpattiyeva. Ekato nimantitā ekato vā nānāto vā gacchanti, nānāto gaṇhanti, ekato vā nānāto vā bhuñjanti, anāpatti. Cattāri pariveṇāni vā vihāre vā gantvā nānāto nimantitā, ekaṭṭhāne ṭhitesuyeva vā eko puttena eko pitarāti evampi nānāto nimantitā ekato vā nānāto vā gacchantu, ekato vā nānāto vā bhuñjantu, sace ekato gaṇhanti, gaṇabhojanaṃ hoti, sabbesaṃ āpatti. Evaṃ tāva nimantanato pasavati.
Phát sanh do sự thỉnh mời là như thế nào? Sau khi đi đến gần bốn vị Tỳ-khưu, người ấy thỉnh mời bằng cách nêu lên tên của năm loại vật thực bằng bất cứ từ đồng nghĩa nào hoặc bằng ngôn ngữ khác như vầy: “Bạch các ngài, con xin thỉnh mời các ngài dùng cơm, xin các ngài hãy nhận cơm của con, hãy mong đợi, hãy để mắt đến, hãy nhận lời, hãy vui lòng nhận.” Được thỉnh mời chung với nhau như thế, do bởi thời gian đã được quy định cho ngày hôm nay hoặc cho ngày mai, họ đi chung với nhau, nhận chung với nhau, dùng chung với nhau, thì trở thành việc dùng bữa theo nhóm, tất cả đều phạm tội. Được thỉnh mời chung với nhau, họ đi chung với nhau hoặc riêng lẻ, nhận chung với nhau, dùng chung với nhau hoặc riêng lẻ, vẫn phạm tội. Được thỉnh mời chung với nhau, họ đi chung với nhau hoặc riêng lẻ, nhận riêng lẻ, dùng chung với nhau hoặc riêng lẻ, thì không phạm tội. Sau khi đi đến bốn trú xá hoặc các ngôi tự viện và được thỉnh mời riêng lẻ, hoặc ngay cả khi đang đứng ở một nơi mà người này được thỉnh mời bởi người con, người kia bởi người cha, dù được thỉnh mời riêng lẻ như vậy, họ đi chung với nhau hoặc riêng lẻ, dùng chung với nhau hoặc riêng lẻ, nếu họ nhận chung với nhau, thì trở thành việc dùng bữa theo nhóm, tất cả đều phạm tội. Việc dùng bữa theo nhóm phát sanh do sự thỉnh mời là như vậy.
Tasmā sace koci saṅghabhattaṃ kattukāmena nimantanatthāya pesito vihāraṃ āgamma ‘‘bhante, sve amhākaṃ ghare bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti avatvā ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti vā ‘‘saṅghabhattaṃ gaṇhathā’’ti vā ‘‘saṅgho bhattaṃ gaṇhatū’’ti vā vadati, bhattuddesakena paṇḍitena bhavitabbaṃ. Nimantanikā gaṇabhojanato, piṇḍapātikā ca dhutaṅgabhedato mocetabbā. Kathaṃ? Evaṃ tāva vattabbaṃ ‘‘sve na sakkā upāsakā’’ti. Punadivase, bhanteti. Punadivasepi na sakkāti. Evaṃ yāva aḍḍhamāsampi haritvā puna playable ‘‘kiṃ tvaṃ avacā’’ti. Sace punapi ‘‘saṅghabhattaṃ gaṇhathā’’ti vadati, tato ‘‘imaṃ tāva upāsaka pupphaṃ kappiyaṃ karohi, imaṃ tiṇa’’nti evaṃ vikkhepaṃ katvā puna ‘‘tvaṃ kiṃ kathayitthā’’ti pucchitabbo. Sace punapi tatheva vadati, ‘‘āvuso, tvaṃ piṇḍapātike vā mahallakatthere vā na lacchasi, sāmaṇere lacchasī’’ti playable. ‘‘Nanu, bhante, asukasmiṃ asukasmiñca gāme bhadante bhojesuṃ, ahaṃ kasmā na labhāmī’’ti ca vutte te nimantituṃ jānanti, tvaṃ na jānāsīti. Te kathaṃ nimantesuṃ, bhanteti? Te evamāhaṃsu ‘‘amhākaṃ, bhante, bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti. Sace sopi tatheva vadati, vaṭṭati.
Do đó, nếu có người nào được phái đi để thỉnh mời do bởi người có ý muốn làm vật thực dâng cúng đến chư Tăng, sau khi đến tự viện, người ấy không nói rằng: “Bạch ngài, ngày mai xin hãy nhận vật thực khất thực ở nhà của chúng con” mà nói rằng: “Xin hãy nhận vật thực” hoặc “Xin hãy nhận vật thực của chư Tăng” hoặc “Mong chư Tăng hãy nhận vật thực,” thì vị Tỳ-khưu phân phát vật thực cần phải là người có trí. Những vị được thỉnh mời cần được giải thoát khỏi (tội) dùng bữa theo nhóm, và những vị đi khất thực cần được giải thoát khỏi sự phá vỡ hạnh đầu đà. Bằng cách nào? Trước hết nên nói như vầy: “Này người cận sự nam, ngày mai không thể được.” (Nếu người ấy nói:) “Bạch ngài, vậy thì ngày kia.” (Và được đáp lại:) “Ngày kia cũng không thể được.” Sau khi kéo dài đến nửa tháng như thế, lại nên hỏi rằng: “Ngươi đã nói gì?” Nếu người ấy lại nói rằng: “Xin hãy nhận vật thực của chư Tăng,” sau đó nên làm cho người ấy xao lãng bằng cách nói rằng: “Này người cận sự nam, hãy làm cho bông hoa này thành vật thích hợp, cả cọng cỏ này nữa,” rồi nên hỏi lại: “Ngươi đã nói gì?” Nếu người ấy vẫn nói như thế, nên nói rằng: “Này đạo hữu, ngươi sẽ không gặp được các vị đi khất thực hay các vị trưởng lão lớn tuổi đâu, ngươi sẽ gặp các vị Sa-di thôi.” Khi người ấy nói: “Thưa ngài, chẳng phải họ đã dâng bữa ăn lên các bậc đáng kính ở làng này làng kia sao, tại sao con lại không được?” thì nên nói rằng: “Họ biết cách thỉnh mời, còn ngươi thì không.” (Khi người ấy hỏi:) “Bạch ngài, họ đã thỉnh mời như thế nào?” (thì nên trả lời:) “Họ đã nói như vầy: ‘Bạch ngài, xin hãy nhận vật thực khất thực của chúng con.’” Nếu người ấy cũng nói như vậy thì được phép.
Atha punapi ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti vadati, ‘‘na dāni tvaṃ, āvuso, bahū bhikkhū lacchasi, tayo eva, āvuso, lacchasī’’ti playable. ‘‘Nanu, bhante, amukasmiñca amukasmiñca gāme sakalaṃ bhikkhusaṅghaṃ bhojesuṃ, ahaṃ kasmā na labhāmī’’ti. ‘‘Tvaṃ nimantituṃ na jānāsī’’ti. Te kathaṃ nimantesuṃ, bhanteti? Te evamāhaṃsu ‘‘amhākaṃ, bhante, bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti. Sace sopi tatheva ‘‘bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti vadati, vaṭṭati. Atha punapi ‘‘bhattamevā’’ti vadati, tato playable – ‘‘gaccha tvaṃ, natthamhākaṃ tava bhattenattho, nibaddhagocaro esa amhākaṃ, mayamettha piṇḍāya carissāmā’’ti. Taṃ ‘‘caratha, bhante’’ti vatvā āgataṃ pucchanti ‘‘kiṃ bho laddhā bhikkhū’’ti? Kiṃ etena, bahu ettha vattabbaṃ, therā ‘‘sve piṇḍāya carissāmā’’ti āhaṃsu, mā dāni tumhe pamajjitthāti. Dutiyadivase cetiyavattaṃ katvā ṭhitabhikkhū saṅghattherena vattabbā ‘‘āvuso, dhuragāme saṅghabhattaṃ, apaṇḍitamanusso pana agamāsi, gacchāma, dhuragāme piṇḍāya carissāmā’’ti. Bhikkhūhi therassa vacanaṃ kātabbaṃ, na dubbacehi bhavitabbaṃ, gāmadvāre aṭṭhatvāva piṇḍāya caritabbaṃ, tesu pattāni gahetvā nisīdāpetvā bhojentesu bhuñjitabbaṃ.
Nếu người ấy lại nói: “Xin hãy nhận vật thực,” thì nên nói rằng: “Này đạo hữu, ngươi sẽ không gặp được nhiều Tỳ-khưu đâu, này đạo hữu, ngươi sẽ chỉ gặp được ba vị thôi.” (Người ấy lại nói:) “Thưa ngài, chẳng phải ở làng này làng kia họ đã dâng bữa ăn lên toàn thể Tăng chúng Tỳ-khưu sao, tại sao con lại không được?” (Thì nên nói:) “Ngươi không biết cách thỉnh mời.” (Người ấy hỏi:) “Bạch ngài, họ đã thỉnh mời như thế nào?” (Thì nên trả lời:) “Họ đã nói như vầy: ‘Bạch ngài, xin hãy nhận vật thực khất thực của chúng con.’” Nếu người ấy cũng nói như vậy: “Xin hãy nhận vật thực khất thực” thì được phép. Nếu người ấy vẫn cứ nói: “Chỉ vật thực thôi,” thì nên nói rằng: “Ngươi hãy đi đi, chúng ta không cần đến vật thực của ngươi, nơi khất thực của chúng ta đã được cố định, chúng ta sẽ đi khất thực ở đây.” Sau khi nói: “Bạch các ngài, xin các ngài cứ đi,” khi người ấy trở về, người ta hỏi rằng: “Này ông, có gặp được các vị Tỳ-khưu không?” (Người ấy đáp:) “Còn nói gì đến chuyện này nữa, có nhiều điều phải nói ở đây lắm, các vị trưởng lão đã nói rằng: ‘Ngày mai chúng tôi sẽ đi khất thực,’ vậy các người đừng có lơ là.” Vào ngày thứ hai, sau khi đã làm xong phận sự ở bảo tháp, vị Tăng trưởng lão nên nói với các vị Tỳ-khưu đang đứng đó rằng: “Này chư đạo hữu, có vật thực của chư Tăng ở làng đầu tiên, nhưng người đến lại là người không có trí. Chúng ta hãy đi, chúng ta sẽ đi khất thực ở làng đầu tiên.” Các vị Tỳ-khưu nên làm theo lời của vị trưởng lão, không nên là người khó bảo, nên đứng ở cửa làng rồi đi khất thực, khi những người kia nhận lấy bát rồi cho ngồi xuống và dâng vật thực thì nên dùng.
Sace āsanasālāya bhattaṃ ṭhapetvā rathikāsu āhiṇḍantā ārocenti ‘‘āsanasālāyaṃ, bhante, bhattaṃ gaṇhathā’’ti, na vaṭṭati. Atha pana ‘‘bhattaṃ ādāya tattha tattha gantvā bhattaṃ gaṇhathā’’ti vadanti, paṭikacceva vā vihāraṃ atiharitvā patirūpe ṭhāne ṭhapetvā āgatāgatānaṃ denti, ayaṃ abhihaṭabhikkhā nāma vaṭṭati. Sace pana bhattasālāya dānaṃ sajjetvā taṃ taṃ pariveṇaṃ pahiṇanti ‘‘bhattasālāya bhattaṃ gaṇhathā’’ti, vaṭṭati. Ye pana manussā piṇḍacārike bhikkhū disvā āsanasālaṃ sammajjitvā tattha nisīdāpetvā bhojenti, na te paṭikkhipitabbā. Ye pana gāme bhikkhaṃ alabhitvā gāmato nikkhamante bhikkhū disvā ‘‘bhante, bhattaṃ gaṇhathā’’ti vadanti, te paṭikkhipitabbā, na nivattitabbaṃ. Sace ‘‘nivattatha, bhante, bhattaṃ gaṇhathā’’ti vadanti, ‘‘nivattathā’’ti vuttapade nivattituṃ vaṭṭati. ‘‘Nivattatha, bhante, ghare bhattaṃ kataṃ, gāme bhattaṃ kata’’nti vadanti, gehe ca gāme ca bhattaṃ nāma yassa kassaci hoti, nivattituṃ vaṭṭati. ‘‘Nivattatha bhattaṃ gaṇhathā’’ti sambandhaṃ katvā vadanti, nivattituṃ na vaṭṭati. Āsanasālāto piṇḍāya carituṃ nikkhamante disvā ‘‘nisīdatha, bhante, bhattaṃ gaṇhathā’’ti vuttepi eseva nayo.
Nếu họ đặt vật thực ở nhà nghỉ rồi đi loanh quanh trên các con đường thông báo rằng: “Bạch các ngài, xin hãy nhận vật thực ở nhà nghỉ,” thì không được phép. Nhưng nếu họ nói rằng: “Hãy mang vật thực đi đến nơi này nơi kia và nhận vật thực,” hoặc họ mang trước đến tự viện, đặt ở một nơi thích hợp, rồi cúng dường cho những vị đến sau, đây được gọi là vật thực khất thực được mang đến, thì được phép. Còn nếu họ chuẩn bị vật cúng dường ở trai đường rồi phái người đến từng trú xá nói rằng: “Xin hãy nhận vật thực ở trai đường,” thì được phép. Những người nào thấy các vị Tỳ-khưu đi khất thực, quét dọn nhà nghỉ, cho các vị ấy ngồi xuống rồi dâng bữa ăn, thì không nên từ chối họ. Những người nào thấy các vị Tỳ-khưu không nhận được vật thực khất thực trong làng và đang đi ra khỏi làng, rồi nói rằng: “Bạch các ngài, xin hãy nhận vật thực,” thì nên từ chối họ, không nên quay lại. Nếu họ nói rằng: “Bạch các ngài, xin hãy quay lại, hãy nhận vật thực,” thì được phép quay lại khi nghe lời nói “hãy quay lại.” Nếu họ nói: “Bạch các ngài, xin hãy quay lại, ở nhà có làm vật thực, ở làng có làm vật thực,” thì vật thực ở nhà và ở làng là của bất kỳ ai, nên được phép quay lại. Nếu họ nói một cách liên kết: “Xin hãy quay lại nhận vật thực,” thì không được phép quay lại. Khi thấy các vị Tỳ-khưu đi ra khỏi nhà nghỉ để đi khất thực, nếu có người nói: “Bạch các ngài, xin hãy ngồi xuống, hãy nhận vật thực,” thì trường hợp này cũng tương tự.
‘‘Aññatra samayā’’ti vacanato gilānasamayo cīvaradānasamayo cīvarakārasamayo addhānagamanasamayo nāvābhiruhanasamayo mahāsamayo samaṇabhattasamayoti etesu sattasu samayesu aññatarasmiṃ anāpatti. Tasmā yathā mahācammassa parato maṃsaṃ dissati, evaṃ antamaso pādāpi phālitā honti, vālikāya vā sakkharāya vā pahaṭamatte dukkhaṃ uppādenti, na sakkā ca hoti antogāme piṇḍāya carituṃ, īdise gelaññe gilānasamayoti bhuñjitabbaṃ, na lesakappiyaṃ kātabbaṃ.
Theo câu “Ngoại trừ trường hợp hợp thời,” trong bảy trường hợp này, tức là trường hợp bệnh hoạn, trường hợp cúng dường y, trường hợp làm y, trường hợp đi đường xa, trường hợp lên thuyền, trường hợp đại chúng, trường hợp vật thực của sa-môn, nếu là một trong các trường hợp đó thì không phạm tội. Do đó, giống như có thể thấy thịt ở phía sau tấm da lớn, cũng vậy, nếu chân bị nứt nẻ, dù chỉ bị cát hay sỏi va vào cũng gây đau đớn, và không thể đi khất thực trong làng được, trong tình trạng bệnh hoạn như vậy, nên dùng bữa với ý nghĩ là “trường hợp bệnh hoạn,” không nên làm cho qua loa lấy lệ.
Cīvaradānasamayo nāma anatthate kathine vassānassa pacchimo māso, atthate kathine pañcamāsā. Etthantare ‘‘cīvaradānasamayo’’ti bhuñjitabbaṃ. Cīvare kariyamāne cīvarakārasamayoti bhuñjitabbaṃ. Yadā hi sāṭakañca suttañca labhitvā cīvaraṃ karonti, ayaṃ cīvarakārasamayo nāma, visuṃ cīvarakārasamayo nāma natthi, tasmā yo tattha cīvare kattabbaṃ yaṃ kiñci kammaṃ karoti, mahāpaccariyañhi ‘‘antamaso sūcivedhako’’tipi vuttaṃ. Tena ‘‘cīvarakārasamayo’’ti bhuñjitabbaṃ. Kurundiyaṃ pana vitthāreneva vuttaṃ ‘‘yo cīvaraṃ vicāreti chindati, moghasuttakaṃ ṭhapeti, āgantukapattaṃ ṭhapeti, paccāgataṃ sibbeti, āgantukapattaṃ bandhati, anuvātaṃ chindati ghaṭeti āropeti, tattha paccāgataṃ sibbeti, suttaṃ karoti valeti, pipphalikaṃ niseti, parivattanaṃ karoti, sabbopi cīvaraṃ karotiyevāti vuccati. Yo pana samīpe nisinno jātakaṃ vā dhammapadaṃ vā katheti, ayaṃ na cīvarakārako, etaṃ ṭhapetvā sesānaṃ gaṇabhojane anāpattī’’ti.
Trường hợp cúng dường y là tháng cuối cùng của mùa an cư nếu kaṭhina chưa được trải, và là năm tháng nếu kaṭhina đã được trải. Trong khoảng thời gian này, nên dùng bữa với ý nghĩ là “trường hợp cúng dường y.” Khi đang làm y, nên dùng bữa với ý nghĩ là “trường hợp làm y.” Khi nhận được vải và chỉ rồi làm y, đây được gọi là trường hợp làm y, không có trường hợp làm y nào riêng biệt cả. Do đó, người nào làm bất cứ công việc gì liên quan đến việc làm y ở đó, trong Mahāpaccariya cũng có nói rằng: “cho đến cả người xỏ kim,” thì người ấy nên dùng bữa với ý nghĩ là “trường hợp làm y.” Nhưng trong Kurundī, đã được nói một cách chi tiết rằng: “Người nào xem xét y, cắt y, đặt chỉ may thô, đặt miếng vá cho người mới đến, may lại miếng vá đã được trả lại, buộc miếng vá cho người mới đến, cắt, ghép, và gắn thêm phần viền, may lại miếng vá đã được trả lại ở đó, làm chỉ, xe chỉ, nhuộm bằng quả pipphalika, làm việc lật y, tất cả đều được gọi là đang làm y. Nhưng người nào ngồi gần bên kể chuyện Bổn Sanh hay Kinh Pháp Cú, người này không phải là người làm y. Ngoại trừ người này, những người còn lại không phạm tội khi dùng bữa theo nhóm.”
Addhānagamanasamaye antamaso aḍḍhayojanaṃ gantukāmenapi ‘‘aḍḍhayojanaṃ gacchissāmī’’ti bhuñjitabbaṃ, gacchantena bhuñjitabbaṃ, gatena ekadivasaṃ bhuñjitabbaṃ.
Trong trường hợp đi đường xa, người có ý định đi ít nhất nửa do-tuần cũng nên dùng bữa với ý nghĩ: “Tôi sẽ đi nửa do-tuần,” người đang đi nên dùng bữa, và sau khi đã đến nơi, nên dùng bữa trong một ngày.
Nāvābhiruhanasamaye ‘‘nāvaṃ abhiruhissāmī’’ti bhuñjitabbaṃ, āruḷhena icchitaṭṭhānaṃ gantvāpi yāva na orohati, tāva bhuñjitabbaṃ, oruḷhena ekadivasaṃ bhuñjitabbaṃ.
Trong trường hợp lên thuyền, nên dùng bữa với ý nghĩ: “Tôi sẽ lên thuyền,” sau khi đã lên, dù đã đến nơi mong muốn, chừng nào chưa xuống thì vẫn nên dùng bữa, sau khi đã xuống, nên dùng bữa trong một ngày.
Mahāsamayo nāma yattha dve tayo bhikkhū piṇḍāya caritvā yāpenti, antamaso catutthepi āgate na yāpenti, ayaṃ mahāsamayo. Yattha pana sataṃ vā sahassaṃ vā sannipatanti, tattha vattabbameva natthi, tasmā tādise kāle ‘‘mahāsamayo’’ti adhiṭṭhahitvā bhuñjitabbaṃ.
Trường hợp đại chúng là nơi mà hai hay ba vị Tỳ-khưu đi khất thực cũng đủ sống, nhưng khi có vị thứ tư đến thì không đủ, đây là trường hợp đại chúng. Còn ở nơi mà có một trăm hay một ngàn vị tụ họp thì không cần phải nói. Do đó, trong thời điểm như vậy, nên phát nguyện “đây là trường hợp đại chúng” rồi dùng bữa.
Samaṇabhattasamayo nāma yo koci paribbājakasamāpanno bhattaṃ karoti, ayaṃ samaṇabhattasamayova. Tasmā sahadhammikesu vā titthiyesu vā aññatarena yena kenaci kate bhatte ‘‘samaṇabhattasamayo’’ti bhuñjitabbaṃ. ‘‘Anāpatti samaye, dve tayo ekato bhuñjanti, piṇḍāya caritvā ekato sannipatitvā bhuñjanti, niccabhattaṃ, salākabhattaṃ, pakkhikaṃ, uposathikaṃ, pāṭipadikaṃ, pañca bhojanāni ṭhapetvā sabbattha anāpattī’’ti (pāci. 220) yepi akappiyanimantanaṃ sādiyitvā dve vā tayo vā ekato gahetvā bhuñjanti, tesampi anāpatti.
Trường hợp vật thực của sa-môn là khi có bất kỳ ai thuộc giới du sĩ làm vật thực, đây chính là trường hợp vật thực của sa-môn. Do đó, khi có vật thực do bất kỳ ai trong các vị đồng pháp hay các vị ngoại đạo làm, nên dùng bữa với ý nghĩ là “trường hợp vật thực của sa-môn.” “Không phạm tội trong trường hợp hợp thời; hai, ba vị dùng bữa chung; sau khi đi khất thực, tụ họp lại rồi dùng bữa chung; vật thực thường xuyên, vật thực theo thẻ, vật thực theo nửa tháng, vật thực vào ngày Bố-tát, vật thực vào ngày đầu tháng; ngoại trừ năm loại vật thực, trong tất cả các trường hợp khác đều không phạm tội” (pāci. 220). Ngay cả những vị đã chấp nhận lời thỉnh mời không hợp lệ, rồi hai hoặc ba vị nhận chung và dùng chung, các vị ấy cũng không phạm tội.
Tattha animantitacatutthaṃ piṇḍapātikacatutthaṃ anupasampannacatutthaṃ pattacatutthaṃ gilānacatutthanti pañcannaṃ catutthānaṃ vasena vinicchayo veditabbo. Kathaṃ? Idhekacco cattāro bhikkhū ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti nimanteti. Tesu tayo gatā, eko na gato. Upāsako ‘‘eko, bhante, thero kuhi’’nti pucchati. Nāgato upāsakāti. So aññaṃ taṃkhaṇappattaṃ kañci ‘‘ehi, bhante’’ti gharaṃ pavesetvā catunnampi bhattaṃ deti, sabbesaṃ anāpatti. Kasmā? Gaṇapūrakassa animantitattā. Tayo eva hi tattha nimantitā gaṇhiṃsu, tehi gaṇo na pūrati, gaṇapūrako ca animantito, tena gaṇo bhijjatīti. Etaṃ animantitacatutthaṃ.
Ở đó, nên biết sự phân tích dựa trên năm trường hợp có người thứ tư: người thứ tư không được mời, người thứ tư đi khất thực, người thứ tư chưa thọ Cụ túc giới, người thứ tư chỉ có bát, và người thứ tư bị bệnh. Như thế nào? Ở đây, có người thỉnh mời bốn vị Tỳ-khưu rằng: “Xin hãy nhận vật thực.” Trong số đó, ba vị đã đi, một vị không đi. Người cận sự nam hỏi: “Bạch ngài, vị trưởng lão kia ở đâu?” (Họ đáp:) “Này người cận sự nam, vị ấy không đến.” Người đó mời một vị nào đó vừa mới đến vào nhà và nói: “Xin mời ngài vào,” rồi dâng vật thực cho cả bốn vị, tất cả đều không phạm tội. Tại sao? Vì người bổ sung cho đủ nhóm không được thỉnh mời. Ở đó, chỉ có ba vị được thỉnh mời đã nhận, và họ không đủ để tạo thành một nhóm, còn người bổ sung cho đủ nhóm thì không được mời, do đó nhóm bị phá vỡ. Đây là người thứ tư không được mời.
Piṇḍapātikacatutthe nimantanakāle eko piṇḍapātiko hoti, so nādhivāseti, gamanavelāyaṃ pana ‘‘ehi bhante’’ti vutte anadhivāsitattā anāgacchantampi ‘‘etha bhikkhaṃ lacchathā’’ti gahetvā gacchanti, so taṃ gaṇaṃ bhindati, tasmā sabbesaṃ anāpatti.
Trong trường hợp người thứ tư đi khất thực, vào lúc thỉnh mời, có một vị đi khất thực, vị ấy không nhận lời. Nhưng vào lúc đi, khi được nói: “Xin mời ngài đi,” dù vị ấy không đến vì không nhận lời, họ vẫn dẫn vị ấy đi và nói: “Hãy đến, quý vị sẽ nhận được vật thực khất thực,” vị ấy phá vỡ nhóm đó, do đó tất cả đều không phạm tội.
Anupasampannacatutthe sāmaṇerena saddhiṃ nimantitā honti, sopi gaṇaṃ bhindati.
Trong trường hợp người thứ tư chưa thọ Cụ túc giới, họ được thỉnh mời cùng với một vị Sa-di, vị ấy cũng phá vỡ nhóm.
Pattacatutthe eko sayaṃ āgantvā pattaṃ peseti, evampi gaṇo bhijjati, tasmā sabbesaṃ anāpatti.
Trong trường hợp người thứ tư chỉ có bát, một vị tự mình đến và gởi bát đi, nhóm cũng bị phá vỡ như vậy, do đó tất cả đều không phạm tội.
Gilānacatutthe gilānena saddhiṃ nimantitā honti, tattha gilānasseva anāpatti, itaresaṃ pana gaṇapūrako hoti. Na hi gilānena gaṇo bhijjati, tasmā tesaṃ āpatti. Mahāpaccariyaṃ pana avisesena vuttaṃ ‘‘samayaladdhako sayameva muccati, sesānaṃ gaṇapūrakattā āpattikaro hotī’’ti. Tasmā cīvaradānasamayaladdhakādīnampi vasena catukkāni veditabbāni.
Trong trường hợp người thứ tư bị bệnh, họ được thỉnh mời cùng với một người bệnh, ở đó chỉ người bệnh không phạm tội, còn những người khác thì vị ấy lại là người bổ sung cho đủ nhóm. Nhóm không bị phá vỡ bởi người bệnh, do đó họ phạm tội. Nhưng trong Mahāpaccariyaṁ, đã được nói một cách không phân biệt rằng: “Chỉ người được hưởng trường hợp hợp thời mới được miễn trừ, còn những người khác thì bị phạm tội vì là người bổ sung cho đủ nhóm.” Do đó, nên biết các nhóm bốn người cũng dựa vào những người được hưởng trường hợp cúng dường y v.v.
Sace pana adhivāsetvā gatesupi catūsu janesu eko paṇḍito bhikkhu ‘‘ahaṃ tumhākaṃ gaṇaṃ bhindissāmi, nimantanaṃ sādiyathā’’ti vatvā yāgukhajjakāvasāne bhattatthāya pattaṃ gaṇhantānaṃ adatvā ‘‘ime tāva bhikkhū bhojetvā vissajjetha, ahaṃ pacchā anumodanaṃ katvā gamissāmī’’ti nisinno, tesu bhutvā gatesu ‘‘detha, bhante, patta’’nti upāsakena pattaṃ gahetvā bhatte dinne bhuñjitvā anumodanaṃ katvā gacchati, sabbesaṃ anāpatti. Pañcannañhi bhojanānaṃyeva vasena gaṇabhojane visaṅketaṃ natthi, odanena nimantetvā kummāsaṃ gaṇhantāpi āpajjanti, tāni ca tehi ekato na gahitāni, yāguādīhi pana visaṅketaṃ hoti, tāni tehi ekato gahitānīti evaṃ eko paṇḍito aññesampi anāpattiṃ karoti. Niccabhattanti dhuvabhattaṃ vuccati, ‘‘niccabhattaṃ gaṇhathā’’ti vadanti, bahūnaṃ ekato gahetuṃ vaṭṭati. Salākabhattādīsupi eseva nayo.
Nhưng nếu trong bốn người đã nhận lời và đã đến, có một vị Tỳ-khưu có trí nói rằng: “Tôi sẽ phá vỡ nhóm của các vị, hãy chấp nhận lời thỉnh mời,” rồi vào cuối buổi ăn cháo và thức ăn cứng, khi họ đang nhận bát để dùng vật thực, vị ấy không nhận mà ngồi đó nói rằng: “Hãy cho các Tỳ-khưu này ăn rồi cho họ đi, tôi sẽ tùy hỷ công đức sau rồi sẽ đi.” Khi họ đã ăn xong và đi rồi, người cận sự nam nhận bát và dâng vật thực, vị ấy ăn xong, tùy hỷ công đức rồi đi, tất cả đều không phạm tội. Vì đối với năm loại vật thực, không có sự sai khác trong việc dùng bữa theo nhóm, dù được mời dùng cơm mà nhận cháo đặc cũng phạm tội, và những thứ đó họ không nhận chung với nhau. Nhưng đối với cháo v.v. thì có sự sai khác, những thứ đó họ đã nhận chung với nhau. Như vậy, một người có trí có thể làm cho những người khác cũng không phạm tội. Vật thực thường xuyên được gọi là vật thực cố định, nếu họ nói: “Hãy nhận vật thực thường xuyên,” thì nhiều người nhận chung cũng được phép. Trong các trường hợp vật thực theo thẻ v.v. cũng tương tự.
2. ‘‘Paramparabhojane aññatra samayā pācittiya’’nti (pāci. 222-223, 225) vuttaṃ paramparabhojanaṃ pana nimantanatoyeva pasavati. Yo hi ‘‘pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarena bhojanena bhattaṃ gaṇhathā’’tiādinā nimantito taṃ ṭhapetvā aññaṃ pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarabhojanaṃ bhuñjati, tassetaṃ bhojanaṃ ‘‘paramparabhojana’’nti vuccati. Evaṃ bhuñjantassa ṭhapetvā gilānasamayaṃ cīvaradānasamayaṃ cīvarakārasamayañca aññasmiṃ samaye pācittiyaṃ vuttaṃ, tasmā nimantanapaṭipāṭiyāva bhuñjitabbaṃ, na uppaṭipāṭiyā.
2. Điều đã được nói: “Ưng Đối Trị trong trường hợp dùng bữa liên tiếp, ngoại trừ trường hợp hợp thời” (pāci. 222-223, 225), việc dùng bữa liên tiếp chỉ phát sanh từ việc thỉnh mời. Người nào đã được thỉnh mời bằng một trong năm loại vật thực như “hãy nhận vật thực” v.v., rồi bỏ qua bữa đó mà dùng một bữa ăn khác trong năm loại vật thực, bữa ăn đó của vị ấy được gọi là “bữa ăn liên tiếp.” Đối với người dùng bữa như vậy, ngoại trừ trường hợp bệnh hoạn, trường hợp cúng dường y, và trường hợp làm y, trong các trường hợp khác đã được quy định là phạm tội Ưng Đối Trị, do đó nên dùng bữa theo đúng thứ tự thỉnh mời, không phải theo thứ tự ngược lại.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, vikappetvā paramparabhojanaṃ bhuñjitu’’nti (pāci. 226) perinatal paṭhamanimantanaṃ aññassa vikappetvāpi paribhuñjituṃ vaṭṭati. Ayaṃ (pāci. aṭṭha. 226 ādayo) vikappanā nāma sammukhāpi parammukhāpi vaṭṭati. Sammukhā disvā ‘‘mayhaṃ bhattapaccāsaṃ tuyhaṃ vikappemī’’ti vā ‘‘dammī’’ti vā vatvā bhuñjitabbaṃ, adisvā pañcasu sahadhammikesu yassa kassaci nāmaṃ gahetvā ‘‘mayhaṃ bhattapaccāsaṃ itthannāmassa vikappemī’’ti vā ‘‘dammī’’ti vā vatvā bhuñjitabbaṃ. Dve tīṇi nimantanāni pana ekasmiṃ patte pakkhipitvā missetvā ekaṃ katvā bhuñjituṃ vaṭṭati. ‘‘Anāpatti dve tayo nimantane ekato bhuñjatī’’ti (pāci. 229) hi vuttaṃ. Sace dve tīṇi kulāni nimantetvā ekasmiṃ ṭhāne nisīdāpetvā ito cito ca āharitvā bhattaṃ ākiranti, sūpabyañjanaṃ ākiranti, ekamissakaṃ hoti, etthāpi anāpatti.
Theo điều đã được cho phép: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng bữa ăn liên tiếp sau khi đã chuyển giao” (pāci. 226), thì cũng được phép dùng sau khi đã chuyển giao lời thỉnh mời đầu tiên cho người khác. Sự chuyển giao này (pāci. aṭṭha. 226 và tiếp theo) được phép cả khi có mặt và vắng mặt. Khi thấy người có mặt, nên nói rằng: “Tôi xin chuyển giao phần vật thực của tôi cho vị” hoặc “Tôi xin cho,” rồi dùng bữa. Khi không thấy, nên nêu tên của một trong năm vị đồng pháp rồi nói rằng: “Tôi xin chuyển giao phần vật thực của tôi cho người tên là…” hoặc “Tôi xin cho,” rồi dùng bữa. Còn hai, ba lời thỉnh mời thì được phép cho vào một bát, trộn lẫn với nhau thành một rồi dùng. Vì đã được nói rằng: “Không phạm tội khi dùng chung hai, ba lời thỉnh mời” (pāci. 229). Nếu hai, ba gia đình thỉnh mời, cho ngồi ở một nơi, rồi mang vật thực từ nơi này nơi kia đến đổ vào, đổ canh và thức ăn kèm vào, trở thành một món trộn lẫn, ở đây cũng không phạm tội.
Sace pana mūlanimantanaṃ heṭṭhā hoti, pacchimaṃ pacchimaṃ upari, taṃ uparito paṭṭhāya bhuñjantassa āpatti, hatthaṃ pana anto pavesetvā paṭhamanimantanato ekampi kabaḷaṃ uddharitvā bhuttakālato paṭṭhāya yathā tathā vā bhuñjantassa anāpatti. ‘‘Sacepi tattha khīraṃ vā rasaṃ vā ākiranti, yena ajjhotthataṃ bhattaṃ ekarasaṃ hoti, koṭito paṭṭhāya bhuñjantassa anāpattī’’ti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana vuttaṃ ‘‘khīrabhattaṃ vā rasabhattaṃ vā labhitvā nisinnassa tattheva aññepi khīrabhattaṃ vā rasabhattaṃ vā ākiranti, khīraṃ vā rasaṃ vā pivato anāpatti, bhuñjantena paṭhamaṃ laddhamaṃsakhaṇḍaṃ vā bhattapiṇḍaṃ vā mukhe pakkhipitvā koṭito paṭṭhāya bhuñjituṃ vaṭṭati. Sappipāyāsepi eseva nayo’’ti.
Nhưng nếu lời thỉnh mời ban đầu ở dưới, còn những lời sau ở trên, người nào dùng từ trên xuống thì phạm tội. Nhưng nếu đưa tay vào trong, lấy ra dù chỉ một miếng cơm từ lời thỉnh mời đầu tiên, từ lúc đã dùng xong miếng đó, thì dùng như thế nào cũng không phạm tội. Trong Mahāpaccariyaṁ có nói rằng: “Nếu họ đổ sữa hoặc nước cốt vào đó, làm cho vật thực đã được phủ lên trở thành một vị, người nào dùng từ mép vào cũng không phạm tội.” Còn trong Đại Chú Giải có nói rằng: “Khi một người đang ngồi sau khi nhận được cơm sữa hoặc cơm nước cốt, nếu những người khác cũng đổ cơm sữa hoặc cơm nước cốt vào đó, thì khi uống sữa hoặc nước cốt không phạm tội. Người nào đang dùng bữa nên bỏ miếng thịt hoặc nắm cơm nhận được đầu tiên vào miệng rồi được phép dùng từ mép vào. Trong trường hợp cháo sữa có pha bơ cũng tương tự.”
Mahāupāsako bhikkhuṃ nimanteti, tassa kulaṃ upagatassa upāsakopi tassa puttadārabhātubhaginiādayopi attano attano koṭṭhāsaṃ āharitvā patte pakkhipanti, ‘‘upāsakena paṭhamaṃ dinnaṃ abhuñjitvā pacchā laddhaṃ bhuñjantassa āpattī’’ti mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Kurundaṭṭhakathāyaṃ ‘‘vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Mahāpaccariyaṃ ‘‘sace pāṭekkaṃ pacanti, attano attano pakkabhattato āharitvā denti, tattha pacchā āhaṭaṃ paṭhamaṃ bhuñjantassa pācittiyaṃ. Yadi pana sabbesaṃ ekova pāko hoti, paramparabhojanaṃ na hotī’’ti vuttaṃ. Mahāupāsako nimantetvā nisīdāpeti, añño manusso pattaṃ gaṇhāti, na dātabbaṃ. Kiṃ, bhante, na dethāti. Nanu upāsaka tayā nimantitamhāti. ‘‘Hotu, bhante, laddhaṃ laddhaṃ bhuñjathā’’ti vadati, bhuñjituṃ vaṭṭati. ‘‘Aññena āharitvā bhatte dinne āpucchitvāpi bhuñjituṃ vaṭṭatī’’ti kurundiyaṃ vuttaṃ.
Một người đại cận sự nam thỉnh mời một vị Tỳ-khưu, khi vị ấy đến nhà của người đó, cả người cận sự nam, vợ con, anh chị em của người ấy cũng mang phần của mình đến bỏ vào bát. Trong Đại Chú Giải có nói rằng: “Người nào không dùng phần do người cận sự nam cúng dường trước mà dùng phần nhận được sau thì phạm tội.” Trong Kurundaṭṭhakathā có nói là “được phép.” Trong Mahāpaccariyaṁ có nói rằng: “Nếu họ nấu riêng, mang từ vật thực đã nấu của mình đến cúng dường, ở đó người nào dùng phần mang đến sau trước tiên thì phạm tội Ưng Đối Trị. Nhưng nếu tất cả đều nấu chung một nồi, thì không phải là dùng bữa liên tiếp.” Một người đại cận sự nam thỉnh mời rồi cho ngồi xuống, một người khác nhận bát, không nên đưa. (Người kia hỏi:) “Bạch ngài, tại sao không đưa?” (Vị Tỳ-khưu đáp:) “Này người cận sự nam, chẳng phải chúng tôi đã được ông thỉnh mời sao?” Nếu người kia nói: “Thôi được, bạch ngài, nhận được gì thì xin hãy dùng nấy,” thì được phép dùng. Trong Kurundī có nói: “Khi vật thực được người khác mang đến dâng, sau khi hỏi ý kiến cũng được phép dùng.”
Anumodanaṃ katvā gacchantaṃ dhammaṃ sotukāmā ‘‘svepi, bhante, āgaccheyyāthā’’ti sabbe nimantenti, punadivase āgantvā laddhaṃ laddhaṃ bhuñjituṃ vaṭṭati. Kasmā? Sabbehi nimantitattā. Ekopi bhikkhu piṇḍāya caranto bhattaṃ labhati, tamañño upāsako nimantetvā ghare nisīdāpeti, na ca tāva bhattaṃ sampajjati, sace so bhikkhu piṇḍāya caritvā laddhabhattaṃ bhuñjati, āpatti. Abhuñjitvā nisinne ‘‘kiṃ, bhante, na bhuñjasī’’ti vutte ‘‘tayā nimantitattā’’ti vatvā ‘‘laddhaṃ laddhaṃ bhuñjatha, bhante’’ti vutte bhuñjituṃ vaṭṭati. Sakalena gāmena ekato hutvā nimantitassa yattha katthaci bhuñjato anāpatti. Pūgepi eseva nayo. ‘‘Anāpatti sakalena gāmena nimantito tasmiṃ gāme yattha katthaci bhuñjati, sakalena pūgena nimantito tasmiṃ pūge yattha katthaci bhuñjati, nimantiyamāno ‘bhikkhaṃ gahessāmī’ti bhaṇati, niccabhatte salākabhatte pakkhike uposathike pāṭipadike pañca bhojanāni ṭhapetvā sabbattha anāpattī’’ti (pāci. 229) vuttaṃ.
Khi đang đi sau khi đã tùy hỷ công đức, những người muốn nghe pháp thỉnh mời tất cả rằng: “Bạch các ngài, ngày mai cũng xin hãy đến,” vào ngày hôm sau, sau khi đến, nhận được gì dùng nấy cũng được phép. Tại sao? Vì đã được tất cả mọi người thỉnh mời. Một vị Tỳ-khưu đi khất thực nhận được vật thực, một người cận sự nam khác thỉnh mời vị ấy và cho ngồi trong nhà, nhưng vật thực vẫn chưa xong. Nếu vị Tỳ-khưu đó dùng vật thực nhận được khi đi khất thực thì phạm tội. Khi vị ấy ngồi mà không ăn, được hỏi: “Bạch ngài, tại sao không dùng?” và sau khi nói: “Vì đã được ông thỉnh mời,” và khi được nói: “Bạch ngài, nhận được gì thì xin hãy dùng nấy,” thì được phép dùng. Người được cả làng cùng nhau thỉnh mời, dùng ở bất cứ nơi nào cũng không phạm tội. Trong trường hợp một hội đoàn cũng tương tự. Đã được nói rằng: “Không phạm tội khi người được cả làng thỉnh mời dùng ở bất cứ nơi nào trong làng đó; người được cả hội đoàn thỉnh mời dùng ở bất cứ nơi nào trong hội đoàn đó; khi được thỉnh mời, người ấy nói ‘tôi sẽ nhận vật thực khất thực;’ trong trường hợp vật thực thường xuyên, vật thực theo thẻ, vật thực theo nửa tháng, vật thực vào ngày Bố-tát, vật thực vào ngày đầu tháng; ngoại trừ năm loại vật thực, trong tất cả các trường hợp khác đều không phạm tội” (pāci. 229).
Tattha nimantiyamāno bhikkhaṃ gahessāmīti bhaṇatīti ettha ‘‘bhattaṃ gaṇhā’’ti nimantiyamāno ‘‘na mayhaṃ tava bhattenattho, bhikkhaṃ gaṇhissāmī’’ti vadati, anāpattīti attho. Ettha pana mahāpadumatthero āha ‘‘evaṃ vadanto imasmiṃ sikkhāpade animantanaṃ kātuṃ sakkoti, bhuñjanatthāya pana okāso kato hotīti neva gaṇabhojanato, na cārittato muccatī’’ti. Mahāsumatthero āha ‘‘yadaggena animantanaṃ kātuṃ sakkoti, tadaggena neva gaṇabhojanaṃ, na cārittaṃ hotī’’ti.
Ở đó, trong câu khi được thỉnh mời, người ấy nói ‘tôi sẽ nhận vật thực khất thực,’ có nghĩa là, khi được thỉnh mời “hãy nhận vật thực,” người ấy nói: “tôi không cần vật thực của ông, tôi sẽ nhận vật thực khất thực,” thì không phạm tội. Ở đây, trưởng lão Mahāpaduma đã nói: “Người nói như vậy có thể không nhận lời thỉnh mời trong học giới này, nhưng đã tạo cơ hội để dùng bữa, do đó không thoát khỏi việc dùng bữa theo nhóm cũng như (phạm giới về) hành vi.” Trưởng lão Mahāsumatthera đã nói: “Khi có thể không nhận lời thỉnh mời, thì cũng không có việc dùng bữa theo nhóm, cũng không có (phạm giới về) hành vi.”
Tattha cārittanti –
Ở đó, về hành vi, có nói rằng:
‘‘Yo pana bhikkhu nimantito sabhatto samāno santaṃ bhikkhuṃ anāpucchā purebhattaṃ vā pacchābhattaṃ vā kulesu cārittaṃ āpajjeyya aññatra samayā pācittiyaṃ. Tatthāyaṃ samayo cīvaradānasamayo cīvarakārasamayo. Ayaṃ tattha samayo’’ti (pāci. 299) –
“Vị Tỳ-khưu nào đã được thỉnh mời, có vật thực, mà đi vào các gia đình trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn mà không xin phép một vị Tỳ-khưu có mặt, thì phạm tội Ưng Đối Trị, ngoại trừ trường hợp hợp thời. Ở đó, trường hợp hợp thời này là: trường hợp cúng dường y, trường hợp làm y. Đây là trường hợp hợp thời ở đó” (pāci. 299).
Evamāgataṃ cārittasikkhāpadaṃ vuttaṃ. Iminā hi sikkhāpadena yo pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarena ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’tiādinā akappiyanimantanena nimantito, teneva nimantanabhattena sabhatto samāno santaṃ bhikkhuṃ ‘‘ahaṃ itthannāmassa gharaṃ gacchāmī’’ti vā ‘‘cārittaṃ āpajjāmī’’ti vā īdisena vacanena anāpucchitvā yena bhattena nimantito, taṃ bhutvā vā abhutvā vā avītivatteyeva majjhanhike yasmiṃ kule nimantito, tato aññāni kulāni paviseyya, tassa vuttalakkhaṇaṃ duvidhampi samayaṃ ṭhapetvā aññattha pācittiyaṃ vuttaṃ. Tasmā akappiyanimantanena nimantiyamāno sace ‘‘bhikkhaṃ gaṇhissāmī’’ti vadati, imināpi sikkhāpadena anāpatti.
Học giới về hành vi đã được đề cập như vậy. Theo học giới này, vị Tỳ-khưu nào đã được thỉnh mời bằng lời thỉnh mời không hợp lệ với một trong năm loại vật thực như “hãy nhận vật thực” v.v., và có vật thực từ chính lời thỉnh mời đó, mà không xin phép một vị Tỳ-khưu có mặt bằng những lời như “tôi sẽ đi đến nhà của người tên là…” hoặc “tôi sẽ thực hành hạnh,” rồi dù đã dùng hay chưa dùng vật thực mà mình đã được mời, trước khi quá giờ ngọ, mà đi vào các gia đình khác ngoài gia đình đã mời, vị ấy phạm tội Ưng Đối Trị ngoại trừ hai loại trường hợp hợp thời đã nêu. Do đó, khi được thỉnh mời bằng lời thỉnh mời không hợp lệ, nếu vị ấy nói: “Tôi sẽ nhận vật thực khất thực,” thì cũng không phạm tội theo học giới này.
3.Santaṃbhikkhuṃ anāpucchāti ettha (pāci. aṭṭha. 298) pana kittāvatā santo hoti, kittāvatā asanto? Antovihāre yattha ṭhitassa kulāni payirupāsanacittaṃ uppannaṃ, tato paṭṭhāya yaṃ passe vā abhimukhe vā passati, yassa sakkā hoti pakativacanena ārocetuṃ, ayaṃ santo nāma, ito cito ca pariyesitvā ārocanakiccaṃ pana natthi. Yo hi evaṃ pariyesitabbo, so asantoyeva. Apica antoupacārasīmāya bhikkhuṃ disvā ‘‘āpucchissāmī’’ti gacchati. Tattha yaṃ passati, so āpucchitabbo. No ce passati, asantaṃ bhikkhuṃ anāpucchā paviṭṭho nāma hoti. Vikālagāmappavesanepi ayameva nayo.
3.Trong câu Không xin phép vị Tỳ-khưu có mặt (pāci. aṭṭha. 298), thế nào là có mặt, thế nào là không có mặt? Trong nội vi tự viện, từ nơi nào mà tâm muốn đến thăm các gia đình khởi lên, từ đó trở đi, người mà vị ấy thấy ở bên cạnh hoặc đối diện, người mà vị ấy có thể thông báo bằng lời nói thông thường, người này được gọi là có mặt. Tuy nhiên, không có bổn phận phải tìm kiếm từ nơi này đến nơi khác để thông báo. Người nào cần phải được tìm kiếm như vậy thì chính là người không có mặt. Hơn nữa, sau khi thấy một Tỳ-khưu trong phạm vi nội viện, vị ấy đi đến với ý định “tôi sẽ xin phép.” Ở đó, người nào vị ấy thấy thì nên xin phép người đó. Nếu không thấy ai, thì được gọi là đã vào mà không xin phép vị Tỳ-khưu (vì) không có mặt. Trong việc vào làng trái thời, quy tắc này cũng tương tự.
Sace (pāci. aṭṭha. 512) pana sambahulā kenaci kammena gāmaṃ pavisanti, ‘‘vikāle gāmappavesanaṃ āpucchāmī’’ti sabbehi aññamaññaṃ āpucchitabbaṃ. Tasmiṃ gāme taṃ kammaṃ na sampajjatīti aññaṃ gāmaṃ gacchanti, gāmasatampi hotu, puna āpucchanakiccaṃ natthi. Sace pana ussāhaṃ paṭippassambhetvā vihāraṃ gacchantā antarā aññaṃ gāmaṃ pavisitukāmā honti, puna āpucchitabbameva. Kulaghare vā āsanasālāya vā bhattakiccaṃ katvā telabhikkhāya vā sappibhikkhāya vā caritukāmo hoti, sace passe bhikkhu atthi, āpucchitvā gantabbaṃ. Asante bhikkhumhi ‘‘natthī’’ti gantabbaṃ, vīthiṃ otaritvā bhikkhuṃ passati, āpucchanakiccaṃ natthi, anāpucchitvāpi caritabbameva. Gāmamajjhena maggo hoti, tena gacchantassa ‘‘telādibhikkhāya carissāmī’’ti citte uppanne sace passe bhikkhu atthi, āpucchitvā caritabbaṃ. Maggā anokkamma bhikkhāya carantassa pana āpucchanakiccaṃ natthi. Sace sīho vā byaggho vā āgacchati, megho vā uṭṭheti, añño vā koci upaddavo uppajjati, evarūpāsu āpadāsu anāpucchāpi bahigāmato antogāmaṃ pavisituṃ vaṭṭati.
Nhưng nếu (pāci. aṭṭha. 512) nhiều người cùng vào làng vì một công việc nào đó, tất cả nên xin phép lẫn nhau rằng: “Tôi xin phép vào làng trái thời.” Nếu công việc đó không thành ở làng đó và họ đi đến một làng khác, dù là một trăm làng đi nữa, cũng không cần phải xin phép lại. Nhưng nếu họ từ bỏ nỗ lực và trên đường về tự viện lại muốn vào một làng khác, thì phải xin phép lại. Sau khi làm xong việc ăn uống ở nhà riêng hoặc ở nhà nghỉ, nếu muốn đi khất thực dầu hoặc bơ, nếu có Tỳ-khưu ở gần, nên xin phép rồi đi. Khi không có Tỳ-khưu, nên đi với ý nghĩ “không có ai.” Sau khi xuống đường và thấy một Tỳ-khưu, không cần phải xin phép, dù không xin phép cũng nên đi. Nếu có con đường đi qua giữa làng, khi đang đi trên đó mà tâm khởi lên “tôi sẽ đi khất thực dầu v.v.”, nếu có Tỳ-khưu ở gần, nên xin phép rồi đi. Nhưng người đi khất thực mà không rời khỏi con đường thì không cần phải xin phép. Nếu có sư tử hoặc cọp đến, hoặc mây kéo đến, hoặc có bất kỳ tai họa nào khác xảy ra, trong những trường hợp nguy hiểm như vậy, được phép đi từ ngoài làng vào trong làng mà không cần xin phép.
4. ‘‘Na ca, bhikkhave, abhinne sarīre paṃsukūlaṃ gahetabbaṃ, yo gaṇheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (pārā. 137) perinatal abbhuṇhe allasarīre paṃsukūlaṃ na gahetabbaṃ, gaṇhanto dukkaṭaṃ āpajjati. Upaddavā ca tassa honti, bhinne pana gahetuṃ vaṭṭati.
4. Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được lấy y phấn tảo từ tử thi chưa bị tổn hoại, ai lấy sẽ phạm tội Tác Ác” (pārā. 137), không được lấy y phấn tảo từ tử thi còn tươi, chưa bị phân hủy. Người lấy sẽ phạm tội Tác Ác. Và người ấy sẽ gặp phải những tai ương. Nhưng khi đã bị tổn hoại thì được phép lấy.
Kittāvatā pana bhinnaṃ hoti? Kākakulalasoṇasiṅgālādīhi mukhatuṇḍakena vā dāṭhāya vā īsakaṃ phālitamattenapi. Yassa pana patato ghaṃsanena chavimattaṃ chinnaṃ hoti, cammaṃ acchinnaṃ, etaṃ abhinnameva, camme pana chinne bhinnaṃ. Yassapi sajīvakāleyeva pabhinnā gaṇḍakuṭṭhapīḷakā vā vaṇo vā hoti, idampi bhinnaṃ, tatiyadivasato pabhuti uddhumātakādibhāvena kuṇapabhāvaṃ upagatampi bhinnameva. Sabbena sabbaṃ pana abhinnepi susānagopakehi vā aññehi vā manussehi gāhāpetuṃ vaṭṭati. No ce aññaṃ labhati, satthakena vā kenaci vā vaṇaṃ katvā gahetabbaṃ. Visabhāgasarīre pana satiṃ upaṭṭhapetvā samaṇasaññaṃ uppādetvā sīse vā hatthapādapiṭṭhiyaṃ vā vaṇaṃ katvā gahetuṃ vaṭṭati.
Thế nào là bị tổn hoại? Dù chỉ bị quạ, kền kền, chó rừng, chó sói dùng mỏ hoặc răng nanh làm rách một chút. Người nào mà chỉ bị trầy da do cọ xát khi té ngã, da không bị rách, thì đó vẫn là chưa bị tổn hoại. Nhưng khi da bị rách thì là đã bị tổn hoại. Người nào ngay từ khi còn sống đã có mụn nhọt, bệnh phong, mụn mủ vỡ ra hoặc có vết thương, thì đây cũng là đã bị tổn hoại. Từ ngày thứ ba trở đi, khi tử thi đã chuyển sang trạng thái sình trương v.v. và trở thành xác chết, thì cũng là đã bị tổn hoại. Tuy nhiên, ngay cả khi hoàn toàn chưa bị tổn hoại, cũng được phép nhờ những người giữ nghĩa địa hoặc những người khác lấy giúp. Nếu không tìm được người khác, nên dùng dao hoặc vật gì đó tạo một vết thương rồi lấy. Đối với tử thi khác giới, sau khi thiết lập niệm, khởi lên ý niệm của một vị sa-môn, được phép tạo một vết thương ở đầu hoặc ở lưng bàn tay, bàn chân rồi lấy.
5.Acchinnacīvarakena bhikkhunā kathaṃ paṭipajjitabbanti? ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, acchinnacīvarassa vā naṭṭhacīvarassa vā aññātakaṃ gahapatiṃ vā gahapatāniṃ vā cīvaraṃ viññāpetuṃ. Yaṃ āvāsaṃ paṭhamaṃ upagacchati, sace tattha hoti saṅghassa vihāracīvaraṃ vā uttarattharaṇaṃ vā bhūmattharaṇaṃ vā bhisicchavi vā, taṃ gahetvā pārupituṃ ‘labhitvā odahissāmī’ti. No ce hoti saṅghassa vihāracīvaraṃ vā uttarattharaṇaṃ vā bhūmattharaṇaṃ vā bhisicchavi vā, tiṇena vā paṇṇena vā paṭicchādetvā āgantabbaṃ, na tveva naggena āgantabbaṃ, yo āgaccheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (pārā. 517) perinatal idha vuttanayena paṭipajjitabbaṃ.
5.Một Tỳ-khưu bị mất y nên hành xử như thế nào? “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép Tỳ-khưu bị mất y hoặc bị cướp y được xin y từ một gia chủ hoặc vợ gia chủ không phải là bà con. Khi đến trú xứ nào đầu tiên, nếu ở đó có y của Tăng chúng trong tự viện, hoặc tấm trải giường trên, hoặc tấm trải sàn, hoặc nệm lót, thì được phép lấy mặc với ý định ‘sau khi nhận được (y mới) sẽ trả lại.’ Nếu không có y của Tăng chúng trong tự viện, hoặc tấm trải giường trên, hoặc tấm trải sàn, hoặc nệm lót, thì phải che thân bằng cỏ hoặc lá cây rồi đến, tuyệt đối không được đi trần truồng, ai đi như vậy sẽ phạm tội Tác Ác” (pārā. 517), nên hành xử theo cách đã được nói ở đây.
Ayaṃthiaz anupubbakathā (pārā. aṭṭha. 2.517). Sace hi core passitvā daharā pattacīvarāni gahetvā palātā, corā therānaṃ nivāsanapārupanamattaṃyeva haritvā gacchanti, therehi neva tāva cīvaraṃ viññāpetabbaṃ, na sākhāpalāsaṃ bhañjitabbaṃ. Atha daharā sabbaṃ bhaṇḍakaṃ chaḍḍetvā palātā, corā therānañca nivāsanapārupanaṃ tañca bhaṇḍakaṃ haritvā gacchanti, daharehi āgantvā attano nivāsanapārupanāni na tāva therānaṃ dātabbāni. Na hi te anacchinnacīvarā attano atthāya sākhāpalāsaṃ bhañjituṃ labhanti, acchinnacīvarānaṃ pana atthāya labhanti. Acchinnacīvarāva attanopi paresampi atthāya labhanti, tasmā therehi vā sākhāpalāsaṃ bhañjitvā vākādīhi ganthetvā daharānaṃ dātabbaṃ, daharehi vā therānaṃ atthāya bhañjitvā ganthetvā tesaṃ hatthe datvā vā adatvā vā attanā nivāsetvā attano nivāsanapārupanāni therānaṃ dātabbāni, neva bhūtagāmapātabyatāya pācittiyaṃ hoti, na tesaṃ dhāraṇe dukkaṭaṃ.
Đây là câu chuyện tuần tự (pārā. aṭṭha. 2.517). Nếu bọn cướp thấy các Tỳ-khưu trẻ, chúng lấy bát y rồi bỏ chạy, bọn cướp chỉ lấy y nội và y vai của các vị trưởng lão rồi đi, thì các vị trưởng lão không nên xin y vội, cũng không nên bẻ cành lá. Nếu các Tỳ-khưu trẻ bỏ lại tất cả đồ đạc rồi bỏ chạy, bọn cướp lấy y nội và y vai của các vị trưởng lão cùng với đồ đạc đó rồi đi, thì khi các Tỳ-khưu trẻ quay lại, không nên vội đưa y nội và y vai của mình cho các vị trưởng lão. Vì những vị chưa bị mất y không được phép bẻ cành lá vì lợi ích của mình, nhưng được phép vì lợi ích của những người bị mất y. Chính những người bị mất y mới được phép vì lợi ích của mình và của người khác. Do đó, hoặc là các vị trưởng lão nên bẻ cành lá, kết lại bằng vỏ cây v.v. rồi đưa cho các Tỳ-khưu trẻ, hoặc là các Tỳ-khưu trẻ nên bẻ và kết lại vì lợi ích của các vị trưởng lão, rồi đưa vào tay họ hoặc không đưa, tự mình mặc vào, rồi đưa y nội và y vai của mình cho các vị trưởng lão. Như vậy, không phạm tội Ưng Đối Trị về việc làm tổn hại đến thảo mộc, cũng không phạm tội Tác Ác khi mặc chúng.
Sace antarāmagge rajakattharaṇaṃ vā hoti, aññe vā tādise manusse passanti, cīvaraṃ viññāpetabbaṃ. Yāni ca nesaṃ te vā viññattamanussā aññe vā sākhāpalāsanivāsane bhikkhū disvā ussāhajātā vatthāni denti, tāni sadasāni vā hontu adasāni vā nīlādinānāvaṇṇāni vā, kappiyānipi akappiyānipi sabbānipi acchinnacīvaraṭṭhāne ṭhitattā tesaṃ nivāsetuñca pārupituñca vaṭṭanti.
Nếu trên đường có chỗ giặt đồ của thợ giặt, hoặc họ thấy những người tương tự khác, thì nên xin y. Những tấm vải mà họ hoặc những người được xin, hoặc những người khác, do khởi tâm hăng hái khi thấy các Tỳ-khưu mặc y bằng cành lá, mà cúng dường, dù có viền hay không có viền, dù có nhiều màu sắc như xanh v.v., dù là vật thích hợp hay không thích hợp, tất cả đều được phép mặc và khoác lên người vì họ đang ở trong tình trạng bị mất y.
Vuttampihetaṃ parivāre –
‘‘Akappakataṃ nāpi rajanāya rattaṃ,
Tena nivattho yenakāmaṃ vajeyya;
Na cassa hoti āpatti,
So ca dhammo sugatena desito;
Pañhāmesā kusalehi cintitā’’ti. (pari. 481);
Điều này cũng đã được nói trong bộ Parivāra:
“Vải chưa được cắt may, cũng chưa được nhuộm,
Mặc nó rồi, muốn đi đâu thì đi;
Và vị ấy không phạm tội,
Và pháp ấy đã được bậc Thiện Thệ thuyết giảng;
Câu hỏi này đã được các bậc trí suy ngẫm.” (pari. 481);
Ayañhi pañho acchinnacīvarakabhikkhuṃ sandhāya vutto. Atha pana titthiyehi samāgacchanti, te ca nesaṃ kusacīravākacīraphalakacīrāni denti, tānipi laddhiṃ aggahetvā nivāsetuṃ vaṭṭanti, nivāsetvāpi laddhi na gahetabbā.
Câu hỏi này được nói liên quan đến vị Tỳ-khưu bị mất y. Nếu họ gặp các vị ngoại đạo, và những người này cho họ y cỏ kusa, y vỏ cây, y vỏ quả, thì cũng được phép mặc mà không chấp nhận tà kiến, và sau khi mặc cũng không được chấp nhận tà kiến.
Yaṃ āvāsaṃ paṭhamaṃ upagacchanti, tattha vihāracīvarādīsu yaṃ atthi, taṃ anāpucchāpi gahetvā nivāsetuṃ vā pārupituṃ vā labhati. Tañca kho ‘‘labhitvā odahissāmi, puna ṭhapessāmī’’ti adhippāyena, na mūlacchejjāya. Labhitvā ca pana ñātito vā upaṭṭhākato vā aññato vā kutoci pākatikameva kātabbaṃ. Videsagatena pana ekasmiṃ saṅghike āvāse saṅghikaparibhogena bhuñjanatthāya ṭhapetabbaṃ. Sacassa paribhogeneva taṃ jīrati vā nassati vā, gīvā na hoti. Sace pana etesaṃ vuttappakārānaṃ gihivatthādīnaṃ bhisicchavipariyantānaṃ kiñci na labhati, tena tiṇena vā paṇṇena vā paṭicchādetvā āgantabbanti.
Khi họ đến trú xứ nào đầu tiên, nếu ở đó có y của tự viện v.v., họ được phép lấy mặc hoặc khoác lên người mà không cần xin phép. Và điều đó cũng phải với ý định “sau khi nhận được (y mới) sẽ trả lại, sẽ đặt lại,” chứ không phải để chiếm đoạt. Sau khi nhận được từ bà con hoặc từ người hộ độ hoặc từ bất cứ nơi nào khác, phải làm lại y phục như bình thường. Nhưng người đi đến xứ khác, trong một trú xứ thuộc về Tăng chúng, phải để lại để chư Tăng sử dụng chung. Nếu y đó bị sờn rách hoặc hư hỏng do chính việc sử dụng của vị ấy, thì vị ấy không có trách nhiệm. Nhưng nếu không nhận được bất cứ thứ gì trong số các vật dụng của tại gia v.v. cho đến cả nệm lót đã được nói ở trên, thì vị ấy phải che thân bằng cỏ hoặc lá cây rồi đến.
6. ‘‘Na, bhikkhave, paṭibhānacittaṃ kārāpetabbaṃ itthirūpakaṃ purisarūpakaṃ, yo kārāpeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 299) perinatal itthipurisarūpaṃ kātuṃ vā kārāpetuṃ vā bhikkhuno na vaṭṭati. Na kevalaṃ (cūḷava. aṭṭha. 299) itthipurisarūpameva, tiracchānarūpampi antamaso gaṇḍuppādarūpaṃ bhikkhuno sayaṃ kātuṃ vā ‘‘karohī’’ti vattuṃ vā na vaṭṭati, ‘‘upāsaka dvārapālaṃ karohī’’ti vattumpi na labhati. Jātakapakaraṇaasadisadānādīni pana pasādanīyāni nibbidāpaṭisaṃyuttāni vā vatthūni parehi kārāpetuṃ labhati, mālākammādīni sayampi kātuṃ labhati.
6. “Này các Tỳ-khưu, không được cho làm tranh tượng gợi cảm, hình phụ nữ, hình đàn ông. Ai cho làm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 299). Vị Tỳ-khưu không được phép làm hoặc cho làm hình tượng phụ nữ và đàn ông. Không chỉ (cūḷava. aṭṭha. 299) hình tượng phụ nữ và đàn ông, mà ngay cả hình tượng loài vật, cho đến hình con rết, vị Tỳ-khưu cũng không được tự mình làm hoặc nói “hãy làm đi.” Ngay cả việc nói “này người cận sự nam, hãy làm người gác cổng” cũng không được phép. Nhưng được phép nhờ người khác làm những câu chuyện gây tín tâm như chuyện Bổn Sanh, chuyện cúng dường tương tự, hoặc những câu chuyện liên quan đến sự nhàm chán. Còn những việc như làm vòng hoa v.v. thì tự mình cũng được phép làm.
7. ‘‘Na, bhikkhave, vippakatabhojano bhikkhu vuṭṭhāpetabbo, yo vuṭṭhāpeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 316) perinatal antaraghare (cūḷava. aṭṭha. 316) vā vihāre vā araññe vā yattha katthaci bhuñjamāno bhikkhu aniṭṭhite bhojane na vuṭṭhāpetabbo, antaraghare pacchā āgatena bhikkhaṃ gahetvā gantabbaṃ. Sace manussā vā bhikkhū vā ‘‘pavisathā’’ti vadanti, ‘‘mayi pavisante bhikkhū uṭṭhahissantī’’ti vattabbaṃ. ‘‘Etha, bhante, āsanaṃ atthī’’ti vutte pana pavisitabbaṃ. Sace koci kiñci na vadati, āsanasālaṃ gantvā atisamīpaṃ agantvā sabhāgaṭṭhāne ṭhātabbaṃ. Okāse kate ‘‘pavisathā’’ti vuttena pavisitabbaṃ. Sace pana yaṃ āsanaṃ tassa pāpuṇāti, tattha abhuñjanto bhikkhu nisinno hoti, taṃ uṭṭhāpetuṃ vaṭṭati. Yāgukhajjakādīsu pana yaṃ kiñci pivitvā khāditvā vā yāva añño āgacchati, tāva nisinnaṃ rittahatthampi uṭṭhāpetuṃ na vaṭṭati. Vippakatabhojanoyeva hi so hoti.
7. “Này các Tỳ-khưu, không được làm cho Tỳ-khưu đang dùng bữa dở dang phải đứng dậy. Ai làm vậy, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 316). Dù ở trong nhà (cūḷava. aṭṭha. 316), trong tự viện, hay trong rừng, ở bất cứ đâu, không được làm cho một Tỳ-khưu đang dùng bữa mà bữa ăn chưa xong phải đứng dậy. Người đến sau trong nhà nên nhận vật thực khất thực rồi đi. Nếu có người hoặc Tỳ-khưu nói “xin mời vào,” thì nên nói rằng “nếu tôi vào, các Tỳ-khưu sẽ đứng dậy.” Khi được nói “xin mời vào, thưa ngài, có chỗ ngồi,” thì nên vào. Nếu không có ai nói gì, nên đi đến nhà nghỉ, không đi quá gần, đứng ở một nơi thích hợp. Khi có cơ hội, được nói “xin mời vào” thì nên vào. Nhưng nếu chỗ ngồi mà vị ấy được hưởng có một Tỳ-khưu không ăn đang ngồi, thì được phép yêu cầu vị ấy đứng dậy. Nhưng trong trường hợp cháo, thức ăn cứng v.v., sau khi đã uống hoặc ăn một thứ gì đó, dù tay không, cũng không được phép yêu cầu người đang ngồi đứng dậy cho đến khi có người khác đến. Vì người ấy chính là người đang dùng bữa dở dang.
Sace pana āpattiṃ atikkamitvāpi vuṭṭhāpetiyeva, yaṃ so vuṭṭhāpeti, ayañca bhikkhu pavārito hoti, tena playable ‘‘gaccha udakaṃ āharāhī’’ti. Vuḍḍhataraṃ bhikkhuṃ āṇāpetuṃ idameva ekaṭṭhānaṃ. Sace so udakampi na āharati, sādhukaṃ sitthāni gilitvā vuḍḍhassa āsanaṃ dātabbaṃ. Vuttampi cetaṃ –
Nhưng nếu có người vẫn cứ làm cho đứng dậy, dù phạm tội, và Tỳ-khưu này đã được mời dùng, thì vị ấy nên nói: “Hãy đi lấy nước.” Đây là nơi duy nhất được phép ra lệnh cho một Tỳ-khưu lớn tuổi hơn. Nếu vị ấy cũng không mang nước đến, nên nuốt kỹ các hạt cơm rồi nhường chỗ ngồi cho vị lớn tuổi hơn. Điều này cũng đã được nói:
‘‘Sace vuṭṭhāpeti, pavārito ca hoti, ‘gaccha udakaṃ āharā’ti playable. Evañcetaṃ labhetha, iccetaṃ kusalaṃ. No ce labhetha, sādhukaṃ sitthāni gilitvā vuḍḍhassa āsanaṃ dātabbaṃ. Natvevāhaṃ, bhikkhave, ‘kenaci pariyāyena vuḍḍhatarassa bhikkhuno āsanaṃ paṭibāhitabba’nti vadāmi, yo paṭibāheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 316).
“Nếu có người làm cho đứng dậy, và vị kia đã được mời dùng, thì nên nói: ‘Hãy đi lấy nước.’ Nếu được như vậy thì tốt. Nếu không được, nên nuốt kỹ các hạt cơm rồi nhường chỗ ngồi cho vị lớn tuổi hơn. Này các Tỳ-khưu, Ta không hề nói rằng ‘bằng bất cứ cách nào cũng nên từ chối chỗ ngồi của một Tỳ-khưu lớn tuổi hơn,’ ai từ chối, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 316).
8. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, navakena bhikkhunā uddisantena samake vā āsane nisīdituṃ uccatare vā dhammagāravena, therena bhikkhunā uddisāpentena samake vā āsane nisīdituṃ nīcatare vā dhammagāravenā’’ti (cūḷava. 320) perinatal navakatarena bhikkhunā uddisantena uccatarepi āsane nisīdituṃ, vuḍḍhatarena bhikkhunā uddisāpentena nīcatarepi āsane nisīdituṃ vaṭṭati.
8. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép Tỳ-khưu nhỏ tuổi hơn, khi đang trùng tuyên, được ngồi trên chỗ ngồi bằng hoặc cao hơn vì lòng tôn kính Pháp; và Tỳ-khưu lớn tuổi hơn, khi đang cho trùng tuyên, được ngồi trên chỗ ngồi bằng hoặc thấp hơn vì lòng tôn kính Pháp” (cūḷava. 320). Theo đó, Tỳ-khưu nhỏ tuổi hơn khi đang trùng tuyên được phép ngồi trên chỗ ngồi cao hơn, và Tỳ-khưu lớn tuổi hơn khi đang cho trùng tuyên được phép ngồi trên chỗ ngồi thấp hơn.
9. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, tivassantarena saha nisīditu’’nti (cūḷava. 320) perinatal tivassantarena bhikkhunā saddhiṃ ekāsane nisīdituṃ vaṭṭati. Tivassantaro (cūḷava. aṭṭha. 320) nāma yo dvīhi vassehi mahantataro vā daharataro vā hoti, yo pana ekena vassena mahantataro vā daharataro vā, yo vā samānavasso, tattha vattabbameva natthi, ime sabbe ekasmiṃ mañce vā pīṭhe vā dve dve hutvā nisīdituṃ labhanti. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, duvaggassa mañcaṃ duvaggassa pīṭha’’nti (cūḷava. 320) hi vuttaṃ.
9. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ngồi cùng với người có tuổi hạ cách nhau ba năm” (cūḷava. 320). Theo đó, được phép ngồi trên cùng một chỗ ngồi với một Tỳ-khưu có tuổi hạ cách nhau ba năm. Người có tuổi hạ cách nhau ba năm (cūḷava. aṭṭha. 320) là người lớn hơn hoặc nhỏ hơn hai tuổi hạ. Còn người lớn hơn hoặc nhỏ hơn một tuổi hạ, hoặc người bằng tuổi hạ, thì không cần phải nói. Tất cả những vị này đều được phép ngồi hai người trên một cái giường hoặc một cái ghế. Vì đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép giường cho hai người, ghế cho hai người” (cūḷava. 320).
10. Yaṃ pana tiṇṇaṃ pahoti, taṃ saṃhārimaṃ vā hotu asaṃhārimaṃ vā, tathārūpe api phalakakhaṇḍe anupasampannenapi saddhiṃ nisīdituṃ vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, yaṃ tiṇṇaṃ pahoti, ettakaṃ pacchimaṃ dīghāsana’’nti (cūḷava. 320) hi vuttaṃ. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ṭhapetvā paṇḍakaṃ mātugāmaṃ ubhatobyañjanakaṃ asamānāsanikehi saha dīghāsane nisīditu’’nti (cūḷava. 320) perinatal pana dīghāsanepi paṇḍakādīhi saha nisīdituṃ na vaṭṭati.
10. Nhưng vật gì đủ cho ba người, dù là loại có thể di chuyển hay không thể di chuyển, trên một tấm ván như vậy cũng được phép ngồi cùng với cả người chưa thọ Cụ túc giới. Vì đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép chỗ ngồi dài tối đa là đủ cho ba người” (cūḷava. 320). Nhưng theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ngồi trên ghế dài cùng với những người không cùng giới tính, ngoại trừ người ái nam, người nữ, người lưỡng tính” (cūḷava. 320), thì ngay cả trên ghế dài cũng không được phép ngồi cùng với người ái nam v.v.
11. Gilānaṃ upaṭṭhahantena ‘‘natthi vo, bhikkhave, mātā, natthi pitā, ye vo upaṭṭhaheyyuṃ, tumhe ce, bhikkhave, aññamaññaṃ na upaṭṭhahissatha, atha ko carahi upaṭṭhahissati. Yo, bhikkhave, maṃ upaṭṭhaheyya, so gilānaṃ upaṭṭhaheyyā’’ti (mahāva. 365) imaṃ bhagavato anusāsaniṃ anussarantena sakkaccaṃ upaṭṭhātabbo.
11. Người chăm sóc bệnh nhân, nên chăm sóc một cách cẩn thận, ghi nhớ lời dạy này của Đức Thế Tôn: “Này các Tỳ-khưu, các ngươi không có mẹ, không có cha để chăm sóc các ngươi. Này các Tỳ-khưu, nếu các ngươi không chăm sóc lẫn nhau, thì ai sẽ chăm sóc đây? Này các Tỳ-khưu, ai chăm sóc Ta, người đó hãy chăm sóc bệnh nhân” (mahāva. 365).
Sace upajjhāyo hoti, upajjhāyena yāvajīvaṃ upaṭṭhātabbo, vuṭṭhānamassa āgametabbaṃ. Sace ācariyo hoti, ācariyena yāvajīvaṃ upaṭṭhātabbo, vuṭṭhānamassa āgametabbaṃ. Sace saddhivihāriko hoti, saddhivihārikena yāvajīvaṃ upaṭṭhātabbo, vuṭṭhānamassa āgametabbaṃ. Sace antevāsiko hoti, antevāsikena yāvajīvaṃ upaṭṭhātabbo, vuṭṭhānamassa āgametabbaṃ. Sace samānupajjhāyako hoti, samānupajjhāyakena yāvajīvaṃ upaṭṭhātabbo, vuṭṭhānamassa āgametabbaṃ. Sace samānācariyako hoti, samānācariyakena yāvajīvaṃ upaṭṭhātabbo, vuṭṭhānamassa āgametabbaṃ. Sace na hoti upajjhāyo vā ācariyo vā saddhivihāriko vā antevāsiko vā samānupajjhāyako vā samānācariyako vā, saṅghena upaṭṭhātabbo. No ce upaṭṭhaheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 365) –
“Nếu là thầy tế độ, thầy tế độ phải chăm sóc suốt đời, phải chờ đợi sự bình phục của vị ấy. Nếu là thầy giáo thọ, thầy giáo thọ phải chăm sóc suốt đời, phải chờ đợi sự bình phục của vị ấy. Nếu là đệ tử cùng thầy tế độ, đệ tử cùng thầy tế độ phải chăm sóc suốt đời, phải chờ đợi sự bình phục của vị ấy. Nếu là đệ tử, đệ tử phải chăm sóc suốt đời, phải chờ đợi sự bình phục của vị ấy. Nếu là đồng môn cùng thầy tế độ, đồng môn cùng thầy tế độ phải chăm sóc suốt đời, phải chờ đợi sự bình phục của vị ấy. Nếu là đồng môn cùng thầy giáo thọ, đồng môn cùng thầy giáo thọ phải chăm sóc suốt đời, phải chờ đợi sự bình phục của vị ấy. Nếu không có thầy tế độ, thầy giáo thọ, đệ tử cùng thầy tế độ, đệ tử, đồng môn cùng thầy tế độ, hoặc đồng môn cùng thầy giáo thọ, thì Tăng chúng phải chăm sóc. Nếu không chăm sóc, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 365).
Vacanato yassa (mahāva. aṭṭha. 365) te upajjhāyādayo tasmiṃ vihāre natthi, āgantuko hoti ekacārikabhikkhu, saṅghassa bhāro, tasmā saṅghena upaṭṭhātabbo. No ce upaṭṭhaheyya, sakalassa saṅghassa āpatti. Vāraṃ ṭhapetvā jaggantesu pana yo attano vāre na jaggati, tasseva āpatti, saṅghattheropi vārato na muccati. Sace sakalo saṅgho ekassa bhāraṃ karoti, eko vā vattasampanno bhikkhu ‘‘ahameva jaggissāmī’’ti jaggati, saṅgho āpattito muccati.
Theo lời dạy này (mahāva. aṭṭha. 365), người nào không có thầy tế độ v.v. trong tự viện đó, là Tỳ-khưu khách, Tỳ-khưu đi một mình, thì đó là gánh nặng của Tăng chúng. Do đó, Tăng chúng phải chăm sóc. Nếu không chăm sóc, toàn thể Tăng chúng đều phạm tội. Nhưng khi đã phân phiên chăm sóc, ai không chăm sóc trong phiên của mình thì người đó phạm tội. Vị Tăng trưởng lão cũng không được miễn trừ khỏi phiên của mình. Nếu toàn thể Tăng chúng giao gánh nặng cho một người, hoặc một Tỳ-khưu có hạnh kiểm tốt nói “chính tôi sẽ chăm sóc” và chăm sóc, thì Tăng chúng được miễn khỏi tội.
Gilānena pana –
Về phần người bệnh:
‘‘Pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgato gilāno dūpaṭṭho hoti. Asappāyakārī hoti, sappāye mattaṃ na jānāti, bhesajjaṃ na paṭisevitā hoti, atthakāmassa gilānupaṭṭhākassa yathābhūtaṃ ābādhaṃ nāvikattā hoti ‘abhikkamantaṃ vā abhikkamatīti, paṭikkamantaṃ vā paṭikkamatīti, ṭhitaṃ vā ṭhito’ti, uppannānaṃ sārīrikānaṃ vedanānaṃ dukkhānaṃ tibbānaṃ kharānaṃ kaṭukānaṃ asātānaṃ amanāpānaṃ pāṇaharānaṃ anadhivāsakajātiko hotī’’ti (mahāva. 366) –
“Này các Tỳ-khưu, người bệnh có năm đặc điểm này thì khó chăm sóc: không làm điều thích hợp, không biết chừng mực trong điều thích hợp, không dùng thuốc, không nói thật về bệnh tình của mình cho người chăm sóc bệnh nhân có lòng tốt biết, rằng ‘bệnh đang tiến triển thì nói là đang tiến triển, bệnh đang thuyên giảm thì nói là đang thuyên giảm, bệnh đang ổn định thì nói là đang ổn định,’ và không có tính kiên nhẫn chịu đựng những cảm giác đau đớn về thể xác đã phát sinh, những cảm giác đau đớn, dữ dội, gay gắt, khó chịu, không vừa ý, có thể đoạt mạng” (mahāva. 366).
Evaṃ vuttāni pañca ayuttaṅgāni ārakā parivajjetvā –
Sau khi tránh xa năm đặc điểm không phù hợp đã được nói như vậy:
‘‘Pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgato gilāno sūpaṭṭho hoti. Sappāyakārī hoti, sappāye mattaṃ jānāti, bhesajjaṃ paṭisevitā hoti, atthakāmassa gilānupaṭṭhākassa yathābhūtaṃ ābādhaṃ āvikattā hoti ‘abhikkamantaṃ vā abhikkamatīti, paṭikkamantaṃ vā paṭikkamatīti, ṭhitaṃ vā ṭhito’ti, uppannānaṃ sārīrikānaṃ vedanānaṃ dukkhānaṃ tibbānaṃ kharānaṃ kaṭukānaṃ asātānaṃ amanāpānaṃ pāṇaharānaṃ adhivāsakajātiko hotī’’ti (mahāva. 366) –
“Này các Tỳ-khưu, người bệnh có năm đặc điểm này thì dễ chăm sóc: làm điều thích hợp, biết chừng mực trong điều thích hợp, dùng thuốc, nói thật về bệnh tình của mình cho người chăm sóc bệnh nhân có lòng tốt biết, rằng ‘bệnh đang tiến triển thì nói là đang tiến triển, bệnh đang thuyên giảm thì nói là đang thuyên giảm, bệnh đang ổn định thì nói là đang ổn định,’ và có tính kiên nhẫn chịu đựng những cảm giác đau đớn về thể xác đã phát sinh, những cảm giác đau đớn, dữ dội, gay gắt, khó chịu, không vừa ý, có thể đoạt mạng” (mahāva. 366).
Evaṃ vuttapañcaṅgasamannāgatena bhavitabbaṃ.
Cần phải có năm đặc điểm đã được nói như vậy.
Gilānupaṭṭhākena ca –
Và về phần người chăm sóc bệnh nhân:
‘‘Pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgato gilānupaṭṭhāko nālaṃ gilānaṃ upaṭṭhātuṃ. Na paṭibalo hoti bhesajjaṃ saṃvidhātuṃ, sappāyāsappāyaṃ na jānāti, asappāyaṃ upanāmeti, sappāyaṃ apanāmeti, āmisantaro gilānaṃ upaṭṭhāti, no mettacitto, jegucchī hoti uccāraṃ vā passāvaṃ vā kheḷaṃ vā vantaṃ vā nīhātuṃ, na paṭibalo hoti gilānaṃ kālena kālaṃ dhammiyā kathāya sandassetuṃ samādapetuṃ samuttejetuṃ sampahaṃsetu’’nti (mahāva. 366) –
“Này các Tỳ-khưu, người chăm sóc bệnh nhân có năm đặc điểm này thì không thể chăm sóc bệnh nhân được: không có khả năng chuẩn bị thuốc, không biết điều thích hợp và không thích hợp, đưa đến điều không thích hợp, loại bỏ điều thích hợp, chăm sóc bệnh nhân vì vật chất chứ không phải vì lòng từ, cảm thấy ghê tởm khi phải dọn dẹp phân, nước tiểu, đờm, hoặc chất nôn, không có khả năng khuyến khích, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho vui lòng bệnh nhân bằng những lời nói hợp pháp vào những thời điểm thích hợp” (mahāva. 366).
Evaṃ vuttāni pañca ayuttaṅgāni ārakā parivajjetvā –
Sau khi tránh xa năm đặc điểm không phù hợp đã được nói như vậy:
‘‘Pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgato gilānupaṭṭhāko alaṃ gilānaṃ upaṭṭhātuṃ. Paṭibalo hoti bhesajjaṃ saṃvidhātuṃ, sappāyāsappāyaṃ jānāti, asappāyaṃ apanāmeti, sappāyaṃ upanāmeti, mettacitto gilānaṃ upaṭṭhāti, no āmisantaro, ajegucchī hoti uccāraṃ vā passāvaṃ vā kheḷaṃ vā vantaṃ vā nīhātuṃ, paṭibalo hoti gilānaṃ kālena kālaṃ dhammiyā kathāya sandassetuṃ samādapetuṃ samuttejetuṃ sampahaṃsetu’’nti (mahāva. 366) –
“Này các Tỳ-khưu, người chăm sóc bệnh nhân có năm đặc điểm này thì có thể chăm sóc bệnh nhân được: có khả năng chuẩn bị thuốc, biết điều thích hợp và không thích hợp, loại bỏ điều không thích hợp, đưa đến điều thích hợp, chăm sóc bệnh nhân bằng lòng từ chứ không phải vì vật chất, không cảm thấy ghê tởm khi phải dọn dẹp phân, nước tiểu, đờm, hoặc chất nôn, có khả năng khuyến khích, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho vui lòng bệnh nhân bằng những lời nói hợp pháp vào những thời điểm thích hợp” (mahāva. 366).
Evaṃ vuttapañcaṅgasamannāgatena bhavitabbaṃ.
Cần phải có năm đặc điểm đã được nói như vậy.
12. Dhammiṃ kathaṃ karontena (mahāva. aṭṭha. 2.180) ca ‘‘sīlavā hi tvaṃ katakusalo, kasmā mīyamāno bhāyasi, nanu sīlavato saggo nāma maraṇamattapaṭibaddhoyevā’’ti evaṃ gilānassa bhikkhuno maraṇavaṇṇo na saṃvaṇṇetabbo. Sace hi tassa saṃvaṇṇanaṃ sutvā āhārupacchedādinā upakkamena ekajavanavārāvasesepi āyusmiṃ antarā kālaṃ karoti, imināva mārito hoti. Paṇḍitena pana bhikkhunā iminā nayena anusiṭṭhi dātabbā ‘‘sīlavato nāma anacchariyā maggaphaluppatti, tasmā vihārādīsu āsattiṃ akatvā buddhagataṃ dhammagataṃ saṅghagataṃ kāyagatañca satiṃ upaṭṭhapetvā manasikāre appamādo kātabbo’’ti. Maraṇavaṇṇepi saṃvaṇṇite so tāya saṃvaṇṇanāya kañci upakkamaṃ akatvā attano dhammatāya yathāyunā yathānusandhināva marati, tappaccayā saṃvaṇṇako āpattiyā na kāretabbo.
12. Người thuyết pháp (mahāva. aṭṭha. 2.180) không nên ca ngợi cái chết cho Tỳ-khưu bệnh như vầy: “Ngài là người có giới, đã làm điều thiện, tại sao lại sợ chết? Chẳng phải đối với người có giới, cõi trời chỉ cách một cái chết thôi sao?” Vì nếu sau khi nghe lời ca ngợi đó, vị ấy chết giữa chừng, dù mạng sống chỉ còn một sát-na tâm, do một phương tiện nào đó như tuyệt thực, thì chính người này đã giết vị ấy. Nhưng một Tỳ-khưu có trí nên đưa ra lời khuyên theo cách này: “Đối với người có giới, việc đắc đạo quả không có gì là lạ. Do đó, không nên luyến ái các tự viện v.v., mà nên thiết lập niệm tưởng đến Phật, Pháp, Tăng, và thân, và phải không lơ là trong việc tác ý.” Nếu sau khi ca ngợi cái chết, vị ấy không dùng phương tiện nào do lời ca ngợi đó mà chết một cách tự nhiên theo tuổi thọ và duyên nghiệp của mình, thì người ca ngợi không bị kết tội do nhân duyên đó.
13. ‘‘Na ca, bhikkhave, attānaṃ pātetabbaṃ, yo pāteyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (pārā. 183) perinatal gilānena (pārā. aṭṭha. 2.182-183) bhikkhunāpi yena kenaci upakkamena antamaso āhārupacchedanenapi attā na māretabbo. Yopi gilāno vijjamāne bhesajje ca upaṭṭhākesu ca maritukāmo āhāraṃ upacchindati, dukkaṭameva. Yassa pana mahāābādho cirānubandho, bhikkhū upaṭṭhahantā kilamanti jigucchanti, ‘‘kadā nu kho gilānato muccissāmā’’ti aṭṭīyanti. Sace so ‘‘ayaṃ attabhāvo paṭijaggiyamānopi na tiṭṭhati, bhikkhū ca kilamantī’’ti āhāraṃ upacchindati, bhesajjaṃ na sevati, vaṭṭati. Yo pana ‘‘ayaṃ rogo kharo, āyusaṅkhārā na tiṭṭhanti, ayañca me visesādhigamo hatthappatto viya dissatī’’ti upacchindati, vaṭṭatiyeva. Agilānassapi uppannasaṃvegassa ‘‘āhārapariyesanaṃ nāma papañco, kammaṭṭhānameva anuyuñjissāmī’’ti kammaṭṭhānasīsena upacchindantassa vaṭṭati. Visesādhigamaṃ byākaritvā āhāraṃ upacchindati, na vaṭṭati. Sabhāgānañhi lajjībhikkhūnaṃ kathetuṃ vaṭṭati.
13. Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được tự sát, ai tự sát sẽ phạm tội Tác Ác” (pārā. 183), ngay cả Tỳ-khưu (pārā. aṭṭha. 2.182-183) bệnh cũng không được tự giết mình bằng bất cứ phương tiện nào, dù chỉ là tuyệt thực. Cả Tỳ-khưu bệnh nào muốn chết dù có thuốc men và người chăm sóc mà tuyệt thực cũng phạm tội Tác Ác. Nhưng người nào bị bệnh nặng, kéo dài, các Tỳ-khưu chăm sóc mệt mỏi, ghê tởm, bực bội rằng “khi nào mới thoát khỏi bệnh nhân đây?” Nếu vị ấy tuyệt thực, không dùng thuốc với ý nghĩ “thân này dù được chăm sóc cũng không tồn tại, và các Tỳ-khưu cũng mệt mỏi,” thì được phép. Người nào tuyệt thực với ý nghĩ “bệnh này nặng, mạng căn không còn, và sự chứng đắc thù thắng này của ta dường như đã trong tầm tay,” thì càng được phép. Ngay cả người không bệnh, khi khởi tâm nhàm chán, tuyệt thực với ý nghĩ “việc tìm kiếm thức ăn là sự rườm rà, ta sẽ chỉ chuyên tâm vào đề mục thiền định,” thì cũng được phép. Sau khi tuyên bố đã chứng đắc thù thắng rồi tuyệt thực thì không được phép. Được phép nói với các Tỳ-khưu biết hổ thẹn, là những người đồng pháp.
14. ‘‘Na ca, bhikkhave, appaṭivekkhitvā āsane nisīditabbaṃ, yo nisīdeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (pārā. 180) perinatal āsanaṃ anupaparikkhitvā na nisīditabbaṃ. Kīdisaṃ (pārā. aṭṭha. 2.180) pana āsanaṃ upaparikkhitabbaṃ, kīdisaṃ na upaparikkhitabbaṃ? Yaṃ suddhaṃ āsanameva hoti apaccattharaṇakaṃ, yañca āgantvā ṭhitānaṃ passataṃyeva attharīyati, taṃ na paccavekkhitabbaṃ, nisīdituṃ vaṭṭati. Yampi manussā sayaṃ hatthena akkamitvā ‘‘idha bhante nisīdathā’’ti denti, tasmimpi vaṭṭati. Sacepi paṭhamameva āgantvāpi nisinnā pacchā uddhaṃ vā adho vā saṅkamanti, paṭivekkhaṇakiccaṃ natthi. Yampi tanukena vatthena yathā talaṃ dissati, evaṃ paṭicchannaṃ hoti, tasmimpi paṭivekkhaṇakiccaṃ natthi. Yaṃ pana paṭikacceva pāvārakojavādīhi atthataṃ hoti, taṃ hatthena parāmasitvā sallakkhetvā nisīditabbaṃ. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘ghanasāṭakenapi atthate yasmiṃ vali na paññāyati, taṃ na paṭivekkhitabba’’nti vuttaṃ.
14. Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được ngồi xuống ghế mà không xem xét, ai ngồi xuống sẽ phạm tội Tác Ác” (pārā. 180), không được ngồi xuống mà không kiểm tra ghế. Nhưng (pārā. aṭṭha. 2.180) loại ghế nào cần kiểm tra, loại nào không cần kiểm tra? Ghế nào chỉ là ghế sạch, không có tấm trải, và ghế nào được trải ra ngay khi có người đến và đang nhìn thấy, thì không cần phải xem xét lại, được phép ngồi xuống. Cả ghế nào mà người ta tự dùng tay mình ấn xuống rồi đưa và nói “xin ngài hãy ngồi đây,” thì cũng được phép ngồi trên đó. Ngay cả khi đã đến trước và ngồi rồi, sau đó di chuyển lên trên hoặc xuống dưới, cũng không cần phải xem xét lại. Cả ghế nào được phủ bằng một tấm vải mỏng đến nỗi có thể nhìn thấy bề mặt bên dưới, thì cũng không cần phải xem xét lại. Nhưng ghế nào đã được trải sẵn bằng những tấm vải dày như pāvāra, ojavā v.v., thì phải dùng tay sờ và kiểm tra rồi mới ngồi xuống. Tuy nhiên, trong Mahāpaccariyaṁ có nói rằng: “ghế nào được trải bằng cả tấm vải dày mà không thấy nếp nhăn, thì không cần phải xem xét lại.”
15. ‘‘Na, bhikkhave, davāya silā paṭivijjhitabbā, yo paṭivijjheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (pārā. 183) perinatal hasādhippāyena pāsāṇo na pavaṭṭetabbo. Na kevalañca (pārā. aṭṭha. 2.182-183) pāsāṇo, aññampi yaṃ kiñci dārukhaṇḍaṃ vā iṭṭhakakhaṇḍaṃ vā hatthena vā yantena vā paṭivijjhituṃ na vaṭṭati. Cetiyādīnaṃ atthāya pāsāṇādayo hasantā hasantā pavaṭṭentipi khipantipi ukkhipantipi, ‘‘kammasamayo’’ti vaṭṭati, aññampi īdisaṃ navakammaṃ vā karontā bhaṇḍakaṃ vā dhovantā rukkhaṃ vā dhovanadaṇḍakaṃ vā ukkhipitvā paṭivijjhanti, vaṭṭati, bhattavissaggakālādīsu kāke vā soṇe vā kaṭṭhaṃ vā kathalaṃ vā khipitvā palāpenti, vaṭṭati.
15. Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được lăn đá để đùa giỡn, ai lăn sẽ phạm tội Tác Ác” (pārā. 183), không được lăn đá với ý định đùa giỡn. Không chỉ (pārā. aṭṭha. 2.182-183) đá, mà cả bất cứ khúc gỗ hay mảnh gạch nào khác, cũng không được phép lăn bằng tay hoặc bằng máy. Nhưng nếu lăn, ném, hoặc nâng đá v.v. với ý định xây dựng bảo tháp v.v., dù có đùa giỡn, cũng được phép vì là “thời gian làm việc.” Cả khi làm các công việc mới khác tương tự, hoặc giặt đồ, hoặc nâng cây gậy giặt đồ hay cây cối lên rồi ném xuống, cũng được phép. Vào lúc dọn dẹp sau bữa ăn v.v., ném khúc củi hay mảnh sành để đuổi quạ hay chó, cũng được phép.
16. ‘‘Na, bhikkhave, dāyo ālimpitabbo, yo ālimpeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 283) perinatal vane aggi na dātabbo. Sace (pārā. aṭṭha. 2.190) pana ‘‘etthantare yo koci satto maratū’’ti aggiṃ deti, pārājikānantariyathullaccayapācittiyavatthūnaṃ anurūpato pārājikādīni akusalarāsi ca hoti. ‘‘Allatiṇavanappatayo ḍayhantū’’ti aggiṃ dentassa pācittiyaṃ, ‘‘dabbūpakaraṇāni vinassantū’’ti aggiṃ dentassa dukkaṭaṃ. ‘‘Khiḍḍādhippāyenapi dukkaṭa’’nti saṅkhepaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. ‘‘Yaṃ kiñci allasukkhaṃ saindriyānindriyaṃ ḍayhatū’’ti aggiṃ dentassa vatthuvasena pārājikathullaccayapācittiyadukkaṭāni veditabbāni.
16. Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được đốt rừng, ai đốt sẽ phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 283), không được đốt lửa trong rừng. Nếu (pārā. aṭṭha. 2.190) đốt lửa với ý nghĩ “mong cho sinh vật nào trong đây chết đi,” thì tùy theo trường hợp là tội Bất Cộng Trụ, Trọng Tội, Ưng Đối Trị kế sau Bất Cộng Trụ mà bị tội Bất Cộng Trụ v.v. và khối tội bất thiện. Đốt lửa với ý nghĩ “mong cho cây cỏ tươi tốt cháy đi” thì phạm tội Ưng Đối Trị. Đốt lửa với ý nghĩ “mong cho các vật dụng bị hư hại” thì phạm tội Tác Ác. Trong Saṅkhepaṭṭhakathā có nói: “ngay cả với ý định đùa giỡn cũng phạm tội Tác Ác.” Đốt lửa với ý nghĩ “mong cho bất cứ thứ gì, tươi hay khô, có căn hay không có căn, cháy đi,” thì tùy theo đối tượng mà biết là tội Bất Cộng Trụ, Trọng Tội, Ưng Đối Trị, hay Tác Ác.
Paṭaggidānaṃ pana parittakaraṇañca bhagavatā anuññātaṃ, tasmā araññe vanakammikehi vā dinnaṃ sayaṃ vā uṭṭhitaṃ aggiṃ āgacchantaṃ disvā ‘‘tiṇakuṭiyo mā vinassantū’’ti tassa aggino paṭiaggiṃ dātuṃ vaṭṭati, yena saddhiṃ āgacchanto aggi ekato hutvā nirupādāno nibbāti. ‘‘Parittampi kātuṃ vaṭṭatī’’ti tiṇakuṭikānaṃ samantā bhūmitacchanaṃ parikhākhaṇanaṃ vā, yathā āgato aggi upādānaṃ alabhitvā nibbāti, etañca sabbaṃ uṭṭhiteyeva aggismiṃ asati anupasampanne sayampi kātuṃ vaṭṭati. Anuṭṭhite pana anupasampannehi kappiyavohārena kāretabbaṃ, udakena pana nibbāpentehi appāṇakameva udakaṃ āsiñcitabbaṃ.
Tuy nhiên, Đức Thế Tôn đã cho phép đốt lửa đối phó và làm biện pháp phòng ngừa. Do đó, khi thấy lửa do những người làm việc trong rừng đốt hoặc tự bốc lên đang lan đến, được phép đốt lửa đối phó với ngọn lửa đó với ý nghĩ “mong cho các lều cỏ không bị hư hại,” để khi ngọn lửa đang đến gặp nhau thì sẽ tắt vì không còn nhiên liệu. “Cũng được phép làm biện pháp phòng ngừa,” tức là dọn sạch đất xung quanh các lều cỏ hoặc đào hào, để khi lửa đến không có nhiên liệu để cháy và tự tắt. Và tất cả những điều này, khi lửa đã bốc lên mà không có người chưa thọ giới, thì tự mình cũng được phép làm. Nhưng khi lửa chưa bốc lên, phải nhờ người chưa thọ giới làm bằng cách nói hợp lệ. Khi dập lửa bằng nước, chỉ được tạt nước không có sinh vật.
17. Assaddhesu (pārā. aṭṭha. 2.181) micchādiṭṭhikulesu sakkaccaṃ paṇītabhojanaṃ labhitvā anupaparikkhitvā neva attanā paribhuñjitabbaṃ, na paresaṃ dātabbaṃ. Visamissampi hi tāni kulāni piṇḍapātaṃ denti. Yampi ābhidosikaṃ bhattaṃ vā khajjakaṃ vā tato labhati, tampi na paribhuñjitabbaṃ. Apihitavatthumpi hi sappavicchikādīhi adhisayitaṃ chaḍḍanīyadhammaṃ tāni kulāni denti. Gandhahaliddādimakkhitopi tato piṇḍapāto na gahetabbo. Sarīre rogaṭṭhānāni puñchitvā ṭhapitabhattampi hi tāni dātabbaṃ maññantīti.
17. Trong các gia đình (pārā. aṭṭha. 2.181) không có đức tin, có tà kiến, sau khi nhận được vật thực ngon một cách cung kính, không được tự mình dùng cũng không được cho người khác mà không kiểm tra. Vì những gia đình đó cũng cúng dường vật thực khất thực có lẫn thuốc độc. Cả vật thực hay thức ăn cứng nhận được từ đó do việc hạ độc, cũng không được dùng. Vì những gia đình đó cũng cúng dường những vật có thể bị rắn, bò cạp v.v. chui vào, là những thứ phải vứt bỏ, dù vật chứa có đậy nắp. Cả vật thực khất thực từ đó có dính nghệ, bột thơm v.v. cũng không nên nhận. Vì họ cho rằng cũng nên cúng dường cả vật thực đã được đặt sau khi lau chùi những chỗ bị bệnh trên cơ thể.
18. ‘‘Anāpatti, bhikkhave, gopakassa dāne’’ti (pārā. 156) vuttaṃ. Tattha (pārā. aṭṭha. 1.156) kataraṃ gopakadānaṃ vaṭṭati, kataraṃ na vaṭṭati? Mahāsumatthero tāva āha ‘‘yaṃ gopakassa paricchinditvā dinnaṃ hoti ‘ettakaṃ divase divase gaṇhā’ti, tadeva vaṭṭati, tato uttari na vaṭṭatī’’ti. Mahāpadumatthero panāha ‘‘kiṃ gopakānaṃ paṇṇaṃ āropetvā nimittasaññaṃ vā katvā dinnaṃ atthi, etesaṃ hatthe vissaṭṭhakassa ete issarā, tasmā yaṃ denti, taṃ bahukampi vaṭṭatī’’ti. Kurundaṭṭhakathāyaṃ pana vuttaṃ ‘‘manussānaṃ ārāmaṃ vā aññaṃ vā phalāphalaṃ dārakā rakkhanti, tehi dinnaṃ vaṭṭati, āharāpetvā pana na gahetabbaṃ. Saṅghike pana cetiyassa santake ca keṇiyā gahetvā rakkhantasseva dānaṃ vaṭṭati, vetanena rakkhantassa attano bhāgamattaṃ vaṭṭatī’’ti. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘yaṃ gihīnaṃ ārāmarakkhakā bhikkhūnaṃ denti, etampi vaṭṭati. Bhikkhusaṅghassa ārāmagopakā yaṃ attano bhatiyā khaṇḍitvā denti, etaṃ vaṭṭati. Yopi upaḍḍhārāmaṃ vā kecideva rukkhe vā bhatiṃ labhitvā rakkhati, tassapi attano sampattarukkhatoyeva dātuṃ vaṭṭati, keṇiyā gahetvā rakkhantassa pana sabbampi vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Etaṃ pana sabbaṃ byañjanato nānaṃ, atthato ekameva, tasmā adhippāyaṃ ñatvā gahetabbaṃ.
18. Đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, không phạm tội trong việc nhận vật cúng dường của người chăn giữ” (pārā. 156). Ở đây (pārā. aṭṭha. 1.156), việc cúng dường nào của người chăn giữ là được phép, việc nào không được phép? Trưởng lão Mahāsumatthera đã nói: “Chỉ những gì đã được phân chia và cho người chăn giữ với lời dặn ‘hãy nhận chừng này mỗi ngày,’ thì mới được phép. Nhiều hơn thế thì không được phép.” Nhưng trưởng lão Mahāpadumatthera lại nói: “Có phải người ta đã viết giấy hay làm dấu hiệu rồi mới cho những người chăn giữ đâu? Họ là chủ của những gì đã được giao phó vào tay họ, do đó, dù họ cho nhiều cũng được phép.” Còn trong Kurundaṭṭhakathā có nói: “Các đứa trẻ giữ vườn hoặc các loại trái cây khác của người ta, vật do chúng cho thì được phép. Nhưng không được nhận sau khi đã sai chúng mang đến. Còn trong tài sản của Tăng chúng và của bảo tháp, chỉ việc cúng dường của người giữ theo hợp đồng thuê mướn mới được phép. Người giữ bằng tiền công thì chỉ được phép cho phần của mình.” Còn trong Mahāpaccariyaṁ có nói: “Những gì người giữ vườn của tại gia cho các Tỳ-khưu, điều này cũng được phép. Người giữ vườn của Tăng chúng Tỳ-khưu, những gì họ trích từ tiền công của mình để cho, điều này được phép. Người nào nhận tiền công để giữ một nửa khu vườn hoặc chỉ một vài cây, người đó cũng chỉ được phép cho từ những cây thuộc về mình. Nhưng người giữ theo hợp đồng thuê mướn thì cho tất cả cũng được phép.” Tất cả những điều này chỉ khác nhau về lời văn, còn về ý nghĩa thì chỉ là một. Do đó, nên hiểu ý rồi nhận.
Apicettha ayampi vinicchayo veditabbo (pārā. aṭṭha. 1.156) – yattha āvāsikā āgantukānaṃ na denti, phalavāre ca sampatte aññesaṃ abhāvaṃ disvā corikāya attanāva khādanti, tattha āgantukehi ghaṇṭiṃ paharitvā bhājetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Yattha pana āvāsikā rukkhe rakkhitvā phalavāre sampatte bhājetvā khādanti, catūsu paccayesu sammā upanenti, anissarā tattha āgantukā. Yepi rukkhā cīvaratthāya niyametvā dinnā, tesupi āgantukā anissarā. Esa nayo sesapaccayatthāya niyametvā dinnepi. Ye pana tathā aniyametvā āvāsikā ca te rakkhitvā gopetvā corikāya paribhuñjanti, na tesu āvāsikānaṃ katikāya ṭhātabbaṃ. Ye phalaparibhogatthāya dinnā, āvāsikā ca ne rakkhitvā gopetvā sammā upanenti, tesuyeva tesaṃ katikāya ṭhātabbaṃ. Mahāpaccariyaṃ pana vuttaṃ ‘‘catunnaṃ paccayānaṃ niyametvā dinnaṃ theyyacittena paribhuñjanto bhaṇḍaṃ agghāpetvā kāretabbo, paribhogavasena bhājetvā paribhuñjantassa bhaṇḍadeyyaṃ. Yaṃthiaz senāsanatthāya niyamitaṃ, taṃ paribhogavaseneva bhājetvā paribhuñjantassa thullaccayañca bhaṇḍadeyyañcā’’ti.
Hơn nữa, ở đây cũng nên biết sự phân tích này (pārā. aṭṭha. 1.156): Ở nơi nào các Tỳ-khưu thường trú không cho các Tỳ-khưu khách, và khi đến mùa quả, thấy không có ai khác, họ tự ăn trộm. Ở đó, các Tỳ-khưu khách được phép gióng chuông, chia nhau rồi dùng. Nhưng ở nơi nào các Tỳ-khưu thường trú giữ gìn cây cối, đến mùa quả thì chia nhau ăn, và cung cấp đầy đủ bốn món vật dụng, thì ở đó các Tỳ-khưu khách không có quyền. Cả những cây đã được chỉ định và cúng dường cho mục đích làm y, các Tỳ-khưu khách cũng không có quyền. Quy tắc này cũng áp dụng cho những cây đã được chỉ định và cúng dường cho các món vật dụng khác. Nhưng những cây nào không được chỉ định như vậy, và các Tỳ-khưu thường trú giữ gìn chúng rồi ăn trộm, thì không cần phải tuân theo quy định của các Tỳ-khưu thường trú đối với những cây đó. Những cây nào được cúng dường để hưởng dụng quả, và các Tỳ-khưu thường trú giữ gìn chúng và cung cấp đầy đủ, thì chỉ đối với những cây đó mới cần tuân theo quy định của họ. Nhưng trong Mahāpaccariyaṁ có nói: “Người nào dùng với tâm trộm cắp những gì đã được chỉ định cho bốn món vật dụng thì phải bị định giá tài sản và bắt đền. Người nào chia nhau dùng theo cách hưởng dụng thì phải đền bù tài sản. Những gì đã được chỉ định cho mục đích trú xứ, người nào chia nhau dùng theo cách hưởng dụng thì phạm tội Trọng Tội và phải đền bù tài sản.”
Odissa cīvaratthāya dinnaṃ cīvareyeva upanetabbaṃ. Sace dubbhikkhaṃ hoti, bhikkhū piṇḍapātena kilamanti, cīvaraṃ pana sulabhaṃ, saṅghasuṭṭhutāya apalokanakammaṃ katvā piṇḍapātepi upanetuṃ vaṭṭati. Senāsanena gilānapaccayena vā kilamantesu saṅghasuṭṭhutāya apalokanakammaṃ katvā tadatthāyapi upanetuṃ vaṭṭati. Odissa piṇḍapātatthāya ca gilānapaccayatthāya ca dinnepi eseva nayo. Odissa senāsanatthāya dinnaṃ pana garubhaṇḍaṃ hoti, taṃ rakkhitvā gopetvā tadatthameva upanetabbaṃ. Sace pana dubbhikkhaṃ hoti, bhikkhū piṇḍapātena na yāpenti, ettha rājarogacorabhayādīhi aññattha gacchantānaṃ vihārā palujjanti, tālanāḷikerādike vināsenti, senāsanapaccayaṃ pana nissāya yāpetuṃ sakkā hoti, evarūpe kāle senāsanaṃ vissajjetvāpi senāsanajagganatthāya paribhogo bhagavatā anuññāto. Tasmā ekaṃ vā dve vā varasenāsanāni ṭhapetvā itarāni lāmakakoṭiyā piṇḍapātatthāya vissajjetuṃ vaṭṭanti, mūlavatthucchedaṃ pana katvā na upanetabbaṃ.
Vật được cúng dường chỉ định cho mục đích làm y thì phải được dùng cho y. Nếu có nạn đói, các Tỳ-khưu khổ sở vì vật thực khất thực, nhưng y lại dễ kiếm, thì sau khi làm Tăng sự biểu quyết vì lợi ích của Tăng chúng, được phép dùng cho cả vật thực khất thực. Khi các Tỳ-khưu khổ sở vì trú xứ hoặc thuốc men trị bệnh, sau khi làm Tăng sự biểu quyết vì lợi ích của Tăng chúng, được phép dùng cho cả mục đích đó. Đối với vật được cúng dường chỉ định cho mục đích vật thực khất thực và thuốc men trị bệnh, quy tắc này cũng tương tự. Nhưng vật được cúng dường chỉ định cho mục đích trú xứ là vật nặng, phải được giữ gìn và chỉ được dùng cho mục đích đó. Nhưng nếu có nạn đói, các Tỳ-khưu không đủ sống bằng vật thực khất thực, và khi đi nơi khác do sợ vua chúa, bệnh dịch, trộm cướp, các tự viện bị hư hại, người ta phá hoại cây thốt nốt, cây dừa v.v., nhưng có thể sống được nhờ vào vật dụng của trú xứ, trong thời điểm như vậy, Đức Thế Tôn đã cho phép hưởng dụng để bảo trì trú xứ, ngay cả khi phải bán trú xứ đi. Do đó, sau khi giữ lại một hoặc hai trú xứ tốt nhất, được phép bán những trú xứ còn lại theo giá rẻ nhất để lấy vật thực, nhưng không được dùng đến mức làm mất đi tài sản gốc.
Yo pana ārāmo catupaccayatthāya niyametvā dinno, tattha apalokanakammaṃ na kātabbaṃ. Yena paccayena pana ūnaṃ, tadatthaṃ upanetuṃ vaṭṭati, ārāmo paṭijaggitabbo, vetanaṃ datvāpi jaggāpetuṃ vaṭṭati. Ye pana vetanaṃ labhitvā ārāmeyeva gehaṃ katvā vasantā rakkhanti, te ce āgatānaṃ bhikkhūnaṃ nāḷikeraṃ vā tālapakkaṃ vā denti, yaṃ tesaṃ saṅghena anuññātaṃ hoti ‘‘divase divase ettakaṃ nāma khādathā’’ti, tadeva te dātuṃ labhanti, tato uttari tesaṃ dentānampi gahetuṃ na vaṭṭanti. Yo pana ārāmaṃ keṇiyā gahetvā saṅghassa catupaccayatthāya kappiyabhaṇḍameva deti, ayaṃ bahukampi dātuṃ labhati. Cetiyassa padīpatthāya vā khaṇḍaphullapaṭisaṅkharaṇatthāya vā dinnaārāmopi jaggitabbo, vetanaṃ datvāpi jaggāpetabbo. Vetanañcethiaz cetiyasantakampi saṅghasantakampi dātuṃ vaṭṭati. Etampi ārāmaṃ vetanena tattheva vasitvā rakkhantānañca keṇiyā gahetvā kappiyabhaṇḍadāyakānañca tatthajātakaphaladānaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ.
Đối với khu vườn nào được cúng dường chỉ định cho bốn món vật dụng, thì không cần phải làm Tăng sự biểu quyết. Nhưng thiếu món vật dụng nào thì được phép dùng cho mục đích đó. Phải chăm sóc khu vườn, được phép trả tiền công để cho người chăm sóc. Những người nhận tiền công và sống trong nhà trong chính khu vườn để trông coi, nếu họ cho dừa hoặc quả thốt nốt chín cho các Tỳ-khưu đến, thì họ chỉ được phép cho những gì đã được Tăng chúng cho phép rằng “mỗi ngày hãy ăn chừng này.” Họ không được phép cho nhiều hơn thế, và các Tỳ-khưu cũng không được phép nhận từ những người cho như vậy. Nhưng người nào thuê khu vườn và chỉ cung cấp những vật dụng thích hợp cho bốn món vật dụng của Tăng chúng, người này được phép cho nhiều. Khu vườn được cúng dường cho mục đích thắp đèn ở bảo tháp hoặc sửa chữa những chỗ hư hỏng, nứt nẻ cũng phải được chăm sóc, được phép trả tiền công để cho người chăm sóc. Và tiền công ở đây được phép lấy từ tài sản của bảo tháp và tài sản của Tăng chúng. Việc cúng dường quả cây mọc ở đó của những người trông coi khu vườn này bằng tiền công và sống tại đó, và của những người thuê và cung cấp vật dụng thích hợp, cũng nên được hiểu theo cách đã nói.
19. Dhammikarakkhaṃ (pāci. aṭṭha. 679) yācantena atītaṃ anāgataṃ vā ārabbha odissa ācikkhituṃ na vaṭṭati. Atītañhi ārabbha atthi odissa ācikkhanā, atthi anodissa ācikkhanā, anāgataṃ ārabbhapi atthi odissa ācikkhanā, atthi anodissa ācikkhanā. Kathaṃ atītaṃ ārabbha odissa ācikkhanā hoti? Bhikkhūnaṃ vihāre gāmadārakā vā dhuttādayo vā ye keci anācāraṃ ācaranti, rukkhaṃ vā chindanti, phalāphalaṃ vā haranti, parikkhāre vā acchindanti, bhikkhu vohārike upasaṅkamitvā ‘‘amhākaṃ vihāre idaṃ nāma kata’’nti vadati. ‘‘Kenā’’ti vutte ‘‘asukena ca asukena cā’’ti ācikkhati. Evaṃ atītaṃ ārabbha odissa ācikkhanā hoti, sā na vaṭṭati. Tañce sutvā te vohārikā tesaṃ daṇḍaṃ karonti, sabbaṃ bhikkhussa gīvā hoti, ‘‘daṇḍaṃ gaṇhissantī’’ti adhippāyepi sati gīvāyeva hoti. Sace pana ‘‘tassa daṇḍaṃ gaṇhathā’’ti vadati, pañcamāsakamatte gahite pārājikaṃ hoti. ‘‘Kenā’’ti vutte pana ‘‘asukenāti vattuṃ amhākaṃ na vaṭṭati, tumheyeva jānissatha. Kevalañhi mayaṃ rakkhaṃ yācāma, taṃ no detha, avahaṭabhaṇḍañca āharāpethā’’ti vattabbaṃ. Evaṃ anodissa ācikkhanā hoti, sā vaṭṭati. Evaṃ vutte sacepi te vohārikā kārake gavesitvā tesaṃ daṇḍaṃ karonti, sabbasāpateyyepi gahite bhikkhuno neva gīvā, na āpatti. Parikkhāraṃ harante disvā tesaṃ anatthakāmatāya ‘‘coro coro’’ti vattumpi na vaṭṭati. Evaṃ vuttepi hi yaṃ tesaṃ daṇḍaṃ karonti, sabbaṃ bhikkhuno gīvā hoti. Attano vacanakaraṃ pana ‘‘iminā me parikkhāro gahito, taṃ āharāpehi, mā cassa daṇḍaṃ karohī’’ti vattuṃ vaṭṭati. Dāsadāsīvāpiādīnampi atthāya aḍḍaṃ karonti ayaṃ akappiyaaḍḍo nāma, na vaṭṭati.
19. Người xin sự bảo vệ hợp pháp (pāci. aṭṭha. 679) không được phép chỉ đích danh khi đề cập đến chuyện quá khứ hoặc tương lai. Khi đề cập đến quá khứ, có việc chỉ đích danh, có việc không chỉ đích danh. Khi đề cập đến tương lai, cũng có việc chỉ đích danh, có việc không chỉ đích danh. Việc chỉ đích danh khi đề cập đến quá khứ là như thế nào? Trong tự viện của các Tỳ-khưu, có đám trẻ trong làng hoặc những kẻ du đãng v.v., bất cứ ai làm điều sai trái, chặt cây, lấy hoa quả, hoặc cướp đoạt đồ dùng, vị Tỳ-khưu đến gặp vị quan xử kiện và nói: “Trong tự viện của chúng tôi đã xảy ra chuyện này.” Khi được hỏi: “Do ai?”, vị ấy kể ra: “Do người này và người kia.” Như vậy là việc chỉ đích danh khi đề cập đến quá khứ, điều đó không được phép. Nếu sau khi nghe vậy, các vị quan xử kiện đó trừng phạt họ, thì tất cả đều là trách nhiệm của vị Tỳ-khưu. Ngay cả khi có ý định “họ sẽ bị trừng phạt,” thì vẫn là trách nhiệm. Nhưng nếu vị ấy nói: “Hãy trừng phạt người đó,” thì khi tài sản bị lấy trị giá năm māsaka, vị ấy phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng khi được hỏi: “Do ai?”, nên nói rằng: “Chúng tôi không được phép nói là do ai, chính các ngài sẽ biết. Chúng tôi chỉ xin sự bảo vệ, xin hãy cho chúng tôi điều đó, và xin hãy lấy lại đồ đạc đã bị lấy đi.” Như vậy là việc không chỉ đích danh, điều đó được phép. Sau khi nói như vậy, dù các vị quan xử kiện đó tìm ra thủ phạm và trừng phạt họ, dù lấy hết tài sản, vị Tỳ-khưu cũng không có trách nhiệm, không phạm tội. Khi thấy người ta đang lấy đồ dùng, cũng không được phép nói “trộm, trộm” vì không muốn điều xấu cho họ. Vì khi nói như vậy, bất cứ hình phạt nào họ bị, tất cả đều là trách nhiệm của vị Tỳ-khưu. Nhưng được phép nói với người nghe lời mình rằng: “Người này đã lấy đồ dùng của tôi, hãy lấy lại nó, nhưng đừng trừng phạt người đó.” Việc họ can thiệp vì lợi ích của nô lệ nam nữ, trẻ mồ côi v.v. được gọi là sự can thiệp không hợp lệ, không được phép.
Kathaṃ anāgataṃ ārabbha odissa ācikkhanā hoti? Vuttanayeneva parehi anācārādīsu katesu bhikkhu vohārike evaṃ vadati ‘‘amhākaṃ vihāre idañcidañca karonti, rakkhaṃ no detha āyatiṃ akaraṇatthāyā’’ti. ‘‘Kena evaṃ kata’’nti vutte ca ‘‘asukena ca asukena cā’’ti ācikkhati. Evaṃ anāgataṃ ārabbha odissa ācikkhanā hoti, sāpi na vaṭṭati. Tesañhi daṇḍe kate purimanayeneva sabbaṃ bhikkhussa gīvā, sesaṃ purimasadisameva. Sace vohārikā ‘‘bhikkhūnaṃ vihāre evarūpaṃ anācāraṃ karontānaṃ imaṃ nāma daṇḍaṃ karomā’’ti bheriṃ carāpetvā āṇāya atiṭṭhamāne pariyesitvā daṇḍaṃ karonti, bhikkhuno neva gīvā, na āpatti. Vihārasīmāya rukkhādīni chindantānaṃ vāsipharasuādīni gahetvā pāsāṇehi koṭṭenti, na vaṭṭati. Sace dhārā bhijjati, kārāpetvā dātabbā. Upadhāvitvā tesaṃ parikkhāre gaṇhanti, tampi na kātabbaṃ. Lahuparivattañhi cittaṃ, theyyacetanāya uppannāya mūlacchejjampi gaccheyya.
Việc chỉ đích danh khi đề cập đến tương lai là như thế nào? Khi những người khác làm những điều sai trái v.v. như đã nói, vị Tỳ-khưu nói với vị quan xử kiện như vầy: “Trong tự viện của chúng tôi, họ làm điều này điều nọ, xin hãy bảo vệ chúng tôi để sau này không xảy ra nữa.” Và khi được hỏi: “Ai đã làm vậy?”, vị ấy kể ra: “Do người này và người kia.” Như vậy là việc chỉ đích danh khi đề cập đến tương lai, điều đó cũng không được phép. Nếu họ bị trừng phạt, thì tất cả đều là trách nhiệm của vị Tỳ-khưu như trường hợp trước, phần còn lại cũng tương tự như trước. Nếu các vị quan xử kiện cho đánh trống loan báo: “Chúng tôi sẽ phạt những người làm điều sai trái như vậy trong tự viện của các Tỳ-khưu bằng hình phạt này,” rồi tìm kiếm và trừng phạt những người không tuân theo lệnh, thì vị Tỳ-khưu không có trách nhiệm, không phạm tội. Khi người ta đang chặt cây v.v. trong khuôn viên tự viện, không được phép lấy rìu, búa v.v. của họ rồi đập vào đá. Nếu lưỡi bị mẻ, phải cho làm lại rồi trả. Chạy đến lấy đồ dùng của họ cũng không được làm. Vì tâm dễ thay đổi, nếu tâm trộm cắp khởi lên, có thể dẫn đến việc chiếm đoạt hoàn toàn.
20. Uccāraṃ vā passāvaṃ vā saṅkāraṃ vā vighāsaṃ vā tirokuṭṭe vā tiropākāre vā chaḍḍetuṃ vā chaḍḍāpetuṃ vā na vaṭṭati. Cattāripi (pāci. aṭṭha. 826) vatthūni ekapayogena chaḍḍentassa ekameva dukkaṭaṃ, pāṭekkaṃ chaḍḍentassa vatthugaṇanāya dukkaṭāni. Āṇattiyampi eseva nayo. Dantakaṭṭhachaḍḍanepi dukkaṭameva. Oloketvā vā avalañje vā uccārādīni chaḍḍentassa anāpatti. Yampi manussānaṃ upabhogaparibhogaṃ ropimaṃ khettaṃ hotu nāḷikerādiārāmo vā, tatthāpi yattha katthaci ropimaharitaṭṭhāne etāni vatthūni chaḍḍetuṃ na vaṭṭati. Chaḍḍentassa purimanayeneva āpattibhedo veditabbo. Khette vā ārāme vā nisīditvā bhuñjamāno ucchuādīni vā khādamāno gacchanto ucchiṭṭhodakacalakādīni haritaṭṭhāne chaḍḍeti, antamaso udakaṃ pivitvā matthakacchinnanāḷikerampi chaḍḍeti, dukkaṭaṃ. Kasitaṭṭhāne nikkhittabīje aṅkure uṭṭhitepi avuṭṭhitepi dukkaṭameva. Anikkhittabījesu pana khettakoṇādīsu vā asañjātaropimesu khettamariyādādīsu vā chaḍḍetuṃ vaṭṭati, manussānaṃ kacavarachaḍḍanaṭṭhānepi vaṭṭati. Manussesu sassaṃ uddharitvā gatesu chaḍḍitakhettaṃ nāma hoti, tattha vaṭṭati. Yattha pana ‘‘lāyitampi pubbaṇṇādi puna uṭṭhahissatī’’ti rakkhanti, tattha na vaṭṭati.
20. Không được phép vứt hoặc cho người khác vứt phân, nước tiểu, rác, hoặc thức ăn thừa ra ngoài tường rào hoặc ngoài hàng rào. Nếu vứt cả bốn (pāci. aṭṭha. 826) thứ trong một lần, chỉ phạm một tội Tác Ác. Nếu vứt riêng từng thứ, sẽ phạm tội Tác Ác theo số lượng vật. Trong việc ra lệnh cũng tương tự. Trong việc vứt tăm xỉa răng cũng phạm tội Tác Ác. Khi vứt phân v.v. sau khi đã quan sát hoặc vứt vào chỗ trũng thì không phạm tội. Cả nơi nào là ruộng trồng trọt, vườn dừa v.v. mà con người sử dụng và hưởng dụng, ở nơi đó, tại bất cứ chỗ nào có cây xanh đang mọc, cũng không được phép vứt những thứ này. Người nào vứt sẽ bị phân chia tội lỗi theo cách đã nói trước. Khi đang ngồi ăn trong ruộng hoặc vườn, hoặc đang đi ăn mía v.v., nếu vứt nước súc miệng, vỏ cây v.v. vào chỗ có cây xanh, hoặc thậm chí sau khi uống nước mà vứt cả quả dừa đã chặt đầu, thì phạm tội Tác Ác. Trên thửa ruộng đã cày, khi hạt giống đã gieo đã nảy mầm hay chưa nảy mầm, cũng đều phạm tội Tác Ác. Nhưng được phép vứt ở những nơi như góc ruộng chưa gieo hạt, hoặc ở những nơi chưa trồng trọt như bờ ruộng v.v., cũng được phép vứt ở nơi đổ rác của con người. Sau khi con người đã thu hoạch lúa và đi rồi, nơi đó được gọi là ruộng đã bỏ hoang, ở đó được phép vứt. Nhưng ở nơi nào người ta giữ lại với ý nghĩ “lúa đã gặt hay các loại ngũ cốc khác sẽ mọc lại,” thì ở đó không được phép vứt.
21. ‘‘Na, bhikkhave, nahāyamānena bhikkhunā rukkhe kāyo ugghaṃsetabbo, yo ugghaṃseyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 243) perinatal nahāyantena (cūḷava. aṭṭha. 243 ādayo) rukkhe vā nahānatitthe nikhanitvā ṭhapitatthambhe vā iṭṭhakasilādārukuṭṭānaṃ aññatarasmiṃ kuṭṭe vā kāyo na ghaṃsetabbo.
21. “Này các Tỳ-khưu, khi đang tắm, Tỳ-khưu không được cọ xát thân thể vào cây, ai cọ xát, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 243). Theo đó, khi đang tắm (cūḷava. aṭṭha. 243 và tiếp theo), không được cọ xát thân thể vào cây, hoặc vào cột được chôn ở bến tắm, hoặc vào tường bằng gạch, đá, hoặc gỗ.
‘‘Na, bhikkhave, aṭṭāne nahāyitabbaṃ, yo nahāyeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 243) perinatal aṭṭānepi nahāyituṃ na vaṭṭati. Aṭṭānaṃ nāma rukkhaṃ phalakaṃ viya tacchetvā aṭṭhapadākārena rājiyo chinditvā nahānatitthe nikhananti, tattha cuṇṇāni ākiritvā manussā kāyaṃ ghaṃsanti.
“Này các Tỳ-khưu, không được tắm ở nơi không thích hợp, ai tắm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 243). Theo đó, cũng không được phép tắm ở nơi không thích hợp. Nơi không thích hợp là nơi người ta đẽo cây như tấm ván, kẻ những đường hình bàn cờ tám ô rồi chôn ở bến tắm. Ở đó, người ta rắc bột rồi cọ xát thân thể.
‘‘Na, bhikkhave, gandhabbahatthakena nahāyitabbaṃ, yo nahāyeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 243) perinatal nahānatitthe ṭhapitena dārumayahatthena cuṇṇāni gahetvā manussā sarīraṃ ghaṃsanti, tena nahāyituṃ na vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được tắm bằng tay gandhabba, ai tắm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 243). Theo đó, người ta dùng bàn tay làm bằng gỗ đặt ở bến tắm để lấy bột cọ xát cơ thể, không được phép tắm bằng vật đó.
‘‘Na, bhikkhave, kuruvindakasuttiyā nahāyitabbaṃ, yo nahāyeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 243) perinatal kuruvindakasuttiyāpi nahāyituṃ na vaṭṭati. Kuruvindakasutti nāma kuruvindakapāsāṇacuṇṇāni lākhāya bandhitvā kataguḷikakalāpako vuccati, yaṃ ubhosu antesu gahetvā sarīraṃ ghaṃsanti.
“Này các Tỳ-khưu, không được tắm bằng dây kuruvindaka, ai tắm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 243). Theo đó, cũng không được phép tắm bằng dây kuruvindaka. Dây kuruvindaka được gọi là một chùm viên tròn được làm bằng cách dùng nhựa cánh kiến kết dính bột đá kuruvindaka, người ta cầm hai đầu để cọ xát cơ thể.
‘‘Na, bhikkhave, viggayha parikammaṃ kārāpetabbaṃ, yo kārāpeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 243) perinatal aññamaññaṃ sarīrena ghaṃsituṃ na vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được cho người khác chà xát mạnh, ai cho làm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 243). Theo đó, không được phép cọ xát cơ thể với nhau.
‘‘Na, bhikkhave, mallakena nahāyitabbaṃ, yo nahāyeyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, gilānassa akatamallaka’’nti (cūḷava. 243-244) perinatal makaradaṇḍake chinditvā mallakamūlasaṇṭhānena kataṃ ‘‘mallaka’’nti vuccati, idaṃ gilānassapi na vaṭṭati. Akatamallakaṃ nāma dante acchinditvā kataṃ, idaṃ agilānassa na vaṭṭati, iṭṭhakakhaṇḍaṃ pana kapālakhaṇḍaṃ vā vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được tắm bằng bàn chải, ai tắm, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép người bệnh dùng bàn chải chưa làm” (cūḷava. 243-244). Theo đó, vật được gọi là “bàn chải” được làm bằng cách cắt những cành cây có gai và tạo thành hình dạng như rễ cây mallaka, vật này ngay cả người bệnh cũng không được phép dùng. Bàn chải chưa làm là loại được làm mà không cắt gai, loại này người không bệnh không được phép dùng. Nhưng một mảnh gạch hoặc một mảnh sành thì được phép.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ukkāsikaṃ puthupāṇika’’nti (cūḷava. 244) perinatal ukkāsikaṃ puthupāṇikañca vaṭṭati. Ukkāsikaṃ nāma vatthavaṭṭi, tasmā nahāyantassa yassa kassaci nahānasāṭakavaṭṭiyā piṭṭhiṃ ghaṃsituṃ vaṭṭati. Puthupāṇikanti hatthaparikammaṃ vuccati, tasmā sabbesaṃ hatthena piṭṭhiparikammaṃ kātuṃ vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng khăn cuộn và dùng tay xoa” (cūḷava. 244). Theo đó, được phép dùng khăn cuộn và dùng tay xoa. Khăn cuộn là một cuộn vải, do đó, người đang tắm được phép dùng cuộn vải tắm của bất kỳ ai để cọ lưng. Dùng tay xoa được gọi là việc dùng tay, do đó, tất cả mọi người đều được phép dùng tay để xoa lưng.
Idaṃthiaz nahānavattaṃ – udakatitthaṃ gantvā yattha vā tattha vā cīvaraṃ nikkhipitvā vegena ṭhitakeneva na otaritabbaṃ, sabbadisā pana oloketvā vivittabhāvaṃ ñatvā khāṇugumbalatādīni vavatthapetvā tikkhattuṃ ukkāsitvā avakujja ṭhitena uttarāsaṅgacīvaraṃ apanetvā pasāretabbaṃ, kāyabandhanaṃ mocetvā cīvarapiṭṭheyeva ṭhapetabbaṃ. Sace udakasāṭikā natthi, udakante ukkuṭikaṃ nisīditvā nivāsanaṃ mocetvā sace ninnaṭṭhānaṃ atthi, ātape pasāretabbaṃ. No ce atthi, saṃharitvā ṭhapetabbaṃ. Otarantena saṇikaṃ nābhippamāṇamattaṃ otaritvā vīciṃ anuṭṭhapentena saddaṃ akarontena nivattitvā āgatadisābhimukhena nimujjitabbaṃ, evaṃ cīvaraṃ rakkhitaṃ hoti. Ummujjantenapi saddaṃ akarontena saṇikaṃ ummujjitvā nahānapariyosāne udakante ukkuṭikena nisīditvā nivāsanaṃ parikkhipitvā uṭṭhāya suparimaṇḍalaṃ nivāsetvā kāyabandhanaṃ bandhitvā cīvaraṃ pārupitvāva ṭhātabbaṃ.
Đây là quy tắc tắm rửa: sau khi đến bến nước, không được để y ở bất cứ đâu rồi vội vã xuống nước khi đang đứng. Mà phải nhìn khắp các hướng, biết được nơi vắng vẻ, xác định các gốc cây, bụi rậm, dây leo v.v., sau khi hắng giọng ba lần, nên cởi y tăng-già-lê ra và trải ra khi đang cúi người, cởi dây thắt lưng ra và đặt lên trên y. Nếu không có y tắm, nên ngồi xổm bên bờ nước, cởi y nội ra, nếu có chỗ trũng thì phơi dưới nắng. Nếu không có, nên gấp lại và để đó. Khi xuống nước, nên từ từ xuống đến khoảng ngang rốn, không làm gợn sóng, không gây tiếng động, quay lại hướng mình đã đến rồi lặn xuống, như vậy y sẽ được bảo vệ. Khi nổi lên cũng không gây tiếng động, từ từ nổi lên, sau khi tắm xong, ngồi xổm bên bờ nước, quấn y nội quanh người rồi đứng dậy, mặc y nội một cách chỉnh tề, thắt dây lưng, rồi phải khoác y lên người mới được đứng.
22. ‘‘Na, bhikkhave, vallikā dhāretabbā… na pāmaṅgo dhāretabbo… na kaṇṭhasuttakaṃ dhāretabbaṃ… na kaṭisuttakaṃ dhāretabbaṃ… na ovaṭṭikaṃ dhāretabbaṃ… na kāyūraṃ dhāretabbaṃ… na hatthābharaṇaṃ dhāretabbaṃ… na aṅgulimuddikā dhāretabbā, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 245) perinatal kaṇṇapiḷandhanādi yaṃ kiñci ābharaṇaṃ na vaṭṭati. Tattha (cūḷava. aṭṭha. 245) vallikāti kaṇṇato nikkhantamuttolambakādīnaṃ etaṃ adhivacanaṃ. Na kevalañca vallikā eva, yaṃ kiñci kaṇṇapiḷandhanaṃ antamaso tālapaṇṇampi na vaṭṭati. Pāmaṅganti yaṃ kiñci palambakasuttaṃ. Kaṇṭhasuttakanti yaṃ kiñci gīvūpagaṃ ābharaṇaṃ. Kaṭisuttakanti yaṃ kiñci kaṭipiḷandhanaṃ, antamaso suttatantumattampi. Ovaṭṭikanti valayaṃ. Kāyūrādīni pākaṭāneva.
22. “Này các Tỳ-khưu, không được đeo vòng tai… không được đeo dây chuyền… không được đeo vòng cổ… không được đeo dây lưng… không được đeo vòng tay… không được đeo vòng cánh tay… không được đeo trang sức tay… không được đeo nhẫn, ai đeo, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 245). Theo đó, bất cứ đồ trang sức nào như đồ trang sức tai v.v. đều không được phép. Ở đây (cūḷava. aṭṭha. 245), vallikā là tên gọi của những thứ như bông tai có tua rua thả xuống từ tai. Không chỉ vallikā, mà bất cứ đồ trang sức tai nào, dù chỉ là lá cọ, cũng không được phép. Pāmaṅga là bất cứ loại dây chuyền nào. Kaṇṭhasuttaka là bất cứ đồ trang sức nào đeo ở cổ. Kaṭisuttaka là bất cứ đồ trang sức nào đeo ở hông, dù chỉ là một sợi chỉ. Ovaṭṭika là vòng xuyến. Kāyūra v.v. thì đã rõ ràng.
23. ‘‘Na, bhikkhave, dīghā kesā dhāretabbā, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, dvemāsikaṃ vā duvaṅgulaṃ vā’’ti (cūḷava. 246) perinatal sace kesā antodvemāse dvaṅgulaṃ pāpuṇanti, antodvemāseyeva chinditabbā, dvaṅgulehi atikkāmetuṃ na vaṭṭati. Sacepi na dīghā, dvemāsato ekadivasampi atikkāmetuṃ na labhatiyeva. Ubhayathāpi ukkaṭṭhaparicchedova vutto, tato oraṃ pana na vaṭṭanabhāvo nāma natthi.
23. “Này các Tỳ-khưu, không được để tóc dài, ai để, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép để (tóc) hai tháng hoặc hai ngón tay” (cūḷava. 246). Theo đó, nếu tóc dài đến hai ngón tay trong vòng hai tháng, thì phải cắt ngay trong vòng hai tháng, không được phép để dài quá hai ngón tay. Ngay cả khi tóc không dài, cũng không được phép để quá hai tháng dù chỉ một ngày. Cả hai đều là giới hạn tối đa đã được quy định, còn ngắn hơn thì không có chuyện là không được phép.
‘‘Na, bhikkhave, kattarikāya kesā chedāpetabbā, yo chedāpeyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, ābādhapaccayā kattarikāya kese chedāpetu’’nti (cūḷava. 275) perinatal ābādhaṃ vinā kattarikāya kese chedāpetuṃ na vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được cho người khác cắt tóc bằng kéo, ai cho cắt, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cho người khác cắt tóc bằng kéo vì lý do bệnh tật” (cūḷava. 275). Theo đó, không được phép cho người khác cắt tóc bằng kéo nếu không có bệnh.
‘‘Na, bhikkhave, kocchena kesā osaṇṭhetabbā… na phaṇakena kesā osaṇṭhetabbā… na hatthaphaṇakena kesā osaṇṭhetabbā… na sitthatelakena kesā osaṇṭhetabbā… na udakatelakena kesā osaṇṭhetabbā, yo osaṇṭheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 246) perinatal maṇḍanatthāya kocchādīhi kesā na osaṇṭhetabbā, uddhalomena pana anulomanipātanatthaṃ hatthaṃ temetvā sīsaṃ puñchitabbaṃ, uṇhābhitattarajasirānampi allahatthena puñchituṃ vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được chải tóc bằng lược thưa… không được chải tóc bằng lược dày… không được chải tóc bằng lược tay… không được vuốt tóc bằng sáp ong… không được vuốt tóc bằng dầu nước, ai vuốt, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 246). Theo đó, không được chải tóc bằng lược thưa v.v. để trang điểm. Nhưng để làm cho tóc dựng đứng xuôi xuống, nên làm ướt tay rồi vuốt đầu. Khi đầu bị nóng và dính bụi, cũng được phép vuốt bằng tay ướt.
24. ‘‘Na, bhikkhave, ādāse vā udakapatte vā mukhanimittaṃ oloketabbaṃ, yo olokeyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, ābādhapaccayā ādāse vā udakapatte vā mukhanimittaṃ oloketu’’nti (cūḷava. 247) perinatal ābādhaṃ vinā ādāse vā udakapatte vā mukhaṃ na oloketabbaṃ. Ettha ca kaṃsapattādīnipi yesu mukhanimittaṃ paññāyati, sabbāni ādāsasaṅkhameva gacchanti, kañjiyādīnipi ca udakapattasaṅkhameva. Tasmā yattha katthaci olokentassa dukkaṭaṃ. Ābādhapaccayā pana ‘‘sañchavi nu kho me vaṇo, udāhu na tāvā’’ti jānanatthaṃ vaṭṭati, ‘‘jiṇṇo nu khomhi, no’’ti evaṃ āyusaṅkhāraṃ olokanatthampi vaṭṭatīti vuttaṃ.
24. “Này các Tỳ-khưu, không được nhìn hình ảnh khuôn mặt trong gương hoặc trong bát nước, ai nhìn, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép nhìn hình ảnh khuôn mặt trong gương hoặc trong bát nước vì lý do bệnh tật” (cūḷava. 247). Theo đó, không được nhìn mặt trong gương hoặc trong bát nước nếu không có bệnh. Ở đây, cả những chiếc bát bằng đồng v.v. mà trong đó có thể thấy hình ảnh khuôn mặt, tất cả đều được xem như gương. Cả những thứ như nước cháo v.v. cũng được xem như bát nước. Do đó, người nào nhìn vào bất cứ đâu cũng phạm tội Tác Ác. Nhưng vì lý do bệnh tật, để biết “vết thương của mình đã lành da chưa, hay vẫn chưa,” thì được phép. Cũng đã được nói rằng, để xem xét tuổi thọ như “mình đã già chưa, hay chưa,” cũng được phép.
‘‘Na, bhikkhave, mukhaṃ ālimpitabbaṃ… na mukhaṃ ummadditabbaṃ… na mukhaṃ cuṇṇetabbaṃ… na manosilikāya mukhaṃ lañchetabbaṃ… na aṅgarāgo kātabbo… na mukharāgo kātabbo… na aṅgarāgamukharāgo kātabbo, yo kareyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, ābādhapaccayā mukhaṃ ālimpitu’’nti (cūḷava. 247) perinatal ābādhaṃ vinā mukhavilimpanādi na kātabbaṃ.
“Này các Tỳ-khưu, không được thoa mặt… không được xoa bóp mặt… không được thoa phấn mặt… không được vẽ mặt bằng đất son… không được trang điểm thân thể… không được trang điểm mặt… không được trang điểm thân thể và mặt, ai làm, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép thoa mặt vì lý do bệnh tật” (cūḷava. 247). Theo đó, không được thoa mặt v.v. nếu không có bệnh.
25. ‘‘Na, bhikkhave, naccaṃ vā gītaṃ vā vāditaṃ vā dassanāya gantabbaṃ, yo gaccheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 248) perinatal naccādiṃ dassanāya na gantabbaṃ. Ettha (pāci. aṭṭha. 835) ca naccanti naṭādayo vā naccantu soṇḍā vā antamaso morasūvamakkaṭādayopi, sabbametaṃ naccameva, tasmā antamaso moranaccampi dassanāya gacchantassa dukkaṭaṃ. Sayampi naccantassa vā naccāpentassa vā dukkaṭameva. Gītanti naṭādīnaṃ vā gītaṃ hotu ariyānaṃ parinibbānakāle ratanattayaguṇūpasañhitaṃ sādhukīḷitagītaṃ vā asaññatabhikkhūnaṃ dhammabhāṇakagītaṃ vā antamaso dantagītampi, ‘‘yaṃ gāyissāmā’’ti pubbabhāge okūjantā karonti, sabbametaṃ gītameva, sayaṃ gāyantassapi gāyāpentassapi dukkaṭameva.
25. “Này các Tỳ-khưu, không được đi xem múa, hát, hoặc nhạc, ai đi, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 248). Theo đó, không được đi xem múa v.v. Ở đây (pāci. aṭṭha. 835), múa dù là của các vũ công v.v. múa, hay của những người say rượu, hay thậm chí là của công, vẹt, khỉ v.v., tất cả đều là múa. Do đó, người nào đi xem dù chỉ là điệu múa của công cũng phạm tội Tác Ác. Tự mình múa hoặc cho người khác múa cũng phạm tội Tác Ác. Hát dù là bài hát của các vũ công v.v., hay là bài hát tán thán Tam Bảo một cách trang nghiêm vào lúc các bậc Thánh nhập Niết-bàn, hay là bài hát thuyết pháp của các Tỳ-khưu không biết tự chế, hay thậm chí là bài hát ngân nga, mà người ta làm ở phần đầu khi nói “chúng ta sẽ hát,” tất cả đều là hát. Tự mình hát hoặc cho người khác hát cũng phạm tội Tác Ác.
‘‘Pañcime, bhikkhave, ādīnavā āyatakena gītassarena dhammaṃ gāyantassa. Attanāpi tasmiṃ sare sārajjati, parepi tasmiṃ sare sārajjanti, gahapatikāpi ujjhāyanti, sarakuttimpi nikāmayamānassa samādhissa bhaṅgo hoti, pacchimā janatā diṭṭhānugatiṃ āpajjati. Ime kho, bhikkhave, pañca ādīnavā āyatakena gītassarena dhammaṃ gāyantassa. Na, bhikkhave, āyatakena gītassarena dhammo gāyitabbo, yo gāyeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 249) –
“Này các Tỳ-khưu, có năm điều nguy hại này đối với người đọc tụng Pháp với giọng hát kéo dài. Tự mình cũng say mê giọng hát đó, người khác cũng say mê giọng hát đó, các gia chủ cũng chê bai, sự tập trung của người muốn có giọng hát hay bị phá vỡ, thế hệ sau sẽ noi theo gương xấu. Này các Tỳ-khưu, đây là năm điều nguy hại đối với người đọc tụng Pháp với giọng hát kéo dài. Này các Tỳ-khưu, không được đọc tụng Pháp với giọng hát kéo dài, ai đọc tụng, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 249).
Vacanato āyatakena gītassarena dhammopi na gāyitabbo.
Theo lời dạy này, ngay cả Pháp cũng không được đọc tụng với giọng hát kéo dài.
Āyatako (cūḷava. aṭṭha. 249) nāma gītassaro taṃ taṃ vattaṃ bhinditvā akkharāni vināsetvā pavatto. Dhamme pana suttantavattaṃ nāma atthi, jātakavattaṃ nāma atthi, gāthāvattaṃ nāma atthi, taṃ vināsetvā atidīghaṃ kātuṃ na vaṭṭati, caturassena vattena parimaṇḍalāni padabyañjanāni dassetabbāni. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, sarabhañña’’nti (cūḷava. 249) perinatal pana sarena dhammaṃ bhaṇituṃ vaṭṭati. Sarabhaññe kira taraṅgavattadhotakavattagalitavattādīni dvattiṃsa vattāni atthi, tesu yaṃ icchati, taṃ kātuṃ labhati. Sabbesaṃ padabyañjanaṃ avināsetvā vikāraṃ akatvā samaṇasāruppena caturassena nayena pavattanaṃyeva lakkhaṇaṃ.
Giọng hát kéo dài (cūḷava. aṭṭha. 249) là giọng hát được phát ra bằng cách phá vỡ các quy tắc ngâm vịnh khác nhau và làm biến dạng các chữ. Trong Pháp, có quy tắc ngâm vịnh kinh, quy tắc ngâm vịnh Bổn Sanh, quy tắc ngâm vịnh kệ, không được phép làm cho quá dài bằng cách phá vỡ chúng. Phải thể hiện các từ và âm tiết một cách tròn trịa theo quy tắc ngâm vịnh vuông vắn. Nhưng theo lời dạy “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép đọc tụng có giai điệu” (cūḷava. 249), thì được phép đọc tụng Pháp có giai điệu. Trong việc đọc tụng có giai điệu, được biết là có ba mươi hai quy tắc ngâm vịnh như quy tắc ngâm vịnh lượn sóng, quy tắc ngâm vịnh rửa trôi, quy tắc ngâm vịnh nhỏ giọt v.v. Trong số đó, muốn làm theo quy tắc nào cũng được. Đặc điểm là phải diễn đạt một cách vuông vắn, phù hợp với sa-môn, không làm biến dạng các từ và âm tiết, không làm sai lệch.
Vāditaṃ nāma tantibaddhādivādanīyabhaṇḍaṃ vāditaṃ vā hotu kuṭabherivāditaṃ vā antamaso udakabherivāditampi, sabbametaṃ na vaṭṭati. Yaṃ pana niṭṭhubhanto vā sāsaṅke vā ṭhito accharikaṃ vā phoṭeti, pāṇiṃ vā paharati, tattha anāpatti, sabbaṃ antarārāme ṭhitassa passato anāpatti, passissāmīti vihārato vihāraṃ gacchantassa āpattiyeva. Āsanasālāyaṃ nisinno passati, anāpatti. Passissāmīti uṭṭhahitvā gacchato āpatti, vīthiyaṃ ṭhatvā gīvaṃ parivattetvā passatopi āpattiyeva. Salākabhattādīnaṃ vā atthāya aññena vā kenaci karaṇīyena gantvā gataṭṭhāne passati vā suṇāti vā, anāpatti. Āpadāsu tādisena upaddavena upadduto samajjaṭṭhānaṃ pavisati, evaṃ pavisitvā passantassa suṇantassa vā anāpatti. ‘‘Cetiyassa upahāraṃ detha upāsakā’’ti vattumpi, ‘‘tumhākaṃ cetiyassa upahāraṃ karomā’’ti vutte sampaṭicchitumpi na labhati. ‘‘Tumhākaṃ cetiyassa upaṭṭhānaṃ karomā’’ti vutte pana ‘‘upaṭṭhānakaraṇaṃ nāma sundara’’nti vattuṃ vaṭṭati.
Nhạc cụ là các loại nhạc cụ có dây v.v. được chơi, hoặc là trống kuṭa được chơi, hay thậm chí là trống nước được chơi, tất cả đều không được phép. Nhưng người nào khạc nhổ, hoặc búng tay khi đang đứng ở nơi đáng ngờ, hoặc vỗ tay, thì không phạm tội. Khi đang đứng trong chùa mà thấy tất cả thì không phạm tội. Người nào đi từ tự viện này sang tự viện khác để xem thì phạm tội. Người nào ngồi trong nhà nghỉ mà thấy thì không phạm tội. Người nào đứng dậy đi để xem thì phạm tội. Người nào đứng trên đường quay cổ lại xem cũng phạm tội. Khi đi vì vật thực theo thẻ v.v. hoặc vì một công việc nào khác, mà thấy hoặc nghe ở nơi đã đến, thì không phạm tội. Trong những trường hợp nguy hiểm, bị tai họa như vậy mà vào nơi hội hè, sau khi vào như vậy mà thấy hoặc nghe thì không phạm tội. Cũng không được phép nói “này các cận sự nam, hãy cúng dường cho bảo tháp,” và khi được nói “chúng tôi xin cúng dường cho bảo tháp của ngài,” cũng không được phép chấp nhận. Nhưng khi được nói “chúng tôi xin phục vụ bảo tháp của ngài,” thì được phép nói “việc phục vụ là điều tốt đẹp.”
26. ‘‘Na, bhikkhave, attano aṅgajātaṃ chetabbaṃ, yo chindeyya, āpatti thullaccayassā’’ti (cūḷava. 251) perinatal aṅgajātaṃ (cūḷava. 251) chindantassa thullaccayaṃ, aññaṃ pana kaṇṇanāsāaṅguliādiṃ yaṃ kiñci chindantassa tādisaṃ vā dukkhaṃ uppādentassa dukkaṭaṃ. Ahikīṭadaṭṭhādīsu pana aññābādhapaccayā vā lohitaṃ vā mocentassa chindantassa vā anāpatti.
26. “Này các Tỳ-khưu, không được cắt bộ phận sinh dục của mình, ai cắt, phạm tội Trọng Tội” (cūḷava. 251). Theo đó, người cắt bộ phận sinh dục (cūḷava. 251) thì phạm tội Trọng Tội. Nhưng người cắt bất cứ bộ phận nào khác như tai, mũi, ngón tay v.v., hoặc gây ra nỗi đau tương tự, thì phạm tội Tác Ác. Nhưng trong trường hợp bị rắn, côn trùng cắn v.v., hoặc vì lý do bệnh tật khác, hoặc khi trích máu, hoặc khi cắt, thì không phạm tội.
27. ‘‘Na, bhikkhave, gihīnaṃ uttarimanussadhammaṃ iddhipāṭihāriyaṃ dassetabbaṃ, yo dasseyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 252) perinatal gihīnaṃ vikubbaniddhiṃ dassetuṃ na vaṭṭati, adhiṭṭhāniddhi pana appaṭikkhittā.
27. “Này các Tỳ-khưu, không được biểu diễn thần thông, phép lạ thuộc pháp của bậc thượng nhân cho các gia chủ, ai biểu diễn, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 252). Theo đó, không được phép biểu diễn thần thông biến hóa cho các gia chủ, nhưng thần thông phát nguyện thì không bị cấm.
28. ‘‘Na, bhikkhave, sovaṇṇamayo patto dhāretabbo…pe… na rūpiyamayo…pe… na maṇimayo…pe… na veḷuriyamayo…pe… na phalikamayo…pe… na kaṃsamayo…pe… na kācamayo…pe… na tipumayo …pe… na sīsamayo…pe… na tambalohamayo patto dhāretabbo, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 252) perinatal suvaṇṇamayādipatto na vaṭṭati. Sacepi gihī bhattagge suvaṇṇataṭṭikādīsu byañjanaṃ katvā upanāmenti, āmasitumpi na vaṭṭati. Phalikamayakācamayakaṃsamayāni pana taṭṭikādīni bhājanāni puggalikaparibhogeneva na vaṭṭanti, saṅghikaparibhogena vā gihivikaṭāni vā vaṭṭanti. Tambalohamayopi pattoyeva na vaṭṭati, thālakaṃ pana vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, dve patte ayopattaṃ mattikāpatta’’nti (cūḷava. 252) dveyeva ca pattā anuññātā.
28. “Này các Tỳ-khưu, không được dùng bát bằng vàng… không được dùng bát bằng bạc… không được dùng bát bằng ngọc… không được dùng bát bằng lưu ly… không được dùng bát bằng pha lê… không được dùng bát bằng đồng… không được dùng bát bằng thủy tinh… không được dùng bát bằng thiếc… không được dùng bát bằng chì… không được dùng bát bằng đồng đỏ, ai dùng, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 252). Theo đó, bát bằng vàng v.v. không được phép dùng. Ngay cả khi các gia chủ làm thức ăn kèm trong các đĩa bằng vàng v.v. tại nhà ăn và dâng lên, cũng không được phép chạm vào. Nhưng các đĩa v.v. bằng pha lê, thủy tinh, đồng thì chỉ không được phép dùng cho cá nhân, còn dùng chung trong Tăng chúng hoặc do các gia chủ trang trí thì được phép. Bát bằng đồng đỏ cũng không được phép dùng, nhưng đĩa thì được phép. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép hai loại bát: bát sắt và bát đất” (cūḷava. 252), và chỉ có hai loại bát được cho phép.
‘‘Na, bhikkhave, tumbakaṭāhe piṇḍāya caritabbaṃ, yo careyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 255) perinatal lābukaṭāhaṃ pariharituṃ na vaṭṭati, taṃ labhitvā pana tāvakālikaṃ paribhuñjituṃ vaṭṭati. Ghaṭikaṭāhepi eseva nayo.
“Này các Tỳ-khưu, không được đi khất thực bằng bát bầu, ai đi, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 255). Theo đó, không được phép mang theo bát bầu, nhưng nếu nhận được thì được phép dùng tạm thời. Đối với bát gốm cũng tương tự.
‘‘Na, bhikkhave, chavasīsapatto dhāretabbo, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 255) perinatal chavasīsamayopi patto na vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được dùng bát làm bằng sọ người chết, ai dùng, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 255). Theo đó, bát làm bằng sọ người chết cũng không được phép dùng.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, pattādhāraka’’nti (cūḷava. 254) perinatal bhūmidārudaṇḍavaalavettādīhi kate bhūmiādhārake dārudaṇḍaādhārake ca pattaṃ ṭhapetuṃ vaṭṭati. Ettha ca ‘‘bhūmiādhārake tayo daṇḍādhārake dve patte uparūpari ṭhapetuṃ vaṭṭatī’’ti kurundiyaṃ vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana vuttaṃ ‘‘bhūmiādhārake tiṇṇaṃ pattānaṃ anokāso, dve ṭhapetuṃ vaṭṭati. Dāruādhārakadaṇḍādhārakesupi susajjitesu eseva nayo. Bhamakoṭisadiso pana dāruādhārako tīhi daṇḍakehi baddho, daṇḍādhārako ca ekassapi pattassa anokāso, tattha ṭhapetvāpi hatthena gahetvāva nisīditabbaṃ, bhūmiyaṃ pana nikkujjitvā ekameva ṭhapetabba’’nti.
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng giá đỡ bát” (cūḷava. 254). Theo đó, được phép đặt bát trên giá đỡ làm bằng đất, gỗ, tre, mây, hoặc sậy, trên giá đỡ bằng đất và giá đỡ bằng gỗ, tre. Ở đây, trong Kurundī có nói: “trên giá đỡ bằng đất được phép đặt ba bát chồng lên nhau, trên giá đỡ bằng gỗ, tre được phép đặt hai bát.” Nhưng trong Đại Chú Giải có nói: “trên giá đỡ bằng đất không có chỗ cho ba bát, được phép đặt hai bát. Trên các giá đỡ bằng gỗ và tre đã được làm kỹ, quy tắc này cũng tương tự. Nhưng giá đỡ bằng gỗ giống như đỉnh tháp được buộc bằng ba thanh gỗ, và giá đỡ bằng tre cũng không có chỗ cho dù chỉ một bát, dù đặt lên đó cũng phải cầm tay mà ngồi. Còn trên đất thì phải úp xuống và chỉ đặt một cái.”
‘‘Na, bhikkhave, miḍḍhante patto nikkhipitabbo, yo nikkhipeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 254) perinatal ālindakamiḍḍhikādīnaṃ ante ṭhapetuṃ na vaṭṭati. Sace pana parivattetvā tattheva patiṭṭhāti, evarūpāya vitthiṇṇāya miḍḍhikāya ṭhapetuṃ vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được đặt bát ở mép hiên, ai đặt, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 254). Theo đó, không được phép đặt ở mép hiên, hành lang v.v. Nhưng nếu nó quay lại và đứng vững tại chỗ, thì được phép đặt trên một cái hiên rộng như vậy.
‘‘Na, bhikkhave, paribhaṇḍante patto nikkhipitabbo, yo nikkhipeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 254) perinatal bāhirapasse katāya tanukamiḍḍhikāya antepi eseva nayo. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, coḷaka’’nti (cūḷava. 254) perinatal coḷakaṃ pattharitvā tattha ṭhapetuṃ vaṭṭati. Tasmiṃ pana asati kaṭasārake vā taṭṭikāya vā mattikāya vā paribhaṇḍakatāya bhūmiyā yattha na dussati, tathārūpāya vālikāya vā ṭhapetuṃ vaṭṭati. Paṃsurajādīsu pana kharabhūmiyaṃ vā ṭhapentassa dukkaṭaṃ.
“Này các Tỳ-khưu, không được đặt bát ở mép bờ bao, ai đặt, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 254). Theo đó, ở mép của một cái bờ bao mỏng được làm ở phía ngoài cũng có quy tắc tương tự. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng miếng lót” (cūḷava. 254). Theo đó, được phép trải miếng lót rồi đặt bát lên đó. Nếu không có miếng lót, được phép đặt trên giỏ đan, trên đĩa, trên đất đã được trát bờ bao mà không bị bẩn, hoặc trên cát tương tự. Nhưng người nào đặt trên bụi đất v.v. hoặc trên nền đất gồ ghề thì phạm tội Tác Ác.
‘‘Na, bhikkhave, patto laggetabbo, yo laggeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 254) perinatal nāgadantādīsu yattha katthaci laggetuṃ na vaṭṭati, cīvaravaṃsepi bandhitvā ṭhapetuṃ na vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được treo bát, ai treo, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 254). Theo đó, không được phép treo ở bất cứ đâu như trên móc ngà voi v.v., cũng không được phép buộc vào sào phơi y rồi để đó.
‘‘Na, bhikkhave, mañce patto nikkhipitabbo, yo nikkhipeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 254) perinatal bhaṇḍakaṭṭhapanatthameva vā kataṃ hotu nisīdanasayanatthaṃ vā, yattha katthaci mañce vā pīṭhe vā ṭhapentassa dukkaṭaṃ, aññena pana bhaṇḍakena saddhiṃ bandhitvā ṭhapetuṃ, aṭaniyaṃ bandhitvā olambituṃ vā vaṭṭati, bandhitvāpi upari ṭhapetuṃ na vaṭṭatiyeva. Sace pana mañco vā pīṭhaṃ vā ukkhipitvā cīvaravaṃsādīsu aṭṭakacchannena ṭhapitaṃ hoti, tattha ṭhapetuṃ vaṭṭati. Aṃsavaṭṭanakena aṃsakūṭe laggetvā aṅke ṭhapetuṃ vaṭṭati, chatte bhattapūropi aṃsakūṭe laggitapattopi ṭhapetuṃ na vaṭṭati. Bhaṇḍakena pana saddhiṃ bandhitvā aṭṭakaṃ katvā vā ṭhapite yo koci ṭhapetuṃ vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được đặt bát trên giường, ai đặt, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 254). Theo đó, dù là giường được làm chỉ để đặt đồ đạc hay để ngồi, nằm, người nào đặt trên bất cứ giường hay ghế nào cũng phạm tội Tác Ác. Nhưng được phép buộc chung với đồ đạc khác rồi để đó, hoặc buộc vào dây rồi treo lên. Buộc rồi đặt lên trên cũng không được phép. Nhưng nếu giường hoặc ghế được nhấc lên và đặt trên sào phơi y v.v. có mái che, thì được phép đặt ở đó. Được phép treo vào vai bằng quai đeo rồi đặt trong lòng. Không được phép đặt bát có đầy thức ăn hoặc bát được treo ở vai lên trên ô dù. Nhưng nếu buộc chung với đồ đạc và làm thành một cái giá hoặc để đó, thì bất cứ ai cũng được phép đặt.
‘‘Na, bhikkhave, pattahatthena kavāṭaṃ paṇāmetabbaṃ, yo paṇāmeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 255) perinatal pattahatthena kavāṭaṃ na paṇāmetabbaṃ. Ettha ca na kevalaṃ yassa patto hatthe, so eva pattahattho. Na kevalañca kavāṭameva paṇāmetuṃ na labhati, apica kho pana hatthe vā piṭṭhipāde vā yattha yatthaci sarīrāvayave pattasmiṃ sati hatthena vā pādena vā sīsena vā yena kenaci sarīrāvayavena kavāṭaṃ vā paṇāmetuṃ ghaṭikaṃ vā ukkhipituṃ sūciṃ vā kuñcikāya avāpurituṃ na labhati, aṃsakūṭe pana pattaṃ laggetvā yathāsukhaṃ avāpurituṃ labhati.
“Này các Tỳ-khưu, không được mở cửa bằng tay cầm bát, ai mở, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 255). Theo đó, không được mở cửa bằng tay cầm bát. Ở đây, không chỉ người có bát trong tay mới là người cầm bát. Và không chỉ không được phép mở cửa, mà hơn nữa, khi có bát ở tay, ở lưng, ở chân, hoặc ở bất cứ bộ phận nào trên cơ thể, cũng không được phép mở cửa bằng tay, chân, đầu, hoặc bất cứ bộ phận nào của cơ thể, hoặc nhấc chốt cửa, hoặc mở khóa bằng chìa khóa. Nhưng được phép treo bát ở vai rồi mở một cách thoải mái.
‘‘Na, bhikkhave, calakāni vā aṭṭhikāni vā ucchiṭṭhodakaṃ vā pattena nīharitabbaṃ, yo nīhareyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 255) perinatal calakādīni pattena nīharituṃ na vaṭṭati. Ettha ca calakānīti cabbetvā apaviddhāmisāni. Aṭṭhikānīti macchamaṃsaaakāni. Ucchiṭṭhodakanti mukhavikkhālitodakaṃ. Etesu yaṃ kiñci pattena nīharantassa dukkaṭaṃ. Pattaṃ paṭiggahaṃ katvā hatthaṃ dhovitumpi na labhati. Hatthadhotapādadhotaudakampi patte ākiritvā nīharituṃ na vaṭṭati, anucchiṭṭhaṃ suddhapattaṃ ucchiṭṭhahatthena gaṇhituṃ na vaṭṭati, vāmahatthenathiaz udakaṃ āsiñcitvā ekaṃ udakagaṇḍusaṃ gahetvā ucchiṭṭhahatthena gaṇhituṃ vaṭṭati. Ettāvatāpi hi so ucchiṭṭhapatto hoti, hatthaṃ pana bahiudakena vikkhāletvā gahetuṃ vaṭṭati. Macchamaṃsaphalāphalādīni ca khādanto yaṃ tattha aṭṭhiṃ vā calakaṃ vā chaḍḍetukāmo hoti, taṃ patte ṭhapetuṃ na labhati. Yaṃ pana paṭikhāditukāmo hoti, taṃ patte ṭhapetuṃ labhati. Aṭṭhikakaṇṭakādīni tattheva katvā hatthena luñcitvā khādituṃ vaṭṭati. Mukhato nīhaṭaṃ pana yaṃ kiñci puna khāditukāmo patte ṭhapetuṃ na labhati, siṅgiveranāḷikerakhaṇḍādīni ḍaṃsitvā puna ṭhapetuṃ labhati.
“Này các Tỳ-khưu, không được dùng bát để mang đi vỏ cây, xương, hoặc nước súc miệng, ai mang đi, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 255). Theo đó, không được phép dùng bát để mang đi vỏ cây v.v. Ở đây, vỏ cây là những miếng thịt đã nhai và bỏ đi. Xương là xương cá, thịt. Nước súc miệng là nước súc miệng. Người nào mang đi bất cứ thứ gì trong số này bằng bát thì phạm tội Tác Ác. Cũng không được phép dùng bát làm đồ đựng để rửa tay. Cũng không được phép đổ nước rửa tay, rửa chân vào bát rồi mang đi. Không được phép cầm bát sạch, chưa dùng, bằng tay bẩn. Được phép đổ nước bằng tay trái, lấy một ngụm nước rồi cầm bằng tay bẩn. Vì chỉ với chừng đó, bát đó đã trở thành bát bẩn. Nhưng được phép rửa tay bằng nước bên ngoài rồi cầm. Khi ăn cá, thịt, hoa quả v.v., nếu muốn vứt xương hoặc vỏ cây ở đó, không được phép để trong bát. Nhưng nếu muốn ăn lại, được phép để trong bát. Được phép để xương, gai v.v. ở đó rồi dùng tay bẻ ra ăn. Nhưng bất cứ thứ gì đã lấy ra từ miệng, nếu muốn ăn lại thì không được phép để trong bát. Được phép cắn miếng gừng, miếng dừa v.v. rồi để lại.
29. ‘‘Na ca, bhikkhave, sabbapaṃsukūlikena bhavitabbaṃ, yo bhaveyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 255) perinatal sabbapaṃsukūlikena na bhavitabbaṃ. Ettha pana cīvarañca mañcapīṭhañca paṃsukūlaṃ vaṭṭati, ajjhoharaṇīyaṃ pana dinnameva gahetabbaṃ.
29. “Này các Tỳ-khưu, không được trở thành người hoàn toàn dùng y phấn tảo, ai trở thành, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 255). Theo đó, không được trở thành người hoàn toàn dùng y phấn tảo. Ở đây, y và giường ghế làm từ y phấn tảo thì được phép, nhưng đồ ăn thì phải nhận đồ được cúng dường.
30. ‘‘Na, bhikkhave, addhānamaggappaṭipannena bhikkhunā parissāvanaṃ yāciyamānena na dātabbaṃ, yo na dadeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 259) perinatal aparissāvanakassa (cūḷava. aṭṭha. 259) yācamānassa parissāvanaṃ adātuṃ na vaṭṭati. Yo pana attano hatthe parissāvane vijjamānepi yācati, tassa na akāmā dātabbaṃ.
30. “Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu đang đi đường, khi được xin túi lọc nước, không được không cho, ai không cho, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 259). Theo đó, không được phép không cho túi lọc nước cho người (cūḷava. aṭṭha. 259) không có túi lọc nước khi họ xin. Nhưng người nào xin dù có túi lọc nước trong tay mình, thì không bắt buộc phải cho.
‘‘Na ca, bhikkhave, aparissāvanakena bhikkhunā addhānamaggo paṭipajjitabbo, yo paṭipajjeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 259) perinatal aparissāvanakena maggo na gantabbo. Sacepi na hoti parissāvanaṃ vā dhammakaraṇaṃ vā, saṅghāṭikaṇṇo adhiṭṭhātabbo ‘‘iminā parissāvetvā pivissāmī’’ti.
“Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu không có túi lọc nước không được đi đường, ai đi, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 259). Theo đó, người không có túi lọc nước không được đi đường. Nếu không có túi lọc nước hoặc dụng cụ lọc, nên phát nguyện một góc của y tăng-già-lê rằng “tôi sẽ lọc bằng cái này rồi uống.”
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, daṇḍaparissāvana’’nti (cūḷava. 259) perinatal daṇḍaparissāvanampi vaṭṭati. Daṇḍaparissāvanaṃ nāma yattha rajakānaṃ khāraparissāvanaṃ viya catūsu pādesu baddhanisseṇikāya sāṭakaṃ bandhitvā majjhe daṇḍake udakaṃ āsiñcanti, taṃ ubhopi koṭṭhāse pūretvā parissāvati.
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng túi lọc nước có gậy chống” (cūḷava. 259). Theo đó, túi lọc nước có gậy chống cũng được phép dùng. Túi lọc nước có gậy chống là nơi người ta buộc một tấm vải vào một cái thang được buộc vào bốn chân giống như túi lọc nước tro của thợ giặt, rồi đổ nước vào giữa, nước sẽ đầy cả hai ngăn rồi lọc qua.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ottharaka’’nti (cūḷava. 259) perinatal ottharakaṃ parissāvanampi vaṭṭati. Ottharakaṃ nāma yaṃ udake ottharitvā ghaṭakena udakaṃ gaṇhanti, tañhi catūsu daṇḍakesu vatthaṃ bandhitvā udake cattāro khāṇuke nikhanitvā tesu bandhitvā sabbapariyante udakato mocetvā majjhe ottharitvā ghaṭena udakaṃ gaṇhanti.
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng túi lọc nước trải ra” (cūḷava. 259). Theo đó, túi lọc nước trải ra cũng được phép dùng. Túi lọc nước trải ra là loại mà người ta trải ra trong nước rồi dùng bình để múc nước. Họ buộc một tấm vải vào bốn cây gậy, chôn bốn cái cọc trong nước rồi buộc vào đó, nhấc tất cả các mép lên khỏi mặt nước, trải ra ở giữa rồi dùng bình để múc nước.
31. ‘‘Na, bhikkhave, naggena naggo abhivādetabbo, yo abhivādeyya, āpatti dukkaṭassā’’tiādivacanato (cūḷava. 261) na naggena naggo abhivādetabbo, na naggena abhivādetabbaṃ, na naggena naggo abhivādāpetabbo, na naggena abhivādāpetabbaṃ, na naggena naggassa parikammaṃ kātabbaṃ, na naggena naggassa dātabbaṃ, na naggena paṭiggahetabbaṃ, na naggena khāditabbaṃ, na naggena bhuñjitabbaṃ, na naggena sāyitabbaṃ, na naggena pātabbaṃ.
31. Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, người trần truồng không được đảnh lễ người trần truồng, ai đảnh lễ, phạm tội Tác Ác” v.v. (cūḷava. 261), người trần truồng không được đảnh lễ người trần truồng, không được đảnh lễ, không được để người trần truồng đảnh lễ mình, không được để người khác đảnh lễ mình, người trần truồng không được phục vụ người trần truồng, không được cho, không được nhận, không được ăn, không được dùng, không được nếm, không được uống.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, tisso paṭicchādiyo jantāgharapaṭicchādiṃ udakapaṭicchādiṃ vatthapaṭicchādi’’nti (cūḷava. 261) perinatal tisso paṭicchādiyo vaṭṭanti. Ettha ca jantāgharapaṭicchādi udakapaṭicchādi ca parikammaṃ karontasseva vaṭṭati, sesesu abhivādanādīsu na vaṭṭati. Vatthapaṭicchādi pana sabbakammesu vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ba loại đồ che thân: đồ che thân trong nhà tắm hơi, đồ che thân dưới nước, và đồ che thân bằng vải” (cūḷava. 261). Theo đó, ba loại đồ che thân được phép dùng. Ở đây, đồ che thân trong nhà tắm hơi và đồ che thân dưới nước chỉ được phép dùng khi đang làm việc, trong các trường hợp khác như đảnh lễ v.v. thì không được phép. Còn đồ che thân bằng vải thì được phép trong tất cả các công việc.
32. ‘‘Na, bhikkhave, pupphābhikiṇṇesu sayanesu sayitabbaṃ, yo saseyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 264) perinatal pupphehi santhatesu sayanesu na sayitabbaṃ, gandhagandhaṃ pana gahetvā kavāṭe pañcaṅguliṃ dātuṃ vaṭṭati pupphaṃ gahetvā vihāre ekamantaṃ nikkhipituṃ.
32. “Này các Tỳ-khưu, không được ngủ trên giường trải đầy hoa, ai ngủ, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 264). Theo đó, không được ngủ trên giường trải đầy hoa. Nhưng được phép lấy hương thơm rồi bôi dấu năm ngón tay lên cửa, hoặc lấy hoa rồi để ở một góc trong tự viện.
33. ‘‘Na, bhikkhave, āsittakūpadhāne bhuñjitabbaṃ, yo bhuñjeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 264) perinatal āsittakūpadhāne ṭhapetvā na bhuñjitabbaṃ. Āsittakūpadhānanti tambalohena vā rajatena vā katāya peḷāya etaṃ adhivacanaṃ, paṭikkhittattā pana dārumayāpi na vaṭṭati.
33. “Này các Tỳ-khưu, không được dùng bữa trên khay āsittaka, ai dùng, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 264). Theo đó, không được đặt (bát) lên khay āsittaka để dùng bữa. Āsittakūpadhāna là tên gọi của cái khay được làm bằng đồng đỏ hoặc bạc. Nhưng vì đã bị cấm nên dù làm bằng gỗ cũng không được phép.
34. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, maḷorika’’nti (cūḷava. 264) perinatal maḷorikāya ṭhapetvā bhuñjituṃ vaṭṭati. Maḷorikāti daṇḍādhārako vuccati. Yaṭṭhiādhārakapaṇṇādhārakapacchikapīṭhādīnipi ettheva paviṭṭhāni. Ādhārakasaṅkhepagamanato hi paṭṭhāya chiddaṃ viddhampi aviddhampi vaṭṭatiyeva.
34. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng maḷorikā” (cūḷava. 264). Theo đó, được phép đặt (bát) lên maḷorikā để dùng bữa. Maḷorikā được gọi là giá đỡ bằng gậy. Các loại giá đỡ bằng que, giá đỡ bằng lá, túi vải, ghế thấp v.v. cũng được bao gồm trong đây. Kể từ khi được tóm tắt là giá đỡ, dù có lỗ hay không có lỗ, đều được phép.
35. ‘‘Na, bhikkhave, ekabhājane bhuñjitabbaṃ, yo bhuñjeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti(cūḷava. 264) ādivacanato na ekabhājane bhuñjitabbaṃ, na ekathālake pātabbaṃ. Sace pana eko bhikkhu bhājanato phalaṃ vā pūpaṃ vā gahetvā gacchati, tasmiṃ apagate itarassa sesakaṃ bhuñjituṃ vaṭṭati, itarassapi tasmiṃ khīṇe puna gahetuṃ vaṭṭati.
35. Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được dùng bữa chung một đĩa, ai dùng, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 264) v.v., không được dùng bữa chung một đĩa, không được uống chung một bát. Nhưng nếu một Tỳ-khưu lấy trái cây hoặc bánh từ đĩa rồi đi, sau khi vị ấy đi rồi, người còn lại được phép dùng phần còn lại. Người kia cũng được phép lấy thêm khi phần đó đã hết.
‘‘Na, bhikkhave, ekamañce tuvaṭṭitabbaṃ, yo tuvaṭṭeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti(cūḷava. 264) ādivacanato na ekamañce nipajjitabbaṃ, na ekattharaṇe nipajjitabbaṃ. Vavatthānaṃ pana dassetvā majjhe kāsāvaṃ vā kattarayaṭṭhiṃ vā antamaso kāyabandhanampi ṭhapetvā nipajjantānaṃ anāpatti. Ekapāvuraṇehi ekattharaṇapāvuraṇehi ca na nipajjitabbaṃ. Ekaṃ attharaṇañceva pāvuraṇañca etesanti ekattharaṇapāvuraṇā. Saṃhārimānaṃ pāvārattharaṇakaṭasārakādīnaṃ ekaṃ antaṃ attharitvā ekaṃ pārupitvā nipajjantānametaṃ adhivacanaṃ.
Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được nằm chung một giường, ai nằm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 264) v.v., không được nằm chung một giường, không được nằm chung một tấm trải. Nhưng sau khi chỉ ra ranh giới, đặt một tấm y ca-sa hoặc một cây gậy, hoặc ít nhất là một sợi dây lưng ở giữa rồi nằm thì không phạm tội. Không được nằm chung chăn và chung tấm trải. Những người có chung một tấm trải và một cái chăn được gọi là chung tấm trải và chăn. Đây là tên gọi cho những người nằm bằng cách trải một đầu của các vật có thể gấp lại như chăn, tấm trải, chiếu v.v. và đắp một đầu.
36. ‘‘Na, bhikkhave, celappaṭikā akkamitabbā, yo akkameyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 268) perinatal na celasanthāro akkamitabbo, ‘‘anujānāmi, bhikkhave, gihīnaṃ maṅgalatthāya yāciyamānena celappaṭikaṃ akkamitu’’nti (cūḷava. 268) perinatal pana kāci itthī (cūḷava. aṭṭha. 268) apagatagabbhā vā hoti garugabbhā vā, evarūpesu ṭhānesu maṅgalatthāya yāciyamānena akkamituṃ vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, dhotapādakaṃ akkamitu’’nti (cūḷava. 268) perinatal pādadhovanaṭṭhāne dhotehi pādehi akkamanatthāya atthatapaccattharaṇaṃ akkamituṃ vaṭṭati.
36. “Này các Tỳ-khưu, không được dẫm lên tấm vải, ai dẫm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 268). Theo đó, không được dẫm lên tấm vải trải. Nhưng theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dẫm lên tấm vải khi được yêu cầu vì mục đích tốt lành của các gia chủ” (cūḷava. 268), thì một phụ nữ nào đó (cūḷava. aṭṭha. 268) bị sẩy thai hoặc mang thai nặng, trong những trường hợp như vậy, khi được yêu cầu vì mục đích tốt lành, được phép dẫm lên. Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dẫm lên tấm lau chân đã giặt” (cūḷava. 268), được phép dẫm lên tấm trải được trải ra để dẫm lên bằng chân đã rửa sạch tại nơi rửa chân.
37. ‘‘Na, bhikkhave, katakaṃ paribhuñjitabbaṃ, yo paribhuñjeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 269) perinatal katakaṃ na vaṭṭati. Katakaṃ nāma padumakaṇṇikākāraṃ pādaghaṃsanatthaṃ kaṇṭake uṭṭhāpetvā kataṃ. Taṃ vaṭṭaṃ vā hotu caturassādibhedaṃ vā, bāhulikānuyogattā paṭikkhittameva, neva paṭiggahetuṃ, na paribhuñjituṃ vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, tisso pādaghaṃsaniyo sakkharaṃ kathalaṃ samuddapheṇaka’’nti (cūḷava. 269) perinatal sakkharādīhi pādaghaṃsanaṃ vaṭṭati. Sakkharāti pāsāṇo vuccati, pāsāṇapheṇakopi vaṭṭatiyeva.
37. “Này các Tỳ-khưu, không được dùng vật đã làm, ai dùng, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 269). Theo đó, vật đã làm không được phép. Vật đã làm là vật được làm bằng cách tạo ra các gai nhọn hình đài sen để chà chân. Dù nó hình tròn hay có các hình dạng khác như hình vuông, đều bị cấm do việc lạm dụng của những kẻ phóng túng. Không được phép nhận, cũng không được phép dùng. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ba loại vật chà chân: sỏi, mảnh sành, bọt biển” (cūḷava. 269). Theo đó, được phép chà chân bằng sỏi v.v. Sỏi được gọi là đá, đá bọt cũng được phép.
38. ‘‘Na, bhikkhave, cāmaribījanī dhāretabbā, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 269) perinatal cāmarivālehi katabījanī na vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, makasabījaniṃ. Anujānāmi bhikkhave tisso bījaniyo vākamayaṃ usīramayaṃ morapiñchamayaṃ. Anujānāmi, bhikkhave, vidhūpanañca tālavaṇṭañcā’’ti (cūḷava. 269) perinatal makasabījanīādi vaṭṭati. Tattha vidhūpananti bījanī vuccati. Tālavaṇṭaṃ pana tālapaṇṇehi vā kataṃ hotu veḷudantavilīvehi vā morapiñchehi vā cammavikatīhi vā, sabbaṃ vaṭṭati. Makasabījanī dantamayavisāṇamayadaṇḍakāpi vaṭṭati. Vākamayabījaniyā ketakapārohakuntālapaṇṇādimayāpi saṅgahitā.
38. “Này các Tỳ-khưu, không được cầm quạt lông bò Tây Tạng, ai cầm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 269). Theo đó, quạt làm bằng lông đuôi bò Tây Tạng không được phép. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng quạt đuổi muỗi. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ba loại quạt: quạt bằng vỏ cây, quạt bằng cỏ hương bài, quạt bằng lông công. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cả quạt thông thường và quạt lá cọ” (cūḷava. 269). Theo đó, quạt đuổi muỗi v.v. được phép. Ở đây, quạt thông thường được gọi là quạt. Còn quạt lá cọ, dù được làm bằng lá cọ, hay bằng nan tre, ngà, hoặc bằng lông công, hoặc bằng da thuộc, tất cả đều được phép. Quạt đuổi muỗi có cán bằng ngà, sừng cũng được phép. Quạt bằng vỏ cây cũng bao gồm các loại làm bằng lá dứa thơm, lá cọ kuntāla v.v.
39. ‘‘Na, bhikkhave, chattaṃ dhāretabbaṃ, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, gilānassa chatta’’nti (cūḷava. 270) perinatal agilānena chattaṃ na dhāretabbaṃ. Yassa pana kāyaḍāho vā pittakopo vā hoti cakkhu vā dubbalaṃ, añño vā koci ābādho vinā chattena uppajjati, tassa gāme vā araññe vā chattaṃ vaṭṭati. Vasse pana cīvaraguttatthampi vāḷamigacorabhayesu attaguttatthampi vaṭṭati, ekapaṇṇacchattaṃ pana sabbattheva vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, agilānenapi ārāme ārāmūpacāre chattaṃ dhāretu’’nti (cūḷava. 270) perinatal pana agilānassapi ārāmaārāmūpacāresu chattaṃ dhāretuṃ vaṭṭati.
39. “Này các Tỳ-khưu, không được cầm dù, ai cầm, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép người bệnh dùng dù” (cūḷava. 270). Theo đó, người không bệnh không được cầm dù. Nhưng người nào bị nóng trong người hoặc bị bệnh gan, hoặc mắt yếu, hoặc có bệnh nào khác phát sinh nếu không có dù, người đó được phép dùng dù trong làng hoặc trong rừng. Nhưng trong mùa mưa, để bảo vệ y hoặc để tự bảo vệ khỏi thú dữ và trộm cướp, cũng được phép. Dù một lá thì ở đâu cũng được phép. Nhưng theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cả người không bệnh cũng được cầm dù trong tự viện và trong khuôn viên tự viện” (cūḷava. 270), thì cả người không bệnh cũng được phép cầm dù trong tự viện và khuôn viên tự viện.
40. ‘‘Na, bhikkhave, dīghā nakhā dhāretabbā, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, maṃsappamāṇena nakhaṃ chinditu’’nti (cūḷava. 274) perinatal dīghā nakhā chinditabbā. ‘‘Na, bhikkhave, vīsatimaṭṭhaṃ kārāpetabbaṃ, yo kārāpeyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, malamattaṃ apakaḍḍhitu’’nti (cūḷava. 274) perinatal vīsatipi nakhe likhitamaṭṭhe kārāpetuṃ na vaṭṭati, nakhato malamattaṃ pana apakaḍḍhituṃ vaṭṭati.
40. “Này các Tỳ-khưu, không được để móng tay dài, ai để, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cắt móng tay bằng với phần thịt” (cūḷava. 274). Theo đó, phải cắt móng tay dài. “Này các Tỳ-khưu, không được làm cho hai mươi móng tay được đánh bóng, ai cho làm, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép lấy đi phần dơ” (cūḷava. 274). Theo đó, không được phép cho người khác cạo và đánh bóng hai mươi móng tay, nhưng được phép lấy đi phần dơ từ móng tay.
‘‘Na, bhikkhave, sambādhe lomaṃ saṃharāpetabbaṃ, yo saṃharāpeyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, ābādhapaccayā sambādhe lomaṃ saṃharāpetu’’nti (cūḷava. 275) perinatal gaṇḍavaṇādiābādhaṃ vinā sambādhe lomaṃ saṃharāpetuṃ na vaṭṭati. ‘‘Na, bhikkhave, dīghaṃ nāsikālomaṃ dhāretabbaṃ, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 275) perinatal saṇḍāsena nāsikālomaṃ saṃharāpetuṃ vaṭṭati. Sakkharādīhi nāsikālomaṃ gāhāpanepi āpatti natthi, anurakkhaṇatthaṃ pana ‘‘anujānāmi, bhikkhave, saṇḍāsa’’nti (cūḷava. 275) saṇḍāso anuññāto. ‘‘Na, bhikkhave, palitaṃ gāhāpetabbaṃ, yo gāhāpeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 275) perinatal palitaṃ gāhāpetuṃ na vaṭṭati. Yaṃ pana bhamukāya vā nalāṭe vā dāṭhikāya vā uggantvā bībhacchaṃ hutvā ṭhitaṃ, tādisaṃ lomaṃ palitaṃ vā apalitaṃ vā gāhāpetuṃ vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được cho người khác cạo lông ở chỗ kín, ai cho cạo, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cho người khác cạo lông ở chỗ kín vì lý do bệnh tật” (cūḷava. 275). Theo đó, không được phép cho người khác cạo lông ở chỗ kín nếu không có bệnh như mụn nhọt, vết thương v.v. “Này các Tỳ-khưu, không được để lông mũi dài, ai để, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 275). Theo đó, được phép cho người khác nhổ lông mũi bằng nhíp. Ngay cả khi cho người khác nhổ lông mũi bằng sỏi v.v. cũng không phạm tội. Nhưng để bảo vệ, nhíp đã được cho phép: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng nhíp” (cūḷava. 275). “Này các Tỳ-khưu, không được cho người khác nhổ tóc bạc, ai cho nhổ, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 275). Theo đó, không được phép cho người khác nhổ tóc bạc. Nhưng lông nào mọc ở lông mày, ở trán, hoặc ở râu, trở nên khó coi, thì lông như vậy, dù bạc hay không bạc, cũng được phép cho nhổ.
41. ‘‘Na, bhikkhave, akāyabandhanena gāmo pavisitabbo, yo paviseyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 278) akāyabandhanena gāmo na pavisitabbo, abandhitvā nikkhamantena yattha sarati, tattha bandhitabbaṃ. ‘‘Āsanasālāya bandhissāmī’’ti gantuṃ vaṭṭati, saritvā yāva na bandhati, na tāva piṇḍāya caritabbaṃ.
41. “Này các Tỳ-khưu, không được vào làng mà không có dây lưng, ai vào, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 278). Không được vào làng mà không có dây lưng. Người nào đi ra mà không thắt, khi nhớ ra ở đâu thì phải thắt ở đó. Được phép đi với ý nghĩ “tôi sẽ thắt ở nhà nghỉ.” Sau khi nhớ ra, chừng nào chưa thắt thì chừng đó không được đi khất thực.
42. ‘‘Na, bhikkhave, gihinivatthaṃ nivāsetabbaṃ, yo nivāseyya, āpatti dukkaṭassā’’ti(cūḷava. 280) ādivacanato hatthisoṇḍādivasena gihinivatthaṃ na nivāsetabbaṃ, setapaṭapārutādivasena na gihipārutaṃ pārupitabbaṃ, mallakammakarādayo viya kacchaṃ bandhitvā na nivāsetabbaṃ. Evaṃ nivāsetuṃ gilānassapi maggappaṭipannassapi na vaṭṭati. Yampi maggaṃ gacchantā ekaṃ vā dve vā koṇe ukkhipitvā antaravāsakassa upari lagganti, anto vā ekaṃ kāsāvaṃ tathā nivāsetvā bahi aparaṃ nivāsenti, sabbaṃ na vaṭṭati. Gilāno pana antokāsāvassa ovaṭṭikaṃ dassetvā aparaṃ upari nivāsetuṃ labhati, agilānena dve nivāsentena saguṇaṃ katvā nivāsetabbāni.
42. Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được mặc y theo kiểu gia chủ, ai mặc, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 280) v.v., không được mặc y theo kiểu gia chủ như kiểu vòi voi v.v., không được khoác y theo kiểu gia chủ như kiểu khoác vải trắng v.v., không được mặc bằng cách buộc vạt áo như các đô vật, thợ thủ công. Ngay cả người bệnh và người đang đi đường cũng không được phép mặc như vậy. Cả việc người ta khi đi đường nhấc một hoặc hai góc y lên rồi vắt lên y nội, hoặc mặc một y ca-sa như vậy bên trong rồi mặc một y khác bên ngoài, tất cả đều không được phép. Nhưng người bệnh được phép mặc một y khác bên ngoài sau khi đã để lộ vòng của y ca-sa bên trong. Người không bệnh khi mặc hai y phải mặc một cách ngay ngắn.
43. ‘‘Na, bhikkhave, ubhatokājaṃ haritabbaṃ, yo hareyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 281) ubhatokājaṃ harituṃ na vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ekatokājaṃ antarākājaṃ sīsabhāraṃ khandhabhāraṃ kaṭibhāraṃ olambaka’’nti ekatokājādiṃ harituṃ vaṭṭati.
43. “Này các Tỳ-khưu, không được gánh hai đầu, ai gánh, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 281). Không được phép gánh hai đầu. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép gánh một đầu, gánh ở giữa, đội trên đầu, vác trên vai, mang bên hông, đeo lòng thòng,” được phép mang một đầu v.v.
44. ‘‘Na, bhikkhave, dīghaṃ dantakaṭṭhaṃ khāditabbaṃ, yo khādeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 282) na dīghaṃ dantakaṭṭhaṃ khāditabbaṃ. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, aṭṭhaṅgulaparamaṃ dantakaṭṭhaṃ. Anujānāmi, bhikkhave, caturaṅgulapacchimaṃ dantakaṭṭha’’nti (cūḷava. 282) manussānaṃ pamāṇaṅgulena aṭṭhaṅgulaparamaṃ caturaṅgulapacchimañca dantakaṭṭhaṃ khāditabbaṃ.
44. “Này các Tỳ-khưu, không được nhai tăm xỉa răng dài, ai nhai, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 282). Không được nhai tăm xỉa răng dài. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng tăm xỉa răng dài tối đa tám ngón tay. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng tăm xỉa răng ngắn tối thiểu bốn ngón tay” (cūḷava. 282). Phải nhai tăm xỉa răng dài tối đa tám ngón tay và ngắn tối thiểu bốn ngón tay theo chiều rộng ngón tay của người thường.
45. ‘‘Na, bhikkhave, rukkho abhiruhitabbo, yo abhiruheyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, sati karaṇīye porisaṃ rukkhaṃ abhiruhituṃ āpadāsu yāvadattha’’nti (cūḷava. 284) na rukkhaṃ abhiruhitabbaṃ, sukkhakaṭṭhagahaṇādikicce pana sati purisappamāṇaṃ abhiruhituṃ vaṭṭati. Āpadāsūti vāḷamigādayo vā disvā maggamūḷho vā disā oloketukāmo hutvā davaḍāhaṃ vā udakoghaṃ vā āgacchantaṃ disvā atiuccampi rukkhaṃ ārohituṃ vaṭṭati.
45. “Này các Tỳ-khưu, không được leo cây, ai leo, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép leo cây cao bằng một thân người khi có việc cần, và leo tùy ý trong những trường hợp nguy hiểm” (cūḷava. 284). Không được leo cây. Nhưng khi có việc như lấy củi khô v.v., được phép leo cao bằng thân người. Trong những trường hợp nguy hiểm là khi thấy thú dữ v.v., hoặc bị lạc đường muốn nhìn phương hướng, hoặc thấy cháy rừng hay lũ lụt đang đến, được phép leo lên cả cây rất cao.
46. ‘‘Na, bhikkhave, buddhavacanaṃ chandaso āropetabbaṃ, yo āropeyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, sakāya niruttiyā buddhavacanaṃ pariyāpuṇitu’’nti (cūḷava. 285) vedaṃ viya buddhavacanaṃ sakkaṭabhāsāya vācanāmaggaṃ ārocetuṃ na vaṭṭati, sakāya pana māgadhikāya niruttiyā pariyāpuṇitabbaṃ.
46. “Này các Tỳ-khưu, không được chuyển lời Phật dạy sang thể thơ, ai chuyển, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép học thuộc lời Phật dạy bằng ngôn ngữ của chính nó” (cūḷava. 285). Không được phép trình bày lời Phật dạy theo cách đọc của kinh Vệ-đà bằng tiếng Phạn. Mà phải học thuộc bằng ngôn ngữ Māgadhī của chính nó.
47. ‘‘Na, bhikkhave, lokāyataṃ pariyāpuṇitabbaṃ, yo pariyāpuṇeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti(caūḷava. 286) ādivacanato lokāyatasaṅkhātaṃ ‘‘sabbaṃ ucchiṭṭhaṃ, sabbaṃ anucchiṭṭhaṃ, seto kāko, kāḷo bako iminā ca iminā ca kāraṇenā’’ti evamādiniratthakakāraṇapaṭisaṃyuttaṃ titthiyasatthaṃ neva pariyāpuṇitabbaṃ, na parassa vācetabbaṃ. Na ca tiracchānavijjā pariyāpuṇitabbā, na parassa vācetabbā.
47. Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được học thuyết thế gian, ai học, phạm tội Tác Ác” (caūḷava. 286) v.v., không được học cũng không được dạy cho người khác học thuyết của ngoại đạo được gọi là thuyết thế gian, liên quan đến những lý do vô ích như “tất cả đều là đồ thừa, tất cả đều không phải đồ thừa, quạ màu trắng, diệc màu đen vì lý do này và lý do này.” Và không được học, cũng không được dạy cho người khác các môn học thấp kém.
48. ‘‘Na, bhikkhave, khipite ‘jīvā’ti playable, yo vadeyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, gihīnaṃ ‘jīvatha bhante’ti vuccamānena ‘ciraṃ jīvā’ti vattu’’nti (cūḷava. 288) khipite ‘‘jīvā’’ti na vattabbaṃ, gihinā pana ‘‘jīvathā’’ti vuccamānena ‘‘ciraṃ jīvā’’ti vattuṃ vaṭṭati.
48. “Này các Tỳ-khưu, khi có người hắt hơi, không được nói ‘sống lâu nhé,’ ai nói, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép, khi được các gia chủ nói ‘kính chúc ngài sống lâu,’ thì nói lại ‘sống lâu nhé’” (cūḷava. 288). Khi có người hắt hơi, không được nói “sống lâu nhé.” Nhưng khi được gia chủ nói “kính chúc ngài sống lâu,” thì được phép nói lại “sống lâu nhé.”
49. ‘‘Na, bhikkhave, lasuṇaṃ khāditabbaṃ, yo khādeyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, ābādhapaccayā lasuṇaṃ khāditu’’nti (cūḷava. 289) ābādhaṃ vinā lasuṇaṃ khādituṃ na vaṭṭati, sūpasampākādīsu (pāci. aṭṭha. 797) pakkhittaṃ pana vaṭṭati. Tañhi paccamānesu muggasūpādīsu vā macchamaṃsavikatiyā vā tele vā badarasāḷavādīsu vā ambilasākādīsu vā uttaribhaṅgesu vā yattha katthaci antamaso yāgubhattepi pakkhittaṃ vaṭṭati.
49. “Này các Tỳ-khưu, không được ăn tỏi, ai ăn, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ăn tỏi vì lý do bệnh tật” (cūḷava. 289). Không được phép ăn tỏi nếu không có bệnh. Nhưng nếu được cho vào canh v.v. (pāci. aṭṭha. 797) thì được phép. Nó được phép khi được cho vào các món đang nấu như canh đậu xanh v.v., hoặc vào các món chế biến từ cá, thịt, hoặc vào dầu, hoặc vào các món như canh táo dại v.v., hoặc vào các loại rau chua, hoặc vào các món gia vị, hoặc ở bất cứ đâu, dù chỉ là trong cháo hay cơm.
50. ‘‘Na, bhikkhave, adhotehi pādehi senāsanaṃ akkamitabbaṃ, yo akkameyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 324) adhotehi pādehi mañcapīṭhādisenāsanaṃ parikammakatā vā bhūmi na akkamitabbā. ‘‘Na, bhikkhave, allehi pādehi senāsanaṃ akkamitabbaṃ, yo akkameyya āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 324) yehi (cūḷava. aṭṭha. 324) akkantaṭṭhāne udakaṃ paññāyati, evarūpehi allapādehi paribhaṇḍakatā bhūmi vā senāsanaṃ vā na akkamitabbaṃ. Sace pana udakasinehamattameva paññāyati, na udakaṃ, vaṭṭati. Pādapuñchaniṃ pana allapādehipi akkamituṃ vaṭṭatiyeva. ‘‘Na, bhikkhave, saupāhanena senāsanaṃ akkamitabbaṃ, yo akkameyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 324) dhotapādehi akkamitabbaṭṭhānaṃ saupāhanena akkamituṃ na vaṭṭati.
50. “Này các Tỳ-khưu, không được dẫm lên chỗ ở bằng chân chưa rửa, ai dẫm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 324). Không được dẫm lên chỗ ở như giường, ghế v.v. hoặc nền nhà đã được trang hoàng bằng chân chưa rửa. “Này các Tỳ-khưu, không được dẫm lên chỗ ở bằng chân ướt, ai dẫm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 324). Bằng những bàn chân ướt (cūḷava. aṭṭha. 324) đến nỗi nước hiện ra ở nơi dẫm lên, không được dẫm lên nền nhà đã được trát hoặc chỗ ở. Nhưng nếu chỉ thấy có hơi ẩm, không có nước, thì được phép. Nhưng được phép dẫm lên thảm chùi chân dù chân còn ướt. “Này các Tỳ-khưu, không được dẫm lên chỗ ở khi đang mang dép, ai dẫm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 324). Không được phép dẫm lên nơi phải dẫm bằng chân đã rửa khi đang mang dép.
‘‘Na, bhikkhave, parikammakatāya bhūmiyā niṭṭhubhitabbaṃ, yo niṭṭhubheyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 324) parikammakatāya bhūmiyā na niṭṭhubhitabbaṃ. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, kheḷamallaka’’nti (cūḷava. 324) evaṃ anuññāte kheḷamallake niṭṭhubhitabbaṃ. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, coḷakena paliveṭhetu’’nti (cūḷava. 324) sudhābhūmiyā vā paribhaṇḍabhūmiyā vā mañcapīṭhaṃ nikkhipantena sace taṭṭikā vā kaṭasārako vā natthi, coḷakena mañcapīṭhānaṃ pādā veṭhetabbā, tasmiṃ asati paṇṇampi attharituṃ vaṭṭati, kiñci anattharitvā ṭhapentassa pana dukkaṭaṃ. Yadi pana tattha nevāsikā anatthatāya bhūmiyāpi ṭhapenti, adhotapādehipi vaḷañjenti, tatheva vaḷañjetuṃ vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được khạc nhổ lên nền nhà đã được trang hoàng, ai khạc nhổ, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 324). Không được khạc nhổ lên nền nhà đã được trang hoàng. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng ống nhổ” (cūḷava. 324). Phải khạc nhổ vào ống nhổ đã được cho phép như vậy. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng vải lót” (cūḷava. 324). Khi đặt giường ghế lên nền vôi hoặc nền trát, nếu không có đĩa hoặc chiếu, phải dùng vải lót quấn chân giường ghế. Nếu không có vải, cũng được phép trải lá cây. Nhưng người nào đặt mà không trải gì thì phạm tội Tác Ác. Nhưng nếu ở đó các Tỳ-khưu thường trú cũng đặt trên nền không trải, và đi lại bằng chân chưa rửa, thì được phép đi lại như vậy.
‘‘Na, bhikkhave, parikammakatā bhitti apassetabbā, yo apasseyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 324) parikammakatā bhitti setabhitti vā hotu cittakammakatā vā, na apassetabbā. Na kevalañca bhittimeva, dvārampi vātapānampi apassenaphalakampi pāsāṇatthambhampi rukkhatthambhampi cīvarena vā yena kenaci appaṭicchādetvā apassituṃ na labhati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, paccattharitvā nipajjitu’’nti (cūḷava. 325) pana dhotapādehi akkamitabbaṃ, paribhaṇḍakataṃ bhūmiṃ vā bhūmattharaṇaṃ senāsanaṃ vā saṅghikamañcapīṭhaṃ vā attano santakena paccattharaṇena paccattharitvāva nipajjitabbaṃ. Sace niddāyatopi paccattharaṇe saṅkuṭite koci sarīrāvayavo mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā phusati, āpattiyeva, lomesu pana phusantesu lomagaṇanāya āpattiyo. Paribhogasīsena apassayantassapi eseva nayo. Hatthatalapādatalehi pana phusituṃ akkamituṃ vā vaṭṭati, mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā harantassa kāye paṭihaññati, anāpatti.
“Này các Tỳ-khưu, không được dựa vào tường đã được trang hoàng, ai dựa, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 324). Tường đã được trang hoàng, dù là tường quét vôi trắng hay tường có vẽ tranh, cũng không được dựa vào. Không chỉ tường, mà cả cửa ra vào, cửa sổ, tấm ván dựa, cột đá, cột gỗ, cũng không được phép dựa vào mà không che bằng y hoặc vật gì đó. Nhưng “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép nằm sau khi đã trải” (cūḷava. 325), nơi phải dẫm bằng chân đã rửa, nền nhà đã trát hoặc tấm trải sàn, giường ghế của Tăng chúng, phải trải bằng tấm trải của mình rồi mới nằm. Nếu ngay cả khi đang ngủ mà tấm trải bị co lại, một bộ phận nào đó của cơ thể chạm vào giường hoặc ghế, vẫn phạm tội. Còn nếu lông chạm vào, thì phạm tội theo số lượng lông. Đối với người dựa vào theo cách sử dụng cũng tương tự. Nhưng được phép chạm hoặc dẫm bằng lòng bàn tay, lòng bàn chân. Khi khiêng giường hoặc ghế mà va vào người, không phạm tội.
51. ‘‘Dasayime, bhikkhave, avandiyā. Pureupasampannena pacchupasampanno avandiyo, anupasampanno avandiyo, nānāsaṃvāsako vuḍḍhataro adhammavādī avandiyo, mātugāmo avandiyo, paṇḍako avandiyo, pārivāsiko avandiyo, mūlāyapaṭikassanāraho avandiyo, mānattāraho avandiyo, mānattacāriko avandiyo, abbhānāraho avandiyo’’ti (cūḷava. 312) ime dasa avandiyāti veditabbā.
51. “Này các Tỳ-khưu, có mười hạng người này không đáng được đảnh lễ. Người được thọ giới sau không đáng được đảnh lễ bởi người được thọ giới trước; người chưa thọ giới không đáng được đảnh lễ; người có chung trú xứ khác, lớn tuổi hơn, nói lời phi pháp, không đáng được đảnh lễ; người nữ không đáng được đảnh lễ; người ái nam không đáng được đảnh lễ; người đang chịu biệt trú không đáng được đảnh lễ; người đáng bị kéo về lại gốc không đáng được đảnh lễ; người đáng chịu phạt tự hối không đáng được đảnh lễ; người đang thi hành phạt tự hối không đáng được đảnh lễ; người đáng được phục vị không đáng được đảnh lễ” (cūḷava. 312). Nên biết mười hạng người này là không đáng được đảnh lễ.
‘‘Pacchupasampannena pureupasampanno vandiyo, nānāsaṃvāsako vuḍḍhataro dhammavādī vandiyo, tathāgato arahaṃ sammāsambuddho vandiyo’’ti (cūḷava. 312) – ime tayo vanditabbā.
“Người được thọ giới trước đáng được đảnh lễ bởi người được thọ giới sau; người có chung trú xứ khác, lớn tuổi hơn, nói lời hợp pháp, đáng được đảnh lễ; bậc Như Lai, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác đáng được đảnh lễ” (cūḷava. 312) – ba hạng người này đáng được đảnh lễ.
52. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, tīṇi tūlāni rukkhatūlaṃ latātūlaṃ poṭakītūla’’nti (cūḷava. 297) imāni tīṇi tūlāni kappiyāni. Tattha (cūḷava. aṭṭha. 297) rukkhatūlanti simbalirukkhādīnaṃ yesaṃ kesañci rukkhānaṃ tūlaṃ. Latātūlanti khīravalliādīnaṃ yāsaṃ kāsañci vallīnaṃ tūlaṃ. Poṭakītūlanti poṭakītiṇādīnaṃ yesaṃ kesañci tiṇajātikānaṃ antamaso ucchunaḷādīnampi tūlaṃ. Etehi tīhi sabbabhūtagāmā saṅgahitā honti. Rukkhavallitiṇajātiyo hi muñcitvā añño bhūtagāmo nāma natthi, tasmā yassa kassaci bhūtagāmassa tūlaṃ bimbohane vaṭṭati. Bhisiṃ pana pāpuṇitvā sabbametaṃ akappiyatūlanti vuccati. Na kevalañca bimbohane etaṃ tūlameva, haṃsamorādīnaṃ sabbasakuṇānaṃ sīhādīnaṃ sabbacatuppadānañca lomampi vaṭṭati, piyaṅgupupphabakulapupphādīnaṃ pana yaṃ kiñci pupphaṃ na vaṭṭati. Tamālapattaṃ suddhameva na vaṭṭati, missakaṃ pana vaṭṭati, bhisīnaṃ anuññātaṃ pañcavidhaṃ uṇṇāditūlampi vaṭṭati.
52. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ba loại bông gòn: bông gòn cây, bông gòn dây leo, bông gòn cỏ” (cūḷava. 297). Ba loại bông gòn này là hợp lệ. Ở đây (cūḷava. aṭṭha. 297), bông gòn cây là bông gòn của bất kỳ loại cây nào như cây gòn v.v. Bông gòn dây leo là bông gòn của bất kỳ loại dây leo nào như dây khīravalli v.v. Bông gòn cỏ là bông gòn của bất kỳ loại cỏ nào như cỏ poṭakī v.v., cho đến cả mía, lau v.v. Ba loại này bao gồm tất cả các loài thực vật. Vì ngoài các loại cây, dây leo, và cỏ, không có loại thực vật nào khác. Do đó, bông gòn của bất kỳ loại thực vật nào cũng được phép dùng làm gối. Nhưng khi dùng làm nệm, tất cả đều được gọi là bông gòn không hợp lệ. Không chỉ bông gòn này trong gối, mà cả lông của tất cả các loài chim như ngỗng, công v.v., và của tất cả các loài bốn chân như sư tử v.v. cũng được phép. Nhưng bất cứ loại hoa nào như hoa priyaṅgu, hoa bakula v.v. đều không được phép. Lá tamāla nguyên chất không được phép, nhưng nếu trộn lẫn thì được phép. Cả năm loại bông gòn như len v.v. đã được cho phép cho nệm cũng được phép.
53. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, pañca bhisiyo uṇṇabhisiṃ coḷabhisiṃ vākabhisiṃ tiṇabhisiṃ paṇṇabhisi’’nti (cūḷava. 297) pañcahi uṇṇādīhi pūritā pañca bhisiyo anuññātā. Tūlagaṇanāya hi etāsaṃ gaṇanā vuttā. Tattha uṇṇaggahaṇena na kevalaṃ eḷakalomameva gahitaṃ, ṭhapetvā pana manussalomaṃ yaṃ kiñci kappiyākappiyamaṃsajātīnaṃ pakkhicatuppadānaṃ lomaṃ sabbaṃ idha uṇṇaggahaṇeneva gahitaṃ. Tasmā channaṃ cīvarānaṃ channaṃ anulomacīvarānañca aññatarena bhisicchaviṃ katvā taṃ sabbaṃ pakkhipitvā bhisiṃ kātuṃ vaṭṭati. Eḷakalomāni pana apakkhipitvā kambalameva catugguṇaṃ pañcaguṇaṃ vā pakkhipitvā katāpi uṇṇabhisisaṅkhyameva gacchati.
53. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép năm loại nệm: nệm len, nệm vải vụn, nệm vỏ cây, nệm cỏ, nệm lá” (cūḷava. 297). Năm loại nệm được nhồi bằng len v.v. đã được cho phép. Số lượng của chúng được tính theo số lượng bông gòn. Ở đây, khi nói đến len, không chỉ lông cừu được bao gồm, mà ngoại trừ tóc người, tất cả lông của các loài chim và bốn chân, dù là thịt hợp lệ hay không hợp lệ, đều được bao gồm trong từ len ở đây. Do đó, được phép làm vỏ nệm bằng một trong sáu loại y hoặc sáu loại y tương tự, rồi nhồi tất cả những thứ đó vào để làm nệm. Nhưng những cái được làm bằng cách không nhồi lông cừu mà chỉ nhồi len dệt dày gấp bốn, năm lần cũng được tính là nệm len.
Coḷabhisiādīsu yaṃ kiñci navacoḷaṃ vā purāṇacoḷaṃ vā saṃharitvā anto pakkhipitvā vā katā coḷabhisi. Yaṃ kiñci vākaṃ pakkhipitvā katā vākabhisi. Yaṃ kiñci tiṇaṃ pakkhipitvā katā tiṇabhisi. Aññatra suddhatamālapattā yaṃ kiñci paṇṇaṃ pakkhipitvā katā paṇṇabhisīti veditabbā. Tamālapattaṃ pana aññena missameva vaṭṭati. Suddhaṃ na vaṭṭati. Yaṃ panetaṃ uṇṇādipañcavidhaṃ tūlaṃ bhisiyaṃ vaṭṭati, taṃ masūrakepi vaṭṭatīti kurundiyaṃ vuttaṃ. Etena masūrakaṃ paribhuñjituṃ vaṭṭatīti siddhaṃ hoti. Bhisiyā pamāṇaniyamo natthi, mañcabhisi pīṭhabhisi bhūmattharaṇabhisi caṅkamanabhisi pādapuñchanabhisīti etāsaṃ anurūpato sallakkhetvā attano rucivasena pamāṇaṃ kātabbaṃ. Bimbohanaṃ pana pamāṇayuttameva vaṭṭati.
Trong các loại nệm vải vụn v.v., nệm vải vụn là nệm được làm bằng cách thu thập bất kỳ loại vải vụn mới hay cũ nào rồi nhồi vào bên trong. Nệm được làm bằng cách nhồi bất kỳ loại vỏ cây nào là nệm vỏ cây. Nệm được làm bằng cách nhồi bất kỳ loại cỏ nào là nệm cỏ. Nên biết nệm được làm bằng cách nhồi bất kỳ loại lá nào ngoại trừ lá tamāla nguyên chất là nệm lá. Lá tamāla chỉ được phép khi trộn với thứ khác. Nguyên chất thì không được phép. Năm loại bông gòn như len v.v. được phép dùng cho nệm, trong Kurundī có nói rằng chúng cũng được phép dùng cho gối dựa. Do đó, việc dùng gối dựa là được phép. Không có quy định về kích thước của nệm. Nệm giường, nệm ghế, nệm trải sàn, nệm đường kinh hành, nệm chùi chân, nên xem xét cho phù hợp với chúng và làm kích thước theo ý thích của mình. Nhưng gối thì chỉ được phép dùng loại có kích thước phù hợp.
54. ‘‘Na, bhikkhave, aḍḍhakāyikāni bimbohanāni dhāretabbāni, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 297) yesu kaṭito paṭṭhāya yāva sīsaṃ upadahanti, tādisāni upaḍḍhakāyappamāṇāni bimbohanāni paṭikkhipitvā ‘‘anujānāmi, bhikkhave, sīsappamāṇaṃ bimbohana’’nti (cūḷava. 297) sīsappamāṇaṃ anuññātaṃ. Sīsappamāṇaṃ nāma yassa vitthārato tīsu kaṇṇesu dvinnaṃ kaṇṇānaṃ antaraṃ miniyamānaṃ vidatthi ceva caturaṅgulañca hoti, majjhaṭṭhānaṃ muṭṭhiratanaṃ hoti. ‘‘Dīghato pana diyaḍḍharatanaṃ vā dviratanaṃ vā’’ti kurundiyaṃ vuttaṃ. Ayaṃ sīsappamāṇassa ukkaṭṭhaparicchedo, ito uddhaṃ na vaṭṭati, heṭṭhā vaṭṭati. Agilānassa sīsūpadhānañca pādūpadhānañcāti dvayameva vaṭṭati, gilānassa bimbohanāni santharitvā upari paccattharaṇaṃ datvā nipajjitumpi vaṭṭati. ‘‘Yāni pana bhisīnaṃ anuññātāni pañca kappiyatūlāni, tehi bimbohanaṃ mahantampi vaṭṭatī’’ti phussadevatthero āha. Vinayadharaupatissatthero pana ‘‘bimbohanaṃ karissāmīti kappiyatūlaṃ vā akappiyatūlaṃ vā pakkhipitvā karontassa pamāṇameva vaṭṭatī’’ti āha.
54. “Này các Tỳ-khưu, không được dùng gối dài nửa thân người, ai dùng, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 297). Gối có kích thước bằng nửa thân người, mà người ta gối từ hông lên đến đầu, đã bị cấm. Và gối có kích thước bằng đầu đã được cho phép: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng gối có kích thước bằng đầu” (cūḷava. 297). Kích thước bằng đầu là gối mà khi đo khoảng cách giữa hai góc trong ba góc theo chiều rộng thì được một gang tay và bốn ngón tay, và phần giữa là một nắm tay. Trong Kurundī có nói: “chiều dài thì một gang rưỡi hoặc hai gang.” Đây là giới hạn tối đa của kích thước bằng đầu, lớn hơn thì không được phép, nhỏ hơn thì được phép. Người không bệnh chỉ được phép dùng hai loại: gối đầu và gối chân. Người bệnh được phép trải gối ra rồi đặt một tấm trải lên trên để nằm. Trưởng lão Phussadeva đã nói: “Gối làm bằng năm loại bông gòn hợp lệ đã được cho phép cho nệm, thì dù lớn cũng được phép.” Nhưng trưởng lão Vinayadharaupatissa đã nói: “Người làm gối với ý định ‘tôi sẽ làm gối’ bằng cách nhồi bông gòn hợp lệ hay không hợp lệ, thì chỉ được phép loại có kích thước quy định.”
55. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, āsandika’’nti (cūḷava. 297) caturassapīṭhasaṅkhāto āsandiko vaṭṭati, so ca ‘‘anujānāmi, bhikkhave, uccakampi āsandika’’nti (cūḷava. 297) aṭṭhaṅgulato uccapādakopi vaṭṭati. Ekatobhāgena dīghapīṭhameva hi aṭṭhaṅgulato uccapādakaṃ na vaṭṭati, tasmā caturassapīṭhaṃ pamāṇātikkantampi vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, sattaṅga’’nti (cūḷava. 297) tīsu disāsu apassayaṃ katvā katamañcopi vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, uccakampi sattaṅga’’nti (cūḷava. 297) ayampi pamāṇātikkanto ca vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, bhaddapīṭha’’ntiādinā (cūḷava. 297) pāḷiyaṃ anuññātaṃ vettamayapīṭhaṃ pilotikābaddhapīṭhaṃ dārupaṭṭikāya upari pāde ṭhapetvā bhojanaphalakaṃ viya kataṃ eḷakapādapīṭhaṃ āmalakākārena yojitaṃ bahupādakaṃ āmaṇḍakavaṭṭikapīṭhaṃ palālapīṭhaṃ phalakapīṭhañca pāḷiyaṃ anāgatañca aññampi yaṃ kiñci dārumayapīṭhaṃ vaṭṭati.
55. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng āsandikā” (cūḷava. 297). Ghế āsandikā, tức là ghế vuông, được phép dùng. Và ghế đó cũng được phép có chân cao hơn tám ngón tay: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cả āsandikā cao” (cūḷava. 297). Chỉ có ghế dài một bên là không được phép có chân cao hơn tám ngón tay. Do đó, ghế vuông dù vượt quá kích thước cũng được phép. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng sattaṅga” (cūḷava. 297). Giường có thành dựa ở ba phía cũng được phép. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cả sattaṅga cao” (cūḷava. 297). Loại này cũng được phép dù vượt quá kích thước. Theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng ghế bhaddapīṭha” v.v. (cūḷava. 297), các loại ghế được cho phép trong Pāḷi như ghế bằng mây, ghế bọc vải, ghế làm giống như bàn ăn bằng cách đặt chân lên tấm ván gỗ, ghế chân cừu, ghế nhiều chân được lắp ráp hình quả me, ghế hình bánh xe, ghế bằng rơm, ghế bằng ván, và cả những loại ghế gỗ khác không được đề cập trong Pāḷi cũng được phép.
‘‘Na, bhikkhave, ucce mañce sayitabbaṃ, yo sayeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (cūḷava. 297) pamaṇātikkante mañce sayantassa dukkaṭaṃ, taṃ pana karontassa kārāpentassa ca chedanakaṃ pācittiyaṃ. Aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjantena chinditvā paribhuñjitabbaṃ. Sace na chinditukāmo hoti, bhūmiyaṃ nikhanitvā pamāṇaṃ upari dasseti, uttānakaṃ vā katvā paribhuñjati, ukkhipitvā tulāsaṅghāṭe ṭhapetvā aṭṭaṃ katvā paribhuñjati, vaṭṭati. ‘‘Na, bhikkhave, uccā mañcapaṭipādakā dhāretabbā, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, aṭṭhaṅgulaparamaṃ mañcapaṭipādaka’’nti (cūḷava. 297) manussānaṃ pamāṇaṅgulena aṭṭhaṅgulaparamova mañcapaṭipādako vaṭṭati, tato uddhaṃ na vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được nằm trên giường cao, ai nằm, phạm tội Tác Ác” (cūḷava. 297). Người nào nằm trên giường vượt quá kích thước thì phạm tội Tác Ác. Người nào làm hoặc cho làm giường đó thì phạm tội Ưng Đối Trị phải cắt bỏ. Người nào nhận được giường do người khác làm thì phải cắt bỏ rồi mới dùng. Nếu không muốn cắt, thì chôn xuống đất và để lộ phần đúng kích thước, hoặc lật ngửa lại để dùng, hoặc nhấc lên đặt trên các thanh xà và làm thành một cái gác để dùng, thì được phép. “Này các Tỳ-khưu, không được dùng chân giường cao, ai dùng, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép chân giường cao tối đa tám ngón tay” (cūḷava. 297). Chỉ được phép dùng chân giường cao tối đa tám ngón tay theo chiều rộng ngón tay của người thường, cao hơn thì không được phép.
56. ‘‘Na, bhikkhave, uccāsayanamahāsayanāni dhāretabbāni, seyyathidaṃ, āsandi pallaṅko gonako cittako paṭikā paṭalikā tūlikā vikatikā uddalomi ekantalomi kaṭṭissaṃ koseyyaṃ kuttakaṃ hatthattharaṃ assattharaṃ rathattharaṃ ajinapaveṇī kadalimigapavarapaccattharaṇaṃ sauttaracchadaṃ ubhatolohitakūpadhānaṃ, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 254) uccāsayanamahāsayanāni na vaṭṭanti. Tattha (mahāva. aṭṭha. 254) uccāsayanaṃ nāma pamāṇātikkantaṃ mañcaṃ. Mahāsayanaṃ nāma akappiyattharaṇaṃ. Āsandiādīsu āsandīti pamāṇātikkantāsanaṃ. Pallaṅkoti pādesu vāḷarūpāni ṭhapetvā kato. Gonakoti dīghalomako mahākojavo. Caturaṅgulādhikāni kira tassa lomāni. Cittakoti ratanacitrauṇṇāmayattharako. Paṭikāti uṇṇāmayo setattharako. Paṭalikāti ghanapupphako uṇṇāmayalomattharako, yo ‘‘āmalakapaṭo’’tipi vuccati. Tūlikāti pakatitūlikāyeva. Vikatikāti sīhabyagghādirūpavicitro uṇṇāmayattharako. Uddalomīti ekato uggatalomaṃ uṇṇāmayattharaṇaṃ. Ekantalomīti ubhato uggatalomaṃ uṇṇāmayattharaṇaṃ. Kaṭṭissanti ratanaparisibbitaṃ koseyyakaṭṭissamayaṃ paccattharaṇaṃ. Koseyyanti ratanaparisibbitaṃ kosiyasuttamayaṃ paccattharaṇaṃ, niddoseyyaṃ pana vaṭṭati.
56. “Này các Tỳ-khưu, không được dùng các loại giường cao, giường lớn, chẳng hạn như: āsandi, pallaṅka, gonaka, cittakā, paṭikā, paṭalikā, tūlikā, vikatikā, uddalomi, ekantalomi, kaṭṭissaṃ, koseyyaṃ, kuttakaṃ, hatthattharaṃ, assattharaṃ, rathattharaṃ, ajinapaveṇī, kadalimigapavarapaccattharaṇaṃ, sauttaracchadaṃ, ubhatolohitakūpadhānaṃ. Ai dùng, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 254). Các loại giường cao, giường lớn không được phép. Ở đây (mahāva. aṭṭha. 254), giường cao là giường vượt quá kích thước. Giường lớn là tấm trải không hợp lệ. Trong số āsandi v.v., āsandi là ghế vượt quá kích thước. Pallaṅka là loại được làm bằng cách gắn các hình thú ở chân. Gonaka là tấm thảm lớn có lông dài. Lông của nó dài hơn bốn ngón tay. Cittako là tấm trải bằng len dệt hoa văn bằng đá quý. Paṭikā là tấm trải màu trắng bằng len. Paṭalikā là tấm trải bằng lông len có hoa văn dày, cũng được gọi là “vải hình quả me.” Tūlikā chính là nệm bông gòn thông thường. Vikatikā là tấm trải bằng len dệt sặc sỡ hình sư tử, cọp v.v. Uddalomī là tấm trải bằng len có lông dựng lên một mặt. Ekantalomī là tấm trải bằng len có lông dựng lên cả hai mặt. Kaṭṭissaṃ là tấm trải bằng lụa kaṭṭissa có viền đá quý. Koseyyaṃ là tấm trải bằng sợi tơ có viền đá quý, nhưng nếu không có đá quý thì được phép.
Kuttakanti soḷasannaṃ nāṭakitthīnaṃ ṭhatvā naccanayoggaṃ uṇṇāmayattharaṇaṃ. Hatthattharaassattharā hatthiassapiṭṭhīsu attharaṇakaattharaṇā eva. Rathattharepi eseva nayo. Ajinapaveṇīti ajinacammehi mañcappamāṇena sibbitvā katā paveṇī. Kadalimigapavarapaccattharaṇanti kadalimigacammaṃ nāma atthi, tena kataṃ pavarapaccattharaṇanti attho. Taṃ kira setavatthassa upari kadalimigacammaṃ pattharitvā sibbitvā karonti. Sauttaracchadanti saha uttaracchadena, uparibaddhena rattavitānena saddhinti attho. Setavitānampi heṭṭhā akappiyapaccattharaṇe sati na vaṭṭati, asati pana vaṭṭati. Ubhatolohitakūpadhānanti sīsūpadhānañca pādūpadhānañcāti mañcassa ubhatolohitakūpadhānaṃ, etaṃ na kappati. Yaṃ pana ekameva upadhānaṃ ubhosu passesu rattaṃ vā hotu padumavaṇṇaṃ vā vicitraṃ vā, sace pamāṇayuttaṃ, vaṭṭati, mahāupadhānaṃ pana paṭikkhittaṃ. Gonakādīni (cūḷava. aṭṭha. 320) saṅghikavihāre vā puggalikavihāre vā mañcapīṭhakesu attharitvā paribhuñjituṃ na vaṭṭanti, dhammāsane pana gihivikatanīhārena labbhanti, tatrāpi nipajjituṃ na vaṭṭati.
Kuttakaṃ là tấm trải bằng len đủ rộng cho mười sáu vũ nữ đứng múa. Hatthattharaassattharā chính là những tấm trải trên lưng voi và lưng ngựa. Đối với rathatthara cũng tương tự. Ajinapaveṇī là một dải được may bằng da thú có kích thước bằng cái giường. Kadalimigapavarapaccattharaṇaṃ có nghĩa là tấm trải quý giá được làm bằng da của loài hươu kadali. Người ta làm nó bằng cách trải da hươu kadali lên trên một tấm vải trắng rồi may lại. Sauttaracchadaṃ có nghĩa là cùng với tấm che trên, tức là cùng với một tấm màn đỏ được treo phía trên. Màn trắng cũng không được phép nếu bên dưới có tấm trải không hợp lệ, nhưng nếu không có thì được phép. Ubhatolohitakūpadhānaṃ là gối ở hai đầu giường, tức là gối đầu và gối chân. Điều này không hợp lệ. Nhưng nếu chỉ có một cái gối mà hai bên đều màu đỏ hoặc màu sen, hoặc có hoa văn, nếu nó đúng kích thước thì được phép. Gối lớn thì bị cấm. Gonaka v.v. (cūḷava. aṭṭha. 320) không được phép trải trên giường ghế trong tự viện của Tăng chúng hoặc tự viện cá nhân để sử dụng. Nhưng trên pháp tòa, chúng được phép theo cách thức của tại gia, nhưng cũng không được nằm trên đó.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ṭhapetvā tīṇi āsandiṃ pallaṅkaṃ tūlikaṃ gihivikataṃ abhinisīdituṃ, na tveva abhinipajjitu’’nti (cūḷava. 314) – āsandādittayaṃ ṭhapetvā avasesesu gonakādīsu gihivikatesu dhammāsane vā bhattagge vā antaraghare vā nisīdituṃ vaṭṭati, nipajjituṃ na vaṭṭati. Tūlonaddhaṃ pana mañcapīṭhaṃ bhattagge antaraghareyeva nisīdituṃ vaṭṭati, tatthāpi nipajjituṃ vaṭṭati. Tūlonaddhaṃ pana mañcapīṭhaṃ kārāpentassapi uddālanakaṃ pācittiyaṃ.
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ngồi trên các vật dụng của tại gia, ngoại trừ ba thứ: āsandi, pallaṅka, và tūlikā, nhưng không được nằm” (cūḷava. 314). Ngoại trừ ba thứ āsandi v.v., được phép ngồi trên các vật dụng còn lại như gonaka v.v. của tại gia trên pháp tòa, trong nhà ăn, hoặc trong nhà riêng, nhưng không được nằm. Giường ghế có nhồi bông gòn thì chỉ được phép ngồi trong nhà ăn và nhà riêng, và cũng được phép nằm ở đó. Nhưng người nào cho làm giường ghế có nhồi bông gòn thì phạm tội Ưng Đối Trị phải tháo dỡ.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, onaddhamañcaṃ onaddhapīṭha’’nti (cūḷava. 297) pana cammādīhi onaddhaṃ mañcapīṭhaṃ vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, pāvāraṃ. Anujānāmi, bhikkhave, koseyyapāvāraṃ. Anujānāmi, bhikkhave, kojavaṃ. Anujānāmi, bhikkhave, kambala’’nti (mahāva. 337-338) – pāvārādīni saṅghikāni vā hontu puggalikāni vā, yathāsukhaṃ vihāre vā antaraghare vā yattha katthaci paribhuñjituṃ vaṭṭanti. Kojavaṃthiaz pakatikojavameva vaṭṭati, mahāpiṭṭhiyakojavaṃ na vaṭṭati.
Nhưng “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép giường bọc, ghế bọc” (cūḷava. 297), giường ghế được bọc bằng da v.v. là được phép. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng pāvāra. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng pāvāra bằng lụa. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng kojava. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng kambala” (mahāva. 337-338). Pāvāra v.v., dù là của Tăng chúng hay của cá nhân, đều được phép sử dụng tùy ý ở bất cứ đâu trong tự viện hoặc trong nhà riêng. Kojava thì chỉ được phép loại kojava thông thường, kojava lớn lót lưng thì không được phép.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, sabbaṃ pāsādaparibhoga’’nti (cūḷava. 320) suvaṇṇarajatādivicitrāni (cūḷava. aṭṭha. 320) kavāṭāni mañcapīṭhāni tālavaṇṭāni suvaṇṇarajatayoni pānīyaghaṭapānīyasarāvāni, yaṃ kiñci cittakammakataṃ, sabbaṃ senāsanaparibhoge vaṭṭati. ‘‘Pāsādassa dāsidāsaṃ khettavatthuṃ gomahiṃsaṃ demā’’ti vadanti, pāṭekkaṃ gahaṇakiccaṃ natthi, pāsāde paṭiggahite paṭiggahitameva hoti.
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép tất cả các vật dụng trong lâu đài” (cūḷava. 320). Các cửa (cūḷava. aṭṭha. 320) được trang trí bằng vàng, bạc v.v., giường ghế, quạt lá cọ, bình nước và bát nước bằng vàng bạc, bất cứ thứ gì được vẽ trang trí, tất cả đều được phép sử dụng trong trú xứ. Nếu họ nói “chúng con xin cúng dường nô tỳ, ruộng đất, bò trâu cho lâu đài,” thì không cần phải nhận riêng từng thứ, khi đã nhận lâu đài thì đã nhận luôn rồi.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ekapalāsikaṃ upāhanaṃ… na, bhikkhave, diguṇā upāhanā dhāretabbā… na tiguṇā upāhanā dhāretabbā… na guṇaṅguṇūpāhanā dhāretabbā… yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 245) – ekapaṭalāyeva upāhanā vaṭṭati, dvipaṭalā pana tipaṭalā na vaṭṭatiyeva. Guṇaṅguṇūpāhanā (mahāva. aṭṭha. 245) nāma catupaṭalato paṭṭhāya vuccati, sā pana majjhimadeseyeva na vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, sabbapaccantimesu janapadesu guṇaṅguṇūpāhana’’nti (mahāva. 259) – paccantimesu janapadesu guṇaṅguṇūpāhanā navā vā hotu paribhuttā vā, vaṭṭati. Majjhimadese pana ‘‘anujānāmi, bhikkhave, omukkaṃ guṇaṅguṇūpāhanaṃ. Na, bhikkhave, navā guṇaṅguṇūpāhanā dhāretabbā, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 247) paṭimuñcitvā apanītā paribhuttāyeva guṇaṅguṇūpāhanā vaṭṭati, aparibhuttā paṭikkhittāyeva. Ekapaṭalā pana paribhuttā vā hotu aparibhuttā vā, sabbattha vaṭṭati. Ettha ca manussacammaṃ ṭhapetvā yena kenaci cammena katā upāhanā vaṭṭati. Upāhanakosakasatthakakosakakuñcikakosakesupi eseva nayo.
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng dép một lớp… Này các Tỳ-khưu, không được mang dép hai lớp… không được mang dép ba lớp… không được mang dép nhiều lớp, ai mang, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 245). Chỉ được phép dùng dép một lớp. Dép hai lớp và ba lớp thì không được phép. Dép nhiều lớp (mahāva. aṭṭha. 245) được gọi là loại từ bốn lớp trở lên, loại đó chỉ không được phép ở vùng trung tâm. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng dép nhiều lớp ở tất cả các vùng biên địa” (mahāva. 259). Ở các vùng biên địa, dép nhiều lớp, dù mới hay đã qua sử dụng, đều được phép. Nhưng ở vùng trung tâm, “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng dép nhiều lớp đã mang. Này các Tỳ-khưu, không được mang dép nhiều lớp mới, ai mang, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 247). Chỉ được phép dùng dép nhiều lớp đã qua sử dụng, tức là đã mang rồi tháo ra. Dép chưa qua sử dụng thì bị cấm. Dép một lớp, dù đã qua sử dụng hay chưa, đều được phép ở mọi nơi. Ở đây, dép làm bằng bất kỳ loại da nào, ngoại trừ da người, đều được phép. Đối với túi đựng dép, túi đựng dao, túi đựng chìa khóa, quy tắc này cũng tương tự.
‘‘Na, bhikkhave, sabbanīlikā upāhanā dhāretabbā… na sabbapītikā upāhanā dhāretabbā… na sabbalohitikā upāhanā dhāretabbā… na sabbamañjiṭṭhikā upāhanā dhāretabbā… na sabbakaṇhā upāhanā dhāretabbā… na sabbamahāraṅgarattā upāhanā dhāretabbā. Na sabbamahānāmarattā upāhanā dhāretabbā, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 246) – sabbanīlikādi upāhanā na vaṭṭati. Ettha ca nīlikā umāpupphavaṇṇā hoti. Pītikā kaṇikārapupphavaṇṇā… lohitikā jayasumanapupphavaṇṇā… mañjiṭṭhikā mañjiṭṭhavaṇṇā eva… kaṇhā addāriṭṭhakavaṇṇā… mahāraṅgarattā satapadipiṭṭhivaṇṇā… mahānāmarattā sambhinnavaṇṇā hoti paṇḍupalāsavaṇṇā. Kurundiyaṃ pana ‘‘padumapupphavaṇṇā’’ti vuttaṃ. Etāsu yaṃ kiñci labhitvā rajanaṃ coḷakena puñchitvā vaṇṇaṃ bhinditvā dhāretuṃ vaṭṭati, appamattakepi bhinne vaṭṭatiyeva.
“Này các Tỳ-khưu, không được mang dép hoàn toàn màu xanh… không được mang dép hoàn toàn màu vàng… không được mang dép hoàn toàn màu đỏ… không được mang dép hoàn toàn màu đỏ son… không được mang dép hoàn toàn màu đen… không được mang dép hoàn toàn màu đỏ thẫm… không được mang dép hoàn toàn màu đỏ sẫm, ai mang, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 246). Dép hoàn toàn màu xanh v.v. không được phép. Ở đây, màu xanh là màu hoa lanh. Màu vàng là màu hoa kaṇikāra… màu đỏ là màu hoa lài đỏ… màu đỏ son là chính màu đỏ son… màu đen là màu quả addāriṭṭhaka… màu đỏ thẫm là màu lưng con rết… màu đỏ sẫm là màu hỗn hợp, màu lá úa. Nhưng trong Kurundī có nói là “màu hoa sen.” Khi nhận được bất cứ loại nào trong số này, được phép dùng vải lau thuốc nhuộm để làm phai màu rồi mang. Dù chỉ phai một chút cũng được phép.
‘‘Na, bhikkhave, nīlakavaddhikā upāhanā dhāretabbā… na pītakavaddhikā upāhanā dhāretabbā… na lohitakavaddhikā upāhanā dhāretabbā… na mañjiṭṭhikavaddhikā upāhanā dhāretabbā… na kaṇhavaddhikā upāhanā dhāretabbā… na mahāraṅgarattavaddhikā upāhanā dhāretabbā… na mahānāmarattavaddhikā upāhanā dhāretabbā… yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 246) – yāsaṃ vaddhāyeva nīlādivaṇṇā honti, tāpi na vaṭṭanti, vaṇṇabhedaṃ pana katvā dhāretuṃ vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được mang dép có quai màu xanh… không được mang dép có quai màu vàng… không được mang dép có quai màu đỏ… không được mang dép có quai màu đỏ son… không được mang dép có quai màu đen… không được mang dép có quai màu đỏ thẫm… không được mang dép có quai màu đỏ sẫm, ai mang, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 246). Những đôi dép có quai màu xanh v.v. cũng không được phép. Nhưng được phép mang sau khi đã làm cho màu sắc khác đi.
‘‘Na, bhikkhave, khallakabaddhā upāhanā dhāretabbā… na puṭabaddhā upāhanā dhāretabbā… na pāliguṇṭhimā upāhanā dhāretabbā… na tūlapuṇṇikā upāhanā dhāretabbā… na tittirapattikā upāhanā dhāretabbā… na meṇḍavisāṇavaddhikā upāhanā dhāretabbā… na ajavisāṇavaddhikā upāhanā dhāretabbā… na vicchikāḷikā upāhanā dhāretabbā… na morapiñchaparisibbitā upāhanā dhāretabbā… na citrā upāhanā dhāretabbā, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 246) – khallakabaddhādi upāhanāpi na vaṭṭati. Tattha khallakabaddhāti paṇhipidhānatthaṃ tale khallakaṃ bandhitvā katā. Puṭabaddhāti yonakaupāhanā vuccati, yā yāva jaṅghato sabbapādaṃ paṭicchādeti. Pāliguṇṭhimāti paliguṇṭhitvā katā, upari pādamattameva paṭicchādeti, na jaṅghaṃ. Tūlapuṇṇikāti tūlapicunā pūretvā katā. Tittirapattikāti tittirapattasadisā vicitrabaddhā. Meṇḍavisāṇavaddhikāti kaṇṇikaṭṭhāne meṇḍakasiṅgasaṇṭhāne vaddhe yojetvā katā. Ajavisāṇavaddhikādīsupi eseva nayo, vicchikāḷikāpi tattheva vicchikanaṅguṭṭhasaṇṭhāne vaddhe yojetvā katā. Morapiñchaparisibbitāti talesu vā vaddhesu vā morapiñchehi suttakasadisehi parisibbitā. Citrāti vicitrā. Etāsu yaṃ kiñci labhitvā sace tāni khallakādīni apanetvā sakkā honti vaḷañjituṃ, vaḷañjetabbā. Tesu pana sati vaḷañjantassa dukkaṭaṃ.
“Này các Tỳ-khưu, không được mang dép có bao gót… không được mang dép bốt… không được mang dép guốc… không được mang dép nhồi bông gòn… không được mang dép hình lông chim đa đa… không được mang dép có quai hình sừng cừu… không được mang dép có quai hình sừng dê… không được mang dép hình đuôi bò cạp… không được mang dép viền lông công… không được mang dép sặc sỡ, ai mang, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 246). Dép có bao gót v.v. cũng không được phép. Ở đây, dép có bao gót là loại được làm bằng cách buộc một miếng bao ở đế để che gót chân. Dép bốt được gọi là dép của người Hy Lạp, loại che phủ toàn bộ bàn chân cho đến ống chân. Dép guốc là loại được làm bằng cách quấn lại, chỉ che phủ phần mu bàn chân, không che ống chân. Dép nhồi bông gòn là loại được làm bằng cách nhồi bông gòn. Dép hình lông chim đa đa là loại có quai sặc sỡ giống lông chim đa đa. Dép có quai hình sừng cừu là loại được làm bằng cách gắn các quai hình sừng cừu ở chỗ mắt cá chân. Đối với dép có quai hình sừng dê v.v. cũng tương tự. Dép hình đuôi bò cạp cũng được làm bằng cách gắn các quai hình đuôi bò cạp ở đó. Dép viền lông công là loại được viền bằng lông công giống như sợi chỉ ở đế hoặc quai. Dép sặc sỡ là loại nhiều màu sắc. Khi nhận được bất cứ loại nào trong số này, nếu có thể tháo bỏ những miếng bao gót v.v. đó rồi sử dụng thì nên sử dụng. Nhưng người nào sử dụng khi còn những thứ đó thì phạm tội Tác Ác.
‘‘Na, bhikkhave, sīhacammaparikkhaṭā upāhanā dhāretabbā… na byagghacammaparikkhaṭā upāhanā dhāretabbā… na dīpicammaparikkhaṭā upāhanā dhāretabbā… na ajinacammaparikkhaṭā upāhanā dhāretabbā… na uddacammaparikkhaṭā upāhanā dhāretabbā… na majjāracammaparikkhaṭā upāhanā dhāretabbā… na kāḷakacammaparikkhaṭā upāhanā dhāretabbā… na luvakacammaparikkhaṭā upāhanā dhāretabbā, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 246) – sīhacammādiparikkhaṭāpi upāhanā na vaṭṭati. Tattha sīhacammaparikkhaṭā nāma pariyantesu cīvare anuvātaṃ viya sīhacammaṃ yojetvā katā. Esa nayo sabbattha. Luvakacammaparikkhaṭāti pakkhibiḷālacammaparikkhaṭā. Etāsupi yā kāci taṃ cammaṃ apanetvā dhāretabbā.
“Này các Tỳ-khưu, không được mang dép viền da sư tử… không được mang dép viền da cọp… không được mang dép viền da báo… không được mang dép viền da hươu… không được mang dép viền da rái cá… không được mang dép viền da mèo… không được mang dép viền da đen… không được mang dép viền da mèo rừng, ai mang, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 246). Dép viền da sư tử v.v. cũng không được phép. Ở đây, dép viền da sư tử là loại được làm bằng cách gắn da sư tử ở các mép giống như viền y. Quy tắc này áp dụng cho tất cả. Dép viền da mèo rừng là dép viền da mèo bay. Trong số này, bất cứ loại nào cũng phải tháo bỏ lớp da đó rồi mới mang.
‘‘Na, bhikkhave, kaṭṭhapādukā dhāretabbā… na tālapattapādukā… na veḷupattapādukā, na tiṇapādukā… na muñjapādukā, na pabbajapādukā… na hintālapādukā, na kamalapādukā… na kambalapādukā… na sovaṇṇapādukā… na rūpiyamayā pādukā… na maṇimayā… na veḷuriyamayā… na phalikamayā… na kaṃsamayā… na kācamayā… na tipumayā… na sīsamayā… na tambalohamayā… na kāci saṅkamanīyā pādukā dhāretabbā, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 250-251) – yena kenaci tiṇena vā aññena vā katā yā kāci saṅkamanīyā pādukā na dhāretabbā. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, tisso pādukā dhuvaṭṭhāniyā asaṅkamanīyāyo, vaccapādukaṃ passāvapādukaṃ ācamanapāduka’’nti (mahāva. 251) – pana bhūmiyaṃ suppatiṭṭhitā niccalā asaṃhāriyā vaccapādukādī tisso pādukā paribhuñjituṃ vaṭṭanti.
“Này các Tỳ-khưu, không được mang guốc gỗ… không mang guốc lá cọ… không mang guốc tre… không mang guốc cỏ… không mang guốc cỏ muñja… không mang guốc cỏ pabbaja… không mang guốc lá dừa nước… không mang guốc lá sen… không mang guốc len… không mang guốc vàng… không mang guốc bằng bạc… không mang guốc bằng ngọc… không mang guốc bằng lưu ly… không mang guốc bằng pha lê… không mang guốc bằng đồng… không mang guốc bằng thủy tinh… không mang guốc bằng thiếc… không mang guốc bằng chì… không mang guốc bằng đồng đỏ… không được mang bất cứ loại guốc nào có thể đi lại được, ai mang, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 250-251). Không được mang bất cứ loại guốc nào có thể đi lại được, được làm bằng bất kỳ loại cỏ nào hay vật gì khác. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ba loại guốc cố định, không di chuyển được: guốc nhà vệ sinh, guốc nhà tiểu, và guốc rửa tay” (mahāva. 251). Nhưng được phép sử dụng ba loại guốc nhà vệ sinh v.v. được đặt chắc chắn trên mặt đất, không di chuyển, không mang đi được.
‘‘Na, bhikkhave, saupāhanena gāmo pavisitabbo, yo paviseyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 259) saupāhanena gāmo na pavisitabbo. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, gilānena bhikkhunā saupāhanena gāmaṃ pavisitu’’nti (mahāva. 256) pana yassa pādā vā phālitā pādakhīlā vā ābādho pādā vā dukkhā honti, yo na sakkoti anupāhano gāmaṃ pavisituṃ, evarūpena gilānena saupāhanena gāmaṃ pavisituṃ vaṭṭati. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ajjhārāme upāhanaṃ dhāretuṃ ukkaṃ padīpaṃ kattaradaṇḍa’’nti (mahāva. 249) ajjhārāme agilānassapi upāhanaṃ dhāretuṃ vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được vào làng khi đang mang dép, ai vào, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 259). Không được vào làng khi đang mang dép. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép Tỳ-khưu bệnh vào làng khi đang mang dép” (mahāva. 256). Nhưng người nào bị nứt chân hoặc có mụn nhọt ở chân, hoặc bị bệnh, hoặc chân bị đau, người nào không thể vào làng mà không có dép, thì người bệnh như vậy được phép vào làng khi đang mang dép. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép mang dép, cầm đuốc, đèn, gậy chống trong khuôn viên tự viện” (mahāva. 249). Trong khuôn viên tự viện, cả người không bệnh cũng được phép mang dép.
‘‘Na, bhikkhave, ācariyesu ācariyamattesu upajjhāyesu upajjhāyamattesu anupāhanesu caṅkamamānesu saupāhanena caṅkamitabbaṃ, yo caṅkameyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 248) – ācariyādīsu anupāhanesu caṅkamantesu saupāhanena na caṅkamitabbaṃ. Ettha (mahāva. aṭṭha. 248) ca pabbajjācariyo upasampadācariyo nissayācariyo uddesācariyoti ime cattāropi idha ācariyā eva. Avassikassa chabbasso ācariyamatto. So hi catuvassakāle taṃ nissāya vacchati. Evaṃ ekavassassa sattavasso, duvassassa aṭṭhavasso, tivassassa navavasso, catuvassassa dasavassoti imepi ācariyamattā eva. Upajjhāyassa sandiṭṭhasambhattā pana sahāyabhikkhū, ye vā pana keci dasavassehi mahantatarā, te sabbepi upajjhāyamattā nāma. Ettakesu bhikkhūsu anupāhanesu caṅkamantesu saupāhanassa caṅkamato āpatti.
“Này các Tỳ-khưu, khi các vị Giáo Thọ Sư, các vị tương đương Giáo Thọ Sư, các vị thầy tế độ, các vị tương đương thầy tế độ đang đi kinh hành mà không mang dép, thì không được đi kinh hành khi đang mang dép, ai đi, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 248). Khi các vị Giáo Thọ Sư v.v. đang đi kinh hành mà không mang dép, không được đi kinh hành khi đang mang dép. Ở đây (mahāva. aṭṭha. 248), cả bốn vị này: Giáo Thọ Sư xuất gia, Giáo Thọ Sư thọ giới, Giáo Thọ Sư y chỉ, Giáo Thọ Sư dạy học, đều là Giáo Thọ Sư. Người có sáu tuổi hạ là tương đương Giáo Thọ Sư đối với người chưa có tuổi hạ. Vì người đó sẽ y chỉ vị ấy trong thời gian bốn tuổi hạ. Tương tự, người có bảy tuổi hạ đối với người một tuổi hạ, người tám tuổi hạ đối với người hai tuổi hạ, người chín tuổi hạ đối với người ba tuổi hạ, người mười tuổi hạ đối với người bốn tuổi hạ, những vị này cũng là tương đương Giáo Thọ Sư. Còn các Tỳ-khưu bạn bè, những người đã quen biết và thân thiết với thầy tế độ, hoặc bất cứ ai lớn hơn mười tuổi hạ, tất cả họ đều được gọi là tương đương thầy tế độ. Khi bao nhiêu Tỳ-khưu này đang đi kinh hành mà không mang dép, người mang dép mà đi kinh hành thì phạm tội.
‘‘Na, bhikkhave, mahācammāni dhāretabbāni sīhacammaṃ byagghacammaṃ dīpicammaṃ, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassa’’. ‘‘Na, bhikkhave, gocammaṃ dhāretabbaṃ, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassa’’. ‘‘Na, bhikkhave, kiñci cammaṃ dhāretabbaṃ, yo dhāreyya, āpattidukkaṭassā’’ti (mahāva. 255) – majjhimadese sīhacammādi yaṃ kiñci cammaṃ gahetvā pariharituṃ na vaṭṭati. Sīhacammādīnañca pariharaṇeyeva paṭikkhepo kato. Bhūmattharaṇavasena pana aññattha anīharantena yaṃ kiñci cammaṃ paribhuñjituṃ vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được dùng các loại da lớn: da sư tử, da cọp, da báo, ai dùng, phạm tội Tác Ác.” “Này các Tỳ-khưu, không được dùng da bò, ai dùng, phạm tội Tác Ác.” “Này các Tỳ-khưu, không được dùng bất cứ loại da nào, ai dùng, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 255). Ở vùng trung tâm, không được phép lấy và mang theo bất cứ loại da nào như da sư tử v.v. Và việc cấm chỉ được đưa ra đối với việc mang theo da sư tử v.v. Nhưng được phép sử dụng bất cứ loại da nào làm tấm trải sàn mà không mang đi nơi khác.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, sabbapaccantimesu janapadesu cammāni attharaṇāni eḷakacammaṃ ajacammaṃ migacamma’’nti (mahāva. 259) vacanako pana paccantimesu janapadesu yaṃ kiñci (mahāva. aṭṭha. 259) eḷakacammañca ajacammañca attharitvā nipajjituṃ vā nisīdituṃ vā vaṭṭati. Migacamme eṇimigo vātamigo pasadamigo kuruṅgamigo migamātuko rohitamigoti etesaṃyeva cammāni vaṭṭanti, aññesaṃ pana –
Nhưng theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép dùng các loại da làm tấm trải ở tất cả các vùng biên địa: da cừu, da dê, da hươu” (mahāva. 259), thì ở các vùng biên địa, được phép (mahāva. aṭṭha. 259) trải bất cứ loại da cừu và da dê nào để nằm hoặc ngồi. Đối với da hươu, chỉ được phép dùng da của các loài hươu eṇi, hươu vātā, hươu pasada, hươu kuruṅga, và hươu mātuka. Còn của các loài khác thì:
Makkaṭo kāḷasīho ca, sarabho kadalīmigo;
Ye ca vāḷamigā keci, tesaṃ cammaṃ na vaṭṭati.
Khỉ, sư tử đen, linh dương, hươu kadalī;
Và bất cứ loài thú dữ nào, da của chúng không được phép.
Tattha vāḷamigāti sīhabyagghaacchataracchā. Na kevalañca eteyeva, yesaṃ vā pana cammaṃ vaṭṭatīti vuttaṃ, te ṭhapetvā avasesā antamaso gomahiṃsasasabiḷārādayopi sabbe imasmiṃ atthe ‘‘vāḷamigā’’tveva veditabbā. Etesañhi sabbesaṃ pana cammaṃ na vaṭṭati.
Ở đó, thú dữ là sư tử, cọp, gấu, linh cẩu. Không chỉ những loài này, mà ngoại trừ những loài có da được cho phép, những loài còn lại, cho đến cả bò, trâu, thỏ, mèo v.v., tất cả trong trường hợp này đều được xem là “thú dữ.” Da của tất cả những loài này đều không được phép.
‘‘Na, bhikkhave, yānena yāyitabbaṃ, yo yāyeyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, gilānassa yāna’’nti (mahāva. 253) agilānena bhikkhunā yānena na gantabbaṃ. Kataraṃ pana yānaṃ kappati, kataraṃ na kappatīti? ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, purisayuttaṃ hatthavaṭṭakaṃ. Anujānāmi, bhikkhave, sivikaṃ pāṭaṅki’’nti (mahāva. 253) purisayuttaṃ hatthavaṭṭakaṃ sivikā pāṭaṅkī ca vaṭṭati. Ettha ca purisayuttaṃ itthisārathi vā hotu purisasārathi vā, vaṭṭati, dhenuyuttaṃ pana na vaṭṭati. Hatthavaṭṭakaṃ pana itthiyo vā vaṭṭentu purisā vā, vaṭṭatiyeva.
“Này các Tỳ-khưu, không được đi bằng xe, ai đi, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép người bệnh đi bằng xe” (mahāva. 253). Tỳ-khưu không bệnh không được đi bằng xe. Nhưng loại xe nào hợp lệ, loại nào không hợp lệ? “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xe do người kéo, xe lăn tay. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép kiệu và cáng” (mahāva. 253). Xe do người kéo, xe lăn tay, kiệu và cáng là hợp lệ. Ở đây, xe do người kéo, dù người lái là nữ hay nam, đều được phép. Nhưng xe do bò cái kéo thì không được phép. Xe lăn tay, dù phụ nữ hay đàn ông đẩy, đều được phép.
57. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ahatānaṃ dussānaṃ ahatakappānaṃ diguṇaṃ saṅghāṭiṃ ekacciyaṃ uttarāsaṅgaṃ ekacciyaṃ antaravāsakaṃ, utuddhaṭānaṃ dussānaṃ catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ diguṇaṃ uttarāsaṅgaṃ diguṇaṃ antaravāsakaṃ, paṃsukūle yāvadatthaṃ, pāpaṇike ussāho karaṇīyo’’ti (mahāva. 348) adhotānaṃ (mahāva. aṭṭha. 348) ekavāraṃ dhotānañca vatthānaṃ dupaṭṭā saṅghāṭi kātabbā, uttarāsaṅgo antaravāsako ca ekapaṭṭo kātabbo. Utuddhaṭānaṃ pana hatavatthānaṃ pilotikānaṃ saṅghāṭi catugguṇā kātabbā, uttarāsaṅgo antaravāsako ca dupaṭṭo kātabbo, paṃsukūle pana yathāruci kātabbaṃ. Antarāpaṇato patitapilotikacīvarepi ussāho karaṇīyo, pariyesanā kātabbā, paricchedo pana natthi, paṭṭasatampi vaṭṭati. Sabbamidaṃ sādiyantassa bhikkhuno vuttaṃ. Tīsu pana cīvaresu dve vā ekaṃ vā chinditvā kātabbaṃ. Sace nappahoti, āgantukapattaṃ dātabbaṃ. Āgantukapattañhi appahonake anuññātaṃ. Vuttañhetaṃ –
57. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép y tăng-già-lê hai lớp, y thượng một lớp, y nội một lớp đối với vải mới, vải chưa giặt; y tăng-già-lê bốn lớp, y thượng hai lớp, y nội hai lớp đối với vải đã giặt, vải cũ; đối với y phấn tảo thì tùy ý; đối với vải ở chợ thì cần phải nỗ lực” (mahāva. 348). Đối với vải (mahāva. aṭṭha. 348) chưa giặt và giặt một lần, y tăng-già-lê phải được làm hai lớp, y thượng và y nội phải được làm một lớp. Nhưng đối với vải đã giặt, vải cũ, y tăng-già-lê phải được làm bốn lớp, y thượng và y nội phải được làm hai lớp. Đối với y phấn tảo thì làm theo ý muốn. Đối với y vải cũ rơi ở chợ cũng cần phải nỗ lực, phải tìm kiếm. Không có giới hạn, dù một trăm lớp cũng được. Tất cả những điều này được nói cho Tỳ-khưu chấp nhận. Nhưng trong ba y, phải cắt hai hoặc một để làm. Nếu không đủ, phải dùng miếng vá cho người mới đến. Vì miếng vá cho người mới đến được cho phép khi không đủ. Điều này đã được nói:
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, dve chinnakāni ekaṃ acchinnakanti. Dve chinnakāni ekaṃ acchinnakaṃ nappahoti. Bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ. Anujānāmi, bhikkhave, dve acchinnakāni ekaṃ chinnakanti. Dve acchinnakāni ekaṃ chinnakaṃ nappahoti. Bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ. Anujānāmi, bhikkhave, anvādhikampi āropetuṃ. Na ca, bhikkhave, sabbaṃ acchinnakaṃ dhāretabbaṃ, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 360).
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép hai cái đã cắt, một cái chưa cắt. Hai cái đã cắt, một cái chưa cắt không đủ. Họ trình bày việc này lên Đức Thế Tôn. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép hai cái chưa cắt, một cái đã cắt. Hai cái chưa cắt, một cái đã cắt không đủ. Họ trình bày việc này lên Đức Thế Tôn. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cả việc thêm miếng vá. Và này các Tỳ-khưu, không được dùng tất cả y đều chưa cắt, ai dùng, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 360).
Tasmā sace pahoti āgantukapattaṃ, na vaṭṭati, chinditabbameva.
Do đó, nếu đủ để làm miếng vá cho người mới đến thì không được phép, phải cắt.
‘‘Na, bhikkhave, potthako nivāsetabbo, yo nivāseyya, āpatti dukkaṭassa. Na, bhikkhave, sabbanīlakāni cīvarāni dhāretabbāni… na sabbapītakāni… na sabbalohitakāni… na sabbamañjiṭṭhakāni… na sabbakaṇhāni… na sabbamahāraṅgarattāni… na sabbamahānāmarattāni… na acchinnadasāni… na dīghadasāni… na pupphadasāni… na phaladasāni cīvarāni dhāretabbāni… na kañcukaṃ… na tirīṭakaṃ… na veṭhanaṃ dhāretabbaṃ, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 371-372) – potthakādīni na dhāretabbāni. Tattha (mahāva. aṭṭha. 371-372) potthakoti makacimayo vuccati, akkadussakadalidussaerakadussānipi potthakagatikāneva. Sabbanīlakādīni rajanaṃ dhovitvā puna rajitvā dhāretabbāni. Na sakkā ce honti dhovituṃ, paccattharaṇāni vā kātabbāni. Tipaṭṭacīvarassa vā majjhe dātabbāni. Tesaṃ vaṇṇanānattaṃ upāhanāsu vuttanayameva. Acchinnadasadīghadasāni dasā chinditvā dhāretabbāni. Kañcukaṃ labhitvā phāletvā rajitvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Veṭhanepi eseva nayo. Tirīṭakaṃ pana rukkhacchallimayaṃ, taṃ pādapuñchaniṃ kātuṃ vaṭṭati.
“Này các Tỳ-khưu, không được mặc y potthaka, ai mặc, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, không được dùng y hoàn toàn màu xanh… không hoàn toàn màu vàng… không hoàn toàn màu đỏ… không hoàn toàn màu đỏ son… không hoàn toàn màu đen… không hoàn toàn màu đỏ thẫm… không hoàn toàn màu đỏ sẫm… không y không cắt tua… không y có tua dài… không y có tua hình hoa… không y có tua hình quả… không áo chẽn… không tirīṭaka… không khăn đội đầu, ai dùng, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 371-372). Potthaka v.v. không được dùng. Ở đây (mahāva. aṭṭha. 371-372), potthaka được gọi là y làm từ sợi makaci. Vải akkadussa, kadalidussa, erakadussa cũng thuộc loại potthaka. Các loại y hoàn toàn màu xanh v.v. phải được giặt sạch thuốc nhuộm rồi nhuộm lại mới được dùng. Nếu không thể giặt được, phải làm thành tấm trải. Hoặc phải cho vào giữa của y ba lớp. Sự khác biệt về màu sắc của chúng cũng tương tự như đã nói về dép. Y không cắt tua và có tua dài phải được cắt tua rồi mới dùng. Áo chẽn khi nhận được, phải xé ra, nhuộm rồi mới được sử dụng. Đối với khăn đội đầu cũng tương tự. Còn tirīṭaka làm bằng vỏ cây, được phép làm thành thảm chùi chân.
58. ‘‘Na, bhikkhave, adhammakammaṃ kātabbaṃ, yo kareyya, āpatti dukkaṭassa. Anujānāmi, bhikkhave, adhammakamme kayiramāne paṭikkositu’’nti (mahāva. 154) adhammakammaṃ na kātabbaṃ, kayiramānañca nivāretabbaṃ. Nivārentehi ca ‘‘anujānāmi, bhikkhave, catūhi pañcahi paṭikkosituṃ, dvīhi tīhi diṭṭhiṃ āvikātuṃ, ekena adhiṭṭhātuṃ ‘na metaṃ khamatī’’ti (mahāva. 154) yattha nivārentassa bhikkhuno upaddavaṃ karonti, tattha ekakena na nivāretabbaṃ. Sace cattāro pañca vā honti, nivāretabbaṃ. Sace pana dve vā tayo vā honti, ‘‘adhammakammaṃ idaṃ, na metaṃ khamatī’’ti evaṃ aññassa santike attano diṭṭhi āvikātabbā. Sace ekova hoti, ‘‘na metaṃ khamatī’’ti adhiṭṭhātabbaṃ. Sabbañcetaṃ tesaṃ anupaddavatthāya vuttaṃ.
58. “Này các Tỳ-khưu, không được làm Tăng sự bất hợp pháp, ai làm, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép phản đối khi Tăng sự bất hợp pháp đang được tiến hành” (mahāva. 154). Không được làm Tăng sự bất hợp pháp, và khi đang được tiến hành thì phải ngăn cản. Và những người ngăn cản, “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép bốn, năm người phản đối, hai, ba người bày tỏ quan điểm, một người phát nguyện ‘điều này tôi không chấp nhận’” (mahāva. 154). Ở nơi mà người ta gây phiền nhiễu cho Tỳ-khưu ngăn cản, thì một người không nên ngăn cản. Nếu có bốn hoặc năm người thì nên ngăn cản. Nhưng nếu có hai hoặc ba người, nên bày tỏ quan điểm của mình với người khác như vầy: “Đây là Tăng sự bất hợp pháp, tôi không chấp nhận điều này.” Nếu chỉ có một mình, nên phát nguyện “tôi không chấp nhận điều này.” Tất cả những điều này được nói để họ không bị phiền nhiễu.
59. ‘‘Na, bhikkhave, anokāsakato bhikkhu āpattiyā codetabbo, yo codeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 153) codentena ‘‘karotu me āyasmā okāsaṃ, ahaṃ taṃ vattukāmo’’ti evaṃ okāsaṃ kārāpetvā codetabbo. Adhippāyabhedothiaz veditabbo (mahāva. aṭṭha. 2.389). Ayañhi adhippāyo nāma cāvanādhippāyo akkosādhippāyo kammādhippāyo vuṭṭhānādhippāyo uposathapavāraṇaṭṭhapanādhippāyo anuvijjanādhippāyo dhammakathādhippāyoti anekavidho. Tattha purimesu catūsu adhippāyesu okāsaṃ akārāpentassa dukkaṭaṃ, okāsaṃ kārāpetvāpi sammukhā amūlakena pārājikena codentassa saṅghādiseso, amūlakena saṅghādisesena codentassa pācittiyaṃ, amūlikāya ācāravipattiyā codentassa dukkaṭaṃ, akkosādhippāyena vadantassa pācittiyaṃ. Asammukhā pana sattahipi āpattikkhandhehi vadantassa dukkaṭaṃ, asammukhā eva sattavidhampi kammaṃ karontassa dukkaṭameva. Kurundiyaṃ pana ‘‘vuṭṭhānādhippāyena ‘tvaṃ imaṃ nāma āpattiṃ āpanno, taṃ paṭikarohī’ti vadantassa okāsakiccaṃ natthī’’ti vuttaṃ. Uposathapavāraṇaṃ ṭhapentassapi okāsakammaṃ natthi, ṭhapanakhettaṃ pana jānitabbaṃ ‘‘suṇātu me, bhante, saṅgho, ajjuposatho pannaraso, yadi saṅghassa pattakallaṃ, saṅgho uposathaṃ kare’’ti.
59. “Này các Tỳ-khưu, không được tố cáo Tỳ-khưu về một tội lỗi mà không xin phép, ai tố cáo, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 153). Người tố cáo phải xin phép rồi mới tố cáo bằng cách nói: “Xin Thượng tọa cho phép, con muốn nói với ngài.” Ở đây, nên biết sự khác biệt về ý định (mahāva. aṭṭha. 2.389). Ý định này có nhiều loại: ý định đuổi đi, ý định mắng nhiếc, ý định thực hiện Tăng sự, ý định bắt sám hối, ý định đình chỉ Bố-tát và Tự tứ, ý định tra hỏi, ý định thuyết pháp. Trong bốn ý định đầu tiên, người nào không xin phép thì phạm tội Tác Ác. Ngay cả khi đã xin phép, người nào tố cáo trực diện bằng tội Bất Cộng Trụ không có căn cứ thì phạm tội Tăng Tàn. Người nào tố cáo bằng tội Tăng Tàn không có căn cứ thì phạm tội Ưng Đối Trị. Người nào tố cáo bằng một sự sai phạm về hạnh kiểm không có căn cứ thì phạm tội Tác Ác. Người nào nói với ý định mắng nhiếc thì phạm tội Ưng Đối Trị. Nhưng khi vắng mặt, người nào nói về cả bảy uẩn tội thì phạm tội Tác Ác. Khi vắng mặt mà thực hiện cả bảy loại Tăng sự cũng phạm tội Tác Ác. Nhưng trong Kurundī có nói: “người nào nói với ý định bắt sám hối rằng ‘ông đã phạm tội này, hãy sửa trị nó đi,’ thì không cần phải xin phép.” Người đình chỉ Bố-tát và Tự tứ cũng không cần xin phép. Nhưng cần phải biết thời điểm đình chỉ: “Kính bạch Tăng chúng, xin hãy lắng nghe. Hôm nay là ngày Bố-tát rằm. Nếu Tăng chúng đã sẵn sàng, Tăng chúng hãy làm lễ Bố-tát.”
Etasmiñhi re-kāre anatikkanteyeva ṭhapetuṃ labbhati, tato paraṃ pana yya-kāre patte na labbhati. Esa nayo pavāraṇāya.
Khi âm tiết re này chưa qua, thì được phép đình chỉ. Nhưng sau đó, khi đến âm tiết yya, thì không được phép. Quy tắc này cũng áp dụng cho Tự tứ.
Anuvijjakassapi osaṭe vatthusmiṃ ‘‘atthetaṃ tavā’’ti anuvijjanādhippāyena vadantassa okāsakammaṃ natthi. Dhammakathikassapi dhammāsane nisīditvā ‘‘yo idañcidañca karoti, ayaṃ bhikkhu assamaṇo’’tiādinā nayena anodissa dhammaṃ kathentassa okāsakammaṃ natthi. Sace pana odissa niyametvā ‘‘asuko ca asuko ca assamaṇo anupāsako’’ti katheti, dhammāsanato orohitvā āpattiṃ desetvā gantabbaṃ. ‘‘Na, bhikkhave, suddhānaṃ bhikkhūnaṃ anāpattikānaṃ avatthusmiṃ akāraṇe okāso kārāpetabbo, yo kārāpeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 153) suddhānaṃ bhikkhūnaṃ akāraṇe vatthusmiṃ okāso na kāretabbo. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, puggalaṃ tulayitvā okāsaṃ kātu’’nti (mahāva. 153) ‘‘bhūtameva nu kho āpattiṃ vadati, abhūta’’nti evaṃ upaparikkhitvā okāso kātabbo.
Người tra hỏi, sau khi vấn đề đã được đưa ra, nếu nói với ý định tra hỏi rằng “việc đó có phải của ông không,” thì không cần xin phép. Người thuyết pháp, sau khi ngồi trên pháp tòa, nếu thuyết pháp một cách không chỉ đích danh theo cách “người nào làm điều này điều nọ, Tỳ-khưu này không phải là sa-môn” v.v., thì không cần xin phép. Nhưng nếu nói chỉ đích danh, xác định rằng “người này và người kia không phải là sa-môn, không phải là cận sự nam,” thì phải xuống pháp tòa, sám hối tội lỗi rồi mới được đi. “Này các Tỳ-khưu, không được xin phép các Tỳ-khưu trong sạch, không phạm tội, khi không có sự việc, không có lý do, ai xin phép, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 153). Không được xin phép các Tỳ-khưu trong sạch khi không có lý do, không có sự việc. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xin phép sau khi đã xem xét người” (mahāva. 153). Phải xin phép sau khi đã xem xét rằng “có phải người ấy nói về một tội lỗi có thật, hay không có thật.”
60. ‘‘Na, bhikkhave, saddhādeyyaṃ vinipātetabbaṃ, yo vinipāteyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 361) saddhādeyyaṃ na vinipātetabbaṃ. Ṭhapetvā mātāpitaro (mahāva. aṭṭha. 361) sesañātīnaṃ dentopi vinipātetiyeva, mātāpitaro pana rajje ṭhitāpi patthayanti, dātabbaṃ.
60. “Này các Tỳ-khưu, không được lãng phí vật cúng dường bằng đức tin, ai lãng phí, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 361). Không được lãng phí vật cúng dường bằng đức tin. Ngoại trừ cha mẹ (mahāva. aṭṭha. 361), người nào cho các bà con khác cũng là lãng phí. Nhưng cha mẹ, dù ở trong vương quyền, nếu họ mong muốn, cũng phải cho.
61. ‘‘Na, bhikkhave, santaruttarena gāmo pavisitabbo, yo paviseyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 362) santaruttarena gāmo na pavisitabbo.
61. “Này các Tỳ-khưu, không được vào làng chỉ với y nội và y thượng, ai vào, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 362). Không được vào làng chỉ với y nội và y thượng.
62. ‘‘Pañcime, bhikkhave, paccayā saṅghāṭiyā nikkhepāya. Gilāno vā hoti, vassikasaṅketaṃ vā hoti, nadīpāragataṃ vā hoti, aggaḷaguttivihāro vā hoti, atthatakathinaṃ vā hoti. Ime kho, bhikkhave, pañca paccayā saṅghāṭiyā nikkhepāyā’’ti (mahāva. 362) – pana gahetvā gantuṃ asamattho gilāno vā hoti, vassikasaṅketādīsu vā aññataraṃ kāraṇaṃ, evarūpesu paccayesu saṅghāṭiṃ aggaḷaguttivihāre ṭhapetvā santaruttarena gantuṃ vaṭṭati. Sabbesveva hi etesu gilānavassikasaṅketanadīpāragamanaatthatakathinabhāvesu aggaḷaguttiyeva pamāṇaṃ, gutte eva vihāre nikkhipitvā bahi gantuṃ vaṭṭati, nāgutte. Āraññakassa pana vihāro na sugutto hoti, tena bhaṇḍukkhalikāya pakkhipitvā pāsāṇasusirarukkhasusirādīsu supaṭicchannesu ṭhapetvā gantabbaṃ. Uttarāsaṅgaantaravāsakānaṃ nikkhepepi imeyeva pañca paccayā veditabbā.
62. “Này các Tỳ-khưu, có năm lý do này để cất y tăng-già-lê. Bị bệnh, hoặc có quy định về mùa mưa, hoặc đã qua sông, hoặc tự viện có cửa cài chắc chắn, hoặc kaṭhina đã được trải. Này các Tỳ-khưu, đây là năm lý do để cất y tăng-già-lê” (mahāva. 362). Người nào bị bệnh không thể mang đi, hoặc có một lý do nào đó trong số các quy định về mùa mưa v.v., trong những lý do như vậy, được phép để y tăng-già-lê trong một tự viện có cửa cài chắc chắn rồi đi chỉ với y nội và y thượng. Trong tất cả các trường hợp này: bệnh tật, quy định mùa mưa, qua sông, và kaṭhina đã được trải, việc có cửa cài chắc chắn là tiêu chuẩn. Chỉ được phép để lại trong một tự viện được bảo vệ rồi đi ra ngoài, không phải trong nơi không được bảo vệ. Nhưng nếu tự viện của một vị ở trong rừng không được bảo vệ tốt, vị ấy phải cho vào túi đựng đồ rồi để ở những nơi được che đậy kỹ lưỡng như hốc đá, hốc cây v.v. rồi mới đi. Trong việc cất y thượng và y nội, cũng nên biết năm lý do này.
63. ‘‘Na, bhikkhave, sambādhassa sāmantā dvaṅgulā satthakammaṃ vā vatthikammaṃ vā kārāpetabbaṃ, yo kārāpeyya, āpatti thullaccayassā’’ti (mahāva. 279) yathāparicchinne okāse (mahāva. aṭṭha. 279) yena kenaci satthena vā sūciyā vā kaṇṭakena vā sattikāya vā pāsāṇasakkhalikāya vā nakhena vā chindanaṃ vā phālanaṃ vā vijjhanaṃ vā lekhanaṃ vā na kātabbaṃ, sabbañhetaṃ satthakammameva hoti. Yena kenaci pana cammena vā vatthena vā vatthipīḷanampi na kātabbaṃ, sabbañhetaṃ vatthikammameva hoti. Ettha ca ‘‘sambādhassa sāmantā dvaṅgulā’’ti idaṃ satthakammaṃyeva sandhāya vuttaṃ, vatthikammaṃ pana sambādheyeva paṭikkhittaṃ. Tattha pana khāraṃ vā dātuṃ yena kenaci rajjukena vā bandhituṃ vaṭṭati, yadi tena chijjati, succhinnaṃ. Aṇḍavuḍḍhirogepi satthakammaṃ na vaṭṭati, tasmā ‘‘aṇḍaṃ phāletvā bījāni uddharitvā arogaṃ karissāmī’’ti na kātabbaṃ, aggitāpanabhesajjalepanesu pana paṭikkhepo natthi. Vaccamagge bhesajjamakkhitā ādānavaṭṭi vā veḷunāḷikā vā vaṭṭati, yāya khārakammaṃ vā karonti, telaṃ vā pavesenti.
63. “Này các Tỳ-khưu, không được cho người khác thực hiện phẫu thuật hoặc thụt rửa trong vòng hai ngón tay xung quanh chỗ kín, ai cho làm, phạm tội Trọng Tội” (mahāva. 279). Trong khu vực đã được xác định (mahāva. aṭṭha. 279), không được cắt, rạch, đâm, hoặc khắc bằng bất kỳ loại dao, kim, gai, dao nhỏ, mảnh đá, hoặc móng tay nào. Tất cả những điều này đều là phẫu thuật. Cũng không được ép thụt bằng bất kỳ loại da hoặc vải nào. Tất cả những điều này đều là thụt rửa. Ở đây, câu “trong vòng hai ngón tay xung quanh chỗ kín” chỉ được nói liên quan đến phẫu thuật. Còn việc thụt rửa thì bị cấm ngay tại chỗ kín. Nhưng ở đó, được phép cho thuốc kiềm hoặc buộc bằng bất kỳ sợi dây nào. Nếu nó bị đứt do đó, thì đã được cắt đúng cách. Trong bệnh sưng tinh hoàn cũng không được phẫu thuật. Do đó, không được làm với ý nghĩ “tôi sẽ rạch tinh hoàn, lấy tinh trùng ra và chữa khỏi bệnh.” Nhưng không có sự cấm đoán đối với việc hơ lửa và đắp thuốc. Ở đường hậu môn, được phép dùng que thuốc đã bôi thuốc hoặc ống tre để thực hiện việc chữa bằng thuốc kiềm hoặc đưa dầu vào.
64. ‘‘Na, bhikkhave, nahāpitapubbena khurabhaṇḍaṃ pariharitabbaṃ, yo parihareyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 303) nahāpitapubbena (mahāva. aṭṭha. 303) khurabhaṇḍaṃ gahetvā pariharituṃ na vaṭṭati, aññassa santakena pana kese chedetuṃ vaṭṭati. Sace vetanaṃ gahetvā chindati, na vaṭṭati. Yo anahāpitapubbo, tasseva pariharituṃ vaṭṭati, taṃ vā aññaṃ vā gahetvā kese chedetumpi vaṭṭati.
64. “Này các Tỳ-khưu, người từng là thợ cạo không được mang theo đồ nghề cạo tóc, ai mang, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 303). Người từng là thợ cạo (mahāva. aṭṭha. 303) không được phép lấy và mang theo đồ nghề cạo tóc. Nhưng được phép cắt tóc bằng đồ của người khác. Nếu cắt để lấy tiền công thì không được phép. Người nào không từng là thợ cạo thì được phép mang theo, và cũng được phép lấy đồ của người đó hoặc của người khác để cắt tóc.
65. ‘‘Saṅghikāni, bhikkhave, bījāni puggalikāya bhūmiyā ropitāni bhāgaṃ datvā paribhuñjitabbāni. Puggalikāni bījāni saṅghikāya bhūmiyā ropitāni bhāgaṃ datvā paribhuñjitabbānī’’ti (mahāva. 304) – puggalikāya bhūmiyā saṅghikesu bījesu ropitesu saṅghikāya bhūmiyā vā puggalikesu bījesu ropitesu dasamabhāgaṃ datvā paribhuñjitabbaṃ. Idaṃ kira jambudīpe porāṇakacārittaṃ, tasmā dasa koṭṭhāse katvā eko koṭṭhāso bhūmisāmikānaṃ dātabbo.
65. “Này các Tỳ-khưu, hạt giống của Tăng chúng được gieo trên đất cá nhân, phải chia phần rồi mới được dùng. Hạt giống cá nhân được gieo trên đất của Tăng chúng, phải chia phần rồi mới được dùng” (mahāva. 304). Khi hạt giống của Tăng chúng được gieo trên đất cá nhân, hoặc hạt giống cá nhân được gieo trên đất của Tăng chúng, phải chia một phần mười rồi mới được dùng. Đây là phong tục cổ xưa ở Ấn Độ. Do đó, phải chia thành mười phần, một phần phải được đưa cho chủ đất.
66. ‘‘Santi, bhikkhave, maggā kantārā appodakā appabhakkhā, na sukarā apātheyyena gantuṃ. Anujānāmi, bhikkhave, pātheyyaṃ pariyesituṃ. Taṇḍulo taṇḍulatthikena, muggo muggatthikena, māso māsatthikena, loṇaṃ loṇatthikena, guḷo guḷatthikena, telaṃ telatthikena, sappi sappitthikenā’’ti (mahāva. 299) – tādisaṃ kantāraṃ nittharantena pātheyyaṃ pariyesituṃ vaṭṭati. Kathaṃ pana pariyesitabbanti? Sace (mahāva. aṭṭha. 296) kecisayameva ñatvā denti, iccetaṃ kusalaṃ. No ce denti, ñātipavāritaṭṭhānato vā bhikkhācāravattena vā pariyesitabbaṃ. Tathā alabhantena aññātikaappavāritaṭṭhānato yācitvāpi gahetabbaṃ. Ekadivasena gamanīye magge ekabhattatthāya pariyesitabbaṃ. Dīghe addhāne yattakena kantāraṃ nittharati, tattakaṃ pariyesitabbaṃ.
66. “Này các Tỳ-khưu, có những con đường hoang vắng, ít nước, ít thức ăn, không dễ đi nếu không có lương thực. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép tìm kiếm lương thực. Gạo cho người cần gạo, đậu xanh cho người cần đậu xanh, đậu đen cho người cần đậu đen, muối cho người cần muối, đường mật cho người cần đường mật, dầu cho người cần dầu, bơ cho người cần bơ” (mahāva. 299). Người nào vượt qua vùng hoang vắng như vậy được phép tìm kiếm lương thực. Nhưng tìm kiếm như thế nào? Nếu (mahāva. aṭṭha. 296) có người tự biết và cho, thì điều đó là tốt. Nếu không cho, phải tìm kiếm từ nơi bà con đã mời, hoặc bằng cách đi khất thực. Nếu không nhận được như vậy, phải xin từ nơi không phải bà con, chưa được mời rồi mới lấy. Trên con đường đi một ngày, phải tìm kiếm đủ cho một bữa ăn. Trên con đường dài, phải tìm kiếm đủ để vượt qua vùng hoang vắng.
67. ‘‘Yaṃ, bhikkhave, mayā ‘idaṃ na kappatī’ti appaṭikkhittaṃ, tañce akappiyaṃ anulometi, kappiyaṃ paṭibāhati, taṃ vo na kappati. Yaṃ, bhikkhave, mayā ‘idaṃ na kappatī’ti appaṭikkhittaṃ, tañce kappiyaṃ anulometi, akappiyaṃ paṭibāhati, taṃ vo kappati. Yaṃ, bhikkhave, mayā ‘idaṃ kappatī’ti ananuññātaṃ, tañce akappiyaṃ anulometi, kappiyaṃ paṭibāhati, taṃ vo na kappati. Yaṃ, bhikkhave, mayā ‘idaṃ kappatī’ti ananuññātaṃ, tañce kappiyaṃ anulometi, akappiyaṃ paṭibāhati, taṃ vo kappatī’’ti (mahāva. 305) – ime cattāro mahāpadese bhagavā bhikkhūnaṃ nayaggahaṇatthāya āha. Tattha dhammasaṅgāhakattherā suttaṃ gahetvā parimaddantā idaṃ addasaṃsu. ‘‘Ṭhapetvā dhaññaphalarasa’’nti satta dhaññarasāni ‘‘pacchābhattaṃ na kappatī’’ti paṭikkhittāni. Tālanāḷikerapanasalabujaalābukumbhaṇḍapussaphalatipusaphalaeḷālukāni nava mahāphalāni sabbañca aparaṇṇaṃ dhaññagatikameva. Taṃ kiñcāpi na paṭikkhittaṃ, atha kho akappiyaṃ anulometi, tasmā pacchābhattaṃ na kappati. Aṭṭha pānāni anuññātāni, avasesāni vettatintiṇikamātuluṅgakapiṭṭhakosambakaramandādikhuddakaphalapānāni aṭṭhapānagatikāneva. Tāni kiñcāpi na anuññātāni, atha kho kappiyaṃ anulomenti, tasmā kappanti. Ṭhapetvā hi sānulomaṃ dhaññaphalarasaṃ aññaṃ phalapānaṃ nāma akappiyaṃ natthi, sabbaṃ yāmakālikaṃyevāti kurundiyaṃ vuttaṃ.
67. “Này các Tỳ-khưu, điều gì Ta không cấm rằng ‘điều này không hợp lệ,’ nếu nó tương ứng với điều không hợp lệ, chống lại điều hợp lệ, thì điều đó không hợp lệ với các ngươi. Này các Tỳ-khưu, điều gì Ta không cấm rằng ‘điều này không hợp lệ,’ nếu nó tương ứng với điều hợp lệ, chống lại điều không hợp lệ, thì điều đó hợp lệ với các ngươi. Này các Tỳ-khưu, điều gì Ta không cho phép rằng ‘điều này hợp lệ,’ nếu nó tương ứng với điều không hợp lệ, chống lại điều hợp lệ, thì điều đó không hợp lệ với các ngươi. Này các Tỳ-khưu, điều gì Ta không cho phép rằng ‘điều này hợp lệ,’ nếu nó tương ứng với điều hợp lệ, chống lại điều không hợp lệ, thì điều đó hợp lệ với các ngươi” (mahāva. 305). Đức Thế Tôn đã nói bốn điều tham chiếu lớn này để các Tỳ-khưu nắm bắt phương pháp. Ở đó, các vị trưởng lão kết tập kinh điển, sau khi xem xét kinh, đã thấy điều này. “Ngoại trừ nước ép ngũ cốc và trái cây,” bảy loại nước ép ngũ cốc đã bị cấm “không hợp lệ sau bữa trưa.” Chín loại quả lớn: thốt nốt, dừa, mít, labuja, alābu, kumbhaṇḍa, pussaphala, tipusaphala, eḷāluka, và tất cả các loại ngũ cốc khác đều thuộc loại ngũ cốc. Dù chúng không bị cấm, nhưng chúng tương ứng với điều không hợp lệ, do đó không hợp lệ sau bữa trưa. Tám loại nước uống đã được cho phép. Các loại nước uống từ các loại quả nhỏ còn lại như mây, me, chanh, kapitthaka, kosamba, karamanda v.v. đều thuộc loại tám loại nước uống. Dù chúng không được cho phép, nhưng chúng tương ứng với điều hợp lệ, do đó chúng hợp lệ. Ngoại trừ nước ép ngũ cốc và trái cây có tính tương đồng, không có loại nước ép trái cây nào khác là không hợp lệ. Trong Kurundī có nói rằng tất cả đều là loại dùng trong thời gian cho phép (từ trưa đến sáng hôm sau).
Bhagavatā – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, cha cīvarāni khomaṃ kappāsikaṃ koseyyaṃ kambalaṃ sāṇaṃ bhaṅga’’nti (mahāva. 339) cha cīvarāni anuññātāni, dhammasaṅgāhakattherehi tesaṃ anulomāni dukūlaṃ pattuṇṇaṃ cīnapaṭṭaṃ somārapaṭṭaṃ iddhimayaṃ devadattiyanti aparāni cha anuññātāni. Tattha pattuṇṇanti pattuṇṇadese pāṇakehi sañjātavatthaṃ. Dve paṭāni desanāmeneva vuttāni. Tīṇi koseyyassa anulomāni, dukūlaṃ sāṇassa, itarāni dve kappāsikassa vā sabbesaṃ vā.
Đức Thế Tôn đã cho phép sáu loại y: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép sáu loại y: y bằng sợi lanh, y bằng sợi bông, y bằng tơ tằm, y bằng len, y bằng sợi gai, y bằng sợi đay” (mahāva. 339). Các vị trưởng lão kết tập kinh điển đã cho phép thêm sáu loại y tương tự với chúng: dukūla, pattuṇṇa, cīnapaṭṭa, somārapaṭṭa, iddhimaya, devadattiya. Ở đây, pattuṇṇa là vải được tạo ra từ các sinh vật ở nước Pattuṇṇa. Hai loại vải được gọi theo tên nước. Ba loại là tương tự với y tơ tằm, dukūla là tương tự với y sợi gai, hai loại còn lại là tương tự với y sợi bông hoặc với tất cả.
Bhagavatā ekādasa patte paṭikkhipitvā dve pattā anuññātā lohapatto ca mattikāpatto ca. Lohathālakaṃ mattikāthālakaṃ tambalohathālakanti tesaṃyeva anulomāni. Bhagavatā tayo tumbā anuññātā lohatumbo kaṭṭhatumbo phalatumboti. Kuṇḍikā kañcanako udakatumboti tesaṃyeva anulomāni. Kurundiyaṃ pana ‘‘pānīyasaṅkhapānīyasarāvakānaṃ ete anulomā’’ti vuttaṃ. Paṭṭikā sūkarantanti dve kāyabandhanāni anuññātāni. Dussapaṭṭena rajjukena ca katakāyabandhanāni tesaṃyeva anulomāni. Setacchattaṃ kilañjacchattaṃ paṇṇacchattanti tīṇi chattāni anuññātāni. Ekapaṇṇacchattaṃ tesaṃyeva anulomanti iminā nayena pāḷiñca aṭṭhakathañca anupekkhitvā aññānipi kappiyākappiyānaṃ anulomāni vinayadharena veditabbāni.
Đức Thế Tôn đã cấm mười một loại bát và cho phép hai loại bát: bát sắt và bát đất. Đĩa sắt, đĩa đất, đĩa đồng đỏ là những thứ tương tự với chúng. Đức Thế Tôn đã cho phép ba loại bình nước: bình nước bằng kim loại, bình nước bằng gỗ, bình nước bằng quả bầu. Bình kuṇḍikā, bình kañcanaka, bình nước quả bầu là những thứ tương tự với chúng. Nhưng trong Kurundī có nói: “chúng là tương tự với bình nước bằng vỏ ốc và bát uống nước.” Hai loại dây lưng đã được cho phép: dây lưng bằng vải và dây lưng bằng sợi sūkarantā. Dây lưng làm bằng dải vải và bằng dây thừng là những thứ tương tự với chúng. Ba loại dù đã được cho phép: dù trắng, dù bằng nan tre, dù lá. Dù một lá là tương tự với chúng. Theo phương pháp này, người thông thạo luật phải biết những thứ tương tự khác của những vật hợp lệ và không hợp lệ bằng cách xem xét Pāḷi và chú giải.
68. Vinayadharo (pāci. aṭṭha. 438) ca puggalo vinayapariyattimūlake pañcānisaṃse chānisaṃse sattānisaṃse aṭṭhānisaṃse navānisaṃse dasānisaṃse ekādasānisaṃse labhati. Katame pañcānisaṃse labhati? Attano sīlakkhandhaguttiādike. Vuttañhetaṃ –
68. Và người (pāci. aṭṭha. 438) thông thạo luật sẽ nhận được năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một lợi ích dựa trên việc học thuộc luật. Người đó nhận được năm lợi ích nào? Sự bảo vệ uẩn giới của chính mình v.v. Điều này đã được nói:
‘‘Pañcime, bhikkhave, ānisaṃsā vinayadhare puggale. Attano sīlakkhandho sugutto hoti surakkhito, kukkuccapakatānaṃ paṭisaraṇaṃ hoti, visārado saṅghamajjhe voharati, paccatthike sahadhammena suniggahitaṃ niggaṇhāti, saddhammaṭṭhitiyā paṭipanno hotī’’ti (pari. 325).
“Này các Tỳ-khưu, có năm lợi ích này nơi người thông thạo luật. Uẩn giới của chính mình được bảo vệ tốt, được gìn giữ tốt; là nơi nương tựa cho những người hay hối hận; nói năng một cách tự tin giữa Tăng chúng; khiển trách những kẻ chống đối một cách chính đáng theo đúng pháp; là người thực hành để duy trì chánh pháp” (pari. 325).
Kathamassa attano sīlakkhandho sugutto hoti surakkhito? Idhekacco bhikkhu āpattiṃ āpajjanto chahākārehi āpajjati alajjitā, aññāṇatā, kukkuccapakatatā, akappiye kappiyasaññitā, kappiye akappiyasaññitā, satisammosā. Kathaṃ alajjitāya āpajjati? Akappiyabhāvaṃ jānantoyeva madditvā vītikkamaṃ karoti. Vuttampi cetaṃ –
Uẩn giới của chính mình được bảo vệ tốt, được gìn giữ tốt như thế nào? Ở đây, một Tỳ-khưu nào đó phạm tội theo sáu cách: do không biết hổ thẹn, do không biết, do hay hối hận, do có tưởng là hợp lệ đối với điều không hợp lệ, do có tưởng là không hợp lệ đối với điều hợp lệ, do thất niệm. Phạm tội do không biết hổ thẹn như thế nào? Dù biết là không hợp lệ, vẫn cố tình vi phạm. Điều này cũng đã được nói:
‘‘Sañcicca āpattiṃ āpajjati, āpattiṃ parigūhati;
Agatigamanañca gacchati, ediso vuccati alajjipuggalo’’ti. (pari. 359);
“Cố ý phạm tội, che giấu tội lỗi;
Và đi vào con đường không nên đi, người như vậy được gọi là người không biết hổ thẹn.” (pari. 359);
Kathaṃ aññāṇatāya āpajjati? Aññāṇapuggalo hi mando momūho kattabbākattabbaṃ ajānanto akattabbaṃ karoti, kattabbaṃ virādheti. Evaṃ aññāṇatāya āpajjati. Kathaṃ kukkuccapakatatāya āpajjati? Kappiyākappiyaṃ nissāya kukkucce uppanne vinayadharaṃ pucchitvā kappiyaṃ ce, kattabbaṃ siyā, akappiyaṃ ce, na kattabbaṃ, ayaṃ pana ‘‘vaṭṭatī’’ti madditvā vītikkamatiyeva. Evaṃ kukkuccapakatatāya āpajjati.
Phạm tội do không biết như thế nào? Người không biết, ngu dốt, mê muội, không biết điều nên làm và không nên làm, lại làm điều không nên làm, bỏ qua điều nên làm. Như vậy là phạm tội do không biết. Phạm tội do hay hối hận như thế nào? Khi có sự hối hận phát sinh liên quan đến điều hợp lệ và không hợp lệ, đáng lẽ phải hỏi người thông thạo luật, nếu hợp lệ thì làm, nếu không hợp lệ thì không làm. Nhưng người này lại cố tình vi phạm với ý nghĩ “được phép.” Như vậy là phạm tội do hay hối hận.
Kathaṃ akappiye kappiyasaññitāya āpajjati? Acchamaṃsaṃ ‘‘sūkaramaṃsa’’nti khādati, dīpimaṃsaṃ ‘‘migamaṃsa’’nti khādati, akappiyabhojanaṃ ‘‘kappiyabhojana’’nti bhuñjati, vikāle kālasaññāya bhuñjati, akappiyapānakaṃ ‘‘kappiyapānaka’’nti pivati. Evaṃ akappiye kappiyasaññitāya āpajjati. Kathaṃ kappiye akappiyasaññitāya āpajjati? Sūkaramaṃsaṃ ‘‘acchamaṃsa’’nti khādati, migamaṃsaṃ ‘‘dīpimaṃsa’’nti khādati, kappiyabhojanaṃ ‘‘akappiyabhojana’’nti bhuñjati, kāle vikālasaññāya bhuñjati, kappiyapānakaṃ ‘‘akappiyapānaka’’nti pivati. Evaṃ kappiye akappiyasaññitāya āpajjati. Kathaṃ satisammosā āpajjati? Sahaseyyacīvaravippavāsabhesajjacīvarakālātikkamanapaccayā āpattiṃ satisammosā āpajjati. Evamidhekacco bhikkhu imehi chahi ākārehi āpattiṃ āpajjati.
Phạm tội do có tưởng là hợp lệ đối với điều không hợp lệ như thế nào? Ăn thịt gấu và nghĩ là “thịt heo,” ăn thịt báo và nghĩ là “thịt nai,” dùng vật thực không hợp lệ và nghĩ là “vật thực hợp lệ,” dùng bữa trái thời và có tưởng là đúng thời, uống nước uống không hợp lệ và nghĩ là “nước uống hợp lệ.” Như vậy là phạm tội do có tưởng là hợp lệ đối với điều không hợp lệ. Phạm tội do có tưởng là không hợp lệ đối với điều hợp lệ như thế nào? Ăn thịt heo và nghĩ là “thịt gấu,” ăn thịt nai và nghĩ là “thịt báo,” dùng vật thực hợp lệ và nghĩ là “vật thực không hợp lệ,” dùng bữa đúng thời và có tưởng là trái thời, uống nước uống hợp lệ và nghĩ là “nước uống không hợp lệ.” Như vậy là phạm tội do có tưởng là không hợp lệ đối với điều hợp lệ. Phạm tội do thất niệm như thế nào? Phạm tội do thất niệm trong các trường hợp nằm chung, xa y, thuốc men, và quá thời hạn của y. Như vậy, một Tỳ-khưu nào đó phạm tội theo sáu cách này.
Vinayadharo pana imehi chahākārehi āpattiṃ na āpajjati. Kathaṃ lajjitāya nāpajjati? So hi ‘‘passatha bho, ayaṃ kappiyākappiyaṃ jānantoyeva paṇṇattivītikkamaṃ karotī’’ti imaṃ parūpavādaṃ rakkhantopi nāpajjati. Evaṃ lajjitāya nāpajjati, sahasā āpannampi desanāgāminiṃ desetvā vuṭṭhānagāminiyā vuṭṭhahitvā suddhante patiṭṭhāti. Tato –
Nhưng người thông thạo luật không phạm tội theo sáu cách này. Không phạm tội do biết hổ thẹn như thế nào? Vị ấy, dù chỉ để giữ gìn khỏi lời chê bai của người khác rằng “xem kìa, người này dù biết điều hợp lệ và không hợp lệ vẫn vi phạm giới luật,” cũng không phạm tội. Như vậy là không phạm tội do biết hổ thẹn. Dù vô tình phạm phải, vị ấy cũng sám hối tội cần sám hối, sửa trị tội cần sửa trị, và trở lại trạng thái trong sạch. Do đó:
‘‘Sañcicca āpattiṃ nāpajjati, āpattiṃ na parigūhati;
Agatigamanañca na gacchati, ediso vuccati lajjipuggalo’’ti. (pari. 359) –
“Không cố ý phạm tội, không che giấu tội lỗi;
Và không đi vào con đường không nên đi, người như vậy được gọi là người biết hổ thẹn.” (pari. 359) –
Imasmiṃ lajjibhāve patiṭṭhitova hoti.
Vị ấy đã được thiết lập trong trạng thái biết hổ thẹn này.
Kathaṃ ñāṇatāya nāpajjati? So hi kappiyākappiyaṃ jānāti, tasmā kappiyaṃyeva karoti, akappiyaṃ na karoti. Evaṃ ñāṇatāya nāpajjati. Kathaṃ akukkuccapakatatāya nāpajjati? Kappiyākappiyaṃ nissāya kukkucce uppanne vatthuṃ oloketvā mātikaṃ padabhājanaṃ antarāpattiṃ anāpattiṃ oloketvā kappiyaṃ ce hoti, karoti, akappiyaṃ ce, na karoti. Evaṃ akukkuccapakatatāya nāpajjati. Kathaṃ akappiye kappiyasaññitādīhi nāpajjati? So hi kappiyākappiyaṃ jānāti, tasmā akappiye kappiyasaññī na hoti, kappiye akappiyasaññī na hoti, suppatiṭṭhitā cassa sati hoti, adhiṭṭhātabbaṃ adhiṭṭheti, vikappetabbaṃ vikappeti. Iti imehi chahi ākārehi āpattiṃ nāpajjati. Anāpajjanto akhaṇḍasīlo hoti, parisuddhasīlo hoti. Evamassa attano sīlakkhandho sugutto hoti surakkhito.
Không phạm tội do có trí tuệ như thế nào? Vị ấy biết điều hợp lệ và không hợp lệ, do đó chỉ làm điều hợp lệ, không làm điều không hợp lệ. Như vậy là không phạm tội do có trí tuệ. Không phạm tội do không hay hối hận như thế nào? Khi có sự hối hận phát sinh liên quan đến điều hợp lệ và không hợp lệ, vị ấy xem xét sự việc, xem xét mātikā, padabhājana, tội trung gian, không có tội, nếu hợp lệ thì làm, nếu không hợp lệ thì không làm. Như vậy là không phạm tội do không hay hối hận. Không phạm tội do có tưởng là hợp lệ đối với điều không hợp lệ v.v. như thế nào? Vị ấy biết điều hợp lệ và không hợp lệ, do đó không có tưởng là hợp lệ đối với điều không hợp lệ, không có tưởng là không hợp lệ đối với điều hợp lệ, và niệm của vị ấy được thiết lập vững chắc. Vị ấy phát nguyện điều cần phát nguyện, chuyển giao điều cần chuyển giao. Như vậy, vị ấy không phạm tội theo sáu cách này. Khi không phạm tội, vị ấy là người có giới không bị sứt mẻ, có giới trong sạch. Như vậy, uẩn giới của chính vị ấy được bảo vệ tốt, được gìn giữ tốt.
Kathaṃ kukkuccapakatānaṃ paṭisaraṇaṃ hoti? Tiroraṭṭhesu tirojanapadesu ca uppannakukkuccā bhikkhū ‘‘asukasmiṃ kira vihāre vinayadharo vasatī’’ti dūratova tassa santikaṃ āgantvā kukkuccaṃ pucchanti. So tehi katassa kammassa vatthuṃ oloketvā āpattānāpattigarukalahukādibhedaṃ sallakkhetvā desanāgāminiṃ desāpetvā, vuṭṭhānagāminiyā vuṭṭhāpetvā suddhante patiṭṭhāpeti. Evaṃ kukkuccapakatānaṃ paṭisaraṇaṃ hoti.
Là nơi nương tựa cho những người hay hối hận như thế nào? Các Tỳ-khưu ở các xứ khác, các miền khác, khi có sự hối hận phát sinh, sau khi nghe “hình như có một vị thông thạo luật ở tự viện kia,” họ đến gặp vị ấy từ xa để hỏi về sự hối hận. Vị ấy xem xét sự việc của Tăng sự mà họ đã làm, nhận biết sự khác biệt về tội và không có tội, tội nặng và tội nhẹ v.v., cho họ sám hối tội cần sám hối, cho họ sửa trị tội cần sửa trị, và giúp họ trở lại trạng thái trong sạch. Như vậy, vị ấy là nơi nương tựa cho những người hay hối hận.
Visāradosaṅghamajjhe voharatīti avinayadharassa hi saṅghamajjhe kathentassa bhayaṃ sārajjaṃ okkamati, vinayadharassa taṃ na hoti. Kasmā? ‘‘Evaṃ kathentassa doso hoti, evaṃ na doso’’ti ñatvā kathanato.
Nói năng một cách tự tin giữa Tăng chúng là người không thông thạo luật khi nói giữa Tăng chúng sẽ có sự sợ hãi, rụt rè xâm chiếm. Người thông thạo luật thì không có điều đó. Tại sao? Vì vị ấy biết “nói như vậy là có lỗi, nói như vậy là không có lỗi” rồi mới nói.
Paccatthike sahadhammena suniggahitaṃ niggaṇhātīti ettha dvidhā paccatthikā nāma attapaccatthikā ca sāsanapaccatthikā ca. Tattha mettiyabhūmajakā ca bhikkhū vaḍḍho ca licchavī amūlakena antimavatthunā codesuṃ, ime attapaccatthikā nāma. Ye pana aññepi dussīlā pāpadhammā, sabbete attapaccatthikā. Viparītadassanā pana ariṭṭhabhikkhukaṇṭakasāmaṇeravesālikavajjiputtakā parūpahāraaññāṇakaṅkhāvitaraṇādivādā mahāsaṅghikādayo ca abuddhasāsanaṃ ‘‘buddhasāsana’’nti vatvā katapaggahā sāsanapaccatthikā nāma. Te sabbepi sahadhammena sahakāraṇena vacanena yathā taṃ asaddhammaṃ patiṭṭhāpetuṃ na sakkonti, evaṃ suniggahitaṃ katvā niggaṇhāti.
Khiển trách những kẻ chống đối một cách chính đáng theo đúng pháp. Ở đây, có hai loại kẻ chống đối: kẻ chống đối cá nhân và kẻ chống đối giáo pháp. Ở đó, các Tỳ-khưu Mettiyabhūmajaka và Vaḍḍha Licchavi đã tố cáo bằng tội Bất Cộng Trụ không có căn cứ. Những người này được gọi là kẻ chống đối cá nhân. Bất cứ ai khác là người vô giới, có pháp xấu, tất cả họ đều là kẻ chống đối cá nhân. Còn những người có tà kiến như Tỳ-khưu Ariṭṭha, Sa-di Kaṇṭaka, các Vajiputtaka ở Vesāli, những người theo các thuyết như cho rằng có thể giải quyết sự nghi ngờ bằng cách hỏi người khác, và các Mahāsaṅghika v.v., những người đã chấp nhận và nói rằng giáo pháp không phải của Phật là “giáo pháp của Phật,” được gọi là kẻ chống đối giáo pháp. Vị ấy khiển trách tất cả họ một cách chính đáng, có lý lẽ, bằng lời nói, sao cho họ không thể thiết lập được giáo pháp sai trái đó.
Saddhammaṭṭhitiyā paṭipanno hotīti ettha pana tividho saddhammo pariyattipaṭipattiadhigamavasena. Tattha tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ pariyattisaddhammo nāma. Terasa dhutaguṇā cuddasa khandhakavattāni dveasīti mahāvattānīti ayaṃ paṭipattisaddhammo nāma. Cattāro maggā ca cattāri phalāni ca, ayaṃ adhigamasaddhammo nāma.
Là người thực hành để duy trì chánh pháp. Ở đây, chánh pháp có ba loại: theo phương diện học hỏi, thực hành, và chứng đắc. Ở đây, kinh điển Tam Tạng của Phật được gọi là chánh pháp học hỏi. Mười ba hạnh đầu đà, mười bốn phẩm Luật, và tám mươi hai đại oai nghi được gọi là chánh pháp thực hành. Bốn đạo và bốn quả được gọi là chánh pháp chứng đắc.
Tattha keci therā ‘‘yo vo, ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññatto, so vo mamaccayena satthā’’ti iminā suttena (dī. ni. 2.216) ‘‘sāsanassa pariyatti mūla’’nti vadanti. Keci therā ‘‘ime ca subhadda bhikkhū sammā vihareyyuṃ, asuñño loko arahantehi assā’’ti iminā suttena (dī. ni. 2.214) ‘‘sāsanassa paṭipatti mūla’’nti vatvā ‘‘yāva pañca bhikkhū sammāpaṭipannā saṃvijjanti, tāva sāsanaṃ ṭhitaṃ hotī’’ti āhaṃsu. Itare pana therā ‘‘pariyattiyā antarahitāya suppaṭipannassapi dhammābhisamayo natthī’’ti vatvā āhaṃsu ‘‘sacepi pañca bhikkhū cattāri pārājikāni rakkhakā honti, te saddhe kulaputte pabbājetvā paccantime janapade upasampādetvā dasavaggaṃ gaṇaṃ pūretvā majjhimajanapade upasampadaṃ karissanti, etenupāyena vīsativaggaṃ saṅghaṃ pūretvā attanopi abbhānakammaṃ katvā sāsanaṃ vuddhiṃ virūḷhiṃ gamayissanti. Evamayaṃ vinayadharo tividhassapi saddhammassa ciraṭṭhitiyā paṭipanno hotī’’ti. Evamayaṃ vinayadharo ime tāva pañcānisaṃse paṭilabhatīti veditabbo.
Ở đây, một số vị trưởng lão, dựa vào kinh này (dī. ni. 2.216): “Này Ānanda, Pháp và Luật mà Ta đã thuyết giảng và chế định cho các ngươi, sau khi Ta qua đời, đó sẽ là Thầy của các ngươi,” nói rằng “việc học hỏi là gốc rễ của giáo pháp.” Một số vị trưởng lão, dựa vào kinh này (dī. ni. 2.214): “Và nếu các Tỳ-khưu này, này Subhadda, sống một cách chân chánh, thế gian sẽ không trống rỗng các bậc A-la-hán,” nói rằng “việc thực hành là gốc rễ của giáo pháp,” và nói rằng “chừng nào còn có năm Tỳ-khưu thực hành chân chánh, chừng đó giáo pháp còn tồn tại.” Nhưng các vị trưởng lão khác, nói rằng “khi việc học hỏi đã biến mất, thì dù có thực hành tốt cũng không thể chứng ngộ pháp,” đã nói rằng: “nếu có năm Tỳ-khưu giữ gìn bốn giới Bất Cộng Trụ, họ sẽ cho xuất gia các thiện gia nam tử ở các vùng biên địa, truyền Cụ túc giới, làm cho đủ số lượng mười vị, rồi truyền Cụ túc giới ở vùng trung tâm. Bằng cách này, họ sẽ làm cho Tăng chúng đủ số lượng hai mươi vị, tự mình làm Tăng sự phục vị, và làm cho giáo pháp phát triển, tăng trưởng. Như vậy, vị thông thạo luật này là người thực hành để duy trì lâu dài cả ba loại chánh pháp.” Như vậy, nên biết rằng vị thông thạo luật này nhận được năm lợi ích này.
Katame chānisaṃse labhatīti? Tassādheyyo uposatho pavāraṇā saṅghakammaṃ pabbajjā upasampadā, nissayaṃ deti, sāmaṇeraṃ upaṭṭhāpeti. Yepi ime cātuddasiko, pannarasiko, sāmaggiuposatho, saṅghe uposatho, gaṇe uposatho, puggale uposatho, suttuddeso, pārisuddhi, adhiṭṭhānauposathoti nava uposathā, sabbe te vinayadharāyattā, yāpi ca imā cātuddasikā, pannarasikā, sāmaggipavāraṇā, saṅghe pavāraṇā, gaṇe pavāraṇā, puggale pavāraṇā, tevācikā pavāraṇā, dvevācikā pavāraṇā, samānavassikā pavāraṇāti nava pavāraṇā, tāpi vinayadharāyattā eva, tassa santakā, so tāsaṃ sāmī.
Nhận được sáu lợi ích nào? Bố-tát, Tự tứ, Tăng sự, xuất gia, thọ Cụ túc giới của vị ấy là đáng tin cậy. Vị ấy cho y chỉ, chăm sóc Sa-di. Cả chín loại Bố-tát này: Bố-tát ngày mười bốn, ngày rằm, Bố-tát hòa hợp, Bố-tát trong Tăng chúng, trong nhóm, của cá nhân, Bố-tát đọc thuộc kinh, Bố-tát thanh tịnh, Bố-tát phát nguyện, tất cả đều phụ thuộc vào người thông thạo luật. Cả chín loại Tự tứ này: Tự tứ ngày mười bốn, ngày rằm, Tự tứ hòa hợp, Tự tứ trong Tăng chúng, trong nhóm, của cá nhân, Tự tứ ba lần, Tự tứ hai lần, Tự tứ của người bằng tuổi hạ, cũng phụ thuộc vào người thông thạo luật, là của vị ấy, vị ấy là chủ của chúng.
Yānipi imāni apalokanakammaṃ ñattikammaṃ ñattidutiyakammaṃ ñatticatutthakammanti cattāri saṅghakammāni, yā cāyaṃ upajjhāyena hutvā kulaputtānaṃ pabbajjā ca upasampadā ca kātabbā, ayampi vinayadharāyattāva. Na hi añño dvipiṭakadharopi evaṃ kātuṃ labhati, so eva nissayaṃ deti, sāmaṇeraṃ upaṭṭhāpeti, añño neva nissayaṃ dātuṃ labhati, na sāmaṇeraṃ upaṭṭhāpetuṃ. Teneva ‘‘na, bhikkhave, ekena dve sāmaṇerā upaṭṭhāpetabbā, yo upaṭṭhāpeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 101) paṭikkhipitvā puna anujānantenapi ‘‘anujānāmi, bhikkhave, byattena bhikkhunā ekena dve sāmaṇere upaṭṭhāpetuṃ, yāvatake vā pana ussahati ovadituṃ anusāsituṃ, tāvatake upaṭṭhāpetu’’nti (mahāva. 105) byattasseva sāmaṇerupaṭṭhāpanaṃ anuññātaṃ. Sāmaṇerupaṭṭhāpanaṃ paccāsīsanto pana vinayadharassa santike upajjhaṃ gāhāpetvā vattapaṭipattiṃ sādituṃ labhati. Ettha ca nissayadānañceva sāmaṇerupaṭṭhānañca ekamaṅgaṃ. Iti imesu chasu ānisaṃsesu ekena saddhiṃ purimāni pañca cha honti. Dvīhi saddhiṃ satta, tīhi saddhiṃ aṭṭha, catūhi saddhiṃ nava, pañcahi saddhiṃ dasa, sabbehipetehi saddhiṃ ekādasāti evaṃ vinayadharo puggalo pañca cha satta aṭṭha nava dasa ekādasa ca ānisaṃse labhatīti veditabbo.
Cả bốn loại Tăng sự này: Tăng sự biểu quyết, Tăng sự chỉ có bạch, Tăng sự bạch nhị, Tăng sự bạch tứ. Và việc phải làm lễ xuất gia và thọ Cụ túc giới cho các thiện gia nam tử với tư cách là thầy tế độ, việc này cũng phụ thuộc vào người thông thạo luật. Vì không có ai khác, dù thông thạo hai tạng, cũng không được phép làm như vậy. Chỉ vị ấy mới cho y chỉ, chăm sóc Sa-di. Người khác không được phép cho y chỉ, cũng không được phép chăm sóc Sa-di. Do đó, sau khi cấm rằng: “Này các Tỳ-khưu, một người không được chăm sóc hai Sa-di, ai chăm sóc, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 101), khi cho phép lại, cũng chỉ cho phép người thông thạo chăm sóc Sa-di: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép một Tỳ-khưu thông thạo chăm sóc hai Sa-di, hoặc chăm sóc bao nhiêu người mà vị ấy có thể khuyên dạy, giáo huấn” (mahāva. 105). Nhưng người mong muốn được chăm sóc Sa-di được phép nhận thầy tế độ từ một người thông thạo luật và tuân thủ các bổn phận. Ở đây, việc cho y chỉ và việc chăm sóc Sa-di là một yếu tố. Như vậy, trong sáu lợi ích này, cùng với một yếu tố, năm lợi ích trước trở thành sáu. Cùng với hai, trở thành bảy. Cùng với ba, trở thành tám. Cùng với bốn, trở thành chín. Cùng với năm, trở thành mười. Cùng với tất cả chúng, trở thành mười một. Như vậy, nên biết rằng người thông thạo luật nhận được năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, và mười một lợi ích.
Mahānisaṃsamiccevaṃ, kosallaṃ vinaye sadā;
Patthentenettha kātabbo, abhiyogo punappunanti.
Lợi ích lớn là như vậy, sự khéo léo trong luật luôn luôn;
Người mong muốn điều này nên nỗ lực nhiều lần.
Iti pāḷimuttakavinayavinicchayasaṅgahe
Pakiṇṇakavinicchayakathā samattā.
Như vậy, trong Tập hợp phân tích giới luật ngoài Tam Tạng Pāḷi
Chuyện phân tích về các vấn đề tạp lục đã kết thúc.
Niṭṭhito cāyaṃ pāḷimuttakavinayavinicchayasaṅgaho.
Và Tập hợp phân tích giới luật ngoài Tam Tạng Pāḷi này đã hoàn tất.
Nigamanakathā
Lời kết
Ajjhesito narindena, sohaṃ parakkamabāhunā;
Saddhammaṭṭhitikāmena, sāsanujjotakārinā.
Được vua Parakkamabāhu thỉnh cầu, người có lòng mong muốn chánh pháp trường tồn, người làm cho giáo pháp tỏa sáng.
Teneva kārite ramme, pāsādasatamaṇḍite;
Nānādumagaṇākiṇṇe, bhāvanābhiratālaye.
Đầy ắp các loại cây cối, là nơi ở của những người ưa thích thiền định, có nguồn nước mát lành.
Sītalūdakasampanne, vasaṃ jetavane imaṃ;
Vinayasaṅgahaṃ sāraṃ, akāsi yoginaṃ hitaṃ.
Ta, đang sống trong tu viện Jetavana này, được chính vua xây dựng, đẹp đẽ, được trang hoàng bởi hàng trăm lâu đài,
Đã biên soạn Tập Yếu Luật Tạng tinh túy này, vì lợi ích của các hành giả.
Yaṃ siddhaṃ iminā puññaṃ, yañcaññaṃ pasutaṃ mayā;
Etena puññakammena, dutiye attasambhave.
Với công đức đã thành tựu từ việc này, và những công đức khác ta đã tạo ra;
Nhờ công đức này, trong kiếp sống thứ hai.
Tāvatiṃse pamodento, sīlācāraguṇe rato;
Alaggo pañcakāmesu, patvāna paṭhamaṃ phalaṃ.
Vui hưởng ở cõi trời Ba Mươi Ba, ưa thích các đức hạnh về giới và phẩm hạnh;
Không dính mắc vào năm dục, sau khi đã đạt được quả vị thứ nhất.
Antime attabhāvamhi, metteyyaṃ munipuṅgavaṃ;
Lokaggapuggalaṃ nāthaṃ, sabbasattahite rataṃ.
Trong kiếp sống cuối cùng, gặp được Đức Metteyya, bậc Thánh giả,
Bậc tối thượng trong thế gian, bậc Đạo sư, người luôn vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Disvāna tassa dhīrassa, sutvā saddhammadesanaṃ;
Adhigantvā phalaṃ aggaṃ, sobheyyaṃ jinasāsananti.
Sau khi thấy bậc Trí tuệ ấy, nghe lời thuyết giảng chánh pháp của Ngài;
Sau khi chứng đắc quả vị tối thượng, ta sẽ làm rạng rỡ giáo pháp của bậc Chiến Thắng.
Vinayasaṅgaha-aṭṭhakathā niṭṭhitā.
Phụ Chú Giải Tập Yếu Luật Tạng đã hoàn tất.