Hướng Dẫn Tụng Đọc Các Bài Kinh Chúc Phúc Phổ Biến Trong Phật Giáo Theravāda
Mục lục
Trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda), các bài kệ Chúc Phúc và Tùy Hỷ Phước Báu (Anumodanā-gāthā) là một phần không thể thiếu trong các nghi thức và buổi lễ. Chúng thường được chư Tăng Tỳ-khưu tụng đọc sau khi thí chủ hoàn thành việc cúng dường, nhằm hồi hướng phước báu đến cho người đã khuất và chúc phúc cho người hiện tiền.
Bài viết này sẽ hướng dẫn quý vị Phật tử cách đọc hai bài kệ chúc phúc phổ biến nhất: Yathā Vārivāhā Pūrā (Kệ Hồi Hướng Phước Đến Thân Quyến) và Sāmaññ’ānumodanā-gāthā (Kệ Tùy Hỷ Phước Báu Tổng Quát).
Phần 1: Kinh Hồi Hướng Phước Đến Thân Quyến (Yathā Vārivāhā Pūrā)
Đây là bài kệ được dùng để hồi hướng, dâng tặng phần phước thanh cao phát sinh từ việc cúng dường đến cho thân bằng quyến thuộc đã quá vãng.
Bối Cảnh và Ý Nghĩa Kinh “Yathā Vārivāhā Pūrā”
Bài kệ này thường được biết đến với tên gọi “Kệ Hồi Hướng Phước Đến Thân Quyến” (Pubbapetabali) hay “Kệ Bố Cáo Cho Thí Chủ Hoan Hỷ” (Anumodanārambha Gāthā).
Ý nghĩa cốt lõi của bài kinh là sự ví von thật đẹp đẽ: cũng như nước từ trăm sông, ngàn suối đổ về làm đầy biển cả, mong sao những vật thực, những phước thiện mà người sống ở đây dâng cúng sẽ được đến với những người thân đã khuất (peta). Đây là một hành động thể hiện lòng hiếu thảo, sự tưởng nhớ và tình thương của người còn sống đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ và quyến thuộc đã qua đời.
Việc tụng đọc bài kinh này không chỉ là một nghi thức, mà còn là một pháp hành về tâm từ, về sự buông xả và lòng biết ơn. Năng lượng thiện lành từ tâm thành của người cúng dường và sự chú nguyện của chư Tăng sẽ là duyên lành để các hương linh được thọ nhận, từ đó có thể sanh về cảnh giới an lành hơn.
Toàn Văn Bài Kinh (Pāḷi – Việt)
Kinh Pāḷi:
Yathā vārivāhā pūrā paripūrenti sāgaraṃ
Evameva ito dinnaṃ petānaṃ upakappati
Icchitaṃ patthitaṃ tumhaṃ khippameva samijjhatu
Sabbe pūrentu saṅkappā
Cando paṇṇaraso yathā
Maṇijotiraso yathā.
Phiên âm:
Yá-thaa vaa-ri-va-haa puu-raa pá-ri-puu-ren-ti saa-gá-răng
Ê-vá-mê-vá i-tô đin-năng pế-taa-năng ú-pá-cắp-pá-ti
Ích-chí-tăng pắt-thí-tăng tum-hăng khíp-pá-mê-vá sá-mít-chá-tu
Sắp-bê puu-ren-tu săn-cắp-paa
Chăn-đô păn-ná-rá-sô yá-thaa
Má-ni-chô-ti-rá-sô yá-thaa.
Dịch Nghĩa:
Nước sông, suối chảy đầy, làm cho biển được sung mãn thế nào,
Vật thực dâng cúng từ nơi đây, cũng đến với các hương linh (người đã khuất) như thế ấy.
Mong rằng những ý nguyện, lòng mong mỏi của quý vị, sẽ sớm được thành tựu.
Nguyện cho mọi ước vọng đều được viên mãn,
Như vầng trăng sáng đêm rằm,
Như viên ngọc maṇi chiếu sáng.
Hướng Dẫn Đọc Tụng Pāḷi, phiên âm và tiếng Việt
Để giúp quý vị Phật tử dễ dàng hơn trong việc đọc tụng, dưới đây là phần phiên âm Pāḷi ra tiếng Việt, có nhấn trọng âm để trì tụng được lưu loát và gần với âm gốc nhất. Lưu ý rằng các nguyên âm dài (ā, ī, ū) sẽ được đọc kéo dài hơn một chút so với nguyên âm ngắn (a, i, u).
(Đọc chậm rãi, trang nghiêm)
Yathā/ vā/rivā/hā/ pū/rā/
Paripū/ren/ti sā/garam/
E/vam’e/va ito/ din/nam/
Pe/tā/nam/ upakap/pati
Ic/chitam/ pat/thitam/ tum/ham/
Khip/pam’e/va samij/jhatu
Sab/be/ pū/ren/tu san/kap/pā/
Can/do/ paṇ/ṇaraso/ yathā/
Maṇi-jo/ti-raso/ yathā/
Phiên âm:
Yá-thaa / vaa / ri-va / haa / puu-raa / pá-ri-puu / ren / ti-saa / gá-răng /
Ê / vá-mê / vá i-tô / đin / năng pế / taa / năng / ú-pá-cắp / pá-ti
Ích / chí-tăng / pắt / thí-tăng / tum / hăng / khíp / pá-mê / vá sá-mít / chá-tu
Sắp / bê / puu / ren / tu săn / cắp-paa /
Chăn / đô / păn / ná-rá-sô / yá-thaa /
Má-ni-chô / ti-rá-sô / yá-thaa.
Tụng tiếng Việt:
Các con đường nước đầy đủ, nhứt là sông và rạch làm cho biển được đầy đủ, cũng như sự bố thí mà thí chủ đã làm trong lúc hiện tại đây,
Cầu xin cho đặng kết quả đến những người đã quá vãng.
Cầu xin các quả lành mà người đã mong mỏi, cho được mau thành tựu kịp thời đến người.
Cầu xin những sự suy xét chơn chánh cho được tròn đủ đến người.
Như trăng trong ngày Rằm.
(Bằng chẳng vậy) cũng như ngọc Ma-ni chiếu sáng rỡ ràng là ngọc quý báu, có thể làm cho tất cả sự ước ao của người đều được như nguyện.