Chú giải Tạng Luật

Chú Giải Tạng Luật – Phẩm Pārājika – Chương Tăng Tàn

2. Saṅghādisesakaṇḍaṃ

2. Chương Tăng Tàn

1. Sukkavissaṭṭhisikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải Thích Điều Học Về Việc Cố Ý Xuất Tinh

Yaṃ pārājikakaṇḍassa, saṅgītaṃ samanantaraṃ;
Điều đã được kiết tập ngay sau chương Pārājika;

Tassa terasakassāyamapubbapadavaṇṇanā.
Đây là phần giải thích các từ chưa từng có của mười ba điều ấy.

234. Tena samayena buddho bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Tena kho pana samayena āyasmā seyyasako anabhirato brahmacariyaṃ caratīti ettha āyasmāti piyavacanaṃ. Seyyasakoti tassa bhikkhuno nāmaṃ. Anabhiratoti vikkhittacitto kāmarāgapariḷāhena pariḍayhamāno na pana gihibhāvaṃ patthayamāno. So tena kiso hotīti so seyyasako tena anabhiratabhāvena kiso hoti.
234. Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, bậc Thế Tôn, trú tại Sāvatthī, trong Kỳ Viên tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc ấy, Tôn giả Seyyasaka không hoan hỷ thực hành đời sống phạm hạnh. Ở đây, Tôn giả là một từ ngữ thân ái. Seyyasako là tên của vị Tỳ khưu ấy. Không hoan hỷ nghĩa là tâm bị phân tán, bị thiêu đốt bởi ngọn lửa dục vọng, nhưng không phải là mong muốn đời sống tại gia. Vì thế, thầy ấy trở nên gầy yếu nghĩa là Tôn giả Seyyasaka do trạng thái không hoan hỷ ấy mà trở nên gầy yếu.

Addasā kho āyasmā udāyīti ettha udāyīti tassa therassa nāmaṃ, ayañhi seyyasakassa upajjhāyo lāḷudāyī nāma bhantamigasappaṭibhāgo niddārāmatādimanuyuttānaṃ aññataro lolabhikkhu. Kacci no tvanti kacci nu tvaṃ. Yāvadatthaṃ bhuñjātiādīsu yāvatā atthoti yāvadatthaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – yāvatā te bhojanena attho yattakaṃ tvaṃ icchasi tattakaṃ bhuñja, yattakaṃ kālaṃ rattiṃ vā divā vā supituṃ icchasi tattakaṃ supa, mattikādīhi kāyaṃ ubbaṭṭetvā cuṇṇādīhi ghaṃsitvā yattakaṃ nhānaṃ icchasi tattakaṃ nhāya, uddesena vā paripucchāya vā vattapaṭipattiyā vā kammaṭṭhānena vā attho natthīti. Yadā te anabhirati uppajjatīti yasmiṃ kāle tava kāmarāgavasena ukkaṇṭhitatā vikkhittacittatā uppajjati. Rāgo cittaṃ anuddhaṃsetīti kāmarāgo cittaṃ dhaṃseti padhaṃseti vikkhipati ceva milāpeti ca. Tadā hatthena upakkamitvā asuciṃ mocehīti tasmiṃ kāle hatthena vāyamitvā asucimocanaṃ karohi, evañhi te cittekaggatā bhavissati. Iti taṃ upajjhāyo anusāsi yathā taṃ bālo bālaṃ mago magaṃ.
Tôn giả Udāyī đã thấy, ở đây Udāyī là tên của vị trưởng lão ấy. Vị này chính là thầy tế độ của Seyyasaka, tên là Lāḷudāyī, một kẻ ngu si giống như con nai bị mê혹, một trong những Tỳ khưu ham mê ngủ nghỉ, lười biếng. Kacci no tvaṃ nghĩa là “Này ngươi có… không?”. Trong câu Yāvadatthaṃ bhuñjā v.v…, “cho đến khi có lợi ích” nghĩa là “cho đến khi thỏa mãn”. Điều này được nói như sau: bao nhiêu thức ăn mà ngươi cần, bao nhiêu ngươi muốn, hãy ăn bấy nhiêu; bao nhiêu thời gian, dù đêm hay ngày, ngươi muốn ngủ, hãy ngủ bấy nhiêu; sau khi xoa bóp thân thể bằng đất sét v.v… và chà xát bằng bột v.v…, bao nhiêu ngươi muốn tắm, hãy tắm bấy nhiêu; không cần phải quan tâm đến việc học thuộc lòng, hỏi han, thực hành các bổn phận hay đề mục thiền định. Khi sự không hoan hỷ khởi lên nơi ngươi nghĩa là vào lúc nào mà sự chán nản, tâm phân tán do dục vọng khởi lên nơi ngươi. Dục vọng khuấy động tâm nghĩa là dục vọng làm lay động, làm náo động, làm phân tán và làm héo úa tâm. Khi ấy, hãy dùng tay cố gắng làm xuất ra vật bất tịnh nghĩa là vào lúc ấy, hãy dùng tay cố gắng làm cho vật bất tịnh xuất ra; như vậy thì ngươi sẽ có được sự nhất tâm. Như vậy, vị thầy tế độ đã khuyên dạy y như kẻ ngu khuyên dạy kẻ ngu, như con nai dẫn dắt con nai.

235.Tesaṃ muṭṭhassatīnaṃ asampajānānaṃ niddaṃ okkamantānanti satisampajaññaṃ pahāya niddaṃ otarantānaṃ. Tattha kiñcāpi niddaṃ okkamantānaṃ abyākato bhavaṅgavāro pavattati, satisampajaññavāro gaḷati, tathāpi sayanakāle manasikāro kātabbo. Divā supantena yāva nhātassa bhikkhuno kesā na sukkhanti tāva supitvā vuṭṭhahissāmīti saussāhena supitabbaṃ. Rattiṃ supantena ettakaṃ nāma rattibhāgaṃ supitvā candena vā tārakāya vā idaṃ nāma ṭhānaṃ pattakāle vuṭṭhahissāmīti saussāhena supitabbaṃ. Buddhānussatiādīsu ca dasasu kammaṭṭhānesu ekaṃ aññaṃ vā cittaruciyaṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvāva niddā okkamitabbā. Evaṃ karonto hi sato sampajāno satiñca sampajaññañca avijahitvāva niddaṃ okkamatīti vuccati. Te pana bhikkhū bālā lolā bhantamigasappaṭibhāgā na evamakaṃsu. Tena vuttaṃ – ‘‘tesaṃ muṭṭhassatīnaṃ asampajānānaṃ niddaṃ okkamantāna’’nti.
235. Những vị ấy thất niệm, không tỉnh giác, đi vào giấc ngủ nghĩa là những vị ấy từ bỏ chánh niệm và tỉnh giác, đi vào giấc ngủ. Ở đó, mặc dù khi đi vào giấc ngủ, dòng hữu phần vô ký vẫn tiếp diễn, và dòng chánh niệm tỉnh giác bị gián đoạn, tuy nhiên, vào lúc nằm ngủ, cần phải tác ý. Khi ngủ ban ngày, vị Tỳ khưu nên ngủ với sự cố gắng rằng: “Ta sẽ ngủ cho đến khi tóc của vị Tỳ khưu vừa tắm xong chưa khô, rồi sẽ thức dậy.” Khi ngủ ban đêm, nên ngủ với sự cố gắng rằng: “Ta sẽ ngủ một khoảng thời gian nhất định trong đêm, rồi khi mặt trăng hoặc ngôi sao nào đó đến một vị trí nhất định, ta sẽ thức dậy.” Và nên đi vào giấc ngủ sau khi đã chọn lấy một hoặc một đề mục thiền định khác trong mười đề mục thiền định như Niệm Phật v.v…, tùy theo sở thích của tâm. Người làm như vậy được gọi là người có chánh niệm, tỉnh giác, đi vào giấc ngủ mà không từ bỏ chánh niệm và tỉnh giác. Nhưng những vị Tỳ khưu ấy, ngu si, ham mê, giống như con nai bị mê hoặc, đã không làm như vậy. Do đó, đã được nói rằng: “Những vị ấy thất niệm, không tỉnh giác, đi vào giấc ngủ.”

Atthi cettha cetanā labbhatīti ettha ca supinante assādacetanā atthi upalabbhati. Atthesā, bhikkhave, cetanā; sā ca kho abbohārikāti bhikkhave esā assādacetanā atthi, sā ca kho avisaye uppannattā abbohārikā, āpattiyā aṅgaṃ na hoti. Iti bhagavā supinante cetanāya abbohārikabhāvaṃ dassetvā ‘‘evañca pana bhikkhave imaṃ sikkhāpadaṃ uddiseyyātha, sañcetanikā sukkavissaṭṭhi aññatra supinantā saṅghādiseso’’ti sānupaññattikaṃ sikkhāpadaṃ paññāpesi.
Có tư tâm được tìm thấy ở đây, ở đây, trong giấc mộng, có tư tâm hưởng thụ được tìm thấy. Này các Tỳ khưu, có tư tâm ấy, nhưng nó không thuộc phạm vi giao dịch nghĩa là, này các Tỳ khưu, có tư tâm hưởng thụ ấy, nhưng vì nó khởi lên ngoài đối tượng (không có chủ ý) nên không thuộc phạm vi giao dịch, không phải là yếu tố cấu thành tội. Như vậy, Đức Thế Tôn, sau khi chỉ rõ rằng tư tâm trong giấc mộng không thuộc phạm vi giao dịch, đã chế định điều học có kèm theo phần bổ sung rằng: “Này các Tỳ khưu, các ngươi hãy tuyên đọc điều học này như sau: Cố ý xuất tinh, ngoại trừ trong giấc mộng, phạm tội Tăng Tàn.”

236-237. Tattha saṃvijjati cetanā assāti sañcetanā, sañcetanāva sañcetanikā, sañcetanā vā assā atthīti sañcetanikā. Yasmā pana yassa sañcetanikā sukkavissaṭṭhi hoti so jānanto sañjānanto hoti, sā cassa sukkavissaṭṭhi cecca abhivitaritvā vītikkamo hoti, tasmā byañjane ādaraṃ akatvā atthameva dassetuṃ ‘‘jānanto sañjānanto cecca abhivitaritvā vītikkamo’’ti evamassa padabhājanaṃ vuttaṃ. Tattha jānantoti upakkamāmīti jānanto. Sañjānantoti sukkaṃ mocemīti sañjānanto, teneva upakkamajānanākārena saddhiṃ jānantoti attho. Ceccāti mocanassādacetanāvasena cetetvā pakappetvā. Abhivitaritvāti upakkamavasena maddanto nirāsaṅkacittaṃ pesetvā. Vītikkamoti evaṃ pavattassa yo vītikkamo ayaṃ sañcetanikāsaddassa sikhāppatto atthoti vuttaṃ hoti.
236-237. Ở đó, cố ý là khi có tư tâm hiện hữu. Cố ý chính là có chủ ý, hoặc có chủ ý là khi có sự cố ý của nó. Hơn nữa, bởi vì người nào cố ý xuất tinh thì người đó biết, nhận biết rõ, và sự xuất tinh của người ấy là sự vi phạm do cố ý thực hiện sau khi đã chủ tâm, do đó, không chú trọng đến văn tự mà chỉ để trình bày ý nghĩa, phần phân tích từ của nó đã được nói là: “biết, nhận biết rõ, cố ý thực hiện sau khi đã chủ tâm, là sự vi phạm“. Ở đó, biết nghĩa là biết rằng: “Ta đang cố gắng.” Nhận biết rõ nghĩa là nhận biết rõ rằng: “Ta đang làm cho tinh xuất ra,” có nghĩa là biết cùng với cách biết về sự cố gắng ấy. Cố ý nghĩa là sau khi đã chủ tâm, đã dự định theo tư tâm hưởng thụ sự xuất tinh. Thực hiện sau khi đã chủ tâm nghĩa là bằng cách cố gắng, chà xát, để tâm không do dự mà thực hiện. Sự vi phạm nghĩa là sự vi phạm nào của người đã hành động như vậy, đây là ý nghĩa cao nhất của từ “có chủ ý” đã được nói đến.

Idāni sukkavissaṭṭhīti ettha yassa sukkassa vissaṭṭhi taṃ tāva saṅkhyāto vaṇṇabhedato ca dassetuṃ ‘‘sukkanti dasa sukkānī’’tiādimāha. Tattha sukkānaṃ āsayabhedato dhātunānattato ca nīlādivaṇṇabhedo veditabbo.
Bây giờ, trong cụm từ “cố ý xuất tinh”, để chỉ rõ về số lượng và sự khác biệt về màu sắc của loại tinh dịch nào mà có sự xuất ra ấy, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng câu “Tinh dịch là mười loại tinh dịch“. Ở đó, sự khác biệt về màu sắc như xanh v.v… của các loại tinh dịch cần được hiểu là do sự khác biệt về nơi chứa và sự đa dạng của các yếu tố.

Vissaṭṭhīti vissaggo, atthato panetaṃ ṭhānācāvanaṃ hoti, tenāha – ‘‘vissaṭṭhīti ṭhānatocāvanā vuccatī’’ti. Tattha vatthisīsaṃ kaṭi kāyoti tidhā sukkassa ṭhānaṃ pakappenti, eko kirācariyo ‘‘vatthisīsaṃ sukkassa ṭhāna’’nti āha. Eko ‘‘kaṭī’’ti, eko ‘‘sakalo kāyo’’ti, tesu tatiyassa bhāsitaṃ subhāsitaṃ. Kesalomanakhadantānañhi maṃsavinimuttaṭṭhānaṃ uccārapassāvakheḷasiṅghāṇikāthaddhasukkhacammāni ca vajjetvā avaseso chavimaṃsalohitānugato sabbopi kāyo kāyappasādabhāvajīvitindriyābaddhapittānaṃ sambhavassa ca ṭhānameva. Tathā hi rāgapariyuṭṭhānenābhibhūtānaṃ hatthīnaṃ ubhohi kaṇṇacūḷikāhi sambhavo nikkhamati, mahāsenarājā ca rāgapariyuṭṭhito sambhavavegaṃ adhivāsetuṃ asakkonto satthena bāhusīsaṃ phāletvā vaṇamukhena nikkhantaṃ sambhavaṃ dassesīti.
Sự xuất ra là sự phóng xuất, nhưng về mặt ý nghĩa, nó là sự rời khỏi chỗ. Do đó, Ngài nói: “Sự xuất ra được gọi là sự rời khỏi chỗ”. Ở đó, họ ấn định ba nơi của tinh dịch là: đầu dương vật, thắt lưng, và thân thể. Một vị thầy nói rằng: “Đầu dương vật là nơi của tinh dịch”. Một vị nói: “Thắt lưng”, một vị khác nói: “Toàn thân”. Trong số đó, lời nói của vị thứ ba là khéo nói. Vì quả vậy, trừ những chỗ không có thịt của tóc, lông, móng, răng, và trừ phân, nước tiểu, nước bọt, nước mũi, da khô cứng, toàn bộ phần thân còn lại bao gồm da, thịt, máu, đều là nơi của sự sinh khởi của những thứ như thần kinh cảm giác nơi thân, trạng thái tồn tại, mạng quyền, và mật gắn liền (với thân), và cũng là nơi của tinh dịch. Thật vậy, đối với những con voi bị dục vọng chế ngự, tinh dịch xuất ra từ cả hai vành tai. Và vua Mahāsena, khi bị dục vọng xâm chiếm, không thể chịu đựng được sự thúc đẩy của tinh dịch, đã dùng dao rạch đầu cánh tay và cho thấy tinh dịch chảy ra từ miệng vết thương.

Ettha pana paṭhamassa ācariyassa vāde mocanassādena nimitte upakkamato yattakaṃ ekā khuddakamakkhikā piveyya tattake asucimhi vatthisīsato muñcitvā dakasotaṃ otiṇṇamatte bahi nikkhante vā anikkhante vā saṅghādiseso. Dutiyassa vāde tatheva kaṭito muccitvā dakasotaṃ otiṇṇamatte, tatiyassa vāde tatheva sakalakāyaṃ saṅkhobhetvā tato muccitvā dakasotaṃ otiṇṇamatte bahi nikkhante vā anikkhante vā saṅghādiseso. Dakasotorohaṇañcettha adhivāsetvā antarā nivāretuṃ asakkuṇeyyatāya vuttaṃ, ṭhānā cutañhi avassaṃ dakasotaṃ otarati. Tasmā ṭhānā cāvanamattenevettha āpatti veditabbā, sā ca kho nimitte upakkamantasseva hatthaparikammapādaparikammagattaparikammakaraṇena sacepi asuci muccati, anāpatti. Ayaṃ sabbācariyasādhāraṇavinicchayo.
Ở đây, theo quan điểm của vị thầy thứ nhất, do cố gắng nơi bộ phận sinh dục với sự thích thú trong việc xuất tinh, khi một lượng vật bất tịnh bằng lượng một con ruồi nhỏ có thể uống được, được xuất ra từ đầu dương vật, vừa khi nó đi vào dòng nước (tức là vừa chảy ra khỏi ống dẫn), dù đã ra ngoài hay chưa ra ngoài (khỏi cơ thể), phạm tội Tăng Tàn. Theo quan điểm của vị thứ hai, tương tự như vậy, khi (vật bất tịnh) xuất ra từ thắt lưng và vừa đi vào dòng nước, (phạm tội Tăng Tàn). Theo quan điểm của vị thứ ba, tương tự như vậy, sau khi làm xáo động toàn thân, (vật bất tịnh) xuất ra từ đó và vừa đi vào dòng nước, dù đã ra ngoài hay chưa ra ngoài, phạm tội Tăng Tàn. Việc “đi vào dòng nước” ở đây được nói đến do không thể chịu đựng và ngăn chặn được ở giữa chừng. Vì (vật bất tịnh) đã rời khỏi chỗ thì chắc chắn sẽ đi vào dòng nước. Do đó, tội ở đây cần được hiểu là chỉ bằng sự rời khỏi chỗ. Và (tội) này chỉ xảy ra với người cố gắng (có chủ ý xuất tinh) nơi bộ phận sinh dục. Nếu vật bất tịnh xuất ra do thực hiện hành động bằng tay, hành động bằng chân, hành động bằng thân thể (mà không có chủ ý xuất tinh), thì không phạm tội. Đây là sự quyết đoán chung của tất cả các vị thầy.

Aññatra supinantāti ettha supino eva supinanto, taṃ ṭhapetvā apanetvāti vuttaṃ hoti. Tañca pana supinaṃ passanto catūhi kāraṇehi passati dhātukkhobhato vā anubhūtapubbato vā devatopasaṃhārato vā pubbanimittato vāti.
Trong câu “Ngoại trừ trong giấc mộng“, “giấc mộng” chính là “trong giấc mộng“; điều đó có nghĩa là đặt nó sang một bên, loại trừ nó. Và người ta thấy giấc mộng ấy do bốn nguyên nhân: do sự xáo trộn của các yếu tố, hoặc do đã từng trải qua, hoặc do chư thiên mách bảo, hoặc do điềm báo trước.

Tattha pittādīnaṃ khobhakaraṇapaccayayogena khubhitadhātuko dhātukkhobhato supinaṃ passati, passanto ca nānāvidhaṃ supinaṃ passati – pabbatā patanto viya, ākāsena gacchanto viya, vāḷamigahatthīcorādīhi anubaddho viya hoti. Anubhūtapubbato passanto pubbe anubhūtapubbaṃ ārammaṇaṃ passati. Devatopasaṃhārato passantassa devatā atthakāmatāya vā anatthakāmatāya vā atthāya vā anatthāya vā nānāvidhāni ārammaṇāni upasaṃharanti, so tāsaṃ devatānaṃ ānubhāvena tāni ārammaṇāni passati. Pubbanimittato passanto puññāpuññavasena uppajjitukāmassa atthassa vā anatthassa vā pubbanimittabhūtaṃ supinaṃ passati, bodhisattassamātā viya puttapaṭilābhanimittaṃ, bodhisatto viya pañca mahāsupine (a. ni. 5.196), kosalarājā viya soḷasa supineti.
Trong đó, người có các yếu tố bị xáo trộn do sự kết hợp của các duyên gây xáo trộn mật v.v…, thấy giấc mộng do sự xáo trộn của các yếu tố. Và khi thấy (mộng), người ấy thấy nhiều loại giấc mộng khác nhau – như rơi từ trên núi xuống, như bay trên trời, như bị thú dữ, voi, kẻ trộm v.v… rượt đuổi. Người thấy (mộng) do đã từng trải qua thì thấy lại đối tượng đã từng trải qua trước đây. Đối với người thấy (mộng) do chư thiên mách bảo, chư thiên, vì muốn điều lợi hay không muốn điều lợi, vì (mục đích) lợi ích hay không lợi ích, mang đến nhiều đối tượng khác nhau. Người ấy do oai lực của các vị chư thiên đó mà thấy những đối tượng ấy. Người thấy (mộng) do điềm báo trước thì thấy giấc mộng là điềm báo trước của điều lợi hay điều hại sắp xảy ra do phước hay không phước; như mẹ của vị Bồ Tát (thấy điềm báo) về việc sinh con trai, như vị Bồ Tát (thấy) năm giấc mộng lớn (a. ni. 5.196), như vua Kosala (thấy) mười sáu giấc mộng.

Tattha yaṃ dhātukkhobhato anubhūtapubbato ca supinaṃ passati na taṃ saccaṃ hoti. Yaṃ devatopasaṃhārato passati taṃ saccaṃ vā hoti alīkaṃ vā, kuddhā hi devatā upāyena vināsetukāmā viparītampi katvā dassenti. Yaṃ pana pubbanimittato passati taṃ ekantasaccameva hoti. Etesañca catunnaṃ mūlakāraṇānaṃ saṃsaggabhedatopi supinabhedo hotiyeva.
Trong đó, giấc mộng nào mà người ta thấy do sự xáo trộn của các yếu tố và do đã từng trải qua thì không có thật. Giấc mộng nào thấy do chư thiên mách bảo thì có thể thật hoặc có thể không thật. Vì chư thiên khi nổi giận, muốn dùng mưu kế để hãm hại, cũng có thể làm cho thấy điều trái ngược. Còn giấc mộng nào thấy do điềm báo trước thì chắc chắn là thật. Và sự khác biệt của giấc mộng cũng xảy ra do sự khác biệt trong việc kết hợp của bốn nguyên nhân căn bản này.

Tañca panetaṃ catubbidhampi supinaṃ sekkhaputhujjanāva passanti appahīnavipallāsattā, asekkhā pana na passanti pahīnavipallāsattā. Kiṃ panetaṃ passanto sutto passati paṭibuddho, udāhu neva sutto na paṭibuddhoti? Kiñcettha yadi tāva sutto passati abhidhammavirodho āpajjati, bhavaṅgacittena hi supati taṃ rūpanimittādiārammaṇaṃ rāgādisampayuttaṃ vā na hoti, supinaṃ passantassa ca īdisāni cittāni uppajjanti. Atha paṭibuddho passati vinayavirodho āpajjati, yañhi paṭibuddho passati taṃ sabbohārikacittena passati, sabbohārikacittena ca kate vītikkame anāpatti nāma natthi. Supinaṃ passantena pana katepi vītikkame ekantaṃ anāpatti eva. Atha neva sutto na paṭibuddho passati, ko nāma passati; evañca sati supinassa abhāvova āpajjatīti, na abhāvo. Kasmā ? Yasmā kapimiddhapareto passati. Vuttañhetaṃ – ‘‘kapimiddhapareto kho, mahārāja, supinaṃ passatī’’ti. Kapimiddhaparetoti makkaṭaniddāya yutto. Yathā hi makkaṭassa niddā lahuparivattā hoti; evaṃ yā niddā punappunaṃ kusalādicittavokiṇṇattā lahuparivattā, yassā pavattiyaṃ punappunaṃ bhavaṅgato uttaraṇaṃ hoti tāya yutto supinaṃ passati, tenāyaṃ supino kusalopi hoti akusalopi abyākatopi. Tattha supinante cetiyavandanadhammassavanadhammadesanādīni karontassa kusalo, pāṇātipātādīni karontassa akusalo, dvīhi antehi mutto āvajjanatadārammaṇakkhaṇe abyākatoti veditabbo. Svāyaṃ dubbalavatthukattā cetanāya paṭisandhiṃ ākaḍḍhituṃ asamattho, pavatte pana aññehi kusalākusalehi upatthambhito vipākaṃ deti. Kiñcāpi vipākaṃ deti? Atha kho avisaye uppannattā abbohārikāva supinantacetanā. Tenāha – ‘‘ṭhapetvā supinanta’’nti.
Và cả bốn loại giấc mộng này, chỉ có bậc hữu học và phàm phu mới thấy, vì họ chưa từ bỏ các điên đảo. Còn bậc vô học thì không thấy, vì họ đã từ bỏ các điên đảo. Nhưng người thấy (mộng) này, thấy khi đang ngủ, khi đã thức, hay là không ngủ cũng không thức? Ở đây, nếu nói rằng thấy khi đang ngủ, thì mâu thuẫn với Vi Diệu Pháp xảy ra. Vì người ta ngủ với tâm hữu phần, tâm ấy không có đối tượng là sắc tướng v.v… hoặc không tương ưng với tham ái v.v…; còn những tâm như vậy lại khởi lên nơi người thấy mộng. Nếu thấy khi đã thức, thì mâu thuẫn với Luật tạng xảy ra. Vì điều gì mà người đã thức thấy, người ấy thấy bằng tâm thuộc phạm vi giao dịch. Và khi sự vi phạm được thực hiện bằng tâm thuộc phạm vi giao dịch, thì không có cái gọi là không phạm tội. Nhưng đối với người thấy mộng, dù có vi phạm đi nữa, chắc chắn là không phạm tội. Nếu không ngủ cũng không thức mà thấy, thì ai là người thấy? Và nếu như vậy, thì sẽ dẫn đến tình trạng không có giấc mộng. (Đáp:) Không phải là không có. Tại sao? Vì người bị trạng thái ngủ gà ngủ gật chi phối sẽ thấy (mộng). Điều này đã được nói: “Thưa Đại vương, người bị trạng thái ngủ gà ngủ gật chi phối sẽ thấy mộng”. Người bị trạng thái ngủ gà ngủ gật chi phối nghĩa là người bị giấc ngủ của khỉ tác động. Giống như giấc ngủ của khỉ dễ thay đổi; cũng vậy, giấc ngủ nào dễ thay đổi do thường xuyên xen lẫn với các tâm thiện v.v…, người bị tác động bởi giấc ngủ mà trong quá trình diễn tiến của nó, tâm thường xuyên thoát ra khỏi trạng thái hữu phần, người ấy thấy mộng. Do đó, giấc mộng này có thể là thiện, cũng có thể là bất thiện, cũng có thể là vô ký. Trong đó, khi thực hiện việc đảnh lễ bảo tháp, nghe pháp, thuyết pháp v.v… trong mộng, đó là (mộng) thiện. Khi thực hiện việc sát sanh v.v…, đó là (mộng) bất thiện. (Mộng) được giải thoát khỏi hai cực đoan (thiện và bất thiện) vào khoảnh khắc hướng tâm và khoảnh khắc tâm nắm bắt đối tượng đó, cần được hiểu là vô ký. Tư tâm này, do có nền tảng yếu ớt, không có khả năng tạo ra sự tái sanh. Nhưng trong hiện tại, được hỗ trợ bởi các (nghiệp) thiện và bất thiện khác, nó cho quả. Mặc dù nó cho quả, nhưng tư tâm trong giấc mộng, do khởi lên ngoài đối tượng (không có chủ ý thực sự), vẫn không thuộc phạm vi giao dịch. Do đó, Ngài nói: “trừ trong giấc mộng“.

Saṅghādisesoti imassa āpattinikāyassa nāmaṃ. Tasmā yā aññatra supinantā sañcetanikā sukkavissaṭṭhi , ayaṃ saṅghādiseso nāma āpattinikāyoti evamettha sambandho veditabbo . Vacanattho panettha saṅgho ādimhi ceva sese ca icchitabbo assāti saṅghādiseso. Kiṃ vuttaṃ hoti? Imaṃ āpattiṃ āpajjitvā vuṭṭhātukāmassa yaṃ taṃ āpattivuṭṭhānaṃ, tassa ādimhi ceva parivāsadānatthāya ādito sese ca majjhe mānattadānatthāya mūlāya paṭikassanena vā saha mānattadānatthāya avasāne abbhānatthāya saṅgho icchitabbo. Na hettha ekampi kammaṃ vinā saṅghena sakkā kātunti saṅgho ādimhi ceva sese ca icchitabbo assāti saṅghādisesoti. Byañjanaṃ pana anādiyitvā atthameva dassetuṃ ‘‘saṅghova tassā āpattiyā parivāsaṃ deti, mūlāya paṭikassati, mānattaṃ deti, abbheti na sambahulā na ekapuggalo, tena vuccati saṅghādiseso’’ti idamassa padabhājanaṃ –
Tăng Tàn là tên của loại tội này. Do đó, sự cố ý xuất tinh nào, ngoại trừ trong giấc mộng, đây là loại tội tên là Tăng Tàn; mối liên hệ ở đây cần được hiểu như vậy. Ý nghĩa của từ ở đây là: Tăng chúng cần thiết ở lúc đầu và cả ở phần còn lại, vì vậy gọi là Tăng Tàn. Điều đó có nghĩa là gì? Đối với người muốn phục hồi sau khi phạm tội này, việc phục hồi tội ấy, Tăng chúng cần thiết ở lúc đầu để ban hành biệt trú, và ở phần còn lại: ở giữa để ban hành mã-na-đỏa hoặc cùng với việc kéo về lại gốc để ban hành mã-na-đỏa, và ở cuối cùng để giải tội. Ở đây, không một hành sự nào có thể được thực hiện mà không có Tăng chúng, vì vậy Tăng chúng cần thiết ở lúc đầu và cả ở phần còn lại, nên gọi là Tăng Tàn. Tuy nhiên, không bám vào văn tự mà chỉ để trình bày ý nghĩa, phần phân tích từ của nó là: “Chính Tăng chúng ban hành biệt trú cho tội ấy, kéo về lại gốc, ban hành mã-na-đỏa, giải tội; không phải nhiều người hay một cá nhân, do đó được gọi là Tăng Tàn” –

‘‘Saṅghādisesoti yaṃ vuttaṃ, taṃ suṇohi yathātathaṃ;
Saṅghova deti parivāsaṃ, mūlāya paṭikassati;
Mānattaṃ deti abbheti, tenetaṃ iti vuccatī’’ti. (pari. 339) –
“Điều được gọi là Tăng Tàn, hãy nghe đúng như thật điều đó;
Chính Tăng chúng ban hành biệt trú, kéo về lại gốc;
Ban hành mã-na-đỏa, giải tội, do đó nó được gọi như vậy.” (pari. 339) –

Parivāre vacanakāraṇañca vuttaṃ, tattha parivāsadānādīni samuccayakkhandhake vitthārato āgatāni, tattheva nesaṃ saṃvaṇṇanaṃ karissāma.
Trong Parivāra, lý do của cách gọi cũng đã được nói rõ. Ở đó, việc ban hành biệt trú v.v… đã được trình bày chi tiết trong Samuccayakkhandhaka. Chúng ta sẽ giải thích chúng ở chính nơi đó.

Tasseva āpattinikāyassāti tassa eva āpattisamūhassa. Tattha kiñcāpi ayaṃ ekāva āpatti, rūḷhisaddena pana avayave samūhavohārena vā ‘‘nikāyo’’ti vutto – ‘‘eko vedanākkhandho, eko viññāṇakkhandho’’tiādīsu viya.
Của chính loại tội ấy nghĩa là của chính nhóm tội ấy. Ở đó, mặc dù đây chỉ là một tội, nhưng do cách dùng quen thuộc hoặc do cách gọi một phần như một tập hợp, nó được gọi là “loại” – giống như trong các trường hợp “một uẩn thọ, một uẩn thức” v.v…

Evaṃ uddiṭṭhasikkhāpadaṃ padānukkamena vibhajitvā idāni imaṃ sukkavissaṭṭhiṃ āpajjantassa upāyañca kālañca adhippāyañca adhippāyavatthuñca dassetuṃ ‘‘ajjhattarūpe mocetī’’tiādimāha. Ettha hi ajjhattarūpādīhi catūhi padehi upāyo dassito, ajjhattarūpe vā moceyya bahiddhārūpe vā ubhayattha vā ākāse vā kaṭiṃ kampento, ito paraṃ añño upāyo natthi. Tattha rūpe ghaṭṭetvā mocentopi rūpena ghaṭṭetvā mocentopi rūpe moceticceva veditabbo. Rūpe hi sati so moceti na rūpaṃ alabhitvā. Rāgūpatthambhādīhi pana pañcahi kālo dassito. Rāgūpatthambhādikālesu hi aṅgajātaṃ kammaniyaṃ hoti, yassa kammaniyatte sati moceti. Ito paraṃ añño kālo natthi, na hi vinā rāgūpatthambhādīhi pubbaṇhādayo kālabhedā mocane nimittaṃ honti.
Sau khi đã phân tích điều học được nêu ra theo thứ tự các từ như vậy, bây giờ, để chỉ rõ phương tiện, thời điểm, chủ ý, và đối tượng của chủ ý của người phạm tội cố ý xuất tinh này, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng câu “Làm xuất ra nơi hình sắc bên trong“. Ở đây, phương tiện được chỉ rõ bằng bốn cụm từ: “nơi hình sắc bên trong” v.v… (Người ấy) có thể làm xuất ra nơi hình sắc bên trong, hoặc nơi hình sắc bên ngoài, hoặc ở cả hai, hoặc làm rung động thắt lưng trong hư không. Ngoài những điều này, không có phương tiện nào khác. Ở đó, người làm xuất ra bằng cách cọ xát vào hình sắc, hay người làm xuất ra bằng cách dùng hình sắc cọ xát, đều phải được hiểu là làm xuất ra nơi hình sắc. Vì khi có hình sắc, người ấy mới làm xuất ra, chứ không phải khi không có hình sắc. Còn thời điểm được chỉ rõ bằng năm (trường hợp) như “khi dương vật cương cứng do tham ái” v.v… Vì trong những thời điểm như khi dương vật cương cứng do tham ái, bộ phận sinh dục trở nên dễ hành động, và khi nó dễ hành động, người ấy làm xuất ra. Ngoài những điều này, không có thời điểm nào khác. Vì nếu không có (các trạng thái như) dương vật cương cứng do tham ái v.v…, thì các khoảng thời gian khác nhau như buổi sáng v.v… không phải là nhân tố (quan trọng) cho việc xuất tinh.

Ārogyatthāyātiādīhi dasahi adhippāyo dassito, evarūpena hi adhippāyabhedena moceti na aññathā. Nīlādīhi pana dasahi navamassa adhippāyassa vatthu dassitaṃ, vīmaṃsanto hi nīlādīsu aññatarassa vasena vīmaṃsati na tehi vinimuttanti.
Chủ ý được chỉ rõ bằng mười (trường hợp) như “vì mục đích sức khỏe” v.v… (Người ấy) làm xuất ra với những loại chủ ý khác nhau như vậy, chứ không phải cách khác. Còn đối tượng của chủ ý thứ chín (là sự tìm hiểu) được chỉ rõ bằng mười (màu sắc) như xanh v.v… Vì khi tìm hiểu, người ấy tìm hiểu dựa trên một trong các màu xanh v.v…, chứ không ngoài những màu đó.

238. Ito paraṃ pana imesaṃyeva ajjhattarūpādīnaṃ padānaṃ pakāsanatthaṃ ‘‘ajjhattarūpeti ajjhattaṃ upādinne rūpe’’tiādi vuttaṃ, tattha ajjhattaṃ upādinne rūpeti attano hatthādibhede rūpe. Bahiddhā upādinneti parassa tādiseyeva. Anupādinneti tāḷacchiddādibhede. Tadubhayeti attano ca parassa ca rūpe, ubhayaghaṭṭanavasenetaṃ vuttaṃ. Attano rūpena ca anupādinnarūpena ca ekato ghaṭṭanepi labbhati. Ākāse vāyamantassāti kenaci rūpena aghaṭṭetvā ākāseyeva kaṭikampanapayaogena aṅgajātaṃ cālentassa.
238. Sau đây, để làm rõ nghĩa của chính những từ “nơi hình sắc bên trong” v.v… này, đã được nói bắt đầu bằng câu “Nơi hình sắc bên trong là nơi hình sắc được chấp thủ bên trong” v.v… Ở đó, nơi hình sắc được chấp thủ bên trong là nơi hình sắc thuộc về tự thân như tay v.v… Nơi (hình sắc) được chấp thủ bên ngoài là nơi (hình sắc) tương tự như vậy của người khác. Nơi (hình sắc) không được chấp thủ là (những thứ) như lỗ khóa v.v… Ở cả hai là nơi hình sắc của tự thân và của người khác; điều này được nói theo nghĩa cọ xát cả hai. (Trường hợp) cọ xát cùng lúc bằng hình sắc của tự thân và hình sắc không được chấp thủ cũng được bao gồm. Của người cố gắng trong hư không là của người làm lay động bộ phận sinh dục bằng cách rung động thắt lưng ngay trong hư không mà không cọ xát với bất kỳ hình sắc nào.

Rāgūpatthambheti rāgassa balavabhāve, rāgena vā aṅgajātassa upatthambhe, thaddhabhāve sañjāteti vuttaṃ hoti. Kammaniyaṃ hotīti mocanakammakkhamaṃ ajjhattarūpādīsu upakkamārahaṃ hoti.
Khi dương vật cương cứng do tham ái nghĩa là khi tham ái mạnh mẽ, hoặc khi bộ phận sinh dục cương cứng do tham ái, có nghĩa là trạng thái cứng đờ đã phát sinh. Trở nên dễ hành động nghĩa là có khả năng thực hiện hành vi xuất tinh, thích hợp để cố gắng nơi hình sắc bên trong v.v…

Uccāliṅgapāṇakadaṭṭhūpatthambheti uccāliṅgapāṇakadaṭṭhena aṅgajāte upatthambhe. Uccāliṅgapāṇakā nāma lomasapāṇakā honti, tesaṃ lomehi phuṭṭhaṃ aṅgajātaṃ kaṇḍuṃ gahetvā thaddhaṃ hoti, tattha yasmā tāni lomāni aṅgajātaṃ ḍaṃsantāni viya vijjhanti, tasmā ‘‘uccāliṅgapāṇakadaṭṭhenā’’ti vuttaṃ, atthato pana uccāliṅgapāṇakalomavedhanenāti vuttaṃ hoti.
Khi bộ phận sinh dục cương cứng do bị sâu lông cắn nghĩa là khi bộ phận sinh dục cương cứng do bị sâu lông cắn. Sâu lông là loại sinh vật có lông. Bộ phận sinh dục, khi bị lông của chúng chạm vào, sẽ bị ngứa và trở nên cương cứng. Ở đó, vì những lông ấy đâm vào bộ phận sinh dục giống như đang cắn, do đó được nói là “do bị sâu lông cắn”. Nhưng về mặt ý nghĩa, điều đó có nghĩa là “do sự đâm chích của lông sâu lông”.

239.Arogo bhavissāmīti mocetvā arogo bhavissāmi. Sukhaṃ vedanaṃ uppādessāmīti mocanena ca muccanuppattiyā muttapaccayā ca yā sukhā vedanā hoti, taṃ uppādessāmīti attho. Bhesajjaṃ bhavissatīti idaṃ me mocitaṃ kiñcideva bhesajjaṃ bhavissati. Dānaṃ dassāmīti mocetvā kīṭakipillikādīnaṃ dānaṃ dassāmi. Puññaṃ bhavissatīti mocetvā kīṭādīnaṃ dentassa puññaṃ bhavissati. Yaññaṃ yajissāmīti mocetvā kīṭādīnaṃ yaññaṃ yajissāmi. Kiñci kiñci mantapadaṃ vatvā dassāmīti vuttaṃ hoti. Saggaṃ gamissāmīti mocetvā kīṭādīnaṃ dinnadānena vā puññena vā yaññena vā saggaṃ gamissāmi. Bījaṃ bhavissatīti kulavaṃsaṅkurassa dārakassa bījaṃ bhavissati, ‘‘iminā bījena putto nibbattissatī’’ti iminā adhippāyena mocetīti attho. Vīmaṃsatthāyāti jānanatthāya. Nīlaṃ bhavissatītiādīsu jānissāmi tāva kiṃ me mocitaṃ nīlaṃ bhavissati pītakādīsu aññataravaṇṇanti evamattho daṭṭhabbo. Khiḍḍādhippāyoti khiḍḍāpasuto, tena tena adhippāyena kīḷanto mocetīti vuttaṃ hoti.
239. “Ta sẽ được khỏe mạnh” nghĩa là (nghĩ rằng) sau khi xuất tinh, ta sẽ được khỏe mạnh. “Ta sẽ tạo ra cảm giác sung sướng” nghĩa là ta sẽ tạo ra cảm giác sung sướng nào có được do việc xuất tinh, do sự phát sinh của việc xuất tinh, và do duyên của việc đã xuất tinh. “Nó sẽ là thuốc” nghĩa là thứ ta xuất ra này sẽ là một loại thuốc nào đó. “Ta sẽ bố thí” nghĩa là sau khi xuất tinh, ta sẽ bố thí cho sâu bọ, kiến v.v… “Sẽ có phước” nghĩa là người bố thí cho sâu bọ v.v… sau khi xuất tinh sẽ có phước. “Ta sẽ cúng tế” nghĩa là sau khi xuất tinh, ta sẽ cúng tế cho sâu bọ v.v… Điều đó có nghĩa là ta sẽ nói một vài câu thần chú nào đó rồi cho. “Ta sẽ đi đến cõi trời” nghĩa là sau khi xuất tinh, nhờ sự bố thí, hoặc nhờ phước, hoặc nhờ sự cúng tế cho sâu bọ v.v…, ta sẽ đi đến cõi trời. “Nó sẽ là hạt giống” nghĩa là nó sẽ là hạt giống cho đứa con, mầm mống của dòng dõi; có nghĩa là (người ấy) xuất tinh với chủ ý rằng: “Với hạt giống này, một đứa con trai sẽ được sinh ra”. “Vì mục đích tìm hiểu” nghĩa là vì mục đích biết. Trong các (trường hợp) như “Nó sẽ có màu xanh” v.v…, cần phải hiểu ý nghĩa như sau: ta sẽ biết xem thứ ta xuất ra sẽ có màu xanh hay một màu nào khác trong số các màu vàng v.v… “Chủ ý vui đùa” nghĩa là ham thích vui đùa; điều đó có nghĩa là (người ấy) xuất tinh trong khi vui đùa với chủ ý này hay chủ ý kia.

240. Idāni yadidaṃ ‘‘ajjhattarūpe mocetī’’tiādi vuttaṃ tattha yathā mocento āpattiṃ āpajjati, tesañca padānaṃ vasena yattako āpattibhedo hoti, taṃ sabbaṃ dassento ‘‘ajjhattarūpe ceteti upakkamati muccati āpatti saṅghādisesassā’’tiādimāha.
240. Bây giờ, đối với điều đã được nói bắt đầu bằng câu “Làm xuất ra nơi hình sắc bên trong” v.v…, ở đó, (để chỉ rõ) cách người xuất tinh phạm tội, và có bao nhiêu sự khác biệt về tội tùy theo các từ ấy, để chỉ rõ tất cả những điều đó, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng câu “Nơi hình sắc bên trong, có chủ ý, cố gắng, xuất ra, phạm tội Tăng Tàn“.

Tattha cetetīti mocanassādasampayuttāya cetanāya muccatūti ceteti. Upakkamatīti tadanurūpaṃ vāyāmaṃ karoti. Muccatīti evaṃ cetentassa tadanurūpena vāyāmena vāyamato sukkaṃ ṭhānā cavati. Āpatti saṅghādisesassāti imehi tīhi aṅgehi assa puggalassa saṅghādiseso nāma āpattinikāyo hotīti attho. Esa nayo bahiddhārūpetiādīsupi avasesesu aṭṭhavīsatiyā padesu.
Ở đó, “có chủ ý” nghĩa là có chủ ý rằng “mong cho nó xuất ra” với tư tâm tương ưng với sự thích thú trong việc xuất tinh. “Cố gắng” nghĩa là thực hiện sự cố gắng tương ứng. “Xuất ra” nghĩa là khi người ấy có chủ ý như vậy và cố gắng với sự cố gắng tương ứng, tinh dịch rời khỏi chỗ. “Phạm tội Tăng Tàn” nghĩa là do ba yếu tố này, loại tội tên là Tăng Tàn xảy ra cho người ấy. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho hai mươi tám trường hợp còn lại như “nơi hình sắc bên ngoài” v.v…

Ettha pana dve āpattisahassāni nīharitvā dassetabbāni. Kathaṃ? Ajjhattarūpe tāva rāgūpatthambhe ārogyatthāya nīlaṃ mocentassa ekā āpatti, ajjhattarūpeyeva rāgūpatthambhe ārogyatthāya pītādīnaṃ mocanavasena aparā navāti dasa. Yathā ca ārogyatthāya dasa, evaṃ sukhādīnaṃ navannaṃ padānaṃ atthāya ekekapade dasa dasa katvā navuti, iti imā ca navuti purimā ca dasāti rāgūpatthambhe tāva sataṃ. Yathā pana rāgūpatthambhe evaṃ vaccūpatthambhādīsupi catūsu ekekasmiṃ upatthambhe sataṃ sataṃ katvā cattāri satāni, iti imāni cattāri purimañca ekanti ajjhattarūpe tāva pañcannaṃ upatthambhānaṃ vasena pañca satāni. Yathā ca ajjhattarūpe pañca, evaṃ bahiddhārūpe pañca, ajjhattabahiddhārūpe pañca, ākāse kaṭiṃ kampentassa pañcāti sabbānipi catunnaṃ pañcakānaṃ vasena dve āpattisahassāni veditabbāni.
Ở đây, cần phải rút ra và chỉ rõ hai ngàn tội. Bằng cách nào? Trước hết, đối với người làm xuất ra (tinh dịch) màu xanh nơi hình sắc bên trong, khi dương vật cương cứng do tham ái, vì mục đích sức khỏe, có một tội. Cũng nơi hình sắc bên trong, khi dương vật cương cứng do tham ái, vì mục đích sức khỏe, do việc làm xuất ra (tinh dịch) các màu vàng v.v…, có chín tội khác nữa, (tổng cộng) là mười. Và giống như có mười (tội) vì mục đích sức khỏe, cũng vậy, vì mục đích của chín trường hợp như “sung sướng” v.v…, mỗi trường hợp có mười (tội), thành chín mươi. Như vậy, chín mươi này và mười trước đó, (tổng cộng) là một trăm (tội) trong trường hợp dương vật cương cứng do tham ái. Và giống như trong trường hợp dương vật cương cứng do tham ái, cũng vậy, trong bốn trường hợp như “khi (bộ phận sinh dục) cương cứng do (nhịn) đại tiện” v.v…, mỗi trường hợp cương cứng có một trăm (tội), thành bốn trăm. Như vậy, bốn trăm này và một trăm trước đó, (tổng cộng) là năm trăm (tội) nơi hình sắc bên trong, tùy theo năm trường hợp cương cứng. Và giống như có năm trăm (tội) nơi hình sắc bên trong, cũng vậy, có năm trăm (tội) nơi hình sắc bên ngoài, năm trăm (tội) nơi hình sắc bên trong và bên ngoài, năm trăm (tội) đối với người làm rung động thắt lưng trong hư không, (tổng cộng) tất cả, tùy theo bốn nhóm năm trăm, cần được hiểu là có hai ngàn tội.

Idāni ārogyatthāyātiādīsu tāva dasasu padesu paṭipāṭiyā vā uppaṭipāṭiyā vā heṭṭhā vā gahetvā upari gaṇhantassa, upari vā gahetvā heṭṭhā gaṇhantassa, ubhato vā gahetvā majjhe ṭhapentassa, majjhe vā gahetvā ubhato harantassa, sabbamūlaṃ vā katvā gaṇhantassa cetanūpakkamamocane sati visaṅketo nāma natthīti dassetuṃ ‘‘ārogyatthañca sukhatthañcā’’ti khaṇḍacakkabaddhacakkādibhedavicittaṃ pāḷimāha.
Bây giờ, trước hết, trong mười trường hợp như “vì mục đích sức khỏe” v.v…, đối với người tính toán theo thứ tự thuận, hoặc theo thứ tự ngược, hoặc lấy từ dưới rồi tính lên trên, hoặc lấy từ trên rồi tính xuống dưới, hoặc lấy từ hai đầu rồi đặt vào giữa, hoặc lấy từ giữa rồi mang ra hai đầu, hoặc lấy tất cả làm gốc rồi tính toán, để chỉ rõ rằng khi có sự cố ý, cố gắng và xuất tinh, thì không có cái gọi là ngoại lệ (không phạm tội dựa trên cách kết hợp các mục đích), (Ngài) đã nói những câu Pāḷi đa dạng với các loại khác nhau như “vòng không hoàn chỉnh”, “vòng hoàn chỉnh” (bắt đầu bằng) “Vì mục đích sức khỏe và vì mục đích sung sướng“.

Tattha ārogyatthañca sukhatthañca ārogyatthañca bhesajjatthañcā ti evaṃ ārogyapadaṃ sabbapadehi yojetvā vuttamekaṃ khaṇḍacakkaṃ. Sukhapadādīni sabbapadehi yojetvā yāva attano attano atītānantarapadaṃ tāva ānetvā vuttāni nava baddhacakkānīti evaṃ ekekamūlakāni dasa cakkāni honti, tāni dumūlakādīhi saddhiṃ asammohato vitthāretvā veditabbāni. Attho panettha pākaṭoyeva.
Ở đó, (ví dụ) “Vì mục đích sức khỏe và vì mục đích sung sướng; vì mục đích sức khỏe và vì mục đích thuốc men“, như vậy, trường hợp “vì mục đích sức khỏe” được kết hợp với tất cả các trường hợp khác, tạo thành một “vòng không hoàn chỉnh” đã được nói đến. Các trường hợp như “vì mục đích sung sướng” v.v… được kết hợp với tất cả các trường hợp (khác), cho đến trường hợp ngay trước đó của chính nó, tạo thành chín “vòng hoàn chỉnh” đã được nói đến. Như vậy, có mười vòng, mỗi vòng lấy một trường hợp làm gốc. Chúng cần được hiểu một cách chi tiết và không nhầm lẫn, cùng với (các vòng) có hai gốc v.v… Ý nghĩa thì rõ ràng rồi.

Yathā ca ārogyatthāyātiādīsu dasasu padesu, evaṃ nīlādīsupi ‘‘nīlañca pītakañca ceteti upakkamatī’’tiādinā nayena dasa cakkāni vuttāni, tānipi asammohato vitthāretvā veditabbāni. Attho panettha pākaṭoyeva.
Và giống như trong mười trường hợp như “vì mục đích sức khỏe” v.v…, cũng vậy, trong các (trường hợp màu sắc) như xanh v.v…, mười vòng đã được nói đến theo phương pháp bắt đầu bằng “Có chủ ý và cố gắng (để xuất ra tinh dịch) màu xanh và màu vàng“. Chúng cũng cần được hiểu một cách chi tiết và không nhầm lẫn. Ý nghĩa thì rõ ràng rồi.

Puna ārogyatthañca nīlañca ārogyatthañca sukhatthañca nīlañca pītakañcāti ekenekaṃ dvīhi dve…pe… dasahi dasāti evaṃ purimapadehi saddhiṃ pacchimapadāni yojetvā ekaṃ missakacakkaṃ vuttaṃ.
Lại nữa, (ví dụ) “Vì mục đích sức khỏe và (màu) xanh; vì mục đích sức khỏe và vì mục đích sung sướng, và (màu) xanh và (màu) vàng“, một với một, hai với hai… cho đến… mười với mười, như vậy, bằng cách kết hợp các trường hợp trước với các trường hợp sau, một “vòng hỗn hợp” đã được nói đến.

Idāni yasmā ‘‘nīlaṃ mocessāmī’’ti cetetvā upakkamantassa pītakādīsu muttesupi pītakādivasena cetetvā upakkamantassa itaresu muttesupi nevatthi visaṅketo , tasmā etampi nayaṃ dassetuṃ ‘‘nīlaṃ mocessāmīti ceteti upakkamati pītakaṃ muccatī’’tiādinā nayena cakkāni vuttāni. Tato paraṃ sabbapacchimapadaṃ nīlādīhi navahi padehi saddhiṃ yojetvā kucchicakkaṃ nāma vuttaṃ. Tato pītakādīni nava padāni ekena nīlapadeneva saddhiṃ yojetvā piṭṭhicakkaṃ nāma vuttaṃ. Tato lohitakādīni nava padāni ekena pītakapadeneva saddhiṃ yojetvā dutiyaṃ piṭṭhicakkaṃ vuttaṃ. Evaṃ lohitakapadādīhi saddhiṃ itarāni nava nava padāni yojetvā aññānipi aṭṭha cakkāni vuttānīti evaṃ dasagatikaṃ piṭṭhicakkaṃ veditabbaṃ.
Bây giờ, vì đối với người có chủ ý “Ta sẽ xuất ra (tinh dịch) màu xanh” rồi cố gắng, (nhưng tinh dịch) các màu vàng v.v… lại xuất ra, và đối với người có chủ ý theo các màu vàng v.v… rồi cố gắng, (nhưng tinh dịch) các màu khác lại xuất ra, đều không có ngoại lệ (không phạm tội). Do đó, để chỉ rõ phương pháp này, các vòng đã được nói đến theo cách bắt đầu bằng “Có chủ ý ‘Ta sẽ xuất ra (tinh dịch) màu xanh’, cố gắng, (nhưng tinh dịch) màu vàng lại xuất ra“. Sau đó, bằng cách kết hợp trường hợp cuối cùng nhất với chín trường hợp (màu sắc) như xanh v.v…, một (vòng) gọi là “vòng bụng” đã được nói đến. Sau đó, bằng cách kết hợp chín trường hợp như vàng v.v… chỉ với một trường hợp màu xanh, một (vòng) gọi là “vòng lưng” đã được nói đến. Sau đó, bằng cách kết hợp chín trường hợp như đỏ v.v… chỉ với một trường hợp màu vàng, “vòng lưng” thứ hai đã được nói đến. Như vậy, bằng cách kết hợp các trường hợp như đỏ v.v… với chín trường hợp khác mỗi loại, tám vòng khác nữa đã được nói đến; như vậy, cần hiểu có mười loại “vòng lưng”.

Evaṃ khaṇḍacakkādīnaṃ anekesaṃ cakkānaṃ vasena vitthārato garukāpattimeva dassetvā idāni aṅgavaseneva garukāpattiñca lahukāpattiñca anāpattiñca dassetuṃ ‘‘ceteti upakkamati muccatī’’tiādimāha. Tattha purimanayena ajjhattarūpādīsu rāgādiupatthambhe sati ārogyādīnaṃ atthāya cetentassa upakkamitvā asucimocane tivaṅgasampannā garukāpatti vuttā. Dutiyena nayena cetentassa upakkamantassa ca mocane asati duvaṅgasampannā lahukā thullaccayāpatti. ‘‘Ceteti na upakkamati muccatī’’tiādīhi chahi nayehi anāpatti.
Sau khi đã chỉ rõ một cách chi tiết chỉ tội nặng dựa trên nhiều vòng như “vòng không hoàn chỉnh” v.v… như vậy, bây giờ, để chỉ rõ tội nặng, tội nhẹ, và không phạm tội chỉ dựa trên các yếu tố, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Có chủ ý, cố gắng, xuất ra“. Ở đó, theo phương pháp trước, đối với người có chủ ý vì mục đích sức khỏe v.v…, khi (bộ phận sinh dục) cương cứng do tham ái v.v… nơi hình sắc bên trong v.v…, rồi cố gắng và làm xuất ra vật bất tịnh, tội nặng với đầy đủ ba yếu tố đã được nói đến. Theo phương pháp thứ hai, đối với người có chủ ý và cố gắng, nhưng không có sự xuất tinh, tội Trọng là tội nhẹ với đầy đủ hai yếu tố. Với sáu phương pháp như “Có chủ ý, không cố gắng, (nhưng) xuất ra” v.v…, là không phạm tội.

Ayaṃ pana āpattānāpattibhedo saṇho sukhumo, tasmā suṭṭhu sallakkhetabbo . Suṭṭhu sallakkhetvā kukkuccaṃ pucchitena āpatti vā anāpatti vā ācikkhitabbā, vinayakammaṃ vā kātabbaṃ. Asallakkhetvā karonto hi roganidānaṃ ajānitvā bhesajjaṃ karonto vejjo viya vighātañca āpajjati, na ca taṃ puggalaṃ tikicchituṃ samattho hoti. Tatrāyaṃ sallakkhaṇavidhi – kukkuccena āgato bhikkhu yāvatatiyaṃ pucchitabbo – ‘‘katarena payogena katarena rāgena āpannosī’’ti. Sace paṭhamaṃ aññaṃ vatvā pacchā aññaṃ vadati na ekamaggena katheti, so vattabbo – ‘‘tvaṃ na ekamaggena kathesi pariharasi, na sakkā tava vinayakammaṃ kātuṃ gaccha sotthiṃ gavesā’’ti. Sace pana tikkhattumpi ekamaggeneva katheti, yathābhūtaṃ attānaṃ āvikaroti, athassa āpattānāpattigarukalahukāpattivinicchayatthaṃ ekādasannaṃ rāgānaṃ vasena ekādasa payogā samavekkhitabbā.
Sự phân biệt tội và không phạm tội này thì tế nhị, vi tế, do đó cần phải được xem xét kỹ lưỡng. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, tội hoặc không phạm tội cần được nói rõ cho người hỏi với sự hối tiếc (về việc đã làm), hoặc hành sự theo Luật cần được thực hiện. Vì người thực hiện mà không xem xét kỹ lưỡng, giống như thầy thuốc chữa bệnh mà không biết nguyên nhân bệnh, sẽ gặp phải trở ngại và không có khả năng chữa trị cho người đó. Ở đó, phương pháp xem xét là như sau: vị Tỳ khưu đến với sự hối tiếc cần được hỏi đến lần thứ ba: “Ngươi đã phạm (tội) bằng phương tiện nào, với loại tham ái nào?” Nếu lần đầu nói một đằng, sau đó lại nói một nẻo, không nói theo một đường lối nhất quán, vị ấy cần được bảo rằng: “Ngươi không nói theo một đường lối nhất quán, ngươi đang tránh né; không thể thực hiện hành sự theo Luật cho ngươi được. Hãy đi tìm sự an ổn (cho mình đi).” Nhưng nếu cả ba lần đều nói theo một đường lối nhất quán, bày tỏ bản thân đúng như thật, thì để quyết định tội, không phạm tội, tội nặng, tội nhẹ, mười một phương tiện cần được xem xét dựa trên mười một loại tham ái.

Tatrime ekādasa rāgā – mocanassādo, muccanassādo, muttassādo, methunassādo, phassassādo, kaṇḍuvanassādo, dassanassādo, nisajjassādo, vācassādo, gehassitapemaṃ, vanabhaṅgiyanti. Tattha mocetuṃ assādo mocanassādo, muccane assādo muccanassādo, mutte assādo muttassādo, methune assādo methunassādo, phasse assādo phassassādo, kaṇḍuvane assādo kaṇḍuvanassādo, dassane assādo dassanassādo, nisajjāya assādo nisajjassādo, vācāya assādo vācassādo, gehassitaṃ pemaṃ gehassitapemaṃ, vanabhaṅgiyanti yaṃkiñci pupphaphalādi vanato bhañjitvā āhaṭaṃ. Ettha ca navahi padehi sampayuttaassādasīsena rāgo vutto. Ekena padena sarūpeneva, ekena padena vatthunā vutto, vanabhaṅgo hi rāgassa vatthu na rāgoyeva.
Đó là mười một loại tham ái: sự thích thú trong việc làm cho xuất ra, sự thích thú trong khi đang xuất ra, sự thích thú sau khi đã xuất ra, sự thích thú trong việc giao hợp, sự thích thú trong sự xúc chạm, sự thích thú trong việc gãi ngứa, sự thích thú trong việc nhìn, sự thích thú trong việc ngồi (gần), sự thích thú trong lời nói, tình yêu quyến luyến đời sống tại gia, và (sự thích thú đối với) vật hái từ rừng. Ở đó, sự thích thú để làm cho xuất ra là “sự thích thú trong việc làm cho xuất ra”; sự thích thú trong khi đang xuất ra là “sự thích thú trong khi đang xuất ra”; sự thích thú sau khi đã xuất ra là “sự thích thú sau khi đã xuất ra”; sự thích thú trong việc giao hợp là “sự thích thú trong việc giao hợp”; sự thích thú trong sự xúc chạm là “sự thích thú trong sự xúc chạm”; sự thích thú trong việc gãi ngứa là “sự thích thú trong việc gãi ngứa”; sự thích thú trong việc nhìn là “sự thích thú trong việc nhìn”; sự thích thú trong việc ngồi (gần) là “sự thích thú trong việc ngồi (gần)”; sự thích thú trong lời nói là “sự thích thú trong lời nói”; tình yêu quyến luyến đời sống tại gia là “tình yêu quyến luyến đời sống tại gia”. “Vật hái từ rừng” là bất cứ thứ gì như hoa, quả v.v… được hái từ rừng mang về. Ở đây, tham ái được nói đến dưới hình thức sự thích thú tương ưng với chín trường hợp đầu. Với một trường hợp (tình yêu quyến luyến đời sống tại gia), (tham ái) được nói bằng chính bản chất của nó; với một trường hợp (vật hái từ rừng), (tham ái) được nói thông qua đối tượng của nó. Vì “vật hái từ rừng” là đối tượng của tham ái, chứ không phải chính tham ái.

Etesaṃ pana rāgānaṃ vasena evaṃ payogā samavekkhitabbā – mocanassāde mocanassādacetanāya cetento ceva assādento ca upakkamati muccati saṅghādiseso. Tatheva cetento ca assādento ca upakkamati na muccati thullaccayaṃ. Sace pana sayanakāle rāgapariyuṭṭhito hutvā ūrunā vā muṭṭhinā vā aṅgajātaṃ gāḷhaṃ pīḷetvā mocanatthāya saussāhova supati, supantassa cassa asuci muccati saṅghādiseso. Sace rāgapariyuṭṭhānaṃ asubhamanasikārena vūpasametvā suddhacitto supati, supantassa muttepi anāpatti.
Dựa trên các loại tham ái này, các phương tiện cần được xem xét như sau: Trong trường hợp “sự thích thú trong việc làm cho xuất ra”: có chủ ý với tư tâm thích thú việc làm cho xuất ra, đồng thời thưởng thức, rồi cố gắng và xuất ra, phạm tội Tăng Tàn. Tương tự như vậy, có chủ ý và thưởng thức, rồi cố gắng nhưng không xuất ra, phạm tội Trọng. Nếu vào lúc ngủ, bị tham ái xâm chiếm, rồi dùng đùi hoặc nắm tay ép mạnh bộ phận sinh dục, ngủ với sự cố gắng để làm cho xuất ra, và vật bất tịnh xuất ra trong khi đang ngủ của người ấy, phạm tội Tăng Tàn. Nếu làm lắng dịu sự xâm chiếm của tham ái bằng cách tác ý đến sự bất tịnh, rồi ngủ với tâm thanh tịnh, dù (vật bất tịnh) xuất ra trong khi ngủ, cũng không phạm tội.

Muccanassāde attano dhammatāya muccamānaṃ assādeti na upakkamati anāpatti. Sace pana muccamānaṃ assādento upakkamati, tena upakkamena mutte saṅghādiseso. Attano dhammatāya muccamāne ‘‘mā kāsāvaṃ vā senāsanaṃ vā dussī’’ti aṅgajātaṃ gahetvā jagganatthāya udakaṭṭhānaṃ gacchati vaṭṭatīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ.
Trong trường hợp “sự thích thú trong khi đang xuất ra”: thưởng thức (tinh dịch) đang xuất ra một cách tự nhiên mà không cố gắng, không phạm tội. Nhưng nếu trong khi thưởng thức (tinh dịch) đang xuất ra mà lại cố gắng, và (tinh dịch) xuất ra do sự cố gắng ấy, phạm tội Tăng Tàn. Khi (tinh dịch) đang xuất ra một cách tự nhiên, (nghĩ rằng) “mong cho nó đừng làm dơ y ca-sa hoặc sàng tọa”, rồi nắm lấy bộ phận sinh dục và đi đến chỗ có nước để canh chừng, điều đó được phép, như đã nói trong Mahāpaccariya.

Muttassāde attano dhammatāya mutte ṭhānā cute asucimhi pacchā assādentassa vinā upakkamena muccati, anāpatti. Sace assādetvā puna mocanatthāya nimitte upakkamitvā moceti, saṅghādiseso.
Trong trường hợp “sự thích thú sau khi đã xuất ra”: đối với người thưởng thức sau khi vật bất tịnh đã xuất ra một cách tự nhiên và rời khỏi chỗ, nếu (vật bất tịnh) xuất ra (thêm nữa) mà không có sự cố gắng, không phạm tội. Nếu sau khi thưởng thức, lại cố gắng nơi bộ phận sinh dục để làm xuất ra thêm nữa và làm cho nó xuất ra, phạm tội Tăng Tàn.

Methunassāde methunarāgena mātugāmaṃ gaṇhāti, tena payogena asuci muccati, anāpatti. Methunadhammassa payogattā pana tādise gahaṇe dukkaṭaṃ, sīsaṃ patte pārājikaṃ. Sace methunarāgena ratto puna assādetvā mocanatthāya nimitte upakkamitvā moceti, saṅghādiseso.
Trong trường hợp “sự thích thú trong việc giao hợp”: do tham ái trong việc giao hợp mà nắm giữ người nữ, nếu vật bất tịnh xuất ra do phương tiện ấy, không phạm tội (Tăng Tàn về xuất tinh). Tuy nhiên, do là phương tiện của hành vi giao hợp, việc nắm giữ như vậy phạm tội Tác Ác; nếu đến mức (giao hợp) thành công, phạm tội bất cộng trụ. Nếu bị say đắm bởi tham ái trong việc giao hợp, rồi lại thưởng thức và cố gắng nơi bộ phận sinh dục để làm cho xuất ra, phạm tội Tăng Tàn.

Phassassāde duvidho phasso – ajjhattiko, bāhiro ca. Ajjhattike tāva attano nimittaṃ thaddhaṃ mudukanti jānissāmīti vā lolabhāvena vā kīḷāpayato asuci muccati, anāpatti. Sace kīḷāpento assādetvā mocanatthāya nimitte upakkamitvā moceti, saṅghādiseso. Bāhiraphasse pana kāyasaṃsaggarāgena mātugāmassa aṅgamaṅgāni parāmasato ceva āliṅgato ca asuci muccati, anāpatti. Kāyasaṃsaggasaṅghādisesaṃ pana āpajjati. Sace kāyasaṃsaggarāgena ratto puna assādetvā mocanatthāya nimitte upakkamitvā moceti visaṭṭhipaccayāpi saṅghādiseso.
Trong trường hợp “sự thích thú trong sự xúc chạm”: có hai loại xúc chạm – bên trong và bên ngoài. Trước hết, về xúc chạm bên trong: nếu vật bất tịnh xuất ra do (vị ấy) mân mê bộ phận sinh dục của mình với ý nghĩ “Ta sẽ biết xem nó cứng hay mềm”, hoặc do tính ham muốn, không phạm tội. Nếu trong khi mân mê, (vị ấy) thưởng thức rồi cố gắng nơi bộ phận sinh dục để làm cho xuất ra, phạm tội Tăng Tàn. Còn về xúc chạm bên ngoài: nếu vật bất tịnh xuất ra do (vị ấy) chạm đến các bộ phận thân thể của người nữ và ôm lấy do tham ái trong sự tiếp xúc thân thể, không phạm tội (Tăng Tàn về xuất tinh). Tuy nhiên, (vị ấy) phạm tội Tăng Tàn về sự tiếp xúc thân thể. Nếu bị say đắm bởi tham ái trong sự tiếp xúc thân thể, rồi lại thưởng thức và cố gắng nơi bộ phận sinh dục để làm cho xuất ra, thì cũng phạm tội Tăng Tàn do duyên xuất tinh.

Kaṇḍuvanassāde daddukacchupiḷakapāṇakādīnaṃ aññataravasena kaṇḍuvamānaṃ nimittaṃ kaṇḍuvanassāde neva kaṇḍuvato asuci muccati, anāpatti. Kaṇḍuvanassādena ratto puna assādetvā mocanatthāya nimitte upakkamitvā moceti, saṅghādiseso.
Trong trường hợp “sự thích thú trong việc gãi ngứa”: nếu vật bất tịnh xuất ra do gãi bộ phận sinh dục đang bị ngứa do một trong các (nguyên nhân) như ghẻ lở, chốc, mụn nhọt, sâu bọ v.v…, mà không phải vì sự thích thú trong việc gãi ngứa, không phạm tội. Nếu bị say đắm bởi sự thích thú trong việc gãi ngứa, rồi lại thưởng thức và cố gắng nơi bộ phận sinh dục để làm cho xuất ra, phạm tội Tăng Tàn.

Dassanassāde dassanassādena punappunaṃ mātugāmassa anokāsaṃ upanijjhāyato asuci muccati, anāpatti. Mātugāmassa anokāsupanijjhāne pana dukkaṭaṃ. Sace dassanassādena ratto puna assādetvā mocanatthāya nimitte upakkamitvā moceti, saṅghādiseso.
Trong trường hợp “sự thích thú trong việc nhìn”: nếu vật bất tịnh xuất ra do (vị ấy) nhìn chăm chú nhiều lần vào chỗ không thích hợp của người nữ vì sự thích thú trong việc nhìn, không phạm tội (Tăng Tàn về xuất tinh). Tuy nhiên, việc nhìn chăm chú vào chỗ không thích hợp của người nữ phạm tội Tác Ác. Nếu bị say đắm bởi sự thích thú trong việc nhìn, rồi lại thưởng thức và cố gắng nơi bộ phận sinh dục để làm cho xuất ra, phạm tội Tăng Tàn.

Nisajjassāde mātugāmena saddhiṃ raho nisajjassādarāgena nisinnassa asuci muccati, anāpatti. Raho nisajjapaccayā pana āpannāya āpattiyā kāretabbo. Sace nisajjassādena ratto puna assādetvā mocanatthāya nimitte upakkamitvā moceti, saṅghādiseso.
Trong trường hợp “sự thích thú trong việc ngồi (gần)”: nếu vật bất tịnh xuất ra của người ngồi riêng tư với người nữ do tham ái trong sự thích thú việc ngồi riêng tư, không phạm tội (Tăng Tàn về xuất tinh). Tuy nhiên, do duyên ngồi riêng tư, (vị ấy) phải bị xử trị theo tội đã phạm. Nếu bị say đắm bởi sự thích thú trong việc ngồi (gần), rồi lại thưởng thức và cố gắng nơi bộ phận sinh dục để làm cho xuất ra, phạm tội Tăng Tàn.

Vācassāde vācassādarāgena mātugāmaṃ methunasannissitāhi vācāhi obhāsantassa asuci muccati, anāpatti. Duṭṭhullavācāsaṅghādisesaṃ pana āpajjati. Sace vācassādena ratto puna assādetvā mocanatthāya nimitte upakkamitvā moceti, saṅghādiseso.
Trong trường hợp “sự thích thú trong lời nói”: nếu vật bất tịnh xuất ra của người nói chuyện với người nữ bằng những lời lẽ liên quan đến việc giao hợp do tham ái trong sự thích thú lời nói, không phạm tội (Tăng Tàn về xuất tinh). Tuy nhiên, (vị ấy) phạm tội Tăng Tàn về lời nói thô tục. Nếu bị say đắm bởi sự thích thú trong lời nói, rồi lại thưởng thức và cố gắng nơi bộ phận sinh dục để làm cho xuất ra, phạm tội Tăng Tàn.

Gehassitapeme mātaraṃ vā mātupemena bhaginiṃ vā bhaginipemena punappunaṃ parāmasato ceva āliṅgato ca asuci muccati, anāpatti. Gehassitapemena pana phusanapaccayā dukkaṭaṃ. Sace gehassitapemena ratto puna assādetvā mocanatthāya nimitte upakkamitvā moceti, saṅghādiseso.
Trong trường hợp “tình yêu quyến luyến đời sống tại gia”: nếu vật bất tịnh xuất ra do (vị ấy) chạm đến và ôm nhiều lần mẹ mình với tình thương của người mẹ, hoặc chị/em gái mình với tình thương của chị/em gái, không phạm tội. Tuy nhiên, do duyên xúc chạm với tình yêu quyến luyến đời sống tại gia, phạm tội Tác ác. Nếu bị say đắm bởi tình yêu quyến luyến đời sống tại gia, rồi lại thưởng thức và cố gắng nơi bộ phận sinh dục để làm cho xuất ra, phạm tội Tăng Tàn.

Vanabhaṅge itthipurisā aññamaññaṃ kiñcideva tambūlagandhapupphavāsādippakāraṃ paṇṇākāraṃ mittasanthavabhāvassa daḷhabhāvatthāya pesenti ayaṃ vanabhaṅgo nāma. Tañce mātugāmo kassaci saṃsaṭṭhavihārikassa kulūpakabhikkhuno peseti, tassa ca ‘‘asukāya nāma idaṃ pesita’’nti sārattassa punappunaṃ hatthehi taṃ vanabhaṅgaṃ kīḷāpayato asuci muccati, anāpatti. Sace vanabhaṅge sāratto puna assādetvā mocanatthāya nimitte upakkamitvā moceti, saṅghādiseso. Sace upakkamantepi na muccati, thullaccayaṃ.
Trong trường hợp “(sự thích thú đối với) vật hái từ rừng”: người nam và người nữ gửi cho nhau một loại tặng phẩm nào đó như trầu cau, hương liệu, hoa, nước hoa v.v… để làm cho tình bạn thân thiết trở nên bền chặt, đây gọi là “vật hái từ rừng”. Nếu người nữ gửi tặng phẩm ấy cho một vị Tỳ khưu nào đó thường lui tới gia đình và sống thân cận, và nếu vật bất tịnh xuất ra của vị ấy, người bị say đắm (nghĩ rằng) “Thứ này do người tên là X gửi đến”, do mân mê tặng phẩm ấy bằng tay nhiều lần, không phạm tội. Nếu bị say đắm nơi tặng phẩm từ rừng, rồi lại thưởng thức và cố gắng nơi bộ phận sinh dục để làm cho xuất ra, phạm tội Tăng Tàn. Nếu dù cố gắng mà không xuất ra, phạm tội Trọng.

Evametesaṃ ekādasannaṃ rāgānaṃ vasena ime ekādasa payoge samevekkhitvā āpatti vā anāpatti vā sallakkhetabbā. Sallakkhetvā sace garukā hoti ‘‘garukā’’ti ācikkhitabbā. Sace lahukā hoti ‘‘lahukā’’ti ācikkhitabbā. Tadanurūpañca vinayakammaṃ kātabbaṃ. Evañhi kataṃ sukataṃ hoti roganidānaṃ ñatvā vejjena katabhesajjamiva, tassa ca puggalassa sotthibhāvāya saṃvattati.
Như vậy, dựa trên mười một loại tham ái này, sau khi xem xét mười một phương tiện này, tội hoặc không phạm tội cần được nhận biết. Sau khi nhận biết, nếu là tội nặng, cần được nói rõ là “tội nặng”. Nếu là tội nhẹ, cần được nói rõ là “tội nhẹ”. Và hành sự theo Luật tương ứng cần được thực hiện. Vì được thực hiện như vậy là khéo làm, giống như việc chữa bệnh của thầy thuốc sau khi đã biết nguyên nhân bệnh; và điều đó dẫn đến sự an ổn cho người ấy.

262.Ceteti na upakkamatītiādīsu mocanassādacetanāya ceteti, na upakkamati, muccati, anāpatti. Mocanassādapīḷito ‘‘aho vata mucceyyā’’ti ceteti, na upakkamati, na muccati, anāpatti. Mocanassādena na ceteti, phassassādena kaṇḍuvanassādena vā upakkamati, muccati, anāpatti. Tatheva na ceteti, upakkamati, na muccati, anāpatti. Kāmavitakkaṃ vitakkento mocanatthāya na ceteti, na upakkamati, muccati, anāpatti. Sace panassa vitakkayatopi na muccati idaṃ āgatameva hoti, ‘‘na ceteti, na upakkamati, na muccati, anāpattī’’ti.
262. Trong các (trường hợp) như “Có chủ ý, không cố gắng” v.v…: có chủ ý với tư tâm thích thú việc làm cho xuất ra, không cố gắng, (nhưng) xuất ra, không phạm tội. Bị sự thích thú trong việc làm cho xuất ra thúc ép, có chủ ý rằng “Mong sao nó xuất ra!”, không cố gắng, không xuất ra, không phạm tội. Không có chủ ý với sự thích thú trong việc làm cho xuất ra, nhưng cố gắng vì sự thích thú trong sự xúc chạm hoặc sự thích thú trong việc gãi ngứa, (và) xuất ra, không phạm tội. Tương tự như vậy, không có chủ ý, (nhưng) cố gắng, không xuất ra, không phạm tội. Suy nghĩ về dục tầm, không có chủ ý để làm cho xuất ra, không cố gắng, (nhưng) xuất ra, không phạm tội. Và nếu dù có suy nghĩ mà cũng không xuất ra, thì điều này cũng đã được bao gồm: “Không có chủ ý, không cố gắng, không xuất ra, không phạm tội”.

Anāpattisupinantenāti suttassa supine methunaṃ dhammaṃ paṭisevantassa viya kāyasaṃsaggādīni āpajjantassa viya supinanteneva kāraṇena yassa asuci muccati, tassa anāpatti. Supine pana uppannāya assādacetanāya sacassa visayo hoti, niccalena bhavitabbaṃ, na hatthena nimittaṃ kīḷāpetabbaṃ, kāsāvapaccattharaṇarakkhaṇatthaṃ pana hatthapuṭena gahetvā jagganatthāya udakaṭṭhānaṃ gantuṃ vaṭṭati.
Không phạm tội (nếu xuất tinh) trong giấc mộng nghĩa là đối với người đang ngủ, nếu vật bất tịnh xuất ra chỉ do nguyên nhân trong giấc mộng, giống như đang thực hành hành vi giao hợp hoặc phạm các tội như tiếp xúc thân thể v.v… trong mộng, người ấy không phạm tội. Tuy nhiên, trong giấc mộng, nếu có đối tượng của tư tâm thích thú khởi lên, cần phải giữ thân bất động. Không được dùng tay mân mê bộ phận sinh dục. Tuy nhiên, để giữ gìn y ca-sa và đồ trải giường, được phép dùng lòng bàn tay giữ lấy (bộ phận sinh dục) và đi đến chỗ có nước để canh chừng.

Namocanādhippāyassāti yassa bhesajjena vā nimittaṃ ālimpantassa uccārādīni vā karontassa namocanādhippāyassa muccati, tassāpi anāpatti. Ummattakassa duvidhassāpi anāpatti. Idha seyyasako ādikammiko, tassa anāpatti ādikammikassāti.
Của người không có chủ ý làm cho xuất ra nghĩa là đối với người nào mà (tinh dịch) xuất ra trong khi đang bôi thuốc vào bộ phận sinh dục, hoặc trong khi đang đại tiện v.v…, mà không có chủ ý làm cho xuất ra, người ấy cũng không phạm tội. Đối với người điên cả hai loại, cũng không phạm tội. Ở đây, Seyyasaka là người phạm tội đầu tiên; (nhưng) đối với người phạm tội đầu tiên ấy, là không phạm tội (vì khi đó giới luật chưa được chế định).

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Phân Tích Từ đã hoàn tất.

Samuṭṭhānādīsu idaṃ sikkhāpadaṃ paṭhamapārājikasamuṭṭhānaṃ kāyacittato samuṭṭhāti. Kiriyā, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, akusalacittaṃ, dvivedanaṃ, sukhamajjhattadvayenāti.
Về sự khởi lên v.v…, điều học này có sự khởi lên giống như tội bất cộng trụ thứ nhất, khởi lên từ thân và tâm. (Nó là) hành động, (có thể) thoát tội do nhận thức sai lầm (nếu không có ý định), có chủ ý, bị đời chê trách, là hành động thuộc về thân, (liên quan đến) tâm bất thiện, có hai loại cảm thọ, (và được thực hiện) với sự sung sướng qua cả hai (thân và tâm).

263. Vinītavatthūsu supinavatthu anupaññattiyaṃ vuttanayameva. Uccārapassāvavatthūni uttānatthāneva.
263. Trong các trường hợp đã được quyết đoán, trường hợp giấc mộng thì theo phương pháp đã nói trong phần bổ sung. Các trường hợp đại tiện, tiểu tiện thì ý nghĩa rõ ràng.

Vitakkavatthusmiṃ kāmavitakkanti gehassitakāmavitakkaṃ. Tattha kiñcāpi anāpatti vuttā, atha kho vitakkagatikena na bhavitabbaṃ. Uṇhodakavatthūsu paṭhamaṃ uttānameva. Dutiye so bhikkhu mocetukāmo uṇhodakena nimittaṃ paharitvā paharitvā nhāyi, tenassa āpatti vuttā. Tatiye upakkamassa atthitāya thullaccayaṃ. Bhesajjakaṇḍuvanavatthūni uttānatthāneva.
Trong trường hợp về tầm (suy nghĩ), dục tầm là dục tầm quyến luyến đời sống tại gia. Ở đó, mặc dù đã nói là không phạm tội, nhưng không nên có xu hướng suy nghĩ (về dục). Trong các trường hợp nước nóng, trường hợp đầu tiên ý nghĩa rõ ràng. Trong trường hợp thứ hai, vị Tỳ khưu ấy muốn làm cho xuất ra, đã dùng nước nóng dội nhiều lần vào bộ phận sinh dục rồi tắm; do đó, tội đã được nói cho vị ấy. Trong trường hợp thứ ba, do có sự cố gắng, (phạm tội) Trọng. Các trường hợp thuốc men, gãi ngứa thì ý nghĩa rõ ràng.

264.Maggavatthūsu paṭhamassa thulaūrukassa maggaṃ gacchantassa sambādhaṭṭhāne ghaṭṭanāya asuci mucci, tassa namocanādhippāyattā anāpatti. Dutiyassa tatheva mucci, mocanādhippāyattā pana saṅghādiseso. Tatiyassa na mucci, upakkamasabbhāvato pana thullaccayaṃ. Tasmā maggaṃ gacchantena uppanne pariḷāhe na gantabbaṃ, gamanaṃ upacchinditvā asubhādimanasikārena cittaṃ vūpasametvā suddhacittena kammaṭṭhānaṃ ādāya gantabbaṃ. Sace ṭhito vinodetuṃ na sakkoti, maggā okkamma nisīditvā vinodetvā kammaṭṭhānaṃ ādāya suddhacitteneva gantabbaṃ.
264. Trong các trường hợp đi đường: đối với trường hợp đầu tiên, của người có đùi to, khi đang đi đường, vật bất tịnh đã xuất ra do sự cọ xát ở chỗ chật hẹp; vị ấy không phạm tội do không có chủ ý làm cho xuất ra. Đối với trường hợp thứ hai, (vật bất tịnh) cũng xuất ra như vậy, nhưng do có chủ ý làm cho xuất ra, phạm tội Tăng Tàn. Đối với trường hợp thứ ba, (vật bất tịnh) không xuất ra, nhưng do có sự cố gắng, phạm tội Trọng. Do đó, người đang đi đường, khi sự thiêu đốt (của dục vọng) khởi lên, không nên đi tiếp. (Vị ấy) nên dừng việc đi, làm lắng dịu tâm bằng cách tác ý đến sự bất tịnh v.v…, rồi với tâm thanh tịnh, thọ trì đề mục thiền định rồi hãy đi. Nếu đứng mà không thể xua tan (dục vọng), (vị ấy) nên rời khỏi đường, ngồi xuống, xua tan (dục vọng), rồi thọ trì đề mục thiền định, và chỉ đi với tâm thanh tịnh.

Vatthivatthūsu te bhikkhū vatthiṃ daḷhaṃ gahetvā pūretvā pūretvā vissajjentā gāmadārakā viya passāvamakaṃsu. Jantāgharavatthusmiṃ udaraṃ tāpentassa mocanādhippāyassāpi amocanādhippāyassāpi mutte anāpattiyeva. Parikammaṃ karontassa nimittacālanavasena asuci mucci, tasmā āpattiṭṭhāne āpatti vuttā.
Trong các trường hợp về ống thụt: các vị Tỳ khưu ấy, giống như những đứa trẻ trong làng, đã nắm chặt ống thụt, bơm đầy rồi lại xả ra, làm cho (tinh dịch) xuất ra. Trong trường hợp nhà xông hơi: đối với người đang làm nóng bụng, dù có chủ ý làm cho xuất ra hay không có chủ ý làm cho xuất ra, nếu (tinh dịch) xuất ra, đều không phạm tội. Đối với người đang thực hiện sự xoa bóp, vật bất tịnh đã xuất ra do sự lay động bộ phận sinh dục; do đó, tội đã được nói đến trong trường hợp phạm tội.

265.Ūrughaṭṭāpanavatthūsu yesaṃ āpatti vuttā te aṅgajātampi phusāpesunti veditabbāti evaṃ kurundaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Sāmaṇerādivatthūni uttānatthāneva.
265. Trong các trường hợp cọ xát đùi: những người mà tội đã được nói đến, cần được hiểu là họ cũng làm cho bộ phận sinh dục tiếp xúc; như vậy đã được nói trong Kurundaṭṭhakathā. Các trường hợp về Sa-di v.v… thì ý nghĩa rõ ràng.

266. Kāyatthambhanavatthusmiṃ kāyaṃ thambhentassāti ciraṃ nisīditvā vā nipajjitvā vā navakammaṃ vā katvā ālasiyavimocanatthaṃ vijambhentassa.
266. Trong trường hợp căng duỗi thân thể: của người đang căng duỗi thân thể nghĩa là của người đang vươn vai để giải tỏa sự uể oải sau khi đã ngồi lâu, hoặc nằm lâu, hoặc làm công việc mới.

Upanijjhāyanavatthusmiṃ sacepi paṭasataṃ nivatthā hoti purato vā pacchato vā ṭhatvā ‘‘imasmiṃ nāma okāse nimitta’’nti upanijjhāyantassa dukkaṭameva. Anivatthānaṃ gāmadārikānaṃ nimittaṃ upanijjhāyantassa pana kimeva vattabbaṃ. Tiracchānagatānampi nimitte eseva nayo. Ito cito ca aviloketvā pana divasampi ekapayogena upanijjhāyantassa ekameva dukkaṭaṃ. Ito cito ca viloketvā punappunaṃ upanijjhāyantassa payoge payoge dukkaṭaṃ. Ummīlananimīlanavasena pana na kāretabbo. Sahasā upanijjhāyitvā puna paṭisaṅkhāya saṃvare tiṭṭhato anāpatti, taṃ saṃvaraṃ pahāya puna upanijjhāyato dukkaṭameva.
Trong trường hợp nhìn chăm chú: dù (người nữ) có mặc cả trăm lớp vải, đối với người đứng phía trước hoặc phía sau rồi nhìn chăm chú (nghĩ rằng) “Bộ phận sinh dục ở chỗ này”, vẫn là tội Tác Ác. Còn đối với người nhìn chăm chú vào bộ phận sinh dục của những cô gái trong làng không mặc y phục, thì còn gì để nói nữa! Đối với bộ phận sinh dục của các loài bàng sanh, phương pháp cũng như vậy. Tuy nhiên, đối với người nhìn chăm chú suốt cả ngày bằng một hành vi duy nhất mà không nhìn qua lại chỗ này chỗ kia, chỉ là tội Tác Ác. Đối với người nhìn qua lại chỗ này chỗ kia rồi nhìn chăm chú nhiều lần, mỗi hành vi (nhìn) là tội Tác Ác. Tuy nhiên, không nên xử phạt dựa trên việc nhắm mắt mở mắt. Người vô ý nhìn chăm chú, rồi sau đó suy xét lại và giữ gìn sự thu thúc, không phạm tội; người từ bỏ sự thu thúc đó rồi lại nhìn chăm chú, vẫn là tội Tác Ác.

267.Tāḷacchiddādivatthūni uttānatthāneva. Nhānavatthūsu ye udakasotaṃ nimittena pahariṃsu tesaṃ āpatti vuttā. Udañjalavatthūsupi eseva nayo. Ettha ca udañjalanti udakacikkhallo vuccati. Eteneva upāyena ito parāni sabbāneva udake dhāvanādivatthūni veditabbāni. Ayaṃ pana viseso. Pupphāvaḷiyavatthūsu sacepi namocanādhippāyassa anāpatti, kīḷanapaccayā pana dukkaṭaṃ hotīti.
267. Các trường hợp như lỗ khóa v.v… thì ý nghĩa rõ ràng. Trong các trường hợp tắm: những người dùng bộ phận sinh dục đập vào dòng nước, tội đã được nói cho họ. Trong các trường hợp vũng nước, phương pháp cũng như vậy. Ở đây, vũng nước được gọi là vũng bùn nước. Bằng phương tiện này, tất cả các trường hợp sau đây như rửa trong nước v.v… cần được hiểu. Tuy nhiên, đây là điểm đặc biệt: Trong các trường hợp vòng hoa, dù không có chủ ý làm cho xuất ra thì không phạm tội, nhưng do duyên vui đùa, là tội Tác Ác.

Sukkavissaṭṭhisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Cố Ý Xuất Tinh đã hoàn tất.

2. Kāyasaṃsaggasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải Thích Điều Học Về Sự Tiếp Xúc Thân Thể

269.Tenasamayena buddho bhagavāti kāyasaṃsaggasikkhāpadaṃ. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā – araññe viharatīti na āveṇike araññe, jetavanavihārasseva paccante ekapasse. Majjhe gabbhoti tassa ca vihārassa majjhe gabbho hoti. Samantā pariyāgāroti samantā panassa maṇḍalamāḷaparikkhepo hoti. So kira majjhe caturassaṃ gabbhaṃ katvā bahi maṇḍalamāḷaparikkhepena kato, yathā sakkā hoti antoyeva āviñchantehi vicarituṃ.
269. “Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, bậc Thế Tôn” là (phần mở đầu của) điều học về sự tiếp xúc thân thể. Ở đó, đây là phần giải thích các từ không rõ ràng: “Trú trong rừng” không phải là khu rừng riêng biệt, mà là ở một bên, tại vùng ven của tịnh xá Kỳ Viên. “Ở giữa là một cái am” nghĩa là ở giữa tịnh xá ấy có một cái am. “Xung quanh là một hành lang” nghĩa là xung quanh nó có một vòng tròn bao quanh hình đàn tràng. Tịnh xá ấy được cho là được xây dựng với một cái am hình vuông ở giữa, và bên ngoài là một vòng tròn bao quanh hình đàn tràng, để có thể đi lại bên trong mà không bị vướng víu.

Supaññattanti suṭṭha ṭhapitaṃ, yathā yathā yasmiṃ yasmiñca okāse ṭhapitaṃ pāsādikaṃ hoti lokarañjakaṃ tathā tathā tasmiṃ tasmiṃ okāse ṭhapitaṃ, vattasīsena hi soṃ ekakiccampi na karoti. Ekacce vātapāne vivarantoti yesu vivaṭesu andhakāro hoti tāni vivaranto yesu vivaṭesu āloko hoti tāni thakento.
Được sắp đặt khéo léo nghĩa là được đặt để tốt đẹp. Được đặt để ở mỗi nơi mỗi chỗ như thế nào mà nó trở nên trang nghiêm, làm vui lòng người đời, thì nó được đặt để ở mỗi nơi mỗi chỗ như thế ấy. Vì vị ấy không làm một việc gì dù nhỏ nhặt mà trái với bổn phận. Trong khi một số người mở cửa sổ nghĩa là mở những cửa sổ nào mà khi mở ra thì (phòng) tối, và đóng những cửa sổ nào mà khi mở ra thì (phòng) sáng.

Evaṃ vutte sā brāhmaṇī taṃ brāhmaṇaṃ etadavocāti evaṃ tena brāhmaṇena pasaṃsitvā vutte sā brāhmaṇī ‘‘pasanno ayaṃ brāhmaṇo pabbajitukāmo maññe’’ti sallakkhetvā nigūhitabbampi taṃ attano vippakāraṃ pakāsentī kevalaṃ tassa saddhāvighātāpekkhā hutvā etaṃ ‘‘kuto tassa uḷārattatā’’tiādivacanamavoca. Tattha uḷāro attā assāti uḷārattā, uḷārattano bhāvo uṭṭhārattatā. Kulitthīhītiādīsu kulitthiyo nāma gharassāminiyo. Kuladhītaro nāma purisantaragatā kuladhītaro . Kulakumāriyo nāma aniviṭṭhā vuccanti. Kulasuṇhā nāma parakulato ānītā kuladārakānaṃ vadhuyo.
Khi được nói như vậy, bà Bà-la-môn ấy đã nói với ông Bà-la-môn kia điều này nghĩa là khi được ông Bà-la-môn kia khen ngợi và nói như vậy, bà Bà-la-môn ấy, nhận thấy rằng “Ông Bà-la-môn này có lòng tin, hình như muốn xuất gia”, bèn tiết lộ cả hành vi không tốt của mình đáng lẽ phải che giấu, chỉ với ý muốn phá hoại đức tin của ông ta, đã nói những lời này bắt đầu bằng “Sự cao thượng của ông ấy từ đâu mà có?“. Ở đó, người có bản chất cao thượng là người cao thượng; trạng thái của người cao thượng là sự cao thượng. Trong (các từ) như “với những phụ nữ quý phái” v.v…, những phụ nữ quý phái là những bà chủ gia đình. Những thiếu nữ con nhà gia thế là những thiếu nữ con nhà gia thế đã có chồng. Những trinh nữ con nhà gia thế được gọi là những người chưa kết hôn. Những nàng dâu con nhà gia thế là những người vợ của các con trai trong gia đình, được cưới về từ gia đình khác.

270.Otiṇṇoti yakkhādīhi viya sattā anto uppajjantena rāgena otiṇṇo, kūpādīni viya sattā asamapekkhitvā rajanīye ṭhāne rajjanto sayaṃ vā rāgaṃ otiṇṇo, yasmā pana ubhayathāpi rāgasamaṅgissevetaṃ adhivacanaṃ, tasmā ‘‘otiṇṇo nāma sāratto apekkhavā paṭibaddhacitto’’ti evamassa padabhājanaṃ vuttaṃ.
270. Bị xâm nhập nghĩa là bị xâm nhập bởi tham ái khởi lên bên trong, giống như chúng sanh bị dạ xoa v.v… (xâm nhập). Hoặc tự mình bị tham ái xâm nhập, say đắm nơi chốn đáng say đắm mà không xem xét, giống như chúng sanh (rơi vào) giếng v.v… Tuy nhiên, vì trong cả hai trường hợp, đây đều là tên gọi của người có tham ái, do đó, phần phân tích từ của nó đã được nói là: “Người bị xâm nhập là người say đắm, có sự mong muốn, có tâm bị trói buộc”.

Tattha sārattoti kāyasaṃsaggarāgena suṭṭhu ratto. Apekkhavāti kāyasaṃsaggāpekkhāya apekkhavā. Paṭibaddhacittoti kāyasaṃsaggarāgeneva tasmiṃ vatthusmiṃ paṭibaddhacitto. Vipariṇatenāti parisuddhabhavaṅgasantatisaṅkhātaṃ pakatiṃ vijahitvā aññathā pavattena, virūpaṃ vā pariṇatena virūpaṃ parivattena, yathā parivattamānaṃ virūpaṃ hoti evaṃ parivattitvā ṭhitenāti adhippāyo.
Ở đó, người say đắm là người say đắm mãnh liệt bởi tham ái trong sự tiếp xúc thân thể. Có sự mong muốn là có sự mong muốn đối với sự tiếp xúc thân thể. Có tâm bị trói buộc là có tâm bị trói buộc vào đối tượng ấy chính bởi tham ái trong sự tiếp xúc thân thể. Với (tâm) đã biến đổi nghĩa là với (tâm) đã từ bỏ trạng thái tự nhiên được gọi là dòng hữu phần thanh tịnh, và đã diễn tiến một cách khác. Hoặc là với (tâm) đã biến đổi thành sai lệch, đã chuyển biến sai lệch. Ý nghĩa là (tâm) đã chuyển biến và tồn tại theo cách mà khi chuyển biến thì trở nên sai lệch.

271. Yasmā panetaṃ rāgādīhi sampayogaṃ nātivattati, tasmā ‘‘vipariṇatanti rattampi citta’’ntiādinā nayenassa padabhājanaṃ vatvā ante idhādhippetamatthaṃ dassento ‘‘apica rattaṃ cittaṃ imasmiṃ atthe adhippetaṃ vipariṇata’’nti āha.
271. Vì điều này không vượt ngoài sự tương ưng với tham ái v.v…, do đó, sau khi nói phần phân tích từ của nó theo phương pháp bắt đầu bằng “Biến đổi là tâm tham ái“, ở cuối, để chỉ rõ ý nghĩa được muốn nói ở đây, (Ngài) đã nói: “Hơn nữa, tâm tham ái, trong ý nghĩa này, được gọi là biến đổi“.

Tadahujātāti taṃdivasaṃ jātā jātamattā allamaṃsapesivaṇṇā, evarūpāyapi hi saddhiṃ kāyasaṃsagge saṅghādiseso, methunavītikkame pārājikaṃ, raho nisajjassāde pācittiyañca hoti. Pagevāti paṭhamameva.
Trẻ sơ sinh trong ngày nghĩa là (đứa trẻ) được sinh ra trong ngày đó, vừa mới sinh, có màu sắc như một miếng thịt tươi. Vì ngay cả với (đứa trẻ) như vậy, nếu có sự tiếp xúc thân thể, phạm tội Tăng Tàn; nếu vi phạm (giới) giao hợp, phạm tội bất cộng trụ; và nếu thích thú ngồi riêng tư, phạm tội Ưng Đối Trị. Huống nữa là nghĩa là trước hết.

Kāyasaṃsaggaṃ samāpajjeyyāti hatthaggahaṇādikāyasampayogaṃ kāyamissībhāvaṃ samāpajjeyya, yasmā panetaṃ samāpajjantassa yo so kāyasaṃsaggo nāma so atthato ajjhācāro hoti, rāgavasena abhibhavitvā saññamavelaṃ ācāro, tasmāssa saṅkhepana atthaṃ dassento ‘‘ajjhācāro vuccatī’’ti padabhājanamāha.
Thực hiện sự tiếp xúc thân thể nghĩa là thực hiện sự hòa trộn thân thể, sự tiếp xúc thân thể như nắm tay v.v… Vì đối với người thực hiện điều này, cái gọi là sự tiếp xúc thân thể ấy, về mặt ý nghĩa, là sự vi phạm giới hạnh, là hành vi vượt ngoài sự tự chủ, do bị tham ái chế ngự. Do đó, để chỉ rõ ý nghĩa tóm tắt của nó, (Ngài) đã nói phần phân tích từ là “được gọi là sự vi phạm giới hạnh“.

Hatthaggāhaṃ vātiādibhedaṃ panassa vitthārena atthadassanaṃ. Tattha hatthādīnaṃ vibhāgadassanatthaṃ ‘‘hattho nāma kapparaṃ upādāyā’’tiādimāha tattha kapparaṃ upādāyāti dutiyaṃ. Mahāsandhiṃ upādāya. Aññattha pana maṇibandhato paṭṭhāya yāva agganakhā hattho idha saddhiṃ aggabāhāya kapparato paṭṭhāya adhippeto.
Sự chỉ rõ ý nghĩa một cách chi tiết của nó là các loại như “Hoặc nắm tay” v.v… Ở đó, để chỉ rõ sự phân chia của tay v.v…, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Tay là kể từ cùi chỏ“. Ở đó, kể từ cùi chỏ là (khớp) thứ hai, kể từ khớp lớn. Tuy nhiên, ở những nơi khác, tay là từ cổ tay cho đến đầu móng tay; ở đây, (tay) được hiểu là kể từ cùi chỏ cùng với phần trên của cánh tay.

Suddhakesā vāti suttādīhi amissā suddhā kesāyeva. Veṇīti tīhi kesavaṭṭīhi vinandhitvā katakesakalāpassetaṃ nāmaṃ. Suttamissāti pañcavaṇṇena suttena kese missetvā katā. Mālāmissāti vassikapupphādīhi missetvā tīhi kesavaṭṭīhi vinandhitvā katā, avinaddhopi vā kevalaṃ pupphamissako kesakalāpo idha ‘‘veṇī’’ti veditabbo. Hiraññamissāti kahāpaṇamālāya missetvā katā. Suvaṇṇamissāti suvaṇṇacīrakehi vā pāmaṅgādīhi vā missetvā katā. Muttāmissāti muttāvalīhi missetvā katā. Maṇimissāti suttārūḷhehi maṇīhi missetvā katā. Etāsu hi yaṃkiñci veṇiṃ gaṇhantassa saṅghādisesoyeva. ‘‘Ahaṃ missakaveṇiṃ aggahesi’’nti vadantassa mokkho natthi. Veṇiggahaṇena cettha kesāpi gahitāva honti, tasmā yo ekampi kesaṃ gaṇhāti tassapi āpattiyeva.
Hoặc tóc thuần túy nghĩa là chỉ tóc thuần túy, không trộn lẫn với chỉ v.v… Bím tóc là tên gọi của lọn tóc được làm bằng cách bện ba lọn tóc nhỏ lại với nhau. (Bím tóc) trộn với chỉ là (bím tóc) được làm bằng cách trộn tóc với chỉ năm màu. (Bím tóc) trộn với vòng hoa là (bím tóc) được làm bằng cách trộn với hoa lài v.v… rồi bện bằng ba lọn tóc nhỏ; hoặc ngay cả lọn tóc chỉ trộn với hoa mà không bện, ở đây cũng cần được hiểu là “bím tóc”. (Bím tóc) trộn với vàng (tiền) là (bím tóc) được làm bằng cách trộn với vòng tiền kahāpaṇa. (Bím tóc) trộn với vàng (trang sức) là (bím tóc) được làm bằng cách trộn với những mảnh vàng nhỏ hoặc đồ trang sức đầu bằng vàng v.v… (Bím tóc) trộn với ngọc trai là (bím tóc) được làm bằng cách trộn với chuỗi ngọc trai. (Bím tóc) trộn với châu báu là (bím tóc) được làm bằng cách trộn với các loại châu báu được xâu bằng chỉ. Vì trong số này, người nắm bất kỳ loại bím tóc nào cũng phạm tội Tăng Tàn. Đối với người nói rằng “Tôi đã nắm bím tóc hỗn hợp”, không có sự thoát tội. Ở đây, việc nắm bím tóc cũng có nghĩa là nắm cả tóc; do đó, người nắm dù chỉ một sợi tóc cũng phạm tội.

Hatthañcaveṇiñca ṭhapetvāti idha vuttalakkhaṇaṃ hatthañca sabbappakārañca veṇiṃ ṭhapetvā avasesaṃ sarīraṃ ‘‘aṅga’’nti veditabbaṃ. Evaṃ paricchinnesu hatthādīsu hatthassa gahaṇaṃ hatthaggāho, veṇiyā gahaṇaṃ veṇiggāho, avasesasasarīrassa parāmasanaṃ aññatarassa vā aññatarassa vā aṅgassa parāmasanaṃ, yo taṃ hatthaggāhaṃ vā veṇiggāhaṃ vā aññatarassa vā aññatarassa vā aṅgassa parāmasanaṃ samāpajjeyya, tassa saṅghādiseso nāma āpattinikāyo hotīti. Ayaṃ sikkhāpadassa attho.
Trừ tay và bím tóc ra nghĩa là trừ tay có đặc điểm đã nói ở đây và tất cả các loại bím tóc ra, phần thân thể còn lại cần được hiểu là “bộ phận (khác)”. Trong các (bộ phận) như tay v.v… đã được xác định như vậy, việc nắm tay là nắm tay, việc nắm bím tóc là nắm bím tóc, việc chạm đến phần thân thể còn lại là chạm đến một bộ phận nào đó. Người nào thực hiện việc nắm tay ấy, hoặc nắm bím tóc ấy, hoặc chạm đến một bộ phận nào đó, đối với người ấy, xảy ra loại tội tên là Tăng Tàn. Đây là ý nghĩa của điều học.

272. Yasmā pana yo ca hatthaggāho yo ca veṇiggāho yañca avasesassa aṅgassa parāmasanaṃ taṃ sabbampi bhedato dvādasavidhaṃ hoti, tasmā taṃ bhedaṃ dassetuṃ ‘‘āmasanā parāmasanā’’tiādinā nayenassa padabhājanaṃ vuttaṃ. Tattha yañca vuttaṃ ‘‘āmasanā nāma āmaṭṭhamattā’’ti yañca ‘‘chupanaṃ nāma phuṭṭhamatta’’nti, imesaṃ ayaṃ viseso – āmasanāti āmajjanā phuṭṭhokāsaṃ anatikkamitvāpi tattheva saṅghaṭṭanā. Ayañhi ‘‘āmaṭṭhamattā’’ti vuccati. Chupananti asaṅghaṭṭetvā phuṭṭhamattaṃ.
272. Vì việc nắm tay, việc nắm bím tóc, và việc chạm đến phần bộ phận còn lại, tất cả những điều đó, khi phân chia, có mười hai loại. Do đó, để chỉ rõ sự phân chia ấy, phần phân tích từ của nó đã được nói theo phương pháp bắt đầu bằng “Sự chạm nhẹ, sự xoa nắn“. Ở đó, điều đã được nói là “Sự chạm nhẹ là chỉ vừa chạm đến” và điều (đã được nói là) “Sự tiếp xúc là chỉ vừa đụng phải“, sự khác biệt của chúng là như sau: Sự chạm nhẹ là sự xoa nhẹ, sự cọ xát ngay tại chỗ đó dù không vượt qua chỗ đã chạm. Điều này được gọi là “chỉ vừa chạm đến”. Sự tiếp xúc là chỉ vừa đụng phải mà không cọ xát.

Yampi ummasanāya ca ullaṅghanāya ca niddese ‘‘uddhaṃ uccāraṇā’’ti ekameva padaṃ vuttaṃ. Tatrāpi ayaṃ viseso – paṭhamaṃ attano kāyassa itthiyā kāye uddhaṃ pesanavasena vuttaṃ, dutiyaṃ itthiyā kāyaṃ ukkhipanavasena, sesaṃ pākaṭameva.
Và trong phần mô tả của sự vuốt lên và sự nâng lên, chỉ một từ duy nhất đã được nói là “sự đưa lên trên”. Ở đó cũng có sự khác biệt này: trường hợp đầu (sự vuốt lên) được nói theo nghĩa đưa thân của mình lên trên thân của người nữ. Trường hợp thứ hai (sự nâng lên) được nói theo nghĩa nhấc thân của người nữ lên; phần còn lại thì rõ ràng.

273. Idāni yvāyaṃ otiṇṇo vipariṇatena cittena kāyasaṃsaggaṃ samāpajjati, tassa etesaṃ padānaṃ vasena vitthārato āpattibhedaṃ dassento ‘‘itthī ca hoti itthisaññī sāratto ca bhikkhu ca naṃ itthiyā kāyena kāya’’ntiādimāha. Tattha bhikkhu ca naṃ itthiyā kāyena kāyanti so sāratto ca itthisaññī ca bhikkhu attano kāyena. Nanti nipātamattaṃ. Atha vā etaṃ tassā itthiyā hatthādibhedaṃ kāyaṃ. Āmasati parāmasatīti etesu ce ekenāpi ākārena ajjhācarati, āpatti saṅghādisesassa. Tattha sakiṃ āmasato ekā āpatti, punappunaṃ āmasato payoge payoge saṅghādiseso.
273. Bây giờ, người nào bị xâm nhập, thực hiện sự tiếp xúc thân thể với tâm đã biến đổi, để chỉ rõ sự phân biệt tội của người ấy một cách chi tiết dựa trên các từ này, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Là người nữ, có nhận thức là người nữ, và vị Tỳ khưu say đắm, dùng thân (của mình) với thân của người nữ ấy“. Ở đó, Và vị Tỳ khưu dùng thân (của mình) với thân của người nữ ấy nghĩa là vị Tỳ khưu say đắm và có nhận thức là người nữ ấy, dùng thân của mình. Naṃ (ấy) chỉ là một tiểu từ. Hoặc đó là thân của người nữ ấy, bao gồm tay v.v… Chạm nhẹ, xoa nắn: nếu vi phạm giới hạnh bằng một trong những cách này, phạm tội Tăng Tàn. Ở đó, chạm nhẹ một lần, một tội; chạm nhẹ nhiều lần, mỗi hành vi (phạm tội) Tăng Tàn.

Parāmasantopi sace kāyato amocetvāva ito cito ca attano hatthaṃ vā kāyaṃ vā sañcopeti harati peseti divasampi parāmasato ekāva āpatti. Sace kāyato mocetvā mocetvā parāmasati payoge payoge āpatti.
Cả khi đang xoa nắn: nếu không rời khỏi thân (người nữ) mà co duỗi, di chuyển, đưa tới đưa lui tay của mình hoặc thân của mình suốt cả ngày, chỉ một tội. Nếu rời khỏi thân (người nữ) rồi lại xoa nắn nhiều lần, mỗi hành vi một tội.

Omasantopi sace kāyato amocetvāva itthiyā matthakato paṭṭhāya yāva pādapiṭṭhiṃ omasati ekāva āpatti. Sace pana udarādīsu taṃ taṃ ṭhānaṃ patvā muñcitvā muñcitvā omasati payoge payoge āpatti. Ummasanāyapi pādato paṭṭhāya yāva sīsaṃ ummasantassa eseva nayo.
Cả khi đang vuốt xuống: nếu không rời khỏi thân (người nữ) mà vuốt xuống từ đầu của người nữ cho đến mu bàn chân, chỉ một tội. Nhưng nếu đến mỗi chỗ như bụng v.v…, rồi rời ra, rồi lại vuốt xuống nhiều lần, mỗi hành vi một tội. Cả trong việc vuốt lên: đối với người vuốt lên từ chân cho đến đầu, phương pháp cũng như vậy.

Olaṅghanāya mātugāmaṃ kesesu gahetvā nāmetvā cumbanādīsu yaṃ ajjhācāraṃ icchati taṃ katvā muñcato ekāva āpatti. Uṭṭhitaṃ punappunaṃ nāmayato payoge payoge āpatti. Ullaṅghanāyapi kesesu vā hatthesu vā gahetvā vuṭṭhāpayato eseva nayo.
Trong việc kéo xuống: nắm tóc người nữ kéo xuống, rồi thực hiện sự vi phạm giới hạnh nào mình muốn như hôn hít v.v…, rồi thả ra, chỉ một tội. Kéo xuống người đang đứng dậy nhiều lần, mỗi hành vi một tội. Cả trong việc nâng lên: nắm tóc hoặc tay rồi nhấc lên, phương pháp cũng như vậy.

Ākaḍḍhanāya attano abhimukhaṃ ākaḍḍhanto yāva na muñcati tāva ekāva āpatti. Muñcitvā muñcitvā ākaḍḍhantassa payoge payoge āpatti. Patikaḍḍhanāyapi parammukhaṃ piṭṭhiyaṃ gahetvā paṭippaṇāmayato eseva nayo.
Trong việc kéo lại gần: kéo về phía mình, chừng nào chưa thả ra, chỉ một tội. Thả ra rồi lại kéo nhiều lần, mỗi hành vi một tội. Cả trong việc đẩy ra xa: nắm phía sau lưng rồi đẩy ngả ra, phương pháp cũng như vậy.

Abhiniggaṇhanāya hatthe vā bāhāya vā daḷhaṃ gahetvā yojanampi gacchato ekāva āpatti. Muñcitvā punappunaṃ gaṇhato payoge payoge āpatti. Amuñcitvā punappunaṃ phusato ca āliṅgato ca payoge payoge āpattīti mahāsumatthero āha. Mahāpadumatthero panāha – ‘‘mūlaggahaṇameva pamāṇaṃ, tasmā yāva na muñcati tāva ekā eva āpattī’’ti.
Trong việc nắm giữ chặt: nắm chặt tay hoặc cánh tay rồi đi dù cả một do-tuần, chỉ một tội. Thả ra rồi lại nắm nhiều lần, mỗi hành vi một tội. Ngài Mahāsumatthera nói rằng: “Không thả ra mà chạm và ôm nhiều lần, mỗi hành vi một tội.” Còn ngài Mahāpadumatthera nói rằng: “Chỉ việc nắm giữ ban đầu là tiêu chuẩn; do đó, chừng nào chưa thả ra, chỉ một tội duy nhất.”

Abhinippīḷanāya vatthena vā ābharaṇena vā saddhiṃ pīḷayato aṅgaṃ aphusantassa thullaccayaṃ, phusantassa saṅghādiseso, ekapayogena ekā āpatti, nānāpayogena nānā.
Trong việc ép mạnh: đối với người ép mạnh cùng với y phục hoặc đồ trang sức mà không chạm vào thân thể, (phạm tội) Trọng. Nếu chạm vào (thân thể), (phạm tội) Tăng Tàn. Một hành vi, một tội; nhiều hành vi, nhiều (tội).

Gahaṇachupanesu aññaṃ kiñci vikāraṃ akarontopi gahitamattaphuṭṭhamattenāpi āpattiṃ āpajjati.
Trong việc nắm và tiếp xúc: dù không làm một hành vi sai lệch nào khác, chỉ bằng việc nắm hoặc vừa đụng phải, cũng phạm tội.

Evametesu āmasanādīsu ekenāpi ākārena ajjhācārato itthiyā itthisaññissa saṅghādiseso, vematikassa thullaccayaṃ, paṇḍakapurisatiracchānagatasaññissāpi thullaccayameva. Paṇḍake paṇḍakasaññissa thullaccayaṃ, vematikassa dukkaṭaṃ. Purisatiracchānagataitthisaññissāpi dukkaṭameva. Purise purisasaññissāpi vematikassāpi itthipaṇḍakatiracchānagatasaññissāpi dukkaṭameva. Tiracchānagatepi sabbākārena dukkaṭamevāti. Imā ekamūlakanaye vuttā āpattiyo sallakkhetvā imināva upāyena ‘‘dve itthiyo dvinnaṃ itthīna’’ntiādivasena vutte dumūlakanayepi diguṇā āpattiyo veditabbā. Yathā ca dvīsu itthīsu dve saṅghādisesā; evaṃ sambahulāsu sambahulā veditabbā.
Như vậy, trong các (hành vi) như chạm nhẹ v.v…, nếu vi phạm giới hạnh bằng một cách nào đó đối với người nữ, và có nhận thức là người nữ, (phạm tội) Tăng Tàn. Nếu có sự nghi ngờ (về giới tính), (phạm) Trọng Tội; nếu có nhận thức là người ái nam ái nữ, người nam, hoặc loài bàng sanh, cũng (phạm) Trọng Tội. Đối với người ái nam ái nữ, nếu có nhận thức là người ái nam ái nữ, (phạm) Trọng Tội; nếu có sự nghi ngờ, (phạm) tội Tác Ác. Nếu có nhận thức là người nữ đối với người nam hoặc loài bàng sanh, cũng (phạm) tội Tác Ác. Đối với người nam, dù có nhận thức là người nam, hay có sự nghi ngờ, hay có nhận thức là người nữ, người ái nam ái nữ, hoặc loài bàng sanh, cũng (phạm) tội Tác Ác. Đối với loài bàng sanh, trong mọi trường hợp, cũng (phạm) tội Tác Ác. Sau khi nhận biết các tội đã được nói trong phương pháp một gốc này, bằng chính phương tiện này, các tội gấp đôi cũng cần được hiểu trong phương pháp hai gốc đã được nói theo cách bắt đầu bằng “Hai người nữ, của hai người nữ” v.v… Và giống như đối với hai người nữ, có hai tội Tăng Tàn; cũng vậy, đối với nhiều người (nữ), cần hiểu là có nhiều (tội Tăng Tàn).

Yo hi ekato ṭhitā sambahulā itthiyo bāhāhi parikkhipitvā gaṇhāti so yattakā itthiyo phuṭṭhā tāsaṃ gaṇanāya saṅghādisese āpajjati, majjhagatānaṃ gaṇanāya thullaccaye. Tā hi tena kāyappaṭibaddhena āmaṭṭhā honti. Yo pana sambahulānaṃ aṅguliyo vā kese vā ekato katvā gaṇhāti, so aṅguliyo ca kese ca agaṇetvā itthiyo gaṇetvā saṅghādisesehi kāretabbo. Yāsañca itthīnaṃ aṅguliyo vā kesā vā majjhagatā honti, tāsaṃ gaṇanāya thullaccaye āpajjati. Tā hi tena kāyappaṭibaddhena āmaṭṭhā honti, sambahulā pana itthiyo kāyappaṭibaddhehi rajjuvatthādīhi parikkhipitvā gaṇhanto sabbāsaṃyeva antoparikkhepagatānaṃ gaṇanāya thullaccaye āpajjati. Mahāpaccariyaṃ aphuṭṭhāsu dukkaṭaṃ vuttaṃ. Tattha yasmā pāḷiyaṃ kāyappaṭibaddhappaṭibaddhena āmasanaṃ nāma natthi, tasmā sabbampi kāyappaṭibaddhappaṭibaddhaṃ kāyappaṭibaddheneva saṅgahetvā mahāaṭṭhakathāyañca kurundiyañca vutto purimanayoyevettha yuttataro dissati.
Người nào dùng cánh tay ôm lấy nhiều người nữ đang đứng chung với nhau, vị ấy phạm tội Tăng Tàn theo số lượng người nữ đã chạm phải, và phạm Trọng Tội theo số lượng người (nữ) ở giữa (mà không chạm trực tiếp). Vì những người ấy đã bị chạm bởi vật liên hệ với thân của vị ấy. Còn người nào gom chung ngón tay hoặc tóc của nhiều người (nữ) rồi nắm lấy, vị ấy phải bị xử phạt tội Tăng Tàn theo số lượng người nữ, không tính ngón tay và tóc. Và những người nữ nào mà ngón tay hoặc tóc của họ ở giữa (bị nắm chung mà không phải là đối tượng chính), vị ấy phạm Trọng Tội theo số lượng của họ. Vì những người ấy đã bị chạm bởi vật liên hệ với thân của vị ấy. Còn người nào dùng những vật liên hệ với thân như dây, y phục v.v… để quàng lấy và nắm giữ nhiều người nữ, vị ấy phạm Trọng Tội theo số lượng tất cả những người ở trong vòng quàng lấy. Trong Mahāpaccariya, đã nói là (phạm) tội Tác Ác đối với những người không bị chạm. Ở đó, vì trong Pāḷi không có cái gọi là sự chạm bằng vật liên hệ với vật liên hệ với thân, do đó, gộp tất cả (trường hợp) vật liên hệ với vật liên hệ với thân vào (trường hợp) vật liên hệ với thân, phương pháp trước đã được nói trong Mahāaṭṭhakathā và Kurundī ở đây có vẻ hợp lý hơn.

Yo hi hatthena hatthaṃ gahetvā paṭipāṭiyā ṭhitāsu itthīsu samasārāgo ekaṃ hatthe gaṇhāti, so gahititthiyā vasena ekaṃ saṅghādisesaṃ āpajjati, itarāsaṃ gaṇanāya purimanayeneva thullaccaye. Sace so taṃ kāyappaṭibaddhe vatthe vā pupphe vā gaṇhāti, sabbāsaṃ gaṇanāya thullaccaye āpajjati. Yatheva hi rajjuvatthādīhi parikkhipantena sabbāpi kāyappaṭibaddhena āmaṭṭhā honti, tathā idhāpi sabbāpi kāyappaṭibaddhena āmaṭṭhā honti. Sace pana tā itthiyo aññamaññaṃ vatthakoṭiyaṃ gahetvā ṭhitā honti, tatra ceso purimanayeneva paṭhamaṃ itthiṃ hatthe gaṇhāti gahitāya vasena saṅghādisesaṃ āpajjati, itarāsaṃ gaṇanāya dukkaṭāni. Sabbāsañhi tāsaṃ tena purimanayeneva kāyapaṭibaddhena kāyappaṭibaddhaṃ āmaṭṭhaṃ hoti. Sace pana sopi taṃ kāyappaṭibaddheyeva gaṇhāti tassā vasena thullaccayaṃ āpajjati, itarāsaṃ gaṇanāya anantaranayeneva dukkaṭāni.
Người nào, với tham ái đồng đều, nắm tay một người nữ trong số những người nữ đang đứng thành hàng, tay nắm tay, vị ấy phạm một tội Tăng Tàn dựa trên người nữ đã nắm, và (phạm) Trọng Tội theo số lượng những người còn lại theo phương pháp trước. Nếu vị ấy nắm vật liên hệ với thân (của người nữ ấy) như y phục hoặc hoa, vị ấy phạm Trọng Tội theo số lượng tất cả (những người nữ). Vì giống như khi quàng lấy bằng dây, y phục v.v…, tất cả đều bị chạm bởi vật liên hệ với thân; cũng vậy, ở đây tất cả đều bị chạm bởi vật liên hệ với thân. Nhưng nếu những người nữ ấy đứng nắm lấy mép áo của nhau, và ở đó, vị này theo phương pháp trước mà nắm tay người nữ đầu tiên, vị ấy phạm tội Tăng Tàn dựa trên người đã nắm, và (phạm) các tội Tác Ác theo số lượng những người còn lại. Vì đối với tất cả họ, vật liên hệ với vật liên hệ với thân đã bị chạm bởi vật liên hệ với thân của vị ấy theo phương pháp trước. Nhưng nếu vị ấy cũng nắm chính vật liên hệ với thân ấy, vị ấy phạm Trọng Tội dựa trên người đó, và (phạm) các tội Tác Ác theo số lượng những người còn lại theo phương pháp ngay sau đó.

Yo pana ghanavatthanivatthaṃ itthiṃ kāyasaṃsaggarāgena vatthe ghaṭṭeti, thullaccayaṃ. Viraḷavatthanivatthaṃ ghaṭṭeti, tatra ce vatthantarehi itthiyā vā nikkhantalomāni bhikkhuṃ bhikkhuno vā paviṭṭhalomāni itthiṃ phusanti, ubhinnaṃ lomāniyeva vā lomāni phusanti, saṅghādiseso. Upādinnakena hi kammajarūpena upādinnakaṃ vā anupādinnakaṃ vā anupādinnakenapi kenaci kesādinā upādinnakaṃ vā anupādinnakaṃ vā phusantopi saṅghādisesaṃ āpajjatiyeva.
Người nào, do tham ái trong sự tiếp xúc thân thể, cọ xát vào y phục của người nữ mặc y phục dày, (phạm) Trọng Tội. (Nếu) cọ xát (vào y phục của người nữ) mặc y phục mỏng, và ở đó, nếu qua khoảng hở của y phục, lông của người nữ thò ra chạm vào vị Tỳ khưu, hoặc lông của vị Tỳ khưu chui vào chạm vào người nữ, hoặc lông của cả hai chạm vào lông (của nhau), (phạm tội) Tăng Tàn. Vì bằng sắc do nghiệp được chấp thủ, dù chạm vào (vật) được chấp thủ hay không được chấp thủ; hoặc ngay cả bằng một vật không được chấp thủ nào đó như tóc v.v…, dù chạm vào (vật) được chấp thủ hay không được chấp thủ, cũng vẫn phạm tội Tăng Tàn.

Tattha kurundiyaṃ ‘‘lomāni gaṇetvā saṅghādiseso’’ti vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘lomāni gaṇetvā āpattiyā na kāretabbo, ekameva saṅghādisesaṃ āpajjati. Saṅghikamañce pana apaccattharitvā nipanno lomāni gaṇetvā kāretabbo’’ti vuttaṃ , tadeva yuttaṃ. Itthivasena hi ayaṃ āpatti, na koṭṭhāsavasenāti.
Ở đó, trong Kurundī, đã nói rằng: “Đếm lông rồi (phạm tội) Tăng Tàn”. Nhưng trong Mahāaṭṭhakathā, đã nói rằng: “Không nên xử phạt tội bằng cách đếm lông; chỉ phạm một tội Tăng Tàn duy nhất. Tuy nhiên, người nằm trên giường của Tăng mà không trải (đồ lót), phải bị xử phạt bằng cách đếm lông”; điều đó là hợp lý. Vì tội này là dựa trên (số lượng) người nữ, chứ không phải dựa trên (số lượng) bộ phận.

Etthāha ‘‘yo pana ‘kāyappaṭibaddhaṃ gaṇhissāmī’ti kāyaṃ gaṇhāti, ‘kāyaṃ gaṇhissāmī’ti kāyappaṭibaddhaṃ gaṇhāti, so kiṃ āpajjatī’’ti. Mahāsumatthero tāva ‘‘yathāvatthukamevā’’ti vadati. Ayaṃ kirassa laddhi –
Ở đây, (có người) hỏi: “Người nào, với ý nghĩ ‘Ta sẽ nắm vật liên hệ với thân’, lại nắm thân; (hoặc) với ý nghĩ ‘Ta sẽ nắm thân’, lại nắm vật liên hệ với thân, vị ấy phạm tội gì?” Trước hết, ngài Mahāsumatthera nói rằng: “Tùy theo đối tượng thực sự”. Đây được cho là chủ trương của ngài –

‘‘Vatthu saññā ca rāgo ca, phassappaṭivijānanā;
Yathāniddiṭṭhaniddese, garukaṃ tena kāraye’’ti.
“Đối tượng, nhận thức và tham ái, sự nhận biết rõ sự xúc chạm;
Theo như sự mô tả đã chỉ định, hãy xử phạt tội nặng dựa vào đó.”

Ettha ‘‘vatthū’’ti itthī. ‘‘Saññā’’ti itthisaññā. ‘‘Rāgo’’ti kāyasaṃsaggarāgo. ‘‘Phassappaṭivijānanā’’ti kāyasaṃsaggaphassajānanā. Tasmā yo itthiyā itthisaññī kāyasaṃsaggarāgena ‘‘kāyappaṭibaddhaṃ gahessāmī’’ti pavattopi kāyaṃ phusati, garukaṃ saṅghādisesaṃyeva āpajjati. Itaropi thullaccayanti mahāpadumatthero panāha –
Ở đây, “Đối tượng” là người nữ. “Nhận thức” là nhận thức về người nữ. “Tham ái” là tham ái trong sự tiếp xúc thân thể. “Sự nhận biết rõ sự xúc chạm” là sự biết về sự xúc chạm trong sự tiếp xúc thân thể. Do đó, người nào, đối với người nữ, có nhận thức là người nữ, với tham ái trong sự tiếp xúc thân thể, dù khởi ý “Ta sẽ nắm vật liên hệ với thân” mà lại chạm vào thân, vẫn phạm tội Tăng Tàn là tội nặng. (Nếu chạm vào) vật khác (là vật liên hệ với thân) thì (phạm) Trọng Tội. Tuy nhiên, ngài Mahāpadumatthera nói rằng –

‘‘Saññāya virāgitamhi, gahaṇe ca virāgite;
Yathāniddiṭṭhaniddese, garukaṃ tattha na dissatī’’ti.
“Khi nhận thức đã bị thay đổi, và việc nắm giữ cũng bị thay đổi;
Theo như sự mô tả đã chỉ định, tội nặng không được thấy ở đó.”

Assāpāyaṃ laddhi itthiyā itthisaññino hi saṅghādiseso vutto. Iminā ca itthisaññā virāgitā kāyappaṭibaddhe kāyappaṭibaddhasaññā uppāditā, taṃ gaṇhantassa pana thullaccayaṃ vuttaṃ. Iminā ca gahaṇampi virāgitaṃ taṃ aggahetvā itthī gahitā, tasmā ettha itthisaññāya abhāvato saṅghādiseso na dissati, kāyappaṭibaddhassa aggahitattā thullaccayaṃ na dissati, kāyasaṃsaggarāgena phuṭṭhattā pana dukkaṭaṃ. Kāyasaṃsaggarāgena hi imaṃ nāma vatthuṃ phusato anāpattīti natthi, tasmā dukkaṭamevāti.
Đây là chủ trương của ngài ấy: Tội Tăng Tàn được nói đến đối với người có nhận thức là người nữ đối với người nữ. Và do (ý định) này, nhận thức về người nữ đã bị thay đổi, nhận thức về vật liên hệ với thân đã được khởi lên đối với vật liên hệ với thân. Còn đối với người nắm giữ vật ấy (vật liên hệ với thân), (phạm) Trọng Tội đã được nói đến. Và do (hành động) này, việc nắm giữ cũng bị thay đổi: không nắm vật ấy (vật liên hệ với thân) mà lại nắm người nữ. Do đó, ở đây, vì không có nhận thức về người nữ (đối với đối tượng dự định), tội Tăng Tàn không được thấy. Vì không nắm giữ vật liên hệ với thân (như dự định), Trọng Tội không được thấy. Tuy nhiên, do đã chạm với tham ái trong sự tiếp xúc thân thể, (phạm) tội Tác Ác. Vì khi chạm vào một đối tượng nào đó với tham ái trong sự tiếp xúc thân thể, không có chuyện không phạm tội; do đó, chính là tội Tác Ác.

Idañca pana vatvā idaṃ catukkamāha. ‘‘Sārattaṃ gaṇhissāmī’ti sārattaṃ gaṇhi saṅghādiseso, ‘virattaṃ gaṇhissāmī’ti virattaṃ gaṇhi dukkaṭaṃ, ‘sārattaṃ gaṇhissāmī’ti virattaṃ gaṇhi dukkaṭaṃ, ‘virattaṃ gaṇhissāmī’ti sārattaṃ gaṇhi dukkaṭamevā’’ti. Kiñcāpi evamāha? Atha kho mahāsumattheravādoyevettha ‘‘itthi ca hoti itthisaññī sāratto ca bhikkhu ca naṃ itthiyā kāyena kāyappaṭibaddhaṃ āmasati parāmasati…pe… gaṇhāti chupati āpatti thullaccayassā’’ti imāya pāḷiyā ‘‘yo hi ekato ṭhitā sambahulā itthiyo bāhāhi parikkhipitvā gaṇhāti, so yattakā itthiyo phuṭṭhā tāsaṃ gaṇanāya saṅghādisese āpajjati, majjhagatānaṃ gaṇanāya thullaccaye’’tiādīhi aṭṭhakathāvinicchayehi ca sameti. Yadi hi saññādivirāgena virāgitaṃ nāma bhaveyya ‘‘paṇḍako ca hoti itthisaññī’’tiādīsu viya ‘‘kāyappaṭibaddhañca hoti kāyasaññī cā’’tiādināpi nayena pāḷiyaṃ visesaṃ vadeyya. Yasmā pana so na vutto, tasmā itthiyā itthisaññāya sati itthiṃ āmasantassa saṅghādiseso, kāyappaṭibaddhaṃ āmasantassa thullaccayanti yathāvatthukameva yujjati.
Và sau khi nói điều này, (ngài) đã nói bốn trường hợp này: “Với ý nghĩ ‘Ta sẽ nắm (người nữ) có tham ái’, (rồi) nắm (người nữ) có tham ái, (phạm tội) Tăng Tàn. Với ý nghĩ ‘Ta sẽ nắm (người nữ) không có tham ái’, (rồi) nắm (người nữ) không có tham ái, (phạm) tội Tác Ác. Với ý nghĩ ‘Ta sẽ nắm (người nữ) có tham ái’, (nhưng) lại nắm (người nữ) không có tham ái, (phạm) tội Tác Ác. Với ý nghĩ ‘Ta sẽ nắm (người nữ) không có tham ái’, (nhưng) lại nắm (người nữ) có tham ái, vẫn (phạm) tội Tác Ác.” Mặc dù (ngài) nói như vậy, tuy nhiên, chủ trương của ngài Mahāsumatthera ở đây phù hợp với câu Pāḷi này: “Là người nữ, có nhận thức là người nữ, và vị Tỳ khưu say đắm, dùng thân (của mình) hoặc vật liên hệ với thân chạm nhẹ, xoa nắn… cho đến… nắm, tiếp xúc (vật liên hệ với thân của người nữ ấy), phạm Trọng Tội” và với các quyết đoán trong Chú giải như: “Người nào dùng cánh tay ôm lấy nhiều người nữ đang đứng chung với nhau, vị ấy phạm tội Tăng Tàn theo số lượng người nữ đã chạm phải, và (phạm) Trọng Tội theo số lượng người (nữ) ở giữa” v.v… Vì nếu quả thực có sự thay đổi do sự thay đổi của nhận thức v.v…, thì Pāḷi đã nói rõ sự khác biệt theo phương pháp bắt đầu bằng “Vật liên hệ với thân, và có nhận thức về thân” giống như trong các (trường hợp) “Là người ái nam ái nữ, và có nhận thức là người nữ” v.v… Tuy nhiên, vì điều đó không được nói đến, do đó, khi có nhận thức về người nữ đối với người nữ, người chạm vào người nữ (phạm tội) Tăng Tàn; người chạm vào vật liên hệ với thân (phạm) Trọng Tội; (kết luận) tùy theo đối tượng thực sự là hợp lý.

Mahāpaccariyampi cetaṃ vuttaṃ – ‘‘nīlaṃ pārupitvā sayitāya kāḷitthiyā kāyaṃ ghaṭṭessāmī’ti kāyaṃ ghaṭṭeti, saṅghādiseso; ‘kāyaṃ ghaṭṭessāmī’ti nīlaṃ ghaṭṭeti, thullaccayaṃ; ‘nīlaṃ ghaṭṭessāmī’ti kāyaṃ ghaṭṭeti, saṅghādiseso; ‘nīlaṃ ghaṭṭessāmī’ti nīlaṃ ghaṭṭeti, thullaccaya’’nti. Yopāyaṃ ‘‘itthī ca paṇḍako cā’’tiādinā nayena vatthumissakanayo vutto, tasmimpi vatthu saññāvimativasena vuttā āpattiyo pāḷiyaṃ asammuyhantena veditabbā.
Và điều này cũng đã được nói trong Mahāpaccariya: “Với ý nghĩ ‘Ta sẽ cọ xát thân của người nữ da đen đang nằm đắp y màu xanh’, (rồi) cọ xát thân, (phạm tội) Tăng Tàn. Với ý nghĩ ‘Ta sẽ cọ xát thân’, (nhưng) lại cọ xát (vải) màu xanh, (phạm) Trọng Tội. Với ý nghĩ ‘Ta sẽ cọ xát (vải) màu xanh’, (nhưng) lại cọ xát thân, (phạm tội) Tăng Tàn. Với ý nghĩ ‘Ta sẽ cọ xát (vải) màu xanh’, (rồi) cọ xát (vải) màu xanh, (phạm) Trọng Tội.” Phương pháp đối tượng hỗn hợp nào đã được nói theo cách bắt đầu bằng “Người nữ và người ái nam ái nữ” v.v…, trong đó cũng vậy, các tội được nói dựa trên đối tượng, nhận thức và sự nghi ngờ cần được hiểu trong Pāḷi một cách không nhầm lẫn.

Kāyenakāyappaṭibaddhavāre pana itthiyā itthisaññissa kāyappaṭibaddhaṃ gaṇhato thullaccayaṃ, sese sabbattha dukkaṭaṃ. Kāyappaṭibaddhenakāyavārepi eseva nayo. Kāyappaṭibaddhenakaāyappaṭibaddhavāre ca nissaggiyenakāyavārādīsu cassa sabbattha dukkaṭameva.
Còn trong trường hợp (dùng) thân (chạm) vật liên hệ với thân: đối với người có nhận thức là người nữ đối với người nữ, (nếu) nắm vật liên hệ với thân, (phạm) Trọng Tội; trong các trường hợp còn lại, đều (phạm) tội Tác Ác. Trong trường hợp (dùng) vật liên hệ với thân (chạm) thân, phương pháp cũng như vậy. Và trong trường hợp (dùng) vật liên hệ với thân (chạm) vật liên hệ với thân, và trong các trường hợp như (dùng) vật xả thí (chạm) thân v.v…, đều (phạm) tội Tác Ác.

‘‘Itthī ca hoti itthisaññī sāratto ca itthī ca naṃ bhikkhussa kāyena kāya’’ntiādivāro pana bhikkhumhi mātugāmassa rāgavasena vutto. Tattha itthī ca naṃ bhikkhussa kāyena kāyanti bhikkhumhi sārattā itthī tassa nisinnokāsaṃ vā nipannokāsaṃ vā gantvā attano kāyena taṃ bhikkhussa kāyaṃ āmasati…pe… chupati. Sevanādhippāyo kāyena vāyamati, phassaṃ paṭivijānātīti evaṃ tāya āmaṭṭho vā chupito vā sevanādhippāyo hutvā sace phassappaṭivijānanatthaṃ īsakampi kāyaṃ cāleti phandeti, saṅghādisesaṃ āpajjati.
Còn trường hợp bắt đầu bằng “Là người nữ, có nhận thức là người nữ, say đắm, và người nữ ấy dùng thân (của mình) với thân của vị Tỳ khưu” được nói đến do sự tham ái của người nữ đối với vị Tỳ khưu. Ở đó, Và người nữ ấy dùng thân (của mình) với thân của vị Tỳ khưu nghĩa là người nữ say đắm vị Tỳ khưu, đi đến chỗ ngồi hoặc chỗ nằm của vị ấy, rồi dùng thân của mình chạm nhẹ… cho đến… tiếp xúc thân của vị Tỳ khưu ấy. Có chủ ý hưởng thụ, cố gắng bằng thân, và nhận biết rõ sự xúc chạm nghĩa là khi bị người nữ ấy chạm nhẹ hoặc tiếp xúc như vậy, nếu có chủ ý hưởng thụ và cử động hoặc rung động thân dù chỉ một chút để nhận biết rõ sự xúc chạm, (vị Tỳ khưu) phạm tội Tăng Tàn.

Dveitthiyoti ettha dve saṅghādisese āpajjati, itthiyā ca paṇḍake ca saṅghādisesena saha dukkaṭaṃ . Etena upāyena yāva ‘‘nissaggiyena nissaggiyaṃ āmasati, sevanādhippāyo kāyena vāyamati na ca phassaṃ paṭivijānāti, āpatti dukkaṭassā’’ti tāva purimanayeneva āpattibhedo veditabbo.
Hai người nữ: ở đây, (vị Tỳ khưu) phạm hai tội Tăng Tàn; (nếu là) người nữ và người ái nam ái nữ, (phạm) tội Tăng Tàn cùng với tội Tác Ác. Bằng phương tiện này, cho đến (trường hợp) “Dùng vật xả thí chạm vào vật xả thí, có chủ ý hưởng thụ, cố gắng bằng thân nhưng không nhận biết rõ sự xúc chạm, phạm tội Tác Ác“, sự phân biệt tội cần được hiểu theo phương pháp trước.

Ettha ca kāyena vāyamati na ca phassaṃ paṭivijānātīti attanā nissaṭṭhaṃ pupphaṃ vā phalaṃ vā itthiṃ attano nissaggiyena pupphena vā phalena vā paharantiṃ disvā kāyena vikāraṃ karoti, aṅguliṃ vā cāleti, bhamukaṃ vā ukkhipati, akkhiṃ vā nikhaṇati, aññaṃ vā evarūpaṃ vikāraṃ karoti, ayaṃ vuccati ‘‘kāyena vāyamati na ca phassaṃ paṭivijānātī’’ti. Ayampi kāyena vāyamitattā dukkaṭaṃ āpajjati, dvīsu itthīsu dve, itthīpaṇḍakesupi dve eva dukkaṭe āpajjati.
Ở đây, Cố gắng bằng thân nhưng không nhận biết rõ sự xúc chạm nghĩa là thấy người nữ ném hoa hoặc quả mà mình đã xả thí, hoặc (ném) hoa hay quả xả thí của mình, rồi làm một hành vi sai lệch bằng thân, như cử động ngón tay, hoặc nhướng mày, hoặc nháy mắt, hoặc làm một hành vi sai lệch nào khác tương tự. Đây được gọi là “cố gắng bằng thân nhưng không nhận biết rõ sự xúc chạm”. Người này cũng phạm tội Tác Ác do đã cố gắng bằng thân; đối với hai người nữ, (phạm) hai (tội Tác Ác); đối với người nữ và người ái nam ái nữ, cũng phạm hai tội Tác Ác.

279. Evaṃ vatthuvasena vitthārato āpattibhedaṃ dassetvā idāni lakkhaṇavasena saṅkhepato āpattibhedañca anāpattibhedañca dassento ‘‘sevanādhippāyo’’tiādimāha. Tattha purimanaye itthiyā phuṭṭho samāno sevanādhippāyo kāyena vāyamati, phassaṃ paṭivijānātīti tivaṅgasampattiyā saṅghādiseso. Dutiye naye nissaggiyena nissaggiyāmasane viya vāyamitvā achupane viya ca phassassa appaṭivijānanato duvaṅgasampattiyā dukkaṭaṃ. Tatiye kāyena avāyamato anāpatti. Yo hi sevanādhippāyopi niccalena kāyena kevalaṃ phassaṃ paṭivijānāti sādiyati anubhoti, tassa cittuppādamatte āpattiyā abhāvato anāpatti. Catutthe pana nissaggiyena nissaggiyāmasane viya phassappaṭivijānanāpi natthi, kevalaṃ cittuppādamattameva, tasmā anāpatti. Mokkhādhippāyassa sabbākāresu anāpattiyeva.
279. Sau khi đã chỉ rõ sự phân biệt tội một cách chi tiết dựa trên đối tượng như vậy, bây giờ, để chỉ rõ sự phân biệt tội và không phạm tội một cách tóm tắt dựa trên đặc điểm, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Có chủ ý hưởng thụ“. Ở đó, theo phương pháp trước: bị người nữ chạm, đồng thời có chủ ý hưởng thụ, cố gắng bằng thân, và nhận biết rõ sự xúc chạm – do đầy đủ ba yếu tố, (phạm tội) Tăng Tàn. Theo phương pháp thứ hai: giống như trong trường hợp dùng vật xả thí chạm vào vật xả thí, do cố gắng nhưng không tiếp xúc, và do không nhận biết rõ sự xúc chạm – do đầy đủ hai yếu tố, (phạm) tội Tác Ác. (Theo phương pháp) thứ ba: do không cố gắng bằng thân, không phạm tội. Vì người nào dù có chủ ý hưởng thụ, nhưng chỉ nhận biết rõ sự xúc chạm, chấp nhận, trải nghiệm bằng thân bất động, đối với người ấy, do không có tội chỉ vì tâm khởi lên, nên không phạm tội. Còn (theo phương pháp) thứ tư: giống như trong trường hợp dùng vật xả thí chạm vào vật xả thí, cũng không có sự nhận biết rõ sự xúc chạm, chỉ đơn thuần là tâm khởi lên; do đó, không phạm tội. Đối với người có chủ ý giải thoát, trong mọi trường hợp, đều không phạm tội.

Ettha pana yo itthiyā gahito taṃ attano sarīrā mocetukāmo paṭippaṇāmeti vā paharati vā ayaṃ kāyena vāyamati phassaṃ paṭivijānāti. Yo āgacchantiṃ disvā tato muñcitukāmo uttāsetvā palāpeti, ayaṃ kāyena vāyamati na ca phassaṃ paṭivijānāti. Yo tādisaṃ dīghajātiṃ kāye ārūḷhaṃ disvā ‘‘saṇikaṃ gacchatu ghaṭṭiyamānā anatthāya saṃvatteyyā’’ti na ghaṭṭeti, itthimeva vā aṅgaṃ phusamānaṃ ñatvā ‘‘esā ‘anatthiko ayaṃ mayā’ti sayameva pakkamissatī’’ti ajānanto viya niccalo hoti, balavitthiyā vā gāḷhaṃ āliṅgitvā gahito daharabhikkhu palāyitukāmopi suṭṭhu gahitattā niccalo hoti, ayaṃ na ca kāyena vāyamati, phassaṃ paṭivijānāti. Yo pana āgacchantiṃ disvā ‘‘āgacchatu tāva tato naṃ paharitvā vā paṇāmetvā vā pakkamissāmī’’ti niccalo hoti, ayaṃ mokkhādhippāyo na ca kāyena vāyamati, na ca phassaṃ paṭivijānātīti veditabbo.
Ở đây, người nào bị người nữ nắm giữ, muốn giải thoát thân mình khỏi người ấy, bèn đẩy ra hoặc đánh, người này cố gắng bằng thân và nhận biết rõ sự xúc chạm. Người nào thấy (người nữ) đang đến, muốn thoát khỏi đó, bèn dọa cho sợ rồi đuổi đi, người này cố gắng bằng thân nhưng không nhận biết rõ sự xúc chạm. Người nào thấy một con vật dài (như rắn) như vậy leo lên thân, (nghĩ rằng) “Hãy để nó từ từ đi, nếu bị cọ xát có thể gây hại”, nên không cọ xát. Hoặc biết người nữ đang chạm vào thân mình, (nghĩ rằng) “Cô ta sẽ tự mình bỏ đi (nghĩ rằng) ‘Người này không cần ta'”, rồi làm như không biết, giữ thân bất động. Hoặc vị Tỳ khưu trẻ bị người nữ khỏe mạnh ôm chặt và nắm giữ, dù muốn trốn thoát nhưng do bị nắm quá chặt nên giữ thân bất động; người này không cố gắng bằng thân, nhưng nhận biết rõ sự xúc chạm. Còn người nào thấy (người nữ) đang đến, (nghĩ rằng) “Cứ để cô ta đến đã, rồi ta sẽ đánh hoặc đẩy cô ta ra rồi bỏ đi”, nên giữ thân bất động; người này cần được hiểu là có chủ ý giải thoát, không cố gắng bằng thân, và không nhận biết rõ sự xúc chạm.

280.Asañciccāti iminā upāyena imaṃ phusissāmīti acetetvā, evañhi acetetvā pattappaṭiggahaṇādīsu mātugāmassa aṅge phuṭṭhepi anāpatti.
280. Không cố ý nghĩa là không có chủ ý rằng “Ta sẽ chạm vào người này bằng phương tiện này”. Vì như vậy, nếu không có chủ ý mà chạm vào thân thể người nữ trong khi nhận bát v.v…, cũng không phạm tội.

Asatiyāti aññavihito hoti mātugāmaṃ phusāmīti sati natthi, evaṃ asatiyā hatthapādapasāraṇādikāle phusantassa anāpatti.
Do thất niệm nghĩa là tâm đang hướng đến việc khác, không có chánh niệm rằng “Ta đang chạm vào người nữ”. Như vậy, người chạm (vào người nữ) do thất niệm trong khi duỗi tay chân v.v…, không phạm tội.

Ajānantassāti dārakavesena ṭhitaṃ dārikaṃ ‘‘itthī’’ti ajānanto kenacideva karaṇīyena phusati, evaṃ ‘‘itthī’’ti ajānantassa phusato anāpatti.
Của người không biết nghĩa là không biết bé gái đang giả dạng bé trai là “người nữ”, rồi chạm vào do một công việc nào đó. Như vậy, người chạm mà không biết là “người nữ”, không phạm tội.

Asādiyantassāti kāyasaṃsaggaṃ asādiyantassa, tassa bāhāparamparāya nītabhikkhussa viya anāpatti. Ummattakādayo vuttanayāeva. Idha pana udāyitthero ādikammiko, tassa anāpatti ādikammikassāti.
Của người không chấp nhận nghĩa là của người không chấp nhận sự tiếp xúc thân thể; đối với người ấy, không phạm tội, giống như vị Tỳ khưu bị dẫn đi bằng cách chuyền tay nhau. (Trường hợp) người điên v.v… thì theo phương pháp đã nói. Còn ở đây, Trưởng lão Udāyī là người phạm tội đầu tiên; đối với người phạm tội đầu tiên ấy, là không phạm tội.

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Phân Tích Từ đã hoàn tất.

Samuṭṭhānādīsu idaṃ sikkhāpadaṃ paṭhamapārājikasamuṭṭhānaṃ kāyacittato samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, akusalacittaṃ, dvivedanaṃ, sukhamajjhattadvayenāti.
Về sự khởi lên v.v…, điều học này có sự khởi lên giống như tội bất cộng trụ thứ nhất, khởi lên từ thân và tâm. (Nó là) hành động, (có thể) thoát tội do nhận thức sai lầm (nếu không có ý định), có chủ ý, bị đời chê trách, là hành động thuộc về thân, (liên quan đến) tâm bất thiện, có hai loại cảm thọ, (và được thực hiện) với sự sung sướng qua cả hai (thân và tâm).

281. Vinītavatthūsu – mātuyā mātupemenāti mātupemena mātuyā kāyaṃ āmasi. Esa nayo dhītubhaginivatthūsu. Tattha yasmā mātā vā hotu dhītā vā itthī nāma sabbāpi brahmacariyassa pāripanthikāva. Tasmā ‘‘ayaṃ me mātā ayaṃ dhītā ayaṃ me bhaginī’’ti gehassitapemena āmasatopi dukkaṭameva vuttaṃ.
281. Trong các trường hợp đã được quyết đoán – Với mẹ bằng tình thương của người mẹ nghĩa là đã chạm vào thân của mẹ với tình thương của người mẹ. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho các trường hợp con gái, chị/em gái. Ở đó, vì dù là mẹ hay con gái, (hễ là) người nữ thì tất cả đều là chướng ngại cho đời sống phạm hạnh. Do đó, dù chạm với tình yêu quyến luyến đời sống tại gia (nghĩ rằng) “Đây là mẹ ta, đây là con gái ta, đây là chị/em gái ta”, cũng đã được nói là (phạm) tội Tác Ác.

Imaṃ pana bhagavato āṇaṃ anussarantena sacepi nadīsotena vuyhamānaṃ mātaraṃ passati neva hatthena parāmasitabbā. Paṇḍitena pana bhikkhunā nāvā vā phalakaṃ vā kadalikkhandho vā dārukkhandho vā upasaṃharitabbo. Tasmiṃ asati kāsāvampi upasaṃharitvā purato ṭhapetabbaṃ, ‘‘ettha gaṇhāhī’’ti pana na vattabbā. Gahite parikkhāraṃ kaḍḍhāmīti kaḍḍhantena gantabbaṃ. Sace bhāyati purato purato gantvā ‘‘mā bhāyī’’ti samassāsetabbā. Sace bhāyamānā puttassa sahasā khandhe vā abhiruhati, hatthe vā gaṇhāti, na ‘‘apehi mahallike’’ti niddhunitabbā, thalaṃ pāpetabbā. Kaddame laggāyapi kūpe patitāyapi eseva nayo.
Tuy nhiên, người ghi nhớ mệnh lệnh này của Đức Thế Tôn, dù thấy mẹ mình bị dòng sông cuốn trôi, cũng không được dùng tay chạm đến. Tuy nhiên, vị Tỳ khưu trí tuệ nên đưa đến thuyền, hoặc tấm ván, hoặc thân cây chuối, hoặc khúc gỗ. Nếu không có những thứ đó, cũng nên đưa y ca-sa đến và đặt ở phía trước, nhưng không được nói: “Hãy nắm lấy ở đây”. Khi (bà) đã nắm lấy, (vị Tỳ khưu) nên đi trong khi kéo (y như thể) đang kéo vật dụng của mình. Nếu (bà) sợ hãi, (vị Tỳ khưu) nên đi phía trước và an ủi rằng: “Đừng sợ”. Nếu người (mẹ) đang sợ hãi mà bất ngờ leo lên vai hoặc nắm lấy tay của con trai (là Tỳ khưu), không nên xô đẩy (nói rằng): “Hãy tránh ra, bà già!”, mà nên đưa (bà) đến chỗ đất liền. Đối với (người mẹ) bị mắc kẹt trong bùn hoặc rơi xuống giếng, phương pháp cũng như vậy.

Tatrapi hi yottaṃ vā vatthaṃ vā pakkhipitvā hatthena gahitabhāvaṃ ñatvā uddharitabbā, natveva āmasitabbā. Na kevalañca mātugāmassa sarīrameva anāmāsaṃ, nivāsanapāvuraṇampi ābharaṇabhaṇḍampi tiṇaṇḍupakaṃ vā tāḷapaṇṇamuddikaṃ vā upādāya anāmāsameva, tañca kho nivāsanapārupanaṃ piḷandhanatthāya ṭhapitameva. Sace pana nivāsanaṃ vā pārupanaṃ vā parivattetvā cīvaratthāya pādamūle ṭhapeti vaṭṭati. Ābharaṇabhaṇḍesu pana sīsapasādhanakadantasūciādikappiyabhaṇḍaṃ ‘‘imaṃ bhante tumhākaṃ gaṇhathā’’ti diyyamānaṃ sipāṭikāsūciādiupakaraṇatthāya gahetabbaṃ. Suvaṇṇarajatamuttādimayaṃ pana anāmāsameva dīyyamānampi na gahetabbaṃ. Na kevalañca etāsaṃ sarīrūpagameva anāmāsaṃ, itthisaṇṭhānena kataṃ kaṭṭharūpampi dantarūpampi ayarūpampi loharūpampi tipurūpampi potthakarūpampi sabbaratanarūpampi antamaso piṭṭhamayarūpampi anāmāsameva. Paribhogatthāya pana ‘‘idaṃ tumhākaṃ hotū’’ti labhitvā ṭhapetvā sabbaratanamayaṃ avasesaṃ bhinditvā upakaraṇārahaṃ upakaraṇe paribhogārahaṃ paribhoge upanetuṃ vaṭṭati.
Ngay cả ở đó, cũng nên quăng xuống dây thừng hoặc y phục, rồi sau khi biết (bà) đã nắm lấy bằng tay, hãy kéo lên; nhưng không được chạm vào. Không chỉ thân thể của người nữ là không được chạm, mà cả y phục mặc trong, y phục khoác ngoài, đồ trang sức, cho đến cả chiếc nhẫn bằng cỏ hoặc lá cọ, cũng đều không được chạm. Và y phục mặc trong, y phục khoác ngoài ấy phải là thứ được giữ để mặc. Nhưng nếu đổi y phục mặc trong hoặc y phục khoác ngoài để lấy y (của Tỳ khưu) rồi đặt dưới chân, thì được phép. Còn trong các loại đồ trang sức, những vật thích hợp như đồ trang điểm đầu, tăm xỉa răng v.v…, nếu được dâng cúng (nói rằng): “Thưa Đại đức, xin ngài hãy nhận lấy thứ này cho ngài”, thì nên nhận lấy để làm vật dụng như hộp đựng kim v.v… Nhưng những thứ làm bằng vàng, bạc, ngọc trai v.v…, dù được dâng cúng, cũng không được chạm đến, không được nhận lấy. Không chỉ những vật liên hệ với thân của họ là không được chạm, mà cả hình tượng làm bằng gỗ, hình tượng làm bằng ngà, hình tượng làm bằng sắt, hình tượng làm bằng đồng, hình tượng làm bằng thiếc, hình tượng làm bằng vải, hình tượng làm bằng tất cả các loại châu báu, cho đến cả hình tượng làm bằng bột, nếu được làm theo hình dáng người nữ, cũng đều không được chạm. Tuy nhiên, để sử dụng, nếu nhận được (với lời nói) “Thứ này hãy là của ngài”, thì sau khi cất giữ, trừ những thứ làm bằng tất cả các loại châu báu, phần còn lại có thể đập vỡ rồi dùng những phần thích hợp làm vật dụng, những phần thích hợp để tiêu dùng thì đem vào tiêu dùng, điều đó được phép.

Yathā ca itthirūpakaṃ; evaṃ sattavidhampi dhaññaṃ anāmāsaṃ. Tasmā khettamajjhena gacchatā tatthajātakampi dhaññaphalaṃ na āmasantena gantabbaṃ. Sace gharadvāre vā antarāmagge vā dhaññaṃ pasāritaṃ hoti passena ca maggo atthi na maddantena gantabbaṃ. Gamanamagge asati maggaṃ adhiṭṭhāya gantabbaṃ. Antaraghare dhaññassa upari āsanaṃ paññāpetvā denti nisīdituṃ vaṭṭati. Keci āsanasālāyaṃ dhaññaṃ ākiranti, sace sakkā hoti harāpetuṃ harāpetabbaṃ, no ce ekamantaṃ dhaññaṃ amaddantena pīṭhakaṃ paññapetvā nisīditabbaṃ. Sace okāso na hoti, manussā dhaññamajjheyeva āsanaṃ paññapetvā denti, nisīditabbaṃ. Tatthajātakāni muggamāsādīni aparaṇṇānipi tālapanasādīni vā phalāni kīḷantena na āmasitabbāni. Manussehi rāsikatesupi eseva nayo. Araññe pana rukkhato patitāni phalāni ‘‘anupasampannānaṃ dassāmī’’ti gaṇhituṃ vaṭṭati.
Giống như hình tượng người nữ; cũng vậy, bảy loại lúa gạo cũng không được chạm đến. Do đó, người đi ngang qua giữa ruộng, không được chạm đến cả trái lúa mọc ở đó mà phải đi. Nếu lúa được phơi ở cửa nhà hoặc giữa đường, và có lối đi ở bên cạnh, không được giẫm lên mà phải đi. Nếu không có lối đi, phải đi qua (nhưng) chú tâm vào con đường (để tránh giẫm lúa). Trong nhà, nếu họ trải chỗ ngồi trên lúa rồi mời, thì được phép ngồi. Một số người rải lúa trong nhà hội, nếu có thể nhờ dọn đi, thì nên nhờ dọn đi. Nếu không, nên trải ghế ở một bên, không giẫm lên lúa rồi ngồi. Nếu không có chỗ, và người ta trải chỗ ngồi ngay giữa lúa rồi mời, thì nên ngồi. Các loại đậu như đậu xanh, đậu đen v.v… mọc ở đó, hoặc các loại trái cây như thốt nốt, mít v.v…, không được chạm đến khi đang vui đùa. Đối với (lúa) do người ta chất thành đống, phương pháp cũng như vậy. Tuy nhiên, trong rừng, được phép nhặt những trái cây rơi từ trên cây xuống (với ý nghĩ) “Ta sẽ cho những người chưa thọ đại giới”.

Muttā , maṇi, veḷuriyo, saṅkho, silā, pavāḷaṃ, rajataṃ, jātarūpaṃ, lohitaṅko, masāragallanti imesu dasasu ratanesu muttā adhotā anividdhā yathājātāva āmasituṃ vaṭṭati. Sesā anāmāsāti vadanti. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘muttā dhotāpi adhotāpi anāmāsā bhaṇḍamūlatthāya ca sampaṭicchituṃ na vaṭṭati, kuṭṭharogassa bhesajjatthāya pana vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Antamaso jātiphalikaṃ upādāya sabbopi nīlapītādivaṇṇabhedo maṇi dhotaviddhavaṭṭito anāmāso, yathājāto pana ākaramutto pattādibhaṇḍamūlatthaṃ sampaṭicchituṃ vaṭṭatīti vutto. Sopi mahāpaccariyaṃ paṭikkhitto, pacitvā kato kācamaṇiyeveko vaṭṭatīti vutto. Veḷuriyepi maṇisadisova vinicchayo.
Trong mười loại châu báu này: ngọc trai, ngọc ma-ni, lưu ly, ốc xà cừ, đá quý, san hô, bạc, vàng, hồng ngọc, ngọc mắt mèo, ngọc trai chưa rửa, chưa khoan, còn nguyên trạng tự nhiên, thì được phép chạm đến. (Một số vị) nói rằng các loại còn lại không được chạm đến. Tuy nhiên, trong Mahāpaccariya, đã nói rằng: “Ngọc trai dù đã rửa hay chưa rửa đều không được chạm đến, và không được phép nhận để làm vốn liếng vật dụng; nhưng được phép (nhận) để làm thuốc chữa bệnh phong cùi”. Cho đến cả thủy tinh tự nhiên, tất cả các loại ngọc ma-ni có màu sắc khác nhau như xanh, vàng v.v…, nếu đã được rửa, khoan, mài tròn, thì không được chạm đến. Tuy nhiên, (ngọc ma-ni) còn nguyên trạng tự nhiên, vừa mới lấy từ mỏ, thì được nói là được phép nhận để làm vốn liếng cho các vật dụng như bát v.v… Điều đó cũng bị bác bỏ trong Mahāpaccariya; chỉ có ngọc thủy tinh được làm bằng cách nấu luyện là được phép, như đã được nói. Đối với lưu ly, sự quyết đoán cũng tương tự như ngọc ma-ni.

Saṅkho dhamanasaṅkho ca dhotaviddho ca ratanamisso anāmāso. Pānīyasaṅkho dhotopi adhotopi āmāsova sesañca añjanādibhesajjatthāyapi bhaṇḍamūlatthāyapi sampaṭicchituṃ vaṭṭati. Silā dhotaviddhā ratanasaṃyuttā muggavaṇṇāva anāmāsā. Sesā satthakanisānādiatthāya gaṇhituṃ vaṭṭati. Ettha ca ratanasaṃyuttāti suvaṇṇena saddhiṃ yojetvā pacitvā katāti vadanti. Pavāḷaṃ dhotaviddhaṃ anāmāsaṃ. Sesaṃ āmāsaṃ bhaṇḍamūlatthañca sampaṭicchituṃ vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘dhotampi adhotampi sabbaṃ anāmāsaṃ, na ca sampaṭicchituṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ.
Ốc xà cừ, cả loại ốc thổi, nếu đã được rửa, khoan, và trộn với châu báu, thì không được chạm đến. Ốc đựng nước uống, dù đã rửa hay chưa rửa, đều được phép chạm đến; và các loại ốc còn lại cũng được phép nhận để làm thuốc như thuốc vẽ mắt v.v… hoặc để làm vốn liếng vật dụng. Đá quý, nếu đã được rửa, khoan, kết hợp với châu báu, và chỉ loại có màu đậu xanh, thì không được chạm đến. Các loại còn lại được phép nhận để làm đá mài dao nhỏ v.v… Ở đây, “kết hợp với châu báu” được (một số vị) nói là (đá quý) được kết hợp với vàng rồi nấu luyện mà làm thành. San hô, nếu đã được rửa, khoan, thì không được chạm đến. Loại còn lại được phép chạm đến và được phép nhận để làm vốn liếng vật dụng. Tuy nhiên, trong Mahāpaccariya, đã nói rằng: “(San hô) dù đã rửa hay chưa rửa, tất cả đều không được chạm đến, và không được phép nhận”.

Rajataṃ jātarūpañca katabhaṇḍampi akatabhaṇḍampi sabbena sabbaṃ bījato paṭṭhāya anāmāsañca asampaṭicchiyañca, uttararājaputto kira suvaṇṇacetiyaṃ kāretvā mahāpadumattherassa pesesi. Thero ‘‘na kappatī’’ti paṭikkhipi. Cetiyaghare suvaṇṇapadumasuvaṇṇabubbuḷakādīni honti, etānipi anāmāsāni. Cetiyagharagopakā pana rūpiyachaḍḍakaṭṭhāne ṭhitā, tasmā tesaṃ keḷāpayituṃ vaṭṭatīti vuttaṃ. Kurundiyaṃ pana taṃ paṭikkhittaṃ. Suvaṇṇacetiye kacavarameva harituṃ vaṭṭatīti ettakameva anuññātaṃ. Ārakūṭalohampi jātarūpagatikameva anāmāsanti sabbaaṭṭhakathāsu vuttaṃ. Senāsanaparibhogo pana sabbakappiyo, tasmā jātarūparajatamayā sabbepi senāsanaparikkhārā āmāsā. Bhikkhūnaṃ dhammavinayavaṇṇanaṭṭhāne ratanamaṇḍape karonti phalikatthambhe ratanadāmapatimaṇḍite, tattha sabbūpakaraṇāni bhikkhūnaṃ paṭijaggituṃ vaṭṭati.
Bạc và vàng, dù là vật đã chế tác hay chưa chế tác, tất cả hoàn toàn, kể từ hạt giống (tức là dạng nguyên liệu nhỏ nhất), đều không được chạm đến và không được nhận. Tương truyền, thái tử Uttara đã cho làm một bảo tháp bằng vàng rồi gửi đến ngài Mahāpadumatthera. Vị Trưởng lão đã từ chối (nói rằng): “Không thích hợp”. Trong nhà bảo tháp, có những (vật trang trí) như hoa sen vàng, bong bóng vàng v.v…, những thứ này cũng không được chạm đến. Tuy nhiên, những người trông coi nhà bảo tháp thì ở vị trí của người giữ tiền bạc; do đó, đã được nói là được phép để họ mân mê (những vật đó). Tuy nhiên, trong Kurundī, điều đó bị bác bỏ. Tại bảo tháp vàng, chỉ được phép mang đi rác rưởi; chỉ chừng đó là được cho phép. Đồng thau cũng giống như vàng, không được chạm đến, như đã được nói trong tất cả các Chú giải. Tuy nhiên, việc sử dụng sàng tọa thì hoàn toàn thích hợp; do đó, tất cả các vật dụng sàng tọa làm bằng vàng bạc đều được phép chạm đến. Tại nơi thuyết giảng Pháp và Luật của các Tỳ khưu, người ta làm những đài châu báu, những cột thủy tinh được trang trí bằng chuỗi châu báu; ở đó, các Tỳ khưu được phép chăm sóc tất cả các vật dụng.

Lohitaṅkamasāragallā dhotaviddhā anāmāsā, itare āmāsā, bhaṇḍamūlatthāya vaṭṭantīti vuttā. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘dhotāpi adhotāpi sabbaso anāmāsā na ca sampaṭicchituṃ vaṭṭantī’’ti vuttaṃ.
Hồng ngọc và ngọc mắt mèo, nếu đã được rửa, khoan, thì không được chạm đến; các loại khác được phép chạm đến, và được nói là được phép (nhận) để làm vốn liếng vật dụng. Tuy nhiên, trong Mahāpaccariya, đã nói rằng: “(Hồng ngọc và ngọc mắt mèo) dù đã rửa hay chưa rửa, tất cả hoàn toàn không được chạm đến, và không được phép nhận”.

Sabbaṃ āvudhabhaṇḍaṃ anāmāsaṃ, bhaṇḍamūlatthāya dīyyamānampi na sampaṭicchitabbaṃ. Satthavaṇijjā nāma na vaṭṭati. Suddhadhanudaṇḍopi dhanujiyāpi patodopi aṅkusopi antamaso vāsipharasuādīnipi āvudhasaṅkhepena katāni anāmāsāni. Sace kenaci vihāre satti vā tomaro vā ṭhapito hoti, vihāraṃ jaggantena ‘‘harantū’’ti sāmikānaṃ pesetabbaṃ. Sace na haranti, taṃ acālentena vihāro paṭijaggitabbo. Yuddhabhūmiyaṃ patitaṃ asiṃ vā sattiṃ vā tomaraṃ vā disvā pāsāṇena vā kenaci vā asiṃ bhinditvā satthakatthāya gahetuṃ vaṭṭati, itarānipi viyojetvā kiñci satthakatthāya gahetuṃ vaṭṭati kiñci kattaradaṇḍādiatthāya. ‘‘Idaṃ gaṇhathā’’ti dīyyamānaṃ pana ‘‘vināsetvā kappiyabhaṇḍaṃ karissāmī’’ti sabbampi sampaṭicchituṃ vaṭṭati.
Tất cả các loại vũ khí đều không được chạm đến; dù được dâng cúng để làm vốn liếng vật dụng, cũng không được nhận. Việc buôn bán vũ khí là không được phép. Ngay cả thân cung thuần túy, dây cung, roi ngựa, móc điều khiển voi, cho đến cả những thứ như bào, rìu v.v… nếu được làm theo dạng vũ khí, cũng không được chạm đến. Nếu trong một tu viện nào đó có để giáo hoặc lao, người trông coi tu viện nên gửi (thông điệp) cho chủ nhân (nói rằng): “Xin hãy mang đi”. Nếu họ không mang đi, (vị ấy) nên chăm sóc tu viện mà không di chuyển vật đó. Thấy gươm, hoặc giáo, hoặc lao rơi ở chiến trường, được phép dùng đá hoặc một vật gì đó đập vỡ gươm rồi lấy để làm dao nhỏ. Các thứ khác cũng vậy, sau khi tháo rời, một phần được phép lấy để làm dao nhỏ, một phần (được phép lấy) để làm cán kéo v.v… Tuy nhiên, nếu được dâng cúng (với lời nói) “Xin hãy nhận lấy thứ này”, thì được phép nhận tất cả (với ý nghĩ) “Ta sẽ phá hủy nó rồi làm thành vật dụng thích hợp”.

Macchajālapakkhijālādīnipi phalakajālikādīni saraparittānānīpi sabbāni anāmāsāni. Paribhogatthāya labbhamānesu pana jālaṃ tāva ‘‘āsanassa vā cetiyassa vā upari bandhissāmi, chattaṃ vā veṭhessāmī’’ti gahetuṃ vaṭṭati. Saraparittānaṃ sabbampi bhaṇḍamūlatthāya sampaṭicchituṃ vaṭṭati. Parūparodhanivāraṇañhi etaṃ na uparodhakaranti phalakaṃ dantakaṭṭhabhājanaṃ karissāmīti gahetuṃ vaṭṭati.
Ngay cả các loại như lưới cá, lưới chim v.v…, các loại bẫy bằng ván gỗ v.v…, và các loại áo giáp che tên, tất cả đều không được chạm đến. Tuy nhiên, trong số những thứ nhận được để sử dụng, lưới thì được phép nhận (với ý nghĩ) “Ta sẽ giăng phía trên chỗ ngồi hoặc bảo tháp, hoặc sẽ che lọng”. Tất cả áo giáp che tên đều được phép nhận để làm vốn liếng vật dụng. Vì đây là vật ngăn chặn sự hãm hại của người khác, chứ không phải là vật gây hãm hại; (còn) tấm ván, được phép nhận (với ý nghĩ) “Ta sẽ làm đồ đựng tăm xỉa răng”.

Cammavinaddhāni vīṇābheriādīni anāmāsāni. Kurundiyaṃ pana ‘‘bherisaṅghāṭopi vīṇāsaṅghāṭopi tucchapokkharampi mukhavaṭṭiyaṃ āropitacammampi vīṇādaṇḍakopi sabbaṃ anāmāsa’’nti vuttaṃ. Onahituṃ vā onahāpetuṃ vā vādetuṃ vā vādāpetuṃ vā na labbhatiyeva. Cetiyaṅgaṇe pūjaṃ katvā manussehi chaḍḍitaṃ disvāpi acāletvāva antarantare sammajjitabbaṃ, kacavarachaḍḍanakāle pana kacavaraniyāmeneva haritvā ekamantaṃ nikkhipituṃ vaṭṭatīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Bhaṇḍamūlatthāya sampaṭicchitumpi vaṭṭati. Paribhogatthāya labbhamānesu pana vīṇādoṇikañca bheripokkharañca dantakaṭṭhabhājanaṃ karissāma cammaṃ satthakakosakanti evaṃ tassa tassa parikkhārassa upakaraṇatthāya gahetvā tathā tathā kātuṃ vaṭṭati.
Các (nhạc cụ) như đàn vīṇā, trống bheri v.v… được bọc da, không được chạm đến. Tuy nhiên, trong Kurundī, đã nói rằng: “Cả bộ trống, cả bộ đàn vīṇā, cả mặt trống rỗng, cả da căng trên miệng (trống), cả cần đàn vīṇā, tất cả đều không được chạm đến”. Không được phép tự mình căng (dây/da), hoặc nhờ người khác căng, tự mình đánh (nhạc cụ), hoặc nhờ người khác đánh. Dù thấy (nhạc cụ) do người ta bỏ lại sau khi cúng dường ở sân bảo tháp, cũng phải quét dọn ở khoảng giữa mà không di chuyển chúng. Tuy nhiên, vào lúc dọn rác, được phép mang đi theo cách dọn rác rồi để ở một bên, như đã nói trong Mahāpaccariya. Cũng được phép nhận để làm vốn liếng vật dụng. Tuy nhiên, trong số những thứ nhận được để sử dụng, (với ý nghĩ) “Ta sẽ làm hộp đàn vīṇā và mặt trống thành đồ đựng tăm xỉa răng, da thành túi đựng dao nhỏ”, như vậy, được phép nhận lấy để làm vật dụng cho các đồ dùng ấy rồi làm theo cách đó.

Purāṇadutiyikāvatthu uttānameva. Yakkhivatthusmiṃ sacepi paranimmitavasavattideviyā kāyasaṃsaggaṃ samāpajjati thullaccayameva. Paṇḍakavatthu ca suttitthivatthu ca pākaṭameva. Matitthivatthusmiṃ pārājikappahonakakāle thullaccayaṃ, tato paraṃ dukkaṭaṃ. Tiracchānagatavatthusmiṃ nāgamāṇavikāyapi supaṇṇamāṇavikāyapi kinnariyāpi gāviyāpi dukkaṭameva. Dārudhītalikāvatthusmiṃ na kevalaṃ dārunā eva, antamaso cittakammalikhitepi itthirūpe dukkaṭameva.
Trường hợp người vợ cũ ý nghĩa rõ ràng. Trong trường hợp nữ dạ xoa: dù thực hiện sự tiếp xúc thân thể với vị nữ thiên Paranimmitavasavattī, cũng (phạm) Trọng Tội. Trường hợp người ái nam ái nữtrường hợp người nữ đang ngủ thì rõ ràng. Trong trường hợp người nữ đã chết: vào lúc (thân thể) còn đủ (để phạm) tội bất cộng trụ, (phạm) Trọng Tội; sau đó, (phạm) tội Tác Ác. Trong trường hợp loài bàng sanh: dù với thiếu nữ Nāga, thiếu nữ Supaṇṇa, Kinnarī, hay bò cái, cũng (phạm) tội Tác Ác. Trong trường hợp búp bê bằng gỗ: không chỉ với (búp bê) bằng gỗ, mà cho đến cả hình người nữ được vẽ trong tranh, cũng (phạm) tội Tác Ác.

282.Sampīḷanavatthu uttānatthameva. Saṅkamavatthusmiṃ ekapadikasaṅkamo vā hotu sakaṭamaggasaṅkamo vā, cālessāmīti payoge katamatteva cāletu vā mā vā, dukkaṭaṃ. Maggavatthu pākaṭameva. Rukkhavatthusmiṃ rukkho mahanto vā hotu mahājambuppamāṇo khuddako vā, taṃ cāletuṃ sakkotu vā mā vā, payogamattena dukkaṭaṃ. Nāvāvatthusmimpi eseva nayo. Rajjavatthusmiṃ yaṃ rajjuṃ āviñchanto ṭhānā cāletuṃ sakkoti, tattha thullaccayaṃ. Yā mahārajju hoti, īsakampi ṭhānā na calati, tattha dukkaṭaṃ. Daṇḍepi eseva nayo. Bhūmiyaṃ patitamahārukkhopi hi daṇḍaggahaṇeneva idha gahito. Pattavatthu pākaṭameva. Vandanavatthusmiṃ itthī pāde sambāhitvā vanditukāmā vāretabbā pādā vā paṭicchādetabbā, niccalena vā bhavitabbaṃ. Niccalassa hi cittena sādiyatopi anāpatti. Avasāne gahaṇavatthupākaṭamevāti.
282. Trường hợp ép mạnh ý nghĩa rõ ràng. Trong trường hợp cầu (qua sông): dù là cầu độc mộc hay cầu cho xe bò qua, chỉ cần thực hiện hành vi (với ý nghĩ) “Ta sẽ làm cho nó rung chuyển”, dù có rung chuyển hay không, (phạm) tội Tác Ác. Trường hợp đường đi thì rõ ràng. Trong trường hợp cây: dù cây lớn bằng cây trâm lớn hay cây nhỏ, dù có thể làm cho nó rung chuyển hay không, chỉ bằng hành vi (cố gắng), (phạm) tội Tác Ác. Trong trường hợp thuyền, phương pháp cũng như vậy. Trong trường hợp dây thừng: nếu kéo sợi dây nào mà có thể làm cho nó di chuyển khỏi chỗ, ở đó (phạm) Trọng Tội. Sợi dây nào lớn, dù chỉ một chút cũng không di chuyển khỏi chỗ, ở đó (phạm) tội Tác Ác. Đối với gậy, phương pháp cũng như vậy. Vì cây lớn đổ trên mặt đất cũng được kể vào (trường hợp) nắm gậy ở đây. Trường hợp bát thì rõ ràng. Trong trường hợp đảnh lễ: người nữ muốn xoa bóp chân rồi đảnh lễ, cần được ngăn cản, hoặc chân cần được che lại, hoặc (Tỳ khưu) cần phải giữ thân bất động. Vì đối với người giữ thân bất động, dù có chấp nhận bằng tâm, cũng không phạm tội. Cuối cùng, trường hợp nắm giữ thì rõ ràng.

Kāyasaṃsaggasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Về Sự Tiếp Xúc Thân Thể đã hoàn tất.

3. Duṭṭhullavācāsikkhāpadavaṇṇanā

3. Giải Thích Điều Học Về Lời Nói Thô Tục

283.Tena samayena buddho bhagavāti duṭṭhullavācāsikkhāpadaṃ. Tattha ādissāti apadisitvā. Vaṇṇampi bhaṇatītiādīni parato āvi bhavissanti. Chinnikāti chinnaottappā. Dhuttikāti saṭhā. Ahirikāyoti nillajjā . Uhasantīti sitaṃ katvā mandahasitaṃ hasanti. Ullapantīti ‘‘aho ayyo’’tiādinā nayena uccakaraṇiṃ nānāvidhaṃ palobhanakathaṃ kathenti. Ujjagghantīti mahāhasitaṃ hasanti. Uppaṇḍentīti ‘‘paṇḍako ayaṃ, nāyaṃ puriso’’tiādinā nayena parihāsaṃ karonti.
283. “Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, bậc Thế Tôn” là (phần mở đầu của) điều học về lời nói thô tục. Ở đó, nhắm đến nghĩa là chỉ định. (Các từ) như “Cũng nói lời khen ngợi” v.v… sẽ được làm rõ ở phần sau. (Những người nữ) trơ tráo là những người đã cắt đứt lòng tàm quý. (Những người nữ) xảo quyệt là những người gian xảo. Những người không biết hổ thẹn là những người không có lòng hổ thẹn. Họ mỉm cười nghĩa là họ nở nụ cười nhẹ nhàng. Họ tán tỉnh nghĩa là họ nói nhiều lời dụ dỗ, quyến rũ theo cách như “Ôi, Tôn giả!” v.v… Họ cười lớn nghĩa là họ cười to. Họ chế nhạo nghĩa là họ chế giễu theo cách như “Người này là ái nam ái nữ, không phải đàn ông” v.v…

285.Sārattoti duṭṭhullavācassādarāgena sāratto. Apekkhavā paṭibaddhacittoti vuttanayameva, kevalaṃ idha vācassādarāgo yojetabbo. Mātugāmaṃ duṭṭhullāhi vācāhīti ettha adhippetaṃ mātugāmaṃ dassento ‘‘mātugāmo’’tiādimāha. Tattha viññū paṭibalā subhāsitadubbhāsitaṃ duṭṭhullāduṭṭhullaṃ ājānitunti yā paṇḍitā sātthakaniratthakakathaṃ asaddhammasaddhammapaṭisaṃyuttakathañca jānituṃ paṭibalā, ayaṃ idha adhippetā. Yā pana mahallikāpi bālā elamūgā ayaṃ idha anadhippetāti dasseti.
285. Say đắm là say đắm do tham ái trong sự thích thú lời nói thô tục. Có sự mong muốn, có tâm bị trói buộc thì theo phương pháp đã nói; chỉ cần ở đây, tham ái trong sự thích thú lời nói cần được áp dụng. (Nói) với người nữ bằng những lời nói thô tục: để chỉ rõ người nữ được muốn nói ở đây, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Người nữ“. Ở đó, Người có trí, có khả năng biết được lời nói hay, lời nói dở, lời nói thô tục, lời nói không thô tục nghĩa là người nữ nào thông thái, có khả năng biết được lời nói có ý nghĩa, lời nói vô nghĩa, và lời nói liên quan đến phi pháp, lời nói liên quan đến chánh pháp, người ấy được muốn nói ở đây. Còn người nữ nào dù già cả mà ngu dốt, câm điếc, người ấy không được muốn nói ở đây, như đã chỉ rõ.

Obhāseyyāti avabhāseyya nānāppakārakaṃ asaddhammavacanaṃ vadeyya. Yasmā panevaṃ obhāsantassa yo so obhāso nāma, so atthato ajjhācāro hoti rāgavasena abhibhavitvā saññamavelaṃ ācāro, tasmā tamatthaṃ dassento ‘‘obhāseyyāti ajjhācāro vuccatī’’ti āha. Yathā tanti ettha tanti nipātamattaṃ, yathā yuvā yuvatinti attho.
Nên nói chuyện (tán tỉnh) nghĩa là nên nói chuyện, nên nói nhiều loại lời nói phi pháp. Vì đối với người nói chuyện như vậy, cái gọi là sự nói chuyện ấy, về mặt ý nghĩa, là sự vi phạm giới hạnh, là hành vi vượt ngoài sự tự chủ, do bị tham ái chế ngự. Do đó, để chỉ rõ ý nghĩa ấy, (Ngài) đã nói: “Nói chuyện (tán tỉnh) được gọi là sự vi phạm giới hạnh”. Trong (cụm từ) Giống như…, ở đây ta chỉ là một tiểu từ; ý nghĩa là giống như chàng trai trẻ (nói) với cô gái trẻ.

Dve magge ādissātiādi yenākārena obhāsato saṅghādiseso hoti, taṃ dassetuṃ vuttaṃ. Tattha dve maggeti vaccamaggañca passāvamaggañca. Sesaṃ uddese tāva pākaṭameva. Niddese pana thometīti ‘‘itthilakkhaṇena subhalakkhaṇena samannāgatāsī’’ti vadati, na tāva sīsaṃ eti. ‘‘Tava vaccamaggo ca passāvamaggo ca īdiso tena nāma īdisena itthilakkhaṇena subhalakkhaṇena samannāgatāsī’’ti vadati, sīsaṃ eti, saṅghādiseso. Vaṇṇeti pasaṃsatīti imāni pana thomanapadasseva vevacanāni.
(Cụm từ) bắt đầu bằng “Nhắm đến hai đường” v.v… đã được nói để chỉ rõ cách thức nói chuyện (tán tỉnh) mà phạm tội Tăng Tàn. Ở đó, “hai đường” là đường đại tiện và đường tiểu tiện. Phần còn lại trong phần đề mục thì rõ ràng. Còn trong phần giải thích, “khen ngợi” nghĩa là nói rằng: “Ngươi có đặc điểm của người nữ, có đặc điểm tốt đẹp”; (nói) chừng đó chưa đến mức (phạm tội). (Nếu) nói rằng: “Đường đại tiện và đường tiểu tiện của ngươi như thế này, do đó, ngươi có đặc điểm của người nữ, có đặc điểm tốt đẹp như thế này”; (nói) đến mức đó, (phạm tội) Tăng Tàn. Còn “mô tả”, “tán dương” là những từ đồng nghĩa của từ “khen ngợi”.

Khuṃsetīti vācāpatodena ghaṭṭeti. Vambhetīti apasādeti. Garahatīti dosaṃ deti. Parato pana pāḷiyā āgatehi ‘‘animittāsī’’tiādīhi ekādasahi padehi aghaṭite sīsaṃ na eti, ghaṭitepi tesu sikharaṇīsi sambhinnāsi ubhatobyañjanāsīti imehi tīhi ghaṭiteyeva saṅghādiseso.
“Chê bai” nghĩa là dùng lời nói như roi mà chạm đến (làm tổn thương). “Miệt thị” nghĩa là khinh thường. “Khiển trách” nghĩa là đổ lỗi. Còn ở phần sau, nếu không gắn liền với mười một từ trong Pāḷi như “Ngươi không có bộ phận sinh dục” v.v…, thì chưa đến mức (phạm tội). Dù có gắn liền, trong số đó, chỉ khi gắn liền với ba từ này: “Ngươi là người có thịt thừa (ở bộ phận sinh dục)”, “Ngươi là người có đường (sinh dục và hậu môn) thông nhau”, “Ngươi là người có cả hai bộ phận sinh dục”, mới (phạm tội) Tăng Tàn.

Dehi meti yācanāyapi ettakeneva sīsaṃ na eti, ‘‘methunaṃ dhammaṃ dehī’’ti evaṃ methunadhammena ghaṭite eva saṅghādiseso.
“Hãy cho tôi”: dù là lời yêu cầu, chỉ chừng đó cũng chưa đến mức (phạm tội). Chỉ khi gắn liền với hành vi giao hợp, như “Hãy cho tôi hành vi giao hợp”, mới (phạm tội) Tăng Tàn.

Kadā te mātā pasīdissatītiādīsu āyācanavacanesupi ettakeneva sīsaṃ na eti, ‘‘kadā te mātā pasīdissati, kadā te methunaṃ dhammaṃ labhissāmī’’ti vā ‘‘tava mātari pasannāya methunaṃ dhammaṃ labhissāmī’’ti vā ādinā pana nayena methunadhammena ghaṭiteyeva saṅghādiseso.
Trong các lời yêu cầu như “Khi nào mẹ ngươi sẽ bằng lòng?” v.v…, chỉ chừng đó cũng chưa đến mức (phạm tội). (Phải là) “Khi nào mẹ ngươi sẽ bằng lòng, khi nào ta sẽ được hành vi giao hợp với ngươi?” hoặc “Khi mẹ ngươi bằng lòng, ta sẽ được hành vi giao hợp với ngươi”, hay theo cách tương tự, chỉ khi gắn liền với hành vi giao hợp, mới (phạm tội) Tăng Tàn.

Kathaṃ tvaṃ sāmikassa desītiādīsu pucchāvacanesupi methunadhammanti vutteyeva saṅghādiseso, na itarathā. Evaṃ kira tvaṃ sāmikassa desīti paṭipucchāvacanesupi eseva nayo.
Trong các lời hỏi như “Ngươi cho chồng ngươi như thế nào?” v.v…, chỉ khi nói rõ “hành vi giao hợp”, mới (phạm tội) Tăng Tàn, chứ không phải cách khác. Trong các lời hỏi lại như “Có phải ngươi cho chồng ngươi như vậy không?”, phương pháp cũng như vậy.

Ācikkhanāya puṭṭho bhaṇatīti ‘‘kathaṃ dadamānā sāmikassa piyā hotī’’ti evaṃ puṭṭho ācikkhati. Ettha ca ‘‘evaṃ dehi evaṃ dadamānā’’ti vuttepi sīsaṃ na eti. ‘‘Methunadhammaṃ evaṃ dehi evaṃ upanehi evaṃ methunadhammaṃ dadamānā upanayamānā piyā hotī’’tiādinā pana nayena methunadhammena ghaṭiteyeva saṅghādiseso. Anusāsanīvacanesupi eseva nayo.
Về việc trình bày: “Được hỏi rồi nói” nghĩa là được hỏi như “Cho như thế nào thì được chồng yêu?”, rồi trình bày. Ở đây, dù nói “Hãy cho như vầy, khi cho như vầy”, cũng chưa đến mức (phạm tội). Tuy nhiên, theo cách như “Hãy cho hành vi giao hợp như vầy, hãy dâng hiến như vầy; khi cho, khi dâng hiến hành vi giao hợp như vầy thì được (chồng) yêu” v.v…, chỉ khi gắn liền với hành vi giao hợp, mới (phạm tội) Tăng Tàn. Trong các lời khuyên dạy, phương pháp cũng như vậy.

Akkosaniddese – animittāsīti nimittarahitāsi, kuñcikapaṇālimattameva tava dakasotanti vuttaṃ hoti.
Trong phần giải thích về lời mắng nhiếc – “Ngươi không có bộ phận sinh dục” nghĩa là ngươi không có bộ phận sinh dục; điều đó có nghĩa là đường nước (tiểu) của ngươi chỉ bằng ống khóa.

Nimittamattāsīti tava itthinimittaṃ aparipuṇṇaṃ saññāmattamevāti vuttaṃ hoti. Alohitāti sukkhasotā. Dhuvalohitāti niccalohitā kilinnadakasotā. Dhuvacoḷāti niccapakkhittāṇicoḷā, sadā āṇicoḷakaṃ sevasīti vuttaṃ hoti. Paggharantīti savantī; sadā te muttaṃ savatīti vuttaṃ hoti. Sikharaṇīti bahinikkhantaāṇimaṃsā. Itthipaṇḍakāti animittāva vuccati. Vepurisikāti samassudāṭhikā purisarūpā itthī. Sambhinnāti sambhinnavaccamaggapassāvamaggā. Ubhatobyañjanāti itthinimittena ca purisanimittena cāti ubhohi byañjanehi samannāgatā.
“Ngươi chỉ có danh xưng bộ phận sinh dục” nghĩa là bộ phận sinh dục nữ của ngươi không hoàn chỉnh, chỉ là danh xưng mà thôi. “Ngươi không có máu” nghĩa là đường (sinh dục) khô. “Ngươi luôn có máu” nghĩa là luôn có máu, đường nước (tiểu) ẩm ướt. “Ngươi luôn dùng vải (vệ sinh)” nghĩa là người luôn đặt miếng vải (vệ sinh), có nghĩa là ngươi luôn dùng miếng vải (vệ sinh). “Ngươi hay chảy nước” nghĩa là hay rỉ nước; có nghĩa là nước tiểu của ngươi luôn rỉ ra. “Người có thịt thừa (ở bộ phận sinh dục)” là người có thịt thừa lòi ra ngoài. “Người nữ ái nam ái nữ” cũng được gọi là người không có bộ phận sinh dục (rõ ràng). “Người nữ cóลักษณะ đàn ông” là người nữ có râu, có răng nanh, có hình dáng đàn ông. “Người có đường (sinh dục và hậu môn) thông nhau” là người có đường đại tiện và đường tiểu tiện thông nhau. “Người có cả hai bộ phận sinh dục” là người có cả hai đặc điểm: bộ phận sinh dục nữ và bộ phận sinh dục nam.

Imesu ca pana ekādasasu padesu sikharaṇīsi sambhinnāsi ubhatobyañjanāsīti imāniyeva tīṇi padāni suddhāni sīsaṃ enti. Iti imāni ca tīṇi purimāni ca vaccamaggapassāvamaggamethunadhammapadāni tīṇīti cha padāni suddhāni āpattikarāni. Sesāni animittātiādīni ‘‘animitte methunadhammaṃ me dehī’’ti vā ‘‘animittāsi methunadhammaṃ me dehī’’ti vā ādinā nayena methunadhammena ghaṭitāneva āpattikarāni hontīti veditabbāni.
Và trong mười một từ này, chỉ ba từ này: “Ngươi là người có thịt thừa (ở bộ phận sinh dục)”, “Ngươi là người có đường (sinh dục và hậu môn) thông nhau”, “Ngươi là người có cả hai bộ phận sinh dục”, tự chúng đến mức (phạm tội). Như vậy, ba từ này và ba từ trước đó là “đường đại tiện”, “đường tiểu tiện”, “hành vi giao hợp”, (tổng cộng) sáu từ này tự chúng gây ra tội. Các từ còn lại như “Ngươi không có bộ phận sinh dục” v.v…, cần được hiểu là chỉ gây ra tội khi được gắn liền với hành vi giao hợp theo cách như “Hãy cho tôi hành vi giao hợp nơi chỗ không có bộ phận sinh dục” hoặc “Ngươi không có bộ phận sinh dục, hãy cho tôi hành vi giao hợp” v.v…

286. Idāni yvāyaṃ otiṇṇo vipariṇatena cittena obhāsati, tassa vaccamaggapassāvamagge ādissa etesaṃ vaṇṇabhaṇanādīnaṃ vasena vitthārato āpattibhedaṃ dassento ‘‘itthī ca hoti itthisaññī’’tiādimāha. Tesaṃ attho kāyasaṃsagge vuttanayeneva veditabbo.
286. Bây giờ, người nào bị xâm nhập, nói chuyện (tán tỉnh) với tâm đã biến đổi, để chỉ rõ sự phân biệt tội của người ấy một cách chi tiết dựa trên việc nói lời khen ngợi v.v… nhắm đến đường đại tiện, đường tiểu tiện, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Là người nữ, và có nhận thức là người nữ“. Ý nghĩa của chúng cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong (điều học về) sự tiếp xúc thân thể.

Ayaṃ pana viseso – adhakkhakanti akkhakato paṭṭhāya adho. Ubbhajāṇumaṇḍala jāṇumaṇḍalato paṭṭhāya uddhaṃ. Ubbhakkhakanti akkhakato paṭṭhāya uddhaṃ. Adho jāṇumaṇḍalanti jāṇumaṇḍalato paṭṭhāya adho. Akkhakaṃ pana jāṇumaṇḍalañca ettheva dukkaṭakkhette saṅgahaṃ gacchanti bhikkhuniyā kāyasaṃsagge viya. Na hi buddhā garukāpattiṃ sāvasesaṃ paññapentīti. Kāyappaṭibaddhanti vatthaṃ vā pupphaṃ vā ābharaṇaṃ vā.
Tuy nhiên, đây là điểm đặc biệt: “Dưới xương đòn” là kể từ xương đòn trở xuống. “Trên đầu gối” là kể từ đầu gối trở lên. “Trên xương đòn” là kể từ xương đòn trở lên. “Dưới đầu gối” là kể từ đầu gối trở xuống. Còn xương đòn và đầu gối, ở đây cũng được kể vào phạm vi tội Tác Ác, giống như trong trường hợp Tỳ-khưu-ni tiếp xúc thân thể (với nam giới). Vì các Đức Phật không chế định tội nặng mà có dư sót. “Vật liên hệ với thân” là y phục, hoặc hoa, hoặc đồ trang sức.

287.Atthapurekkhārassāti animittātiādīnaṃ padānaṃ atthaṃ kathentassa, aṭṭhakathaṃ vā sajjhāyaṃ karontassa.
287. Của người chú trọng ý nghĩa nghĩa là của người đang giải thích ý nghĩa của các từ như “không có bộ phận sinh dục” v.v…, hoặc đang đọc tụng Chú giải.

Dhammapurekkhārassāti pāḷiṃ vācentassa vā sajjhāyantassa vā. Evaṃ atthañca dhammañca purakkhatvā bhaṇantassa atthapurekkhārassa ca dhammapurekkhārassa ca anāpatti.
Của người chú trọng Pháp nghĩa là của người đang đọc hoặc đang đọc tụng Pāḷi. Như vậy, đối với người nói mà chú trọng ý nghĩa và Pháp, cả người chú trọng ý nghĩa và người chú trọng Pháp, đều không phạm tội.

Anusāsanipurekkhārassāti ‘‘idānipi animittāsi ubhattobyañjanāsi appamādaṃ idāni kareyyāsi, yathā āyatimpi evarūpā na hohisī’’ti evaṃ anusiṭṭhiṃ purakkhatvā bhaṇantassa anusāsanipurekkhārassa anāpatti. Yo pana bhikkhunīnaṃ pāḷiṃ vācento pakativācanāmaggaṃ pahāya hasanto hasanto ‘‘sikharaṇīsi sambhinnāsi ubhatobyañjanāsī’’ti punappunaṃ bhaṇati, tassa āpattiyeva. Ummattakassa anāpatti. Idha ādikammiko udāyitthero, tassa anāpatti ādikammikassāti.
Của người chú trọng sự khuyên dạy nghĩa là đối với người nói mà chú trọng sự khuyên dạy như: “Bây giờ ngươi không có bộ phận sinh dục, ngươi có cả hai bộ phận sinh dục; bây giờ ngươi hãy không dể duôi, để trong tương lai ngươi sẽ không như vậy nữa”, không phạm tội. Tuy nhiên, người nào trong khi đọc Pāḷi cho các Tỳ-khưu-ni, từ bỏ cách đọc thông thường, vừa cười vừa nói nhiều lần: “Ngươi là người có thịt thừa (ở bộ phận sinh dục), ngươi là người có đường (sinh dục và hậu môn) thông nhau, ngươi là người có cả hai bộ phận sinh dục”, vị ấy chắc chắn phạm tội. Người điên không phạm tội. Ở đây, người phạm tội đầu tiên là Trưởng lão Udāyī; đối với người phạm tội đầu tiên ấy, là không phạm tội.

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Phân Tích Từ đã hoàn tất.

Samuṭṭhānādīsu idaṃ sikkhāpadaṃ tisamuṭṭhānaṃ kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ , sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dvivedananti.
Về sự khởi lên v.v…, điều học này có ba cách khởi lên: khởi lên từ thân và tâm, hoặc từ lời nói và tâm, hoặc từ thân, lời nói và tâm. (Nó là) hành động, (có thể) thoát tội do nhận thức sai lầm, có chủ ý, bị đời chê trách, là hành động thuộc về thân, hành động thuộc về lời nói, (liên quan đến) tâm bất thiện, có hai loại cảm thọ.

288. Vinītavatthūsu lohitavatthusmiṃ so bhikkhu itthiyā lohitakaṃ nimittaṃ sandhāyāha – itarā na aññāsi, tasmā dukkaṭaṃ.
288. Trong các trường hợp đã được quyết đoán – Trong trường hợp (bộ phận sinh dục) có máu: vị Tỳ khưu ấy đã nói nhắm đến bộ phận sinh dục có máu của người nữ – người kia không hiểu; do đó, (phạm) tội Tác Ác.

Kakkasalomanti rassalomehi bahulomaṃ. Ākiṇṇalomanti jaṭitalomaṃ. Kharalomanti thaddhalomaṃ. Dīghalomanti arassalomaṃ. Sabbaṃ itthinimittameva sandhāya vuttaṃ.
Lông cứng là (bộ phận sinh dục) có nhiều lông ngắn. Lông rậm rạp là (bộ phận sinh dục) có lông quấn vào nhau. Lông thô là (bộ phận sinh dục) có lông cứng. Lông dài là (bộ phận sinh dục) có lông không ngắn. Tất cả đều được nói nhắm đến bộ phận sinh dục nữ.

289.Vāpitaṃ kho teti asaddhammaṃ sandhāyāha, sā asallakkhetvā no ca kho paṭivuttanti āha. Paṭivuttaṃ nāma udakavappe bījehi appatiṭṭhitokāse pāṇakehi vināsitabīje vā okāse puna bījaṃ patiṭṭhāpetvā udakena āsittaṃ, thalavappe visamapatitānaṃ vā bījānaṃ samakaraṇatthāya puna aṭṭhadantakena samīkataṃ, tesu aññataraṃ sandhāya esā āha.
289. “Chỗ của ngươi đã được gieo rồi”: (vị ấy) đã nói nhắm đến hành vi phi pháp; cô ta không hiểu, bèn nói: “Nhưng chưa được gieo lại”. “Được gieo lại” là (ruộng) ở chỗ trũng có nước, nơi hạt giống không bám được, hoặc nơi hạt giống bị sâu bọ phá hoại, rồi lại gieo hạt giống và tưới nước. Hoặc (ruộng) ở chỗ đất cao, để làm cho các hạt giống rơi không đều được bằng phẳng, lại dùng bừa tám răng cào cho bằng; cô ta đã nói nhắm đến một trong những (việc) đó.

Maggavatthusmiṃ maggo saṃsīdatīti aṅgajātamaggaṃ sandhāyāha. Sesaṃ uttānamevāti.
Trong trường hợp đường đi: “Con đường lún xuống”, (vị ấy) đã nói nhắm đến đường của bộ phận sinh dục. Phần còn lại ý nghĩa rõ ràng.

Duṭṭhullavācāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Về Lời Nói Thô Tục đã hoàn tất.

4. Attakāmapāricariyasikkhāpadavaṇṇanā

4. Giải Thích Điều Học Về Việc Phục Vụ Lợi Ích Cá Nhân

290.Tena samayena buddho bhagavāti attakāmasikkhāpadaṃ. Tattha kulūpakoti kulapayirupāsanako catunnaṃ paccayānaṃ atthāya kulūpasaṅkamane niccappayutto.
290. “Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, bậc Thế Tôn” là (phần mở đầu của) điều học về việc phục vụ lợi ích cá nhân. Ở đó, người thường lui tới gia đình là người thường xuyên lui tới phục vụ các gia đình, luôn cố gắng lui tới các gia đình vì mục đích (nhận được) bốn thứ vật dụng.

Cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhāranti cīvarañca piṇḍapātañca senāsanañca gilānapaccayabhesajjaparikkhārañca. Gilānapaccayabhesajjaparikkhāranti cettha patikaraṇatthena paccayo, yassa kassaci sappāyassetaṃ adhivacanaṃ. Bhisakkassa kammaṃ tena anuññātattāti bhesajjaṃ. Gilānapaccayova bhesajjaṃ gilānapaccayabhesajjaṃ, yaṃkiñci gilānassa sappāyaṃ bhisakkakammaṃ telamadhuphāṇitādīti vuttaṃ hoti. Parikkhāroti pana ‘‘sattahi nagaraparikkhārehi suparikkhataṃ hotī’’tiādīsu (a. ni. 7.67) parivāro vuccati. ‘‘Ratho sīsaparikkhāro jhānakkho cakkavīriyo’’tiādīsu (saṃ. ni. 5.4) alaṅkāro. ‘‘Ye cime pabbajitena jīvitaparikkhārā samudānetabbā’’tiādīsu (ro. ni. 1.1.191) sambhāro. Idha pana sambhāropi parivāropi vaṭṭati. Tañhi gilānapaccayabhesajjaṃ jīvitassa parivāropi hoti jīvitavināsakābādhuppattiyā antaraṃ adatvā rakkhaṇato, sambhāropi yathā ciraṃ pavattati evamassa kāraṇabhāvato, tasmā parikkhāroti vuccati. Evaṃ gilānapaccayabhesajjañca taṃ parikkhāro cāti gilānapaccayabhesajjaparikkhāro, taṃ gilānapaccayabhesajjaparikkhāranti evamattho daṭṭhabbo.
Y phục, vật thực khất thực, sàng tọa, và vật dụng thuốc men làm duyên cho người bệnh là y phục, vật thực khất thực, sàng tọa, và vật dụng thuốc men làm duyên cho người bệnh. Trong (cụm từ) vật dụng thuốc men làm duyên cho người bệnh: “duyên” theo nghĩa là sự hỗ trợ; đây là tên gọi của bất cứ thứ gì thích hợp. “Thuốc men” là công việc của thầy thuốc, do đã được vị ấy cho phép. Duyên cho người bệnh chính là thuốc men, (nên gọi là) thuốc men làm duyên cho người bệnh; điều đó có nghĩa là bất cứ thứ gì thích hợp cho người bệnh, là công việc của thầy thuốc, như dầu, mật ong, đường phèn v.v… Còn “vật dụng”, trong (các kinh) như “Thành phố được bao bọc kỹ lưỡng bởi bảy lớp vật dụng bảo vệ thành” (a. ni. 7.67) v.v…, được gọi là sự tùy tùng. Trong (các kinh) như “Chiếc xe có sự trang nghiêm làm vật dụng hàng đầu, có thiền định làm trục xe, có tinh tấn làm bánh xe” (saṃ. ni. 5.4) v.v…, (parikkhāro) là sự trang nghiêm. Trong (các kinh) như “Những vật dụng sinh sống nào mà người xuất gia phải tìm kiếm” (ro. ni. 1.1.191) v.v…, (parikkhāro) là sự tích lũy. Còn ở đây, cả (nghĩa) sự tích lũy và sự tùy tùng đều thích hợp. Vì thuốc men làm duyên cho người bệnh ấy cũng là sự tùy tùng của đời sống, do bảo vệ mà không để cho bệnh tật hủy hoại đời sống khởi lên ở khoảng giữa. Cũng là sự tích lũy, do là nguyên nhân khiến cho (đời sống) tồn tại lâu dài như thế nào; do đó, được gọi là vật dụng. Như vậy, thuốc men làm duyên cho người bệnh và đó là vật dụng, (nên gọi là) vật dụng thuốc men làm duyên cho người bệnh; ý nghĩa cần được hiểu như vậy.

Vasalanti hīnaṃ lāmakaṃ. Atha vā vassatīti vasalo, paggharatīti attho, taṃ vasalaṃ, asucipaggharaṇakanti vuttaṃ hoti. Niṭṭhuhitvāti kheḷaṃ pātetvā.
Hạ tiện nghĩa là thấp kém, xấu xa. Hoặc, “vassatī” (chảy ra) nên là “vasalo” (hạ tiện), ý nghĩa là “rỉ ra”; (nơi) hạ tiện ấy, có nghĩa là nơi làm rỉ ra vật bất tịnh. Sau khi khạc nhổ nghĩa là sau khi nhổ nước bọt.

Kassāhaṃ kena hāyāmīti ahaṃ kassā aññissā itthiyā kena bhogena vā alaṅkārena vā rūpena vā parihāyāmi, kā nāma mayā uttaritarāti dīpeti.
“Ta thua kém ai, bởi điều gì?” nghĩa là: ta thua kém người nữ nào khác bởi của cải, hoặc đồ trang sức, hoặc sắc đẹp nào? Ai là người hơn ta? – (cô ấy) muốn nói rõ như vậy.

291.Santiketi upacāre ṭhatvā sāmantā avidūre, padabhājanepi ayamevaattho dīpito . Attakāmapāricariyāyāti methunadhammasaṅkhātena kāmena pāricariyā kāmapāricariyā. Attano atthāya kāmapāricariyā attakāmapāricariyā, attanā vā kāmitā icchitāti attakāmā, sayaṃ methunarāgavasena patthitāti attho. Attakāmā ca sā pāricariyā cāti attakāmapāricariyā, tassā attakāmapāricariyāya. Vaṇṇaṃ bhāseyyāti guṇaṃ ānisaṃsaṃ pakāseyya.
291. Gần gũi nghĩa là đứng trong phạm vi gần, xung quanh không xa; trong phần phân tích từ, ý nghĩa này cũng được làm rõ. Vì sự phục vụ lợi ích cá nhân nghĩa là: sự phục vụ đối với dục vọng được gọi là hành vi giao hợp, (đó là) sự phục vụ dục vọng. Sự phục vụ dục vọng vì lợi ích của mình là sự phục vụ lợi ích cá nhân. Hoặc, (sự phục vụ) do mình ham muốn, mong cầu, nên (gọi là) vì ham muốn của mình; ý nghĩa là tự mình mong muốn do tham ái trong việc giao hợp. (Sự phục vụ) vừa vì ham muốn của mình, vừa là sự phục vụ ấy, nên (gọi là) sự phục vụ lợi ích cá nhân; vì sự phục vụ lợi ích cá nhân ấy. Nên nói lời tán dương nghĩa là nên tuyên bố đức tính, lợi ích.

Tatra yasmā ‘‘attano atthāya kāmapāricariyā’’ti imasmiṃ atthavikappe kāmo ceva hetu ca pāricariyā ca attho, sesaṃ byañjanaṃ. ‘‘Attakāmā ca sā pāricariyā cāti attakāmapāricariyā’’ti imasmiṃ atthavikappe adhippāyo ceva pāricariyā cāti attho, sesaṃ byañjanaṃ. Tasmā byañjane ādaraṃ akatvā atthamattameva dassetuṃ ‘‘attano kāmaṃ attano hetuṃ attano adhippāyaṃ attano pāricariya’’nti padabhājanaṃ vuttaṃ. ‘‘Attano kāmaṃ attano hetuṃ attano pāricariya’’nti hi vutte jānissanti paṇḍitā ‘‘ettāvatā attano atthāya kāmapāricariyā vuttā’’ti. ‘‘Attano adhippāyaṃ attano pāricariya’’nti vuttepi jānissanti ‘‘ettāvatā attanā icchitakāmitaṭṭhena attakāmapāricariyā vuttā’’ti.
Ở đó, vì trong cách giải thích ý nghĩa “sự phục vụ dục vọng vì lợi ích của mình”, “dục vọng” là nhân duyên, còn “sự phục vụ” là ý nghĩa (chính); phần còn lại là văn tự. Trong cách giải thích ý nghĩa “(Sự phục vụ) vừa vì ham muốn của mình, vừa là sự phục vụ ấy, nên (gọi là) sự phục vụ lợi ích cá nhân”, “chủ ý” (ham muốn) và “sự phục vụ” là ý nghĩa (chính); phần còn lại là văn tự. Do đó, không chú trọng văn tự mà chỉ để trình bày ý nghĩa, phần phân tích từ đã được nói là “dục vọng của mình, nhân duyên của mình, chủ ý của mình, sự phục vụ của mình”. Vì khi nói “dục vọng của mình, nhân duyên của mình, sự phục vụ của mình”, những người có trí sẽ biết rằng “chừng đó là đã nói về sự phục vụ dục vọng vì lợi ích của mình”. Ngay cả khi nói “chủ ý của mình, sự phục vụ của mình”, (họ) cũng sẽ biết rằng “chừng đó là đã nói về sự phục vụ lợi ích cá nhân theo nghĩa là sự phục vụ do mình mong muốn, ham muốn”.

Idāni tassā attakāmapāricariyāya vaṇṇabhāsanākāraṃ dassento ‘‘etadagga’’ntiādimāha. Taṃ uddesatopi niddesatopi uttānatthameva. Ayaṃ panettha padasambandho ca āpattivinicchayo ca – etadaggaṃ…pe… paricareyyāti yā mādisaṃ sīlavantaṃ kalyāṇadhammaṃ brahmacāriṃ etena dhammena paricareyya, tassā evaṃ mādisaṃ paricarantiyā yā ayaṃ pāricariyā nāma, etadaggaṃ pāricariyānanti.
Bây giờ, để chỉ rõ cách thức nói lời tán dương sự phục vụ lợi ích cá nhân ấy, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Điều này là tối thượng“. Điều đó, cả trong phần đề mục lẫn phần giải thích, ý nghĩa đều rõ ràng. Còn đây là mối liên hệ giữa các từ và sự quyết đoán về tội: Điều này là tối thượng… cho đến… nên phục vụ nghĩa là: người nữ nào phục vụ một vị phạm hạnh có giới hạnh, có thiện pháp như ta bằng pháp này, đối với người nữ ấy đang phục vụ người như ta như vậy, cái gọi là sự phục vụ này, đó là sự phục vụ tối thượng.

Methunupasaṃhitena saṅghādisesoti evaṃ attakāmapāricariyāya vaṇṇaṃ bhāsanto ca methunupasaṃhitena methunadhammapaṭisaṃyutteneva vacanena yo bhāseyya, tassa saṅghādisesoti.
(Nếu lời nói) liên quan đến việc giao hợp, (phạm tội) Tăng Tàn nghĩa là: người nào nói lời tán dương sự phục vụ lợi ích cá nhân như vậy, và nói bằng lời nói liên quan đến việc giao hợp, tức là chỉ bằng lời nói tương ưng với hành vi giao hợp, đối với người ấy, (phạm tội) Tăng Tàn.

Idhāni yasmā methunupasaṃhiteneva bhāsantassa saṅghādiseso vutto, tasmā ‘‘ahampi khattiyo, tvampi khattiyā, arahati khattiyā khattiyassa dātuṃ samajātikattā’’ti evamādīhi vacanehi pāricariyāya vaṇṇaṃ bhāsamānassāpi saṅghādiseso natthi. ‘‘Ahampi khattiyo’’tiādike pana bahūpi pariyāye vatvā ‘‘arahasi tvaṃ mayhaṃ methunadhammaṃ dātu’’nti evaṃ methunappaṭisaṃyutteneva bhāsamānassa saṅghādisesoti.
Bây giờ, vì tội Tăng Tàn được nói đến chỉ đối với người nói (lời tán dương) có liên quan đến việc giao hợp, do đó, dù người nói lời tán dương sự phục vụ bằng những lời như “Tôi cũng là người Sát-đế-lỵ, cô cũng là người Sát-đế-lỵ; người Sát-đế-lỵ xứng đáng cho người Sát-đế-lỵ, vì cùng đẳng cấp” v.v…, cũng không (phạm tội) Tăng Tàn. Tuy nhiên, sau khi nói nhiều cách diễn đạt như “Tôi cũng là người Sát-đế-lỵ” v.v…, (rồi nói) “Cô xứng đáng cho tôi hành vi giao hợp”, người nói như vậy chỉ bằng lời nói tương ưng với (hành vi) giao hợp, (phạm tội) Tăng Tàn.

Itthīca hotītiādi pubbe vuttanayameva. Idha udāyitthero ādikammiko, tassa anāpatti ādikammikassāti.
(Các yếu tố) bắt đầu bằng “Là người nữ” thì theo phương pháp đã nói trước đây. Ở đây, Trưởng lão Udāyī là người phạm tội đầu tiên; đối với người phạm tội đầu tiên ấy, là không phạm tội.

Samuṭṭhānādi sabbaṃ duṭṭhullavācāsadisaṃ. Vinītavatthūni uttānatthānevāti.
Sự khởi lên v.v…, tất cả đều giống như (điều học về) lời nói thô tục. Các trường hợp đã được quyết đoán thì ý nghĩa rõ ràng.

Attakāmapāricariyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Phục Vụ Lợi Ích Cá Nhân đã hoàn tất.

5. Sañcarittasikkhāpadavaṇṇanā

5. Giải Thích Điều Học Về Việc Môi Giới

296.Tenasamayena buddho bhagavāti sañcarittaṃ. Tattha paṇḍitāti paṇḍiccena samannāgatā gatimantā. Byattāti veyyattiyena samannāgatā, upāyena samannāgatā upāyaññū visāradā. Medhāvinīti medhāya samannāgatā, diṭṭhaṃ diṭṭhaṃ karoti. Dakkhāti chekā. Analasāti uṭṭhānavīriyasampannā. Channāti anucchavikā.
296. “Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, bậc Thế Tôn” là (phần mở đầu của điều học về) sự môi giới. Ở đó, người thông thái là người có sự thông thái, có trí tuệ. Người khôn khéo là người có sự khôn khéo, có phương tiện, biết phương tiện, thành thạo. Người có trí nhớ tốt là người có trí nhớ, thấy việc gì làm việc đó (một cách hiệu quả). Người tài giỏi là người khéo léo. Người không lười biếng là người có sự cố gắng, tinh tấn. Người kín đáo là người thích hợp (không phô trương).

Kismiṃ viyāti kicchaṃ viya kileso viya, hiri viya amhākaṃ hotīti adhippāyo. Kumārikāya vattunti ‘‘imaṃ tumhe gaṇhathā’’ti kumārikāya kāraṇā vattuṃ.
Giống như… vậy? nghĩa là giống như sự khó khăn, giống như phiền não; ý là giống như sự hổ thẹn xảy đến cho chúng ta. Nói vì cô gái trẻ nghĩa là nói vì cô gái trẻ (rằng): “Các ngươi hãy nhận lấy người này”.

Āvāhādīsu āvāhoti dārakassa parakulato dārikāya āharaṇaṃ. Vivāhoti attano dārikāya parakulapesanaṃ. Vāreyyanti ‘‘detha no dārakassa dārika’’nti yācanaṃ, divasanakkhattamuhuttaparicchedakaraṇaṃ vā.
Trong (các việc) như cưới hỏi v.v…: Cưới (vợ cho con trai) là việc mang con gái từ gia đình khác về cho con trai. Gả (con gái) là việc gửi con gái của mình đến gia đình khác. Nên hỏi cưới nghĩa là sự yêu cầu “Hãy gả con gái cho con trai chúng tôi”, hoặc là việc ấn định ngày, giờ, sao tốt (cho lễ cưới).

297.Purāṇagaṇakiyāti ekassa gaṇakassa bhariyāya, sā tasmiṃ jīvamāne gaṇakīti paññāyittha, mate pana purāṇagaṇakīti saṅkhaṃ gatā. Tirogāmoti bahigāmo, añño gāmoti adhippāyo. Manussāti udāyissa imaṃ sañcarittakamme yuttapayuttabhāvaṃ jānanakamanussā.
297. Người vợ cũ của viên kế toán là vợ của một viên kế toán; khi ông ta còn sống, bà được biết đến là vợ của viên kế toán; nhưng khi ông ta chết, bà được gọi là người vợ cũ của viên kế toán. Làng khác nghĩa là làng bên ngoài; ý là một làng khác. Những người là những người biết việc Udāyī dính líu và tham gia vào hành vi môi giới này.

Suṇisabhogenāti yena bhogena suṇisā bhuñjitabbā hoti randhāpanapacāpanapaavesanādinā, tena bhuñjiṃsu. Tato aparena dāsibhogenāti māsātikkame yena bhogena dāsī bhuñjitabbā hoti khettakammakacavarachaḍḍanaudakāharaṇādinā, tena bhuñjiṃsu. Duggatāti daliddā, yattha vā gatā duggatā hoti tādisaṃ kulaṃ gatā. Māyyo imaṃ kumārikanti mā ayyo imaṃ kumārikaṃ. Āhārūpahāroti āhāro ca upahāro ca gahaṇañca dānañca, na amhehi kiñci āhaṭaṃ na upāhaṭaṃ tayā saddhiṃ kayavikkayo vohāro amhākaṃ natthīti dīpenti. Samaṇena bhavitabbaṃ abyāvaṭena, samaṇo assa susamaṇoti samaṇena nāma īdisesu kammesu abyāvaṭena abyāpārena bhavitabbaṃ, evaṃ bhavanto hi samaṇo susamaṇo assāti, evaṃ naṃ apasādetvā ‘‘gaccha tvaṃ na mayaṃ taṃ jānāmā’’ti āhaṃsu.
Với cách đối xử như con dâu nghĩa là họ đã đối xử (với cô ấy) bằng cách đối xử mà một người con dâu phải chịu, như nấu nướng, dọn dẹp, phục vụ v.v… Sau đó, với cách đối xử như người hầu nghĩa là sau khi qua một tháng, họ đã đối xử (với cô ấy) bằng cách đối xử mà một người hầu phải chịu, như làm ruộng, dọn rác, gánh nước v.v… Gặp cảnh khốn khổ nghĩa là nghèo túng; hoặc đã đến một gia đình nào đó mà ở đó cô ấy gặp cảnh khốn khổ. Xin Tôn giả đừng (làm hại) cô gái trẻ này nghĩa là “Xin Tôn giả đừng (làm hại) cô gái trẻ này”. Việc mang đến và dâng tặng là việc mang đến và dâng tặng, việc nhận và việc cho; họ muốn nói rõ rằng: “Chúng tôi không mang đến thứ gì, không dâng tặng thứ gì; chúng tôi không có việc mua bán, giao dịch với ngài”. Một vị Sa-môn nên không bận tâm (vào những việc như vậy), một vị Sa-môn nên là một vị Sa-môn chân chính nghĩa là một vị Sa-môn nên không bận tâm, không can dự vào những việc như thế này; vì một vị Sa-môn khi làm như vậy mới là một vị Sa-môn chân chính. Sau khi khiển trách vị ấy như vậy, họ đã nói: “Ngài hãy đi đi, chúng tôi không biết ngài”.

298.Sajjitoti sabbūpakaraṇasampanno maṇḍitapasādhito vā.
298. Được trang bị nghĩa là có đầy đủ mọi vật dụng, hoặc được trang điểm, tô điểm.

300.Dhuttāti itthidhuttā. Paricārentāti manāpiyesu rūpādīsu ito cito ca samantā indriyāni cārentā, kīḷantā abhiramantāti vuttaṃ hoti. Abbhutamakaṃsūti yadi karissati tvaṃ ettakaṃ jito, yadi na karissati ahaṃ ettakanti paṇamakaṃsu. Bhikkhūnaṃ pana abbhutaṃ kātuṃ na vaṭṭati. Yo karoti parājitena dātabbanti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ.
300. Những kẻ chơi bời là những kẻ chơi bời với phụ nữ. Đang vui chơi nghĩa là đang để các giác quan rong ruổi đây đó xung quanh trong các đối tượng sắc v.v… khả ý; có nghĩa là đang vui đùa, thích thú. Họ đã cá cược nghĩa là họ đã đặt cược rằng: “Nếu ngươi làm được, ngươi thắng chừng này; nếu không làm được, ta (thắng) chừng này”. Tuy nhiên, các Tỳ khưu không được phép cá cược. Người nào làm (như vậy), người thua phải trả, như đã nói trong Mahāpaccariya.

Kathañhi nāma ayyo udāyī taṅkhaṇikanti ettha taṅkhaṇoti acirakālo vuccati. Taṅkhaṇikanti acirakālādhikārikaṃ.
Trong (câu) “Sao Tôn giả Udāyī lại là người nhất thời như vậy?”, ở đây “nhất thời” được gọi là khoảng thời gian không lâu. Người nhất thời là người liên quan đến khoảng thời gian không lâu.

301.Sañcarittaṃ samāpajjeyyāti sañcaraṇabhāvaṃ samāpajjeyya. Yasmā pana taṃ samāpajjantena kenaci pesitena katthaci gantabbaṃ hoti, parato ca ‘‘itthiyā vā purisamati’’nti ādivacanato idha itthipurisā adhippetā, tasmā tamatthaṃ dassetuṃ ‘‘itthiyā vā pahito purisassa santike gacchati, purisena vā pahito itthiyā santike gacchatī’’ti evamassa padabhājanaṃ vuttaṃ. Itthiyā vā purisamatiṃ purisassa vā itthimatinti ettha āroceyyāti pāṭhaseso daṭṭhabbo, tenevassa padabhājane ‘‘purisassa matiṃ itthiyā āroceti, itthiyā matiṃ purisassa ārocetī’’ti vuttaṃ.
301. Nên thực hiện việc môi giới nghĩa là nên thực hiện bản chất của sự môi giới. Vì người thực hiện việc đó phải đi đến một nơi nào đó do ai đó sai bảo. Và ở phần sau, do lời nói bắt đầu bằng “Hoặc ý định của người nữ đối với người nam” v.v…, ở đây người nam và người nữ được muốn nói đến. Do đó, để chỉ rõ ý nghĩa ấy, phần phân tích từ của nó đã được nói là: “Hoặc người được người nữ sai bảo đi đến gần người nam, hoặc người được người nam sai bảo đi đến gần người nữ”. Trong (câu) “Hoặc ý định của người nữ đối với người nam, hoặc ý định của người nam đối với người nữ”, ở đây cần hiểu phần còn thiếu của câu là “nên thông báo”. Chính vì vậy, trong phần phân tích từ của nó, đã được nói là: “Thông báo ý định của người nam cho người nữ, thông báo ý định của người nữ cho người nam”.

Idāni yadatthaṃ taṃ tesaṃ matiṃ adhippāyaṃ ajjhāsayaṃ chandaṃ ruciṃ āroceti, taṃ dassento ‘‘jāyattane vā jārattane vā’’tiādimāha. Tattha jāyattaneti jāyābhāve. Jārattaneti jārabhāve. Purisassa hi matiṃ itthiyā ārocento jāyattane āroceti, itthiyā matiṃ purisassa ārocento jārattane āroceti; apica purisasseva matiṃ itthiyā ārocento jāyattane vā āroceti nibaddhabhariyābhāve, jārattane vā micchācārabhāve. Yasmā panetaṃ ārocentena ‘‘tvaṃ kirassa jāyā bhavissasī’’tiādi vattabbaṃ hoti, tasmā taṃ vattabbatākāraṃ dassetuṃ ‘‘jāyattane vāti jāyā bhavissasi, jārattane vāti jārī bhavissasī’’ti assa padabhājanaṃ vuttaṃ. Eteneva ca upāyena itthiyā matiṃ purisassa ārocanepi pati bhavissasi, sāmiko bhavissasi, jāro bhavissasīti vattabbatākāro veditabbo.
Bây giờ, để chỉ rõ mục đích mà (vị ấy) thông báo ý định, chủ ý, ý muốn, sự bằng lòng, sở thích của họ, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Hoặc để làm vợ, hoặc để làm nhân tình“. Ở đó, để làm vợ nghĩa là trong vai trò làm vợ. Để làm nhân tình nghĩa là trong vai trò làm nhân tình. Vì khi thông báo ý định của người nam cho người nữ, (vị ấy) thông báo để làm vợ; khi thông báo ý định của người nữ cho người nam, (vị ấy) thông báo để làm nhân tình. Hơn nữa, khi thông báo ý định của chính người nam cho người nữ, (vị ấy) thông báo hoặc để làm vợ trong vai trò người vợ chính thức, hoặc để làm nhân tình trong vai trò tà hạnh. Vì khi thông báo điều này, (vị ấy) phải nói những lời như “Cô sẽ là vợ của anh ấy” v.v… Do đó, để chỉ rõ cách thức phải nói ấy, phần phân tích từ của nó đã được nói là: “Hoặc để làm vợ nghĩa là cô sẽ là vợ; hoặc để làm nhân tình nghĩa là cô sẽ là nhân tình”. Và bằng phương tiện này, ngay cả khi thông báo ý định của người nữ cho người nam, cách thức phải nói cần được hiểu là: “Anh sẽ là chồng, anh sẽ là chủ, anh sẽ là nhân tình”.

Antamaso taṅkhaṇikāyapīti sabbantimena paricchedena yā ayaṃ taṅkhaṇe muhuttamatte paṭisaṃvasitabbato taṅkhaṇikāti vuccati, muhuttikāti attho. Tassāpi ‘‘muhuttikā bhavissasī’’ti evaṃ purisamatiṃ ārocentassa saṅghādiseso. Etenevupāyena ‘‘muhuttiko bhavissasī’’ti evaṃ purisassa itthimatiṃ ārocentopi saṅghādisesaṃ āpajjatīti veditabbo.
Cho đến cả (việc làm nhân tình) trong chốc lát nghĩa là: với sự giới hạn cuối cùng nhất, người nữ nào được gọi là “người (nhân tình) trong chốc lát” do việc chung sống chỉ trong một khoảnh khắc, một chốc lát; ý nghĩa là “người (nhân tình) trong một khoảnh khắc”. Ngay cả đối với người nữ ấy, người thông báo ý định của người nam như “Cô sẽ là người (nhân tình) trong một khoảnh khắc”, (phạm tội) Tăng Tàn. Bằng chính phương tiện này, người thông báo ý định của người nữ cho người nam như “Anh sẽ là người (nhân tình) trong một khoảnh khắc”, cũng cần được hiểu là phạm tội Tăng Tàn.

303. Idāni ‘‘itthiyā vā purisamati’’nti ettha adhippetā itthiyo pabhedato dassetvā tāsu sañcarittavasena āpattibhedaṃ dassetuṃ ‘‘dasa itthiyo’’tiādimāha. Tattha māturakkhitāti mātarā rakkhitā. Yathā purisena saṃvāsaṃ na kappeti, evaṃ mātarā rakkhitā, tenassa padabhājanepi vuttaṃ – ‘‘mātā rakkhati gopeti issariyaṃ kāreti vasaṃ vattetī’’ti. Tattha rakkhatīti katthaci gantuṃ na deti. Gopetīti yathā aññe na passanti, evaṃ guttaṭṭhāne ṭhapeti. Issariyaṃ kāretīti serivihāramassā nisedhentī abhibhavitvā pavattati. Vasaṃ vattetīti ‘‘idaṃ karohi, idaṃ mā akāsī’’ti evaṃ attano vasaṃ tassā upari vatteti. Etenupāyena piturakkhitādayopi ñātabbā. Gottaṃ vā dhammo vā na rakkhati, sagottehi pana sahadhammikehi ca ekaṃ satthāraṃ uddissa pabbajitehi ekagaṇapariyāpannehi ca rakkhitā ‘‘gottarakkhitā dhammarakkhitā’’ti vuccati, tasmā tesaṃ padānaṃ ‘‘sagottā rakkhantī’’tiādinā nayena padabhājanaṃ vuttaṃ.
303. Bây giờ, để chỉ rõ các loại người nữ được muốn nói đến trong (câu) “Hoặc ý định của người nữ đối với người nam” v.v…, và để chỉ rõ sự phân biệt tội dựa trên việc môi giới đối với họ, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Mười loại người nữ“. Ở đó, người nữ được mẹ bảo vệ là người được mẹ bảo vệ. Để (cô ta) không sắp đặt việc chung sống với người nam, (cô ta) được mẹ bảo vệ như vậy; do đó, trong phần phân tích từ của nó cũng đã được nói: “Mẹ bảo vệ, gìn giữ, thực thi quyền hành, kiểm soát”. Ở đó, bảo vệ nghĩa là không cho đi đến bất cứ đâu. Gìn giữ nghĩa là đặt ở nơi kín đáo để người khác không nhìn thấy. Thực thi quyền hành nghĩa là ngăn cản sự tự do đi lại của cô ta, chế ngự và kiểm soát. Kiểm soát nghĩa là áp đặt sự kiểm soát của mình lên cô ta như “Hãy làm việc này, đừng làm việc kia”. Bằng phương tiện này, (các trường hợp) như người nữ được cha bảo vệ v.v… cũng cần được hiểu. Dòng họ hay Pháp không bảo vệ (trực tiếp), nhưng người nữ được bảo vệ bởi những người cùng dòng họ, hoặc bởi những người đồng pháp, những người đã xuất gia quy hướng về một vị Đạo sư, và thuộc cùng một nhóm, thì được gọi là “người được dòng họ bảo vệ”, “người được Pháp bảo vệ”. Do đó, phần phân tích từ của các từ ấy đã được nói theo cách bắt đầu bằng “Những người cùng dòng họ bảo vệ”.

Saha ārakkhenāti sārakkhā. Saha paridaṇḍenāti saparidaṇḍā. Tāsaṃ niddesā pākaṭāva. Imāsu dasasu pacchimānaṃ dvinnameva purisantaraṃ gacchantīnaṃ micchācāro hoti, na itarāsaṃ.
Cùng với sự bảo vệ là người có người bảo vệ. Cùng với sự trừng phạt là người có (nguy cơ) bị trừng phạt. Phần giải thích của chúng thì rõ ràng. Trong mười (loại người nữ) này, chỉ có hai loại cuối cùng, khi đi đến với người đàn ông khác, mới là tà hạnh; (đối với) những loại khác thì không.

Dhanakkītādīsu appena vā bahunā vā dhanena kītā dhanakkītā. Yasmā pana sā na kītamattā eva saṃvāsatthāya pana kītattā bhariyā, tasmāssa niddese dhanena kiṇitvā vāsetīti vuttaṃ.
Trong (các loại) như người nữ được mua bằng tiền v.v…: người được mua bằng tiền ít hay nhiều là người nữ được mua bằng tiền. Vì cô ta không chỉ đơn thuần là được mua, mà là vợ do được mua để chung sống. Do đó, trong phần phân tích của nó, đã được nói là: “Mua bằng tiền rồi cho ở chung”.

Chandena attano ruciyā vasatīti chandavāsinī. Yasmā pana sā na attano chandamatteneva bhariyā hoti purisena pana sampaṭicchitattā, tasmāssa niddese ‘‘piyo piyaṃ vāsetī’’ti vuttaṃ.
Người ở chung theo ý muốn, theo sở thích của mình là người nữ ở chung theo ý muốn. Vì cô ta không phải là vợ chỉ đơn thuần theo ý muốn của mình, mà là do được người nam chấp nhận. Do đó, trong phần phân tích của nó, đã được nói là: “Người yêu cho người yêu ở chung”.

Bhogena vasatīti bhogavāsinī. Udukkhalamusalādigharūpakaraṇaṃ labhitvā bhariyābhāvaṃ gacchantiyā janapaditthiyā etaṃ adhivacanaṃ.
Người ở chung vì của cải là người nữ ở chung vì của cải. Đây là tên gọi của người nữ ở thôn quê, người trở thành vợ sau khi nhận được các vật dụng trong nhà như cối, chày v.v…

Paṭena vasatīti paṭavāsinī. Nivāsanamattampi pāvuraṇamattampi labhitvā bhariyābhāvaṃ upagacchantiyā dalidditthiyā etaṃ adhivacanaṃ.
Người ở chung vì y phục là người nữ ở chung vì y phục. Đây là tên gọi của người nữ nghèo khó, người chấp nhận làm vợ sau khi nhận được dù chỉ y phục để mặc trong hoặc y phục để khoác ngoài.

Odapattakinīti ubhinnaṃ ekissā udakapātiyā hatthe otāretvā ‘‘idaṃ udakaṃ viya saṃsaṭṭhā abhejjā hothā’’ti vatvā pariggahitāya vohāranāmametaṃ, niddesepissa ‘‘tāya saha udakapattaṃ āmasitvā taṃ vāsetī’’ti evamattho veditabbo.
Người nữ (được cưới) bằng cách nhúng tay vào bát nước là tên gọi theo cách giao tiếp đối với người nữ được chấp nhận (làm vợ) sau khi cả hai (vợ chồng) cùng nhúng tay vào một bát nước rồi nói: “Mong hai người hòa hợp, không chia lìa như nước này”. Trong phần giải thích của nó, ý nghĩa cần được hiểu là: “Cùng với cô ấy chạm vào bát nước rồi cho ở chung”.

Obhaṭaṃ oropitaṃ cumbaṭamassāti obhaṭacumbaṭā, kaṭṭhahārikādīnaṃ aññatarā, yassā sīsato cumbaṭaṃ oropetvā ghare vāseti, tassā etaṃ adhivacanaṃ.
Người có cái kiềng (đội đầu) đã được mang đến, đã được đặt xuống là người nữ (được cưới) bằng cách bỏ kiềng đội đầu xuống. (Đây là) một trong những người (phụ nữ) như người gánh củi v.v…, người nào mà (người nam) bỏ cái kiềng đội đầu từ trên đầu cô ấy xuống rồi cho ở trong nhà, đây là tên gọi của người ấy.

Dāsī cāti attanoyeva dāsī ca hoti bhariyā ca.
Và là người hầu nghĩa là vừa là người hầu của chính mình, vừa là vợ.

Kammakārī nāma gehe bhatiyā kammaṃ karoti, tāya saddhiṃ koci gharāvāsaṃ kappeti attano bhariyāya anatthiko hutvā. Ayaṃ vuccati ‘‘kammakārī ca bhariyā cā’’ti.
Người làm công là người làm công việc trong nhà để lấy tiền công; một người nào đó, không cần người vợ của mình, sống đời sống gia đình với cô ấy. Người này được gọi là “vừa là người làm công, vừa là vợ”.

Dhajena āhaṭā dhajāhaṭā, ussitaddhajāya senāya gantvā paravisayaṃ vilumpitvā ānītāti vuttaṃ hoti, taṃ koci bhariyaṃ karoti, ayaṃ dhajāhaṭā nāma. Muhuttikā vuttanayāeva, etāsaṃ dasannampi purisantaragamane micchācāro hoti. Purisānaṃ pana vīsatiyāpi etāsu micchācāro hoti, bhikkhuno ca sañcarittaṃ hotīti.
Người được mang về bằng cờ hiệu là người nữ bị bắt trong chiến tranh; có nghĩa là (người nữ) được mang về sau khi (quân đội) với cờ hiệu giương cao đi đến, cướp phá lãnh thổ của địch. Một người nào đó lấy cô ấy làm vợ; đây gọi là người nữ bị bắt trong chiến tranh. Người (nhân tình) trong một khoảnh khắc thì theo phương pháp đã nói; đối với cả mười loại người nữ này, việc đi đến với người đàn ông khác là tà hạnh. Còn đối với hai mươi (loại) người nam, (nếu giao cấu) với những người nữ này cũng là tà hạnh; và đối với Tỳ khưu, (việc môi giới cho họ) là sự môi giới.

305. Idāni puriso bhikkhuṃ pahiṇatītiādīsu paṭiggaṇhātīti so bhikkhu tassa purisassa ‘‘gaccha, bhante, itthannāmaṃ māturakkhitaṃ brūhi, hohi kira itthannāmassa bhariyā dhanakkītā’’ti evaṃ vuttavacanaṃ ‘‘sādhu upāsakā’’ti vā ‘‘hotū’’ti vā ‘‘ārocessāmī’’ti vā yena kenaci ākārena vacībhedaṃ katvā vā sīsakampanādīhi vā sampaṭicchati. Vīmaṃsatīti evaṃ paṭiggaṇhitvā tassā itthiyā santikaṃ gantvā taṃ sāsanaṃ āroceti. Paccāharatīti tena ārocite sā itthī ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchatu vā paṭikkhipatu vā lajjāya vā tuṇhī hotu, puna āgantvā tassa purisassa taṃ pavattiṃ āroceti.
305. Bây giờ, trong (các trường hợp) như “Người nam sai bảo vị Tỳ khưu” v.v…: “Chấp nhận” nghĩa là vị Tỳ khưu ấy, đối với lời nói của người nam kia như “Thưa Đại đức, hãy đi nói với người nữ tên X, người được mẹ bảo vệ rằng: ‘Cô hãy là vợ được mua bằng tiền của người tên Y'”, chấp nhận bằng cách nói một lời nào đó như “Lành thay, thí chủ”, hoặc “Được thôi”, hoặc “Tôi sẽ thông báo”, hoặc bằng cách gật đầu v.v… “Tìm hiểu (và thông báo)” nghĩa là sau khi chấp nhận như vậy, đi đến gần người nữ ấy rồi thông báo thông điệp đó. “Báo lại” nghĩa là sau khi vị ấy thông báo, người nữ ấy dù chấp nhận “Lành thay”, hay từ chối, hay im lặng vì xấu hổ, (vị Tỳ khưu) trở lại rồi thông báo diễn biến đó cho người nam kia.

Ettāvatā imāya paṭiggahaṇārocanapaccāharaṇasaṅkhātāya tivaṅgasampattiyā saṅghādiseso hoti. Sā pana tassa bhariyā hotu vā mā vā, akāraṇametaṃ. Sace pana so māturakkhitāya santikaṃ pesito taṃ adisvā tassā mātuyā taṃ sāsanaṃ āroceti, bahiddhā vimaṭṭhaṃ nāma hoti, tasmā visaṅketanti mahāpadumatthero āha. Mahāsumatthero pana mātā vā hotu pitā vā antamaso gehadāsīpi añño vāpi yo koci taṃ kiriyaṃ sampādessati, tassa vuttepi vimaṭṭhaṃ nāma na hoti, tivaṅgasampattikāle āpattiyeva.
Chừng đó, do sự đầy đủ ba yếu tố này, gọi là sự chấp nhận, sự thông báo, và sự báo lại, (phạm tội) Tăng Tàn. Cô ấy dù là vợ của người đó hay không, điều này không phải là nguyên nhân (để thay đổi tội). Nhưng nếu vị ấy được sai đến gần người nữ được mẹ bảo vệ, mà không thấy cô ta, rồi thông báo thông điệp đó cho mẹ của cô ấy, thì gọi là đã tìm hiểu sai đối tượng bên ngoài; do đó, không phạm tội (Tăng Tàn), ngài Mahāpadumatthera nói vậy. Còn ngài Mahāsumatthera (nói rằng): dù là mẹ, hay cha, cho đến cả người hầu gái trong nhà, hay bất kỳ ai khác sẽ thực hiện hành động đó, dù nói với người ấy, cũng không gọi là tìm hiểu sai đối tượng; khi đủ ba yếu tố, chắc chắn phạm tội.

Nanu yathā ‘‘buddhaṃ paccakkhāmī’’ti vattukāmo virajjhitvā ‘‘dhammaṃ paccakkhāmī’’ti vadeyya paccakkhātāvassa sikkhā. Yathā vā ‘‘paṭhamaṃ jhānaṃ samāpajjāmī’’ti vattukāmo virajjhitvā ‘‘dutiyaṃ jhānaṃ samāpajjāmī’’ti vadeyya āpannovassa pārājikaṃ. Evaṃsampadamidanti āha. Taṃ panetaṃ ‘‘paṭiggaṇhāti, antevāsiṃ vīmaṃsāpetvā attanā paccāharati, āpatti saṅghādisesassā’’ti iminā sameti, tasmā subhāsitaṃ.
Chẳng phải ví như người muốn nói “Tôi từ bỏ Đức Phật”, mà nói nhầm thành “Tôi từ bỏ Pháp”, thì điều học của vị ấy đã bị từ bỏ rồi sao? Hoặc ví như người muốn nói “Tôi nhập Sơ thiền”, mà nói nhầm thành “Tôi nhập Nhị thiền”, vị ấy đã phạm tội bất cộng trụ rồi sao? (Ngài Mahāsumatthera) nói rằng: “Điều này cũng tương tự như vậy”. Và điều đó phù hợp với (câu Pāḷi): “Chấp nhận, nhờ đệ tử tìm hiểu rồi tự mình báo lại, phạm tội Tăng Tàn”; do đó, (quan điểm của ngài Mahāsumatthera) là khéo nói.

Yathā ca ‘‘māturakkhitaṃ brūhī’’ti vuttassa gantvā tassā ārocetuṃ samatthānaṃ mātādīnampi vadato visaṅketo natthi, evameva ‘‘hohi kira itthannāmassa bhariyā dhanakkītā’’ti vattabbe ‘‘hohi kira itthannāmassa bhariyā chandavāsinī’’ti evaṃ pāḷiyaṃ vuttesu chandavāsiniādīsu vacanesu aññataravasena vā avuttesupi ‘‘hohi kira itthannāmassa bhariyā jāyā pajāpati puttamātā gharaṇī gharasāminī bhattarandhikā sussūsikā paricārikā’’tievamādīsu saṃvāsaparidīpakesu vacanesu aññataravasena vā vadantassāpi visaṅketo natthi tivaṅgasampattiyā āpattiyeva. ‘‘Māturakkhitaṃ brūhī’’ti pesitassa pana gantvā aññāsu piturakkhitādīsu aññataraṃ vadantassa visaṅketaṃ. Esa nayo ‘‘piturakkhitaṃ brūhī’’tiādīsupi.
Và giống như đối với người được bảo “Hãy nói với người nữ được mẹ bảo vệ”, (nếu) đi rồi nói với cả mẹ v.v… của cô ta, những người có khả năng thông báo cho cô ta, cũng không có sự ngoại lệ (không phạm tội). Cũng như vậy, khi đáng lẽ phải nói “Cô hãy là vợ được mua bằng tiền của người tên Y”, (mà lại nói) “Cô hãy là vợ ở chung theo ý muốn của người tên Y”, hoặc theo một trong các cách nói như “người nữ ở chung theo ý muốn” v.v… đã được nói trong Pāḷi, hoặc ngay cả khi (nói) theo một trong những cách nói làm rõ sự chung sống như “Cô hãy là vợ, là người phối ngẫu, là mẹ của con, là người nội trợ, là bà chủ nhà, là người nấu ăn cho chồng, là người hầu hạ, là người phục vụ của người tên Y” v.v… mà không được nói (trong Pāḷi), cũng không có sự ngoại lệ; khi đủ ba yếu tố, chắc chắn phạm tội. Tuy nhiên, đối với người được sai (với lời dặn) “Hãy nói với người nữ được mẹ bảo vệ”, (nếu) đi rồi nói với một người khác trong số những người như người nữ được cha bảo vệ v.v…, thì có sự ngoại lệ (không phạm tội Tăng Tàn). Phương pháp này cũng (áp dụng) cho (các trường hợp) như “Hãy nói với người nữ được cha bảo vệ” v.v…

Kevalañhettha ekamūlakadumūlakādivasena ‘‘purisassa mātā bhikkhuṃ pahiṇati, māturakkhitāya mātā bhikkhuṃ pahiṇatī’’ti evamādīnaṃ mūlaṭṭhānañca vasena peyyālabhedoyeva viseso . Sopi pubbe vuttanayattā pāḷianusāreneva sakkā jānitunti nāssa vibhāgaṃ dassetuṃ ādaraṃ karimha.
Chỉ có sự khác biệt ở đây là sự phân chia theo cách tỉnh lược dựa trên các trường hợp gốc như một gốc, hai gốc v.v…, (ví dụ) “Mẹ của người nam sai bảo vị Tỳ khưu”, “Mẹ của người nữ được mẹ bảo vệ sai bảo vị Tỳ khưu” v.v… Điều đó cũng vậy, do đã được nói theo phương pháp trước, có thể được biết chỉ bằng cách theo Pāḷi, nên chúng tôi không chú trọng trình bày sự phân chia của nó.

338. Paṭiggaṇhātītiādīsu pana dvīsu catukkesu paṭhamacatukke ādipadena tivaṅgasampattiyā saṅghādiseso, majjhe dvīhi duvaṅgasampattiyā thullaccayaṃ, ante ekena ekaṅgasampattiyā dukkaṭaṃ. Dutiyacatukke ādipadena duvaṅgasampattiyā thullaccayaṃ, majjhe dvīhi ekaṅgasampattiyā dukkaṭaṃ, ante ekena aṅgābhāvato anāpatti. Tattha paṭiggaṇhātīti āṇāpakassa sāsanaṃ paṭiggaṇhāti. Vīmaṃsatīti pahitaṭṭhānaṃ gantvā taṃ āroceti. Paccāharatīti puna āgantvā mūlaṭṭhassa āroceti.
338. Còn trong hai nhóm bốn (trường hợp) như “Chấp nhận” v.v…: trong nhóm bốn đầu tiên, với trường hợp đầu, do đầy đủ ba yếu tố, (phạm tội) Tăng Tàn; ở giữa, với hai (trường hợp), do đầy đủ hai yếu tố, (phạm) Trọng Tội; ở cuối, với một (trường hợp), do đầy đủ một yếu tố, (phạm) tội Tác Ác. Trong nhóm bốn thứ hai, với trường hợp đầu, do đầy đủ hai yếu tố, (phạm) Trọng Tội; ở giữa, với hai (trường hợp), do đầy đủ một yếu tố, (phạm) tội Tác Ác; ở cuối, với một (trường hợp), do không có yếu tố nào, không phạm tội. Ở đó, “Chấp nhận” nghĩa là chấp nhận thông điệp của người sai bảo. “Tìm hiểu (và thông báo)” nghĩa là đi đến nơi được sai đến rồi thông báo điều đó. “Báo lại” nghĩa là trở lại rồi thông báo cho người gốc (người sai bảo ban đầu).

Na paccāharatīti ārocetvā ettova pakkamati. Paṭiggaṇhāti na vīmaṃsatīti purisena ‘‘itthannāmaṃ gantvā brūhī’’ti vuccamāno ‘‘sādhū’’ti tassa sāsanaṃ paṭiggaṇhitvā taṃ pamussitvā vā appamussitvā vā aññena karaṇīyena tassā santikaṃ gantvā kiñcideva kathaṃ kathento nisīdati, ettāvatā ‘‘paṭiggaṇhāti na vīmaṃsati nāmā’’ti vuccati. Atha naṃ sā itthī sayameva vadati ‘‘tumhākaṃ kira upaṭṭhāko maṃ gehe kātukāmo’’ti evaṃ vatvā ca ‘‘ahaṃ tassa bhariyā bhavissāmī’’ti vā ‘‘na bhavissāmī’’ti vā vadati. So tassā vacanaṃ anabhinanditvā appaṭikkositvā tuṇhībhūtova uṭṭhāyāsanā tassa purisassa santikaṃ āgantvā taṃ pavattiṃ āroceti, ettāvatā ‘‘na vīmaṃsati paccāharati nāmā’’ti vuccati. Na vīmaṃsati na paccāharatīti kevalaṃ sāsanārocanakāle paṭiggaṇhātiyeva, itaraṃ pana dvayaṃ na karoti.
“Không báo lại” nghĩa là sau khi thông báo, chỉ chừng đó rồi bỏ đi. “Chấp nhận, không tìm hiểu” nghĩa là: khi được người nam bảo “Hãy đi nói với người nữ tên X”, (vị ấy) chấp nhận thông điệp đó (nói) “Lành thay”, rồi dù quên hay không quên điều đó, do một công việc khác mà đi đến gần cô ta, rồi ngồi nói chuyện gì đó; chừng đó được gọi là “chấp nhận, không tìm hiểu”. Rồi người nữ ấy tự mình nói: “Thí chủ của các ngài hình như muốn cưới tôi về nhà”, và sau khi nói như vậy, (cô ta) nói “Tôi sẽ làm vợ ông ấy” hoặc “Tôi sẽ không làm (vợ)”. Vị ấy không hoan hỷ, không từ chối lời nói của cô ta, mà chỉ im lặng đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đi đến gần người nam kia rồi thông báo diễn biến đó; chừng đó được gọi là “Không tìm hiểu, (nhưng) báo lại”. “Không tìm hiểu, không báo lại” nghĩa là chỉ chấp nhận vào lúc thông báo thông điệp mà thôi, còn hai việc kia thì không làm.

Na paṭiggaṇhāti vīmaṃsati paccāharatīti koci puriso bhikkhussa ṭhitaṭṭhāne vā nisinnaṭṭhāne vā tathārūpiṃ kathaṃ katheti, bhikkhu tena appahitopi pahito viya hutvā itthiyā santikaṃ gantvā ‘‘hohi kira itthannāmassa bhariyā’’tiādinā nayena vīmaṃsitvā tassā ruciṃ vā aruciṃ vā puna āgantvā imassa āroceti. Teneva nayena vīmaṃsitvā apaccāharanto ‘‘na paṭiggaṇhāti vīmaṃsati na paccāharatī’’ti vuccati. Teneva nayena gato avīmaṃsitvā tāya samuṭṭhāpitaṃ kathaṃ sutvā paṭhamacatukkassa tatiyapade vuttanayena āgantvā imassa ārocento ‘‘na paṭiggaṇhāti na vīmaṃsati paccāharatī’’ti vuccati. Catutthapadaṃ pākaṭameva.
“Không chấp nhận, (nhưng) tìm hiểu (và) báo lại” nghĩa là: một người nam nào đó nói chuyện tương tự như vậy tại chỗ đứng hoặc chỗ ngồi của vị Tỳ khưu; vị Tỳ khưu dù không được người ấy sai bảo, nhưng (hành động) như thể được sai bảo, đi đến gần người nữ, tìm hiểu theo cách như “Cô hãy là vợ của người tên Y” v.v…, rồi trở lại thông báo sở thích hay không sở thích của cô ta cho người này. Theo chính cách đó, người tìm hiểu nhưng không báo lại, được gọi là “Không chấp nhận, (nhưng) tìm hiểu, (và) không báo lại”. Theo chính cách đó, người đi, không tìm hiểu, (nhưng) nghe câu chuyện do cô ta khởi xướng, rồi trở lại thông báo cho người này theo phương pháp đã nói ở trường hợp thứ ba của nhóm bốn đầu tiên, được gọi là “Không chấp nhận, không tìm hiểu, (nhưng) báo lại”. Trường hợp thứ tư thì rõ ràng.

Sambahule bhikkhū āṇāpetītiādinayā pākaṭāyeva. Yathā pana sambahulāpi ekavatthumhi āpajjanti, evaṃ ekassapi sambahulavatthūsu sambahulā āpattiyo veditabbā. Kathaṃ? Puriso bhikkhuṃ āṇāpeti ‘‘gaccha, bhante, asukasmiṃ nāma pāsāde saṭṭhimattā vā sattatimattā vā itthiyo ṭhitā tā vadehi, hotha kira itthannāmassa bhariyāyo’’ti. So sampaṭicchitvā tattha gantvā ārocetvā puna taṃ sāsanaṃ paccāharati. Yattakā itthiyo tattakā āpattiyo āpajjati. Vuttañhetaṃ parivārepi –
Các phương pháp bắt đầu bằng “Sai bảo nhiều vị Tỳ khưu” v.v… thì rõ ràng. Tuy nhiên, giống như nhiều người cũng phạm tội trong một trường hợp, cũng vậy, đối với một người, trong nhiều trường hợp, cần hiểu là có nhiều tội. Bằng cách nào? Một người nam sai bảo vị Tỳ khưu: “Thưa Đại đức, hãy đi đến lầu gác tên X, có khoảng sáu mươi hoặc bảy mươi người nữ đang ở đó, hãy nói với họ: ‘Các cô hãy là vợ của người tên Y'”. Vị ấy chấp nhận, đi đến đó, thông báo, rồi lại báo lại thông điệp đó. Có bao nhiêu người nữ, (vị ấy) phạm bấy nhiêu tội. Điều này cũng đã được nói trong Parivāra

‘‘Padavītihāramattena, vācāya bhaṇitena ca;
Sabbāni garukāni sappaṭikammāni;
Catusaṭṭhi āpattiyo āpajjeyya ekato;
Pañhāmesā kusalehi cintitā’’ti. (pari. 480);
“Chỉ bằng sự đi lại của bước chân, và bằng lời nói đã thốt ra;
Tất cả (các tội ấy) đều là tội nặng, cần phải sám hối;
(Người ấy) có thể phạm sáu mươi bốn tội cùng một lúc;
Đây là câu hỏi được các bậc trí suy ngẫm.” (pari. 480);

Imaṃ kira atthavasaṃ paṭicca ayaṃ pañho vutto. Vacanasiliṭṭhatāya cettha ‘‘catusaṭṭhi āpattiyo’’ti vuttaṃ. Evaṃ karonto pana satampi sahassampi āpajjatīti. Yathā ca ekena pesitassa ekassa sambahulāsu itthīsu sambahulā āpattiyo, evaṃ eko puriso sambahule bhikkhū ekissā santikaṃ peseti, sabbesaṃ saṅghādiseso. Eko sambahule bhikkhū sambahulānaṃ itthīnaṃ santikaṃ peseti, itthigaṇanāya saṅghādisesā. Sambahulā purisā ekaṃ bhikkhuṃ ekissā santikaṃ pesenti, purisagaṇanāya saṅghādisesā. Sambahulā ekaṃ sambahulānaṃ itthīnaṃ santikaṃ pesenti, vatthugaṇanāya saṅghādisesā. Sambahulā sambahule ekissā santikaṃ pesenti, vatthugaṇanāya saṅghādisesā. Sambahulā purisā sambahule bhikkhū sambahulānaṃ itthīnaṃ santikaṃ pesenti, vatthugaṇanāya saṅghādisesā. Esa nayo ‘‘ekā itthī ekaṃ bhikkhu’’ntiādīsupi. Ettha ca sabhāgavibhāgatā nāma appamāṇaṃ, mātāpitunampi pañcasahadhammikānampi sañcarittakammaṃ karontassa āpattiyeva.
Tương truyền, câu hỏi này được nói ra dựa vào trường hợp ý nghĩa này. Và ở đây, “sáu mươi bốn tội” được nói đến do sự trôi chảy của lời nói. Tuy nhiên, người làm như vậy có thể phạm cả trăm, cả ngàn (tội). Và giống như đối với một người được một người sai bảo, (nếu môi giới) cho nhiều người nữ, (phạm) nhiều tội. Cũng vậy, một người nam sai bảo nhiều vị Tỳ khưu đến gần một người nữ, tất cả (các vị Tỳ khưu ấy đều phạm tội) Tăng Tàn. Một người (nam) sai bảo nhiều vị Tỳ khưu đến gần nhiều người nữ, (phạm) các tội Tăng Tàn theo số lượng người nữ. Nhiều người nam sai bảo một vị Tỳ khưu đến gần một người nữ, (vị Tỳ khưu phạm) các tội Tăng Tàn theo số lượng người nam. Nhiều người (nam) sai bảo một (vị Tỳ khưu) đến gần nhiều người nữ, (phạm) các tội Tăng Tàn theo số lượng đối tượng (người nữ). Nhiều người (nam) sai bảo nhiều (vị Tỳ khưu) đến gần một người nữ, (phạm) các tội Tăng Tàn theo số lượng đối tượng (người nữ, ở đây là một). Nhiều người nam sai bảo nhiều vị Tỳ khưu đến gần nhiều người nữ, (phạm) các tội Tăng Tàn theo số lượng đối tượng (người nữ). Phương pháp này cũng (áp dụng) cho (các trường hợp) như “Một người nữ (sai bảo) một vị Tỳ khưu” v.v… Và ở đây, sự phân chia tương tự thì vô lượng; ngay cả đối với người làm công việc môi giới cho cha mẹ hoặc năm người đồng pháp, cũng chắc chắn phạm tội.

Purisobhikkhuṃ āṇāpeti gaccha bhanteti catukkaṃ aṅgavasena āpattibheda dassanatthaṃ vuttaṃ. Tassa pacchimapade antevāsī vīmaṃsitvā bahiddhā paccāharatīti āgantvā ācariyassa anārocetvā ettova gantvā tassa purisassa āroceti. Āpatti ubhinnaṃ thullaccayassāti ācariyassa paṭiggahitattā ca vīmaṃsāpitattā ca dvīhaṅgehi thullaccayaṃ, antevāsikassa vīmaṃsitattā ca paccāhaṭattā ca dvīhaṅgehi thullaccayaṃ. Sesaṃ pākaṭameva.
Nhóm bốn (trường hợp bắt đầu bằng) “Người nam sai bảo vị Tỳ khưu: ‘Thưa Đại đức, hãy đi'” được nói để chỉ rõ sự phân biệt tội dựa trên các yếu tố. Trong trường hợp cuối cùng của nhóm đó: “Đệ tử tìm hiểu rồi báo lại cho người bên ngoài” nghĩa là (đệ tử) trở về, không thông báo cho thầy của mình, mà chỉ đi rồi thông báo cho người nam kia. Cả hai đều phạm Trọng Tội nghĩa là: thầy (phạm) Trọng Tội do hai yếu tố là đã chấp nhận và đã nhờ tìm hiểu; đệ tử (phạm) Trọng Tội do hai yếu tố là đã tìm hiểu và đã báo lại. Phần còn lại thì rõ ràng.

339.Gacchanto sampādetīti paṭiggaṇhāti ceva vīmaṃsati ca. Āgacchanto visaṃvādetīti na paccāharati. Gacchanto visaṃvādetīti na paṭiggaṇhāti. Āgacchanto sampādetīti vīmaṃsati ceva paccāharati ca. Evaṃ ubhayattha dvīhaṅgehi thullaccayaṃ. Tatiyapade āpatti, catutthe anāpatti.
339. Khi đi thì hoàn thành nghĩa là vừa chấp nhận vừa tìm hiểu. Khi về thì không hoàn thành nghĩa là không báo lại. Khi đi thì không hoàn thành nghĩa là không chấp nhận. Khi về thì hoàn thành nghĩa là vừa tìm hiểu vừa báo lại. Như vậy, trong cả hai (trường hợp đầu và cuối), (phạm) Trọng Tội do hai yếu tố. Ở trường hợp thứ ba, phạm tội; ở (trường hợp) thứ tư, không phạm tội.

340.Anāpatti saṅghassa vā cetiyassa vā gilānassa vā karaṇīyena gacchati ummattakassa ādikammikassāti ettha bhikkhusaṅghassa uposathāgāraṃ vā kiñci vā vippakataṃ hoti. Tattha kārukānaṃ bhattavetanatthāya upāsako vā upāsikāya santikaṃ bhikkhuṃ pahiṇeyya, uṃpāsikā vā upāsakassa, evarūpena saṅghassa karaṇīyena gacchantassa anāpatti. Cetiyakamme kayiramānepi eseva nayo. Gilānassa bhesajjatthāyapi upāsakena vā upāsikāya santikaṃ upāsikāya vā upāsakassa santikaṃ pahitassa gacchato anāpatti. Ummattakaādikammikā vuttanayā eva.
340. Không phạm tội (nếu) đi vì công việc của Tăng chúng, hoặc của bảo tháp, hoặc của người bệnh; (không phạm tội) đối với người điên, người phạm tội đầu tiên: ở đây, nhà Bố-tát hoặc một thứ gì đó của Tăng chúng bị hư hỏng. Ở đó, để (lo) cơm nước và tiền công cho những người thợ, nếu người nam cư sĩ sai bảo vị Tỳ khưu đến gần người nữ cư sĩ, hoặc người nữ cư sĩ (sai bảo) đến gần người nam (cư sĩ); đối với người đi vì công việc của Tăng chúng như vậy, không phạm tội. Ngay cả khi đang làm công việc của bảo tháp, phương pháp cũng như vậy. Ngay cả để (lo) thuốc men cho người bệnh, người được người nam cư sĩ sai bảo đến gần người nữ cư sĩ, hoặc được người nữ cư sĩ sai bảo đến gần người nam (cư sĩ), mà đi, cũng không phạm tội. (Trường hợp) người điên, người phạm tội đầu tiên thì theo phương pháp đã nói.

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Phân Tích Từ đã hoàn tất.

Samuṭṭhānādīsu idaṃ sikkhāpadaṃ chasamuṭṭhānaṃ, sīsukkhipanādinā kāyavikārena sāsanaṃ gahetvā gantvā hatthamuddāya vīmaṃsitvā puna āgantvā hatthamuddāya eva ārocentassa kāyato samuṭṭhāti. Āsanasālāya nisinnassa ‘‘itthannāmā āgamissati, tassā cittaṃ jāneyyāthā’’ti kenaci vutte ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā taṃ āgataṃ vatvā tassā gatāya puna tasmiṃ purise āgate ārocentassa vācato samuṭṭhāti. Vācāya ‘‘sādhū’’ti sāsanaṃ gahetvā aññena karaṇīyena tassā gharaṃ gantvā aññattha vā gamanakāle taṃ disvā vacībhedeneva vīmaṃsitvā puna aññeneva karaṇīyena tato apakkamma kadācideva taṃ purisaṃ disvā ārocentassāpi vācatova samuṭṭhāti. Paṇṇattiṃ ajānantassa pana khīṇāsavassāpi kāyavācato samuṭṭhāti. Kathaṃ? Sace hissa mātāpitaro kujjhitvā alaṃvacanīyā honti, tañca bhikkhuṃ gharaṃ upagataṃ therapitā vadati ‘‘mātā te tāta maṃ mahallakaṃ chaḍḍetvā ñātikulaṃ gatā, gaccha taṃ maṃ upaṭṭhātuṃ pesehī’’ti. So ce gantvā taṃ vatvā puna pituno tassā āgamanaṃ vā anāgamanaṃ vā āroceti, saṅghādiseso. Imāni tīṇi acittakasamuṭṭhānāni.
Về sự khởi lên v.v…, điều học này có sáu cách khởi lên: Đối với người nhận thông điệp bằng hành vi của thân như gật đầu v.v…, rồi đi, tìm hiểu bằng dấu hiệu tay, rồi trở lại và cũng thông báo bằng dấu hiệu tay, (tội) khởi lên từ thân. Đối với người đang ngồi trong nhà hội, khi được ai đó nói: “Người nữ tên X sẽ đến, các ngài hãy tìm hiểu ý của cô ấy”, rồi chấp nhận (nói) “Lành thay”, nói (cho người nữ ấy) khi cô ta đến, rồi sau khi cô ta đi, khi người nam kia trở lại, (vị ấy) thông báo (cho người nam), (tội) khởi lên từ lời nói. Nhận thông điệp bằng lời nói “Lành thay”, rồi do một công việc khác mà đi đến nhà cô ta, hoặc trong khi đi đến nơi khác mà thấy cô ta, rồi tìm hiểu chỉ bằng lời nói, rồi do một công việc khác nữa mà rời khỏi đó, rồi một lúc nào đó thấy người nam kia và thông báo, (tội) cũng khởi lên từ lời nói. Còn đối với người không biết điều chế định, ngay cả đối với bậc đã hết lậu hoặc, (tội) cũng khởi lên từ thân và lời nói. Bằng cách nào? Nếu cha mẹ của vị ấy giận nhau, (người mẹ) không muốn chung sống nữa; và khi vị Tỳ khưu ấy đến nhà, người cha là trưởng lão nói: “Này con, mẹ con đã bỏ ông già này mà đi về nhà ngoại rồi. Con hãy đi bảo bà ấy đến để chăm sóc ta”. Nếu vị ấy đi nói với bà ấy, rồi trở lại thông báo cho cha mình việc bà ấy đến hay không đến, (phạm tội) Tăng Tàn. Ba (cách khởi lên) này là những cách khởi lên không có chủ ý (về tội).

Paṇṇattiṃ pana jānitvā eteheva tīhi nayehi sañcarittaṃ samāpajjato kāyacittato vācācittato kāyavācācittato ca samuṭṭhāti. Imāni tīṇi paṇṇattijānanacittena sacittakasamuṭṭhānāni. Kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, kusalādivasena cettha tīṇi cittāni, sukhādivasena tisso vedanāti.
Còn khi biết điều chế định, đối với người thực hiện việc môi giới theo chính ba phương pháp này, (tội) khởi lên từ thân và tâm, hoặc từ lời nói và tâm, hoặc từ thân, lời nói và tâm. Ba (cách khởi lên) này là những cách khởi lên có chủ ý (về tội) với tâm biết điều chế định. (Nó là) hành động, không (thể) thoát tội do nhận thức sai lầm (vì biết điều chế định), bị chê trách do (vi phạm) điều chế định, là hành động thuộc về thân, hành động thuộc về lời nói; ở đây, có ba loại tâm dựa trên (tâm) thiện v.v…, và ba loại cảm thọ dựa trên (cảm thọ) lạc v.v…

341. Vinītavatthūsu ādito vatthupañcake paṭiggahitamattattā dukkaṭaṃ.
341. Trong các trường hợp đã được quyết đoán: trong năm trường hợp đầu tiên, do chỉ mới chấp nhận, (phạm) tội Tác Ác.

Kalahavatthusmiṃ sammodanīyaṃ akāsīti taṃ saññāpetvā puna gehagamanīyaṃ

Trong trường hợp cãi nhau: “Đã làm cho hòa giải” nghĩa là đã làm cho người ấy nguôi giận rồi lại khiến cho (cô ấy) muốn về nhà.

Akāsi. Nālaṃvacanīyāti na pariccattāti attho. Yā hi yathā yathā yesu yesu janapadesu pariccattā pariccattāva hoti, bhariyābhāvaṃ atikkamati, ayaṃ ‘‘alaṃvacanīyā’’ti vuccati. Esā pana na alaṃvacanīyā kenacideva kāraṇena kalahaṃ katvā gatā, tenevettha bhagavā ‘‘anāpattī’’ti āha. Yasmā pana kāyasaṃsagge yakkhiyā thullaccayaṃ vuttaṃ, tasmā duṭṭhullādīsupi yakkhipetiyo thullaccayavatthumevāti veditabbā. Aṭṭhakathāsu panetaṃ na vicāritaṃ. Sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.
“Người không muốn dứt bỏ” nghĩa là người chưa từ bỏ. Vì người nữ nào, ở những địa phương nào đó, đã từ bỏ (chồng) thì là đã từ bỏ, vượt qua vai trò làm vợ, người này được gọi là “người muốn dứt bỏ”. Còn người nữ này không phải là người muốn dứt bỏ, (cô ấy) đã bỏ đi do một nguyên nhân cãi nhau nào đó; do đó, ở đây Đức Thế Tôn đã nói là “không phạm tội”. Tuy nhiên, vì trong (điều học về) sự tiếp xúc thân thể, (tiếp xúc) với nữ dạ xoa đã được nói là (phạm) Trọng Tội, do đó, trong (các điều học về) lời nói thô tục v.v…, (trường hợp) nữ dạ xoa, ngạ quỷ nữ cũng cần được hiểu là trường hợp (phạm) Trọng Tội. Tuy nhiên, điều này không được thảo luận trong các Chú giải. Phần còn lại, ở mọi nơi, ý nghĩa đều rõ ràng.

Sañcarittasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Môi Giới đã hoàn tất.

6. Kuṭikārasikkhāpadavaṇṇanā

6. Giải Thích Điều Học Về Việc Làm Cốc

342.Tena samayenāti kuṭikārasikkhāpadaṃ. Tattha āḷavakāti āḷaviraṭṭhe jātā dārakā āḷavakā nāma, te pabbajitakālepi ‘‘āḷavakā’’tveva paññāyiṃsu. Te sandhāya vuttaṃ ‘‘āḷavakā bhikkhū’’ti. Saññācikāyoti sayaṃ yācitvā gahitūpakaraṇāyo. Kārāpentīti karontipi kārāpentipi, te kira sāsane vipassanādhurañca ganthadhurañcāti dvepi dhurāni chaḍḍetvā navakammameva dhuraṃ katvā paggaṇhiṃsu. Assāmikāyoti anissarāyo, kāretā dāyakena virahitāyoti attho. Attuddesikāyoti attānaṃ uddissa attano atthāya āraddhāyoti attho. Appamāṇikāyoti ‘‘ettakena niṭṭhaṃ gacchissantī’’ti evaṃ aparicchinnappamāṇāyo, vuddhippamāṇāyo vā mahantappamāṇāyoti attho.
342. “Vào lúc bấy giờ” là (phần mở đầu của) điều học về việc làm cốc. Ở đó, những vị ở Āḷavī là những chàng trai sinh ở xứ Āḷavī, tên là Āḷavaka; ngay cả khi xuất gia, họ cũng được biết đến là “những vị ở Āḷavī”. Nhắm đến họ mà nói là “các Tỳ khưu ở Āḷavī”. (Những cái cốc) do tự mình xin nghĩa là (những cái cốc) có vật liệu được nhận do tự mình xin. Đang cho làm nghĩa là vừa tự làm vừa cho người khác làm; tương truyền, họ đã từ bỏ cả hai trách nhiệm trong giáo pháp là trách nhiệm thiền quán và trách nhiệm học kinh điển, mà chỉ lấy việc xây dựng mới làm trách nhiệm chính và đảm nhận. (Những cái cốc) không có chủ nghĩa là không có người chịu trách nhiệm; ý là (những cái cốc) không có người thí chủ cho làm. (Những cái cốc) nhắm đến bản thân nghĩa là (những cái cốc) được bắt đầu nhắm đến bản thân, vì lợi ích của bản thân. (Những cái cốc) không có kích thước (quy định) nghĩa là (những cái cốc) có kích thước không được xác định như “sẽ hoàn thành với chừng này”; hoặc (những cái cốc) có kích thước lớn, ý là kích thước to lớn.

Yācanā eva bahulā etesaṃ mandaṃ aññaṃ kammanti yācanabahulā. Evaṃ viññattibahulā veditabbā. Atthato panettha nānākaraṇaṃ natthi, anekakkhattuṃ ‘‘purisaṃ detha, purisatthakaraṃ dethā’’ti yācantānametaṃ adhivacanaṃ. Tattha mūlacchejjāya purisaṃ yācituṃ na vaṭṭati, sahāyatthāya kammakaraṇatthāya ‘‘purisaṃ dethā’’ti yācituṃ vaṭṭati. Purisatthakaranti purisena kātabbaṃ hatthakammaṃ vuccati, taṃ yācituṃ vaṭṭati. Hatthakammaṃ nāma kiñci vatthu na hoti, tasmā ṭhapetvā migaluddakamacchabandhakādīnaṃ sakakammaṃ avasesaṃ sabbaṃ kappiyaṃ. ‘‘Kiṃ, bhante, āgatattha kena kamma’’nti pucchite vā apucchite vā yācituṃ vaṭṭati, viññattipaccayā doso natthi. Tasmā migaluddakādayo sakakammaṃ na yācitabbā, ‘‘hatthakammaṃ dethā’’ti aniyametvāpi na yācitabbā; evaṃ yācitā hi te ‘‘sādhu, bhante’’ti bhikkhū uyyojetvā migepi māretvā āhareyyuṃ. Niyametvā pana ‘‘vihāre kiñci kattabbaṃ atthi, tattha hatthakammaṃ dethā’’ti yācitabbā. Phālanaṅgalādīni upakaraṇāni gahetvā kasituṃ vā vapituṃ vā lāyituṃ vā gacchantaṃ sakiccapasutampi kassakaṃ vā aññaṃ vā kiñci hatthakammaṃ yācituṃ vaṭṭateva. Yo pana vighāsādo vā añño vā koci nikkammo niratthakakathaṃ kathento niddāyanto vā viharati, evarūpaṃ ayācitvāpi ‘‘ehi re idaṃ vā idaṃ vā karohī’’ti yadicchakaṃ kārāpetuṃ vaṭṭati.
Việc xin xỏ là nhiều đối với họ, công việc khác thì ít, (nên gọi là) những người hay xin xỏ. Cũng vậy, cần hiểu (là) những người hay thỉnh cầu. Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, không có sự khác biệt; đây là tên gọi của những người xin nhiều lần: “Hãy cho người, hãy cho người làm công việc tay chân”. Ở đó, không được phép xin người để đốn cây (tận gốc); được phép xin (nói) “Hãy cho người” để giúp đỡ, để làm công việc. Người làm công việc tay chân được gọi là công việc tay chân mà người phải làm; được phép xin điều đó. Công việc tay chân không phải là một vật gì đó; do đó, trừ công việc riêng của thợ săn nai, người đánh cá v.v…, tất cả phần còn lại đều thích hợp. Dù được hỏi hay không được hỏi “Thưa Đại đức, các ngài đến đây có việc gì?”, đều được phép xin; không có lỗi do duyên thỉnh cầu. Do đó, không nên xin những người như thợ săn nai v.v… công việc riêng của họ; cũng không nên xin mà không xác định (nói) “Hãy cho công việc tay chân”. Vì nếu được xin như vậy, họ (có thể nói) “Lành thay, thưa Đại đức” rồi tiễn các Tỳ khưu đi, rồi giết cả nai mang đến. Tuy nhiên, nên xin bằng cách xác định: “Trong tu viện có một việc gì đó cần làm, xin hãy cho công việc tay chân ở đó”. Ngay cả đối với người nông dân đang bận rộn với công việc riêng của mình, hoặc người khác, đang mang dụng cụ như cày, bừa v.v… để đi cày, hoặc gieo, hoặc gặt, cũng vẫn được phép xin một công việc tay chân nào đó. Còn người nào ăn đồ thừa, hoặc một người nào đó không làm việc, nói chuyện vô ích, hoặc đang ngủ nghỉ; người như vậy, dù không xin, cũng được phép bảo làm tùy ý (nói): “Này anh, hãy làm việc này hoặc việc kia”.

Hatthakammassa pana sabbakappiyabhāvadīpanatthaṃ imaṃ nayaṃ kathenti. Sace hi bhikkhu pāsādaṃ kāretukāmo hoti, thambhatthāya pāsāṇakoṭṭakānaṃ gharaṃ gantvā vattabbaṃ ‘‘hatthakammaṃ laddhuṃ vaṭṭati upāsakā’’ti. Kiṃ kātabbaṃ, bhante,ti? Pāsāṇatthambhā uddharitvā dātabbāti. Sace te uddharitvā vā denti, uddharitvā nikkhitte attano thambhe vā denti, vaṭṭati. Athāpi vadanti – ‘‘amhākaṃ, bhante, hatthakammaṃ kātuṃ khaṇo natthi, aññaṃ uddharāpetha, tassa mūlaṃ dassāmā’’ti uddharāpetvā ‘‘pāsāṇatthambhe uddhaṭamanussānaṃ mūlaṃ dethā’’ti vattuṃ vaṭṭati. Etenevupāyena pāsādadārūnaṃ atthāya vaḍḍhakīnaṃ santikaṃ iṭṭhakatthāya iṭṭhakavaḍḍhakīnaṃ chadanatthāya gehacchādakānaṃ cittakammatthāya cittakārānanti yena yena attho hoti, tassa tassa atthāya tesaṃ tesaṃ sippakārakānaṃ santikaṃ gantvā hatthakammaṃ yācituṃ vaṭṭati. Hatthakammayācanavasena ca mūlacchejjāya vā bhattavetanānuppadānena vā laddhampi sabbaṃ gahetuṃ vaṭṭati. Araññato āharāpentena ca sabbaṃ anajjhāvutthakaṃ āharāpetabbaṃ.
Tuy nhiên, để chỉ rõ tính chất hoàn toàn thích hợp của công việc tay chân, (các vị) nói phương pháp này: Nếu vị Tỳ khưu muốn cho làm một tòa lầu, (vị ấy) nên đi đến nhà của những người thợ đá để (xin) cột, rồi nói: “Thưa các thí chủ, được phép nhận công việc tay chân”. (Họ hỏi): “Thưa Đại đức, phải làm gì?”. (Đáp): “Phải đào các cột đá lên rồi cho”. Nếu họ đào lên rồi cho, hoặc cho những cột đá của họ đã đào lên và để sẵn, thì được phép. Hoặc nếu họ nói: “Thưa Đại đức, chúng con không có thời gian làm công việc tay chân; xin ngài hãy nhờ người khác đào lên, chúng con sẽ trả tiền công cho việc đó”, thì sau khi nhờ (người khác) đào lên, được phép nói: “Xin hãy trả tiền công cho những người đã đào cột đá”. Bằng chính phương tiện này, để (xin) gỗ làm lầu, (nên đến) gần những người thợ mộc; để (xin) gạch, (nên đến) gần những người thợ gạch; để (xin) lợp mái, (nên đến) gần những người thợ lợp nhà; để (làm) công việc vẽ, (nên đến) gần những người thợ vẽ; bất cứ khi nào cần việc gì, để (thực hiện) việc đó, được phép đi đến gần những người thợ thủ công ấy rồi xin công việc tay chân. Và bằng cách xin công việc tay chân, dù nhận được (vật liệu) để đốn cây (tận gốc) hoặc để trả cơm nước và tiền công, tất cả đều được phép nhận lấy. Và khi nhờ mang (vật liệu) từ rừng về, nên nhờ mang tất cả những thứ không có người ở trông coi.

Na kevalañca pāsādaṃ kāretukāmena mañcapīṭhapattaparissāvanadhamakarakacīvarādīni kārāpetukāmenāpi dārulohasuttādīni labhitvā te te sippakārake upasaṅkamitvā vuttanayeneva hatthakammaṃ yācitabbaṃ. Hatthakammayācanavasena ca mūlacchejjāya vā bhattavetanānuppadānena vā laddhampi sabbaṃ gahetabbaṃ. Sace pana kātuṃ na icchanti, bhattavetanaṃ paccāsīsanti, akappiyakahāpaṇādi na dātabbaṃ. Bhikkhācāravattena taṇḍulādīni pariyesitvā dātuṃ vaṭṭati.
Không chỉ người muốn cho làm tòa lầu, mà ngay cả người muốn cho làm giường, ghế, bát, đồ lọc nước, bình nước, y phục v.v…, sau khi nhận được gỗ, sắt, chỉ v.v…, cũng nên đến gần những người thợ thủ công ấy rồi xin công việc tay chân theo phương pháp đã nói. Và bằng cách xin công việc tay chân, dù nhận được (vật liệu) để đốn cây (tận gốc) hoặc để trả cơm nước và tiền công, tất cả đều được phép nhận lấy. Tuy nhiên, nếu họ không muốn làm, (mà) mong đợi cơm nước và tiền công, thì không được cho tiền kahāpaṇa v.v… không thích hợp. Được phép tìm kiếm gạo v.v… bằng cách đi khất thực rồi cho.

Hatthakammavasena pattaṃ kāretvā tatheva pācetvā navapakkassa pattassa puñchanatelatthāya antogāmaṃ paviṭṭhena ‘‘bhikkhāya āgato’’ti sallakkhetvā yāguyā vā bhatte vā ānīte hatthena patto pidhātabbo. Sace upāsikā ‘‘kiṃ, bhante’’ti pucchati, ‘‘navapakko patto puñchanatelena attho’’ti vattabbaṃ. Sace sā ‘‘dehi, bhante’’ti pattaṃ gahetvā telena puñchitvā yāguyā vā bhattassa vā pūretvā deti, viññatti nāma na hoti, gahetuṃ vaṭṭatīti.
Bằng cách (xin) công việc tay chân, sau khi cho làm bát rồi cho nung như vậy, để (xin) dầu lau cho cái bát mới nung, người đi vào trong làng, sau khi nhận biết (mình) “đã đến để khất thực”, nếu cháo hoặc cơm được mang đến, nên dùng tay đậy bát lại. Nếu người nữ cư sĩ hỏi: “Thưa Đại đức, có việc gì?”, nên nói: “Bát mới nung, cần dầu lau”. Nếu cô ấy nói: “Xin đưa (bát) đây, thưa Đại đức”, rồi nhận lấy bát, lau bằng dầu, rồi đổ đầy cháo hoặc cơm và dâng cúng, thì không gọi là thỉnh cầu (sai phép), được phép nhận lấy.

Bhikkhū pageva piṇḍāya caritvā āsanasālaṃ gantvā āsanaṃ apassantā tiṭṭhanti. Tatra ce upāsakā bhikkhū ṭhite disvā sayameva āsanāni āharāpenti, nisīditvā gacchantehi āpucchitvā gantabbaṃ. Anāpucchā gatānampi naṭṭhaṃ gīvā na hoti, āpucchitvā gamanaṃ pana vattaṃ. Sace bhikkhūhi ‘‘āsanāni āharathā’’ti vuttehi āhaṭāni honti, āpucchitvāva gantabbaṃ. Anāpucchā gatānaṃ vattabhedo ca naṭṭhañca gīvāti. Attharaṇakojavādīsupi eseva nayo.
Các Tỳ khưu, sau khi đi khất thực từ sớm, đến nhà hội, không thấy chỗ ngồi, bèn đứng. Ở đó, nếu những người nam cư sĩ thấy các Tỳ khưu đang đứng, rồi tự mình cho mang chỗ ngồi đến, thì sau khi ngồi, lúc ra về, nên xin phép rồi đi. Dù những người đi mà không xin phép cũng không bị phạt bồi thường vật đã mất, nhưng việc xin phép rồi đi là bổn phận. Nếu (chỗ ngồi) được mang đến do các Tỳ khưu nói “Hãy mang chỗ ngồi đến”, thì phải xin phép rồi mới đi. Đối với những người đi mà không xin phép, (đó là) sự vi phạm bổn phận và (nếu vật bị mất thì) phải bồi thường. Đối với đồ trải, thảm len v.v…, phương pháp cũng như vậy.

Makkhikāyo bahukā honti, ‘‘makkhikābījaniṃ āharathā’’ti vattabbaṃ. Pucimandasākhādīni āharanti, kappiyaṃ kārāpetvā paṭiggahetabbāni. Āsanasālāya udakabhājanaṃ rittaṃ hoti, ‘‘dhamakaraṇaṃ gaṇhā’’ti na vattabbaṃ. Dhamakarakañhi rittabhājane pakkhipanto bhindeyya ‘‘nadiṃ vā taḷākaṃ vā gantvā pana udakaṃ āharā’’ti vattuṃ vaṭṭati. ‘‘Gehato āharā’’ti neva vattuṃ vaṭṭati, na āhaṭaṃ paribhuñjitabbaṃ. Āsanasālāyaṃ vā araññake vā bhattakiccaṃ karontehi tatthajātakaṃ anajjhāvutthakaṃ yaṃkiñci uttaribhaṅgārahaṃ pattaṃ vā phalaṃ vā sace kiñci kammaṃ karontaṃ āharāpeti, hatthakammavasena āharāpetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Alajjīhi pana bhikkhūhi vā sāmaṇerehi vā hatthakammaṃ na kāretabbaṃ. Ayaṃ tāva purisatthakare nayo.
Nếu có nhiều ruồi, nên nói: “Hãy mang quạt đuổi ruồi đến”. (Nếu) họ mang đến cành cây bông gòn v.v…, nên nhờ làm cho thích hợp rồi nhận lấy. Nếu đồ đựng nước trong nhà hội bị cạn, không nên nói: “Hãy lấy đồ lọc nước”. Vì người đặt đồ lọc nước vào đồ đựng cạn có thể làm vỡ nó; được phép nói: “Hãy đi đến sông hoặc hồ rồi mang nước về”. Không được phép nói “Hãy mang (nước) từ nhà đến”, và (nước) đã mang đến (theo cách đó) không được dùng. Trong nhà hội hoặc trong rừng, khi đang dùng bữa, nếu nhờ người đang làm công việc gì đó mang đến lá hoặc trái cây nào đó mọc ở đó, không có người ở trông coi, và thích hợp để làm thức ăn thêm, thì được phép nhờ mang đến theo cách (xin) công việc tay chân rồi dùng. Tuy nhiên, không nên nhờ các Tỳ khưu hoặc Sa-di vô liêm sỉ làm công việc tay chân. Đây là phương pháp đối với người làm công việc tay chân.

Goṇaṃ pana aññātakaappavāritaṭṭhānato āharāpetuṃ na vaṭṭati, āharāpentassa dukkaṭaṃ. Ñātipavāritaṭṭhānatopi mūlacchejjāya yācituṃ na vaṭṭati, tāvakālikanayena sabbattha vaṭṭati. Evaṃ āharāpitañca goṇaṃ rakkhitvā jaggitvā sāmikā paṭicchāpetabbā. Sacassa pādo vā siṅgaṃ vā bhijjati vā nassati vā sāmikā ce sampaṭicchanti, iccetaṃ kusalaṃ. No ce sampaṭicchanti, gīvā hoti. Sace ‘‘tumhākaṃyeva demā’’ti vadanti na sampaṭicchitabbaṃ. ‘‘Vihārassa demā’’ti vutte pana ‘‘ārāmikānaṃ ācikkhatha jagganatthāyā’’ti vattabbaṃ.
Tuy nhiên, không được phép nhờ mang bò từ nơi không phải thân quyến, không được mời trước; người nhờ mang đến (phạm) tội Tác Ác. Ngay cả từ nơi thân quyến đã mời trước, cũng không được phép xin để (sử dụng) lâu dài (như của mình); theo cách tạm thời thì ở mọi nơi đều được phép. Và con bò đã được nhờ mang đến như vậy, phải được giữ gìn, chăm sóc, rồi trả lại cho chủ. Nếu chân hoặc sừng của nó bị gãy hoặc bị mất, và nếu chủ nhân chấp nhận (không bắt đền), điều đó là tốt. Nếu họ không chấp nhận, (vị Tỳ khưu) phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nếu họ nói: “Chúng tôi cho các ngài luôn”, không được nhận. Tuy nhiên, nếu được nói: “Chúng tôi cúng cho tu viện”, thì nên nói: “Hãy nói với những người làm vườn để họ chăm sóc”.

‘‘Sakaṭaṃ dethā’’tipi aññātakaappavārite vattuṃ na vaṭṭati, viññattieva hoti dukkaṭaṃ āpajjati. Ñātipavāritaṭṭhāne pana vaṭṭati, tāvakālikaṃ vaṭṭati kammaṃ katvā puna dātabbaṃ. Sace nemiyādīni bhijjanti pākatikāni katvā dātabbaṃ. Naṭṭhe gīvā hoti. ‘‘Tumhākameva demā’’ti vutte dārubhaṇḍaṃ nāma sampaṭicchituṃ vaṭṭati. Esa nayo vāsipharasukuṭhārīkudālanikhādanesu. Valliādīsu ca parapariggahitesu. Garubhaṇḍappahonakesuyeva ca valliādīsu viññatti hoti, na tato oraṃ.
Ngay cả (nói) “Hãy cho xe bò”, cũng không được phép nói với người không phải thân quyến, không được mời trước; đó chính là sự thỉnh cầu (sai phép), phạm tội Tác Ác. Tuy nhiên, ở nơi thân quyến đã mời trước thì được phép; được phép (mượn) tạm thời, sau khi làm xong việc phải trả lại. Nếu vành xe v.v… bị bể, phải sửa lại như cũ rồi trả. Nếu bị mất, phải chịu trách nhiệm bồi thường. Nếu được nói: “Chúng tôi cho các ngài luôn”, thì đồ làm bằng gỗ được phép nhận. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho bào, rìu, búa, cuốc, mai. Và đối với dây leo v.v… thuộc sở hữu của người khác. Và chỉ đối với dây leo v.v… đủ (để làm) vật nặng, mới có sự thỉnh cầu (sai phép), chứ không phải (những thứ) ít hơn thế.

Anajjhāvutthakaṃ pana yaṃkiñci āharāpetuṃ vaṭṭati. Rakkhitagopitaṭṭhāneyeva hi viññatti nāma vuccati. Sā dvīsu paccayesu sabbena sabbaṃ na vaṭṭati, senāsanapaccaye pana ‘‘āhara dehī’’ti viññattimattameva na vaṭṭati , parikathobhāsanimittakammāni vaṭṭanti. Tattha uposathāgāraṃ vā bhojanasālaṃ vā aññaṃ vā yaṃkiñci senāsanaṃ icchato ‘‘imasmiṃ vata okāse evarūpaṃ senāsanaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vā ‘‘yutta’’nti vā ‘‘anurūpa’’nti vātiādinā nayena vacanaṃ parikathā nāma. ‘‘Upāsakā tumhe kuhiṃ vasathā’’ti? ‘‘Pāsāde, bhante’’ti. ‘‘Kiṃ bhikkhūnaṃ pana upāsakā pāsādo na vaṭṭatī’’ti evamādivacanaṃ obhāso nāma. Manusse disvā rajjuṃ pasāreti, khīle ākoṭāpeti. ‘‘Kiṃ idaṃ, bhante’’ti vutte ‘‘idha āvāsaṃ karissāmā’’ti evamādikaraṇaṃ pana nimittakammaṃ nāma. Gilānapaccaye pana viññattipi vaṭṭati, pageva parikathādīni.
Tuy nhiên, bất cứ thứ gì không có người ở trông coi, đều được phép nhờ mang đến. Vì chỉ ở nơi được giữ gìn, canh gác, mới gọi là sự thỉnh cầu (sai phép). Sự thỉnh cầu ấy, đối với hai thứ vật dụng (y phục và vật thực), hoàn toàn không được phép; còn đối với vật dụng sàng tọa, chỉ sự thỉnh cầu trực tiếp “Hãy mang đến, hãy cho” là không được phép, (nhưng) các hành vi nói gợi ý, nói bóng gió, làm dấu hiệu thì được phép. Ở đó, đối với người muốn có nhà Bố-tát, hoặc nhà ăn, hoặc một loại sàng tọa nào khác, lời nói theo cách như “Ở nơi này, thật là được phép làm một loại sàng tọa như vậy”, hoặc “thích hợp”, hoặc “tương xứng” v.v…, gọi là sự nói gợi ý. (Hỏi): “Thưa các thí chủ, quý vị ở đâu?”. (Đáp): “Thưa Đại đức, ở lầu gác”. (Nói): “Này các thí chủ, lẽ nào lầu gác lại không được phép cho các Tỳ khưu sao?”; lời nói như vậy gọi là sự nói bóng gió. Thấy người, (vị ấy) giăng dây, cho đóng cọc. Khi được hỏi: “Thưa Đại đức, đây là gì?”, (đáp) “Chúng tôi sẽ làm trú xứ ở đây”; việc làm như vậy gọi là sự làm dấu hiệu. Còn đối với vật dụng cho người bệnh, ngay cả sự thỉnh cầu (trực tiếp) cũng được phép, huống chi là sự nói gợi ý v.v…

Manussā upaddutā yācanāya upaddutā viññattiyāti tesaṃ bhikkhūnaṃ tāya yācanāya ca viññattiyā ca pīḷitā. Ubbijjantipīti ‘‘kiṃ nu āharāpessantī’’ti ubbegaṃ iñjanaṃ calanaṃ paṭilabhanti. Uttasantipīti ahiṃ viya disvā sahasā tasitvā ukkamanti. Palāyantipīti dūratova yena vā tena vā palāyanti. Aññenapi gacchantīti yaṃ maggaṃ paṭipannā taṃ pahāya nivattitvā vāmaṃ vā dakkhiṇaṃ vā gahetvā gacchanti, dvārampi thakenti.
Những người bị phiền nhiễu do sự xin xỏ, bị phiền nhiễu do sự thỉnh cầu nghĩa là bị các Tỳ khưu ấy làm phiền do sự xin xỏ và sự thỉnh cầu đó. Họ cũng hoảng sợ nghĩa là (họ nghĩ) “Không biết (các vị ấy) sẽ nhờ mang đến thứ gì đây?”, rồi họ cảm thấy lo sợ, dao động, bối rối. Họ cũng kinh hãi nghĩa là giống như thấy rắn, họ đột nhiên sợ hãi rồi tránh xa. Họ cũng bỏ chạy nghĩa là họ bỏ chạy từ xa bằng cách này hay cách khác. Họ cũng đi lối khác nghĩa là họ từ bỏ con đường đang đi, quay lại rồi rẽ trái hoặc rẽ phải mà đi; họ cũng đóng cả cửa lại.

344.Bhūtapubbaṃ bhikkhaveti iti bhagavā te bhikkhū garahitvā tadanurūpañca dhammiṃ kathaṃ katvā punapi viññattiyā dosaṃ pākaṭaṃ kurumāno iminā ‘‘bhūtapubbaṃ bhikkhave’’tiādinā nayena tīṇi vatthūni dassesi. Tattha maṇikaṇṭhoti so kira nāgarājā sabbakāmadadaṃ mahagghaṃ maṇiṃ kaṇṭhe pilandhitvā carati, tasmā ‘‘maṇikaṇṭho’’ tveva paññāyittha. Uparimuddhani mahantaṃ phaṇaṃ karitvā aṭṭhāsīti so kira tesaṃ dvinnaṃ isīnaṃ kaniṭṭho isi mettāvihārī ahosi, tasmā nāgarājā nadito uttaritvā devavaṇṇaṃ nimminitvā tassa santike nisīditvā sammodanīyaṃ kathaṃ katvā taṃ devavaṇṇaṃ pahāya sakavaṇṇameva upagantvā taṃ isiṃ parikkhipitvā pasannākāraṃ karonto uparimuddhani mahantaṃ phaṇaṃ karitvā chattaṃ viya dhārayamāno muhuttaṃ ṭhatvā pakkamati, tena vuttaṃ ‘‘uparimuddhani mahantaṃ phaṇaṃ karitvā aṭṭhāsī’’ti. Maṇimassa kaṇṭhe pilandhananti maṇiṃ assa kaṇṭhe pilandhitaṃ, āmukkanti attho. Ekamantaṃ aṭṭhāsīti tena devavaṇṇena āgantvā tāpasena saddhiṃ sammodamāno ekasmiṃ padese aṭṭhāsi.
344. “Này các Tỳ khưu, thuở xưa”: Như vậy, Đức Thế Tôn, sau khi khiển trách các Tỳ khưu ấy và thuyết một bài pháp thoại tương ứng, lại làm rõ lỗi của sự thỉnh cầu (sai phép) bằng cách trình bày ba câu chuyện theo phương pháp bắt đầu bằng “Này các Tỳ khưu, thuở xưa” này. Ở đó, Maṇikaṇṭha (Cổ-Ngọc) nghĩa là: tương truyền, vị Long vương ấy đi lại với viên ngọc quý giá, ban cho mọi ước muốn, đeo ở cổ; do đó, vị ấy được biết đến chính là “Maṇikaṇṭha”. “Đã đứng với cái mang lớn trên đỉnh đầu” nghĩa là: tương truyền, trong hai vị ẩn sĩ ấy, vị ẩn sĩ trẻ hơn là người trú trong tâm từ; do đó, Long vương từ sông đi lên, hóa hiện hình dáng chư thiên, ngồi gần vị ấy, nói lời thăm hỏi vui vẻ, rồi từ bỏ hình dáng chư thiên ấy, trở lại hình dáng của mình, quấn quanh vị ẩn sĩ ấy, làm ra vẻ hoan hỷ, rồi làm một cái mang lớn trên đỉnh đầu, giữ như cái lọng trong một lát rồi bỏ đi; do đó đã được nói là “đã đứng với cái mang lớn trên đỉnh đầu”. Viên ngọc đeo ở cổ của vị ấy nghĩa là viên ngọc được đeo ở cổ của vị ấy; ý là đã đeo. Đã đứng một bên nghĩa là (Long vương) đến với hình dáng chư thiên ấy, thăm hỏi vui vẻ với vị ẩn sĩ, rồi đứng ở một nơi.

Mamannapānanti mama annañca pānañca. Vipulanti bahulaṃ. Uḷāranti paṇītaṃ . Atiyācakosīti ativiya yācako, asi punappunaṃ yācasīti vuttaṃ hoti. Susūti taruṇo, thāmasampanno yobbanappattapuriso. Sakkharā vuccati kāḷasilā, tattha dhoto asi ‘‘sakkharadhoto nāmā’’ti vuccati, sakkharadhoto pāṇimhi assāti sakkharadhotapāṇi, pāsāṇe dhotanisitakhaggahatthoti attho. Yathā so asihattho puriso tāseyya, evaṃ tāsesi maṃ selaṃ yācamāno, maṇiṃ yācantoti attho.
Thức ăn và thức uống của ta nghĩa là thức ăn của ta và thức uống của ta. Nhiều nghĩa là phong phú. Cao quý nghĩa là thượng hạng. Ngươi là người quá hay xin xỏ nghĩa là người xin xỏ quá mức; có nghĩa là ngươi xin xỏ nhiều lần. Chàng trai trẻ nghĩa là người trẻ tuổi, người đàn ông có sức mạnh, đã đến tuổi thanh niên. “Sỏi” được gọi là đá đen; thanh gươm được mài ở đó được gọi là “thanh gươm được mài trên sỏi”; người có thanh gươm được mài trên sỏi trong tay là người có tay cầm thanh gươm được mài trên sỏi; ý là người có tay cầm thanh gươm đã được mài bén trên đá. Giống như người đàn ông cầm gươm ấy có thể làm cho sợ hãi, cũng vậy, ngươi làm ta sợ hãi khi xin hòn đá (quý); ý là khi xin viên ngọc.

Na taṃ yāceti taṃ na yāceyya. Kataraṃ? Yassa piyaṃ jigīseti yaṃ assa sattassa piyanti jāneyya.
Không nên xin điều đó nghĩa là không nên xin điều đó. Điều gì? (Điều gì) mà mình muốn chiếm đoạt vật yêu quý của người khác nghĩa là (điều gì) mà mình biết là vật yêu quý của chúng sanh ấy.

Kimaṅgaṃ pana manussabhūtānanti manussabhūtānaṃ amanāpāti kimevettha vattabbaṃ.
Huống chi là đối với những người đã sinh làm người nghĩa là: điều đó không làm hài lòng những người đã sinh làm người, thì còn gì để nói ở đây!

345.Sakuṇasaṅghassa saddena ubbāḷhoti so kira sakuṇasaṅgho paṭhamayāmañca pacchimayāmañca nirantaraṃ saddameva karoti, so bhikkhu tena saddena pīḷito hutvā bhagavato santikaṃ agamāsi. Tenāha – ‘‘yenāhaṃ tenupasaṅkamī’’ti.
345. Bị làm phiền bởi tiếng của bầy chim nghĩa là: tương truyền, bầy chim ấy kêu không ngừng cả canh đầu lẫn canh cuối; vị Tỳ khưu ấy bị tiếng ồn đó làm phiền, bèn đi đến gần Đức Thế Tôn. Do đó, (Đức Thế Tôn) đã nói: “Nơi nào có Ta, hãy đến đó”.

Kuto ca tvaṃ bhikkhu āgacchasīti ettha nisinno so bhikkhu na āgacchati vattamānasamīpe pana evaṃ vattuṃ labbhati. Tenāha – ‘‘kuto ca tvaṃ bhikkhu āgacchasī’’ti, kuto āgatosīti attho. Tato ahaṃ bhagavā āgacchāmīti etthāpi so eva nayo. Ubbāḷhoti pīḷito, ukkaṇṭhāpito hutvāti attho.
Trong (câu) “Này Tỳ khưu, ngươi từ đâu đến?”, ở đây, vị Tỳ khưu ấy đang ngồi, không phải đang đến, nhưng trong (ngữ cảnh) gần với hiện tại, được phép nói như vậy. Do đó, (Đức Thế Tôn) đã nói: “Này Tỳ khưu, ngươi từ đâu đến?”; ý là ngươi đã từ đâu đến? Trong (câu) “Bạch Đức Thế Tôn, con từ đó đến”, ở đó cũng theo phương pháp ấy. Bị làm phiền nghĩa là bị làm phiền, ý là bị làm cho bực bội.

So sakuṇasaṅgho ‘‘bhikkhu pattaṃ yācatī’’ti ettha na te sakuṇā bhikkhuno vacanaṃ jānanti, bhagavā pana attano ānubhāvena yathā jānanti tathā akāsi.
Trong (câu) “Bầy chim ấy (nghĩ rằng): ‘Vị Tỳ khưu xin bát'”, ở đây, những con chim ấy không hiểu lời nói của vị Tỳ khưu, nhưng Đức Thế Tôn, bằng oai lực của mình, đã làm cho chúng hiểu.

346.Apāhaṃ te na jānāmīti api ahaṃ te jane ‘‘ke vā ime, kassa vā ime’’ti na jānāmi. Saṅgamma yācantīti samāgantvā vaggavaggā hutvā yācanti. Yācako appiyo hotīti yo yācati so appiyo hoti. Yācaṃ adadamappiyoti yācanti yācitaṃ vuccati, yācitamatthaṃ adadantopi appiyo hoti. Atha vā yācanti yācantassa, adadamappiyoti adento appiyo hoti. Mā me videssanā ahūti mā me appiyabhāvo ahu, ahaṃ vā tava, tvaṃ vā mama videsso appiyo mā ahosīti attho.
346. “Ta cũng không biết họ” nghĩa là: ta cũng không biết những người ấy (là) “Họ là ai, họ là của ai?”. “Họ tụ tập lại xin xỏ” nghĩa là họ tụ tập lại, kết thành từng nhóm rồi xin xỏ. “Người xin xỏ bị ghét” nghĩa là người nào xin xỏ, người ấy bị ghét. “Người không cho vật được xin cũng bị ghét”: “vật được xin” được gọi là thứ đã được xin; người không cho vật đã được xin cũng bị ghét. Hoặc, “người xin” là của người đang xin; “người không cho cũng bị ghét” nghĩa là người không cho cũng bị ghét. “Mong rằng ta không bị ngươi ghét” nghĩa là mong rằng trạng thái bị ghét không xảy đến cho ta; ý là mong rằng ta không trở thành người bị ngươi ghét, hoặc ngươi không trở thành người bị ta ghét.

347.Dussaṃharānīti kasigorakkhādīhi upāyehi dukkhena saṃharaṇīyāni.
347. (Những thứ) khó thu hoạch nghĩa là những thứ khó thu hoạch bằng các phương tiện như cày cấy, chăn nuôi bò v.v…

348-9.Saññācikāya pana bhikkhunāti ettha saññācikā nāma sayaṃ pavattitayācanā vuccati, tasmā ‘‘saññācikāyā’’ti attano yācanāyāti vuttaṃ hoti, sayaṃ yācitakehi upakaraṇehīti attho. Yasmā pana sā sayaṃyācitakehi kayiramānā sayaṃ yācitvā kayiramānā hoti, tasmā taṃ atthapariyāyaṃ dassetuṃ ‘‘sayaṃ yācitvā purisampī’’ti evamassa padabhājanaṃ vuttaṃ.
348-9. Còn (trong cụm từ) “Vị Tỳ khưu (làm cốc) do tự mình xin”: ở đây, “do tự mình xin” được gọi là sự xin xỏ do tự mình khởi xướng. Do đó, “do tự mình xin” có nghĩa là do sự xin xỏ của chính mình; ý là bằng những vật liệu đã được xin bởi chính mình. Vì (cái cốc) ấy, khi được làm bằng những (vật liệu) đã được xin bởi chính mình, thì là (cái cốc) được làm do tự mình xin. Do đó, để chỉ rõ cách diễn đạt ý nghĩa ấy, phần phân tích từ của nó đã được nói là: “Tự mình xin, dù là người (giúp việc)”.

Ullittāti antolittā. Avalittāti bahilittā. Ullittāvalittāti antarabāhiralittāti vuttaṃ hoti.
Trét bên trong nghĩa là trét phía trong. Trét bên ngoài nghĩa là trét phía ngoài. Trét cả trong lẫn ngoài có nghĩa là trét cả phía trong và phía ngoài.

Kārayamānenāti imassa padabhājane ‘‘kārāpentenā’’ti ettakameva vattabbaṃ siyā, evañhi byañjanaṃ sameti. Yasmā pana saññācikāya kuṭiṃ karontenāpi idha vuttanayeneva paṭipajjitabbaṃ, tasmā karonto vā hotu kārāpento vā ubhopete ‘‘kārayamānenā’’ti imināva padena saṅgahitāti etamatthaṃ dassetuṃ ‘‘karonto vā kārāpento vā’’ti vuttaṃ. Yadi pana karontena vā kārāpentena vāti vadeyya, byañjanaṃ vilomitaṃ bhaveyya, na hi kārāpento karonto nāma hoti, tasmā atthamattamevettha dassitanti veditabbaṃ.
Trong phần phân tích từ của “đang cho làm”, đáng lẽ chỉ cần nói “đang nhờ làm” là đủ, vì như vậy thì văn tự mới phù hợp. Tuy nhiên, vì ngay cả người tự làm cốc do tự mình xin cũng phải thực hành theo phương pháp đã nói ở đây. Do đó, dù là người tự làm hay người nhờ làm, cả hai đều được bao gồm trong từ “đang cho làm” này; để chỉ rõ ý nghĩa đó, đã được nói là “người tự làm hoặc người nhờ làm”. Nhưng nếu nói là “bởi người tự làm hoặc bởi người nhờ làm”, thì văn tự sẽ bị đảo lộn. Vì người nhờ làm không được gọi là người tự làm; do đó, cần hiểu rằng ở đây chỉ trình bày ý nghĩa mà thôi.

Attuddesanti ‘‘mayhaṃ esā’’ti evaṃ attā uddeso assāti attuddesā, taṃ attuddesaṃ. Yasmā pana yassā attā uddeso sā attano atthāya hoti, tasmā atthapariyāyaṃ dassento ‘‘attuddesanti attano atthāyā’’ti āha. Pamāṇikā kāretabbāti pamāṇayuttā kāretabbā. Tatridaṃ pamāṇanti tassā kuṭiyā idaṃ pamāṇaṃ. Sugatavidatthiyāti sugatavidatthi nāma idāni majjhimassa purisassa tisso vidatthiyo vaḍḍhakīhatthena diyaḍḍho hattho hoti. Bāhirimena mānenāti kuṭiyā bahikuṭṭamānena dvādasa vidatthiyo, minantena pana sabbapaṭhamaṃ dinno mahāmattikapariyanto na gahetabbo. Thusapiṇḍapariyantena minitabbaṃ. Thusapiṇḍassaupari setakammaṃ abbohārikaṃ. Sace thusapiṇḍena anatthiko mahāmattikāya eva niṭṭhāpeti, mahāmattikāva paricchedo.
Nhắm đến bản thân nghĩa là: “Cái này là của ta”, như vậy bản thân là đối tượng nhắm đến, (nên gọi là) nhắm đến bản thân; (làm cốc) nhắm đến bản thân đó. Vì (cái cốc) nào mà bản thân là đối tượng nhắm đến, cái đó là vì lợi ích của bản thân; do đó, để chỉ rõ cách diễn đạt ý nghĩa, (Ngài) đã nói: “Nhắm đến bản thân là vì lợi ích của bản thân”. Phải cho làm đúng kích thước nghĩa là phải cho làm hợp với kích thước (quy định). Ở đó, đây là kích thước nghĩa là đây là kích thước của cái cốc ấy. Bằng gang tay của Như Lai nghĩa là: gang tay của Như Lai, hiện nay, bằng ba gang tay của người đàn ông trung bình, (tức là) bằng một thước rưỡi theo thước của thợ mộc. Bằng kích thước đo bên ngoài nghĩa là (chiều dài) mười hai gang tay theo kích thước đo tường ngoài của cốc; tuy nhiên, khi đo, phần vữa trát dày đầu tiên nhất không được tính. Phải đo đến giới hạn của lớp trát vỏ trấu. Việc quét vôi bên trên lớp trát vỏ trấu không thuộc phạm vi giao dịch (không tính vào kích thước). Nếu không cần lớp trát vỏ trấu mà chỉ hoàn thành bằng lớp vữa trát dày, thì lớp vữa trát dày chính là giới hạn.

Tiriyanti vitthārato. Sattāti satta sugatavidatthiyo. Antarāti imassa pana ayaṃ niddeso , ‘‘abbhantarimena mānenā’’ti, kuṭṭassa bahi antaṃ aggahetvā abbhantarimena antena miniyamāne tiriyaṃ satta sugatavidatthiyo pamāṇanti vuttaṃ hoti.
Chiều ngang nghĩa là theo chiều rộng. Bảy nghĩa là bảy gang tay của Như Lai. Còn phần giải thích của “bên trong” là “bằng kích thước đo bên trong”. Có nghĩa là: không lấy giới hạn bên ngoài của tường, khi đo bằng giới hạn bên trong, chiều ngang bảy gang tay của Như Lai là kích thước (quy định).

Yo pana lesaṃ oḍḍento yathāvuttappamāṇameva karissāmīti dīghato ekādasa vidatthiyo tiriyaṃ aṭṭha vidatthiyo, dīghato vā terasa vidatthiyo tiriyaṃ cha vidatthiyo kareyya, na vaṭṭati. Ekatobhāgena atikkantampi hi pamāṇaṃ atikkantameva hoti. Tiṭṭhatu vidatthi, kesaggamattampi dīghato vā hāpetvā tiriyaṃ tiriyato vā hāpetvā dīghaṃ vaḍḍhetuṃ na vaṭṭati, ko pana vādo ubhato vaḍḍhane? Vuttañhetaṃ – ‘‘āyāmato vā vitthārato vā antamaso kesaggamattampi atikkamitvā karoti vā kārāpeti vā payoge dukkaṭa’’ntiādi (pārā. 353). Yathāvuttappamāṇā eva pana vaṭṭati. Yā pana dīghato saṭṭhihatthāpi hoti tiriyaṃ tihatthā vā ūnakacatuhatthā vā yattha pamāṇayutto mañco ito cito ca na parivattati, ayaṃ kuṭīti saṅkhyaṃ na gacchati, tasmā ayampi vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana pacchimakoṭiyā catuhatthavitthārā vuttā, tato heṭṭhā akuṭi. Pamāṇikāpi pana adesitavatthukā vā sārambhā vā aparikkamanā vā na vaṭṭati. Pamāṇikā desitavatthukā anārambhā saparikkamanāva vaṭṭati. Pamāṇato ūnatarampi catuhatthaṃ pañcahatthampi karontena desitavatthukāva kāretabbā. Pamāṇātikkantañca pana karonto lepapariyosāne garukaṃ āpattiṃ āpajjati.
Tuy nhiên, người nào, dùng mánh khóe, (nói rằng) “Ta sẽ làm đúng kích thước đã nói”, rồi làm chiều dài mười một gang tay, chiều ngang tám gang tay; hoặc chiều dài mười ba gang tay, chiều ngang sáu gang tay, thì không được phép. Vì dù chỉ vượt quá kích thước ở một phía, cũng là đã vượt quá kích thước. Huống chi là một gang tay, ngay cả việc giảm bớt chiều dài dù chỉ bằng một đầu sợi tóc để tăng chiều ngang, hoặc giảm bớt chiều ngang để tăng chiều dài, cũng không được phép; nói gì đến việc tăng cả hai chiều? Điều này đã được nói: “Về chiều dài hoặc chiều rộng, nếu làm hoặc cho làm vượt quá dù chỉ bằng một đầu sợi tóc, mỗi hành vi (phạm) tội Tác Ác” v.v… (pārā. 353). Tuy nhiên, chỉ (làm) đúng kích thước đã nói mới được phép. Còn (cái cốc) nào dù dài đến sáu mươi thước, mà chiều ngang ba thước hoặc chưa đến bốn thước, nơi mà cái giường có kích thước (tiêu chuẩn) không thể xoay trở qua lại, cái này không được kể là cốc; do đó, cái này cũng được phép. Tuy nhiên, trong Mahāpaccariya, chiều rộng tối thiểu là bốn thước đã được nói đến; nhỏ hơn thế không phải là cốc. Và (cốc) dù đúng kích thước, nhưng (làm trên) đất chưa được chỉ định, hoặc có sinh vật (sống), hoặc không có lối đi xung quanh, cũng không được phép. (Cốc) đúng kích thước, (làm trên) đất đã được chỉ định, không có sinh vật (sống), và có lối đi xung quanh, mới được phép. Ngay cả khi làm (cốc) nhỏ hơn kích thước (quy định), (dài) bốn thước hay năm thước, cũng phải cho làm (trên) đất đã được chỉ định. Còn người làm (cốc) vượt quá kích thước, khi hoàn tất việc trét vữa, phạm tội nặng.

Tattha lepo ca alepo ca lepokāso ca alepokāso ca veditabbo. Seyyathidaṃ – lepoti dve lepā – mattikālepo ca sudhālepo ca. Ṭhapetvā pana ime dve lepe avaseso bhasmagomayādibhedo lepo, alepo. Sacepi kalalalepo hoti, alapo eva. Lepokāsoti bhittiyo ceva chadanañca, ṭhapetvā pana bhitticchadane avaseso thambhatulāpiṭṭhasaṅghāṭavātapānadhūmacchiddādi alepāraho okāso sabbopi alepokāsoti veditabbo.
Ở đó, cần phải hiểu (sự khác biệt giữa) vữa trát, không phải vữa trát, chỗ trát vữa, và chỗ không trát vữa. Ví như: vữa trát có hai loại – vữa đất sét và vữa vôi. Tuy nhiên, trừ hai loại vữa này, phần còn lại như tro, phân bò v.v…, (dù được dùng để) trát, (vẫn là) không phải vữa trát (theo nghĩa của giới luật này). Ngay cả nếu là vữa bùn, cũng (tính là) không phải vữa trát. Chỗ trát vữa là tường và mái. Tuy nhiên, trừ tường và mái, phần còn lại như cột, xà, ghế, khung cửa, cửa sổ, ống khói v.v…, là những chỗ thích hợp không trát vữa, tất cả đều cần được hiểu là chỗ không trát vữa.

Bhikkhū abhinetabbā vatthudesanāyāti yasmiṃ ṭhāne kuṭiṃ kāretukāmo hoti, tattha vatthudesanatthāya bhikkhū netabbā. Tena kuṭikārakenātiādi pana yena vidhinā te bhikkhū abhinetabbā, tassa dassanatthaṃ vuttaṃ. Tattha kuṭivatthuṃ sodhetvāti na visamaṃ araññaṃ bhikkhū gahetvā gantabbaṃ , kuṭivatthuṃ pana paṭhamameva sodhetvā samatalaṃ sīmamaṇḍalasadisaṃ katvā pacchā saṅghaṃ upasaṅkamitvā yācitvā netabbāti dasseti. Evamassa vacanīyoti saṅgho evaṃ vattabbo assa. Parato pana ‘‘dutiyampi yācitabbā’’ti bhikkhū sandhāya bahuvacanaṃ vuttaṃ. No ce sabbo saṅgho ussahatīti sace sabbo saṅgho na icchati, sajjhāyamanasikārādīsu uyyuttā te te bhikkhū honti. Sārambhaṃ anārambhanti saupaddavaṃ anupaddavaṃ. Saparikkamanaṃ aparikkamananti saupacāraṃ anupacāraṃ.
Các Tỳ khưu cần được dẫn đến để chỉ định địa điểm nghĩa là: ở nơi nào (vị Tỳ khưu) muốn cho làm cốc, cần phải dẫn các Tỳ khưu đến đó để chỉ định địa điểm. Còn (cụm từ) bắt đầu bằng “Bởi người làm cốc ấy” v.v… đã được nói để chỉ rõ phương pháp mà các Tỳ khưu ấy cần được dẫn đến. Ở đó, “sau khi dọn dẹp nền đất làm cốc” nghĩa là không được dẫn các Tỳ khưu đến khu rừng không bằng phẳng; mà trước hết phải dọn dẹp nền đất làm cốc, làm cho bằng phẳng giống như đàn giới, sau đó mới đến gần Tăng chúng, xin rồi dẫn đến – (điều này) được chỉ rõ. Nên được nói như vầy nghĩa là Tăng chúng nên được nói như vầy. Còn ở phần sau, “cũng nên xin lần thứ hai” được nói ở số nhiều, nhắm đến các Tỳ khưu. Nếu toàn thể Tăng chúng không cố gắng (đi) nghĩa là nếu toàn thể Tăng chúng không muốn (đi), (vì) các vị Tỳ khưu ấy đang bận rộn với việc đọc tụng, tác ý v.v… Có sinh vật (sống), không có sinh vật (sống) nghĩa là có hiểm họa, không có hiểm họa. Có lối đi xung quanh, không có lối đi xung quanh nghĩa là có phạm vi gần, không có phạm vi gần.

Pattakallanti patto kālo imassa olokanassāti pattakālaṃ, pattakālameva pattakallaṃ. Idañca vatthuṃolokanatthāya sammutikammaṃ anusāvanānayena oloketvāpi kātuṃ vaṭṭati. Parato pana vatthudesanākammaṃ yathāvuttāya eva ñattiyā ca anusāvanāya ca kātabbaṃ, oloketvā kātuṃ na vaṭṭati.
Đã đến lúc thích hợp nghĩa là: thời điểm của việc xem xét này đã đến, (nên gọi là) đã đến thời điểm; chính “đã đến thời điểm” là “đã đến lúc thích hợp”. Và hành sự biểu quyết để xem xét địa điểm này, cũng được phép thực hiện sau khi đã xem xét theo phương pháp tuyên cáo. Tuy nhiên, ở phần sau, hành sự chỉ định địa điểm phải được thực hiện chỉ bằng Tăng sự và tuyên cáo như đã nói; không được phép thực hiện (chỉ) sau khi xem xét.

353.Kipillikānanti rattakāḷapiṅgalādibhedānaṃ yāsaṃ kāsañci kipillikānaṃ. Kipīllakānantipi pāṭho. Āsayoti nibaddhavasanaṭṭhānaṃ, yathā ca kipillikānaṃ evaṃ upacikādīnampi nibaddhavasanaṭṭhānaṃyeva āsayo veditabbo. Yattha pana te gocaratthāya āgantvā gacchanti, sabbesampi tādiso sañcaraṇappadeso avārito, tasmā tattha apanetvā sodhetvā kātuṃ vaṭṭati. Imāni tāva cha ṭhānānisattānuddayāya paṭikkhittāni.
353. Của kiến nghĩa là của bất kỳ loại kiến nào trong số các loại như kiến đỏ, kiến đen, kiến vàng hung v.v… Cũng có bản đọc là “kipīllakānaṃ”. Tổ nghĩa là nơi ở cố định; và giống như đối với kiến, cũng vậy, đối với mối v.v…, tổ cần được hiểu chính là nơi ở cố định. Tuy nhiên, ở nơi nào chúng đến rồi đi để kiếm ăn, vùng đi lại như vậy của tất cả (các loài ấy) không bị cấm; do đó, ở đó, được phép dời đi, dọn dẹp rồi làm (cốc). Trước hết, sáu nơi này bị cấm do lòng thương xót chúng sanh.

Hatthīnaṃ vāti hatthīnaṃ pana nibaddhavasanaṭṭhānampi nibaddhagocaraṭṭhānampi na vaṭṭati, sīhādīnaṃ āsayo ca gocarāya pakkamantānaṃ nibaddhagamanamaggo ca na vaṭṭati. Etesaṃ gocarabhūmi na gahitā. Yesaṃ kesañcīti aññesampi vāḷānaṃ tiracchānagatānaṃ . Imāni satta ṭhānāni sappaṭibhayāni bhikkhūnaṃ ārogyatthāya paṭikkhittāni. Sesāni nānāupaddavehi saupaddavāni. Tattha pubbaṇṇanissitanti pubbaṇṇaṃ nissitaṃ sattannaṃ dhaññānaṃ viruhanakakhettasāmantā ṭhitaṃ. Eseva nayo aparaṇṇanissitādīsupi. Ettha pana abbhāghātanti kāraṇāgharaṃ verigharaṃ, corānaṃ māraṇatthāya katanti kurundiādīsu.
Hoặc của voi: còn đối với voi, cả nơi ở cố định lẫn nơi kiếm ăn cố định đều không được phép (làm cốc). Tổ của sư tử v.v… và đường đi cố định của chúng khi đi kiếm ăn cũng không được phép. Vùng đất kiếm ăn của chúng không được lấy. Của bất kỳ loài nào nghĩa là của các loài thú dữ, loài bàng sanh khác nữa. Bảy nơi này có sự nguy hiểm, bị cấm vì sức khỏe của các Tỳ khưu. Các nơi còn lại có hiểm họa do nhiều tai ương khác nhau. Ở đó, gần (ruộng) lúa sớm nghĩa là (nơi) gần (ruộng) lúa sớm, nằm ở ven ruộng trồng bảy loại lúa. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho (các trường hợp) như gần (ruộng) các loại đậu v.v… Còn ở đây, nơi phục kích là nhà gây chuyện, nhà gây hận thù; (nơi) được làm để giết trộm, theo Kurundī v.v…

Āghātananti dhammagandhikā vuccati. Susānanti mahāsusānaṃ. Saṃsaraṇanti anibbijjhagamanīyo gatapaccāgatamaggo vuccati. Sesaṃ uttānameva.
Nơi hành hình được gọi là pháp trường. Nghĩa địa là nghĩa địa lớn. Đường qua lại được gọi là con đường đi tới đi lui không thể tránh né. Phần còn lại ý nghĩa rõ ràng.

Na sakkā hoti yathāyuttena sakaṭenāti dvīhi balibaddehi yuttena sakaṭena ekaṃ cakkaṃ nibbodakapatanaṭṭhāne ekaṃ bahi katvā āvijjituṃ na sakkā hoti. Kurundiyaṃ pana ‘‘catūhi yuttenā’’ti vuttaṃ. Samantā nisseṇiyā anuparigantunti nisseṇiyaṃ ṭhatvā gehaṃ chādentehi na sakkā hoti samantā nisseṇiyā āvijjituṃ. Iti evarūpe sārambhe ca aparikkamane ca ṭhāne na kāretabbā. Anārambhe pana saparikkamane kāretabbā, taṃ vuttapaṭipakkhanayena pāḷiyaṃ āgatameva.
Không thể (đi) bằng xe bò đã thắng (đúng cách) nghĩa là: với xe bò được thắng bằng hai con bò đực, không thể xoay trở bằng cách để một bánh xe ở chỗ nước không chảy tới và một bánh xe ở bên ngoài. Tuy nhiên, trong Kurundī, đã nói là “với (xe) được thắng bằng bốn (con bò)”. (Không thể) đi vòng quanh bằng thang nghĩa là: những người đứng trên thang để lợp nhà không thể xoay trở thang đi vòng quanh. Như vậy, ở những nơi có sinh vật (sống) và không có lối đi xung quanh như thế, không được cho làm (cốc). Tuy nhiên, ở (nơi) không có sinh vật (sống) và có lối đi xung quanh, thì được cho làm; điều đó đã có trong Pāḷi theo phương pháp đối nghịch với điều đã nói.

Puna saññācikā nāmāti evamādi ‘‘sārambhe ce bhikkhu vatthusmiṃ aparikkamane saññācikāya kuṭiṃ kāreyyā’’ti evaṃ vuttasaṃyācikādīnaṃ atthappakāsanatthaṃ vuttaṃ.
Lại nữa, (cụm từ) bắt đầu bằng “Gọi là (cốc) do tự mình xin” v.v… đã được nói để làm rõ ý nghĩa của (các từ) như “do tự mình xin” v.v… đã được nói trong (câu) “Nếu vị Tỳ khưu làm cốc do tự mình xin trên nền đất có sinh vật (sống), không có lối đi xung quanh”.

Payoge dukkaṭanti evaṃ adesitavatthukaṃ vā pamāṇātikkantaṃ vā kuṭiṃ kāressāmīti araññato rukkhā haraṇatthāya vāsiṃ vā pharasuṃ vā niseti dukkaṭaṃ, araññaṃ pavisati dukkaṭaṃ, tattha allatiṇāni chindati dukkaṭena saddhiṃ pācittiyaṃ, sukkhāni chindati dukkaṭaṃ. Rukkhesupi eseva nayo. Bhūmiṃ sodheti khaṇati, paṃsuṃ uddharati, cināti; evaṃ yāva pācīraṃ bandhati tāva pubbapayogo nāma hoti. Tasmiṃ pubbapayoge sabbattha pācittiyaṭṭhāne dukkaṭena saddhiṃ pācittiyaṃ, dukkaṭaṭṭhāne dukkaṭaṃ, tato paṭṭhāya sahapayogo nāma. Tattha thambhehi kātabbāya thambhaṃ ussāpeti, dukkaṭaṃ. Iṭṭhakāhi cinitabbāya iṭṭhakaṃ ācināti, dukkaṭaṃ. Evaṃ yaṃ yaṃ upakaraṇaṃ yojeti, sabbattha payoge payoge dukkaṭaṃ. Tacchantassa hatthavāre hatthavāre tadatthāya gacchantassa pade pade dukkaṭaṃ. Evaṃ kataṃ pana dārukuṭṭikaṃ vā iṭṭhakakuṭṭikaṃ vā silākuṭṭikaṃ vā antamaso paṇṇasālampi sabhitticchadanaṃ limpissāmīti sudhāya vā mattikāya vā limpantassa payoge payoge yāva thullaccayaṃ na hoti, tāva dukkaṭaṃ. Etaṃ pana dukkaṭaṃ mahālepeneva vaṭṭati, setarattavaṇṇakaraṇe vā cittakamme vā anāpatti.
Mỗi hành vi (phạm) tội Tác Ác nghĩa là: (với ý nghĩ) “Ta sẽ cho làm cốc trên đất chưa được chỉ định hoặc vượt quá kích thước”, (nếu) mài bào hoặc rìu để mang cây từ rừng về, (phạm) tội Tác Ác. Vào rừng, (phạm) tội Tác Ác; ở đó, chặt cỏ tươi, (phạm) tội Tác Ác cùng với tội Ưng Đối Trị; chặt (cỏ) khô, (phạm) tội Tác Ác. Đối với cây, phương pháp cũng như vậy. Dọn dẹp đất, đào, xúc đất, xây; như vậy, cho đến khi xây tường rào, (giai đoạn đó) gọi là sự cố gắng ban đầu. Trong sự cố gắng ban đầu ấy, ở mọi nơi, (nếu là) trường hợp (phạm) tội Ưng Đối Trị, (thì phạm) tội Tác Ác cùng với tội Ưng Đối Trị; (nếu là) trường hợp (phạm) tội Tác Ác, (thì phạm) tội Tác Ác. Kể từ đó, (giai đoạn đó) gọi là sự cố gắng đồng thời (với việc xây dựng). Ở đó, đối với (cốc) phải làm bằng cột, (nếu) dựng cột, (phạm) tội Tác Ác. Đối với (cốc) phải xây bằng gạch, (nếu) xếp gạch, (phạm) tội Tác Ác. Như vậy, bất cứ vật liệu nào được sử dụng, ở mọi nơi, mỗi hành vi (phạm) tội Tác Ác. Đối với người đẽo (gỗ), mỗi nhát (đẽo) (phạm tội Tác Ác); đối với người đi vì việc đó, mỗi bước (phạm) tội Tác Ác. Tuy nhiên, (cốc) bằng gỗ, hoặc (cốc) bằng gạch, hoặc (cốc) bằng đá đã được làm như vậy, cho đến cả chòi lá, (nếu với ý nghĩ) “Ta sẽ trét toàn bộ tường và mái”, người trét bằng vôi hoặc đất sét, mỗi hành vi, chừng nào chưa (đến mức phạm) Trọng Tội, (thì phạm) tội Tác Ác. Tuy nhiên, tội Tác Ác này chỉ xảy ra với việc trét lớp vữa lớn; trong việc quét màu trắng, màu đỏ, hoặc vẽ tranh, không phạm tội.

Ekaṃ piṇḍaṃ anāgateti yo sabbapacchimo eko lepapiṇḍo, taṃ ekaṃ piṇḍaṃ asampatte kuṭikamme. Idaṃ vuttaṃ hoti, idāni dvīhi piṇḍehi niṭṭhānaṃ gamissatīti tesu paṭhamapiṇḍadāne thullaccayanti.
Khi một nắm (vữa) chưa đến nghĩa là: nắm vữa trát cuối cùng nhất nào, (khi) công việc làm cốc chưa đạt đến nắm (vữa) ấy. Điều này có nghĩa là: bây giờ (công việc) sẽ hoàn tất bằng hai nắm (vữa); trong số đó, khi trát nắm (vữa) đầu tiên, (phạm) Trọng Tội.

Tasmiṃ piṇḍe āgateti yaṃ ekaṃ piṇḍaṃ anāgate kuṭikamme thullaccayaṃ hoti, tasmiṃ avasānapiṇḍe āgate dinne ṭhapite lepassa ghaṭitattā āpatti saṅghādisesassa. Evaṃ lempantassa ca antolepe vā antolepena saddhiṃ bhittiñca chadanañca ekābaddhaṃ katvā ghaṭite bahilepe vā bahilepena saddhiṃ ghaṭite saṅghādiseso. Sace pana dvārabaddhaṃ vā vātapānaṃ vā aṭṭhapetvāva mattikāya limpati, tasmiñca tassokāsaṃ puna vaḍḍhetvā vā avaḍḍhetvā vā ṭhapite lepo na ghaṭīyati rakkhati tāva, puna limpantassa pana ghaṭitamatte saṅghādiseso. Sace taṃ ṭhapiyamānaṃ paṭhamaṃ dinnalepena saddhiṃ nirantarameva hutvā tiṭṭhati, paṭhamameva saṅghādiseso. Upacikāmocanatthaṃ aṭṭhaṅgulamattena appattacchadanaṃ katvā bhittiṃ limpati, anāpatti. Upacikāmocanatthameva heṭṭhā pāsāṇakuṭṭaṃ katvā taṃ alimpitvā upari limpati, lepo na ghaṭiyati nāma, anāpattiyeva.
Khi nắm (vữa) ấy đến nghĩa là: khi công việc làm cốc chưa đến một nắm (vữa cuối cùng) thì (phạm) Trọng Tội; khi nắm (vữa) cuối cùng ấy đến, được trát, được đặt vào, do việc trát vữa đã hoàn thành, phạm tội Tăng Tàn. Như vậy, đối với người đang trét, (nếu) việc trát vữa bên trong, hoặc việc trát vữa bên trong cùng với tường và mái được làm liền một khối và hoàn thành; hoặc (nếu) việc trát vữa bên ngoài, hoặc (việc trát vữa) cùng với (tường và mái) được hoàn thành bằng lớp trát bên ngoài, (phạm tội) Tăng Tàn. Tuy nhiên, nếu trét bằng đất sét mà chưa lắp khung cửa hoặc cửa sổ, và khi lắp vào chỗ đó, dù có nới rộng hay không nới rộng chỗ ấy, nếu lớp vữa chưa hoàn thành thì tạm thời được bảo vệ (chưa phạm tội); nhưng đối với người trét lại, ngay khi (lớp vữa) hoàn thành, (phạm tội) Tăng Tàn. Nếu vật được lắp ấy liền một khối không gián đoạn với lớp vữa đã trát trước đó, thì ngay từ đầu (đã phạm tội) Tăng Tàn. Để thoát khỏi (sự phá hoại của) mối, làm mái che không đến (tường) bằng khoảng tám ngón tay rồi trét tường, không phạm tội. Cũng để thoát khỏi (sự phá hoại của) mối, làm tường đá ở phía dưới, không trét nó mà trét phía trên, (thì) không gọi là việc trát vữa hoàn thành, chắc chắn không phạm tội.

Iṭṭhakakuṭṭikāya iṭṭhakāhiyeva vātapāne ca dhūmanettāni ca karoti, lepaghaṭaneneva āpatti. Paṇṇasālaṃ limpati, lepaghaṭaneneva āpatti. Tattha ālokatthāya aṭṭhaṅgulamattaṃ ṭhapetvā limpati, lepo na ghaṭīyati nāma, anāpattiyeva. Sace ‘‘vātapānaṃ laddhā ettha ṭhapessāmī’’ti karoti, vātapāne ṭhapite lepaghaṭanena āpatti. Sace mattikāya kuṭṭaṃ karoti, chadanalepena saddhiṃ ghaṭane āpatti. Eko ekapiṇḍāvasesaṃ katvā ṭhapeti, añño taṃ disvā ‘‘dukkataṃ ida’’nti vattasīsena limpati ubhinnampi anāpatti.
Đối với cốc bằng gạch, (nếu) làm cửa sổ và ống khói cũng bằng gạch, (phạm tội) chỉ khi việc trát vữa hoàn thành. Trét chòi lá, (phạm tội) chỉ khi việc trát vữa hoàn thành. Ở đó, nếu chừa lại khoảng tám ngón tay để lấy ánh sáng rồi trét, (thì) không gọi là việc trát vữa hoàn thành, chắc chắn không phạm tội. Nếu làm (với ý nghĩ) “Sau khi có cửa sổ, ta sẽ lắp vào đây”, khi cửa sổ được lắp vào, (phạm tội) do việc trát vữa hoàn thành. Nếu làm tường bằng đất sét, (phạm tội) khi (nó) hoàn thành cùng với việc trát vữa mái. Một người làm (cốc) còn lại một nắm vữa (chưa trát) rồi để đó; người khác thấy vậy, (nghĩ rằng) “Việc này chưa xong”, rồi trét (nắm vữa đó) vì (muốn hoàn thành) bổn phận; cả hai đều không phạm tội.

354.Bhikkhu kuṭiṃ karotīti evamādīni chattiṃsa catukkāni āpattibhedadassanatthaṃ vuttāni, tattha sārambhāya dukkaṭaṃ, aparikkamanāya dukkaṭaṃ , pamāṇātikkantāya saṅghādiseso, adesitavatthukāya saṅghādiseso, etesaṃ vasena vomissakāpattiyo veditabbā.
354. (Các trường hợp) bắt đầu bằng “Vị Tỳ khưu làm cốc” v.v…, ba mươi sáu nhóm bốn (trường hợp) đã được nói để chỉ rõ sự phân biệt tội. Ở đó, đối với (cốc làm trên đất) có sinh vật (sống), (phạm) tội Tác Ác; đối với (cốc) không có lối đi xung quanh, (phạm) tội Tác Ác; đối với (cốc) vượt quá kích thước, (phạm tội) Tăng Tàn; đối với (cốc làm trên) đất chưa được chỉ định, (phạm tội) Tăng Tàn. Dựa trên những điều này, các tội hỗn hợp cần được hiểu.

355.Āpatti dvinnaṃ saṅghādisesena dvinnaṃ dukkaṭānantiādīsu ca dvīhi saṅghādisesehi saddhiṃ dvinnaṃ dukkaṭānantiādinā nayena attho veditabbo.
355. Và trong (các trường hợp) như “Phạm hai tội Tăng Tàn và hai tội Tác Ác” v.v…, ý nghĩa cần được hiểu theo cách như “Cùng với hai tội Tăng Tàn là hai tội Tác Ác” v.v…

361.So ce vippakate āgacchatītiādīsu pana ayaṃ atthavinicchayo. Soti samādisitvā pakkantabhikkhu. Vippakateti aniṭṭhite kuṭikamme. Aññassa vā dātabbāti aññassa puggalassa vā saṅghassa vā cajitvā dātabbā. Bhinditvā vā puna kātabbāti kittakena bhinnā hoti, sace thambhā bhūmiyaṃ nikhātā, uddharitabbā. Sace pāsāṇānaṃ upari ṭhapitā, apanetabbā. Iṭṭhakacitāya yāva maṅgaliṭṭhakā tāva kuṭṭā apacinitabbā. Saṅkhepato bhūmisamaṃ katvā vināsitā bhinnā hoti, bhūmito upari caturaṅgulamattepi ṭhite abhinnāva. Sesaṃ sabbacatukkesu pākaṭameva. Na hettha aññaṃ kiñci atthi, yaṃ pāḷianusāreneva dubbiññeyyaṃ siyā.
361. Còn trong (các trường hợp) như “Nếu vị ấy trở về khi (công việc) còn dang dở” v.v…, đây là sự quyết đoán ý nghĩa: Vị ấy là vị Tỳ khưu đã ra đi sau khi đã chỉ định (Tăng chúng xem xét địa điểm). Khi (công việc) còn dang dở nghĩa là khi công việc làm cốc chưa hoàn tất. Hoặc phải cho người khác nghĩa là phải từ bỏ rồi cho một cá nhân khác hoặc cho Tăng chúng. Hoặc phải phá đi rồi làm lại nghĩa là: (phải phá) đến mức nào thì (gọi là) đã phá? Nếu các cột được chôn xuống đất, phải nhổ lên. Nếu (cột) được đặt trên đá, phải dời đi. Đối với (cốc) xây bằng gạch, tường phải được dỡ xuống cho đến viên gạch nền. Tóm lại, (cốc) bị phá hủy bằng cách làm cho bằng với mặt đất thì (gọi là) đã phá; nếu còn lại (phần tường) cao hơn mặt đất dù chỉ bằng bốn ngón tay, thì vẫn chưa (gọi là) đã phá. Phần còn lại trong tất cả các nhóm bốn (trường hợp) thì rõ ràng. Ở đây không có điều gì khác mà khó hiểu chỉ bằng cách theo Pāḷi.

363.Attanā vippakatantiādīsu pana attanā āraddhaṃ kuṭiṃ. Attanā pariyosāpetīti mahāmattikāya vā thusamattikāya vā yāya kataṃ pariyositabhāvaṃ pāpetukāmo hoti, tāya avasānapiṇḍaṃ dento pariyosāpeti .
363. Còn trong (các trường hợp) như “Do tự mình (làm) dang dở” v.v…, (nghĩa là) cái cốc do tự mình bắt đầu. Tự mình hoàn tất nghĩa là: muốn làm cho (cái cốc) đã được làm bằng vữa trát dày hoặc vữa trát vỏ trấu đạt đến trạng thái hoàn tất, (vị ấy) trát nắm (vữa) cuối cùng để hoàn tất.

Parehi pariyosāpetīti attanova atthāya parehi pariyosāpeti. Attanā vā hi vippakatā hotu parehi vā ubhayehi vā, taṃ ce attano atthāya attanā vā pariyosāpeti, parehi vā pariyosāpeti, attanā ca parehi cāti yuganaddhaṃ vā pariyosāpeti, saṅghādisesoyevāti ayamettha vinicchayo.
Nhờ người khác hoàn tất nghĩa là nhờ người khác hoàn tất vì lợi ích của chính mình. Vì (cái cốc) dù do tự mình làm dang dở, hay do người khác, hay do cả hai. Nếu (cái cốc) ấy, vì lợi ích của chính mình, (mà) tự mình hoàn tất, hoặc nhờ người khác hoàn tất, hoặc tự mình và người khác cùng nhau hoàn tất, thì chắc chắn (phạm tội) Tăng Tàn – đây là sự quyết đoán ở đây.

Kurundiyaṃpana vuttaṃ – ‘‘dve tayo bhikkhū ‘ekato vasissāmā’ti karonti, rakkhati tāva, avibhattattā anāpatti. ‘Idaṃ ṭhānaṃ tava, idaṃ mamā’ti vibhajitvā karonti āpatti. Sāmaṇero ca bhikkhu ca ekato karonti, yāva avibhattā tāva rakkhati. Purimanayena vibhajitvā karonti, bhikkhussa āpattī’’ti.
Tuy nhiên, trong Kurundī, đã nói rằng: “Hai, ba vị Tỳ khưu làm (cốc với ý nghĩ) ‘Chúng ta sẽ ở chung’, thì tạm thời được bảo vệ (chưa phạm tội), do chưa phân chia nên không phạm tội. (Nếu) phân chia (nói) ‘Chỗ này của ngài, chỗ này của tôi’ rồi làm, (phạm) tội. Sa-di và Tỳ khưu cùng nhau làm, chừng nào chưa phân chia thì tạm thời được bảo vệ. (Nếu) phân chia rồi làm theo phương pháp trước, Tỳ khưu phạm tội”.

364.Anāpattileṇetiādīsu leṇaṃ mahantampi karontassa anāpatti. Na hettha lepo ghaṭīyati. Guhampi iṭṭhakāguhaṃ vā silāguhaṃ vā dāruguhaṃ vā bhūmiguhaṃ vā mahantampi karontassa anāpatti.
364. Trong (các trường hợp) như “Không phạm tội (nếu làm) hang động” v.v…: đối với người làm hang động dù lớn, cũng không phạm tội. Ở đây, việc trét vữa không hoàn thành (theo cách quy định cho cốc). Hang động cũng vậy, dù là hang bằng gạch, hoặc hang bằng đá, hoặc hang bằng gỗ, hoặc hang đất, đối với người làm dù lớn, cũng không phạm tội.

Tiṇakuṭikāyāti sattabhūmikopi pāsādo tiṇapaṇṇacchadano ‘‘tiṇakuṭikā’’ti vuccati. Aṭṭhakathāsu pana kukkuṭacchikagehanti chadanaṃ daṇḍakehi jālabaddhaṃ katvā tiṇehi vā paṇṇehi vā chāditakuṭikāva vuttā, tattha anāpatti. Mahantampi tiṇacchadanagehaṃ kātuṃ vaṭṭati, ullittādibhāvo eva hi kuṭiyā lakkhaṇaṃ, so ca chadanameva sandhāya vuttoti veditabbo. Caṅkamanasālāyaṃ tiṇacuṇṇaṃ paripatati ‘‘anujānāmi, bhikkhave, ogumphetvā ullittāvalittaṃ kātu’’ntiādīni (cūḷava. 260) cettha sādhakāni, tasmā ubhato pakkhaṃ vā kūṭabaddhaṃ vā vaṭṭaṃ vā caturassaṃ vā yaṃ ‘‘imaṃ etassa gehassa chadana’’nti chadanasaṅkhepena kataṃ hoti, tassa bhittilepena saddhiṃ lepe ghaṭite āpatti. Sace pana ullittāvalittacchadanassa gehassa leparakkhaṇatthaṃ upari tiṇena chādenti, ettāvatā tiṇakuṭi nāma na hoti. Kiṃ panettha adesitavatthukappamāṇātikkantapaccayāva anāpatti, udāhu sārambhaaparikkamanapaccayāpīti sabbatthāpi anāpatti. Tathā hi tādisaṃ kuṭiṃ sandhāya parivāre vuttaṃ –
Đối với cốc lợp cỏ nghĩa là: ngay cả tòa lầu bảy tầng, nếu có mái lợp bằng cỏ hoặc lá, cũng được gọi là “cốc lợp cỏ”. Tuy nhiên, trong các Chú giải, chỉ có cốc có mái được làm bằng cách kết các thanh gỗ thành lưới rồi lợp bằng cỏ hoặc lá, giống như chuồng gà, mới được nói đến; ở đó, không phạm tội. Được phép làm nhà lợp cỏ dù lớn; vì đặc điểm của cốc chính là trạng thái được trét trong trét ngoài v.v…, và điều đó cần được hiểu là chỉ nhắm đến mái che mà nói. (Ví dụ) vụn cỏ rơi xuống trong nhà kinh hành, (và những lời dạy như) “Này các Tỳ khưu, Ta cho phép che phủ rồi trét cả trong lẫn ngoài” (cūḷava. 260) v.v… là những bằng chứng ở đây. Do đó, mái nhà dù có hai mái, hoặc có nóc, hoặc hình tròn, hoặc hình vuông, bất cứ thứ gì được làm theo dạng mái che (nói rằng) “Đây là mái che của ngôi nhà này”, nếu việc trét vữa của nó hoàn thành cùng với việc trét tường, (phạm) tội. Tuy nhiên, nếu người ta lợp cỏ bên trên để bảo vệ lớp vữa của mái nhà đã được trét trong trét ngoài, chừng đó không gọi là cốc lợp cỏ. Vậy thì, (đối với cốc lợp cỏ) không phạm tội chỉ do duyên (làm trên) đất chưa được chỉ định và vượt quá kích thước, hay cũng (không phạm tội) do duyên có sinh vật (sống) và không có lối đi xung quanh? (Đáp:) Trong mọi trường hợp đều không phạm tội. Thật vậy, nhắm đến cái cốc như vậy, trong Parivāra, đã nói rằng –

‘‘Bhikkhu saññācikāya kuṭiṃ karoti;
Adesitavatthukaṃ pamāṇātikkantaṃ;
Sārambhaṃ aparikkamanaṃ anāpatti;
Pañhā mesā kusalehi cintitā’’ti. (pari. 479);
“Vị Tỳ khưu làm cốc do tự mình xin;
(Làm trên) đất chưa được chỉ định, (kích thước) vượt quá quy định;
(Nơi) có sinh vật (sống), không có lối đi xung quanh, (vẫn) không phạm tội;
Đây là câu hỏi của ta, được các bậc trí suy ngẫm.” (pari. 479);

Aññassatthāyāti kuṭilakkhaṇappattampi kuṭiṃ aññassa upajjhāyassa vā ācariyassa vā saṅghassa vā atthāya karontassa anāpatti. Yaṃ pana ‘‘āpatti kārukānaṃ tiṇṇaṃ dukkaṭāna’’ntiādi pāḷiyaṃ vuttaṃ, taṃ yathāsamādiṭṭhāya akaraṇapaccayā vuttaṃ.
Vì lợi ích của người khác nghĩa là: đối với người làm cốc, dù (cốc ấy) đạt đến đặc điểm của cốc (bị giới hạn kích thước), vì lợi ích của người khác như thầy tế độ, hoặc thầy dạy, hoặc Tăng chúng, không phạm tội. Còn điều đã được nói trong Pāḷi như “Phạm ba tội Tác Ác đối với những người thợ” v.v…, điều đó được nói do duyên không làm theo như đã được chỉ định (cho Tăng chúng xem xét).

Vāsāgāraṃ ṭhapetvā sabbatthāti attano vasanatthāya agāraṃ ṭhapetvā aññaṃ uposathāgāraṃ vā jantāgharaṃ vā bhojanasālā vā aggisālā vā bhavissatīti kāreti, sabbattha anāpatti. Sacepissa hoti ‘‘uposathāgārañca bhavissati, ahañca vasissāmi jantāgharañca bhojanasālā ca aggisālā ca bhavissati, ahañca vasissāmī’’ti kāritepi ānāpattiyeva. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘anāpattī’’ti vatvā ‘‘attano vāsāgāratthāya karontasseva āpattī’’ti vuttaṃ. Ummattakassa ādikammikānañca āḷavakānaṃ bhikkhūnaṃ anāpatti.
Trừ nhà ở, (làm) ở mọi nơi khác nghĩa là: trừ nhà để tự mình ở, (nếu) cho làm (với ý nghĩ) “Sẽ là nhà Bố-tát”, hoặc “nhà xông hơi”, hoặc “nhà ăn”, hoặc “nhà lửa”, ở mọi nơi (đó) đều không phạm tội. Ngay cả nếu vị ấy (có ý nghĩ) “Sẽ là nhà Bố-tát, và ta cũng sẽ ở; sẽ là nhà xông hơi, nhà ăn, nhà lửa, và ta cũng sẽ ở”, khi cho làm (với ý nghĩ đó), cũng chắc chắn không phạm tội. Tuy nhiên, trong Mahāpaccariya, sau khi nói “không phạm tội”, lại nói: “Chỉ đối với người làm vì mục đích nhà ở của mình mới phạm tội”. Đối với người điên và những người phạm tội đầu tiên là các Tỳ khưu ở Āḷavī, không phạm tội.

Samuṭṭhānādīsu chasamuṭṭhānaṃ kiriyañca kiriyākiriyañca, idañhi vatthuṃ desāpetvā pamāṇātikkantaṃ karoto kiriyato samuṭṭhāti, vatthuṃ adesāpetvā karoto kiriyākiriyato, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Về sự khởi lên v.v…, (điều học này) có sáu cách khởi lên, (là) hành động và hành động-phi hành động. Vì điều này, đối với người cho làm (cốc) vượt quá kích thước sau khi đã nhờ chỉ định địa điểm, (tội) khởi lên từ hành động. Đối với người làm (cốc) mà không nhờ chỉ định địa điểm, (tội khởi lên) từ hành động-phi hành động. Không (thể) thoát tội do nhận thức sai lầm, không có chủ ý (về tội, nếu không biết giới), bị chê trách do (vi phạm) điều chế định, là hành động thuộc về thân, hành động thuộc về lời nói, (liên quan đến) ba loại tâm, có ba loại cảm thọ.

Kuṭikārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Làm Cốc đã hoàn tất.

7. Vihārakārasikkhāpadavaṇṇanā

7. Giải Thích Điều Học Về Việc Làm Tịnh Xá

365.Tena samayenāti vihārakārasikkhāpadaṃ. Tattha kosambiyanti evaṃnāmake nagare. Ghositārāmeti ghositassa ārāme. Ghositanāmakena kira seṭṭhinā so kārito, tasmā ‘‘ghositārāmo’’ti vuccati. Channassāti bodhisattakāle upaṭṭhākachannassa. Vihāravatthuṃ, bhante, jānāhīti vihārassa patiṭṭhānaṭṭhānaṃ, bhante, jānāhi. Ettha ca vihāroti na sakalavihāro, eko āvāso, tenevāha – ‘‘ayyassa vihāraṃ kārāpessāmī’’ti.
365. “Vào lúc bấy giờ” là (phần mở đầu của) điều học về việc làm tịnh xá. Ở đó, tại Kosambī nghĩa là tại thành phố có tên như vậy. Trong Ghositārāma nghĩa là trong khu vườn của Ghosita. Tương truyền, khu vườn ấy do trưởng giả tên là Ghosita cho làm; do đó, được gọi là “Ghositārāma”. Của Channa nghĩa là của Channa, người hầu cận (của Đức Phật) vào thời Bồ Tát. “Thưa Đại đức, xin hãy xem xét nền đất tịnh xá” nghĩa là: thưa Đại đức, xin hãy xem xét nơi dựng tịnh xá. Và ở đây, “tịnh xá” không phải là toàn bộ tịnh xá, (mà là) một trú xứ; chính vì vậy, (Ghosita) đã nói: “Con sẽ cho làm một tịnh xá cho Tôn giả”.

Cetiyarukkhanti ettha cittīkataṭṭhena cetiyaṃ, pūjārahānaṃ devaṭṭhānānametaṃ adhivacanaṃ, ‘‘cetiya’’nti sammataṃ rukkhaṃ cetiyarukkhaṃ. Gāmena pūjitaṃ gāmassa vā pūjitanti gāmapūjitaṃ. Eseva nayo sesapadesupi. Apicettha janapadoti ekassa rañño rajje ekeko koṭṭhāso. Raṭṭhanti sakalarajjaṃ veditabbaṃ, sakalarajjampi hi kadāci kadāci tassa rukkhassa pūjaṃ karoti, tena vuttaṃ ‘‘raṭṭhapūjita’’nti. Ekindriyanti kāyindriyaṃ sandhāya vadanti. Jīvasaññinoti sattasaññino.
Cây bảo tháp: ở đây, “bảo tháp” theo nghĩa là vật được tôn kính; đây là tên gọi của những nơi thờ cúng chư thiên đáng được cúng dường; cây được xem là “bảo tháp” (là) cây bảo tháp. (Cây) được làng cúng dường, hoặc (cây) của làng được cúng dường, là (cây) được làng cúng dường. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho các trường hợp còn lại. Hơn nữa, ở đây, xứ là mỗi một phần trong lãnh thổ của một vị vua. Quốc độ cần được hiểu là toàn bộ lãnh thổ; vì ngay cả toàn bộ lãnh thổ đôi khi cũng cúng dường cây ấy, do đó được nói là “(cây) được quốc độ cúng dường”. (Cây) có một giác quan: (các vị) nói nhắm đến thân quyền. (Cây) có nhận thức về sự sống là (cây) có nhận thức về chúng sanh.

366.Mahallakanti sassāmikabhāvena saṃyācikakuṭito mahantabhāvo etassa atthīti mahallako. Yasmā vā vatthuṃ desāpetvā pamāṇātikkamenapi kātuṃ vaṭṭati, tasmā pamāṇamahantatāyapi mahallako , taṃ mahallakaṃ. Yasmā panassa taṃ pamāṇamahattaṃ sassāmikattāva labbhati, tasmā tadatthadassanatthaṃ ‘‘mahallako nāma vihāro sassāmiko vuccatī’’ti padabhājanaṃ vuttaṃ. Sesaṃ sabbaṃ kuṭikārasikkhāpade vuttanayeneva veditabbaṃ saddhiṃ samuṭṭhānādīhi. Sassāmikabhāvamattameva hi ettha kiriyato samuṭṭhānābhāvo pamāṇaniyamābhāvo ca viseso, pamāṇaniyamābhāvā ca catukkapārihānīti.
366. Lớn nghĩa là: (tịnh xá này) có tính chất lớn hơn cốc làm do tự mình xin, do có chủ sở hữu, nên (gọi là) lớn. Hoặc vì sau khi nhờ chỉ định địa điểm, được phép làm dù vượt quá kích thước (quy định cho cốc), do đó, cũng (gọi là) lớn do sự to lớn về kích thước; (tịnh xá) lớn ấy. Tuy nhiên, vì sự to lớn về kích thước ấy của nó có được là do có chủ sở hữu, do đó, để chỉ rõ ý nghĩa đó, phần phân tích từ đã được nói là: “Tịnh xá lớn là tịnh xá được gọi là có chủ sở hữu“. Tất cả phần còn lại cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong điều học về việc làm cốc, cùng với sự khởi lên v.v… Vì chỉ có tình trạng có chủ sở hữu là điểm đặc biệt ở đây, (dẫn đến) không có sự khởi lên từ hành động (thuần túy) và không có sự quy định về kích thước. Và do không có sự quy định về kích thước, nên thiếu mất nhóm bốn (trường hợp liên quan đến kích thước).

Vihārakārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Về Việc Làm Tịnh Xá đã hoàn tất.

8. Paṭhamaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā

8. Giải Thích Điều Học Thứ Nhất Về Lỗi Sân Hận

380.Tena samayena buddho bhagavāti duṭṭhadosasikkhāpadaṃ. Tattha veḷuvane kalandakanivāpeti veḷuvananti tassa uyyānassa nāmaṃ, taṃ kira veḷuhi ca parikkhittaṃ ahosi aṭṭhārasahatthena ca pākārena gopuraṭṭālakayuttaṃ nīlobhāsaṃ manoramaṃ tena ‘‘veḷuvana’’nti vuccati, kalandakānañcettha nivāpaṃ adaṃsu tena ‘‘kalandakanivāpa’’ti vuccati.
380. “Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, bậc Thế Tôn” là (phần mở đầu của) điều học về lỗi sân hận. Ở đó, tại Trúc Lâm, nơi nuôi sóc: Trúc Lâm là tên của khu vườn ấy. Tương truyền, khu vườn ấy được bao quanh bởi tre và bởi bức tường thành cao mười tám thước, có cổng tháp canh gác, có màu xanh biếc, đẹp đẽ; do đó được gọi là “Trúc Lâm”. Và ở đây, người ta đã cho sóc thức ăn; do đó được gọi là “nơi nuôi sóc”.

Pubbe kira aññataro rājā tattha uyyānakīḷanatthaṃ āgato, surāmadena matto divāseyyaṃ supi, parijanopissa sutto rājāti pupphaphalādīhi palobhiyamāno ito cito ca pakkami. Atha surāgandhena aññatarasmā susirarukkhā kaṇhasappo nikkhamitvā rañño abhimukho āgacchati, taṃ disvā rukkhadevatā ‘‘rañño jīvitaṃ dassāmī’’ti kāḷakavesena āgantvā kaṇṇamūle saddamakāsi, rājā paṭibujjhi, kaṇhasappo nivatto, so taṃ disvā ‘‘imāya kāḷakāya mama jīvitaṃ dinna’’nti kāḷakānaṃ tattha nivāpaṃ paṭṭhapesi, abhayaghosanañca ghosāpesi , tasmā taṃ tatopabhuti kalandakanivāpanti saṅkhyaṃ gataṃ. Kalandakāti hi kāḷakānaṃ etaṃ nāmaṃ.
Tương truyền, thuở xưa, một vị vua nào đó đến đó để vui chơi trong vườn, do say rượu, (vua) đã ngủ vào ban ngày; đoàn tùy tùng của vua cũng (nghĩ rằng) “Vua đang ngủ”, rồi bị hoa quả v.v… quyến rũ, bèn bỏ đi đây đó. Bấy giờ, do mùi rượu, một con rắn hổ mang từ một hốc cây nào đó bò ra, đi đến trước mặt vua. Thấy vậy, vị thần cây (nghĩ rằng) “Ta sẽ cứu mạng vua”, bèn hiện hình con sóc, đến gần tai (vua) rồi làm tiếng động. Vua tỉnh giấc, con rắn hổ mang quay đi. Vua thấy vậy, (nghĩ rằng) “Con sóc này đã cứu mạng ta”, bèn thiết lập chỗ cho sóc ăn ở đó, và cho loan báo sự vô úy (không làm hại sóc). Do đó, kể từ đó, nơi ấy được gọi là “Kalandakanivāpa” (Nơi Nuôi Sóc). Vì Kalandakā (sóc) là tên gọi của những con sóc.

Dabboti tassa therassa nāmaṃ. Mallaputtoti mallarājassa putto. Jātiyā sattavassena arahattaṃ sacchikatanti thero kira sattavassikova saṃvegaṃ labhitvā pabbajito khuraggeyeva arahattaṃ pāpuṇīti veditabbo. Yaṃkiñci sāvakena pattabbaṃ sabbaṃ tena anuppattanti sāvakena pattabbaṃ nāma tisso vijjā, catasso paṭisambhidā, cha abhiññā, nava lokuttaradhammāti idaṃ guṇajātaṃ, taṃ sabbaṃ tena anuppattaṃ hoti. Natthi cassa kiñci uttari karaṇīyanti catūsu saccesu, catūhi maggehi, soḷasavidhassa kiccassa katattā idānissa kiñci uttari karaṇīyaṃ natthi. Katassa vā paticayoti tasseva katassa kiccassa puna vaḍḍhanampi natthi, dhotassa viya vatthassa paṭidhovanaṃ pisitassa viya gandhassa paṭipisanaṃ, pupphitassa viya ca pupphassa paṭipupphananti. Rahogatassāti rahasi gatassa. Paṭisallīnassāti tato tato paṭikkamitvā sallīnassa, ekībhāvaṃ gatassāti vuttaṃ hoti.
Dabba là tên của vị Trưởng lão ấy. Mallaputta (con của người Mallā) là con của vua Mallā. Đã chứng đắc A-la-hán quả khi mới bảy tuổi đời nghĩa là: tương truyền, vị Trưởng lão ấy, khi mới bảy tuổi, đã có được sự nhàm chán (thế tục), xuất gia, và cần được hiểu là đã đạt đến A-la-hán quả ngay khi cạo tóc. Bất cứ điều gì mà một vị Thinh văn có thể đạt được, tất cả đều đã được vị ấy đạt đến nghĩa là: những gì một vị Thinh văn có thể đạt được, gọi là ba minh, bốn vô ngại giải, sáu thắng trí, chín pháp siêu thế – tập hợp các đức tính này, tất cả đều đã được vị ấy đạt đến. Và vị ấy không còn việc gì cao hơn phải làm nữa nghĩa là: do đã hoàn thành mười sáu loại phận sự đối với bốn đế, bằng bốn đạo, nên bây giờ vị ấy không còn việc gì cao hơn phải làm nữa. Hoặc sự vun bồi thêm cho việc đã làm nghĩa là: cũng không có sự làm tăng trưởng thêm cho phận sự đã làm ấy; giống như không có việc giặt lại tấm vải đã giặt, nghiền lại hương liệu đã nghiền, hoặc làm cho hoa đã nở nở thêm nữa. Của người đã đi đến nơi vắng vẻ nghĩa là của người đã đi đến nơi yên tĩnh. Của người đã ẩn mình nghĩa là của người đã lui về từ nơi này nơi kia rồi ẩn mình; có nghĩa là đã đạt đến trạng thái đơn độc.

Atha kho āyasmato dabbassa mallaputtassa etadahosi – ‘‘yannūnāhaṃ saṅghassa senāsanañca paññapeyyaṃ bhattāni ca uddiseyya’’nti thero kira attano katakiccabhāvaṃ disvā ‘‘ahaṃ imaṃ antimasarīraṃ dhāremi, tañca kho vātamukhe ṭhita padīpo viya aniccatāmukhe ṭhitaṃ, nacirasseva nibbāyanadhammaṃ yāva na nibbāyati tāva kinnu kho ahaṃ saṅghassa veyyāvaccaṃ kareyya’’nti cintento iti paṭisañcikkhati – ‘‘tiroraṭṭhesu bahū kulaputtā bhagavantaṃ adisvāva pabbajanti, te bhagavantaṃ ‘passissāma ceva vandissāma cā’ti dūratopi āgacchanti, tatra yesaṃ senāsanaṃ nappahoti, te silāpaṭṭakepi seyyaṃ kappenti. Pahomi kho panāhaṃ attano ānubhāvena tesaṃ kulaputtānaṃ icchāvasena pāsādavihāraaḍḍhayogādīni mañcapīṭhakattharaṇādīni ca senāsenāni nimminitvā dātuṃ. Punadivase cettha ekacce ativiya kilantarūpā honti, te gāravena bhikkhūnaṃ purato ṭhatvā bhattānipi na uddisāpenti, ahaṃ kho pana nesaṃ bhattānipi uddisituṃ pahomī’’ti. Iti paṭisañcikkhantassa ‘‘atha kho āyasmato dabbassa mallaputtassa etadahosi – ‘yannūnāhaṃ saṅghassa senāsanañca paññapeyyaṃ bhattāni ca uddiseyya’’nti.
Bấy giờ, Tôn giả Dabba Mallaputta đã khởi ý nghĩ này: “Hay là ta nên sắp đặt sàng tọa cho Tăng chúng và cũng nên phân phối vật thực”: Tương truyền, vị Trưởng lão, sau khi thấy trạng thái phận sự đã hoàn thành của mình, trong khi suy nghĩ rằng: “Ta đang mang thân cuối cùng này, và nó lại đứng trước miệng vô thường như ngọn đèn trước gió, có bản chất sẽ tắt trong không bao lâu; trong khi nó chưa tắt, ta nên làm công việc phục vụ Tăng chúng nào đây?”, đã suy xét như vầy: “Ở các xứ xa, nhiều thiện nam tử xuất gia dù chưa thấy Đức Thế Tôn; họ từ xa cũng đến (với ý nghĩ) ‘Chúng ta sẽ được thấy và đảnh lễ Đức Thế Tôn’. Ở đó, những ai không có đủ sàng tọa, họ cũng sắp đặt chỗ nằm ngay cả trên phiến đá. Còn ta, bằng oai lực của mình, có khả năng hóa hiện rồi ban cho các thiện nam tử ấy các loại sàng tọa như lầu gác, tịnh xá, nhà có mái cong v.v…, và giường, ghế, đồ trải v.v…, tùy theo ý muốn của họ. Vào ngày hôm sau, ở đây, một số vị có vẻ rất mệt mỏi; do sự kính trọng, họ đứng trước các Tỳ khưu mà cũng không nhờ phân phối vật thực; còn ta thì có khả năng phân phối vật thực cho họ”. Đối với vị ấy đang suy xét như vậy, (khởi lên ý nghĩ): “Bấy giờ, Tôn giả Dabba Mallaputta đã khởi ý nghĩ này: ‘Hay là ta nên sắp đặt sàng tọa cho Tăng chúng và cũng nên phân phối vật thực'”.

Nanu ca imāni dve ṭhānāni bhassārāmatādimanuyuttassa yuttāni, ayañca khīṇāsavo nippapañcārāmo, imassa kasmā imāni paṭibhaṃsūti? Pubbapatthanāya coditattā. Sabbabuddhānaṃ kira imaṃ ṭhānantaraṃ pattā sāvakā hontiyeva. Ayañca padumuttarassa bhagavato kāle aññatarasmiṃ kule paccājāto imaṃ ṭhānantaraṃ pattassa bhikkhuno ānubhāvaṃ disvā aṭṭhasaṭṭhiyā bhikkhusatasahassehi saddhiṃ bhagavantaṃ satta divasāni nimantetvā mahādānaṃ datvā pādamūle nipajjitvā ‘‘anāgate tumhādisassa buddhassa uppannakāle ahampi itthannāmo tumhākaṃ sāvako viya senāsanapaññāpako ca bhattuddesako ca assa’’nti patthanaṃ akāsi. Bhagavā anāgataṃsañāṇaṃ pesetvā addasa, disvā ca ito kappasatasahassassa accayena gotamo nāma buddho uppajjissati, tadā tvaṃ dabbo nāma mallaputto hutvā jātiyā sattavasso nikkhamma pabbajitvā arahattaṃ sacchikarissasi, imañca ṭhānantaraṃ lacchasī’’ti byākāsi. So tatopabhuti dānasīlādīni pūrayamāno devamanussasampattiṃ anubhavitvā amhākaṃ bhagavato kāle tena bhagavatā byākatasadisameva arahattaṃ sacchākāsi. Athassa rahogatassa ‘‘kinnu kho ahaṃ saṅghassa veyyāvaccaṃ kareyya’’nti cintayato tāya pubbapatthanāya coditattā imāni dve ṭhānāni paṭibhaṃsūti.
Chẳng phải hai vị trí này thích hợp với người thích nói nhiều v.v… sao? Còn vị này là bậc đã hết lậu hoặc, thích sự không hý luận; tại sao hai (vị trí) này lại hiện ra cho vị ấy? Do được sự phát nguyện trong quá khứ thúc đẩy. Tương truyền, đối với tất cả các Đức Phật, chắc chắn có những vị Thinh văn đạt được vị trí đặc biệt này. Và vị này, vào thời Đức Thế Tôn Padumuttara, đã tái sanh trong một gia đình nào đó, sau khi thấy oai lực của vị Tỳ khưu đã đạt được vị trí đặc biệt này, đã cùng với sáu mươi tám trăm ngàn vị Tỳ khưu thỉnh Đức Thế Tôn trong bảy ngày, cúng dường đại thí, rồi đảnh lễ dưới chân (Ngài) và đã phát nguyện rằng: “Trong tương lai, vào thời một vị Phật như Ngài xuất hiện, con cũng, với tên X, giống như vị Thinh văn của Ngài, xin được làm người sắp đặt sàng tọa và người phân phối vật thực”. Đức Thế Tôn hướng vị lai trí rồi thấy, và sau khi thấy, (Ngài) đã thọ ký rằng: “Sau một trăm ngàn kiếp nữa kể từ đây, một vị Phật tên là Gotama sẽ xuất hiện; khi đó, ngươi, với tên Dabba Mallaputta, khi mới bảy tuổi đời, sẽ từ bỏ (gia đình) xuất gia, chứng đắc A-la-hán quả, và sẽ đạt được vị trí đặc biệt này”. Vị ấy, kể từ đó, đã viên mãn bố thí, trì giới v.v…, hưởng thụ tài sản của chư thiên và loài người, rồi vào thời Đức Thế Tôn của chúng ta, đã chứng đắc A-la-hán quả đúng như lời thọ ký của Đức Thế Tôn ấy. Bấy giờ, đối với vị ấy đang ở nơi vắng vẻ, khi suy nghĩ “Ta nên làm công việc phục vụ Tăng chúng nào đây?”, do được sự phát nguyện trong quá khứ ấy thúc đẩy, hai vị trí này đã hiện ra.

Athassa etadahosi – ‘‘ahaṃ kho anissarosmi attani, satthārā saddhiṃ ekaṭṭhāne vasāmi, sace maṃ bhagavā anujānissati , imāni dve ṭhānāni samādiyissāmī’’ti bhagavato santikaṃ agamāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho āyasmā dabbo mallaputto…pe… bhattāni ca uddisitu’’nti. Atha naṃ bhagavā ‘‘sādhu sādhu dabbā’’ti sampahaṃsetvā yasmā arahati evarūpo agatigamanaparibāhiro bhikkhu imāni dve ṭhānāni vicāretuṃ, tasmā ‘‘tena hi tvaṃ dabba saṅghassa senāsanañca paññapehi bhattāni ca uddisā’’ti āha. Bhagavato paccassosīti bhagavato vacanaṃ patiassosi abhimukho assosi, sampaṭicchīti vuttaṃ hoti.
Bấy giờ, vị ấy khởi ý nghĩ này: “Ta quả thực không tự mình quyết định được; ta đang ở cùng một nơi với Bậc Đạo Sư; nếu Đức Thế Tôn cho phép ta, ta sẽ đảm nhận hai vị trí này”, rồi đi đến gần Đức Thế Tôn. Do đó, đã được nói: “Bấy giờ, Tôn giả Dabba Mallaputta… cho đến… và cũng nên phân phối vật thực”. Bấy giờ, Đức Thế Tôn, sau khi khen ngợi vị ấy: “Lành thay, lành thay, Dabba!”, vì một vị Tỳ khưu như vậy, người không thiên vị, xứng đáng điều hành hai vị trí này. Do đó, (Ngài) đã nói: “Vậy thì, Dabba, ngươi hãy sắp đặt sàng tọa cho Tăng chúng và hãy phân phối vật thực“. Đã vâng nghe lời Đức Thế Tôn nghĩa là đã vâng nghe, đã trực tiếp nghe lời của Đức Thế Tôn; có nghĩa là đã chấp nhận.

Paṭhamaṃ dabbo yācitabboti kasmā bhagavā yācāpeti? Garahamocanatthaṃ. Passati hi bhagavā ‘‘anāgate dabbassa imaṃ ṭhānaṃ nissāya mettiyabhumajakānaṃ vasena mahāupaddavo uppajjissati, tatra keci garahissanti ‘ayaṃ tuṇhībhūto attano kammaṃ akatvā kasmā īdisaṃ ṭhānaṃ vicāretī’ti. Tato aññe vakkhanti ‘ko imassa doso eteheva yācitvā ṭhapito’ti evaṃ garahato muccissatī’’ti. Evaṃ garahamocanatthaṃ yācāpetvāpi puna yasmā asammate bhikkhusmiṃ saṅghamajjhe kiñci kathayamāne khiyyanadhammo uppajjati ‘‘ayaṃ kasmā saṅghamajjhe uccāsaddaṃ karoti, issariyaṃ dassetī’’ti. Sammate pana kathente ‘‘māyasmanto kiñci avacuttha, sammato ayaṃ, kathetu yathāsukha’’nti vattāro bhavanti. Asammatañca abhūtena abbhācikkhantassa lahukā āpatti hoti dukkaṭamattā. Sammataṃ pana abbhācikkhato garukatarā pācittiyāpatti hoti. Atha sammato bhikkhu āpattiyā garukabhāvena verīhipi duppadhaṃsiyataro hoti, tasmā taṃ āyasmantaṃ sammannāpetuṃ ‘‘byattena bhikkhunā’’tiādimāha. Kiṃ pana dve sammutiyo ekassa dātuṃ vaṭṭantīti? Na kevalaṃ dve, sace pahoti, terasāpi dātuṃ vaṭṭanti. Appahontānaṃ pana ekāpi dvinnaṃ vā tiṇṇaṃ vā dātuṃ vaṭṭati.
Trước hết, Dabba cần được thỉnh cầu: Tại sao Đức Thế Tôn lại cho thỉnh cầu? Để giải thoát khỏi sự khiển trách. Vì Đức Thế Tôn thấy rằng: “Trong tương lai, do vị trí này của Dabba, một tai họa lớn sẽ khởi lên do nhóm Mettiya-Bhummajaka; ở đó, một số người sẽ khiển trách: ‘Người này im lặng, không làm công việc của mình, tại sao lại điều hành một vị trí như vậy?’ Khi đó, những người khác sẽ nói: ‘Lỗi gì của vị này chứ? Vị ấy được chính họ thỉnh cầu và đặt vào (vị trí đó)’; như vậy, (Dabba) sẽ được giải thoát khỏi sự khiển trách”. Sau khi cho thỉnh cầu để giải thoát khỏi sự khiển trách như vậy, lại nữa, vì đối với vị Tỳ khưu chưa được biểu quyết (chấp thuận), nếu nói điều gì đó giữa Tăng chúng, tính chất bị khinh miệt khởi lên (người ta nghĩ): “Tại sao người này lại nói lớn tiếng giữa Tăng chúng, tỏ ra có quyền hành?”. Còn khi người đã được biểu quyết (chấp thuận) nói, thì có những người nói rằng: “Thưa các Tôn giả, đừng nói gì cả; vị này đã được biểu quyết (chấp thuận), hãy để vị ấy nói tùy thích”. Và đối với người vu khống điều không thật cho người chưa được biểu quyết (chấp thuận), phạm tội nhẹ, chỉ là tội Tác Ác. Còn người vu khống (điều không thật) cho người đã được biểu quyết (chấp thuận), phạm tội Ưng Đối Trị nặng hơn. Khi đó, vị Tỳ khưu đã được biểu quyết (chấp thuận), do tính chất nặng của tội (vu khống mình), cũng khó bị kẻ thù làm hại hơn. Do đó, để cho Tôn giả ấy được biểu quyết (chấp thuận), (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Bởi một vị Tỳ khưu khôn khéo“. Vậy thì, có được phép trao hai sự biểu quyết (chấp thuận) cho một người không? Không chỉ hai, nếu có khả năng, ngay cả mười ba (sự biểu quyết) cũng được phép trao. Còn đối với những người không có khả năng (đảm nhận nhiều việc), ngay cả một (sự biểu quyết) cũng được phép trao cho hai hoặc ba người.

382.Sabhāgānanti guṇasabhāgānaṃ, na mittasanthavasabhāgānaṃ. Tenevāha ‘‘ye te bhikkhū suttantikā tesaṃ ekajjha’’ntiādi . Yāvatikā hi suttantikā honti, te uccinitvā ekato tesaṃ anurūpameva senāsanaṃ paññapeti; evaṃ sesānaṃ. Kāyadaḷhībahulāti kāyassa daḷhībhāvakaraṇabahulā, kāyaposanabahulāti attho. Imāyapime āyasmanto ratiyāti imāya saggamaggassa tiracchānabhūtāya tiracchānakathāratiyā. Acchissantīti viharissanti.
382. Của những người tương đồng nghĩa là của những người tương đồng về đức hạnh, không phải tương đồng về tình bạn thân thiết. Chính vì vậy, (Ngài) đã nói (bắt đầu bằng): “Những vị Tỳ khưu nào là người chuyên về Kinh tạng, (sắp đặt) cho họ ở chung một chỗ” v.v… Vì có bao nhiêu vị chuyên về Kinh tạng, (ngài Dabba) chọn lọc họ lại rồi sắp đặt sàng tọa thích hợp cho họ ở chung một chỗ; cũng vậy đối với những vị còn lại. Những người chú trọng việc làm cho thân thể cường tráng nghĩa là những người chú trọng việc làm cho thân thể trở nên cường tráng; ý là những người chú trọng việc nuôi dưỡng thân thể. Bằng sự thích thú này, các Tôn giả này nghĩa là bằng sự thích thú trong câu chuyện bàng sanh này, (câu chuyện) là chướng ngại cho con đường đến cõi trời. Sẽ sống nghĩa là sẽ trú ngụ.

Tejodhātuṃ samāpajjitvā tenevālokenāti tejokasiṇacatutthajjhānaṃ samāpajjitvā vuṭṭhāya abhiññāñāṇena aṅgulijalanaṃ adhiṭṭhāya teneva tejodhātusamāpattijanitena aṅgulijālālokenāti attho. Ayaṃ pana therassa ānubhāvo nacirasseva sakalajambudīpe pākaṭo ahosi, taṃ sutvā iddhipāṭihāriyaṃ daṭṭhukāmā apisu bhikkhū sañcicca vikāle āgacchanti. Te sañcicca dūre apadisantīti jānantāva dūre apadisanti. Kathaṃ? ‘‘Amhākaṃ āvuso dabba gijjhakūṭe’’ti iminā nayena.
Sau khi nhập hỏa đại, bằng chính ánh sáng ấy nghĩa là: sau khi nhập Tứ thiền hỏa biến, xuất thiền, dùng thắng trí quyết định cho ngón tay phát sáng, rồi bằng chính ánh sáng của ngón tay phát sáng do sự nhập hỏa đại ấy. Tuy nhiên, oai lực này của vị Trưởng lão chẳng bao lâu đã nổi tiếng khắp cõi Diêm-phù-đề. Nghe vậy, ngay cả các Tỳ khưu cũng cố ý đến vào lúc phi thời, vì muốn xem thần thông kỳ diệu. Họ cố ý chỉ định (nơi ở) xa nghĩa là họ biết rõ (mà vẫn) chỉ định (nơi ở) xa. Bằng cách nào? Theo cách này: “Này hiền giả Dabba, (xin hãy sắp đặt) cho chúng tôi ở núi Linh Thứu”.

Aṅguliyā jalamānāya purato purato gacchatīti sace eko bhikkhu hoti, sayameva gacchati. Sace bahū honti, bahū attabhāve nimmināti. Sabbe attanā sadisā eva senāsanaṃ paññapenti.
Với ngón tay đang phát sáng, (ngài) đi phía trước nghĩa là: nếu có một vị Tỳ khưu, (ngài Dabba) tự mình đi. Nếu có nhiều (vị Tỳ khưu), (ngài) hóa hiện nhiều thân. Tất cả (các thân hóa hiện) đều giống như chính ngài, sắp đặt sàng tọa.

Ayaṃ mañcotiādīsu pana there ‘‘ayaṃ mañco’’ti vadante nimmitāpi attano attano gatagataṭṭhāne ‘‘ayaṃ mañco’’ti vadanti; evaṃ sabbapadesu. Ayañhi nimmitānaṃ dhammatā –
Còn trong (các câu) như “Đây là giường” v.v…, khi vị Trưởng lão nói “Đây là giường”, các (thân) hóa hiện cũng nói “Đây là giường” tại mỗi nơi mà chúng đã đến; như vậy trong tất cả các trường hợp. Vì đây là bản chất của các (thân) hóa hiện –

‘‘Ekasmiṃ bhāsamānasmiṃ, sabbe bhāsanti nimmitā;
Ekasmiṃ tuṇhimāsīne, sabbe tuṇhī bhavanti te’’ti.
“Khi một người nói, tất cả các (thân) hóa hiện đều nói;
Khi một người im lặng ngồi, tất cả chúng cũng đều im lặng.”

Yasmiṃ pana vihāre mañcapīṭhādīni na paripūranti, tasmiṃ attano ānubhāvena pūrenti. Tena nimmitānaṃ avatthukavacanaṃ na hoti.
Còn trong tịnh xá nào mà giường, ghế v.v… không đầy đủ, (ngài Dabba) làm cho đầy đủ bằng oai lực của mình. Do đó, lời nói của các (thân) hóa hiện không phải là không có cơ sở.

Senāsanaṃpaññapetvā punadeva veḷuvanaṃ paccāgacchatīti tehi saddhiṃ janapadakathaṃ kathento na nisīdati, attano vasanaṭṭhānameva paccāgacchati.
Sau khi sắp đặt sàng tọa, (ngài) lại trở về Trúc Lâm nghĩa là (ngài) không ngồi nói chuyện thế gian với họ, mà trở về chính nơi ở của mình.

383.Mettiyabhūmajakāti mettiyo ceva bhūmajako ca, chabbaggiyānaṃ aggapurisā ete. Lāmakāni ca bhattānīti senāsanāni tāva navakānaṃ lāmakāni pāpuṇantīti anacchariyametaṃ. Bhattāni pana salākāyo pacchiyaṃ vā cīvarabhoge vā pakkhipitvā āloḷetvā ekamekaṃ uddharitvā paññāpenti, tānipi tesaṃ mandapuñatāya lāmakāni sabbapacchimāneva pāpuṇanti. Yampi ekacārikabhattaṃ hoti, tampi etesaṃ pattadivase lāmakaṃ vā hoti, ete vā disvāva paṇītaṃ adatvā lāmakameva denti.
383. Nhóm Mettiya-Bhummajaka là Mettiya và Bhummajaka; họ là những người đứng đầu trong nhóm sáu vị (Chabbaggiyā). Và những vật thực xấu: việc các vị mới (tu) nhận được những sàng tọa xấu, điều đó không có gì lạ. Còn vật thực, (người ta) bỏ các thẻ thăm vào trong giỏ hoặc trong nếp y, trộn lên, rồi rút ra từng cái một để phân phát; những (vật thực) ấy, do phước ít của họ, cũng chỉ đến tay họ những phần xấu, cuối cùng nhất. Ngay cả vật thực khất thực riêng lẻ cũng vậy, vào ngày đến lượt họ, (vật thực ấy) hoặc là xấu, hoặc người ta thấy họ rồi không cho đồ ngon mà chỉ cho đồ xấu.

Abhisaṅkhārikanti nānāsambhārehi abhisaṅkharitvā kataṃ susajjitaṃ, susampāditanti attho. Kaṇājakanti sakuṇḍakabhattaṃ. Bilaṅgadutiyanti kañjikadutiyaṃ.
Được sửa soạn công phu nghĩa là được làm, được trang bị kỹ lưỡng, được chuẩn bị tốt đẹp bằng nhiều nguyên liệu khác nhau. Cơm tấm nghĩa là cơm có cám. Kèm với cháo loãng nghĩa là kèm với cháo (làm từ nước vo gạo).

Kalyāṇabhattikoti kalyāṇaṃ sundaraṃ ativiya paṇītaṃ bhattamassāti kalyāṇabhattiko, paṇītadāyakattā bhatteneva paññāto. Catukkabhattaṃ detīti cattāri bhattāni deti, taddhitavohārena pana ‘‘catukkabhatta’’nti vuttaṃ. Upatiṭṭhitvā parivisatīti sabbakammante vissajjetvā mahantaṃ pūjāsakkāraṃ katvā samīpe ṭhatvā parivisati. Odanena pucchantīti odanahatthā upasaṅkamitvā ‘‘kiṃ bhante odanaṃ demā’’ti pucchanti, evaṃ karaṇattheyeva karaṇavacanaṃ hoti. Esa nayo sūpādīsu.
Người cúng dường vật thực tốt lành nghĩa là người có vật thực tốt lành, đẹp đẽ, rất thượng hạng, (nên gọi là) người cúng dường vật thực tốt lành; (vị ấy) được biết đến chính nhờ vật thực, do là người cúng dường đồ thượng hạng. Cúng dường bốn phần vật thực nghĩa là cúng dường bốn (loại) vật thực; tuy nhiên, theo cách dùng từ phái sinh, được nói là “bốn phần vật thực”. Đứng gần hầu hạ nghĩa là từ bỏ mọi công việc, thực hiện sự cúng dường, tôn kính trọng thể, rồi đứng gần hầu hạ. Họ hỏi với cơm nghĩa là (những người) tay cầm cơm đến gần rồi hỏi: “Thưa Đại đức, chúng con có nên dâng cơm không?”; lời nói hành động ở đây chính là theo nghĩa hành động ấy. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho canh v.v…

Svātanāyāti sve bhavo bhattaparibhogo svātano tassatthāya, svātanāya sve kattabbassa bhattaparibhogassatthāyāti vuttaṃ hoti. Uddiṭṭhaṃ hotīti pāpetvā dinnaṃ hoti. Mettiyabhūmajakānaṃ kho gahapatīti idaṃ thero asamannāharitvā āha. Evaṃbalavatī hi tesaṃ mandapuññatā, yaṃ sativepullappattānampi asamannāhāro hoti. Ye jeti ettha jeti dāsiṃ ālapati.
Cho ngày mai nghĩa là: việc dùng vật thực sẽ xảy ra vào ngày mai là (việc dùng) của ngày mai; vì mục đích ấy, (tức là) cho ngày mai; có nghĩa là vì mục đích việc dùng vật thực phải được làm vào ngày mai. Đã được phân phối nghĩa là đã được mang đến rồi cho. “Này gia chủ, (vật thực này là) của nhóm Mettiya-Bhummajaka”: vị Trưởng lão đã nói điều này mà không suy xét. Phước ít của họ quả thực mạnh mẽ như vậy, đến nỗi ngay cả người đã đạt được chánh niệm viên mãn cũng không suy xét. Trong (từ) “Này je”, ở đây, “je” là gọi người hầu gái.

Hiyyo kho āvuso amhākanti rattiṃ sammantayamānā atītaṃ divasabhāgaṃ sandhāya ‘‘hiyyo’’ti vadanti. Na cittarūpanti na cittānurūpaṃ, yathā pubbe yattakaṃ icchanti, tattakaṃ supanti, na evaṃ supiṃsu, appakameva supiṃsūti vuttaṃ hoti.
“Này hiền giả, hôm qua chúng ta…”: trong khi bàn bạc vào ban đêm, họ nói “hôm qua” nhắm đến phần ngày đã qua. Không vừa ý nghĩa là không theo ý muốn; giống như trước đây họ muốn ngủ bao nhiêu thì ngủ bấy nhiêu, (nay) họ đã không ngủ như vậy; có nghĩa là họ đã ngủ rất ít.

Bahārāmakoṭṭhaketi veḷuvanavihārassa bahidvārakoṭṭhake. Pattakkhandhāti patitakkhandhā khandhaṭṭhikaṃ nāmetvā nisinnā. Pajjhāyantāti padhūpāyantā.
Trong phòng cổng bên ngoài tịnh xá nghĩa là trong phòng cổng ở cửa ngoài của tịnh xá Trúc Lâm. (Những vị) rũ vai nghĩa là (những vị) có vai rũ xuống, ngồi cúi xương vai. Đang ưu tư nghĩa là đang buồn rầu.

Yato nivātaṃtato savātanti yattha nivātaṃ appakopi vāto natthi, tattha mahāvāto uṭṭhitoti adhippāyo. Udakaṃ maññe ādittanti udakaṃ viya ādittaṃ.
Nơi nào không có gió, nơi đó (lại) có gió nghĩa là: nơi nào không có gió, không có dù chỉ một chút gió, ở đó gió lớn đã nổi lên – ý là như vậy. Nước hình như bốc cháy nghĩa là (nóng) như nước đang bốc cháy.

384.Sarasi tvaṃ dabba evarūpaṃ kattāti tvaṃ dabba evarūpaṃ kattā sarasi. Atha vā sarasi tvaṃ dabba evarūpaṃ yathāyaṃ bhikkhunī āha, kattā dhāsi evarūpaṃ, yathāyaṃ bhikkhunī āhāti evaṃ yojetvāpettha attho daṭṭhabbo. Ye pana ‘‘katvā’’ti paṭhanti tesaṃ ujukameva.
384. “Này Dabba, ngươi có nhớ đã làm việc như vậy không?” nghĩa là: này Dabba, ngươi có nhớ đã làm việc như vậy không? Hoặc, ý nghĩa ở đây cần được hiểu bằng cách kết hợp như sau: Này Dabba, ngươi có nhớ (đã làm) việc như vậy như vị Tỳ-khưu-ni này đã nói không? Ngươi đã nắm giữ (việc làm) như vậy, như vị Tỳ-khưu-ni này đã nói sao? Còn những người đọc là “katvā” (sau khi làm), (ý nghĩa) của họ thì thẳng thắn.

Yathā maṃ bhante bhagavā jānātīti thero kiṃ dasseti. Bhagavā bhante sabbaññū, ahañca khīṇāsavo, natthi mayhaṃ vatthupaṭisevanā, taṃ maṃ bhagavā jānāti, tatrāhaṃ kiṃ vakkhāmi, yathā maṃ bhagavā jānāti tathevāhaṃ daṭṭhabboti.
“Bạch Đức Thế Tôn, như Ngài biết con”: vị Trưởng lão muốn trình bày điều gì? Bạch Đức Thế Tôn, Ngài là bậc Toàn Tri, còn con là bậc đã hết lậu hoặc, con không có việc hưởng thụ đối tượng (dục lạc); điều đó Đức Thế Tôn biết về con. Ở đó, con sẽ nói gì đây? Như Đức Thế Tôn biết con, con cần được xem xét như vậy.

Na kho dabba dabbā evaṃ nibbeṭhentīti ettha na kho dabba paṇḍitā yathā tvaṃ parappaccayena nibbeṭhesi, evaṃ nibbeṭhenti; api ca kho yadeva sāmaṃ ñātaṃ tena nibbeṭhentīti evamattho daṭṭhabbo. Sace tayā kataṃ katanti iminā kiṃ dasseti? Na hi sakkā parisabalena vā pakkhupatthambhena vā akārako kārako kātuṃ, kārako vā akārako kātuṃ, tasmā yaṃ sayaṃ kataṃ vā akataṃ vā tadeva vattabbanti dasseti. Kasmā pana bhagavā jānantopi ‘‘ahaṃ jānāmi, khīṇāsavo tvaṃ; natthi tuyhaṃ doso, ayaṃ bhikkhunī musāvādinī’’ti nāvocāti? Parānuddayatāya. Sace hi bhagavā yaṃ yaṃ jānāti taṃ taṃ vadeyya, aññena pārājikaṃ āpannena puṭṭhena ‘‘ahaṃ jānāmi tvaṃ pārājiko’’ti vattabbaṃ bhaveyya, tato so puggalo ‘‘ayaṃ pubbe dabbaṃ mallaputtaṃ suddhaṃ katvā idāni maṃ asuddhaṃ karoti; kassa dāni kiṃ vadāmi, yatra satthāpi sāvakesu chandāgatiṃ gacchati; kuto imassa sabbaññubhāvo’’ti āghātaṃ bandhitvā apāyūpago bhaveyya, tasmā bhagavā imāya parānuddayatāya jānantopi nāvoca.
Trong (câu) “Này Dabba, những người khôn ngoan không biện giải như vậy”, ở đây, ý nghĩa cần được hiểu là: Này Dabba, những người có trí không biện giải như cách ngươi biện giải bằng duyên người khác; mà họ biện giải bằng chính điều tự mình biết. (Câu) “Nếu ngươi đã làm, (hãy nói) đã làm”: bằng (câu) này, (Đức Thế Tôn) muốn chỉ rõ điều gì? Không thể dùng sức mạnh của hội chúng hoặc sự ủng hộ của phe nhóm để biến người không làm thành người làm, hoặc người làm thành người không làm; do đó, (Ngài) muốn chỉ rõ rằng điều gì tự mình đã làm hay không làm, chỉ nên nói điều đó. Vậy tại sao Đức Thế Tôn dù biết (sự thật) mà không nói: “Ta biết, ngươi là bậc đã hết lậu hoặc; ngươi không có lỗi, vị Tỳ-khưu-ni này nói dối”? Do lòng thương xót người khác. Vì nếu Đức Thế Tôn nói ra tất cả những gì Ngài biết, thì khi được một người khác đã phạm tội bất cộng trụ hỏi, (Ngài) sẽ phải nói: “Ta biết ngươi đã phạm tội bất cộng trụ”. Khi đó, người ấy có thể ôm lòng oán hận (nghĩ rằng): “Vị này trước đây đã tuyên bố Dabba Mallaputta trong sạch, bây giờ lại tuyên bố ta không trong sạch; bây giờ ta biết nói gì với ai đây, khi mà ngay cả Bậc Đạo Sư cũng thiên vị đối với các đệ tử; làm sao vị này có thể là bậc Toàn Tri được?”, rồi sẽ bị đọa vào đường ác. Do đó, Đức Thế Tôn, vì lòng thương xót người khác này, dù biết (sự thật) cũng không nói ra.

Kiñca bhiyyo upavādaparivajjanatopi nāvoca. Yadi hi bhagavā evaṃ vadeyya, evaṃ upavādo bhaveyya ‘‘dabbassa mallaputtassa vuṭṭhānaṃ nāma bhāriyaṃ, sammāsambuddhaṃ pana sakkhiṃ labhitvā vuṭṭhito’’ti. Idañca vuṭṭhānalakkhaṇaṃ maññamānā ‘‘buddhakālepi sakkhinā suddhi vā asuddhi vā hoti mayaṃ jānāma, ayaṃ puggalo asuddho’’ti evaṃ pāpabhikkhū lajjimpi vināseyyunti. Apica anāgatepi bhikkhū otiṇṇe vatthusmiṃ codetvā sāretvā ‘‘sace tayā kataṃ, ‘kata’nti vadehī’’ti lajjīnaṃ paṭiññaṃ gahetvā kammaṃ karissantīti vinayalakkhaṇe tantiṃ ṭhapento ‘‘ahaṃ jānāmī’’ti avatvāva ‘‘sace tayā kataṃ, ‘kata’nti vadehī’’ti āha.
Hơn nữa, (Ngài) cũng không nói ra để tránh sự chỉ trích. Vì nếu Đức Thế Tôn nói như vậy, sẽ có sự chỉ trích rằng: “Việc phục hồi (danh dự) của Dabba Mallaputta quả là nặng nề; nhưng (ông ta) đã được phục hồi do có được Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác làm nhân chứng”. Và khi xem đây là đặc điểm của sự phục hồi (danh dự), các Tỳ khưu xấu ác có thể làm mất cả lòng hổ thẹn (nói rằng): “Ngay cả vào thời Đức Phật, sự trong sạch hay không trong sạch cũng là do có nhân chứng, chúng tôi biết điều đó; người này không trong sạch”. Hơn nữa, để thiết lập truyền thống theo đặc điểm của Luật tạng rằng trong tương lai, các Tỳ khưu, khi khiển trách, nhắc nhở về một trường hợp đã vi phạm, sẽ nhận lời thú nhận của những người có lòng hổ thẹn (nói rằng): “Nếu ngươi đã làm, hãy nói ‘đã làm'”, (Đức Thế Tôn) đã không nói “Ta biết”, mà nói: “Nếu ngươi đã làm, hãy nói ‘đã làm'”.

Nābhijānāmi supinantenapi methunaṃ dhammaṃ paṭisevitāti supinantenapi methunaṃ dhammaṃ na abhijānāmi, na paṭisevitā ahanti vuttaṃ hoti. Atha vā paṭisevitā hutvā supinantenapi methunaṃ dhammaṃ na jānāmīti vuttaṃ hoti. Ye pana ‘‘paṭisevitvā’’ti paṭhanti tesaṃ ujukameva. Pageva jāgaroti jāgaranto pana paṭhamaṃyeva na jānāmīti.
“Con không nhớ đã thực hành hành vi giao hợp ngay cả trong giấc mộng” có nghĩa là: con không nhớ (đã thực hành) hành vi giao hợp ngay cả trong giấc mộng; con không phải là người đã thực hành. Hoặc, có nghĩa là: sau khi đã thực hành, con không biết (đến) hành vi giao hợp ngay cả trong giấc mộng. Còn những người đọc là “paṭisevitvā” (sau khi đã thực hành), (ý nghĩa) của họ thì thẳng thắn. Huống chi là khi thức nghĩa là: còn khi thức, trước hết con không biết (đến việc đó).

Tena hi bhikkhave mettiyaṃ bhikkhuniṃ nāsethāti yasmā dabbassa ca imissā ca vacanaṃ na ghaṭīyati tasmā mettiyaṃ bhikkhuniṃ nāsethāti vuttaṃ hoti.
“Vậy thì, này các Tỳ khưu, hãy trục xuất Tỳ-khưu-ni Mettiyā” có nghĩa là: vì lời nói của Dabba và của vị này không khớp nhau, do đó, (Đức Thế Tôn) đã nói: “Hãy trục xuất Tỳ-khưu-ni Mettiyā”.

Tattha tisso nāsanā – liṅganāsanā, saṃvāsanāsanā, daṇḍakammanāsanāti. Tāsu ‘‘dūsako nāsetabbo’’ti (pārā. 66) ayaṃ ‘‘liṅganāsanā’’. Āpattiyā adassane vā appaṭikamme vā pāpikāya diṭṭhiyā appaṭinissagge vā ukkhepanīyakammaṃ karonti, ayaṃ ‘‘saṃvāsanāsanā’’. ‘‘Cara pire vinassā’’ti (pāci. 429) daṇḍakammaṃ karonti, ayaṃ ‘‘daṇḍakammanāsanā’’. Idha pana liṅganāsanaṃ sandhāyāha – ‘‘mettiyaṃ bhikkhuniṃ nāsethā’’ti.
Ở đó, có ba loại trục xuất: trục xuất do (thay đổi) tướng, trục xuất khỏi sự chung sống, và trục xuất bằng hình phạt. Trong số đó, (trường hợp) “Người làm ô uế phải bị trục xuất” (pārā. 66) là “trục xuất do (thay đổi) tướng“. Khi không thấy tội, hoặc không sám hối, hoặc không từ bỏ tà kiến xấu ác, (Tăng chúng) thực hiện hành sự treoบาตร; đây là “trục xuất khỏi sự chung sống“. (Tăng chúng) thực hiện hình phạt (nói rằng): “Hãy đi đi, kẻ đáng khinh, hãy biến đi!” (pāci. 429); đây là “trục xuất bằng hình phạt“. Còn ở đây, (Đức Thế Tôn) đã nói nhắm đến sự trục xuất do (thay đổi) tướng: “Hãy trục xuất Tỳ-khưu-ni Mettiyā”.

Ime ca bhikkhū anuyuñjathāti iminā imaṃ dīpeti ‘‘ayaṃ bhikkhunī attano dhammatāya akārikā addhā aññehi uyyojitā, tasmā yehi uyyojitā ime bhikkhū anuyuñjatha gavesatha jānāthā’’ti.
Và hãy tra hỏi các Tỳ khưu này: bằng (lời) này, (Đức Thế Tôn) muốn chỉ rõ điều này: “Vị Tỳ-khưu-ni này, theo bản chất của mình, không phải là người làm (điều đó); chắc chắn (cô ta) đã bị những người khác xúi giục. Do đó, những vị Tỳ khưu nào đã xúi giục, các ngươi hãy tra hỏi, tìm kiếm, tìm hiểu những vị Tỳ khưu này”.

Kiṃ pana bhagavatā mettiyā bhikkhunī paṭiññāya nāsitā appaṭiññāya nāsitāti, kiñcettha yadi tāva paṭiññāya nāsitā, thero kārako hoti sadoso? Atha appaṭiññāya, thero akārako hoti niddoso.
Vậy thì, Tỳ-khưu-ni Mettiyā đã bị Đức Thế Tôn trục xuất sau khi thú nhận hay bị trục xuất mà không thú nhận? Ở đây, nếu bị trục xuất sau khi thú nhận, vị Trưởng lão (Dabba) có phải là người làm (cho cô ta bị trục xuất) và có lỗi không? Còn nếu (bị trục xuất) mà không thú nhận, vị Trưởng lão không phải là người làm (cho cô ta bị trục xuất) và không có lỗi.

Bhātiyarājakālepi mahāvihāravāsīnañca abhayagirivāsīnañca therānaṃ imasmiṃyeva pade vivādo ahosi. Abhayagirivāsinopi attano suttaṃ vatvā ‘‘tumhākaṃ vāde thero kārako hotī’’ti vadanti. Mahāvihāravāsinopi attano suttaṃ vatvā ‘‘tumhākaṃ vāde thero kārako hotī’’ti vadanti. Pañho na chijjati. Rājā sutvā there sannipātetvā dīghakārāyanaṃ nāma brāhmaṇajātiyaṃ amaccaṃ ‘‘therānaṃ kathaṃ suṇāhī’’ti āṇāpesi. Amacco kira paṇḍito bhāsantarakusalo so āha – ‘‘vadantu tāva therā sutta’’nti. Tato abhayagiritherā attano suttaṃ vadiṃsu – ‘‘tena hi, bhikkhave, mettiyaṃ bhikkhuniṃ sakāya paṭiññāya nāsethā’’ti. Amacco ‘‘bhante, tumhākaṃ vāde thero kārako hoti sadoso’’ti āha. Mahāvihāravāsinopi attano suttaṃ vadiṃsu – ‘‘tena hi, bhikkhave, mettiyaṃ bhikkhuniṃ nāsethā’’ti. Amacco ‘‘bhante, tumhākaṃ vāde thero akārako hoti niddoso’’ti āha. Kiṃ panettha yuttaṃ? Yaṃ pacchā vuttaṃ vicāritañhetaṃ aṭṭhakathācariyehi, bhikkhu bhikkhuṃ amūlakena antimavatthunā anuddhaṃseti, saṅghādiseso; bhikkhuniṃ anuddhaṃseti, dukkaṭaṃ. Kurundiyaṃ pana ‘‘musāvāde pācittiya’’nti vuttaṃ.
Ngay cả vào thời vua Bhātiya, đã có sự tranh luận giữa các vị Trưởng lão trú tại Đại Tịnh Xá và các vị Trưởng lão trú tại Vô Úy Sơn về chính vấn đề này. Các vị trú tại Vô Úy Sơn, sau khi nói kinh của mình, cũng nói rằng: “Theo quan điểm của các ngài, vị Trưởng lão (Dabba) là người làm (cho cô ta bị trục xuất)”. Các vị trú tại Đại Tịnh Xá, sau khi nói kinh của mình, cũng nói rằng: “Theo quan điểm của các ngài, vị Trưởng lão là người làm”. Vấn đề không được giải quyết. Vua nghe vậy, triệu tập các vị Trưởng lão lại rồi ra lệnh cho một vị đại thần thuộc dòng dõi Bà-la-môn tên là Dīghakārāyana: “Hãy nghe lời nói của các vị Trưởng lão”. Tương truyền, vị đại thần ấy thông thái, giỏi về các ngôn ngữ khác; ông ta đã nói: “Trước hết, xin các vị Trưởng lão hãy nói kinh”. Sau đó, các vị Trưởng lão Vô Úy Sơn đã nói kinh của mình: “Vậy thì, này các Tỳ khưu, hãy trục xuất Tỳ-khưu-ni Mettiyā sau khi cô ta đã thú nhận”. Vị đại thần nói: “Thưa các Đại đức, theo quan điểm của các ngài, vị Trưởng lão là người làm và có lỗi”. Các vị Trưởng lão Đại Tịnh Xá cũng nói kinh của mình: “Vậy thì, này các Tỳ khưu, hãy trục xuất Tỳ-khưu-ni Mettiyā”. Vị đại thần nói: “Thưa các Đại đức, theo quan điểm của các ngài, vị Trưởng lão không phải là người làm và không có lỗi”. Vậy thì, điều gì là hợp lý? Điều được nói sau cùng. Điều này đã được các vị Chú giải sư xem xét: Vị Tỳ khưu vu khống vị Tỳ khưu khác bằng tội bất cộng trụ không có căn cứ, (phạm tội) Tăng Tàn; (nếu) vu khống vị Tỳ-khưu-ni, (phạm) tội Tác Ác. Tuy nhiên, trong Kurundī, đã nói rằng: “Nói dối, (phạm tội) Ưng Đối Trị”.

Tatrāyaṃ vicāraṇā, purimanaye tāva anuddhaṃsanādhippāyattā dukkaṭameva yujjati. Yathā satipi musāvāde bhikkhuno bhikkhusmiṃ saṅghādiseso, satipi ca musāvāde asuddhaṃ suddhadiṭṭhino akkosādhippāyena vadantassa omasavādeneva pācittiyaṃ, na sampajānamusāvādena; evaṃ idhāpi anuddhaṃsanādhippāyattā sampajānamusāvāde pācittiyaṃ na yujjati, dukkaṭameva yuttaṃ. Pacchimanayepi musāvādattā pācittiyameva yujjati, vacanappamāṇato hi anuddhaṃsanādhippāyena bhikkhussa bhikkhusmiṃ saṅghādiseso. Akkosādhippāyassa ca omasavādo. Bhikkhussa pana bhikkhuniyā dukkaṭantivacanaṃ natthi, sampajānamusāvāde pācittiyanti vacanamatthi, tasmā pācittiyameva yujjati.
Ở đó, đây là sự xem xét: Theo phương pháp trước, do có chủ ý vu khống, (phạm) tội Tác Ác là hợp lý. Giống như dù có nói dối, (nhưng nếu) Tỳ khưu (vu khống) Tỳ khưu (về tội Pārājika), (phạm tội) Tăng Tàn; và dù có nói dối, (nhưng nếu) người có kiến chấp trong sạch (nhưng bị xem là) không trong sạch, nói với chủ ý mắng nhiếc, thì (phạm tội) Ưng Đối Trị chỉ do lời nói khinh miệt, chứ không phải do cố ý nói dối. Cũng vậy, ở đây, do có chủ ý vu khống, (phạm tội) Ưng Đối Trị do cố ý nói dối là không hợp lý; (phạm) tội Tác Ác là hợp lý. Theo phương pháp sau cũng vậy, do nói dối, (phạm tội) Ưng Đối Trị là hợp lý. Vì theo mức độ của lời nói, (nếu) Tỳ khưu (vu khống) Tỳ khưu với chủ ý vu khống, (phạm tội) Tăng Tàn. Còn (nếu) có chủ ý mắng nhiếc, (thì phạm tội về) lời nói khinh miệt. Tuy nhiên, đối với Tỳ khưu (vu khống) Tỳ-khưu-ni, không có lời nói (quy định tội) Tác Ác; (chỉ) có lời nói (quy định tội) Ưng Đối Trị do cố ý nói dối; do đó, (phạm tội) Ưng Đối Trị là hợp lý.

Tatra pana idaṃ upaparikkhitabbaṃ – ‘‘anuddhaṃsanādhippāye asati pācittiyaṃ, tasmiṃ sati kena bhavitabba’’nti? Tatra yasmā musā bhaṇantassa pācittiye siddhepi amūlakena saṅghādisesena anuddhaṃsane visuṃ pācittiyaṃ vuttaṃ, tasmā anuddhaṃsanādhippāye sati sampajānamusāvāde pācittiyassa okāso na dissati, na ca sakkā anuddhaṃsentassa anāpattiyā bhavitunti purimanayovettha parisuddhataro khāyati. Tathā bhikkhunī bhikkhuniṃ amūlakena antimavatthunā anuddhaṃseti saṅghādiseso, bhikkhuṃ anuddhaṃseti dukkaṭaṃ, tatra saṅghādiseso vuṭṭhānagāmī dukkaṭaṃ, desanāgāmī etehi nāsanā natthi. Yasmā pana sā pakatiyāva dussīlā pāpabhikkhunī idāni ca sayameva ‘‘dussīlāmhī’’ti vadati tasmā naṃ bhagavā asuddhattāyeva nāsesīti.
Tuy nhiên, ở đó, điều này cần được tìm hiểu: “Khi không có chủ ý vu khống, (phạm tội) Ưng Đối Trị; khi có (chủ ý) ấy, nên (phạm tội) gì?” Ở đó, vì dù đã xác định tội Ưng Đối Trị cho người nói dối, (nhưng) lại có tội Ưng Đối Trị riêng biệt được nói đến cho việc vu khống (người khác) bằng tội Tăng Tàn không có căn cứ. Do đó, khi có chủ ý vu khống, không thấy có cơ hội (để phạm tội) Ưng Đối Trị do cố ý nói dối; và không thể nào người vu khống lại không phạm tội; vì vậy, phương pháp trước ở đây có vẻ trong sạch hơn. Cũng vậy, Tỳ-khưu-ni vu khống Tỳ khưu bằng tội bất cộng trụ không có căn cứ, (phạm tội) Tăng Tàn; (nếu) vu khống (Tỳ-khưu-ni khác), (phạm) tội Tác Ác. Ở đó, tội Tăng Tàn dẫn đến việc phục hồi, (còn) tội Tác Ác dẫn đến việc phát lồ; do những (tội) này, không có sự trục xuất. Tuy nhiên, vì cô ta vốn dĩ là người giới hạnh xấu xa, một Tỳ-khưu-ni xấu ác, và bây giờ lại tự mình nói: “Con là người giới hạnh xấu xa”, do đó, Đức Thế Tôn đã trục xuất cô ta chính vì sự không trong sạch ấy.

Athakho mettiyabhūmajakāti evaṃ ‘‘mettiyaṃ bhikkhuniṃ nāsetha, ime ca bhikkhū anuyuñjathā’’ti vatvā uṭṭhāyāsanā vihāraṃ paviṭṭhe bhagavati tehi bhikkhūhi ‘‘detha dāni imissā setakānī’’ti nāsiyamānaṃ taṃ bhikkhuniṃ disvā te bhikkhū taṃ mocetukāmatāya attano aparādhaṃ āvikariṃsu, etamatthaṃ dassetuṃ ‘‘atha kho mettiyabhūmajakā’’tiādi vuttaṃ.
Bấy giờ, nhóm Mettiya-Bhummajaka: sau khi Đức Thế Tôn nói: “Hãy trục xuất Tỳ-khưu-ni Mettiyā, và hãy tra hỏi các Tỳ khưu này”, rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi và đi vào tịnh xá, thấy Tỳ-khưu-ni ấy đang bị các Tỳ khưu kia trục xuất (với lời nói): “Bây giờ hãy đưa y trắng cho vị này”, các Tỳ khưu ấy (nhóm Mettiya-Bhummajaka), vì muốn giải thoát cho cô ta, đã thú nhận lỗi của mình. Để chỉ rõ ý nghĩa này, (cụm từ) bắt đầu bằng “Bấy giờ, nhóm Mettiya-Bhummajaka” v.v… đã được nói.

385-6.Duṭṭho dosoti dūsito ceva dūsako ca. Uppanne hi dose puggalo tena dosena dūsito hoti pakatibhāvaṃ jahāpito, tasmā ‘‘duṭṭho’’ti vuccati. Parañca dūseti vināseti, tasmā ‘‘doso’’ti vuccati. Iti ‘‘duṭṭho doso’’ti ekassevetaṃ puggalassa ākāranānattena nidassanaṃ, tena vuttaṃ ‘‘duṭṭho dosoti dūsito ceva dūsako cā’’ti tattha saddalakkhaṇaṃ pariyesitabbaṃ. Yasmā pana so ‘‘duṭṭho doso’’ti saṅkhyaṃ gato paṭighasamaṅgīpuggalo kupitādibhāve ṭhitova hoti, tenassa padabhājane ‘‘kupito’’tiādi vuttaṃ. Tattha kupitoti kuppabhāvaṃ pakatito cavanabhāvaṃ patto. Anattamanoti na sakamano attano vase aṭṭhitacitto; apica pītisukhehi na attamano na attacittoti anattamano. Anabhiraddhoti na sukhito na vā pasāditoti anabhiraddho. Paṭighena āhataṃ cittamassāti āhatacitto. Cittathaddhabhāvacittakacavarasaṅkhātaṃ paṭighakhīlaṃ jātamassāti khilajāto. Appatītoti nappatīto pītisukhādīhi vajjito, na abhisaṭoti attho. Padabhājane pana yesaṃ dhammānaṃ vasena appatīto hoti, te dassetuṃ ‘‘tena ca kopenā’’tiādi vuttaṃ.
385-6. Sân hận xấu xa là (người) vừa bị làm cho ô uế, vừa là người làm ô uế. Vì khi sân hận khởi lên, người ấy bị sân hận đó làm cho ô uế, bị làm cho từ bỏ trạng thái tự nhiên; do đó, được gọi là “bị ô uế”. Và (người ấy) làm ô uế, làm hủy hoại người khác; do đó, được gọi là “sân hận”. Như vậy, “sân hận xấu xa” là sự biểu thị của cùng một người với nhiều phương diện khác nhau; do đó, đã được nói “Sân hận xấu xa là (người) vừa bị làm cho ô uế, vừa là người làm ô uế”; ở đó, đặc điểm ngữ pháp cần được tìm hiểu. Tuy nhiên, vì người có sân hận, được gọi là “sân hận xấu xa” ấy, chắc chắn ở trong trạng thái tức giận v.v…, do đó, trong phần phân tích từ của nó, đã được nói bắt đầu bằng “người tức giận“. Ở đó, người tức giận là người đã đạt đến trạng thái tức giận, trạng thái từ bỏ bản chất tự nhiên. Người không vui lòng là người không có tâm của mình, có tâm không ở trong sự kiểm soát của mình; hơn nữa, không vui lòng, không có tâm vui thích với hỷ và lạc, (nên gọi là) người không vui lòng. Người không hoan hỷ là người không vui sướng, hoặc không hài lòng, (nên gọi là) người không hoan hỷ. Người có tâm bị sân hận đánh bại là người có tâm bị tổn thương. Người có sự chai cứng của tâm, sự nhơ bẩn của tâm, gọi là cọc nhọn sân hận, đã phát sinh là người có tâm chai sạn. Người không hài lòng là người không hài lòng, không có hỷ và lạc v.v…; ý là không thích thú. Tuy nhiên, trong phần phân tích từ, để chỉ rõ các pháp mà do đó (người ấy) không hài lòng, đã được nói bắt đầu bằng “Và do sự tức giận ấy“.

Tattha tena ca kopenāti yena duṭṭhoti ca kupitoti ca vutto ubhayampi hetaṃ pakatibhāvaṃ jahāpanato ekākāraṃ hoti. Tena ca dosenāti yena ‘‘doso’’ti vutto. Imehi dvīhi saṅkhārakkhandhameva dasseti.
Ở đó, “Và do sự tức giận ấy”: (sự tức giận) mà do đó (người ấy) được gọi là “bị ô uế” và “người tức giận”, cả hai điều này, do làm từ bỏ trạng thái tự nhiên, đều có cùng một dạng. “Và do sân hận ấy”: (sân hận) mà do đó (người ấy) được gọi là “sân hận”. Bằng hai (từ) này, (Ngài) chỉ rõ chỉ hành uẩn.

Tāya ca anattamanatāyāti yāya ‘‘anattamano’’ti vutto. Tāya ca anabhiraddhiyāti yāya ‘‘anabhiraddho’’ti vutto. Imehi dvīhi vedanākkhandhaṃ dasseti.
“Và do sự không vui lòng ấy”: (sự không vui lòng) mà do đó (người ấy) được gọi là “người không vui lòng”. “Và do sự không hoan hỷ ấy”: (sự không hoan hỷ) mà do đó (người ấy) được gọi là “người không hoan hỷ”. Bằng hai (từ) này, (Ngài) chỉ rõ thọ uẩn.

Amūlakena pārājikenāti ettha nāssa mūlanti amūlakaṃ, taṃ panassa amūlakattaṃ yasmā codakavasena adhippetaṃ, na cuditakavasena. Tasmā tamatthaṃ dassetuṃ padabhājane ‘‘amūlakaṃ nāma adiṭṭhaṃ asutaṃ aparisaṅkita’’nti āha. Tena imaṃ dīpeti ‘‘yaṃ pārājikaṃ codakena cuditakamhi puggale neva diṭṭhaṃ na sutaṃ na parisaṅkitaṃ idaṃ etesaṃ dassanasavanaparisaṅkāsaṅkhātānaṃ mūlānaṃ abhāvato amūlakaṃ nāma, taṃ pana so āpanno vā hotu anāpanno vā etaṃ idha appamāṇanti.
Bằng (tội) bất cộng trụ không có căn cứ: ở đây, không có căn cứ của nó, (nên gọi là) không có căn cứ; tuy nhiên, tính chất không có căn cứ ấy của nó, vì được hiểu theo phương diện của người tố cáo, chứ không phải theo phương diện của người bị tố cáo. Do đó, để chỉ rõ ý nghĩa ấy, trong phần phân tích từ, (Ngài) đã nói: “Không có căn cứ là không thấy, không nghe, không nghi ngờ”. Bằng (lời) đó, (Ngài) muốn chỉ rõ điều này: “Tội bất cộng trụ nào mà người tố cáo không thấy, không nghe, không nghi ngờ nơi người bị tố cáo, tội này, do không có các căn cứ gọi là sự thấy, sự nghe, sự nghi ngờ ấy, nên gọi là không có căn cứ. Còn người ấy dù đã phạm hay chưa phạm tội đó, điều này ở đây không quan trọng”.

Tattha adiṭṭhaṃ nāma attano pasādacakkhunā vā dibbacakkhunā vā adiṭṭhaṃ. Asutaṃ nāma tatheva kenaci vuccamānaṃ na sutaṃ. Aparisaṅkitaṃ nāma cittena aparisaṅkitaṃ.
Ở đó, không thấy là không thấy bằng nhục nhãn hoặc thiên nhãn của mình. Không nghe là cũng như vậy, không nghe ai nói. Không nghi ngờ là không nghi ngờ bằng tâm.

‘‘Diṭṭhaṃ’’ nāma attanā vā parena vā pasādacakkhunā vā dibbacakkhunā vā diṭṭhaṃ. ‘‘Sutaṃ’’ nāma tatheva sutaṃ. ‘‘Parisaṅkita’’mpi attanā vā parena vā parisaṅkitaṃ. Tattha attanā diṭṭhaṃ diṭṭhameva, parehi diṭṭhaṃ attanā sutaṃ, parehi sutaṃ, parehi parisaṅkitanti idaṃ pana sabbampi attanā sutaṭṭhāneyeva tiṭṭhati.
“Thấy” là (việc) tự mình hoặc người khác thấy bằng nhục nhãn hoặc thiên nhãn. “Nghe” là cũng như vậy, (tự mình hoặc người khác) nghe. “Nghi ngờ” cũng là (việc) tự mình hoặc người khác nghi ngờ. Ở đó, (việc) tự mình thấy chính là thấy; (việc) người khác thấy (thì đối với mình) là tự mình nghe; (việc) người khác nghe, người khác nghi ngờ – tất cả những điều này đều nằm trong phạm vi tự mình nghe.

Parisaṅkitaṃ pana tividhaṃ – diṭṭhaparisaṅkitaṃ, sutaparisaṅkitaṃ, mutaparisaṅkitanti. Tattha diṭṭhaparisaṅkitaṃ nāma eko bhikkhu uccārapassāvakammena gāmasamīpe ekaṃ gumbaṃ paviṭṭho, aññatarāpi itthī kenacideva karaṇīyena taṃ gumbaṃ pavisitvā nivattā, nāpi bhikkhu itthiṃ addasa; na itthī bhikkhuṃ, adisvāva ubhopi yathāruciṃ pakkantā, aññataro bhikkhu ubhinnaṃ tato nikkhamanaṃ sallakkhetvā ‘‘addhā imesaṃ kataṃ vā karissanti vā’’ti parisaṅkati, idaṃ diṭṭhaparisaṅkitaṃ nāma.
Còn sự nghi ngờ có ba loại: nghi ngờ do thấy, nghi ngờ do nghe, và nghi ngờ do suy luận. Ở đó, nghi ngờ do thấy là: một vị Tỳ khưu đi vào một bụi cây gần làng để đại tiểu tiện; một người nữ nào đó cũng đi vào bụi cây ấy vì một công việc nào đó rồi quay ra. Vị Tỳ khưu cũng không thấy người nữ; người nữ cũng không thấy vị Tỳ khưu; cả hai đều không thấy (nhau) rồi đi theo ý muốn của mình. Một vị Tỳ khưu khác nhận thấy cả hai người đi ra từ đó, rồi nghi ngờ rằng: “Chắc chắn họ đã làm hoặc sẽ làm (điều gì đó)”; đây gọi là nghi ngờ do thấy.

Sutaparisaṅkitaṃ nāma idhekacco andhakāre vā paṭicchanne vā okāse mātugāmena saddhiṃ bhikkhuno tādisaṃ paṭisanthāravacanaṃ suṇāti, samīpe aññaṃ vijjamānampi ‘‘atthi natthī’’ti na jānāti, so ‘‘addhā imesaṃ kataṃ vā karissanti vā’’ti parisaṅkati, idaṃ sutaparisaṅkitaṃ nāma.
Nghi ngờ do nghe là: ở đây, một người nào đó, trong bóng tối hoặc ở nơi kín đáo, nghe thấy lời nói chuyện thân mật tương tự như vậy của vị Tỳ khưu với người nữ. Dù có người khác ở gần đó, (người ấy) cũng không biết là “có hay không có”. Người ấy nghi ngờ rằng: “Chắc chắn họ đã làm hoặc sẽ làm (điều gì đó)”; đây gọi là nghi ngờ do nghe.

Mutaparisaṅkitaṃ nāma sambahulā dhuttā rattibhāge pupphagandhamaṃsasurādīni gahetvā itthīhi saddhiṃ ekaṃ paccantavihāraṃ gantvā maṇḍape vā bhojanasālādīsu vā yathāsukhaṃ kīḷitvā pupphādīni vikiritvā gatā, punadivase bhikkhū taṃ vippakāraṃ disvā ‘‘kassidaṃ kamma’’nti vicinanti. Tatra ca kenaci bhikkhunā pageva vuṭṭhahitvā vattasīsena maṇḍapaṃ vā bhojanasālaṃ vā paṭijaggantena pupphādīni āmaṭṭhāni honti, kenaci upaṭṭhākakulato ābhatehi pupphādīhi pūjā katā hoti, kenaci bhesajjatthaṃ ariṭṭhaṃ pītaṃ hoti, atha te ‘‘kassidaṃ kamma’’nti vicinantā bhikkhū tesaṃ hatthagandhañca mukhagandhañca ghāyitvā te bhikkhū parisaṅkanti, idaṃ mutaparisaṅkitaṃ nāma.
Nghi ngờ do suy luận là: nhiều kẻ chơi bời, vào ban đêm, mang theo hoa, hương, thịt, rượu v.v…, cùng với những người nữ đi đến một tu viện ở biên địa, rồi vui đùa tùy thích trong đài hoặc nhà ăn v.v…, rồi vương vãi hoa v.v… mà bỏ đi. Ngày hôm sau, các Tỳ khưu thấy hành vi không tốt đó, bèn tìm hiểu: “Đây là việc làm của ai?” Và ở đó, một vị Tỳ khưu nào đó, dậy từ sớm, trong khi chăm sóc đài hoặc nhà ăn theo bổn phận, đã chạm vào hoa v.v… Một vị nào đó đã cúng dường bằng hoa v.v… do gia đình thí chủ mang đến; một vị nào đó đã uống rượu thuốc để chữa bệnh. Bấy giờ, các Tỳ khưu đang tìm hiểu “Đây là việc làm của ai?”, sau khi ngửi mùi ở tay và mùi ở miệng của các vị Tỳ khưu ấy, bèn nghi ngờ các vị Tỳ khưu đó; đây gọi là nghi ngờ do suy luận.

Tattha diṭṭhaṃ atthi samūlakaṃ, atthi amūlakaṃ; diṭṭhameva atthi saññāsamūlakaṃ, atthi saññāamūlakaṃ. Esa nayo sutepi. Parisaṅkite pana diṭṭhaparisaṅkitaṃ atthi samūlakaṃ, atthi amūlakaṃ; diṭṭhaparisaṅkitameva atthi saññāsamūlakaṃ , atthi saññāamūlakaṃ. Esa nayo sutamutaparisaṅkitesu. Tattha diṭṭhaṃ samūlakaṃ nāma pārājikaṃ āpajjantaṃ disvāva ‘‘diṭṭho mayā’’ti vadati, amūlakaṃ nāma paṭicchannokāsato nikkhamantaṃ disvā vītikkamaṃ adisvā ‘‘diṭṭho mayā’’ti vadati. Diṭṭhameva saññāsamūlakaṃ nāma disvāva diṭṭhasaññī hutvā codeti, saññāamūlakaṃ nāma pubbe pārājikavītikkamaṃ disvā pacchā adiṭṭhasaññī jāto, so saññāya amūlakaṃ katvā ‘‘diṭṭho mayā’’ti codeti. Etena nayena sutamutaparisaṅkitānipi vitthārato veditabbāni. Ettha ca sabbappakāreṇāpi samūlakena vā saññāsamūlakena vā codentassa anāpatti, amūlakena vā pana saññāamūlakena vā codentasseva āpatti.
Ở đó, (việc) thấy có (trường hợp) có căn cứ, có (trường hợp) không có căn cứ. Chính (việc) thấy có (trường hợp) có căn cứ do nhận thức, có (trường hợp) không có căn cứ do nhận thức. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho (việc) nghe. Còn trong (việc) nghi ngờ: nghi ngờ do thấy có (trường hợp) có căn cứ, có (trường hợp) không có căn cứ. Chính nghi ngờ do thấy có (trường hợp) có căn cứ do nhận thức, có (trường hợp) không có căn cứ do nhận thức. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho (việc) nghi ngờ do nghe và nghi ngờ do suy luận. Và ở đây, trong mọi trường hợp, đối với người tố cáo có căn cứ hoặc có căn cứ do nhận thức, không phạm tội. Tuy nhiên, chỉ đối với người tố cáo không có căn cứ hoặc không có căn cứ do nhận thức, mới phạm tội.

Anuddhaṃseyyāti dhaṃseyya padhaṃseyya abhibhaveyya ajjhotthareyya. Taṃ pana anuddhaṃsanaṃ yasmā attanā codentopi parena codāpentopi karotiyeva, tasmāssa padabhājane ‘‘codeti vā codāpeti vā’’ti vuttaṃ.
Nên vu khống nghĩa là nên làm hại, nên làm tổn hại nặng nề, nên chế ngự, nên áp đảo. Tuy nhiên, việc vu khống ấy, vì người tự mình tố cáo hoặc người nhờ người khác tố cáo cũng đều thực hiện. Do đó, trong phần phân tích từ của nó, đã được nói là: “Tự mình tố cáo hoặc nhờ người khác tố cáo”.

Tattha codetīti ‘‘pārājikaṃ dhammaṃ āpannosī’’tiādīhi vacanehi sayaṃ codeti, tassa vācāya vācāya saṅghādiseso. Codāpetīti attanā samīpe ṭhatvā aññaṃ bhikkhu āṇāpeti, so tassa vacanena taṃ codeti, codāpakasseva vācāya vācāya saṅghādiseso. Atha sopi ‘‘mayā diṭṭhaṃ sutaṃ atthī’’ti codeti, dvinnampi janānaṃ vācāya vācāya saṅghādiseso.
Ở đó, “Tự mình tố cáo” nghĩa là tự mình tố cáo bằng những lời như “Ngươi đã phạm tội bất cộng trụ” v.v…; đối với mỗi lời nói của vị ấy, (phạm tội) Tăng Tàn. “Nhờ người khác tố cáo” nghĩa là tự mình đứng gần rồi sai bảo một vị Tỳ khưu khác; vị ấy dùng lời nói của mình tố cáo người kia; đối với mỗi lời nói của chính người nhờ tố cáo, (phạm tội) Tăng Tàn. Nếu vị kia cũng tố cáo (nói rằng): “Có điều tôi đã thấy, đã nghe”, thì đối với mỗi lời nói của cả hai người, (phạm tội) Tăng Tàn.

Codanāppabhedakosallatthaṃ panettha ekavatthuekacodakādicatukkaṃ tāva veditabbaṃ. Tattha eko bhikkhu ekaṃ bhikkhuṃ ekena vatthunā codeti, imissā codanāya ekaṃ vatthu eko codako. Sambahulā ekaṃ ekavatthunā codenti, pañcasatā mettiyabhūmajakappamukhā chabbaggiyā bhikkhū āyasmantaṃ dabbaṃ mallaputtamiva, imissā codanāya ekaṃ vatthu nānācodakā. Eko bhikkhu ekaṃ bhikkhuṃ sambahulehi vatthūhi codeti, imissā codanāya nānāvatthūni eko codako. Sambahulā sambahule sambahulehi vatthūhi codenti, imissā codanāya nānāvatthūni nānācodakā.
Tuy nhiên, để có sự khéo léo trong việc phân loại sự tố cáo, trước hết cần hiểu nhóm bốn (trường hợp) như một đối tượng, một người tố cáo v.v… Ở đó, một vị Tỳ khưu tố cáo một vị Tỳ khưu về một sự việc; trong sự tố cáo này, (có) một đối tượng (bị tố cáo), một người tố cáo. Nhiều người tố cáo một người về một sự việc, giống như năm trăm vị Tỳ khưu nhóm sáu vị (Chabbaggiyā) do nhóm Mettiya-Bhummajaka đứng đầu (tố cáo) Tôn giả Dabba Mallaputta; trong sự tố cáo này, (có) một đối tượng (bị tố cáo), nhiều người tố cáo. Một vị Tỳ khưu tố cáo một vị Tỳ khưu về nhiều sự việc; trong sự tố cáo này, (có) nhiều đối tượng (sự việc), một người tố cáo. Nhiều người tố cáo nhiều người về nhiều sự việc; trong sự tố cáo này, (có) nhiều đối tượng (sự việc), nhiều người tố cáo.

Codetuṃ pana ko labhati, ko na labhatīti? Dubbalacodakavacanaṃ tāva gahetvā koci na labhati. Dubbalacodako nāma sambahulesu kathāsallāpena nisinnesu eko ekaṃ ārabbha anodissakaṃ katvā pārājikavatthuṃ katheti, añño taṃ sutvā itarassa gantvā āroceti. So taṃ upasaṅkamitvā ‘‘tvaṃ kira maṃ idañcidañca vadasī’’ti vadati. So ‘‘nāhaṃ evarūpaṃ jānāmi, kathāpavattiyaṃ pana mayā anodissakaṃ katvā vuttamatthi, sace ahaṃ tava imaṃ dukkhuppattiṃ jāneyyaṃ, ettakampi na katheyya’’nti ayaṃ dubbalacodako. Tassetaṃ kathāsallāpaṃ gahetvā taṃ bhikkhuṃ koci codetuṃ na labhati. Etaṃ pana aggahetvā sīlasampanno bhikkhu bhikkhuṃ vā bhikkhuniṃ vā sīlasampannā ca bhikkhunī bhikkhunīmeva codetuṃ labhatīti mahāpadumatthero āha. Mahāsumatthero pana ‘‘pañcapi sahadhammikā labhantī’’ti āha. Godattatthero pana ‘‘na koci na labhatī’’ti vatvā ‘‘bhikkhussa sutvā codeti, bhikkhuniyā sutvā codeti…pe… titthiyasāvakānaṃ sutvā codetī’’ti idaṃ suttamāhari. Tiṇṇampi therānaṃ vāde cuditakasseva paṭiññāya kāretabbo.
Vậy thì, ai được phép tố cáo, ai không được phép? Trước hết, không ai được phép (tố cáo) dựa trên lời nói của người tố cáo yếu kém. Người tố cáo yếu kém là người mà: trong khi nhiều người đang ngồi nói chuyện, một người nhắm đến một người (khác) rồi nói về một sự việc bất cộng trụ mà không chỉ đích danh; người khác nghe vậy rồi đi thông báo cho người kia. Người ấy (người bị nói đến) đến gần người đó (người nói ban đầu) rồi nói: “Có phải ông đã nói về tôi điều này điều nọ không?”. Người đó (đáp): “Tôi không biết (việc) như vậy; tuy nhiên, trong lúc nói chuyện, tôi có nói mà không chỉ đích danh; nếu tôi biết điều này gây khổ cho ông, tôi đã không nói dù chỉ chừng đó”; đây là người tố cáo yếu kém. Không ai được phép dựa trên cuộc nói chuyện ấy của người đó để tố cáo vị Tỳ khưu kia. Tuy nhiên, không dựa vào điều đó, ngài Mahāpadumatthera nói rằng: “Vị Tỳ khưu có giới hạnh được phép tố cáo vị Tỳ khưu hoặc Tỳ-khưu-ni; và vị Tỳ-khưu-ni có giới hạnh chỉ được phép tố cáo vị Tỳ-khưu-ni”. Còn ngài Mahāsumatthera nói rằng: “Cả năm (loại) người đồng pháp đều được phép (tố cáo)”. Còn ngài Godattatthera, sau khi nói “Không ai là không được phép (tố cáo)”, đã dẫn kinh này: “Nghe từ Tỳ khưu rồi tố cáo, nghe từ Tỳ-khưu-ni rồi tố cáo… cho đến… nghe từ đệ tử ngoại đạo rồi tố cáo”. Trong quan điểm của cả ba vị Trưởng lão, (việc xử phạt) phải được thực hiện chỉ sau khi người bị tố cáo đã thú nhận.

Ayaṃ pana codanā nāma dūtaṃ vā paṇṇaṃ vā sāsanaṃ vā pesetvā codentassa sīsaṃ na eti, puggalassa pana samīpe ṭhatvāva hatthamuddāya vā vacībhedena vā codentasseva sīsaṃ eti. Sikkhāpaccakkhānameva hi hatthamuddāya sīsaṃ na eti, idaṃ pana anuddhaṃsanaṃ abhūtārocanañca etiyeva. Yo pana dvinnaṃ ṭhitaṭṭhāne ekaṃ niyametvā codeti, so ce jānāti, sīsaṃ eti. Itaro jānāti, sīsaṃ na eti. Dvepi niyametvā codeti, eko vā jānātu dve vā, sīsaṃ etiyeva. Esava nayo sambahulesu. Taṅkhaṇeyeva ca jānanaṃ nāma dukkaraṃ, samayena āvajjitvā ñāte pana ñātameva hoti. Pacchā ce jānāti, sīsaṃ na eti. Sikkhāpaccakkhānaṃ abhūtārocanaṃ duṭṭhullavācā-attakāma-duṭṭhadosabhūtārocanasikkhāpadānīti sabbāneva hi imāni ekaparicchedāni.
Tuy nhiên, sự tố cáo này, đối với người tố cáo bằng cách gửi sứ giả, hoặc thư, hoặc thông điệp, thì không đến mức (phạm tội); chỉ đối với người đứng gần người (bị tố cáo) rồi tố cáo bằng dấu hiệu tay hoặc bằng lời nói, mới đến mức (phạm tội). Vì chỉ có việc từ bỏ điều học là không đến mức (phạm tội) do (làm bằng) dấu hiệu tay; còn việc vu khống và việc trình bày điều không thật này thì (vẫn) đến mức (phạm tội, dù bằng dấu hiệu tay). Còn người nào, tại nơi có hai người đang đứng, chỉ định một người rồi tố cáo, nếu người ấy (người bị chỉ định) biết, thì đến mức (phạm tội). (Nếu) người kia biết (mà người bị chỉ định không biết), thì không đến mức (phạm tội). (Nếu) chỉ định cả hai người rồi tố cáo, dù một người biết hay cả hai người biết, cũng đều đến mức (phạm tội). Phương pháp này cũng (áp dụng) đối với nhiều người. Và việc biết ngay trong khoảnh khắc ấy thì khó; tuy nhiên, khi đã hướng tâm rồi biết theo thời gian, thì chính là đã biết. Nếu biết sau đó, thì không đến mức (phạm tội). Việc từ bỏ điều học, việc trình bày điều không thật, các điều học về lời nói thô tục, việc phục vụ lợi ích cá nhân, (và) việc trình bày lỗi sân hận – tất cả những điều này đều có cùng một giới hạn (về việc đối tượng phải hiểu).

Evaṃ kāyavācāvasena cāyaṃ duvidhāpi codanā. Puna diṭṭhacodanā, sutacodanā, parisaṅkitacodanāti tividhā hoti. Aparāpi catubbidhā hoti – sīlavipatticodanā, ācāravipatticodanā, diṭṭhivipatticodanā, ājīvavipatticodanāti. Tattha garukānaṃ dvinnaṃ āpattikkhandhānaṃ vasena sīlavipatticodanā veditabbā. Avasesānaṃ vasena ācāravipatticodanā, micchādiṭṭhiantaggāhikadiṭṭhivasena diṭṭhivipatticodanā, ājīvahetu paññattānaṃ channaṃ sikkhāpadānaṃ vasena ājīvavipatticodanā veditabbā.
Như vậy, sự tố cáo này cũng có hai loại dựa trên thân và lời nói. Lại nữa, có ba loại: tố cáo do thấy, tố cáo do nghe, và tố cáo do nghi ngờ. Cũng có bốn loại khác: tố cáo về sự hư hỏng giới hạnh, tố cáo về sự hư hỏng oai nghi, tố cáo về sự hư hỏng kiến chấp, và tố cáo về sự hư hỏng sinh kế. Ở đó, tố cáo về sự hư hỏng giới hạnh cần được hiểu dựa trên hai nhóm tội nặng. Tố cáo về sự hư hỏng oai nghi (cần được hiểu) dựa trên các (nhóm tội) còn lại. Tố cáo về sự hư hỏng kiến chấp (cần được hiểu) dựa trên tà kiến và biên kiến. Tố cáo về sự hư hỏng sinh kế cần được hiểu dựa trên sáu điều học được chế định vì lý do sinh kế.

Aparāpi catubbidhā hoti – vatthusandassanā, āpattisandassanā, saṃvāsapaṭikkhepo, sāmīcipaṭikkhepoti. Tattha vatthusandassanā nāma ‘‘tvaṃ methunaṃ dhammaṃ paṭisevittha, adinnaṃ ādiyittha, manussaṃ ghātayittha, abhūtaṃ ārocayitthā’’ti evaṃ pavattā. Āpattisandassanā nāma ‘‘tvaṃ methunadhammapārājikāpattiṃ āpanno’’ti evamādinayappavattā. Saṃvāsapaṭikkhepo nāma ‘‘natthi tayā saddhiṃ uposatho vā pavāraṇā vā saṅghakammaṃ vā’’ti evaṃ pavattā; ettāvatā pana sīsaṃ na eti, ‘‘assamaṇosi asakyaputtiyosī’’tiādivacanehi saddhiṃ ghaṭiteyeva sīsaṃ eti. Sāmīcipaṭikkhepo nāma abhivādana-paccuṭṭhāna-añjalikamma-bījanādikammānaṃ akaraṇaṃ. Taṃ paṭipāṭiyā vandanādīni karoto ekassa akatvā sesānaṃ karaṇakāle veditabbaṃ. Ettāvatā ca codanā nāma hoti, āpatti pana sīsaṃ na eti. ‘‘Kasmā mama vandanādīni na karosī’’ti pucchite pana ‘‘assamaṇosi asakyaputtiyosī’’tiādivacanehi saddhiṃ ghaṭiteyeva sīsaṃ eti. Yāgubhattādinā pana yaṃ icchati taṃ āpucchati, na tāvatā codanā hoti.
Cũng có bốn loại khác: sự trình bày sự việc, sự trình bày tội, sự từ chối chung sống, và sự từ chối các hành vi kính trọng. Ở đó, sự trình bày sự việc là (lời nói) diễn tiến như: “Ngươi đã thực hành hành vi giao hợp, đã lấy của không cho, đã giết người, đã trình bày điều không thật”. Sự trình bày tội là (lời nói) diễn tiến theo cách như: “Ngươi đã phạm tội bất cộng trụ về hành vi giao hợp”. Sự từ chối chung sống là (lời nói) diễn tiến như: “Không có việc Bố-tát, hoặc Tự tứ, hoặc hành sự của Tăng chúng cùng với ngươi”. Tuy nhiên, chỉ chừng đó chưa đến mức (phạm tội); chỉ khi gắn liền với những lời như “Ngươi không phải Sa-môn, ngươi không phải là con của dòng họ Thích Ca”, mới đến mức (phạm tội). Sự từ chối các hành vi kính trọng là việc không làm các hành vi đảnh lễ, đứng dậy (chào đón), chắp tay, quạt hầu v.v… Điều đó cần được hiểu vào lúc (một người) thực hiện các hành vi đảnh lễ v.v… theo thứ tự, (nhưng) không làm đối với một người mà làm đối với những người còn lại. Chừng đó cũng gọi là sự tố cáo, nhưng tội thì chưa đến mức. Tuy nhiên, khi được hỏi: “Tại sao ngươi không làm các hành vi đảnh lễ v.v… đối với ta?”, chỉ khi gắn liền với những lời như “Ngươi không phải Sa-môn, ngươi không phải là con của dòng họ Thích Ca”, mới đến mức (phạm tội). Còn (việc) hỏi xin cháo, cơm v.v… mà mình muốn, chừng đó không phải là sự tố cáo.

Aparāpi pātimokkhaṭṭhapanakkhandhake ‘‘ekaṃ, bhikkhave, adhammikaṃ pātimokkhaṭṭhapanaṃ ekaṃ dhammika’’nti ādiṃ ‘‘katvā yāva dasa adhammikāni pātimokkhaṭṭhapanāni dasa dhammikānī’’ti (cūḷava. 387) evaṃ adhammikā pañcapaññāsa dhammikā pañcapaññāsāti dasuttarasataṃ codanā vuttā. Tā diṭṭhena codentassa dasuttarasataṃ, sutena codentassa dasuttarasataṃ, parisaṅkitena codentassa dasuttarasatanti tiṃsāni tīṇi satāni honti. Tāni kāyena codentassa, vācāya codentassa, kāyavācāhi codentassāti tiguṇāni katāni navutāni nava satāni honti. Tāni attanā codentassāpi parena codāpentassāpi tattakānevāti vīsatiūnāni dve sahassāni honti, puna diṭṭhādibhede samūlakāmūlakavasena anekasahassā codanā hontīti veditabbā.
Cũng có (những loại tố cáo) khác: trong Chương về việc đình chỉ Pātimokkha, một trăm mười (trường hợp) tố cáo đã được nói đến, bắt đầu bằng “Này các Tỳ khưu, một là việc đình chỉ Pātimokkha phi pháp, một là (việc đình chỉ) hợp pháp”, cho đến “Mười là việc đình chỉ Pātimokkha phi pháp, mười là (việc đình chỉ) hợp pháp” (cūḷava. 387); như vậy, (có) năm mươi lăm (trường hợp) phi pháp, năm mươi lăm (trường hợp) hợp pháp. Những (trường hợp tố cáo) ấy, đối với người tố cáo do thấy, (có) một trăm mười; đối với người tố cáo do nghe, (có) một trăm mười; đối với người tố cáo do nghi ngờ, (có) một trăm mười; (tổng cộng) là ba trăm ba mươi. Những (trường hợp) ấy, đối với người tố cáo bằng thân, người tố cáo bằng lời nói, (và) người tố cáo bằng thân và lời nói, nhân ba lên, thành chín trăm chín mươi. Những (trường hợp) ấy, dù là người tự mình tố cáo hay người nhờ người khác tố cáo, cũng có chừng ấy (trường hợp); (tổng cộng) là một ngàn chín trăm tám mươi. Lại nữa, cần hiểu rằng có nhiều ngàn (trường hợp) tố cáo dựa trên sự phân loại có căn cứ, không có căn cứ trong các (trường hợp) thấy v.v…

Imasmiṃ pana ṭhāne ṭhatvā aṭṭhakathāya ‘‘attādānaṃ ādātukāmena upāli bhikkhunā pañcaṅgasamannāgataṃ attādānaṃ ādātabba’’nti (cūḷava. 398) ca ‘‘codakena upāli bhikkhunā paraṃ codetukāmena pañca dhamme ajjhattaṃ paccavekkhitvā paro codetabbo’’ti (cūḷava. 399) ca evaṃ upālipañcakādīsu vuttāni bahūni suttāni āharitvā attādānalakkhaṇañca codakavattañca cuditakavattañca saṅghena kātabbakiccañca anuvijjakavattañca sabbaṃ vitthārena kathitaṃ, taṃ mayaṃ yathāāgataṭṭhāneyeva vaṇṇayissāma.
Tuy nhiên, đứng ở chỗ này, trong Chú giải, (đã trích dẫn) nhiều kinh được nói trong (các phần) như Năm Pháp của Upāli (Xem tại: https://panha.vn/?p=3859) v.v…, (ví dụ) “Này Upāli, vị Tỳ khưu muốn tự mình nhận lấy (việc giải quyết tranh chấp) phải tự mình nhận lấy (việc giải quyết tranh chấp) với đầy đủ năm yếu tố” (cūḷava. 398), và “Này Upāli, vị Tỳ khưu tố cáo, muốn tố cáo người khác, phải xem xét năm pháp trong nội tâm rồi mới tố cáo người khác” (cūḷava. 399), như vậy, sau khi trích dẫn nhiều kinh, đặc điểm của việc tự mình nhận lấy (việc giải quyết), bổn phận của người tố cáo, bổn phận của người bị tố cáo, phận sự Tăng chúng phải làm, và bổn phận của người điều tra, tất cả đều đã được nói một cách chi tiết. Điều đó, chúng tôi sẽ giải thích ở chính nơi nó xuất hiện.

Vuttappabhedāsu pana imāsu codanāsu yāya kāyaci codanāya vasena saṅghamajjhe osaṭe vatthusmiṃ cuditakacodakā vattabbā ‘‘tumhe amhākaṃ vinicchayena tuṭṭhā bhavissathā’’ti. Sace ‘‘bhavissāmā’’ti vadanti, saṅghena taṃ adhikaraṇaṃ sampaṭicchitabbaṃ. Atha pana ‘‘vinicchinatha tāva, bhante, sace amhākaṃ khamissati, gaṇhissāmā’’ti vadanti. ‘‘Cetiyaṃ tāva vandathā’’tiādīni vatvā dīghasuttaṃ katvā vissajjitabbaṃ. Te ce cirarattaṃ kilantā pakkantaparisā upacchinnapakkhā hutvā puna yācanti, yāvatatiyaṃ paṭikkhipitvā yadā nimmadā honti tadā nesaṃ adhikaraṇaṃ vinicchinitabbaṃ. Vinicchinantehi ca sace alajjussannā hoti, parisā ubbāhikāya taṃ adhikaraṇaṃ vinicchinitabbaṃ. Sace bālussannā hoti parisā ‘‘tumhākaṃ sabhāge vinayadhare pariyesathā’’ti vinayadhare pariyesāpetvā yena dhammena yena vinayena yena satthusāsanena taṃ adhikaraṇaṃ vūpasamati, tathā taṃ adhikaraṇaṃ vūpasametabbaṃ.
Tuy nhiên, trong các loại tố cáo đã nói này, đối với sự việc được đưa ra giữa Tăng chúng dựa trên bất kỳ sự tố cáo nào, người bị tố cáo và người tố cáo cần được hỏi: “Các vị có hài lòng với sự quyết đoán của chúng tôi không?”. Nếu họ nói “Chúng tôi sẽ (hài lòng)”, Tăng chúng nên chấp nhận vụ tranh chấp đó. Còn nếu họ nói: “Thưa các Đại đức, trước hết xin hãy quyết đoán; nếu chúng tôi chấp nhận được, chúng tôi sẽ nhận”. (Tăng chúng) nên nói (những lời) như “Trước hết, hãy đảnh lễ bảo tháp” v.v…, rồi kéo dài thời gian và cho giải tán. Nếu họ, sau một thời gian dài mệt mỏi, khi hội chúng đã giải tán, khi phe nhóm đã tan rã, lại yêu cầu nữa, (Tăng chúng) nên từ chối đến lần thứ ba; khi họ đã hết kiêu mạn, khi đó vụ tranh chấp của họ nên được quyết đoán. Và khi đang quyết đoán, nếu hội chúng có nhiều người vô liêm sỉ, vụ tranh chấp đó nên được quyết đoán bằng (phương pháp) biểu quyết kín. Nếu hội chúng có nhiều người ngu dốt, (nên nói) “Các vị hãy tìm kiếm những vị Trì Luật tương đồng với các vị”, rồi sau khi nhờ tìm kiếm những vị Trì Luật, vụ tranh chấp đó lắng dịu bằng Pháp nào, bằng Luật nào, bằng lời dạy của Bậc Đạo Sư nào, vụ tranh chấp đó nên được làm cho lắng dịu như vậy.

Tattha ca ‘‘dhammo’’ti bhūtaṃ vatthu. ‘‘Vinayo’’ti codanā sāraṇā ca. ‘‘Satthusāsana’’nti ñattisampadā ca anusāvanasampadā ca. Tasmā codakena vatthusmiṃ ārocite cuditako pucchitabbo ‘‘santametaṃ, no’’ti. Evaṃ vatthuṃ upaparikkhitvā bhūtena vatthunā codetvā sāretvā ca ñattisampadāya anusāvanasampadāya ca taṃ adhikaraṇaṃ vūpasametabbaṃ. Tatra ce alajjī lajjiṃ codeti, so ca alajjī bālo hoti abyatto nāssa nayo dātabbo. Evaṃ pana vattabbo – ‘‘kimhi naṃ codesī’’ti? Addhā so vakkhati – ‘‘kimidaṃ, bhante, kimhi naṃ nāmā’’ti. Tvaṃ kimhi nampi na jānāsi, na yuttaṃ tayā evarūpena bālena paraṃ codetunti uyyojetabbo nāssa anuyogo dātabbo. Sace pana so alajjī paṇḍito hoti byatto diṭṭhena vā sutena vā ajjhottharitvā sampādetuṃ sakkoti etassa anuyogaṃ datvā lajjisseva paṭiññāya kammaṃ kātabbaṃ.
Và ở đó, “Pháp” là sự việc có thật. “Luật” là sự tố cáo và sự nhắc nhở. “Lời dạy của Bậc Đạo Sư” là sự đầy đủ của Tăng sự và sự đầy đủ của tuyên cáo. Do đó, khi sự việc được người tố cáo trình bày, người bị tố cáo cần được hỏi: “Điều này có thật không?”. Như vậy, sau khi tìm hiểu sự việc, rồi tố cáo, nhắc nhở bằng sự việc có thật, vụ tranh chấp đó nên được làm cho lắng dịu bằng sự đầy đủ của Tăng sự và sự đầy đủ của tuyên cáo. Ở đó, nếu người vô liêm sỉ tố cáo người có lòng hổ thẹn, và người vô liêm sỉ ấy ngu dốt, không khôn khéo, thì không nên cho (anh ta) phương pháp (tố cáo). Mà nên được hỏi như vầy: “Ngươi tố cáo người ấy về việc gì?”. Chắc chắn anh ta sẽ nói: “Thưa Đại đức, đây là gì? Gọi là về việc gì?”. (Nên nói): “Ngươi ngay cả việc gì cũng không biết, không thích hợp để một người ngu dốt như ngươi tố cáo người khác”; (anh ta) nên bị đuổi đi, không nên cho (anh ta) sự điều tra. Tuy nhiên, nếu người vô liêm sỉ ấy thông thái, khôn khéo, có thể áp đảo và hoàn thành (việc tố cáo) bằng điều đã thấy hoặc đã nghe, thì sau khi cho (anh ta) sự điều tra, hành sự nên được thực hiện chỉ sau khi người có lòng hổ thẹn đã thú nhận.

Sace lajjī alajjiṃ codeti, so ca lajjī bālo hoti abyatto, na sakkoti anuyogaṃ dātuṃ. Tassa nayo dātabbo – ‘‘kimhi naṃ codesi sīlavipattiyā vā ācāravipattiādīsu vā ekissā’’ti. Kasmā pana imasseva evaṃ nayo dātabbo, na itarassa? Nanu na yuttaṃ vinayadharānaṃ agatigamananti? Na yuttameva. Idaṃ pana agatigamanaṃ na hoti, dhammānuggaho nāma eso alajjiniggahatthāya hi lajjipaggahatthāya ca sikkhāpadaṃ paññattaṃ. Tatra alajjī nayaṃ labhitvā ajjhottharanto ehīti, lajjī pana nayaṃ labhitvā diṭṭhe diṭṭhasantānena, sute sutasantānena patiṭṭhāya kathessati, tasmā tassa dhammānuggaho vaṭṭati. Sace pana so lajjī paṇḍito hoti byatto, patiṭṭhāya katheti, alajjī ca ‘‘etampi natthi, etampi natthī’’ti paṭiññaṃ na deti, alajjissa paṭiññāya eva kātabbaṃ.
Nếu người có lòng hổ thẹn tố cáo người vô liêm sỉ, và người có lòng hổ thẹn ấy ngu dốt, không khôn khéo, không có khả năng thực hiện sự điều tra. Phương pháp nên được cho người ấy: “Ngươi tố cáo người ấy về việc gì? Về sự hư hỏng giới hạnh, hay một trong các (sự hư hỏng) như sự hư hỏng oai nghi v.v…?”. Vậy tại sao chỉ nên cho phương pháp như vậy cho chính người này, mà không phải người kia? Chẳng phải sự thiên vị là không thích hợp đối với những vị Trì Luật sao? (Đáp:) Đúng là không thích hợp. Tuy nhiên, đây không phải là sự thiên vị; đây gọi là sự hỗ trợ Pháp; vì điều học được chế định để chế ngự người vô liêm sỉ và để nâng đỡ người có lòng hổ thẹn. Ở đó, người vô liêm sỉ, sau khi có được phương pháp, sẽ đến áp đảo (người khác); còn người có lòng hổ thẹn, sau khi có được phương pháp, sẽ nói dựa trên sự liên tục của điều đã thấy đối với điều đã thấy, (dựa trên) sự liên tục của điều đã nghe đối với điều đã nghe; do đó, sự hỗ trợ Pháp đối với người ấy là thích hợp. Tuy nhiên, nếu người có lòng hổ thẹn ấy thông thái, khôn khéo, nói một cách vững chắc, và người vô liêm sỉ không thú nhận (nói) “Điều này cũng không có, điều kia cũng không có”, thì (hành sự) phải được thực hiện chỉ dựa trên sự thú nhận của người vô liêm sỉ (nếu có, nếu không thì xử theo bằng chứng).

Tadatthadīpanatthañca idaṃ vatthu veditabbaṃ. Tepiṭakacūḷābhayatthero kira lohapāsādassa heṭṭhā bhikkhūnaṃ vinayaṃ kathetvā sāyanhasamaye vuṭṭhāti, tassa vuṭṭhānasamaye dve attapaccatthikā kathaṃ pavattesuṃ. Eko ‘‘etampi natthi, etampi natthī’’ti paṭiññaṃ na deti. Atha appāvasese paṭhamayāme therassa tasmiṃ puggale ‘‘ayaṃ patiṭṭhāya katheti, ayaṃ pana paṭiññaṃ na deti, bahūni ca vatthūni osaṭāni addhā etaṃ kataṃ bhavissatī’’ti asuddhaladdhi uppannā. Tato bījanīdaṇḍakena pādakathalikāya saññaṃ datvā ‘‘ahaṃ āvuso vinicchinituṃ ananucchaviko aññena vinicchināpehī’’ti āha. Kasmā bhanteti? Thero tamatthaṃ ārocesi, cuditakapuggalassa kāye ḍāho uṭṭhito, tato so theraṃ vanditvā ‘‘bhante, vinicchinituṃ anurūpena vinayadharena nāma tumhādiseneva bhavituṃ vaṭṭati. Codakena ca īdiseneva bhavituṃ vaṭṭatī’’ti vatvā setakāni nivāsetvā ‘‘ciraṃ kilamitattha mayā’’ti khamāpetvā pakkāmi.
Và để làm rõ ý nghĩa đó, câu chuyện này cần được biết: Tương truyền, ngài Trưởng lão Tepiṭaka Cūḷābhaya, sau khi thuyết giảng Luật cho các Tỳ khưu ở dưới Lohapāsāda, đứng dậy vào buổi chiều; vào lúc ngài đứng dậy, hai người đối nghịch nhau đã khởi xướng một cuộc nói chuyện (tranh cãi). Một người không thú nhận (nói): “Điều này cũng không có, điều kia cũng không có”. Bấy giờ, khi canh đầu sắp hết, đối với người ấy, chủ trương không trong sạch đã khởi lên trong tâm vị Trưởng lão (nghĩ rằng): “Người này nói một cách vững chắc, còn người kia thì không thú nhận; và nhiều sự việc đã được đưa ra, chắc chắn điều này đã được làm”. Sau đó, (ngài) dùng cán quạt ra hiệu với túi đựng đồ dưới chân rồi nói: “Này hiền giả, tôi không thích hợp để quyết đoán; hãy nhờ người khác quyết đoán”. (Người kia hỏi): “Tại sao, thưa Đại đức?”. Vị Trưởng lão trình bày lý do ấy; sự nóng bức khởi lên trong thân của người bị tố cáo. Sau đó, người ấy đảnh lễ vị Trưởng lão, nói rằng: “Thưa Đại đức, một vị Trì Luật thích hợp để quyết đoán phải là người như ngài. Và người tố cáo cũng phải là người như thế này”, rồi mặc y trắng, xin lỗi (nói): “Tôi đã làm các ngài mệt mỏi lâu rồi”, rồi bỏ đi.

Evaṃ lajjinā codiyamāno alajjī bahūsupi vatthūsu uppannesu paṭiññaṃ na deti, so neva ‘‘suddho’’ti vattabbo na ‘‘asuddho’’ti. Jīvamatako nāma āmakapūtiko nāma cesa.
Như vậy, người vô liêm sỉ, khi bị người có lòng hổ thẹn tố cáo, dù nhiều sự việc đã khởi lên, cũng không thú nhận. Người ấy không nên được nói là “trong sạch”, cũng không (nên được nói là) “không trong sạch”. Người này gọi là kẻ sống mà như chết, gọi là kẻ thối rữa như đồ sống.

Sace panassa aññampi tādisaṃ vatthuṃ uppajjati na vinicchinitabbaṃ . Tathā nāsitakova bhavissati. Sace pana alajjīyeva alajjiṃ codeti, so vattabbo ‘‘āvuso tava vacanenāyaṃ kiṃ sakkā vattu’’nti itarampi tatheva vatvā ubhopi ‘‘ekasambhogaparibhogā hutvā jīvathā’’ti vatvā uyyojetabbā, sīlatthāya tesaṃ vinicchayo na kātabbo. Pattacīvarapariveṇādiatthāya pana patirūpaṃ sakkhiṃ labhitvā kātabbo.
Tuy nhiên, nếu một sự việc tương tự như vậy khác nữa khởi lên đối với người ấy, không nên quyết đoán. (Người ấy) sẽ giống như người đã bị trục xuất vậy. Còn nếu chính người vô liêm sỉ tố cáo người vô liêm sỉ, người ấy nên được hỏi: “Này hiền giả, với lời nói của ngài, người này có thể nói gì được chứ?”; rồi cũng nói với người kia như vậy, rồi bảo cả hai (rằng): “Hãy sống chung hưởng thụ như nhau”, rồi cho giải tán. Không nên thực hiện sự quyết đoán đối với họ vì (mục đích duy trì) giới hạnh. Tuy nhiên, vì mục đích (phân chia) y bát, trú xứ v.v…, sau khi có được nhân chứng thích hợp, (việc quyết đoán) nên được thực hiện.

Atha lajjī lajjiṃ codeti, vivādo ca nesaṃ kismiñcideva appamattako hoti, saññāpetvā ‘‘mā evaṃ karothā’’ti accayaṃ desāpetvā uyyojetabbā. Atha panettha cuditakena sahasā viraddhaṃ hoti, ādito paṭṭhāya alajjī nāma natthi. So ca pakkhānurakkhaṇatthāya paṭiññaṃ na deti, ‘‘mayaṃ saddahāma, mayaṃ saddahāmā’’ti bahū uṭṭhahanti. So tesaṃ paṭiññāya ekavāraṃ dvevāraṃ suddho hotu. Atha pana viraddhakālato paṭṭhāya ṭhāne na tiṭṭhati, vinicchayo na dātabbo.
Nếu người có lòng hổ thẹn tố cáo người vô liêm sỉ, và người có lòng hổ thẹn ấy ngu dốt, không khôn khéo, không có khả năng thực hiện sự điều tra. Phương pháp nên được cho người ấy: “Ngươi tố cáo người ấy về việc gì? Về sự hư hỏng giới hạnh, hay một trong các (sự hư hỏng) như sự hư hỏng oai nghi v.v…?”. Vậy tại sao chỉ nên cho phương pháp như vậy cho chính người này, mà không phải người kia? Chẳng phải sự thiên vị là không thích hợp đối với những vị Trì Luật sao? (Đáp:) Đúng là không thích hợp. Tuy nhiên, đây không phải là sự thiên vị; đây gọi là sự hỗ trợ Pháp; vì điều học được chế định để chế ngự người vô liêm sỉ và để nâng đỡ người có lòng hổ thẹn. Ở đó, người vô liêm sỉ, sau khi có được phương pháp, sẽ đến áp đảo (người khác); còn người có lòng hổ thẹn, sau khi có được phương pháp, sẽ nói dựa trên sự liên tục của điều đã thấy đối với điều đã thấy, (dựa trên) sự liên tục của điều đã nghe đối với điều đã nghe; do đó, sự hỗ trợ Pháp đối với người ấy là thích hợp. Tuy nhiên, nếu người có lòng hổ thẹn ấy thông thái, khôn khéo, nói một cách vững chắc, và người vô liêm sỉ không thú nhận (nói) “Điều này cũng không có, điều kia cũng không có”, thì (hành sự) phải được thực hiện chỉ dựa trên sự thú nhận của người vô liêm sỉ (nếu có, nếu không thì xử theo bằng chứng).

Evaṃ yāya kāyaci codanāya vasena saṅghamajjhe osaṭe vatthusmiṃ cuditakacodakesu paṭipattiṃ ñatvā tassāyeva codanāya sampattivipattijānanatthaṃ ādimajjhapariyosānādīnaṃ vasena vinicchayo veditabbo. Seyyathidaṃ codanāya ko ādi, kiṃ majjhe, kiṃ pariyosānaṃ? Codanāya ‘‘ahaṃ taṃ vattukāmo, karotu me āyasmā okāsa’’nti evaṃ okāsakammaṃ ādi, otiṇṇena vatthunā codetvā sāretvā vinicchayo majjhe, āpattiyaṃ vā anāpattiyaṃ vā patiṭṭhāpanena samatho pariyosānaṃ.
Như vậy, đối với sự việc được đưa ra giữa Tăng chúng dựa trên bất kỳ sự tố cáo nào, sau khi biết cách xử sự của người bị tố cáo và người tố cáo, sự quyết đoán cần được hiểu dựa trên phần đầu, phần giữa, phần cuối v.v… để biết sự thành tựu hay không thành tựu của chính sự tố cáo ấy. Ví như: Phần đầu của sự tố cáo là gì, phần giữa là gì, phần cuối là gì? Phần đầu của sự tố cáo là hành vi xin cơ hội như: “Tôi muốn nói với ngài điều đó; xin Tôn giả hãy cho tôi cơ hội”. Sự quyết đoán sau khi tố cáo, nhắc nhở bằng sự việc đã vi phạm là phần giữa. Sự dàn xếp bằng cách xác định tội hoặc không phạm tội là phần cuối.

Codanāya kati mūlāni, kati vatthūni, kati bhūmiyo? Codanāya dve mūlāni – samūlikā vā amūlikā vā; tīṇi vatthūni – diṭṭhaṃ, sutaṃ, parisaṅkitaṃ; pañca bhūmiyo – kālena vakkhāmi no akālena, bhūtena vakkhāmi no abhūtena, saṇhena vakkhāmi no pharusena, atthasaṃhitena vakkhāmi no anatthasaṃhitena, mettacitto vakkhāmi no dosantaroti. Imāya ca pana codanāya codakena puggalena ‘‘parisuddhakāyasamācāro nu khomhī’’tiādinā (cūḷava. 399) nayena upālipañcake vuttesu pannarasasu dhammesu patiṭṭhātabbaṃ, cuditakena dvīsu dhammesu patiṭṭhātabbaṃ sacce ca akuppe cāti.
Sự tố cáo có mấy căn cứ, mấy sự việc, mấy nền tảng? Sự tố cáo có hai căn cứ: có căn cứ hoặc không có căn cứ. (Có) ba sự việc: thấy, nghe, nghi ngờ. (Có) năm nền tảng: “Tôi sẽ nói đúng lúc, không phải phi thời; tôi sẽ nói điều thật, không phải điều không thật; tôi sẽ nói lời nhu hòa, không phải lời thô lỗ; tôi sẽ nói lời liên hệ đến lợi ích, không phải lời không liên hệ đến lợi ích; tôi sẽ nói với tâm từ, không phải với tâm sân hận”. Và đối với sự tố cáo này, người tố cáo phải đứng vững trên mười lăm pháp được nói trong Năm Pháp của Upāli theo cách bắt đầu bằng “(Tự hỏi) ‘Ta có thân hành trong sạch không?'” v.v… (cūḷava. 399). Người bị tố cáo phải đứng vững trên hai pháp: sự thật và không tức giận.

Appevanāma naṃ imamhā brahmacariyā cāveyyanti api eva nāma naṃ puggalaṃ imamhā seṭṭhacariyā cāveyyaṃ, ‘‘sādhu vatassa sacāhaṃ imaṃ puggalaṃ imamhā brahmacariyā cāveyya’’nti iminā adhippāyena anuddhaṃseyyāti vuttaṃhoti. Padabhājane pana ‘‘brahmacariyā cāveyya’’nti imasseva pariyāyamatthaṃ dassetuṃ ‘‘bhikkhubhāvā cāveyya’’ntiādi vuttaṃ.
“Có lẽ ta nên làm cho người ấy rời khỏi đời sống phạm hạnh này” nghĩa là: có lẽ ta nên làm cho người ấy rời khỏi đời sống cao thượng này. Có nghĩa là (vị ấy) vu khống với chủ ý này: “Hay thay, nếu ta có thể làm cho người này rời khỏi đời sống phạm hạnh này”. Tuy nhiên, trong phần phân tích từ, để chỉ rõ ý nghĩa đồng nghĩa của “làm cho rời khỏi đời sống phạm hạnh”, đã được nói bắt đầu bằng “làm cho rời khỏi trạng thái Tỳ khưu”.

Khaṇādīni samayavevacanāni. Taṃ khaṇaṃ taṃ layaṃ taṃ muhuttaṃ vītivatteti tasmiṃ khaṇe tasmiṃ laye tasmiṃ muhutte vītivatte. Bhummappattiyā hi idaṃ upayogavacanaṃ.
(Các từ) như “khoảnh khắc” v.v… là những từ đồng nghĩa của “thời điểm”. Khi khoảnh khắc ấy, lúc ấy, chốc lát ấy trôi qua nghĩa là khi khoảnh khắc ấy, lúc ấy, chốc lát ấy đã trôi qua. Vì đây là cách dùng (biến cách) địa phương (chỉ nơi chốn/thời gian) theo nghĩa (biến cách đối cách) (để chỉ thời gian đã trôi qua).

Samanuggāhiyamānaniddese yena vatthunā anuddhaṃsito hotīti catūsu pārājikavatthūsu yena vatthunā codakena cuditako anuddhaṃsito abhibhūto ajjhotthaṭo hoti. Tasmiṃ vatthusmiṃ samanuggāhiyamānoti tasmiṃ codakena vuttavatthusmiṃ so codako anuvijjakena ‘‘kiṃ te diṭṭhaṃ, kinti te diṭṭha’’ntiādinā nayena anuvijjiyamāno vīmaṃsiyamāno upaparikkhiyamāno.
Trong phần giải thích về (trường hợp) đang bị tra hỏi: “Bị vu khống bằng sự việc nào” nghĩa là: trong bốn sự việc bất cộng trụ, người bị tố cáo đã bị người tố cáo vu khống, áp đảo, chế ngự bằng sự việc nào. Đang bị tra hỏi về sự việc ấy nghĩa là: về sự việc đã được người tố cáo nói đó, người tố cáo ấy đang bị người điều tra tra hỏi, tìm hiểu, xem xét kỹ lưỡng theo cách như “Ngươi đã thấy gì? Ngươi đã thấy như thế nào?” v.v…

Asamanuggāhiyamānaniddese na kenaci vuccamānoti anuvijjakena vā aññena vā kenaci, atha vā diṭṭhādīsu vatthūsu kenaci avuccamāno. Etesañca dvinnaṃ mātikāpadānaṃ parato ‘‘bhikkhu ca dosaṃ patiṭṭhātī’’tiiminā sambandho veditabbo. Idañhi vuttaṃ hoti – ‘‘evaṃ samanuggāhiyamāno vā asamanuggāhiyamāno vā bhikkhu ca dosaṃ patiṭṭhāti paṭicca tiṭṭhati paṭijānāti saṅghādiseso’’ti. Idañca amūlakabhāvassa pākaṭakāladassanatthameva vuttaṃ. Āpattiṃ pana anuddhaṃsitakkhaṇeyeva āpajjati.
Trong phần giải thích về (trường hợp) không bị tra hỏi: “Không bị ai nói (gì)” nghĩa là không bị người điều tra hoặc một người nào khác nói (gì); hoặc là không bị ai nói (gì) về các sự việc như thấy v.v… Và mối liên hệ của hai đề mục này với (câu) “Và vị Tỳ khưu xác nhận lỗi” ở phần sau cần được hiểu. Vì điều này có nghĩa là: “Vị Tỳ khưu, dù đang bị tra hỏi hay không bị tra hỏi như vậy, mà xác nhận lỗi, đứng vững (trên lời thú nhận), thú nhận, (phạm tội) Tăng Tàn”. Và điều này được nói chỉ để chỉ rõ thời điểm biểu hiện của tình trạng không có căn cứ. Tuy nhiên, (vị ấy) phạm tội ngay vào khoảnh khắc vu khống.

Idāni ‘‘amūlakañceva taṃ adhikaraṇaṃ hotī’’ti ettha yasmā amūlakalakkhaṇaṃ pubbe vuttaṃ, tasmā taṃ avatvā apubbameva dassetuṃ ‘‘adhikaraṇaṃ nāmā’’tiādimāha. Tattha yasmā adhikaraṇaṃ adhikaraṇaṭṭhena ekampi vatthuvasena nānā hoti, tenassa taṃ nānattaṃ dassetuṃ ‘‘cattāri adhikaraṇāni vivādādhikaraṇa’’ntiādimāha. Ko pana so adhikaraṇaṭṭho, yenetaṃ ekaṃ hotīti? Samathehi adhikaraṇīyatā. Tasmā yaṃ adhikicca ārabbha paṭicca sandhāya samathā vattanti, taṃ ‘‘adhikaraṇa’’nti veditabbaṃ.
Bây giờ, trong (câu) “Và vụ tranh chấp ấy không có căn cứ”, ở đây, vì đặc điểm không có căn cứ đã được nói trước đó, do đó, không nói lại điều đó mà chỉ để trình bày điều chưa từng có (trong phần giải thích này), (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Gọi là vụ tranh chấp“. Ở đó, vì vụ tranh chấp, dù là một theo nghĩa là vụ tranh chấp, cũng có nhiều loại dựa trên sự việc; do đó, để chỉ rõ sự đa dạng ấy của nó, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Bốn loại vụ tranh chấp: vụ tranh chấp về sự tranh cãi“. Vậy thì, ý nghĩa “vụ tranh chấp” mà do đó nó (dù đa dạng) vẫn là một là gì? (Đó là) tính chất cần được giải quyết bằng các phương pháp dàn xếp. Do đó, bất cứ điều gì mà các phương pháp dàn xếp diễn tiến dựa vào, bắt nguồn từ, tùy thuộc vào, nhắm đến, điều đó cần được hiểu là “vụ tranh chấp”.

Aṭṭhakathāsu pana vuttaṃ – ‘‘adhikaraṇanti keci gāhaṃ vadanti, keci cetanaṃ, keci akkhantiṃ keci vohāraṃ, keci paṇṇatti’’nti. Puna evaṃ vicāritaṃ ‘‘yadi gāho adhikaraṇaṃ nāma, eko attādānaṃ gahetvā sabhāgena bhikkhunā saddhiṃ mantayamāno tattha ādīnavaṃ disvā puna cajati, tassa taṃ adhikaraṇaṃ samathappattaṃ bhavissati. Yadi cetanā adhikaraṇaṃ, ‘‘idaṃ attādānaṃ gaṇhāmī’’ti uppannā cetanā nirujjhati. Yadi akkhanti adhikaraṇaṃ, akkhantiyā attādānaṃ gahetvāpi aparabhāge vinicchayaṃ alabhamāno vā khamāpito vā cajati. Yadi vohāro adhikaraṇaṃ, kathento āhiṇḍitvā aparabhāge tuṇhī hoti niravo, evamassa taṃ adhikaraṇaṃ samathappattaṃ bhavissati, tasmā paṇṇatti adhikaraṇanti.
Tuy nhiên, trong các Chú giải, đã được nói: “Một số vị gọi ‘sự nắm giữ’ là vụ tranh chấp; một số vị (gọi) ‘tư tâm’; một số vị (gọi) ‘sự không kham nhẫn’; một số vị (gọi) ‘sự giao tiếp’; một số vị (gọi) ‘điều chế định'”. Lại nữa, đã được xem xét như vầy: “Nếu ‘sự nắm giữ’ gọi là vụ tranh chấp, (thì) một người, sau khi tự mình nhận lấy (việc giải quyết), trong khi bàn bạc với vị Tỳ khưu tương đồng, thấy sự nguy hiểm ở đó rồi lại từ bỏ; vụ tranh chấp ấy của vị ấy sẽ đạt đến sự dàn xếp. Nếu ‘tư tâm’ là vụ tranh chấp, (thì) tư tâm đã khởi lên “Ta sẽ nhận lấy (việc giải quyết) này” rồi diệt đi (thì vụ tranh chấp cũng diệt). Nếu ‘sự không kham nhẫn’ là vụ tranh chấp, (thì) dù đã tự mình nhận lấy (việc giải quyết) do sự không kham nhẫn, nhưng ở phần sau không nhận được sự quyết đoán, hoặc đã được tha thứ, rồi từ bỏ (thì vụ tranh chấp cũng diệt). Nếu ‘sự giao tiếp’ là vụ tranh chấp, (thì) người nói, sau khi đi đây đó, ở phần sau im lặng, không lên tiếng; như vậy, vụ tranh chấp ấy của vị ấy sẽ đạt đến sự dàn xếp. Do đó, ‘điều chế định’ là vụ tranh chấp”.

Taṃ panetaṃ ‘‘methunadhammapārājikāpatti methunadhammapārājikāpattiyā tabbhāgiyā…pe… evaṃ āpattādhikaraṇaṃ āpattādhikaraṇassa tabbhāgiyanti ca vivādādhikaraṇaṃ siyā kusalaṃ siyā akusalaṃ siyā abyākata’’nti ca evamādīhi virujjhati. Na hi te paṇṇattiyā kusalādibhāvaṃ icchanti, na ca ‘‘amūlakena pārājikena dhammenā’’ti ettha āgato pārājikadhammo paṇṇatti nāma hoti. Kasmā? Accantaakusalattā. Vuttampi hetaṃ – ‘‘āpattādhikaraṇaṃ siyā akusalaṃ siyā abyākata’’nti (pari. 303).
Tuy nhiên, điều đó mâu thuẫn với (các câu Pāḷi) như: “Tội bất cộng trụ về hành vi giao hợp là một phần của tội bất cộng trụ về hành vi giao hợp… cho đến… Như vậy, vụ tranh chấp về tội là một phần của vụ tranh chấp về tội”, và “Vụ tranh chấp về sự tranh cãi có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký” v.v… Vì các vị ấy không chấp nhận tính chất thiện v.v… của điều chế định. Và pháp bất cộng trụ xuất hiện trong (câu) “bằng pháp bất cộng trụ không có căn cứ” cũng không được gọi là điều chế định. Tại sao? Do tính chất hoàn toàn bất thiện (của tội Pārājika). Điều này cũng đã được nói: “Vụ tranh chấp về tội có thể là bất thiện, có thể là vô ký” (pari. 303).

Yañcetaṃ ‘‘amūlakena pārājikenā’’ti ettha amūlakaṃ pārājikaṃ niddiṭṭhaṃ, tassevāyaṃ ‘‘amūlakañceva taṃ adhikaraṇaṃ hotī’’ti paṭiniddeso, na paṇṇattiyā na hi aññaṃ niddisitvā aññaṃ paṭiniddisati. Yasmā pana yāya paṇṇattiyā yena abhilāpena codakena so puggalo pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpannoti paññatto, pārājikasaṅkhātassa adhikaraṇassa amūlakattā sāpi paññatti amūlikā hoti, adhikaraṇe pavattattā ca adhikaraṇaṃ. Tasmā iminā pariyāyena paṇṇatti ‘‘adhikaraṇa’’nti yujjeyya, yasmā vā yaṃ amūlakaṃ nāma adhikaraṇaṃ taṃ sabhāvato natthi, paññattimattameva atthi. Tasmāpi paṇṇatti adhikaraṇanti yujjeyya. Tañca kho idheva na sabbattha. Na hi vivādādīnaṃ paṇṇatti adhikaraṇaṃ. Adhikaraṇaṭṭho pana tesaṃ pubbe vuttasamathehi adhikaraṇīyatā. Iti iminā adhikaraṇaṭṭhena idhekacco vivādo vivādo ceva adhikaraṇañcāti vivādādhikaraṇaṃ. Esa nayo sesesu.
Và (tội) bất cộng trụ không có căn cứ nào đã được chỉ định trong (câu) “bằng (tội) bất cộng trụ không có căn cứ”, thì (câu) “Và vụ tranh chấp ấy không có căn cứ” chính là sự chỉ định lại của chính (tội) ấy, chứ không phải của điều chế định; vì không thể chỉ định một điều rồi lại chỉ định lại một điều khác. Tuy nhiên, vì người ấy được người tố cáo tuyên bố là đã phạm pháp bất cộng trụ bằng điều chế định nào, bằng lời nói nào; do tính chất không có căn cứ của vụ tranh chấp được gọi là (tội) bất cộng trụ, điều chế định ấy cũng trở nên không có căn cứ; và do diễn tiến trong vụ tranh chấp, (nó cũng là) vụ tranh chấp. Do đó, theo cách diễn đạt này, “điều chế định” có thể hợp lý (được gọi là) “vụ tranh chấp”. Hoặc vì vụ tranh chấp nào gọi là không có căn cứ, vụ đó không có tự tánh, chỉ có sự chế định mà thôi. Do đó cũng vậy, “điều chế định” có thể hợp lý (được gọi là) “vụ tranh chấp”. Và điều đó chỉ ở đây thôi, không phải ở mọi nơi. Vì điều chế định không phải là vụ tranh chấp của (các loại) tranh cãi v.v… Còn ý nghĩa “vụ tranh chấp” của chúng là tính chất cần được giải quyết bằng các phương pháp dàn xếp đã nói trước đó. Như vậy, theo ý nghĩa “vụ tranh chấp” này, một sự tranh cãi nào đó vừa là sự tranh cãi, vừa là vụ tranh chấp, (nên gọi là) vụ tranh chấp về sự tranh cãi. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho các (loại) còn lại.

Tattha ‘‘idha bhikkhū vivadanti dhammoti vā adhammoti vā’’ti evaṃ aṭṭhārasa bhedakaravatthūni nissāya uppanno vivādo vivādādhikaraṇaṃ. ‘‘Idha bhikkhū bhikkhuṃ anuvadanti sīlavipattiyā vā’’ti evaṃ catasso vipattiyo nissāya uppanno anuvādo anuvādādhikaraṇaṃ. ‘‘Pañcapi āpattikkhandhā āpattādhikaraṇaṃ, sattapi āpattikkhandhā āpattādhikaraṇa’’nti evaṃ āpattiyeva āpattādhikaraṇaṃ. ‘‘Yā saṅghassa kiccayatā karaṇīyatā apalokanakammaṃ ñattikammaṃ ñattidutiyakammaṃ ñatticatutthakamma’’nti (cūḷava. 215) evaṃ catubbidhaṃ saṅghakiccaṃ kiccādhikaraṇanti veditabbaṃ.
Ở đó, sự tranh cãi khởi lên dựa trên mười tám sự việc gây chia rẽ như “Ở đây, các Tỳ khưu tranh cãi: ‘Đây là Pháp’ hay ‘Đây là phi Pháp'”, (đó là) vụ tranh chấp về sự tranh cãi. Sự khiển trách khởi lên dựa trên bốn sự hư hỏng như “Ở đây, các Tỳ khưu khiển trách một vị Tỳ khưu về sự hư hỏng giới hạnh” v.v…, (đó là) vụ tranh chấp về sự khiển trách. “Năm nhóm tội cũng là vụ tranh chấp về tội; bảy nhóm tội cũng là vụ tranh chấp về tội”; như vậy, chính tội là vụ tranh chấp về tội. “Những gì là phận sự, việc cần làm của Tăng chúng: hành sự biểu quyết bằng cách hỏi ý kiến, hành sự chỉ có Tăng sự, hành sự có Tăng sự và một lần tuyên cáo, hành sự có Tăng sự và ba lần tuyên cáo” (cūḷava. 215); như vậy, bốn loại phận sự của Tăng chúng cần được hiểu là vụ tranh chấp về phận sự.

Imasmiṃ panatthe pārājikāpattisaṅkhātaṃ āpattādhikaraṇameva adhippetaṃ. Sesāni atthuddhāravasena vuttāni, ettakā hi adhikaraṇasaddassa atthā. Tesu pārājikameva idha adhippetaṃ. Taṃ diṭṭhādīhi mūlehi amūlakañceva adhikaraṇaṃ hoti. Ayañca bhikkhu dosaṃ patiṭṭhāti, paṭicca tiṭṭhati ‘‘tucchakaṃ mayā bhaṇita’’ntiādīni vadanto paṭijānāti. Tassa bhikkhuno anuddhaṃsitakkhaṇeyeva saṅghādisesoti ayaṃ tāvassa sapadānukkamaniddesassa sikkhāpadassa attho.
Tuy nhiên, trong ý nghĩa này, chỉ có vụ tranh chấp về tội được gọi là tội bất cộng trụ là được muốn nói đến. Các (loại) còn lại được nói theo cách trích dẫn ý nghĩa; vì có chừng ấy ý nghĩa của vụ tranh chấp. Trong số đó, chỉ có (tội) bất cộng trụ là được muốn nói đến ở đây. (Vụ tranh chấp) đó, (nếu) không có căn cứ do (không có) sự thấy v.v…, thì là vụ tranh chấp không có căn cứ. Và vị Tỳ khưu này xác nhận lỗi, đứng vững (trên lời thú nhận), thú nhận bằng cách nói những lời như “Tôi đã nói điều vô ích” v.v… Đối với vị Tỳ khưu ấy, ngay vào khoảnh khắc vu khống, (phạm tội) Tăng Tàn – đây là ý nghĩa của điều học này với phần giải thích theo thứ tự các từ.

387. Idāni yāni tāni saṅkhepato diṭṭhādīni codanāvatthūni vuttāni, tesaṃ vasena vitthārato āpattiṃ ropetvā dassento ‘‘adiṭṭhassa hotī’’tiādimāha. Tattha adiṭṭhassa hotīti adiṭṭho assa hoti. Etena codakena adiṭṭho hoti, so puggalo pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpajjantoti attho. Esa nayo asutassa hotītiādīsupi.
387. Bây giờ, những sự việc tố cáo như thấy v.v… đã được nói một cách tóm tắt đó, để quy tội và chỉ rõ một cách chi tiết dựa trên chúng, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Đối với (điều) không được thấy“. Ở đó, “Đối với (điều) không được thấy” nghĩa là (điều ấy) không được (người tố cáo) thấy. (Điều ấy) không được người tố cáo này thấy; ý là người ấy đang phạm pháp bất cộng trụ. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho (các trường hợp) như “Đối với (điều) không được nghe” v.v…

Diṭṭho mayāti diṭṭhosi mayāti vuttaṃ hoti. Esa nayo suto mayātiādīsupi. Sesaṃ adiṭṭhamūlake uttānatthameva. Diṭṭhamūlake pana tañce codeti ‘‘suto mayā’’ti evaṃ vuttānaṃ suttādīnaṃ ābhāvena amūlakattaṃ veditabbaṃ.
“Tôi đã thấy” có nghĩa là: “Ngươi đã bị tôi thấy”. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho (các trường hợp) như “Tôi đã nghe” v.v… Phần còn lại trong (trường hợp) không có căn cứ do không thấy thì ý nghĩa rõ ràng. Còn trong (trường hợp) có căn cứ do thấy, nếu vị ấy tố cáo (nói rằng) “Tôi đã nghe”, thì cần hiểu là không có căn cứ do không có (sự kiện) nghe v.v… đã được nói như vậy.

Sabbasmiṃyeva ca imasmiṃ codakavāre yathā idhāgatesu ‘‘pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpannosi, assamaṇosi, asakyaputtiyosī’’ti imesu vacanesu ekekassa vasena vācāya vācāya saṅghādiseso hoti, evaṃ aññatra āgatesu ‘‘dussīlo, pāpadhammo, asucisaṅkassarasamācāro, paṭicchannakammanto , assamaṇo samaṇapaṭiñño, abrahmacārī brahmacāripaṭiñño, antopūti, avassuto, kasambujāto’’ti imesupi vacanesu ekekassa vasena vācāya vācāya saṅghādiseso hotiyeva.
Và trong tất cả trường hợp người tố cáo này, giống như trong những lời nói xuất hiện ở đây: “Ngươi đã phạm pháp bất cộng trụ”, “Ngươi không phải Sa-môn”, “Ngươi không phải là con của dòng họ Thích Ca”, dựa trên mỗi một (lời nói), mỗi lời nói (phạm tội) Tăng Tàn. Cũng vậy, trong những lời nói xuất hiện ở nơi khác như: “Người giới hạnh xấu xa”, “Người có pháp xấu ác”, “Người có hành vi đáng nghi ngờ là không trong sạch”, “Người có hành động che giấu”, “Không phải Sa-môn (mà) tự nhận là Sa-môn”, “Không phải người phạm hạnh (mà) tự nhận là người phạm hạnh”, “Kẻ thối rữa bên trong”, “Kẻ bị rỉ chảy (phiền não)”, “Kẻ sinh ra như đồ bỏ đi”, đối với những lời nói này cũng vậy, dựa trên mỗi một (lời nói), mỗi lời nói chắc chắn (phạm tội) Tăng Tàn.

‘‘Natthi tayā saddhiṃ uposatho vā pavāraṇā vā saṅghakammaṃ vā’’ti imāni pana suddhāni sīsaṃ na enti, ‘‘dussīlosi natthi tayā saddhiṃ uposatho vā’’ti evaṃ dussīlādipadesu pana ‘‘pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpannosī’’tiādipadesu vā yena kenaci saddhiṃ ghaṭitāneva sīsaṃ enti, saṅghādisesakarāni honti.
Tuy nhiên, những (lời nói) này, (nếu nói) một cách thuần túy: “Không có việc Bố-tát, hoặc Tự tứ, hoặc hành sự của Tăng chúng cùng với ngươi”, thì không đến mức (phạm tội). Tuy nhiên, trong các trường hợp như “Ngươi là người giới hạnh xấu xa, không có việc Bố-tát cùng với ngươi” v.v…, hoặc trong các trường hợp như “Ngươi đã phạm pháp bất cộng trụ” v.v…, chỉ khi được gắn liền với bất kỳ (lời nói chỉ tội) nào, mới đến mức (phạm tội), (và) trở thành (nguyên nhân) phạm tội Tăng Tàn.

Mahāpadumatthero panāha – ‘‘na kevalaṃ idha pāḷiyaṃ anāgatāni ‘dussīlo pāpadhammo’tiādipadāneva sīsaṃ enti, ‘koṇṭhosi mahāsāmaṇerosi, mahāupāsakosi, jeṭṭhabbatikosi, nigaṇṭhosi, ājīvakosi, tāpasosi, paribbājakosi, paṇḍakosi, theyyasaṃvāsakosi, titthiyapakkantakosi, tiracchānagatosi, mātughātakosi, pitughātakosi, arahantaghātakosi, saṅghabhedakosi, lohituppādakosi, bhikkhunīdūsakosi, ubhatobyañjanakaosī’ti imānipi sīsaṃ entiyevā’’ti. Mahāpadumattheroyeva ca ‘‘diṭṭhe vematikotiādīsu yadaggena vematiko tadaggena no kappeti, yadaggena no kappeti tadaggena nassarati, yadaggena nassarati tadaggena pamuṭṭho hotī’’ti vadati.
Còn ngài Mahāpadumatthera nói rằng: “Không chỉ những từ không có trong Pāḷi ở đây như ‘Người giới hạnh xấu xa, người có pháp xấu ác’ v.v… mới đến mức (phạm tội), mà cả những (lời nói) này: ‘Ngươi là người què, ngươi là đại Sa-di, ngươi là đại cư sĩ, ngươi là người giữ giới của bậc trưởng thượng, ngươi là người Nigantha, ngươi là người Ājīvaka, ngươi là người tu khổ hạnh, ngươi là người du sĩ ngoại đạo, ngươi là người ái nam ái nữ, ngươi là người sống chung lén lút, ngươi là người đã theo ngoại đạo, ngươi là loài bàng sanh, ngươi là kẻ giết mẹ, ngươi là kẻ giết cha, ngươi là kẻ giết A-la-hán, ngươi là kẻ phá hòa hợp Tăng, ngươi là kẻ làm chảy máu (Phật), ngươi là kẻ làm ô uế Tỳ-khưu-ni, ngươi là người có cả hai bộ phận sinh dục’, cũng chắc chắn đến mức (phạm tội)”. Và chính ngài Mahāpadumatthera nói rằng: “Trong (các trường hợp) như ‘Nghi ngờ về điều đã thấy’ v.v…, đến mức độ nào (còn) nghi ngờ, đến mức độ đó không sắp đặt (tội); đến mức độ nào không sắp đặt (tội), đến mức độ đó (sự việc) bị trôi mất; đến mức độ nào (sự việc) bị trôi mất, đến mức độ đó (trở thành) đã quên”.

Mahāsumatthero pana ekekaṃ dvidhā bhinditvā catunnampi pāṭekkaṃ nayaṃ dasseti. Kathaṃ? Diṭṭhe vematikoti ayaṃ tāva dassane vā vematiko hoti puggale vā, tattha ‘‘diṭṭho nukho mayā na diṭṭho’’ti evaṃ dassane vematiko hoti. ‘‘Ayaṃ nukho mayā diṭṭho añño’’ti evaṃ puggale vematiko hoti. Evaṃ dassanaṃ vā no kappeti puggalaṃ vā, dassanaṃ vā nassarati puggalaṃ vā, dassanaṃ vā pamuṭṭho hoti puggalaṃ vā. Ettha ca vematikoti vimatijāto. No kappetīti na saddahati. Nassaratīti asāriyamāno nassarati. Yadā pana taṃ ‘‘asukasmiṃ nāma bhante ṭhāne asukasmiṃ nāma kāle’’ti sārenti tadā sarati. Pamuṭṭhoti yo tehi tehi upāyehi sāriyamānopi nassaratiyevāti . Etenevupāyena codāpakavāropi veditabbo, kevalañhi tattha ‘‘mayā’’ti parihīnaṃ, sesaṃ codakavārasadisameva.
Còn ngài Mahāsumatthera, sau khi chia mỗi (trường hợp) thành hai, trình bày phương pháp riêng cho cả bốn (trường hợp). Bằng cách nào? “Nghi ngờ về điều đã thấy”: trước hết, (người ấy) hoặc là nghi ngờ về việc thấy, hoặc là (nghi ngờ) về người. Ở đó, (nghi ngờ) “Không biết tôi đã thấy hay không thấy?”, như vậy là nghi ngờ về việc thấy. (Nghi ngờ) “Không biết người tôi đã thấy là người này hay người khác?”, như vậy là nghi ngờ về người. Như vậy, hoặc là không sắp đặt (tội) về việc thấy hoặc về người; hoặc là (sự việc) thấy hoặc người bị trôi mất; hoặc là đã quên việc thấy hoặc người. Và ở đây, người nghi ngờ là người có sự nghi ngờ khởi lên. Không sắp đặt (tội) nghĩa là không tin. (Sự việc) bị trôi mất nghĩa là không được nhắc lại nên bị trôi mất. Tuy nhiên, khi người ta nhắc lại điều đó (nói): “Thưa Đại đức, ở nơi tên X, vào lúc tên Y”, khi đó (người ấy) nhớ lại. Đã quên là người nào dù được nhắc lại bằng những phương tiện này hay phương tiện kia, (sự việc) cũng vẫn bị trôi mất. Bằng chính phương tiện này, trường hợp người nhờ tố cáo cũng cần được hiểu; chỉ có ở đó, (từ) “bởi tôi” bị thiếu, phần còn lại thì giống như trường hợp người tố cáo.

389. Tato paraṃ āpattibhedaṃ anāpattibhedañca dassetuṃ ‘‘asuddhe suddhadiṭṭhī’’tiādikaṃ catukkaṃ ṭhapetvā ekamekaṃ padaṃ catūhi catūhi bhedehi niddiṭṭhaṃ, taṃ sabbaṃ pāḷinayeneva sakkā jānituṃ. Kevalaṃ hetthādhippāyabhedo veditabbo. Ayañhi adhippāyo nāma – cāvanādhippāyo, akkosādhippāyo, kammādhippāyo, vuṭṭhānādhippāyo, uposathapavāraṇaṭṭhapanādhippāyo, anuvijjanādhippāyo, dhammakathādhippāyoti anekavidho. Tattha purimesu catūsu adhippāyesu okāsaṃ akārāpentassa dukkaṭaṃ. Okāsaṃ kārāpetvāpi ca sammukhā amūlakena pārājikena anuddhaṃsentassa saṅghādiseso. Amūlakena saṅghādisesena anuddhaṃsentassa pācittiyaṃ. Ācāravipattiyā anuddhaṃsentassa dukkaṭaṃ. Akkosādhippāyena vadantassa pācittiyaṃ. Asammukhā pana sattahipi āpattikkhandhehi vadantassa dukkaṭaṃ. Asammukhā eva sattavidhampi kammaṃ karontassa dukkaṭameva.
389. Sau đó, để chỉ rõ sự phân biệt tội và không phạm tội, sau khi đặt sang một bên nhóm bốn (trường hợp) bắt đầu bằng “Đối với người không trong sạch, có kiến chấp trong sạch“, mỗi một từ đã được chỉ định bằng bốn loại khác nhau; tất cả điều đó có thể được biết chỉ bằng cách theo Pāḷi. Chỉ có sự khác biệt về chủ ý ở đây cần được hiểu. Vì chủ ý này có nhiều loại: chủ ý làm cho rời khỏi (đời sống phạm hạnh), chủ ý mắng nhiếc, chủ ý (thực hiện) hành sự, chủ ý phục hồi (danh dự), chủ ý đình chỉ Bố-tát, Tự tứ, chủ ý điều tra, chủ ý thuyết pháp. Ở đó, trong bốn chủ ý đầu tiên, đối với người không xin cơ hội, (phạm) tội Tác Ác. Và dù đã xin cơ hội, (nhưng) đối với người vu khống (người khác) trước mặt bằng (tội) bất cộng trụ không có căn cứ, (phạm tội) Tăng Tàn. Đối với người vu khống bằng (tội) Tăng Tàn không có căn cứ, (phạm tội) Ưng Đối Trị. Đối với người vu khống về sự hư hỏng oai nghi, (phạm) tội Tác Ác. Đối với người nói với chủ ý mắng nhiếc, (phạm tội) Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, (nếu nói) không trước mặt, dù nói về bảy nhóm tội, (phạm) tội Tác Ác. Ngay cả (nếu) thực hiện bảy loại hành sự mà không trước mặt, cũng (phạm) tội Tác Ác.

Kurundiyaṃ pana ‘‘vuṭṭhānādhippāyena ‘tvaṃ imaṃ nāma āpattiṃ āpanno taṃ paṭikarohī’ti vadantassa okāsakiccaṃ natthī’’ti vuttaṃ. Sabbattheva pana ‘‘uposathapavāraṇaṃ ṭhapentassa okāsakammaṃ natthī’’ti vuttaṃ. Ṭhapanakkhettaṃ pana jānitabbaṃ. ‘‘Suṇātu me bhante saṅgho ajjuposatho pannaraso yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho uposathaṃ kareyya’’ti etasmiñhi re-kāre anatikkanteyeva ṭhapetuṃ labbhati. Tato paraṃ pana yya-kāre patte na labbhati. Esa nayo pavāraṇāya. Anuvijjakassāpi osaṭe vatthusmiṃ ‘‘atthetaṃ tavā’’ti anuvijjanādhippāyena vadantassa okāsakammaṃ natthi.
Tuy nhiên, trong Kurundī, đã được nói: “Đối với người nói với chủ ý phục hồi (danh dự) rằng: ‘Ngươi đã phạm tội tên X này, hãy sám hối tội đó’, không có phận sự xin cơ hội”. Và ở mọi nơi, đã được nói: “Đối với người đình chỉ Bố-tát, Tự tứ, không có hành vi xin cơ hội”. Tuy nhiên, phạm vi của việc đình chỉ cần được biết. Vì trong (câu Tăng sự): “Bạch Đại đức Tăng, xin Tăng chúng hãy nghe con. Hôm nay là ngày Bố-tát, ngày rằm. Nếu Tăng chúng đã đến lúc thích hợp, Tăng chúng nên thực hiện lễ Bố-tát”, chỉ được phép đình chỉ trước khi (âm) “re” (trong “kareyya”) chưa qua. Tuy nhiên, sau đó, khi đã đến (âm) “yya” (trong “kareyya”), thì không được phép (đình chỉ). Phương pháp này cũng (áp dụng) cho (việc đình chỉ) Tự tứ. Ngay cả đối với người điều tra, khi sự việc đã được đưa ra, nếu nói với chủ ý điều tra (rằng): “Điều đó có nơi ngươi không?”, cũng không có hành vi xin cơ hội.

Dhammakathikassāpi dhammāsane nisīditvā ‘‘yo idañcidañca karoti, ayaṃ bhikkhu assamaṇo’’tiādinā nayena anodissa dhammaṃ kathentassa okāsakammaṃ natthi. Sace pana odissa niyametvā ‘‘asuko ca asuko ca assamaṇo anupāsako’’ti katheti, dhammāsanato orohitvā āpattiṃ desetvā gantabbaṃ. Yaṃ pana tattha tattha ‘‘anokāsaṃ kārāpetvā’’ti vuttaṃ tassa okāsaṃ akārāpetvāti evamattho veditabbo, na hi koci anokāso nāma atthi, yamokāsaṃ kārāpetvā āpattiṃ āpajjati, okāsaṃ pana akārāpetvā āpajjatīti. Sesaṃ uttānameva.
Ngay cả đối với vị Pháp sư, khi đang ngồi trên pháp tòa, nếu nói Pháp mà không chỉ đích danh theo cách như “Người nào làm điều này điều nọ, vị Tỳ khưu ấy không phải là Sa-môn”, cũng không có hành vi xin cơ hội (để nói). Tuy nhiên, nếu chỉ đích danh, xác định (rằng): “Người X và người Y không phải Sa-môn, không phải người cận sự”, thì (vị ấy) phải xuống khỏi pháp tòa, sám hối tội rồi mới đi. Còn điều đã được nói ở chỗ này chỗ kia là “sau khi đã không xin cơ hội”, ý nghĩa của nó cần được hiểu là “sau khi không xin cơ hội”. Vì không có cái gọi là “không có cơ hội” nào mà sau khi xin cơ hội (ấy) lại phạm tội; (chỉ có) khi không xin cơ hội mới phạm tội. Phần còn lại ý nghĩa rõ ràng.

Samuṭṭhānādīsu tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato, vācācittato, kāyavācācittato ca samuṭṭhāti. Kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
Về sự khởi lên v.v…, điều học này có ba cách khởi lên: khởi lên từ thân và tâm, hoặc từ lời nói và tâm, hoặc từ thân, lời nói và tâm. (Nó là) hành động, (có thể) thoát tội do nhận thức sai lầm, có chủ ý, bị đời chê trách, là hành động thuộc về thân, hành động thuộc về lời nói, (liên quan đến) tâm bất thiện, có cảm thọ khổ.

Paṭhamaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Thứ Nhất Về Lỗi Sân Hận đã hoàn tất.

9. Dutiyaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā

9. Giải Thích Điều Học Thứ Hai Về Lỗi Sân Hận

391.Tena samayena buddho bhagavāti dutiyaduṭṭhadosasikkhāpadaṃ. Tattha handa mayaṃ āvuso imaṃ chagalakaṃ dabbaṃ mallaputtaṃ nāma karomāti te kira paṭhamavatthusmiṃ attano manorathaṃ sampādetuṃ asakkontā laddhaniggahā vighātappattā ‘‘idāni jānissāmā’’ti tādisaṃ vatthuṃ pariyesamānā vicaranti. Athekadivasaṃ disvā tuṭṭhā aññamaññaṃ oloketvā evamāhaṃsu – ‘‘handa mayaṃ, āvuso, imaṃ chagalakaṃ dabbaṃ mallaputtaṃ nāma karomā’’ti, ‘‘dabbo mallaputto nāmāya’’nti evamassa nāmaṃ karomāti vuttaṃ hoti. Esa nayo mettiyaṃ nāma bhikkhuninti etthāpi.
391. “Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, bậc Thế Tôn” là (phần mở đầu của) điều học thứ hai về lỗi sân hận. Ở đó, (câu) “Này các hiền giả, chúng ta hãy gọi con dê đực này là Dabba Mallaputta”: tương truyền, họ, trong trường hợp đầu tiên, không thể hoàn thành ý muốn của mình, đã bị khiển trách, gặp phải trở ngại, (nên nghĩ rằng) “Bây giờ chúng ta sẽ biết”, rồi đi tìm kiếm một sự việc tương tự như vậy. Rồi một ngày kia, sau khi thấy (con dê), họ vui mừng nhìn nhau rồi nói như vầy: “Này các hiền giả, chúng ta hãy gọi con dê đực này là Dabba Mallaputta”. Có nghĩa là: chúng ta hãy đặt tên cho nó là “Dabba Mallaputta”. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho (trường hợp) Tỳ-khưu-ni tên là Mettiyā ở đây.

Te bhikkhū mettiyabhumajake bhikkhū anuyuñjiṃsūti evaṃ anuyuñjiṃsu –‘‘āvuso, kuhiṃ tumhehi dabbo mallaputto mettiyāya bhikkhuniyā saddhiṃ diṭṭho’’ti? ‘‘Gijjhakūṭapabbatapāde’’ti. ‘‘Kāya velāya’’ti? ‘‘Bhikkhācāragamanavelāyā’’ti. Āvuso dabba ime evaṃ vadanti – ‘‘tvaṃ tadā kuhi’’nti? ‘‘Veḷuvane bhattāni uddisāmī’’ti. ‘‘Tava tāya velāya veḷuvane atthibhāvaṃ ko jānātī’’ti? ‘‘Bhikkhusaṅgho, bhante’’ti. Te saṅghaṃ pucchiṃsu – ‘‘jānātha tumhe tāya velāya imassa veḷuvane atthibhāva’’nti. ‘‘Āma, āvuso, jānāma, thero sammutiladdhadivasato paṭṭhāya veḷuvaneyevā’’ti. Tato mettiyabhumajake āhaṃsu – ‘‘āvuso, tumhākaṃ kathā na sameti, kacci no lesaṃ oḍḍetvā vadathā’’ti. Evaṃ te tehi bhikkhūhi anuyuñjiyamānā āma āvusoti vatvā etamatthaṃ ārocesuṃ.
Các Tỳ khưu ấy đã tra hỏi các Tỳ khưu nhóm Mettiya-Bhummajaka: họ đã tra hỏi như vầy: “Này các hiền giả, các vị đã thấy Dabba Mallaputta cùng với Tỳ-khưu-ni Mettiyā ở đâu?”. (Họ đáp): “Ở chân núi Linh Thứu”. (Hỏi): “Vào lúc nào?”. (Đáp): “Vào lúc đi khất thực”. (Các Tỳ khưu hỏi Dabba): “Này hiền giả Dabba, những vị này nói như vậy; khi đó ngài ở đâu?”. (Dabba đáp): “Tôi đang phân phối vật thực ở Trúc Lâm”. (Hỏi): “Ai biết việc ngài có mặt ở Trúc Lâm vào lúc đó?”. (Dabba đáp): “Thưa Đại đức, Tăng chúng (biết)”. Họ đã hỏi Tăng chúng: “Các vị có biết việc vị này có mặt ở Trúc Lâm vào lúc đó không?”. (Tăng chúng đáp): “Vâng, thưa các hiền giả, chúng tôi biết; vị Trưởng lão, kể từ ngày nhận được sự biểu quyết (chấp thuận), (luôn) ở chính Trúc Lâm”. Sau đó, (các Tỳ khưu) đã nói với nhóm Mettiya-Bhummajaka: “Này các hiền giả, lời nói của các vị không khớp nhau; có phải các vị đã dùng mánh khóe mà nói không?”. Bị các Tỳ khưu kia tra hỏi như vậy, họ nói: “Vâng, thưa các hiền giả”, rồi đã trình bày sự việc ấy.

Kiṃpana tumhe, āvuso, āyasmantaṃ dabbaṃ mallaputtaṃ aññabhāgiyassa adhikaraṇassāti ettha aññabhāgassa idaṃ, aññabhāgo vā assa atthīti aññabhāgiyaṃ. Adhikaraṇanti ādhāro veditabbo, vatthu adhiṭṭhānanti vuttaṃ hoti. Yo hi so ‘‘dabbo mallaputto nāmā’’ti chagalako vutto, so yvāyaṃ āyasmato dabbassa mallaputtassa bhāgo koṭṭhāso pakkho manussajāti ceva bhikkhubhāvo ca tato aññassa bhāgassa koṭṭhāsassa pakkhassa hoti tiracchānajātiyā ceva chagalakabhāvassa ca so vā aññabhāgo assa atthīti tasmā aññabhāgiyasaṅkhyaṃ labhati. Yasmā ca tesaṃ ‘‘imaṃ mayaṃ dabbaṃ mallaputtaṃ nāma karomā’’ti vadantānaṃ tassā nāmakaraṇasaññāya ādhāro vatthu adhiṭṭhānaṃ, tasmā adhikaraṇanti veditabbo. Tañhi sandhāya ‘‘te bhikkhū aññabhāgiyassa adhikaraṇassā’’ti āhaṃsu, na vivādādhikaraṇādīsu aññataraṃ. Kasmā? Asambhavato. Na hi te catunnaṃ adhikaraṇānaṃ kassaci aññabhāgiyassa adhikaraṇassa kañcidesaṃ lesamattaṃ upādiyiṃsu. Na ca catunnaṃ adhikaraṇānaṃ leso nāma atthi. Jātilesādayo hi puggalānaṃyeva lesā vuttā, na vivādādhikaraṇādīnaṃ. Idañca ‘‘dabbo mallaputto’’ti nāmaṃ tassa aññabhāgiyādhikaraṇabhāve ṭhitassa chagalakassa koci deso hoti theraṃ amūlakena pārājikena anuddhaṃsetuṃ lesamatto.
“Này các hiền giả, sao các vị lại (vu khống) Tôn giả Dabba Mallaputta về một vụ tranh chấp thuộc phần khác?”: ở đây, “thuộc phần khác” là (vụ việc) này của phần khác, hoặc nó có phần khác. Vụ tranh chấp cần được hiểu là nền tảng; có nghĩa là đối tượng, cơ sở. Vì con dê đực được gọi là “Dabba Mallaputta” ấy, nó thuộc về phần, loại, phe khác với phần, loại, phe của Tôn giả Dabba Mallaputta là loài người và trạng thái Tỳ khưu; (nó thuộc về) loài bàng sanh và trạng thái dê đực; hoặc nó có phần khác, do đó nó nhận được tên gọi “thuộc phần khác”. Và vì đối với những người nói “Chúng ta hãy gọi (con dê) này là Dabba Mallaputta”, con dê là nền tảng, đối tượng, cơ sở cho nhận thức về việc đặt tên ấy; do đó, (con dê) cần được hiểu là “vụ tranh chấp” (theo nghĩa cơ sở). Nhắm đến điều đó mà các Tỳ khưu ấy đã nói “về một vụ tranh chấp thuộc phần khác”, chứ không phải một trong các (loại) như vụ tranh chấp về sự tranh cãi v.v… Tại sao? Do không thể có. Vì họ không dựa vào một phần nào, dù chỉ một chút, của bất kỳ vụ tranh chấp nào thuộc phần khác trong bốn loại vụ tranh chấp. Và không có cái gọi là “một chút” của bốn loại vụ tranh chấp. Vì (các từ) như “một chút về dòng dõi” v.v… được nói (chỉ) là một chút của cá nhân, chứ không phải của vụ tranh chấp về sự tranh cãi v.v… Và cái tên “Dabba Mallaputta” này là một phần nào đó của con dê đực đang ở trong tình trạng là vụ tranh chấp thuộc phần khác, (chỉ là) một chút cớ để vu khống vị Trưởng lão bằng (tội) bất cộng trụ không có căn cứ.

Ettha ca dissati apadissati assa ayanti voharīyatīti deso. Jātiādīsu aññatarakoṭṭhāsassetaṃ adhivacanaṃ. Aññampi vatthuṃ lissati silissati vohāramatteneva īsakaṃ allīyatīti leso. Jātiādīnaṃyeva aññatarakoṭṭhāsassetaṃ adhivacanaṃ. Tato paraṃ uttānatthameva. Sikkhāpadapaññattiyampi ayamevattho. Padabhājane pana yassa aññabhāgiyassa adhikaraṇassa kiñcidesaṃ lesamattaṃ upādāya pārājikena dhammena anuddhaṃseyya , taṃ yasmā aṭṭhuppattivaseneva āvibhūtaṃ, tasmā na vibhattanti veditabbaṃ.
Và ở đây, phần là (cái gì đó) được thấy, được chỉ định, (cái gì đó) của người này được gọi (như vậy). Đây là tên gọi của một phần nào đó trong (các yếu tố) như dòng dõi v.v… Chút cớ là (cái gì đó) dính líu, liên quan đến một sự việc khác, chỉ bám vào một chút bằng cách gọi tên mà thôi. Đây là tên gọi của một phần nào đó trong (các yếu tố) như dòng dõi v.v… Sau đó, ý nghĩa rõ ràng. Trong phần chế định điều học, ý nghĩa cũng như vậy. Tuy nhiên, trong phần phân tích từ, (trường hợp) người nào vu khống (người khác) bằng pháp bất cộng trụ dựa vào một phần nào đó, một chút cớ của vụ tranh chấp thuộc phần khác, điều đó, vì đã được biểu hiện chỉ dựa trên sự phát sinh của câu chuyện, do đó, cần hiểu là không được phân tích (chi tiết).

393. Yāni pana adhikaraṇanti vacanasāmaññato atthuddhāravasena pavattāni cattāri adhikaraṇāni, tesaṃ aññabhāgiyatā ca tabbhāgiyatā ca yasmā apākaṭā jānitabbā ca vinayadharehi, tasmā vacanasāmaññato laddhaṃ adhikaraṇaṃ nissāya taṃ āvikaronto ‘‘aññabhāgiyassa adhikaraṇassāti āpattaññabhāgiyaṃ vā hoti adhikaraṇaññabhāgiyaṃ vā’’tiādimāha. Yā ca sā avasāne āpattaññabhāgiyassa adhikaraṇassa vasena codanā vuttā, tampi dassetuṃ ayaṃ sabbādhikaraṇānaṃ tabbhāgiyaaññabhāgiyatā samāhaṭāti veditabbā.
393. Còn bốn loại vụ tranh chấp nào diễn tiến theo cách trích dẫn ý nghĩa từ ý nghĩa chung của từ “vụ tranh chấp”, vì tính chất thuộc phần khác và tính chất thuộc cùng phần của chúng không rõ ràng và cần được các vị Trì Luật biết. Do đó, dựa vào “vụ tranh chấp” có được từ ý nghĩa chung của từ, để làm rõ điều đó, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Vụ tranh chấp thuộc phần khác là vụ tranh chấp về tội thuộc phần khác, hoặc là vụ tranh chấp (khác) thuộc phần khác“. Và sự tố cáo nào đã được nói ở cuối dựa trên vụ tranh chấp về tội thuộc phần khác, để chỉ rõ cả điều đó, cần hiểu rằng tính chất thuộc cùng phần và thuộc phần khác của tất cả các vụ tranh chấp này được tổng hợp lại.

Tattha ca āpattaññabhāgiyaṃ vāti paṭhamaṃ uddiṭṭhattā ‘‘kathañca āpatti āpattiyā aññabhāgiyā hotī’’ti niddese ārabhitabbe yasmā āpattādhikaraṇassa tabbhāgiyavicāraṇāyaṃyeva ayamattho āgamissati, tasmā evaṃ anārabhitvā ‘‘kathañca adhikaraṇaṃ adhikaraṇassa aññabhāgiya’’nti pacchimapadaṃyeva gahetvā niddeso āraddhoti veditabbo.
Và ở đó, (trong cụm từ) “Hoặc (vụ tranh chấp về) tội thuộc phần khác”: do (từ “tội”) được nêu ra trước, đáng lẽ phần giải thích phải được bắt đầu (bằng câu) “Và làm thế nào một tội lại thuộc phần khác của một tội (khác)?”, nhưng vì ý nghĩa này sẽ xuất hiện chính trong phần xem xét tính chất thuộc cùng phần của vụ tranh chấp về tội, do đó, cần hiểu rằng phần giải thích đã được bắt đầu bằng cách chỉ lấy từ cuối cùng “Và làm thế nào một vụ tranh chấp lại thuộc phần khác của một vụ tranh chấp (khác)?”, mà không bắt đầu như vậy (như đã nói ở trên).

Tattha aññabhāgiyavāro uttānatthoyeva. Ekamekañhi adhikaraṇaṃ itaresaṃ tiṇṇaṃ tiṇṇaṃ aññabhāgiyaṃ aññapakkhiyaṃ aññakoṭṭhāsiyaṃ hoti, vatthuvisabhāgattā, tabbhāgiyavāre pana vivādādhikaraṇaṃ vivādādhikaraṇassa tabbhāgiyaṃ tappakkhiyaṃ taṃkoṭṭhāsiyaṃ vatthusabhāgattā, tathā anuvādādhikaraṇaṃ anuvādādhikaraṇassa. Kathaṃ? Buddhakālato paṭṭhāya hi aṭṭhārasa bhedakaravatthūni nissāya uppannavivādo ca idāni uppajjanakavivādo ca vatthusabhāgatāya ekaṃ vivādādhikaraṇameva hoti, tathā buddhakālato paṭṭhāya catasso vipattiyo nissāya uppannaanuvādo ca idāni uppajjanakaanuvādo ca vatthusabhāgatāya ekaṃ anuvādādhikaraṇameva hoti. Yasmā pana āpattādhikaraṇaṃ āpattādhikaraṇassa sabhāgavisabhāgavatthuto sabhāgasarikkhāsarikkhato ca ekaṃsena tabbhāgiyaṃ na hoti, tasmā āpattādhikaraṇaṃ āpattādhikaraṇassa siyā tabbhāgiyaṃ siyā aññabhāgiyanti vuttaṃ. Tattha ādito paṭṭhāya aññabhāgiyassa paṭhamaṃ niddiṭṭhattā idhāpi aññabhāgiyameva paṭhamaṃ niddiṭṭhaṃ, tattha aññabhāgiyattañca parato tabbhāgiyattañca vuttanayeneva veditabbaṃ.
Ở đó, trường hợp thuộc phần khác thì ý nghĩa rõ ràng. Vì mỗi một vụ tranh chấp đều thuộc phần khác, phe khác, loại khác của ba vụ còn lại, do tính chất khác biệt về sự việc. Còn trong trường hợp thuộc cùng phần, vụ tranh chấp về sự tranh cãi thuộc cùng phần, cùng phe, cùng loại của vụ tranh chấp về sự tranh cãi (khác), do tính chất tương đồng về sự việc; cũng vậy, vụ tranh chấp về sự khiển trách (thuộc cùng phần) của vụ tranh chấp về sự khiển trách (khác). Bằng cách nào? Vì sự tranh cãi khởi lên dựa trên mười tám sự việc gây chia rẽ kể từ thời Đức Phật và sự tranh cãi khởi lên hiện nay, do tính chất tương đồng về sự việc, đều là một vụ tranh chấp về sự tranh cãi. Cũng vậy, sự khiển trách khởi lên dựa trên bốn sự hư hỏng kể từ thời Đức Phật và sự khiển trách khởi lên hiện nay, do tính chất tương đồng về sự việc, đều là một vụ tranh chấp về sự khiển trách. Tuy nhiên, vì vụ tranh chấp về tội, đối với một vụ tranh chấp về tội (khác), không hoàn toàn thuộc cùng phần do sự việc tương đồng và khác biệt, do sự tương đồng và khác biệt về đặc điểm giống nhau. Do đó, đã được nói: “Vụ tranh chấp về tội, đối với một vụ tranh chấp về tội (khác), có thể thuộc cùng phần, có thể thuộc phần khác“. Ở đó, vì (trường hợp) thuộc phần khác được chỉ định trước ngay từ đầu, nên ở đây (trường hợp) thuộc phần khác cũng được chỉ định trước. Ở đó, tính chất thuộc phần khác và sau đó là tính chất thuộc cùng phần cần được hiểu theo phương pháp đã nói.

Kiccādhikaraṇaṃkiccādhikaraṇassa tabbhāgiyanti ettha pana buddhakālato paṭṭhāya cattāri saṅghakammāni nissāya uppannaṃ adhikaraṇañca idāni cattāri saṅghakammāni nissāya uppajjanakaṃ adhikaraṇañca sabhāgatāya sarikkhatāya ca ekaṃ kiccādhikaraṇameva hoti. Kiṃ pana saṅghakammāni nissāya uppannaṃ adhikaraṇaṃ kiccādhikaraṇaṃ, udāhu saṅghakammānamevetaṃ adhivacananti? Saṅghakammānamevetaṃ adhivacanaṃ. Evaṃ santepi saṅghakammaṃ nāma ‘‘idañcidañca evaṃ kattabba’’nti yaṃ kammalakkhaṇaṃ manasikaroti taṃ nissāya uppajjanato purimaṃ purimaṃ saṅghakammaṃ nissāya uppajjanato ca saṅghakammāni nissāya uppannaṃ adhikaraṇaṃ kiccādhikaraṇanti vuttaṃ.
Vụ tranh chấp về phận sự thuộc cùng phần của vụ tranh chấp về phận sự: ở đây, vụ tranh chấp khởi lên dựa trên bốn hành sự của Tăng chúng kể từ thời Đức Phật và vụ tranh chấp khởi lên dựa trên bốn hành sự của Tăng chúng hiện nay, do tính chất tương đồng và đặc điểm giống nhau, đều là một vụ tranh chấp về phận sự. Vậy thì, vụ tranh chấp khởi lên dựa trên các hành sự của Tăng chúng là vụ tranh chấp về phận sự, hay đây chỉ là tên gọi của chính các hành sự của Tăng chúng? Đây chỉ là tên gọi của chính các hành sự của Tăng chúng. Dù là như vậy, hành sự của Tăng chúng, do khởi lên dựa vào việc tác ý đến đặc điểm của hành sự (nghĩ rằng) “Việc này việc nọ phải được làm như vầy”, và do khởi lên dựa trên hành sự của Tăng chúng trước đó, nên vụ tranh chấp khởi lên dựa trên các hành sự của Tăng chúng được gọi là vụ tranh chấp về phận sự.

394.Kiñci desaṃ lesamattaṃ upādāyāti ettha pana yasmā desoti vā lesamattoti vā pubbe vuttanayeneva byañjanato nānaṃ atthato ekaṃ, tasmā ‘‘leso nāma dasa lesā jātileso nāmaleso’’tiādimāha. Tattha jātiyeva jātileso. Esa nayo sesesu.
394. Dựa vào một phần nào đó, một chút cớ: ở đây, vì “phần” hay “chút cớ”, theo phương pháp đã nói trước đây, khác nhau về văn tự nhưng giống nhau về ý nghĩa. Do đó, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Gọi là chút cớ, có mười loại chút cớ: chút cớ về dòng dõi, chút cớ về tên gọi“. Ở đó, chính dòng dõi là chút cớ về dòng dõi. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho các (trường hợp) còn lại.

395. Idāni tameva lesaṃ vitthārato dassetuṃ yathā taṃ upādāya anuddhaṃsanā hoti tathā savatthukaṃ katvā dassento ‘‘jātileso nāma khattiyo diṭṭho hotī’’tiādimāha. Tattha khattiyo diṭṭho hotīti añño koci khattiyajātiyo iminā codakena diṭṭho hoti. Pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpajjantoti methunadhammādīsu aññataraṃ āpajjanto. Aññaṃ khattiyaṃ passitvācodetīti atha so aññaṃ attano veriṃ khattiyajātiyaṃ bhikkhuṃ passitvā taṃ khattiyajātilesaṃ gahetvā evaṃ codeti ‘‘khattiyo mayā diṭṭho pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpajjanto, tvaṃ khattiyo, pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpannosī’’ atha vā ‘‘tvaṃ so khattiyo, na añño, pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpannosi, assamaṇosi asakyaputtiyosi natthi tayā saddhiṃ uposatho vā pavāraṇā vā saṅghakammaṃ vā’’ti, āpatti vācāya vācāya saṅghādisesassa. Ettha ca tesaṃ khattiyānaṃ aññamaññaṃ asadisassa tassa tassa dīghādino vā diṭṭhādino vā vasena aññabhāgiyatā khattiyajātipaññattiyā ādhāravasena adhikaraṇatā ca veditabbā, etenupāyena sabbapadesu yojanā veditabbā.
395. Bây giờ, để chỉ rõ chính chút cớ ấy một cách chi tiết, (và) để chỉ rõ bằng cách trình bày kèm theo câu chuyện về cách mà sự vu khống xảy ra dựa vào đó, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Gọi là chút cớ về dòng dõi: một người Sát-đế-lỵ đã được thấy“. Ở đó, “Một người Sát-đế-lỵ đã được thấy” nghĩa là một người nào đó thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ khác đã được người tố cáo này thấy. “Đang phạm pháp bất cộng trụ” nghĩa là đang phạm một trong các (tội) như hành vi giao hợp v.v… “Sau khi thấy một người Sát-đế-lỵ khác rồi tố cáo” nghĩa là: bấy giờ, vị ấy, sau khi thấy một vị Tỳ khưu khác thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ là kẻ thù của mình, bèn dựa vào chút cớ về dòng dõi Sát-đế-lỵ ấy mà tố cáo như vầy: “Tôi đã thấy một người Sát-đế-lỵ đang phạm pháp bất cộng trụ; ngươi là người Sát-đế-lỵ, ngươi đã phạm pháp bất cộng trụ”; hoặc “Ngươi chính là người Sát-đế-lỵ đó, không phải người khác; ngươi đã phạm pháp bất cộng trụ, ngươi không phải Sa-môn, ngươi không phải là con của dòng họ Thích Ca, không có việc Bố-tát, hoặc Tự tứ, hoặc hành sự của Tăng chúng cùng với ngươi”; đối với mỗi lời nói, (phạm tội) Tăng Tàn. Và ở đây, tính chất thuộc phần khác (của họ) dựa trên sự khác biệt về chiều cao v.v… hoặc sự thấy v.v… của mỗi người Sát-đế-lỵ không giống nhau ấy, và tính chất là vụ tranh chấp (theo nghĩa cơ sở) dựa trên nền tảng là sự chế định về dòng dõi Sát-đế-lỵ, cần được hiểu. Bằng phương tiện này, sự áp dụng trong tất cả các trường hợp cần được hiểu.

400. Pattalesaniddese ca sāṭakapattoti lohapattasadiso susaṇṭhāno succhavi siniddho bhamaravaṇṇo mattikāpatto vuccati. Sumbhakapattoti pakatimattikāpatto.
400. Và trong phần giải thích về chút cớ liên quan đến bát: bát sāṭaka được gọi là bát đất có hình dáng đẹp, da láng, bóng, màu như con ong, giống như bát sắt. Bát sumbhaka là bát đất thông thường.

406. Yasmā pana āpattilesassa ekapadeneva saṅkhepato niddeso vutto, tasmā vitthāratopi taṃ dassetuṃ ‘‘bhikkhu saṅghādisesaṃ ajjhāpajjanto diṭṭho hotī’’tiādi vuttaṃ. Kasmā panassa tattheva niddesaṃ avatvā idha visuṃ vuttoti? Sesaniddesehi asabhāgattā. Sesaniddesā hi aññaṃ disvā aññassa codanāvasena vuttā. Ayaṃ pana ekameva aññaṃ āpattiṃ āpajjantaṃ disvā aññāya āpattiyā codanāvasena vutto. Yadi evaṃ kathaṃ aññabhāgiyaṃ adhikaraṇaṃ hotīti? Āpattiyā. Teneva vuttaṃ – ‘‘evampi āpattaññabhāgiyañca hoti leso ca upādinno’’ti. Yañhi so saṅghādisesaṃ āpanno taṃ pārājikassa aññabhāgiyaṃ adhikaraṇaṃ. Tassa pana aññabhāgiyassa adhikaraṇassa leso nāma yo so sabbakhattiyānaṃ sādhāraṇo khattiyabhāvo viya sabbāpattīnaṃ sādhāraṇo āpattibhāvo. Etenupāyena sesāpattimūlakanayo codāpakavāro ca veditabbo.
406. Tuy nhiên, vì phần giải thích về chút cớ liên quan đến tội đã được nói một cách tóm tắt chỉ bằng một từ, do đó, để chỉ rõ điều đó một cách chi tiết, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Một vị Tỳ khưu đã được thấy đang phạm tội Tăng Tàn”. Vậy tại sao không nói phần giải thích của nó ở chính nơi đó mà lại nói riêng ở đây? Do không tương đồng với các phần giải thích còn lại. Vì các phần giải thích còn lại được nói theo cách thấy một (việc) rồi tố cáo một (người) khác. Còn (trường hợp) này được nói theo cách thấy chính một người đang phạm một tội khác, rồi tố cáo về một tội (khác nữa). Nếu vậy, làm thế nào vụ tranh chấp lại thuộc phần khác? (Đáp:) Do tội. Chính vì vậy đã được nói: “Như vậy cũng là (vụ tranh chấp về) tội thuộc phần khác, và chút cớ cũng đã được dựa vào”. Vì (tội) Tăng Tàn mà vị ấy đã phạm, đó là vụ tranh chấp thuộc phần khác của (tội) bất cộng trụ. Còn chút cớ của vụ tranh chấp thuộc phần khác ấy là bản chất tội lỗi chung của tất cả các tội, giống như bản chất Sát-đế-lỵ chung của tất cả những người Sát-đế-lỵ. Bằng phương tiện này, phương pháp (tố cáo) dựa trên các tội còn lại và trường hợp người nhờ tố cáo cũng cần được hiểu.

408.Anāpatti tathāsaññī codeti vā codāpeti vāti ‘‘pārājikaṃyeva ayaṃ āpanno’’ti yo evaṃ tathāsaññī codeti vā codāpeti vā tassa anāpatti. Sesaṃ sabbattha uttānameva. Samuṭṭhānādīnipi paṭhamaduṭṭhadosasadisānevāti.
408. Không phạm tội (nếu) người có nhận thức như vậy tố cáo hoặc nhờ người khác tố cáo nghĩa là: người nào, có nhận thức như vậy (nghĩ rằng) “Người này chắc chắn đã phạm tội bất cộng trụ”, rồi tố cáo hoặc nhờ người khác tố cáo, người ấy không phạm tội. Phần còn lại, ở mọi nơi, ý nghĩa đều rõ ràng. Sự khởi lên v.v… cũng giống như (điều học về) lỗi sân hận thứ nhất.

Dutiyaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Thứ Hai Về Lỗi Sân Hận đã hoàn tất.

10. Paṭhamasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā

10. Giải Thích Điều Học Thứ Nhất Về Việc Chia Rẽ Tăng

409.Tenasamayena buddho bhagavāti saṅghabhedasikkhāpadaṃ. Tattha atha kho devadattotiādīsu yo ca devadatto, yathā ca pabbajito, yena ca kāraṇena kokālikādayo upasaṅkamitvā ‘‘etha mayaṃ āvuso samaṇassa gotamassa saṅghabhedaṃ karissāma cakkabheda’’nti āha. Taṃ sabbaṃ saṅghabhedakkhandhake (cūḷava. 343) āgatameva. Pañcavatthuyācanā pana kiñcāpi tattheva āgamissati. Atha kho idhāpi āgatattā yadettha vattabbaṃ, taṃ vatvāva gamissāma.
409. “Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, bậc Thế Tôn” là (phần mở đầu của) điều học về việc chia rẽ Tăng. Ở đó, trong (các đoạn) như “Bấy giờ, Devadatta” v.v…: Devadatta là ai, đã xuất gia như thế nào, và vì nguyên nhân nào mà đã đến gần Kokālika v.v… rồi nói: “Này các hiền giả, chúng ta hãy làm chia rẽ Tăng của Sa-môn Gotama, (làm) chia rẽ bánh xe (Pháp)”. Tất cả điều đó đã có trong Chương Về Việc Chia Rẽ Tăng (cūḷava. 343). Còn việc yêu cầu năm điều, mặc dù sẽ xuất hiện ở chính nơi đó, nhưng vì ở đây cũng đã xuất hiện, nên điều gì cần nói ở đây, chúng tôi sẽ nói rồi mới đi tiếp.

Sādhu bhanteti āyācanā. Bhikkhū yāvajīvaṃ āraññikā assūti āraññikadhutaṅgaṃ samādāya sabbepi bhikkhū yāva jīvanti tāva āraññikā hontu , araññeyeva vasantu. Yo gāmantaṃ osareyya vajjaṃ naṃ phuseyyāti yo ekabhikkhupi araññaṃ pahāya nivāsatthāya gāmantaṃ osareyya, vajjaṃ taṃ phuseyya naṃ bhikkhuṃ doso phusatu, āpattiyā naṃ bhagavā kāretū’’ti adhippāyena vadati. Esa nayo sesavatthūsupi.
“Lành thay, thưa Đại đức” là lời yêu cầu. “Mong rằng các Tỳ khưu trọn đời là người ở rừng” nghĩa là: sau khi thọ trì đầu-đà ở rừng, tất cả các Tỳ khưu, chừng nào còn sống, hãy là người ở rừng, hãy chỉ ở trong rừng. “Người nào đi vào xóm làng, lỗi lầm hãy chạm đến người ấy” nghĩa là: bất kỳ vị Tỳ khưu nào từ bỏ rừng rồi đi vào xóm làng để ở, lỗi lầm hãy chạm đến người ấy; mong rằng lỗi lầm chạm đến vị Tỳ khưu ấy; (Devadatta) nói với chủ ý “Mong Đức Thế Tôn hãy xử phạt vị ấy theo tội”. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho các điều còn lại.

410.Janaṃ saññāpessāmāti janaṃ amhākaṃ appicchatādibhāvaṃ jānāpessāma, atha vā paritosessāma pasādessāmāti vuttaṃ hoti.
410. “Chúng ta sẽ làm cho dân chúng hiểu” nghĩa là: chúng ta sẽ làm cho dân chúng biết trạng thái ít ham muốn v.v… của chúng ta; hoặc, có nghĩa là chúng ta sẽ làm cho (họ) hài lòng, làm cho (họ) có lòng tin.

Imāni pana pañca vatthūni yācato devadattassa vacanaṃ sutvāva aññāsi bhagavā ‘‘saṅghabhedatthiko hutvā ayaṃ yācatī’’ti. Yasmā pana tāni anujāniyamānāni bahūnaṃ kulaputtānaṃ maggantarāyāya saṃvattanti, tasmā bhagavā ‘‘alaṃ devadattā’’ti paṭikkhipitvā ‘‘yo icchati āraññiko hotū’’tiādimāha.
Tuy nhiên, sau khi nghe lời của Devadatta đang xin năm điều này, Đức Thế Tôn đã biết rằng: “Người này xin vì muốn chia rẽ Tăng”. Tuy nhiên, vì nếu cho phép những điều đó, chúng sẽ trở thành chướng ngại cho con đường (tu tập) của nhiều thiện nam tử. Do đó, Đức Thế Tôn, sau khi từ chối (nói): “Thôi đủ rồi, Devadatta!“, đã nói bắt đầu bằng “Người nào muốn, hãy là người ở rừng“.

Ettha pana bhagavato adhippāyaṃ viditvā kulaputtena attano patirūpaṃ veditabbaṃ. Ayañhettha bhagavato adhippāyo – ‘‘eko bhikkhu mahajjhāsayo hoti mahussāho, sakkoti gāmantasenāsanaṃ paṭikkhipitvā araññe viharanto dukkhassantaṃ kātuṃ. Eko dubbalo hoti appathāmo araññe na sakkoti, gāmanteyeva sakkoti. Eko mahabbalo samappavattadhātuko adhivāsanakhantisampanno iṭṭhāniṭṭhesu samacitto araññepi gāmantepi sakkotiyeva. Eko neva gāmante na araññe sakkoti padaparamo hoti.
Tuy nhiên, ở đây, sau khi biết chủ ý của Đức Thế Tôn, vị thiện nam tử cần hiểu điều thích hợp với mình. Đây là chủ ý của Đức Thế Tôn ở đây: “Một vị Tỳ khưu có ý muốn cao thượng, có sự cố gắng lớn, có khả năng từ bỏ sàng tọa ở xóm làng, sống trong rừng rồi làm cho khổ đau chấm dứt. Một vị yếu đuối, ít sức lực, không thể (tu tập) trong rừng, chỉ có thể (tu tập) ở xóm làng. Một vị có sức mạnh lớn, có các yếu tố vận hành đều đặn, có đầy đủ sự kham nhẫn chịu đựng, có tâm bình đẳng đối với (đối tượng) thích và không thích, có thể (tu tập) cả trong rừng lẫn ở xóm làng. Một vị không thể (tu tập) ở xóm làng cũng không (thể tu tập) trong rừng, (chỉ) là người tối đa về văn tự (học thuộc lòng)”.

Tatra yvāyaṃ mahajjhāsayo hoti mahussāho, sakkoti gāmantasenāsanaṃ paṭikkhipitvā araññe viharanto dukkhassantaṃ kātuṃ, so araññeyeva vasatu, idamassa patirūpaṃ. Saddhivihārikādayopi cassa anusikkhamānā araññe vihātabbameva maññissanti.
Ở đó, vị nào có ý muốn cao thượng, có sự cố gắng lớn, có khả năng từ bỏ sàng tọa ở xóm làng, sống trong rừng rồi làm cho khổ đau chấm dứt, vị ấy hãy chỉ ở trong rừng; điều này thích hợp với vị ấy. Và các vị cùng ở chung v.v… của vị ấy, khi học theo, cũng sẽ nghĩ rằng chỉ nên ở trong rừng.

Yo pana dubbalo hoti appathāmo gāmanteyeva sakkoti dukkhassantaṃ kātuṃ, na araññe so gāmanteyeva vasatu, yvāyaṃ mahabbalo samappavattadhātuko adhivāsanakhantisampanno iṭṭhāniṭṭhesu samacitto araññepi gāmantepi sakkotiyeva, ayampi gāmantasenāsanaṃ pahāya araññe viharatu, idamassa patirūpaṃ saddhivihārikāpi hissa anusikkhamānā araññe vihātabbaṃ maññissanti.
Còn vị nào yếu đuối, ít sức lực, chỉ có thể làm cho khổ đau chấm dứt ở xóm làng, không (thể làm) trong rừng, vị ấy hãy chỉ ở xóm làng. Vị nào có sức mạnh lớn, có các yếu tố vận hành đều đặn, có đầy đủ sự kham nhẫn chịu đựng, có tâm bình đẳng đối với (đối tượng) thích và không thích, có thể (tu tập) cả trong rừng lẫn ở xóm làng, vị này cũng hãy từ bỏ sàng tọa ở xóm làng mà sống trong rừng. Điều này thích hợp với vị ấy; vì các vị cùng ở chung của vị ấy, khi học theo, cũng sẽ nghĩ rằng nên ở trong rừng.

Yo panāyaṃ neva gāmante na araññe sakkoti padaparamo hoti. Ayampi araññeyeva vasatu. Ayaṃ hissa dhutaṅgasevanā kammaṭṭhānabhāvanā ca āyatiṃ maggaphalānaṃ upanissayo bhavissati. Saddhivihārikādayo cassa anusikkhamānā araññe vihātabbaṃ maññissantīti.
Còn vị này, người không thể (tu tập) ở xóm làng cũng không (thể tu tập) trong rừng, (chỉ) là người tối đa về văn tự. Vị này cũng hãy chỉ ở trong rừng. Vì việc thực hành đầu-đà và sự tu tập đề mục thiền định này của vị ấy sẽ là duyên hỗ trợ cho đạo và quả trong tương lai. Và các vị cùng ở chung v.v… của vị ấy, khi học theo, cũng sẽ nghĩ rằng nên ở trong rừng.

Evaṃ yvāyaṃ dubbalo hoti appathāmo gāmanteyeva viharanto sakkoti dukkhassantaṃ kātuṃ na araññe, imaṃ puggalaṃ sandhāya bhagavā ‘‘yo icchati gāmante viharatū’’ti āha. Iminā ca puggalena aññesampi dvāraṃ dinnaṃ.
Như vậy, vị nào yếu đuối, ít sức lực, chỉ có thể làm cho khổ đau chấm dứt khi sống ở xóm làng, không (thể làm) trong rừng; nhắm đến người này, Đức Thế Tôn đã nói: “Người nào muốn, hãy sống ở xóm làng”. Và do người này, cánh cửa cũng đã được mở cho những người khác.

Yadi pana bhagavā devadattassa vādaṃ sampaṭiccheyya, yvāyaṃ puggalo pakatiyā dubbalo hoti appathāmo, yopi daharakāle araññavāsaṃ abhisambhuṇitvā jiṇṇakāle vā vātapittādīhi samuppannadhātukkhobhakāle vā nābhisambhuṇāti, gāmanteyeva pana viharanto sakkoti dukkhassantaṃ kātuṃ, tesaṃ ariyamaggupacchedo bhaveyya, arahattaphalādhigamo na bhaveyya, uddhammaṃ ubbinayaṃ vilomaṃ aniyyānikaṃ satthu sāsanaṃ bhaveyya, satthā ca tesaṃ asabbaññū assa ‘‘sakavādaṃ chaḍḍetvā devadattavāde patiṭṭhito’’ti gārayho ca bhaveyya. Tasmā bhagavā evarūpe puggale saṅgaṇhanto devadattassa vādaṃ paṭikkhipi. Etenevūpāyena piṇḍapātikavatthusmimpi paṃsukūlikavatthusmimpi aṭṭha māse rukkhamūlikavatthusmimpi vinicchayo veditabbo. Cattāro pana māse rukkhamūlasenāsanaṃ paṭikkhittameva.
Tuy nhiên, nếu Đức Thế Tôn chấp nhận quan điểm của Devadatta, thì đối với người vốn dĩ yếu đuối, ít sức lực; và cả người nào khi còn trẻ đã có thể sống trong rừng, nhưng khi già yếu hoặc vào lúc các yếu tố bị xáo trộn do gió, mật v.v… khởi lên mà không thể (sống trong rừng nữa), mà chỉ có thể làm cho khổ đau chấm dứt khi sống ở xóm làng; đối với họ, sự đoạn tuyệt Thánh đạo sẽ xảy ra, sự chứng đắc A-la-hán quả sẽ không xảy ra. Giáo pháp của Bậc Đạo Sư sẽ trở thành phi pháp, phi luật, trái ngược, không dẫn đến giải thoát. Và Bậc Đạo Sư đối với họ sẽ không phải là bậc Toàn Tri, và sẽ bị khiển trách (rằng): “Đã từ bỏ quan điểm của mình mà đứng trên quan điểm của Devadatta”. Do đó, Đức Thế Tôn, vì muốn nhiếp hộ những người như vậy, đã từ chối quan điểm của Devadatta. Bằng chính phương tiện này, sự quyết đoán cũng cần được hiểu trong trường hợp (đầu-đà) chỉ ăn đồ khất thực, trong trường hợp (đầu-đà) mặc y phấn tảo, (và) trong trường hợp (đầu-đà) ở gốc cây trong tám tháng. Tuy nhiên, sàng tọa ở gốc cây trong bốn tháng thì đã bị từ chối.

Macchamaṃsavatthusmiṃ tikoṭiparisuddhanti tīhi koṭīhi parisuddhaṃ, diṭṭhādīhi aparisuddhīhi virahitanti attho. Tenevāha – ‘‘adiṭṭhaṃ, asutaṃ, aparisaṅkita’’nti. Tattha ‘‘adiṭṭhaṃ’’ nāma bhikkhūnaṃ atthāya migamacche vadhitvā gayhamānaṃ adiṭṭhaṃ. ‘‘Asutaṃ’’ nāma bhikkhūnaṃ atthāya migamacche vadhitvā gahitanti asutaṃ. ‘‘Aparisaṅkitaṃ’’ pana diṭṭhaparisaṅkitaṃ sutaparisaṅkitaṃ tadubhayavimuttaparisaṅkitañca ñatvā tabbipakkhato jānitabbaṃ. Kathaṃ? Idha bhikkhū passanti manusse jālavāgurādihatthe gāmato va nikkhamante araññe vā vicarante, dutiyadivase ca nesaṃ taṃ gāmaṃ piṇḍāya paviṭṭhānaṃ samacchamaṃsaṃ piṇḍapātaṃ abhiharanti. Te tena diṭṭhena parisaṅkanti ‘‘bhikkhūnaṃ nukho atthāya kata’’nti idaṃ diṭṭhaparisaṅkitaṃ, nāma etaṃ gahetuṃ na vaṭṭati. Yaṃ evaṃ aparisaṅkitaṃ taṃ vaṭṭati. Sace pana te manussā ‘‘kasmā bhante na gaṇhathā’’ti pucchitvā tamatthaṃ sutvā ‘‘nayidaṃ bhante bhikkhūnaṃ atthāya kataṃ, amhehi attano atthāya vā rājayuttādīnaṃ atthāya vā kata’’nti vadanti kappati.
Trong trường hợp thịt cá: trong sạch theo ba phương diện nghĩa là trong sạch theo ba phương diện; ý là không có sự không trong sạch do thấy v.v… Chính vì vậy, (Ngài) đã nói: “Không thấy, không nghe, không nghi ngờ”. Ở đó, “Không thấy” là không thấy (con vật) bị giết và lấy (thịt) thú, cá vì lợi ích của các Tỳ khưu. “Không nghe” là không nghe (nói rằng thịt) thú, cá đã bị giết và lấy vì lợi ích của các Tỳ khưu. Còn “Không nghi ngờ”, sau khi biết nghi ngờ do thấy, nghi ngờ do nghe, và nghi ngờ không thuộc cả hai (trường hợp) đó, cần được hiểu theo cách đối nghịch với chúng. Bằng cách nào? Ở đây, các Tỳ khưu thấy những người tay cầm lưới, bẫy v.v… đi ra từ làng hoặc đi lại trong rừng; và vào ngày thứ hai, khi họ vào làng ấy để khất thực, (người ta) dâng cúng vật thực có thịt cá. Họ, do điều đã thấy đó, nghi ngờ rằng: “Không biết (thịt cá này) có phải được làm vì lợi ích của các Tỳ khưu không?”; đây gọi là nghi ngờ do thấy; không được phép nhận (vật thực) này. (Vật thực) nào không bị nghi ngờ như vậy, (vật thực) đó được phép (nhận). Tuy nhiên, nếu những người ấy, sau khi được hỏi “Thưa Đại đức, tại sao các ngài không nhận?”, rồi nghe lý do đó, nói rằng: “Thưa Đại đức, (thịt cá) này không phải được làm vì lợi ích của các Tỳ khưu; chúng tôi đã làm vì lợi ích của chính chúng tôi hoặc vì lợi ích của các quan chức triều đình v.v…”, thì thích hợp (để nhận).

Naheva kho bhikkhū passanti; apica suṇanti, manussā kira jālavāgurādihatthā gāmato vā nikkhamanti, araññe vā vicarantī’’ti. Dutiyadivase ca nesaṃ taṃ gāmaṃ piṇḍāya paviṭṭhānaṃ ‘‘bhikkhūnaṃ nukho atthāya kata’’nti idaṃ ‘‘sutaparisaṅkitaṃ’’ nāma. Etaṃ gahetuṃ na vaṭṭati, yaṃ evaṃ aparisaṅkitaṃ taṃ vaṭṭati. Sace pana te manussā ‘‘kasmā, bhante, na gaṇhathā’’ti pucchitvā tamatthaṃ sutvā ‘‘nayidaṃ, bhante, bhikkhūnaṃ atthāya kataṃ, amhehi attano atthāya vā rājayuttādīnaṃ atthāya vā kata’’nti vadanti kappati.
Các Tỳ khưu quả thực không thấy; nhưng họ nghe rằng: “Tương truyền, những người tay cầm lưới, bẫy v.v… đi ra từ làng hoặc đi lại trong rừng”. Và vào ngày thứ hai, khi họ vào làng ấy để khất thực, (sự nghi ngờ rằng) “Không biết (thịt cá này) có phải được làm vì lợi ích của các Tỳ khưu không?” – đây gọi là “nghi ngờ do nghe”. Không được phép nhận (vật thực) này; (vật thực) nào không bị nghi ngờ như vậy, (vật thực) đó được phép (nhận). Tuy nhiên, nếu những người ấy, sau khi được hỏi “Thưa Đại đức, tại sao các ngài không nhận?”, rồi nghe lý do đó, nói rằng: “Thưa Đại đức, (thịt cá) này không phải được làm vì lợi ích của các Tỳ khưu; chúng tôi đã làm vì lợi ích của chính chúng tôi hoặc vì lợi ích của các quan chức triều đình v.v…”, thì thích hợp (để nhận).

Naheva kho pana bhikkhū passanti, na suṇanti; apica kho tesaṃ gāmaṃ piṇḍāya paviṭṭhānaṃ pattaṃ gahetvā samacchamaṃsaṃ piṇḍapātaṃ abhisaṅkharitvā abhiharanti, te parisaṅkanti ‘‘bhikkhūnaṃ nukho atthāya kata’’nti idaṃ ‘‘tadubhayavimuttaparisaṅkitaṃ’’ nāma. Etaṃ gahetuṃ na vaṭṭati. Yaṃ evaṃ aparisaṅkitaṃ taṃ vaṭṭati. Sace pana te manussā ‘‘kasmā, bhante, na gaṇhathā’’ti pucchitvā tamatthaṃ sutvā ‘‘nayidaṃ, bhante, bhikkhūnaṃ atthāya kataṃ amhehi attano atthāya vā rājayuttādīnaṃ atthāya vā kataṃ pavattamaṃsaṃ vā kappiyameva labhitvā bhikkhūnaṃ atthāya sampādita’’nti vadanti kappati. Matānaṃ petakiccatthāya maṅgalādīnaṃ vā atthāya katepi eseva nayo. Yaṃ yañhi bhikkhūnaṃyeva atthāya akataṃ, yattha ca nibbematiko hoti, taṃ sabbaṃ kappati.
Tuy nhiên, các Tỳ khưu quả thực không thấy, không nghe; nhưng khi họ vào làng để khất thực, (người ta) nhận lấy bát rồi sửa soạn vật thực có thịt cá và dâng cúng. Họ nghi ngờ rằng: “Không biết (thịt cá này) có phải được làm vì lợi ích của các Tỳ khưu không?”; đây gọi là “sự nghi ngờ không thuộc cả hai (trường hợp thấy và nghe)”. Không được phép nhận (vật thực) này. (Vật thực) nào không bị nghi ngờ như vậy, (vật thực) đó được phép (nhận). Tuy nhiên, nếu những người ấy, sau khi được hỏi “Thưa Đại đức, tại sao các ngài không nhận?”, rồi nghe lý do đó, nói rằng: “Thưa Đại đức, (thịt cá) này không phải được làm vì lợi ích của các Tỳ khưu; chúng tôi đã làm vì lợi ích của chính chúng tôi hoặc vì lợi ích của các quan chức triều đình v.v…, hoặc là thịt có sẵn, hoặc (chúng tôi) chỉ nhận được (thịt) thích hợp rồi chuẩn bị vì lợi ích của các Tỳ khưu”, thì thích hợp (để nhận). Ngay cả đối với (thịt cá) được làm vì mục đích tang lễ cho người chết, hoặc vì mục đích lễ cưới hỏi v.v…, phương pháp cũng như vậy. Bất cứ (thịt cá) nào không được làm chỉ vì lợi ích của các Tỳ khưu, và ở nơi nào (vị Tỳ khưu) không có sự nghi ngờ, tất cả (thịt cá) đó đều thích hợp (để nhận).

Sace pana ekasmiṃ vihāre bhikkhū uddissa kataṃ hoti, te ca attano atthāya katabhāvaṃ na jānanti, aññe jānanti. Ye jānanti, tesaṃ na vaṭṭati , itaresaṃ vaṭṭati. Aññe na jānanti, teyeva jānanti, tesaṃyeva na vaṭṭati, aññesaṃ vaṭṭati. Tepi amhākaṃ atthāya katanti jānanti, aññepi etesaṃ atthāya katanti jānanti, sabbesampi na vaṭṭati, sabbe na jānanti, sabbesampi vaṭṭati. Pañcasu hi sahadhammikesu yassa vā tassa vā atthāya uddissa kataṃ, sabbesaṃ na kappati.
Tuy nhiên, nếu trong một tu viện nào đó, (thịt cá) được làm nhắm đến các Tỳ khưu, và họ không biết việc (thịt cá) được làm vì lợi ích của mình, (nhưng) những người khác biết. Những người nào biết, đối với họ không được phép (nhận); đối với những người còn lại, được phép. Những người khác không biết, chỉ họ (những người được nhắm đến) biết, chỉ đối với họ không được phép; đối với những người khác, được phép. Cả họ cũng biết (thịt cá) được làm vì lợi ích của chúng ta, và những người khác cũng biết (thịt cá) được làm vì lợi ích của họ; đối với tất cả họ đều không được phép. (Nếu) tất cả đều không biết, đối với tất cả họ đều được phép. Vì trong năm (loại) người đồng pháp, (thịt cá) được làm nhắm đến vì lợi ích của bất kỳ ai trong số họ, đều không thích hợp cho tất cả họ.

Sace pana koci ekaṃ bhikkhuṃ uddissa pāṇaṃ vadhitvā tassa pattaṃ pūretvā deti, so ca attano atthāya katabhāvaṃ jānaṃyeva gahetvā aññassa bhikkhuno deti, so tassa saddhāya paribhuñjati, kassa āpattīti? Dvinnampi anāpatti. Yañhi uddissa kataṃ tassa abhuttatāya anāpatti, itarassa ajānanatāya. Kappiyamaṃsassa hi paṭiggahaṇe āpatti natthi. Uddissa katañca ajānitvā bhuttassa pacchā ñatvā āpattidesanākiccaṃ nāma natthi, akappiyamaṃsaṃ pana ajānitvā bhuttena pacchā ñatvāpi āpatti desetabbā, uddissa katañhi ñatvā bhuñjatova āpatti. Akappiyamaṃsaṃ ajānitvā bhuñjantassāpi āpattiyeva. Tasmā āpattibhīrukena rūpaṃ sallakkhentenapi pucchitvāva maṃsaṃ paṭiggahetabbaṃ. Paribhogakāle pucchitvā paribhuñjissāmīti vā gahetvā pucchitvāva paribhuñjitabbaṃ. Kasmā? Duviññeyyattā. Acchamaṃsaṃ hi sūkaramaṃsasadisaṃ hoti, dīpimaṃsādīnipi migamaṃsādisadisāni, tasmā pucchitvā gahaṇameva vattanti vadanti.
Tuy nhiên, nếu một người nào đó, nhắm đến một vị Tỳ khưu, giết một con vật rồi đổ đầy bát của vị ấy và dâng cúng; và vị ấy, dù biết việc (thịt) được làm vì lợi ích của mình, vẫn nhận lấy rồi cho một vị Tỳ khưu khác; vị kia, do lòng tin nơi vị ấy, mà dùng; (trong trường hợp này) ai phạm tội? Cả hai đều không phạm tội. Vì (thịt) đã được làm nhắm đến (vị Tỳ khưu đầu tiên), đối với vị ấy, không phạm tội do không dùng; đối với vị kia, (không phạm tội) do không biết. Vì trong việc nhận thịt thích hợp, không có tội. Và đối với người đã dùng (thịt) được làm nhắm đến (mình) mà không biết, sau khi biết, cũng không có phận sự sám hối tội. Tuy nhiên, người đã dùng thịt không thích hợp mà không biết, sau khi biết, cũng phải sám hối tội. Vì chỉ người dùng (thịt) được làm nhắm đến (mình) mà biết, mới phạm tội. Ngay cả người dùng thịt không thích hợp mà không biết, cũng chắc chắn phạm tội. Do đó, người sợ tội, ngay cả khi xem xét hình dạng (của thịt), cũng phải hỏi rồi mới nhận thịt. Hoặc nhận lấy (với ý nghĩ) “Vào lúc dùng, ta sẽ hỏi rồi dùng”, rồi phải hỏi mới được dùng. Tại sao? Do khó nhận biết. Vì thịt gấu giống như thịt heo; thịt báo v.v… cũng giống như thịt nai v.v…; do đó, (các vị) nói rằng chỉ việc hỏi rồi nhận mới được phép.

Haṭṭho udaggoti tuṭṭho ceva unnatakāyacitto ca hutvā. So kira ‘‘na bhagavā imāni pañca vatthūni anujānāti, idāni sakkhissāmi saṅghabhedaṃ kātu’’nti kokālikassa iṅgitākāraṃ dassetvā yathā visaṃ vā khāditvā rajjuyā vā ubbandhitvā satthaṃ vā āharitvā maritukāmo puriso visādīsu aññataraṃ labhitvā tappaccayā āsannampi maraṇadukkhaṃ ajānanto haṭṭho udaggo hoti; evameva saṅghabhedapaccayā āsannampi avīcimhi nibbattitvā paṭisaṃvedanīyaṃ dukkhaṃ ajānanto ‘‘laddho dāni me saṅghabhedassa upāyo’’ti haṭṭho udaggo sapariso uṭṭhāyāsanā teneva haṭṭhabhāvena bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.
Hân hoan, phấn khởi nghĩa là vừa vui mừng vừa có thân tâm hân hoan. Tương truyền, vị ấy (Devadatta), (nghĩ rằng) “Đức Thế Tôn không cho phép năm điều này; bây giờ ta sẽ có thể làm chia rẽ Tăng”, rồi ra hiệu cho Kokālika. Giống như người muốn chết, sau khi ăn thuốc độc, hoặc thắt cổ bằng dây, hoặc mang dao đến, khi có được một trong các (phương tiện) như thuốc độc v.v…, do duyên đó, dù cái chết khổ đau đã gần kề cũng không biết, (mà vẫn) hân hoan, phấn khởi. Cũng như vậy, (Devadatta) do duyên chia rẽ Tăng, dù sự khổ đau phải chịu sau khi tái sanh trong địa ngục Vô Gián đã gần kề cũng không biết, (mà nghĩ rằng) “Bây giờ ta đã có được phương tiện chia rẽ Tăng”, rồi hân hoan, phấn khởi, cùng với đoàn tùy tùng đứng dậy khỏi chỗ ngồi, với chính tâm trạng hân hoan ấy đảnh lễ Đức Thế Tôn, đi nhiễu quanh rồi bỏ đi.

Te mayaṃ imehi pañcahi vatthūhi samādāya vattāmāti ettha pana ‘‘imāni pañca vatthūnī’’ti vattabbepi te mayaṃ imehi pañcahi vatthūhi janaṃ saññāpessāmāti abhiṇhaṃ parivitakkavasena vibhattivipallāsaṃ asallakkhetvā abhiṇhaṃ parivitakkānurūpameva ‘‘te mayaṃ imehi pañcahi vatthūhī’’ti āha, yathā taṃ vikkhittacitto.
Trong (câu) “Chúng ta, sau khi thọ trì năm điều này, sẽ sống”, ở đây, dù đáng lẽ phải nói “năm điều này” (ở chủ cách hoặc đối cách), (Devadatta), do thường xuyên suy nghĩ (rằng) “Chúng ta, bằng năm điều này, sẽ làm cho dân chúng hiểu”, đã không nhận ra sự sai lầm về biến cách, mà đã nói đúng theo sự suy nghĩ thường xuyên của mình là “Chúng ta, bằng năm điều này”, giống như người có tâm bị phân tán.

Dhutāsallekhavuttinoti yā paṭipadā kilese dhunāti, tāya samannāgatattā dhutā. Yā ca kilese sallikhati, sā etesaṃ vuttīti sallekhavuttino.
Những người có đời sống rũ bỏ, khắc khổ: pháp hành nào rũ bỏ các phiền não, do có được (pháp hành) ấy, (nên gọi là) người rũ bỏ. Và (pháp hành) nào khắc phục các phiền não, đó là đời sống của họ, (nên gọi là) người có đời sống khắc khổ.

Bāhulikoti cīvarādīnaṃ paccayānaṃ bahulabhāvo bāhullaṃ, taṃ bāhullamassa atthi, tasmiṃ vā bāhulle niyutto ṭhitoti bāhuliko. Bāhullāya cetetīti bāhulattāya ceteti kappeti pakappeti. Kathañhi nāma mayhañca sāvakānañca cīvarādīnaṃ paccayānaṃ bahulabhāvo bhaveyyāti evaṃ ussukkamāpannoti adhippāyo. Cakkabhedāyāti āṇābhedāya.
Người sống trong sự sung túc: sự có nhiều vật dụng như y phục v.v… là sự sung túc; người ấy có sự sung túc đó, hoặc người ấy gắn bó, ở trong sự sung túc đó, (nên gọi là) người sống trong sự sung túc. Chủ ý đến sự sung túc nghĩa là có chủ ý, sắp đặt, dự định cho sự sung túc. Ý là (người ấy) đã nỗ lực như vầy: “Làm thế nào để ta và các đệ tử có được nhiều vật dụng như y phục v.v…?”. Vì sự chia rẽ bánh xe (Pháp) nghĩa là vì sự chia rẽ quyền lực (giáo lệnh).

Dhammiṃ kathaṃ katvāti khandhake vuttanayena ‘‘alaṃ, devadatta, mā te rucci saṅghabhedo. Garuko kho, devadatta, saṅghabhedo. Yo kho, devadatta, samaggaṃ saṅghaṃ bhindati, kappaṭṭhikaṃ kibbisaṃ pasavati, kappaṃ nirayamhi paccati, yo ca kho, devadatta, bhinnaṃ saṅghaṃ samaggaṃ karoti, brahmaṃ puññaṃ pasavati, kappaṃ saggamhi modatī’’ti (cūḷava. 343) evamādikaṃ anekappakāraṃ devadattassa ca bhikkhūnañca tadanucchavikaṃ tadanulomikaṃ dhammiṃ kathaṃ katvā.
Sau khi thuyết một bài pháp thoại nghĩa là: sau khi thuyết một bài pháp thoại thích hợp, tương ứng với Devadatta và các Tỳ khưu, bằng nhiều cách khác nhau, theo phương pháp đã nói trong chương (Khandhaka), (như): “Thôi đủ rồi, Devadatta, mong ngươi đừng thích sự chia rẽ Tăng. Này Devadatta, sự chia rẽ Tăng là nặng nề. Này Devadatta, người nào làm chia rẽ Tăng đang hòa hợp, người ấy tạo ra tội lỗi tồn tại suốt kiếp, bị nấu trong địa ngục suốt một kiếp. Còn này Devadatta, người nào làm cho Tăng đã bị chia rẽ trở nên hòa hợp, người ấy tạo ra phước đức cao thượng, vui hưởng ở cõi trời suốt một kiếp” (cūḷava. 343) v.v…

411.Samaggassāti sahitassa cittena ca sarīrena ca aviyuttassāti attho. Padabhājanepi hi ayameva attho dassito. Samānasaṃvāsakoti hi vadatā cittena aviyogo dassito hoti. Samānasīmāyaṃ ṭhitoti vadatā sarīrena. Kathaṃ? Samānasaṃvāsako hi laddhinānāsaṃvāsakena vā kammanānāsaṃvāsakena vā virahito samacittatāya cittena aviyutto hoti. Samānasīmāyaṃ ṭhito kāyasāmaggidānato sarīrena aviyutto.
411. Của (Tăng chúng) hòa hợp nghĩa là của (Tăng chúng) hợp nhất, không chia lìa về tâm và thân. Vì trong phần phân tích từ, chính ý nghĩa này cũng đã được chỉ rõ. Vì (khi) nói “người có cùng sự chung sống”, sự không chia lìa về tâm được chỉ rõ. (Khi) nói “người ở trong cùng một giới”, (sự không chia lìa) về thân (được chỉ rõ). Bằng cách nào? Vì người có cùng sự chung sống, do không có sự chung sống khác biệt về kiến chấp hoặc sự chung sống khác biệt về hành sự, nên không chia lìa về tâm do có tâm đồng nhất. Người ở trong cùng một giới, do sự hòa hợp về thân, nên không chia lìa về thân.

Bhedanasaṃvattanikaṃ vā adhikaraṇanti bhedanassa saṅghabhedassa atthāya saṃvattanikaṃ kāraṇaṃ. Imasmiñhi okāse ‘‘kāmahetu kāmanidānaṃ kāmādhikaraṇa’’ntiādīsu (ma. ni. 1.168) viya kāraṇaṃ adhikaraṇanti adhippetaṃ. Tañca yasmā aṭṭhārasavidhaṃ hoti, tasmā padabhājane ‘‘aṭṭhārasa bhedakaravatthūnī’’ti vuttaṃ. Tāni pana ‘‘idhūpāli, bhikkhu adhammaṃ dhammoti dīpetī’’tiādinā (cūḷava. 352) nayena khandhake āgatāni, tasmā tatreva nesaṃ atthaṃ vaṇṇayissāma. Yopi cāyaṃ imāni vatthūni nissāya aparehipi kammena, uddesena, vohārena, anusāvanāya, salākaggāhenāti pañcahi kāraṇehi saṅghabhedo hoti, tampi āgataṭṭhāneyeva pakāsayissāma. Saṅkhepato pana bhedanasaṃvattanikaṃ vā adhikaraṇaṃ samādāyāti ettha saṅghabhedassa atthāya saṃvattanikaṃ saṅghabhedanipphattisamatthaṃ kāraṇaṃ gahetvāti evamattho veditabbo. Paggayhāti paggahitaṃ abbhussitaṃ pākaṭaṃ katvā. Tiṭṭheyyāti yathāsamādinnaṃ yathāpaggahitameva ca katvā accheyya . Yasmā pana evaṃ paggaṇhatā tiṭṭhatā ca taṃ dīpitañceva appaṭinissaṭṭhañca hoti, tasmā padabhājane ‘‘dīpeyyā’’ti ca ‘‘nappaṭinissajjeyyā’’ti ca vuttaṃ.
Hoặc vụ tranh chấp dẫn đến sự chia rẽ nghĩa là nguyên nhân dẫn đến sự chia rẽ, (tức là) sự chia rẽ Tăng. Vì trong trường hợp này, “nguyên nhân” được hiểu là “vụ tranh chấp”, giống như trong (các kinh) như “Nguyên nhân dục, nguồn gốc dục, vụ tranh chấp dục” (ma. ni. 1.168) v.v… Và vì (nguyên nhân) đó có mười tám loại, do đó, trong phần phân tích từ, đã được nói là “mười tám sự việc gây chia rẽ”. Tuy nhiên, những (sự việc) đó đã có trong chương (Khandhaka) theo phương pháp bắt đầu bằng “Này Upāli, ở đây, vị Tỳ khưu trình bày phi Pháp là Pháp” (cūḷava. 352) v.v…; do đó, chúng tôi sẽ giải thích ý nghĩa của chúng ở chính nơi đó. Và sự chia rẽ Tăng này, dựa trên những sự việc này, cũng xảy ra do năm nguyên nhân khác nữa là: hành sự, sự đề mục, sự giao tiếp, sự tuyên cáo, (và) sự bỏ thăm; điều đó chúng tôi cũng sẽ làm rõ ở chính nơi nó xuất hiện. Tuy nhiên, một cách tóm tắt, trong (cụm từ) “Hoặc sau khi chấp nhận một vụ tranh chấp dẫn đến sự chia rẽ”, ở đây ý nghĩa cần được hiểu là: sau khi chấp nhận nguyên nhân dẫn đến sự chia rẽ Tăng, (nguyên nhân) có khả năng tạo ra sự chia rẽ Tăng. Đề cao nghĩa là làm cho được đề cao, được nâng lên, được làm cho rõ ràng. Nên đứng vững (trên quan điểm đó) nghĩa là nên sống sau khi đã làm đúng như đã chấp nhận và đúng như đã đề cao. Tuy nhiên, vì người đề cao và đứng vững (trên quan điểm đó) như vậy, (quan điểm) ấy vừa được trình bày, vừa không được từ bỏ; do đó, trong phần phân tích từ, đã được nói là “nên trình bày” và “không nên từ bỏ”.

Bhikkhūhi evamassa vacanīyoti aññehi lajjīhi bhikkhūhi evaṃ vattabbo bhaveyya. Padabhājane cassa ye passantīti ye sammukhā paggayha tiṭṭhantaṃ passanti. Ye suṇantīti yepi ‘‘asukasmiṃ nāma vihāre bhikkhū bhedanasaṃvattanikaṃ adhikaraṇaṃ samādāya paggayha tiṭṭhantī’’ti suṇanti.
Nên được các Tỳ khưu nói như vầy nghĩa là nên được các vị Tỳ khưu khác có lòng hổ thẹn nói như vầy. Và trong phần phân tích từ của nó: “Những người thấy” là những người thấy (vị ấy) đang đề cao (quan điểm đó) và đứng vững (trên đó) một cách công khai. “Những người nghe” là cả những người nghe rằng: “Tại tu viện tên X, các Tỳ khưu đang chấp nhận một vụ tranh chấp dẫn đến sự chia rẽ, rồi đề cao (quan điểm đó) và đứng vững (trên đó)”.

Sametāyasmā saṅghenāti āyasmā saṅghena saddhiṃ sametu samāgacchatu ekaladdhiko hotūti attho. Kiṃ kāraṇā? Samaggo hi saṅgho sammodamāno avivadamāno ekuddeso phāsu viharatīti.
Xin Tôn giả hãy hòa hợp với Tăng chúng nghĩa là: xin Tôn giả hãy hòa hợp, hãy đi cùng với Tăng chúng, hãy có cùng một kiến chấp. Vì lý do gì? Vì Tăng chúng hòa hợp, hoan hỷ cùng nhau, không tranh cãi, có cùng một mục tiêu, sống an ổn.

Tattha sammodamānoti aññamaññaṃ sampattiyā saṭṭhu modamāno. Avivadamānoti ‘‘ayaṃ dhammo, nāyaṃ dhammo’’ti evaṃ na vivadamāno. Eko uddeso assāti ekuddeso, ekato pavattapātimokkhuddeso, na visunti attho. Phāsu viharatīti sukhaṃ viharati.
Ở đó, hoan hỷ cùng nhau nghĩa là cùng nhau vui mừng với sự thành tựu của nhau một cách tốt đẹp. Không tranh cãi nghĩa là không tranh cãi rằng “Đây là Pháp, đây không phải là Pháp”. Có một mục tiêu là người có cùng một mục tiêu; (tức là) sự tụng đọc Pātimokkha được tiến hành cùng nhau, ý là không (tụng đọc) riêng lẻ. Sống an ổn nghĩa là sống hạnh phúc.

Iccetaṃ kusalanti etaṃ paṭinissajjanaṃ kusalaṃ khemaṃ sotthibhāvo tassa bhikkhuno. No ce paṭinissajjati āpatti dukkaṭassāti tikkhattuṃ vuttassa appaṭinissajjato dukkaṭaṃ. Sutvā na vadanti āpatti dukkaṭassāti ye sutvā na vadanti, tesampi dukkaṭaṃ. Kīvadūre sutvā avadantānaṃ dukkaṭaṃ? Ekavihāre tāva vattabbaṃ natthi. Aṭṭhakathāyaṃ pana vuttaṃ ‘‘samantā addhayojane bhikkhūnaṃ bhāro. Dūtaṃ vā paṇṇaṃ vā pesetvā vadatopi āpattimokkho natthi. Sayameva gantvā ‘garuko kho, āvuso, saṅghabhedo , mā saṅghabhedāya, parakkamī’ti nivāretabbo’’ti. Pahontena pana dūrampi gantabbaṃ agilānānañhi dūrepi bhāroyeva.
Điều này là thiện nghĩa là: sự từ bỏ này là thiện, là sự an ổn, là trạng thái an toàn cho vị Tỳ khưu ấy. Nếu không từ bỏ, phạm tội Tác Ác nghĩa là: do không từ bỏ (quan điểm) của người đã được nói đến ba lần, (phạm) tội Tác Ác. Nghe mà không nói, phạm tội Tác Ác nghĩa là: những người nào nghe mà không nói, đối với họ cũng (phạm) tội Tác Ác. Nghe ở khoảng cách bao xa mà không nói thì (phạm) tội Tác Ác? Trước hết, trong cùng một tu viện, không cần phải nói (về khoảng cách). Tuy nhiên, trong Chú giải, đã được nói: “Trách nhiệm của các Tỳ khưu (là can gián) trong phạm vi nửa do-tuần xung quanh. Dù nói bằng cách gửi sứ giả hoặc thư, cũng không thoát khỏi tội. Phải tự mình đi đến rồi ngăn cản (nói rằng): ‘Này hiền giả, sự chia rẽ Tăng là nặng nề; đừng cố gắng chia rẽ Tăng'”. Tuy nhiên, người có khả năng cũng nên đi dù xa; vì đối với những người không bệnh, ngay cả ở xa cũng vẫn là trách nhiệm.

Idāni ‘‘evañca so bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno’’tiādīsu atthamattameva dassetuṃ ‘‘so bhikkhu saṅghamajjhampi ākaḍḍhitvā vattabbo’’tiādimāha. Tattha saṅghamajjhampi ākaḍḍhitvāti sace purimanayena vuccamāno na paṭinissajjati hatthesu ca pādesu ca gahetvāpi saṅghamajjhaṃ ākaḍḍhitvā punapi ‘‘mā āyasmā’’tiādinā nayena tikkhattuṃ vattabbo.
Bây giờ, trong (các câu) như “Và vị Tỳ khưu ấy, khi được các Tỳ khưu nói như vậy” v.v…, để chỉ rõ chỉ ý nghĩa, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Vị Tỳ khưu ấy, dù bị kéo đến giữa Tăng chúng, cũng nên được hỏi“. Ở đó, dù bị kéo đến giữa Tăng chúng nghĩa là: nếu khi được nói theo phương pháp trước mà không từ bỏ, (thì) dù bị nắm tay và chân kéo đến giữa Tăng chúng, cũng lại nên được hỏi đến ba lần theo cách như “Xin Tôn giả đừng…” v.v…

Yāvatatiyaṃ samanubhāsitabboti yāva tatiyaṃ samanubhāsanaṃ tāva samanubhāsitabbo. Tīhi samanubhāsanakammavācāhi kammaṃ kātabbanti vuttaṃ hoti. Padabhājane panassa atthameva gahetvā samanubhāsanavidhiṃ dassetuṃ ‘‘so bhikkhu samanubhāsitabbo. Evañca pana, bhikkhave, samanubhāsitabbo’’tiādi vuttaṃ.
Cần phải khiển trách đến lần thứ ba nghĩa là cần phải khiển trách cho đến khi khiển trách lần thứ ba. Có nghĩa là hành sự cần được thực hiện bằng ba lời tuyên cáo của hành sự khiển trách. Tuy nhiên, trong phần phân tích từ, để chỉ rõ phương pháp khiển trách bằng cách chỉ lấy ý nghĩa của nó, đã được nói bắt đầu bằng: “Vị Tỳ khưu ấy cần được khiển trách. Và này các Tỳ khưu, cần phải khiển trách như vầy”.

414. Tattha ñattiyā dukkaṭaṃ dvīhi kammavācāhi thullaccayā paṭippassambhantīti yañca ñattipariyosāne dukkaṭaṃ āpanno, ye ca dvīhi kammavācāhi thullaccaye, tā tissopi āpattiyo ‘‘yassa nakkhamati so bhāseyyā’’ti evaṃ yya-kārappattamattāya tatiyakammavācāya paṭippassambhanti saṅghādisesoyeva tiṭṭhati. Kiṃ pana āpannāpattiyo paṭippassambhanti anāpannāti? Mahāsumatthero tāva vadati ‘‘yo avasāne paṭinissajjissati, so tā āpattiyo na āpajjati, tasmā anāpannā paṭippassambhantī’’ti. Mahāpadumatthero pana liṅgaparivattena asādhāraṇāpattiyo viya āpannā paṭippassambhanti, anāpannānaṃ kiṃ paṭippassaddhiyā’’ti āha.
414. Ở đó, (Khi) Tăng sự, (phạm) tội Tác Ác; (sau) hai lần tuyên cáo, (các tội) Trọng Tội lắng dịu nghĩa là: tội Tác Ác nào đã phạm khi kết thúc Tăng sự, và các tội Trọng Tội nào (đã phạm sau) hai lần tuyên cáo, cả ba tội ấy đều lắng dịu chỉ khi lần tuyên cáo thứ ba đạt đến (âm) “yya” (trong “bhāseyyā”) (của câu) “Ai không chấp nhận, vị ấy hãy nói”; chỉ có tội Tăng Tàn còn lại. Vậy thì, các tội đã phạm lắng dịu hay (các tội) chưa phạm (lắng dịu)? Trước hết, ngài Mahāsumatthera nói: “Người nào sẽ từ bỏ (quan điểm) vào lúc cuối, người ấy không phạm những tội đó; do đó, (các tội) chưa phạm lắng dịu”. Còn ngài Mahāpadumatthera nói: “Các tội đã phạm lắng dịu, giống như các tội không thông thường (lắng dịu) do sự thay đổi giới tính; đối với (các tội) chưa phạm, sự lắng dịu (có ý nghĩa) gì?”.

415.Dhammakamme dhammakammasaññīti tañce samanubhāsanakammaṃ dhammakammaṃ hoti, tasmiṃ dhammakammasaññīti attho. Esa nayo sabbattha. Idha saññā na rakkhati, kammassa dhammikattā eva appaṭinissajjanto āpajjati.
415. (Khi) Tăng sự hợp pháp, có nhận thức là Tăng sự hợp pháp nghĩa là: nếu hành sự khiển trách ấy là Tăng sự hợp pháp, (và vị ấy) có nhận thức về Tăng sự hợp pháp ấy. Phương pháp này (áp dụng) ở mọi nơi. Ở đây, nhận thức không bảo vệ (khỏi tội); chỉ do tính chất hợp pháp của Tăng sự, người không từ bỏ (quan điểm) mới phạm tội.

416.Asamanubhāsantassāti asamanubhāsiyamānassa appaṭinissajjantassāpi saṅghādisesena anāpatti.
416. Của người không bị khiển trách nghĩa là: đối với người không bị khiển trách, dù không từ bỏ (quan điểm), cũng không phạm tội Tăng Tàn.

Paṭinissajjantassāti ñattito pubbe vā ñattikkhaṇe vā ñattipariyosāne vā paṭhamāya vā anusāvanāya dutiyāya vā tatiyāya vā yāva yya-kāraṃ na sampāpuṇāti, tāva paṭinissajjantassa saṅghādisesena anāpatti.
Của người từ bỏ (quan điểm) nghĩa là: đối với người từ bỏ (quan điểm) trước khi Tăng sự (bắt đầu), hoặc vào khoảnh khắc Tăng sự, hoặc khi kết thúc Tăng sự, hoặc (khi kết thúc) lần tuyên cáo thứ nhất, hoặc (thứ) hai, hoặc (thứ) ba, chừng nào (lời tác bạch) chưa đạt đến (âm) “yya” (trong “bhāseyyā”), chừng đó không phạm tội Tăng Tàn.

Ādikammikassāti. Ettha pana ‘‘devadatto samaggassa saṅghassa bhedāya parakkami, tasmiṃ vatthusmi’’nti parivāre (pari. 17) āgatattā devadatto ādikammiko. So ca kho saṅghabhedāya parakkamanasseva, na appaṭinissajjanassa. Na hi tassa taṃ kammaṃ kataṃ. Kathamidaṃ jānitabbanti ce? Suttato. Yathā hi ‘‘ariṭṭho bhikkhu gaddhabādhipubbo yāvatatiyaṃ samanubhāsanāya na paṭinissajji, tasmiṃ vatthusmi’’nti parivāre (pari. 121) āgatattā ariṭṭhassa kammaṃ katanti paññāyati, na tathā devadattassa. Athāpissa katena bhavitabbanti koci attano rucimattena vadeyya, tathāpi appaṭinissajjane ādikammikassa anāpatti nāma natthi. Na hi paññattaṃ sikkhāpadaṃ vītikkamantassa aññatra uddissa anuññātato anāpatti nāma dissati. Yampi ariṭṭhasikkhāpadassa anāpattiyaṃ ‘‘ādikammikassā’’ti potthakesu likhitaṃ, taṃ pamādalikhitaṃ. Pamādalikhitabhāvo cassa ‘‘paṭhamaṃ ariṭṭho bhikkhu codetabbo, codetvā sāretabbo, sāretvā āpattiṃ ropetabbo’’ti (cūḷava. 65) evaṃ kammakkhandhake āpattiropanavacanato veditabbo.
Của người phạm tội đầu tiên. Ở đây, vì (điều này) đã có trong Parivāra (pari. 17): “Devadatta đã cố gắng chia rẽ Tăng đang hòa hợp; trong sự việc ấy”, (nên) Devadatta là người phạm tội đầu tiên. Và vị ấy (Devadatta) quả thực (là người phạm tội đầu tiên) chỉ của việc cố gắng chia rẽ Tăng, không phải của việc không từ bỏ (quan điểm). Vì hành sự (khiển trách) ấy đã không được thực hiện đối với vị ấy. Nếu (hỏi): “Làm thế nào biết được điều này?”. (Đáp:) Từ kinh. Vì giống như (điều này) đã có trong Parivāra (pari. 121): “Tỳ khưu Ariṭṭha, người trước kia là người huấn luyện lừa, đã không từ bỏ (tà kiến) sau khi bị khiển trách đến lần thứ ba; trong sự việc ấy”, nên được biết rằng hành sự (khiển trách) đã được thực hiện đối với Ariṭṭha; (nhưng) không phải như vậy đối với Devadatta. Hoặc nếu ai đó, chỉ theo sở thích của mình, nói rằng: “Hẳn là (hành sự ấy) đã được thực hiện đối với vị ấy (Devadatta)”; dù vậy, trong (trường hợp) không từ bỏ (quan điểm), không có cái gọi là không phạm tội đối với người phạm tội đầu tiên. Vì đối với người vi phạm điều học đã được chế định, không thấy có cái gọi là không phạm tội, ngoại trừ (trường hợp) được cho phép nhắm đến (một đối tượng đặc biệt). Và điều được viết trong các sách về (trường hợp) không phạm tội của điều học Ariṭṭha là “đối với người phạm tội đầu tiên“, đó là sự viết lỗi do sơ suất. Và tính chất viết lỗi do sơ suất của nó cần được hiểu từ lời nói về việc quy tội trong chương Hành sự (Kammakkhandhaka) như sau: “Trước hết, Tỳ khưu Ariṭṭha cần được tố cáo; sau khi tố cáo, cần được nhắc nhở; sau khi nhắc nhở, cần được quy tội” (cūḷava. 65).

Iti bhedāya parakkamane ādikammikassa devadattassa yasmā taṃ kammaṃ na kataṃ, tasmāssa āpattiyeva na jātā. Sikkhāpadaṃ pana taṃ ārabbha paññattanti katvā ‘‘ādikammiko’’ti vutto. Iti āpattiyā abhāvatoyevassa anāpatti vuttā. Sā panesā kiñcāpi asamanubhāsantassāti imināva siddhā, yasmā pana asamanubhāsanto nāma yassa kevalaṃ samanubhāsanaṃ na karonti, so vuccati, na ādikammiko. Ayañca devadatto ādikammikoyeva, tasmā ‘‘ādikammikassā’’ti vuttaṃ. Etenupāyena ṭhapetvā ariṭṭhasikkhāpadaṃ sabbasamanubhāsanāsu vinicchayo veditabbo. Sesaṃ sabbattha uttānameva.
Như vậy, đối với Devadatta, người phạm tội đầu tiên trong việc cố gắng chia rẽ, vì hành sự (khiển trách) ấy đã không được thực hiện (đối với ông ta), do đó, tội đã không khởi lên cho ông ta. Tuy nhiên, (ông ta) được gọi là “người phạm tội đầu tiên” do (hành động) làm cho điều học được chế định dựa trên (sự việc) đó. Như vậy, chính vì không có tội mà (trường hợp) không phạm tội đã được nói đến cho ông ta. Tuy nhiên, (trường hợp không phạm tội) ấy, mặc dù đã được xác định chỉ bằng (cụm từ) “của người không bị khiển trách”, nhưng vì người không bị khiển trách là người mà (Tăng chúng) chỉ đơn thuần không thực hiện sự khiển trách, người ấy được nói đến (như vậy), chứ không phải là người phạm tội đầu tiên. Và Devadatta này chính là người phạm tội đầu tiên; do đó, đã được nói là “của người phạm tội đầu tiên“. Bằng phương tiện này, trừ điều học Ariṭṭha, sự quyết đoán trong tất cả các (trường hợp) khiển trách cần được hiểu. Phần còn lại, ở mọi nơi, ý nghĩa đều rõ ràng.

Samuṭṭhānādīsu tivaṅgikaṃ ekasamuṭṭhānaṃ, samanubhāsanasamuṭṭhānaṃ nāmametaṃ, kāyavācācittato samuṭṭhāti. Paṭinissajjāmīti kāyavikāraṃ vā vacībhedaṃ vā akarontasseva pana āpajjanato akiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
Về sự khởi lên v.v…, (tội này) có ba yếu tố, một cách khởi lên; đây gọi là sự khởi lên do sự khiển trách; (tội) khởi lên từ thân, lời nói và tâm. Tuy nhiên, do (tội) xảy ra chỉ đối với người không thực hiện hành vi của thân hoặc lời nói (để nói) “Tôi từ bỏ (quan điểm)”, (nên nó là) phi hành động; (có thể) thoát tội do nhận thức sai lầm; có chủ ý; bị đời chê trách; là hành động thuộc về thân, hành động thuộc về lời nói; (liên quan đến) tâm bất thiện; có cảm thọ khổ.

Paṭhamasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Thứ Nhất Về Việc Chia Rẽ Tăng đã hoàn tất.

11. Dutiyasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā

11. Giải Thích Điều Học Thứ Hai Về Việc Chia Rẽ Tăng

417-8.Tena samayena buddho bhagavāti dutiyasaṅghabhedasikkhāpadaṃ. Tattha anuvattakāti tassa diṭṭhikhantiruciggahaṇena anupaṭipajjanakā. Vaggaṃ asāmaggipakkhiyavacanaṃ vadantīti vaggavādakā. Padabhājane pana ‘‘tassa vaṇṇāya pakkhāya ṭhitā hontī’’ti vuttaṃ, tassa saṅghabhedāya parakkamantassa vaṇṇatthāya ca pakkhavuḍḍhiatthāya ca ṭhitāti attho. Ye hi vaggavādakā, te niyamena īdisā honti, tasmā evaṃ vuttaṃ. Yasmā pana tiṇṇaṃ uddhaṃ kammārahā na honti, na hi saṅgho saṅghassa kammaṃ karoti, tasmā eko vā dve vā tayo vāti vuttaṃ.
417-8. “Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, bậc Thế Tôn” là (phần mở đầu của) điều học thứ hai về việc chia rẽ Tăng. Ở đó, những người theo phe là những người hành động theo sự chấp thủ kiến chấp, sự kham nhẫn, sở thích của vị ấy. Những người nói lời thuộc phe chia rẽ, không hòa hợp, (nên gọi là) những người nói lời chia rẽ phe phái. Tuy nhiên, trong phần phân tích từ, đã được nói: “Họ đứng về phía tán dương, phe phái của vị ấy”; ý là họ đứng về phía tán dương và làm tăng trưởng phe phái của vị đang cố gắng chia rẽ Tăng ấy. Vì những người nói lời chia rẽ phe phái, theo quy luật, là những người như vậy; do đó, đã được nói như thế. Tuy nhiên, vì (nhóm) trên ba người không thích hợp để (Tăng chúng) thực hiện Tăng sự (riêng cho họ), vì Tăng chúng không thực hiện Tăng sự cho (một phần của) Tăng chúng; do đó, đã được nói là “một, hoặc hai, hoặc ba (người)”.

Jānātinoti amhākaṃ chandādīni jānāti. Bhāsatīti ‘‘evaṃ karomā’’ti amhehi saddhiṃ bhāsati. Amhākampetaṃ khamatīti yaṃ so karoti, etaṃ amhākampi ruccati.
Biết ý chúng ta nghĩa là biết sự bằng lòng v.v… của chúng ta. Nói chuyện (với chúng ta) nghĩa là nói chuyện với chúng ta (rằng): “Chúng ta hãy làm như vầy”. Điều đó cũng làm chúng ta hài lòng nghĩa là: điều gì vị ấy làm, điều đó cũng làm chúng ta thích thú.

Sametāyasmantānaṃ saṅghenāti āyasmantānaṃ cittaṃ saṅghena saddhiṃ sametu samāgacchatu, ekībhāvaṃ yātūti vuttaṃ hoti. Sesamettha paṭhamasikkhāpade vuttanayattā uttānatthattā ca pākaṭameva.
Mong tâm của các Tôn giả hòa hợp với Tăng chúng có nghĩa là: mong tâm của các Tôn giả hãy hòa hợp, hãy hòa đồng với Tăng chúng, hãy đạt đến sự hợp nhất. Phần còn lại ở đây, do (giống) phương pháp đã nói trong điều học thứ nhất và do ý nghĩa rõ ràng, nên hiển nhiên.

Samuṭṭhānādīnipi paṭhamasikkhāpadasadisānevāti.
Sự khởi lên v.v… cũng giống như điều học thứ nhất.

Dutiyasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Thứ Hai Về Việc Chia Rẽ Tăng đã hoàn tất.

12. Dubbacasikkhāpadavaṇṇanā

12. Giải Thích Điều Học Về (Tính) Khó Dạy

424.Tena samayena buddho bhagavāti dubbacasikkhāpadaṃ. Tattha anācāraṃ ācaratīti anekappakāraṃ kāyavacīdvāravītikkamaṃ karoti. Kiṃ nu kho nāmāti vambhanavacanametaṃ. Ahaṃ kho nāmāti ukkaṃsavacanaṃ. Tumhe vadeyyanti ‘‘idaṃ karotha, idaṃ mā karothā’’ti ahaṃ tumhe vattuṃ arahāmīti dasseti. Kasmāti ce? Yasmā amhākaṃ buddho bhagavā kaṇṭakaṃ āruyha mayā saddhiṃ nikkhamitvā pabbajitotievamādimatthaṃ sandhāyāha. ‘‘Amhākaṃ dhammo’’ti vatvā pana attano santakabhāve yuttiṃ dassento ‘‘amhākaṃ ayyaputtena dhammo abhisamito’’ti āha. Yasmā amhākaṃ ayyaputtena catusaccadhammo paṭividdho, tasmā dhammopi amhākanti vuttaṃ hoti. Saṅghaṃ pana attano veripakkhe ṭhitaṃ maññamāno amhākaṃ saṅghoti na vadati. Upamaṃ pana vatvā saṅghaṃ apasādetukāmo ‘‘seyyathāpi nāmā’’tiādimāha. Tiṇakaṭṭhapaṇṇasaṭanti tattha tattha patitaṃ tiṇakaṭṭhapaṇṇaṃ. Atha vā tiṇañca nissārakaṃ lahukaṃ kaṭṭhañca tiṇakaṭṭhaṃ. Paṇṇasaṭanti purāṇapaṇṇaṃ. Ussāreyyāti rāsiṃ kareyya.
424. “Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, bậc Thế Tôn” là (phần mở đầu của) điều học về (tính) khó dạy. Ở đó, “Hành xử không đúng oai nghi” nghĩa là thực hiện nhiều loại vi phạm qua cửa thân và cửa lời. “Vậy thì là gì chứ?”: đây là lời nói miệt thị. “Ta đây mà” là lời nói tự đề cao. “Nên nói với các ngươi”: (vị ấy) muốn chỉ rõ rằng “Ta xứng đáng nói với các ngươi: ‘Hãy làm điều này, đừng làm điều kia'”. Nếu (hỏi): “Tại sao?”, (vị ấy) nói nhắm đến ý nghĩa bắt đầu bằng: “Vì Đức Phật, bậc Thế Tôn của chúng ta, đã lên lưng (ngựa) Kaṇṭhaka, cùng với ta ra đi rồi xuất gia”. Tuy nhiên, sau khi nói “Pháp của chúng ta”, để chỉ rõ lý lẽ về việc (Pháp) thuộc về mình, (vị ấy) đã nói: “Pháp đã được bậc Tôn quý tử của chúng ta chứng ngộ”. Có nghĩa là: vì Tứ đế pháp đã được bậc Tôn quý tử của chúng ta thông suốt, do đó, Pháp cũng là của chúng ta. Tuy nhiên, (vị ấy) xem Tăng chúng đứng về phía đối nghịch với mình, nên không nói “Tăng chúng của chúng ta”. Còn (vị ấy), sau khi nói ví dụ, vì muốn khinh miệt Tăng chúng, đã nói bắt đầu bằng “Ví như“. Đống cỏ, củi, lá là cỏ, củi, lá rơi ở chỗ này chỗ kia. Hoặc, cỏ và củi không có lõi, nhẹ, là cỏ củi. Đống lá là lá cũ. Nên chất đống nghĩa là nên làm thành đống.

Pabbateyyāti pabbatappabhavā, sā hi sīghasotā hoti, tasmā tameva gaṇhāti. Saṅkhasevālapaṇakanti ettha saṅkhoti dīghamūlako paṇṇasevālo vuccati. Sevāloti nīlasevālo, avaseso udakapappaṭakatilabījakādi sabbopi paṇakoti saṅkhyaṃ gacchatiEkato ussāritāti ekaṭṭhāne kenāpi sampiṇḍitā rāsīkatāti dasseti.
(Nước) từ núi nghĩa là (nước) phát nguồn từ núi; vì (nước) ấy chảy xiết, do đó, (Đức Phật) chỉ lấy (ví dụ) đó. Trong (cụm từ) ốc, rong, bèo: ở đây, ốc được gọi là loại rong lá có rễ dài. Rong là rong xanh; phần còn lại như bèo tấm, hạt mè nước v.v…, tất cả đều được kể là bèo. Được chất đống lại một chỗ: (điều này) chỉ rõ rằng (chúng) được ai đó gom lại, chất thành đống ở một nơi.

425-6.Dubbacajātikoti dubbacasabhāvo vattuṃ asakkuṇeyyoti attho. Padabhājanepissa dubbacoti dukkhena kicchena vaditabbo, na sakkā sukhena vattunti attho. Dovacassakaraṇehīti dubbacabhāvakaraṇīyehi, ye dhammā dubbacaṃ puggalaṃ karonti, tehi samannāgatoti attho. Te pana ‘‘katame ca, āvuso, dovacassakaraṇā dhammā? Idhāvuso, bhikkhu pāpiccho hotī’’tiādinā nayena paṭipāṭiyā anumānasutte (ma. ni. 1.181) āgatā pāpicchatā, attukkaṃsakaparavambhakatā, kodhanatā, kodhahetu upanāhitā, kodhahetuabhisaṅgitā, kodhahetukodhasāmantavācānicchāraṇatā, codakaṃ paṭippharaṇatā, codakaṃ apasādanatā, codakassa paccāropanatā, aññena aññaṃpaṭicaraṇatā , apadānena na sampāyanatā, makkhipaḷāsitā, issukīmaccharitā, saṭhamāyāvitā, thaddhātimānitā, sandiṭṭhiparāmāsiādhānaggahiduppaṭinissaggitāti ekūnavīsati dhammā veditabbā.
425-6. Người có tính khó dạy nghĩa là người có bản chất khó dạy, ý là không thể nói (dạy) được. Trong phần phân tích từ của nó, người khó dạy nghĩa là người phải được nói (dạy) một cách khó khăn, khổ sở; ý là không thể nói (dạy) một cách dễ dàng. Bởi những pháp làm cho khó dạy nghĩa là bởi những pháp làm cho có bản chất khó dạy; ý là người có được những pháp nào làm cho một người trở nên khó dạy. Còn những (pháp) ấy, cần được hiểu là mười chín pháp đã có trong Kinh Suy Luận (Anumānasutta) (ma. ni. 1.181) theo thứ tự, bắt đầu bằng “Này các hiền giả, những pháp nào làm cho khó dạy? Này các hiền giả, ở đây, vị Tỳ khưu có ước muốn xấu xa”: (1) có ước muốn xấu xa, (2) tự tán dương mình, miệt thị người khác, (3) hay tức giận, (4) do tức giận mà ôm lòng oán hận, (5) do tức giận mà căm ghét, (6) do tức giận mà thốt ra lời nói gần với sự tức giận, (7) phản bác người khiển trách, (8) khinh miệt người khiển trách, (9) đổ lỗi lại cho người khiển trách, (10) nói lảng sang chuyện khác, (11) không trả lời bằng cách giải thích, (12) che giấu và khinh thị (lỗi lầm), (13) ganh tỵ và keo kiệt, (14) gian xảo và lừa dối, (15) cứng đầu và quá tự mãn, (16) chấp thủ kiến chấp của mình, nắm giữ chặt và khó từ bỏ.

Ovādaṃ nakkhamati na sahatīti akkhamo. Yathānusiṭṭhaṃ appaṭipajjanato padakkhiṇena anusāsaniṃ na gaṇhātīti appadakkhiṇaggāhī anusāsaniṃ.
Người không kham nhẫn, không chịu đựng được lời giáo huấn là người không kham nhẫn. Do không thực hành theo như đã được khuyên dạy, không tiếp nhận lời khuyên dạy một cách tôn trọng, (nên gọi là) người không tiếp nhận lời khuyên dạy một cách tôn trọng.

Uddesapariyāpannesūti uddese pariyāpannesu antogadhesu. ‘‘Yassa siyā āpatti, so āvikareyyā’’ti evaṃ saṅgahitattā anto pātimokkhassa vattamānesūti attho. Sahadhammikaṃ vuccamānoti sahadhammikena vuccamāno karaṇatthe upayogavacanaṃ, pañcahi sahadhammikehi sikkhitabbattā tesaṃ vā santakattā sahadhammikanti laddhanāmena buddhapaññattena sikkhāpadena vuccamānoti attho.
Trong (các điều học) được bao gồm trong phần đề mục nghĩa là trong (các điều học) được bao gồm, được nằm trong phần đề mục. Ý là: do được bao gồm (trong câu) “Ai có tội, vị ấy hãy phát lồ”, (nên chúng là những điều học) đang hiện hành trong Pātimokkha. Khi được nói (khuyên răn) một cách hợp pháp nghĩa là: được nói (khuyên răn) bởi (điều) hợp pháp; (đây là) cách dùng (biến cách) công cụ theo nghĩa (biến cách) đối cách. Ý là: được nói (khuyên răn) bằng điều học do Đức Phật chế định, (điều học) có tên gọi là “hợp pháp” do phải được học bởi năm (loại) người đồng pháp, hoặc do thuộc về họ.

Viramathāyasmanto mama vacanāyāti yena vacanena maṃ vadatha, tato mama vacanato viramatha. Mā maṃ taṃ vacanaṃ vadathāti vuttaṃ hoti.
Xin các Tôn giả hãy dừng lời nói của tôi lại nghĩa là: lời nói nào mà các vị nói với tôi, xin hãy dừng lời nói đó đối với tôi. Có nghĩa là: xin đừng nói lời đó với tôi.

Vadatu sahadhammenāti sahadhammikena sikkhāpadena sahadhammena vā aññenapi pāsādikabhāvasaṃvattanikena vacanena vadatu. Yadidanti vuḍḍhikāraṇanidassanatthe nipāto. Tena ‘‘yaṃ idaṃ aññamaññassa hitavacanaṃ āpattito vuṭṭhāpanañca tena aññamaññavacanena aññamaññavuṭṭhāpanena ca saṃvaḍḍhā parisā’’ti evaṃ parisāya vuḍḍhikāraṇaṃ dassitaṃ hoti. Sesaṃ sabbattha uttānameva.
Hãy nói một cách hợp pháp nghĩa là: hãy nói bằng điều học hợp pháp, hoặc bằng Pháp hợp lý, hoặc bằng lời nói nào khác dẫn đến trạng thái trang nghiêm. “Điều này” là một tiểu từ theo nghĩa chỉ rõ nguyên nhân của sự tăng trưởng. Bằng (tiểu từ) đó, nguyên nhân của sự tăng trưởng của hội chúng được chỉ rõ như sau: “Lời nói lợi ích cho nhau này và sự làm cho đứng dậy khỏi tội này; do lời nói với nhau và sự làm cho nhau đứng dậy (khỏi tội) ấy, hội chúng được tăng trưởng”. Phần còn lại, ở mọi nơi, ý nghĩa đều rõ ràng.

Samuṭṭhānādīni paṭhamasaṅghabhedasadisānevāti.
Sự khởi lên v.v… cũng giống như (điều học) thứ nhất về việc chia rẽ Tăng.

Dubbacasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Về (Tính) Khó Dạy đã hoàn tất.

13. Kuladūsakasikkhāpadavaṇṇanā

13. Giải Thích Điều Học Về Người Làm Hư Hỏng Gia Đình

431.Tenasamayena buddho bhagavāti kuladūsakasikkhāpadaṃ. Tattha assajipunabbasukā nāmāti assaji ceva punabbasuko ca. Kīṭāgirisminti evaṃnāmake janapade. Āvāsikā hontīti ettha āvāso etesaṃ atthīti āvāsikā. ‘‘Āvāso’’ti vihāro vuccati. So yesaṃ āyatto navakammakaraṇapurāṇapaṭisaṅkharaṇādibhārahāratāya, te āvāsikā. Ye pana kevalaṃ vihāre vasanti, te nevāsikāti vuccanti. Ime āvāsikā ahesuṃ. Alajjino pāpabhikkhūti nillajjā lāmakabhikkhū, te hi chabbaggiyānaṃ jeṭṭhakachabbaggiyā.
431. “Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, bậc Thế Tôn” là (phần mở đầu của) điều học về người làm hư hỏng gia đình. Ở đó, những vị tên là Assaji và Punabbasu là Assaji và Punabbasu. Tại Kīṭāgiri nghĩa là tại xứ có tên như vậy. Là những vị trú ngụ (thường trực): ở đây, những vị có trú xứ là những vị trú ngụ (thường trực). “Trú xứ” được gọi là tu viện. (Tu viện) ấy thuộc quyền của những ai, do gánh vác trách nhiệm xây dựng mới, sửa chữa cũ kỹ v.v…, họ là những vị trú ngụ (thường trực). Còn những người chỉ ở trong tu viện, họ được gọi là những vị trú ngụ (tạm thời). Những vị này là những vị trú ngụ (thường trực). Những Tỳ khưu vô liêm sỉ, xấu ác là những Tỳ khưu không biết hổ thẹn, thấp kém; vì họ là những vị đứng đầu trong nhóm sáu vị (Chabbaggiyā).

Sāvatthiyaṃ kira cha janā sahāyakā ‘‘kasikammādīni dukkarāni, handa mayaṃ sammā pabbajāma! Pabbajantehi ca uppanne kicce nittharaṇakaṭṭhāne pabbajituṃ vaṭṭatī’’ti sammantayitvā dvinnaṃ aggasāvakānaṃ santike pabbajiṃsu. Te pañcavassā hutvā mātikaṃ paguṇaṃ katvā mantayiṃsu ‘‘janapado nāma kadāci subhikkho hoti kadāci dubbhikkho, mayaṃ mā ekaṭṭhāne vasimha, tīsu ṭhānesu vasāmā’’ti. Tato paṇḍukalohitake āhaṃsu – ‘‘āvuso, sāvatthi nāma sattapaññāsāya kulasatasahassehi ajjhāvutthā, asītigāmasahassapaṭimaṇḍitānaṃ tiyojanasatikānaṃ dvinnaṃ kāsikosalaraṭṭhānaṃ āyamukhabhūtā, tatra tumhe dhuraṭṭhāneyeva pariveṇāni kāretvā ambapanasanāḷikerādīni ropetvā pupphehi ca phalehi ca kulāni saṅgaṇhantā kuladārake pabbājetvā parisaṃ vaḍḍhethā’’ti.
Tương truyền, tại Sāvatthī, sáu người bạn (nghĩ rằng): “Các công việc như cày cấy v.v… thì khó khăn; nào, chúng ta hãy xuất gia một cách chân chính! Và đối với những người xuất gia, khi có việc (khó khăn) khởi lên, được phép xuất gia ở nơi có thể vượt qua (khó khăn)”, sau khi bàn bạc, đã xuất gia gần hai vị Thượng thủ Thinh văn. Họ, sau khi được năm hạ, làm cho thông thạo các đề mục (Pātimokkha), đã bàn bạc (rằng): “Xứ sở có khi được mùa, có khi mất mùa; chúng ta đừng ở một nơi, chúng ta hãy ở ba nơi”. Sau đó, họ đã nói với Paṇḍuka và Lohitaka: “Này các hiền giả, Sāvatthī là nơi có năm mươi bảy trăm ngàn gia đình cư trú, là cửa ngõ thu nhập của hai xứ Kāsi và Kosala, (mỗi xứ) rộng ba trăm do-tuần, được trang điểm bởi tám mươi ngàn làng. Ở đó, các vị hãy cho làm các tu viện ở chính những nơi quan trọng, trồng xoài, mít, dừa v.v…, rồi bằng hoa và quả thu phục các gia đình, cho con trai của các gia đình xuất gia, rồi làm cho đoàn thể tăng trưởng”.

Mettiyabhūmajake āhaṃsu – ‘‘āvuso, rājagahaṃ nāma aṭṭhārasahi manussakoṭīhi ajjhāvutthaṃ asītigāmasahassapaṭimaṇḍitānaṃ tiyojanasatikānaṃ dvinnaṃ aṅgamagadharaṭṭhānaṃ āyamukhabhūtaṃ, tatra tumhe dhuraṭṭhāneyeva…pe… parisaṃ vaḍḍhethā’’ti.
(Họ) đã nói với nhóm Mettiya-Bhummajaka: “Này các hiền giả, Rājagaha là nơi có mười tám ức người cư trú, là cửa ngõ thu nhập của hai xứ Aṅga và Magadha, (mỗi xứ) rộng ba trăm do-tuần, được trang điểm bởi tám mươi ngàn làng. Ở đó, các vị hãy (cho làm các tu viện) ở chính những nơi quan trọng… cho đến… hãy làm cho đoàn thể tăng trưởng”.

Assajipunabbasuke āhaṃsu – ‘‘āvuso, kīṭāgiri nāma dvīhi meghehi anuggahito tīṇi sassāni pasavanti, tatra tumhe dhuraṭṭhāneyeva pariveṇāni kāretvā…pe… parisaṃ vaḍḍhethā’’ti. Te tathā akaṃsu. Tesu ekamekassa pakkhassa pañca pañca bhikkhusatāni parivārā, evaṃ samadhikaṃ diyaḍḍhabhikkhusahassaṃ hoti. Tatra paṇḍukalohitakā saparivārā sīlavantova bhagavatā saddhiṃ janapadacārikampi caranti, te akatavatthuṃ uppādenti, paññattasikkhāpadaṃ pana na maddanti, itare sabbe alajjino akatavatthuñca uppādenti, paññattasikkhāpadañca maddanti, tena vuttaṃ – ‘‘alajjino pāpabhikkhū’’ti.
(Họ) đã nói với Assaji và Punabbasu: “Này các hiền giả, Kīṭāgiri là nơi được hai trận mưa hỗ trợ, (nên) sinh ra ba vụ lúa; ở đó, các vị hãy cho làm các tu viện ở chính những nơi quan trọng… cho đến… hãy làm cho đoàn thể tăng trưởng”. Họ đã làm như vậy. Trong số họ, mỗi một phe có năm trăm vị Tỳ khưu làm tùy tùng; như vậy, có hơn một ngàn rưỡi Tỳ khưu. Ở đó, Paṇḍuka và Lohitaka cùng với tùy tùng của họ đều là những người có giới hạnh, cũng đi du hành các xứ với Đức Thế Tôn. Họ tạo ra những việc chưa từng làm (tốt đẹp), nhưng không vi phạm điều học đã được chế định. Tất cả những người còn lại là những kẻ vô liêm sỉ, cũng tạo ra những việc chưa từng làm (xấu xa), và vi phạm điều học đã được chế định; do đó đã được nói: “Những Tỳ khưu vô liêm sỉ, xấu ác”.

Evarūpanti evaṃjātikaṃ. Anācāraṃ ācarantīti anācaritabbaṃ ācaranti, akātabbaṃ karonti. Mālāvacchanti taruṇapuppharukkhaṃ, taruṇakā hi puppharukkhāpi pupphagacchāpi mālāvacchā tveva vuccanti, te ca anekappakāraṃ mālāvacchaṃ sayampi ropenti, aññenapi ropāpenti, tena vuttaṃ – ‘‘mālāvacchaṃ ropentipi ropāpentipī’’ti. Siñcantīti sayameva udakena siñcanti. Siñcāpentīti aññenapi siñcāpenti.
Như vậy nghĩa là loại như vậy. Họ hành xử không đúng oai nghi nghĩa là họ hành xử (theo cách) không nên hành xử, họ làm (việc) không nên làm. Cây trồng để lấy hoa là cây hoa non; vì cả cây hoa non lẫn bụi hoa non đều được gọi chính là cây trồng để lấy hoa. Và họ tự mình trồng nhiều loại cây trồng để lấy hoa, cũng nhờ người khác trồng; do đó đã được nói: “Họ cũng trồng cây trồng để lấy hoa, cũng nhờ người khác trồng”. Họ tưới nghĩa là họ tự mình tưới bằng nước. Họ nhờ tưới nghĩa là họ cũng nhờ người khác tưới.

Ettha pana akappiyavohāro kappiyavohāro pariyāyo obhāso nimittakammanti imāni pañca jānitabbāni. Tattha akappiyavohāro nāma allaharitānaṃ koṭṭanaṃ koṭṭāpanaṃ, āvāṭassa khaṇanaṃ khaṇāpanaṃ, mālāvacchassa ropanaṃ ropāpanaṃ, āḷiyā bandhanaṃ bandhāpanaṃ, udakassa secanaṃ secāpanaṃ, mātikāya sammukhakaraṇaṃ kappiyaudakasiñcanaṃ hatthamukhapādadhovananhānodakasiñcananti. Kappiyavohāro nāma ‘‘imaṃ rukkhaṃ jāna, imaṃ āvāṭaṃ jāna, imaṃ mālāvacchaṃ jāna, ettha udakaṃ jānā’’ti vacanaṃ sukkhamātikāya ujukaraṇañca. Pariyāyo nāma ‘‘paṇḍitena nāma mālāvacchādayo ropāpetabbā nacirasseva upakārāya saṃvattantī’’tiādivacanaṃ. Obhāso nāma kudālakhaṇittādīni ca mālāvacche ca gahetvā ṭhānaṃ, evaṃ ṭhitañhi sāmaṇerādayo disvā thero kārāpetukāmoti gantvā karonti. Nimittakammaṃ nāma kudāla-khaṇitti-vāsi-pharasu-udakabhājanāni āharitvā samīpe ṭhapanaṃ.
Tuy nhiên, ở đây, năm (điều) này cần được biết: sự giao tiếp không thích hợp, sự giao tiếp thích hợp, cách nói vòng vo, sự nói bóng gió, và sự làm dấu hiệu. Ở đó, sự giao tiếp không thích hợp là việc đập, nhờ đập cây cỏ tươi; việc đào, nhờ đào hố; việc trồng, nhờ trồng cây trồng để lấy hoa; việc đắp, nhờ đắp bờ (ruộng/ao); việc tưới, nhờ tưới nước; việc làm cho mương nước hướng về phía trước, việc tưới nước thích hợp, việc tưới nước rửa tay, mặt, chân, (và) nước tắm. Sự giao tiếp thích hợp là lời nói: “Hãy biết cây này, hãy biết hố này, hãy biết cây trồng để lấy hoa này, hãy biết nước ở đây”, và việc làm cho thẳng mương nước khô. Cách nói vòng vo là lời nói bắt đầu bằng: “Người có trí nên nhờ trồng cây trồng để lấy hoa v.v…, chẳng bao lâu chúng sẽ trở nên hữu ích”. Sự nói bóng gió là việc cầm cuốc, thuổng v.v… và cây trồng để lấy hoa rồi đứng (ở đó); vì các Sa-di v.v…, thấy (vị Trưởng lão) đứng như vậy, (nghĩ rằng) “Vị Trưởng lão muốn cho làm”, rồi đi làm. Sự làm dấu hiệu là việc mang cuốc, thuổng, bào, rìu, đồ đựng nước đến rồi đặt ở gần.

Imāni pañcapi kulasaṅgahatthāya ropane na vaṭṭanti, phalaparibhogatthāya kappiyākappiyavohāradvayameva na vaṭṭati, itarattayaṃ vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘kappiyavohāropi vaṭṭati. Yañca attano paribhogatthāya vaṭṭati, taṃ aññapuggalassa vā saṅghassa vā cetiyassa vā atthāyapi vaṭṭatī’’ti vuttaṃ.
Cả năm (cách giao tiếp) này, trong việc trồng (cây) vì mục đích thu phục gia đình, đều không được phép. Vì mục đích hưởng thụ trái cây, chỉ có hai (cách) giao tiếp thích hợp và không thích hợp là không được phép; ba (cách) còn lại thì được phép. Tuy nhiên, trong Mahāpaccariya, (đã nói rằng) “Ngay cả sự giao tiếp thích hợp cũng được phép. Và điều gì được phép vì mục đích hưởng thụ của bản thân, điều đó cũng được phép vì lợi ích của người khác, hoặc của Tăng chúng, hoặc của bảo tháp”, như đã được nói.

Ārāmatthāya pana vanatthāyaca chāyatthāya ca akappiyavohāramattameva na ca vaṭṭati, sesaṃ vaṭṭati, na kevalañca sesaṃ yaṃkiñci mātikampi ujuṃ kātuṃ kappiyaudakaṃ siñcituṃ nhānakoṭṭhakaṃ katvā nhāyituṃ hatthapādamukhadhovanudakāni ca tattha chaḍḍetumpi vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana kurundiyañca ‘‘kappiyapathaviyaṃ sayaṃ ropetumpi vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Ārāmādiatthāya pana ropitassa vā ropāpitassa vā phalaṃ paribhuñjitumpi vaṭṭati.
Tuy nhiên, vì mục đích (làm) vườn, và vì mục đích (làm) rừng, và vì mục đích (có) bóng mát, chỉ có sự giao tiếp không thích hợp là không được phép; phần còn lại thì được phép. Không chỉ phần còn lại, mà ngay cả việc làm thẳng bất kỳ mương nước nào, tưới nước thích hợp, làm nhà tắm rồi tắm, và đổ nước rửa tay, chân, mặt ở đó cũng được phép. Tuy nhiên, trong MahāpaccariyaKurundī, đã được nói: “Trên đất thích hợp, ngay cả việc tự mình trồng cũng được phép”. Tuy nhiên, đối với (cây) đã trồng hoặc đã nhờ trồng vì mục đích làm vườn v.v…, việc hưởng thụ trái cũng được phép.

Ocinanaocināpane pakatiyāpi pācittiyaṃ. Kuladūsanatthāya pana pācittiyañceva dukkaṭañca. Ganthanādīsu ca uracchadapariyosānesu kuladūsanatthāya aññatthāya vā karontassa dukkaṭameva . Kasmā? Anācārattā, ‘‘pāpasamācāro’’ti ettha vuttapāpasamācārattā ca. Ārāmādiatthāya rukkharopane viya vatthupūjanatthāya kasmā na anāpattīti ce? Anāpattiyeva. Yathā hi tattha kappiyavohārena pariyāyādīhi ca anāpatti tathā vatthupūjatthāyapi anāpattiyeva.
Trong việc hái và nhờ hái (hoa quả), ngay cả trong trường hợp thông thường cũng (phạm tội) Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, (nếu làm) vì mục đích làm hư hỏng gia đình, (phạm) cả tội Ưng Đối Trị lẫn tội Tác Ác. Và trong (các việc) như kết hoa v.v…, cho đến việc làm y che ngực, đối với người làm vì mục đích làm hư hỏng gia đình hoặc vì mục đích khác, chỉ (phạm) tội Tác Ác. Tại sao? Do là hành vi không đúng oai nghi, và do là hành vi xấu xa đã được nói trong (kinh) ở đây là “hành vi xấu xa”. Nếu (hỏi): “Tại sao không phải là không phạm tội (khi làm) vì mục đích cúng dường vật, giống như trong việc trồng cây vì mục đích làm vườn v.v…?” (Đáp:) Chắc chắn là không phạm tội. Vì giống như ở đó, bằng sự giao tiếp thích hợp và bằng cách nói vòng vo v.v…, là không phạm tội; cũng vậy, (khi làm) vì mục đích cúng dường vật, cũng chắc chắn là không phạm tội.

Nanu ca tattha ‘‘kappiyapathaviyaṃ sayaṃ ropetumpi vaṭṭatī’’ti vuttanti? Vuttaṃ, na pana mahāaṭṭhakathāyaṃ. Athāpi maññeyyāsi itarāsu vuttampi pamāṇaṃ. Mahāaṭṭhakathāyañca kappiyaudakasecanaṃ vuttaṃ, taṃ kathanti? Tampi na virujjhati. Tatra hi avisesena ‘‘rukkhaṃ ropentipi ropāpentipi, siñcantipi siñcāpentipī’’ti vattabbe ‘‘mālāvaccha’’nti vadanto ñāpeti ‘‘kulasaṅgahatthāya pupphaphalūpagameva sandhāyetaṃ vuttaṃ, aññatra pana pariyāyo atthī’’ti. Tasmā tattha pariyāyaṃ, idha ca pariyāyābhāvaṃ ñatvā yaṃ aṭṭhakathāsu vuttaṃ, taṃ suvuttameva. Vuttañcetaṃ –
Chẳng phải ở đó đã được nói: “Trên đất thích hợp, ngay cả việc tự mình trồng cũng được phép” sao? (Đáp:) Đã được nói, nhưng không phải trong Mahāaṭṭhakathā (Đại Chú Giải). Hoặc nếu ngài nghĩ rằng điều được nói trong các (Chú giải) khác cũng là tiêu chuẩn. Và trong Mahāaṭṭhakathā, việc tưới nước thích hợp đã được nói đến; điều đó như thế nào? Điều đó cũng không mâu thuẫn. Vì ở đó, đáng lẽ phải nói một cách không phân biệt: “Họ cũng trồng cây, cũng nhờ người khác trồng; cũng tưới, cũng nhờ người khác tưới”, (nhưng Ngài) nói “cây trồng để lấy hoa” là để cho biết rằng: “Điều này được nói nhắm đến chỉ việc dùng hoa quả để thu phục gia đình; còn ở trường hợp khác thì có cách nói vòng vo”. Do đó, sau khi biết cách nói vòng vo ở đó, và việc không có cách nói vòng vo ở đây, điều đã được nói trong các Chú giải là khéo nói. Và điều này đã được nói –

‘‘Buddhena dhammo vinayo ca vutto;
Yo tassa puttehi tatheva ñāto;
So yehi tesaṃ matimaccajantā;
Yasmā pure aṭṭhakathā akaṃsu.
“Pháp và Luật đã được Đức Phật thuyết giảng;
(Pháp và Luật) nào đã được các con của Ngài biết đúng như vậy;
(Pháp và Luật) ấy, những vị nào không vượt qua ý kiến của các ngài ấy;
Vì (các vị ấy) xưa kia đã làm ra các Chú giải.

‘‘Tasmā hi yaṃ aṭṭhakathāsu vuttaṃ;
Taṃ vajjayitvāna pamādalekhaṃ;
Sabbampi sikkhāsu sagāravānaṃ;
Yasmā pamāṇaṃ idha paṇḍitāna’’nti.
“Do đó, quả thực, điều gì đã được nói trong các Chú giải;
Điều đó, sau khi đã loại trừ những chỗ viết lỗi do sơ suất;
Tất cả (điều đó) đối với những người có lòng tôn kính trong các điều học;
Vì ở đây, (đó là) tiêu chuẩn của những người có trí.”

Sabbaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ. Tattha siyā yadi vatthupūjanatthāyapi ganthānādīsu āpatti, haraṇādīsu kasmā anāpattīti? Kulitthīādīnaṃ atthāya haraṇato haraṇādhikāre hi visesetvā te kulitthīnantiādi vuttaṃ, tasmā buddhādīnaṃ atthāya harantassa anāpatti.
Tất cả cần được hiểu theo phương pháp đã nói. Ở đó, nếu (hỏi rằng): “Nếu ngay cả vì mục đích cúng dường vật mà (vẫn) phạm tội trong (việc) kết hoa v.v…, tại sao lại không phạm tội trong (việc) mang (hoa) v.v…?” Vì trong quyền hạn về việc mang (hoa), (điều đó) đã được nói một cách đặc biệt là “họ (mang hoa) vì lợi ích của những phụ nữ quý phái” v.v…; do đó, đối với người mang (hoa) vì lợi ích của Đức Phật v.v…, không phạm tội.

Tattha ekatovaṇṭikanti pupphānaṃ vaṇṭe ekato katvā katamālaṃ. Ubhatovaṇṭikanti ubhohi passehi pupphavaṇṭe katvā katamālaṃ. Mañjarikantiādīsu pana mañjarī viya katā pupphavikati mañjarikāti vuccati. Vidhūtikāti sūciyā vā salākāya vā sinduvārapupphādīni vijjhitvā katā. Vaṭaṃsakoti vataṃsako. Āveḷāti kaṇṇikā. Uracchadoti hārasadisaṃ ure ṭhapanakapupphadāmaṃ. Ayaṃ tāva ettha padavaṇṇanā.
Ở đó, (vòng hoa) có cuống một bên là vòng hoa được làm bằng cách gom cuống hoa về một bên. (Vòng hoa) có cuống hai bên là vòng hoa được làm bằng cách làm cuống hoa ở cả hai bên. Còn trong (các loại) như (vòng hoa) chùm v.v…, sự biến tấu hoa được làm giống như chùm hoa được gọi là (vòng hoa) chùm. (Vòng hoa) xỏ là (vòng hoa) được làm bằng cách dùng kim hoặc que xỏ qua hoa sinduvāra v.v… Vật trang sức tai là vật cài tai. Hoa tai là đồ trang sức tai. Vật che ngực là chuỗi hoa đặt trên ngực giống như vòng cổ. Đây là phần giải thích từ ở đây.

Ayaṃ pana ādito paṭṭhāya vitthārena āpattivinicchayo. Kuladūsanatthāya akappiyapathaviyaṃ mālāvacchaṃ ropentassa pācittiyañceva dukkaṭañca, tathā akappiyavohārena ropāpentassa. Kappiyapathaviyaṃ ropanepi ropāpanepi dukkaṭameva. Ubhayatthāpi sakiṃ āṇattiyā bahunnampi ropane ekameva sapācittiyadukkaṭaṃ vā suddhadukkaṭaṃ vā hoti. Paribhogatthāya hi kappiyabhūmiyaṃ vā akappiyabhūmiyaṃ vā kappiyavohārena ropāpane anāpatti. Ārāmādiatthāyapi akappiyapathaviyaṃ ropentassa vā akappiyavacanena ropāpentassa vā pācittiyaṃ. Ayaṃ pana nayo mahāaṭṭhakathāyaṃ na suṭṭhu vibhatto, mahāpaccariyaṃ vibhattoti.
Còn đây là sự quyết đoán về tội một cách chi tiết ngay từ đầu: Đối với người trồng cây trồng để lấy hoa trên đất không thích hợp vì mục đích làm hư hỏng gia đình, (phạm) cả tội Ưng Đối Trị lẫn tội Tác Ác; cũng vậy đối với người nhờ trồng bằng sự giao tiếp không thích hợp. Ngay cả khi trồng hoặc nhờ trồng trên đất thích hợp, cũng chỉ (phạm) tội Tác Ác. Trong cả hai trường hợp, dù trồng nhiều (cây) bằng một lần ra lệnh, cũng chỉ (phạm) một tội Tác Ác kèm theo tội Ưng Đối Trị, hoặc (chỉ) tội Tác Ác thuần túy. Vì (nếu làm) vì mục đích hưởng thụ, (dù) trên đất thích hợp hay đất không thích hợp, (nhưng) nhờ trồng bằng sự giao tiếp thích hợp, không phạm tội. Ngay cả vì mục đích làm vườn v.v…, đối với người trồng trên đất không thích hợp hoặc nhờ trồng bằng lời nói không thích hợp, (phạm tội) Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, phương pháp này không được phân tích kỹ lưỡng trong Mahāaṭṭhakathā, (nhưng) đã được phân tích trong Mahāpaccariya.

Siñcanasiñcāpane pana akappiyaudakena sabbattha pācittiyaṃ, kuladūsanaparibhogatthāya dukkaṭampi. Kappiyena tesaṃyeva dvinnamatthāya dukkaṭaṃ. Paribhogatthāya cettha kappiyavohārena siñcāpane anāpatti. Āpattiṭṭhāne pana dhārāvacchedavasena payogabahulatāya āpattibahulatā veditabbā.
Còn trong việc tưới và nhờ tưới: (nếu dùng) nước không thích hợp, ở mọi nơi (đều phạm tội) Ưng Đối Trị; (nếu làm) vì mục đích làm hư hỏng gia đình và (vì mục đích) hưởng thụ, cũng (phạm) tội Tác Ác. (Nếu dùng nước) thích hợp, (nhưng làm) vì hai mục đích ấy, (phạm) tội Tác Ác. Còn ở đây, (nếu làm) vì mục đích hưởng thụ, (và) nhờ tưới bằng sự giao tiếp thích hợp, không phạm tội. Tuy nhiên, trong trường hợp phạm tội, sự nhiều tội cần được hiểu dựa trên sự nhiều hành vi theo cách ngắt quãng dòng nước.

Kuladūsanatthāya ocinane pupphagaṇanāya dukkaṭapācittiyāni aññattha pācittiyāneva. Bahūni pana pupphāni ekapayogena ocinanto payogavasena kāretabbo. Ocināpane kuladūsanatthāya sakiṃ āṇatto bahumpi ocinati, ekameva sapācittiyadukkaṭaṃ, aññatra pācittiyameva.
Trong việc hái (hoa) vì mục đích làm hư hỏng gia đình, (phạm) các tội Tác Ác và Ưng Đối Trị theo số lượng hoa; ở trường hợp khác (không vì mục đích làm hư hỏng gia đình), chỉ (phạm) các tội Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, người hái nhiều hoa bằng một hành vi, phải bị xử phạt dựa trên hành vi (chứ không phải số lượng hoa). Trong việc nhờ hái (hoa) vì mục đích làm hư hỏng gia đình, (nếu) ra lệnh một lần mà (người kia) hái nhiều (hoa), chỉ (phạm) một tội Tác Ác kèm theo tội Ưng Đối Trị; ở trường hợp khác, chỉ (phạm) tội Ưng Đối Trị.

Ganthanādīsu sabbāpi cha pupphavikatiyo veditabbā – ganthimaṃ, gopphimaṃ, vedhimaṃ, veṭhimaṃ, pūrimaṃ, vāyimanti. Tattha ‘‘ganthimaṃ’’ nāma sadaṇḍakesu vā uppalapadumādīsu aññesu vā dīghavaṇṭesu pupphesu daṭṭhabbaṃ. Daṇḍakena daṇḍakaṃ vaṇṭena vā vaṇṭaṃ ganthetvā katameva hi ganthimaṃ. Taṃ bhikkhussa vā bhikkhuniyā vā kātumpi akappiyavacanena kārāpetumpi na vaṭṭati. Evaṃ jāna, evaṃ kate sobheyya, yathā etāni pupphāni na vikiriyanti tathā karohītiādinā pana kappiyavacanena kāretuṃ vaṭṭati.
Và trong (các việc) như kết hoa v.v…, cho đến việc làm y che ngực, đối với người làm vì mục đích làm hư hỏng gia đình hoặc vì mục đích khác, chỉ (phạm) tội Tác Ác. Tại sao? Do là hành vi không đúng oai nghi, và do là hành vi xấu xa đã được nói trong (kinh) ở đây là “hành vi xấu xa”. Nếu (hỏi): “Tại sao không phải là không phạm tội (khi làm) vì mục đích cúng dường vật, giống như trong việc trồng cây vì mục đích làm vườn v.v…?” (Đáp:) Chắc chắn là không phạm tội. Vì giống như ở đó, bằng sự giao tiếp thích hợp và bằng cách nói vòng vo v.v…, là không phạm tội; cũng vậy, (khi làm) vì mục đích cúng dường vật, cũng chắc chắn là không phạm tội.

‘‘Gopphimaṃ’’ nāma suttena vā vākādīhi vā vassikapupphādīnaṃ ekatovaṇṭikaubhatovaṇṭikamālāvasena gopphanaṃ, vākaṃ vā rajjuṃ vā diguṇaṃ katvā tattha avaṇṭakāni nīpapupphādīni pavesetvā paṭipāṭiyā bandhanti, etampi gopphimameva. Sabbaṃ purimanayeneva na vaṭṭati.
“Đồ kết” cần được hiểu (là việc làm) đối với các loại hoa có cành, hoặc các loại hoa khác như sen xanh, sen hồng v.v…, (hoặc) các loại hoa có cuống dài. Vì chính việc làm bằng cách kết cành với cành hoặc cuống với cuống là đồ kết. Việc đó, Tỳ khưu hoặc Tỳ-khưu-ni không được phép tự mình làm, cũng không được phép nhờ làm bằng lời nói không thích hợp. Tuy nhiên, được phép nhờ làm bằng lời nói thích hợp như: “Hãy biết (làm) như vầy; nếu làm như vầy sẽ đẹp; hãy làm sao cho những hoa này không bị rơi vãi” v.v…

‘‘Vedhimaṃ’’ nāma savaṇṭakāni vassikapupphādīni vaṇṭesu, avaṇṭakāni vā vakulapupphādīni antochidde sūcitālahīrādīhi vinivijjhitvā āvunanti, etaṃ vedhimaṃ nāma, tampi purimanayeneva na vaṭṭati. Keci pana kadalikkhandhamhi kaṇṭake vā tālahīrādīni vā pavesetvā tattha pupphāni vijjhitvā ṭhapenti, keci kaṇṭakasākhāsu, keci pupphacchattapupphakūṭāgārakaraṇatthaṃ chatte ca bhittiyañca pavesetvā ṭhapitakaṇṭakesu, keci dhammāsanavitāne baddhakaṇṭakesu, keci kaṇikārapupphādīni salākāhi vijjhanti, chattādhichattaṃ viya ca karonti, taṃ atioḷārikameva . Pupphavijjhanatthaṃ pana dhammāsanavitāne kaṇṭakampi bandhituṃ kaṇṭakādīhi vā ekapupphampi vijjhituṃ puppheyeva vā pupphaṃ pavesetuṃ na vaṭṭati. Jālavitānavedika-nāgadantaka pupphapaṭicchakatālapaṇṇaguḷakādīnaṃ pana chiddesu asokapiṇḍiyā vā antaresu pupphāni pavesetuṃ na doso. Etaṃ vedhimaṃ nāma na hoti. Dhammarajjuyampi eseva nayo.
“Đồ bện” là việc bện các loại hoa như hoa lài v.v… thành vòng hoa có cuống một bên hoặc có cuống hai bên, bằng chỉ hoặc bằng vỏ cây v.v… Hoặc (người ta) gấp đôi vỏ cây hoặc dây thừng, rồi cho các loại hoa không có cuống như hoa gáo v.v… vào đó rồi buộc lại theo thứ tự; đây cũng chính là đồ bện. Tất cả đều không được phép theo phương pháp trước.

‘‘Veṭhimaṃ’’ nāma pupphadāmapupphahatthakesu daṭṭhabbaṃ. Keci hi matthakadāmaṃ karontā heṭṭhā ghaṭakākāraṃ dassetuṃ pupphehi veṭhenti, keci aṭṭhaṭṭha vā dasa dasa vā uppalapupphādīni suttena vā vākena vā daṇḍakesu bandhitvā uppalahatthake vā padumahatthake vā karonti, taṃ sabbaṃ purimanayeneva na vaṭṭati. Sāmaṇerehi uppāṭetvā thale ṭhapitauppalādīni kāsāvena bhaṇḍikampi bandhituṃ na vaṭṭati. Tesaṃyeva pana vākena vā daṇḍakena vā bandhituṃ aṃsabhaṇḍikaṃ vā kātuṃ vaṭṭati. Aṃsabhaṇḍikā nāma khandhe ṭhapitakāsāvassa ubho ante āharitvā bhaṇḍikaṃ katvā tasmiṃ pasibbake viya pupphāni pakkhipanti, ayaṃ vuccati aṃsabhaṇḍikā, etaṃ kātuṃ vaṭṭati. Daṇḍakehi paduminipaṇṇaṃ vijjhitvā uppalādīni paṇṇena veṭhetvā gaṇhanti, tatrāpi pupphānaṃ upari paduminipaṇṇameva bandhituṃ vaṭṭati. Heṭṭhā daṇḍakaṃ pana bandhituṃ na vaṭṭati.
“Đồ xỏ” là (việc) người ta xỏ các loại hoa có cuống như hoa lài v.v… vào cuống (của nhau), hoặc xỏ các loại hoa không có cuống như hoa vakula v.v… vào lỗ ở giữa bằng kim, mảnh lá cọ v.v… rồi kết lại; đây gọi là đồ xỏ; điều đó cũng không được phép theo phương pháp trước. Tuy nhiên, một số người cắm gai hoặc mảnh lá cọ v.v… vào thân cây chuối rồi xỏ hoa vào đó mà đặt; một số (cắm) vào cành gai. Một số (cắm) vào những cái gai đã cắm sẵn và đặt ở lọng và tường để làm lọng hoa, nhà nóc nhọn bằng hoa. Một số (cắm) vào những cái gai buộc ở trướng che pháp tòa; một số người xỏ các loại hoa như hoa kaṇikāra v.v… bằng que, và làm giống như lọng chồng lên lọng; điều đó quả thực là quá thô thiển. Tuy nhiên, để xỏ hoa, không được phép buộc cả gai vào trướng che pháp tòa, hoặc dùng gai v.v… xỏ dù chỉ một bông hoa, hoặc cắm hoa vào chính hoa. Tuy nhiên, không có lỗi khi cắm hoa vào các lỗ của trướng lưới, lan can, móc treo hình răng voi, đồ đựng hoa, viên lá cọ v.v…, hoặc vào khoảng giữa của chùm hoa vô ưu. Điều này không gọi là đồ xỏ. Đối với dây Pháp, phương pháp cũng như vậy.

‘‘Pūrimaṃ’’ nāma mālāguṇe ca pupphapaṭe ca daṭṭhabbaṃ. Yo hi mālāguṇena cetiyaṃ vā bodhiṃ vā vedikaṃ vā parikkhipanto puna ānetvā pūrimaṭhānaṃ atikkāmeti, ettāvatāpi pūrimaṃ nāma hoti. Ko pana vādo anekakkhattuṃ parikkhipantassa, nāgadanta-kantarehi pavesetvā haranto olambakaṃ katvā puna nāgadantakaṃ parikkhipati, etampi pūrimaṃ nāma. Nāgadantake pana pupphavalayaṃ pavesetuṃ vaṭṭati. Mālāguṇehi pupphapaṭaṃ karonti. Tatrāpi ekameva mālāguṇaṃ harituṃ vaṭṭati. Puna paccāharato pūrimameva hoti, taṃ sabbaṃ purimanayeneva na vaṭṭati. Mālāguṇehi pana bahūhipi kataṃ pupphadāmaṃ labhitvā āsanamatthakādīsu bandhituṃ vaṭṭati. Atidīghaṃ pana mālāguṇaṃ ekavāraṃ haritvā vā parikkhipitvā vā puna aññassa bhikkhuno dātuṃ vaṭṭati. Tenāpi tatheva kātuṃ vaṭṭati.
“Đồ làm đầy” cần được hiểu (là việc làm) đối với vòng hoa và tấm vải hoa. Vì người nào, trong khi dùng vòng hoa quấn quanh bảo tháp, hoặc cây bồ đề, hoặc lan can, rồi lại mang (vòng hoa) đến và làm cho vượt qua chỗ ban đầu, chừng đó cũng gọi là đồ làm đầy. Huống chi là người quấn quanh nhiều lần; (hoặc) luồn (vòng hoa) qua các khoảng giữa của móc treo hình răng voi, mang đi, làm thành vật treo lòng thòng, rồi lại quấn quanh móc treo hình răng voi; đây cũng gọi là đồ làm đầy. Tuy nhiên, được phép luồn vòng hoa vào móc treo hình răng voi. (Người ta) làm tấm vải hoa bằng các vòng hoa. Ở đó cũng vậy, chỉ được phép mang đi một vòng hoa duy nhất. Nếu mang trở lại, (thì) chính là đồ làm đầy; tất cả điều đó không được phép theo phương pháp trước. Tuy nhiên, được phép nhận chuỗi hoa được làm bằng nhiều vòng hoa rồi buộc vào đầu ghế ngồi v.v… Còn vòng hoa quá dài, sau khi mang đi một lần hoặc quấn quanh một lần, được phép cho vị Tỳ khưu khác. Vị ấy cũng được phép làm như vậy.

‘‘Vāyimaṃ’’ nāma pupphajālapupphapaṭapuppharūpesu daṭṭhabbaṃ. Cetiyesu pupphajālaṃ karontassa ekamekamhi jālacchidde dukkaṭaṃ. Bhitticchattabodhitthambhādīsupi eseva nayo. Pupphapaṭaṃ pana parehi pūritampi vāyituṃ na labbhati. Gopphimapuppheheva hatthiassādirūpakāni karonti, tānipi vāyimaṭṭhāne tiṭṭhanti. Purimanayeneva sabbaṃ na vaṭṭati. Aññehi kataparicchede pana pupphāni ṭhapentena hatthiassādirūpakampi kātuṃ vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana kalambakena aḍḍhacandakena ca saddhiṃ aṭṭhapupphavikatiyo vuttā. Tattha kalambakoti aḍḍhacandakantare ghaṭikadāmaolambako vutto. ‘‘Aḍḍhacandako’’ti aḍḍhacandākārena mālāguṇaparikkhepo. Tadubhayampi pūrimeyeva paviṭṭhaṃ. Kurundiyaṃ pana ‘‘dve tayo mālāguṇe ekato katvā pupphadāmakaraṇampi vāyimaṃyevā’’ti vuttaṃ. Tampi idha pūrimaṭṭhāneyeva paviṭṭhaṃ, na kevalañca pupphaguḷadāmameva piṭṭhamayadāmampi geṇḍukapupphadāmampi kurundiyaṃ vuttaṃ, kharapattadāmampi sikkhāpadassa sādhāraṇattā bhikkhūnampi bhikkhunīnampi neva kātuṃ na kārāpetuṃ vaṭṭati. Pūjānimittaṃ pana kappiyavacanaṃ sabbattha vattuṃ vaṭṭati. Pariyāyaobhāsanimittakammāni vaṭṭantiyeva.
“Đồ dệt” cần được hiểu (là việc làm) đối với lưới hoa, tấm vải hoa, (và) hình tượng bằng hoa. Đối với người làm lưới hoa ở các bảo tháp, mỗi một mắt lưới (phạm) tội Tác Ác. Đối với tường, lọng, cột cây bồ đề v.v…, phương pháp cũng như vậy. Tuy nhiên, tấm vải hoa, dù đã được người khác làm đầy (hoa), cũng không được phép dệt (thêm). (Người ta) chỉ làm các hình tượng voi, ngựa v.v… bằng hoa bện; những (hình tượng) đó cũng nằm trong phạm vi đồ dệt. Tất cả đều không được phép theo phương pháp trước. Tuy nhiên, trong giới hạn đã được người khác làm, được phép đặt hoa để làm cả hình tượng voi, ngựa v.v… Tuy nhiên, trong Mahāpaccariya, tám loại biến tấu hoa đã được nói đến, cùng với kalambaka và aḍḍhacandaka. Ở đó, kalambaka được nói là chuỗi hoa hình đồng hồ cát treo lòng thòng ở giữa (vòng hoa) hình bán nguyệt. “Aḍḍhacandaka” là sự bao quanh bằng vòng hoa theo hình bán nguyệt. Cả hai điều đó đều đã được bao gồm trong (khái niệm) “đồ làm đầy” trước đó. Tuy nhiên, trong Kurundī, đã được nói: “Việc gom hai, ba vòng hoa lại với nhau rồi làm thành chuỗi hoa cũng chính là đồ dệt”. Điều đó ở đây cũng đã được bao gồm trong (khái niệm) “đồ làm đầy”. Không chỉ chuỗi hoa hình cầu, mà cả chuỗi (hoa) làm bằng bột, chuỗi hoa hình quả bóng cũng đã được nói trong Kurundī. Ngay cả chuỗi hoa làm bằng lá cọ cứng, do tính chất chung của điều học, Tỳ khưu cũng như Tỳ-khưu-ni đều không được phép tự mình làm, cũng không được phép nhờ làm. Tuy nhiên, (để làm) dấu hiệu cúng dường, được phép nói lời nói thích hợp ở mọi nơi. Các hành vi nói vòng vo, nói bóng gió, làm dấu hiệu thì chắc chắn được phép.

Tuvaṭṭentīti nipajjanti. Lāsentīti pītiyā uppilavamānā viya uṭṭhahitvā lāsiyanāṭakaṃ nāṭenti, recakaṃ denti. Naccantiyāpi naccantīti yadā nāṭakitthī naccati, tadā tepi tassā purato vā pacchato vā gacchantā naccanti. Naccantiyāpi gāyantīti yadā sā naccati, tadā naccānurūpaṃ gāyanti. Esa nayo sabbattha. Aṭṭhapadepi kīḷantīti aṭṭhapadaphalake jūtaṃ kīḷanti. Tathā dasapade, ākāsepīti aṭṭhapadadasapadesu viya ākāseyeva kīḷanti. Parihārapathepīti bhūmiyaṃ nānāpathamaṇḍalaṃ katvā tattha pariharitabbapathaṃ pariharantā kīḷanti. Santikāyapi kīḷantīti santikakīḷāya kīḷanti, ekajjhaṃ ṭhapitā sāriyo vā pāsāṇasakkharāyo vā acālentā nakheneva apanenti ca upanenti ca, sace tattha kāci calati, parājayo hoti. Khalikāyāti jūtaphalake pāsakakīḷāya kīḷanti. Ghaṭikāyāti ghaṭikā vuccati daṇḍakakīḷā, tāya kīḷanti. Dīghadaṇḍakena rassadaṇḍakaṃ paharantā vicaranti.
Họ nằm nghiêng nghĩa là họ nằm xuống. Họ múa nghĩa là họ đứng dậy giống như đang trôi nổi trong niềm vui rồi diễn trò múa, (và) làm các động tác uốn éo. Ngay cả khi (người nữ) đang múa, họ cũng múa nghĩa là: khi người nữ vũ công múa, khi đó họ cũng đi phía trước hoặc phía sau cô ta rồi múa. Ngay cả khi (người nữ) đang múa, họ cũng hát nghĩa là: khi cô ta múa, khi đó họ hát theo điệu múa. Phương pháp này (áp dụng) ở mọi nơi. Họ cũng chơi cờ tám ô nghĩa là họ chơi cờ bạc trên bàn cờ tám ô. Cũng vậy, (chơi cờ) mười ô, (và) ngay cả trong hư không nghĩa là họ chơi ngay cả trong hư không giống như (chơi) cờ tám ô, mười ô. Ngay cả (trò chơi) vòng quanh đường đi nghĩa là họ vẽ nhiều vòng tròn đường đi trên mặt đất rồi chơi bằng cách đi vòng quanh con đường phải đi vòng. Họ cũng chơi trò santikā nghĩa là họ chơi trò santikā; (trong trò đó), những quân cờ hoặc sỏi đá được đặt chung một chỗ, (người chơi) không làm lay động (các quân khác) mà chỉ dùng móng tay để dời đi và mang đến; nếu ở đó một quân nào bị lay động, (người ấy) bị thua. Bằng (trò) khalikā nghĩa là họ chơi trò xúc xắc trên bàn cờ bạc. Bằng (trò) ghaṭikā: ghaṭikā được gọi là trò chơi bằng gậy; họ chơi trò đó. Họ đi lại đánh cây gậy ngắn bằng cây gậy dài.

Salākahatthenāti lākhāya vā mañjaṭṭhiyā vā piṭṭhaudake vā salākahatthaṃ temetvā ‘‘kiṃ hotū’’ti bhūmiyaṃ vā bhittiyaṃ vā taṃ paharitvā hatthiassādīrūpāni dassentā kīḷanti. Akkhenāti guḷena. Paṅgacīrenāti paṅgacīraṃ vuccati paṇṇanāḷikā, taṃ dhamantā kīḷanti. Vaṅkakenāti gāmadārakānaṃ kīḷanakena khuddakanaṅgalena. Mokkhacikāyāti mokkhacikā vuccati samparivattakakīḷā, ākāse vā daṇḍaṃ gahetvā, bhūmiyaṃ vā sīsaṃ ṭhapetvā heṭṭhupariyabhāvena parivattantā kīḷantīti attho. Ciṅgulakenāti ciṅgulakaṃ vuccati tālapaṇṇādīhi kataṃ vātappahārena paribbhamanacakkaṃ, tena kīḷanti. Pattāḷhakenāti pattāḷhakaṃ vuccati paṇṇanāḷi, tāya vālikādīni minantā kīḷanti. Rathakenāti khuddakarathena. Dhanukenāti khuddakadhanunā.
Bằng (trò) bàn tay que nghĩa là: họ nhúng bàn tay có que vào nhựa cánh kiến, hoặc màu đỏ son, hoặc nước bột, rồi (nói) “Hãy là gì đây?”, rồi đập (tay) đó vào đất hoặc tường, làm hiện ra các hình voi, ngựa v.v… rồi chơi. Bằng (trò) xúc xắc nghĩa là bằng viên (xúc xắc). Bằng (trò) ống sậy: paṅgacīraṃ được gọi là ống làm bằng lá; họ thổi ống đó rồi chơi. Bằng (trò) cày nhỏ nghĩa là bằng cái cày nhỏ đồ chơi của trẻ em trong làng. Bằng (trò) nhào lộn: mokkhacikā được gọi là trò chơi xoay tròn; ý là họ hoặc nắm gậy (rồi xoay) trên không, hoặc đặt đầu xuống đất rồi xoay tròn theo chiều trên dưới mà chơi. Bằng (trò) chong chóng: ciṅgulakaṃ được gọi là bánh xe làm bằng lá cọ v.v…, xoay tròn do sức gió; họ chơi bằng (đồ chơi) đó. Bằng (trò) ống đong lá: pattāḷhakaṃ được gọi là ống làm bằng lá; họ đong cát v.v… bằng (ống) đó rồi chơi. Bằng (trò) xe nhỏ nghĩa là bằng chiếc xe nhỏ. Bằng (trò) cung nhỏ nghĩa là bằng cây cung nhỏ.

Akkharikāyāti akkharikā vuccati ākāse vā piṭṭhiyaṃ vā akkharajānanakīḷā, tāya kīḷanti. Manesikāyāti manesikā vuccati manasā cintitajānanakīḷā, tāya kīḷanti. Yathāvajjenāti yathāvajjaṃ vuccati kāṇakuṇikakhañjādīnaṃ yaṃ yaṃ vajjaṃ taṃ taṃ payojetvā dassanakīḷā tāya kīḷanti, velambhakā viya. Hatthismimpi sikkhantīti hatthinimittaṃ yaṃ sippaṃ sikkhitabbaṃ, taṃ sikkhanti. Eseva nayo assādīsu. Dhāvantipīti parammukhā gacchantā dhāvanti. Ādhāvantipīti yattakaṃ dhāvanti, tattakameva abhimukhā puna āgacchantā ādhāvanti. Nibbujjhantīti mallayuddhaṃ karonti. Nalāṭikampi dentīti ‘‘sādhu, sādhu, bhaginī’’ti attano nalāṭe aṅguliṃ ṭhapetvā tassā nalāṭe ṭhapenti. Vividhampi anācāraṃ ācarantīti aññampi pāḷiyaṃ anāgataṃ mukhaḍiṇḍimādivividhaṃ anācāraṃ ācaranti.
Bằng (trò) đoán chữ: akkharikā được gọi là trò chơi đoán chữ (viết) trên không hoặc trên lưng; họ chơi trò đó. Bằng (trò) đoán ý: manesikā được gọi là trò chơi đoán ý nghĩ trong tâm; họ chơi trò đó. Bằng (trò) bắt chước khuyết tật: yathāvajjaṃ được gọi là trò chơi trình diễn bằng cách bắt chước bất kỳ khuyết tật nào của người chột, người què, người thọt v.v…; họ chơi trò đó, giống như những người diễn trò hề. Họ cũng học (cưỡi) voi nghĩa là họ học kỹ năng nào cần phải học liên quan đến voi. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho ngựa v.v… Họ cũng chạy nghĩa là họ chạy quay lưng lại (với nhau) rồi đi. Họ cũng chạy đến nghĩa là họ chạy bao xa, (rồi) lại chạy đến gần bấy nhiêu, quay mặt lại với nhau. Họ đấu vật nghĩa là họ đấu vật. Họ cũng búng trán nghĩa là (họ nói) “Lành thay, lành thay, chị/em gái!”, rồi đặt ngón tay lên trán mình rồi đặt lên trán cô ấy. Họ cũng hành xử nhiều loại hành vi không đúng oai nghi nghĩa là họ cũng hành xử nhiều loại hành vi không đúng oai nghi khác không có trong Pāḷi như làm trò hề bằng miệng v.v…

432.Pāsādikenāti pasādāvahena, sāruppena samaṇānucchavikena. Abhikkantenāti gamanena. Paṭikkantenāti nivattanena. Ālokitenāti purato dassanena. Vilokitenāti ito cito ca dassanena. Samiñjitenāti pabbasaṅkocanena. Pasāritenāti tesaṃyeva pasāraṇena. Sabbattha itthambhūtākhyānatthe karaṇavacanaṃ, satisampajaññehi abhisaṅkhatattā pāsādika abhikkanta-paṭikkanta-ālokita-vilokita-samiñjita-pasārito hutvāti vuttaṃ hoti. Okkhittacakkhūti heṭṭhā-khittacakkhu . Iriyāpathasampannoti tāya pāsādikaabhikkantāditāya sampannairiyāpatho.
432. Với (oai nghi) trang nghiêm nghĩa là (oai nghi) mang lại sự trong sạch, thích hợp, xứng đáng với Sa-môn. Khi đi tới nghĩa là bằng sự đi. Khi lui về nghĩa là bằng sự trở lại. Khi nhìn thẳng nghĩa là bằng sự nhìn phía trước. Khi nhìn quanh nghĩa là bằng sự nhìn đây đó. Khi co (tay chân) nghĩa là bằng sự co các khớp. Khi duỗi (tay chân) nghĩa là bằng sự duỗi chính những (khớp) ấy. Ở mọi nơi, (đây là) cách dùng (biến cách) công cụ theo nghĩa mô tả trạng thái; có nghĩa là (vị ấy) trở thành người có (oai nghi) đi tới, lui về, nhìn thẳng, nhìn quanh, co, duỗi trang nghiêm, do được sửa soạn bằng chánh niệm và tỉnh giác. Mắt nhìn xuống là mắt nhìn xuống dưới. Người có đầy đủ oai nghi là người có oai nghi đầy đủ do (oai nghi) đi tới v.v… trang nghiêm ấy.

Kvāyanti ko ayaṃ. Abalabalo viyāti abalo kira bondo vuccati, atisayatthe ca idaṃ āmeḍitaṃ, tasmā atibondo viyāti vuttaṃ hoti. Mandamandoti abhikkantādīnaṃ anuddhatatāya atimando. Atisaṇhoti evaṃ guṇameva dosato dassenti. Bhākuṭikabhākuṭiko viyāti okkhittacakkhutāya bhakuṭiṃ katvā saṅkuṭitamukho kupito viya vicaratīti maññamānā vadanti. Saṇhāti nipuṇā, ‘‘amma tāta bhaginī’’ti evaṃ upāsakajanaṃ yuttaṭṭhāne upanetuṃ chekā, na yathā ayaṃ; evaṃ abalabalo viyāti adhippāyo. Sakhilāti sākhalyena yuttā. Sukhasambhāsāti idaṃ purimassa kāraṇavacanaṃ. Yesañhi sukhasambhāsā sammodanīyakathā nelā hoti kaṇṇasukhā, te sakhilāti vuccanti. Tenāhaṃsu – ‘‘sakhilā sukhasambhāsā’’ti. Ayaṃ panettha adhippāyo – amhākaṃ ayyā upāsake disvā madhuraṃ sammodanīyaṃ kathaṃ kathenti, tasmā sakhilā sukhasambhāsā, na yathā ayaṃ; evaṃ mandamandā viyāti. Mihitapubbaṅgamāti mihitaṃ pubbaṅgamaṃ etesaṃ vacanassāti mihitapubbaṅgamā, paṭhamaṃ sitaṃ katvā pacchā vadantīti attho. Ehisvāgatavādinoti upāsakaṃ disvā ‘‘ehi svāgataṃ tavā’’ti evaṃvādino, na yathā ayaṃ; evaṃ saṅkuṭitamukhatāya bhākuṭikabhākuṭikā viya evaṃ mihitapubbaṅgamāditāya abhākuṭikabhāvaṃ atthato dassetvā puna sarūpenapi dassento āhaṃsu – ‘‘abhākuṭikā uttānamukhā pubbabhāsino’’ti. Uppaṭipāṭiyā vā tiṇṇampi ākārānaṃ abhāvadassanametanti veditabbaṃ. Kathaṃ? Ettha hi ‘‘abhākuṭikā’’ti iminā bhākuṭikabhākuṭikākārassa abhāvo dassito. ‘‘Uttānamukhā’’ti iminā mandamandākārassa, ye hi cakkhūni ummiletvā ālokanena uttānamukhā honti, na te mandamandā. Pubbabhāsinoti iminā abalabalākārassa abhāvo dassito, ye hi ābhāsanakusalatāya ‘‘amma tātā’’ti paṭhamataraṃ ābhāsanti, na te abalabalāti.
“Đây là ai?” nghĩa là “người này là ai?”. “Giống như kẻ yếu đuối”: tương truyền, “yếu đuối” được gọi là “ngu đần”; và từ này được lặp lại để chỉ mức độ cao nhất; do đó, có nghĩa là “giống như kẻ rất ngu đần”. “Người chậm chạp” là người rất chậm chạp do (oai nghi) đi tới v.v… không vội vàng. (Nói) “rất từ tốn” (là một đức tính), (nhưng) họ lại trình bày đức tính ấy như một khuyết điểm. “Giống như người hay cau có”: họ nói (như vậy) vì cho rằng (vị ấy) đi lại giống như người đang tức giận, mặt nhăn nhó, chau mày do mắt nhìn xuống. (Những Tỳ khưu) khéo léo là những người tài giỏi, khéo léo trong việc dẫn dắt hàng cư sĩ đến nơi thích hợp (bằng cách gọi) “Mẹ, cha, chị/em gái” như vậy; không giống như người này; ý là (người này) giống như kẻ yếu đuối như vậy. (Những người) thân thiện là những người có sự thân mật. (Những người) dễ nói chuyện: đây là lời nói chỉ nguyên nhân của (điều) trước. Vì những ai có lời nói chuyện dễ chịu, lời thăm hỏi vui vẻ, trong sáng, dễ nghe, họ được gọi là những người thân thiện. Do đó, họ đã nói: “Những người thân thiện, dễ nói chuyện”. Còn đây là chủ ý: “Các Tôn giả của chúng ta, khi thấy hàng cư sĩ, nói lời thăm hỏi vui vẻ, ngọt ngào; do đó, (các ngài là) những người thân thiện, dễ nói chuyện; không giống như người này, (người) giống như kẻ chậm chạp như vậy”. (Những người) có nụ cười đi trước lời nói nghĩa là: nụ cười là điều đi trước lời nói của họ, (nên gọi là) những người có nụ cười đi trước lời nói; ý là họ mỉm cười trước rồi sau đó mới nói. (Những người) nói lời chào đón nghĩa là: khi thấy người cư sĩ, (họ là) những người nói như “Hãy đến, chào mừng ngài”; không giống như người này. Như vậy, (người này) giống như người hay cau có do mặt nhăn nhó; như vậy, sau khi chỉ rõ trạng thái không cau có theo nghĩa (do có) nụ cười đi trước lời nói v.v…, rồi lại chỉ rõ cả bằng hình thức, họ đã nói: “(Các Tôn giả của chúng ta) không cau có, mặt mày tươi tắn, nói lời chào trước“. Hoặc, cần hiểu đây là sự trình bày về việc không có cả ba trạng thái (tiêu cực) theo thứ tự ngược lại. Bằng cách nào? Vì ở đây, bằng (từ) “không cau có“, sự không có trạng thái hay cau có được chỉ rõ. Bằng (từ) “mặt mày tươi tắn“, (sự không có) trạng thái chậm chạp (được chỉ rõ); vì những người nào có mặt mày tươi tắn do mở mắt nhìn, họ không phải là người chậm chạp. Bằng (từ) “nói lời chào trước“, sự không có trạng thái yếu đuối được chỉ rõ; vì những người nào, do sự khéo léo trong việc nói chuyện, nói lời chào trước (như) “Mẹ, cha”, họ không phải là người yếu đuối.

Ehi, bhante, gharaṃ gamissāmāti so kira upāsako ‘‘na kho, āvuso, piṇḍo labbhatī’’ti vutte ‘‘tumhākaṃ bhikkhūhiyeva etaṃ kataṃ , sakalampi gāmaṃ vicarantā na lacchathā’’ti vatvā piṇḍapātaṃ dātukāmo ‘‘ehi, bhante, gharaṃ gamissāmā’’ti āha. Kiṃ panāyaṃ payuttavācā hoti, na hotīti? Na hoti. Pucchitapañho nāmāyaṃ kathetuṃ vaṭṭati. Tasmā idāni cepi pubbaṇhe vā sāyanhe vā antaragharaṃ paviṭṭhaṃ bhikkhuṃ koci puccheyya – ‘‘kasmā, bhante, carathā’’ti? Yenatthena carati, taṃ ācikkhitvā ‘‘laddhaṃ na laddha’’nti vutte sace na laddhaṃ, ‘‘na laddha’’nti vatvā yaṃ so deti, taṃ gahetuṃ vaṭṭati.
“Xin mời Đại đức, chúng ta hãy về nhà”: tương truyền, người cư sĩ ấy, khi (Tỳ khưu) nói: “Này hiền giả, không nhận được vật thực”, đã nói: “Chính các Tỳ khưu các ngài đã làm ra điều này; dù đi khắp làng cũng sẽ không nhận được (vật thực)”, rồi vì muốn cúng dường vật thực, đã nói: “Xin mời Đại đức, chúng ta hãy về nhà”. Vậy thì, đây có phải là lời nói thích hợp không? (Đáp:) Không phải. Đây gọi là câu hỏi đã được hỏi, được phép nói. Do đó, ngay cả bây giờ, nếu vào buổi sáng hoặc buổi chiều, một người nào đó hỏi vị Tỳ khưu đã vào trong nhà: “Thưa Đại đức, ngài đi (khất thực) vì mục đích gì?”. (Vị Tỳ khưu) sau khi trình bày mục đích mà mình đi (khất thực), khi được hỏi “Đã nhận được hay chưa nhận được?”, nếu chưa nhận được, (nên) nói “Chưa nhận được”; rồi vật gì người ấy cho, được phép nhận lấy.

Duṭṭhoti na pasādādīnaṃ vināsena duṭṭho, puggalavasena duṭṭho. Dānapathānīti dānāniyeva vuccanti. Atha vā dānapathānīti dānanibaddhāni dānavattānīti vuttaṃ hoti. Upacchinnānīti dāyakehi upacchinnāni, na te tāni etarahi denti. Riñcantīti visuṃ honti nānā honti, pakkamantīti vuttaṃ hoti. Saṇṭhaheyyāti sammā tiṭṭheyya, pesalānaṃ bhikkhūnaṃ patiṭṭhā bhaveyya.
Bị hư hỏng nghĩa là không phải bị hư hỏng do sự mất lòng tin v.v…, (mà là) bị hư hỏng do cá nhân (Tỳ khưu). Các con đường bố thí cũng được gọi là các sự bố thí. Hoặc, các con đường bố thí có nghĩa là các bổn phận bố thí, các việc làm bố thí. Bị cắt đứt nghĩa là bị các thí chủ cắt đứt; bây giờ họ không cho những (vật) đó nữa. Họ từ bỏ nghĩa là họ trở nên riêng rẽ, trở nên khác biệt; có nghĩa là họ bỏ đi. Mong rằng (Tăng chúng) sẽ đứng vững nghĩa là mong rằng (Tăng chúng) sẽ đứng vững một cách chân chánh, sẽ là nơi nương tựa của các Tỳ khưu khả kính.

Evamāvusoti kho so bhikkhu saddhassa pasannassa upāsakassa sāsanaṃ sampaṭicchi. Evarūpaṃ kira sāsanaṃ kappiyaṃ harituṃ vaṭṭati, tasmā ‘‘mama vacanena bhagavato pāde vandathā’’ti vā ‘‘cetiyaṃ paṭimaṃ bodhiṃ saṅghattheraṃ vandathā’’ti vā ‘‘cetiye gandhapūjaṃ karotha, pupphapūjaṃ karothā’’ti vā ‘‘bhikkhū sannipātetha, dānaṃ dassāma , dhammaṃ sossāmāti vā īdisesu sāsanesu kukkuccaṃ na kātabbaṃ. Kappiyasāsanāni etāni na gihīnaṃ gihikammapaṭisaṃyuttānīti. Kuto ca tvaṃ, bhikkhu, āgacchasīti nisinno so bhikkhu na āgacchati atthato pana āgato hoti; evaṃ santepi vattamānasamīpe vattamānavacanaṃ labbhati, tasmā na doso. Pariyosāne ‘‘tato ahaṃ bhagavā āgacchāmī’’ti etthāpi vacane eseva nayo.
“Như vậy, thưa hiền giả”: vị Tỳ khưu ấy quả thực đã chấp nhận thông điệp của người cư sĩ có lòng tin, có tâm trong sạch. Tương truyền, được phép mang thông điệp thích hợp như vậy. Do đó, đối với những thông điệp như: “Xin hãy thay lời tôi đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn”, hoặc “Xin hãy đảnh lễ bảo tháp, tượng Phật, cây bồ đề, vị Trưởng lão Tăng”, hoặc “Xin hãy cúng dường hương, cúng dường hoa ở bảo tháp”, hoặc “Xin hãy triệu tập các Tỳ khưu, chúng tôi sẽ cúng dường, chúng tôi sẽ nghe Pháp”, không nên có sự hối tiếc. Những thông điệp này là thích hợp, không phải là những (thông điệp) liên quan đến công việc tại gia của hàng cư sĩ. “Này Tỳ khưu, ngươi từ đâu đến?”: vị Tỳ khưu ấy đang ngồi, không phải đang đến; tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, (vị ấy) đã đến. Dù là như vậy, (cách dùng) lời nói ở thì hiện tại trong (ngữ cảnh) gần với (quá khứ) được phép; do đó, không có lỗi. Ở cuối, trong lời nói “Bạch Đức Thế Tôn, con từ đó đến”, ở đó cũng theo phương pháp ấy.

433.Paṭhamaṃ assajipunabbasukā bhikkhū codetabbāti ‘‘mayaṃ tumhe vattukāmā’’ti okāsaṃ kāretvā vatthunā ca āpattiyā ca codetabbā. Codetvā yaṃ na saranti, taṃ sāretabbā. Sace vatthuñca āpattiñca paṭijānanti, āpattimeva vā paṭijānanti, na vatthuṃ, āpattiṃ ropetabbā. Atha vatthumeva paṭijānanti, nāpattiṃ; evampi ‘‘imasmiṃ vatthusmiṃ ayaṃ nāma āpattī’’ti ropetabbā eva. Yadi neva vatthuṃ, nāpattiṃ paṭijānanti, āpattiṃ na ropetabbā ayamettha vinicchayo. Yathāpaṭiññāya pana āpattiṃ ropetvā; evaṃ pabbājanīyakammaṃ kātabbanti dassento ‘‘byattena bhikkhunā’’tiādimāha, taṃ uttānatthameva.
433. Trước hết, các Tỳ khưu Assaji và Punabbasu cần được tố cáo nghĩa là: sau khi xin cơ hội (nói rằng) “Chúng tôi muốn nói với các ngài”, (họ) cần được tố cáo về sự việc và tội. Sau khi tố cáo, điều gì họ không nhớ, cần được nhắc lại cho họ nhớ. Nếu họ thú nhận cả sự việc lẫn tội, hoặc chỉ thú nhận tội mà không (thú nhận) sự việc, (họ) cần được quy tội. Còn nếu họ chỉ thú nhận sự việc mà không (thú nhận) tội; ngay cả như vậy, cũng phải quy (tội) rằng: “Trong sự việc này, (đây là) tội tên X”. Nếu họ không thú nhận cả sự việc lẫn tội, không nên quy tội – đây là sự quyết đoán ở đây. Tuy nhiên, sau khi quy tội theo như (họ) đã thú nhận; để chỉ rõ rằng hành sự trục xuất cần được thực hiện như vậy, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Bởi một vị Tỳ khưu khôn khéo“; điều đó ý nghĩa rõ ràng.

Evaṃ pabbājanīyakammakatena bhikkhunā yasmiṃ vihāre vasantena yasmiṃ gāme kuladūsakakammaṃ kataṃ hoti, tasmiṃ vihāre vā tasmiṃ gāme vā na vasitabbaṃ. Tasmiṃ vihāre vasantena sāmantagāmepi piṇḍāya na caritabbaṃ. Sāmantavihārepi vasantena tasmiṃ gāme piṇḍāya na caritabbaṃ. Upatissatthero pana ‘‘bhante nagaraṃ nāma mahantaṃ dvādasayojanikampi hotī’’ti antevāsikehi vutto ‘‘yassā vīthiyā kuladūsakakammaṃ kataṃ tattheva vārita’’nti āha. Tato ‘‘vīthipi mahatī nagarappamāṇāva hotī’’ti vutto ‘‘yassā gharapaṭipāṭiyā’’ti āha, ‘‘gharapaṭipāṭīpi vīthippamāṇāva hotī’’ti vutto ito cito ca satta gharāni vāritānī’’ti āha. Taṃ pana sabbaṃ therassa manorathamattameva. Sacepi vihāro tiyojanaparamo hoti dvādasayojanaparamañca nagaraṃ, neva vihāre vasituṃ labbhati, na nagare caritunti.
Vị Tỳ khưu đã bị thực hiện hành sự trục xuất như vậy, nếu đã làm hành vi làm hư hỏng gia đình trong làng nào khi đang ở trong tu viện nào, thì không được ở trong tu viện đó hoặc trong làng đó. Khi đang ở trong tu viện đó, cũng không được đi khất thực ngay cả trong các làng lân cận. Ngay cả khi đang ở trong tu viện lân cận, cũng không được đi khất thực trong làng đó. Tuy nhiên, ngài Trưởng lão Upatissa, khi được các đệ tử nói: “Thưa Đại đức, thành phố cũng có khi lớn đến mười hai do-tuần”, đã nói: “Đường phố nào mà (vị ấy) đã làm hành vi làm hư hỏng gia đình, chỉ ở đó bị cấm”. Sau đó, khi được nói: “Đường phố cũng lớn bằng cả thành phố”, (ngài) nói: “(Cấm ở) dãy nhà nào”. Khi được nói: “Dãy nhà cũng lớn bằng cả đường phố”, (ngài) nói: “Bảy nhà ở phía này và phía kia (của nhà bị làm hư hỏng) bị cấm”. Tuy nhiên, tất cả điều đó chỉ là ý muốn riêng của vị Trưởng lão. Dù tu viện có rộng đến ba do-tuần và thành phố rộng đến mười hai do-tuần, cũng không được phép ở trong tu viện, (cũng) không (được phép) đi (khất thực) trong thành phố.

435.Tesaṅghena pabbājanīyakammakatāti kathaṃ saṅgho tesaṃ kammaṃ akāsi? Na gantvāva ajjhottharitvā akāsi, atha kho kulehi nimantetvā saṅghabhattesu kayiramānesu tasmiṃ tasmiṃ ṭhāne therā samaṇapaṭipadaṃ kathetvā ‘‘ayaṃ samaṇo, ayaṃ assamaṇo’’ti manusse saññāpetvā ekaṃ dve bhikkhū sīmaṃ pave setvā etenevupāyena sabbesaṃ pabbājanīyakammaṃ akaṃsūti. Evaṃ pabbājanīyakammakatassa ca aṭṭhārasa vattāni pūretvā yācantassa kammaṃ paṭippassambhetabbaṃ. Paṭippassaddhakammenāpi ca tena yesu kulesu pubbe kuladūsakakammaṃ kataṃ, tato paccayā na gahetabbā, āsavakkhayappattenāpi na gahetabbā, akappiyāva honti. ‘‘Kasmā na gaṇhathā’’ti pucchitena ‘‘pubbe evaṃ katattā’’ti vutte, sace vadanti ‘‘na mayaṃ tena kāraṇena dema idāni sīlavantatāya demā’’ti gahetabbā. Pakatiyā dānaṭṭhāneyeva kuladūsakakammaṃ kataṃ hoti. Tato pakatidānameva gahetuṃ vaṭṭati, yaṃ vaḍḍhetvā denti, taṃ na vaṭṭati.
435. Hành sự trục xuất đã được Tăng chúng thực hiện đối với họ: Tăng chúng đã thực hiện hành sự đối với họ như thế nào? (Tăng chúng) không đi đến rồi áp đảo mà thực hiện; mà khi được các gia đình thỉnh mời, trong khi các bữa ăn của Tăng chúng đang được chuẩn bị, ở mỗi nơi mỗi chỗ, các vị Trưởng lão thuyết giảng về pháp hành của Sa-môn, làm cho dân chúng hiểu “Đây là Sa-môn, đây không phải là Sa-môn”, rồi cho một, hai vị Tỳ khưu vào trong giới, bằng chính phương tiện này, đã thực hiện hành sự trục xuất đối với tất cả họ. Và đối với người đã bị thực hiện hành sự trục xuất như vậy, sau khi đã viên mãn mười tám bổn phận và xin (tha thứ), hành sự (trục xuất) cần được đình chỉ. Và ngay cả đối với người đã được đình chỉ hành sự (trục xuất) ấy, (nếu) trước đây đã làm hành vi làm hư hỏng gia đình nào, không được nhận vật dụng từ (gia đình) đó; ngay cả người đã đạt đến sự đoạn tận các lậu hoặc cũng không được nhận, (vì chúng) là những thứ không thích hợp. Khi được hỏi: “Tại sao các ngài không nhận?”, (và) sau khi (vị Tỳ khưu) nói: “Vì trước đây đã làm như vậy”, nếu họ nói: “Chúng tôi không cho vì lý do đó; bây giờ chúng tôi cho vì (ngài) có giới hạnh”, thì được phép nhận. Hành vi làm hư hỏng gia đình thường xảy ra chính ở nơi bố thí. Do đó, chỉ được phép nhận sự bố thí thông thường; (vật gì) họ cho thêm, điều đó không được phép.

Na sammā vattantīti te pana assajipunabbasukā aṭṭhārasasu vattesu sammā na vattanti. Na lomaṃ pātentīti anulomapaṭipadaṃ appaṭipajjanatāya na pannalomā honti. Na netthāraṃ vattantīti attano nittharaṇamaggaṃ na paṭipajjanti . Na bhikkhū khamāpentīti ‘‘dukkaṭaṃ, bhante, amhehi, na puna evaṃ karissāma, khamatha amhāka’’nti evaṃ bhikkhūnaṃ khamāpanaṃ na karonti. Akkosantīti kārakasaṅghaṃ dasahi akkosavatthūhi akkosanti. Paribhāsantīti bhayaṃ nesaṃ dassenti. Chandagāmitā…pe… bhayagāmitā pāpentīti ete chandagāmino ca…pe… bhayagāmino cāti evaṃ chandagāmitāyapi…pe… bhayagāmitāyapi pāpenti, yojentīti attho. Pakkamantīti tesaṃ parivāresu pañcasu samaṇasatesu ekacce disā pakkamanti. Vibbhamantīti ekacce gihī honti. Kathañhi nāma assajipunabbasukā bhikkhūti ettha dvinnaṃ pamokkhānaṃ vasena sabbepi ‘‘assajipunabbasukā’’ti vuttā.
Họ không hành xử đúng đắn nghĩa là: các vị Assaji và Punabbasu ấy không hành xử đúng đắn trong mười tám bổn phận. Họ không làm rũ lông nghĩa là: do không thực hành pháp hành thuận theo, họ không phải là những người có lông rũ xuống (biểu hiện sự nhu thuận). Họ không thực hành (con đường) đưa đến sự giải thoát nghĩa là họ không thực hành con đường giải thoát của mình. Họ không xin các Tỳ khưu tha thứ nghĩa là họ không xin các Tỳ khưu tha thứ (nói rằng): “Thưa Đại đức, chúng con đã làm điều sai trái; chúng con sẽ không làm như vậy nữa; xin hãy tha thứ cho chúng con”. Họ mắng nhiếc nghĩa là họ mắng nhiếc Tăng chúng đã thực hiện hành sự bằng mười sự việc mắng nhiếc. Họ đe dọa nghĩa là họ làm cho các vị ấy sợ hãi. Làm cho (người khác) đi đến sự thiên vị do tham ái… cho đến… làm cho (người khác) đi đến sự thiên vị do sợ hãi nghĩa là: họ là những người thiên vị do tham ái… cho đến… những người thiên vị do sợ hãi; như vậy, họ làm cho (người khác) đi đến, xúi giục (người khác) thiên vị do tham ái… cho đến… thiên vị do sợ hãi. Họ bỏ đi nghĩa là: trong số năm trăm vị Sa-môn là tùy tùng của họ, một số vị bỏ đi các phương. Họ hoàn tục nghĩa là một số vị trở thành người tại gia. Trong (câu) “Sao các Tỳ khưu Assaji và Punabbasu lại…”, ở đây, dựa trên hai người đứng đầu, tất cả (nhóm của họ) đều được gọi là “Assaji và Punabbasu”.

436-7.Gāmaṃ vāti ettha nagarampi gāmaggahaṇeneva gahitaṃ. Tenassa padabhājane ‘‘gāmopi nigamopi nagarampi gāmo ceva nigamo cā’’ti vuttaṃ. Tattha apākāraparikkhepo saāpaṇo nigamoti veditabbo.
436-7. “Hoặc làng”: ở đây, thành phố cũng được bao gồm trong (từ) “làng”. Do đó, trong phần phân tích từ của nó, đã được nói: “Cả làng, cả thị trấn, cả thành phố; (nghĩa là) làng và thị trấn”. Ở đó, (nơi) không có tường thành bao quanh, (nhưng) có chợ, cần được hiểu là thị trấn.

Kulāni dūsetīti kuladūsako. Dūsento ca na asucikaddamādīhi dūseti, atha kho attano duppaṭipattiyā tesaṃ pasādaṃ vināseti. Tenevassa padabhājane ‘‘pupphena vā’’tiādi vuttaṃ. Tattha yo haritvā vā harāpetvā vā pakkositvā vā pakkosāpetvā vā sayaṃ vā upagatānaṃ yaṃkiñci attano santakaṃ pupphaṃ kulasaṅgahatthāya deti, dukkaṭaṃ. Parasantakaṃ deti, dukkaṭameva. Theyyacittena deti, bhaṇḍagghena kāretabbo. Eseva nayo saṅghikepi. Ayaṃ pana viseso, senāsanatthāya niyāmitaṃ issaravatāya dadato thullaccayaṃ.
Người làm hư hỏng các gia đình là người làm hư hỏng gia đình. Và khi làm hư hỏng, (vị ấy) không làm hư hỏng bằng vật bất tịnh, bùn lầy v.v…; mà làm mất lòng tin của họ bằng hành vi xấu của mình. Chính vì vậy, trong phần phân tích từ của nó, đã được nói bắt đầu bằng “Hoặc bằng hoa”. Ở đó, người nào, sau khi mang đến, hoặc nhờ mang đến, hoặc gọi đến, hoặc nhờ gọi đến, hoặc (đối với) những người tự mình đến, cho bất kỳ loại hoa nào của mình vì mục đích thu phục gia đình, (phạm) tội Tác Ác. (Nếu) cho (hoa) của người khác, cũng (phạm) tội Tác Ác. (Nếu) cho với tâm trộm cắp, phải bị phạt theo giá trị của vật. Phương pháp này cũng (áp dụng) đối với (hoa) của Tăng chúng. Tuy nhiên, đây là điểm đặc biệt: đối với người cho (hoa) đã được quy định cho mục đích sàng tọa một cách tự tiện, (phạm) Trọng Tội.

Pupphaṃ nāma kassa dātuṃ vaṭṭati, kassa na vaṭṭatīti? Mātāpitūnnaṃ tāva haritvāpi harāpetvāpi pakkositvāpi pakkosāpetvāpi dātuṃ vaṭṭati, sesañātakānaṃ pakkosāpetvāva. Tañca kho vatthupūjanatthāya, maṇḍanatthāya pana sivaliṅgādipūjanatthāya vā kassacipi dātuṃ na vaṭṭati. Mātāpitūnañca harāpentena ñātisāmaṇereheva harāpetabbaṃ. Itare pana yadi sayameva icchanti, vaṭṭati. Sammatena pupphabhājakena bhājanakāle sampattānaṃ sāmaṇerānaṃ upaḍḍhabhāgaṃ dātuṃ vaṭṭati. Kurundiyaṃ sampattagihīnaṃ upaḍḍhabhāgaṃ. Mahāpaccariyaṃ ‘‘cūḷakaṃ dātuṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Asammatena apaloketvā dātabbaṃ.
Hoa được phép cho ai, không được phép cho ai? Trước hết, đối với cha mẹ, được phép cho dù bằng cách mang đến, hoặc nhờ mang đến, hoặc gọi đến, hoặc nhờ gọi đến; đối với các thân quyến còn lại, chỉ (được phép cho) bằng cách nhờ gọi đến. Và điều đó (chỉ được phép) vì mục đích cúng dường vật; còn vì mục đích trang điểm hoặc vì mục đích cúng dường Sivaliṅga v.v…, không được phép cho bất kỳ ai. Và khi nhờ mang (hoa) cho cha mẹ, phải nhờ chính các Sa-di là thân quyến mang đến. Còn những người khác, nếu họ tự mình muốn, thì được phép. Đối với người chia hoa đã được biểu quyết (chấp thuận), vào lúc chia, được phép cho một nửa phần cho các Sa-di có mặt. Trong Kurundī, (nói rằng được phép cho) một nửa phần cho những người tại gia có mặt. Trong Mahāpaccariya, đã được nói: “Được phép cho một phần nhỏ”. (Nếu) không có sự biểu quyết (chấp thuận), phải hỏi ý kiến rồi mới cho.

Ācariyupajjhāyesu sagāravā sāmaṇerā bahūni pupphāni āharitvā rāsiṃ katvā ṭhapenti, therā pātova sampattānaṃ saddhivihārikādīnaṃ upāsakānaṃ vā ‘‘tvaṃ idaṃ gaṇha, tvaṃ idaṃ gaṇhā’’ti denti, pupphadānaṃ nāma na hoti. ‘‘Cetiyaṃ pūjessāmā’’ti gahetvā gacchantāpi pūjaṃ karontāpi tattha tattha sampattānaṃ cetiyapūjanatthāya denti, etampi pupphadānaṃ nāma na hoti. Upāsake akkapupphādīhi pūjente disvā ‘‘vihāre kaṇikārapupphādīni atthi, upāsakā tāni gahetvā pūjethā’’ti vattumpi vaṭṭati. Bhikkhū pupphapūjaṃ katvā divātaraṃ gāmaṃ paviṭṭhe ‘‘kiṃ, bhante, atidivā paviṭṭhatthā’’ti pucchanti, ‘‘vihāre bahūni pupphāni pūjaṃ akarimhā’’ti vadanti. Manussā ‘‘bahūni kira vihāre pupphānī’’ti punadivase pahūtaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ gahetvā vihāraṃ gantvā pupphapūjañca karonti, dānañca denti, vaṭṭati. Manussā ‘‘mayaṃ, bhante, asukadivasaṃ nāma pūjessāmā’’ti pupphavāraṃ yācitvā anuññātadivase āgacchanti, sāmaṇerehi ca pageva pupphāni ocinitvā ṭhapitāni honti, te rukkhesu pupphāni apassantā ‘‘kuhiṃ, bhante, pupphānī’’ti vadanti, sāmaṇerehi ocinitvā ṭhapitāni tumhe pana pūjetvā gacchatha, saṅgho aññaṃ divasaṃ pūjessatīti. Te pūjetvā dānaṃ datvā gacchanti, vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana kurundiyañca ‘‘therā sāmaṇerehi dāpetuṃ na labhanti. Sace sayameva tāni pupphāni tesaṃ denti, vaṭṭati. Therehi pana ‘sāmaṇerehi ocinitvā ṭhapitānī’ti ettakameva vattabba’’nti vuttaṃ. Sace pana pupphavāraṃ yācitvā anocitesu pupphesu yāgubhattādīni ādāya āgantvā sāmaṇere ‘‘ocinitvā dethā’’ti vadanti. Ñātakasāmaṇerānaṃyeva ocinitvā dātuṃ vaṭṭati. Aññātake ukkhipitvā rukkhasākhāya ṭhapenti, na orohitvā palāyitabbaṃ, ocinitvā dātuṃ vaṭṭati. Sace pana koci dhammakathiko ‘‘bahūni upāsakā vihāre pupphāni yāgubhattādīni ādāya gantvā pupphapūjaṃ karothā’’ti vadati, tasseva na kappatīti mahāpaccariyañca kurundiyañca vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘etaṃ akappiyaṃ na vaṭṭatī’’ti avisesena vuttaṃ.
Các Sa-di có lòng tôn kính đối với thầy dạy và thầy tế độ, mang nhiều hoa về chất thành đống rồi để đó; các vị Trưởng lão, vào buổi sáng sớm, cho các vị cùng ở chung v.v… hoặc những người cư sĩ có mặt (nói): “Ngươi hãy lấy cái này, ngươi hãy lấy cái kia”; (đây) không gọi là sự cho hoa. Ngay cả những người đi (với ý nghĩ) “Chúng ta sẽ cúng dường bảo tháp”, hoặc những người đang cúng dường, (nếu) cho (hoa) những người có mặt ở chỗ này chỗ kia để cúng dường bảo tháp, điều này cũng không gọi là sự cho hoa. Thấy những người cư sĩ đang cúng dường bằng hoa calotropis v.v…, cũng được phép nói: “Trong tu viện có hoa kaṇikāra v.v…; này các thí chủ, hãy lấy những hoa đó mà cúng dường”. Các Tỳ khưu, sau khi cúng dường hoa, vào làng quá trưa, (nếu) bị hỏi: “Thưa Đại đức, tại sao các ngài vào (làng) quá trưa vậy?”, (thì) nói: “Trong tu viện có nhiều hoa, chúng tôi đã cúng dường”. Những người (nghe vậy, nghĩ rằng) “Tương truyền, trong tu viện có nhiều hoa”, vào ngày hôm sau, mang nhiều đồ ăn thức uống đến tu viện, vừa cúng dường hoa, vừa cúng dường (vật thực), (điều đó) được phép. Những người (nói): “Thưa Đại đức, chúng con sẽ cúng dường vào ngày X”, sau khi xin lượt (hái) hoa, vào ngày đã được cho phép, họ đến; và hoa đã được các Sa-di hái rồi để đó từ sớm; họ, không thấy hoa trên cây, bèn nói: “Thưa Đại đức, hoa ở đâu?”. (Đáp): “(Hoa) đã được các Sa-di hái rồi để đó; còn các vị hãy cúng dường rồi đi; Tăng chúng sẽ cúng dường vào một ngày khác”. Họ cúng dường rồi cúng dường (vật thực) rồi đi, (điều đó) được phép. Tuy nhiên, trong MahāpaccariyaKurundī, đã được nói: “Các vị Trưởng lão không được phép nhờ các Sa-di cho (hoa). Nếu (các Sa-di) tự mình cho những hoa đó cho họ, thì được phép. Còn các vị Trưởng lão chỉ nên nói chừng này: ‘(Hoa) đã được các Sa-di hái rồi để đó'”. Tuy nhiên, nếu sau khi xin lượt (hái) hoa, (nhưng) hoa chưa được hái, (người ta) mang cháo, cơm v.v… đến rồi nói với các Sa-di: “Hãy hái rồi cho”. Chỉ các Sa-di là thân quyến mới được phép hái rồi cho. (Nếu) họ nâng (Sa-di) không phải thân quyến lên rồi đặt trên cành cây, không được trèo xuống rồi bỏ chạy; được phép hái rồi cho. Tuy nhiên, nếu một vị Pháp sư nào đó nói: “Này các thí chủ, trong tu viện có nhiều hoa; hãy mang cháo, cơm v.v… đến rồi cúng dường hoa”, thì chính vị ấy không thích hợp (để nói như vậy), như đã được nói trong Mahāpaccariya và Kurundī. Tuy nhiên, trong Mahāaṭṭhakathā, đã được nói một cách không phân biệt: “Điều này không thích hợp, không được phép”.

Phalampi attano santakaṃ vuttanayeneva mātāpitūnaṃñca sesañātakānañca dātuṃ vaṭṭati. Kulasaṅgahatthāya pana dentassa vuttanayeneva attano santake parasantake saṅghike senāsanatthāya niyāmite ca dukkaṭādīni veditabbāni. Attano santakaṃyeva gilānamanussānaṃ vā sampattaissarānaṃ vā khīṇaparibbayānaṃ vā dātuṃ vaṭṭati, phaladānaṃ na hoti. Phalabhājakenāpi sammatena saṅghassa phalabhājanakāle sampattamanussānaṃ upaḍḍhabhāgaṃ dātuṃ vaṭṭati. Asammatena apaloketvā dātabbaṃ. Saṅghārāmepi phalaparicchedena vā rukkhaparicchedena vā katikā kātabbā. Tato gilānamanussānaṃ vā aññesaṃ vā phalaṃ yācantānaṃ yathāparicchedena cattāri pañca phalāni dātabbāni. Rukkhā vā dassetabbā ‘‘ito gahetuṃ labbhatī’’ti. ‘‘Igha phalāni sundarāni, ito gaṇhathā’’ti evaṃ pana na vattabbaṃ.
Ngay cả trái cây thuộc sở hữu của mình, cũng được phép cho cha mẹ và các thân quyến còn lại theo phương pháp đã nói. Tuy nhiên, đối với người cho (trái cây) vì mục đích thu phục gia đình, các (tội) như tội Tác Ác v.v… cần được hiểu theo phương pháp đã nói (áp dụng cho trường hợp trái cây) thuộc sở hữu của mình, thuộc sở hữu của người khác, của Tăng chúng, và (trái cây) đã được quy định cho mục đích sàng tọa. Chỉ (trái cây) thuộc sở hữu của mình mới được phép cho những người bệnh, hoặc những người quyền quý đã đến, hoặc những người thiếu thốn chi phí; (việc cho) đó không phải là sự cho trái cây (theo nghĩa phạm giới). Ngay cả đối với người chia trái cây đã được (Tăng chúng) biểu quyết (chấp thuận), vào lúc chia trái cây của Tăng chúng, được phép cho một nửa phần cho những người (thường) có mặt. (Nếu) không có sự biểu quyết (chấp thuận), phải hỏi ý kiến (Tăng chúng) rồi mới cho. Ngay cả trong vườn của Tăng chúng, cũng phải lập quy ước bằng cách phân định trái cây hoặc phân định cây. Sau đó, đối với những người bệnh hoặc những người khác xin trái cây, phải cho bốn, năm trái theo như đã phân định. Hoặc phải chỉ cây (nói rằng): “Được phép lấy từ đây”. Tuy nhiên, không được nói như vầy: “Ở đây trái cây ngon, hãy lấy từ đây”.

Cuṇṇenāti ettha attano santakaṃ sirīsacuṇṇaṃ vā aññaṃ vā kasāvaṃ yaṃkiñci kulasaṅgahatthāya deti, dukkaṭaṃ. Parasantakādīsupi vuttanayeneva vinicchayo veditabbo. Ayaṃ pana viseso – idha saṅghassa rakkhitagopitāpi rukkhacchalli garubhaṇḍameva. Mattikadantakaṭṭhaveḷūsupi garubhaṇḍūpagaṃ ñatvā cuṇṇe vuttanayeneva vinicchayo veditabbo. Paṇṇadānaṃ pana ettha na āgataṃ, tampi vuttanayeneva veditabbaṃ. Paratopi garubhaṇḍavinicchaye sabbaṃ vitthārena vaṇṇayissāma.
Bằng bột: ở đây, (nếu) cho bất kỳ loại bột sirisa hoặc bột thuốc nhuộm nào khác thuộc sở hữu của mình vì mục đích thu phục gia đình, (phạm) tội Tác Ác. Đối với (bột) thuộc sở hữu của người khác v.v…, sự quyết đoán cũng cần được hiểu theo phương pháp đã nói. Tuy nhiên, đây là điểm đặc biệt: ở đây, ngay cả vỏ cây được Tăng chúng giữ gìn, canh gác cũng là vật nặng. Đối với đất sét, tăm xỉa răng, tre, sau khi biết (chúng) thuộc loại vật nặng, sự quyết đoán cũng cần được hiểu theo phương pháp đã nói đối với bột. Tuy nhiên, việc cho lá không được đề cập ở đây; điều đó cũng cần được hiểu theo phương pháp đã nói. Ở phần sau, chúng tôi sẽ giải thích tất cả một cách chi tiết trong sự quyết đoán về vật nặng.

Vejjikāya vāti ettha vejjakammavidhi tatiyapārājikavaṇṇanāyaṃ vuttanayeneva veditabbo.
Hoặc bằng (việc làm) thầy thuốc: ở đây, phương pháp làm thầy thuốc cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong phần giải thích tội bất cộng trụ thứ ba.

Jaṅghapesanikenāti ettha jaṅghapesaniyanti gihīnaṃ dūteyyasāsanaharaṇakammaṃ vuccati, taṃ na kātabbaṃ. Gihīnañhi sāsanaṃ gahetvā gacchantassa pade pade dukkaṭaṃ. Taṃ kammaṃ nissāya laddhabhojanaṃ bhuñjantassāpi ajjhohāre ajjhohāre dukkaṭaṃ. Paṭhamaṃ sāsanaṃ aggahetvāpi pacchā ‘‘ayaṃ dāni so gāmo handa taṃ sāsanaṃ ārocemī’’ti maggā okkamantassāpi pade pade dukkaṭaṃ. Sāsanaṃ ārocetvā laddhabhojanaṃ bhuñjato purimanayeneva dukkaṭaṃ. Sāsanaṃ aggahetvā āgatena pana ‘‘bhante tasmiṃ gāme itthannāmassa kā pavattī’’ti pucchiyamānena kathetuṃ vaṭṭati, pucchitapañhe doso natthi. Pañcannaṃ pana sahadhammikānaṃ mātāpitūnaṃ paṇḍupalāsassa attano veyyāvaccakarassa ca sāsanaṃ harituṃ vaṭṭati, gihīnañca pubbe vuttappakāraṃ kappiyasāsanaṃ. Idañhi jaṅghapesaniyakammaṃ nāma na hoti. Imehi pana aṭṭhahi kuladūsakakammehi uppannapaccayā pañcannampi sahadhammikānaṃ na kappanti, abhūtārocanarūpiyasaṃvohārehi uppannapaccayasadisāva honti.
Bằng việc đi đưa tin: ở đây, việc đi đưa tin được gọi là công việc đưa thư, mang thông điệp của hàng cư sĩ; (việc) đó không được làm. Vì đối với người nhận thông điệp của hàng cư sĩ rồi đi, mỗi bước (phạm) tội Tác Ác. Ngay cả đối với người dùng vật thực nhận được dựa vào công việc đó, mỗi khi nuốt (phạm) tội Tác Ác. Ngay cả khi ban đầu không nhận thông điệp, (nhưng) sau đó (nghĩ rằng) “Bây giờ đây là làng đó, nào ta hãy thông báo thông điệp ấy”, rồi rẽ khỏi đường, cũng mỗi bước (phạm) tội Tác Ác. Sau khi thông báo thông điệp rồi dùng vật thực nhận được, (phạm) tội Tác Ác theo phương pháp trước. Tuy nhiên, đối với người đến mà không nhận thông điệp, khi được hỏi: “Thưa Đại đức, ở làng đó, diễn biến của người tên X thế nào?”, thì được phép nói; không có lỗi trong câu hỏi đã được hỏi. Tuy nhiên, được phép mang thông điệp cho năm (loại) người đồng pháp, cha mẹ, người tóc bạc (già yếu), và người phục vụ của mình. Và (được phép mang) thông điệp thích hợp của hàng cư sĩ theo cách đã nói trước đây. Vì đây không gọi là công việc đi đưa tin (theo nghĩa bị cấm). Tuy nhiên, vật dụng phát sinh từ tám hành vi làm hư hỏng gia đình này không thích hợp cho cả năm (loại) người đồng pháp; chúng giống như vật dụng phát sinh từ việc trình bày điều không thật và việc trao đổi tiền bạc.

Pāpā samācārā assāti pāpasamācāro. Te pana yasmā mālāvaccharopanādayo idha adhippetā, tasmā ‘‘mālāvacchaṃ ropentipī’’tiādinā nayenassa padabhājanaṃ vuttaṃ. Tirokkhāti parammukhā. Kulāni ca tena duṭṭhānīti ettha pana yasmā ‘‘kulānī’’ti vohāramattametaṃ, atthato hi manussā tena duṭṭhā honti, tasmāssa padabhājane ‘‘pubbe saddhā hutvā’’tiādimāha. Chandagāminoti chandena gacchantīti chandagāmino. Esa nayo sesesu. Samanubhāsitabbo tassa paṭinissaggāyāti ettha kuladūsakakammena dukkaṭameva. Yaṃ pana so saṅghaṃ paribhavitvā ‘‘chandagāmino’’tiādimāha. Tassa paṭinissaggāya samanubhāsanakammaṃ kātabbanti evamattho daṭṭhabbo. Sesaṃ sabbattha uttānatthameva.
Người có những hành vi xấu xa là người có hành vi xấu xa. Tuy nhiên, vì (các hành vi) như trồng cây trồng để lấy hoa v.v… được muốn nói đến ở đây, do đó, phần phân tích từ của nó đã được nói theo cách bắt đầu bằng “Họ cũng trồng cây trồng để lấy hoa”. Sau lưng (Tăng chúng) nghĩa là (khi Tăng chúng) quay mặt đi. Còn trong (câu) “Và các gia đình bị hư hỏng do vị ấy”, ở đây, vì “các gia đình” chỉ là cách nói thông thường, còn về mặt ý nghĩa, chính những người (trong gia đình) bị hư hỏng do vị ấy; do đó, trong phần phân tích từ của nó, (Ngài) đã nói bắt đầu bằng “Trước kia có lòng tin”. Những người thiên vị do tham muốn nghĩa là những người đi theo tham muốn, (nên gọi là) những người thiên vị do tham muốn. Phương pháp này cũng (áp dụng) cho các (trường hợp) còn lại. Cần được khiển trách để từ bỏ điều đó: ở đây, (đối với) hành vi làm hư hỏng gia đình, chỉ (phạm) tội Tác Ác. Còn việc vị ấy khinh miệt Tăng chúng (nói) bắt đầu bằng “những người thiên vị do tham muốn”; ý nghĩa cần được hiểu là: hành sự khiển trách cần được thực hiện để (vị ấy) từ bỏ điều đó. Phần còn lại, ở mọi nơi, ý nghĩa đều rõ ràng.

Samuṭṭhānādīnipi paṭhamasaṅghabhedasadisānevāti.
Sự khởi lên v.v… cũng giống như (điều học) thứ nhất về việc chia rẽ Tăng.

Kuladūsakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Điều Học Về Người Làm Hư Hỏng Gia Đình đã hoàn tất.

Nigamanavaṇṇanā

Giải Thích Phần Kết Luận

442.Uddiṭṭhā kho…pe… evametaṃ dhārayāmīti ettha paṭhamaṃ āpatti etesanti paṭhamāpattikā, paṭhamaṃ vītikkamakkhaṇeyeva āpajjitabbāti attho. Itare pana yathā tatiye catutthe ca divase hotīti jaro ‘‘tatiyako catutthako’’ti ca vuccati; evaṃ yāvatatiye samanubhāsanakamme hontīti yāvatatiyakāti veditabbā.
442. (Trong câu) “Đã được tuyên đọc… cho đến… tôi ghi nhớ như vậy”: ở đây, những (điều học) mà tội xảy ra ngay lần đầu, (nên gọi là) (những điều học) phạm tội ngay lần đầu; ý là (tội) phải bị phạm ngay vào khoảnh khắc vi phạm đầu tiên. Còn các (điều học) khác, giống như cơn sốt xảy ra vào ngày thứ ba và thứ tư được gọi là “cơn sốt ngày thứ ba, cơn sốt ngày thứ tư”; cũng vậy, (những điều học) mà (tội) xảy ra (chỉ) sau khi hành sự khiển trách đến lần thứ ba, cần được hiểu là (những điều học) (phạm tội) sau khi khiển trách đến lần thứ ba.

Yāvatīhaṃ jānaṃ paṭicchādetīti yattakāni ahāni jānanto paṭicchādeti, ‘‘ahaṃ itthannāmaṃ āpattiṃ āpanno’’ti sabrahmacārīnaṃ nāroceti. Tāvatīhanti tattakāni ahāni. Akāmā parivatthabbanti na kāmena, na vasena, atha kho akāmena avasena parivāsaṃ samādāya vatthabbaṃ. Uttari chārattanti parivāsato uttari cha rattiyo. Bhikkhumānattāyāti bhikkhūnaṃ mānanabhāvāya, ārādhanatthāyāti vuttaṃ hoti. Vīsatisaṅgho gaṇo assāti vīsatigaṇo . Tatrāti yatra sabbantimena paricchedena vīsatigaṇo bhikkhusaṅgho atthi tatra. Abbhetabboti abhietabbo sampaṭicchitabbo, abbhānakammavasena osāretabboti vuttaṃ hoti , avhātabboti vā attho. Anabbhitoti na abbhito, asampaṭicchito, akatabbhānakammoti vuttaṃ hoti, anavhātoti vā attho. Sāmīcīti anudhammatā, lokuttaradhammaṃ anugatā ovādānusāsanī, sāmīci dhammatāti vuttaṃ hoti. Sesamettha vuttanayamevāti.
“Bao nhiêu ngày biết mà che giấu” nghĩa là: bao nhiêu ngày biết (mình đã phạm tội) mà che giấu, không thông báo cho các vị đồng phạm hạnh (rằng): “Tôi đã phạm tội tên X”. Bấy nhiêu ngày nghĩa là chừng ấy ngày. Phải sống (biệt trú) không theo ý muốn nghĩa là: không phải theo ý muốn, không phải theo sự kiểm soát (của mình); mà là phải thọ trì rồi sống biệt trú không theo ý muốn, không theo sự kiểm soát (của mình). Thêm sáu đêm nữa nghĩa là thêm sáu đêm nữa sau (thời gian) biệt trú. Để (thực hiện) mã-na-đỏa cho Tỳ khưu nghĩa là để cho trạng thái được các Tỳ khưu tôn kính; có nghĩa là vì mục đích làm hài lòng (Tăng chúng). Nhóm có hai mươi vị Tăng là nhóm hai mươi vị. Ở đó nghĩa là ở nơi nào có Tăng chúng gồm hai mươi vị Tỳ khưu theo sự giới hạn cuối cùng nhất, ở đó (thực hiện việc giải tội). Cần được giải tội nghĩa là cần được đến gần, cần được chấp nhận; có nghĩa là cần được phục hồi bằng hành sự giải tội; hoặc ý là cần được mời gọi (trở lại Tăng chúng). Người chưa được giải tội nghĩa là người chưa được giải tội, chưa được chấp nhận; có nghĩa là người chưa được thực hiện hành sự giải tội; hoặc ý là người chưa được mời gọi (trở lại). Sự thích hợp là tính chất thuận theo Pháp, là lời giáo huấn, khuyên dạy thuận theo pháp siêu thế; có nghĩa là tính chất thích hợp với Pháp. Phần còn lại ở đây thì theo phương pháp đã nói.

Samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāya

Trong Samantapāsādikā, (là) Chú Giải Luật Tạng,

Terasakavaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần Giải Thích Mười Ba (Điều Học) đã hoàn tất.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang