Xua Tan Hoài Nghi

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Xua Tan Hoài Nghi I – 1. Phẩm về các giới Bất Cộng Trụ

Mục lục

1. Pārājikakaṇḍo

1. Phẩm Bất Cộng Trụ

1. Paṭhamapārājikaṃ

1. Điều Bất Cộng Trụ thứ nhất

Sudinnabhāṇavāravaṇṇanā

Giải thích về các đoạn liên quan đến Sudinna

24. Vikkāyikabhaṇḍassa vikkiṇanaṃ iṇadānañca bhaṇḍappayojanaṃ nāma. Evaṃ payojitassa mūlassa saha vaḍḍhiyā gahaṇavāyāmo uddhāro nāma. Asukadivase dinnantiādinā pamuṭṭhassa satuppādanādi sāraṇaṃ nāma. Catubbidhāyāti khattiyabrāhmaṇagahapatisamaṇānaṃ vasena, bhikkhuādīnaṃ vā vasena catubbidhāya. Disvānassa etadahosīti hetuatthe ayaṃ disvāna-saddo asamānakattukattā, yathā ghataṃ pivitvā balaṃ hotīti, evamaññatthāpi evarūpesu. Bhabbakulaputtoti upanissayamattasabhāvena vuttaṃ, na pacchimabhavikatāya. Tenevassa mātādiakalyāṇamittasamāyogena katavītikkamanaṃ nissāya uppannavippaṭisārena adhigamantarāyo jāto. Pacchimabhavikānaṃ pubbabuddhuppādesu laddhabyākaraṇānaṃ na sakkā kenaci antarāyaṃ kātuṃ. Teneva aṅgulimālattherādayo akusalaṃ katvāpi adhigamasampannā eva ahesunti. Carimakacittanti cuticittaṃ. Saṅkhaṃ viya likhitaṃ ghaṃsitvā dhovitaṃ saṅkhalikhitanti āha dhotaiccādi. Ajjhāvasatāti adhi-saddayogena agāranti bhummatthe upayogavacananti āha ‘‘agāramajjhe’’ti. Kasāyarasarattāni kāsāyānīti āha ‘‘kasāyarasapītatāyā’’ti. Kasāyato nibbattatāya ca hi rasopi ‘‘kasāyaraso’’ti vuccati.
24. Việc bán vật dụng đã từ bỏ và việc cho vay được gọi là sự sử dụng vật dụng. Sự nỗ lực thu hồi vốn đã được sử dụng như vậy cùng với tiền lời được gọi là sự thu hồi. Việc làm cho nhớ lại điều đã quên bằng cách nói “đã cho vào ngày kia” v.v… được gọi là sự nhắc nhở. Bốn loại là theo nghĩa các hạng Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, gia chủ, và Sa-môn; hoặc theo nghĩa các hạng Tỳ-khưu v.v… ‘Sau khi thấy, vị ấy đã nghĩ rằng’: ở đây, từ ‘sau khi thấy’ có nghĩa là nguyên nhân, vì là động từ có chủ từ khác nhau, giống như ‘sau khi uống bơ sữa thì có sức mạnh;’ cũng vậy ở những nơi khác trong những trường hợp tương tự. ‘Thiện gia nam tử có khả năng’ được nói theo bản chất chỉ có duyên y, không phải do là người có kiếp chót. Chính vì thế, chướng ngại cho sự chứng đắc của vị ấy đã phát sinh do sự hối hận nảy sinh từ sự vi phạm đã làm do kết giao với ác tri thức như mẹ của vị ấy v.v… Đối với những người có kiếp chót, những người đã nhận được lời thọ ký trong thời kỳ các vị Phật quá khứ, không ai có thể gây ra chướng ngại. Chính vì thế, các vị trưởng lão như Aṅgulimāla v.v… dù đã làm điều bất thiện nhưng vẫn thành tựu sự chứng đắc. ‘Tâm cuối cùng’ là tâm tử. Điều được viết, được chà xát và rửa sạch như vỏ ốc, được gọi là ‘saṅkhalikhita,’ nên nói là ‘được rửa sạch’ v.v… ‘Trong khi ở’: do kết hợp với từ ‘adhi,’ từ ‘agāraṃ’ (nhà) được dùng theo nghĩa sở tại cách (bhummattha), nên nói là “ở giữa nhà.” Được nhuộm màu của vị chát nên gọi là y phấn tảo (kāsāya), nên nói là “do được thấm vị chát.” Và vì được làm ra từ chất chát nên vị cũng được gọi là “vị chát.”

26. Yadā jānāti-saddo bodhanattho na hoti, tadā tassa payoge sappino jānāti madhuno jānātītiādīsu viya karaṇatthe sāmivacanaṃ saddasVSScriptū icchantīti āha ‘‘kiñci dukkhena nānubhosī’’ti. Kenaci dukkhena nānubhosīti attho, kiñcīti etthāpi hi karaṇatthe sāmivacanassa lopo kato, teneva vakkhati ‘‘vikappadvayepi purimapadassa uttarapadena samānavibhattilopo daṭṭhabbo’’ti. Yadā pana jānāti-saddo saraṇattho hoti, tadā mātu saratītiādīsu viya upayogatthe sāmivacanaṃ saddasVSScriptū vadantīti āha ‘‘atha vā kiñci dukkhaṃ nassaratīti attho’’ti, kassaci dukkhassa ananubhūtatāya nassaratīti attho. Vikappadvayepīti anubhavanasaraṇatthavasena vutte dutiyatatiyavikappadvaye. Purimapadassāti kiñcīti padassa. Uttarapadenāti dukkhassātipadena. Samānāya sāmivacanabhūtāya vibhattiyā ‘‘kassaci dukkhassā’’ti vattabbe ‘‘kiñci dukkhassā’’ti lopoti daṭṭhabbo. Maraṇenapi mayaṃ teti ettha teti padassa sahatthe karaṇavasenapi atthaṃ dassetuṃ tayā viyogaṃ vā pāpuṇissāmāti atthantaraṃ vuttaṃ.
26. Khi từ **jānāti** (biết) không có nghĩa là hiểu biết, thì khi dùng từ ấy, các nhà ngữ pháp muốn dùng sở thuộc cách (sāmivacana) theo nghĩa sử dụng cách (karaṇattha), như trong các câu ‘biết về bơ sữa,’ ‘biết về mật ong’ v.v… nên nói: “chẳng từng trải qua chút khổ nào.” Nghĩa là chẳng từng trải qua khổ nào cả. Ở đây, trong từ **kiñci** (chút nào), sự lược bỏ sở thuộc cách theo nghĩa sử dụng cách đã được thực hiện, chính vì thế sẽ nói rằng “trong cả hai trường hợp, cần thấy sự lược bỏ biến cách giống nhau của từ đứng trước so với từ đứng sau.” Nhưng khi từ **jānāti** có nghĩa là nhớ lại, thì các nhà ngữ pháp nói rằng dùng sở thuộc cách theo nghĩa vị trí cách (upayogattha), như trong các câu ‘nhớ mẹ’ v.v… nên nói: “hoặc có nghĩa là chẳng nhớ chút khổ nào,” nghĩa là vì chưa từng trải qua khổ nào nên không nhớ. ‘Trong cả hai trường hợp’ là trong hai trường hợp thứ hai và thứ ba được nói theo nghĩa trải qua và nhớ lại. ‘Của từ đứng trước’ là của từ **kiñci**. ‘Với từ đứng sau’ là với từ **dukkhassa**. Cần hiểu rằng, khi lẽ ra phải nói là ‘kassaci dukkhassā’ (của bất kỳ khổ nào) với biến cách sở thuộc giống nhau, thì sự lược bỏ đã xảy ra thành ‘kiñci dukkhassā’. ‘Dù chết chúng tôi cũng của ngài’: ở đây, để chỉ ra ý nghĩa của từ ‘te’ (của ngài) theo nghĩa cùng với (sahattha) và sử dụng cách (karaṇavasana), một ý nghĩa khác đã được đưa ra là “hoặc chúng tôi sẽ phải xa lìa ngài.”

28.Gandhabbā nāma gāyanakā. Naṭā nāma raṅganaṭā. Nāṭakā laṅghanakādayo. Sukhūpakaraṇehi attano paricaraṇaṃ karonto yasmā laḷanto kīḷanto nāma hoti, tasmā dutiye atthavikappe laḷātiādi vuttaṃ. Dānappadānādīnīti ettha niccadānaṃ dānaṃ nāma, visesadānaṃ padānaṃ nāma, ādi-saddena sīlādīni saṅgaṇhāti.
28.Gandhabbā là những người ca hát. Naṭā là những diễn viên sân khấu. Nāṭakā là những người nhảy múa v.v… Vì người tự phục vụ mình bằng những phương tiện sung sướng được gọi là người vui đùa, vui chơi, nên trong trường hợp giải thích thứ hai, đã nói là ‘vui đùa’ v.v… ‘Việc bố thí, cúng dường v.v…’: ở đây, việc bố thí thường xuyên được gọi là bố thí, việc cúng dường đặc biệt được gọi là cúng dường, và từ ‘v.v…’ bao gồm cả giới v.v…

30.Cuddasa bhattānīti saṅghabhattaṃ uddesabhattaṃ nimantanaṃ salākaṃ pakkhikaṃ uposathikaṃ pāṭipadikaṃ āgantukaṃ gamikaṃ gilānaṃ gilānupaṭṭhākaṃ vihāra-dhura-vārabhattanti imāni cuddasa bhattāni. Ettha ca senāsanādipaccayattayanissitesu āraññakaṅgādipadhānaṅgānaṃ gahaṇavasena sesadhutaṅgānipi gahitāneva hontīti veditabbaṃ. Vajjīnanti vajjīrājūnaṃ. Vajjīsūti janapadāpekkhaṃ bahuvacanaṃ, vajjīnāmake janapadeti attho. Pañcakāmaguṇāyeva upabhuñjitabbato paribhuñjitabbato ca upabhogaparibhogā, itthivatthādīni ca tadupakaraṇānīti āha ‘‘yehi tesa’’ntiādi. Ukkaṭṭhapiṇḍapātikattāti sesadhutaṅgaparivāritena ukkaṭṭhapiṇḍapātikadhutaṅgena samannāgatattā, tenāha ‘‘sapadānacāraṃ caritukāmo’’ti.
30.‘Mười bốn loại vật thực’ là vật thực của Tăng, vật thực chỉ định, vật thực mời, vật thực rút thăm, vật thực nửa tháng, vật thực ngày Bố-tát, vật thực ngày đầu tháng, vật thực cho khách đến, vật thực cho người đi, vật thực cho người bệnh, vật thực cho người chăm bệnh, vật thực theo phiên ở trú xứ và vật thực theo phiên chăm sóc trú xứ, đó là mười bốn loại vật thực. Ở đây, cần hiểu rằng, trong ba loại vật dụng là chỗ ở v.v…, bằng cách bao gồm các hạnh đầu đà chính như hạnh ở rừng v.v…, các hạnh đầu đà còn lại cũng được bao gồm. ‘Của dân Vajjī’ là của các vị vua Vajjī. ‘Trong xứ Vajjī’ là số nhiều theo nghĩa xứ sở, nghĩa là trong xứ sở tên là Vajjī. Năm dục công đức chính là những thứ được hưởng dụng và tiêu dùng nên gọi là sự hưởng dụng và tiêu dùng, còn phụ nữ và các đồ vật v.v… là những phương tiện của chúng, nên nói “những thứ mà họ…” v.v… ‘Vì là người thực hành hạnh khất thực cao quý’ là vì có hạnh đầu đà khất thực cao quý, được bao quanh bởi các hạnh đầu đà còn lại, nên nói là “muốn đi khất thực không bỏ sót nhà.”

31.Dosāti ratti. Tattha abhivutthaṃ parivusitaṃ ābhidosikaṃ, abhidosaṃ vā paccūsakālaṃ gato patto atikkanto ābhidosiko, tenāha ekarattātikkantassa vātiādi.
31.‘Dosā’ là ban đêm. Việc đã ở qua đêm trong đó, đã ở qua, là **‘ābhidosikaṃ,’** hoặc đã đến, đã đạt đến, đã vượt qua rạng đông là ‘ābhidosiko,’ nên nói là ‘của việc đã qua một đêm’ v.v…

32.Udakakañjiyanti pānīyaparibhojanīyaudakañca yāgu ca. Tathāti samuccayatthe.Anokappanaṃ asaddahanaṃ, amarisanaṃ asahanaṃ.
32.‘Nước và cháo loãng’ là nước uống, nước sinh hoạt và cháo. ‘Như vậy’ có nghĩa là hợp lại. Sự không tin tưởng, sự không chịu đựng.

34.Taddhitalopanti pitāmahato āgataṃ ‘‘petāmaha’’nti vattabbe taddhitapaccayanimittassa e-kārassa lopaṃ katvāti attho. Yesaṃ santakaṃ dhanaṃ gahitaṃ, te iṇāyikā. Palibuddhoti ‘mā gaccha mā bhuñjā’tiādinā katāvaraṇo, pīḷitoti attho.
34.‘Sự lược bỏ của tiếp vị ngữ’ nghĩa là khi lẽ ra phải nói ‘petāmaha’ (thuộc về ông nội) là từ ông nội mà có, thì đã làm lược bỏ mẫu tự ‘e’ là dấu hiệu của tiếp vị ngữ. Những người mà tài sản của họ bị lấy đi là chủ nợ. ‘Bị ngăn cản’ là bị cấm đoán bằng những lời như ‘đừng đi, đừng ăn,’ nghĩa là bị áp bức.

35.Attanāti sayaṃ. Sapatino dhanasāmino idaṃ sāpateyyaṃ, dhanaṃ. Tadeva vibhavo.
35.‘Bởi chính mình’ là tự mình. Tài sản của người chủ sở hữu là tài sản, là của cải. Đó chính là sự giàu có.

36.Bhijjantīti agahitapubbā eva bhijjanti. Dinnāpi paṭisandhīti pitarā dinnaṃ sukkaṃ nissāya uppannassa sattassa paṭisandhipi tena dinnā nāma hotīti vuttaṃ. Sukkameva vā idha paṭisandhinissayattā ‘‘paṭisandhī’’ti vuttaṃ, tenāha ‘‘khippaṃ patiṭṭhātī’’ti. Na hi pitu saṃyogakkhaṇeyeva sattassa uppattiniyamo atthi sukkameva tathā patiṭṭhānaniyamato. Sukke pana patiṭṭhite yāva satta divasāni, aḍḍhamāsamattaṃ vā, taṃ gabbhasaṇṭhānassa khettameva hoti mātu maṃsassa lohitalesassa sabbadāpi vijjamānattā. Pubbepi paññattasikkhāpadānaṃ sabbhāvato apaññatte sikkhāpadeti imassa paṭhamapārājikasikkhāpade aṭṭhapiteti attho vutto. Evarūpanti evaṃ garukasabhāvaṃ, pārājikasaṅghādisesavatthubhūtanti attho, tenāha ‘‘avasese pañcakhuddakāpattikkhandhe eva paññapesī’’ti. Yaṃ ādīnavanti sambandho. Kāyaviññatticopanatoti kāyaviññattiyā nibbattacalanato.
36.‘Bị vỡ’ là chúng bị vỡ ngay cả khi chưa được thụ nhận. ‘Sự tái sanh cũng đã được cho’: được nói rằng sự tái sanh của chúng sanh sinh ra nhờ tinh cha cũng được xem là do người cha cho. Hoặc ở đây, chính tinh cha, vì là nơi nương tựa của sự tái sanh, nên được gọi là “sự tái sanh,” do đó nói là “nhanh chóng được thiết lập.” Không có quy luật nào về sự sinh ra của chúng sanh ngay tại thời điểm giao hợp của người cha, mà chỉ có quy luật về sự thiết lập của tinh cha như vậy. Khi tinh cha đã được thiết lập, trong vòng bảy ngày, hoặc khoảng nửa tháng, đó chỉ là nơi hình thành bào thai, vì thịt và một chút máu của người mẹ luôn luôn hiện hữu. Vì các điều học đã được chế định từ trước đã có, nên ý nghĩa của câu ‘khi điều học chưa được chế định’ được nói là ‘khi điều học Bất Cộng Trụ thứ nhất chưa được thiết lập.’ ‘Trường hợp như vậy’ có nghĩa là trường hợp có bản chất nghiêm trọng như vậy, tức là trường hợp phạm tội Bất Cộng Trụ và Tăng Tàn, do đó nói là “Ngài chỉ chế định năm nhóm tội nhỏ còn lại.” Mối liên hệ là ‘những nguy hại nào.’ ‘Từ sự chuyển động do thân biểu tri tạo ra’ là từ sự chuyển động được tạo ra bởi thân biểu tri.

Tenevāti avadhāraṇena yāni gabbhaggahaṇakāraṇāni nivattitāni, tānipi dassetuṃ kiṃ panātiādi vuttaṃ. Tattha ubhayesaṃ chandarāgavasena kāyasaṃsaggo vutto. Itthiyā eva chandarāgavasena nābhiparāmasanaṃ visuṃ vuttaṃ. Sāmapaṇḍitassa hi mātā puttuppattiyā sañjātādarā nābhiparāmasanakāle kāmarāgasamākulacittā ahosi, itarathā puttuppattiyā eva asambhavato. ‘‘Sakko cassā kāmarāgasamuppattinimittāni akāsī’’tipi vadanti, vatthuvasena vā etaṃ nābhiparāmasanaṃ kāyasaṃsaggato visuṃ vuttanti daṭṭhabbaṃ. Mātaṅgapaṇḍitassa diṭṭhamaṅgalikāya nābhiparāmasanena maṇḍabyassa nibbatti ahosi. Caṇḍapajjotamātu nābhiyaṃ vicchikā pharitvā gatā, tena caṇḍapajjotassa nibbatti ahosīti āha eteneva nayenātiādi.
Chính vì thế, với sự nhấn mạnh, để chỉ ra cả những nguyên nhân thụ thai đã được loại trừ, đã nói là ‘Huống nữa là…’ v.v… Trong đó, sự tiếp xúc thân thể do lòng ham muốn của cả hai đã được nói đến. Việc chạm vào rốn chỉ do lòng ham muốn của người nữ được nói riêng. Mẹ của **Sāmapaṇḍita**, vì lòng mong muốn sinh con, đã có tâm tràn đầy ái dục vào lúc chạm rốn, nếu không thì việc sinh con đã không thể xảy ra. Người ta cũng nói rằng: “Đế Thích đã tạo ra những dấu hiệu cho sự phát sinh ái dục của bà.” Hoặc cần hiểu rằng, theo câu chuyện, việc chạm rốn này được nói riêng với sự tiếp xúc thân thể. Sự sinh ra của Maṇḍabya đã xảy ra do việc chạm rốn của người nữ đã thấy điềm lành của **Mātaṅgapaṇḍita**. Một con bọ cạp đã bò đến và chạm vào rốn của mẹ Caṇḍapajjota, do đó, sự sinh ra của Caṇḍapajjota đã xảy ra, nên nói là ‘theo cách này’ v.v…

Ayanti sudinnassa purāṇadutiyikā. Yaṃ sandhāyāti yaṃ ajjhācāraṃ sandhāya. Mātāpitaro ca sannipatitā hontīti iminā sukkassa sambhavaṃ dīpeti, mātā ca utunī hotīti iminā soṇitassa. Gandhabboti tatrupago satto adhippeto, gantabboti vuttaṃ hoti, ta-kārassa cettha dha-kāro kato. Atha vā gandhabbā nāma raṅganaṭā, te viya tatra tatra bhavesu nānāvesaggahaṇato ayampi ‘‘gandhabbo’’ti vutto, so mātāpitūnaṃ sannipātakkhaṇato pacchāpi sattāhabbhantare tatra upapanno ‘‘paccupaṭṭhito’’ti vutto. Gabbhassāti kalalarūpasahitassa paṭisandhiviññāṇassa. Tañhi idha ‘‘gabbho’’ti adhippetaṃ sā tena gabbhaṃ gaṇhītiādīsu (pārā. 36) viya. Assa taṃ ajjhācāranti sambandho. Pāḷiyaṃ nirabbudo vata bho bhikkhusaṅgho nirādīnavoti imassa anantaraṃ tasmiṃ bhikkhusaṅgheti ajjhāharitvā sudinnena…pe… ādīnavo uppāditoti yojanā veditabbā. Itihāti nipātasamudāyassa evanti idaṃ atthabhavanaṃ. Muhuttenāti idaṃ khaṇenāti padassa vevacanaṃ. Yāva brahmalokā abbhuggatopi devānaṃ tāvamahanto saddo tesaṃ rūpaṃ viya manussānaṃ gocaro na hoti. Tasmā pacchā sudinnena vutte eva jāniṃsūti daṭṭhabbaṃ.
‘Vị này’ là người vợ cũ của Sudinna. ‘Nhắm đến điều gì’ là nhắm đến sự giao cấu nào. ‘Cha và mẹ cũng có mặt’: bằng câu này, chỉ ra sự hiện hữu của tinh cha; ‘và mẹ đang trong thời kỳ’: bằng câu này, chỉ ra huyết. ‘Hương ấm’ ở đây chỉ chúng sanh sẽ đến tái sanh, có nghĩa là ‘gantabba’ (sẽ đi), và ở đây, mẫu tự ‘ta’ đã được đổi thành ‘dha.’ Hoặc là, ‘gandhabbā’ là những diễn viên sân khấu, giống như họ mang nhiều hình tướng khác nhau trong các kiếp sống, chúng sanh này cũng được gọi là “hương ấm,” chúng sanh đó, dù tái sanh ở đó trong vòng bảy ngày sau thời điểm cha mẹ giao hợp, cũng được gọi là “có mặt.” ‘Của bào thai’ là của thức tái sanh cùng với hình thái giọt máu. Vì ở đây, đó được xem là “bào thai,” giống như trong các câu (Bất Cộng Trụ 36) ‘bà ấy đã thụ thai’ v.v… Mối liên hệ là ‘sự giao cấu đó của vị ấy.’ Cần biết rằng, trong Pāḷi, sau câu ‘Ôi, Tăng chúng không có vết nhơ, không có nguy hại,’ cần thêm vào ‘trong Tăng chúng đó’ và kết nối rằng ‘nguy hại đã được Sudinna… v.v… tạo ra.’ ‘Itihā’: đây là sự diễn đạt ý nghĩa của một nhóm tiểu từ là ‘như vậy.’ ‘Trong một khoảnh khắc’: đây là từ đồng nghĩa của từ ‘trong một chốc lát.’ Âm thanh của chư thiên, dù vang dội đến cõi Phạm thiên, cũng không phải là đối tượng của con người như hình sắc của họ. Do đó, cần hiểu rằng, họ chỉ biết được sau khi Sudinna nói ra.

37.Maggabrahmacariyanti maggapadaṭṭhānaṃ sikkhattayameva upacārato vuttaṃ tasseva yāvajīvaṃ caritabbattā. Avipphārikoti uddesādīsu abyāvaṭo. Vahacchinnoti chinnapādo, chinnakhandho vā. Cintayīti iminā pajjhāyīti padassa kiriyāpadattaṃ dasseti. Tena ‘‘kiso ahosi…pe… pajjhāyi cā’’ti ca-kāraṃ ānetvā pāḷiyojanā kātabbā.
37.‘Phạm hạnh trong đạo lộ’: ba học là nền tảng của đạo lộ được nói đến theo nghĩa ẩn dụ, vì chính chúng phải được thực hành suốt đời. ‘Không bận rộn’ là không bận rộn trong việc học thuộc v.v… ‘Bị đứt gánh’ là bị gãy chân, hoặc bị gãy thân. ‘Đã suy nghĩ’: bằng từ này, chỉ ra rằng từ ‘pajjhāyi’ (trầm tư) là một động từ. Do đó, cần kết nối văn Pāḷi bằng cách thêm vào từ ‘ca’ (và) thành ‘đã gầy gò… v.v… và đã trầm tư.’

38. Gaṇe janasamāgame sannipātanaṃ gaṇasaṅgaṇikā, sāva papañcā, tena gaṇasaṅgaṇikāpapañcena. Yassāti ye assa. Kathāphāsukāti vissāsikabhāvena phāsukakathā, sukhasambhāsāti attho. Upādārūpaṃ bhūtarūpamukheneva mandanaṃ pīnanañca hotīti āha pasādaiccādi. Dānīti nipāto idha pana-saddatthe vattati takkālavācino etarahi-padassa visuṃ vuccamānattāti āha ‘‘so pana tva’’nti. No-saddopi nu-saddo viya pucchanatthoti āha ‘‘kacci nu tva’’nti. Tamevāti gihibhāvapatthanālakkhaṇameva. Anabhiratimevāti eva-kārena nivattitāya pana tadaññāya anabhiratiyā vijjamānattaṃ dassetuṃ adhikusalānantiādi vuttaṃ, samathavipassanā adhikusalā nāma. Idaṃ panātiādi upari vattabbavisesadassanaṃ. Pariyāyavacanamattanti saddatthakathanamattaṃ.
38. Sự tụ tập trong đám đông, trong tập thể người là ‘gaṇasaṅgaṇikā,’ đó cũng là sự hý luận, do đó là ‘bởi sự hý luận tụ tập đám đông.’ ‘Của người nào’ là những gì của người ấy. ‘Lời nói dễ chịu’ là lời nói dễ chịu do sự thân mật, nghĩa là cuộc nói chuyện vui vẻ. Sự trang điểm và làm cho đầy đặn của sắc y sinh chỉ xảy ra thông qua sắc tạo nên nói là ‘sắc trong’ v.v… ‘Bây giờ’: tiểu từ này ở đây được dùng theo nghĩa của từ ‘pana’ (nhưng), vì từ ‘etarahi’ (bây giờ) chỉ thời điểm đó được nói riêng, nên nói là “nhưng bây giờ, con.” Tiểu từ ‘no’ cũng có nghĩa là hỏi như tiểu từ ‘nu,’ nên nói là “liệu con có…” ‘Chính điều ấy’ là chính đặc điểm mong muốn trở thành người tại gia. Để chỉ ra sự tồn tại của sự không hoan hỷ khác với điều đó, điều đã được loại bỏ bằng từ ‘eva’ (chính), đã nói là ‘đối với các pháp thượng thiện’ v.v…, chỉ tịnh và quán được gọi là thượng thiện. ‘Nhưng điều này…’ v.v… là sự chỉ ra điều đặc biệt sẽ được nói ở trên. ‘Chỉ là lời nói theo cách khác’ là chỉ là sự nói về từ ngữ.

Tasminti dhamme, evaṃ virāgāya desite satīti attho. Nāmāti garahāyaṃ. Lokuttaranibbānanti virāgāyātiādinā vuttakilesakkhayanibbānato viseseti. Jātiṃ nissāya uppajjanakamāno eva madajananaṭṭhena madoti mānamado. ‘‘Ahaṃ puriso’’ti pavatto māno purisamado. ‘‘Asaddhammasevanāsamatthataṃ nissāya māno, rāgo eva vā purisamado’’ti keci. Ādi-saddena balamadādiṃ saṅgaṇhāti. Tebhūmakavaṭṭanti tīsu bhūmīsu kammakilesavipākā pavattanaṭṭhena vaṭṭaṃ. Virajjatīti vigacchati. Yoniyoti aṇḍajādayo, tā pana yavanti tāhi sattā amissitāpi samānajātitāya missitā hontīti ‘‘yoniyo’’ti vuttā.
‘Trong pháp ấy’, nghĩa là khi pháp được thuyết giảng để ly tham như vậy. ‘Nāmā’ là để khiển trách. ‘Niết-bàn siêu thế’: để phân biệt với Niết-bàn là sự đoạn tận phiền não được nói trong câu ‘để ly tham’ v.v… Sự kiêu mạn sinh ra từ dòng dõi, do có tính chất làm phát sinh kiêu mạn, nên gọi là kiêu mạn về dòng dõi. Sự kiêu mạn phát sinh rằng “tôi là đàn ông” là kiêu mạn về nam tính. Một số người nói: “Sự kiêu mạn do có khả năng thực hành tà pháp, hoặc chính tham ái là kiêu mạn về nam tính.” Với từ ‘v.v…’, bao gồm cả kiêu mạn về sức khỏe v.v… ‘Vòng luân hồi trong ba cõi’ là nghiệp, phiền não và quả báo trong ba cõi, do có tính chất lưu chuyển, nên gọi là luân hồi. ‘Ly tham’ là rời bỏ. ‘Các loài’ là thai sanh v.v…, mặc dù các chúng sanh không trộn lẫn với chúng, nhưng do cùng một loài nên trở nên trộn lẫn, do đó được gọi là “các loài.”

Ñātatīraṇapahānavasenāti ettha lakkhaṇādivasena sappaccayanāmarūpapariggaho ñātapariññā nāma. Kalāpasammasanādivasena pavattā lokiyavipassanā tīraṇapariññā nāma. Ariyamaggo pahānapariññā nāma. Idha pana ñātatīraṇakiccānampi asammohato maggakkhaṇe sijjhanato ariyamaggameva sandhāya tividhāpi pariññā vuttā, teneva ‘‘lokuttaramaggova kathito’’ti vuttaṃ. Kāmesu pātabyatānanti vatthukāmesu pātabyatāsaṅkhātānaṃ subhādiākārānaṃ tadākāragāhikānaṃ taṇhānanti attho. Visayamukhena hettha visayino gahitā. Tīsu ṭhānesūti ‘‘virāgāya dhammo desito…pe… no saupādānāyā’’ti evaṃ vuttesu.
‘Theo nghĩa biết, thẩm xét và đoạn trừ’: ở đây, sự nắm bắt danh sắc có nhân duyên theo đặc tính v.v… được gọi là biến tri do biết. Tuệ quán thế gian phát sinh theo cách thẩm xét từng nhóm v.v… được gọi là biến tri do thẩm xét. Đạo Thánh được gọi là biến tri do đoạn trừ. Nhưng ở đây, vì các phận sự biết và thẩm xét cũng thành tựu trong khoảnh khắc của đạo do không có sự mê lầm, nên cả ba loại biến tri đều được nói đến nhắm vào đạo Thánh, chính vì thế đã nói là “đạo siêu thế đã được thuyết giảng.” ‘Sự sa đắm trong các dục’ có nghĩa là những tham ái nắm bắt những hình tướng ấy, những hình tướng tốt đẹp v.v… được gọi là sự sa đắm trong các dục vọng vật chất. Ở đây, đối tượng của các căn được nắm bắt thông qua chính các căn. ‘Ở ba nơi’ là ở những nơi được nói như thế này: “pháp được thuyết giảng để ly tham… v.v… không phải để có chấp thủ.”

39.Kalisāsanāropanatthāyāti dosāropanatthāya. Kalīti kodhassa nāmaṃ, tassa sāsanaṃ kalisāsanaṃ, kodhavasena vuccamānā garahā. Ajjhācārova vītikkamo. Samaṇakaraṇānaṃ dhammānanti samaṇabhāvakarānaṃ hirottappādidhammānaṃ. Pāḷiyaṃ kathaṃ-saddayogena na sakkhissasīti anāgatavacanaṃ kataṃ, ‘‘nāma-saddayogenā’’tipi vadanti. Ativiya dukkhavipākanti gahaṭṭhānaṃ nātisāvajjampi kammaṃ pabbajitānaṃ bhagavato āṇāvītikkamato ceva samādinnasikkhattayavināsanato ca mahāsāvajjaṃ hotīti vuttaṃ. Udake bhavaṃ odakaṃ, dhovanakiccanti āha udakakiccantiādi. Samāpajjissasīti anāgatavacanaṃ nāma-saddayogena katanti āha ‘‘nāma-saddena yojetabba’’nti. Dubbharatādīnaṃ hetubhūto asaṃvaro idha dubbharatādi-saddena vutto kāraṇe kāriyopacārenāti āha ‘‘dubbharatādīnaṃ vatthubhūtassa asaṃvarassā’’ti. Attāti attabhāvo. Dubbharatanti attanā upaṭṭhākehi ca dukkhena bharitabbataṃ. Sattehi kilesehi ca saṅgaṇanaṃ samodhānaṃ saṅgaṇikāti āha gaṇasaṅgaṇikāyātiādi. Aṭṭhakusītavatthupāripūriyāti ettha kammaṃ kātabbanti ekaṃ, tathā akāsinti, maggo gantabboti agamāsinti, nālatthaṃ bhojanassa pāripūrinti, alatthanti, uppanno me ābādhoti, aciravuṭṭhito gelaññāti ekanti imāni aṭṭha kusītavatthūni nāma. Ettha ca kosajjaṃ kusīta-saddena vuttaṃ. Vināpi hi bhāvajotanapaccayaṃ bhāvattho viññāyati yathā paṭassa sukkanti. Sabbakilesāpacayabhūtāya vivaṭṭāyāti rāgādisabbakilesānaṃ apacayahetubhūtāya nibbānāya, nibbānatthanti attho. Saṃvarappahānapaṭisaṃyuttanti sīlasaṃvarādīhi pañcahi saṃvarehi ceva tadaṅgappahānādīhi pañcahi pahānehi ca upetaṃ. Asuttanta vinibaddhanti tīsu piṭakesu pāḷisaṅkhātasuttantavasena aracitaṃ, saṅgītikārehi ca anāropitaṃ, tenāha ‘‘pāḷivinimutta’’nti. Tena ca aṭṭhakathāsu yathānurūpaṃ saṅgahitanti dasseti. Evarūpā hi pakiṇṇakadesanā aṭṭhakathāya mūlaṃ. Okkantikadhammadesanā nāma tasmiṃ tasmiṃ pasaṅge otāretvā otāretvā nānānayehi kathiyamānā dhammadesanā, tenāha bhagavā kirātiādi. Paṭikkhipanādhippāyāti paññattampi sikkhāpadaṃ ‘‘kimetenā’’ti maddanacittā.
39.‘Để gán tội’: để gán lỗi. ‘Kali’ là tên gọi của sân, lời dạy của nó là ‘kalisāsana,’ là lời khiển trách được nói ra do sân hận. Sự giao cấu chính là sự vi phạm. ‘Các pháp làm nên Sa-môn’ là các pháp làm nên tư cách Sa-môn như tàm và quý. Trong Pāḷi, do kết hợp với từ ‘kathaṃ’ (làm sao), động từ tương lai ‘na sakkhissasi’ (ngươi sẽ không thể) đã được dùng, người ta cũng nói là “do kết hợp với từ ‘nāma.’” ‘Quả báo rất khổ’: được nói rằng hành động dù không quá tội lỗi đối với người tại gia, nhưng đối với người xuất gia, do vi phạm mệnh lệnh của Đức Thế Tôn và do phá hủy ba học đã thọ trì, nên trở thành tội rất nặng. Điều ở trong nước là ‘odakaṃ,’ là phận sự rửa, nên nói là ‘phận sự với nước’ v.v… Động từ tương lai ‘samāpajjissasi’ (ngươi sẽ phạm vào) được dùng do kết hợp với từ ‘nāma,’ nên nói là “cần kết hợp với từ ‘nāma.’” Sự không chế ngự, là nguyên nhân của sự khó nuôi dưỡng v.v…, ở đây được gọi bằng từ ‘dubbharatādi’ (khó nuôi dưỡng v.v…) theo cách dùng ẩn dụ từ nguyên nhân chỉ kết quả, nên nói là “của sự không chế ngự, là nền tảng của sự khó nuôi dưỡng v.v…” ‘Tự thân’ là tự thể. ‘Sự khó nuôi dưỡng’ là sự khó được nuôi dưỡng bởi chính mình và bởi những người hỗ trợ. Sự tính toán, sự tổng hợp với các chúng sanh và phiền não là ‘saṅgaṇikā,’ nên nói là ‘của sự tụ tập đám đông’ v.v… ‘Sự hoàn thành tám cơ sở của sự lười biếng’: ở đây, có một việc phải làm, đã làm như vậy; có một con đường phải đi, đã đi; không có đủ thức ăn, đã có đủ; bệnh của tôi đã phát sinh; vừa mới khỏi bệnh, là một, đó là tám cơ sở của sự lười biếng. Ở đây, sự biếng nhác được gọi bằng từ ‘kusīta.’ Dù không có tiếp vị ngữ chỉ trạng thái, ý nghĩa trạng thái vẫn được hiểu, như ‘độ trắng của tấm vải.’ ‘Cho sự giải thoát, là sự tiêu trừ mọi phiền não’: cho Niết-bàn, là nguyên nhân tiêu trừ mọi phiền não như tham v.v…, nghĩa là vì mục đích Niết-bàn. ‘Liên quan đến sự chế ngự và đoạn trừ’: được trang bị bởi năm loại chế ngự là giới chế ngự v.v… và năm loại đoạn trừ là đoạn trừ theo chi phần v.v… ‘Không được ghi chép trong Kinh’: không được soạn thảo theo Kinh tạng trong ba tạng, cũng không được các vị kết tập đưa vào, nên nói là “ngoài kinh Pāḷi.” Và điều đó chỉ ra rằng đã được thu thập trong các Chú giải một cách thích hợp. Những bài thuyết pháp tản mác như vậy là nền tảng của Chú giải. ‘Bài thuyết pháp dẫn nhập’ là bài thuyết pháp được giảng giải theo nhiều phương pháp khác nhau, được đưa vào trong từng bối cảnh, nên nói là ‘Đức Thế Tôn đã…’ v.v… ‘Với ý định bác bỏ’: tâm ý coi thường cả điều học đã được chế định rằng “cái này để làm gì?”

Vuttatthavasenāti patiṭṭhāadhigamupāyavasena. Sikkhāpadavibhaṅge yā tasmiṃ samaye kāmesumicchācārā ārati viratītiādinā (vibha. 706) niddiṭṭhaviratiyo ceva, yā tasmiṃ samaye cetanā sañcetanātiādinā (vibha. 704) niddiṭṭhacetanā ca, kāmesumicchācārā viramantassa phasso…pe… avikkhepotiādinā (vibha. 705) niddiṭṭhaphassādidhammā ca sikkhāpadanti dassetuṃ ‘‘ayañca attho sikkhāpadavibhaṅge vuttanayeneva veditabbo’’ti vuttaṃ. ‘‘Yo tattha nāmakāyo padakāyoti idaṃ mahāaṭṭhakathāyaṃ vutta’’nti vadanti. Nāmakāyoti nāmasamūho nāmapaññattiyeva, sesānipi tasseva vevacanāni. Sikkhākoṭṭhāsoti viratiādayo vuttā tappakāsakañca vacanaṃ.
‘Theo ý nghĩa đã nói’ là theo cách là phương tiện để thiết lập và chứng đắc. Trong Phân Tích Điều Học, để chỉ ra rằng các sự từ bỏ được nêu ra trong câu (vibha. 706) ‘sự xa lánh, sự từ bỏ tà dâm trong các dục vào lúc ấy’ v.v…, và tư tưởng được nêu ra trong câu (vibha. 704) ‘tư tưởng, ý định vào lúc ấy’ v.v…, và các pháp như xúc v.v… được nêu ra trong câu (vibha. 705) ‘xúc… v.v… sự không phân tán của người đang từ bỏ tà dâm trong các dục’ là điều học, đã nói rằng “và ý nghĩa này cần được hiểu theo cách đã nói trong Phân Tích Điều Học.” Người ta nói rằng: “Câu ‘những gì ở đó là danh thân, cú thân’ đã được nói trong Đại Chú Giải.” ‘Danh thân’ là tập hợp các danh, chính là danh chế định, các từ còn lại cũng là từ đồng nghĩa của nó. ‘Phần điều học’ là các sự từ bỏ v.v… đã được nói đến và lời nói làm sáng tỏ chúng.

Atthavaseti hitavisese ānisaṃsavisese, te ca sikkhāpadapaññattiyā hetūti āha ‘‘kāraṇavase’’ti. Sukhavihārābhāve sahajīvanassa abhāvato sahajīvitāti sukhavihārova vutto. Dussīlapuggalāti nissīlā dūsitasīlā ca. Pārājikasikkhāpadappasaṅge hi nissīlā adhippetā, sesasikkhāpadapasaṅge tehi tehi vītikkamehi khaṇḍachiddādibhāvappattiyā dūsitasīlā adhippetā. Ubhayenapi alajjinova idha ‘‘dussīlā’’ti vuttāti veditabbā. Sabbasikkhāpadānampi dasa atthavase paṭicceva paññattattā upari dussīlapuggale nissāyāti etthāpi eseva nayo, teneva ‘‘ye maṅkutaṃ…pe… niggahessatī’’ti sabbasikkhāpadasādhāraṇavasena attho vutto. Tattha maṅkutanti nittejataṃ adhomukhataṃ. Dhammenātiādīsu dhammoti bhūtaṃ vatthu. Vinayoti codanā ceva sāraṇā ca. Satthusāsananti ñattisampadā ceva anusāvanasampadā ca. Sandiṭṭhamānāti saṃsayaṃ āpajjamānā. Ubbāḷhāti pīḷitā. Dussīlapuggale nissāya hi uposatho na tiṭṭhati, pavāraṇā na tiṭṭhati, saṅghakammāni nappavattanti, sāmaggī na hotīti iminā alajjīhi saddhiṃ uposathādisakalasaṅghakammaṃ kātuṃ na vaṭṭati dhammaparibhogattāti dasseti. Uposathapavāraṇānaṃ niyatakālikatāya ca avassaṃ kattabbattā saṅghakammato visuṃ gahaṇaṃ veditabbaṃ. Akitti garahā. Ayaso parivārahāni.
‘Theo nghĩa lợi ích’ là trong lợi ích đặc biệt, trong phước báu đặc biệt, và chúng là nguyên nhân của việc chế định điều học, nên nói là “theo nghĩa nguyên nhân.” Vì không có sự chung sống khi không có sự an lạc, nên ‘sự chung sống’ được nói đến chính là sự an lạc. ‘Những người vô giới’ là những người không có giới và những người có giới bị ô uế. Trong bối cảnh điều học Bất Cộng Trụ, những người không có giới được nói đến; trong bối cảnh các điều học khác, những người có giới bị ô uế do sự vi phạm này nọ làm cho giới bị sứt mẻ, thủng v.v… được nói đến. Cần biết rằng ở đây, cả hai loại người không biết hổ thẹn đều được gọi là “những người vô giới.” Vì tất cả các điều học đều được chế định dựa vào mười lợi ích, nên ở trên, trong câu ‘do những người vô giới,’ cũng áp dụng cùng một phương pháp, chính vì thế, ý nghĩa đã được nói một cách chung cho tất cả các điều học rằng “những người cảm thấy xấu hổ… Ngài sẽ chế ngự.” Trong đó, ‘sự xấu hổ’ là sự mất uy tín, sự cúi mặt. ‘Bằng pháp’ v.v…, ‘pháp’ là sự việc có thật. ‘Luật’ là sự khiển trách và sự nhắc nhở. ‘Giáo huấn của Bậc Đạo Sư’ là sự thành tựu của Yết-ma và sự thành tựu của lời tuyên bố. ‘Những người nghi ngờ’ là những người rơi vào nghi ngờ. ‘Bị áp bức’ là bị bức bách. ‘Do những người vô giới, lễ Bố-tát không thể duy trì, lễ Tự tứ không thể duy trì, các Tăng sự không thể tiến hành, sự hòa hợp không có’: bằng câu này, chỉ ra rằng không được phép làm lễ Bố-tát và tất cả các Tăng sự khác cùng với những người không biết hổ thẹn, vì đó là sự hưởng dụng pháp. Cần biết rằng lễ Bố-tát và Tự tứ được đề cập riêng với Tăng sự vì chúng có thời gian cố định và phải được thực hiện. ‘Tiếng xấu’ là sự chê bai. ‘Mất danh tiếng’ là sự mất đi đoàn tùy tùng.

Cuddasa khandhakavattāni nāma vattakkhandhake (cūḷava. 356 ādayo) vuttāni āgantukavattaṃ āvāsikagamikaanumodanabhattaggapiṇḍacārikaāraññakasenāsanajantāgharavaccakuṭiupajjhāyasaddhivihārikaācariyaantevāsikavattanti imāni cuddasa vattāni, etāni ca sabbesaṃ bhikkhūnaṃ sabbadā ca yathārahaṃ caritabbāni. Dve asīti mahāvattāni pana tajjanīyakammakatādikāleyeva caritabbāni, na sabbadā. Tasmā visuṃ gaṇitāni. Tāni pana ‘‘pārivāsikānaṃ bhikkhūnaṃ vattaṃ paññapessāmī’’ti (cūḷava. 75) ārabhitvā ‘‘na upasampādetabbaṃ…pe… na chamāya caṅkamante caṅkame caṅkamitabba’’nti vuttāvasānāni chasaṭṭhi, tato paraṃ ‘‘na, bhikkhave, pārivāsikena bhikkhunā pārivāsikena vuḍḍhatarena bhikkhunā saddhiṃ, mūlāyapaṭikassanārahena, mānattacārikena, mānattārahena, abbhānārahena bhikkhunā saddhiṃ ekacchanne āvāse vatthabba’’ntiādinā (cūḷava. 82) vuttavattāni pakatattena caritabbehi anaññattā visuṃ agaṇetvā pārivāsikavuḍḍhatarādīsu puggalantaresu caritabbattā tesaṃ vasena sampiṇḍetvā ekekaṃ katvā gaṇitāni pañcāti ekasattativattāni ca ukkhepanīyakammakatavattesu ca vuttaṃ ‘‘na pakatattassa bhikkhuno abhivādanaṃ paccuṭṭhānaṃ…pe… nahāne piṭṭhiparikammaṃ sāditabba’’nti (cūḷava. 86) idaṃ abhivādanādīnaṃ asādiyanaṃ ekaṃ, ‘‘na pakatatto bhikkhu sīlavipattiyā anuddhaṃsetabbo’’tiādīni (cūḷava. 51) ca dasāti evaṃ dvāsīti vattāni honti, etesveva pana kānici tajjanīyakammādivattāni kānici pārivāsikādivattānīti aggahitaggahaṇena dvāsītiyeva. Aññattha pana aṭṭhakathāpadese appakaṃ ūnamadhikaṃ vā gaṇanūpagaṃ na hotīti asītikhandhakavattānīti āgataṃ. Atha vā purimehi cuddasavattehi asaṅgahitāni vinayāgatāni sabbāni vattāni yathā dvāsīti vattāni, asīti vattāni eva vā honti, tathā saṅgahetvā ñātabbāni.
‘Mười bốn phận sự trong Các phẩm Luật’ được nói trong Vattakkhandhake (cūḷava. 356 trở đi) là mười bốn phận sự này: phận sự của khách đến, phận sự của người ở tại trú xứ, phận sự của người đi, phận sự của người tùy hỷ, phận sự tại nhà ăn, phận sự của người đi khất thực, phận sự của người ở rừng, phận sự tại chỗ ở, phận sự tại nhà tắm hơi, phận sự tại nhà vệ sinh, phận sự đối với Giáo Thọ Sư, phận sự đối với người cùng ở, phận sự đối với thầy và phận sự đối với đệ tử. Và những phận sự này phải được tất cả các Tỳ-khưu thực hành một cách thích hợp vào mọi lúc. ‘Tám mươi hai đại phận sự’ thì chỉ phải thực hành vào thời điểm bị thi hành Yết-ma khiển trách v.v…, không phải lúc nào cũng vậy. Do đó, chúng được tính riêng. Chúng được bắt đầu bằng câu “Ta sẽ chế định phận sự cho các Tỳ-khưu đang biệt trú” (cūḷava. 75) và kết thúc bằng câu “không được truyền giới cụ túc… v.v… không được đi kinh hành trên đường kinh hành dưới đất,” có sáu mươi sáu phận sự. Sau đó, những phận sự được nói trong câu “Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu đang biệt trú không được ở trong cùng một trú xứ có mái che với Tỳ-khưu đang biệt trú lớn tuổi hơn, với người đáng bị Yết-ma đưa về lại từ đầu, với người đang thi hành hình phạt tự hối, với người đáng bị hình phạt tự hối, với người đáng được giải tội” v.v… (cūḷava. 82), vì không khác với những phận sự phải thực hành như thường lệ nên không được tính riêng, nhưng vì phải thực hành đối với những người khác như người biệt trú lớn tuổi hơn v.v…, nên được gộp lại theo từng người và tính thành một, có năm phận sự, như vậy là có bảy mươi mốt phận sự. Và trong các phận sự đối với người bị thi hành Yết-ma khai trừ, có câu “không được đảnh lễ, đứng dậy… v.v… đối với Tỳ-khưu bình thường… không được nhờ xoa lưng khi tắm” (cūḷava. 86), việc không chấp nhận sự đảnh lễ v.v… này là một; và mười điều như “Tỳ-khưu bình thường không được trục xuất vì giới bị hư hỏng” v.v… (cūḷava. 51), như vậy có tám mươi hai phận sự. Tuy nhiên, trong số này, một số là phận sự của Yết-ma khiển trách v.v…, một số là phận sự của người biệt trú v.v…, do đó, theo cách tính gộp những gì chưa được tính, vẫn là tám mươi hai. Nhưng ở một nơi khác trong Chú giải, vì sự chênh lệch nhỏ không được tính, nên đã nói là tám mươi phận sự trong Các phẩm Luật. Hoặc là, cần hiểu bằng cách gộp tất cả các phận sự trong Luật tạng chưa được bao gồm trong mười bốn phận sự trước đó, sao cho có tám mươi hai phận sự, hoặc tám mươi phận sự.

Saṃvaravinayoti sīlasaṃvaro satisaṃvaro ñāṇasaṃvaro khantisaṃvaro vīriyasaṃvaroti pañcavidhopi saṃvaro yathāsakaṃ saṃvaritabbānaṃ vinetabbānañca kāyaduccaritādīnaṃ saṃvaraṇato saṃvaro, vinayanato vinayoti vuccati. Pahānavinayoti tadaṅgappahānaṃ vikkhambhanappahānaṃ samucchedappahānaṃ paṭippassaddhippahānaṃ nissaraṇappahānanti pañcavidhampi pahānaṃ, yasmā cāgaṭṭhena pahānaṃ, vinayanaṭṭhena vinayo, tasmā ‘‘pahānavinayo’’ti vuccati. Samathavinayoti satta adhikaraṇasamathā. Paññattivinayoti sikkhāpadameva. Tampi hi bhagavato sikkhāpadapaññattiyāva anuggahitaṃ hoti tabbhāve eva bhāvato. Saṅkhalikanayaṃ katvā dasakkhattuṃ yojanañca katvā yaṃ vuttanti sambandho. Tattha purimapurimapadassa anantarapadeneva yojitattā ayosaṅkhalikasadisanti ‘‘saṅkhalikanaya’’nti vuttaṃ. Dasasu padesu ekamekaṃ padaṃ tadavasesehi navanavapadehi yojitattā ‘‘ekekapadamūlika’’nti vuttaṃ.
‘Luật chế ngự’: cả năm loại chế ngự là chế ngự bằng giới, chế ngự bằng niệm, chế ngự bằng trí, chế ngự bằng nhẫn nại, và chế ngự bằng tinh tấn, đều được gọi là ‘chế ngự’ vì chúng chế ngự những điều cần chế ngự như thân ác hạnh v.v…, và được gọi là ‘luật’ vì chúng rèn luyện những điều cần rèn luyện. ‘Luật đoạn trừ’: cả năm loại đoạn trừ là đoạn trừ theo chi phần, đoạn trừ bằng cách đè nén, đoạn trừ bằng cách cắt đứt, đoạn trừ bằng cách lắng dịu, và đoạn trừ bằng cách thoát ly, được gọi là ‘đoạn trừ’ vì chúng có nghĩa là từ bỏ, và được gọi là ‘luật’ vì chúng có nghĩa là rèn luyện, do đó được gọi là “luật đoạn trừ.” ‘Luật dập tắt’ là bảy cách dập tắt tranh cãi. ‘Luật chế định’ chính là điều học. Điều đó cũng được hỗ trợ bởi sự chế định điều học của Đức Thế Tôn, vì nó chỉ tồn tại khi có sự chế định đó. Mối liên hệ là ‘điều đã được nói sau khi đã tạo ra phương pháp xích sắt và sau khi đã kết hợp mười lần.’ Ở đó, vì mỗi từ đứng trước được kết hợp với từ ngay sau nó, nên nó giống như xích sắt, do đó được gọi là “phương pháp xích sắt.” Vì trong mười vị trí, mỗi một từ được kết hợp với chín từ còn lại, nên được gọi là “lấy mỗi từ làm gốc.”

Atthasataṃdhammasatanti ettha yo hi so parivāre (pari. 334) yaṃ saṅghasuṭṭhu, taṃ saṅghaphāsūti ādiṃkatvā yaṃ saddhammaṭṭhitiyā, taṃ vinayānuggahāyāti pariyosānaṃ khaṇḍacakkavaseneva saṅkhalikanayo vutto, tasmiṃ ekamūlakanaye āgatabaddhacakkanayena yaṃ vinayānuggahāya, taṃ saṅghasuṭṭhūti idampi yojetvā baddhacakke kate purimapurimāni dasa dhammapadāni, pacchimapacchimāni dasa atthapadāni cāti vīsati padāni honti. Ekamūlakanaye pana ekasmiṃ vāre naveva atthapadāni labbhanti. Evaṃ dasahi vārehi navuti atthapadāni navuti dhammapadāni ca honti, tāni saṅkhalikanaye vuttehi dasahi atthapadehi dasahi dhammapadehi ca saddhiṃ yojitāni yathāvuttaṃ atthasataṃ dhammasatañca hontīti veditabbaṃ. Yaṃ panettha sāratthadīpaniyaṃ (sārattha ṭī. pārājikakaṇḍa 2.39) saṅkhalikanayepi ekamūlakanayepi paccekaṃ atthasatassa dhammasatassa yojanāmukhaṃ vuttaṃ, taṃ tathā siddhepi atthasataṃ dhammasatanti (pari. 334) gāthāya na sameti dve atthasatāni dve dhammasatāni cattāri niruttisatāni aṭṭha ñāṇasatānīti vattabbato. Tasmā idha vuttanayeneva atthasataṃ dhammasatanti vuttanti gahetabbaṃ. Dve ca niruttisatānīti atthajotikānaṃ niruttīnaṃ vasena niruttisataṃ, dhammabhūtānaṃ niruttīnañca vasena niruttisatanti dve niruttisatāni. Cattāri ca ñāṇasatānīti atthasate ñāṇasataṃ, dhammasate ñāṇasataṃ, dvīsu niruttisatesu dve ñāṇasatānīti cattāri ñāṇasatāni. Atirekānayanatthoti avuttasamuccayattho.
‘Một trăm lợi ích, một trăm pháp’: ở đây, trong Parivāra (pari. 334), phương pháp xích sắt đã được nói theo cách vòng tròn luân phiên, bắt đầu bằng ‘điều gì tốt cho Tăng, điều đó an lạc cho Tăng’ và kết thúc bằng ‘điều gì để chánh pháp tồn tại, điều đó để hỗ trợ luật.’ Trong phương pháp lấy một làm gốc đó, theo cách vòng tròn khép kín đã có, khi kết hợp cả ‘điều gì để hỗ trợ luật, điều đó tốt cho Tăng,’ và tạo thành một vòng tròn khép kín, thì có mười pháp cú đứng trước và mười lợi ích cú đứng sau, tổng cộng là hai mươi cú. Nhưng trong phương pháp lấy một làm gốc, trong một lượt, chỉ có được chín lợi ích cú. Như vậy, với mười lượt, có chín mươi lợi ích cú và chín mươi pháp cú. Khi chúng được kết hợp với mười lợi ích cú và mười pháp cú đã được nói trong phương pháp xích sắt, thì sẽ có một trăm lợi ích và một trăm pháp như đã nói. Điều được nói trong Sāratthadīpanī (sārattha ṭī. pārājikakaṇḍa 2.39) về cách kết hợp một trăm lợi ích và một trăm pháp riêng biệt trong cả phương pháp xích sắt và phương pháp lấy một làm gốc, dù có thể thành tựu như vậy, nhưng không phù hợp với bài kệ (pari. 334) ‘một trăm lợi ích, một trăm pháp,’ vì sẽ phải nói là ‘hai trăm lợi ích, hai trăm pháp, bốn trăm ngữ nguyên, tám trăm trí.’ Do đó, cần hiểu rằng ‘một trăm lợi ích, một trăm pháp’ đã được nói theo cách đã trình bày ở đây. ‘Và hai trăm ngữ nguyên’: là một trăm ngữ nguyên theo cách làm sáng tỏ lợi ích, và một trăm ngữ nguyên theo cách là pháp, như vậy là hai trăm ngữ nguyên. ‘Và bốn trăm trí’: là một trăm trí trong một trăm lợi ích, một trăm trí trong một trăm pháp, hai trăm trí trong hai trăm ngữ nguyên, như vậy là bốn trăm trí. ‘Nghĩa của việc thêm vào’ là nghĩa của việc gộp lại những gì chưa được nói.

Paṭhamapaññattikathāvaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về câu chuyện chế định đầu tiên đã kết thúc.

Sudinnabhāṇavāravaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần giải thích về các đoạn liên quan đến Sudinna đã kết thúc.

Makkaṭīvatthukathāvaṇṇanā

Giải thích về câu chuyện con khỉ cái

40.Pacuratthe hi vattamānavacananti ekadā paṭisevitvā pacchā anoramitvā divase divase sevanicchāya vattamānattā sevanāya abhāvakkhaṇepi iha mallā yujjhantītiādīsu viya abbocchinnataṃ bāhullavuttitañca upādāya paṭisevatīti vattamānavacanaṃ katanti attho. Āhiṇḍantāti vicarantā.
40.‘Động từ hiện tại theo nghĩa thường xuyên’: sau khi đã giao hợp một lần, sau đó không dừng lại, với ý muốn giao hợp mỗi ngày, ngay cả trong khoảnh khắc không giao hợp, giống như trong câu ‘các đô vật ở đây đang đấu vật,’ động từ hiện tại ‘paṭisevati’ (giao hợp) đã được dùng để chỉ sự liên tục và thường xuyên, đó là ý nghĩa. ‘Đi lang thang’ là đi đây đi đó.

41.Sahoḍḍhaggahitoti sabhaṇḍaggahito, ayameva vā pāṭho. Taṃ sikkhāpadaṃ tatheva hotīti manussāmanussādipuggalavisesaṃ kiñci anupādiyitvā sāmaññato ‘‘yo pana bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyyā’’ti (pārā. 39) vuttattā manussāmanussatiracchānagatānaṃ itthipurisapaṇḍakaubhatobyañjanānaṃ tiṃsavidhepi magge methunaṃ sevantassa taṃ sikkhāpadaṃ mūlacchejjakaraṃ hoti evāti adhippāyo. Etena yaṃ anupaññattimūlapaññattiyā eva adhippāyappakāsanavasena subodhatthāya vatthuvasena pavattānaṃ visesatthajotakavasenāti dassitaṃ hoti. Āmasanaṃ āmaṭṭhamattaṃ. Tato daḷhataraṃ phusanaṃ. Ghaṭṭanaṃ pana tato daḷhataraṃ katvā sarīrena sarīrassa saṅghaṭṭanaṃ. Taṃ sabbampīti anurāgena pavattitaṃ dassanādisabbampi.
41.‘Bị bắt quả tang’ là bị bắt cùng với tang vật, hoặc đây chính là cách đọc đúng. ‘Điều học ấy vẫn như vậy’: không phân biệt bất kỳ cá nhân nào như người, phi người v.v…, mà nói một cách chung chung “Bất kỳ Tỳ-khưu nào giao hợp” (Bất Cộng Trụ 39), nên dù giao hợp với người, phi người, súc sanh, dù là nữ, nam, bán nam bán nữ, người lưỡng tính, trong bất kỳ ba mươi loại đường nào, điều học ấy vẫn là điều học cắt đứt gốc rễ, đó là ý. Bằng điều này, đã chỉ ra rằng điều bổ sung được đưa ra để làm rõ ý nghĩa của chính điều học gốc, để dễ hiểu hơn, theo cách làm sáng tỏ ý nghĩa đặc biệt của câu chuyện. ‘Sự chạm’ là chỉ chạm vào. ‘Sự tiếp xúc’ là mạnh hơn thế. ‘Sự cọ xát’ thì lại mạnh hơn nữa, là sự cọ xát thân thể với thân thể. ‘Tất cả những điều đó’ là tất cả những hành vi như nhìn ngắm v.v… được thực hiện với lòng ham muốn.

42.Pāṇātipātādisacittakasikkhāpadānaṃ surāpānādiacittakasikkhāpadānañca (pāci. 326 ādayo) ekeneva lakkhaṇavacanena lokavajjataṃ dassetuṃ ‘‘yassa sacittakapakkhe cittaṃ akusalameva hoti, taṃ lokavajjaṃ nāmā’’ti vuttaṃ. Tattha sacittakapakkheti idaṃ kiñcāpi acittakasikkhāpadaṃ sandhāyeva vattuṃ yuttaṃ tasseva sacittakapakkhasambhavato, tathāpi sacittakasikkhāpadānampi asañcicca caṅkamanādīsu loke pāṇaghātavohārasambhavena acittakapakkhaṃ parikappetvā ubhinnampi sacittakācittakasikkhāpadānaṃ sādhāraṇavasena ‘‘sacittakapakkhe’’ti vuttaṃ. Itarathā sacittakasikkhāpadānaṃ imasmiṃ vākye lokavajjatālakkhaṇaṃ na vuttaṃ siyā. ‘‘Sacittakapakkhe cittaṃ akusalamevā’’ti vutte pana sacittakasikkhāpadānaṃ cittaṃ akusalameva, itaresaṃ sacittakapakkheyeva akusalaniyamo, na acittakapakkhe. Tattha pana yathāsambhavaṃ kusalaṃ vā siyā, akusalaṃ vā, abyākataṃ vāti ayamattho sāmatthiyato sijjhatīti veditabbaṃ. Sacittakapakkheti vatthuvītikkamavijānanacittena sacittakapakkheti gahetabbaṃ, na paṇṇattivijānanacittena tathā sati sabbasikkhāpadānampi lokavajjatāpasaṅgato. ‘‘Paṭikkhittamidaṃ kātuṃ na vaṭṭatī’’ti jānantassa hi paṇṇattivajjepi anādariyavasena paṭighacittameva uppajjati, tasmā idaṃ vākyaṃ niratthakameva siyā sabbasikkhāpadānipi lokavajjānīti ettakamattasseva vattabbatāpasaṅgato.
42.Để chỉ ra tính chất bị thế gian chê trách của các điều học có tâm như sát sanh v.v… và các điều học không có tâm như uống rượu v.v… (Ưng Đối Trị 326 trở đi) chỉ bằng một lời nói về đặc tính, đã nói rằng “điều học nào mà trong trường hợp có tâm, tâm chỉ là bất thiện, thì đó được gọi là bị thế gian chê trách.” Ở đó, ‘trong trường hợp có tâm’: mặc dù câu này đáng lẽ chỉ nên nhắm vào điều học không có tâm, vì chỉ điều đó mới có trường hợp có tâm, nhưng vì các điều học có tâm cũng có thể có trường hợp không có tâm, như trong việc đi kinh hành không cố ý v.v… mà có sự giết hại sinh vật theo cách nói của thế gian, nên câu “trong trường hợp có tâm” đã được nói một cách chung cho cả hai loại điều học có tâm và không có tâm. Nếu không, đặc tính bị thế gian chê trách của các điều học có tâm sẽ không được nói đến trong câu này. Nhưng khi nói “trong trường hợp có tâm, tâm chỉ là bất thiện,” thì tâm của các điều học có tâm chỉ là bất thiện; còn đối với các điều học khác, quy luật bất thiện chỉ áp dụng trong trường hợp có tâm, không phải trong trường hợp không có tâm. Ở đó, tùy theo trường hợp, tâm có thể là thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký, ý nghĩa này được thành tựu một cách tự nhiên. Cần hiểu ‘trong trường hợp có tâm’ là trường hợp có tâm biết về đối tượng và sự vi phạm, không phải tâm biết về sự chế định, vì nếu vậy, tất cả các điều học sẽ đều bị thế gian chê trách. Vì khi biết rằng “điều này bị cấm, không được làm,” tâm sân vẫn phát sinh do sự coi thường ngay cả trong điều bị chế định, do đó câu này sẽ trở nên vô nghĩa, vì sẽ dẫn đến việc phải nói rằng tất cả các điều học đều bị thế gian chê trách.

Ettha ca sacittakapakkheyeva cittaṃ akusalanti niyamassa akatattā surāpānādīsu acittakapakkhe cittaṃ akusalaṃ na hotevāti na sakkā niyametuṃ, kevalaṃ pana sacittakapakkhe cittaṃ akusalameva, na kusalādīti evamettha niyamo sijjhati, evañca surāti ajānitvā pivantānampi akusalacitteneva pānaṃ gandhavaṇṇakādibhāvaṃ ajānitvā limpantīnaṃ bhikkhunīnaṃ vināpi akusalacittena limpanañca, ubhayatthāpi āpattisambhavo ca samatthito hoti. Yaṃ pana sāratthadīpaniyaṃ (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.42) ‘‘sacittakapakkhe cittaṃ akusalamevāti vacanato acittakassa vatthuajānanavasena acittakapakkhe cittaṃ akusalamevāti ayaṃ niyamo natthīti viññāyatī’’ti vuttaṃ, taṃ na yuttaṃ. Acittakesu hi terasasu lokavajjesu surāpānasseva acittakapakkhepi akusalacittaniyamo, na itaresaṃ dvādasannaṃ akusalādicittenāpi āpajjitabbato. Yaṃ pana evaṃ kenaci anicchamānaṃ saddatopi apatīyamānamimaṃ niyamaṃ parādhippāyaṃ katvā dassetuṃ ‘‘yadi hi acittakassa acittakapakkhepi cittaṃ akusalameva siyā, sacittakapakkheti idaṃ visesanaṃ niratthakaṃ siyā’’tiādi vuttaṃ, taṃ niratthakameva evaṃ niyamassa kenaci anadhippetattā. Na hi koci saddasVSScriptū niyamaṃ icchati, yena sacittakapakkheti idaṃ visesanaṃ niratthakaṃ siyātiādi vuttaṃ bhaveyya, kintu sacittakapakkhe cittaṃ akusalameva, acittakapakkhe pana cittaṃ aniyataṃ akusalameva vā siyā, kusalādīsu vā aññataranti evameva icchati. Tena sacittakapakkheti visesanampi sātthakaṃ siyā. Acittakasikkhāpadānaṃ sacittakapakkhesu akusalaniyamena lokavajjatā ca sijjhati. Tesu ca surāpānasseva acittakapakkhepi lokavajjatā akusalacittatā ca, itaresaṃ pana sacittakapakkhe evāti vādopi na virujjhatīti na kiñcettha anupapannaṃ nāma.
Ở đây, vì không có quy luật nào rằng tâm chỉ là bất thiện trong trường hợp có tâm, nên không thể quy định rằng trong trường hợp không có tâm, tâm trong việc uống rượu v.v… không phải là bất thiện. Nhưng chỉ có quy luật rằng trong trường hợp có tâm, tâm chỉ là bất thiện, không phải là thiện v.v… Như vậy, việc uống rượu khi không biết đó là rượu cũng được thực hiện bằng tâm bất thiện, và việc các Tỳ-khưu-ni bôi thuốc mà không biết mùi, màu sắc v.v…, bôi mà không có tâm bất thiện, và sự phạm tội trong cả hai trường hợp đều được chứng minh. Điều được nói trong Sāratthadīpanī (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.42) rằng “theo câu ‘trong trường hợp có tâm, tâm chỉ là bất thiện,’ có thể hiểu rằng trong trường hợp không có tâm, do không biết về đối tượng, không có quy luật rằng tâm phải là bất thiện,” điều đó không đúng. Vì trong số mười ba điều học không có tâm bị thế gian chê trách, chỉ có việc uống rượu mới có quy luật tâm bất thiện ngay cả trong trường hợp không có tâm, còn mười hai điều còn lại thì không, vì có thể phạm tội bằng cả tâm thiện, bất thiện và vô ký. Điều được nói để bác bỏ quy luật này, mà một số người không muốn chấp nhận ngay cả về mặt từ ngữ, bằng cách nói rằng “nếu ngay cả trong trường hợp không có tâm của điều học không có tâm, tâm cũng chỉ là bất thiện, thì từ bổ nghĩa ‘trong trường hợp có tâm’ sẽ trở nên vô nghĩa,” điều đó cũng vô nghĩa, vì không có ai mong muốn quy luật như vậy. Không có nhà ngữ pháp nào muốn một quy luật mà từ bổ nghĩa ‘trong trường hợp có tâm’ trở nên vô nghĩa v.v… mà lại nói như vậy, mà chỉ muốn rằng trong trường hợp có tâm, tâm chỉ là bất thiện, còn trong trường hợp không có tâm, tâm không cố định, có thể chỉ là bất thiện, hoặc có thể là một trong các tâm thiện v.v… Do đó, từ bổ nghĩa ‘trong trường hợp có tâm’ cũng có ý nghĩa. Và tính chất bị thế gian chê trách của các điều học không có tâm được thành tựu do quy luật bất thiện trong trường hợp có tâm. Và trong số đó, chỉ có việc uống rượu mới bị thế gian chê trách và có tâm bất thiện ngay cả trong trường hợp không có tâm, còn các điều khác thì chỉ trong trường hợp có tâm, lập luận đó cũng không mâu thuẫn, do đó không có gì là không hợp lý ở đây.

Yaṃ panettha ‘‘surāti ajānitvā pivantassa…pe… vināpi akusalacittena āpattisambhavato…pe… surāpānādiacittakasikkhāpadānaṃ lokavajjatā na siyā’’tiādi vuttaṃ. Yañca tamatthaṃ sādhetuṃ gaṇṭhipadesu āgatavacanaṃ dassetvā bahuṃ papañcitaṃ, taṃ na sārato paccetabbaṃ aṭṭhakathāhi viruddhattā. Tathā hi ‘‘vatthuajānanatāya cettha acittakatā veditabbā akusaleneva pātabbatāya lokavajjatā’’ti vuttaṃ. Yañcetassa ‘‘sacittakapakkhe akusaleneva pātabbato lokavajjatā’’ti vuttaṃ aṭṭhakathāvacanaṃ, taṃ na sundaraṃ. ‘‘Sacittakapakkhe cittaṃ akusalamevā’’ti sabbesaṃ lokavajjānaṃ idheva pārājikaṭṭhakathāya sāmaññato vatvā surāpānasikkhāpadaṭṭhakathāyaṃ ‘‘akusaleneva pātabbatāyā’’ti evaṃ acittakapakkhepi akusalacittatāya visesetvā vuttattā. Na hi ‘‘sāmaññato idha vuttova attho puna surāpānaṭṭhakathāyampi vutto’’ti sakkā vattuṃ vuttasseva puna vacane payojanābhāvā, tadaññesupi acittakalokavajjesu vattabbatāpasaṅgato ca, nāpi ekattha vutto nayo tadaññesupi ekalakkhaṇatāya vutto eva hotīti ‘‘surāpānasikkhāpadeyeva (pāci. 326 ādayo) vutto’’ti sakkā vattuṃ acittakalokavajjānaṃ sabbapaṭhame uyyuttasikkhāpadeyeva (pāci. 311 ādayo) vattabbato, surāpānasikkhāpadeyeva vā vatvā eseva nayo sesesu acittakalokavajjesupīti atidisitabbato ca.
Điều được nói ở đây rằng “người uống rượu mà không biết… v.v… do có thể phạm tội mà không cần tâm bất thiện… v.v… các điều học không có tâm như uống rượu v.v… sẽ không bị thế gian chê trách.” Và để chứng minh ý nghĩa đó, đã trích dẫn lời nói trong các Sớ giải và đã hý luận rất nhiều, điều đó không nên được coi là cốt lõi vì mâu thuẫn với các Chú giải. Cụ thể, đã nói rằng “cần hiểu rằng ở đây, tính chất không có tâm là do không biết về đối tượng, và tính chất bị thế gian chê trách là do phải uống bằng tâm bất thiện.” Và lời nói của Chú giải rằng “tính chất bị thế gian chê trách là do phải uống bằng tâm bất thiện trong trường hợp có tâm,” điều đó không hay. Vì đã nói một cách chung chung trong Chú giải Bất Cộng Trụ này rằng “trong trường hợp có tâm, tâm chỉ là bất thiện,” rồi trong Chú giải về điều học uống rượu lại nói một cách đặc biệt rằng “do phải uống bằng tâm bất thiện,” như vậy là tâm bất thiện ngay cả trong trường hợp không có tâm. Không thể nói rằng “ý nghĩa đã được nói một cách chung chung ở đây lại được nói lại trong Chú giải về việc uống rượu,” vì không có lợi ích gì khi nói lại điều đã nói, và sẽ dẫn đến việc phải nói trong cả các điều học không có tâm bị thế gian chê trách khác, cũng không thể nói rằng “phương pháp được nói ở một nơi cũng được coi là đã nói cho các nơi khác có cùng đặc tính,” vì đáng lẽ phải nói ngay trong điều học đầu tiên trong số các điều học không có tâm bị thế gian chê trách là điều học về sự sai khiến (Ưng Đối Trị 311 trở đi), hoặc đáng lẽ phải nói ngay trong điều học về việc uống rượu rồi dẫn chiếu rằng “phương pháp này cũng áp dụng cho các điều học không có tâm bị thế gian chê trách khác.”

Apica vuttamevatthaṃ vadantena ‘‘sacittakapakkhe akusaleneva pātabbatāyā’’ti pubbe vuttakkameneva vattabbaṃ sandehādivigamatthattā puna vacanassa. Sikkhāpadavisaye ca visesitabbaṃ visesetvāva vuccati, itarathā āpattānāpattādibhedassa duviññeyyattā. Tathā hi bhikkhunīvibhaṅgaṭṭhakathāyaṃ ‘‘vināpi cittena āpajjitabbattā acittakāni, citte pana sati akusaleneva āpajjitabbattā lokavajjāni ceva akusalacittāni cā’’ti giraggasamajjādīnaṃ sacittakapakkhe eva lokavajjatā akusalacittatā ca visesetvā vuttā, na evaṃ surāpānassa. Tassa pana pakkhadvayassāpi sādhāraṇavasena ‘‘akusaleneva pātabbatāyā’’ti vuttaṃ, na pana ‘‘sacittakapakkhe’’ti visesetvā. Tasmā idaṃ surāpānaṃ sacittakācittakapakkhadvayepi lokavajjaṃ akusalacittañcāti dassetumeva ‘‘akusaleneva pātabbatāya lokavajjatā’’ti visuṃ vuttanti suṭṭhu sijjhati. Eteneva yaṃ sāratthadīpaniyaṃ ‘‘sacittakapakkhe akusaleneva pātabbatāya lokavajjatā’’ti vuttassa imasseva adhippāyassa paṭipādakametanti saññāya iminā eva hi adhippāyena aññesupi lokavajjesu acittakasikkhāpadesu akusalacittatā eva vuttā, na pana ticittatā. Teneva bhikkhunīvibhaṅgaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ ‘‘giraggasamajjaṃ cittāgārasikkhāpadaṃ saṅghāṇi itthālaṅkāro gandhavaṇṇako vāsitakapiññāko bhikkhunīādīhi ummaddanaparimaddanānīti imāni dasa sikkhāpadāni acittakāni akusalacittāni, ayaṃ panettha adhippāyo vināpi cittena āpajjitabbattā acittakāni, citte pana sati akusaleneva āpajjitabbattā lokavajjāni ceva akusalacittāni cā’’ti vuttaṃ, tampi paṭisiddhaṃ hoti tabbiparītasseva atthassa yathāvuttanayena sādhanato. Tasmā surāpānassa acittakapakkhepi cittaṃ akusalamevāti imaṃ visesaṃ dassetumeva idaṃ vacanaṃ vuttanti gahetabbaṃ. Ayañhettha attho vatthuajānanatāya cetthāti ettha ca-kāro visesatthajotako apicāti iminā samānattho. Tasmā yadidaṃ aññesu acittakalokavajjesu vināpi cittena āpajjitabbattā acittakāni, citte pana sati akusaleneva āpajjitabbattā lokavajjāni ceva akusalacittāni cāti lokavajjatāya akusalacittatāya ca lakkhaṇaṃ vuccati, taṃ ettha surāpānasikkhāpade nāgacchati, idha pana viseso atthīti vuttaṃ hoti. So kataroti ce? Vatthuajānanatāya eva vatthujānanacittena vināpi āpajjitabbatāya eva acittakatā veditabbā, natthettha acittakatāya viseso. Kintu vatthuajānanasaṅkhātaacittakapakkhepi akusalacitteneva surāmerayassa ajjhoharitabbatāyāti imassa sikkhāpadassa sacittakapakkhepi acittakapakkhepi lokavajjatā akusalacittatā ca veditabbāti ayamettha viseso. Idha hi ‘‘citte pana satī’’ti avisesetvā ‘‘akusalenevā’’ti sāmaññato vuttattā ubhayapakkhepi lokavajjatā akusalacittatā ca siddhāti veditabbā. Teneva paramatthajotikāya (khu. pā. aṭṭha. 2.pacchimapañcasikkhāpadavaṇṇanā) khuddakaṭṭhakathāya sikkhāpadavaṇṇanāya ‘‘surāmerayamajjapamādaṭṭhānaṃ kāyato ca kāyacittato cāti dvisamuṭṭhāna’’nti vuttaṃ. Surāti jānanacittābhāveneva hettha cittaṅgavirahito kevalopi kāyo ekasamuṭṭhānaṃ vutto, tasmiñca ekasamuṭṭhānakkhaṇepi yāya cetanāya pivati, sā ekantaakusalā eva hoti. Teneva tattheva aṭṭhakathāyaṃ ‘‘paṭhamā cettha pañca ekantaakusalacittasamuṭṭhānattā pāṇātipātādīnaṃ pakativajjato veramaṇiyo, sesā paṇṇattivajjato’’ti evaṃ pañcannampi sāmaññato akusalacittatā lokavajjatāsaṅkhātā pakativajjatā ca vuttā. Aṅgesu ca jānanaṅgaṃ na vuttaṃ. Tathā hi ‘‘surāmerayamajjapamādaṭṭhānassa pana surādīnaṃ aññataraṃ hoti madanīyaṃ, pātukāmatācittañca paccupaṭṭhitaṃ hoti, tajjañca vāyāmaṃ āpajjati, pīte ca pavisatīti imāni cattāri aṅgānī’’ti vuttaṃ, na pana surāti jānanaṅgena saddhiṃ pañcāti. Yadi hi surāti jānanampi aṅgaṃ siyā, avassameva taṃ vattabbaṃ siyā, na ca vuttaṃ. Yathā cettha, evaṃ aññāsupi suttapiṭakādiaṭṭhakathāsu katthaci jānanaṅgaṃ na vuttaṃ. Tasmā ‘‘akusaleneva pātabbatāya lokavajjatā’’ti imassa aṭṭhakathāpāṭhassa acittakapakkhepi ‘‘akusaleneva pātabbatāya lokavajjatā’’ti evameva atthoti niṭṭhamettha gantabbaṃ.
Hơn nữa, khi nói lại điều đã nói, đáng lẽ phải nói theo thứ tự đã nói trước đó là “trong trường hợp có tâm, phải uống bằng tâm bất thiện” để loại bỏ sự nghi ngờ v.v…, vì việc nói lại là để làm điều đó. Và trong lĩnh vực điều học, điều cần làm đặc biệt thì phải được nói một cách đặc biệt, nếu không, sự phân biệt giữa có tội và vô tội v.v… sẽ rất khó hiểu. Cụ thể, trong Chú giải Phân Tích Tỳ-khưu-ni, đã nói một cách đặc biệt rằng “chúng được gọi là không có tâm vì có thể phạm mà không cần tâm, nhưng khi có tâm, chúng được gọi là bị thế gian chê trách và có tâm bất thiện vì phải phạm bằng tâm bất thiện,” như vậy là tính chất bị thế gian chê trách và tâm bất thiện trong trường hợp có tâm của việc đi xem lễ hội trên núi v.v… đã được nói một cách đặc biệt, không phải như việc uống rượu. Đối với việc đó, đã nói một cách chung cho cả hai trường hợp là “do phải uống bằng tâm bất thiện,” không phải là nói một cách đặc biệt là “trong trường hợp có tâm.” Do đó, điều này được nói để chỉ ra rằng việc uống rượu này bị thế gian chê trách và có tâm bất thiện trong cả hai trường hợp có tâm và không có tâm, điều đó được thành tựu một cách tốt đẹp. Chính vì thế, trong Paramatthajotikā (khu. pā. aṭṭha. 2.pacchimapañcasikkhāpadavaṇṇanā), trong phần giải thích các điều học của Tiểu Chú giải, đã nói rằng “nơi uống rượu men rượu nấu là chất gây say sưa, có hai nguồn gốc là từ thân và từ thân và tâm.” Ở đây, vì không có tâm biết đó là rượu, nên chỉ có thân là một nguồn gốc, không có yếu tố tâm. Và ngay cả trong khoảnh khắc của một nguồn gốc đó, tư tưởng nào mà người đó uống, tư tưởng đó hoàn toàn là bất thiện. Chính vì thế, ngay trong Chú giải đó đã nói rằng “năm điều đầu tiên trong số này phải được từ bỏ do tính chất tội lỗi tự nhiên của sát sanh v.v…, vì chúng có nguồn gốc hoàn toàn từ tâm bất thiện, còn các điều còn lại thì do tính chất tội lỗi do chế định,” như vậy, tính chất tâm bất thiện, tính chất bị thế gian chê trách, và tính chất tội lỗi tự nhiên của cả năm điều đã được nói một cách chung. Và trong các chi phần, chi phần biết không được nói đến. Cụ thể, đã nói rằng “đối với nơi uống rượu men rượu nấu là chất gây say sưa, có bốn chi phần là: có một trong các loại rượu men rượu nấu, có tâm muốn uống, nỗ lực thực hiện, và khi uống, nó đi vào,” không phải là năm chi phần cùng với chi phần biết đó là rượu. Nếu chi phần biết đó là rượu cũng là một chi phần, thì chắc chắn nó đã phải được nói đến, nhưng đã không được nói. Giống như ở đây, trong các Chú giải Kinh tạng khác, ở một số nơi, chi phần biết không được nói đến. Do đó, cần đi đến kết luận rằng đoạn Pāḷi của Chú giải này ‘do phải uống bằng tâm bất thiện nên bị thế gian chê trách’ có ý nghĩa là “ngay cả trong trường hợp không có tâm, cũng bị thế gian chê trách do phải uống bằng tâm bất thiện.”

Apica yaṃ gaṇṭhipadesu ‘‘etaṃ sattaṃ māressāmīti tasmiṃyeva padese nipannaṃ aññaṃ mārentassa pāṇasāmaññassa atthitāya yathā pāṇātipāto hoti, evaṃ etaṃ majjaṃ pivissāmīti aññaṃ majjaṃ pivantassa majjasāmaññassa atthitāya akusalameva hoti, yathā pana kaṭṭhasaññāya sappaṃ ghātentassa pāṇātipāto na hoti, evaṃ nāḷikerapānasaññāya majjaṃ pivantassa akusalaṃ na hotī’’ti pāṇātipātena saddhiṃ sabbathā samānattena upametvā vuttaṃ, taṃ ativiya ayuttaṃ sabbesaṃ sikkhāpadānaṃ pāṇātipātādiakusalānañca aññamaññaṃ samānatāya niyamābhāvā. Pāṇātipāto hi pariyāyenāpi sijjhati, na tathā adinnādānaṃ. Taṃ pana āṇattiyāpi sijjhati, na ca methunādīsu. Tasmā payogaṅgādīhipi bhinnānameva saṃsaṭṭhaṃ sabbathā samīkaraṇaṃ ayuttameva. ‘‘Pāṇātipāto viya adinnādānamethunādīnipi pariyāyakathādīhi sijjhantī’’ti kenaci vutte taṃ kinti na gayhati tathā vacanābhāvāti ce? Idhāpi ‘‘tathā pāṇātipātasadisaṃ surāpāna’’nti vacanābhāvā idampi na gahetabbameva. Kiñci aṭṭhakathāvacaneneva siddhamevatthaṃ paṭibāhantena vinayaññunā suttasuttānulomādīhi tassa virodhaṃ dassetvā paṭibāhetabbaṃ, na pana payogaṅgādīhi accantavibhinnena sikkhāpadantarena saha samīkaraṇamattena. Na hi ‘‘surāti ajānitvā pivantassāpi akusalamevā’’ti ettha suttādivirodho atthi, vinayapiṭake tāva etassa atthassa viruddhaṃ suttādikaṃ na dissati, nāpi suttapiṭakādīsu.
Hơn nữa, điều được nói trong các Sớ giải rằng “giống như khi muốn giết chúng sanh này, mà lại giết chúng sanh khác đang nằm ở cùng một chỗ, thì vẫn phạm tội sát sanh vì có tính chất chúng sanh chung; cũng vậy, khi muốn uống loại rượu này, mà lại uống loại rượu khác, thì vẫn là bất thiện vì có tính chất rượu chung. Nhưng giống như khi nghĩ đó là khúc củi mà lại giết con rắn thì không phạm tội sát sanh, cũng vậy, khi nghĩ đó là nước dừa mà lại uống rượu thì không phải là bất thiện,” việc so sánh hoàn toàn tương đồng với tội sát sanh như vậy là rất không hợp lý, vì không có quy luật nào về sự tương đồng giữa tất cả các điều học và các nghiệp bất thiện như sát sanh v.v… Tội sát sanh có thể thành tựu cả bằng cách gián tiếp, nhưng tội trộm cắp thì không. Tội đó lại có thể thành tựu cả bằng cách ra lệnh, nhưng tội dâm dục v.v… thì không. Do đó, việc so sánh hoàn toàn giữa những điều khác nhau cả về phương tiện và chi phần là không hợp lý. Nếu có người nói rằng “giống như tội sát sanh, các tội trộm cắp, dâm dục v.v… cũng thành tựu bằng cách nói gián tiếp v.v…,” tại sao điều đó không được chấp nhận? Vì không có lời nói như vậy. Ở đây cũng vậy, vì không có lời nói rằng “việc uống rượu cũng tương tự như tội sát sanh,” nên điều này cũng không nên được chấp nhận. Một người thông thạo luật tạng, khi bác bỏ một ý nghĩa đã được xác định bởi chính lời nói của Chú giải, phải chỉ ra sự mâu thuẫn của nó với kinh, luật v.v… rồi mới bác bỏ, không phải chỉ bằng cách so sánh với một điều học khác hoàn toàn khác biệt về phương tiện và chi phần v.v… Không có sự mâu thuẫn nào với kinh điển v.v… trong câu “ngay cả khi uống mà không biết đó là rượu cũng là bất thiện,” trong Luật tạng, không thấy có kinh điển nào mâu thuẫn với ý nghĩa này, cũng không có trong Kinh tạng v.v…

Yaṃ penedu keci vadanti ‘‘manopubbaṅgamā dhammāti (dha. pa. 1, 2) vuttattā sabbāni akusalāni pubbe vītikkamavatthuṃ jānantasseva hontī’’ti. Taṃ tesaṃ suttādhippāyānabhiññātameva pakāseti. Na hi ‘‘manopubbaṅgamā dhammā’’ti idaṃ vacanaṃ pubbe vītikkamavatthuṃ jānantasseva akusalā dhammā uppajjantīti imamatthaṃ dīpeti, atha kho kusalākusalā dhammā uppajjamānā uppādapaccayaṭṭhena pubbaṅgamabhūtaṃ sahajātacittaṃ nissāyeva uppajjanti, na vinā cittenāti imamatthaṃ dīpeti. Na hettha ‘‘surāti ajānitvā pivantassa akusalamevā’’ti vutte sahajātacittaṃ vināpi lobhādiakusalacetasikā dhammā uppajjantīti ayamattho āpajjati. Yena taṃ nisedhāya idaṃ suttaṃ āharaṇīyaṃ siyā, abhidhammavirodhopettha natthi pubbe nāmajātiādivasena ajānantasseva pañcaviññāṇavīthiyaṃ kusalākusalajavanuppattivacanato.
Một số người nói rằng “vì đã nói ‘các pháp do tâm dẫn đầu’ (Dha. pa. 1, 2), nên tất cả các nghiệp bất thiện chỉ xảy ra đối với người đã biết về đối tượng vi phạm từ trước.” Điều đó chỉ cho thấy sự không hiểu biết của họ về ý nghĩa của kinh. Câu “các pháp do tâm dẫn đầu” không chỉ ra ý nghĩa rằng các pháp bất thiện chỉ phát sinh đối với người đã biết về đối tượng vi phạm từ trước, mà chỉ ra ý nghĩa rằng các pháp thiện và bất thiện, khi phát sinh, đều nương vào tâm đồng sanh làm nhân duyên phát sinh và dẫn đầu, chứ không phát sinh nếu không có tâm. Ở đây, khi nói “ngay cả khi uống mà không biết đó là rượu cũng là bất thiện,” không có ý nghĩa nào cho rằng các pháp tâm sở bất thiện như tham v.v… phát sinh mà không có tâm đồng sanh. Do đó, không cần phải trích dẫn kinh này để bác bỏ. Ở đây cũng không có sự mâu thuẫn với Vi Diệu Pháp, vì đã nói rằng trong lộ trình của năm thức, các tâm tốc hành thiện và bất thiện phát sinh ngay cả đối với người chưa biết về danh, loại v.v… từ trước.

Apica bālaputhujjanānaṃ chasu dvāresu uppajjamānāni javanāni yebhuyyena akusalāneva uppajjanti. Kusalāni pana tesaṃ kalyāṇamittādiupanissayabalena appakāneva uppajjanti, tuṇhībhūtānampi niddāyitvā supinaṃ passantānampi uddhaccādiakusalajavanasseva yebhuyyappavattito kusalākusalavirahitassa javanassa tesaṃ abhāvā. Akusalā hi visayānuguṇaṃ vāsanānuguṇañca yathāpaccayaṃ samuppajjanti, tattha kiṃ pubbe jānanājānananibaddhena. Ye pana jānanādiaṅgasampannā pāṇātipātādayo, ye ca jānanādiṃ vināpi sijjhamānā surāpānamicchādiṭṭhiādayo, te te tathā tathā yāthāvato ñatvā sammāsambuddhena niddiṭṭhā, tesañca yathāniddiṭṭhavasena gahaṇe ko nāma abhidhammavirodho. Evaṃ suttādivirodhābhāvato, aṭṭhakathāya ca vuttattā yathāvuttavasenevettha attho gahetabbo. Yadi evaṃ kasmā ‘‘sāmaṇero jānitvā pivanto sīlabhedaṃ āpajjati, na ajānitvā’’ti aṭṭhakathāyaṃ vuttanti? Nāyaṃ doso sīlabhedassa bhagavato āṇāyattattā ukkhittānuvattikādīnaṃ sīlabhedo viya. Na hi tāsaṃ akusaluppattiyā eva sīlabhedo hoti saṅghāyattasamanubhāsanānantareyeva vihitattā. Evamidhāpi jānitvā pivane eva vihito, na ajānitvā pivane. Añño hi sikkhāpadavisayo, añño akusalavisayo. Teneva sāmaṇerānaṃ purimesu pañcasu sikkhāpadesu ekasmiṃ bhinne sabbānipi sikkhāpadāni bhijjanti. Akusalaṃ pana yaṃ bhinnaṃ, tena ekeneva hoti, nāññehi. Tasmā sāmaṇerassa ajānitvā pivantassa sīlabhedābhāvepi kammapathappattaṃ akusalamevāti gahetabbaṃ.
Hơn nữa, các tâm tốc hành phát sinh ở sáu căn của kẻ phàm phu ngu dốt phần lớn là bất thiện. Các tâm thiện của họ chỉ phát sinh với số lượng ít nhờ sức mạnh của thiện tri thức v.v… Ngay cả khi im lặng, khi ngủ và mơ, phần lớn cũng là tâm tốc hành bất thiện như trạo cử v.v…, vì họ không có tâm tốc hành không có thiện và bất thiện. Các pháp bất thiện phát sinh tùy theo nhân duyên, phù hợp với đối tượng và tập quán, vậy thì có gì ràng buộc vào việc biết hay không biết từ trước. Những nghiệp như sát sanh v.v… có đầy đủ các chi phần như biết v.v…, và những nghiệp như uống rượu, tà kiến v.v… thành tựu ngay cả khi không có biết v.v…, chúng đã được Đức Phật Toàn Giác chỉ ra một cách đúng đắn như vậy, vậy thì có gì mâu thuẫn với Vi Diệu Pháp khi chấp nhận chúng theo cách đã được chỉ ra. Vì không có sự mâu thuẫn với kinh điển v.v… và vì đã được nói trong Chú giải, nên cần chấp nhận ý nghĩa ở đây theo cách đã nói. Nếu vậy, tại sao trong Chú giải lại nói rằng “sa-di biết mà uống thì phạm tội phá giới, không biết thì không”? Đây không phải là lỗi, vì việc phá giới phụ thuộc vào mệnh lệnh của Đức Thế Tôn, giống như việc phá giới của những người theo kẻ bị trục xuất v.v… Không phải việc phá giới của họ xảy ra chỉ do sự phát sinh của tâm bất thiện, mà được quy định ngay sau lời cảnh cáo của Tăng chúng. Ở đây cũng vậy, được quy định chỉ khi biết mà uống, không phải khi không biết mà uống. Lĩnh vực điều học là một, lĩnh vực bất thiện là một. Chính vì thế, khi một trong năm điều học đầu tiên của các sa-di bị vi phạm, tất cả các điều học cũng bị vi phạm. Nhưng nghiệp bất thiện thì chỉ xảy ra đối với điều đã vi phạm, không phải đối với các điều khác. Do đó, cần hiểu rằng ngay cả khi sa-di không biết mà uống, dù không bị phá giới, nhưng vẫn là nghiệp bất thiện đã đến mức nghiệp đạo.

Yaṃ pana sāratthadīpaniyaṃ (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.42) ‘‘sāmaṇerassa surāti ajānitvā pivantassa pārājikaṃ natthi, akusalaṃ pana hotī’’ti kehici vuttavacanaṃ ‘‘taṃ tesaṃ matimatta’’nti paṭikkhipitvā ‘‘bhikkhuno ajānitvāpi bījato paṭṭhāya majjaṃ pivantassa pācittiyaṃ. Sāmaṇero jānitvā pivanto sīlabhedaṃ āpajjati, na ajānitvāti ettakameva hi aṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ, akusalaṃ pana hotīti na vutta’’nti tattha kāraṇaṃ vuttaṃ, taṃ akāraṇaṃ. Na hi aṭṭhakathāyaṃ sāmaṇerānaṃ jānitvā pivane eva sīlabhedo, na ajānitvāti sīlabhedakathanaṭṭhāne akusalaṃ pana hotīti avacanaṃ ajānanapakkhe akusalābhāvassa kāraṇaṃ hoti, tattha pasaṅgābhāvā, vattabbaṭṭhāne eva ‘‘akusaleneva pātabbatāya lokavajjatā’’ti vuttattā ca. Na ca te ‘‘akusalaṃ pana hotī’’ti vadantā ācariyā imaṃ sāmaṇerānaṃ sīlabhedappakāsakaṃ khandhakaṭṭhakathāpāṭhameva gahetvā avocuṃ, yena ‘‘ettakameva aṭṭhakathāyaṃ vutta’’nti vattabbaṃ siyā, atha kho surāpānaṭṭhakathāgataṃ suttapiṭakaṭṭhakathāgatañca anekavidhaṃ vacanaṃ, mahāvihāravāsīnaṃ paramparopadesañca gahetvā avocuṃ. Bhinnaladdhikānaṃ abhayagirikādīnaṃ matañhetaṃ, yadidaṃ jānitvā pivantasseva akusalanti gahaṇaṃ. Tasmā yaṃ vuttaṃ kehici ‘‘sāmaṇerassa surāti ajānitvā pivantassa pārājikaṃ natthi, akusalaṃ pana hotī’’ti, taṃ suvuttanti gahetabbaṃ.
Điều được nói trong Sāratthadīpanī (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.42) rằng, một số người đã nói rằng “sa-di không biết đó là rượu mà uống thì không bị tội Bất Cộng Trụ, nhưng có nghiệp bất thiện,” và đã bác bỏ rằng “đó chỉ là ý kiến của họ,” rồi đưa ra lý do rằng “Tỳ-khưu không biết mà uống rượu từ hạt mầm trở đi thì bị tội Ưng Đối Trị. Sa-di biết mà uống thì phạm tội phá giới, không biết thì không, chỉ có chừng đó được nói trong Chú giải, không nói là có nghiệp bất thiện,” lý do đó không chính đáng. Vì việc không nói ‘nhưng có nghiệp bất thiện’ ở chỗ nói về việc phá giới của sa-di chỉ khi biết mà uống, không phải khi không biết, không phải là lý do cho việc không có nghiệp bất thiện trong trường hợp không biết, vì ở đó không có bối cảnh, và vì ở chỗ đáng nói đã nói rằng “bị thế gian chê trách do phải uống bằng tâm bất thiện.” Và các vị thầy đó, khi nói “nhưng có nghiệp bất thiện,” không phải chỉ lấy đoạn Pāḷi của Chú giải Các phẩm Luật nói về việc phá giới của sa-di này mà nói, để có thể nói rằng “chỉ có chừng đó được nói trong Chú giải,” mà họ đã lấy nhiều lời nói khác nhau trong Chú giải về việc uống rượu và Chú giải Kinh tạng, và cả lời truyền khẩu của các vị ở Đại Tự mà nói. Quan điểm này, tức là chấp nhận rằng chỉ khi biết mà uống mới là bất thiện, là quan điểm của những người theo tà phái như Abhayagirivāsī v.v… Do đó, điều mà một số người đã nói rằng “sa-di không biết đó là rượu mà uống thì không bị tội Bất Cộng Trụ, nhưng có nghiệp bất thiện,” cần được coi là lời nói đúng đắn.

Yañca sāratthadīpaniyaṃ (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.42) ‘‘ajānitvā pivantassāpi sotāpannassa mukhaṃ surā na pavisati kammapathappattaakusalacitteneva pātabbato’’ti kehici vuttavacanaṃ ‘‘na sundara’’nti paṭikkhipitvā ‘‘bodhisatte kucchigate bodhisattamātu sīlaṃ viya hi idampi ariyasāvakānaṃ dhammatāsiddhanti veditabba’’nti vatvā dhammatāsiddhattaṃyeva samatthetuṃ ‘‘bhavantarepi hi ariyasāvako jīvitahetupi neva pāṇaṃ hanati, na suraṃ pivati. Sace pissa surañca khīrañca missetvā mukhe pakkhipanti, khīrameva pavisati, na surā. Yathā kiṃ? Yathā koñcasakuṇānaṃ khīramissake udake khīrameva pavisati, na udakaṃ. Idaṃ yonisiddhanti ce, idampi dhammatāsiddhanti veditabba’’nti idaṃ aṭṭhakathāvacanaṃ dassitaṃ, tampi na yuttameva. Yathā hi bodhisattamātu sīlaṃ viya ariyasāvakānaṃ dhammatāsiddhanti ettha bodhisattamātu dhammatā nāma bodhisattassa ca attano ca pāramitānubhāvena akusalānuppattiniyamo eva. Tathā ariyasāvakānampi bhavantare pāṇātipātādīnaṃ dasannaṃ kammapathānaṃ aññesañca apāyahetukānaṃ akusalānaṃ accantappahāyakassa maggassa ānubhāvena taṃtaṃsīlavītikkamahetukassa akusalassa anuppattiniyamo eva dhammatā. Na hi sabhāvavādīnaṃ dhammatā viya ahetukatā idha dhammatā nāma. Yathā vā evaṃdhammatānaye kāraṇassa bhāve abhāve ca kāriyassa bhāvo abhāvo ca dhammatā, na ahetuappaccayābhāvābhāvo, evamidhāpi pāṇātipātādikammapathānaṃ hetubhūtassa kilesassa accantābhāvena tesaṃ abhāvo, tadavasesānaṃ akusalānaṃ hetuno bhāvena bhāvo ca dhammatā , na ahetukatā. Tasmā apāyahetuno rāgassa abhāveneva ariyānaṃ ajānitvāpi surāya anajjhoharaṇanti suvuttamevidaṃ kehici ‘‘ajānitvā pivantassāpi sotāpannassa mukhaṃ surā na pavisati kammapathappattaakusalacitteneva pātabbato’’ti, taṃ kena hetunā na sundaraṃ jātanti na ñāyati, dhammatāsiddhanti vā kathanena kathaṃ taṃ paṭikkhittanti.
Và điều được nói trong Sāratthadīpanī (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.42) rằng, một số người đã nói rằng “ngay cả khi không biết mà uống, rượu cũng không vào miệng của vị Dự lưu, vì phải uống bằng tâm bất thiện đã đến mức nghiệp đạo,” và đã bác bỏ rằng “điều đó không hay,” rồi nói rằng “điều này cần được hiểu là do pháp tánh của các bậc Thánh đệ tử, giống như giới của mẹ Bồ-tát khi Bồ-tát còn trong bụng mẹ,” rồi để chứng minh tính chất do pháp tánh, đã trích dẫn lời nói của Chú giải này: “vì ngay cả trong kiếp khác, Thánh đệ tử dù vì mạng sống cũng không bao giờ giết hại sinh vật, không uống rượu. Nếu người ta trộn rượu và sữa rồi đổ vào miệng vị ấy, chỉ có sữa đi vào, không phải rượu. Giống như gì? Giống như đối với loài chim hạc, trong nước trộn sữa, chỉ có sữa đi vào, không phải nước. Nếu nói rằng điều này là do loài, thì điều này cũng cần được hiểu là do pháp tánh,” điều đó cũng không hợp lý. Vì giống như giới của mẹ Bồ-tát là do pháp tánh của Thánh đệ tử, ở đây, pháp tánh của mẹ Bồ-tát chính là quy luật không phát sinh bất thiện nhờ uy lực của các pháp ba-la-mật của Bồ-tát và của chính bà. Cũng vậy, pháp tánh của các Thánh đệ tử chính là quy luật không phát sinh tâm bất thiện là nguyên nhân vi phạm giới luật đó, nhờ uy lực của đạo lộ đã đoạn trừ hoàn toàn mười nghiệp đạo như sát sanh v.v… và các nghiệp bất thiện khác là nguyên nhân của đường ác. Ở đây, pháp tánh không phải là sự không có nguyên nhân như pháp tánh của những người theo thuyết tự nhiên. Hoặc giống như trong phương pháp pháp tánh này, khi có nguyên nhân thì có kết quả, khi không có nguyên nhân thì không có kết quả, đó là pháp tánh, không phải là sự không có do không có nhân duyên, ở đây cũng vậy, do hoàn toàn không có phiền não là nguyên nhân của các nghiệp đạo như sát sanh v.v…, nên chúng không có; và do có nguyên nhân của các nghiệp bất thiện còn lại, nên chúng có, đó là pháp tánh, không phải là sự không có nguyên nhân. Do đó, do hoàn toàn không có tham ái là nguyên nhân của đường ác, nên các bậc Thánh không uống rượu ngay cả khi không biết, điều này đã được một số người nói một cách đúng đắn rằng “ngay cả khi không biết mà uống, rượu cũng không vào miệng của vị Dự lưu, vì phải uống bằng tâm bất thiện đã đến mức nghiệp đạo,” không hiểu tại sao điều đó lại không hay, và làm thế nào mà nó lại bị bác bỏ bằng cách nói là do pháp tánh.

Yampi dīghanikāyaṭṭhakathāyaṃ (dī. ni. aṭṭha. 1.352) ‘‘surañca khīrañca missetvā…pe… idaṃ dhammatāsiddha’’nti vacanaṃ, tampi surāpānassa acittakapakkhepi akusalacittaññeva sādheti. Tathā hi ‘‘bhavantarepi hi ariyasāvako jīvitahetupi pāṇaṃ na hanati, nādinnaṃ ādiyati…pe… na suraṃ pivatī’’ti vutte ‘‘purimānaṃ tāva catunnaṃ kammapathānaṃ sacittakattā viramaṇaṃ sukaraṃ, pacchimassa pana surāpānassa acittakattā kathaṃ viramaṇaṃ bhaveyyā’’ti codanāsambhavaṃ manasikatvā vatthuajānanavasena acittakattepi yasmā kammapathappattaakusaleneva surā ajjhoharitabbā, tādisī ca akusalappavatti ariyasāvakassa maggeneva hatā, tasmāssa paragalaṃ surāya pavisanaṃ natthīti atthato gamyamānatthaṃ parihāravacanaṃ vadatā ‘‘sace pissa surañca khīrañcā’’tiādi vuttaṃ. Tattha khīrameva pavisati, na surāti idaṃ surāya sabbathāpi paragalappavesābhāvadassanaparaṃ, na pana surāmissakhīrassa surāya viyojanasāmatthiyadassanaparaṃ. Ayañhettha adhippāyo – yadi hi surāmisse khīre kiñci paviseyya, khīrameva paviseyya, na surā. Khīre pana surāya aviyutte na kiñci pavisatīti . Idaṃ yonisiddhanti udakassa mukhe appavisanaṃ yonisiddhaṃ. Yonīti cettha jāti adhippetā. Tasmā koñcajātikānaṃ mukhatuṇḍasaṅkhātānaṃ rūpadhammānaṃ khīramissaudakajjhoharaṇahetuttābhāvena taṃ appavisanaṃ siddhanti attho. Idampi hi khīramissāya surāya khīre pavisantepi paragalāpavisananti. Dhammatāsiddhanti ariyasāvakassa arūpadhammānaṃ surāpivanahetubhūtakilesasahitattābhāvasaṅkhātāya dhammatāya siddhaṃ. Evamettha acittakapakkhepi surāya akusalacitteneva pātabbato ariyasāvakānaṃ apivanaṃ samatthitanti veditabbaṃ. Athāpi siyā ajānanapakkhe akusalacittena vināva pātabbattepi surāya apivanaṃ ariyānaṃ dhammatāti samatthanaparametanti, taṃ na, aṭṭhakathāvacanantarehi virujjhanato. Yathā hi vacanantarehi na virujjhati, tathāyeva attho gahetabbo.
Và lời nói trong Chú giải Trường Bộ Kinh (dī. ni. aṭṭha. 1.352) rằng “trộn rượu và sữa… v.v… điều này là do pháp tánh,” điều đó cũng chứng minh rằng việc uống rượu có tâm bất thiện ngay cả trong trường hợp không có tâm. Cụ thể, khi nói rằng “vì ngay cả trong kiếp khác, Thánh đệ tử dù vì mạng sống cũng không giết hại sinh vật, không lấy của không cho… v.v… không uống rượu,” và có thể có sự chất vấn rằng “bốn nghiệp đạo đầu tiên thì dễ dàng từ bỏ vì có tâm, còn nghiệp đạo cuối cùng là uống rượu thì không có tâm, làm sao có thể từ bỏ được?” và khi nghĩ đến điều đó, dù không có tâm do không biết về đối tượng, nhưng vì rượu phải được uống bằng tâm bất thiện đã đến mức nghiệp đạo, và sự phát sinh của tâm bất thiện như vậy đã bị đạo lộ của Thánh đệ tử phá hủy, do đó rượu không thể vào cổ họng của vị ấy, và người nói lời giải thích cho ý nghĩa được hiểu ngầm này đã nói là “nếu người ta trộn rượu và sữa…” v.v… Ở đó, ‘chỉ có sữa đi vào, không phải rượu,’ điều này nhằm chỉ ra rằng rượu hoàn toàn không vào cổ họng, không phải nhằm chỉ ra khả năng tách rượu ra khỏi sữa trộn rượu. Ý nghĩa ở đây là: nếu có thứ gì đi vào trong sữa trộn rượu, thì chỉ có sữa đi vào, không phải rượu. Nhưng khi sữa không được tách ra khỏi rượu, thì không có gì đi vào cả. ‘Điều này là do loài’: việc nước không vào miệng là do loài. Ở đây, loài được nói đến là chủng loại. Do đó, vì các sắc pháp là mỏ và miệng của loài chim hạc không phải là nguyên nhân để uống nước trộn sữa, nên việc không uống đó được thành tựu, đó là ý. Điều này cũng là việc không vào cổ họng ngay cả khi sữa trong rượu trộn sữa đi vào. ‘Do pháp tánh’: được thành tựu do pháp tánh của Thánh đệ tử, là tính chất không có phiền não là nguyên nhân của việc uống rượu trong các pháp vô sắc của vị ấy. Ở đây, cần hiểu rằng việc các Thánh đệ tử không uống rượu đã được chứng minh là do phải uống bằng tâm bất thiện ngay cả trong trường hợp không có tâm. Nếu cho rằng đây là để chứng minh rằng ngay cả khi uống mà không có tâm bất thiện trong trường hợp không biết, việc không uống rượu của các bậc Thánh vẫn là do pháp tánh, điều đó không đúng, vì mâu thuẫn với các lời nói khác của Chú giải. Cần phải hiểu ý nghĩa sao cho không mâu thuẫn với các lời nói khác.

Apica pāṇātipātādīnaṃ pañcannaṃ kammapathānaṃ bhavantarepi akaraṇaṃ ariyānaṃ dhammatāsīlameva, tesañca yadi sacittakataṃ samānaṃ. Surāpānaṃ viya itarānipi cattāri ajānantenāpi ariyasāvakena na kattabbāni siyuṃ, tathā ca ajānantānaṃ ariyānaṃ kusalābyākatacittehipi viramaṇaparamāraṇaparasantakagahaṇādīsu kāyavacīpavatti na sampajjeyya, no ce sampajjati, cakkhupālattherassa caṅkamanena pāṇaviyogassa, uppalavaṇṇattheriyā balakkārena maggenamaggaphusanassa ca pavattattā. Tasmā surāpānaṃ acittakapakkhepi akusaleneva pātabbatāya surā ariyānaṃ paragalaṃ na pavisatīti visesetvā vuttanti veditabbaṃ.
Hơn nữa, việc không làm năm nghiệp đạo như sát sanh v.v… ngay cả trong kiếp khác chính là giới pháp tánh của các bậc Thánh, và nếu chúng có tâm. Nếu giống như việc uống rượu, bốn nghiệp còn lại cũng không được Thánh đệ tử làm ngay cả khi không biết, thì sự phát sinh của thân và khẩu nghiệp trong việc từ bỏ, giết hại, lấy của người khác v.v… bằng tâm thiện và vô ký của các bậc Thánh không biết sẽ không thành tựu, nếu không thành tựu, thì việc mất mạng của các con vật do sự kinh hành của trưởng lão Cakkhupāla, và việc chạm vào đường bằng đường của Tỳ-khưu-ni Uppalavaṇṇā bị cưỡng bức đã xảy ra. Do đó, cần hiểu rằng đã nói một cách đặc biệt rằng rượu không vào cổ họng của các bậc Thánh vì phải uống bằng tâm bất thiện ngay cả trong trường hợp không có tâm.

Nanu vatthuṃ jānantasseva sabbe kammapathā vuttāti? Na, micchādiṭṭhiyā viparītaggahaṇeneva pavattattā. Kathañhi nāma asabbaññuṃ sabbaññuto, aniccādiṃ niccādito ca gahaṇantī diṭṭhi vatthuṃ vijānāti. Yadi hi jāneyya, micchādiṭṭhiyeva na siyā. Sā ca kammapathesu gaṇitāti kuto jānantasseva kammapathappavattiniyamo. Atha sabbaññuṃ sabbaññūti gaṇhantīpi ‘‘ayaṃ satto’’ti tassa sarūpaggahaṇato diṭṭhipi vatthuṃ vijānātīti ce? Na, surāpānassapi ‘‘ayaṃ na surā’’ti sarūpaggahaṇassa samānattā. ‘‘Aya’’nti ca vatthuparāmasanepi ‘‘surā’’ti visesavijānanābhāvā na jānātīti ce? ‘‘Aya’’nti puggalattaṃ jānantīpi ‘‘asabbaññū’’tipi visesajānanābhāvā diṭṭhipi vatthuṃ na jānātīti samānameva. Evañhi tesaṃ buddhāti ahitoti ahitaṃ vā pūraṇakassapādiṃ hito paṭighassa vā anunayassa vā uppādanepi eseva nayo. Vipallāsapubbakañhi sabbaṃ akusalaṃ.
Vậy có phải tất cả các nghiệp đạo đều được nói là chỉ đối với người biết về đối tượng không? Không, vì tà kiến phát sinh chính do sự chấp thủ sai lầm. Làm sao mà một kiến chấp cho rằng người không toàn giác là toàn giác, điều vô thường v.v… là thường hằng v.v… lại biết về đối tượng được. Nếu biết, thì đã không phải là tà kiến. Và nó được tính trong các nghiệp đạo, vậy thì làm sao có quy luật rằng nghiệp đạo chỉ phát sinh đối với người biết được. Nếu cho rằng dù cho rằng người không toàn giác là Phật, nhưng vì nắm bắt bản chất của chúng sanh đó là “đây là một chúng sanh,” nên kiến chấp cũng biết về đối tượng? Không, vì việc uống rượu cũng tương tự, vì cũng nắm bắt bản chất là “đây không phải là rượu.” Nếu nói rằng dù suy xét đối tượng là “đây,” nhưng vì không biết đặc tính là “rượu,” nên không biết? Cũng tương tự, dù biết bản chất cá nhân là “đây,” nhưng vì không biết đặc tính là “không toàn giác,” nên kiến chấp cũng không biết về đối tượng. Như vậy, phương pháp này cũng áp dụng cho việc phát sinh sân hận hoặc ái luyến đối với Pūraṇa Kassapa v.v… là người xấu mà cho là người tốt. Tất cả các nghiệp bất thiện đều có sự điên đảo làm tiền đề.

Apica surāya pīyamānāya niyamena akusaluppādanaṃ sabhāvo pītāya viya. Khīrādisaññāya pītasurassa puggalassa mātubhaginiādīsupi rāgadosādiakusalappabandho vatthusabhāveneva uppajjati, evaṃ pīyamānakkhaṇepi tikhiṇo rāgo uppajjateva, teneva sāgatattherassa ajānitvā pivanakāle pañcābhiññādijhānaparihāni, pacchā ca buddhādīsu agāravādiakusalappabandho yāva surāvigamā pavattittha. Teneva bhagavāpi tassa agāravādiakausalappavattidassanamukhena surādosaṃ pakāsetvā sikkhāpadaṃ paññapesi. Na hi pañcanīvaraṇuppattiṃ vinā jhānaparihāni hoti. Tasmā ajānantassāpi surā pīyamānā pītā ca attano sabhāveneva akusaluppādikāti ayamattho sāgatattherassa jhānaparihāniyā anvayatopi, ariyānaṃ kilesābhāvena mukhena surāya appavesasaṅkhātabyatirekatopi sijjhatīti niṭṭhamettha gantabbaṃ, evaṃ gahaṇameva hi vibhajjavādīmatānusāraṃ.
Hơn nữa, rượu khi đang được uống có bản chất chắc chắn tạo ra bất thiện, giống như khi đã uống. Đối với người uống rượu với ý nghĩ đó là sữa v.v…, chuỗi bất thiện như tham, sân v.v… đối với mẹ, chị em v.v… phát sinh do bản chất của đối tượng. Cũng vậy, trong khoảnh khắc đang uống, tham ái mãnh liệt chắc chắn phát sinh, chính vì thế, trong khi trưởng lão Sāgata uống mà không biết, các thiền định như năm thần thông v.v… đã bị suy thoái, và sau đó, chuỗi bất thiện như không kính trọng Phật v.v… đã tiếp diễn cho đến khi hết tác dụng của rượu. Chính vì thế, Đức Thế Tôn cũng đã chỉ ra lỗi của rượu thông qua việc thấy sự phát sinh của chuỗi bất thiện như không kính trọng v.v… của vị ấy rồi mới chế định điều học. Không có sự suy thoái thiền định nếu không có sự phát sinh của năm triền cái. Do đó, cần đi đến kết luận rằng rượu, dù được uống khi không biết, cả khi đang uống và đã uống, đều tự bản chất của nó tạo ra bất thiện, ý nghĩa này được thành tựu cả từ sự suy thoái thiền định của trưởng lão Sāgata theo phương pháp thuận, và từ sự không vào miệng của rượu do các bậc Thánh không có phiền não theo phương pháp nghịch, việc chấp nhận như vậy là phù hợp với quan điểm của phái Phân Tích.

Yaṃ pana ‘‘jānitvā pivantasseva akusala’’nti gahaṇaṃ, taṃ bhinnaladdhikānaṃ abhayagirikādīnameva mataṃ, taṃ pana gaṇṭhipadakārakādīhi ‘‘paravādo’’ti ajānantehi attano matiyā saṃsanditvā likhitaṃ vibhajjavādīmaṇḍalampi pavisitvā yāvajjatanā sāsanaṃ dūseti, purāpi kira imasmimpi damiḷaraṭṭhe koci bhinnaladdhiko nāgaseno nāma thero kuṇḍalakesīvatthuṃ paravādamathananayadassanatthaṃ damiḷakabbarūpena kārento ‘‘imaṃ surāpānassa jānitvāva pivane akusalanayaṃ, aññañca desakālādibhedena anantampi ñeyyaṃ sabbaññutaññāṇaṃ salakkhaṇavaseneva ñātuṃ na sakkoti ñāṇena paricchinnattena ñeyyassa anantattahānippasaṅgato. Aniccādisāmaññalakkhaṇavaseneva pana ñātuṃ sakkotī’’ti ca, ‘‘paramatthadhammesu nāmarūpantiādibhedo viya puggalādisammutipi visuṃ vatthubhedo evā’’ti ca evamādikaṃ bahuṃ viparītatthanayaṃ kabbākārassa kavino upadisitvā tasmiṃ pabandhe kāraṇābhāsehi satiṃ sammohetvā pabandhāpesi, tañca kabbaṃ nissāya imaṃ bhinnaladdhikamataṃ idha vibhajjavādīmate sammissaṃ ciraṃ pavattittha. Taṃ pana pacchā ācariyabuddhappiyamahātherena bāhirabbharikaṃ diṭṭhijālaṃ vighāṭetvā idha parisuddhaṃ sāsanaṃ patiṭṭhāpentena sodhitampi sāratthadīpaniyā (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.42) vinayaṭīkāya surāpānassa sacittakapakkheyeva cittaṃ akusalanti samatthanavacanaṃ nissāya kehici vipallattacittehi puna ukkhittasiraṃ jātaṃ, tañca mahātherehi vinicchinitvā gārayhavādaṃ katvā madditvā laddhigāhake ca bhikkhū viyojetvā dhammena vinayena satthusāsanena cireneva vūpasamitaṃ. Tenevettha mayaṃ evaṃ vitthārato idaṃ paṭikkhipimha ‘‘mā aññepi vibhajjavādino ayaṃ laddhi dūsesī’’ti. Tasmā idha vuttāni avuttāni ca kāraṇāni suṭṭhu sallakkhetvā yathā āgamavirodho na hoti, tathā attho folio.
Quan điểm cho rằng “chỉ khi biết mà uống mới là bất thiện” là quan điểm của những người theo tà phái như Abhayagirivāsī v.v…, quan điểm đó đã được các vị viết Sớ giải v.v… không biết đó là “quan điểm của phái khác” đã viết ra bằng cách so sánh với ý kiến của mình, và đã xâm nhập vào cả giới Phân Tích và làm ô uế giáo pháp cho đến ngày nay. Xưa kia, ngay tại xứ Damiḷa này, một trưởng lão theo tà phái tên là Nāgasena, khi cho làm tác phẩm về câu chuyện Kuṇḍalakesī bằng chữ Damiḷa để trình bày phương pháp bác bỏ quan điểm của phái khác, đã dạy cho nhà thơ rằng “phương pháp bất thiện này trong việc uống rượu chỉ khi biết, và nhiều điều khác cần biết không giới hạn theo thời gian và không gian v.v…, trí toàn giác không thể biết được bằng cách biết theo đặc tính riêng, vì sẽ dẫn đến việc mất đi tính chất vô hạn của đối tượng cần biết do bị giới hạn bởi trí. Nhưng có thể biết được bằng cách biết theo đặc tính chung là vô thường v.v…”; và “trong các pháp chân đế, giống như sự phân biệt danh và sắc v.v…, các khái niệm quy ước như cá nhân v.v… cũng là một loại đối tượng riêng biệt”; và nhiều phương pháp có ý nghĩa sai lầm khác, và đã cho sáng tác trong tác phẩm đó bằng cách làm mê hoặc trí tuệ bằng những lý do có vẻ hợp lý. Và dựa vào tác phẩm đó, quan điểm tà phái này đã lưu hành lâu dài, trộn lẫn với quan điểm của phái Phân Tích ở đây. Sau đó, dù đã được Đại trưởng lão Buddhappiya thanh lọc khi ngài phá tan mạng lưới kiến chấp bên trong và bên ngoài và thiết lập giáo pháp thanh tịnh ở đây, nhưng do lời nói trong Sāratthadīpanī (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.42), Phụ chú giải Luật tạng, chứng minh rằng tâm chỉ là bất thiện trong trường hợp có tâm của việc uống rượu, nên đã ngóc đầu dậy trở lại bởi một số người có tâm sai lầm. Và điều đó đã được các Đại trưởng lão phân xử, lên án, trục xuất các Tỳ-khưu chấp thủ tà kiến, và đã được dẹp yên từ lâu bằng pháp, bằng luật và bằng giáo huấn của Bậc Đạo Sư. Chính vì thế, chúng tôi đã bác bỏ điều này một cách chi tiết ở đây để “tà kiến này không làm ô uế những người theo phái Phân Tích khác.” Do đó, cần xem xét kỹ lưỡng các lý do đã nói và chưa nói ở đây và hiểu ý nghĩa sao cho không có sự mâu thuẫn với kinh điển.

Sesanti yassa vatthuvijānanacittena sacittakapakkhepi cittaṃ akusalamevāti niyamo natthi, taṃ sabbanti attho. Rundhantīti ‘‘tiracchānagatitthiyā doso natthī’’tiādinā anāpattiyā lesaggahaṇaṃ nivārentī. Dvāraṃ pidahantīti ‘‘tañca kho manussitthiyā’’tiādinā (pārā. 41) lesaggahaṇassa kāraṇasaṅkhātaṃ dvāraṃ pidahantī. Sotaṃ pacchindamānāti tadubhayalesaggahaṇadvārānaṃ vasena avicchinnaṃ vītikkamasotaṃ pacchindamānā. Gāḷhataraṃ karontīti yathāvuttehi kāraṇehi paṭhamapaññattisiddhaṃ āpattiññeva daḷhaṃ karontī, anāpattiyā okāsaṃ adadamānāti attho. Sā ca yasmā vītikkamābhāve, avisayatāya abbohārike vītikkame ca lokavajjepi sithilaṃ karontī uppajjati, tasmā tathā uppattiṃ uppattikāraṇañca dassento āha aññatra adhimānātiādi. Aññatra adhimānāti imissā anupaññattiyā ‘‘vītikkamābhāvā’’ti kāraṇaṃ vuttaṃ. Aññatra supinantāti imissā ‘‘abbohārikattā’’ti kāraṇaṃ vuttaṃ. Tattha vītikkamābhāvāti pāpicchāya avijjamānassa uttarimanussadhammassa vijjamānato pakāsanavasappavattavisaṃvādanādhippāyasaṅkhātassa vītikkamassa abhāvato. Adhimānikassa hi anadhigate adhigatasaññitāya yathāvuttavītikkamo natthi. Abbohārikattāti ‘‘atthesā, bhikkhave, cetanā, sā ca kho abbohārikā’’ti (pārā. 235) vacanato mocanassādacetanāya upakkamanassa ca vijjamānattepi thinamiddhena abhibhūtatāya avasattena abbohārikattā, āpattikāraṇavohārābhāvāti attho. -saddo cettha samuccayattho daṭṭhabbo, ‘‘abbohārikattā cā’’ti vā pāṭho. Vuttāti duvidhāpi cesā anupaññatti anāpattikarā vuttāti adhippāyo.
‘Phần còn lại’ có nghĩa là tất cả những gì không có quy luật rằng tâm chỉ là bất thiện ngay cả trong trường hợp có tâm biết về đối tượng. ‘Ngăn chặn’ là ngăn chặn việc vin vào cớ để không bị tội bằng cách nói “không có lỗi với con vật cái” v.v… ‘Đóng cửa’ là đóng cửa là nguyên nhân của việc vin vào cớ bằng cách nói “và đó là đối với người nữ” v.v… (Bất Cộng Trụ 41). ‘Cắt đứt dòng chảy’ là cắt đứt dòng chảy vi phạm không ngừng thông qua hai cửa vin vào cớ đó. ‘Làm cho chặt chẽ hơn’ là bằng những lý do đã nói, làm cho tội lỗi đã được xác định trong lần chế định đầu tiên trở nên vững chắc hơn, không cho có cơ hội để không bị tội, đó là ý. Và vì nó phát sinh khi không có sự vi phạm, trong sự vi phạm không được xem xét do không phải là đối tượng, ngay cả trong trường hợp bị thế gian chê trách, nó cũng làm cho lỏng lẻo, do đó, để chỉ ra sự phát sinh và nguyên nhân phát sinh như vậy, đã nói là ‘ngoại trừ trường hợp quá mạn’ v.v… Lý do “vì không có sự vi phạm” đã được nói cho sự bổ sung này ‘ngoại trừ trường hợp quá mạn.’ Lý do “vì không được xem xét” đã được nói cho sự bổ sung này ‘ngoại trừ trường hợp trong mơ.’ Ở đó, ‘vì không có sự vi phạm’ là vì không có sự vi phạm là ý định lừa dối phát sinh do việc tuyên bố điều không có là có đối với pháp thượng nhân mà mình không có do lòng ham muốn xấu xa. Vì người quá mạn, do nghĩ rằng mình đã chứng đắc điều mình chưa chứng đắc, nên không có sự vi phạm đã nói. ‘Vì không được xem xét’ là theo lời nói “Này các Tỳ-khưu, có tư tưởng đó, nhưng nó không được xem xét” (Bất Cộng Trụ 235), dù có tư tưởng tìm kiếm sự giải thoát và có sự cố gắng, nhưng vì bị hôn trầm và thụy miên chi phối, nên không tự chủ, do đó không được xem xét, tức là không có sự xem xét là nguyên nhân của tội, đó là ý. Từ ‘vā’ (hoặc) ở đây cần được hiểu theo nghĩa hợp lại, hoặc cách đọc là “và vì không được xem xét.” ‘Đã được nói’: cả hai loại bổ sung này đều được nói là làm cho không bị tội, đó là ý.

Akate vītikkameti āpadāsupi bhikkhūhi sikkhāpadavītikkame akate, kukkuccā na bhuñjiṃsūtiādīsu viya vītikkamaṃ akatvā bhikkhūhi attano dukkhuppattiyā ārocitāyāti attho. Sithilaṃ karontīti paṭhamaṃ sāmaññato baddhasikkhāpadaṃ mocetvā attano visaye anāpattikaraṇavasena sithilaṃ karontī. Dvāraṃ dadamānāti anāpattiyā dvāraṃ dadamānā. Aparāparampi anāpattiṃ kurumānāti dinnena tena dvārena uparūpari anāpattibhāvaṃ dīpentī. Paññattepi sikkhāpade udāyinā ‘‘muhuttikāya vesiyā na doso’’ti lesena vītikkamitvā sañcarittāpajjanavatthusmiṃ (pārā. 296 ādayo) paññattattā ‘‘kate vītikkame’’ti vuttaṃ. Paññattigatikāti atthato mūlapaññattiyevāti adhippāyo.
‘Khi sự vi phạm chưa được thực hiện’ là khi các Tỳ-khưu chưa vi phạm điều học ngay cả trong lúc nguy khốn, giống như trong câu ‘họ không ăn vì nghi ngờ,’ nghĩa là sau khi các Tỳ-khưu đã báo cáo về sự khổ của mình mà không vi phạm. ‘Làm cho lỏng lẻo’ là nới lỏng điều học đã được ràng buộc một cách chung chung lúc đầu, làm cho nó lỏng lẻo bằng cách làm cho không có tội trong lĩnh vực của mình. ‘Mở cửa’ là mở cửa cho việc không bị tội. ‘Cũng làm cho không bị tội hết lần này đến lần khác’ là bằng cửa đã cho đó, chỉ ra tình trạng không bị tội hết lần này đến lần khác. Dù điều học đã được chế định, nhưng vì Udāyī đã vi phạm bằng cách vin vào cớ rằng “không có lỗi với gái điếm trong chốc lát” và đã được chế định trong trường hợp phạm tội môi giới (Bất Cộng Trụ 296 trở đi), nên đã nói là “khi sự vi phạm đã được thực hiện.” ‘Có tính chất của sự chế định’: về mặt ý nghĩa, chính là sự chế định gốc, đó là ý.

Makkaṭīvatthukathāvaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về câu chuyện con khỉ cái đã kết thúc.

Santhatabhāṇavāro

Đoạn về sự trải lót

Vajjiputtakavatthukathāvaṇṇanā

Giải thích câu chuyện về các Tỳ-khưu Vajjī

43-44. Vajjiputtakavatthukathāya pāḷiyaṃ ‘‘vesālikā…pe… methunaṃ dhammaṃ paṭiseviṃsū’’ti ettha te ñātikulaṃ gantvā gihiliṅgaṃ gahetvā ‘‘gihibhūtā maya’’nti saññāya methunaṃ paṭiseviṃsūti gahetabbaṃ, tenāha ñātibyasanenapi phuṭṭhātiādi. Ñātīnaṃ vināso rājadaṇḍādikāraṇena hotīti āha rājadaṇḍaiccādi. Dhaññahiraññadāsidāsagomahiṃsādidhanāni bhogā nāma, tesampi rājadaṇḍādināva vināsoti āha ‘‘esa nayo dutiyapadepī’’ti. Na sabbaññubuddhotiādinā tīsu vatthūsu appasannāva sāsane abhabbāti saññāya attano bhabbataṃ pakāsentā na mayantiādimāhaṃsūti veditabbaṃ. ‘‘Aṭṭhatiṃsārammaṇesū’’ti pāḷiyaṃ anāgate ālokākāsakasiṇe vajjetvā vuttaṃ, tehi pana saddhiṃ cattālīsa honti. Vibhattā kusalā dhammāti ‘‘imasmiṃ ārammaṇe idaṃ hotī’’ti vibhāgaso dassitā saupacārajjhānā mahaggatakusalā dhammā. Gihipalibodhanti sahasokitādivasena gihīsu byāvaṭataṃ. Āvāsapalibodhanti senāsanesu navakammādivasena niccabyāvaṭataṃ. Duppariccāgānaṃ imesaṃ dvinnaṃ palibodhānaṃ vasena sabbepi palibodhā saṅgahitā evāti veditabbaṃ.
43-44. Trong câu chuyện về các Tỳ-khưu Vajjī, trong Pāḷi, ở câu “các vị ở Vesālī… v.v… đã giao hợp,” cần hiểu rằng họ đã đi đến nhà quyến thuộc, lấy tướng mạo người tại gia, và với ý nghĩ “chúng ta là người tại gia” đã giao hợp, do đó nói là cũng bị tai họa của quyến thuộc tác động v.v… Sự hủy hoại của quyến thuộc xảy ra do nguyên nhân là sự trừng phạt của vua v.v…, nên nói là sự trừng phạt của vua v.v… Các tài sản như lúa, vàng bạc, tôi trai tớ gái, bò trâu v.v… được gọi là tài sản, sự hủy hoại của chúng cũng do sự trừng phạt của vua v.v…, nên nói là “phương pháp này cũng áp dụng cho vế thứ hai.” Cần biết rằng, vì không hoan hỷ trong ba sự việc là không phải là Đức Phật Toàn Giác v.v…, với ý nghĩ rằng mình không có khả năng trong giáo pháp, họ đã nói rằng “chúng tôi không…” v.v… để thể hiện khả năng của mình. Trong Pāḷi, câu “trong ba mươi tám đề mục” đã được nói bằng cách loại trừ các biến xứ ánh sáng và hư không chưa đến, nhưng cùng với chúng thì có bốn mươi. Các pháp thiện đã được phân chia là các pháp thiện thuộc sắc giới có cả thiền cận hành, đã được chỉ ra một cách phân chia rằng “trong đề mục này, có điều này.” Sự ràng buộc của người tại gia là sự bận rộn với người tại gia theo cách cùng lo buồn v.v… Sự ràng buộc của trú xứ là sự bận rộn thường xuyên với các công việc mới v.v… trong các trú xứ. Cần biết rằng, bằng hai sự ràng buộc khó từ bỏ này, tất cả các sự ràng buộc khác cũng đã được bao gồm.

Yenāti kāraṇena. Asaṃvāsoti idaṃ tasmiṃ attabhāve kenacipi pariyāyena bhikkhu hutvā bhikkhūhi saddhiṃ saṃvāsaṃ nārahatīti imamatthaṃ sandhāya vuttanti āha ‘‘asaṃvāso’’ti. Paññattaṃ samūhaneyyāti ‘‘so āgato na pabbājetabbo’’ti avatvā ‘‘na upasampādetabbo’’ti ettakasseva vuttattā pārājikassa sāmaṇerabhūmi anuññātāti viññāyati, tenāha sāmaṇerabhūmiyaṃ pana ṭhitotiādi. ‘‘Yo pana bhikkhū’’ti vuttattā (pārā. 39) paccakkhātasikkho yasmā bhikkhu na hoti, methunasevane ca pārājikaṃ nāpajjati, tasmāssa ‘‘āgato upasampādetabbo’’ti upasampadaṃ anujānanto pārājikaṃ na samūhanati nāma, tenāha ‘‘bhikkhubhāve ṭhatvā avipannasīlatāyā’’ti. Uttamatthaṃ arahattaṃ, nibbānameva vā.
Bởi nguyên nhân nào. Bất cộng trú: điều này được nói nhắm đến ý nghĩa rằng trong thân phận đó, dù bằng bất kỳ cách nào trở thành Tỳ-khưu, cũng không xứng đáng chung sống với các Tỳ-khưu, nên nói là “bất cộng trú.” Có thể xóa bỏ điều đã chế định: vì không nói rằng “người đó đến không được xuất gia,” mà chỉ nói rằng “không được truyền giới cụ túc,” nên có thể hiểu rằng địa vị sa-di của người phạm tội Bất Cộng Trụ được cho phép, do đó nói là đứng trong địa vị sa-di… v.v… Vì đã nói là “Bất kỳ Tỳ-khưu nào” (Bất Cộng Trụ 39), người đã xả giới không phải là Tỳ-khưu, và khi giao hợp, không phạm tội Bất Cộng Trụ, do đó, khi cho phép truyền giới cụ túc rằng “người đó đến phải được truyền giới cụ túc,” thì không gọi là xóa bỏ tội Bất Cộng Trụ, do đó nói là “đứng trong thân phận Tỳ-khưu với giới không bị hư hỏng.” Ý nghĩa tối thượng là A-la-hán, hoặc chính là Niết-bàn.

Catubbidhavinayādikathāvaṇṇanā

Giải thích về bốn loại Luật v.v…

45.Nīharitvāti pāḷito uddharitvā, tathā hi ‘‘pañcahupāli, aṅgehi samannāgatena bhikkhunā nānuyuñjitabbaṃ. Katamehi pañcahi? Suttaṃ na jānāti, suttānulomaṃ na jānātī’’tiādipāḷito suttaṃ suttānulomañca nīhariṃsu. ‘‘Anāpatti evaṃ amhākaṃ ācariyānaṃ uggaho paripucchāti bhaṇatī’’ti evamādito ācariyavādaṃ. ‘‘Āyasmā upāli evamāha – ‘anāpatti, āvuso, supinantenā’ti’’ evamādito attano matiṃ nīhariṃsu, sā ca therassa attanomati suttena saṅgahitattā suttaṃ jātaṃ, evamaññāpi suttādīhi saṅgahitāva gahetabbā, netarāti veditabbaṃ. Atha vā nīharitvāti vibhajitvā sāṭṭhakathaṃ sakalaṃ vinayapiṭakaṃ suttādīsu catūsu padesesu pakkhipitvā catudhā vibhajitvā vinayaṃ pakāsesuṃ tabbinimuttassa abhāvāti adhippāyo. Vuttanti nāgasenattherena milindapañhe vuttaṃ. Kaṇṭhādivaṇṇuppattiṭṭhānakaraṇādīhi āharitvā attano vacīviññattiyāva bhāsitavacanaṃ āhaccapadaṃ. Rasoti sāro ‘‘pattaraso’’tiādīsu (dha. sa. 628-630) viya, paṭikkhittaanuññātasuttasāroti attho, rasoti vā lakkhaṇaṃ paṭivatthukaṃ anuddharitvā lakkhaṇānulomena vuttattā. Dhammasaṅgāhakādiācariyavaṃsena ābhatā aṭṭhakathā ācariyavaṃsoti āha ‘‘ācariyavaṃsoti ācariyavādo’’ti.
45.Trích ra là rút ra từ Pāḷi. Cụ thể, họ đã trích ra kinh và tùy thuận kinh từ Pāḷi như sau: “Này Upāli, Tỳ-khưu có đủ năm yếu tố không nên bị tra hỏi. Năm yếu tố nào? Không biết kinh, không biết tùy thuận kinh.” Họ đã trích ra quan điểm của các vị thầy từ những câu như “các vị thầy của chúng tôi học và hỏi rằng như vậy là vô tội.” Họ đã trích ra quan điểm cá nhân từ những câu như “Trưởng lão Upāli đã nói như thế này: ‘Này chư hiền, trong giấc mơ là vô tội.’” Và quan điểm cá nhân đó của trưởng lão, vì đã được bao gồm trong kinh, nên đã trở thành kinh. Cũng vậy, các quan điểm khác cũng cần được hiểu là đã được bao gồm trong kinh v.v…, không phải khác. Hoặc là, trích ra có nghĩa là phân chia, họ đã phân chia toàn bộ tạng Luật cùng với Chú giải thành bốn phần, đặt vào bốn đại xứ là kinh v.v…, và đã giảng giải Luật theo bốn cách, vì không có gì ngoài chúng, đó là ý. Đã được nói là đã được trưởng lão Nāgasena nói trong Milindapañha (Mi Tiên Vấn Đáp). Lời nói được phát ra bằng chính khẩu biểu tri của mình, được tạo ra từ nơi phát âm, cách phát âm của vần cổ họng v.v… là lời nói đột xuất. Cốt tủy là tinh hoa, giống như trong câu “tinh hoa của bát” v.v… (dha. sa. 628-630), có nghĩa là tinh hoa của kinh đã được cấm và cho phép. Hoặc cốt tủy là đặc tính, vì được nói theo cách tùy thuận đặc tính mà không nêu ra từng trường hợp. Chú giải được truyền lại theo dòng truyền thừa của các vị thầy kết tập pháp v.v… là dòng truyền thừa của các vị thầy, nên nói là “dòng truyền thừa của các vị thầy là quan điểm của các vị thầy.”

Vinayapiṭake pāḷīti idha adhikāravasena vuttaṃ. Sesapiṭakesupi suttādicatunayā yathānurūpaṃ labbhanteva. Mahāpadesāti mahāokāsā mahāvisayā, te atthato ‘‘yaṃ, bhikkhave’’tiādipāḷivasena akappiyānulomato kappiyānulomato ca puggalehi nayato tathā tathā gayhamānā atthanayā eva. Te hi bhagavatā sarūpato avuttesupi paṭikkhittānulomesu, anuññātānulomesu ca sesesu kiccesu nivattipavattihetutāya mahāgocarāti ‘‘mahāpadesā’’ti vuttā, na pana ‘‘yaṃ, bhikkhave, mayā idaṃ na kappatī’’tiādinā vuttā sādhippāyā pāḷiyeva tassā sutte paviṭṭhattā. ‘‘Suttānulomampi sutte otāretabbaṃ…pe… suttameva balavatara’’nti (pārā. aṭṭha. 1.45) hi vuttaṃ, na hesā sādhippāyā pāḷi sutte otāretabbā, na gahetabbā vā hoti, yenāyaṃ suttānulomaṃ siyā. Tasmā imaṃ pāḷiadhippāyaṃ nissāya puggalehi gahitā yathāvuttaatthāva suttānulomaṃ. Tappakāsakattā pana ayaṃ pāḷipi suttānulomanti gahetabbaṃ, tenāha ye bhagavatā evaṃ vuttātiādi. Yaṃ bhikkhavetiādipāḷinayena hi puggalehi gahetabbā ye akappiyānulomādayo atthā vuttā, te mahāpadesāti attho.
Pāḷi trong tạng Luật ở đây được nói theo thẩm quyền. Trong các tạng còn lại, bốn phương pháp kinh v.v… cũng có thể được tìm thấy một cách tương ứng. Đại xứ là những nơi có cơ hội lớn, những lĩnh vực lớn, về mặt ý nghĩa, chúng chính là những phương pháp luận được các cá nhân hiểu theo cách này hay cách khác, theo cách tùy thuận điều không được phép và tùy thuận điều được phép, dựa vào Pāḷi “Này các Tỳ-khưu, điều gì…” v.v… Vì chúng là nguyên nhân của việc không làm và làm trong các công việc còn lại chưa được Đức Thế Tôn nói rõ về bản chất, trong những điều tùy thuận điều cấm và tùy thuận điều cho phép, nên chúng là lĩnh vực lớn, do đó được gọi là “đại xứ,” chứ không phải chính Pāḷi có chủ đích được nói bằng câu “Này các Tỳ-khưu, điều gì mà ta nói là không được phép…” v.v…, vì nó đã được bao gồm trong kinh. Vì đã nói rằng “tùy thuận kinh cũng phải được đưa vào kinh… v.v… chính kinh có sức mạnh hơn” (chú giải Bất Cộng Trụ 1.45). Pāḷi có chủ đích này không phải là điều cần được đưa vào kinh, hoặc không cần được chấp nhận, để nó có thể là tùy thuận kinh. Do đó, những ý nghĩa đã nói, được các cá nhân chấp nhận dựa vào chủ đích của Pāḷi này, chính là tùy thuận kinh. Nhưng vì làm sáng tỏ điều đó, Pāḷi này cũng cần được hiểu là tùy thuận kinh, do đó nói là những điều đã được Đức Thế Tôn nói như vậy v.v… Theo phương pháp của Pāḷi “Này các Tỳ-khưu, điều gì…”, những ý nghĩa như tùy thuận điều không được phép v.v… mà các cá nhân phải chấp nhận, được gọi là đại xứ, đó là ý.

Bhagavato pakiṇṇakadesanābhūtā ca suttānulomabhūtā ca aṭṭhakathā. Yasmā dhammasaṅgāhakattherehi pāḷivaṇṇanākkamena saṅgahetvā vuttā, tasmā ‘‘ācariyavādo’’ti vuttā, etena ca aṭṭhakathā suttasuttānulomesu atthato saṅgayhatīti veditabbā. Yathā ca esā, evaṃ attanomatipi pamāṇabhūtā. Na hi bhagavato vacanaṃ vacanānulomañca anissāya aggasāvakādayopi attano ñāṇabalena suttābhidhammavinayesu kañci sammutiparamatthabhedaṃ atthaṃ vattuṃ sakkonti, tasmā sabbampi vacanaṃ sutte suttānulome ca saṅgayhati. Visuṃ pana aṭṭhakathādīnaṃ saṅgahitattā tadavasesaṃ suttasuttānulomato gahetvā catudhā vinayo niddiṭṭho. Suttādayo nissāyeva pavattāpi attanomati tesu sarūpena anāgatattā vuttaṃ ‘‘suttasuttānulomaācariyavāde muñcitvā’’ti, tenāha ‘‘anubuddhiyā nayaggāhenā’’ti. Tattha suttādīni anugatāya eva buddhiyā tehi laddhanayaggāhena cāti attho.
Chú giải là những bài thuyết pháp tản mác của Đức Thế Tôn và cũng là tùy thuận kinh. Vì đã được các vị trưởng lão kết tập pháp nói ra theo trình tự giải thích Pāḷi, nên được gọi là “quan điểm của các vị thầy.” Và bằng điều này, cần hiểu rằng Chú giải về mặt ý nghĩa được bao gồm trong kinh và tùy thuận kinh. Giống như nó, quan điểm cá nhân cũng có giá trị tham khảo. Vì không nương vào lời dạy của Đức Thế Tôn và những gì tùy thuận lời dạy, ngay cả các vị Thượng thủ đệ tử v.v… cũng không thể nói bất kỳ ý nghĩa nào về sự phân biệt giữa quy ước và chân đế trong kinh, Vi Diệu Pháp và luật bằng sức mạnh trí tuệ của mình. Do đó, tất cả lời nói đều được bao gồm trong kinh và tùy thuận kinh. Nhưng vì Chú giải v.v… được kết tập riêng, nên luật đã được chỉ ra theo bốn cách, bằng cách lấy phần còn lại từ kinh và tùy thuận kinh. Dù quan điểm cá nhân cũng phát sinh dựa vào kinh v.v…, nhưng vì không có mặt về bản chất trong chúng, nên đã nói là “ngoài kinh, tùy thuận kinh và quan điểm của các vị thầy,” do đó nói là “bằng cách nắm bắt phương pháp bằng trí tuệ đi theo.” Ở đó, có nghĩa là bằng trí tuệ đi theo kinh v.v… và bằng cách nắm bắt phương pháp đã có được từ chúng.

Theravādoti mahāsumattherādīnaṃ gāho. Suttādiṃ nissāyeva viparītatopi attanomati uppajjatīti āha taṃ panātiādi. Atthenāti attanā nayaggahitena atthena. Pāḷinti attano gāhassa nissayabhūtaṃ sāṭṭhakathaṃ pāḷiṃ. Pāḷiyāti tappaṭikkhepatthaṃ parenāhaṭāya sāṭṭhakathāya pāḷiyā, attanā gahitaṃ atthaṃ nissāya pāḷiñca saṃsanditvāti attho. Ācariyavādeti attanā parena ca samuddhaṭaaṭṭhakathāya. Otarati ceva sameti cāti attanā uddhaṭehi saṃsandanavasena otarati, parena uddhaṭena sameti. Sabbadubbalāti asabbaññupuggalassa dosavāsanāya yāthāvato atthasampaṭipattiabhāvato vuttaṃ. Pamādapāṭhavasena ācariyavādassa suttānulomena asaṃsandanāpi siyāti āha ‘‘itaro na gahetabbo’’ti.
Quan điểm của các Trưởng lão là sự chấp nhận của các vị trưởng lão Mahāsumma v.v… Quan điểm cá nhân cũng phát sinh từ sự sai lầm dựa vào kinh v.v…, nên nói là nhưng điều đó… v.v… Bằng ý nghĩa là bằng ý nghĩa đã được mình nắm bắt theo phương pháp. Pāḷi là Pāḷi cùng với Chú giải, là nền tảng cho sự chấp nhận của mình. Với Pāḷi là với Pāḷi cùng với Chú giải được người khác đưa ra để bác bỏ, bằng cách so sánh với Pāḷi và ý nghĩa đã được mình chấp nhận, đó là ý. Trong quan điểm của các vị thầy là trong Chú giải đã được mình và người khác nêu ra. Phù hợp và tương ứng: phù hợp bằng cách so sánh với những gì mình đã nêu ra, tương ứng với những gì người khác đã nêu ra. Yếu nhất: được nói do người không phải là toàn giác, vì có mầm mống sai lầm, nên không thể nhận thức đúng đắn về ý nghĩa. Do sơ suất, quan điểm của các vị thầy cũng có thể không tương ứng với tùy thuận kinh, nên nói là “điều khác không nên được chấp nhận.”

Samentameva gahetabbanti ye suttena saṃsandanti, evarūpāva atthā mahāpadesato uddharitabbāti dasseti tathā tathā uddhaṭaatthānameva suttānulomattā, tenāha ‘‘suttānulomato hi suttameva balavatara’’nti. Appaṭivattiyanti appaṭibāhiyaṃ. Kārakasaṅghasadisanti pamāṇattā saṅgītikārakasaṅghasadisaṃ. Buddhānaṃ ṭhitakālasadisanti dharamānakabuddhasadisanti attho. Sakavādī suttaṃ gahetvā kathetītiādīsu yo yathābhūtamatthaṃ gahetvā kathanasīlo, so sakavādī. Suttanti saṅgītittayāruḷhaṃ pāḷivacanaṃ. Paravādīti mahāvihāravāsī vā hotu aññanikāyavāsī vā, yo viparītato atthaṃ gahetvā kathanasīlo, sova idha ‘‘paravādī’’ti vutto. Suttānulomanti saṅgītittayāruḷhaṃ vā anāruḷhaṃ vā yaṃkiñci vipallāsato vā vañcanāya vā ‘‘saṅgītittayāgatamida’’nti dassiyamānaṃ suttānulomaṃ. Keci ‘‘aññanikāye suttānuloma’’nti vadanti, taṃ na yuttaṃ sakavādīparavādīnaṃ ubhinnampi saṅgītittayāruḷhasuttādīnaṃ eva gahetabbato. Tathā hi vakkhati ‘‘tisso saṅgītiyo āruḷhaṃ pāḷiāgataṃ paññāyati, gahetabba’’ntiādi. Na hi sakavādī aññanikāyasuttādiṃ pamāṇato gaṇhāti, yena tesu suttādīsu dassitesu tattha ṭhātabbaṃ bhaveyya, vakkhati ca ‘‘paro tassa akappiyabhāvasādhakaṃ suttato bahuṃ kāraṇañca vinicchayañca dasseti…pe… ‘sādhū’ti sampaṭicchitvā akappiyeyeva ṭhātabba’’nti (pārā. aṭṭha. 1.45). Tasmā paravādināpi saṅgītittaye anāruḷhampi anāruḷhamicceva dassīyati, kevalaṃ tassa tassa suttādino saṅgītittaye anāgatassa kūṭatā, āgatassa ca byañjanacchāyāya aññathā adhippāyayojanā ca viseso. Tattha ca yaṃ kūṭaṃ, taṃ apanīyati. Yaṃ aññathā yojitaṃ, tassa viparītatāsandassanatthaṃ tadaññena suttādinā saṃsandanā karīyati. Yo pana paravādinā gahito adhippāyo suttantādinā saṃsandati, so sakavādināpi attano gāhaṃ vissajjetvā gahetabboti ubhinnampi saṅgītittayāgatameva suttādipamāṇanti veditabbaṃ. Teneva kathāvatthuppakaraṇe sakavāde pañca suttasatāni paravāde pañcāti (dha. sa. aṭṭha. nidānakathā; kathā. aṭṭha. nidānakathā) suttasahassampi adhippāyaggahaṇanānattena saṅgītittayāgatameva gahitaṃ, na nikāyantare kiñcīti.
Chỉ nên chấp nhận điều tương ứng: chỉ ra rằng những ý nghĩa nào tương ứng với kinh, chỉ những ý nghĩa như vậy mới nên được rút ra từ các đại xứ, vì những ý nghĩa được rút ra như vậy mới là tùy thuận kinh, do đó nói là “vì so với tùy thuận kinh, chính kinh có sức mạnh hơn.” Không thể bác bỏ. Tương tự như Tăng đoàn kết tập: vì có giá trị tham khảo, nên tương tự như Tăng đoàn đã kết tập kinh điển. Tương tự như thời Đức Phật còn tại thế: có nghĩa là tương tự như Đức Phật đang tại thế. Người theo chánh kiến lấy kinh ra nói v.v…: người nào có thói quen nói sau khi đã hiểu đúng ý nghĩa, người đó là người theo chánh kiến. Kinh là lời Pāḷi đã được đưa vào ba lần kết tập. Người theo tà kiến: dù là người ở Đại Tự hay người ở bộ phái khác, người nào có thói quen nói sau khi đã hiểu sai ý nghĩa, người đó ở đây được gọi là “người theo tà kiến.” Tùy thuận kinh: dù đã được đưa vào ba lần kết tập hay chưa, bất cứ điều gì được trình bày là “đã có trong ba lần kết tập” do sai lầm hoặc do lừa dối, đều là tùy thuận kinh. Một số người nói “tùy thuận kinh trong bộ phái khác,” điều đó không đúng, vì cả người theo chánh kiến và người theo tà kiến đều phải lấy kinh v.v… đã được đưa vào ba lần kết tập. Cụ thể, sẽ nói rằng “Pāḷi đã được đưa vào ba lần kết tập được biết đến, phải được chấp nhận” v.v… Người theo chánh kiến không chấp nhận kinh v.v… của bộ phái khác làm tiêu chuẩn, để phải đứng vững ở đó khi kinh v.v… của họ được trình bày, và sẽ nói rằng “người kia trình bày nhiều lý do và phân tích từ kinh để chứng minh tính chất không được phép của nó… v.v… phải chấp nhận rằng ‘lành thay’ và đứng vững ở chỗ không được phép” (chú giải Bất Cộng Trụ 1.45). Do đó, ngay cả người theo tà kiến cũng trình bày điều chưa được đưa vào ba lần kết tập là chưa được đưa vào, chỉ có sự khác biệt là tính chất giả mạo của kinh v.v… chưa có trong ba lần kết tập đó, và sự giải thích ý nghĩa khác đi dưới vỏ bọc của từ ngữ đối với điều đã có. Và trong đó, điều gì giả mạo thì bị loại bỏ. Điều gì được giải thích khác đi thì được so sánh với kinh v.v… khác để chỉ ra sự sai lầm của nó. Nhưng ý nghĩa nào mà người theo tà kiến chấp nhận mà tương ứng với kinh điển v.v…, thì ngay cả người theo chánh kiến cũng phải từ bỏ quan điểm của mình mà chấp nhận, do đó cần hiểu rằng đối với cả hai, chỉ có kinh v.v… đã có trong ba lần kết tập mới là tiêu chuẩn. Chính vì thế, trong bộ Kathāvatthu, năm trăm kinh của phái mình và năm trăm của phái khác (chú giải Dha. sa. nidānakathā; chú giải Kathā. nidānakathā), một nghìn kinh cũng được chấp nhận là đã có trong ba lần kết tập do sự khác biệt trong việc nắm bắt ý nghĩa, không phải là điều gì khác trong các bộ phái khác.

Khepanti ‘‘kiṃ iminā’’ti paṭikkhepaṃ chaḍḍanaṃ. Garahanti ‘‘kimesa bālo jānātī’’ti nindanaṃ. Sutte otāretabbanti yassa suttassa anulomanato idaṃ suttānulomaṃ akāsi, tasmiṃ, tadanurūpe vā aññatarasmiṃ sutte attanā gahitaṃ suttānulomaṃ atthato saṃsandanavasena otāretabbaṃ, ‘‘iminā ca iminā ca kāraṇena imasmiṃ sutte saṃsandatī’’ti saṃsanditvā dassetabbanti attho. Ayanti sakavādī. Paroti paravādī. Ācariyavādo sutte otāretabboti yassa suttassa vaṇṇanāvasena ayaṃ ācariyavādo pavatto, tasmiṃ, tādise ca aññatarasmiṃ sutte pubbāparaatthasaṃsandanavasena otāretabbaṃ. Gārayhācariyavādoti pamādalikhito, bhinnaladdhikehi vā ṭhapito, esa nayo sabbattha.
Sự vứt bỏ là sự bác bỏ, vứt bỏ rằng “cái này để làm gì?” Sự khiển trách là sự chỉ trích rằng “gã ngu này biết gì?” Phải được đưa vào kinh: tùy thuận kinh này đã được làm ra để tùy thuận kinh nào, thì phải được đưa vào kinh đó, hoặc một kinh khác tương tự, bằng cách so sánh về mặt ý nghĩa, có nghĩa là phải so sánh và chỉ ra rằng “nó tương ứng với kinh này vì lý do này và lý do này.” Người này là người theo chánh kiến. Người kia là người theo tà kiến. Quan điểm của các vị thầy phải được đưa vào kinh: quan điểm của các vị thầy này phát sinh để giải thích kinh nào, thì phải được đưa vào kinh đó, và một kinh tương tự như vậy, bằng cách so sánh ý nghĩa trước sau. Quan điểm đáng bị khiển trách của các vị thầy: được viết do sơ suất, hoặc được các tà phái thiết lập, phương pháp này áp dụng cho mọi nơi.

Yaṃ kiñci kūṭasuttaṃ bāhirakasuttādivacanaṃ na gahetabbanti dassetuṃ suttaṃ suttānulome otāretabbantiādi vuttaṃ. Guḷhavessantarādīni mahāsaṅghikādibhinnaladdhikānaṃ pakaraṇāni. Ādi-saddena guḷhaummaggādīnaṃ gahaṇaṃ . Sakavādī suttaṃ gahetvā katheti, paravādīpi suttantiādinā aññepi vādālambanā vuttanayena sakkā ñātunti idha na vuttā.
Để chỉ ra rằng không nên chấp nhận bất kỳ kinh giả nào, lời nói của kinh ngoại đạo v.v…, đã nói là kinh phải được đưa vào tùy thuận kinh v.v… Các tác phẩm như Guḷhavessantara v.v… là của các tà phái như Mahāsaṅghika v.v… Với từ ‘v.v…’, bao gồm cả Guḷhaummagga v.v… Người theo chánh kiến lấy kinh ra nói, người theo tà kiến cũng lấy kinh v.v…, các cơ sở tranh luận khác cũng có thể được biết theo cách đã nói, nên không được nói ở đây.

Evaṃ suttasuttānulomādimukhena sāmaññato vivādaṃ dassetvā idāni visesato vivādavatthuṃ tabbinicchayamukhena suttādīnañca dassetuṃ atha panāyaṃ kappiyantiādi vuttaṃ. Sutte ca suttānulome cāti ettha ca-kāro vikappattho, tena ācariyavādādīnampi saṅgaho, tenāha ‘‘kāraṇañca vinicchayañca dassetī’’ti. Tattha kāraṇanti suttādinayaṃ nissāya attanomatiyā uddhaṭaṃ hetuṃ. Vinicchayanti aṭṭhakathāvinicchayaṃ. Kāraṇacchāyāti suttādīsu ‘‘kappiya’’nti gāhassa, ‘‘akappiya’’nti gāhassa ca nimittabhūtaṃ kicchena paṭipādanīyaṃ avibhūtakāraṇaṃ kāraṇacchāyā, kāraṇapatirūpakanti attho. Vinayañhi patvāti imassa vivaraṇaṃ kappiyākappiyavicāraṇamāgammāti. Rundhitabbanti kappiyasaññāya vītikkamakaraṇaṃ rundhitabbaṃ, taṃnivāraṇacittaṃ daḷhataraṃ kātabbaṃ. Sotaṃ pacchinditabbanti tattha vītikkamappavatti pacchinditabbā. Garukabhāveti akappiyabhāve. Suttavinicchayakāraṇehīti suttena aṭṭhakathāvinicchayena ca laddhakāraṇehi. Evantiādi yathāvuttassa atthassa nigamanavacanaṃ. Atirekakāraṇanti suttādīsu purimaṃ purimaṃ atirekakāraṇaṃ nāma, bahukāraṇaṃ vā.
Sau khi đã chỉ ra sự tranh cãi một cách chung chung thông qua kinh, tùy thuận kinh v.v…, bây giờ để chỉ ra một cách đặc biệt đối tượng tranh cãi và các kinh v.v… thông qua cách phân xử, đã nói là vậy thì điều này được phép… v.v… Trong kinh và trong tùy thuận kinh: ở đây, từ ‘ca’ có nghĩa là lựa chọn, do đó cũng bao gồm cả quan điểm của các vị thầy v.v…, do đó nói là “trình bày lý do và phân tích.” Ở đó, lý do là nguyên nhân được rút ra từ quan điểm cá nhân dựa vào phương pháp của kinh v.v… Phân tích là sự phân tích của Chú giải. Bóng dáng của lý do: trong kinh v.v…, lý do không rõ ràng, khó chứng minh, là dấu hiệu cho sự chấp nhận là “được phép” và “không được phép,” là bóng dáng của lý do, có nghĩa là hình thức tương tự lý do. Dựa vào luật: giải thích của câu này là dựa vào sự xem xét điều được phép và không được phép. Phải được ngăn chặn: phải ngăn chặn việc vi phạm với ý nghĩ là được phép, phải làm cho tâm ngăn chặn điều đó trở nên vững chắc hơn. Phải cắt đứt dòng chảy: phải cắt đứt sự phát sinh vi phạm ở đó. Trong trường hợp nặng: trong trường hợp không được phép. Bằng các lý do từ kinh và phân tích của luật: bằng các lý do có được từ kinh và từ sự phân tích của Chú giải. Như vậy… v.v… là lời kết luận cho ý nghĩa đã nói. Lý do bổ sung: trong kinh v.v…, mỗi lý do đứng trước là lý do bổ sung, hoặc là nhiều lý do.

Vācuggatanti vācāya uggataṃ, tattha nirantaraṃ ṭhitanti attho. ‘‘Suttaṃ nāma sakalaṃ vinayapiṭaka’’nti vuttattā puna suttatoti tadatthapaṭipādakaṃ suttābhidhammapāḷivacanaṃ adhippetaṃ. Anubyañjanatoti imassa vivaraṇaṃ paripucchato ca aṭṭhakathāto cāti. Tattha paripucchāti ācariyassa santikā pāḷiyā atthasavanaṃ. Aṭṭhakathāti pāḷimuttakavinicchayo. Tadubhayampi hi pāḷiṃ anugantvā atthassa byañjanato ‘‘anubyañjana’’nti vuttaṃ. Vinayeti vinayācāre, teneva vakkhati vinayaṃ avijahanto avokkamantotiādi. Tattha patiṭṭhānaṃ nāma sañcicca āpattiyā anāpajjanādi hotīti āha ‘‘lajjībhāvena patiṭṭhito’’ti, tena lajjī hotīti vuttaṃ hoti. Vinayadharassa lakkhaṇe vattabbe kiṃ iminā lajjībhāvenāti āha alajjī hītiādi. Tattha bahussutopīti iminā paṭhamalakkhaṇasamannāgamaṃ dasseti. Lābhagarutāyātiādinā vinaye ṭhitatāya abhāve paṭhamalakkhaṇayogo kiccakaro na hoti, atha kho akiccakaro anatthakaro evāti dasseti. Saṅghabhedassa pubbabhāgo kalaho saṅgharāji.
Thuộc lòng là đã thuộc lòng, có nghĩa là thường xuyên ở trong đó. Vì đã nói “kinh là toàn bộ tạng Luật,” nên từ kinh ở đây chỉ lời Pāḷi của kinh và Vi Diệu Pháp giải thích ý nghĩa đó. Từ các chi tiết nhỏ: giải thích của câu này là từ sự hỏi và từ Chú giải. Ở đó, sự hỏi là việc nghe ý nghĩa của Pāḷi từ thầy. Chú giải là sự phân tích ngoài Pāḷi. Cả hai điều đó, vì đi theo Pāḷi để giải thích ý nghĩa, nên được gọi là “chi tiết nhỏ.” Trong luật: trong cách hành xử theo luật, chính vì thế sẽ nói là không từ bỏ, không vi phạm luật v.v… Ở đó, sự đứng vững là không cố ý phạm tội v.v…, nên nói là “đứng vững trong sự biết hổ thẹn,” bằng điều này, có nghĩa là trở thành người biết hổ thẹn. Khi nói về đặc tính của người thông thạo luật, tại sao lại nói đến sự biết hổ thẹn này? Nên nói là vì người không biết hổ thẹn… v.v… Ở đó, dù là người đa văn: bằng câu này, chỉ ra sự có đủ đặc tính đầu tiên. Do coi trọng lợi lộc v.v…: bằng câu này, chỉ ra rằng nếu không đứng vững trong luật, thì việc có đặc tính đầu tiên cũng không có ích lợi gì, mà còn vô ích, còn có hại. Sự bất hòa là giai đoạn đầu của sự chia rẽ Tăng.

Vitthunatīti vitthambhati, nitthunati vā santiṭṭhituṃ na sakkoti, tenāha yaṃ yantiādi. Ācariyaparamparāti ācariyānaṃ vinicchayaparamparā, teneva vakkhati ‘‘attano matiṃ pahāya…pe… yathā ācariyo ca ācariyācariyo ca pāḷiñca paripucchañca vadanti, tathā ñātuṃ vaṭṭatī’’ti. Na hi ācariyānaṃ nāmamattato paramparājānane payojanamatthi. Pubbāparānusandhitoti pubbavacanassa aparavacanena saha atthasambandhajānanato. Atthatoti padatthapiṇḍatthaadhippetatthādito. Kāraṇatoti tadatthupapattito. Theravādaṅganti theravādapaṭipāṭiṃ, tesaṃ vinicchayapaṭipāṭinti attho.
Lan rộng là khuếch trương, hoặc không thể đứng vững, do đó nói là bất cứ điều gì… v.v… Dòng truyền thừa của các vị thầy là dòng truyền thừa phân tích của các vị thầy, chính vì thế sẽ nói là “từ bỏ quan điểm của mình… v.v… phải hiểu theo cách mà thầy và thầy của thầy nói về Pāḷi và sự hỏi.” Không có lợi ích gì khi biết dòng truyền thừa chỉ bằng tên của các vị thầy. Từ sự liên kết trước sau: từ việc biết mối liên hệ về ý nghĩa giữa lời nói trước và lời nói sau. Về mặt ý nghĩa: từ ý nghĩa của từ, ý nghĩa của câu, ý nghĩa được ngụ ý v.v… Về mặt lý do: từ sự hợp lý của ý nghĩa đó. Yếu tố của quan điểm các Trưởng lão: trình tự của quan điểm các Trưởng lão, có nghĩa là trình tự phân tích của họ.

Imehi ca pana tīhi lakkhaṇehīti ettha paṭhamena lakkhaṇena vinayassa suṭṭhu uggahitabhāvo vutto. Dutiyenassa lajjībhāvena ceva acalatāya ca patiṭṭhitatā. Tatiyena pāḷiaṭṭhakathāsu anurūpena anāgatampi tadanulomato ācribusi dinnanayato vinicchinituṃ samatthatā. Otiṇṇe vatthusminti codanāvasena vītikkamavatthusmiṃ saṅghamajjhe otiṇṇe. Codakena cuditakena ca vutte vattabbeti evaṃ otiṇṇe vatthuṃ nissāya codakena ‘‘diṭṭhaṃ suta’’ntiādinā cuditakena ‘‘atthi natthī’’tiādinā ca yaṃ vattabbaṃ, tasmiṃ vattabbe vutteti attho. Thullaccayadubbhāsitānaṃ mātikāya anāgatattā ‘‘pañcannaṃ āpattīna’’nti vuttaṃ. Tikadukkaṭanti ‘‘anupasampanne upasampannasaññī ujjhāyati vā khīyati vā āpatti dukkaṭassā’’tiādinā (pāci. 106 thokaṃ visadisaṃ) āgataṃ tikadukkaṭaṃ. Aññataraṃ vā āpattinti ‘‘kāle vikālasaññī āpatti dukkaṭassa, kāle vematiko āpatti dukkaṭassā’’tiādikaṃ (pāci. 250) dukadukkaṭaṃ sandhāya vuttaṃ. Antarāpattinti tasmiṃ tasmiṃ sikkhāpade āgatavatthuvītikkamaṃ vinā aññasmiṃ vatthuvītikkame nidānato pabhuti vinītavatthupariyosānā antarantarā vuttaṃ āpattiṃ. Idha pana ‘‘vatthuṃ oloketī’’ti visuṃ gahitattā tadavasesā antarāpattīti gahitā. Paṭilātaṃ ukkhipatīti idaṃ visibbanasikkhāpade (pāci. 350-351) āgataṃ. Tattha ḍayhamānaṃ alātaṃ aggikapālādito bahi patitaṃ avijjhātameva paṭiukkhipati , puna yathāṭhāne ṭhapetīti attho. Vijjhātaṃ pana pakkhipantassa pācittiyameva. Anāpattinti ettha antarantarā vuttā anāpattipi atthi, ‘‘anāpatti, bhikkhave, iddhimassa iddhivisaye’’tiādi (pārā. 159) viya sāpi saṅgayhati.
Và bằng ba đặc tính này: ở đây, bằng đặc tính đầu tiên, đã nói về việc đã học thuộc lòng luật một cách tốt đẹp. Bằng đặc tính thứ hai, về việc đứng vững trong sự biết hổ thẹn và không dao động. Bằng đặc tính thứ ba, về khả năng phân tích cả những điều chưa có trong Pāḷi và Chú giải một cách tương ứng, theo phương pháp mà các vị thầy đã chỉ dạy. Khi sự việc đã được đưa ra: khi đối tượng vi phạm đã được đưa ra giữa Tăng chúng do sự tố cáo. Khi điều cần nói đã được người tố cáo và người bị tố cáo nói ra: khi sự việc đã được đưa ra như vậy, điều cần nói liên quan đến sự việc đó, như người tố cáo nói “đã thấy, đã nghe” v.v… và người bị tố cáo nói “có, không có” v.v…, khi điều cần nói đó đã được nói ra, đó là ý. Vì tội Trọng Tội và lời nói xấu không có trong tóm tắt, nên đã nói là “của năm tội.” Ba tội Tác Ác: ba tội Tác Ác đã có trong câu “đối với người chưa thọ giới cụ túc mà nghĩ là đã thọ, nếu mắng nhiếc hoặc chê bai, phạm tội Tác Ác” v.v… (Ưng Đối Trị 106, hơi khác). Hoặc một tội nào đó: được nói nhắm đến hai tội Tác Ác như “vào đúng thời mà nghĩ là sai thời, phạm tội Tác Ác; vào đúng thời mà nghi ngờ, phạm tội Tác Ác” v.v… (Ưng Đối Trị 250). Tội trung gian: tội được nói ở giữa, từ đầu đến cuối câu chuyện đã được phân xử, trong sự vi phạm đối tượng khác, không phải sự vi phạm đối tượng đã có trong điều học đó. Nhưng ở đây, vì “xem xét đối tượng” được lấy riêng, nên phần còn lại được coi là tội trung gian. Nhặt lại thanh củi đang cháy: điều này có trong điều học về việc may vá (Ưng Đối Trị 350-351). Ở đó, thanh củi đang cháy rơi ra ngoài từ lò lửa v.v…, nhặt lại khi nó chưa tắt, có nghĩa là đặt lại vào chỗ cũ. Nhưng nếu bỏ vào khi nó đã tắt, thì phạm tội Ưng Đối Trị. Vô tội: ở đây, sự vô tội được nói ở giữa cũng có, giống như “Này các Tỳ-khưu, vô tội đối với người có thần thông trong phạm vi thần thông của mình” v.v… (Bất Cộng Trụ 159), điều đó cũng được bao gồm.

Pārājikāpattīti na tāva vattabbanti idaṃ āpannapuggalena lajjīdhamme ṭhatvā yathābhūtaṃ āvikaraṇepi dubbinicchayaṃ adinnādānādiṃ sandhāya vuttaṃ. Yaṃ pana methunādīsu vijānanaṃ, taṃ vattabbameva, tenāha methunadhammavītikkamo hītiādi. Yo pana alajjitāya paṭiññaṃ adatvā vikkhepaṃ karoti, tassa āpatti na sakkā oḷārikāpi vinicchinituṃ, yāva so yathābhūtaṃ nāvi karoti, saṅghassa ca āpattisandeho na vigacchati, tāva nāsitakova bhavissati. Sukhumāti cittaparivattiyā sukhumatāya sukhumā. Tenāha ‘‘cittalahukā’’ti, cittaṃ tassa lahukanti attho. Teti vītikkame. Taṃvatthukanti adinnādānādimūlakaṃ. Yaṃ ācariyo bhaṇati, taṃ karohītiādi sabbaṃ lajjīpesalaṃ kukkuccakameva sandhāya vuttaṃ. Yo yāthāvato pakāsetvā suddhimeva gavesati, tenāpi, pārājikosīti naasaddoti anāpattikoṭiyāpi saṅkiyamānattā vuttaṃ, teneva ‘‘pārājikacchāyā’’ti vuttaṃ. Sīlāni sodhetvāti yasmiṃ vītikkame pārājikāsaṅkā vattati, tattha pārājikābhāvapakkhaṃ gahetvā desanāvuṭṭhānagāminīnaṃ āpattīnaṃ sodhanavasena sīlāni sodhetvā. Dvattiṃsākāranti pākaṭabhāvato upalakkhaṇavasena vuttaṃ, yaṃ kiñci abhirucitaṃ manasikātuṃ vaṭṭateva. Kammaṭṭhānaṃ ghaṭiyatīti vippaṭisāramūlakena vikkhepena antarantarā khaṇḍaṃ adassetvā pabandhavasena cittena saṅghaṭiyati. Saṅkhārāti vipassanākammaṭṭhānavasena vuttaṃ. Sāpattikassa hi paguṇampi kammaṭṭhānaṃ na suṭṭhu upaṭṭhāti, pageva pārājikassa. Tassa hi vippaṭisāraninnatāya cittaṃ ekaggaṃ na hoti. Ekassa pana vitakkavikkhepādibahulassa suddhasīlassapi cittaṃ na samādhiyati, taṃ idha pārājikamūlakanti na gahetabbaṃ. Katapāpamūlakena vippaṭisārenevettha cittassa asamādhiyanaṃ sandhāya ‘‘kammaṭṭhānaṃ na ghaṭiyatī’’ti vuttaṃ, tenāha vippaṭisāragginātiādi. Attanāti cittena karaṇabhūtena puggalo kattā jānāti, paccatte vā karaṇavacanaṃ, attā sayaṃ pajānātīti attho.
Chưa nên nói ngay là tội Bất Cộng Trụ: điều này được nói nhắm đến những trường hợp khó phân xử như trộm cắp v.v…, ngay cả khi người phạm tội đứng trong pháp biết hổ thẹn và thú nhận đúng sự thật. Nhưng sự biết trong việc giao hợp v.v… thì phải nói, do đó nói là vì sự vi phạm pháp giao hợp… v.v… Nhưng người nào vì không biết hổ thẹn mà không thú nhận, lại loanh quanh, thì tội của người đó không thể phân xử được dù là tội nặng, cho đến khi người đó thú nhận đúng sự thật, và sự nghi ngờ về tội của Tăng chưa được xóa bỏ, thì người đó vẫn bị trục xuất. Vi tế: vi tế do sự vi tế của sự thay đổi của tâm. Do đó nói là “tâm nhẹ nhàng,” có nghĩa là tâm của người đó nhẹ nhàng. Trong những sự vi phạm đó. Có nguồn gốc từ đối tượng đó: có nguồn gốc từ trộm cắp v.v… Hãy làm theo những gì thầy nói… v.v…: tất cả đều được nói nhắm đến người biết hổ thẹn, tốt đẹp, hay nghi ngờ. Người nào nói rõ đúng sự thật và chỉ tìm kiếm sự trong sạch, ngay cả đối với người đó, cũng không được nói là ‘ngươi đã phạm tội Bất Cộng Trụ’: được nói vì cũng có thể bị nghi ngờ ở khía cạnh vô tội, chính vì thế đã nói là “bóng dáng của tội Bất Cộng Trụ.” Sau khi làm cho giới trong sạch: trong sự vi phạm nào có nghi ngờ về tội Bất Cộng Trụ, thì lấy khía cạnh không có tội Bất Cộng Trụ, làm cho giới trong sạch bằng cách thanh lọc các tội có thể sám hối và xuất tội. Ba mươi hai thể trược: được nói theo cách ẩn dụ do tính chất rõ ràng, có thể suy niệm bất kỳ điều gì mình thích. Đề mục thiền được kết nối: được kết nối bằng tâm theo một chuỗi liên tục, không bị gián đoạn ở giữa do sự phân tán có nguồn gốc từ sự hối hận. Các hành: được nói theo nghĩa đề mục thiền quán. Vì đối với người có tội, ngay cả đề mục thiền đã thuần thục cũng không hiện khởi tốt, huống nữa là người phạm tội Bất Cộng Trụ. Vì tâm của người đó không thể tập trung do xu hướng hối hận. Nhưng đối với một người có nhiều tầm và tán loạn v.v… dù có giới trong sạch, tâm cũng không định, điều đó không nên được coi là có nguồn gốc từ tội Bất Cộng Trụ ở đây. Sự không định của tâm ở đây được nói nhắm đến sự hối hận có nguồn gốc từ tội đã làm, do đó nói là bởi ngọn lửa hối hận… v.v… Bởi tự mình: người là chủ thể biết bằng tâm là công cụ, hoặc dùng cách sở dụng trong cách chủ cách, có nghĩa là tự mình biết.

Catubbidhavinayādikathāvaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về các loại Luật v.v… đã kết thúc.

Padabhājanīyavaṇṇanā

Giải thích về Phân Tích Từ Ngữ

Yo viya dissatīti yādiso, yaṃ-saddatthe yathā-saddo vattatīti āha ‘‘yena vā tena vā yutto’’ti. Yena tenāti hi padadvayena aniyamato yaṃ-saddatthova dassito. Vāsadhurayuttoti vipassanādhurayutto. Yā jāti assāti yaṃjāti, puggalo, sova yaṃjacco sakatthe yapaccayaṃ katvā. Gottavasena yena vā tena vā gottena yathāgotto vā tathāgotto vā hotūti sambandho. Sīlesūti pakatīsu. Atha khoti idaṃ kintūti imasmiṃ atthe. Kiṃ vuttaṃ hotīti attho. Imasmiṃ attheti imasmiṃ pārājikavisaye. Esoti yathāvuttehi pakārehi yutto. Ariyāyāti ‘‘uddissa ariyā tiṭṭhanti, esā ariyānaṃ yācanā’’ti evaṃ vuttāya, na, ‘‘dehi me’’ti kapaṇāya. Liṅgasampaṭicchanenāti ‘‘bhikkhaṃ carissāmī’’ti cittābhāvepi bhikkhāhāranissitapabbajjāliṅgassa sampaṭicchanena. Kājabhattanti kājehi ānītabhattaṃ. Adhammikāyāti adhisīlasikkhādibhikkhuguṇābhāvato vuttaṃ, tenāha ‘‘abhūtāyā’’ti. ‘‘Mayaṃ bhikkhū’’ti vadantā paṭiññāmatteneva bhikkhū, na atthatoti attho. Idañca ‘‘mayaṃ bhikkhū’’ti paṭijānanassāpi sambhavato vuttaṃ. ‘‘Mayaṃ bhikkhū’’ti appaṭijānantāpi hi bhikkhuvohāranimittassa liṅgassa gahaṇena ceva bhikkhūnaṃ dinnapaccayabhāgaggahaṇādinā ca bhikkhupaṭiññā eva nāma honti. Tathā hi vuttaṃ puggalapaññattiaṭṭhakathāyaṃ
Giống như được thấy là như thế nào, từ ‘yathā’ (như thế nào) được dùng theo nghĩa của từ ‘yaṃ’ (điều gì), nên nói là “kết hợp với bất cứ điều gì.” Bằng hai từ ‘yena tena’ (với bất cứ điều gì), đã chỉ ra ý nghĩa của từ ‘yaṃ’ một cách không xác định. Người thực hành hạnh ở là người thực hành hạnh thiền quán. Người có dòng dõi nào là ‘yaṃjāti,’ là người, người đó cũng là ‘yaṃjacco’ bằng cách thêm tiếp vị ngữ ‘ya’ theo nghĩa của chính nó. Mối liên hệ là dù có dòng dõi nào đi nữa. Trong các giới là trong các bản chất. Nhưng mà: điều này có nghĩa là ‘kintūti’ (nhưng là gì). Có nghĩa là điều gì đã được nói? Trong ý nghĩa này: trong lĩnh vực Bất Cộng Trụ này. Người này là người kết hợp với các cách đã nói. Đối với người cao thượng: được nói trong câu “hướng đến người cao thượng mà họ đứng, đó là sự xin của người cao thượng,” không phải là lời xin đáng thương “hãy cho tôi.” Bằng việc chấp nhận tướng mạo: bằng việc chấp nhận tướng mạo xuất gia gắn liền với việc kiếm thức ăn, ngay cả khi không có tâm “tôi sẽ đi khất thực.” Thức ăn trong giỏ là thức ăn được mang đến trong giỏ. Không đúng pháp: được nói do không có các đức tính của Tỳ-khưu như học giới thượng v.v…, do đó nói là “không có thật.” Khi nói “chúng tôi là Tỳ-khưu,” họ chỉ là Tỳ-khưu trên danh nghĩa, không phải trên thực tế, đó là ý. Và điều này cũng được nói do có thể có sự tự nhận là “chúng tôi là Tỳ-khưu.” Vì ngay cả khi không tự nhận là “chúng tôi là Tỳ-khưu,” bằng việc mang tướng mạo là dấu hiệu của Tỳ-khưu và bằng việc nhận phần vật dụng được cúng dường cho Tỳ-khưu v.v…, họ cũng được gọi là tự nhận là Tỳ-khưu. Cụ thể, đã được nói trong Chú giải Puggalapaññatti:

‘‘‘Abrahmacārī brahmacāripaṭiñño’ti aññe brahmacārino sunivatthe supārute sumbhakapattadhare gāmanigamajanapadarājadhānīsu piṇḍāya caritvā jīvikaṃ kappente disvā sayampi tādisena ākārena tathā paṭipajjanato ‘ahaṃ brahmacārī’ti paṭiññaṃ dento viya hoti. ‘Ahaṃ bhikkhū’ti vatvā uposathaggādīni pavisanto pana brahmacāripaṭiñño hotiyeva, tathā saṅghikaṃ lābhaṃ gaṇhanto’’ti (pu. pa. aṭṭha. 91).

“‘Người không phạm hạnh tự nhận là người phạm hạnh’: khi thấy các người phạm hạnh khác mặc y chỉnh tề, mang bát sạch sẽ, đi khất thực trong làng, thị trấn, xứ sở, kinh thành để nuôi mạng, người đó cũng hành xử theo cách tương tự, giống như đang tự nhận rằng ‘tôi là người phạm hạnh.’ Khi nói ‘tôi là Tỳ-khưu’ rồi vào nhà Bố-tát v.v…, thì chắc chắn là người tự nhận là người phạm hạnh, cũng vậy khi nhận lợi lộc của Tăng” (chú giải pu. pa. 91).

Tasmā evarūpehi paṭiññāya bhikkhūhi gotrabhupariyosānehi saddhiṃ sambhogaparibhogo na vaṭṭati, alajjīparibhogova hoti. Sañcicca āpattiāpajjanādialajjīlakkhaṇaṃ pana ukkaṭṭhānaṃ bhikkhūnaṃ vasena vuttaṃ sāmaṇerādīnampi alajjīvohāradassanato. ‘‘Alajjīsāmaṇerehi hatthakammampi na kāretabba’’nti hi vuttaṃ. Yathāvihitapaṭipattiyaṃ atiṭṭhanañhi sabbasādhāraṇaṃ alajjīlakkhaṇaṃ. Dussīlā liṅgaggahaṇato paṭṭhāya yathāvihitapaṭipattiyā abhāvato ekantā lajjinova mahāsaṅghikādinikāyantarikā viya, liṅgatthenakādayo viya, ca. Yāva 11 ca tesaṃ bhikkhupaṭiññā anuvattati, tāva bhikkhu eva, tehi ca paribhogo alajjipaabhogova, tesañca bhikkhusaṅghasaññāya dinnaṃ saṅghe dinnaṃ nāma hoti. Vuttañhi bhagavatā –
Do đó, không được phép hưởng dụng và tiêu dùng cùng với các Tỳ-khưu trên danh nghĩa như vậy, những người chỉ còn lại dòng dõi, đó chỉ là sự hưởng dụng của người không biết hổ thẹn. Nhưng đặc tính không biết hổ thẹn như cố ý phạm tội v.v… được nói theo nghĩa các Tỳ-khưu cao quý, do có cách nói không biết hổ thẹn đối với cả sa-di v.v… Vì đã nói rằng “ngay cả công việc tay chân cũng không được nhờ các sa-di không biết hổ thẹn làm.” Việc không đứng vững trong cách hành xử đã được quy định là đặc tính không biết hổ thẹn chung cho tất cả. Những người vô giới, từ khi mang tướng mạo, do không có cách hành xử đã được quy định, nên hoàn toàn là những người không biết hổ thẹn, giống như những người thuộc các bộ phái khác như Mahāsaṅghika v.v…, và giống như những kẻ trộm tướng mạo v.v… Và cho đến khi sự tự nhận là Tỳ-khưu của họ còn tiếp diễn, họ vẫn là Tỳ-khưu, và sự hưởng dụng với họ chỉ là sự hưởng dụng của người không biết hổ thẹn, và những gì được cúng dường cho họ với ý nghĩ là Tăng chúng cũng được gọi là cúng dường cho Tăng. Đức Thế Tôn đã nói:

‘‘Bhavissanti kho panānanda, anāgatamaddhānaṃ gotrabhuno kāsāvakaṇṭhā dussīlā pāpadhammā, tesu dussīlesu saṅghaṃ uddissa dānaṃ dassanti, tadāpāhaṃ, ānanda, saṅghagataṃ dakkhiṇaṃ asaṅkhyeyyaṃ appameyyaṃ vadāmī’’ti (ma. ni. 3.380).

“Này Ānanda, trong tương lai, sẽ có những người chỉ còn dòng dõi, mặc y vàng ở cổ, vô giới, có pháp ác, người ta sẽ cúng dường cho Tăng trong những người vô giới đó, lúc đó, này Ānanda, ta nói rằng sự cúng dường cho Tăng là vô số, vô lượng” (ma. ni. 3.380).

Bhagavato saṅghaṃ uddissa dinnattā dakkhiṇā asaṅkhyeyyā appameyyā jātā. Dussīlānaṃ dinnattā nāti ce? Na, tesu saṅghaṃ uddissāti gotrabhūnaṃ paṭiggāhakattena parāmaṭṭhattā, itarathā ‘‘yesu kesuci gahaṭṭhesu vā pabbajitesu vā saṅghaṃ uddissā’’ti vattabbatāpasaṅgato, tathā ca ‘‘tadāpāhaṃ, ānandā’’ti heṭṭhimakoṭidassanassa payojanaṃ na siyā. Tasmā gotrabhūnampi abhāve saṅghaṃ uddissa dānaṃ natthi, heṭṭhimakoṭiyā tesupi dinnā saṅghagatā dakkhiṇā asaṅkhyeyyā, na tato paraṃ sijjhatīti tepi paṭiññāya bhikkhu evāti gahetabbaṃ.
Vì được cúng dường hướng đến Tăng của Đức Thế Tôn, nên sự cúng dường trở thành vô số, vô lượng. Vậy không phải là do được cúng dường cho những người vô giới sao? Không phải, vì họ được xem là người nhận thay mặt cho Tăng trong câu “hướng đến Tăng trong họ,” nếu không, sẽ phải nói là “hướng đến Tăng trong bất kỳ người tại gia hay người xuất gia nào,” và như vậy, mục đích của việc chỉ ra mức thấp nhất là “lúc đó, này Ānanda” sẽ không có. Do đó, nếu không có cả những người chỉ còn dòng dõi, thì không có sự cúng dường hướng đến Tăng, ở mức thấp nhất, sự cúng dường cho họ cũng là sự cúng dường cho Tăng vô lượng, không thể thành tựu hơn thế nữa, do đó cần hiểu rằng họ cũng là Tỳ-khưu trên danh nghĩa.

Brahmaghosanti uttamaghosaṃ, brahmuno ghosasadisaṃ vā ghosaṃ. Ehi bhikkhūti ‘‘bhikkhū’’tisambodhanaṃ. Saṃsāre bhayaikkhaka tassa bhayassa sabbaso vināsanatthaṃ tisaraṇaṃ, sāsanaṃ vā ehi manasā ‘‘tāṇaṃ leṇa’’nti pavisa upagaccha. Upagantvāpi cara brahmacariyanti sāsanabrahmacariyaṃ maggabrahmacariyañca carassu. Bhaṇḍūti muṇḍitakeso. Vāsīti dantakaṭṭhādicchedanavāsi. Bandhananti kāyabandhanaṃ. Yutto yogo samādhipaññāvasena so yuttayogo, tassa aṭṭhete parikkhārāti seso. Sarīre paṭimukkehiyeva upalakkhitoti seso. ‘‘Tīṇi satānī’’ti vattabbe gāthābandhasukhatthaṃ ‘‘tīṇi sata’’nti vuttaṃ.
Tiếng Phạm (Phạm âm) là tiếng nói tối thượng, hoặc tiếng nói giống như tiếng của Phạm thiên. Hãy đến, Tỳ-khưu là lời gọi “Tỳ-khưu.” Hãy đến bằng tâm, hãy vào, hãy đến gần giáo pháp, là nơi nương tựa, là nơi ẩn náu để tiêu diệt hoàn toàn nỗi sợ hãi trong vòng luân hồi, nỗi sợ hãi mà người thấy sợ trong luân hồi. Dù đã đến gần, cũng hãy thực hành phạm hạnh, hãy thực hành phạm hạnh của giáo pháp và phạm hạnh của đạo lộ. Bhaṇḍu là người đã cạo tóc. Vāsī là dao để cắt tăm xỉa răng v.v… Sự buộc là dây lưng. Sự kết hợp của định và tuệ là sự kết hợp, tám vật dụng này là của người đó, đó là phần còn lại. Được nhận biết bởi những gì được mang trên người, đó là phần còn lại. Khi lẽ ra phải nói “ba trăm,” đã nói là “ba trăm” để cho vần điệu của bài kệ được dễ dàng.

Tasmāti bhagavā heṭṭhā vuttaṃ parāmasati. Heṭṭhā hi ‘‘ahaṃ kho pana, kassapa, jānaññeva vadāmi ‘jānāmī’ti, passaññeva vadāmi ‘passāmī’’’ti (saṃ. ni. 2.154) vuttaṃ, taṃ parāmasati, yasmā ahaṃ jānaṃ vadāmi, tasmāti attho. Ihāti imasmiṃ sāsane. Tibbanti mahantaṃ. Paccupaṭṭhitaṃ bhavissatīti therādiupasaṅkamanato puretarameva tesu yaṃnūna me hirottappaṃ upaṭṭhitaṃ bhavissatīti attho. Kusalūpasaṃhitanti anavajjadhammanissitaṃ. Aṭṭhiṃ katvāti attānaṃ tena dhammena aṭṭhikaṃ katvā, taṃ vā dhammaṃ ‘‘esa me attho’’ti atthaṃ katvā. Ohitasototi dhamme nihitasoto. Evañhi te, kassapa, sikkhitabbanti ñāṇasotañca pasādasotañca odahitvā ‘‘dhammaṃ sakkaccameva suṇissāmī’’ti evameva tayā sikkhitabbaṃ. Sātasahagatā ca me kāyagatāsatīti asubhesu ceva ānāpāne ca paṭhamajjhānavasena sukhasampayuttakāyagatāsati. Yaṃ panetassa ovādassa sakkaccapaṭiggahaṇaṃ, ayameva therassa pabbajjā ca upasampadā ca ahosi (saṃ. ni. aṭṭha. 2.2.154).
Do đó: Đức Thế Tôn đề cập lại điều đã nói ở dưới. Ở dưới, đã nói rằng “Này Kassapa, ta biết mà nói là ‘ta biết,’ thấy mà nói là ‘ta thấy’” (saṃ. ni. 2.154), Ngài đề cập lại điều đó, có nghĩa là vì ta biết mà nói, do đó. Ở đây: trong giáo pháp này. Mãnh liệt là lớn. Sẽ hiện khởi: có nghĩa là trước khi đến gần các vị trưởng lão v.v…, tàm và quý sẽ hiện khởi trong họ. Liên quan đến thiện: nương vào pháp không có tội. Làm thành xương cốt: làm cho tự thân mình trở thành xương cốt bằng pháp đó, hoặc làm cho pháp đó trở thành mục đích của mình rằng “đó là mục đích của tôi.” Người lắng tai nghe: người lắng tai nghe pháp. Này Kassapa, con phải học như vậy: sau khi đã hướng dòng trí và dòng tín, con phải học như vậy rằng “ta sẽ chỉ lắng nghe pháp một cách cung kính.” Và niệm thân hành của ta đi kèm với hỷ lạc: niệm thân hành kết hợp với hỷ lạc theo cách của sơ thiền trong các đề mục bất tịnh và trong đề mục hơi thở. Và việc chấp nhận lời dạy này một cách cung kính chính là sự xuất gia và thọ giới cụ túc của trưởng lão (chú giải saṃ. ni. 2.2.154).

Uddhumātakapaṭibhāgārammaṇaṃ jhānaṃ uddhumātakasaññā. Kasiṇārammaṇaṃ rūpāvacarajjhānaṃ rūpasaññā. Imeti saññāsīsena niddiṭṭhā ime dve jhānadhammā. Sopāko ca bhagavatā puṭṭho ‘‘rūpāvacarabhāvena ekatthā, byañjanameva nāna’’nti āha. Āraddhacittoti ārādhitacitto. Garudhammapaṭiggahaṇādiupasampadā upari sayameva āvi bhavissati.
Thiền có đề mục là tướng tử thi sình lên là tưởng sình lên. Thiền sắc giới có đề mục là biến xứ là tưởng sắc. Những điều này: hai pháp thiền này được chỉ ra bằng đầu đề là tưởng. Và Sopāka, khi được Đức Thế Tôn hỏi, đã nói rằng “về mặt sắc giới thì là một, chỉ có từ ngữ là khác nhau.” Người có tâm hoan hỷ là người có tâm được vui lòng. Sự thọ giới cụ túc bằng cách chấp nhận các trọng pháp v.v… sẽ được làm rõ ở trên.

Sabbantimena pariyāyenāti sabbantimena paricchedena. Ñatticatutthā kammavācā upasampadākammassa kāraṇattā ṭhānaṃ, tassa ṭhānassa arahaṃ anucchavikanti vatthudosādivinimuttakammaṃ ‘‘ṭhānāraha’’nti vuttaṃ vatthādidosayuttassa kammassa sabhāvato kammavācārahattābhāvā. Atha vā ṭhānanti nibbānappattihetuto sikkhattayasaṅgahaṃ sāsanaṃ vuccati, tassa anucchavikaṃ kammaṃ ṭhānārahaṃ. Yathāvihitalakkhaṇena hi kammena upasampannova sakalaṃ sāsanaṃ samādāya paripūretumarahati. Tasmā parisuddhakammavācāpariyosānaṃ sabbaṃ saṅghakiccaṃ ṭhānārahaṃ nāma, tenāha ‘‘satthusāsanārahenā’’ti, sīlādisakalasāsanaparipuṇṇassa anucchavikenāti attho. Ayaṃ imasmiṃ attheti ñatticatutthakammena upasampannasseva sabbasikkhāpadesu vuttattā kiñcāpi ehibhikkhūpasampadādīhi upasampannānaṃ suddhasattānaṃ paṇṇattivajjasikkhāpadavītikkamepi abhabbatā vā dosābhāvo vā saddato paññāyati, tathāpi atthato tesampi paṇṇattivajjesu, lokavajjesupi vā surāpānādilahukesu magguppattito pubbe asañciccādinā āpattiāpajjanaṃ sijjhatiyeva. Tathā hi ‘‘dve puggalā abhabbā āpattiṃ āpajjituṃ buddhā ca paccekabuddhā ca. Dve puggalā bhabbā āpattiṃ āpajjituṃ bhikkhū ca bhikkhuniyo cā’’ti (pari. 322) vuttaṃ. Ñatticatutthena kammena upasampannoti idaṃ pana sabbasikkhāpadavītikkamārahe sabbakālike ca bhikkhū gahetvā yebhuyyavasena vuttaṃ. Niruttivasenāti padaniruttivasena. Abhilāpavasenāti vohāravasena. Guṇavasenāti bhikkhuvohāranimittānaṃ guṇānaṃ vasena.
Theo cách cuối cùng: theo sự phân định cuối cùng. Vì Yết-ma tứ bạch là nguyên nhân của Yết-ma truyền giới cụ túc, nên nó là nền tảng, Yết-ma không có lỗi về đối tượng v.v…, xứng đáng, phù hợp với nền tảng đó, được gọi là “xứng đáng với nền tảng,” vì Yết-ma có lỗi về đối tượng v.v… về bản chất không phải là Yết-ma. Hoặc là, nền tảng được gọi là giáo pháp, là sự tổng hợp của ba học, vì là nguyên nhân đạt đến Niết-bàn, Yết-ma phù hợp với nó là xứng đáng với nền tảng. Vì chỉ người đã thọ giới cụ túc bằng Yết-ma có đặc tính đã được quy định mới có thể thọ trì và hoàn thành toàn bộ giáo pháp. Do đó, tất cả các phận sự của Tăng kết thúc bằng Yết-ma trong sạch được gọi là xứng đáng với nền tảng, do đó nói là “xứng đáng với giáo huấn của Bậc Đạo Sư,” có nghĩa là phù hợp với người đã hoàn thành toàn bộ giáo pháp như giới v.v… Điều này trong ý nghĩa này: vì đã được nói trong tất cả các điều học đối với người đã thọ giới cụ túc bằng Yết-ma tứ bạch, nên dù đối với những chúng sanh trong sạch đã thọ giới cụ túc bằng cách “hãy đến, Tỳ-khưu” v.v…, dù có vi phạm các điều học do chế định, sự không có khả năng hoặc không có lỗi có thể được hiểu theo từ ngữ, nhưng về mặt ý nghĩa, việc phạm tội do không cố ý v.v… trước khi đạo lộ phát sinh trong các điều học do chế định, hoặc ngay cả trong các điều học bị thế gian chê trách nhẹ như uống rượu v.v…, vẫn có thể thành tựu. Cụ thể, đã nói rằng “hai người không có khả năng phạm tội là các vị Phật và các vị Phật Độc Giác. Hai người có khả năng phạm tội là các Tỳ-khưu và các Tỳ-khưu-ni” (pari. 322). Người đã thọ giới cụ túc bằng Yết-ma tứ bạch: điều này được nói theo số đông, bằng cách lấy tất cả các Tỳ-khưu trong mọi thời đại, những người xứng đáng vi phạm tất cả các điều học. Theo ngữ nguyên: theo ngữ nguyên của từ. Theo cách nói: theo cách gọi thông thường. Theo đức tính: theo các đức tính là dấu hiệu của cách gọi Tỳ-khưu.

Sājīvapadabhājanīyavaṇṇanā

Giải thích về Phân Tích Từ Sājīva

Vivaṭṭūpanissayā sīlādayo lokiyehi abhivisiṭṭhattā adhisīlādivohārena vuttāti dassetuṃ katamaṃ panātiādi āraddhaṃ. Tattha pañcaṅgadasaṅgasīlanti abuddhuppādakāle sīlaṃ sandhāya vuttaṃ tassa vivaṭṭūpanissayattābhāvā. Yaṃ pana buddhuppāde ratanattayaguṇaṃ tathato ñatvā sāsane suniviṭṭhasaddhāhi upāsakopāsikāhi ceva sāmaṇerasikkhamānāhi ca rakkhiyamānaṃ pañcaṅgaaṭṭhaṅgadasaṅgasīlaṃ, tampi adhisīlameva magguppattihetuto. Vipassanāmagguppattinimittatāya hi pātimokkhasaṃvarasīlaṃ lokiyānaṃ sīlehi adhisīlaṃ jātaṃ adhicittaṃ viya. Na hi vipassanāmagganimittataṃ muñcitvā lokiyacittato adhicittassa añño koci viseso upalabbhati, tadubhayañca anādimato saṃsāravaṭṭassa attādisāravirahitatāya tilakkhaṇabbhāhatattaṃ, ‘‘ahaṃ mamā’’ti ākārena pavattaavijjātaṇhādidosamūlakattañca, taṃdosamūlaviddhaṃsanasamatthāya sīlacittabalopatthaddhāya vipassanāya ukkaṃseneva tassa saṃsāravaṭṭassa vigamañca, tadupadesakassa sammāsambuddhassa sabbaññutādiaparimitaguṇagaṇayogena aviparītasaddhammadesakattañca yāthāvato ñatvā paṭipannena samādāya sikkhitabbatāya vivaṭṭūpanissayaṃ jātaṃ, na aññena kāraṇena, tañca vivaṭṭūpanissayattaṃ yadi sāsane pañcasīlādissāpi samānaṃ, kimidaṃ adhisīlaṃ na siyā. Pañcasīlādimatte ṭhitānañhi anāthapiṇḍikādīnaṃ gahaṭṭhānampi maggo uppajjati. Na hi adhisīlādhicittaṃ vinā magguppatti hoti, tañca kiñcāpi kesañci anupanissayatāya tasmiṃ attabhāve magguppattiyā hetu na hoti, tathāpi bhavantare avassaṃ hotevāti adhisīlameva kālaṃ karontānaṃ kalyāṇaputhujjanānaṃ pātimokkhasaṃvarasīlaṃ viya, tenāha buddhuppādeyeva ca pavattatītiādi. Vivaṭṭaṃ patthetvā rakkhiyamānampi pañcasīlādi buddhuppādeyeva pavattati. Na hi taṃ paññattintiādi pana ukkaṭṭhavasena sabbaṃ pātimokkhaṃ sandhāya vuttaṃ. Tadekadesabhūtampi hi pāṇātipātādinnādānādigahaṭṭhasīlampi. Buddhāyeva vinaye pārājikasuttavibhaṅgādīsu āgatavasena sabbaso kāyavacīdvāresu magguppattiyā vibandhakaajjhācārasotaṃ vicchinditvā magguppattiyā padaṭṭhānabhāvena paññapetuṃ sakkonti, na aññe. Magguppattiṃ sandhāya hissa adhisīlatā vuttā. Tenāha ‘‘pātimokkhasaṃvaratopi ca maggaphalasampayuttameva sīlaṃ adhisīla’’nti. Tasseva hi adhisīlanti abyavadhānena maggādhiṭṭhānāti. Idha anadhippetanti imasmiṃ paṭhamapārājikavisaye ‘‘sikkhā’’ti anadhippetaṃ.
Để chỉ ra rằng các pháp như giới v.v… là nơi nương tựa của sự giải thoát, vì vượt trội hơn các pháp thế gian, nên được gọi bằng cách gọi thượng giới v.v…, đã bắt đầu bằng câu nhưng điều gì… v.v… Ở đó, giới năm yếu tố, mười yếu tố được nói nhắm đến giới trong thời kỳ không có Đức Phật ra đời, vì nó không phải là nơi nương tựa của sự giải thoát. Nhưng giới năm yếu tố, tám yếu tố, mười yếu tố được các nam nữ cư sĩ, các sa-di và cô ni tu tập sự có đức tin vững chắc trong giáo pháp, sau khi đã hiểu đúng về đức tính của Tam Bảo trong thời kỳ Đức Phật ra đời, giữ gìn, giới đó cũng chính là thượng giới vì là nguyên nhân phát sinh đạo lộ. Vì là dấu hiệu phát sinh thiền quán và đạo lộ, nên giới Giới Bổn chế ngự đã trở thành thượng giới so với giới của người thế gian, giống như thượng tâm. Vì không có sự khác biệt nào khác của thượng tâm so với tâm thế gian ngoài việc là dấu hiệu của thiền quán và đạo lộ, và cả hai điều đó đều bị ba tướng chi phối do không có tự ngã v.v… trong vòng luân hồi vô thủy, và có nguồn gốc từ các lỗi lầm như vô minh, tham ái v.v… phát sinh theo hình thức “tôi, của tôi,” và sự chấm dứt của vòng luân hồi đó chỉ bằng sự thăng hoa của thiền quán được hỗ trợ bởi sức mạnh của giới và tâm, có khả năng phá hủy nguồn gốc của các lỗi lầm đó, và việc nó trở thành nơi nương tựa của sự giải thoát là do phải được người thực hành, người đã hiểu đúng rằng Bậc Đạo Sư chỉ dạy của nó, Đức Phật Toàn Giác, là người thuyết giảng chánh pháp không sai lầm do có vô số đức tính như toàn giác v.v…, thọ trì và học hỏi, không phải vì lý do nào khác. Và nếu tính chất nơi nương tựa của sự giải thoát đó cũng có chung cho cả giới năm v.v… trong giáo pháp, tại sao đây lại không phải là thượng giới? Vì đạo lộ cũng phát sinh cho cả những người tại gia như Anāthapiṇḍika v.v…, những người chỉ đứng trong giới năm v.v… Không có sự phát sinh đạo lộ nếu không có thượng giới và thượng tâm, và dù đối với một số người, do không phải là nơi nương tựa, nó không phải là nguyên nhân phát sinh đạo lộ trong thân phận đó, nhưng trong kiếp khác, nó chắc chắn là nguyên nhân, do đó nó chính là thượng giới, giống như giới Giới Bổn chế ngự của những phàm phu thiện lành chết đi. Do đó nói là và chỉ phát sinh trong thời kỳ Đức Phật ra đời v.v… Giới năm v.v… được giữ gìn với mong muốn giải thoát cũng chỉ tồn tại trong thời kỳ Đức Phật ra đời. Vì điều đó không phải là sự chế định… v.v… được nói nhắm đến toàn bộ Giới Bổn theo nghĩa cao quý. Vì ngay cả giới của người tại gia như không sát sanh, không trộm cắp v.v…, là một phần của nó, chỉ có các vị Phật mới có thể chế định theo cách đã có trong Phân tích kinh Bất Cộng Trụ v.v… trong luật tạng, trong tất cả các cửa thân và khẩu, bằng cách cắt đứt dòng chảy giao cấu cản trở sự phát sinh đạo lộ, để làm nền tảng cho sự phát sinh đạo lộ, không phải ai khác. Tính chất thượng giới của nó được nói nhắm đến sự phát sinh đạo lộ. Do đó nói là “và so với giới Giới Bổn chế ngự, giới kết hợp với đạo và quả chính là thượng giới.” Vì chính nó là nền tảng của đạo một cách trực tiếp. Không được ngụ ý ở đây: trong lĩnh vực Bất Cộng Trụ thứ nhất này, “học” không được ngụ ý.

Lokiyaaṭṭhasamāpatticittānīti sāsanasabhāvaṃ ajānantehi lokiyajanehi samāpajjitabbāni aṭṭha rūpārūpajjhānasampayuttacittāni sandhāya vuttaṃ. Na hi mahaggatesu lokiyalokuttarabhedo atthi, yena lokiyavisesanaṃ lokuttaranivattanaṃ siyā. Tasmā sāsanikehi samāpajjitabbamahaggatajjhānanivattanameva lokiyavisesanaṃ kataṃ. Yathā cettha, evaṃ kāmāvacarāni pana aṭṭha kusalacittānīti etthāpi lokiyavisesanaṃ kātabbameva. Ayameva hi adhicittato cittassa bhedo, yaṃ sāsanaṃ ajānantassa puggalassa samuppajjanaṃ. Evañca abuddhuppādepi sāsanasabhāvaṃ jānantānaṃ paccekabuddhādīnampi sīlacittānaṃ adhisīlādhicittatā samatthitā hoti. Na vinā buddhuppādāti idaṃ pana aññesaṃ abhisamayahetubhāvena paccekabuddhabodhisattādīnaṃ desanāsāmatthiyābhāvato vuttaṃ. Āyatiṃ vāsanāhetuṃ pana sīlacittaṃ tepi desentiyeva, tañca maggahetutāya adhisīlādhicittampi hontaṃ appakatāya vipphārikatābāhujaññattābhāvena abbohārikanti ‘‘buddhuppādeyevā’’ti avadhāraṇaṃ katanti veditabbaṃ. Na hi taṃsamāpannotiādiaṭṭhakathāvacanehi idha adhicittaniddese, upari adhipaññāniddese ca maggaphalasampayuttaadhicittaadhipaññānameva paṭikkhepato lokiyādhicittādhipaññānaṃ idha adhippetatā, taṃ dvayaṃ samāpannassāpi methunadhammasamāpajjanasabhāvo ca viññāyati, pāḷiyaṃ pana ‘‘yāyaṃ adhisīlasikkhā, ayaṃ imasmiṃ atthe adhippetā sikkhā’’ti vuttattā lokiyāpi adhicittādhipaññā anadhippetāti viññāyati. Tasmā pāḷiyaṃ aṭṭhakathāyañca evamadhippāyo veditabbo – ‘‘methunaṃ dhammaṃ paṭisevissāmī’’ti citte uppannamatte lokiyaṃ adhicittaṃ adhipaññā ca parihāyati, adhisīlaṃ pana cittuppādamattena na parihāyatīti pāḷiyaṃ adhisīlasikkhāva vuttā. Aṭṭhakathāyaṃ pana paṭiladdhalokuttaramaggassa bhikkhuno ‘‘methunaṃ paṭisevissāmī’’ti cittampi na uppajjati sabbaso akuppadhammattā, puthujjanānaṃ samāpattilābhīnampi kenaci kāraṇena uppajjati kuppadhammattāti imaṃ visesaṃ dassetuṃ ‘‘na hi taṃsamāpanno’’ti lokuttarāva paṭikkhittāti veditabbaṃ.
Các tâm của tám thiền định thế gian được nói nhắm đến tám tâm kết hợp với thiền sắc giới và vô sắc giới mà những người thế gian không biết bản chất của giáo pháp có thể đắc. Vì không có sự phân biệt giữa thế gian và siêu thế trong các pháp đáo đại, để từ bổ nghĩa thế gian có thể loại trừ siêu thế. Do đó, từ bổ nghĩa thế gian được dùng để loại trừ thiền đáo đại mà những người trong giáo pháp có thể đắc. Giống như ở đây, trong câu nhưng tám tâm thiện dục giới, cũng phải thêm từ bổ nghĩa thế gian. Đây chính là sự khác biệt giữa tâm và thượng tâm, là sự phát sinh đối với người không biết giáo pháp. Và như vậy, tính chất thượng giới và thượng tâm của giới và tâm của các vị Phật Độc Giác v.v…, những người biết bản chất của giáo pháp ngay cả trong thời kỳ không có Đức Phật ra đời, cũng được chứng minh. Không có nếu không có Đức Phật ra đời: điều này được nói do các vị Phật Độc Giác và Bồ-tát v.v… không có khả năng thuyết giảng để làm nhân duyên cho sự chứng đắc của những người khác. Nhưng giới và tâm là nhân duyên cho tập quán trong tương lai thì họ vẫn thuyết giảng, và dù là thượng giới và thượng tâm do là nhân duyên của đạo lộ, nhưng vì không được thực hành, không được lan rộng, không được biết đến nhiều, nên không được xem xét, do đó sự nhấn mạnh “chỉ trong thời kỳ Đức Phật ra đời” đã được thực hiện. Bằng những lời nói của Chú giải như vì người đã đắc thiền đó… v.v…, ở đây trong phần chỉ định thượng tâm, và ở trên trong phần chỉ định thượng tuệ, vì chỉ có sự bác bỏ thượng tâm và thượng tuệ kết hợp với đạo và quả, nên có thể hiểu rằng thượng tâm và thượng tuệ thế gian được ngụ ý ở đây, và có thể hiểu rằng ngay cả người đã đắc hai điều đó cũng có bản chất giao hợp. Nhưng trong Pāḷi, vì đã nói rằng “học giới thượng này, đây là học được ngụ ý trong ý nghĩa này,” nên có thể hiểu rằng ngay cả thượng tâm và thượng tuệ thế gian cũng không được ngụ ý. Do đó, trong Pāḷi và trong Chú giải, cần hiểu chủ đích như thế này: ngay khi tâm “tôi sẽ giao hợp” phát sinh, thượng tâm và thượng tuệ thế gian bị suy thoái, nhưng thượng giới không bị suy thoái chỉ bằng sự phát sinh của tâm, do đó trong Pāḷi, chỉ có học giới thượng được nói đến. Nhưng trong Chú giải, để chỉ ra sự khác biệt này rằng đối với Tỳ-khưu đã đắc đạo siêu thế, ngay cả tâm “tôi sẽ giao hợp” cũng không phát sinh vì hoàn toàn là pháp bất động, còn đối với các phàm phu đã đắc thiền định, vì là pháp động, nên do một lý do nào đó, tâm đó vẫn phát sinh, đã nói là “vì người đã đắc thiền đó” để bác bỏ chỉ các pháp siêu thế.

Atthi dinnanti ettha dinnanti dānacetanā adhippetā, tassa dinnassa phalaṃ atthīti attho. Esa nayo atthi yiṭṭhanti etthāpi. Ādi-saddena hutādīnaṃ saṅgaho. Tattha yiṭṭhanti mahāyāgo sabbasādhāraṇaṃ mahādānameva. Hutanti pahonakasakkāro, attano vā hotu, paresaṃ vā dasa akusalakammapathā, sabbepi vā akusalā dhammā anatthuppādanato na sakaṃ kammaṃ nāma, tabbiparītā kusalā dhammā sakaṃ nāma, tadubhayampi vā kusalākusalaṃ kammassakomhītiādivacanato sati saṃsārappavattiyaṃ adhimuccanaṭṭhena sattānaṃ sakanti evaṃ kammassakatāya sakabhāve attano santakatāya uppajjanakañāṇaṃ kammassakataññāṇaṃ, upalakkhaṇamattañcetaṃ. Sāsananissitā pana sabbāpi vaṭṭagāminikusalapaññā kammassakataññāṇe paviṭṭhā. Sāsananissitā hi vivaṭṭagāminī sabbāpi paññā ‘‘saccānulomikañāṇa’’nti vuccati. Sā eva ca adhipaññā tadavasesaṃ sabbaṃ kammassakataññāṇanti veditabbaṃ, teneva bhagavā ‘‘kammassakataññāṇaṃ saccānulomikañāṇaṃ maggasamaṅgissa ñāṇaṃ phalasamaṅgissa ñāṇa’’nti sabbampi ñāṇacatukkeyeva saṅgahesi. Tilakkhaṇākāraparicchedakaṃ pana vipassanāñāṇanti idaṃ pana maggassa āsannapaccayatāya ukkaṭṭhavasena vuttaṃ. Taditarāsañhi ratanattayānussaraṇādipaññānampi maggahetutāya adhipaññatā samānāvāti gahetabbaṃ.
Có sự cho: ở đây, sự cho được ngụ ý là tư tưởng bố thí, có nghĩa là có quả của sự cho đó. Phương pháp này cũng áp dụng cho câu có sự cúng dường. Với từ ‘v.v…’, bao gồm cả việc tế lễ v.v… Ở đó, sự cúng dường là đại lễ, là sự bố thí lớn chung cho tất cả. Tế lễ là sự cúng dường cho khách, hoặc của mình, hoặc của người khác. Mười nghiệp đạo bất thiện, hoặc tất cả các pháp bất thiện, vì tạo ra điều không lợi ích, nên không phải là nghiệp của mình; các pháp thiện ngược lại thì là của mình; hoặc cả hai điều đó, thiện và bất thiện, theo lời nói ‘chúng ta là chủ nhân của nghiệp,’ vì được chấp nhận trong sự lưu chuyển của luân hồi, nên là của chúng sanh. Trí tuệ phát sinh về tính chất sở hữu của mình, về việc là của mình do tính chất sở hữu nghiệp như vậy, là trí sở hữu nghiệp, và đây chỉ là một ví dụ. Tất cả tuệ thiện thuộc về luân hồi, nương vào giáo pháp, đều được bao gồm trong trí sở hữu nghiệp. Tất cả tuệ thuộc về sự giải thoát, nương vào giáo pháp, được gọi là “trí tùy thuận chân lý.” Và đó chính là thượng tuệ, phần còn lại đều là trí sở hữu nghiệp, do đó Đức Thế Tôn đã gộp tất cả vào bốn loại trí là “trí sở hữu nghiệp, trí tùy thuận chân lý, trí của người có đạo, trí của người có quả.” Nhưng tuệ quán phân định theo hình thức ba tướng: điều này được nói theo nghĩa cao quý, vì là nhân duyên gần của đạo. Cần hiểu rằng các tuệ khác như niệm Tam Bảo v.v… cũng có tính chất thượng tuệ do là nhân duyên của đạo.

Sājīvapadabhājanīyavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về Phân Tích Từ Sājīva đã kết thúc.

Paccakkhānavibhaṅgavaṇṇanā

Giải thích về Phân Tích Sự Xả Giới

Dubbalyeāvikateti yaṃnūnāhaṃ buddhaṃ paccakkheyyantiādinā dubbalabhāve pakāsite. Mukhāruḷhatāti lokajanānaṃ sattaṭṭhātiādīsu mukhāruḷhañāyenāti adhippāyo. Dirattatirattanti (pāci. 52) ettha yathā antarantarā sahaseyyāvasena tirattaṃ aggahetvā nirantarameva tisso rattiyo anupasampannena saddhiṃ sahaseyyāya aruṇuṭṭhāpanavasena tirattaggahaṇatthaṃ ‘‘dirattatiratta’’nti abyavadhānena vuttanti dirattaggahaṇassa payojanampi sakkā gahetuṃ, evamidhāpi dubbalyaṃ anāvikatvāti imassāpi gahaṇassa payojanamatthevāti dassetuṃ yasmā vā sikkhāpaccakkhānassātiādi vuttaṃ.
Khi sự yếu đuối đã được bộc lộ: khi đã bộc lộ sự yếu đuối bằng câu “ước gì tôi có thể xả bỏ Đức Phật” v.v… Sự quen thuộc trên miệng: có nghĩa là theo cách nói quen thuộc trên miệng của người đời như bảy, tám v.v… Hai ba đêm (Ưng Đối Trị 52): ở đây, giống như không lấy ba đêm theo cách ngủ chung cách quãng, mà nói liền nhau “hai ba đêm” để lấy ba đêm theo cách ngủ chung liên tục với người chưa thọ giới cụ túc cho đến khi rạng đông, cũng có thể hiểu được mục đích của việc lấy hai đêm. Cũng vậy ở đây, để chỉ ra rằng việc lấy câu không bộc lộ sự yếu đuối cũng có mục đích, đã nói là vì sự xả giới… v.v…

Idāni dubbalyaṃ anāvikatvāti imassa purimapadasseva vivaraṇabhāvaṃ vināpi visuṃ atthasabbhāvaṃ dassetuṃ apicātiādi vuttaṃ. Visesāvisesanti ettha yena vākyena dubbalyāvikammameva hoti, na sikkhāpaccakkhānaṃ, tattha sikkhāpaccakkhānadubbalyāvikammānaṃ aññamaññaṃ viseso hoti. Yena pana vacanena tadubhayampi hoti, tattha nevatthi viseso avisesopi, taṃ visesāvisesaṃ. ‘‘Kaṭha kicchajīvane’’ti dhātūsu paṭhitattā vuttaṃ ‘‘kicchajīvikappatto’’ti. Ukkaṇṭhanañhi ukkaṇṭhā, taṃ ito gatoti ukkaṇṭhito, kicchajīvikaṃ pattoti attho. Uddhaṃ gato kaṇṭho etissāti ukkaṇṭhā, anabhiratiyā vaje niruddhagogaṇo viya gamanamaggaṃ gavesanto puggalo ukkaṇṭho hoti, taṃ ukkaṇṭhaṃ. Anabhiratiṃ itotipi ukkaṇṭhitoti atthaṃ dassento āha – ‘‘uddhaṃ kaṇṭhaṃ katvā viharamāno’’ti. Sā ca ukkaṇṭhatā vikkhepenevāti vikkhittotiādi vuttaṃ.
Bây giờ, để chỉ ra rằng câu “không bộc lộ sự yếu đuối” có ý nghĩa riêng biệt mà không chỉ là giải thích cho vế trước, đã nói là hơn nữa… v.v… Sự khác biệt và không khác biệt: ở đây, câu nói nào chỉ bộc lộ sự yếu đuối, không phải là xả giới, thì ở đó có sự khác biệt giữa xả giới và bộc lộ sự yếu đuối. Nhưng câu nói nào có cả hai, thì ở đó không có sự khác biệt cũng không có sự không khác biệt, đó là sự khác biệt và không khác biệt. Vì được đọc trong các ngữ căn là “kaṭha trong sự sống khó khăn,” nên đã nói là “đã đạt đến sự sống khó khăn.” Sự chán nản là ‘ukkaṇṭhā,’ người đã thoát khỏi nó là ‘ukkaṇṭhito,’ có nghĩa là đã đạt đến sự sống khó khăn. Người có cổ vươn lên là ‘ukkaṇṭhā,’ người đang tìm đường đi giống như đàn bò bị nhốt trong chuồng do không hoan hỷ là ‘ukkaṇṭho,’ đó là sự chán nản. Để chỉ ra ý nghĩa là người đã chán nản vì không hoan hỷ, đã nói là: “người sống với cổ vươn lên.” Và sự chán nản đó chỉ do sự phân tán, nên đã nói là bị phân tán v.v…

Samaṇabhāvatoti upasampadato. Bhāvavikappākārenāti bhikkhubhāvato cavitvā yaṃ yaṃ gihiādibhāvaṃ pattukāmo ‘‘ahaṃ assa’’nti attano bhavanaṃ vikappeti, tena tena gihiādiākārena, attano bhavanassa vikappanākārenāti adhippāyo.
Từ thân phận Sa-môn là từ sự thọ giới cụ túc. Theo cách lựa chọn thân phận: sau khi đã rời bỏ thân phận Tỳ-khưu, muốn đạt đến thân phận tại gia nào, người đó lựa chọn sự tồn tại của mình rằng “tôi sẽ là người đó,” theo cách của người tại gia đó, có nghĩa là theo cách lựa chọn sự tồn tại của mình.

46.Pāḷiyaṃyadi panāhanti ahaṃ yadi buddhaṃ paccakkheyyaṃ, sādhu vatassāti attho. Apāhaṃ, handāhanti etthāpi vuttanayeneva attho folio. ‘‘Hoti me buddhaṃ paccakkheyya’’nti mama cittaṃ uppajjatīti vadati.
46. Trong Pāḷi, nếu tôi… có nghĩa là nếu tôi xả bỏ Đức Phật, thì thật tốt thay. Tôi… tôi… ở đây cũng cần hiểu ý nghĩa theo cách đã nói. Nói rằng “tâm của tôi phát sinh rằng tôi nên xả bỏ Đức Phật.”

50.Naramāmīti pabbajjāya dukkhabahulatāya sukhābhāvaṃ dasseti. Nābhiramāmīti pabbajjāya vijjamānepi anavajjasukhe attano abhiratiabhāvaṃ dasseti.
50.Tôi không vui: chỉ ra sự không có hạnh phúc trong đời sống xuất gia do có nhiều khổ. Tôi không hoan hỷ: chỉ ra sự không hoan hỷ của mình ngay cả trong hạnh phúc không có tội lỗi có trong đời sống xuất gia.

51.Teneva vacībhedenāti vacībhedaṃ katvāpi aññena kāyappayogena viññāpanaṃ nivatteti. Ayaṃ sāsanaṃ jahitukāmotiādinā bhāsākosallābhāvena sabbaso padatthāvabodhābhāvepi ‘‘ayaṃ attano pabbajitabhāvaṃ jahitukāmo imaṃ vākyabhedaṃ karotī’’ti ettakaṃ adhippetatthamattaṃ cepi so tāva jānāti, paccakkhānameva hotīti dasseti. Tenāha ‘‘ettakamattampi jānātī’’ti. Padapacchābhaṭṭhanti padaparāvatti, māgadhabhāsato avasiṭṭhā sabbāpi bhāsā ‘‘milakkhabhāsā’’ti veditabbā. Khettameva otiṇṇanti sikkhāpaccakkhānassa ruhanaṭṭhānabhūtaṃ khettameva otiṇṇaṃ.
51.Bằng sự khác biệt về lời nói đó: để ngăn chặn sự biểu thị bằng hành động thân thể khác, ngay cả khi đã tạo ra sự khác biệt về lời nói. Người này muốn từ bỏ giáo pháp v.v…: để chỉ ra rằng ngay cả khi không hiểu hoàn toàn ý nghĩa của từ ngữ do không có kỹ năng ngôn ngữ, nhưng nếu người đó hiểu được chừng đó ý nghĩa được ngụ ý rằng “người này muốn từ bỏ thân phận xuất gia của mình và tạo ra sự khác biệt về câu nói này,” thì đó chính là sự xả giới. Do đó nói là “hiểu được chừng đó.” Bị sai lệch sau từ là sự đảo ngược từ ngữ, tất cả các ngôn ngữ còn lại ngoài tiếng Ma-kiệt-đà cần được hiểu là “tiếng man di.” Đã rơi vào mảnh đất: đã rơi vào mảnh đất là nơi nảy mầm của sự xả giới.

Dūtanti mukhasāsanaṃ. Sāsananti paṇṇasāsanaṃ, bhittithambhādīsu akkharaṃ vā chinditvā dasseti. Paccakkhātukāmatācitte dharanteyeva vacībhedasamuppattiṃ sandhāya ‘‘cittasampayutta’’nti vuttaṃ, cittasamuṭṭhānanti attho. Niyamitāniyamitavasena vijānanabhedaṃ dassetumāha yadi ayameva jānātūtiādi. Ayañca vibhāgo vadati viññāpetīti ettha yassa vadati, tasseva vijānanaṃ adhippetanti iminā vuttanayena laddhoti daṭṭhabbaṃ, na hettha ekassa vadati aññassa viññāpetīti ayamattho sambhavati. ‘‘Tesu ekasmiṃ jānantepī’’ti vuttattā ‘‘dveyeva jānantu eko mā jānātū’’ti evaṃ dvinnampi janānaṃ niyametvā ārocitepi tesu ekasmimpi jānante paccakkhānaṃ hotiyevāti gahetabbaṃ. Parisaṅkamānoti ‘‘vāressantī’’ti āsaṅkamāno. Samayaññūti sāsanasaṅketaññū, idha pana adhippāyamattajānanenāpi samayaññū nāma hoti, tenāha ukkaṇṭhitotiādi. Tasmā buddhaṃ paccakkhāmītiādikhettapadānaṃ sabbaso atthaṃ ñatvāpi sace ‘‘bhikkhubhāvato cavitukāmatāya esa vadatī’’ti adhippāyaṃ na jānāti, appaccakkhātāva hoti sikkhā. Atthaṃ pana ajānitvāpi ‘‘ukkaṇṭhito vadatī’’ti taṃ jānāti, paccakkhātāva hoti sikkhā. Sotaviññāṇavīthiyā saddamattaggahaṇameva, atthaggahaṇaṃ pana manoviññāṇavīthiparamparāyāti āha taṅkhaṇaññevātiādi.
Sứ giả là thông điệp bằng miệng. Thông điệp là thông điệp bằng lá thư, hoặc khắc chữ trên tường, cột v.v… rồi chỉ cho thấy. Nhắm đến sự phát sinh của sự khác biệt về lời nói ngay khi tâm muốn xả giới còn tồn tại, đã nói là “kết hợp với tâm,” có nghĩa là do tâm tạo ra. Để chỉ ra sự khác biệt trong việc biết theo cách xác định và không xác định, đã nói là nếu chỉ người này biết… v.v… Và sự phân biệt này cần được hiểu là đã có được theo cách đã nói rằng trong câu ‘nói, biểu thị,’ sự biết của chính người mà mình nói đến được ngụ ý, vì ở đây không thể có ý nghĩa là nói với một người mà biểu thị cho người khác. Vì đã nói “dù một trong số họ biết,” nên cần hiểu rằng ngay cả khi đã xác định và thông báo cho cả hai người rằng “chỉ hai người biết, một người đừng biết,” nếu một trong số họ biết, thì sự xả giới vẫn xảy ra. Đi vòng quanh là nghi ngờ rằng “họ sẽ ngăn cản.” Người biết thời là người biết quy ước của giáo pháp, nhưng ở đây, ngay cả người chỉ biết ý định cũng được gọi là người biết thời, do đó nói là người chán nản v.v… Do đó, dù biết hoàn toàn ý nghĩa của các từ thuộc lĩnh vực như ‘tôi xả bỏ Đức Phật,’ nhưng nếu không biết ý định rằng “người này nói vì muốn rời bỏ thân phận Tỳ-khưu,” thì giới vẫn chưa được xả. Nhưng dù không biết ý nghĩa, mà biết rằng “người đó nói vì chán nản,” thì giới đã được xả. Trong lộ trình của nhĩ thức, chỉ có sự nắm bắt âm thanh, còn sự nắm bắt ý nghĩa thì thuộc về chuỗi lộ trình của ý thức, nên nói là ngay trong khoảnh khắc đó… v.v…

53.Vaṇṇapaṭṭhānanti satthuguṇavaṇṇappakāsakaṃ pakaraṇaṃ. Upāligāthāsūti upālisutte upāligahapatinā dhīrassa vigatamohassātiādinā vuttagāthāsu. Yathārutanti pāḷiyaṃ vuttamevāti attho. Anantabuddhītiādīni vaṇṇapaṭṭhāne āgatanāmāni. Dhīrantiādīni (ma. ni. 2.76) pana upāligāthāsu. Tattha bodhi vuccati sabbaññutaññāṇaṃ, sā jānanahetuttā paññāṇaṃ etassāti bodhipaññāṇo. Svākkhātaṃ dhammantiādīsu dhamma-saddo svākkhātādipadānaṃ dhammavevacanabhāvaṃ dassetuṃ vutto. Tasmā svākkhātaṃ paccakkhāmītiādinā vutteyeva vevacanena paccakkhānaṃ nāma hoti. Dhamma-saddena saha yojetvā vutte pana yathārutavasena paccakkhānanti veditabbaṃ. Suppaṭipannaṃ saṅghantiādīsupi eseva nayo. Kusalaṃ dhammantiādīnipi kusalā dhammā akusalā dhammātiādidhammameva (dha. sa. tikamātikā 1) sandhāya vuttanāmāni, itarathā akusaladhammapaccakkhāne dosābhāvappasaṅgatoti, tenāha caturāsītidhammakkhandhasahassesūtiādi. Paṭhamapārājikantiādinā sikkhāpadānaṃyeva gahaṇaṃ veditabbaṃ, na āpattīnaṃ.
53.Tác phẩm ca ngợi là tác phẩm trình bày về đức tính của Bậc Đạo Sư. Trong các bài kệ của Upāli là trong các bài kệ được gia chủ Upāli nói trong kinh Upāli bằng câu “của người anh hùng đã thoát khỏi si mê” v.v… Theo như đã được nghe có nghĩa là chính điều đã được nói trong Pāḷi. Trí tuệ vô biên… v.v… là những tên gọi có trong tác phẩm ca ngợi. Người anh hùng… v.v… (ma. ni. 2.76) thì ở trong các bài kệ của Upāli. Ở đó, bồ đề được gọi là trí toàn giác, người có trí tuệ đó vì là nhân duyên của sự biết nên là người có trí tuệ bồ đề. Pháp đã được khéo thuyết… v.v…: từ pháp được nói để chỉ ra rằng các từ như ‘khéo thuyết’ v.v… là từ đồng nghĩa của pháp. Do đó, chỉ khi nói bằng từ đồng nghĩa như “tôi xả bỏ pháp đã được khéo thuyết” v.v… mới được gọi là xả giới. Nhưng khi nói kết hợp với từ pháp, cần hiểu là xả giới theo cách đã được nghe. Tăng đã khéo hành… v.v… cũng áp dụng cùng một phương pháp. Pháp thiện… v.v… cũng là những tên gọi được nói nhắm đến chính pháp như ‘các pháp thiện, các pháp bất thiện’ v.v… (dha. sa. tikamātikā 1), nếu không, sẽ dẫn đến việc không có lỗi khi xả bỏ pháp bất thiện, do đó nói là trong tám mươi bốn nghìn pháp uẩn… v.v… Bất Cộng Trụ thứ nhất… v.v…: cần hiểu là chỉ lấy các điều học, không phải các tội.

Yassa mūlenāti yassa santike. Ācariyavevacanesu yo upajjhaṃ adatvā ācariyova hutvā pabbājesi, taṃ sandhāya ‘‘yo maṃ pabbājesī’’ti vuttaṃ. Tassa mūlenāti tassa santike. Okallakoti khuppipāsādidukkhāturānaṃ kisalūkhasarīravesānaṃ gahaṭṭhamanussānaṃ adhivacanaṃ. Moḷibaddhoti baddhakesakalāpo gahaṭṭho. Kumārakoti kumārāvattho ativiya daharo sāmaṇero. Cellakoti tato kiñci mahanto. Ceṭakoti majjhimo. Moḷigalloti mahāsāmaṇero. Samaṇuddesoti avisesato sāmaṇerādhivacanaṃ. Asucisaṅkassarasamācāroti asuci hutvā ‘‘mayā kataṃ pare jānanti nu kho, na nu kho’’ti attanā, ‘‘asukena nu kho idaṃ kata’’nti parehi ca saṅkāya saritabbena anussaritabbena samācārena yutto. Sañjātarāgādikacavarattā kasambujāto. Koṇṭhoti dussīlādhivacanametaṃ.
Từ gốc của ai là ở nơi ai. Trong các từ đồng nghĩa của thầy, người nào không cho thọ giới mà chỉ làm thầy và cho xuất gia, nhắm đến người đó đã nói là “người đã cho tôi xuất gia.” Từ gốc của người đó là ở nơi người đó. Okallako là tên gọi của những người tại gia gầy gò, ốm yếu, bị khổ vì đói khát v.v… Người búi tóc là người tại gia có búi tóc. Cậu bé là sa-di còn rất nhỏ, đang ở tuổi thiếu niên. Cellako là người lớn hơn một chút. Ceṭako là người trung bình. Moḷigallo là sa-di lớn. Samaṇuddeso là tên gọi chung cho sa-di. Người có hành vi đáng bị nghi ngờ là không trong sạch là người không trong sạch, lại có hành vi đáng bị mình nghi ngờ rằng “người khác có biết việc mình làm hay không,” và bị người khác nghi ngờ rằng “ai đã làm việc này,” và đáng bị nhớ lại. Vì có rác rưởi như tham ái v.v… đã phát sinh nên là người có rác rưởi. Koṇṭho là tên gọi của người vô giới.

54.Tihetukapaṭisandhikāti atikhippaṃ jānanasamatthe sandhāya vuttaṃ, na duhetukānaṃ tattha asambhavato. Sabhāgassāti purisassa. Visabhāgassāti mātugāmassa. Potthakarūpasadisassāti mattikādīhi katarūpasadisassa . Garumedhassāti ārammaṇesu lahuppavattiyā abhāvato dandhagatikatāya garupaññassa, mandapaññassāti vuttaṃ hoti.
54.Người có tái sanh ba nhân được nói nhắm đến người có khả năng biết rất nhanh, không phải vì người hai nhân không thể có ở đó. Của người cùng loại là của người nam. Của người khác loại là của người nữ. Tương tự như hình nộm là tương tự như hình nộm được làm bằng đất sét v.v… Người có trí tuệ nặng nề là người có trí tuệ chậm chạp do không có sự phát sinh nhanh chóng trong các đề mục, có nghĩa là người có trí tuệ kém.

Idānettha sikkhāpaccakkhānavārassa pāḷiyaṃ aṭṭhakathāyañca vuttanayānaṃ sampiṇḍanatthavasena evaṃ vinicchayo veditabbo – tattha hi sāmaññā cavitukāmotiādīhi padehi cittaniyamaṃ dasseti. Buddhantiādīhi padehi khettaniyamaṃ, paccakkhāmi dhāretīti etena kālaniyamaṃ, vadatīti iminā payoganiyamaṃ, alaṃ me buddhena, kiṃ nu me, na mamattho, sumuttāhantiādīhi anāmaṭṭhakālavasenapi paccakkhānaṃ hotīti dasseti, viññāpetīti iminā vijānananiyamaṃ, ummattako sikkhaṃ paccakkhāti ummattakassa santiketiādīhi puggalaniyamaṃ, so ca nappaṭivijānātītiādīhi vijānananiyamābhāvena paccakkhānābhāvaṃ dasseti, davāyātiādīhi cittaniyamābhāvena, sāvetukāmo na sāvetīti iminā payoganiyamābhāvena, aviññussa sāveti viññussa na sāvetīti etehi yaṃ puggalaṃ uddissa sāveti, tasseva savane sīsaṃ eti, nāññassāti. Sabbaso vā pana na sāveti appaccakkhātā hoti sikkhāti idaṃ pana cittādiniyameneva sikkhāpaccakkhānaṃ hoti, na aññathāti dassanatthaṃ vuttaṃ. Tasmā cittakhettakālapayogapuggalavijānanavasena sikkhāya paccakkhānaṃ ñatvā tadabhāvena appaccakkhānaṃ veditabbaṃ.
Bây giờ, ở đây, cần hiểu sự phân tích về đoạn xả giới này bằng cách tóm tắt các phương pháp đã được nói trong Pāḷi và Chú giải như sau: ở đó, bằng các từ như ‘người muốn rời bỏ nói chung’ v.v…, chỉ ra sự quy định về tâm. Bằng các từ như ‘Đức Phật’ v.v…, chỉ ra sự quy định về đối tượng. Bằng câu ‘tôi xả bỏ, hãy xem tôi là…’, chỉ ra sự quy định về thời gian. Bằng câu ‘nói,’ chỉ ra sự quy định về phương tiện. Bằng các câu như ‘đủ rồi đối với tôi Đức Phật, Đức Phật có ích gì cho tôi, Đức Phật không phải là lợi ích của tôi, tôi đã được giải thoát khỏi Đức Phật,’ chỉ ra rằng sự xả giới cũng xảy ra theo cách không đề cập đến thời gian. Bằng câu ‘biểu thị,’ chỉ ra sự quy định về sự biết. Bằng các câu như ‘người điên xả giới, đối với người điên,’ chỉ ra sự quy định về người. Bằng các câu như ‘người đó không nhận biết,’ chỉ ra sự không xả giới do không có sự quy định về sự biết. Bằng các câu như ‘do đùa giỡn,’ chỉ ra sự không có sự quy định về tâm. Bằng câu ‘muốn cho nghe mà không cho nghe,’ chỉ ra sự không có sự quy định về phương tiện. Bằng các câu ‘cho người không hiểu nghe, không cho người hiểu nghe,’ chỉ ra rằng khi cho ai nghe, thì sự nghe của chính người đó mới có hiệu lực, không phải của người khác. Hoặc là, nếu hoàn toàn không cho nghe, thì giới vẫn chưa được xả, điều này được nói để chỉ ra rằng sự xả giới chỉ xảy ra do sự quy định về tâm v.v…, không phải cách khác. Do đó, cần biết sự xả giới theo tâm, đối tượng, thời gian, phương tiện, người, và sự biết, và biết sự không xả giới do không có chúng.

Kathaṃ? Upasampannabhāvato cavitukāmatācitteneva hi sikkhāpaccakkhānaṃ hoti, na davā vā ravā vā bhaṇantassa. Evaṃ cittavasena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti, na tadabhāvena. Tathā buddhaṃ paccakkhāmītiādinā vuttānaṃ buddhādīnaṃ sabrahmacāripariyosānānaṃ catuddasannañceva gihīti maṃ dhārehītiādinā vuttānaṃ gihiādīnaṃ asakyaputtiyapariyosānānaṃ aṭṭhannañcāti imesaṃ dvāvīsatiyā khettapadānaṃ yassa kassaci savevacanassa vasena tesu yaṃ kiñci vattukāmassa yaṃ kiñci vadatopi sikkhāpaccakkhānaṃ hoti. Evaṃ khettavasena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti, na tadabhāvena. Tattha yadetaṃ ‘‘paccakkhāmīti ca maṃ dhārehīti cā’’ti vuttaṃ vattamānakālavacanaṃ, yāni ca ‘‘alaṃ me buddhena, kiṃ nu me buddhena, na mamattho buddhena, sumuttāhaṃ buddhenā’’tiādinā nayena ākhyātavasena kālaṃ anāmasitvā purimehi cuddasahi padehi saddhiṃ yojetvā vuttāni alaṃ metiādīni cattāri padāni, tesaṃyeva ca savevacanānaṃ vasena paccakkhānaṃ hoti, na pana ‘‘paccakkhāsi’’nti vā, ‘‘paccakkhissa’’nti vā, ‘‘maṃ dhāresī’’ti vā, ‘‘maṃ dhāressasī’’ti vā, ‘‘yaṃnūna paccakkheyya’’nti vātiādīni atītānāgataparikappavacanāni bhaṇantassa. Evaṃ vattamānakālavasena ceva anāmaṭṭhakālavasena ca paccakkhānaṃ hoti, na tadabhāvena. Payogo pana duvidho kāyiko vācasiko, tattha buddhaṃ paccakkhāmītiādinā nayena yāya kāyaci bhāsāya vacībhedaṃ katvā vācasikapayogeneva paccakkhānaṃ hoti, na akkharalikhanaṃ vā hatthamuddādidassanaṃ vā kāyapayogaṃ karontassa. Evaṃ vācasikapayogeneva paccakkhānaṃ hoti, na tadabhāvena.
Như thế nào? Sự xả giới chỉ xảy ra bằng tâm muốn rời bỏ thân phận đã thọ giới cụ túc, không phải của người nói do đùa giỡn hoặc la hét. Như vậy, sự xả giới xảy ra do tâm, không phải do không có tâm. Cũng vậy, sự xả giới cũng xảy ra đối với người muốn nói bất cứ điều gì trong số mười bốn đối tượng từ Đức Phật đến các bạn đồng phạm hạnh đã được nói trong câu “tôi xả bỏ Đức Phật” v.v…, và tám đối tượng từ người tại gia đến người không phải là Thích tử đã được nói trong câu “hãy xem tôi là người tại gia” v.v…, tức là hai mươi hai từ thuộc lĩnh vực này, dù nói bất cứ điều gì trong số đó bằng bất kỳ từ đồng nghĩa nào của chúng. Như vậy, sự xả giới xảy ra do đối tượng, không phải do không có đối tượng. Ở đó, lời nói ở thời hiện tại “tôi xả bỏ và hãy xem tôi là” đã được nói, và bốn từ ‘đủ rồi đối với tôi’ v.v… được nói bằng cách kết hợp với mười bốn từ trước đó mà không đề cập đến thời gian theo cách của động từ như “đủ rồi đối với tôi Đức Phật, Đức Phật có ích gì cho tôi, Đức Phật không phải là lợi ích của tôi, tôi đã được giải thoát khỏi Đức Phật,” sự xả giới chỉ xảy ra bằng chính những từ đó và từ đồng nghĩa của chúng, không phải của người nói những lời ở quá khứ, tương lai, hoặc giả định như “đã xả bỏ,” hoặc “sẽ xả bỏ,” hoặc “đã xem tôi là,” hoặc “sẽ xem tôi là,” hoặc “ước gì tôi có thể xả bỏ” v.v… Như vậy, sự xả giới xảy ra do thời hiện tại và do không đề cập đến thời gian, không phải do không có chúng. Phương tiện thì có hai loại là thân và khẩu. Ở đó, sự xả giới chỉ xảy ra bằng phương tiện khẩu, bằng cách tạo ra sự khác biệt về lời nói bằng bất kỳ ngôn ngữ nào theo cách “tôi xả bỏ Đức Phật” v.v…, không phải của người làm phương tiện thân như viết chữ hoặc chỉ tay v.v… Như vậy, sự xả giới chỉ xảy ra bằng phương tiện khẩu, không phải do không có nó.

Puggalo pana duvidho yo ca paccakkhāti, yassa ca paccakkhāti, tattha yo paccakkhāti, so sace ummattakakhittacittavedanaṭṭānaṃ aññataro na hoti, yassa pana paccakkhāti, so sace manussajātiko hoti, na ca ummattakādīnaṃ aññataro sammukhībhūto ca, sikkhāpaccakkhānaṃ hoti. Na hi asammukhībhūtassa dūtena vā paṇṇena vā ārocanaṃ ruhati. Evaṃ yathāvuttapuggalavasena paccakkhānaṃ hoti, na tadabhāvena. Vijānanampi niyamitāniyamitavasena duvidhaṃ. Tattha yassa yesaṃ vā niyametvā imassa imesaṃ vā ārocemīti vadati, sace te yathā pakatiyā loke manussā vacanaṃ sutvā āvajjanasamaye jānanti, evaṃ tassa vacanānantarameva ‘‘ayaṃ ukkaṇṭhito’’ti vā, ‘‘gihibhāvaṃ patthayatī’’ti vā yena kenaci ākārena manussajātiko vacanatthaṃ jānāti, paccakkhātāva hoti sikkhā. Atha aparabhāge ‘‘kiṃ iminā vutta’’nti cintetvā jānanti, aññe vā jānanti, appaccakkhātāva hoti. Aniyametvā ārocentassa pana sace vuttanayena yo koci manussajātiko vacanatthaṃ jānāti, paccakkhātā hoti sikkhā, evaṃ jānanavasena paccakkhānaṃ hoti, na tadabhāvena. Iti imesaṃ vuttappakārānaṃ cittādīnaṃ vaseneva sikkhāpaccakkhānaṃ hoti, na aññathāti daṭṭhabbaṃ.
Người thì có hai loại là người xả giới và người được xả giới. Ở đó, người xả giới, nếu không phải là một trong những người điên, tâm loạn, đau đớn, còn người được xả giới, nếu là người và không phải là một trong những người điên v.v… và đang có mặt, thì sự xả giới xảy ra. Việc thông báo bằng sứ giả hoặc bằng thư cho người không có mặt không có hiệu lực. Như vậy, sự xả giới xảy ra do người đã nói, không phải do không có người đó. Sự biết cũng có hai loại là xác định và không xác định. Ở đó, khi nói với một người hoặc nhiều người đã được xác định rằng “tôi thông báo cho người này hoặc những người này,” nếu họ, như người ta thường trong đời, sau khi nghe lời nói, biết trong lúc chú ý, như vậy ngay sau lời nói đó, nếu có người nào hiểu được ý nghĩa của lời nói bằng bất kỳ cách nào rằng “người này chán nản” hoặc “mong muốn trở thành người tại gia,” thì giới đã được xả. Nhưng nếu sau đó họ suy nghĩ “người này đã nói gì?” rồi mới biết, hoặc người khác biết, thì giới vẫn chưa được xả. Nhưng đối với người thông báo không xác định, nếu có người nào hiểu được ý nghĩa của lời nói theo cách đã nói, thì giới đã được xả. Như vậy, sự xả giới xảy ra do sự biết, không phải do không có nó. Do đó, cần hiểu rằng sự xả giới chỉ xảy ra do các yếu tố tâm v.v… đã được nói, không phải cách khác.

Sikkhāpaccakkhānavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về Phân Tích Sự Xả Giới đã kết thúc.

Mūlapaññattivaṇṇanā

Giải thích về sự chế định gốc

55.Itopaṭṭhāyāti duṭṭhullapadato paṭṭhāya. Methunadhammo yathā sarūpeneva duṭṭhullaṃ, evaṃ dassanādiduṭṭhulladhammaparivārattāpi duṭṭhullanti dassetuṃ yasmātiādi vuttaṃ. Avassutānanti methunarāgena tintānaṃ. Pariyuṭṭhitānanti methunarāgena abhibhūtacittānaṃ. Methuna-saddassa sadisasaddapaayāyattā vuttaṃ ‘‘sadisāna’’nti, rattatādīhi sadisānanti attho. Idañca yebhuyyato vuttaṃ ubhosu aññatarassa rāgābhāvepi itarassa methunasevanasaṃsiddhito. Methuna-saddo vā ubhayasaddapaayāyo, methunaṃ yugaḷaṃ yamakaṃ ubhayanti hi atthato ekaṃ, tenāha ‘‘ubhinnaṃ rattāna’’nti. ‘‘Dvayaṃdvayasamāpattī’’ti hi pāḷiyampi vuttaṃ. Nimittenāti bhummatthe karaṇavacanaṃ, itthinimitte attano nimittaṃ pavesetīti attho. Nimittaṃ aṅgajātanti atthato ekaṃ. Tilaphalanti sāsapamattaṃ tilabījaṃ adhippetaṃ, na kosasahitaṃ phalanti āha ‘‘tilabījamattampī’’ti. Allokāseti sabhāvena pihitassa nimittassa pakativātena asamphuṭṭhe tintappadese. Tādiso padeso sacepi kenaci vātādivikārena sukkhati, tathāpi anallokāsoti upakkamato pārājikameva.
55.Từ đây trở đi là từ từ ‘duṭṭhulla’ (tội lỗi nặng) trở đi. Để chỉ ra rằng pháp giao hợp, giống như nó tự bản chất là tội lỗi nặng, cũng là tội lỗi nặng vì là quyến thuộc của các pháp tội lỗi nặng như nhìn ngắm v.v…, đã nói là bởi vì… v.v… Của những người bị ướt át là của những người bị ướt át bởi tham ái giao hợp. Của những người bị xâm chiếm là của những người có tâm bị tham ái giao hợp xâm chiếm. Vì từ ‘methuna’ (giao hợp) là từ đồng nghĩa của từ ‘sadisa’ (tương tự), nên đã nói là “của những người tương tự,” có nghĩa là tương tự do bị nhuốm màu v.v… Và điều này được nói theo số đông, vì ngay cả khi một trong hai không có tham ái, sự giao hợp của người kia vẫn thành tựu. Hoặc từ ‘methuna’ là từ đồng nghĩa của từ ‘ubhaya’ (cả hai), vì ‘methunaṃ yugaḷaṃ yamakaṃ ubhayaṃ’ (giao hợp, cặp đôi, song sinh, cả hai) về mặt ý nghĩa là một, do đó nói là “của cả hai người bị nhuốm màu.” Vì trong Pāḷi cũng đã nói là “sự giao hợp của cặp đôi.” Trong bộ phận sinh dục: dùng sở dụng cách theo nghĩa sở tại cách, có nghĩa là đưa bộ phận sinh dục của mình vào bộ phận sinh dục của người nữ. Bộ phận sinh dục và cơ quan sinh dục về mặt ý nghĩa là một. Hạt vừng được ngụ ý là hạt mè nhỏ, không phải là quả có cả vỏ, nên nói là “chỉ bằng hạt mè.” Trong vùng ẩm ướt là trong vùng ẩm ướt không bị gió tự nhiên chạm vào của bộ phận sinh dục vốn tự nhiên khép kín. Dù vùng đó có bị khô do một sự biến đổi nào đó như gió v.v…, nhưng vì không phải là vùng không ẩm ướt, nên từ lúc khởi sự đã là tội Bất Cộng Trụ.

Vemajjhanti yathā cattāri passāni aphusanto paveseti, evaṃ katavivarassa itthinimittassa abbhantaratalaṃ vuccati. Purisanimitte pana majjhanti aggakoṭiṃ sandhāya vadati. Uparīti majjhimapabbena samiñjitvā pavesiyamānassa aṅgajātassa samiñjitaṅguliyā majjhimapabbapiṭṭhisadisaaggakoṭiyeva. Heṭṭhā pavesentoti itthinimittassa heṭṭhābhāgena chupiyamānaṃ pavesento, yathā itthinimittassa allokāsaṃ heṭṭhimatalaṃ tilabījamattampi attano nimittena chupati, evaṃ pavesentoti attho. Chupanameva hettha pavesanaṃ, evaṃ sesesupi. Majjhena pavesentoti abbhantaratalena chupiyamānaṃ pavesento, yathā abbhantaratalaṃ chupati, evaṃ pavesentoti attho. Katthaci acchupantaṃ pavesetvā ākāsagatameva nīharantassa natthi pārājikaṃ, dukkaṭaṃ pana hoti chinnasīsavatthusmiṃ (pārā. 73) viya. Majjheneva chupantaṃ pavesentoti aggakoṭiyā chupantaṃ pavesento. Majjhimapabbapiṭṭhiyā saṅkocetvāti nimittaṃ attano majjhimapabbapiṭṭhiyā samiñjitvā uparibhāgena chupantaṃ pavesentopi. Kiṃ viya? Samiñjitaṅguli viyāti yojanā. Atha vā majjhimapabbapiṭṭhiyā samiñjitaṅguli viyāti sambandho, samiñjitaṅguliṃ vā majjhimapabbapiṭṭhiyā pavesento viyātipi yojetabbaṃ. Uparibhāgenāti saṅkocitassa nimittassa uparikoṭiyā.
Vùng giữa được gọi là mặt trong của bộ phận sinh dục của người nữ đã được mở ra, sao cho khi đưa vào không chạm vào bốn phía. Còn đối với bộ phận sinh dục của người nam, giữa được nói nhắm đến đầu mút. Ở trên là đầu mút giống như lưng của đốt giữa của ngón tay đã co lại của bộ phận sinh dục được đưa vào bằng cách co lại bằng đốt giữa. Đưa vào bên dưới là đưa vào khi đang chạm vào phần dưới của bộ phận sinh dục của người nữ, có nghĩa là đưa vào sao cho bộ phận sinh dục của mình chạm vào mặt dưới của vùng ẩm ướt của bộ phận sinh dục của người nữ chỉ bằng hạt mè. Chính sự chạm ở đây là sự đưa vào, cũng vậy trong các trường hợp còn lại. Đưa vào ở giữa là đưa vào khi đang chạm vào mặt trong, có nghĩa là đưa vào sao cho chạm vào mặt trong. Đối với người đưa vào mà không chạm vào đâu rồi rút ra khi vẫn ở trong không gian thì không bị tội Bất Cộng Trụ, nhưng bị tội Tác Ác, giống như trong trường hợp đầu bị cắt (Bất Cộng Trụ 73). Đưa vào khi đang chạm vào ở giữa là đưa vào khi đang chạm vào bằng đầu mút. Bằng cách co lại bằng lưng của đốt giữa: ngay cả khi đưa vào khi đang chạm vào bằng phần trên bằng cách co bộ phận sinh dục lại bằng lưng của đốt giữa của mình. Giống như gì? Kết nối là giống như ngón tay đã co lại. Hoặc kết nối là giống như ngón tay đã co lại bằng lưng của đốt giữa, cũng có thể kết nối là giống như đưa ngón tay đã co lại vào bằng lưng của đốt giữa. Bằng phần trên là bằng đầu trên của bộ phận sinh dục đã co lại.

Idāni purisanimittassa heṭṭhā vuttesu chasu ‘‘uparī’’ti vuttassa chaṭṭhassa ṭhānassa vasena visuṃ cattāri passāni gahetvā purisanimitte dasaṭṭhānabhedaṃ dassento tatthātiādimāha. Heṭṭhā pana agahitaggahaṇavasena cha ṭhānāni vuttāni. Tulādaṇḍasadisaṃ pavesentassāpīti asamiñjitvā ujukaṃ pavesentassa. Cammakhīlanti eḷakādīnaṃ gīvāya viya nimitte jātaṃ cammaṅkuraṃ, ‘‘uṇṇigaṇḍo’’tipi vadanti. ‘‘Upahatakāyappasāda’’nti avatvā naṭṭhakāyappasādanti vacanena upādinnabhāve sati kenaci paccayena upahatepi kāyappasāde upahatindriyavatthusmiṃ (pārā. 73) viya pārājikamevāti dasseti. Itthinimittassa pana naṭṭhepi upādinnabhāve sati matasarīre viya pārājikakkhettatā na vijahatīti veditabbā. Methunassādenāti idaṃ kāyasaṃsaggarāge sati saṅghādiseso hotīti vuttaṃ. Bījānīti aṇḍāni.
Bây giờ, để chỉ ra sự phân biệt mười chỗ trong bộ phận sinh dục của người nam bằng cách lấy riêng bốn phía theo cách của chỗ thứ sáu được gọi là “ở trên” trong sáu chỗ đã được nói ở dưới của bộ phận sinh dục của người nam, đã nói là ở đó… v.v… Ở dưới, sáu chỗ đã được nói theo cách lấy những gì chưa được lấy. Ngay cả khi đưa vào giống như cán cân là đưa vào thẳng mà không co lại. Mụn thịt là mụn thịt mọc trên bộ phận sinh dục giống như ở cổ của dê v.v…, cũng gọi là “u sừng.” Thay vì nói “sắc trong của thân bị tổn thương,” nói là sắc trong của thân bị mất để chỉ ra rằng ngay cả khi sắc trong của thân bị tổn thương do một nhân duyên nào đó khi còn là sở hữu, vẫn là tội Bất Cộng Trụ, giống như trong trường hợp giác quan bị tổn thương (Bất Cộng Trụ 73). Cần biết rằng đối với bộ phận sinh dục của người nữ, ngay cả khi nó bị mất đi khi còn là sở hữu, tính chất là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ không bị mất đi, giống như trong thân thể người chết. Bởi sự khoái lạc của sự giao hợp: điều này được nói rằng khi có tham ái tiếp xúc thân thể, thì bị tội Tăng Tàn. Các hạt là các tinh hoàn.

Mukhaṃ apidhāyāti pamādena samuppannampi hāsaṃ bījaniyā paṭicchādanampi akatvā nisīdanaṃ agāravanti vuttaṃ. Atha vā apidhāyāti pidahitvā, bījaniyā mukhaṃ paṭicchādetvā hasamānena na nisīditabbanti attho. Dantavidaṃsakanti dante dassetvā. Gabbhitenāti ‘‘ayuttakathā’’ti saṅkocaṃ anāpajjantena, niravasesādhippāyakathane sañjātussāhenāti attho.
Không che miệng: được nói rằng việc ngồi mà không che cả nụ cười phát sinh do sơ suất bằng quạt là không tôn trọng. Hoặc là, che là che lại, có nghĩa là không nên ngồi cười khi đang che miệng bằng quạt. Làm lộ răng là làm cho thấy răng. Bởi sự mang thai: có nghĩa là không cảm thấy e ngại rằng “lời nói không đúng,” mà có lòng hăng hái trong việc nói ra hết ý định.

Anupaññattivaṇṇanā

Giải thích về sự chế định bổ sung

Pārājikavatthubhūtāti yesaṃ tīsu maggesu tilabījamattampi nimittassa pavesokāso hoti, te itthipurisādibhedā sabbe saṅgayhanti, na itare. Idha pana tiracchānagatāyāti-pāḷipadānurūpato na sabbātiādinā itthiliṅgavasena vuttaṃ. Gonasāti sappavisesā, yesaṃ piṭṭhīsu mahantamahantāni maṇḍalāni honti. Kacchapamaṇḍūkānaṃ catuppadattepi odakatāsāmaññena apadehi saha gahaṇaṃ. Mukhasaṇṭhānanti oṭṭhacammasaṇṭhānaṃ. Vaṇasaṅkhepanti vaṇasaṅgahaṃ. Vaṇe thullaccayañca ‘‘amaggena amaggaṃ paveseti, āpatti thullaccayassā’’ti (pārā. 66) imassa suttassa vasena veditabbaṃ. Maṅgusāti nakulā. Etameva hi atthanti yo naṃ ajjhāpajjati, taṃ parājetīti imamatthaṃ vuttānaṃyeva pārājikādisaddānaṃ padabhājanīyappasaṅge imissā parivāragāthāya pavattattā. Bhaṭṭhoti sāsanato parihīno. Niraṅkatoti nirākato. Etanti āpattirūpaṃ pārājikaṃ. Chinnoti antarākhaṇḍito.
Là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ: tất cả các loại như nam, nữ v.v… mà trong ba đường có chỗ cho bộ phận sinh dục đi vào dù chỉ bằng hạt mè đều được bao gồm, không phải các loại khác. Nhưng ở đây, theo từ Pāḷi ‘tiracchānagatāya’ (đối với súc sanh cái), đã được nói theo cách của giống cái bằng câu ‘na sabbā’ (không phải tất cả) v.v… Gonasā là một loại rắn, trên lưng của chúng có những vòng tròn rất lớn. Rùa và ếch, dù có bốn chân, nhưng được xếp cùng với các loài không chân do có cùng tính chất ở dưới nước. Hình dáng của miệng là hình dáng của da môi. Sự co lại của vết thương là sự thu hẹp của vết thương. Tội Trọng Tội trong vết thương cần được hiểu theo cách của kinh “đưa đường không phải vào đường không phải, phạm tội Trọng Tội” (Bất Cộng Trụ 66). Maṅgusā là chồn. Chính ý nghĩa này: vì bài kệ Parivāra này phát sinh trong bối cảnh phân tích từ ngữ của các từ Bất Cộng Trụ v.v… đã được nói rằng ‘điều gì đánh bại người phạm vào nó,’ nên đã nói là chính ý nghĩa này. Hư hỏng là đã suy thoái khỏi giáo pháp. Bị loại bỏ là bị từ chối. Điều này là tội Bất Cộng Trụ dưới hình thức tội lỗi. Bị cắt đứt là bị đứt đoạn ở giữa.

Pakatattehi bhikkhūhīti ettha pakatattā nāma pārājikaṃ anāpannā anukkhittā ca. Keci pana ‘‘pakatattehi bhikkhūhi ekato kattabbattāti aṭṭhakathāyaṃ vuttattā pakatattabhūtehi alajjīhipi saddhiṃ uposathādisaṅghakammakaraṇe doso natthī’’ti vadanti, taṃ na yuttaṃ, iminā vacanena tassa atthassa asijjhanato. Yadi hi saṅghakammaṃ karīyati, pakatatteheva karīyati, na apakatattehīti evaṃ apakatattehi sahasaṃvāsapaṭikkhepaparaṃ idaṃ vacanaṃ, na pana pakatattehi sabbehi alajjīādīhi ekato saṅghakammaṃ kattabbamevāti. Evaṃ saṃvāsavidhānaparaṃ pakatattesupi sabhāgāpattiṃ āpannehi aññamaññañca alajjīhi ca saddhiṃ ekato kammakaraṇassa paṭikkhittattā. Vuttañhi ‘‘sace sabbo saṅgho sabhāgāpattiyā sati vuttavidhiṃ akatvā uposathaṃ karoti, vuttanayeneva sabbo saṅgho āpattiṃ āpajjatī’’tiādi (kaṅkhā. aṭṭha. nidānavaṇṇanā). ‘‘Yattha āmisaparibhogo vaṭṭati, dhammaparibhogopi tattha vaṭṭatī’’ti alajjīhi saha paribhogo ca aṭṭhakathāyaṃ paṭikkhitto ekato kammakaraṇassāpi dhammaparibhogattā. Tasmā yathā hi pāḷiyaṃ pārājikāpattiāpajjanakapuggalaniyamatthaṃ yvāyaṃ ñatticatutthena kammena…pe… upasampanno, ayaṃ imasmiṃ atthe adhippeto bhikkhūti imasmiṃ vacane sabbepi ñatticatutthakammena upasampannā pārājikāpajjanakapuggalāyevāti niyamo na sijjhati pārājikānāpajjanakānampi sekkhādīnaṃ sambhavā, atha kho ñatticatutthakammena upasampannesuyeva pārājikāpattiāpajjanakā alajjī bālaputhujjanā labbhanti, na pana ehibhikkhuādīsūti evaṃ niyamo sijjhati, evamidhāpi pakatattesuyeva ekato kammakaraṇārahā anāpattikā lajjī kukkuccakā sikkhākāmā upalabbhanti , na apakatattesūti evameva niyamo sijjhati apakatattānaṃ gaṇapūraṇattābhāvena asaṃvāsikattaniyamato. Alajjino pana gaṇapūrakā hutvā kammassa sādhanato asaṃvāsikesu na gahitā kattabbavidhiṃ akatvā tehi saha madditvā kammaṃ karontānaṃ āpatti alajjitā ca na vigacchatīti veditabbaṃ. ‘‘Eko alajjī alajjīsatampi karotī’’ti (pārā. aṭṭha. 2.585) hi vuttaṃ, teneva vakkhati ‘‘sabbepi lajjino etesu kammādīsu saha vasantī’’tiādi. Ayañcattho upari vitthārato āvi bhavissati.
Bởi các Tỳ-khưu bình thường: ở đây, bình thường là những người chưa phạm tội Bất Cộng Trụ và chưa bị khai trừ. Một số người nói rằng “vì trong Chú giải đã nói là ‘vì phải được thực hiện cùng với các Tỳ-khưu bình thường,’ nên không có lỗi khi thực hiện các Tăng sự như Bố-tát v.v… cùng với cả những người không biết hổ thẹn là người bình thường,” điều đó không đúng, vì ý nghĩa đó không thể thành tựu bằng lời nói này. Nếu thực hiện Tăng sự, thì phải thực hiện cùng với những người bình thường, không phải với những người không bình thường, lời nói này nhằm bác bỏ việc chung sống với những người không bình thường, không phải là tất cả những người bình thường, kể cả những người không biết hổ thẹn v.v…, đều phải thực hiện Tăng sự cùng nhau. Lời nói này nhằm quy định về việc chung sống như vậy, vì việc thực hiện Yết-ma cùng nhau đã bị cấm đối với những người đã phạm cùng một tội, và đối với những người không biết hổ thẹn. Đã nói rằng “nếu toàn thể Tăng chúng, khi có cùng một tội, không làm theo phương pháp đã được nói mà lại làm lễ Bố-tát, thì toàn thể Tăng chúng đó đều phạm tội theo cách đã nói” v.v… (kaṅkhā. aṭṭha. nidānavaṇṇanā). “Ở đâu được phép hưởng dụng vật chất, ở đó cũng được phép hưởng dụng pháp,” việc hưởng dụng cùng với những người không biết hổ thẹn đã bị cấm trong Chú giải, vì việc thực hiện Yết-ma cùng nhau cũng là sự hưởng dụng pháp. Do đó, giống như trong Pāḷi, trong lời nói “người nào đã thọ giới cụ túc bằng Yết-ma tứ bạch… v.v…, người đó được ngụ ý là Tỳ-khưu trong ý nghĩa này” nhằm quy định về người phạm tội Bất Cộng Trụ, quy luật rằng tất cả những người đã thọ giới cụ túc bằng Yết-ma tứ bạch đều là người phạm tội Bất Cộng Trụ không thành tựu, vì cũng có những người không phạm tội Bất Cộng Trụ như các bậc Thánh hữu học v.v…, mà chỉ có quy luật rằng trong số những người đã thọ giới cụ túc bằng Yết-ma tứ bạch, mới có những người phạm tội Bất Cộng Trụ là những phàm phu ngu dốt không biết hổ thẹn, không phải trong số những người được thọ giới bằng cách “hãy đến, Tỳ-khưu” v.v…, cũng vậy ở đây, chỉ có quy luật rằng trong số những người bình thường, mới có những người không có tội, biết hổ thẹn, hay nghi ngờ, ham học hỏi, xứng đáng thực hiện Yết-ma cùng nhau, không phải trong số những người không bình thường, vì những người không bình thường đã bị quy định là không chung sống do không đủ túc số. Còn những người không biết hổ thẹn, vì là người đủ túc số và thực hiện Yết-ma, nên không được xếp vào nhóm không chung sống, cần biết rằng tội lỗi và tính không biết hổ thẹn của những người ép buộc thực hiện Yết-ma cùng với họ mà không làm theo phương pháp phải làm không bị mất đi. Vì đã nói rằng “một người không biết hổ thẹn cũng làm cho một trăm người không biết hổ thẹn” (chú giải Bất Cộng Trụ 2.585), chính vì thế sẽ nói là “tất cả những người biết hổ thẹn đều sống chung trong các Yết-ma này” v.v… Và ý nghĩa này sẽ được làm rõ một cách chi tiết ở trên.

Tathāti sīmāparicchinnehītiādiṃ parāmasati. Ekato vandanabhuñjanagāmappavesanavattāpaṭivattakaraṇauggahaparipucchāsajjhāyakaraṇādisāmaggikiriyāvasena bhagavatā paññattasikkhāpadasikkhanaṃ samasikkhatā nāma, tañca lajjīheva samaṃ sikkhitabbaṃ, na alajjīhīti dassetuṃ ‘‘paññattaṃ pana…pe… samasikkhatā nāmā’’ti vuttaṃ. Tattha anatikkamanavasena uggahaparipucchādivasena ca lajjīpuggalehi samaṃ ekato sikkhitabbā samasikkhāti sikkhāpadāni vuttāni, tāsaṃ samasikkhanaṃ yathāvuttanayena lajjīhi sikkhitabbabhāvo samasikkhatā nāmāti adhippāyo. Yathāvuttesu ekakammādīsu alajjīnaṃ lajjidhamme anokkante lajjīhi saha saṃvāso natthi, tato bahiyeva te sandissantīti āha sabbepi lajjinotiādi.
Như vậy: đề cập đến ‘bị giới hạn bởi ranh giới’ v.v… Việc học các điều học đã được Đức Thế Tôn chế định theo cách của các hành động hòa hợp như cùng nhau đảnh lễ, ăn uống, vào làng, làm các phận sự, học thuộc, hỏi, tụng đọc v.v… được gọi là học cùng nhau, và điều đó phải được học cùng với những người biết hổ thẹn, không phải với những người không biết hổ thẹn, để chỉ ra điều đó, đã nói là “nhưng điều đã được chế định… v.v… được gọi là học cùng nhau.” Ở đó, các điều học được gọi là ‘samasikkhā’ (học cùng nhau) vì phải được học cùng với những người biết hổ thẹn theo cách không vi phạm và theo cách học thuộc, hỏi v.v…, việc học các điều đó cùng nhau theo cách đã nói là phải học cùng với những người biết hổ thẹn, được gọi là ‘samasikkhatā’ (tính chất học cùng nhau), đó là ý. Trong các Yết-ma v.v… đã nói, những người không biết hổ thẹn, nếu không đi vào pháp biết hổ thẹn, thì không có sự chung sống với những người biết hổ thẹn, họ chỉ được thấy ở bên ngoài, nên nói là tất cả những người biết hổ thẹn v.v…

56. Yaṃ taṃ vuttanti sambandho. Vatthumeva na hotīti suvaṇṇādīhi kataitthirūpānaṃ aṅgajātesupi nimittavohāradassanato tattha pārājikāsaṅkānivattanatthaṃ vuttaṃ. Teneva vinītavatthūsu lepacittādivatthūsu sañjātakukkuccassa pārājikena anāpatti vuttā.
56. Mối liên hệ là điều đã được nói đó. Không phải là đối tượng: được nói để loại bỏ sự nghi ngờ về tội Bất Cộng Trụ ở đó, do có cách gọi là bộ phận sinh dục ngay cả trong các bộ phận sinh dục của các hình tượng phụ nữ được làm bằng vàng v.v… Chính vì thế, trong các câu chuyện đã được phân xử, sự vô tội đối với tội Bất Cộng Trụ đã được nói cho người có lòng nghi ngờ trong các đối tượng như hình vẽ bằng bột, hình vẽ v.v…

Paṭhamacatukkavaṇṇanā

Giải thích về bốn nhóm thứ nhất

57.Assāti ākhyātapadanti tassa atthaṃ dassento ‘‘hotī’’ti āha, bhaveyyāti attho, hotīti vuttaṃ hoti. Dutiye atthavikappe ‘‘hotī’’ti idaṃ vacanaseso.
57.Assā là một động từ, để chỉ ra ý nghĩa của nó, đã nói là “hotī” (là), có nghĩa là ‘bhaveyya’ (nên là), có nghĩa là đã nói là ‘hotī.’ Trong trường hợp giải thích thứ hai, “hotī” là phần còn lại của câu.

58.Sādiyantassevāti ettha sādiyanaṃ nāma sevetukāmatācittassa uppādanamevāti āha ‘‘paṭisevanacittasamaṅgissā’’ti. Paṭipakkhanti aniṭṭhaṃ ahitaṃ. ‘‘Bhikkhūnaṃ paccatthikā bhikkhupaccatthikā’’ti vutte upari vuccamānā rājapaccatthikādayopi idheva pavisantīti taṃ nivattanatthaṃ bhikkhū eva paccatthikāti rājapaccatthikānurūpena attho dassito. Tasmiṃ khaṇeti pavesanakkhaṇe. Aggato hi yāva mūlā pavesanakiriyāya vattamānakālo pavesanakkhaṇo nāma. Paviṭṭhakāleti aṅgajātassa yattakaṃ ṭhānaṃ pavesanārahaṃ, tattakaṃ anavasesato paviṭṭhakāle, pavesanakiriyāya niṭṭhitakkhaṇeti attho. Evaṃ paviṭṭhassa uddharaṇārambhato antarā ṭhitakāle ṭhitaṃ aṅgajātaṃ, tassa ṭhiti vā ṭhitaṃ nāma, aṭṭhakathāyaṃ pana mātugāmassa sukkavissaṭṭhiṃ patvā sabbathā vāyāmato oramitvā ṭhitakālaṃ sandhāya ‘‘sukkavissaṭṭhisamaye’’ti vuttaṃ, tadubhayampi ṭhitamevāti gahetabbaṃ. Uddharaṇaṃ nāma yāva aggā nīharaṇakiriyāya vattamānakāloti āha ‘‘nīharaṇakāle paṭisevanacittaṃ upaṭṭhāpetī’’ti.
58.Của người chấp nhận: ở đây, sự chấp nhận chính là sự phát sinh của tâm muốn giao hợp, nên nói là “của người có tâm giao hợp.” Đối nghịch là điều không mong muốn, không lợi ích. Khi nói “kẻ thù của Tỳ-khưu là kẻ thù của Tỳ-khưu,” các kẻ thù của vua v.v… được nói ở trên cũng được bao gồm ở đây, để loại trừ điều đó, đã giải thích ý nghĩa theo cách của kẻ thù của vua rằng chỉ có Tỳ-khưu là kẻ thù. Trong khoảnh khắc đó là trong khoảnh khắc đưa vào. Từ đầu cho đến gốc, thời gian diễn ra của hành động đưa vào được gọi là khoảnh khắc đưa vào. Trong lúc đã vào là trong lúc toàn bộ phần có thể đưa vào của bộ phận sinh dục đã vào hết, không còn sót lại, có nghĩa là trong khoảnh khắc hành động đưa vào đã kết thúc. Bộ phận sinh dục ở trong khoảng thời gian từ khi bắt đầu rút ra của phần đã vào như vậy, hoặc sự ở lại của nó, được gọi là ở lại. Nhưng trong Chú giải, nhắm đến thời điểm người nữ xuất tinh, hoặc đã hoàn toàn ngừng cố gắng, đã nói là “vào thời điểm xuất tinh,” cần hiểu rằng cả hai điều đó đều là ở lại. Sự rút ra là thời gian diễn ra của hành động rút ra cho đến hết đầu, nên nói là “khởi tâm giao hợp trong lúc rút ra.”

Ettha ca yasmā parehi upakkamiyamānassa aṅgajātādikāyacalanassa vijjamānattā sevanacitte upaṭṭhitamatte tasmiṃ khaṇe cittajarūpena sañjāyamānaṃ aṅgajātādicalanaṃ iminā sevanacittena uppāditameva hoti. Apica sevanacitte uppanne parehi anupakkamiyamānassāpi aṅgajāte calanaṃ hoteva, tañca tena kataṃ nāma hoti, tasmā kāyacittato samuṭṭhitaṃ pārājikāpattiṃ so āpajjatiyeva ubbhajāṇumaṇḍalikā (pāci. 657-658) viya. Tatthāpi hi ‘‘adhakkhakaṃ ubbhajāṇumaṇḍalaṃ āmasanaṃ vā…pe… paṭipīḷanaṃ vā sādiyeyyā’’ti (pāci. 657) sādiyanamatteyeva āpatti vuttā, bhikkhuno kāyasaṃsagge pana ‘‘kāyasaṃsaggaṃ samāpajjeyyā’’ti (pārā. 270) attano upakkamassa āpattinimittabhāvena vuttattā itthiyā phusiyamānassa kāyasaṃsaggarāge ca itthiyā sañjanitakāyacalane ca vijjamānepi attano payogābhāvena anāpattiyeva vuttāti gahetabbaṃ. Keci pana ‘‘paṭhamasaṅghādisesavisayepi parehi balakkārena hatthādīhi upakkamiyamānassa mocanassādo ca uppajjati, tena ca asucimhi mutte saṅghādiseso, amutte thullaccayaṃ evā’’ti vadanti. Aṅgārakāsunti aṅgārarāsiṃ, aṅgārapuṇṇāvāṭaṃ vā. Itthiyā upakkamiyamāne asādiyanaṃ nāma na sabbesaṃ visayoti āha imañhītiādi. Ekādasahi aggīhīti rāgadosamohajātijarāmaraṇasokaparidevadukkhadomanassupāyāsasaṅkhātehi ekādasaggīhi. Assāti asādiyantassa. Catukkaṃ nīharitvā ṭhapesīti ettha ekapuggalavisayatāya ekopi anāpattivāro pavesanapaviṭṭhaṭhitauddharaṇasaṅkhaātānaṃ catunnaṃ padānaṃ vasena ‘‘catukka’’nti vutto. Paṭhamacatukkakathāti ettha pana anāpattivārena saddhiṃ pañcannaṃ vārānaṃ vuttanayena ‘‘pañca catukkā’’ti vattabbepi ekamaggavisayatāya tesaṃ ekattaṃ āropetvā paṭhamacatukkatā vuttā. Teneva vakkhati tiṇṇaṃ maggānaṃ vasena tīṇi suddhikacatukkānītiādi.
Ở đây, vì đối với người bị người khác khởi xướng, sự chuyển động của bộ phận sinh dục v.v… có tồn tại, nên ngay khi tâm giao hợp khởi lên, sự chuyển động của bộ phận sinh dục v.v… phát sinh do sắc do tâm tạo trong khoảnh khắc đó cũng được xem là do tâm giao hợp này tạo ra. Hơn nữa, khi tâm giao hợp khởi lên, ngay cả khi không bị người khác khởi xướng, sự chuyển động trong bộ phận sinh dục vẫn có, và điều đó cũng được gọi là do người đó làm, do đó, người đó chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ phát sinh từ thân và tâm, giống như trong trường hợp trên đầu gối (Ưng Đối Trị 657-658). Ở đó cũng vậy, đã nói rằng chỉ cần chấp nhận là phạm tội trong câu “chấp nhận sự chạm… v.v… hoặc sự ép… v.v… trên đầu gối” (Ưng Đối Trị 657). Nhưng trong tội tiếp xúc thân thể, vì đã nói rằng sự khởi xướng của mình là dấu hiệu của tội trong câu “thực hiện sự tiếp xúc thân thể” (Bất Cộng Trụ 270), nên cần hiểu rằng khi bị người nữ chạm vào, dù có tham ái tiếp xúc thân thể và có sự chuyển động thân thể do người nữ tạo ra, nhưng vì không có sự tác động của mình, nên vẫn là vô tội. Một số người nói rằng “ngay cả trong lĩnh vực tội Tăng Tàn thứ nhất, đối với người bị người khác ép buộc bằng tay v.v…, khoái lạc giải thoát cũng phát sinh, và do đó, nếu xuất bất tịnh, thì bị tội Tăng Tàn, nếu không xuất, thì bị tội Trọng Tội.” Trong đống than là đống than hồng, hoặc hố đầy than hồng. Việc không chấp nhận khi bị người nữ khởi xướng không phải là lĩnh vực của tất cả mọi người, nên nói là vì điều này… v.v… Bởi mười một ngọn lửa là bởi mười một ngọn lửa là tham, sân, si, sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Của người không chấp nhận. Đã rút ra và đặt bốn nhóm: ở đây, vì là lĩnh vực của một người, nên một trường hợp vô tội cũng được gọi là “bốn nhóm” theo cách của bốn từ là đưa vào, đã vào, ở lại, và rút ra. Câu chuyện về bốn nhóm thứ nhất: ở đây, dù lẽ ra phải nói là “năm nhóm bốn” theo cách đã nói, cùng với trường hợp vô tội, nhưng vì là lĩnh vực của một đường, nên sự thống nhất của chúng đã được gán cho và tính chất bốn nhóm thứ nhất đã được nói. Chính vì thế sẽ nói là ba nhóm bốn trong sạch theo cách của ba đường v.v…

Ekūnasattatidvisatacatukkakathāvaṇṇanā

Giải thích về một trăm sáu mươi chín nhóm bốn

59-60.Mattanti surādīhi mattaṃ. Akkhāyitanimittā idha uttarapadalopena akkhāyitasaddena vuttāti āha ‘‘akkhāyitanimitta’’nti. Jāgarantintiādi visesanarahitattā ‘‘suddhikacatukkānī’’ti vuttaṃ. Samānācariyakātherāti ekācariyassa uddesantevāsikā. Gaṅgāya aparabhāgo aparagaṅgaṃ. Vatareti garahatthe nipāto. Evaṃ vinayagarukānanti iminā upari upatissattherena vuccamānavinicchayassa garukaraṇīyatāya kāraṇaṃ vuttaṃ. Sabbaṃ pariyādiyitvāti sabbaṃ pārājikakhettaṃ anavasesato gahetvā. Yadi hi sāvasesaṃ katvā paññapeyya, alajjīnaṃ tattha lesena ajjhācārasoto pavattatīti āha ‘‘sotaṃ chinditvā’’ti. Sahaseyyādipaṇṇattivajjasikkhāpadesuyeva (pāci. 49-51) sāvasesaṃ katvāpi paññāpanaṃ sambhavati, na lokavajjesūti āha idañhītiādi. Sahaseyyasikkhāpade hi (pāci. 49 ādayo) kiñcāpi yebhuyyacchanne yebhuyyaparicchanne heṭṭhimaparicchedato pācittiyaṃ dassitaṃ, upaḍḍhacchanne upaḍḍhaparicchanne dukkaṭaṃ, tathāpi sāvasesattā paññattiyā yebhuyyacchannaupaḍḍhaparicchannādīsupi aṭṭhakathāyaṃ pācittiyameva dassitaṃ. Idha pana niravasesattā paññattiyā bhagavatā dassitaṃ yebhuyyena akkhāyitanimittato heṭṭhā pārājikakkhettaṃ natthi, thullaccayādimeva tattha labbhati.
59-60.Say là say do rượu v.v… Các bộ phận sinh dục bị ăn mòn ở đây được gọi bằng từ ‘akkhāyita’ do lược bỏ từ sau, nên nói là “bộ phận sinh dục bị ăn mòn.” Thức… v.v… được gọi là “các nhóm bốn trong sạch” vì không có sự phân biệt nào. Các vị trưởng lão cùng một thầy là các đệ tử cùng học với một thầy. Bờ bên kia của sông Gaṅgā là bên kia sông Gaṅgā. Vatare là một tiểu từ theo nghĩa khiển trách. Đối với những người kính trọng luật như vậy: bằng câu này, đã nói lý do cho sự cần thiết phải kính trọng sự phân xử sẽ được trưởng lão Upatissa nói ở trên. Bao gồm tất cả là bao gồm tất cả các lĩnh vực của tội Bất Cộng Trụ không còn sót lại. Nếu chế định mà còn sót lại, thì dòng chảy giao cấu của những người không biết hổ thẹn sẽ phát sinh bằng cách vin vào cớ ở đó, nên nói là “cắt đứt dòng chảy.” Việc chế định mà còn sót lại chỉ có thể xảy ra trong các điều học do chế định như ngủ chung v.v… (Ưng Đối Trị 49-51), không phải trong các điều học bị thế gian chê trách, nên nói là vì điều này… v.v… Trong điều học về ngủ chung (Ưng Đối Trị 49 trở đi), dù đã chỉ ra tội Ưng Đối Trị từ mức độ thấp nhất là bị che phủ phần lớn, bị bao bọc phần lớn, và tội Tác Ác ở mức độ bị che phủ một nửa, bị bao bọc một nửa, nhưng vì sự chế định còn sót lại, nên trong Chú giải, đã chỉ ra tội Ưng Đối Trị ngay cả trong trường hợp bị che phủ phần lớn, bị bao bọc một nửa v.v… Nhưng ở đây, vì sự chế định không còn sót lại, nên không có lĩnh vực của tội Bất Cộng Trụ dưới mức độ bộ phận sinh dục bị ăn mòn phần lớn đã được Đức Thế Tôn chỉ ra, ở đó chỉ có tội Trọng Tội v.v…

Upatissattherena vuttasseva vinicchayassa aññampi upatthambhakāraṇaṃ dassento apicātiādimāha. Nimitte appamattikāpi maṃsarāji sace avasiṭṭhā hoti, taṃ yebhuyyakkhāyitameva hoti, tato paraṃ pana sabbaso khāyite nimitte dukkaṭamevāti dassento āha ‘‘tato paraṃ thullaccayaṃ natthī’’ti. Keci panettha vaccamaggādiṃ cattāro koṭṭhāse katvā ‘‘tesu dve koṭṭhāse atikkamma yāva tatiyakoṭṭhāsassa pariyosānā khāyitaṃ yebhuyyakkhāyitaṃ nāma, tato paraṃ thullaccayaṃ natthi, yāva catutthakoṭṭhāsassa pariyosānā khāyitaṃ, tampi dukkaṭavatthuyevā’’ti ca vadanti, taṃ na yuttaṃ. Matasarīrasmiṃyeva veditabbanti mataṃ yebhuyyena akkhāyitantiādivacanato vuttaṃ. Yadipi nimittantiādi jīvamānakasarīrameva sandhāya vuttaṃ tasseva adhikatattā. Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamapārājikavaṇṇanā) ‘‘jīvamānakasarīrassa vuttappakāre magge sacepi tacādīni anavasesetvā sabbaso chinne’’tiādi vuttaṃ. Sabbaso khāyitanti nimittamaṃsaṃ sabbaṃ chinnanti attho. Nimittasaṇṭhānanti chinnamaṃsassa anto yāva muttavatthikosā chiddākāro abbhantarachavicammamatto itthinimittākāro, tenāha ‘‘pavesanaṃ jāyatī’’ti. Nimittasaṇṭhānaṃ pana anavasesetvāti pavesanārahachiddākārena ṭhitaabbhantaramaṃsādiṃ anavasesetvā. Etena yāva paveso labbhati, tāva maggoyevāti dasseti. Nimittato patitāya maṃsapesiyāti idaṃ nimittasaṇṭhānavirahitaṃ abbhantaramaṃsakhaṇḍaṃ sandhāya vuttaṃ. Nimittasaṇṭhānaṃ akopetvā samantato chinditvā uddhaṭamaṃsapesiyā pana matasarīre yebhuyyena akkhāyitanimitte viya upakkamantassa pārājikameva.
Để chỉ ra một lý do hỗ trợ khác cho sự phân xử đã được trưởng lão Upatissa nói, đã nói là hơn nữa… v.v… Dù chỉ một chút thịt trong bộ phận sinh dục còn sót lại, đó cũng là bị ăn mòn phần lớn, nhưng sau đó, khi bộ phận sinh dục đã bị ăn mòn hoàn toàn, thì chỉ bị tội Tác Ác, để chỉ ra điều đó, đã nói là “sau đó không có tội Trọng Tội.” Một số người ở đây chia đường phân v.v… thành bốn phần rồi nói rằng “vượt qua hai phần trong số đó, cho đến hết phần thứ ba mà bị ăn mòn, thì gọi là bị ăn mòn phần lớn, sau đó không có tội Trọng Tội, cho đến hết phần thứ tư mà bị ăn mòn, đó cũng chỉ là đối tượng của tội Tác Ác,” điều đó không đúng. Cần được hiểu ngay cả trong thân thể người chết: được nói do lời nói như ‘người chết bị ăn mòn phần lớn’ v.v… Dù bộ phận sinh dục… v.v… được nói nhắm đến chính thân thể người sống, vì đó là đối tượng chính. Chính vì thế, trong Chú giải Mātikā (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamapārājikavaṇṇanā), đã nói là “đối với thân thể người sống, trong các đường đã được nói, dù da v.v… đã bị cắt hoàn toàn không còn sót lại” v.v… Bị ăn mòn hoàn toàn có nghĩa là toàn bộ thịt của bộ phận sinh dục đã bị cắt. Hình dáng của bộ phận sinh dục là hình dáng lỗ hổng bên trong thịt đã bị cắt cho đến tận bàng quang, là hình dáng của bộ phận sinh dục của người nữ chỉ còn lại da và màng trong, do đó nói là “sự đưa vào xảy ra.” Nhưng không để sót lại hình dáng của bộ phận sinh dục là không để sót lại thịt bên trong v.v… còn lại dưới hình dáng lỗ hổng có thể đưa vào. Bằng điều này, chỉ ra rằng chừng nào còn có thể đưa vào, chừng đó vẫn là đường. Của miếng thịt rơi ra từ bộ phận sinh dục: điều này được nói nhắm đến miếng thịt bên trong không có hình dáng của bộ phận sinh dục. Nhưng đối với miếng thịt được cắt ra xung quanh mà không làm hỏng hình dáng của bộ phận sinh dục, thì khi khởi sự, vẫn là tội Bất Cộng Trụ, giống như trong trường hợp bộ phận sinh dục bị ăn mòn phần lớn trong thân thể người chết.

Evaṃ jīvamānakamanussasarīre labbhamānavisesaṃ dassetvā idāni matasarīre dassetuṃ matasarīre panātiādimāha. Vatthikosesūti purisānaṃ aṅgajātakosacammesu. ‘‘Navadvāro mahāvaṇo’’tiādi (mi. pa. 2.6.1) vacanato manussānaṃ akkhināsādīni vaṇasaṅkhepena thullaccayakkhettānīti tesupi thullaccayaṃ vuttaṃ, evaṃ manussānaṃ matasarīrepi, tenāha mate allasarīretiādi. Tattha allasarīreti akuthitaṃ sandhāya vuttaṃ. Pārājikakkhetteti yebhuyyena akkhāyitampi sandhāya vuttaṃ. Thullaccayakkhetteti upaḍḍhakkhāyitādimpi sandhāya vuttaṃ. Ettha ca akkhināsādithullaccayakkhettesu yebhuyyena akkhāyitesupi thullaccayaṃ, upaḍḍhakkhāyitādīsu dukkaṭanti veditabbaṃ. Sabbesampīti yathāvuttahatthiādīhi aññesaṃ tiracchānānaṃ saṅgaṇhanatthaṃ vuttaṃ. Tiracchānagatānaṃ akkhikaṇṇavaṇesu dukkaṭaṃ pana aṭṭhakathāppamāṇena gahetabbaṃ, ‘‘amaggena amaggaṃ paveseti, āpatti thullaccayassā’’ti (pārā. 66) hi sāmaññato vuttaṃ, na pana manussānanti visesetvā. Yadi hi manussānaññeva vaṇesu thullaccayaṃ siyā, hatthiassādīnaṃ nāsavatthikosesupi paṭaṅgamukhamaṇḍūkassa mukhasaṇṭhānepi ca vaṇasaṅkhepato thullaccayaṃ na vattabbaṃ siyā, vuttañca. Tasmā aṭṭhakathācariyā evettha pamāṇaṃ. Matānaṃ tiracchānagatānanti matakena sambandho.
Sau khi đã chỉ ra sự khác biệt có thể có trong thân thể người sống như vậy, bây giờ để chỉ ra trong thân thể người chết, đã nói là nhưng trong thân thể người chết… v.v… Trong các túi tinh hoàn là trong các túi da của bộ phận sinh dục của người nam. Theo lời nói “vết thương lớn có chín cửa” v.v… (mi. pa. 2.6.1), mắt, mũi v.v… của con người là lĩnh vực của tội Trọng Tội do sự co lại của vết thương, nên cũng đã nói tội Trọng Tội trong chúng, cũng vậy trong thân thể người chết, do đó nói là trong thân thể tươi của người chết v.v… Ở đó, trong thân thể tươi được nói nhắm đến thân thể chưa bị thối rữa. Trong lĩnh vực của tội Bất Cộng Trụ được nói nhắm đến cả trường hợp bị ăn mòn phần lớn. Trong lĩnh vực của tội Trọng Tội được nói nhắm đến cả trường hợp bị ăn mòn một nửa v.v… Ở đây, cần hiểu rằng trong các lĩnh vực của tội Trọng Tội như mắt, mũi v.v…, dù bị ăn mòn phần lớn, vẫn là tội Trọng Tội, còn trong trường hợp bị ăn mòn một nửa v.v…, là tội Tác Ác. Của tất cả: được nói để bao gồm cả các loài súc sanh khác với voi v.v… đã nói. Tội Tác Ác trong mắt, tai, và vết thương của súc sanh cần được hiểu theo tiêu chuẩn của Chú giải, vì đã nói một cách chung chung là “đưa đường không phải vào đường không phải, phạm tội Trọng Tội” (Bất Cộng Trụ 66), không phải là nói một cách đặc biệt là ‘của con người.’ Nếu chỉ có tội Trọng Tội trong vết thương của con người, thì sẽ không phải nói là có tội Trọng Tội trong mũi và túi tinh hoàn của voi, ngựa v.v…, và trong hình dáng miệng của con thằn lằn và con ếch do sự co lại của vết thương, nhưng đã được nói. Do đó, các vị thầy Chú giải chính là tiêu chuẩn ở đây. ‘Của các loài súc sanh đã chết’ có liên quan đến ‘matakena’ (với người chết).

Methunarāgena vatthikosaṃ pavesentassa thullaccayaṃ vuttanti āha ‘‘vatthikosaṃ appavesento’’ti. Methunarāgo ca nāma kāyasaṃsaggarāgaṃ mocanassādañca muñcitvā visuṃ dvayaṃdvayasamāpattiyā rāgo, so ca purisādīsupi uppajjati, tena ca apārājikakkhette itthisarīrepi upakkamantassa asucimhi muttepi saṅghādiseso na hoti, khettānurūpaṃ thullaccayadukkaṭameva hotīti veditabbaṃ. Appavesentoti iminā tīsu maggesu pavesanādhippāye asatipi methunarāgena bahi ghaṭṭanaṃ sambhavatīti dasseti, teneva thullaccayaṃ vuttaṃ, itarathā pavesanādhippāyena bahi chupantassa methunassa pubbapayogattā dukkaṭameva vattabbaṃ siyā. Nimittena nimittaṃ chupati thullaccayanti idañca ‘‘na ca, bhikkhave, rattacittena aṅgajātaṃ chupitabbaṃ, yo chupeyya, āpatti thullaccayassā’’ti (mahāva. 252) imassa cammakkhandhake āgatassa suttassa vasena vuttaṃ. Tattha ca kesañci aññathāpi atthavikappassa bījaṃ dassento mahāaṭṭhakathāyaṃ panātiādimāha. Mukheneva chupanaṃ sandhāyāti oṭṭhajivhādimukhāvayavena chupanaṃ sandhāya. Oḷārikattāti ajjhācārassa thullattā. Taṃ sandhāyabhāsitanti taṃ yathāvuttasuttaṃ. Suttañhi ajjhācāraṃ sandhāya paṭicca vuttattā ‘‘sandhāyabhāsita’’nti vuccati. Suṭṭhusallakkhetvāti piṭṭhiṃ abhiruhantānaṃ aṅgajātamukheneva nimittachupanassa sambhavaṃ methunarāgīnañca aṅgajātena chupanasseva anurūpatañca sutte ca ‘‘mukhenā’’ti avuttatañca aññañca nayaṃ yathābalaṃ suṭṭhu sallakkhetvāti attho. Saṅghādisesoti manussitthiṃ sandhāya vuttaṃ. Passāvamagganti idaṃ cammakkhandhake nidānavasena vuttaṃ. Itaramaggadvayaṃ pana nimittamukhena chupantassa vaṇasaṅkhepena thullaccayameva. Vuttanayenevāti methunarāgeneva. Nimittamukhena pana vinā methunarāgena manussitthiyā vā tiracchānagatitthiyā vā passāvamaggaṃ pakatimukhena chupantassa dukkaṭameva pakatimukhena pakatimukhachupane viya, itarathā tatthāpi thullaccayena bhavitabbaṃ, tañca na yuttaṃ khandhakasuttepi tathā avuttattā. Kāyasaṃsaggarāgena dukkaṭanti nimittamukhena vā pakatimukhādiṃ itarakāyena vā kāyasaṃsaggarāgena chupantassa dukkaṭameva.
Đã nói tội Trọng Tội đối với người đưa túi tinh hoàn vào do tham ái giao hợp, nên nói là “không đưa túi tinh hoàn vào.” Tham ái giao hợp là tham ái trong sự giao hợp của cặp đôi, ngoài tham ái tiếp xúc thân thể và khoái lạc giải thoát, và nó cũng phát sinh cả ở nam giới v.v…, và do đó, khi khởi sự trong thân thể người nữ ở ngoài lĩnh vực Bất Cộng Trụ, ngay cả khi xuất bất tịnh, cũng không bị tội Tăng Tàn, cần biết rằng chỉ bị tội Trọng Tội hoặc Tác Ác tùy theo lĩnh vực. Không đưa vào: bằng câu này, chỉ ra rằng ngay cả khi không có ý định đưa vào trong ba đường, sự cọ xát bên ngoài do tham ái giao hợp vẫn có thể xảy ra, chính vì thế đã nói là tội Trọng Tội, nếu không, khi chạm vào bên ngoài với ý định đưa vào, vì là giai đoạn đầu của sự giao hợp, đáng lẽ chỉ phải nói là tội Tác Ác. Chạm bộ phận sinh dục vào bộ phận sinh dục, phạm tội Trọng Tội: điều này được nói theo cách của kinh đã có trong Phẩm Luật về Da rằng “và này các Tỳ-khưu, không được chạm vào bộ phận sinh dục với tâm tham ái, ai chạm vào, phạm tội Trọng Tội” (mahāva. 252). Ở đó, để chỉ ra mầm mống của sự giải thích ý nghĩa khác đi của một số người, đã nói là nhưng trong Đại Chú Giải… v.v… Nhắm đến việc chạm bằng miệng là nhắm đến việc chạm bằng các bộ phận của miệng như môi, lưỡi v.v… Do tính chất nặng nề là do sự thô thiển của sự giao cấu. Lời nói nhắm đến điều đó là kinh đã nói đó. Vì kinh được nói dựa vào sự giao cấu, nên được gọi là “lời nói nhắm đến.” Sau khi xem xét kỹ lưỡng: có nghĩa là sau khi xem xét kỹ lưỡng khả năng chạm vào bộ phận sinh dục bằng chính miệng của bộ phận sinh dục của những người leo lên lưng, và sự phù hợp của việc chạm bằng bộ phận sinh dục đối với những người có tham ái giao hợp, và việc không nói “bằng miệng” trong kinh, và các phương pháp khác một cách tốt nhất có thể. Tăng Tàn được nói nhắm đến người nữ. Đường tiểu: điều này được nói theo cách của nhân duyên trong Phẩm Luật về Da. Hai đường còn lại thì chỉ là tội Trọng Tội do sự co lại của vết thương khi chạm vào bằng miệng của bộ phận sinh dục. Theo cách đã nói là bằng chính tham ái giao hợp. Nhưng nếu không có tham ái giao hợp mà chạm vào đường tiểu của người nữ hoặc súc sanh cái bằng miệng thường, thì chỉ bị tội Tác Ác, giống như khi chạm miệng thường vào miệng thường, nếu không, ở đó cũng phải là tội Trọng Tội, và điều đó không đúng, vì trong kinh của Phẩm Luật cũng không nói như vậy. Tội Tác Ác do tham ái tiếp xúc thân thể: chỉ bị tội Tác Ác khi chạm vào bằng miệng của bộ phận sinh dục hoặc bằng miệng thường v.v…, bằng các bộ phận khác của thân thể, với tham ái tiếp xúc thân thể.

Ettha ca kāyasaṃsaggarāgena bahinimitte upakkamato ajānantasseva aṅgajātaṃ yadi pārājikakkhettaṃ chupati, tattha kiṃ hotīti? Keci tāva ‘‘methunarāgassa abhāvā manussitthiyā saṅghādiseso, sesesu vatthuvasena thullaccayadukkaṭānī’’ti vadanti. Aññe pana ‘‘pavesanakkhaṇe phassassa sādiyanasambhavato balakkārena upakkamanakkhaṇe viya pārājikamevā’’ti vadanti, idameva yuttataraṃ. Maggattayato hi aññasmiṃ padeseyeva kāyasaṃsaggādirāgabhedato āpattibhedo labbhati, na maggattaye. Tattha pana yena kenaci ākārena phassassa sādiyanakkhaṇe pārājikameva, teneva paropakkamena pavesanādīsu rāgabhedaṃ anuddharitvā sādiyanamattena pārājikaṃ vuttaṃ.
Ở đây, khi khởi sự ở bộ phận sinh dục bên ngoài với tham ái tiếp xúc thân thể, nếu bộ phận sinh dục vô tình chạm vào lĩnh vực của tội Bất Cộng Trụ, thì sẽ bị tội gì? Một số người nói rằng “vì không có tham ái giao hợp, nên bị tội Tăng Tàn đối với người nữ, còn trong các trường hợp khác thì bị tội Trọng Tội hoặc Tác Ác tùy theo đối tượng.” Nhưng những người khác nói rằng “vì có thể chấp nhận sự tiếp xúc trong khoảnh khắc đưa vào, nên là tội Bất Cộng Trụ, giống như trong khoảnh khắc bị ép buộc khởi sự,” điều này hợp lý hơn. Vì sự phân biệt tội lỗi do sự khác biệt về tham ái tiếp xúc thân thể v.v… chỉ có ở những nơi khác ngoài ba đường, không phải trong ba đường. Ở đó, khi chấp nhận sự tiếp xúc bằng bất kỳ cách nào, đều là tội Bất Cộng Trụ, chính vì thế đã nói là tội Bất Cộng Trụ chỉ bằng sự chấp nhận mà không nêu ra sự khác biệt về tham ái trong việc đưa vào v.v… do người khác khởi xướng.

Santhatacatukkabhedakathāvaṇṇanā

Giải thích về sự khác biệt của bốn nhóm trải lót

61-2.Paṭipannakassāti āraddhavipassakassa. Upādinnakanti kāyindriyaṃ sandhāya vuttaṃ. Upādinnakena phusatīti upādinnakasarīrena phusīyatīti kammasādhanena attho daṭṭhabbo. Atha vā evaṃ karonto bhikkhu kiñci upādinnakaṃ upādinnakena na phusatīti attho. Lesaṃ oḍḍessantīti lesaṃ ṭhapessanti, parikappessantīti attho. Santhatādibhedehi bhinditvāti santhatādivisesanehi visesetvā. Santhatāyāti samudāye ekadesavohāro daḍḍhassa paṭassa chiddantiādīsu viya. Yathā hi paṭassa ekadesova vatthato daḍḍhoti vuccati, taṃ ekadesavohāraṃ samudāye paṭe upacārato āropetvā puna taṃ samudāyaṃ daḍḍhappadesasaṅkhātachiddasambandhībhāvena ‘‘daḍḍhassa paṭassa chidda’’nti voharanti, evamidhāpi itthiyā maggappadesavohāraṃ samudāyabhūtāya itthiyā āropetvā puna taṃ itthiṃ santhatamaggasambandhiniṃ katvā santhatāya itthiyā vaccamaggenātiādi vuttaṃ. Sāratthadīpaniyaṃ (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.61-62) panettha ‘‘ekadese samudāyavohāro’’ti vuttaṃ, taṃ na yuttaṃ avayavavohārena samudāyasseva patīyamānattā. Itarathā hi santhatāya vaccamaggenāti itthiliṅgatā ca maggasambandhitā ca na siyā, ekadese samudāyopacārassa pana ekadesova attho sākhāya chijjamānāya rukkho chijjatītiādīsu viya.
61-2.Của người đang thực hành là của người đang bắt đầu thiền quán. Sở hữu được nói nhắm đến thân căn. Chạm vào bằng sở hữu cần được hiểu theo nghĩa của nghiệp cách là ‘bị chạm bởi thân thể sở hữu.’ Hoặc có nghĩa là Tỳ-khưu làm như vậy không chạm vào bất cứ sở hữu nào bằng sở hữu. Sẽ đặt ra cớ là sẽ đặt ra cớ, sẽ suy diễn, đó là ý. Bằng cách phân chia theo sự khác biệt của sự trải lót v.v… là bằng cách phân biệt bằng các từ bổ nghĩa như trải lót v.v… Của người nữ đã được trải lót: dùng cách nói một phần trong toàn thể, giống như trong câu ‘lỗ thủng của tấm vải bị cháy.’ Giống như chỉ một phần của tấm vải về mặt vật chất được gọi là bị cháy, người ta gán cách nói một phần đó cho toàn thể tấm vải một cách ẩn dụ, rồi lại làm cho toàn thể tấm vải đó có liên quan đến lỗ thủng là chỗ bị cháy và nói là “lỗ thủng của tấm vải bị cháy,” cũng vậy ở đây, người ta gán cách nói về đường của người nữ cho toàn thể người nữ, rồi lại làm cho người nữ đó có liên quan đến đường đã được trải lót và nói là bằng đường phân của người nữ đã được trải lót v.v… Trong Sāratthadīpanī (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.61-62), ở đây đã nói là “dùng cách nói toàn thể cho một phần,” điều đó không đúng, vì toàn thể được hiểu bằng cách nói của bộ phận. Nếu không, thì giống cái và sự liên quan đến đường sẽ không có trong câu ‘bằng đường phân đã được trải lót,’ nhưng sự ẩn dụ toàn thể cho một phần thì chỉ có ý nghĩa là một phần, giống như trong câu ‘khi cành cây bị chặt, cây bị chặt.’

Vatthādīni maggassa anto appavesetvā bahiyeva veṭhanaṃ sandhāya ‘‘paliveṭhetvā’’ti vuttaṃ. Samudāye avayavūpacāreneva bhikkhupi santhato nāmātiādi vuttaṃ. Yattake paviṭṭheti tilabījamatte paviṭṭhe. Akkhināsādīnaṃ santhatattepi yathāvatthukamevāti āha thullaccayakkhette thullaccayantiādi. Khāṇuṃ ghaṭṭentassa dukkaṭanti itthinimittassa anto khāṇuṃ pavesetvā samatalaṃ, atirittaṃ vā ṭhitaṃ khāṇuṃ sace ghaṭṭeti, ghaṭṭentassa dukkaṭaṃ pavesābhāvato. Sace pana īsakaṃ anto allokāse pavesetvā ṭhitaṃ anupādinnameva khāṇusīsaṃ aṅgajātena chupati, pārājikameva. Tassa talanti veḷunaḷādikassa antotalaṃ. Bahiddhā khāṇuketi anto pavesitaveḷupabbādikassa bahi nikkhantasīsaṃ sandhāya vuttaṃ. Yathā ca itthinimittetiādīsu yathā itthiyā passāvamagge khāṇuṃ katvā ghaṭṭanādikaṃ vuttaṃ, evaṃ sabbattha vaccamaggādīsupi lakkhaṇaṃ veditabbanti attho.
Nhắm đến việc quấn bên ngoài mà không đưa vật dụng v.v… vào bên trong đường, đã nói là “quấn quanh.” Bằng cách ẩn dụ bộ phận trong toàn thể, Tỳ-khưu cũng được gọi là người đã được trải lót v.v… Khi đã vào chừng nào là khi đã vào bằng hạt mè. Dù mắt, mũi v.v… đã được trải lót, vẫn theo đối tượng, nên nói là trong lĩnh vực của tội Trọng Tội, bị tội Trọng Tội v.v… Tội Tác Ác đối với người cọ vào cọc: nếu đưa một cái cọc vào bên trong bộ phận sinh dục của người nữ rồi cọ vào cái cọc đó đang ở mức bằng phẳng hoặc cao hơn, thì người cọ bị tội Tác Ác do không có sự đưa vào. Nhưng nếu đưa vào một chút trong vùng ẩm ướt rồi chạm bộ phận sinh dục vào đầu cái cọc không phải là sở hữu, thì là tội Bất Cộng Trụ. Mặt trong của nó là mặt trong của tre, nứa v.v… Ở cái cọc bên ngoài được nói nhắm đến đầu nhô ra bên ngoài của đốt tre v.v… đã được đưa vào bên trong. Và giống như trong bộ phận sinh dục của người nữ… v.v…: giống như đã nói về việc làm cọc rồi cọ vào trong đường tiểu của người nữ, cũng vậy, cần hiểu đặc tính này trong tất cả các nơi như đường phân v.v…, đó là ý.

Rājapaccatthikādicatukkabhedakathāvaṇṇanā

Giải thích về sự khác biệt của bốn nhóm kẻ thù của vua v.v…

65.Kerāṭikāti vañcakā. Paṭhamaṃ itthidhuttameva dassetvā idāni itaradhuttepi saṅgahetvā dassetuṃ ‘‘itthidhuttasurādhuttādayo vā’’ti vuttaṃ.
65.Những kẻ lừa đảo. Sau khi đã chỉ ra chỉ những kẻ lăng nhăng với phụ nữ lúc đầu, bây giờ để bao gồm cả những kẻ lăng nhăng khác, đã nói là “những kẻ lăng nhăng với phụ nữ, những kẻ nghiện rượu v.v…”

Āpattānāpattivāravaṇṇanā

Giải thích về các trường hợp có tội và vô tội

66. Paṭiññātakaraṇaṃ natthi sevetukāmatā maggena maggappaṭipattīti dvinnaṃ aṅgānaṃ siddhattā. Dūsitassa pana maggena maggappaṭipatti evamekaṃ aṅgaṃ siddhaṃ, sevetukāmatāsaṅkhātaṃ sādiyanaṃ asiddhaṃ. Tasmā so pucchitvā ‘‘sādiyi’’nti vuttapaṭiññāya nāsetabbo. Tatthevāti vesāliyaṃ mahāvane eva. Sabbaṅgagatanti sabbakāyagataṃ. ‘‘Lohitaṃ viyā’’ti vuttattā kesādīnaṃ vinimuttaṭṭhāne sabbatthāti gahetabbaṃ. Niccameva ummattako hotīti yassa pittakosato pittaṃ calitvā sabbadā bahi nikkhantaṃ hoti, taṃ sandhāya vuttaṃ. Yassa pana pittaṃ calitvā pittakoseyeva ṭhitaṃ hoti, kadāci vā nikkhantaṃ puna nikkhamati, sopi antarantarā saññaṃ paṭilabhati bhesajjena ca pakatiārogyaṃ paṭilabhatīti veditabbaṃ.
66. Vì hai yếu tố là không có sự thừa nhận và hành động đưa đường vào đường đã thành tựu. Nhưng đối với người bị làm nhục, chỉ có một yếu tố là hành động đưa đường vào đường đã thành tựu, còn sự chấp nhận là sự muốn giao hợp thì không thành tựu. Do đó, người đó phải bị trục xuất sau khi bị hỏi và đã thừa nhận rằng “đã chấp nhận.” Ngay tại đó là ngay tại khu rừng lớn ở Vesālī. Toàn thân là khắp cơ thể. Vì đã nói “giống như máu,” nên cần hiểu là ở khắp nơi, trừ những chỗ như tóc v.v… Luôn luôn là người điên được nói nhắm đến người mà mật từ túi mật chảy ra và luôn ở bên ngoài. Cần biết rằng người mà mật chảy ra rồi ở lại trong túi mật, hoặc thỉnh thoảng chảy ra rồi lại chảy ra nữa, người đó cũng thỉnh thoảng lấy lại được ý thức và có thể khỏe mạnh lại bằng thuốc.

Padabhājanīyavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về Phân Tích Từ Ngữ đã kết thúc.

Pakiṇṇakakathāvaṇṇanā

Giải thích về các vấn đề linh tinh

Pakiṇṇakanti vomissakanayaṃ. Samuṭṭhānanti uppattikāraṇaṃ. Kiriyātiādi nidassanattaṃ akiriyādīnampi saṅgahato. Vedanāya saha kusalañca veditabbanti yojetabbaṃ. Sabbasaṅgāhakavasenāti sabbesaṃ sikkhāpadānaṃ saṅgāhakavasena ‘‘kāyo vācā kāyavācā kāyacittaṃ vācācittaṃ kāyavācācitta’’nti evaṃ vuttāni cha āpattisamuṭṭhānāni. Samuṭṭhānādayo hi āpattiyā eva honti, na sikkhāpadassa. Taṃtaṃsikkhāpadassa niyataāpattiyā eva gahaṇatthaṃ pana sikkhāpadasīsena samuṭṭhānādīnaṃ kathanaṃ. Evañhi āpattiviseso paññāyati āpatti-saddassa sabbāpattisādhāraṇattā, imesu pana chasu samuṭṭhānesu purimāni tīṇi acittakāni, pacchimāni sacittakāni. Samāsato taṃ imaṃ pakiṇṇakaṃ viditvā veditabbanti sambandho. Cha samuṭṭhānāni etassāti chasamuṭṭhānaṃ. Evaṃ sesesupi.
Linh tinh là phương pháp hỗn hợp. Nguồn gốc là nguyên nhân phát sinh. Hành động… v.v… là ví dụ, do bao gồm cả những điều không phải là hành động v.v… Cần kết hợp là ‘cần biết thiện cùng với thọ.’ Theo cách bao gồm tất cả: theo cách bao gồm tất cả các điều học, có sáu nguồn gốc của tội đã được nói là “thân, khẩu, thân-khẩu, thân-tâm, khẩu-tâm, thân-khẩu-tâm.” Vì nguồn gốc v.v… chỉ có đối với tội, không phải đối với điều học. Nhưng việc nói về nguồn gốc v.v… bằng đầu đề là điều học là để lấy tội cố định của điều học đó. Như vậy, sự khác biệt của tội mới được biết đến, vì từ ‘tội’ chung cho tất cả các tội. Trong sáu nguồn gốc này, ba nguồn gốc đầu là không có tâm, ba nguồn gốc sau là có tâm. Tóm lại, cần biết sau khi đã biết điều linh tinh này, đó là mối liên hệ. Điều có sáu nguồn gốc là có sáu nguồn gốc. Cũng vậy trong các trường hợp còn lại.

Atthi kathinasamuṭṭhānantiādi samuṭṭhānasīsavasena dvisamuṭṭhānaekasamuṭṭhānānaṃ dassanaṃ. Terasa hi samuṭṭhānasīsāni paṭhamapārājikasamuṭṭhānaṃ adinnādānasamuṭṭhānaṃ sañcarittasamuṭṭhānaṃ samanubhāsanasamuṭṭhānaṃ kathinasamuṭṭhānaṃ eḷakalomasamuṭṭhānaṃ padasodhammasamuṭṭhānaṃ addhānasamuṭṭhānaṃ theyyasatthasamuṭṭhānaṃ dhammadesanāsamuṭṭhānaṃ bhūtārocanasamuṭṭhānaṃ corīvuṭṭhāpanasamuṭṭhānaṃ ananuññātasamauṭṭhānanti. Tattha atthi chasamuṭṭhānanti iminā sañcarittasamuṭṭhānaṃ vuttaṃ, pañcasamuṭṭhānassa abhāvato ‘‘atthi pañcasamuṭṭhāna’’nti avatvā ‘‘atthi catusamuṭṭhāna’’nti vuttaṃ, iminā ca addhānasamuṭṭhānaṃ ananuññātasamuṭṭhānañca saṅgahitaṃ. Yañhi paṭhamatatiyacatutthachaṭṭhehi samuṭṭhāti , idaṃ addhānasamuṭṭhānaṃ. Yaṃ pana dutiyatatiyapañcamachaṭṭhehi samuṭṭhāti, idaṃ ananuññātasamuṭṭhānaṃ. Atthi tisamuṭṭhānanti iminā adinnādānasamuṭṭhānaṃ bhūtārocanasamuṭṭhānañca saṅgahitaṃ. Yañhi sacittakehi tīhi samuṭṭhāti, idaṃ adinnādānasamuṭṭhānaṃ. Yaṃ pana acittakehi tīhi samuṭṭhāti, idaṃ bhūtārocanasamuṭṭhānaṃ. Atthi kathinasamuṭṭhānantiādinā pana avasesasamauṭṭhānasīsavasena dvisamuṭṭhānaṃ ekasamuṭṭhānañca saṅgaṇhāti. Tattha hi yaṃ tatiyachaṭṭhehi samuṭṭhāti, idaṃ kathinasamuṭṭhānaṃ nāma. Yaṃ pana paṭhamacatutthehi samuṭṭhāti, idaṃ eḷakalomasamuṭṭhānaṃ. Yaṃ chaṭṭheneva samuṭṭhāti, idaṃ dhuranikkhepasamuṭṭhānaṃ, ‘‘samanubhāsanasamauṭṭhāna’’ntipi tasseva nāmaṃ. Iti sarūpena aṭṭha āpattisīsāni dassitāni. Ādisaddena panettha avasesāni paṭhamapārājikasamuṭṭhānapadasodhammatheyyasatthadhammadesanācorīvuṭṭhāpanasamuṭṭhānāni pañcapi samuṭṭhānasīsāni saṅgahitāni. Tattha yaṃ kāyacittato samuṭṭhāti, idaṃ paṭhamapārājikasamuṭṭhānaṃ. Yaṃ dutiyapañcamehi samuṭṭhāti, idaṃ padasodhammasamuṭṭhānaṃ. Yaṃ catutthachaṭṭhehi samuṭṭhāti, idaṃ theyyasatthasamuṭṭhānaṃ. Yaṃ pañcameneva samuṭṭhāti, idaṃ dhammadesanāsamauṭṭhānaṃ. Yaṃ pañcamachaṭṭhehi samuṭṭhāti, idaṃ corīvuṭṭhāpanasamuṭṭhānaṃ. Ettha ca pacchimesu tīsu sacittakasamuṭṭhānesu ekekasamuṭṭhānavasena ekasamuṭṭhānāni tividhāni. Dvisamuṭṭhānāni pana paṭhamacatutthehi vā dutiyapañcamehi vā tatiyachaṭṭhehi vā catutthachaṭṭhehi vā pañcamachaṭṭhehi vā samuṭṭhānavasena pañcavidhānīti veditabbāni.
Có nguồn gốc từ việc làm y ca-thi-na… v.v… là sự chỉ ra hai nguồn gốc và một nguồn gốc theo đầu đề là nguồn gốc. Có mười ba đầu đề nguồn gốc là: nguồn gốc của tội Bất Cộng Trụ thứ nhất, nguồn gốc của tội trộm cắp, nguồn gốc của tội môi giới, nguồn gốc của tội cảnh cáo, nguồn gốc của tội làm y ca-thi-na, nguồn gốc của tội lông cừu, nguồn gốc của tội đọc thuộc lòng, nguồn gốc của tội đi đường xa, nguồn gốc của tội đi cùng kẻ trộm, nguồn gốc của tội thuyết pháp, nguồn gốc của tội nói thật, nguồn gốc của tội cho kẻ trộm xuất gia, nguồn gốc của tội không được phép. Ở đó, có sáu nguồn gốc: bằng câu này, đã nói đến nguồn gốc của tội môi giới. Vì không có năm nguồn gốc, nên không nói “có năm nguồn gốc” mà nói “có bốn nguồn gốc,” và bằng câu này, đã bao gồm cả nguồn gốc của tội đi đường xa và nguồn gốc của tội không được phép. Điều gì phát sinh từ nguồn gốc thứ nhất, thứ ba, thứ tư, và thứ sáu, đó là nguồn gốc của tội đi đường xa. Điều gì phát sinh từ nguồn gốc thứ hai, thứ ba, thứ năm, và thứ sáu, đó là nguồn gốc của tội không được phép. Có ba nguồn gốc: bằng câu này, đã bao gồm cả nguồn gốc của tội trộm cắp và nguồn gốc của tội nói thật. Điều gì phát sinh từ ba nguồn gốc có tâm, đó là nguồn gốc của tội trộm cắp. Điều gì phát sinh từ ba nguồn gốc không có tâm, đó là nguồn gốc của tội nói thật. Có nguồn gốc từ việc làm y ca-thi-na… v.v…: bằng câu này, bao gồm cả hai nguồn gốc và một nguồn gốc theo đầu đề là các nguồn gốc còn lại. Ở đó, điều gì phát sinh từ nguồn gốc thứ ba và thứ sáu, đó được gọi là nguồn gốc của tội làm y ca-thi-na. Điều gì phát sinh từ nguồn gốc thứ nhất và thứ tư, đó là nguồn gốc của tội lông cừu. Điều gì phát sinh chỉ từ nguồn gốc thứ sáu, đó là nguồn gốc của tội từ bỏ trách nhiệm, cũng có tên là “nguồn gốc của tội cảnh cáo.” Như vậy, tám đầu đề tội đã được chỉ ra về bản chất. Với từ ‘v.v…’ ở đây, đã bao gồm cả năm đầu đề nguồn gốc còn lại là nguồn gốc của tội Bất Cộng Trụ thứ nhất, nguồn gốc của tội đọc thuộc lòng, nguồn gốc của tội đi cùng kẻ trộm, nguồn gốc của tội thuyết pháp, và nguồn gốc của tội cho kẻ trộm xuất gia. Ở đó, điều gì phát sinh từ thân và tâm, đó là nguồn gốc của tội Bất Cộng Trụ thứ nhất. Điều gì phát sinh từ nguồn gốc thứ hai và thứ năm, đó là nguồn gốc của tội đọc thuộc lòng. Điều gì phát sinh từ nguồn gốc thứ tư và thứ sáu, đó là nguồn gốc của tội đi cùng kẻ trộm. Điều gì phát sinh chỉ từ nguồn gốc thứ năm, đó là nguồn gốc của tội thuyết pháp. Điều gì phát sinh từ nguồn gốc thứ năm và thứ sáu, đó là nguồn gốc của tội cho kẻ trộm xuất gia. Ở đây, cần biết rằng trong ba nguồn gốc có tâm cuối cùng, có ba loại một nguồn gốc theo cách của mỗi một nguồn gốc. Còn hai nguồn gốc thì có năm loại theo cách phát sinh từ nguồn gốc thứ nhất và thứ tư, hoặc thứ hai và thứ năm, hoặc thứ ba và thứ sáu, hoặc thứ tư và thứ sáu, hoặc thứ năm và thứ sáu.

Evaṃ samuṭṭhānavasena sabbasikkhāpadāni terasadhā dassetvā idāni kiriyāvasena pañcadhā dassetuṃ tatrāpītiādi vuttaṃ. Kiñcīti sikkhāpadaṃ. Kiriyatoti pathavīkhaṇanādi (pāci. 84-85) viya kāyavacīviññattijanitakammato. Akiriyatoti paṭhamakathinādi (pārā. 459 ādayo) viya kattabbassa akaraṇeneva. Kiriyākiriyatoti aññātikāya bhikkhuniyā hatthato cīvarapaṭiggahaṇādi (pārā. 508 ādayo) viya. Siyā kiriyato, siyā akiriyato rūpiyapaṭiggahaṇādi (pārā. 582 ādayo) viya, siyā kiriyato, siyā kiriyākiriyato kuṭikārādi (pārā. 342) viya. Vītikkamasaññāya abhāvena vimokkho assāti saññāvimokkhanti majjhepadalopīsamāso daṭṭhabbo. Cittaṅgaṃ labhati sacittakasamuṭṭhāneheva samuṭṭhahanato. Itaranti yassa cittaṅganiyamo natthi, taṃ, anāpattimukhena cetaṃ saññādukaṃ vuttaṃ, āpattimukhena sacittakadukanti ettakameva viseso, atthato samānāva.
Sau khi đã chỉ ra tất cả các điều học theo mười ba cách theo nguồn gốc như vậy, bây giờ để chỉ ra theo năm cách theo hành động, đã nói là ở đó cũng vậy… v.v… Điều gì đó là điều học. Từ hành động là từ nghiệp do thân biểu tri và khẩu biểu tri tạo ra, giống như việc đào đất v.v… (Ưng Đối Trị 84-85). Từ sự không hành động là chỉ bằng việc không làm điều phải làm, giống như việc không làm y ca-thi-na đầu tiên v.v… (Bất Cộng Trụ 459 trở đi). Từ hành động và không hành động là giống như việc nhận y từ tay của Tỳ-khưu-ni không phải là quyến thuộc v.v… (Bất Cộng Trụ 508 trở đi). Hoặc là từ hành động, hoặc là từ sự không hành động, giống như việc nhận tiền bạc v.v… (Bất Cộng Trụ 582 trở đi). Hoặc là từ hành động, hoặc là từ hành động và không hành động, giống như việc làm nhà v.v… (Bất Cộng Trụ 342). Có sự giải thoát do không có ý nghĩ vi phạm là giải thoát do ý nghĩ, cần hiểu là một hợp từ có từ ở giữa bị lược bỏ. Có được yếu tố tâm do phát sinh từ chính các nguồn gốc có tâm. Điều khác là điều không có quy luật về yếu tố tâm, và cặp đôi ý nghĩ này được nói theo cách vô tội, chỉ có sự khác biệt là cặp đôi có tâm theo cách có tội, về mặt ý nghĩa thì tương tự.

Kāyavacīdvārehi āpajjitabbampi kāyakamme vā vacīkamme vā saṅgayhati. Tattha bāhullavuttito adinnādānamusāvādādayo viyāti atthi sikkhāpadaṃ kāyakammantiādinā kāyakammaṃ vacīkammañcāti dukameva vuttaṃ, vibhāgato pana kāyavacīkammena saddhiṃ tikameva hoti. Teneva mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamapārājikavaṇṇanā) vuttaṃ ‘‘sabbā ca kāyakammavacīkammatadubhayavasena tividhā hontī’’ti. Tatoyeva idhāpi adinnādānādīsu (pārā. 89) kāyakammavacīkammanti tadubhayavasena dassitaṃ. Atthi pana sikkhāpadaṃ kusalantiādi āpattisamuṭṭhāpakacittavasena kāriye kāraṇopacārena vuttaṃ, na pana āpattiyā kusalādiparamatthadhammatāvasena āpattiyā sammutisabhāvattā. Kusalākusalādiparamatthadhamme upādāya hi bhagavatā āpattisammuti paññattā. Vakkhati hi ‘‘yaṃ kusalacittena āpajjati, taṃ kusala’’ntiādi (pārā. aṭṭha. 1.66 pakaṇṇakakathā). Na hi bhagavato āṇāyattā āpatti kusalādiparamatthasabhāvā hoti anupasampannānaṃ ādikammikānañca āpattippasaṅgato, tassā desanādīhi visuddhiabhāvappasaṅgato ca. Na hi kāraṇabalena uppajjamānā kusalādisabhāvā āpatti anupasampannādīsu nivattati, uppannāya ca tassā kenaci vināso na sambhavati. Sarasavināsato desanādinā ca āpatti vigacchatīti vacanamatthi, na pana tena akusalādi vigacchati. Pitughātādikammena hi pārājikaṃ āpannassa bhikkhuno gihiliṅgaṃ gahetvā bhikkhubhāvapariccāgena pārājikāpatti vigacchati, na pāṇātipātādiakusalaṃ ānantariyādibhāvato. Tasmā dummaṅkūnaṃ niggahādidasaatthavase (pārā. 39; pari. 2) paṭicca bhagavatā yathāpaccayaṃ samuppajjamāne kusalākusalādināmarūpadhamme upādāya paññattā sammutiyeva āpatti, sā ca yathāvidhipaṭikammakaraṇena vigatā nāma hotīti veditabbaṃ, tenāha dvattiṃseva hi āpattisamuṭṭhāpakacittānītiādi. Āpattisamuṭṭhāpakatteneva hettha kusalādīnaṃ āpattito bhedo siddho. Na hi taṃsamuṭṭhitassa tato abhedo yutto samuṭṭhānasamuṭṭhitabhedabyavahārupacchedappasaṅgato. Sāratthadīpaniyaṃ (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.66 pakiṇṇakakathāvaṇṇanā) pana āpattiyā paramatthato kusalattameva na sambhavati ‘‘āpattādhikaraṇaṃ siyā akusalaṃ, siyā abyākataṃ, natthi āpattādhikaraṇaṃ kusala’’nti vacanato, ‘‘akusalattaṃ pana abyākatattañca āpattiyā sambhavatī’’ti saññāya kusalacittasamuṭṭhānakkhaṇepi rūpābyākatattaṃ āpattiyā samatthetuṃ yaṃ kusalacittena āpajjati, taṃ kusalaṃ, itarehi itaranti (pārā. aṭṭha. 1.66 pakiṇṇakakathā) imaṃ aṭṭhakathāvacanaṃ nissāya vuttaṃ ‘‘yaṃ kusalacittena āpajjatīti yaṃ sikkhāpadasīse gahitaṃ āpattiṃ kusalacittasamaṅgī āpajjati, iminā pana vacanena taṃ kusalanti āpattiyā vuccamāno kusalabhāvo pariyāyato, na paramatthatoti dasseti. Kusalacittena hi āpattiṃ āpajjanto saviññattikaṃ aviññattikaṃ vā sikkhāpadavītikkamākārappavattaṃ rūpakkhandhasaṅkhātaṃ abyākatāpattiṃ āpajjatī’’ti. Tattha yaṃ kusalacittena āpajjatīti imaṃ vacanaṃ uddissa ‘‘iminā pana vacanena taṃ kusalanti āpattiyā vuccamāno kusalabhāvo pariyāyato, na paramatthatoti dassetī’’ti vuttaṃ, evaṃ itarehi itaranti vacanena ‘‘yaṃ akusalacittena āpajjahi, taṃ akusalaṃ, yaṃ abyākatacittena āpajjati, taṃ abyākata’’nti imassa atthassa vuttattā itarehīti vacanaṃ uddissa ‘‘imināpi vacanena itaranti āpattiyā vuccamāno akusalabhāvo abyākatabhāvo ca pariyāyato dassetī’’ti vattabbaṃ. Evaṃ avatvā kusalapakkhe eva kathanassa kāraṇaṃ na passāma. Yaṃ pana āpattādhikaraṇaṃ siyā akusalantiādivacanaṃ kāraṇattena vuttaṃ, tampi akāraṇaṃ yaṃ akusalacittena āpajjati, taṃ akusalantiādinā heṭṭhā vuttanayena akusalādibhāvassa pariyāyadesitattā, āpattiyā kusalavohārassa ayuttatāya natthi āpattādhikaraṇaṃ kusalanti vuttattā ca. Āpattiyā hi kusalacittasamuṭṭhitattepi bhagavatā paṭikkhittabhāvena sāvajjadhammattā kāraṇūpacārenāpi anavajjakusalavohāro na yutto sāvajjānavajjānaṃ aññamaññaviruddhattā. Yathā ākāsādisammutisaccānaṃ uppannatādivohāro viya jātijarābhaṅgānaṃ uppannatādivohāro anavaṭṭhānādidesato ayutto, evamidhāpi kusalavohāro ayutto viruddhattā. Akusalādivohāro pana yutto , kāraṇūpacārena pana akusalādisabhāvatā yathāvuttadosānativattanato. Suttassāpi hi yathā suttasuttānulomādīhi virodho na hoti, tatheva attho gahetabbo.
Dù phải phạm bằng cửa thân và khẩu, nhưng cũng được bao gồm trong nghiệp thân hoặc nghiệp khẩu. Ở đó, do nói theo số đông như trộm cắp, nói dối v.v…, chỉ có cặp đôi nghiệp thân và nghiệp khẩu được nói trong câu có điều học là nghiệp thân v.v…, nhưng về mặt phân chia, thì có ba loại cùng với nghiệp thân và khẩu. Chính vì thế, trong Chú giải Mātikā (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamapārājikavaṇṇanā), đã nói rằng “tất cả đều có ba loại theo nghiệp thân, nghiệp khẩu, và cả hai.” Do đó, ở đây cũng vậy, trong tội trộm cắp v.v… (Bất Cộng Trụ 89), đã được chỉ ra theo cả hai là nghiệp thân và nghiệp khẩu. Nhưng có điều học là thiện v.v… được nói theo cách dùng ẩn dụ từ nguyên nhân chỉ kết quả, theo tâm tạo ra tội, không phải theo tính chất chân đế thiện v.v… của tội, vì tội có bản chất là quy ước. Vì Đức Thế Tôn đã chế định sự quy ước về tội dựa vào các pháp chân đế thiện, bất thiện v.v… Sẽ nói rằng “điều gì phạm bằng tâm thiện, điều đó là thiện” v.v… (chú giải Bất Cộng Trụ 1.66 pakaṇṇakakathā). Tội phụ thuộc vào mệnh lệnh của Đức Thế Tôn không có bản chất chân đế thiện v.v…, vì sẽ dẫn đến việc có tội đối với cả những người chưa thọ giới cụ túc và những người phạm tội lần đầu, và sẽ dẫn đến việc không thể thanh tịnh bằng cách sám hối v.v… Tội có bản chất thiện v.v… phát sinh do sức mạnh của nguyên nhân không thể bị ngăn chặn ở những người chưa thọ giới cụ túc v.v…, và khi đã phát sinh, không có gì có thể phá hủy được. Có lời nói rằng tội biến mất do sự tự mất đi hoặc do sám hối v.v…, nhưng điều đó không làm cho bất thiện v.v… biến mất. Đối với Tỳ-khưu đã phạm tội Bất Cộng Trụ do giết cha v.v…, tội Bất Cộng Trụ biến mất do việc lấy tướng mạo người tại gia và từ bỏ thân phận Tỳ-khưu, không phải nghiệp bất thiện như sát sanh v.v… do tính chất của tội vô gián v.v… Do đó, cần biết rằng tội chỉ là một quy ước được Đức Thế Tôn chế định dựa vào mười lợi ích như chế ngự những kẻ ngỗ ngược v.v… (Bất Cộng Trụ 39; pari. 2), dựa vào các pháp danh sắc thiện, bất thiện v.v… phát sinh tùy theo nhân duyên, và nó được gọi là đã biến mất khi thực hiện sám hối đúng phương pháp, do đó nói là chỉ có ba mươi hai tâm tạo ra tội v.v… Chính do tính chất tạo ra tội, sự khác biệt giữa thiện v.v… và tội đã được xác định. Không hợp lý khi điều do nó tạo ra lại không khác biệt với nó, vì sẽ dẫn đến việc phá vỡ cách nói về sự khác biệt giữa nguồn gốc và điều do nguồn gốc tạo ra. Trong Sāratthadīpanī (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.66 pakiṇṇakakathāvaṇṇanā), vì cho rằng tội về mặt chân đế không thể là thiện, theo lời nói “tranh cãi về tội có thể là bất thiện, có thể là vô ký, không có tranh cãi về tội là thiện,” và cho rằng “nhưng tính chất bất thiện và vô ký của tội thì có thể có,” nên để chứng minh tính chất vô ký của sắc của tội ngay cả trong khoảnh khắc phát sinh của tâm thiện, đã nói dựa vào lời nói của Chú giải này “điều gì phạm bằng tâm thiện, điều đó là thiện, bằng các tâm khác thì là các điều khác” (chú giải Bất Cộng Trụ 1.66 pakiṇṇakakathā): “điều gì phạm bằng tâm thiện, tức là tội được lấy theo đầu đề điều học mà người có tâm thiện phạm phải, bằng lời nói này, chỉ ra rằng tính chất thiện được nói cho tội là theo cách gián tiếp, không phải theo mặt chân đế. Vì khi phạm tội bằng tâm thiện, người đó phạm tội vô ký là sắc thuộc về uẩn, là hình thức vi phạm điều học có biểu tri hoặc không có biểu tri.” Ở đó, sau khi nêu ra lời nói “điều gì phạm bằng tâm thiện,” đã nói rằng “bằng lời nói này, chỉ ra rằng tính chất thiện được nói cho tội là theo cách gián tiếp, không phải theo mặt chân đế.” Cũng vậy, bằng lời nói “bằng các tâm khác thì là các điều khác,” vì ý nghĩa “điều gì phạm bằng tâm bất thiện, điều đó là bất thiện, điều gì phạm bằng tâm vô ký, điều đó là vô ký” đã được nói, nên sau khi nêu ra lời nói “bằng các tâm khác,” đáng lẽ phải nói là “bằng lời nói này, cũng chỉ ra rằng tính chất bất thiện và vô ký được nói cho tội là theo cách gián tiếp.” Chúng tôi không thấy lý do gì để chỉ nói về phía thiện. Và lời nói “tranh cãi về tội có thể là bất thiện…” được dùng làm lý do, điều đó cũng không phải là lý do, vì tính chất bất thiện v.v… đã được nói một cách gián tiếp theo cách đã trình bày ở dưới rằng “điều gì phạm bằng tâm bất thiện, điều đó là bất thiện…” v.v…, và vì đã nói rằng không có tranh cãi về tội là thiện do cách gọi thiện cho tội là không hợp lý. Vì đối với tội, ngay cả khi nó phát sinh từ tâm thiện, nhưng vì là pháp có tội do đã bị Đức Thế Tôn cấm, nên ngay cả cách gọi thiện không có tội theo cách dùng ẩn dụ từ nguyên nhân cũng không hợp lý, vì có tội và không có tội mâu thuẫn với nhau. Giống như cách gọi đã phát sinh của các sự quy ước như không gian v.v…, cách gọi đã phát sinh của sanh, già, hoại cũng không hợp lý do các lý do như không đứng vững v.v…, ở đây cũng vậy, cách gọi thiện không hợp lý do mâu thuẫn. Nhưng cách gọi bất thiện v.v… thì hợp lý, nhưng tính chất bất thiện v.v… theo cách dùng ẩn dụ từ nguyên nhân cũng không vượt qua được các lỗi đã nói. Ngay cả đối với kinh, cũng phải hiểu ý nghĩa sao cho không có sự mâu thuẫn với kinh, tùy thuận kinh v.v…

Yaṃ pana vuttaṃ ‘‘kusalacittena hi āpattiṃ āpajjanto…pe… rūpakkhandhasaṅkhātaṃ abyākatāpattiṃ āpajjatī’’ti, taṃ ayuttameva rūpakkhandhassa khaṇikatāya āpattiyāpi desanādipaṭikammaṃ vināva paṭipassaddhippasaṅgato. Rūpaparamparā āpattīti ce? Tanna, paṭikammenāpi avigamappasaṅgato. Na hi rūpasantatidesanādīhi vigacchati sakāraṇāyattattā, iti sabbathā āpattiyā paramatthatā ayuttā, eteneva yaṃ vuttaṃ ‘‘nipajjitvā nirodhasamāpannassa sahaseyyavasena tathākārappavattarūpadhammasseva āpattibhāvato’’tiādi, tampi paṭisiddhanti veditabbaṃ. Idha pana nirodhasamāpannānaṃ rūpadhammameva paṭicca uppannattā āpatti acittā avedanā, aññattha pana sacittā savedanāva, sabbatthāpi paññattisabhāvāti veditabbā. Teneva duṭṭhadosasikkhāpadaṭṭhakathāyaṃ āpattiyā akusalādisabhāvaṃ paraparikappitaṃ nisedhetuṃ ‘‘ādikammikassa anāpattivacanato…pe… paṇṇattimattameva āpattādhikaraṇanti veditabba’’nti sayameva vakkhati, tasmā ‘‘taṃtaṃkusalādidhammasamuppattiyā bhagavatā paññattā āpattisammuti samuṭṭhitā’’ti ca, ‘‘yāva paṭippassaddhikāraṇā tiṭṭhatī’’ti ca, ‘‘paṭippassaddhikāraṇehi vinassatī’’ti ca voharīyati. Āpattiyā ca sammutisabhāvattepi hi sañcicca taṃ āpajjantassa, paṭikiriyaṃ akarontassa ca anādare akusalarāsi ceva saggamaggantarāyo ca hotīti lajjino yathāvidhiṃ nātikkamanti, anatikkamanappaccayā ca tesaṃ anantappabhedā sīlādayo dhammā parivaḍḍhantīti gahetabbaṃ. Dvattiṃsevāti niyamo āpattinimittānaṃ kāyavacīviññattīnaṃ eteheva samuppajjanato kato, na pana sabbāpattīnampi eteheva samuppajjanato. Nipajjitvā niddāyantānañhi jhānanirodhasamāpannānañca aviññattijanakehi vipākaappanācittehi ceva rūpadhammehi ca sahaseyyādiāpatti sambhavati.
Điều được nói rằng “vì khi phạm tội bằng tâm thiện… v.v… phạm tội vô ký là sắc thuộc về uẩn,” điều đó không hợp lý, vì nếu vậy, tội cũng phải lắng dịu mà không cần sám hối v.v…, do tính chất chốc lát của sắc uẩn. Nếu nói rằng chuỗi sắc là tội? Điều đó không đúng, vì sẽ dẫn đến việc không thể biến mất ngay cả bằng sám hối. Vì chuỗi sắc không biến mất bằng sám hối v.v…, do phụ thuộc vào nguyên nhân của nó. Do đó, tính chất chân đế của tội hoàn toàn không hợp lý. Chính vì thế, điều được nói rằng “đối với người đã nhập diệt thọ tưởng định sau khi nằm xuống, chỉ có pháp sắc phát sinh theo cách ngủ chung mới có tính chất tội,” cũng cần được hiểu là đã bị bác bỏ. Nhưng ở đây, cần hiểu rằng đối với những người đã nhập diệt thọ tưởng định, tội phát sinh chỉ dựa vào pháp sắc, nên không có tâm, không có thọ; ở nơi khác thì có tâm, có thọ; ở mọi nơi đều có bản chất là quy ước. Chính vì thế, trong Chú giải điều học về tội lỗi nặng, để bác bỏ sự suy diễn của người khác về tính chất bất thiện v.v… của tội, sẽ nói rằng “vì đã nói là vô tội đối với người phạm tội lần đầu… v.v… cần hiểu rằng tranh cãi về tội chỉ là sự quy ước,” do đó, người ta nói rằng “sự quy ước về tội được Đức Thế Tôn chế định do sự phát sinh của các pháp thiện v.v… đó đã được tạo ra,” và “nó tồn tại cho đến khi có nguyên nhân làm lắng dịu,” và “nó biến mất do các nguyên nhân làm lắng dịu.” Và cần hiểu rằng dù tội có bản chất là quy ước, nhưng đối với người cố ý phạm vào nó và không làm sám hối, thì đống bất thiện và chướng ngại cho thiên đường và đạo lộ sẽ có do sự không tôn trọng, do đó những người biết hổ thẹn không vi phạm đúng phương pháp, và do nhân duyên không vi phạm đó, các pháp như giới v.v… vô số loại của họ sẽ tăng trưởng. Sự quy định ‘chỉ ba mươi hai’ được thực hiện do các biểu tri thân và khẩu là dấu hiệu của tội phát sinh từ chính chúng, không phải do tất cả các tội cũng phát sinh từ chính chúng. Vì đối với những người nằm ngủ và những người nhập diệt thọ tưởng định, tội ngủ chung v.v… có thể phát sinh do các tâm quả và tâm thiền định tạo ra phi biểu tri và do các pháp sắc.

Dasāti kiriyāhetukamanoviññāṇadhātudvayena saha aṭṭha mahākiriyacittāni. Paññattiṃ ajānitvā iddhivikubbanādīsu abhiññānaṃ āpattisamuṭṭhāpakattaṃ veditabbaṃ. Ettha ca kiñci sikkhāpadaṃ akusalacittameva, kiñci kusalābyākatavasena dvicittaṃ, kiñci ticittanti ayameva bhedo labbhati, nāññoti veditabbaṃ. Kiriyāsamuṭṭhānanti parūpakkamena jāyamānaṃ aṅgajātādicalanaṃ sādiyanacittasaṅkhāte sevanacitte uppanne tena cittena samuppāditameva hotīti vuttaṃ itarathā ‘‘siyā kiriyasamuṭṭhānaṃ, siyā akiriyasamuṭṭhāna’’nti vattabbato.
Mười là tám tâm đại hành động cùng với hai tâm ý thức là nguyên nhân của hành động. Cần hiểu rằng các thần thông là nguồn gốc của tội trong các trường hợp như biến hóa thần thông v.v… mà không biết sự chế định. Ở đây, cần biết rằng chỉ có sự khác biệt này là một điều học nào đó chỉ là tâm bất thiện, một điều nào đó là hai tâm theo thiện và vô ký, một điều nào đó là ba tâm, không có gì khác. Nguồn gốc từ hành động: được nói rằng sự chuyển động của bộ phận sinh dục v.v… phát sinh do người khác khởi xướng, khi tâm giao hợp là tâm chấp nhận khởi lên, thì được xem là do chính tâm đó tạo ra, nếu không, đáng lẽ phải nói là “hoặc là nguồn gốc từ hành động, hoặc là nguồn gốc từ sự không hành động.”

Yaṃ pana sāratthadīpaniyaṃ (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.66 pakiṇṇakakathāvaṇṇanā) vuttaṃ ‘‘kiriyasamuṭṭhānanti idaṃ yebhuyyavasena vuttaṃ parūpakkame sati sādiyantassa akiriyasamuṭṭhānabhāvato’’tiādi, taṃ na gahetabbaṃ paṭhamapārājikassa akiriyasamuṭṭhānatāya pāḷiaṭṭhakathāsu avuttattā. ‘‘Manodvāre āpatti nāma natthī’’ti (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamapārājikavaṇṇanā; pārā. aṭṭha. 2.583-4) hi vuttaṃ. Kathañhi nāma parūpakkamena methunaṃ sādiyanto attano aṅgajātādikāyacalanaṃ na sādiyeyya, sādiyanacittānuguṇameva pana sakalasarīre cittajarūpasamuppattiyā viññattipi sukhumā samuppannā eva hotīti daṭṭhabbaṃ, tenāha kāyadvāreneva samuṭṭhānato kāyakammantiādi. Cittaṃ panettha aṅgamattaṃ hotīti kāyaviññatti eva kāyakammabhāve kāraṇaṃ, na cittaṃ. Taṃ panettha kāyasaṅkhātāya viññattiyāyeva aṅgamattaṃ, na kāyakammabhāvassa, itarathā methunassa ‘‘manokamma’’nti vattabbato, tenāha ‘‘na tassa vasena kammabhāvo labbhatī’’ti. Kammabhāvoti kāyakammabhāvo. Sabbañcetanti etaṃ samuṭṭhānādikaṃ. Sikkhāpadasīsenāti taṃtaṃsikkhāpadaniyataāpattiyā eva gahaṇatthaṃ sikkhāpadamukhena.
Điều được nói trong Sāratthadīpanī (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.66 pakiṇṇakakathāvaṇṇanā) rằng “nguồn gốc từ hành động, điều này được nói theo số đông, vì đối với người chấp nhận khi có sự khởi xướng của người khác, thì là nguồn gốc từ sự không hành động” v.v…, điều đó không nên được chấp nhận, vì tính chất nguồn gốc từ sự không hành động của tội Bất Cộng Trụ thứ nhất không được nói trong Pāḷi và Chú giải. Vì đã nói rằng “không có tội nào ở cửa ý” (kaṅkhā. aṭṭha. paṭhamapārājikavaṇṇanā; pārā. aṭṭha. 2.583-4). Làm sao mà người chấp nhận sự giao hợp do người khác khởi xướng lại không chấp nhận sự chuyển động của bộ phận sinh dục v.v… của mình được, cần hiểu rằng biểu tri cũng phát sinh một cách vi tế trong toàn bộ cơ thể do sự phát sinh của sắc do tâm tạo phù hợp với tâm chấp nhận, do đó nói là nguồn gốc chỉ từ cửa thân nên là nghiệp thân v.v… Tâm ở đây chỉ là một yếu tố: chỉ có biểu tri thân là nguyên nhân của việc trở thành nghiệp thân, không phải tâm. Nó ở đây chỉ là yếu tố của chính biểu tri là thân, không phải của việc trở thành nghiệp thân, nếu không, sự giao hợp đáng lẽ phải được gọi là “nghiệp ý,” do đó nói là “không thể có được tính chất nghiệp do nó.” Tính chất nghiệp là tính chất nghiệp thân. Và tất cả những điều này là nguồn gốc v.v… này. Bằng đầu đề là điều học là bằng cách lấy điều học làm đầu để chỉ lấy tội cố định của điều học đó.

Pakiṇṇakakathāvaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về các vấn đề linh tinh đã kết thúc.

Vinītavatthuvaṇṇanā

Giải thích về các câu chuyện đã được phân xử

Idaṃ kinti kathetukāmatāpucchā. Imātiādi vissajjanaṃ. Vinītāni āpattiṃ tvaṃ bhikkhu āpannotiādinā (pārā. 67) bhagavatā vinicchinitāni vatthūni vinītavatthūni. Taṃ taṃ vatthuṃ uddharitvā dānato paṭṭhāya uddānabhūtā gāthā uddānagāthā, saṅgahagāthā, uddesagāthāti vuttaṃ hoti. Vatthu gāthāti tena kho pana samayena aññataro bhikkhūtiādikā vinītavatthupāḷiyeva tesaṃ tesaṃ vinītavatthūnaṃ ganthanato ‘‘vatthugāthā’’ti vuttā , na chandovicitilakkhaṇena. Uddānagāthānaṃ vatthu vatthugāthāti evaṃ vā ettha attho daṭṭhabbo. Etthāti vinītavatthūsu. Dutiyādīnanti dutiyapārājikādīnaṃ. Yaṃ passitvā cittakārādayo sippikā cittakammādīni sikkhanti, taṃ paṭicchannakarūpaṃ, paṭimārūpanti attho.
Đây là gì là câu hỏi muốn được giải thích. Những điều này… v.v… là câu trả lời. Các câu chuyện đã được Đức Thế Tôn phân xử bằng câu “Này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội…” v.v… (Bất Cộng Trụ 67) là các câu chuyện đã được phân xử. Bài kệ tóm tắt, bắt đầu từ việc cho, bằng cách nêu ra từng câu chuyện đó, được gọi là bài kệ tóm tắt, là bài kệ tổng hợp, bài kệ đề mục. Bài kệ câu chuyện: Pāḷi về các câu chuyện đã được phân xử như “vào lúc đó, có một Tỳ-khưu…” v.v… được gọi là “bài kệ câu chuyện” do sự kết nối của các câu chuyện đã được phân xử đó, không phải do đặc tính của thi luật. Hoặc ở đây, cần hiểu ý nghĩa là câu chuyện của các bài kệ tóm tắt là bài kệ câu chuyện. Ở đây là trong các câu chuyện đã được phân xử. Của điều thứ hai v.v… là của điều Bất Cộng Trụ thứ hai v.v… Điều mà các nghệ nhân như họa sĩ v.v… nhìn vào để học các nghề như hội họa v.v…, đó là hình mẫu, có nghĩa là hình tượng mẫu.

67. Purimāni dveti makkaṭīvajjiputtakavatthūni dve. Tānipi bhagavatā vinītabhāvena puna vinītavatthūsu pakkhittāni. Tattha tassa kukkuccaṃ ahosītiādi pana kiñcāpi tesaṃ paṭhamaṃ kukkuccaṃ na uppannaṃ, bhikkhūhi pana bhagavatā ca garahitvā vuttavacanaṃ sandhāya pacchā uppannattaṃ sandhāya vuttaṃ. Bhagavato etamatthaṃ ārocesuntiādi ca bhikkhūhi ānandattherena ca paṭhamaṃ bhagavato ārocite, bhagavatā ca tesaṃ pārājikatte pakāsite bhītā te sayampi gantvā attano kukkuccaṃ pacchā ārocenti eva. ‘‘Saccaṃ kira tva’’ntiādinā bhagavatā puṭṭhā pana ‘‘saccaṃ bhagavā’’ti paṭijānanavasenāpi ārocenti. Bhagavāpi āpattiṃ tvantiādinā tesaṃ pārājikattaṃ vinicchinoti eva. Anupaññattikathāyaṃ pana taṃ sabbaṃ avatvā anupaññattiyā anuguṇameva kiñcimattaṃ vuttaṃ, idhāpi tesaṃ vatthūnaṃ bhagavatā vinītabhāvadassanatthaṃ evaṃ vuttanti veditabbaṃ. Keci imaṃ adhippāyaṃ amanasikatvā ‘‘aññānevetāni vatthūnī’’ti vadanti. Kuseti kusatiṇāni. Kesehīti manussakesehi.
67. Hai câu chuyện trước là hai câu chuyện về con khỉ cái và các Tỳ-khưu Vajjī. Chúng cũng được Đức Thế Tôn xếp vào các câu chuyện đã được phân xử vì đã được Ngài phân xử. Ở đó, câu “vị ấy đã có lòng nghi ngờ” v.v… dù lúc đầu họ không phát sinh lòng nghi ngờ, nhưng được nói nhắm đến sự phát sinh sau đó, do lời nói khiển trách của các Tỳ-khưu và Đức Thế Tôn. Và câu “họ đã báo cáo việc đó lên Đức Thế Tôn” v.v…, sau khi các Tỳ-khưu và trưởng lão Ānanda đã báo cáo lên Đức Thế Tôn lúc đầu, và sau khi Đức Thế Tôn đã tuyên bố họ phạm tội Bất Cộng Trụ, họ sợ hãi cũng tự mình đến và báo cáo lòng nghi ngờ của mình sau đó. Và khi được Đức Thế Tôn hỏi “Này con, có thật là…” v.v…, họ cũng báo cáo bằng cách thừa nhận “Thưa Đức Thế Tôn, là thật.” Đức Thế Tôn cũng phân xử rằng họ đã phạm tội Bất Cộng Trụ bằng câu “Ngươi đã phạm tội…” v.v… Nhưng trong phần giải thích về sự chế định bổ sung, tất cả những điều đó không được nói đến, mà chỉ nói một chút phù hợp với sự chế định bổ sung. Ở đây cũng vậy, cần hiểu rằng đã được nói như vậy để chỉ ra rằng các câu chuyện của họ đã được Đức Thế Tôn phân xử. Một số người không suy xét ý định này mà nói rằng “đây là những câu chuyện khác.” Cỏ là cỏ kusa. Bằng tóc là bằng tóc người.

68. Vaṇṇapokkharatāyāti ettha pokkhalaṃ nāma samiddhaṃ sundarañca, tassa bhāvo ‘‘pokkharatā’’ti ra-kāraṃ katvā vutto, samiddhatā sundaratāti attho. Padhaṃsesīti abhibhavi. Na limpatīti na allīyati.
68. Do vẻ đẹp rực rỡ: ở đây, ‘pokkhalaṃ’ là sự thịnh vượng và đẹp đẽ, trạng thái của nó được gọi là “pokkharatā” bằng cách thêm mẫu tự ‘ra,’ có nghĩa là sự thịnh vượng, sự đẹp đẽ. Đã lấn át là đã vượt qua. Không bị vấy bẩn là không bị dính mắc.

69. Evarūpā parivattaliṅgā bhikkhuniyo atthato ekato upasampannāpi ubhatosaṅghe upasampannāsuyeva saṅgayhanti bhikkhūpasampadāya bhikkhunīupasampadatopi ukkaṭṭhattā. Pāḷiyaṃ ‘‘tāhi āpattīhi anāpatti’’nti upayogavacanaṃ katvā anujānāmīti padena sambandhitabbaṃ. Itthiliṅganti thanādikaṃ itthisaṇṭhānaṃ vuttanti āha – ‘‘purisa…pe… itthisaṇṭhānaṃ uppanna’’nti. Taṃ nānantarikato pana ‘‘purisindriyampi antarahitaṃ, itthindriyañca uppanna’’nti vuttameva hoti, evaṃ uparipi liṅgaggahaṇeneva itthindriyādiggahaṇaṃ veditabbaṃ. ti āpattiyo, tassa vuṭṭhātunti iminā sambandho, tāhi āpattīhi vuṭṭhāpetunti attho. Kathanti āha tā sabbāpi bhikkhunīhi kātabbantiādi. Tena paṭicchannāyapi appaṭicchannāyapi garukāpattiyā pakkhamānattacaraṇādikaṃ vidhiṃ dasseti.
69. Các Tỳ-khưu-ni chuyển giới như vậy, dù về mặt ý nghĩa đã cùng nhau thọ giới cụ túc, nhưng được bao gồm trong số những người đã thọ giới cụ túc ở cả hai Tăng, vì sự thọ giới cụ túc của Tỳ-khưu cao quý hơn sự thọ giới cụ túc của Tỳ-khưu-ni. Trong Pāḷi, cần kết hợp với từ ‘anujānāmi’ (Ta cho phép) bằng cách dùng sở dụng cách “vô tội đối với các tội đó.” ‘Giới tính nữ’ được nói là hình dáng của người nữ như vú v.v…, nên nói là – “…giới tính nam… hình dáng của người nữ đã phát sinh.” Nhưng do không có khoảng cách, đã được nói là “cơ quan sinh dục nam cũng đã biến mất, và cơ quan sinh dục nữ đã phát sinh,” cũng vậy ở trên, cần hiểu rằng việc lấy cơ quan sinh dục nữ v.v… đã được bao gồm bằng cách lấy giới tính. Những tội đó là các tội, có liên quan đến câu ‘tassa vuṭṭhātuṃ’ (để người đó xuất tội), có nghĩa là để người đó xuất khỏi các tội đó. Như thế nào? Nói là tất cả những điều đó phải được các Tỳ-khưu-ni thực hiện v.v… Bằng điều đó, chỉ ra phương pháp như thi hành hình phạt tự hối theo tháng v.v… đối với tội nặng, dù đã che giấu hay không che giấu.

Okkantikavinicchayoti pasaṅgānuguṇaṃ otaraṇakavinicchayo. Balavaakusalenāti paradārikakammādinā. Dubbalakusalenāti yathāvuttabalavākusalopahatasattinā tato eva dubbalabhūtena kusalena. Dubbalaakusalenāti purisabhāvuppādakabrahmacariyādibalavakusalopahatasattinā tato eva dubbalabhūtena paradārikādiakusalena. Sugatiyaṃ bhāvadvayassa kusalakammajattā akusaleneva vināso kusaleneva uppattīti āha ubhayampītiādi. Duggatiyaṃ pana akusaleneva ubhinnampi uppatti ca vināso ca, tattha dubbalabalavabhāvova viseso.
Sự phân xử tùy theo bối cảnh là sự phân xử tùy theo từng trường hợp. Bằng nghiệp bất thiện mạnh là bằng nghiệp ngoại tình với vợ người khác v.v… Bằng nghiệp thiện yếu là bằng nghiệp thiện đã trở nên yếu đi do bị nghiệp bất thiện mạnh đã nói làm suy yếu năng lực. Bằng nghiệp bất thiện yếu là bằng nghiệp bất thiện như ngoại tình với vợ người khác v.v… đã trở nên yếu đi do bị nghiệp thiện mạnh như phạm hạnh tạo ra thân phận nam giới làm suy yếu năng lực. Vì trong cõi lành, cả hai thân phận đều do nghiệp thiện sinh ra, sự hủy diệt chỉ do nghiệp bất thiện và sự phát sinh chỉ do nghiệp thiện, nên nói là cả hai… v.v… Nhưng trong cõi dữ, cả hai đều phát sinh và hủy diệt chỉ do nghiệp bất thiện, ở đó chỉ có sự khác biệt là trạng thái yếu và mạnh.

‘‘Ehi mayaṃ gamissāmā’’ti bhikkhuniyā saddhiṃ saṃvidhāya ekaddhānagamane pācittiyāpattiparihāratthaṃ vuttaṃ ‘‘saṃvidahanaṃ parimocetvā’’ti. Tena ekagāmakkhettepi bahigāmato antaragharaṃ saṃvidhāya gamanampi āpattikaramevāti dasseti. Parimocanavidhiṃ dassento āha mayantiādi. Bahigāmeti gāmantare. Dutiyikā bhikkhunī pakkantā vā hotītiādinā (pāci. 693) vuttaanāpattilakkhaṇaṃ anulometīti vuttaṃ ‘‘gāmantara…pe… anāpattī’’ti. Kopetvāti pariccajitvā. Lajjiniyo…pe… labbhatīti liṅgaparivattanadukkhapīḷitassa saṅgahepi asati hīnāyāvattanampi bhaveyyāti ‘‘āpadāsū’’ti vuttaanāpattianulomena vuttaṃ. Tāya dutiyikaṃ gahetvāva gantabbaṃ. Alajjiniyo…pe… labbhatīti alajjinīhi saddhiṃ ekakammādisaṃvāse āpattisambhavato tā asantapakkhaṃ bhajantīti vuttaṃ, imināpetaṃ veditabbaṃ ‘‘alajjinīhi saddhiṃ paribhogo na vaṭṭatī’’ti. Yadi hi vaṭṭeyya, tatopi dutiyikaṃ vinā gāmantaragamanādīsu āpatti eva siyā saṅgāhikattā tāsaṃ saṅgāhikalajjinigaṇato viya. Ñātikā na honti…pe… vaṭṭatīti vadantīti iminā aṭṭhakathāsu anāgatabhāvaṃ dīpeti. Tatthāpi vissāsikañātikabhikkhuniyo vinā bhikkhunibhāve aramantassa mānapakatikassa āpadāṭṭhānasambhavena taṃ vacanaṃ appaṭikkhittampi tadaññesaṃ na vaṭṭatiyevāti gahetabbaṃ. Bhikkhubhāvepīti bhikkhukālepi . Taṃ nissāyāti taṃ nissayācariyaṃ katvā. Upajjhā gahetabbāti upasampadāgahaṇatthaṃ upajjhā gahetabbā.
Để tránh phạm tội Ưng Đối Trị khi đi cùng đường với Tỳ-khưu-ni sau khi đã hẹn ước “chúng ta hãy cùng đi,” đã nói là “sau khi đã hủy bỏ sự hẹn ước.” Bằng điều đó, chỉ ra rằng ngay cả trong cùng một khu vực làng, việc đi cùng nhau sau khi đã hẹn ước từ ngoài làng vào trong nhà cũng gây ra tội. Để chỉ ra phương pháp hủy bỏ, đã nói là chúng tôi… v.v… Ở làng ngoài là ở làng khác. Để phù hợp với đặc tính vô tội đã được nói trong câu “Tỳ-khưu-ni đi cùng đã đi mất” v.v… (Ưng Đối Trị 693), đã nói là “ở làng khác… v.v… vô tội.” Bỏ đi là từ bỏ. Những người biết hổ thẹn… v.v… được phép: được nói theo cách vô tội đã được nói trong câu “trong lúc nguy khốn,” vì nếu không có sự giúp đỡ đối với người đang bị đau khổ do chuyển giới, thì ngay cả việc hoàn tục cũng có thể xảy ra. Vị đó phải đi cùng với người đi cùng. Những người không biết hổ thẹn… v.v… không được phép: vì có thể phạm tội khi chung sống trong các Yết-ma v.v… cùng với những người không biết hổ thẹn, nên đã nói là họ thuộc về phía không tốt, bằng điều này cũng cần hiểu rằng “không được phép hưởng dụng cùng với những người không biết hổ thẹn.” Nếu được phép, thì ngay cả khi đi đến làng khác mà không có người đi cùng từ họ, cũng sẽ phạm tội, vì họ có tính chất giúp đỡ, giống như từ nhóm những người biết hổ thẹn có tính chất giúp đỡ. Không phải là quyến thuộc… v.v… nói là được phép: bằng câu này, chỉ ra rằng điều đó không có trong các Chú giải. Ở đó cũng vậy, ngoài các Tỳ-khưu-ni là quyến thuộc thân tín, vì có thể có trường hợp nguy khốn đối với người có tính kiêu mạn, không vui trong thân phận Tỳ-khưu, nên lời nói đó dù không bị bác bỏ, nhưng đối với những người khác thì không được phép. Ngay cả trong thân phận Tỳ-khưu là ngay cả trong thời gian làm Tỳ-khưu. Nương vào vị đó là lấy vị đó làm thầy y chỉ. Phải lấy thầy tế độ là phải lấy thầy tế độ để thọ giới cụ túc.

Vinayakammanti vikappanaṃ sandhāya vuttaṃ. Puna kātabbanti puna vikappetabbaṃ. Puna paṭiggahetvā sattāhaṃ vaṭṭatīti ‘‘anujānāmi, bhikkhave, bhikkhunīnaṃ sannidhiṃ bhikkhūhi, bhikkhūnaṃ sannidhiṃ bhikkhunīhi ca paṭiggāhāpetvā paribhuñjitu’’nti (cūḷava. 421) vacanato puna paṭiggahetvā paribhuñjituṃ vaṭṭatīti dassanatthaṃ vuttaṃ. Sattame divaseti idañca nissaggiyaṃ anāpajjitvāva punapi sattāhaṃ paribhuñjituṃ vaṭṭatīti dassanatthaṃ vuttaṃ. Pakatattoti aparivattaliṅgo. Rakkhatīti taṃ paṭiggahaṇavijahanato rakkhati, avibhattatāya paṭiggahaṇaṃ na vijahatīti adhippāyo.
Tăng sư trong luật được nói nhắm đến sự định đoạt. Phải làm lại là phải định đoạt lại. Sau khi nhận lại, được phép trong bảy ngày: được nói để chỉ ra rằng được phép dùng sau khi nhận lại, theo lời nói “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép các Tỳ-khưu-ni nhận lại vật dự trữ của các Tỳ-khưu, và các Tỳ-khưu nhận lại vật dự trữ của các Tỳ-khưu-ni để dùng” (cūḷava. 421). Vào ngày thứ bảy: và điều này được nói để chỉ ra rằng được phép dùng lại trong bảy ngày mà không phạm tội phải xả. Người bình thường là người không chuyển giới. Giữ gìn là giữ gìn khỏi việc từ bỏ sự thọ nhận đó, ý là không từ bỏ sự thọ nhận do chưa được phân chia.

Sāmaṃ gahetvāna nikkhipeyyāti sahatthena paṭiggahetvāna nikkhipeyya. Paribhuñjantassa āpattīti liṅgaparivatte jāte puna appaṭiggahetvā paribhuñjantassa āpatti.
Tự tay lấy rồi cất đi là tự tay nhận rồi cất đi. Tội đối với người dùng là tội đối với người dùng mà không nhận lại sau khi đã chuyển giới.

Hīnāyāvattanenāti ettha keci ‘‘pakatattassa bhikkhuno sikkhaṃ appaccakkhāya ‘gihī bhavissāmī’ti gihiliṅgaggahaṇaṃ hīnāyāvattana’’nti vadanti, taṃ na yuttaṃ tattakena bhikkhubhāvassa avijahanato. Aññe pana ‘‘pārājikaṃ āpannassa bhikkhupaṭiññaṃ pahāya gihiliṅgabhāvūpagamanampi hīnāyāvattana’’nti vadanti, taṃ yuttameva. Pārājikaṃ āpanno hi taṃ paṭicchādetvā yāva bhikkhupaṭiñño hoti, tāva bhikkhu eva hoti bhikkhūnameva pārājikassa paññattattā. ‘‘Yo pana bhikkhū’’ti hi vuttaṃ. Tathā hi so saṃvāsaṃ sādiyantopi theyyasaṃvāsako na hoti, sahaseyyādiāpattiñca na janeti, attānaṃ omasantassa pācittiyañca janeti. Vuttañhi –
Bằng sự hoàn tục: ở đây, một số người nói rằng “sự hoàn tục là việc Tỳ-khưu bình thường lấy tướng mạo người tại gia với ý nghĩ ‘tôi sẽ là người tại gia’ mà không xả giới,” điều đó không đúng, vì chừng đó chưa từ bỏ được thân phận Tỳ-khưu. Nhưng những người khác nói rằng “sự hoàn tục cũng là việc người đã phạm tội Bất Cộng Trụ từ bỏ sự tự nhận là Tỳ-khưu và đi đến thân phận tướng mạo người tại gia,” điều đó rất đúng. Vì người đã phạm tội Bất Cộng Trụ, chừng nào còn che giấu điều đó và còn tự nhận là Tỳ-khưu, chừng đó vẫn là Tỳ-khưu, vì tội Bất Cộng Trụ chỉ được chế định cho Tỳ-khưu. Vì đã nói là “Bất kỳ Tỳ-khưu nào.” Cụ thể, người đó dù chấp nhận sự chung sống, cũng không phải là người chung sống lén lút, không gây ra tội ngủ chung v.v…, và gây ra tội Ưng Đối Trị cho người khinh miệt mình. Đã được nói:

‘‘Asuddho hoti puggalo aññataraṃ pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpanno, tañce suddhadiṭṭhi samāno okāsaṃ kārāpetvā akkosādhippāyo vadeti, āpatti omasavādassā’’ti (pārā. 389).

“Người đó không trong sạch, đã phạm vào một pháp Bất Cộng Trụ nào đó, nếu một người có chánh kiến, sau khi đã xin phép, nói với ý định mắng nhiếc, thì phạm tội nói lời khinh miệt” (pārā. 389).

Eke pana ‘‘pārājikaṃ āpannānaṃ dosaṃ paṭijānitvā gihiliṅgaggahaṇaṃ nāma sikkhāpaccakkhāne samodhānaṃ gacchati tenāpi paṭiññāya bhikkhubhāvassa vijahanato. Teneva vinayavinicchayādīsu hīnāyāvattanaṃ sikkhāpaccakkhāne samodhānetvā visuṃ taṃ na vuttaṃ. Tasmā bhikkhunīnaṃ vibbhamitukāmatāya gihiliṅgaggahaṇaṃ idha hīnāyāvattanaṃ tāsaṃ sikkhāpaccakkhānassa abhāvato. Tāsaṃ paṭiggahaṇavijahanassāpi sabbaso vattabbattā’’ti vadanti, tampi appaṭibāhiyameva. Tasmā pārājikānaṃ bhikkhunīnañca ‘‘uppabbajissāmī’’ti gihiliṅgaggahaṇaṃ hīnāyāvattananti gahetabbaṃ. Vibbhamotipi etasseva nāmaṃ, teneva taṃ khuddasikkhāyaṃ ‘‘acchedavissajjanagāhavibbhamā’’ti adhiṭṭhānavijahane vibbhamanāmena vuttaṃ.
Một số người lại nói rằng “việc người phạm tội Bất Cộng Trụ thừa nhận lỗi và lấy tướng mạo người tại gia được gộp vào sự xả giới, vì bằng điều đó cũng từ bỏ thân phận Tỳ-khưu trên danh nghĩa. Chính vì thế, trong các sách phân tích luật v.v…, sự hoàn tục được gộp vào sự xả giới và không được nói riêng. Do đó, việc Tỳ-khưu-ni lấy tướng mạo người tại gia vì muốn bỏ tu ở đây là sự hoàn tục, vì họ không có sự xả giới. Vì cũng phải nói hoàn toàn về việc từ bỏ sự thọ nhận của họ,” điều đó cũng không thể bác bỏ. Do đó, cần hiểu rằng việc Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni phạm tội Bất Cộng Trụ lấy tướng mạo người tại gia với ý nghĩ “tôi sẽ bỏ tu” là sự hoàn tục. ‘Vibbhamo’ cũng là tên gọi của nó, chính vì thế, nó đã được nói trong Khuddasikkhā bằng tên ‘vibbhamana’ (sự từ bỏ) trong việc từ bỏ sự chú nguyện là “sự cắt đứt, từ bỏ, lấy, bỏ tu.”

Anapekkhavissajjanenāti aññassa adatvāva anatthikasseva paṭiggahitavatthūnaṃ bahi chaḍḍanena. Keci ‘‘paṭiggahitavatthūsu sāpekkhassa pure paṭiggahitabhāvato parimocanatthaṃ tattha paṭiggahamattassa vissajjanampi anapekkhavissajjanameva cīvarādiadhiṭṭhānapaccuddhāro viyā’’ti vadanti, taṃ na sundaraṃ tathāvacanābhāvā. Yatheva hi cīvarādīsu anapekkhavissajjanena adhiṭṭhānavijahanaṃ vatvāpi visuṃ paccuddhāro ca vutto, evamidhāpi vattabbaṃ, yathā ca cīvarādīsu kāyapaṭibaddhesupi paccuddhārena adhiṭṭhānaṃ vigacchati, na evamidha. Idha pana paṭiggahitavatthusmiṃ anapekkhassāpi kāyato mutteyeva tasmiṃ paṭiggahaṇaṃ vijahati. Tathā hi vuttaṃ ‘‘satakkhattumpi pariccajatu, yāva attano hatthagataṃ paṭiggahitamevā’’ti. Anapekkhavissajjanenāti ettha ca ‘‘anapekkhāyā’’ti ettakameva vattabbaṃ anapekkhataṃ muñcitvā idha visuṃ vissajjanassa abhāvā. Na hettha paccuddhāre viya vissajjanavidhānamatthi. Apica paṭiggahaṇamattavissajjane sati pure paṭiggahitopi āhāro bhuñjitukamyatāya uppannāya paṭiggahaṇamattaṃ vissajjetvā puna paṭiggahetvā yathāsukhaṃ bhuñjitabbo siyāti, tathā ca sannidhikārakasikkhāpade vuttā sabbāpi vinicchayabhedā niratthakā eva siyuṃ. Vuttañhi tattha –
Bằng sự vứt bỏ không luyến tiếc: bằng việc vứt bỏ các vật dụng đã thọ nhận ra ngoài mà không cho ai khác, chỉ vì không cần đến. Một số người nói rằng “đối với người có luyến tiếc trong các vật dụng đã thọ nhận, để giải thoát khỏi trạng thái đã thọ nhận trước đó, việc từ bỏ chỉ sự thọ nhận ở đó cũng là sự vứt bỏ không luyến tiếc, giống như việc hủy bỏ sự chú nguyện đối với y v.v…,” điều đó không hay, vì không có lời nói như vậy. Giống như đối với y v.v…, dù đã nói về việc từ bỏ sự chú nguyện bằng sự vứt bỏ không luyến tiếc, nhưng cũng nói riêng về việc hủy bỏ, ở đây cũng phải nói như vậy. Và giống như đối với y v.v…, dù còn gắn liền với thân, sự chú nguyện vẫn biến mất do sự hủy bỏ, ở đây thì không như vậy. Ở đây, đối với người không luyến tiếc trong vật dụng đã thọ nhận, sự thọ nhận đó chỉ biến mất khi nó rời khỏi thân. Cụ thể, đã nói rằng “dù từ bỏ một trăm lần, chừng nào còn trong tay mình, chừng đó vẫn là đã thọ nhận.” Và trong câu ‘bằng sự vứt bỏ không luyến tiếc,’ đáng lẽ chỉ cần nói là “bằng sự không luyến tiếc,” vì ở đây không có sự vứt bỏ riêng biệt ngoài sự không luyến tiếc. Ở đây không có phương pháp vứt bỏ như trong việc hủy bỏ. Hơn nữa, nếu có sự từ bỏ chỉ sự thọ nhận, thì thức ăn đã được thọ nhận trước đó, khi có ý muốn ăn, đáng lẽ có thể từ bỏ chỉ sự thọ nhận rồi nhận lại và ăn tùy thích, và như vậy, tất cả các sự phân biệt đã được nói trong điều học về việc cất giữ sẽ trở nên vô nghĩa. Đã được nói ở đó:

‘‘Gaṇṭhikapattassa vā gaṇṭhikantare sneho paviṭṭho hoti…pe… tādise pattepi punadivase bhuñjantassa pācittiya’’ntiādi (pāci. aṭṭha. 253).

“Chất nhờn đã vào trong nút thắt của bát có nút thắt… v.v… ngay cả trong bát như vậy, người ăn vào ngày hôm sau cũng bị tội Ưng Đối Trị” v.v… (chú giải Ưng Đối Trị 253).

Tattha pana ‘‘paṭiggahaṇaṃ anapekkhacittena vissajjetvā bhuñjitabba’’nti ettakameva vattabbaṃ, na ca vuttaṃ. Katthaci īdisesu ca gaṇṭhikapattādīsu paṭiggahaṇe apekkhā kassacipi nattheva tappahānāya vāyāmato, tathāpi tatthagataāmise paṭiggahaṇaṃ na vigacchati. Kasmā? Bhikkhussa patte puna bhuñjitukāmatāpekkhāya vijjamānattā pattagatike āhārepi tassā vattanato. Na hi pattaṃ avissajjetvā taggatikaṃ āhāraṃ vissajjetuṃ sakkā, nāpi āhāraṃ avissajjetvā taggatikaṃ paṭiggahaṇaṃ vissajjetuṃ. Tasmā vatthuno vissajjanameva anapekkhavissajjanaṃ, na paṭiggahaṇassāti niṭṭhamettha gantabbaṃ. Teneva sannidhisikkhāpadassa anāpattivāre
Nhưng ở đó, đáng lẽ chỉ cần nói là “phải ăn sau khi đã từ bỏ sự thọ nhận với tâm không luyến tiếc,” nhưng đã không được nói. Và trong một số trường hợp như bát có nút thắt v.v…, không ai có luyến tiếc trong sự thọ nhận, vì đang cố gắng loại bỏ nó, nhưng sự thọ nhận đối với thức ăn trong đó không biến mất. Tại sao? Vì Tỳ-khưu còn có luyến tiếc muốn ăn lại trong bát, nên sự luyến tiếc đó cũng có đối với thức ăn trong bát. Vì không thể từ bỏ thức ăn trong bát mà không từ bỏ bát, cũng không thể từ bỏ sự thọ nhận trong đó mà không từ bỏ thức ăn. Do đó, cần đi đến kết luận rằng sự vứt bỏ vật dụng chính là sự vứt bỏ không luyến tiếc, không phải sự vứt bỏ sự thọ nhận. Chính vì thế, trong trường hợp vô tội của điều học về việc cất giữ:

‘‘Antosattāhaṃ adhiṭṭheti, vissajjeti, nassati, vinassati, ḍayhati, acchinditvā gaṇhanti, vissāsaṃ gaṇhanti, anupasampannassa cattena vantena muttena anapekkho datvā paṭilabhitvā paribhuñjatī’’ti –

“Chú nguyện trong bảy ngày, từ bỏ, bị mất, bị hư hỏng, bị cháy, họ lấy mà không giật, họ lấy do thân quen, sau khi đã cho người chưa thọ giới cụ túc bằng vật bỏ đi, vật đã nôn ra, vật đã đi tiểu, không luyến tiếc, rồi nhận lại và dùng” –

Evaṃ sabbattha vatthuvissajjanameva vuttaṃ. Ettha ca ‘‘antosattāhaṃ adhiṭṭhetī’’ti bāhiraparibhogāya adhiṭṭhānavacanato vatthuṃ avissajjetvāpi kevalaṃ anajjhoharitukāmatāya suddhacittena bāhiraparibhogatthāya niyamanampi visuṃ ekaṃ paṭiggahaṇavijahanakāraṇameva, idañca sandhāya paṭiggahaṇamattavissajjanaṃ vuttaṃ siyā, suvuttameva siyā, tathā ca ‘‘puna paṭiggahetvā paribhuñjissāmī’’ti paṭiggahaṇavissajjanaṃ na vattabbaṃ siyā bāhiraparibhogādhiṭṭhānassa idhādhippetattā.
Như vậy, ở mọi nơi, chỉ có sự từ bỏ vật dụng được nói đến. Ở đây, từ câu “chú nguyện trong bảy ngày,” do lời nói về sự chú nguyện để dùng bên ngoài, việc quy định để dùng bên ngoài bằng tâm trong sạch, chỉ với ý muốn không ăn, mà không từ bỏ vật dụng, cũng là một nguyên nhân riêng biệt để từ bỏ sự thọ nhận. Và nhắm đến điều này, nếu nói là từ bỏ chỉ sự thọ nhận, thì đã là lời nói hay, và như vậy, không đáng lẽ phải nói là từ bỏ sự thọ nhận với ý nghĩ “tôi sẽ nhận lại và dùng,” vì sự chú nguyện để dùng bên ngoài được ngụ ý ở đây.

Sāratthadīpaniyañhi (sārattha. dī. pārājikakaṇḍa 2.69) ‘‘anapekkhavissajjanenāti ettha aññassa adatvāva anatthikatāya ‘natthi iminā kammaṃ na dāni naṃ paribhuñjissāmī’ti vatthūsu vā, ‘puna paṭiggahetvā paṭibhuñjissāmī’ti paṭiggahaṇe vā anapekkhavissajjanenā’’ti evaṃ paribhuñjitukāmasseva paṭiggahaṇamattavissajjanampi paṭiggahaṇavijahanakāraṇaṃ vuttaṃ, taṃ na gahetabbaṃ. Purimameva pana bāhiraparibhogādhiṭṭhānaṃ gahetabbaṃ. Idaṃ pana aṭṭhakathāsu ‘‘anapekkhavissajjanasaṅkhāte vissajjetī’’ti vuttapāḷipadatthe saṅgahetvā visuṃ na vuttaṃ. Nassati, vinassati, ḍayhati, vissāsaṃ vā gaṇhantīti imāni pana padāni acchinditvā gaṇhantīti imasmiṃ pade saṅgahitānīti veditabbaṃ.
Trong Sāratthadīpanī (sārattha. dī. pārājikakaṇḍa 2.69), đã nói rằng “bằng sự vứt bỏ không luyến tiếc: ở đây, là bằng sự vứt bỏ không luyến tiếc đối với các vật dụng rằng ‘không có việc gì với cái này, bây giờ tôi sẽ không dùng nó nữa’ vì không cần đến mà không cho ai khác, hoặc đối với sự thọ nhận rằng ‘tôi sẽ nhận lại và dùng,’” như vậy, việc từ bỏ chỉ sự thọ nhận của chính người muốn dùng cũng được nói là nguyên nhân từ bỏ sự thọ nhận, điều đó không nên được chấp nhận. Chỉ nên chấp nhận sự chú nguyện để dùng bên ngoài lúc đầu. Nhưng điều này đã được bao gồm trong ý nghĩa của từ Pāḷi “từ bỏ được gọi là vứt bỏ không luyến tiếc” đã được nói trong các Chú giải và không được nói riêng. Cần hiểu rằng các từ ‘bị mất, bị hư hỏng, bị cháy, hoặc họ lấy do thân quen’ được bao gồm trong từ ‘họ lấy mà không giật.’

Acchinditvā gahaṇenāti anupasampannānaṃ balakkārādinā acchinditvā gahaṇena. Upasampannānañhi acchindanavissāsaggāhesu paṭiggahaṇaṃ na vijahati. Etthāti bhikkhuvihāre. Uparopakāti tena ropitā rukkhagacchā. Terasasu sammutīsūti bhattuddesakasenāsanapaññāpakabhaṇḍāgārikacīvarapaṭiggāhakacīvarabhājakayāgubhājakaphalabhājakakhajjabhājakaappamattakavissajjakasādiyagāhāpakapattagāhāpakaārāmikapesakasāmaṇerapesakasammutisaṅkhātāsu terasasu sammutīsu.
Bằng việc lấy mà không giật: bằng việc những người chưa thọ giới cụ túc lấy mà không giật bằng cách ép buộc v.v… Vì đối với những người đã thọ giới cụ túc, sự thọ nhận không bị từ bỏ trong việc giật và lấy do thân quen. Ở đây là trong trú xứ của Tỳ-khưu. Cây trồng là cây cối do người đó trồng. Trong mười ba sự đồng ý: trong mười ba sự đồng ý được gọi là sự đồng ý về người chỉ định thức ăn, người sắp xếp chỗ ở, người giữ kho, người nhận y, người chia y, người chia cháo, người chia quả, người chia bánh, người phát vật nhỏ, người cho phép lấy, người cho phép nhận bát, người sai bảo người coi vườn, và người sai bảo sa-di.

Pacchimikāya senāsanaggāhe paṭippassaddhepi appaṭippassaddhepi kathinatthārassa, tammūlakānaṃ pañcānisaṃsānañca abhāvassa samānattā tattha vijjamānampi senāsanaggāhapaṭippassaddhiṃ adassetvā tattha bhikkhūhi kattabbaṃ saṅgahameva dassetuṃ sace pacchimikāyātiādi vuttaṃ. Sace akusalavipāke …pe… chārattaṃ mānattameva dātabbanti idaṃ paṭicchannāya sādhāraṇāpattiyā parivasantassa asamādinnaparivāsassa vā liṅge parivatte pakkhamānattaṃ carantassa vasena vuttaṃ. Sace panassa pakkhamānatte asamādinne eva puna liṅgaṃ parivattati, parivāsaṃ datvā parivutthaparivāsasseva chārattaṃ mānattaṃ dātabbaṃ. Parivāsadānaṃ natthi bhikkhukāle appaṭicchannabhāvato. Sace pana bhikkhukālepi sañcicca nāroceti, āpatti paṭicchannāva hoti, āpattipaṭicchannabhāvato parivāso ca dātabboti vadanti. Pārājikaṃ āpannānaṃ itthipurisānaṃ liṅge parivattepi pārājikattassa ekasmiṃ attabhāve avijahanato puna upasampadā na dātabbāti gahetabbaṃ. Teneva tesaṃ sīsacchinnapurisādayo nidassitā.
Dù việc nhận chỗ ở vào mùa mưa sau đã được lắng dịu hay chưa, vì sự không có việc trải y ca-thi-na và năm phước báu có nguồn gốc từ đó là như nhau, nên không chỉ ra sự lắng dịu của việc nhận chỗ ở có ở đó, mà chỉ chỉ ra sự giúp đỡ mà các Tỳ-khưu phải làm ở đó, đã nói là nếu vào mùa mưa sau… v.v… Nếu do quả báo bất thiện… v.v… chỉ nên cho hình phạt tự hối: điều này được nói theo cách của người đang thi hành hình phạt tự hối theo tháng, khi giới tính thay đổi trong lúc đang biệt trú vì tội chung đã che giấu, hoặc chưa nhận biệt trú. Nhưng nếu giới tính của người đó lại thay đổi khi chưa nhận hình phạt tự hối theo tháng, thì sau khi đã cho biệt trú và đã sống hết biệt trú, mới nên cho hình phạt tự hối. Không có việc cho biệt trú do không che giấu trong thời gian làm Tỳ-khưu. Nhưng một số người nói rằng nếu trong thời gian làm Tỳ-khưu cũng cố ý không báo cáo, thì tội vẫn là đã che giấu, và do tính chất đã che giấu tội, nên cũng phải cho biệt trú. Cần hiểu rằng đối với người nam và người nữ đã phạm tội Bất Cộng Trụ, dù giới tính có thay đổi, tính chất Bất Cộng Trụ không bị từ bỏ trong một thân phận, nên không được truyền giới cụ túc lại. Chính vì thế, họ đã được ví dụ như người bị chặt đầu v.v…

71. Tathevāti muccatu vā mā vāti imamatthaṃ atidisati. Aññesanti puthujjane sandhāya vuttaṃ. Tesañhi īdise ṭhāne asādiyanaṃ dukkaraṃ sotāpannādiariyānaṃ tattha dukkarattābhāvā. Na hi ariyā pārājikādilokavajjāpattiṃ āpajjanti.
71. Cũng vậy: để dẫn chiếu ý nghĩa ‘dù thoát hay không.’ Của những người khác: được nói nhắm đến phàm phu. Vì đối với họ, việc không chấp nhận ở nơi như vậy là khó, vì đối với các bậc Thánh Dự lưu v.v…, không có sự khó khăn ở đó. Vì các bậc Thánh không phạm các tội bị thế gian chê trách như Bất Cộng Trụ v.v…

73. Suphusitāti uparimāya dantapantiyā heṭṭhimā dantapanti āhacca ṭhitā, avivaṭāti attho. Tenāha ‘‘antomukhe okāso natthī’’ti. Uppāṭite pana oṭṭhamaṃse dante suyeva upakkamantassa thullaccayanti nimittena bahinimitte chupanattā vuttaṃ. Bahinikkhantadantajivhāsupi eseva nayo. Nijjhāmataṇhikā nāma lomakūpehi samuṭṭhitaaggijālāhi daḍḍhasarīratāya ativiya tasitarūpā. Ādi-saddena khuppipāsāsurā aṭṭhicammāvasiṭṭhā bhayānakasarīrā petiyo saṅgahitā. Visaññaṃ katvāti yathā so katampi upakkamaṃ na jānāti, evaṃ katvā. Tena ca visaññī ahutvā sādiyantassa pārājikamevāti dasseti. Upahatakāyappasādoti vātapittādidosehi kāyaviññāṇānuppādakabhāvena dūsitakāyappasādo, na pana vinaṭṭhakāyappasādo. Sīse patteti maggena maggappaṭipādane jāte. Appavesetukāmatāya eva nimittena nimittachupane thullaccayaṃ vuttaṃ, sevetukāmassa pana tatthāpi dukkaṭamevāti āha ‘‘dukkaṭameva sāmanta’’nti.
73. Khép chặt: hàng răng trên chạm vào hàng răng dưới, có nghĩa là không mở. Do đó nói là “không có khoảng trống trong miệng.” Nhưng tội Trọng Tội đối với người khởi sự ngay trên răng khi thịt môi đã bị lột ra: được nói do chạm bộ phận sinh dục vào bộ phận sinh dục bên ngoài. Phương pháp này cũng áp dụng cho răng và lưỡi nhô ra ngoài. Người khát khô vì nóng là người có hình dáng rất khát nước do thân thể bị thiêu đốt bởi ngọn lửa phát ra từ các lỗ chân lông. Với từ ‘v.v…’, bao gồm cả các ngạ quỷ bị đói khát, gầy trơ xương, có thân thểน่า sợ hãi. Làm cho bất tỉnh: làm sao cho người đó không biết cả sự khởi sự đã được thực hiện. Và bằng điều đó, chỉ ra rằng đối với người chấp nhận mà không bất tỉnh, thì là tội Bất Cộng Trụ. Sắc trong của thân bị tổn thương là sắc trong của thân bị làm nhơ bẩn do các lỗi như gió, mật v.v… theo cách không tạo ra thân thức, không phải là sắc trong của thân đã bị hủy hoại. Khi đã đến đầu: khi đã thực hiện việc đưa đường vào đường. Đã nói tội Trọng Tội khi chạm bộ phận sinh dục vào bộ phận sinh dục chỉ với ý muốn không đưa vào, nhưng đối với người muốn giao hợp, thì ở đó cũng chỉ là tội Tác Ác, nên nói là “chỉ là tội Tác Ác ở vùng lân cận.”

74. Jāti-saddena sumanapupphapariyāyena tannissayo gumbo adhippetoti āha ‘‘jātipupphagumbāna’’nti. Tena ca jātiyā upalakkhitaṃ vanaṃ jātiyāvananti aluttasamāsoti dasseti. Ekarasanti vīthicittehi asammissaṃ.
74. Bằng từ ‘jāti’ (loài), bụi cây là nơi nương tựa của nó được ngụ ý theo cách nói ẩn dụ về hoa lài, nên nói là “của các bụi hoa lài.” Và bằng điều đó, chỉ ra rằng ‘jātiyāvana’ (rừng lài) là một hợp từ không bị lược bỏ, là khu rừng được đánh dấu bằng hoa lài. Một vị là không bị trộn lẫn với các tâm trong lộ trình.

77. Uppanne vatthumhīti itthīhi kataajjhācāravatthusmiṃ. Rukkhasūcikaṇṭakadvāranti rukkhasūcidvāraṃ kaṇṭakadvāraṃ, evameva vā pāṭho. Tattha yaṃ ubhosu passesu rukkhathambhe nikhanitvā tattha majjhe vijjhitvā dve tisso rukkhasūciyo pavesetvā karonti, taṃ rukkhasūcidvāraṃ nāma. Pavesananikkhamanakāle pana apanetvā thakanakayoggena kaṇṭakasākhāpaṭalena yuttaṃ dvāraṃ kaṇṭakadvāraṃ nāma. Gāmadvārassa pidhānatthaṃ padarena kaṇṭakasākhādīhi vā katassa kavāṭassa udukkhalapāsarahitatāya ekena saṃvarituṃ vivarituñca asakkuṇeyyassa heṭṭhā ekaṃ cakkaṃ yojenti, yena parivattamānena taṃ kavāṭaṃ sukhathakanaṃ hoti, taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘cakkalakayuttadvāra’’nti. Cakkameva hi lātabbaṭṭhena saṃvaraṇavivaraṇatthāya gahetabbaṭṭhena cakkalakaṃ, tena yuttampi kavāṭaṃ cakkalakaṃ nāma, tena yuttaṃ dvāraṃ cakkalakayuttadvāraṃ. Mahādvāresu pana dve tīṇipi cakkalakāni yojentīti āha phalakesūtiādi. Kiṭikāsūti veḷupesikāhi kaṇṭakasākhādīhi ca katathakanakesu. Saṃsaraṇakiṭikadvāranti cakkalakayantena saṃsaraṇakiṭikāyuttamahādvāraṃ. Gopphetvāti āvuṇitvā, rajjūhi ganthetvā vā. Ekaṃ dussasāṇidvāramevāti ettha kilañjasāṇidvārampi saṅgahaṃ gacchati taggatikattā. Atha bhikkhū…pe… nisinnā hontīti idaṃ bhikkhūnaṃ sannihitabhāvadassanatthaṃ vuttaṃ. Nipannepi ābhogaṃ kātuṃ vaṭṭati, nipajjitvā niddāyante pana ābhogaṃ kātuṃ na vaṭṭati asantapakkhe ṭhitattā. Raho nisajjāya viya dvārasaṃvaraṇaṃ nāma mātugāmānaṃ pavesananivāraṇatthaṃ anuññātanti āha bhikkhuniṃ vātiādi. Nisseṇiṃ āropetvāti idaṃ heṭṭhimatalassa sadvārabandhatāya vuttaṃ. Catūsu disāsu parikkhittassa kuṭṭassa ekābaddhatāya ‘‘ekakuṭṭake’’ti vuttaṃ. Pacchimānaṃ bhāroti pāḷiyā āgacchante sandhāya vuttaṃ. Yena kenaci parikkhitteti ettha parikkhepassa ubbedhato pamāṇaṃ sahaseyyappahonake vuttasadisameva.
77. Khi sự việc đã phát sinh: khi sự việc giao cấu do phụ nữ thực hiện đã phát sinh. Cửa bằng gai và then cây: cửa bằng then cây và cửa bằng gai, hoặc cách đọc là như vậy. Ở đó, cái mà người ta làm bằng cách đào cắm các cột cây ở hai bên, rồi khoan lỗ ở giữa và đút hai ba then cây vào, được gọi là cửa bằng then cây. Cửa có tấm chắn làm bằng cành gai, phù hợp để đóng lại, và được tháo ra khi ra vào, được gọi là cửa bằng gai. Để đóng cửa làng, người ta gắn một bánh xe vào dưới cánh cửa làm bằng ván hoặc cành gai v.v…, mà một người không thể đóng mở được do không có cối và chày, nhờ bánh xe đó quay, cánh cửa đó trở nên dễ đóng, nhắm đến điều đó đã nói là “cửa có bánh xe.” Chính bánh xe, vì phải được lấy để đóng mở, nên là ‘cakkalakaṃ,’ cánh cửa có nó cũng được gọi là ‘cakkalakaṃ,’ cửa có nó là cửa có bánh xe. Nhưng ở các cửa lớn, người ta gắn cả hai ba bánh xe, nên nói là trên các tấm ván v.v… Trong các cửa sổ: trong các tấm chắn làm bằng nan tre và cành gai v.v… Cửa sổ trượt: cửa lớn có cửa sổ trượt bằng cơ chế bánh xe. Buộc lại: quấn lại, hoặc buộc lại bằng dây thừng. Chỉ một cửa bằng vải dày: ở đây, cửa bằng chiếu cũng được bao gồm, vì thuộc cùng loại. Vậy thì các Tỳ-khưu… v.v… đang ngồi: điều này được nói để chỉ ra sự có mặt gần của các Tỳ-khưu. Dù đang nằm, cũng được phép chú ý. Nhưng không được phép chú ý đối với những người đang nằm ngủ, vì họ thuộc về phía không tốt. Việc đóng cửa được cho phép để ngăn chặn sự ra vào của phụ nữ, giống như việc ngồi một mình nơi kín đáo, nên nói là hoặc Tỳ-khưu-ni… v.v… Sau khi đã bắc thang: điều này được nói do tầng dưới có cửa đóng. Vì bức tường được bao quanh ở bốn hướng là một khối liền, nên đã nói là “trong một bức tường.” Gánh nặng của những người sau: được nói nhắm đến những người đến theo Pāḷi. Được bao quanh bởi bất cứ thứ gì: ở đây, kích thước về chiều cao của hàng rào cũng tương tự như đã được nói trong trường hợp đủ để ngủ chung.

Mahāpariveṇanti mahantaṃ aṅgaṇaṃ, tena ca bahujanasañcāraṃ dasseti, tenāha mahābodhītiādi. Aruṇe uggate vuṭṭhahati, anāpatti anāpattikhettabhūtāya rattiyā suddhacittena nipannattā. Pabujjhitvā puna supati āpattīti aruṇe uggate pabujjhitvā aruṇuggamanaṃ ñatvā vā añatvā vā anuṭṭhahitvā sayitasantānena supati uṭṭhahitvā kattabbassa dvārasaṃvaraṇādino akatattā akiriyasamuṭṭhānā āpatti hoti anāpattikhette katanipajjanakiriyāya anaṅgattā. Ayañhi āpatti īdise ṭhāne akiriyā, divā asaṃvaritvā nipajjanakkhaṇe kiriyā ca acittakā cāti veditabbā. Purāruṇā pabujjhitvāpi yāva aruṇuggamanā sayantassāpi purimanayena āpattiyeva. Aruṇe uggate vuṭṭhahissāmīti…pe… āpattiyevāti ettha kadā tassa āpattīti? Vuccate – na tāva rattiyaṃ ‘‘divā āpajjati no ratti’’nti (pari. 323) vuttattā. ‘‘Anādariyadukkaṭā na muccatī’’ti vuttadukkaṭaṃ pana divāsayanadukkaṭameva na hoti anādariyadukkaṭattā. Evaṃ aruṇuggamane pana acittakaṃ akiriyasamuṭṭhānaṃ āpattiṃ āpajjatīti veditabbaṃ. So sace dvāraṃ saṃvaritvā ‘‘aruṇe uggate vuṭṭhahissāmī’’ti nipajjati, dvāre ca aññehi aruṇuggamanakāle vivaṭepi tassa anāpattiyeva dvārapidahanassa rattidivābhāgesu visesābhāvā. Āpattiāpajjanasseva kālaviseso icchitabbo, na tapparihārassāti gahetabbaṃ, ‘‘dvāraṃ asaṃvaritvā rattiṃ nipajjatī’’ti (pārā. aṭṭha. 1.77) hi vuttaṃ. Divā saṃvaritvā nipannassa kenaci vivaṭepi dvāre anāpattiyeva. Attanāpi anuṭṭhahitvāva sati paccaye vivaṭepi anāpattīti vadanti. Yathāparicchedameva ca na vuṭṭhātīti aruṇe uggateyeva uṭṭhāti. Āpattiyevāti mūlāpattiṃyeva sandhāya vuttaṃ, anādariyaāpatti pana purāruṇā uṭṭhitassāpi tassa hoteva ‘‘dukkaṭā na muccatī’’ti vuttattā, dukkaṭā na muccatīti ca purāruṇā uṭṭhahitvā mūlāpattiyā muttopi anādariyadukkaṭā na muccatīti adhippāyo.
Sân lớn là sân rộng, và bằng điều đó, chỉ ra sự qua lại của nhiều người, do đó nói là đại bồ đề v.v… Khi rạng đông lên thì thức dậy, vô tội do đã nằm xuống với tâm trong sạch trong đêm là lĩnh vực của sự vô tội. Sau khi tỉnh dậy lại ngủ tiếp, có tội: sau khi tỉnh dậy khi rạng đông đã lên, dù biết hay không biết rạng đông đã lên, mà không thức dậy và ngủ tiếp theo tư thế đã nằm, thì bị tội phát sinh từ sự không hành động do không làm điều phải làm như đóng cửa v.v…, vì hành động nằm xuống được thực hiện trong lĩnh vực vô tội không phải là một yếu tố. Cần biết rằng tội này, ở nơi như vậy là không hành động, còn vào ban ngày, khi nằm xuống mà không đóng cửa, là hành động và không có tâm. Dù tỉnh dậy trước rạng đông, nhưng ngủ cho đến khi rạng đông lên, cũng bị tội theo cách trước. Với ý nghĩ ‘tôi sẽ thức dậy khi rạng đông lên’… v.v… vẫn bị tội: ở đây, người đó bị tội khi nào? Xin thưa: không phải vào ban đêm, vì đã nói là “phạm vào ban ngày, không phải ban đêm” (pari. 323). Tội Tác Ác đã được nói là “không thoát khỏi tội Tác Ác do không tôn trọng” không phải là tội Tác Ác do ngủ ban ngày, vì là tội Tác Ác do không tôn trọng. Như vậy, cần biết rằng khi rạng đông lên, người đó phạm tội không có tâm, phát sinh từ sự không hành động. Nếu người đó đóng cửa rồi nằm xuống với ý nghĩ “tôi sẽ thức dậy khi rạng đông lên,” và dù cửa bị người khác mở vào lúc rạng đông, người đó vẫn vô tội, vì việc đóng cửa không có sự khác biệt giữa ban ngày và ban đêm. Cần muốn có sự khác biệt về thời gian của việc phạm tội, không phải của việc tránh tội, vì đã nói là “nằm vào ban đêm mà không đóng cửa” (chú giải Bất Cộng Trụ 1.77). Đối với người nằm xuống vào ban ngày sau khi đã đóng cửa, dù cửa bị ai đó mở, vẫn vô tội. Một số người nói rằng ngay cả khi chính mình mở cửa khi có duyên mà không thức dậy, cũng vô tội. Và không thức dậy đúng theo giới hạn là thức dậy ngay khi rạng đông lên. Vẫn bị tội: được nói nhắm đến chính tội gốc, nhưng tội không tôn trọng thì người đó vẫn bị ngay cả khi thức dậy trước rạng đông, vì đã nói là “không thoát khỏi tội Tác Ác,” và ý nghĩa của câu “không thoát khỏi tội Tác Ác” là dù đã thoát khỏi tội gốc do thức dậy trước rạng đông, nhưng không thoát khỏi tội Tác Ác do không tôn trọng.

Niddāvasena nipajjatīti vohāravasena vuttaṃ, pādānaṃ pana bhūmito amocitattā ayaṃ nipanno nāma na hoti, teneva anāpatti vuttā. Apassāya supantassāti kaṭiṭṭhito uddhaṃ piṭṭhikaṇṭake appamattakampi padesaṃ bhūmiṃ aphusāpetvā thambhādiṃ apassāya supantassa. Kaṭiṭṭhiṃ pana bhūmiṃ phusāpentassa sayanaṃ nāma hoti. Piṭṭhipasāraṇalakkhaṇā hi seyyā. Dīghavandanādīsupi tiriyaṃ piṭṭhikaṇṭakānaṃ pasāritattā nipajjanamevāti āpatti pariharitabbāva ‘‘vandāmīti pādamūle nipajjī’’tiādīsu nipajjanasseva vuttattā. Tassāpi anāpatti patanakkhaṇe avisayattā, visaye jāte sahasā vuṭṭhitattā ca. Yassa pana visaññitāya pacchāpi avisayo, etassa anāpattiyeva patitakkhaṇe viya. Tattheva sayati na vuṭṭhātīti iminā visayepi akaraṇaṃ dasseti, teneva ‘‘tassa āpattī’’ti vuttaṃ.
Nằm do ngủ: được nói theo cách nói thông thường, nhưng vì chân chưa rời khỏi mặt đất, nên người này không được gọi là đã nằm, chính vì thế đã nói là vô tội. Đối với người ngủ mà dựa vào: đối với người ngủ mà dựa vào cột v.v…, không để một chút nào của xương sống trên từ thắt lưng trở lên chạm đất. Nhưng đối với người để thắt lưng chạm đất, thì được gọi là ngủ. Vì sự nằm có đặc tính là duỗi lưng. Ngay cả trong việc đảnh lễ dài v.v…, vì các xương sống được duỗi ngang, nên chính là nằm, do đó phải tránh tội, vì trong các câu như “đảnh lễ rồi nằm xuống dưới chân” v.v…, chỉ có việc nằm được nói đến. Đối với người đó cũng vô tội do không phải là đối tượng trong lúc rơi, và do đã đứng dậy ngay khi trở thành đối tượng. Nhưng đối với người nào mà sau đó cũng không phải là đối tượng do bất tỉnh, thì người đó vẫn vô tội, giống như trong lúc rơi. Nằm ngay tại đó, không thức dậy: bằng câu này, chỉ ra sự không hành động ngay cả khi là đối tượng, chính vì thế đã nói là “người đó bị tội.”

Ekabhaṅgenāti ubho pāde bhūmito amocetvāva ekapassena sarīraṃ bhañjitvā nipanno. Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana mahāpadumattherena vuttanti sambandho, tena ‘‘mahāaṭṭhakathāya likhitamahāpadumattheravādo aya’’nti dasseti. Tattha supantassāpi avisayattamatthīti mahāpadumattherena ‘‘avisayattā pana āpatti na dissatī’’ti vuttaṃ. Ācariyā pana supantassa visaññattābhāvena visayattā anāpattiṃ na kathayanti. Visaññatte sati anāpattiyeva. Dve pana janātiādipi mahāaṭṭhakathāyameva vacanaṃ, tadeva pacchā vuttattā pamāṇaṃ. Yakkhagahitaggahaṇeneva cettha visaññībhūtopi saṅgahito. Ekabhaṅgena nipanno pana anipannattā āpattito muccatiyevāti gahetabbaṃ.
Bằng một tư thế gập: là người nằm xuống bằng cách gập người sang một bên mà không nhấc cả hai chân lên khỏi mặt đất. Nhưng trong Đại Chú Giải, có liên quan là đã được trưởng lão Mahāpaduma nói, bằng điều đó, chỉ ra rằng “đây là quan điểm của trưởng lão Mahāpaduma được viết trong Đại Chú Giải.” Ở đó, vì ngay cả người ngủ cũng có trường hợp không phải là đối tượng, nên trưởng lão Mahāpaduma đã nói là “nhưng vì không phải là đối tượng, nên không thấy có tội.” Nhưng các vị thầy không nói là vô tội đối với người ngủ, vì là đối tượng do không bất tỉnh. Khi bất tỉnh thì vô tội. Nhưng hai người… v.v… cũng là lời nói trong chính Đại Chú Giải, điều được nói sau đó là tiêu chuẩn. Bằng việc lấy người bị quỷ ám, đã bao gồm cả người bị bất tỉnh. Cần hiểu rằng người nằm bằng một tư thế gập thì thoát khỏi tội vì không phải là đã nằm.

78. Apadeti ākāse. Padanti padavaḷañjaṃ, tenāha ‘‘ākāse pada’’nti. Etadagganti eso aggo. Yadidanti yo ayaṃ. Sesaṃ uttānameva.
78. Ở nơi không có dấu chân là ở trên không. Dấu chân là vết chân, do đó nói là “dấu chân trên không.” Đây là cao nhất. Điều này là điều này. Phần còn lại đã rõ.

Iti samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya vimativinodaniyaṃ

Trong sách Xua Tan Hoài Nghi, Phụ chú giải Luật tạng Samantapāsādikā,

Paṭhamapārājikavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về điều Bất Cộng Trụ thứ nhất đã kết thúc.

2. Dutiyapārājikaṃ

2. Điều Bất Cộng Trụ thứ hai

Adutiyenāti asadisena jinena yaṃ dutiyaṃ pārājikaṃ pakāsitaṃ, tassa idāni yasmā saṃvaṇṇanākkamo patto, tasmā assa dutiyassa ayaṃ saṃvaṇṇanā hotīti yojanā.
Kết nối là: điều Bất Cộng Trụ thứ hai đã được Đức Phật vô song tuyên thuyết, bây giờ đã đến lượt giải thích về nó, do đó, đây là sự giải thích về điều thứ hai này.

Dhaniyavatthuvaṇṇanā

Giải thích câu chuyện về Dhaniya

84. Rājūhi gahitanti rājagahanti āha ‘‘mandhātū’’ti. Rājapurohitena pariggahitampi rājapariggahitamevāti mahāgovindaggahaṇaṃ, nagarasaddāpekkhāya cettha ‘‘rājagaha’’nti napuṃsakaniddeso. Aññepettha pakāreti susaṃvihitārakkhattā rājūnaṃ gahaṃ gehabhūtanti rājagahantiādike pakāre. Vasantavananti kīḷāvanaṃ, vasantakāle kīḷāya yebhuyyattā pana vasantavananti vuttaṃ.
84. Bị các vua chiếm giữ nên là Rājagaha, nên nói là “của Mandhātu.” Việc lấy Mahāgovinda là vì nơi được tể tướng của vua chiếm giữ cũng chính là nơi do vua chiếm giữ. Và ở đây, cách dùng trung tính “Rājagaha” là theo từ ‘nagara’ (thành phố). Các cách khác ở đây là các cách như ‘nơi ở của các vua’ vì là nơi ở của các vua do được bảo vệ cẩn mật. Rừng Vasantavana là khu rừng vui chơi, nhưng được gọi là rừng Vasantavana vì phần lớn được dùng để vui chơi vào mùa xuân.

Sadvārabandhāti vassūpagamanayoggatādassanaṃ. Nālakapaṭipadanti suttanipāte (su. ni. 684 ādayo) nālakattherassa desitaṃ moneyyapaṭipadaṃ. Pañcannaṃ chadanānanti tiṇapaṇṇaiṭṭhakasilāsudhāsaṅkhātānaṃ pañcannaṃ. No ce labhati…pe… sāmampi kātabbanti iminā nāvāsatthavaje ṭhapetvā aññattha ‘‘asenāsaniko aha’’nti ālayakaraṇamattena upagamanaṃ na vaṭṭati. Senāsanaṃ pariyesitvā vacībhedaṃ katvā vassaṃ upagantabbamevāti dasseti. ‘‘Na, bhikkhave, asenāsanikenā’’tiādinā (mahāva. 204) hi pāḷiyaṃ ‘‘nālakapaṭipadaṃ paṭipannenāpī’’ti aṭṭhakathāyañca avisesena daḷhaṃ katvā vuttaṃ, nāvāsatthavajesuyeva ca ‘‘anujānāmi, bhikkhave, nāvāya vassaṃ upagantu’’ntiādinā (mahāva. 203) asatipi senāsane ālayakaraṇavasena vassūpagamanaṃ anuññātaṃ, nāññatthāti gahetabbaṃ. Ayamanudhammatāti sāmīcivattaṃ. Katikavattānīti bhassārāmatādiṃ vihāya sabbadā appamattehi bhavitabbantiādikatikavattāni. Khandhakavattānīti ‘‘āgantukādikhandhakavattaṃ pūretabba’’nti evaṃ khandhakavattāni ca adhiṭṭhahitvā.
Có cửa đóng: để chỉ ra sự phù hợp để vào mùa mưa. Hạnh Nālakapaṭipadā là hạnh sống một mình đã được thuyết giảng cho trưởng lão Nālaka trong Suttanipāta (su. ni. 684 trở đi). Của năm loại mái che là của năm loại là cỏ, lá, gạch, đá, và vôi. Nếu không có được… v.v… cũng phải tự mình làm: bằng câu này, chỉ ra rằng ngoài các trường hợp khẩn cấp trên thuyền, không được phép vào mùa mưa chỉ bằng cách tạo ra nơi nương tựa rằng “tôi không có chỗ ở.” Phải tìm kiếm chỗ ở rồi nói lời vào mùa mưa. Vì trong Pāḷi đã nói một cách dứt khoát và không phân biệt rằng “Này các Tỳ-khưu, không được…” v.v… (mahāva. 204), và trong Chú giải cũng vậy, “ngay cả người đang thực hành hạnh Nālakapaṭipadā,” và việc vào mùa mưa bằng cách tạo nơi nương tựa dù không có chỗ ở chỉ được cho phép trong các trường hợp khẩn cấp trên thuyền bằng câu “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép vào mùa mưa trên thuyền” v.v… (mahāva. 203), cần hiểu là không được ở nơi khác. Đây là pháp phụ là phận sự đúng đắn. Các phận sự đã quy ước là các phận sự đã quy ước như phải tránh những cuộc nói chuyện vô ích v.v… và phải luôn luôn không dễ duôi. Các phận sự trong Các phẩm Luật: và sau khi đã chú nguyện cả các phận sự trong Các phẩm Luật như “phải hoàn thành phận sự trong Các phẩm Luật đối với khách đến v.v…”

Vassaṃvutthāti padassa aṭṭhakathāyaṃ ‘‘purimikāya upagatā mahāpavāraṇāya pavāritā pāṭipadadivasato paṭṭhāya ‘vutthavassā’ti vuccantī’’ti vuttattā mahāpavāraṇādivase pavāretvā vā appavāretvā vā aññattha gacchantehi sattāhakaraṇīyanimitte sati eva gantabbaṃ, nāsati, itarathā vassacchedo dukkaṭañca hotīti veditabbaṃ. ‘‘Imaṃ temāsaṃ vassaṃ upemī’’ti hi ‘‘na, bhikkhave, vassaṃ upagantvā purimaṃ vā temāsaṃ pacchimaṃ vā temāsaṃ avasitvā cārikā pakkamitabbā’’ti (mahāva. 185) ca vuttaṃ. Idheva ca vassaṃvutthā temāsaccayena…pe… pakkamiṃsūti vuttaṃ. Pavāraṇādivasopi temāsapariyāpannova. Keci pana ‘‘anujānāmi, bhikkhave, vassaṃvutthānaṃ bhikkhūnaṃ tīhi ṭhānehi pavāretunti (mahāva. 209) pavāraṇākammassa pubbeyeva vassaṃvutthānanti vutthavassatāya vuttattā mahāpavāraṇādivase sattāhakaraṇīyanimittaṃ vināpi yathāsukhaṃ gantuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti, taṃ tesaṃ matimattaṃ, vutthavassānañhi pavāraṇānujānanaṃ anupagatachinnavassādīnaṃ nivattanatthaṃ kataṃ, na pana pavāraṇādivase avasitvā pakkamitabbanti dassanatthaṃ tadatthassa idha pasaṅgābhāvā, pavāraṇaṃ kātuṃ anucchavikānaṃ pavāraṇā idha vidhīyati, ye ca vassaṃ upagantvā vassacchedañca akatvā yāva pavāraṇādivasā vasiṃsu, te tattakena pavāraṇākammaṃ pati pariyāyato vutthavassāti vuccanti, appakaṃ ūnamadhikaṃ vā gaṇanūpagaṃ na hotīti ñāyato, na kathinakammaṃ pati temāsassa aparipuṇṇattā, itarathā tasmiṃ mahāpavāraṇādivasepi kathinatthārappasaṅgato. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, vassaṃvutthānaṃ bhikkhūnaṃ kathinaṃ attharitu’’nti (mahāva. 306) idaṃ pana ‘‘na, bhikkhave, vassaṃ upagantvā purimaṃ vā temāsaṃ pacchimaṃ vā temāsaṃ avasitvā cārikā pakkamitabbā’’tiādi (mahāva. 185) ca nippariyāyato mahāpavāraṇāya anantarapāṭipadadivasato paṭṭhāya kathinatthāraṃ pakkamanañca sandhāya vuttaṃ, parivāre ca ‘‘kathinassa atthāramāso jānitabbo’’ti (pari. 412) vatvā ‘‘vassānassa pacchimo māso jānitabbo’’ti (pari. 412) vuttaṃ. Yo hi kathinatthārassa kālo, tato paṭṭhāyeva cārikāpakkamanassāpi kālo, na tato pure vassaṃvutthānaṃyeva kathinatthārārahattā. Yadaggena hi pavāraṇādivase kathinatthāro na vaṭṭati, tadaggena bhikkhūpi vutthavassā na honti pavāraṇādivasassa avutthattā.
Do trong Chú giải đã nói đối với từ ‘vassaṃvutthā’ (đã an cư mùa mưa) rằng “những người đã vào mùa mưa trước, đã làm lễ Tự tứ vào ngày đại Tự tứ, từ ngày đầu tháng trở đi được gọi là ‘đã an cư mùa mưa,’” nên cần biết rằng những người đã làm lễ Tự tứ hoặc chưa làm vào ngày đại Tự tứ, khi đi đến nơi khác, chỉ được đi khi có duyên sự trong bảy ngày, nếu không có thì không được, nếu không, sẽ bị đứt mùa mưa và bị tội Tác Ác. Vì đã nói rằng “Ta vào mùa mưa trong ba tháng này,” và “Này các Tỳ-khưu, sau khi đã vào mùa mưa, không được đi du hành sau khi chưa ở hết ba tháng trước hoặc ba tháng sau” (mahāva. 185). Và ở đây đã nói là ‘sau khi đã an cư mùa mưa, sau ba tháng… họ đã ra đi.’ Ngày Tự tứ cũng thuộc về ba tháng. Một số người lại nói rằng “vì đã nói về tính chất đã an cư mùa mưa trước cả Yết-ma Tự tứ trong câu ‘Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép các Tỳ-khưu đã an cư mùa mưa làm lễ Tự tứ theo ba cách’ (mahāva. 209), nên vào ngày đại Tự tứ, dù không có duyên sự trong bảy ngày, cũng được phép đi tùy thích,” đó chỉ là ý kiến của họ. Việc cho phép làm lễ Tự tứ đối với những người đã an cư mùa mưa được thực hiện để loại trừ những người chưa vào mùa mưa, đã bị đứt mùa mưa v.v…, không phải để chỉ ra rằng phải đi sau khi chưa ở hết ngày Tự tứ, vì ý nghĩa đó không có bối cảnh ở đây. Lễ Tự tứ được quy định ở đây cho những người phù hợp để làm lễ Tự tứ, và những người nào đã vào mùa mưa và không bị đứt mùa mưa, đã ở cho đến ngày Tự tứ, những người đó được gọi là đã an cư mùa mưa một cách gián tiếp đối với Yết-ma Tự tứ, theo nguyên tắc rằng sự thiếu hụt nhỏ không được tính, không phải đối với Yết-ma làm y ca-thi-na, vì chưa đủ ba tháng, nếu không, sẽ dẫn đến việc trải y ca-thi-na ngay cả trong ngày đại Tự tứ đó. Câu “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép các Tỳ-khưu đã an cư mùa mưa trải y ca-thi-na” (mahāva. 306) và “Này các Tỳ-khưu, sau khi đã vào mùa mưa, không được đi du hành sau khi chưa ở hết ba tháng trước hoặc ba tháng sau” v.v… (mahāva. 185) được nói nhắm đến việc trải y ca-thi-na và việc đi du hành bắt đầu từ ngày đầu tháng sau đại Tự tứ một cách không gián tiếp. Và trong Parivāra, sau khi đã nói “phải biết tháng trải y ca-thi-na” (pari. 412), đã nói “phải biết tháng cuối cùng của mùa mưa” (pari. 412). Vì thời gian nào là thời gian trải y ca-thi-na, từ đó trở đi cũng là thời gian đi du hành, không phải trước đó, vì chỉ những người đã an cư mùa mưa mới xứng đáng trải y ca-thi-na. Vì lẽ gì mà vào ngày Tự tứ không được phép trải y ca-thi-na, thì các Tỳ-khưu cũng chưa phải là đã an cư mùa mưa vì chưa ở hết ngày Tự tứ.

Yaṃ pana sāratthadīpaniyaṃ (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.84) ‘‘ekadesena avutthampi taṃ divasaṃ vutthabhāgāpekkhāya vutthameva hotī’’tiādi vuttaṃ, taṃ na yuttaṃ, taṃdivasapariyosāne aruṇuggamanakāle vasantova hi taṃ divasaṃ vuttho nāma hoti parivāsaaraññavāsādīsu viya, ayañca vicāraṇā upari vassūpanāyikakkhandhake āvi bhavissatīti tattheva taṃ pākaṭaṃ karissāma.
Điều được nói trong Sāratthadīpanī (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.84) rằng “dù chưa ở hết một phần, ngày đó cũng được xem là đã ở do xét đến phần đã ở,” điều đó không đúng. Vì chỉ người ở vào lúc rạng đông khi kết thúc ngày đó mới được gọi là đã ở hết ngày đó, giống như trong các trường hợp biệt trú, ở rừng v.v… Và sự xem xét này sẽ được làm rõ ở trên trong Phẩm Luật về việc vào mùa mưa, nên chúng tôi sẽ làm rõ điều đó ở đó.

Mahāpavāraṇāya pavāritāti purimikāya vassaṃ upagantvā acchinnavassatādassanaparaṃ etaṃ kenaci antarāyena appavāritānampi vutthavassattā. Na ovassiyatīti anovassakanti kammasādhanaṃ daṭṭhabbaṃ, yathā na temiyati, tathā katvāti attho. Anavayoti ettha anusaddo vicchāyaṃ vattatīti āha anu anu avayotiādi. Ācariyassa kammaṃ ācariyakanti āha ‘‘ācariyakamme’’ti. Kaṭṭhakammaṃ thambhādi. Telatambamattikāyāti telamissāya tambamattikāya.
Đã làm lễ Tự tứ vào ngày đại Tự tứ: điều này nhằm chỉ ra việc đã vào mùa mưa trước và không bị đứt mùa mưa, vì ngay cả những người chưa làm lễ Tự tứ do một chướng ngại nào đó cũng có tính chất đã an cư mùa mưa. Không bị ướt mưa là không bị ướt mưa, cần được hiểu theo nghiệp cách, có nghĩa là đã làm sao cho không bị ướt. Không có khoảng trống: ở đây, tiểu từ ‘anu’ được dùng theo nghĩa không có, nên nói là không có, không có khoảng trống v.v… Việc làm của thầy là ‘ācariyakaṃ,’ nên nói là “trong việc làm của thầy.” Việc làm bằng gỗ là cột v.v… Của đất sét đồng trộn dầu là của đất sét đồng đã được trộn dầu.

85. Kuṭikāya karaṇabhāvanti kuṭiyā katabhāvaṃ. Kiṃ-saddappayoge anāgatappaccayavidhānaṃ sandhāya tassa lakkhaṇantiādi vuttaṃ. Kiñcāpi therassa pāṇaghātādhippāyo natthi, anupaparikkhitvā karaṇena pana bahūnaṃ pāṇānaṃ maraṇattā pāṇe byābādhentassātiādi vuttaṃ. Pātabyabhāvanti vināsetabbataṃ. Pāṇātipātaṃ karontānanti therena akatepi pāṇātipāte pāṇakānaṃ maraṇamattena pacchimānaṃ lesena gahaṇākāraṃ dasseti, tena ca ‘‘mama tādisaṃ akusalaṃ natthī’’ti pacchimānaṃ vipallāsalesaggahaṇanimittakiccaṃ na kattabbanti dīpitaṃ hoti. Diṭṭhānugatinti diṭṭhassa kammassa anupagamanaṃ anukiriyaṃ, diṭṭhiyā vā laddhiyā anugamanaṃ gāhaṃ. Ghaṃsitabbeti madditabbe, vināsitabbeti attho. Kataṃ labhitvā tattha vasantānampi dukkaṭamevāti idaṃ bhagavatā kuṭiyā bhedāpanavacanena siddhaṃ, sāpi tiṇadabbasambhārehi tulāthambhādīhi amissā suddhamattikāmayāpi iṭṭhakāhi katā vaṭṭati. Keci hi iṭṭhakāhiyeva thambhe cinitvā tadupari iṭṭhakāhiyeva vitānādisaṇṭhānena tulādidārusambhāravirahitaṃ chadanampi bandhitvā iṭṭhakāmayameva āvasathaṃ karonti, tādisaṃ vaṭṭati. Giñjakāvasathasaṅkhepena katāti ettha giñjakā vuccanti iṭṭhakā, tāhiyeva kato āvasatho giñjakāvasatho. Vayakammampīti mattikuddhāraṇaiṭṭhakadārucchedanādikārakānaṃ dinnabhattavettanādivatthubbayena nipphannakammampi atthi, etena kuṭibhedakānaṃ gīvādibhāvaṃ parisaṅkati. Titthiyadhajoti titthiyānameva saññāṇabhūtattā vuttaṃ. Te hi īdisesu cāṭiādīsu vasanti. Aññānipīti pi-saddena attanā vuttakāraṇadvayampi mahāaṭṭhakathāyameva vuttanti dasseti. Yasmā sabbamattikāmayā kuṭi sītakāle atisītā uṇhakāle ca uṇhā sukarā ca hoti corehi bhindituṃ, tasmā tattha ṭhapitapattacīvarādikaṃ sītuṇhacorādīhi vinassatīti vuttaṃ ‘‘pattacīvaraguttatthāyā’’ti. Chindāpeyya vā bhindāpeyya vā anupavajjoti idaṃ ayaṃ kuṭi viya sabbathā anupayogārahaṃ sandhāya vuttaṃ. Yaṃ pana pañcavaṇṇasuttehi vinaddhachattādikaṃ, tattha akappiyabhāgova chinditabbo, na tadavaseso tassa kappiyattā, taṃ chindanto upavajjova hoti. Teneva vakkhati ‘‘ghaṭakampi vāḷarūpampi bhinditvā dhāretabba’’ntiādi.
85. Trạng thái đã được làm của cái cốc là trạng thái đã được làm của cái cốc. Nhắm đến việc quy định tiếp vị ngữ tương lai khi dùng từ ‘kiṃ,’ đã nói là đặc tính của nó… v.v… Dù trưởng lão không có ý định giết hại sinh vật, nhưng vì việc làm không xem xét đã làm cho nhiều sinh vật chết, nên đã nói là đối với người làm hại sinh vật… v.v… Tính chất phải bị hủy diệt. Đối với những người làm tội sát sanh: dù trưởng lão không làm tội sát sanh, nhưng chỉ bằng việc các sinh vật chết, chỉ ra cách vin vào cớ của những người sau, và bằng điều đó, đã làm sáng tỏ rằng không nên làm việc gì là dấu hiệu cho việc vin vào cớ sai lầm của những người sau rằng “tôi không có nghiệp bất thiện như vậy.” Sự bắt chước những gì đã thấy là sự đi theo, sự làm theo việc đã thấy, hoặc sự đi theo, sự chấp nhận kiến chấp. Khi phải chà xát: khi phải đập tan, có nghĩa là khi phải phá hủy. Ngay cả đối với những người ở trong đó sau khi đã được làm, cũng bị tội Tác Ác: điều này được xác định bởi lời nói của Đức Thế Tôn về việc phá vỡ cái cốc. Và cái đó, dù được làm bằng đất sét nguyên chất không pha trộn với các vật liệu như cỏ, cây v.v…, hoặc được làm bằng gạch, cũng được phép. Vì một số người xây cột bằng chính gạch, rồi trên đó cũng xây mái v.v… dưới hình dạng trần nhà v.v… bằng chính gạch, không có các vật liệu bằng gỗ như kèo v.v…, và làm một trú xứ bằng chính gạch, loại đó được phép. Được làm theo kiểu trú xứ bằng gạch: ở đây, gạch được gọi là ‘giñjakā,’ trú xứ được làm bằng chính chúng là trú xứ bằng gạch. Ngay cả việc làm công: cũng có việc làm được hoàn thành bằng chi phí vật chất như tiền công và thức ăn đã cho những người đào đất, chặt cây, làm gạch v.v…, bằng điều đó, người đó nghi ngờ về thân phận cổ họng của những người phá cốc. Lá cờ của ngoại đạo: được nói vì là dấu hiệu của chính các ngoại đạo. Vì họ ở trong các chum v.v… như vậy. Cả những điều khác nữa: bằng từ ‘pi,’ chỉ ra rằng cả hai lý do đã được mình nói cũng đã được nói trong chính Đại Chú Giải. Vì cái cốc làm hoàn toàn bằng đất sét rất lạnh vào mùa đông và nóng vào mùa hè, và cũng dễ bị kẻ trộm phá vỡ, do đó, các vật dụng như bát, y v.v… được đặt trong đó bị hư hại do lạnh, nóng, kẻ trộm v.v…, nên đã nói là “để bảo vệ bát và y.” ‘Nên cho cắt hoặc cho phá mà không bị khiển trách,’ điều này được nói nhắm đến cái hoàn toàn không thể dùng được giống như cái cốc này. Nhưng đối với dù che được đan bằng chỉ năm màu v.v…, chỉ có phần không được phép mới phải cắt đi, không phải phần còn lại, vì nó được phép, người cắt nó sẽ bị khiển trách. Chính vì thế sẽ nói là “cũng phải phá vỡ hình con vật trên cái bình rồi giữ lại” v.v…

Pāḷimuttakavinicchayavaṇṇanā

Giải thích về sự phân tích luật ngoài Pāḷi

Chattadaṇḍaggāhakaṃ salākapañjaranti ettha yo pañjarasalākānaṃ majjhaṭṭho bunde puthulo ahicchattakasadiso agge sachiddo yattha daṇḍantaraṃ pavesetvā chattaṃ gaṇhanti, yo vā sayameva dīghatāya gahaṇadaṇḍo hoti, ayaṃ chattadaṇḍo nāma, tassa aparigaḷanatthāya chattasalākānaṃ mūlappadesadaṇḍassa samantato daḷhapañjaraṃ katvā suttehi vinandhanti, so padeso chattadaṇḍagāhakasalākapañjaraṃ nāma, taṃ vinandhituṃ vaṭṭati. Na vaṇṇamaṭṭhatthāyāti iminā thirakaraṇatthameva ekavaṇṇasuttena vinandhiyamānaṃ yadi vaṇṇamaṭṭhaṃ hoti, na tattha dosoti dasseti. Āraggenāti nikhādanamukhena. Daṇḍabundeti daṇḍamūle koṭiyaṃ. Chattamaṇḍalikanti chattapañjare maṇḍalākārena baddhadaṇḍavalayaṃ. Ukkiritvāti ninnaṃ, unnataṃ vā katvā.
Cái lồng nan giữ cán dù: ở đây, cái ở giữa các nan của lồng, ở gốc thì to, giống như nấm, ở đầu có lỗ để đút cán vào và cầm dù, hoặc chính nó là cán cầm do có chiều dài, cái này được gọi là cán dù. Để nó không bị tuột, người ta làm một cái lồng chắc chắn xung quanh gốc cán của các nan dù và quấn bằng chỉ, chỗ đó được gọi là lồng nan giữ cán dù, được phép quấn nó. Không phải để trang trí: bằng câu này, chỉ ra rằng nếu việc quấn bằng chỉ một màu chỉ để làm cho chắc chắn mà lại trở nên đẹp mắt, thì ở đó không có lỗi. Bằng mũi nhọn: bằng đầu nhọn để khắc. Ở gốc cán: ở đầu gốc của cán. Vòng tròn của dù: vòng tròn bằng cây được buộc theo hình tròn trong lồng dù. Bằng cách chạm trổ: bằng cách làm cho lõm hoặc lồi.

Nānāsuttakehīti nānāvaṇṇehi suttehi. Idañca tathā karontānaṃ vasena vuttaṃ, ekavaṇṇasuttakenāpi na vaṭṭatiyeva, ‘‘pakatisūcikammameva vaṭṭatī’’ti hi vuttaṃ. Paṭṭamukheti dvinnaṃ paṭṭānaṃ saṅghaṭitaṭṭhānaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Pariyanteti cīvarapariyante, anuvātaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Veṇinti varakasīsākārena sibbanaṃ. Saṅkhalikanti diguṇasaṅkhalikākārena sibbanaṃ, veṇiṃ vā saṅkhalikaṃ vā karontīti pakatena sambandho. Agghiyaṃ nāma cetiyasaṇṭhānaṃ, yaṃ agghiyatthambhoti vadanti. Ukkirantīti uṭṭhapenti. Catukoṇameva vaṭṭatīti gaṇṭhikapāsakapaṭṭāni sandhāya vuttaṃ. Koṇasuttapiḷakāti gaṇṭhikapāsakapaṭṭānaṃ koṇehi bahi niggatasuttānaṃ piḷakākārena ṭhapitakoṭiyoti keci vadanti, te piḷake chinditvā duviññeyyā kātabbāti tesaṃ adhippāyo. Keci pana ‘‘koṇasuttā ca piḷakāti dveyevā’’ti vadanti, tesaṃ matena gaṇṭhikapāsakapaṭṭānaṃ koṇato koṇehi nīhatasuttā koṇasuttā nāma. Samantato pana pariyantena katā caturassasuttā piḷakā nāma. Taṃ duvidhampi keci cīvarato visuṃ paññāyanatthāya vikārayuttaṃ karonti, taṃ nisedhāya ‘‘duviññeyyarūpā vaṭṭantī’’ti vuttaṃ, na pana sabbathā acakkhugocarabhāvena sibbanatthāya tathāsibbanassa asakkuṇeyyattā. Yathā pakaticīvarato vikāro na paññāyati, evaṃ sibbitabbanti adhippāyo. Rajanakammato pubbe paññāyamānopi viseso cīvare ratte ekavaṇṇatāya na paññāyatīti āha ‘‘cīvare ratte’’ti. Maṇināti nīlamaṇiādimaṭṭhapāsāṇena, aṃsavaddhakakāyabandhanādikaṃ pana acīvarattā saṅkhādīhi ghaṃsituṃ vaṭṭatīti vadanti. Kaṇṇasuttakanti cīvarassa dīghato tiriyañca sibbitānaṃ catūsu kaṇṇesu koṇesu ca nikkhantānaṃ suttasīsānametaṃ nāmaṃ, taṃ chinditvāva pārupitabbaṃ, tenāha ‘‘rajitakāle chinditabba’’nti. Bhagavatā anuññātaṃ ekaṃ kaṇṇasuttampi atthi, taṃ pana nāmena sadisampi ito aññamevāti dassetuṃ yaṃ panātiādi vuttaṃ. Lagganatthāyāti cīvararajjuyaṃ cīvarabandhanatthāya. Gaṇṭhiketi dantādimaye. Pīḷakāti binduṃ binduṃ katvā uṭṭhāpetabbapīḷakā.
Bằng các loại chỉ khác nhau: bằng các loại chỉ có màu sắc khác nhau. Và điều này được nói theo cách của những người làm như vậy, ngay cả bằng chỉ một màu cũng không được phép, vì đã nói rằng “chỉ được phép may vá thông thường.” Ở miệng của tấm vải: điều này được nói nhắm đến chỗ nối của hai tấm vải. Ở mép: ở mép y, điều này được nói nhắm đến đường viền. Bện là may theo hình đầu lúa mạch. Xích là may theo hình xích đôi, có liên quan đến câu đang nói là ‘họ làm bện hoặc xích.’ Agghiyaṃ là hình tháp, cái mà người ta gọi là cột tháp. Chạm trổ là dựng lên. Chỉ được phép hình bốn góc: được nói nhắm đến các miếng vải làm nút và dây. Các búi chỉ ở góc: một số người nói là đầu của các sợi chỉ nhô ra ngoài từ các góc của các miếng vải làm nút và dây, được để thành hình búi. Ý của họ là phải cắt các búi đó và làm cho khó nhận biết. Nhưng một số người khác nói rằng “chỉ có hai là chỉ ở góc và búi,” theo quan điểm của họ, các sợi chỉ được kéo ra từ góc này đến góc kia của các miếng vải làm nút và dây được gọi là chỉ ở góc. Còn các sợi chỉ hình vuông được làm ở mép xung quanh được gọi là búi. Cả hai loại đó, một số người làm có hoa văn để phân biệt với y, để ngăn cấm điều đó, đã nói là “được phép làm hình dạng khó nhận biết,” không phải là để may sao cho hoàn toàn không nhìn thấy được, vì việc may như vậy là không thể. Ý là may sao cho không thấy có hoa văn khác với y thông thường. Dù sự khác biệt có thể được nhận thấy trước khi nhuộm, nhưng khi y đã được nhuộm, do có cùng một màu nên không được nhận thấy, nên nói là “khi y đã được nhuộm.” Bằng ngọc: bằng đá được mài như ngọc lam v.v…, nhưng một số người nói rằng được phép chà xát các vật dụng như dây đeo vai, dây lưng v.v… bằng vỏ ốc v.v… vì chúng không phải là y. Chỉ ở tai: đây là tên gọi của các đầu chỉ nhô ra ở bốn góc của y được may theo chiều dài và chiều ngang, phải cắt nó đi rồi mới được mặc, do đó nói là “phải cắt vào lúc đã nhuộm.” Cũng có một loại chỉ ở tai đã được Đức Thế Tôn cho phép, nhưng để chỉ ra rằng dù có cùng tên nhưng nó hoàn toàn khác với cái này, đã nói là nhưng cái mà… v.v… Để cài vào: để buộc y vào dây y. Trong nút: làm bằng ngà v.v… Các núm: các núm phải được làm nổi lên từng chấm một.

Thālake vāti tambādimaye puggalike tividhepi kappiyathālake. Na vaṭṭatīti maṇivaṇṇakaraṇappayogo na vaṭṭati, telavaṇṇakaraṇatthaṃ pana vaṭṭati. Pattamaṇḍaleti tipusīsādimaye. ‘‘Na, bhikkhave, cittāni pattamaṇḍalāni dhāretabbāni rūpakākiṇṇāni bhittikammakatānī’’ti (cūḷava. 253) vuttattā ‘‘bhittikammaṃ na vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, makaradantakaṃ chinditu’’nti (cūḷava. 253) vuttattā ‘‘makaradantakaṃ pana vaṭṭatī’’ti vuttaṃ, idaṃ pana pāḷiyā laddhampi idha pāḷiyā muttattā pāḷimuttakanaye vuttaṃ. Evamaññampi īdisaṃ.
Hoặc trong đĩa: trong cả ba loại đĩa thuộc sở hữu cá nhân, được làm bằng đồng v.v…, là đĩa được phép. Không được phép: không được phép dùng cách làm màu ngọc, nhưng được phép để làm màu dầu. Vòng tròn của bát: làm bằng hợp kim thiếc-chì v.v… Vì đã nói “Này các Tỳ-khưu, không được mang các vòng tròn của bát có hình vẽ, có nhiều hình ảnh, được làm như tranh tường” (cūḷava. 253), nên đã nói là “không được phép làm tranh tường.” Vì đã nói “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép cắt hình răng cá sấu” (cūḷava. 253), nên đã nói là “nhưng được phép làm hình răng cá sấu,” và điều này, dù đã có trong Pāḷi, nhưng ở đây vì không có trong Pāḷi, nên được nói theo phương pháp ngoài Pāḷi. Các trường hợp tương tự khác cũng vậy.

Lekhā na vaṭṭatīti āraggena dinnalekhāva na vaṭṭati, jātihiṅgulikādivaṇṇehi katalekhā vaṭṭati. Chattamukhavaṭṭiyanti dhamakaraṇassa hatthena gahaṇachattākārassa mukhavaṭṭiyaṃ, ‘‘parissāvanacoḷabandhanaṭṭhāne’’ti keci.
Không được phép kẻ vạch: chỉ không được phép kẻ vạch bằng mũi nhọn, được phép kẻ vạch bằng các màu như hùng hoàng v.v… Vành miệng của dù: ở vành miệng có hình dù để cầm bằng tay của ống thổi, một số người nói là “ở chỗ buộc miếng vải lọc.”

Deḍḍubhasīsanti udakasappasīsaṃ. Acchīnīti kuñjaracchisaṇṭhānāni. Ekameva vaṭṭatīti ettha ekarajjukaṃ diguṇaṃ tiguṇaṃ katvāpi bandhituṃ na vaṭṭati, ekameva pana satavārampi sarīraṃ parikkhipitvā bandhituṃ vaṭṭati, bahurajjuke ekato katvā ekena nirantaraṃ veṭhetvā kataṃ ‘‘bahurajjuka’’nti na vattabbaṃ ‘‘vaṭṭatī’’ti vuttattā, taṃ murajasaṅkhaṃ na gacchatīti veditabbaṃ. Murajañhi nānāvaṇṇehi suttehi murajavaṭṭisaṇṭhānaṃ veṭhetvā kataṃ, idaṃ pana murajaṃ maddavīṇasaṅkhātaṃ pāmaṅgasaṇṭhānañca dasāsu vaṭṭati ‘‘kāyabandhanassa dasā jīranti; anujānāmi, bhikkhave, murajaṃ maddavīṇa’’nti (cūḷava. 278) vuttattā.
Đầu rắn nước: đầu rắn nước. Mắt: hình dáng mắt voi. Chỉ được phép một cái: ở đây, không được phép buộc một sợi dây bằng cách gấp đôi, gấp ba, nhưng được phép quấn quanh người dù một trăm lần rồi buộc một sợi duy nhất. Dây được làm bằng cách gộp nhiều sợi lại rồi quấn liên tục bằng một sợi không được gọi là “nhiều sợi,” vì đã nói là “được phép,” cần biết rằng nó không thuộc loại trống cơm. Trống cơm được làm bằng cách quấn các sợi chỉ nhiều màu theo hình vành trống cơm. Nhưng trống cơm này, được gọi là đàn maddavīṇa, và có hình dáng của trống pāmaṅga, được phép ở các tua rua, vì đã nói rằng “các tua rua của dây lưng bị mòn; Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép làm trống cơm và đàn maddavīṇa” (cūḷava. 278).

Vidheti dasāpariyosāne thirabhāvāya dantavisāṇasuttādīhi kattabbe vidhe. Aṭṭha maṅgalāni nāma saṅkho cakkaṃ puṇṇakumbho gayā sirīvaccho aṅkuso dhajaṃ sovattikanti vadanti. Macchayugaḷachattanandiyāvaṭṭādivasenapi vadanti. Paricchedalekhāmattanti dantādīhi katavidhassa ubhosu koṭīsu kataparicchedarājimattaṃ.
Ở chỗ kết: ở chỗ kết phải được làm bằng ngà, sừng, chỉ v.v… để cho chắc chắn ở cuối các tua rua. Tám vật cát tường: người ta nói là vỏ ốc, bánh xe, bình đầy, con bò, chữ vạn, cây móc, lá cờ, và chữ thập ngoặc. Cũng có người nói theo cặp cá, dù, và nút thắt bất tận v.v… Chỉ là vạch phân định: chỉ là đường ranh giới được làm ở hai đầu của chỗ kết được làm bằng ngà v.v…

‘‘Ujukamevā’’ti vuttattā caturassādisaṇṭhānāpi añjanī vaṅkagatikā na vaṭṭati. Sipāṭikāyāti vāsiādibhaṇḍanikkhipanapasibbake. Ārakaṇṭakaṃ nāma potthakādiaasaṅkhāraṇatthaṃ katadīghamukhasatthakanti vadanti. ‘‘Bhamakārānaṃ dāruādilikhanasatthaka’’nti keci. Vaṭṭamaṇikanti vaṭṭaṃ katvā uṭṭhapetabbaṃ pupphuḷakaṃ. Aññanti iminā piḷakādiṃ saṅgaṇhāti. Pipphaliketi yaṃ kiñci chedanake khuddakasatthe. Valitakanti nakhacchedanakāle daḷhaggahaṇatthaṃ valīhi yuttameva karonti. Tasmā taṃ vaṭṭatīti iminā yaṃ aññampi vikāraṃ daḷhīkammādiatthāya karonti, na vaṇṇamaṭṭhatthāya, taṃ vaṭṭatīti dīpitaṃ, tena ca kattaradaṇḍakoṭiyaṃ aññamaññampi ghaṭṭanena saddaniccharaṇatthāya kataṃ ayovalayādikaṃ saṃyuttampi kappiyato upapannaṃ hoti. Maṇḍalanti uttarāraṇiyā pavesanatthaṃ āvāṭamaṇḍalaṃ hoti. Ujukameva bandhitunti sambandho, ubhosu vā passesu ekapasse vāti vacanaseso. Vāsidaṇḍassa ubhosu passesu daṇḍakoṭīnaṃ acalanatthaṃ bandhitunti attho.
Vì đã nói “chỉ được thẳng,” nên hộp đựng thuốc nhỏ mắt có hình vuông v.v… cũng không được phép làm cong. Trong túi đựng dụng cụ: trong túi đựng dụng cụ như bào v.v… Một số người nói rằng cái móc sắt là con dao có mũi dài được làm để không làm rối sách v.v… Một số người nói là “con dao để khắc gỗ v.v… của những người thợ tiện.” Hạt tròn là cái bong bóng phải được làm nổi lên thành hình tròn. Cái khác: bằng từ này, bao gồm cả búi v.v… Trong con dao nhỏ: trong bất kỳ con dao nhỏ nào để cắt. Cái có nếp gấp: người ta làm có các nếp gấp để cầm cho chắc khi cắt móng tay. Do đó, cái đó được phép: bằng câu này, đã làm sáng tỏ rằng bất kỳ hoa văn nào khác được làm để làm cho chắc chắn v.v…, không phải chỉ để trang trí, thì được phép. Và bằng điều đó, việc gắn vòng sắt v.v… ở đầu cán dao để phát ra âm thanh khi cọ vào nhau cũng được coi là hợp lý từ góc độ được phép. Vòng tròn là vòng tròn của lỗ để đưa que đánh lửa trên vào. Có liên quan là ‘phải buộc thẳng,’ và phần còn lại của câu là ‘ở cả hai bên hoặc ở một bên.’ Ý là phải buộc ở hai bên cán bào để đầu cán không bị lung lay.

Āmaṇḍasāraketi āmalakaphalāni pisitvā tena kakkena katatelabhājane. Tattha kira pakkhittaṃ telaṃ sītalaṃ hoti. Bhūmattharaṇeti kaṭasārādimaye parikammakatāya bhūmiyā attharitabbaattharaṇe. Pānīyaghaṭeti sabbaṃ bhājanavikatiṃ saṅgaṇhāti. Sabbaṃ…pe… vaṭṭatīti yathāvuttesu mañcādīsu itthipurisarūpampi vaṭṭati telabhājanesuyeva itthipurisarūpānaṃ paṭikkhittattā, telabhājanena saha agaṇetvā visuṃ mañcādīnaṃ gahitattā cāti vadanti, kiñcāpi vadanti, etesaṃ pana mañcādīnaṃ hatthena āmasitabbabhaṇḍattā itthirūpamevettha na vaṭṭatīti gahetabbaṃ. Aññesanti sīmasāmikānaṃ. Rājavallabhehīti lajjīpesalādīnaṃ uposathādiantarāyakarā alajjino bhinnaladdhikā ca bhikkhū adhippetā tehi saha uposathādikaraṇāyogā, teneva ‘‘sīmāyā’’ti vuttaṃ. Tesaṃ lajjīparisāti tesaṃ sīmāsāmikānaṃ anubalaṃ dātuṃ samatthā lajjīparisā. Bhikkhūhi katanti yaṃ alajjīnaṃ senāsanabhedanādikaṃ lajjībhikkhūhi kataṃ, sabbañcetaṃ sukatameva alajjīniggahatthāya pavattitabbato.
Trong đồ đựng dầu làm từ quả amla: trong đồ đựng dầu được làm bằng bột nhão của quả amla đã được giã nát. Người ta nói rằng dầu được đổ vào đó sẽ mát. Trên tấm trải sàn: trên tấm trải phải được trải trên sàn nhà đã được trang trí, làm bằng chiếu v.v… Trong bình nước: bao gồm tất cả các loại bình có hoa văn. Tất cả… v.v… được phép: một số người nói rằng trong các vật dụng như giường v.v… đã nói, ngay cả hình người nam nữ cũng được phép, vì hình người nam nữ chỉ bị cấm trong các đồ đựng dầu, và vì giường v.v… được lấy riêng mà không tính cùng với đồ đựng dầu. Dù họ nói vậy, nhưng cần hiểu rằng vì giường v.v… này là những vật dụng phải chạm vào bằng tay, nên chỉ có hình người nữ là không được phép ở đây. Của những người khác là của những chủ nhân của ranh giới. Bởi những người được vua ưu ái: được ngụ ý là những Tỳ-khưu không biết hổ thẹn và theo tà phái, những người gây trở ngại cho lễ Bố-tát v.v… của những người biết hổ thẹn, tốt đẹp v.v…, vì không thể thực hiện lễ Bố-tát v.v… cùng với họ, chính vì thế đã nói là “của ranh giới.” Đoàn thể biết hổ thẹn của họ: đoàn thể biết hổ thẹn có khả năng hỗ trợ các chủ nhân của ranh giới đó. Do các Tỳ-khưu làm: việc phá hoại trú xứ v.v… của những người không biết hổ thẹn do các Tỳ-khưu biết hổ thẹn làm, tất cả những điều đó đều là việc làm tốt, vì phải được thực hiện để chế ngự những người không biết hổ thẹn.

88. Avajjhāyantīti nīcato cintenti. Ujjhāyanatthoti bhikkhuno theyyakammanindanattho ‘‘kathañhi nāma adinnaṃ ādiyissatī’’ti, na pana dāru-saddavisesanattho tassa bahuvacanattā. Vacanabhedeti ekavacanabahuvacanānaṃ bhede. Sabbāvantanti bhikkhubhikkhunīādisabbāvayavavantaṃ. Bimbisāroti tassa nāmanti ettha bimbīti suvaṇṇaṃ. Tasmā sārasuvaṇṇasadisavaṇṇatāya ‘‘bimbisāro’’ti vuccatīti veditabbaṃ. Porāṇasatthānurūpaṃ uppādito vīsatimāsappamāṇauttamasuvaṇṇagghanako lakkhaṇasampanno nīlakahāpaṇoti veditabbo. Rudradāmena nāma kenaci uppādito rudradāmako. So kira nīlakahāpaṇassa tibhāgaṃ agghati. Yasmiṃ pana dese nīlakahāpaṇā na santi, tatthāpi kāḷakavirahitassa niddhantasuvaṇṇassa pañcamāsagghanakena bhaṇḍena pādaparicchedo kātabbo. Tenāti nīlakahāpaṇassa catutthabhāgabhūtena. Pārājikavatthumhi vātiādi pārājikānaṃ sabbabuddhehi paññattabhāvena vuttaṃ, saṅghādisesādīsu pana itarāpattīsupi tabbatthūsu ca nānattaṃ nattheva, kevalaṃ keci sabbākārena paññapenti, keci ekadesenāti ettakameva viseso. Na hi kadācipi sammāsambuddhā yathāparādhaṃ atikkamma ūnamadhikaṃ vā sikkhāpadaṃ paññapenti.
88. Họ không khinh miệt là họ suy nghĩ một cách thấp kém. Nghĩa là khiển trách: nghĩa là khiển trách hành vi trộm cắp của Tỳ-khưu rằng “làm sao mà lại lấy của không cho,” không phải là từ bổ nghĩa cho từ ‘dāru’ (gỗ), vì nó là số nhiều. Trong sự khác biệt về lời nói: trong sự khác biệt của số ít và số nhiều. Có tất cả: có tất cả các thành phần như Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni v.v… Bimbisāra là tên của ngài: ở đây, bimbī là vàng. Do đó, cần biết rằng ngài được gọi là “Bimbisāra” vì có màu sắc giống như vàng ròng. Cần hiểu đồng tiền kahāpaṇa xanh là đồng tiền có giá trị bằng vàng ròng chất lượng cao, có đủ đặc tính, được sản xuất theo tiêu chuẩn của các sách cổ, có trọng lượng hai mươi māsa. Đồng tiền được một người tên là Rudradāma sản xuất là rudradāmako. Người ta nói rằng nó có giá trị bằng một phần ba của đồng tiền kahāpaṇa xanh. Ở nơi nào không có đồng tiền kahāpaṇa xanh, thì việc phân định một phần tư phải được thực hiện bằng một vật dụng có giá trị bằng năm māsa vàng ròng không có tạp chất đen. Bằng đó: bằng một phần tư của đồng tiền kahāpaṇa xanh. Hoặc trong đối tượng của tội Bất Cộng Trụ… v.v…: được nói do tính chất các tội Bất Cộng Trụ được tất cả các vị Phật chế định. Nhưng trong các tội Tăng Tàn v.v…, và trong các tội khác, không có sự khác biệt trong các đối tượng của chúng, chỉ có sự khác biệt là một số vị chế định một cách toàn diện, một số vị chỉ chế định một phần. Vì các vị Phật Toàn Giác không bao giờ chế định điều học thiếu hoặc thừa so với tội đã phạm.

Padabhājanīyavaṇṇanā

Giải thích về Phân Tích Từ Ngữ

92. Punapi ‘‘āgantukāmā’’ti vuttattā ca sabbathā manussehi anivutthapubbe abhinavamāpite, ‘‘puna na pavisissāmā’’ti nirālayehi pariccatte ca gāme gāmavohārābhāvā gāmappavesanāpucchanādikiccaṃ natthīti veditabbaṃ. Araññaparicchedadassanatthanti gāmagāmūpacāresu dassitesu tadaññaṃ araññanti araññaparicchedo sakkā ñātunti vuttaṃ. Mātikāyaṃ pana gāmaggahaṇeneva gāmūpacāropi gahitoti daṭṭhabbo. Indakhīleti ummāre. Araññasaṅkhepaṃ gacchati tathā abhidhamme vuttattā. Asatipi indakhīle indakhīlaṭṭhāniyattā ‘‘vemajjhameva indakhīloti vuccatī’’ti vuttaṃ. Yattha pana dvārabāhāpi natthi, tattha pākāravemajjhameva indakhīloti gahetabbaṃ. Luṭhitvāti pavaṭṭitvā.
92. Vì đã nói là cũng sẽ đến lại, nên cần biết rằng trong ngôi làng mới được thành lập, nơi con người chưa từng ở trước đó, và trong ngôi làng đã bị từ bỏ với ý nghĩ không luyến tiếc rằng “chúng tôi sẽ không vào lại,” vì không có cách gọi là làng, nên không có phận sự xin phép vào làng v.v… Để chỉ ra sự phân định của rừng: được nói rằng khi đã chỉ ra làng và vùng phụ cận của làng, thì phần còn lại là rừng, do đó có thể biết được sự phân định của rừng. Nhưng trong Mātikā, cần hiểu rằng bằng việc lấy làng, vùng phụ cận của làng cũng đã được bao gồm. Ở cột cửa: ở ngưỡng cửa. Được xếp vào loại rừng do đã được nói như vậy trong Vi Diệu Pháp. Dù không có cột cửa, nhưng vì có chức năng như cột cửa, nên đã nói là “chính khoảng giữa được gọi là cột cửa.” Ở nơi nào ngay cả khung cửa cũng không có, thì chính khoảng giữa của tường rào cần được hiểu là cột cửa. Lăn đi: lăn đi.

Majjhimassa purisassa suppapāto vātiādi mātugāmassa kākuṭṭhāpanavasena gahetabbaṃ, na baladassanavasena ‘‘mātugāmo bhājanadhovanaudakaṃ chaḍḍetī’’ti (pārā. aṭṭha. 1.92) upari vuccamānattā, teneva ‘‘leḍḍupāto’’ti avatvā suppapātotiādi vuttaṃ. Kurundaṭṭhakathāyaṃ mahāpaccariyañca gharūpacārova gāmoti adhippāyena ‘‘gharūpacāre ṭhitassa leḍḍupāto gāmūpacāro’’ti vuttaṃ. Kataparikkhepoti iminā parikkhepato bahi upacāro na gahetabboti dasseti. Suppamusalapātopi aparikkhittagehasseva, so ca yato pahoti, tattheva gahetabbo, appahonaṭṭhāne pana vijjamānaṭṭhānameva gahetabbaṃ. Yassa pana gharassa samantato pākārādīhi parikkhepo kato hoti, tattha sova parikkhepo gharūpacāroti gahetabbaṃ.
Sự rơi của cái sàng của người đàn ông trung bình… v.v…: cần được hiểu theo cách gây khó chịu cho người nữ, không phải theo cách thể hiện sức mạnh, vì ở trên sẽ nói là “người nữ đổ nước rửa chén” (pārā. aṭṭha. 1.92), chính vì thế đã nói là sự rơi của cái sàng v.v…, chứ không nói là “sự rơi của viên sỏi.” Trong Kurundaṭṭhakathā và Mahāpaccarī, với ý định rằng vùng phụ cận của nhà chính là làng, đã nói là “sự rơi của viên sỏi của người đứng trong vùng phụ cận của nhà là vùng phụ cận của làng.” Có hàng rào: bằng câu này, chỉ ra rằng không nên lấy vùng phụ cận ở ngoài hàng rào. Sự rơi của cái sàng và chày cũng chỉ áp dụng cho ngôi nhà không có hàng rào, và nó phải được lấy ở nơi nó có thể đến. Nhưng ở nơi không thể đến, thì phải lấy chính nơi hiện có. Nhưng đối với ngôi nhà nào có hàng rào bằng tường rào v.v… bao quanh, thì chính hàng rào đó cần được hiểu là vùng phụ cận của nhà.

Pubbe vuttanayenāti parikkhittagāme vuttanayena. Saṅkarīyatīti missīyati. Vikāle gāmappavesane ‘‘parikkhittassa gāmassa parikkhepaṃ atikkamantassa āpatti pācittiyassa. Aparikkhittassa gāmassa upacāraṃ okkamantassa āpatti pācittiyassā’’ti (pāci. 513) vuttattā gāmagāmūpacārānaṃ asaṅkaratā icchitabbāti āha asaṅkarato cātiādi. Keci panettha pāḷiyaṃ ‘‘aparikkhittassa gāmassa upacāraṃ okkamantassāti idaṃ parikkhepārahaṭṭhānaṃ sandhāya vuttaṃ, na tato paraṃ ekaleḍḍupātaparicchinnaṃ upacāraṃ . Tasmā parikkhepārahaṭṭhānasaṅkhātaṃ gāmaṃ okkamantasseva āpatti, na upacāra’’nti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ ‘‘gharūpacāre ṭhitassa majjhimassa purisassa leḍḍupātabbhantaraṃ gāmo nāma. Tato aññassa leḍḍupātassa abbhantaraṃ gāmūpacāro nāmā’’ti (pārā. aṭṭha. 1.92) idheva aṭṭhakathāyaṃ vuttattā. Vikāle gāmappavesanasikkhāpadaṭṭhakathāyañhi aparikkhittassa gāmassa upacāro adinnādāne vuttanayeneva veditabboti (pāci. aṭṭha. 512) ayameva nayo atidisito. Teneva mātikāṭṭhakathāyampi ‘‘yvāyaṃ aparikkhittassa gāmassa upacāro dassito, tassa vasena vikāle gāmappavesanādīsu āpatti paricchinditabbā’’ti (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyapārājikavaṇṇanā) vuttaṃ, tasmā parikkhittassa gāmassa parikkhepaṃ atikkamantassa, aparikkhittassa gāmassa gharūpacārato paṭṭhāya dutiyaleḍḍupātasaṅkhātaṃ gāmūpacāraṃ okkamantassa vikāle gāmappavesanāpatti hoti, mātikāyañca vikāle gāmaṃ paviseyyāti gāmaggahaṇeneva gāmūpacāropi gahitoti veditabbaṃ. Vikāle gāmappavesanādīsūti ādi-saddena gharagharūpacārādīsu ṭhitānaṃ uppannalābhabhājanādiṃ saṅgaṇhāti.
Theo cách đã nói trước đó: theo cách đã nói trong ngôi làng có hàng rào. Bị trộn lẫn: bị lẫn lộn. Vì trong việc vào làng sai thời, đã nói rằng “khi vượt qua hàng rào của ngôi làng có hàng rào, phạm tội Ưng Đối Trị. Khi đi vào vùng phụ cận của ngôi làng không có hàng rào, phạm tội Ưng Đối Trị” (pāci. 513), nên cần muốn sự không lẫn lộn của làng và vùng phụ cận của làng, nên nói là và do không lẫn lộn… v.v… Một số người ở đây nói rằng trong Pāḷi, câu “khi đi vào vùng phụ cận của ngôi làng không có hàng rào” được nói nhắm đến nơi xứng đáng có hàng rào, không phải vùng phụ cận được phân định bằng một lần ném sỏi xa hơn. Do đó, chỉ phạm tội khi đi vào ngôi làng là nơi xứng đáng có hàng rào, không phải vùng phụ cận,” điều đó không nên được chấp nhận, vì ngay ở đây trong Chú giải đã nói là “khoảng cách trong một lần ném sỏi của người đàn ông trung bình đứng trong vùng phụ cận của nhà được gọi là làng. Khoảng cách trong một lần ném sỏi khác xa hơn được gọi là vùng phụ cận của làng” (pārā. aṭṭha. 1.92). Vì trong chú giải của điều học về việc vào làng sai thời, đã dẫn chiếu chính phương pháp này rằng vùng phụ cận của ngôi làng không có hàng rào cần được hiểu theo cách đã nói trong tội trộm cắp (pāci. aṭṭha. 512). Chính vì thế, trong Mātikāṭṭhakathā cũng đã nói rằng “vùng phụ cận của ngôi làng không có hàng rào đã được chỉ ra, tội trong việc vào làng sai thời v.v… phải được phân định theo đó” (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyapārājikavaṇṇanā). Do đó, khi vượt qua hàng rào của ngôi làng có hàng rào, và khi đi vào vùng phụ cận của làng là khoảng cách ném sỏi thứ hai bắt đầu từ vùng phụ cận của nhà của ngôi làng không có hàng rào, thì phạm tội vào làng sai thời. Và trong Mātikā, cần hiểu rằng khi nói vào làng sai thời, bằng việc lấy làng, vùng phụ cận của làng cũng đã được bao gồm. Trong việc vào làng sai thời v.v…: bằng từ ‘v.v…’, bao gồm cả việc chia lợi lộc phát sinh ở nhà và vùng phụ cận của nhà v.v…

Nikkhamitvā bahi indakhīlāti indakhīlato bahi nikkhamitvā ṭhitaṃ yaṃ ṭhānaṃ sabbametaṃ araññanti yojanā. Ācariyadhanu nāma pakatihatthena navavidatthipamāṇaṃ, jiyāya pana āropitāya sattaṭṭhavidatthimattanti vadanti.
Ra ngoài khỏi cột cửa: kết nối là nơi nào đứng ngoài khỏi cột cửa, tất cả nơi đó là rừng. Cây cung của thầy: một số người nói là có kích thước bằng chín gang tay của bàn tay thông thường, nhưng khi đã giương dây thì chỉ còn khoảng bảy tám gang tay.

Kappiyanti anurūpavasena vuttaṃ akappiyassāpi appaṭiggahitassa paribhoge pācittiyattā. Pariccāgādimhi akate ‘‘idaṃ mayhaṃ santaka’’nti vatthusāminā aviditampi pariggahitameva bālummattādīnaṃ santakaṃ viya, tādisaṃ avaharantopi ñātakādīhi pacchā ñatvā vatthusāminā ca anubandhitabbato pārājikova hoti. Yassa vasena puriso theno hoti, taṃ theyyanti āha ‘‘avaharaṇacittassetaṃ adhivacana’’nti. Papañcasaṅkhāti taṇhāmānadiṭṭhisaṅkhātā papañcakoṭṭhāsā. Eko cittakoṭṭhāsoti ṭhānācāvanapayogasamuṭṭhāpako eko cittakoṭṭhāsoti attho.
Được phép: được nói theo cách phù hợp, vì việc dùng vật không được phép mà chưa được thọ nhận cũng bị tội Ưng Đối Trị. Khi chưa từ bỏ v.v…, dù chủ sở hữu không biết là “cái này là của tôi,” nhưng nó vẫn được coi là đã được sở hữu, giống như của trẻ em, người điên v.v…, người lấy vật như vậy cũng bị tội Bất Cộng Trụ do bị quyến thuộc v.v… biết và bị chủ sở hữu truy cứu sau đó. Điều gì mà người ta trở thành kẻ trộm do nó, điều đó là sự trộm cắp, nên nói là “đây là tên gọi của tâm trộm cắp.” Sự hý luận: các phần hý luận là tham, mạn, và kiến. Một phần của tâm: có nghĩa là một phần của tâm tạo ra sự di chuyển khỏi nơi chốn và phương tiện.

Abhiyogavasenāti aṭṭakaraṇavasena. Saviññāṇakenevāti idaṃ saviññāṇakānaññeva āveṇikavinicchayaṃ sandhāya vuttaṃ. Pāṇo apadantiādīsu hi ‘‘padasā nessāmī’’ti paṭhamaṃ pādaṃ saṅkāmeti, āpatti thullaccayassātiādinā pāḷiyaṃ (pārā. 111), bhikkhu dāsaṃ disvā sukhadukkhaṃ pucchitvā vā apucchitvā vā ‘‘gaccha, palāyitvā sukhaṃ jīvā’’ti vadati, so ce palāyati, dutiyapadavāre pārājikantiādinā (pārā. aṭṭha. 1.114) aṭṭhakathāyañca yo saviññāṇakānaññeva āveṇiko vinicchayo vutto, so ārāmādiaviññāṇakesu na labbhatīti tādisaṃ sandhāya ‘‘saviññāṇakenevā’’ti vuttaṃ. Yo pana vinicchayo ārāmādiaviññāṇakesu labbhati, so yasmā saviññāṇakesu alabbhanako nāma natthi, tasmā vuttaṃ ‘‘nānābhaṇḍavasena saviññāṇakāviññāṇakamissakenā’’ti. Saviññāṇakena ca aviññāṇakena cāti attho. Yasmā cettha aviññāṇakeneva ādiyanādīni chapi padāni na sakkā yojetuṃ iriyāpathavikopanassa saviññāṇakavaseneva yojetabbato, tasmā ‘‘aviññāṇakenevā’’ti tatiyaṃ pakāraṃ na vuttanti daṭṭhabbaṃ.
Theo cách kiện tụng: theo cách đưa ra tòa án. Chỉ bằng vật có thức: điều này được nói nhắm đến sự phân xử riêng chỉ có đối với vật có thức. Vì trong các trường hợp như sinh vật không có chân v.v…, trong Pāḷi đã nói bằng câu “khi di chuyển chân đầu tiên với ý nghĩ ‘tôi sẽ dẫn nó đi bằng từng bước,’ phạm tội Trọng Tội” v.v… (pārā. 111), và trong Chú giải, bằng câu “khi một Tỳ-khưu thấy một người nô lệ, dù hỏi hay không hỏi về sướng khổ, mà nói rằng ‘hãy đi, hãy trốn đi và sống sung sướng,’ nếu người đó trốn đi, thì bị tội Bất Cộng Trụ ở bước thứ hai” v.v… (pārā. aṭṭha. 1.114), sự phân xử riêng chỉ có đối với vật có thức đã được nói, không có đối với vật vô tri như vườn tược v.v…, nhắm đến điều đó đã nói là “chỉ bằng vật có thức.” Nhưng sự phân xử nào có đối với vật vô tri như vườn tược v.v…, vì không có trường hợp nào không có đối với vật có thức, do đó đã nói là “bằng vật hỗn hợp có thức và vô tri theo các loại vật dụng khác nhau.” Có nghĩa là bằng cả vật có thức và vô tri. Vì ở đây, không thể áp dụng cả sáu vế như lấy v.v… chỉ bằng vật vô tri, do việc thay đổi tư thế phải được áp dụng theo cách của vật có thức, do đó cần hiểu là không nói đến loại thứ ba là “chỉ bằng vật vô tri.”

Ārāmanti idaṃ upalakkhaṇamattaṃ dāsādisaviññāṇakassāpi idha saṅgahetabbato, nānābhaṇḍavasena hettha yojanā dassiyati. Parikappitaṭṭhānanti parikappitokāsaṃ. Suṅkaghātanti ettha maggaṃ gacchantehi satthikehi attanā nīyamānabhaṇḍato rañño dātabbabhāgo suṅko nāma, so ettha haññati adatvā gacchantehi avaharīyati, taṃ vā hanti ettha rājapurisā adadantānaṃ santakaṃ balakkārenāti suṅkaghāto, ‘‘ettha paviṭṭhehi suṅko dātabbo’’ti rukkhapabbatādisaññāṇena niyamitappadesassetaṃ adhivacanaṃ.
Vườn: đây chỉ là một ví dụ, vì cả vật có thức như nô lệ v.v… cũng phải được bao gồm ở đây, vì sự áp dụng sẽ được chỉ ra theo các loại vật dụng khác nhau. Nơi đã định: nơi đã định. Trạm thuế: ở đây, phần mà các đoàn buôn đi trên đường phải nộp cho vua từ các vật dụng mà họ mang theo được gọi là thuế, ở đây nó bị trốn bằng cách đi mà không nộp, hoặc nó bị lấy cắp ở đây bởi những người lính của vua bằng cách cưỡng đoạt của những người không nộp, do đó là trạm thuế, đây là tên gọi của nơi đã được quy định bằng các dấu hiệu như cây, núi v.v… rằng “những người vào đây phải nộp thuế.”

Pañcavīsatiavahārakathāvaṇṇanā

Giải thích về hai mươi lăm cách trộm cắp

Katthacīti ekissā aṭṭhakathāyaṃ. Ekaṃ pañcakaṃ dassitanti ‘‘parapariggahitañca hoti, parapariggahitasaññī ca, garuko ca hoti parikkhāro pañcamāsako vā atirekapañcamāsako vā, theyyacittañca paccupaṭṭhitaṃ hoti, ṭhānā cāvetī’’ti (pārā. 122) vuttapañcaavahāraṅgāni ekaṃ pañcakanti dassitaṃ. Dve pañcakāni dassitānīti ‘‘chahi ākārehi adinnaṃ ādiyantassa āpatti pārājikassa. Na ca sakasaññī, na ca vissāsaggāhī, na ca tāvakālikaṃ, garuko ca hoti parikkhāro pañcamāsako vā atirekapañcamāsako vā, theyyacittañca paccupaṭṭhitaṃ hoti, ṭhānā cāveti, āpatti pārājikassā’’ti (pārā. 125) evaṃ vuttesu chasu padesu ekaṃ apanetvā sesāni pañca padāni ekaṃ pañcakaṃ katvā heṭṭhā vuttapañcakañca gahetvā dve pañcakāni dassitāni. Ettha panāti pañcahākārehītiādīsu. Sabbehipi padehīti parapariggahitañca hotītiādīhi sabbehi pañcahi padehi.
Ở một nơi nào đó: trong một Chú giải nào đó. Một nhóm năm đã được chỉ ra: đã chỉ ra rằng năm yếu tố của sự trộm cắp đã được nói trong câu “là của người khác sở hữu, và có ý nghĩ là của người khác sở hữu, và là vật dụng nặng có giá trị năm māsa hoặc hơn năm māsa, và tâm trộm cắp đã có mặt, và di chuyển khỏi nơi chốn” (pārā. 122) là một nhóm năm. Hai nhóm năm đã được chỉ ra: trong sáu vế đã được nói như thế này: “phạm tội Bất Cộng Trụ khi lấy của không cho theo sáu cách. Không phải là của mình, không phải là lấy do thân quen, không phải là tạm thời, và là vật dụng nặng có giá trị năm māsa hoặc hơn năm māsa, và tâm trộm cắp đã có mặt, và di chuyển khỏi nơi chốn, thì phạm tội Bất Cộng Trụ” (pārā. 125), sau khi đã loại bỏ một vế, năm vế còn lại được làm thành một nhóm năm, và lấy cả nhóm năm đã nói ở dưới, đã chỉ ra hai nhóm năm. Nhưng ở đây là trong câu ‘bằng năm cách’ v.v… Bằng tất cả các vế: bằng tất cả năm vế như ‘là của người khác sở hữu’ v.v…

Pañcannaṃ avahārānaṃ samūho pañcakaṃ. Sako hattho sahattho, tena nibbatto, tassa vā sambandhīti sāhatthiko, avahāro. Sāhatthikādi pañcakaṃ sāhatthikapañcakantiādipadavasena nāmalābho daṭṭhabbo. Evaṃ sesesupi. Tatiyapañcamesu pañcakesūti sāhatthikapañcakatheyyāvahārapañcakesu. Labbhamānapadavasenāti sāhatthikapañcake labbhamānassa nissaggiyāvahārapadassa vasena, theyyāvahārapañcake labbhamānassa parikappāvahārapadassa ca vasena yojetabbanti attho.
Tập hợp của năm cách trộm cắp là nhóm năm. Tự tay là ‘sahattho,’ hành động trộm cắp được thực hiện bằng nó, hoặc liên quan đến nó, là ‘sāhatthiko.’ Cần thấy việc có tên theo các từ như ‘nhóm năm trộm cắp bằng tự tay’ v.v… đối với nhóm năm trộm cắp bằng tự tay. Cũng vậy trong các trường hợp còn lại. Trong nhóm năm thứ ba và thứ năm: trong nhóm năm trộm cắp bằng tự tay và nhóm năm trộm cắp. Theo vế có thể có: có nghĩa là phải kết hợp theo vế trộm cắp bằng cách vứt bỏ có thể có trong nhóm năm trộm cắp bằng tự tay, và theo vế trộm cắp bằng cách định đoạt có thể có trong nhóm năm trộm cắp.

Nissaggiyo nāma…pe… pārājikassāti iminā bahisuṅkaghātapātanaṃ nissaggiyapayogoti dasseti. ‘‘Hatthe bhāraṃ theyyacitto bhūmiyaṃ nikkhipati, āpatti pārājikassā’’ti (pārā. 101) vuttattā pana suddhacittena gahitaparabhaṇḍassa theyyacittena gumbādipaṭicchannaṭṭhāne khipanampi imasmiṃ nissaggiyapayoge saṅgayhatīti daṭṭhabbaṃ. Kiriyāsiddhito puretarameva pārājikāpattisaṅkhātaṃ atthaṃ sādhetīti atthasādhako. Atha vā attano vattamānakkhaṇe avijjamānampi kiriyāsiddhisaṅkhātaṃ atthaṃ avassaṃ āpattiṃ sādhetītipi atthasādhako. Asukaṃ nāma bhaṇḍaṃ yadā sakkosīti idaṃ nidassanaṃattaṃ parassa telakumbhiyā upāhanādīnaṃ nikkhepapayogassāpi atthasādhakattā. Tathā hi vuttaṃ mātikāṭṭhakathāyaṃ
Trộm cắp bằng cách vứt bỏ là… v.v… phạm tội Bất Cộng Trụ: bằng câu này, chỉ ra rằng việc ném ra ngoài trạm thuế là phương tiện trộm cắp bằng cách vứt bỏ. Nhưng vì đã nói “nếu ném gánh nặng trên tay xuống đất với tâm trộm cắp, phạm tội Bất Cộng Trụ” (pārā. 101), nên cần hiểu rằng việc ném vật dụng của người khác đã được lấy với tâm trong sạch vào nơi che khuất như bụi rậm v.v… với tâm trộm cắp cũng được bao gồm trong phương tiện trộm cắp bằng cách vứt bỏ này. Vì nó thực hiện mục đích là tội Bất Cộng Trụ trước cả khi hành động hoàn thành, nên là phương tiện thực hiện mục đích. Hoặc là, dù trong khoảnh khắc hiện tại không có, nhưng nó chắc chắn thực hiện mục đích là tội, là sự hoàn thành của hành động, nên cũng là phương tiện thực hiện mục đích. Vật dụng tên là… khi nào có thể: đây chỉ là một ví dụ, vì phương tiện ném giày dép v.v… của người khác vào bình dầu cũng có tính chất thực hiện mục đích. Cụ thể, đã được nói trong Mātikāṭṭhakathā:

‘‘Atthasādhako nāma ‘asukassa bhaṇḍaṃ yadā sakkoti, tadā taṃ avaharā’ti aññaṃ āṇāpeti. Tattha sace paro anantarāyiko hutvā taṃ avaharati, āṇāpakassa āṇattikkhaṇeyeva pārājikaṃ. Parassa vā pana telakumbhiyā pādagghanakatelaṃ avassaṃ pivanakāni upāhanādīni pakkhipati, hatthato muttamatteyeva pārājika’’nti (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyapārājikavaṇṇanā).

“Phương tiện thực hiện mục đích là ra lệnh cho người khác rằng ‘hãy lấy trộm vật dụng của người kia khi nào có thể.’ Ở đó, nếu người kia không bị trở ngại mà lấy trộm vật đó, thì người ra lệnh bị tội Bất Cộng Trụ ngay trong khoảnh khắc ra lệnh. Hoặc nếu ném những vật dụng như giày dép v.v… chắc chắn sẽ uống hết dầu trị giá một phần tư vào bình dầu của người khác, thì bị tội Bất Cộng Trụ ngay khi vừa rời khỏi tay” (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyapārājikavaṇṇanā).

Imassa atthasādhakassa āṇattiyā ca ko visesoti? Taṅkhaṇaññeva gahaṇe niyuñjanaṃ āṇattikapayogo, kālantarena gahaṇatthaṃ niyogo atthasādhakoti ayaṃ nesaṃ viseso. Tenevāha ‘‘asukaṃ nāma bhaṇḍaṃ yadā sakkosī’’tiādi. Dhuranikkhepo pana upanikkhittabhaṇḍavasena veditabboti idaṃ nidassanaṃattaṃ, ārāmābhiyuñjanādīsupi tāvakālikabhaṇḍadeyyānaṃ adānepi eseva nayo. Bhaṇḍaggahaṇappayogato āṇattiyā pubbattā āha ‘‘āṇattivasena pubbapayogo veditabbo’’ti. Payogena saha vattamāno avahāro sahapayogoti āha ‘‘ṭhānācāvanavasenā’’ti, idañca nidassanaṃattaṃ khīlasaṅkamanādīsupi asati ṭhānācāvane sahapayogattā. Vuttañhi mātikāṭṭhakathāyaṃ ‘‘ṭhānācāvanavasena khīlādīni saṅkāmetvā khettādiggahaṇavasena ca sahapayogo veditabbo’’ti (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyapārājikavaṇṇanā).
Có sự khác biệt nào giữa phương tiện thực hiện mục đích này và sự ra lệnh? Việc giao phó để lấy ngay lập tức là phương tiện ra lệnh, việc giao phó để lấy sau một thời gian là phương tiện thực hiện mục đích, đây là sự khác biệt của chúng. Chính vì thế đã nói là “vật dụng tên là… khi nào có thể” v.v… Sự từ bỏ trách nhiệm thì phải được hiểu theo vật dụng đã gửi gắm: đây chỉ là một ví dụ, trong việc kiện tụng vườn tược v.v…, ngay cả khi không cho những vật dụng phải trả tạm thời, cũng áp dụng cùng một phương pháp. Vì sự ra lệnh có trước phương tiện lấy vật dụng, nên nói là “phải hiểu phương tiện trước theo cách ra lệnh.” Hành động trộm cắp diễn ra cùng với phương tiện là cùng phương tiện, nên nói là “theo cách di chuyển khỏi nơi chốn,” và đây chỉ là một ví dụ, vì ngay cả trong việc di chuyển cọc v.v…, dù không có sự di chuyển khỏi nơi chốn, cũng có tính chất cùng phương tiện. Đã được nói trong Mātikāṭṭhakathā: “phải hiểu cùng phương tiện theo cách di chuyển khỏi nơi chốn bằng cách di chuyển cọc v.v…, và theo cách lấy ruộng v.v…” (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyapārājikavaṇṇanā).

Tulayitvāti parikkhitvā. Sāmīcīti vattaṃ. Sakasaññāya adentassa āpatti natthīti vadanti. Sammaddoti nividdhatāsaṅkhobho. Bhaṭṭhe janakāyeti apagate janasamūhe. Attano santakaṃ katvā etasseva bhikkhuno dehīti idaṃ ubhinnampi kukkuccavinodanatthaṃ vuttaṃ. Avahārakassa hi ‘‘mayā sahatthena na dinnaṃ, bhaṇḍadeyyaṃ eta’’nti kukkuccaṃ uppajjeyya, itarassa ca ‘‘mayā paṭhamaṃ dhuranikkhepaṃ katvā pacchā adinnaṃ gahita’’nti kukkuccaṃ uppajjeyyāti.
Sau khi đã cân nhắc: sau khi đã xem xét. Phận sự đúng đắn: một số người nói rằng không có tội đối với người không cho do nghĩ là của mình. Sự hỗn loạn: sự xáo trộn, hoang mang. Khi đám đông đã tan rã: khi tập thể người đã đi. Sau khi đã làm thành của mình, hãy cho chính Tỳ-khưu này: điều này được nói để xua tan sự nghi ngờ của cả hai. Vì người trộm cắp có thể phát sinh nghi ngờ rằng “tôi đã không cho bằng tự tay, đây là vật dụng phải trả,” và người kia cũng có thể phát sinh nghi ngờ rằng “tôi đã từ bỏ trách nhiệm lúc đầu, rồi sau đó lại lấy của không cho.”

Samagghanti appagghaṃ. Dāruatthaṃ pharatīti dārūhi kattabbakiccaṃ sādheti. Ekadivasaṃ dantakaṭṭhacchedanādinā yā ayaṃ agghahāni vuttā, sā sabbā bhaṇḍasāminā kiṇitvā gahitameva sandhāya vuttā. Sabbaṃ panetaṃ aṭṭhakathācariyappamāṇena veditabbaṃ. Pāsāṇañca sakkharañca pāsāṇasakkharaṃ.
Ít giá trị: rẻ tiền. Có ích cho việc làm gỗ: thực hiện công việc phải làm bằng gỗ. Sự mất giá đã được nói do việc cắt tăm xỉa răng v.v… trong một ngày, tất cả đều được nói nhắm đến vật dụng đã được chính chủ sở hữu mua và lấy. Nhưng tất cả những điều này cần được hiểu theo tiêu chuẩn của các vị thầy Chú giải. Đá và sỏi là đá sỏi.

Akkhadassāti ettha akkha-saddena kira vinicchayasālā vuccati, tattha nisīditvā vajjāvajjaṃ nirūpayantīti ‘‘akkhadassā’’ti vuccanti dhammavinicchanakā. Hananaṃ nāma hatthapādādīhi pothanañceva hatthanāsādicchedanañca hotīti āha ‘‘haneyyunti potheyyuñceva chindeyyuñcā’’ti.
Những người xét xử: ở đây, bằng từ ‘akkha,’ người ta nói là phòng xử án, những người ngồi ở đó và xem xét điều đúng sai được gọi là “những người xét xử,” là những người phân xử pháp luật. Việc đánh đập là cả việc đánh bằng tay, chân v.v… và việc cắt tay, mũi v.v…, nên nói là “họ nên đánh, tức là họ nên đánh và cắt.”

Padabhājanīyañca ‘‘hatthena vā pādena vā kasāya vā vettena vā aḍḍhadaṇḍakena vā chajjāya vā haneyyu’’nti (pārā. 92) vuttaṃ. Tattha aḍḍhadaṇḍakenāti dvihatthappamāṇena rassamuggarena, veḷupesikāya vā. Chejjāya vāti hatthādīnaṃ chedanena. Chindanti etāya hatthapādādīnīti chejjā, satthaṃ, tena satthenātipi attho. Nīhareyyunti raṭṭhato nīhareyyuṃ. ‘‘Corosi…pe… thenosī’’ti ettha paribhāseyyunti padaṃ ajjhāharitvā attho veditabboti āha ‘‘corosi…pe… paribhāseyyu’’nti. Yaṃ taṃ bhaṇḍaṃ dassitanti sambandho.
Và Phân Tích Từ Ngữ đã nói là “họ nên đánh bằng tay hoặc bằng chân, bằng roi hoặc bằng gậy, bằng gậy ngắn hoặc bằng sự cắt” (pārā. 92). Ở đó, bằng gậy ngắn là bằng cây gậy ngắn có kích thước hai gang tay, hoặc bằng nan tre. Hoặc bằng sự cắt là bằng việc cắt tay v.v… Điều gì mà người ta dùng để cắt tay, chân v.v…, đó là ‘chejjā,’ là con dao, cũng có nghĩa là bằng con dao đó. Họ nên trục xuất là họ nên trục xuất khỏi xứ sở. Ở câu “ngươi là kẻ trộm… v.v… ngươi là tên trộm,” cần hiểu ý nghĩa bằng cách thêm vào từ ‘paribhāseyyuṃ’ (họ nên mắng nhiếc), nên nói là “họ nên mắng nhiếc rằng ngươi là kẻ trộm… v.v…” Có liên quan là ‘vật dụng nào đã được chỉ ra.’

93. Yattha yattha ṭhitanti bhūmiyādīsu yattha yattha ṭhitaṃ. Yathā yathā ādānaṃ gacchatīti yena yena ākārena gahaṇaṃ upagacchati.
93. Đứng ở đâu: đứng ở đâu trên mặt đất v.v… Sự lấy diễn ra như thế nào: sự cầm nắm diễn ra theo cách nào.

Bhūmaṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về những điều trên mặt đất

94. Vācāya vācāyāti ekekatthadīpikāya vācāya vācāya. Upaladdhoti ñāto. Pāḷiyaṃ sesaaṭṭhakathāsu ca kudālaṃ vā piṭakaṃ vāti idameva dvayaṃ vatvā vāsipharasūnaṃ avuttattā tesampi saṅkhepaṭṭhakathādīsu āgatabhāvaṃ dassetuṃ saṅkhepaṭṭhakathāyantiādi vuttaṃ. Theyyacittena katattā ‘‘dukkaṭehi saddhiṃ pācittiyānī’’ti vuttaṃ.
94. Bằng từng lời nói: bằng từng lời nói giải thích từng ý nghĩa. Được hiểu: được biết. Vì trong Pāḷi và trong các Chú giải khác, chỉ có hai điều này được nói là ‘cái cuốc hoặc cái rổ,’ mà không nói đến cái bào và cái rìu, nên để chỉ ra rằng chúng cũng có trong các sách Chú giải tóm tắt v.v…, đã nói là trong Chú giải tóm tắt v.v… Vì đã được làm với tâm trộm cắp, nên đã nói là “các tội Ưng Đối Trị cùng với các tội Tác Ác.”

Aṭṭhavidhaṃ hetantiādīsu etaṃ dukkaṭaṃ nāma therehi dhammasaṅgāhakehi imasmiṃ ṭhāne samodhānetvā aṭṭhavidhanti dassitanti yojanā. Sabbesampi dukkaṭānaṃ imesuyeva aṭṭhasu saṅgahetabbabhāvato pana itarehi sattahi dukkaṭehi vinimuttaṃ vinayadukkaṭeyeva saṅgahetabbaṃ. Dasavidhaṃ ratananti ‘‘muttā maṇi veḷuriyo saṅkho silā pavāḷaṃ rajataṃ jātarūpaṃ lohitako masāragalla’’nti evamāgataṃ dasavidhaṃ ratanaṃ.
Đây có tám loại… v.v…: kết nối là tội Tác Ác này đã được các vị trưởng lão kết tập pháp chỉ ra là có tám loại bằng cách gộp lại ở nơi này. Nhưng vì tất cả các tội Tác Ác đều phải được bao gồm trong tám loại này, nên tội Tác Ác không thuộc bảy loại kia phải được bao gồm trong tội Tác Ác của luật. Mười loại bảo vật: mười loại bảo vật đã có như thế này: “ngọc trai, ngọc báu, lưu ly, vỏ ốc, đá quý, san hô, bạc, vàng, hồng ngọc, và ngọc mắt mèo.”

‘‘Muttā maṇi veḷuriyo ca saṅkho,

Silā pavāḷaṃ rajatañca hemaṃ;

Lohitakañca masāragallaṃ,

Dasete dhīro ratanāni jaññā’’ti. –

“Ngọc trai, ngọc báu và lưu ly, vỏ ốc,

Đá quý, san hô, bạc và vàng;

Hồng ngọc và ngọc mắt mèo,

Người trí nên biết mười loại bảo vật này.” –

Hi vuttaṃ. Sattavidhaṃ dhaññanti sāli vīhi yavo kaṅgu kudrūsaṃ varako godhumoti imaṃ sattavidhaṃ dhaññaṃ. Āvudhabhaṇḍādinti ādi-saddena turiyabhaṇḍaitthirūpādiṃ saṅgaṇhāti. Anāmasitabbe vatthumhi dukkaṭaṃ anāmāsadukkaṭaṃ. Durūpaciṇṇadukkaṭanti ‘‘akattabba’’nti vāritassa katattā duṭṭhu upaciṇṇaṃ caritanti durūpaciṇṇaṃ, tasmiṃ dukkaṭaṃ durūpaciṇṇadukkaṭaṃ. Vinaye paññattaṃ avasesaṃ dukkaṭaṃ vinayadukkaṭaṃ. Ekādasa samanubhāsanā nāma bhikkhupātimokkhe cattāro yāvatatiyakā saṅghādisesā ariṭṭhasikkhāpadanti pañca, bhikkhunīpātimokkhe ekaṃ yāvatatiyakapārājikaṃ cattāro saṅghādisesā caṇḍakāḷīsikkhāpadanti cha.
Vì đã được nói. Bảy loại lúa: bảy loại lúa này là lúa tẻ, lúa nếp, lúa mạch, kê, lúa miến, lúa mì. Vũ khí v.v…: bằng từ ‘v.v…’, bao gồm cả nhạc cụ, hình người nữ v.v… Tội Tác Ác trong vật dụng không được chạm vào là tội Tác Ác do không chạm. Tội Tác Ác do hành vi xấu: vì đã làm điều bị cấm là “không được làm,” nên hành vi đã được thực hiện một cách xấu xa là ‘durūpaciṇṇaṃ,’ tội Tác Ác trong đó là tội Tác Ác do hành vi xấu. Tội Tác Ác còn lại được chế định trong luật là tội Tác Ác của luật. Mười một lần cảnh cáo là: trong Giới Bổn của Tỳ-khưu, có bốn tội Tăng Tàn cho đến lần thứ ba, và điều học Ariṭṭha, là năm; trong Giới Bổn của Tỳ-khưu-ni, có một tội Bất Cộng Trụ cho đến lần thứ ba, bốn tội Tăng Tàn, và điều học Caṇḍakāḷī, là sáu.

Sahapayogato paṭṭhāya cettha purimapurimā āpattiyo paṭippassambhantīti āha atha dhuranikkhepaṃ akatvātiādi. ‘‘Dhuranikkhepaṃ akatvā’’ti vuttattā dhuranikkhepaṃ katvā puna khaṇantassa purimāpattiyo na paṭippassambhantīti vadanti. ‘‘Chedanapaccayā dukkaṭaṃ desetvā muccatī’’ti vatvā pubbapayoge āpattīnaṃ desetabbatāya avuttattā sahapayoge patte pubbapayoge āpattiyo paṭippassambhantīti veditabbaṃ.
Vì từ cùng phương tiện trở đi, các tội trước đó đều lắng dịu, nên nói là vậy thì không từ bỏ trách nhiệm… v.v… Một số người nói rằng vì đã nói “không từ bỏ trách nhiệm,” nên đối với người đào lại sau khi đã từ bỏ trách nhiệm, các tội trước đó không lắng dịu. Vì đã nói “sau khi sám hối tội Tác Ác do cắt, thì được thoát,” mà không nói về việc sám hối các tội trong phương tiện trước, nên cần biết rằng khi đã đến cùng phương tiện, các tội trong phương tiện trước đều lắng dịu.

Aparaddhaṃ viraddhaṃ khalitanti sabbametaṃ yañca dukkaṭanti ettha vuttassa dukkaṭassa pariyāyavacanaṃ, yaṃ manusso karetiādi panettha opammanidassanaṃ. Saṃyogabhāvoti dvittaṃ sandhāya vuttaṃ, tena rassattassāpi nimittaṃ dassitanti veditabbaṃ. Ekassa mūleti ekassa santike. Sabbatthāpi āmasane dukkaṭaṃ, phandāpane thullaccayañca visuṃ visuṃ āmasanaphandāpanapayogaṃ karontasseva hoti, ekapayogena gaṇhantassa pana uddhāre pārājikameva, na dukkaṭathullaccayānīti vadanti, ekapayogena gaṇhantassāpi āmasanaphandāpanānampi labbhamānattā taṃ na gahetabbaṃ. Na hi sakkā anāmasitvā aphandāpetvā ca kiñci gahetuṃ. ‘‘Ekameva desetvā muccatī’’ti paṃsukhaṇanādisamānapayogepi purimā āpatti uttaramuttaraṃ āpattiṃ patvā paṭippassambhantīti saññāya kurundaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ, itaraṭṭhakathāsu pana khaṇanapayogabhedehi payoge payoge āpannā āpattiyo uttaramuttaraṃ patvā na paṭippassambhanti aññamaññaṃ sadisattā viyūhanaṃ patvā tā sabbāpi paṭippassambhanti visadisapayogattāti iminā adhippāyena paṭippassaddhividhānaṃ vuttanti veditabbaṃ. Iminā hi avahārakassa āsannaṃ orimantaṃ parāmasati.
Sai lầm, thiếu sót, vấp ngã: tất cả những điều này là từ đồng nghĩa của tội Tác Ác đã được nói trong câu và tội Tác Ác nào, còn câu điều gì mà con người làm… v.v… ở đây là ví dụ minh họa. Trạng thái kép: được nói nhắm đến sự gấp đôi, bằng điều đó, cần biết rằng cũng đã chỉ ra dấu hiệu của sự rút ngắn. Ở gốc của một người: ở nơi một người. Một số người nói rằng tội Tác Ác khi chạm và tội Trọng Tội khi làm rung động chỉ xảy ra riêng biệt đối với người thực hiện phương tiện chạm và làm rung động, nhưng đối với người lấy bằng một phương tiện, thì chỉ bị tội Bất Cộng Trụ khi nhấc lên, không bị tội Tác Ác và Trọng Tội. Điều đó không nên được chấp nhận, vì ngay cả khi lấy bằng một phương tiện, việc chạm và làm rung động cũng có thể có. Vì không thể lấy bất cứ thứ gì mà không chạm và không làm rung động. Trong Kurundaṭṭhakathā, đã nói với ý nghĩ rằng ngay cả trong cùng một phương tiện như đào đất v.v…, tội trước đó, khi đã đến tội sau, sẽ lắng dịu, rằng “sau khi sám hối một tội, thì được thoát.” Nhưng trong các Chú giải khác, cần biết rằng phương pháp lắng dịu đã được nói với ý định này rằng các tội đã phạm trong từng phương tiện do sự khác biệt của các phương tiện đào đất không lắng dịu khi đã đến tội sau, vì chúng tương tự nhau; khi đã đến sự chuyển đi, tất cả chúng đều lắng dịu do phương tiện khác nhau. Bằng điều này, người đó đề cập đến giới hạn gần nhất của kẻ trộm cắp.

Tatthevāti mukhavaṭṭiyameva. Bundenāti kumbhiyā heṭṭhimatalena. Ekaṭṭhāne ṭhitāya kumbhiyā ṭhānā cāvanaṃ chahi ākārehi veditabbanti sambandho. Ekaṭṭhāneti ca saṅkhalikabaddhabhāvena ekasmiṃ patiṭṭhitokāsaṭṭhāneti attho. Khāṇukaṃ kesaggamattampi ṭhānā cāvetīti khāṇukaṃ attano patiṭṭhitaṭṭhānato pañcahi ākārehi ṭhānā cāveti. Chinnamatte pārājikanti avassaṃ ce patati, chinnamatte pārājikaṃ. Paricchedoti pañcamāsakādigarubhāvaparicchedo. Apabyūhantoti ṭhitaṭṭhānato apanayanavasena viyūhanto rāsiṃ karonto. Evaṃ katvāti bhājanamukhavaṭṭiyā kumbhigatena bhājanagatassa ekābaddhabhāvaṃ viyojetvāti attho. Upaḍḍhakumbhīyanti upaḍḍhapuṇṇāya kumbhiyā. Vinayadhammatāti adhikakāraṇālābhe vinayavinicchayadhammatāti adhippāyo. Na kevalañcettha garukatāva, suttānugamanampi atthīti dassento apicātiādimāha. Kaṇṭhena pana paricchinnakāleti mukhagataṃ ajjhohaṭakāleti attho. Ajjhoharaṇameva hettha paricchindanaṃ, na kaṇṭhapidahanaṃ. Cikkananti thaddhaṃ, bahalaṃ ghananti attho.
Ngay tại đó: ngay tại vành miệng. Bằng đáy: bằng đáy của cái bình. Có liên quan là ‘cần biết sự di chuyển khỏi nơi chốn của cái bình đang ở một chỗ theo sáu cách.’ Ở một chỗ có nghĩa là ở một nơi đã được thiết lập do được buộc bằng xích. Di chuyển cái cọc dù chỉ bằng đầu sợi tóc khỏi nơi chốn: di chuyển cái cọc khỏi nơi nó được thiết lập theo năm cách. Bị tội Bất Cộng Trụ ngay khi vừa cắt: nếu chắc chắn sẽ rơi, thì bị tội Bất Cộng Trụ ngay khi vừa cắt. Sự phân định: sự phân định về tính chất nặng như năm māsa v.v… Không dời đi: làm thành đống bằng cách dời đi khỏi nơi đang đứng. Sau khi đã làm như vậy: có nghĩa là sau khi đã tách rời sự liên kết của vật trong bình với vật trong cái chum do vành miệng của bình. Của cái chum đầy một nửa. Pháp tánh của luật: có nghĩa là pháp tánh của sự phân xử luật khi có được lý do bổ sung. Để chỉ ra rằng không chỉ có tính chất nặng, mà còn có sự phù hợp với kinh, đã nói là hơn nữa… v.v… Vào lúc được phân định bởi cổ họng: có nghĩa là vào lúc đã nuốt xuống khỏi miệng. Chính sự nuốt ở đây là sự phân định, không phải sự nghẹn ở cổ. Đặc: cứng, dày, đặc, đó là ý.

Yopi theyyacittena parassa kumbhiyā pādagghanakaṃ sappiṃ vā telaṃ vā avassaṃ pivanakaṃ yaṃ kiñci dukūlasāṭakaṃ vā cammakhaṇḍādīnaṃ vā aññataraṃ pakkhipati, hatthato muttamatte pārājikanti ettha avahāro vīmaṃsitabbo. Yadi ca dukūlādīsu sappitelānaṃ pavisanaṃ sandhāya pārājikaṃ bhaveyya, tattha paviṭṭhatelādino kumbhigatena ekābaddhatāya na tāva avahāro bhājanantaraṃ pavesetvā gahaṇakāle viya. Tathā hi vuttaṃ – ‘‘bhājanaṃ pana nimujjāpetvā gaṇhantassa yāva ekābaddhaṃ hoti, tāva rakkhatī’’tiādi. Atha telādivināsena pārājikaṃ bhaveyya, tadāpi tiṇajjhāpanādīsu viya avahāro natthi, dukkaṭena saddhiṃ bhaṇḍadeyyameva hoti, tathā ca pādagghanakaṃ telādiṃ pītaṃ dukūlādiṃ uddharantassāpi pārājikaṃ na siyā tattha paviṭṭhassa telādino vinaṭṭhaṭṭhena gahaṇakkhaṇe avijjamānattā, vijjamānattena ca uddhāreyeva pārājikaṃ vattabbaṃ, na hatthato muttamatteti. Sabbaaṭṭhakathāsu ca dukūlādīnaṃ pakkhipane hatthato muttamatte pārājikassa vuttattā na taṃ paṭikkhipituṃ sakkā. Aṭṭhakathāppamāṇena panetaṃ gahetabbaṃ, yutti panettha paṇḍitehi pubbāparaṃ saṃsanditvā uddhāretabbā.
Và người nào với tâm trộm cắp bỏ bất cứ thứ gì như một tấm vải lụa quý hoặc một miếng da v.v… chắc chắn sẽ uống hết dầu hoặc bơ trị giá một phần tư vào bình của người khác, thì bị tội Bất Cộng Trụ ngay khi vừa rời khỏi tay: ở đây, hành vi trộm cắp cần được xem xét. Nếu bị tội Bất Cộng Trụ nhắm đến việc dầu bơ thấm vào vải lụa v.v…, thì ở đó, sự liên kết của dầu v.v… đã thấm vào với dầu trong bình chưa phải là hành vi trộm cắp, giống như trong lúc lấy bằng cách đưa một cái bình khác vào. Cụ thể, đã nói là – “đối với người lấy bằng cách nhúng bình vào, chừng nào còn liên kết, chừng đó còn bảo vệ” v.v… Nếu bị tội Bất Cộng Trụ do sự hư hại của dầu v.v…, thì khi đó cũng không có hành vi trộm cắp, giống như trong việc đốt cỏ v.v…, chỉ là vật dụng phải trả cùng với tội Tác Ác. Và như vậy, ngay cả khi nhấc tấm vải lụa v.v… đã uống hết dầu trị giá một phần tư lên, cũng không bị tội Bất Cộng Trụ, vì dầu đã thấm vào đó đã bị hư hại nên không tồn tại vào lúc lấy, và nếu còn tồn tại, thì phải nói là bị tội Bất Cộng Trụ ngay khi nhấc lên, không phải ngay khi vừa rời khỏi tay. Và vì trong tất cả các Chú giải đã nói là bị tội Bất Cộng Trụ ngay khi vừa rời khỏi tay khi bỏ vải lụa v.v… vào, nên không thể bác bỏ điều đó. Nhưng điều này cần được hiểu theo tiêu chuẩn của Chú giải, các nhà hiền triết ở đây phải tự mình rút ra sự hợp lý bằng cách so sánh trước sau.

Palibujjhissatīti nivāressati. Vuttanayena pārājikanti hatthato muttamatteyeva pārājikaṃ. Neva avahāro, na gīvāti attano bhājanattā vuttaṃ, anāpattimattameva vuttaṃ, na pana evaṃ vicāritanti adhippāyo. Bahigataṃ nāma hotīti tato paṭṭhāya telassa aṭṭhānato adhomukhabhāvato ca bahigataṃ nāma hoti. Anto paṭṭhāya chidde kariyamāne telassa nikkhamitvā gatagataṭṭhānaṃ bhājanasaṅkhyameva gacchatīti āha ‘‘bāhirantato pādagghanake gaḷite pārājika’’nti. Yathā tathā vā katassāti bāhirantato vā abbhantarantato vā paṭṭhāya katassa. Majjhe ṭhapetvā katachiddeti majjhe thokaṃ kapālaṃ ṭhapetvā pacchā taṃ chindantena katachidde.
Sẽ ngăn cản. Tội Bất Cộng Trụ theo cách đã nói: bị tội Bất Cộng Trụ ngay khi vừa rời khỏi tay. Không phải là hành vi trộm cắp, cũng không phải là cổ họng: được nói do là bình của mình, chỉ nói về sự vô tội, không phải là đã xem xét như vậy, đó là ý. Được gọi là đã ra ngoài: từ đó trở đi, do dầu chảy xuống từ nơi không đúng và do hướng xuống, nên được gọi là đã ra ngoài. Khi làm lỗ từ bên trong, dầu chảy ra và đi đến đâu, nơi đó vẫn được tính là của bình, nên nói là “khi đã chảy ra một phần tư từ bên ngoài và bên trong, thì bị tội Bất Cộng Trụ.” Của cái đã được làm theo cách này hay cách khác: của cái đã được làm bắt đầu từ bên ngoài và bên trong, hoặc từ bên trong và bên ngoài. Trong cái lỗ được làm sau khi đã để lại ở giữa: trong cái lỗ được làm bởi người cắt sau đó, sau khi đã để lại một ít vỏ ở giữa.

Patthīnassa khādanaṃ itarassa pānañca sappiādīnaṃ paribhogoti āha ‘‘akhāditabbaṃ vā apātabbaṃ vā karotī’’ti. Kasmā panettha dukkaṭaṃ vuttanti āha ‘‘ṭhānācāvanassa natthitāya dukkaṭa’’nti. Purimadvayanti bhedanaṃ chaḍḍanañca. Kumbhijajjarakaraṇenāti puṇṇakumbhiyā jajjarakaraṇena. Mātikāujukaraṇenāti udakapuṇṇāya mātikāya ujukaraṇena. Ekalakkhaṇanti bhedanaṃ kumbhiyā jajjarakaraṇena, chaḍḍanaṃ mātikāya ujukaraṇena ca saddhiṃ ekasabhāvaṃ. Pacchimaṃ pana dvayanti jhāpanaṃ aparibhogakaraṇañca. Ettha evaṃ vinicchayaṃ vadantīti etasmiṃ mahāaṭṭhakathāyaṃ vutte atthe eke ācariyā evaṃ vinicchayaṃ vadanti. Pacchimadvayaṃ sandhāya vuttanti ettha purimapadadvaye vinicchayo heṭṭhā vuttānusārena sakkā viññātunti tattha kiñci avatvā pacchimapadadvayaṃ sandhāya ‘‘ṭhānācāvanassa natthitāya dukkaṭa’’nti idaṃ vuttanti adhippāyo . Theyyacittenāti attano vā parassa vā kātukāmatāvasena uppannatheyyacittena. Vināsetukāmatāyāti hatthapādādīni chindanto viya kevalaṃ vināsetukāmatāya. Vuttanayena bhindantassa vā chaḍḍentassa vāti muggarena pothetvā bhindantassa vā udakaṃ vā vālikaṃ vā ākiritvā uttarāpentassa vāti attho. Ayuttanti ceti pāḷiyaṃ purimadvayepi dukkaṭasseva vuttattā ‘‘purimadvaye pārājika’’nti idaṃ ayuttanti yadi tumhākaṃ siyāti attho. ti ayuttabhāvaṃ nisedhetvā tattha kāraṇamāha ‘‘aññathā gahetabbatthato’’ti.
Việc ăn của người ốm và việc uống của người khác là sự hưởng dụng bơ v.v…, nên nói là “làm cho không thể ăn hoặc không thể uống được.” Tại sao ở đây lại nói là tội Tác Ác? Nói là “bị tội Tác Ác do không có sự di chuyển khỏi nơi chốn.” Hai điều đầu là việc phá và việc đổ. Bằng việc làm cho cái chum bị rò rỉ: bằng việc làm cho cái chum đầy bị rò rỉ. Bằng việc làm cho mương nước thẳng lại: bằng việc làm cho mương nước đầy nước thẳng lại. Cùng một đặc tính: việc phá cùng với việc làm cho cái chum bị rò rỉ, việc đổ cùng với việc làm cho mương nước thẳng lại, có cùng một bản chất. Nhưng hai điều sau là việc đốt và việc làm cho không thể dùng được. Ở đây họ nói sự phân xử như vậy: trong ý nghĩa này đã được nói trong Đại Chú Giải, một số vị thầy nói sự phân xử như vậy. Được nói nhắm đến hai điều sau: ở đây, sự phân xử trong hai vế đầu có thể được hiểu theo cách đã nói ở dưới, nên không nói gì về nó, mà nhắm đến hai vế sau, đã nói là “bị tội Tác Ác do không có sự di chuyển khỏi nơi chốn,” đó là ý. Bằng tâm trộm cắp: bằng tâm trộm cắp phát sinh do ý muốn làm cho mình hoặc cho người khác. Do ý muốn phá hoại: chỉ do ý muốn phá hoại, giống như cắt tay, chân v.v… Của người phá hoặc đổ theo cách đã nói: có nghĩa là của người phá bằng cách đập bằng búa, hoặc của người làm cho tràn ra bằng cách đổ nước hoặc cát vào. Nếu nói là không hợp lý: vì trong Pāḷi đã nói là tội Tác Ác ngay cả trong hai điều đầu, nên nếu các vị cho rằng việc nói “bị tội Bất Cộng Trụ trong hai điều đầu” là không hợp lý, đó là ý. Không: sau khi đã bác bỏ tính không hợp lý, đã nói lý do ở đó là “vì ý nghĩa phải được hiểu khác đi.”

Evameke vadantīti heṭṭhā vuttassa atthanayassa attanā anabhimatabhāvaṃ dassetvā sayaṃ aññathāpi pāḷiṃ aṭṭhakathañca saṃsanditvā atthaṃ dassetukāmo ayaṃ panettha sārotiādimāha. Acāvetukāmovāti theyyacittena ṭhānā acāvetukāmova. Achaḍḍetukāmoyevāti etthāpi theyyacittenāti sambandhitabbaṃ. Idañhi theyyacittapakkhaṃ sandhāya vuttaṃ nāsetukāmatāpakkhassa vakkhamānattā. Tenevāha nāsetukāmatāpakkhe panātiādi. Itarathāpi yujjatīti theyyacittābhāvā ṭhānā cāvetukāmassāpi dukkaṭaṃ yujjatīti vuttaṃ hoti.
Một số người nói như vậy: sau khi đã chỉ ra rằng mình không đồng ý với cách giải thích ý nghĩa đã nói ở dưới, và muốn tự mình giải thích ý nghĩa bằng cách so sánh Pāḷi và Chú giải một cách khác, đã nói là đây là cốt lõi ở đây v.v… Hoặc không muốn di chuyển: không muốn di chuyển khỏi nơi chốn với tâm trộm cắp. Hoặc không muốn đổ: ở đây cũng phải kết hợp là ‘với tâm trộm cắp.’ Vì điều này được nói nhắm đến phía có tâm trộm cắp, vì phía có ý muốn phá hoại sẽ được nói đến. Chính vì thế đã nói là nhưng về phía có ý muốn phá hoại… v.v… Cũng hợp lý theo cách khác: có nghĩa là tội Tác Ác cũng hợp lý đối với người muốn di chuyển khỏi nơi chốn dù không có tâm trộm cắp.

Bhūmaṭṭhakathāvaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về những điều trên mặt đất đã kết thúc.

Ākāsaṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về những điều trên không

96. Ākāsaṭṭhakathāyaṃ antovatthumhīti parikkhittassa vatthussa anto. Antogāmeti parikkhittassa gāmassa anto. Aparikkhitte pana vatthumhi gāme vā ṭhitaṭṭhānameva ṭhānaṃ. Aṭavimukhaṃ karoti…pe… rakkhatīti tena payogena tassa icchitaṭṭhānaṃ āgatattā rakkhati. Gāmato nikkhantassāti parikkhittagāmato nikkhantassa. Kapiñjaro nāma aññamaññaṃ yujjhāpanatthāya bālajanehi posāvaniyapakkhijāti.
96. Trong phần giải thích về những điều trên không, trong khu đất là bên trong khu đất có hàng rào. Trong làng là bên trong ngôi làng có hàng rào. Nhưng trong khu đất hoặc làng không có hàng rào, thì nơi đứng chính là nơi chốn. Làm cho hướng ra bìa rừng… v.v… bảo vệ: bằng phương tiện đó, vì đã đến nơi mong muốn của người đó, nên bảo vệ. Của người đã ra khỏi làng là của người đã ra khỏi ngôi làng có hàng rào. Kapiñjaro là một loài chim được trẻ em nuôi để cho chúng đá nhau.

Vehāsaṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về những điều trên hư không

97. Vehāsaṭṭhakathāyaṃ chinnamatte muttamatteti yathā chinnaṃ muttañca pakatiṭṭhāne na tiṭṭhati, tathā chedanaṃ mocanañca sandhāya vuttaṃ.
97. Trong phần giải thích về những điều trên hư không, ngay khi cắt, ngay khi thả được nói nhắm đến việc cắt và thả sao cho vật bị cắt và bị thả không còn ở vị trí ban đầu.

Udakaṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về những điều dưới nước

98. Udakaṭṭhakathāyaṃ sandamānaudake nikkhittaṃ na tiṭṭhatīti āha ‘‘asandanake udake’’ti. Anāpattīti hatthavārapadavāresu dukkaṭāpattiyā abhāvaṃ sandhāya vuttaṃ. Kaḍḍhatīti heṭṭhato osāreti. Sakalamudakanti daṇḍena phuṭṭhokāsagataṃ sakalamudakaṃ. Na udakaṃ ṭhānanti attanā kataṭṭhānassa aṭṭhānattā. Paduminiyanti padumagacche. Kalāpabandhanti hatthakavasena khuddakaṃ katvā baddhaṃ kalāpabaddhaṃ. Bhārabaddhaṃ nāma sīsabhārādivasena baddhaṃ. Muḷālanti kandaṃ. Pattaṃ vā pupphaṃ vāti idaṃ kaddamassa anto pavisitvā ṭhitaṃ sandhāya vuttaṃ. Niddhamanatumbanti vāpiyā udakassa nikkhamananāḷaṃ. Udakavāhakanti mahāmātikaṃ. Avahārena so na kāretabboti iminā pāṇaṃ jīvitā voropane āpattiyā sabbattha na muccatīti dīpeti. Mātikaṃ āropetvāti khuddakamātikaṃ āropetvā. Maritvā…pe… tiṭṭhantīti ettha matamacchānaṃyeva tesaṃ santakattā amate gaṇhantassa natthi avahāro.
98. Trong phần giải thích về những điều dưới nước, vì vật được đặt trong nước chảy không đứng yên, nên nói là “trong nước không chảy.” Vô tội được nói nhắm đến sự không có tội Tác Ác trong các lượt tay và lượt chân. Kéo là kéo xuống dưới. Toàn bộ nước là toàn bộ nước ở chỗ bị cây gậy chạm vào. Nước không phải là nơi chốn vì nơi chốn do mình tạo ra không phải là nơi chốn thực sự. Trong đám sen là trong bụi sen. Bó lại thành bó là bó lại thành bó nhỏ theo cách của một nắm tay. Bó lại thành gánh là bó lại theo cách của một gánh trên đầu v.v… Củ là củ. Lá hoặc hoa: điều này được nói nhắm đến vật đã chui vào trong bùn và đứng yên. Cống thoát nước là ống thoát nước của ao. Mương dẫn nước là mương nước lớn. Người đó không nên bị bắt tội bằng hành vi trộm cắp: bằng câu này, chỉ ra rằng không phải lúc nào cũng thoát khỏi tội khi sát hại sinh vật. Sau khi đã đào mương là sau khi đã đào mương nhỏ. Sau khi chết… v.v… chúng đứng yên: ở đây, vì chỉ có những con cá chết mới là của họ, nên không có hành vi trộm cắp đối với người bắt những con cá còn sống.

Nāvaṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về những điều trên thuyền

99. Nāvaṭṭhakathāyaṃ thullaccayampi pārājikampi hotīti ettha paṭhamaṃ ṭhānā acāvetvā mutte thullaccayaṃ, paṭhamaṃ pana ṭhānā cāvetvā mutte pārājikanti veditabbaṃ. Pāse baddhasūkaro viyātiādinā vuttaṃ sandhāyāha ‘‘tattha yutti pubbe vuttāevā’’ti. Vipannaṭṭhanāvāti visamavātehi desantaraṃ palātā, bhijjitvā vā vināsaṃ patvā udake nimujjitvā heṭṭhā bhūmitalaṃ appatvā sāmikehi ca apariccattālayā vuccati. Balavā ca vāto āgammāti iminā asati vāte ayaṃ payogopi katoti dasseti. Puggalassa natthi avahāroti sukkhamātikāyaṃ ujukaraṇanayena vuttaṃ. Taṃ attano pādena anakkamitvā hatthena ca anukkhipitvā aññasmiṃ daṇḍādīsu bandhitvā ṭhapite yujjati, attano pādena akkamitvā hatthena ca ukkhipitvā ṭhitassa pana balavavātena chattacīvarādīsu pahaṭesu pakatiṃ vijahitvā daḷhataraṃ akkamanagahaṇādipayogo abhinavo kātabbo siyā. Itarathā chattacīvarādīni vā vigacchanti, avahārako vā sayaṃ patissati, nāvā ca tadā na gamissati. Tasmā īdise abhinavappayoge sati avahārena bhavitabbaṃ. Sukkhamātikāyaṃ ujukatāya udakāgamanakāle kātabbakiccaṃ natthīti taṃ idha nidassanaṃ na hoti. Dāsaṃ pana pakatiyā palāyantaṃ ‘‘sīghaṃ yāhī’’ti vatvā pakatigamanato turitagamanuppādanādinā idha nidassanena bhavitabbanti amhākaṃ khanti , vīmaṃsitvā gahetabbaṃ. Vāte āgatepi yattha atilahukattā nāvāya kañci payogaṃ akatvā pakatiyā avahārako tiṭṭhati, tatthidaṃ aṭṭhakathāyaṃ vuttanti gahetabbaṃ.
99. Trong phần giải thích về những điều trên thuyền, cũng bị tội Trọng Tội và tội Bất Cộng Trụ: ở đây, cần biết rằng nếu thả ra trước khi di chuyển khỏi nơi chốn, thì bị tội Trọng Tội, nhưng nếu thả ra sau khi đã di chuyển khỏi nơi chốn, thì bị tội Bất Cộng Trụ. Nhắm đến điều đã được nói bằng câu ‘giống như con heo bị buộc vào bẫy’ v.v…, nói là “sự hợp lý ở đó đã được nói trước đây.” Chiếc thuyền bị nạn được nói là chiếc thuyền đã bị gió mạnh thổi dạt sang xứ khác, hoặc đã bị vỡ và chìm xuống nước mà chưa chạm đáy, và chưa bị chủ nhân từ bỏ hy vọng. Và một cơn gió mạnh đã đến: bằng câu này, chỉ ra rằng nếu không có gió, thì phương tiện này cũng đã được thực hiện. Không có hành vi trộm cắp đối với người đó: được nói theo phương pháp làm thẳng mương nước khô. Điều đó hợp lý khi được buộc vào một cây gậy v.v… khác mà không giẫm lên bằng chân mình và không nhấc lên bằng tay. Nhưng đối với người đã giẫm lên bằng chân mình và nhấc lên bằng tay, khi bị gió mạnh thổi vào dù, y v.v…, thì phải thực hiện một phương tiện mới là giẫm và cầm chắc hơn, từ bỏ tư thế ban đầu. Nếu không, dù, y v.v… sẽ bay đi, hoặc chính kẻ trộm cắp sẽ ngã, và chiếc thuyền lúc đó sẽ không đi được. Do đó, khi có phương tiện mới như vậy, phải có hành vi trộm cắp. Việc làm thẳng mương nước khô, vì không có việc gì phải làm khi nước đến, nên không phải là một ví dụ ở đây. Nhưng việc nói “hãy đi nhanh lên” đối với người nô lệ đang trốn đi một cách tự nhiên, và tạo ra sự đi nhanh hơn sự đi tự nhiên, thì nên là một ví dụ ở đây, đó là quan điểm của chúng tôi, cần phải xem xét kỹ lưỡng rồi mới chấp nhận. Cần hiểu rằng điều đã được nói trong Chú giải này là ở nơi mà kẻ trộm cắp đứng yên một cách tự nhiên mà không thực hiện bất kỳ phương tiện nào đối với chiếc thuyền do nó quá nhẹ, ngay cả khi gió đã đến.

Yānaṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về những điều trên xe

100. Yānaṭṭhakathāyaṃ ubhosu passesūti catunnaṃ thambhānaṃ upari caturassaṃ dārusaṅghāṭaṃ āropetvā tassa vāmadakkhiṇapassesu ubhosu vātātapādiparissayavinodanatthaṃ garuḷapakkhino ubho pakkhā viya katā sandamānikā. Dukayuttassāti dvīhi goṇehi yuttassa. Ayuttakanti goṇehi ayuttaṃ. Kappakatāti dvinnaṃ sikhānaṃ sandhiṭṭhāne gosiṅgāni viya dve koṭiyo ṭhapetvā upatthambhanī kappakatā nāma, sā dvīhipi koṭīhi bhūmiyaṃ patiṭṭhāti, tenāha ‘‘cha ṭhānānī’’ti. Tīṇi vā cattāri vā ṭhānānīti akappakatāya upatthambhaniyā ca dvinnaṃ cakkānañca vasena tīṇi ṭhānāni, kappakatāya vasena cattāri ṭhānāni, tathā pathaviyaṃ ṭhapitassa tīṇi ṭhānānīti sambandho. Akkhasīsehīti akkhadāruno dvīhi koṭīhi. Akkhuddhīhīti akkhadārunā sampaṭicchakā heṭṭhimabhāge kappakatā dve dārukhaṇḍā akkhuddhiyo nāma, tāsaṃ kappakatānaṃ dvinnaṃ kappasīsāni cattāri idha ‘‘akkhuddhiyo’’ti vuccanti, tenāha ‘‘catūhi ca akkhuddhīhī’’ti. Tāhi patiṭṭhitāhi patiṭṭhitaṭṭhānāni cattāri dhurena patiṭṭhitaṭṭhānaṃ ekanti pañca ṭhānāni honti. Uddhiyova ‘‘uddhikhāṇukā’’ti vuttā, uddhikhāṇukānaṃ abhāve akkhasīsānaṃ patiṭṭhānokāsaṃ dassento āha samameva bāhaṃ katvātiādi. Tattha samamevāti uddhiyo heṭṭhā anolambetvā bāhuno heṭṭhimabhāgaṃ samaṃ katvā dvinnaṃ bāhudārūnaṃ majjhe akkhasīsappamāṇena chiddaṃ katvā tattha akkhasīsāni pavesitāni honti, tena bāhānaṃ heṭṭhābhāgaṃ sabbaṃ bhūmiṃ phusitvā tiṭṭhati, tenāha ‘‘sabbaṃ pathaviṃ phusitvā tiṭṭhatī’’ti. Sesaṃ nāvāyaṃ vuttasadisanti iminā yadi pana taṃ evaṃ gacchantaṃ pakatigamanaṃ pacchinditvā aññaṃ disābhāgaṃ neti, pārājikaṃ. Sayameva yaṃ kiñci ṭhānaṃ sampattaṃ ṭhānā acālentova vikkiṇitvā gacchati, nevatthi avahāro, bhaṇḍadeyyaṃ pana hotīti imaṃ nayaṃ atidisati.
100. Trong phần giải thích về những điều trên xe, ở hai bên: trên bốn cây cột, người ta đặt một khung gỗ hình vuông, và ở hai bên trái phải của nó, để che chắn gió, nắng v.v…, người ta làm hai bên giống như hai cánh của chim thần, đó là sandamānikā. Của xe có hai con bò kéo: của xe có hai con bò kéo. Không có bò kéo: không có bò kéo. Cái chống: ở chỗ nối của hai càng xe, người ta đặt hai đầu nhọn giống như sừng bò và làm một cái chống, nó đứng vững trên mặt đất bằng cả hai đầu, do đó nói là “sáu nơi.” Ba hoặc bốn nơi: có liên quan là ‘ba nơi’ theo cách của cái chống không có hai đầu và hai bánh xe, ‘bốn nơi’ theo cách của cái chống có hai đầu, và cũng vậy, ‘ba nơi’ của cái được đặt trên mặt đất. Bằng các đầu trục: bằng hai đầu của trục xe. Bằng các giá đỡ trục: hai miếng gỗ được làm ở phần dưới để đỡ trục xe được gọi là giá đỡ trục, bốn đầu của hai cái chống đó ở đây được gọi là “giá đỡ trục,” do đó nói là “và bằng bốn giá đỡ trục.” Khi chúng đứng vững, có bốn nơi đứng vững, và một nơi đứng vững bằng càng xe, như vậy là năm nơi. Chính các giá đỡ được gọi là “cọc chống,” để chỉ ra nơi đứng vững của các đầu trục khi không có cọc chống, đã nói là sau khi đã làm cho càng xe bằng phẳng v.v… Ở đó, bằng phẳng: không để các giá đỡ treo xuống dưới, mà làm cho phần dưới của càng xe bằng phẳng, người ta làm một cái lỗ ở giữa hai thanh gỗ của càng xe theo kích thước của đầu trục và đưa các đầu trục vào đó, do đó, toàn bộ phần dưới của càng xe chạm đất và đứng yên, do đó nói là “chạm vào toàn bộ mặt đất và đứng yên.” Phần còn lại tương tự như đã được nói trên thuyền: bằng câu này, dẫn chiếu phương pháp này rằng nếu người đó cắt đứt sự đi tự nhiên của nó đang đi như vậy và dẫn nó đi theo một hướng khác, thì bị tội Bất Cộng Trụ. Nếu nó tự mình đến một nơi nào đó, mà không di chuyển nó khỏi nơi đó, mà bán đi và ra đi, thì không có hành vi trộm cắp, nhưng phải trả lại vật dụng.

Bhāraṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về những điều liên quan đến gánh nặng

101. Bhāraṭṭhakathāyaṃ bhāraṭṭhanti mātikāpadassa bhāro nāmāti idaṃ atthadassananti āha ‘‘bhāroyeva bhāraṭṭha’’nti. Purimagaleti galassa purimabhāge. Galavāṭakoti gīvāya uparimagalavāṭako. Uraparicchedamajjheti urapariyantassa majjhe. Sāmikehi anāṇattoti idaṃ yadi sāmikehi ‘‘imaṃ bhāraṃ netvā asukaṭṭhāne dehī’’ti āṇatto bhaveyya, tadā tena gahitabhaṇḍaṃ upanikkhittaṃ siyā, tañca theyyacittena sīsādito oropentassāpi avahāro na siyā, sāmikānaṃ pana dhuranikkhepe eva siyāti tato upanikkhittabhaṇḍabhāvato viyojetuṃ vuttaṃ, teneva vakkhati ‘‘tehi pana anāṇattattā pārājika’’nti. Ghaṃsantoti sīsato anukkhipanto, yadi ukkhipeyya, ukkhittamatte pārājikaṃ, tenāha sīsato kesaggamattampītiādi. Yo cāyanti yo ayaṃ vinicchayo.
101. Trong phần giải thích về những điều liên quan đến gánh nặng, ‘bhāraṭṭhanti’ là một từ trong tóm tắt, ‘bhāro nāma’ (gánh nặng là) là sự giải thích ý nghĩa của nó, nên nói là “bhāraṭṭha chính là gánh nặng.” Ở phần trước của cổ: ở phần trước của cổ. Vùng cổ: vùng cổ trên của cổ. Ở giữa ranh giới của ngực: ở giữa ranh giới của ngực. Không được chủ nhân ra lệnh: điều này được nói để tách nó ra khỏi trạng thái vật dụng được gửi gắm, vì nếu được chủ nhân ra lệnh rằng “hãy mang gánh nặng này và đưa đến nơi kia,” thì vật dụng do người đó lấy sẽ là vật gửi gắm, và ngay cả khi người đó đặt nó xuống từ đầu v.v… với tâm trộm cắp, cũng không có hành vi trộm cắp, mà chỉ có khi chủ nhân từ bỏ trách nhiệm. Chính vì thế sẽ nói là “nhưng vì không được họ ra lệnh, nên bị tội Bất Cộng Trụ.” Trong khi cọ xát: trong khi nhấc xuống từ đầu, nếu nhấc lên, thì bị tội Bất Cộng Trụ ngay khi vừa nhấc, do đó nói là dù chỉ bằng đầu sợi tóc từ đầu… v.v… Và sự phân xử nào: sự phân xử nào.

Ārāmaṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về vườn tược

102. Ārāmaṭṭhakathāyaṃ ārāmaṃ abhiyuñjatīti idaṃ abhiyogakaraṇaṃ paresaṃ bhūmaṭṭhabhaṇḍādīsupi kātuṃ vaṭṭatiyeva. Ārāmādithāvaresu pana yebhuyyena abhiyogavaseneva gahaṇasambhavato ettheva pāḷiyaṃ abhiyogo vutto, iti iminā nayena sabbatthāpi sakkā ñātunti gahetabbaṃ. Adinnādānassa payogattāti sahapayogamāha. Vatthumhiyeva katapayogattā sahapayogavasena hetaṃ dukkaṭaṃ. Sayampīti abhiyuñjakopi. ‘‘Kiṃ karomi kiṃ karomī’’ti evaṃ kiṅkārameva paṭissuṇanto viya caratīti kiṅkārapaṭissāvī, tassa bhāvo kiṅkārapaṭissāvibhāvo, tasmiṃ, attano vasavattibhāveti vuttaṃ hoti. Ukkocanti lañjaṃ. Sabbesaṃ pārājikanti kūṭavinicchayikādīnaṃ. Ayaṃ vatthusāmītiādikassa ubhinnaṃ dhuranikkhepakaraṇahetuno payogassa karaṇakkhaṇeva pārājikaṃ hotīti veditabbaṃ. Sace pana sāmikassa vimati ca dhuranikkhepo ca kamena uppajjanti, payogasamuṭṭhāpakacittakkhaṇe pārājikameva hoti, na thullaccayaṃ. Yadi vimatiyeva uppajjati, tadā thullaccayamevāti veditabbaṃ, ayaṃ nayo sabbattha yathānurūpaṃ gahetabbo. Dhuranikkhepavaseneva parājayoti sāmiko ‘‘ahaṃ na muccāmī’’ti dhuraṃ anikkhipanto aṭṭo parājito nāma na hotīti dasseti.
102. Trong phần giải thích về vườn tược, kiện tụng vườn tược: việc kiện tụng này cũng có thể được thực hiện đối với các vật dụng trên đất v.v… của người khác. Nhưng đối với các tài sản cố định như vườn tược v.v…, vì việc chiếm hữu thường xảy ra bằng cách kiện tụng, nên việc kiện tụng chỉ được nói ở đây trong Pāḷi. Cần hiểu rằng bằng phương pháp này, có thể biết được ở mọi nơi. Do là phương tiện của tội trộm cắp: nói đến cùng phương tiện. Và tội Tác Ác này là do cùng phương tiện, vì là phương tiện được thực hiện ngay trên đối tượng. Ngay cả chính mình là ngay cả người kiện tụng. Người hành động như đang vâng dạ “tôi phải làm gì, tôi phải làm gì,” người đó là người vâng dạ, trạng thái của người đó là trạng thái vâng dạ, có nghĩa là trong trạng thái bị lệ thuộc vào mình. Hối lộ: tiền đút lót. Tội Bất Cộng Trụ đối với tất cả: đối với những người xử án gian lận v.v… Cần biết rằng tội Bất Cộng Trụ xảy ra ngay trong khoảnh khắc thực hiện phương tiện là nguyên nhân của việc cả hai từ bỏ trách nhiệm như ‘đây là chủ sở hữu’ v.v… Nhưng nếu sự nghi ngờ và sự từ bỏ trách nhiệm của chủ sở hữu phát sinh tuần tự, thì tội Bất Cộng Trụ xảy ra ngay trong khoảnh khắc của tâm tạo ra phương tiện, không phải tội Trọng Tội. Nếu chỉ có sự nghi ngờ phát sinh, thì chỉ bị tội Trọng Tội, phương pháp này cần được hiểu một cách tương ứng ở mọi nơi. Thua kiện do từ bỏ trách nhiệm: để chỉ ra rằng chủ sở hữu không được gọi là thua kiện khi không từ bỏ trách nhiệm với ý nghĩ “tôi không được giải thoát.”

Vihāraṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về trú xứ

103. Vihāraṭṭhakathāyaṃ vihāranti upacārasīmāsaṅkhātaṃ sakalaṃ vihāraṃ. Pariveṇanti tassa vihārassa abbhantare visuṃ visuṃ pākārādiparicchinnaṭṭhānaṃ. Āvāsanti ekaṃ āvasathamattaṃ. Gaṇasantake paricchinnasāmikattā sakkā dhuraṃ nikkhipāpetunti āha ‘‘dīghabhāṇakādibhedassa pana gaṇassā’’ti. Idhāpi sace ekopi dhuraṃ na nikkhipati, rakkhatiyeva. Esa nayo bahūnaṃ santake sabbattha.
103. Trong phần giải thích về trú xứ, trú xứ là toàn bộ trú xứ được gọi là ranh giới phụ cận. Khu nhà là nơi được phân định bằng tường rào v.v… riêng biệt bên trong trú xứ đó. Chỗ ở là chỉ một nơi ở. Vì trong tài sản của Tăng đoàn, có thể làm cho từ bỏ trách nhiệm do có chủ sở hữu được phân định, nên nói là “của Tăng đoàn thuộc các bộ phái như Dīghabhāṇaka v.v…” Ở đây cũng vậy, nếu dù chỉ một người không từ bỏ trách nhiệm, thì vẫn bảo vệ được. Phương pháp này áp dụng cho mọi nơi khi có nhiều chủ sở hữu.

Khettaṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về ruộng đất

104. Khettaṭṭhakathāyaṃ nirumbhitvā vātiādīsu gaṇhantassāti paccekaṃ yojetabbaṃ, tattha nirumbhitvā gahaṇaṃ nāma vīhisīsaṃ acchinditvā yathāṭhitameva hatthena gahetvā ākaḍḍhitvā bījamattasseva gahaṇaṃ. Ekamekanti ekaṃ vīhisīsaṃ. Yasmiṃ bīje vātiādi nirumbhitvā gahaṇādīsu yathākkamaṃ yojetabbaṃ. ‘‘Tasmiṃ bandhanā mocitamatte’’ti vacanato tasmiṃ bījādimhi bandhanā mutte sati tato anapanītepi ṭhānantarassa abhāvā pārājikameva. Yassa pana sīsādikassa santarādinā saha saṃsibbanaṃ vā ekābaddhatā vā hoti, tassa bandhanā mocite thullaccayaṃ, itaraṭṭhānato mocite pārājikanti gahetabbaṃ, tenāha vīhināḷantiādi. Sabhusanti palālasahitaṃ. Khīlenāti khāṇukena. Ettha ca khīlasaṅkamanādīsu sahapayogo dhuranikkhepo cāti ubhayaṃ sambhavati. Khīlasaṅkamanādi ettha sahapayogo. Tasmiñca kate yadi sāmikā dhuraṃ na nikkhipanti puna gaṇhitukāmāva honti, na tāva avahāro, ‘‘khīlaṃ saṅkāmetvā khettādiṃ asuko rājavallabho bhikkhu gaṇhitukāmo’’ti ñatvā tassa balaṃ kakkhaḷādibhāvañca nissāya khīlasaṅkamanādikiriyāniṭṭhānato paṭhamameva sāmikā dhuraṃ nikkhipanti, na avahāro etassa payoganiṭṭhānato puretarameva dhurassa nikkhittattā. Yadā pana khīlasaṅkamanādipayogeneva dhuranikkhepo hoti, tadāyeva avahāro, tenevettha ‘‘tañca kho sāmikānaṃ dhuranikkhepenā’’ti vuttaṃ. Khīlādīnaṃ saṅkamitabhāvaṃ ajānitvā sāmikānaṃ sampaṭicchanampettha dhuranikkhepoti veditabbo. Evaṃ sabbatthāti yathāvuttamatthaṃ rajjusaṅkamanādīsupi atidisati. Yaṭṭhinti mānadaṇḍaṃ. Ekasmiṃ anāgate thullaccayaṃ, tasmiṃ āgate pārājikanti sace dārūni nikhaṇitvā tattakeneva gaṇhitukāmo hoti, avasāne dārumhi pārājikaṃ. Sace tattha kaṇṭakasākhādīhi pādānaṃ antaraṃ paṭicchādetvā kassaci appavesārahaṃ katvā gahetukāmo hoti, avasānasākhāya pārājikaṃ, tenāha ‘‘sākhāparivāreneva attano kātuṃ sakkotī’’ti, dārūni ca nikhaṇitvā sākhāparivārañca katvā eva attano santakaṃ kātuṃ sakkotīti attho. Khettamariyādanti vuttamevatthaṃ vibhāvetuṃ ‘‘kedārapāḷi’’nti vuttaṃ. Idañca khīlasaṅkamanādinā gahaṇaṃ ārāmādīsupi labbhateva.
104. Trong phần giải thích về ruộng đất, hoặc bằng cách vơ… v.v…: phải kết hợp riêng với ‘người lấy.’ Ở đó, việc lấy bằng cách vơ là không cắt bông lúa mà cứ để nguyên như vậy, dùng tay túm lấy và giật mạnh để chỉ lấy hạt. Từng cái một: từng bông lúa một. Hoặc trong hạt nào… v.v…: phải kết hợp tuần tự với ‘việc lấy bằng cách vơ’ v.v… Theo lời nói “ngay khi vừa được giải thoát khỏi sự buộc ràng,” thì ngay khi hạt v.v… đó được giải thoát khỏi sự buộc ràng, dù chưa được dời đi, vẫn bị tội Bất Cộng Trụ do không có nơi chốn khác. Nhưng đối với bông lúa v.v… nào được may lại hoặc được buộc lại với nhau, thì khi được giải thoát khỏi sự buộc ràng, bị tội Trọng Tội, khi được giải thoát khỏi nơi chốn khác, bị tội Bất Cộng Trụ. Do đó nói là thân cây lúa… v.v… Cùng với rơm: cùng với rơm rạ. Bằng cọc: bằng cọc gỗ. Ở đây, trong việc di chuyển cọc v.v…, cả cùng phương tiện và sự từ bỏ trách nhiệm đều có thể có. Việc di chuyển cọc v.v… ở đây là cùng phương tiện. Và khi đã làm điều đó, nếu các chủ sở hữu không từ bỏ trách nhiệm, mà vẫn muốn lấy lại, thì chưa phải là hành vi trộm cắp. Khi biết rằng “Tỳ-khưu kia, một người được vua ưu ái, muốn lấy ruộng v.v… bằng cách di chuyển cọc,” và do sức mạnh và sự cứng rắn của người đó, các chủ sở hữu đã từ bỏ trách nhiệm ngay cả trước khi hành động di chuyển cọc v.v… kết thúc, thì không phải là hành vi trộm cắp, vì trách nhiệm đã được từ bỏ trước cả khi phương tiện của người này kết thúc. Nhưng khi sự từ bỏ trách nhiệm xảy ra cùng với phương tiện di chuyển cọc v.v…, thì khi đó mới là hành vi trộm cắp, chính vì thế ở đây đã nói là “và đó là do sự từ bỏ trách nhiệm của các chủ sở hữu.” Cần hiểu rằng sự chấp nhận của các chủ sở hữu khi không biết về việc cọc v.v… đã được di chuyển ở đây cũng là sự từ bỏ trách nhiệm. Như vậy ở mọi nơi: để dẫn chiếu ý nghĩa đã nói sang cả việc di chuyển dây v.v… Cây sào: cây sào đo. Khi một cái chưa đến, bị tội Trọng Tội; khi cái đó đến, bị tội Bất Cộng Trụ: nếu muốn lấy chỉ bằng cách đào các cây gỗ, thì bị tội Bất Cộng Trụ ở cây gỗ cuối cùng. Nếu muốn lấy bằng cách che chắn khoảng trống giữa các chân bằng cành gai v.v… để không ai có thể vào được, thì bị tội Bất Cộng Trụ ở cành cây cuối cùng. Do đó nói là “có thể làm thành của mình bằng chính hàng rào cành cây,” có nghĩa là có thể làm thành của mình sau khi đã đào các cây gỗ và làm cả hàng rào cành cây. Để làm rõ ý nghĩa đã được nói là ‘bờ ruộng,’ đã nói là “bờ của thửa ruộng.” Và việc lấy bằng cách di chuyển cọc v.v… này cũng có thể có trong vườn tược v.v…

Vatthuṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về đất đai

105. Vatthuṭṭhakathāyaṃ tiṇṇaṃ pākārānanti iṭṭhakasilādārūnaṃ vasena tiṇṇaṃ pākārānaṃ.
105. Trong phần giải thích về đất đai, của ba loại tường rào: của ba loại tường rào theo gạch, đá và gỗ.

106. Gāmaṭṭhakathāyaṃ ‘‘gāmo nāmā’’ti pāḷiyaṃ na vuttaṃ sabbaso gāmalakkhaṇassa pubbe vuttattā.
106. Trong phần giải thích về làng, “làng là” không được nói trong Pāḷi, vì toàn bộ đặc tính của làng đã được nói trước đó.

Araññaṭṭhakathāvaṇṇanā

Giải thích về rừng

107. Araññaṭṭhakathāyaṃ vinivijjhitvāti ujukameva vinivijjhitvā. Lakkhaṇacchinnassāti araññasāmikānaṃ hatthato kiṇitvā gaṇhantehi kataakkharādisaññāṇassa. Challiyā pariyonaddhanti iminā sāmikānaṃ nirāpekkhatāya cirachaḍḍitabhāvaṃ dīpeti, tenāha ‘‘gahetuṃ vaṭṭatī’’ti. Yadi sāmikānaṃ sāpekkhatā atthi, na vaṭṭati. Tāni katāni ajjhāvutthāni ca hontīti tāni gehādīni katāni pariniṭṭhitāni manussehi ca ajjhāvutthāni ca honti. Dārūnīti gehādīnaṃ katattā avasiṭṭhadārūni. Gahetuṃ vaṭṭatīti sāmikānaṃ anālayattā vuttaṃ, te ca yadi gahaṇakāle disvā sālayā hutvā vārenti, gahetuṃ na vaṭṭatiyeva. ‘‘Dehī’’ti vutte dātabbamevāti ‘‘dehī’’ti vutte ‘‘dassāmī’’ti ābhogaṃ katvā gacchantassa ‘‘dehī’’ti avutte adatvā gamane āpatti natthi. Pacchāpi tehi codite dātabbameva.
107. Trong phần giải thích về rừng, xuyên qua: xuyên qua một cách thẳng. Của cái đã được đánh dấu: của cái có dấu hiệu như chữ viết v.v… được làm bởi những người mua và lấy từ tay của các chủ rừng. Được quấn bằng vỏ cây: bằng câu này, chỉ ra trạng thái đã bị vứt bỏ từ lâu do sự không luyến tiếc của các chủ sở hữu, do đó nói là “được phép lấy.” Nếu các chủ sở hữu có luyến tiếc, thì không được phép. Chúng đã được làm và đã có người ở: các ngôi nhà v.v… đó đã được làm xong và đã có người ở. Các cây gỗ: các cây gỗ còn lại sau khi đã làm nhà v.v… Được phép lấy: được nói do sự không luyến tiếc của các chủ sở hữu, và nếu họ thấy vào lúc lấy và có luyến tiếc mà ngăn cản, thì không được phép lấy. Khi được yêu cầu ‘hãy cho,’ thì phải cho: khi được yêu cầu ‘hãy cho,’ nếu người đi sau khi đã chú ý rằng “tôi sẽ cho,” thì không bị tội khi không cho mà đi nếu không được yêu cầu. Sau đó, khi bị họ đòi, thì phải cho.

Adisvā gacchati, bhaṇḍadeyyanti suddhacittena gatassa bhaṇḍadeyyaṃ. Ārakkhaṭṭhānampi suddhacittena atikkamitvā theyyacitte uppannepi avahāro natthi ārakkhaṭṭhānassa atikkantattā. Keci pana ‘‘yattha katthaci nītānampi dārūnaṃ araññasāmikānaññeva santakattā puna theyyacittaṃ uppādetvā gacchati, pārājikamevā’’ti vadanti, taṃ na yuttaṃ ‘‘ārakkhaṭṭhānaṃ patvā…pe… assatiyā atikkamatī’’ti, sahasā taṃ ṭhānaṃ atikkamatītiādinā (pārā. aṭṭha. 1.107) ca ārakkhaṭṭhānātikkameyeva āpattiyā vuccamānattā, ārakkhaṭṭhānātikkamameva sandhāya ‘‘idaṃ pana theyyacittena pariharantassa ākāsena gacchatopi pārājikamevā’’ti vuttaṃ. Yañca ‘‘yattha katthaci nītānampi dārūnaṃ araññasāmikānaññeva santakattā’’ti kāraṇaṃ vuttaṃ, tampi ārakkhaṭṭhānato bahi pārājikāpajjanassa kāraṇaṃ na hoti bhaṇḍadeyyabhāvasseva kāraṇattā. Tesaṃ santakatteneva hi bahi katassāpi bhaṇḍadeyyaṃ jātaṃ, itarathā ca bhaṇḍadeyyampi na siyā suṅkaghātātikkame viya. Addhikehi dinnameva suṅkikānaṃ santakaṃ hoti, nādinnaṃ, tena taṃ ṭhānaṃ yato kutoci paccayato suddhacittena atikkantassa bhaṇḍadeyyampi na hoti. Idha pana araññasāmikānaṃ santakattā sabbatthāpi bhaṇḍadeyyameva hoti, tenevetaṃ araññe ārakkhaṭṭhānaṃ suṅkaghātatopi garutaraṃ jātaṃ. Yadi hi ārakkhaṭṭhānato bahipi theyyacitte sati avahāro bhaveyya, ārakkhaṭṭhānaṃ patvātiādinā ṭhānaniyamo niratthako siyā yattha katthaci theyyacitte uppanne pārājikanti vattabbato. Tasmā ārakkhaṭṭhānato bahi theyyacittena gacchantassa avahāro na bhavati evāti niṭṭhamettha gantabbaṃ. Idaṃ pana theyyacittena pariharantassāti yasmiṃ padese atikkante tesaṃ araññaṃ ārakkhaṭṭhānañca atikkanto nāma hoti, taṃ padesaṃ ākāsenāpi atikkamanavasena gacchantassāpīti attho.
Đi mà không thấy, phải trả lại vật dụng: phải trả lại vật dụng đối với người đã đi với tâm trong sạch. Ngay cả khi đã đi qua nơi canh gác với tâm trong sạch, rồi sau đó phát sinh tâm trộm cắp, cũng không có hành vi trộm cắp, vì đã đi qua nơi canh gác. Nhưng một số người nói rằng “vì các cây gỗ được mang đến bất cứ đâu cũng vẫn là của các chủ rừng, nên nếu lại phát sinh tâm trộm cắp và đi, thì vẫn bị tội Bất Cộng Trụ,” điều đó không đúng, vì tội chỉ được nói đến khi đi qua nơi canh gác bằng các câu như “sau khi đã đến nơi canh gác… v.v… đi qua do không nhớ,” và ‘đi qua nơi đó một cách vội vã’ v.v… (pārā. aṭṭha. 1.107). Và đã nói là “nhưng điều này, đối với người mang đi với tâm trộm cắp, ngay cả khi đi trên không, cũng bị tội Bất Cộng Trụ” nhắm đến việc đi qua nơi canh gác. Và lý do đã được đưa ra rằng “vì các cây gỗ được mang đến bất cứ đâu cũng vẫn là của các chủ rừng,” điều đó cũng không phải là lý do cho việc phạm tội Bất Cộng Trụ ở ngoài nơi canh gác, vì đó chỉ là lý do cho việc phải trả lại vật dụng. Chính vì là của họ, nên dù đã được mang ra ngoài, vẫn phải trả lại vật dụng, nếu không, ngay cả việc phải trả lại vật dụng cũng không có, giống như trong việc đi qua trạm thuế. Chỉ có những gì đã được các thương nhân nộp mới là của các nhân viên thuế, không phải những gì chưa được nộp, do đó, đối với người đã đi qua nơi đó với tâm trong sạch do bất kỳ duyên nào, ngay cả việc phải trả lại vật dụng cũng không có. Nhưng ở đây, vì là của các chủ rừng, nên ở mọi nơi đều phải trả lại vật dụng, chính vì thế, nơi canh gác trong rừng này còn nghiêm trọng hơn cả trạm thuế. Nếu có hành vi trộm cắp ngay cả ở ngoài nơi canh gác khi có tâm trộm cắp, thì việc quy định nơi chốn bằng câu ‘sau khi đã đến nơi canh gác’ v.v… sẽ trở nên vô nghĩa, vì sẽ phải nói là bị tội Bất Cộng Trụ khi phát sinh tâm trộm cắp ở bất cứ đâu. Do đó, cần đi đến kết luận rằng đối với người đi với tâm trộm cắp ở ngoài nơi canh gác, thì không có hành vi trộm cắp. Nhưng điều này, đối với người mang đi với tâm trộm cắp: có nghĩa là đối với người đi qua cả trên không, qua khu vực nào mà khi đi qua đó, người đó được gọi là đã đi qua khu rừng và nơi canh gác của họ.

Udakakathāvaṇṇanā

Giải thích về nước

108. Udakakathāyaṃ mahākucchikā udakacāṭi udakamaṇiko, ‘‘samekhalā cāṭi udakamaṇiko’’tipi vadanti. Tatthāti tesu bhājanesu. Bhūtagāmena saddhimpīti pi-saddena akappiyapathavimpi saṅgaṇhāti. Taḷākarakkhaṇatthāyāti ‘‘mahodakaṃ āgantvā taḷākamariyādaṃ mā chindī’’ti taḷākarakkhaṇatthaṃ. Nibbahanaudakanti ettha taḷākassa ekena unnatena passena adhikajalaṃ nibbahati nigacchati etenāti ‘‘nibbahana’’nti adhikajalanikkhamanamātikā vuccati. Tattha gacchamānaṃ udakaṃ nibbahanaudakaṃ nāma. Niddhamanatumbanti sassādīnaṃ atthāya iṭṭhakādīhi kataṃ udakanikkhamanapanāḷi. Mariyādaṃ dubbalaṃ katvāti ettha dubbalaṃ akatvāpi yathāvuttappayoge kate mariyādaṃ chinditvā nikkhantaudakagghānurūpena avahārena kattabbameva. Yattakaṃ tappaccayā sassaṃ uppajjatīti bījakasikammādibbayaṃ ṭhapetvā yaṃ adhikalābhaṃ uppajjati, taṃ sandhāya vuttaṃ. Na hi tehi kātabbaṃ vayakaraṇampi etassa dātabbaṃ. Idañca taruṇasasse jāte udakaṃ vināsentassa yujjati, sasse pana sabbathā akateyeva udakaṃ vināsentena ca udakagghameva dātabbaṃ, na tappaccayā sakalaṃ sassaṃ tena vināsitabhaṇḍasseva bhaṇḍadeyyattā, itarathā vāṇijjādiatthāya parehi ṭhapitabhaṇḍaṃ avaharantassa tadubhayampi gahetvā bhaṇḍagghaṃ kātabbaṃ siyā, tañca na yuttanti amhākaṃ khanti. Sāmikānaṃ dhuranikkhepenāti ettha ekassa santake taḷāke khette ca jāte tasseva dhuranikkhepena pārājikaṃ, yadi pana taṃ taḷākaṃ sabbasādhāraṇaṃ, khettāni pāṭipuggalikāni, tassa tassa puggalasseva dhuranikkhepe avahāro, atha khettānipi sabbasādhāraṇāni, sabbesaṃ dhuranikkhepeyeva pārājikaṃ, nāsatīti daṭṭhabbaṃ.
108. Trong phần giải thích về nước, cái chum nước lớn là bình nước, một số người cũng nói là “cái chum có vòng đai là bình nước.” Ở đó: trong các bình đó. Cùng với thực vật: bằng từ ‘pi,’ bao gồm cả đất không được phép. Để bảo vệ ao: để bảo vệ ao rằng “nước lớn đến đừng phá vỡ bờ ao.” Nước chảy ra: ở đây, nước thừa chảy ra, đi qua một bên cao của ao, do đó, mương thoát nước thừa được gọi là “chỗ chảy ra.” Nước chảy ở đó được gọi là nước chảy ra. Cống thoát nước: ống thoát nước được làm bằng gạch v.v… vì lợi ích của mùa màng v.v… Sau khi đã làm cho bờ yếu đi: ở đây, ngay cả khi không làm cho yếu đi, nếu đã thực hiện phương tiện đã nói, thì phải bị phạt tội trộm cắp tương ứng với giá trị của nước đã chảy ra sau khi đã phá vỡ bờ. Bao nhiêu mùa màng phát sinh do duyên đó: được nói nhắm đến lợi nhuận thặng dư phát sinh sau khi đã trừ đi chi phí hạt giống, canh tác v.v… Vì ngay cả chi phí mà họ phải bỏ ra cũng không phải trả cho người này. Và điều này hợp lý đối với người làm hại nước khi mùa màng non đã mọc, còn đối với người làm hại nước khi mùa màng chưa được trồng, thì chỉ phải trả giá trị của nước, không phải toàn bộ mùa màng do duyên đó, vì chỉ phải trả lại vật dụng đã bị người đó làm hại. Nếu không, đối với người lấy trộm vật dụng được người khác để dành cho mục đích buôn bán v.v…, đáng lẽ phải lấy cả hai thứ đó và tính giá trị vật dụng, và điều đó không hợp lý, đó là quan điểm của chúng tôi. Do sự từ bỏ trách nhiệm của các chủ sở hữu: ở đây, khi ao và ruộng là của một người, thì bị tội Bất Cộng Trụ do sự từ bỏ trách nhiệm của chính người đó. Nhưng nếu ao đó là của chung, còn các thửa ruộng là của riêng từng người, thì có hành vi trộm cắp khi chính từng người đó từ bỏ trách nhiệm. Nếu các thửa ruộng cũng là của chung, thì bị tội Bất Cộng Trụ chỉ khi tất cả đều từ bỏ trách nhiệm, nếu không thì không, cần phải hiểu như vậy.

Aniggateti anikkhante, taḷākeyeva ṭhiteti attho. Paresaṃ mātikāmukhanti khuddakamātikāmukhaṃ. Asampattevāti taḷākato nikkhamitvā mahāmātikāyaṃ eva ṭhite. Anikkhante baddhā subaddhāti taḷākato anikkhante bhaṇḍadeyyampi na hoti sabbasādhāraṇattā udakassāti adhippāyo. Nikkhante pana pāṭipuggalikaṃ hotīti āha ‘‘nikkhante baddhā bhaṇḍadeyya’’nti. Idha pana khuddakamātikāyaṃ appaviṭṭhattā avahāro na jāto, ‘‘taḷākato aniggate paresaṃ mātikāmukhaṃ asampattevā’’ti heṭṭhā vuttassa vikappadvayassa ‘‘anikkhante baddhā subaddhā, nikkhante baddhā bhaṇḍadeyya’’nti idaṃ dvayaṃ yathākkamena yojanatthaṃ vuttaṃ. Natthi avahāroti ettha ‘‘avahāro natthi, bhaṇḍadeyyaṃ pana hotī’’ti keci vadanti, taṃ na yuttaṃ. Vatthuṃ…pe… na sametīti ettha taḷākagataudakassa sabbasādhāraṇattā parasantakavatthu na hotīti adhippāyo.
Khi chưa chảy ra: khi chưa chảy ra, có nghĩa là khi còn ở trong ao. Miệng mương của người khác: miệng mương nhỏ. Hoặc chưa đến: khi đã chảy ra khỏi ao và chỉ còn ở trong mương lớn. Khi chưa chảy ra, đã được chặn, đã được chặn kỹ: ý là khi chưa chảy ra khỏi ao, ngay cả việc phải trả lại vật dụng cũng không có, vì nước là của chung. Nhưng khi đã chảy ra, thì trở thành của riêng, nên nói là “khi đã chảy ra, đã được chặn, phải trả lại vật dụng.” Ở đây, vì chưa vào mương nhỏ, nên hành vi trộm cắp chưa xảy ra, đã nói là “khi chưa chảy ra khỏi ao, hoặc chưa đến miệng mương của người khác,” hai điều này được nói để kết hợp tuần tự với hai điều “khi chưa chảy ra, đã được chặn, đã được chặn kỹ; khi đã chảy ra, đã được chặn, phải trả lại vật dụng.” Không có hành vi trộm cắp: ở đây, một số người nói rằng “không có hành vi trộm cắp, nhưng phải trả lại vật dụng,” điều đó không đúng. Đối tượng… v.v… không tương ứng: ở đây, ý là vì nước trong ao là của chung, nên không phải là đối tượng của người khác.

Dantaponakathāvaṇṇanā

Giải thích về tăm xỉa răng

109. Dantakaṭṭhakathāyaṃ tato paṭṭhāya avahāro natthīti ‘‘yathāsukhaṃ bhikkhusaṅgho paribhuñjatū’’ti abhājetvāva yāvadicchakaṃ gahaṇatthameva ṭhapitattā arakkhitattā sabbasādhāraṇattā ca aññaṃ saṅghikaṃ viya na hotīti theyyacittena gaṇhantassāpi natthi avahāro. Khādantu, puna sāmaṇerā āharissantīti keci therā vadeyyunti yojetabbaṃ.
109. Trong phần giải thích về tăm xỉa răng, từ đó trở đi, không có hành vi trộm cắp: vì đã được để dành chỉ để lấy tùy ý mà không phân chia rằng “Tăng chúng hãy dùng tùy thích,” nên không được bảo vệ, là của chung, không giống như các tài sản khác của Tăng, do đó, ngay cả người lấy với tâm trộm cắp cũng không có hành vi trộm cắp. Hãy ăn đi, các sa-di sẽ mang đến nữa, một số trưởng lão có thể nói như vậy, cần kết hợp.

Vanappatikathāvaṇṇanā

Giải thích về cây cối

110. Vanappatikathāyaṃ sandhāritattāti chinnassa rukkhassa patituṃ āraddhassa sandhāraṇamattena vuttaṃ, na pana maricavalliādīhi pubbe veṭhetvā ṭhitabhāvena. Tādise hi chinnepi avahāro natthi araññaṭṭhakathāyaṃ veṭhitavalliyaṃ viya. Ujukameva tiṭṭhatīti iminā sabbaso chindanameva valliādīhi asambaddhassa rukkhassa ṭhānācāvanaṃ pubbe viya ākāsādīsu phuṭṭhasakalapadesato mocananti āveṇikamidha ṭhānācāvanaṃ dasseti. Keci pana ‘‘rukkhabhārena kiñcideva bhassitvā ṭhitattā hotiyeva ṭhānācāvana’’nti vadanti, tanna, rukkhena phuṭṭhassa sakalassa ākāsapadesassa pañcahi chahi vā ākārehi anatikkamitattā. Vātamukhaṃ sodhetīti yathā vāto āgantvā rukkhaṃ pāteti, evaṃ vātassa āgamanamaggaṃ rundhitvā ṭhitāni sākhāgumbādīni chinditvā apanento sodheti. Maṇḍūkakaṇṭakaṃ vāti maṇḍūkānaṃ naṅguṭṭhe aggakoṭiyaṃ ṭhitakaṇṭakanti vadanti, eke ‘‘visamacchakaṇṭaka’’ntipi vadanti.
110. Trong phần giải thích về cây cối, do được giữ lại: được nói chỉ bằng việc giữ lại cây đã bị chặt và đang bắt đầu ngã, không phải do trạng thái đã được quấn lại trước đó bằng dây tiêu v.v… Vì trong trường hợp như vậy, ngay cả khi đã bị chặt, cũng không có hành vi trộm cắp, giống như trong trường hợp dây leo đã được quấn trong phần giải thích về rừng. Đứng thẳng: bằng câu này, chỉ ra rằng việc chặt hoàn toàn là sự di chuyển khỏi nơi chốn của cây không bị dây leo v.v… quấn, bằng cách giải thoát khỏi toàn bộ không gian đã chạm vào ở trên không v.v… như trước đây, đây là sự di chuyển khỏi nơi chốn đặc biệt ở đây. Nhưng một số người nói rằng “vì đã bị lún xuống một chút do sức nặng của cây, nên có sự di chuyển khỏi nơi chốn,” điều đó không đúng, vì toàn bộ không gian mà cây đã chạm vào chưa bị vượt qua theo năm hoặc sáu cách. Dọn dẹp hướng gió: người đó dọn dẹp bằng cách cắt và loại bỏ các cành cây, bụi rậm v.v… đang che khuất đường đi của gió, sao cho gió đến và làm cây ngã. Hoặc gai của con ếch: một số người nói là gai ở đầu đuôi của con ếch, một số người cũng nói là “gai của con cá độc.”

Haraṇakakathāvaṇṇanā

Giải thích về vật bị mang đi

111. Haraṇakakathāyaṃ haraṇakanti vatthusāminā hariyamānaṃ. So ca pādaṃ agghati, pārājikamevāti ‘‘antaṃ na gaṇhissāmī’’ti asallakkhitattā sāmaññato ‘‘gaṇhissāmi eta’’nti sallakkhitasseva paṭassa ekadesatāya tampi gaṇhitukāmovāti pārājikaṃ vuttaṃ. Sabhaṇḍahārakanti sahabhaṇḍahārakaṃ, sakārādesassa vikappattā saha saddova ṭhito, bhaṇḍahārakena saha taṃ bhaṇḍanti attho. Sāsaṅkoti ‘‘yadi upasaṅkamitvā bhaṇḍaṃ gaṇhissāmi, āvudhena maṃ pahareyyā’’ti bhayena sañjātāsaṅko. Ekamantaṃ paṭikkammāti bhayeneva anupagantvā maggato sayaṃ paṭikkamma. Santajjetvāti pharusavācāya ceva āvudhaparivattanādikāyavikārena ca santajjetvā. Anajjhāvutthakanti apariggahitakaṃ. Ālayena anadhimuttampi bhaṇḍaṃ anajjhāvutthakaṃ nāma hotīti āha ‘‘āharāpente dātabba’’nti, iminā paṭhamaṃ pariccattālayānampi yadi pacchāpi sakasaññā uppajjati, tesaññeva taṃ bhaṇḍaṃ hoti, balakkārenāpi sakasaññāya tassa gahaṇe doso natthi, adadantasseva avahāroti dasseti. Yadi pana sāmino ‘‘pariccattaṃ mayā paṭhamaṃ, idāni mama santakaṃ vā etaṃ, no’’ti āsaṅkā hoti, balakkārena gahetuṃ na vaṭṭati sakasaññābaleneva puna gahetabbabhāvassa āpannattā. ‘‘Adentassa pārājika’’nti vacanato corassa sakasaññāya vijjamānāyapi sāmikesu sālayesu adātuṃ na vaṭṭatīti dīpitaṃ hoti. Aññesūti mahāpaccariyādīsu. Vicāraṇāyeva natthīti iminā tatthāpi paṭikkhepābhāvato ayameva atthoti dasseti.
111. Trong phần giải thích về vật bị mang đi, vật bị mang đi là vật đang được chủ sở hữu mang đi. Và nếu nó trị giá một pāda, thì bị tội Bất Cộng Trụ: vì không có ý định “tôi sẽ không lấy hết,” mà nói chung là có ý định “tôi sẽ lấy cái này,” và vì nó là một phần của tấm vải đã được chú ý, nên cũng muốn lấy cả nó, do đó đã nói là tội Bất Cộng Trụ. Người mang cùng với vật dụng: người mang cùng với vật dụng, vì việc thay thế mẫu tự ‘sa’ là tùy chọn, nên từ ‘saha’ (cùng với) vẫn được giữ nguyên, có nghĩa là vật dụng đó cùng với người mang vật dụng. Có lòng nghi ngờ: có lòng nghi ngờ do sợ hãi rằng “nếu tôi đến gần và lấy vật dụng, người đó sẽ đánh tôi bằng vũ khí.” Tránh sang một bên: tự mình tránh khỏi con đường mà không đến gần do sợ hãi. Sau khi đã dọa nạt: sau khi đã dọa nạt bằng lời nói thô bạo và bằng các hành vi thân thể như vung vẩy vũ khí v.v… Không có người ở: không có người sở hữu. Vật dụng dù không được từ bỏ hy vọng, cũng được gọi là không có người ở, nên nói là “phải trả lại cho người mang đến,” bằng điều này, chỉ ra rằng ngay cả đối với những người đã từ bỏ hy vọng lúc đầu, nếu sau đó phát sinh ý nghĩ là của mình, thì vật dụng đó là của chính họ, không có lỗi khi lấy lại bằng vũ lực, chỉ có người không trả lại mới có hành vi trộm cắp. Nhưng nếu chủ sở hữu có nghi ngờ rằng “tôi đã từ bỏ lúc đầu, bây giờ nó có phải là của tôi hay không,” thì không được phép lấy bằng vũ lực, vì đã rơi vào trường hợp phải lấy lại bằng chính sức mạnh của ý nghĩ là của mình. Theo lời nói “bị tội Bất Cộng Trụ đối với người không trả,” đã làm sáng tỏ rằng dù kẻ trộm có ý nghĩ là của mình, cũng không được phép không trả lại cho các chủ sở hữu khi họ có luyến tiếc. Trong các sách khác: trong Mahāpaccarī v.v… Không có cả sự xem xét: bằng câu này, chỉ ra rằng vì ở đó cũng không có sự bác bỏ, nên ý nghĩa chính là như vậy.

Upanidhikathāvaṇṇanā

Giải thích về vật gửi gắm

112. Upanidhikathāyaṃ saṅgopanatthāya attano hatthe nikkhittassa bhaṇḍassa guttaṭṭhāne paṭisāmanappayogaṃ vinā nāhaṃ gaṇhāmītiādinā aññasmiṃ payoge akate rajjasaṅkhobhādikāle ‘‘na dāni tassa dassāmi, na mayhaṃ dāni dassatī’’ti ubhohipi sakasakaṭṭhāne nisīditvā dhuranikkhepe katepi avahāro natthi. Keci panettha ‘‘pārājikameva paṭisāmanappayogassa katattā’’ti vadanti, taṃ tesaṃ matimattaṃ, na sārato paccetabbaṃ. Paṭisāmanakāle hissa theyyacittaṃ natthi, ‘‘na dāni tassa dassāmī’’ti theyyacittuppattikkhaṇe pana sāmino dhuranikkhepacittuppattiyā hetubhūto kāyavacīpayogo natthi, yena so āpattiṃ āpajjeyya. Na hi akiriyasamuṭṭhānāyaṃ āpattīti. Dāne saussāho, rakkhati tāvāti avahāraṃ sandhāya avuttattā nāhaṃ gaṇhāmītiādinā musāvādakaraṇe pācittiyameva hoti, na dukkaṭaṃ theyyacittābhāvena sahapayogassāpi abhāvatoti gahetabbaṃ. Yadipi mukhena dassāmīti vadati…pe… pārājikanti ettha katarapayogena āpatti, na tāva paṭhamena bhaṇḍapaṭisāmanappayogena tadā theyyacittābhāvā, nāpi ‘‘dassāmī’’ti kathanappayogena tadā theyyacitte vijjamānepi payogassa kappiyattāti? Vuccate – sāminā ‘‘dehī’’ti bahuso yāciyamānopi adatvā yena payogena attano adātukāmataṃ sāmikassa ñāpeti, yena ca so ‘‘adātukāmo ayaṃ vikkhipatī’’ti ñatvā dhuraṃ nikkhipati, teneva payogenassa āpatti. Na hettha upanikkhittabhaṇḍe pariyāyena mutti atthi. Adātukāmatāya hi kadā te dinnaṃ, kattha te dinnantiādipariyāyavacanenāpi sāmikassa dhure nikkhipāpite āpattiyeva. Teneva aṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ – ‘‘kiṃ tumhe bhaṇatha…pe… evaṃ ubhinnaṃ dhuranikkhepena bhikkhuno pārājika’’nti (pārā. aṭṭha. 1.111). Parasantakassa parehi gaṇhāpane eva pariyāyato mutti, na sabbatthāti gahetabbaṃ. Attano hatthe nikkhittattāti ettha attano hatthe sāminā dinnatāya bhaṇḍāgārikaṭṭhāne ṭhitattā ca ṭhānācāvanepi natthi avahāro, theyyacittena pana gahaṇe dukkaṭato na muccatīti veditabbaṃ.
112. Trong phần giải thích về vật gửi gắm, đối với vật dụng được đặt vào tay mình để cất giữ, nếu không có phương tiện cất giữ ở nơi an toàn, và không có phương tiện nào khác như nói ‘tôi không lấy’ v.v…, trong lúc có sự xáo trộn của giặc giã v.v…, dù cả hai đều từ bỏ trách nhiệm bằng cách ngồi yên ở vị trí của mình với ý nghĩ “bây giờ tôi sẽ không cho người đó, bây giờ người đó sẽ không cho tôi,” cũng không có hành vi trộm cắp. Một số người ở đây nói rằng “chính là tội Bất Cộng Trụ vì đã thực hiện phương tiện cất giữ,” đó chỉ là ý kiến của họ, không nên coi là cốt lõi. Vì vào lúc cất giữ, người đó không có tâm trộm cắp, còn vào lúc phát sinh tâm trộm cắp “bây giờ tôi sẽ không cho người đó,” thì không có phương tiện thân khẩu là nguyên nhân cho sự phát sinh tâm từ bỏ trách nhiệm của chủ sở hữu, để người đó có thể phạm tội. Vì tội này không phát sinh từ sự không hành động. Hăng hái trong việc cho, thì bảo vệ được: vì không được nói nhắm đến hành vi trộm cắp, nên khi nói dối bằng câu ‘tôi không lấy’ v.v…, chỉ bị tội Ưng Đối Trị, không phải tội Tác Ác, cần hiểu là do không có tâm trộm cắp và cũng không có cùng phương tiện. Dù nói bằng miệng là sẽ cho… v.v… bị tội Bất Cộng Trụ: ở đây, bị tội bằng phương tiện nào? Không phải bằng phương tiện đầu tiên là cất giữ vật dụng, vì lúc đó không có tâm trộm cắp; cũng không phải bằng phương tiện nói “sẽ cho,” vì lúc đó dù có tâm trộm cắp, nhưng phương tiện lại được phép. Xin thưa: dù bị chủ sở hữu đòi nhiều lần mà không trả, người đó thông báo cho chủ sở hữu về ý muốn không trả của mình bằng phương tiện nào, và người đó, sau khi biết rằng “người này không muốn trả, đang loanh quanh,” đã từ bỏ trách nhiệm, thì người đó bị tội bằng chính phương tiện đó. Ở đây, không có sự giải thoát một cách gián tiếp đối với vật gửi gắm. Vì do ý muốn không trả, ngay cả khi nói một cách gián tiếp như ‘tôi đã cho anh khi nào, tôi đã cho anh ở đâu,’ mà làm cho chủ sở hữu từ bỏ trách nhiệm, cũng bị tội. Chính vì thế, trong Chú giải đã nói: “Các ông nói gì… v.v… như vậy, do sự từ bỏ trách nhiệm của cả hai, Tỳ-khưu bị tội Bất Cộng Trụ” (pārā. aṭṭha. 1.111). Chỉ có sự giải thoát một cách gián tiếp khi làm cho người khác lấy của người khác, không phải ở mọi nơi, cần phải hiểu như vậy. Vì đã được đặt vào tay mình: ở đây, vì đã được chủ sở hữu trao vào tay mình và vì đang ở vị trí người giữ kho, nên ngay cả khi di chuyển khỏi nơi chốn, cũng không có hành vi trộm cắp. Nhưng cần biết rằng không thoát khỏi tội Tác Ác khi lấy với tâm trộm cắp.

Eseva nayoti uddhāreyeva corassa pārājikaṃ, kasmā? Aññehi sādhāraṇassa abhiññāṇassa vuttattā. Aññaṃ tādisameva gaṇhante yujjatīti saññāṇato okāsato ca tena sadisameva aññaṃ gaṇhante yujjati, corena sallakkhitappadesato taṃ apanetvā kehici tattha tādise aññasmiṃ patte ṭhapite taṃ gaṇhanteyeva yujjatīti adhippāyo, tena corena divā sallakkhitapattaṃ aññattha apanetvā tadaññe tādise patte tattha ṭhapitepi corassa pacchā rattibhāge uppajjamānaṃ theyyacittaṃ divā sallakkhitappadese ṭhapitaṃ aññaṃ tādisaṃ pattameva ālambitvā uppajjatīti dassitaṃ hoti. Padavārenāti therena nīharitvā dinnaṃ pattaṃ gahetvā gacchato corassa padavārena. Atādisameva gaṇhante yujjatīti atādisassa therena gahaṇakkhaṇe avahārābhāvato pacchā hatthapattaṃ ‘‘ta’’nti vā ‘‘añña’’nti vā saññāya ‘‘idaṃ gahetvā gacchāmī’’ti gamane padavāreneva avahāro yujjatīti adhippāyo.
Cùng một phương pháp: tội Bất Cộng Trụ của kẻ trộm chỉ xảy ra khi nhấc lên, tại sao? Vì đã nói đến dấu hiệu chung cho những người khác. Hợp lý khi lấy một vật khác tương tự: hợp lý khi lấy một vật khác tương tự về dấu hiệu và vị trí. Ý là hợp lý chỉ khi lấy vật đó sau khi đã bị ai đó dời đi khỏi nơi đã được kẻ trộm đánh dấu và đặt vào một cái bát tương tự khác ở đó. Bằng điều đó, đã chỉ ra rằng tâm trộm cắp phát sinh sau đó vào ban đêm của kẻ trộm cũng nhắm đến một cái bát tương tự khác được đặt ở nơi đã được đánh dấu vào ban ngày, sau khi cái bát đã được đánh dấu vào ban ngày đã bị dời đi nơi khác. Theo từng bước chân: theo từng bước chân của kẻ trộm đi sau khi đã lấy cái bát được trưởng lão mang ra và đưa cho. Hợp lý khi lấy một vật không tương tự: ý là vì không có hành vi trộm cắp vào lúc trưởng lão lấy vật không tương tự, nên sau đó, khi vật đã đến tay, dù có ý nghĩ là “nó” hay “vật khác,” hành vi trộm cắp chỉ hợp lý theo từng bước chân khi đi với ý nghĩ “tôi sẽ lấy cái này và đi.”

Pārājikaṃ natthīti padavārepi pārājikaṃ natthi upanidhibhaṇḍe viyāti gahetabbaṃ. Gāmadvāranti bahigāme vihārassa patiṭṭhitattā gāmappavesassa ārambhappadesadassanavasena vuttaṃ, antogāmanti attho. Dvinnampi uddhāreyeva pārājikanti therassa abhaṇḍāgārikattā vuttaṃ. Yadi hi so bhaṇḍāgāriko bhaveyya, sabbampi upanikkhittameva siyā, upanikkhittabhaṇḍe ca theyyacittena gaṇhatopi na tāva therassa avahāro hoti, corasseva avahāro. Ubhinnampi dukkaṭanti therassa attano santakatāya corassa sāmikena dinnattā avahāro na jāto, ubhinnampi asuddhacittena gahitattā dukkaṭanti attho.
Không bị tội Bất Cộng Trụ: cần hiểu là ngay cả trong từng bước chân cũng không bị tội Bất Cộng Trụ, giống như trong vật gửi gắm. Cổng làng: được nói để chỉ ra nơi bắt đầu của việc vào làng, vì trú xứ được xây dựng ở ngoài làng, có nghĩa là trong làng. Tội Bất Cộng Trụ của cả hai chỉ xảy ra khi nhấc lên: được nói do trưởng lão không phải là người giữ kho. Nếu người đó là người giữ kho, thì tất cả đều là vật gửi gắm, và ngay cả khi lấy vật gửi gắm với tâm trộm cắp, trưởng lão cũng chưa có hành vi trộm cắp, chỉ có kẻ trộm mới có hành vi trộm cắp. Tội Tác Ác của cả hai: ý là vì là của mình, trưởng lão không có hành vi trộm cắp, và vì được chủ sở hữu cho, kẻ trộm cũng không có hành vi trộm cắp; tội Tác Ác là do cả hai đã lấy với tâm không trong sạch.

Āṇattiyā gahitattāti ‘‘pattacīvaraṃ gaṇhā’’ti evaṃ therena kataāṇattiyā gahitattā. Aṭaviṃ pavisati, padavārena kāretabboti ‘‘pattacīvaraṃ gaṇha, asukaṃ nāma gāmaṃ gantvā piṇḍāya carissāmā’’ti therena vihārato paṭṭhāya gāmamaggepi sakalepi gāme vicaraṇassa niyamitattā maggato okkamma gacchantasseva padavārena āpatti vuttā. Vihārassa hi parabhāge upacārato paṭṭhāya yāva tassa gāmassa parato upacāro, tāva sabbaṃ daharassa therāṇattiyā sañcaraṇūpacārova hoti, na pana tato paraṃ. Teneva ‘‘upacārātikkame pārājikaṃ. Gāmūpacārātikkame pārājika’’nti ca vuttaṃ. Paṭinivattane cīvaradhovanādiatthāya pesanepi eseva nayo. Aṭṭhatvā anisīditvāti ettha vihāraṃ pavisitvā sīsādīsu bhāraṃ bhūmiyaṃ anikkhipitvā tiṭṭhanto vā nisīdanto vā vissamitvā theyyacitte vūpasante puna theyyacittaṃ uppādetvā gacchati ce, pāduddhārena kāretabbo. Sace bhūmiyaṃ nikkhipitvā puna taṃ gahetvā gacchati, uddhārena kāretabbo. Kasmā? Āṇāpakassa āṇattiyā yaṃ kattabbaṃ, tassa tāvatā pariniṭṭhitattā. ‘‘Asukaṃ nāma gāma’’nti aniyametvā ‘‘antogāmaṃ gamissāmā’’ti avisesena vutte vihārasāmantā pubbe piṇḍāya paviṭṭhapubbā sabbe gocaragāmāpi khettamevāti vadanti. Sesanti maggukkamanavihārābhimukhagamanādi sabbaṃ. Purimasadisamevāti anāṇattiyā gahitepi sāmikassa kathetvā gahitattā heṭṭhā vuttavihārūpacārādi sabbaṃ khettamevāti katvā vuttaṃ. Eseva nayoti antarāmagge theyyacittaṃ uppādetvātiādinā (pārā. aṭṭha. 1.112) vuttaṃ nayaṃ atidisati.
Vì đã được lấy theo lệnh: vì đã được lấy theo lệnh của trưởng lão rằng “hãy lấy bát y.” Vào rừng, phải bị phạt theo từng bước chân: vì đã được trưởng lão quy định đi lại trong toàn bộ con đường làng và trong toàn bộ ngôi làng, bắt đầu từ trú xứ, bằng câu “hãy lấy bát y, chúng ta sẽ đến làng kia để khất thực,” nên tội theo từng bước chân chỉ được nói đối với người đi ra khỏi con đường. Vì từ vùng phụ cận ở phía bên kia của trú xứ cho đến vùng phụ cận ở phía bên kia của ngôi làng đó, tất cả đều là vùng phụ cận đi lại theo lệnh của trưởng lão đối với người trẻ, không phải xa hơn. Chính vì thế đã nói là “khi vượt qua vùng phụ cận, bị tội Bất Cộng Trụ. Khi vượt qua vùng phụ cận của làng, bị tội Bất Cộng Trụ.” Phương pháp này cũng áp dụng khi sai đi giặt y v.v… khi trở về. Không đứng, không ngồi: ở đây, sau khi đã vào trú xứ và không đặt gánh nặng trên đầu v.v… xuống đất, mà đứng hoặc ngồi nghỉ ngơi, nếu tâm trộm cắp đã lắng dịu rồi lại phát sinh tâm trộm cắp và đi, thì phải bị phạt theo từng bước nhấc lên. Nếu đặt xuống đất rồi lại lấy lên và đi, thì phải bị phạt theo việc nhấc lên. Tại sao? Vì việc phải làm theo lệnh của người ra lệnh đã hoàn thành chừng đó. Một số người nói rằng khi nói một cách không xác định là “chúng ta sẽ vào trong làng” mà không quy định “làng kia,” thì tất cả các làng khất thực đã từng vào trước đây ở gần trú xứ cũng là lĩnh vực. Phần còn lại: tất cả những việc như đi ra khỏi con đường, đi về phía trú xứ v.v… Tương tự như trước: được nói bằng cách cho rằng ngay cả khi lấy mà không có lệnh, vì đã nói với chủ sở hữu và lấy, nên tất cả những vùng phụ cận của trú xứ v.v… đã được nói ở dưới đều là lĩnh vực. Cùng một phương pháp: để dẫn chiếu phương pháp đã được nói trong câu ‘khi phát sinh tâm trộm cắp ở giữa đường’ v.v… (pārā. aṭṭha. 1.112).

Nimitte vā kateti cīvaraṃ me kiliṭṭhaṃ, ko nu kho rajitvā dassatītiādinā nimitte kate. Vuttanayenevāti anāṇattassa therena saddhiṃ pattacīvaraṃ gahetvā gamanavāre vuttanayeneva. Ekapasseti vihārassa mahantatāya attānaṃ adassetvā ekasmiṃ passe. Theyyacittena paribhuñjanto jīrāpetīti theyyacitte uppanne ṭhānācāvanaṃ akatvā nivatthapārutanīhāreneva paribhuñjanto jīrāpeti, ṭhānā cāventassa pana theyyacitte sati pārājikameva sīse bhāraṃ khandhe karaṇādīsu viya (pārā. 101). Yathā vā tathā vā nassatīti aggiādinā nassati, añño vā kocīti iminā yena ṭhapitaṃ, sopi saṅgahitoti veditabbaṃ.
Hoặc khi đã làm dấu hiệu: khi đã làm dấu hiệu bằng câu ‘y của tôi bị bẩn, ai sẽ nhuộm cho tôi’ v.v… Theo cách đã nói: theo cách đã được nói trong lượt đi cùng với trưởng lão mà không có lệnh sau khi đã lấy bát y. Ở một bên: ở một bên, không cho thấy mình, do trú xứ rộng lớn. Dùng và làm cho cũ đi với tâm trộm cắp: khi tâm trộm cắp phát sinh, không di chuyển khỏi nơi chốn, mà dùng và làm cho cũ đi chỉ bằng cách mặc và đắp, nhưng nếu di chuyển khỏi nơi chốn khi có tâm trộm cắp, thì bị tội Bất Cộng Trụ, giống như trong việc mang gánh nặng trên đầu lên vai v.v… (pārā. 101). Bị mất theo cách này hay cách khác: bị mất do lửa v.v… Hoặc một người nào đó: bằng câu này, cần hiểu rằng ngay cả người đã đặt nó cũng được bao gồm.

Itarassāti corassa. Itaraṃ gaṇhato uddhāre pārājikanti ettha ‘‘pavisitvā tava sāṭakaṃ gaṇhāhī’’ti imināva upanidhibhāvato mocitattā, sāmikassa itaraṃ gaṇhato attano sāṭake ālayassa sabbhāvato ca ‘‘uddhāre pārājika’’nti vuttaṃ. Sāmiko ce ‘‘mama santakaṃ idaṃ vā hotu, aññaṃ vā, kiṃ tena, alaṃ mayhaṃ iminā’’ti evaṃ suṭṭhu nirālayo hoti, corassa pārājikaṃ natthīti gahetabbaṃ. Na jānantīti tena vuttavacanaṃ asuṇantā na jānanti. Eseva nayoti ettha sace jānitvāpi cittena na sampaṭicchanti, eseva nayoti daṭṭhabbaṃ. Paṭikkhipantīti ettha cittena paṭikkhepopi saṅgahitovāti veditabbaṃ. Upacāre vijjamāneti bhaṇḍāgārassa samīpe uccārapassāvaṭṭhāne vijjamāne. Mayi ca mate saṅghassa ca senāsane vinaṭṭheti ettha ‘‘taṃ māressāmā’’ti ettake vuttepi vivarituṃ vaṭṭati gilānapakkhe ṭhitattā avisayoti vuttattā. Maraṇato hi paraṃ gelaññaṃ avisayattañca natthi. ‘‘Dvāraṃ chinditvā parikkhāraṃ harissāmā’’ti ettake vuttepi vivarituṃ vaṭṭatiyeva. Sahāyehi bhavitabbanti tehipi bhikkhācārādīhi pariyesitvā attano santakepi kiñci kiñci dātabbanti vuttaṃ hoti. Ayaṃ sāmīcīti bhaṇḍāgāre vasantānaṃ idaṃ vattaṃ.
Của người kia là của kẻ trộm. Khi lấy vật khác, bị tội Bất Cộng Trụ khi nhấc lên: ở đây, vì đã được giải thoát khỏi trạng thái gửi gắm bằng chính câu “hãy vào và lấy tấm vải của ngươi,” và vì chủ sở hữu có luyến tiếc trong tấm vải của mình khi người kia lấy vật khác, nên đã nói là “bị tội Bất Cộng Trụ khi nhấc lên.” Nếu chủ sở hữu hoàn toàn không luyến tiếc rằng “cái này là của tôi hay cái khác, có sao đâu, đủ rồi đối với tôi cái này,” thì cần hiểu là kẻ trộm không bị tội Bất Cộng Trụ. Họ không biết: họ không biết vì không nghe lời nói của người đó. Cùng một phương pháp: ở đây, cần hiểu rằng nếu dù biết mà không chấp nhận bằng tâm, thì cũng cùng một phương pháp. Họ từ chối: ở đây, cần hiểu rằng ngay cả sự từ chối bằng tâm cũng được bao gồm. Khi có vùng phụ cận: khi có nơi đi vệ sinh ở gần kho. Và khi tôi chết và khi trú xứ của Tăng bị hư hại: ở đây, ngay cả khi chỉ nói chừng đó là “chúng tôi sẽ giết ông,” cũng được phép mở, vì đã nói là không phải là đối tượng do đang ở trong tình trạng bệnh. Vì sau khi chết, không còn bệnh và không phải là đối tượng nữa. Ngay cả khi chỉ nói chừng đó là “chúng tôi sẽ phá cửa và lấy vật dụng,” cũng được phép mở. Phải có những người bạn đồng hành: có nghĩa là họ cũng phải tìm kiếm bằng cách đi khất thực v.v… và cho một ít từ những gì là của mình. Đây là phận sự đúng đắn: đây là phận sự của những người ở trong kho.

Lolamahātheroti mando momūho ākiṇṇavihārī. Itarehīti tasmiṃyeva gabbhe vasantehi itarabhikkhūhi. Vihārarakkhaṇavāre niyutto vihāravāriko, vuḍḍhapaṭipāṭiyā attano vāre vihārarakkhaṇako. Nivāpanti bhattavetanaṃ. Corānaṃ paṭipathaṃ gatesūti corānaṃ āgamanaṃ ñatvā ‘‘paṭhamataraññeva gantvā saddaṃ karissāmā’’ti corānaṃ abhimukhaṃ gatesu, ‘‘corehi haṭabhaṇḍaṃ āharissāmā’’ti tadanupathaṃ gatesupi eseva nayo. Nibaddhaṃ katvāti ‘‘asukakule yāgubhattaṃ vihāravārikānaññevā’’ti evaṃ niyamanaṃ katvā. Dve tisso yāgusalākā cattāri pañca salākabhattāni ca labhamānovāti idaṃ nidassanaṃmattaṃ, tato ūnaṃ vā hotu adhikaṃ vā attano veyyāvaccakarassa ca yāpanamattaṃ labhanameva pamāṇanti gahetabbaṃ. Nissitake jaggentīti tehi vihāraṃ jaggāpentīti attho. Asahāyakassāti sahāyarahitassa. Attadutiyassāti appicchassa attā sarīrameva dutiyo assa nāññoti attadutiyo. Tadubhayassāpi atthassa vibhāvanaṃ yassātiādi, etena sabbena ekekassa vāro na pāpetabboti dassitanti veditabbaṃ. Pākavattatthāyāti niccaṃ pacitabbayāgubhattasaṅkhātavattatthāya. Ṭhapentīti dāyakā ṭhapenti. Taṃ gahetvāti taṃ ārāmikādīhi diyyamānaṃ bhāgaṃ gahetvā. Na gāhāpetabboti ettha abbhokāsikassāpi attano adhikaparikkhāro vā ṭhapito atthi, cīvarādisaṅghikabhāgepi ālayo vā atthi, sopi gāhāpetabbova. Diguṇanti aññehi labbhamānato diguṇaṃ. Pakkhavārenāti aḍḍhamāsavārena.
Đại trưởng lão Lola là người chậm chạp, ngu ngơ, sống buông thả. Bởi những người khác: bởi các Tỳ-khưu khác sống trong cùng một căn phòng. Người được giao nhiệm vụ trong lượt bảo vệ trú xứ là người coi trú xứ, người bảo vệ trú xứ trong lượt của mình theo thứ tự của các vị trưởng. Thức ăn: tiền công bằng thức ăn. Khi họ đi đón đường bọn cướp: khi biết bọn cướp sẽ đến và đi đón đường chúng với ý nghĩ “chúng ta sẽ đi trước và gây tiếng động,” phương pháp này cũng áp dụng cho những người đi theo sau chúng với ý nghĩ “chúng ta sẽ lấy lại vật dụng bị bọn cướp lấy đi.” Sau khi đã quy định: sau khi đã quy định rằng “cháo và cơm ở nhà kia chỉ dành cho những người coi trú xứ.” Và người nhận được hai ba phiếu cháo và bốn năm phiếu cơm: đây là chỉ là một ví dụ, cần hiểu rằng dù ít hơn hay nhiều hơn, việc nhận được đủ để nuôi sống mình và người giúp việc là tiêu chuẩn. Họ trông coi những người nương tựa: có nghĩa là họ nhờ những người đó trông coi trú xứ. Của người không có bạn đồng hành: của người không có bạn đồng hành. Của người có tự thân là bạn thứ hai: người có ít mong muốn, tự thân, cơ thể, là bạn thứ hai của người đó, không có ai khác, là người có tự thân là bạn thứ hai. Sự giải thích cho cả hai ý nghĩa đó là của người nào… v.v…, bằng tất cả những điều này, cần hiểu rằng đã chỉ ra rằng không nên giao lượt cho từng người một. Để có phận sự nấu nướng: để có phận sự được gọi là cháo và cơm phải được nấu thường xuyên. Họ đặt: các thí chủ đặt. Sau khi đã lấy đó: sau khi đã lấy phần được các người coi vườn v.v… cho. Không nên bị bắt: ở đây, ngay cả người sống ngoài trời cũng có vật dụng cá nhân dư thừa được cất giữ, hoặc có luyến tiếc trong phần tài sản của Tăng như y v.v…, người đó cũng phải bị bắt. Gấp đôi: gấp đôi so với những gì người khác nhận được. Theo lượt nửa tháng: theo lượt nửa tháng.

Suṅkaghātakathāvaṇṇanā

Giải thích về trạm thuế

113. Suṅkaghātakathāyaṃ suṅkaṃ yattha rājapurisā hananti adadantānaṃ santakaṃ acchinditvāpi gaṇhanti, taṃ ṭhānaṃ suṅkaghātanti evampi attho daṭṭhabbo. Vuttamevatthaṃ pākaṭaṃ kātuṃ tañhītiādi vuttaṃ. Dutiyaṃ pādaṃ atikkāmetīti ettha paṭhamapādaṃ paricchedato bahi ṭhapetvā dutiyapāde uddhaṭamatte pārājikaṃ. Uddharitvā bahi aṭṭhapitepi bahi ṭhito eva nāma hotīti katvā evaṃ sabbattha padavāresupīti daṭṭhabbaṃ. Parivattitvā abbhantarimaṃ bahi ṭhapeti, pārājikanti idaṃ sayaṃ bahi ṭhatvā paṭhamaṃ abbhantarimaṃ ukkhipitvā vā samakaṃ ukkhipitvā vā parivattanaṃ sandhāya vuttaṃ. Bahi ṭhatvā ukkhittamatte hi sabbaṃ bahigatameva hotīti. Sace pana so bahi ṭhatvāpi bāhirapuṭakaṃ paṭhamaṃ anto ṭhapetvā pacchā abbhantarimaṃ ukkhipitvā bahi ṭhapeti, tadāpi ekābaddhatāya avijahitattā avahāro na dissati. Keci pana ‘‘bhūmiyaṃ patitvā vattantaṃ puna anto pavisati, pārājikamevāti (pārā. aṭṭha. 1.113) vuttattā bāhirapuṭake antopaviṭṭhepi bahigatabhāvato na muccati, antogataṃ pana puṭakaṃ paṭhamaṃ, pacchā eva vā bahi ṭhapitamatte vā pārājikamevā’’ti vadanti, taṃ na yuttaṃ. Bahi bhūmiyaṃ pātitassa kenaci saddhiṃ ekābaddhatāya abhāvena antopaviṭṭhepi pārājikamevāti vattuṃ yuttaṃ, idaṃ pana ekābaddhattā tena saddhiṃ na sameti. Tasmā yathā antobhūmigatena ekābaddhatā na hoti, evaṃ ubhayassāpi bahigatabhāve sādhiteyeva avahāroti viññāyati, vīmaṃsitvā gahetabbaṃ. Ye pana parivattitvāti imassa nivattitvāti atthaṃ vadanti, tehi pana abbhantarimaṃ bahi ṭhapetīti ayamattho gahito hotīti tattha saṅkāyeva natthi. Ekābaddhanti kājakoṭiyaṃ rajjuyā bandhanaṃ sandhāya vuttaṃ. Abandhitvā kājakoṭiyaṃ ṭhapitamattameva hoti, pārājikanti bahi gahitakājakoṭiyaṃ ṭhapitaṃ yadi pādaṃ agghati, pārājikameva, antoṭhapitena ekābaddhatāya abhāvāti adhippāyo. Gacchante yāne vā…pe… ṭhapetīti suṅkaghātaṃ pavisitvā appavisitvā vā ṭhapeti. Suṅkaṭṭhānassa bahi ṭhitanti yānādīhi nīhaṭattā bahi ṭhitaṃ. Keci pana ‘‘bahi ṭhapita’’nti pāṭhaṃ vikappetvā suṅkaṭṭhānato pubbeva bahi ṭhapitanti atthaṃ vadanti, taṃ na sundaraṃ; suṅkaṭṭhāne pavisitvā yāne ṭhapitepi pavattitvā gate viya dosābhāvato. Yo pana suṅkaṭṭhānassa antova pavisitvā ‘‘suṅkaṭṭhāna’’nti ñatvā theyyacittena āgatamaggena paṭinivattitvā gacchati, tassāpi yadi tena disābhāgena gacchantānampi hatthato suṅkaṃ gaṇhanti, pārājikameva. Imasmiṃ ṭhāneti yānādīhi nīharaṇe. Tatrāti tasmiṃ eḷakalomasikkhāpade (pārā. 571 ādayo).
113. Trong phần giải thích về trạm thuế, cần hiểu ý nghĩa là nơi mà các lính của vua đánh đập, lấy cả tài sản của những người không nộp mà không giật, nơi đó là trạm thuế. Để làm rõ ý nghĩa đã được nói, đã nói là vì điều đó… v.v… Khi bước qua chân thứ hai: ở đây, sau khi đã đặt chân đầu tiên ra ngoài ranh giới, ngay khi nhấc chân thứ hai lên, bị tội Bất Cộng Trụ. Cần hiểu rằng ngay cả khi chưa đặt xuống bên ngoài sau khi đã nhấc lên, cũng được gọi là đã ở bên ngoài. Cũng vậy trong tất cả các lượt chân. Sau khi đã xoay người và đặt cái ở trong ra ngoài, bị tội Bất Cộng Trụ: điều này được nói nhắm đến việc xoay người sau khi đã nhấc cái ở trong lên trước hoặc nhấc lên cùng lúc khi đang đứng ở ngoài. Vì ngay khi đã nhấc lên khi đang đứng ở ngoài, tất cả đều đã ra ngoài. Nhưng nếu người đó, dù đứng ở ngoài, mà lại đặt cái túi ở ngoài vào trong trước, rồi sau đó mới nhấc cái ở trong lên và đặt ra ngoài, thì khi đó, vì sự liên kết chưa bị phá vỡ, nên không thấy có hành vi trộm cắp. Nhưng một số người nói rằng “vì đã nói là ‘khi rơi xuống đất và lăn vào lại bên trong, vẫn bị tội Bất Cộng Trụ’ (pārā. aṭṭha. 1.113), nên dù cái túi ở ngoài đã vào trong, cũng không thoát khỏi trạng thái đã ra ngoài; khi đặt cái túi đã vào trong ra ngoài trước hoặc sau, hoặc ngay khi vừa đặt ra ngoài, cũng bị tội Bất Cộng Trụ,” điều đó không đúng. Đối với cái đã bị ném xuống đất bên ngoài, vì không có sự liên kết với bất cứ thứ gì, nên dù có vào trong, cũng hợp lý để nói là bị tội Bất Cộng Trụ. Nhưng cái này, vì có sự liên kết, nên không tương tự như cái đó. Do đó, có thể hiểu rằng hành vi trộm cắp chỉ xảy ra khi đã chứng minh được trạng thái đã ra ngoài của cả hai, sao cho không có sự liên kết với cái ở trong lòng đất. Cần phải xem xét kỹ lưỡng. Nhưng những người nói rằng ý nghĩa của ‘parivattitvā’ (sau khi đã xoay) là ‘nivattitvā’ (sau khi đã quay lại), thì họ đã hiểu ý nghĩa là ‘đặt cái ở trong ra ngoài,’ do đó không có gì phải nghi ngờ ở đó. Liên kết: được nói nhắm đến việc buộc bằng dây ở đầu giỏ. Nếu chỉ đặt vào đầu giỏ mà không buộc, bị tội Bất Cộng Trụ: ý là nếu vật được đặt vào đầu giỏ đã được lấy ra ngoài mà trị giá một pāda, thì bị tội Bất Cộng Trụ, vì không có sự liên kết với cái được đặt ở trong. Hoặc trên xe đang đi… v.v… đặt: đặt sau khi đã vào hoặc chưa vào trạm thuế. Đã ở ngoài trạm thuế: đã ở ngoài do đã được mang ra khỏi xe v.v… Nhưng một số người, bằng cách thay đổi cách đọc là “đã đặt ở ngoài,” nói rằng có nghĩa là đã đặt ở ngoài trước cả trạm thuế, điều đó không hay; vì khi đã vào trạm thuế và đặt trên xe, cũng không có lỗi, giống như khi đã đi qua. Nhưng người nào đã vào trong trạm thuế và biết là “trạm thuế,” rồi quay lại bằng con đường đã đến với tâm trộm cắp và đi, thì người đó cũng bị tội Bất Cộng Trụ nếu họ cũng thu thuế từ tay của những người đi theo hướng đó. Ở nơi này: trong việc mang ra khỏi xe v.v… Ở đó: trong điều học về lông cừu đó (pārā. 571 ādayo).

Pāṇakathāvaṇṇanā

Giải thích về sinh vật

114. Pāṇakathāyaṃ āṭhapitoti mātāpitūhi iṇaṃ gaṇhantehi ‘‘yāva iṇadānā ayaṃ tumhākaṃ santike hotū’’ti iṇadāyakānaṃ niyyātito. Avahāro natthīti mātāpitūhi puttassa apariccattattā mātāpitūnañca asantakattā avahāro natthi. Dhanaṃ pana gataṭṭhāne vaḍḍhatīti iminā āṭhapetvā gahitadhanaṃ vaḍḍhiyā saha āṭhapitaputtahārakassa gīvāti dassitanti vadanti. Dāsassa jātoti ukkaṭṭhalakkhaṇaṃ dassetuṃ vuttaṃ. Dāsikucchiyaṃ pana adāsassa jātopi ettheva saṅgahito . Paradesato paharitvāti paradesavilumpakehi rājacorādīhi paharitvā. Sukhaṃ jīvāti vadatīti theyyacittena sāmikānaṃ santikato palāpetukāmatāya vadati, tathā pana acintetvā kāruññena ‘‘sukhaṃ gantvā jīvā’’ti vadantassa natthi avahāro, gīvā pana hoti. Dutiyapadavāreti yadi dutiyapadaṃ avassaṃ uddharissati, bhikkhussa ‘‘palāyitvā sukhaṃ jīvā’’ti vacanakkhaṇeyeva pārājikaṃ. Anāpatti pārājikassāti tassa vacanena vegavaḍḍhane akatepi dukkaṭā na muccatīti dasseti. ‘‘Adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyeyyā’’ti (pārā. 89, 91) ādānasseva vuttattā vuttapariyāyena muccatīti.
114. Trong phần giải thích về sinh vật, bị cầm cố: được cha mẹ giao cho những người cho vay với lời nói “cho đến khi trả nợ, nó sẽ ở với các ông” khi họ vay nợ. Không có hành vi trộm cắp: không có hành vi trộm cắp, vì con chưa bị cha mẹ từ bỏ và vì không phải là tài sản của cha mẹ. Nhưng tiền bạc tăng lên ở nơi đã đến: một số người nói rằng bằng câu này, chỉ ra rằng tiền đã được vay bằng cách cầm cố là gánh nặng trên cổ của người mang đứa con đã bị cầm cố đi cùng với tiền lời. Sinh ra từ người nô lệ: được nói để chỉ ra đặc tính cao quý. Nhưng ngay cả người không phải là nô lệ sinh ra trong bụng người nữ nô lệ cũng được bao gồm ở đây. Bị bắt từ xứ khác: bị các vua, cướp v.v… cướp bóc xứ khác bắt đi. Nói là hãy sống sung sướng: nói với ý muốn làm cho trốn khỏi chủ nhân với tâm trộm cắp. Nhưng đối với người nói “hãy đi và sống sung sướng” bằng lòng từ bi mà không suy nghĩ như vậy, thì không có hành vi trộm cắp, nhưng phải bồi thường. Ở lượt chân thứ hai: nếu chắc chắn sẽ nhấc chân thứ hai lên, thì Tỳ-khưu bị tội Bất Cộng Trụ ngay trong khoảnh khắc nói “hãy trốn đi và sống sung sướng.” Vô tội đối với tội Bất Cộng Trụ: để chỉ ra rằng ngay cả khi không làm tăng tốc độ bằng lời nói của mình, cũng không thoát khỏi tội Tác Ác. Vì chỉ có việc lấy được nói đến trong câu “nên lấy của không cho được gọi là trộm cắp” (pārā. 89, 91), nên được giải thoát theo cách nói gián tiếp.

Catuppadakathāvaṇṇanā

Giải thích về loài bốn chân

117. Catuppadakathāyaṃ pāḷiyaṃ āgatāvasesāti pāḷiyaṃ āgatehi hatthi ādīhi aññe pasu-saddassa sabbasādhāraṇattā. Bhiṅkacchāpanti ‘‘bhiṅkā bhiṅkā’’ti saddāyanato evaṃ laddhanāmaṃ hatthipotakaṃ. Antovatthumhīti parikkhitte. Bahinagare ṭhitassāti parikkhittanagaraṃ sandhāya vuttaṃ, aparikkhittanagare pana antonagare ṭhitassāpi ṭhitaṭṭhānameva ṭhānaṃ. Khaṇḍadvāranti attanā khaṇḍitadvāraṃ. Eko nipannoti etthāpi bandhoti ānetvā sambandhitabbaṃ, tenāha ‘‘nipannassa dve’’ti. Ghātetīti ettha theyyacittena vināsentassa sahapayogattā dukkaṭamevāti vadanti.
117. Trong phần giải thích về loài bốn chân, những loài còn lại đã có trong Pāḷi: vì từ ‘pasu’ (gia súc) chung cho tất cả, ngoài voi v.v… đã có trong Pāḷi. Voi con Bhiṅka: voi con có tên như vậy do kêu “bhiṅkā bhiṅkā.” Trong khu đất: trong khu đất có hàng rào. Của người đứng ở ngoài thành phố: được nói nhắm đến thành phố có hàng rào. Nhưng trong thành phố không có hàng rào, thì nơi đứng của chính người đứng ở trong thành phố là nơi chốn. Cửa đã bị phá: cửa đã bị chính mình phá. Một con đang nằm: ở đây cũng phải đưa từ ‘bandho’ (bị buộc) vào và kết hợp, do đó nói là “của con đang nằm có hai.” Giết: ở đây, một số người nói rằng chỉ bị tội Tác Ác do cùng phương tiện đối với người phá hoại với tâm trộm cắp.

Ocarakakathāvaṇṇanā

Giải thích về người theo dõi

118. Ocarakakathāyaṃ pariyāyena hi adinnādānato muccatīti idaṃ āṇattikapayogaṃ sandhāya vuttaṃ, sayameva pana abhiyuñjanādīsu pariyāyenapi mokkho natthi.
118. Trong phần giải thích về người theo dõi, được giải thoát khỏi tội trộm cắp một cách gián tiếp: điều này được nói nhắm đến phương tiện ra lệnh, còn trong việc kiện tụng v.v…, thì không có sự giải thoát ngay cả một cách gián tiếp.

Oṇirakkhakathāvaṇṇanā

Giải thích về vật được trông coi

Oṇirakkhakathāyaṃ oṇinti oṇītaṃ, ānītanti attho. Oṇirakkhassa santike ṭhapitabhaṇḍaṃ upanidhi (pārā. 112) viya guttaṭṭhāne ṭhapetvā saṅgopanatthāya anikkhipitvā yathāṭhapitaṭṭhāne eva muhuttamattaṃ olokanatthāya ṭhapitattā tassa bhaṇḍassa ṭhānācāvanamattena oṇirakkhakassa pārājikaṃ hoti.
Trong phần giải thích về vật được trông coi, vật được trông coi có nghĩa là vật đã được mang đến. Vật dụng được đặt ở nơi người trông coi, vì không được cất giữ ở nơi an toàn để bảo quản như vật gửi gắm (pārā. 112), mà chỉ được đặt để trông chừng trong chốc lát ở nơi đã được đặt, nên người trông coi bị tội Bất Cộng Trụ chỉ bằng việc di chuyển vật dụng đó khỏi nơi chốn.

Saṃvidāvahārakathāvaṇṇanā

Giải thích về sự trộm cắp có hẹn ước

Saṃvidāvahārakathāyaṃ saṃvidhāyāti saṃvidahitvā. Tena nesaṃ dukkaṭāpattiyoti āṇattivasena pārājikāpattiyā asambhave satīti vuttaṃ. Yadi hi tena āṇattā yathāṇattivasena haranti, āṇattikkhaṇe eva pārājikāpattiṃ āpajjanti. Pāḷiyaṃ ‘‘sambahulā saṃvidahitvā eko bhaṇḍaṃ avaharati, āpatti sabbesaṃ pārājikassā’’ti (pārā. 118) etthāpi āṇāpakānaṃ āṇattikkhaṇeyeva āpatti, avahārakassa uddhāreti datthabbo. Sambahulā bhikkhū ekaṃ āṇāpenti ‘gacchetaṃ āharā’ti, tassuddhāre sabbesaṃ pārājikantiādīsupi evameva attho gahetabbo. Sāhatthikaṃ vā āṇattikassa āṇattikaṃ vā sāhatthikassa aṅgaṃ na hotīti bhinnakālikattā aññamaññassa aṅgaṃ na hoti. Tathā hi sahatthā avaharantassa ṭhānācāvanakkhaṇe āpatti, āṇattiyā pana āṇattikkhaṇeyevāti bhinnakālikattā āpattiyoti.
Trong phần giải thích về sự trộm cắp có hẹn ước, sau khi đã hẹn ước: sau khi đã hẹn ước. Do đó, họ bị tội Tác Ác: được nói khi không có tội Bất Cộng Trụ theo cách ra lệnh. Nếu họ, sau khi đã được ra lệnh, mang đi theo cách đã được ra lệnh, thì họ bị tội Bất Cộng Trụ ngay trong khoảnh khắc ra lệnh. Trong Pāḷi, “nhiều người hẹn ước với nhau, một người lấy trộm vật dụng, tất cả đều bị tội Bất Cộng Trụ” (pārā. 118): ở đây cũng vậy, những người ra lệnh bị tội ngay trong khoảnh khắc ra lệnh, còn người lấy trộm thì khi nhấc lên. Nhiều Tỳ-khưu ra lệnh cho một người ‘hãy đi lấy vật đó,’ khi người đó nhấc lên, tất cả đều bị tội Bất Cộng Trụ v.v…: cũng phải hiểu ý nghĩa như vậy. Việc làm bằng tự tay không phải là một yếu tố của việc ra lệnh, và việc ra lệnh cũng không phải là một yếu tố của việc làm bằng tự tay: vì có thời điểm khác nhau, nên không phải là yếu tố của nhau. Cụ thể, đối với người lấy trộm bằng tự tay, bị tội vào lúc di chuyển khỏi nơi chốn, còn đối với việc ra lệnh, thì ngay trong khoảnh khắc ra lệnh, do đó bị tội vào các thời điểm khác nhau.

Saṅketakammakathāvaṇṇanā

Giải thích về hành động theo ám hiệu

119. Saṅketakammakathāyaṃ ocarake vuttanayenevāti ettha avassaṃ hāriye bhaṇḍetiādinā (pārā. aṭṭha. 1.118) vuttanayeneva. Pāḷiyaṃ ‘‘taṃ saṅketaṃ pure vā pacchā vā’’ti tassa saṅketassa pure vā pacchā vāti attho. ‘‘Taṃ nimittaṃ pure vā pacchā vā’’ti etthāpi eseva nayo.
119. Trong phần giải thích về hành động theo ám hiệu, theo cách đã được nói trong phần về người theo dõi: ở đây, là theo cách đã được nói trong câu ‘trong vật dụng chắc chắn sẽ bị mang đi’ v.v… (pārā. aṭṭha. 1.118). Trong Pāḷi, “ám hiệu đó trước hoặc sau” có nghĩa là trước hoặc sau ám hiệu đó. “Dấu hiệu đó trước hoặc sau” ở đây cũng áp dụng cùng một phương pháp.

Nimittakammakathāvaṇṇanā

Giải thích về hành động làm dấu hiệu

120. Nimittakammakathāyaṃ akkhinikhaṇanādinimittakammaṃ pana lahukaṃ ittarakālaṃ, tasmā taṅkhaṇeyeva taṃ bhaṇḍaṃ avaharituṃ na sakkā. Nimittakammānantarameva gaṇhituṃ āraddhattā teneva nimittena avaharatīti vuccati. Yadi evaṃ purebhattappayogova esoti vādo pamāṇabhāvaṃ āpajjatīti? Nāpajjati. Na hi saṅketakammaṃ (pārā. 119) viya nimittakammaṃ kālaparicchedayuttaṃ. Kālavasena hi saṅketakammaṃ vuttaṃ, kiriyāvasena nimittakammanti ayameva tesaṃ viseso. ‘‘Taṃ nimittaṃ pure vā pacchā vā taṃ bhaṇḍaṃ avaharati, mūlaṭṭhassa anāpattī’’ti idaṃ pana nimittakaraṇato pure gaṇhantassa ceva nimittakamme ca katepi gaṇhituṃ anārabhitvā pacchā sayameva gaṇhantassa ca vasena vuttaṃ.
120. Trong phần giải thích về hành động làm dấu hiệu, hành động làm dấu hiệu như khoét mắt v.v… thì nhẹ và diễn ra trong thời gian ngắn, do đó không thể lấy trộm vật dụng đó ngay lập tức. Vì đã bắt đầu lấy ngay sau khi làm dấu hiệu, nên được gọi là lấy trộm bằng chính dấu hiệu đó. Nếu vậy, có phải lập luận rằng đây chính là phương tiện trước bữa ăn sẽ trở thành tiêu chuẩn không? Không phải. Vì hành động làm dấu hiệu không có sự phân định về thời gian như hành động theo ám hiệu (pārā. 119). Hành động theo ám hiệu được nói theo thời gian, còn hành động làm dấu hiệu thì theo hành động, đây chính là sự khác biệt của chúng. “Dấu hiệu đó, trước hoặc sau, nếu lấy trộm vật dụng đó, thì người gốc không bị tội”: điều này được nói theo cách của người lấy trước khi làm dấu hiệu, và của người, dù đã làm dấu hiệu, nhưng không bắt đầu lấy mà sau đó tự mình lấy.

Āṇattikathāvaṇṇanā

Giải thích về sự ra lệnh

121. Āṇattikathāyaṃ asammohatthanti yasmā saṅketakammanimittakammāni karonto na kevalaṃ purebhattādikālasaṅketakammaṃ akkhinikhaṇanādinimittakammameva vā karoti, atha kho evaṃvaṇṇasaṇṭhānabhaṇḍaṃ gaṇhāti, bhaṇḍaniyamampi karoti, tvaṃ itthannāmassa pāvada, so aññassa pāvadatūtiādinā puggalapaṭipāṭiyā ca āṇāpeti, tasmā pubbaṇhādikālavasena akkhinikhaṇanādikiriyāvasena bhaṇḍapuggalapaṭipāṭivasena ca āṇatte etesu saṅketakammanimittakammesu visaṅketā visaṅketabhāve sammoho jāyati, tadapagamena asammohatthaṃ. Yaṃ āṇāpakena nimittasaññaṃ katvā vuttanti pubbaṇhādīsu akkhinikhaṇanādīsu vā gahaṇatthaṃ āṇāpentena īdisavaṇṇasaṇṭhānādiyuttaṃ gaṇhāti evaṃ gahaṇassa nimittabhūtasaññāṇaṃ katvā yaṃ bhaṇḍaṃ vuttaṃ. Ayaṃ yutti sabbatthāti heṭṭhā vuttesu upari vakkhamānesu ca sabbattha āṇattippasaṅgesu āṇattikkhaṇeyeva pārājikādīnaṃ bhāvasaṅkhātā vinayayutti, sā ca āṇattassa kiriyāniṭṭhāpanakkhaṇe āṇāpakassa payoge theyyacittānaṃ abhāvā āṇattikkhaṇe ekā eva āpatti hotīti evaṃ upapattiyā pavattattā yuttīti vuttā. ‘‘Mūlaṭṭhassa thullaccaya’’nti vuttattā saṅgharakkhitena paṭiggahitepi buddharakkhitadhammarakkhitānaṃ dukkaṭameva, kasmā panettha ācariyassa thullaccayanti āha ‘‘mahājano hī’’tiādi. Mahājanoti ca buddharakkhitadhammarakkhitasaṅgharakkhite sandhāya vuttaṃ. Mūlaṭṭhasseva dukkaṭanti buddharakkhitassa dukkaṭaṃ. Idañca mūlaṭṭhassa thullaccayābhāvadassanatthaṃ paṭhamaṃ āṇattikkhaṇe dukkaṭaṃ sandhāya vuttaṃ, na pana saṅgharakkhitassa paṭiggahaṇapaccayā puna dukkaṭasambhavaṃ sandhāya. Na hi so ekapayogena dukkaṭadvayaṃ āpajjati. Keci pana ‘‘visaṅketattā pāḷiyaṃ ‘mūlaṭṭhassā’ti avatvā ‘paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassā’ti sāmaññena vuttattā idaṃ saṅgharakkhitassa dukkaṭaṃ sandhāya vutta’’nti vadanti, taṃ kiñcāpi aṭṭhakathāya na sameti, pāḷito pana yuttaṃ viya dissati. Na hi tassa paṭiggahaṇappayoge anāpatti hotīti. Imināva heṭṭhā āgatavāresupi paṭiggaṇhantānaṃ dukkaṭaṃ veditabbaṃ. ‘‘Paṇṇe vā silādīsu vā ‘coriyaṃ kātabba’nti likhitvā ṭhapite pārājikamevā’’ti keci vadanti, taṃ pana ‘‘asukassa gehe bhaṇḍa’’nti evaṃ niyametvā likhite yujjati, na aniyametvā likhiteti vīmaṃsitabbaṃ. Maggānantaraphalasadisāti iminā yathā ariyapuggalānaṃ maggānantare phale uppanne kilesapaṭippassaddhipariyosānaṃ bhāvanākiccaṃ nipphannaṃ nāma hoti, evametissā atthasādhakacetanāya uppannāya āṇattikiccaṃ nipphannamevāti dasseti, tenāha ‘‘tasmā ayaṃ āṇattikkhaṇeyeva pārājiko’’ti, āṇattivacīpayogasamuṭṭhāpakacetanākkhaṇeyeva pārājiko hotīti attho.
121. Trong phần giải thích về sự ra lệnh, để không bị nhầm lẫn: vì người làm hành động theo ám hiệu và hành động làm dấu hiệu không chỉ làm hành động theo ám hiệu về thời gian như trước bữa ăn v.v… hoặc chỉ làm hành động làm dấu hiệu như khoét mắt v.v…, mà còn quy định về vật dụng rằng ‘hãy lấy vật dụng có màu sắc và hình dạng như thế này,’ và cũng ra lệnh theo thứ tự của người bằng cách nói ‘ngươi hãy nói với người tên kia, để người đó nói với người khác,’ do đó, khi đã được ra lệnh theo thời gian như buổi sáng v.v…, theo hành động như khoét mắt v.v…, và theo thứ tự của vật dụng và người, thì sự nhầm lẫn về việc có sai ám hiệu hay không trong các hành động theo ám hiệu và hành động làm dấu hiệu này sẽ phát sinh, để loại bỏ sự nhầm lẫn đó. Điều đã được người ra lệnh nói sau khi đã làm dấu hiệu: là vật dụng đã được nói sau khi đã làm dấu hiệu là nền tảng của việc lấy, như ‘hãy lấy vật dụng có màu sắc và hình dạng như thế này,’ bởi người ra lệnh để lấy vào buổi sáng v.v… hoặc khi khoét mắt v.v… Sự hợp lý này áp dụng cho mọi nơi: là sự hợp lý của luật, là trạng thái bị tội Bất Cộng Trụ v.v… ngay trong khoảnh khắc ra lệnh trong tất cả các trường hợp ra lệnh đã được nói ở dưới và sẽ được nói ở trên. Và nó được gọi là hợp lý vì được tiến hành một cách hợp lý rằng vì người ra lệnh không có phương tiện và tâm trộm cắp vào lúc hành động của người được ra lệnh hoàn thành, nên chỉ có một tội xảy ra vào lúc ra lệnh. Vì đã nói “tội Trọng Tội đối với người gốc,” nên ngay cả khi Saṅgharakkhita đã nhận, Buddharakkhita và Dhammarakkhita cũng chỉ bị tội Tác Ác. Tại sao ở đây thầy lại bị tội Trọng Tội? Nói là “vì là nhiều người” v.v… Và ‘nhiều người’ được nói nhắm đến Buddharakkhita, Dhammarakkhita, và Saṅgharakkhita. Chỉ bị tội Tác Ác đối với người gốc: là tội Tác Ác của Buddharakkhita. Và điều này được nói nhắm đến tội Tác Ác vào lúc ra lệnh đầu tiên để chỉ ra sự không có tội Trọng Tội đối với người gốc, không phải nhắm đến khả năng có tội Tác Ác lại do duyên nhận của Saṅgharakkhita. Vì người đó không phạm hai tội Tác Ác bằng một phương tiện. Nhưng một số người nói rằng “vì do sai ám hiệu, trong Pāḷi đã nói một cách chung chung là ‘người nhận bị tội Tác Ác’ mà không nói là ‘của người gốc,’ nên điều này được nói nhắm đến tội Tác Ác của Saṅgharakkhita,” điều đó dù không tương ứng với Chú giải, nhưng có vẻ hợp lý theo Pāḷi. Vì không phải là người đó vô tội trong phương tiện nhận. Cần biết rằng tội Tác Ác của những người nhận trong các lượt đã có ở dưới cũng theo cách này. Một số người nói rằng “nếu viết ‘phải làm việc trộm cắp’ trên lá thư hoặc trên đá v.v… rồi để đó, thì bị tội Bất Cộng Trụ,” nhưng cần phải xem xét rằng điều đó hợp lý khi viết một cách xác định như “vật dụng ở nhà của người kia,” không phải khi viết không xác định. Tương tự như quả ngay sau đạo: bằng câu này, chỉ ra rằng giống như đối với các bậc Thánh, khi quả phát sinh ngay sau đạo, thì phận sự tu tập là sự lắng dịu của phiền não được gọi là đã hoàn thành, cũng vậy, khi tư tưởng thực hiện mục đích này phát sinh, thì phận sự ra lệnh cũng đã hoàn thành. Do đó nói là “vì vậy, người này bị tội Bất Cộng Trụ ngay trong khoảnh khắc ra lệnh,” có nghĩa là bị tội Bất Cộng Trụ ngay trong khoảnh khắc của tư tưởng tạo ra phương tiện khẩu ra lệnh.

Āṇattikathāvaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về sự ra lệnh đã kết thúc.

Āpattibhedavaṇṇanā

Giải thích về sự phân biệt tội

122.Tattha tatthāti bhūmaṭṭhathalaṭṭhādīsu. Pāḷiyaṃ manussapariggahitaṃ sandhāya ‘‘parapariggahita’’nti vuttaṃ. Āmasati phandāpeti ṭhānā cāvetīti imehi tīhi padehi pubbapayogasahitaṃ pañcamaṃ avahāraṅgaṃ vuttaṃ, ṭhānā cāvetīti ca idaṃ upalakkhaṇamattaṃ. Āṇattikādayo sabbepi payogā dhuranikkhepo ca idha saṅgahetabbāvāti daṭṭhabbaṃ.
122.Ở từng nơi: ở những nơi trên mặt đất, trên cạn v.v… Trong Pāḷi, nhắm đến vật sở hữu của người, đã nói là “của người khác sở hữu.” Bằng ba từ ‘chạm, làm rung động, di chuyển khỏi nơi chốn,’ đã nói đến yếu tố thứ năm của sự trộm cắp cùng với phương tiện trước đó. Và ‘di chuyển khỏi nơi chốn’ ở đây chỉ là một ví dụ. Cần hiểu rằng tất cả các phương tiện như ra lệnh v.v… và sự từ bỏ trách nhiệm đều phải được bao gồm ở đây.

125.Ṭhānācāvananti idaṃ pāḷianusārato vuttaṃ dhuranikkhepassāpi saṅgahetabbato. Esa nayo uparipi sabbattha. Tattha hi na ca sakasaññīti iminā parapariggahitatā vuttā, na ca vissāsaggāhī na ca tāvakālikanti imehi parapariggahitasaññitā, tīhi vā etehi parapariggahitatā parapariggahitasaññitā ca vuttāti veditabbā. Anajjhāvutthakanti ‘‘mameda’’nti pariggahavasena anajjhāvutthakaṃ araññe dārutiṇapaṇṇādi. Chaḍḍitanti paṭhamaṃ pariggahetvā pacchā anatthikatāya chaḍḍitaṃ yaṃ kiñci. Chinnamūlakanti naṭṭhaṃ pariyesitvā ālayasaṅkhātassa mūlassa chinnattā chinnamūlakaṃ. Assāmikanti anajjhāvutthakādīhi tīhi ākārehi dassitaṃ assāmikavatthu. Ubhayampīti assāmikaṃ attano santakañca.
125.Sự di chuyển khỏi nơi chốn: điều này được nói theo Pāḷi, do cũng phải bao gồm cả sự từ bỏ trách nhiệm. Phương pháp này cũng áp dụng cho mọi nơi ở trên. Ở đó, bằng câu ‘không phải là của mình,’ đã nói đến tính chất của người khác sở hữu. Bằng các câu ‘không phải là lấy do thân quen, không phải là tạm thời,’ đã nói đến ý nghĩ là của người khác sở hữu. Hoặc cần biết rằng bằng cả ba câu này, đã nói đến cả tính chất của người khác sở hữu và ý nghĩ là của người khác sở hữu. Không có người ở: không có người ở theo cách sở hữu rằng “cái này của tôi,” như cây, cỏ, lá v.v… trong rừng. Đã bị vứt bỏ: bất cứ thứ gì đã được sở hữu lúc đầu, rồi sau đó bị vứt bỏ do không cần đến. Đã bị mất gốc: đã bị mất gốc do đã mất và đã bị cắt đứt gốc rễ là sự luyến tiếc sau khi đã tìm kiếm. Không có chủ: đối tượng không có chủ đã được chỉ ra bằng ba cách là không có người ở v.v… Cả hai: cả không có chủ và của chính mình.

Anāpattibhedavaṇṇanā

Giải thích về sự phân biệt vô tội

131.Tasmiṃyeva attabhāve nibbattāti tasmiṃyeva matasarīre petattabhāvena nibbattā. Rukkhādīsu laggitasāṭake vattabbameva natthīti manussehi agopitaṃ sandhāya vuttaṃ, sace panetaṃ devālayacetiyarukkhādīsu niyuttehi purisehi rakkhitagopitaṃ hoti, gahetuṃ na vaṭṭati. Thoke khāyite…pe… gahetuṃ vaṭṭatīti idaṃ adinnādānābhāvaṃ sandhāya vuttaṃ. Jighacchitapāṇinā khādiyamānamaṃsassa acchinditvā khādanaṃ nāma kāruññahānito lolabhāvato ca asāruppameva. Teneva hi ariyavaṃsikā attano patte bhattaṃ khādantampi sunakhādiṃ tajjetvā na vārenti, tiracchānānaṃ āmisadāne kusalaṃ viya tesaṃ āmisassa acchindanepi akusalamevāti gahetabbaṃ, teneva vakkhati ‘‘parānuddayatāya ca na gahetabba’’nti (pārā. aṭṭha. 1.140).
131.Đã sinh ra trong chính thân phận đó: đã sinh ra trong chính thân thể người chết đó với thân phận ngạ quỷ. Không cần phải nói đến tấm vải treo trên cây v.v…: được nói nhắm đến vật không được người ta bảo vệ. Nhưng nếu nó được bảo vệ và canh giữ bởi những người được giao nhiệm vụ ở các đền thờ, tháp, cây cối v.v…, thì không được phép lấy. Khi đã bị ăn một ít… v.v… được phép lấy: điều này được nói nhắm đến sự không có tội trộm cắp. Việc không cắt mà ăn thịt đang bị con vật đói ăn là không phù hợp do làm mất lòng từ bi và do tính tham lam. Chính vì thế, các vị theo dòng dõi Thánh không xua đuổi ngay cả chó v.v… đang ăn cơm trong bát của mình. Cần hiểu rằng giống như có phước thiện trong việc cho thức ăn cho súc sanh, thì việc không cắt thức ăn của chúng cũng chỉ là bất thiện. Chính vì thế sẽ nói là “và không nên lấy do lòng thương xót chúng sanh” (pārā. aṭṭha. 1.140).

Pakiṇṇakakathāvaṇṇanā

Giải thích về các vấn đề linh tinh

Bahu ekato dāruādibhāriyassa ekassa bhaṇḍassa ukkhipanakāle ‘‘gaṇhatha ukkhipathā’’ti vacīpayogena saddhiṃ kāyapayogasabbhāvaṭṭhānaṃ sandhāya ‘‘sāhatthikāṇattika’’nti vuttaṃ. ‘‘Tvaṃ etaṃ vatthuṃ gaṇha, ahaṃ añña’’nti evaṃ pavatte pana avahāre attanā gahitaṃ sāhatthikameva, parena gāhāpitaṃ āṇattikameva, teneva tadubhayagghena pañcamāsepi pārājikaṃ na hoti, ekekabhaṇḍagghavasena thullaccayādimeva hoti. Vuttañhi ‘‘sāhatthikaṃ vā āṇattikassa aṅgaṃ na hotī’’tiādi. Upanikkhittabhaṇḍaṃ bhaṇḍadeyyañca adātukāmatāya ‘‘demi dammī’’ti vikkhipanto tuṇhībhāvena viheṭhentopi tena tena kāyavikārādikiriyāya parassa dhuraṃ nikkhipāpesīti ‘‘kiriyāsamuṭṭhānañcā’’ti vuttaṃ.
Nhắm đến nơi có phương tiện thân cùng với phương tiện khẩu “hãy lấy, hãy nhấc lên” vào lúc nhấc một vật dụng duy nhất là gánh củi v.v… có nhiều thứ gộp lại, đã nói là “vừa tự tay vừa ra lệnh.” Nhưng trong hành vi trộm cắp diễn ra như thế này: “ngươi hãy lấy vật này, ta lấy vật khác,” thì vật do mình lấy chỉ là tự tay, vật do sai người khác lấy chỉ là ra lệnh. Do đó, ngay cả khi giá trị của cả hai vật đó là năm māsa, cũng không bị tội Bất Cộng Trụ, mà chỉ bị tội Trọng Tội v.v… theo giá trị của từng vật dụng. Đã được nói: “việc làm bằng tự tay không phải là một yếu tố của việc ra lệnh” v.v… Người loanh quanh nói “tôi cho, tôi sẽ cho” do ý muốn không trả vật gửi gắm và vật phải trả, hoặc gây phiền nhiễu bằng sự im lặng, cũng được gọi là “cũng phát sinh từ hành động” vì đã làm cho người khác từ bỏ trách nhiệm bằng các hành vi thân thể đó.

Padabhājanīyavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về Phân Tích Từ Ngữ đã kết thúc.

Vinītavatthuvaṇṇanā

Giải thích về các câu chuyện đã được phân xử

135. Vinītavatthūsu niruttiyeva taṃtaṃatthaggahaṇassa upāyatāya pathoti niruttipatho, tenevāha ‘‘vohāravacanamatte’’ti. Yathākammaṃ gatoti tato petattabhāvato matabhāvaṃ dasseti. Abbhuṇheti āsannamaraṇatāya sarīrassa uṇhasamaṅgitaṃ dasseti, tenevāha ‘‘allasarīre’’ti. Kuṇapabhāvaṃ upagatampi bhinnameva allabhāvato bhinnattā. Visabhāgasarīreti itthisarīre. Sīse vātiādi adhakkhake ubbhajāṇumaṇḍale padese cittavikārappattiṃ sandhāya vuttaṃ, yattha katthaci anāmasantena kataṃ sukatameva. Matasarīrampi hi yena kenaci ākārena sañcicca phusantassa anāmāsadukkaṭamevāti vadanti, taṃ yuttameva. Na hi apārājikavatthukepi cittādiitthirūpe bhavantaṃ dukkaṭaṃ pārājikavatthubhūte matitthisarīre nivattati.
135. Trong các câu chuyện đã được phân xử, chính ngữ nguyên là con đường vì là phương tiện để hiểu từng ý nghĩa, do đó nói là “chỉ là lời nói thông thường.” Đã đi theo nghiệp: từ thân phận ngạ quỷ đó, chỉ ra trạng thái đã chết. Khi còn nóng: chỉ ra trạng thái thân thể còn nóng do sắp chết, do đó nói là “trong thân thể tươi.” Dù đã đến trạng thái xác chết, nhưng vẫn khác vì khác với trạng thái tươi. Trong thân thể khác loại: trong thân thể người nữ. Hoặc trên đầu… v.v…: được nói nhắm đến sự phát sinh biến đổi của tâm ở các vùng trên đầu gối, dưới rốn. Việc làm mà không chạm vào bất cứ đâu là việc làm tốt. Một số người nói rằng ngay cả khi cố ý chạm vào thân thể người chết bằng bất kỳ cách nào, cũng chỉ bị tội Tác Ác do không chạm. Điều đó rất hợp lý. Vì tội Tác Ác có trong các hình tượng phụ nữ bằng bột v.v… không phải là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ, thì không thể không có trong thân thể người nữ đã chết là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ.

Kusasaṅkāmanavatthukathāvaṇṇanā

Giải thích về câu chuyện di chuyển cọc cỏ

138.Balasāti balena. Sāṭako bhavissati, gaṇhissāmīti anāgatavacanaṃ pasibbakaggahaṇato puretaraṃ samuppannaparikappadassanavasena vuttaṃ. Gahaṇakkhaṇe pana ‘‘sāṭako ce, gaṇhāmī’’ti pasibbakaṃ gaṇhātīti evamettha adhippāyo gahetabbo, na pana bahi nīharitvā sāṭakabhāvaṃ ñatvā gahessāmīti, tenāha ‘‘uddhāreyeva pārājika’’nti. Itarathā ‘‘idāni na gaṇhāmi, pacchā andhakāre jāte vijānanakāle vā gaṇhissāmi, idāni olokento viya hatthagataṃ karomī’’ti gaṇhantassāpi gahaṇakkhaṇe avahāro bhaveyya, na ca taṃ yuttaṃ tadā gahaṇe sanniṭṭhānābhāvā. Sanniṭṭhāpakacetanāya eva hi pāṇātipātādiakusalaṃ viya. Na hi ‘‘pacchā vadhissāmī’’ti pāṇaṃ gaṇhantassa tadeva tasmiṃ matepi pāṇātipāto hoti vadhakacetanāya payogassa akatattā, evamidhāpi atthaṅgate sūriye avaharissāmītiādinā kālaparikappanavasena ṭhānā cāvitepi tadāpi avahāro na hoti okāsaparikappe (pārā. aṭṭha. 1.138) viya, tasmiṃ pana yathāparikappitaṭṭhāne kāle āgate bhaṇḍaṃ bhūmiyaṃ anikkhipitvāpi theyyacittena gacchato padavārena avahāroti khāyati. Tasmā bhaṇḍaparikappo okāsaparikappo kālaparikappoti tividhopi parikappo gahetabbo. Aṭṭhakathāyaṃ pana okāsaparikappe samodhānetvā kālaparikappo visuṃ na vuttoti amhākaṃ khanti, vīmaṃsitvā gahetabbaṃ. Padavārena kāretabboti bhūmiyaṃ anikkhipitvā vīmaṃsitattā vuttaṃ. Pariyuṭṭhitoti anubaddho.
138.Bằng vũ lực: bằng sức mạnh. Sẽ là tấm vải, tôi sẽ lấy: lời nói tương lai được nói để chỉ ra sự suy tính đã phát sinh trước cả khi lấy cái túi. Nhưng vào lúc lấy, cần hiểu ý định ở đây là người đó lấy cái túi với ý nghĩ “nếu là tấm vải, tôi lấy,” không phải là sau khi đã mang ra ngoài và biết là tấm vải rồi mới lấy. Do đó nói là “bị tội Bất Cộng Trụ ngay khi nhấc lên.” Nếu không, đối với người lấy với ý nghĩ “bây giờ tôi không lấy, sau này khi trời tối hoặc khi có thể nhận biết được, tôi sẽ lấy; bây giờ tôi chỉ làm ra vẻ như đang xem và cầm lấy,” thì hành vi trộm cắp cũng sẽ xảy ra vào lúc lấy, và điều đó không hợp lý, vì lúc đó không có sự quyết định trong việc lấy. Vì giống như các nghiệp bất thiện như sát sanh v.v…, nó chỉ có với tư tưởng quyết định. Đối với người bắt một sinh vật với ý nghĩ “sau này tôi sẽ giết,” thì đó không phải là tội sát sanh ngay cả khi con vật đó chết, vì chưa thực hiện phương tiện bằng tư tưởng giết. Ở đây cũng vậy, dù đã di chuyển khỏi nơi chốn theo cách định đoạt về thời gian như ‘sau khi mặt trời lặn, tôi sẽ lấy,’ nhưng lúc đó cũng không có hành vi trộm cắp, giống như trong sự định đoạt về nơi chốn (pārā. aṭṭha. 1.138). Nhưng khi đã đến nơi và thời gian đã được định đoạt, thì hành vi trộm cắp theo từng bước chân đối với người đi với tâm trộm cắp mà không đặt vật dụng xuống đất được biết đến. Do đó, cần phải lấy cả ba loại định đoạt là định đoạt về vật dụng, định đoạt về nơi chốn, và định đoạt về thời gian. Nhưng quan điểm của chúng tôi là trong Chú giải, sự định đoạt về thời gian được gộp vào sự định đoạt về nơi chốn và không được nói riêng. Cần phải xem xét kỹ lưỡng rồi mới chấp nhận. Phải bị phạt theo từng bước chân: được nói do đã xem xét mà không đặt xuống đất. Bị đeo bám: bị theo đuổi.

Parikappo dissatīti gahaṇakkhaṇe parikappo dissati, na tadā tesaṃ matena avahāroti dasseti. Disvā haṭattā parikappāvahāro na dissatīti pacchā pana bahi vīmaṃsitvā sāṭakabhāvaṃ ñatvā tato pacchā theyyacittena haṭattā pubbe katassa parikappassa avahārānaṅgattā ‘‘sutta’’nti ñatvā haraṇe viya theyyāvahāro eva siyā. Tasmā parikappāvahāro na dissati. Sāṭako ce bhavissatītiādikassa parikappassa tadā avijjamānattā kevalaṃ avahāro eva, na parikappāvahāroti adhippāyo, tena bhaṇḍaparikappāvahārassa ‘‘sāṭako ce bhavissati, gahessāmī’’ti evaṃ bhaṇḍasanniṭṭhānābhāvakkhaṇeyeva pavattiṃ dasseti, tenāha ‘‘yaṃ parikappitaṃ, taṃ adiṭṭhaṃ parikappitabhāve ṭhitaṃyeva uddharantassa avahāro’’ti. Yadi evaṃ kasmā okāsapaappāvahāro bhaṇḍaṃ disvā avaharantassa parikappāvahāro siyāti? Nāyaṃ doso abhaṇḍavisayattā tassa parikappassa, pubbeva disvā ñātabhaṇḍasseva hi okāsaparikappo vutto. Taṃ maññamāno taṃ avaharīti idaṃ suttaṃ kiñcāpi ‘‘taññeveta’’nti niyametvā gaṇhantassa vasena vuttaṃ, tathāpi ‘‘tañce gaṇhissāmī’’ti evaṃ pavatte imasmiṃ parikappepi ‘‘gaṇhissāmī’’ti gahaṇe niyamasabbhāvā avahāratthasādhakaṃ hotīti uddhaṭaṃ, teneva ‘‘sametī’’ti vuttaṃ.
Sự định đoạt được thấy: sự định đoạt được thấy vào lúc lấy, để chỉ ra rằng theo quan điểm của họ, lúc đó không có hành vi trộm cắp. Không thấy có hành vi trộm cắp bằng cách định đoạt vì đã thấy và lấy đi: nhưng sau đó, sau khi đã xem xét ở ngoài và biết là tấm vải, rồi sau đó lấy đi với tâm trộm cắp, vì sự định đoạt đã làm trước đó không phải là một yếu tố của hành vi trộm cắp, nên chỉ là hành vi trộm cắp, giống như khi lấy đi sau khi đã biết là “chỉ,” do đó không thấy có hành vi trộm cắp bằng cách định đoạt. Ý là vì sự định đoạt ‘nếu sẽ là tấm vải’ v.v… không tồn tại vào lúc đó, nên chỉ là hành vi trộm cắp, không phải là hành vi trộm cắp bằng cách định đoạt. Bằng điều đó, chỉ ra sự diễn ra của hành vi trộm cắp bằng cách định đoạt về vật dụng ngay trong khoảnh khắc không có sự quyết định về vật dụng như ‘nếu sẽ là tấm vải, tôi sẽ lấy.’ Do đó nói là “điều đã được định đoạt, điều đó chưa được thấy, hành vi trộm cắp của người nhấc lên khi nó vẫn còn trong trạng thái đã được định đoạt.” Nếu vậy, tại sao hành vi trộm cắp bằng cách định đoạt về nơi chốn lại là hành vi trộm cắp bằng cách định đoạt đối với người lấy vật dụng sau khi đã thấy? Đây không phải là lỗi, vì sự định đoạt đó không liên quan đến vật dụng, vì sự định đoạt về nơi chốn đã được nói đến đối với vật dụng đã được thấy và biết từ trước. Nghĩ rằng đó là nó, đã lấy trộm nó: kinh này, dù được nói theo cách của người lấy một cách xác định rằng “chính là nó,” nhưng vì trong sự định đoạt này diễn ra như ‘nếu tôi sẽ lấy nó,’ có sự xác định trong việc lấy ‘tôi sẽ lấy,’ nên nó có thể thực hiện mục đích của hành vi trộm cắp, do đó đã được trích dẫn. Chính vì thế đã nói là “tương ứng.”

Kecīti mahāaṭṭhakathāyameva ekacce ācariyā. Mahāpaccariyaṃ panātiādināpi kecivādo gārayho, mahāaṭṭhakathāvādova yuttataroti dasseti.
Một số người: là một số vị thầy trong chính Đại Chú giải. Nhưng trong Mahāpaccarī… v.v…: cũng chỉ ra rằng quan điểm của một số người là đáng bị khiển trách, còn quan điểm của Đại Chú giải thì hợp lý hơn.

Alaṅkārabhaṇḍanti aṅgulimuddikādi. Kusaṃ pātetvāti vilīvamayaṃ vā tālapaṇṇādimayaṃ vā katasaññāṇaṃ pātetvā. Parakoṭṭhāsato kuse uddhaṭepi na tāva kusassa parivattanaṃ jātanti vuttaṃ ‘‘uddhāre rakkhatī’’ti. Hatthato muttamatte pārājikanti iminā ṭhānācāvanaṃ dhuranikkhepañca vinā kusasaṅkāmanaṃ nāma visuṃ ekoyaṃ avahāroti dasseti. Sabbepi hi avahārā sāhatthikāṇattikādhippāyayogehi nipphādiyamānā atthato ṭhānācāvanadhuranikkhepakusasaṅkāmanesu tīsu samosarantīti daṭṭhabbaṃ. Itaro tassa bhāgaṃ uddharati, uddhāre pārājikanti purimassa attano koṭṭhāse ālayassa avigatattā vuttaṃ, ālaye pana sabbathā asati avahāro na hoti, tenāha ‘‘vicinitāvasesaṃ gaṇhantassāpi avahāro natthevā’’ti.
Đồ trang sức: nhẫn v.v… Sau khi đã ném cọc cỏ: sau khi đã ném dấu hiệu được làm bằng tre hoặc lá cọ v.v… Dù đã nhấc cọc cỏ lên từ phần của người khác, nhưng sự thay đổi của cọc cỏ chưa xảy ra, nên đã nói là “bảo vệ khi nhấc lên.” Bị tội Bất Cộng Trụ ngay khi vừa rời khỏi tay: bằng câu này, chỉ ra rằng việc di chuyển cọc cỏ là một hành vi trộm cắp riêng biệt, ngoài sự di chuyển khỏi nơi chốn và sự từ bỏ trách nhiệm. Cần hiểu rằng tất cả các hành vi trộm cắp, khi được thực hiện bằng các phương tiện có ý định tự tay hoặc ra lệnh, về mặt ý nghĩa đều quy về ba điều là di chuyển khỏi nơi chốn, từ bỏ trách nhiệm, và di chuyển cọc cỏ. Người kia nhấc phần của người đó lên, bị tội Bất Cộng Trụ khi nhấc lên: được nói do sự luyến tiếc của người trước trong phần của mình chưa mất đi. Nhưng khi hoàn toàn không có luyến tiếc, thì không có hành vi trộm cắp. Do đó nói là “ngay cả đối với người lấy phần còn lại sau khi đã lựa chọn, cũng không có hành vi trộm cắp.”

Nāyaṃ mamāti jānantopīti ettha pi-saddena tattha vematikopi hutvā theyyacittena gaṇhantopi saṅgayhati. Siveyyakanti siviraṭṭhe jātaṃ.
Dù biết rằng đây không phải là của tôi: ở đây, bằng từ ‘pi,’ bao gồm cả người lấy với tâm trộm cắp dù có nghi ngờ ở đó. Siveyyaka: được làm ở xứ Sivi.

140-1.Kappiyaṃ kārāpetvāti pacāpetvā. Tasmiṃ pācittiyanti adinnādānabhāvena sahapayogassāpi abhāvā dukkaṭaṃ na vuttanti veditabbaṃ. Āṇattehīti sammatena āṇattehi. Āṇattenāti sāmikehi āṇattena. Bhaṇḍadeyyanti sammatādīhi dinnattā na parājikaṃ jātaṃ, asantaṃ puggalaṃ vatvā gahitattā pana bhaṇḍadeyyaṃ vuttaṃ. Aññena diyyamānanti sammatādīhi catūhi aññena diyyamānaṃ. Gaṇhantoti ‘‘aparassa bhāgaṃ dehī’’ti vatvā gaṇhanto. Aparassāti asantaṃ puggalaṃ adassetvā pana ‘‘aparaṃ bhāgaṃ dehī’’ti vā kūṭavassāni gaṇetvā vā gaṇhato gihisantake sāminā ca ‘‘imassa dehī’’ti evaṃ āṇattena ca dinne bhaṇḍadeyyampi na hoti, saṅghasantake pana hotīti imaṃ visesaṃ dassetuṃ asammatena vā anāṇattena vātiādi puna vuttaṃ. Itarehi diyyamānanti sammatena āṇattena vā diyyamānaṃ. Evaṃ gaṇhatoti ‘‘aparampi bhāgaṃ dehī’’ti vatvā kūṭavassāni gaṇetvā vā gaṇhato. Sāmikena panāti ettha pana-saddo visesatthajotako, tena ‘‘aparampi bhāgaṃ dehī’’ti vā kūṭavassāni gaṇetvā vā gaṇhante sāmikena sayaṃ dente vā dāpente vā viseso atthīti vuttaṃ hoti. Sudinnanti bhaṇḍadeyyaṃ na hotīti adhippāyo. Heṭṭhā pana sāmikena tena āṇattena vā diyyamānaṃ gihisantakaṃ ‘‘aparassa bhāgaṃ dehī’’ti vatvā gaṇhato aparassa abhāvato sāmisantakameva hotīti bhaṇḍadeyyaṃ jātaṃ, idha pana tehiyeva diyyamānaṃ ‘‘aparampi bhāgaṃ dehī’’ti vatvā vā kūṭavassāni gaṇetvā vā gaṇhato ‘‘dehī’’ti vuttattā aññātakaviññattimattaṃ ṭhapetvā bhaṇḍadeyyaṃ na hotīti sudinnamevāti vuttaṃ. Assāmikena pana āṇattena dinnaṃ bhaṇḍaṃ gaṇhato bhaṇḍadeyyamevāti vadanti, pattacatukke viya avahāratāvettha yuttā, saṅghasantake pana ‘‘dehī’’ti vuttepi sāmikassa kassaci abhāvā sammatena dinnepi bhaṇḍadeyyaṃ vuttanti gahetabbaṃ.
140-1.Sau khi đã cho nấu: sau khi đã cho nấu. Tội Ưng Đối Trị trong đó: cần biết rằng tội Tác Ác không được nói đến do không có tội trộm cắp và cũng không có cùng phương tiện. Bởi những người đã được ra lệnh: bởi những người đã được người được đồng ý ra lệnh. Bởi người đã được ra lệnh: bởi người đã được các chủ sở hữu ra lệnh. Phải trả lại vật dụng: vì được người được đồng ý v.v… cho, nên không bị tội Bất Cộng Trụ. Nhưng vì đã nói đến một người không có thật mà lấy, nên đã nói là phải trả lại vật dụng. Được cho bởi người khác: được cho bởi người khác ngoài bốn người là người được đồng ý v.v… Người lấy: người lấy sau khi đã nói “hãy cho phần của người khác.” Của người khác: nhưng đối với người lấy sau khi đã nói “hãy cho phần khác” mà không chỉ ra một người không có thật, hoặc sau khi đã đếm số năm hạ giả, nếu được cho bởi chủ sở hữu trong tài sản của người tại gia và bởi người đã được ra lệnh rằng “hãy cho người này,” thì ngay cả việc phải trả lại vật dụng cũng không có. Nhưng trong tài sản của Tăng thì có, để chỉ ra sự khác biệt này, đã nói lại là hoặc bởi người không được đồng ý hoặc không được ra lệnh v.v… Được cho bởi những người khác: được cho bởi người được đồng ý hoặc được ra lệnh. Đối với người lấy như vậy: đối với người lấy sau khi đã nói “hãy cho cả phần khác” hoặc sau khi đã đếm số năm hạ giả. Nhưng bởi chủ sở hữu: ở đây, từ ‘pana’ chỉ ra sự khác biệt. Bằng điều đó, có nghĩa là có sự khác biệt khi chủ sở hữu tự mình cho hoặc cho người khác cho đối với người lấy sau khi đã nói “hãy cho cả phần khác” hoặc sau khi đã đếm số năm hạ giả. Đã được cho tốt: ý là không phải trả lại vật dụng. Nhưng ở dưới, đối với người lấy tài sản của người tại gia được cho bởi chủ sở hữu hoặc bởi người đã được ra lệnh, sau khi đã nói “hãy cho phần của người khác,” vì không có người khác, nên nó trở thành của chính chủ sở hữu, do đó phải trả lại vật dụng. Ở đây, đối với người lấy vật được chính họ cho sau khi đã nói “hãy cho cả phần khác” hoặc sau khi đã đếm số năm hạ giả, vì đã nói “hãy cho,” nên ngoài việc chỉ là sự xin xỏ không biết, không phải trả lại vật dụng, nên đã nói là đã được cho tốt. Nhưng một số người nói rằng đối với người lấy vật dụng được cho bởi người được ra lệnh không phải là chủ sở hữu, thì phải trả lại vật dụng. Ở đây, tính chất trộm cắp giống như trong trường hợp bốn cái bát là hợp lý. Nhưng trong tài sản của Tăng, cần hiểu rằng ngay cả khi nói “hãy cho,” vì không có chủ sở hữu nào, nên ngay cả khi được người được đồng ý cho, cũng đã nói là phải trả lại vật dụng.

146-9.Āharāpentesu bhaṇḍadeyyanti ‘‘gahite attamano hotī’’ti vacanato anattamanassa santakaṃ gahitampi puna dātabbamevāti vuttaṃ. ‘‘Sammukhībhūtehi bhājetabba’’nti vacanato bhājanīyabhaṇḍaṃ upacārasīmaṭṭhānameva pāpuṇātīti āha ‘‘antoupacārasīmāyaṃ ṭhitasseva gahetuṃ vaṭṭatī’’ti. Bhaṇḍadeyyanti ubhinnaṃ sālayabhāvepi corassa adatvā sāmikasseva dātabbaṃ corenāpi sāmikasseva dātabbato. Eseva nayoti paṃsukūlasaññāya gahite bhaṇḍadeyyaṃ, theyyacittena pārājikanti attho.
146-9.Phải trả lại vật dụng trong những trường hợp mang đến: theo lời nói “hoan hỷ khi đã lấy,” đã nói rằng ngay cả vật đã được lấy của người không hoan hỷ cũng phải trả lại. Theo lời nói “phải chia cho những người có mặt,” vật dụng phải được chia chỉ đến được nơi có ranh giới phụ cận, nên nói là “chỉ được phép lấy đối với người đứng trong ranh giới phụ cận.” Phải trả lại vật dụng: dù cả hai đều có luyến tiếc, cũng phải trả lại cho chủ sở hữu mà không trả cho kẻ trộm, vì ngay cả kẻ trộm cũng phải trả lại cho chủ sở hữu. Cùng một phương pháp: ý là phải trả lại vật dụng khi lấy với ý nghĩ là vật phấn tảo, và bị tội Bất Cộng Trụ với tâm trộm cắp.

Vuṭṭhahantesūti gāmaṃ chaḍḍetvā palāyantesu. Avisesenāti saussāhatādivisesaṃ aparāmasitvā sāmaññato. Saussāhamattameva āpattibhāvassa pamāṇaṃ sāmikānaṃ paricchinnabhāvato. Tatoti gaṇasantakādito. Kulasaṅgahaṇatthāya detīti paṃsukūlavissāsikādisaññāya gahetvā deti, tadā kulasaṅgahapaccayā ca dukkaṭaṃ bhaṇḍadeyyañca, theyyacitte pana sati kulasaṅgahaṇatthāya gaṇhatopi pārājikameva. Ūnapañcamāsakādīsu kuladūsakadukkaṭena saddhiṃ thullaccayadukkaṭāni. Senāsanatthāya niyamitanti idaṃ issaravatāya dadato thullaccayadassanatthaṃ vuttaṃ. Itarapaccayatthāya dinnampi atheyyacittena issaravatāya kulasaṅgahaṇatthāya vā ñātakādīnaṃ vā dadato dukkaṭaṃ bhaṇḍadeyyañca hoteva. Issaravatāyāti ‘‘mayi dente ko nivāressati, ahamevettha pamāṇa’’nti evaṃ attano issariyabhāvena. Thullaccayanti kulasaṅgahaṇatthāya vā aññathā vā kāraṇena dadato senāsanatthāya niyamitassa garubhaṇḍatāya thullaccayaṃ bhaṇḍadeyyañca. Gīvāti ettha senāsanatthāya niyamite thullaccayena saddhiṃ gīvā, itarasmiṃ dukkaṭena saddhinti veditabbaṃ. Sukhāditamevāti antoupacārasīmāyaṃ ṭhatvā bhājetvā attano santakaṃ katvā khāditattā vuttaṃ. Saṅghikañhi vihārapaṭibaddhaṃ vebhaṅgiyaṃ bahiupacārasīmaṭṭhaṃ bhaṇḍaṃ antoupacāraṭṭhehi bhikkhūhi eva bhājetabbaṃ, na bahi ṭhitehi upacārasīmāya bhājetabbanti.
Khi họ đang đứng dậy: khi họ đang bỏ làng và trốn đi. Không phân biệt: một cách chung chung, không xem xét sự khác biệt như có nỗ lực v.v… Chỉ có nỗ lực là tiêu chuẩn của việc có tội, do tính chất đã được phân định của các chủ sở hữu. Từ đó: từ tài sản của Tăng đoàn v.v… Cho để duy trì mối quan hệ tốt với gia đình: cho sau khi đã lấy với ý nghĩ là vật phấn tảo, vật thân quen v.v… Khi đó, bị tội Tác Ác và phải trả lại vật dụng do duyên duy trì mối quan hệ tốt với gia đình. Nhưng nếu có tâm trộm cắp, thì ngay cả khi lấy để duy trì mối quan hệ tốt với gia đình, cũng bị tội Bất Cộng Trụ. Trong các trường hợp dưới năm māsa v.v…, bị tội Tác Ác làm ô uế gia đình cùng với các tội Tác Ác và Trọng Tội. Được quy định cho mục đích trú xứ: điều này được nói để chỉ ra tội Trọng Tội đối với người cho với tư cách là người có quyền. Ngay cả vật được cho vì mục đích duyên khác, đối với người cho với tư cách là người có quyền không có tâm trộm cắp để duy trì mối quan hệ tốt với gia đình hoặc cho quyến thuộc v.v…, cũng bị tội Tác Ác và phải trả lại vật dụng. Với tư cách là người có quyền: với tư cách là người có quyền lực của mình rằng “khi tôi cho, ai sẽ ngăn cản, chính tôi là tiêu chuẩn ở đây.” Tội Trọng Tội: tội Trọng Tội và phải trả lại vật dụng do là vật dụng nặng được quy định cho mục đích trú xứ, đối với người cho vì mục đích duy trì mối quan hệ tốt với gia đình hoặc vì lý do nào khác. Sự bồi thường: ở đây, cần biết là sự bồi thường cùng với tội Trọng Tội trong vật được quy định cho mục đích trú xứ, và cùng với tội Tác Ác trong vật khác. Đã được ăn một cách tốt đẹp: được nói do đã ăn sau khi đã làm thành của mình bằng cách chia trong ranh giới phụ cận. Vì vật dụng của Tăng thuộc về trú xứ, có thể phân chia, ở ngoài ranh giới phụ cận, phải được chia bởi chính các Tỳ-khưu ở trong ranh giới phụ cận, không phải bởi những người đứng ở ngoài, phải được chia trong ranh giới phụ cận.

150. ‘‘Vutto vajjemī’’ti vuttabhikkhusmiṃ ‘‘vutto vajjehī’’ti vuttassa pacchā uppajjanakapārājikādidosāropanato, gahaṭṭhānaṃ vā ‘‘bhadantā aparicchedaṃ katvā vadantī’’ti evaṃ dosāropanato.
150. Từ việc gán tội Bất Cộng Trụ v.v… sẽ phát sinh sau này cho Tỳ-khưu đã được nói trong câu “người đã được nói, tôi sẽ tránh,” hoặc từ việc gán tội của người tại gia rằng “các vị tôn giả nói mà không có sự phân định.”

153-5.Chātajjhattanti tena chātena jighacchāya udaragginā jhattaṃ, daḍḍhaṃ pīḷitanti attho. Dhanukanti khuddakadhanusaṇṭhānaṃ lagganakadaṇḍaṃ. Maddanto gacchati, bhaṇḍadeyyanti ettha ekasūkaragghanakabhaṇḍaṃ dātabbaṃ ekasmiṃ bandhe aññesaṃ tattha abajjhanato. Adūhalanti yantapāsāṇo, yena ajjhotthaṭattā migā palāyituṃ na sakkonti. Pacchā gacchatīti tena katapayogena agantvā pacchā sayameva gacchati, heṭṭhā vuttesupi īdisesu ṭhānesu eseva nayo. Rakkhaṃ yācitvāti rājapurisānaṃ santikaṃ gantvā anuddissa rakkhaṃ yācitvā. Kumīnamukhanti kumīnassa anto macchānaṃ pavisanamukhaṃ.
153-5.Bị đói hành hạ: có nghĩa là bị ngọn lửa trong bụng là sự đói hành hạ, thiêu đốt, áp bức. Cái cung: cái gậy cài có hình cung nhỏ. Đi và làm mòn, phải trả lại vật dụng: ở đây, phải trả lại vật dụng có giá trị bằng một con heo, vì trong một cái bẫy, không có con khác bị buộc vào đó. Cái đè: tảng đá của bẫy, do bị đè lên, con thú không thể trốn thoát được. Đi sau: không đi do phương tiện đã được làm, mà tự mình đi sau. Phương pháp này cũng áp dụng cho các trường hợp tương tự đã được nói ở dưới. Sau khi đã xin sự bảo vệ: sau khi đã đến nơi các lính của vua và xin sự bảo vệ một cách không xác định. Miệng của cái đó: miệng để cá vào trong cái đó.

156.Therānanti āgantukattherānaṃ. Tesampīti āvāsikabhikkhūnampi. Paribhogatthāyāti saṅghike kattabbavidhiṃ katvā paribhuñjanatthāya. Gahaṇeti pāṭhaseso daṭṭhabbo. Yatthāti yasmiṃ āvāse. Aññesanti aññesaṃ āgantukānaṃ. Tesupi āgantukā anissarāti senāsane nirantaraṃ vasantānaṃ cīvaratthāya dāyakehi bhikkhūhi vā niyametvā dinnattā bhājetvā khādituṃ anissarā, āgantukehipi icchantehi tasmiṃ vihāre vassānādīsu pavisitvā cīvaratthāya gahetabbaṃ. Tesaṃ katikāya ṭhātabbanti sabbāni phalāphalāni abhājetvā ‘‘ettakesu rukkhesu phalāni bhājetvā paribhuñjissāma, aññesu phalāphalehi senāsanāni paṭijaggissāmā’’ti vā, ‘‘piṇḍapātādipaccayaṃ sampādessāmā’’ti vā, ‘‘kiñcipi abhājetvā catupaccayatthāyeva upanemā’’ti vā evaṃ sammā upanentānaṃ āvāsikānaṃ katikāya āgantukehi ṭhātabbaṃ. Mahāaṭṭhakathāyaṃ ‘‘anissarā’’ti vacanena dīpito eva attho, mahāpaccariyaṃ catunnaṃ paccayānantiādinā vitthāretvā dassito. Paribhogavasenevāti ettha eva-saddo aṭṭhānappayutto, paribhogavasena tameva bhājetvāti yojetabbaṃ. Etthāti etasmiṃ vihāre, raṭṭhe vā.
156.Của các vị trưởng lão: của các vị trưởng lão khách đến. Của cả họ: của cả các Tỳ-khưu ở tại trú xứ. Để hưởng dụng: để hưởng dụng sau khi đã làm theo phương pháp phải làm đối với tài sản của Tăng. Cần hiểu là có từ ‘gahaṇe’ (trong việc lấy) còn thiếu. Ở đâu: ở trú xứ nào. Của những người khác: của các khách đến khác. Trong số đó, các khách đến không có quyền: không có quyền chia và ăn, vì đã được các thí chủ hoặc các Tỳ-khưu quy định để làm y cho những người sống liên tục trong trú xứ. Các khách đến, nếu muốn, cũng phải vào mùa mưa v.v… trong trú xứ đó và lấy để làm y. Phải tuân theo quy ước của họ: phải tuân theo quy ước của các Tỳ-khưu ở tại trú xứ, những người đã quy định một cách đúng đắn rằng “chúng ta sẽ chia và dùng quả cây ở chừng này cây, còn bằng quả cây ở những cây khác, chúng ta sẽ sửa sang trú xứ,” hoặc “chúng ta sẽ sắm sửa các vật dụng như vật thực khất thực v.v…,” hoặc “không chia bất cứ thứ gì, mà chỉ dùng cho bốn vật dụng.” Trong Đại Chú giải, ý nghĩa đã được chỉ ra bằng lời nói “không có quyền,” trong Mahāpaccarī, đã được giải thích một cách chi tiết bằng câu ‘của bốn vật dụng’ v.v… Chỉ theo cách hưởng dụng: ở đây, từ ‘eva’ được dùng không đúng chỗ, phải kết hợp là ‘chỉ chia theo cách hưởng dụng.’ Ở đây: ở trú xứ này, hoặc ở xứ sở này.

Senāsanapaccayanti senāsanañca tadatthāya niyametvā ṭhapitañca. Ekaṃ vā dve vā varasenāsanāni ṭhapetvāti vuttamevatthaṃ puna byatirekamukhena dassetuṃ ‘‘mūlavatthucchedaṃ pana katvā na upanetabba’’nti vuttaṃ, senāsanasaṅkhātavatthuno mūlacchedaṃ katvā sabbāni senāsanāni na vissajjetabbānīti attho. Keci panettha ‘‘ekaṃ vā dve vā varasenāsanāni ṭhapetvā lāmakato paṭṭhāya vissajjentehipi senāsanabhūmiyo na vissajjetabbāti ayamattho vutto’’ti vadanti, tampi yuttameva imassāpi atthassa avassaṃ vattabbato, itarathā keci saha vatthunāpi vissajjetabbaṃ maññeyyuṃ.
Duyên trú xứ: cả trú xứ và những gì đã được để dành cho mục đích đó. Sau khi đã để lại một hoặc hai trú xứ tốt: để chỉ ra ý nghĩa đã được nói một cách ngược lại, đã nói là “nhưng không được làm cho mất gốc rễ của đối tượng,” có nghĩa là không được bán hết tất cả các trú xứ, làm mất gốc rễ của đối tượng là trú xứ. Một số người ở đây nói rằng “ý nghĩa được nói ở đây là ngay cả những người bán bắt đầu từ những trú xứ xấu sau khi đã để lại một hoặc hai trú xứ tốt, cũng không được bán đất của trú xứ,” điều đó cũng hợp lý, vì ý nghĩa này chắc chắn phải được nói đến, nếu không, một số người có thể nghĩ là phải bán cả đất.

Paṇṇaṃ āropetvāti ‘‘ettake rukkhe rakkhitvā tato ettakaṃ gahetabba’’nti paṇṇaṃ āropetvā. Nimittasaññaṃ katvāti saṅketaṃ katvā. Dārakāti tesaṃ puttanattādayo ye keci gopenti, te sabbepi idha ‘‘dārakā’’ti vuttā. Tatoti yathāvuttadārusambhārato. Āpucchitvāti kārakasaṅghaṃ āpucchitvā. Taṃ sabbampi āharitvāti anāpucchitvāpi tāvakālikaṃ āharitvā. Ayameva bhikkhu issarotiādito paṭṭhāya attano santakehi dārusambhārādīhi ca kārāpitattā paṭijaggitattā ca saṅghikasenāsane bhāgitāya ca ayameva issaro, na ca so tato vuṭṭhāpetabboti vuttaṃ hoti. Udakapūjanti cetiyaṅgaṇe siñcanādipūjaṃ. Vattasīsenāti kevalaṃ saddhāya, na vetanādiatthāya. Savatthukanti saha bhūmiyā. Kuṭṭanti gehabhittiṃ. Pākāranti parikkhepapākāraṃ. Tatoti chaḍḍitavihārato. Tato āharitvā senāsanaṃ kataṃ hotīti sāmantagāmavāsīhi bhikkhūhi chaḍḍitavihārato dārusambhārādiṃ āharitvā senāsanaṃ kataṃ hoti.
Sau khi đã lập giao kèo: sau khi đã lập giao kèo rằng “sau khi đã bảo vệ chừng này cây, sẽ lấy chừng đó.” Sau khi đã làm dấu hiệu: sau khi đã làm ám hiệu. Các đứa trẻ: con, cháu v.v… của họ, bất cứ ai trông coi, tất cả họ ở đây được gọi là “các đứa trẻ.” Từ đó: từ các vật liệu bằng gỗ đã nói. Sau khi đã hỏi: sau khi đã hỏi Tăng đoàn thực hiện. Sau khi đã mang tất cả đó về: sau khi đã mang về tạm thời dù không hỏi. Chính Tỳ-khưu này là người có quyền v.v…: có nghĩa là chính người này là người có quyền, do đã cho làm bằng các vật liệu bằng gỗ v.v… là của mình và do đã sửa sang, và do có phần trong trú xứ của Tăng, và người đó không nên bị đuổi ra khỏi đó. Sự cúng dường bằng nước: sự cúng dường như tưới nước v.v… trong sân tháp. Bằng đầu đề là phận sự: chỉ bằng đức tin, không phải vì mục đích tiền công v.v… Cùng với đất đai: cùng với đất. Tường: tường nhà. Tường rào: tường rào bao quanh. Từ đó: từ trú xứ đã bị bỏ hoang. Trú xứ đã được làm sau khi đã mang về từ đó: trú xứ đã được làm sau khi các Tỳ-khưu sống ở làng bên cạnh đã mang vật liệu bằng gỗ v.v… về từ trú xứ đã bị bỏ hoang.

157. ‘‘Puggalikaparibhogena paribhuñjatī’’ti vuttamatthaṃyeva pākaṭaṃ kātuṃ ‘‘āgatāgatānaṃ vuḍḍhatarānaṃ na detī’’ti vuttaṃ. Catubhāgaudakasambhinneti catutthabhāgena sambhinne. Pāḷiyaṃ ‘‘anāpatti, bhikkhave, pārājikassā’’ti (pārā. 157) sāmikehi thullanandaṃ uddissa etissā hatthe dinnattā, atheyyacittena paribhuñjitattā ca vuttaṃ. Theyyacittena paribhuttepi cassā bhaṇḍadeyyameva upanikkhittabhaṇḍaṭṭhāniyattā. Odanabhājanīyavatthusminti ‘‘aparassa bhāgaṃ dehī’’ti āgatavatthusmiṃ (pārā. 141).
157. Để làm rõ ý nghĩa đã được nói là “dùng theo cách hưởng dụng cá nhân,” đã nói là “không cho các vị trưởng lão lớn tuổi hơn đến.” Được trộn lẫn với một phần tư nước: được trộn lẫn với một phần tư. Trong Pāḷi, đã nói là “Này các Tỳ-khưu, vô tội đối với tội Bất Cộng Trụ” (pārā. 157) do đã được các chủ sở hữu trao vào tay bà ấy hướng đến Thullanandā, và do đã dùng không có tâm trộm cắp. Ngay cả khi đã dùng với tâm trộm cắp, bà ấy cũng chỉ phải trả lại vật dụng, do có chức năng như vật gửi gắm. Trong câu chuyện về việc chia cơm: trong câu chuyện đã có rằng “hãy cho phần của người khác” (pārā. 141).

159.Tassa kulassa anukampāya pasādānurakkhaṇatthāyātiādinā kulasaṅgahatthaṃ nākāsīti dasseti. ‘‘Yāva dārakā pāsādaṃ ārohanti, tāva pāsādo tesaṃ santike hotū’’ti pubbe kālaparicchedaṃ katvā adhiṭṭhitattā eva yathākālaparicchedameva tattha tiṭṭhati, tato paraṃ pāsādo sayameva yathāṭhānaṃ gacchati, tathāgamanañca iddhivissajjanena sañjātaṃ viya hotīti vuttaṃ ‘‘thero iddhiṃ paṭisaṃharī’’ti. Yasmā evaṃ iddhividhañāṇena karontassa kāyavacīpayogā na santi theyyacittañca natthi pāsādasseva vicāritattā, tasmā ‘‘ettha avahāro natthī’’ti thero evamakāsīti daṭṭhabbaṃ. Atha vā dārakesu anukampāya ānayanatthameva pāsāde upanīte pāse baddhasūkarādīnaṃ āmisaṃ dassetvā ṭhānācāvanaṃ viya karamarānītesu dārakesu pāsādaṃ āruḷhesupi puna paṭisaṃharaṇe ca idha avahāro natthi kāruññādhippāyattā, bhaṇḍadeyyampi na hoti kāyavacīpayogābhāvā. Kāyavacīpayoge satiyeva hi āpatti bhaṇḍadeyyaṃ vā hoti, teneva bhagavā ‘‘anāpatti, bhikkhave, atheyyacittassā’’tiādiṃ avatvā ‘‘anāpatti, bhikkhave, iddhimassa iddhivisaye’’ti (pārā. 159) ettakameva avoca. Iddhivisayeti cettha parabhaṇḍādāyakakāyavacīpayogāsamuṭṭhāpakassa kevalaṃ manodvārikassa atheyyacittabhūtassa iddhicittassa visaye āpatti nāma natthīti adhippāyo gahetabbo. Kiṃ pana paṭikkhittaṃ iddhipāṭihāriyaṃ kātuṃ vaṭṭatīti codanaṃ sandhāyāha ‘‘īdisāya adhiṭṭhāniddhiyā anāpattī’’ti. ‘‘Anāpatti, bhikkhave, iddhimassa iddhivisaye’’ti hi imināyeva suttena adhiṭṭhāniddhiyā appaṭikkhittabhāvo sijjhati. Attano pakativaṇṇaṃ avijahitvā bahiddhā hatthiādidassanaṃ, ‘‘ekopi hutvā bahudhā hotī’’ti (dī. ni. 1.238, 239; ma. ni. 1.147; paṭi. ma. 1.102) āgatañca adhiṭṭhānavasena nipphannattā adhiṭṭhāniddhi nāma, ‘‘so pakativaṇṇaṃ vijahitvā kumārakavaṇṇaṃ vā dasseti, nāgavaṇṇaṃ…pe… vividhampi senābyūhaṃ dassetī’’ti (paṭi. ma. 3.13) evaṃ āgatā iddhi pakativaṇṇavijahanavikāravasena pavattattā vikubbaniddhi nāma. Attano pana pakatirūpaṃ yathāsabhāvena ṭhapetvāva bahi hatthiādidassanaṃ vikubbaniddhi nāma na hoti, attano rūpameva hatthiādirūpena nimmānaṃ vikubbaniddhīti veditabbaṃ.
159.Do lòng thương xót và để bảo vệ đức tin của gia đình đó v.v…: để chỉ ra rằng ngài đã không làm vì mục đích duy trì mối quan hệ tốt với gia đình. Vì đã chú nguyện bằng cách phân định thời gian trước đó rằng “cho đến khi các đứa trẻ leo lên lầu, lầu sẽ ở nơi chúng,” nên nó chỉ ở đó đúng theo thời gian đã được phân định, sau đó, lầu tự mình trở về vị trí cũ. Và việc trở về như vậy, giống như được tạo ra do sự thu hồi thần thông, nên đã nói là “trưởng lão đã thu hồi thần thông.” Vì đối với người làm bằng trí tuệ về các loại thần thông như vậy, không có các phương tiện thân khẩu và không có tâm trộm cắp, do chỉ xem xét đến lầu, nên cần hiểu là trưởng lão đã làm như vậy với ý nghĩ “ở đây không có hành vi trộm cắp.” Hoặc là, khi đã mang lầu đến gần chỉ với mục đích mang đến do lòng thương xót các đứa trẻ, giống như việc di chuyển khỏi nơi chốn bằng cách chỉ cho mồi đối với heo v.v… bị buộc vào bẫy, thì ở đây không có hành vi trộm cắp khi thu hồi lại sau khi các đứa trẻ đã được mang đến bằng tay và đã leo lên lầu, do có ý định từ bi. Cũng không phải trả lại vật dụng, do không có các phương tiện thân khẩu. Vì chỉ khi có các phương tiện thân khẩu, mới có tội hoặc phải trả lại vật dụng. Chính vì thế, Đức Thế Tôn đã không nói “Này các Tỳ-khưu, vô tội đối với người không có tâm trộm cắp” v.v…, mà chỉ nói chừng đó là “Này các Tỳ-khưu, vô tội đối với người có thần thông trong phạm vi thần thông của mình” (pārā. 159). Ở đây, cần hiểu ý định là trong phạm vi của tâm thần thông không phải là tâm trộm cắp, chỉ thuộc về cửa ý, không tạo ra các phương tiện thân khẩu lấy của người khác, thì không có tội. Nhắm đến sự chất vấn rằng ‘vậy có được phép làm phép lạ thần thông đã bị cấm không,’ đã nói là “vô tội đối với thần thông chú nguyện như vậy.” Chính bằng kinh này “Này các Tỳ-khưu, vô tội đối với người có thần thông trong phạm vi thần thông của mình,” tính chất không bị cấm của thần thông chú nguyện đã được xác định. Việc hiện ra voi v.v… ở bên ngoài mà không từ bỏ màu sắc tự nhiên của mình, và điều đã có trong câu “dù là một, cũng trở thành nhiều” (dī. ni. 1.238, 239; ma. ni. 1.147; paṭi. ma. 1.102) được gọi là thần thông chú nguyện vì được hoàn thành bằng sự chú nguyện. Điều đã có trong câu “người đó, sau khi đã từ bỏ màu sắc tự nhiên, hiện ra màu sắc của một cậu bé, hoặc hiện ra màu sắc của một con rồng… v.v… hiện ra cả một đội quân đa dạng” (paṭi. ma. 3.13) được gọi là thần thông biến hóa vì diễn ra theo cách biến đổi, từ bỏ màu sắc tự nhiên. Nhưng việc hiện ra voi v.v… ở bên ngoài mà vẫn giữ nguyên hình dạng tự nhiên của mình thì không được gọi là thần thông biến hóa. Cần biết rằng việc tạo ra chính hình dạng của mình thành hình dạng voi v.v… là thần thông biến hóa.

Parājitakilesenāti vijitakilesena, nikkilesenāti attho. Idhāti imasmiṃ sāsane, tena dutiyapārājikasikkhāpadena samaṃ aññaṃ anekanayavokiṇṇaṃ gambhīratthavinicchayaṃ kiñci sikkhāpadaṃ na vijjatīti yojanā. Tattha attho nāma pāḷiattho, vinicchayo pāḷimuttakavinicchayo, te gambhīrā yasmiṃ, taṃ gambhīratthavinicchayaṃ. Vatthumhi otiṇṇeti codanāvasena vā attanāva attano vītikkamārocanavasena vā saṅghamajjhe adinnādānavatthusmiṃ otiṇṇe. Etthāti otiṇṇavatthumhi. Vinicchayoti āpattānāpattiniyamanaṃ. Kappiyepi ca vatthusminti attanā gahetuṃ yutte mātāpitādīnaṃ santakepi.
Bởi người đã chiến thắng phiền não: bởi người đã chiến thắng phiền não, có nghĩa là bởi người không có phiền não. Ở đây: trong giáo pháp này, kết nối là không có điều học nào khác tương đương với điều học Bất Cộng Trụ thứ hai này, là điều có nhiều phương pháp hỗn tạp và có sự phân xử ý nghĩa sâu sắc. Ở đó, ý nghĩa là ý nghĩa của Pāḷi, sự phân xử là sự phân xử ngoài Pāḷi, điều có chúng sâu sắc là có sự phân xử ý nghĩa sâu sắc. Khi sự việc đã được đưa ra: khi đối tượng trộm cắp đã được đưa ra giữa Tăng chúng do sự tố cáo hoặc do chính mình báo cáo sự vi phạm của mình. Ở đây: trong sự việc đã được đưa ra. Sự phân xử: sự quy định về có tội và vô tội. Ngay cả trong đối tượng được phép: ngay cả trong tài sản của cha mẹ v.v…, là những thứ mình được phép lấy.

Iti samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya vimativinodaniyaṃ
Trong sách Xua Tan Hoài Nghi, Phụ chú giải Luật tạng Samantapāsādikā,

Dutiyapārājikavaṇṇanānayo niṭṭhito.
Phần giải thích về điều Bất Cộng Trụ thứ hai đã kết thúc.

3. Tatiyapārājikaṃ

3. Điều Bất Cộng Trụ thứ ba

Tīhīti kāyavacīmanodvārehi.
Bằng ba: bằng ba cửa thân, khẩu, và ý.

Paṭhamapaññattinidānavaṇṇanā

Giải thích về nhân duyên chế định đầu tiên

162. Yā ayaṃ heṭṭhā taṃ panetaṃ buddhakāle ca cakkavattikāle ca nagaraṃ hotītiādinā (pārā. aṭṭha. 1.84) rājagahassa buddhuppādeyeva vepullappatti vuttā, sā etthāpi samānāti dassetuṃ ‘‘idampi ca nagara’’nti vuttaṃ, tena ca na kevalaṃ rājagahādayo evāti dasseti. Mahāvanaṃ nāmātiādi majjhimabhāṇakasaṃyuttabhāṇakānaṃ matena vuttaṃ, dīghabhāṇakā pana ‘‘himavantena saddhiṃ ekābaddhaṃ hutvā ṭhitaṃ mahāvana’’nti vadanti. Haṃsavaṭṭakacchadanenāti haṃsavaṭṭakapaṭicchannena, haṃsamaṇḍalākārenāti attho. Kāyavicchandaniyakathanti karajakāye virāguppādanakathaṃ. Chandoti dubbalarāgo. Rāgoti balavarāgo. ‘‘Kesalomādi’’nti saṅkhepato vuttamatthaṃ vibhāgena dassetuṃ yepi hītiādi vuttaṃ. Pañcapañcappabhedenāti ettha pañca pañca pabhedā etassa pariyāyassāti pañcapañcappabhedo, tena pañcapañcappabhedenāti evaṃ bāhiratthasamāsavasena pariyāyavisesanatā daṭṭhabbā.
162. Sự thịnh vượng của Rājagaha chỉ có trong thời Đức Phật ra đời đã được nói ở dưới bằng câu ‘nhưng thành phố đó trở thành thành phố vào thời Đức Phật và thời Chuyển Luân Vương’ v.v… (pārā. aṭṭha. 1.84), để chỉ ra rằng điều đó cũng tương tự ở đây, đã nói là “và cả thành phố này.” Và bằng điều đó, chỉ ra rằng không chỉ có Rājagaha v.v… Được gọi là Mahāvana… v.v…: được nói theo quan điểm của các vị tụng đọc Trung Bộ và Tương Ưng Bộ, còn các vị tụng đọc Trường Bộ thì nói rằng “khu rừng lớn liền một dải với dãy Tuyết Sơn.” Bằng mái che hình đàn hạc: bằng mái che có hình đàn hạc, có nghĩa là có hình vòng tròn của đàn hạc. Bài nói chuyện về việc làm chán ghét thân thể: bài nói chuyện tạo ra sự chán ghét đối với thân thể do nghiệp sinh. Sự ham muốn là tham ái yếu. Tham ái là tham ái mạnh. Để chỉ ra một cách phân chia ý nghĩa đã được nói một cách tóm tắt là “tóc, lông v.v…,” đã nói là ngay cả những người… v.v… Theo sự phân biệt năm lần năm: ở đây, năm lần năm sự phân biệt của phương pháp này là ‘pañcapañcappabhedo,’ cần thấy tính chất bổ nghĩa cho phương pháp theo cách của hợp từ ngoại vị như vậy.

Asubhāyāti asubhamātikāya. Vaṇṇetabbamātikañhi apekkhitvā itthiliṅge sāmivacanaṃ, tenāha mātikaṃ nikkhipitvātiādi. Taṃ vibhajantoti mātikaṃ vibhajanto. Phātikammanti nipphattikaraṇaṃ. Pañcaṅgavippahīnanti kāmacchandādipañcanīvaraṇaṅgavigamena pañcaṅgavippahīnatā, appanāppattavitakkādijjhānaṅgānaṃ uppattivasena pañcaṅgasamannāgatatā ca veditabbā. Tividhakalyāṇaṃ dasalakkhaṇasampannanti ettha pana jhānassa ādimajjhapariyosānānaṃ vasena tividhakalyāṇatā, tesaṃyeva ādimajjhapariyosānānaṃ lakkhaṇavasena dasalakkhaṇasampannatā ca veditabbā. Aṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘dasalakkhaṇavibhāvaneneva tannissayabhūtā tividhakalyāṇatāpi jhānassa pākaṭā hotīti tatrimānītiādi vuttaṃ.
Đối với đề mục bất tịnh: dùng sở thuộc cách ở giống cái nhắm đến đề mục cần được giải thích, do đó nói là sau khi đã đặt đề mục… v.v… Khi phân tích nó: khi phân tích đề mục. Sự hoàn thành: sự làm cho hoàn thành. Đã từ bỏ năm yếu tố: cần biết là đã từ bỏ năm yếu tố do đã loại bỏ năm triền cái như tham dục v.v…, và có đủ năm yếu tố do sự phát sinh của các thiền chi như tầm v.v… đã đạt đến an chỉ. Có ba sự tốt đẹp, có đủ mười đặc tính: ở đây, cần biết là có ba sự tốt đẹp theo đầu, giữa, và cuối của thiền, và có đủ mười đặc tính theo đặc tính của chính ba điều đó là đầu, giữa, và cuối. Nhưng trong Chú giải, đã nói là “chính bằng việc giải thích mười đặc tính, ba sự tốt đẹp là nền tảng của chúng của thiền cũng trở nên rõ ràng,” nên đã nói là ở đó, những điều này… v.v…

Tatrāyaṃ pāḷīti tasmiṃ dasalakkhaṇavibhāvanavisaye ayaṃ pāḷi. Paṭipadāvisuddhīti gotrabhupariyosānāya pubbabhāgapaṭipadāya jhānassa nīvaraṇādiparibandhato visuddhi, sāyaṃ yasmā upekkhānubrūhanādīnampi paccayattena padhānā purimakāraṇasiddhā ca, tasmā vuttaṃ ‘‘paṭipadāvisuddhi ādī’’ti. Upekkhānubrūhanāti visodhetabbatādīnaṃ abhāvato tatramajjhattupekkhāya kiccanipphattiyā anubrūhanā, sā pana paribandhavisuddhisamakālavibhāvinīpi tabbisuddhiyāva nipphannāti dīpanatthamāha ‘‘upekkhānubrūhanā majjhe’’ti. Sampahaṃsanāti vatthudhammādīnaṃ anativattanādisādhakassa ñāṇassa kiccanipphattivasena pariyodapanā, sā pana yasmā kattabbassa sabbakiccassa nipphattiyāva siddhā nāma hoti, tasmā vuttaṃ ‘‘sampahaṃsanā pariyosāna’’nti. Tīṇipi cetāni kalyāṇāni ekakkhaṇe labbhamānānipi paccayapaccayuppannatādivasena pavattantīti dassanatthaṃ ādimajjhapariyosānabhāvena vuttāni, na pana jhānassa uppādādikkhaṇattaye yathākkamaṃ labbhamānattāti daṭṭhabbaṃ. Majjhimaṃ samādhinimittaṃ paṭipajjatītiādīsu majjhimaṃ samādhinimittaṃ nāma samappavatto appanāsamādhiyeva. So hi līnuddhaccasaṅkhātānaṃ ubhinnaṃ antānaṃ anupagamanena majjhimo, savisesaṃ cittassa ekattārammaṇe ṭhapanato samādhiyeva uparivisesānaṃ kāraṇabhāvato ‘‘samādhinimitta’’nti vuccati, taṃ paṭipajjati paṭilabbhatīti attho. Evaṃ paṭipannattā majjhimena samādhinimittena tattha ekattārammaṇe appanāgocare pakkhandati upatiṭṭhati, evaṃ visuddhassa pana tassa cittassa puna visodhetabbābhāvato visodhane byāpāraṃ akaronto puggalo visuddhaṃ cittaṃ ajjhupekkhati nāma. Samathabhāvūpagamanena samathapaṭipannassa puna samādhāne byāpāraṃ akaronto samathapaṭipannaṃ ajjhupekkhati, samathapaṭipannabhāvato evamassa kilesasaṃsaggaṃ pahāya ekattena upaṭṭhitassa puna ekattupaṭṭhāne byāpāraṃ akaronto ekattupaṭṭhānaṃ ajjhupekkhati nāma.
Ở đó, đây là Pāḷi: trong lĩnh vực giải thích mười đặc tính, đây là Pāḷi. Sự trong sạch của đạo lộ: sự trong sạch của thiền khỏi các chướng ngại như triền cái v.v… của đạo lộ phần đầu cho đến khi đạt đến chuyển tộc. Vì điều này là chính và được xác định bởi nguyên nhân trước, do là duyên cho cả việc tăng trưởng sự xả v.v…, nên đã nói là “sự trong sạch của đạo lộ là đầu.” Sự tăng trưởng của sự xả: sự tăng trưởng của việc hoàn thành phận sự của sự xả trung tính ở đó, do không có những điều cần được làm trong sạch v.v… Và vì nó được hoàn thành do chính sự trong sạch đó, dù được thấy cùng lúc với sự trong sạch của chướng ngại, nên để làm sáng tỏ, đã nói là “sự tăng trưởng của sự xả là giữa.” Sự hoan hỷ: sự thanh lọc của trí tuệ, là điều chứng minh sự không vượt qua v.v… của các pháp đối tượng v.v…, do sự hoàn thành phận sự. Và vì nó được gọi là đã thành tựu do chính sự hoàn thành của tất cả các phận sự phải làm, nên đã nói là “sự hoan hỷ là cuối.” Cần hiểu rằng cả ba sự tốt đẹp này, dù có được trong cùng một khoảnh khắc, nhưng được nói theo trạng thái đầu, giữa, và cuối để chỉ ra rằng chúng diễn ra theo cách của duyên và quả của duyên v.v…, không phải là có được tuần tự trong ba khoảnh khắc phát sinh v.v… của thiền. Đạt đến dấu hiệu định ở giữa… v.v…: dấu hiệu định ở giữa là chính định an chỉ đã diễn ra một cách quân bình. Vì nó ở giữa do không đi đến hai cực là hôn trầm và trạo cử, và vì nó đặt tâm một cách đặc biệt vào một đối tượng, nên là định; vì là nguyên nhân cho các sự đặc biệt ở trên, nên được gọi là “dấu hiệu định,” đạt đến nó, có được nó, đó là ý. Do đã đạt đến như vậy, bằng dấu hiệu định ở giữa, người đó đi vào, đứng vững trong đối tượng an chỉ là một đối tượng đó. Và đối với tâm đã được làm trong sạch như vậy, vì không có những điều cần được làm trong sạch lại, nên người đó không nỗ lực trong việc làm trong sạch, được gọi là xả bỏ tâm đã trong sạch. Người đã đạt đến sự vắng lặng do đã đến trạng thái vắng lặng, không nỗ lực trong việc định lại, được gọi là xả bỏ sự vắng lặng đã đạt đến. Do trạng thái đã đạt đến sự vắng lặng, đối với tâm đã đứng vững một mình, đã từ bỏ sự giao du với phiền não như vậy, người đó không nỗ lực trong việc đứng vững một mình lại, được gọi là xả bỏ sự đứng vững một mình.

Tattha jātānantiādīsu ye pana te evaṃ upekkhānubrūhite tasmiṃ jhānacitte jātā samādhipaññāsaṅkhātā yuganaddhadhammā, tesaṃ aññamaññaṃ anativattanasabhāvena sampahaṃsanā visodhanā pariyodapanā ca, saddhādīnaṃ indriyānaṃ kilesehi vimuttattā vimuttirasena ekarasatāya sampahaṃsanā ca, yañcetaṃ tadupagaṃ tesaṃ anativattanaekarasabhāvānaṃ anucchavikaṃ vīriyaṃ, tassa tadupagavīriyassa vāhanaṭṭhena pavattanaṭṭhena sampahaṃsanā ca, tasmiṃ khaṇe yathāvuttadhammānaṃ āsevanaṭṭhena sampahaṃsanā ca, pariyodapanā ca pariyodapanakassa ñāṇassa kiccanipphattivaseneva ijjhatīti veditabbaṃ. Evaṃ tividhattagataṃ cittantiādīni tasseva cittassa thomanavacanāni. Vitakkasampannanti vitakkaṅgena sundarabhāvamupagataṃ. Cittassa adhiṭṭhānasampannanti tasmiññeva ārammaṇe cittassa nirantarappavattisaṅkhātena samādhinā sampannaṃ, idaṃ jhānaṅgavasena vuttaṃ. Samādhisampannanti idaṃ pana indriyavasenāti veditabbaṃ.
Của những pháp đã sinh ra ở đó… v.v…: và những pháp đồng khởi là định và tuệ đã sinh ra trong tâm thiền đã được tăng trưởng sự xả như vậy, sự hoan hỷ, sự làm trong sạch, sự thanh lọc của chúng do bản chất không vượt qua lẫn nhau, và sự hoan hỷ của các căn như tín v.v… do có cùng một vị là vị giải thoát khỏi các phiền não, và tinh tấn phù hợp với chúng, phù hợp với các trạng thái không vượt qua và cùng một vị đó, sự hoan hỷ của tinh tấn phù hợp đó do trạng thái dẫn dắt, trạng thái diễn ra, và sự hoan hỷ của các pháp đã nói trong khoảnh khắc đó do trạng thái thực hành, và sự thanh lọc, cần biết là chỉ thành tựu do sự hoàn thành phận sự của trí tuệ thanh lọc. Tâm đã đạt đến trạng thái ba… v.v…: là những lời ca ngợi chính tâm đó. Có đủ tầm: đã đạt đến trạng thái tốt đẹp do có thiền chi tầm. Có đủ sự chú nguyện của tâm: có đủ định là sự diễn ra liên tục của tâm trong chính đối tượng đó, điều này được nói theo thiền chi. Có đủ định: nhưng điều này cần được hiểu là theo các căn.

Paṭikuṭatīti saṅkucati. Paṭivaṭṭatīti paṭinivaṭṭati. Nhārudaddulanti nhārukhaṇḍaṃ. Payuttavācanti paccayapariyesane niyuttavācaṃ. Daṇḍavāgurāhīti daṇḍapaṭibaddhāhi dīghajālasaṅkhātāhi vāgurāhi.
Co lại: co lại. Quay lại: quay trở lại. Một mảnh gân: một mảnh gân. Lời nói đã được dùng: lời nói đã được dùng trong việc tìm kiếm duyên. Bằng các lưới gậy: bằng các lưới dài được gọi là lưới được buộc vào gậy.

Samaṇakuttakoti kāsāyanivāsanādisamaṇakiccako. Vaggumudāti ettha ‘‘vaggumatā’’ti vattabbe lokikā ‘‘mudā’’ti vohariṃsūti dassento āha ‘‘vaggumatā’’ti. ‘‘Vaggū’’ti matā, suddhasammatāti attho, tenāha ‘‘puññasammatā’’ti. Sattānaṃ pāpunanena sodhanena sā puññasammatā.
Người có hành vi của Sa-môn: người có phận sự của Sa-môn như mặc y vàng v.v… Bởi Vaggumudā: ở đây, để chỉ ra rằng khi lẽ ra phải nói là “bởi Vaggumatā,” người đời đã gọi là “mudā,” đã nói là “bởi Vaggumatā.” Được cho là “vaggū,” có nghĩa là được chấp nhận là trong sạch, do đó nói là “được chấp nhận là phước thiện.” Nó được chấp nhận là phước thiện do sự đạt đến và sự thanh lọc của các chúng sanh.

163. Mārassa dheyyaṃ ṭhānaṃ, vatthu vā nivāso māradheyyaṃ, so atthato tebhūmakadhammā eva, idha pana pañca kāmaguṇā adhippetā, taṃ māradheyyaṃ. ‘‘Ayaṃ samaṇakuttako yathāsamuppannasaṃvegamūlakena samaṇabhāvūpagamanena atikkamituṃ sakkhissatī’’ti cintetvā avoca, na pana ‘‘arahattappattiyā tīsu bhavesu appaṭisandhikatāya taṃ atikkamituṃ sakkhissatī’’ti maraṇeneva sattānaṃ saṃsāramocanaladdhikattā devatāya. Na hi matānaṃ katthaci paṭisandhi gacchati. Iminā atthena evameva bhavitabbanti iminā paresaṃ jīvitā voropanatthena evameva saṃsāramocanasabhāveneva bhavitabbaṃ. ‘‘Attanāpi attānaṃ jīvitā voropenti, aññamaññampi jīvitā voropentī’’ti (pārā. 162) vuttattā sabbānipi tāni pañcabhikkhusatāni jīvitā voropesīti idaṃ yebhuyyavasena vuttanti gahetabbaṃ. Tasmā ye attanāpi attānaṃ aññamaññañca jīvitā voropesuṃ, te puthujjanabhikkhū ṭhapetvā tadavasese ca puthujjanabhikkhū, sabbe ca ariye ayaṃ jīvitā voropesīti veditabbaṃ.
163. Nơi chốn, đối tượng, hoặc nơi ở của Ma vương là māradheyyaṃ, về mặt ý nghĩa, đó chính là các pháp trong ba cõi. Ở đây, được ngụ ý là năm dục công đức, đó là māradheyyaṃ. Vị thiên nữ đã nói sau khi suy nghĩ rằng “người có hành vi của Sa-môn này sẽ có thể vượt qua bằng việc đi đến thân phận Sa-môn có nguồn gốc từ sự nhàm chán đã phát sinh như thế nào,” không phải là “sẽ có thể vượt qua nó do không còn tái sanh trong ba cõi do đã đạt đến A-la-hán,” vì vị thiên nữ có kiến chấp rằng các chúng sanh được giải thoát khỏi luân hồi chỉ bằng cái chết. Vì những người đã chết không tái sanh ở bất cứ đâu. Bằng ý nghĩa này, phải là như vậy: bằng ý nghĩa giết hại sinh vật của người khác này, phải là có bản chất giải thoát khỏi luân hồi như vậy. Vì đã nói “họ tự mình giết mình, và cũng giết hại lẫn nhau” (pārā. 162), nên câu đã giết hại tất cả năm trăm Tỳ-khưu đó cần được hiểu là được nói theo số đông. Do đó, cần biết rằng ngoài các Tỳ-khưu phàm phu đã tự mình giết mình và giết hại lẫn nhau, và các Tỳ-khưu phàm phu còn lại, người này đã giết hại tất cả các bậc Thánh.

164. Ekībhāvatoti pavivekato. Uddesaṃ paripucchaṃ gaṇhantīti attano attano ācariyānaṃ santike gaṇhanti, gahetvā ca ācariyehi saddhiṃ bhagavantaṃ upaṭṭhahanti. Tadā pana uddesādidāyakā tanubhūtehi bhikkhūhi bhagavantaṃ upagatā, taṃ sandhāya bhagavā pucchati.
164. Do sự đơn độc: do sự vắng vẻ. Họ học thuộc và hỏi: họ học ở nơi các vị thầy của mình, và sau khi đã học, họ cùng với các vị thầy đến hầu Đức Thế Tôn. Nhưng lúc đó, các vị Tỳ-khưu ít ỏi là người dạy học thuộc v.v… đã đến hầu Đức Thế Tôn. Nhắm đến điều đó, Đức Thế Tôn đã hỏi.

Ānāpānassatisamādhikathāvaṇṇanā

Giải thích về định niệm hơi thở

165. Dasānussatīsu antogadhāpi ānāpānassati tadā bhikkhūnaṃ bahūnaṃ sappāyataṃ dassetuṃ puna gahitā. Tathā hi taṃ bhagavā tesaṃ desesi. Āhāre paṭikkūlasaññā asubhakammaṭṭhānasadisā, cattāro pana āruppā ādikammikānaṃ ananurūpāti tesaṃ idha aggahaṇaṃ daṭṭhabbaṃ. Aññaṃ pariyāyanti arahattādhigamatthāya aññaṃ kāraṇaṃ. Atthayojanākkamanti atthañca yojanākkamañca. Assāsavasenāti assāsaṃ ārammaṇaṃ katvāti vuttaṃ hoti. Upaṭṭhānaṃ satīti appamussanatāya tameva assāsaṃ passāsañca upagantvā ṭhānaṃ, tathā tiṭṭhanakadhammo sati nāmāti attho. Idāni sativaseneva puggalaṃ niddisitukāmena yo assasatītiādi vuttaṃ. Tattha yo assasati, tassa sati assāsaṃ upagantvā tiṭṭhatītiādinā attho gahetabbo. Akosallasambhūteti avijjāsambhūte . Khaṇenevāti attano pavattikkhaṇeneva. Ariyamaggassa pādakabhūto ayaṃ samādhi anukkamena vaḍḍhitvā ariyamaggabhāvaṃ upagato viya hotīti āha ‘‘ariyamaggavuḍḍhippatto’’ti. Opammanidassananti ettha upamāva opammaṃ, tassa nidassanaṃ.
165. Dù đã được bao gồm trong mười tùy niệm, nhưng niệm hơi thở được lấy lại để chỉ ra sự phù hợp đối với nhiều Tỳ-khưu lúc đó. Cụ thể, Đức Thế Tôn đã thuyết giảng điều đó cho họ. Tưởng ghê tởm trong thức ăn tương tự như đề mục bất tịnh. Nhưng bốn thiền vô sắc thì không phù hợp với những người mới bắt đầu, cần hiểu là do đó chúng không được lấy ở đây. Một phương pháp khác: một nguyên nhân khác để chứng đắc A-la-hán. Trình tự kết hợp ý nghĩa: cả ý nghĩa và trình tự kết hợp. Theo hơi thở vào: có nghĩa là đã nói là lấy hơi thở vào làm đối tượng. Sự có mặt là niệm: là nơi đến và đứng vững của chính hơi thở vào và hơi thở ra đó do không quên, có nghĩa là pháp có tính chất đứng vững như vậy là niệm. Bây giờ, với ý muốn chỉ ra người theo chính niệm, đã nói là người thở vào… v.v… Ở đó, cần hiểu ý nghĩa là đối với người thở vào, niệm đến và đứng vững ở hơi thở vào v.v… Do sự không khéo léo sinh ra: do vô minh sinh ra. Ngay trong khoảnh khắc: ngay trong khoảnh khắc diễn ra của nó. Định này, là nền tảng của đạo Thánh, sau khi đã được phát triển tuần tự, giống như đã đến trạng thái của đạo Thánh, nên nói là “đã đạt đến sự phát triển của đạo Thánh.” Sự minh họa bằng ví dụ: ở đây, ví dụ chính là ‘opammaṃ,’ sự minh họa của nó.

Bāhirakā ānāpānassatiṃ jānantā ādito catuppakārameva jānanti, na sabbaṃ soḷasappakāranti āha sabbappakāraiccādi. Evamassetaṃ senāsananti ettha evanti bhāvanāsatiyā yathāvuttanayena ārammaṇe cittassa nibandhane satiyeva, nāsatīti attho, tena muṭṭhassatissa araññavāso niratthako ananurūpoti dasseti. Avasesasattavidhasenāsananti ‘‘pabbataṃ kandaraṃ giriguhaṃ susānaṃ vanapatthaṃ abbhokāsaṃ palālapuñja’’nti (vibha. 508) evaṃ vuttaṃ. Ututtayānukūlaṃ dhātucariyānukūlanti gimhānādiututtayassa semhādidhātuttayassa mohādicariyattayassa ca anukūlaṃ. Nisajjāya daḷhabhāvaṃ pallaṅkābhujanena, assāsapassāsānaṃ pavattanasukhataṃ uparimakāyassa ujukaṃ ṭhapanena, ārammaṇapariggahūpāyaṃ parimukhaṃ satiyā ṭhapanena upadisanto. Na paṇamantīti na oṇamanti. Pariggahitaniyyānaṃ satinti sabbathā gahitaṃ sammosapaṭipakkhato niggamanasaṅkhātaṃ satiṃ katvā, paramaṃ satinepakkaṃ upaṭṭhapetvāti attho.
Những người ngoại đạo, khi biết về niệm hơi thở, lúc đầu chỉ biết bốn loại, không phải tất cả mười sáu loại, nên nói là tất cả các loại… v.v… Trú xứ của người đó là như vậy: ở đây, ‘evaṃ’ có nghĩa là chỉ khi có sự buộc chặt tâm vào đối tượng của niệm tu tập theo cách đã nói, không phải khi không có. Bằng điều đó, chỉ ra rằng việc ở rừng là vô ích và không phù hợp đối với người thất niệm. Bảy loại trú xứ còn lại: được nói như thế này: “núi, hang động, hang núi, nghĩa địa, rừng rậm, ngoài trời, và đống rơm” (vibha. 508). Phù hợp với ba thời tiết, phù hợp với ba tánh: phù hợp với ba thời tiết là mùa nóng v.v…, ba thể tạng là đờm v.v…, và ba tánh là si v.v… Chỉ dạy bằng cách làm cho tư thế ngồi vững chắc bằng cách xếp bằng, bằng cách làm cho hơi thở vào và ra dễ dàng bằng cách giữ thân trên thẳng, và bằng cách đặt niệm trước mặt là phương tiện để nắm bắt đối tượng. Họ không cúi xuống: họ không cúi xuống. Sau khi đã làm cho niệm là sự giải thoát đã được nắm bắt: sau khi đã làm cho niệm là sự thoát ra khỏi sự đối nghịch của sự quên lãng đã được nắm bắt hoàn toàn, có nghĩa là sau khi đã thiết lập sự chuyên tâm niệm tối thượng.

Satovāti satiyā samannāgato eva. Bāttiṃsāya ākārehīti catūsu catukkesu āgatāni dīgharassādīni soḷasa padāni assāsapassāsavasena dvidhā vibhajitvā vuttehi dvattiṃsākārehi. Dīghaṃassāsavasenāti dīghaassāsavasena, vibhattialopaṃ katvā niddeso, dīghanti vā bhagavatā vuttaassāsavasena. Cittassa ekaggataṃ avikkhepanti vikkhepapaṭipakkhabhāvato ‘‘avikkhepo’’ti laddhanāmaṃ cittassa ekaggabhāvaṃ pajānato. Paṭinissaggānupassī assāsavasenāti paṭinissaggānupassī hutvā assāsavasena, ‘‘paṭinissaggānupassiassāsanavasenā’’ti vā pāṭho, tassa paṭinissaggānupassino assāsavasenāti attho. Ā paṭhamaṃ bahimukhaṃ sasanaṃ assāso, tato antomukhaṃ paṭisasanaṃ passāsoti āha assāsoti bahinikkhamanavātotiādi, suttantaṭṭhakathāsu pana ākaḍḍhanavasena anto sasanaṃ assāso, bahi paṭisasanaṃ passāsoti katvā uppaṭipāṭiyā vuttaṃ.
Có niệm: là đã có niệm. Bằng ba mươi hai cách: bằng ba mươi hai cách đã được nói bằng cách phân chia mười sáu từ như dài, ngắn v.v… đã có trong bốn nhóm bốn thành hai theo hơi thở vào và hơi thở ra. Theo hơi thở vào dài: theo hơi thở vào dài, đây là cách chỉ định bằng cách không lược bỏ biến cách, hoặc theo hơi thở vào đã được Đức Thế Tôn nói là dài. Sự nhất tâm, sự không phân tán của tâm: trạng thái nhất tâm của tâm, được gọi là “không phân tán” do là sự đối nghịch của sự phân tán, đối với người biết. Theo hơi thở vào của người quán sát sự từ bỏ: là người quán sát sự từ bỏ, theo hơi thở vào, hoặc cách đọc là “theo hơi thở vào quán sát sự từ bỏ,” có nghĩa là theo hơi thở vào của người quán sát sự từ bỏ đó. Sự thở ra ngoài lúc đầu là hơi thở vào, sau đó sự thở lại vào trong là hơi thở ra, nên nói là hơi thở vào là gió đi ra ngoài… v.v… Nhưng trong các chú giải kinh, đã nói theo thứ tự ngược lại, bằng cách cho rằng hơi thở vào là sự thở vào trong theo cách kéo vào, và hơi thở ra là sự thở lại ra ngoài.

Tatthāti bahinikkhamanaantopavisanavātesu, tassa ca paṭhamaṃ abbhantaravāto nikkhamatīti iminā sambandho. ‘‘Sabbesampi gabbhaseyyakānantiādinā dārakānaṃ pavattikkamena assāso bahinikkhamanavātoti gahetabbanti dīpetī’’ti keci vadanti. Suttanayo eva cettha ‘‘assāsādimajjhapariyosānaṃ satiyā anugacchato ajjhattaṃ vikkhepagatena cittena kāyopi cittampi sāraddhā ca honti iñjitā ca phanditā ca passāsādimajjhapariyosānaṃ satiyā anugacchato bahiddhā vikkhepagatena cittena kāyopi cittampi sāraddhā ca honti iñjitā ca phanditā cā’’ti imāya pāḷiyā sametīti gahetabbaṃ. Addhānavasenāti kāladdhānavasena. Ayañhi addhāna-saddo kālassa desassa ca vācako. Tattha yathā hītiādinā desaddhānaṃ upamāvasena dassitaṃ. Idāni tabbisiṭṭhakāladdhānavasena assāsapassāsānaṃ dīgharassataṃ upameyyavasena vibhāvetuṃ evantiādi vuttaṃ. Cuṇṇavicuṇṇā anekakalāpabhāvena. Ettha ca hatthiādisarīre sunakhādisarīre ca assāsapassāsānaṃ desaddhānavisiṭṭhakāladdhānavaseneva dīgharassatā vuttāti veditabbā attabhāvasaṅkhātaṃ dīghaṃ addhānaṃ saṇikaṃ pūretvātiādivacanato. Tesanti sattānaṃ. Teti assāsapassāsā. Ittaramaddhānanti appakaṃ kālaṃ. Navahākārehīti bhāvanamanuyuñjantassa pubbenāparaṃ aladdhavisesassa kevalaṃ addhānavasena ādito vuttā tayo ākārā, te ca kassaci assāsova, kassaci passāsova, kassaci tadubhayampi upaṭṭhātīti tiṇṇaṃ puggalānaṃ vasena vuttā, tathā chandavasena tayo, tathā pāmojjavasenāti imehi navahi ākārehi. Ekenākārenāti dīghaṃ assāsādīsu ekenākārena.
Ở đó: trong các luồng gió đi ra ngoài và đi vào trong, có liên quan đến câu ‘và của người đó, luồng gió bên trong đi ra ngoài trước.’ Một số người nói rằng “bằng câu của tất cả các chúng sanh nằm trong bụng mẹ… v.v…, chỉ ra rằng cần hiểu hơi thở vào là luồng gió đi ra ngoài theo trình tự diễn ra của trẻ em.” Cần hiểu rằng chính phương pháp của kinh này tương ứng với Pāḷi “đối với người theo dõi đầu, giữa, và cuối của hơi thở vào bằng niệm, do tâm bị phân tán vào bên trong, thì cả thân và tâm đều bị căng thẳng, dao động, và rung động; đối với người theo dõi đầu, giữa, và cuối của hơi thở ra bằng niệm, do tâm bị phân tán ra bên ngoài, thì cả thân và tâm đều bị căng thẳng, dao động, và rung động.” Theo quãng đường: theo quãng đường thời gian. Từ ‘addhāna’ này chỉ cả thời gian và không gian. Ở đó, bằng câu giống như… v.v…, đã chỉ ra quãng đường không gian bằng cách ví dụ. Bây giờ, để làm rõ tính chất dài ngắn của hơi thở vào và hơi thở ra theo quãng đường thời gian đặc trưng đó bằng cách so sánh, đã nói là như vậy… v.v… Bị tán nhỏ do có nhiều nhóm. Ở đây, cần biết rằng tính chất dài ngắn của hơi thở vào và hơi thở ra trong thân thể voi v.v… và trong thân thể chó v.v… đã được nói theo chính quãng đường thời gian đặc trưng bởi quãng đường không gian, do lời nói như ‘sau khi đã làm đầy quãng đường dài là thân thể một cách từ từ’ v.v… Của những chúng sanh đó. Chúng là hơi thở vào và hơi thở ra. Quãng đường ngắn: thời gian ngắn. Bằng chín cách: ba cách đã được nói lúc đầu chỉ theo quãng đường đối với người tu tập mà chưa có được sự đặc biệt nào sau đó; và chúng được nói theo ba người là đối với một người chỉ có hơi thở vào hiện khởi, đối với một người chỉ có hơi thở ra, đối với một người có cả hai; cũng vậy, ba cách theo sự ham muốn; cũng vậy, ba cách theo sự hoan hỷ, là bằng chín cách này. Bằng một cách: bằng một cách trong số các cách như thở vào dài v.v…

Addhānasaṅkhāteti dīghe okāsaddhānasaṅkhāte attabhāve kāladdhānepi vā, evaṃ upari ittarasaṅkhāteti etthāpi. Chando uppajjatīti bhāvanāya pubbenāparaṃ visesaṃ āvahantiyā laddhassādattā tattha sātisayo kattukāmatālakkhaṇo kusalacchando uppajjati. Chandavasenāti tathāpavattachandassa vasena. Pāmojjaṃ uppajjatīti assāsapassāsānaṃ sukhumatarabhāve ārammaṇassa santataratāya, kammaṭṭhānassa ca vīthipaṭipannatāya bhāvanācittasahagato pamodo khuddakādibhedā taruṇā pīti uppajjati. Cittaṃ vivattatīti paṭibhāganimitte uppanne pakatiassāsapassāsato cittaṃ nivattati. Upekkhā saṇṭhātīti tasmiṃ paṭibhāganimitte upacārappanābhede samādhimhi uppanne puna jhānanibbattanatthaṃ byāpārābhāvato ajjhupekkhanaṃ hoti, sā panāyaṃ upekkhā tatramajjhattupekkhāti veditabbā. Anupassanāñāṇanti samathavasena nimittassa anupassanā, vipassanāvasena assāsapassāsamukhena tannissayanāmarūpassa anupassanā ca ñāṇaṃ. Kāyo upaṭṭhānanti assāsapassāsasaṅkhāto kāyo upagantvā tiṭṭhati ettha satīti upaṭṭhānaṃ, no sati, sati pana sarasato upatiṭṭhanaṭṭhena saraṇaṭṭhena ca upaṭṭhānañceva sati ca. Tena vuccatītiādīsu yā ayaṃ yathāvuttaassāsapassāsakāye, tannissayabhūte karajakāye ca kāyasseva anupassanā niccādibhāvaṃ vā itthipurisasattajīvādibhāvaṃ vā ananupassitvā assāsapassāsakāyamattasseva aniccādibhāvassa ca anupassanā, tāya kāyānupassanāya satisaṅkhātassa paṭṭhānassa bhāvanā vaḍḍhanā kāye kāyānupassanā satipaṭṭhānabhāvanāti ayaṃ saṅkhepattho.
Trong quãng đường đã được gọi là: trong thân thể đã được gọi là quãng đường không gian dài, hoặc trong quãng đường thời gian. Cũng vậy ở trên trong câu trong quãng đường đã được gọi là ngắn. Sự ham muốn phát sinh: do sự tu tập mang lại sự đặc biệt sau đó, và do đã có được sự khoái lạc ở đó, nên sự ham muốn thiện có đặc tính là ý muốn làm một cách vượt trội phát sinh. Theo sự ham muốn: theo sự ham muốn diễn ra như vậy. Sự hoan hỷ phát sinh: khi hơi thở vào và hơi thở ra trở nên vi tế hơn, do đối tượng trở nên yên tĩnh hơn, và do đề mục thiền đã đi vào lộ trình, nên sự vui mừng, là hỷ từ nhỏ đến lớn, là hỷ non, đi kèm với tâm tu tập, phát sinh. Tâm quay lại: khi tướng tương tự phát sinh, tâm quay lại khỏi hơi thở vào và hơi thở ra tự nhiên. Sự xả đứng vững: khi định ở các mức độ cận hành và an chỉ phát sinh trong tướng tương tự đó, do không có sự nỗ lực để tạo ra thiền lại, nên có sự xả bỏ. Và sự xả đó cần được hiểu là sự xả trung tính. Trí tuệ quán sát: sự quán sát dấu hiệu theo cách chỉ tịnh, và sự quán sát danh sắc là nơi nương tựa của nó qua hơi thở vào và hơi thở ra theo cách quán, là trí tuệ. Thân là nơi có mặt: thân là hơi thở vào và hơi thở ra, niệm đến và đứng vững ở đó, nên là nơi có mặt, không phải niệm. Nhưng niệm, do bản chất ghi nhớ và do bản chất hiện khởi theo cách ghi nhớ, nên vừa là nơi có mặt vừa là niệm. Do đó được gọi là… v.v…: sự quán sát chính thân trong thân là hơi thở vào và hơi thở ra đã nói, và trong thân thể do nghiệp sinh là nơi nương tựa của nó, không quán sát tính chất thường hằng v.v…, hoặc tính chất nam, nữ, chúng sanh, sinh mạng v.v…, mà chỉ quán sát tính chất vô thường v.v… của chính thân là hơi thở vào và hơi thở ra, sự tu tập, sự phát triển của sự thiết lập là niệm bằng sự quán sát thân đó, là sự tu tập niệm xứ quán thân trên thân, đây là ý nghĩa tóm tắt.

Ittaravasenāti parittakālavasena. Tādisoti dīgho rasso ca. Vaṇṇāti dīghādiākārā. Nāsikaggeva bhikkhunoti nāsikagge vā, -saddena uttaroṭṭhe vāti attho. Tasmāti yasmā ‘‘ādimajjhapariyosānavasena sabbaṃ assāsapassāsakāyaṃ viditaṃ pākaṭaṃ karissāmī’’ti pubbe pavattaābhogavasena pacchā tathā samuppannena ñāṇasampayuttacittena taṃ assāsapassāsakāyaṃ evaṃ viditaṃ pākaṭaṃ karonto assasati ceva passasati ca, tasmā evaṃbhūto sabbakāyapaṭisaṃvedī assasissāmi passasissāmīti sikkhati nāma, na pana ‘‘anāgate evaṃ karissāmī’’ti cintanamattena so evaṃ vuccatīti adhippāyo. Tathābhūtassāti ādimajjhapariyosānaṃ viditaṃ karontassa. Saṃvaroti sati vīriyampi vā. Na aññaṃ kiñcīti sabbakāyaṃ viditaṃ karissāmītiādikaṃ pubbābhogaṃ sandhāya vadati. Ñāṇuppādanādīsūti ādi-saddena kāyasaṅkhārapassambhanapītipaṭisaṃvedanādiṃ saṅgaṇhāti. Kāyasaṅkhāranti assāsapassāsaṃ. So hi cittasamuṭṭhānopi samāno karajakāyapaṭibaddhavuttitāya tena saṅkharīyatīti kāyasaṅkhāroti vuccati. Apariggahitakāleti kammaṭṭhānassa anāraddhakāle, tadārambhatthāya kāyacittānampi apariggahitakāleti attho. Nisīdati pallaṅkaṃ ābhujitvā ujuṃ kāyaṃ paṇidhāyāti hi iminā kāyapariggaho, parimukhaṃ satiṃ upaṭṭhapetvāti iminā cittapariggaho vutto. Adhimattanti balavaṃ oḷārikaṃ, liṅgavipallāsena vuttaṃ. Kāyasaṅkhāro hi adhippeto. Adhimattaṃ hutvā pavattatīti kiriyāvisesanaṃ vā etaṃ. Sabbesaṃyevāti ubhayesampi.
Theo cách ngắn: theo cách thời gian ngắn. Như vậy là cả dài và ngắn. Các đặc tính là các hình thức dài v.v… Ngay ở đầu mũi của Tỳ-khưu: ở đầu mũi hoặc, bằng từ ‘vā,’ có nghĩa là ở môi trên. Do đó: vì người đó, do sự chú ý đã diễn ra trước đó rằng “tôi sẽ làm cho toàn bộ thân là hơi thở vào và hơi thở ra được biết và rõ ràng theo đầu, giữa, và cuối,” sau đó, bằng tâm kết hợp với trí tuệ phát sinh như vậy, làm cho thân là hơi thở vào và hơi thở ra đó được biết và rõ ràng như vậy, nên vừa thở vào vừa thở ra. Do đó, người như vậy được gọi là học rằng tôi sẽ cảm nhận toàn bộ thân, thở vào, thở ra, không phải là người đó được gọi như vậy chỉ bằng sự suy nghĩ “trong tương lai, tôi sẽ làm như vậy,” đó là ý. Của người như vậy: của người làm cho đầu, giữa, và cuối được biết. Sự chế ngự: là niệm hoặc cả tinh tấn. Không có gì khác: nói nhắm đến sự chú ý trước đó như ‘tôi sẽ làm cho toàn bộ thân được biết’ v.v… Trong việc phát sinh trí tuệ v.v…: bằng từ ‘v.v…’, bao gồm cả việc làm lắng dịu các hành của thân, cảm nhận hỷ v.v… Hành của thân: là hơi thở vào và hơi thở ra. Dù nó do tâm tạo ra, nhưng vì có hoạt động gắn liền với thân thể do nghiệp sinh, nên được thân đó tạo tác, do đó được gọi là hành của thân. Trong lúc chưa nắm bắt: trong lúc chưa bắt đầu đề mục thiền, có nghĩa là trong lúc chưa nắm bắt cả thân và tâm để bắt đầu điều đó. Vì bằng câu ‘ngồi, xếp bằng, giữ thân thẳng,’ đã nói đến sự nắm bắt thân; bằng câu ‘đặt niệm trước mặt,’ đã nói đến sự nắm bắt tâm. Mạnh: mạnh, thô, được nói bằng cách đảo ngược giống. Vì hành của thân được ngụ ý. Hoặc đây là một trạng từ, diễn ra một cách mạnh mẽ. Của tất cả: của cả hai.

Mahābhūtapariggahe sukhumoti catudhātumukhena vipassanābhinivesaṃ sandhāya vuttaṃ. Lakkhaṇārammaṇikavipassanāyāti kalāpasammasanamāha. Nibbidānupassanato paṭṭhāya balavavipassanā, tato oraṃ dubbalavipassanā. Pubbe vuttanayenāti apariggahitakāletiādinā samathanaye vuttanayena.
Vi tế trong việc nắm bắt các đại: được nói nhắm đến sự chú tâm vào thiền quán qua bốn đại. Của thiền quán có đối tượng là đặc tính: nói đến sự thẩm xét từng nhóm. Bắt đầu từ trí tuệ nhàm chán trở đi là thiền quán mạnh, trước đó là thiền quán yếu. Theo cách đã nói trước đó: theo cách đã được nói trong phương pháp chỉ tịnh bằng câu ‘trong lúc chưa nắm bắt’ v.v…

Codanāsodhanāhīti anuyogaparihārehi. Kathantiādi paṭisambhidāpāḷi, tattha kathaṃ sikkhatīti sambandho. Iti kirātiādi codakavacanaṃ. Iti kirāti evañceti attho. Assāsapassāso sabbathā abhāvaṃ upaneti ceti codakassa adhippāyo. Vātūpaladdhiyāti assāsapassāsavātassa abhāvena tabbisayāya upaladdhiyā bhāvanācittassa uppādo vaḍḍhi ca na hotīti attho. Na ca nanti ettha nanti nipātamattaṃ. Puna iti kirātiādi yathāvuttāya codanāya vissajjanā, tattha iti kira sikkhatīti mayā vuttākārena yadi sikkhatīti attho. Pabhāvanā hotīti yadipi oḷārikā kāyasaṅkhārā paṭippassambhanti, sukhumā pana atthevāti bhāvanāyapi vaḍḍhi hotevāti adhippāyo. Kaṃseti kaṃsabhājane. Nimittanti nimittassa, tesaṃ saddānaṃ pavattiākārassāti attho. Sukhumakā saddāti anurave āha. Sukhumasaddanimittārammaṇatāpīti sukhumo saddova nimittaṃ tadārammaṇatāyapi.
Bằng các câu hỏi và câu trả lời: bằng các câu hỏi và câu trả lời. Như thế nào… v.v…: là Pāḷi của Paṭisambhidā, ở đó, có liên quan là ‘học như thế nào?’ Như vậy là… v.v…: là lời của người hỏi. Như vậy là: có nghĩa là ‘và như vậy.’ Ý của người hỏi là hơi thở vào và hơi thở ra hoàn toàn đi đến sự không có. Do sự nhận biết về gió: có nghĩa là do không có gió hơi thở vào và hơi thở ra, nên sự phát sinh và phát triển của tâm tu tập có đối tượng đó không có. Và không phải là không: ở đây, ‘na’ chỉ là một tiểu từ. Lại như vậy là… v.v…: là câu trả lời cho câu hỏi đã nói, ở đó, như vậy là học: có nghĩa là nếu học theo cách tôi đã nói. Có sự phát triển: ý là dù các hành của thân thô thiển đã lắng dịu, nhưng các hành vi tế vẫn còn, nên sự phát triển của sự tu tập vẫn có. Trong cái chiêng: trong cái bình bằng đồng. Dấu hiệu: của dấu hiệu, có nghĩa là của hình thức diễn ra của các âm thanh đó. Các âm thanh vi tế: nói đến tiếng vang. Ngay cả tính chất có đối tượng là dấu hiệu của âm thanh vi tế: là âm thanh vi tế chính là dấu hiệu, do có đối tượng đó.

Ābhisamācārikasīlanti ettha abhisamācāroti uttamasamācāro, tadeva ābhisamācārikaṃ sīlaṃ, khandhakavattapariyāpannassa sīlassetaṃ adhivacanaṃ. Ahaṃ sīlaṃ rakkhāmīti ubhatovibhaṅgapariyāpannaṃ sīlaṃ sandhāya vuttaṃ. Āvāsoti āvāsapalibodho. Kulantiādīsupi eseva nayo. Kammanti navakammaṃ. Iddhīti pothujjanikā iddhi, sā vipassanāya palibodho. So upacchinditabboti visuddhimagge (visuddhi. 1.41) vuttena tassa tassa palibodhassa upacchedappakārena upacchinditabbo. Yogānuyogoti yogassa bhāvanāya anuyuñjanaṃ. Aṭṭhatiṃsārammaṇesūti ālokākāsakasiṇadvayaṃ vajjetvā pāḷiyaṃ āgatānaṃ aṭṭhannaṃ kasiṇānaṃ vasena vuttaṃ, cattārīsaññeva pana kammaṭṭhānāni. Yathāvutteneva nayenāti yogānuyogakammassa padaṭṭhānattāti imamatthaṃ atidisati. Imināva kammaṭṭhānenāti iminā ānāpānassatikammaṭṭhānena. Mahāhatthipathaṃ nīharanto viyāti kammaṭṭhānavīthiṃ mahāhatthimaggaṃ katvā dassento viya.
Giới thuộc về hành vi cao thượng: ở đây, ‘abhisamācāro’ là hành vi cao thượng, chính nó là giới thuộc về hành vi cao thượng, đây là tên gọi của giới thuộc về các phận sự trong Các phẩm Luật. Tôi giữ giới: được nói nhắm đến giới thuộc về Phân Tích của cả hai bộ. Trú xứ: sự ràng buộc của trú xứ. Gia đình… v.v… cũng áp dụng cùng một phương pháp. Công việc: công việc mới. Thần thông: thần thông của phàm phu, nó là chướng ngại cho thiền quán. Nó phải được cắt đứt: phải được cắt đứt bằng cách đã được nói trong Visuddhimagga (visuddhi. 1.41) về việc cắt đứt từng chướng ngại đó. Sự chuyên tâm vào sự tu tập: sự chuyên tâm vào sự tu tập của sự tu tập. Trong ba mươi tám đề mục: được nói theo cách của tám biến xứ đã có trong Pāḷi, bằng cách loại trừ hai biến xứ ánh sáng và hư không, nhưng chỉ có bốn mươi đề mục thiền. Theo chính cách đã nói: để dẫn chiếu ý nghĩa này rằng ‘vì là nền tảng của công việc chuyên tâm tu tập.’ Bằng chính đề mục thiền này: bằng đề mục thiền niệm hơi thở này. Giống như đang mở ra con đường lớn cho voi: giống như đang chỉ ra lộ trình của đề mục thiền bằng cách làm thành con đường lớn cho voi.

Vuttappakāramācariyanti ‘‘imināva kammaṭṭhānena catutthajjhānaṃ nibbattetvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ pattassā’’tiādinā heṭṭhā vuttappakāraṃ ācariyaṃ. ‘‘Piyo garu bhāvanīyo’’tiādinā (a. ni. 7.37; netti. 113; mi. pa. 6.1.10) visuddhimagge (visuddhi. 1.42) vuttappakāramācariyantipi vadanti. Pañcasandhikanti pañcapabbaṃ, pañcabhāganti attho. Kammaṭṭhānassa uggaṇhananti kammaṭṭhānaganthassa uggaṇhanaṃ. Tadatthaparipucchā kammaṭṭhānassa paripucchā, tattha saṃsayaparipucchā vā. Kammaṭṭhānassa upaṭṭhānanti evaṃ bhāvanamanuyuñjantassa evamidha nimittaṃ upatiṭṭhatīti upadhāraṇaṃ. Tathā kammaṭṭhānappanā evaṃ jhānamappetīti. Kammaṭṭhānassa lakkhaṇanti gaṇanānubandhanāphusanānaṃ vasena bhāvanaṃ ussukkāpetvā ṭhapanāvasena matthakappatti idha bhāvanāti kammaṭṭhānasabhāvassa sallakkhaṇaṃ, tenāha ‘‘kammaṭṭhānasabhāvūpadhāraṇanti vuttaṃ hotī’’ti.
Người thầy có cách đã nói: người thầy có cách đã được nói ở dưới bằng câu “của người đã đạt đến A-la-hán sau khi đã phát triển thiền quán bằng cách tạo ra thiền thứ tư bằng chính đề mục thiền này” v.v… Một số người cũng nói là ‘người thầy có cách đã được nói trong Visuddhimagga (visuddhi. 1.42) bằng câu “được yêu mến, được kính trọng, đáng được tu tập” v.v… (a. ni. 7.37; netti. 113; mi. pa. 6.1.10).’ Có năm đoạn: có năm đốt, có nghĩa là có năm phần. Sự học thuộc đề mục thiền: sự học thuộc sách về đề mục thiền. Sự hỏi về ý nghĩa của nó là sự hỏi về đề mục thiền, hoặc sự hỏi về những nghi ngờ ở đó. Sự có mặt của đề mục thiền: sự xác định rằng đối với người chuyên tâm tu tập như vậy, dấu hiệu hiện khởi như thế này ở đây. Tương tự, sự an chỉ của đề mục thiền là làm cho thiền an chỉ như thế này. Đặc tính của đề mục thiền: sự nhận biết về bản chất của đề mục thiền là sự tu tập ở đây đã đạt đến đỉnh cao bằng cách thực hành và thiết lập sự tu tập theo cách đếm, theo dõi, và tiếp xúc. Do đó nói là “có nghĩa là đã nói là sự xác định về bản chất của đề mục thiền.”

Aṭṭhārasasenāsanadosavivajjitanti mahattaṃ navattaṃ jiṇṇattaṃ panthanissitattaṃ soṇḍipaṇṇapupphaphalayuttatā patthanīyatā nagaradārukhettasannissitatā visabhāgānaṃ puggalānaṃ atthitā paṭṭanasannissitatā paccantasannissitatā rajjasīmasannissitatā asappāyatā kalyāṇamittānaṃ alābhoti imehi aṭṭhārasahi senāsanadosehi vivajjitaṃ. Pañcasenāsanaṅgasamannāgatanti –
Đã tránh khỏi mười tám lỗi của trú xứ: đã tránh khỏi mười tám lỗi của trú xứ là: quá lớn, quá mới, quá cũ, ở gần đường đi, có cỏ, lá, hoa, quả, được mong muốn, ở gần thành phố, gỗ, và ruộng, có những người khác loại, ở gần bến cảng, ở gần biên giới, ở gần ranh giới quốc gia, không phù hợp, và không có được bạn lành. Có đủ năm yếu tố của trú xứ:

‘‘Idha, bhikkhave, senāsanaṃ nātidūraṃ hoti nāccāsannaṃ gamanāgamanasampannaṃ divā appākiṇṇaṃ rattiṃ appasaddaṃ appanigghosaṃ appaḍaṃsamakasavātātapasarīsapasamphassaṃ, tasmiṃ kho pana senāsane viharantassa appakasirena uppajjanti cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhārā, tasmiṃ kho pana senāsane therā bhikkhū viharanti …pe… evaṃ kho, bhikkhave, senāsanaṃ pañcaṅgasamannāgataṃ hotī’’ti (a. ni. 10.11) –
“Ở đây, này các Tỳ-khưu, trú xứ không quá xa, không quá gần, thuận tiện cho việc đi lại, ban ngày không ồn ào, ban đêm ít tiếng động, ít ồn ào, ít bị muỗi, ruồi, gió, nắng, và các loài bò sát quấy nhiễu; đối với người sống trong trú xứ đó, các vật dụng là y, vật thực khất thực, trú xứ, và thuốc men chữa bệnh phát sinh một cách không khó khăn; trong trú xứ đó, các vị Tỳ-khưu trưởng lão sống… v.v… như vậy, này các Tỳ-khưu, trú xứ có đủ năm yếu tố” (a. ni. 10.11) –

Evaṃ bhagavatā vuttehi pañcahi senāsanaṅgehi samannāgataṃ, ettha ca nātidūratādi ekaṃ, divā appākiṇṇatādi ekaṃ, appaḍaṃsāditā ekaṃ, cīvarādilābho ekaṃ, therānaṃ bhikkhūnaṃ nivāso ekanti evaṃ pañcaṅgāni veditabbāni.
Có đủ năm yếu tố của trú xứ đã được Đức Thế Tôn nói như vậy. Ở đây, cần biết là có năm yếu tố như sau: không quá xa v.v… là một, ban ngày không ồn ào v.v… là một, ít bị muỗi v.v… là một, có được y v.v… là một, và có các vị Tỳ-khưu trưởng lão ở là một.

Upacchinnakhuddakapalibodhenāti dīghānaṃ kesādīnaṃ haraṇena pattacīvarādīnaṃ pacanatunnakaraṇarajanādikaraṇehi ca upacchinnā khuddakā palibodhā yena, tena. Bhattasammadanti bhojananimittaṃ parissamaṃ. Ācariyato uggaho ācariyuggaho, sabbopi kammaṭṭhānavidhi, na pubbe vuttauggahamattaṃ, tato. Ekapadampīti ekakoṭṭhāsampi.
Bởi người đã cắt đứt các chướng ngại nhỏ: bởi người đã cắt đứt các chướng ngại nhỏ bằng việc cắt tóc dài v.v… và bằng các việc như giặt, vá, nhuộm y và trú xứ v.v… Sự mệt mỏi do ăn uống: sự mệt mỏi do việc ăn uống. Sự học từ thầy là sự học từ thầy, là toàn bộ phương pháp của đề mục thiền, không phải chỉ là sự học đã được nói trước đó, từ đó. Ngay cả một vế: ngay cả một phần.

Anuvahanāti assāsapassāsānaṃ anugamanavasena satiyā nirantaraṃ anuppavattanā. Yasmā pana gaṇanādivasena viya phusanāvasena visuṃ manasikāro natthi, phuṭṭhaphuṭṭhaṭṭhāne eva gaṇanādi kātabbanti dassetuṃ idha phusanāgahaṇanti dīpento ‘‘phusanāti phuṭṭhaṭṭhāna’’nti āha. Ṭhapanāti samādhānaṃ, samādhippadhānā pana appanāti āha ‘‘ṭhapanāti appanā’’ti. Aniccatādīnaṃ lakkhaṇato sallakkhaṇā vipassanā. Pavattato nimittato ca vinivaṭṭanato vinivaṭṭanā maggo. Kilesapaṭippassaddhibhāvato pārisuddhi phalaṃ. Tesanti vinivaṭṭanāpārisuddhīnaṃ. Khaṇḍanti ‘‘ekaṃ tīṇi pañcā’’ti ekantarikādibhāvena gaṇanāya khaṇḍanaṃ. Atha vā khaṇḍanti antarantarā katipayakālaṃ agaṇetvā puna gaṇanavasena antarā odhiparicchedo na dassetabbo. Tathā khaṇḍaṃ dassentassa hi ‘‘kammaṭṭhānaninnaṃ pavattati nu kho me cittaṃ, no’’ti vīmaṃsuppattiyā vikkhepo hoti, tenāha sikhāppattaṃ nu kho metiādi, idañca evaṃ khaṇḍaṃ dassetvā cirataraṃ gaṇanāya manasikarontassa vasena vuttaṃ. So hi tathā laddhaṃ avikkhepamattaṃ nissāya evaṃ maññeyya. Yo upaṭṭhāti, taṃ gahetvāti idaṃ assāsapassāsesu yassa ekova paṭhamaṃ upaṭṭhāti, taṃ sandhāya vuttaṃ, yassa pana ubhopi upaṭṭhahanti, tena ubhayampi gahetvā gaṇitabbaṃ. Yo upaṭṭhātīti imināva dvīsu nāsāpuṭavātesu yo pākaṭo hoti, so gahetabboti ayampi attho dīpitoti gahetabbaṃ. Paṭhamaṃ ekekasmiṃ upaṭṭhitepi upalakkhetvā gaṇantasseva kamena ubhopi pākaṭā hontīti āha ‘‘assāsapassāsā pākaṭā hontī’’ti. Evaṃ sīghaṃ sīghaṃ gaṇetabbamevāti sambandho. Evaṃ sīghagaṇanārambhassa okāsaṃ dassetuṃ imassāpi purimanayena gaṇayatotiādi vuttaṃ. Tattha purimanayenāti dandhagaṇanāya, pākaṭā hutvāti iminā dandhagaṇanāya āraddhakāle cittassa avisadatāya sukhumassāsādīnaṃ apākaṭataṃ, pacchā visadakāle pākaṭatañca tesu ca pākaṭesu dandhagaṇanaṃ pahāya sīghagaṇanā kātabbāti dasseti. Sīghagaṇanāya nippariyāyato nirantarappavatti appanāvīthiyameva, na kāmāvacare bhavaṅgantarikattāti āha ‘‘nirantarappavattaṃ viyā’’ti. Purimanayenevāti sīghagaṇanāya. Anto pavisantaṃ vātaṃ manasikaronto anto cittaṃ paveseti nāma.
Sự theo dõi: sự diễn ra liên tục của niệm theo cách theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra. Nhưng vì không có sự chú tâm riêng biệt theo cách tiếp xúc như theo cách đếm v.v…, để chỉ ra rằng phải đếm v.v… ngay tại nơi đã tiếp xúc, đã lấy sự tiếp xúc ở đây, để làm sáng tỏ điều đó, đã nói là “tiếp xúc là nơi đã tiếp xúc.” Sự thiết lập là sự định, nhưng an chỉ thì chủ yếu là định, nên nói là “sự thiết lập là an chỉ.” Sự nhận biết là thiền quán từ đặc tính vô thường v.v… Sự quay lại là đạo từ việc quay lại khỏi sự diễn ra và dấu hiệu. Sự trong sạch là quả do trạng thái lắng dịu của phiền não. Của chúng: của sự quay lại và sự trong sạch. Sự gián đoạn: sự gián đoạn của việc đếm theo cách cách quãng như “một, ba, năm.” Hoặc ‘khaṇḍaṃ’ là không nên chỉ ra sự phân định giới hạn ở giữa bằng cách không đếm một lúc nào đó rồi lại đếm. Vì đối với người chỉ ra sự gián đoạn như vậy, có sự phân tán do phát sinh sự xem xét rằng “tâm của tôi có xu hướng vào đề mục thiền hay không.” Do đó nói là tôi đã đạt đến đỉnh cao hay chưa… v.v…, và điều này được nói theo cách của người chú tâm vào việc đếm lâu hơn sau khi đã chỉ ra sự gián đoạn như vậy. Vì người đó có thể nghĩ như vậy dựa vào sự không phân tán đã có được như vậy. Sau khi đã lấy cái hiện khởi: điều này được nói nhắm đến người mà chỉ một trong hai hơi thở vào và hơi thở ra hiện khởi lúc đầu. Nhưng đối với người mà cả hai đều hiện khởi, thì phải lấy cả hai và đếm. Bằng chính câu ‘cái hiện khởi,’ cần hiểu rằng ý nghĩa này cũng đã được làm sáng tỏ rằng trong hai luồng gió ở hai lỗ mũi, luồng nào rõ ràng thì phải lấy luồng đó. Dù lúc đầu chỉ có một hiện khởi, nhưng đối với người nhận biết và đếm, thì dần dần cả hai đều trở nên rõ ràng, nên nói là “hơi thở vào và hơi thở ra trở nên rõ ràng.” Cần phải đếm nhanh như vậy, đó là mối liên hệ. Để chỉ ra cơ hội bắt đầu đếm nhanh như vậy, đã nói là đối với người này cũng đếm theo cách trước… v.v… Ở đó, theo cách trước là bằng cách đếm chậm. Sau khi đã trở nên rõ ràng: để chỉ ra sự không rõ ràng của các hơi thở vi tế v.v… do tâm không sáng suốt vào lúc bắt đầu đếm chậm, và sự rõ ràng vào lúc sáng suốt sau đó, và khi chúng đã rõ ràng, thì phải từ bỏ việc đếm chậm và thực hiện việc đếm nhanh. Vì sự diễn ra liên tục, không gián tiếp của việc đếm nhanh chỉ có trong lộ trình an chỉ, không phải trong cõi dục, vì có sự cách quãng của hữu phần, nên nói là “giống như diễn ra liên tục.” Theo chính cách trước: bằng cách đếm nhanh. Người chú tâm vào luồng gió đi vào trong được gọi là đưa tâm vào trong.

Etanti etaṃ assāsapassāsajātaṃ. Anugamananti phuṭṭhaṭṭhāne manasikaraṇameva, na assāsapassāsānaṃ anuvattanaṃ, tenāha – ‘‘tañca kho na ādimajjhapariyosānānugamanavasenā’’ti. Phusanāṭhapanāvasena visuṃ manasikāro natthīti iminā yathā gaṇanāya phusanāya ca manasikaroti, evaṃ anubandhanaṃ vinā kevalaṃ ṭhapanāya ca phusanāya ca manasikāropi natthīti dassentena gaṇanaṃ paṭisaṃharitvā yāva appanā uppajjati, tāva anubandhanāya ca phusanāya ca manasikaroti, appanāya pana uppannāya anubandhanāya ṭhapanāya ca manasikaroti nāmāti dīpitaṃ hoti, aṭṭhakathāyaṃ pana anubandhanāya vinā ṭhapanāya manasikāro natthīti dassanatthaṃ ‘‘anubandhanāya ca phusanāya ca ṭhapanāya ca manasikarotīti vuccatī’’ti ettakameva vuttanti gahetabbaṃ . Yā accantāya na minoti na vinicchanati, sā mānassa samīpeti upamānaṃ siddhasādisena sādhyasādhanaṃ yathā go viya gavayoti. Paṅguḷoti pīṭhasappī. Dolāti peṅkholo. Kīḷatanti kīḷantānaṃ. Upanibandhanatthambhamūleti nāsikaggaṃ mukhanimittañca sandhāya vuttaṃ. Ādito pabhutīti upameyyatthadassanato paṭṭhāya. Nimittanti upanibandhananimittaṃ nāsikaggaṃ, mukhanimittaṃ vā. Anārammaṇamekacittassāti assāsapassāsānaṃ ekakkhaṇe appavattanato ekassa cittassa tayopi ārammaṇaṃ na honti, nimittena saha assāso passāso vāti dveyeva ekakkhaṇe ārammaṇaṃ hontīti attho. Ajānato ca tayo dhammeti nimittaṃ assāso passāsoti ime tayo dhamme ārammaṇakaraṇavasena avindantassa, ca-saddo byatireko, tena evañca sati ayaṃ aniṭṭhappasaṅgoti byatirekaṃ dasseti. Bhāvanāti ānāpānassatibhāvanā.
Điều này: tập hợp hơi thở vào và hơi thở ra này. Sự theo dõi: chỉ là sự chú tâm vào nơi đã tiếp xúc, không phải là sự theo dõi hơi thở vào và hơi thở ra. Do đó nói là – “và điều đó không phải theo cách theo dõi đầu, giữa, và cuối.” Không có sự chú tâm riêng biệt theo cách tiếp xúc và thiết lập: bằng câu này, đã làm sáng tỏ rằng giống như chú tâm vào việc đếm và tiếp xúc, cũng không có sự chú tâm chỉ vào việc thiết lập và tiếp xúc mà không có sự theo dõi. Bằng điều đó, đã chỉ ra rằng sau khi đã từ bỏ việc đếm, cho đến khi an chỉ phát sinh, người đó chú tâm vào sự theo dõi và tiếp xúc; nhưng khi an chỉ đã phát sinh, thì được gọi là chú tâm vào sự theo dõi và thiết lập. Nhưng trong Chú giải, để chỉ ra rằng không có sự chú tâm vào việc thiết lập mà không có sự theo dõi, đã nói chừng đó là “được gọi là chú tâm vào sự theo dõi, tiếp xúc, và thiết lập,” cần phải hiểu như vậy. Điều gì hoàn toàn không đo lường, không phân định, nó ở gần sự đo lường là ‘upamānaṃ,’ là sự chứng minh điều cần được chứng minh bằng điều đã được xác định, giống như ‘gavayo’ (bò tót) giống như ‘go’ (bò). Người què: người đi bằng mông. Cái võng: cái võng. Của những người đang chơi: của những người đang chơi. Ở gốc cột buộc: được nói nhắm đến đầu mũi và dấu hiệu của miệng. Bắt đầu từ đầu: bắt đầu từ việc chỉ ra ý nghĩa của điều được so sánh. Dấu hiệu: dấu hiệu buộc là đầu mũi, hoặc dấu hiệu của miệng. Không phải là đối tượng của một tâm duy nhất: vì hơi thở vào và hơi thở ra không diễn ra trong cùng một khoảnh khắc, nên cả ba không phải là đối tượng của một tâm duy nhất. Chỉ có hai là hơi thở vào hoặc hơi thở ra cùng với dấu hiệu là đối tượng trong cùng một khoảnh khắc, đó là ý. Và của người không biết ba pháp: của người không tìm thấy ba pháp này là dấu hiệu, hơi thở vào, và hơi thở ra theo cách làm đối tượng. Từ ‘ca’ chỉ sự ngược lại. Bằng điều đó, chỉ ra sự ngược lại rằng ‘và nếu như vậy, thì có sự bất lợi này.’ Sự tu tập: sự tu tập niệm hơi thở.

Kathaṃ ime…pe… visesamadhigacchatīti idaṃ parihāragāthāya vuttamevatthaṃ kakacopamāya (ma. ni. 1.222 ādayo) vivarituṃ pucchāṭhapanaṃ. Tattha kathaṃ-saddo paccekaṃ yojetabbo ‘‘kathamime aviditā…pe… kathaṃ visesamadhigacchatī’’ti. Padhānanti bhāvanānipphādakaṃ vīriyaṃ. Payoganti nīvaraṇavikkhambhakaṃ bhāvanānuyogaṃ. Visesanti arahattapariyosānavisesaṃ. Padhānanti rukkhassa chedanavīriyaṃ. Payoganti tasseva chedanakakiriyaṃ. Kiñcāpettha ‘‘visesamadhigacchatī’’ti upamāyaṃ na vuttaṃ, tathāpi atthato yojetabbameva. Yathā rukkhotiādi upamāsaṃsandanaṃ. Nāsikagge vā mukhanimitte vāti dīghanāsiko nāsikagge, itaro mukhaṃ nimiyati chādiyati etenāti mukhanimittanti laddhanāme uttaroṭṭhe.
Làm thế nào mà những điều này… v.v… đạt được sự đặc biệt: đây là sự đặt câu hỏi để giải thích ý nghĩa đã được nói trong bài kệ giải đáp bằng ví dụ về cái cưa (ma. ni. 1.222 ādayo). Ở đó, từ ‘kathaṃ’ (làm thế nào) phải được kết hợp riêng là “làm thế nào mà những điều này không được biết… v.v… làm thế nào mà đạt được sự đặc biệt?” Sự tinh tấn: là tinh tấn tạo ra sự tu tập. Sự thực hành: là sự chuyên tâm tu tập khắc phục các triền cái. Sự đặc biệt: là sự đặc biệt kết thúc ở A-la-hán. Sự tinh tấn: là tinh tấn chặt cây. Sự thực hành: là hành động chặt của chính nó. Dù ở đây, “đạt được sự đặc biệt” không được nói trong ví dụ, nhưng vẫn phải kết hợp về mặt ý nghĩa. Giống như cái cây… v.v…: là sự so sánh ví dụ. Ở đầu mũi hoặc ở dấu hiệu của miệng: người có mũi dài thì ở đầu mũi, người khác thì ở môi trên, được gọi là ‘mukhanimittaṃ’ (dấu hiệu của miệng) vì miệng được che đậy bởi nó.

Idaṃ padhānanti yena vīriyārambhena kāyopi cittampi bhāvanākammassa arahaṃ idha padhānanti phalena hetuṃ dasseti. Upakkilesāti nīvaraṇā. Vitakkāti kāmavitakkādimicchāvitakkā, nīvaraṇappahānena vā paṭhamajjhānādhigamaṃ dassetvā vitakkūpasamāpadesena dutiyajjhānādīnamadhigamamāha. Ayaṃ sayamevati ayaṃ jhānādhigamassa hetubhūto kammaṭṭhānānuyogasaṅkhāto sayameva. Saṃyojanā pahīyantīti dasapi saṃyojanāni maggapaṭipāṭiyā samucchedavasena pahīyanti. Byantī hontīti tathā sattapi anusayā bhaṅgamattassapi anavasesato vigatantā honti. Ayaṃ visesoti imaṃ samādhiṃ nissāya anukkamena labbhamāno ayaṃ saṃyojanappahānādiko imassa samādhissa visesoti attho. Evaṃ ime tayo dhammātiādi nigamanavacanaṃ. Paripuṇṇāti soḷasannaṃ vatthūnaṃ pāripūriyā sabbaso puṇṇā. Anupubbanti anukkamena. Paricitāti pariciṇṇā. Imaṃ lokanti khandhādilokaṃ paññāpabhāsena pabhāseti.
Đây là sự tinh tấn: tinh tấn nào mà cả thân và tâm đều xứng đáng cho công việc tu tập, ở đây là sự tinh tấn, bằng quả để chỉ ra nhân. Các phiền não: các triền cái. Các tầm: các tà tầm như tầm về dục v.v…, hoặc sau khi đã chỉ ra sự chứng đắc sơ thiền bằng việc từ bỏ các triền cái, nói đến sự chứng đắc các thiền thứ hai v.v… bằng cách nói về sự lắng dịu của tầm. Chính điều này: chính điều này là sự chuyên tâm vào đề mục thiền, là nguyên nhân của sự chứng đắc thiền. Các kiết sử bị đoạn trừ: cả mười kiết sử đều bị đoạn trừ theo cách cắt đứt theo thứ tự của đạo. Trở nên chấm dứt: bảy tùy miên đó cũng trở nên chấm dứt, không còn sót lại ngay cả một chút nào. Đây là sự đặc biệt: ý là sự đoạn trừ kiết sử v.v… này, có được tuần tự nhờ định này, là sự đặc biệt của định này. Như vậy, ba pháp này… v.v…: là lời kết luận. Viên mãn: viên mãn hoàn toàn do sự hoàn thành của mười sáu đối tượng. Tuần tự: theo thứ tự. Đã được thực hành: đã được thực hành. Thế gian này: làm sáng tỏ thế gian là các uẩn v.v… bằng ánh sáng của trí tuệ.

Idhāti imasmiṃ ṭhāne. Assāti upamābhūtassa kakacassa. Ānayane payojananti yojetabbaṃ. Nimittanti paṭibhāganimittaṃ. Avasesajhānaṅgapaṭimaṇḍitāti vitakkādiavasesajhānaṅgapaṭimaṇḍitāti vadanti. Vicārādīhīti pana vattabbaṃ nippariyāyena vitakkassa appanābhāvato. So hi ‘‘appanā byappanā’’ti niddiṭṭho. Evañhi sati avasesa-saddo upapanno hoti, vitakkasampayogato vā jhānaṅgesu padhānabhūto samādhi appanāti katvā ‘‘avasesajhānaṅgapaṭimaṇḍitā appanāsaṅkhātā ṭhapanā ca sampajjatī’’ti vuttaṃ. Kassaci pana gaṇanāvaseneva manasikārakālato pabhutīti ettha ‘‘anukkamato…pe… pattaṃ viya hotī’’ti upari vakkhamāno gantho purāṇapotthakesu dissati, tasmā ayaṃ pāṭho etthāpi likhitabbo, lekhakānaṃ pana dosena gaḷitoti veditabbo.
Ở đây: ở nơi này. Của nó: của cái cưa là ví dụ. Phải kết hợp là ‘có lợi ích trong việc mang đến.’ Dấu hiệu: là tướng tương tự. Được trang điểm bằng các thiền chi còn lại: một số người nói là được trang điểm bằng các thiền chi còn lại như tầm v.v… Nhưng phải nói là ‘bằng tứ v.v…,’ vì tầm không phải là an chỉ một cách không gián tiếp. Vì nó đã được chỉ định là “an chỉ, sự an chỉ.” Và như vậy, từ ‘còn lại’ mới hợp lý. Hoặc là, do kết hợp với tầm, định là thiền chi chính trong các thiền chi là an chỉ, nên đã nói là “sự thiết lập là an chỉ, được trang điểm bằng các thiền chi còn lại, cũng thành tựu.” Nhưng đối với một số người, bắt đầu từ lúc chú tâm chỉ theo cách đếm: ở đây, đoạn văn sẽ được nói ở trên là “theo thứ tự… v.v… giống như đã đạt đến” được thấy trong các sách cổ, do đó, đoạn văn này cũng phải được viết ở đây. Cần hiểu là đã bị thiếu sót do lỗi của người sao chép.

Oḷārike assāsapassāse niruddhetiādi heṭṭhā vuttanayampi vicetabbākārappattassa kāyasaṅkhārassa vicayanavidhiṃ dassetuṃ ānītaṃ. Desatoti pubbe phusanavasena gahitaṭṭhānato. Nimittaṃ paṭṭhapetabbanti pubbe gahitākāranimittaggāhikā saññā phusanaṭṭhāne paṭṭhapetabbā. Imameva hi atthavasanti imaṃ anupaṭṭhahantassa ārammaṇassa upaṭṭhānavidhisaṅkhātaṃ kāraṇaṃ paṭicca. Itoti ānāpānakammaṭṭhānato. Garukatā ca bhāvanādukkaratāyāti āha ‘‘garukabhāvana’’nti. Caritvāti gocaraṃ gahetvā. Nimittanti uggahanimittaṃ, paṭibhāganimittaṃ vā. Ubhayampi hi idha ekajjhaṃ vuttaṃ. Tathā hi tūlapicuādiupamattayaṃ uggahe yujjati, sesaṃ ubhayattha.
Khi hơi thở vào và hơi thở ra thô thiển đã bị diệt… v.v…: đã được mang đến để chỉ ra phương pháp xem xét của hành của thân đã đến trạng thái cần được xem xét, dù phương pháp đã được nói ở dưới. Từ nơi chốn: từ nơi chốn đã được lấy theo cách tiếp xúc trước đó. Phải thiết lập dấu hiệu: tưởng, là cái nắm bắt dấu hiệu của hình thức đã được lấy trước đó, phải được thiết lập ở nơi tiếp xúc. Chính vì lý do này: dựa vào nguyên nhân này là phương pháp làm cho đối tượng hiện khởi đối với người không hiện khởi. Từ đây: từ đề mục thiền niệm hơi thở. Và tính chất nặng nề là do sự khó khăn trong việc tu tập, nên nói là “sự tu tập nặng nề.” Sau khi đã đi: sau khi đã lấy đối tượng. Dấu hiệu: là tướng nắm bắt, hoặc tướng tương tự. Vì cả hai ở đây được nói chung. Cụ thể, ba ví dụ về bông gòn v.v… hợp lý trong tướng nắm bắt, phần còn lại thì ở cả hai.

Tārakarūpaṃ viyāti tārakāya sarūpaṃ viya. Saññānānatāyāti nimittupaṭṭhānato pubbe pavattasaññānaṃ nānatāya. Saññajanti bhāvanāsaññāya parikappitaṃ, na uppāditaṃ avijjamānattā, tenāha ‘‘nānato upaṭṭhātī’’ti. Evaṃ hotīti bhāvanamanuyuttassa evaṃ upaṭṭhāti. Evanti evaṃ sati, yathāvuttanayena nimitte eva cittassa ṭhapane satīti attho. Ito pabhutīti ito paṭibhāganimittuppattito paṭṭhāya. Nimitteti paṭibhāganimitte. Ṭhapayanti ṭhapanāvasena cittaṃ ṭhapanto. Nānākāranti ‘‘cattāro vaṇṇā’’ti evaṃ vuttaṃ nānākāraṃ. Vibhāvayanti vibhāvento antaradhāpento. Nimittuppattito paṭṭhāya hi te ākārā amanasikaroto antarahitā viya honti. Assāsapassāseti assāse passāse ca yo nānākāro, taṃ vibhāvayaṃ assāsapassāsasambhūte vā nimitte cittaṃ ṭhapayaṃ sakaṃ cittaṃ nibandhati nāmāti yojanā. Keci pana vibhāvayanti etassa vibhāvento viditaṃ pākaṭaṃ karontoti atthaṃ vadanti, taṃ pubbabhāgavasena yujjeyya. Ayañhettha attho – assāsapassāse nānākāraṃ vibhāvento pajānanto tattha yaṃ laddhaṃ nimittaṃ, tasmiṃ cittaṃ ṭhapento anukkamena sakaṃ cittaṃ nibandhati appetīti.
Giống như hình dạng của ngôi sao: giống như hình dạng của ngôi sao. Do sự khác biệt của tưởng: do sự khác biệt của các tưởng đã diễn ra trước khi dấu hiệu hiện khởi. Do tưởng sinh ra: được định đoạt bởi tưởng tu tập, không phải được tạo ra, vì không tồn tại. Do đó nói là “hiện khởi một cách khác nhau.” Trở nên như vậy: hiện khởi như vậy đối với người chuyên tâm tu tập. Như vậy: nếu như vậy, có nghĩa là nếu có sự thiết lập tâm chỉ trong dấu hiệu theo cách đã nói. Bắt đầu từ đây: bắt đầu từ sự phát sinh của tướng tương tự này. Trong dấu hiệu: trong tướng tương tự. Thiết lập: khi đang thiết lập tâm theo cách thiết lập. Nhiều hình thức: nhiều hình thức đã được nói như “bốn màu sắc.” Làm cho rõ ràng: khi đang làm cho rõ ràng, làm cho biến mất. Vì từ khi dấu hiệu phát sinh, các hình thức đó giống như đã biến mất đối với người không chú tâm. Kết nối là ‘người nào làm cho rõ ràng nhiều hình thức trong hơi thở vào và hơi thở ra, hoặc thiết lập tâm trong dấu hiệu sinh ra từ hơi thở vào và hơi thở ra, được gọi là buộc chặt tâm của mình.’ Nhưng một số người nói rằng ý nghĩa của ‘vibhāvayanti’ là ‘khi đang làm cho rõ ràng, làm cho được biết, được rõ ràng,’ điều đó có thể hợp lý theo giai đoạn đầu. Và ý nghĩa ở đây là: người nào, khi đang làm cho rõ ràng, biết nhiều hình thức trong hơi thở vào và hơi thở ra, và thiết lập tâm trong dấu hiệu đã có được ở đó, thì tuần tự buộc chặt, an chỉ tâm của mình.

Kilesāti avasesakilesā. Sannisinnāyevāti aladdhanīvaraṇasahāyā olīnāyeva. Upacārabhūmiyanti upacārāvatthāyaṃ. Lakkhaṇatoti vikkhambhanādisabhāvato vā aniccādisabhāvato vā. Gocaroti bhikkhācāragāmo. Yattha dullabhā sappāyabhikkhā, so asappāyo, itaro sappāyo. Bhassanti dasakathāvatthunissitaṃ bhassaṃ, taṃ sappāyaṃ, itaramasappāyaṃ. Sesesu āvāsādīsu yattha yattha asamāhitaṃ cittaṃ samādhiyati, taṃ taṃ sappāyaṃ, itaramasappāyanti gahetabbaṃ. Yassa pana evaṃ sattavidhaṃ asappāyaṃ vajjetvā sappāyameva sevantassapi appanā na hoti, tena sampādetabbaṃ dasavidhaṃ appanākosallaṃ dassento vatthuvisadakiriyātiādimāha. Tattha vatthuvisadakiriyā nāma kesanakhacchedanādīhi ajjhattikassa sarīravatthussa, cīvarasenāsanādidhovanaparikammādīhi bāhiravatthussa ca visadabhāvakaraṇaṃ. Evañhi ñāṇampi visadakiccanipphattikaraṃ hoti. Indriyasamattapaṭipādanatā nāma saddhādīnaṃ indriyānaṃ samabhāvakaraṇaṃ. Nimittakusalatā nāma bhāvanāya laddhanimittassa rakkhaṇakosallaṃ. Yasmiṃ samaye cittaṃ niggahetabbantiādīsu yasmiṃ samaye cittaṃ accāraddhatādīhi kāraṇehi uddhatatāya niggahetabbaṃ, tadā dhammavicayasambojjhaṅgādayo tayo abhāvetvā passaddhādīnaṃ tiṇṇaṃ bhāvanena cittassa niggaṇhanā hoti. Yadāssa cittaṃ atisithilavīriyatādīhi līnatāya paggahetabbaṃ, tadā passaddhisambojjhaṅgādayo tayo abhāvetvā dhammavicayādīnaṃ tiṇṇaṃ bhāvanena cittassa paggaṇhanaṃ hoti. Yadāssa paññāpayogamandatādīhi nirassādaṃ cittaṃ hoti, tadā tassa cittassa aṭṭhasaṃvegavatthupaccavekkhaṇādinā (a. ni. aṭṭha. 1.1.418) sampahaṃsanasaṅkhātā saṃvejanā hoti. Yadā panassa evaṃ paṭipajjanato alīnaṃ anuddhataṃ anirassādaṃ ārammaṇe samappavattaṃ samathavīthipaṭipannañca cittaṃ hoti, tadā tassa paggahaniggahasampahaṃsanesu abyāpāratāsamāpajjanena ajjhupekkhanā hoti.
Các phiền não: các phiền não còn lại. Chỉ bị lắng xuống: chỉ bị lắng xuống, không có được sự trợ giúp của các triền cái. Trong cõi cận hành: trong trạng thái cận hành. Từ đặc tính: từ bản chất khắc phục v.v… hoặc từ bản chất vô thường v.v… Đối tượng: làng khất thực. Nơi nào vật thực khất thực phù hợp khó có được, nơi đó không phù hợp, nơi khác thì phù hợp. Cuộc nói chuyện: cuộc nói chuyện dựa vào mười đối tượng của cuộc nói chuyện, đó là phù hợp, điều khác thì không phù hợp. Trong các điều còn lại như trú xứ v.v…, cần hiểu là nơi nào tâm không định trở nên định, nơi đó là phù hợp, nơi khác thì không phù hợp. Nhưng đối với người nào, dù đã tránh bảy loại không phù hợp và chỉ theo đuổi những gì phù hợp mà an chỉ vẫn không có, để chỉ ra mười sự khéo léo trong an chỉ mà người đó phải hoàn thành, đã nói là việc làm cho đối tượng trong sạch… v.v… Ở đó, việc làm cho đối tượng trong sạch là việc làm cho trong sạch đối tượng thân thể bên trong bằng cách cắt tóc, móng v.v…, và đối tượng bên ngoài bằng cách giặt, sửa chữa y và trú xứ v.v… Và như vậy, trí tuệ cũng trở nên có khả năng hoàn thành phận sự một cách trong sạch. Sự thực hiện sự quân bình của các căn là việc làm cho các căn như tín v.v… trở nên quân bình. Sự khéo léo trong dấu hiệu là sự khéo léo trong việc bảo vệ dấu hiệu đã có được do sự tu tập. Vào lúc nào tâm phải được chế ngự… v.v…: vào lúc nào tâm phải được chế ngự do sự trạo cử vì các lý do như quá tinh tấn v.v…, thì khi đó, bằng cách không tu tập ba giác chi như trạch pháp v.v… và bằng cách tu tập ba giác chi như khinh an v.v…, có sự chế ngự tâm. Khi tâm của người đó bị hôn trầm do các lý do như quá lười biếng v.v… và phải được khích lệ, thì khi đó, bằng cách không tu tập ba giác chi như khinh an v.v… và bằng cách tu tập ba giác chi như trạch pháp v.v…, có sự khích lệ tâm. Khi tâm của người đó trở nên vô vị do các lý do như sự thực hành trí tuệ kém v.v…, thì khi đó, có sự nhàm chán là sự hoan hỷ của tâm đó bằng cách quán xét tám đối tượng của sự nhàm chán v.v… (a. ni. aṭṭha. 1.1.418). Nhưng khi tâm của người đó, do đã thực hành như vậy, không bị hôn trầm, không bị trạo cử, không bị vô vị, diễn ra một cách quân bình trong đối tượng, và đã đi vào lộ trình của chỉ, thì khi đó, có sự xả bỏ bằng cách không nỗ lực trong việc khích lệ, chế ngự, và hoan hỷ.

Tadadhimuttatā nāma samādhiadhimuttatā, samādhininnapoṇapabbhāratāti attho. Etthāti etissaṃ kāyānupassanāyaṃ.
Sự hướng về đó: là sự hướng về định, có nghĩa là có xu hướng, thiên hướng, và nghiêng về định. Ở đây: trong sự quán thân này.

Pārisuddhiṃ pattukāmoti phalaṃ adhigantukāmo samāpajjitukāmo ca. Tattha sallakkhaṇāvivaṭṭanāvasena paṭhamaṃ maggānantaraphalaṃ adhigantukāmo. Tato paraṃ sallakkhaṇavasena phalasamāpattiṃ samāpajjitukāmopīti evamattho gacchatiti. Āvajjanasamāpajjana…pe… vasippattanti ettha paṭiladdhajhānato vuṭṭhāya vitakkādīsu jhānaṅgesu ekekaṃ āvajjayato bhavaṅgaṃ upacchinditvā uppannāvajjanānantaraṃ vitakkādīsu yathāvajjitajhānaṅgārammaṇāni kāmāvacarajavanāni bhavaṅgantaritāni yadā nirantaraṃ pavattanti, athassa āvajjanavasī siddhā hoti. Taṃ pana jhānaṃ samāpajjitukāmatānantaraṃ sīghaṃ samāpajjanasamatthatā samāpajjanavasī nāma. Accharāmattaṃ vā dasaccharāmattaṃ vā khaṇaṃ jhānaṃ ṭhapetuṃ samatthatā adhiṭṭhānavasī nāma. Tatheva lahuṃ khaṇaṃ jhānasamaṅgī hutvā jhānato bhavaṅguppattivasena vuṭṭhātuṃ samatthatā vuṭṭhānavasī nāma. ‘‘Ettakameva khaṇaṃ samāpajjissāmī’’ti, ‘‘ettakameva khaṇaṃ jhānasamaṅgī hutvā jhānato vuṭṭhahissāmī’’ti ca pavattapubbaparikammabhedenettha adhiṭṭhānavuṭṭhānavasiyo bhinnā, na sarūpabhedena, yā ‘‘samāpattikusalatā, vuṭṭhānakusalatā’’ti vuccanti. Paccavekkhaṇavasī pana āvajjanavasiyā eva vuttā. Paccavekkhaṇavīthiyañhi sīghaṃ āvajjanuppattiyā āvajjanavasī tadanantarānaṃ javanānaṃ samuppattiyā paccavekkhaṇavasīti āvajjanavasīsiddhiyāva paccavekkhaṇavasī siddhā eva hotīti veditabbā. Jhānaṅgāni pariggahetvāti jhānacittasampayuttāni jhānaṅgāni lakkhaṇādivasena pariggahetvā. Tesañca nissayanti tesaṃ vatthunissayānaṃ bhūtānaṃ nissayaṃ. Idañca karajakāyassa vatthudasakassa bhūtanissayattā suttantanayena vuttaṃ, na paṭṭhānanayena. Na hi kalāpantaragatāni bhūtāni kalāpantaragatānaṃ bhūtānaṃ nissayapaccayā honti, suttantanayena pana upanissayapaccayoti veditabbāni. Paṭṭhāne hi asaṅgahitā sabbe paccayā suttantikanayena upanissayapaccaye saṅgayhantīti veditabbaṃ. Taṃnissitarūpānīti upādārūpāni. Yathāpariggahitarūpavatthudvārārammaṇaṃ vāti ettha yathāpariggahitakesādirūpārammaṇaṃ tato pubbe vuttanayavatthārammaṇañca tannissayakarajakāyapariggahamukhena upaṭṭhitacakkhādidvārañca sasampayuttadhammaviññāṇaṃ vāti yojetabbaṃ. Kammāragaggarīti kammārānaṃ aggidhamanabhastā. Tajjanti tadanurūpaṃ. Tassāti nāmarūpassa. Taṃ disvāti avijjātaṇhādipaccayaṃ disvā. Kaṅkhaṃ vitaratīti ahosiṃ nu kho ahaṃ atītamaddhānantiādinayappavattaṃ (ma. ni. 1.18; saṃ. ni. 2.20) soḷasavatthukaṃ vicikicchaṃ atikkamati. Kalāpasammasanavasenāti yaṃ kiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannantiādinā (ma. ni. 1.361; 3.86, 89; a. ni. 4.181) pañcasu khandhesu atītādikoṭṭhāsaṃ ekekakalāpato gahetvā aniccādivasena sammasanaṃ kalāpasammasanaṃ, tassa vasena. Pubbabhāgeti paṭipadāñāṇadassanavisuddhipariyāpannāya udayabbayānupassanāya pubbabhāge. Obhāsādayoti obhāso ñāṇaṃ pīti passaddhi sukhaṃ adhimokkho paggaho upekkhā upaṭṭhānaṃ nikanti ca. Tattha adhimokkhoti saddhā. Upaṭṭhānanti sati. Upekkhāti tatramajjhattatā. Ettha ca obhāsādayo nava nikantisaṅkhātataṇhupakkilesavatthutāya upakkilesā vuttā , nikanti pana upakkilesatāya tabbatthutāya ca. Nibbindanto ādīnavānupassanāpubbaṅgamāya nibbidānupassanāya nibbindanto. Muñcitukamyatāpaṭisaṅkhānupassanāsaṅkhārupekkhānulomañāṇānaṃ ciṇṇapariyante uppannagotrabhuñāṇānantaraṃ uppannena maggañāṇena sabbasaṅkhāresu virajjanto vimuccanto. Phalakkhaṇe hi vimutto nāma vuccati, maggakkhaṇe vimuccantoti. Ekūnavīsatibhedassāti catunnaṃ maggavīthīnaṃ anantaraṃ paccekaṃ uppajjantassa maggaphalanibbānapahīnāvasiṭṭhakilesānaṃ pañcannaṃ paccavekkhitabbānaṃ vasena ekūnavīsatibhedassa. Arahato hi avasiṭṭhakilesābhāvena ekūnavīsatitā. Assāti ānāpānakammaṭṭhānikassa.
Người muốn đạt đến sự trong sạch: người muốn chứng đắc và nhập vào quả. Ở đó, người muốn chứng đắc quả ngay sau đạo lúc đầu bằng cách quán sát sự nhận biết và quay lại. Sau đó, cũng là người muốn nhập vào định quả bằng cách quán sát sự nhận biết, cần hiểu ý nghĩa như vậy. Người đã đạt đến sự thành thạo… v.v… trong việc chú ý, nhập vào: ở đây, sau khi đã ra khỏi thiền đã đạt được, đối với người chú ý đến từng thiền chi trong các thiền chi như tầm v.v…, sau khi đã cắt đứt hữu phần, sau sự chú ý đã phát sinh, các tâm tốc hành dục giới có đối tượng là thiền chi đã được chú ý, bị cách quãng bởi hữu phần, khi chúng diễn ra liên tục, thì khi đó, sự thành thạo trong việc chú ý của người đó đã được xác định. Và khả năng nhập vào thiền một cách nhanh chóng ngay sau khi có ý muốn nhập vào, được gọi là sự thành thạo trong việc nhập vào. Khả năng thiết lập thiền trong một khoảnh khắc hoặc mười khoảnh khắc được gọi là sự thành thạo trong việc chú nguyện. Khả năng ra khỏi thiền bằng cách phát sinh hữu phần sau khi đã có thiền trong một khoảnh khắc ngắn như vậy được gọi là sự thành thạo trong việc ra khỏi. Do sự khác biệt của sự chuẩn bị trước đó diễn ra như “tôi sẽ nhập vào chừng này thời gian,” và “sau khi đã có thiền chừng này thời gian, tôi sẽ ra khỏi thiền,” các sự thành thạo trong việc chú nguyện và ra khỏi ở đây khác nhau, không phải do sự khác biệt về bản chất, chúng được gọi là “sự khéo léo trong việc nhập định, sự khéo léo trong việc ra khỏi.” Sự thành thạo trong việc quán xét thì đã được nói trong sự thành thạo trong việc chú ý. Cần biết rằng trong lộ trình quán xét, do sự phát sinh nhanh chóng của sự chú ý, nên có sự thành thạo trong việc chú ý; do sự phát sinh của các tâm tốc hành sau đó, nên có sự thành thạo trong việc quán xét. Do đó, do sự xác định của sự thành thạo trong việc chú ý, sự thành thạo trong việc quán xét cũng đã được xác định. Sau khi đã nắm bắt các thiền chi: sau khi đã nắm bắt các thiền chi kết hợp với tâm thiền theo đặc tính v.v… Và nơi nương tựa của chúng: nơi nương tựa của các yếu tố vật chất là nơi nương tựa, vật chất của chúng. Và điều này được nói theo phương pháp của kinh, do thân thể do nghiệp sinh là nơi nương tựa của mười yếu tố vật chất, không phải theo phương pháp của Paṭṭhāna. Vì các yếu tố vật chất trong các nhóm khác không phải là duyên nương tựa cho các yếu tố vật chất trong các nhóm khác. Nhưng theo phương pháp của kinh, cần biết là duyên cận y. Cần biết rằng tất cả các duyên không được bao gồm trong Paṭṭhāna đều được bao gồm trong duyên cận y theo phương pháp của kinh. Các sắc y sinh: các sắc y sinh. Hoặc đối tượng là cửa và vật chất là sắc đã được nắm bắt như thế nào: ở đây, cần kết hợp là ‘đối tượng là sắc như tóc v.v… đã được nắm bắt như thế nào, và đối tượng là vật chất theo phương pháp đã được nói trước đó, và cửa mắt v.v… đã hiện khởi qua việc nắm bắt thân thể do nghiệp sinh là nơi nương tựa của nó, và thức kết hợp với các pháp của nó.’ Cái ống thổi của thợ rèn: cái ống thổi lửa của thợ rèn. Phù hợp: phù hợp với nó. Của nó: của danh sắc đó. Sau khi đã thấy đó: sau khi đã thấy duyên là vô minh, tham ái v.v… Vượt qua sự nghi ngờ: vượt qua sự hoài nghi có mười sáu đối tượng diễn ra theo phương pháp ‘tôi đã có trong quá khứ hay không’ v.v… (ma. ni. 1.18; saṃ. ni. 2.20). Theo cách thẩm xét từng nhóm: việc thẩm xét từng nhóm là việc thẩm xét theo vô thường v.v… bằng cách lấy từng phần quá khứ v.v… trong năm uẩn theo câu ‘bất kỳ sắc nào là quá khứ, vị lai, hiện tại’ v.v… (ma. ni. 1.361; 3.86, 89; a. ni. 4.181), theo cách đó. Trong giai đoạn đầu: trong giai đoạn đầu của sự quán sát sanh diệt thuộc về sự trong sạch của trí tuệ và kiến về đạo lộ. Ánh sáng v.v…: là ánh sáng, trí tuệ, hỷ, khinh an, lạc, quyết định, nỗ lực, xả, có mặt, và ham muốn. Ở đó, quyết định là tín. Có mặt là niệm. Xả là sự trung tính. Ở đây, chín điều là ánh sáng v.v… được gọi là phiền não do là đối tượng của phiền não ham muốn. Còn ham muốn thì vừa là phiền não vừa là đối tượng của nó. Khi đang nhàm chán: khi đang nhàm chán bằng sự quán sát nhàm chán có sự quán sát nguy hại làm tiền đề. Khi đang ly tham, giải thoát khỏi tất cả các hành bằng trí tuệ đạo phát sinh sau trí tuệ chuyển tộc phát sinh ở cuối sự thực hành các trí tuệ xả bỏ đối với các hành, quán sát sự từ bỏ, và mong muốn giải thoát. Vì trong khoảnh khắc của quả, được gọi là đã giải thoát, còn trong khoảnh khắc của đạo, là đang giải thoát. Của sự phân biệt mười chín: của sự phân biệt mười chín theo năm điều cần được quán xét là đạo, quả, Niết-bàn, các phiền não đã bị đoạn trừ, và các phiền não còn lại, phát sinh riêng biệt sau bốn lộ trình của đạo. Vì đối với bậc A-la-hán, có mười chín do không có các phiền não còn lại. Của nó: của người thực hành đề mục thiền niệm hơi thở.

Sappītike dve jhāneti pītisahagatāni catukkanaye dve paṭhamadutiyajjhānāni. Tassāti tena yoginā. Samāpattikkhaṇeti samāpannakkhaṇe. Ārammaṇatoti paṭibhāgārammaṇaggahaṇamukhena pīti paṭisaṃviditā hoti, ārammaṇassa paṭisaṃviditattā. Ārammaṇe hi vidite tabbisayā cittacetasikā dhammā sayaṃ attano paṭisaṃviditā nāma hoti salakkhaṇato sāmaññalakkhaṇato ca pacchā gahaṇe sandehābhāvato. Vipassanākkhaṇeti vipassanāpaññāya visayato dassanakkhaṇe. Evaṃ pītiṃ aniccādivasena gahaṇameva asammohato pītipaṭisaṃvedanaṃ nāma.
Hai thiền có hỷ: là hai thiền sơ và nhị thiền có hỷ đi kèm theo phương pháp bốn thiền. Của nó: bởi thiền sinh đó. Trong khoảnh khắc nhập định: trong khoảnh khắc đã nhập định. Từ đối tượng: hỷ được cảm nhận bằng cách nắm bắt đối tượng là tướng tương tự, vì đối tượng đã được cảm nhận. Vì khi đối tượng đã được biết, thì các pháp tâm và tâm sở có đối tượng đó được gọi là đã được tự mình cảm nhận, vì không có sự nghi ngờ trong việc nắm bắt sau đó theo đặc tính riêng và đặc tính chung. Trong khoảnh khắc của thiền quán: trong khoảnh khắc thấy bằng trí tuệ là thiền quán. Việc nắm bắt hỷ theo vô thường v.v… như vậy là sự cảm nhận hỷ do không mê lầm.

Dīghaṃ assāsavasenāti dīghassa assāsassa ārammaṇabhūtassa vasena, pajānato sā pīti paṭisaṃviditā hotīti sambandho. Cittassa ekaggataṃ avikkhepaṃ pajānatoti jhānapariyāpannaṃ avikkhepāpannaṃ nāma cittassekaggataṃ taṃsampayuttāya paññāya pajānato. Yatheva hi ārammaṇamukhena pīti paṭisaṃviditā hoti, evaṃ taṃsampayuttadhammāpi paṭisaṃviditā eva hontīti. Sati upaṭṭhitā hotīti dīghaṃ assāsavasena jhānasampayuttā sati tassa ārammaṇe upaṭṭhitā tadārammaṇajjhānepi upaṭṭhitā nāma hotīti. Dīghaṃ passāsavasenātiādīsupi imināva nayena attho veditabbo. Evaṃ dassitaṃ pītipaṭisaṃvedanaṃ ārammaṇato asammohato ca vibhāgato dassetuṃ āvajjatotiādi vuttaṃ. Tattha āvajjatoti jhānaṃ āvajjantassa. Sā pītīti sā jhānapariyāpannā pīti. Jānatoti samāpannakkhaṇe ārammaṇamukhena jānato, tassa sā pīti paṭisaṃviditā hotīti sambandho. Passatoti dassanabhūtena ñāṇena jhānato vuṭṭhāya passantassa. Paccavekkhatoti jhānaṃ paccavekkhantassa. Cittaṃ adhiṭṭhahatoti ‘‘ettakaṃ velaṃ jhānasamaṅgī bhavissāmī’’ti jhānacittaṃ adhiṭṭhahantassa. Evaṃ pañcannaṃ vasibhāvānaṃ vasena jhānassa pajānanamukhena ārammaṇato pītiyā paṭisaṃvedanā dassitā. Adhimuccatoti saddahantassa, samathavipassanāvasenāti adhippāyo. Vīriyaṃ paggaṇhatotiādīsupi eseva nayo. Abhiññeyyanti visiṭṭhāya paññāya jānitabbaṃ catusaccaṃ vipassanāpaññāpubbaṅgamāya maggapaññāya abhijānatotiādi yojanā. Evaṃ pariññeyyantiādīsupi parijānatotiādinā yojanā veditabbā. Tattha pariññeyyanti dukkhasaccaṃ. Avasesapadānīti sukhapaṭisaṃvedī cittasaṅkhārapaṭisaṃvedīti padāni.
Theo hơi thở vào dài: theo hơi thở vào dài là đối tượng, có liên quan là ‘hỷ đó được cảm nhận đối với người biết.’ Đối với người biết sự nhất tâm, sự không phân tán của tâm: đối với người biết sự nhất tâm của tâm thuộc về thiền, được gọi là không phân tán, bằng trí tuệ kết hợp với nó. Vì giống như hỷ được cảm nhận qua đối tượng, thì các pháp kết hợp với nó cũng đã được cảm nhận. Niệm đã có mặt: niệm kết hợp với thiền theo hơi thở vào dài đã có mặt trong đối tượng đó, cũng được gọi là đã có mặt trong thiền có đối tượng đó. Theo hơi thở ra dài… v.v… cũng phải hiểu ý nghĩa theo phương pháp này. Sự cảm nhận hỷ đã được chỉ ra như vậy, để chỉ ra một cách phân chia từ đối tượng và do không mê lầm, đã nói là đối với người chú ý… v.v… Ở đó, đối với người chú ý: đối với người chú ý đến thiền. Hỷ đó: là hỷ thuộc về thiền đó. Đối với người biết: đối với người biết qua đối tượng trong khoảnh khắc nhập định, có liên quan là ‘hỷ đó được cảm nhận đối với người đó.’ Đối với người thấy: đối với người thấy bằng trí tuệ là sự thấy sau khi đã ra khỏi thiền. Đối với người quán xét: đối với người quán xét thiền. Đối với người chú nguyện tâm: đối với người chú nguyện tâm thiền rằng “tôi sẽ có thiền trong chừng này thời gian.” Như vậy, sự cảm nhận hỷ từ đối tượng đã được chỉ ra qua việc biết thiền theo năm sự thành thạo. Đối với người quyết định: đối với người tin tưởng, ý là theo cách chỉ tịnh và thiền quán. Đối với người nỗ lực tinh tấn… v.v… cũng áp dụng cùng một phương pháp. Điều cần được biết bằng trí tuệ đặc biệt: kết nối là ‘biết bằng trí tuệ đạo có trí tuệ thiền quán làm tiền đề về bốn chân lý cần được biết bằng trí tuệ đặc biệt’ v.v… Cũng vậy, trong các vế như điều cần được biết rõ… v.v…, cần biết kết nối bằng cách nói ‘biết rõ’ v.v… Ở đó, điều cần được biết rõ là khổ đế. Các vế còn lại: là các vế ‘cảm nhận lạc, cảm nhận hành của tâm.’

Vedanādayoti ādi-saddena saññā gahitā, tenāha ‘‘dve khandhā’’ti. Vipassanābhūmidassanatthanti kāyikasukhādisīsena pakiṇṇakasaṅkhāradassanato vuttaṃ samathe kāyikasukhābhāvato. Soti passambhanapariyāyena vutto nirodho. Vuttanayenāti imassa hi bhikkhuno pubbe apariggahitakāletiādinā (pārā. aṭṭha. 2.165) kāyasaṅkhāre vuttanayena. Pītisīsena vedanā vuttāti pītiapadesena vedanā vuttā, sukhaggahaṇato vedanānupassanāpasaṅgatoti adhippāyo. Dvīsu cittasaṅkhārapadesūti ‘‘cittasaṅkhārapaṭisaṃvedī passambhayaṃ cittasaṅkhāra’’nti imesu dvīsu koṭṭhāsesu. Saññāsampayuttā vedanāti vedanānupassanābhāvato vuttaṃ. Cittapaṭisaṃveditā veditabbāti ārammaṇato asammohatotiādinā vuttanayaṃ sandhāya vuttaṃ. Cittanti jhānasampayuttaṃ vipassanāsampayuttañca cittaṃ. Āmodetīti sampayuttāya pītiyā jhānavisayāya modeti. Vipassanākkhaṇetiādinā vuttabhaṅgānupassanakkhaṇe.
Thọ v.v…: bằng từ ‘v.v…’, đã lấy tưởng, do đó nói là “hai uẩn.” Để chỉ ra cõi của thiền quán: được nói do chỉ ra các hành rải rác bằng đầu đề là lạc thân v.v…, do không có lạc thân trong chỉ tịnh. : là sự diệt được nói theo cách lắng dịu. Theo cách đã nói: theo cách đã được nói trong các hành của thân bằng câu ‘trong lúc chưa nắm bắt trước đó’ v.v… (pārā. aṭṭha. 2.165). Thọ được nói bằng đầu đề là hỷ: thọ được nói bằng cách nói đến hỷ, ý là do lấy lạc, nên dẫn đến việc quán thọ. Trong hai vế về hành của tâm: trong hai phần này là “cảm nhận hành của tâm, làm lắng dịu hành của tâm.” Thọ kết hợp với tưởng: được nói do không có sự quán thọ. Cần được biết là được cảm nhận bởi tâm: được nói nhắm đến phương pháp đã được nói bằng câu ‘từ đối tượng, do không mê lầm’ v.v… Tâm: là tâm kết hợp với thiền và tâm kết hợp với thiền quán. Làm cho hoan hỷ: làm cho hoan hỷ trong đối tượng của thiền bằng hỷ kết hợp. Trong khoảnh khắc của thiền quán… v.v…: trong khoảnh khắc của sự quán sát sự tan rã đã được nói.

Ānāpānassatisamādhikathāvaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về định niệm hơi thở đã kết thúc.

167. Yadipi ariyā neva attanāva attānaṃ aññamaññaṃ vā jīvitā voropenti, nāpi parehi samādapenti, tathāpi yathāvuttehi tīhi pakārehi matānaṃ puthujjanānaṃ antare migalaṇḍikena māritānaṃ ariyapuggalānampi atthitāya ‘‘ariyapuggalamissakattā’’ti vuttaṃ. Atha vā puthujjanakāle attanāva attānaṃ ghātetvā maraṇasamaye vipassanaṃ vaḍḍhetvā ariyamaggaṃ paṭilabhitvā matānampi sabbhāvato evaṃ vuttanti gahetabbaṃ.
167. Dù các bậc Thánh không tự mình giết mình hay giết hại lẫn nhau, cũng không xúi giục người khác, nhưng vì trong số các phàm phu đã chết theo ba cách đã nói, cũng có các bậc Thánh bị Migalaṇḍika giết, nên đã nói là “do có lẫn các bậc Thánh.” Hoặc là, cần hiểu là đã nói như vậy do có cả những người đã tự mình giết mình trong lúc còn là phàm phu, rồi vào lúc chết đã phát triển thiền quán và chứng đắc đạo Thánh rồi mới chết.

Padabhājanīyavaṇṇanā

Giải thích về Phân Tích Từ Ngữ

172.Byañjane ādaraṃ akatvāti jānitvā sañjānitvātiādinā byañjanānurūpaṃ avuttattā vuttaṃ. Pāṇoti jānantoti idaṃ manussoti ajānitvāpi kevalaṃ sattasaññāya eva pārājikabhāvadassanatthaṃ vuttaṃ. Vadhakacetanāvasena cetetvāti ‘‘imaṃ māremī’’ti vadhakacetanāya cintetvā. Pakappetvāti ‘‘vadhāmi na’’nti evaṃ cittena paricchinditvā. Abhivitaritvāti sanniṭṭhānaṃ katvā, tenāha ‘‘nirāsaṅkacittaṃ pesetvā’’ti. Sikhāppatto atthoti sañciccāti pubbakālakiriyāvasena vuttassapi vītikkamabhūtassa aparakālakiriyāyuttadassanena koṭippatto attho. Jātiuṇṇā nāma tadahujātaeḷakassa lomaṃ. Evaṃ vaṇṇappaṭibhāganti evaṃ vaṇṇasaṇṭhānaṃ. Tato vā uddhanti dutiyasattāhādīsu abbudādibhāvappattaṃ sandhāya vuttaṃ. Parihīnavegassa santānassa paccayo hotīti sahakārīpaccayo hoti, na janako. Kammameva hi khaṇe khaṇe uppajjamānānaṃ kammajarūpānaṃ janakapaccayo, tañca pavattiyaṃ pubbe uppajjitvā ṭhitaṃ anupahataṃ catusantatirūpaṃ sahakārīpaccayaṃ labhitvāva kātuṃ sakkoti, na aññathā, yena kenaci virodhipaccayena niruddhacakkhādippasādānaṃ puggalānaṃ vijjamānampi kammaṃ cakkhādikaṃ janetuṃ na sakkotīti siddhameva hoti.
172.Không quan tâm đến từ ngữ: được nói do không được nói theo từ ngữ bằng câu ‘biết, nhận biết’ v.v… Biết là sinh vật: điều này được nói để chỉ ra tính chất Bất Cộng Trụ ngay cả khi không biết là người mà chỉ có ý nghĩ là chúng sanh. Sau khi đã tư duy theo cách của tư tưởng giết: sau khi đã suy nghĩ bằng tư tưởng giết rằng “tôi sẽ giết người này.” Sau khi đã định đoạt: sau khi đã phân định bằng tâm rằng “tôi giết hay không.” Sau khi đã phóng đi: sau khi đã quyết định, do đó nói là “sau khi đã phóng đi tâm không nghi ngờ.” Ý nghĩa đã đạt đến đỉnh cao: ý nghĩa đã đạt đến đỉnh cao bằng cách chỉ ra sự phù hợp với hành động sau là sự vi phạm, dù đã được nói bằng cách của hành động trước đó là ‘sañcicca’ (cố ý). Lông của con cừu mới sinh là lông của con cừu sinh ra trong ngày đó. Hình dạng màu sắc như vậy: hình dạng màu sắc như vậy. Hoặc từ đó trở lên: được nói nhắm đến trạng thái bào thai v.v… đã đạt được trong tuần thứ hai v.v… Trở thành duyên cho chuỗi có tốc độ đã suy giảm: trở thành duyên trợ giúp, không phải duyên sinh ra. Vì chính nghiệp là duyên sinh ra cho các sắc do nghiệp sinh phát sinh từng khoảnh khắc, và nó chỉ có thể làm được điều đó khi có được duyên trợ giúp là bốn chuỗi sắc đã phát sinh trước đó trong sự diễn ra và chưa bị tổn thương, không phải cách khác. Điều này đã được xác định rằng nghiệp, dù tồn tại, cũng không thể tạo ra mắt v.v… đối với những người có sắc trong của mắt v.v… đã bị diệt do một duyên đối nghịch nào đó.

Atipātentoti atipātento vināsento. Vuttapakāramevāti jīvitindriyātipātanavidhānaṃ vuttappakārameva. Saraseneva patanasabhāvassa saṇikaṃ patituṃ adatvā atīva pātanaṃ sīghapātanaṃ atipāto, pāṇassa atipāto pāṇātipāto. Āthabbaṇikāti athabbaṇavedino. Athabbaṇanti athabbaṇavedavihitaṃ. Mantaṃ payojentīti aloṇabhojanadabbasayanasusānagamanādīhi payogehi mantaṃ parivattenti, tena yathicchitapāṇavadhādiphalaṃ upapajjati, tasmā taṃ kāyavacīkammesu paviṭṭhaṃ. Ītinti pīḷaṃ. Upaddavanti tato adhikataraṃ pīḷaṃ. Pajjarakanti visamajjaraṃ. Sūcikanti sūcīhi viya vijjhamānaṃ sūlaṃ. Visūcikanti sasūlaṃ āmātisāraṃ. Pakkhandiyanti rattātisāraṃ. Vijjaṃ parivattetvāti gandhāravijjādikaṃ attano vijjaṃ katūpacāraṃ mantapaṭhanakkamena parijappitvā. Tehīti tehi vatthūhi. Payojananti pavattanaṃ. Aho vatāyanti ayaṃ taṃ kucchigataṃ. Gabbhanti idaṃ kucchigataṃ gabbhaṃ. Kulumbassāti gabbhassa, kulasseva vā, kuṭumbassāti vuttaṃ hoti. Bhāvanāmayiddhiyāti adhiṭṭhāniddhiṃ sandhāya vuttaṃ. Taṃ tesaṃ icchāmattanti suttatthato na sametīti adhippāyo. Athabbaṇiddhivaseneva hi sutte ‘‘iddhimā cetovasippatto’’ti vuttaṃ, na bhāvanāmayiddhivasenāti daṭṭhabbaṃ.
Khi đang sát hại: khi đang sát hại, phá hoại. Cách đã được nói: cách sát hại sinh mạng căn đã được nói. Sự sát hại nhanh, làm cho rơi xuống nhanh hơn bản chất tự nhiên là rơi xuống từ từ, là ‘atipāto,’ sự sát hại sinh vật là ‘pāṇātipāto.’ Những người theo Athabbaṇa: những người biết về Athabbaṇaveda. Athabbaṇa: được quy định trong Athabbaṇaveda. Họ dùng câu thần chú: họ tụng câu thần chú bằng các phương tiện như ăn thức ăn không có muối, nằm trên đất, đi đến nghĩa địa v.v…, do đó, quả như giết hại sinh vật theo ý muốn phát sinh. Do đó, nó được bao gồm trong nghiệp thân và khẩu. Sự tai họa: sự áp bức. Sự tai ương: sự áp bức lớn hơn nữa. Sốt rét: sốt rét bất thường. Bệnh tả: bệnh đau nhói như bị kim châm. Bệnh tả có đau bụng: bệnh tiêu chảy có đau bụng. Sau khi đã tụng chú: sau khi đã trì tụng chú thuật của mình như Gandharavidyā v.v… theo trình tự trì chú đã được chuẩn bị. Bằng những vật đó: bằng những vật đó. Sự thực hành: sự diễn ra. Ôi, ước gì nó: nó là bào thai trong bụng đó. Bào thai: là bào thai trong bụng này. Của gia đình: của bào thai, hoặc của chính gia đình, có nghĩa là của gia đình. Bằng thần thông do tu tập: được nói nhắm đến thần thông chú nguyện. Đó chỉ là ý muốn của họ: ý là không tương ứng với ý nghĩa của kinh. Cần hiểu rằng trong kinh đã nói “người có thần thông, đã đạt đến sự thành thạo trong tâm” theo cách của thần thông Athabbaṇa, không phải theo cách của thần thông do tu tập.

Itarathāti pariyeseyyāti padassa gavesanamattameva yathārutavasena attho siyā, tadā pariyiṭṭhamattena pariyesitvā satthādīnaṃ laddhamattenāti attho. Sasanti hiṃsanti etenāti satthanti vadhopakaraṇassa pāsāṇarajjuādino sabbassāpi nāmanti āha laguḷātiādi. Laguḷanti muggarassetaṃ adhivacanaṃ. Satthasaṅgahoti mātikāyaṃ satthahārakanti ettha vuttasatthasaṅgaho. Parato vuttanayattāti parato nigamanavasena vuttassa dutiyapadassa padabhājane vuttanayattā. Cittsāda atthadīpanatthaṃ vuttoti citta-saddassa vicittādianekatthavisayattā itarehi nivattetvā viññāṇatthaṃ niyametuṃ vutto.
Nếu không: nếu ý nghĩa của từ ‘pariyeseyya’ (nên tìm kiếm) chỉ là tìm kiếm theo như đã được nghe, thì có nghĩa là chỉ bằng việc đã tìm kiếm, đã có được vũ khí v.v… Điều gì mà người ta dùng để giết hại, đó là ‘satthaṃ,’ là tên gọi của tất cả các công cụ giết hại như đá, dây thừng v.v…, nên nói là cây gậy… v.v… Cây gậy: đây là tên gọi của cây gậy ngắn. Sự bao gồm của vũ khí: sự bao gồm của vũ khí đã được nói ở đây trong câu người mang vũ khí trong tóm tắt. Do phương pháp đã được nói ở sau: do phương pháp đã được nói trong phần phân tích từ ngữ của vế thứ hai được nói theo cách kết luận ở sau. Được nói để làm sáng tỏ ý nghĩa của tâm: được nói để quy định về ý nghĩa là thức, bằng cách loại trừ các ý nghĩa khác, do từ ‘citta’ có nhiều ý nghĩa như đa dạng v.v…

174.Kammunā bajjhatīti pāṇātipātakammunā bajjhati, taṃ kammamassa siddhanti attho. Ubhayathāpīti uddisakānuddisakavasena. Pacchā vā tena rogenāti etena anāgatampi jīvitindriyaṃ ārabbha pāṇātipātassa pavattiṃ dasseti. Evañca ‘‘yadā sakkoti, tadā taṃ jīvitā voropehī’’ti āṇattiyā cirena samiddhiyampi āṇattikkhaṇeyeva pāṇātipāto. Opātakhaṇanādithāvarapayogesu payogakaraṇato pacchā gahitapaṭisandhikassāpi sattassa maraṇe pāṇātipāto ca anāgatārammaṇo upapanno hoti. Yaṃ pana sikkhāpadavibhaṅge ‘‘pañca sikkhāpadāni paccuppannārammaṇāyevā’’ti vuttaṃ, taṃ pāṇātipātādito viratiṃ sandhāya vuttaṃ, na pāṇātipātādinti gahetabbaṃ. Aññacittenāti amāretukāmatācittena. Dutiyappahārena maratīti paṭhamappahāraṃ vinā dutiyeneva maratīti attho. Paṭhamappahārenevāti paṭhamappahārasamuṭṭhāpakacetanākkhaṇeyevāti attho. Kiñcāpi paṭhamappahāro sayameva na sakkoti māretuṃ, dutiyaṃ pana labhitvā sakkonto jīvitavināsahetu hoti, tasmā paṭhamappahāraṃ vinā maraṇassa asiddhattā ‘‘payogo tena ca maraṇa’’nti iminā saṃsandanato paṭhamappahāreneva kammabaddho yutto, na dutiyena tassa aññacittena dinnattā. Yathā cettha, evaṃ aññena puggalena dutiyappahāradānādīsu viya. Yadi pana dutiyappahāradāyakassāpi puggalassa vadhakacetanā atthi, tassāpi attano payogenāpi matattā payogakkhaṇe pāṇātipātoti veditabbaṃ.
174.Bị buộc bởi nghiệp: bị buộc bởi nghiệp sát sanh, có nghĩa là nghiệp đó của người đó đã thành tựu. Cả hai cách: theo cách xác định và không xác định. Hoặc sau đó do bệnh đó: bằng điều này, chỉ ra sự diễn ra của tội sát sanh nhắm đến cả sinh mạng căn trong tương lai. Và như vậy, trong việc ra lệnh “khi nào có thể, hãy giết người đó,” tội sát sanh xảy ra ngay trong khoảnh khắc ra lệnh dù sự thành tựu diễn ra rất lâu. Trong các phương tiện cố định như đào hố bẫy v.v…, tội sát sanh và đối tượng trong tương lai cũng hợp lý trong việc chết của chúng sanh đã tái sanh sau khi đã thực hiện phương tiện. Điều được nói trong Sikkhāpadavibhaṅga rằng “năm điều học chỉ có đối tượng là hiện tại,” điều đó được nói nhắm đến sự từ bỏ sát sanh v.v…, không phải là sát sanh v.v… Bằng tâm khác: bằng tâm không muốn giết. Chết do cú đánh thứ hai: có nghĩa là chết chỉ do cú đánh thứ hai, không có cú đánh đầu tiên. Chỉ bằng cú đánh đầu tiên: có nghĩa là chỉ trong khoảnh khắc của tư tưởng tạo ra cú đánh đầu tiên. Dù cú đánh đầu tiên tự nó không thể giết được, nhưng khi có được cú đánh thứ hai, nó có thể và trở thành nguyên nhân của sự hủy hoại sinh mạng. Do đó, vì cái chết không thể thành tựu nếu không có cú đánh đầu tiên, nên sự bị buộc bởi nghiệp chỉ bằng cú đánh đầu tiên là hợp lý, do sự tương ứng với “phương tiện và cái chết do nó,” không phải bằng cú đánh thứ hai, vì nó được thực hiện bằng tâm khác. Giống như ở đây, cũng vậy trong các trường hợp như một người khác thực hiện cú đánh thứ hai v.v… Nhưng nếu người thực hiện cú đánh thứ hai cũng có tư tưởng giết, thì cần biết là người đó cũng bị tội sát sanh vào lúc thực hiện phương tiện, vì con vật cũng chết do phương tiện của người đó.

Kammāpattibyattibhāvatthanti ānantariyādikammavibhāgassa pārājikādiāpattivibhāgassa ca pākaṭabhāvatthaṃ. ‘‘Eḷakaṃ māremī’’ti viparītaggahaṇepi ‘‘ima’’nti yathānipannasseva paramatthato gahitattā yathāvatthukaṃ kammabaddho hotiyevāti āha imaṃ vatthuntiādi. Ghātako ca hotīti pāṇātipātakammena baddhoti attho. Mātādiguṇamahante ārabbha pavattavadhakacetanāya mahāsāvajjatāya vuttaṃ ‘‘idha pana cetanā dāruṇā hotī’’ti.
Để làm rõ sự phân biệt của nghiệp và tội: để làm rõ sự phân biệt của nghiệp như tội vô gián v.v… và sự phân biệt của tội như Bất Cộng Trụ v.v… Dù có sự chấp thủ sai lầm rằng “tôi giết con cừu,” nhưng vì về mặt chân đế, đã lấy chính con vật đang nằm đó là “con này,” nên việc bị buộc bởi nghiệp theo đúng đối tượng vẫn xảy ra, nên nói là đối tượng này… v.v… Và là kẻ giết: có nghĩa là bị buộc bởi nghiệp sát sanh. Đã nói là “nhưng ở đây, tư tưởng là tàn ác” do tính chất tội lỗi nặng của tư tưởng giết phát sinh nhắm đến những người có đức tính lớn như cha mẹ.

Lohitakanti lohitamakkhitaṃ. Kammaṃ karonteti yuddhakammaṃ karonte. Yathādhippāyaṃ gateti yodhaṃ vijjhitvā pitari viddhe, yodhaṃ pana avijjhitvā kevalaṃ pitari viddhepi visaṅketo natthiyeva pitaripi vadhakacittassa atthitāya, kevalaṃ yodhe viddhepi eseva nayo. Ānantariyaṃ pana natthīti pituvisayaṃ pāṇātipātakammaṃ natthīti attho.
Đẫm máu: bị dính máu. Khi đang làm nghiệp: khi đang làm nghiệp chiến đấu. Khi đã đi theo ý muốn: khi đã bắn trúng người cha sau khi đã bắn trúng người lính. Nhưng khi không bắn trúng người lính mà chỉ bắn trúng người cha, thì không có sự sai ám hiệu, vì cũng có tâm giết đối với người cha. Phương pháp này cũng áp dụng khi chỉ bắn trúng người lính. Nhưng không có tội vô gián: có nghĩa là không có nghiệp sát sanh đối với người cha.

Evaṃ vijjhāti evaṃ pādehi bhūmiyaṃ ṭhatvā evaṃ dhanuṃ gahetvā ākaḍḍhitvātiādinā vijjhanappakārasikkhāpanamukhena āṇāpetīti attho. Evaṃ paharāti daḷhaṃ asiṃ gahetvā evaṃ pahara. Evaṃ ghātehīti evaṃ kammakāraṇaṃ katvā mārehi. Tattakā ubhinnaṃ pāṇātipātāti anuddisitvā yesaṃ kesañci māraṇatthāya ubhohi payogassa katattā vuttaṃ. Sace hi āṇāpako ‘‘evaṃ viddhe asuko evaṃ maratī’’ti saññāya ‘‘evaṃ vijjhā’’ti āṇāpeti, niyamitasseva maraṇe āṇāpakassa kammabaddhoti vadanti. Sace āṇatto ‘‘asuka’’nti niyametvā uddissa saraṃ khipati, āṇāpako aniyametvā āṇāpeti, āṇāpakassa yesaṃ kesañci maraṇepi kammabaddho, āṇattassa pana niyamitamaraṇeyevāti veditabbaṃ. Majjheti hatthino piṭṭhino majjhe. Etenāti adhiṭṭhahitvā āṇāpetītiādipāḷivacanena. Tatthāti āṇattikapayoge.
Hãy bắn như thế này: có nghĩa là ra lệnh bằng cách chỉ dạy cách bắn bằng câu ‘hãy đứng trên mặt đất bằng chân như thế này, hãy cầm và kéo cung như thế này.’ Hãy chém như thế này: hãy cầm chắc gươm và chém như thế này. Hãy giết như thế này: hãy làm phương tiện và giết như thế này. Bấy nhiêu tội sát sanh của cả hai: được nói do cả hai đã thực hiện phương tiện để giết bất kỳ ai mà không xác định. Một số người nói rằng nếu người ra lệnh ra lệnh rằng “hãy bắn như thế này, người kia sẽ chết như thế này” với ý nghĩ đó, thì người ra lệnh bị buộc bởi nghiệp chỉ khi người đã được quy định chết. Cần biết rằng nếu người được ra lệnh bắn nhắm đến một người đã được quy định, còn người ra lệnh thì ra lệnh không quy định, thì người ra lệnh bị buộc bởi nghiệp dù bất kỳ ai chết, còn người được ra lệnh thì chỉ khi người đã được quy định chết. Ở giữa: ở giữa lưng của con voi. Bằng điều này: bằng lời Pāḷi ‘sau khi đã chú nguyện và ra lệnh’ v.v… Ở đó: trong phương tiện ra lệnh.

Kiñcāpi kiriyāviseso aṭṭhakathāsu anāgato, pāḷiyaṃ pana ‘‘evaṃ vijjha, evaṃ pahara, evaṃ ghātehī’’ti (pārā. 174) kiriyāvisesassa parāmaṭṭhattā ācariyaparamparā āgataṃ kiriyāvisesampi pāḷisaṃsandanato gahetvā dassento aparo nayotiādimāha. Vijjhananti ususattiādīhi vijjhanaṃ. Chedananti asiādīhi hatthapādādicchedanaṃ. Bhedananti muggarādīhi sīsādibhedanaṃ dvidhākaraṇaṃ. Saṅkhamuṇḍakanti sīsakaṭāhe cammaṃ saha kesehi uppāṭetvā thūlasakkharāhi sīsakaṭāhaṃ ghaṃsitvā saṅkhavaṇṇakaraṇavasena saṅkhamuṇḍakammakaraṇaṃ. Evamādīti ādi-saddena biḷaṅgathālikādiṃ saṅgaṇhāti. Ure paharitvā piṭṭhiyaṃ paharitvā gīvāyaṃ paharitvātiādinā sarīrāvayavappadesesu paharaṇavijjhanādiniyamopi kiriyāviseseyeva saṅgayhati aṭṭhakathāsu saṅkhamuṇḍakādisarīrappadesavisayāyapi ghātanāya tattha pavesitattā, yaṃ pana sāratthadīpaniyaṃ (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.174 payogakathāvaṇṇanā) purato paharitvā mārehītiādikassa aṭṭhakathāpāṭhassa ‘‘purimapassādīnampi vatthusabhāgato vatthuggahaṇeneva gahaṇanti āha purato paharitvātiādī’’ti evamadhippāyakathanaṃ, taṃ saṅkhamuṇḍakādikassa sarīrappadese kammakāraṇākaraṇassa aṭṭhakathāya kiriyāvisesavisaye vuttattā na yujjati. Yathāṇattaṃ muñcitvā puggalantaramāraṇameva hi vatthuvisaṃvādo, na paharituṃ āṇattaṃ sarīrappadesavisaṃvādanaṃ, tenāha ‘‘vatthuṃ visaṃ vādetvā…pe… tato aññaṃ māreti. Purato paharitvā mārehīti vā…pe… natthi kammabaddho’’ti, idaṃ pana yathāṇattavatthusmimpi kiriyāvisesavisaṅketena kammabaddhābhāvaṃ dassetuṃ vuttanti paññāyati. Tena ‘‘vatthuṃ avisaṃvādetvā mārentī’’ti ettakameva avatvā ‘‘yathāṇattiyā’’ti kiriyāvisesaniyamopi dassito, itarathā yathāṇattiyāti vacanassa niratthakatāpattito. Vatthuniddese ca ‘‘vatthūti māretabbo satto’’ti (pārā. aṭṭha. 2.174) ettakameva vuttaṃ, na pana ‘‘yathāṇattassa paharitabbasarīrappadesopī’’ti vuttaṃ. Tasmā purato paharaṇādipi kiriyāvisese eva saṅgayhatīti amhākaṃ khanti, vīmaṃsitvā gahetabbaṃ. Vatthuvisesenāti mātuādimatasattavisesena. Kammavisesoti ānantariyādikammaviseso. Āpattivisesoti pārājikādiāpattiviseso.
Dù sự khác biệt về hành động không có trong các Chú giải, nhưng trong Pāḷi, vì sự khác biệt về hành động đã được đề cập đến trong câu “hãy bắn như thế này, hãy chém như thế này, hãy giết như thế này” (pārā. 174), nên để chỉ ra cả sự khác biệt về hành động đã được truyền lại từ dòng truyền thừa của các vị thầy bằng cách so sánh với Pāḷi, đã nói là một phương pháp khác… v.v… Sự bắn: là sự bắn bằng tên, giáo v.v… Sự cắt: là sự cắt tay, chân v.v… bằng gươm v.v… Sự phá: là sự phá đầu v.v… bằng gậy v.v…, làm thành hai mảnh. Sự lột da đầu: là việc lột da cùng với tóc trên sọ, rồi chà xát sọ bằng sỏi to để làm thành màu vỏ ốc. V.v…: bằng từ ‘v.v…’, bao gồm cả việc làm thành cái bát bằng đất sét v.v… Sự quy định về việc chém, bắn v.v… ở các bộ phận của cơ thể như chém vào ngực, chém vào lưng, chém vào cổ v.v… cũng được bao gồm trong sự khác biệt về hành động, vì ngay cả việc giết người có liên quan đến các bộ phận của cơ thể như lột da đầu v.v… cũng đã được đưa vào đó trong các Chú giải. Điều được nói trong Sāratthadīpanī (sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.174 payogakathāvaṇṇanā) về đoạn Pāḷi của Chú giải ‘hãy chém từ phía trước mà giết’ v.v… rằng “việc lấy các bộ phận như phía trước v.v… cũng được bao gồm trong việc lấy đối tượng do sự tương đồng của đối tượng, nên đã nói là ‘hãy chém từ phía trước’ v.v…,” việc giải thích ý định như vậy không hợp lý, vì việc làm hoặc không làm trên các bộ phận của cơ thể như lột da đầu v.v… đã được nói trong lĩnh vực của sự khác biệt về hành động trong Chú giải. Vì chỉ có việc giết một người khác ngoài người đã được ra lệnh mới là sự sai lầm về đối tượng, không phải là sự sai lầm về bộ phận của cơ thể đã được ra lệnh chém. Do đó đã nói là “sau khi đã sai lầm về đối tượng… v.v… giết một người khác. Hoặc sau khi đã nói ‘hãy chém từ phía trước mà giết’… v.v… không bị buộc bởi nghiệp.” Nhưng điều này có vẻ như được nói để chỉ ra sự không bị buộc bởi nghiệp do sự sai ám hiệu về sự khác biệt về hành động ngay cả trong đối tượng đã được ra lệnh. Bằng điều đó, đã chỉ ra cả sự quy định về sự khác biệt về hành động là ‘theo như đã được ra lệnh’ mà không chỉ nói chừng đó là “khi đang giết mà không sai lầm về đối tượng,” nếu không, lời nói ‘theo như đã được ra lệnh’ sẽ trở nên vô nghĩa. Và trong sự chỉ định về đối tượng, chỉ nói chừng đó là “đối tượng là chúng sanh phải bị giết” (pārā. aṭṭha. 2.174), không phải là “cả bộ phận của cơ thể phải bị chém theo như đã được ra lệnh.” Do đó, quan điểm của chúng tôi là việc chém từ phía trước v.v… cũng được bao gồm trong sự khác biệt về hành động. Cần phải xem xét kỹ lưỡng rồi mới chấp nhận. Bằng sự khác biệt về đối tượng: bằng sự khác biệt về chúng sanh đã chết như mẹ v.v… Sự khác biệt về nghiệp: là sự khác biệt về nghiệp như tội vô gián v.v… Sự khác biệt về tội: là sự khác biệt về tội như Bất Cộng Trụ v.v…

Yadā kadāci pubbaṇheti āṇattadivasato aññassapi yassa kassaci divasassa pubbaṇhe. Etaṃ gāme ṭhitanti gāmo puggalaniyamanatthaṃ vutto, na okāsaniyamanatthaṃ, tasmā ‘‘yattha katthaci māreti, natthi visaṅketo’’ti vuttaṃ, etena kālokāsaāvudhaiayāpathakiriyāvisesānaṃ niyamicchāya asati yena kenaci pakārena maraṇameva icchantassa āṇāpakassa mukhāruḷhavasena vuttassa desakālādiniyamassa visaṅketepi kammabaddhoyevāti ñāpitaṃ hoti. Yo pana cittena yattha katthaci yadā kadāci yena kenaci pakārena maraṇameva icchantopi kālādivisaṅketena akusalato codanato vā muccitukāmo lesena kālādiniyamaṃ karoti, tassa manussaviggahapārājikato pariyāyena amuccanato kālādivisaṅketepi kammabaddhovāti gahetvā vicāraṇato gahetabbaṃ, keci panetaṃ na icchanti, vīmaṃsitabbaṃ. Tuṇḍenāti aggakoṭiyā. Tharunāti khaggamuṭṭhinā. Etaṃ gacchantanti gamanena puggalova niyamito, na iriyāpatho, tenāha ‘‘natthi visaṅketa’’nti.
Bất cứ khi nào vào buổi sáng: vào buổi sáng của bất kỳ ngày nào khác ngoài ngày được ra lệnh. Cái đó đứng ở trong làng: làng được nói để quy định về người, không phải để quy định về nơi chốn. Do đó đã nói là “dù giết ở bất cứ đâu, cũng không có sự sai ám hiệu.” Bằng điều đó, đã được biết rằng đối với người ra lệnh muốn giết bằng bất kỳ cách nào khi không có ý muốn quy định về các sự khác biệt về thời gian, nơi chốn, vũ khí, tư thế, và hành động, thì việc bị buộc bởi nghiệp vẫn có ngay cả khi có sự sai ám hiệu về sự quy định về thời gian v.v… đã được nói theo cách nói quen thuộc trên miệng. Nhưng đối với người nào, dù bằng tâm muốn giết ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, bằng bất kỳ cách nào, mà lại quy định về thời gian v.v… bằng cách vin vào cớ để muốn thoát khỏi sự tố cáo từ nghiệp bất thiện, thì việc bị buộc bởi nghiệp vẫn có ngay cả khi có sự sai ám hiệu về thời gian v.v… do không thể thoát khỏi tội Bất Cộng Trụ về hình người một cách gián tiếp. Cần phải xem xét rồi mới chấp nhận. Nhưng một số người không muốn điều này, cần phải xem xét. Bằng mỏ: bằng đầu nhọn. Bằng chuôi: bằng chuôi gươm. Cái đó đang đi: bằng việc đi, chỉ có người được quy định, không phải tư thế. Do đó nói là “không có sự sai ám hiệu.”

‘‘Dīghaṃ mārehī’’ti vuttepi dīghasaṇṭhānānaṃ bahubhāvato ‘‘itthannāmaṃ evarūpañca dīgha’’nti aññesaṃ asādhāraṇalakkhaṇena aniddiṭṭhattā ‘‘aniyametvā āṇāpetī’’ti vuttaṃ, tenevāha ‘‘yaṃ kiñci tādisaṃ māremī’’ti. Ettha ca cittena bahūsu dīghasaṇṭhānesu ekaṃ niyametvā vuttepi vācāya aniyamitattā aññasmiṃ tādise mārite natthi visaṅketoti vadanti. Attānaṃ muñcitvā parapāṇimhi pāṇasaññitālakkhaṇassa aṅgassa abhāvato nevatthi pāṇātipātoti āha ‘‘āṇāpako muccatī’’ti. Attānaṃ uddissa ‘‘asukaṭṭhāne nisinna’’nti okāsaniyame tasmiṃ padese nisinnassa yassa kassaci jīvitindriyaṃ ārabbha vadhakacittaṃ uppajjatīti vuttaṃ ‘‘neva vadhako muccati na āṇāpako’’ti. Okāsañhi niyametvā niddisanto tasmiṃ okāse nisinnaṃ māretukāmo hoti, sayaṃ pana tadā tattha natthi, tasmā okāsena saha tattha nisinnasseva jīvitindriyaṃ ārammaṇaṃ hoti, na attanoti gahetabbaṃ. Sace pana sayaṃ tattheva nisīditvā attano nisinnaṭṭhānameva niyametvā ‘‘mārehī’’ti vuttepi añño tattha nisinno māriyati, tassāpi attanopi jīvitaṃ ārabbha vadhakacetanā pavattati, parasmiṃ tattha mārite āṇāpakassa kammabaddhoti gahetabbaṃ. Evarūpe ṭhāne cittappavattiniyamo buddhavisayo, na aññesaṃ visayoti āha ‘‘tasmā ettha na anādariyaṃ kātabba’’nti.
Dù đã nói “hãy giết con vật dài,” nhưng vì có nhiều con vật có hình dạng dài, và vì không được chỉ định bằng một đặc tính không chung cho những con khác như “con vật dài tên kia, có hình dạng như thế này,” nên đã nói là “ra lệnh mà không quy định.” Chính vì thế đã nói là “tôi sẽ giết bất kỳ con vật nào như vậy.” Ở đây, một số người nói rằng dù đã quy định một trong nhiều con vật có hình dạng dài bằng tâm khi nói, nhưng vì không được quy định bằng lời nói, nên khi giết một con vật khác như vậy, cũng không có sự sai ám hiệu. Vì không có yếu tố là có ý nghĩ là sinh vật đối với sinh vật khác ngoài chính mình, nên không có tội sát sanh, nên nói là “người ra lệnh được giải thoát.” Khi quy định về nơi chốn rằng “người đang ngồi ở nơi kia,” thì tư tưởng giết phát sinh nhắm đến sinh mạng căn của bất kỳ ai đang ngồi ở nơi đó, nên đã nói là “cả kẻ giết và người ra lệnh đều không được giải thoát.” Vì khi chỉ định bằng cách quy định về nơi chốn, người đó muốn giết người đang ngồi ở nơi đó, nhưng chính mình lúc đó không ở đó. Do đó, cần hiểu là sinh mạng căn của chính người đang ngồi ở đó cùng với nơi chốn là đối tượng, không phải của chính mình. Nhưng nếu chính mình đang ngồi ở đó và quy định chính nơi mình đang ngồi và nói “hãy giết,” mà lại có người khác ngồi ở đó bị giết, thì tư tưởng giết cũng diễn ra nhắm đến cả sinh mạng của mình và của người kia. Khi người khác bị giết ở đó, người ra lệnh bị buộc bởi nghiệp. Ở nơi như vậy, sự quy định về sự diễn ra của tâm là lĩnh vực của Đức Phật, không phải là lĩnh vực của những người khác, nên nói là “do đó, không nên coi thường ở đây.”

Evaṃ āṇāpentassa ācariyassa tāva dukkaṭanti sace āṇattiko yathādhippāyaṃ na gacchati, ācariyassa āṇattikkhaṇe dukkaṭaṃ. Sace pana so yathādhippāyaṃ gacchati, yaṃ parato thullaccayaṃ vuttaṃ, āṇattikkhaṇe tadeva hoti. Atha so avassaṃ ghāteti, yaṃ parato ‘‘āpatti sabbesaṃ pārājikassā’’ti (pārā. 174) vuttaṃ, tato imassa āṇattikkhaṇeyeva pārājikaṃ hoti, na dukkaṭathullaccayānīti gahetabbaṃ. Tesampi dukkaṭanti buddharakkhitādīnampi ārocanapaccayā dukkaṭaṃ, idañca yathāṇattivasena saṅgharakkhitassa jīvitā voropane asati yujjati, voropane sati tesampi ārocanakkhaṇeyeva pārājikaṃ. Paṭiggahitamatteti idaṃ avassaṃ paṭiggahaṇasabhāvadīpanatthaṃ vuttaṃ, na paṭiggahitakkhaṇeyeva thullaccayanti dassanatthaṃ. Sace hi so avassaṃ paṭiggahessati, kammaṃ pana na nipphādessati, tadā ācariyassa āṇattikkhaṇeyeva thullaccayaṃ hotīti daṭṭhabbaṃ.
Tội Tác Ác đối với thầy ra lệnh như vậy: nếu người được ra lệnh không đi theo ý muốn, thì thầy bị tội Tác Ác vào lúc ra lệnh. Nhưng nếu người đó đi theo ý muốn, thì tội Trọng Tội sẽ được nói ở sau, cũng xảy ra vào lúc ra lệnh. Nếu người đó chắc chắn sẽ giết, thì tội Bất Cộng Trụ sẽ được nói ở sau là “tội Bất Cộng Trụ đối với tất cả” (pārā. 174), từ đó, người này bị tội Bất Cộng Trụ ngay vào lúc ra lệnh, không phải là tội Tác Ác và Trọng Tội. Tội Tác Ác đối với cả họ: là tội Tác Ác do duyên báo cáo đối với cả Buddharakkhita v.v… Và điều này hợp lý khi Saṅgharakkhita không giết người theo như đã được ra lệnh. Nếu giết, thì họ cũng bị tội Bất Cộng Trụ ngay vào lúc báo cáo. Ngay khi vừa nhận lời: điều này được nói để chỉ ra bản chất chắc chắn sẽ nhận lời, không phải để chỉ ra tội Trọng Tội ngay trong khoảnh khắc nhận lời. Cần hiểu rằng nếu người đó chắc chắn sẽ nhận lời, nhưng không hoàn thành công việc, thì khi đó, thầy bị tội Trọng Tội ngay vào lúc ra lệnh.

Mūlaṭṭhasseva dukkaṭanti idaṃ mahāaṭṭhakathāyaṃ āgatanayadassanamattaṃ, na panetaṃ attanā adhippetaṃ, tenāha evaṃ santetiādi, evaṃ mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttanayena atthe satīti attho. Paṭiggahaṇe āpattiyeva na siyāti vadhakassa ‘‘sādhu suṭṭhū’’ti maraṇapaṭiggahaṇe dukkaṭāpatti neva siyā, evaṃ anoḷārikavisayepi tāva dukkaṭaṃ, kimaṅgaṃ pana maraṇapaṭiggahaṇeti dassanatthaṃ sañcarittapaṭiggahaṇādi nidassitaṃ. ‘‘Aho vata itthannāmo hato assā’’ti evaṃ maraṇābhinandanadassanatthaṃ sañcarittapaṭiggahaṇādibhinandane dukkaṭe sati pageva ‘‘ahaṃ taṃ māressāmī’’ti maraṇapaṭiggahaṇeti adhippāyo. Paṭiggaṇhantassevetaṃ dukkaṭanti avadhāraṇena saṅgharakkhitassa paṭiggahaṇapaccayā mūlaṭṭhassa nattheva āpattīti dasseti, visaṅketattā paṭhamaṃ āṇattadukkaṭamevassa hoti. Keci pana ‘‘mūlaṭṭhassāpi dukkaṭamevā’’ti vadanti, taṃ na yuttaṃ ekena payogena dvinnaṃ dukkaṭānaṃ asambhavā. Purimanayeti samanantarātīte avisakkiyadūtaniddese. Etanti dukkaṭaṃ. Okāsābhāvenāti mūlaṭṭhassa thullaccayassa vuccamānattā paṭiggaṇhantassa dukkaṭaṃ na vuttaṃ okāsābhāvena, na pana āpattiabhāvatoti adhippāyo.
Chỉ bị tội Tác Ác đối với người gốc: đây chỉ là sự trình bày phương pháp đã có trong Đại Chú giải, không phải là điều mình đồng ý. Do đó nói là nếu như vậy… v.v…, có nghĩa là nếu có ý nghĩa theo phương pháp đã được nói trong Đại Chú giải. Sẽ không có cả tội khi nhận lời: sẽ không có cả tội Tác Ác khi nhận lời giết người rằng “được rồi, tốt lắm.” Để chỉ ra rằng ngay cả trong lĩnh vực không nặng nề như vậy cũng đã là tội Tác Ác, huống nữa là việc nhận lời giết người, đã dẫn chứng việc nhận lời môi giới v.v… Ý là nếu có tội Tác Ác khi hoan hỷ trong việc nhận lời môi giới v.v… để chỉ ra sự hoan hỷ trong việc giết người rằng “ôi, ước gì người tên kia bị giết,” thì huống nữa là việc nhận lời giết người rằng “tôi sẽ giết người đó.” Chỉ là tội Tác Ác của người nhận lời: bằng sự nhấn mạnh, chỉ ra rằng do duyên nhận lời của Saṅgharakkhita, người gốc không có tội gì cả. Do sai ám hiệu, người đó chỉ bị tội Tác Ác đã ra lệnh lúc đầu. Nhưng một số người nói rằng “ngay cả người gốc cũng chỉ bị tội Tác Ác,” điều đó không đúng, do không thể có hai tội Tác Ác bằng một phương tiện. Trong phương pháp trước: trong sự chỉ định về sứ giả không đáng tin cậy ngay trước đó. Cái đó: là tội Tác Ác. Do không có cơ hội: ý là vì tội Trọng Tội của người gốc đang được nói đến, nên tội Tác Ác của người nhận lời không được nói đến do không có cơ hội, không phải là do không có tội.

175. Sayaṃ saṅghattherattā ‘‘upaṭṭhānakāle’’ti vuttaṃ. Vācāya vācāya dukkaṭanti ‘‘yo koci mama vacanaṃ sutvā imaṃ māretū’’ti iminā adhippāyena avatvā kevalaṃ maraṇābhinandanavaseneva vuttattā corāpi nāma taṃ na hanantītiādivācāyapi dukkaṭameva vuttaṃ. Dvinnaṃ uddissāti dve uddissa, dvinnaṃ vā maraṇaṃ uddissa. Ubho uddissa maraṇaṃ saṃvaṇṇentassa payogasamuṭṭhāpikāya cetanāya ekattepi ‘‘dve pāṇātipātā’’ti vattabbatāsaṅkhātaṃ balavabhāvaṃ āpajjitvā paṭisandhipavattīsu mahāvipākattā ‘‘akusalarāsī’’ti vuttaṃ, bahū uddissa maraṇasaṃvaṇṇanepi eseva nayo. Tattakā pāṇātipātāti yattakā saṃvaṇṇanaṃ sutvā marissanti, tattakānampi vattamānaṃ anāgatañca jīvitindriyaṃ sabbaṃ ālambitvāva cetanāya pavattanato tattakā pāṇātipātā honti, tattakāhi cetanāhi dātabbaṃ pavattivipākaṃ ekāva sā cetanā dātuṃ sakkotīti attho, paṭisandhivipākaṃ pana sayañca pubbāparacetanā ca ekekameva dātuṃ sakkotīti gahetabbaṃ.
175. Vì chính mình là trưởng lão của Tăng, nên đã nói là “vào lúc hầu hạ.” Tội Tác Ác đối với từng lời nói: vì đã nói chỉ bằng cách hoan hỷ trong việc giết người mà không có ý định “bất cứ ai nghe lời tôi nói, hãy giết người này,” nên ngay cả đối với lời nói “ngay cả bọn cướp cũng không giết người đó” cũng chỉ nói là tội Tác Ác. Hướng đến hai người: hướng đến hai người, hoặc hướng đến cái chết của hai người. Đối với người ca ngợi cái chết hướng đến cả hai, dù tư tưởng tạo ra phương tiện chỉ là một, nhưng vì đã đến trạng thái mạnh mẽ là phải nói là “hai tội sát sanh” và vì có quả báo lớn trong sự tái sanh và diễn ra, nên đã nói là “đống bất thiện.” Phương pháp này cũng áp dụng cho việc ca ngợi cái chết hướng đến nhiều người. Bấy nhiêu tội sát sanh: bao nhiêu người sẽ chết sau khi đã nghe sự ca ngợi, thì bấy nhiêu tội sát sanh cũng có, vì tư tưởng đã diễn ra bằng cách nhắm đến toàn bộ sinh mạng căn hiện tại và tương lai của bấy nhiêu người đó. Có nghĩa là một tư tưởng đó có thể cho quả báo diễn ra mà bấy nhiêu tư tưởng phải cho. Cần hiểu là quả báo tái sanh thì chính nó và các tư tưởng trước sau chỉ có thể cho từng cái một.

176.Yesaṃ hatthatoti yesaṃ ñātakapavāritādīnaṃ hatthato, idañca bhikkhuno rūpiyamūlassa abhāvaṃ sandhāya vuttaṃ, attanova dhanañce,ꩮ mūlaṃ gahetvā muñcati, mūlaṃ pana aggahetvāpi potthakassa potthakasāmino santakattāpādanamevettha pamāṇanti gahetabbaṃ. Lekhādassanakotūhalakāti sundarakkharaṃ disvā vā ‘‘kīdisaṃ nu kho potthaka’’nti vā oloketukāmā.
176.Từ tay của ai: từ tay của quyến thuộc, người đã được mời v.v… của ai. Và điều này được nói nhắm đến sự không có tiền gốc của Tỳ-khưu. Nếu là tiền của chính mình, thì sau khi đã lấy tiền gốc và chuộc lại, thì được. Nhưng cần hiểu là ngay cả khi không lấy tiền gốc, việc xác định rằng sách là của chủ sách là tiêu chuẩn ở đây. Những người tò mò muốn xem chữ viết: những người muốn xem sau khi đã thấy chữ đẹp hoặc với ý nghĩ “sách như thế nào nhỉ?”

Pāṇātipātassa payogattāti sarīrato pāṇaviyojanassa niṭṭhāpakapayogattā. Opātakhaṇanatthaṃ pana kudālādiatthāya ayobījasamuṭṭhāpanatthaṃ akappiyapathaviṃ vā kudāladaṇḍādīnaṃ atthāya bhūtagāmaṃ vikopentassa pācittiyameva. Pāṇātipātapayogattābhāvā adinnādānapubbapayaoge viya dutiyapariyesanādīsupi ettha dukkaṭaṭṭhāne dukkaṭaṃ, musāvādādipācittiyaṭṭhāne pācittiyamevāti gahetabbaṃ. Pamāṇeti attanā sallakkhite pamāṇe. Tacchetvāti unnatappadesaṃ tacchetvā. Paṃsupacchinti sabbantimaṃ paṃsupacchiṃ. Ettakaṃ alanti niṭṭhāpetukāmatāya sabbantimapayaogasādhikā cetanā sanniṭṭhāpakacetanā, mahāaṭṭhakathāyaṃ ‘‘ekasmiṃ divase avūpasanteneva payogena khaṇitvā niṭṭhāpentaṃ sandhāya sabbantimā sanniṭṭhāpakacetanā vuttā, itarāsu pana aṭṭhakathāsu ‘‘imasmiṃ patitvā marantū’’ti adhippāyena ekasmiṃ divase kiñci khaṇitvā aparasmimpi divase tato kiñci kiñci khaṇitvā niṭṭhāpentaṃ sandhāya vuttanti evaṃ aṭṭhakathānaṃ aññamaññavirodho ñātabbo. Attano dhammatāyāti ajānitvā, pakkhalitvā vā. Arahantāpi saṅgahaṃ gacchantīti aññehi pātiyamānānaṃ amaritukāmānampi arahantānaṃ maraṇaṃ sambhavatīti vuttaṃ. Purimanayeti ‘‘maritukāmā idha marissantī’’ti vuttanaye. Visaṅketoti maritukāmānaṃ māretukāmānañca uddissa khatattā amaritukāmānaṃ maraṇe kammabaddho natthīti attho.
Do là phương tiện của tội sát sanh: do là phương tiện hoàn thành việc tách rời sinh mạng khỏi cơ thể. Nhưng đối với việc làm hư hại thực vật để làm gậy cho cuốc v.v…, hoặc làm hư hại đất không được phép để làm hạt sắt cho cuốc v.v…, thì chỉ bị tội Ưng Đối Trị. Do không phải là phương tiện của tội sát sanh, cần hiểu là ở đây, trong tội Tác Ác, có tội Tác Ác; trong tội Ưng Đối Trị như nói dối v.v…, có tội Ưng Đối Trị, giống như trong phương tiện trước của tội trộm cắp. Trong kích thước: trong kích thước đã được mình chú ý. Sau khi đã đẽo: sau khi đã đẽo chỗ lồi. Cái rổ đất: cái rổ đất cuối cùng. Chừng này là đủ: tư tưởng hoàn thành, là tư tưởng thực hiện phương tiện cuối cùng với ý muốn hoàn thành. Trong Đại Chú giải, đã nói tư tưởng hoàn thành cuối cùng nhắm đến người đào và hoàn thành bằng một phương tiện không gián đoạn trong một ngày. Nhưng trong các Chú giải khác, cần biết rằng sự khác biệt giữa các Chú giải được biết như thế này là đã được nói nhắm đến người đào một ít trong một ngày với ý định “họ sẽ rơi vào đây và chết,” rồi lại đào một ít trong ngày hôm sau và hoàn thành. Do tự nhiên của nó: do không biết, hoặc do vấp ngã. Ngay cả các bậc A-la-hán cũng được bao gồm: được nói rằng cái chết của các bậc A-la-hán, dù không muốn chết, cũng có thể xảy ra khi bị người khác xô ngã. Trong phương pháp trước: trong phương pháp đã được nói là “những người muốn chết sẽ chết ở đây.” Sự sai ám hiệu: ý là vì đã đào nhắm đến những người muốn chết và những người muốn giết, nên không bị buộc bởi nghiệp khi những người không muốn chết chết.

Tattha patitaṃ bahi nīharitvāti idaṃ tattha patanapaccayā maraṇassa pavattattā vuttaṃ. Āvāṭe patitvā thokaṃ cirāyitvā gacchantaṃ gahetvā mārite tattha patitarogena pīḷitassa gacchato pakkhalitvā pāsāṇādīsu patanenāpi maraṇepi opātakhaṇako na muccatīti veditabbaṃ. Amaritukāmā vāti adhippāyassa sambhavato opapātike uttarituṃ asakkuṇitvā matepi pārājikaṃ vuttaṃ. ‘‘Nibbattitvā’’ti vuttattā patanaṃ na dissatīti ce? Tatthassa nibbattiyeva patananti natthi virodho. Yasmā mātuyā patitvā parivattitaliṅgāya matāya so mātughātako hoti, na kevalaṃ manussapurisaghātako, tasmā patitasseva vasena āpattīti adhippāyena ‘‘patanarūpaṃ pamāṇa’’nti vuttaṃ, idaṃ pana akāraṇaṃ ‘‘liṅge parivattepi ekasantānattassa avigatattā. Manussabhūtaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā api parivattaliṅgaṃ jīvitā voropentassa kammaṃ ānantariya’’nti hi aṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Yena pana sabhāvena sattā jāyanti, teneva maranti, sova tesaṃ rūpantaraggahaṇepi sabhāvoti ‘‘maraṇarūpameva pamāṇaṃ, tasmā pācittiya’’nti vutto. Pacchimo vādo pamāṇaṃ, evaṃ sante pāḷiyaṃ ‘‘yakkho vā peto vā tiracchānagatamanussaviggaho vā tasmiṃ patati, āpatti dukkaṭassa. Patite dukkhā vedanā uppajjati, āpatti dukkaṭassa. Marati, āpatti thullaccayassā’’ti kasmā vuttanti ce? Nāyaṃ doso. ‘‘Yakkho vā peto vā’’ti hi paṭhamaṃ sakarūpaṃ dassetvā rūpantaraṃ gahetvāpi ṭhiteyeva yakkhapete dassetuṃ ‘‘tiracchānagatamanussaviggaho vā’’ti vuttaṃ. Tasmā tiracchānagataviggaho manussaviggaho vā yakkho vā peto vāti evamettha yojanā kātabbā. Keci pana ‘‘manussaviggahena ṭhitatiracchānagatānaṃ āveṇikaṃ katvā thullaccayaṃ vuttaṃ viya dissatī’’ti vadanti, taṃ na yuttaṃ tiracchāno vā manussaviggahoti vattabbato, aṭṭhakathāsu ca imassa visesassa avuttattā. Yakkhapetarūpena matepi eseva nayoti iminā maraṇarūpasseva pamāṇattā thullaccayaṃ atidisati.
Việc mang ra ngoài vật đã rơi vào đó, điều này được nói do sự xảy ra của cái chết do duyên rơi vào đó. Cần biết rằng người đào hố không được giải thoát ngay cả khi người rơi vào hố, sau khi đã ở đó một lúc lâu, đi ra và bị giết, hoặc khi người bị bệnh do rơi vào đó, đi và ngã vào đá v.v… rồi chết. Vì có thể có ý định “hoặc không muốn chết,” nên đã nói là bị tội Bất Cộng Trụ ngay cả khi người rơi vào hố chết do không thể leo ra được. Nếu nói rằng vì đã nói “sau khi đã sinh ra,” nên không thấy có sự rơi? Không có mâu thuẫn gì, vì chính sự sinh ra của người đó ở đó là sự rơi. Vì khi người mẹ chết sau khi đã rơi xuống và chuyển giới, người đó trở thành kẻ giết mẹ, không chỉ là kẻ giết một người đàn ông, do đó, với ý định rằng tội là do chính sự rơi, đã nói là “hình thái lúc rơi là tiêu chuẩn.” Nhưng điều này không phải là lý do, vì tính chất cùng một dòng tâm thức không bị mất đi ngay cả khi giới tính đã thay đổi. Vì trong Chú giải đã nói rằng “hành động của người giết mẹ hoặc cha là người, dù đã chuyển giới, khi họ còn sống, là tội vô gián.” Nhưng vì chúng sanh chết theo bản chất nào mà chúng đã sinh ra, đó chính là bản chất của chúng ngay cả khi đã mang hình thái khác, nên đã nói là “chính hình thái lúc chết mới là tiêu chuẩn, do đó bị tội Ưng Đối Trị.” Quan điểm sau cùng là tiêu chuẩn. Nếu vậy, tại sao trong Pāḷi lại nói là “nếu một con quỷ hoặc một ngạ quỷ hoặc một người mang hình dáng súc sanh rơi vào đó, bị tội Tác Ác. Khi đã rơi vào, cảm thọ đau đớn phát sinh, bị tội Tác Ác. Nếu chết, bị tội Trọng Tội”? Đây không phải là lỗi. Vì đã nói “hoặc một con quỷ hoặc một ngạ quỷ” để chỉ ra hình dạng ban đầu, rồi lại nói “hoặc một người mang hình dáng súc sanh” để chỉ ra các con quỷ, ngạ quỷ ngay cả khi chúng đang mang hình thái khác. Do đó, ở đây phải kết hợp như thế này: con quỷ hoặc ngạ quỷ mang hình dáng súc sanh hoặc hình dáng người. Nhưng một số người nói rằng “dường như tội Trọng Tội được nói một cách riêng biệt đối với các loài súc sanh đang mang hình dáng người,” điều đó không đúng, vì đáng lẽ phải nói là ‘súc sanh hoặc có hình dáng người,’ và vì sự khác biệt này không được nói trong các Chú giải. Ngay cả khi chết trong hình dạng quỷ, ngạ quỷ, cũng áp dụng cùng một phương pháp: bằng câu này, để dẫn chiếu tội Trọng Tội, vì chính hình thái lúc chết mới là tiêu chuẩn.

Mudhāti amūlena. So niddosoti tena tattha katapayogassa abhāvato, yadi pana sopi tattha kiñci karoti, na muccati evāti dassento evaṃ patitātiādimāha. Tattha evanti evaṃ mayā kateti attho . Na nassissantīti adassanaṃ na gamissanti, na palāyissantīti adhippāyo. Suuddharā vā bhavissantīti idaṃ gambhīrassa opātassa pūraṇe payojanadassanaṃ. Uttāne kate opāte sīghaṃ amhehi gahetvā māretuṃ suuddharā bhavissantīti adhippāyo. Vippaṭisāre uppanneti mūlaṭṭhaṃ sandhāya vuttaṃ. Yadi pana pacchimopi labhitvā tattha vuttappakāraṃ kiñci katvā puna vippaṭisāre uppanne evaṃ karoti, tassāpi eseva nayo. Jātapathavī jātāti īdise puna aññena opāte khate tadā muccatīti dassanatthaṃ vuttaṃ, jātapathavīsadisaṃ katvā puna suṭṭhu koṭṭetvā daḷhataraṃ pūritepi muccatiyevāti gahetabbaṃ.
Vô ích là không có giá trị. Người đó vô tội: vì không có phương tiện nào được thực hiện ở đó bởi người đó. Nhưng để chỉ ra rằng nếu người đó cũng làm một điều gì đó ở đó, thì không được giải thoát, đã nói là những người đã rơi như vậy… v.v… Ở đó, như vậy có nghĩa là ‘do tôi đã làm như vậy.’ Họ sẽ không biến mất, ý là họ sẽ không biến mất khỏi tầm mắt, họ sẽ không trốn đi. Hoặc họ sẽ dễ dàng được nhấc lên: đây là sự chỉ ra lợi ích trong việc lấp cái hố sâu. Ý là khi cái hố đã được làm cạn, chúng ta sẽ dễ dàng bắt và giết họ một cách nhanh chóng. Khi sự hối hận phát sinh: được nói nhắm đến người gốc. Nhưng nếu người sau, sau khi đã có được, đã làm một điều gì đó đã được nói ở đó, rồi sau đó lại phát sinh sự hối hận và làm như vậy, thì đối với người đó cũng áp dụng cùng một phương pháp. Đất đã trở lại như cũ: được nói để chỉ ra rằng nếu sau đó, một người khác đào một cái hố ở nơi như vậy, thì khi đó được giải thoát. Cần hiểu rằng ngay cả khi đã làm cho giống như đất tự nhiên, rồi lại đầm kỹ và lấp chặt hơn nữa, cũng được giải thoát.

Thaddhataranti thirakaraṇatthaṃ aparāparāya pāsayaṭṭhiyā saddhiṃ bandhitvā vā tameva vā sithilabhūtapāsaṃ thaddhataraṃ bandhitvā ṭhapeti. Khāṇukanti pāsayaṭṭhibandhanakhāṇukaṃ. Tatthajātakayaṭṭhiṃ chinditvā muccatīti idaṃ araññe yathāṭhitameva daṇḍaṃ mūle acchinditvā pāsabandhanayoggaṃ katvā ṭhapitattā tattha aññopi koci pāsaṃ bandheyya, mūlaṭṭho na muccati, taṃ pana mūlepi chinditvā khaṇḍākhaṇḍaṃ katvā muccatīti dassanatthaṃ vuttaṃ. Rajjuketi vākehi ekavāraṃ vaṭṭitarajjuke. Sayaṃ vaṭṭitanti tanukavaṭṭitaṃ diguṇatiguṇatāpādanena attanā vaṭṭitaṃ. Ubbaṭṭetvāti pākatikaṃ katvā. Gopentopīti hīraṃ hīraṃ katvā gopentopi.
Chắc chắn hơn: để làm cho chắc chắn, người đó buộc lại với một cây gậy bẫy khác, hoặc buộc lại chính cái bẫy đã bị lỏng cho chắc chắn hơn và để đó. Cọc: cọc để buộc cây gậy bẫy. Được giải thoát sau khi đã cắt cây gậy mọc ở đó: điều này được nói để chỉ ra rằng vì đã làm một cây gậy ở tại chỗ trong rừng mà không cắt ở gốc, để phù hợp cho việc buộc bẫy, nên nếu một người nào đó khác buộc bẫy ở đó, thì người gốc không được giải thoát. Nhưng nếu cắt cả ở gốc và làm thành từng khúc, thì được giải thoát. Sợi dây: sợi dây được bện một lần bằng vỏ cây. Tự mình bện: sợi dây đã được bện mỏng, được tự mình bện lại bằng cách làm cho nó dày gấp đôi, gấp ba. Sau khi đã tháo ra: sau khi đã làm cho trở lại như ban đầu. Ngay cả khi đang cất giữ: ngay cả khi đang cất giữ bằng cách làm thành từng sợi.

177.Ālambanarukkho vāti tatthajātakaṃ sandhāya vuttaṃ. Tadatthameva katvāti māraṇatthameva ayobījasamuṭṭhāpanādinā vāsiādiṃ satthaṃ kāretvā. Pākatikanti aññehi kataṃ pakatisatthameva labhitvā mūlaṭṭhena ṭhapitaṃ hotīti attho. Muccatīti mūlaṭṭho muccati. Visamaṇḍalanti mañcapīṭhādīsu ālittaṃ visamaṇḍalaṃ.
177.Hoặc cây để vịn: được nói nhắm đến cây mọc ở đó. Sau khi đã làm chỉ vì mục đích đó: sau khi đã cho làm một vũ khí như cái bào v.v… chỉ vì mục đích giết người, bằng cách tạo ra hạt sắt v.v… Tự nhiên: có nghĩa là đã có được một vũ khí tự nhiên do người khác làm và đã được người gốc đặt ở đó. Được giải thoát: người gốc được giải thoát. Vòng tròn thuốc độc: vòng tròn thuốc độc được bôi trên giường, ghế v.v…

Vatvā asiṃ upanikkhipatīti ettha mukhena avatvā manasāva cintetvā upanikkhipanepi eseva nayo. Purimanayenāti yesaṃ hatthato mūlaṃ gahitantiādinā. Visabhāgarogo nāma kuṭṭhādivirūpabhāvato, gaṇḍapīḷakādi vā jīvitappavattiyā paccanīkattā.
Sau khi đã nói và đặt thanh gươm xuống: ở đây, ngay cả khi không nói bằng miệng mà chỉ suy nghĩ trong tâm và đặt xuống, cũng áp dụng cùng một phương pháp. Theo cách trước: bằng câu ‘từ tay ai mà người gốc đã lấy’ v.v… Bệnh khác loại là do trạng thái dị dạng như bệnh hủi v.v…, hoặc do mụn nhọt v.v… đối nghịch với sự tồn tại của sự sống.

178.Manāpiyepi eseva nayoti etena manāpiyaṃ rūpaṃ upasaṃharatīti ettha yaṃ vā manāparūpaṃ, tassa samīpe ṭhapeti, attanā vā manāpiyena rūpena samannāgato tiṭṭhatītiādi yojetabbanti dasseti. Alaṅkaritvā upasaṃharatīti ‘‘alābhakena sussitvā maratū’’ti iminā adhippāyena upsaṃharati, teneva ‘‘sace uttasitvā marati, visaṅketo’’ti vuttaṃ. Alābhakena sussitvā maratīti ettha pārājikoti pāṭhaseso daṭṭhabbo. Mahākacchu nāma valliphalaviseso, yassa majjārapādasseva saṇṭhānaṃ dukkhasamphassāni sukhumalomāni ca honti. Haṃsapupphanti haṃsādīnaṃ pakkhalomaṃ sandhāya vadanti. Attano dhammatāya marati, anāpattīti pārājikaṃ sandhāya vuttaṃ dukkaṭā na muccanato.
178.Đối với những điều ưa thích cũng áp dụng cùng một phương pháp: bằng câu này, chỉ ra rằng trong câu ‘mang đến một hình sắc ưa thích,’ phải kết hợp như thế này: hoặc đặt ở gần hình sắc ưa thích đó, hoặc tự mình đứng với một hình sắc ưa thích v.v… Sau khi đã trang điểm và mang đến: mang đến với ý định này rằng “hãy chết khô vì không có được,” chính vì thế đã nói là “nếu chết vì sợ hãi, thì không đúng mục đích.” Chết khô vì không có được: ở đây, cần hiểu phần còn lại của câu là ‘bị tội Bất Cộng Trụ.’ Trái mắt mèo lớn là một loại quả dây leo, có hình dáng giống như chân mèo, có những sợi lông nhỏ gây cảm giác khó chịu. Lông ngỗng: một số người nói nhắm đến lông cánh của ngỗng v.v… Chết theo tự nhiên của mình, vô tội: được nói nhắm đến tội Bất Cộng Trụ, vì không thoát khỏi tội Tác Ác.

179. Asañciccāti idaṃ maraṇasaṃvattanikaupakkamassa asallakkhaṇaṃ sandhāya vuttanti āha iminā upakkamenātiādi. Ajānantassāti idaṃ pana maraṇasaṃvattanikavisādiupakkamakaraṇassa ajānanaṃ sandhāya vuttanti āha iminā ayaṃ marissatītiādi. Na maraṇādhippāyassāti idaṃ dukkhuppādakaṃ upakkamanti jānantassāpi maraṇādhippāyassa abhāvaṃ sandhāya vuttanti āha maraṇaṃ anicchantassātiādi. Anuppabandhābhāvāti domanassavīthīnaṃ nirantarappavattiabhāvā.
179. ‘Không cố ý,’ điều này được nói nhắm đến sự không nhận biết phương tiện gây ra cái chết, nên nói là bằng phương tiện này… v.v… ‘Không biết,’ điều này được nói nhắm đến sự không biết việc thực hiện phương tiện như thuốc độc v.v… gây ra cái chết, nên nói là bằng cái này, người này sẽ chết… v.v… ‘Không có ý định giết,’ điều này được nói nhắm đến sự không có ý định giết, ngay cả khi biết rằng đó là phương tiện gây đau khổ, nên nói là của người không muốn giết… v.v… Do không liên tục: do không có sự liên tục của các lộ trình tâm ưu.

Padabhājanīyavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về Phân Tích Từ Ngữ đã kết thúc.

Vinītavatthuvaṇṇanā

Giải thích về các câu chuyện đã được phân xử

180.Vohāravasenāti pubbabhāgavohāravasena, maraṇādhippāyassa sanniṭṭhāpakacetanākkhaṇe karuṇāya abhāvato kāruññena pāse baddhasūkaramocanaṃ (pārā. 153) viya na hotīti adhippāyo. ‘‘Yathāyunā’’ti vuttamevatthaṃ ‘‘yathānusandhinā’’ti pariyāyantarena vuttaṃ. Heṭṭhā kismiñci vijjamāne sāṭakaṃ valiṃ gaṇhātīti āha ‘‘yasmiṃ vali na paññāyatī’’ti. Paṭivekkhaṇañcetaṃ gihīnaṃ santake evāti daṭṭhabbaṃ. Pāḷiyaṃ musale ussiteti aññamaññaṃ upatthambhetvā dvīsu musalesu bhittiṃ apassāya ṭhapitesūti attho. Udukkhalabhaṇḍikanti udukkhalatthāya ānītaṃ dārubhaṇḍaṃ. Paribandhanti bhojanaparibandhaṃ, bhojanantarāyanti vuttaṃ hoti.
180.Theo cách nói thông thường: theo cách nói thông thường của giai đoạn đầu. Ý là không giống như việc thả con heo bị buộc vào bẫy bằng lòng từ bi (pārā. 153), vì không có lòng từ bi trong khoảnh khắc của tư tưởng quyết định có ý định giết. Điều đã được nói là “theo tuổi thọ” đã được nói lại bằng một từ đồng nghĩa khác là “theo sự liên kết.” Khi có một thứ gì đó ở dưới, người đó lấy nếp gấp của tấm vải, nên nói là “nơi không thấy có nếp gấp.” Và sự xem xét này cần được hiểu là chỉ đối với tài sản của người tại gia. Trong Pāḷi, khi các cây chày đã được dựng lên có nghĩa là khi đã dựng hai cây chày dựa vào nhau mà không dựa vào tường. Khúc gỗ làm cối là khúc gỗ được mang đến để làm cối. Sự cản trở là sự cản trở việc ăn uống, có nghĩa là sự trở ngại cho việc ăn uống.

181. Aggakārikanti ettha kārika-saddassa bhāvavacanattā ‘‘aggakiriya’’nti atthaṃ vatvāpi yasmā kiriyaṃ dātuṃ na sakkā, tasmā dānasaṅkhātāya aggakiriyāya yuttapiṇḍapātameva idha upacārayuttiyā aggakiriyāti gahetabbanti āha paṭhamaṃ laddhapiṇḍapātantiādi.
181. ‘Aggakārikaṃ’: ở đây, vì từ ‘kārika’ là một từ chỉ trạng thái, nên dù đã nói ý nghĩa là “hành động đầu tiên,” nhưng vì không thể cho hành động, nên ở đây, chính vật thực khất thực đi kèm với hành động đầu tiên là sự cho, đã được hiểu là ‘aggakiriyā’ (hành động đầu tiên) một cách hợp lý theo ẩn dụ. Nên nói là vật thực khất thực đã nhận được đầu tiên v.v…

182-3.Daṇḍamuggaranikhādanavemādīnaṃ vasenāti ettha daṇḍo nāma dīghadaṇḍo. Muggaro nāma rasso. Vemaṃ nāma tantavāyānaṃ vatthavāyanaupakaraṇaṃ, yena vītaṃ tantaṃ ghaṭṭenti. Vibhattibyattayenāti vibhattivipariṇāmena. Visesādhigamoti samādhi vipassanā ca. Visesādhigamanti lokuttaradhammapaṭilābhaṃ. Byākaritvāti ārocetvā, idañca visesassa adhigatabhāvadassanatthaṃ vuttaṃ. Adhigatavisesā hi diṭṭhānugatiāpajjanatthaṃ lajjībhikkhūnaṃ avassaṃ adhigamaṃ byākaronti, adhigatavisesena pana abyākaritvāpi āhāraṃ upacchindituṃ na vaṭṭati, adhigamantarāyavinodanatthameva āhārūpacchedassa anuññātattā tadadhigame so na kātabbova. Kiṃ panādhigamaṃ ārocetuṃ vaṭṭatīti āha sabhāgānantiādi. Bhaṇḍakaṃ vā dhovantāti cīvaraṃ vā dhovantā. Dhovanadaṇḍakanti cīvaradhovanadaṇḍaṃ.
182-3.Theo cách của gậy, chày, khung cửi và các vật khác: ở đây, gậy là gậy dài. Chày là chày ngắn. Khung cửi là dụng cụ dệt vải của thợ dệt, dùng để đập sợi ngang. Bằng sự thay đổi biến cách: bằng sự thay đổi biến cách. Sự chứng đắc đặc biệt là định và tuệ quán. Sự chứng đắc đặc biệt là sự chứng đắc pháp siêu thế. Sau khi đã tuyên bố là sau khi đã thông báo, và điều này được nói để chỉ ra trạng thái đã chứng đắc đặc biệt. Vì những người đã chứng đắc đặc biệt chắc chắn sẽ tuyên bố sự chứng đắc cho các Tỳ-khưu biết hổ thẹn để họ noi theo. Nhưng người đã chứng đắc đặc biệt, dù không tuyên bố, cũng không được phép cắt đứt thức ăn, vì việc cắt đứt thức ăn chỉ được cho phép để xua tan chướng ngại cho sự chứng đắc, nên khi đã chứng đắc, không nên làm điều đó. Vậy có được phép thông báo sự chứng đắc không? Nói là của những người cùng loại… v.v… Hoặc đang giặt vật dụng là hoặc đang giặt y. Cây gậy giặt là cây gậy để giặt y.

185.Maddāpetvā pāteti, visaṅketoti yathāṇattiyā akatattā vuttaṃ, yadi pana āṇāpako maddanampi maddāpanampi sandhāya vohāravasena ‘‘madditvā pātehī’’ti vadati, visaṅketo natthīti veditabbaṃ. ‘‘Maraṇavaṇṇaṃ vā saṃvaṇṇeyyā’’ti (pārā. 171) vuttattā āha ‘‘pariyāyo nāma natthī’’ti, pariyāyena āpattimokkho na hotīti adhippāyo. Avijāyanatthāya gabbhaggahaṇato puretarameva bhesajjaṃ dentassa kucchiyaṃ uppajjitvā gabbho vinassatīti iminā adhippāyena dinne tathāmarantānaṃ vasena kammabaddho, kucchiyaṃ na uppajjissatīti iminā adhippāyena dinne uppajjitvā maratu vā mā vā, nevatthi kammabaddho.
185.Sau khi đã cho đập rồi làm cho ngã, không đúng mục đích: được nói do không làm theo đúng lệnh. Nhưng cần biết rằng nếu người ra lệnh nói “hãy đập rồi làm cho ngã” theo cách nói thông thường, nhắm đến cả việc đập và cho đập, thì không phải là không đúng mục đích. Vì đã nói “hoặc nên ca ngợi sự chết” (pārā. 171), nên nói là “không có cách nói gián tiếp,” ý là không có sự thoát khỏi tội một cách gián tiếp. Đối với người cho thuốc trước cả khi thụ thai để không thụ thai, nếu bào thai phát sinh trong bụng rồi chết, thì bị ràng buộc bởi nghiệp theo cách của những người chết như vậy. Nếu cho với ý định này rằng ‘sẽ không phát sinh trong bụng,’ thì dù phát sinh rồi chết hay không, cũng không bị ràng buộc bởi nghiệp.

Sahadhammikānanti ekassa satthu sāsane sahasikkhamānadhammānaṃ, sahadhamme vā sikkhāpade sikkhanabhāvena niyuttānaṃ. Samasīlasaddhānantiādinā dussīlānaṃ bhinnaladdhikānañca akātumpi labbhatīti dasseti. Ñātakapavāritaṭṭhānatoti attano tesaṃ vā ñātakapavāritaṭṭhānato. Ariyehi akatā ayuttavasena akatapubbā viññatti akataviññatti.
Của những người cùng pháp: của những người cùng học pháp trong giáo pháp của một Bậc Đạo Sư, hoặc của những người có phận sự học trong cùng một pháp, tức là điều học. Của những người có cùng giới và đức tin… v.v…: bằng câu này, chỉ ra rằng cũng được phép không làm đối với những người vô giới và theo tà phái. Từ nơi đã được quyến thuộc của mình hoặc của họ mời: từ nơi đã được quyến thuộc của mình hoặc của họ mời. Sự xin không được làm, không phù hợp, do các bậc Thánh không làm, là sự xin không được làm.

Paṭiyādiyatīti sampādiyati. Akātuṃ na vaṭṭatīti ettha dukkaṭaṃ vadanti, ayuttatāvaseneva panettha akaraṇapaṭikkhepo yutto, na āpattivasenāti gahetabbaṃ. Yāva ñātakā passantīti yāva tassa ñātakā passanti.
Chuẩn bị: chuẩn bị. Không được phép không làm: ở đây, một số người nói là tội Tác Ác. Cần hiểu rằng sự cấm không làm ở đây là hợp lý chỉ do tính chất không phù hợp, không phải do tội. Chừng nào quyến thuộc còn thấy: chừng nào quyến thuộc của người đó còn thấy.

Pitubhaginī pitucchā. Mātubhātā mātulo. Nappahontīti kātuṃ na sakkonti. Na yācantīti lajjāya na yācanti. ‘‘Ābhogaṃ katvā’’ti vuttattā aññathā dentassa āpattiyeva. Keci pana ‘‘ābhogaṃ akatvāpi dātuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti, taṃ na yuttaṃ bhesajjakaraṇassa pāḷiyaṃ ‘‘anāpatti bhikkhu pārājikassa, āpatti dukkaṭassā’’ti (pārā. 187) evaṃ antarāpattidassanavasena sāmaññato paṭikkhittattā, aṭṭhakathāyaṃ avuttappakārena karontassa sutteneva āpatti siddhāti daṭṭhabbā, teneva aṭṭhakathāyampi ‘‘tesaññeva santaka’’ntiādi vuttaṃ. Aññesanti asālohitānaṃ, tenāha etesaṃ puttaparamparāyātiādi. Kulaparivaṭṭoti kulasmiṃ ñātiparamparā. Bhesajjaṃ karontassāti yathāvuttavidhinā karontassa, ‘‘tāvakālikaṃ dassāmī’’ti ābhogaṃ akatvā dentassāpi pana antarāpatti dukkaṭaṃ vinā micchājīvaṃ vā kuladūsanaṃ vā na hotiyeva, tenāha – ‘‘vejjakammaṃ vā kuladūsakāpatti vā na hotī’’ti. Ñātakānañhi santakaṃ yācitvāpi gahetuṃ vaṭṭati, tasmā tattha kuladūsanādi na siyā. Sabbapadesūti ‘‘cūḷamātuyā’’tiādīsu sabbapadesu.
Chị em của cha là . Anh em của mẹ là cậu. Họ không thể: họ không thể làm được. Họ không xin: họ không xin vì xấu hổ. Vì đã nói “sau khi đã chú ý,” nên đối với người cho theo cách khác, vẫn bị tội. Nhưng một số người nói rằng “dù không chú ý, cũng được phép cho,” điều đó không đúng, vì việc làm thuốc đã bị cấm một cách chung chung trong Pāḷi bằng cách chỉ ra tội trung gian là “Này Tỳ-khưu, vô tội đối với tội Bất Cộng Trụ, bị tội Tác Ác” (pārā. 187). Cần hiểu rằng đối với người làm theo cách không được nói trong Chú giải, thì tội đã được xác định bởi chính kinh, chính vì thế, trong Chú giải cũng đã nói là “của chính họ” v.v… Của những người khác: của những người không phải là họ hàng, do đó nói là của con cháu của họ… v.v… Sự thay đổi dòng họ: dòng truyền thừa quyến thuộc trong dòng họ. Đối với người làm thuốc: đối với người làm theo phương pháp đã nói. Nhưng ngay cả đối với người cho mà không chú ý rằng “tôi sẽ cho tạm thời,” ngoài tội trung gian là Tác Ác, cũng không có tà mạng hoặc làm ô uế gia đình. Do đó nói là – “không bị tội làm thầy thuốc hoặc tội làm ô uế gia đình.” Vì được phép xin và lấy cả tài sản của quyến thuộc, do đó, ở đó không có tội làm ô uế gia đình v.v… Trong tất cả các vế: trong tất cả các vế như “của dì” v.v…

Upajjhāyassa āharāmāti idaṃ upajjhāyena ‘‘mama ñātakānaṃ bhesajjaṃ āharathā’’ti āṇattehi kattabbavidhidassanatthaṃ vuttaṃ, iminā ca sāmaṇerādīnaṃ apaccāsāyapi parajanassa bhesajjakaraṇaṃ na vaṭṭatīti dasseti. Vuttanayena pariyesitvāti iminā ‘‘bhikkhācāravattena vā’’ti iminā, ‘‘ñātisāmaṇerehī’’ti iminā ca vuttamatthaṃ atidisati. Apaccāsīsantenāti āgantukacorādīnaṃ karontenāpi ‘‘manussā nāma upakārakā hontī’’ti attano tehi lābhaṃ apatthayantena. Paccāsāya karontassa pana vejjakammakuladūsanādidoso hotīti adhippāyo. ‘‘Evaṃ upakāre kate sāsanaguṇaṃ ñatvā pasīdanti, saṅghassa vā upakārakā hontī’’ti karaṇe pana doso natthi. Keci pana ‘‘apaccāsīsantena āgantukādīnaṃ paṭikkhittapuggalādīnampi dātuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti, taṃ na yuttaṃ kattabbākattabbaṭṭhānavibhāgassaniratthakattappasaṅgato ‘‘apaccāsīsantena sabbesaṃ dātuṃ kātuñca vaṭṭatī’’ti ettakamattasseva vattabbato. Apaccāsīsanañca micchājīvakuladūsanādidosanisedhanatthameva vuttaṃ bhesajjakaraṇasaṅkhatāya imissā antarāpattiyā muccanatthaṃ āgantukacorādīnaṃ anuññātānaṃ dāneneva tāya āpattiyā muccanatoti gahetabbaṃ. Teneva apaccāsīsantenāpi akātabbaṭṭhānaṃ dassetuṃ saddhaṃ kulantiādi vuttaṃ. Pucchantīti iminā diṭṭhadiṭṭharogīnaṃ pariyāyenāpi vatvā vicaraṇaṃ ayuttanti dasseti. Pucchitassāpi pana paccāsīsantassa pariyāyakathāpi na vaṭṭatīti vadanti.
Chúng con mang đến cho thầy tế độ: điều này được nói để chỉ ra phương pháp phải làm bởi những người đã được thầy tế độ ra lệnh rằng “các con hãy mang thuốc đến cho quyến thuộc của ta,” và bằng điều này, chỉ ra rằng ngay cả sa-di v.v… cũng không được phép làm thuốc cho người khác dù không có hy vọng. Sau khi đã tìm kiếm theo cách đã nói: bằng câu này, để dẫn chiếu ý nghĩa đã được nói bằng câu “bằng phận sự đi khất thực,” và bằng câu “bởi các sa-di là quyến thuộc.” Bởi người không có hy vọng: ngay cả người làm cho khách đến, bọn cướp v.v… cũng phải không mong đợi lợi lộc từ họ rằng “người ta là người có ơn.” Ý là đối với người làm với hy vọng, thì có lỗi tà mạng, làm ô uế gia đình v.v… Nhưng nếu làm với ý nghĩ rằng “khi đã làm ơn như vậy, họ sẽ biết được đức tính của giáo pháp và có lòng tin, hoặc sẽ trở thành người có ơn đối với Tăng,” thì không có lỗi. Nhưng một số người nói rằng “được phép cho cả những người bị cấm như khách đến v.v… bởi người không có hy vọng,” điều đó không đúng, vì sẽ dẫn đến việc phân biệt nơi nên làm và không nên làm trở nên vô nghĩa, vì chỉ cần nói rằng “được phép cho và làm cho tất cả mọi người bởi người không có hy vọng” là đủ. Và việc không có hy vọng chỉ được nói để ngăn chặn các lỗi như tà mạng, làm ô uế gia đình v.v…, cần hiểu là để thoát khỏi tội trung gian này là việc làm thuốc, thì chỉ thoát khỏi tội đó bằng cách cho những người được phép như khách đến, bọn cướp v.v… Chính vì thế, để chỉ ra nơi không nên làm ngay cả bởi người không có hy vọng, đã nói là gia đình có đức tin… v.v… Họ hỏi: bằng câu này, chỉ ra rằng không phù hợp khi đi đây đi đó và nói một cách gián tiếp cho những người bệnh đã thấy. Nhưng một số người nói rằng ngay cả việc nói gián tiếp của người có hy vọng, dù đã được hỏi, cũng không được phép.

Samullapesīti apaccāsīsanto evaṃ aññamaññaṃ kathaṃ samuṭṭhāpesi. Ācariyabhāgoti vinayācāraṃ akopetvā bhesajjācikkhaṇena vejjācariyabhāgoti attho. Pupphapūjanatthāya sampaṭicchiyamānaṃ rūpiyaṃ attano santakattabhajanena nissaggiyamevāti āha ‘‘kappiyavasena gāhāpetvā’’ti, ‘‘amhākaṃ rūpiyaṃ na vaṭṭati, pupphapūjanatthaṃ pupphaṃ vaṭṭatī’’tiādinā paṭikkhipitvā kappiyena kammena gāhāpetvāti attho.
Đã bắt đầu cuộc nói chuyện: người không có hy vọng đã bắt đầu cuộc nói chuyện với nhau như vậy. Phần của thầy: có nghĩa là phần của thầy thuốc bằng cách chỉ thuốc mà không vi phạm cách hành xử theo luật. Vì tiền bạc được nhận để cúng dường hoa chắc chắn sẽ phải xả bỏ do việc chấp nhận là tài sản của mình, nên nói là “sau khi đã cho nhận theo cách được phép,” có nghĩa là sau khi đã từ chối bằng câu “chúng tôi không được phép nhận tiền bạc, chúng tôi được phép nhận hoa để cúng dường hoa” v.v… và đã cho nhận bằng một hành động được phép.

Yadi ‘‘parittaṃ karothā’’ti vutte karonti, bhesajjakaraṇaṃ viya gihikammaṃ viya hotīti ‘‘na kātabba’’nti vuttaṃ. ‘‘Parittaṃ bhaṇathā’’ti vutte pana dhammajjhesanattā anajjhiṭṭhenapi bhaṇitabbo dhammo, pageva ajjhiṭṭhenāpīti ‘‘kātabba’’nti vuttaṃ. Cāletvā suttaṃ parimajjitvāti idaṃ ‘‘parittāṇaṃ ettha pavesemī’’ti cittena evaṃ kate parittāṇā tattha pavesitā nāma hotīti vuttaṃ. Vihārato…pe… dukkaṭanti idaṃ aññātakagahaṭṭhe sandhāya vuttanti vadanti. Pādesu udakaṃ ākiritvāti idaṃ tasmiṃ dese cārittavasena vuttaṃ. Vuttañhi ‘‘tattha pāḷiyā nisinnānaṃ bhikkhūnaṃ pādesu rogavūpasamanādiatthāya udakaṃ siñcitvā parittaṃ kātuṃ suttañca ṭhapetvā ‘parittaṃ bhaṇathā’ti vatvā gacchanti. Evañhi kariyamāne yadi pāde apanenti, manussā taṃ avamaṅgalanti maññanti, rogo vā na vūpasamissatī’’ti. Tenāha ‘‘na pādā apanetabbā’’ti. Matasarīradassane viya kevalaṃ susānadassanepi ‘‘idaṃ jātānaṃ sattānaṃ khayagamanaṭṭhāna’’nti maraṇasaññā uppajjatīti āha ‘‘sīvathikadassane…pe… ‘maraṇassatiṃ paṭilabhissāmā’ti kammaṭṭhānasīsena gantuṃ vaṭṭatī’’ti. Lesakappaṃ akatvā samuppannasuddhacittena ‘‘parivāratthāya āgacchantū’’ti vuttepi gantuṃ vaṭṭati.
Nếu họ làm khi được yêu cầu “hãy làm lễ hộ niệm,” thì giống như việc làm thuốc, giống như việc làm của người tại gia, nên đã nói là “không nên làm.” Nhưng khi được yêu cầu “hãy tụng kinh hộ niệm,” vì đó là sự thỉnh pháp, nên pháp phải được tụng ngay cả khi không được thỉnh, huống nữa là khi đã được thỉnh, nên đã nói là “nên làm.” Sau khi đã giũ và lau sạch sợi chỉ: điều này được nói rằng nếu làm như vậy với tâm “tôi sẽ đưa các kinh hộ niệm vào đây,” thì các kinh hộ niệm được gọi là đã được đưa vào đó. Từ trú xứ… v.v… bị tội Tác Ác: một số người nói rằng điều này được nói nhắm đến những người tại gia không quen biết. Sau khi đã rưới nước lên chân: điều này được nói theo phong tục ở xứ đó. Đã được nói: “Ở đó, họ rưới nước lên chân của các Tỳ-khưu đang ngồi trong Pāḷi vì mục đích làm dịu bệnh v.v… và sau khi đã làm lễ hộ niệm và đặt sợi chỉ, họ nói ‘xin hãy tụng kinh hộ niệm’ rồi ra đi. Khi làm như vậy, nếu nhấc chân lên, người ta cho rằng đó là điềm không lành, hoặc bệnh sẽ không thuyên giảm.” Do đó nói là “không nên nhấc chân lên.” Giống như khi thấy xác chết, ngay cả khi chỉ thấy nghĩa địa, ý nghĩ về cái chết cũng phát sinh rằng “đây là nơi mà các chúng sanh đã sinh ra sẽ đi đến sự hủy diệt,” nên nói là “khi thấy nghĩa địa… v.v… được phép đi với đầu đề là đề mục thiền rằng ‘chúng ta sẽ có được niệm chết.’” Dù được yêu cầu “hãy đến để làm đoàn tùy tùng” với tâm trong sạch phát sinh mà không có ý định vin vào cớ, cũng được phép đi.

Anāmaṭṭhapiṇḍapātoti aggahitaaggo, aparibhuttoti attho. Kahāpaṇagghanako hotīti iminā dāyakehi bahubyañjanena sampādetvā sakkaccaṃ dinnabhāvaṃ dīpeti. Thālaketi saṅghike kaṃsādimaye thālake, pattopi ettha saṅgayhati. Na vaṭṭatīti iminā dukkaṭanti dasseti. Dāmarikacorassāti rajjaṃ patthentassa pākaṭacorassa. Adīyamānepi ‘‘na dentī’’ti kujjhantīti sambandho. Āmisassa dhammassa ca alābhena attano parassa ca antare sambhavantassa chiddassa ca vivarassa paṭisantharaṇaṃ pidahanaṃ paṭisanthāro, so pana dhammāmisavasena duvidho. Tattha āmisapaṭisanthāraṃ sandhāya ‘‘kassa kātabbo, kassa na kātabbo’’ti vuttaṃ. ‘‘Āgantukassa vā…pe… kattabbo yevā’’ti saṅkhepato vuttamatthaṃ pākaṭaṃ kātuṃ āgantukaṃ tāvātiādimāha. Khīṇaparibbayanti iminā agatibhāvaṃ kāruññabhājanatañca dasseti, tena ca tabbidhurānaṃ samiddhānaṃ dāyakādīnaṃ āgantukattepi dātuṃ na vaṭṭatīti siddhaṃ hoti. Taṇḍulādimhi dātabbe sati ‘‘avelāyaṃ…pe… na vattabbo’’ti vuttaṃ. ‘‘Apaccāsīsantenā’’ti vatvā paccāsīsanappakāraṃ dassetuṃ manussā nāmātiādi vuttaṃ. Ananuññātānaṃ pana apaccāsīsantenāpi dātuṃ na vaṭṭati saddhādeyyavinipātattā, paccāsīsāya pana sati kuladūsanampi hoti.
Vật thực khất thực chưa được chạm vào: có nghĩa là chưa được lấy phần đầu, chưa được dùng. Có giá trị một kahāpaṇa: bằng câu này, chỉ ra trạng thái đã được các thí chủ chuẩn bị với nhiều món ăn và cúng dường một cách cung kính. Trong đĩa: trong các đĩa bằng đồng v.v… của Tăng, bát cũng được bao gồm ở đây. Không được phép: bằng câu này, chỉ ra rằng bị tội Tác Ác. Của tên cướp Dāmarika: của tên cướp công khai đang mong muốn chiếm đoạt vương quốc. Có liên quan là ‘họ nổi giận vì không được cho’ dù không được cho. Sự sửa chữa, che đậy khe hở và lỗ hổng có thể xảy ra giữa mình và người khác do không có được vật chất và pháp là sự tiếp đãi, và nó có hai loại theo vật chất và pháp. Ở đó, nhắm đến sự tiếp đãi bằng vật chất, đã nói là “nên làm cho ai, không nên làm cho ai.” Để làm rõ ý nghĩa đã được nói một cách tóm tắt là “phải làm cho khách đến…” v.v…, đã nói là trước hết là khách đến… v.v… Hết chi phí: bằng câu này, chỉ ra tình trạng không nơi nương tựa và là đối tượng của lòng từ bi. Và bằng điều đó, đã xác định rằng không được phép cho những người giàu có, có thí chủ v.v…, những người không có tình trạng đó, ngay cả khi họ là khách đến. Đã nói là “khi có gạo v.v… để cho, thì không được nói là… vào lúc không phải thời…” Để chỉ ra cách có hy vọng sau khi đã nói “bởi người không có hy vọng,” đã nói là người ta là… v.v… Nhưng không được phép cho những người không được phép ngay cả bởi người không có hy vọng, vì đó là sự lãng phí của cúng dường do đức tin. Nhưng nếu có hy vọng, thì cũng có tội làm ô uế gia đình.

Ubbāsetvāti samantato tiyojanaṃ vilumpante manusse palāpetvā. Varapotthakacittattharaṇanti anekappakāraitthipurisādiuttamarūpavicittaṃ attharaṇaṃ.
Sau khi đã xua đuổi: sau khi đã xua đuổi những người đang cướp bóc trong ba do tuần xung quanh. Tấm trải có hình vẽ đẹp: tấm trải có nhiều hình vẽ đẹp như hình người nam nữ v.v…

187. Sattarasavaggiyesu pubbe ekassa aṅgulipatodakena māritattā sesesu soḷasajanesu udaraṃ āruhitvā nisinnamekaṃ ṭhapetvā ‘‘sesāpi pannarasa janā’’ti vuttaṃ. Adūhalapāsāṇā viyāti adūhale āropitapāsāṇā viya. Kammādhippāyāti tajjanīyādikammakaraṇādhippāyā.
187. Trong nhóm mười bảy người, vì một người đã bị giết trước đó bằng cây tăm, nên trong số mười sáu người còn lại, trừ một người đã leo lên bụng và ngồi, đã nói là “mười lăm người còn lại.” Giống như những tảng đá trên núi Adūhala: giống như những tảng đá được đặt trên núi Adūhala. Có ý định làm Yết-ma: có ý định làm các Yết-ma như khiển trách v.v…

Āvāhetvāti āvisāpetvā. Rūpaṃ katvā hatthapādādīni chindantīti tasmiṃ piṭṭhādimaye rūpe amanussaṃ āvāhetvā tassa hatthapādādīni chindanti. Sakkaṃ devarājānaṃ māreyyāti idaṃ sambhāvanavasena vuttaṃ. Na hi tādisā mahānubhāvā yakkhā satthaghātārahā honti devāsurayuddhepi tesaṃ satthappahārena maraṇābhāvā.
Sau khi đã nhập vào: sau khi đã cho nhập vào. Sau khi đã làm hình nộm và cắt tay chân v.v…: họ nhập một phi nhân vào hình nộm làm bằng bột v.v… đó rồi cắt tay chân v.v… của nó. Có thể giết cả Đế Thích: điều này được nói theo cách có thể xảy ra. Vì các quỷ có thần thông lớn như vậy không phải là đối tượng của việc giết bằng vũ khí, vì trong cuộc chiến giữa trời và a-tu-la, họ cũng không chết do bị đánh bằng vũ khí.

188. Pahāro na dātabboti sambandho. Amanussaṃ kodhacittena paharantassa dukkaṭameva. Cikicchādhippāyena paharantassa anācāroti datthabbam. Tālapaṇṇaṃ…pe… bandhitabbanti amanussā tālapaṇṇabandhanena palāyantīti katvā vuttaṃ, idañca gihīnaṃ vejjakammavasena kātuṃ na vaṭṭati.
188. Có liên quan là ‘không nên đánh.’ Chỉ bị tội Tác Ác đối với người đánh một phi nhân với tâm sân hận. Nên hiểu là hành vi không đúng đắn đối với người đánh với ý định chữa bệnh. Lá cọ… v.v… phải được buộc: được nói do cho rằng các phi nhân sẽ bỏ chạy do việc buộc lá cọ. Và điều này không được phép làm theo cách làm thầy thuốc của người tại gia.

189.Yo rukkhena otthatopi na maratītiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ bhūtagāmasikkhāpadaṭṭhakathāyaṃ sayameva vakkhati, taṃ tattheva gahetabbaṃ.
189.Người không chết dù bị cây đè lên v.v…: điều gì cần nói ở đây, sẽ được nói trong chính chú giải của điều học về thực vật, nên phải hiểu ở đó.

190.Dabbūpakaraṇānīti kehici chinditvā ṭhapitāni sapariggahitāni sandhāya vuttaṃ. Tattha hi ṭhānācāvanābhāvena vināsādhippāyassa dukkaṭaṃ vuttaṃ. Khiḍḍādhippāyenāpi dukkaṭanti sukkhatiṇādīsu aggikaraṇaṃ sandhāya vuttaṃ, allesu pana kīḷādhippāyenapi karontassa pācittiyameva. Paṭipakkhabhūto, paṭimukhaṃ gacchanto vā aggi paṭaggi, tassa allatiṇādīsupi dānaṃ anuññātaṃ, taṃ dentena dūrato āgacchantaṃ dāvaggiṃ disvā vihārassa samantato ekakkhaṇe adatvā ekadesato paṭṭhāya vihārassa samantato saṇikaṃ jhāpetvā yathā mahantopi aggi vihāraṃ pāpuṇituṃ na sakkoti, evaṃ vihārassa samantā abbhokāsaṃ katvā paṭaggi dātabbo, so dāvaggino paṭipathaṃ gantvā ekato hutvā tena saha nibbāti. Parittakaraṇanti samantā rukkhatiṇādicchedanaparikhākhaṇanādiārakkhakaraṇaṃ, tenāha tiṇakuṭikānaṃ samantā bhūmitacchanantiādi.
190.Các dụng cụ bằng cây: được nói nhắm đến các dụng cụ đã được ai đó cắt và để đó, có người sở hữu. Ở đó, đã nói tội Tác Ác của ý định phá hoại do không có sự di chuyển khỏi nơi chốn. Ngay cả với ý định đùa giỡn cũng bị tội Tác Ác: được nói nhắm đến việc đốt lửa trong cỏ khô v.v… Nhưng đối với cỏ tươi, người làm ngay cả với ý định đùa giỡn cũng bị tội Ưng Đối Trị. Lửa đối nghịch, hoặc lửa đi ngược chiều, là lửa đối, việc cho nó ngay cả trong cỏ tươi v.v… cũng được cho phép. Người cho nó, sau khi đã thấy đám cháy rừng đến từ xa, không nên cho cùng một lúc xung quanh trú xứ, mà phải bắt đầu từ một phía và đốt từ từ xung quanh trú xứ, sao cho ngay cả đám cháy lớn cũng không thể đến được trú xứ, phải làm một khoảng trống xung quanh trú xứ rồi mới cho lửa đối. Nó sẽ đi ngược chiều với đám cháy rừng, hợp lại với nó và tắt cùng với nó. Làm sự bảo vệ: làm sự bảo vệ bằng cách cắt cây cỏ xung quanh, đào hào v.v…, do đó nói là dọn dẹp mặt đất xung quanh các lều cỏ v.v…

191.Khettameva otiṇṇattā pārājikanti dvīsu ekassāpi antogadhattā ‘‘dvīhī’’ti vuttakhette ekassāpi otiṇṇattā pārājikaṃ, ‘‘dvīhi eva mārehi na ekenā’’ti niyamite pana ekeneva mārite natthi pārājikanti vadanti, evaṃ dve eva purisātiādīsupi. Pubbe katasīsacchedapayogato añño datthabbo jīvitindriyupacchedako na upalabbhati, paṭhamena payogenassa jīvitindriyaṃ upacchijjatīti ‘‘sīsacchedakassā’’ti vuttaṃ, yaṃ pana sāratthadīpaniyaṃ ‘‘jīvitindriyassa avijjamānattā’’ti kāraṇaṃ vuttaṃ, taṃ akāraṇaṃ jīvitindriyasannissitacittasantatiṃ vinā ukkhipanasannirujjhanādivasappavattassa gamanassa asambhavato. Na hi vāyuvegena paṇṇapaṭādayo viya kāyo gacchati, na ca ukkhipane pavattāva cittajaviññattiādayova nikkhipanādinopi hetubhūtāti sakkā vattuṃ vicchinditvā pavattanato. Pubbe anāhitavegāpi hi kāci sarīsapajāti dvidhā chinnā chedanamattā dvīhi vibhāgehi katipayakkhaṇaṃ dvīsu disāsu gacchati, tattha ca yasmiṃ bhāge hadayavatthu tiṭṭhati, tatraṭṭhaṃ pañcadvārāvajjanacittaṃ dvīsupi bhāgesu kāyappasāde ghaṭṭitaṃ phoṭṭhabbaṃ ālambitvā uppajjati, tato tadārammaṇameva yathārahamekasmiṃ bhāge ekadā aññasmiṃ aññadāti evaṃ pariyāyena kāyaviññāṇaṃ uppajjati, tato hadayavatthusmiṃyeva sampaṭicchanādivīthicittāni bhavaṅgantaritāni manodvāravīthiviññāṇāni ca viññattijanakāni uppajjanti, ye hi ubhayabhāgā gacchanti vā calanti vā phandanti vā. Cittassa pana lahuparivattiyā ekakkhaṇe ubhayabhāgāpi calantā viya upaṭṭhahanti, seyyathāpi nāma kukkuḷādinarakesu nimuggasakalasarīrassa sattassa ekasmiṃ khaṇe sakalasarīrepi kāyaviññāṇadukkhaṃ uppajjamānaṃ viya upaṭṭhāti, evaṃsampadamidaṃ daṭṭhabbaṃ, tato pana yasmiṃ bhāge jīvitindriyaṃ sasesakammajarūpaṃ nirujjhati, tattha kāyaviññāṇaṃ nappavattati, hadayavatthusahitabhāgeyeva yāva jīvitindriyanirodhā pavattati.
191.Bị tội Bất Cộng Trụ do đã rơi vào lĩnh vực: vì một trong hai đã rơi vào bên trong, nên bị tội Bất Cộng Trụ do một trong hai đã rơi vào lĩnh vực đã được nói là “bởi hai,” một số người nói rằng nếu đã quy định là “chỉ giết bằng hai, không phải bằng một,” thì không bị tội Bất Cộng Trụ khi chỉ giết bằng một. Cũng vậy trong các trường hợp như ‘chỉ hai người đàn ông’ v.v… Vì không có phương tiện nào khác để cắt đứt mạng căn ngoài phương tiện cắt đầu đã được thực hiện trước đó, và mạng căn của người đó bị cắt đứt bằng phương tiện đầu tiên, nên đã nói là “của người cắt đầu.” Nhưng lý do đã được nói trong Sāratthadīpanī là “do không có mạng căn,” điều đó không phải là lý do, vì không thể có sự di chuyển diễn ra theo cách nhấc lên, kìm lại v.v… nếu không có dòng tâm thức nương vào mạng căn. Vì cơ thể không đi như lá cây, ván gỗ v.v… do sức gió, và cũng không thể nói rằng chính các biểu tri v.v… do tâm tạo ra đã phát sinh trong việc nhấc lên cũng là nguyên nhân của việc đặt xuống v.v…, vì chúng phát sinh một cách gián đoạn. Vì một loài bò sát nào đó, dù không có sức đẩy từ trước, khi bị cắt làm đôi, cũng đi theo hai hướng trong một vài khoảnh khắc bằng hai phần, và ở đó, ở phần nào có tâm sở hữu, thì tâm nhãn môn ngũ thức ở đó, sau khi đã va chạm với xúc trần ở sắc trong của thân ở cả hai phần, sẽ phát sinh, rồi sau đó, chính đối tượng đó, tùy theo trường hợp, ở một phần vào một lúc, ở phần khác vào lúc khác, như vậy, thân thức phát sinh tuần tự. Rồi sau đó, ngay tại tâm sở hữu, các tâm lộ trình như tiếp nhận v.v… và các thức lộ trình ý môn xen kẽ với tâm hữu phần, là những thức tạo ra biểu tri, sẽ phát sinh, nhờ đó cả hai phần đều đi hoặc chuyển động hoặc rung động. Nhưng do sự thay đổi nhanh chóng của tâm, cả hai phần dường như chuyển động trong cùng một khoảnh khắc, giống như đối với chúng sanh có toàn bộ cơ thể chìm trong các địa ngục như Kukkuḷa v.v…, nỗi khổ của thân thức dường như phát sinh trong toàn bộ cơ thể trong cùng một khoảnh khắc. Điều này cần được hiểu như vậy. Rồi sau đó, ở phần nào mà mạng căn và sắc do nghiệp tạo còn lại bị diệt, thì thân thức không phát sinh ở đó, mà chỉ tồn tại ở phần có tâm sở hữu cho đến khi mạng căn bị diệt.

Nanu narakādīsu ekābaddhe sarīre sabbattha pariyāyena kāyaviññāṇasamuppatti yuttā hotu, dvidhā hutvā vicchinne pana bhāgadvaye kathanti? Nāyaṃ doso. Sarīre hi ekābaddhatā nāma paramatthadhammabyatirittā kāci natthi paravādīnaṃ avayavīādi viya, kammādiekakāraṇapuñjāyattatāya bahūnaṃ sahuppattiyeva ekābaddhatā. Tattha ca satthappahārādiviruddhapaccayopanipātena vibhinnānampi kammādiekakāraṇānaṃ puñjāyattatā na vigacchati, yāva sā na vigacchati, tāva avicchinnāva tattha viññāṇappavatti. Vibhinnānaṃ pana kammajarūpānaṃ aññesañca sesatisantatirūpānañca upatthambhanabhāvena ciraṃ pavattituṃ na sakkonti, yāva ca dharanti, tāva viññāṇapaccayā honti, viññāṇena ca tesaṃ calanagamanādidesantaruppatti. Tasmā kabandhassapi dhāvakkhaṇe saviññāṇajīvitindriyaṃ attheva, tañca sīsacchedakappayogeneva sīghaṃ patati, tato aññappayogassa sarīre visesuppādanato puretarameva paṭhameneva kiccanipphattito sīsacchedakasseva kammabaddhoti gahetabbo. Evarūpānīti kabandhavatthusadisāni. Imassa vatthussāti āghātanavatthussa. Atthadīpaneti ekena purisena payogena vā māritatāsaṅkhātassa atthassa dīpane.
Vậy có phải sự phát sinh của thân thức một cách tuần tự ở khắp nơi trong cơ thể liên kết là hợp lý trong các địa ngục v.v…, nhưng làm sao có thể có trong hai phần đã bị tách rời sau khi đã bị chia làm đôi? Đây không phải là lỗi. Vì trong cơ thể, không có một sự liên kết nào ngoài các pháp chân đế, giống như toàn thể v.v… của các phái khác, sự đồng sanh của nhiều pháp do phụ thuộc vào một tập hợp các nguyên nhân như nghiệp v.v… chính là sự liên kết. Và ở đó, ngay cả khi đã bị chia cắt do sự va chạm của các duyên đối nghịch như bị vũ khí đâm v.v…, sự phụ thuộc vào tập hợp của một các nguyên nhân như nghiệp v.v… không bị mất đi, chừng nào nó chưa bị mất đi, chừng đó sự phát sinh của thức ở đó vẫn không bị gián đoạn. Nhưng các sắc do nghiệp tạo đã bị chia cắt và các sắc còn lại của ba dòng khác không thể tồn tại lâu do tính chất hỗ trợ, và chừng nào chúng còn tồn tại, chừng đó chúng còn là duyên cho thức, và do thức, sự phát sinh ở nơi khác của chúng như chuyển động, đi lại v.v… Do đó, ngay cả trong khoảnh khắc chạy của thân không đầu, mạng căn có thức vẫn tồn tại, và nó nhanh chóng bị hủy diệt chỉ bằng phương tiện cắt đầu, ngay cả trước khi một phương tiện khác tạo ra sự thay đổi đặc biệt trong cơ thể, do phận sự đã được hoàn thành ngay từ đầu, cần hiểu là chỉ có người cắt đầu mới bị ràng buộc bởi nghiệp. Các trường hợp như vậy: các trường hợp tương tự như câu chuyện về thân không đầu. Của câu chuyện này: của câu chuyện về nơi hành quyết. Trong việc làm sáng tỏ ý nghĩa: trong việc làm sáng tỏ ý nghĩa được gọi là bị giết bằng một người hoặc bằng một phương tiện.

192. Pānaparibhogena vaṭṭatīti sambandho. Evaṃ pana vuttattā ‘‘loṇasovīrakaṃ yāmakālika’’nti keci vadanti, keci pana ‘‘gilānānaṃ pākatikameva, agilānānaṃ pana udakasambhinna’’nti vuttattā ‘‘guḷaṃ viya sattāhakālika’’nti.
192. Có liên quan là ‘được phép dùng như một thức uống.’ Vì đã được nói như vậy, nên một số người nói rằng “nước muối chua là vật dụng trong một ngày,” nhưng một số người khác lại nói rằng “là vật dụng trong bảy ngày giống như đường phèn,” vì đã nói là “đối với người bệnh thì là tự nhiên, còn đối với người không bệnh thì là pha với nước.”

Iti samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya vimativinodaniyaṃ

Trong sách Xua Tan Hoài Nghi, Phụ chú giải Luật tạng Samantapāsādikā,

Tatiyapārājikavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về điều Bất Cộng Trụ thứ ba đã kết thúc.

4. Catutthapārājikaṃ

4. Điều Bất Cộng Trụ thứ tư

Vaggumudātīriyabhikkhuvatthuvaṇṇanā

Giải thích câu chuyện về các Tỳ-khưu ở bờ sông Vaggumudā

193.Adhiṭṭhemāti saṃvidahāma. Iriyāpathaṃ saṇṭhapetvāti padhānānurūpaṃ katvā. Anāgatasambandhe pana asatīti bhāsito bhavissatīti pāṭhasesaṃ katvā anāgatasambandhe asati. Bhāsitoti atītavacanaṃ kathaṃ anāgatavacanena sambandhamupagacchatīti āha lakkhaṇaṃ panātiādi. Īdise hi ṭhāne dhātusambandhe paccayāti iminā lakkhaṇena dhātvatthasambandhe sati ayathākālavihitāpi paccayā sādhavo bhavantīti saddasovidū vadanti.
193.Chúng ta hãy quyết tâm: chúng ta hãy hẹn ước. Sau khi đã thiết lập oai nghi: sau khi đã làm cho phù hợp với sự tinh tấn. Nhưng khi không có sự liên quan đến tương lai: khi không có sự liên quan đến tương lai, bằng cách thêm vào phần còn lại của câu là ‘bhāsito bhavissatī’ (sẽ được nói). Làm sao mà một động từ ở quá khứ ‘bhāsito’ (đã được nói) lại có thể có liên quan đến một động từ ở tương lai? Nói là nhưng đặc tính… v.v… Các nhà ngữ pháp học nói rằng ở nơi như vậy, khi có sự liên quan đến nghĩa của ngữ căn bằng đặc tính này là ‘các tiếp vị ngữ trong sự liên quan đến ngữ căn,’ thì các tiếp vị ngữ, dù được dùng không đúng thời, cũng trở nên đúng.

194.Vaṇṇavāti iminā abhinavuppannavaṇṇatā vuttā. Pasannamukhavaṇṇāti iminā mukhavaṇṇassa atipaṇītatā vuttā. Vippasannacchavivaṇṇāti iminā pakatisarīravaṇṇasseva yathāvuttanayena vippasannatā vuttā. Yasmā indriyānaṃ upādārūpattā nissayavaseneva pīṇananti āha ‘‘abhiniviṭṭhokāsassa paripuṇṇattā’’ti. Pañcappasādānaṃ viya hadayarūpassāpi paripuṇṇatā vuttāyevāti āha ‘‘manacchaṭṭhānaṃ indriyāna’’nti. Uddesaṃ paripucchaṃ anuyuñjantā imaṃ sarīrasobhaṃ neva pāpuṇiṃsūti sambandho. Yathā tanti ettha tanti nipātamattaṃ. Catucakkanti ettha pavattanaṭṭhena iriyāpathova cakkanti vutto.
194.Có dung sắc: bằng câu này, đã nói về dung sắc mới phát sinh. Dung sắc của khuôn mặt trong sáng: bằng câu này, đã nói về sự tuyệt hảo của dung sắc của khuôn mặt. Dung sắc của làn da trong sáng: bằng câu này, đã nói về sự trong sáng của dung sắc của cơ thể tự nhiên theo cách đã nói. Vì các giác quan, do là sắc y sinh, nên được nuôi dưỡng chỉ do nơi nương tựa, nên nói là “do sự đầy đủ của nơi đã trú ngụ.” Cần nói rằng sự đầy đủ của tâm sở hữu cũng đã được nói, giống như của năm sắc trong, nên nói là “của các giác quan có tâm là thứ sáu.” Có liên quan là ‘họ đã không đạt được vẻ đẹp cơ thể này khi đang học thuộc và hỏi.’ Như thế: ở đây, ‘ta’ chỉ là một tiểu từ. Bốn bánh xe: ở đây, chính oai nghi, do có tính chất chuyển động, nên được gọi là bánh xe.

195.Upalabbhantīti dissanti, ñāyantīti attho. Pacantoti pīḷento, gehādīni vā sayaṃ ḍahanto, aññehi vā pācento. Uddhateti uddhaccapakatike. Unnaḷeti uggatanaḷasadisena uggatatucchamānena sahite. Capaleti pattacīvaramaṇḍanādinā cāpallena yutte. Mukhareti kharavacane. Pākatindriyeti asaṃvutattā gihikāle viya pakatiyaṃ ṭhitindriye. Iriyāpathasaṇṭhapanādīnīti ādi-saddena paccayapaṭisevanasāmantajappānaṃ gahaṇaṃ veditabbaṃ. Paramasallekhavuttīhi mahāariyavaṃsehi bhikkhūhi nivutthasenāsanāni lokasammatasenāsanāni nāma. Paripācetunti vimhāpanavasena pariṇāmetuṃ. Bhikkhācāre asampajjamāneti idaṃ janapadacārikaṃ carantīti iminā sambandhitabbaṃ, na pana pāḷiṃ vācentotiādīhi, tāni pana padāni attano nirantaravāsaṭṭhānepi janapadesupi kattabbakiccadassanavasena vuttāni, tāni ca te vattasīsena karonti, na lābhanimittaṃ, tenāha tantītiādi. Kicchenāti imasseva vevacanaṃ kasirenāti. Tadubhayampi pāramīpūraṇavāyāmaṃ sandhāya vuttaṃ. Sādhāraṇaparikkhārabhāvenāti saṅghikaparikkhārabhāvena. Tathābhāvato thenetvāti avissajjiyaavebhaṅgiyabhāvato thenetvā, na ṭhānācāvanavasenāti adhippāyo, tenāha ‘‘kuladūsakadukkaṭaṃ āpajjatī’’ti. Asantanti imassa abhūtanti idaṃ kāraṇavacanaṃ, anuppannattā avijjamānanti attho. Kitavassevāti kitavassa sakuṇagahaṇamiva. Kerāṭikassāti saṭhassa. Samaṇoti gottamattaṃ anubhonti dhārentīti gotrabhuno, nāmamattasamaṇāti attho. Dujjānaparicchedanti anantadukkhattā ‘‘ettakaṃ dukkha’’nti saṅkhyāvasena paricchinditvā ñātuṃ sabbaññutaññāṇenāpi dukkaraṃ, na pana sarūpavasena ñātuṃ buddhañāṇassa avisayabhāvā.
195.Được thấy: được thấy, được biết, đó là ý. Đốt cháy: làm khổ, hoặc tự mình đốt nhà v.v…, hoặc cho người khác đốt. Những người trạo cử: những người có tính trạo cử. Những người kiêu ngạo: những người có lòng kiêu mạn trống rỗng, cao ngạo giống như cây sậy đã mọc cao. Những người hay dao động: những người có sự dao động do trang điểm bát y v.v… Những người lắm lời: những người có lời nói thô lỗ. Những người có giác quan tự nhiên: những người có giác quan còn ở trong trạng thái tự nhiên như lúc còn là người tại gia do không được chế ngự. Việc thiết lập oai nghi v.v…: cần biết rằng bằng từ ‘v.v…’, bao gồm cả việc dùng các vật dụng và việc nói thầm. Các trú xứ đã được các Tỳ-khưu thuộc dòng dõi Thánh lớn, những người có hạnh sống khổ hạnh tối thượng, ở, được gọi là các trú xứ được thế gian công nhận. Để làm cho chín muồi: để làm cho thay đổi theo cách làm cho kinh ngạc. Khi việc khất thực không thành công: điều này phải được kết hợp với câu đi du hành trong xứ sở, không phải với các câu như đang giảng Pāḷi… v.v… Vì các câu đó được nói để chỉ ra các phận sự phải làm ngay cả ở nơi ở thường xuyên và ở các xứ sở, và họ làm những điều đó theo đầu đề là phận sự, không phải vì mục đích lợi lộc, do đó nói là kinh điển… v.v… Một cách khó khăn: từ đồng nghĩa của nó là một cách gian khổ. Cả hai đều được nói nhắm đến sự nỗ lực hoàn thành các pháp ba-la-mật. Do là vật dụng chung: do là vật dụng của Tăng. Trộm cắp do trạng thái đó: trộm cắp do trạng thái không phải xả bỏ, không phải phân chia, không phải theo cách di chuyển khỏi nơi chốn, đó là ý. Do đó nói là “phạm tội Tác Ác làm ô uế gia đình.” Không có: từ không có thật này là từ chỉ nguyên nhân, có nghĩa là không có do chưa phát sinh. Giống như của kẻ cờ bạc: giống như việc bắt chim của kẻ cờ bạc. Của kẻ lừa đảo: của kẻ xảo trá. Họ chỉ mang danh hiệu Sa-môn, nên là những người chỉ còn dòng dõi, có nghĩa là những Sa-môn chỉ có trên danh nghĩa. Khó phân định: vì có vô số khổ, nên khó có thể phân định và biết bằng cách đếm rằng “chừng này khổ,” ngay cả bằng trí toàn giác, không phải là không thể biết được về bản chất, vì không phải là điều ngoài tầm của trí tuệ của Đức Phật.

Adhimānavatthuvaṇṇanā

Giải thích về câu chuyện quá mạn

196.Arahatteti aggaphale. Ñāṇacakkhunāti paccavekkhaṇañāṇasaṅkhātena cakkhunā, atha vā phalacittasampayutteneva ñāṇacakkhunā. Attanā sampayuttenāpi hi ñāṇena asammohato sayaṃ diṭṭhaṃ nāma hoti, tathā tasmiṃ adiṭṭheti attho. Sabbesaṃ kilesānaṃ pahāyakavasena ājānāti, samantato sabbena vā pakārena jānātīti ‘‘aññā’’ti aggamaggo vuccati, tadupacārena pana tapphalampīti āha ‘‘aññaṃ byākariṃsūti arahattaṃ byākariṃsū’’ti. Antarā ṭhapetīti sekhabhūmiyaṃ adhimāno ṭhapeti. Kilesasamudācāraṃ apassantoti purimamaggattayavajjhānaṃyeva kilesānaṃ vasena vuttaṃ, na bhavarāgādīnaṃ.
196.Trong quả A-la-hán: trong quả vị cao nhất. Bằng mắt trí tuệ: bằng con mắt được gọi là trí tuệ quán xét, hoặc là bằng chính mắt trí tuệ kết hợp với tâm quả. Vì ngay cả bằng trí tuệ kết hợp với chính nó, cũng được gọi là đã thấy một cách không lầm lẫn, có nghĩa là đã không thấy ở đó như vậy. Vì biết theo cách đoạn trừ tất cả các phiền não, biết một cách toàn diện bằng mọi cách, nên đạo lộ cao nhất được gọi là “trí tuệ,” và theo ẩn dụ, quả của nó cũng vậy, nên nói là “họ đã tuyên bố trí tuệ, tức là họ đã tuyên bố quả A-la-hán.” Đặt ở giữa: sự quá mạn đặt ở trong địa vị hữu học. Không thấy sự biểu hiện của phiền não: được nói theo cách của chính các phiền não bị ba đạo lộ trước đây đoạn trừ, không phải của tham ái hữu v.v…

Savibhaṅgasikkhāpadavaṇṇanā

Giải thích về điều học có phân tích

197. Pakatimanussehi uttaritarānaṃ buddhādiuttamapurisānaṃ adhigamadhammo uttarimanussadhammoti āha uttarimanussānantiādi. Pāḷiyaṃ (pārā. 198) ‘‘atthi ca me ete dhammā mayī’’ti ettha meti idaṃ padapūraṇamattaṃ. Adhigantabbato adhigamasaṅkhātassa jhānādino pucchā adhigamapucchā, sā ca jhānādīsu sāmaññato pavattāti idāni tattha paṭhamajjhānaṃ vā dutiyādīsu aññataraṃ vā tatthāpi kasiṇādiārammaṇesu kataramārammaṇaṃ jhānaṃ vā lokuttaresu ca sotāpattimaggaṃ vā sakadāgāmimaggādīsu aññataraṃ vā tatthāpi suññatavimokkhaṃ vā appaṇihitavimokkhādīsu aññataraṃ vāti evaṃ paccekaṃ bhedaniddhāraṇavasena pucchanākāraṃ dassetuṃ pāḷiyaṃ (pārā. 198) ‘‘puna katamesaṃ tvaṃ dhammānaṃ lābhī’’ti ayaṃ pucchā dassitāti daṭṭhabbā, tenāha paṭhamamaggādīsūtiādi. Yāya anukkamapaṭipattiyā lokuttaro adhigamo āgacchati, sā pubbabhāgapaṭipatti āgamanapaṭipadā. Na sujjhatīti pucchiyamāno paṭipattikkamaṃ ullaṅghitvā katheti. Apanetabboti tayā vuttakkamenāyaṃ na sakkā adhigantunti adhigatamānato apanetabbo. Sannihitesu kappiyesupi catūsu paccayesu alaggattā ‘‘ākāse pāṇisamena cetasā’’ti vuttaṃ. Vuttasadisaṃ byākaraṇaṃ hotīti yojanā. Khīṇāsavapaṭipattisadisā paṭipadā hoti suvikkhambhitakilesattā. Idañca arahattaṃ paṭijānantassa vasena vuttaṃ, tenāha khīṇāsavassa nāmātiādi. Evaṃ suvikkhambhitakilesassa vattanasekkhadhammapaṭijānanaṃ iminā bhayuppādanena, ambilādidassane kheḷuppādādinā ca na sakkā vīmaṃsituṃ, tasmā tassa vacaneneva taṃ saddhātabbaṃ. Ayaṃ bhikkhu sampannabyākaraṇoti idaṃ na kevalaṃ abhāyanakameva sandhāya vuttaṃ ekaccassa sūrajātikassa puthujjanassāpi abhāyanato, rajjanīyārammaṇānaṃ badarasāḷavādiambilamaddanādīnaṃ upanayanepi kheḷuppādāditaṇhāpavattarahitaṃ sabbathā susodhitameva sandhāya vuttanti gahetabbaṃ.
197. Pháp chứng đắc của các bậc Thượng nhân như Đức Phật v.v…, những người vượt trội hơn những người thường, là pháp thượng nhân, nên nói là của các bậc Thượng nhân… v.v… Trong Pāḷi (pārā. 198), trong câu “và tôi có các pháp đó trong tôi,” từ ‘me’ (của tôi) chỉ là một từ đệm. Câu hỏi về thiền v.v…, được gọi là sự chứng đắc do phải được chứng đắc, là câu hỏi về sự chứng đắc, và vì nó diễn ra một cách chung chung trong thiền v.v…, nên bây giờ, để chỉ ra cách hỏi theo cách xác định từng loại, như là sơ thiền hay một trong các thiền thứ hai v.v…, và trong đó, là thiền có đề mục biến xứ nào v.v…, hoặc trong các pháp siêu thế, là đạo Dự lưu hay một trong các đạo Nhất lai v.v…, và trong đó, là giải thoát không hay một trong các giải thoát vô nguyện v.v…, câu hỏi này đã được chỉ ra trong Pāḷi (pārā. 198) rằng “vậy thì ngài có được các pháp nào,” cần phải hiểu như vậy. Do đó nói là trong các đạo đầu tiên… v.v… Sự thực hành ở giai đoạn đầu, mà bằng sự thực hành tuần tự đó, sự chứng đắc siêu thế đến, là hạnh thực hành để đến. Không trong sạch: khi được hỏi, người đó nói bằng cách bỏ qua trình tự thực hành. Phải bị loại bỏ: phải bị loại bỏ khỏi sự quá mạn về chứng đắc rằng ‘điều này không thể được chứng đắc theo trình tự mà ngươi đã nói.’ Vì không bị dính mắc vào bốn vật dụng được phép có sẵn, nên đã nói là “bằng tâm giống như bàn tay trong không gian.” Kết nối là ‘sự tuyên bố tương tự như đã nói.’ Hạnh thực hành tương tự như hạnh thực hành của vị Vô sanh do đã đè nén phiền não một cách tốt đẹp. Và điều này được nói theo cách của người tự nhận là A-la-hán, do đó nói là của vị Vô sanh… v.v… Việc tự nhận là pháp hữu học tại thế của người đã đè nén phiền não như vậy không thể được xem xét bằng cách gây sợ hãi này, và bằng cách cho thấy vật chua v.v… mà gây ra sự tiết nước bọt v.v… Do đó, phải tin vào lời nói của người đó. Tỳ-khưu này có sự tuyên bố hoàn hảo: điều này không chỉ được nói nhắm đến việc không sợ hãi, vì ngay cả một phàm phu có tính dũng cảm nào đó cũng không sợ hãi. Cần hiểu là đã được nói nhắm đến việc đã được thanh lọc hoàn toàn, không có sự phát sinh của tham ái như tiết nước bọt v.v… ngay cả khi đưa đến các đối tượng gây tham ái như quả táo chua v.v… đã được giã nát.

Asantaguṇasambhāvanalakkhaṇā pāpicchāti āha yā sā idhekaccotiādi. Ādi-saddena assaddhotiādipāṭhaṃ saṅgaṇhāti. Sāmaññaṃ dupparāmaṭṭhanti samaṇadhammasaṅkhātaṃ sāmaññaṃ khaṇḍasīlāditāya dupparāmaṭṭhaṃ duṭṭhu gahitaṃ nirayāya nirayadukkhāya taṃ puggalaṃ tattha niraye upakaḍḍhati nibbattāpetīti attho. Sithiloti olīyitvā karaṇena sithilagāhena kato, sathena vā sāṭheyyena ādiṇṇo sithilo. Paribbajoti samaṇabhāvo. Bhiyyoti pubbe vijjamānānaṃ rāgarajādīnaṃ upari aparampi rajaṃ ākiratīti attho. Bhikkhubhāvoti adhammikapaṭiññāmattasiddho bhikkhubhāvo. Ajānamevāti ettha eva-saddo avadhāraṇe ajānanto evāti, ‘‘ajānameva’’ntipi pāṭho, tattha pana evaṃ jānāmi evaṃ passāmīti yojetabbaṃ.
Lòng ham muốn xấu xa có đặc tính là phô trương đức tính không có, nên nói là bất cứ ai ở đây… v.v… Với từ ‘v.v…’, bao gồm cả đoạn Pāḷi ‘người không có đức tin’ v.v… Thân phận Sa-môn bị nắm giữ một cách sai lầm: thân phận Sa-môn, được gọi là pháp của Sa-môn, bị nắm giữ một cách sai lầm, nắm giữ một cách xấu xa do giới bị sứt mẻ v.v… cho địa ngục, cho nỗi khổ của địa ngục, nó kéo người đó xuống, làm cho sinh ra trong địa ngục đó, đó là ý. Lỏng lẻo: được làm bằng cách nắm giữ lỏng lẻo do làm một cách biếng nhác, hoặc bị chiếm hữu bởi sự xảo trá, gian trá là lỏng lẻo. Đời sống xuất gia: thân phận Sa-môn. Hơn nữa: có nghĩa là rắc thêm bụi bặm khác lên trên các bụi bặm tham ái v.v… đã có từ trước. Thân phận Tỳ-khưu: thân phận Tỳ-khưu chỉ có được trên danh nghĩa tự nhận không đúng pháp. Không biết: ở đây, từ ‘eva’ (chính) có nghĩa là nhấn mạnh, ‘chính là không biết,’ cũng có cách đọc là “ajānameva,” và ở đó phải kết hợp là ‘tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy.’

Padabhājanīyavaṇṇanā

Giải thích về Phân Tích Từ Ngữ

199.Evanti ca paṭhamajjhānādiparāmasanaṃ paṭhamajjhānaṃ jānāmi dutiyādijhānanti. Asubhajjhānādīnīti ādi-saddena kāyagatāsatijjhānaṃ kasiṇajjhānaṃ kasiṇamūlakāni āruppajjhānāni ca saṅgaṇhāti. Vimokkhoti catubbidho maggo, tassa saguṇato suññatādināmaṃ dassento āha so panāyantiādi. Maggo hi nāma pañcahi kāraṇehi nāmaṃ labhati sarasena vā paccanīkena vā saguṇena vā ārammaṇena vā āgamanena vā. Sace hi saṅkhārupekkhā aniccato saṅkhāre sammasitvā vuṭṭhāti, maggo animittavimokkhena vimuccati. Sace dukkhato sammasitvā vuṭṭhāti, appaṇihitavimokkhena vimuccati. Sace anattato sammasitvā vuṭṭhāti, suññatavimokkhena vimuccati, idaṃ sarasato nāmaṃ nāma. Yasmā panesa saṅkhāresu aniccānupassanāya niccanimittaṃ pajahanto āgato, tasmā animitto. Dukkhānupassanāya sukhasaññaṃ paṇidhiṃ patthanaṃ pahāya āgatattā appaṇihito. Anattānupassanāya attasaññaṃ pahāya attasuññatādassanavasena suññatā hoti, idaṃ paccanīkato nāmaṃ nāma. Rāgādīhi panesa suññatattā suññato, rūpanimittādīnaṃ, rāganimittādīnaṃ eva vā abhāvena animitto, rāgapaṇidhiādīnaṃ abhāvato appaṇihitoti vuccati, idaṃ assa saguṇato nāmaṃ. Rāgādisuññaṃ animittaṃ appaṇihitañca nibbānaṃ ārammaṇaṃ karotīti suññato animitto appaṇihitoti vuccati, idamassa ārammaṇato nāmaṃ. Āgamanaṃ pana duvidhaṃ vipassanāgamanaṃ maggāgamanañca. Tattha magge vipassanāgamanameva, phale pana maggānantare maggāgamanaṃ, phalasamāpattiyaṃ vipassanāgamanampi. Anattānupassanāvasena maggo suññato aniccadukkhānupassanāhi animitto appaṇihitoti evaṃ vipassanā attano nāmaṃ maggassa deti, maggo phalassāti idaṃ āgamanato nāmaṃ.
199.Như vậy: và sự đề cập đến sơ thiền v.v… là ‘tôi biết sơ thiền, thiền thứ hai v.v…’ Các thiền bất tịnh v.v…: bằng từ ‘v.v…’, bao gồm cả thiền niệm thân hành, thiền biến xứ, và các thiền vô sắc có thiền biến xứ làm gốc. Giải thoát là bốn loại đạo, để chỉ ra tên gọi không v.v… của nó theo đức tính, đã nói là nhưng nó… v.v… Đạo có được tên gọi do năm lý do: do bản chất, do đối nghịch, do đức tính, do đối tượng, hoặc do sự đến. Nếu xả đối với các hành, sau khi đã quán xét các hành là vô thường, mà xuất khởi, thì đạo được giải thoát bằng giải thoát vô tướng. Nếu sau khi đã quán xét là khổ, mà xuất khởi, thì được giải thoát bằng giải thoát vô nguyện. Nếu sau khi đã quán xét là vô ngã, mà xuất khởi, thì được giải thoát bằng giải thoát không, đây được gọi là tên gọi do bản chất. Nhưng vì nó đã đến bằng cách từ bỏ tướng thường trong các hành bằng cách quán vô thường, nên là vô tướng. Vì đã đến bằng cách từ bỏ ước muốn, mong cầu là tướng lạc bằng cách quán khổ, nên là vô nguyện. Bằng cách quán vô ngã, nó từ bỏ tướng ngã và trở thành không do thấy không có ngã, đây được gọi là tên gọi do đối nghịch. Nhưng vì nó không có tham ái v.v…, nên là không; vì không có tướng sắc v.v…, hoặc chính là tướng tham v.v…, nên là vô tướng; vì không có ước muốn tham v.v…, nên được gọi là vô nguyện, đây là tên gọi do đức tính của nó. Vì nó lấy Niết-bàn là không có tham ái v.v…, không có tướng, không có ước muốn, làm đối tượng, nên được gọi là không, vô tướng, vô nguyện, đây là tên gọi do đối tượng của nó. Sự đến thì có hai loại là sự đến của thiền quán và sự đến của đạo. Ở đó, trong đạo chỉ có sự đến của thiền quán, nhưng trong quả, sau đạo là sự đến của đạo, trong sự nhập quả định cũng có sự đến của thiền quán. Đạo là không theo cách quán vô ngã, là vô tướng, vô nguyện theo cách quán vô thường và khổ, như vậy thiền quán cho tên của nó cho đạo, đạo cho quả, đây là tên gọi do sự đến.

Suññattāti vivittattā. Rāgādayova patiṭṭhānaṭṭhena paṇidhīti āha ‘‘rāgadosamohapaṇidhīna’’nti. Imissā vijjāyāti dibbacakkhuvijjāyātiādinā ekekavijjaṃ sandhāya vadanti. Evaṃ ekissāpi nāmaṃ aggahetvāpi tā eva sandhāya ‘‘vijjānaṃ lābhimhī’’ti bhaṇantopi pārājiko hotīti saṅkhepaṭṭhakathāyaṃ adhippāyo. Vatthuvijjādīni pana sandhāya vadanto na hoti. Ekekakoṭṭhāsavasenāti mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttanayena lokuttaravisesaṃ akatvā kevalaṃ ‘‘satipaṭṭhānānaṃ lābhī’’ti ekekakoṭṭhāsavasenāti adhippāyo. Tatthāti tesu koṭṭhāsesu. Kilesānaṃ pahānaṃ nāma abhāvamattampi lokuttarakiccattā lokuttaranti samatthetuṃ taṃ panātiādi vuttaṃ. Rāgā cittaṃ vinīvaraṇatāti rāgato cittassa vinīvaraṇatā, tato rāgato vimuttattā eva vītarāganīvaraṇatāti attho, yā ca pañca vijjāti yojetabbaṃ. Na āgatāti idha padabhājane ‘‘ñāṇanti tisso vijjā’’ti (pārā. 199) vuttattā sesā pañca vijjā na āgatāti attho. Nibbattitalokuttarattāti lokiyadhammasādhāraṇasaṅkhatassāpi abhāvā lokiyehi sabbathā asammissalokuttarattā. Aññanti saṅkhepaṭṭhakathādiṃ vadanti, tampi tattheva paṭikkhittanti sambandho.
Do tính không: do tính vắng lặng. Chính các tham ái v.v…, do có tính chất là nền tảng, nên là ước muốn, do đó nói là “của các ước muốn tham, sân, si.” Của minh này là của minh thiên nhãn… v.v…: một số người nói nhắm đến từng minh một. Ý của Chú giải tóm tắt là như vậy, ngay cả khi không lấy tên của một minh nào, mà chỉ nhắm đến chúng và nói rằng “tôi có được các minh,” cũng bị tội Bất Cộng Trụ. Nhưng người nói nhắm đến các minh về đối tượng v.v… thì không bị. Theo từng phần: ý của Chú giải tóm tắt là theo cách đã được nói trong Đại Chú giải, không phân biệt siêu thế, mà chỉ nói “tôi có được các niệm xứ” theo từng phần. Ở đó: trong các phần đó. Để chứng minh rằng ngay cả sự không có, là sự đoạn trừ phiền não, cũng là siêu thế do là phận sự của siêu thế, đã nói là nhưng điều đó… v.v… Sự không có triền cái của tâm đối với tham ái: sự không có triền cái của tâm đối với tham ái, chính vì đã được giải thoát khỏi tham ái đó, nên có nghĩa là không có triền cái tham ái, và phải kết hợp là ‘và năm minh nào.’ Không có: ở đây, trong phần phân tích từ ngữ, vì đã nói là “trí tuệ là ba minh” (pārā. 199), nên có nghĩa là năm minh còn lại không có. Do tính chất siêu thế đã được tạo ra: do tính chất siêu thế hoàn toàn không bị trộn lẫn với các pháp thế gian, do không có cả trạng thái chung cho các pháp thế gian. Cái khác: một số người nói là Chú giải tóm tắt v.v…, có liên quan là cái đó cũng đã bị bác bỏ ngay ở đó.

200.Puna ānetvā paṭhamajjhānādīhi na yojitanti ettha ‘‘paṭhamajjhānenāti pāṭho’’ti keci vadanti, taṃ yuttameva ādi-saddena gahetabbassa jhānassa abhāvā. Paṭhamajjhānamūlakañhi ekameva khaṇḍacakkaṃ. Kattusādhanopi bhaṇita-saddo hotīti āha atha vātiādi. Yena cittena musā bhaṇati, teneva cittena na sakkā ‘‘musā bhaṇāmī’’ti jānituṃ, antarantarā pana aññāhi manodvāravīthīhi ‘‘musā bhaṇāmī’’ti jānātīti vuttaṃ ‘‘bhaṇantassa hoti musā bhaṇāmī’’ti. Ayamettha attho dassitoti tīhi aṅgehi samannāgato musāvādoti ayamattho dassito. Davāti sahasā. Ravāti aññaṃ vattukāmassa khalitvā aññabhaṇanaṃ. Taṃ jānātīti taṃñāṇaṃ, tassa bhāvo taṃñāṇatā, ñāṇassa visayavisayībhāvena attasaṃvedananti attho. Ñāṇasamodhānanti bahūnaṃ ñāṇānaṃ ekasmiṃ khaṇe samodhānaṃ, sahuppattīti attho. Yena cittena ‘‘musā bhaṇissa’’nti jānātīti idaṃ pubbabhāgacetanañca sanniṭṭhānacetanañca ekato katvā vuttaṃ. Yena cittena pubbabhāgacetanābhūtena sanniṭṭhānacetanābhūtena ca visaṃvāditabbasattasaṅkhāre jānāti, yena cittena musā bhaṇissanti attho. Teneva…pe… pariccajitabbāti teneva cittena ‘‘evaṃ ahaṃ musā bhaṇāmī’’ti vā ‘‘bhaṇita’’nti vā tadeva musāvādacittamārammaṇaṃ katvā bhikkhu jānātīti evaṃ pubbāparasanniṭṭhānacetanākkhaṇesu tīsu ekeneva cittena ñāṇavisayañca ñāṇañcāti ubhayampi ekakkhaṇe puggalo jānātīti ayaṃ taṃñāṇatā pariccajitabbā visayasseva tadā pakāsanatoti adhippāyo, tenāha na hītiādi. Yadi ñāṇassa attano sarūpaṃ na ñāyati, kathaṃ pacchimaṃ cittaṃ jānātīti āha purimaṃ purimantiādi. Tattha bhaṇissāmītiādinā tīsu kālesu uppannaṃ purimapurimacittaṃ attānaṃ visayaṃ katvā uppajjamānassa pacchimassa pacchimassa cittassa tathā uppattiyā paccayo hotīti attho. Tenāti yena kāraṇena tīsu khaṇesu cittāni tadaññeheva cittehi jānitabbāni, tāni ca purimapurimacitteneva avassaṃ uppajjanti, tena kāraṇenāti attho. Tasmiṃ satīti bhaṇissāmīti pubbabhāge sati. Sesadvayanti bhaṇāmi, bhaṇitanti idaṃ dvayaṃ na hessatīti etaṃ natthīti yojanā hotiyevāti attho. Ekaṃ viya pakāsatīti bhinnakkhaṇānampi nirantaruppattiyā ‘‘tadeveda’’nti gahetabbataṃ sandhāya vadati.
200.Lại không được kết hợp với sơ thiền v.v… sau khi đã được đưa đến: ở đây, một số người nói rằng cách đọc là “với sơ thiền,” điều đó rất hợp lý, vì không có thiền nào khác để lấy bằng từ ‘v.v…’ Vì chỉ có một vòng tròn luân phiên có sơ thiền làm gốc. Từ ‘bhaṇita’ (đã nói) cũng có thể là chủ động cách, nên nói là hoặc là… v.v… Không thể biết là “tôi đang nói dối” bằng chính tâm mà mình đang nói dối, nhưng có thể biết là “tôi đang nói dối” bằng các lộ trình ý môn khác ở giữa, nên đã nói là “đối với người đang nói, có ý nghĩ là tôi đang nói dối.” Ý nghĩa này đã được chỉ ra ở đây: ý nghĩa này đã được chỉ ra rằng nói dối có đủ ba yếu tố. Do đùa giỡn: một cách đột ngột. Do lỡ lời: việc nói nhầm khi muốn nói một điều khác. Biết điều đó là ‘taṃñāṇaṃ,’ trạng thái của nó là sự biết đó, có nghĩa là sự tự nhận biết của trí tuệ theo mối quan hệ đối tượng và chủ thể. Sự hợp nhất của trí tuệ: sự hợp nhất của nhiều trí tuệ trong một khoảnh khắc, có nghĩa là sự đồng sanh. Bằng tâm nào mà biết rằng ‘tôi sẽ nói dối’: điều này được nói bằng cách gộp cả tư tưởng ở giai đoạn đầu và tư tưởng quyết định lại với nhau. Có nghĩa là bằng tâm nào là tư tưởng ở giai đoạn đầu và là tư tưởng quyết định mà biết về các chúng sanh và các hành sẽ bị lừa dối, bằng tâm đó sẽ nói dối. Bằng chính tâm đó… v.v… phải được từ bỏ: ý là Tỳ-khưu biết bằng chính tâm đó rằng “tôi đang nói dối như vậy” hoặc “đã nói,” bằng cách lấy chính tâm nói dối đó làm đối tượng, như vậy, trong ba khoảnh khắc của tư tưởng quyết định trước sau, người đó biết cả đối tượng của trí tuệ và chính trí tuệ trong cùng một khoảnh khắc bằng một tâm duy nhất, sự biết đó phải được từ bỏ, vì lúc đó chỉ có đối tượng được thể hiện. Do đó nói là vì không… v.v… Nếu trí tuệ không biết được bản chất của chính nó, thì làm sao tâm sau lại biết được? Nói là tâm trước, tâm trước… v.v… Ở đó, có nghĩa là tâm trước, tâm trước đã phát sinh trong ba thời gian bằng câu tôi sẽ nói… v.v… là duyên cho sự phát sinh như vậy của tâm sau, tâm sau, phát sinh bằng cách lấy chính nó làm đối tượng. Do đó: có nghĩa là do lý do nào mà các tâm trong ba khoảnh khắc phải được biết bởi các tâm khác, và chúng chắc chắn phát sinh chỉ do tâm trước, tâm trước, do lý do đó. Khi có điều đó: khi có giai đoạn đầu là ‘tôi sẽ nói.’ Hai điều còn lại: kết nối là không có chuyện hai điều này là ‘tôi đang nói, đã nói’ sẽ không có, có nghĩa là chắc chắn có. Thể hiện như một: nói nhắm đến việc có thể được coi là “chính nó” do sự phát sinh liên tục của các tâm ở các khoảnh khắc khác nhau.

Balavadhammavinidhānavasenāti balavagāhassa vinidhānavasena. Dubbaladubbalānanti dubbaladubbalānaṃ gāhānaṃ. Sakabhāvapariccajanavasenāti attano santakabhāvassa pariccajanavasena.
Theo cách thiết lập sự chấp nhận mạnh mẽ: theo cách thiết lập sự chấp nhận mạnh mẽ. Của những sự chấp nhận yếu hơn: của những sự chấp nhận yếu hơn. Theo cách từ bỏ bản chất của mình: theo cách từ bỏ trạng thái sở hữu của mình.

207.Uttāsitattāti bhayaṃ janetvā viya palāpitattā. Evaṃ palāpito na puna taṃ ṭhānaṃ āgacchatīti āha ‘‘puna anallīyanabhāvadassanavasenā’’ti. Kheṭa-saddaṃ saddovidū uttāsatthe paṭhantīti āha svāyamatthotiādi. Aṇu eva aṇusahagataṃ, aṇuttena vā yuttanti attho.
207.Do bị dọa nạt: do bị làm cho bỏ chạy như thể bị làm cho sợ hãi. Người bị làm cho bỏ chạy như vậy sẽ không quay lại nơi đó nữa, nên nói là “theo cách chỉ ra trạng thái không quay lại nữa.” Các nhà ngữ pháp học đọc từ ‘kheṭa’ theo nghĩa dọa nạt, nên nói là chính ý nghĩa này… v.v… Có nghĩa là ‘chỉ có một chút nhỏ,’ hoặc ‘có liên quan đến sự nhỏ bé.’

Vattukāmavārakathāvaṇṇanā

Giải thích về đoạn muốn nói

215.Kevalañhiyanti kevalañhi ayaṃ vāroti ajjhāharitabbaṃ. Taṅkhaṇaññeva jānātīti pakatiyā vacanānantaraṃ vijānanaṃ sandhāya vuttaṃ. Evaṃ pana vacībhedaṃ akatvā ‘‘yo imamhā āvāsā paṭhamaṃ pakkamissati, naṃ mayaṃ ‘arahā’ti jānissāmā’’ti evaṃ katasaṅketā vihārā paṭhamaṃ pakkamanena tasmiṃ khaṇe avītivattepi nikkhantamattepi pārājikaṃ aññataro bhikkhu ‘‘maṃ ‘arahā’ti jānantū’’ti tamhā āvāsā paṭhamaṃ pakkāmīti āgatavatthumhi (pārā. 227) viya. Viññattipatheti kāyavacīviññattīnaṃ gahaṇayogge padese, tena viññattipathaṃ atikkamitvā ṭhito koci dibbena cakkhunā kāyavikāraṃ disvā dibbāya sotadhātuyā vacībhedañca sutvā jānāti, na pārājikanti dīpeti. Pāḷiyaṃ ‘‘paṭivijānantassa āpatti pārājikassā’’ti (pārā. 215) imasmiṃ paṭivijānanavāre yasmiṃ akkhare vā uccārite kāyappayoge vā kateyeva ayaṃ paṭhamajjhānaṃ samāpannotiādiatthaṃ paro vijānāti, tato purimesu akkharuccāraṇādippayogesu thullaccayaṃ āpajjitvā pacchimeva paṭivijānanapayogakkhaṇe pārājikaṃ āpajjatīti veditabbaṃ thullaccayassevettha sāmantattā, teneva buddhadattācariyena
215.Chỉ là: phải thêm vào là ‘chỉ là đoạn này.’ Biết ngay trong khoảnh khắc đó: được nói nhắm đến sự biết ngay sau khi nói theo cách thông thường. Nhưng nếu không tạo ra sự khác biệt về lời nói như vậy, mà làm ám hiệu rằng “người nào ra khỏi trú xứ này đầu tiên, chúng tôi sẽ biết người đó là A-la-hán,” thì bị tội Bất Cộng Trụ ngay khi vừa ra khỏi, dù chưa hết khoảnh khắc đó, bằng việc ra khỏi trú xứ đầu tiên, giống như trong câu chuyện đã có rằng ‘một Tỳ-khưu nào đó đã ra khỏi trú xứ đó đầu tiên để cho họ biết mình là A-la-hán’ (pārā. 227). Trong phạm vi biểu tri: trong khu vực có thể nhận biết được các biểu tri thân và khẩu. Bằng điều đó, chỉ ra rằng nếu một người nào đó đứng ngoài phạm vi biểu tri, thấy được sự thay đổi của thân bằng thiên nhãn và nghe được sự khác biệt về lời nói bằng thiên nhĩ và biết, thì không bị tội Bất Cộng Trụ. Trong Pāḷi, trong đoạn ‘phạm tội Bất Cộng Trụ đối với người nhận biết’ (pārā. 215), cần biết rằng ở chữ nào được phát âm hoặc ở phương tiện thân nào được thực hiện mà người kia biết được ý nghĩa là ‘người này đã nhập sơ thiền’ v.v…, thì sau khi đã phạm tội Trọng Tội ở các phương tiện phát âm chữ v.v… trước đó, mới phạm tội Bất Cộng Trụ ở khoảnh khắc của phương tiện nhận biết sau cùng, vì tội Trọng Tội ở đây là tội gần nhất. Chính vì thế, thầy Buddhadata đã nói:

‘‘Dukkaṭaṃ paṭhamasseva, sāmantamiti vaṇṇitaṃ;
Sesānaṃ pana tiṇṇampi, thullaccayamudīrita’’nti –
“Tội Tác Ác của điều đầu tiên, được giải thích là tội gần;
Còn đối với ba điều còn lại, tội Trọng Tội đã được nói.” –

Vuttaṃ , ayañcattho ‘‘na paṭivijānantassa āpatti thullaccayassā’’ti iminā suttena saṅgahitoti daṭṭhabbo. Uggahaparipucchādivasenātiādinā jhānasamādhiādisaddānamatthesu pubbe akataparicayattā sutvā ‘‘atthaṃ īdisa’’nti ajānitvā kevalaṃ ‘‘visiṭṭho koci samaṇaguṇo anena laddho’’ti parena ñātepi pārājikamevāti dasseti.
Và cần hiểu rằng ý nghĩa này đã được bao gồm trong kinh này “phạm tội Trọng Tội đối với người không nhận biết.” Theo cách học thuộc, hỏi v.v…: bằng câu này, chỉ ra rằng ngay cả khi người kia, do chưa có sự quen thuộc trước đó với ý nghĩa của các từ như thiền, định v.v…, sau khi nghe mà không biết rằng “ý nghĩa là như vậy,” mà chỉ biết rằng “một đức tính Sa-môn đặc biệt nào đó đã được người này có được,” cũng bị tội Bất Cộng Trụ.

Anāpattibhedakathāvaṇṇanā

Giải thích về sự khác biệt của trường hợp vô tội

220.Anullapanādhippāyassāti ‘‘evaṃ vutte uttarimanussadhammo mayā pakāsito hotī’’ti amanasikatvā ‘‘nāhaṃ, āvuso, maccuno bhāyāmī’’tiādikaṃ kathentassa. Evaṃ kathento ca vohārato aññaṃ byākaronto nāma hotīti vuttaṃ ‘‘aññaṃ byākarontassā’’ti. Bhāyantoti ‘‘ñatvā garahanti nu kho’’ti bhāyanto.
220.Của người không có ý định khoe khoang: của người nói “Này chư hiền, tôi không sợ chết” v.v… mà không suy nghĩ rằng “khi nói như vậy, pháp thượng nhân đã được tôi tuyên bố.” Và người nói như vậy, theo cách nói thông thường, được gọi là đang tuyên bố một điều khác, nên đã nói là “của người đang tuyên bố một điều khác.” Sợ hãi: sợ hãi rằng “họ biết rồi có khiển trách hay không.”

Padabhājanīyavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về Phân Tích Từ Ngữ đã kết thúc.

Vinītavatthuvaṇṇanā

Giải thích về các câu chuyện đã được phân xử

223.Sekkhabhūmiyanti iminā jhānabhūmimpi saṅgaṇhāti. Tiṇṇaṃ vivekānanti kāyacittaupadhivivekānaṃ. Piṇḍāya caraṇassa bhojanapariyosānatāya vuttaṃ ‘‘yāva bhojanaparāyosāna’’nti. Antaraghare bhutvā āgacchantassāpi vuttanayeneva sambhāvanicchāya cīvarasaṇṭhāpanādīni karontassa dukkaṭameva, pāḷiyaṃ pana dukkarādivatthūsu ‘‘anāpatti anullapanādhippāyassā’’ti idaṃ thullaccayenāpi anāpattidassanatthaṃ vuttaṃ. Ullapanādhippāyassāpi hi ‘‘nāvuso, dukkaraṃ aññaṃ byākātu’’nti vutte thullaccayameva attupanāyikattābhāvatoti daṭṭhabbaṃ.
223.Trong địa vị hữu học: bằng từ này, bao gồm cả địa vị thiền định. Của ba sự vắng lặng: của sự vắng lặng về thân, tâm và phiền não. Vì việc đi khất thực kết thúc bằng việc ăn uống, nên đã nói là “cho đến khi kết thúc việc ăn uống.” Ngay cả đối với người đã ăn trong nhà rồi trở về, nếu làm các việc như sắp xếp y v.v… với ý muốn được phô trương theo cách đã nói, cũng chỉ bị tội Tác Ác. Nhưng trong Pāḷi, trong các câu chuyện về việc khó làm v.v…, câu “vô tội đối với người không có ý định khoe khoang” được nói để chỉ ra sự vô tội ngay cả đối với tội Trọng Tội. Cần hiểu rằng ngay cả đối với người có ý định khoe khoang, khi được nói “Này hiền giả, không khó để tuyên bố một điều khác,” cũng chỉ bị tội Trọng Tội do không có tính chất tự đề cao.

227.Na dānāhaṃ tattha gamissāmīti puna tattha vasitaṭṭhāne na gamissāmi, evaṃ sati paṭhamaṃ gato ayaṃ puna ca nāgato, tasmā arahāti maññissantīti adhippāyo. Taṃ ṭhānanti āvāsaṃ vātiādinā pubbe paricchinnaṭṭhānaṃ. Padasā gamanaṃ sandhāya katikāya katattā yānenātiādi vuttaṃ. Vijjāmayiddhiṃ sandhāya ‘‘iddhiyā’’ti vuttaṃ ullapanādhippāyassa abhiññiddhiyā asambhavato. Aññamaññaṃ rakkhantīti ullapanādhippāye satipi ekassāpi paṭhamagamanābhāvā rakkhanti. Sace pana katikaṃ katvā nisinnesu ekaṃ dve ṭhapetvā avasesā ullapanādhippāyena ekato gacchanti, gatānaṃ sabbesaṃ pārājikameva. Tesu yassa ullapanādhippāyo natthi, tassa anāpatti. Etanti heṭṭhā vuttaṃ sabbaṃ katikavattaṃ. Nānāverajjakāti nānājanapadavāsino. Saṅghalābhoti yathāvuḍḍhaṃ pāpuṇanakakoṭṭhāso. Ayañca paṭikkhepo avisesetvā karaṇaṃ sandhāya kato, visesetvā pana ‘‘ettako asukassā’’ti paricchinditvā apaloketvā dātuṃ vaṭṭati.
227.Bây giờ tôi sẽ không đến đó nữa: tôi sẽ không đến lại nơi đã ở đó nữa. Ý là như vậy, người này đã đi lần đầu và không quay lại nữa, do đó họ sẽ nghĩ là A-la-hán. Nơi đó: nơi đã được phân định trước đó bằng câu ‘trú xứ’ v.v… Vì đã làm giao ước nhắm đến việc đi bộ, nên đã nói là bằng xe… v.v… “Bằng thần thông” được nói nhắm đến thần thông do minh, vì thần thông do định không thể có đối với người có ý định khoe khoang. Họ giữ gìn lẫn nhau: họ giữ gìn do không có ai đi đầu tiên, ngay cả khi có ý định khoe khoang. Nhưng nếu sau khi đã làm giao ước, trong số những người đang ngồi, trừ một hai người, những người còn lại cùng nhau đi với ý định khoe khoang, thì tất cả những người đã đi đều bị tội Bất Cộng Trụ. Người nào trong số họ không có ý định khoe khoang, thì người đó vô tội. Điều này: tất cả các phận sự đã giao ước ở dưới. Những người ở các xứ khác nhau: những người sống ở các xứ sở khác nhau. Lợi lộc của Tăng: phần được nhận theo thứ tự của các vị trưởng. Và sự cấm này được thực hiện nhắm đến việc làm không phân biệt. Nhưng được phép cho sau khi đã phân biệt và thông qua rằng “chừng này là của người kia.”

228.Dhammadhātūti sabbaññutaññāṇaṃ, dhammānaṃ sabhāvo vā. Upapattīti attabhāvaṃ sandhāya vadati. Dussaddhāpayā hontīti puthujjane sandhāya vuttaṃ, na lakkhaṇattherādike ariyapuggale . Vituḍentīti vinivijjhitvā ḍenti gacchanti, phāsuḷantarikāyo chiddāvachiddaṃ katvā tāhi gacchantīti nissakkavasena attho. Vitudentīti pāṭhe phāsuḷantarikāhīti ādhāratthe nissakkavacanaṃ. Lohatuṇḍehīti kāḷalohamayehi tuṇḍehi. Acchariyaṃ vatāti garahitabbatāya accharaṃ paharituṃ yuttarūpaṃ. Cakkhubhūtāti lokassa cakkhu viya bhūtā sañjātā, cakkhusadisātipi attho. Tasseva kammassāti yena goghātakakammeneva niraye nibbatto, tassevāti atthe gayhamāne ekāya cetanāya bahupaṭisandhiyo hontīti āpajjati, na cetaṃ yuttaṃ ekassa ambādibījassa anekaṅkuruppatti viyāti taṃ pariharanto āha tassa nānācetanāhi āyūhitassātiādi, tena goghātakakammakkhaṇe pubbacetanā aparacetanā sanniṭṭhāpakacetanāti ekasmimpi pāṇātipāte bahū cetanā honti, nānāpāṇātipātesu vattabbameva natthi. Tattha ekāya cetanāya narake pacitvā tadaññacetanāsu ekāya aparāpariyacetanāya imasmiṃ petattabhāve nibbattoti dasseti, tenāha ‘‘avasesakammaṃ vā kammanimittaṃ vā’’ti. Ettha ca kammasarikkhavipākuppattiṃ sandhāya kammakammanimittānameva gahaṇaṃ kataṃ, na gatinimittassa, tenāha ‘‘aṭṭhirāsiyeva nimittaṃ ahosī’’ti. Pāḷiyaṃ vitacchentīti tuṇḍehi tacchento viya luñcanti. Virājentīti vilikhanti.
228.Pháp giới: trí toàn giác, hoặc bản chất của các pháp. Sự hiện hữu: nói nhắm đến thân phận. Họ trở nên có đức tin xấu: được nói nhắm đến phàm phu, không phải các bậc Thánh như trưởng lão Lakkhaṇa v.v… Họ mổ: họ mổ và bay đi, có nghĩa là họ làm cho các khoảng trống giữa các xương sườn bị thủng lỗ và bay qua đó, theo nghĩa thoát ra. Trong cách đọc ‘vitudentī,’ thì dùng cách sở tại theo nghĩa thoát ra đối với các khoảng trống giữa các xương sườn. Bằng những cái mỏ sắt: bằng những cái mỏ làm bằng sắt đen. Thật là kỳ diệu: hình dạng đáng bị đánh một cái tát do tính chất đáng bị khiển trách. Những người đã trở thành mắt: những người đã trở thành như mắt của thế gian, cũng có nghĩa là tương tự như mắt. Của chính nghiệp đó: nếu hiểu theo nghĩa là ‘của chính nghiệp giết bò mà đã sinh ra trong địa ngục,’ thì sẽ dẫn đến việc một tư tưởng có thể có nhiều sự tái sanh, và điều đó không hợp lý, giống như một hạt xoài v.v… có nhiều mầm. Để tránh điều đó, đã nói là của nghiệp đã được tích lũy bởi các tư tưởng khác nhau… v.v… Bằng điều đó, chỉ ra rằng ngay cả trong một tội sát sanh, cũng có nhiều tư tưởng là tư tưởng trước, tư tưởng sau, và tư tưởng quyết định, huống nữa là trong nhiều tội sát sanh khác nhau. Ở đó, chỉ ra rằng sau khi đã bị thiêu đốt trong địa ngục do một tư tưởng, người đó đã sinh ra trong thân phận ngạ quỷ này do một tư tưởng khác, một tư tưởng sau cùng trong số các tư tưởng còn lại. Do đó nói là “hoặc nghiệp còn lại, hoặc tướng của nghiệp.” Ở đây, nhắm đến sự phát sinh của quả báo tương xứng với nghiệp, chỉ có việc lấy nghiệp và tướng của nghiệp được thực hiện, không phải tướng của cõi. Do đó nói là “chính đống xương đã là tướng.” Trong Pāḷi, ‘vitacchentī’ (họ đẽo) là họ mổ như thể đang đẽo bằng mỏ. Họ cào: họ cào xé.

229.Vallūravikkayenāti sukkhāpitamaṃsavikkayena. Nippakkhacammeti vigatapakkhalomacamme. Ekaṃ miganti dīpakamigaṃ. Kāraṇāhīti ghātanāhi. Ñatvāti kammaṭṭhānaṃ ñatvā.
229.Bằng việc bán thịt khô: bằng việc bán thịt đã được làm khô. Trong tấm da không có lông: trong tấm da đã bị mất lông cánh. Một con thú: con nai báo. Bởi các lý do: bởi các cách giết. Sau khi đã biết: sau khi đã biết đề mục thiền.

230. Maṅganavasena ulatīti maṅguli, virūpabībhacchabhāvena pavattatīti attho. Cittakeḷinti cittaruciyaṃ anācārakīḷaṃ.
230. Vì di chuyển một cách xấu xí, nên là maṅguli, có nghĩa là diễn ra một cách dị dạng, ghê tởm. Trò chơi của tâm: trò chơi không đúng đắn theo sở thích của tâm.

231.Nissevālapaṇakakaddamoti tilabījakādisevālena nīlamaṇḍūkapiṭṭhivaṇṇena udakapiṭṭhe udakaṃ nīlavaṇṇaṃ kurumānena paṇakena kaddamena ca virahito. Uṇhabhāvena tapanato tapaṃ udakaṃ assāti tapodakāti vattabbe ka-kāralopaṃ katvā ‘‘tapodā’’ti vuccati. Petalokoti pakaṭṭhena akusalakammena sugatito duggatiṃ itānaṃ gatānaṃ loko samūho, nivāsaṭṭhānaṃ vā. Katahatthāti dhanusippe suṭṭhu sikkhitahatthā, avirajjhanalakkhavedhāti attho. Sippadassanavasena rājakulādīsu rājasamūhaṃ upecca kataṃ asanaṃ sarakkhepo etesanti katupāsanā, sabbattha dassitasippāti attho. Pabhaggoti pabhañjito, parājitoti attho.
231.Bùn không có rong rêu: không có rong rêu là hạt vừng v.v…, không có rong làm cho nước có màu xanh trên mặt nước giống như lưng của con cóc xanh, và không có bùn. Vì làm cho nóng do tính chất nóng, nên đáng lẽ phải nói là ‘tapodakaṃ’ (nước nóng), nhưng được gọi là “tapodā” sau khi đã lược bỏ mẫu tự ‘ka.’ Cõi ngạ quỷ: cõi, tập hợp, hoặc nơi ở của những người đã đi từ cõi lành đến cõi dữ do nghiệp bất thiện nặng nề. Những người thiện xạ: những người có tay đã được rèn luyện kỹ lưỡng trong nghề bắn cung, có nghĩa là những người bắn trúng mục tiêu không trật. Những người đã thực hiện việc bắn, việc phóng tên, sau khi đã đến gần đám đông của vua trong các gia đình hoàng gia v.v… theo cách biểu diễn nghề nghiệp, là những người đã thực hành việc bắn, có nghĩa là những người đã biểu diễn nghề nghiệp ở mọi nơi. Bị gãy: bị bẻ gãy, có nghĩa là bị đánh bại.

232.Āneñjasamādhinti arūpasamāpattiyaṃ niruddhe satipi saddakaṇṭakena uṭṭhānāraho rūpāvacarasamādhiyeva idha vattabboti āha anejaṃ acalantiādi. Samādhiparipanthaketi vitakkādike sandhāya vadati, idaṃ pana paṭhamabodhiyaṃ uppannampi vatthuṃ anācāramattavasena bhikkhūhi coditepi bhagavatā ‘‘anāpatti, bhikkhave, moggallānassā’’ti (pārā. 228) evaṃ āyatiṃ attanā paññapiyamānapārājikānuguṇaṃ tadā eva vinītanti dhammasaṅgāhakattherehi pacchā paññattassa imassa sikkhāpadassa vinītavatthubhāvena saṅgahamāropitanti daṭṭhabbaṃ. Sāvakānaṃ uppaṭipāṭiyā anussaraṇābhāvaṃ dassetuṃ ‘‘na uppaṭipāṭiyā’’ti vuttaṃ. Dukkaraṃ katanti anantare pañcakappasatike kāle viññāṇasantatiṃ adisvāpi asammuyhitvā parato tatiyattabhāve diṭṭhacuticittena saddhiṃ vattamānabhavapaṭisandhiyā anumānenāpi kāriyakāraṇābhāvagahaṇaṃ nāma sāvakānaṃ dukkarattā vuttaṃ. Paṭividdhāti paṭividdhasadisā. Yathā nāma sattadhā phālitassa cāmaravālalomassa ekāya aggakoṭiyā aparassa vālalomaṃsuno koṭiṃ dūre ṭhatvā vijjheyya āvunanto viya paṭipādeyya, evameva imināpi dukkaraṃ katanti vuttaṃ hoti. Etadagganti eso aggo. Yadidanti yo ayaṃ.
232.Định bất động: ở đây, đáng lẽ phải nói đến chính định sắc giới, có khả năng xuất khỏi định vô sắc dù đã bị diệt do tiếng động làm chướng ngại, nên nói là không dao động, không lay chuyển… v.v… Những điều cản trở định: nói nhắm đến tầm v.v… Nhưng câu chuyện này, dù đã phát sinh trong lần giác ngộ đầu tiên, và dù đã bị các Tỳ-khưu khiển trách chỉ do hành vi không đúng đắn, nhưng đã được Đức Thế Tôn phân xử ngay lúc đó là “Này các Tỳ-khưu, Moggallāna vô tội” (pārā. 228), phù hợp với tội Bất Cộng Trụ sẽ được chính Ngài chế định trong tương lai. Cần hiểu là đã được các vị trưởng lão kết tập pháp gán cho việc được bao gồm trong các câu chuyện đã được phân xử của điều học này đã được chế định sau đó. Để chỉ ra sự không có khả năng nhớ ngược dòng của các vị đệ tử, đã nói là “không phải theo thứ tự ngược dòng.” Đã làm một việc khó: được nói do tính chất khó khăn đối với các vị đệ tử, việc nắm bắt được mối quan hệ nhân quả bằng cách suy luận, bằng tâm tử đã thấy ở thân phận thứ ba trở về trước cùng với sự tái sanh của kiếp hiện tại, dù không thấy được dòng tâm thức trong khoảng thời gian năm trăm kiếp ở giữa mà không bị mê lầm. Đã xuyên thủng: tương tự như đã xuyên thủng. Giống như một người có thể xuyên thủng đầu của một sợi lông khác bằng một đầu của sợi lông đuôi chồn đã được chẻ làm bảy, khi đang đứng ở xa, như thể đang xâu kim. Cũng vậy, đã được nói là người này cũng đã làm một việc khó. Đây là cao nhất. Điều này là điều này.

Nigamanavaṇṇanā

Giải thích phần kết luận

233.Idhāti bhikkhuvibhaṅge. Uddiṭṭhapārājikaparidīpananti sikkhāpadesu pātimokkhuddesavasena uddiṭṭhapārājikaparidīpanaṃ, na pana sabbasmiṃ pārājikavibhaṅge āgataāpattiparidīpanaṃ tattha thullaccayādīnampi āgatattā teneva uddiṭṭha-saddena vuttavibhaṅgassa niddesattā. Bhikkhunīnaṃ asādhāraṇāni cattārīti ubbhajāṇumaṇḍalikā (pāci. 658) vajjappaṭicchādikā (pāci. 665) ukkhittānuvattikā (pāci. 669) aṭṭhavatthukāti (pāci. 675) imāni bhikkhūhi asādhāraṇāni bhikkhunīnaṃ eva paññattāni pārājikānīti attho. Vatthuvipannāti pabbajjupasampadānaṃ vatthubhāvo vatthu nāma, tena vatthumattena vipannā, vipannavatthukāti attho. Ahetukapaṭisandhikāti maggānuppattikāraṇamāha. Kiñcāpi duhetukānampi maggo nuppajjati, te pana pabbajjupasampadāsu ṭhatvā āyatiṃ maggahetuṃ sampādetuṃ sakkonti, ahetukā pana parisuddhe catupārisuddhisīle ṭhatvā sampādetuṃ na sakkonti, tasmā te tampi paṭicca vatthuvipannāvāti veditabbā. Pārājikāti kammavipattiyā paṭisandhikkhaṇeyeva parājayaṃ āpannā. Theyyasaṃvāsakādīnaṃ gihibhāve ṭhatvā vipassanāya vāyamantānampi tasmiṃ attabhāve magguppattiabhāvato ‘‘maggo pana vārito’’ti vuttaṃ. Dīghatāya lambamānaṃ aṅgajātaṃ lambaṃ nāma, taṃ yassa atthi so lambī. So ettāvatā na pārājiko, taṃ pana dīghaṃ aṅgajātaṃ attano mukhe vā vaccamagge vā sevanādhippāyena pavesentova pārājiko, idha pana vaccamagge pavesentova adhippeto mudupiṭṭhikeneva mukhe pavesanassa vuttattā. Sopi hi kataparikammatāya mudubhūtāya piṭṭhiyā onamitvā attano aṅgajātaṃ mukhena gaṇhantova pārājiko hoti, na kevalo. Yo pana mukhena attano vaccamaggaṃ vā paresaṃ vaccamaggamukhaṃ vā itthīnaṃ passāvamaggaṃ vā gaṇhāti, tassa ca purisanimittena purisanimittaṃ chupantassa ca maggena maggapaṭipādanepi pārājikaṃ na hoti purisanimittena taditaramaggasampaṭipādaneneva methunadhammavohārato . Parassa aṅgajāte abhinisīdatīti parassa uttānaṃ sayantassa kammaniye aṅgajāte attano vaccamaggaṃ pavesento tassūpari nisīdati, idañca upalakkhaṇamattaṃ paresaṃ aṅgajātaṃ vaccamagge pavesento sādiyantopi pārājikova, balakkārena pana vaccamagge vā mukhe vā parena pavesiyamāno yadi na sādiyati, anāpattikova. Ettha asādiyanaṃ nāma dukkaraṃ virajjitabbato. Ettha ca anupasampannabhāve ṭhatvā mātupituarahantesu aññataraṃ ghātento bhikkhuniṃ dūsento ca sāmaṇerapabbajjampi na labhatīti dassanatthaṃ visuṃ gahitattā mātughātakādīnaṃ catunnaṃ tatiyapaṭhamapārājikesu antogadhatā veditabbā. Yathā ettha, evaṃ gihibhāve ṭhatvā lohituppādaṃ karonto lohituppādakovāti gahetabbaṃ. Etena pariyāyenāti ubhinnaṃ rāgapariyuṭṭhānasaṅkhātena pariyāyena. Dutiyavikappe kacci atthāti padacchedo veditabbo.
233.Ở đây: trong Phân tích Tỳ-khưu. Sự làm sáng tỏ các tội Bất Cộng Trụ đã được nêu ra: sự làm sáng tỏ các tội Bất Cộng Trụ đã được nêu ra theo cách đọc thuộc lòng Giới Bổn trong các điều học, không phải là sự làm sáng tỏ các tội đã có trong toàn bộ Phân tích Bất Cộng Trụ, vì ở đó cũng có cả tội Trọng Tội v.v… Chính vì thế, là sự chỉ định của phần phân tích đã được nói bằng từ ‘uddiṭṭha’ (đã được nêu ra). Bốn điều không chung cho các Tỳ-khưu-ni là: trên đầu gối (pāci. 658), che giấu tội (pāci. 665), theo kẻ bị trục xuất (pāci. 669), và tám điều (pāci. 675). Ý là những tội Bất Cộng Trụ này chỉ được chế định cho các Tỳ-khưu-ni, không chung cho các Tỳ-khưu. Đối tượng bị hư hỏng: trạng thái là đối tượng của sự xuất gia và thọ giới cụ túc được gọi là đối tượng, bị hư hỏng do chính đối tượng đó, có nghĩa là có đối tượng bị hư hỏng. Người có tái sanh không có nhân: nói đến nguyên nhân không phát sinh đạo lộ. Dù đối với những người hai nhân, đạo cũng không phát sinh, nhưng họ có thể hoàn thành nhân duyên của đạo trong tương lai sau khi đã xuất gia và thọ giới cụ túc. Nhưng những người không có nhân thì không thể hoàn thành sau khi đã đứng trong bốn giới thanh tịnh trong sạch. Do đó, cần biết rằng họ cũng bị hư hỏng về đối tượng do chính điều đó. Bị tội Bất Cộng Trụ: đã bị thất bại ngay trong khoảnh khắc tái sanh do sự hư hỏng của nghiệp. Vì ngay cả khi cố gắng thiền quán sau khi đã ở trong thân phận tại gia, đối với những người chung sống lén lút v.v…, đạo cũng không phát sinh trong thân phận đó, nên đã nói là “nhưng đạo đã bị ngăn cản.” Bộ phận sinh dục dài lòng thòng được gọi là lamba, người có nó là lambī. Người đó chưa bị tội Bất Cộng Trụ chừng đó. Nhưng chỉ khi người đó đưa bộ phận sinh dục dài đó vào miệng hoặc vào đường phân của mình với ý định giao hợp, thì mới bị tội Bất Cộng Trụ. Ở đây, chỉ có việc đưa vào đường phân được ngụ ý, vì việc đưa vào miệng đã được nói chỉ đối với người có lưng mềm. Vì người đó cũng chỉ bị tội Bất Cộng Trụ khi cúi xuống bằng lưng đã được làm cho mềm do đã luyện tập và lấy bộ phận sinh dục của mình bằng miệng, không phải chỉ đơn thuần. Nhưng người nào lấy đường phân của mình hoặc miệng, đường phân của người khác, hoặc đường tiểu của phụ nữ bằng miệng, và người đó chạm bộ phận sinh dục của nam vào bộ phận sinh dục của nam, thì không bị tội Bất Cộng Trụ ngay cả khi đưa đường vào đường, vì cách gọi pháp giao hợp chỉ có khi đưa bộ phận sinh dục của nam vào các đường khác. Ngồi lên trên bộ phận sinh dục của người khác: người đó ngồi lên trên và đưa đường phân của mình vào bộ phận sinh dục đang cương cứng của người khác đang nằm ngửa. Và đây chỉ là một ví dụ, ngay cả người chấp nhận khi bị đưa bộ phận sinh dục của người khác vào đường phân cũng bị tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu bị người khác ép buộc đưa vào đường phân hoặc vào miệng mà không chấp nhận, thì vô tội. Việc không chấp nhận ở đây là khó, vì phải ly tham. Ở đây, vì đã lấy riêng để chỉ ra rằng người giết một trong số mẹ, cha, và A-la-hán, và người làm nhục Tỳ-khưu-ni khi còn ở trong thân phận không được thọ giới cụ túc, cũng không được xuất gia sa-di, nên cần biết rằng bốn tội giết mẹ v.v… được bao gồm trong tội Bất Cộng Trụ thứ ba và thứ nhất. Giống như ở đây, cũng cần hiểu rằng người làm chảy máu khi còn ở trong thân phận tại gia là người làm chảy máu. Theo cách này: theo cách được gọi là sự xâm chiếm của tham ái của cả hai. Trong trường hợp giải thích thứ hai, cần hiểu cách ngắt từ là ‘kacci atthā’ti (‘Có phải là lợi ích không?’, ‘Liệu có lợi ích không?’, ‘Nó có nghĩa là gì?’).

Iti samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya vimativinodaniyaṃ

Trong sách Xua Tan Hoài Nghi, Phụ chú giải Luật tạng Samantapāsādikā,

Catutthapārājikavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phần giải thích về điều Bất Cộng Trụ thứ tư đã kết thúc.

Niṭṭhito ca pārājikakaṇḍavaṇṇanānayo.

Phần giải thích về Phẩm Bất Cộng Trụ đã kết thúc.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang