Hai Mẫu Đề

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Hai Mẫu Đề – Phẩm Ưng Đối Trị

Pācittiyakaṇḍo
Phẩm Ưng Đối Trị

1. Musāvādavaggo
1. Phẩm Nói Dối

1. Musāvādasikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải Thích Học Giới Nói Dối

Pācittiyesu musāvādavaggassa paṭhame sampajānamusāvādeti pubbepi jānitvā vacanakkhaṇepi jānantasseva musāvādabhaṇane. Bhaṇanañca nāma idha abhūtassa vā bhūtataṃ, bhūtassa vā abhūtataṃ katvā kāyena vā vācāya vā viññāpanappayogo, nimittatthe cetaṃ bhummavacanaṃ. Tasmā yo sampajānamusāvādaṃ vadati, tassa taṃnimittaṃ taṃhetu tappaccayā pācittiyaṃ hotīti evamettha aññesu ca īdisesu attho veditabbo.
Trong các điều Ưng Đối Trị, ở phẩm Nói Dối, điều đầu tiên, câu cố ý nói dối có nghĩa là nói lời nói dối trong khi đã biết trước và đang biết vào lúc nói. Và ở đây, việc nói có nghĩa là sự cố gắng làm cho biết bằng thân hoặc bằng lời nói, bằng cách làm cho việc không có thật thành có thật, hoặc việc có thật thành không có thật; và đây là cách dùng sở thuộc cách với ý nghĩa là nhân duyên. Do đó, vị nào nói lời nói dối một cách cố ý, do nhân duyên ấy, do nguyên nhân ấy, do điều kiện ấy mà bị Ưng Đối Trị. Ở đây và trong những trường hợp tương tự khác, ý nghĩa nên được hiểu như vậy.

Sāvatthiyaṃ hatthakaṃ sakyaputtaṃ ārabbha avajānitvā paṭijānanādivatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, uttarimanussadhammārocanatthaṃ musā bhaṇantassa pārājikaṃ, amūlakena pārājikena anuddhaṃsanatthaṃ saṅghādiseso, saṅghādisesena anuddhaṃsanatthaṃ pācittiyaṃ, ācāravipattiyā anuddhaṃsanatthaṃ dukkaṭaṃ, ‘‘yo te vihāre vasī’’tiādinā (pārā. 220) pariyāyena uttarimanussadhammārocanatthaṃ paṭivijānantassa musā bhaṇite thullaccayaṃ, appaṭivijānantassa dukkaṭaṃ, kevalaṃ musā bhaṇantassa idha pācittiyaṃ. Anupadhāretvā sahasā bhaṇantassa, ‘‘aññaṃ bhaṇissāmī’’ti aññaṃ bhaṇantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Visaṃvādanapurekkhāratā, visaṃvādanacittena yamatthaṃ vattukāmo, tassa puggalassa viññāpanapayogo cāti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Hatthaka con trai dòng Sakya, trong trường hợp về việc sau khi coi thường rồi thừa nhận lại. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Việc nói dối nhằm mục đích khoe khoang pháp thượng nhân thì bị Bất Cộng Trụ. Việc vu khống bằng tội Bất Cộng Trụ vô căn cứ thì bị Tăng Tàn. Việc vu khống bằng tội Tăng Tàn thì bị Ưng Đối Trị. Việc vu khống vì hành vi sai trái thì bị Tác Ác. Nói dối trong khi nhận biết một cách ngụ ý nhằm mục đích khoe khoang pháp thượng nhân, như câu “vị nào đã ở trong trú xá của ngươi” v.v… (pārā. 220), thì bị Trọng Tội; trong khi không nhận biết thì bị Tác Ác; chỉ đơn thuần nói dối thì ở đây bị Ưng Đối Trị. Không có tội đối với người nói vội vàng không suy xét, người nói điều khác trong khi có ý định nói điều khác, và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: có chủ tâm lừa dối, và sự cố gắng làm cho người ấy biết về điều mình muốn nói với tâm lừa dối. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp.

Musāvādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới nói dối đã chấm dứt.

2. Omasavādasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giải Thích Học Giới Nói Lời Miệt Thị

Dutiye omasavādeti ovijjhanavacane, jātināmagottakammasippaābādhaliṅgakilesaāpattiakkosesu bhūtena vā abhūtena vā yena kenaci pārājikaṃ āpannaṃ vā anāpannaṃ vā yaṃkiñci bhikkhuṃ yāya kāyaci vācāya vā hatthamuddāya vā anaññāpadesena akkosanavacane pācittiyanti attho.
Ở điều thứ hai, câu nói lời miệt thị là lời nói khinh miệt. Ý nghĩa là: nói lời mắng nhiếc một cách không ám chỉ, bằng thân, bằng lời nói, hoặc bằng cử chỉ tay, đối với bất kỳ Tỳ-khưu nào, dù đã phạm hay không phạm tội Bất Cộng Trụ, về bất cứ điều gì, dù có thật hay không có thật, liên quan đến dòng dõi, tên, họ, nghề nghiệp, nghề thủ công, bệnh tật, giới tính, phiền não, tội lỗi, và mười điều mắng nhiếc; thì bị (phạm tội) Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha omasanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tehiyeva dasahi akkosavatthūhi ‘‘santi idhekacce caṇḍālā’’tiādinā (pāci. 26) nayena aññāpadesaṃ katvā akkosantassa, ‘‘corosi gaṇṭhibhedakosī’’tiādīhi pāḷimuttakapadehi akkosantassa, yathā tathā vā anupasampannaṃ akkosantassa ca dukkaṭaṃ. Idha bhikkhunīpi anupasampannasaṅkhyaṃ gacchati. Anakkositukāmassa kevalaṃ davakamyatāya vadato sabbattha dubbhāsitaṃ. Atthadhammaanusāsanipurekkhārānaṃ, ummattakādīnañca anāpatti. Yaṃ akkosati, tassa upasampannatā, anaññāpadesena jātiādīhi akkosanaṃ, ‘‘maṃ akkosatī’’ti jānanā, atthapurekkhāratādīnaṃ abhāvoti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, vedanā pana idha dukkhāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp nói lời miệt thị. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Việc mắng nhiếc bằng cách ám chỉ theo cách đã nói, như câu “có một số người là tiện dân ở đây” v.v… (pāci. 26), với mười điều mắng nhiếc ấy, hoặc mắng nhiếc bằng những từ ngữ ngoài Pāḷi như “ngươi là kẻ trộm, kẻ phá túi”, hoặc mắng nhiếc người chưa thọ cụ túc giới bằng bất kỳ cách nào, thì bị Tác Ác. Ở đây, Tỳ-khưu-ni cũng được xếp vào hàng người chưa thọ cụ túc giới. Việc nói chỉ vì muốn trêu chọc, không có ý mắng nhiếc, thì ở mọi nơi đều là nói lời ác. Không có tội đối với những người có chủ tâm giáo huấn về ý nghĩa và giáo pháp, những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: người bị mắng nhiếc là người đã thọ cụ túc giới, mắng nhiếc bằng dòng dõi v.v… một cách không ám chỉ, biết rằng “người ấy đang mắng nhiếc mình”, và không có chủ tâm về ý nghĩa v.v… Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng ở đây cảm thọ là khổ.

Omasavādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới nói lời miệt thị đã chấm dứt.

3. Pesuññasikkhāpadavaṇṇanā
3. Giải Thích Học Giới Nói Lời Đâm Thọc

Tatiye bhikkhupesuññeti bhikkhussa pesuññe, jātiādīhi akkosavatthūhi bhikkhū akkosantassa bhikkhuno sutvā vacanaṃ bhikkhuno piyakamyatāya vā bhedādhippāyena vā yo akkuddho, tassa bhikkhussa kāyena vā vācāya vā upasaṃhaṭe tasmiṃ pesuññakaraṇavacane pācittiyanti attho.
Ở điều thứ ba, nói lời đâm thọc Tỳ-khưu là nói lời đâm thọc của Tỳ-khưu. Ý nghĩa là: khi nghe một Tỳ-khưu mắng nhiếc các Tỳ-khưu khác bằng những điều mắng nhiếc về dòng dõi v.v…, rồi thuật lại lời nói đó cho Tỳ-khưu bị mắng nhiếc, người không tức giận, bằng thân hoặc bằng lời nói, với ý muốn làm hài lòng Tỳ-khưu đó hoặc với ý định gây chia rẽ; lời nói gây chia rẽ đó bị (phạm tội) Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha pesuññaupasaṃharaṇavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, vuttanayeneva aññāpadesena akkosantassa vacanūpasaṃhāre vā pāḷimuttakaakkosūpasaṃhāre vā anupasampannassa ca upasaṃhāre dukkaṭaṃ. Idhāpi bhikkhunī anupasampannaṭṭhāne ṭhitā. Na piyakamyatāya, na bhedādhippāyena kevalaṃ pāpagarahitāya vadantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Jātiādīhi anaññāpadesena akkosantassa bhikkhuno sutvā vacanaṃ bhikkhussa upasaṃharaṇaṃ, piyakamyatābhedādhippāyesu aññataratā , tassa vijānanāti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp thuật lại lời đâm thọc. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Việc thuật lại lời nói của người mắng nhiếc bằng cách ám chỉ theo cách đã nói, hoặc thuật lại lời mắng nhiếc ngoài Pāḷi, hoặc thuật lại cho người chưa thọ cụ túc giới, thì bị Tác Ác. Ở đây, Tỳ-khưu-ni cũng được xem là người chưa thọ cụ túc giới. Không có tội đối với người nói chỉ vì chê bai điều ác, không có ý muốn làm hài lòng, không có ý định gây chia rẽ, và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: nghe lời nói của Tỳ-khưu mắng nhiếc bằng dòng dõi v.v… một cách không ám chỉ rồi thuật lại cho Tỳ-khưu khác, có ý muốn làm hài lòng hoặc ý định gây chia rẽ, và người kia biết được. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp.

Pesuññasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới nói lời đâm thọc đã chấm dứt.

4. Padasodhammasikkhāpadavaṇṇanā
4. Giải Thích Học Giới Tụng Pháp Từng Câu

Catutthe padaso dhammaṃ vāceyyāti saṅgītittayaṃ anāruḷhampi rājovādatikkhindriyacatuparivattananandopanandakulumpasuttamaggakathādidhammañca saṅgītittayamāruḷhaṃ tipiṭakadhammañca padaṃ padaṃ vāceyya, padānupadaanvakkharaanubyañjanesu ekekaṃ koṭṭhāsanti attho. Pācittiyanti etesu padādīsu bhikkhuñca bhikkhuniñca ṭhapetvā yaṃkañci koṭṭhāsaṃ avasesapuggalehi saddhiṃ ekato bhaṇantassa padādigaṇanāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tư, dạy pháp từng câu có nghĩa là dạy từng câu, từng vế, từng chữ, từng phụ âm, mỗi phần là một đoạn, đối với giáo pháp không được kết tập trong ba kỳ kết tập như lời vua khuyên, kinh Ba Mươi Hai Dấu Hiệu, kinh Bốn Vòng, kinh Nandopananda, kinh Kulumpa, kinh về con đường, v.v…, và giáo pháp Tam Tạng đã được kết tập trong ba kỳ kết tập. Ưng Đối Trị có nghĩa là trong những câu, vần, v.v… đó, trừ Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni ra, khi tụng chung với bất kỳ người nào còn lại, thì bị Ưng Đối Trị theo số câu, vần.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha padaso dhammavācanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ. Upasampanne anupasampannasaññino vematikassa vā dukkaṭaṃ. Anupasampannena saddhiṃ ekato uddesaggahaṇe, sajjhāyakaraṇe, tassa santike uddesaggahaṇe, yebhuyyena paguṇaganthaṃ bhaṇantassa, osārentassa ca khalitaṭṭhāne ‘‘evaṃ bhaṇāhī’’ti vacane ca ekato bhaṇantassāpi, ummattakādīnañca anāpatti. Anupasampannatā, vuttalakkhaṇaṃ dhammaṃ padaso vācanatā, ekato osāpanañcāti imānettha tīṇi aṅgāni. Padasodhammasamuṭṭhānaṃ, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp dạy pháp từng câu. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người đã thọ cụ túc giới mà có tưởng là chưa thọ cụ túc giới hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội khi cùng tụng chung với người chưa thọ cụ túc giới trong việc nhận và tụng lại, tụng kinh, nhận và tụng lại tại nơi của người đó; khi tụng chung trong khi phần lớn tụng kinh đã thuộc lòng; khi nói “hãy tụng như vậy” ở chỗ bị vấp; và đối với những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là người chưa thọ cụ túc giới, dạy pháp có đặc tính đã nói từng câu, và cùng tụng chung. Pháp sanh khởi của việc dạy pháp từng câu là do hành động, không phải do tưởng, không có tâm, là tội chế định, là nghiệp của lời nói, có ba loại tâm, và ba loại cảm thọ.

Padasodhammasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới tụng pháp từng câu đã chấm dứt.

5. Paṭhamasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā
5. Giải Thích Học Giới Ngủ Chung Thứ Nhất

Pañcame anupasampannenāti bhikkhuṃ ṭhapetvā antamaso pārājikavatthubhūtena tiracchānagatenāpi. Uttaridirattatirattanti dvinnaṃ vā tiṇṇaṃ vā rattīnaṃ upari. Sahaseyyanti sabbacchannaparicchanne yebhuyyena channaparicchanne vā senāsane pubbāpariyena vā ekakkhaṇena vā ekato nipajjanaṃ. Kappeyyāti vidaheyya sampādeyya. Tattha chadanaṃ anāhacca diyaḍḍhahatthubbedhena pākārādinā paricchinnampi sabbaparicchannamicceva veditabbaṃ, tasmā iminā lakkhaṇena samannāgato sacepi sattabhūmiko pāsādo ekūpacāro hoti, satagabbhaṃ vā catusālaṃ, yo tattha vā aññattha vā tādise tena vā aññena vā anupasampannena saha tisso rattiyo sayitvā catutthadivase atthaṅgate sūriye anupasampanne nipanne gabbhadvāraṃ pidhāya vā apidhāya vā nipajjati, paṭhamanipanno vā tasmiṃ nipajjante na vuṭṭhāti, tassa ubhinnaṃ uṭṭhahitvā nipajjanappayogagaṇanāya anupasampannagaṇanāya ca pācittiyaṃ. Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana samantapāsādikāyaṃ (pāci. aṭṭha. 51) sabbappakārato vutto.
Ở điều thứ năm, với người chưa thọ cụ túc giới có nghĩa là trừ Tỳ-khưu ra, cho đến cả loài thú vật là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ. Hơn hai đêm ba đêm có nghĩa là trên hai hoặc ba đêm. Ngủ chung có nghĩa là nằm chung trong một trú xứ được che và bao bọc hoàn toàn, hoặc phần lớn được che và bao bọc, dù là nằm trước sau hay cùng một lúc. Nên làm có nghĩa là nên thực hiện, nên hoàn thành. Ở đó, nơi được bao bọc bằng tường v.v… cao một thước rưỡi, không kể mái che, cũng được biết là nơi được bao bọc hoàn toàn. Do đó, nếu một tòa lầu bảy tầng có chung một sân, hoặc một nhà tứ giác có một trăm phòng, có đặc tính này, vị nào ngủ chung ở đó hoặc ở nơi khác như vậy với người chưa thọ cụ túc giới trong ba đêm, và vào ngày thứ tư, khi mặt trời lặn, người chưa thọ cụ túc giới đã nằm, vị đó đóng hoặc không đóng cửa phòng rồi nằm xuống, hoặc đã nằm trước mà không đứng dậy khi người kia nằm xuống, thì vị đó bị Ưng Đối Trị theo số lần cả hai đứng dậy và nằm xuống, và theo số người chưa thọ cụ túc giới. Đây là tóm tắt, còn phần chi tiết đã được nói đầy đủ trong sách Samantapāsādikā (pāci. aṭṭha. 51).

Āḷaviyaṃ sambahule bhikkhū ārabbha anupasampannena sahaseyyavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘uttaridirattatiratta’’nti ayamettha anupaññatti, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, upasampanne anupasampannasaññino vematikassa vā upaddhacchannaparicchannādīsu ca dukkaṭaṃ. Ūnakadirattatirattaṃ vasantassa, tatiyāya rattiyā purāruṇā nikkhamitvā puna vasantassa, sabbacchannasabbāparicchannādīsu vasantassa, itarasmiṃ nisinne nipajjantassa, nipanne vā nisīdantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Pācittiyavatthukasenāsanaṃ, tattha anupasampannena saha nipajjanaṃ, catutthadivase sūriyatthaṅgamananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Āḷavī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu, trong trường hợp ngủ chung với người chưa thọ cụ túc giới. Câu hơn hai đêm ba đêm là điều chế định bổ sung ở đây. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người đã thọ cụ túc giới mà có tưởng là chưa thọ cụ túc giới hoặc nghi ngờ, hoặc ở nơi chỉ che và bao bọc một nửa, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người ở dưới hai đêm ba đêm, người ra đi trước lúc rạng đông của đêm thứ ba rồi trở lại ở, người ở nơi che hoàn toàn nhưng không bao bọc hoàn toàn, người nằm xuống khi người kia đang ngồi, hoặc ngồi khi người kia đang nằm, và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: trú xứ là đối tượng của tội Ưng Đối Trị, nằm chung với người chưa thọ cụ túc giới ở đó, và mặt trời lặn vào ngày thứ tư. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) về lông cừu Eḷaka.

Paṭhamasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới ngủ chung thứ nhất đã chấm dứt.

6. Dutiyasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā
6. Giải Thích Học Giới Ngủ Chung Thứ Hai

Chaṭṭhe mātugāmenāti antamaso tadahujātāyapi manussitthiyā. Dissamānarūpā pana yakkhipetiyo paṇḍako methunavatthubhūtā ca tiracchānitthiyo idha dukkaṭavatthukā honti.
Ở điều thứ sáu, với người nữ có nghĩa là cho đến cả người nữ vừa mới sinh trong ngày. Còn những dạ xoa nữ, ngạ quỷ nữ, người bán nam bán nữ, và thú vật cái là đối tượng của sự giao hợp, có hình dạng thấy được, ở đây là đối tượng của tội Tác Ác.

Sāvatthiyaṃ āyasmantaṃ anuruddhattheraṃ ārabbha mātugāmena sahaseyyavatthusmiṃ paññattaṃ, sesaṃ anantarasikkhāpade vuttanayeneva veditabbaṃ aññatra rattiparicchedā, tatra hi catutthadivase āpatti, idha pana paṭhamadivasepīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Trưởng lão Anuruddha, trong trường hợp ngủ chung với người nữ. Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới ngay trước đó, chỉ khác về giới hạn đêm. Ở đó, tội phạm vào ngày thứ tư, còn ở đây thì ngay cả vào ngày đầu tiên.

Dutiyasahaseyyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới ngủ chung thứ hai đã chấm dứt.

7. Dhammadesanāsikkhāpadavaṇṇanā
7. Giải Thích Học Giới Thuyết Pháp

Sattame uttarichappañcavācāhītiettha eko gāthāpādo ekā vācāti evaṃ sabbattha vācāpamāṇaṃ veditabbaṃ. Dhammaṃ deseyyāti padasodhammasikkhāpade vuttalakkhaṇaṃ dhammaṃ vā aṭṭhakathādhammaṃ vā bhāseyya. Aññatra viññunā purisaviggahenāti vinā viññunā purisena. Manussaviggahaṃ gahetvā ṭhitena pana yakkhena vā petena vā tiracchānena vā saddhiṃ ṭhitāyapi dhammaṃ desetuṃ na vaṭṭati. Pācittiyanti dutiyāniyate vuttalakkhaṇena manussena vinā viññumanussitthiyā channaṃ vācānaṃ upari padādivasena dhammaṃ desentassa padādigaṇanāya, bahūnaṃ desayato mātugāmagaṇanāya ca pācittiyaṃ.
Ở điều thứ bảy, trong câu hơn sáu năm lời nói, ở mọi nơi, mức độ của lời nói nên được hiểu là một câu kệ là một lời nói. Thuyết pháp có nghĩa là nói giáo pháp có đặc tính đã được nói trong học giới dạy pháp từng câu, hoặc giáo pháp chú giải. Trừ khi có người nam hiểu biết có nghĩa là không có người nam hiểu biết. Không được thuyết pháp cho người nữ đang đứng chung với dạ xoa, ngạ quỷ, hoặc thú vật mang hình dạng người. Ưng Đối Trị có nghĩa là khi thuyết pháp cho người nữ hiểu biết mà không có người nam có đặc tính đã nói trong điều bất định thứ hai, trên sáu lời nói, thì bị Ưng Đối Trị theo số câu, vần; và khi thuyết cho nhiều người, thì bị Ưng Đối Trị theo số người nữ.

Sāvatthiyaṃ udāyittheraṃ ārabbha mātugāmassa dhammadesanāvatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘aññatra viññunā’’ti ayamettha anupaññatti, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, amātugāme mātugāmasaññino vematikassa vā yakkhipetipaṇḍakamanussaviggahatiracchānitthīnaṃ desentassa ca dukkaṭaṃ. Chahi vācāhi, tato vā oraṃ desentassa, vuttalakkhaṇe vā purise sati, sayaṃ vā uṭṭhāya, puna nisīditvā mātugāmassa vā uṭṭhahitvā puna nisinnassa, aññassa vā mātugāmassa desayato, ‘‘dīghanikāyo nāma bhante kimatthiyo’’ti evaṃ pana puṭṭhe sabbampi dīghanikāyaṃ desentassa, aññassatthāya vuccamānaṃ mātugāme suṇante, ummattakādīnañca anāpatti. Vuttalakkhaṇassa dhammassa channaṃ vācānaṃ upari desanā, vuttalakkhaṇo mātugāmo, iriyāpathaparivattābhāvo, kappiyakārakassābhāvo, apañhāvissajjanāti imānettha pañca aṅgāni. Samuṭṭhānādīni padasodhammasadisāneva, kevalaṃ idha kiriyākiriyaṃ hotīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Trưởng lão Udāyi, trong trường hợp thuyết pháp cho người nữ. Câu trừ khi có người hiểu biết là điều chế định bổ sung ở đây. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Khi thuyết pháp cho người không phải là người nữ mà có tưởng là người nữ hoặc nghi ngờ, hoặc thuyết cho dạ xoa nữ, ngạ quỷ nữ, người bán nam bán nữ, thú vật cái mang hình dạng người, thì bị Tác Ác. Không có tội khi thuyết sáu lời nói hoặc ít hơn, hoặc khi có người nam có đặc tính đã nói, hoặc tự mình đứng dậy rồi ngồi xuống lại, hoặc người nữ đứng dậy rồi ngồi xuống lại, hoặc khi thuyết cho người nữ khác; hoặc khi được hỏi “Thưa ngài, Trường Bộ Kinh có ý nghĩa gì?”, rồi thuyết toàn bộ Trường Bộ Kinh; khi người nữ nghe trong lúc đang nói vì lợi ích của người khác; khi nói cho cô ni tu tập sự hoặc Sa-di-ni; và đối với những người điên loạn v.v… Ở đây có năm chi phần này: thuyết pháp có đặc tính đã nói trên sáu lời nói, người nữ có đặc tính đã nói, không thay đổi oai nghi, không có người phục vụ hợp lệ, và không phải là trả lời câu hỏi. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) dạy pháp từng câu, chỉ khác ở đây là có khi là hành động, có khi không phải là hành động.

Dhammadesanāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới thuyết pháp đã chấm dứt.

8. Bhūtārocanasikkhāpadavaṇṇanā
8. Giải Thích Học Giới Tuyên Bố Sự Thật

Aṭṭhame uttarimanussadhammanti catutthapārājike vuttalakkhaṇaṃ uttarimanussānaṃ jhāyīnañceva ariyānañca dhammaṃ. Bhūtasmiṃ pācittiyanti attani jhānādidhamme sati taṃ bhikkhuñca bhikkhuniñca ṭhapetvā aññassa ārocayato pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tám, pháp thượng nhân là pháp của bậc thượng nhân, tức là của những người hành thiền và các bậc Thánh, có đặc tính đã được nói trong điều Bất Cộng Trụ thứ tư. Bị Ưng Đối Trị khi có thật có nghĩa là khi có pháp thiền định v.v… nơi mình, mà nói cho người khác biết, trừ Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni, thì bị Ưng Đối Trị.

Vesāliyaṃ vaggumudātīriye bhikkhū ārabbha tesaṃ bhūtārocanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti , anāṇattikaṃ, nippariyāyena attani vijjamānaṃ jhānādidhammaṃ ārocentassa sace yassa āroceti, so anantarameva ‘‘ayaṃ jhānalābhī’’ti vā ‘‘ariyo’’ti vā yena kenaci ākārena tamatthaṃ jānāti, pācittiyaṃ. No ce jānāti, dukkaṭaṃ. Pariyāyena ārocitaṃ pana jānātu vā, mā vā, dukkaṭameva. Tathārūpe kāraṇe sati upasampannassa ārocayato, ādikammikassa ca anāpatti. Yasmā pana ariyānaṃ ummattakādibhāvo natthi, jhānalābhino pana tasmiṃ sati jhānā parihāyanti, tasmā te idha na gahitā. Uttarimanussadhammassa bhūtatā, anupasampannassa ārocanaṃ, taṅkhaṇavijānanā, anaññāpadesoti imānettha cattāri aṅgāni. Bhūtārocanasamuṭṭhānaṃ, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, kusalābyākatacittehi dvicittaṃ, sukhamajjhattavedanāhi dvivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Vesālī, liên quan đến các Tỳ-khưu ở bờ sông Vaggumudā, trong trường hợp họ tuyên bố sự thật. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Khi tuyên bố pháp thiền định v.v… có nơi mình một cách không ngụ ý, nếu người được nghe biết ngay rằng “vị này là người đắc thiền” hoặc “là bậc Thánh” bằng bất kỳ cách nào, thì bị Ưng Đối Trị. Nếu không biết, thì bị Tác Ác. Còn việc tuyên bố một cách ngụ ý, dù người kia biết hay không, cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội khi tuyên bố cho người đã thọ cụ túc giới khi có lý do thích hợp, và đối với người phạm lần đầu. Vì các bậc Thánh không bị điên loạn v.v…, còn những người đắc thiền thì khi bị như vậy, thiền định sẽ bị thoái hóa, do đó họ không được tính ở đây. Ở đây có bốn chi phần này: pháp thượng nhân là có thật, tuyên bố cho người chưa thọ cụ túc giới, biết được ngay lúc đó, và không ám chỉ. Pháp sanh khởi của việc tuyên bố sự thật là do hành động, không phải do tưởng, không có tâm, là tội chế định, là nghiệp của thân, nghiệp của lời nói, do hai loại tâm thiện và vô ký, và hai loại cảm thọ là lạc và xả.

Bhūtārocanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới tuyên bố sự thật đã chấm dứt.

9. Duṭṭhullārocanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Giải Thích Học Giới Tố Cáo Tội Thô

Navame bhikkhussāti pārājikaṃ anajjhāpannassa. Duṭṭhullanti kiñcāpi dvinnaṃ āpattikkhandhānametaṃ adhivacanaṃ, idha pana saṅghādisesameva adhippetaṃ. Aññatra bhikkhusammutiyāti yaṃ saṅgho abhiṇhāpattikassa bhikkhuno āyatiṃ saṃvaratthāya āpattīnañca kulānañca pariyantaṃ katvā vā akatvā vā tikkhattuṃ apaloketvā katikaṃ karoti, taṃ ṭhapetvā, ayathākatikāya ‘‘ayaṃ asuciṃ mocetvā saṅghādisesaṃ āpanno’’tiādinā nayena vatthunā saddhiṃ āpattiṃ ghaṭetvā ārocentassa pācittiyaṃ.
Ở điều thứ chín, của Tỳ-khưu có nghĩa là của người không phạm tội Bất Cộng Trụ. Tội thô tuy là tên gọi chung cho hai nhóm tội, nhưng ở đây chỉ muốn nói đến tội Tăng Tàn. Trừ khi được Tăng chúng đồng thuận có nghĩa là trừ trường hợp Tăng chúng, vì muốn Tỳ-khưu thường xuyên phạm tội tự kiềm chế trong tương lai, sau khi đã công bố ba lần, dù có giới hạn hay không giới hạn tội lỗi và gia đình, mà đưa ra quyết định; khi tố cáo bằng cách gán tội cùng với sự việc, như “vị này đã xuất tinh nên phạm tội Tăng Tàn” v.v… một cách không đúng với quyết định, thì bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha duṭṭhullāpattiārocanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ , aduṭṭhullāya duṭṭhullasaññino vematikassa vā dukkaṭaṃ, avasese cha āpattikkhandhe, anupasampannassa purimapañcasikkhāpadavītikkamasaṅkhātaṃ duṭṭhullaṃ vā itaraṃ aduṭṭhullaṃ vā ajjhācāraṃ ārocentassāpi dukkaṭameva. Vatthumattaṃ vā āpattimattaṃ vā ārocentassa, bhikkhusammutiparicchedaṃ anatikkamitvā ārocentassa, ummattakādīnañca anāpatti. Vuttalakkhaṇassa bhikkhuno savatthuko saṅghādiseso, anupasampannassa ārocanaṃ, bhikkhusammutiyā abhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, vedanā pana idha dukkhāyevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp tố cáo tội thô. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với tội không phải là tội thô mà có tưởng là tội thô hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Việc tố cáo sáu nhóm tội còn lại, hoặc tội thô hay không thô của người chưa thọ cụ túc giới, tương đương với việc vi phạm năm học giới đầu tiên, cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội khi chỉ tố cáo sự việc hoặc chỉ tố cáo tội, khi tố cáo không vượt quá giới hạn đồng thuận của Tỳ-khưu, và đối với những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: tội Tăng Tàn có sự việc của Tỳ-khưu có đặc tính đã nói, tố cáo cho người chưa thọ cụ túc giới, và không có sự đồng thuận của Tỳ-khưu. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng ở đây cảm thọ chỉ là khổ.

Duṭṭhullārocanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới tố cáo tội thô đã chấm dứt.

10. Pathavīkhaṇanasikkhāpadavaṇṇanā
10. Giải Thích Học Giới Đào Đất

Dasame pathavinti duvidhā pathavī jātapathavī ajātapathavīti. Tattha jātapathavī suddhamissapuñjavasena tividhā, tattha suddhapathavī nāma pakatiyā suddhapaṃsu vā suddhamattikā vā. Missapathavī nāma yattha paṃsuto vā mattikāto vā pāsāṇasakkharakathalamarumbavālukāsu aññatarassa tatiyabhāgo hoti. Puñjapathavī nāma ‘‘atirekacātumāsaṃ ovaṭṭho paṃsupuñjo vā mattikāpuñjo vā’’ti (pāci. 86) vuttaṃ, vuttalakkhaṇena pana missakapuñjopi piṭṭhipāsāṇe ṭhitasukhumarajampi ca deve phusāyante sakiṃ tintaṃ catumāsaccayena tintokāso puñjapathavisaṅkhameva gacchati. Tividhāpi cesā pathavī uddhanapattapacanādivasena vā yathā tathā vā adaḍḍhā ‘jātapathavī’ti vuccati, daḍḍhā pana vuttappamāṇato adhikatarapāsāṇādimissā vā ajātapathavī nāma hoti, ko pana vādo suddhapāsāṇādibhedāya. Tattha yā ‘jātapathavī’ti vuttā, ayaṃ akappiyapathavī. Yo bhikkhu taṃ evarūpaṃ pathaviṃ sayaṃ khaṇati, khaṇanabhedanavilekhanapacanādīhi vikopeti, tassa payogagaṇanāya pācittiyaṃ. Yo pana khaṇāpeti, vuttanayeneva vikopāpeti, tassa ‘‘imaṃ padesa’’nti vā ‘‘imaṃ pathavi’’nti vā evaṃ niyametvā ‘‘khaṇa, bhindā’’tiādinā nayena āṇāpentassa āṇattiyā dukkaṭaṃ, sakiṃ āṇatte divasampi khaṇante āṇāpakassa ekameva pācittiyaṃ, sace itaro punappunaṃ āṇāpeti, vācāya vācāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười, đất có hai loại: đất sinh trưởng và đất không sinh trưởng. Trong đó, đất sinh trưởng có ba loại: đất thuần, đất pha trộn, và đất đống. Ở đây, đất thuần là đất bụi hoặc đất sét tự nhiên. Đất pha trộn là nơi có một phần ba là đá, sỏi, gạch, sạn, hoặc cát so với bụi hoặc đất sét. Đất đống được nói là “đống bụi hoặc đống đất sét đã bị mưa xối hơn bốn tháng” (pāci. 86). Nhưng đống đất pha trộn có đặc tính đã nói, cả bụi mịn trên tảng đá, và nơi đã ướt sau bốn tháng khi trời mưa nhỏ giọt, cũng được xếp vào loại đất đống. Cả ba loại đất này, nếu chưa bị nung bằng cách nấu nướng v.v… hoặc bằng bất kỳ cách nào, được gọi là ‘đất sinh trưởng’. Còn đất đã bị nung, hoặc pha trộn với đá v.v… nhiều hơn mức đã nói, được gọi là đất không sinh trưởng, huống chi là loại đất bị phân chia thành đá thuần v.v… Ở đó, loại đất được gọi là ‘đất sinh trưởng’ là đất không hợp lệ. Tỳ-khưu nào tự mình đào, hoặc làm hư hại loại đất như vậy bằng cách đào, phá, cào, nung v.v…, thì bị Ưng Đối Trị theo số lần thực hiện. Còn người nào sai bảo đào, hoặc sai bảo làm hư hại theo cách đã nói, khi ra lệnh bằng cách chỉ định “chỗ này” hoặc “đất này” rồi nói “đào đi, phá đi” v.v…, thì bị Tác Ác do ra lệnh. Khi đã ra lệnh một lần, dù người kia đào cả ngày, người ra lệnh cũng chỉ bị một tội Ưng Đối Trị. Nếu người kia ra lệnh nhiều lần, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lời nói.

Āḷaviyaṃ āḷavake bhikkhū ārabbha pathavikhaṇanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, sāṇattikaṃ, pathaviyā vematikassa, apathaviyā pathavisaññino ceva vematikassa ca dukkaṭaṃ. Okāsaṃ aniyametvā ‘‘pokkharaṇiṃ khaṇa, āvāṭaṃ khaṇa, kandaṃ khaṇā’’tiādīni bhaṇantassa, ātapena sussitvā phalitakaddamaṃ vā gokaṇṭakaṃ vā heṭṭhā pathaviyā asambaddhaṃ bhijjitvā patitanaditaṭaṃ vā mahantampi naṅgalacchinnamattikāpiṇḍantievamādīni sabbañca ajātapathaviṃ vikopentassa, ‘‘imassa thambhassa āvāṭaṃ jāna , mattikaṃ dehi, mattikaṃ āhara, paṃsunā me attho, mattikaṃ kappiyaṃ karohī’’ti bhaṇantassa, asañcicca rukkhādipavaṭṭanena bhindantassa, asatiyā pādaṅguṭṭhakādīhi vilekhantassa, jātapathavibhāvaṃ vā, ‘‘khaṇāmi vā aha’’nti ajānantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Jātapathavī, pathavisaññitā, khaṇanakhaṇāpanānaṃ aññataranti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana paṇṇattivajjaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Āḷavī, liên quan đến các Tỳ-khưu Āḷavaka, trong trường hợp đào đất. Đây là điều chế định chung, có thể do yêu cầu. Đối với đất mà nghi ngờ, và đối với không phải đất mà có tưởng là đất hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người nói “đào hố sen, đào hố, đào củ” v.v… mà không chỉ định nơi chốn; người làm vỡ đất bùn khô nứt vì nắng, hoặc phân bò, không dính liền với đất bên dưới, hoặc bờ sông bị sạt lở, hoặc cả tảng đất lớn bị cày xới, và làm hư hại tất cả đất không sinh trưởng; người nói “hãy biết chỗ cắm cọc này, cho tôi đất sét, mang đất sét đến, tôi cần bụi, hãy làm cho đất sét hợp lệ”; người làm vỡ đất do vô ý làm ngã cây v.v…; người cào bằng ngón chân cái v.v… một cách vô ý; người không biết đó là đất sinh trưởng hoặc “tôi đang đào”; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là đất sinh trưởng, có tưởng là đất, và một trong hai việc đào hoặc sai bảo đào. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này là tội chế định, có ba loại tâm, và ba loại cảm thọ.

Pathavīkhaṇanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới đào đất đã chấm dứt.

Musāvādavaggo paṭhamo.
Phẩm Nói Dối là phẩm thứ nhất.

2. Bhūtagāmavaggo
2. Phẩm Thực Vật

1. Bhūtagāmasikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải Thích Học Giới Thực Vật

Bhūtagāmavaggassa paṭhame bhūtagāmapātabyatāyāti ettha bhavanti ahesuñcāti bhūtā, jāyanti vaḍḍhanti jātā vaḍḍhitā cāti attho. Gāmoti rāsi, bhūtānaṃ gāmo, bhūtā eva vā gāmoti bhūtagāmo, patiṭṭhitaharitatiṇarukkhādīnametaṃ adhivacanaṃ. Pātabyassa bhāvo pātabyatā, chedanabhedanādīhi yathāruci paribhuñjitabbatāti attho, tassaṃ bhūtagāmapātabyatāya, nimittatthe cetaṃ bhummavacanaṃ, bhūtagāmapātabyatāhetu bhūtagāmassa chedanādipaccayā pācittiyanti attho. Tasmā yo bhikkhu pathaviudakapākārādīsu yatthakatthaci jātaṃ asukkhaṃ antamaso atisukhumatiṇampi sāsapabījakasevālampi uddharaṇacchedanavijjhanādīhi vikopeti vā pathavikhaṇane vuttanayena vikopāpeti vā pācittiyaṃ āpajjati.
Ở điều đầu tiên của phẩm Thực Vật, trong câu về việc hủy hoại các loài thực vật, ở đây, thực vật là những gì đang hiện hữu và đã hiện hữu, có nghĩa là chúng sinh ra và lớn lên, đã sinh ra và đã lớn lên. Quần thể là một tập hợp; quần thể của thực vật, hoặc thực vật chính là quần thể, nên gọi là quần thể thực vật. Đây là tên gọi chung cho các loại cỏ cây xanh tươi đã mọc. Trạng thái có thể bị hủy hoại là sự hủy hoại, có nghĩa là có thể sử dụng tùy ý bằng cách cắt, phá v.v… Trong việc hủy hoại các loài thực vật đó, đây là cách dùng sở thuộc cách với ý nghĩa là nhân duyên, có nghĩa là do nhân duyên hủy hoại các loài thực vật, do điều kiện cắt phá quần thể thực vật mà bị Ưng Đối Trị. Do đó, Tỳ-khưu nào làm hư hại hoặc sai bảo làm hư hại theo cách đã nói trong học giới đào đất, dù là cỏ rất nhỏ, hạt cải, hoặc rong rêu, chưa khô, mọc ở bất cứ đâu trên đất, nước, tường v.v…, bằng cách nhổ, cắt, đâm v.v…, thì phạm tội Ưng Đối Trị.

Āḷaviyaṃ āḷavake bhikkhū ārabbha rukkhachindanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, sāṇattikaṃ, bhūtagāmato viyojitamūlabījakhandhabījaphalubījaaggabījabījabījānaṃ aññataraṃ bhājanagataṃ vā rāsikataṃ vā bhūmiyaṃ ropitampi nikkhantamūlamattaṃ vā nikkhantaaṅkuramattaṃ vā sacepissa vidatthimattā pattavaṭṭi niggacchati, anikkhante vā mūle nikkhante vā mūle yāva aṅkuro harito na hoti, tāva taṃ vikopentassa dukkaṭaṃ, tathā bhūtagāmabījagāme vematikassa, abhūtagāmabījagāme bhūtagāmabījagāmasaññino ceva vematikassa ca. Ubhayattha pana atathāsaññissa, ummattakādīnañca anāpatti, asañcicca asatiyā ajānitvā vā vikopentassa, ‘imaṃ rukkha’nti evaṃ aniyametvā ‘‘rukkhaṃ chinda, valliṃ chindā’’tiādīni bhaṇantassa, ‘‘imaṃ pupphaṃ vā phalaṃ vā jāna, imaṃ dehi, imaṃ āhara, iminā me attho, imaṃ kappiyaṃ karohī’’ti bhaṇantassa ca anāpatti. Evaṃ kappiyavacanena bhūtagāmato viyojitaṃ pana bījajātaṃ puna pi ‘‘kappiyaṃ karohī’’ti kāretvāva paribhuñjitabbaṃ. Evañhissa bījagāmaparimocanampi kataṃ hoti.
(Học giới này) được chế định ở Āḷavī, liên quan đến các Tỳ-khưu Āḷavaka, trong trường hợp chặt cây. Đây là điều chế định chung, có thể do yêu cầu. Việc làm hư hại một trong các loại hạt giống như hạt từ rễ, hạt từ thân, hạt từ quả, hạt từ ngọn, và hạt từ hạt, đã được tách khỏi thực vật, được đặt trong vật chứa, hoặc được chất thành đống, hoặc được trồng trên đất, chỉ mới ra rễ, hoặc chỉ mới ra mầm, hoặc dù lá đã mọc ra bằng một gang tay, hoặc khi rễ chưa mọc hoặc đã mọc nhưng mầm chưa xanh, thì bị Tác Ác. Tương tự, khi nghi ngờ về hạt của thực vật và hạt giống, và khi không phải là hạt của thực vật và hạt giống mà có tưởng là hạt của thực vật và hạt giống hoặc nghi ngờ, cũng vậy. Nhưng ở cả hai trường hợp, người có tưởng không đúng, và những người điên loạn v.v… thì không có tội. Không có tội đối với người làm hư hại do vô ý, vô niệm, hoặc không biết; người nói “chặt cây, chặt dây leo” v.v… mà không chỉ định “cây này”; người nói “hãy biết hoa này hoặc quả này, cho tôi cái này, mang cái này đến, tôi cần cái này, hãy làm cho cái này hợp lệ”. Nhưng hạt giống đã được tách khỏi thực vật bằng lời nói hợp lệ, phải được làm cho hợp lệ lại bằng cách nói “hãy làm cho hợp lệ” rồi mới được sử dụng. Như vậy, việc giải thoát hạt giống cũng được thực hiện.

Kappiyaṃ karontena pana agginā vā nakhena vā satthena vā kattabbaṃ, agginā karontena ca yena kenaci agginā ekadese phusantena ‘kappiya’nti vatvāva kātabbaṃ. Satthena karontena yassa kassaci tikhiṇasatthassa antamaso sūcinakhacchedanādīnampi tuṇḍena vā dhārāya vā vedhaṃ vā chedaṃ vā dassentena tatheva kātabbaṃ. Nakhena karontena ṭhapetvā gomahiṃsādīnaṃ khure yena kenaci apūtinā manussānaṃ vā tiracchānānaṃ vā nakhena antamaso chinditvā āhaṭenāpi satthe vuttanayeneva kātabbaṃ. Tattha sacepi bījānaṃ pabbatamatto rāsi, rukkhasahassaṃ vā chinditvā ekābaddhaṃ, ucchūnaṃ vā mahābhāro bandhitvā ṭhapito hoti, ekasmiṃ bīje vā rukkhasākhāya vā ucchumhi vā kappiye kate sabbaṃ kataṃ hoti. Ucchuṃ ‘‘kappiyaṃ karissāmī’’ti tehi saddhiṃ baddhaṃ dārukaṃ vijjhati, vaṭṭatiyeva. Sace pana yāya valliyā bhāro baddho, taṃ vijjhati, na vaṭṭati. Maricapakkādīhi missetvā bhattaṃ āharanti, ‘‘kappiyaṃ karohī’’ti vutte sacepi bhattasitthe vijjhati, vaṭṭatiyeva, tilataṇḍulesupi eseva nayo. Yāguyā pakkhittāni pana ekābaddhāni hutvā na santiṭṭhanti, tattha ekekaṃ vijjhitvāva kātabbaṃ. Kapiṭṭhaphalādīnaṃ anto miñjaṃ kaṭāhaṃ muñcitvā sañcarati, bhindāpetvā kappiyaṃ kāretabbaṃ. Ekābaddhā ce, kaṭāhepi kātuṃ vaṭṭati. Yaṃ pana phalaṃ taruṇaṃ hoti abījaṃ yañca nibbattabījaṃ bījaṃ apanetvā paribhuñjitabbaṃ, tattha kappiyakaraṇakiccaṃ natthi. Bhūtagāmo, bhūtagāmasaññitā, vikopanaṃ vā vikopāpanaṃ vāti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni pathavikhaṇanasadisānevāti.
Người làm cho hợp lệ thì phải làm bằng lửa, bằng móng tay, hoặc bằng dao. Người làm bằng lửa thì phải chạm vào một phần bằng bất kỳ loại lửa nào và nói ‘hợp lệ’ rồi mới làm. Người làm bằng dao thì phải làm như vậy bằng cách rạch hoặc cắt bằng mũi hoặc lưỡi của bất kỳ con dao sắc nào, cho đến cả kim, vật cắt móng tay. Người làm bằng móng tay thì phải làm theo cách đã nói đối với dao, bằng móng tay không dơ của người hoặc thú vật, trừ móng của bò, trâu, v.v…, cho đến cả móng đã được cắt và mang đến. Ở đó, dù có một đống hạt giống lớn như núi, hoặc một ngàn cây bị chặt và buộc lại với nhau, hoặc một bó mía lớn được buộc và đặt, khi một hạt giống, một cành cây, hoặc một cây mía được làm cho hợp lệ, thì tất cả đều được làm cho hợp lệ. Khi nói “tôi sẽ làm cho mía hợp lệ” mà đâm vào khúc gỗ buộc chung với chúng, cũng được phép. Nhưng nếu đâm vào sợi dây buộc bó mía, thì không được phép. Khi mang cơm trộn với ớt v.v… đến, khi được nói “hãy làm cho hợp lệ”, nếu đâm vào hạt cơm, cũng được phép. Đối với hạt mè và gạo cũng theo cách này. Nhưng những thứ được cho vào cháo thì không dính liền với nhau, ở đó phải đâm từng cái một. Khi hột bên trong quả táo v.v… di chuyển trong vỏ, phải sai bảo phá vỡ rồi làm cho hợp lệ. Nếu chúng dính liền với nhau, cũng có thể làm trong vỏ. Còn quả nào còn non, chưa có hạt, và quả nào đã có hạt nhưng phải bỏ hạt đi rồi mới ăn, thì không cần phải làm cho hợp lệ. Ở đây có ba chi phần này: là thực vật, có tưởng là thực vật, và một trong hai việc làm hư hại hoặc sai bảo làm hư hại. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới đào đất.

Bhūtagāmasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới thực vật đã chấm dứt.

2. Aññavādakasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giải Thích Học Giới Nói Lời Khác

Dutiye yamatthaṃ saṅghamajjhe vinayadharo pucchati, tato aññaṃ vadatīti aññavādako, aññenaññaṃ paṭicaraṇassetaṃ nāmaṃ. Vihesatīti vihesako, tuṇhībhāvassetaṃ nāmaṃ, tasmiṃ aññavādake vihesake. Pācittiyanti vatthudvaye pācittiyadvayaṃ vuttaṃ. Tasmā yo bhikkhu sāvasesaṃ āpattiṃ āpanno saṅghamajjhe anuyuñjiyamāno taṃ na kathetukāmo aññena vacanena aññaṃ chādento tathā tathā vikkhipati, yo ca tuṇhībhāvena viheseti, tesaṃ yaṃ bhagavatā aññavādakakammañceva vihesakakammañca anuññātaṃ, tasmiṃ saṅghena kate puna tathā karontānaṃ pācittiyaṃ.
Ở điều thứ hai, người nói lời khác với điều mà vị thông luật hỏi giữa Tăng chúng được gọi là người nói lời khác, đây là tên gọi cho việc trả lời loanh quanh. Người gây phiền nhiễu được gọi là người gây phiền nhiễu, đây là tên gọi cho sự im lặng. Trong trường hợp người nói lời khác, người gây phiền nhiễu. Ưng Đối Trị có nghĩa là hai tội Ưng Đối Trị đã được nói trong hai trường hợp. Do đó, Tỳ-khưu nào đã phạm tội còn sót lại, khi bị thẩm vấn giữa Tăng chúng, không muốn nói ra điều đó, che giấu bằng lời nói khác, loanh quanh như vậy, và người nào gây phiền nhiễu bằng sự im lặng, khi Tăng chúng đã thực hiện nghiệp đối với họ như đã được Đức Phật cho phép, là nghiệp đối với người nói lời khác và nghiệp đối với người gây phiền nhiễu, nếu họ lại làm như vậy, thì bị Ưng Đối Trị.

Kosambiyaṃ channattheraṃ ārabbha aññenaññaṃ paṭicaraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, dhammakamme tikapācittiyaṃ, adhammakamme tikadukkaṭaṃ, anāropite pana aññavādake vā vihesake vā tathā karontassa dukkaṭameva. Āpattiṃ āpannabhāvaṃ vā ajānantassa ‘‘kiṃ tumhe bhaṇathā’’ti pucchato, gelaññena vā, ‘‘saṅghassa bhaṇḍanādīni vā bhavissanti, adhammena vā vaggena vā nakammārahassa vā kammaṃ karissantī’’ti iminā adhippāyena na kathentassa, ummattakādīnañca anāpatti. Dhammakammena āropitatā, āpattiyā vā vatthunā vā anuyuñjiyamānatā, chādetukāmatāya aññenaññaṃ paṭicaraṇaṃ vā tuṇhībhāvo vāti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana siyā kiriyaṃ, siyā akiriyaṃ, dukkhavedanañca hotīti.
(Học giới này) được chế định ở Kosambī, liên quan đến Trưởng lão Channa, trong trường hợp trả lời loanh quanh. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Đối với việc làm đúng pháp, thì bị ba tội Ưng Đối Trị; đối với việc làm không đúng pháp, thì bị ba tội Tác Ác. Còn khi chưa bị tuyên bố là người nói lời khác hoặc người gây phiền nhiễu, nếu làm như vậy thì chỉ bị Tác Ác. Không có tội đối với người hỏi “các vị nói gì vậy?” vì không biết mình đã phạm tội; người không nói vì lý do bệnh tật, hoặc với ý định rằng “Tăng chúng sẽ có sự cãi vã v.v…, hoặc họ sẽ làm nghiệp không đúng pháp, theo phe phái, hoặc cho người không đáng nhận nghiệp”; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: bị tuyên bố bằng việc làm đúng pháp, bị thẩm vấn về tội hoặc sự việc, và trả lời loanh quanh hoặc im lặng vì muốn che giấu. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này có khi là hành động, có khi không phải là hành động, và có cảm thọ khổ.

Aññavādakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới nói lời khác đã chấm dứt.

3. Ujjhāpanakasikkhāpadavaṇṇanā
3. Giải Thích Học Giới Chê Bai

Tatiye yena vacanena ujjhāpenti ‘‘chandāya itthannāmo idaṃ nāma karotī’’tiādīni vadantā upasampannaṃ saṅghena sammataṃ senāsanapaññāpakādibhedaṃ tassa ayasakāmā hutvā bhikkhūhi avajānāpenti, avaññāya olokāpenti, lāmakato vā cintāpenti, taṃ vacanaṃ ujjhāpanakaṃ. Yena ca tatheva vadantā khiyyanti, sabbattha tassa avaṇṇaṃ pakāsenti, taṃ khiyyanakaṃ, tasmiṃ ujjhāpanake khiyyanake. Pācittiyanti vatthudvaye pācittiyadvayaṃ vuttaṃ. Tasmā yo sammatassa bhikkhuno ayasakāmatāya upasampannassa vadanto ujjhāpeti vā khiyyati vā, tassa pācittiyaṃ hoti.
Ở điều thứ ba, lời nói mà người ta dùng để chê bai, như nói “người tên này làm việc này vì thiên vị” v.v…, đối với người đã thọ cụ túc giới được Tăng chúng chấp thuận trong việc phân chia trú xứ v.v…, với ý muốn làm cho người đó mất uy tín, làm cho các Tỳ-khưu coi thường, xem thường, hoặc nghĩ xấu, lời nói đó được gọi là lời chê bai. Và lời nói mà người ta dùng để khinh miệt, nói xấu ở khắp mọi nơi, được gọi là lời khinh miệt. Trong trường hợp lời chê bai, lời khinh miệt. Ưng Đối Trị có nghĩa là hai tội Ưng Đối Trị đã được nói trong hai trường hợp. Do đó, vị nào nói lời chê bai hoặc khinh miệt người đã được chấp thuận với ý muốn làm cho người đó mất uy tín, đối với người đã thọ cụ túc giới, thì vị đó bị Ưng Đối Trị.

Rājagahe mettiyabhūmajake bhikkhū ārabbha ujjhāpanakhiyyanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, yaṃ tassa upasampannassa sammutikammaṃ kataṃ, tasmiṃ dhammakamme tikapācittiyaṃ, adhammakamme tikadukkaṭaṃ, anupasampannassa pana santike tathā bhaṇantassa, asammatassa ca avaṇṇaṃ yassa kassaci santike bhaṇantassa, anupasampannassa pana sammatassa vā asammatassa vā avaṇṇaṃ yassa kassacideva santike bhaṇantassa ca dukkaṭameva. Pakatiyāva chandādivasena karontaṃ ujjhāpentassa vā khiyyantassa vā, ummattakādīnañca anāpatti. Dhammakammena sammatatā, upasampannatā, agatigamanābhāvo, tassa avaṇṇakāmatā, yassa santike vadati, tassa upasampannatā, ujjhāpanaṃ vā khiyyanaṃ vāti imānettha cha aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedanamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Rājagaha, liên quan đến các Tỳ-khưu Mettiya và Bhūmajaka, trong trường hợp chê bai và khinh miệt. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Đối với việc chấp thuận đúng pháp của người đã thọ cụ túc giới đó, thì bị ba tội Ưng Đối Trị; đối với việc chấp thuận không đúng pháp, thì bị ba tội Tác Ác. Còn việc nói như vậy trước mặt người chưa thọ cụ túc giới, hoặc nói xấu người chưa được chấp thuận trước mặt bất kỳ ai, hoặc nói xấu người chưa thọ cụ túc giới, dù được chấp thuận hay không, trước mặt bất kỳ ai, cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội đối với người chê bai hoặc khinh miệt người vốn dĩ làm việc vì thiên vị v.v…, và những người điên loạn v.v… Ở đây có sáu chi phần này: được chấp thuận bằng việc làm đúng pháp, là người đã thọ cụ túc giới, không đi theo đường tà, có ý muốn nói xấu người đó, người nghe là người đã thọ cụ túc giới, và chê bai hoặc khinh miệt. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này chỉ có cảm thọ khổ.

Ujjhāpanakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới chê bai đã chấm dứt.

4. Paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā
4. Giải Thích Học Giới Trú Xứ Thứ Nhất

Catutthe saṅghikanti saṅghassa santakaṃ. Mañcādīsu yokoci mañcasaṅkhepena kato sabbopi mañcoyeva, pīṭhepi eseva nayo. Yena kenaci pana coḷena vā kappiyacammena vā chaviṃ katvā ṭhapetvā manussalomaṃ tālīsapattañca yehi kehici lomapaṇṇatiṇavākacoḷehi pūretvā katasenāsanaṃ bhisīti vuccati. Tattha nisīditumpi nipajjitumpi vaṭṭati, pamāṇaparicchedopi cettha natthi. Kocchaṃ pana vākausīramuñjapabbajādīnaṃ aññataramayaṃ anto saṃvellitvā baddhaṃ heṭṭhā ca upari ca vitthataṃ paṇavasaṇṭhānaṃ majjhe sīhacammādiparikkhittaṃ hoti, akappiyacammaṃ nāmettha natthi. Senāsanañhi sovaṇṇamayampi vaṭṭati. Ajjhokāseti ettha ye avassikasaṅketā vassānamāsāti evaṃ asaññitā aṭṭha māsā, te ṭhapetvā itaresu catūsu māsesu sacepi devo na vassati. Tathāpi pakatiajjhokāse ca ovassakamaṇḍape ca santharituṃ na vaṭṭati. Yattha pana hemante vassati, tattha aparepi cattāro māse na vaṭṭati. Gimhe pana sabbattha vigatavalāhakaṃ visuddhaṃ nabhaṃ hoti, tasmā tadā kenacideva karaṇīyena gacchati, vaṭṭati. Kākādīnaṃ nibaddhavāsarukkhamūle pana kadācipi na vaṭṭati. Iti yattha ca yadā ca santharituṃ na vaṭṭati, taṃ sabbamidha ajjhokāsasaṅkhameva gatanti veditabbaṃ.
Ở điều thứ tư, thuộc Tăng chúng là tài sản của Tăng chúng. Trong các loại giường v.v…, bất kỳ loại nào được làm theo hình thức giường, tất cả đều là giường; đối với ghế cũng theo cách này. Trú xứ được làm bằng cách lót một lớp da làm bằng vải hoặc da hợp lệ, trừ lông người và lá tālīsa, rồi nhồi bằng bất kỳ loại lông, lá, cỏ, xơ, hoặc vải nào, được gọi là đệm. Ở đó, có thể ngồi hoặc nằm, và không có giới hạn về kích thước. Còn ghế bện thì được làm bằng một trong các loại như xơ, cỏ usīra, cỏ muñja, cỏ pabbaja v.v…, được cuộn lại bên trong, buộc lại, rộng ở dưới và trên, có hình dạng như trống paṇava, được bọc bằng da sư tử v.v… ở giữa; ở đây không có loại da nào là không hợp lệ. Trú xứ dù làm bằng vàng cũng được phép. Trong câu ngoài trời, tám tháng không được gọi là tháng mùa mưa theo quy ước về nơi ở mùa mưa, trừ những tháng đó, trong bốn tháng còn lại, dù trời không mưa cũng vậy. Tuy nhiên, không được trải ở nơi ngoài trời tự nhiên và ở lều có mưa dột. Nơi nào trời mưa vào mùa đông, thì bốn tháng tiếp theo cũng không được phép. Còn vào mùa hè, bầu trời ở khắp nơi đều quang đãng, không có mây, do đó khi đi vì một việc cần thiết nào đó, thì được phép. Nhưng ở gốc cây nơi quạ v.v… thường trú, thì không bao giờ được phép. Như vậy, nơi nào và lúc nào không được trải, tất cả đều được xếp vào loại ngoài trời ở đây.

Santharitvāti tathārūpe ṭhāne attano vā parassa vā atthāya santharitvā. Aññassatthāya santhatampi hi yāva so tattha na nisīdati, ‘gaccha tva’nti vā na bhaṇati, tāva santhārakasseva bhāro. Santharāpetvāti anupasampannena santharāpetvā. Etadeva hi tassa palibodho hoti, upasampannena santhataṃ santhārakasseva bhāro, tañca kho yāva āṇāpako tattha na nisīdati, ‘gaccha tva’nti vā na bhaṇati. Yasmiñhi attanā santharāpite vā pakatisanthate vā upasampanno nisīdati, sabbaṃ taṃ nisinnasseva bhāro, tasmā santharāpitantveva saṅkhaṃ gacchatiTaṃ pakkamanto neva uddhareyya, na uddharāpeyyāti attanā vā uddharitvā patirūpe ṭhāne na ṭhapeyya, parena vā tathā na kārāpeyya. Anāpucchaṃ vā gaccheyyāti yo bhikkhu vā sāmaṇero vā ārāmiko vā lajjī hoti, attano palibodhaṃ viya maññati, tathārūpaṃ anāpucchitvā taṃ senāsanaṃ tassa aniyyātetvā nirapekkho gacchati, thāmamajjhimassa purisassa leḍḍupātaṃ atikkameyya, tassa ekena pādena leḍḍupātātikkame dukkaṭaṃ, dutiyapādātikkame pācittiyaṃ. Bhojanasālāya ṭhito pana ‘‘asukasmiṃ nāma divāvihāraṭṭhāne paññapetvā gacchāhī’’ti pesetvā tato nikkhamitvā aññattha gacchanto pāduddhārena kāretabbo.
Trải ra có nghĩa là trải ra ở nơi như vậy vì lợi ích của mình hoặc của người khác. Vì dù trải cho người khác, chừng nào người đó chưa ngồi, hoặc chưa nói “ngươi hãy đi đi”, thì gánh nặng vẫn thuộc về người trải. Sai bảo trải ra có nghĩa là sai người chưa thọ cụ túc giới trải ra. Chính điều này là sự ràng buộc của người đó. Trú xứ được người đã thọ cụ túc giới trải ra thì gánh nặng thuộc về người trải, và đó là chừng nào người ra lệnh chưa ngồi, hoặc chưa nói “ngươi hãy đi đi”. Khi người đã thọ cụ túc giới ngồi trên trú xứ do mình sai bảo trải hoặc đã được trải sẵn, tất cả gánh nặng đó đều thuộc về người ngồi, do đó nó được xếp vào loại đã sai bảo trải. Khi rời đi mà không dọn dẹp, cũng không sai bảo dọn dẹp có nghĩa là không tự mình dọn dẹp và đặt ở nơi thích hợp, hoặc không sai người khác làm như vậy. Hoặc đi mà không hỏi có nghĩa là vị Tỳ-khưu, Sa-di, hoặc người phục vụ tự viện nào có lòng hổ thẹn, coi trú xứ đó như là trách nhiệm của mình, nếu đi mà không hỏi người như vậy, không giao lại trú xứ đó cho người ấy, đi một cách vô tâm, vượt qua tầm ném của một người đàn ông có sức khỏe trung bình, thì bị Tác Ác khi một chân vượt qua tầm ném, và bị Ưng Đối Trị khi chân thứ hai vượt qua. Còn người đang đứng trong nhà ăn, sau khi sai bảo “hãy dọn dẹp và đi đến nơi nghỉ ban ngày kia”, rồi rời khỏi đó đi nơi khác, thì phải bị xử lý theo từng bước chân.

Sāvatthiyaṃ sambahule bhikkhū ārabbha santhataṃ anuddharitvā anāpucchaṃ pakkamanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, puggalike tikadukkaṭaṃ, cimilikaṃ vā uttarattharaṇaṃ vā bhūmattharaṇaṃ vā taṭṭikaṃ vā cammakkhaṇḍaṃ vā pādapuñchanaṃ vā phalakapīṭhaṃ vā yaṃ vā panaññaṃ kañci dārubhaṇḍaṃ mattikābhaṇḍaṃ antamaso pattādhārakampi vuttalakkhaṇe ajjhokāse ṭhapetvā gacchantassa dukkaṭameva. Āraññakena pana asati anovassake sabbaṃ rukkhe laggetvāpi yathā vā upacikāhi na khajjati, evaṃ katvāpi gantuṃ vaṭṭati. Abbhokāsikena pana cīvarakuṭikaṃ katvāpi rakkhitabbaṃ. Attano santake, vissāsikapuggalike, uddharaṇādīni katvā gamane, otāpentassa, ‘‘āgantvā uddharissāmī’’ti gacchato, vuḍḍhatarā uṭṭhāpenti, amanusso tattha nisīdati, koci issaro gaṇhāti, sīhādayo taṃ ṭhānaṃ āgantvā tiṭṭhanti, evaṃ senāsanaṃ palibuddhaṃ hoti, tathā palibuddhe vā senāsane, jīvitabrahmacariyantarāyakarāsu āpadāsu vā gacchantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Mañcādīnaṃ saṅghikatā, vuttalakkhaṇe dese santharaṇaṃ vā santharāpanaṃ vā, apalibuddhatā, āpadāya abhāvo, nirapekkhatā, leḍḍupātātikkamoti imānettha cha aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamakathinasadisāneva, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu, trong trường hợp trải ra mà không dọn dẹp, đi mà không hỏi. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với tài sản cá nhân, thì bị ba tội Tác Ác. Việc đặt chiếu, tấm trải trên, tấm trải sàn, tấm lót, miếng da, khăn lau chân, hoặc ghế gỗ, hoặc bất kỳ vật dụng bằng gỗ, vật dụng bằng đất nào, cho đến cả giá để bát, ở nơi ngoài trời có đặc tính đã nói rồi ra đi, cũng chỉ bị Tác Ác. Còn đối với người ở trong rừng, nếu không có mưa, có thể treo tất cả lên cây hoặc làm sao cho mối không ăn được rồi đi. Còn người ở ngoài trời thì phải làm một cái lều bằng y để giữ gìn. Không có tội khi đi sau khi đã dọn dẹp v.v… đối với tài sản của mình, của người thân tín; khi đi vì phải rời bỏ do có sự ràng buộc; khi đi với ý định “tôi sẽ trở về dọn dẹp”; khi các vị trưởng lão sai đứng dậy; khi một người phi nhân ngồi ở đó; khi một người có quyền lực lấy đi; khi sư tử v.v… đến và đứng ở nơi đó; khi trú xứ bị ràng buộc như vậy; khi đi trong trường hợp trú xứ bị ràng buộc hoặc trong những tai nạn gây nguy hiểm đến tính mạng và phạm hạnh; và đối với những người điên loạn v.v… Ở đây có sáu chi phần này: giường v.v… thuộc Tăng chúng, trải hoặc sai bảo trải ở nơi có đặc tính đã nói, không bị ràng buộc, không có tai nạn, vô tâm, và vượt qua tầm ném. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) Kathina đầu tiên, nhưng điều này là hành động không hành động.

Paṭhamasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới trú xứ thứ nhất đã chấm dứt.

5. Dutiyasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā
5. Giải Thích Học Giới Trú Xứ Thứ Hai

Pañcame vihāreti gabbhe vā aññatarasmiṃ vā sabbaparicchanne vuttasenāsane. Seyyanti seyyā nāma bhisī cimilikā uttarattharaṇaṃ bhūmattharaṇaṃ taṭṭikā cammakkhaṇḍo nisīdanaṃ paccattharaṇaṃ tiṇasanthāro paṇṇasanthāroti vuttaṃ. Tattha cimilikā nāma parikammakatāya bhūmiyā vaṇṇānurakkhaṇatthaṃ katā. Uttarattharaṇaṃ nāma mañcapīṭhādīnaṃ upari attharitabbayuttakaṃ paccattharaṇaṃ. Bhūmattharaṇaṃ nāma cimilikāya sati tassā upari, asati suddhabhūmiyaṃ attharitabbā kaṭasārakādi vikati. Taṭṭikā nāma tālapaṇṇādīhi katataṭṭikā. Cammakkhaṇḍo nāma yaṃkiñci cammaṃ, sīhacammādīnañhi pariharaṇeyeva parikkhepo, senāsanaparibhoge pana akappiyacammaṃ nāma natthi. Paccattharaṇaṃ nāma pāvāro kojavoti ettakameva, sesaṃ pākaṭameva. Iti imāsu dasasu seyyāsu ekampi seyyaṃ attano vassaggena gahetvā vuttalakkhaṇe vihāre santharitvā vā santharāpetvā vā yo bhikkhu disaṃgamiko yathā ṭhapitaṃ upacikāhi na khajjati, tathā ṭhapanavasena neva uddhareyya, na uddharāpeyya, purimasikkhāpade vuttanayena anāpucchaṃ vā gaccheyya, tassa parikkhittassa ārāmassa parikkhepaṃ, aparikkhittassa upacāraṃ atikkamantassa paṭhamapāde dukkaṭaṃ, dutiyapāde pācittiyaṃ. Yattha pana upacikāsaṅkā natthi, tato anāpucchāpi gantuṃ vaṭṭati, āpucchanaṃ pana vattaṃ.
Ở điều thứ năm, trong trú xá có nghĩa là trong phòng hoặc trong một trú xứ nào khác được bao bọc hoàn toàn như đã nói. Giường nằm được nói là đệm, chiếu, tấm trải trên, tấm trải sàn, tấm lót, miếng da, tấm ngồi, tấm trải dưới, thảm cỏ, và thảm lá. Ở đó, chiếu là vật được làm để bảo vệ màu sắc của sàn nhà đã được trang trí. Tấm trải trên là tấm trải phù hợp để trải lên trên giường, ghế, v.v… Tấm trải sàn là loại vật liệu dệt như chiếu v.v… được trải lên trên chiếu khi có chiếu, hoặc trên sàn nhà sạch khi không có chiếu. Tấm lót là tấm lót làm bằng lá cọ v.v… Miếng da là bất kỳ loại da nào, vì sự giới hạn chỉ áp dụng cho việc mang theo da sư tử v.v…, còn trong việc sử dụng trú xứ thì không có loại da nào là không hợp lệ. Tấm trải dưới chỉ là áo choàng hoặc thảm len, phần còn lại đã rõ ràng. Như vậy, trong mười loại giường nằm này, nếu Tỳ-khưu nào là người đi xa, sau khi lấy một trong các loại giường nằm này theo thứ tự thọ giới của mình, trải hoặc sai bảo trải trong trú xá có đặc tính đã nói, rồi không dọn dẹp hoặc sai bảo dọn dẹp bằng cách đặt ở nơi mà mối không ăn được như đã được đặt, hoặc đi mà không hỏi theo cách đã nói trong học giới trước, khi vượt qua ranh giới của tu viện có hàng rào, hoặc khu vực phụ cận của tu viện không có hàng rào, thì bị Tác Ác ở bước chân đầu tiên, và bị Ưng Đối Trị ở bước chân thứ hai. Nơi nào không có nghi ngờ về mối, thì có thể đi mà không hỏi, nhưng việc hỏi là một bổn phận.

Sāvatthiyaṃ sattarasavaggiye bhikkhū ārabbha saṅghike vihāre seyyaṃ santharitvā anuddharitvā anāpucchā pakkamanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, puggalike tikadukkaṭaṃ, vuttalakkhaṇassa pana vihārassa upacāre bahi āsanne upaṭṭhānasālāya vā aparicchannamaṇḍape vā paricchanne vāpi bahūnaṃ sannipātabhūte rukkhamūle vā santharitvā vā santharāpetvā vā, mañcapīṭhañca vihāre vā vuttappakāre vihārūpacāre vā santharitvā vā santharāpetvā vā uddharaṇādīni akatvā gacchantassa dukkaṭameva. Attano santake, vissāsikapuggalike, uddharaṇādīni katvā, purimanayeneva palibuddhaṃ chaḍḍetvā gamane, yo ca ‘‘ajjeva āgantvā paṭijaggissāmī’’ti evaṃ sāpekkho nadipāraṃ vā gāmantaraṃ vā gantvā yatthassa gamanacittaṃ uppannaṃ, tattheva ṭhito kañci pesetvā vā āpucchati, nadipūrarājacorādīsu vā kenaci palibuddho na sakkoti paccāgantuṃ, tassa ca, āpadāsu ca, ummattakādīnañca anāpatti. Vuttalakkhaṇaseyyā , tassā saṅghikatā, vuttalakkhaṇe vihāre santharaṇaṃ vā santharāpanaṃ vā, apalibuddhatā, āpadāya abhāvo, anapekkhassa disāpakkamanaṃ , upacārasīmātikkamoti imānettha satta aṅgāni. Samuṭṭhānādīni anantarasikkhāpade vuttanayānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm mười bảy Tỳ-khưu, trong trường hợp trải giường nằm trong trú xá của Tăng chúng rồi ra đi mà không dọn dẹp, không hỏi. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với tài sản cá nhân, thì bị ba tội Tác Ác. Việc trải hoặc sai bảo trải giường nằm trong khu vực phụ cận của trú xá có đặc tính đã nói, ở bên ngoài gần đó, trong sảnh đường họp mặt, hoặc trong lều không có mái che, hoặc ở gốc cây là nơi tụ tập của nhiều người, hoặc trải hoặc sai bảo trải giường và ghế trong trú xá hoặc trong khu vực phụ cận của trú xá như đã nói, rồi ra đi mà không dọn dẹp v.v…, cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội khi dọn dẹp v.v… đối với tài sản của mình, của người thân tín; khi rời bỏ vì có sự ràng buộc theo cách trước; và người nào đi qua sông hoặc làng khác với ý định “hôm nay tôi sẽ trở về chăm sóc”, rồi khi ý định đi xuất hiện, đứng ngay tại đó sai ai đó hỏi, hoặc bị ràng buộc bởi sông lụt, vua, giặc cướp v.v… mà không thể trở về; và đối với người đó, trong các tai nạn, và những người điên loạn v.v… Ở đây có bảy chi phần này: giường nằm có đặc tính đã nói, thuộc Tăng chúng, trải hoặc sai bảo trải trong trú xá có đặc tính đã nói, không bị ràng buộc, không có tai nạn, đi xa một cách vô tâm, và vượt qua ranh giới khu vực phụ cận. Các pháp sanh khởi v.v… theo cách đã nói trong học giới ngay trước đó.

Dutiyasenāsanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới trú xứ thứ hai đã chấm dứt.

6. Anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā
6. Giải Thích Học Giới Chiếm Chỗ

Chaṭṭhe jānanti ‘‘anuṭṭhāpanīyo aya’’nti jānanto, tenevassa padabhājane ‘‘vuḍḍho’ti jānāti, ‘gilāno’ti jānāti, ‘saṅghena dinno’ti jānātī’’ti (pāci. 121) vuttaṃ. Vuḍḍho hi attano vuḍḍhatāya anuṭṭhāpanīyo, gilāno gilānatāya, saṅgho pana bhaṇḍāgārikassa vā dhammakathikavinayadharagaṇavācakācariyānaṃ vā bahūpakārataṃ guṇavisiṭṭhatañca sallakkhetvā dhuvavāsatthāya vihāraṃ sallakkhetvā sammannitvā deti, tasmā yassa saṅghena dinno, sopi anuṭṭhāpanīyo. Pubbupagatanti pubbaṃ upagataṃ. Anupakhajjāti mañcapīṭhānaṃ vā tassa vā bhikkhuno pavisantassa vā nikkhamantassa vā upacāraṃ anupavisitvā. Tattha mañcapīṭhānaṃ tāva mahallake vihāre samantā diyaḍḍho hattho upacāro, khuddake yato pahoti, tato diyaḍḍho hattho , tassa pana pavisantassa pādadhovanapāsāṇato yāva mañcapīṭhaṃ, nikkhamantassa mañcapīṭhato yāva passāvaṭṭhānaṃ, tāva upacāro. Seyyaṃ kappeyyāti tassa sambādhaṃ kattukāmatāya tasmiṃ upacāre dasasu seyyāsu ekampi santharantassa vā santharāpentassa vā dukkaṭaṃ, tattha nisīdantassa vā nipajjantassa vā pācittiyaṃ, dvepi karontassa dve pācittiyāni, punappunaṃ karontassa payogagaṇanāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ sáu, biết có nghĩa là biết rằng “người này không nên bị đuổi đi”, do đó trong phần giải thích từ ngữ có nói “biết là người lớn tuổi, biết là người bệnh, biết là được Tăng chúng cho” (pāci. 121). Người lớn tuổi không nên bị đuổi đi vì tuổi tác của mình, người bệnh vì bệnh tật của mình, còn Tăng chúng thì sau khi xem xét sự giúp đỡ nhiều và phẩm chất đặc biệt của người quản lý kho, người thuyết pháp, người giữ luật, hoặc giáo thọ sư, rồi xem xét trú xá để ở cố định, rồi chấp thuận cho, do đó người được Tăng chúng cho cũng không nên bị đuổi đi. Đã đến trước là đã đến trước. Chiếm chỗ có nghĩa là đi vào khu vực phụ cận của giường, ghế hoặc của Tỳ-khưu đó khi đang đi vào hoặc đi ra. Ở đó, khu vực phụ cận của giường, ghế trong trú xá lớn là một thước rưỡi xung quanh, trong trú xá nhỏ là một thước rưỡi từ nơi có thể. Còn khu vực phụ cận của Tỳ-khưu đó khi đi vào là từ tảng đá rửa chân đến giường, ghế, khi đi ra là từ giường, ghế đến nơi tiểu tiện. Sửa soạn giường nằm có nghĩa là khi trải hoặc sai bảo trải một trong mười loại giường nằm trong khu vực phụ cận đó với ý định làm cho người kia chật chội, thì bị Tác Ác; khi ngồi hoặc nằm ở đó, thì bị Ưng Đối Trị; khi làm cả hai, thì bị hai tội Ưng Đối Trị; khi làm nhiều lần, thì bị Ưng Đối Trị theo số lần thực hiện.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha anupakhajja seyyakappanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, puggalike tikadukkaṭaṃ, vuttūpacārato vā bahi, upaṭṭhānasālādike vā, vihārassa upacāre vā, santharaṇasantharāpanesupi nisajjasayanesupi dukkaṭameva. Attano vā, vissāsikassa vā santake pana vihāre santharantassa, yo ca gilāno vā sītuṇhapīḷito vā pavisati, tassa ca, āpadāsu ca, ummattakādīnañca anāpatti. Saṅghikavihāratā, anuṭṭhāpanīyabhāvajānanaṃ, sambādhetukāmatā, upacāre nisīdanaṃ vā nipajjanaṃ vāti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisāneva, idaṃ pana dukkhavedanamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp chiếm chỗ và sửa soạn giường nằm. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với tài sản cá nhân, thì bị ba tội Tác Ác. Việc trải hoặc sai bảo trải, cũng như ngồi hoặc nằm ở bên ngoài khu vực phụ cận đã nói, hoặc trong sảnh đường họp mặt v.v…, hoặc trong khu vực phụ cận của trú xá, cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội khi trải trong trú xá thuộc sở hữu của mình hoặc của người thân tín; và người nào đi vào vì bệnh hoặc bị nóng lạnh; và đối với người đó, trong các tai nạn, và những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: trú xá thuộc Tăng chúng, biết là người không nên bị đuổi đi, có ý định làm chật chội, và ngồi hoặc nằm trong khu vực phụ cận. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều Bất Cộng Trụ thứ nhất, nhưng điều này chỉ có cảm thọ khổ.

Anupakhajjasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới chiếm chỗ đã chấm dứt.

7. Nikkaḍḍhanasikkhāpadavaṇṇanā
7. Giải Thích Học Giới Đuổi Ra

Sattame kupitoti kuddho. Anattamanoti atuṭṭhacitto. Nikkaḍḍheyya vā nikkaḍḍhāpeyya vā pācittiyanti ettha ye anekabhūmakā pāsādā, anekakoṭṭhakāni vā catussālāni, tādisesu senāsanesu gahetvā antarā aṭṭhapetvā ekeneva payogena atikkāmentassa ekaṃ pācittiyaṃ, ṭhapetvā ṭhapetvā nānāpayogehi atikkāmentassa dvāragaṇanāya pācittiyāni, hatthena anāmasitvā ‘nikkhamā’ti vatvā vācāya nikkaḍḍhantassāpi eseva nayo. Nikkaḍḍhāpentassa pana ‘nikkaḍḍhā’ti āṇattamatte dukkaṭaṃ, sakiṃ āṇatte pana tasmiṃ bahukepi dvāre nikkhamante itarassa ekameva pācittiyaṃ. Sace pana ‘‘ettakāni dvārāni nikkaḍḍhāhī’’ti vā, ‘‘yāva mahādvāraṃ, tāva nikkaḍḍhāhī’’ti vā evaṃ niyametvā āṇatto hoti, dvāragaṇanāya pācittiyāni.
Ở điều thứ bảy, tức giận là nổi giận. Không hài lòng là tâm không vui. Đuổi ra hoặc sai bảo đuổi ra thì bị Ưng Đối Trị có nghĩa là ở đây, trong những tòa lầu nhiều tầng, hoặc nhà tứ giác có nhiều phòng, khi đuổi đi bằng một hành động duy nhất, sau khi đã lấy và đặt ở giữa, thì bị một tội Ưng Đối Trị; khi đuổi đi bằng nhiều hành động khác nhau, sau khi đặt và đặt lại, thì bị nhiều tội Ưng Đối Trị theo số cửa; khi đuổi đi bằng lời nói “ra đi” mà không chạm vào bằng tay, cũng theo cách này. Còn đối với người sai bảo đuổi ra, chỉ mới ra lệnh “đuổi ra” thì bị Tác Ác; khi đã ra lệnh một lần, dù người kia ra khỏi nhiều cửa, người ra lệnh cũng chỉ bị một tội Ưng Đối Trị. Nhưng nếu được ra lệnh bằng cách chỉ định “hãy đuổi ra khỏi ngần này cửa” hoặc “hãy đuổi ra đến cửa lớn”, thì bị nhiều tội Ưng Đối Trị theo số cửa.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha bhikkhuṃ saṅghikā vihārā nikkaḍḍhanavatthusmiṃ
Ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp đuổi Tỳ-khưu ra khỏi trú xá của Tăng chúng.

Paññattaṃ , sādhāraṇapaññatti, sāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, puggalike tikadukkaṭaṃ, tassa parikkhāranikkaḍḍhane, upaṭṭhānasālādikā vihārūpacārā tassatassa parikkhārassa vā nikkaḍḍhane, anupasampannassa pana anupasampannaparikkhārassa vā vihārā vā vihārūpacārā vā nikkaḍḍhane nikkaḍḍhāpane ca dukkaṭameva. Tañca kho asambaddhesu parikkhāresu parikkhāragaṇanāya veditabbaṃ. Attano vā, vissāsikassa vā santakā vihārā nikkaḍḍhane, sakalasaṅghārāmatopi bhaṇḍanakārakassa vā tassa parikkhārassa vā nikkaḍḍhane nikkaḍḍhāpane vā, attano vasanaṭṭhānato alajjissa, ummattakassa, na sammāvattantānaṃ antevāsikasaavihārikānaṃ, tesaṃ parikkhārassa vā nikkaḍḍhane ca, sayaṃ ummattakādīnañca anāpatti. Saṅghikavihāro , upasampannassa bhaṇḍanakārakabhāvādivinimuttatā, kopena nikkaḍḍhanaṃ vā nikkaḍḍhāpanaṃ vāti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
Được chế định, là điều chế định chung, có thể do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với tài sản cá nhân, thì bị ba tội Tác Ác. Việc đuổi đồ dùng của người đó, hoặc đuổi người đó hay đồ dùng của người đó ra khỏi sảnh đường họp mặt v.v… là khu vực phụ cận của trú xá; hoặc đuổi người chưa thọ cụ túc giới hay đồ dùng của người chưa thọ cụ túc giới ra khỏi trú xá hay khu vực phụ cận của trú xá, và sai bảo đuổi ra, cũng chỉ bị Tác Ác. Và điều này nên được hiểu theo số đồ dùng đối với những đồ dùng không liên quan đến nhau. Không có tội khi đuổi ra khỏi trú xá thuộc sở hữu của mình hoặc của người thân tín; khi đuổi ra hoặc sai bảo đuổi ra khỏi toàn bộ tu viện người gây gổ hoặc đồ dùng của người đó; khi đuổi ra người không biết xấu hổ, người điên loạn, đệ tử và người cùng ở không hành xử đúng đắn, hoặc đồ dùng của họ khỏi nơi ở của mình; và đối với những người tự mình điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: trú xá của Tăng chúng, người đã thọ cụ túc giới không phải là người gây gổ v.v…, và đuổi ra hoặc sai bảo đuổi ra vì tức giận. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này có cảm thọ khổ.

Nikkaḍḍhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới đuổi ra đã chấm dứt.

8. Vehāsakuṭisikkhāpadavaṇṇanā
8. Giải Thích Học Giới Am Thất Trên Lầu

Aṭṭhame uparivehāsakuṭiyāti upari acchannatalāya dvibhūmikakuṭiyā vā tibhūmikakuṭiyā vā, padabhājane pana idha adhippetaṃ kuṭiṃ dassetuṃ ‘‘majjhimassa purisassa asīsaghaṭṭā’’ti (pāci. 131) vuttaṃ. Āhaccapādakanti aṅge vijjhitvā pavesitapādakaṃ. Abhinisīdeyyāti abhibhavitvā ajjhottharitvā nisīdeyya, bhummatthe vā etaṃ upayogavacanaṃ, mañce vā pīṭhe vā nisīdeyya vā nipajjeyya vāti attho. Abhīti idaṃ pana padasobhaṇatthe upasaggamattameva, tasmā yo bhikkhu vuttalakkhaṇāya vehāsakuṭiyā sabbantimena paricchedena yāva pamāṇamajjhimassa purisassa sabbaso heṭṭhimāhi tulāhi sīsaṃ na ghaṭṭeti, ettakaṃ uccāya tulānaṃ upari ṭhapite āhaccapādake mañce vā pīṭhe vā nisīdati vā nipajjati vā, tassa anupakhajjasikkhāpade vuttanayena payogagaṇanāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tám, trong am thất trên lầu có nghĩa là trong am thất hai tầng hoặc ba tầng có sàn trên không lợp mái. Nhưng trong phần giải thích từ ngữ, để chỉ am thất được đề cập ở đây, có nói “không chạm đầu của một người đàn ông trung bình” (pāci. 131). Giường có chân đóng có nghĩa là giường có chân được đóng vào lỗ. Ngồi lên có nghĩa là ngồi đè lên, ngồi trùm lên, hoặc đây là cách dùng sở thuộc cách với ý nghĩa nơi chốn, có nghĩa là ngồi hoặc nằm trên giường hoặc ghế. Còn từ abhī chỉ là một tiếp đầu ngữ để làm đẹp câu. Do đó, Tỳ-khưu nào ngồi hoặc nằm trên giường hoặc ghế có chân đóng, được đặt trên các thanh xà ngang, cao đến mức đầu không chạm vào các thanh xà ngang thấp nhất của người đàn ông trung bình, trong am thất trên lầu có đặc tính đã nói, với ranh giới cuối cùng, thì bị Ưng Đối Trị theo số lần thực hiện như đã nói trong học giới chiếm chỗ.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha uparivehāsakuṭiyā āhaccapādakaṃ mañcaṃ pīṭhaṃ sahasā abhinisīdanaabhinipajjanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, puggalike tikadukkaṭaṃ, attano vā, vissāsikassa vā santake vihāre, avehāsakuṭiyā, sīsaghaṭṭāya, yassa vā heṭṭhā dabbasambhārādīnaṃ nikkhittattā aparibhogaṃ hoti, uparitalaṃ vā padarasañcitaṃ sudhādiparikammakataṃ vā, tattha āhaccapādake nisīdantassa, yo ce tasmiṃ vehāsaṭṭhepi āhaccapādake ṭhito kiñci gaṇhāti vā laggati vā, yassa ca paṭāṇī dinnā hoti, pādasīsānaṃ upari āṇī pavesitā, tattha nisīdantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Saṅghiko vihāro, asīsaghaṭṭā vehāsakuṭi, heṭṭhā saparibhogaṃ , apaṭāṇidinne āhaccapādake nisīdanaṃ vā nipajjanaṃ vāti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu nào đó, trong trường hợp ngồi và nằm mạnh lên giường, ghế có chân đóng trong am thất trên lầu. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với tài sản cá nhân, thì bị ba tội Tác Ác. Không có tội khi ngồi trên giường có chân đóng trong trú xá thuộc sở hữu của mình hoặc của người thân tín; trong am thất không phải trên lầu; nơi chạm đầu; hoặc nơi không thể sử dụng vì bên dưới có chứa đồ đạc v.v…; hoặc sàn trên được lát bằng ván hoặc được trát vữa v.v…; và người nào đứng trên giường có chân đóng ở trên lầu đó để lấy hoặc treo vật gì đó; và người nào có chốt được đóng, chốt được đóng vào phía trên của đầu và chân, khi ngồi ở đó; và đối với những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: trú xá của Tăng chúng, am thất trên lầu không chạm đầu, bên dưới có thể sử dụng, và ngồi hoặc nằm trên giường có chân đóng không có chốt. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) về lông cừu Eḷaka.

Vehāsakuṭisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới am thất trên lầu đã chấm dứt.

9. Mahallakavihārasikkhāpadavaṇṇanā
9. Giải Thích Học Giới Trú Xá Lớn

Navame mahallakanti sassāmikaṃ. Vihāranti ullittāvallittaṃ. Yāva dvārakosātiettha dvārakoso nāma ukkaṭṭhaparicchedena piṭṭhasaṅghāṭassa sāmantā aḍḍhateyyahattho padeso. Aggaḷaṭṭhapanāyāti sakavāṭakassa dvārabandhassa niccalabhāvatthāya. Kavāṭañhi lahuparivattakaṃ vivaraṇakāle bhittiṃ āhanati, pidahanakāle dvārabandhaṃ. Tena āhanena bhitti kampati, tato mattikā calati, calitvā sithilā vā hoti patati vā, tenāha bhagavā ‘‘yāva dvārakosā aggaḷaṭṭhapanāyā’’ti. Tattha kiñcāpi ‘‘idaṃ nāma kattabba’’nti neva mātikāyaṃ, na padabhājane vuttaṃ, aṭṭhuppattiyaṃ pana ‘‘punappunaṃ chādāpesi, punappunaṃ lepāpesī’’ti (pāci. 134) adhikārato yāva dvārakosā aggaḷaṭṭhapanāya punappunaṃ limpitabbo vā lepāpetabbo vāti evamattho daṭṭhabbo. Ālokasandhiparikammāyātiettha ālokasandhīti vātapānakavāṭakā vuccanti. Te vivaraṇakāle vidatthimattampi atirekampi bhittippadesaṃ paharanti, upacāro panettha sabbadisāsu labbhati, tasmā sabbadisāsu kavāṭavitthārappamāṇo okāso ālokasandhiparikammatthāya limpitabbo vā lepāpetabbo vāti ayamettha adhippāyo.
Ở điều thứ chín, lớn có nghĩa là có chủ. Trú xá là nơi được trát trong và ngoài. Trong câu đến khung cửa, ở đây, khung cửa có nghĩa là khu vực rộng hai thước rưỡi xung quanh tấm ván cửa theo giới hạn cao nhất. Để đặt then cửa là để cho khung cửa có cánh cửa được cố định. Vì cánh cửa khi mở, nếu xoay nhẹ, sẽ đập vào tường; khi đóng, sẽ đập vào khung cửa. Do sự va đập đó, tường bị rung, từ đó đất sét bị lung lay, và khi lung lay, nó sẽ trở nên lỏng lẻo hoặc rơi xuống. Do đó, Đức Phật nói “đến khung cửa để đặt then cửa”. Ở đó, tuy trong đề mục và phần giải thích từ ngữ không nói “phải làm điều này”, nhưng trong phần nguồn gốc của học giới, do có quyền hạn từ câu “sai bảo lợp đi lợp lại, sai bảo trát đi trát lại” (pāci. 134), nên ý nghĩa phải được hiểu là phải trát hoặc sai bảo trát đi trát lại đến khung cửa để đặt then cửa. Trong câu để sửa chữa khe hở ánh sáng, ở đây, khe hở ánh sáng được gọi là cửa sổ nhỏ có cánh. Khi mở, chúng đập vào một vùng tường rộng một gang tay hoặc hơn, khu vực phụ cận ở đây được lấy ở mọi hướng, do đó, khu vực có kích thước bằng chiều rộng của cánh cửa ở mọi hướng phải được trát hoặc sai bảo trát để sửa chữa khe hở ánh sáng; đây là ý nghĩa ở đây.

Evaṃ lepakamme yaṃ kattabbaṃ, taṃ dassetvā idāni chadane kattabbaṃ dassetuṃ dvatticchadanassātiādimāha. Tattha dvatticchadanassa pariyāyanti chadanassa dvattipariyāyaṃ, pariyāyaṃ vuccati parikkhepo, parikkhepadvayaṃ vā parikkhepattayaṃ vā adhiṭṭhātabbanti attho. Appaharite ṭhitenāti aharite ṭhitena. Haritanti cettha sattadhaññādibhedaṃ pubbaṇṇaṃ, muggamāsatilakulatthaalābukumbhaṇḍādibhedañca aparaṇṇaṃ adhippetaṃ. Yaṃ tasmiṃ khette vuttaṃ na tāva sampajjati, vasse pana patite sampajjissati, tampi haritasaṅkhameva gacchati. Tasmā tasmiṃ ṭhatvā adhiṭṭhahanto dukkaṭaṃ āpajjati. Appaharite ṭhatvā adhiṭṭhahantassāpi ayaṃ paricchedo, piṭṭhivaṃsassa vā kūṭāgārathūpikāya vā passe nisinno puriso chadanamukhavaṭṭiantena olokento yasmiṃ bhūmibhāge ṭhitaṃ bhikkhuṃ passati, yasmiñca ṭhito taṃ upari nisinnakaṃ tatheva ullokento passati, tasmiṃ ṭhātabbaṃ, tassa anto aharitepi ṭhātuṃ na labhati. Tato ce uttarīti maggena chādiyamāne tiṇṇaṃ maggānaṃ, pariyāyena chādiyamāne tiṇṇaṃ pariyāyānaṃ upari iṭṭhakasilāsudhāhi chādiyamāne iṭṭhakasilāsudhāpiṇḍagaṇanāya, tiṇapaṇṇehi chādiyamāne paṇṇagaṇanāya ceva tiṇamuṭṭhigaṇanāya ca pācittiyaṃ.
Như vậy, sau khi đã chỉ ra điều cần làm trong việc trát, bây giờ để chỉ ra điều cần làm trong việc lợp, Ngài nói câu của việc lợp hai ba lớp v.v… Ở đó, lớp của việc lợp hai ba lớp là hai ba lớp của việc lợp. Lớp được gọi là vòng, có nghĩa là phải quyết định hai vòng hoặc ba vòng. Đứng ở nơi không có cây xanh là đứng ở nơi không có cây xanh. Và ở đây, cây xanh được hiểu là bảy loại ngũ cốc và các loại đậu khác như đậu xanh, đậu đen, mè, đậu ngựa, bầu, bí, v.v… Nơi nào đã nói trong ruộng đó chưa mọc, nhưng khi mưa xuống sẽ mọc, nơi đó cũng được xếp vào loại có cây xanh. Do đó, người đứng ở đó quyết định thì phạm tội Tác Ác. Đối với người đứng ở nơi không có cây xanh quyết định cũng có giới hạn này: người ngồi bên cạnh sườn nhà hoặc chóp của tháp, khi nhìn qua mép mái che, thấy Tỳ-khưu đứng ở phần đất nào, và người đứng ở đó nhìn lên người ngồi trên cũng thấy như vậy, thì phải đứng ở đó; không được đứng ở bên trong nơi có cây xanh. Nếu hơn thế có nghĩa là khi lợp bằng đường lối, thì trên ba đường lối; khi lợp bằng lớp, thì trên ba lớp; khi lợp bằng gạch, đá, vữa, thì bị Ưng Đối Trị theo số gạch, đá, cục vữa; khi lợp bằng cỏ, lá, thì bị Ưng Đối Trị theo số lá và số bó cỏ.

Kosambiyaṃ channattheraṃ ārabbha punappunaṃ chādāpanalepāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, ūnadvattipariyāye atirekasaññino vematikassa vā dukkaṭaṃ. Setavaṇṇādikaraṇe, dvattipariyāye vā ūnakadvattipariyāye vā, leṇaguhātiṇakuṭikādīsu, aññassatthāya, attano dhanena kārentassa, vāsāgāraṃ ṭhapetvā sesāni adhiṭṭhahantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Mahallakavihāratā, attano vāsāgāratā, uttari adhiṭṭhānanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni sañcaritte vuttanayānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Kosambī, liên quan đến Trưởng lão Channa, trong trường hợp sai bảo lợp và trát đi trát lại. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với trường hợp dưới hai ba lớp mà có tưởng là quá mức hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội khi sơn màu trắng v.v…; khi lợp hai ba lớp hoặc dưới hai ba lớp; trong hang động, am tranh v.v…; khi làm vì lợi ích của người khác; khi làm bằng tiền của mình; khi quyết định các công trình khác trừ nhà ở; và đối với những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là trú xá lớn, là nhà ở của mình, và quyết định quá mức. Các pháp sanh khởi v.v… theo cách đã nói trong điều (học giới) về sự môi giới.

Mahallakavihārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới trú xá lớn đã chấm dứt.

10. Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā
10. Giải Thích Học Giới Nước Có Sinh Vật

Dasame jānaṃ sappāṇakanti ‘‘sappāṇakaṃ eta’’nti disvā vā sutvā vā yena kenaci ākārena jānanto. Siñceyya vā siñcāpeyya vāti tena udakena sayaṃ vā siñceyya, aññaṃ vā āṇāpetvā siñcāpeyya. Tattha dhāraṃ avicchinditvā siñcantassa ekasmiṃ ghaṭe ekāva āpatti, vicchindantassa payogagaṇanāya āpattiyo. Mātikaṃ pamukhaṃ karoti, divasampi sandatu, ekāva āpatti. Tattha tattha bandhitvā aññato nentassa payogagaṇanāya āpattiyo. Bahukampi tiṇapaṇṇasākhādiṃ ekappayogena udake pakkhipantassa ekāva āpatti, ekekaṃ pakkhipantassa payogagaṇanāya āpattiyo. Idañca yaṃ evaṃ pakkhipiyamāne pariyādānaṃ gacchati, āvilaṃ vā hoti, yathā pāṇakā maranti, tādisaṃ sandhāya vuttaṃ, na mahāudakaṃ. Siñcāpane āṇattiyā dukkaṭaṃ, ekāṇattiyā bahukampi siñcatu, āṇāpakassa ekameva pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười, biết là có sinh vật có nghĩa là biết “cái này có sinh vật” bằng cách thấy, nghe, hoặc bằng bất kỳ cách nào. Tưới hoặc sai bảo tưới có nghĩa là tự mình tưới bằng nước đó, hoặc sai người khác tưới. Ở đó, khi tưới không ngắt dòng, trong một bình thì chỉ có một tội; khi ngắt dòng, thì có nhiều tội theo số lần thực hiện. Khi làm mương dẫn nước, dù nước chảy cả ngày, cũng chỉ có một tội. Khi ngăn đập ở nhiều nơi rồi dẫn nước từ nơi khác, thì có nhiều tội theo số lần thực hiện. Khi ném nhiều cỏ, lá, cành v.v… vào nước bằng một hành động duy nhất, thì chỉ có một tội; khi ném từng cái một, thì có nhiều tội theo số lần thực hiện. Và điều này được nói nhằm đến loại nước mà khi ném như vậy, sinh vật sẽ chết hết, hoặc nước trở nên đục, khiến sinh vật chết, chứ không phải là nước lớn. Khi sai bảo tưới, bị Tác Ác do ra lệnh; khi đã ra lệnh một lần, dù người kia tưới nhiều, người ra lệnh cũng chỉ bị một tội Ưng Đối Trị.

Āḷaviyaṃ āḷavake bhikkhū ārabbha siñcanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, sāṇattikaṃ , appāṇake sappāṇakasaññino, ubhosu vematikassa dukkaṭaṃ. Appāṇakasaññino, asañcicca assatiyā vā siñcantassa, ajānantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Udakassa sappāṇakatā, ‘‘siñcanena pāṇakā marissantī’’ti jānanaṃ, tañca udakaṃ tādisameva, vinā vadhakacetanāya yena kenaci karaṇīyena tiṇādīnaṃ siñcananti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana paṇṇattivajjaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Āḷavī, liên quan đến các Tỳ-khưu Āḷavaka, trong trường hợp tưới nước. Đây là điều chế định chung, có thể do yêu cầu. Đối với nước không có sinh vật mà có tưởng là có sinh vật, hoặc nghi ngờ ở cả hai trường hợp, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không có sinh vật; người tưới do vô ý hoặc vô niệm; người không biết; và những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: nước có sinh vật, biết rằng “khi tưới, sinh vật sẽ chết”, và nước đó phải là như vậy, và việc tưới cỏ v.v… vì một việc cần thiết nào đó mà không có ý định giết hại. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này là tội chế định, có ba loại tâm, và ba loại cảm thọ.

Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới nước có sinh vật đã chấm dứt.

Bhūtagāmavaggo dutiyo.
Phẩm Thực Vật là phẩm thứ hai.

3. Ovādavaggo
3. Phẩm Giáo Giới

1. Ovādasikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải Thích Học Giới Giáo Giới

Ovādavaggassa paṭhame asammatoti yā aṭṭhaṅgasamannāgatassa bhikkhuno bhagavatā ñatticatutthena kammena (pāci. 146) bhikkhunovādakasammuti anuññātā, tāya asammato. Ovadeyyāti bhikkhunisaṅghaṃ vā sambahulā vā ekaṃ bhikkhuniṃ vā ‘‘vassasatūpasampannāya bhikkhuniyā tadahupasampannassa bhikkhuno abhivādanaṃ paccuṭṭhānaṃ añjalikammaṃ sāmīcikammaṃ kātabba’’nti ādike (cūḷava. 403) aṭṭha garudhamme ovādavasena osārento ovadeyya. Pācittiyanti ovādapariyosāne pācittiyaṃ.
Ở điều đầu tiên của phẩm Giáo Giới, không được chấp thuận có nghĩa là không được chấp thuận bằng sự đồng thuận của Tỳ-khưu giáo giới, điều mà Đức Phật đã cho phép bằng nghiệp bạch tứ yết-ma (pāci. 146) đối với Tỳ-khưu có đủ tám chi phần. Giáo giới có nghĩa là giáo giới Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, hoặc nhiều hay một Tỳ-khưu-ni, bằng cách thuyết giảng tám pháp trọng, như “Tỳ-khưu-ni đã thọ cụ túc giới một trăm năm phải đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay, và làm các việc kính trọng đối với Tỳ-khưu vừa mới thọ cụ túc giới trong ngày đó” v.v… (cūḷava. 403). Ưng Đối Trị có nghĩa là bị Ưng Đối Trị khi kết thúc việc giáo giới.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha ovadanavatthusmiṃ paññattaṃ, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, aññena vā dhammena bhikkhunīsu upasampannamattaṃ vā ovadato dukkaṭaṃ. Sammatassāpi tañce sammutikammaṃ adhammakammaṃ hoti, tasmiṃ adhammakamme adhammakammasaññino vagge bhikkhunisaṅghe ovadato tikapācittiyaṃ, tathā vematikassa dhammakammasaññino cāti nava pācittiyāni, samaggepi bhikkhunisaṅghena vāti adhammakammavasena aṭṭhārasa. Sace pana taṃ dhammakammaṃ hoti, ‘‘dhammakamme dhammakammasaññī samaggaṃ bhikkhunisaṅghaṃ samaggasaññī ovadatī’’ti (pāci. 151) idaṃ avasānapadaṃ ṭhapetvā teneva nayena sattarasa dukkaṭāni, ‘‘samaggamhāyyā’’ti ca vutte aññaṃ dhammaṃ, ‘‘vaggamhāyyā’’ti ca vutte aṭṭha garudhamme bhaṇantassa, ovādañca aniyyātetvā aññaṃ dhammaṃ bhaṇantassa dukkaṭameva. Yo pana dhammakamme dhammakammasaññī samaggaṃ bhikkhunisaṅghaṃ samaggasaññī ovadati, garudhammapāḷiṃ uddesaṃ deti, paripucchaṃ deti, ‘‘osārehi ayyā’’ti vuccamāno osāreti, pañhaṃ puṭṭho katheti, bhikkhunīnaṃ suṇamānānaṃ aññassatthāya bhaṇati, sikkhamānāya vā sāmaṇeriyā vā bhaṇati, tassa, ummattakādīnañca anāpatti. Asammatatā, bhikkhuniyā paripuṇṇūpasampannatā, ovādavasena aṭṭhagarudhammabhaṇananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni padasodhammasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp giáo giới. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu. Việc giáo giới chỉ người đã thọ cụ túc giới trong các Tỳ-khưu-ni bằng pháp khác, thì bị Tác Ác. Ngay cả người được chấp thuận, nếu việc chấp thuận đó là việc làm không đúng pháp, khi giáo giới Tăng chúng Tỳ-khưu-ni theo phe phái trong việc làm không đúng pháp đó với tưởng là việc làm không đúng pháp, thì bị ba tội Ưng Đối Trị; tương tự với người nghi ngờ và người có tưởng là việc làm đúng pháp, tổng cộng là chín tội Ưng Đối Trị; và đối với Tăng chúng Tỳ-khưu-ni hòa hợp, thì có mười tám tội do việc làm không đúng pháp. Nhưng nếu việc làm đó là đúng pháp, trừ câu cuối cùng “người có tưởng là việc làm đúng pháp, giáo giới Tăng chúng Tỳ-khưu-ni hòa hợp với tưởng là hòa hợp” (pāci. 151), thì có mười bảy tội Tác Ác theo cách đó. Khi được nói “thưa ngài, chúng con là phe phái” mà nói pháp khác, và khi được nói “thưa ngài, chúng con là phe phái” mà nói tám pháp trọng, và khi nói pháp khác mà không giao lại việc giáo giới, cũng chỉ bị Tác Ác. Còn người nào có tưởng là việc làm đúng pháp trong việc làm đúng pháp, giáo giới Tăng chúng Tỳ-khưu-ni hòa hợp với tưởng là hòa hợp, đọc thuộc lòng kinh tám pháp trọng, đặt câu hỏi, khi được nói “thưa ngài, hãy thuyết giảng”, liền thuyết giảng, khi được hỏi câu hỏi, liền trả lời, khi nói vì lợi ích của người khác mà các Tỳ-khưu-ni đang nghe, hoặc khi nói cho cô ni tu tập sự hoặc Sa-di-ni, và đối với người đó, những người điên loạn v.v… thì không có tội. Ở đây có ba chi phần này: không được chấp thuận, Tỳ-khưu-ni đã thọ cụ túc giới đầy đủ, và nói tám pháp trọng dưới hình thức giáo giới. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới dạy pháp từng câu.

Ovādasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới giáo giới đã chấm dứt.

2. Atthaṅgatasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giải Thích Học Giới Khi Mặt Trời Lặn

Dutiye ovadeyyāti aṭṭhagarudhammehi vā aññena vā dhammena ovadantassa sammatassāpi pācittiyameva.
Ở điều thứ hai, giáo giới có nghĩa là dù là người được chấp thuận, khi giáo giới bằng tám pháp trọng hoặc bằng pháp khác, cũng bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ āyasmantaṃ cūḷapanthakaṃ ārabbha atthaṅgate sūriye ovadanavatthusmiṃ paññattaṃ, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, sūriye atthaṅgate atthaṅgatasaññino vematikassa vā, ekatoupasampannaṃ ovadantassa ca dukkaṭaṃ. Purimasikkhāpade viya uddesādinayena anāpatti. Atthaṅgatasūriyatā, paripuṇṇūpasampannatā, ovadananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni padasodhammasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Trưởng lão Cūḷapanthaka, trong trường hợp giáo giới khi mặt trời đã lặn. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Khi mặt trời đã lặn, có tưởng là đã lặn hoặc nghi ngờ, hoặc giáo giới người cùng thọ cụ túc giới, thì bị Tác Ác. Không có tội theo cách đọc thuộc lòng v.v… như trong học giới trước. Ở đây có ba chi phần này: mặt trời đã lặn, đã thọ cụ túc giới đầy đủ, và giáo giới. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới dạy pháp từng câu.

Atthaṅgatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới khi mặt trời lặn đã chấm dứt.

3. Bhikkhunupassayasikkhāpadavaṇṇanā
3. Giải Thích Học Giới Trú Xứ Của Tỳ-khưu-ni

Tatiye bhikkhunupassayanti bhikkhuniyā ekarattaṃ vasanaṭṭhānampi. Ovadeyyāti idha garudhammehi ovadantasseva pācittiyaṃ. Sace pana asammato hoti, dve pācittiyāni. Sace pana sūriyepi atthaṅgate ovadati, tīṇi honti. Sammatassa pana rattiṃ ovadantassapi dve eva honti. Sammatattā hi bhikkhussa garudhammovādamūlakaṃ pācittiyaṃ natthi. Gilānāti na sakkoti ovādāya vā saṃvāsāya vā gantuṃ.
Ở điều thứ ba, trú xứ của Tỳ-khưu-ni là nơi Tỳ-khưu-ni ở dù chỉ một đêm. Giáo giới ở đây chỉ có tội Ưng Đối Trị đối với người giáo giới bằng các pháp trọng. Nhưng nếu không được chấp thuận, thì bị hai tội Ưng Đối Trị. Nhưng nếu giáo giới khi mặt trời đã lặn, thì bị ba tội. Còn người được chấp thuận, dù giáo giới vào ban đêm cũng chỉ bị hai tội. Vì do được chấp thuận, Tỳ-khưu không bị tội Ưng Đối Trị bắt nguồn từ việc giáo giới bằng các pháp trọng. Bệnh là không thể đi để giáo giới hoặc để ở chung.

Sakkesu chabbaggiye bhikkhū ārabbha bhikkhunupassayaṃ upasaṅkamitvā ovadanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘aññatra samayā’’ti ayamettha anupaññatti, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampannāya upasampannasaññino vematikassa vā, ekatoupasampannaṃ yena kenaci, itaraṃ aññena dhammena ovadantassa ca dukkaṭaṃ. Samaye, anupasampannāya, purimasikkhāpade viya uddesādinayena ca anāpatti. Upassayūpagamanaṃ, paripuṇṇūpasampannatā, samayābhāvo, garudhammehi ovadananti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamakathinasadisāni, idaṃ pana kiriyaṃ hotīti.
(Học giới này) được chế định trong dòng họ Sakya, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp đến trú xứ của Tỳ-khưu-ni để giáo giới. Câu trừ phi có thời điểm là điều chế định bổ sung ở đây. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ cụ túc giới mà có tưởng là đã thọ cụ túc giới hoặc nghi ngờ, hoặc giáo giới người cùng thọ cụ túc giới bằng bất kỳ điều gì, và người kia bằng pháp khác, thì bị Tác Ác. Không có tội trong thời điểm, đối với người chưa thọ cụ túc giới, và theo cách đọc thuộc lòng v.v… như trong học giới trước. Ở đây có bốn chi phần này: đến trú xứ, đã thọ cụ túc giới đầy đủ, không có thời điểm, và giáo giới bằng các pháp trọng. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) Kathina đầu tiên, nhưng điều này là hành động.

Bhikkhunupassayasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới trú xứ của Tỳ-khưu-ni đã chấm dứt.

4. Āmisasikkhāpadavaṇṇanā
4. Giải Thích Học Giới Lợi Dưỡng

Catutthe āmisahetūti cīvarādīnaṃ aññatarahetu. Bhikkhūti sammatā bhikkhū idhādhippetā. Pācittiyanti evarūpe bhikkhū avaṇṇakāmatāya evaṃ bhaṇantassa pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tư, vì lợi dưỡng là vì một trong các thứ như y v.v… Các Tỳ-khưu ở đây được hiểu là các Tỳ-khưu được chấp thuận. Ưng Đối Trị có nghĩa là bị Ưng Đối Trị đối với người nói như vậy về các Tỳ-khưu đó với ý muốn nói xấu.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha ‘‘āmisahetu ovadantī’’ti bhaṇanavatthusmiṃ paññattaṃ, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, dhammakamme tikapācittiyaṃ, adhammakamme tikadukkaṭaṃ, asammataṃ upasampannañca, anupasampannañca sammataṃ vā asammataṃ vā evaṃ bhaṇantassa dukkaṭameva. Tattha yo bhikkhu kāle sammutiṃ labhitvā sāmaṇerabhūmiyaṃ saṇṭhito, ayaṃ sammato nāma anupasampanno. Pakatiyā cīvarādihetu ovadantaṃ pana evaṃ bhaṇantassa , ummattakādīnañca anāpatti. Upasampannatā, dhammena laddhasammutitā, anāmisantaratā, avaṇṇakāmatāya evaṃ bhaṇananti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedanamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp nói “họ giáo giới vì lợi dưỡng”. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu. Đối với việc chấp thuận đúng pháp, thì bị ba tội Ưng Đối Trị; đối với việc chấp thuận không đúng pháp, thì bị ba tội Tác Ác. Việc nói như vậy về người đã thọ cụ túc giới chưa được chấp thuận, và người chưa thọ cụ túc giới, dù được chấp thuận hay không, cũng chỉ bị Tác Ác. Ở đó, Tỳ-khưu nào đã nhận được sự chấp thuận đúng lúc mà đang ở trong giai đoạn Sa-di, người này được gọi là người chưa thọ cụ túc giới đã được chấp thuận. Còn việc nói như vậy về người vốn dĩ giáo giới vì y v.v…, và những người điên loạn v.v… thì không có tội. Ở đây có bốn chi phần này: là người đã thọ cụ túc giới, được chấp thuận đúng pháp, không vì lợi dưỡng, và nói như vậy với ý muốn nói xấu. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này chỉ có cảm thọ khổ.

Āmisasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới lợi dưỡng đã chấm dứt.

5. Cīvaradānasikkhāpadavaṇṇanā
5. Giải Thích Học Giới Cho Y

Pañcame sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha cīvaradānavatthusmiṃ paññattaṃ, sesakathāmaggo panettha cīvarappaṭiggahaṇasikkhāpade vuttanayeneva veditabbo. Tatra hi bhikkhu paṭiggāhako, idha bhikkhunī, ayaṃ viseso, sesaṃ tādisamevāti.
Ở điều thứ năm, (học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu nào đó, trong trường hợp cho y. Toàn bộ nội dung ở đây nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới nhận y. Ở đó, Tỳ-khưu là người nhận, ở đây là Tỳ-khưu-ni, đây là điểm khác biệt, phần còn lại tương tự.

Cīvaradānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới cho y đã chấm dứt.

6. Cīvarasibbanasikkhāpadavaṇṇanā
6. Giải Thích Học Giới May Y

Chaṭṭhe cīvaranti nivāsanapārupanupagaṃ. Sibbeyya vā sibbāpeyyā vāti ettha sayaṃ sibbantassa sūciṃ pavesetvā pavesetvā nīharaṇe pācittiyaṃ, satakkhattumpi vijjhitvā sakiṃ nīharantassa ekameva pācittiyaṃ. ‘Sibbā’ti vutto pana sacepi sabbaṃ sūcikammaṃ niṭṭhāpeti, āṇāpakassa ekameva pācittiyaṃ. Atha ‘‘yaṃ ettha cīvare kattabbaṃ, sabbaṃ taṃ tava bhāro’’ti vutto niṭṭhāpeti, tassa ārāpathe ārāpathe pācittiyaṃ. Āṇāpakassa ekavācāya sambahulānipi, punappunaṃ āṇattiyaṃ pana vattabbameva natthi.
Ở điều thứ sáu, y là y nội và y vai trái. May hoặc sai bảo may ở đây, người tự may, khi đâm kim vào rồi rút ra, thì bị Ưng Đối Trị. Dù đâm một trăm lần mà chỉ rút ra một lần, cũng chỉ bị một tội Ưng Đối Trị. Còn người được bảo “hãy may”, nếu hoàn thành tất cả công việc may, người ra lệnh cũng chỉ bị một tội Ưng Đối Trị. Nhưng nếu được bảo “tất cả những gì cần làm trên y này là trách nhiệm của ngươi”, rồi hoàn thành, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi mũi kim. Đối với người ra lệnh bằng một lời nói cho nhiều người, thì không cần phải nói thêm gì nữa đối với việc ra lệnh nhiều lần.

Sāvatthiyaṃ udāyittheraṃ ārabbha cīvarasibbanavatthusmiṃ paññattaṃ, asādhāraṇapaññatti, sāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, ñātikāya aññātikasaññino vā vematikassa vā, ekatoupasampannāya sibbantassa ca dukkaṭaṃ. Aññaṃ thavikādiparikkhāraṃ sibbantassa, ñātikāya, sikkhamānasāmaṇerīnañca cīvarampi sibbantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Aññātikāya bhikkhuniyā santakatā , nivāsanapārupanupagatā, vuttalakkhaṇaṃ sibbanaṃ vā sibbāpanaṃ vāti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni sañcarittasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Trưởng lão Udāyi, trong trường hợp may y. Đây là điều chế định không chung, có thể do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người nữ không phải là thân quyến mà có tưởng là thân quyến hoặc nghi ngờ, hoặc may cho người cùng thọ cụ túc giới, thì bị Tác Ác. Không có tội khi may các vật dụng khác như túi v.v…, hoặc may y cho thân quyến, cô ni tu tập sự, và Sa-di-ni; và đối với những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: thuộc sở hữu của Tỳ-khưu-ni không phải thân quyến, là y nội và y vai trái, và việc may hoặc sai bảo may có đặc tính đã nói. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) về sự môi giới.

Cīvarasibbanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới may y đã chấm dứt.

7. Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā
7. Giải Thích Học Giới Hẹn Ước

Sattame saṃvidhāyāti saṃvidahitvā, gamanakāle saṅketaṃ katvāti attho. Ekaddhānamagganti ekaṃ addhānasaṅkhātaṃ maggaṃ, ekato vā addhānamaggaṃ. Satthagamanīyoti satthena saddhiṃ gantabbo, sesaṃ uttānapadatthameva. Ayaṃ panettha vinicchayo – akappiyabhūmiyaṃ saṃvidahantassa saṃvidahanapaccayā tāva dukkaṭaṃ. Tattha ṭhapetvā bhikkhunupassayaṃ antarārāmaṃ āsanasālaṃ titthiyaseyyañca sesā akappiyabhūmi, tattha ṭhatvā saṃvidahantassāti attho. Saṃvidahitvā pana ‘‘ajja vā sve vā’’ti niyamitaṃ kālaṃ visaṅketaṃ akatvā, dvāravisaṅketaṃ pana maggavisaṅketaṃ vā katvāpi bhikkhuniyā saddhiṃ gacchantassa yāva āsannassāpi aññassa gāmassa ‘‘ayaṃ imassa upacāro’’ti manussehi ṭhapitaṃ upacāraṃ na okkamati, tāva anāpatti. Taṃ okkamantassa pana paṭhamapāde dukkaṭaṃ, dutiyapāde pācittiyaṃ, iti gāmūpacārokkamanagaṇanāya pācittiyāni. Addhayojanātikkame pana gāme asati addhayojanagaṇanāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ bảy, hẹn ước có nghĩa là đã hẹn ước, đã thỏa thuận thời gian đi, có nghĩa là vậy. Con đường dài có nghĩa là một con đường được gọi là dài, hoặc cùng đi trên một con đường dài. Cần đi cùng đoàn lữ hành là cần đi cùng với đoàn lữ hành, phần còn lại có ý nghĩa rõ ràng. Đây là quyết định ở đây: khi hẹn ước ở nơi không hợp lệ, thì bị Tác Ác do việc hẹn ước. Ở đó, trừ trú xứ của Tỳ-khưu-ni, tu viện ở giữa, sảnh đường ngồi, và nơi ở của các du sĩ ngoại đạo, phần còn lại là nơi không hợp lệ; ý nghĩa là khi đứng ở đó hẹn ước. Sau khi đã hẹn ước, nếu không hủy bỏ thỏa thuận về thời gian đã định là “hôm nay hoặc ngày mai”, dù đã hủy bỏ thỏa thuận về cửa hoặc về đường đi, khi đi cùng Tỳ-khưu-ni, chừng nào chưa đi vào khu vực phụ cận của một làng khác gần nhất, khu vực do người ta xác định, thì không có tội. Nhưng khi đi vào khu vực đó, thì bị Tác Ác ở bước chân đầu tiên, và bị Ưng Đối Trị ở bước chân thứ hai; như vậy, bị nhiều tội Ưng Đối Trị theo số lần đi vào khu vực phụ cận của làng. Khi vượt quá nửa do-tuần, nếu không có làng, thì bị Ưng Đối Trị theo số nửa do-tuần.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha ekaddhānamaggappaṭipajjanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘aññatra samayā’’ti ayamettha anupaññatti, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, asaṃvidahite saṃvidahitasaññino vematikassa vā, yo ca bhikkhuniyā asaṃvidahantiyā kevalaṃ attanāva saṃvidahati, tassa dukkaṭaṃ. Samaye saṃvidahitvāpi gacchantassa, attanā asaṃvidahantassa, visaṅketena vā, āpadāsu gacchantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Dvinnampi saṃvidahitvā maggappaṭipatti, avisaṅketatā, samayābhāvo, anāpadā, gāmantarokkamanaṃ vā addhayojanātikkamo vāti imānettha pañca aṅgāni. Ekatoupasampannādīhi pana saddhiṃ mātugāmasikkhāpadena āpatti, addhānasamuṭṭhānaṃ, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp đi trên cùng một con đường dài. Câu trừ phi có thời điểm là điều chế định bổ sung ở đây. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với trường hợp không hẹn ước mà có tưởng là đã hẹn ước hoặc nghi ngờ, và người nào chỉ tự mình hẹn ước mà Tỳ-khưu-ni không hẹn ước, thì bị Tác Ác. Không có tội khi đi sau khi đã hẹn ước trong thời điểm, khi tự mình không hẹn ước, hoặc với thỏa thuận đã bị hủy bỏ, hoặc đi trong các tai nạn; và đối với những người điên loạn v.v… Ở đây có năm chi phần này: cả hai cùng hẹn ước rồi đi trên đường, không hủy bỏ thỏa thuận, không có thời điểm, không có tai nạn, và đi vào làng khác hoặc vượt quá nửa do-tuần. Đối với việc đi cùng người cùng thọ cụ túc giới v.v…, thì phạm tội theo học giới về người nữ. Pháp sanh khởi của việc đi xa là do hành động, không phải do tưởng, không có tâm, là tội chế định, là nghiệp của thân, nghiệp của lời nói, có ba loại tâm, và ba loại cảm thọ.

Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới hẹn ước đã chấm dứt.

8. Nāvābhiruhanasikkhāpadavaṇṇanā
8. Giải Thích Học Giới Lên Thuyền

Aṭṭhame saṃvidhāyāti kīḷāpurekkhāro saṃvidahitvā, abhiruhanakāle saṅketaṃ katvāti attho. Uddhaṃgāmininti kīḷāvasena uddhaṃ nadiyā paṭisotaṃ gacchantiṃ. Adhogāmininti tatheva adho anusotaṃ gacchantiṃ. Yaṃ pana titthappaṭipādanatthaṃ uddhaṃ vā adho vā haranti, ettha anāpatti. Aññatra tiriyaṃ taraṇāyāti upayogatthe nissakkavacanaṃ, yā tiriyaṃ taraṇā, taṃ ṭhapetvāti attho. Pācittiyanti sagāmakatīrapassena gamanakāle gāmantaragaṇanāya, agāmakatīrapassena vā yojanavitthatāya nadiyā majjhena vā gamanakāle addhayojanagaṇanāya pācittiyaṃ, samudde pana yathāsukhaṃ gantuṃ vaṭṭati.
Ở điều thứ tám, hẹn ước có nghĩa là đã hẹn ước với chủ tâm vui chơi, đã thỏa thuận thời gian lên thuyền, có nghĩa là vậy. Đi ngược dòng có nghĩa là đi ngược dòng sông để vui chơi. Đi xuôi dòng có nghĩa là đi xuôi dòng sông như vậy. Còn việc đưa thuyền đi ngược hay xuôi dòng để đến bến, thì không có tội. Trừ khi là để qua sông là cách dùng cách ly với ý nghĩa sử dụng, có nghĩa là trừ việc qua sông. Ưng Đối Trị có nghĩa là khi đi bên bờ sông có làng, thì bị Ưng Đối Trị theo số làng; khi đi bên bờ sông không có làng hoặc đi giữa dòng sông rộng một do-tuần, thì bị Ưng Đối Trị theo số nửa do-tuần. Còn ở biển, thì có thể đi tùy ý.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha nāvābhiruhanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘aññatra tiriyaṃ taraṇāyā’’ti ayamettha anupaññatti, sesaṃ anantarasikkhāpade vuttanayeneva veditabbanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp lên thuyền. Câu trừ khi là để qua sông là điều chế định bổ sung ở đây. Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới ngay trước đó.

Nāvābhiruhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới lên thuyền đã chấm dứt.

9. Paripācitasikkhāpadavaṇṇanā
9. Giải Thích Học Giới Thức Ăn Do Tỳ-khưu-ni Sắp Đặt

Navame bhikkhuniparipācitanti bhikkhuniyā paripācitaṃ, neva tassa nāttano ñātakappavāritānaṃ gihīnaṃ santike bhikkhussa guṇaṃ pakāsetvā ‘‘detha ayyassa, karotha ayyassā’’ti evaṃ nipphāditaṃ laddhabbaṃ katanti attho. Pubbe gihisamārambhāti ettha samārambhoti samāraddhaṃ, paṭiyāditassetaṃ nāmaṃ. Gihīnaṃ samārambho gihisamārambho, bhikkhuniyā paripācanato pubbe paṭhamataraṃyeva yaṃ bhikkhūnaṃ atthāya gihīnaṃ paṭiyāditabhattaṃ, ñātakappavāritānaṃ vā santakaṃ, taṃ ṭhapetvā aññaṃ jānaṃ bhuñjantassa pācittiyanti attho. Tañca kho ajjhoharaṇagaṇanāya, paṭiggahaṇe panassa dukkaṭaṃ.
Ở điều thứ chín, thức ăn do Tỳ-khưu-ni sắp đặt là thức ăn được Tỳ-khưu-ni sắp đặt, có nghĩa là thức ăn có thể nhận được, được tạo ra do một Tỳ-khưu-ni ca ngợi phẩm chất của Tỳ-khưu trước mặt các gia chủ không phải là thân quyến hay người đã mời của cả hai vị, rồi nói ‘Hãy cúng dường cho Thượng tọa, hãy làm cho Thượng tọa’. Trong câu trước khi người tại gia bắt đầu, ở đây, sự bắt đầu là đã bắt đầu, đây là tên gọi cho việc đã chuẩn bị. Sự bắt đầu của người tại gia là việc bắt đầu của người tại gia; ý nghĩa là: trừ bữa ăn đã được người tại gia chuẩn bị vì lợi ích của các Tỳ-khưu trước cả khi Tỳ-khưu-ni sắp đặt, hoặc thuộc sở hữu của thân quyến hay người đã được mời, nếu biết mà ăn thức ăn khác, thì bị Ưng Đối Trị. Và đó là theo số lần nuốt, còn khi nhận thì bị Tác Ác.

Rājagahe devadattaṃ ārabbha bhikkhuniparipācitapiṇḍapātabhuñjanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘aññatra pubbe gihisamārambhā’’ti ayamettha anupaññatti, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, ekatoupasampannāya paripācitaṃ bhuñjantassa , aparipācite paripācitasaññino, ubhayattha vematikassa ca dukkaṭaṃ. Ubhayattha aparipācitasaññino, gihisamārambhe, sikkhamānasāmaṇerādīhi paripācite, pañca bhojanāni ṭhapetvā avasese, ummattakādīnañca anāpatti. Bhikkhuniyā paripācitatā, paripācitabhāvajānanaṃ, gihisamārambhābhāvo, odanādīnaṃ aññataratā, tassa ajjhoharaṇanti imānettha pañca aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasaasāni, idaṃ pana paṇṇattivajjaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Rājagaha, liên quan đến Devadatta, trong trường hợp ăn vật thực khất thực do Tỳ-khưu-ni sắp đặt. Câu trừ khi người tại gia đã bắt đầu trước là điều chế định bổ sung ở đây. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu. Việc ăn thức ăn do người cùng thọ cụ túc giới sắp đặt, hoặc ăn thức ăn không phải do sắp đặt mà có tưởng là do sắp đặt, hoặc nghi ngờ ở cả hai trường hợp, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không phải do sắp đặt; trong trường hợp người tại gia đã bắt đầu; ăn thức ăn do cô ni tu tập sự, Sa-di v.v… sắp đặt; ăn các thứ khác trừ năm loại thực phẩm; và những người điên loạn v.v… Ở đây có năm chi phần này: do Tỳ-khưu-ni sắp đặt, biết là do sắp đặt, không phải do người tại gia bắt đầu trước, là một trong các loại như cơm v.v…, và việc nuốt thức ăn đó. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều Bất Cộng Trụ thứ nhất, nhưng điều này là tội chế định, có ba loại tâm, và ba loại cảm thọ.

Paripācitasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới thức ăn do Tỳ-khưu-ni sắp đặt đã chấm dứt.

10. Rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā
10. Giải Thích Học Giới Ngồi Nơi Kín Đáo

Dasame sabbopi kathāmaggo dutiyaaniyate vuttanayeneva veditabbo. Idañhi sikkhāpadaṃ dutiyaaniyatena ca upari upanandassa catutthasikkhāpadena ca ekaparicchedaṃ, aṭṭhuppattivasena pana visuṃ paññattanti.
Ở điều thứ mười, toàn bộ nội dung nên được hiểu theo cách đã nói trong điều bất định thứ hai. Vì học giới này cùng một phạm vi với điều bất định thứ hai và học giới thứ tư của Upananda ở trên, nhưng được chế định riêng do nguồn gốc của học giới.

Rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới ngồi nơi kín đáo đã chấm dứt.

Ovādavaggo tatiyo.
Phẩm Giáo Giới là phẩm thứ ba.

4. Bhojanavaggo
4. Phẩm Ăn Uống

1. Āvasathasikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải Thích Học Giới Nơi Trú Ngụ

Bhojanavaggassa paṭhame agilānenāti addhayojanampi gantuṃ samatthena. Ekoti ekadivasiko. Āvasathapiṇḍoti ‘‘imesaṃ vā ettakānaṃ vā’’ti ekaṃ pāsaṇḍaṃ vā, ‘‘ettakamevā’’ti evaṃ bhattaṃ vā anodissa sālādīsu yattha katthaci puññakāmehi paññattaṃ bhojanaṃ. Bhuñjitabboti ekakulena vā nānākulehi vā ekato hutvā ekasmiṃ vā ṭhāne, nānāṭhānesu vā ‘‘ajja ekasmiṃ, sve ekasmi’’nti evaṃ aniyataṭṭhāne vā paññatto ekasmiṃ ṭhāne ekadivasameva bhuñjitabbo. Tato ce uttarīti dutiyadivasato paṭṭhāya tasmiṃ vā ṭhāne aññasmiṃ vā ṭhāne tesaṃ santakassa paṭiggahaṇe dukkaṭaṃ, ajjhohāre ajjhohāre pācittiyaṃ.
Ở điều đầu tiên của phẩm Ăn Uống, không phải người bệnh là người có thể đi được nửa do-tuần. Một là một ngày. Vật thực khất thực ở nơi trú ngụ là bữa ăn được những người có lòng hảo tâm thiết đãi ở bất cứ đâu như sảnh đường v.v…, không chỉ định cho một phái nào đó hoặc “chỉ ngần này Tỳ-khưu” hoặc “chỉ ngần này bữa ăn”. Nên ăn có nghĩa là bữa ăn được một gia đình hoặc nhiều gia đình cùng nhau thiết đãi tại một nơi, hoặc tại nhiều nơi, hoặc tại nơi không cố định như “hôm nay ở một nơi, ngày mai ở một nơi khác”, thì chỉ nên ăn một ngày tại một nơi. Nếu hơn thế có nghĩa là từ ngày thứ hai trở đi, nếu nhận của họ tại nơi đó hoặc tại nơi khác, thì bị Tác Ác khi nhận; khi nuốt, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần nuốt.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha anuvasitvā āvasathapiṇḍabhuñjanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘agilānenā’’ti ayamettha anupaññatti, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, gilānassa agilānasaññino vematikassa vā dukkaṭaṃ. Gilānassa gilānasaññino, yo ca sakiṃ bhuñjati, gacchanto vā antarāmagge ekadivasaṃ , gataṭṭhāne ekadivasaṃ, paccāgantopi antarāmagge ekadivasaṃ, āgataṭṭhāne ekadivasaṃ, gamissāmī’ti ca bhuñjitvā nikkhanto kenaci upaddavena nivattitvā khemabhāvaṃ ñatvā gacchanto puna ekadivasaṃ bhuñjati, yassa vā sāmikā nimantetvā denti, yo vā bhikkhūnaṃyeva uddissa paññattaṃ, na yāvadatthaṃ paññattaṃ, ṭhapetvā vā pañca bhojanāni aññaṃ bhuñjati, tassa ca, ummattakādīnañca anāpatti. Āvasathapiṇḍatā, agilānatā, anuvasitvā paribhojananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasikkhāpadasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp ở lại rồi ăn vật thực khất thực ở nơi trú ngụ. Câu không phải người bệnh là điều chế định bổ sung ở đây. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người bệnh mà có tưởng là không bệnh hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người bệnh có tưởng là bệnh; người nào ăn một lần; người đang đi ăn một ngày giữa đường, một ngày ở nơi đã đến, khi trở về cũng ăn một ngày giữa đường, một ngày ở nơi đã đến; và người nào sau khi ăn với ý định ‘tôi sẽ đi’ rồi ra đi, bị một tai nạn nào đó làm cho quay trở lại, khi biết là đã an toàn, lại đi và ăn thêm một ngày; người nào được chủ nhà mời rồi cho; và người nào ăn vật thực được thiết đãi riêng cho các Tỳ-khưu, không phải được thiết đãi không giới hạn; hoặc ăn thức ăn khác trừ năm loại thực phẩm; và đối với người đó, những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là vật thực khất thực ở nơi trú ngụ, không phải là người bệnh, và ăn sau khi ở lại. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới về lông cừu Eḷaka.

Āvasathasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới nơi trú ngụ đã chấm dứt.

2. Gaṇabhojanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giải Thích Học Giới Ăn Theo Nhóm

Dutiye gaṇabhojaneti gaṇassa bhojane. Idha ca gaṇoti cattāro vā tatuttari vā bhikkhū , tesaṃ nimantanato vā viññattito vā laddhe odanādīnaṃ pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarabhojaneti attho. Tatthāyaṃ vinicchayo – sace hi koci cattāro bhikkhū upasaṅkamitvā yena kenaci vevacanena vā bhāsantarena vā pañcannaṃ bhojanānaṃ nāmaṃ gahetvā ‘‘odanena nimantemi, odanaṃ me gaṇhathā’’tiādinā nayena nimanteti, te ce evaṃ ekato vā nānāto vā nimantitā ekato vā nānāto vā gantvā ekato gaṇhanti, pacchā ekato vā nānāto vā bhuñjanti, gaṇabhojanaṃ hoti. Paṭiggahaṇameva hettha pamāṇaṃ. Sace odanādīnaṃ nāmaṃ gahetvā ekato vā nānāto vā viññāpetvā ca gantvā ca ekato gaṇhanti, evampi gaṇabhojanameva. Tassa duvidhassāpi evaṃ paṭiggahaṇe dukkaṭaṃ, ajjhohāre ajjhohāre pācittiyaṃ. Gilānasamayādīsu yadā pādānampi phalitattā na sakkā piṇḍāya carituṃ, ayaṃ gilānasamayo. Atthatakathinānaṃ pañca māsā, itaresaṃ kattikamāsoti ayaṃ cīvaradānasamayo. Yadā yo cīvare kariyamāne kiñcideva cīvare kattabbaṃ kammaṃ karoti, ayaṃ cīvarakārasamayo. Yadā addhayojanampi gantukāmo vā hoti gacchati vā gato vā, ayaṃ addhānagamanasamayo. Nāvābhiruhanasamayepi eseva nayo. Yadā gocaragāme cattāro bhikkhū piṇḍāya caritvā na yāpenti, ayaṃ mahāsamayo. Yadā yokoci pabbajito bhattena nimanteti, ayaṃ samaṇabhattasamayo, etesu samayesu bhuñjituṃ vaṭṭati.
Ở điều thứ hai, trong bữa ăn theo nhóm là bữa ăn của một nhóm. Ở đây, nhóm là bốn hoặc nhiều hơn bốn Tỳ-khưu. Ý nghĩa là ăn một trong năm loại thực phẩm như cơm v.v… nhận được do được mời hoặc do xin. Quyết định ở đây là như sau: nếu ai đó đến gặp bốn Tỳ-khưu, dùng bất kỳ từ ngữ nào hoặc ngôn ngữ khác, nêu tên một trong năm loại thực phẩm rồi mời bằng cách nói “tôi mời cơm, xin các ngài hãy nhận cơm của tôi” v.v…, nếu họ được mời chung hoặc riêng như vậy, rồi đi chung hoặc riêng đến nhận chung, sau đó ăn chung hoặc riêng, thì đó là bữa ăn theo nhóm. Việc nhận chính là tiêu chuẩn ở đây. Nếu nêu tên cơm v.v…, rồi xin chung hoặc riêng, rồi đi và nhận chung, như vậy cũng là bữa ăn theo nhóm. Đối với cả hai loại đó, khi nhận như vậy thì bị Tác Ác; khi nuốt, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần nuốt. Trong các thời điểm như bệnh tật, khi chân bị nứt nẻ không thể đi khất thực được, đây là thời điểm bệnh tật. Đối với những người đã giải trừ Kathina, năm tháng, đối với những người khác, tháng Kattika, đây là thời điểm dâng y. Khi đang làm y, nếu làm bất cứ công việc gì cần làm trên y, đây là thời điểm làm y. Khi có ý định đi, đang đi, hoặc đã đi nửa do-tuần, đây là thời điểm đi đường xa. Đối với thời điểm lên thuyền cũng theo cách này. Khi bốn Tỳ-khưu đi khất thực trong làng mà không đủ sống, đây là thời điểm trọng đại. Khi một vị xuất gia nào đó mời ăn, đây là thời điểm bữa ăn của Sa-môn. Trong những thời điểm này, được phép ăn.

Rājagahe devadattaṃ ārabbha viññāpetvā bhuñjanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘aññatra samayā’’ti ayamettha sattavidhā anupaññatti, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, nagaṇabhojane gaṇabhojanasaññissa vematikassa vā dukkaṭaṃ. Nagaṇabhojanasaññissa pana, ye ca dve tayo ekato gaṇhanti, bahūnaṃ piṇḍāya caritvā ekato bhuñjantānaṃ, niccabhattikādīsu, pañca bhojanāni ṭhapetvā sabbattha, ummattakādīnañca anāpatti. Gaṇabhojanatā, samayābhāvo, ajjhoharaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Rājagaha, liên quan đến Devadatta, trong trường hợp xin rồi ăn. Câu trừ phi có thời điểm là điều chế định bổ sung bảy loại ở đây. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với trường hợp không phải là bữa ăn theo nhóm mà có tưởng là bữa ăn theo nhóm hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không phải bữa ăn theo nhóm; và hai ba người nhận chung; nhiều người đi khất thực rồi ăn chung; trong các bữa ăn thường xuyên v.v…; trong mọi trường hợp trừ năm loại thực phẩm; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là bữa ăn theo nhóm, không có thời điểm, và việc nuốt. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới về lông cừu Eḷaka.

Gaṇabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới ăn theo nhóm đã chấm dứt.

3. Paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Giải Thích Học Giới Ăn Theo Lượt

Tatiye paramparabhojaneti gaṇabhojane vuttanayeneva pañcahi bhojanehi nimantitassa yena yena paṭhamaṃ nimantito, tassa tassa bhojanato uppaṭipāṭiyā vā avikappetvā vā parassa parassa bhojane. Tasmā yo bhikkhu pañcasu sahadhammikesu aññatarassa ‘‘mayhaṃ bhattapaccāsaṃ tuyhaṃ dammī’’ti vā ‘‘vikappemī’’ti vā evaṃ sammukhā vā ‘‘itthannāmassa dammī’’ti (pāci. 226) vā ‘‘vikappemī’’ti vā evaṃ parammukhāvā paṭhamanimantanaṃ avikappetvā pacchā nimantitakule laddhabhikkhato ekasitthampi ajjhoharati, pācittiyaṃ. Samayā vuttanayā eva.
Ở điều thứ ba, trong bữa ăn theo lượt là trong bữa ăn của người này người kia, không theo thứ tự hoặc không từ bỏ bữa ăn trước, đối với người đã được mời ăn một trong năm loại thực phẩm theo cách đã nói trong bữa ăn theo nhóm. Do đó, Tỳ-khưu nào không từ bỏ lời mời đầu tiên bằng cách nói trực tiếp với một trong năm người đồng pháp rằng “tôi cho ông phần ăn của tôi” hoặc “tôi từ bỏ”, hoặc nói gián tiếp “tôi cho người tên này” (pāci. 226) hoặc “tôi từ bỏ”, rồi nuốt dù chỉ một hạt cơm từ bữa ăn nhận được ở nhà người mời sau, thì bị Ưng Đối Trị. Các thời điểm thì như đã nói.

Vesāliyaṃ sambahule bhikkhū ārabbha aññatra nimantitabhojanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘aññatra samayā’’ti ayamettha tividhā anupaññatti, parivāre pana vikappanampi gahetvā ‘‘catasso anupaññattiyo’’ti (pari. 86) vuttaṃ, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, naparamparabhojane paramparabhojanasaññino vematikassa vā dukkaṭaṃ. Naparamparabhojanasaññissa pana, yo ca samaye vā vikappetvā vā ekasaṃsaṭṭhāni vā dve tīṇi nimantanāni ekato vā katvā bhuñjati, nimantanappaṭipāṭiyā bhuñjati, sakalena gāmena vā pūgena vā nimantito tesu yatthakatthaci bhuñjati, nimantiyamāno vā ‘‘bhikkhaṃ gahessāmī’’ti vadati, tassa, niccabhattikādīsu, pañca bhojanāni ṭhapetvā sabbattha, ummattakādīnañca anāpatti. Paramparabhojanatā, samayābhāvo, ajjhoharaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamakathinasadisāneva, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Vesālī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu, trong trường hợp ăn bữa ăn khác với bữa ăn được mời. Câu trừ phi có thời điểm là điều chế định bổ sung ba loại ở đây. Nhưng trong phần Phân Tích, bao gồm cả việc từ bỏ, có nói “có bốn điều chế định bổ sung” (pari. 86). Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với trường hợp không phải là bữa ăn theo lượt mà có tưởng là bữa ăn theo lượt hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không phải bữa ăn theo lượt; và người nào ăn trong thời điểm hoặc sau khi đã từ bỏ, hoặc ăn hai ba lời mời gộp chung lại, hoặc ăn theo thứ tự mời, hoặc được cả làng hay cả nhóm mời rồi ăn ở bất cứ đâu trong số đó, hoặc khi được mời mà nói “tôi sẽ nhận vật thực khất thực”; và đối với người đó, trong các bữa ăn thường xuyên v.v…; trong mọi trường hợp trừ năm loại thực phẩm; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là bữa ăn theo lượt, không có thời điểm, và việc nuốt. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) Kathina đầu tiên, nhưng điều này là hành động không hành động.

Paramparabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới ăn theo lượt đã chấm dứt.

4. Kāṇamātāsikkhāpadavaṇṇanā
4. Giải Thích Học Giới Mẹ Kāṇā

Catutthe pūvehīti paheṇakatthāya paṭiyattehi atirasakamodakasakkhalikādīhi yehi kehici khajjakehi. Manthehīti pātheyyatthāya paṭiyattehi yehi kehici sattutilataṇḍulādīhi. Dvattipattapūrāti mukhavaṭṭiyā heṭṭhimalekhaṃ anatikkantā dve vā tayo vā pattapūrā. Tato ce uttarīti sacepi tatiyaṃ pattaṃ thūpīkataṃ gaṇhāti, mukhavaṭṭiyā heṭṭhimalekhato upariṭṭhitapūvagaṇanāya pācittiyaṃ. Dvattipattapūre paṭiggahetvāti ettha yena dve gahitā honti, tena bahi bhikkhuṃ disvā ‘‘ettha mayā dve pattapūrā gahitā, tvaṃ ekaṃ gaṇheyyāsī’’ti vattabbaṃ, tenāpi aññaṃ passitvā ‘‘paṭhamaṃ āgatena dve pattapūrā gahitā, mayā eko gahito, tvaṃ mā gaṇhī’’ti vattabbaṃ. Yena paṭhamaṃ eko gahito , tassāpi paramparārocane eseva nayo. Yena pana sayameva tayo gahitā, tena aññaṃ disvā ‘‘mā kho tvaṃ ettha paṭiggaṇhīti vattabbaṃ, avadantassa dukkaṭaṃ, taṃ sutvā gaṇhantassāpi dukkaṭameva. Tato nīharitvā bhikkhūhi saddhiṃ saṃvibhajitabbanti laddhaṭṭhānato sabbāsannaṃ āsanasālaṃ vā vihāraṃ vā yattha vā pana nibaddhaṃ paṭikkamati, tattha gantvā ekaṃ pattapūraṃ attano ṭhapetvā sesaṃ bhikkhusaṅghassa dātabbaṃ. Yathāmittaṃ pana dātuṃ na labbhati. Yena eko gahito, na tena kiñci akāmā dātabbaṃ, yathāruci kātabbaṃ.
Ở điều thứ tư, bằng bánh là bằng bất kỳ loại đồ ăn vặt nào như bánh ngọt, bánh modaka, bánh sakkhalikā v.v… đã được chuẩn bị để làm quà. Bằng bột rang là bằng bất kỳ loại bột như bảy loại ngũ cốc, mè, gạo v.v… đã được chuẩn bị để làm lương thực đi đường. Hai ba bát đầy là hai hoặc ba bát đầy không vượt qua vạch dưới của miệng bát. Nếu hơn thế có nghĩa là nếu nhận bát thứ ba dù chỉ vun lên, thì bị Ưng Đối Trị theo số bánh nằm trên vạch dưới của miệng bát. Sau khi đã nhận hai ba bát đầy ở đây, người đã nhận hai bát, khi thấy một Tỳ-khưu bên ngoài, phải nói “tôi đã nhận hai bát đầy ở đây, ông hãy nhận một bát”. Người đó cũng phải nói với người khác khi thấy “người đến trước đã nhận hai bát đầy, tôi đã nhận một bát, ông đừng nhận nữa”. Đối với người đã nhận một bát trước cũng theo cách này trong việc báo cho người sau. Còn người nào tự mình nhận ba bát, khi thấy người khác, phải nói “ông đừng nhận ở đây”. Nếu không nói thì bị Tác Ác, người nghe rồi nhận cũng bị Tác Ác. Sau khi mang ra khỏi đó, phải chia cho các Tỳ-khưu có nghĩa là sau khi đến sảnh đường ngồi gần nhất hoặc tu viện từ nơi đã nhận, hoặc nơi nào thường lui tới, phải giữ lại một bát cho mình, phần còn lại phải cúng dường cho Tăng chúng Tỳ-khưu. Nhưng không được cho theo tình thân. Người nào đã nhận một bát, không phải cho đi bất cứ thứ gì nếu không muốn, có thể làm tùy ý.

Sāvatthiyaṃ sambahule bhikkhū ārabbha na mattaṃ jānitvā paṭiggahaṇavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, ūnakadvattipattapūre atirekasaññissa vematikassa vā dukkaṭaṃ. Ūnakasaññissa pana, na paheṇakatthāya na pātheyyatthāya vā paṭiyattaṃ, tadatthāya paṭiyattasesakaṃ vā, gamane vā paṭippassaddhe, ñātakappavāritānaṃ vā dentānaṃ, attano dhanena gaṇhantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Vuttalakkhaṇapūvamanthatā, asesakatā, appaṭippassaddhagamanatā, anaññātakāditā, atirekappaṭiggahaṇanti imānettha pañca aṅgāni, samuṭṭhānādīni sañcarittasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu, trong trường hợp nhận mà không biết chừng mực. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với trường hợp dưới hai ba bát đầy mà có tưởng là quá mức hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là dưới mức; khi thức ăn không được chuẩn bị để làm quà hoặc làm lương thực đi đường, hoặc là phần còn lại của thức ăn đã được chuẩn bị cho mục đích đó; khi chuyến đi đã bị hủy bỏ; khi thân quyến hoặc người đã được mời cúng dường; khi nhận bằng tiền của mình; và những người điên loạn v.v… Ở đây có năm chi phần này: là bánh và bột rang có đặc tính đã nói, không còn sót lại, chuyến đi chưa bị hủy bỏ, không phải là thân quyến v.v…, và nhận quá mức. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) về sự môi giới.

Kāṇamātāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới mẹ Kāṇā đã chấm dứt.

5. Paṭhamapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā
5. Giải Thích Học Giới Từ Chối Thứ Nhất

Pañcame bhuttāvīti bhuttavā, yena pañcannaṃ bhojanānaṃ sāsapamattampi ajjhoharitaṃ, so evaṃ vuccati. Pavāritoti ‘‘asanaṃ paññāyati, bhojanaṃ paññāyati, hatthapāse ṭhito abhiharati, paṭikkhepo paññāyatī’’ti (pāci. 239) evaṃ pāḷiyaṃ vuttapañcaṅgavasena katappavāraṇo, katappaṭikkhepoti attho. Tattha yasmā ‘‘asanaṃ paññāyatī’’ti iminā vippakatabhojano ‘pavārito’ti vutto. Yo ca vippakatabhojano, tena kiñci bhuttaṃ, kiñci abhuttaṃ, yañca bhuttaṃ, taṃ sandhāya ‘bhuttāvī’tipi saṅkhaṃ gacchati. Tasmā ‘bhuttāvī’tivacanena visuṃ kiñci atthasiddhiṃ na passāma, ‘‘dirattatiratta’’ntiādīsu (pāci. 52) pana dirattādivacanaṃ viya pavāritapadassa parivārabhāvena byañjanasiliṭṭhatāya cetaṃ vuttanti veditabbaṃ.
Ở điều thứ năm, đã ăn là người đã ăn. Người nào đã nuốt dù chỉ một chút của năm loại thực phẩm, thì được gọi như vậy. Đã từ chối có nghĩa là đã từ chối theo năm chi phần đã được nói trong Pāḷi: “thức ăn được thấy, bữa ăn được thấy, người dâng đứng trong tầm tay, sự dâng cúng được thấy, sự từ chối được thấy” (pāci. 239), có nghĩa là đã từ chối. Ở đó, vì câu “thức ăn được thấy” đã nói đến người đang ăn dang dở là ‘đã từ chối’. Và người nào đang ăn dang dở, thì có phần đã ăn, có phần chưa ăn; và phần đã ăn đó cũng được xếp vào loại ‘đã ăn’. Do đó, chúng tôi không thấy có sự thành tựu ý nghĩa nào khác từ chữ ‘đã ăn’. Nhưng nên biết rằng chữ này được nói để làm cho câu văn trôi chảy và là phần phụ cho chữ ‘đã từ chối’, giống như chữ ‘hai đêm’ v.v… trong câu “hai đêm ba đêm” v.v… (pāci. 52).

Pavāraṇaṅgesu pana asanaṃ paññāyatīti vippakatabhojanaṃ dissati, taṃ bhuñjamāno cesa puggalo hotīti attho. Bhojanaṃ paññāyatīti pavāraṇappahonakaṃ bhojanaṃ dissati, odanādīnaṃ ce aññataraṃ paṭikkhipitabbaṃ bhojanaṃ hotīti attho. Hatthapāse ṭhitoti pavāraṇappahonakaṃ ce bhojanaṃ gaṇhitvā dāyako aḍḍhateyyahatthappamāṇe okāse ṭhito hotīti attho . Abhiharatīti so ce dāyako tassa taṃ bhojanaṃ kāyena abhisaṃharatīti attho. Paṭikkhepo paññāyatīti paṭikkhepo dissati, taṃ ce abhihaṭaṃ so bhikkhu kāyena vā vācāya vā paṭikkhipatīti attho. Evaṃ pañcannaṃ aṅgānaṃ vasena pavārito hoti.
Trong các chi phần của việc từ chối, thức ăn được thấy có nghĩa là thấy bữa ăn đang dang dở, và người này đang ăn thức ăn đó. Bữa ăn được thấy có nghĩa là thấy bữa ăn đủ để từ chối, và đó là một trong các loại thực phẩm như cơm v.v… cần phải từ chối. Đứng trong tầm tay có nghĩa là nếu người dâng cúng, sau khi lấy bữa ăn đủ để từ chối, đứng trong khoảng cách hai thước rưỡi. Dâng cúng có nghĩa là nếu người dâng cúng đó dâng bữa ăn đó bằng thân. Sự từ chối được thấy có nghĩa là thấy sự từ chối, và nếu Tỳ-khưu đó từ chối bữa ăn đã được dâng cúng đó bằng thân hoặc bằng lời nói. Như vậy, người đó đã từ chối theo năm chi phần.

Tatrāyaṃ vinicchayo – ‘asana’ntiādīsu tāva yañca asnāti, yañca bhojanaṃ hatthapāse ṭhitena abhihaṭaṃ paṭikkhipati, taṃ odano kummāso sattu maccho maṃsanti imesaṃ aññatarameva veditabbaṃ. Tattha odano nāma sāli vīhi yavo godhumo kaṅgu varako kudrūsakoti imesaṃ sattannaṃ dhaññānaṃ taṇḍule gahetvā ‘‘bhattaṃ pacāmā’’ti vā ‘‘yāguṃ pacāmā’’ti vā yaṃkiñci sandhāya pacantu, sace uṇhaṃ vā sītalaṃ vā bhuñjantānaṃ bhojanakāle gahitagahitaṭṭhāne odhi paññāyati, odano hoti, pavāraṇaṃ janeti. Yo pana pāyāso vā ambilayāgu vā uddhanato otāritamattā abbhuṇhā sakkā hoti āvijjhitvā pivituṃ, sā yassa hatthena gahitokāsepi odhi na paññāyati, pavāraṇaṃ na janeti. Sace pana usumāya vigatāya ghanabhāvaṃ gacchati, odhiṃ dasseti, puna pavāraṇaṃ janeti, pubbe tanukabhāvo na rakkhati. Sacepi bahū paṇṇaphalakaḷīre pakkhipitvā muṭṭhimattāpi taṇḍulā pakkhittā honti, bhojanakāle ce odhi paññāyati, pavāraṇaṃ janeti. Ayāguke nimantane ‘‘yāguṃ dassāmā’’ti bhatte udakakañjikakhīrādīni ākiritvā ‘‘yāguṃ gaṇhathā’’ti denti, kiñcāpi tanukā hoti, pavāraṇaṃ janetiyeva. Sace pana pakkuthitesu udakādīsu pakkhipitvā pacitvā denti, yāgusaṅgahameva gacchati. Sace yāguyāpi sāsapamattampi macchamaṃsakkhaṇḍaṃ vā nhāru vā pakkhittaṃ hoti, pavāraṇaṃ janeti. Ṭhapetvā sānulomānaṃ vuttadhaññānaṃ taṇḍule aññehi veḷutaṇḍulādīhi vā kandamūlaphalehi vā yehi kehici katabhattaṃ pavāraṇaṃ na janeti. Kummāso nāma yavehi kato. Aññehi pana muggādīhi katakummāso pavāraṇaṃ na janeti. Sattu nāma satta dhaññāni bhajjitvā kato. Antamaso kharapākabhajjitānaṃ vīhīnaṃ taṇḍule koṭṭetvā katacuṇṇampi kuṇḍakampi sattusaṅgahameva gacchati. Samapākabhajjitānaṃ pana ātapasukkhānaṃ kuṇḍakaṃ vā, ye keci taṇḍulā vā lājā vā, lājehi katabhattasattuādīni vā na pavārenti. Macchamaṃsesu sace yāguṃ pivantassa yāgusitthamattāneva dve macchakkhaṇḍāni vā maṃsakkhaṇḍāni vā ekabhājane vā nānābhājane vā denti, tāni ce akhādanto aññaṃ pavāraṇappahonakaṃ yaṃkiñci paṭikkhipati, na pavāreti. Tato ekaṃ khāditaṃ, ekaṃ hatthe vā patte vā hoti, sace aññaṃ paṭikkhipati pavāreti. Dvepi khāditāni honti, mukhe sāsapamattampi avasiṭṭhaṃ natthi, sacepi aññaṃ paṭikkhipati, na pavāreti. Yo pana akappiyamaṃsaṃ kuladūsanavejjakammauttarimanussadhammārocanasāditarūpiyādīhi nibbattaṃ akappiyabhojanañca aññaṃ kappiyaṃ vā akappiyaṃ vā khādanto paṭikkhipati, na pavāreti.
Quyết định ở đây là như sau: trong các câu ‘thức ăn’ v.v…, cả thức ăn đang ăn và bữa ăn bị từ chối khi được dâng bởi người đứng trong tầm tay, đều phải được biết là một trong các thứ này: cơm, cháo đặc, bột rang, cá, thịt. Ở đó, cơm là khi lấy gạo của bảy loại ngũ cốc này: sāli, vīhi, yavo, godhumo, kaṅgu, varako, kudrūsako, dù nấu với ý định “chúng ta nấu cơm” hay “chúng ta nấu cháo”, nếu khi ăn nóng hay nguội, vào lúc ăn, thấy có sự đông đặc ở chỗ đã lấy, thì đó là cơm, và nó tạo ra sự từ chối. Còn cháo ngọt hay cháo chua, khi vừa mới nhấc xuống khỏi bếp còn nóng hổi, có thể múc lên uống, nếu ở chỗ lấy bằng tay không thấy có sự đông đặc, thì không tạo ra sự từ chối. Nhưng nếu khi hơi nóng đã hết, nó trở nên đặc lại, thể hiện sự đông đặc, thì lại tạo ra sự từ chối, tình trạng loãng trước đó không được tính. Dù cho vào nhiều lá, quả, củ, và chỉ cho vào một nắm gạo, nếu vào lúc ăn thấy có sự đông đặc, thì cũng tạo ra sự từ chối. Trong lời mời không có cháo, khi người ta nói “chúng tôi sẽ cho cháo” rồi đổ nước, nước cơm, sữa v.v… vào cơm và nói “xin hãy nhận cháo”, dù nó loãng, cũng tạo ra sự từ chối. Nhưng nếu cho vào nước v.v… đang sôi rồi nấu và dâng, thì được xếp vào loại cháo. Nếu trong cháo có dù chỉ một chút miếng cá, miếng thịt, hoặc gân, thì cũng tạo ra sự từ chối. Trừ gạo của các loại ngũ cốc đã nói hợp lệ, cơm làm bằng các loại gạo khác như gạo tre, hoặc bằng củ, rễ, quả, hoặc bất cứ thứ gì, đều không tạo ra sự từ chối. Cháo đặc là cháo làm bằng lúa mạch. Còn cháo đặc làm bằng các loại đậu khác như đậu xanh v.v… thì không tạo ra sự từ chối. Bột rang là bột làm bằng cách rang bảy loại ngũ cốc. Cho đến cả bột làm bằng cách giã gạo của lúa rang quá lửa cũng được xếp vào loại bột rang. Nhưng bột của gạo rang vừa hoặc phơi nắng, hoặc bất kỳ loại gạo nào, hoặc cốm, hoặc cơm, bột rang v.v… làm bằng cốm, đều không tạo ra sự từ chối. Trong cá, thịt, nếu khi đang uống cháo, người ta dâng hai miếng cá hoặc hai miếng thịt chỉ bằng hạt cháo trong một bát hoặc trong các bát khác nhau, nếu không ăn chúng mà từ chối bất kỳ thức ăn nào khác đủ để từ chối, thì không từ chối. Nếu đã ăn một miếng, một miếng còn trong tay hoặc trong bát, nếu từ chối thứ khác, thì đã từ chối. Nếu đã ăn cả hai, trong miệng không còn sót lại dù chỉ một chút, nếu từ chối thứ khác, cũng không từ chối. Còn người nào ăn thịt không hợp lệ, thức ăn không hợp lệ do làm nghề y, khoe khoang pháp thượng nhân, nhận tiền bạc v.v…, và thức ăn khác hợp lệ hay không hợp lệ, mà từ chối, thì không từ chối.

Evaṃ yañca asnāti, yañca bhojanaṃ hatthapāse ṭhitena abhihaṭaṃ paṭikkhipanto pavāraṇaṃ janeti, taṃ ñatvā idāni yathā āpajjati, tassa jānanatthaṃ ayaṃ vinicchayo veditabbo – ‘‘asanaṃ bhojana’’nti ettha tāva yena ekasitthampi ajjhohaṭaṃ hoti, so sace pattamukhahatthesu yatthakatthaci bhojane sati sāpekkhova aññaṃ vuttalakkhaṇaṃ bhojanaṃ paṭikkhipati, pavāreti. Sace pana nirapekkho hoti, yaṃ pattādīsu avasiṭṭhaṃ, taṃ na ca ajjhoharitukāmo, aññassa vā dātukāmo, aññatra vā gantvā bhuñjitukāmo, so paṭikkhipantopi na pavāreti. ‘‘Hatthapāse ṭhito’’ti ettha pana sace bhikkhu nisinno hoti, ānisadassa pacchimantato paṭṭhāya, sace ṭhito, paṇhīnaṃ antato paṭṭhāya, sace nipanno, yena passena nipanno, tassa pārimantato paṭṭhāya dāyakassa nisinnassa vā ṭhitassa vā nipannassa vā ṭhapetvā pasāritahatthaṃ yaṃ āsannataraṃ aṅgaṃ, tassa orimantena paricchinditvā aḍḍhateyyahattho ‘hatthapāso’ti veditabbo. Tasmiṃ ṭhatvā abhihaṭaṃ paṭikkhipantasseva pavāraṇā hoti, na tato paraṃ. ‘Abhiharatī’ti hatthapāsabbhantare ṭhito gahaṇatthaṃ upanāmeti. Sace pana anantaranisinnopi bhikkhu hatthe vā ādhārake vā ṭhitaṃ pattaṃ anabhiharitvāva ‘‘bhattaṃ gaṇhathā’’ti vadati, taṃ paṭikkhipato pavāraṇā natthi. Bhattapacchiṃ ānetvā purato bhūmiyaṃ ṭhapetvā evaṃ vuttepi eseva nayo. Īsakaṃ pana uddharitvā vā apanāmetvā vā ‘gaṇhathā’ti vutte taṃ paṭikkhipato pavāraṇā hoti. Bhattapacchiṃ gahetvā parivisantassa añño ‘‘ahaṃ dhāressāmī’’ti gahitamattameva karoti, parivesakoyeva pana taṃ dhāreti, tasmā sā abhihaṭāva hoti, tato dātukāmatāya gaṇhantaṃ paṭikkhipantassa pavāraṇā hoti. Sace pana parivesakena phuṭṭhamattāva hoti, itarova naṃ dhāreti, tato dātukāmatāya gaṇhantaṃ paṭikkhipantassa pavāraṇā na hoti. Kaṭacchunā uddhaṭe pana hoti, dvinnaṃ samabhārepi paṭikkhipanto pavāretiyeva. Anantarassa diyyamāne itaro pattaṃ pidahati, aññassa abhihaṭaṃ nāma paṭikkhittaṃ hoti, tasmā pavāraṇā natthi. ‘Paṭikkhepo’ti ettha vācāya abhihaṭe paṭikkhepo na ruhati, kāyena abhihaṭaṃ pana aṅgulicalanādinā kāyavikārena vā ‘‘alaṃ, mā dehī’’tiādinā vacīvikārena vā paṭikkhipato pavāraṇā hoti.
Như vậy, sau khi đã biết cả thức ăn đang ăn và bữa ăn tạo ra sự từ chối khi bị từ chối lúc được dâng bởi người đứng trong tầm tay, bây giờ để biết làm thế nào để phạm tội, quyết định này cần được hiểu: trong câu ‘thức ăn, bữa ăn’, người nào đã nuốt dù chỉ một hạt cơm, nếu còn thức ăn trong bát, miệng, hoặc tay, mà vẫn còn ý muốn ăn và từ chối một bữa ăn khác có đặc tính đã nói, thì đã từ chối. Nhưng nếu không còn ý muốn ăn, không muốn nuốt phần còn lại trong bát v.v…, hoặc muốn cho người khác, hoặc muốn đi nơi khác ăn, người đó dù từ chối cũng không từ chối. Trong câu ‘đứng trong tầm tay’, nếu Tỳ-khưu đang ngồi, thì từ cuối chỗ ngồi trở đi; nếu đang đứng, thì từ cuối gót chân trở đi; nếu đang nằm, thì từ mép ngoài của bên đang nằm, trừ bàn tay duỗi ra, ‘tầm tay’ được hiểu là hai thước rưỡi, được đo bằng mép trong của bộ phận gần nhất của người dâng, dù đang ngồi, đứng, hay nằm. Chỉ khi từ chối thức ăn được dâng trong khoảng cách đó mới có sự từ chối, không phải xa hơn. ‘Dâng cúng’ là đưa đến để nhận trong phạm vi tầm tay. Nhưng nếu Tỳ-khưu ngồi ngay bên cạnh, không dâng bát đang cầm trong tay hoặc trên giá đỡ mà chỉ nói “xin hãy nhận cơm”, nếu từ chối, thì không có sự từ chối. Khi mang mâm cơm đến đặt trước mặt trên sàn rồi nói như vậy, cũng theo cách này. Nhưng nếu nhấc lên một chút hoặc dời đi một chút rồi nói ‘xin hãy nhận’, nếu từ chối, thì có sự từ chối. Khi người đang múc cơm, người khác nói “tôi sẽ cầm giúp” và chỉ làm động tác cầm, nhưng người múc cơm vẫn cầm, do đó nó được coi là đã được dâng; khi từ chối người đang cầm để dâng, thì có sự từ chối. Nhưng nếu người múc cơm chỉ chạm vào, còn người kia cầm, khi từ chối người đang cầm để dâng, thì không có sự từ chối. Nhưng nếu đã múc bằng vá, dù cả hai cùng cầm, khi từ chối cũng đã từ chối. Khi đang dâng cho người bên cạnh mà người kia đậy bát lại, thì đã từ chối thức ăn được dâng cho người khác, do đó không có sự từ chối. Trong câu ‘sự từ chối’, sự từ chối không có hiệu lực đối với thức ăn được dâng bằng lời nói. Nhưng đối với thức ăn được dâng bằng thân, nếu từ chối bằng cử chỉ thân như cử động ngón tay, hoặc bằng cử chỉ lời nói như “đủ rồi, đừng cho nữa”, thì có sự từ chối.

Eko samaṃsakaṃ rasaṃ abhiharati, ‘‘rasaṃ paṭiggaṇhathā’’ti vadati, taṃ sutvā paṭikkhipato pavāraṇā natthi. ‘Maṃsarasa’nti vutte pana paṭikkhipato pavāraṇā hoti. ‘‘Imaṃ gaṇhathā’’ti vuttepi hotiyeva. Maṃsaṃ visuṃ katvā ‘maṃsarasa’nti vuttepi sace sāsapamattampi khaṇḍaṃ atthi, paṭikkhipato pavāraṇā hoti. Sace natthi, vaṭṭati. Kaḷīrapanasādīhi missetvā macchamaṃsaṃ pacanti, taṃ gahetvā ‘‘kaḷīrasūpaṃ gaṇhatha, panasabyañjanaṃ gaṇhathā’’ti vadati, evampi na pavāreti. Kasmā? Apavāraṇārahassa nāmena vuttattā. ‘‘Macchamaṃsaṃ byañjana’’nti vā ‘‘imaṃ gaṇhathā’’ti vā vutte pana pavāreti, ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana samantapāsādikāyaṃ vutto. Gamanādīsu pana yasmiṃ iriyāpathe pavāreti, taṃ avikopenteneva bhuñjitabbaṃ.
Một người dâng nước canh có thịt, nói “xin hãy nhận nước canh”. Nếu nghe vậy mà từ chối, thì không có sự từ chối. Nhưng nếu nói ‘nước canh thịt’, khi từ chối thì có sự từ chối. Nếu nói “xin hãy nhận cái này”, cũng có. Nếu đã tách thịt ra riêng mà nói ‘nước canh thịt’, nếu còn dù chỉ một miếng nhỏ, khi từ chối thì có sự từ chối. Nếu không có, thì được phép. Khi nấu cá, thịt trộn với củ, quả chuối v.v…, rồi lấy và nói “xin hãy nhận canh củ, canh quả chuối”, như vậy cũng không từ chối. Tại sao? Vì đã được nói bằng tên của thứ không thể từ chối. Nhưng nếu nói “canh cá, thịt” hoặc “xin hãy nhận cái này”, thì đã từ chối. Đây là tóm tắt, còn phần chi tiết đã được nói trong sách Samantapāsādikā. Còn trong việc đi lại v.v…, phải ăn trong khi không thay đổi oai nghi mà mình đã từ chối.

Anatirittanti na atirittaṃ, na adhikanti attho. Taṃ pana kappiyakatādīhi sattahi vinayakammākārehi akataṃ vā gilānassa anadhikaṃ vā hoti. Tasmā padabhājane (pāci. 239) ‘akappiyakata’ntiādi vuttaṃ, tattha yaṃ phalaṃ vā kandamūlādi vā pañcahi samaṇakappiyehi kappiyaṃ akataṃ, yañca akappiyamaṃsaṃ vā akappiyabhojanaṃ vā, etaṃ akappiyaṃ nāma, taṃ akappiyaṃ ‘‘alametaṃ sabba’’nti evaṃ atirittaṃ kataṃ akappiyakatanti veditabbaṃ. Appaṭiggahitakatanti bhikkhunā appaṭiggahitaṃyeva purimanayena atirittaṃ kataṃ. Anuccāritakatanti kappiyaṃ kāretuṃ āgatena bhikkhunā īsakampi anukkhittaṃ vā anapanāmitaṃ vā kataṃ. Ahatthapāse katanti kappiyaṃ kāretuṃ āgatassa hatthapāsato bahi ṭhitena kataṃ. Abhuttāvinā katanti yo atirittaṃ karoti, tena pavāraṇappahonakaṃ bhojanaṃ abhuttena kataṃ. Bhuttāvinā pavāritena āsanā vuṭṭhitena katanti idaṃ uttānameva. ‘‘Alametaṃ sabba’’nti avuttanti vacībhedaṃ katvā evaṃ avuttaṃ hoti. Iti imehi sattahi vinayakammākārehi yaṃ atirittaṃ kappiyaṃ akataṃ, yañca pana na gilānātirittaṃ, tadubhayampi anatirittaṃ. Atirittaṃ pana tasseva paṭipakkhanayena veditabbaṃ.
Không dư thừa có nghĩa là không dư thừa, không nhiều hơn. Và đó là thức ăn chưa được làm theo bảy cách thực hành luật định như làm cho hợp lệ v.v…, hoặc không nhiều hơn cho người bệnh. Do đó, trong phần giải thích từ ngữ (pāci. 239) có nói ‘chưa được làm cho hợp lệ’ v.v… Ở đó, quả hoặc củ, rễ v.v… chưa được làm cho hợp lệ bằng năm cách làm hợp lệ của Sa-môn, và thịt không hợp lệ hoặc thức ăn không hợp lệ, đó được gọi là không hợp lệ. Thức ăn không hợp lệ đó, khi được làm cho dư thừa bằng cách nói “tất cả cái này là đủ rồi”, thì được biết là đã được làm cho không hợp lệ. Đã được làm mà không nhận là đã được làm cho dư thừa theo cách trước mà không được Tỳ-khưu nhận. Đã được làm mà không nhấc lên là đã được Tỳ-khưu đến để làm cho hợp lệ làm mà không nhấc lên hoặc dời đi một chút. Đã được làm ngoài tầm tay là đã được làm bởi người đứng ngoài tầm tay của người đến để làm cho hợp lệ. Đã được làm bởi người chưa ăn là đã được làm bởi người làm cho dư thừa mà chưa ăn thức ăn đủ để từ chối. Đã được làm bởi người đã ăn, đã từ chối, đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi điều này đã rõ ràng. Không nói “tất cả cái này là đủ rồi” là không nói như vậy bằng lời nói. Như vậy, thức ăn được làm cho dư thừa mà không hợp lệ theo bảy cách thực hành luật định này, và thức ăn không phải là phần dư của người bệnh, cả hai đều là không dư thừa. Còn thức ăn dư thừa thì được hiểu theo cách ngược lại.

Apicettha bhuttāvinā kataṃ hotīti (pāci. 239) antamaso anantaranisinnassa pattato ekampi sitthaṃ vā maṃsahīraṃ vā khāditvā katampi bhuttāvinā kataṃ hoti, yo pātova evaṃ bhuttāvī pavārito nisīdatiyeva, so upakaṭṭhepi kāle abhihaṭaṃ piṇḍaṃ bhikkhunā upanītaṃ kappiyaṃ kātuṃ labhati. Sace pana tasmiṃ kappiye kate bhuñjantassa aññaṃ āmisaṃ ākiranti, taṃ so puna kātuṃ na labhati. Yañhi akataṃ, taṃ kātabbaṃ. Yena ca akataṃ, tena ca kātabbanti (pāci. aṭṭha. 238-9) vuttaṃ, tasmā tasmiṃ bhājane kariyamāne paṭhamakatena saddhiṃ kataṃ hotīti taṃ kātuṃ na vaṭṭati. Aññasmiṃ pana bhājane tena vā aññena vā kātuṃ vaṭṭati. Evaṃ kataṃ paṭhamakatena missetvāpi bhuñjituṃ vaṭṭati, na kevalañca tassa yena pana kataṃ, taṃ ṭhapetvā aññesaṃ pavāritānampi bhuñjituṃ vaṭṭati. Yathā pana akatena missaṃ na hoti, evaṃ mukhañca hatthañca suddhaṃ katvā bhuñjitabbaṃ. Gilānātirittaṃ pana na kevalaṃ gilānassa bhuttāvasesameva, atha kho yaṃkiñci gilānaṃ uddissa ‘‘ajja vā sve vā yadā vā icchati, tadā khādissatī’’ti āhaṭaṃ, taṃ sabbaṃ ‘gilānātiritta’nti veditabbaṃ. Khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vāti yaṃkiñci yāvakālikaṃ. Khādeyya vā bhuñjeyya vā pācittiyanti ettha vuttanayena pavāritassa anatirittaṃ yaṃkiñci āmisaṃ ajjhoharaṇatthāya paṭiggaṇhato gahaṇe dukkaṭaṃ, ajjhohāre ajjhohāre pācittiyaṃ.
Hơn nữa, ở đây, đã được làm bởi người đã ăn (pāci. 239) có nghĩa là dù chỉ ăn một hạt cơm hoặc một miếng thịt từ bát của người ngồi ngay bên cạnh rồi làm, cũng là đã được làm bởi người đã ăn. Người nào đã ăn, đã từ chối như vậy vào buổi sáng mà vẫn ngồi, người đó có thể làm cho hợp lệ vật thực khất thực được Tỳ-khưu mang đến dù đã gần đến giờ. Nhưng nếu khi đang ăn thức ăn đã được làm cho hợp lệ đó, người ta đổ thêm thức ăn khác vào, người đó không thể làm lại được. Vì cái gì chưa được làm thì phải làm, và người nào chưa làm thì phải làm (pāci. aṭṭha. 238-9). Do đó, khi làm trong bát đó, nó đã được làm cùng với cái đã làm trước, nên không được làm nữa. Nhưng trong bát khác, có thể làm bởi người đó hoặc người khác. Thức ăn được làm như vậy, dù trộn với thức ăn đã làm trước cũng được ăn. Không chỉ người đó, mà cả những người khác đã từ chối, sau khi đã làm cho hợp lệ, cũng được ăn. Phải rửa sạch miệng và tay để không bị trộn với thức ăn chưa làm. Phần dư của người bệnh không chỉ là phần ăn còn lại của người bệnh, mà tất cả thức ăn được mang đến với ý định cho người bệnh nào đó ăn “hôm nay hoặc ngày mai hoặc khi nào muốn”, đều được biết là ‘phần dư của người bệnh’. Thức ăn cứng hoặc thức ăn mềm là bất kỳ thức ăn nào ăn trong thời gian quy định. Ăn cứng hoặc ăn mềm thì bị Ưng Đối Trị ở đây, khi người đã từ chối theo cách đã nói, nhận bất kỳ thức ăn nào không dư thừa để nuốt, thì bị Tác Ác khi nhận; khi nuốt, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần nuốt.

Sāvatthiyaṃ sambahule bhikkhū ārabbha aññatra bhuñjanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘anatiritta’’nti ayamettha anupaññatti, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, yāmakālikādīni āhāratthāya gaṇhato, nirāmisāni ajjhoharato ca dukkaṭaṃ, tathā atiritte anatirittasaññino ceva vematikassa ca. Atirittasaññino pana, ‘‘atirittaṃ kārāpetvā bhuñjissāmī’’ti gaṇhantassa, aññassatthāya gaṇhantassa, yāmakālikādīni tesaṃ anuññātaparibhogavasena nirāmisāni paribhuñjantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Pavāritabhāvo, āmisassa anatirittatā, kālena ajjhoharaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamakathinasadisāneva, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu, trong trường hợp ăn thức ăn khác. Câu không dư thừa là điều chế định bổ sung ở đây. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Việc nhận các thứ ăn theo buổi v.v… để ăn, và nuốt các thứ không phải là thức ăn, thì bị Tác Ác. Tương tự, đối với thức ăn dư thừa mà có tưởng là không dư thừa hoặc nghi ngờ. Không có tội đối với người có tưởng là dư thừa; người nhận với ý định “tôi sẽ sai bảo làm cho dư thừa rồi ăn”; người nhận vì lợi ích của người khác; người dùng các thứ ăn theo buổi v.v… theo cách dùng đã được cho phép, không phải là thức ăn; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: đã từ chối, thức ăn không dư thừa, và nuốt đúng lúc. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) Kathina đầu tiên, nhưng điều này là hành động không hành động.

Paṭhamapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới từ chối thứ nhất đã chấm dứt.

6. Dutiyapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā
6. Giải Thích Học Giới Từ Chối Thứ Hai

Chaṭṭhe abhihaṭṭhuṃ pavāreyyāti abhiharitvā ‘‘handa, bhikkhu khāda vā bhuñja vā’’ti evaṃ pavāreyya. Jānanti sutvā vā disvā vā tassa pavāritabhāvaṃ jānanto. Āsādanāpekkhoti āsādanaṃ codanaṃ maṅkukaraṇabhāvaṃ apekkhamāno. Bhuttasmiṃ pācittiyanti ettha abhihāre tāva dukkaṭaṃ, sace so taṃ gaṇhāti, puna abhihārakassa dukkaṭaṃ, tasmiṃ pana bhuñjante abhihārakassa tassa ajjhohāre ajjhohāre dukkaṭaṃ, bhojanapariyosāne pācittiyaṃ.
Ở điều thứ sáu, mời mọc có nghĩa là dâng cúng rồi nói “này, Tỳ-khưu, hãy ăn cứng hoặc ăn mềm”. Biết là biết người đó đã từ chối bằng cách nghe hoặc thấy. Mong muốn gây phiền phức là mong muốn gây phiền phức, khiển trách, làm cho xấu hổ. Bị Ưng Đối Trị khi đã ăn ở đây, khi dâng cúng thì bị Tác Ác. Nếu người đó nhận, người dâng lại bị Tác Ác. Khi người đó đang ăn, người dâng bị Tác Ác theo mỗi lần nuốt của người kia; khi kết thúc bữa ăn thì bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha anatirittena bhojanena abhihaṭṭhuṃ pavāraṇāvatthusmiṃ paññattaṃ, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, pavārite pavāritasaññino pācittiyaṃ. Vematikassa, yāmakālikādīni āhāratthāya abhiharantassa, tesañca paṭiggahaṇaajjhohāresu, appavārite ca pavāritasaññino, vematikassa ca dukkaṭaṃ. Appavāritasaññissa pana, yo ca atirittaṃ kārāpetvā deti, ‘‘kārāpetvā vā bhuñjāhī’’ti deti, yo vā ‘‘aññassatthāya haranto gacchāhī’’ti deti, yo ca yāmakālikādīni ‘‘sati paccaye paribhuñjāhī’’ti deti, tassa, ummattakādīnañca anāpatti. Pavāritatā, pavāritasaññitā, āsādanāpekkhatā, anatirittena abhihaṭṭhuṃ pavāraṇatā, bhojanapariyosānanti imānettha pañca aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu nào đó, trong trường hợp mời mọc bằng thức ăn không dư thừa. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu. Đối với người đã từ chối, có tưởng là đã từ chối, thì bị Ưng Đối Trị. Đối với người nghi ngờ; người dâng các thứ ăn theo buổi v.v… để ăn, và trong việc nhận và nuốt chúng; và đối với người chưa từ chối mà có tưởng là đã từ chối, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là chưa từ chối; và người nào sai bảo làm cho dư thừa rồi cho; hoặc cho và nói “hãy sai bảo làm rồi ăn”; hoặc người nào cho và nói “hãy mang đi vì lợi ích của người khác”; và người nào cho các thứ ăn theo buổi v.v… và nói “hãy dùng khi có duyên”; và đối với người đó, những người điên loạn v.v… Ở đây có năm chi phần này: đã từ chối, có tưởng là đã từ chối, mong muốn gây phiền phức, mời mọc bằng thức ăn không dư thừa, và kết thúc bữa ăn. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này có cảm thọ khổ.

Dutiyapavāraṇāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới từ chối thứ hai đã chấm dứt.

7. Vikālabhojanasikkhāpadavaṇṇanā
7. Giải Thích Học Giới Ăn Phi Thời

Sattame vikāleti vigate kāle, majjhanhikātikkamanato yāva aruṇuggamanāti adhippāyo. Tasmā yo bhikkhu etasmiṃ antare yaṃkiñci vanamūlaphalaṃ upādāya āmaṃ vā pakkaṃ vā āmisasaṅkhepagataṃ khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā ajjhoharaṇatthāya paṭiggaṇhāti, tassa paṭiggahaṇe dukkaṭaṃ, ajjhohāre ajjhohāre pācittiyaṃ.
Ở điều thứ bảy, phi thời là thời gian đã qua, được hiểu là từ sau giữa trưa cho đến khi mặt trời mọc. Do đó, Tỳ-khưu nào trong khoảng thời gian này, nhận bất kỳ thức ăn cứng hoặc thức ăn mềm nào thuộc loại thức ăn, từ rễ cây, quả cây trong rừng, dù là sống hay chín, để nuốt, thì bị Tác Ác khi nhận; khi nuốt, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần nuốt.

Rājagahe sattarasavaggiye bhikkhū ārabbha vikāle bhojanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, yāmakālikādīni āhāratthāya paṭiggahaṇaajjhohāresu, kāle vikālasaññissa, vematikassa ca dukkaṭaṃ, kāle kālasaññissa yāmakālikādīni sati paccaye paribhuñjantassa ummattakādīnañca anāpatti. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, romaṭṭhakassa romaṭṭhaṃ, na ca bhikkhave bahimukhadvārā nīharitvā ajjhoharitabba’’nti (cūḷava. 273) anuññātanayena romaṭṭhakassāpi anāpatti. Vikālatā, yāvakālikatā, ajjhoharaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Rājagaha, liên quan đến nhóm mười bảy Tỳ-khưu, trong trường hợp ăn phi thời. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Việc nhận và nuốt các thứ ăn theo buổi v.v… để ăn; khi đúng thời mà có tưởng là phi thời, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội khi đúng thời có tưởng là đúng thời; người dùng các thứ ăn theo buổi v.v… khi có duyên; và những người điên loạn v.v… Cũng không có tội đối với việc nhai lại theo cách đã được cho phép: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép nhai lại đối với người nhai lại, nhưng này các Tỳ-khưu, không được lấy ra khỏi miệng rồi nuốt lại” (cūḷava. 273). Ở đây có ba chi phần này: là phi thời, là thức ăn ăn trong thời gian quy định, và việc nuốt. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới về lông cừu Eḷaka.

Vikālabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới ăn phi thời đã chấm dứt.

8. Sannidhikārakasikkhāpadavaṇṇanā
8. Giải Thích Học Giới Tích Trữ

Aṭṭhame sannidhikārakanti kāro karaṇaṃ kiriyāti atthato ekaṃ, sannidhi kāro assāti sannidhikāraṃ , sannidhikārameva sannidhikārakaṃ, paṭiggahetvā ekarattiṃ vītināmitassetaṃ nāmaṃ. Tasmā evaṃ sannidhikataṃ yaṃkiñci yāvakālikaṃ vā yāmakālikaṃ vā ‘ajjhoharissāmī’ti gaṇhantassa paṭiggahaṇe dukkaṭaṃ, ajjhohāre ajjhohāre pācittiyaṃ. Sacepi patto duddhoto hoti, yaṃ aṅguliyā ghaṃsantassa lekhā paññāyati, gaṇṭhikapattassa vā gaṇṭhikantare sneho paviṭṭho hoti, yo uṇhe otāpentassa paggharati, uṇhayāguyā vā gahitāya sandissati, tādise pattepi punadivase bhuñjantassa pācittiyaṃ. Yaṃ pana bhikkhu nirapekkho sāmaṇerānaṃ pariccajitvā tehi nihitaṃ labhitvā bhuñjati, taṃ vaṭṭati . Sayaṃ paṭiggahetvā apariccattameva hi dutiyadivase kappiyabhojanaṃ bhuñjantassa pācittiyaṃ. Akappiyesu pana manussamaṃse thullaccayena saddhiṃ pācittiyaṃ, sesesu pana dukkaṭena saddhiṃ. Yāmakālikaṃ sati paccaye ajjhoharato pācittiyaṃ, āhāratthāya ajjhoharato dukkaṭena saddhiṃ. Yo pana pavārito hutvā anatirittakataṃ ajjhoharati, tassa sabbavikappesu aparampi pācittiyaṃ vaḍḍhati. Sace vikāle ajjhoharati, anatirittapaccayā sabbavikappesu anāpatti, sati paccaye vikālapaccayā yāmakālikādīsu ca anāpatti. Avasesesu vikālapaccayā pācittiyaṃ vaḍḍhatiyeva. Bhikkhussa pana sannidhi bhikkhuniyā vaṭṭati, bhikkhuniyā ca sannidhi bhikkhussa vaṭṭati, bhikkhunikkhandhake (cūḷava. 421-422) anuññātattā vaṭṭatīti.
Ở điều thứ tám, tích trữ có nghĩa là việc làm, hành động, việc thực hiện, về mặt ý nghĩa là một. Tích trữ là việc làm của nó, nên gọi là tích trữ. Tích trữ chính là tích trữ. Đây là tên gọi cho việc sau khi đã nhận rồi để qua một đêm. Do đó, khi nhận bất kỳ thức ăn nào ăn trong thời gian quy định hoặc theo buổi, đã được tích trữ như vậy, với ý định ‘tôi sẽ nuốt’, thì bị Tác Ác khi nhận, và bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần nuốt. Dù bát đã được rửa sạch, nếu khi chà bằng ngón tay vẫn thấy có vệt, hoặc trong bát có kẽ nứt mà chất nhờn đã lọt vào, chất nhờn đó chảy ra khi phơi nắng, hoặc hiện ra khi nhận cháo nóng, khi ăn vào ngày hôm sau trong bát như vậy cũng bị Ưng Đối Trị. Nhưng vật thực mà Tỳ-khưu đã vô tư từ bỏ cho các Sa-di, rồi nhận lại từ họ và ăn, thì được phép. Chính việc nhận rồi ăn thức ăn hợp lệ vào ngày thứ hai mà chưa từ bỏ mới bị Ưng Đối Trị. Còn trong các thức ăn không hợp lệ, đối với thịt người thì bị Ưng Đối Trị cùng với Trọng Tội, đối với các loại còn lại thì cùng với Tác Ác. Khi nuốt thức ăn theo buổi nếu có duyên, thì bị Ưng Đối Trị; nếu nuốt vì mục đích ăn uống, thì cùng với Tác Ác. Còn người nào đã từ chối rồi nuốt thức ăn chưa dư thừa, thì sẽ bị thêm một tội Ưng Đối Trị khác trong mọi trường hợp. Nếu nuốt phi thời, thì không có tội trong mọi trường hợp do duyên không dư thừa; nếu có duyên, thì cũng không có tội đối với thức ăn theo buổi v.v… do duyên phi thời. Trong các trường hợp còn lại, tội Ưng Đối Trị do duyên phi thời vẫn tăng thêm. Nhưng vật tích trữ của Tỳ-khưu thì Tỳ-khưu-ni được phép dùng, và vật tích trữ của Tỳ-khưu-ni thì Tỳ-khưu được phép dùng, vì đã được cho phép trong chương về Tỳ-khưu-ni (cūḷava. 421-422) nên được phép.

Sāvatthiyaṃ āyasmantaṃ belaṭṭhasīsaṃ ārabbha sannidhikārakabhojanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ , sattāhakālika yāvajīvikānaṃ pana āhāratthāya paṭiggahaṇe ajjhohāre ca dukkaṭaṃ. Yathā cetāni āhāratthāya na kappanti, evaṃ yāvakālikādīhi saṃsaṭṭhānipi, vuttañhetaṃ ‘‘yāvakālikena, bhikkhave, yāmakālikaṃ tadahupaṭiggahitaṃ kāle kappati, vikāle na kappatī’’tiādi (mahāva. 305). Tasmā sacepi taṃ taṃ tena tena saddhiṃ saṃsaṭṭhaṃ labhati, sace asambhinnarasaṃ vā hoti sudhotaṃ vā, yathā itarena saṃsaggo na paññāyati, attano kālānurūpena paribhuñjituṃ vaṭṭati.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Trưởng lão Belaṭṭhasīsa, trong trường hợp ăn thức ăn tích trữ. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Còn đối với các loại thuốc dùng trong bảy ngày và trọn đời, nếu nhận và nuốt vì mục đích ăn uống, thì bị Tác Ác. Giống như những thứ này không hợp lệ để ăn, chúng cũng không hợp lệ khi trộn lẫn với các loại thức ăn theo thời gian quy định v.v… Điều này đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, thức ăn theo buổi được nhận trong ngày, trộn với thức ăn theo thời gian quy định, thì hợp lệ vào đúng thời, không hợp lệ vào phi thời” v.v… (mahāva. 305). Do đó, nếu nhận được thứ này trộn lẫn với thứ kia, nếu chúng không bị trộn lẫn hương vị hoặc đã được rửa sạch, để không thấy có sự pha trộn với thứ khác, thì được phép dùng theo thời gian của mình.

Sace pana sambhinnarasaṃ vā hoti duddhotaṃ vā, na vaṭṭati. Yāvakālikañhi attanā saddhiṃ sambhinnarasāni tīṇipi yāmakālikādīni attano sabhāvaṃ upaneti, yāmakālikaṃ dvepi sattāhakālikādīni attano sabhāvaṃ upaneti, sattāhakālikaṃ yāvajīvikameva attano sabhāvaṃ upaneti. Tasmā tena tadahupaṭiggahitena saddhiṃ tadahupaṭiggahitaṃ vā pure paṭiggahitaṃ vā yāvajīvikaṃ sattāhaṃ kappati, dvīhappaṭiggahitena chāhaṃ, tīhappaṭiggahitena pañcāhaṃ…pe… sattāhappaṭiggahitena tadaheva kappatīti veditabbaṃ. Tasmāyeva hi ‘‘sattāhakālikena, bhikkhave , yāvajīvikaṃ tadahupaṭiggahita’’nti avatvā ‘‘paṭiggahitaṃ sattāhaṃ kappatī’’ti vuttaṃ. Kālayāmasattāhātikkamesu cettha vikālabhojana sannidhibhesajjasikkhāpadānaṃ vasena āpattiyo veditabbā, imesu pana catūsu kālikesu yāvakālikaṃ yāmakālikanti imameva dvayaṃ antovuṭṭhañceva sannidhikārakañca, sattāhakālikaṃ yāvajīvikañca akappiyakuṭiyaṃ nikkhipitumpi vaṭṭati, sannidhimpi na janeti. Akappiyakuṭiyaṃ antovuṭṭhena pana tena saddhiṃ itaradvayaṃ tadahupaṭiggahitampi na vaṭṭati, mukhasannidhi nāma hoti, mahāpaccariyaṃ pana antovuṭṭhaṃ hotīti vuttaṃ. Tattha nāmamattameva nānākaraṇaṃ, āpatti pana dukkaṭameva. Tattha akappiyakuṭi nāma saṅghassa vā upasampannapuggalassa vā santakaṃ vasanatthāya katagehaṃ, tattha sahaseyyappahonake padese vuṭṭhaṃ yāvakālikañca yāmakālikañca saṅghikaṃ vā upasampannapuggalassa vā santakaṃ antovuṭṭhaṃ nāma hoti, tattha pakkaṃ antopakkaṃ nāma, yattha katthaci pana sayaṃ pakkaṃ sāmaṃ pakkaṃ nāma, taṃ sabbaṃ anajjhoharaṇīyaṃ. Tena tena saddhiṃ saṃsaṭṭhampi taṃgatikameva, sabbaṃ ajjhoharantassa dukkaṭaṃ. Tasmā antovuṭṭhaantopakkamocanatthaṃ bhagavatā catasso kappiyabhūmiyo (mahāva. 295) anuññātā, tāsaṃ vinicchayo samantapāsādikāyaṃ (mahāva. aṭṭha. 295) vutto. Yattha panetā na santi, tattha anupasampannassa santakaṃ katvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Sāmaṃ pākampi punapākaṃ vaṭṭati, asannidhikārake sannidhikārakasaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ. Asannidhikārakasaññino, yāvakālikādīni tīṇi nidahitvā sakaṃ sakaṃ kālaṃ anatikkamitvā, yāvajīvikaṃ sadāpi sati paccaye paribhuñjantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Āmisaṃ, sannidhibhāvo, tassa ajjhoharaṇanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānevāti.
Nhưng nếu bị trộn lẫn hương vị hoặc rửa không sạch, thì không được phép. Thức ăn theo thời gian quy định, khi bị trộn lẫn hương vị với cả ba loại thức ăn theo buổi v.v…, sẽ biến chúng thành bản chất của mình. Thức ăn theo buổi, khi bị trộn lẫn hương vị với cả hai loại thuốc dùng trong bảy ngày v.v…, sẽ biến chúng thành bản chất của mình. Thuốc dùng trong bảy ngày chỉ biến thuốc dùng trọn đời thành bản chất của mình. Do đó, thuốc dùng trọn đời, dù được nhận trong ngày hay đã nhận trước, khi trộn với thuốc đó đã được nhận trong ngày, thì hợp lệ trong bảy ngày. Khi trộn với thuốc đã nhận hai ngày, thì hợp lệ trong sáu ngày; khi trộn với thuốc đã nhận ba ngày, thì hợp lệ trong năm ngày… cho đến… khi trộn với thuốc đã nhận bảy ngày, thì chỉ hợp lệ trong ngày đó, nên biết như vậy. Chính vì vậy, thay vì nói “Này các Tỳ-khưu, thuốc dùng trọn đời được nhận trong ngày, trộn với thuốc dùng trong bảy ngày”, Ngài đã nói “vật đã nhận hợp lệ trong bảy ngày”. Ở đây, tội lỗi nên được hiểu theo các học giới về ăn phi thời, tích trữ, và thuốc men, tùy theo việc vi phạm thời gian, buổi, và bảy ngày. Nhưng trong bốn loại thức ăn theo thời gian này, chỉ có hai loại này là thức ăn theo thời gian quy định và thức ăn theo buổi, là vật ở trong nhà và là vật tích trữ. Còn thuốc dùng trong bảy ngày và thuốc dùng trọn đời, thì có thể cất giữ trong am thất không hợp lệ, và không tạo ra sự tích trữ. Nhưng hai loại kia, dù được nhận trong ngày, khi ở cùng với vật ở trong nhà trong am thất không hợp lệ, cũng không được phép, đó được gọi là tích trữ qua miệng. Nhưng trong sách Mahāpaccariya có nói là vật ở trong nhà. Ở đó, chỉ có tên gọi là khác nhau, còn tội thì chỉ là Tác Ác. Ở đó, am thất không hợp lệ là nhà được làm để ở, thuộc sở hữu của Tăng chúng hoặc của cá nhân đã thọ cụ túc giới. Thức ăn theo thời gian quy định và thức ăn theo buổi, ở trong nơi có thể ngủ chung trong đó, thuộc sở hữu của Tăng chúng hoặc của cá nhân đã thọ cụ túc giới, được gọi là vật ở trong nhà. Vật được nấu ở đó được gọi là vật nấu trong nhà. Còn vật tự nấu ở bất cứ đâu được gọi là vật tự nấu. Tất cả những thứ đó đều không được nuốt. Vật trộn lẫn với chúng cũng thuộc loại đó. Khi nuốt tất cả, đều bị Tác Ác. Do đó, để giải thoát khỏi vật ở trong nhà và vật nấu trong nhà, Đức Phật đã cho phép bốn nơi hợp lệ (mahāva. 295). Quyết định về chúng đã được nói trong sách Samantapāsādikā (mahāva. aṭṭha. 295). Nơi nào không có những nơi này, thì có thể làm cho nó thành sở hữu của người chưa thọ cụ túc giới rồi dùng. Việc tự nấu cũng được phép nấu lại. Đối với vật không tích trữ mà có tưởng là tích trữ, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không tích trữ; người cất giữ ba loại thức ăn theo thời gian quy định rồi dùng mà không vượt quá thời gian của mỗi loại; người dùng thuốc trọn đời bất cứ lúc nào khi có duyên; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là thức ăn, có trạng thái tích trữ, và việc nuốt nó. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới về lông cừu Eḷaka.

Sannidhikārakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới tích trữ đã chấm dứt.

9. Paṇītabhojanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Giải Thích Học Giới Thức Ăn Thượng Hạng

Navame paṇītabhojanānīti paṇītasaṃsaṭṭhāni sattadhaññanibbattāni bhojanāni. Yathā hi ājaññayutto ratho ‘ājaññaratho’ti vuccati, evamidhāpi paṇītasaṃsaṭṭhāni bhojanāni paṇītabhojanānīti. Yehi pana paṇītehi saṃsaṭṭhāni, tāni ‘paṇītabhojanānī’ti vuccanti, tesaṃ pabhedadassanatthaṃ seyyathidaṃ sappi navanītantiādimāha, tattha sappiādīni bhesajjasikkhāpade (kaṅkhā. aṭṭha. bhesajjasikkhāpadavaṇṇanā) vuttalakkhaṇeneva veditabbāni. Macchādīsu pana sabbopi ‘odako’ti (pāci. 260) vuttalakkhaṇo maccho macchoyeva. Yesaṃ pana maṃsaṃ kappati, tesaṃ maṃsañca khīradadhīni ca idhādhippetāni. Evarūpāni paṇītabhojanānīti yāni etehi sappiādīhi saṃsaṭṭhattā ‘paṇītabhojanānī’ti vuccanti, tathārūpāni paṇītabhojanāni. Agilānoti yassa tehi vināpi phāsu hoti. Attano atthāya viññāpetvāti ettha pana yo agilāno suddhāni sappiādīni bhesajjatthāya viññāpeti, so mahānāmasikkhāpadena (pāci. 303) kāretabbo, macchādīni cattāri viññāpento sūpodanaviññattiyā (pāci. 612-613) kāretabbo, sappiādīhi saṃsaṭṭhabhojanāni viññāpento iminā kāretabbo. Tatrāyaṃ vinicchayo – ‘‘sappinā bhattaṃ dehi, sappiṃ ākiritvā dehi, sappimissakaṃ katvā dehi, saha sappinā dehi, sappiñca bhattañca dehī’’ti evaṃ viññāpentassa tāva viññattiyā dukkaṭaṃ, paṭiggahaṇe dukkaṭaṃ, ajjhoharaṇe ajjhoharaṇe pācittiyaṃ. ‘‘Sappibhattaṃ dehī’’ti vutte pana yasmā sālibhattaṃ viya sappibhattaṃ nāma natthi, tasmā sūpodanaviññattiyā dukkaṭameva hoti. Sace pana ‘‘sappinā bhattaṃ dehī’’ti vutte bhattaṃ datvā ‘‘sappiṃ katvā bhuñjāhī’’ti navanītakhīrādīni vā kappiyabhaṇḍaṃ vā deti ‘‘iminā sappiṃ gahetvā bhuñjāhī’’ti, yathāvatthukameva. ‘‘Gosappinā bhattaṃ dehī’’ti vutte pana gosappiṃ vā detu, tasmiṃ asati purimanayena navanītādīni vā, gāviṃyeva vā detu ‘‘ito sappinā bhuñjāhī’’ti, yathāvatthukameva. Sace pana ‘‘gosappinā dehī’’ti yācito ajikāsappiādīhi deti, visaṅketaṃ. Evañhi sati aññaṃ yācitena aññaṃ dinnaṃ nāma hoti, tasmā anāpatti, esa nayo ‘‘ajikāsappinā dehī’’tiādīsupi. ‘‘Kappiyasappinā dehī’’ti vutte akappiyasappinā deti, visaṅketameva. ‘‘Akappiyasappinā dehī’’ti vutte akappiyasappināva deti, paṭiggahaṇepi paribhogepi dukkaṭameva. Iminā nayena sabbapadesu vinicchayo veditabbo. Sace pana sabbehipi sappiādīhi ekaṭṭhāne vā nānāṭṭhāne vā viññāpetvā paṭiladdhaṃ ekato sambhinnarasaṃ katvā tato kusaggena ekabindumpi ajjhoharati, nava pācittiyāni.
Ở điều thứ chín, thức ăn thượng hạng là các loại thức ăn được làm từ bảy loại ngũ cốc có trộn lẫn với các món thượng hạng. Giống như cỗ xe được kéo bởi ngựa quý được gọi là ‘cỗ xe ngựa quý’, ở đây cũng vậy, các loại thức ăn trộn lẫn với món thượng hạng được gọi là thức ăn thượng hạng. Còn những món thượng hạng mà các loại thức ăn được trộn lẫn với chúng, chúng được gọi là ‘thức ăn thượng hạng’. Để chỉ ra sự phân loại của chúng, Ngài nói như là bơ, bơ tươi v.v… Ở đó, v.v… nên được hiểu theo đặc tính đã được nói trong học giới về thuốc men (kaṅkhā. aṭṭha. bhesajjasikkhāpadavaṇṇanā). Còn trong các loại cá v.v…, tất cả cá có đặc tính được gọi là ‘sống dưới nước’ (pāci. 260) đều là . Và ở đây, thịt của những loài mà thịt của chúng hợp lệ, và sữa, sữa chua cũng được bao gồm. Những loại thức ăn thượng hạng như vậy là những loại thức ăn được gọi là ‘thức ăn thượng hạng’ do được trộn lẫn với bơ v.v… như vậy. Không phải người bệnh là người vẫn khỏe mạnh dù không có chúng. Xin vì lợi ích của mình ở đây, người nào không bệnh mà xin bơ v.v… thuần túy để làm thuốc, thì phải bị xử lý theo học giới Mahānāma (pāci. 303). Người xin bốn loại như cá v.v…, thì phải bị xử lý theo học giới xin canh và cơm (pāci. 612-613). Người xin thức ăn trộn lẫn với bơ v.v…, thì phải bị xử lý theo học giới này. Quyết định ở đây là như sau: khi xin bằng cách nói “cho tôi cơm với bơ, cho tôi cơm rưới bơ, cho tôi cơm làm trộn với bơ, cho tôi cơm cùng với bơ, cho tôi bơ và cơm”, thì bị Tác Ác khi xin, bị Tác Ác khi nhận, và bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần nuốt. Nhưng khi nói “cho tôi cơm bơ”, vì không có loại cơm nào gọi là cơm bơ như cơm sāli, nên chỉ bị Tác Ác theo học giới xin canh và cơm. Nhưng nếu khi được nói “cho tôi cơm với bơ”, người ta cho cơm rồi nói “hãy làm bơ rồi ăn” và cho bơ tươi, sữa v.v… hoặc vật dụng hợp lệ và nói “hãy lấy bơ từ cái này rồi ăn”, thì tùy theo sự việc. Nhưng khi được nói “cho tôi cơm với bơ bò”, người ta cho bơ bò, hoặc nếu không có thì cho bơ tươi v.v… theo cách trước, hoặc cho cả con bò và nói “hãy lấy bơ từ đây rồi ăn”, thì tùy theo sự việc. Nhưng nếu được xin “cho tôi bơ bò” mà lại cho bơ dê v.v…, thì là sai thỏa thuận. Vì như vậy là đã cho thứ khác với thứ được xin, do đó không có tội. Cách này cũng áp dụng cho các trường hợp “cho tôi bơ dê” v.v… Khi được nói “cho tôi bơ hợp lệ” mà lại cho bơ không hợp lệ, thì là sai thỏa thuận. Khi được nói “cho tôi bơ không hợp lệ” mà lại cho bơ không hợp lệ, thì cả khi nhận và khi dùng đều bị Tác Ác. Theo cách này, quyết định nên được hiểu trong mọi trường hợp. Nhưng nếu sau khi đã xin tất cả các loại bơ v.v… ở một nơi hoặc nhiều nơi, nhận được rồi trộn lẫn hương vị với nhau, rồi nuốt dù chỉ một giọt bằng đầu ngọn cỏ, thì bị chín tội Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha paṇītabhojanaviññattivatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘agilāno’’ti ayamettha anupaññatti, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, gilānassa agilānasaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ. Gilānasaññissa, gilānakāle viññāpetvā agilānassa bhuñjato, gilānassa sesake, ñātakappavāritaṭṭhānato, aññassatthāya viññatte, attano dhanena gahite, ummattakādīnañca anāpatti. Paṇītabhojanatā, agilānatā, kataviññattiyā paṭilābho, ajjhoharaṇanti imānettha cattāri aṅgāni. Addhānasamuṭṭhānaṃ, kiriyaṃ , nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp xin thức ăn thượng hạng. Câu không phải người bệnh là điều chế định bổ sung ở đây. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người bệnh mà có tưởng là không bệnh, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là bệnh; người xin khi bệnh rồi ăn khi không bệnh; phần còn lại của người bệnh; từ nơi của thân quyến hoặc người đã được mời; khi xin vì lợi ích của người khác; khi mua bằng tiền của mình; và những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: là thức ăn thượng hạng, không phải là người bệnh, nhận được do đã xin, và việc nuốt. Pháp sanh khởi của việc đi xa là do hành động, không phải do tưởng, không có tâm, là tội chế định, là nghiệp của thân, nghiệp của lời nói, có ba loại tâm, và ba loại cảm thọ.

Paṇītabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới thức ăn thượng hạng đã chấm dứt.

10. Dantaponasikkhāpadavaṇṇanā
10. Giải Thích Học Giới Dụng Cụ Xỉa Răng

Dasame adinnanti kāyena vā kāyappaṭibaddhena vā gaṇhantassa hatthapāse ṭhatvā kāyakāyappaṭibaddhanissaggiyānaṃ aññatarena na dinnaṃ, appaṭiggahitakassetaṃ nāmaṃ. Appaṭiggahitakañhi bhikkhuno attano santakampi ajjhoharituṃ na vaṭṭati. Paṭiggahitaṃ antamaso vissāsikasantakampi vaṭṭati, tassa lakkhaṇaṃ vuttavipallāsena veditabbaṃ. Sace hi yo koci anupasampanno antamaso tiracchānopi bhikkhussa vā bhikkhuniyā vā hatthapāse ṭhito kāyādīnaṃ aññatarena deti, tañce bhikkhunā yena kenaci sarīrāvayavena vā, tappaṭibaddhena vā, saṃhārimena ca antamaso mañcenāpi, dhāretuṃ samatthena ca antamaso atatthajātakarukkhapaṇṇenāpi, sūciyā parāmaṭṭhamattenāpi paṭiggahitaṃ, paṭiggahitameva hoti. Paṭibaddhappaṭibaddhaṃ nāma idha natthi, yampi natthukaraṇiyā diyyamānaṃ nāsikāya, akallako vā mukhena paṭiggaṇhāti, sabbaṃ vaṭṭati, ābhogamattameva hettha pamāṇaṃ. Pubbābhoge ca sati pacchā niddāyantassa patte dinnampi hatthapāse sati paṭiggahitameva hoti. Yampi ‘‘pattena paṭiggaṇhissāmī’’ti nisinnasseva hatthe patati, taṃ vaṭṭatiyeva. Abhihaṭabhājanato patitarajampi vaṭṭati, tattha ṭhitanisinnanipannānaṃ pavāraṇāsikkhāpade vuttanayeneva hatthapāso veditabbo.
Ở điều thứ mười, chưa được cho là chưa được cho bằng một trong các cách như bằng thân, vật dính liền với thân, hoặc vật có thể trao tay, trong khi người nhận đang đứng trong tầm tay và nhận bằng thân hoặc vật dính liền với thân. Đây là tên gọi cho vật chưa được nhận. Vì Tỳ-khưu không được phép nuốt cả vật thuộc sở hữu của mình mà chưa được nhận. Vật đã được nhận, cho đến cả vật thuộc sở hữu của người thân tín, cũng được phép. Đặc tính của nó được biết qua sự đối lập với điều đã nói. Vì nếu bất kỳ người nào chưa thọ cụ túc giới, cho đến cả loài thú vật, đứng trong tầm tay của Tỳ-khưu hoặc Tỳ-khưu-ni, cho bằng một trong các cách như bằng thân v.v…, và nếu Tỳ-khưu đó nhận bằng bất kỳ bộ phận nào của cơ thể, hoặc vật dính liền với nó, và vật có thể mang đi, cho đến cả giường, và vật có thể giữ được, cho đến cả lá cây không mọc ở đó, hoặc chỉ chạm bằng kim, thì đã được nhận. Ở đây không có việc vật dính liền với vật dính liền. Cả vật được cho để nhỏ mũi, nếu nhận bằng mũi, hoặc người không khéo léo nhận bằng miệng, tất cả đều được phép, sự chú ý chính là tiêu chuẩn ở đây. Và khi đã chú ý trước, nếu ngủ gật sau đó, vật được cho vào bát, nếu trong tầm tay, cũng đã được nhận. Cả vật rơi vào tay của người đang ngồi với ý định “tôi sẽ nhận bằng bát”, cũng được phép. Cả bụi rơi từ vật chứa được dâng cũng được phép. Tầm tay của những người đang đứng, ngồi, nằm ở đó nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới từ chối.

Sace pana dāyakappaṭiggāhakesu eko ākāse hoti, eko bhūmiyaṃ, bhūmaṭṭhassa sīsena ākāsaṭṭhassa ca ṭhapetvā dātuṃ vā gahetuṃ vā pasāritahatthaṃ yaṃ āsannataraṃ aṅgaṃ, tassa orimantena hatthapāsappamāṇaṃ paricchinditabbaṃ. Sacepi eko kūpe hoti, eko kūpataṭe, eko vā rukkhe, eko pathaviyaṃ, vuttanayeneva hatthapāsappamāṇaṃ paricchinditabbaṃ. Tasmiṃ ṭhatvā sacepi dve tayo vā sāmaṇerā yaṃ majjhimo puriso ukkhipituṃ sakkoti, evarūpaṃ bhāraṃ pavaṭṭentā bhikkhuno bhūmiyaṃ ṭhapitahatthaṃ āropenti, ukkhipitvā vā bhikkhuno pasāritahatthe ekadesenāpi ṭhapenti, taṃ paṭiggahitameva hoti. Yaṃ pana piṇḍāya carantassa patte rajaṃ patati, taṃ appaṭiggahitameva hoti, tasmā paṭiggahetvāva bhikkhā gaṇhitabbā. Appaṭiggahetvā gaṇhantassa vinayadukkaṭaṃ, taṃ pana puna paṭiggahetvā bhuñjantassa anāpatti. Sace ‘‘paṭiggahetvā dethā’’ti vutte vacanaṃ assutvā vā anādiyitvā vā bhikkhaṃ dentiyeva, vinayadukkaṭā muccati, puna paṭiggahetvā aññā bhikkhā paṭiggahetabbā. Sace mahāvāto tato tato rajaṃ pāteti, na sakkā hoti bhikkhaṃ gahetuṃ, ‘‘anupasampannassa dassāmī’’ti suddhacittena ābhogaṃ katvā gaṇhituṃ vaṭṭati. Taṃ anupasampannassa datvā puna tena dinnaṃ vā tassa vissāsena vā paṭiggahetvā bhuñjituṃ vaṭṭati. Assukheḷasiṅghāṇikādīsu yaṃ ṭhānato cavitvā hatthe vā patte vā patati, taṃ paṭiggahetabbaṃ, aṅgalaggaṃ paṭiggahitameva. Patantampi vocchinnañce antarā na gahetabbaṃ, uggahitakaṃ nāma hoti, taṃ pacchā paṭiggahitampi na vaṭṭati. Yaṃ pana bhesajjaṃ vā mūlaphalaṃ vā mātādīnaṃ atthāya gahetvā chāyatthāya vā phalinisākhaṃ ukkhipitvā gacchati, tato yaṃ icchati, taṃ puna paṭiggahetvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Yo pana tattha jātakaphalinisākhāya vā valliyā vā gahetvā cāleti. Tassa tato laddhaṃ phalaṃ na vaṭṭati, durupaciṇṇadukkaṭañca āpajjati, aññassa taṃ vaṭṭati, phalirukkhaṃ pana apassayituṃ vā ālambituṃ vā vaṭṭati, paṭiggahetvā ṭhapite yaṃ aññaṃ aṅkurādi uppajjati, paṭiggahitameva taṃ. Yāva hi hatthato mutte nirapekkho na hoti, nirapekkhatāya vā hatthato na muccati, tāva na paṭiggahaṇaṃ vijahati, ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana samantapāsādikāyaṃ vutto.
Nhưng nếu một trong hai người cho và người nhận ở trên không, người kia ở dưới đất, thì tầm tay phải được đo bằng mép trong của bộ phận gần nhất của người ở dưới đất bằng đầu và của người ở trên không bằng tay duỗi ra để cho hoặc nhận. Dù một người ở trong giếng, người kia ở trên bờ giếng, hoặc một người ở trên cây, người kia ở dưới đất, tầm tay cũng phải được đo theo cách đã nói. Nếu hai ba Sa-di đứng ở đó, đẩy một vật nặng mà một người đàn ông trung bình có thể nhấc lên, rồi đặt lên tay Tỳ-khưu đặt trên đất, hoặc nhấc lên rồi đặt dù chỉ một phần lên tay Tỳ-khưu duỗi ra, thì đã được nhận. Nhưng bụi rơi vào bát của người đang đi khất thực thì chưa được nhận, do đó phải nhận rồi mới nhận vật thực khất thực. Nếu nhận mà chưa được nhận, thì bị Tác Ác về luật. Nhưng nếu nhận lại rồi ăn, thì không có tội. Nếu được nói “hãy nhận rồi cho”, mà người ta không nghe hoặc không quan tâm mà vẫn cho vật thực khất thực, thì thoát khỏi Tác Ác về luật, phải nhận lại rồi mới nhận vật thực khất thực khác. Nếu gió lớn thổi bụi từ khắp nơi, không thể nhận vật thực khất thực được, thì có thể nhận với tâm trong sạch, chú ý rằng “tôi sẽ cho người chưa thọ cụ túc giới”. Sau khi đã cho người chưa thọ cụ túc giới, có thể nhận lại từ người đó hoặc nhận với sự tin tưởng của người đó rồi ăn. Nước mắt, nước bọt, nước mũi v.v…, khi rơi khỏi vị trí và rơi vào tay hoặc bát, phải được nhận. Vật dính trên người thì đã được nhận. Vật đang rơi, nếu đã ngắt quãng, thì không được nhận giữa chừng, đó được gọi là vật đã được nhặt lên, dù nhận lại sau đó cũng không được phép. Nhưng thuốc hoặc rễ, quả cây, sau khi lấy vì lợi ích của mẹ v.v…, hoặc nhấc cành cây có quả lên để che bóng rồi đi, nếu muốn, có thể nhận lại rồi dùng. Còn người nào cầm cành cây hoặc dây leo có quả mọc ở đó mà rung, quả nhận được từ đó không được phép, và phạm tội Tác Ác khó sửa chữa. Người khác thì được phép dùng vật đó. Nhưng có thể nhìn hoặc vịn vào cây có quả. Vật nảy mầm v.v… trên vật đã được nhận và cất giữ, thì đã được nhận. Chừng nào chưa vô tư khi rời khỏi tay, hoặc chưa rời khỏi tay một cách vô tư, thì sự nhận vẫn chưa mất đi. Đây là tóm tắt, còn phần chi tiết đã được nói trong sách Samantapāsādikā.

Mukhadvāranti galanāḷikaṃ. Mukhena vā hi paviṭṭhaṃ hotu, nāsikāya vā, galena ajjhoharaṇīyatāya sabbampi taṃ mukhadvāraṃ pavesitameva hoti. Āhāranti yaṃkiñci yāvakālikaṃ vā yāmakālikaṃ vā sattāhakālikaṃ vā yāvajīvikaṃ vā. Sabbañhetaṃ ajjhoharaṇīyattā ‘āhāro’ti vuccati, tattha sabbampi dhaññaṃ vā dhaññānulomaṃ vā tālanāḷikerapanasalabujaalābukumbhaṇḍapussaphalatipusaphalaeḷālukasaṅkhātaṃ navavidhaṃ mahāphalañceva aparaṇṇañca, yañcaññaṃ vanamūlapattapupphaphalādi āhāratthaṃ pharati, taṃ sabbaṃ yāva majjhanhikakālo, tāva paribhuñjitabbato yāvakālikaṃ nāma. Ambapānaṃ jambupānaṃ cocapānaṃ mocapānaṃ madhukapānaṃ muddikapānaṃ sālūkapānaṃ phārusakapānanti imāni aṭṭha pānāni, yāni ca tesaṃ anulomāni vettatintiṇikamātuluṅgakapiṭṭhakosambakaramandādikhuddakaphalapānāni, etāni sabbāni anupasampannehi sītodakena madditvā katāni ādiccapākāni vā yāva rattiyā pacchimayāmaṃ nidahitvā paribhuñjitabbato yāmakālikāni nāma. Avasesesu anuññātaphalapattapuppharasesupi eseva nayo. Sappiādīni pañca bhesajjāni sattāhaṃ nidahitvā paribhuñjitabbato sattāhakālikāni nāma. Idaṃ pana yāvakālikādittayaṃ kālavimuttañca udakaṃ ṭhapetvā avasesamūlaphalāphalādi yaṃ neva khādanīyatthaṃ na bhojanīyatthaṃ pharati , taṃ yāvajīvaṃ nidahitvā sati paccaye paribhuñjitabbato yāvajīvikaṃ nāma. Āhareyyāti paveseyya. Aññatra udakadantaponāti idaṃ anāhārepi udake āhārasaññāya, dantapone ca ‘‘mukhadvāraṃ āhaṭaṃ ida’’nti saññāya kukkuccāyantānaṃ kukkuccavinodanatthaṃ vuttaṃ. Udakañhi yathāsukhaṃ pātuṃ, dantakaṭṭhañca dantaponaparibhogena paribhuñjituṃ vaṭṭati. Ṭhapetvā pana idaṃ dvayaṃ avasesaṃ ajjhoharaṇatthāya gaṇhato gahaṇe dukkaṭaṃ, ajjhohāre ajjhohāre pācittiyaṃ, sacepi dantakaṭṭharaso ajānantassa anto pavisati, pācittiyameva.
Cửa miệng là ống họng. Vì dù vào bằng miệng hay bằng mũi, do phải nuốt qua họng, tất cả đều được coi là đã đưa vào cửa miệng. Thức ăn là bất kỳ thứ gì ăn theo thời gian quy định, theo buổi, trong bảy ngày, hoặc trọn đời. Tất cả những thứ này, do có thể nuốt được, nên được gọi là ‘thức ăn’. Ở đó, tất cả các loại ngũ cốc, hoặc tương tự ngũ cốc, chín loại quả lớn được gọi là quả cọ, dừa, chuối, mít, bầu, bí, quả bầu, quả dưa chuột, và các loại đậu khác, và các loại rễ, lá, hoa, quả rừng khác có thể dùng làm thức ăn, tất cả những thứ đó, do có thể dùng cho đến giữa trưa, nên được gọi là ăn theo thời gian quy định. Tám loại nước ép này: nước xoài, nước trâm, nước chuối, nước chuối cây, nước madhuka, nước nho, nước củ sen, nước phārusaka, và các loại nước ép tương tự của các loại quả nhỏ như mây, me, thanh yên, táo, kosamba, karamanda v.v…, tất cả những thứ đó, khi được người chưa thọ cụ túc giới ép bằng nước lạnh, hoặc được nấu bằng ánh nắng mặt trời, do có thể cất giữ và dùng cho đến canh cuối cùng của đêm, nên được gọi là ăn theo buổi. Đối với các loại nước ép từ quả, lá, hoa đã được cho phép còn lại cũng theo cách này. Năm loại thuốc như bơ v.v…, do có thể cất giữ và dùng trong bảy ngày, nên được gọi là ăn trong bảy ngày. Nhưng trừ ba loại ăn theo thời gian quy định này và nước, là những thứ không bị giới hạn bởi thời gian, các loại rễ, quả, không phải quả v.v… còn lại, không dùng để ăn cứng hay ăn mềm, do có thể cất giữ và dùng trọn đời khi có duyên, nên được gọi là ăn trọn đời. Đưa vào là đưa vào. Trừ nước và dụng cụ xỉa răng điều này được nói để xua tan sự áy náy của những người áy náy vì có tưởng là thức ăn đối với nước, dù không phải là thức ăn, và có tưởng là “cái này đã được đưa vào cửa miệng” đối với dụng cụ xỉa răng. Vì có thể uống nước tùy ý, và có thể dùng que xỉa răng theo cách dùng của dụng cụ xỉa răng. Nhưng trừ hai thứ này, đối với các thứ còn lại, khi nhận để nuốt, thì bị Tác Ác khi nhận, và bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần nuốt. Dù nước từ que xỉa răng vào trong mà không biết, cũng bị Ưng Đối Trị.

Vesāliyaṃ aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha adinnaṃ āhāraṃ āharaṇavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘aññatra udakadantaponā’’ti ayamettha anupaññatti, sādhāraṇapaññatti , anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, paṭiggahitake appaṭiggahitasaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ. Paṭiggahitasaññissa, udakadantapone, cattāri mahāvikaṭāni sati paccaye asati kappiyakārake sāmaṃ gahetvā paribhuñjantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Ettha dubbacopi asamatthopi kappiyakārako asantapakkheyeva tiṭṭhati, chārikāya asati sukkhadāruṃ jhāpetvā, tasmiñca asati alladāruṃ rukkhato chinditvāpi kātuṃ, mattikatthāya ca pathaviṃ khaṇitumpi vaṭṭati, idaṃ pana catubbidhampi mahāvikaṭaṃ kālodissaṃ nāma sappadaṭṭhakkhaṇeyeva sāmaṃ gahetuṃ vaṭṭati, aññadā paṭiggāhāpetvā paribhuñjitabbaṃ. Appaṭiggahitakatā, ananuññātatā, dhūmādiabbohārikābhāvo, ajjhoharaṇanti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Vesālī, liên quan đến một Tỳ-khưu nào đó, trong trường hợp đưa thức ăn chưa được cho vào. Câu trừ nước và dụng cụ xỉa răng là điều chế định bổ sung ở đây. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với vật đã được nhận mà có tưởng là chưa được nhận, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là đã được nhận; đối với nước và dụng cụ xỉa răng; người dùng bốn loại thuốc trị bệnh nặng khi có duyên mà không có người phục vụ hợp lệ, tự mình lấy và dùng; và những người điên loạn v.v… Ở đây, người phục vụ hợp lệ dù khó bảo hay không có khả năng cũng đứng về phía không có. Khi không có tro, có thể đốt củi khô; khi không có, có thể cắt củi tươi từ cây để làm; và có thể đào đất để lấy đất sét. Nhưng bốn loại thuốc trị bệnh nặng này được gọi là theo thời điểm, chỉ có thể tự lấy vào lúc bị rắn cắn; lúc khác phải sai bảo nhận rồi mới dùng. Ở đây có bốn chi phần này: chưa được nhận, chưa được cho phép, không phải là thứ không thể nuốt như khói v.v…, và việc nuốt. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới về lông cừu Eḷaka.

Dantaponasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới dụng cụ xỉa răng đã chấm dứt.

Bhojanavaggo catuttho.
Phẩm Ăn Uống là phẩm thứ tư.

5. Acelakavaggo
5. Phẩm Lõa Thể

1. Acelakasikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải Thích Học Giới Lõa Thể

Acelakavaggassa paṭhame etesaṃ acelakādīnaṃ aññatitthiyānaṃ yaṃkiñci āmisaṃ ekappayogena dentassa ekaṃ pācittiyaṃ, avacchinditvā avacchinditvā dentassa payoge payoge pācittiyaṃ.
Ở điều đầu tiên của phẩm Lõa Thể, khi cho bất kỳ thức ăn nào cho một trong những người ngoại đạo như lõa thể v.v… bằng một hành động duy nhất, thì bị một tội Ưng Đối Trị. Khi cho ngắt quãng, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần thực hiện.

Vesāliyaṃ āyasmantaṃ ānandaṃ ārabbha paribbājikāya dve pūve dānavatthusmiṃ paññattaṃ, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, udakadantaponaṃ dentassa, atitthiye titthiyasaññissa, vematikassa ca dukkaṭaṃ. Atitthiye atitthiyasaññissa, anupasampannena dāpentassa, tesaṃ santike bhājanaṃ nikkhipitvā ‘‘idaṃ gaṇhathā’’ti bhaṇantassa, tesaṃ vā nikkhittabhājane dentassa, bāhiralepaṃ dentassa, ummattakādīnañca anāpatti. Aññatitthiyatā, ananuññātatā, ajjhoharaṇīyaṃ ajjhoharaṇatthāya sahatthā anikkhittabhājane dānanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Vesālī, liên quan đến Trưởng lão Ānanda, trong trường hợp cho hai cái bánh cho một nữ du sĩ. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Khi cho nước và dụng cụ xỉa răng; đối với người không phải ngoại đạo mà có tưởng là ngoại đạo, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người không phải ngoại đạo có tưởng là không phải ngoại đạo; khi sai người chưa thọ cụ túc giới cho; khi đặt vật chứa gần họ và nói “hãy nhận cái này”; hoặc khi cho vào vật chứa đã được họ đặt; khi cho lớp vữa bên ngoài; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là người ngoại đạo, chưa được cho phép, và cho thức ăn có thể nuốt được để nuốt, bằng tay mình, vào vật chứa chưa được đặt xuống. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới về lông cừu Eḷaka.

Acelakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới lõa thể đã chấm dứt.

2. Uyyojanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giải Thích Học Giới Đuổi Đi

Dutiye dāpetvā vā adāpetvā vāti yaṃkiñci āmisaṃ dāpetvā vā na dāpetvā vā. Uyyojeyyāti mātugāmena saddhiṃ hasanakīḷanarahonisajjādīni kattukāmo ‘gacchā’tiādīni vatvā uyyojeyya. Etadevāti etaṃ anācārameva paccayaṃ karitvā, na aññaṃ patirūpaṃ kāraṇaṃ. Pācittiyanti uyyojanamatte tāva dukkaṭaṃ, yadā panassa so dassanūpacāraṃ vā savanūpacāraṃ vā ekena pādena vijahati, aparaṃ dukkaṭaṃ, dutiyena vijahite pācittiyaṃ. Ettha ca dassanūpacārassa ajjhokāse ṭhatvā dvādasahatthappamāṇaṃ, tathā savanūpacārassa. Sace pana antarā kuṭṭadvārapākārādayo honti, tehi antaritabhāvoyeva upacārātikkamo.
Ở điều thứ hai, sau khi đã cho hoặc chưa cho là sau khi đã cho hoặc chưa cho bất kỳ thức ăn nào. Đuổi đi là muốn cười đùa, vui chơi, ngồi nơi kín đáo v.v… với người nữ, rồi nói “đi đi” v.v… để đuổi đi. Chỉ vì điều đó là chỉ làm duyên cho hành vi xấu đó, không phải vì lý do chính đáng nào khác. Ưng Đối Trị có nghĩa là chỉ mới đuổi đi thì bị Tác Ác. Khi người đó vượt ra khỏi tầm nhìn hoặc tầm nghe bằng một chân, thì bị một Tác Ác khác; khi vượt ra bằng chân thứ hai, thì bị Ưng Đối Trị. Ở đây, tầm nhìn ở ngoài trời là mười hai thước, và tầm nghe cũng vậy. Nhưng nếu có tường, cửa, hàng rào v.v… ở giữa, thì việc bị che khuất đó chính là sự vượt qua khu vực phụ cận.

Sāvatthiyaṃ upanandaṃ ārabbha uyyojanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, uyyojanāṇattikāya sāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampanne tikadukkaṭaṃ, ubhinnampi kalisāsanāropane dukkaṭameva, ‘‘ubho ekato na yāpessāmā’’ti evamādīhi patirūpakāraṇehi uyyojentassa, ummattakādīnañca anāpatti. Anācāraṃ ācaritukāmatā, tadatthameva upasampannassa uyyojanaṃ, evaṃ uyyojitassa upacārātikkamoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Upananda, trong trường hợp đuổi đi. Đây là điều chế định chung, có thể do yêu cầu đuổi đi. Là ba tội Ưng Đối Trị, đối với người chưa thọ cụ túc giới thì là ba tội Tác Ác. Việc áp đặt hình phạt xấu cho cả hai cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội khi đuổi đi vì những lý do chính đáng như “cả hai chúng ta không thể sống chung với nhau” v.v…; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: muốn thực hiện hành vi xấu, đuổi người đã thọ cụ túc giới đi chỉ vì mục đích đó, và người bị đuổi đi như vậy vượt qua khu vực phụ cận. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp.

Uyyojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới đuổi đi đã chấm dứt.

3. Sabhojanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Giải Thích Học Giới Cùng Ăn

Tatiye saha ubhohi janehīti sabhojanaṃ, tasmiṃ sabhojane. Atha vā sabhojaneti sabhoge, rāgapariyuṭṭhitapurisassa hi itthī bhogo, itthiyā ca puriso, tenevassa padabhājane ‘‘itthī ceva hoti, puriso cā’’tiādi (pāci. 281) vuttaṃ. Anupakhajja nisajjaṃ kappeyyāti anupavisitvā nisīdeyya, yaṃ tasmiṃ kule sayanigharaṃ, tassa mahācatussālādīsu katassa mahallakassa piṭṭhasaṅghāṭato hatthapāsaṃ vijahitvā antosayanassa āsanne ṭhāne, khuddakassa vā vemajjhaṃ atikkamitvā nisīdeyyāti attho, evaṃ nisinnassa pācittiyaṃ.
Ở điều thứ ba, cùng với cả hai người là cùng ăn, trong bữa ăn chung đó. Hoặc cùng ăn là cùng hưởng thụ. Vì đối với người nam có lòng ham muốn, người nữ là đối tượng hưởng thụ, và đối với người nữ, người nam cũng vậy. Do đó, trong phần giải thích từ ngữ có nói “có cả người nữ và người nam” v.v… (pāci. 281). Vào ngồi là đi vào rồi ngồi. Ý nghĩa là: đối với nhà ngủ trong gia đình đó, phải rời khỏi tầm tay từ tấm ván cửa lớn được làm trong sảnh tứ giác lớn v.v…, rồi ngồi ở nơi gần bên trong nhà ngủ; hoặc đối với nhà nhỏ, phải vượt qua giữa nhà rồi ngồi. Khi ngồi như vậy, bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ upanandaṃ ārabbha anupakhajja nisajjanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, asayanighare sayanigharasaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ. Nasayanigharasaññissa, vuttalakkhaṇaṃ padesaṃ anatikkamitvā nisinnassa, bhikkhusmiṃ dutiyake sati, ubhosu nikkhantesu vā, vītarāgesu vā nisīdantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Avītarāgajāyampatikānaṃ sannihitatā, sayanigharatā, dutiyassa bhikkhuno abhāvo, anupakhajja nisīdananti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Upananda, trong trường hợp vào ngồi. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với nơi không phải là nhà ngủ mà có tưởng là nhà ngủ, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không phải nhà ngủ; người ngồi mà không vượt qua khu vực có đặc tính đã nói; khi có Tỳ-khưu thứ hai; khi cả hai đã ra ngoài, hoặc khi ngồi với những người đã hết tham ái; và những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: vợ chồng chưa hết tham ái có mặt, là nhà ngủ, không có Tỳ-khưu thứ hai, và vào ngồi. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều Bất Cộng Trụ thứ nhất.

Sabhojanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới cùng ăn đã chấm dứt.

4-5. Rahopaṭicchanna-rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā
4-5. Giải Thích Học Giới Ngồi Nơi Kín Đáo và Ngồi Riêng

Catutthapañcamāni sāvatthiyaṃ upanandaṃ ārabbha paṭicchannāsane ca, raho ca nisajjanavatthusmiṃ paññattāni, sādhāraṇapaññattiyo, etesampi samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisāneva. Seso kathānayo aniyatadvaye vuttanayeneva veditabbo.
Điều thứ tư và thứ năm được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Upananda, trong trường hợp ngồi ở nơi kín đáo và ngồi riêng. Đây là những điều chế định chung. Các pháp sanh khởi v.v… của chúng cũng tương tự như điều Bất Cộng Trụ thứ nhất. Nội dung còn lại nên được hiểu theo cách đã nói trong hai điều bất định.

Rahopaṭicchanna-rahonisajjasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới ngồi nơi kín đáo và ngồi riêng đã chấm dứt.

6. Cārittasikkhāpadavaṇṇanā
6. Giải Thích Học Giới Đi Lại

Chaṭṭhe nimantitoti pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarena nimantito. Sabhatto samānoti teneva nimantanabhattena sabhatto samāno. Santaṃ bhikkhuṃ anāpucchāti antoupacārasīmāya dassanūpacāre bhikkhuṃ disvā yaṃ sakkā hoti pakativacanena āpucchituṃ, tādisaṃ ‘‘ahaṃ itthannāmassa gharaṃ gacchāmī’’ti vā ‘‘cārittaṃ āpajjāmī’’ti vā īdisena vacanena anāpucchitvā. Purebhattaṃ vā pacchābhattaṃ vāti yena bhattena nimantito, tasmiṃ bhutte vā abhutte vā. Kulesu cārittaṃ āpajjeyyāti yasmiṃ kule nimantito, tato aññāni kulāni paviseyya. Aññatra samayā pācittiyanti sace so bhikkhu vuttalakkhaṇaṃ duvidhampi samayaṃ ṭhapetvā avītivatte majjhanhike aññaṃ kulaṃ pavisati, athassa gharūpacārokkamane dukkaṭaṃ, paṭhamapādena ummāraṃ atikkamantassa aparampi dukkaṭaṃ, dutiyapādena atikkame pācittiyaṃ.
Ở điều thứ sáu, được mời là được mời ăn một trong năm loại thực phẩm. Khi có thức ăn là khi có thức ăn từ lời mời đó. Không hỏi Tỳ-khưu có mặt là thấy một Tỳ-khưu trong tầm nhìn trong phạm vi khu vực phụ cận bên trong, người mà có thể hỏi bằng lời nói thông thường, mà không hỏi bằng những lời như “tôi đi đến nhà người tên này” hoặc “tôi đi lại”, rồi đi. Trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn là khi đã ăn hoặc chưa ăn bữa ăn mà mình được mời. Đi lại trong các gia đình là đi vào các gia đình khác ngoài gia đình đã được mời. Bị Ưng Đối Trị trừ phi có thời điểm có nghĩa là nếu Tỳ-khưu đó, trừ hai loại thời điểm có đặc tính đã nói, đi vào một gia đình khác khi chưa quá giữa trưa, thì bị Tác Ác khi đi vào khu vực phụ cận của nhà, bị một Tác Ác khác khi vượt qua ngưỡng cửa bằng chân đầu tiên, và bị Ưng Đối Trị khi vượt qua bằng chân thứ hai.

Rājagahe upanandaṃ ārabbha cārittāpajjanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘santaṃ bhikkhuṃ, anāpucchā, purebhattaṃ pacchābhattaṃ, aññatra samayā’’ti ayamettha catubbidhā anupaññatti, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, animantite nimantitasaññissa, vematikassa vā dukkaṭaṃ. Tasmiṃ animantitasaññissa, samaye santaṃ bhikkhuṃ āpucchitvā, asantaṃ bhikkhuṃ anāpucchitvā pavisato, aññassa gharena vā gharūpacārena vā maggo hoti, tena gacchato, antarārāmabhikkhunupassayatitthiyaseyyapaṭikkamanabhattiyagharāni gacchato, āpadāsu, ummattakādīnañca anāpatti. Pañcannaṃ bhojanānaṃ aññatarena nimantanasādiyanaṃ, santaṃ bhikkhuṃ anāpucchanā, bhattiyagharato aññagharappavisanaṃ, majjhanhikānatikkamo, samayassa vā āpadānaṃ vā abhāvoti imānettha pañca aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamakathinasadisāneva, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Rājagaha, liên quan đến Upananda, trong trường hợp đi lại. Bốn điều chế định bổ sung ở đây là “Tỳ-khưu có mặt, không hỏi, trước bữa ăn sau bữa ăn, trừ phi có thời điểm”. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người không được mời mà có tưởng là được mời, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không được mời; người đi vào trong thời điểm sau khi đã hỏi Tỳ-khưu có mặt, hoặc đi vào mà không hỏi Tỳ-khưu không có mặt; khi có đường đi qua nhà hoặc khu vực phụ cận của nhà khác, và đi theo đường đó; khi đi đến tu viện ở giữa, trú xứ của Tỳ-khưu-ni, nơi ở của ngoại đạo, nhà nhận lại, nhà ăn; trong các tai nạn; và những người điên loạn v.v… Ở đây có năm chi phần này: chấp nhận lời mời ăn một trong năm loại thực phẩm, không hỏi Tỳ-khưu có mặt, đi vào nhà khác ngoài nhà ăn, chưa quá giữa trưa, và không có thời điểm hoặc tai nạn. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) Kathina đầu tiên, nhưng điều này là hành động không hành động.

Cārittasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới đi lại đã chấm dứt.

7. Mahānāmasikkhāpadavaṇṇanā
7. Giải Thích Học Giới Mahānāma

Sattame catumāsappaccayapavāraṇāti cattāro māse gilānappaccayapavāraṇā, sabbañcetaṃ vatthuvasena vuttaṃ. Ayaṃ panettha attho – catumāsapavāraṇā vā hotu, punapavāraṇā vā, niccapavāraṇā vā, sabbāpi sāditabbā, ‘‘idāni mama rogo natthī’’ti na paṭikkhipitabbā, ‘‘roge pana sati viññāpessāmī’’ti adhivāsetabbāti. Tato ce uttari sādiyeyyāti ettha sace tattha rattīhi vā bhesajjehi vā paricchedo kato hoti ‘‘ettakāyeva rattiyo, ettakāni vā bhesajjāni viññāpetabbānī’’ti, atha tato rattipariyantato vā bhesajjapariyantato vā uttari, na bhesajjakaraṇīyena vā bhesajjaṃ, aññabhesajjakaraṇīyena vā aññaṃ bhesajjaṃ viññāpentassa pācittiyaṃ.
Ở điều thứ bảy, lời mời thuốc men trong bốn tháng là lời mời thuốc men cho người bệnh trong bốn tháng, tất cả điều này được nói theo sự việc. Ý nghĩa ở đây là: dù là lời mời bốn tháng, lời mời lại, hay lời mời thường xuyên, tất cả đều phải được chấp nhận, không được từ chối với lý do “bây giờ tôi không có bệnh”, mà phải chấp nhận với ý định “khi có bệnh, tôi sẽ xin”. Nếu chấp nhận hơn thế ở đây, nếu có giới hạn về đêm hoặc về thuốc men rằng “chỉ được xin ngần này đêm, hoặc ngần này thuốc men”, thì nếu xin thuốc quá giới hạn đêm hoặc giới hạn thuốc men đó, hoặc xin thuốc khi không cần thuốc, hoặc xin thuốc khác khi cần thuốc khác, thì bị Ưng Đối Trị.

Sakkesu chabbaggiye ārabbha bhesajjaviññāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, natatuttari tatuttarisaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ. Natatuttari natatuttarisaññissa, yehi bhesajjehi pavārito, tato aññehi vā adhikatarehi vā atthe sati, yāsu ca rattīsu pavārito, tā atikkamitvāpi atthe sati yathābhūtaṃ ācikkhitvā viññāpentassa, ye ca ñātake vā puggalikappavāraṇāya pavārite vā apariyantapavāraṇāya vā pavārite, aññassa vā atthāya, attano vā dhanena viññāpenti, tesaṃ, ummattakādīnañca anāpatti. Saṅghapavāraṇatā, tato bhesajjaviññatti, agilānatā, pariyantātikkamoti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni sañcarittasadisānīti.
(Học giới này) được chế định trong dòng họ Sakya, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp xin thuốc men. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với trường hợp không quá mức mà có tưởng là quá mức, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không quá mức; người được mời bằng những loại thuốc nào, nếu có nhu cầu về những loại thuốc khác hoặc nhiều hơn, hoặc sau khi đã qua những đêm được mời mà vẫn có nhu cầu, nếu xin bằng cách nói đúng sự thật; và những người xin từ thân quyến, hoặc từ người được mời cá nhân, hoặc từ người được mời không giới hạn, hoặc xin vì lợi ích của người khác, hoặc bằng tiền của mình; và đối với họ, những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: là lời mời của Tăng chúng, xin thuốc men từ đó, không phải là người bệnh, và vượt quá giới hạn. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) về sự môi giới.

Mahānāmasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới Mahānāma đã chấm dứt.

8. Uyyuttasenāsikkhāpadavaṇṇanā
8. Giải Thích Học Giới Quân Đội Xuất Trận

Aṭṭhame uyyuttanti katauyyogaṃ, gāmato nikkhantanti attho. Senanti caturaṅginiṃ. Aññatra tathārūpappaccayāti tathārūpe kāraṇe asati kevalaṃ senaṃ dassanatthāya gacchato pade pade dukkaṭaṃ, dassanūpacāre ṭhatvā passato pācittiyaṃ. Dassanūpacāro nāma yattha ṭhito passati, taṃ pana vijahitvā punappunaṃ passato payoge payoge pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tám, xuất trận là đã chuẩn bị, có nghĩa là đã ra khỏi làng. Quân đội là tứ binh chủng. Trừ phi có lý do tương tự có nghĩa là khi không có lý do tương tự, nếu chỉ đi để xem quân đội, thì bị Tác Ác theo mỗi bước chân; khi đứng xem trong tầm nhìn, thì bị Ưng Đối Trị. Tầm nhìn là nơi đứng xem, nhưng nếu rời khỏi đó rồi xem đi xem lại, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần thực hiện.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha senādassanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘aññatra tathārūpappaccayā’’ti ayamettha anupaññatti, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, hatthiādīsu ekamekaṃ dassanāya gamane vuttanayeneva dukkaṭaṃ, tathā anuyyutte uyyuttasaññino, vematikassa ca dukkaṭaṃ. Anuyyuttasaññino pana, ārāme ṭhatvā attano ṭhitokāsaṃ āgataṃ, paṭipathaṃ āgacchantañca passato, tathārūpappaccaye, āpadāsu, ummattakādīnañca anāpatti. Uyyuttasenaṃ dassanatthāya gamanaṃ, anuññātokāsato aññatra dassanaṃ, tathārūpappaccayassa āpadāya vā abhāvoti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisāni, idaṃ pana lokavajjaṃ, akusalacittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp xem quân đội. Câu trừ phi có lý do tương tự là điều chế định bổ sung ở đây. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Việc đi xem từng loại như voi v.v…, thì bị Tác Ác theo cách đã nói. Tương tự, đối với quân đội chưa xuất trận mà có tưởng là đã xuất trận, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là chưa xuất trận; người đứng trong tu viện xem quân đội đến nơi mình đứng, và xem quân đội đi ngược chiều; trong trường hợp có lý do tương tự; trong các tai nạn; và những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: đi để xem quân đội xuất trận, xem ở nơi khác ngoài nơi đã được cho phép, và không có lý do tương tự hoặc tai nạn. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới về lông cừu Eḷaka, nhưng điều này là tội thế gian, là tâm bất thiện, và có ba loại cảm thọ.

Uyyuttasenāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới quân đội xuất trận đã chấm dứt.

9. Senāvāsasikkhāpadavaṇṇanā
9. Giải Thích Học Giới Ở Trong Quân Đội

Navame tato ce uttarīti tirattato uttari catutthadivase atthaṅgate sūriye senāya tiṭṭhatu vā nisīdatu vā sayatu vā, sacepi ākāse iddhiyā kañci iriyāpathaṃ kappeti, pācittiyameva.
Ở điều thứ chín, nếu hơn thế là hơn ba đêm, vào ngày thứ tư, khi mặt trời đã lặn, dù quân đội đang đứng, ngồi, hay nằm, dù bay lên không bằng thần thông và thực hiện bất kỳ oai nghi nào, cũng bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha atirekatirattaṃ senāya vasanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, ūnakatiratte atirekasaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ. Ūnakasaññissa, tatiyāya rattiyā purāruṇā nikkhamitvā puna vasato, gilānassa vā gilānakaraṇīyena vā vasato, paṭisenāruddhāya senāya, kenaci palibuddhassa, āpadāsu, ummattakādīnañca anāpatti. Tirattātikkamo, senāya sūriyassa atthaṅgamo, gilānatādīnaṃ abhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp ở trong quân đội quá ba đêm. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với trường hợp dưới ba đêm mà có tưởng là quá, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là dưới; người ra đi trước lúc rạng đông của đêm thứ ba rồi trở lại ở; người bệnh hoặc ở vì việc của người bệnh; trong quân đội bị quân địch bao vây; người bị ràng buộc bởi ai đó; trong các tai nạn; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: quá ba đêm, mặt trời lặn trong quân đội, và không có bệnh tật v.v… Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới về lông cừu Eḷaka.

Senāvāsasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới ở trong quân đội đã chấm dứt.

10. Uyyodhikasikkhāpadavaṇṇanā
10. Giải Thích Học Giới Nơi Chiến Trận

Dasame uggantvā uggantvā ettha yujjhantīti uyyodhikaṃ, sampahāraṭṭhānassetaṃ nāmaṃ. Balassa aggaṃ jānanti etthāti balaggaṃ, balagaṇanaṭṭhānanti attho. Senāya viyūhaṃ senābyūhaṃ, senānivesassetaṃ nāmaṃ. Anīkassa dassanaṃ anīkadassanaṃ. Anīkaṃ nāma ‘‘dvādasapuriso hatthī, tipuriso asso, catuppuriso ratho’’tiiminā (pāci. 314) lakkhaṇena tayo hatthī pacchimakaṃ hatthānīkaṃ, assānīkarathānīkesupi eseva nayo. Cattāro pana āvudhahatthā purisā pacchimakaṃ pattānīkaṃ. Etesu yaṃkiñci dassanāya gacchato pade pade dukkaṭaṃ, dassanūpacāre ṭhatvā passato pācittiyaṃ, upacāraṃ pana vijahitvā punappunaṃ passato payoge payoge pācittiyaṃ. Sesaṃ uyyuttasenāsikkhāpade vuttanayeneva veditabbaṃ, āpattibhedo panettha natthevāti.
Ở điều thứ mười, nơi họ xông lên chiến đấu được gọi là nơi chiến trận, đây là tên gọi cho nơi giao chiến. Nơi biết được sức mạnh của quân đội được gọi là nơi tập trung quân, có nghĩa là nơi đếm quân. Sự bố trí của quân đội là sự bố trí quân đội, đây là tên gọi cho nơi đóng quân. Việc xem đội quân là việc xem đội quân. Đội quân là “mười hai người là một đội voi, ba người là một đội ngựa, bốn người là một đội xe” (pāci. 314) theo đặc tính này, ba con voi là đội voi cuối cùng; đối với đội ngựa và đội xe cũng theo cách này. Còn bốn người lính cầm vũ khí là đội bộ binh cuối cùng. Khi đi xem bất kỳ đội nào trong số này, thì bị Tác Ác theo mỗi bước chân; khi đứng xem trong tầm nhìn, thì bị Ưng Đối Trị; nhưng nếu rời khỏi tầm nhìn rồi xem đi xem lại, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần thực hiện. Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới quân đội xuất trận. Ở đây không có sự khác biệt về tội.

Uyyodhikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới nơi chiến trận đã chấm dứt.

Acelakavaggo pañcamo.
Phẩm Lõa Thể là phẩm thứ năm.

6. Surāpānavaggo
6. Phẩm Uống Rượu

1. Surāpānasikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải Thích Học Giới Uống Rượu

Surāpānavaggassa paṭhame surāmerayapāneti ettha piṭṭhādīhi kataṃ majjaṃ surā, pupphādīhi kato āsavo merayaṃ, tadubhayampi bījato paṭṭhāya kusaggenāpi pivato payoge payoge pācittiyaṃ.
Ở điều đầu tiên của phẩm Uống Rượu, trong việc uống rượu và men, ở đây, rượu làm từ bột v.v… là surā, rượu ngâm làm từ hoa v.v… là meraya. Khi uống cả hai thứ đó, từ hạt giống trở đi, dù chỉ bằng đầu ngọn cỏ, cũng bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần thực hiện.

Kosambiyaṃ sāgatattheraṃ ārabbha majjapivanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, amajje majjasaññissa, vematikassa vā dukkaṭaṃ. Amajjasaññissa, amajjaṃ majjavaṇṇagandharasaṃ loṇasovīrakaṃ vā suttaṃ vā pivato, vāsaggāhāpanatthaṃ īsakaṃ majjaṃ pakkhipitvā sūpādīni pacanti, tesu sūpasampākādīsu , āmalakarasādīhi amajjaṃ majjasadisaṃ ariṭṭhaṃ karonti, taṃ pivato, ummattakādīnañca anāpatti. Majjabhāvo, tassa pānañcāti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisāni, idaṃ pana lokavajjaṃ, akusalacittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Kosambī, liên quan đến Trưởng lão Sāgata, trong trường hợp uống rượu. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với vật không phải là rượu mà có tưởng là rượu, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không phải rượu; người uống nước muối sovīraka hoặc nước tiểu có màu, mùi, vị của rượu, mà không phải là rượu; khi nấu canh v.v… có cho một chút rượu vào để lấy mùi; trong các món canh, món hầm đó; khi làm rượu ariṭṭha giống như rượu từ nước quả amla v.v… mà không phải là rượu, và uống nó; và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: là rượu, và việc uống nó. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới về lông cừu Eḷaka, nhưng điều này là tội thế gian, là tâm bất thiện, và có ba loại cảm thọ.

Surāpānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới uống rượu đã chấm dứt.

2. Aṅgulipatodakasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giải Thích Học Giới Thọc Léc

Dutiye aṅgulipatodaketi aṅgulīhi upakacchakādighaṭṭanaṃ vuccati, apica yena kenaci sarīrāvayavena hasādhippāyassa upasampannaṃ phusato pācittiyaṃ.
Ở điều thứ hai, thọc léc bằng ngón tay là việc chà xát vào nách v.v… bằng ngón tay. Hơn nữa, khi chạm vào người đã thọ cụ túc giới bằng bất kỳ bộ phận nào của cơ thể với ý định trêu đùa, thì bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha aṅgulipatodakena hasanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampanne tikadukkaṭaṃ, idha pana bhikkhunīpi bhikkhussa, bhikkhu ca bhikkhuniyā anupasampanno eva, kāyappaṭibaddhādīsu sabbattha dukkaṭameva. Na hasanādhippāyassa, sati karaṇīye āmasato, ummattakādīnañca anāpatti. Hasādhippāyatā, upasampannassa kāyena kāyāmasananti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp trêu đùa bằng cách thọc léc. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ cụ túc giới thì là ba tội Tác Ác. Ở đây, Tỳ-khưu-ni đối với Tỳ-khưu, và Tỳ-khưu đối với Tỳ-khưu-ni, đều là người chưa thọ cụ túc giới. Đối với vật dính liền với thân v.v…, ở mọi nơi đều bị Tác Ác. Không có tội đối với người không có ý định trêu đùa; khi chạm vì có việc cần làm; và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: có ý định trêu đùa, và chạm vào thân của người đã thọ cụ túc giới bằng thân. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều Bất Cộng Trụ thứ nhất.

Aṅgulipatodakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới thọc léc đã chấm dứt.

3. Hasadhammasikkhāpadavaṇṇanā
3. Giải Thích Học Giới Đùa Giỡn

Tatiye udake hasadhammeti udakakīḷā vuccati. Tasmā yo bhikkhu uparigopphake udakeyeva gacchanto hasādhippāyo nimujjati vā ummujjati vā, tassa nimujjanādīnaṃ atthāya otarantassa hatthavāre padavāre dukkaṭaṃ, nimujjanummujjanesu payoge payoge pācittiyaṃ, nimujjitvā antoudakeyeva gacchantassa hatthavārapadavāresu, tarantassa vā yena yena aṅgena tarati, tassa tassa payoge payoge pācittiyaṃ.
Ở điều thứ ba, đùa giỡn trong nước là việc chơi đùa trong nước. Do đó, Tỳ-khưu nào đi trong nước trên mắt cá chân, với ý định trêu đùa, lặn xuống hoặc trồi lên, khi xuống nước để lặn v.v…, thì bị Tác Ác theo mỗi lần vung tay, vung chân; khi lặn xuống, trồi lên, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần thực hiện; khi lặn rồi đi ngay trong nước, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần vung tay, vung chân; hoặc khi bơi, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần thực hiện của bộ phận dùng để bơi.

Sāvatthiyaṃ sattarasavaggiye bhikkhū ārabbha udake kīḷanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, udake ahasadhamme hasadhammasaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ, tathā nāvāya kīḷato hatthena vā pādena vā kaṭṭhena vā kathalāya vā udakaṃ paharato, bhājanagataṃ udakaṃ vā kañjikādīni vā cikkhallaṃ vā khipanakīḷāya kīḷato dukkaṭaṃ. Atthajotakaṃ pana akkharaṃ chindituṃ vaṭṭati. Na hasādhippāyassa, sati karaṇīye otaritvā nimujjanādīni karontassa, pāraṃ gacchato, āpadāsu, ummattakādīnañca anāpatti. Uparigopphakatā, hasādhippāyena kīḷananti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm mười bảy Tỳ-khưu, trong trường hợp chơi đùa trong nước. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Trong nước, khi không phải là trò đùa giỡn mà có tưởng là trò đùa giỡn, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Tương tự, khi chơi trên thuyền, dùng tay, chân, gậy, hoặc gáo để đập nước; khi chơi trò ném nước trong vật chứa hoặc nước cơm v.v… hoặc bùn, thì bị Tác Ác. Nhưng có thể cắt chữ để làm rõ nghĩa. Không có tội đối với người không có ý định trêu đùa; khi xuống nước rồi lặn v.v… vì có việc cần làm; khi qua sông; trong các tai nạn; và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: trên mắt cá chân, và chơi đùa với ý định trêu đùa. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều Bất Cộng Trụ thứ nhất.

Hasadhammasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới đùa giỡn đã chấm dứt.

4. Anādariyasikkhāpadavaṇṇanā
4. Giải Thích Học Giới Không Tôn Trọng

Catutthe anādariyeti puggalassa vā dhammassa vā anādarakaraṇe. Tasmā yo bhikkhu upasampannena paññattena vuccamāno tassa vā vacanaṃ akattukāmatāya, taṃ vā dhammaṃ asikkhitukāmatāya anādariyaṃ karoti, tassa tasmiṃ anādariye pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tư, trong việc không tôn trọng là việc không tôn trọng người hoặc pháp. Do đó, Tỳ-khưu nào, khi được người đã thọ cụ túc giới nói điều đã được chế định, mà không tôn trọng vì không muốn làm theo lời của người đó, hoặc không muốn học pháp đó, thì bị Ưng Đối Trị trong việc không tôn trọng đó.

Kosambiyaṃ channattheraṃ ārabbha anādariyakaraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampanne tikadukkaṭaṃ, upasampannena vā anupasampannena vā ‘‘idaṃ na sallekhāya saṃvattatī’’tiādinā nayena apaññattena vuccamānassa anādariyepi dukkaṭameva. Paveṇiāgataṃ pana uggahaṃ gahetvā ‘‘evaṃ amhākaṃ ācariyānaṃ uggaho paripucchā’’ti (pāci. 344) bhaṇantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Upasampannassa paññattena vacanaṃ, anādariyakaraṇanti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Kosambī, liên quan đến Trưởng lão Channa, trong trường hợp không tôn trọng. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ cụ túc giới thì là ba tội Tác Ác. Khi không tôn trọng dù được người đã thọ cụ túc giới hoặc người chưa thọ cụ túc giới nói điều chưa được chế định theo cách “điều này không dẫn đến sự thanh tịnh” v.v…, cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội đối với người sau khi đã học theo truyền thống, nói rằng “đây là cách học và hỏi của các vị thầy của chúng tôi” (pāci. 344); và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: lời nói đã được chế định của người đã thọ cụ túc giới, và việc không tôn trọng. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này có cảm thọ khổ.

Anādariyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới không tôn trọng đã chấm dứt.

5. Bhiṃsāpanasikkhāpadavaṇṇanā
5. Giải Thích Học Giới Hù Dọa

Pañcame bhiṃsāpeyyāti bhiṃsāpanatthaṃ rūpādīni upasaṃhareyya, bhayānakakathaṃ vā katheyya. So pana bhāyatu vā, mā vā, itarassa pācittiyaṃ.
Ở điều thứ năm, hù dọa là dâng cúng các hình sắc v.v… để hù dọa, hoặc kể chuyện đáng sợ. Dù người đó sợ hay không, người kia vẫn bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha bhiṃsāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ. Anupasampanne tikadukkaṭaṃ, na bhiṃsāpetukāmassa tathā karoto, ummattakādīnañca anāpatti. Upasampannatā, tassa dassanasavanavisaye bhiṃsāpetukāmatāya vāyāmananti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni anantarasikkhāpadasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp hù dọa. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ cụ túc giới thì là ba tội Tác Ác. Không có tội khi làm như vậy mà không có ý định hù dọa; và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: là người đã thọ cụ túc giới, và cố gắng hù dọa trong tầm nhìn, tầm nghe của người đó. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới ngay trước đó.

Bhiṃsāpanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới hù dọa đã chấm dứt.

6. Jotisikkhāpadavaṇṇanā
6. Giải Thích Học Giới Lửa

Chaṭṭhe visibbanāpekkhoti tappitukāmo. Samādaheyyāti jāleyya, aññatra tathārūpappaccayāti padīpujjālanaṃ vā pattapacanādīsu jotikaraṇaṃ vāti evarūpaṃ paccayaṃ vinā. Tatrāyaṃ vinicchayo – sayaṃ samādahantassa araṇisaṇṭhāpanato paṭṭhāya yāva jālā na uṭṭhahati, tāva sabbappayogesu dukkaṭaṃ, jāluṭṭhāne pācittiyaṃ. Samādahāpentassa āṇattiyā dukkaṭaṃ, sakiṃ āṇattena bahumpi samādahite ekameva pācittiyaṃ.
Ở điều thứ sáu, mong muốn sưởi ấm là muốn sưởi ấm. Nhóm lửa là đốt lửa. Trừ phi có lý do tương tự là trừ lý do như thắp đèn hoặc đốt lửa để nấu bát v.v… Quyết định ở đây là như sau: người tự nhóm lửa, từ lúc đặt que củi trở đi, chừng nào lửa chưa bùng lên, thì bị Tác Ác trong mọi hành động; khi lửa bùng lên, thì bị Ưng Đối Trị. Người sai bảo nhóm lửa, bị Tác Ác khi ra lệnh; khi đã ra lệnh một lần, dù người kia nhóm nhiều lửa, cũng chỉ bị một tội Ưng Đối Trị.

Bhaggesu sambahule bhikkhū ārabbha jotiṃ samādahitvā visibbanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘agilāno, aññatra tathārūpappaccayā’’ti imānettha dve anupaññattiyo, sādhāraṇapaññatti, sāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, gilānassa agilānasaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ, tathā paṭilātaṃ ukkhipantassa, tañca avijjhātaṃ ukkhipitvā yathāṭhāne ṭhapentassa. Vijjhātaṃ pana jālayato pācittiyameva. Gilānassa gilānasaññissa , aññena kataṃ vā vītaccitaṅgāraṃ vā visibbentassa, padīpajotikajantāgharādike tathārūpappaccaye, āpadāsu, ummattakādīnañca anāpatti. Agilānatā, anuññātakāraṇābhāvo, visibbetukāmatā, samādahananti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni sañcaritte vuttanayeneva veditabbānīti.
(Học giới này) được chế định ở Bhagga, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu, trong trường hợp nhóm lửa rồi sưởi ấm. Hai điều chế định bổ sung ở đây là “không phải người bệnh, trừ phi có lý do tương tự”. Đây là điều chế định chung, có thể do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người bệnh mà có tưởng là không bệnh, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Tương tự, khi nhấc than hồng lên, và nhấc than hồng chưa tắt lên rồi đặt lại chỗ cũ. Nhưng khi đốt than đã tắt, thì bị Ưng Đối Trị. Không có tội đối với người bệnh có tưởng là bệnh; người sưởi ấm bằng lửa do người khác nhóm hoặc bằng than đã tàn; trong các lý do tương tự như đốt đèn, đốt lửa trong nhà tắm hơi; trong các tai nạn; và những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: không phải là người bệnh, không có lý do được cho phép, muốn sưởi ấm, và nhóm lửa. Các pháp sanh khởi v.v… nên được hiểu theo cách đã nói trong điều (học giới) về sự môi giới.

Jotisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới lửa đã chấm dứt.

7. Nahānasikkhāpadavaṇṇanā
7. Giải Thích Học Giới Tắm

Sattame nahāyeyyāti yo bhikkhu majjhimadese nahānadivasato paṭṭhāya addhamāse apuṇṇe aññatra samayā ‘‘nahāyissāmī’’ti cuṇṇaṃ vā mattikaṃ vā abhisaṅkharoti, tassa tato paṭṭhāya sabbappayogesu dukkaṭaṃ, nahānapariyosāne pācittiyaṃ. Samayesu pariveṇasammajjanamattampi kammasamayo, addhayojanaṃ gantukāmassa, gacchato, gatassa vā addhānagamanasamayo, sarajena vātena okiṇṇassa dvīsu vā tīsu vā udakaphusitesu kāye patitesu vātavuṭṭhisamayoti veditabbo. Sesaṃ uttānameva.
Ở điều thứ bảy, tắm là Tỳ-khưu nào, từ ngày tắm ở trung tâm đất nước trở đi, khi chưa đủ nửa tháng, trừ phi có thời điểm, mà chuẩn bị bột hoặc đất sét với ý định “tôi sẽ tắm”, thì từ đó trở đi, bị Tác Ác trong mọi hành động; khi kết thúc việc tắm, thì bị Ưng Đối Trị. Trong các thời điểm, chỉ cần quét dọn phòng học cũng là thời điểm làm việc. Đối với người muốn đi, đang đi, hoặc đã đi nửa do-tuần, là thời điểm đi đường xa. Đối với người bị gió bụi bay vào, hoặc khi hai ba giọt nước mưa rơi vào người, là thời điểm gió mưa, nên biết như vậy. Phần còn lại đã rõ ràng.

Rājagahe sambahule bhikkhū ārabbha na mattaṃ jānitvā nahāyanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘aññatra samayā’’ti ayamettha chabbidhā anupaññatti, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, atirekaddhamāse ūnakasaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ. Atirekasaññissa, samaye vā nahāyantassa, yo vā nadīpāraṃ gacchanto vālukaṃ ukkiritvā kataāvāṭesupi nahāyati, tassa, paccantime janapade sabbesaṃ, āpadāsu, ummattakādīnañca anāpatti. Majjhimadeso, ūnakaddhamāse nahānaṃ, samayānaṃ vā nadīpāragamanassa vā āpadānaṃ vā abhāvoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Rājagaha, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu, trong trường hợp tắm mà không biết chừng mực. Sáu loại điều chế định bổ sung ở đây là “trừ phi có thời điểm”. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với trường hợp quá nửa tháng mà có tưởng là dưới, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là quá; người tắm trong thời điểm; người nào khi qua sông, múc cát lên làm hố rồi tắm; đối với tất cả mọi người ở các vùng biên địa; trong các tai nạn; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là trung tâm đất nước, tắm khi chưa đủ nửa tháng, và không có thời điểm, hoặc việc qua sông, hoặc tai nạn. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới về lông cừu Eḷaka.

Nahānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới tắm đã chấm dứt.

8. Dubbaṇṇakaraṇasikkhāpadavaṇṇanā
8. Giải Thích Học Giới Làm Dấu

Aṭṭhame alabhīti labho, labho eva lābho, kiṃ alabhi? Cīvaraṃ, kīdisaṃ? Navaṃ, iti ‘‘navacīvaralābhenā’’ti vattabbe anunāsikalopaṃ akatvā navaṃcīvaralābhenāti vuttaṃ, paṭiladdhanavacīvarenāti attho. Majjhe ṭhitapadadvaye panāti nipātamattaṃ. Bhikkhunāti yena laddhaṃ, tassa nidassanaṃ, sesaṃ padatthato uttānameva. Ayaṃ panettha vinicchayo – nivāsanapārupanupagaṃ cīvaraṃ labhitvā tassa niṭṭhitarajanassa yasmiṃ vā tasmiṃ vā padese kaṃsanīlena vā pattanīlena vā kaddamena vā yena kenaci kāḷakena vā morakkhimaṇḍalamaṅgulapiṭṭhīnaṃ aññatarappamāṇaṃ kappabinduṃ ādiyitvā taṃ cīvaraṃ paribhuñjitabbaṃ, anādiyitvā paribhuñjantassa pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tám, alabhī là labho, labho chính là lābho. Lợi lộc gì? Y. Y như thế nào? Mới. Như vậy, thay vì nói “navacīvaralābhena”, không lược bỏ âm mũi, mà nói navaṃcīvaralābhena, có nghĩa là với y mới đã nhận được. Hai từ ở giữa, panā, chỉ là một hư từ. Bởi Tỳ-khưu là chỉ người đã nhận, phần còn lại có ý nghĩa rõ ràng theo từ ngữ. Quyết định ở đây là như sau: sau khi nhận được y nội hoặc y vai trái, khi y đã được nhuộm xong, phải lấy một chấm hợp lệ ở bất kỳ chỗ nào trên đó, bằng màu xanh đồng, xanh lá, hoặc bùn, hoặc bất kỳ màu đen nào, có kích thước bằng mắt công hoặc lưng ngón tay, rồi mới được dùng y đó. Nếu dùng mà không lấy, thì bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ sambahule bhikkhū ārabbha attano cīvaraajānanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, ādinne anādinnasaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ. Ādinnasaññissa , kappe naṭṭhe, kappakatokāse jiṇṇe, kappakatena akappakate saṃsibbite, pacchā āropitesu aggaḷaanuvātaparibhaṇḍesu taṃ paribhuñjantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Vuttappakārassa cīvarassa akatakappakatā, na naṭṭhacīvarāditā, nivāsanaṃ vā pārupanaṃ vāti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni eḷakalomasadisāni, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu, trong trường hợp không biết y của mình. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với vật đã được làm dấu mà có tưởng là chưa được làm dấu, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là đã được làm dấu; khi dấu bị mất; khi chỗ làm dấu bị cũ; khi vật đã làm dấu được may chung với vật chưa làm dấu; khi dùng các vật phụ như then, dây buộc, vật trang trí được gắn vào sau; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: y có loại đã nói chưa được làm dấu, y không bị mất v.v…, và là y nội hoặc y vai trái. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như học giới về lông cừu Eḷaka, nhưng điều này là hành động không hành động.

Dubbaṇṇakaraṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới làm dấu đã chấm dứt.

9. Vikappanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Giải Thích Học Giới Từ Bỏ

Navame vikappetvāti ettha dve vikappanā sammukhāvikappanā parammukhāvikappanā ca. Kathaṃ sammukhāvikappanā hoti? Cīvarānaṃ ekabahubhāvaṃ sannihitāsannihitabhāvañca ñatvā ‘imaṃ cīvara’nti vā ‘imāni cīvarānī’ti vā ‘etaṃ cīvara’nti vā ‘etāni cīvarānī’ti vā vatvā ‘tuyhaṃ vikappemī’ti vattabbaṃ, ayamekā sammukhāvikappanā. Ettāvatā nidhetuṃ vaṭṭati, paribhuñjituṃ pana vissajjetuṃ vā adhiṭṭhātuṃ vā na vaṭṭati. ‘‘Mayhaṃ santakaṃ, mayhaṃ santakāni paribhuñja vā vissajjehi vā yathāpaccayaṃ karohī’’ti (pāci. 374) evaṃ pana vutte paccuddhāro nāma hoti, tato pabhuti paribhogādayopi vaṭṭanti. Aparo nayo, tatheva cīvarānaṃ ekabahubhāvaṃ sannihitāsannihitabhāvañca ñatvā tasseva bhikkhuno santike ‘imaṃ cīvara’nti vā ‘imāni cīvarānī’ti vā ‘etaṃ cīvara’nti vā ‘etāni cīvarānī’ti vā vatvā pañcasu sahadhammikesu aññatarassa attanā abhirucitassa yassa kassaci nāmaṃ gahetvā ‘‘tissassa bhikkhuno vikappemī’’ti vā ‘‘tissāya bhikkhuniyā, sikkhamānāya, sāmaṇerassa, tissāya sāmaṇeriyā vikappemī’’ti vā vattabbaṃ, ayaṃ aparāpi sammukhāvikappanā. Ettāvatā nidhetuṃ vaṭṭati, paribhogādīsu ekampi na vaṭṭati. Tena pana bhikkhunā ‘‘tissassa bhikkhuno santakaṃ…pe… tissāya sāmaṇeriyā santakaṃ paribhuñja vā vissajjehi vā yathāpaccayaṃ karohī’’ti vutte paccuddhāro nāma hoti, tato pabhuti paribhogādayopi vaṭṭanti.
Ở điều thứ chín, từ bỏ ở đây có hai loại: từ bỏ trực tiếp và từ bỏ gián tiếp. Làm thế nào để có từ bỏ trực tiếp? Sau khi biết số lượng y là một hay nhiều, có mặt hay không có mặt, phải nói “y này” hoặc “những y này”, “y đó” hoặc “những y đó”, rồi nói “tôi từ bỏ cho ông”. Đây là một cách từ bỏ trực tiếp. Như vậy là có thể cất giữ, nhưng không được dùng, cho đi, hoặc quyết định. Nhưng khi nói “vật sở hữu của tôi, những vật sở hữu của tôi, hãy dùng, cho đi, hoặc làm tùy duyên” (pāci. 374), thì đó được gọi là sự thu hồi, từ đó trở đi, việc dùng v.v… cũng được phép. Cách khác, sau khi biết số lượng y là một hay nhiều, có mặt hay không có mặt, tại nơi của Tỳ-khưu đó, nói “y này” hoặc “những y này”, “y đó” hoặc “những y đó”, rồi nêu tên bất kỳ ai trong năm người đồng pháp mà mình thích, nói “tôi từ bỏ cho Tỳ-khưu Tissa” hoặc “tôi từ bỏ cho Tỳ-khưu-ni Tissā, cô ni tu tập sự, Sa-di, Sa-di-ni Tissā”. Đây cũng là một cách từ bỏ trực tiếp khác. Như vậy là có thể cất giữ, nhưng không được làm bất cứ điều gì trong việc dùng v.v… Nhưng khi Tỳ-khưu đó nói “vật sở hữu của Tỳ-khưu Tissa… cho đến… vật sở hữu của Sa-di-ni Tissā, hãy dùng, cho đi, hoặc làm tùy duyên”, thì đó được gọi là sự thu hồi, từ đó trở đi, việc dùng v.v… cũng được phép.

Kathaṃ parammukhāvikappanā hoti? Cīvarānaṃ tatheva ekabahubhāvaṃ sannihitāsannihitabhāvañca ñatvā ‘imaṃ cīvara’nti vā ‘imāni cīvarānī’ti vā ‘etaṃ cīvara’nti vā ‘etāni cīvarānī’ti vā vatvā ‘‘tuyhaṃ vikappanatthāya dammī’’ti vattabbaṃ. Tena vattabbo ‘‘ko te mitto vā sandiṭṭho vā’’ti. Tato itarena purimanayeneva ‘tisso bhikkhū’ti vā…pe… ‘tissā sāmaṇerī’ti vā vattabbaṃ. Puna tena bhikkhunā ‘‘ahaṃ tissassa bhikkhuno dammī’’ti vā…pe… ‘‘tissāya sāmaṇeriyā dammī’’ti vā vattabbaṃ , ayaṃ parammukhāvikappanā. Ettāvatā nidhetuṃ vaṭṭati, paribhogādīsu ekampi na vaṭṭati. Tena pana bhikkhunā dutiyasammukhāvikappanāyaṃ vuttanayeneva ‘‘itthannāmassa santakaṃ paribhuñja vā vissajjehi vā yathāpaccayaṃ karohī’’ti vutte paccuddhāro nāma hoti, tato pabhuti paribhogādayopi vaṭṭantīti. Pattavikappanāyampi eseva nayo. Iti imāsu dvīsu vikappanāsu yāya kāyaci vikappanāya pañcasu sahadhammikesu yassa kassaci cīvaraṃ vikappetvā vuttanayena akatappaccuddhāraṃ vā yena vinayakammaṃ kataṃ, tassa vā vissāsena aggahetvā paribhuñjantassa pācittiyaṃ.
Làm thế nào để có từ bỏ gián tiếp? Sau khi biết số lượng y là một hay nhiều, có mặt hay không có mặt, nói “y này” hoặc “những y này”, “y đó” hoặc “những y đó”, rồi nói “tôi cho ông để từ bỏ”. Người được cho phải hỏi “ai là bạn hoặc người quen của ông?”. Sau đó, người kia phải nói “Tỳ-khưu Tissa” v.v… cho đến… “Sa-di-ni Tissā” theo cách trước. Sau đó, Tỳ-khưu đó phải nói “tôi cho Tỳ-khưu Tissa” v.v… cho đến… “tôi cho Sa-di-ni Tissā”. Đây là từ bỏ gián tiếp. Như vậy là có thể cất giữ, nhưng không được làm bất cứ điều gì trong việc dùng v.v… Nhưng khi Tỳ-khưu đó nói “vật sở hữu của người tên này, hãy dùng, cho đi, hoặc làm tùy duyên” theo cách đã nói trong từ bỏ trực tiếp thứ hai, thì đó được gọi là sự thu hồi, từ đó trở đi, việc dùng v.v… cũng được phép. Đối với việc từ bỏ bát cũng theo cách này. Như vậy, trong hai loại từ bỏ này, khi từ bỏ y cho bất kỳ ai trong năm người đồng pháp bằng bất kỳ cách nào, nếu dùng mà chưa được thu hồi theo cách đã nói, hoặc không nhận với sự tin tưởng của người đã làm việc luật, thì bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ upanandaṃ ārabbha appaccuddhāraṇaṃ paribhuñjanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, taṃ pana adhiṭṭhahantassa vā vissajjentassa vā dukkaṭaṃ, tathā paccuddhāraṇe appaccuddhāraṇasaññissa vematikassa vā. Paccuddhāraṇasaññissa pana vissāsena paribhuñjantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Sāmaṃ vikappitassa appaccuddhāro, vikappanupagacīvaratā, paribhogoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamakathinasadisāneva, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Upananda, trong trường hợp dùng mà không thu hồi. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Nhưng khi quyết định hoặc cho đi, thì bị Tác Ác. Tương tự, đối với việc thu hồi mà có tưởng là chưa thu hồi hoặc nghi ngờ. Không có tội đối với người có tưởng là đã thu hồi; người dùng với sự tin tưởng; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: chưa thu hồi vật đã tự mình từ bỏ, là y có thể từ bỏ, và việc dùng. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) Kathina đầu tiên, nhưng điều này là hành động không hành động.

Vikappanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới từ bỏ đã chấm dứt.

10. Apanidhānasikkhāpadavaṇṇanā
10. Giải Thích Học Giới Giấu Đi

Dasame pattanti adhiṭṭhānupagaṃ. Cīvaranti vikappanupagaṃ. Nisīdanaṃ nāma sadasaṃ vuccati. Sūcigharaṃ nāma sasūcikaṃ vā asūcikaṃ vā. Kāyabandhanaṃ nāma paṭṭikā vā sūkarantakaṃ vā. Apanidheyyāti apanetvā nidaheyya. Hasāpekkhoti hasādhippāyo. Pācittiyanti sayaṃ apanidhentassa pācittiyaṃ, aññaṃ āṇāpentassa āṇattiyā dukkaṭaṃ, tena apanihite itarassa pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười, bát là vật có thể quyết định. Y là vật có thể từ bỏ. Ghế ngồi được gọi là có chân. Hộp kim là có kim hoặc không có kim. Dây thắt lưng là dây vải hoặc dây sūkarantaka. Giấu đi là lấy đi rồi giấu. Mong muốn trêu đùa là có ý định trêu đùa. Ưng Đối Trị có nghĩa là người tự giấu đi thì bị Ưng Đối Trị. Người sai bảo người khác, bị Tác Ác khi ra lệnh; khi người đó giấu đi, người kia bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha apanidhānavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, sāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampanne tikadukkaṭaṃ, vuttappakārāni pana pattādīni ṭhapetvā aññaṃ parikkhāraṃ upasampannassa vā anupasampannassa vā santakaṃ apanidhentassa dukkaṭameva. Dunnikkhittaṃ paṭisāmentassa, ‘‘dhammakathaṃ katvā dassāmī’’ti paṭisāmentassa, ummattakādīnañca anāpatti. Upasampannassa santakānaṃ pattādīnaṃ apanidhānaṃ, vihesetukāmatā vā hasādhippāyatā vāti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp giấu đi. Đây là điều chế định chung, có thể do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ cụ túc giới thì là ba tội Tác Ác. Nhưng khi giấu các vật dụng khác ngoài bát v.v… có loại đã nói, thuộc sở hữu của người đã thọ cụ túc giới hoặc người chưa thọ cụ túc giới, cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội khi cất giữ vật đặt không đúng chỗ; khi cất giữ với ý định “sau khi thuyết pháp, tôi sẽ trả”; và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: việc giấu bát v.v… thuộc sở hữu của người đã thọ cụ túc giới, và muốn gây phiền nhiễu hoặc có ý định trêu đùa. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp.

Apanidhānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới giấu đi đã chấm dứt.

Surāpānavaggo chaṭṭho.
Phẩm Uống Rượu là phẩm thứ sáu.

7. Sappāṇakavaggo
7. Phẩm Có Sinh Vật

1. Sañciccasikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải Thích Học Giới Cố Ý

Sappāṇakavaggassa paṭhame pāṇoti tiracchānagatapāṇo adhippeto. Taṃ khuddakampi mahantampi mārentassa pācittiyameva, mahante pana upakkamamahantatāya akusalaṃ mahantaṃ hoti.
Ở điều đầu tiên của phẩm Có Sinh Vật, sinh vật được hiểu là sinh vật thuộc loài thú vật. Khi giết nó, dù nhỏ hay lớn, cũng bị Ưng Đối Trị. Nhưng đối với sinh vật lớn, do sự cố gắng lớn, ác nghiệp cũng lớn.

Sāvatthiyaṃ udāyittheraṃ ārabbha pāṇaṃ jīvitā voropanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, sāṇattikaṃ, pāṇe vematikassa, apāṇe pāṇasaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ . Apāṇasaññissa, asañcicca, ajānantassa, namaraṇādhippāyassa, ummattakādīnañca anāpatti. Sesaṃ manussaviggahe vuttanayamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Trưởng lão Udāyi, trong trường hợp giết hại sinh vật. Đây là điều chế định chung, có thể do yêu cầu. Đối với sinh vật mà nghi ngờ; đối với không phải sinh vật mà có tưởng là sinh vật, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không phải sinh vật; người làm vô ý, không biết, không có ý định giết; và những người điên loạn v.v… Phần còn lại tương tự như cách đã nói trong trường hợp hình người.

Sañciccasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới cố ý đã chấm dứt.

2. Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giải Thích Học Giới Có Sinh Vật

Dutiye sappāṇakanti ye pāṇakā paribhogena maranti, tehi sappāṇakaṃ, tādisañhi jānaṃ paribhuñjantassa payoge payoge pācittiyaṃ.
Ở điều thứ hai, có sinh vật là có những sinh vật chết khi sử dụng. Khi biết như vậy mà dùng, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần thực hiện.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha jānaṃ sappāṇakaṃ udakaṃ paribhuñjanavatthusmiṃ paññattaṃ, sesamettha siñcanasikkhāpade vuttanayeneva veditabbanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp biết mà dùng nước có sinh vật. Phần còn lại ở đây nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới tưới nước.

Sappāṇakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới có sinh vật đã chấm dứt.

3. Ukkoṭanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Giải Thích Học Giới Lật Lại

Tatiye yathādhammanti yo yassa adhikaraṇassa vūpasamāya dhammo vutto, teneva dhammena. Nihatādhikaraṇanti nihataṃ adhikaraṇaṃ, samathakkhandhake (cūḷava. 185 ādayo) satthārā vuttadhammeneva vūpasamitanti attho, vūpasamananayaṃ panassa adhikaraṇasamathesu dassayissāma. Punakammāya ukkoṭeyyāti tassa tassa bhikkhuno santikaṃ gantvā ‘‘akataṃ kamma’’ntiādīni (pāci. 394) vadanto punakaraṇatthāya uccāleyya. Yathāṭhitabhāvena patiṭṭhātuṃ na dadeyya, tassevaṃ karontassa pācittiyaṃ. Yaṃ pana dhammena adhikaraṇaṃ nihataṃ , taṃ sunihatameva. Sace vippakate kamme paṭikkosati, taṃ saññāpetvā kātabbaṃ. Itarathā kammañca kuppati, kārakānañca āpatti.
Ở điều thứ ba, theo đúng pháp là bằng pháp nào đã được nói để dập tắt vụ tranh chấp nào, thì bằng pháp đó. Vụ tranh chấp đã được dập tắt là vụ tranh chấp đã được dập tắt. Có nghĩa là đã được dập tắt bằng pháp mà Đức Phật đã nói trong chương về các cách dập tắt (cūḷava. 185 trở đi). Cách dập tắt của nó, chúng ta sẽ chỉ ra trong các cách dập tắt vụ tranh chấp. Lật lại để làm lại là đi đến từng Tỳ-khưu rồi nói “việc làm chưa xong” v.v… (pāci. 394), khơi dậy để làm lại. Không để cho nó yên ổn như đã có. Khi làm như vậy, bị Ưng Đối Trị. Nhưng vụ tranh chấp đã được dập tắt đúng pháp, thì đã được dập tắt tốt. Nếu phản đối trong khi việc làm đang dang dở, phải làm cho người đó hiểu rồi mới làm. Nếu không, việc làm sẽ bị hỏng, và những người làm sẽ bị tội.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha ukkoṭanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, dhammakamme vematikassa, adhammakamme dhammakammasaññino, vematikassa vā dukkaṭaṃ. Ubhayesu adhammakammasaññissa, ‘‘adhammena vā vaggena vā akammārahassa vā kammaṃ kata’’nti jānantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Yathādhammaṃ nihatabhāvo, jānanā, ukkoṭanāti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp lật lại. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Đối với việc làm đúng pháp mà nghi ngờ; đối với việc làm không đúng pháp mà có tưởng là đúng pháp, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không đúng pháp ở cả hai trường hợp; người biết rằng “việc làm đã được thực hiện không đúng pháp, theo phe phái, hoặc cho người không đáng nhận”; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: đã được dập tắt theo đúng pháp, biết, và lật lại. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này có cảm thọ khổ.

Ukkoṭanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới lật lại đã chấm dứt.

4. Duṭṭhullasikkhāpadavaṇṇanā
4. Giải Thích Học Giới Tội Thô

Catutthe duṭṭhullanti saṅghādisesaṃ adhippetaṃ, taṃ yena kenaci upāyena ñatvā paṭicchādentassa pācittiyaṃ. Sacepi ‘‘na dāni naṃ kassaci bhikkhuno ārocessāmī’’ti dhuraṃ nikkhipitvā pacchā āroceti, pācittiyaṃ, āpajjitvāva ārocessati. Sace pana evaṃ dhuraṃ nikkhipitvā paṭicchādanatthameva aññassa āroceti, sopi aññassāti etenupāyena samaṇasatampi āpajjatiyeva tāva, yāva koṭi na chijjati. Kathaṃ pana koṭi chijjati? Sace hi āpanno ekassa āroceti, sopi aññassa āroceti, so nivattitvā yenassa ārocitaṃ, tasseva āroceti, evaṃ tatiyena puggalena dutiyassa ārocite koṭi chinnā hoti.
Ở điều thứ tư, tội thô được hiểu là tội Tăng Tàn. Khi biết bằng bất kỳ cách nào mà che giấu nó, thì bị Ưng Đối Trị. Dù sau khi đã từ bỏ trách nhiệm “bây giờ tôi sẽ không nói cho Tỳ-khưu nào biết nữa” rồi sau đó lại nói, cũng bị Ưng Đối Trị, phạm tội rồi sẽ nói. Nhưng nếu sau khi đã từ bỏ trách nhiệm như vậy mà lại nói cho người khác chỉ để che giấu, người đó cũng nói cho người khác, bằng cách này, dù có một trăm Sa-môn cũng vẫn phạm tội, chừng nào đầu mối chưa bị cắt đứt. Làm thế nào để đầu mối bị cắt đứt? Nếu người phạm tội nói cho một người, người đó cũng nói cho người khác, người đó quay lại nói cho chính người đã nói cho mình, như vậy, khi người thứ ba nói cho người thứ hai, đầu mối đã bị cắt đứt.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha duṭṭhullāpattipaṭicchādanavatthusmiṃ paññattaṃ, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, duṭṭhullāya āpattiyā ādipade pācittiyaṃ, itaresu dvīsu dukkaṭaṃ, aduṭṭhullāya tikadukkaṭaṃ, anupasampannassa duṭṭhulle vā aduṭṭhulle vā ajjhācāre dukkaṭameva. ‘‘Saṅghassa bhaṇḍanādīni bhavissantī’’ti (pāci. 401) vā ‘‘ayaṃ kakkhaḷo pharuso jīvitantarāyaṃ vā brahmacariyantarāyaṃ vā karissatī’’ti vā anārocentassa, patirūpaṃ bhikkhuṃ apassato , na chādetukāmassa, ‘‘paññāyissati sakena kammenā’’ti anārocentassa, ummattakādīnañca anāpatti. Upasampannassa duṭṭhullāpattijānanaṃ, ‘‘paṭicchādetukāmatāya nārocessāmī’’ti dhuranikkhepoti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni samanubhāsanasaasānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu nào đó, trong trường hợp che giấu tội thô. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu. Đối với tội thô, bị Ưng Đối Trị ở bước đầu, và bị Tác Ác ở hai bước sau. Đối với tội không thô, thì bị ba tội Tác Ác. Đối với tội thô hoặc không thô của người chưa thọ cụ túc giới, cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội khi không nói vì “Tăng chúng sẽ có sự cãi vã v.v…” (pāci. 401) hoặc “người này hung dữ, thô bạo, sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc phạm hạnh”; khi không thấy Tỳ-khưu thích hợp; khi không có ý định che giấu; khi không nói vì “người đó sẽ bị biết bởi nghiệp của mình”; và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: biết tội thô của người đã thọ cụ túc giới, và từ bỏ trách nhiệm “tôi sẽ không nói vì muốn che giấu”. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như việc khiển trách.

Duṭṭhullasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới tội thô đã chấm dứt.

5. Ūnavīsativassasikkhāpadavaṇṇanā
5. Giải Thích Học Giới Dưới Hai Mươi Tuổi

Pañcame ūnavīsativassanti paṭisandhiggahaṇato paṭṭhāya aparipuṇṇavīsativassaṃ. Upasampādeyyāti upajjhāyo hutvā upasampādeyya. So ca puggalo anupasampannoti jānantenāpi ajānantenāpi upasampādito anupasampannova. Sace pana so dasavassaccayena aññaṃ upasampādeti, tañce muñcitvā gaṇo pūrati, sūpasampanno. Sopi yāva na jānāti, tāva tassa neva saggantarāyo na mokkhantarāyo, ñatvā pana puna upasampajjitabbaṃ. Te ca bhikkhū gārayhāti ṭhapetvā upajjhāyaṃ avasesā gārayhā honti, sabbe dukkaṭaṃ āpajjanti. Idaṃ tasmiṃ pācittiyanti yo pana upajjhāyo hutvā upasampādeti, tasmiṃyeva puggale idaṃ pācittiyaṃ veditabbaṃ. Tasmā yo ‘‘evaṃ upasampādessāmī’’ti gaṇaṃ vā ācariyaṃ vā pattaṃ vā cīvaraṃ vā pariyesati, sīmaṃ vā sammannati (pāci. 404), udakukkhepaṃ vā paricchindati, so etesu sabbakiccesu ñattiyā, dvīsu ca kammavācāsu dukkaṭāni āpajjitvā kammavācāpariyosāne pācittiyaṃ āpajjati.
Ở điều thứ năm, dưới hai mươi tuổi là chưa đủ hai mươi tuổi tính từ lúc thọ thai. Truyền cụ túc giới là làm thầy tế độ để truyền cụ túc giới. Và người đó là người chưa thọ cụ túc giới là dù người truyền giới biết hay không biết, người được truyền vẫn là người chưa thọ cụ túc giới. Nhưng nếu sau mười năm, người đó truyền cụ túc giới cho người khác, nếu trừ người đó ra mà túc số vẫn đủ, thì đã thọ cụ túc giới tốt đẹp. Người đó cũng vậy, chừng nào chưa biết, thì không bị cản trở đường lên trời, không bị cản trở đường giải thoát. Nhưng sau khi biết, phải thọ cụ túc giới lại. Và những Tỳ-khưu đó đáng bị khiển trách là trừ thầy tế độ ra, những người còn lại đáng bị khiển trách, tất cả đều bị Tác Ác. Đây là tội Ưng Đối Trị trong trường hợp đó là đối với người làm thầy tế độ để truyền cụ túc giới, tội Ưng Đối Trị này nên được hiểu là chỉ đối với người đó. Do đó, người nào tìm kiếm túc số, thầy giáo thọ, bát, hoặc y, hoặc xác định ranh giới (pāci. 404), hoặc đo mực nước, với ý định “tôi sẽ truyền cụ túc giới như vậy”, người đó trong tất cả các việc này, bị Tác Ác ở phần tuyên bố và hai lần đọc nghiệp, và bị Ưng Đối Trị khi kết thúc việc đọc nghiệp.

Rājagahe sambahule bhikkhū ārabbha ūnavīsativassaṃ upasampādanavatthusmiṃ paññattaṃ, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, ūnavīsativasse vematikassa, paripuṇṇavīsativasse ūnakasaññino, vematikassa ca dukkaṭaṃ. Ubhayattha paripuṇṇasaññissa, ummattakādīnañca anāpatti. Ūnavīsativassatā, ūnakasaññitā, upasampādananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana paṇṇattivajjaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Rājagaha, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu, trong trường hợp truyền cụ túc giới cho người dưới hai mươi tuổi. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu. Đối với người dưới hai mươi tuổi mà nghi ngờ; đối với người đủ hai mươi tuổi mà có tưởng là dưới, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là đủ ở cả hai trường hợp; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là người dưới hai mươi tuổi, có tưởng là dưới, và việc truyền cụ túc giới. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này là tội chế định, có ba loại tâm, và ba loại cảm thọ.

Ūnavīsativassasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới dưới hai mươi tuổi đã chấm dứt.

6. Theyyasatthasikkhāpadavaṇṇanā
6. Giải Thích Học Giới Đoàn Lữ Hành Trộm Cắp

Chaṭṭhe ye rājānaṃ vā vañcetvā suṅkaṃ vā pariharitukāmā corā katakammā ceva akatakammā ca maggappaṭipannā, tesu idha theyyasatthasaññino tassa theyyasatthabhāvaṃ ñatvā tena saddhiṃ saṃvidhāya gacchantassa saṃvidhāne ca gamane ca ovādavagge vuttanayena āpattivinicchayo veditabbo.
Ở điều thứ sáu, những tên trộm đã đi trên đường, dù đã gây án hay chưa, muốn lừa dối vua hoặc trốn thuế, ở đây, khi biết người đó là đoàn lữ hành trộm cắp và hẹn ước đi cùng người đó, quyết định về tội trong việc hẹn ước và đi lại nên được hiểu theo cách đã nói trong phẩm Giáo Giới.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha theyyasatthena saddhiṃ saṃvidhāya ekaddhānamaggaṃ paṭipajjanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, manussesu asaṃvidahantesu sayameva saṃvidahitvā gacchantassa, theyyasatthe vematikassa, atheyyasatthe theyyasatthasaññino, vematikassa ca dukkaṭaṃ. Atheyyasatthasaññissa, asaṃvidahitvā vā kālavisaṅketena vā, āpadāsu vā, gacchantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Theyyasatthabhāvo, jānanaṃ, saṃvidhānaṃ, avisaṅketena gamananti imānettha cattāri aṅgāni. Theyyasatthasamuṭṭhānaṃ, kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu nào đó, trong trường hợp hẹn ước đi cùng đoàn lữ hành trộm cắp trên cùng một con đường dài. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Khi tự mình hẹn ước đi cùng những người không hẹn ước; khi nghi ngờ về đoàn lữ hành trộm cắp; đối với không phải đoàn lữ hành trộm cắp mà có tưởng là đoàn lữ hành trộm cắp, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không phải đoàn lữ hành trộm cắp; người đi mà không hẹn ước hoặc sai thỏa thuận về thời gian, hoặc đi trong các tai nạn; và những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: là đoàn lữ hành trộm cắp, biết, hẹn ước, và đi mà không sai thỏa thuận. Pháp sanh khởi của đoàn lữ hành trộm cắp là do hành động, có sự giải thoát qua tưởng, có tâm, là tội chế định, là nghiệp của thân, nghiệp của lời nói, có ba loại tâm, và ba loại cảm thọ.

Theyyasatthasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới đoàn lữ hành trộm cắp đã chấm dứt.

7. Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā
7. Giải Thích Học Giới Hẹn Ước

Sattame sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha mātugāmena saddhiṃ ekaddhānamaggaṃ paṭipajjanavatthusmiṃ paññattaṃ, sesamettha bhikkhuniyā saddhiṃ saṃvidhānasikkhāpade vuttanayeneva veditabbanti.
Ở điều thứ bảy, (học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu nào đó, trong trường hợp đi cùng người nữ trên cùng một con đường dài. Phần còn lại ở đây nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới hẹn ước cùng Tỳ-khưu-ni.

Saṃvidhānasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới hẹn ước đã chấm dứt.

8. Ariṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā
8. Giải Thích Học Giới Ariṭṭha

Aṭṭhame saggamokkhānaṃ antarāyaṃ karontīti antarāyikā, te kammakilesavipākaupavādapaññattivītikkamanavasena pañcavidhā. Tesu mudukānaṃ attharaṇādīnaṃ phasso viya itthisamphassopi vaṭṭatīti methunavītikkamane dosaṃ adisvā paññattivītikkamantarāyike sandhāya ‘‘yeme antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā, te paṭisevato nālaṃ antarāyāyā’’ti vuttaṃ. Anekapariyāyenāti ‘‘aṭṭhikaṅkalūpamā kāmā’’tiādīhi (ma. ni. 2.42; pāci. 417; cūḷani. khaggavisāṇasuttaniddesa 147) nekehi kāraṇehi. So bhikkhu bhikkhūhīti ye passanti vā suṇanti vā, tehi tikkhattuṃ evaṃ vattabbo ‘‘mā āyasmā evaṃ avaca…pe… alañca pana te paṭisevato antarāyāyā’’ti. Evaṃ vutte appaṭinissajjantassa dukkaṭaṃ, sutvā avadantānampi dukkaṭaṃ. Puna saṅghamajjhampi ākaḍḍhitvā tatheva vattabbo, tatrāpi tassa appaṭinissajjane, itaresañca avacane dukkaṭameva. Evampi appaṭinissajjanto puna ñatticatutthena kammena yāvatatiyaṃ samanubhāsitabbo, athassa appaṭinissajjato puna ñattiyā ca dvīhi ca kammavācāhi dukkaṭaṃ, kammavācāpariyosāne pācittiyaṃ.
Ở điều thứ tám, những pháp gây trở ngại cho việc lên trời và giải thoát được gọi là pháp gây trở ngại. Chúng có năm loại: do nghiệp, do phiền não, do quả báo, do chê bai, và do vi phạm chế định. Trong số đó, giống như sự tiếp xúc với các vật lót mềm mại v.v… được phép, sự tiếp xúc với người nữ cũng được phép; khi không thấy có lỗi trong việc vi phạm giới về sự giao hợp, và nhằm đến pháp gây trở ngại do vi phạm chế định, đã nói “những pháp gây trở ngại mà Đức Phật đã nói, khi thực hành chúng, không đủ để gây trở ngại”. Bằng nhiều cách là bằng nhiều lý do như “dục lạc giống như bộ xương” v.v… (ma. ni. 2.42; pāci. 417; cūḷani. khaggavisāṇasuttaniddesa 147). Tỳ-khưu đó bởi các Tỳ-khưu là những người thấy hoặc nghe, phải nói ba lần như vậy “Thưa ngài, đừng nói như vậy… cho đến… và khi ngài thực hành chúng, chúng đủ để gây trở ngại cho ngài”. Khi được nói như vậy mà không từ bỏ, thì bị Tác Ác. Những người nghe mà không nói cũng bị Tác Ác. Phải kéo đến giữa Tăng chúng rồi nói như vậy. Ở đó cũng vậy, nếu người đó không từ bỏ, và những người khác không nói, cũng chỉ bị Tác Ác. Dù vậy mà vẫn không từ bỏ, phải được khiển trách đến lần thứ ba bằng nghiệp bạch tứ yết-ma. Sau đó, nếu không từ bỏ, thì bị Tác Ác ở phần tuyên bố và hai lần đọc nghiệp; khi kết thúc việc đọc nghiệp, thì bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ ariṭṭhaṃ ārabbha pāpikāya diṭṭhiyā appaṭinissajjanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, adhammakamme tikadukkaṭaṃ. Asamanubhāsiyamānassa , paṭinissajjantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Dhammakammatā, samanubhāsanā, appaṭinissajjananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni samanubhāsanasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Ariṭṭha, trong trường hợp không từ bỏ tà kiến. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với việc làm không đúng pháp thì là ba tội Tác Ác. Không có tội khi không bị khiển trách; khi từ bỏ; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là việc làm đúng pháp, sự khiển trách, và không từ bỏ. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như việc khiển trách.

Ariṭṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới Ariṭṭha đã chấm dứt.

9. Ukkhittasambhogasikkhāpadavaṇṇanā
9. Giải Thích Học Giới Chung Sống Với Người Bị Trục Xuất

Navame tathāvādināti ‘‘tathāhaṃ bhagavatā dhamma’’ntiādivādinā. Akatānudhammenāti anudhammo vuccati āpattiyā adassane vā appaṭikamme vā pāpikāya diṭṭhiyā appaṭinissagge vā dhammena vinayena ukkhittakassa anulomavattaṃ disvā kataosāraṇā, so osāraṇasaṅkhāto anudhammo yassa na kato, ayaṃ akatānudhammo nāma, tādisena saddhinti attho. Sambhuñjeyya vāti āmisasambhogaṃ vā dhammasambhogaṃ vā kareyya. Saṃvaseyya vāti uposathādikaṃ saṅghakammaṃ kareyya . Saha vā seyyaṃ kappeyyāti nānūpacārepi ekacchanne nipajjeyya. Tattha āmisaparibhoge ekappayogena bahūpi dadato vā gaṇhato vā ekaṃ pācittiyaṃ, vicchindane sati payoge payoge pācittiyaṃ. Dhammasambhoge padādīhi uddisantassa vā uddisāpentassa vā padasodhamme vuttanayena, saṃvāse kammapariyosānavasena, sahaseyyāya ekasmiṃ nipanne itarassa nipajjanappayogavasena āpattiparicchedo veditabbo.
Ở điều thứ chín, với người nói như vậy là với người nói “tôi cũng vậy, theo pháp của Đức Phật”. Người chưa được làm theo pháp là pháp phụ được gọi là sự phục hồi được thực hiện sau khi đã thấy sự tuân theo của người bị trục xuất đúng pháp, đúng luật, vì không thấy tội, không sám hối, hoặc không từ bỏ tà kiến. Người nào chưa được làm pháp phụ được gọi là sự phục hồi đó, người đó được gọi là người chưa được làm theo pháp; ý nghĩa là cùng với người như vậy. Chung sống về vật thực là thực hiện việc chung sống về vật thực hoặc chung sống về pháp. Chung sống là thực hiện Tăng sự như lễ Bố-tát v.v… Hoặc ngủ chung là nằm chung dưới một mái che dù không cùng khu vực phụ cận. Ở đó, trong việc dùng vật thực, khi cho hoặc nhận nhiều người bằng một hành động duy nhất, thì bị một tội Ưng Đối Trị; khi ngắt quãng, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lần thực hiện. Trong việc chung sống về pháp, khi đọc hoặc sai bảo đọc từng câu, vần, thì việc phân định tội nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới dạy pháp từng câu; trong việc chung sống, thì theo sự kết thúc của nghiệp; trong việc ngủ chung, thì theo hành động nằm xuống của người kia khi một người đã nằm.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha ariṭṭhena bhikkhunā saddhiṃ sambhuñjanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, ukkhittake vematikassa, anukkhittake ukkhittakasaññino ceva vematikassa ca dukkaṭaṃ. Ubhosu anukkhittakasaññissa, ‘‘osārito’’ti vā ‘‘taṃ diṭṭhiṃ paṭinissaṭṭho’’ti vā jānantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Akatānudhammatā, jānanā, sambhogādikaraṇanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana paṇṇattivajjaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp chung sống với Tỳ-khưu Ariṭṭha. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Đối với người bị trục xuất mà nghi ngờ; đối với người không bị trục xuất mà có tưởng là bị trục xuất hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không bị trục xuất ở cả hai trường hợp; người biết rằng “đã được phục hồi” hoặc “đã từ bỏ tà kiến đó”; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: chưa được làm theo pháp, biết, và thực hiện việc chung sống v.v… Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này là tội chế định, có ba loại tâm, và ba loại cảm thọ.

Ukkhittasambhogasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới chung sống với người bị trục xuất đã chấm dứt.

10. Kaṇṭakasikkhāpadavaṇṇanā
10. Giải Thích Học Giới Kaṇṭaka

Dasame samaṇuddesoti sāmaṇero. Carāti gaccha. Pireti para amāmaka. Vinassāti nassa , yattha taṃ na passāma, tattha gacchāti vuttaṃ hoti. Tathānāsitantiettha saṃvāsanāsanā liṅganāsanā daṇḍakammanāsanāti tisso nāsanā. Tattha āpattiyā adassanādīsu ukkhepanā saṃvāsanāsanā nāma. Dūsako nāsetabbo (pārā. 66), mettiyaṃ bhikkhuniṃ nāsethāti (cūḷava. 193; pārā. 384) ayaṃ liṅganāsanā nāma. ‘‘Ajjatagge te, āvuso samaṇuddesa, na ceva so bhagavā satthā apadisitabbo’’ti (pāci. 429) ayaṃ daṇḍakammanāsanā nāma, ayaṃ idhādhippetā. Tena vuttaṃ ‘‘tathānāsita’’nti. Upalāpeyyāti ‘‘pattaṃ vā cīvaraṃ vā uddesaṃ vā paripucchaṃ vā dassāmī’’ti saṅgaṇheyya. Upaṭṭhāpeyyāti cuṇṇamattikādīni sādiyanto tena attano upaṭṭhānaṃ kārāpeyya. Sambhogasahaseyyā anantarasikkhāpade vuttanayā eva, tasmā āpattiparicchedopettha tasmiṃ vuttanayeneva veditabbo.
Ở điều thứ mười, Sa-môn đệ tử là Sa-di. Đi đi là hãy đi. Cút đi là hãy đi đi, không phải của ta. Biến đi là hãy biến đi, có nghĩa là đã nói “hãy đi đến nơi mà ta không thấy ngươi”. Bị đuổi như vậy ở đây có ba loại đuổi: đuổi khỏi sự chung sống, đuổi khỏi giới tính, và đuổi bằng hình phạt. Ở đó, việc trục xuất vì không thấy tội v.v… được gọi là đuổi khỏi sự chung sống. “Kẻ phá hoại phải bị đuổi đi” (pārā. 66), “hãy đuổi Tỳ-khưu-ni Mettiya đi” (cūḷava. 193; pārā. 384) đây được gọi là đuổi khỏi giới tính. “Từ hôm nay, thưa hiền giả Sa-môn đệ tử, ông không được gọi Đức Phật đó là thầy nữa” (pāci. 429) đây được gọi là đuổi bằng hình phạt, đây là điều được đề cập ở đây. Do đó đã nói “bị đuổi như vậy”. Dụ dỗ là lôi kéo bằng cách nói “tôi sẽ cho bát, y, bài học, hoặc câu hỏi”. Hầu hạ là sai người đó hầu hạ mình bằng cách chấp nhận bột, đất sét v.v… Việc chung sống và ngủ chung thì tương tự như cách đã nói trong học giới ngay trước đó, do đó việc phân định tội ở đây cũng nên được hiểu theo cách đã nói ở đó.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye bhikkhū ārabbha kaṇṭakasamaṇuddesaupalāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, sesaṃ ariṭṭhasikkhāpade vuttasadisamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp dụ dỗ Sa-di Kaṇṭaka. Phần còn lại tương tự như đã nói trong học giới Ariṭṭha.

Kaṇṭakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới Kaṇṭaka đã chấm dứt.

Sappāṇakavaggo sattamo.
Phẩm Có Sinh Vật là phẩm thứ bảy.

8. Sahadhammikavaggo
8. Phẩm Đồng Pháp

1. Sahadhammikasikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải Thích Học Giới Đồng Pháp

Sahadhammikavaggassa paṭhame sahadhammikaṃ vuccamānoti imassattho dubbacasikkhāpade vutto. Etasmiṃ sikkhāpadeti etasmiṃ sikkhāpade yaṃ vuttaṃ, taṃ na tāva sikkhissāmīti attho. Pācittiyanti ettha pana anādariyabhayā lesena evaṃ vadantassa vācāya vācāya pācittiyaṃ veditabbaṃ. Sikkhamānenāti ovādaṃ sirasā sampaṭicchitvā sikkhitukāmeneva hutvā. Aññātabbanti ājānitabbaṃ. Paripucchitabbanti ‘‘imassa ko attho’’ti paripucchitabbaṃ. Paripañhitabbanti cintetabbaṃ tulayitabbaṃ.
Ở điều đầu tiên của phẩm Đồng Pháp, ý nghĩa của câu khi được người đồng pháp nói đã được giải thích trong học giới khó dạy. Trong học giới này có nghĩa là tôi sẽ chưa học điều đã được nói trong học giới này. Ưng Đối Trị ở đây, nên biết rằng khi nói như vậy một cách qua loa vì sợ bị không tôn trọng, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lời nói. Bởi người đang học là phải có tâm muốn học, tiếp nhận lời giáo huấn bằng cả tấm lòng. Phải được biết là phải nhận biết. Phải được hỏi là phải hỏi “điều này có ý nghĩa gì?”. Phải được suy xét là phải suy nghĩ, cân nhắc.

Kosambiyaṃ channattheraṃ ārabbha evaṃ bhaṇanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ , tikapācittiyaṃ, anupasampanne tikadukkaṭaṃ, ubhohipi ‘‘idaṃ na sallekhāyā’’tiādinā (pāci. 436) nayeneva appaññattena vuccamānassāpi evaṃ vadato dukkaṭameva. ‘‘Jānissāmi sikkhissāmī’’ti bhaṇantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Upasampannassa paññattena vacanaṃ, asikkhitukāmatāya evaṃ vacananti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Kosambī, liên quan đến Trưởng lão Channa, trong trường hợp nói như vậy. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ cụ túc giới thì là ba tội Tác Ác. Khi cả hai được nói bằng điều chưa được chế định theo cách “điều này không dẫn đến sự thanh tịnh” v.v… (pāci. 436), nếu nói như vậy cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội đối với người nói “tôi sẽ biết, tôi sẽ học”; và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: lời nói đã được chế định của người đã thọ cụ túc giới, và nói như vậy vì không muốn học. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này có cảm thọ khổ.

Sahadhammikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới đồng pháp đã chấm dứt.

2. Vilekhanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giải Thích Học Giới Gây Hoang Mang

Dutiye uddissamāneti ācariyena antevāsikassa vuccamāne vā sajjhāyavasena parivattiyamāne vā. Khuddānukhuddakehīti khuddakehi ca anukhuddakehi ca. Yāvadevāti tesaṃ saṃvattanamariyādaparicchedavacanaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – etāni hi ye uddisanti vā uddisāpenti vā sajjhāyanti vā, tesaṃ tāva saṃvattanti, yāva ‘‘kappati nu kho, na kappati nu kho’’ti kukkuccavippaṭisāro, vihesā, vicikicchā manovilekhā ca uppajjantiyeva. Atha vā yāvadevāti atisayavavatthāpanaṃ. Tassa ‘saṃvattantī’tiiminā sambandho, kukkuccāya vihesāya vilekhāya ativiya saṃvattantiyevāti vuttaṃ hoti. Sikkhāpadavivaṇṇaketi evaṃ sikkhāpadānaṃ vivaṇṇake garahaṇe pācittiyaṃ hotīti attho.
Ở điều thứ hai, khi đang được đọc là khi thầy đang nói cho đệ tử hoặc khi đang tụng lại. Bởi những điều nhỏ nhặt là bởi những điều nhỏ và những điều rất nhỏ. Cho đến khi là lời nói giới hạn mức độ tác động của chúng. Điều này có nghĩa là: những điều này, đối với những người đọc, sai bảo đọc, hoặc tụng, chúng tác động cho đến khi sự áy náy, hối hận “có hợp lệ không, hay không hợp lệ”, sự phiền não, sự nghi ngờ, và sự hoang mang trong tâm trí phát sinh. Hoặc cho đến khi là sự xác định mức độ cao nhất. Nó có liên quan đến câu ‘chúng tác động’, có nghĩa là chúng tác động rất mạnh đến sự áy náy, phiền não, và hoang mang. Trong việc chê bai học giới có nghĩa là bị Ưng Đối Trị trong việc chê bai, chỉ trích các học giới như vậy.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha vinayavivaṇṇanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampannassa vivaṇṇane tikadukkaṭaṃ, ubhinnampi aññadhammavivaṇṇane dukkaṭameva. Na vivaṇṇetukāmassa, ‘‘iṅgha tāva suttante vā gāthāyo vā abhidhammaṃ vā pariyāpuṇassu, pacchāpi vinayaṃ pariyāpuṇissasī’’ti bhaṇato, ummattakādīnañca anāpatti. Garahitukāmatā ca, upasampannassa santike sikkhāpadavivaṇṇanañcāti imānettha dve aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp chê bai luật. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Khi chê bai người chưa thọ cụ túc giới thì là ba tội Tác Ác. Khi chê bai pháp khác của cả hai cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội đối với người không có ý định chê bai; người nói “trước hết hãy học kinh, kệ, hoặc Vi Diệu Pháp, sau này cũng có thể học luật”; và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: có ý định chỉ trích, và chê bai học giới trước mặt người đã thọ cụ túc giới. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này có cảm thọ khổ.

Vilekhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới gây hoang mang đã chấm dứt.

3. Mohanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Giải Thích Học Giới Gây Mê Hoặc

Tatiye anvaḍḍhamāsanti anupaṭipāṭiyā addhamāse addhamāse. Uddissamāneti uposathavasena uddisiyamāne. Yañca tattha āpattiṃ āpannoti yaṃ so anācāraṃ ācaritvā aññāṇakena āpannabhāvaṃ jānāpetukāmo evamāha, tasmiṃ anācāre yaṃ āpattiṃ āpanno. Tañca yathādhammo kāretabboti aññāṇakena āpannattā mokkho natthi, yathā pana dhammo ca vinayo ca ṭhito, tathā taṃ āpattiṃ kāretabbo, desanāgāminiyā desāpetabbo, vuṭṭhānagāminiyā vuṭṭhāpetabboti attho. Uttari cassa moho āropetabboti yathādhammakaraṇato ca uttari ‘‘tassa te, āvuso’’tiādivacanehi ninditvā tassa puggalassa ñattidutiyakammena moho āropetabbo. Idaṃ tasmiṃ mohanake pācittiyanti yo evaṃ āropite mohe puna moheti, tasmiṃ mohanake puggale idaṃ pācittiyaṃ veditabbaṃ, na anāropite moheti attho.
Ở điều thứ ba, mỗi nửa tháng là theo thứ tự mỗi nửa tháng. Khi đang được đọc là khi đang được đọc trong lễ Bố-tát. Và tội nào đã phạm ở đó là tội nào đã phạm trong hành vi xấu đó, mà người đó muốn làm cho biết rằng mình đã phạm do không biết. Và người đó phải được xử lý theo đúng pháp có nghĩa là không có sự giải thoát do đã phạm vì không biết, nhưng phải được xử lý tội đó theo đúng pháp và luật, tội cần phải sám hối thì phải cho sám hối, tội cần phải phục hồi thì phải cho phục hồi. Và sự mê hoặc phải được áp đặt thêm có nghĩa là ngoài việc xử lý theo đúng pháp, phải áp đặt sự mê hoặc cho người đó bằng nghiệp bạch nhị yết-ma, bằng cách khiển trách bằng những lời như “thưa hiền giả, của ngài” v.v… Đây là tội Ưng Đối Trị trong việc gây mê hoặc đó có nghĩa là người nào sau khi đã bị áp đặt sự mê hoặc mà lại gây mê hoặc nữa, tội Ưng Đối Trị này nên được hiểu là đối với người gây mê hoặc đó, chứ không phải là gây mê hoặc khi chưa bị áp đặt.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha mohanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, adhammakamme tikadukkaṭaṃ, anāropite mohe dukkaṭameva. Yena na vitthārena sutaṃ, ūnakadvattikkhattuṃ vā vitthārena sutaṃ, ye ca na mohetukāmā tesaṃ, ummattakādīnañca anāpatti. Mohāropanaṃ, mohetukāmatā, vuttanayena sutabhāvo, mohananti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp gây mê hoặc. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với việc làm không đúng pháp thì là ba tội Tác Ác. Khi chưa bị áp đặt sự mê hoặc thì chỉ bị Tác Ác. Không có tội đối với người chưa nghe chi tiết, hoặc đã nghe chi tiết dưới hai ba lần; những người không có ý định gây mê hoặc; và những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: việc áp đặt sự mê hoặc, có ý định gây mê hoặc, đã nghe theo cách đã nói, và gây mê hoặc. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này có cảm thọ khổ.

Mohanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới gây mê hoặc đã chấm dứt.

4. Pahārasikkhāpadavaṇṇanā
4. Giải Thích Học Giới Đánh

Catutthe pahāraṃ dadeyyāti ettha paharitukāmatāya pahāre dinne sacepi marati, pācittiyameva.
Ở điều thứ tư, đánh một cái ở đây, nếu đánh với ý định đánh, dù người kia có chết, cũng chỉ bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha pahāradānavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampanne tikadukkaṭaṃ, virūpakaraṇādhippāyena pana upasampannassapi kaṇṇādicchedane dukkaṭameva. Kenaci viheṭhiyamānassa pana mokkhādhippāyassa, ummattakādīnañca anāpatti. Kupitatā, na mokkhādhippāyatā, upasampannassa pahāradānanti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp đánh. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ cụ túc giới thì là ba tội Tác Ác. Nhưng với ý định làm biến dạng, dù đối với người đã thọ cụ túc giới, việc cắt tai v.v… cũng chỉ bị Tác Ác. Không có tội đối với người có ý định giải thoát khi bị ai đó làm phiền; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: tức giận, không có ý định giải thoát, và đánh người đã thọ cụ túc giới. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều Bất Cộng Trụ thứ nhất, nhưng điều này có cảm thọ khổ.

Pahārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới đánh đã chấm dứt.

5. Talasattikasikkhāpadavaṇṇanā
5. Giải Thích Học Giới Giơ Tay

Pañcame talasattikaṃ uggireyyāti pahāradānākāraṃ dassento kāyaṃ vā kāyappaṭibaddhaṃ vā uccāreyya. Ettha ca uggiraṇapaccayā pācittiyaṃ. Sace pana uggiritvā viraddho pahāraṃ deti, na paharitukāmatāya dinnattā dukkaṭameva, tena pahārena hatthādīsu yaṃkiñci bhijjati, dukkaṭameva. Sesamettha sabbaṃ purimasikkhāpade vuttanayeneva veditabbanti.
Ở điều thứ năm, giơ tay là giơ thân hoặc vật dính liền với thân lên, thể hiện hành động muốn đánh. Ở đây, bị Ưng Đối Trị do việc giơ lên. Nhưng nếu sau khi giơ lên mà đánh hụt, thì chỉ bị Tác Ác vì đã đánh mà không có ý định đánh. Nếu cú đánh đó làm vỡ tay v.v…, cũng chỉ bị Tác Ác. Phần còn lại ở đây nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới trước.

Talasattikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới giơ tay đã chấm dứt.

6. Amūlakasikkhāpadavaṇṇanā
6. Giải Thích Học Giới Vô Căn Cứ

Chaṭṭhe amūlakenāti diṭṭhādimūlavirahitena. Anuddhaṃseyyāti codeyya vā codāpeyya vā. Pācittiyanti sace cuditako taṅkhaṇaññeva ‘‘codeti ma’’nti jānāti, codakassa pācittiyaṃ.
Ở điều thứ sáu, bằng điều vô căn cứ là không có căn cứ như đã thấy v.v… Vu khống là tố cáo hoặc sai bảo tố cáo. Ưng Đối Trị có nghĩa là nếu người bị tố cáo biết ngay lúc đó rằng “người đó đang tố cáo mình”, thì người tố cáo bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha amūlakena saṅghādisesena anuddhaṃsanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, sāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, ācāravipattiyā vā diṭṭhivipattiyā vā anuddhaṃsane dukkaṭaṃ, anupasampanne tikadukkaṭaṃ. Tathāsaññissa, ummattakādīnañca anāpatti. Upasampannatā, saṅghādisesassa amūlakatā, anuddhaṃsanā, taṅkhaṇavijānanāti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp vu khống bằng tội Tăng Tàn vô căn cứ. Đây là điều chế định chung, có thể do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Khi vu khống về sự sai trái trong hành vi hoặc sự sai trái trong kiến giải, thì bị Tác Ác. Đối với người chưa thọ cụ túc giới thì là ba tội Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng đúng; và những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: là người đã thọ cụ túc giới, tội Tăng Tàn là vô căn cứ, việc vu khống, và biết được ngay lúc đó. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này có cảm thọ khổ.

Amūlakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới vô căn cứ đã chấm dứt.

7. Sañciccasikkhāpadavaṇṇanā
7. Giải Thích Học Giới Cố Ý

Sattame kukkuccaṃ upadaheyyāti ‘‘ūnavīsativasso tvaṃ maññe’’tiādīni (pāci. 466) bhaṇanto uppādeyya. Evaṃ aññasmiṃ uppādanapaccaye asati sañcicca uppādentassa vācāya vācāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ bảy, gây ra sự áy náy là gây ra bằng cách nói “tôi nghĩ ông chưa đủ hai mươi tuổi” v.v… (pāci. 466). Khi không có nguyên nhân gây ra khác như vậy, nếu cố ý gây ra, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lời nói.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha kukkuccauppādanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampanne tikadukkaṭaṃ. Nauppādetukāmassa, kevalaṃ hitesitāya tathā vadantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Upasampannatā, aphāsukāmatā , kukkuccuppādananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni anantarasadisānevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp gây ra sự áy náy. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ cụ túc giới thì là ba tội Tác Ác. Không có tội đối với người không có ý định gây ra; người nói như vậy chỉ vì muốn tốt; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là người đã thọ cụ túc giới, có ý muốn làm cho không thoải mái, và gây ra sự áy náy. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều ngay trước đó.

Sañciccasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới cố ý đã chấm dứt.

8. Upassutisikkhāpadavaṇṇanā
8. Giải Thích Học Giới Nghe Lén

Aṭṭhame vivādāpannānanti bhaṇḍanakalahehi vivaḍḍhitaṃ vivādādhikaraṇaṃ āpannānaṃ. Upassutinti sutisamīpaṃ, yattha ṭhatvā sakkā hoti tesaṃ vacanaṃ sotuṃ, tattha tiṭṭheyyāti attho. ‘‘Tattha sossāmī’’ti codetukāmatāya gacchato pade pade dukkaṭaṃ, turitagamanepi ohīyamānepi eseva nayo. Yattha pana ṭhito suṇāti, tattha ṭhitassa pācittiyaṃ, attano ṭhitokāsaṃ āgantvā tesu mantayamānesupi ukkāsitvā, ‘‘ahaṃ etthā’’ti vā vatvā jānāpetabbaṃ, evaṃ akarontassāpi savane pācittiyameva.
Ở điều thứ tám, của những người đang tranh cãi là của những người đã rơi vào vụ tranh chấp được gia tăng bởi sự cãi vã, xung đột. Nghe lén là gần nơi nghe, có nghĩa là phải đứng ở nơi có thể nghe được lời nói của họ. Khi đi với ý định tố cáo “tôi sẽ nghe ở đó”, thì bị Tác Ác theo mỗi bước chân; dù đi nhanh hay chậm cũng theo cách này. Nhưng khi đứng nghe ở nơi nào, thì bị Ưng Đối Trị khi đứng ở đó. Dù họ đang bàn bạc khi đến nơi mình đứng, cũng phải làm cho họ biết bằng cách hắng giọng hoặc nói “tôi ở đây”. Nếu không làm như vậy mà nghe, cũng bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha upassutiṭṭhānavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, anupasampanne tikadukkaṭaṃ, ‘‘imesaṃ sutvā oramissāmi viramissāmi vūpasamissāmi attānaṃ parimocessāmī’’ti (pāci. 473) gacchato, ummattakādīnañca anāpatti. Upasampannatā, codanādhippāyo, savananti imānettha tīṇi aṅgāni. Theyyasatthasamuṭṭhānaṃ idaṃ pana siyā kiriyaṃ, siyā akiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp đứng nghe lén. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với người chưa thọ cụ túc giới thì là ba tội Tác Ác. Không có tội đối với người đi với ý định “sau khi nghe những người này, tôi sẽ dừng lại, chấm dứt, dập tắt, và giải thoát bản thân” (pāci. 473); và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là người đã thọ cụ túc giới, có ý định tố cáo, và nghe. Pháp sanh khởi của đoàn lữ hành trộm cắp này có khi là hành động, có khi không phải là hành động, có sự giải thoát qua tưởng, có tâm, là tội thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời nói, là tâm bất thiện, và có cảm thọ khổ.

Upassutisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới nghe lén đã chấm dứt.

9. Kammappaṭibāhanasikkhāpadavaṇṇanā
9. Giải Thích Học Giới Phản Đối Tăng Sự

Navame dhammikānaṃ kammānanti dhammena vinayena satthusāsanena katānaṃ apalokanakammaṃ ñattikammaṃ ñattidutiyakammaṃ ñatticatutthakammanti imesaṃ catunnaṃ kammānaṃ. Tatrāyaṃ saṅkhepato kammavinicchayo – tatra apalokanakammaṃ nāma samaggassa saṅghassa anumatiyā taṃ taṃ vatthuṃ kittetvā ‘‘ruccati saṅghassā’’ti tikkhattuṃ sāvetvā kattabbaṃ kammaṃ vuccati. Samaggasseva pana saṅghassa anumatiyā ekāya ñattiyā kattabbaṃ kammaṃ ñattikammaṃ nāma. Ekāya ñattiyā ceva anussāvanāya ca kattabbaṃ kammaṃ ñattidutiyakammaṃ nāma. Ekāya pana ñattiyā tīhi ca anussāvanāhi kattabbaṃ kammaṃ ñatticatutthakammaṃ nāma.
Ở điều thứ chín, của các Tăng sự đúng pháp là của bốn Tăng sự được thực hiện theo pháp, theo luật, theo lời dạy của Bậc Đạo Sư: Tăng sự biểu quyết, Tăng sự tuyên bố, Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp một lần, Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp ba lần. Quyết định về Tăng sự tóm tắt ở đây là như sau: ở đó, Tăng sự biểu quyết là Tăng sự phải được thực hiện bằng cách thông báo ba lần “điều này có được Tăng chúng chấp thuận không?” sau khi đã nêu rõ sự việc với sự đồng ý của Tăng chúng hòa hợp. Tăng sự phải được thực hiện bằng một lần tuyên bố với sự đồng ý của Tăng chúng hòa hợp được gọi là Tăng sự tuyên bố. Tăng sự phải được thực hiện bằng một lần tuyên bố và một lần đọc nghiệp được gọi là Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp một lần. Còn Tăng sự phải được thực hiện bằng một lần tuyên bố và ba lần đọc nghiệp được gọi là Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp ba lần.

Tesu apalokanakammaṃ (pari. 496; pari. aṭṭha. 495-496) pañca ṭhānāni gacchati osāraṇaṃ nissāraṇaṃ bhaṇḍukammaṃ brahmadaṇḍaṃ kammalakkhaṇanti. Tattha kaṇṭakasāmaṇerassa nāsanā viya nissāraṇā, tādisaṃyeva sammāvattantaṃ disvā pavesanā ‘osāraṇā’ti veditabbā. Pabbajjāpekkhassa kesacchedanāpucchanaṃ bhaṇḍukammaṃ (mahāva. 98) nāma. Mukharassa bhikkhuno bhikkhū duruttavacanehi ghaṭṭentassa ‘‘itthannāmo bhikkhu mukharo bhikkhū duruttavacanehi ghaṭṭento viharati, so bhikkhu yaṃ iccheyya, taṃ vadeyya, bhikkhūhi itthannāmo bhikkhu neva vattabbo, na ovādānusāsaniṃ kattabbo, na ovaditabbo’’ti ‘‘saṅghaṃ, bhante , pucchāmi ‘itthannāmassa bhikkhuno brahmadaṇḍassa dānaṃ ruccati saṅghassā’ti, dutiyampi pucchāmi, tatiyampi pucchāmi ‘itthannāmassa, bhante, bhikkhuno brahmadaṇḍassa dānaṃ ruccati saṅghassā’’’ti evaṃ kattabbaṃ kammaṃ brahmadaṇḍaṃ (cūḷava. 445) nāma. Yaṃ pana bhagavatā bhikkhunīnaṃ ūruṃ vivaritvā dassanādivatthūsu ‘‘avandiyo so, bhikkhave, bhikkhu bhikkhunisaṅghena kātabbo’’ti (cūḷava. 411) evaṃ avandiyakammaṃ anuññātaṃ, yaṃ bhikkhunīhi ‘‘ayye, asuko nāma ayyo bhikkhunīnaṃ appasādanīyaṃ dasseti, etassa ayyassa avandiyakaraṇaṃ ‘ruccati bhikkhunisaṅghassā’’’ti evaṃ upassaye nisinnāheva bhikkhunīhi kattabbaṃ, evarūpaṃ kammaṃ yasmā tassa kammaṃyeva lakkhaṇaṃ na osāraṇādīni, tasmā kammalakkhaṇanti vuccati. Idañca kammalakkhaṇaṃ nāma bhikkhunimūlakaṃ paññattaṃ, apica bhikkhūnampi labbhati, tasmā bhikkhūhipi acchinnacīvarakādīnaṃ cīvarādīni vā dentehi, paribhuñjitabbāni apanetabbānipi vatthūni paribhuñjantehi vā, apanentehi vā, tathārūpaṃ vā dhammikaṃ katikaṃ karontehi tikkhattuṃ sāvetvā apalokanakammaṃ kātabbaṃ, sabbañhetaṃ kammalakkhaṇameva pavisati, iti apalokanakammaṃ pañca ṭhānāni gacchati.
Trong số đó, Tăng sự biểu quyết (pari. 496; pari. aṭṭha. 495-496) đi đến năm nơi: phục hồi, trục xuất, Tăng sự xuống tóc, hình phạt im lặng, và đặc tính của Tăng sự. Ở đó, việc trục xuất giống như việc đuổi Sa-di Kaṇṭaka được gọi là trục xuất. Việc tiếp nhận lại người như vậy sau khi thấy đã hành xử đúng đắn được biết là ‘phục hồi’. Việc hỏi xin cạo tóc cho người muốn xuất gia được gọi là Tăng sự xuống tóc (mahāva. 98). Đối với Tỳ-khưu nói nhiều, quấy rầy các Tỳ-khưu bằng những lời nói khó nghe, Tăng sự phải được thực hiện như sau: “Tỳ-khưu tên này là người nói nhiều, sống quấy rầy các Tỳ-khưu bằng những lời nói khó nghe. Tỳ-khưu đó muốn nói gì thì nói, các Tỳ-khưu không được nói gì với Tỳ-khưu tên này, không được giáo huấn, không được khuyên bảo”, “Thưa các ngài, tôi hỏi Tăng chúng ‘việc áp dụng hình phạt im lặng cho Tỳ-khưu tên này có được Tăng chúng chấp thuận không?’, tôi hỏi lần thứ hai, tôi hỏi lần thứ ba ‘thưa các ngài, việc áp dụng hình phạt im lặng cho Tỳ-khưu tên này có được Tăng chúng chấp thuận không?'” được gọi là hình phạt im lặng (cūḷava. 445). Còn Tăng sự không đáng được đảnh lễ mà Đức Phật đã cho phép trong các trường hợp như cho Tỳ-khưu-ni xem đùi v.v… (cūḷava. 411), “Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu đó phải được Tăng chúng Tỳ-khưu-ni làm cho không đáng được đảnh lễ”, Tăng sự này phải được các Tỳ-khưu-ni thực hiện ngay khi đang ngồi trong trú xứ, bằng cách nói “Thưa các chị, Thượng tọa tên này cho các Tỳ-khưu-ni xem điều không đáng hài lòng. Việc làm cho Thượng tọa này không đáng được đảnh lễ ‘có được Tăng chúng Tỳ-khưu-ni chấp thuận không?'”. Tăng sự như vậy, vì đặc tính của nó chính là Tăng sự, không phải là phục hồi v.v…, nên được gọi là đặc tính của Tăng sự. Và đặc tính của Tăng sự này được chế định bắt nguồn từ Tỳ-khưu-ni, nhưng cũng được áp dụng cho các Tỳ-khưu. Do đó, các Tỳ-khưu khi cho y v.v… cho những người có y bị cắt v.v…, hoặc khi dùng hoặc lấy đi những vật dụng có thể dùng, hoặc khi đưa ra một quy định đúng pháp như vậy, phải thực hiện Tăng sự biểu quyết bằng cách thông báo ba lần. Tất cả những điều này đều thuộc về đặc tính của Tăng sự. Như vậy, Tăng sự biểu quyết đi đến năm nơi.

Ñattikammaṃ pana nava ṭhānāni gacchati osāraṇaṃ nissāraṇaṃ uposathaṃ pavāraṇaṃ sammutiṃ dānaṃ paṭiggahaṃ paccukkaḍḍhanaṃ kammalakkhaṇanti. Tattha ‘‘suṇātu me, bhante, saṅgho, itthannāmo itthannāmassa āyasmato upasampadāpekkho, anusiṭṭho so mayā, yadi saṅghassa pattakallaṃ, itthannāmo āgaccheyya , ‘āgacchāhī’ti vattabbo’’ti (mahāva. 126) evaṃ upasampadāpekkhassa osāraṇā osāraṇā nāma. ‘‘Suṇantu me āyasmantā, ayaṃ itthannāmo bhikkhu dhammakathiko, imassa neva suttaṃ āgacchati, no suttavibhaṅgo, so atthaṃ asallakkhetvā byañjanacchāyāya atthaṃ paṭibāhati, yadāyasmantānaṃ pattakallaṃ, itthannāmaṃ bhikkhuṃ vuṭṭhāpetvā avasesā imaṃ adhikaraṇaṃ vūpasameyyāmā’’ti evaṃ ubbhāhikavinicchaye (cūḷava. 233) dhammakathikassa bhikkhuno nissāraṇā nissāraṇā nāma. ‘‘Suṇātu me, bhante, saṅgho, ajjuposatho…pe… uposathaṃ kareyyā’’ti evaṃ uposathakammavasena ṭhapitā ñatti uposatho nāma. ‘‘Suṇātu me, bhante, saṅgho, ajja pavāraṇā pannarasī, yadi saṅghassa pattakallaṃ, saṅgho pavāreyyā’’ti (mahāva. 210) evaṃ pavāraṇākammavasena ṭhapitā ñatti pavāraṇā nāma. ‘‘Suṇātu me, bhante, saṅgho, itthannāmo itthannāmassa upasampadāpekkho, yadi saṅghassa pattakallaṃ, ahaṃ itthannāmaṃ anusāseyya’’nti, ‘‘yadi saṅghassa pattakallaṃ, itthannāmo itthannāmaṃ anusāseyyā’’ti (mahāva. 126) evaṃ attānaṃ vā paraṃ vā sammannituṃ ṭhapitā ñatti sammuti nāma. ‘‘Suṇātu me, bhante, saṅgho, imaṃ cīvaraṃ itthannāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ saṅghassa nissaṭṭhaṃ, yadi saṅghassa pattakallaṃ, saṅgho imaṃ cīvaraṃ itthannāmassa bhikkhuno dadeyyā’’ti (pārā. 464) evaṃ nissaṭṭhacīvarapattādīnaṃ dānaṃ dānaṃ nāma. ‘‘Suṇātu me, bhante, saṅgho, ayaṃ itthannāmo bhikkhu āpattiṃ sarati vivarati uttāniṃ karoti deseti, yadi saṅghassa pattakallaṃ, ahaṃ itthannāmassa bhikkhuno āpattiṃ paṭiggaṇheyya’’nti, tena vattabbo ‘passasī’ti, ‘āma, passāmī’ti, ‘‘āyatiṃ saṃvareyyāsī’’ti (cūḷava. 239) evaṃ āpattippaṭiggaho paṭiggaho nāma. ‘‘Suṇantu me āyasmantā āvāsikā, yadāyasmantānaṃ pattakallaṃ, idāni uposathaṃ kareyyāma, pātimokkhaṃ uddiseyyāma, āgame kāle pavāreyyāmā’’ti (mahāva. 240) evaṃ katappavāraṇappaccukkaḍḍhanā paccukkaḍḍhanā nāma. Tiṇavattārakasamathe (cūḷava. 212) sabbasaṅgāhikañatti, ekekasmiṃ pakkhe ekekā ñatti cāti tissopi ñattiyo kammalakkhaṇaṃ nāma. Iti ñattikammaṃ nava ṭhānāni gacchati.
Tăng sự tuyên bố đi đến chín nơi: phục hồi, trục xuất, lễ Bố-tát, lễ Tự tứ, sự đồng thuận, sự cho, sự nhận, sự hủy bỏ, và đặc tính của Tăng sự. Ở đó, việc phục hồi người xin thọ cụ túc giới bằng cách nói “Xin Tăng chúng hãy lắng nghe, người tên này là người xin thọ cụ túc giới của Thượng tọa tên này, đã được tôi giáo huấn. Nếu Tăng chúng thấy thích hợp, người tên này hãy đến, và phải được nói ‘hãy đến'” (mahāva. 126) được gọi là phục hồi. Việc trục xuất Tỳ-khưu thuyết pháp trong việc phân xử bằng cách biểu quyết (cūḷava. 233) bằng cách nói “Xin các Thượng tọa hãy lắng nghe, Tỳ-khưu tên này là người thuyết pháp, không thuộc kinh, cũng không thuộc phân tích kinh, vị đó không hiểu rõ ý nghĩa mà lại cản trở ý nghĩa bằng bóng dáng của văn tự. Nếu các Thượng tọa thấy thích hợp, chúng ta hãy cho Tỳ-khưu tên này ra ngoài rồi dập tắt vụ tranh chấp này” được gọi là trục xuất. Lời tuyên bố được đặt ra theo cách của Tăng sự Bố-tát “Xin Tăng chúng hãy lắng nghe, hôm nay là ngày Bố-tát… cho đến… hãy làm lễ Bố-tát” được gọi là lễ Bố-tát. Lời tuyên bố được đặt ra theo cách của Tăng sự Tự tứ “Xin Tăng chúng hãy lắng nghe, hôm nay là ngày Tự tứ rằm tháng, nếu Tăng chúng thấy thích hợp, Tăng chúng hãy làm lễ Tự tứ” (mahāva. 210) được gọi là lễ Tự tứ. Lời tuyên bố được đặt ra để đồng thuận cho chính mình hoặc người khác “Xin Tăng chúng hãy lắng nghe, người tên này là người xin thọ cụ túc giới của người tên này. Nếu Tăng chúng thấy thích hợp, tôi sẽ giáo huấn người tên này”, “Nếu Tăng chúng thấy thích hợp, người tên này sẽ giáo huấn người tên này” (mahāva. 126) được gọi là sự đồng thuận. Việc cho y, bát v.v… đã được từ bỏ “Xin Tăng chúng hãy lắng nghe, y này là vật phải từ bỏ của Tỳ-khưu tên này, đã được từ bỏ cho Tăng chúng. Nếu Tăng chúng thấy thích hợp, Tăng chúng hãy cho y này cho Tỳ-khưu tên này” (pārā. 464) được gọi là sự cho. Việc nhận tội “Xin Tăng chúng hãy lắng nghe, Tỳ-khưu tên này nhớ, bày tỏ, nói rõ, và sám hối tội. Nếu Tăng chúng thấy thích hợp, tôi sẽ nhận tội của Tỳ-khưu tên này”, rồi người đó nói ‘ông có thấy không?’, ‘vâng, tôi thấy’, ‘trong tương lai, ông hãy cẩn thận'” (cūḷava. 239) được gọi là sự nhận. Việc hủy bỏ lễ Tự tứ đã được thực hiện “Xin các Thượng tọa cư sĩ hãy lắng nghe, nếu các Thượng tọa thấy thích hợp, bây giờ chúng ta hãy làm lễ Bố-tát, hãy đọc Giới Bổn, vào thời điểm sắp tới, chúng ta sẽ làm lễ Tự tứ” (mahāva. 240) được gọi là sự hủy bỏ. Trong cách dập tắt bằng cỏ che (cūḷava. 212), lời tuyên bố chung cho toàn thể Tăng chúng, và mỗi lời tuyên bố cho mỗi phe, cả ba lời tuyên bố đó được gọi là đặc tính của Tăng sự. Như vậy, Tăng sự tuyên bố đi đến chín nơi.

Ñattidutiyakammaṃ satta ṭhānāni gacchati osāraṇaṃ nissāraṇaṃ sammutiṃ dānaṃ uddhāraṃ desanaṃ kammalakkhaṇanti. Tattha bhikkhūnaṃ alābhāya parisakkanādikehi aṭṭhahi aṅgehi samannāgatassa upāsakassa saṅghena asambhogakaraṇatthaṃ pattanikkujjanavasena nissāraṇā nissāraṇā nāma. Tasseva sammāvattantassa pattukkujjanavasena osāraṇā ca veditabbā, sā khuddakakkhandhake vaḍḍhalicchavivatthusmiṃ (cūḷava. 265-266) vuttā. Sīmāsammuti ticīvarena avippavāsasammutisanthatasammutibhattuddesakasenāsanaggāhāpakabhaṇḍāgārikacīvarappaṭiggāhakayāgubhājakaphalabhājakakhajjabhājakaappamattakavissajjakasāṭiyaggāhapakapattaggāhāpakaārāmikapesakasāmaṇerapesakasammutīti etāsaṃ sammutīnaṃ vasena sammuti veditabbā. Kathinacīvaramatakacīvaradānavasena dānaṃ veditabbaṃ. Kathinuddhāravasena uddhāro veditabbo. Kuṭivatthuvihāravatthudesanāvasena desanā veditabbā. Yā pana tiṇavatthārakasamathe (cūḷava. 212 ādayo) ekasmiṃ pakkhe ekā, ekasmiṃ pakkhe ekāti dve ñattidutiyakammavācā vuttā, yā ca mohāropanādīsu kammavācā (pāci. 446) vuttā, tāsaṃ vasena kammalakkhaṇaṃ veditabbaṃ, iti ñattidutiyakammaṃ satta ṭhānāni gacchati.
Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp một lần đi đến bảy nơi: phục hồi, trục xuất, sự đồng thuận, sự cho, sự thu hồi, sự chỉ định, và đặc tính của Tăng sự. Ở đó, việc trục xuất bằng cách lật bát để làm cho không chung sống với Tăng chúng đối với người cư sĩ có đủ tám chi phần như cố gắng làm cho các Tỳ-khưu không có lợi lộc v.v… được gọi là trục xuất. Việc phục hồi bằng cách ngửa bát lại đối với chính người đó khi đã hành xử đúng đắn cũng nên được biết, điều đó đã được nói trong chương về các điều nhỏ, trong trường hợp của Vaḍḍha Licchavi (cūḷava. 265-266). Sự đồng thuận nên được biết theo các sự đồng thuận này: sự đồng thuận về ranh giới, sự đồng thuận về việc không rời xa ba y, sự đồng thuận về việc trải, sự đồng thuận về người chỉ định bữa ăn, người nhận trú xứ, người quản lý kho, người nhận y, người chia cháo, người chia quả, người chia đồ ăn vặt, người phân phát vật nhỏ, người nhận vải, người nhận bát, người sai bảo người phục vụ tự viện, và người sai bảo Sa-di. Sự cho nên được biết theo việc cho y Kathina và y của người đã mất. Sự thu hồi nên được biết theo việc thu hồi Kathina. Sự chỉ định nên được biết theo việc chỉ định nền am thất và nền trú xá. Đặc tính của Tăng sự nên được biết theo hai lần đọc nghiệp của Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp một lần, một lần cho mỗi phe, đã được nói trong cách dập tắt bằng cỏ che (cūḷava. 212 trở đi), và lần đọc nghiệp đã được nói trong việc áp đặt sự mê hoặc v.v… (pāci. 446). Như vậy, Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp một lần đi đến bảy nơi.

Ñatticatutthakammampi satteva ṭhānāni gacchati osāraṇaṃ nissāraṇaṃ sammutiṃ dānaṃ niggahaṃ samanubhāsanaṃ kammalakkhaṇanti. Tattha tajjanīyakammādīnaṃ (cūḷava. 1 ādayo) sattannaṃ kammānaṃ vasena nissāraṇā, tesaṃyeva kammānaṃ paṭippassambhanavasena osāraṇā ca veditabbā, bhikkhunovādakasammutivasena (pāci. 146-147) sammuti, parivāsadāna(caūḷava. 102) mānattadānavasena (cūḷava. 105) dānaṃ, mūlāyapaṭikassanavasena (cūḷava. 110) niggaho, ukkhittānuvattikā , aṭṭha yāvatatiyakā, ariṭṭho (pāci. 417), caṇḍakāḷī (pāci. 709) cāti ime te yāvatatiyakāti imāsaṃ ekādasannaṃ samanubhāsanānaṃ vasena samanubhāsanā, upasampadākammaabbhānakammavasena kammalakkhaṇaṃ veditabbaṃ. Iti ñatticatutthakammaṃ satta ṭhānāni gacchati.
Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp ba lần cũng đi đến bảy nơi: phục hồi, trục xuất, sự đồng thuận, sự cho, sự khiển trách, sự khiển trách lặp lại, và đặc tính của Tăng sự. Ở đó, trục xuất theo bảy Tăng sự như Tăng sự khiển trách v.v… (cūḷava. 1 trở đi). Phục hồi theo việc hủy bỏ chính những Tăng sự đó cũng nên được biết. Sự đồng thuận theo sự đồng thuận về người giáo giới Tỳ-khưu-ni (pāci. 146-147). Sự cho theo việc cho hình phạt biệt trú (cūḷava. 102) và cho hình phạt tự hối (cūḷava. 105). Sự khiển trách theo việc bắt phạt lại từ đầu (cūḷava. 110). Sự khiển trách lặp lại theo mười một lần khiển trách lặp lại này: người theo kẻ bị trục xuất, tám lần khiển trách đến lần thứ ba, Ariṭṭha (pāci. 417), và Caṇḍakāḷī (pāci. 709), đó là những lần khiển trách đến lần thứ ba. Đặc tính của Tăng sự nên được biết theo Tăng sự truyền cụ túc giới và Tăng sự phục hồi. Như vậy, Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp ba lần đi đến bảy nơi.

Imesu pana catūsu kammesu apalokanakammaṃ apaloketvāva kātabbaṃ, ñattikammādivasena na kātabbaṃ. Ñattikammampi ekaṃ ñattiṃ ṭhapetvāva kātabbaṃ, apalokanakammādivasena na kātabbaṃ. Ñattidutiyakammaṃ pana apaloketvā kātabbampi atthi akātabbampi, tattha sīmāsammuti sīmāsamūhananaṃ (mahāva. 139-140, 144 ādayo) kathinacīvaradānaṃ kathinuddhāro kuṭivatthudesanā vihāravatthudesanāti imāni cha kammāni garukāni apaloketvā kātuṃ na vaṭṭanti, ñattidutiyakammavācaṃ sāvetvāva kātabbāni. Avasesā terasa sammutiyo senāsanaggāhāpakamatakacīvaradānasammutiyo cāti etāni lahukammāni apaloketvāpi kātuṃ vaṭṭanti, ñattikammādivasena pana na kātabbāneva. Ñatticatutthakammampi sakalakkhaṇeneva kātabbaṃ, na sesakammavasena. Evaṃ attano attano lakkhaṇeneva vatthuñattianussāvanāsīmāparisāsampattiyā katāni etāni kammāni dhammena vinayena satthusāsanena katattā dhammo etesu atthīti dhammikāni nāma honti, iti etesaṃ dhammikānaṃ kammānaṃ chandaṃ datvā pacchā khīyanadhammaṃ āpajjantassa vācāya vācāya pācittiyaṃ.
Trong bốn Tăng sự này, Tăng sự biểu quyết phải được thực hiện bằng cách biểu quyết, không được thực hiện theo cách của Tăng sự tuyên bố v.v… Tăng sự tuyên bố cũng phải được thực hiện bằng cách đặt một lần tuyên bố, không được thực hiện theo cách của Tăng sự biểu quyết v.v… Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp một lần có khi phải thực hiện bằng cách biểu quyết, có khi không. Ở đó, sáu Tăng sự nặng này: sự đồng thuận về ranh giới, việc dọn dẹp ranh giới (mahāva. 139-140, 144 trở đi), việc cho y Kathina, việc thu hồi Kathina, việc chỉ định nền am thất, và việc chỉ định nền trú xá, không được phép thực hiện bằng cách biểu quyết, mà phải được thực hiện bằng cách thông báo lời đọc nghiệp của Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp một lần. Mười ba sự đồng thuận còn lại, và các sự đồng thuận về người nhận trú xứ, việc cho y của người đã mất, những Tăng sự nhẹ này cũng có thể được thực hiện bằng cách biểu quyết, nhưng không được thực hiện theo cách của Tăng sự tuyên bố v.v… Tăng sự tuyên bố và đọc nghiệp ba lần cũng phải được thực hiện theo đặc tính của nó, không theo cách của các Tăng sự khác. Như vậy, những Tăng sự này, khi được thực hiện theo đúng đặc tính của mỗi loại, với sự đầy đủ về sự việc, lời tuyên bố, lời đọc nghiệp, ranh giới, và túc số, do được thực hiện theo pháp, theo luật, theo lời dạy của Bậc Đạo Sư, nên được gọi là đúng pháp vì có pháp trong đó. Như vậy, đối với những Tăng sự đúng pháp này, khi sau khi đã cho phép mà lại nói xấu, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lời nói.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha khīyanadhammāpajjanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, dhammakamme vematikassa, adhammakamme dhammakammasaññino, vematikassa ca dukkaṭaṃ. Adhammakammasaññissa , ‘‘adhammena vā vaggena vā nakammārahassa vā kammaṃ karontī’’ti ñatvā khīyantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Dhammakammatā, dhammakammasaññitā, chandaṃ datvā khīyananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāneva, idaṃ pana dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp nói xấu sau khi đã cho phép. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Đối với Tăng sự đúng pháp mà nghi ngờ; đối với Tăng sự không đúng pháp mà có tưởng là đúng pháp, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không đúng pháp; người nói xấu sau khi biết rằng “họ đang thực hiện Tăng sự không đúng pháp, theo phe phái, hoặc cho người không đáng nhận”; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là Tăng sự đúng pháp, có tưởng là Tăng sự đúng pháp, và nói xấu sau khi đã cho phép. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này có cảm thọ khổ.

Kammappaṭibāhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới phản đối Tăng sự đã chấm dứt.

10. Chandaṃadatvāgamanasikkhāpadavaṇṇanā
10. Giải Thích Học Giới Rời Đi Không Cho Phép

Dasame vinicchayakathāyāti yāva ārocitaṃ vatthu avinicchikaṃ, ñattiṃ vā ṭhapetvā kammavācā aniṭṭhāpitā, tāva vinicchayakathā vattamānā nāma hoti. Yo bhikkhu etasmiṃ antare kammaṃ kopetukāmatāya parisāya hatthapāsaṃ vijahati, tassa vijahane dukkaṭaṃ, vijahite pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười, trong khi đang thảo luận để phân xử là chừng nào sự việc đã được trình bày chưa được phân xử, hoặc chưa đặt lời tuyên bố và chưa kết thúc lời đọc nghiệp, chừng đó cuộc thảo luận để phân xử được gọi là đang diễn ra. Tỳ-khưu nào trong khoảng thời gian đó, rời khỏi tầm tay của hội chúng với ý định làm hỏng Tăng sự, thì bị Tác Ác khi rời đi, và bị Ưng Đối Trị khi đã rời đi.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha chandaṃ adatvā pakkamanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, dhammakamme vematikassa, adhammakamme dhammakammasaññino, vematikassa ca dukkaṭaṃ. Adhammakammasaññissa pana, yo ca ‘‘saṅghassa bhaṇḍanādīni vā bhavissanti, adhammena vā vaggena vā nakammārahassa vā kammaṃ karissantī’’ti (pāci. 483) ñatvā, gilāno vā hutvā, gilānassa vā karaṇīyena, uccārādīhi vā pīḷito, na ca kammaṃ kopetukāmo ‘‘puna paccāgamissāmī’’ti gacchati, tassa, ummattakādīnañca anāpatti. Vinicchayakathāya vattamānatā, dhammakammatā, dhammakammasaññitā, samānasīmāyaṃ ṭhitatā, samānasaṃvāsakatā, kopetukāmatāya hatthapāsavijahananti imānettha cha aṅgāni. Samanubhāsanasamuṭṭhānaṃ, kiriyākiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, dukkhavedananti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu nào đó, trong trường hợp rời đi mà không cho phép. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Đối với Tăng sự đúng pháp mà nghi ngờ; đối với Tăng sự không đúng pháp mà có tưởng là đúng pháp, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là không đúng pháp; và người nào đi với ý định “tôi sẽ trở lại” vì biết rằng “Tăng chúng sẽ có sự cãi vã v.v…, hoặc họ sẽ thực hiện Tăng sự không đúng pháp, theo phe phái, hoặc cho người không đáng nhận” (pāci. 483), hoặc vì bị bệnh, hoặc vì việc của người bệnh, hoặc bị thúc giục bởi việc đi vệ sinh v.v…, và không có ý định làm hỏng Tăng sự; và đối với người đó, những người điên loạn v.v… Ở đây có sáu chi phần này: cuộc thảo luận để phân xử đang diễn ra, là Tăng sự đúng pháp, có tưởng là Tăng sự đúng pháp, đang ở trong cùng một ranh giới, cùng chung sống, và rời khỏi tầm tay với ý định làm hỏng. Pháp sanh khởi của việc khiển trách là hành động không hành động, có sự giải thoát qua tưởng, có tâm, là tội thế gian, là nghiệp của thân, nghiệp của lời nói, là tâm bất thiện, và có cảm thọ khổ.

Chandaṃadatvāgamanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới rời đi không cho phép đã chấm dứt.

11. Dubbalasikkhāpadavaṇṇanā
11. Giải Thích Học Giới Làm Suy Yếu

Ekādasame samaggena saṅghenāti samānasaṃvāsakena samānasīmāyaṃ ṭhitena saṅghena saddhiṃ cīvaraṃ datvā. Yathāsanthutanti yo yo mittasandiṭṭhasambhattavasena santhuto, tassa tassāti attho. Pācittiyanti evaṃ saṅghena saddhiṃ sayameva senāsanapaññāpanādivasena sammatassa bhikkhuno cīvaraṃ datvā pacchā khīyantassa vācāya vācāya pācittiyaṃ.
Ở điều thứ mười một, bởi Tăng chúng hòa hợp là sau khi đã cho y cùng với Tăng chúng cùng chung sống, đang ở trong cùng một ranh giới. Theo như đã quen biết có nghĩa là người nào đã quen biết theo tình bạn, sự quen biết, sự thân thiết, thì cho người đó. Ưng Đối Trị có nghĩa là Tỳ-khưu được Tăng chúng đồng thuận qua việc chỉ định trú xứ v.v…, sau khi đã cho y cùng với Tăng chúng, rồi sau đó lại nói xấu, thì bị Ưng Đối Trị theo mỗi lời nói.

Rājagahe chabbaggiye ārabbha cīvaraṃ datvā pacchā khīyanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, dhammakamme tikapācittiyaṃ, cīvaraṃ ṭhapetvā aññaṃ vissajjiyavebhaṅgiyaṃ parikkhāraṃ datvā pacchākhīyantassa dukkaṭaṃ, vissajjiyavebhaṅgiyo nāma ṭhapetvā pañca garubhaṇḍāni avaseso. Rāsivasena hi pañca garubhaṇḍāni vuttāni, tattha ārāmo ārāmavatthūti ekaṃ, vihāro vihāravatthūti dutiyaṃ, mañco pīṭhaṃ bhisi bimbohananti tatiyaṃ, lohakumbhī lohabhāṇakaṃ lohavārako lohakaṭāhaṃ vāsi parasu kuṭhārī kudālo nikhādananti catutthaṃ, valli veḷu muñjaṃ pabbajaṃ tiṇaṃ mattikā dārubhaṇḍaṃ mattikābhaṇḍanti pañcamaṃ. Etāni hi pañca saṅghasantakāni neva saṅghassa, na gaṇapuggalānaṃ vissajjetuṃ vā vibhajituṃ vā vaṭṭanti, vissajjitavibhattānipi saṅghikāneva honti. Thāvarena pana thāvaraṃ, itarena ca akappiyena mahagghakappiyena vā itaraṃ saṅghassa upakāraṃ sallakkhetvā kappiyaparivattanena parivattetuṃ vaṭṭati, varasenāsanādīnaṃ saṃrakkhaṇatthaṃ lāmakāni vissajjetuṃ vissajjetvā paribhuñjituñca vaṭṭati. Ettha ca purimesu tīsu rāsīsu agarubhaṇḍaṃ nāma kiñci natthi, catutthe lohakumbhī arañjarasaṇṭhānaṃ lohabhāṇakaṃ lohakaṭāhanti imāni tīṇi antamaso pasatamattaudakaggaṇhanakānipi garubhaṇḍāni. Lohavārako pana kāḷalohatambalohakaṃsalohavaṭṭalohānaṃ yena kenaci kato sīhaḷadīpe pādaggaṇhanako bhājetabbo, pādo ca nāma magadhanāḷiyā pañcanāḷimattaṃ gaṇhāti, tato atirekaṃ garubhaṇḍaṃ, imāni tāva pāḷiyaṃ āgatāni lohabhājanāni.
(Học giới này) được chế định ở Rājagaha, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp nói xấu sau khi đã cho y. Đây là điều chế định chung, không do yêu cầu. Đối với Tăng sự đúng pháp thì là ba tội Ưng Đối Trị. Khi cho các vật dụng khác có thể cho đi, trừ y, rồi sau đó nói xấu, thì bị Tác Ác. Vật dụng có thể cho đi là trừ năm loại vật nặng, phần còn lại. Vì theo nhóm, năm loại vật nặng đã được nói. Ở đó, tu viện và đất tu viện là một. Trú xá và đất trú xá là hai. Giường, ghế, đệm, gối là ba. Nồi đồng, đồ dùng bằng đồng, chảo đồng, ấm đồng, rìu, búa, búa nhỏ, cuốc, thuổng là bốn. Dây leo, tre, cỏ muñja, cỏ pabbaja, cỏ, đất sét, đồ dùng bằng gỗ, đồ dùng bằng đất sét là năm. Năm loại này, thuộc sở hữu của Tăng chúng, không được phép cho đi hoặc phân chia cho Tăng chúng, nhóm, hoặc cá nhân. Dù đã cho đi hoặc phân chia, chúng vẫn là của Tăng chúng. Nhưng có thể đổi vật cố định lấy vật cố định khác, và đổi vật khác không hợp lệ hoặc vật hợp lệ có giá trị lớn lấy vật khác, sau khi đã xem xét lợi ích cho Tăng chúng, bằng cách đổi chác hợp lệ. Để bảo vệ các trú xứ tốt v.v…, có thể cho đi những vật xấu, và sau khi cho đi, có thể dùng. Ở đây, trong ba nhóm đầu, không có vật nào là không phải vật nặng. Trong nhóm thứ tư, ba thứ này: nồi đồng, đồ dùng bằng đồng có hình dạng như nồi, và ấm đồng, dù chỉ chứa được một pasata nước, cũng là vật nặng. Còn chảo đồng, được làm bằng bất kỳ loại nào trong các loại sắt đen, đồng đỏ, đồng thau, đồng trắng, ở đảo Sīhaḷa, loại chứa được một pāda thì phải được phân chia. Pāda chứa được khoảng năm nāḷi theo đơn vị của Magadha. Hơn thế là vật nặng. Đây là những đồ dùng bằng đồng được đề cập trong Pāḷi.

Pāḷiyaṃ pana anāgatānipi bhiṅgārapaṭiggahauḷuṅkadabbikaṭacchupāti taṭṭakasarakasamuggaaṅgārakapalladhūmakaṭacchuādīni khuddakānipi garubhaṇḍāneva, ayapatto ayathālakaṃ tambalohathālakanti imāni pana bhājanīyāni, kaṃsalohavaṭṭalohabhājanavikati saṅghikaparibhogena vā gihivikaṭā vā vaṭṭati, puggalikaparibhogena na vaṭṭati. Ṭhapetvā pana taṃ bhājanavikatiṃ aññasmimpi kappiyalohabhaṇḍe añjanī añjanisalākā natthudānaṃ kaṇṇamalaharaṇī sūci khuddako pipphaliko khuddakaṃ ārakaṇṭakaṃ kuñcikā tāḷaṃ kattarayaṭṭhi vedhako bhindivālako yathātathāghanakatalohaṃvippakatalohabhaṇḍañca sabbaṃ bhājanīyaṃ. Dhūmanettaphāladīparukkhadīpakapallikaolambakadīpaitthipurisatiracchānarūpakāni pana aññāni vā bhitticchadanakavāṭādīsu upanetabbāni, antamaso lohakhilakaṃ upādāya sabbānipi lohabhaṇḍāni garubhaṇḍāniyeva, attanā laddhāni pariharitvāpi puggalikaparibhogena na paribhuñjitabbāni, saṅghikaparibhogena vā gihivikaṭāni vā vaṭṭanti, tipubhaṇḍepi eseva nayo. Khīrapāsāṇamayāni taṭṭakasarakādīni garubhaṇḍāniyeva.
Nhưng dù không được đề cập trong Pāḷi, các vật như bình nước, bát, muỗng, vá, đĩa, dĩa, hộp, chảo than, vá hun khói v.v…, dù nhỏ, cũng là vật nặng. Bát sắt, đĩa sắt, đĩa đồng đỏ, những thứ này có thể được phân chia. Các loại đồ dùng bằng đồng thau, đồng trắng, nếu là đồ dùng chung của Tăng chúng hoặc đồ gia dụng của người tại gia, thì được phép; nếu là đồ dùng cá nhân, thì không được phép. Nhưng trừ các loại đồ dùng đó, các đồ dùng bằng kim loại hợp lệ khác như hộp đựng thuốc mắt, que bôi thuốc mắt, dụng cụ nhỏ mũi, dụng cụ lấy ráy tai, kim, kim gút nhỏ, gai nhọn nhỏ, chìa khóa, ổ khóa, gậy có dao, dụng cụ khoan, lao, và đồ dùng bằng kim loại đặc hoặc rỗng, tất cả đều có thể được phân chia. Các hình tượng người nam, người nữ, thú vật, đèn khói, đèn treo, đèn cây, đèn đĩa, hoặc các vật khác được dùng để trang trí tường, mái, cửa v.v…, cho đến cả đinh sắt, tất cả đồ dùng bằng kim loại đều là vật nặng. Dù nhận được, cũng không được dùng làm đồ dùng cá nhân, nhưng nếu là đồ dùng chung của Tăng chúng hoặc đồ gia dụng của người tại gia, thì được phép. Đối với đồ dùng bằng chì cũng theo cách này. Các loại đĩa, dĩa v.v… làm bằng đá sữa cũng là vật nặng.

Ghaṭako pana telabhājanaṃ vā pādaggaṇhanakato atirekameva garubhaṇḍaṃ, suvaṇṇarajataārakūṭajātiphalikabhājanāni gihivikaṭānipi na vaṭṭanti. Senāsanaparibhoge pana āmāsampi anāmāsampi sabbaṃ vaṭṭati.
Còn bình nhỏ, dù là bình đựng dầu hay chứa được hơn một pāda, cũng là vật nặng. Các đồ dùng bằng vàng, bạc, đồng thau, pha lê, dù là đồ gia dụng của người tại gia cũng không được phép. Nhưng trong việc sử dụng trú xứ, tất cả, dù có thể chạm hay không thể chạm, đều được phép.

Vāsiyādīsu pana yāya vāsiyā dantakaṭṭhacchedanaucchutacchanamattato aññaṃ mahākammaṃ kātuṃ na sakkā, ayaṃ bhājanīyā. Sesā yena kenaci ākārena katā garubhaṇḍaṃ, parasu pana antamaso vejjānaṃ sirāvedhakopi garubhaṇḍameva, tathā kuṭhārī. Yā pana āvudhasaṅkhepena katā, ayaṃ anāmāsā, kudālo daṇḍabandhanikhādanaṃ vā agarubhaṇḍaṃ nāma natthi. Sammuñjanidaṇḍakhaṇanakaṃ pana adaṇḍakaṃ phalamattakameva, yaṃ sakkā sipāṭikāya pakkhipitvā pariharituṃ, taṃ bhājanīyaṃ. Sikharampi nikhādaneneva saṅgahitaṃ, yehi manussehi vihāre vāsiādīni dinnāni honti, te ce ghare daḍḍhe vā vilutte vā ‘‘detha no, bhante, upakkhare, puna āharissāmā’’ti vadanti, dātabbā. Sace haranti, na vāretabbā, anāharantāpi na codetabbā.
Trong các loại rìu v.v…, rìu nào không thể làm việc lớn khác ngoài việc cắt que xỉa răng, đẽo mía, rìu đó có thể được phân chia. Các loại còn lại, dù được làm bằng bất kỳ hình dạng nào, đều là vật nặng. Búa, cho đến cả dao mổ của thầy thuốc, cũng là vật nặng. Tương tự với búa nhỏ. Loại nào được làm theo hình dạng vũ khí, loại đó không được chạm. Cuốc, thuổng có cán, không có loại nào là không phải vật nặng. Còn dụng cụ đào có cán quét, chỉ có phần lưỡi không có cán, loại có thể bỏ vào túi để mang đi, loại đó có thể được phân chia. Đỉnh cũng được xếp vào loại thuổng. Nếu những người đã cho rìu v.v… trong trú xá, khi nhà bị cháy hoặc bị cướp, nói rằng “thưa các ngài, xin hãy cho chúng tôi đồ dùng, chúng tôi sẽ mang lại sau”, thì phải cho. Nếu họ mang đi, không được cản. Nếu không mang lại, cũng không được đòi.

Kammārataṭṭakāracundakāranaḷakāramaṇikārapattabandhakānaṃ adhikaraṇimuṭṭhisaṇḍāsatulādīni sabbāni lohamayāni upakaraṇāni saṅghe dinnakālato paṭṭhāya garubhaṇḍāni. Tipukoṭṭakasuvaṇṇakāracammakāraupakaraṇesupi eseva nayo. Ayaṃ pana viseso, tipukoṭṭakaupakaraṇesu tipucchedanakasatthakaṃ, suvaṇṇakāraupakaraṇesu suvaṇṇacchedanakasatthakaṃ, cammakāraupakaraṇesu kataparikammacammacchedanakhuddakasatthanti imāni bhājanīyāni. Nhāpitatunnakāraupakaraṇesupi ṭhapetvā mahākattariṃ mahāsaṇḍāsaṃ mahāpipphalikañca sabbaṃ vaṭṭati, itarāni garubhaṇḍāni.
Các dụng cụ bằng kim loại của thợ rèn, thợ tiện, thợ đúc, thợ tre, thợ ngọc, thợ làm bát như búa, kìm, cân v.v…, tất cả đều là vật nặng kể từ khi được cúng dường cho Tăng chúng. Đối với dụng cụ của thợ chì, thợ vàng, thợ da cũng theo cách này. Nhưng có sự khác biệt này: trong các dụng cụ của thợ chì, dao cắt chì; trong các dụng cụ của thợ vàng, dao cắt vàng; trong các dụng cụ của thợ da, dao nhỏ cắt da đã được xử lý, những thứ này có thể được phân chia. Trong các dụng cụ của thợ hớt tóc và thợ may, trừ kéo lớn, kìm lớn, và kim gút lớn, tất cả đều được phép, các thứ khác là vật nặng.

Valliādīsu vettavalliādikā yā kāci aḍḍhabāhuppamāṇā valli saṅghassa dinnā vā tatthajātakā vā rakkhitagopitāva garubhaṇḍaṃ, sā saṅghakamme ca cetiyakamme ca kate sace atirekā hoti, puggalikakammepi upanetuṃ vaṭṭati, suttamakacivākanāḷikerahīracammamayā rajjukā vā yottāni vā vāke ca nāḷikerahīre ca vaṭṭetvā katā ekavaṭṭā vā dvivaṭṭā vā saṅghassa santakā garubhaṇḍaṃ. Suttaṃ pana avaṭṭetvā dinnaṃ makacivākanāḷikerahīrā ca bhājanīyā . Yehi panetāni rajjukādīni dinnāni honti, te attano karaṇīyena harantā na vāretabbā.
Trong các loại dây leo v.v…, bất kỳ dây leo nào như dây mây, dài khoảng nửa cánh tay, đã được cúng dường cho Tăng chúng, hoặc mọc ở đó, được giữ gìn, bảo vệ, đều là vật nặng. Nếu sau khi đã làm việc của Tăng chúng và việc của tháp mà còn dư, thì có thể cho dùng trong việc cá nhân. Dây thừng hoặc dây buộc làm bằng sợi, vỏ cây, xơ dừa, da, hoặc dây làm bằng cách xoắn xơ hoặc xơ dừa thành một hoặc hai vòng, thuộc sở hữu của Tăng chúng, đều là vật nặng. Nhưng sợi chưa được xoắn, vỏ cây, và xơ dừa đã được cúng dường, thì có thể được phân chia. Nếu những người đã cho những dây thừng này mang đi vì việc của họ, không được cản.

Yo koci aṭṭhaṅgulasūcidaṇḍakamattopi veḷu saṅghassa dinno vā tatthajātako vā rakkhitagopito garubhaṇḍaṃ, sopi saṅghassa kamme ca cetiyakamme ca kate atireko puggalikakamme dātuṃ vaṭṭati. Pādaggaṇhanakatelanāḷi pana kattarayaṭṭhi upāhanadaṇḍako chattadaṇḍo chattasalākāti idamettha bhājanīyabhaṇḍaṃ, daḍḍhagehamanussā gaṇhitvā gacchantā na vāretabbā.
Bất kỳ cây tre nào, dù chỉ bằng que kim dài tám ngón tay, đã được cúng dường cho Tăng chúng, hoặc mọc ở đó, được giữ gìn, bảo vệ, đều là vật nặng. Nếu sau khi đã làm việc của Tăng chúng và việc của tháp mà còn dư, cũng có thể cho dùng trong việc cá nhân. Nhưng ống dầu chứa được một pāda, gậy có dao, gậy chống giày, cán dù, nan dù, ở đây là những vật dụng có thể được phân chia. Những người có nhà bị cháy mang đi không bị cản.

Muñjañca pabbajañca avasesañca chadanatiṇaṃ muṭṭhippamāṇampi chadanatiṇasaṅkhepagatesu tālapaṇṇādīsu yaṃkiñci ekapaṇṇampi saṅghassa dinnaṃ vā tatthajātakaṃ vā bahiārāme saṅghike tiṇavatthusmiṃ jātakaṃ vā rakkhitagopitaṃ garubhaṇḍaṃ, tampi saṅghakamme ca cetiyakamme ca kate atirekaṃ puggalikakamme dātuṃ vaṭṭati. Daḍḍhagehamanussā gahetvā gacchantā na vāretabbā, aṭṭhaṅgulappamāṇopi rittakapotthako garubhaṇḍameva.
Cỏ muñja và cỏ pabbaja, và các loại cỏ lợp nhà còn lại, dù chỉ bằng một nắm; trong các loại lá lợp nhà như lá cọ, dù chỉ một lá, đã được cúng dường cho Tăng chúng, hoặc mọc ở đó, hoặc mọc trên đất trồng cỏ của Tăng chúng ngoài tu viện, được giữ gìn, bảo vệ, đều là vật nặng. Nếu sau khi đã làm việc của Tăng chúng và việc của tháp mà còn dư, cũng có thể cho dùng trong việc cá nhân. Những người có nhà bị cháy mang đi không bị cản. Sách trắng dù chỉ dài tám ngón tay cũng là vật nặng.

Mattikā pakatimattikā vā hotu pañcavaṇṇā vā sudhā vā sajjurasakaṅguṭṭhasilesādīsu vā yaṃkiñci dullabhaṭṭhāne ānetvā vā dinnaṃ tatthajātakaṃ vā rakkhitagopitaṃ tālapakkamattaṃ garubhaṇḍaṃ hoti, tampi saṅghakamme ca cetiyakamme ca kate atirekaṃ puggalikakamme dātuṃ vaṭṭati. Hiṅguhiṅgulakaharitālamanosilañjanādīni pana bhājanīyāni.
Đất sét, dù là đất sét tự nhiên hay năm màu, hoặc vữa, hoặc bất kỳ loại nào trong các loại nhựa cây, keo, sáp v.v…, được mang đến từ nơi khó tìm hoặc được cúng dường, hoặc mọc ở đó, được giữ gìn, bảo vệ, một lượng bằng quả cọ chín, là vật nặng. Nếu sau khi đã làm việc của Tăng chúng và việc của tháp mà còn dư, cũng có thể cho dùng trong việc cá nhân. Nhưng các loại như nhựa cây asafetida, chu sa, hùng hoàng, thư hoàng, son v.v…, thì có thể được phân chia.

Dārubhaṇḍe yo koci veḷumhi vuttappamāṇo dārubhaṇḍako saṅghassa dinno vā tatthajātako vā rakkhitagopito garubhaṇḍaṃ, api ca sabbāpi dāruveḷucammapāsāṇādivikati dārubhaṇḍena saṅgahitā, tattha mañcapīṭhehi asaṅgahitāni āsandikādīni antamaso coḷena vā palālehi vā paṇṇehi vā katapīṭhaṃ upādāya sabbāni āsanāni.
Trong đồ dùng bằng gỗ, bất kỳ vật dụng bằng gỗ nào có kích thước đã nói trong phần về tre, đã được cúng dường cho Tăng chúng, hoặc mọc ở đó, được giữ gìn, bảo vệ, đều là vật nặng. Hơn nữa, tất cả các sản phẩm làm từ gỗ, tre, da, đá v.v… đều được xếp vào đồ dùng bằng gỗ. Ở đó, các loại ghế không thuộc loại giường, ghế, cho đến cả ghế làm bằng vải, rơm, hoặc lá, tất cả các loại ghế.

Vaṅkaphalakaṃ dīghaphalakaṃ cīvaradhovanaphalakaṃ ghaṭṭanaphalakaṃ ghaṭṭanamuggaro dantakaṭṭhacchedanagaṇṭhikā daṇḍamuggaro nāvā ambaṇaṃ rajanadoṇi udakapaṭicchako dārumayo vā dantamayo vā veḷumayo vā sapādakopi apādakopi samuggo mañjūsā pādaggaṇhanakato atirekappamāṇo karaṇḍo udakadoṇi udakakaṭāhaṃ uḷuṅko kaṭacchupānīyasarāvaṃ pānīyasaṅkhoti etesu yaṃkiñci saṅghe dinnaṃ garubhaṇḍaṃ. Saṅkhathālakaṃ pana bhājanīyaṃ, tathā dārumayo udakatumbo.
Ván cong, ván dài, ván giặt y, ván chà, chày chà, cục gỗ cắt que xỉa răng, chày, thuyền, thùng, chậu nhuộm, vật hứng nước, dù làm bằng gỗ, ngà, hay tre, có chân hay không có chân, hộp, rương, hòm có kích thước lớn hơn một pāda, chậu nước, ấm nước, muỗng, vá, bát uống nước, ly uống nước, bất kỳ vật nào trong số này được cúng dường cho Tăng chúng đều là vật nặng. Nhưng đĩa làm bằng vỏ sò thì có thể được phân chia, tương tự với bầu nước bằng gỗ.

Pādakathalikamaṇḍalaṃ dārumayaṃ vā hotu coḷapaṇṇādimayaṃ vā sabbaṃ garubhaṇḍaṃ. Ādhārako pattapidhānaṃ tālavaṇṭaṃ bījanī caṅkoṭakaṃ pacchi yaṭṭhisammuñjanī muṭṭhisammuñjanīti etesupi yaṃkiñci khuddakaṃ vā mahantaṃ vā dāruveḷupaṇṇacammādīsu yena kenaci kataṃ garubhaṇḍameva.
Thảm lót chân, dù làm bằng gỗ hay bằng vải, lá v.v…, tất cả đều là vật nặng. Giá để, nắp bát, quạt cọ, quạt, giỏ, bị, gậy quét, chổi có tay cầm, bất kỳ vật nào trong số này, dù nhỏ hay lớn, làm bằng bất kỳ vật liệu nào trong các loại gỗ, tre, lá, da v.v…, đều là vật nặng.

Thambhatulāsopānaphalakādīsu yaṃkiñci dārumayaṃ vā pāsāṇamayaṃ vā gehasambhārūpagaṃ yo koci kaṭasārako yaṃkiñci bhūmattharaṇaṃ yaṃkiñci akappiyacammaṃ, sabbaṃ saṅghikaṃ garubhaṇḍaṃ, bhūmattharaṇaṃ kātuṃ vaṭṭati. Eḷakacammaṃ pana paccattharaṇagatikaṃ hoti, tampi garubhaṇḍameva, kappiyacammāni bhājanīyāni, kurundiyaṃ pana sabbaṃ mañcappamāṇaṃ cammaṃ garubhaṇḍanti vuttaṃ.
Trong các loại cột, xà, ván cầu thang v.v…, bất kỳ vật nào làm bằng gỗ hoặc đá, là vật liệu xây dựng nhà; bất kỳ loại chiếu nào, bất kỳ loại thảm trải sàn nào, bất kỳ loại da nào không hợp lệ, tất cả, nếu là của Tăng chúng, đều là vật nặng. Thảm trải sàn thì có thể làm được. Nhưng da cừu thuộc loại thảm trải dưới, nó cũng là vật nặng. Các loại da hợp lệ thì có thể được phân chia. Nhưng trong sách Kurundī có nói rằng tất cả da có kích thước bằng giường đều là vật nặng.

Udukkhalaṃ musalaṃ suppaṃ nisadaṃ nisadapoto pāsāṇadoṇi pāsāṇakaṭāhaṃ sabbaṃ kasibhaṇḍampi garubhaṇḍaṃ, sabbaṃ cakkayuttayānaṃ garubhaṇḍameva. Mañcapīṭhānaṃ pādā ca aṭaniyo ca vāsiparasuādīnaṃ daṇḍā cāti etesu yaṃkiñci aniṭṭhitaṃ bhājanīyaṃ, tacchitamaṭṭhaṃ pana garubhaṇḍaṃ hoti, anuññātavāsiyā daṇḍo chattaṃ muṭṭhipaṇṇaṃ kattarayaṭṭhi upāhanā araṇisahitaṃ dhammakaraṇo pādaggaṇhanakato anatirittaṃ āmalakatumbaṃ āmalakaghaṭo lābukatumbaṃ lābukaghaṭo visāṇatumbanti sabbametaṃ bhājanīyaṃ, tato paraṃ garubhaṇḍaṃ.
Cối, chày, nia, sàng, chày giã, chậu đá, ấm đá, tất cả dụng cụ làm nông cũng là vật nặng. Tất cả các loại xe có bánh cũng là vật nặng. Chân và thành của giường, ghế; cán của rìu, búa v.v…, bất kỳ vật nào trong số này chưa hoàn thành thì có thể được phân chia, nhưng khi đã được đẽo, gọt, thì là vật nặng. Cán của rìu đã được cho phép, dù, lá có tay cầm, gậy có dao, giày, đá lửa, dụng cụ làm pháp, bầu đựng quả amla không lớn hơn một pāda, bình đựng quả amla, bầu hồ lô, bình hồ lô, sừng, tất cả những thứ này đều có thể được phân chia, lớn hơn thì là vật nặng.

Hatthidanto vā yaṃkiñci visāṇaṃ vā atacchitaṃ yathāgatameva bhājanīyaṃ, tehi katamañcapīṭhapādādīsu purimasadisova vinicchayo. Tacchitaniṭṭhitopi hiṅgukaraṇḍako añjanikaraṇḍako gaṇṭhikā vidho añjanī añjanisalākā udakapuñchanīti idaṃ sabbaṃ bhājanīyameva.
Ngà voi hoặc bất kỳ loại sừng nào, chưa được đẽo gọt, nguyên trạng thì có thể được phân chia. Quyết định về chân giường, ghế v.v… làm bằng chúng tương tự như trước. Hộp đựng nhựa cây asafetida, hộp đựng thuốc mắt, kim gút, dụng cụ khoan, que bôi thuốc mắt, dụng cụ rửa nước, dù đã được đẽo, gọt hoàn chỉnh, tất cả đều có thể được phân chia.

Mattikābhaṇḍe sabbaṃ manussānaṃ upabhogaparibhogaṃ ghaṭapiṭharādikulālabhājanaṃ, pattakaṭāhaṃ aṅgārakaṭāhaṃ dhūmadānakaṃ dīparukkhako dīpakapallikā cayaniṭṭhakā chadaniṭṭhakā thupikāti sabbaṃ garubhaṇḍaṃ, etesu pana vuttanayesu garubhaṇḍesu yaṃkiñci veḷuādiṃ attano atthāya gaṇhantena samakaṃ vā atirekaṃ vā phātikammaṃ katvā gahetabbaṃ. Pādaggaṇhanakato anatirittappamāṇo pana ghaṭako patto thālakaṃ kañcanako kuṇḍikāti idamettha bhājanīyaṃ, yathā ca mattikābhaṇḍe evaṃ lohabhaṇḍepi kuṇḍikā bhājanīyakoṭṭhāsameva bhajati. Iti yaṃ bhājanīyaṃ vissajjanīyampi taṃ evaṃ vissajjiyavebhaṅgiyasaṅkhātaṃ aññaṃ parikkhāraṃ datvā khīyantassa dukkaṭaṃ, itaraṃ pana dātumeva na vaṭṭati. Issaravatāya dento thullaccayaṃ āpajjati, theyyacittena gaṇhanto bhaṇḍaṃ agghāpetvā kāretabbo. Yathā ca aññaṃ parikkhāraṃ datvā khīyantassa dukkaṭaṃ, tathā saṅghena asammatassa cīvaraṃ vā aññaṃ vā parikkhāraṃ datvā khīyantassa dukkaṭameva, anupasampanne sabbattha tikadukkaṭaṃ. Pakatiyā pana chandādivasena (pāci. 488) karontaṃ disvā ‘‘ko attho tassa dinnena, laddhāpi vinipātessati, na sammā upanessatī’’ti khīyantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Upasampannatā, dhammena laddhasammutitā, saṅghena saddhiṃ vikappanupagacīvaradānaṃ, pacchā khīyitukāmatāya khīyanāti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni adinnādānasadisāni, idaṃ pana dukkhavedananti.
Trong đồ dùng bằng đất sét, tất cả các loại đồ gốm mà người ta dùng để sử dụng và tiêu dùng như nồi, bình v.v…; bát, ấm, chảo than, bình hun khói, đèn cây, đèn đĩa, gạch xây, gạch lợp, chóp tháp, tất cả đều là vật nặng. Nhưng trong các vật nặng đã nói này, khi lấy bất kỳ vật nào như tre v.v… vì lợi ích của mình, phải lấy bằng cách đổi chác bằng giá hoặc hơn. Nhưng bình nhỏ, bát, đĩa, ly, bình nước không lớn hơn một pāda, ở đây là những vật có thể được phân chia. Giống như trong đồ dùng bằng đất sét, trong đồ dùng bằng kim loại cũng vậy, bình nước thuộc loại có thể được phân chia. Như vậy, vật nào có thể được phân chia, có thể cho đi, vật dụng khác được gọi là vật có thể cho đi, khi cho đi rồi nói xấu, thì bị Tác Ác. Còn vật khác thì không được phép cho đi. Nếu cho đi vì có quyền lực, thì phạm Trọng Tội. Nếu lấy với tâm trộm cắp, phải bị xử lý sau khi đã định giá vật phẩm. Giống như khi cho vật dụng khác rồi nói xấu bị Tác Ác, khi cho y hoặc vật dụng khác cho người không được Tăng chúng đồng thuận rồi nói xấu cũng bị Tác Ác. Đối với người chưa thọ cụ túc giới, ở mọi nơi đều bị ba tội Tác Ác. Nhưng khi thấy người ta làm vì thiên vị v.v… (pāci. 488) một cách tự nhiên, rồi nói xấu “cho người đó có ích gì, dù nhận được cũng sẽ làm hỏng, sẽ không dùng đúng cách”, và những người điên loạn v.v… thì không có tội. Ở đây có bốn chi phần này: là người đã thọ cụ túc giới, được đồng thuận đúng pháp, cho y có thể từ bỏ cùng với Tăng chúng, và nói xấu sau đó với ý định nói xấu. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) trộm cắp, nhưng điều này có cảm thọ khổ.

Dubbalasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới làm suy yếu đã chấm dứt.

12. Pariṇāmanasikkhāpadavaṇṇanā
12. Giải Thích Học Giới Chuyển Hướng

Dvādasame sabbaṃ tiṃsakakaṇḍe pariṇāmanasikkhāpade vuttanayameva. Ayameva hi viseso, tattha attano pariṇāmitattā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ, idha puggalassa pariṇāmitattā suddhikapācittiyanti.
Ở điều thứ mười hai, tất cả đều theo cách đã nói trong học giới chuyển hướng trong phẩm ba mươi điều. Chỉ có sự khác biệt này: ở đó, do tự mình chuyển hướng, nên là tội Ưng Đối Trị phải từ bỏ; ở đây, do chuyển hướng của cá nhân, nên là tội Ưng Đối Trị đơn thuần.

Pariṇāmanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới chuyển hướng đã chấm dứt.

Sahadhammikavaggo aṭṭhamo.
Phẩm Đồng Pháp là phẩm thứ tám.

9. Ratanavaggo
9. Phẩm Bảo Vật

1. Antepurasikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải Thích Học Giới Hậu Cung

Ratanavaggassa paṭhame khattiyassāti khattiyajātikassa, muddhābhisittassāti khattiyābhisekena muddhani abhisittassa. Anikkhanto rājā itoti anikkhantarājakaṃ, tasmiṃ anikkhantarājake, sayanighareti attho. Ratanaṃ vuccati mahesī, niggatanti nikkhantaṃ, aniggataṃ ratanaṃ itoti aniggataratanakaṃ, tasmiṃ aniggataratanake, sayanighareti attho. Indakhīlaṃatikkameyyāti ettha attano āgatabhāvaṃ ajānāpetvā sayanigharassa ummāraṃ paṭhamaṃ pādaṃ atikkāmentassa dukkaṭaṃ, dutiyaṃ pācittiyaṃ.
Ở điều đầu tiên của phẩm Bảo Vật, của vua là của người thuộc dòng dõi vua. Đã được làm lễ quán đảnh là đã được làm lễ quán đảnh lên đầu bằng lễ quán đảnh của vua. Vua chưa ra khỏi đây là nơi vua chưa ra, có nghĩa là trong nhà ngủ. Bảo vật được gọi là hoàng hậu. Đã ra là đã ra khỏi. Bảo vật chưa ra khỏi đây là nơi bảo vật chưa ra, có nghĩa là trong nhà ngủ. Vượt qua ngưỡng cửa ở đây, khi vào nhà ngủ mà không làm cho biết sự có mặt của mình, khi chân đầu tiên vượt qua ngưỡng cửa, thì bị Tác Ác; chân thứ hai thì bị Ưng Đối Trị.

Sāvatthiyaṃ āyasmantaṃ ānandaṃ ārabbha rañño antepurappavisanavatthusmiṃ paññattaṃ, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, paṭisaṃvidite appaṭisaṃviditasaññino, vematikassa ca dukkaṭaṃ. Paṭisaṃviditasaññissa, na khattiyassa vā, na khattiyābhisekena abhisittassa vā, ubhosu vā, ubhinnaṃ vā aññatarasmiṃ nikkhante sayanigharaṃ pavisantassa, asayanighare, ummattakādīnañca anāpatti. Khattiyatā, abhisittatā, ubhinnampi sayanigharato anikkhantatā, appaṭisaṃviditatā, indakhīlātikkamoti imānettha pañca aṅgāni. Samuṭṭhānādīni paṭhamakathinasadisāni, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Trưởng lão Ānanda, trong trường hợp vào hậu cung của vua. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với nơi đã được báo trước mà có tưởng là chưa được báo trước, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là đã được báo trước; khi vào nhà ngủ của người không phải là vua, hoặc người chưa được làm lễ quán đảnh của vua, hoặc cả hai, hoặc khi một trong hai người đã ra ngoài; trong nơi không phải là nhà ngủ; và những người điên loạn v.v… Ở đây có năm chi phần này: là vua, đã được làm lễ quán đảnh, cả hai đều chưa ra khỏi nhà ngủ, chưa được báo trước, và vượt qua ngưỡng cửa. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) Kathina đầu tiên, nhưng điều này là hành động không hành động.

Antepurasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới hậu cung đã chấm dứt.

2. Ratanasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giải Thích Học Giới Bảo Vật

Dutiye ratananti muttādidasavidhaṃ. Ratanasammatanti yaṃkiñci manussānaṃ upabhogaparibhogaṃ. Ajjhārāme vāti parikkhittassa antopaṭikkhepe aparikkhittassa dvinnaṃ leḍḍupātānaṃ anto. Ajjhāvasatheti parikkhittassa antopaṭikkhepe, aparikkhittassa musalapātabbhantare. Ayaṃ panettha vinicchayo – jātarūparajataṃ attano atthāya uggaṇhantassa vā uggaṇhāpentassa vā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ . Saṅghagaṇapuggalacetiyanavakammānaṃ atthāya dukkaṭaṃ, avasese muttādiratane sabbesampi atthāya dukkaṭameva. Kappiyavatthuṃ vā akappiyavatthuṃ vā antamaso mātusantakampi bhaṇḍāgārikasīsena paṭisāmentassa pācittiyaṃ, tādisaṃ pana attano santakaṃ katvā paṭisāmetuṃ vaṭṭati. ‘‘Idaṃ paṭisāmethā’’ti vutte pana ‘‘na vaṭṭatī’’ti paṭikkhipitabbaṃ. Sace kupitā pātetvā gacchanti, palibodho nāma hoti, paṭisāmetabbaṃ. Vihāre kammaṃ karontā vaḍḍhakīādayo vā rājavallabhā vā ‘‘yaṃkiñci upakaraṇaṃ vā sayanabhaṇḍaṃ vā paṭisāmetvā dethā’’ti vadanti, chandenapi bhayenapi na kātabbameva, guttaṭṭhānaṃ pana dassetuṃ vaṭṭati.
Ở điều thứ hai, bảo vật là mười loại như ngọc trai v.v… Được coi là bảo vật là bất kỳ vật gì mà người ta dùng để sử dụng và tiêu dùng. Trong tu viện là bên trong hàng rào của tu viện có hàng rào, bên trong hai tầm ném của tu viện không có hàng rào. Trong nhà ở là bên trong hàng rào của nhà có hàng rào, bên trong tầm ném của chày của nhà không có hàng rào. Quyết định ở đây là như sau: khi nhặt hoặc sai bảo nhặt vàng bạc vì lợi ích của mình, thì là tội Ưng Đối Trị phải từ bỏ. Vì lợi ích của Tăng chúng, nhóm, cá nhân, tháp, và công trình mới, thì bị Tác Ác. Đối với các bảo vật còn lại như ngọc trai, vì lợi ích của tất cả, cũng chỉ bị Tác Ác. Khi cất giữ vật hợp lệ hoặc không hợp lệ, cho đến cả vật của mẹ, với tư cách là người quản lý kho, thì bị Ưng Đối Trị. Nhưng có thể làm cho vật như vậy thành của mình rồi cất giữ. Nhưng khi được nói “hãy cất giữ cái này”, phải từ chối “không được phép”. Nếu họ tức giận, bỏ đi, thì đó được gọi là sự ràng buộc, phải cất giữ. Khi các thợ mộc v.v… hoặc các quan chức của vua đang làm việc trong trú xá, nói rằng “xin hãy cất giữ và cho chúng tôi bất kỳ dụng cụ hoặc đồ dùng nào”, dù là do thiện chí hay do sợ hãi, cũng không được làm. Nhưng có thể chỉ cho nơi cất giữ an toàn.

Ajjhārāmaajjhāvasathesupi yādise ṭhāne ‘‘bhikkhūhi vā sāmaṇerehi vā gahitaṃ bhavissatī’’ti āsaṅkā uppajjati, tādiseyeva ṭhāne uggahetvā vā uggahāpetvā vā saññāṇaṃ katvā nikkhipitabbaṃ, ‘‘yassa bhaṇḍaṃ naṭṭhaṃ, so āgacchatū’’ti ca ācikkhitabbaṃ. Atha yo āgacchati, so ‘‘kīdisaṃ te bhaṇḍaṃ naṭṭha’’nti pucchitabbo, sace saññāṇena sampādeti, dātabbaṃ. No ce, ‘vicināhī’ti vattabbo. Tamhā āvāsā pakkamantena patirūpānaṃ bhikkhūnaṃ hatthe, tesu asati patirūpānaṃ gahapatikānaṃ hatthe nikkhipitvā pakkamitabbaṃ. Yo pana neva pakkamati, na sāmikaṃ passati, tena thāvaraṃ senāsanaṃ vā cetiyaṃ vā pokkharaṇiṃ vā kāretabbo. Sace dīghassa addhuno accayena sāmiko āgacchati, taṃ dassetvā ‘anumodāhī’ti vattabbo. Sace nānumodati, ‘‘dehi me dhana’’nti codeti, samādapetvā dātabbaṃ.
Cả trong tu viện và trong nhà ở, ở nơi nào có nghi ngờ “chắc là do các Tỳ-khưu hoặc Sa-di đã lấy”, chỉ ở nơi như vậy mới được nhặt hoặc sai bảo nhặt, rồi làm dấu và cất giữ, và phải thông báo “ai mất đồ, hãy đến”. Khi có người đến, phải hỏi “đồ của ông mất trông như thế nào?”. Nếu họ mô tả đúng với dấu hiệu, thì phải trả. Nếu không, phải nói ‘hãy tìm đi’. Khi rời khỏi trú xá đó, phải giao lại cho các Tỳ-khưu thích hợp, nếu không có, thì giao lại cho các gia chủ thích hợp rồi mới đi. Còn người nào không đi, không thấy chủ, người đó phải cho làm trú xứ cố định, tháp, hoặc hồ sen. Nếu sau một thời gian dài, chủ nhân trở lại, phải chỉ cho và nói ‘xin hãy hoan hỷ’. Nếu không hoan hỷ, mà đòi “trả lại tiền cho tôi”, phải thuyết phục rồi trả lại.

Sāvatthiyaṃ aññataraṃ bhikkhuṃ ārabbha ratanauggaṇhanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘aññatra ajjhārāmā vā, ajjhāvasathā vā’’ti ayamettha duvidhā anupaññatti, sādhāraṇapaññatti, sāṇattikaṃ, anuññātaṭṭhāne anādariyena uggahetvā anikkhipantassa dukkaṭaṃ. Anuññātaṭṭhāne gahetvā nikkhipantassa, yaṃ hoti āmāsaṃ ratanasammataṃ, taṃ vissāsaṃ vā tāvakālikaṃ vā uggaṇhantassa, paṃsukūlasaññāya gaṇhato, ummattakādīnañca anāpatti. Ananuññātakaraṇaṃ, parasantakatā, vissāsaggāhapaṃsukūlasaññānaṃ abhāvo, uggahaṇaṃ vā uggahāpanaṃ vāti imānettha cattāri aṅgāni. Samuṭṭhānādīni sañcarittasadisānīti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến một Tỳ-khưu nào đó, trong trường hợp nhặt bảo vật. Hai loại điều chế định bổ sung ở đây là “trừ khi là trong tu viện, hoặc trong nhà ở”. Đây là điều chế định chung, có thể do yêu cầu. Khi nhặt ở nơi đã được cho phép mà không quan tâm và không cất giữ, thì bị Tác Ác. Không có tội khi lấy ở nơi đã được cho phép rồi cất giữ; khi nhặt vật được coi là bảo vật có thể chạm vào, hoặc nhặt với sự tin tưởng hoặc tạm thời; khi nhặt với tưởng là vật vô chủ; và những người điên loạn v.v… Ở đây có bốn chi phần này: việc làm chưa được cho phép, là của người khác, không có sự tin tưởng, việc nhặt, và tưởng là vật vô chủ, và nhặt hoặc sai bảo nhặt. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) về sự môi giới.

Ratanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới bảo vật đã chấm dứt.

3. Vikālagāmappavesanasikkhāpadavaṇṇanā
3. Giải Thích Học Giới Vào Làng Phi Thời

Tatiye santaṃ bhikkhuṃ anāpucchāti idaṃ cāritte vuttanayameva. Vikāleti majjhanhikātikkamato paṭṭhāya antoaruṇe, etasmiṃ antare ‘‘vikāle gāmappavesanaṃ āpucchāmī’’ti vā, ‘‘gāmaṃ pavisissāmī’’ti vā anāpucchitvā asati tathārūpe accāyike karaṇīye parikkhittassa gāmassa parikkhepaṃ atikkamantassa, aparikkhittassa upacāraṃ okkamantassa paṭhamapāde dukkaṭaṃ, dutiyapāde pācittiyaṃ. Sacepi sambahulā kenaci kammena gāmaṃ pavisanti, sabbehi aññamaññaṃ āpucchitabbaṃ. ‘‘Tasmiṃ gāme taṃ kammaṃ na sampajjatī’’ti aññaṃ gāmaṃ gacchantānaṃ puna āpucchanakiccaṃ natthi. Sace pana ussāhaṃ paṭippassambhetvā vihāraṃ gacchantā antarā aññaṃ gāmaṃ pavisitukāmā honti, āpucchitabbameva. Kulaghare vā āsanasālāyaṃ vā bhattakiccaṃ katvā telabhikkhāya vā sappibhikkhāya vā caritukāmena sace passe bhikkhu atthi, āpucchitabbo, asante ‘natthī’ti gantabbaṃ. Vīthiṃ otaritvā pana bhikkhuṃ disvāpi āpucchanakiccaṃ natthi. Yo pana gāmamajjhena maggo hoti, sace tena gacchantassa ‘‘telādīnaṃ atthāya carissāmī’’ti cittaṃ uppajjati, passe bhikkhuṃ disvā āpucchitabbaṃ. Maggā anokkamma carantassa pana āpucchanakiccaṃ natthi, okkamantassa vuttanayeneva pācittiyaṃ.
Ở điều thứ ba, không hỏi Tỳ-khưu có mặt, điều này tương tự như đã nói trong học giới đi lại. Phi thời là từ sau giữa trưa cho đến trước rạng đông. Trong khoảng thời gian này, nếu không hỏi “tôi xin phép vào làng phi thời” hoặc “tôi sẽ vào làng”, và không có việc khẩn cấp tương tự, khi vượt qua hàng rào của làng có hàng rào, hoặc đi vào khu vực phụ cận của làng không có hàng rào, thì bị Tác Ác ở bước chân đầu tiên, và bị Ưng Đối Trị ở bước chân thứ hai. Dù nhiều người vào làng vì một việc nào đó, tất cả đều phải hỏi lẫn nhau. Khi đi đến một làng khác vì “việc đó không thành ở làng kia”, thì không cần phải hỏi lại. Nhưng nếu sau khi đã nguôi ngoai ý định, trên đường về trú xá mà muốn vào một làng khác, thì phải hỏi. Khi đã làm xong việc ăn uống ở nhà riêng hoặc sảnh đường, nếu muốn đi xin dầu hoặc bơ, nếu có Tỳ-khưu ở bên cạnh, phải hỏi. Nếu không có, phải đi với ý nghĩ ‘không có ai’. Nhưng sau khi đã xuống đường, dù thấy Tỳ-khưu cũng không cần phải hỏi. Còn người nào có đường đi qua giữa làng, nếu trên đường đi mà có ý định “tôi sẽ đi xin dầu v.v…”, nếu thấy Tỳ-khưu ở bên cạnh, phải hỏi. Nhưng nếu đi mà không rẽ khỏi đường, thì không cần phải hỏi. Nếu rẽ vào, thì bị Ưng Đối Trị theo cách đã nói.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha vikāle gāmappavesanavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘santaṃ bhikkhu’’nti ca ‘‘anāpucchā’’ti ca ‘‘aññatra tathārūpā accāyikā karaṇīyā’’ti ca imā panettha tisso anupaññattiyo, asādhāraṇapaññatti, anāṇattikaṃ, tikapācittiyaṃ, kāle vikālasaññino, vematikassa ca dukkaṭaṃ. Kālasaññino pana, yo ca accāyike vā karaṇīye, santaṃ vā āpucchitvā, asantaṃ vā anāpucchitvā pavisati, antarārāmabhikkhunupassayatitthiyaseyyapaṭikkamanesu vā aññataraṃ gacchati, tassa, gāmena maggo hoti, tena gacchato, āpadāsu, ummattakādīnañca anāpatti. Santaṃ bhikkhuṃ anāpucchatā, anuññātakāraṇābhāvo, vikāle gāmappavisananti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni kathinasadisāneva, idaṃ pana kiriyākiriyanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp vào làng phi thời. Ba điều chế định bổ sung ở đây là “Tỳ-khưu có mặt”, “không hỏi”, và “trừ phi có việc khẩn cấp tương tự”. Đây là điều chế định không chung, không do yêu cầu, là ba tội Ưng Đối Trị. Đối với đúng thời mà có tưởng là phi thời, hoặc nghi ngờ, thì bị Tác Ác. Không có tội đối với người có tưởng là đúng thời; và người nào vào vì việc khẩn cấp, hoặc sau khi đã hỏi người có mặt, hoặc vào mà không hỏi người không có mặt; hoặc đi đến một trong các nơi như tu viện ở giữa, trú xứ của Tỳ-khưu-ni, nơi ở của ngoại đạo, và nơi nhận lại; và đối với người đó, khi có đường đi qua làng, và đi theo đường đó; trong các tai nạn; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: không hỏi Tỳ-khưu có mặt, không có lý do được cho phép, và vào làng phi thời. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) Kathina, nhưng điều này là hành động không hành động.

Vikālagāmappavesanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới vào làng phi thời đã chấm dứt.

4. Sūcigharasikkhāpadavaṇṇanā
4. Giải Thích Học Giới Hộp Kim

Catutthe bhedanameva bhedanakaṃ, taṃ assa atthīti bhedanakaṃ. Tasmā evarūpe sūcighare karaṇakārāpanesu dukkaṭaṃ, paṭilābhena pana taṃ bhinditvā pācittiyaṃ desetabbaṃ.
Ở điều thứ tư, việc phá vỡ chính là hành động phá vỡ, vật có đặc tính đó được gọi là vật cần phải phá vỡ. Do đó, trong việc làm và sai bảo làm hộp kim như vậy, thì bị Tác Ác; nhưng sau khi nhận được, phải phá vỡ nó rồi sám hối tội Ưng Đối Trị.

Sakkesu sambahule bhikkhū ārabbha bahusūcigharaviññāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, sāṇattikaṃ, attanā vippakataṃ attanā vā, parehi vā, parehi vippakatampi attanā vā, parehi vā pariyosāpetvā labhantassa catukkapācittiyaṃ. Aññassatthāya karaṇakārāpanesu, aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjane dukkaṭaṃ. Gaṇṭhike araṇike vidhe añjaniyā añjanisalākāya vāsijaṭe udakapuñchaniyāti etesu yaṃkiñci aṭṭhiādīhi karontassa, ummattakādīnañca anāpatti. Sūcigharatā, aṭṭhimayāditā, attano atthāya karaṇaṃ vā kārāpetvā vā paṭilābhoti imānettha tīṇi aṅgāni. Samuṭṭhānādīni sañcarittasadisānīti.
(Học giới này) được chế định trong dòng họ Sakya, liên quan đến nhiều Tỳ-khưu, trong trường hợp xin nhiều hộp kim. Đây là điều chế định chung, có thể do yêu cầu. Khi tự mình làm dở rồi tự mình, hoặc người khác, hoặc người khác làm dở rồi tự mình, hoặc người khác hoàn thành và nhận, thì bị bốn tội Ưng Đối Trị. Khi làm hoặc sai bảo làm vì lợi ích của người khác, khi nhận và dùng vật do người khác làm, thì bị Tác Ác. Không có tội khi làm bất kỳ vật nào trong các loại như kim gút, que cời, dụng cụ khoan, que bôi thuốc mắt, dụng cụ lấy ráy tai, cán rìu, dụng cụ rửa nước bằng xương v.v…; và những người điên loạn v.v… Ở đây có ba chi phần này: là hộp kim, làm bằng xương v.v…, và nhận được sau khi đã làm hoặc sai bảo làm vì lợi ích của mình. Các pháp sanh khởi v.v… tương tự như điều (học giới) về sự môi giới.

Sūcigharasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới hộp kim đã chấm dứt.

5. Mañcapīṭhasikkhāpadavaṇṇanā
5. Giải Thích Học Giới Giường Ghế

Pañcame mañcanti masārakādīsu aññataraṃ. Pīṭhampi tādisameva, taṃ pana mañco viya atidīghaṃ, āsandiko viya ca samaṃ caturassaṃ na hoti. Chedanakaṃ bhedanakasadisameva.
Ở điều thứ năm, giường là một trong các loại như giường masāraka v.v… Ghế cũng tương tự như vậy, nhưng nó không quá dài như giường, và không vuông vắn đều như ghế dài. Sự cắt đi tương tự như việc phá vỡ.

Sāvatthiyaṃ upanandaṃ ārabbha ucce mañce sayanavatthusmiṃ paññattaṃ, pamāṇikaṃ karontassa, pamāṇātikkantaṃ labhitvā chinditvā yathā pamāṇameva upari dissati, evaṃ nikhaṇitvā vā, uttānaṃ vā katvā, aṭṭakaṃ vā bandhitvā paribhuñjantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Pamāṇātikkantamañcapīṭhatā, attano atthāya karaṇaṃ vā kārāpetvā vā paṭilābhoti imānettha dve aṅgāni. Sesaṃ sabbaṃ sūcigharasikkhāpadasadisamevāti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Upananda, trong trường hợp nằm trên giường cao. Không có tội đối với người làm đúng kích thước; người nhận được vật quá kích thước rồi cắt đi, chôn xuống sao cho phần trên chỉ thấy đúng kích thước, hoặc lật ngửa lại, hoặc làm thành giàn rồi dùng; và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: giường ghế quá kích thước, và nhận được sau khi đã làm hoặc sai bảo làm vì lợi ích của mình. Phần còn lại tất cả đều tương tự như học giới hộp kim.

Mañcapīṭhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới giường ghế đã chấm dứt.

6. Tūlonaddhasikkhāpadavaṇṇanā
6. Giải Thích Học Giới Nhồi Bông

Chaṭṭhe tūlaṃ onaddhametthāti tūlonaddhaṃ, cimilikaṃ pattharitvā tūlaṃ pakkhipitvā upari cimilikāya onaddhanti vuttaṃ hoti. Uddālanakaṃ bhedanakasadisameva.
Ở điều thứ sáu, vật mà bông được nhồi vào trong đó được gọi là vật nhồi bông, có nghĩa là đã trải chiếu ra, cho bông vào, rồi nhồi lại bằng chiếu ở trên. Sự lấy ra tương tự như việc phá vỡ.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha tūlonaddhakārāpanavatthusmiṃ paññattaṃ, āyoge kāyabandhane aṃsabaddhake pattatthavikāya parissāvane bimbohane, aññena kataṃ tūlonaddhaṃ paṭilabhitvā uddāletvā paribhuñjantassa, ummattakādīnañca anāpatti. Bimbohanañcettha sīsappamāṇameva vaṭṭati, sīsappamāṇaṃ nāma yassa vitthārato tīsu koṇesu dvinnaṃ antaraṃ vidatthicaturaṅgulaṃ hoti, majjhe muṭṭhiratanaṃ, dīghato diyaḍḍharatanaṃ vā dviratanaṃ vā. Tūlonaddhamañcapīṭhatā, attano atthāya karaṇaṃ vā kārāpetvā vā paṭilābhoti imānettha dve aṅgāni. Sesaṃ vuttanayeneva veditabbanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp sai bảo làm vật nhồi bông. Không có tội trong việc làm dây đeo, dây thắt lưng, dây đeo vai, túi đựng bát, đồ lọc nước, gối; người nhận được vật nhồi bông do người khác làm rồi lấy bông ra dùng; và những người điên loạn v.v… Gối ở đây chỉ được phép có kích thước bằng đầu. Kích thước bằng đầu là khi chiều rộng của ba góc, khoảng cách giữa hai góc là một gang bốn ngón tay, ở giữa là một nắm tay, chiều dài là một thước rưỡi hoặc hai thước. Ở đây có hai chi phần này: giường ghế nhồi bông, và nhận được sau khi đã làm hoặc sai bảo làm vì lợi ích của mình. Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã nói.

Tūlonaddhasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới nhồi bông đã chấm dứt.

7. Nisīdanasikkhāpadavaṇṇanā
7. Giải Thích Học Giới Tấm Ngồi

Sattame nisīdananti santhatasadisaṃ santharitvā ekasmiṃ ante sugatavidatthippamāṇaṃ dvīsu ṭhānesu phāletvā katāhi tīhi dasāhi yuttassa parikkhārassetaṃ nāmaṃ.
Ở điều thứ bảy, tấm ngồi là tên gọi cho vật dụng, tương tự như tấm trải, được làm bằng cách trải ra rồi xẻ ở hai chỗ ở một đầu, có kích thước bằng một gang tay của Đức Như Lai, và có ba tua.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha appamāṇikāni nisīdanāni dhāraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, ‘‘dasā vidatthī’’ti ayamettha anupaññatti, asādhāraṇapaññatti, pamāṇikaṃ vā ūnakaṃ vā karontassa, aññena kataṃ pamāṇātikkantaṃ paṭilabhitvā chinditvā paribhuñjantassa, vitānādīsu yaṃkiñci karontassa, ummattakādīnañca anāpatti. Nisīdanassa pamāṇātikkantatā, attano atthāya karaṇaṃ vā kārāpetvā vā paṭilābhoti imānettha dve aṅgāni. Sesaṃ vuttanayeneva veditabbanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp mang những tấm ngồi không đúng kích thước. Câu “tua dài một gang tay” là điều chế định bổ sung ở đây. Đây là điều chế định không chung. Không có tội đối với người làm đúng kích thước hoặc nhỏ hơn; người nhận được vật quá kích thước do người khác làm rồi cắt đi dùng; người làm bất cứ vật gì trong các loại như màn che v.v…; và những người điên loạn v.v… Ở đây có hai chi phần này: tấm ngồi quá kích thước, và nhận được sau khi đã làm hoặc sai bảo làm vì lợi ích của mình. Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã nói.

Nisīdanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới tấm ngồi đã chấm dứt.

8. Kaṇḍuppaṭicchādisikkhāpadavaṇṇanā
8. Giải Thích Học Giới Y Che Ghẻ

Aṭṭhame kaṇḍuppaṭicchādinti adhonābhiubbhajāṇumaṇḍalaṃ kaṇḍupīḷakaassāvathullakacchābādhānaṃ paṭicchādanatthaṃ anuññātaṃ cīvaraṃ.
Ở điều thứ tám, y che ghẻ là y đã được cho phép để che các bệnh ghẻ, mụn nhọt, bệnh lậu, bệnh trĩ ở vùng dưới rốn trên đầu gối.

Sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha appamāṇikāyo kaṇḍuppaṭicchādikāyo dhāraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, sesaṃ nisīdane vuttanayeneva veditabbanti.
(Học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp mang những y che ghẻ không đúng kích thước. Đây là điều chế định chung. Phần còn lại nên được hiểu theo cách đã nói trong học giới về tấm ngồi.

Kaṇḍuppaṭicchādisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới y che ghẻ đã chấm dứt.

9. Vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā
9. Giải Thích Học Giới Y Tắm Mưa

Navame sāvatthiyaṃ chabbaggiye ārabbha appamāṇikāyo vassikasāṭikāyo dhāraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, sesamettha yaṃ vattabbaṃ, taṃ nisīdane vuttanayamevāti.
Ở điều thứ chín, (học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến nhóm sáu Tỳ-khưu, trong trường hợp mang những y tắm mưa không đúng kích thước. Phần còn lại cần nói ở đây tương tự như cách đã nói trong học giới về tấm ngồi.

Vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới y tắm mưa đã chấm dứt.

10. Nandasikkhāpadavaṇṇanā
10. Giải Thích Học Giới Nanda

Dasame sāvatthiyaṃ āyasmantaṃ nandaṃ ārabbha sugatacīvarappamāṇaṃ cīvaraṃ dhāraṇavatthusmiṃ paññattaṃ, sādhāraṇapaññatti, sesaṃ nisīdane vuttanayamevāti.
Ở điều thứ mười, (học giới này) được chế định ở Sāvatthī, liên quan đến Trưởng lão Nanda, trong trường hợp mang y có kích thước bằng y của Đức Như Lai. Đây là điều chế định chung. Phần còn lại tương tự như cách đã nói trong học giới về tấm ngồi.

Nandasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích học giới Nanda đã chấm dứt.

Ratanavaggo navamo.
Phẩm Bảo Vật là phẩm thứ chín.

Kaṅkhāvitaraṇiyā pātimokkhavaṇṇanāya
Trong phần giải thích Giới Bổn của sách Kaṅkhāvitaraṇī

Suddhapācittiyavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích các điều Ưng Đối Trị đơn thuần đã chấm dứt.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang