Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi III – Phẩm Nói Về Sự Thiết Lập Việc Tụng Giới Pātimokkha Trong Tăng Đoàn

9. Pātimokkhaṭṭhapanakkhandhakaṃ
9. Phẩm Nói Về Sự Thiết Lập Việc Tụng Giới Pātimokkha Trong Tăng Đoàn

Pātimokkhuddesayācanakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Lời Thỉnh Cầu Tụng Đọc Giới Bổn

383. Pātimokkhaṭṭhapanakkhandhake tadahūti (udā. aṭṭha. 45) tasmiṃ ahani tasmiṃ divase. Uposatheti ettha upavasanti etthāti uposatho, upavasantīti sīlena vā anasanena vā upetā hutvā vasantīti attho. Ayañhi uposatha-saddo ‘‘aṭṭhaṅgasamannāgataṃ uposathaṃ upavasāmī’’tiādīsu (a. ni. 3.71; 10.46) sīle āgato. ‘‘Uposatho vā pavāraṇā vā’’tiādīsu (mahāva. 155) pātimokkhuddesādivinayakamme. ‘‘Gopālakūposatho nigaṇṭhūposatho’’tiādīsu (a. ni. 3.71) upavāse. ‘‘Uposatho nāma nāgarājā’’tiādīsu (dī. ni. 2.246; ma. ni. 3.258) paññattiyaṃ. ‘‘Ajjuposatho pannaraso’’tiādīsu (mahāva. 168) divase. Idhāpi divaseyeva daṭṭhabbo. Tasmā tadahuposatheti tasmiṃ uposathadivasabhūte ahanīti attho. Nisinno hotīti mahābhikkhusaṅghaparivuto ovādapātimokkhaṃ uddisituṃ upāsikāya ratanapāsāde nisinno hoti. Nisajja pana bhikkhūnaṃ cittāni olokento ekaṃ dussīlapuggalaṃ disvā ‘‘sacāhaṃ imasmiṃ puggale idha nisinneyeva pātimokkhaṃ uddisissāmi, sattadhāvassa muddhā phalissatī’’ti tasmiṃ anukampāya tuṇhīyeva ahosi.
383. Trong Phẩm Nói Về Sự Thiết Lập Việc Tụng Giới Pātimokkha Trong Tăng Đoàn, vào ngày ấy (udā. aṭṭha. 45) có nghĩa là trong ngày đó, vào hôm đó. Về ngày Bố-tát, ở đây, nơi mà họ thực hành gọi là ngày Bố-tát; thực hành có nghĩa là sống với giới hạnh hoặc với sự nhịn ăn. Từ Bố-tát này trong các câu như “chúng con thực hành lễ Bố-tát gồm tám phần” (a. ni. 3.71; 10.46) đã được dùng với ý nghĩa là giới. Trong các câu như “Lễ Bố-tát hay lễ Tự Tứ” (mahāva. 155), nó có nghĩa là Tăng sự về giới luật như tụng đọc Giới Bổn. Trong các câu như “Lễ Bố-tát của người chăn bò, lễ Bố-tát của các Nigantha” (a. ni. 3.71), nó có nghĩa là sự nhịn ăn. Trong các câu như “Uposatha là tên của một vị long vương” (dī. ni. 2.246; ma. ni. 3.258), nó có nghĩa là sự quy định. Trong các câu như “Hôm nay là ngày Bố-tát, ngày rằm” (mahāva. 168), nó có nghĩa là ngày. Ở đây cũng nên được hiểu là ngày. Do đó, vào ngày Bố-tát ấy có nghĩa là vào cái ngày chính là ngày Bố-tát. Đã ngồi xuống có nghĩa là được đại chúng Tỳ-khưu vây quanh, Ngài đã ngồi xuống tại lâu đài bằng báu vật của nữ thí chủ để tụng đọc Giáo Giới Biệt Giải Thoát. Tuy nhiên, sau khi ngồi, trong khi quan sát tâm của các Tỳ-khưu, Ngài đã nhìn thấy một người ác giới và vì lòng bi mẫn đối với người ấy, Ngài đã giữ im lặng với ý nghĩ: “Nếu ta tụng đọc Giới Bổn khi người này còn ngồi đây, đầu của y sẽ vỡ ra làm bảy mảnh.”

Abhikkantāti atikkantā parikkhīṇā. Uddhaste aruṇeti uggate aruṇasīse. Nandimukhiyāti tuṭṭhimukhiyā. Uddhastaṃ aruṇanti aruṇuggamanaṃ patvāpi ‘‘uddisatu, bhante, bhagavā bhikkhūnaṃ pātimokkha’’nti thero bhagavantaṃ pātimokkhuddesaṃ yāci tasmiṃ kāle ‘‘na, bhikkhave, anuposathe uposatho kātabbo’’ti (mahāva. 183) sikkhāpadassa apaññattattā. Aparisuddhā, ānanda, parisāti tikkhattuṃ therena pātimokkhuddesassa yācitattā anuddesassa kāraṇaṃ kathento ‘‘asukapuggalo aparisuddho’’ti avatvā ‘‘aparisuddhā, ānanda, parisā’’ti āha . Kasmā pana bhagavā tiyāmarattiṃ tathā vītināmesi? Tato paṭṭhāya ovādapātimokkhaṃ anuddisitukāmo tassa vatthuṃ pākaṭaṃ kātuṃ.
Đã trôi qua có nghĩa là đã qua đi, đã cạn kiệt. Khi rạng đông ló dạng có nghĩa là khi bình minh xuất hiện. (Đêm) có bộ mặt hoan hỷ là đêm có vẻ mặt vui tươi. Khi bình minh đã ló dạng, ngay cả khi bình minh đã lên, vị trưởng lão vẫn thỉnh cầu Đức Thế Tôn tụng đọc Giới Bổn: “Bạch Thế Tôn, xin hãy tụng đọc Giới Bổn cho các Tỳ-khưu.” Vào thời điểm đó, học giới “Này các Tỳ-khưu, không được làm lễ Bố-tát khi không phải là ngày Bố-tát” (mahāva. 183) vẫn chưa được chế định. Này Ānanda, hội chúng không trong sạch, vì vị trưởng lão đã thỉnh cầu tụng đọc Giới Bổn đến ba lần, Ngài đã nói lên lý do không tụng đọc: “Này Ānanda, hội chúng không trong sạch,” thay vì nói “người kia không trong sạch.” Nhưng tại sao Đức Thế Tôn lại để trôi qua ba canh đêm như vậy? Để làm rõ nguyên nhân của việc không tụng đọc Giáo Giới Biệt Giải Thoát kể từ đó.

Addasāti kathaṃ addasa. Attano cetopariyañāṇena tassaṃ parisati bhikkhūnaṃ cittāni parijānanto tassa purisassa dussīlyacittaṃ passi. Yasmā pana citte diṭṭhe taṃsamaṅgīpuggalo diṭṭho nāma hoti, tasmā ‘‘addasā kho āyasmā mahāmoggallāno taṃ puggalaṃ dussīla’’nti vuttaṃ. Yatheva hi anāgate sattasu divasesu pavattaṃ paresaṃ cittaṃ cetopariyañāṇalābhī pajānāti, evaṃ atītepīti. Dussīlanti nissīlaṃ, sīlavirahitanti attho. Pāpadhammanti dussīlattā eva hīnajjhāsayatāya lāmakasabhāvaṃ. Asucinti aparisuddhehi kāyakammādīhi samannāgatattā na suciṃ. Saṅkassarasamācāranti kiñcideva asāruppaṃ disvā ‘‘idaṃ iminā kataṃ bhavissatī’’ti evaṃ paresaṃ āsaṅkanīyatāya saṅkāya saritabbasamācāraṃ. Atha vā kenacideva karaṇīyena mantayante bhikkhū disvā ‘‘kacci nu kho ime mayā katakammaṃ jānitvā mantentī’’ti attanoyeva saṅkāya saritabbasamācāraṃ. Lajjitabbatāya paṭicchādetabbassa karaṇato paṭicchannaṃ kammantaṃ etassāti paṭicchannakammantaṃ. Kucchitasamaṇavesadhāritāya na samaṇanti assamaṇaṃ. Salākaggahaṇādīsu ‘‘kittakā samaṇā’’ti gaṇanāya ‘‘ahampi samaṇomhī’’ti micchāpaṭiññāya samaṇapaṭiññaṃ. Aseṭṭhacāritāya abrahmacāriṃ. Aññe brahmacārino sunivatthe supārute kusumbhakapaṭadhare gāmanigamādīsu piṇḍāya caritvā jīvikaṃ kappente disvā abrahmacārī samāno sayampi tādisena ākārena paṭipajjanto uposathādīsu ca sandissanto ‘‘ahampi brahmacārī’’ti paṭiññaṃ dento viya hotīti brahmacāripaṭiññaṃ. Pūtinā kammena sīlavipattiyā anto anupaviṭṭhattā antopūtiṃ. Chahi dvārehi rāgādikilesāvassavena tintattā avassutaṃ. Sañjātarāgādikacavarattā sīlavantehi chaḍḍetabbattā ca kasambujātaṃ. Majjhe bhikkhusaṅghassa nisinnanti saṅghapariyāpanno viya bhikkhusaṅghassa anto nisinnaṃ.
Đã thấy có nghĩa là đã thấy như thế nào? Bằng tha tâm thông của mình, trong khi biết rõ tâm của các Tỳ-khưu trong hội chúng ấy, Ngài đã thấy được tâm ác giới của người kia. Và bởi vì khi tâm đã được thấy, người có tâm ấy cũng được xem là đã được thấy, do đó đã nói rằng: “Tôn giả Mahāmoggallāno đã thấy người ấy là người ác giới.” Cũng như người có tha tâm thông biết được tâm của người khác sẽ khởi lên trong bảy ngày tới, cũng vậy, họ cũng biết được tâm trong quá khứ. Ác giới có nghĩa là không có giới, không còn giới hạnh. Có pháp ác do ác giới nên có khuynh hướng thấp kém, có bản chất xấu xa. Không trong sạch vì có thân nghiệp v.v… không thanh tịnh. Có hành vi đáng ngờ, là hành vi khiến người khác phải nghi ngờ khi thấy một điều gì đó không thích hợp: “Chuyện này hẳn là do y làm.” Hoặc là, khi thấy các Tỳ-khưu đang bàn bạc về một việc gì đó, chính y lại có hành vi đáng ngờ vì nghi rằng: “Không biết họ có biết việc mình làm mà bàn tán không.” Có hành vi được che giấu, gọi là hành vi che giấu, do làm việc phải xấu hổ, phải che đậy. Không phải là sa-môn, gọi là không phải sa-môn, vì mang hình thức sa-môn một cách đáng chê trách. Tự nhận mình là sa-môn một cách sai lầm khi được đếm “có bao nhiêu sa-môn” trong việc nhận thẻ v.v…, gọi là tự nhận là sa-môn. Không sống phạm hạnh, gọi là không sống phạm hạnh, vì có hạnh kiểm không cao thượng. Khi thấy các vị phạm hạnh khác đắp y chỉnh tề, mặc áo nhuộm màu cây rum, đi khất thực trong làng xóm, thị trấn để nuôi mạng, dù không phải là người sống phạm hạnh, y cũng thực hành theo cách thức đó và xuất hiện trong các lễ Bố-tát v.v…, như thể tự nhận “tôi cũng là người sống phạm hạnh,” gọi là tự nhận là người sống phạm hạnh. Thối rữa bên trong, gọi là bên trong thối rữa, vì đã đi vào bên trong do nghiệp bất tịnh, do sự hư hoại của giới. Bị rỉ chảy, gọi là bị rỉ chảy, vì bị thấm đẫm bởi các lậu hoặc như tham ái qua sáu cửa. Sinh ra như đồ bỏ đi, gọi là sinh ra như đồ bỏ đi, vì đã sinh ra rác rưởi như tham ái và vì đáng bị những người có giới hạnh vứt bỏ. Ngồi giữa Tăng chúng có nghĩa là ngồi trong Tăng chúng như thể là một thành viên của Tăng chúng.

Diṭṭhosīti ‘‘ayaṃ na pakatatto’’ti bhagavatā diṭṭho asi. Yasmā ca evaṃ diṭṭho, tasmā natthi te tava bhikkhūhi saddhiṃ ekakammādisaṃvāso. Yasmā pana so saṃvāso tava natthi, tasmā uṭṭhehi āvusoti evamettha padayojanā veditabbā. Tatiyampi kho so puggalo tuṇhī ahosīti anekavāraṃ vatvāpi ‘‘thero sayameva nibbinno oramissati, idāni imesaṃ paṭipattiṃ jānissāmī’’ti vā adhippāyena tuṇhī ahosi. Bāhāyaṃ gahetvāti ‘‘bhagavatā mayā ca yāthāvato diṭṭho, yāvatatiyaṃ ‘uṭṭhehī’ti ca vutto na uṭṭhāti, idānissa nikkaḍḍhanakālo , mā saṅghassa uposathantarāyo ahosī’’ti bāhāyaṃ aggahesi. Bahi dvārakoṭṭhakā nikkhāmetvāti dvārakoṭṭhakā dvārasālato nikkhāmetvā, bahīti pana nikkhāmitaṭṭhānadassanaṃ. Atha vā bahidvārakoṭṭhakāti bahidvārakoṭṭhakatopi nikkhāmetvā, na antodvārakoṭṭhakato eva. Ubhayathāpi vihārato bahikatvāti attho. Sūcighaṭikaṃ datvāti aggaḷasūciñca uparighaṭikañca ādahitvā, suṭṭhu kavāṭaṃ thaketvāti attho. Yāva bāhāgahaṇāpi nāmāti ‘‘aparisuddhā, ānanda, parisā’’ti vacanaṃ sutvā eva hi tena pakkamitabbaṃ siyā, evaṃ apakkamitvā yāva bāhāgahaṇāpi nāma so moghapuriso āgamissati, acchariyamidanti dasseti. Idañca garahaṇacchariyamevāti veditabbaṃ.
Ngươi đã bị thấy có nghĩa là ngươi đã bị Đức Thế Tôn thấy rằng “người này không phải là người bình thường.” Và bởi vì ngươi đã bị thấy như vậy, nên ngươi không có sự chung sống như cùng làm một Tăng sự với các Tỳ-khưu. Và bởi vì ngươi không có sự chung sống đó, nên hãy đứng dậy, này hiền hữu. Việc kết nối các từ ở đây nên được hiểu như vậy. Đến lần thứ ba, người ấy vẫn im lặng, dù đã được nói nhiều lần, y vẫn im lặng với ý nghĩ rằng “chính vị trưởng lão sẽ chán nản mà dừng lại, bây giờ ta sẽ xem thái độ của họ.” Nắm lấy cánh tay, vị trưởng lão đã nắm lấy cánh tay của y với ý nghĩ: “y đã bị Đức Thế Tôn và ta thấy rõ, và đã được bảo ‘hãy đứng dậy’ đến lần thứ ba mà không đứng dậy, bây giờ là lúc đuổi y ra, kẻo lễ Bố-tát của Tăng chúng bị gián đoạn.” Đuổi ra khỏi cổng có nghĩa là đuổi ra khỏi cổng, ra khỏi phòng cổng; bên ngoài là để chỉ nơi bị đuổi ra. Hoặc ra khỏi bên ngoài cổng, nghĩa là đuổi ra khỏi cả bên ngoài cổng, chứ không chỉ từ bên trong cổng. Cả hai cách đều có nghĩa là làm cho ra khỏi tu viện. Gài then cài cửa có nghĩa là gài chốt và khóa trên lại, có nghĩa là đóng chặt cửa lại. Đợi cho đến khi bị nắm tay lôi đi chỉ ra rằng: “kẻ ngu si ấy đáng lẽ phải đi ra ngay khi nghe câu ‘Này Ānanda, hội chúng không trong sạch,’ thế mà y lại đợi cho đến khi bị nắm tay lôi đi, thật là một điều kỳ lạ.” Và điều này nên được hiểu là một sự kỳ lạ đáng trách.

Mahāsamudde aṭṭhacchariyakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Tám Điều Kỳ Diệu Của Biển Lớn

384.Aṭṭhime, bhikkhave, mahāsamuddeti (udā. aṭṭha. 45) ko anusandhi? Yvāyaṃ aparisuddhāya parisāya pātimokkhassa anuddeso, so imasmiṃ dhammavinaye acchariyo abbhuto dhammoti taṃ aparehi sattahi acchariyaabbhutadhammehi saddhiṃ vibhajitvā dassetukāmo paṭhamaṃ tāva tesaṃ upamābhāvena mahāsamudde acchariyaabbhutadhamme dassento satthā ‘‘aṭṭhime, bhikkhave, mahāsamudde’’tiādimāha. Asurāti devā viya na suranti na īsanti na virocantīti asurā. Surā nāma devā, tesaṃ paṭipakkhāti vā asurā, vepacittipahārādādayo. Tesaṃ bhavanaṃ sinerussa heṭṭhābhāge, te tattha pavisantā nikkhamantā sinerupāde maṇḍapādīni nimminitvā kīḷantāva abhiramanti. Sā tattha tesaṃ abhirati ime guṇe disvāti āha ‘‘ye disvā disvā asurā mahāsamudde abhiramantī’’ti. Tattha abhiramantīti ratiṃ vindanti, anukkaṇṭhamānā vasantīti attho.
384.Này các Tỳ-khưu, có tám điều này trong biển lớn (udā. aṭṭha. 45) có sự liên kết nào? Việc không tụng đọc Giới Bổn cho hội chúng không trong sạch là một điều kỳ diệu, phi thường trong Giáo pháp và Giới luật này. Để phân tích điều đó cùng với bảy điều kỳ diệu, phi thường khác, trước hết, để trình bày các điều kỳ diệu, phi thường trong biển lớn như là một sự ví von, Đức Thế Tôn đã nói: “Này các Tỳ-khưu, có tám điều này trong biển lớn” v.v… A-tu-la là a-tu-la, vì họ không chiếu sáng, không có uy quyền, không rực rỡ như các vị trời. Hoặc là, chư thiên là chư thiên, những kẻ đối nghịch với họ là a-tu-la, như Vepacitti, Pahārāda v.v… Nơi ở của họ ở dưới chân núi Sineru, khi ra vào nơi đó, họ tạo ra các đình đài v.v… ở chân núi Sineru để vui chơi, hưởng lạc. Sự hưởng lạc của họ ở đó là do thấy được những phẩm chất này, nên Ngài nói: “nhờ thấy đi thấy lại những điều này mà các a-tu-la vui thích trong biển lớn.” Ở đây, vui thích có nghĩa là họ tìm thấy niềm vui, sống không chán nản.

Anupubbaninnotiādīni sabbāni anupaṭipāṭiyā ninnabhāvasseva vevacanāni. Na āyatakeneva papātoti nacchinnataṭamahāsobbho viya ādito eva papāto. So hi tīradesato paṭṭhāya ekaṅguladvaṅgulavidatthiratanayaṭṭhiusabhaaḍḍhagāvutagāvutaaḍḍhayojanayojanādivasena gambhīro hutvā gacchanto gacchanto sinerupādamūle caturāsītiyojanasahassagambhīro hutvā ṭhitoti dasseti.
Dốc xuống dần dần v.v… tất cả đều là các từ đồng nghĩa với trạng thái dốc xuống theo thứ tự. Không phải là một vách đứng đột ngột, không phải là một vách đứng ngay từ đầu như một vực thẳm lớn có bờ bị xói lở. Điều này cho thấy rằng, bắt đầu từ bờ biển, nó trở nên sâu dần theo từng đơn vị một ngón tay, hai ngón tay, một gang tay, một thước, một sào, một usabha, nửa gāvuta, một gāvuta, nửa yojana, một yojana v.v… và khi đến chân núi Sineru, nó sâu đến tám mươi bốn ngàn yojana.

Ṭhitadhammoti ṭhitasabhāvo avaṭṭhitasabhāvo. Kuṇapenāti yena kenaci hatthiassādikaḷevarena. Vāhetīti hatthena gahetvā viya vīcippahāreneva thale khipati. Gaṅgā yamunāti anotattadahassa dakkhiṇamukhato nikkhantanadī pañcadhārā hutvā pavattaṭṭhāne gaṅgātiādinā pañcadhā saṅkhaṃ gatā. Tattha nadī ninnagātiādikaṃ gottaṃ, gaṅgā yamunātiādikaṃ nāmaṃ. Savantiyoti yā kāci savamānā sandamānā gacchantiyo mahānadiyo vā kunnadiyo vā. Appentīti allīyanti osaranti. Dhārāti vuṭṭhidhārā. Pūrattanti puṇṇabhāvo. Mahāsamuddassa hi ayaṃ dhammatā – ‘‘imasmiṃ kāle devo mando jāto, jālakkhipādīni ādāya macchakacchape gaṇhissāmī’’ti vā ‘‘imasmiṃ kāle atimahantā vuṭṭhi, labhissāma nu kho piṭṭhipasāraṇaṭṭhāna’’nti vā na sakkā vattuṃ. Paṭhamakappikakālato paṭṭhāya hi tīraṃ bhassitvā sinerumekhalaṃ āhacca udakaṃ ṭhitaṃ, tato ekaṅgulamattampi udakaṃ neva heṭṭhā otarati, na uddhaṃ uttarati. Ekarasoti asambhinnaraso.
Có bản chất ổn định là có bản chất không thay đổi, có bản chất cố định. Với xác chết là với bất kỳ xác chết nào của voi, ngựa v.v… Đẩy đi có nghĩa là đẩy vào bờ bằng chính sức mạnh của sóng, như thể dùng tay lấy đi. Sông Hằng, sông Yamunā là con sông chảy ra từ cửa phía nam của hồ Anotatta, chia thành năm dòng và ở nơi nó chảy, nó được gọi bằng năm tên như sông Hằng v.v… Ở đây, sông, sông chảy xuống thấp là tên gọi chung; sông Hằng, sông Yamunā là tên riêng. Các dòng sông là bất kỳ con sông lớn hay sông nhỏ nào đang chảy, tuôn trào. Chảy vào là hòa vào, đổ vào. Các dòng là những dòng mưa. Sự đầy là trạng thái đầy. Bản chất của biển lớn là như vầy – không thể nói rằng: “vào lúc này trời mưa ít, ta sẽ lấy lưới v.v… đi bắt cá rùa” hoặc “vào lúc này mưa rất lớn, liệu chúng ta có tìm được nơi để duỗi lưng không.” Từ thời sơ kiếp, nước đã chạm đến sườn núi Sineru sau khi phá vỡ bờ, và từ đó, nước không xuống thấp hơn hay dâng cao hơn dù chỉ một ngón tay. Một vị là một vị không lẫn lộn.

Muttāti khuddakamahantavaṭṭadīghādibhedā anekavidhamuttā. Maṇīti rattanīlādibhedo anekavidho maṇi. Veḷuriyoti vaṃsavaṇṇasirīsapupphavaṇṇādisaṇṭhānato anekavidho. Saṅkhoti dakkhiṇāvaṭṭakatumbakucchidhamanasaṅkhādibhedo anekavidho. Silāti setakāḷamuggavaṇṇādibhedā anekavidhā. Pavāḷampi khuddakamahantarattaghanarattādibhedaṃ anekavidhaṃ. Lohitako padumarāgādibhedo anekavidho. Masāragallaṃ kabaramaṇi. Cittaphalikantipi vadanti. Mahataṃ bhūtānanti mahantānaṃ sattānaṃ. Timi timiṅgalo timitimiṅgaloti tisso macchajātiyo. Timiṃ gilanasamattho timiṅgalo, timiñca timiṅgalañca gilanasamattho timitimiṅgaloti vadanti. Nāgāti ūmipiṭṭhivāsinopi vimānaṭṭhakanāgāpi.
Ngọc trai là nhiều loại ngọc trai, phân biệt theo kích thước nhỏ, lớn, tròn, dài v.v… Ngọc báu là nhiều loại ngọc báu, phân biệt theo màu đỏ, xanh v.v… Lưu ly có nhiều loại, từ hình dạng của màu tre, màu hoa sirīsa v.v… Ốc có nhiều loại, phân biệt như ốc xoắn phải, ốc bầu, ốc tù và v.v… Đá có nhiều loại, phân biệt theo màu trắng, đen, màu đậu xanh v.v… San hô cũng có nhiều loại, phân biệt theo san hô nhỏ, lớn, màu đỏ đậm, đỏ tươi v.v… Ngọc đỏ có nhiều loại, phân biệt như hồng ngọc v.v… Mã não là ngọc nhiều màu. Cũng được gọi là pha lê nhiều màu. Của những chúng sinh lớn là của những chúng sinh to lớn. Timi, timiṅgala, timitimiṅgala là ba loài cá. Có khả năng nuốt cá timi là timiṅgala; có khả năng nuốt cả cá timi và timiṅgala là timitimiṅgalo. Rồng là cả những loài rồng sống trên mặt sóng và những loài rồng sống trong cung điện.

Imasmiṃ dhammavinaye aṭṭhacchariyakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Tám Điều Kỳ Diệu Trong Giáo Pháp Và Giới Luật Này

385.Evamevakhoti kiñcāpi satthā imasmiṃ dhammavinaye soḷasapi bāttiṃsapi tato bhiyyopi acchariyabbhutadhamme vibhajitvā dassetuṃ sakkoti, upamābhāvena pana gahitānaṃ aṭṭhannaṃ anurūpavasena aṭṭheva te upametabbadhamme vibhajitvā dassanto ‘‘evameva kho, bhikkhave, imasmiṃ dhammavinaye aṭṭha acchariyā abbhutā dhammā’’ti āha. Tattha anupubbasikkhāya tisso sikkhā gahitā, anupubbakiriyāya terasa dhutadhammā, anupubbapaṭipadāya satta anupassanā aṭṭhārasa mahāvipassanā aṭṭhatiṃsa ārammaṇavibhattiyo sattatiṃsa bodhipakkhiyadhammā ca gahitā. Na āyatakeneva aññāpaṭivedhoti maṇḍūkassa uppatitvā gamanaṃ viya āditova sīlapūraṇādīni akatvā arahattapaṭivedho nāma natthi, paṭipāṭiyā pana sīlasamādhipaññāyo pūretvāva arahattappattīti attho.
385.Cũng vậy, mặc dù Đức Thế Tôn có thể phân tích và trình bày mười sáu, ba mươi hai hoặc thậm chí nhiều hơn các điều kỳ diệu, phi thường trong Giáo pháp và Giới luật này, nhưng Ngài chỉ phân tích và trình bày tám pháp được ví von đó, tương ứng với tám điều đã được dùng làm ví dụ, khi nói: “Cũng vậy, này các Tỳ-khưu, trong Giáo pháp và Giới luật này có tám điều kỳ diệu, phi thường.” Ở đó, với sự học tập tuần tự, ba học giới được đề cập; với sự thực hành tuần tự, mười ba pháp đầu-đà được đề cập; với con đường tuần tự, bảy pháp tùy quán, mười tám pháp đại quán, ba mươi tám cách phân loại đề mục và ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề được đề cập. Không có sự chứng đắc trí tuệ một cách đột ngột, có nghĩa là không có sự chứng đắc A-la-hán ngay từ đầu mà không thực hành giới v.v…, giống như con ếch nhảy đi, mà chỉ có thể đạt được quả A-la-hán sau khi đã viên mãn giới, định, tuệ một cách tuần tự.

Mamasāvakāti sotāpannādike ariyapuggale sandhāya vadati. Na saṃvasatīti uposathakammādivasena saṃvāsaṃ na karoti. Ukkhipatīti apaneti. Ārakāvāti dūre eva. Tathāgatappavediteti tathāgatena bhagavatā sāvakesu desite akkhāte pakāsite. Na tena nibbānadhātuyā ūnattaṃ vā pūrattaṃ vāti asaṅkhyeyyepi mahākappe buddhesu anuppajjantesu ekasattopi parinibbātuṃ na sakkoti, tadāpi ‘‘tucchā nibbānadhātū’’ti na sakkā vattuṃ, buddhakāle pana ekekasmiṃ samāgame asaṅkhyeyyāpi sattā amataṃ ārādhenti, tadāpi na sakkā vattuṃ ‘‘pūrā nibbānadhātū’’ti. Vimuttirasoti kilesehi vimuccanaraso. Sabbā hi sāsanasampatti yāvadeva anupādāya āsavehi cittassa vimuttīti attho.
Các đệ tử của ta, Ngài nói về các bậc Thánh nhân như Tu-đà-hoàn v.v… Không chung sống, không chung sống qua các Tăng sự như lễ Bố-tát v.v… Loại bỏ là trục xuất. Ở xa là ở rất xa. Được Như Lai thuyết giảng, được Đức Như Lai, bậc Thế Tôn, thuyết giảng, tuyên bố, làm sáng tỏ cho các đệ tử. Không có sự vơi đi hay đầy lên của Niết-bàn giới, ngay cả trong vô số đại kiếp khi các vị Phật không xuất hiện, không một chúng sinh nào có thể nhập Niết-bàn, nhưng khi đó cũng không thể nói “Niết-bàn giới trống rỗng”; còn vào thời Phật, trong mỗi cuộc hội họp, vô số chúng sinh chứng đắc bất tử, nhưng khi đó cũng không thể nói “Niết-bàn giới đã đầy.” Vị giải thoát là vị giải thoát khỏi các phiền não. Toàn bộ sự thành tựu của giáo pháp chỉ nhằm mục đích giải thoát tâm khỏi các lậu hoặc không còn chấp thủ, đó là ý nghĩa.

Ratanānīti ratijananaṭṭhena ratanāni. Satipaṭṭhānādayo hi bhāviyamānā pubbabhāgepi anekavidhaṃ pītipāmojjaṃ nibbattenti, pageva aparabhāge. Vuttañhetaṃ –
Các báu vật là những báu vật vì chúng tạo ra niềm vui. Các pháp như Tứ Niệm Xứ khi được tu tập, ngay cả trong giai đoạn đầu cũng tạo ra nhiều loại hỷ lạc, huống chi là giai đoạn sau. Điều này đã được nói:

‘‘Yato yato sammasati, khandhānaṃ udayabbayaṃ;
Labhatī pītipāmojjaṃ, amataṃ taṃ vijānata’’nti. (dha. pa. 374);
“Khi nào quán chiếu, sự sinh diệt của các uẩn;
Người ấy đạt được hỷ lạc, đó là bất tử của người biết.” (dha. pa. 374);

Lokiyaratananimittaṃ pana pītipāmojjaṃ na tassa kalabhāgampi agghati. Apica –
Tuy nhiên, hỷ lạc do các báu vật thế gian tạo ra không đáng một phần nhỏ của nó. Hơn nữa:

Cittīkataṃ mahagghañca, atulaṃ dullabhadassanaṃ;
Anomasattaparibhogaṃ, ratananti pavuccati. (dī. ni. aṭṭha. 2.33);
Được trân trọng, vô giá, vô song, hiếm thấy;
Được các bậc vô thượng sử dụng, được gọi là báu vật. (dī. ni. aṭṭha. 2.33);

Yadi ca cittīkatādibhāvena ratanaṃ nāma hoti, satipaṭṭhānādīnaññeva bhūto ratanabhāvo. Bodhipakkhiyadhammānañhi so ānubhāvo, yaṃ sāvakā sāvakapāramīñāṇaṃ, paccekasambuddhā paccekabodhiñāṇaṃ, sammāsambuddhā sammāsambodhiṃ adhigacchanti āsannakāraṇattā. Paramparakāraṇañhi dānādiupanissayoti evaṃ ratijananaṭṭhena cittīkatādiatthena ca ratanabhāvo bodhipakkhiyadhammānaṃ sātisayo. Tena vuttaṃ ‘‘tatrimāni ratanāni, seyyathidaṃ – cattāro satipaṭṭhānā’’tiādi.
Và nếu một vật được gọi là báu vật do được trân trọng v.v…, thì chính Tứ Niệm Xứ v.v… mới thực sự là báu vật. Vì đó là uy lực của các pháp trợ Bồ-đề mà các Thanh văn chứng đắc Thanh văn Bồ-đề trí, các vị Độc Giác Phật chứng đắc Độc Giác Bồ-đề trí, và các vị Chánh Đẳng Giác chứng đắc Chánh Đẳng Bồ-đề trí, vì chúng là nhân gần. Còn nhân xa là các nền tảng như bố thí v.v… Như vậy, tính chất báu vật của các pháp trợ Bồ-đề là vượt trội do tạo ra niềm vui và do được trân trọng v.v… Do đó, đã nói: “Ở đây có những báu vật này, đó là – bốn Niệm Xứ” v.v…

Ārammaṇe okkanditvā upaṭṭhānaṭṭhena paṭṭhānaṃ, satiyeva paṭṭhānaṃ satipaṭṭhānaṃ. Ārammaṇassa pana kāyādivasena catubbidhattā vuttaṃ ‘‘cattāro satipaṭṭhānā’’ti. Tathā hi kāyavedanācittadhammesu subhasukhaniccaattasaññānaṃ pahānato asubhadukkhāniccānattabhāvaggahaṇato ca nesaṃ kāyānupassanādibhāvo vibhatto.
Sự trú vững bằng cách hướng vào đề mục được gọi là sự thiết lập, niệm chính là sự thiết lập, gọi là Niệm Xứ. Và do đề mục có bốn loại là thân v.v…, nên đã nói: “bốn Niệm Xứ.” Như vậy, sự phân chia thành quán thân v.v… là do từ bỏ các tưởng về tịnh, lạc, thường, ngã trong thân, thọ, tâm, pháp và nắm bắt bản chất bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã của chúng.

Sammā padahanti etena, sayaṃ vā sammā padahati, pasatthaṃ sundaraṃ vā padahananti sammappadhānaṃ, puggalassa vā sammadeva padhānabhāvakaraṇato sammappadhānaṃ, vīriyassetaṃ adhivacanaṃ. Tampi anuppannuppannānaṃ akusalānaṃ anuppādanapahānavasena anuppannuppannānaṃ kusalānaṃ uppādanaṭhāpanavasena ca catukiccasādhakattā vuttaṃ ‘‘cattāro sammappadhānā’’ti.
Nhờ nó mà người ta nỗ lực chân chánh, hoặc chính nó nỗ lực chân chánh, hoặc là sự nỗ lực cao thượng, tốt đẹp, gọi là Chánh Cần; hoặc vì nó tạo ra sự nỗ lực chân chánh cho cá nhân, gọi là Chánh Cần, đây là một tên gọi khác của tinh tấn. Nó cũng được nói là “bốn Chánh Cần” vì nó hoàn thành bốn nhiệm vụ: không cho các pháp bất thiện chưa sinh khởi được sinh khởi và từ bỏ các pháp bất thiện đã sinh khởi; làm cho các pháp thiện chưa sinh khởi được sinh khởi và duy trì các pháp thiện đã sinh khởi.

Ijjhatīti iddhi, samijjhati nipphajjatīti attho. Ijjhanti tāya vā sattā iddhā vuddhā ukkaṃsagatā hontīti iddhi. Paṭhamena atthena iddhi eva pādo iddhipādo, iddhikoṭṭhāsoti attho. Dutiyena atthena iddhiyā pādo patiṭṭhā adhigamupāyoti iddhipādo. Tena hi uparūparivisesasaṅkhātaṃ iddhiṃ pajjanti pāpuṇanti. Svāyaṃ iddhipādo yasmā chandādike cattāro adhipatidhamme dhure jeṭṭhake katvā nibbattīyati, tasmā vuttaṃ ‘‘cattāro iddhipādo’’ti.
Thành tựu được gọi là thần thông, có nghĩa là thành công, hoàn thành. Hoặc nhờ nó mà các chúng sinh trở nên thành tựu, tăng trưởng, đạt đến sự ưu việt, gọi là thần thông. Theo nghĩa thứ nhất, chính thần thông là nền tảng, gọi là Thần Túc, có nghĩa là phần của thần thông. Theo nghĩa thứ hai, nền tảng của thần thông là sự thiết lập, là phương tiện để chứng đắc, gọi là Thần Túc. Nhờ đó, họ tiến đến, đạt được thần thông được gọi là các sự thù thắng cao hơn. Thần Túc này, vì được tạo ra bằng cách lấy bốn pháp chủ đạo là dục v.v… làm đầu, làm chính, nên đã nói: “bốn Thần Túc.”

Pañcindriyānīti saddhādīni pañca indriyāni. Tattha assaddhiyaṃ abhibhavitvā adhimokkhalakkhaṇe indaṭṭhaṃ kāretīti saddhā indriyaṃ. Kosajjaṃ abhibhavitvā paggahalakkhaṇe, pamādaṃ abhibhavitvā upaṭṭhānalakkhaṇe, vikkhepaṃ abhibhavitvā avikkhepalakkhaṇe, aññāṇaṃ abhibhavitvā dassanalakkhaṇe indaṭṭhaṃ kāretīti paññā indriyaṃ.
Năm Căn là năm căn: tín, v.v… Trong đó, tín căn được gọi là căn vì nó thực hiện chức năng của quyền năng trong đặc tính quyết đoán, chế ngự sự vô tín. Tuệ căn được gọi là căn vì nó thực hiện chức năng của quyền năng trong đặc tính thấy rõ, chế ngự sự vô minh; cũng như tinh tấn trong đặc tính khởi xướng, chế ngự sự lười biếng; niệm trong đặc tính an trú, chế ngự sự phóng dật; định trong đặc tính không tán loạn, chế ngự sự tán loạn.

Tāniyeva assaddhiyādīhi anabhibhavanīyato akampiyaṭṭhena sampayuttadhammesu thirabhāvena ca balāni veditabbāni.
Chính những pháp đó, do không bị sự vô tín v.v… khuất phục, do không bị lay chuyển và do sự vững chắc trong các pháp tương ưng, nên được biết là năm lực.

Satta bojjhaṅgāti bodhiyā, bodhissa vā aṅgāti bojjhaṅgā. Yā hi esā dhammasāmaggī, yāya lokuttaramaggakkhaṇe uppajjamānāya līnuddhaccapatiṭṭhānāyūhanakāmasukhattakilamathānuyogaucchedasassatābhinivesādīnaṃ anekesaṃ upaddavānaṃ paṭipakkhabhūtāya satidhammavicayavīriyapītipassaddhisamādhiupekkhāsaṅkhātāya dhammasāmaggiyā ariyasāvako bujjhati kilesaniddāya uṭṭhahati, cattāri vā ariyasaccāni paṭivijjhati, nibbānameva vā sacchikarotīti ‘‘bodhī’’ti vuccati, tassā dhammasāmaggisaṅkhātāya bodhiyā aṅgāti bojjhaṅgā jhānaṅgamaggaṅgādayo viya. Yopesa vuttappakārāya dhammasāmaggiyā bujjhatīti katvā ariyasāvako ‘‘bodhī’’ti vuccati, tassa bodhissa vā aṅgātipi bojjhaṅgā senaṅgarathaṅgādayo viya. Tenāhu porāṇā ‘‘bujjhanakassa puggalassa aṅgāti bojjhaṅgā’’ti (saṃ. ni. aṭṭha. 3.5.182; vibha. aṭṭha. 466; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.25), ‘‘bodhāya saṃvattantīti bojjhaṅgā’’tiādinā (paṭi. ma. 2.17) nayenapi bojjhaṅgaṭṭho veditabbo.
Bảy Giác Chi là các chi phần của sự giác ngộ, của Bồ-đề, gọi là Giác Chi. Sự hợp nhất của các pháp này, nhờ đó mà bậc Thánh đệ tử giác ngộ, thức tỉnh khỏi giấc ngủ phiền não, hoặc thấu suốt Tứ Thánh Đế, hoặc chứng ngộ chính Niết-bàn, khi nó khởi lên trong khoảnh khắc của đạo lộ siêu thế, đối trị với nhiều tai họa như sự chìm đắm, trạo cử, sự chấp thủ vào vị trí, sự nỗ lực, sự hưởng thụ dục lạc và khổ hạnh, sự đoạn kiến và thường kiến v.v…, sự hợp nhất của các pháp được gọi là niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả, được gọi là “sự giác ngộ”; các chi phần của sự giác ngộ được gọi là Giác Chi, giống như các chi phần của thiền, chi phần của đạo lộ. Hoặc, bậc Thánh đệ tử được gọi là “người giác ngộ” vì đã giác ngộ nhờ sự hợp nhất của các pháp đã nói; các chi phần của sự giác ngộ đó cũng là Giác Chi, giống như các chi phần của quân đội, chi phần của cỗ xe. Do đó, các bậc cổ đức đã nói: “Các chi phần của người đang giác ngộ là Giác Chi” (saṃ. ni. aṭṭha. 3.5.182; vibha. aṭṭha. 466; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.25), và ý nghĩa của Giác Chi cũng nên được hiểu theo cách “chúng dẫn đến sự giác ngộ, nên gọi là Giác Chi” (paṭi. ma. 2.17).

Ariyo aṭṭhaṅgiko maggoti taṃtaṃmaggavajjhehi kilesehi ārakattā ariyabhāvakarattā ariyaphalapaṭilābhakarattā ca ariyo. Sammādiṭṭhiādīni aṭṭhaṅgāni assa atthi, aṭṭhaṅgāniyeva vā aṭṭhaṅgiko. Mārento kilese gacchati, nibbānatthikehi vā maggīyati, sayaṃ vā nibbānaṃ maggatīti maggoti evametesaṃ satipaṭṭhānādīnaṃ atthavibhāgo veditabbo.
Bát Chánh Đạo, được gọi là thánh vì xa lìa các phiền não cần phải từ bỏ bởi từng đạo lộ tương ứng, vì tạo ra trạng thái thánh thiện, vì giúp chứng đắc quả vị thánh. Có tám chi phần là chánh kiến v.v…, hoặc chính là tám chi phần, gọi là bát chi. Giết chết các phiền não mà đi, hoặc được những người tìm cầu Niết-bàn tìm kiếm, hoặc chính nó tìm đến Niết-bàn, gọi là đạo. Việc phân tích ý nghĩa của các pháp như Tứ Niệm Xứ v.v… nên được hiểu như vậy.

Sotāpannoti maggasaṅkhātaṃ sotaṃ āpajjitvā pāpuṇitvā ṭhito, sotāpattiphalaṭṭhoti attho. Sotāpattiphalasacchikiriyāya paṭipannoti sotāpattiphalassa attapaccakkhakaraṇatthāya paṭipajjamāno paṭhamamaggaṭṭho , yo aṭṭhamakotipi vuccati. Sakadāgāmīti sakideva imaṃ lokaṃ paṭisandhiggahaṇavasena āgamanasīlo dutiyaphalaṭṭho. Anāgāmīti paṭisandhiggahaṇavasena kāmalokaṃ anāgamanasīlo tatiyaphalaṭṭho. Yo pana saddhānusārī dhammānusārī ekabījīti evamādiko ariyapuggalavibhāgo, so tesaṃyeva bhedoti. Sesaṃ vuttanayameva.
Tu-đà-hoàn là người đã đạt đến, đã đến được dòng chảy được gọi là đạo lộ, có nghĩa là người ở quả vị Tu-đà-hoàn. Người đang thực hành để chứng ngộ quả Tu-đà-hoàn là người đang thực hành để tự mình chứng ngộ quả Tu-đà-hoàn, tức là người ở đạo lộ đầu tiên, cũng được gọi là bậc thứ tám. Tư-đà-hàm là người có thói quen trở lại thế giới này một lần nữa qua việc tái sanh, tức là người ở quả vị thứ hai. A-na-hàm là người không có thói quen trở lại cõi Dục qua việc tái sanh, tức là người ở quả vị thứ ba. Còn sự phân loại các bậc Thánh nhân như Tùy Tín Hành, Tùy Pháp Hành, Nhất Chủng Tử v.v… là sự phân chia của chính những vị đó. Phần còn lại có ý nghĩa như đã nói.

Etamatthaṃ viditvāti etaṃ attano dhammavinaye matakuṇapasadisena dussīlapuggalena saddhiṃ saṃvāsābhāvasaṅkhātaṃ atthaṃ viditvā. Imaṃ udānanti imaṃ asaṃvāsārahasaṃvāsārahabhāvānaṃ kāraṇaparidīpanaṃ udānaṃ udānesi.
Sau khi biết được ý nghĩa này, sau khi biết được ý nghĩa về việc không chung sống với người ác giới giống như xác chết trong Giáo pháp và Giới luật của mình. Lời cảm hứng này, Ngài đã thốt lên lời cảm hứng này, lời cảm hứng làm sáng tỏ nguyên nhân của việc đáng và không đáng chung sống.

Tattha channamativassatīti āpattiṃ āpajjitvā paṭicchādento aññaṃ navaṃ āpattiṃ
Ở đó, che giấu thì mưa không ngớt có nghĩa là khi phạm một tội rồi che giấu, người đó lại phạm một tội mới khác.

Āpajjati, tato aparanti evaṃ āpattivassaṃ kilesavassaṃ ativiya vassati. Vivaṭaṃ nātivassatīti āpattiṃ āpanno taṃ appaṭicchādetvā vivaranto sabrahmacārīnaṃ pakāsento yathādhammaṃ yathāvinayaṃ paṭikaronto desento vuṭṭhahanto aññaṃ navaṃ āpattiṃ nāpajjati, tenassa taṃ vivaṭaṃ puna āpattivassaṃ kilesavassaṃ na vassati. Yasmā ca etadeva, tasmā channaṃ chāditaṃ āpattiṃ vivaretha. Evaṃ taṃ nātivassatīti evaṃ sante taṃ āpattiṃ āpajjanapuggalānaṃ attabhāvaṃ ativijjhitvā kilesavassanena na vassati na temeti, evaṃ so kilesehi anavassuto parisuddhasīlo samāhito hutvā vipassanaṃ paṭṭhapetvā sammasanto anukkamena nibbānaṃ pāpuṇātīti adhippāyo.
Rồi lại phạm tội khác, cứ như thế, cơn mưa tội lỗi, cơn mưa phiền não trút xuống không ngớt. Mở ra thì không mưa không ngớt, khi phạm tội mà không che giấu, mà mở ra, thổ lộ với các bạn đồng phạm hạnh, khắc phục theo đúng Pháp, đúng Luật, sám hối, xuất tội, người đó không phạm một tội mới khác, do đó, sự mở ra ấy không làm cho cơn mưa tội lỗi, cơn mưa phiền não trút xuống nữa. Và chính vì điều này, nên hãy mở ra tội lỗi đã che giấu. Như vậy nó không mưa không ngớt, khi làm như vậy, cơn mưa phiền não không trút xuống, không thấm đẫm bản thể của những người phạm tội đó bằng cách xuyên thấu nó; như vậy, người đó không bị phiền não làm ướt, có giới hạnh trong sạch, có tâm định tĩnh, thiết lập tuệ quán, quán chiếu và tuần tự đạt đến Niết-bàn, đó là chủ ý.

Imasmiṃ dhammavinaye aṭṭhacchariyakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích về tám điều kỳ diệu trong Giáo pháp và Giới luật này đã kết thúc.

Pātimokkhasavanārahakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Việc Người Thích Hợp Được Nghe Giới Bổn

386. Atha bhagavā cintesi ‘‘idāni bhikkhusaṅghe abbudo jāto, aparisuddhā puggalā uposathaṃ āgacchanti, na ca tathāgato aparisuddhāya parisāya uposathaṃ uddisati, anuddisante ca bhikkhusaṅghassa uposatho pacchijjati, yannūnāhaṃ ito paṭṭhāya bhikkhūnaññeva pātimokkhuddesaṃ anujāneyya’’nti, evaṃ pana cintetvā bhikkhūnaññeva pātimokkhuddesaṃ anujāni . Tena vuttaṃ ‘‘atha kho bhagavā…pe… pātimokkhaṃ uddiseyyāthā’’ti. Tattha nadānāhanti na idāni ahaṃ. Uposathaṃ na karissāmi, pātimokkhaṃ na uddisissāmīti paccekaṃ na-kārena sambandho. Duvidhaṃ pātimokkhaṃ āṇāpātimokkhaṃ ovādapātimokkhanti. Tesu ‘‘suṇātu me bhante’’tiādikaṃ āṇāpātimokkhaṃ, taṃ sāvakāva uddisanti, na buddhā, yaṃ anvaddhamāsaṃ uddisīyati. ‘‘Khantī paramaṃ…pe… sabbapāpassa akaraṇaṃ…pe… anupavādo anupaghāto…pe… etaṃ buddhāna sāsana’’nti (dī. ni. 2.90; dha. pa. 183-185) imā pana tisso gāthā ovādapātimokkhaṃ nāma, taṃ buddhāva uddisanti, na sāvakā. Channampi vassānaṃ accayena uddisanti. Dīghāyukabuddhānañhi dharamānakāle ayameva pātimokkhuddeso, appāyukabuddhānaṃ pana paṭhamabodhiyaṃyeva, tato paraṃ itaro, tañca kho bhikkhū eva uddisanti, na buddhā. Tasmā amhākampi bhagavā vīsativassamattaṃ imaṃ ovādapātimokkhaṃ uddisitvā imaṃ antarāyaṃ disvā tato paraṃ na uddisi.
386. Bấy giờ, Đức Thế Tôn suy nghĩ: “Nay trong Tăng chúng đã phát sinh một ung nhọt, có những kẻ không trong sạch đến dự lễ Bố-tát, mà Như Lai thì không thuyết Giới Bổn cho một hội chúng không trong sạch. Nếu không thuyết thì lễ Bố-tát của Tăng chúng sẽ bị gián đoạn. Vậy, Ta hãy cho phép chính các Tỳ-khưu được tụng đọc Giới Bổn từ nay về sau.” Sau khi suy nghĩ như vậy, Ngài đã cho phép chính các Tỳ-khưu được tụng đọc Giới Bổn. Do đó, đã có lời dạy: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn… … các ngươi hãy tụng đọc Giới Bổn.” Ở đó, Ta sẽ không có nghĩa là “bây giờ Ta sẽ không.” Việc liên kết với từ không nên được hiểu riêng cho từng trường hợp: Ta sẽ không làm lễ Bố-tát, Ta sẽ không tụng đọc Giới Bổn. Giới Bổn có hai loại: Giới Bổn mệnh lệnh và Giới Bổn giáo giới. Trong đó, phần bắt đầu bằng “Bạch Đại đức Tăng, xin hãy lắng nghe con” là Giới Bổn mệnh lệnh, chỉ có các đệ tử tụng đọc, chứ không phải các vị Phật, và được tụng mỗi nửa tháng. Còn ba kệ này: “Nhẫn nại là khổ hạnh tối cao… không làm các điều ác… không phỉ báng, không hãm hại… đó là lời dạy của các vị Phật” (dī. ni. 2.90; dha. pa. 183-185) được gọi là Giới Bổn giáo giới, chỉ có các vị Phật tụng đọc, chứ không phải các đệ tử. Các ngài tụng đọc sau mỗi sáu năm. Đối với các vị Phật có tuổi thọ dài, trong thời gian các ngài tại thế, đây chính là việc tụng đọc Giới Bổn. Còn đối với các vị Phật có tuổi thọ ngắn, thì chỉ trong giai đoạn giác ngộ đầu tiên, sau đó là loại Giới Bổn kia, và loại đó chỉ do các Tỳ-khưu tụng đọc, không phải các vị Phật. Do đó, Đức Thế Tôn của chúng ta cũng đã tụng đọc Giới Bổn giáo giới này trong khoảng hai mươi năm, và sau khi thấy trở ngại này, Ngài đã không tụng đọc nữa.

Aṭṭhānanti akāraṇaṃ. Anavakāsoti tasseva vevacanaṃ. Kāraṇañhi tiṭṭhati ettha phalaṃ tadāyattavuttitāyāti ‘‘ṭhāna’’nti vuccati, evaṃ ‘‘avakāso’’tipi vuccati. Yanti kiriyāparāmasanaṃ. Na ca, bhikkhave, sāpattikena pātimokkhaṃ sotabbantiādi padatthato suviññeyyaṃ. Vinicchayato panettha yaṃ vattabbaṃ, taṃ aṭṭhakathāya vuttameva. Tattha pure vā pacchā vāti ñattito pubbe vā pacchā vā.
Không phải là trường hợp có nghĩa là không phải là nguyên nhân. Không phải là cơ hội là từ đồng nghĩa của nó. Vì kết quả nương vào đó, tồn tại dựa vào đó, nên nguyên nhân được gọi là “trường hợp,” cũng được gọi là “cơ hội.” Điều mà là sự ám chỉ đến hành động. Này các Tỳ-khưu, người có tội không được nghe Giới Bổn v.v… về mặt từ ngữ thì rất dễ hiểu. Về phần phân xử, những gì cần nói đã được nói trong Chú giải. Ở đó, trước hoặc sau có nghĩa là trước hoặc sau khi tuyên bố.

Dhammikādhammikapātimokkhaṭṭhapanakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Việc Đình Chỉ Giới Bổn Hợp Pháp Và Không Hợp Pháp

387.Katañca akatañca ubhayaṃ gahetvāti yassa ekantena katāpi atthi, akatāpi atthi, tassa tadubhayaṃ gahetvā.
387.Lấy cả hai, việc đã làm và chưa làm, đối với người mà chắc chắn có cả việc đã làm và việc chưa làm, thì lấy cả hai điều đó.

Dhammikapātimokkhaṭṭhapanakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Việc Đình Chỉ Giới Bổn Hợp Pháp

389.Parisāvuṭṭhātīti yasmiṃ vatthusmiṃ pātimokkhaṃ ṭhapitaṃ, taṃ vatthuṃ avinicchinitvā kenaci antarāyena vuṭṭhāti.
389.Hội chúng đứng dậy là khi vấn đề mà vì đó Giới Bổn bị đình chỉ chưa được giải quyết, hội chúng đã đứng dậy vì một trở ngại nào đó.

393.Paccādiyatīti pati ādiyati, ‘‘akataṃ kamma’’ntiādinā puna ārabhatīti attho.
393.Bắt đầu lại có nghĩa là bắt đầu lại bằng cách nói “việc chưa được làm” v.v…

Attādānaaṅgakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Yếu Tố Tự Mình Đảm Nhận

398. Paraṃ codetuṃ attanā ādātabbaṃ gahetabbaṃ adhikaraṇaṃ attādānaṃ. Tenāha ‘‘sāsanaṃ sodhetukāmo’’tiādi. Vassārattoti vassakālo.
398. Việc tự mình đảm nhận, tự mình gánh vác trách nhiệm để chỉ trích người khác gọi là sự tự mình đảm nhận. Do đó, Ngài nói: “muốn thanh lọc giáo pháp” v.v… Mùa mưa là thời gian mùa mưa.

Codakena paccavekkhitabbadhammakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Các Pháp Người Cáo Giác Cần Quán Xét

399.Paṭimāsitunti parāmasituṃ. Palibodhe chinditvā…pe… adhigataṃ mettacittanti iminā appanāppattaṃ mettābhāvanaṃ dasseti. Tenevāha ‘‘vikkhambhanavasena vihatāghāta’’nti.
399.Để xem xét có nghĩa là để cân nhắc. Sau khi cắt đứt các chướng ngại… … tâm từ đã đạt được, bằng câu này, Ngài chỉ ra sự tu tập tâm từ đã đạt đến cấp độ an chỉ định. Chính vì thế Ngài nói: “sân hận đã được loại bỏ bằng cách trấn áp.”

Codakena upaṭṭhāpetabbadhammakathāvaṇṇanā
Giải Thích Về Các Pháp Người Cáo Giác Cần Thiết Lập

400.No dosantaroti ettha cittapariyāyo antara-saddoti āha ‘‘na duṭṭhacitto hutvā’’ti.
400.Không có tâm sân hận, ở đây, từ tâm là một cách dùng khác của từ antara, nên Ngài nói: “không phải với tâm thù hận.”

Codakacuditakapaṭisaṃyuttakathāvaṇṇanā
Giải Thích Liên Quan Đến Người Cáo Giác Và Người Bị Cáo Giác

401.Karuṇanti appanāppattaṃ karuṇajjhānaṃ. Karuṇāpubbabhāganti parikammupacāravasappavattaṃ karuṇaṃ. Mettañca mettāpubbabhāgañcāti etthāpi eseva nayo. Sesamettha suviññeyyamevāti.
401.Lòng bi là bi thiền đã đạt đến cấp độ an chỉ định. Giai đoạn đầu của lòng bi là lòng bi diễn ra trong giai đoạn chuẩn bị và cận hành. Tâm từ và giai đoạn đầu của tâm từ, ở đây cũng theo phương pháp tương tự. Phần còn lại ở đây đều dễ hiểu.

Pātimokkhaṭṭhapanakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích Phẩm Nói Về Sự Thiết Lập Việc Tụng Giới Pātimokkha Trong Tăng Đoàn đã kết thúc.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang