Trí Tuệ Kim Cương

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Trí Tuệ Kim Cương – Lời Mở Đầu

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa

Con xin hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, đấng Chánh Đẳng Chánh Giác

Vinayapiṭake

Trong Tạng Luật

Vajirabuddhi-ṭīkā

Phụ Chú Giải Vajirabuddhi

Ganthārambhakathā

Lời Nói Đầu

Paññāvisuddhāya dayāya sabbe;
Vimocitā yena vineyyasattā;
Taṃ cakkhubhūtaṃ sirasā namitvā;
Lokassa lokantagatassa dhammaṃ.
Bằng trí tuệ thanh tịnh và lòng bi mẫn, tất cả;
Chúng sanh cần được giáo hóa đã được Ngài giải thoát;
Con xin cúi đầu đảnh lễ bậc đã trở thành con mắt;
Của thế gian, bậc đã đi đến tận cùng thế gian, và Pháp của Ngài.

Saṅghañca sīlādiguṇehi yutta-
Mādāya sabbesu padesu sāraṃ;
Saṅkhepakāmena mamāsayena;
Sañcodito bhikkhuhitañca disvā.
Tăng chúng, những vị có đủ các đức tính như giới,
Sau khi đã thâu tóm cốt tủy từ mọi nơi;
Với ý muốn tóm lược của con;
Được thôi thúc và thấy được lợi ích cho các Tỳ-khưu.

Samantapāsādikasaññitāya ;
Sambuddhaghosācariyoditāya;
Samāsato līnapade likhissaṃ;
Samāsato līnapade likhītaṃ.
Từ bộ được gọi là Samantapāsādikā;
Do Trưởng lão Buddhaghosa nói ra;
Con sẽ viết một cách tóm tắt về những từ ngữ ẩn sâu;
Đã được viết một cách tóm tắt về những từ ngữ ẩn sâu.

Saññā nimittaṃ kattā ca, parimāṇaṃ payojanaṃ;
Sabbāgamassa pubbeva, vattabbaṃ vattumicchatāti. –
Tên gọi, dấu hiệu, tác giả, và quy mô, mục đích;
Của toàn bộ Thánh điển, trước tiên, điều nên nói là mong muốn được nói. –

Vacanato samantapāsādiketi saññā. Dīpantare bhikkhujanassa atthaṃ nābhisambhuṇātīti nimittaṃ. Buddhaghosoti garūhi gahitanāmadheyyenāti kattā. Samadhikasattavīsatisahassamattena tassa ganthenāti parimāṇaṃ. Ciraṭṭhitatthaṃ dhammassāti payojanaṃ.
Theo lời nói, Samantapāsādike là tên gọi. Vì lợi ích của Tỳ-khưu ở các hòn đảo khác không thể thấu hiểu được là dấu hiệu. Bởi Trưởng lão có tên gọi Buddhaghosa do các vị thầy đặt cho là tác giả. Với số lượng câu kệ là hai mươi bảy ngàn lẻ là quy mô. Vì sự trường tồn của Giáo pháp là mục đích.

Tatrāha – ‘‘vattabbaṃ vattumicchatāti yaṃ vuttaṃ, tattha kathaṃvidho vattā’’ti? Uccate –
Về điều đó, vị ấy nói – “Điều đã được nói là ‘mong muốn nói điều nên nói,’ ở đây người nói là người như thế nào?” Được nói rằng –

Pāṭhatthavidūsaṃhīro, vattā suci amaccharo;
Catukkamapariccāgī, desakassa hitussukoti. (mahāni. aṭṭha. ganthārambhakathā);
Người am hiểu văn bản và ý nghĩa, không dao động, là người nói, trong sạch, không keo kiệt;
Không từ bỏ bốn phương pháp, quan tâm đến lợi ích của người thuyết giảng. (mahāni. aṭṭha. ganthārambhakathā);

Tatra paṭhīyateti pāṭho. So hi anekappakāro atthānurūpo atthānanurūpo ceti. Kathaṃ? Sandhāyabhāsito byañjanabhāsito sāvasesapāṭho niravasesapāṭho nīto neyyoti. Tatra anekatthavattā sandhāyabhāsito nāma ‘‘mātaraṃ pitaraṃ hantvā’’tiādi (dha. pa. 294). Ekatthavattā byañjanabhāsito nāma ‘‘manopubbaṅgamā dhammā’’tyādi (dha. pa. 1, 2; netti. 90, 92; peṭako. 14). Sāvaseso nāma ‘‘sabbaṃ, bhikkhave, āditta’’mityādi (mahāva. 54; saṃ. ni. 4.28). Viparīto niravaseso nāma ‘‘sabbe dhammā sabbākārena buddhassa bhagavato ñāṇamukhe āpāthaṃ āgacchantī’’tyādi (mahāni. 156; paṭi. ma. 3.5). Yathā vacanaṃ, tathā avagantabbo nīto nāma ‘‘aniccaṃ dukkhamanattā’’tyādi. Yuttiyā anussaritabbo neyyo nāma ‘‘ekapuggalo, bhikkhave’’tyādi (a. ni. 1.170).
Ở đây, điều được đọc gọi là văn bản. Nó có nhiều loại: phù hợp với ý nghĩa và không phù hợp với ý nghĩa. Như thế nào? Là nói có ẩn ý, nói theo văn tự, bài kinh còn thiếu sót, bài kinh đầy đủ, ý nghĩa được dẫn ra, ý nghĩa cần suy diễn. Trong đó, có nhiều ý nghĩa được gọi là nói có ẩn ý như “sau khi giết mẹ cha” v.v.. (dha. pa. 294). Có một ý nghĩa được gọi là nói theo văn tự như “các pháp lấy ý dẫn đầu” v.v.. (dha. pa. 1, 2; netti. 90, 92; peṭako. 14). Được gọi là còn thiếu sót như “này các Tỳ-khưu, tất cả đều bốc cháy” v.v.. (mahāva. 54; saṃ. ni. 4.28). Ngược lại là đầy đủ, được gọi là “tất cả các pháp, bằng mọi cách, đều hiện đến trước cửa trí tuệ của Đức Phật, bậc Thế Tôn” v.v.. (mahāni. 156; paṭi. ma. 3.5). Điều cần được hiểu theo đúng lời nói được gọi là ý nghĩa được dẫn ra như “vô thường, khổ, vô ngã” v.v.. Điều cần được suy xét theo lý luận được gọi là ý nghĩa cần suy diễn như “này các Tỳ-khưu, có một hạng người” v.v.. (a. ni. 1.170).

Atthopi anekappakāro pāṭhattho sabhāvattho ñeyyattho pāṭhānurūpo pāṭhānanurūpo sāvasesattho niravasesattho nītattho neyyatthotyādi. Tattha yo taṃtaṃsaññāpanatthamuccārīyate pāṭho, sa pāṭhattho ‘‘sātthaṃ sabyañjana’’mityādīsu (pārā. 1; dī. ni. 1.190) viya. Rūpārūpadhammānaṃ lakkhaṇarasādi sabhāvattho ‘‘sammādiṭṭhiṃ bhāvetī’’tyādīsu (vibha. 489; saṃ. ni. 5.3) viya. Yo ñāyamāno hitāya bhavati, sa ñātumarahattā ñeyyattho ‘‘atthavādī dhammavādī’’tyevamādīsu (dī. ni. 1.9, 194; 3.238; ma. ni. 1.411) viya. Yathāpāṭhaṃ bhāsito pāṭhānurūpo ‘‘cakkhu, bhikkhave, purāṇakamma’’nti (saṃ. ni. 4.146) bhagavatā vuttamato cakkhumapi kammanti. Byañjanacchāyāya atthaṃ paṭibāhayamānena vutto pāṭhānanurūpo. Vajjetabbaṃ kiñci apariccajitvā parisesaṃ katvā vutto sāvasesattho ‘‘cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjatī’’ti (saṃ. ni. 4.60; mahāni. 107) ca, ‘‘sabbe tasanti daṇḍassa, sabbe bhāyanti maccuno’’tyādīsu (dha. pa. 129) viya. Viparīto niravasesattho ‘‘sandhāvitaṃ saṃsaritaṃ mamañceva tumhākañca (dī. ni. 2.155; mahā. 287; netti. 114). Tatra, bhikkhave, ko mantā ko saddhātā…pe… aññatra diṭṭhapadehī’’tyādi (a. ni. 7.66). Saddavaseneva vedanīyo nītattho ‘‘rūpā saddā rasā gandhā, phoṭṭhabbā ca manoramā’’tyādīsu (saṃ. ni. 1.151, 165; mahāva. 33) viya. Sammutivasena veditabbo neyyattho ‘‘cattārome, bhikkhave, valāhakūpamāpuggalā’’tyādīsu viya (a. ni. 4.101; pu. pa. 157). Āha ca –
Ý nghĩa cũng có nhiều loại: ý nghĩa của văn bản, ý nghĩa về tự tánh, ý nghĩa cần được biết, phù hợp với văn bản, không phù hợp với văn bản, ý nghĩa còn thiếu sót, ý nghĩa đầy đủ, ý nghĩa được dẫn ra, ý nghĩa cần suy diễn, v.v.. Trong đó, văn bản được phát biểu để chỉ định điều này điều kia, đó là ý nghĩa của văn bản, như trong các câu “có ý nghĩa, có văn tự” v.v.. (pārā. 1; dī. ni. 1.190). Tướng, vị v.v. của các pháp sắc và phi sắc là ý nghĩa về tự tánh, như trong các câu “tu tập chánh kiến” v.v.. (vibha. 489; saṃ. ni. 5.3). Điều gì khi được biết sẽ đem lại lợi ích, vì đáng được biết nên là ý nghĩa cần được biết, như trong các câu “người nói điều lợi ích, người nói Pháp” v.v.. (dī. ni. 1.9, 194; 3.238; ma. ni. 1.411). Điều được nói theo đúng văn bản là phù hợp với văn bản, như lời Đức Thế Tôn dạy “này các Tỳ-khưu, con mắt là nghiệp cũ” (saṃ. ni. 4.146), nên con mắt cũng là nghiệp. Điều được nói bởi người che giấu ý nghĩa dưới bóng văn tự là không phù hợp với văn bản. Điều được nói sau khi để lại một phần nào đó cần tránh mà không từ bỏ hoàn toàn là ý nghĩa còn thiếu sót, như “do duyên con mắt và các sắc mà phát sinh” (saṃ. ni. 4.60; mahāni. 107) và “mọi người đều sợ hãi hình phạt, mọi người đều sợ hãi cái chết” v.v.. (dha. pa. 129). Ngược lại là ý nghĩa đầy đủ, như “sự trôi lăn, luân hồi của ta và của các ngươi (dī. ni. 2.155; mahā. 287; netti. 114). Ở đây, này các Tỳ-khưu, ai là người suy tư, ai là người có đức tin…đến… ngoại trừ những bậc đã thấy các पद?” v.v.. (a. ni. 7.66). Điều cần được biết chỉ qua âm thanh là ý nghĩa được dẫn ra, như trong các câu “sắc, thanh, hương, vị, xúc khả ái” v.v.. (saṃ. ni. 1.151, 165; mahāva. 33). Điều cần được hiểu theo quy ước là ý nghĩa cần suy diễn, như trong các câu “này các Tỳ-khưu, có bốn hạng người ví như mây” v.v.. (a. ni. 4.101; pu. pa. 157). Và Ngài đã nói:

‘‘Yo attho saddato ñeyyo, nītatthaṃ iti taṃ vidū;
Atthassevābhisāmaggī, neyyattho iti kathyate’’ti.
“Ý nghĩa nào được biết từ lời nói, các bậc hiền trí biết đó là ý nghĩa được dẫn ra;
Sự hòa hợp của chính ý nghĩa, được gọi là ý nghĩa cần suy diễn.”

Evaṃ pabhedagate pāṭhatthe vijānātīti pāṭhatthavidū. Na saṃhīrate parapavādīhi dīgharattaṃ titthavāsenetyasaṃhīro. Bhāvanāyāgamādhigamasampannattā vattuṃ sakkotīti vattā, saṅkhepavitthāranayena hetudāharaṇādīhi avabodhayituṃ samatthotyattho. Socayatyattānaṃ pare ceti suci, dussīlyaduddiṭṭhimalavirahitotyattho. Dussīlo hi attānamupahantunādeyyavāco ca bhavatyapattāhārācāro iva niccāturo vejjo. Duddiṭṭhi paraṃ upahanti, nāvassaṃ nissayo ca bhavatyahivāḷagahākulo iva kamalasaṇḍo. Ubhayavipanno sabbathāpyanupāsanīyo bhavati gūthagatamiva chavālātaṃ gūthagato viya ca kaṇhasappo. Ubhayasampanno pana suci sabbathāpyupāsanīyo sevitabbo ca viññūhi, nirupaddavo iva ratanākaro. Nāssa maccharotyamaccharo, ahīnācariyamuṭṭhītyattho. Suttasuttānulomācariyavādaattanomatisaṅkhātassa catukkassāpariccāgī, tadatthasseva byākhyātetyattho. Atha vā paccakkhānumānasaddatthāpattippabhedassa pamāṇacatukkassāpariccāgī.
Người biết rõ văn bản và ý nghĩa đã được phân loại như vậy là người am hiểu văn bản và ý nghĩa. Không bị dao động bởi các luận thuyết của người khác sau một thời gian dài ở trong các tư tưởng khác, đó là không dao động. Vì có đầy đủ sự tu tập, sự học hỏi và sự chứng ngộ nên có thể nói, đó là người nói, nghĩa là có khả năng làm cho người khác hiểu bằng các phương pháp tóm tắt, chi tiết, với các ví dụ về nhân quả v.v.. Làm cho mình và người khác trong sạch, đó là trong sạch, nghĩa là không có các uế nhiễm của sự vô giới và tà kiến. Người vô giới tự làm hại mình và lời nói không được chấp nhận, giống như một thầy thuốc luôn bệnh tật vì ăn uống không đúng cách. Người có tà kiến làm hại người khác, không phải là nơi nương tựa chắc chắn, giống như một đám sen đầy rắn độc. Người có cả hai khuyết điểm thì hoàn toàn không nên gần gũi, giống như một khúc củi cháy dở trong đống phân, hay như một con rắn hổ mang trong đống phân. Nhưng người có đủ cả hai phẩm chất trong sạch thì hoàn toàn nên gần gũi, được các bậc hiền trí phụng sự, giống như một kho báu không có hiểm nguy. Không có sự keo kiệt, đó là không keo kiệt, nghĩa là không có nắm tay của vị thầy che giấu. Không từ bỏ bốn pháp được gọi là kinh, tương ưng kinh, lời thầy và tự kiến, nghĩa là chỉ giải thích ý nghĩa của chúng. Hoặc là không từ bỏ bốn loại thẩm quyền là hiện lượng, tỷ lượng, thánh ngôn và nghĩa suy.

‘‘Ekaṃsavacanaṃ ekaṃ, vibhajjavacanāparaṃ;
Tatiyaṃ paṭipuccheyya, catutthaṃ pana ṭhāpaye’’ti. –
“Một là lời nói một chiều, hai là lời nói phân tích;
Thứ ba nên hỏi lại, và thứ tư thì nên gác lại.” –

Evaṃ vuttacatukkassa vā apariccāgī; Hitussuko iti sotūnaṃ hitāyossuko, tesamavabodhanaṃ pati patthetī tyattho; So eso sucittā piyo; Catukkassa apariccāgittā garu; Asaṃhīrattā bhāvanīyo; Desakattā vattā; Hitussukattā vacanakkhamo; Pāṭhatthaviduttā gambhīrakathaṃ kattā; Amaccharattā no caṭṭhāne niyojakoti;
Hoặc là không từ bỏ bốn điều đã được nói như vậy; Quan tâm đến lợi ích là quan tâm đến lợi ích của người nghe, nghĩa là mong muốn cho họ được giác ngộ; Vị ấy vì trong sạch nên được yêu mến; Vì không từ bỏ bốn pháp nên được kính trọng; Vì không dao động nên đáng được tu tập theo; Vì là người thuyết giảng nên là người nói; Vì quan tâm đến lợi ích nên lời nói được chấp nhận; Vì am hiểu văn bản và ý nghĩa nên có thể nói những lời sâu sắc; Vì không keo kiệt nên không đặt người khác vào chỗ không đúng;

‘‘Piyo garu bhāvanīyo, vattā ca vacanakkhamo;
Gambhīrañca kathaṃ kattā, no caṭṭhāne niyojako’’. (a. ni. 7.37; netti. 113) –
“Được yêu mến, kính trọng, đáng tu tập theo, là người nói và lời nói được chấp nhận;
Nói được lời sâu sắc, và không đặt người khác vào chỗ không đúng.” (a. ni. 7.37; netti. 113) –

Itiabhihito desako;
Người thuyết giảng được nói đến như vậy;

Sotā idāni abhidhīyate –
Bây giờ, người nghe được nói đến –

Dhammācariyagaru saddhā-paññādiguṇamaṇḍito;
Asaṭhāmāyo sotāssa, sumedho amatāmukho.
Người kính trọng Pháp và thầy, được trang hoàng bởi các đức tính như đức tin và trí tuệ;
Không gian xảo, không lừa dối, người nghe ấy có trí tuệ tốt, hướng đến Bất tử.

Tattha dhammagaruttā kathaṃ na paribhavati, ācariyagaruttā kathikaṃ na paribhavati, saddhāpaññādiguṇapaṭimaṇḍitattā attānaṃ na paribhavati, asaṭhāmāyattā amatābhimukhattā ca avikkhittacitto bhavati, sumedhattā yonisomanasikarotītyattho. Vuttañhetaṃ –
Ở đây, vì kính trọng Pháp nên không coi thường lời dạy, vì kính trọng thầy nên không coi thường người thuyết giảng, vì được trang hoàng bởi các đức tính đức tin và trí tuệ nên không coi thường chính mình, vì không gian xảo và không lừa dối và hướng đến Bất tử nên tâm không bị phân tán, vì có trí tuệ tốt nên như lý tác ý. Điều này đã được nói:

‘‘Pañcahi, bhikkhave, dhammehi samannāgato suṇanto saddhammaṃ bhabbo niyāmaṃ okkamituṃ kusalesu dhammesu sammattaṃ. Katamehi pañcahi? Na kathaṃ paribhoti, na kathikaṃ paribhoti, na attānaṃ paribhoti, avikkhittacitto dhammaṃ suṇāti ekaggacitto, yoniso ca manasi karotī’’ti (a. ni. 5.151).
“Này các Tỳ-khưu, người nghe được trang bị năm pháp thì có khả năng đi vào con đường đúng đắn trong các thiện pháp. Năm pháp nào? Không coi thường lời dạy, không coi thường người thuyết giảng, không coi thường chính mình, lắng nghe Pháp với tâm không phân tán, tâm chuyên nhất, và như lý tác ý.” (a. ni. 5.151).

Taṃlakkhaṇappattattā bhāvanā bhavati savanassetyutto sotā.
Vì đạt được những đặc tính đó nên sự nghe trở thành sự tu tập, đó là người nghe được nói đến.

Ganthārambhakathāvaṇṇanā

Chú giải về Lời Nói Đầu

Idāni assārambho – tattha yoti aniyamaniddeso, tena visuddhajātikulagottādīnaṃ kilesamalavisuddhiyā, pūjārahatāya vā akāraṇataṃ dassetvā yo koci imissā samantapāsādikāya ādigāthāya niddiṭṭhalokanāthattahetuṃ yathāvuttahetumūlena thirataraṃ acalaṃ katvā yathāvuttahetukālaṃ accantameva pūrento avasāne yathāvuttahetuphalaṃ sampādetvā yathāvuttahetuphalappayojanaṃ sādheti, sova paramapūjārahoti niyameti.
Bây giờ là phần mở đầu của nó – ở đây vị nào là chỉ định không xác định, qua đó, sau khi chỉ ra rằng không có lý do gì từ dòng dõi, gia tộc, v.v. thanh tịnh để có sự thanh tịnh khỏi các uế nhiễm của phiền não, hoặc để xứng đáng được cúng dường, Ngài quy định rằng bất cứ ai, sau khi làm cho nguyên nhân của địa vị chủ tể thế gian được chỉ ra trong câu kệ đầu của bộ Samantapāsādikā này trở nên vững chắc, không lay chuyển bởi gốc rễ của nguyên nhân đã nói, hoàn thành trọn vẹn thời gian của nguyên nhân đã nói, và cuối cùng đạt được kết quả của nguyên nhân đã nói, và thực hiện được mục đích của kết quả của nguyên nhân đã nói, chỉ vị ấy mới là bậc đáng được cúng dường tối thượng.

Ettāvatā –
Qua đó –

Bhayasammohaduddiṭṭhi-paṇāmo nesa sabbathā;
Paññāpubbaṅgamo eso, paṇāmoti nidassito.
Sự đảnh lễ này hoàn toàn không phải do sợ hãi, si mê, tà kiến;
Đây là sự đảnh lễ lấy trí tuệ làm đầu, điều đó đã được chỉ ra.

Tatra hetūti atidukkarāni tiṃsapāramitāsaṅkhātāni puññakammāni. Tāni hi accantadukkhena kasirena vacanapathātītānubhāvena mahatā ussāhena karīyantīti atidukkarāni nāma. Atidukkarattā eva hi tesaṃ atidullabhaṃ loke anaññasādhāraṇaṃ nāthattasaṅkhātaṃ phalaṃ phalanti, taṃ tattha hetuphalaṃ; hetumūlaṃ nāma yathāvuttassa hetuno nipphādanasamatthā mahākaruṇā, sā ādipaṇidhānato paṭṭhāya ‘‘mutto mocessāmī’’tiādinā nayena yāva hetuphalappayojanā, tāva abbocchinnaṃ pavattati. Yaṃ sandhāya vuttaṃ –
Ở đây, nguyên nhân là các công đức được gọi là ba mươi Ba-la-mật, những việc vô cùng khó làm. Chúng được gọi là vô cùng khó làm vì được thực hiện với sự đau khổ tột cùng, với sự vất vả, với nỗ lực lớn lao vượt ngoài lời nói. Chính vì vô cùng khó làm nên chúng mới mang lại kết quả vô cùng hiếm có trên đời, không ai khác có thể đạt được, đó là địa vị chủ tể; đó là nhân quả ở đây; gốc rễ của nguyên nhân chính là lòng đại bi, có khả năng hoàn thành nguyên nhân đã nói, nó tồn tại không gián đoạn từ lời phát nguyện ban đầu theo cách “ta đã giải thoát, sẽ giải thoát chúng sanh” cho đến mục đích của kết quả của nguyên nhân. Về điều đó đã được nói:

‘‘Sakānanā sagrivarā sasāgarā,
Gatā vināsaṃ bahuso vasundharā;
Yugantakāle salilānalānile,
Na bodhisattassa mahātapā kuto’’ti.
“Cùng với rừng núi, dãy núi, biển cả,
Trái đất này đã nhiều lần bị hủy diệt;
Trong thời kiếp hoại bởi nước, lửa, gió,
Nhưng sự tu khổ hạnh vĩ đại của Bồ-tát thì không bao giờ (bị hủy diệt và hoại đi).”

Yāya samannāgatattā ‘‘namo mahākāruṇikassa tassā’’ti āha. Hetukālaṃ nāma catuaṭṭhasoḷasaasaṅkhyeyyādippabhedo kālo, yaṃ sandhāyāha ‘‘kappakoṭīhipi appameyyaṃ kāla’’nti. Tattha accantasaṃyogatthe upayogavacanaṃ veditabbaṃ ‘‘māsaṃ adhīte, divasaṃ caratī’’tiādīsu viya. Kāmañca so kālo asaṅkhyeyyavasena pameyyo viññeyyo, tathāpi kappakoṭivasena aviññeyyataṃ sandhāya ‘‘kappakoṭīhipi appameyyaṃ kāla’’nti āha. Tattha kālayatīti kālo, khipati viddhaṃsayati sattānaṃ jīvitamiti attho. Kala vikkhepe. Tattha kappīyati saṃkappīyati sāsapapabbatādīhi upamāhi kevalaṃ saṃkappīyati, na manussadivasamāsasaṃvaccharādigaṇanāya gaṇīyatīti kappo. Ekantiādigaṇanapathassa koṭibhūtattā koṭi, kappānaṃ koṭiyo kappakoṭiyo . Tāhipi na pamīyatīti appameyyo, taṃ appameyyaṃ. Karontoti nānatthattā dhātūnaṃ dānaṃ dento, sīlaṃ rakkhanto, lobhakkhandhato nikkhamanto, attahitaparahitādibhedaṃ taṃ taṃ dhammaṃ pajānanto, vividhena vāyāmena ghaṭento vāyamanto, taṃ taṃ sattāparādhaṃ khamanto, paṭiññāsammutiparamatthasaccāni saccāyanto, taṃ taṃ sattahitaṃ adhiṭṭhahanto, sakalalokaṃ mettāyanto, mittāmittādibhedaṃ pakkhapātaṃ pahāya taṃ taṃ sattaṃ ajjhupekkhanto cāti attho. Khedaṃ gatoti anantappabhedaṃ mahantaṃ saṃsāradukkhaṃ anubhavanaṭṭhena gato, sampattotyattho. Saṃsāradukkhañhi sārīrikaṃ mānasikañca sukhaṃ khedayati pātayatīti ‘‘khedo’’ti vuccati. Lokahitāyāti idaṃ yathāvuttahetuphalappayojananidassanaṃ, ‘‘saṃsāradukkhānubhavanakāraṇanidassana’’ntipi eke –
Vì có được lòng bi đó nên Ngài đã nói “Con xin đảnh lễ bậc Đại Bi ấy”. Thời gian của nguyên nhân là thời gian được phân loại thành bốn, tám, mười sáu, vô số kiếp, v.v.. Về điều đó Ngài đã nói “một thời gian không thể đo lường được dù bằng hàng tỷ kiếp”. Ở đây, nên hiểu lời nói về sự sử dụng trong ý nghĩa của sự kết hợp tuyệt đối, giống như trong các câu “học trong một tháng, đi trong một ngày” v.v.. Mặc dù thời gian đó có thể đo lường, có thể biết được bằng vô số kiếp, nhưng Ngài đã nói “một thời gian không thể đo lường được dù bằng hàng tỷ kiếp” để chỉ sự không thể biết được bằng hàng tỷ kiếp. Ở đây, làm cho thời gian trôi qua là thời gian, nghĩa là ném đi, phá hủy mạng sống của chúng sanh. (Động từ) Kala có nghĩa là ném đi. Ở đó, được ước tính, được suy tưởng bằng các ví dụ như núi hạt cải v.v., chỉ được suy tưởng, không được đếm bằng cách tính ngày, tháng, năm của con người, đó là kiếp. Vì là điểm cuối cùng của con đường đếm từ một trở đi, nên là koṭi (tỷ), các tỷ kiếp là kappakoṭiyo. Không thể đo lường được bằng chúng, nên là không thể đo lường, đó là không thể đo lường. Trong khi làm, vì các động từ có nhiều nghĩa, nên có nghĩa là trong khi bố thí, trong khi giữ giới, trong khi thoát khỏi tham uẩn, trong khi nhận biết pháp này pháp kia được phân chia thành lợi ích cho mình và lợi ích cho người khác, trong khi cố gắng, nỗ lực bằng nhiều cách khác nhau, trong khi tha thứ cho lỗi lầm này lỗi lầm kia của chúng sanh, trong khi xác chứng các sự thật quy ước, công ước và chân đế, trong khi quyết tâm thực hiện lợi ích này lợi ích kia cho chúng sanh, trong khi rải tâm từ đến toàn thể thế gian, trong khi từ bỏ sự thiên vị được phân chia thành bạn, thù v.v., và xả đối với chúng sanh này chúng sanh kia. Đã chịu đựng gian khổ, nghĩa là đã trải qua, đã đạt đến nỗi khổ lớn lao vô vàn trong luân hồi. Nỗi khổ luân hồi được gọi là “khedo” vì nó làm suy yếu, làm suy sụp hạnh phúc về thể chất và tinh thần. Vì lợi ích của thế gian, đây là sự chỉ ra mục đích của kết quả của nguyên nhân đã nói; một số người cho rằng đó là “sự chỉ ra nguyên nhân của việc chịu đựng nỗi khổ luân hồi” –

‘‘‘Jātisaṃsāradukkhānaṃ, gantuṃ sakkopi nibbutiṃ;
Ciralliṭṭhopi saṃsāre, karuṇāyeva kevala’nti. –
“‘Mặc dù có thể đi đến Niết-bàn, thoát khỏi nỗi khổ sanh tử luân hồi;
Nhưng vẫn ở lại lâu trong luân hồi, chỉ vì lòng bi mẫn mà thôi.’ –

Ca vutta’’nti, tamayuttaṃ. Na hi bhagavā lokahitāya saṃsāradukkhamanubhavati. Na hi kassaci dukkhānubhavanaṃ lokassa upakāraṃ āvahati. Evaṃ panetaṃ dasseti tiṃsapāramitāpabhedaṃ hetuṃ, pāramitāphalabhūtaṃ nāthattasaṅkhātaṃ phalañca. Yathā cāha ‘‘mamañhi, ānanda, kalyāṇamittaṃ āgamma jātidhammā sattā jātiyā parimuccantī’’tiādi (saṃ. ni. 1.129; 5.2). Tattha bhagavā yathāvuttahetūhi sattānaṃ vineyyabhāvanipphādanapaññābījāni vapi, hetuphalena paripakkindriyabhāvena parinipphannavineyyabhāve satte vinayi, saṃsāradukkhato mocayīti attho. Na evaṃ saṃsāradukkhena lokassa upakāraṃ kiñci akāsi, tasmā karonto atidukkarāni lokahitāyāti sambandho. Imissā yojanāya sabbapaṭhamassa bodhisattassa uppattikālato paṭṭhāya bodhisattassa nāthattasaṅkhātapāramitāhetuphalādhigamo veditabbo. Yo nāthoti hi sambandho adhippeto. Imassa panatthassa –
Và đã được nói”, điều đó không hợp lý. Đức Thế Tôn không chịu đựng nỗi khổ luân hồi vì lợi ích của thế gian. Việc một người nào đó chịu khổ không mang lại lợi ích gì cho thế gian. Mà điều này chỉ ra rằng: Ngài đã hoàn thành nguyên nhân được phân loại là ba mươi Ba-la-mật, và kết quả là địa vị chủ tể, vốn là kết quả của các Ba-la-mật. Như Ngài đã nói “Này Ānanda, chính nhờ nương tựa vào thiện hữu tri thức mà chúng sanh có sanh pháp được giải thoát khỏi sanh” v.v.. (saṃ. ni. 1.129; 5.2). Ở đây, Đức Thế Tôn đã gieo những hạt giống trí tuệ để tạo ra khả năng được giáo hóa cho chúng sanh bằng những nguyên nhân đã nói, Ngài đã giáo hóa những chúng sanh có khả năng được giáo hóa đã chín muồi về các căn bằng kết quả của nguyên nhân, đã giải thoát họ khỏi nỗi khổ luân hồi. Ngài không hề làm lợi ích gì cho thế gian bằng nỗi khổ luân hồi, do đó, mối liên hệ là “làm những việc vô cùng khó làm vì lợi ích của thế gian”. Theo cách giải thích này, cần hiểu rằng sự chứng đắc kết quả của nguyên nhân Ba-la-mật được gọi là địa vị chủ tể của Bồ-tát bắt đầu từ thời điểm Bồ-tát đầu tiên xuất hiện. Vì mối liên hệ được ngụ ý là “Vị chủ tể nào”. Về ý nghĩa này –

‘‘Yadeva paṭhamaṃ citta-muppannaṃ tava bodhaye;
Tvaṃ tadevassa lokassa, pūjike parivasittha’’. –
“Tâm đầu tiên nào của Ngài đã phát khởi vì giác ngộ;
Chính tâm đó của Ngài đã là nơi tôn thờ của thế gian.” –

Iti vacanaṃ sādhakaṃ. Paṭhamacittassa pāramitābhāvo rukkhassa aṅkurato paṭṭhāya uppattiupamāya sādhetabbo. Etthāha – ‘‘khedaṃ gatoti vacanaṃ niratthakaṃ , yathāvuttanayena guṇasādhanāsambhavato’’ti? Na, antarā anivattanakabhāvadīpanato. Dukkarāni karonto khedaṃ gato eva, na antarā khedaṃ asahanto nivattatīti dīpeti. Lokadukkhāpanayanakāmassa vā bhagavato attano dukkhānubhavanasamatthataṃ dasseti.
Lời nói này là bằng chứng. Tình trạng Ba-la-mật của tâm đầu tiên cần được chứng minh bằng ví dụ về sự phát sinh của cây từ mầm. Ở đây có người nói – “câu nói ‘đã chịu đựng gian khổ’ là vô nghĩa, vì không thể chứng minh được phẩm chất theo cách đã nói”? Không, vì nó cho thấy trạng thái không thoái chuyển ở giữa chừng. Nó cho thấy rằng trong khi làm những việc khó làm, Ngài đã chịu đựng gian khổ, chứ không thoái chuyển ở giữa chừng vì không chịu đựng nổi gian khổ. Hoặc nó cho thấy khả năng chịu đựng khổ đau của chính Đức Thế Tôn, người mong muốn loại bỏ khổ đau của thế gian.

‘‘Yassa kassaci varadossaṃ, yāvāhaṃ sabbasattadukkhāni;
Sabbāni sabbakālaṃ yugaṃ, padmasseva bujjhantomhī’’ti. –
“Con sẽ là người ban điều tốt lành cho bất cứ ai, cho đến khi con giác ngộ như hoa sen,
Chịu đựng tất cả mọi khổ đau của tất cả chúng sanh trong mọi thời đại.” –

Evaṃadhippāyassa attamattadukkhānubhavanasamatthatāya kāyeva kathāti atisayaṃ atthaṃ dassetīti attho. Atha vā khedaṃ gatoti byāpāraṃ paricayaṃ gatotipi attho sambhavati. Kammādīsu sabyāpāraṃ purisaṃ disvā santi hi loke vattāro ‘‘khinnoyaṃ kamme, khinnoyaṃ satte’’tiādi. Imissā yojanāya nāthoti iminā buddhattādhigamasiddhaṃ koṭippattaṃ nāthabhāvaṃ patvā ṭhitakālo dassitoti veditabbo. Keci ‘‘mahākāruṇikassāti vadanto buddhabhūtassāti dassetī’’ti likhanti, taṃ na sundaraṃ viya, bodhisattakālepi tabbohārasabbhāvato. Tasmā so ettakaṃ kālaṃ dukkarāni karonto avasāne dukkarapāramitāpāripūriyā tāsaṃ phalabhūtaṃ nāthabhāvaṃ patvā lokahitāya byāpāraṃ gatoti ayamattho nidassito hoti. ‘‘Bodhiṃ gato’’ti vuttepi subyattaṃ hetuphalaṃ dassitaṃ hoti. Buddhabhāvappattasseva ca nāthassa namo kato hoti visesavacanasabbhāvato, na bodhisattassa. Evaṃ santepi vinayādhikāro idhādhippeto. So ca pabbajitakālato paṭṭhāya yāvamaraṇakālā hoti. Taṃ ativiya parittaṃ kālaṃ lajjino atisukaraṃ sīlamattaṃ ekakassa attano hitāya attamattadukkhāpanayanādhippāyena paripūrento ko nāma idhalokaparalokātikkamasukhaṃ na gaccheyya, nanu bhagavā sakalalokadukkhāpanayanādhippāyena kappakoṭīhipi appameyyaṃ kālaṃ karonto atidukkaranirassādaṃ khedaṃ gatoti aññāpadesena guṇaṃ vaṇṇeti ācariyo.
Có nghĩa là, nó cho thấy một ý nghĩa vượt trội rằng, với ý định như vậy, thì nói gì đến khả năng chịu đựng nỗi khổ của riêng mình. Hoặc là đã chịu đựng gian khổ cũng có thể có nghĩa là đã quen với công việc. Khi thấy một người bận rộn với công việc v.v., có những người trên đời nói rằng “người này đã mệt mỏi với công việc, người này đã mệt mỏi với chúng sanh” v.v.. Theo cách giải thích này, cần hiểu rằng nó chỉ ra thời điểm Ngài đã đạt đến địa vị chủ tể tột cùng, đã được chứng thực bằng sự chứng đắc Phật quả. Một số người viết rằng “khi nói ‘bậc Đại Bi’ là chỉ ra Ngài đã thành Phật”, điều đó dường như không hay, vì danh xưng đó cũng có trong thời Bồ-tát. Do đó, ý nghĩa được chỉ ra là: Ngài, sau khi làm những việc khó khăn trong một thời gian dài như vậy, cuối cùng, nhờ sự viên mãn các Ba-la-mật khó làm, đã đạt đến địa vị chủ tể là kết quả của chúng và đã dấn thân vì lợi ích của thế gian. Ngay cả khi nói “đã đạt đến giác ngộ”, nhân quả cũng được thể hiện rõ ràng. Và sự đảnh lễ được thực hiện cho vị chủ tể đã đạt đến Phật quả vì có những lời nói đặc biệt, chứ không phải cho Bồ-tát. Mặc dù vậy, ở đây quyền hạn về luật là điều được ngụ ý. Điều đó diễn ra từ khi xuất gia cho đến khi qua đời. Trong một thời gian rất ngắn như vậy, ai mà không đạt được hạnh phúc vượt qua cả đời này và đời sau khi hoàn thành chỉ riêng giới luật, điều rất dễ làm cho người biết hổ thẹn, chỉ vì lợi ích của riêng mình, với ý định loại bỏ khổ đau của riêng mình, huống chi Đức Thế Tôn, với ý định loại bỏ khổ đau của toàn thể thế gian, đã chịu đựng nỗi khổ vô vị, vô cùng khó khăn, trong một thời gian không thể đo lường được dù bằng hàng tỷ kiếp, vị thầy đã tán thán phẩm chất bằng một cách nói khác.

Lokahitāyāti ettha lokiyati ettha dukkhanti loko, luyate vā jātijarāmaraṇadukkhehīti loko, iminā sattalokaṃ jātilokañca saṅgaṇhāti. Tasmā tassa sattalokassa idhalokaparalokahitaṃ atikkantaparalokānaṃ vā ucchinnalokasamudayānaṃ lokānaṃ , idha jātiloke okāsaloke vā diṭṭhadhammasukhavihārasaṅkhātañca hitaṃ sampiṇḍetvā lokassa, lokānaṃ, loke vā hitanti sarūpekadesekasesaṃ katvā ‘‘lokahita’’miccevāha. Nāthoti sabbasattānaṃ āsayānusayacariyādhimuttibhedānurūpadhammadesanasamatthatāya ‘‘dhammaṃ vo, bhikkhave, desessāmi…pe… taṃ suṇāthā’’ti (ma. ni. 3.420) evaṃ yācanaṭṭhenāpi nāthateti nātho. Bhikkhūnaṃ vītikkamānurūpaṃ sikkhāpadapaññāpanena diṭṭhadhammikasamparāyikāya ca karuṇāya upagantvā tapati, suttantavasena vā tesaṃ sabbasattānaṃ anusayite kilese karuṇāya ca paññāya ca upagantvā tapati, abhidhammavasena vā te te saṅkhāre aniccādilakkhaṇavasena upaparikkhitvā attano kilese paññāya upecca paricchinditvā tapatīti tapanaṭṭhenāpi nāthateti nātho. Sadevake loke appaṭipuggalattā kenaci appaṭihatadhammadesanattā paramacittissariyappavattito ca issariyaṭṭhenāpi nāthateti nātho. ‘‘Dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesī’’ti (mahāva. 90) abhidhānato sampahaṃsanasaṅkhātena āsīsaṭṭhena, paṇidhānato paṭṭhāya ‘‘kathaṃ nāmāhaṃ mutto mocayissāmī’’tiādinā nayena āsīsaṭṭhena vā nāthateti nāthoti veditabbo, sammāsambuddho. Catūhipi nāthaṅgehi catuvesārajjacatupaṭisambhidādayo sabbepi buddhaguṇā yojetabbā, ativitthārikabhayā pana na yojitā.
Vì lợi ích của thế gian, ở đây, nơi mà khổ đau được thấy là thế gian, hoặc bị hủy hoại bởi các khổ đau sanh, già, chết là thế gian, điều này bao gồm cả thế gian chúng sanh và thế gian sanh khởi. Do đó, sau khi gộp chung lợi ích ở đời này và đời sau của thế gian chúng sanh đó, hoặc của các thế gian đã vượt qua đời sau, các thế gian có sự sanh khởi của thế gian đã bị đoạn trừ, và lợi ích được gọi là sự an trú hạnh phúc trong hiện tại ở thế gian sanh khởi này hoặc ở thế gian không gian, Ngài đã nói “lợi ích của thế gian” bằng cách dùng phép tỉnh lược một phần. Chủ tể, vì có khả năng thuyết giảng Pháp phù hợp với sự khác biệt về ý hướng, khuynh hướng, hành vi và tín giải của tất cả chúng sanh, Ngài yêu cầu “Này các Tỳ-khưu, ta sẽ thuyết giảng Pháp cho các ngươi… các ngươi hãy lắng nghe” (ma. ni. 3.420), nên Ngài là chủ tể. Ngài đến và răn dạy bằng lòng bi mẫn đối với các Tỳ-khưu theo sự vi phạm của họ bằng cách chế định các học giới, cả trong hiện tại và tương lai; hoặc theo kinh tạng, Ngài đến và răn dạy những phiền não tiềm ẩn của tất cả chúng sanh đó bằng lòng bi mẫn và trí tuệ; hoặc theo Vi Diệu Pháp, sau khi xem xét các pháp hành đó theo tướng vô thường v.v., và sau khi nhận ra và đoạn trừ các phiền não của mình bằng trí tuệ, Ngài răn dạy, nên Ngài cũng là chủ tể theo nghĩa răn dạy. Vì là bậc vô song trong thế giới cùng với chư thiên, vì thuyết giảng Pháp không bị ai cản trở, và vì sự vận hành của quyền uy tâm linh tối cao, Ngài cũng là chủ tể theo nghĩa uy quyền. Từ lời nói “Ngài đã chỉ bày, khuyến khích, khích lệ, làm cho phấn khởi bằng lời nói hợp Pháp” (mahāva. 90), theo nghĩa khích lệ được gọi là sự tán thán, hoặc từ lúc phát nguyện, theo cách “làm thế nào ta, người đã giải thoát, sẽ giải thoát chúng sanh”, theo nghĩa mong muốn, nên cần hiểu rằng Ngài là chủ tể, đấng Chánh Đẳng Chánh Giác. Với bốn yếu tố của chủ tể, tất cả các phẩm chất của Phật như bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, v.v., đều nên được kết hợp, nhưng vì sợ quá dài dòng nên không được kết hợp.

Namoti paramatthato buddhaguṇabahumānapabbhārā cittanati, cittanatippabhavā ca vacīkāyanati. Atthu meti pāṭhasesena sambandho. Mahākāruṇikassāti ettha sabbasattavisayattā mahussāhappabhavattā ca mahatī karuṇā mahākaruṇā. Tattha paṇidhānato paṭṭhāya yāvaanupādisesanibbānapurappavesā niyuttoti mahākāruṇiko, bhagavā. Ettha ca mahākāruṇikassāti iminā yathāvuttahetumūlaṃ dasseti. Nikkaruṇo hi paradukkhesu udāsino buddhatthāya paṇidhānamattampi atibhāriyanti maññanto appameyyaṃ kālaṃ atidukkaraṃ hetuṃ pūretvā nāthattasaṅkhātaṃ hetuphalappayojanabhūtaṃ lokahitaṃ kathaṃ karissati. Tasmā sabbaguṇamūlabhūtattā mahākaruṇāguṇameva vaṇṇento ‘‘namo mahākāruṇikassā’’ti āha. Ettāvatā hetuanurūpaṃ phalaṃ, phalānurūpo hetu, dvinnampi anurūpaṃ mūlaṃ, tiṇṇampi anurūpaṃ payojananti ayamattho dassito hoti.
Đảnh lễ, theo nghĩa chân đế là sự hướng tâm tôn kính các phẩm chất của Phật, và từ sự hướng tâm đó phát sinh sự cung kính bằng lời nói và thân thể. Mối liên hệ với phần còn lại của câu là “xin hãy đến với con”. Bậc Đại Bi, ở đây, lòng bi mẫn vĩ đại vì bao trùm tất cả chúng sanh và phát sinh từ nỗ lực lớn lao, đó là đại bi. Ở đây, Ngài chuyên tâm từ lúc phát nguyện cho đến khi vào thành Niết-bàn vô dư y, nên là bậc Đại Bi, Đức Thế Tôn. Và ở đây, với từ “bậc Đại Bi”, Ngài chỉ ra gốc rễ của nguyên nhân đã nói. Người không có lòng bi, thờ ơ trước nỗi khổ của người khác, cho rằng ngay cả việc phát nguyện thành Phật cũng đã quá nặng nề, thì làm sao có thể hoàn thành nguyên nhân vô cùng khó khăn trong một thời gian không thể đo lường, và làm lợi ích cho thế gian, vốn là mục đích của kết quả của nguyên nhân. Do đó, vì là gốc rễ của mọi phẩm chất, Ngài đã tán thán chỉ riêng phẩm chất đại bi và nói “con xin đảnh lễ bậc Đại Bi”. Qua đó, ý nghĩa được chỉ ra là: kết quả tương xứng với nguyên nhân, nguyên nhân tương xứng với kết quả, gốc rễ tương xứng với cả hai, và mục đích tương xứng với cả ba.

Evaṃ acchariyapuriso, nātho nāthaguṇe ṭhito;
Namoraho anāthassa, nāthamānassa sampadaṃ.
Như vậy, người phi thường, vị Chủ tể, đứng vững trong các phẩm chất của Chủ tể;
Xứng đáng được đảnh lễ, bởi người không nơi nương tựa, đang mong cầu sự thịnh vượng.

Ettha siyā ‘‘anekesu bhagavato guṇesu vijjamānesu kasmā ‘mahākāruṇikassā’ti ekameva gahita’’nti? Uccate –
Ở đây có thể có câu hỏi “trong số nhiều phẩm chất của Đức Thế Tôn, tại sao chỉ lấy một phẩm chất là ‘bậc Đại Bi’?” Được trả lời –

Dosahīnassa satthassa, codanā tu na vijjate;
Dosayuttamasatthañca, tasmā codanā apattakāti.
Đối với bậc thầy không có lỗi lầm, thì không có sự chỉ trích;
Còn bậc thầy đầy lỗi lầm, thì sự chỉ trích cũng không đến nơi.

Na mayā codanā katā, kintu pucchā eva katā. Apica –
Tôi không chỉ trích, mà chỉ hỏi. Hơn nữa –

‘‘Phalaṃ satipi rukkheḍḍhe, na patatyavikampite;
Codanā yā’tthu satthānaṃ, pucchanātyatthaphalaṃ mahatā.
“Mặc dù cây trĩu quả, nhưng quả không rơi nếu không bị rung;
Sự chỉ trích đối với các bậc thầy, chính là sự hỏi han, mang lại kết quả lớn.

‘‘Nabhottuṃ kurute sammā, gahituṃ nāḍḍhate ghaṭaṃ;
Akkhepe hi kate tadi-cchissāṇābuddhibandhanaṃ.
“Không làm đúng để ăn, không lấy nồi để nấu;
Khi bị khiển trách, trí tuệ của người học trò mong muốn điều đó được củng cố.

‘‘Yathā himapado paddho, pabuddho gandhalimpiyā;
Bhinnatthaviramassevaṃ, satthakatātthalimpiyā’’ti. –
“Như người bị tê cóng vì tuyết, tỉnh dậy nhờ hương thơm thoa lên;
Cũng vậy, người có ý nghĩa bị phá vỡ, sẽ được thoa lên bằng ý nghĩa do bậc thầy tạo ra.” –

Evaṃ cekaṃ –
Nếu như vậy, thì một –

Sammāpi codanā taṃ khalu, guravo vivākyā vivaddha;
Yatisissā āghaṭṭitāti-vākyenābhyadhikaṃ gopaya.
Sự chỉ trích đúng đắn, thưa các bậc tôn kính, là những lời nói trái ngược, làm tăng trưởng;
Học trò và thầy va chạm, hãy bảo vệ nhiều hơn bằng những lời nói đó.

Saravatī āceraṃ kiliṭṭhā, tadicchissajitāttānaṃ;
Jayatyattānamācero, sadassasseva sārathīti. –
Bậc thầy nói năng ô uế, trò của ngài không chinh phục được bản thân;
Bậc thầy chinh phục được bản thân, giống như người đánh xe đối với con ngựa tốt. –

Atroccate –
Ở đây được nói –

Yassa hi vākyasahassaṃ, vākye vākye satañca jivhā;
Nāmaṃ dasabalaguṇapadesaṃ, vattuṃ kappenapi na sakkā.
Người nào, dù có ngàn lời nói, và trong mỗi lời nói có trăm lưỡi;
Cũng không thể nói hết một phần phẩm chất của bậc Thập Lực dù trong một kiếp.

Yathā –
Như là –

Buddhopi buddhassa bhaṇeyya vaṇṇaṃ,
Kappampi ce aññamabhāsamāno;
Khīyetha kappo ciradīghamantare,
Vaṇṇo na khīyetha tathāgatassāti. (dī. ni. aṭṭha. 1.304; 3.141; ma. ni. aṭṭha. 2.425; udā. aṭṭha. 53; cariyā. aṭṭha. nidānakathā) –
“Một vị Phật có thể ca ngợi các phẩm chất của một vị Phật khác,
Dù không nói gì khác trong suốt một kiếp;
Kiếp ấy có thể qua đi trong một thời gian dài,
Nhưng phẩm chất của Như Lai thì không thể kể hết.” (dī. ni. aṭṭha. 1.304; 3.141; ma. ni. aṭṭha. 2.425; udā. aṭṭha. 53; cariyā. aṭṭha. nidānakathā) –

Cottattā na sakkā bhagavataṃ guṇānamavasesābhidhātuṃ.
Vì đã được nói như vậy, nên không thể nói hết các phẩm chất của Đức Thế Tôn.

Apica –
Hơn nữa –

Yathā tvaṃ sattānaṃ, dasabala tathā ñāṇakaruṇā;
Guṇadvandaṃ seṭṭhaṃ, tava guṇagaṇā nāma tiguṇāti. –
“Như Ngài đối với chúng sanh, thưa bậc Thập Lực, cũng vậy là trí tuệ và lòng bi;
Cặp phẩm chất đó là cao quý nhất, trong số các phẩm chất của Ngài, chúng là ba.” –

Sabbaguṇaseṭṭhattā mūlattā ca ekameva vuttaṃ. Atha vā ‘‘chasu asādhāraṇañāṇesu aññatarattā taggahaṇena sesāpi gahitāva sahacaraṇalakkhaṇenā’’ti ca vadanti. Visesato panettha abhidhammassa kevalaṃ paññāvisayattā abhidhammaṭṭhakathārambhe ācariyena ‘‘karuṇā viya sattesu, paññā yassa mahesino’’ti paññāguṇo vaṇṇito tesaṃ tesaṃ sattānaṃ āsayānusayacaayādhimuttibhedānurūpaparicchindanapaññāya, sattesu mahākaruṇāya ca adhikārattā. Suttantaṭṭhakathārambhe ‘‘karuṇāsītalahadayaṃ, paññāpajjotavihatamohatama’’nti bhagavato ubhopi paññākaruṇāguṇā vaṇṇitā. Idha pana vinaye āsayādinirapekkhaṃ kevalaṃ karuṇāya pākatikasattenāpi asotabbārahaṃ suṇanto, apucchitabbārahaṃ pucchanto, avattabbārahañca vadanto sikkhāpadaṃ paññapesīti karuṇāguṇoyeveko vaṇṇitoti veditabbo.
Vì là cao quý nhất trong tất cả các phẩm chất và là gốc rễ, nên chỉ nói một. Hoặc một số người nói rằng “vì là một trong sáu trí tuệ bất cộng, nên khi nói đến nó, các trí tuệ còn lại cũng được bao hàm theo đặc tính đồng hành”. Đặc biệt ở đây, vì Vi Diệu Pháp hoàn toàn thuộc về phạm vi của trí tuệ, nên khi bắt đầu chú giải Vi Diệu Pháp, vị thầy đã tán thán phẩm chất trí tuệ “trí tuệ của bậc Đại Sĩ đối với chúng sanh cũng giống như lòng bi” vì quyền hạn của trí tuệ trong việc nhận biết sự khác biệt về ý hướng, khuynh hướng, hành vi và tín giải của các chúng sanh đó, và của lòng đại bi đối với chúng sanh. Khi bắt đầu chú giải kinh tạng, “có trái tim mát lạnh vì lòng bi, xua tan bóng tối si mê bằng ánh sáng trí tuệ”, cả hai phẩm chất trí tuệ và lòng bi của Đức Thế Tôn đều được tán thán. Nhưng ở đây trong tạng Luật, không phụ thuộc vào ý hướng v.v., Ngài đã chế định các học giới chỉ vì lòng bi, khi nghe điều không đáng nghe ngay cả đối với một người bình thường, hỏi điều không đáng hỏi, và nói điều không đáng nói, do đó, chỉ có phẩm chất lòng bi được tán thán, cần phải hiểu như vậy.

Paññādayā attaparatthahetū,
Tadanvayā sabbaguṇā jinassa;
Ubho guṇā te guṇasāgarassa,
Vuttā idhācariyavarena tasmā.
Trí tuệ và lòng bi là nhân của lợi ích cho mình và người,
Từ đó mà có tất cả các phẩm chất của đấng Chiến Thắng;
Cả hai phẩm chất đó của Ngài, người là biển cả phẩm chất,
Đã được vị thầy đáng kính nói đến ở đây.

Ettāvatā aṭṭhakathādigāthā,
Samāsato vuttapadatthasobhā;
Ayampi vitthāranayoti cāhaṃ,
Uddhaṃ ito te paṭisaṃkhipāmi.
Qua đó, các câu kệ mở đầu của bộ chú giải,
Vẻ đẹp của ý nghĩa các từ đã được nói một cách tóm tắt;
Đây cũng là cách giải thích chi tiết, và tôi nói,
Từ đây trở đi, tôi sẽ tóm tắt chúng lại.

Dutiyagāthāya asambudhanti dhammānaṃ yathāsabhāvaṃ abujjhanto. Buddhanisevitanti buddhānubuddhapaccekabuddhehi gocarabhāvanāsevanāhi yathārahaṃ nisevitaṃ. Bhavā bhavanti vattamānabhavato aññaṃ bhavaṃ gacchati upagacchati, paṭipajjatīti attho. Atha vā bhavoti sassatadiṭṭhi. Tassa paṭipakkhattā abhavoti ucchedadiṭṭhi. Bhavoti vā vuddhi. Abhavoti hāni. Bhavoti vā duggati. Abhavoti sugati. ‘‘Appamāṇā dhammā, asekkhā dhammā’’tiādīsu (dha. sa. tikamātikā 13, 11) viya hi vuddhiatthattā akārassa. Bhāvayatīti bhavo, jāti. Bhavatīti vā bhavo. Savikārā bahuvidhakhandhuppatti dīpitā. Abhavoti vināso, jātibhāvaṃ maraṇabhāvañca gacchatīti vuttaṃ hoti. Ettha arahantānaṃ maraṇampi khaṇikavasena gahetabbaṃ. Bhavesu abhavo bhavābhavo, taṃ bhavābhavaṃ, bhavesu abhāvapaññattiṃ gacchatīti attho. Jīvalokoti sattaloko, saṅkhāralokaokāsalokānaṃ bhavābhavagamanāsambhavato sattalokaṃ jīvalokoti viseseti. Avijjādikilesajālaviddhaṃsinoti ettha navapi lokuttaradhammā saṅgahaṃ gacchanti. Apacayagāmitā hi catumaggadhammassa odhiso avijjādikilesajālaviddhaṃso, so assa atthi, tadārammaṇaṃ hutvā tattha sahāyabhāvūpagamanena nibbānassāpi. Yathāha ‘‘yo kho, āvuso, rāgakkhayo…pe… idaṃ vuccati nibbāna’’nti. Arahattassāpi tathā rāgādikkhayavacanasabbhāvato. Phalasāmaññena tiṇṇampi phalānaṃ atthīti navavidhopesa ‘‘avijjādikilesajālaviddhaṃsī’’ti vuccati. Atha vā sahacaraṇalakkhaṇakaāraṇatāya paṭipakkhagocaraggahaṇatā. Anabhihitopi hi dhammassa tatrābhihitova bujjhitabbo iti abhidhānato kāraṇagocaraggahaṇena cattāripi phalāni gahitāni. Narakādīsu apatamānaṃ dhāreti sugatiyaṃ uppādanenāti dhammo. Puna sugatimhi ajananakārī akusaladhamme nivāretvā poseti pavatteti vaḍḍhetīti dhammo. So pana kāmarūpārūpabhedato tividho accantasukhāvahanato, tatopi uttamattā dhammavaro.
Trong câu kệ thứ hai, không hiểu là không hiểu rõ tự tánh của các pháp. Được các vị Phật thực hành là được các vị Phật, Phật độc giác và Phật toàn giác thực hành một cách thích hợp bằng cách thực hành và phát triển nơi trú xứ. Từ kiếp này sang kiếp khác là từ kiếp hiện tại đi đến, đạt đến, thực hành một kiếp khác. Hoặc kiếp là thường kiến. Trái ngược với nó là phi kiếp, tức là đoạn kiến. Hoặc kiếp là sự tăng trưởng. Phi kiếp là sự suy giảm. Hoặc kiếp là ác thú. Phi kiếp là thiện thú. Giống như trong các câu “các pháp vô lượng, các pháp vô học” v.v.. (dha. sa. tikamātikā 13, 11), chữ ‘a’ có nghĩa là tăng trưởng. Làm cho phát sinh là kiếp, là sanh. Hoặc tự nó sinh ra là kiếp. Sự phát sinh của các uẩn đa dạng với sự biến đổi đã được chỉ ra. Phi kiếp là sự hủy diệt, có nghĩa là đã nói rằng đi đến trạng thái sanh và trạng thái tử. Ở đây, sự chết của các bậc A-la-hán cũng nên được hiểu theo nghĩa sát-na. Sự không tồn tại trong các kiếp là bhavābhavo, đó là bhavābhavaṃ, có nghĩa là đi đến sự quy định về sự không tồn tại trong các kiếp. Thế giới sống là thế giới chúng sanh, vì thế giới các pháp hành và thế giới không gian không thể đi từ kiếp này sang kiếp khác, nên Ngài phân biệt thế giới chúng sanh là thế giới sống. Người phá tan lưới phiền não bắt đầu từ vô minh, ở đây chín pháp siêu thế đều được bao gồm. Sự đi đến chỗ suy giảm là sự phá tan lưới phiền não bắt đầu từ vô minh một cách có giới hạn của bốn đạo quả, nó thuộc về pháp ấy, và cũng thuộc về Niết-bàn bằng cách trở thành đối tượng của nó và hỗ trợ nó ở đó. Như Ngài đã nói “này hiền giả, sự đoạn tận tham ái…đó được gọi là Niết-bàn”. A-la-hán quả cũng vậy vì có lời nói về sự đoạn tận tham ái v.v.. Vì sự tương đồng về quả, ba quả còn lại cũng có, nên cả chín loại này đều được gọi là “người phá tan lưới phiền não bắt đầu từ vô minh”. Hoặc là do đặc tính đồng hành, do tính nhân quả, do nắm bắt đối tượng đối lập. Ngay cả khi không được nói đến, Pháp ở đó cũng nên được hiểu là đã được nói đến, do đó, bằng cách nắm bắt nhân và đối tượng, cả bốn quả cũng được bao hàm. Pháp giữ cho không bị rơi vào địa ngục v.v., bằng cách làm cho sanh vào thiện thú là Pháp. Pháp lại ngăn cản, nuôi dưỡng, làm tăng trưởng các pháp bất thiện không sanh khởi trong thiện thú. Pháp đó được chia thành ba loại: dục giới, sắc giới và vô sắc giới, vì mang lại hạnh phúc tột cùng, và vì cao thượng hơn cả những điều đó nên là Pháp tối thượng.

Etthāha – ‘‘catunnaṃ, bhikkhave, ariyasaccānaṃ ananubodhā appaṭivedhā evamidaṃ dīghamaddhānaṃ sandhāvitaṃ saṃsarita’nti (dī. ni. 2.155; mahāva. 287) abhidhānato catusaccadhammaṃ asambudhaṃ bhavā bhavaṃ gacchati jīvalokoti siddhaṃ. Tasmā yaṃ asambudhaṃ gacchati, tasseva ‘‘tassā’’ti ante taṃniddesena niyamanato catusaccadhammopi avijjādikilesajālaviddhaṃsī dhammavaroti cāpajjati. Aññathā ‘‘namo avijjādikilesajālaviddhaṃsino dhammavarassa tassā’’ti taṃniddesena samānavibhattikaraṇaṃ na yujjati atippasaṅganiyamanato, ‘‘avijjādikilesajālaviddhaṃsino dhammavarassā’’ti vacanaṃ visesanavacanaṃ. Tasmā dukkhasamudayasaccānaṃ tabbhāvappasaṅgo natthīti ce? Na, taṃniddesena samānavibhattiṭṭhāne avisesitattā. Api ca maggasaccanirodhasaccesu phalānaṃ apariyāpannattā nava lokuttaradhammā saṅgahitāti vacanavirodho, phalānaṃ asaṅgahe verañjakaṇḍavaṇṇanāyaṃ na kevalaṃ ariyamaggo ceva nibbānañca, api ca ariyaphaladhammehi saddhiṃ pariyattidhammopi. Vuttañhetaṃ ‘‘rāgavirāgamanejamasokaṃ…pe… dhammamimaṃ saraṇatthamupehī’’ti (vi. va. 887) vacanavirodho cāti pubbāparaviruddhā esā gāthā sāsanaviruddhā cā’’ti? Vuccate – sabbametamayuttaṃ vuttagāthatthājānanato. Ettha hi ācariyena pavattipavattihetuvisayavibhāgo ca dassito. Kathaṃ? Tattha asambudhanti asambodho, so atthato avijjā, tāya ca taṇhupādānāni gahitāni, tayopi te dhammā samudayasaccaṃ, bhavābhavanti ettha dukkhasaccaṃ vuttaṃ. Sugatiduggatippabhedo hi bhavo atthato pañcupādānakkhandhā honti. ‘‘Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hotī’’ti (mahāva. 1) abhidhānato dukkappavatti pavatti nāma, dukkhasamudayo pavattihetu nāma, avijjāsaṅkhātassa ca pavattihetussa aggahitaggahaṇena nirodhamaggasaccadvayaṃ visayo nāma. Vuttañhetaṃ ‘‘tattha katamā avijjā? Dukkhe aññāṇaṃ…pe… dukkhanirodhagāminiyā paṭipadāya aññāṇa’’nti (vibha. 226).
Ở đây có người nói – “Này các Tỳ-khưu, vì không thấu hiểu, không chứng ngộ bốn Thánh đế, nên chúng ta đã trôi lăn, luân hồi trong một thời gian dài như thế này” (dī. ni. 2.155; mahāva. 287), từ đó suy ra rằng thế giới sống, vì không hiểu rõ pháp Tứ đế, nên đi từ kiếp này sang kiếp khác. Do đó, điều mà thế giới sống không hiểu rõ và đi đến, chính điều đó, ở cuối câu được quy định bằng chỉ định từ ‘đó’, nên pháp Tứ đế cũng trở thành người phá tan lưới phiền não bắt đầu từ vô minh và là Pháp tối thượng. Nếu không, câu “con xin đảnh lễ người phá tan lưới phiền não bắt đầu từ vô minh, bậc Pháp tối thượng đó” sẽ không hợp lý khi dùng cùng một cách biến cách với chỉ định từ ‘đó’, vì sự quy định quá rộng; câu “người phá tan lưới phiền não bắt đầu từ vô minh, bậc Pháp tối thượng” là một câu đặc tả. Do đó, nếu nói rằng Khổ đế và Tập đế không có khả năng đó thì sao? Không, vì ở vị trí cùng biến cách với chỉ định từ ‘đó’, nó không được đặc tả. Hơn nữa, vì các quả không thuộc về Đạo đế và Diệt đế, nên có sự mâu thuẫn trong lời nói rằng chín pháp siêu thế được bao gồm; nếu các quả không được bao gồm, thì trong phần chú giải về đoạn Verañja, không chỉ có Thánh đạo và Niết-bàn, mà còn có cả Pháp học cùng với các pháp Thánh quả. Điều này đã được nói “hãy đến nương tựa Pháp này, pháp đoạn tận tham ái, không lay động, không sầu muộn…” (vi. va. 887), có sự mâu thuẫn với lời nói đó, do đó, câu kệ này mâu thuẫn trước sau và mâu thuẫn với giáo lý? Được trả lời – tất cả những điều này đều không đúng vì không hiểu ý nghĩa của câu kệ đã nói. Ở đây, vị thầy đã chỉ ra sự phân biệt giữa đối tượng là sự lưu chuyển, nguyên nhân của sự lưu chuyển và đối tượng. Như thế nào? Ở đây, không hiểu là sự không giác ngộ, theo nghĩa đó là vô minh, và cùng với nó là ái và thủ cũng được bao hàm, cả ba pháp đó là Tập đế, trong câu “từ kiếp này sang kiếp khác” đã nói đến Khổ đế. Sự phân biệt giữa thiện thú và ác thú là kiếp, theo nghĩa đó là năm thủ uẩn. Từ lời nói “như vậy là sự sanh khởi của toàn bộ khối khổ này” (mahāva. 1), sự lưu chuyển của khổ được gọi là sự lưu chuyển, sự tập khởi của khổ được gọi là nguyên nhân của sự lưu chuyển, và bằng cách nắm bắt điều chưa được nắm bắt của nguyên nhân lưu chuyển là vô minh, hai đế Diệt và Đạo được gọi là đối tượng. Điều này đã được nói “ở đây, vô minh là gì? Là không biết về khổ… đến… không biết về con đường đưa đến sự diệt khổ.” (vibha. 226).

Ettha ca nirodhasaccaṃ buddhena gocarāsevanāya āsevitaṃ, maggasaccaṃ bhāvanāsevanāya. Ettāvatā asambudhaṃ buddhanisevitaṃ yanti upayogappatto yo visayo nirodho ca maggo ca, tassa yathāvuttāvijjādikilesajālattayaviddhaṃsino namo dhammavarassāti ayaṃ gāthāya attho. Pariyattidhammopi kilesaviddhaṃsanassa suttantanayena upanissayapaccayattā kilesaviddhaṃsanasīlatāya ‘‘avijjādikilesajālaviddhaṃsī’’ti vattuṃ sambhavati. Evañhi sati rāgavirāgāti gāthattho, so dhammaṃ deseti…pe… brahmacariyaṃ pakāsetīti suttattho ca asesato gahito hoti. Atha vā imāya gāthāya kevalaṃ pariyattidhammova gahito hoti, yaṃ sandhāyāha ‘‘so dhammaṃ deseti ādikalyāṇaṃ…pe… brahmacariyaṃ pakāsetī’’ti (dī. ni. 1.190; pārā. 1), tampi asambudhaṃ buddheheva nisevitaṃ gocarāsevanāya anaññanisevitaṃ. Yathāha ‘‘bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā bhagavaṃnettikā bhagavaṃpaṭisaraṇā…pe… bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī’’ti (saṃ. ni. 2.146).
Ở đây, Diệt đế được Đức Phật thực hành bằng cách thực hành nơi trú xứ, Đạo đế bằng cách thực hành tu tập. Qua đó, đối tượng, tức là Diệt và Đạo, mà người ta đi đến vì không hiểu, được các vị Phật thực hành, sự đảnh lễ dành cho đối tượng đó, người phá tan ba lưới phiền não vô minh đã nói, bậc Pháp tối thượng, đó là ý nghĩa của câu kệ này. Pháp học, theo kinh tạng, vì là duyên y chỉ cho sự phá tan phiền não, nên cũng có thể được gọi là “người phá tan lưới phiền não bắt đầu từ vô minh” do có đặc tính phá tan phiền não. Nếu như vậy, thì ý nghĩa của câu kệ “sự đoạn tận tham ái v.v.”, và ý nghĩa của kinh “Ngài thuyết giảng Pháp… Ngài làm sáng tỏ phạm hạnh” sẽ được bao hàm một cách trọn vẹn. Hoặc là, bằng câu kệ này, chỉ có Pháp học được bao hàm, về điều đó Ngài đã nói “Ngài thuyết giảng Pháp, tốt đẹp ở đoạn đầu… Ngài làm sáng tỏ phạm hạnh” (dī. ni. 1.190; pārā. 1), pháp đó cũng không được hiểu rõ, chỉ được các vị Phật thực hành bằng cách thực hành nơi trú xứ, không ai khác thực hành. Như Ngài đã nói “Thưa Tôn giả, các pháp của chúng con có gốc rễ từ Đức Thế Tôn, có Đức Thế Tôn là người dẫn dắt, có Đức Thế Tôn là nơi nương tựa… sau khi nghe từ Đức Thế Tôn, các Tỳ-khưu sẽ ghi nhớ.” (saṃ. ni. 2.146).

Tatiyagāthāya sīlādayo kiñcāpi lokiyalokuttarā yathāsambhavaṃ labbhanti, tathāpi ante ‘‘ariyasaṅgha’’nti abhidhānato sīlādayo cattāro dhammakkhandhā lokuttarāva. Ettha ca ‘‘sīlasamādhipaññāvimuttivimuttiñāṇappabhutīhī’’ti vattabbe sarūpekasesaṃ katvā ‘‘vimuttiñāṇappabhutīhī’’ti vuttaṃ. Ettha ca kiñcāpi vimuttīti phaladhammāva sutte adhippetā, tathāpi ‘‘maggā vuṭṭhahitvā maggaṃ paccavekkhati. Pahīne kilese paccavekkhati. Phalaṃ paccavekkhati. Nibbānaṃ paccavekkhatī’’ti (paṭṭhā. 1.1.410) abhidhānato maggādipaccavekkhaṇañāṇaṃ vimuttiñāṇanti veditabbaṃ. Vimutti vimokkho khayoti hi atthato ekaṃ. ‘‘Khaye ñāṇaṃ anuppāde ñāṇanti (dha. sa. dukamātikā 142; dī. ni. 3.304) ettha khayo nāma maggo, rāgakkhayo dosakkhayoti phalanibbānānaṃ adhivacana’’nti sutte āgatameva. Pahīnakilesānaṃ khayo pākatiko khayo eva. Pabhuti-saddena tisso vijjā cha abhiññā catasso paṭisambhidāti evamādayo guṇā saṅgahitā. Samannāgamaṭṭhena aparihīnaṭṭhena ca yutto. Khettaṃ janānaṃ kusalatthikānanti ‘‘anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’’ti suttato kusalassa viruhanaṭṭhānattā, suttantanayena upanissayapaccayattā ca kāmaṃ kusalassa khettaṃ hoti saṅgho, na kusalatthikānaṃ janānaṃ. Tasmā na yujjatīti ce? Na, suttatthasambhavato. Sutte ‘‘anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’’ti (saṃ. ni. 4.341) hi vuttaṃ. Kassa lokassa? Puññatthikassa khettaṃ saṅgho, puññupanissayattā puññakkhettaṃ hoti saṅgho, kusalatthikānanti ca vuccanti. Lokepi hi devadattassa khettaṃ yaññadattassa khettaṃ sāliyavupanissayattā sālikhettaṃ yavakhettanti ca vuccati. Ariyasaṅghanti vigatakilesattā ariyaṃ parisuddhaṃ ariyānaṃ, ariyabhāvaṃ vā pattaṃ sīladiṭṭhisāmaññena saṅghatattā saṅghaṃ. ‘‘Ariya-saddena sammutisaṅghaṃ nivāretī’’ti keci likhanti, taṃ na sundaraṃ vimuttiñāṇaguṇaggahaṇena visesitattā. Sirasāti iminā kāmaṃ kāyanatiṃ dasseti, tathāpi uttamasaṅghe guṇagāravena uttamaṅgameva niddisanto ‘‘sirasā namāmī’’tyāha. Sirassa pana uttamatā uttamānaṃ cakkhusotindriyānaṃ nissayattā, tesaṃ uttamatā ca dassanānuttariyasavanānuttariyahetutāya veditabbā. Etthāha – anusandhikusalo
Trong câu kệ thứ ba, mặc dù giới v.v., có thể được tìm thấy cả ở thế gian và siêu thế tùy theo khả năng, nhưng ở cuối câu có nói “Thánh Tăng”, nên giới v.v., bốn pháp uẩn đó chỉ là siêu thế. Và ở đây, mặc dù nên nói là “với giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, v.v.”, nhưng Ngài đã nói “với giải thoát tri kiến, v.v.” bằng cách dùng phép tỉnh lược một phần. Và ở đây, mặc dù giải thoát trong kinh chỉ có nghĩa là các pháp quả, nhưng vì có nói “sau khi xuất khỏi đạo, vị ấy quán xét đạo. Quán xét các phiền não đã đoạn trừ. Quán xét quả. Quán xét Niết-bàn” (paṭṭhā. 1.1.410), nên cần hiểu rằng trí tuệ quán xét đạo v.v., là giải thoát tri kiến. Giải thoát, giải thoát, sự đoạn tận, về mặt ý nghĩa là một. Trong câu “tri kiến về sự đoạn tận, tri kiến về sự không sanh khởi” (dha. sa. dukamātikā 142; dī. ni. 3.304), sự đoạn tận ở đây có nghĩa là đạo, sự đoạn tận tham ái, sự đoạn tận sân hận là tên gọi khác của quả và Niết-bàn, điều đó đã có trong kinh. Sự đoạn tận của các phiền não đã đoạn trừ là sự đoạn tận tự nhiên. Bằng từ v.v., các phẩm chất như ba minh, sáu thông, bốn vô ngại giải, v.v., được bao hàm. Hợp nhất theo nghĩa có được và không bị suy giảm. Ruộng phước cho những người mong cầu thiện pháp, từ kinh “ruộng phước vô thượng của thế gian”, vì là nơi nảy mầm của thiện pháp, và theo kinh tạng, vì là duyên y chỉ, nên Tăng đoàn là ruộng phước của thiện pháp, chứ không phải của những người mong cầu thiện pháp. Do đó, nếu nói rằng điều đó không hợp lý thì sao? Không, vì ý nghĩa của kinh cho phép. Trong kinh đã nói “ruộng phước vô thượng của thế gian” (saṃ. ni. 4.341). Của thế gian nào? Tăng đoàn là ruộng phước của người mong cầu phước, vì là nơi y chỉ của phước nên Tăng đoàn là ruộng phước, và họ được gọi là người mong cầu thiện pháp. Trong đời, ruộng của Devadatta, ruộng của Yaññadatta, vì là nơi y chỉ của lúa và lúa mạch nên cũng được gọi là ruộng lúa, ruộng lúa mạch. Thánh Tăng, vì đã diệt trừ phiền não nên là Tăng đoàn thanh tịnh, của các bậc Thánh, hoặc đã đạt đến trạng thái Thánh, và vì đồng nhất về giới và kiến nên là Tăng đoàn. Một số người viết rằng “bằng từ ‘Thánh’, Ngài loại trừ Tăng đoàn quy ước”, điều đó không hay vì nó đã được đặc tả bằng việc nắm bắt phẩm chất giải thoát tri kiến. Bằng đầu, bằng điều này, Ngài thể hiện sự cung kính bằng thân, tuy nhiên, vì tôn kính các phẩm chất trong Tăng đoàn tối thượng, Ngài chỉ nêu ra bộ phận cao quý nhất và nói “con xin đảnh lễ bằng đầu”. Sự cao quý của đầu là do nó là nơi nương tựa của các giác quan cao quý là mắt và tai, và sự cao quý của chúng cần được hiểu là do chúng là nhân của sự thấy biết vô thượng và sự nghe biết vô thượng. Ở đây, người giỏi liên kết nói –

‘‘Upogghāto padañceva, padattho padaviggaho;
Codanāpratyavajjānaṃ, byākhyā tantassa chabbidhā’’ti. –
“Lời mở đầu, từ, ý nghĩa của từ, sự phân tích từ;
Sự chất vấn và phản bác, sự giải thích của kinh điển có sáu loại.” –

Evamavatvā kasmā ratanattayapaṇāmaṃ paṭhamaṃ vuttanti? Vuccate – satācārattā. Ācāro kiresa sappurisānaṃ, yadidaṃ saṃvaṇṇanārambhe ratanattayapūjāvidhānaṃ. Tasmā ‘‘satācārato bhaṭṭhā mā mayaṃ homā’’ti karīyati, catugambhīrabhāvayuttañca vinayapiṭakaṃ saṃvaṇṇetukāmassa mahāsamuddaṃ ogāhantassa viya paññāveyyattiyasamannāgatassāpi mahantaṃ bhayaṃ hoti, bhayakkhayāvahañcetaṃ ratanattayaguṇānussaraṇajanitaṃ paṇāmapūjāvidhānaṃ. Yathāha ‘‘evaṃ buddhaṃ sarantāna’’ntiādi (saṃ. ni. 1.249). Apicācariyo satthupūjāvidhānena asatthari satthābhinivesassa lokassa yathābhūtaṃ satthari eva sammāsambuddhe satthusambhāvanaṃ uppādeti, asatthari satthusambhāvanaṃ pariccajāpeti, ‘‘tathāgatappaveditaṃ dhammavinayaṃ attano dahatī’’ti vuttadosaṃ pariharati. Antarāyabahulattā khandhasantatiyā vippakatāya vinayasaṃvaṇṇanāya attano āyuvaṇṇasukhabalānaṃ parikkhayasambhavāsaṅkāya ‘‘abhivādanasīlissa…pe… āyu vaṇṇo sukhaṃ bala’’nti (dha. pa. 109) vuttānisaṃse yāva saṃvaṇṇanāpariyosānā pattheti. Api cettha buddhassa bhagavato paṇāmapūjāvidhānaṃ sammāsambuddhabhāvādhigamatthaṃ buddhayānaṃ paṭipajjantānaṃ ussāhaṃ janeti. Lokiyalokuttarabhedassa, lokuttarasseva vā saddhammassa pūjāvidhānaṃ paccekabuddhabhāvādhigamatthaṃ paccekabuddhayānaṃ paṭipajjantānaṃ ussāhaṃ janeti. Saddhammapaṭivedhamattābhilāsino hi te. Paramatthasaṅghapūjāvidhānaṃ paramatthasaṅghabhāvādhigamatthaṃ sāvakayānaṃ paṭipajjantānaṃ ussāhaṃ janeti, maṅgalādīni vā sātthāni anantarāyāni ciraṭṭhitikāni bahumatāni ca bhavantīti evaṃladdhikānaṃ cittaparitosanatthaṃ ‘‘pūjā ca pūjaneyyāna’’nti bhagavatā pasatthamaṅgalaṃ karoti. Vuccate ca –
Tại sao không nói như vậy mà lại nói lời đảnh lễ Tam Bảo trước tiên? Được trả lời – vì đó là thông lệ của người hiền. Đây là thông lệ của người tốt, đó là nghi thức cúng dường Tam Bảo khi bắt đầu soạn Chú giải. Do đó, được thực hiện với ý nghĩ “chúng ta đừng đi chệch khỏi thông lệ của người hiền”. Và người muốn chú giải Tạng Luật, vốn có bốn sự sâu sắc, cũng có nỗi sợ hãi lớn, giống như người lặn xuống biển lớn, ngay cả khi có đủ trí tuệ và sự khéo léo, và nghi thức đảnh lễ cúng dường này, phát sinh từ sự tưởng nhớ các phẩm chất của Tam Bảo, có thể xua tan nỗi sợ hãi. Như Ngài đã nói “khi tưởng nhớ đến Phật như vậy” v.v.. (saṃ. ni. 1.249). Hơn nữa, vị thầy, bằng nghi thức cúng dường bậc Đạo Sư, làm cho thế gian, vốn có sự tin tưởng vào bậc đạo sư không thật, phát sinh sự tôn kính bậc Đạo Sư một cách đúng đắn nơi đấng Chánh Đẳng Chánh Giác, làm cho họ từ bỏ sự tôn kính bậc đạo sư không thật, và tránh được lỗi đã nói “người ấy đốt cháy Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng”. Vì dòng tương tục của các uẩn có nhiều trở ngại, và vì sự chú giải Luật bị gián đoạn, do lo ngại về sự suy giảm tuổi thọ, sắc đẹp, hạnh phúc và sức mạnh của mình, vị ấy mong cầu những lợi ích đã nói “đối với người có thói quen đảnh lễ… tuổi thọ, sắc đẹp, hạnh phúc, sức mạnh” (dha. pa. 109) cho đến khi hoàn thành việc chú giải. Hơn nữa, ở đây, nghi thức đảnh lễ cúng dường Đức Phật, bậc Thế Tôn, tạo ra sự phấn khởi cho những người đang thực hành Phật thừa để chứng đắc Phật quả. Nghi thức cúng dường Chánh pháp, được phân chia thành thế gian và siêu thế, hoặc chỉ siêu thế, tạo ra sự phấn khởi cho những người đang thực hành Độc Giác Phật thừa để chứng đắc Độc Giác Phật quả. Vì họ chỉ khao khát chứng ngộ Chánh pháp. Nghi thức cúng dường Tăng đoàn chân đế tạo ra sự phấn khởi cho những người đang thực hành Thanh Văn thừa để chứng đắc trạng thái Tăng đoàn chân đế, hoặc để làm hài lòng tâm của những người có niềm tin rằng các việc làm có ý nghĩa, không có trở ngại, tồn tại lâu dài và được nhiều người tôn kính, như các việc phước lành v.v., vị ấy thực hiện phước lành đã được Đức Thế Tôn tán thán “cúng dường những bậc đáng cúng dường”. Và được nói rằng –

‘‘Maṅgalaṃ bhagavā buddho, dhammo saṅgho ca maṅgalaṃ;
Maṅgalādīni sātthāni, sīghaṃ sijjhanti sabbaso.
“Đức Phật, bậc Thế Tôn, là phước lành, Pháp và Tăng cũng là phước lành;
Các việc có ý nghĩa bắt đầu bằng phước lành, tất cả đều nhanh chóng thành tựu.

‘‘Satthu pūjāvidhānena, evamādī bahū guṇe;
Labhatīti vijānanto, satthupūjāparo siyā’’ti.
“Bằng nghi thức cúng dường bậc Đạo Sư, người ta nhận được nhiều phẩm chất như vậy;
Biết được điều đó, người nên chuyên tâm cúng dường bậc Đạo Sư.”

Ettha ca satthupadhānattā dhammasaṅghānaṃ pūjāvidhānaṃ satthupūjāvidhānamicceva daṭṭhabbaṃ sāsanato lokato ca. Tenetaṃ vuccati –
Ở đây, vì bậc Đạo Sư là chính, nên nghi thức cúng dường Pháp và Tăng cũng nên được xem là nghi thức cúng dường bậc Đạo Sư, cả từ giáo pháp và từ thế gian. Do đó, điều này được nói –

‘‘Satthā’’ti dhammo sugatena vutto;
Nibbānakāle yamato sa satthā;
Suvatthigāthāsu ‘‘tathāgato’’ti;
Saṅgho ca vutto yamato sa satthā.
“‘Bậc Đạo Sư’ là Pháp do đấng Thiện Thệ thuyết giảng;
Khi Ngài sắp nhập Niết-bàn, Ngài đã nói rằng Pháp là bậc Đạo Sư;
Trong các câu kệ cầu an, ‘Như Lai’ cũng đã được nói;
Tăng đoàn cũng được gọi là bậc Đạo Sư.

Kiñca bhiyyo –
Hơn nữa –

Dhammakāyo yato satthā, dhammo satthā tato mato;
Dhammaṭṭhito so saṅgho ca, satthusaṅkhyaṃ nigacchati.
Vì Pháp thân là bậc Đạo Sư, nên Pháp được xem là bậc Đạo Sư;
Tăng đoàn, những người sống trong Pháp, cũng được kể là bậc Đạo Sư.

Santi hi loke vattāro kosagataṃ asiṃ gahetvā ṭhitaṃ purisaṃ visuṃ aparāmasitvā ‘‘asiṃ gahetvā ṭhito eso’’ti. Tenevāha cāriyamātraccevā –
Có những người trên đời, khi thấy một người cầm một thanh gươm trong bao, không nói riêng về người đó mà nói “người đó đang cầm gươm”. Chính vì vậy, vị thầy đã nói –

‘‘Namatthu buddharatnāya, dhammaratnāya te namo;
Namatthu saṅgharatnāya, tiratnasamavānayī’’ti.
“Con xin đảnh lễ Phật bảo, xin đảnh lễ Pháp bảo của Ngài;
Con xin đảnh lễ Tăng bảo, sự hòa hợp của ba ngôi báu.”

Apica sabbadhammesu appaṭihatañāṇanimittānuttaravimokkhapātubhāvābhisaṅkhātaṃ khandhasantānamupādāya ‘‘buddho’’ti yadi paññāpiyati, dhammo paṇāmārahoti kā eva kathā, saṅgho ca ‘‘saṅghe gotami dehi, saṅghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṅgho cā’’ti vuttattā bhājananti dīpeti. Atha vā ‘‘buddhasubodhito dhammo ācariyaparamparāya suvaṇṇabhājane pakkhittatelamiva aparihāpetvā yāvajjatanā ābhatattā eva mādisānampi sotadvāramanuppatto’’ti saṅghassa ācariyo atīva ādarena paṇāmaṃ karoti ‘‘sirasā namāmī’’ti.
Hơn nữa, nếu “Phật” được quy định dựa trên dòng tương tục của các uẩn, vốn là sự biểu hiện của sự giải thoát vô thượng không có đối tượng là trí tuệ không bị cản trở trong tất cả các pháp, thì Pháp có xứng đáng được đảnh lễ hay không, còn gì để nói, và Tăng đoàn, vì đã được nói “Gotami, hãy cúng dường cho Tăng đoàn, khi con cúng dường cho Tăng đoàn, cả ta và Tăng đoàn đều được cúng dường”, nên chỉ ra rằng đó là vật chứa. Hoặc là “Pháp do Đức Phật giác ngộ một cách hoàn hảo, đã được truyền thừa từ các thế hệ thầy tổ, giống như dầu được đổ vào một chiếc bình vàng không bị hao hụt, đã được mang đến cho đến ngày nay và đã đến được cửa tai của những người như chúng ta”, vị thầy đã đảnh lễ Tăng đoàn với sự tôn kính vô cùng, nói rằng “con xin đảnh lễ bằng đầu”.

Evaṃ anekavidhaṃ paṇāmappayojanaṃ vadanti, ācariyena pana adhippetappayojanaṃ attanā eva vuttaṃ ‘‘iccevamaccantanamassaneyya’’ntiādinā catutthagāthāya. Iccevanti ettha iti-saddo ratanattayapūjāvidhānaparisamattattho. Yadi evaṃ yathāvihitamattameva pūjāvidhānaṃ arahati ratanattayaṃ, na tato uddhanti āpajjatīti aniṭṭhappasaṅganivāraṇatthaṃ ‘‘evamaccantanamassaneyya’’nti āha. Tattha evanti iminā yathāvuttavidhiṃ dasseti. Yathāvuttena vidhinā, aññena vā tādisena accantameva muhuttamapi aṭṭhatvā abhikkhaṇaṃ nirantaraṃ niyamena namassanārahaṃ namassamānassa hitamahapphalakaraṇatoti attho. Evaṃvidhaṃ dullabhaṭṭhena mahapphalaṭṭhena ca siddhaṃ ratanabhāvaṃ ratanattayaṃ namassamāno yaṃ puññābhisandaṃ alatthaṃ alabhiṃ. Akusalamalaṃ tadaṅgādippahānena punātīti puññaṃ. Kilesadarathappaṭippassaddhiyā sītalattā cittaṃ abhisandetīti abhisando. Puññañca taṃ abhisando cāti puññābhisando, taṃ puññābhisandaṃ. Gaṇṭhipade pana ‘‘puññamahattaṃ’’nti bhaṇanti, ‘‘vipula’’nti abhidhānato so attho na yujjatīti ācariyo. Atha vā puññānaṃ abhisando puññābhisando , taṃ puññābhisandaṃ. Sanda savaneti dhātu. Tasmā puññasotaṃ puññussayanti attho yujjati, taṃ pana vipulaṃ, na parittanti dassitaṃ vipula-saddena.
Người ta nói về nhiều mục đích khác nhau của việc đảnh lễ như vậy, nhưng mục đích mà vị thầy chủ trương đã được chính ngài nói ra trong câu kệ thứ tư bắt đầu bằng “iccevamaccantanamassaneyya” (Thế là, đấng như vậy, tối thượng, xứng đáng được lễ bái tuyệt đối). Ở đây, trong từ “Icceva”, từ “iti” có nghĩa là kết thúc nghi thức cúng dường Tam Bảo. Nếu nói như vậy thì Tam Bảo chỉ xứng đáng được cúng dường theo nghi thức đã quy định, chứ không hơn, điều này sẽ dẫn đến một kết luận không mong muốn. Để ngăn chặn sự suy diễn không mong muốn đó, ngài đã nói “evamaccantanamassaneyya” (Đấng như vậy, tối thượng, xứng đáng được tôn kính tuyệt đối). Ở đây, từ “evaṃ” chỉ ra phương pháp đã nói. Theo phương pháp đã nói, hoặc một phương pháp tương tự khác, người ta nên đảnh lễ một cách liên tục, không ngừng nghỉ dù chỉ một khoảnh khắc, bởi vì việc đảnh lễ bậc đáng được đảnh lễ sẽ mang lại kết quả lớn lao và lợi ích. Khi đảnh lễ Tam Bảo, vốn đã được chứng minh là bảo vật do tính chất hiếm có và kết quả to lớn như vậy, tôi đã nhận được dòng phước báu nào. Điều làm thanh tịnh các uế nhiễm bất thiện bằng cách đoạn trừ chúng ở từng phần được gọi là phước. Điều làm cho tâm mát mẻ, lắng dịu khỏi sự thiêu đốt của phiền não được gọi là dòng chảy. Phước và dòng chảy đó là dòng phước báu, đó là dòng phước báu. Trong Gaṇṭhipade (các từ mấu chốt), họ nói là “sự vĩ đại của phước”, nhưng vị thầy cho rằng ý nghĩa đó không hợp lý vì có từ “vipula” (rộng lớn). Hoặc là, dòng chảy của các phước là dòng phước báu, đó là dòng phước báu. Động từ “sanda” có nghĩa là chảy. Do đó, có nghĩa là dòng phước, nguồn phước là hợp lý, và điều đó là rộng lớn chứ không phải nhỏ hẹp, được chỉ ra bằng từ “vipula”.

Pañcamagāthā yasmiṃ vinayapiṭake pāḷito ca atthato ca anūnaṃ lajjīpuggalesu pavattanaṭṭhena ṭhite sakalaṃ tividhampi sāsanaṃ tesveva puggalesu patiṭṭhitaṃ hoti. Kassa sāsananti ce? Aṭṭhitassa bhagavato. Bhagavā hi ṭhitihetubhūtāya ucchedadiṭṭhiyā abhāvena aṭṭhitoti vuccati. Ucchedadiṭṭhiko hi paraloke nirapekkho kevalaṃ kāmasukhallikānuyogamanuyuñjanto tiṭṭhati, na paralokahitāni puññāni kattuṃ byāvaṭo hoti, sassatadiṭṭhiko tāni kattuṃ āyūhati. Bhagavā pana tathā atiṭṭhanto anāyūhanto majjhimaṃ paṭipadaṃ paṭipajjanto sayañca oghaṃ tari, pare ca tāresi. Yathāha ‘‘appatiṭṭhaṃ khvāhaṃ, āvuso, anāyūhaṃ oghamatari’’nti (saṃ. ni. 1.1). Catubrahmavihāravasena sattesu suṭṭhu sammā ca ṭhitassāti atthavasena vā susaṇṭhitassa. Susaṇṭhitattā hesa kevalaṃ sattānaṃ dukkhaṃ apanetukāmo hitaṃ upasaṃharitukāmo sampattiyā ca pamodito apakkhapatito ca hutvā vinayaṃ deseti, tasmā imasmiṃ vinayasaṃvaṇṇanādhikāre sāruppāya thutiyā thomento āha ‘‘susaṇṭhitassā’’ti. Gaṇṭhipade pana ‘‘manāpiye ca kho, bhikkhave, kammavipāke paccupaṭṭhite’’ti (dī. ni. aṭṭha. 2.35; ma. ni. aṭṭha. 2.386) suttassa, ‘‘susaṇṭhānā surūpatā’’ti (khu. pā. 8.11) suttassa ca vasena susaṇṭhitassāti attho vutto, so adhippetādhikārānurūpo na hoti. Amissanti kiṃ vinayaṃ amissaṃ, udāhu pubbācariyānubhāvanti? Nobhayampi. Amissā eva hi vinayaṭṭhakathā. Tasmā bhāvanapuṃsakavasena amissaṃ taṃ vaṇṇayissanti sambandho. Pubbācariyānubhāvanti aṭṭhakathā ‘‘yasmā pure aṭṭhakathā akaṃsū’’ti abhidhānato tesaṃ ānubhāvo nāma hoti. Kiñci apubbaṃ disvā santi hi loke vattāro ‘‘kassesa ānubhāvo’’ti. Atha vā bhagavato adhippāyaṃ anugantvā taṃtaṃpāṭhe atthaṃ bhāvayati vibhāvayati, tassa tassa vā atthassa bhāvanā vibhāvanāti ānubhāvo vuccati aṭṭhakathā.
Câu kệ thứ năm, trong tạng Luật nào, không thiếu sót cả về Pāḷi lẫn ý nghĩa, khi được duy trì trong những người biết hổ thẹn, thì toàn bộ giáo pháp ba loại cũng được thiết lập vững chắc trong chính những người đó. Nếu hỏi giáo pháp của ai? Của Đức Thế Tôn, bậc không đứng yên. Đức Thế Tôn được gọi là không đứng yên vì Ngài không có đoạn kiến, vốn là nguyên nhân của sự tồn tại (trong luân hồi). Người có đoạn kiến, vì không quan tâm đến đời sau, chỉ chuyên tâm theo đuổi dục lạc, chứ không nỗ lực làm các việc phước thiện vì lợi ích cho đời sau. Người có thường kiến thì cố gắng làm những việc đó. Còn Đức Thế Tôn, không đứng yên như vậy, không nỗ lực (theo hai cực đoan đó), Ngài thực hành trung đạo, tự mình vượt qua bộc lưu và đưa người khác qua. Như Ngài đã nói “Này hiền giả, ta không đứng lại, không cố gắng, đã vượt qua bộc lưu” (saṃ. ni. 1.1). Hoặc theo ý nghĩa, bậc an trú tốt đẹp là bậc an trú một cách tốt đẹp và đúng đắn trong chúng sanh nhờ bốn phạm trú. Vì an trú tốt đẹp, Ngài chỉ muốn loại bỏ khổ đau cho chúng sanh, mang lại lợi ích, vui mừng với sự thành công của họ và không thiên vị, mà thuyết giảng Luật. Do đó, trong chương chú giải Luật này, ngài đã tán thán bằng một lời khen ngợi phù hợp, nói rằng “của bậc an trú tốt đẹp”. Trong Gaṇṭhipade, ý nghĩa của “susaṇṭhitassā” được giải thích dựa trên kinh “Này các Tỳ-khưu, khi quả báo của nghiệp tốt và xấu hiện tiền” (dī. ni. aṭṭha. 2.35; ma. ni. aṭṭha. 2.386) và kinh “hình dáng xinh đẹp, dung sắc ưa nhìn” (khu. pā. 8.11), ý nghĩa đó không phù hợp với chủ đề đang được đề cập. Không pha trộn, là gì? Là Luật không pha trộn, hay là uy lực của các bậc thầy xưa? Không phải cả hai. Chú giải Luật vốn đã không pha trộn. Do đó, mối liên hệ là: tôi sẽ chú giải nó một cách không pha trộn, theo giống trung. Uy lực của các bậc thầy xưa, Chú giải được gọi là uy lực của họ vì có câu nói “vì các bậc thầy xưa đã làm Chú giải”. Khi thấy một điều gì đó chưa từng có, có những người trên đời nói “đây là uy lực của ai?”. Hoặc là, Chú giải được gọi là uy lực vì nó làm sáng tỏ, làm rõ ý nghĩa trong các bản văn này khác, theo đúng ý của Đức Thế Tôn, hoặc vì nó là sự làm sáng tỏ, làm rõ ý nghĩa này khác.

Pubbācariyānubhāve sati kiṃ puna taṃ vaṇṇayissanti iminā ārambhenāti tato vuccanti chaṭṭhasattamaṭṭhamanavamagāthāyo. Tattha ariyamaggañāṇambunā niddhotamalattā visuddhavijjehi, teneva niddhotāsavattā visuddhapaṭisambhidehi, visuddhapaṭisambhidattā ca saddhammasaṃvaṇṇanakovidehīti yojanā veditabbā. Keci ‘‘pubbācariyāti vutte lokācariyāpi, sāsane rāhulācariyādayopi saṅgayhanti, te apanetuṃ kāmañcātiādi vutta’’nti vadanti. ‘‘Taṃ vaṇṇayissa’’nti vuttattā pubbaṭṭhakathāya ūnabhāvo dassitoti ce? Na, cittehi nayehi saṃvaṇṇitoti dassetuṃ ‘‘kāmañcā’’tiādi vuttaṃ. Saddhammaṃ saṃvaṇṇetuṃ kovidehi, tāya saṃvaṇṇanāya vā kovidehi saddhammasaṃvaṇṇanakovidehi.
Khi đã có uy lực của các bậc thầy xưa, tại sao lại chú giải nó một lần nữa với sự khởi đầu này? Do đó, các câu kệ thứ sáu, bảy, tám và chín được nói ra. Ở đây, cần hiểu sự kết hợp như sau: bởi những vị có trí tuệ thanh tịnh vì các uế nhiễm đã được tẩy sạch bằng nước trí tuệ Thánh đạo, bởi những vị có vô ngại giải thanh tịnh vì các lậu hoặc đã được tẩy sạch bằng chính trí tuệ đó, và bởi những vị thông thạo việc chú giải Chánh pháp vì có vô ngại giải thanh tịnh. Một số người nói rằng “khi nói ‘các bậc thầy xưa’, các vị thầy trên thế gian và các vị thầy trong giáo pháp như trưởng lão Rāhula cũng được bao gồm, để loại trừ họ, ngài đã nói ‘kāmañcā’ v.v.”. Nếu nói rằng vì đã nói “Ta sẽ chú giải nó”, nên đã chỉ ra sự thiếu sót của Chú giải xưa? Không phải, “kāmañcā” v.v. được nói để chỉ ra rằng sẽ chú giải bằng những phương pháp tuyệt vời. Bởi những vị thông thạo việc chú giải Chánh pháp, hoặc thông thạo nhờ sự chú giải đó, nên gọi là bởi những vị thông thạo việc chú giải Chánh pháp.

Sallekhiyeti kilesajātaṃ bāhullaṃ vā sallikhati tanuṃ karotīti sallekho, sallekhassa bhāvo sallekhiyaṃ, tasmiṃ sallekhiye. Nosulabhūpamehīti asulabhūpamehi. Mahāvihārassāti mahāvihāravaṃsassa. Paññāya accuggataṭṭhena dhajo upamā etesanti dhajūpamā, tehi dhajūpamehi. Sambuddhavaraṃ anuayehi anugatehi sambuddhavaranvayehi, buddhādhippāyānugehīti adhippāyo. Idha vara-saddo ‘‘sāmaṃ saccāni buddhattā sambuddho’’ti abhidhānato paccekabuddhāpi saṅgayhanti. Tasmā te apanetuṃ vutto.
Trong sự khổ hạnh, điều làm cho mòn đi, làm cho mỏng đi đám phiền não hoặc sự dồi dào của chúng được gọi là khổ hạnh, trạng thái của khổ hạnh là sự khổ hạnh, trong sự khổ hạnh đó. Bởi những ví dụ không dễ tìm, là bởi những ví dụ khó tìm. Của Đại Tự, là của dòng dõi Đại Tự. Những vị có ví dụ là ngọn cờ vì sự cao siêu của trí tuệ, bởi những vị đó là bởi những vị như ngọn cờ. Bởi những vị đã đi theo, đã noi theo đấng Chánh Đẳng Chánh Giác tối thượng là bởi những vị thuộc dòng dõi đấng Chánh Đẳng Chánh Giác tối thượng, ý nói là những vị theo đúng ý của Đức Phật. Ở đây, từ “vara” (tối thượng), vì có nói “tự mình giác ngộ các chân lý nên là Chánh Đẳng Chánh Giác”, nên các vị Phật Độc Giác cũng được bao gồm. Do đó, để loại trừ họ, từ này đã được nói ra.

Aṭṭhakathāya ūnabhāvaṃ dassetvā idāni attano karaṇavisesaṃ tassa payojanañca dassetuṃ ‘‘saṃvaṇṇanā’’tiādimāha. Na kiñci atthaṃ abhisambhuṇātīti kiñci payojanaṃ phalaṃ hitaṃ na sādhetīti attho ‘‘na taṃ tassa bhikkhuno kiñci atthaṃ anubhotī’’tiādīsu (pārā. 538) viya. Ajjhesanaṃ buddhasirivhayassāti iminā yasmā sahampatibrahmunā ajjhiṭṭhena dhammo desito bhagavatā, sāriputtassa ajjhesanaṃ nissāya vinayo paññatto, tasmā ayampi ācariyo taṃ ācariyavattaṃ pūjento imaṃ saṃvaṇṇanaṃ buddhasirittherassa yācanaṃ nissāya akāsīti dasseti. Samanussarantoti tassābhāvaṃ dīpeti ādarañca.
Sau khi chỉ ra sự thiếu sót của Chú giải, bây giờ để chỉ ra sự đặc biệt trong việc làm của mình và mục đích của nó, ngài nói “saṃvaṇṇanā” v.v.. Không hiểu được bất kỳ ý nghĩa nào có nghĩa là không mang lại bất kỳ lợi ích, kết quả, điều tốt lành nào, giống như trong các câu “điều đó không mang lại lợi ích gì cho vị Tỳ-khưu ấy” v.v.. (pārā. 538). Lời thỉnh cầu của ngài Buddhasiri, bằng điều này, ngài chỉ ra rằng, vì Pháp được Đức Thế Tôn thuyết giảng do lời thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati, và Luật được chế định do lời thỉnh cầu của Sāriputta, nên vị thầy này, để tôn trọng bổn phận của vị thầy đó, đã thực hiện bài chú giải này do sự yêu cầu của trưởng lão Buddhasiri. Khi tưởng nhớ, điều này thể hiện sự vắng mặt của ngài và lòng tôn kính.

Tato paraṃ dve gāthāyo kattabbavidhidassanatthaṃ vuttā. Tena tāsu aṭṭhakathāsu vuttavinicchayapaccayavimatiṃ vinodeti, ekaṭṭhakathāya kusalassa vā ‘‘ayaṃ nayo aṭṭhakathāyaṃ natthī’’ti paṭikkhepaṃ nivāreti, ayuttatthapariccāgena tattha abhiniviṭṭhānaṃ abhinivesaṃ pariccajāpeti, theravādadassanena vinayavinicchayaṃ pati vinayadharānaṃ kāraṇopapattito uhāpohakkamaṃ dasseti, ayuttattheravādapaṭikkhepena puggalappamāṇataṃ paṭikkhipatīti ime cānisaṃsā kattabbavidhidassanena dassitā honti. Saṃvaṇṇanaṃ tañca samārabhanto tassā saṃvaṇṇanāya mahāaṭṭhakathaṃ sarīraṃ katvā samārabhissaṃ, mahāpaccariyampi yo vutto vinicchayo, tatheva kurundīnāmādīsu loke vissutāsu aṭṭhakathāsu ca yo vutto vinicchayo, tatopi vinicchayato mahāaṭṭhakathānayena, vinayayuttiyā vā yuttamatthaṃ tassa sarīrassa alaṅkāraṃ viya gaṇhanto samārabhissaṃ. Kiṃ saṃvaṇṇanameva, na aññanti dassanatthaṃ puna saṃvaṇṇanāggahaṇaṃ. Atha vā antogadhattheravādaṃ saṃvaṇṇanaṃ katvā samārabhissanti yojanā veditabbā. Theravādā hi bahiaṭṭhakathāya vicaranti. Ettha ādi-saddena cūḷapaccariandhakaariyaṭṭhakathāpannavārādayopi saṅgahitā . Tattha paccarī nāma sīhaḷabhāsāya uḷumpaṃ kira, tasmiṃ nisīditvā katattā tameva nāmaṃ jātaṃ. Kurundīvallivihāro nāma atthi, tattha katattā kurundī nāma jātā.
Sau đó, hai câu kệ được nói để chỉ ra phương pháp cần phải làm. Qua đó, ngài giải tỏa sự nghi ngờ về các quyết định và các yếu tố trong các bộ Chú giải đó, ngăn chặn sự bác bỏ của người chỉ giỏi một bộ Chú giải rằng “phương pháp này không có trong Chú giải”, làm cho những người cố chấp vào ý nghĩa không hợp lý từ bỏ sự cố chấp của họ, chỉ ra cho các vị trì Luật con đường suy luận và phán đoán dựa trên lý lẽ về sự phân tích Luật theo quan điểm của Thượng Tọa Bộ, và bác bỏ việc lấy cá nhân làm tiêu chuẩn bằng cách bác bỏ những quan điểm không hợp lý của Thượng Tọa Bộ. Những lợi ích này được chỉ ra bằng việc trình bày phương pháp cần phải làm. Khi bắt đầu chú giải đó, tôi sẽ lấy bộ Đại Chú Giải làm thân cốt để bắt đầu, và cả quyết định đã được nói trong bộ Mahāpaccari, cũng như quyết định đã được nói trong các bộ Chú giải nổi tiếng trên thế gian như Kurundī, từ những quyết định đó, tôi sẽ lấy ý nghĩa hợp lý theo phương pháp của Đại Chú Giải hoặc theo lý lẽ của Luật, như một sự trang sức cho thân cốt đó, để bắt đầu. Tại sao lại dùng từ “chú giải” một lần nữa để chỉ ra rằng chỉ là chú giải chứ không phải cái khác? Hoặc là, cần hiểu sự kết hợp là: tôi sẽ bắt đầu sau khi đã thực hiện một bài chú giải bao gồm cả quan điểm của Thượng Tọa Bộ. Vì các quan điểm của Thượng Tọa Bộ lưu hành bên ngoài Chú giải. Ở đây, bằng từ “v.v.”, các bộ như Cūḷapaccari, Andhaka, Ariyaṭṭhakathāpannavāra v.v. cũng được bao gồm. Ở đây, Paccarī là một chiếc bè trong tiếng Tích Lan, vì được thực hiện khi ngồi trên đó nên có tên như vậy. Có một tu viện tên là Kurundīvallivihāra, vì được thực hiện ở đó nên có tên là Kurundī.

Samma samārabhissanti kattabbavidhānaṃ sajjetvā ahaṃ ṭhito, tasmā taṃ me nisāmentūti gāthāya taṃ saṃvaṇṇanaṃ me mama, mayā vā vuccamānanti pāṭhaseso . Nisāmentu passantu paññācakkhunā suṇantu vā saddhāvīriyapītipāmojjābhisaṅkhārena saṅkharitvā pūjayantā sakkaccaṃ dhammaṃ. Kassa dhammaṃ? Dhammappadīpassa tathāgatassa. Kiṃ dasseti? Padīpaṭṭhāniyo hi dhammo hitāhitappakāsanato, padīpadharaṭṭhāniyo dhammadharo tathāgato, tasmā parinibbutepi tasmiṃ tathāgate tattha sokaṃ akatvā sakkacca dhammaṃ paṭimānayantā nisāmentūti dasseti. Atha vā ‘‘dhammakāyā tathāgatā’’ti (dī. ni. 3.118) abhidhānato dhammo ca so padīpo cāti dhammappadīpo, bhagavā.
Tôi sẽ bắt đầu một cách đúng đắn, tôi đã sẵn sàng với phương pháp cần phải làm, do đó, trong câu kệ “hãy lắng nghe tôi”, bài chú giải đó của tôi, hoặc đang được tôi nói. Hãy lắng nghe, hãy nhìn bằng con mắt trí tuệ hoặc hãy nghe, trong khi tôn kính bằng cách tạo ra đức tin, tinh tấn, hỷ và hoan hỷ, một cách cung kính Pháp. Pháp của ai? Của Như Lai, ngọn đèn của Pháp. Điều này cho thấy gì? Pháp giống như ngọn đèn vì nó soi sáng điều lợi và điều hại, Như Lai, người trì Pháp, giống như người cầm đèn, do đó, ngay cả khi Như Lai đã nhập diệt, không nên sầu muộn về điều đó mà hãy cung kính lắng nghe Pháp. Hoặc là, vì có nói “Như Lai là Pháp thân” (dī. ni. 3.118), nên Ngài vừa là Pháp vừa là ngọn đèn, đó là Dhammappadīpo, Đức Thế Tôn.

Yo dhammavinayo yathā buddhena vutto, so tatheva buddhaputtehi sāvakehi ñāto avabuddho, yehi tesaṃ buddhaputtānaṃ matiṃ adhippāyaṃ accajantā niravasesaṃ gaṇhantā. Pureti purā, porāṇattherā vā. Aṭṭhakathāti aṭṭhakathāyo, upayogabahuvacanaṃ.
Pháp và Luật nào đã được Đức Phật nói ra, thì đã được các vị Phật tử, các vị Thanh văn biết, hiểu rõ như vậy, những vị không vượt qua ý, tức là ý muốn của các vị Phật tử đó, mà tiếp nhận một cách trọn vẹn. Xưa, là ngày xưa, hoặc các vị trưởng lão thời xưa. Chú giải, là các bộ Chú giải, dùng số nhiều.

Yaṃ atthajātaṃ aṭṭhakathāsu vuttaṃ, taṃ sabbampi pamādalekhakānaṃ pamādalekhamattaṃ vajjayitvā. Kiṃ sabbesampi pamāṇaṃ? Na, kintu sikkhāsu sagāravānaṃ idha vinayamhi paṇḍitānaṃ, mahāaṭṭhakathāyaṃ pana saccepi alikepi dukkaṭameva vuttaṃ, taṃ pamādalekhanti veditabbaṃ. Pamādalekhaṃ vajjayitvā pamāṇaṃ hessatīti sambandho.
Tất cả ý nghĩa nào đã được nói trong các bộ Chú giải, ngoại trừ những lỗi sao chép của những người sao chép bất cẩn. Có phải tất cả đều là tiêu chuẩn không? Không, nhưng đối với những người tôn kính các học giới, những người thông thái trong Luật này, thì trong bộ Đại Chú Giải, dù đúng hay sai, cũng chỉ nói là tội tác ác, điều đó nên được hiểu là lỗi sao chép. Mối liên hệ là: ngoại trừ lỗi sao chép, nó sẽ là tiêu chuẩn.

Tato cāti aṭṭhakathāsu vuttaatthajātato tantikkamaṃ pāḷikkamaṃ. Suttantā suttāvayavā. Antoti hidaṃ abbhantarāvayavasambhāvanādīsu dissati. Suttantesu bhavā suttantikā, tesaṃ suttantikānaṃ, suttantaganthesu āgatavacanānanti attho. Atha vā amīyatīti anto, sādhīyatīti adhippāyo. Kena sādhīyati? Suttena, suttassa anto suttanto, ko so? So so atthavikappo, tasmiṃ suttante niyuttāni vacanāni suttantikāni. Tesaṃ suttantikānaṃ vacanānamatthaṃ. Tassa tassa āgamasuttassa abhidhammavinayasuttassa cānurūpaṃ paridīpayantī, ayaṃ tāvettha samāsato atthavibhāvanā – ‘‘itipi so bhagavā’’tiādīnaṃ (saṃ. ni. 2.41; 5.479; a. ni. 6.10; pārā. 1) suttantikānaṃ vacanānamatthaṃ āgamasuttantānurūpaṃ. ‘‘Vivādādhikaraṇaṃ siyā kusalaṃ siyā akusalaṃ siyā abyākata’’nti (cūḷava. 220) evamādīnaṃ abhidhammasuttantikānaṃ vacanānamatthaṃ abhidhammasuttantānurūpanti evamādi. Hessatīti bhavissati, karīyissatīti adhippāyo. Vaṇṇanāpīti ettha api-saddo sampiṇḍanattho, so tasmāti padena yojetabbo. Kathaṃ? Paṇḍitānaṃ pamāṇattāpi vitthāramaggassa samāsitattāpi vinicchayassa asesitattāpi tantikkamassa avokkamitattāpi suttantikavacanānaṃ suttantaṭṭhakathānurūpaṃ dīpanatopi tasmāpi sakkaccaṃ anusikkhitabbāti. Ettha ‘‘tantikkamaṃ avokkamitvā’’ti vacanena siddhepi ‘‘aṭṭhakathācariyā verañjakaṇḍādīsu ‘suttantikānaṃ bhāro’ti gatā, mayaṃ pana vatvāva gamissāmā’’ti dassetuṃ ‘‘suttantikāna’’nti vuttaṃ kira.
Và từ đó, từ những ý nghĩa đã được nói trong các bộ Chú giải, trình tự của kinh điển, là trình tự của Pāḷi. Các đoạn kinh. Từ “anto” ở đây được thấy trong các nghĩa như bên trong, thành phần, khả năng v.v.. Những gì thuộc về các đoạn kinh là suttantikā, của những suttantikā đó, có nghĩa là của những lời nói đến trong các bộ kinh. Hoặc là, được đo lường là “anto”, ý là được thành tựu. Được thành tựu bởi cái gì? Bởi kinh, phần cuối của kinh là suttanto, đó là gì? Là sự phân biệt ý nghĩa này khác, những lời nói được sử dụng trong đoạn kinh đó là suttantikāni. Ý nghĩa của những lời nói suttantikānaṃ đó. Làm sáng tỏ cho phù hợp với kinh của tạng này tạng kia, kinh của tạng Vi Diệu Pháp và kinh của tạng Luật. Đây là sự phân tích ý nghĩa một cách tóm tắt ở đây – ý nghĩa của những lời nói thuộc kinh điển như “itipi so bhagavā” v.v.. (saṃ. ni. 2.41; 5.479; a. ni. 6.10; pārā. 1) phù hợp với kinh tạng. Ý nghĩa của những lời nói thuộc kinh Vi Diệu Pháp như “Tranh tụng sự có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký” (cūḷava. 220) phù hợp với kinh Vi Diệu Pháp, v.v.. Sẽ là, sẽ trở thành, ý là sẽ được thực hiện. Cũng là bài chú giải, ở đây từ “api” có nghĩa là tóm lược, nó nên được kết hợp với từ “tasmā” (do đó). Như thế nào? Cũng vì là tiêu chuẩn cho các bậc hiền triết, cũng vì đã tóm tắt con đường chi tiết, cũng vì đã phân tích quyết định một cách đầy đủ, cũng vì không bỏ qua trình tự kinh điển, cũng vì đã làm sáng tỏ những lời nói thuộc kinh điển phù hợp với chú giải kinh tạng, do đó cũng nên học hỏi một cách cung kính. Ở đây, mặc dù đã rõ ràng qua câu nói “không bỏ qua trình tự kinh điển”, nhưng người ta nói rằng “suttantikānaṃ” được nói để chỉ ra rằng “các vị thầy chú giải, trong các đoạn như Verañjakaṇḍa, đã nói ‘đó là gánh nặng của các nhà kinh điển’ rồi bỏ qua, nhưng chúng tôi sẽ nói rồi mới đi”.

Ganthārambhakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần chú giải về Lời Nói Đầu kết thúc.

Bāhiranidānakathāvaṇṇanā

Chú giải về Duyên khởi bên ngoài

Tadaṅgavinayādibhedena vinayassabahuttā vinayo tāva vavatthapetabbo. ‘‘Buddhena dhammo vinayo ca vutto’’ti pubbe vuttattā idāni ‘‘vuttaṃ yenā’’ti na vattabbanti ce? Tassa evamādivacanaṃ sandhāya vuttanti sambandho. Dhāritaṃ yena cābhataṃ. Yatthappatiṭṭhitañcetanti vacanaṃ sakalampi vinayapiṭakaṃ sandhāya vuttaṃ. Attapaccakkhavacanaṃ na hotīti āhacca bhāsitaṃ na hotīti adhippāyo. Na hi bhagavato atītādīsu appaccakkhaṃ kiñci atthi. Yadi attapaccakkhavacanaṃ na hoti, padasodhammāpattiṃ na janeyyāti ce? Na, sāvakabhāsitassapi padasodhammāpattijananato. Niyamābhāvā atippasaṅgoti ce? Na, padasodhammasikkhāpadaṭṭhakathāyaṃ ‘‘saṅgītittayaṃ āruḷho’’ti visesitattā. Tathā aṭṭhakathāyampi saṅgītiṃ āruḷhattā ‘‘khandhānañca paṭipāṭi…pe… saṃsāroti pavuccatī’’ti (dha. sa. aṭṭha. nidānakathā; vibha. aṭṭha. 226 saṅkhārapadaniddesa) evamādivacanaṃ, yañca saṅgītiāruḷhakkamānugataṃ, taṃ padasodhammāpattiṃ janetīti āyasmā upatisso.
Vì Luật có nhiều loại, được phân chia theo từng phần Luật v.v., nên trước hết phải xác định rõ về Luật. Nếu nói rằng vì trước đây đã nói “Pháp và Luật đã được Đức Phật nói ra”, nên bây giờ không cần nói “đã được nói bởi ai”? Mối liên hệ là nó được nói liên quan đến câu nói bắt đầu như vậy. Câu nói “đã được ai gìn giữ và truyền lại. Và nó được thiết lập ở đâu” được nói liên quan đến toàn bộ tạng Luật. Không phải là lời nói tự chứng kiến, ý là không phải là lời nói được nói ra một cách ngẫu nhiên. Vì không có gì là không được Đức Thế Tôn chứng kiến trực tiếp trong quá khứ v.v.. Nếu nói rằng nếu không phải là lời nói tự chứng kiến, nó sẽ không tạo ra tội lỗi cho mỗi từ sai? Không phải, vì lời nói của Thanh văn cũng tạo ra tội lỗi cho mỗi từ sai. Nếu nói rằng vì không có quy định nên sẽ quá rộng? Không phải, vì trong chú giải học giới về tội lỗi cho mỗi từ sai, đã được đặc tả là “đã được đưa vào ba lần kết tập”. Tương tự, trong Chú giải, vì đã được đưa vào kết tập, nên những lời nói như “thứ tự của các uẩn… luân hồi được nói đến” (dha. sa. aṭṭha. nidānakathā; vibha. aṭṭha. 226 saṅkhārapadaniddesa), và những gì theo đúng trình tự đã được kết tập, đều tạo ra tội lỗi cho mỗi từ sai, theo lời của tôn giả Upāli.

Paṭhamamahāsaṅgītikathāvaṇṇanā

Chú giải về Đại kết tập lần thứ nhất

Paṭhamamahāsaṅgīti nāma cāti ettha ca-saddo atirekattho, tena aññāpi atthīti dīpeti. Tampi sālavanaṃ upagantvā mittasuhajje apaloketvā nivattanato upavattananti pākaṭaṃ jātaṃ kira. Yamakasālānanti ekā kira sālapanti sīsabhāge, ekā pādabhāge. Tatrāpi eko taruṇasālo sīsabhāgassa āsanne hoti, eko pādabhāgassa, mūlakhandhaviṭapapattehi aññamaññaṃ saṃsibbitvā ṭhitasālānantipi vuttaṃ. Anupādisesāya nibbānadhātuyāti itthambhūtalakkhaṇe karaṇavacanaṃ ‘‘katakicco pītija hāsa ceto averamukhenābhatakuṇḍalenā’’tiādīsu viya. Parinibbāne parinibbānahetu, tasmiṃ ṭhāne vā mā socittha cittena, mā paridevittha vācāya ‘‘paridevanaṃ vilāpa’’nti abhidhānato. Mahāsamaṇenāti nissakkatthe karaṇavacanaṃ. Sūriyaṃ’sūbhi paṭukarā’bhā’riṇassa tāṇā ityatreva. Yañca bhagavato anuggahaṃ, tassa anuggahassāti ācariyā. Ekacce pana ‘‘yaṃ yasmā ahaṃ anuggahito’’ti vadanti. Nibbasanānīti niṭṭhitavasanakiccāni, mayā paribhuñjitvā apanītāni . Yadi suyuttāni dhāressasīti pucchati, kavacasadisāni sāṇāni. Issariyasadisā nava anupubbavihārādayo. Aṭṭha samāpattiyo nirodhasamāpatti ca paṭilābhakkamena ‘‘anupubbavihārā’’ti vuttā.
Và Đại kết tập lần thứ nhất, ở đây từ “ca” có nghĩa là thêm vào, qua đó chỉ ra rằng còn có những lần khác. Khu rừng sala đó, sau khi đã hỏi ý kiến các vị bạn bè thân hữu rồi quay về, nên đã trở nên nổi tiếng là Upavattana. Của các cây sala đôi, một hàng cây sala ở phía đầu, một hàng ở phía chân. Ở đó, một cây sala non ở gần phía đầu, một cây ở gần phía chân, cũng có nói là các cây sala đứng xen kẽ nhau với gốc, thân, cành, lá. Bởi Niết-bàn giới vô dư y, đây là cách dùng công cụ cách trong ý nghĩa chỉ đặc tính, giống như trong các câu “đã làm xong việc, với tâm hoan hỷ, với khuôn mặt không hận thù, với đôi bông tai được mang đến” v.v.. Trong Niết-bàn, là nhân của Niết-bàn, hoặc tại nơi đó, các vị đừng sầu muộn trong tâm, đừng than khóc bằng lời, vì có nói “than khóc là bi ai”. Bởi bậc Đại Sa-môn, đây là cách dùng công cụ cách trong ý nghĩa không thể làm khác. Giống như trong câu “bởi tia nắng mặt trời, ánh sáng rực rỡ, nơi nương tựa”. Các vị thầy nói rằng đó là sự ban ơn của Đức Thế Tôn, của sự ban ơn đó. Một số vị khác lại nói “vì tôi đã được ban ơn”. Y phục, là những y phục đã dùng xong, đã được tôi dùng và cởi ra. Nếu hỏi ngài sẽ mặc những y phục đã được may kỹ phải không, đó là những y phục bằng vải gai giống như áo giáp. Chín loại thiền tuần tự v.v. giống như quyền uy. Tám thiền chứng và diệt tận định được gọi là “thiền tuần tự” theo thứ tự chứng đắc.

Anāgate sannikaṭṭhe, tathātīte cirantane;
Kāladvayepi kavīhi, purāsaddo payujjate.
Trong tương lai gần, cũng như trong quá khứ xa xưa;
Trong cả hai thời, từ “xưa” được các thi sĩ sử dụng.

Satthusāsanameva pariyatti satthusāsanapariyatti, sā suttageyyādivasena navaṅgā. Tipiṭakameva sabbapariyattippabhedaṃ dhārentīti tipiṭakasabbapariyattippabhedadharā. ‘‘Vinā na sakkā’’ti na vattabbaṃ ‘‘tipiṭakasabbapariyattippabhedadhare’’ti vuttattā, evaṃ santepi atthi viseso tehi sammukhāpi asammukhāpi sutaṃ, therena pana asammukhāpaṭiggahitaṃ nāma natthīti. Na vāyanti ettha ti vibhāsā, aññāsipi na aññāsipīti attho. Tatra uccinane. Bahusaddo vipullattho ‘‘anantapāraṃ bahu veditabbamitya’’treva. Pubbe ‘‘tipiṭakasabbapaayattippabhedadhare’’ti vuttattā ‘‘bahu cānena…pe… pariyatto’’ti na yujjatīti ce? Na, tipiṭakassa anantattā, tasmā amhe upādāya tena bahu pariyattoti adhippāyo. Itarathā ānandatthero tehi appassutoti āpajjati, ‘‘asammukhā paṭiggahitaṃ nāma natthī’’ti vacanavirodho ca. Aḍḍhamāso atikkantoti ettha eko divaso naṭṭho, so pāṭipadadivaso, kolāhaladivaso nāma so, tasmā idha na gahito. Saṃvegavatthuṃ kittetvā kīḷanato sādhukīḷanaṃ nāma. Svepīti api-saddo apekkhāmantānuññāya. Subhasuttaṃ ‘‘aciraparinibbute bhagavatī’’ti (dī. ni. 1.444) vuttattā caturāsītidhammakkhandhasahassesu antogadhaṃ na hotīti ce? Na, bhagavato kāle laddhanayattā kathāvatthu viya. Chaḍḍitā patitā uklāpā chaḍḍitapatitauklāpā. Āṇā eva appaṭihataṭṭhena cakkanti āṇācakkaṃ. Ekato ettha nipatantīti ekanipātanaṃ. Ākāsena āgantvā nisīdīti eketi etaṃ dutiyavāre gamanaṃ sandhāyāti āyasmā upatisso . Paṭhamaṃ vā ākāsena gantvā parisaṃ patvā bhikkhupantiṃ apīḷento pathaviyaṃ nimujjitvā āsane eva attānaṃ dassesi. Ubhayathā ca āpāthaṃ gato, tena ubhayampi yujjati, aññathā dvīsu ekaṃ abhūtaṃ āpajjati.
Giáo pháp của bậc Đạo sư chính là kinh điển, giáo pháp kinh điển của bậc Đạo sư có chín phần, bắt đầu từ kinh, kệ v.v.. Những vị gìn giữ tất cả các loại kinh điển Tam Tạng được gọi là những vị gìn giữ tất cả các loại kinh điển Tam Tạng. Không nên nói “không thể không có”, vì đã nói “những vị gìn giữ tất cả các loại kinh điển Tam Tạng”, dù vậy vẫn có sự khác biệt: họ đã nghe trực tiếp và không trực tiếp, còn vị trưởng lão thì không có gì là không tiếp nhận trực tiếp. Không biết, ở đây “vā” có nghĩa là lựa chọn, có nghĩa là có biết và có không biết. Ở đó, trong việc thu thập. Từ “bahu” (nhiều) có nghĩa là rộng lớn, giống như trong câu “điều cần biết là vô biên, rất nhiều”. Nếu nói rằng vì trước đây đã nói “những vị gìn giữ tất cả các loại kinh điển Tam Tạng”, nên câu “ngài đã học nhiều… kinh điển” không hợp lý? Không phải, vì Tam Tạng là vô biên, do đó, ý là so với chúng tôi, ngài đã học rất nhiều. Nếu không, sẽ dẫn đến việc trưởng lão Ānanda ít học hơn họ, và sẽ mâu thuẫn với câu nói “không có gì là không tiếp nhận trực tiếp”. Nửa tháng đã trôi qua, ở đây một ngày đã mất, đó là ngày đầu tháng, ngày đó gọi là ngày huyên náo, do đó không được tính ở đây. Vì vui chơi sau khi kể về những điều gây xúc động, nên gọi là trò vui lành. Cũng vào ngày mai, từ “api” có nghĩa là mong đợi sự cho phép. Nếu nói rằng kinh Subha, vì được nói “khi Đức Thế Tôn vừa mới nhập diệt” (dī. ni. 1.444), nên không nằm trong tám mươi bốn ngàn pháp uẩn? Không phải, vì nó đã có phương pháp từ thời Đức Thế Tôn, giống như Kathāvatthu. Những thứ bị vứt bỏ, rơi rớt, bẩn thỉu là những thứ bị vứt bỏ, rơi rớt, bẩn thỉu. Mệnh lệnh, vì không bị cản trở, nên giống như bánh xe, đó là bánh xe mệnh lệnh. Nơi mà họ cùng nhau tụ họp lại là nơi tụ họp duy nhất. Một số nói rằng ngài đã đến bằng đường không và ngồi xuống, điều này liên quan đến lần đi thứ hai, theo lời của tôn giả Upāli. Hoặc là, lần đầu ngài đã đi bằng đường không, đến hội chúng, và để không làm phiền hàng Tỳ-khưu, ngài đã lặn xuống đất và hiện thân ngay tại chỗ ngồi. Cả hai cách đều có thể hiểu được, do đó cả hai đều hợp lý, nếu không, một trong hai sẽ trở thành không thật.

Athakho āyasmā mahākassapo āyasmantaṃ upāliṃ pucchi…pe… āyasmā upālitthero vissajjesīti idaṃ pubbe ‘‘paṭhamaṃ āvuso upālī’’tiādinā (cūḷava. 439) vuttapucchāvissajjanaṃ saṅkhipitvā saṅgītikārakehi dassitavacananti gaṇṭhipade likhitaṃ. Tathā hotu, kimatthaṃ panettha ‘‘nidānampi pucchi, puggalampi pucchi, vatthumpi pucchī’’ti evaṃ pubbe dassitānukkamena avatvā ‘‘vatthumpi pucchi, nidānampi pucchi, puggalampi pucchī’’ti evaṃ anukkamo katoti? ‘‘Vatthumūlakattā sikkhāpadapaññattiyā uppaṭipāṭiyā vutta’’nti vadanti eke. Ettha pana vicāraṇā verañjakaṇḍe sampatte karīyati. Rājāgāraketi evaṃnāmake uyyāne. Abhiramanārahaṃ kira rājāgārampi. Tattha, yassa vasenetaṃ evaṃ nāmaṃ labhati. Atha kho ‘‘āyasmā mahākassapo’’tiādinā pubbe vuttameva saṅkhipitvā dasseti saṅgītikārako vasīgaṇo. Yadi evaṃ yathā nidānampi pucchi, puggalampi pucchīti ettha pucchākkamo dassito, tathā ānandattherassa vissajjanakkamopi kimatthaṃ na dassitoti ce? Iminānukkamena saṅgahaṃ pañcapi nikāyā anāruḷhāti dassanatthaṃ. Kathaṃ pana āruḷhāti? Āyasmā mahākassapo pañcapi nikāye anukkameneva pucchi, ānandatthero pana anukkameneva pucchitampi apucchitampi tassa tassa suttassa sabhāvaṃ antarā uppannaṃ vatthuṃ uddesaniddesakkamaṃ mātikāvibhaṅgakkamanti evamādisabbaṃ anurūpavacanaṃ pakkhipitvā vissajjesi, tenevāha ‘‘eteneva upāyena pañcapi nikāye pucchī’’ti. Atha vā ‘‘ambalaṭṭhikāyaṃ rājāgārake’’ti vattabbe ‘‘rājāgārake ambalaṭṭhikāya’’nti uppaṭipāṭivacanenapi imamatthaṃ dīpeti. ‘‘Ambalaṭṭhikāyaṃ viharati rājāgārake’’ti hi vuttaṃ.
Bấy giờ, tôn giả Mahākassapa hỏi tôn giả Upāli… tôn giả trưởng lão Upāli đã trả lời, điều này, trước đây đã được các vị kết tập kinh điển tóm tắt và trình bày lại lời hỏi đáp đã được nói qua câu “trước tiên, này hiền giả Upāli” v.v.. (cūḷava. 439), được viết trong Gaṇṭhipade. Cứ cho là vậy, tại sao ở đây không nói theo thứ tự đã trình bày trước đó là “đã hỏi cả duyên khởi, đã hỏi cả người, đã hỏi cả sự việc” mà lại trình bày theo thứ tự “đã hỏi cả sự việc, đã hỏi cả duyên khởi, đã hỏi cả người”? Một số người nói rằng “vì việc chế định học giới có gốc rễ từ sự việc, nên đã được nói theo thứ tự ngược”. Nhưng ở đây, việc xem xét sẽ được thực hiện khi đến đoạn Verañjakaṇḍa. Tại Rājāgāraka, trong một khu vườn có tên như vậy. Rājāgāra cũng là nơi đáng để vui thích. Ở đó, nhờ nó mà có được tên như vậy. Bấy giờ, nhóm các vị đã đắc đạo, tóm tắt và trình bày lại những gì đã được nói trước đó qua câu “tôn giả Mahākassapa” v.v.. Nếu như vậy, giống như thứ tự hỏi đã được trình bày ở đây là “đã hỏi cả duyên khởi, đã hỏi cả người”, tại sao thứ tự trả lời của trưởng lão Ānanda lại không được trình bày? Để chỉ ra rằng theo thứ tự này, cả năm bộ kinh đều chưa được đưa vào kết tập. Vậy chúng đã được đưa vào như thế nào? Tôn giả Mahākassapa đã hỏi cả năm bộ kinh theo thứ tự, nhưng trưởng lão Ānanda, dù được hỏi theo thứ tự hay không, đã trả lời bằng cách thêm vào những lời nói phù hợp như bản chất của từng kinh, sự việc phát sinh ở giữa, thứ tự trình bày đề mục và giải thích, thứ tự phân tích đề mục, v.v., do đó ngài đã nói “bằng phương pháp này, ngài đã hỏi cả năm bộ kinh”. Hoặc là, khi nên nói “tại Ambalaṭṭhikā ở Rājāgāraka”, ngài lại nói ngược “tại Rājāgāraka ở Ambalaṭṭhikā” để chỉ ra ý nghĩa này. Vì đã được nói là “ngài đang ở tại Ambalaṭṭhikā ở Rājāgāraka”.

Gahakāranti imassa attabhāvagehassa kārakaṃ taṇhāvaḍḍhakiṃ gavesanto yena ñāṇena sakkā so daṭṭhuṃ, tassatthāya dīpaṅkarapādamūle katābhinīhāro ettakaṃ kālaṃ anekajātisaṃsāraṃ taṃ ñāṇaṃ avindanto vicarinti attho. Dukkhā jāti punappunanti idaṃ gahakārakagavesanassa kāraṇavacanaṃ. Sabbā te phāsukāti tava sabbā anavasesakilesaphāsukā mayā bhaggā. Gahakūṭaṃ nāma avijjā. Somanassasahagataṃ ñāṇaṃ somanassamayaṃ. Na hi somanassamayaṃ ñāṇaṃ khandhasabhāvabhedato. Daḷhīkammasithilakaraṇappayojanāti yebhuyyatāya vuttaṃ, taṃ pana tattha tattha pakāsayissāma. Aññamaññasaṅkaravirahite dhamme ca vinaye cāti ettha pāṇātipāto akusalanti evamādīsu maraṇādhippāyassa jīvitindriyupacchedakappayogasamuṭṭhāpikā cetanā akusalaṃ, na pāṇasaṅkhātajīvitindriyassa upacchedaksaṅkhāto atipāto. Tathā adinnassa parasantakassa ādānasaṅkhātā viññatti abyākato dhammo, tabbiññattisamuṭṭhāpikā theyyacetanā akusalo dhammoti (paṭṭhā. 1.1.27) evamādinā aññamaññasaṅkaravirahite dhamme paṭibalo vinetuṃ. Jātarūparajataṃ parasantakaṃ theyyacittena gaṇhantassa yathāvatthuṃ pārājikathullaccayadukkaṭesu aññataraṃ, bhaṇḍāgārikasīsena diyyamānaṃ gaṇhantassa pācittiyaṃ, attatthāya gaṇhantassa nissaggiyaṃ pācittiyaṃ, kevalaṃ lolatāya gaṇhantassa anāmāsadukkaṭaṃ, rūpiyachaḍḍakasammatassa anāpattīti evaṃ aññamaññasaṅkaravirahite vinayepi paṭibalo vinetunti attho. Bhāvetīti vaḍḍheti, etena phalavasena javanavasena ca cittassa vuddhiṃ dasseti. ‘‘Avisiṭṭha’’nti pāṭho, sādhāraṇanti attho.
Người thợ xây nhà, có nghĩa là, trong khi tìm kiếm người thợ mộc là ái dục, người xây dựng ngôi nhà là thân này, tôi đã đi lang thang trong bao nhiêu kiếp luân hồi mà không tìm thấy trí tuệ đó, trí tuệ mà nhờ đó người thợ đó có thể được nhìn thấy, và vì mục đích đó, tôi đã phát nguyện dưới chân Đức Phật Dīpaṅkara. Sanh là khổ, cứ lập đi lập lại, đây là lời nói về nguyên nhân của việc tìm kiếm người thợ xây nhà. Tất cả các sườn nhà của ngươi, tất cả các sườn nhà phiền não không còn sót lại của ngươi đã bị ta bẻ gãy. Đỉnh nhà được gọi là vô minh. Trí tuệ đi kèm với hỷ là trí tuệ hỷ. Trí tuệ hỷ không phải là do sự phân biệt về bản chất của các uẩn. Mục đích làm cho vững chắc và làm cho lỏng lẻo, được nói theo số đông, nhưng điều đó sẽ được chúng tôi làm sáng tỏ ở từng nơi. Trong Pháp và Luật không bị lẫn lộn với nhau, ở đây, trong các điều như sát sanh là bất thiện, thì ý định có chủ đích giết hại, là tâm sở phát sinh hành động cắt đứt mạng căn, là bất thiện, chứ không phải hành động cắt đứt mạng căn được gọi là sự sống. Tương tự, hành vi lấy của không cho của người khác, được gọi là sự biểu lộ, là pháp vô ký, còn tâm tham khởi lên hành vi đó là pháp bất thiện (paṭṭhā. 1.1.27), v.v., có khả năng giáo huấn trong Pháp không bị lẫn lộn với nhau. Khi lấy vàng bạc của người khác với tâm trộm cắp, tùy theo sự việc mà phạm một trong các tội bất cộng trụ, trọng tội, tác ác. Khi nhận từ người giữ kho bạc, phạm tội ưng đối trị. Khi lấy vì lợi ích cá nhân, phạm tội ưng đối trị xả. Khi lấy chỉ vì ham muốn, phạm tội tác ác không chạm vào. Đối với người được phép nhặt bạc, thì không phạm tội. Như vậy, có khả năng giáo huấn trong Luật cũng không bị lẫn lộn với nhau. Làm cho phát triển, làm cho tăng trưởng, qua đó chỉ ra sự tăng trưởng của tâm về mặt quả và về mặt tốc hành tâm. Có bản đọc là “avisiṭṭha”, nghĩa là chung.

Desentassa vasenettha, desanā piṭakattayaṃ;
Sāsitabbavasenetaṃ, sāsanantipi vuccati.
Theo người thuyết giảng, ở đây, sự thuyết giảng là Tam Tạng;
Theo đối tượng được giáo huấn, nó cũng được gọi là giáo pháp.

Kathetabbassa atthassa, vasenāpi kathāti ca;
Desanā sāsanā kathā, bhedampevaṃ pakāsaye.
Theo ý nghĩa cần được nói, nó cũng được gọi là lời nói;
Sự thuyết giảng, giáo pháp, lời nói, hãy làm sáng tỏ sự khác biệt như vậy.

Sāsanassa napuṃsakattā ‘‘yathā…pe… dhammasāsanānī’’ti vuttaṃ. Duccaritasaṃkilesaṃ nāma atthato cetanā, tathākārappavattacittuppādo vā. Aniccādilakkhaṇaṃ paṭivijjhitvā pavattattā vipassanācittāni visayato lokiyā’bhisamayo asammohato lokuttaro, lokuttaro eva vā abhisamayo visayato nibbānasaṅkhātassa atthassa, itarassa maggādikassa asammohatotipi eke. Ettha ‘‘paṭivedho’’ti vuttaṃ ñāṇaṃ, taṃ kathaṃ gambhīranti ce? Gambhīrassa udakassa pamāṇaggahaṇakāle dīghena pamāṇena bhavitabbaṃ, evaṃ alabbhaneyyabhāvadassanatthaṃ idānīti vuttanti eke. Yassa catthāya maggaphalatthāya. Tañca atthaṃ nānubhonti nādhigacchanti kañci attanā adhippetaṃ, itivādapamokkhañca. Kasmā? Atthassa anupaparikkhitvā gahitattā. Adhigataphalattā paṭividdhākuppo. Puna khīṇāsavaggahaṇena arahantameva dasseti, na sekkhaṃ. So hi yathā bhaṇḍāgāriko rañño kaṭakamakuṭādiṃ gopetvā icchiticchitakkhaṇe upaneti, evaṃ sahetukānaṃ sattānaṃ maggaphalatthāya dhammaṃ desesi. Tāsaṃyeva tattha vinayapiṭake pabhedato vuttattā, vāyamitvā tā eva pāpuṇātīti ācariyā. Kimatthaṃ tissova vijjā tattha vibhattāti? Sīlasampattiyā etaparamupanissayabhāvato. ‘‘Aparehipi sattahaṅgehi samannāgato bhikkhu vinayadharo hoti. Āpattiṃ jānāti, anāpattiṃ, lahukaṃ āpattiṃ, garukaṃ āpattiṃ, anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati…pe… dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati…pe… āsavānañca khayā…pe… upasampajja viharatī’’ti (pari. 327) suttamettha sādhakaṃ. Vinayaṃ pariyāpuṇitvā sīlasampattiṃ nissāya āsavakkhayañāṇena saheva viya dibbacakkhupubbenivāsānussatiñāṇāni paṭilabhati. Visuṃ etesaṃ parikammakiccaṃ natthīti dassanatthaṃ tāsaṃyevāti vuttanti ca vadanti eke. Abhidhamme pana tissovijjā cha abhiññā catasso ca paṭisambhidā aññe ca sammappadhānādayo guṇavisesā vibhattā. Kiñcāpi vibhattā, tathāpi visesato paññājātikattā catasso paṭisambhidā pāpuṇātīti dassanatthaṃ tāsaṃ tatthevāti avadhāraṇavipallāso kato. Attanā duggahitena dhammenāti pāṭhaseso. Kattari cetaṃ karaṇavacanaṃ, hetutthe ca, attanā duggahitahetūti adhippāyo. Kasmā panāti ‘‘anulomiko’’ti vuttatthaṃ dīpeti.
Vì giáo pháp là giống trung, nên đã được nói “như… các giáo pháp”. Sự ô uế của ác hạnh, theo nghĩa là ý định, hoặc là sự phát sinh của tâm theo cách đó. Vì phát sinh sau khi đã thâm nhập vào tướng vô thường v.v., nên các tâm thiền quán, về mặt đối tượng, là sự chứng ngộ thuộc thế gian; vì không có si mê, nên là sự chứng ngộ siêu thế; hoặc chỉ có sự chứng ngộ siêu thế, về mặt đối tượng là ý nghĩa được gọi là Niết-bàn, còn các pháp khác như đạo v.v. là do không có si mê, theo một số người. Ở đây, trí tuệ được gọi là “sự thâm nhập”, nếu hỏi nó sâu sắc như thế nào? Khi đo lường nước sâu, phải dùng thước đo dài, tương tự, để chỉ ra trạng thái không thể đạt được, bây giờ đã được nói, theo một số người. Và vì mục đích nào, vì mục đích của đạo và quả. Họ không đạt được mục đích đó, không chứng ngộ được bất kỳ điều gì mà họ mong muốn, kể cả sự giải thoát khỏi các học thuyết. Tại sao? Vì đã nắm bắt ý nghĩa mà không xem xét kỹ. Vì đã chứng ngộ quả nên không thể lay chuyển. Lại dùng từ “bậc đã diệt tận các lậu hoặc” để chỉ bậc A-la-hán, chứ không phải bậc hữu học. Vị ấy, giống như người giữ kho, cất giữ vương miện của vua và dâng lên ngay khi vua muốn, cũng vậy, ngài đã thuyết giảng Pháp vì mục đích của đạo và quả cho những chúng sanh có nhân duyên. Các vị thầy nói rằng, vì chỉ có chúng được phân loại trong tạng Luật đó, nên ngài đã nỗ lực và chỉ đạt được chúng. Tại sao chỉ có ba minh được phân tích ở đó? Vì có giới thành tựu là nhân duyên tối thượng cho điều đó. Kinh “một Tỳ-khưu, khi có đủ bảy yếu tố khác, sẽ trở thành người trì Luật. Biết tội, không tội, tội nhẹ, tội nặng, nhớ lại nhiều kiếp sống quá khứ… nhìn thấy chúng sanh bằng thiên nhãn thanh tịnh vượt ngoài mắt người… và do sự đoạn tận các lậu hoặc… chứng và trú” (pari. 327) là bằng chứng ở đây. Sau khi học thuộc Luật, nương vào giới thành tựu, cùng với trí tuệ đoạn tận lậu hoặc, ngài chứng đắc cả thiên nhãn và túc mạng minh. Để chỉ ra rằng không có công phu chuẩn bị riêng cho chúng, một số người nói rằng đã nói “chỉ có chúng”. Nhưng trong Vi Diệu Pháp, ba minh, sáu thông, bốn vô ngại giải và các phẩm chất đặc biệt khác như tứ chánh cần v.v. đã được phân tích. Mặc dù đã được phân tích, nhưng để chỉ ra rằng vì có tính chất thuộc trí tuệ một cách đặc biệt, nên ngài chứng đắc bốn vô ngại giải, sự đảo ngược vị trí nhấn mạnh đã được thực hiện là “chỉ có chúng ở đó”. Bằng pháp do chính mình nắm giữ sai lầm, đây là phần còn lại của câu. Đây là cách dùng công cụ cách trong ý nghĩa chủ thể, và trong ý nghĩa nguyên nhân, ý là do nguyên nhân là sự nắm giữ sai lầm của chính mình. Nhưng tại sao, để làm sáng tỏ ý nghĩa đã nói là “tùy thuận”.

Paṭhamamahāsaṅgītikathāvaṇṇanānayo.

Phương pháp chú giải về Đại kết tập lần thứ nhất.

Dutiyasaṅgītikathāvaṇṇanā

Chú giải về Kết tập lần thứ hai

Pannabhārāti patitakkhandhabhārā. ‘‘Bhārā have pañcakkhandhā’’ti (saṃ. ni. 3.22) hi vuttaṃ. ‘‘Sammukhā bhavissāma na bhavissāmā’’ti vattāro. Tesu daharā kira. Jamminti lāmakaṃ.
Những người đã đặt gánh nặng xuống, là những người đã đặt gánh nặng của các uẩn xuống. Vì đã được nói “Năm uẩn là gánh nặng” (saṃ. ni. 3.22). Những người nói “chúng ta sẽ có mặt hay không có mặt”. Trong số họ, có những vị còn trẻ. Thấp hèn, là xấu xa.

Dutiyasaṅgītikathāvaṇṇanānayo.

Phương pháp chú giải về Kết tập lần thứ hai.

Tatiyasaṅgītikathāvaṇṇanā

Chú giải về Kết tập lần thứ ba

Brahmalokācavitvāti ettha cattāro maggā pañcānantariyāni niyatamicchādiṭṭhīti imeyeva niyatā, na mahaggatā, tasmā paṇidhivasena heṭṭhupapattipi hoti. Aticchathāti aticca icchatha, gantvā bhikkhaṃ pariyesathāti adhippāyo. Keṭubhaṃ nāma kabyakaraṇavidhiyuttaṃ satthaṃ. Kiriyākappaṃ ityeke, kattākhyādilakkhaṇayuttasatthaṃ. Asandhimittāti tassā nāmaṃ. Tassā kira sarīre sandhayo na paññāyanti, madhusitthakena kataṃ viya sarīraṃ hoti. Tasmā ‘‘evaṃnāmikā jātā’’tipi vadanti. Māgadhakena patthena cattāro patthā āḷhakaṃ, cattāri āḷhakāni doṇaṃ, catudoṇā mānikā, catumānikā khārikā, vīsatikhāriko vāhoti. Kethumālāti ‘‘sīsato uṭṭhahitvā ṭhito obhāsapuñjo’’ti vadanti. Rājiddhiadhikārappasaṅgenetaṃ vatthu vuttaṃ, nānukkamena. Anukkamena pana buddhasāsanāvahāraṃ vatthuṃ dīpento ‘‘rājā kirā’’tiādimāha. Kilesadamanena dantaṃ. Kāyavācāhi guttaṃ. ‘‘Pācīnamukho’’tipi pāṭho atthi. Pubbe jeṭṭhabhātikattā teneva paricayena pattaggahaṇatthāya ākāraṃ dasseti. Abhāsīti ‘‘bhāsissāmī’’ti vitakkesi. Apare ‘‘aññātanti vuttepi sabbaṃ abhaṇī’’ti vadanti. Amatanti nibbānasaṅkhātāya nivattiyā saguṇādhivacanaṃ, tassā appamādo padaṃ maggo. Maccūti pavattiyā sadosādhivacanaṃ, tassā pamādo padaṃ maggoti evaṃ cattāri saccāni sandassitāni honti. Saṅghasaraṇagatattā saṅghanissitā pabbajjā, bhaṇḍukammassa vā tadāyattattā. Nigrodhattherassānubhāvakittanādhikārattā pubbe vuttampi pacchā vattabbampi sampiṇḍetvā āha ‘‘puna rājā asokārāmaṃ nāma mahāvihāraṃ kāretvā saṭṭhisahassāni…pe… caturāsītivihārasahassāni kārāpesī’’ti. ‘‘Puthujjanakalyāṇakassa vā paccavekkhitaparibhogo’’ti yadā sekkhāva paramatthato dāyādā, tathāpi thero mahindakumārassa pabbajjatthaṃ ekena pariyāyena lokadhammasiddhena evamāha ‘‘yo koci mahārāja…pe… orasaṃ putta’’nti. Vuttañhi vede
Sau khi chết từ cõi Phạm thiên, ở đây, bốn đạo, năm tội vô gián, tà kiến cố định, chỉ những điều này là cố định, chứ không phải các cõi cao, do đó, do sự phát nguyện, cũng có sự tái sanh ở cõi thấp. Hãy vượt qua, là hãy đi vượt qua, ý là hãy đi tìm kiếm khất thực. Keṭubhaṃ là một môn học có phương pháp làm thơ. Một số nói là nghi thức hành động, một môn học có các đặc điểm như chủ từ, động từ v.v.. Asandhimittā, là tên của bà. Tương truyền, các khớp xương trên cơ thể bà không thể nhìn thấy, cơ thể giống như được làm bằng sáp ong. Do đó, một số người nói rằng “bà có tên như vậy”. Bốn pattha bằng một āḷhaka theo đơn vị đo lường của Magadha, bốn āḷhaka bằng một doṇa, bốn doṇa bằng một mānikā, bốn mānikā bằng một khārikā, hai mươi khārikā bằng một vāha. Kethumālā, một số người nói là “một chùm ánh sáng phát ra từ đầu và đứng yên”. Câu chuyện này được nói ra trong bối cảnh quyền năng của vua, không theo thứ tự. Nhưng để chỉ ra câu chuyện về việc mang giáo pháp của Đức Phật theo thứ tự, ngài nói “tương truyền, nhà vua” v.v.. Đã được thuần hóa bằng cách chế ngự phiền não. Được bảo vệ bằng thân và lời. Cũng có bản đọc là “quay mặt về phía đông”. Trước đây, vì là anh trai, với sự quen biết đó, ngài đã ra dấu hiệu để lấy bát. Đã nói, là đã suy nghĩ “tôi sẽ nói”. Những người khác nói “mặc dù đã nói là biết, nhưng ngài không nói tất cả”. Bất tử, là tên gọi có phẩm chất của sự chấm dứt được gọi là Niết-bàn, con đường đến đó là sự không dể duôi. Cái chết, là tên gọi có khuyết điểm của sự tồn tại, con đường đến đó là sự dể duôi, như vậy bốn chân lý đã được chỉ ra. Vì đã quy y Tăng, nên việc xuất gia nương tựa vào Tăng, hoặc vì việc nhuộm y phụ thuộc vào đó. Vì là chương tán thán uy lực của trưởng lão Nigrodha, nên ngài đã tóm tắt cả những điều đã nói trước và sẽ nói sau, nói rằng “sau đó, vua đã cho xây một đại tự viện tên là Asokārāma, và đã cho xây sáu mươi ngàn… tám mươi bốn ngàn ngôi chùa”. “Hoặc là sự thọ dụng đã được quán xét của một phàm phu thiện”, khi chỉ có các bậc hữu học mới là những người thừa kế thực sự, tuy nhiên, vị trưởng lão, vì mục đích xuất gia của hoàng tử Mahinda, đã nói bằng một cách nói theo thông lệ thế gian rằng “thưa đại vương, bất kỳ ai… đứa con ruột”. Đã được nói trong Vệ-đà

‘‘Aṅgā aṅgā sambhavasi, hadayā adhijāyase;
Attā ve putto nāmāsi, sa jīva saradosata’’nti.
“Con sinh ra từ mỗi bộ phận của ta, sinh ra từ trái tim ta;
Con chính là bản thân ta, hãy sống trăm năm.”

Tasmā iminā pariyāyena oraso putto mātāpitūhi pabbajito ce, atthato te sayaṃ pabbajitā viya honti. Dhammakathikā kasmā nārocenti? Rājā ‘‘theraṃ gaṇhitvā āgacchathā’’ti amacce pesesi, dhammakathikā therassa āgamanakāle parivāratthāya pesitā, tasmā. Apica tena vuttavidhināva vadanti caṇḍattā, caṇḍabhāvo cassa ‘‘ambaṃ chinditvā veḷuyā vatiṃ karohī’’ti vuttaamaccavatthunā vibhāvetabbo. Kasmā pana dhammakathikā rājāṇāpanaṃ karontīti? ‘‘Sāsanaṃ paggahetuṃ samattho’’ti vuttattā. Dīpakatittiroti kūṭatittiro. Ayaṃ pana kūṭatittirakamme niyuttopi suddhacitto, tasmā tāpasaṃ pucchi. Sāṇipākāranti sāṇipākārena. Vibhajitvā vadatīti vibhajjavādī ‘‘atthi khvesa brāhmaṇa pariyāyo’’tiādinā (pārā. 5). Apica sassatavādī ca bhagavā ‘‘atthi, bhikkhave, ajātaṃ abhūtaṃ asaṅkhata’’ntiādi (itivu. 43)-vacanato. Ekaccasassatiko ca ‘‘sappaccayā dhammā, appaccayā dhammā’’ti (dha. sa. dukamātikā 7). Antānantiko ca –
Do đó, theo cách nói này, nếu con ruột được cha mẹ cho xuất gia, thì về mặt ý nghĩa, họ cũng giống như tự mình xuất gia. Tại sao các vị pháp sư không chấp thuận? Vua đã sai các quan đại thần đi “hãy đi bắt vị trưởng lão về”, các vị pháp sư được sai đi để làm đoàn tùy tùng khi vị trưởng lão đến, do đó. Hơn nữa, họ nói theo đúng phương pháp đã được nói vì tính cách hung dữ của ông ta, và tính cách hung dữ của ông ta cần được làm sáng tỏ qua câu chuyện về vị quan đại thần được lệnh “hãy chặt cây xoài và làm một hàng rào bằng tre”. Nhưng tại sao các vị pháp sư lại thi hành mệnh lệnh của vua? Vì đã được nói rằng “ngài có khả năng nâng đỡ giáo pháp”. Con chim đa đa mồi, là con chim đa đa giả. Người này, mặc dù làm công việc của một con chim đa đa mồi, nhưng có tâm trong sạch, do đó đã hỏi vị tu sĩ khổ hạnh. Bằng hàng rào vải gai, là bằng một hàng rào làm bằng vải gai. Người nói bằng cách phân tích được gọi là người theo thuyết phân tích, qua các câu như “thưa Bà-la-môn, có một cách nói như thế này” v.v.. (pārā. 5). Hơn nữa, Đức Thế Tôn cũng là người theo thường kiến, vì có lời nói “Này các Tỳ-khưu, có cái không sanh, không tạo, không do duyên sanh” v.v.. (itivu. 43). Ngài cũng là người theo thuyết một phần thường kiến, vì có nói “các pháp có duyên, các pháp không có duyên” (dha. sa. dukamātikā 7). Ngài cũng là người theo thuyết hữu biên và vô biên

‘‘Gamanena na pattabbo, lokassanto kudācanaṃ;
Na ca appatvā lokantaṃ, dukkhā atthi pamocanaṃ’’. (saṃ. ni. 1.107; a. ni. 4.45);
“Không thể đi đến tận cùng thế gian bằng cách đi;
Và nếu không đến được tận cùng thế gian, thì không có sự giải thoát khỏi khổ đau.” (saṃ. ni. 1.107; a. ni. 4.45);

‘‘Anamataggoyaṃ, bhikkhave, saṃsāro pubbakoṭi na paññāyatī’’ti (saṃ. ni. 2.124; cūḷani. kappamāṇavapucchāniddesa 61). Amarāvikkhepikapakkhampi īsakaṃ bhajati bhagavā ‘‘sassato lokoti abyākatametaṃ asassato lokoti abyākatameta’’ntiādiabyākatavatthudīpanato sammutisaccadīpanato ca. Tañhi ajjhattabahiddhādivasena na vattabbaṃ. Yathāha ‘‘ākiñcaññāyatanaṃ na vattabbaṃ ajjhattārammaṇantipī’’tiādi (dha. sa. 1437). Tathā adhiccasamuppannikapakkhampi bhajati ‘‘laddhā mudhā nibbutiṃ bhuñjamānā’’ti (khu. pā. 6.7; su. ni. 230). Tattha hi mudhāti adhiccasamuppannavevacanaṃ. Saññīvādādiko ca bhagavā saññībhavaasaññībhavanevasaññīnāsaññībhavavasena. Ucchedavādī ca ‘‘ahañhi, brāhmaṇa, ucchedaṃ vadāmi rāgassā’’ti (pārā. 6). Diṭṭhadhammanibbānavādī ca ‘‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariya’’nti (mahāva. 23; dī. ni. 2.215; saṃ. ni. 3.35), ‘‘natthi dāni punabbhavo’’ti (mahāva. 16), diṭṭheva dhamme nirodhasamāpattidīpanato ca. Evaṃ tena tena pariyāyena tathā tathā veneyyajjhāsayānurūpaṃ vibhajitvā vadatīti vibhajjavādī bhagavāti.
“Này các Tỳ-khưu, luân hồi này không có khởi đầu, không thể biết được điểm ban đầu” (saṃ. ni. 2.124; cūḷani. kappamāṇavapucchāniddesa 61). Đức Thế Tôn cũng hơi nghiêng về phía của những người ngụy biện, vì đã chỉ ra những vấn đề không được trả lời như “thế gian là thường hằng, điều này không được trả lời; thế gian là không thường hằng, điều này không được trả lời”, và vì đã chỉ ra sự thật quy ước. Điều đó không nên được nói theo cách bên trong, bên ngoài v.v.. Như đã nói “không nên nói Vô sở hữu xứ là đối tượng bên trong” v.v.. (dha. sa. 1437). Tương tự, Ngài cũng nghiêng về phía của những người theo thuyết ngẫu nhiên sanh, “sau khi nhận được sự an lạc một cách vô cớ, họ hưởng thụ nó” (khu. pā. 6.7; su. ni. 230). Ở đó, “vô cớ” là một từ đồng nghĩa với ngẫu nhiên sanh. Đức Thế Tôn cũng là người theo thuyết có tưởng v.v., theo các trạng thái có tưởng, không có tưởng, và phi tưởng phi phi tưởng. Ngài cũng là người theo đoạn kiến, “Này Bà-la-môn, ta nói về sự đoạn diệt của tham ái” (pārā. 6). Ngài cũng là người theo thuyết Niết-bàn trong hiện tại, “sanh đã tận, phạm hạnh đã thành” (mahāva. 23; dī. ni. 2.215; saṃ. ni. 3.35), “nay không còn tái sanh nữa” (mahāva. 16), và vì đã chỉ ra diệt tận định ngay trong hiện tại. Như vậy, bằng cách này hay cách khác, Ngài phân tích và nói theo đúng với khuynh hướng của chúng sanh cần được giáo hóa, nên Đức Thế Tôn là người theo thuyết phân tích.

Tatiyasaṅgītikathāvaṇṇanānayo.

Phương pháp chú giải về Kết tập lần thứ ba.

Pupphanāmo sumanatthero. Mahāpadumattheroti eke. Mahiṃsakamaṇḍalaṃ andharaṭṭhanti vadanti. Dhammacakkhu nāma tayo maggā. Sotāpattimagganti ca eke. Pañcapi raṭṭhāni pañca cīnaraṭṭhāni nāma. Rājagaheti deviyā katavihāre. Silakūṭamhīti pabbatakūṭe. Vaḍḍhamānanti alaṅkaraṇacuṇṇaṃ. Ariyadese atīva sammataṃ kira. Ekarasena nāthakaraṇā iti damiḷā. Sārapāmaṅganti uttamaṃ pāmaṅgaṃ. Petavatthuādinā saṃvejetvā abhisamayatthaṃ saccasaṃyuttañca. Meghavanuyyānaṃ nāma mahāvihāraṭṭhānaṃ. ‘‘Dvāsaṭṭhiyā leṇesū’’ti pāṭho. Dasabhātikanti abhayakumārādayo dasa, te idha na vuttā. Vutthavasso pavāretvāti cātumāsiniyā pavāraṇāyāti attho. Paṭhamapavāraṇāya vā pavāretvā ekamāsaṃ tattheva vasitvā kattikapuṇṇamāsiyaṃ avoca, aññathā ‘‘puṇṇamāyaṃ mahāvīro’’ti vuttattā na sakkā gahetuṃ. Mahāvīroti buddhopacārena dhātuyo vadati. Jaṅghappamāṇanti ‘‘thūpassa jaṅghappamāṇa’’nti vadanti. Mātulabhāgineyyā cūḷodaramahodarā. Dharamānassa viya buddhassa rasmi sarasarasmi, rañño lekhāsāsanaṃ appesi, evañca mukhasāsanamavoca. Doṇamattā magadhanāḷiyā dvādasanāḷimattā kira. ‘‘Paricchinnaṭṭhāne chijjitvā’’ti pāṭho. Sabbadisāhi pañca rasmiyo āvaṭṭetvāti pañcahi phalehi nikkhantattā pañca, tā pana chabbaṇṇāva. Kattikajuṇhapakkhassa pāṭipadadivaseti juṇhapakkhassa paṭhamadivaseti attho. Mahābodhiṭṭhāne parivāretvā ṭhitanāgayakkhādidevatākulāni. Gopakā nāma rājaparikammino tathābhāvakiccā. Tesaṃ kulānaṃ nāmantipi keci. Udakādivāhā kāliṅgā. Kāliṅgesu janapadesu jātisampannaṃ kulaṃ kāliṅgakulanti keci.
Người có tên là Hoa, là trưởng lão Sumanatthero. Một số nói là trưởng lão Mahāpadumatthero. Vùng Mahiṃsakamaṇḍala, họ gọi là Andharaṭṭha. Pháp nhãn là ba đạo. Một số nói là đạo Tu-đà-hoàn. Năm xứ được gọi là năm xứ Trung Hoa. Tại Rājagaha, trong một tu viện do hoàng hậu xây dựng. Trên đỉnh núi đá, là trên đỉnh núi. Vaḍḍhamāna, là bột trang điểm. Tương truyền, nó rất được coi trọng ở xứ Ariya. Vì làm chủ bằng một hương vị, nên gọi là Damiḷā. Sārapāmaṅga, là chiếc mũ tốt nhất. Cùng với kinh Saccasaṃyutta để làm cho xúc động và giác ngộ qua Petavatthu v.v.. Công viên Meghavana, là địa điểm của Đại Tự. Có bản đọc là “trong sáu mươi hai hang động”. Mười anh em, là hoàng tử Abhaya v.v., mười người, ở đây không được nói đến. Sau khi an cư và tự tứ, có nghĩa là vào lễ tự tứ sau bốn tháng an cư. Hoặc là, sau khi tự tứ vào lễ tự tứ đầu tiên, ngài đã ở lại đó một tháng và nói vào ngày rằm tháng Kattika, nếu không, vì đã nói “vào ngày rằm, bậc Đại Hùng”, nên không thể hiểu được. Bậc Đại Hùng, ngài nói về các xá lợi bằng cách dùng danh xưng của Đức Phật. Bằng ống chân, họ nói là “bằng ống chân của tháp”. Cậu và cháu, là Cūḷodara và Mahodara. Tia sáng của vua giống như tia sáng của Đức Phật khi còn tại thế, đã gửi một bức thư, và cũng đã nói miệng như vậy. Một doṇa tương đương với khoảng mười hai nāḷi theo đơn vị đo lường của Magadha. Có bản đọc là “bị gãy ở chỗ đã được xác định”. Sau khi xoay chuyển năm tia sáng từ mọi hướng, vì phát ra từ năm quả, nên là năm, nhưng chúng có sáu màu. Vào ngày đầu tiên của tháng Kattika, tuần trăng sáng, có nghĩa là vào ngày đầu tiên của tuần trăng sáng. Các dòng họ trời, rồng, dạ xoa v.v. đứng vây quanh nơi cội Bồ-đề. Gopakā, là những người hầu của vua, làm những công việc như vậy. Một số nói đó là tên của các dòng họ của họ. Những người mang nước v.v. là người Kāliṅgā. Một số nói Kāliṅgakula là một dòng họ có nguồn gốc ở các xứ Kāliṅgesu.

Paṭhamapāṭipadadivaseti dutiyauposathassa pāṭipadadivaseti attho. Tattha ṭhitehi samuddassa diṭṭhattā taṃ ṭhānaṃ samuddasālavatthu. Soḷasa jātisampannakulāni aṭṭha brāhmaṇāmaccakulāni. Mahāariṭṭhatthero cetiyagirimhi pabbajito. Amaccassa pariveṇaṭṭhāneti sampatikālavasenāha. Mahindatthero dvādasavassiko hutvā tambapaṇṇidīpaṃ sampatto, tattha dve vassāni vasitvā vinayaṃ patiṭṭhāpesi, dvāsaṭṭhivassiko hutvā parinibbuto. Vinayo saṃvaratthāyāti vinayapiṭakaṃ, tassa pariyāpuṇanaṃ vā. Yathābhūtañāṇadassanaṃ sappaccayanāmarūpapariggaho. Maggādipaccavekkhaṇe asati antarā parinibbānaṃ nāma natthi sekkhassa maraṇaṃ vā, satiyeva hoti. Tasmā āha ‘‘vimuttiñāṇadassana’’nti. Anupādāparinibbānatthāyāti kañci dhammaṃ anupādāya aggahetvā īsakampi anavasesetvā parinibbānatthāyāti attho. Upanisāti ‘‘vinayo saṃvaratthāyā’’tiādikā kāraṇaparamparā. Ettāvatā attahitanipphattiṃ dassetvā idāni parahitanipphattiṃ dassetuṃ ‘‘etadatthaṃ sotāvadhāna’’nti āha. Tassattho – attano vinayakathanaṃ vinayamantanañca uggahetuṃ paresaṃ sotassa odahanaṃ sotāvadhānaṃ. Tato uggahitavinayakathāmantanānaṃ tesaṃ upanisā yathāvuttakāraṇaparamparā siddhāyevāti na puna dassitāti veditabbā. Aññathā etadatthā upanisāti iminā vacaneneva anupādāparinibbānassa saṅgahitattā anupādāparinibbānato uddhaṃ sotāvadhānāsambhavato etadatthaṃ sotāvadhānanti ante na sambhavatīti niratthakaṃ bhaveyya, na ca niratthakaṃ parahitanipphattiyā mūlakāraṇadassanatthattāti veditabbaṃ.
Vào ngày đầu tiên của tháng, có nghĩa là vào ngày đầu tiên của lễ Bố-tát thứ hai. Vì những người đứng ở đó có thể nhìn thấy biển, nên nơi đó là Samuddasālavatthu. Mười sáu dòng họ có nguồn gốc cao quý, là tám dòng họ Bà-la-môn và quan đại thần. Trưởng lão Mahāariṭṭhatthero đã xuất gia tại Cetiyagiri. Tại nơi ở của vị quan đại thần, ngài nói theo thời điểm hiện tại. Trưởng lão Mahinda, khi được mười hai tuổi, đã đến đảo Tambapaṇṇi, ở đó hai năm và đã thiết lập Luật, khi được sáu mươi hai tuổi thì nhập diệt. Luật là để chế ngự, là tạng Luật, hoặc là việc học thuộc nó. Sự thấy biết như thật là sự nắm bắt danh sắc có duyên. Khi không có sự quán xét đạo v.v., thì không có việc nhập diệt ở giữa chừng hoặc cái chết của bậc hữu học, chỉ khi có thì mới có. Do đó, ngài nói “sự thấy biết của trí tuệ giải thoát”. Vì mục đích Niết-bàn vô thủ trước, có nghĩa là vì mục đích Niết-bàn mà không bám víu, không nắm giữ bất kỳ pháp nào, không để lại dù chỉ một chút. Nhân duyên, là chuỗi nhân quả bắt đầu bằng “Luật là để chế ngự” v.v.. Qua đó, sau khi chỉ ra sự thành tựu lợi ích cho bản thân, bây giờ để chỉ ra sự thành tựu lợi ích cho người khác, ngài nói “vì mục đích này, hãy lắng tai nghe”. Ý nghĩa của nó là – việc lắng tai nghe của người khác để tiếp thu lời nói và lời khuyên về Luật của mình là sự lắng tai nghe. Do đó, cần hiểu rằng chuỗi nhân quả đã nói, là nhân duyên của những người đã tiếp thu lời nói và lời khuyên về Luật đó, đã được thành tựu, nên không được chỉ ra lại. Nếu không, chỉ bằng câu nói “nhân duyên vì mục đích này”, vì Niết-bàn vô thủ trước đã được bao gồm, và vì không thể có sự lắng tai nghe sau Niết-bàn vô thủ trước, nên câu “vì mục đích này, hãy lắng tai nghe” ở cuối sẽ không thể có và trở nên vô nghĩa, nhưng cần hiểu rằng nó không vô nghĩa vì nó có mục đích chỉ ra nguyên nhân gốc rễ của sự thành tựu lợi ích cho người khác.

Evaṃ yathā yathā yaṃ yaṃ, sambhaveyya padaṃ idha;
Taṃ taṃ tathā tathā sabbaṃ, payojeyya vicakkhaṇoti.
Như vậy, bất kỳ từ nào có thể có ở đây,
Người trí tuệ nên sử dụng tất cả chúng theo cách đó.

Bāhiranidānakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Phần chú giải về Duyên khởi bên ngoài kết thúc.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang