Trí Tuệ Kim Cương

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Trí Tuệ Kim Cương – Luận giải về giới Bất Cộng Trụ

Mục lục

Pārājikavaṇṇanā

Diễn giải về Bất Cộng Trụ

Verañjakaṇḍo

Phẩm Verañjā

Verañjakaṇḍavaṇṇanā

Diễn giải phẩm Verañjā

‘‘Tena samayena buddho bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ. Tena kho pana samayena vesāliyā avidūre kalandagāmo nāma hotī’’ti vinayanidāne ārabhitabbe verañjakaṇḍassa ārambho kimatthoti ce? Vuccate – mūlato pabhuti vinayanidānaṃ dassetuṃ. Yadi evaṃ ‘‘paṭhamaṃ āvuso upāli pārājikaṃ kattha paññattanti, vesāliya’’nti vacanena virujjhatīti ce? Na virujjhati. Kasmā? Kattha paññattanti hi nidānapucchā. Evaṃ santepi ‘‘paṭhamassa pārājikassa kiṃnidāna’’nti pucchite sādhāraṇamahānidānavissajjanaṃ ayuttaṃ viyāti? Nāyuttaṃ, sabbesaṃ sikkhāpadānaṃ pāṭekkaṃ nidānassa puṭṭhattā tassa vissajjetabbattā ca sabbasādhāraṇamahānidānaṃ paṭhamamāha. Ekantena pucchāvissajjanakkamena pārājikādīni saṅgahaṃ āropitāni. Kathaṃ āropitānīti ce? Āyasmatā mahākassapena anukkamena sabbopi vinayo pucchito, puṭṭhena ca āyasmatā upālittherena yathāsambhavaṃ nirantaraṃ vissajjitameva. Apucchitānipi vinītavatthuādīni yujjamānāni vatthūni antokatvā vissajjanakkameneva gaṇasajjhāyamakaṃsūti veditabbaṃ. Aññathā verañjakaṇḍaṃ paṭhamapārājikasseva nidānanti vā anadhikārikaṃ vā nippayojanaṃ vā pāṭekkaṃ sikkhāpadanidānapucchānantaraṃ tadeva vissajjetabbanti vā āpajjati, tasmā ādito pabhuti vinayanidānaṃ dassetuṃ ‘‘tena samayenā’’tiādi āraddhaṃ.
“Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, Thế Tôn đang ngự tại Vesālī, trong Đại Lâm, tại ngôi chùa có mái nhọn. Khi ấy, có một ngôi làng tên là Kalanda không xa Vesālī.” Khi cần bắt đầu phần Duyên khởi của Luật, tại sao lại bắt đầu bằng phẩm Verañjā? Xin thưa – Để trình bày duyên khởi của Luật từ gốc rễ. Nếu vậy, chẳng phải sẽ mâu thuẫn với lời nói: “Thưa Tôn giả Upāli, tội Bất Cộng Trụ đầu tiên được chế định ở đâu? Tại Vesālī.” hay sao? Không mâu thuẫn. Vì sao? Bởi vì câu hỏi “được chế định ở đâu?” là câu hỏi về duyên khởi. Dù vậy, khi được hỏi: “Duyên khởi của tội Bất Cộng Trụ đầu tiên là gì?” việc trả lời bằng đại duyên khởi chung chung chẳng phải là không hợp lý sao? Không phải là không hợp lý, vì duyên khởi của mỗi học giới đều được hỏi riêng, và vì cần phải trả lời điều đó, nên trước tiên Ngài đã nói về đại duyên khởi chung cho tất cả. Các tội Bất Cộng Trụ v.v. đã được sắp xếp thành một bộ sưu tập theo thứ tự hỏi và đáp. Nếu hỏi, đã được sắp xếp như thế nào? Tôn giả Mahākassapa đã hỏi toàn bộ Luật theo thứ tự, và Tôn giả Upālitthera, người được hỏi, đã trả lời liên tục theo khả năng. Cần phải hiểu rằng, các Ngài đã thực hiện việc tụng đọc theo nhóm theo trình tự trả lời, bao gồm cả những sự việc được quyết định (vinītavatthu) chưa được hỏi đến nhưng phù hợp. Nếu không, sẽ dẫn đến việc cho rằng phẩm Verañjā chỉ là duyên khởi của tội Bất Cộng Trụ đầu tiên, hoặc không có thẩm quyền, hoặc vô ích, hoặc sau khi hỏi về duyên khởi của từng học giới riêng biệt thì phải trả lời ngay lập tức. Do đó, để trình bày duyên khởi của Luật từ đầu, Ngài đã bắt đầu bằng “Vào lúc bấy giờ…”

Idāni nidānabhaṇane payojanaṃ vakkhāma – vinayassaāṇādesanattā bhagavato tāva āṇārahabhāvadīpanaṃ , āṇābhūtassa ca vinayassa anaññavisayabhāvadīpanaṃ, āṇāya ṭhitānaṃ sāvakānaṃ mahānubhāvadīpanañcāti tividhamassa payojanaṃ. Kathaṃ? Āṇāsāsanāraho hi bhagavā pahīnakilesattā, adhigataguṇavisesattā, lokajeṭṭhaseṭṭhattā, tādibhāvappattattā ca, arasarūpatādīhi aṭṭhahi akkosavatthūhi akampanato bhagavato tādibhāvappatti veditabbā, aṭṭhannampi tesaṃ akkosavatthūnaṃ attani sambhavapariyāyadīpanapāḷiyā pahīnakilesatā veditabbā . Catunnaṃ jhānānaṃ tissannañca vijjānaṃ adhigamaparidīpanena adhigataguṇavisesatā veditabbā. ‘‘Nāhaṃ taṃ brāhmaṇa passāmi sadevake…pe… muddhāpi tassa vipateyyā’’ti ca ‘‘jeṭṭho seṭṭho lokassā’’ti ca vacanena jeṭṭhaseṭṭhatā veditabbā, idañca bhagavato āṇārahabhāvadīpanappayojanaṃ. ‘‘Āgamehi tvaṃ sāriputta, āgamehi tvaṃ sāriputta, tathāgatova tattha kālaṃ jānissatī’’ti vacanaṃ anaññavisayabhāvadīpanaṃ. ‘‘Sādhāhaṃ, bhante, pathaviṃ parivatteyya’’nti ca ‘‘ekāhaṃ, bhante, pāṇiṃ abhinimminissāmī’’ti ca ‘‘sādhu, bhante, sabbo bhikkhusaṅgho uttarakuruṃ piṇḍāya gaccheyyā’’ti ca imehi therassa tīhi sīhanādehi āṇāya ṭhitānaṃ sāvakānaṃ mahānubhāvatādīpanaṃ veditabbaṃ. Sāvatthiyādīsu aviharitvā kimatthaṃ bhagavā verañjāyameva tadā vihāsīti ce? Naḷeruyakkhassa pītisañjananatthaṃ, bhikkhusaṅghassa bhikkhāvasena akilamanatthaṃ, verañjabrāhmaṇassa pasādasañjananatthaṃ, mahāmoggallānattherassa ānubhāvadīpanaṭṭhānabhūtattā, sāriputtattherassa vinayapaññattiyācanahetubhūtaparivitakkanaṭṭhānabhūtattā ca. Tesu pacchimaṃ balavakāraṇaṃ, tena vuttaṃ aṭṭhakathāyaṃ ‘‘tena samayenāti yena kālena āyasmato…pe… tena kālenā’’ti. Purimesu catūsu asaṅgahakāraṇesu paṭhamena bhagavā mettābhāvanādinā amanussānaṃ cittasaṃrakkhaṇena bhikkhūnaṃ ādaraṃ janeti. Dutiyena parisāvacarena bhikkhunā evaṃ parisā saṅgahetabbā, evaṃ appicchena santuṭṭhena ca bhavitabbanti vā dasseti. Tatiyena paccaye nirapekkhena kulānuggaho kātabboti. Catutthena evaṃ mahānubhāvenāpi paccayatthaṃ na loluppaṃ kātabbaṃ, kevalaṃ paradattupajīvinā bhavitabbanti dasseti. ‘‘Tenātiādipāṭhassa…pe… vinayassatthavaṇṇana’’nti vacanato añño tenātiādipāṭho, añño vinayo āpajjati.
Bây giờ, chúng tôi sẽ nói về mục đích của việc tuyên đọc duyên khởi – Vì Luật là mệnh lệnh, nên trước hết là để trình bày tư cách xứng đáng ban hành mệnh lệnh của Thế Tôn, trình bày rằng Luật, vốn là mệnh lệnh, không phải là đối tượng của người khác, và trình bày đại năng lực của các vị đệ tử tuân giữ mệnh lệnh. Đây là ba mục đích. Như thế nào? Thế Tôn xứng đáng ban hành mệnh lệnh và giáo huấn vì Ngài đã đoạn trừ các phiền não, đã chứng đắc các phẩm chất đặc biệt, là bậc tối thượng, bậc trưởng thượng trong thế gian, và đã đạt đến trạng thái như vậy. Cần phải biết rằng Thế Tôn đã đạt đến trạng thái như vậy vì không bị lay động bởi tám sự mắng nhiếc như không có vị, không có hình sắc v.v. Cần phải biết rằng Ngài đã đoạn trừ phiền não qua đoạn Pāḷi trình bày phương thức hiện hữu của tám sự mắng nhiếc ấy nơi chính mình. Cần phải biết rằng Ngài đã chứng đắc các phẩm chất đặc biệt qua việc trình bày sự chứng ngộ bốn thiền và ba minh. Cần phải biết rằng Ngài là bậc trưởng thượng, bậc tối thượng qua lời nói: “Này Bà-la-môn, Ta không thấy ai trong thế giới có chư Thiên… cho đến… đầu của người ấy cũng sẽ vỡ tan tành” và “là bậc trưởng thượng, bậc tối thượng của thế gian.” Đây là mục đích trình bày tư cách xứng đáng ban hành mệnh lệnh của Thế Tôn. Lời nói: “Hãy chờ đã, Sāriputta, hãy chờ đã, Sāriputta, Như Lai sẽ tự biết thời điểm thích hợp ở đó” là trình bày rằng đây không phải là đối tượng của người khác. Cần phải biết rằng ba tiếng rống sư tử của vị Trưởng lão này: “Tốt lắm, bạch Thế Tôn, con có thể xoay chuyển quả đất này,” “Trong một ngày, bạch Thế Tôn, con sẽ hóa hiện ra một bàn tay,” và “Tốt lắm, bạch Thế Tôn, toàn thể Tăng đoàn Tỳ-khưu hãy đi đến Uttarakuru để khất thực” là để trình bày năng lực vĩ đại của các vị đệ tử tuân giữ mệnh lệnh. Nếu hỏi, tại sao Thế Tôn lúc đó lại ngự tại Verañjā mà không ở Sāvatthi v.v.? Để làm phát sinh niềm vui cho dạ xoa Naḷeru, để Tăng đoàn Tỳ-khưu không bị mệt mỏi vì việc khất thực, để làm phát sinh lòng tin nơi Bà-la-môn Verañja, vì đó là nơi để trình bày năng lực của Trưởng lão Mahāmoggallāna, và vì đó là nơi phát sinh suy tư của Trưởng lão Sāriputta, là nguyên nhân cho việc thỉnh cầu chế định Luật. Trong số đó, nguyên nhân cuối cùng là mạnh nhất. Do đó, trong Chú giải đã nói: “Vào lúc bấy giờ, tức là vào thời điểm mà Tôn giả… cho đến… vào thời điểm ấy.” Trong bốn nguyên nhân không được thu thập ở trên, với nguyên nhân đầu tiên, Thế Tôn tạo ra sự kính trọng nơi các Tỳ-khưu bằng cách bảo vệ tâm của các phi nhân bằng việc tu tập từ bi v.v. Với nguyên nhân thứ hai, Ngài chỉ ra rằng một Tỳ-khưu sống trong Tăng chúng nên duy trì mối quan hệ tốt với Tăng chúng như vậy, hoặc nên ít ham muốn và biết đủ. Với nguyên nhân thứ ba, Ngài chỉ ra rằng nên giúp đỡ các gia đình mà không mong đợi các vật dụng. Với nguyên nhân thứ tư, Ngài chỉ ra rằng ngay cả người có năng lực vĩ đại như vậy cũng không nên tham lam các vật dụng, mà chỉ nên sống nhờ vào sự cúng dường của người khác. Theo câu “Của đoạn văn bắt đầu bằng ‘Vào lúc bấy giờ…’ cho đến… diễn giải ý nghĩa của Luật,” sẽ dẫn đến việc có một đoạn văn khác bắt đầu bằng ‘Vào lúc bấy giờ,’ và một Luật khác.

‘‘Tenātiādipāṭhamhā, ko añño vinayo idha;
Tassatthaṃ dassayantova, kare vinayavaṇṇana’’nti. –
“Từ đoạn văn bắt đầu bằng ‘Vào lúc bấy giờ,’ Luật khác ở đây là gì;
Chính khi trình bày ý nghĩa của nó, vị ấy làm ra bài diễn giải Luật.” –

Ce? Nanu vuttaṃ pubbeva ‘‘idañhi buddhassa bhagavato attapaccakkhavacanaṃ na hotī’’tiādi, tasmā upālittherena vuttassa tenātiādipāṭhassa atthaṃ nānappakārato dassayanto karissāmi vinayassa bhagavato attapaccakkhavacanabhūtassa atthavaṇṇananti evamettha attho daṭṭhabbo. Yadi evaṃ ‘‘tena samayena buddho bhagavā verañjāyaṃ viharatīti evamādivacanapaṭimaṇḍitanidānaṃ vinayapiṭakaṃ kena dhārita’’ntiādivacanaṃ virujjhati ‘‘tena samayenā’’tiādivacanassa vinayapiṭakapariyāpannabhāvadīpanatoti ce? Na, aññatthepi tabbohārasiddhito ‘‘nānāvidhabhittikammapaṭimaṇḍitavasano puriso’’tiādīsu viya. Vinayassādibhāvena saṅgītikārakehi anuññātattā vinayapariyāpannatāpi yujjati tassa vacanassa. Etthāha – yathā suttante ‘‘ekaṃ samaya’’nti ca, abhidhamme ca ‘‘yasmiṃ samaye’’ti aniyamato vuttaṃ, tathā avatvā idha ‘‘tena samayenā’’ti paṭhamaṃ taṃniddesova kasmā vuttoti? Vuccate – tassa tassa sikkhāpadapaññattisamayassa, yassa vā sikkhāpadapaññattihetubhūtassa samayassa hetu bhagavā tattha tattha vihāsi, tassa ca samayassa atītassa tesaṃ saṅgītikārakānaṃ vasīnaṃ suviditattā. Kathaṃ? ‘‘Ye te bhikkhū appicchā te ujjhāyantī’’tiādivacanato, ‘‘atha kho te bhikkhū bhagavato etamatthaṃ ārocesu’’nti ca ‘‘atha kho bhagavā etasmiṃ nidāne sannipātāpetvā’’ti ca ‘‘bhikkhūnaṃ tadanucchavikaṃ tadanu…pe… dasa atthavase paṭicca saṅghasuṭṭhutāyā’’ti ca ‘‘evañca pana, bhikkhave, imaṃ sikkhāpadaṃ uddiseyyāthā’’ti ca khandhakesu ca ‘‘anujānāmi, bhikkhave, tīhi saraṇagamanehi pabbajja’’ntiādivinayakkamassa vacanato yo so sikkhāpadapaññattisamayo, tassa tassa vinayakkamassa so paññattisamayo ca suvidito tesaṃ pañcasatānaṃ dhammadharānaṃ bhikkhūnaṃ, nāyaṃ nayo suttantābhidhammesu sambhavati. Tasmā suviditattā tena samayena hetubhūtena viharatīti viharatipadena ekasambandhattā ca paṭhamaṃ yaṃniddesādino asambhavato ca vinayapiṭake taṃniddesova paṭhamaṃ vutto. Kathaṃ? Ettha ‘‘yena kho pana samayena vesāliyā avidūre kalandagāmo nāma hotī’’ti vā ‘‘yena kho pana samayena vesālī…pe… hotī’’ti vā asambhavato yaṃniddesena avatvā taṃniddesasseva sambhavato ‘‘tena kho pana samayena…pe… kalandagāmo nāma hotī’’ti vuttanti, kevalaṃ suviditattā vā. Aniyamaniddesavacananti ettha kiñcāpi yathāvuttanayena niyamaniddesavacanamevetaṃ taṃniddesattā, tathāpi sampatikālavasena taditaresaṃ bhikkhūnaṃ aviditattā ‘‘aniyamaniddesavacana’’nti vuttaṃ. Yaṃ pana vuttaṃ ‘‘ayañhi sabbasmimpi vinaye yuttī’’ti, taṃ tabbahulena vuttanti veditabbaṃ.
Nếu vậy? Chẳng phải trước đây đã nói: “Đây không phải là lời nói trực tiếp của Đức Phật, Thế Tôn” và các đoạn tiếp theo hay sao? Do đó, cần phải hiểu ý nghĩa ở đây là: “Tôi sẽ làm bài diễn giải ý nghĩa của Luật, vốn là lời nói trực tiếp của Thế Tôn, bằng cách trình bày ý nghĩa của đoạn văn bắt đầu bằng ‘Vào lúc bấy giờ’ do Trưởng lão Upāli nói ra theo nhiều cách khác nhau.” Nếu vậy, câu nói như “Tạng Luật, được trang điểm bằng những lời nói như ‘Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, Thế Tôn đang ngự tại Verañjā,’ đã được ai gìn giữ?” sẽ mâu thuẫn vì nó trình bày rằng đoạn văn bắt đầu bằng ‘Vào lúc bấy giờ’ thuộc về Tạng Luật, phải không? Không, vì cách dùng đó cũng được chấp nhận ở những nơi khác, giống như trong câu “Người đàn ông mặc trang phục được trang điểm bằng nhiều loại tranh tường khác nhau” và các câu tương tự. Vì được các vị kết tập kinh điển cho phép là phần đầu của Luật, nên việc nó thuộc về Luật cũng hợp lý. Vị ấy nói ở đây – tại sao ở đây lại nói “vào lúc bấy giờ” là chỉ định từ trước đầu tiên, mà không nói một cách không xác định như trong Kinh điển là “một thời” và trong Vi Diệu Pháp là “vào thời điểm nào”? Xin thưa – vì thời điểm chế định mỗi học giới, hoặc thời điểm mà Thế Tôn ngự ở nơi này nơi kia là nguyên nhân cho việc chế định học giới, thời điểm đó đã qua và đã được các vị kết tập kinh điển, những bậc tự tại, biết rõ. Như thế nào? Từ những lời nói như “Những Tỳ-khưu ít ham muốn kia đã khiển trách” và các đoạn tiếp theo, và “Bấy giờ các Tỳ-khưu ấy đã trình bày việc đó lên Thế Tôn,” và “Bấy giờ Thế Tôn, trong duyên khởi này, sau khi triệu tập…,” và “phù hợp với các Tỳ-khưu… cho đến… dựa vào mười lợi ích để Tăng chúng được tốt đẹp,” và “Này các Tỳ-khưu, các con hãy tuyên đọc học giới này như vầy,” và trong Các phẩm Luật, theo trình tự của Luật như “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xuất gia bằng ba lần quy y,” thời điểm chế định học giới ấy, và thời điểm chế định của mỗi trình tự Luật ấy, đã được năm trăm vị Tỳ-khưu, những bậc gìn giữ Pháp, biết rõ. Cách này không có trong Kinh điển và Vi Diệu Pháp. Do đó, vì đã biết rõ, nên Ngài ngự vào thời điểm ấy là nguyên nhân, và vì có một mối liên hệ với động từ “ngự”, và vì không thể có chỉ định từ sau và các cách khác ở đầu, nên trong Tạng Luật, chỉ định từ trước đã được nói đầu tiên. Như thế nào? Ở đây, vì không thể nói là “Vào thời điểm nào mà làng Kalanda không xa Vesālī” hoặc “Vào thời điểm nào mà Vesālī… là…,” nên không nói bằng chỉ định từ sau mà chỉ có thể nói bằng chỉ định từ trước, nên đã nói “Vào lúc bấy giờ… cho đến… làng tên là Kalanda,” hoặc chỉ đơn giản là vì đã biết rõ. Về lời nói chỉ định không xác định, ở đây, mặc dù theo cách đã nói, đây chính là lời nói chỉ định xác định vì là chỉ định từ trước, nhưng vì các Tỳ-khưu khác ở thời hiện tại không biết, nên đã nói là “lời nói chỉ định không xác định.” Còn điều đã nói “Đây là lý lẽ trong toàn bộ Luật,” cần biết rằng điều đó đã được nói theo đa số.

Yadi sabbaṃ tenāti padaṃ aniyamaniddesavacanaṃ bhaveyya, tena hi bhikkhave bhikkhūnaṃ sikkhāpadanti ettha idampi pubbe siddhatthaṃ tenāti padaṃ aniyamaniddesavacanaṃ bhaveyya. ‘‘Tena samayena buddho bhagavā uruvelāyaṃ viharatī’’tiādīsu vuttaṃ tenāti padañca aniyamaniddesavacanaṃ bhaveyya, na ca hoti, tasmā yesaṃ tena taṃniddesena niddiṭṭhattho avidito, tesaṃ vasenāha ‘‘aniyamaniddesavacanameta’’nti. Atha vā tato paṭhamaṃ tadatthādassanato pacchāpi taṃsambandhena yaṃniddesadassanato ca ‘‘aniyamaniddesavacanameta’’nti vuttaṃ. Atha vā pubbaṇhādīsu ayaṃ nāmāti aniyametvā kālaparidīpanassa samayasaddassa upapadabhāvenapi evaṃ vattumarahati ‘‘yadidaṃ aniyamaniddesavacana’’nti. Atha vā ‘‘tenā’’ti vutte tena ghaṭena paṭenāti sabbatthappasaṅganivāraṇatthaṃ niyamaṃ karoti ‘‘samayenā’’ti. Kena pana samayena? Parabhāge atthato siddhena sāriputtassa parivitakkasamayena. Etthāha – vitakkasamayo ce idhādhippeto, ‘‘parato idha pana hetuattho karaṇattho ca sambhavati. Yo hi so sikkhāpadapaññattisamayo sāriputtādīhipi dubbiññeyyo, tena samayena hetubhūtena karaṇabhūtena cā’’tiādivacanaṃ virujjhatīti? Na, bāhullena vuttattā. Suttantābhidhammesu viya avatvā idha vinayapiṭake karaṇavacanena kasmā niddesoti hi codanā. Tasmā tassā vissajjane bāhullena karaṇavacanappayojanaṃ vattukāmo ācariyo āha ‘‘yo so sikkhāpadapaññattisamayo’’tiādi. Na sampati vuccamānasseva karaṇavacanassa payojanaṃ vattukāmo, imassa pana hetuatthova sambhavati, na karaṇattho, tasmā āha ‘‘aparabhāge atthato siddhenā’’tiādi. Samayañcāti āgamanapaccayasamavāyaṃ tadanurūpakālañca upādāyāti attho. Paccayasāmaggiñca āgamanakālañca labhitvā jānissāmāti adhippāyo.
Nếu tất cả các từ “vào lúc đó” đều là lời nói chỉ định không xác định, thì trong câu “Này các Tỳ-khưu, học giới của các Tỳ-khưu,” từ “vào lúc đó” này, vốn có ý nghĩa đã được xác định trước, cũng sẽ trở thành lời nói chỉ định không xác định. Từ “vào lúc đó” được nói trong các câu như “Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, Thế Tôn đang ngự tại Uruvelā” và các câu tương tự cũng sẽ trở thành lời nói chỉ định không xác định, nhưng không phải vậy. Do đó, Ngài đã nói “đây là lời nói chỉ định không xác định” theo quan điểm của những người không biết ý nghĩa được chỉ định bởi từ “vào lúc đó” ấy. Hoặc là, vì trước đó không trình bày ý nghĩa của nó, và sau đó cũng không trình bày chỉ định từ sau có liên quan đến nó, nên đã nói là “đây là lời nói chỉ định không xác định.” Hoặc là, vì không xác định tên như “buổi sáng” và các thời điểm khác mà chỉ trình bày thời gian, nên cũng có thể nói như vậy về từ “thời điểm” là một từ phụ thuộc, “đây là lời nói chỉ định không xác định.” Hoặc là, khi nói “bằng cái đó”, để ngăn chặn sự áp dụng cho tất cả mọi thứ như “bằng cái nồi đó, bằng cái vải đó,” Ngài đã xác định bằng từ “thời điểm”. Bằng thời điểm nào? Bằng thời điểm suy tư của Sāriputta, vốn đã được xác định về mặt ý nghĩa ở phần sau. Vị ấy nói ở đây – nếu thời điểm suy tư được hàm ý ở đây, thì lời nói như “Ở phần sau, ý nghĩa nguyên nhân và ý nghĩa công cụ là có thể có. Bởi vì thời điểm chế định học giới mà Sāriputta và các vị khác cũng khó biết, nên vào thời điểm đó là nguyên nhân và là công cụ” sẽ mâu thuẫn, phải không? Không, vì đã nói theo đa số. Câu hỏi là tại sao trong Tạng Luật này lại chỉ định bằng công cụ cách mà không nói như trong Kinh điển và Vi Diệu Pháp. Do đó, khi trả lời câu hỏi đó, vị Giáo thọ sư, muốn nói về mục đích của công cụ cách theo đa số, đã nói: “thời điểm chế định học giới đó” và các đoạn tiếp theo. Ngài không muốn nói về mục đích của công cụ cách đang được nói đến hiện tại, mà đối với điều này, chỉ có ý nghĩa nguyên nhân là có thể có, không có ý nghĩa công cụ. Do đó, Ngài đã nói “ở phần sau, đã được xác định về mặt ý nghĩa” và các đoạn tiếp theo. Và thời điểm, có nghĩa là dựa vào sự hội đủ của các duyên đến, và thời điểm phù hợp với điều đó. Ý định là, sau khi có được sự hội đủ của các duyên và thời điểm đến, chúng ta sẽ biết.

Etthāha – yathā ‘‘ekova kho, bhikkhave, khaṇo samayo cā’’ti ettha khaṇasamayānaṃ eko attho, tathā kālañca samayañca upādāyāti kālasamayānaṃ eko attho siyā, apica āgamanapaccayasamavāyo cettha samayo kālassāpi āgamanapaccayattā samayaggahaṇeneva so gahitoti visuṃ kālo kimatthaṃ gahitoti ca? Vuccate – appeva nāma svepīti kālassa paṭhamaṃ niyamitattā na samayo kālattho . Tasmiṃ sveti niyamitakāle itaresaṃ āgamanapaccayānaṃ samavāyaṃ paṭicca upasaṅkameyyāma yathāniyamitakālepi pubbaṇhādippabhedaṃ yathāvuttasamavāyānurūpaṃ kālañca upādāyāti sveti paricchinnadivase pubbaṇhādikālaniyatabhāvaṃ dasseti, tasmā kālasamayānaṃ na ekatthattā kālassa visuṃ gahaṇampi sātthakanti veditabbaṃ. Yasmā khaṇe khaṇe tvaṃ bhikkhu jāyasi ca jīyasi ca mīyasi ceti bhikkhuniyā santike abhikkhaṇaṃ gacchatīti (pāci. 198) ca khaṇe khaṇe bhāsati satthusāsananti ca khaṇasaddo anekattho, tathā samayasaddo ca, tasmā ekamekena niyamento ‘‘ekova kho, bhikkhave, khaṇo ca samayo cā’’ti āha. Khaṇasamayānaṃ attho ekattho yujjati khaṇo okāsalābho, aṭṭhakkhaṇavajjito navamo khaṇoti attho. Attano attano ucchedādayo diṭṭhigatasaṅkhāte samaye ettha pavadantīti samayappavādako. Sveva tindukācīrasaṅkhātāya timbarurukkhapantiyā parikkhittattā tindukācīraṃ. Ekasālaketi eko sālarukkho. ‘‘Kuṭikā’’tipi vadanti. Atthābhisamayāti attano hitapaṭilābhā. Dhīroti ca paṇḍito vuccati, nāñño. Sammā mānābhisamayāti suṭṭhu mānassa pahānena, samucchedavasena suṭṭhu mānappahānenāti attho. Dukkhassa pīḷanaṭṭhotiādīsu ‘‘catunnaṃ saccānaṃ catūhi ākārehi paṭivedho’’tiādīsu khandhapañcakasaṅkhātassa dukkhassa dukkhākāratāyaṭṭho. Saṅkhataṭṭho kāraṇuppattiattho, dukkhāya vedanāya santāpaṭṭho. Sukhāya vedanāya vipariṇāmaṭṭho. Pīḷanaṭṭhādikova abhisamayaṭṭhoti attho daṭṭhabbo. Gabbhokkantisamayotiādīsupi pathavīkampanaālokapātubhāvādīhi devamanussesu pākaṭo. Dukkarakārikasamayopi kāḷo samaṇo gotamo na kāḷotiādinā pākaṭo. Sattasattāhāni ca aññāni ca diṭṭhadhammasukhavihārasamayo.
Vị ấy nói ở đây – giống như trong câu “Này các Tỳ-khưu, chỉ có một khoảnh khắc và một thời điểm,” khoảnh khắc và thời điểm có cùng một ý nghĩa, thì trong câu “dựa vào thời gian và thời điểm,” thời gian và thời điểm cũng có thể có cùng một ý nghĩa. Hơn nữa, nếu sự hội đủ của các duyên đến là thời điểm ở đây, và vì thời gian cũng là một duyên đến, nên nó đã được bao hàm trong việc nắm bắt thời điểm, vậy tại sao lại nắm bắt thời gian riêng biệt? Xin thưa – vì thời gian đã được xác định trước bằng câu “có lẽ cả ngày mai,” nên thời điểm không có ý nghĩa là thời gian. Trong thời gian đã được xác định là ngày mai đó, dựa vào sự hội đủ của các duyên đến khác, chúng ta sẽ đến gặp. Ngài trình bày rằng ngay cả trong thời gian đã được quy định, việc xác định thời gian như buổi sáng và các thời điểm khác cũng tùy thuộc vào sự hội đủ đã được nói ở trên, và dựa vào thời gian phù hợp với sự hội đủ đã nói. Do đó, cần phải biết rằng vì thời gian và thời điểm không có cùng một ý nghĩa, nên việc nắm bắt thời gian riêng biệt cũng có ý nghĩa. Bởi vì trong câu “Này Tỳ-khưu, trong từng khoảnh khắc con sinh ra, già đi và chết đi,” và trong câu “liên tục đi đến chỗ Tỳ-khưu-ni” (pāci. 198), và trong câu “trong từng khoảnh khắc nói lên giáo huấn của Bậc Đạo Sư,” từ “khoảnh khắc” có nhiều nghĩa, cũng như từ “thời điểm,” do đó Ngài đã xác định bằng từng cái một và nói: “Này các Tỳ-khưu, chỉ có một khoảnh khắc và một thời điểm.” Ý nghĩa của khoảnh khắc và thời điểm là một, điều này hợp lý. Khoảnh khắc là cơ hội, có nghĩa là khoảnh khắc thứ chín, trừ đi tám khoảnh khắc không thuận lợi. Nơi người ta thuyết giảng các quan điểm của mình, được gọi là tà kiến, về sự hủy diệt và các vấn đề khác của chính mình là người thuyết giảng các tà thuyết. Chính nơi đó, vì được bao quanh bởi một hàng cây tinduka, nên được gọi là Tindukācīra. Ekasālake có nghĩa là một cây sāla. Người ta cũng nói là “cái am nhỏ.” Sự chứng đắc lợi ích là sự chứng đắc lợi ích của mình. Bậc tríbậc hiền triết được gọi là bậc trí tuệ, không phải ai khác. Sự thấu triệt hoàn toàn ngã mạn là do đoạn trừ hoàn toàn ngã mạn, có nghĩa là do đoạn trừ hoàn toàn ngã mạn bằng cách tận diệt. Trong các câu như “ý nghĩa bức bách của khổ” và các câu tương tự, ý nghĩa của khổ, được gọi là năm uẩn, là trạng thái khổ trong các câu như “sự thấu triệt bốn chân lý bằng bốn phương diện” và các câu tương tự. Ý nghĩa hữu vi là ý nghĩa sinh khởi do nhân duyên, ý nghĩa thiêu đốt của khổ thọ. Ý nghĩa biến hoại của lạc thọ. Cần phải hiểu rằng ý nghĩa bức bách và các ý nghĩa khác chính là ý nghĩa thấu triệt. Trong các câu như “thời điểm nhập thai” và các câu tương tự, cũng đã rõ ràng đối với chư Thiên và loài người qua sự rung chuyển của trái đất, sự xuất hiện của ánh sáng và các hiện tượng khác. Thời điểm khổ hạnh cũng đã rõ ràng qua câu “Sa-môn Gotama không đen” và các câu tương tự. Và bảy tuần lễ và những tuần khác là thời điểm an trú trong lạc hiện tại.

Accantameva taṃ samayanti ārambhato paṭṭhāya yāva pattasanniṭṭhānā, tāva accantasampayogena tasmiṃ samaye. Karuṇāvihārena vihāsīti karuṇākiccavihārena tasmiṃ samaye vihāsīti attho. Taṃ samayañhi karuṇākiccasamayaṃ. Ñāṇakiccaṃ karuṇākiccanti dve bhagavato kiccāni, abhisambodhi ñāṇakiccaṃ, mahākaruṇāsamāpattiṃ samāpajjitvā veneyyasattāvalokanaṃ katvā tadanurūpakaraṇaṃ karuṇākiccaṃ. ‘‘Sannipatitānaṃ vo, bhikkhave, dvayaṃ karaṇīya’’nti (ma. ni. 1.273; udā. 12, 28) hi vuttaṃ, taṃ bhagavāpi karotiyeva. Atha vā āgantukehi bhikkhūhi ādisamāyogañca. Tattha karuṇākiccaṃ vihāraṃ dassento ‘‘karuṇāvihārena vihāsī’’ti āha. Adhikaraṇañhi kālatthoti ettha hi-kāro kāraṇattho. Tattha hi abhidhamme kālasamūhakhaṇasamavāyahetusaṅkhātavasena pañcavidho samayaṭṭho daṭṭhabbo. Kālasamūhaṭṭho samayo kathaṃ adhikaraṇaṃ hoti? Adhikaraṇamuppattiṭṭhānaṃ pubbaṇhe jātoti yathā, evaṃ kālaṭṭho samayasaddo daṭṭhabbo. Kathaṃ rāsaṭṭho? Yavarāsimhi jātoti yathā. Tasmā yasmiṃ kāle puñje vā cittaṃ samuppannaṃ, tasmiṃ kāle puñje vā phassādayo uppajjantīti vuttaṃ hoti. Adhikaraṇañhīti ettha abhidhamme niddiṭṭhaṃ adhikaraṇaṃ kālaṭṭho samūhaṭṭho ca hoti, ‘‘yasmiṃ samaye’’ti vuttaṃ adhikaraṇaṃ sandhāya vuttanti daṭṭhabbaṃ. Idāni bhāvenabhāvalakkhaṇañca dassento ‘‘tattha vuttāna’’miccādimāha. Tattha abhidhamme vuttānaṃ bhāvo nāma kinti? Uppatti vijjamānatā, sā tesaṃ tattha vuttānaṃ phassādidhammānaṃ, sā pana samayassa bhāvena bhāvo lakkhīyati ñāyati, tasmā tattha bhummavacananiddeso katoti vuttaṃ hoti.
Hoàn toàn trong thời điểm đó, từ lúc bắt đầu cho đến khi đạt được mục tiêu, trong thời điểm đó với sự tương ưng hoàn toàn. Đã an trú bằng sự an trú của lòng bi, có nghĩa là đã an trú trong thời điểm đó bằng sự an trú của hành động bi mẫn. Thời điểm đó là thời điểm của hành động bi mẫn. Hành động của trí tuệ và hành động của lòng bi là hai hành động của Thế Tôn. Sự chứng ngộ là hành động của trí tuệ, sau khi nhập đại bi định, quan sát các chúng sinh có thể được giáo hóa và làm những việc phù hợp là hành động của lòng bi. Đã được nói rằng: “Này các Tỳ-khưu, khi các con đã tụ họp, có hai việc cần làm” (ma. ni. 1.273; udā. 12, 28), Thế Tôn cũng làm như vậy. Hoặc là sự gặp gỡ đầu tiên với các Tỳ-khưu khách. Ở đó, để trình bày sự an trú của hành động bi mẫn, Ngài đã nói: “đã an trú bằng sự an trú của lòng bi.” Chắc chắn vị trí cách là ý nghĩa thời gian, ở đây chữ hi có ý nghĩa nguyên nhân. Ở đó, trong Vi Diệu Pháp, cần phải hiểu rằng có năm loại ý nghĩa của thời điểm: thời gian, tập hợp, khoảnh khắc, sự hội đủ và nguyên nhân. Ý nghĩa thời điểm là tập hợp thời gian trở thành vị trí cách như thế nào? Giống như “sinh vào buổi sáng,” vị trí cách là nơi chốn phát sinh, cũng vậy, từ “thời điểm” có ý nghĩa thời gian cần được hiểu như vậy. Ý nghĩa tập hợp như thế nào? Giống như “sinh trong đống lúa mạch.” Do đó, đã được nói rằng, vào thời điểm hoặc trong tập hợp nào mà tâm khởi lên, vào thời điểm hoặc trong tập hợp đó, xúc và các pháp khác cũng khởi lên. Trong câu “Chắc chắn vị trí cách,” cần phải hiểu rằng vị trí cách được chỉ định trong Vi Diệu Pháp có ý nghĩa thời gian và ý nghĩa tập hợp, và đã được nói đến để chỉ đến vị trí cách được nói trong câu “vào thời điểm nào.” Bây giờ, để trình bày đặc điểm của sự hiện hữu trong sự hiện hữu, Ngài đã nói “của những gì được nói ở đó” và các đoạn tiếp theo. Ở đó, sự hiện hữu của những gì được nói trong Vi Diệu Pháp là gì? Là sự sinh khởi, sự hiện hữu, đó là của các pháp như xúc và các pháp khác được nói ở đó. Sự hiện hữu đó được nhận biết, được biết bởi sự hiện hữu của thời điểm. Do đó, đã được nói rằng ở đó đã được chỉ định bằng vị trí cách.

Tattha khaṇo nāma aṭṭhakkhaṇavinimutto navamo khaṇo, tasmiṃ sati uppajjati. Samavāyo nāma cakkhundriyādikāraṇasāmaggī, tasmiṃ sati uppajjati. Hetu nāma rūpādiārammaṇaṃ. Tasmā tasmiṃ khaṇakāraṇasamavāyahetumhi sati tesaṃ phassādīnaṃ bhāvo vijjamānatā hotīti vuttaṃ hoti. Idha pana hetuattho karaṇattho ca sambhavatīti ettha atthadvayamekassa sambhavatīti idha vinaye vuttassa samayasaddassa kattukaraṇatthe tatiyā hetumhi ca ityuttattā. So dubbiññeyyoti ‘‘tathāgatova tattha kālaṃ jānissatī’’ti vuttattāti vuttaṃ hoti. Tena samayenāti tassa samayassa kāraṇā ‘‘annena vasati vijjāya vasatī’’ti yathā, annaṃ vā vijjaṃ vā labhāmīti tadatthaṃ vasatītyattho. Evaṃ ‘‘tena samayena viharatī’’ti vutte hetvatthe tatiyā daṭṭhabbā, tasmā sikkhāpadapaññattiyā samayañca vītikkamañca olokayamāno tattha tattha vihāsīti vuttaṃ hoti. Tatiyapārājikādīsu ‘‘icchāmahaṃ, bhikkhave, addhamāsaṃ , paṭisallīyitu’’nti (pārā. 162) evamādīsu daṭṭhabbā, tasmā dutiyā kāladdhāne accantasaṃyogeti dutiyātra sambhavati ‘‘māsamadhīte divasamadhīte’’ti yathā. Idha pana hetuattho karaṇattho ca sambhavatīti ettha yassa karaṇavacanassa hetuattho sambhavati, tena samayena hetubhūtena taṃ taṃ vatthuvītikkamasaṅkhātaṃ vītikkamasamayasaṅkhātaṃ vā sikkhāpadapaññattihetuñca apekkhamāno bhagavā tattha tattha vihāsi. Yassa karaṇattho sambhavati, tena karaṇabhūtena samayena sampattena sikkhāpadāni paññāpayanto bhagavā tattha tattha vihāsīti adhippāyo.
Ở đó, khoảnh khắc là khoảnh khắc thứ chín, thoát khỏi tám khoảnh khắc không thuận lợi. Khi có khoảnh khắc đó, nó sinh khởi. Sự hội đủ là sự tập hợp của các nguyên nhân như nhãn căn và các căn khác. Khi có sự hội đủ đó, nó sinh khởi. Nguyên nhân là đối tượng như sắc và các đối tượng khác. Do đó, đã được nói rằng khi có khoảnh khắc, sự hội đủ của các nguyên nhân và nguyên nhân đó, thì có sự hiện hữu của xúc và các pháp khác. Ở đây, ý nghĩa nguyên nhân và ý nghĩa công cụ là có thể có, ở đây, hai ý nghĩa này có thể có cho một từ. Vì từ “thời điểm” được nói trong Luật này đã được nói là có ý nghĩa chủ từ, công cụ và nguyên nhân. Điều đó khó biết, đã được nói rằng vì đã nói “Như Lai sẽ tự biết thời điểm thích hợp ở đó.” Bằng thời điểm đó, vì nguyên nhân của thời điểm đó, giống như “sống bằng thức ăn, sống bằng trí tuệ,” có nghĩa là sống để có được thức ăn hoặc trí tuệ. Cũng vậy, khi nói “ngự vào thời điểm đó,” cần phải hiểu đó là tam cách trong ý nghĩa nguyên nhân. Do đó, đã được nói rằng Ngài đã ngự ở nơi này nơi kia, quan sát thời điểm và sự vi phạm của việc chế định học giới. Cần phải hiểu trong các tội Bất Cộng Trụ thứ ba và các tội khác như trong câu “Này các Tỳ-khưu, Ta muốn nhập thất trong nửa tháng” (pārā. 162) và các câu tương tự. Do đó, nhị cách trong ý nghĩa liên tục trong thời gian và không gian là có thể có ở đây, giống như “học một tháng, học một ngày.” Ở đây, trong câu “ý nghĩa nguyên nhân và ý nghĩa công cụ là có thể có,” với công cụ cách nào mà có ý nghĩa nguyên nhân, thì Thế Tôn đã ngự ở nơi này nơi kia, mong đợi nguyên nhân chế định học giới, được gọi là thời điểm vi phạm, tức là sự vi phạm của vật đó. Với công cụ cách nào mà có ý nghĩa công cụ, thì Thế Tôn đã ngự ở nơi này nơi kia, chế định các học giới khi thời điểm, tức là công cụ, đã đến.

Gaṇṭhipade pana ‘‘sudinnādīnaṃ vītikkamova kāraṇaṃ nāma, tassa niyamabhūto kālo pana karaṇameva taṃ kālaṃ anatikkamitvāva sikkhāpadassa paññapetabbattā’’ti vuttaṃ, taṃ niddosaṃ. Yaṃ pana vuttaṃ ‘‘idaṃ karaṇaṃ pubbabhāgattā paṭhamaṃ vattabbampi pacchā vutta’’nti, taṃ duvuttaṃ. Hetuatthato hi yathā pacchā karaṇattho yojiyamāno anukkameneva yogaṃ gacchati, tathā ca yojito. Yaṃ pana aṭṭhakathācariyo pacchā vuttaṃ idaṃ karaṇatthaṃ paṭhamaṃ yojetvā paṭhamaṃ vuttaṃ hetuatthaṃ pacchā yojesi, taṃ yojanāsukhattāti veditabbanti ācariyena likhitaṃ. Ito paṭṭhāya yattha yattha ‘‘ācariyena likhita’’nti vā ‘‘ācariyassa takko’’ti vā vuccati, tattha tattha ācariyo nāma ānandācariyo kalasapuravāsīti GetSRP. Etthāha – yathā suttante ‘‘ekaṃ samayaṃ bhagavā’’ti vuccati, tathā ‘‘tena samayena bhagavā verañjāya’’nti vattabbaṃ, atha savevacanaṃ vattukāmo thero, tathāgato sugatotiādīnipi vattabbāni, atha imasseva padadvayassa gahaṇe kiñci payojanaṃ atthi, taṃ vattabbanti? Vuccate – kesañci buddhassa bhagavato paramagambhīraṃ ajjhāsayakkamaṃ ajānataṃ ‘‘apaññatte sikkhāpade anādīnavadasso…pe… abhiviññāpesī’’tiādikaṃ (pārā. 36) ‘‘atha kho bhagavā āyasmantaṃ sudinnaṃ paṭipucchī’’tiādikañca (pārā. 39) ‘‘sādiyi tvaṃ bhikkhūti. Nāhaṃ bhagavā sādiyi’’ntiādikañca (pārā. 72) tathā purāṇavohārikaṃ bhikkhuṃ pucchitvā tena vuttaparicchedena dutiyapārājikapaññāpanañca devadattassa pabbajjānujānanañcāti evamādikaṃ vinayapariyattiṃ disvā buddhasubuddhataṃ paṭicca saṅkā sambhaveyya, ‘‘tathā kiṃ pana tuyhaṃ chavassa kheḷāsakassā’’ti (cūḷava. 336) evamādikaṃ pharusavacanapaṭisaṃyuttaṃ vinayapariyattiṃ nissāya khīṇāsavattaṃ paṭicca saṅkā sambhaveyya, tadubhayasaṅkāvinodanatthaṃ āyasmatā upālittherena idameva padadvayaggahaṇaṃ sabbattha katanti veditabbaṃ. Tenetaṃ dīpeti – kāmaṃ sabbañeyyabuddhattā buddhoyeva, bhaggasabbadosattā bhagavāva, so satthāti. Paratopi vuttaṃ ‘‘jānantāpi tathāgatā pucchanti…pe… anatthasaṃhite setughāto tathāgatāna’’nti (pārā. 16). Suttante ca vuttaṃ ‘‘saṇhenapi kesi vinemi pharusenapī’’tiādi (a. ni. 4.111).
Trong sách giải thích từ khó, đã nói: “Sự vi phạm của Sudinna và các vị khác chính là nguyên nhân, còn thời gian, vốn là quy luật của nó, chính là công cụ, vì học giới phải được chế định mà không vượt quá thời gian đó,” điều đó không có lỗi. Còn điều đã nói “công cụ này, dù là phần trước nên phải được nói trước, lại được nói sau,” điều đó là nói sai. Bởi vì từ ý nghĩa nguyên nhân, ý nghĩa công cụ được áp dụng sau đó theo đúng thứ tự. Và nó đã được áp dụng như vậy. Còn việc vị Chú giải sư đã áp dụng ý nghĩa công cụ được nói sau này trước, và áp dụng ý nghĩa nguyên nhân được nói trước này sau, cần phải hiểu rằng đó là để cho việc áp dụng được dễ dàng, như vị Giáo thọ sư đã viết. Từ đây trở đi, ở đâu có nói “do vị Giáo thọ sư viết” hoặc “suy luận của vị Giáo thọ sư,” ở đó, vị Giáo thọ sư có tên là Ānandācariya, người ở Kalasapura, và các chi tiết khác. Vị ấy nói ở đây – giống như trong Kinh điển nói “một thời, Thế Tôn,” thì cũng phải nói “vào lúc bấy giờ, Thế Tôn ở Verañjā.” Nếu vị trưởng lão muốn nói như vậy, thì cũng phải nói các từ như Như Lai, Thiện Thệ và các từ khác. Vậy có mục đích gì trong việc chỉ dùng hai từ này không? Hãy nói ra. Xin thưa – Đối với một số người không biết được quá trình tâm ý vô cùng sâu sắc của Đức Phật, Thế Tôn, có thể nảy sinh nghi ngờ về sự toàn giác của Đức Phật khi thấy các đoạn trong Luật như “khi học giới chưa được chế định, không thấy có sự nguy hại… đã tỏ bày” và các đoạn tiếp theo (pārā. 36) và “Bấy giờ Thế Tôn đã hỏi lại Tôn giả Sudinna” và các đoạn tiếp theo (pārā. 39) và “Ngươi đã đồng ý phải không, này Tỳ-khưu? Bạch Thế Tôn, con không đồng ý” và các đoạn tiếp theo (pārā. 72), cũng như việc chế định tội Bất Cộng Trụ thứ hai sau khi hỏi vị Tỳ-khưu theo luật cũ và theo sự phân định do vị ấy nói, và việc cho phép Devadatta xuất gia. Có thể nảy sinh nghi ngờ về sự chứng quả A-la-hán của Ngài do những đoạn Luật liên quan đến những lời nói thô bạo như “Vậy thì cái lưỡi của ngươi có liên quan gì đến nước bọt của xác chết?” (cūḷava. 336). Để xua tan cả hai sự nghi ngờ đó, cần phải biết rằng Tôn giả Upālitthera đã luôn luôn sử dụng hai từ này ở khắp mọi nơi. Bằng điều đó, Ngài làm sáng tỏ – Dù là bậc Giác Ngộ về tất cả các pháp, Ngài vẫn là Phật; dù đã phá tan mọi lỗi lầm, Ngài vẫn là Thế Tôn. Ngài là Bậc Đạo Sư. Ở phần sau cũng đã nói: “Các Như Lai dù biết vẫn hỏi… cho đến… các Như Lai là người phá hủy cây cầu dẫn đến điều bất lợi” (pārā. 16). Trong Kinh điển cũng đã nói: “Ta điều phục Kesi bằng cả lời nói nhẹ nhàng và lời nói cứng rắn” và các đoạn tiếp theo (a. ni. 4.111).

Asādhāraṇahetumhīti ettha kusalamūlāni na akusalānaṃ kadāci mūlāni honti, tathā akusalamūlāni kusalānaṃ, abyākatamūlāni na kadāci kusalānanti ayameva nayo labbhati, yasmā kusalā hetū taṃsamuṭṭhānānaṃ rūpānaṃ hetupaccayena paccayo (paṭṭhā. 1.1.401 ādayo), tasmā kusalāni kusalānaṃyevātiādinayo na labbhati. Puci vuccate kuṭṭhā, te mandayati nāsayatīti pucimando. Sattānaṃ hitasukhanipphādanādhimuttatanti ettha sāmaññato vuttasatte dvidhā bhinditvā dassetuṃ ‘‘manussānaṃ upakārabahulata’’ntiādi vuttaṃ. Bahujanahitāyāti bahuno janassa hitatthāya. Paññāsampattiyā diṭṭhadhammikasamparāyikahitūpadesako hi bhagavā. Sukhāyāti sukhatthāya. Cāgasampattiyā upakārakasukhasampadāyako hi esa. Mettākaruṇāsampattiyā lokānukampāya mātāpitaro viya. Lokassa rakkhitagopitā hi esa. Devamanussānanti ettha bhabbapuggale veneyyasatteyeva gahetvā tesaṃ nibbānamaggaphalādhigamāya attano uppattiṃ dasseti. ‘‘Atthāyā’’ti hi vutte paramatthatthāya nibbānāya, ‘‘hitāyā’’ti vutte taṃsampāpakamaggatthāyāti vuttaṃ hoti, maggato uttari hitaṃ nāma natthīti. Sukhāyāti phalasamāpattisukhatthāya tato uttari sukhābhāvato. Diṭṭhisīlasaṅghātenāti ettha samādhiṃ paññañca aggahetvā diṭṭhisīlamattaggahaṇaṃ sabbasekkhāsekkhasāmaññattā. Kosambakasuttepi (ma. ni. 1.492) ‘‘sīlasāmaññagato viharati, diṭṭhisāmaññagato viharatī’’ti vuttaṃ. Diṭṭhiggahaṇena paññāpi gahitāti ce? Na, sotāpannādīnampi paññāya paripūrakāribhāvappasaṅgato, tasmā ekalakkhaṇānampi tāsaṃ paññādiṭṭhīnaṃ avatthantarabhedo atthi dhitisamādhindriyasammāsamādhīnaṃ viya . Aññāsīti ettha sotadvārānusārena ñātā, atthā sutāti hi vuccanti ‘‘sutametaṃ, bho gotama, pāpakā samācārā dissanti ceva suyyanti cā’’tiādīsu viya. ‘‘Bhikkhu kho, upāli , saṅghaṃ bhindatī’’tiādīsu (cūḷava. 354) viya avadhāraṇatthe vā. Verañjāyaṃ bhavo vijjamāno. Itthambhūtassa evaṃ bhūtassa. Kathaṃ bhūtassa? Sakyaputtassa sakyakulā pabbajitassa, evaṃ hutvā ṭhitassa kittisaddo abbhuggatoti abhisaddena yoge upayogavacanāni hontīti attho.
Trong nguyên nhân không chung, ở đây, các thiện căn không bao giờ là gốc rễ của các bất thiện, cũng vậy, các bất thiện căn không bao giờ là gốc rễ của các thiện, các vô ký căn không bao giờ là gốc rễ của các thiện. Cách này không được chấp nhận, bởi vì các thiện pháp là duyên theo cách nhân duyên cho các sắc pháp do chúng sinh khởi (paṭṭhā. 1.1.401 trở đi), do đó, cách nói các thiện pháp chỉ là của các thiện pháp và các cách nói tương tự không được chấp nhận. Pucimanda: làm cho các vết loét trở nên tồi tệ và tiêu diệt chúng. Quyết tâm mang lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng sinh, ở đây, để phân chia các chúng sinh được nói một cách chung chung thành hai loại và trình bày, Ngài đã nói “sự hữu ích lớn lao cho loài người” và các điều khác. Vì lợi ích của nhiều người là vì lợi ích của nhiều người. Bởi vì Thế Tôn là người chỉ dạy lợi ích hiện tại và tương lai bằng sự thành tựu trí tuệ. Vì hạnh phúc là vì hạnh phúc. Bởi vì Ngài là người ban tặng hạnh phúc hữu ích bằng sự thành tựu bố thí. Bởi vì Ngài có lòng thương xót thế gian như cha mẹ bằng sự thành tựu từ bi. Bởi vì Ngài là người bảo vệ, che chở cho thế gian. Trong “chư Thiên và loài người,” ở đây, Ngài chỉ lấy các chúng sinh có khả năng được giáo hóa và trình bày sự xuất hiện của mình để họ chứng ngộ đạo, quả và Niết-bàn. Bởi vì khi nói “vì lợi ích,” có nghĩa là vì lợi ích tối thượng, vì Niết-bàn. Khi nói “vì lợi ích,” có nghĩa là vì đạo dẫn đến đó, vì không có lợi ích nào cao hơn đạo. Vì hạnh phúc là vì hạnh phúc của sự chứng đắc quả, vì không có hạnh phúc nào cao hơn thế. Trong “bằng sự va chạm của kiến và giới,” ở đây, việc chỉ nắm bắt kiến và giới mà không nắm bắt định và tuệ là do tính phổ biến của tất cả các bậc hữu học và vô học. Trong Kinh Kosambaka (ma. ni. 1.492) cũng đã nói: “an trú trong sự đồng đẳng về giới, an trú trong sự đồng đẳng về kiến.” Nếu nói rằng việc nắm bắt kiến cũng bao hàm cả tuệ? Không, vì sẽ dẫn đến việc tuệ của các bậc Dự lưu và các bậc khác cũng trở thành yếu tố hoàn thiện. Do đó, mặc dù tuệ và kiến đó có cùng một đặc tính, nhưng có sự khác biệt về giai đoạn, giống như sự khác biệt giữa các năng lực như năng lực định và chánh định. Đã biết, ở đây, đã biết theo nhĩ môn. Bởi vì các ý nghĩa được nghe được gọi là “được nghe,” giống như trong câu “Thưa ngài Gotama, chúng tôi nghe và thấy những hành vi xấu xa” và các câu tương tự. Hoặc là trong ý nghĩa nhấn mạnh, giống như trong câu “Này Upāli, Tỳ-khưu chia rẽ Tăng chúng” và các câu tương tự (cūḷava. 354). Tại Verañjā, , hiện hữu. Của người như vậy, của người như vậy. Của người như thế nào? Của người con của dòng họ Sakya, đã xuất gia từ dòng họ Sakya. Sau khi trở thành như vậy, tiếng tăm đã vang lên. Ý nghĩa là, trong sự kết hợp với từ “vang lên,” có những lời nói về sự sử dụng.

Kāmupādānapaccayā eva mettaṃ bhāveti, brahmaloke nibbattatīti iminā kāmupādānahetu kammaṃ katvā kāmabhave eva nibbattatītivādīnaṃ vādo paṭikkhittoti vadanti, ‘‘brahmaloke paṇītā kāmā’’ti sutvā, kappetvā vā pacchā ‘‘tattha sampattiṃ anubhavissāmī’’ti kāmupādānapaccayā tadupagaṃ karotīti brahmalokepi kāmanīyaṭṭhena kāmā, ‘‘tadārammaṇattā taṇhā kāmupādānanti vuttā’’ti ca vadanti, vīmaṃsitabbaṃ. Kammañca cakkhussa janakakāraṇaṃ, kammassa mūlakāraṇaṃ taṇhā, tasmā na mūlakāraṇaṃ hoti janakaṃ. Rūpataṇhādayo dukkhasaccaṃ khandhapariyāpannattā, ‘‘yampicchaṃ na labhati, tampi dukkha’’nti (dī. ni. 2.387; ma. ni. 1.131; vibha. 190) vacanato ca. Tassa mūlakāraṇabhāvena samuṭṭhāpikāti tassa kāraṇabhūtassa imassa khandhapañcakassa samuṭṭhāpikāti yojetabbaṃ. ‘‘Āsavasamudayā avijjāsamudayo’’ti (ma. ni. 1.103) vacanato tassa eva kāraṇantipi vattuṃ vaṭṭati. Apica ‘‘rūpādi viya taṇhāpi taṇhāya uppattippahānaṭṭhāna’’nti vacanato rūpādi viya taṇhāpi dukkhasaccaṃ kataṃ. Vuttañhetaṃ ‘‘rūpataṇhā loke piyarūpaṃ sātarūpaṃ, etthesā taṇhā uppajjamānā uppajjatī’’ti (dī. ni. 2.400; vibha. 203) ca ‘‘etthesā taṇhā pahīyamānā pahīyatī’’ti (dī. ni. 2.401; ma. ni. 1.134) ca. Visuddhimagge ‘‘sabbākārena pana upādānakkhandhapañcakaṃ dukkhañceva ariyasaccañca aññatra taṇhāyā’’ti vacanato idha rūpataṇhādayo dukkhasaccanti vacanaṃ virujjhatīti ce? Na, aññamaññāsaṅkarabhāvena dassetuṃ tattha tattha vuttattā. Yadi taṇhā upādānakkhandhapariyāpannā na bhaveyya, saccavibhaṅge ‘‘tattha katame saṃkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā. Seyyathidaṃ, rūpupādānakkhandho ..pe… viññāṇupādānakkhandho’’ti (vibha. 202) ettha ‘‘ṭhapetvā taṇhaṃ saṅkhārupādānakkhandho’’ti vattabbaṃ bhaveyya, na ca vuttaṃ, tasmā dukkhasaccapariyāpannā taṇhāti ce? Na, hetuphalasaṅkaradosappasaṅgato. Na saṅkaradosoti ce? Saccavibhaṅgapāḷiyañhi pañcahi koṭṭhāsehi samudayasaccaṃ niddiṭṭhaṃ.
“Chính do duyên chấp thủ vào dục mà tu tập tâm từ, sẽ tái sinh trong cõi Phạm thiên”, bằng điều này, người ta nói rằng quan điểm của những người cho rằng sau khi làm nghiệp do duyên chấp thủ vào dục, họ sẽ tái sinh chính trong cõi Dục, đã bị bác bỏ. Nghe nói “trong cõi Phạm thiên có các dục vi diệu,” sau khi tưởng tượng, họ nghĩ “ở đó ta sẽ hưởng thụ sự thành tựu,” và do duyên chấp thủ vào dục mà họ thực hiện việc đi đến đó. Trong cõi Phạm thiên cũng có các dục vì chúng đáng được ham muốn. Người ta cũng nói rằng “tham ái do đối tượng đó mà được gọi là chấp thủ vào dục.” Điều này cần được xem xét. Nghiệp là nguyên nhân sinh ra con mắt, nguyên nhân gốc của nghiệp là tham ái, do đó, nguyên nhân gốc không phải là cái sinh ra. Các tham ái về sắc và các thứ khác là khổ đế vì chúng thuộc về các uẩn. Theo câu “điều gì mong muốn mà không được, đó cũng là khổ” (dī. ni. 2.387; ma. ni. 1.131; vibha. 190). Là cái làm sinh khởi, là nguyên nhân gốc của nó, cần phải kết hợp là, là cái làm sinh khởi của năm uẩn này, vốn là nguyên nhân của nó. Theo câu “do duyên các lậu hoặc mà vô minh sinh khởi” (ma. ni. 1.103), cũng có thể nói đó là nguyên nhân của chính nó. Hơn nữa, theo câu “giống như sắc và các thứ khác, tham ái cũng là nơi sinh khởi và đoạn trừ của tham ái,” giống như sắc và các thứ khác, tham ái cũng đã được làm thành khổ đế. Điều này đã được nói: “tham ái về sắc trong thế gian là sắc khả ái, sắc khả hỷ, ở đây tham ái này khi sinh khởi thì sinh khởi” (dī. ni. 2.400; vibha. 203) và “ở đây tham ái này khi được đoạn trừ thì được đoạn trừ” (dī. ni. 2.401; ma. ni. 1.134). Nếu nói rằng, trong Visuddhimagga, lời nói “Theo mọi phương diện, năm thủ uẩn là khổ đế và là chân lý cao cả, ngoại trừ tham ái” mâu thuẫn với lời nói ở đây rằng các tham ái về sắc và các thứ khác là khổ đế? Không, vì ở mỗi nơi đã được nói để trình bày sự không lẫn lộn với nhau. Nếu tham ái không thuộc về các thủ uẩn, thì trong Saccavibhaṅga, ở câu “Ở đó, tóm lại, năm thủ uẩn là khổ là gì? Đó là sắc thủ uẩn… cho đến… thức thủ uẩn” (vibha. 202), lẽ ra phải nói là “thủ uẩn hành, trừ tham ái,” nhưng không nói như vậy. Do đó, nếu nói rằng tham ái thuộc về khổ đế? Không, vì sẽ dẫn đến lỗi lẫn lộn giữa nhân và quả. Nếu nói rằng không có lỗi lẫn lộn? Trong Saccavibhaṅgapāḷi, tập đế đã được trình bày bằng năm phần.

Kathaṃ? Taṇhāti eko vāro, taṇhā ca avasesā ca kilesāti dutiyo, taṇhā ca avasesā ca kilesā avasesā ca akusalā dhammāti tatiyo, taṇhā ca avasesā ca kilesā avasesā ca akusalā dhammā tīṇi ca kusalamūlāni sāsavānīti catuttho, taṇhā ca avasesā ca kilesā avasesā ca akusalā dhammā tīṇi ca kusalamūlāni sāsavāni avasesā ca sāsavā kusalā dhammāti pañcamo vāroti. Āma niddiṭṭhaṃ, tathāpi abhidhammabhājaniyeyeva, na aññasmiṃ, so ca nayo ariyasaccaniddese na labbhati. Tathā hi tattha ‘‘cattāri saccāni’’ccevāha, suttantabhājaniyapañhapucchakesu viya ‘‘cattāri ariyasaccānī’’ti na vuttaṃ, tasmā suttantabhājaniyova pamāṇaṃ tattha ca taṇhāya vuttattā. Yathāha ‘‘tattha katamaṃ dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ, yāyaṃ taṇhā ponobhavikā…pe… seyyathidaṃ, kāmataṇhā’’tiādi (vibha. 203). ‘‘Yadaniccaṃ taṃ dukkha’’nti (saṃ. ni. 3.15) iminā pariyāyena vuttattā tattha vuttampi pamāṇameva. ‘‘Paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati pathavīkasiṇa’’nti (dha. sa. 186 ādayo) Nino ‘‘kasiṇānī’’ti jhānāni vuttāni. Keci ‘‘uggahanimittapaṭibhāganimitte sandhāya vutta’’nti vadanti, taṃ na sundaraṃ. ‘‘Dvattiṃsākārāpi paṇṇattiṃ vissajjetvā paṭikūlāti sati paṭṭhapetabbā’’ti Nino satigocarā rūpādayo ca veditabbā.
Như thế nào? Tham ái là một lần, tham ái và các phiền não còn lại là lần thứ hai, tham ái và các phiền não còn lại và các pháp bất thiện còn lại là lần thứ ba, tham ái và các phiền não còn lại và các pháp bất thiện còn lại và ba thiện căn hữu lậu là lần thứ tư, tham ái và các phiền não còn lại và các pháp bất thiện còn lại và ba thiện căn hữu lậu và các pháp thiện hữu lậu còn lại là lần thứ năm. Vâng, đã được trình bày, nhưng chỉ trong phần phân tích của Vi Diệu Pháp, không phải ở nơi khác. Cách đó không được chấp nhận trong phần trình bày các chân lý cao cả. Thật vậy, ở đó chỉ nói “bốn chân lý,” không nói “bốn chân lý cao cả” như trong các câu hỏi và câu trả lời của phần phân tích Kinh điển. Do đó, phần phân tích Kinh điển là tiêu chuẩn, và ở đó đã nói về tham ái. Như Ngài đã nói: “Ở đó, khổ tập đế là gì? Đó là tham ái này, dẫn đến tái sinh… cho đến… đó là, dục ái” và các đoạn tiếp theo (vibha. 203). Vì đã được nói theo cách gián tiếp “cái gì vô thường thì cái đó là khổ” (saṃ. ni. 3.15), nên điều được nói ở đó cũng là tiêu chuẩn. Trong câu “sau khi nhập sơ thiền, an trú trong thiền đất” (dha. sa. 186 trở đi), các thiền được gọi là “các đề mục thiền”. Một số người nói rằng “đã nói đến để chỉ đến tướng nắm bắt và tướng tương tự,” điều đó không hay. Cần phải biết rằng “ngay cả 32 thể trược cũng cần phải thiết lập niệm là bất tịnh sau khi từ bỏ khái niệm,” và các sắc và các đối tượng khác là đối tượng của niệm.

Saddhāhirottappabāhusaccavīriyārambhopaṭṭhitasatisampajaññatāti ime satta saddhammā nāma. Sabhāvatoti dukkhato. Na cavatīti deve sandhāya. Ñāteyyanti ñātabbaṃ. Daṭṭheyyanti daṭṭhabbaṃ. Atha vā pana ‘‘nāhaṃ gamanena lokassa antaṃ ñāteyya’’nti vadāmīti attho. Lokanti khandhalokaṃ. Gamanena na pattabboti sarīragamanena, agatigamanena vā na pattabbo, ariyagamanena lokantaṃ patvāva dukkhā atthi pamocananti vuttaṃ hoti. Samitāvīti samitakileso. Āhāraṭṭhitikāti paccayaṭṭhitikā. Ye keci paccayaṭṭhitikā, sabbe te lujjanapalujjanaṭṭhena eko lokoti adhippāyo. Saṅkhārā hi sakasakapaccayāyattatāya sattā visattā sattā nāma. Pariharanti paricaranti. Disāti upayogabahuvacanaṃ. Bhanti paṭibhanti. Ke te? Teyeva virocamānā pabhassarā candimasūriyā. Aṭṭha lokadhammā saṅkhārāva. ‘‘Sinerussa samantato’’ti Nino yugandharādayo sineruṃ parikkhipitvā parimaṇḍalākārena ṭhitāti vadanti. Parikkhipitvā accuggato lokadhātu ayaṃ. ‘‘Ma-kāro padasandhikaro’’ti vadanti. Aññathāpi lakkhaṇādibhedato saṅkhāralokaṃ, āsayānusayabhedato sattalokaṃ, cakkavāḷādiparimāṇato okāsalokañca sabbathāpi viditattā lokavidū.
Tín, tàm, quý, đa văn, tinh tấn, niệm và tuệ, bảy pháp này được gọi là bảy diệu pháp. Do tự tánh là do khổ. Không lay động là để chỉ chư Thiên. Nên biết là điều cần phải biết. Nên thấy là điều cần phải thấy. Hoặc là, ý nghĩa là, Ta nói rằng “Ta không thể biết được tận cùng của thế gian bằng cách đi.” Thế gian là thế gian của các uẩn. Không thể đạt được bằng cách đi là không thể đạt được bằng cách đi của thân xác, hoặc bằng cách đi không đúng đường. Đã được nói rằng sau khi đạt đến tận cùng của thế gian bằng cách đi của bậc thánh, có sự giải thoát khỏi khổ. Người đã dập tắt là người đã dập tắt các phiền não. Những thứ tồn tại nhờ thức ăn là những thứ tồn tại nhờ duyên. Tất cả những gì tồn tại nhờ duyên, đều là một thế gian do ý nghĩa hư hoại và tan rã. Các hành được gọi là chúng sinh vì chúng phụ thuộc vào các duyên của chính chúng, chúng sinh là chúng sinh không bị ràng buộc. Họ chăm sóc, họ phục vụ. Các phương là số nhiều chỉ sự sử dụng. Chúng chiếu sáng, chúng tỏa sáng. Chúng là ai? Chính là mặt trăng và mặt trời, những vật thể chiếu sáng rực rỡ. Tám pháp thế gian chính là các hành. Trong câu “xung quanh núi Sineru,” người ta nói rằng các núi Yugandhara và các núi khác bao quanh núi Sineru và đứng thành hình tròn. Thế giới này vượt lên trên, bao bọc. Người ta nói rằng “chữ ma là để nối các từ.” Theo cách khác, do sự khác biệt về đặc tính và các yếu tố khác, Ngài biết rõ thế gian của các hành, thế gian của chúng sinh do sự khác biệt về căn bản và tùy miên, và thế gian của không gian do kích thước của vũ trụ và các yếu tố khác theo mọi cách, nên Ngài là bậc biết rõ thế gian.

Vimuttiñāṇadassanaṃ kāmāvacaraṃ parittaṃ lokiyaṃ, tena sabbaṃ lokaṃ kathaṃ abhivati? Asadisānubhāvattā sabbaññutaññāṇaṃ viya. Tañhi attano visaye bhagavato sabbaññutaññāṇagatikaṃ , lahutarappavatti ca bhavaṅgacittadvayānantaraṃ uppattito. Na kassaci evaṃlahutaraṃ cittaṃ uppajjati, api āyasmato sāriputtassa, tassa kiresa cittavāro pañcadasabhavaṅgānantaranti. Aggisikhadhūmasikhā ca nāgā kira sīhaḷadīpe. Atthassa dīpakaṃ padaṃ atthapadaṃ. Ekatthadīpakaṃ padaṃ, sabbametaṃ vākyanti attho. Aṭṭha disā nāma aṭṭha vimokkhā, samāpattiyo vā. Satthavāho satthāti nipātito yathā pisitāso pisāco. Udake maṇḍūko ahaṃ āsiṃ, na thale maṇḍūko, vārimattameva gocaro, tassa me tava dhammaṃ suṇantassa sīsaṃ daṇḍena sannirumbhitvāti pāṭhaseso. Anādaratthe vā sāmivacanaṃ. ‘‘Ettakenapi evarūpā iddhi bhavissatī’’ti sitaṃ katvā. Vimokkhoti cettha maggo, tadanantarikaṃ ñāṇaṃ nāma phalañāṇaṃ, tasmiṃ khaṇe buddho nāma. Sabbassa buddhattāti kattari. Bodhetāti kattari. Seṭṭhatthadīpakaṃ vacanaṃ seṭṭhaṃ nāma, tathā uttamaṃ. Sacchikāpaññattīti sabbadhammānaṃ sacchikaraṇavasena sayambhutā paññatti, attanā eva vā ñātā sacchikatātipi sacchikāpaññatti. Bhagī bhagavā cīvarapiṇḍapātādīnaṃ. Bhajī araññavanapatthāni pantāni senāsanāni. Bhāgī atthadhammavimuttirasassa. Rāgādikilesagaṇabhaggamakāsi. Bhāvitattano bhāvitakāyo. Bhavassa antaṃ nibbānaṃ maggādhigamena taṃ gatoti bhavantago.
Giải thoát tri kiến là cõi Dục, nhỏ bé, thuộc thế gian. Bằng nó, làm sao Ngài có thể biết toàn bộ thế gian? Giống như toàn giác trí, vì có năng lực không gì sánh bằng. Trí đó trong đối tượng của nó có cùng bản chất với toàn giác trí của Thế Tôn, và có sự sinh khởi nhanh hơn vì sinh khởi ngay sau hai tâm hữu phần. Không có ai có tâm sinh khởi nhanh như vậy, ngay cả Tôn giả Sāriputta. Người ta nói rằng lộ trình tâm của vị ấy là sau mười lăm tâm hữu phần. Ngọn lửa và ngọn khói là những con rồng ở đảo Sīhaḷa. Từ làm sáng tỏ ý nghĩa là từ có ý nghĩa. Một từ làm sáng tỏ một ý nghĩa, tất cả những điều này là một câu, đó là ý nghĩa. Tám phương là tám giải thoát, hoặc các định. Người dẫn đường là người dẫn đường, được rút gọn, giống như pisitāso thành pisāco. Ta là con ếch ở dưới nước, không phải là con ếch trên cạn. Chỉ có nước là đối tượng của ta. Khi nghe pháp của ngài, đầu của ta bị đánh bằng gậy. Hoặc là sở hữu cách trong ý nghĩa khinh thường. Sau khi cười nghĩ rằng “chỉ bằng chừng này mà cũng có thần thông như vậy.” Giải thoát ở đây là đạo, trí ngay sau đó là quả trí. Vào khoảnh khắc đó, Ngài được gọi là Phật. Vì là Phật của tất cả, trong chủ từ. Là người giác ngộ, trong chủ từ. Lời nói làm sáng tỏ ý nghĩa cao nhất được gọi là cao nhất, cũng vậy, tối thượng. Chế định do chứng ngộ là chế định tự nhiên do chứng ngộ tất cả các pháp. Hoặc là, vì đã được biết, được chứng ngộ bởi chính mình, nên cũng là chế định do chứng ngộ. Người có phần, Thế Tôn có phần trong các vật dụng như y, bát và các vật dụng khác. Người đã tận hưởng các nơi ở vắng vẻ trong rừng, núi. Người có phần trong vị của ý nghĩa, vị của pháp, vị của giải thoát. Đã phá tan nhóm phiền não như tham và các phiền não khác. Người có tự thân đã được tu tập, thân đã được tu tập. Tận cùng của sự tồn tại là Niết-bàn, Ngài đã đến đó bằng cách chứng ngộ đạo, nên là người đã đến tận cùng của sự tồn tại.

‘‘Lobhaṃ , bhikkhave, ekaṃ dhammaṃ pajahathā’’tiādinā (itivu. 1) nayena ekakādivasenāgate gahetvā vadati. Saṃkilesataṇhādiṭṭhiduccaritasaṃkilesavasena aniccadukkhamanattāsubhesu niccantiādivipariyesā. Cīvarahetu vā, bhikkhave, bhikkhuno taṇhā uppajjamānā uppajjati, piṇḍapāta senāsanaitibhavābhavahetu vā (a. ni. 4.9). Cetokhilā satthari kaṅkhati, dhamme, saṅghe, sikkhāya, sabrahmacārīsu kupitoti (dī. ni. 3.319; vibha. 941) āgatā pañca. Kāme avītarāgo hoti…pe… kāye, rūpe, yāvadatthaṃ udarāvadehakaṃ bhuñjitvā, aññataraṃ devanikāyaṃ paṇidhāya brahmacariyaṃ caratīti (dī. ni. 3.320; vibha. 941) āgatā pañca vinibandhā. Vivādamūlāni kodho upanāho makkho paḷāso issā macchariyaṃ māyā sāṭheyyaṃ thambho sārambho sandiṭṭhiparāmāsitā ādhānaggāhī duppaṭinissaggitā (a. ni. 6.36; dī. ni. 3.325). Vibhaṅge pana ‘‘kodho makkho issā sāṭheyyaṃ pāpicchatā sandiṭṭhiparāmāsitā’’ti (vibha. 944) āgataṃ. Taṇhaṃ paṭicca pariyesanā, pariyesanaṃ paṭicca lābho, lābhaṃ paṭicca vinicchayo, evaṃ chandarāgo, ajjhosānaṃ, pariggaho, macchariyaṃ, ārakkho, ārakkhādhikaraṇaṃ, daṇḍādānasatthādāna…pe… akusalā dhammā sambhavantīti (dī. ni. 2.104; 3.359; a. ni. 9.23; vibha. 963) vuttānaṃ. Rūpasaddagandharasaphoṭṭhabbadhammataṇhāti cha, tā kāmabhavavibhavataṇhāvaseneva aṭṭhārasa, tā eva ajjhattikassupādāya aṭṭhārasa, bāhirassupādāya aṭṭhārasāti chattiṃsa, tā atīte chattiṃsa, anāgate chattiṃsa, paccuppanne chattiṃsāti evaṃ aṭṭhasatataṇhāvicaritānīti. Māretīti māro, pamādo ‘‘pamādo maccuno pada’’nti (dha. pa. 21) Nino. Sammāājīvavināsanato vā kilesā vuccanti ‘‘māro’’ti, vadhakūpamattā khandhāva mārā. Abhisaṅkhārā jātidukkhābhinibbattāpanato, jātassa jarādisambhavato ca mārā. Ekabhavapariyāpannajīvitamāraṇato maccu māro. Aṇimatā nāma paramāṇu viya adassanūpagamanaṃ. Laghimatā sarīrena, cittena vā sīghagamanaṃ. Mahimatā candimasūriyādīnampipāṇinā parāmasanādi. Patti nāma yathicchitadesappatti. Pakāsanatā, lābhakassatthasādhanaṃ vā pākammaṃ. Īsattaṃ nāma sayaṃvasitā. Vasittaṃ nāma aparavasitā. Yatthakāmāvasāyitaṃ nāma yatthicchati yadicchati yāvadicchati, tattha tāva tadatthasādhanaṃ. Pīḷanasaṅkhatasantāpavipariṇāmaṭṭhenavā dukkhamariyasaccantiādimhi idaṃ codanāpubbaṅgamaṃ atthavissajjanaṃ – dukkhādīnaṃ aññepi rūpataṇhādayo atthā atthi, atha kasmā cattāro eva vuttāti ce? Aññasaccadassanavasena āvibhāvato.
Ngài nói, lấy những điều đã đến theo cách một pháp và các cách khác theo cách “Này các Tỳ-khưu, hãy từ bỏ một pháp là tham” và các đoạn tiếp theo (itivu. 1). Do sự ô nhiễm bởi tham, kiến và ác hạnh, có sự sai lầm như cho rằng những gì vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh là thường và các quan điểm khác. Tham ái của Tỳ-khưu sinh khởi do y, hoặc do bát, chỗ ở, do sự tồn tại và không tồn tại này (a. ni. 4.9). Năm sự chướng ngại tâm đã được nói đến là: nghi ngờ về Bậc Đạo Sư, về Pháp, về Tăng, về học giới, và bất bình với các bạn đồng phạm hạnh (dī. ni. 3.319; vibha. 941). Năm sự trói buộc đã được nói đến là: không dứt bỏ tham dục trong các dục… cho đến… trong thân, trong sắc, sau khi ăn no bụng, hành phạm hạnh với mong muốn được sinh vào một cõi trời nào đó (dī. ni. 3.320; vibha. 941). Nguồn gốc của tranh cãi là: sân, hận, khinh miệt, giả dối, ganh tỵ, keo kiệt, xảo trá, lừa lọc, cứng đầu, ngoan cố, cố chấp vào quan điểm của mình, nắm giữ chặt chẽ và khó từ bỏ (a. ni. 6.36; dī. ni. 3.325). Trong Vibhaṅga, đã nói: “sân, khinh miệt, ganh tỵ, xảo trá, ý muốn xấu, cố chấp vào quan điểm của mình” (vibha. 944). Do tham ái mà tìm kiếm, do tìm kiếm mà có được, do có được mà phân xử, như vậy, dục tham, đam mê, chiếm hữu, keo kiệt, bảo vệ, do bảo vệ mà có gậy gộc, vũ khí… cho đến… các pháp bất thiện sinh khởi, của những điều đã được nói (dī. ni. 2.104; 3.359; a. ni. 9.23; vibha. 963). Sáu loại tham ái là tham ái về sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chúng trở thành mười tám do dục ái, hữu ái và vô hữu ái. Chính chúng lại trở thành mười tám do chấp thủ vào nội tâm, mười tám do chấp thủ vào ngoại cảnh, tổng cộng là ba mươi sáu. Ba mươi sáu trong quá khứ, ba mươi sáu trong tương lai, ba mươi sáu trong hiện tại, như vậy là một trăm tám loại tham ái. Giết chết nên là Ma, sự phóng dật, “sự phóng dật là con đường của thần chết” (dha. pa. 21). Hoặc là, các phiền não được gọi là “Ma” vì chúng hủy hoại chánh mạng. Chỉ các uẩn là Ma vì chúng giống như kẻ sát nhân. Các hành là Ma vì chúng tạo ra khổ sinh, và vì sinh ra có già và các khổ khác. Cái chết là Ma vì nó giết chết sự sống trong một kiếp. Sự nhỏ bé là sự đi đến chỗ không thấy được như nguyên tử. Sự nhẹ nhàng là sự đi nhanh bằng thân hoặc bằng tâm. Sự to lớn là việc chạm vào cả mặt trăng, mặt trời và các vật thể khác bằng tay. Sự đạt được là sự đạt đến nơi mong muốn. Sự tỏ bày, hoặc sự thành tựu mục đích của người được lợi là pākammaṃ. Īsattaṃsự tự tại. Vasittaṃsự tự tại đối với người khác. Yatthakāmāvasāyitaṃ là ở đâu muốn, cái gì muốn, bao lâu muốn, thì ở đó, trong chừng ấy thời gian, thành tựu được mục đích đó. Trong câu “hoặc là khổ đế do ý nghĩa bức bách, bị tạo tác, thiêu đốt, biến hoại,” đây là câu trả lời có câu hỏi trước – Khổ và các chân lý khác còn có những ý nghĩa khác như sắc, tham ái và các pháp khác, vậy tại sao chỉ nói bốn ý nghĩa? Xin thưa – Vì chúng được tỏ bày qua việc thấy các chân lý khác.

‘‘Tattha katamaṃ dukkheñāṇaṃ, dukkhaṃ ārabbha yā uppajjati paññā’’tiādināpi (vibha. 794) nayena ekekasaccārammaṇavasenāpi saccañāṇaṃ vuttaṃ. ‘‘Yo, bhikkhave, dukkhaṃ passati, dukkhasamudayampi so passatī’’tiādinā (saṃ. ni. 5.1100) nayena ekaṃ saccaṃ ārammaṇaṃ katvā sesesu kiccanipphattivasenāpi vuttaṃ. Tattha yadā ekekaṃ saccaṃ ārammaṇaṃ karoti, tadā samudayadassanena tāva sabhāvato pīḷanalakkhaṇassāpi dukkhassa yasmā taṃ āyūhanalakkhaṇena samudayena āyūhitaṃ saṅkhataṃ, tasmāssa so saṅkhataṭṭho āvi bhavati. Yasmā pana maggo kilesasantāpaharo susītalo, tasmāssa maggadassanena santāpaṭṭho āvi bhavati nandassa accharādassanena sundariyā anabhirūpabhāvo viya. Avipariṇāmadhammassa pana nirodhassa dassanena tassa vipariṇāmaṭṭho āvi bhavatīti vattabbameva natthi. Sabhāvato āyūhanalakkhaṇassapi samudayassa dukkhadassanena nidānaṭṭho āvi bhavati asappāyabhojanato uppannabyādhidassanena bhojanassa byādhinidānabhāvo viya. Visaṃyogabhūtassa nirodhassa dassanena saṃyogaṭṭho. Niyyānabhūtassa ca maggassa dassanena palibodhaṭṭhoti. Tathā nissaraṇassāpi nirodhassa avivekabhūtassa samudayassa dassanena vivekaṭṭho āvi bhavati. Maggadassanena asaṅkhataṭṭho. Iminā hi anamatagge saṃsāre maggo na diṭṭhapubbo, sopi ca sappaccayattā saṅkhato evāti appaccayadhammassa asaṅkhatabhāvo ativiya pākaṭo hoti. Dukkhadassanena panassa amataṭṭho āvi bhavati. Dukkhañhi visaṃ, amataṃ nibbānanti. Tathā niyyānalakkhaṇassāpi maggassa samudayadassanena ‘‘nāyaṃ hetu nibbānassa pattiyā, ayaṃ hetū’’ti hetvattho āvi bhavati. Nirodhadassanena dassanaṭṭho paramasukhumarūpāni passato ‘‘vippasannaṃ vata me cakkhū’’ti cakkhussa vippasannabhāvo viya. Dukkhadassanena adhipateyyaṭṭho anekarogāturakapaṇajanadassanena issarajanassa uḷārabhāvo viyāti evamettha lakkhaṇavasena, ekassa aññasaccadassanavasena ca itaresaṃ tiṇṇaṃ āvibhāvato ekekassa cattāro atthā vuttā. Upadhiviveko nikkilesatā.
Theo cách “Ở đó, trí về khổ là gì? Trí tuệ nào sinh khởi do duyên khổ” và các đoạn tiếp theo (vibha. 794), trí về chân lý cũng đã được nói theo cách lấy từng chân lý làm đối tượng. Theo cách “Này các Tỳ-khưu, ai thấy khổ, người đó cũng thấy khổ tập” và các đoạn tiếp theo (saṃ. ni. 5.1100), cũng đã được nói theo cách lấy một chân lý làm đối tượng và hoàn thành nhiệm vụ đối với các chân lý còn lại. Ở đó, khi lấy từng chân lý làm đối tượng, thì do thấy tập đế, ý nghĩa hữu vi của khổ, vốn có đặc tính bức bách, cũng trở nên rõ ràng, bởi vì nó đã được tập đế, có đặc tính tích tụ, tích tụ và tạo tác. Bởi vì đạo là mát lạnh, dập tắt sự thiêu đốt của phiền não, nên do thấy đạo, ý nghĩa thiêu đốt của nó trở nên rõ ràng, giống như sự không xinh đẹp của Sundarī trở nên rõ ràng khi Nanda thấy các tiên nữ. Còn do thấy diệt đế, pháp không biến hoại, thì không cần phải nói rằng ý nghĩa biến hoại của nó trở nên rõ ràng. Do thấy khổ, ý nghĩa nguyên nhân của tập đế, vốn có đặc tính tích tụ, trở nên rõ ràng, giống như việc thấy bệnh tật phát sinh từ thức ăn không thích hợp làm cho thức ăn trở thành nguyên nhân của bệnh tật. Do thấy diệt đế, vốn là sự xa lìa, thì ý nghĩa kết hợp trở nên rõ ràng. Và do thấy đạo, vốn là sự xuất ly, thì ý nghĩa chướng ngại trở nên rõ ràng. Cũng vậy, do thấy tập đế, vốn là pháp không viễn ly, ý nghĩa viễn ly của diệt đế, vốn là sự thoát ly, trở nên rõ ràng. Do thấy đạo, ý nghĩa vô vi trở nên rõ ràng. Bởi vì trong vòng luân hồi vô thủy này, đạo chưa từng được thấy trước đây, và nó cũng là hữu vi vì có duyên, nên trạng thái vô vi của pháp vô duyên trở nên vô cùng rõ ràng. Còn do thấy khổ, ý nghĩa bất tử của nó trở nên rõ ràng. Bởi vì khổ là chất độc, còn Niết-bàn là bất tử. Cũng vậy, do thấy tập đế, ý nghĩa nguyên nhân của đạo, vốn có đặc tính xuất ly, trở nên rõ ràng: “Đây không phải là nguyên nhân để đạt đến Niết-bàn, đây mới là nguyên nhân.” Do thấy diệt đế, ý nghĩa thấy trở nên rõ ràng, giống như khi thấy các sắc pháp vô cùng vi tế, mắt trở nên trong sáng và nói: “Ôi, mắt của ta thật trong sáng.” Do thấy khổ, ý nghĩa chủ tể trở nên rõ ràng, giống như sự cao quý của người quyền thế trở nên rõ ràng khi thấy những người bệnh tật, nghèo khổ. Như vậy, ở đây, do đặc tính và do việc thấy một chân lý làm cho ba chân lý còn lại trở nên rõ ràng, nên mỗi chân lý đã được nói có bốn ý nghĩa. Sự viễn ly khỏi phiền não là sự không có phiền não.

Paṭipakkhaṃ atthayantīti paccatthikā. Pati viruddhā amittā paccāmittā. Sacchikatvā pavedetīti ettāvatā bhagavato sabbaññutaṃ dīpeti. Tena ñāṇasampattiṃ dīpetvā idāni karuṇāsampattiṃ dīpetuṃ ‘‘so dhammaṃ desesī’’tiādimāha. Atha vā kiṃ so pavedesīti? Ñāṇaṃ, taṃ sabbaṃ tilokahitabhūtameva. So dhammaṃ desesīti kīdisaṃ? ‘‘Ādikalyāṇa’’ntiādi. Anena vacanena vattuṃ arahabhāvaṃ dīpeti. Sāsanadhammoti ovādapariyatti. Kiccasuddhiyāti kilesappahānanibbānārammaṇakiccasuddhiyā. Sāsanabrahmacariyaṃ nāma sikkhattayaṃ, navakoṭisahassānītiādikaṃ vā. Maggameva brahmacariyaṃ maggabrahmacariyaṃ. Tassa pakāsakaṃ piṭakattayaṃ idha sātthaṃ sabyañjanaṃ nāma. Chasu atthapadesu saṅkhepato kāsanaṃ saṅkāsanaṃ. Ādito kāsanaṃ pakāsanaṃ. Ubhayampi vitthāretvā desanaṃ vivaraṇaṃ. Puna vibhāgakaraṇaṃ vibhajanaṃ. Opammādinā pākaṭakaraṇaṃ uttānīkaraṇaṃ. Sotūnaṃ cittaparitosajananena, cittanisānena ca paññāpanaṃ veditabbaṃ. Byañjanapadesu akkharaṇato akkharaṃ, ‘‘ekakkharapadamakkhara’’nti eke. Vibhattiantaṃ padaṃ. Byañjayatīti byañjanaṃ, vākyaṃ. Padasamudāyo vā vākyaṃ. Vibhāgapakāso ākāro nāma. Phusatīti phassotiādi nibbacanaṃ nirutti, niruttiyā niddiṭṭhassa apadeso niddeso nāma. Phusatīti phasso, so tividho – sukhavedanīyo dukkhavedanīyo adukkhamasukhavedanīyoti. Etesu ayaṃ yojanā – akkharehi saṅkāsayati, padehi pakāsayati, byañjanehi vivarati, ākārehi vibhajati, niruttīhi uttāniṃ karoti, niddesehi paññāpeti. Akkharehi vā saṅkāsayitvā padehi pakāseti, byañjanehi vivaritvā ākārehi vibhajati, niruttīhi uttāniṃ katvā niddesehi paññāpeti. Akkharehi vā ugghāṭetvā padehi vineti ugghaṭitaññuṃ, byañjanehi vivaritvā ākārehi vineti vipañcitaññuṃ, niruttīhi netvā niddesehi vineti neyyanti veditabbaṃ. Atthoti bhāsitattho. Tassevatthassa paṭivijjhitabbo sako sako bhāvo paṭivedho nāma. Taṃ ubhayampi attho nāma. Tena vuttaṃ ‘‘atthagambhīratāpaṭivedhagambhīratāhi sāttha’’nti. Dhammoti vā desanāti vā byañjanameva. Niddosabhāvena parisuddhaṃ sāsanabrahmacariyaṃ, sikkhattayapariggahito maggo ca, ubhayampi brahmacariyapadena saṅgahitaṃ. Paṭipattiyāti paṭipattihetu. Āgamabyattitoti punappunaṃ adhīyamānā khandhādayo pākaṭā honti. Duruttasatthāni adhīyamānāni sammohamevāvāhanti.
Những người chống lại lợi ích là kẻ thù. Những kẻ thù địch là kẻ đối địch. Sau khi chứng ngộ, Ngài tuyên bố, bằng chừng ấy, Ngài làm sáng tỏ sự toàn giác của Thế Tôn. Sau khi làm sáng tỏ sự thành tựu trí tuệ bằng điều đó, bây giờ để làm sáng tỏ sự thành tựu lòng bi, Ngài nói “Ngài đã thuyết pháp” và các đoạn tiếp theo. Hoặc là, Ngài đã tuyên bố điều gì? Trí tuệ, tất cả trí tuệ đó đều là lợi ích cho ba cõi. Ngài đã thuyết pháp, pháp như thế nào? “Tốt đẹp ở đoạn đầu” và các đoạn tiếp theo. Bằng lời nói này, Ngài làm sáng tỏ tư cách xứng đáng để nói. Giáo pháp là lời khuyên và kinh điển. Do sự trong sạch của hành động là do sự trong sạch của hành động đoạn trừ phiền não và lấy Niết-bàn làm đối tượng. Phạm hạnh của giáo pháp là ba học, hoặc là chín mươi tỷ và các con số khác. Chính đạo là phạm hạnh, đạo phạm hạnh. Ba tạng, là cái làm sáng tỏ đạo đó, ở đây được gọi là có ý nghĩa, có văn tự. Sự làm sáng tỏ một cách tóm tắt trong sáu ý nghĩa là sự làm sáng tỏ. Sự làm sáng tỏ từ đầu là sự công bố. Sự thuyết giảng chi tiết cả hai là sự giải thích. Sự phân tích lại là sự phân tích. Sự làm cho rõ ràng bằng ví dụ và các cách khác là sự làm cho rõ ràng. Cần phải hiểu rằng sự chế định là bằng cách làm phát sinh sự hài lòng trong tâm của người nghe, và bằng cách mài dũa tâm. Trong các văn tự, do có chữ nên là chữ. Một số người nói: “một chữ, một từ là một chữ.” Cái có biến cách ở cuối là từ. Làm cho rõ ràng nên là văn tự, một câu. Hoặc là một tập hợp các từ là một câu. Sự làm sáng tỏ sự phân chia được gọi là phương diện. Chạm vào nên là xúc và các định nghĩa khác là định nghĩa. Sự trình bày của cái được chỉ định bởi định nghĩa được gọi là sự trình bày. Chạm vào nên là xúc, nó có ba loại: lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Sự áp dụng này trong số chúng là: làm sáng tỏ bằng chữ, công bố bằng từ, giải thích bằng văn tự, phân tích bằng phương diện, làm cho rõ ràng bằng định nghĩa, chế định bằng sự trình bày. Hoặc là, làm sáng tỏ bằng chữ rồi công bố bằng từ, giải thích bằng văn tự rồi phân tích bằng phương diện, làm cho rõ ràng bằng định nghĩa rồi chế định bằng sự trình bày. Hoặc là, cần phải hiểu rằng, mở ra bằng chữ rồi hướng dẫn người có trí tuệ nhạy bén bằng từ, giải thích bằng văn tự rồi hướng dẫn người có trí tuệ phân tích bằng phương diện, dẫn dắt bằng định nghĩa rồi hướng dẫn người cần được dẫn dắt bằng sự trình bày. Ý nghĩa là ý nghĩa của điều đã được nói. Chính bản chất riêng của ý nghĩa đó cần phải được thấu triệt được gọi là sự thấu triệt. Cả hai đều được gọi là ý nghĩa. Do đó, đã được nói: “có ý nghĩa do sự sâu sắc của ý nghĩa và sự sâu sắc của sự thấu triệt.” Pháp hoặc sự thuyết giảng chính là văn tự. Phạm hạnh của giáo pháp, trong sạch do không có lỗi lầm, và đạo, được bao gồm bởi ba học, cả hai đều được bao gồm trong từ phạm hạnh. Do sự thực hành là do nguyên nhân thực hành. Do sự rõ ràng của kinh điển là các uẩn và các pháp khác được học đi học lại trở nên rõ ràng. Các giáo lý sai lầm khi được học đi học lại chỉ mang lại sự mê lầm.

2-3. Kacci khamanīyaṃ sītuṇhādi. Kacci yāpanīyaṃ yathāladdhehi jīvitasādhanehi jīvitaṃ. Appābādhanti appopasaggaṃ, appātaṅkanti apparogaṃ. Kacci lahuṭṭhānaṃ sarīrakicce. Kacci balaṃ samaṇakicce. Kacci phāsuvihāro yathāvuttanayena appābādhatāya, anukkaṇṭhanādivasena vā. Sattasaṭṭhito paṭṭhāya pacchimavayo, uttarāmukhoti vuttaṃ hoti. Lokavivaraṇe jāte idha kiṃ olokesi, natthettha tayā sadisopīti āha ‘‘tvaṃ sadevakassa lokassa aggo’’tiādi. Āsabhiṃ uttamaṃ. Upapattivasena devā. Rūpānaṃ paribhogavasena, patthanāvasena vā uppannā rāgasampayuttā somanassavedanānurūpato uppajjitvā hadayatappanato ambarasādayo viya ‘‘rūparasā’’ti vuccanti. Tathāgatassa pahīnāti adhikāravasenāha. Tathāgatassapi hi kassaci te pahīnāti matthakacchinnatālo viya katā. Kathaṃ? Rūparasādivacanena vipākadhammadhammā gahitā, te vijjamānāpi matthakasadisānaṃ taṇhāvijjānaṃ maggasatthena chinnattā āyatiṃ tālapantisadise vipākakkhandhe nibbattetuṃ asamatthā jātā. Tasmā tālāvatthu viya katā. ‘‘Kusalasomanassāpi ettha saṅgahitā’’ti vadanti. Paṭhamamaggena pahīnā kammapathaṭṭhāniyā, dutiyena ucchinnamūlā oḷārikā, tatiyena tālāvatthukatā kāmarāgaṭṭhāniyā. Catutthena anabhāvaṃkatā rūparāgārūparāgaṭṭhāniyā. Aparihānadhammataṃ pana dīpento ‘‘āyatiṃ anuppādadhammā’’ti āha. Tadaṅgappahānena vā pahīnā vipassanākkhaṇe, jhānassa pubbabhāgakkhaṇe vā, vikkhambhanappahānena ucchinnamūlā jhānakkhaṇe. ‘‘Vivicceva kāmehī’’ti (pārā. 11) hi vuttaṃ. Samucchedappahānena tālāvatthukatā tatiyavijjādhigamakkhaṇe. Itthambhūtā pana te rūparasādayo anabhāvaṃkatā āyatimanuppādadhammāti ekamevidaṃ atthapadaṃ. Paṭhamāya vā abhinibbhidāya pahīnā, dutiyāya ucchinnamūlā, tatiyāya tālāvatthukatā. Itthambhūtā yasmā anabhāvaṃkatā nāma honti, tasmā āyatiṃanauppādadhammāti veditabbā. Atha vā dukkhañāṇena pahīnā, samudayañāṇena ucchinnamūlā , nirodhañāṇena tālāvatthukatā, maggañāṇena anabhāvaṃkatā, paccavekkhaṇañāṇena āyatiṃ anuppādadhammāti veditabbā. Lokiyamaggena vā pahīnā, dassanamaggena ucchinnamūlā, tividhena bhāvanāmaggena tālāvatthukatātiādi. Brāhmaṇassa avisayattā dhammarasā na uddhaṭā.
2-3. Có kham nhẫn được không, lạnh nóng và các điều kiện khác. Có sống qua ngày được không, bằng những phương tiện sinh sống có được. Ít bệnh là ít trở ngại, ít tai ương là ít bệnh tật. Có nhẹ nhàng trong các công việc của thân thể không. Có sức mạnh trong các công việc của Sa-môn không. Có an trú thoải mái không, theo cách đã nói, do ít bệnh, hoặc do không phiền muộn và các lý do khác. Từ sáu mươi bảy trở đi là tuổi già, có nghĩa là đã hướng về phương bắc. Khi thế gian đã được mở ra, tại sao ngài lại nhìn vào đây? Ở đây không có ai sánh bằng ngài. Ngài nói “Ngài là bậc tối thượng của thế gian có chư Thiên” và các đoạn tiếp theo. Bậc tối thượng. Do sự tái sinh là chư Thiên. Do hưởng thụ các sắc pháp, hoặc do mong muốn, lạc thọ tương ưng với tham ái sinh khởi và làm vui lòng trái tim, giống như vị ngọt của xoài và các vị khác, nên được gọi là “vị của sắc.” Đã được Như Lai đoạn trừ, Ngài nói theo quyền hạn. Bởi vì đối với một số người, chúng cũng đã được đoạn trừ đối với Như Lai, đã được làm như cây tala bị chặt ngọn. Như thế nào? Bằng lời nói về vị của sắc và các vị khác, các pháp quả và các pháp nhân quả đã được bao hàm. Dù chúng có tồn tại, nhưng vì tham ái và vô minh, giống như cái ngọn, đã bị chặt đứt bằng thanh kiếm của đạo, nên chúng không có khả năng tạo ra các uẩn quả, giống như hàng cây tala, trong tương lai. Do đó, chúng đã được làm như một vật thể tala. Người ta nói rằng “cả lạc thọ thiện cũng được bao gồm ở đây.” Đã được đoạn trừ bằng sơ đạo là những thứ thuộc về nghiệp đạo, đã bị nhổ tận gốc bằng nhị đạo là những thứ thô thiển, đã được làm như vật thể tala bằng tam đạo là những thứ thuộc về dục tham. Đã được làm cho không còn tồn tại bằng tứ đạo là những thứ thuộc về sắc tham và vô sắc tham. Để làm sáng tỏ tính không thể suy thoái, Ngài nói “là những pháp không sinh khởi trong tương lai.” Hoặc là, đã được đoạn trừ bằng cách đoạn trừ từng phần trong khoảnh khắc tuệ quán, hoặc trong khoảnh khắc trước thiền, đã bị nhổ tận gốc bằng cách trấn áp trong khoảnh khắc thiền. Bởi vì đã được nói: “Ly dục” (pārā. 11). Đã được làm như vật thể tala bằng cách tận diệt trong khoảnh khắc chứng đắc tam minh. Những vị của sắc và các vị khác như vậy, đã được làm cho không còn tồn tại, là những pháp không sinh khởi trong tương lai. Đây là một câu có ý nghĩa. Hoặc là, đã được đoạn trừ bằng sự thấu triệt đầu tiên, đã bị nhổ tận gốc bằng sự thấu triệt thứ hai, đã được làm như vật thể tala bằng sự thấu triệt thứ ba. Những thứ như vậy, vì đã được làm cho không còn tồn tại, nên cần phải biết rằng chúng là những pháp không sinh khởi trong tương lai. Hoặc là, đã được đoạn trừ bằng trí về khổ, đã bị nhổ tận gốc bằng trí về tập, đã được làm như vật thể tala bằng trí về diệt, đã được làm cho không còn tồn tại bằng trí về đạo, cần phải biết rằng chúng là những pháp không sinh khởi trong tương lai bằng trí quán xét. Hoặc là, đã được đoạn trừ bằng đạo thế gian, đã bị nhổ tận gốc bằng đạo kiến, đã được làm như vật thể tala bằng ba loại đạo tu tập và các cách khác. Vì không phải là đối tượng của Bà-la-môn, nên các vị của pháp không được nêu ra.

11. Dhammadhātunti ettha sabbaññutaññāṇaṃ dhammadhātu nāma. Anukampavacanānurūpaṃ ‘‘puṇṇacando viyā’’ti vuttaṃ, sūriyavacanaṃ ‘‘suppaṭividdhattā’’tivacanānurūpaṃ, pathavīsamacittatāya kāraṇaṃ ‘‘karuṇāvipphāra’’nti vadanti. Paṭicchādetabbe hi attano guṇe ‘‘āraddhaṃ kho pana me vīriya’’ntiādinā pakāsento attano karuṇāvipphāraṃ pakāsetītitraduitEnCPP. Varabhūrimedhaso varaputhulañāṇo, bhūrīti vā bhūmi, bhūmi viya patthaṭavarapaññoti attho. Abujjhi etthātipi adhikaraṇena rukkho bodhi. Sayaṃ bujjhati, bujjhanti vā tena taṃsamaṅginoti maggo bodhi, evaṃ sabbaññutaññāṇampi. Bujjhīyatīti nibbānaṃ bodhi. Tissannaṃ vijjānaṃ upanissayavato yathāsambhavaṃ tisso vijjā veditabbā. Ekaggatāvasena tikkhabhāvo. Tikkhopi ekacco saro lakkhaṃ patvā kuṇṭho hoti, na tathā idaṃ. Satindriyavasenassa kharabhāvo, saddhindriyavasena vippasannabhāvo, antarā anosakkitvā kilesapaccatthikānaṃ suṭṭhu abhibhavanato vīriyindriyavasenassa sūrabhāvo ca veditabbo. Maggavijāyanatthaṃ gabbhaggahaṇakālo saṅkhārupekkhānantaramanulomattā.
11. Pháp giới, ở đây, toàn giác trí được gọi là pháp giới. Phù hợp với lời nói từ bi, đã được nói “như trăng rằm,” lời nói về mặt trời phù hợp với lời nói “vì đã được thấu triệt hoàn toàn.” Người ta nói rằng nguyên nhân của tâm bình đẳng như đất là “sự lan tỏa của lòng bi.” Bởi vì khi trình bày các phẩm chất của mình cần phải được che giấu, bằng cách nói “ta đã tinh tấn” và các câu tương tự, Ngài đã trình bày sự lan tỏa của lòng bi của mình, điều đó là đúng. Người có trí tuệ cao cả, rộng lớn, người có trí tuệ cao cả rộng lớn. Hoặc bhūrī là bhūmi, có trí tuệ cao cả rộng lớn như đất, đó là ý nghĩa. Đã giác ngộ ở đây, do đó, vị trí cách, cây Bồ-đề. Tự mình giác ngộ, hoặc người ta giác ngộ bằng nó, người có nó, nên đạo là Bồ-đề, cũng vậy, toàn giác trí cũng vậy. Được giác ngộ, nên Niết-bàn là Bồ-đề. Cần phải biết ba minh theo khả năng, của người có nền tảng cho ba minh. Do tính nhất tâm, có sự sắc bén. Dù sắc bén, một số mũi tên sau khi trúng đích lại trở nên cùn, nhưng cái này không như vậy. Do tín căn, có sự trong sáng, do niệm căn, có sự cứng rắn, cần phải hiểu rằng do tinh tấn căn, có sự dũng mãnh vì nó đã chiến thắng hoàn toàn các kẻ thù phiền não mà không lùi bước ở giữa. Thời điểm thụ thai để chiến thắng đạo là ngay sau khi xả hành, do tính thuận thứ.

Chandoti ca saṅkappoti ca avatthantarabhedabhinno rāgova –
Dục và ý định, là tham ái, khác nhau về giai đoạn nhưng không khác nhau về bản chất –

‘‘Senahātthyaṅgamupeti,
Rattahadayo rāgena;
Sammagate rattakāmamupeti,
Kāmapatitaṃ lokassa mātrālamatī’’ti –
“Đi đến các bộ phận của con voi chiến,
Với trái tim say đắm vì tham ái;
Khi gặp được điều mong muốn, đi đến dục vọng say đắm,
Ham muốn của thế gian đã đủ rồi.” –

Ādīsu viya –
Giống như trong các câu trên –

Vibhaṅgeyeva kiñcāpi attho vuttoti ettha ayamadhippāyo – vibhaṅgapāḷiṃ ānetvā idha vuttopi sabbesaṃ upakārāya na hoti, tasmā taṃ aṭṭhakathānayeneva pakāsayissāmīti. Itoti kāmehi. Kāyavivekādīsu upadhiviveko tatiyo, tasmā tatiyaṃ chaḍḍetvā dve gahetvā tadaṅgādīsu vikkhambhanavivekaṃ gahetvā ‘‘tayo evā’’ti vuttā. Evaṃ sati cittavikkhambhanā ekatthā evāti viseso na siyāti ce? Appanāvārattā na panevaṃ daṭṭhabbaṃ. Kāyavivekaggahaṇena pubbabhāgaggahaṇaṃ ñāyati, tasmā cittavivekoti tadaṅgaviveko vutto, vikkhambhanena appanākāleti gahetabbaṃ asaṅkarato. Atha vā cittavivekena tadaṅgavikkhambhanā gahitā, itarena vikkhambhanaviveko evātipi yuttaṃ, kilesakāmattā vā dvīsu kammesu pariyāpanno puriso viya. Yathā avijjamānena avijjamānapaññattivasena loke ‘‘saphalo rukkho’’ti vuccati, tatheva vijjamānena vijjamānapaññattivasena sāsane ‘‘savitakkaṃ savicāraṃ jhāna’’nti vuccatīti adhippāyo.
Mặc dù ý nghĩa đã được nói trong Vibhaṅga, ở đây ý định là – dù đưa Vibhaṅgapāḷi ra đây và nói, cũng không có ích cho tất cả mọi người, do đó, tôi sẽ làm sáng tỏ điều đó theo cách của Chú giải. Từ đây là từ các dục. Trong các sự viễn ly như thân viễn ly và các sự viễn ly khác, sự viễn ly khỏi phiền não là thứ ba, do đó, sau khi bỏ đi cái thứ ba và lấy hai cái, và lấy sự viễn ly bằng cách trấn áp trong các sự đoạn trừ từng phần và các cách khác, đã được nói “chỉ có ba.” Nếu vậy, nếu tâm và sự trấn áp có cùng một ý nghĩa, thì sẽ không có sự khác biệt, phải không? Không nên hiểu như vậy vì đó là giai đoạn nhập định. Do việc nắm bắt thân viễn ly, việc nắm bắt phần trước được biết đến. Do đó, tâm viễn ly được nói là sự viễn ly từng phần. Cần phải hiểu rằng bằng cách trấn áp trong thời gian nhập định, không có sự lẫn lộn. Hoặc là, bằng tâm viễn ly, sự viễn ly từng phần và sự trấn áp đã được bao gồm, còn bằng cái kia, chỉ có sự viễn ly bằng cách trấn áp, điều đó cũng hợp lý. Hoặc là, vì ham muốn các phiền não, giống như một người đàn ông tham gia vào hai công việc. Giống như trong thế gian, bằng cách chế định cái không có là cái không có, người ta nói “cây có quả,” cũng vậy, trong giáo pháp, bằng cách chế định cái có là cái có, người ta nói “thiền có tầm, có tứ,” đó là ý định.

Vūpasamāti ettha kesaṃ vūpasamāti, kiṃ paṭhamajjhānikānaṃ, udāhu dutiyajjhānikānanti? Ettha yadi paṭhamajjhānikānaṃ, natthi tesaṃ vūpasamo. Na hi paṭhamajjhānaṃ vitakkavicārarahitaṃ atthi. Yadi dutiyajjhānikānaṃ, nattheva vūpasamo tattha tadabhāvāti ce? Tenetaṃ vuccati ‘‘samatikkamā’’ti, samatikkamopi na tesaṃyeva. Kintu sakalassapi paṭhamajjhānadhammarāsissāti ce? Tenetaṃ vuccati ‘‘oḷārikassa pana samatikkamā’’tiādi. Sabbepi paṭhamajjhānadhammā oḷārikāva dutiyajjhānato, na kevalaṃ vitakkavicāradvayamevāti ce? Na vitakkavicārāyeva tehi sampayuttānaṃ oḷārikabhāvatoti tesveva ādīnavadassanena dutiyajjhānakkhaṇe tesaṃ abhāvo hoti. Tena vuttaṃ ‘‘dutiyajjhānakkhaṇe apātubhāvā’’ti, yassa dhammassānubhāvena, yogena vā idaṃ jhānaṃ ‘‘sampasādana’’nti vuccati ‘‘ekodibhāva’’nti ca, tassa dassanatthaṃ saddhāsamādhayo vibhaṅge vuttā. Paṇītabhojanasikkhāpade (pāci. 257 ādayo) sappiādayo viyāti vutte ayaṃ atthavaṇṇanā na virujjhati. Samaṃ passatīti līnuddhaccaṃ pahāya khīṇāsavassa chasu dvāresu iṭṭhāniṭṭhachaḷārammaṇāpāthe parisuddhapakatibhāvāvijahanākārabhūtā upekkhā chaḷaṅgupekkhā. Nīvaraṇādipaṭisaṅkhāsantiṭṭhanāgahaṇe majjhattabhūtā upekkhā, ayaṃ saṅkhārupekkhā nāma. Vicinane majjhattabhūtā upekkhā vipassanupekkhā nāma. Tattha chaḷaṅgupekkhā brahmavihārupekkhā bojjhaṅgupekkhā tatramajjhattupekkhā jhānupekkhā pārisuddhupekkhā ca atthato ekā tatramajjhattupekkhāva, avatthābhedena bhedo nesaṃ. Saṅkhārupekkhāvipassanupekkhānampi ekatā paññāvasena, kiccavasena pana duvidhatā veditabbā.
Trong câu “do sự lắng dịu,” ở đây, sự lắng dịu của cái gì, của các pháp thuộc sơ thiền, hay của các pháp thuộc nhị thiền? Ở đây, nếu là của các pháp thuộc sơ thiền, thì không có sự lắng dịu của chúng. Bởi vì không có sơ thiền nào mà không có tầm và tứ. Nếu là của các pháp thuộc nhị thiền, thì không có sự lắng dịu ở đó vì không có chúng. Do đó, đã được nói “do sự vượt qua,” sự vượt qua cũng không phải chỉ của chúng. Mà là của toàn bộ các pháp thuộc sơ thiền, phải không? Do đó, đã được nói “do sự vượt qua của các pháp thô thiển” và các đoạn tiếp theo. Tất cả các pháp thuộc sơ thiền đều là thô thiển so với nhị thiền, không chỉ có hai pháp tầm và tứ, phải không? Không, vì chính tầm và tứ làm cho các pháp tương ưng với chúng trở nên thô thiển. Do thấy được sự nguy hại trong chúng, nên trong khoảnh khắc nhị thiền, chúng không còn tồn tại. Do đó, đã được nói “do không xuất hiện trong khoảnh khắc nhị thiền.” Để trình bày về tín và định, những pháp mà nhờ năng lực hoặc sự kết hợp của chúng mà thiền này được gọi là “sự tịnh tín”“sự nhất tâm,” đã được nói trong Vibhaṅga. Trong học giới về thức ăn tinh túy (pāci. 257 trở đi), khi nói “giống như bơ sữa và các thứ khác,” bài diễn giải ý nghĩa này không mâu thuẫn. Thấy một cách bình đẳng là sau khi từ bỏ sự hôn trầm và trạo cử, xả, là trạng thái không từ bỏ bản chất trong sạch tự nhiên khi đối mặt với sáu đối tượng ưa thích và không ưa thích ở sáu căn của bậc A-la-hán, là xả sáu phần. Xả, là trạng thái trung lập trong việc nắm bắt sự quán xét các triền cái và các pháp khác, được gọi là xả hành. Xả, là trạng thái trung lập trong việc quán xét, được gọi là xả tuệ quán. Ở đó, xả sáu phần, xả phạm trú, xả giác chi, xả trung lập, xả thiền và xả thanh tịnh, về mặt ý nghĩa, là một, chính là xả trung lập. Sự khác biệt của chúng là do sự khác biệt về giai đoạn. Sự đồng nhất của xả hành và xả tuệ quán cũng vậy, về mặt trí tuệ là một, nhưng về mặt hành động, cần phải biết rằng chúng có hai loại.

Chaḷaṅgupekkhā kāmāvacarā, brahmavihārupekkhā rūpāvacarātiādinā bhūmivasena. Chaḷaṅgupekkhā khīṇāsavasseva, brahmavihārupekkhā tiṇṇampi puthujjanasekkhāsekkhānanti evaṃ puggalavasena. Chaḷaṅgupekkhā somanassupekkhāsahagatacittasampayuttā, brahmavihārupekkhā upekkhāsahagatacittasampayuttā evāti evaṃ cittavasena. Chaḷaṅgupekkhā chaḷārammaṇā, brahmavihārupekkhā dhammārammaṇāvāti ārammaṇavasena. Vedanupekkhā vedanākkhandhena saṅgahitā, itarā nava saṅkhārakkhandhenāti khandhasaṅgahavasena. Chaḷaṅgupekkhā brahmavihārabojjhaṅgajhānupekkhā pārisuddhitatramajjhattupekkhā ca atthato ekā, tasmā ekakkhaṇe ekāva siyā, na itarā, tathā saṅkhārupekkhāvipassanupekkhāpi. Vedanāvīriyupekkhānaṃ ekakkhaṇe siyā uppattīti. Chaḷaṅgupekkhā abyākatā, brahmavihārupekkhā kusalābyākatā, tathā sesā. Vedanupekkhā pana siyā akusalāpi. Evaṃ kusalattikavasena. Dasapetā saṅkhepena cattārova dhammā vīriyavedanātatramajjhattañāṇavasena. ‘‘Dukkhadomanassasukhasomanassāna’’nti evaṃ pahānakkamena avatvā vibhaṅge vuttanayena kasmā vuttānīti ce? Suttānurakkhaṇatthaṃ. Iṭṭhāniṭṭhaviparītanti ettha ‘‘ārammaṇavasena aggahetvā iṭṭhāniṭṭhaviparītākārena anubhavatīti gahetabba’’nti vadanti. Kasmā? Ekaṃyeva kasiṇaṃ ārabbha sabbesaṃ pavattito. Tatiyajjhānato paṭṭhāya upakārā hutvā āgatāti satisīsena desanā katā, vigatavalāhakādinā sommatāya rattiyā valāhakādinā kālussiye satipi divā viya anupakārikā na hoti rattiṃ, tasmā ‘‘attano upakārakattena vā’’ti vuttaṃ. ‘‘Sūriyappabhābhibhavā, rattiyā alābhāti ime dve hetū aparisuddhatāya kāraṇaṃ. Sommabhāvena, attano upakārakattena cāti ime dve sabhāgatāya kāraṇa’’nti vadanti, tassā aparisuddhāya jātiyāti vuttaṃ hoti, tasmā kāraṇavacananti eke.
Xả sáu phần thuộc cõi Dục, xả phạm trú thuộc cõi Sắc và các cõi khác, theo cảnh giới. Xả sáu phần chỉ có ở bậc A-la-hán, xả phạm trú có ở cả ba hạng phàm phu, hữu học và vô học, như vậy theo hạng người. Xả sáu phần tương ưng với tâm đi kèm với lạc thọ và xả, xả phạm trú chỉ tương ưng với tâm đi kèm với xả, như vậy theo tâm. Xả sáu phần có sáu đối tượng, xả phạm trú có đối tượng là pháp, như vậy theo đối tượng. Xả thọ được bao gồm bởi thọ uẩn, chín loại còn lại được bao gồm bởi hành uẩn, như vậy theo sự bao gồm của uẩn. Xả sáu phần, xả phạm trú, xả giác chi, xả thiền, xả thanh tịnh và xả trung lập, về mặt ý nghĩa là một, do đó, trong một khoảnh khắc, chỉ có một loại có thể có, không phải loại khác. Cũng vậy đối với xả hành và xả tuệ quán. Có thể có sự sinh khởi của xả thọ và xả tinh tấn trong một khoảnh khắc. Xả sáu phần là vô ký, xả phạm trú là thiện và vô ký, cũng vậy đối với các loại còn lại. Còn xả thọ có thể là bất thiện. Như vậy theo ba loại thiện. Mười loại này, tóm lại, chỉ là bốn pháp: tinh tấn, thọ, trung lập và trí. Nếu hỏi, tại sao không nói theo trình tự đoạn trừ như “của khổ, ưu, lạc, hỷ” mà lại nói theo cách đã nói trong Vibhaṅga? Để tuân theo Kinh điển. Trong câu “trái ngược với ưa và không ưa,” người ta nói rằng “cần phải hiểu rằng không nắm bắt theo đối tượng mà trải nghiệm theo cách trái ngược với ưa và không ưa.” Tại sao? Vì tất cả đều sinh khởi do duyên với cùng một đề mục thiền. Vì đã trở thành sự hỗ trợ từ tam thiền trở đi, nên bài thuyết giảng đã được thực hiện với niệm làm đầu. Giống như ban đêm, dù có sự u ám do mây và các yếu tố khác của bầu trời không có mây, nhưng không phải là không hữu ích như ban ngày, do đó, đã được nói “hoặc là do tính hữu ích của chính nó.” Người ta nói rằng “bị lấn át bởi ánh sáng mặt trời, không có được ban đêm, hai nguyên nhân này là nguyên nhân cho sự không trong sạch. Do trạng thái dễ chịu, và do tính hữu ích của chính nó, hai nguyên nhân này là nguyên nhân cho sự đồng chất.” Đã được nói rằng, của chủng loại không trong sạch đó. Do đó, một số người nói đó là lời nói về nguyên nhân.

Jhānakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về đề tài thiền đã kết thúc.

Pubbenivāsakathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài túc mạng

12. Cittekaggatāsabhāgattā jhānānaṃ ‘‘kesañci cittekaggatatthānī’’ti āha. Kusalānaṃ bhavokkamanasabhāgattā ‘‘kesañci bhavokkamanatthānī’’ti. Asabhāgattā sesaṭṭhānesu ‘‘pādakatthānī’’ti avatvā ‘‘pādakānī’’ti āha. Tena pādakabhūtānampi yathāsambhavaṃ cittekaggatā bhavokkamanatāvahataṃ, itaresaṃ yathāsambhavaṃ pādakatāvahatañca dīpeti. Asabhāgattā javanavipassanāpādakāni samānāni abhiññāpādakāni ca honti, abhiññāpādakāni ca vipassanāpādakāni hontītipi dīpeti, tathā pādakābhāvaṃ dīpeti. Abhiññāya hi catutthameva pādakaṃ, na itarāni. Tesu catutthassa tatiyaṃ pādakaṃ, tatiyassa dutiyaṃ, dutiyassa paṭhamanti. Atha vā ‘‘cattāri jhānānī’’ti yathālābhato vuttaṃ.
12. Do đồng bản chất với sự nhất tâm, Ngài đã nói “là nền tảng cho sự nhất tâm của một số người” đối với các thiền. Do các thiện pháp có bản chất vượt qua sự tồn tại, Ngài đã nói “là nền tảng cho sự vượt qua sự tồn tại của một số người.” Do không đồng bản chất, ở các nơi khác, thay vì nói “là nền tảng,” Ngài đã nói “là các nền tảng.” Bằng điều đó, Ngài làm sáng tỏ rằng ngay cả những gì là nền tảng, theo khả năng, cũng mang lại sự nhất tâm và sự vượt qua sự tồn tại, và những gì khác, theo khả năng, cũng mang lại tính nền tảng. Do không đồng bản chất, những gì là nền tảng cho tuệ quán khởi đầu và tuệ quán chuyển tiếp cũng là nền tảng cho các thắng trí, và những gì là nền tảng cho các thắng trí cũng là nền tảng cho tuệ quán, Ngài cũng làm sáng tỏ như vậy, và cũng làm sáng tỏ sự không có nền tảng. Bởi vì đối với thắng trí, chỉ có tứ thiền là nền tảng, không phải các thiền khác. Trong số đó, tam thiền là nền tảng cho tứ thiền, nhị thiền là nền tảng cho tam thiền, và sơ thiền là nền tảng cho nhị thiền. Hoặc là, đã được nói “bốn thiền” theo những gì đã đạt được.

Vinayanidānanimittaṃ, verañjanivāsakappanaṃ;
Satthu yasmā tasmā bhagavā, vijjattayamāha verañje.
Dấu hiệu duyên khởi của Luật, sự sắp đặt nơi ở tại Verañjā;
Bởi vì của Bậc Đạo Sư, nên Thế Tôn đã nói về ba minh tại Verañjā.

Vuttañhetaṃ ‘‘vinaye suppaṭipanno bhikkhu sīlasampattiṃ nissāyā’’tiādi (pārā. aṭṭha. 1.paṭhamamahāsaṅgītikathā). Sīlavato hi sīlapaccavekkhaṇatthaṃ rattiṭṭhānadivāṭhānesu nisinnassa nisajjanato paṭṭhāya attano atītakiriyānussaraṇabahulatāya pubbenivāsānussativijjā appakasirena samijjhati. Tathā attānaṃ paṭicca sattānaṃ cutipariggahaṇasīlatāya cutūpapātañāṇaṃ appakasirena samijjhati, udakādīsu sukhumatta dassanasīlatāya dibbacakkhuñāṇaṃ samijjhati. Yasmā sattavidhamethunasaṃyogaparivajjanena, kāmāsavādiparivajjanena vā brahmacariyaṃ akhaṇḍādibhāvaṃ pāpuṇāti, tasmāssa āsavakkhayañāṇaṃ appakasirena samijjhatīti ettha vinayanidāne vijjattayameva dassitaṃ, tasmā āha ‘‘yesañca guṇānaṃ dāyakaṃ ahosi, tesaṃ ekadesaṃ dassento’’ti, aññathā vijjattayapaṭilābhamattappasaṅgo siyāti.
Điều này đã được nói: “Tỳ-khưu thực hành tốt Luật, dựa vào sự thành tựu giới” và các đoạn tiếp theo (pārā. aṭṭha. 1.paṭhamamahāsaṅgītikathā). Bởi vì người có giới, để quán xét giới của mình, khi ngồi ở những nơi nghỉ ngơi ban đêm và ban ngày, do thường xuyên nhớ lại các hành động trong quá khứ của mình từ lúc ngồi xuống, túc mạng thông minh sẽ dễ dàng thành tựu. Cũng vậy, do có thói quen nắm bắt sự chết và tái sinh của chúng sinh liên quan đến chính mình, sanh tử trí sẽ dễ dàng thành tựu. Do có thói quen thấy sự vi tế trong nước và các vật chất khác, thiên nhãn trí sẽ dễ dàng thành tựu. Bởi vì bằng cách tránh xa bảy loại giao hợp dâm dục, hoặc bằng cách tránh xa dục lậu và các lậu hoặc khác, phạm hạnh đạt đến trạng thái không bị sứt mẻ và các trạng thái khác, do đó, lậu tận trí sẽ dễ dàng thành tựu đối với vị ấy. Ở đây, trong duyên khởi của Luật, chỉ có ba minh được trình bày. Do đó, Ngài nói “để trình bày một phần của những phẩm chất mà Ngài đã ban tặng,” nếu không, sẽ dẫn đến việc chỉ có sự chứng đắc ba minh.

So evanti iminā kiñcāpi catunnaṃ jhānānaṃ pubbabhāgapaṭipadāpi saṅgahaṃ gacchati, na kevalaṃ purimajjhānattikameva, tathāpi kevalaṃ purimajjhānattikameva gaṇhanto ‘‘evanti catutthajjhānakkamanidassanametaṃ, iminā paṭhamajjhānādhigamādinā kamena catutthajjhānaṃ paṭilabhitvāti vuttaṃ hotī’’ti āha, taṃ kasmāti ce? Sambhārabhūmittā. Vuttañhetaṃ aṭṭhakathāyaṃ (visuddhi. 2.381) ‘‘ettha ca purimāni tīṇi jhānāni yasmā pītipharaṇena ca sukhapharaṇena ca sukhasaññañca lahusaññañca okkamitvā lahumudukammaññakāyo hutvā iddhiṃ pāpuṇāti, tasmā iminā pariyāyena iddhilābhāya saṃvattanato sambhārabhūmiyoti veditabbāni. Catutthajjhānaṃ pana iddhilābhāya pakatibhūmi evā’’ti. Idameva vā atthaṃ sandhāyāha ‘‘pubbe imāni cattāri jhānāni kesañci abhiññāpādakānī’’ti. Yadi evaṃ catutthajjhānampi antokatvā evanti kimatthaṃ na vuttaṃ. Tañhi pakatibhūmīti ce? Na vattabbaṃ, catutthajjhānato parassa samāhitādibhāvappattassa cittassa atthibhāvappasaṅgato. Yasmā yasmiṃ sati ‘‘pubbenivāsānussatiñāṇāya cittaṃ abhininnāmesi’’nti vuttaṃ, tasmā tasmiṃ catutthajjhānacitte pakatibhūmibhāvappatte abhiññāpādake jāte parikammacittaṃ ‘‘pubbenivāsānussatiñāṇāya abhininnāmesi’’nti āha. Abhinīhārakkhamaṃ hotīti ettha taṃ iddhividhādhigamatthāya parikammacittaṃ abhinīharati. Kasiṇārammaṇato apanetvā iddhividhābhimukhaṃ pesesi. Gaṇṭhipade pana ‘‘abhiññāpādakajjhānato iddhividhañāṇādīnaṃ nīharaṇattha’’nti vuttattā abhinīhārakkhamanti attho pakappito.
Chính Ngài đó, bằng điều này, mặc dù sự thực hành tiền đạo của bốn thiền cũng được bao gồm, không chỉ có ba thiền trước, tuy nhiên, chỉ lấy ba thiền trước, Ngài nói: “Đây là sự trình bày trình tự của tứ thiền, bằng điều này, đã được nói rằng sau khi đã đạt được tứ thiền theo trình tự bắt đầu từ việc chứng đắc sơ thiền và các thiền khác,” nếu hỏi tại sao, thì xin thưa: vì là nền tảng. Điều này đã được nói trong Chú giải (visuddhi. 2.381): “Ở đây, ba thiền trước, bởi vì bằng cách lan tỏa hỷ và bằng cách lan tỏa lạc, và bằng cách vượt qua lạc tưởng và khinh tưởng, có được thân nhẹ nhàng, mềm mại, dễ sử dụng và đạt được thần thông, do đó, theo cách này, cần phải biết rằng chúng là nền tảng vì chúng dẫn đến việc đạt được thần thông. Còn tứ thiền là nền tảng tự nhiên để đạt được thần thông.” Chính để chỉ ý nghĩa này, Ngài đã nói: “Trước đây, bốn thiền này là nền tảng cho thắng trí của một số người.” Nếu vậy, tại sao không nói “như vậy” bao gồm cả tứ thiền? Bởi vì nó là nền tảng tự nhiên, phải không? Không cần phải nói, vì sẽ dẫn đến việc có một tâm đã đạt được trạng thái định tĩnh và các trạng thái khác sau tứ thiền. Bởi vì khi có điều gì đó mà đã được nói “hướng tâm đến túc mạng thông minh trí,” do đó, khi tâm tứ thiền đó đã đạt đến trạng thái nền tảng tự nhiên, là nền tảng cho thắng trí, đã sinh khởi, Ngài đã nói tâm chuẩn bị “hướng đến túc mạng thông minh trí.” Có khả năng hướng đến, ở đây, tâm chuẩn bị đó hướng đến để đạt được các loại thần thông. Nó đã được chuyển khỏi đối tượng là đề mục thiền và hướng đến các loại thần thông. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói “để lấy ra các trí về thần thông và các trí khác từ thiền nền tảng cho thắng trí,” do đó, ý nghĩa đã được suy ra là có khả năng hướng đến.

So evaṃ samāhite evaṃ āneñjappatteti yojanā veditabbā dutiyavikappe, nīvaraṇadūrībhāvena vitakkādisamatikkamenāti paṭhamajjhānādīnaṃ kiccasaṅgaṇhanato. Ayaṃ yojanā paṭhamavikappe na sambhavati ‘‘parisuddhetiādīsu panā’’ti vacanena ‘‘eva’’nti padassa anuppabandhanivāraṇato. Teneva ‘‘upekkhāsatipārisuddhibhāvena parisuddhe’’tiādimāha. Icchāvacarānanti ‘‘aho vatāhaṃ āpattiñceva āpanno assaṃ, na ca maṃ bhikkhū jāneyyu’’ntiādinā (ma. ni. 1.60) nayena uppannaicchāvasena pavattānaṃ kopaapaccayānaṃ abhāvena anaṅgaṇeti attho. Ettha ca pana yathāvuttappakārā icchāpi paṭhamajjhānādīnaṃ adhigamāya antarāyikā ‘‘sampajānamusāvādo kho panāyasmanto antarāyiko dhammo’’ti (mahāva. 134) vuttattā, pageva icchāvacarā kopaapaccayā, tasmā vuttaṃ ‘‘jhānapaṭilābhapaccanīkānaṃ pāpakānaṃ icchāvacarāna’’ntiādi. Katthaci pana ‘‘jhānapaṭilābhapaccayānaṃ icchāvacarāna’’nti potthakesu pāṭho dissati, so pamādalekho, gaṇṭhipade ca ‘‘aho vata satthā mamaññeva paṭipucchitvā dhammaṃ deseyyā’’ti yo tadattho likhito, so dullikhito. Na hi jhānapaṭilābhapaccayā kopādayo anaṅgaṇasutte (ma. ni. 1.57 ādayo) vuttā, ‘‘na ca yuttito sambhavanti jhānalābhino tadabhāvā’’ti ācariyo vadati, taṃ vīmaṃsitabbaṃ. Ettha vijjattayassa uttaruttaravisesadassanatthaṃ ‘‘so evaṃ samāhite citte’’tiādinā punappunaṃ aṭṭhaṅganidassanaṃ katanti veditabbaṃ. Uttaruttaravisesā cebhāsaṃ attadukkhaparadukkhadassanatadupasamattadīpanato veditabbā. Bhagavā hi pubbenivāsānussatiñāṇena attano anantasaṃsāradukkhaṃ passitvā, cutūpapātañāṇena parassa ca lokassa āsavakkhayañāṇena tadubhayavūpasamattañca passitvā taṃ deseti, paṭhamena vā attadukkhadassanato attasinehapariccāgaṃ dīpeti. Dutiyena paradukkhadinato paresu kopapariccāgaṃ, tatiyena ariyamaggadinato mohapariccāgañca dīpeti. Evaṃ nānāguṇavisesadīpanato imasseva lokiyābhiññādvayassa idha gahaṇaṃ katanti veditabbaṃ.
Cần phải biết rằng trong giả thuyết thứ hai, sự kết hợp là “chính trong tâm đã định tĩnh như vậy, trong tâm đã đạt đến trạng thái bất động như vậy.” Do sự xa lìa các triền cái và do sự vượt qua tầm và tứ, do sự thu thập hành động của sơ thiền và các thiền khác. Sự kết hợp này không có trong giả thuyết đầu tiên, vì câu “còn trong các câu như ‘trong sạch’ và các câu tương tự” ngăn cản sự liên kết của từ “chính.” Chính vì vậy, Ngài đã nói “trong sạch do sự trong sạch của xả và niệm” và các đoạn tiếp theo. Của những người theo ý muốn, có nghĩa là không có các duyên sân hận, là những thứ sinh khởi do ý muốn phát sinh theo cách “ồ, giá như tôi phạm giới mà các Tỳ-khưu không biết” và các cách khác (ma. ni. 1.60), nên là không có tỳ vết. Ở đây, ý muốn theo cách đã nói cũng là một trở ngại cho việc chứng đắc sơ thiền và các thiền khác, bởi vì đã được nói “này các Tôn giả, việc cố ý nói dối là một pháp gây trở ngại” (mahāva. 134), huống chi là các duyên sân hận theo ý muốn. Do đó, đã được nói “của những ham muốn xấu xa, là kẻ thù của việc chứng đắc thiền, theo ý muốn” và các đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, ở một số sách, có đoạn văn “của những ham muốn theo ý muốn, là duyên cho việc chứng đắc thiền,” đó là một lỗi sao chép. Trong sách giải thích từ khó, ý nghĩa được viết là “ồ, giá như Bậc Đạo Sư chỉ hỏi riêng tôi và thuyết pháp,” đó là một lỗi viết. Vị Giáo thọ sư nói rằng, bởi vì các duyên sân hận và các duyên khác không được nói đến trong Kinh Anaṅgaṇa (ma. ni. 1.57 trở đi) là duyên cho việc chứng đắc thiền, và “chúng không thể có một cách hợp lý, vì người chứng đắc thiền không có chúng,” điều đó cần được xem xét. Ở đây, cần phải biết rằng để thấy được sự khác biệt ngày càng cao của ba minh, Ngài đã lặp đi lặp lại việc trình bày tám phần bằng cách nói “chính trong tâm đã định tĩnh như vậy” và các đoạn tiếp theo. Cần phải biết rằng sự khác biệt ngày càng cao của chúng là do việc trình bày sự thấy khổ của mình, khổ của người khác và sự lắng dịu của chúng. Bởi vì Thế Tôn, bằng túc mạng thông minh trí, đã thấy được nỗi khổ luân hồi vô tận của mình, bằng sanh tử trí, đã thấy được khổ của thế gian, và bằng lậu tận trí, đã thấy được sự lắng dịu của cả hai và thuyết giảng điều đó. Hoặc là, bằng minh thứ nhất, do thấy khổ của mình, Ngài làm sáng tỏ sự từ bỏ lòng yêu mến bản thân. Bằng minh thứ hai, do thấy khổ của người khác, Ngài làm sáng tỏ sự từ bỏ sân hận đối với người khác, và bằng minh thứ ba, do thấy thánh đạo, Ngài làm sáng tỏ sự từ bỏ si mê. Cần phải biết rằng do trình bày các phẩm chất đặc biệt khác nhau như vậy, nên hai thắng trí thế gian này đã được bao gồm ở đây.

Yasmā atītajāti eva nivāso, tasmā ‘‘atītajātīsū’’ti na vattabbanti ce? Na, jātiyā ekadesepi nivāsavohārasiddhidinato. Pāḷiyaṃ kiñcāpi ‘‘ekampi jātiṃ dvepi jātiyo’’tiādivacanena sakalajātiyā anussaraṇameva pubbenivāsānussati viya dissati, na evaṃ daṭṭhabbaṃ. Tadekadesānussaraṇampi pubbenivāsānussati evāti dassanatthaṃ, bhummavacanaṃ kataṃ okāsādisaṅgahatthañca. ‘‘Chinnavaṭumakānussaraṇādīsū’’ti ādi-saddena anivutthalokadhātudīparaṭṭhanagaragāmādiggahaṇaṃ veditabbaṃ. Gaṇṭhipade pana ‘‘tesaṃ chinnavaṭumakānaṃ lokuttarasīlādīni na bhagavatā bodhisattakāle viññātānī’’ti vuttaṃ. Atthāpattito lokiyāni viññātānīti āpajjati, taṃ dibbacakkhuñāṇādhikāre ‘‘ariyānaṃ upavādakā’’ti vacanena samentaṃ viya dissati. Na hi ariye apassantassa evaṃ hoti. Kimatthaṃ panettha anussati vuttā, nanu esa vijjādhikāroti ce? Ādikammikassa sativasena nibbattito, atītadhammānaṃ satiyā visesādhikārattā ca. Vuttañhi ‘‘anussarāmī’’ti.
Bởi vì kiếp quá khứ chính là nơi ở, nên nếu nói không cần phải nói “trong các kiếp quá khứ”? Không, vì việc sử dụng từ “nơi ở” ngay cả trong một phần của kiếp sống cũng được chấp nhận. Trong Pāḷi, mặc dù bằng lời nói “một kiếp, hai kiếp” và các lời nói khác, có vẻ như việc nhớ lại toàn bộ kiếp sống mới là túc mạng thông, nhưng không nên hiểu như vậy. Để trình bày rằng việc nhớ lại một phần của nó cũng là túc mạng thông, và để bao gồm cả nơi chốn và các yếu tố khác, đã sử dụng vị trí cách. Trong câu “trong việc nhớ lại những người bị chặt cụt tay chân và các trường hợp khác”, bằng từ và các trường hợp khác, cần phải hiểu là bao gồm cả các thế giới, các hòn đảo, các quốc gia, các thành phố, các làng mạc và các nơi khác chưa được biết đến. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “Các giới luật siêu thế và các pháp khác của những người bị chặt cụt tay chân đó không được Thế Tôn biết đến trong thời gian làm Bồ-tát.” Do suy luận, các giới luật thế gian đã được biết đến, điều đó có thể xảy ra. Điều đó có vẻ như phù hợp với lời nói “những người phỉ báng các bậc thánh” trong phần về thiên nhãn trí. Bởi vì không thể có ý nghĩ như vậy đối với người không thấy các bậc thánh. Tại sao ở đây lại nói về sự nhớ lại, chẳng phải đây là phần về minh sao? Xin thưa – Do sự sinh khởi theo cách của niệm đối với người mới bắt đầu, và vì niệm có thẩm quyền đặc biệt đối với các pháp trong quá khứ. Đã được nói: “Tôi nhớ lại.”

‘‘Vattamānesu vijjāna-matītesvassa sarati;
Anāgatesu dhammesu, sarati vijjāna paṇidhī’’ti.
“Đối với các pháp hiện tại là trí, đối với các pháp quá khứ là niệm;
Đối với các pháp tương lai, niệm là trí tuệ, ý định.”

Ācariyakumāritena silokopi vutto.
Một bài thơ của Acariyakumārita cũng đã được nói.

Tattha rāge ussannatare tejosaṃvaṭṭo. Dose āposaṃvaṭṭo. Mohe vāyosaṃvaṭṭo. Keci ‘‘dose tejosaṃvaṭṭo, rāge āposaṃvaṭṭo, mohe vāyosaṃvaṭṭo’’ti vadanti. Yasmā amutrāti cittaṃ, vacanaṃ vā bhavādiniyamena hoti, tasmā ‘‘bhave vā’’tiādi. Evaṃnāmo evaṃgottoti padadvayena ajjhattabahiddhāmūlakaṃ paññattisaṅkhātaṃ gocaranivāsaṃ dīpeti. Pavattaphalabhojano sayaṃpatitaphalāhāro. Caturāsītikappasahassaparamāyupariyanto vāti paṇidhānato pubbe. Paṭinivattantassa paccavekkhaṇaṃ pubbenivāsānussatiñāṇaṃ na hoti. ‘‘Pubbenivāsānussatiñāṇalābhīnaṃ panetaṃ ānubhāvaparidīpana’’nti gaṇṭhipade vuttaṃ. Amutrāti ettha paṭhamayojanāyaṃ sīhokkantavasena anussaraṇaṃ vuttaṃ, tañca kho anulomavasena. ‘‘Paṭilomavasenā’’tipi likhanti, taṃ duviññeyyaṃ. Sīhokkantaṃ dassetuṃ ‘‘anekāsu kappakoṭīsū’’tiādi vuttaṃ. Yathā tanti nidassanena paṭipattisādhāraṇena phalasādhāraṇataṃ dassento brāhmaṇassa ādaraṃ janeti, attānamevekaṃ ukkaṃsetīti vacanaṃ nivāreti. ‘‘Sādhu kho pana tathārūpānaṃ arahataṃ dassanaṃ hotī’’ti tassa pubbe uppannacitte eva niyojeti. Paṭhamā abhinibbhidāti vacanena avijjaṇḍakosassa bahupaṭalabhāvaṃ dasseti, tena aṭṭhaguṇissariyādinā anabhinibbhidaṃ dīpeti.
Ở đó, khi tham ái mạnh hơn, có sự hủy diệt bằng lửa. Khi sân hận mạnh hơn, có sự hủy diệt bằng nước. Khi si mê mạnh hơn, có sự hủy diệt bằng gió. Một số người nói: “Khi sân hận mạnh hơn, có sự hủy diệt bằng lửa, khi tham ái mạnh hơn, có sự hủy diệt bằng nước, khi si mê mạnh hơn, có sự hủy diệt bằng gió.” Bởi vì ở nơi kia, tâm hoặc lời nói được xác định bởi sự tồn tại và các yếu tố khác, do đó “hoặc là trong sự tồn tại” và các đoạn tiếp theo. Tên như vậy, họ như vậy, bằng hai từ này, Ngài làm sáng tỏ nơi ở của đối tượng, được gọi là khái niệm, có nguồn gốc từ bên trong và bên ngoài. Người ăn quả đã chín, người ăn quả tự rụng. Hoặc là giới hạn tuổi thọ tối đa là tám mươi bốn ngàn đại kiếp, trước khi phát nguyện. Việc quán xét của người quay trở lại không phải là túc mạng thông minh trí. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “Đây là sự trình bày năng lực của những người đã đạt được túc mạng thông minh trí.” Ở nơi kia, ở đây, trong cách giải thích đầu tiên, việc nhớ lại theo cách nhảy của sư tử đã được nói, và đó là theo chiều thuận. Người ta cũng viết “theo chiều nghịch,” điều đó khó hiểu. Để trình bày sự nhảy của sư tử, Ngài đã nói “trong vô số ức kiếp” và các đoạn tiếp theo. Giống như, bằng ví dụ, bằng sự thực hành chung, Ngài làm sáng tỏ sự chung về quả và làm phát sinh lòng kính trọng nơi Bà-la-môn, và ngăn chặn lời nói rằng Ngài chỉ đề cao một mình mình. “Thật tốt thay khi được thấy những bậc A-la-hán như vậy,” Ngài hướng tâm đến chính tâm đã sinh khởi trước đó của vị ấy. Sự thấu triệt đầu tiên, bằng lời nói này, Ngài làm sáng tỏ rằng vỏ trứng vô minh có nhiều lớp. Bằng điều đó, Ngài làm sáng tỏ sự không bị phá vỡ bởi tám loại quyền lực và các yếu tố khác.

Pubbenivāsakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về đề tài túc mạng đã kết thúc.

Dibbacakkhuñāṇakathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài thiên nhãn trí

13. ‘‘Cutūpapātañāṇāyā’’ti phalūpacārena vuttaṃ. Idañhi dibbacakkhuñāṇaṃ rūpārammaṇattā parittapaccuppannaajjhattabahiddhārammaṇaṃ hoti. Na cutiṃ vā paṭisandhiṃ vā ārammaṇaṃ karoti. Tasmā ‘‘yathākammūpage satte pajānāmī’’ti (pārā. 13) vacanaṃ viya phalūpacāreneva vuttamidanti veditabbaṃ. Dibbavihārasannissitattā kāraṇopacārena dibbaṃ. Iminā pana keci ācariyā ‘‘kusalākusalā cakkhū dibbacakkhu kāmāvacara’’nti vadanti, te paṭisedhitā honti. Catutthajjhānapaññā hi ettha adhippetā. Mahājutikattā mahāgatikattāti etesu ‘‘saddasatthānusārenā’’ti vuttaṃ. Ekādasannaṃ upakkilesānaṃ evaṃ uppattikkamo upakkilesabhāvo ca veditabbo, mahāsattassa ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbacakkhunā nānāvidhāni rūpāni disvā ‘‘idaṃ nu kho ki’’nti vicikicchā udapādi, so upakkileso upakkilesasutte (ma. ni. 3.236 ādayo) ‘‘vicikicchādhikaraṇañca pana me samādhimhi cavi, samādhimhi cute obhāso antaradhāyati dassanañca rūpāna’’nti Nino. Tato ‘‘rūpāni me passato vicikicchā uppajjati, idāni na kiñci manasi karissāmī’’ti cintayato amanasikāro, tato kiñci amanasikarontassa thinamiddhaṃ udapādi, tato tassa pahānatthaṃ ālokaṃ vaḍḍhetvā rūpāni passato himavantādīsu dānavarakkhasādayo passantassa chambhitattaṃ udapādi, tato tassa pahānatthaṃ ‘‘mayā diṭṭhabhayaṃ pakatiyā olokiyamānaṃ natthi, adiṭṭhe kiṃ nāma bhaya’’nti cintayato uppilāvitattaṃ udapādi. Gaṇṭhipade pana ‘‘uppilaṃ dibbarūpadassenenā’’ti vuttaṃ, ‘‘taṃ duvuttaṃ parato abhijappāvacanena tadatthasiddhito’’ti ācariyo vadati. Tato chambhitattappahānatthaṃ ‘‘mayā vīriyaṃ daḷhaṃ paggahitaṃ, tena me idaṃ uppilaṃ uppanna’’nti vīriyaṃ sithilaṃ karontassa kāyaduṭṭhullaṃ kāyadaratho kāyālasiyaṃ udapādi, tato taṃ cajantassa accāraddhavīriyaṃ udapādi, tattha dosaṃ passato atilīnavīriyaṃ upadādi, tato taṃ pahāya samappavattena vīriyena chambhitattabhayā himavantādiṭṭhānaṃ pahāya devalokābhimukhaṃ ālokaṃ vaḍḍhetvā devasaṅghaṃ passato taṇhāsaṅkhātā abhijappā udapādi, tato ‘‘mayhaṃ ekajātikarūpaṃ manasi karontassa abhijappā uppannā, tasmā dāni nānāvidhaṃ rūpaṃ manasi karissāmī’’ti kālena devalokābhimukhaṃ, kālena manussalokābhimukhaṃ ālokaṃ vaḍḍhetvā nānāvidhāni rūpāni manasi karoto nānattasaññā udapādi, tato ‘‘nānāvidharūpāni me manasi karontassa nānattasaññā udapādi, tasmā dāni abhijappādibhayā iṭṭhādinimittaggāhaṃ pahāya ekajātikameva rūpaṃ manasi karissāmī’’ti tathā karoto abhinijjhāyitattaṃ rūpānaṃ udapādi evaṃ pahīnaupakkilesassāpi anadhiṭṭhitattā. Obhāsañhi kho jānāmi, na ca rūpāni passāmītiādi jātaṃ.
13. “Vì trí biết sự chết và tái sinh,” đã được nói theo cách ẩn dụ về quả. Thiên nhãn trí này, vì có đối tượng là sắc, nên có đối tượng là thế gian, hiện tại, bên trong và bên ngoài. Nó không lấy sự chết hay sự tái sinh làm đối tượng. Do đó, cần phải biết rằng lời nói “Tôi biết chúng sinh đi theo nghiệp của mình” (pārā. 13) đã được nói theo cách ẩn dụ về quả. Vì dựa vào sự an trú của chư Thiên, nên là thiên nhãn theo cách ẩn dụ về nguyên nhân. Bằng điều này, một số vị Giáo thọ sư nói rằng “mắt thiện và bất thiện là thiên nhãn thuộc cõi Dục,” họ đã bị bác bỏ. Bởi vì ở đây, trí tuệ của tứ thiền được hàm ý. Do có ánh sáng lớn, do có sự đi xa, trong những điều này, đã được nói “theo giáo lý và kinh điển.” Cần phải biết trình tự sinh khởi và bản chất của mười một loại phiền não phụ như sau: sau khi bậc đại nhân, sau khi tăng cường ánh sáng và thấy các sắc pháp khác nhau bằng thiên nhãn, đã nảy sinh nghi ngờ “cái này là gì,” phiền não đó trong Kinh Upakkilesa (ma. ni. 3.236 trở đi) là: “và nghi ngờ của tôi đã làm cho định của tôi lay động, khi định lay động, ánh sáng biến mất và việc thấy các sắc pháp cũng biến mất.” Sau đó, khi nghĩ “vì tôi thấy các sắc pháp nên nghi ngờ sinh khởi, bây giờ tôi sẽ không tác ý gì cả,” sự không tác ý đã sinh khởi. Sau đó, khi không tác ý gì cả, hôn trầm và thụy miên đã sinh khởi. Sau đó, để đoạn trừ nó, sau khi tăng cường ánh sáng và thấy các sắc pháp, khi thấy các quỷ thần và dạ xoa và các chúng sinh khác ở dãy Himalaya, sự sợ hãi đã sinh khởi. Sau đó, để đoạn trừ nó, khi nghĩ “nỗi sợ mà tôi đã thấy, khi nhìn một cách tự nhiên, không có, vậy có nỗi sợ nào trong cái không thấy,” sự phấn chấn đã sinh khởi. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói “sự phấn chấn do thấy sắc của chư Thiên,” vị Giáo thọ sư nói rằng “điều đó là nói sai, vì ý nghĩa đó đã được xác định bởi lời nói về tham ái ở phần sau.” Sau đó, để đoạn trừ sự sợ hãi, khi nghĩ “tôi đã tinh tấn quá mạnh, do đó sự phấn chấn này đã sinh khởi,” khi làm cho tinh tấn trở nên lỏng lẻo, sự khó chịu của thân, sự mệt mỏi của thân, sự lười biếng của thân đã sinh khởi. Sau đó, khi từ bỏ nó, tinh tấn quá mức đã sinh khởi. Khi thấy lỗi trong đó, tinh tấn quá lỏng lẻo đã sinh khởi. Sau đó, sau khi từ bỏ nó và với tinh tấn quân bình, do sợ hãi, sau khi từ bỏ nơi ở Himalaya, sau khi tăng cường ánh sáng hướng về cõi trời và thấy hội chúng chư Thiên, tham ái, được gọi là tham dục, đã sinh khởi. Sau đó, khi nghĩ “vì tôi tác ý đến sắc của một loài, nên tham dục đã sinh khởi, do đó bây giờ tôi sẽ tác ý đến các sắc pháp khác nhau,” khi có lúc tăng cường ánh sáng hướng về cõi trời, có lúc hướng về cõi người và tác ý đến các sắc pháp khác nhau, các tưởng khác nhau đã sinh khởi. Sau đó, khi nghĩ “vì tôi tác ý đến các sắc pháp khác nhau, nên các tưởng khác nhau đã sinh khởi, do đó bây giờ vì sợ tham dục và các nỗi sợ khác, sau khi từ bỏ việc nắm bắt tướng ưa thích và các tướng khác, tôi sẽ tác ý đến sắc của chỉ một loài,” khi làm như vậy, sự chăm chú vào các sắc pháp đã sinh khởi. Như vậy, ngay cả đối với người đã đoạn trừ các phiền não phụ, do chưa được xác quyết, nên đã sinh ra tình trạng “tôi biết ánh sáng, nhưng không thấy các sắc pháp” và các tình trạng khác.

Tassattho – yadā parikammobhāsameva manasi karomi, tadā obhāsaṃ sañjānāmi, dibbena cakkhunā rūpāni na ca passāmi, rūpadassanakāle ca obhāsaṃ na jānāmīti. Kimatthamidaṃ vuttaṃ, na hi etaṃ upakkisesagatanti? Na kevalaṃ upakkilesappajahanamevettha kattabbaṃ, yena idaṃ visuddhaṃ hoti, aññampi taduttari kattabbaṃ atthīti dassanatthaṃ. Vicikicchā cittassa upakkilesotiādīsu ‘‘ime dhammā upakkilesāti ādīnavadassanena pajahiṃ, na mayhaṃ tadā uppannattā’’ti keci vadanti. Mānusakaṃ vāti iminā sabhāvātikkamaṃ dasseti. Maṃsacakkhunāviyāti iminā pariyattiggahaṇaṃ, vaṇṇamattārammaṇatañca upameti. Vaṇṇamatte hettha satta-saddo, na ‘‘sabbe sattā āhāraṭṭhitikā’’ti (a. ni. 10.27) ettha viya sabbasaṅkhatesu, hīnajātiādayo mohassa nissando vipāko. Kāyaduccaritena samannāgatā pubbe atītabhave ahesuṃ, sampati nirayaṃ upapannāti evaṃ pāṭhasesena sambandho veditabbo. ‘‘Yathākammūpagañāṇañhi ekantamatītārammaṇaṃ, dibbacakkhu paccuppannārammaṇa’’nti ubhinnaṃ kiccavasena vuttaṃ. Mahallakoti samaṇānaṃ sāruppamasāruppaṃ, lokācāraṃ vā na jānātīti adhippāyena vuttattā guṇaparidhaṃsanena garahatīti veditabbaṃ. ‘‘Niyato sambodhiparāyano’’ti (saṃ. ni. 2.41; 5.998, 1004) vutto ariyapuggalo maggāvaraṇaṃ kātuṃ samatthaṃ pharusavacanaṃ yadi katheyya, apāyagamanīyampi kareyya, tena so apāyupagopi bhaveyya, tasmā upaparikkhitabbanti eke. ‘‘Vāyāmaṃ mā akāsīti therena vuttattā maggāvaraṇaṃ karotī’’ti vadanti. Pubbeva sotāpannena apāyadvāro pihito, tasmāssa saggāvaraṇaṃ natthi. ‘‘Pākatikanti pavattivipākaṃ ahosī’’ti vadanti. ‘‘Vuddhi hesā, bhikkhave, ariyassa vinaye, yo accayaṃ accayato disvā yathādhammaṃ paṭikarotī’’ti (ma. ni. 3.370; dī. ni. 1.251) Nino pākatikaṃ ahosīti eke. Sace so na khamatīti sotāpannādīnaṃ khantiguṇassa mandatāya vā āyatiṃ tassa suṭṭhu saṃvaratthāya vā akkhamanaṃ sandhāya vuttaṃ. Sukhānaṃ vā āyassa ārammaṇādino abhāvā kālakañcikā asurā honti. ‘‘Ito bho sugatiṃ gacchā’’ti (itivu. 83) Nino manussagatipi. Dibbacakkhuñāṇavijjāti dibbacakkhumeva dassanaṭṭhena ñāṇaṃ, tassa tassa atthassa vindanaṭṭhena vijjāti attho.
Ý nghĩa của nó là – khi tôi chỉ tác ý đến ánh sáng chuẩn bị, thì tôi nhận biết được ánh sáng, nhưng không thấy các sắc pháp bằng thiên nhãn. Và trong khi thấy các sắc pháp, tôi không biết ánh sáng. Tại sao lại nói điều này, chẳng phải nó thuộc về các phiền não phụ sao? Không phải chỉ cần đoạn trừ các phiền não phụ là có thể làm cho nó trong sạch, mà còn có những việc khác cần phải làm sau đó, để trình bày điều đó. Trong các câu như “nghi ngờ là phiền não phụ của tâm” và các câu tương tự, một số người nói: “tôi đã đoạn trừ các pháp này, là các phiền não phụ, bằng cách thấy sự nguy hại, không phải vì chúng đã sinh khởi đối với tôi lúc đó.” Hoặc là của loài người, bằng điều này, Ngài làm sáng tỏ sự vượt qua bản chất. Như bằng mắt thịt, bằng điều này, Ngài ví von việc nắm bắt kinh điển và việc chỉ có đối tượng là màu sắc. Ở đây, từ “satta” có ý nghĩa là màu sắc, không phải trong câu “tất cả chúng sinh tồn tại nhờ thức ăn” (a. ni. 10.27) là tất cả các pháp hữu vi. Các hạng người thấp kém và các hạng người khác là quả báo của si mê. Cần phải hiểu sự liên kết bằng phần còn lại của câu như sau: những người đã có thân ác hạnh trong kiếp quá khứ, bây giờ đã tái sinh vào địa ngục. “Bởi vì trí biết chúng sinh đi theo nghiệp chỉ có đối tượng là quá khứ, còn thiên nhãn có đối tượng là hiện tại,” đã được nói theo hành động của cả hai. Người già, đã được nói với ý định rằng người đó không biết những gì phù hợp và không phù hợp với Sa-môn, hoặc không biết phong tục của thế gian, nên cần phải hiểu rằng đó là sự khiển trách bằng cách làm giảm giá trị của phẩm chất. Một số người nói: “Bậc thánh đã được xác định là hướng đến sự giác ngộ (saṃ. ni. 2.41; 5.998, 1004) nếu nói lời thô bạo có thể ngăn cản đạo, thì cũng có thể làm điều dẫn đến cảnh giới xấu, do đó vị ấy cũng có thể đi đến cảnh giới xấu, nên cần phải xem xét.” Người ta nói: “Vì trưởng lão đã nói ‘đừng cố gắng,’ nên nó ngăn cản đạo.” Bởi vì cánh cửa đến cảnh giới xấu đã được bậc Dự lưu đóng lại từ trước, nên không có sự ngăn cản đến cõi trời đối với vị ấy. Người ta nói: “Tự nhiên là quả báo của sự tiến triển đã xảy ra.” Một số người nói: “Này các Tỳ-khưu, đây là sự tăng trưởng trong Luật của bậc thánh, người thấy lỗi là lỗi và sửa chữa theo đúng Pháp” (ma. ni. 3.370; dī. ni. 1.251), đã trở thành tự nhiên. Nếu người đó không tha thứ, đã được nói đến để chỉ sự không tha thứ do tính nhẫn nại của các bậc Dự lưu và các bậc thánh khác còn yếu, hoặc để vị ấy giữ gìn tốt hơn trong tương lai. Hoặc là nguồn gốc của hạnh phúc, do không có đối tượng và các yếu tố khác, các a-tu-la Kāḷakañcikā sinh ra. “Từ đây, này các bạn, hãy đi đến cõi lành” (itivu. 83), cả cõi người nữa. Trí tuệ thiên nhãn minh, chính thiên nhãn là trí do ý nghĩa thấy, là minh do ý nghĩa tìm thấy ý nghĩa của mỗi thứ đó.

Dibbacakkhuñāṇakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về đề tài thiên nhãn trí đã kết thúc.

Āsavakkhayañāṇakathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài lậu tận trí

14. Soevaṃ samāhite citteti kiṃ purimasmiṃyeva, udāhu aññasmiṃyeva catutthajjhānacitte. Aṭṭhakathāyampi yato vuṭṭhāya purimavijjādvayaṃ adhigataṃ, tadeva puna samāpajjanavasena abhinavaṃ abhiṇhaṃ katanti dassanatthaṃ ‘‘so evaṃ samāhite citteti idha vipassanāpādakaṃ catutthajjhānacittaṃ veditabba’’nti vuttaṃ. Etthāha – yadi tadeva puna samāpajjanavasena abhinavaṃ kataṃ, atha kasmā pubbe viya ‘‘vipassanāpādakaṃ abhiññāpādakaṃ nirodhapādakaṃ sabbakiccasādhakaṃ sabbalokiyalokuttaraguṇadāyakaṃ idha catutthajjhānacittaṃ veditabba’’nti avatvā ‘‘idha vipassanāpādakaṃ catutthajjhānacittaṃ veditabba’’nti ettakameva vuttaṃ , nanu idha tathāvacanaṭṭhānameva taṃ arahattamaggena saddhiṃ sabbaguṇanipphādanato, na paṭhamavijjādvayamattanipphādanatoti? Vuccate – ariyamaggassa bojjhaṅgamaggaṅgajhānaṅgapaṭipadāvimokkhavisesaniyamo pubbabhāgavuṭṭhānagāminīvipassanāya saṅkhārupekkhāsaṅkhātāya niyamena ahosīti dassanatthaṃ vipassanāpādakamidha vuttanti veditabbaṃ. Tattha pariyāpannattā, na tadārammaṇamattena. Pariyāyatoti aññenapi pakārena. ‘‘Ime āsavā’’ti ayaṃ vāro kimatthaṃ āraddho? ‘‘Āsavānaṃ khayañāṇāyā’’ti adhikārānulomanatthaṃ. Maggakkhaṇe hi cittaṃ vimuccati, phalakkhaṇe vimuttaṃ hotīti idaṃ ekattanayena vuttaṃ. Yañhi vimuccamānaṃ, tadeva aparabhāge vimuttaṃ nāma hoti. Yañca vimuttaṃ, tadeva pubbabhāge vimuccamānaṃ nāma hoti. Bhuñjamāno eva hi bhojanapariyosāne bhuttāvī nāma. ‘‘Iminā paccavekkhaṇañāṇaṃ dassetī’’ti paccavekkhaṇañāṇassa ca paṭṭhāne ‘‘maggā vuṭṭhahitvā maggaṃ paccavekkhati, phalaṃ, nibbānaṃ, pahīne kilese paccavekkhatī’’ti ayamuppattikkamo vutto. Pavattikkamo panettha sarūpato atthatoti dvidhā vutto. Tattha ‘‘vimuttamiti ñāṇaṃ ahosī’’ti sarūpato catubbidhassapi paccavekkhaṇañāṇassa pavattikkamanidassanaṃ. ‘‘Khīṇā jātī’’tiādi atthato. Teneva ante ‘‘abbhaññāsi’’nti puggalādhiṭṭhānaṃ desanaṃ akāsi paccavekkhaṇañāṇassa tathā appavattito. Appaṭisandhikaṃ hotīti jānanto ‘‘khīṇā jātī’’ti jānāti nāma. ‘‘Dibbacakkhunā paccuppannānāgataṃsañāṇa’’nti anāgataṃsañāṇassa ca dibbacakkhusannissitattā vuttaṃ.
14. Chính trong tâm đã định tĩnh như vậy, là trong chính tâm tứ thiền trước đó, hay là trong một tâm tứ thiền khác? Trong Chú giải cũng vậy, vì đã chứng đắc hai minh trước sau khi xuất khỏi thiền nào, thì chính thiền đó, bằng cách nhập lại, đã được làm mới, làm thường xuyên. Để trình bày điều đó, đã được nói: “chính trong tâm đã định tĩnh như vậy, ở đây cần phải hiểu là tâm tứ thiền, là nền tảng cho tuệ quán.” Vị ấy nói ở đây – nếu chính thiền đó đã được làm mới bằng cách nhập lại, vậy tại sao không nói như trước đây: “cần phải hiểu tâm tứ thiền ở đây là nền tảng cho tuệ quán, nền tảng cho thắng trí, nền tảng cho diệt, thành tựu mọi công việc, ban tặng mọi phẩm chất thế gian và siêu thế,” mà chỉ nói chừng ấy: “ở đây cần phải hiểu là tâm tứ thiền, là nền tảng cho tuệ quán.” Chẳng phải ở đây chính là nơi để nói như vậy, vì nó hoàn thành mọi phẩm chất cùng với đạo A-la-hán, chứ không phải chỉ hoàn thành hai minh đầu tiên sao? Xin thưa – cần phải hiểu rằng ở đây đã được nói là nền tảng cho tuệ quán để trình bày rằng sự xác định các đặc điểm của thánh đạo như giác chi, đạo chi, thiền chi, hành trình và giải thoát đã xảy ra một cách xác định bằng tuệ quán chuyển tiếp trong phần trước, được gọi là xả hành. Do thuộc về đó, không phải chỉ bằng đối tượng đó. Theo cách gián tiếp là theo cách khác. Tại sao lại bắt đầu đoạn “đây là các lậu hoặc”? Để phù hợp với quyền hạn “vì trí biết sự đoạn tận các lậu hoặc.” Trong khoảnh khắc đạo, tâm được giải thoát, trong khoảnh khắc quả, tâm đã được giải thoát, điều này đã được nói theo một cách. Bởi vì cái đang được giải thoát, thì ở phần sau được gọi là đã được giải thoát. Và cái đã được giải thoát, thì ở phần trước được gọi là đang được giải thoát. Bởi vì người đang ăn, thì ở cuối bữa ăn được gọi là đã ăn xong. “Bằng điều này, Ngài trình bày trí quán xét,” và trong nền tảng của trí quán xét, đã được nói trình tự sinh khởi này: “sau khi xuất khỏi đạo, quán xét đạo, quả, Niết-bàn, quán xét các phiền não đã được đoạn trừ.” Trình tự tiến triển ở đây, về bản chất và về ý nghĩa, đã được nói theo hai cách. Ở đó, “trí đã khởi lên rằng đã được giải thoát,” về bản chất, là sự trình bày trình tự tiến triển của cả bốn loại trí quán xét. “Sanh đã tận” và các câu tương tự, về ý nghĩa. Chính vì vậy, ở cuối, Ngài đã thực hiện bài thuyết giảng lấy cá nhân làm trọng tâm “đã biết,” vì trí quán xét không tiến triển như vậy. Biết rằng không có sự tái sinh, thì được gọi là biết “sanh đã tận.” “Trí về quá khứ, hiện tại và tương lai bằng thiên nhãn,” đã được nói vì trí về tương lai cũng dựa vào thiên nhãn.

Āsavakkhayañāṇakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về đề tài lậu tận trí đã kết thúc.

Upāsakattapaṭivedanākathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài tuyên bố làm cận sự nam

15. Kaṇṇasukhatohadayaṅgamatoti vacanameva sandhāya vuttaṃ. Anattukkaṃsanatotiādi puggalavasena, kaṇṇasukhatoti sotindriyaṃ sandhāya. Āpāthāramaṇīyatoti ñāṇāpāthāramaṇīyato. Sayameva heṭṭhāmukhajātaṃ vā, maggo pana asoko hoti. Tadā hi soko pahīyamāno. Cariyādianukūlato appaṭikūlaṃ. ‘‘Madhuramima’’nti vuttattā ‘‘dhammamima’’nti vacanaṃ adhikaṃ viya dissati. Tasmā ‘‘rāgavirāgamima’’nti evaṃ visuṃ visuṃ yojetvā puna piṇḍetvā dhammamimaṃ upehīti yojetabbaṃ, ‘‘dhammameva saraṇatthamupehī’’ti paṭhanti kirāti dīpeti. Saraṇagatānaṃ teneva saraṇagamanena bhayaṃ santāsaṃ duggatiṃ parikkilesaṃ dukkhaṃ hiṃsatīti ratanattayaṃ saraṇaṃ nāma. Tappasādataggarutādīhi vihatakileso tapparāyanatākārappavatto cittuppādo saraṇagamanaṃ. Taṃsamaṅgīsatto saraṇaṃ gacchati. Pabhedena pana duvidhaṃ saraṇagamanaṃ lokuttaraṃ lokiyanti. Tattha lokuttaraṃ diṭṭhasaccānaṃ maggakkhaṇe saraṇagamanupakkilesasamucchedena nibbānārammaṇaṃ hutvā kiccato sakalepi ratanattaye ijjhati. Lokiyaṃ puthujjanānaṃ saraṇagamanupakkilesaṃ tadaṅgavikkhambhanena ārammaṇato buddhādiguṇārammaṇaṃ hutvā ijjhati. Taṃ atthato ratanattaye saddhāpaṭilābho saddhāmūlikā ca sammādiṭṭhi. Lokuttarassa cattāri sāmaññaphalāni vipākaphalaṃ, sabbadukkhakkhayo ānisaṃsaphalaṃ. ‘‘Yo ca buddhañca dhammañca…pe… sabbadukkhā pamuccatī’’ti (dha. pa. 190-192) hi vuttaṃ. Lokiyassa bhavabhogasampadā. ‘‘Ye keci buddhaṃ saraṇaṃ gatāse’’ti (dī. ni. 2.332; saṃ. ni. 1.37) hi vuttaṃ. Lokiyasaraṇagamanaṃ tīsu vatthūsu aññāṇasaṃsayamicchāñāṇādīhi saṃkilissati, na mahājutikaṃ hoti, na mahāvipphāraṃ. Lokuttarassa natthi saṃkileso. Lokiyassa sāvajjo anavajjoti duvidho bhedo. Tattha aññasatthārādīsu attasanniyyātanādīhi sāvajjo hoti, so aniṭṭhaphalo. Anavajjo kālakiriyāya, so avipākattā aphalo. Lokuttarassa nevatthi bhedo. Bhavantarepi hi ariyasāvako aññaṃ satthāraṃ na uddisati. Yo koci saraṇagato gahaṭṭho upāsako. Ratanattayaupāsanato upāsako. Pañca veramaṇiyo sīlaṃ. Satthasattamaṃsamajjavisavāṇijjārahitaṃ dhammena jīvikaṃ ājīvo. Vuttasīlājīvavipatti vipatti nāma. Viparītā sampatti.
15. Do tai nghe êm dịu, do đi vào lòng người, đã được nói đến để chỉ chính lời nói. Do không tự đề cao và các lý do khác, theo cá nhân, do tai nghe êm dịu, để chỉ nhĩ căn. Do sự hấp dẫn của đối tượng tri thức, do sự hấp dẫn của đối tượng tri thức. Hoặc là chính nó đã trở nên cúi xuống, còn đạo thì không có sầu muộn. Bởi vì lúc đó sầu muộn đang được đoạn trừ. Do phù hợp với hạnh kiểm và các yếu tố khác, không trái ngược. Vì đã được nói “pháp ngọt ngào này,” nên lời nói “pháp này” có vẻ như thừa. Do đó, cần phải kết hợp riêng biệt như “sự ly tham ngọt ngào này” rồi lại gộp lại và kết hợp “hãy đến với pháp này.” Ngài làm sáng tỏ rằng người ta đọc “hãy đến với chính Pháp để nương tựa.” Vì Tam Bảo, bằng chính sự quy y đó, tiêu diệt sự sợ hãi, kinh hoàng, cảnh giới xấu, phiền não, khổ đau, tổn hại của những người đã quy y, nên được gọi là nơi nương tựa. Tâm sinh khởi, hướng đến mục tiêu đó, được thúc đẩy bởi sự phá tan phiền não bằng lòng tin, sự tôn kính và các yếu tố khác vào đó, là sự quy y. Chúng sinh có tâm đó quy y. Về mặt phân loại, sự quy y có hai loại: siêu thế và thế gian. Ở đó, sự quy y siêu thế của những người đã thấy chân lý, trong khoảnh khắc đạo, bằng cách tận diệt các phiền não phụ của sự quy y, lấy Niết-bàn làm đối tượng, thành tựu trong toàn bộ Tam Bảo về mặt hành động. Sự quy y thế gian của phàm phu, bằng cách trấn áp các phiền não phụ của sự quy y từng phần, lấy các phẩm chất của Phật và các vị khác làm đối tượng, thành tựu. Về mặt ý nghĩa, đó là sự chứng đắc lòng tin vào Tam Bảo và chánh kiến có lòng tin làm gốc. Quả của sự quy y siêu thế là bốn quả Sa-môn, quả vipāka là sự đoạn tận mọi khổ đau, quả ānisaṃsa. Bởi vì đã được nói: “Ai đã quy y Phật và Pháp… cho đến… sẽ được giải thoát khỏi mọi khổ đau” (dha. pa. 190-192). Quả của sự quy y thế gian là sự thành tựu về tài sản và sự tồn tại. Bởi vì đã được nói: “Những ai đã quy y Phật” (dī. ni. 2.332; saṃ. ni. 1.37). Sự quy y thế gian bị ô nhiễm bởi sự không biết, nghi ngờ, tà kiến và các yếu tố khác trong ba đối tượng, không có ánh sáng lớn, không có sự lan tỏa lớn. Sự quy y siêu thế không có sự ô nhiễm. Sự quy y thế gian có hai loại: có tội và không có tội. Ở đó, bằng cách tự hiến mình và các hành động khác cho các giáo chủ khác, nó trở thành có tội, và có quả không mong muốn. Loại không có tội là khi lâm chung, vì không có quả báo nên không có quả. Sự quy y siêu thế không có sự phân biệt. Bởi vì ngay cả trong kiếp sau, thánh đệ tử cũng không chỉ định một giáo chủ khác. Bất kỳ cư sĩ tại gia nào đã quy y là cận sự nam. Do phụng sự Tam Bảo nên là cận sự nam. Năm điều kiêng cữ là giới. Sinh kế bằng chánh pháp, không buôn bán vũ khí, chúng sinh, thịt, rượu và thuốc độc là chánh mạng. Sự vi phạm giới và chánh mạng đã nói là sự vi phạm. Ngược lại là sự thành tựu.

16. Lacchāma nu khoti duggate sandhāya vuttaṃ. Sakkhissāma nukho noti samiddhe sandhāya. Tattha verañjāyaṃ. Paggayhatīti pattaṃ paggaho, tena paggahena pattenāti attho. Samādāyevāti nidassanaṃ. Na ca vaṭṭatīti puna pākaṃ kiñcāpi vaṭṭati, tathāpi na suṭṭhu pakkattā vuttaṃ, ‘‘uttaṇḍulabhattaṃ labhitvāpi pidhetuṃ na vaṭṭatī’’ti aṭṭhakathāvacanañcettha sādhakaṃ. ‘‘Sāvakānaṃ vā sikkhāpadaṃ paññapessāmī’’ti iminā vacanena ājīvapārisuddhisīlaṃ sandhāya ‘‘pacchā sīla’’nti vuttaṃ. Upālittheropi taṃ taṃ vatthuṃ paṭicca bhagavatā bahūni sikkhāpadāni paññattāni atthīti dīpeti. Yadi evaṃ verañjāyaṃ ‘‘etassa bhagavā kālo’’ti vacanaṃ na sametīti ce? Na, tato pubbe sikkhāpadābhāvappasaṅgato. Thero pana paññattāni ṭhapetvā idāni paññapetabbāni pātimokkhuddesappahonakāni sandhāyāha. Bhagavāpi ‘‘na tāva sāriputta satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapetī’’ti bhaddālisutte (ma. ni. 2.134; ādayo) viya ekaccesu paññattesupi tato paraṃ paññapetabbāni sandhāyāha. Idheva aṭṭhakathāyaṃ ‘‘sāmampi pacanaṃ samaṇasāruppaṃ na hoti na ca vaṭṭatī’’ti vacanañca, tathā ‘‘ratticchedo vā vassacchedo vā’’tiādivacanāni ca atthi. Aññathā ‘‘dvīhākārehi buddhā bhagavanto bhikkhū paṭipucchantī’’ti idhevedaṃ pāḷiṭhapanaṃ virujjhatīti ācariyena vicāritaṃ, taṃ sundaraṃ pubbepi paññattasikkhāpadasambhavato. Kintu idha pāḷiṭhapanavirodhavicāraṇā pana nippayojanā viya mama dissati. Kasmā? Upālittherena saṅgītikāle vuttapāṭhattā. Ratticchedoti sattāhakiccaṃ sandhāya vutto. ‘‘Sattāhakaraṇīyena gantvā ratticchedo vā vassacchedo vā ekabhikkhunāpi na kato’’ti vuttaṃ kira mahāaṭṭhakathāyaṃ, tasmā vassacchedassa kāraṇe sati sattāhakiccaṃ kātuṃ vaṭṭatīti eke. Vinayadharā pana nicchanti, tasmā aṭṭhakathādhippāyo vīmaṃsitabbo, imāya verañjāyaṃ appicchatādipaṭipadāya pasannā. Sālīnaṃ vikati sālivikati.
16. Chúng ta có được không? Đã được nói đến để chỉ những người nghèo khó. Chúng ta có thể không? Đã được nói đến để chỉ những người giàu có. Ở đó, tại Verañjā. Được dâng lên là dâng lên bát, bằng cái bát đã được dâng lên đó, đó là ý nghĩa. Chính là ví dụ. Và không được phép, mặc dù việc nấu lại một lần nữa là được phép, nhưng đã được nói là không tốt vì đã được nấu kỹ. Lời nói trong Chú giải “sau khi nhận được cơm còn sống, cũng không được phép đậy lại” là bằng chứng ở đây. “Hoặc là Ta sẽ chế định học giới cho các đệ tử,” bằng lời nói này, đã được nói “giới sau này” để chỉ giới thanh tịnh về sinh kế. Trưởng lão Upāli cũng làm sáng tỏ rằng có nhiều học giới đã được Thế Tôn chế định tùy theo từng sự việc. Nếu vậy, câu nói “đây là thời điểm của Thế Tôn” tại Verañjā không phù hợp, phải không? Không, vì sẽ dẫn đến việc không có học giới trước đó. Còn Trưởng lão, sau khi đặt sang một bên các học giới đã được chế định, Ngài nói đến để chỉ những học giới cần được chế định bây giờ, những học giới đủ để tụng Giới Bổn. Thế Tôn cũng, giống như trong Kinh Bhaddāli (ma. ni. 2.134; trở đi), dù đã chế định một số học giới, Ngài vẫn nói “chưa đến lúc, Sāriputta, Bậc Đạo Sư chế định học giới cho các đệ tử” để chỉ những học giới sẽ được chế định sau đó. Trong Chú giải ở đây, cũng có những lời nói như “việc tự mình nấu nướng không phải là điều phù hợp với Sa-môn và không được phép,” và “hoặc là gián đoạn đêm, hoặc là gián đoạn mùa mưa” và các lời nói khác. Nếu không, việc đặt Pāḷi ở đây “chư Phật, Thế Tôn hỏi lại các Tỳ-khưu theo hai cách” sẽ mâu thuẫn. Vị Giáo thọ sư đã xem xét điều đó, điều đó là hay vì có sự tồn tại của các học giới đã được chế định trước đó. Nhưng việc xem xét sự mâu thuẫn của việc đặt Pāḷi ở đây có vẻ như vô ích đối với tôi. Tại sao? Vì đó là đoạn văn đã được nói bởi Trưởng lão Upāli trong khi kết tập kinh điển. Gián đoạn đêm, đã được nói để chỉ việc làm trong bảy ngày. Người ta nói rằng trong Đại Chú giải đã được nói: “bằng việc làm trong bảy ngày, việc gián đoạn đêm hoặc gián đoạn mùa mưa không được thực hiện bởi dù chỉ một Tỳ-khưu.” Do đó, một số người nói rằng khi có lý do để gián đoạn mùa mưa, thì được phép làm việc trong bảy ngày. Nhưng các vị trì Luật không đồng ý, do đó, ý định của Chú giải cần được xem xét. Hài lòng với sự thực hành ít ham muốn và các thực hành khác này tại Verañjā. Sự biến thể của gạo sālī là sự biến thể của gạo.

17-8. Upapannaphaloti bahuphalo. ‘‘Khuddaṃ madhu’’nti pāṭho. Theraṃ sīhanādaṃ nadāpetuṃ pucchīti iminā ācariyo yaṃ pubbe āṇāya ṭhitānaṃ sāvakānaṃ mahānubhāvatādassanaṃ ‘‘verañjāyaṃ nivāsappayojana’’nti amhehi vuttaṃ, taṃ sampādeti, rājagahe verañjāyañcāti ubhayattha vitakkuppāde ekato piṇḍetvā dassento ‘‘atha kho āyasmato sāriputtassā’’tiādimāha. Kālaṃ sandhāya ciraṃ, ṭhitiṃ sandhāya cirāti viggaho.
17-8. Quả đã sinh là có nhiều quả. Có đoạn văn “mật ong nhỏ.” Đã hỏi để làm cho trưởng lão rống lên tiếng rống sư tử, bằng điều này, vị Giáo thọ sư đã hoàn thành điều mà chúng tôi đã nói trước đây là “sự trình bày năng lực vĩ đại của các đệ tử tuân giữ mệnh lệnh” là “mục đích của việc cư trú tại Verañjā.” Ngài gộp lại và trình bày các ý nghĩ phát sinh ở cả hai nơi, Rājagaha và Verañjā, và nói “Bấy giờ, Tôn giả Sāriputta…” và các đoạn tiếp theo. Về thời gian là lâu dài, về sự tồn tại là lâu dài, là cách phân tích.

Kāmaṃ hinoti attano phalanibbattiyā sahāyaṃ gacchatīti kattari hetu, tathāpi idha tena karaṇabhūtena tassa phalaṃ hinoti pavattatīti hetu. Tathā ghaṭanti tenāti ghaṭo. Kilāsunoti payojanābhāvena avāvaṭā. Abbokiṇṇāni visabhāgehi. Āgāminiyā anāgateti attho. Imesaṃyeva noti dassanatthaṃ ‘‘sabbabuddhānaṃ hī’’ti vuttaṃ. Yāvasāsanapariyantāti yāva buddhā dharanti, tāvāti attho. Khattiyabrāhmaṇāva uccā, tatthāpi visesaṃ dassetuṃ ‘‘uccanīcauḷāruḷārabhogā’’ti. ‘‘Manasi katvā’’tipi pāṭho. Upasampādyaupasampādyaiccetaṃ dvayaṃ māgadhe ‘‘upasampajjā’’ti vuccati. Anupādāyāti ārammaṇakaraṇavasena aggahetvā. Āsavehīti kattari tatiyāvibhatti. Cittānīti paccattabahuvacanaṃ. Vimucciṃsūti kammakārake. Vimocitānīti adhippāyoti ācariyo. Āsavehīti padañca paccatte karaṇavacanaṃ katvā gaṇṭhipade attho pakāsito. Yadi ariyamaggena niruddhānaṃ āsavānaṃ vasena anāsavatā, loke cittānipi anāsavā siyuṃ. Na hi niruddhāni cittāni ārammaṇāni karontīti tāni aniruddhāsavavasena sāsavānīti ce. Sotāpannassa maggacittaṃ uparimaggavajjhāsavavasena sāsavaṃ, avasiṭṭhāsavasamucchindanānubhāvattā phalāni sāsavāni siyunti? Na, āsavasamucchindanānubhāvāgataphalattā. Bhiṃsanassa karaṇaṃ bhiṃsanakataṃ, tasmiṃ bhiṃsanakatasmiṃ, bhiṃsanakiriyāyāti attho. Itthiliṅgaṃ vipallāsaṃ katvā napuṃsakaliṅgaṃ, purisaliṅgaṃ vā katvā. Nimittattheti ettha –
Mặc dù trong chủ từ, nguyên nhân là, ham muốn dẫn đến, đi cùng với sự sinh khởi của quả của chính nó, nhưng ở đây, bằng công cụ đó, quả của nó dẫn đến, tiến triển, nên là nguyên nhân. Cũng vậy, người ta tạo ra bằng nó nên là cái nồi. Của những người lười biếng là không quan tâm vì không có mục đích. Những nơi không bị xen tạp bởi những thứ không đồng loại. Trong tương lai là trong tương lai, đó là ý nghĩa. Để trình bày rằng không phải chỉ của những vị này, Ngài đã nói “của tất cả các vị Phật.” Cho đến khi giáo pháp tồn tại là cho đến khi các vị Phật còn tại thế, đó là ý nghĩa. Chỉ có Sát-đế-lợi và Bà-la-môn là cao quý, để trình bày sự khác biệt ở đó, Ngài nói “những người có tài sản thấp, cao, thô, tinh.” Cũng có đoạn văn “sau khi tác ý.” Việc thọ cụ túc giới nhiều lần, cả hai điều này trong tiếng Māgadha được gọi là “upasampajjā.” Không nắm bắt là không nắm bắt theo cách làm đối tượng. Bởi các lậu hoặc là tam cách trong chủ từ. Các tâm là số nhiều trong đối cách. Đã được giải thoát trong tác động cách. Ý định là đã được giải thoát, theo vị Giáo thọ sư. Từ “bởi các lậu hoặc” cũng được làm thành công cụ cách trong đối cách, và ý nghĩa đã được làm sáng tỏ trong sách giải thích từ khó. Nếu sự không có lậu hoặc là do các lậu hoặc đã bị diệt trừ bởi thánh đạo, thì các tâm trong thế gian cũng sẽ là không có lậu hoặc. Bởi vì các tâm đã bị diệt trừ không lấy các đối tượng làm đối tượng, nếu nói rằng chúng là có lậu hoặc do các lậu hoặc chưa bị diệt trừ. Tâm đạo của bậc Dự lưu là có lậu hoặc do các lậu hoặc cần được đoạn trừ bởi các đạo cao hơn. Các quả sẽ là có lậu hoặc vì chúng có năng lực tận diệt các lậu hoặc còn lại, phải không? Không, vì chúng là quả đến từ năng lực tận diệt các lậu hoặc. Việc làm cho đáng sợ, trong cái đã được làm cho đáng sợ, trong hành động làm cho đáng sợ, đó là ý nghĩa. Sau khi đảo ngược giống cái và làm thành giống trung hoặc giống đực. Trong ý nghĩa mục đích, ở đây –

‘‘Cammani dīpinaṃ hanti, dantesu hanti kuñjaraṃ;
Vālesu cāmariṃ hanti, siṅgesu sarabho hato’’ti. –
“Giết con báo vì da, giết con voi vì ngà;
Giết con bò Tây Tạng vì lông, con tê giác bị giết vì sừng.” –

Adhikaraṇaṃ.
Vị trí cách.

20-21. Naciraṭṭhitikakāraṇe kathite ciraṭṭhitikakāraṇaṃ atthato vuttapaṭipakkhavasena kiñcāpi siddhaṃ, tathāpi taṃ therassa vinayapaññattiyācanāya okāsakāraṇādhippāyato vinayapaññattiyācanokāsaṃ pāpetuṃ puna bhagavantaṃ ‘‘ko pana, bhante, hetū’’ti pucchi. Bhagavāpi yācanaṃ sampaṭicchitukāmo byākāsi. ‘‘Āsavaṭṭhānīyā saṅghe pātubhavantī’’ti puggalassa saṅghapariyāpannattā vuttaṃ. Ādaratthavasenevettha dvikkhattuṃ vuttanti yasmā thero pubbe rājagahe, sampati verañjāyanti dvikkhattuṃ kāci, tasmā ādarena punappunaṃ yācayamānaṃ passitvā sayampi bhagavā ādareneva ‘‘āgamehi tvaṃ sāriputtā’’ti āha. Tenetaṃ dīpeti ‘‘mā tvaṃ punappunaṃ yācāhi, sampaṭicchitāva mayā te yācanā, pubbenanu tavayācanaṃ sampaṭicchatāva mayā ettake kāle ettakāni sikkhāpadāni paññattāni, na tāva me sāvakānaṃ āṇāpātimokkhuddesānujānanakālo sampatto, takkānumānavasena tayā ‘etassa bhagavā kālo’ti punappunaṃ niddisiyamānopi nesa so kālo, kintu tathāgatova tattha kālaṃ jānissatī’’ti. Yasmā pana ‘‘sikkhāpadapaññattikālato pabhuti āṇāpātimokkhameva uddisiyatī’’ti vuttaṃ, tasmā pātimokkhuddesappahonakasikkhāpadameva sandhāyāha. ‘‘Tatthāti sikkhāpadapaññattiyācanāpekkhaṃ bhummavacana’’nti ekameva padaṃ vuttaṃ tassā siddhiyā itarassa siddhito. ‘‘Sāvakānaṃ visayabhāvanti iminā mahāpadumattheravādo paṭikkhitto’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ, taṃ sundaraṃ viya. Sammukhe garahā. Parammukhe upavādo. ‘‘Na, bhikkhave, ūnadasavassena…pe… dukkaṭassā’’ti (mahāva. 75) idaṃ sikkhāpadaṃ bhagavā buddhattena dasavassiko hutvā paññapesi ūnadasavassikassa tassa tathā sikkhāpadapaññattiyā abhāvato. Na tadā atirekadasavassikova dasavassikānaṃ rattaññumahattappattito, tasmā taṃ sikkhāpadaṃ verañjāyaṃ vassāvāsato pubbe rājagahe eva paññattanti siddhaṃ, tasmiṃ siddhe siddhameva ‘‘yāva na saṅgho rattaññumahattaṃ pattoti vacanaṃ ito pubbe paṭhamayācanāyapi vutta’’nti. Aṭṭhakathāyampi rattaññumahattappattakāle ‘‘dve sikkhāpadānī’’ti gaṇanaparicchedavacanaṃ paṭhamayācanāya vuttavacanaṃ sandhāya vuttaṃ. Aññathā rattaññumahattappattakāle dve eva, na aññanti āpajjati.
20-21. Khi nguyên nhân cho sự tồn tại không lâu dài đã được nói, nguyên nhân cho sự tồn tại lâu dài, mặc dù đã được xác định về mặt ý nghĩa do là sự đối lập của điều đã được nói, nhưng để đạt được cơ hội thỉnh cầu chế định Luật, vị trưởng lão lại hỏi Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn, nguyên nhân là gì?” Thế Tôn cũng, muốn chấp nhận lời thỉnh cầu, đã giải thích. “Các pháp là nơi nương náu của lậu hoặc xuất hiện trong Tăng chúng,” đã được nói vì cá nhân thuộc về Tăng chúng. Đã được nói hai lần ở đây do ý nghĩa kính trọng, bởi vì trưởng lão đã làm hai lần, trước đây ở Rājagaha, bây giờ ở Verañjā, do đó, khi thấy Ngài thỉnh cầu nhiều lần với lòng kính trọng, chính Thế Tôn cũng đã nói với lòng kính trọng: “Hãy chờ đã, Sāriputta.” Bằng điều đó, Ngài làm sáng tỏ: “Ngươi đừng thỉnh cầu nhiều lần nữa, Ta đã chấp nhận lời thỉnh cầu của ngươi rồi. Trước đây, Ta đã chấp nhận lời thỉnh cầu của ngươi và đã chế định chừng ấy học giới trong chừng ấy thời gian. Chưa đến lúc Ta cho phép các đệ tử của Ta tụng Giới Bổn mệnh lệnh. Dù ngươi, bằng sự suy đoán, đã chỉ ra nhiều lần rằng ‘đây là thời điểm của Thế Tôn,’ nhưng đó không phải là thời điểm của họ, mà chính Như Lai sẽ tự biết thời điểm thích hợp ở đó.” Bởi vì đã được nói “từ thời điểm chế định học giới, chỉ tụng Giới Bổn mệnh lệnh,” do đó, Ngài nói đến để chỉ học giới đủ để tụng Giới Bổn. “Ở đó, là vị trí cách mong đợi lời thỉnh cầu chế định học giới,” chỉ một từ đã được nói. Do sự thành tựu của nó, sự thành tựu của cái kia cũng được xác định. “Là đối tượng của các đệ tử, bằng điều này, quan điểm của trưởng lão Mahāpaduma đã bị bác bỏ,” đã được nói trong Anugaṇṭhipada, điều đó có vẻ hay. Khiển trách trước mặt. Phỉ báng sau lưng. “Này các Tỳ-khưu, không được… với người chưa đủ mười tuổi… tội Tác Ác” (mahāva. 75), học giới này đã được Thế Tôn chế định sau khi đã thành Phật được mười năm, vì không có việc chế định học giới như vậy cho người chưa đủ mười tuổi. Lúc đó, không phải là người đã hơn mười tuổi, vì những người mười tuổi đã đạt được sự trưởng thành về tuổi hạ. Do đó, học giới đó đã được chế định chính tại Rājagaha trước khi an cư mùa mưa tại Verañjā, điều đó đã được xác định. Khi điều đó đã được xác định, thì điều “cho đến khi Tăng chúng đạt được sự trưởng thành về tuổi hạ, lời nói này cũng đã được nói trong lần thỉnh cầu đầu tiên trước đây” cũng đã được xác định. Trong Chú giải cũng vậy, lời nói phân định số lượng “hai học giới” vào thời điểm đạt được sự trưởng thành về tuổi hạ đã được nói đến để chỉ lời nói đã được nói trong lần thỉnh cầu đầu tiên. Nếu không, sẽ dẫn đến việc vào thời điểm đạt được sự trưởng thành về tuổi hạ chỉ có hai, không có gì khác.

‘‘Atha kho āyasmato sāriputtassā’’tiādimhi ayamādito paṭṭhāya atthavibhāvanā – ayaṃ kirāyasmā assajittherato paṭiladdhaṃ ekagāthāmattakaṃ dhammapariyāyaṃ nayasatasahassehi vivecento arahattaṃ patvā sāvakapāramīñāṇe ṭhito ‘‘aho vata mahānubhāvoyaṃ saddhammo, yo vināpi dhammasāminā parammukhato sutamattepi mayhaṃ mahantaṃ guṇavisesaṃ janesi, sādhu vatāyaṃ saddhammo ciraṃ tiṭṭheyyā’’ti cintento ‘‘katamesānaṃ nu kho buddhānaṃ bhagavantānaṃ…pe… na ciraṭṭhitika’’nti tamatthaṃ, kāraṇañca attano aggasāvakañāṇena paṭivijjhitvā ‘‘sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññattantiādiciraṭṭhitikāraṇa’’nti niṭṭhaṃ katvā vinayapaññattiyācanokāsakaraṇatthaṃ bhagavantaṃ pucchi. Tato pañhassa vissajjane vinayapaññattiyācanokāse sampatte ‘‘etassa bhagavā kālo, etassa sugata kālo’’ti vinayapaññattiṃ yāci. Tato bhagavā tassā yācanāya sampaṭicchitabhāvaṃ, ‘‘etassa bhagavā kālo’’ti vuttakālassa akālataṃ, kālassa ca anaññavisayataṃ dīpento ‘‘āgamehi tva’’ntiādimāha, tato bhagavā tassa yācanaṃ, sattesu kāruññatañca paṭicca ‘‘tena kho pana samayena bhikkhū anupajjhāyakā anācariyakā anovadiyamānā’’tiādinā (mahāva. 64) nayena vepullamahattataṃ paṭicca satthā sāvakānaṃ upajjhāyavattādīni vinayakammāni, tadanurūpasikkhāpadāni ca paññapesi. Tato anukkamena dvādasamavassaṃ verañjāyaṃ vasi. Tadā ca āyasmā sāriputto satthārā niddiṭṭhesu ciraṭṭhitihetūsu jātesu ‘‘navaṅgasatthusāsanamahattatā ca sampati jātā, vinayapaññatti ca bahutarā jātā, pātimokkhuddeso eveko na tāva sāvakānaṃ anuññāto, so ca parisuddhena saṅghena karīyati. Saṅghopi etarahi parisuddho pacchimakassa sotāpannattā’’ti cintetvā pātimokkhuddesaṃ anujānāpetukāmo yattakehi ca sikkhāpadehi pātimokkhuddeso anujānīyati, tattakānaṃ paññattiyācanapubbaṅgamaṃ pātimokkhuddesaṃ yācanto pubbuppannavitakkasūcanapucchāvissajjanakkamavasena yācanokāse sampatte ‘‘etassa bhagavā kālo’’tiādimāha.
Trong câu “Bấy giờ, Tôn giả Sāriputta…” và các đoạn tiếp theo, đây là sự giải thích ý nghĩa từ đầu – Tôn giả này, sau khi nhận được một bài kệ pháp duy nhất từ Trưởng lão Assaji, đã phân tích nó bằng hàng trăm ngàn phương pháp, đạt được quả A-la-hán, và đứng trong trí tuệ của vị thượng thủ đệ tử, đã suy nghĩ: “Ồ, diệu pháp này thật có năng lực vĩ đại, dù không có Bậc Đạo Sư, chỉ nghe từ người khác mà cũng đã tạo ra cho ta một phẩm chất đặc biệt lớn lao. Tốt thay, diệu pháp này hãy tồn tại lâu dài.” Sau khi suy nghĩ, Ngài đã thấu triệt được điều đó và nguyên nhân bằng trí tuệ của vị thượng thủ đệ tử của mình: “Các vị Phật, Thế Tôn nào… cho đến… không tồn tại lâu dài,” và đã đi đến kết luận rằng “việc chế định học giới cho các đệ tử và các nguyên nhân khác là nguyên nhân cho sự tồn tại lâu dài,” và đã hỏi Thế Tôn để tạo cơ hội thỉnh cầu chế định Luật. Sau đó, khi có cơ hội thỉnh cầu chế định Luật trong khi trả lời câu hỏi, Ngài đã thỉnh cầu chế định Luật: “Bạch Thế Tôn, đây là thời điểm, bạch Thiện Thệ, đây là thời điểm.” Sau đó, Thế Tôn, để làm sáng tỏ rằng lời thỉnh cầu của Ngài đã được chấp nhận, rằng thời điểm được nói “đây là thời điểm của Thế Tôn” là chưa phải thời điểm, và rằng thời điểm đó không phải là đối tượng của người khác, đã nói: “Hãy chờ đã, ngươi…” và các đoạn tiếp theo. Sau đó, Thế Tôn, do lời thỉnh cầu của Ngài và lòng từ bi đối với chúng sinh, đã chế định các nghi thức Luật như bổn phận của thầy Giáo Thọ Sư và các bổn phận khác cho các đệ tử, và các học giới phù hợp, do sự lớn mạnh và đông đảo, theo cách “bấy giờ các Tỳ-khưu không có thầy Giáo Thọ Sư, không có thầy hướng dẫn, không được chỉ bảo” và các cách khác (mahāva. 64). Sau đó, Ngài đã an cư năm thứ mười hai tại Verañjā. Lúc đó, Tôn giả Sāriputta, khi các nguyên nhân cho sự tồn tại lâu dài do Bậc Đạo Sư chỉ định đã sinh khởi, đã suy nghĩ: “sự lớn mạnh của giáo pháp chín phần của Bậc Đạo Sư bây giờ đã sinh khởi, và việc chế định Luật cũng đã nhiều hơn, chỉ có một việc là tụng Giới Bổn chưa được cho phép cho các đệ tử, và việc đó được thực hiện bởi Tăng chúng trong sạch. Tăng chúng bây giờ cũng trong sạch vì người cuối cùng cũng đã là bậc Dự lưu,” và muốn xin phép tụng Giới Bổn. Khi có cơ hội thỉnh cầu, theo trình tự hỏi và đáp để gợi ý về ý nghĩ đã sinh khởi trước đó, đối với bao nhiêu học giới mà việc tụng Giới Bổn được cho phép, Ngài đã nói “đây là thời điểm của Thế Tôn” và các đoạn tiếp theo, trước hết là thỉnh cầu chế định bấy nhiêu học giới.

Tattha ‘‘yaṃ bhagavā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeyyā’’ti pātimokkhuddesappahonakasikkhāpadaṃ sandhāyāha, ayamattho bhaddālisuttena (ma. ni. 2.134 ādayo) dīpetabbo . Tattha hi bahūsu sikkhāpadesu paññattesu, paññapiyamānesu ca ‘‘na tāva bhaddāli satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapetī’’tiādi (ma. ni. 2.145) vuttaṃ apaññattaṃ upādāya, tathā idhāpi apaññattaṃ sandhāya vuttanti veditabbaṃ. Parisuddhattā saṅghassa sampati sāvakānaṃ āṇāpātimokkhuddesaṃ nānujānāmīti dassento ‘‘nirabbudo’’tiādimāha. Na hi parisuddhe saṅghe ovādapātimokkhuddesassa anuddesakāraṇaṃ atthi, tasmiṃ sati āṇāpātimokkhuddesānujānanādhippāyato. Tathā ca so tato aṭṭhannaṃvassānaṃ accayena anuññāto. Yathāha pātimokkhaṭhapanakkhandhake (cūḷava. 386) ‘‘na dānāhaṃ, bhikkhave, ito paraṃ uposathaṃ karissāmi…pe… pātimokkhaṃ uddiseyyāthā’’ti. Yaṃ pana upasampadakkhandhake (mahāva. 129) ‘‘tena kho pana samayena bhikkhū aññataraṃ bhikkhuṃ upasampādetvā ekakaṃ ohāya pakkamiṃsu…pe… so tassā methunaṃ dhammaṃ paṭisevitvā cirena agamāsī’’ti vatthu āgataṃ, taṃ sudinnavatthuto parato uppannampi tattha yathādhikāraṃ samodhānetuṃ vuttaṃ. Tathā tattheva ‘‘ubhayāni kho panassa pātimokkhāni vitthārena svāgatāni hontī’’tiādinā (pāci. 147; a. ni. 8.52; 10.33) aṅgānipi veditabbāni. Na hi ādito eva ubhatopātimokkhāni siddhānīti. Apica ādito paṭṭhāya ayamanukkamo veditabbo, seyyathidaṃ – rāhulakumāre uppanne bodhisatto nikkhamitvā chabbassāni dukkaraṃ katvā sattame abhisambuddho, tasmiṃ eva saṃvacchare kapilavatthuṃ gantvā rāhulakumāraṃ pabbājesi. Ambalaṭṭhikarāhulovādasuttaṭṭhakathāyaṃ (ma. ni. aṭṭha. 2.107 ādayo) ‘‘ayañhi āyasmā sattavassikakāle bhagavantaṃ cīvarakaṇṇe gahetvā ‘dāyajjaṃ me samaṇa dehi, dāyajjaṃ me samaṇa dehī’ti dāyajjaṃ yācamāno bhagavatā dhammasenāpatisāriputtattherassa niyyādetvā pabbājito’’ti ca vuttaṃ, tasmā rāhulakumāraṃ ārabbha ‘‘anujānāmi, bhikkhave, tīhi saraṇagamanehi sāmaṇerapabbajja’’nti (mahāva. 105) vuttattā saraṇagamanūpasampadā paṭhamavassabbhantare eva paṭikkhittā, ñatticatutthakammavasena upasampadā anuññātāti paññāyati. Apica rāhulavatthumhi ‘‘na, bhikkhave, ananuññāto mātāpitūhi putto pabbājetabbo, yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 105) sikkhāpadaṃ paññattaṃ, tasmā ito pubbepi sikkhāpadāni paññattānīti siddhaṃ.
Ở đó, “việc Thế Tôn chế định học giới cho các đệ tử,” Ngài nói đến để chỉ học giới đủ để tụng Giới Bổn. Ý nghĩa này cần được làm sáng tỏ bằng Kinh Bhaddāli (ma. ni. 2.134 trở đi). Bởi vì ở đó, khi nhiều học giới đã được chế định và đang được chế định, đã được nói: “chưa đến lúc, Bhaddāli, Bậc Đạo Sư chế định học giới cho các đệ tử” và các đoạn tiếp theo (ma. ni. 2.145) để chỉ những gì chưa được chế định. Cũng vậy, ở đây, cần phải biết rằng đã được nói đến để chỉ những gì chưa được chế định. Để trình bày rằng bây giờ Ta không cho phép tụng Giới Bổn mệnh lệnh cho các đệ tử vì Tăng chúng trong sạch, Ngài đã nói “không có mụn nhọt” và các đoạn tiếp theo. Bởi vì trong Tăng chúng trong sạch, không có lý do gì để không tụng Giới Bổn khuyên bảo. Khi có điều đó, với ý định cho phép tụng Giới Bổn mệnh lệnh. Và như vậy, nó đã được cho phép sau tám năm. Như Ngài đã nói trong Phẩm Đặt Giới Bổn (cūḷava. 386): “Từ nay về sau, này các Tỳ-khưu, Ta sẽ không làm lễ Bố-tát… cho đến… các con hãy tụng Giới Bổn.” Còn sự việc đã xảy ra trong Phẩm Thọ Cụ Túc Giới (mahāva. 129): “Bấy giờ các Tỳ-khưu, sau khi thọ cụ túc giới cho một Tỳ-khưu nào đó, đã bỏ đi một mình… cho đến… vị ấy, sau khi thực hành pháp dâm dục đó, đã đến sau một thời gian dài,” mặc dù xảy ra sau sự việc của Sudinna, đã được nói để kết hợp theo quyền hạn ở đó. Cũng vậy, ở chính đó, cần phải biết các phần bằng câu “cả hai Giới Bổn của vị ấy đều được học thuộc lòng một cách chi tiết” và các câu tương tự (pāci. 147; a. ni. 8.52; 10.33). Bởi vì không phải ngay từ đầu cả hai Giới Bổn đều đã được hoàn thành. Hơn nữa, cần phải biết trình tự này từ đầu, đó là – khi hoàng tử Rāhula sinh ra, Bồ-tát đã xuất gia, thực hành khổ hạnh trong sáu năm và thành Phật vào năm thứ bảy. Trong chính năm đó, Ngài đã đến Kapilavatthu và cho hoàng tử Rāhula xuất gia. Trong Chú giải Kinh Ambalaṭṭhikarāhulovāda (ma. ni. aṭṭha. 2.107 trở đi), đã được nói: “Tôn giả này, khi mới bảy tuổi, đã nắm lấy gấu y của Thế Tôn và xin thừa kế: ‘Sa-môn, hãy cho con thừa kế, Sa-môn, hãy cho con thừa kế,’ và đã được Thế Tôn giao cho Trưởng lão Sāriputta, vị tướng quân của Pháp, và cho xuất gia.” Do đó, liên quan đến hoàng tử Rāhula, vì đã được nói “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xuất gia Sa-di bằng ba lần quy y” (mahāva. 105), nên có thể thấy rằng việc thọ cụ túc giới bằng quy y đã bị bác bỏ ngay trong năm đầu tiên, và việc thọ cụ túc giới bằng Tăng sự tứ phần đã được cho phép. Hơn nữa, trong vụ việc của Rāhula, đã được chế định học giới: “Này các Tỳ-khưu, không được cho con trai xuất gia khi chưa được cha mẹ cho phép. Ai cho xuất gia, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 105). Do đó, việc các học giới đã được chế định trước đó cũng đã được xác định.

Sutvā ca yo hetunirodhamaggaṃ,
Nirodhupāyaṃ paṭivijjhi khippaṃ;
Jātovapekkhena asesametaṃ,
Lokaṃ vipassī sugataggasisso.
Và người đã nghe đạo diệt trừ nguyên nhân,
Đã nhanh chóng thấu triệt phương pháp diệt trừ;
Với sự quan tâm đến sự sinh, vị ấy đã thấy toàn bộ
Thế gian này, là vị thượng thủ đệ tử của Thiện Thệ.

So dhammasenāpati aggasisso,
Saddhammarājassa tathāgatassa;
Sayaṃ munindena yasassa patto,
Anekaso soḷasadhā pasattho.
Vị ấy là tướng quân của Pháp, là vị thượng thủ đệ tử,
Của Vua Pháp, của Như Lai;
Đã đạt được danh tiếng do chính Bậc Mâu-ni,
Đã được tán thán mười sáu lần theo nhiều cách.

Tasmā hi sikkhāpadabandhakālo,
Ñātumpi loke atibhāriyova;
Pageva sikkhāpadabhāvabhedo,
Pageva añño ubhayattha tattha.
Do đó, thời điểm ràng buộc học giới,
Thật là quá khó để biết được trong thế gian;
Huống chi là sự khác biệt về bản chất của học giới,
Huống chi là sự khác biệt khác ở cả hai nơi.

Paccekabuddhā api taṃ dvayantu,
Ñātuṃ na sakkāva pageva netuṃ;
Nissaṃsayaṃ tattha tathāgatova,
Jānissaticcāha tathāgatoti.
Ngay cả các vị Phật Độc Giác cũng vậy, cả hai điều đó,
Không thể biết được, huống chi là dẫn dắt;
Không nghi ngờ gì, ở đó chỉ có Như Lai,
Sẽ biết, Như Lai đã nói như vậy.

Iccetamatthaṃ idha bhikkhu ñatvā,
Sikkhāpadānaṃ kamabhāvabhedaṃ;
Ñātuṃ sayaṃ no na pare ca netuṃ,
Pariyesitabbo idha yuttimaggo.
Vị Tỳ-khưu ở đây, sau khi biết ý nghĩa này,
Sự khác biệt về trình tự và bản chất của các học giới;
Không thể tự mình biết, cũng không thể dẫn dắt người khác,
Nên tìm kiếm con đường hợp lý ở đây.

Tattha kamabhedo sikkhāpadānaṃ parato āvi bhavissati. Bhāvabhedo tāva ukkhittakānuvattanapaccayā bhikkhu anāpattiko, bhikkhunī pana samanubhaṭṭhā pārājikā hoti. Pārājikāpattipaṭicchādane bhikkhussa dukkaṭaṃ, bhikkhuniyā pārājikaṃ. Duṭṭhullaṃ ārocentassa, paṭicchādentassa ca pācittiyaṃ. Mahāsāvajjaṃ pārājikaṃ ārocentassa, paṭicchādentassa ca bhikkhussa dukkaṭaṃ. Iccevamādīhi abhāvabhedasikkhāpadānaṃ idha bhāvabhedena yuttipariyesanaṃ sādhayamānopi siyā anummādavighātabhāgīti. Ettāvatā sakalassapi vinayapiṭakassa vitakkayācanakālakālaññūkāraṇaphalapayojanehi sattahi aṅgehi paṭimaṇḍitaṃ nidānamāyasmatā upālittherena nidassitaṃ hoti. Tattha therassa vinayapaññattiyācanahetubhūto vitakko nāma. Tasseva ‘‘etassa bhagavā kālo’’tiādinā pavattā yācanā nāma. Rattaññūvepullalābhaggabāhusaccamahattappatti kālo nāma. Sabbaññū eva kālaññū nāma. Āsavaṭṭhānīyānaṃ dhammānaṃ pātubhāvo kāraṇaṃ nāma. ‘‘Tesaṃyeva āsavaṭṭhānīyānaṃ dhammānaṃ paṭighātāyā’’ti Nino āsavaṭṭhānīyadhammapaṭighāto phalaṃ nāma. ‘‘Yathayidaṃ brahmacariyaṃ addhaniyaṃ assā’’ti Nino sāsanabrahmacariyassa ciraṭṭhiti payojananti veditabbaṃ. Hoti cettha –
Ở đó, sự khác biệt về trình tự của các học giới sẽ trở nên rõ ràng ở phần sau. Còn sự khác biệt về bản chất, do duyên theo kẻ bị trục xuất, Tỳ-khưu không phạm tội, nhưng Tỳ-khưu-ni, nếu bị xúi giục, sẽ phạm tội Bất Cộng Trụ. Trong việc che giấu tội Bất Cộng Trụ, Tỳ-khưu phạm tội Tác Ác, Tỳ-khưu-ni phạm tội Bất Cộng Trụ. Người tố cáo và người che giấu tội Trọng Tội phạm tội Ưng Đối Trị. Người tố cáo và người che giấu tội Bất Cộng Trụ, là tội rất nặng, Tỳ-khưu phạm tội Tác Ác. Bằng những điều này và các điều khác, ngay cả khi cố gắng chứng minh sự tìm kiếm hợp lý bằng sự khác biệt về bản chất của các học giới không có sự khác biệt về bản chất ở đây, cũng có thể trở thành người bị điên loạn và tổn hại. Bằng chừng ấy, Tôn giả Upālitthera đã trình bày duyên khởi, được trang điểm bằng bảy phần: suy tư, thỉnh cầu, thời điểm, người biết thời điểm, nguyên nhân, quả và mục đích, của toàn bộ Tạng Luật. Ở đó, suy tư là nguyên nhân cho việc thỉnh cầu chế định Luật của trưởng lão. Chính việc thỉnh cầu của Ngài, bắt đầu bằng “đây là thời điểm của Thế Tôn” và các đoạn tiếp theo, được gọi là sự thỉnh cầu. Sự đạt được sự trưởng thành về tuổi hạ, sự đông đảo, sự đệ nhất về lợi lộc và sự đa văn được gọi là thời điểm. Chính bậc toàn giác được gọi là người biết thời điểm. Sự xuất hiện của các pháp là nơi nương náu của lậu hoặc được gọi là nguyên nhân. “Để ngăn chặn chính các pháp là nơi nương náu của lậu hoặc đó,” sự ngăn chặn các pháp là nơi nương náu của lậu hoặc được gọi là quả. “Để cho phạm hạnh này được tồn tại lâu dài,” sự tồn tại lâu dài của phạm hạnh của giáo pháp, cần phải biết là mục đích. Và ở đây có câu:

‘‘Vitakko yācanā kālo, kālaññū kāraṇaṃ phalaṃ;
Payojananti sattaṅgaṃ, nidānaṃ vinayassidhā’’ti.
“Suy tư, thỉnh cầu, thời điểm, người biết thời điểm, nguyên nhân, quả;
Và mục đích là bảy phần, là duyên khởi của Luật ở đây.”

22. Antimamaṇḍalanti abbhantaramaṇḍalaṃ. Tañhi itaresaṃ anto hoti, khuddakamaṇḍalaṃ vā. Anumatidānavasena tesaṃ bhikkhūnaṃ datvā. Tesaṃ buddhānaṃ cārikāya vinetabbā veneyyasattā. Ocinantā viyāti bahupupphaṃ gacchaṃ mālākārā ciraṃ ocinanti, evaṃ bahuveneyyesu gāmādīsu ciraṃ vasantā veneyyapuññaṃ pariharantā caranti. Santaṃ sukhaṃ, na vedanāsukhaṃ viya saparipphandaṃ. Dasasahassacakkavāḷeti devānaṃ vasena vuttaṃ. Manussā pana imasmiṃyeva cakkavāḷe bodhaneyyā uppajjanti. Mahākaruṇāya dhuvaṃ sattasamavalokanaṃ. Otiṇṇeti parisamajjhaṃ āgate, ārocite vā. Yena kāraṇena mayaṃ tumhākaṃ deyyadhammaṃ dadeyyāma, taṃ kuto sakkā laddhuṃ. Bahukiccā hi gharāvāsāti. Dutiyavikappe tanti deyyadhammaṃ. ‘‘Tumhehi taṃ kuto laddhā’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ. Keci pana ‘‘paṭhamaṃ kiriyaṃ pekkhati, dutiyaṃ deyyadhamma’’nti vadanti. Ācariyo pana ‘‘paṭhamayojanāya yaṃ dānapuññaṃ, taṃ kuto labbhā. Puññantarāyabahulā hi gharāvāsāti. Dutiyayojanāya temāsabbhantare yamahaṃ dadeyyaṃ, atikkantakālattā tamahaṃ sampati kuto dadeyyanti dassetī’’ti vadati. Sīlādikusaladhammasandassanādidhammaratanavassaṃ.
22. Vòng trong cùng là vòng trong. Bởi vì nó ở bên trong các vòng khác, hoặc là vòng nhỏ. Sau khi cho phép các Tỳ-khưu đó bằng cách ban cho sự đồng ý. Các chúng sinh có thể được giáo hóa bằng chuyến du hành của các vị Phật đó. Giống như đang hái, những người làm vòng hoa hái nhiều hoa trong một thời gian dài. Cũng vậy, khi ở lâu trong các làng mạc và các nơi khác có nhiều chúng sinh có thể được giáo hóa, họ đi du hành, mang theo công đức của chúng sinh có thể được giáo hóa. Hạnh phúc yên tĩnh, không phải là hạnh phúc xao động như lạc thọ. Trong mười ngàn vũ trụ, đã được nói theo quan điểm của chư Thiên. Còn loài người chỉ sinh ra trong vũ trụ này để được giáo hóa. Việc quan sát chúng sinh bằng lòng đại bi là chắc chắn. Khi đã đến là khi đã đến giữa Tăng chúng, hoặc khi đã được báo cáo. Làm sao có thể có được lý do để chúng tôi cúng dường vật phẩm cho các ngài? Bởi vì những người tại gia có nhiều việc. Trong giả thuyết thứ hai, đó là vật phẩm cúng dường. “Các ngài đã nhận được nó từ đâu?” đã được nói trong Anugaṇṭhipada. Một số người lại nói: “trước hết là nhìn vào hành động, thứ hai là vật phẩm cúng dường.” Còn vị Giáo thọ sư nói: “trong cách giải thích đầu tiên, công đức bố thí đó, từ đâu mà có được? Bởi vì những người tại gia có nhiều trở ngại cho công đức. Trong cách giải thích thứ hai, trong ba tháng, cái mà tôi sẽ cúng dường, vì đã qua thời gian, bây giờ tôi từ đâu mà cúng dường?” Cơn mưa pháp bảo là việc thấy các pháp thiện như giới và các pháp khác.

23. Pattuṇṇadese pattuṇṇaṃ paṭavaraṃ. Mahāyāganti mahādānaṃ. Paripuṇṇasaṅkappanti temāsaṃ sotabbaṃ ajja suṇinti.
23. Ở vùng Pattuṇṇa, (vải) len pattuṇṇa là loại vải tốt nhất. Đại tế lễ là đại bố thí. Ý nguyện viên mãn là hôm nay nghe được điều cần phải nghe trong ba tháng.

Tatridanti idaṃ kāraṇaṃ.
Ở đây là nguyên nhân này.

Upāli dāsakoti ācariyaparamparato. Bāhirabbhantaranidānaṃ, sikkhāpadānaṃ paññattiṭṭhānasaṅkhātaṃ āveṇikanidānañca sandhāyāha ‘‘nidānassa pabhedadīpanato’’ti. Theravādādi vatthuppabhedo. Sakāya paṭiññāya mettiyaṃ bhikkhuniṃ nāsethātiādi parasamayavivajjanatotiādi. Vibhaṅganayabhedadassanatoti tisso itthiyo bhūmaṭṭhaṃ thalaṭṭhantiādi. Etthāha – kiṃ bhagavato mārāvaṭṭanapaṭighātāya satti natthīti? Atthi, tathāpissa pacchā upaguttakāle pasādahetuttā adhivāseti. Ettha upaguttādhiṭṭhānaṃ vattabbaṃ. Buddhānaṃ āciṇṇanti dijadassanena kiṃpayojananti ce? Mārāvaṭṭanahetu brāhmaṇassa puññantarāyoti payojanaṃ.
Upāli Dāsaka, theo truyền thống của các vị Giáo thọ sư. Ngài nói đến để chỉ duyên khởi bên ngoài và bên trong, và duyên khởi riêng, được gọi là nơi chế định của các học giới, “do sự trình bày sự phân loại của duyên khởi.” Sự phân loại của sự việc như Thera-vāda và các truyền thống khác. Do sự bác bỏ các quan điểm khác như “hãy giết Tỳ-khưu-ni Mettiyā theo lời hứa của mình” và các quan điểm khác. Do sự trình bày sự khác biệt về cách phân tích như ba người phụ nữ, người ở trên mặt đất, người ở trên cạn và các trường hợp khác. Vị ấy nói ở đây – chẳng phải Thế Tôn không có năng lực để ngăn chặn sự quấy rối của Ma sao? Có, nhưng Ngài đã chấp nhận vì đó là nguyên nhân cho lòng tin sau này vào thời của Upagutta. Ở đây, cần phải nói về sự xác quyết của Upagutta. Có mục đích gì trong việc thấy con chim, là điều đã quen thuộc với các vị Phật, nếu hỏi? Mục đích là sự quấy rối của Ma là trở ngại cho công đức của Bà-la-môn.

Dijopi so māramanorathassa,
Bhaṅgaṃ karonto jinapuṅgavassa;
Sassissasaṅghassa adāsi dānaṃ,
Asesakaṃ kappiyabhaṇḍabhedaṃ.
Con chim đó cũng vậy, làm tan vỡ ước muốn của Ma,
Của Bậc Tối Thắng;
Đã cúng dường cho Tăng chúng có đệ tử,
Tất cả các loại vật phẩm cúng dường.

Kiṃ bhagavā sasisso tāva mahantaṃ kappiyabhaṇḍaṃ ubbhaṇḍikaṃ katvā agamāsīti? Na agamāsi, temāsibhāgiyaṃ pana puññarāsikaṃ deyyadhammaṃ appaṭikkhipanto brāhmaṇassa upāyato satthā adāsi.
Chẳng phải Thế Tôn và các đệ tử đã mang theo một lượng lớn vật phẩm cúng dường như vậy đi sao? Không, Ngài không mang đi. Nhưng để không từ chối vật phẩm cúng dường, là công đức tích lũy trong ba tháng, Bậc Đạo Sư đã ban cho Bà-la-môn một cách khéo léo.

Tadaññathā māramanorathova,
Pūro siyā neva dijassa bhiyyo;
Pāpaṃ mahantaṃ api pāpuṇeyya,
Micchābhimānena tathāgate so.
Nếu không, ước muốn của Ma,
Sẽ được thỏa mãn, và đối với con chim thì không;
Nó cũng sẽ phải chịu tội lớn,
Do có tà kiến đối với Như Lai.

Tasmā bhagavā assādiyanto taṃ deyyadhammaṃ appaṭikkhipanto upāyena brāhmaṇassa puññabuddhiṃ katvā, mārassa ca manorathavighātaṃ katvā agamāsīti, ‘‘ayaṃ nayo aṭṭhakathaṃ vināpi pāḷinayānulomato siddho’’ti vadanti. Kathaṃ? –
Do đó, Thế Tôn, không thưởng thức vật phẩm cúng dường đó, không từ chối nó, đã khéo léo tạo ra trí tuệ công đức cho Bà-la-môn, và đã làm tan vỡ ước muốn của Ma và ra đi. Người ta nói rằng: “cách này, ngay cả không có Chú giải, cũng đã được xác định theo cách của Pāḷi.” Như thế nào? –

‘‘Satthā sasisso yadi aggahesi,
Dijassa taṃ cīvaramāditova;
Nāthassa no vīsativassakāle,
Virujjhate jīvakayācanāpi;
Tathāpi sabbaṃ suvicārayitvā,
Yuttaṃ nayaṃ cintayituṃva yutta’’nti.
“Nếu Bậc Đạo Sư và các đệ tử đã nhận,
Y phục đó của con chim ngay từ đầu;
Thì lời thỉnh cầu của Jīvaka vào năm thứ hai mươi,
Của Bậc Lãnh Đạo của chúng ta cũng sẽ không mâu thuẫn;
Tuy nhiên, sau khi xem xét kỹ lưỡng mọi thứ,
Thì nên suy nghĩ về cách hợp lý.”

Idāni āyasmā upālitthero vinayapaññattiyā sādhāraṇanidānaṃ dassetvā sikkhāpadānaṃ pāṭekkaṃ paññattiṭṭhānasaṅkhātaṃ nidānamādiṃ katvā puggalapaññattianupaññattivibhāgāpattibhedantarāpattiādikaṃ nānappakāraṃ vidhiṃ nijjaṭaṃ niggumbaṃ katvā dassetuṃ ‘‘atha kho bhagavā verañjāyaṃ yathābhirantaṃ viharitvā’’tiādimāhāti. Idha ṭhatvā –
Bây giờ, Tôn giả Upālitthero, sau khi trình bày duyên khởi chung của việc chế định Luật, để trình bày các phương pháp khác nhau như duyên khởi, được gọi là nơi chế định riêng của các học giới, làm đầu, và các sự phân loại như chế định cá nhân, chế định bổ sung, sự khác biệt về tội, tội phụ và các vấn đề khác, một cách không rối rắm, không rậm rạp, đã nói: “Bấy giờ Thế Tôn, sau khi ngự tại Verañjā theo ý muốn…” và các đoạn tiếp theo. Đứng ở đây –

Sikkhāpadāna sabbesaṃ, kamabhedaṃ pakāsaye;
Tasmiṃ siddhe nidānānaṃ, kamasiddhi yato bhave.
Hãy trình bày sự khác biệt về trình tự, của tất cả các học giới;
Khi điều đó đã được xác định, sự xác định về trình tự của các duyên khởi sẽ có.

Tattha sabbasikkhāpadānaṃ yathāsambhavaṃ desanākkamo pahānakkamo paṭipattikkamo uppattikkamoti catubbidho kamo labbhati. Tattha bhagavatā rājagahe bhikkhūnaṃ pātimokkhuddesaṃ anujānantena pātimokkhuddesassa yo desanākkamo anuññāto, taṃ desanākkamamanulomento āyasmā mahākassapo paṭhamaṃ pārājikuddesaṃ pucchi, tadanantaraṃ saṅghādisesuddesaṃ, tato aniyatuddesaṃ vitthāruddesañca pucchitvā tadanantaraṃ bhikkhunīvibhaṅgañca teneva anukkamena pucchi, nidānuddesantogadhānañca sarūpena anuddiṭṭhānaṃ pucchanatthaṃ khandhakepi pucchi. Etena ca khandhake paññattā thullaccayā saṅgahitā honti. Pucchitānukkameneva upālitthero taṃ sabbaṃ sāpattibhedādikaṃ desento thullaccayadubbhāsitaāpattisamuṭṭhānādidīpakaṃ antokatvā desesi, ayamettha desanākkamo. Ubhatovibhaṅgakhandhakato pana uccinitvā tadā parivārapāḷi visuṃ katā. Imameva nayaṃ sandhāya aṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ ‘‘eteneva upāyena khandhakaparivārepi āropesu’’ntiādi (pārā. aṭṭha. 1.paṭhamamahāsaṅgītikathā). Apica pāḷiyā ‘‘etenevupāyena ubhatovinaye pucchi. Puṭṭho puṭṭho āyasmā upāli vissajjesī’’ti ettakameva vuttaṃ, tasmā mahākassapo ubhatovibhaṅge eva pucchi. Vissajjento pana āyasmā upāli nivarasesaṃ desento khandhakaparivāre antokatvā desesi. Tadā ca khandhakaparivārapāḷi visuṃ katāti ayaṃ desanākkamo. Yadi evaṃ nidānuddeso paṭhamaṃ desetabboti ce? Na, tadasambhavato. So hi ‘‘yassa siyā āpattī’’tiādinā (mahāva. 134) nayena pavattattā paṭhamaṃ sikkhāpadasaṅgahitāsu āpattīsu adassitāsu na sambhavati. ‘‘Yāni mayā bhikkhūnaṃ paññattāni sikkhāpadāni, tāni nesaṃ pātimokkhuddesaṃ anujāneyya’’nti Nino sikkhāpadāneva paṭhamaṃ desetabbānīti pārājikuddesakkamo sambhavati.
Ở đó, có bốn loại trình tự được chấp nhận đối với tất cả các học giới theo khả năng: trình tự thuyết giảng, trình tự đoạn trừ, trình tự thực hành và trình tự sinh khởi. Ở đó, Tôn giả Mahākassapo, khi Thế Tôn tại Rājagaha cho phép các Tỳ-khưu tụng Giới Bổn, đã tuân theo trình tự thuyết giảng của việc tụng Giới Bổn đã được cho phép, và đã hỏi trước hết về phần Bất Cộng Trụ, sau đó là phần Tăng Tàn, rồi đến phần Bất Định và phần Chi Tiết, và sau đó đã hỏi về phần phân tích của Tỳ-khưu-ni cũng theo trình tự đó. Để hỏi về những điều chưa được trình bày về bản chất nhưng nằm trong phần Duyên khởi, Ngài cũng đã hỏi về Các phẩm Luật. Bằng điều này, các tội Trọng Tội được chế định trong Các phẩm Luật cũng được bao gồm. Trưởng lão Upāli, khi thuyết giảng tất cả những điều đó theo trình tự được hỏi, đã bao gồm cả việc làm sáng tỏ các nguồn gốc của tội Trọng Tội và tội nói lời không hay. Đây là trình tự thuyết giảng ở đây. Còn từ phần phân tích của cả hai và Các phẩm Luật, Parivārapāḷi đã được tách ra vào lúc đó. Chính để chỉ cách này, trong Chú giải đã được nói: “bằng cách này, họ đã đưa cả Các phẩm Luật và Parivāra vào” và các đoạn tiếp theo (pārā. aṭṭha. 1.paṭhamamahāsaṅgītikathā). Hơn nữa, trong Pāḷi, chỉ có chừng ấy được nói: “bằng cách này, Ngài đã hỏi về cả hai Luật. Khi được hỏi, Tôn giả Upāli đã trả lời.” Do đó, Mahākassapa chỉ hỏi về cả hai phần phân tích. Còn khi trả lời, Tôn giả Upāli, khi thuyết giảng phần còn lại, đã bao gồm cả Các phẩm Luật và Parivāra. Và lúc đó, Parivārapāḷi đã được tách ra. Đây là trình tự thuyết giảng. Nếu vậy, phần Duyên khởi phải được thuyết giảng trước, phải không? Không, vì không thể có. Bởi vì nó tiến triển theo cách “ai có thể phạm tội” và các cách khác (mahāva. 134), nên không thể có nếu trước hết không trình bày các tội được bao gồm trong học giới. “Những học giới mà Ta đã chế định cho các Tỳ-khưu, các con hãy cho phép họ tụng Giới Bổn đó,” theo đó, chính các học giới phải được thuyết giảng trước, nên trình tự của phần Bất Cộng Trụ là có thể có.

Pārājikuddesādisaṅgahitānaṃ āpattiakusalānaṃ yathoḷārikakkamena pahātabbattā pahānakkamopettha sambhavati. Upasampannasamanantaraṃ ‘‘tāvadeva cattāri akaraṇīyāni ācikkhitabbānī’’ti (mahāva. 129) Nino ‘‘samādāya sikkhati sikkhāpadesū’’ti (dī. ni. 1.193) Nino ca yathā garukaṃ ācikkhaṇaṃ sikkhanena paṭipattikkamopettha sambhavati, evamimehi tīhi kamehi desetabbānampetesaṃ sikkhāpadānaṃ yathāsambhavaṃ uppattikkamo sambhavati. Tathā hi yaṃ yaṃ sādhāraṇaṃ, taṃ taṃ bhikkhuṃ ārabbha uppanne eva vatthusmiṃ ‘‘yā pana bhikkhunī chandaso methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyyā’’ti bhikkhunīnampi paññattaṃ. Aññathā taṃ bhikkhunīnaṃ anuppannapaññatti siyā. Tato ‘‘anuppannapaññatti tasmiṃ natthī’’ti (pari. 247) parivāre etaṃ vacanaṃ virujjhati, ettāvatā purimena kamattayena paṭhamaṃ desetabbataṃ patte pārājikuddese paṭhamuppannattā methunadhammapārājikaṃ sabbapaṭhamaṃ desetukāmo upālitthero ‘‘tatra sudaṃ bhagavā vesāliya’’nti vesālimeva pāpetvā ṭhapesi. Aññathā bārāṇasiyaṃ paññattānaṃ ‘‘na, bhikkhave, manussamaṃsaṃ paribhuñjitabba’’nti (mahāva. 280) evamādīnaṃ desanādhippāye sati bārāṇasiṃ pāpetvā ṭhapeyyāti.
Vì các tội bất thiện được bao gồm trong phần Bất Cộng Trụ và các phần khác phải được đoạn trừ theo trình tự từ thô đến tế, nên trình tự đoạn trừ cũng có thể có ở đây. Ngay sau khi thọ cụ túc giới, “cần phải chỉ dạy ngay bốn điều không được làm” (mahāva. 129), và “thực hành trong các học giới bằng cách thọ trì” (dī. ni. 1.193), theo đó, trình tự thực hành bằng cách chỉ dạy và học tập những điều quan trọng cũng có thể có ở đây. Trình tự sinh khởi theo khả năng của các học giới cần được thuyết giảng theo ba trình tự này cũng có thể có. Thật vậy, bất kỳ điều gì chung, khi sự việc phát sinh liên quan đến Tỳ-khưu đó, thì cũng đã được chế định cho các Tỳ-khưu-ni: “Tỳ-khưu-ni nào cố ý thực hành pháp dâm dục.” Nếu không, đó sẽ là một chế định chưa phát sinh đối với các Tỳ-khưu-ni. Sau đó, trong Tập Yếu, lời nói “không có chế định chưa phát sinh trong đó” (pari. 247) sẽ mâu thuẫn. Bằng chừng ấy, khi tội Bất Cộng Trụ về pháp dâm dục, vốn là tội đầu tiên phát sinh, cần được thuyết giảng đầu tiên trong phần Bất Cộng Trụ, là phần cần được thuyết giảng đầu tiên theo ba trình tự trước đó, Trưởng lão Upāli, muốn thuyết giảng, đã dẫn đến chính Vesālī và dừng lại ở đó. Nếu không, nếu có ý định thuyết giảng những điều đã được chế định tại Bārāṇasī như “Này các Tỳ-khưu, không được ăn thịt người” (mahāva. 280), thì Ngài đã dẫn đến Bārāṇasī và dừng lại ở đó.

Abbhantaranidānakathā niṭṭhitā.
Diễn giải về đề tài duyên khởi bên trong đã kết thúc.

Verañjakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải phẩm Verañjā đã kết thúc.

1. Pārājikakaṇḍo

1. Phẩm Bất Cộng Trụ

1. Paṭhamapārājikaṃ

1. Tội Bất Cộng Trụ thứ nhất

Sudinnabhāṇavāravaṇṇanā

Diễn giải đoạn kể về Sudinna

Paṭhamassettha nidāne, ṭhatvā pārājikassa viññeyyo;
Codanāparihāranayo, puggalavatthuppakāsaneyeva.
Trong duyên khởi đầu tiên này, cần phải biết rằng;
Cách thức chất vấn và giải thích, chỉ trong việc trình bày về cá nhân và sự việc.

Tattha bhagavā verañjāyaṃ vutthavasso anupubbena cārikaṃ caranto kattikajuṇhapakkhe eva vesāliṃ pāpuṇitvā yāva paṭhamapārājikasikkhāpadapaññāpanaṃ, tāva aṭṭha vassāni vesāliyaṃyeva viharanto viya pāḷikkamena dissati, na ca bhagavā tāvattakaṃ kālaṃ tattheva vihāsi. So hi sudinnassa sāvakānaṃ santike pabbajjaṃ upasampadañca anujānitvā yathābhirantaṃ tattha viharitvā cārikaṃ caranto bhesakaḷāvanaṃ patvā tattha terasamaṃ vassaṃ vasi, teneva anukkamena sāvatthiṃ patvā cuddasamaṃ vassaṃ vasi, pannarasamaṃ kapilavatthumhi, soḷasamaṃ āḷaviyaṃ, tato vutthavasso cārikaṃ caranto rājagahaṃ patvā sattarasamaṃ vasi, iminā anukkamena aparānipi tīṇi vassāni tattheva vasi. Ettāvatā bhagavā paripuṇṇavīsativasso rājagahato anupubbena vesāliṃ pāpuṇi, tato upasampadāya aṭṭhavassiko sudinno vesāliyaṃyeva methunaṃ dhammaṃ abhiviññāpesi, tato bhagavā tasmiṃ vatthusmiṃ paṭhamaṃ pārājikaṃ paññapesīti veditabbaṃ. Tattha yasmā upālitthero ito paṭhamataraṃ tattha vesāliyañca paññattasikkhāpadāni adassetukāmo, vinayanidānānantaraṃ paṭhamapārājikameva dassetukāmo, tasmā vesāliyaṃ paṭhamaṃ nivāsaṃ, pacchā imassa sikkhāpadassa paññattikāle nivāsañca ekato katvā ‘‘tatra sudaṃ bhagavā vesāliya’’ntiādimāha, tena vuttaṃ ‘‘paṭhamassettha nidāne, ṭhatvā …pe… pakāsaneyevā’’ti. Tasmā imasmiṃ paṭhamapārājikassa paññattiṭṭhānasaṅkhāte nidāne ṭhatvā ‘‘tena kho pana samayena vesāliyā avidūre kalandagāmo nāma hoti…pe… aññataraṃ vajjigāmaṃ upanissāya viharatī’’ti etasmiṃ imassa sikkhāpadassa puggalappakāsane, ‘‘tena kho pana samayena vajjī dubbhikkhā hoti…pe… tikkhattuṃ methunaṃ dhammaṃ abhiviññāpesī’’ti (pārā. 30) imasmiṃ vatthuppakāsane ca codanānayo, parihāranayo ca veditabboti vuttaṃ hoti. Tatrāyaṃ pakāsanā – kimatthaṃ therena aññesaṃ sikkhāpadānaṃ puggalavatthūni viya saṅkhepato avatvā yattha ca so uppanno, yathā ca dhamme pasanno, yathā ca pabbajito, yathā ca imaṃ vatthuṃ uppādeti, taṃ sabbaṃ anavasesetvā puggalavatthūni vitthārato vuttānīti ce? Vuccate –
Ở đây, Thế Tôn, sau khi đã an cư mùa mưa tại Verañjā, đã du hành tuần tự và đến Vesālī vào chính tháng Kattika, mùa trăng sáng. Theo trình tự Pāḷi, có vẻ như Ngài đã ngự tại Vesālī trong tám năm cho đến khi chế định học giới Bất Cộng Trụ đầu tiên, nhưng thực tế Ngài không ngự ở đó lâu như vậy. Sau khi cho phép Sudinna xuất gia và thọ cụ túc giới với các đệ tử, Ngài đã ngự ở đó theo ý muốn rồi du hành đến Bhesakaḷāvana và an cư năm thứ mười ba ở đó. Theo trình tự đó, Ngài đến Sāvatthi và an cư năm thứ mười bốn, năm thứ mười lăm ở Kapilavatthu, năm thứ mười sáu ở Āḷavi. Sau khi an cư xong, Ngài du hành đến Rājagaha và an cư năm thứ mười bảy. Theo trình tự này, Ngài đã an cư thêm ba năm nữa ở đó. Như vậy, Thế Tôn, sau khi đã thành Phật được tròn hai mươi năm, đã tuần tự từ Rājagaha đến Vesālī. Sau đó, Sudinna, người đã thọ cụ túc giới được tám năm, đã thực hiện pháp dâm dục chính tại Vesālī. Sau đó, cần phải biết rằng Thế Tôn, trong sự việc đó, đã chế định tội Bất Cộng Trụ đầu tiên. Ở đó, vì Trưởng lão Upāli không muốn trình bày các học giới đã được chế định trước đó tại Vesālī, và muốn trình bày ngay tội Bất Cộng Trụ đầu tiên sau phần duyên khởi của Luật, nên Ngài đã gộp chung việc cư trú đầu tiên tại Vesālī và việc cư trú vào thời điểm chế định học giới này và nói: “Bấy giờ, Thế Tôn ở Vesālī…” và các đoạn tiếp theo. Do đó, đã được nói: “Trong duyên khởi đầu tiên này, sau khi đã đứng vững… cho đến… chỉ trong việc trình bày.” Do đó, đã được nói rằng, trong duyên khởi này, được gọi là nơi chế định của tội Bất Cộng Trụ đầu tiên, trong phần trình bày về cá nhân của học giới này: “Vào lúc bấy giờ, có một ngôi làng tên là Kalanda không xa Vesālī… cho đến… ngự gần một ngôi làng của dòng họ Vajji,” và trong phần trình bày về sự việc này: “Vào lúc bấy giờ, xứ Vajji bị nạn đói… cho đến… đã thực hiện pháp dâm dục ba lần” (pārā. 30), cần phải biết cách thức chất vấn và cách thức giải thích. Ở đó, đây là sự trình bày – Nếu hỏi, tại sao Trưởng lão không nói tóm tắt về cá nhân và sự việc của các học giới khác, mà lại nói chi tiết về cá nhân và sự việc, không bỏ sót điều gì, từ nơi vị ấy sinh ra, cách vị ấy tin tưởng vào Pháp, cách vị ấy xuất gia, cho đến cách vị ấy gây ra sự việc này? Xin thưa –

Evaṃ saddhāya kicchena, mahante bhogañātake;
Hitvā pabbajitānampi, pesalānampi sabbaso.
Như vậy, với đức tin và sự khó khăn, từ bỏ tài sản và quyến thuộc lớn lao;
Ngay cả đối với những bậc khả kính đã hoàn toàn xuất gia.

Sabbalāmakadhammāyaṃ, methuno yadi sambhave;
Na dhammadesanāyeva, siddhā virati sabbaso.
Nếu pháp dâm dục, là pháp thấp hèn nhất, có thể xảy ra;
Thì sự tiết chế không thể thành tựu hoàn toàn chỉ bằng việc thuyết pháp.

Tasmā navaṅgasaddhamme, satthārā desitepi ca;
Vinayo paññapetabbo, tato dhammavisuddhihi.
Do đó, dù Bậc Đạo Sư đã thuyết giảng Diệu pháp chín phần;
Luật vẫn cần được chế định, từ đó có sự trong sạch của Pháp.

Vinayābhāvato evaṃ, ajjhācāro bhavissati;
Tasmā vinayapaññatti, sātthikā pesalassapi.
Do không có Luật, sự vi phạm như vậy sẽ xảy ra;
Do đó, việc chế định Luật là có ích, ngay cả đối với người khả kính.

Anādīnavadassāvī, yasmā yaṃ pāpamācari;
Vinayoyeva saddhānaṃ, ādīnavavibhāvino.
Vì không thấy sự nguy hại, nên đã làm điều ác;
Chính Luật là cái làm rõ sự nguy hại cho những người có đức tin.

Tasmā saddhānusārīnaṃ, vinayo sātthakova yaṃ;
Dhammo dhammānusārīnaṃ, tato ubhayadesanā.
Do đó, Luật có ích cho những người theo đức tin;
Pháp cho những người theo Pháp, do đó, cả hai đều được thuyết giảng.

Api ca yadi paṇṇattivītikkamaṃ akarontassāpi yāva brahmalokā ayaso patthaṭo, pagevaññesanti dassanatthaṃ ajjhācārassa pākaṭabhāvadīpanaṃ. Kathaṃ? –
Hơn nữa, nếu tiếng xấu đã lan đến tận cõi Phạm thiên ngay cả đối với người không vi phạm chế định, huống chi là đối với những người khác. Đây là sự trình bày tính chất rõ ràng của sự vi phạm. Như thế nào? –

Abhabbo arahattassa, sudinno puttamātaro;

Bhabbānuppannapaññatti, tadatthaṃ na katā ayaṃ.
Sudinna không có khả năng chứng A-la-hán,
Mẹ của đứa con cũng vậy;
Chế định này không được thực hiện vì lợi ích của họ,
Vì họ không có khả năng khi chế định chưa được ban hành.

Nanu māgaṇḍikaṃ ajjhupekkhitvā mātāpitūnamassā hitatthaṃ dhammaṃ desetīti imamatthaṃ dassetuṃ bījakabījakamātūnaṃ arahattuppatti therena dīpitā. ‘‘Tena kho pana samayena vesāliyā avidūre kalandagāmo nāma hoti, yena samayena sudinno purāṇadutiyikāya methunaṃ dhammaṃ paṭisevī’’ti vā ‘‘yena samayena bhagavā paṭhamapārājikaṃ paññapesī’’ti vā vacanaṃ idha na yujjati. Kasmā? ‘‘Idha pana hetuattho karaṇattho ca sambhavatī’’ti vuttaṃ aṭṭhakathāvacanañhi idha na labbhati. Ciraniviṭṭho hi so gāmo , na tasmiṃyeva samayeti. Yasmā pana so ciraniviṭṭhopi ca gāmo attano niviṭṭhakālato paṭṭhāya sabbakālamatthīti vattabbataṃ arahati, tena pariyāyena ‘‘tena kho pana samayena vesāliyā avidūre kalandagāmo nāma hotī’’ti vuttaṃ.
Chẳng phải Trưởng lão đã làm sáng tỏ sự chứng quả A-la-hán của mẹ và cha của đứa trẻ để trình bày ý nghĩa rằng Ngài đã thuyết pháp vì lợi ích của cha mẹ sau khi bỏ qua Māgaṇḍika sao? Lời nói “Vào lúc bấy giờ, có một ngôi làng tên là Kalanda không xa Vesālī, vào thời điểm Sudinna đã thực hành pháp dâm dục với người vợ cũ” hoặc “vào thời điểm Thế Tôn đã chế định tội Bất Cộng Trụ đầu tiên” không hợp lý ở đây. Tại sao? Bởi vì lời nói trong Chú giải “Ở đây, ý nghĩa nguyên nhân và ý nghĩa công cụ là có thể có” không được chấp nhận ở đây. Bởi vì ngôi làng đó đã được thành lập từ lâu, không phải chỉ trong thời điểm đó. Nhưng vì ngôi làng đó, dù đã được thành lập từ lâu, có thể được nói là tồn tại trong mọi thời điểm kể từ khi nó được thành lập, nên theo cách gián tiếp đó, đã được nói: “Vào lúc bấy giờ, có một ngôi làng tên là Kalanda không xa Vesālī.”

25-6. Anuññātosi pana tvanti samaṇavattadassanatthaṃ bhagavā pucchati. Mātāpitūhi ananuññātanti ettha janakeheva ananuññātadassanatthaṃ pucchīti vuttaṃ. Na kho sudinna tathāgatāti ‘‘pabbājetu maṃ bhagavā’’ti yācanāvasena panevamāha, na bhagavā sayaṃ saraṇāni datvā pabbājesi. Dukkhassāti ettha ‘‘kalabhāgampī’’ti pāṭhaseso. Vikappdvayepīti dutiyatatiyavikappesu. Purimapadassāti kiñcīti padassa. Uttarapadenāti dukkhassāti padena. Samānavibhattīti sāmivacanaṃ. Yathā kiṃ? ‘‘Kassaci dukkhassā’’ti vattabbe ‘‘kiñci dukkhassā’’ti vuttanti veditabbaṃ. Akāmakā vinā bhavissāmāti tayā saddhiṃ amaritvā akāmā jīvissāma. Sacepi na marāma, akāmakāva tayā viyogaṃ pāpuṇissāma, tayi jīvamāne eva no maraṇaṃ bhaveyya, maraṇenapi no tayā viyogaṃ mayaṃ akāmakāva pāpuṇissāma.
25-6. Ngươi đã được phép chưa, Thế Tôn hỏi để thấy được hạnh kiểm của Sa-môn. Trong câu cha mẹ chưa cho phép, đã được nói rằng Ngài hỏi để thấy được việc chưa được chính cha mẹ ruột cho phép. Này Sudinna, các Như Lai không, Ngài đã nói như vậy do lời thỉnh cầu “bạch Thế Tôn, xin hãy cho con xuất gia,” chứ không phải Thế Tôn tự mình ban cho các nơi nương tựa và cho xuất gia. Trong câu của khổ, có phần còn lại của câu là “dù chỉ một phần.” Trong cả hai giả thuyết là trong giả thuyết thứ hai và thứ ba. Của từ trước là của từ “bất cứ điều gì”. Với từ sau là với từ “của khổ.” Cùng một biến cách là sở hữu cách. Như thế nào? Cần phải biết rằng khi lẽ ra phải nói “của một khổ nào đó,” lại nói là “của bất cứ khổ nào.” Chúng ta sẽ chia lìa mà không muốn là chúng ta sẽ sống mà không muốn, không chết cùng với con. Dù chúng ta không chết, chúng ta cũng sẽ phải chia lìa con mà không muốn. Nếu con còn sống, cái chết của chúng ta sẽ xảy ra. Ngay cả bằng cái chết, chúng ta cũng sẽ phải chia lìa con mà không muốn.

30. Katipāhaṃ balaṃ gāhetvāti kasmā panāyaṃ tathā pabbajjāya tibbacchando anuññāto samāno katipāhaṃ ghareyeva vilambitvā kāyabalañca aggahesīti? Anumatidānena mātāpitūsu sahāyakesu ca tuṭṭho tesaṃ cittatuṭṭhatthaṃ. Kesuci aṭṭhakathāpotthakesu keci ācariyā ‘‘ayaṃ sudinno jīvakavatthuto pacchā paṃsukūlikadhutaṅgavasena paṃsukūliko jāto’’ti saññāya ‘‘gahapaticīvaraṃ paṭikkhipitvā paṃsukūlikadhutaṅgavasena paṃsukūliko hotī’’ti likhanti, taṃ ‘‘acirūpasampanno’’ti vacanena virujjhati. ‘‘Tathā sudinno hi bhagavato dvādasame vasse pabbajito , vīsatime vasse ñātikulaṃ piṇḍāya paviṭṭho sayaṃ pabbajjāya aṭṭhavassiko hutvā’’ti, ‘‘bhagavato hi buddhattaṃ pattato paṭṭhāya yāva idaṃ vatthaṃ, etthantare vīsati vassāni na koci gahapaticīvaraṃ sādiyi, sabbe paṃsukūlikāva ahesu’’nti ca vuttena aṭṭhakathāvacanena virujjhati, pabbajjāya aṭṭhavassiko, na upasampadāya. Upasampadaṃ pana jīvakavatthuto (mahāva. 326) pacchā alattha, tasmā avassiko ñātikulaṃ piṇḍāya paviṭṭho siyāti ce? Na, ‘‘alattha kho sudinno kalandaputto bhagavato santike pabbajjaṃ, alattha upasampada’’nti ekato anantaraṃ vuttattā. Pabbajjānantarameva hi so upasampanno terasadhutaṅgaguṇe samādāya vattanto aṭṭha vassāni vajjigāme viharitvā nissayamuttattā sayaṃvasī hutvā ‘‘etarahi kho vajjī dubbhikkhā’’tiāditakkavasena yena vesālī tadavasari, tasmā ‘‘paṃsukūlikadhutaṅgavasena paṃsukūliko hotī’’ti ettakoyeva pāṭho yesu potthakesu dissati, sova pamāṇato gahetabbo. ‘‘Āraññiko hotī’’ti iminā pañca senāsanapaṭisaṃyuttāni saṅgahitāni nesajjikaṅgañca vihārasabhāgattā, ‘‘piṇḍapātiko’’ti iminā pañca piṇḍapātapaṭisaṃyuttāni, ‘‘paṃsukūliko’’ti iminā dve cīvarapaṭisaṃyuttāni saṅgahitānīti. Ñātigharūpagamanakāraṇadīpanādhippāyato sapadānacārikaṅgaṃ visuṃ vuttanti veditabbaṃ. ‘‘Mā atiharāpesu’’nti kālabyattayavasena vuttaṃ. Dhammassantarāyakaratarattā ‘‘imaṃ naya’’nti anayoyeva.
30. Sau khi lấy lại sức trong vài ngày, tại sao vị này, sau khi đã được phép xuất gia với ý muốn mãnh liệt như vậy, lại ở nhà trong vài ngày và lấy lại sức khỏe của thân thể? Vì hài lòng với sự cho phép của cha mẹ và bạn bè, nên để làm cho tâm của họ được vui lòng. Trong một số sách Chú giải, một số vị Giáo thọ sư, với ý nghĩ rằng “Sudinna này đã trở thành người mặc y phấn tảo theo hạnh đầu đà về y phấn tảo sau sự việc của Jīvaka,” đã viết “sau khi từ chối y của cư sĩ, vị ấy trở thành người mặc y phấn tảo theo hạnh đầu đà về y phấn tảo,” điều đó mâu thuẫn với lời nói “mới thọ cụ túc giới.” Điều đó mâu thuẫn với lời nói trong Chú giải: “Sudinna đã xuất gia vào năm thứ mười hai của Thế Tôn, và vào năm thứ hai mươi, sau khi đã xuất gia được tám năm, vị ấy đã vào nhà quyến thuộc để khất thực,” và “từ khi Thế Tôn thành Phật cho đến khi xảy ra sự việc này, trong khoảng thời gian đó, không có ai đồng ý nhận y của cư sĩ trong hai mươi năm, tất cả đều là người mặc y phấn tảo.” Vị ấy đã xuất gia được tám năm, không phải là thọ cụ túc giới. Vị ấy đã thọ cụ túc giới sau sự việc của Jīvaka (mahāva. 326), do đó, vị ấy đã vào nhà quyến thuộc để khất thực khi chưa đủ tuổi hạ, phải không? Không, vì đã được nói liền ngay sau đó: “Sudinna, con trai của Kalanda, đã được xuất gia với Thế Tôn, đã được thọ cụ túc giới.” Bởi vì ngay sau khi xuất gia, vị ấy đã thọ cụ túc giới, và sau khi đã thọ trì mười ba hạnh đầu đà, đã ngự tại làng Vajji trong tám năm. Sau khi đã hết thời gian nương tựa và trở nên tự tại, với suy nghĩ “bây giờ xứ Vajji đang bị nạn đói” và các suy nghĩ khác, vị ấy đã đến Vesālī. Do đó, đoạn văn “trở thành người mặc y phấn tảo theo hạnh đầu đà về y phấn tảo” chỉ có trong một số sách là có thể được coi là tiêu chuẩn. “Là người sống trong rừng,” bằng điều này, năm hạnh liên quan đến chỗ ở đã được bao gồm, và hạnh ngồi không nằm vì nó đồng bản chất với việc ở trong chùa. “Là người khất thực,” bằng điều này, năm hạnh liên quan đến việc khất thực đã được bao gồm. “Là người mặc y phấn tảo,” bằng điều này, hai hạnh liên quan đến y đã được bao gồm. Cần phải biết rằng hạnh đi khất thực theo thứ tự đã được nói riêng vì ý định làm sáng tỏ nguyên nhân đi đến nhà quyến thuộc. “Đừng để bị mang đi,” đã được nói theo cách diễn đạt về thời gian. Vì nó gây trở ngại cho Pháp hơn, nên “cách này” chính là cách sai lầm.

Yebhuyyena hi sattānaṃ, vināse paccupaṭṭhite;
Anayo nayarūpena, buddhimāgamma tiṭṭhati.
Bởi vì đối với phần lớn chúng sinh, khi sự hủy diệt sắp đến;
Cách sai lầm, dưới hình thức của cách đúng, đến với tâm trí và tồn tại.

36. Apaññatte sikkhāpadeti ettha duvidhaṃ sikkhāpadapaññāpanaṃ. Kathaṃ? ‘‘Evañca pana, bhikkhave, imaṃ sikkhāpadaṃ uddiseyyāthā’’ti evaṃ sauddesānuddesabhedato duvidhaṃ. Tattha pātimokkhe sarūpato āgatā pañca āpattikkhandhā sauddesapaññatti nāma. Sāpi duvidhā sapuggalāpuggalaniddesabhedato. Tattha yassā paññattiyā anto āpattiyā saha, vinā vā puggalo dassito, sā sapuggalaniddesā. Itarā apuggalaniddesāti veditabbā. Sapuggalaniddesāpi duvidhā dassitādassitāpattibhedato. Tattha adassitāpattikā nāma aṭṭha pārājikā dhammā. ‘‘Pārājiko hoti asaṃvāso’’ti hi puggalova tattha dassito, nāpatti. Dassitāpattikā nāma bhikkhunīpātimokkhe ‘‘sattarasa saṅghādisesā dhammā nissāraṇīyaṃ saṅghādisesa’’nti hi tattha āpatti dassitā saddhiṃ puggalena, tathā apuggalaniddesāpi dassitādassitāpattitova duvidhā. Tattha adassitāpattikā nāma sekhiyā dhammā. Sesā dassitāpattikāti veditabbā. Sāpi duvidhā aniddiṭṭhakārakaniddiṭṭhakārakabhedato. Tattha aniddiṭṭhakārakā nāma sukkavissaṭṭhi musāvāda omasavāda pesuñña bhūtagāma aññavādaka ujjhāpanaka gaṇabhojana paramparabhojana surāmeraya aṅgulipatodaka hasadhamma anādariya talaghātakajatumaṭṭhaka sikkhāpadānaṃ vasena pañcadasavidhā honti. Sesānaṃ puggalaniddesānaṃ vasena niddiṭṭhakārakā veditabbā.
36. Khi học giới chưa được chế định, ở đây, việc chế định học giới có hai loại. Như thế nào? “Này các Tỳ-khưu, các con hãy tuyên đọc học giới này như vầy,” như vậy, có hai loại: có tụng đọc và không tụng đọc. Ở đó, năm uẩn tội lỗi đã được trình bày về bản chất trong Giới Bổn được gọi là chế định có tụng đọc. Nó cũng có hai loại: có chỉ định cá nhân và không có chỉ định cá nhân. Ở đó, chế định nào mà trong đó cá nhân được trình bày cùng với tội hoặc không có tội, thì đó là có chỉ định cá nhân. Loại còn lại cần được biết là không có chỉ định cá nhân. Loại có chỉ định cá nhân cũng có hai loại: có trình bày tội và không có trình bày tội. Ở đó, tám pháp Bất Cộng Trụ là loại không có trình bày tội. Bởi vì ở đó chỉ có cá nhân được trình bày: “là tội Bất Cộng Trụ, không được sống chung,” không phải là tội. Trong Giới Bổn của Tỳ-khưu-ni, mười bảy pháp Tăng Tàn được gọi là có trình bày tội. Bởi vì ở đó, tội được trình bày cùng với cá nhân: “tội Tăng Tàn cần phải bị trục xuất.” Cũng vậy, loại không có chỉ định cá nhân cũng có hai loại: có trình bày tội và không có trình bày tội. Ở đó, các pháp cần học là loại không có trình bày tội. Các loại còn lại cần được biết là có trình bày tội. Nó cũng có hai loại: không chỉ định người thực hiện và có chỉ định người thực hiện. Ở đó, loại không chỉ định người thực hiện có mười lăm loại theo các học giới: cố ý xuất tinh, nói dối, nói lời mắng nhiếc, nói lời chia rẽ, phá hoại cây cỏ, nói lời hai lưỡi, chỉ trích, ăn chung nhóm, ăn lần lượt, uống rượu, chọc ngón tay, đùa giỡn, không kính trọng, đánh bằng bàn tay, dùng sáp ong. Loại có chỉ định người thực hiện cần được biết là theo các chỉ định cá nhân còn lại.

Anuddesapaññattipi padabhājanantarāpattivinītavatthupaṭikkhepapaññattiavuttasiddhivasena chabbidhā honti. Tattha ‘‘yebhuyyena khāyitaṃ āpatti thullaccayassā’’ti (pārā. 61) evamādikā padabhājaniye sandissamānāpatti padabhājanasikkhāpadaṃ nāma. ‘‘Na tveva naggena āgantabbaṃ, yo āgaccheyya, āpatti dukkaṭassā’’tiādikā (pārā. 517) antarāpattisikkhāpadaṃ nāma. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, divā paṭisallīyantena dvāraṃ saṃvaritvā paṭisallīyitu’’nti (pārā. 75) evamādikā vinītavatthusikkhāpadaṃ nāma. ‘‘Lohituppādako, bhikkhave, anupasampanno na upasampādetabbo, upasampanno nāsetabbo’’ti (mahāva. 114) evamādikā paṭikkhepasikkhāpadaṃ nāma. Khandhakesu paññattadukkaṭathullaccayāni paññattisikkhāpadaṃ nāma. ‘‘Yā pana bhikkhunī naccaṃ vā gītaṃ vā vāditaṃ vā dassanāya gaccheyya, pācittiya’’nti (pāci. 834) iminā vuttena ‘‘yā pana bhikkhunī nacceyya vā gāyeyya vā vādeyya vā pācittiya’’nti evamādikaṃ yaṃ kiñci aṭṭhakathāya dissamānaṃ āpattijātaṃ, vinayakammaṃ vā avuttasiddhisikkhāpadaṃ nāma. Chabbidhampetaṃ chahi kāraṇehi uddesārahaṃ na hotīti anuddesasikkhāpadaṃ nāmāti veditabbaṃ. Seyyathidaṃ – pañcahi uddesehi yathāsambhavaṃ visabhāgattā thullaccayadubbhāsitānaṃ, sabhāgavatthukampi dukkaṭathullaccayadvayaṃ asabhāgāpattikattā, antarāpattipaññattisikkhāpadānaṃ nānāvatthukāpattikattā, paṭikkhepasikkhāpadānaṃ kesañci vinītavatthupaññattisikkhāpadānañca adassitāpattikattā, adassitavatthukattā bhedānuvattakathullaccayassa, adassitāpattivatthukattā avuttasiddhisikkhāpadānanti. Ettāvatā ‘‘duvidhaṃ sikkhāpadapaññāpanaṃ uddesānuddesabhedato’’ti yaṃ vuttaṃ, taṃ samāsato pakāsitaṃ hoti.
Chế định không tụng đọc cũng có sáu loại: phân tích từ, tội phụ, sự việc được quyết định, sự bác bỏ, chế định và được xác định dù không nói ra. Ở đó, “ăn phần lớn là phạm tội Trọng Tội” (pārā. 61) và các tội tương tự được thấy trong phần phân tích từ được gọi là học giới phân tích từ. “Không được đi vào khi không mặc y, ai đi vào, phạm tội Tác Ác” và các tội tương tự (pārā. 517) được gọi là học giới tội phụ. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép, khi nhập thất ban ngày, đóng cửa lại và nhập thất” (pārā. 75) và các quy định tương tự được gọi là học giới sự việc được quyết định. “Này các Tỳ-khưu, người làm đổ máu không được thọ cụ túc giới, nếu đã thọ thì phải bị trục xuất” (mahāva. 114) và các quy định tương tự được gọi là học giới bác bỏ. Các tội Tác Ác và Trọng Tội được chế định trong Các phẩm Luật được gọi là học giới chế định. Bất kỳ loại tội lỗi nào được thấy trong Chú giải, như “Tỳ-khưu-ni nào đi xem múa, hát, hoặc đàn, phạm tội Ưng Đối Trị” (pāci. 834) và các quy định tương tự, hoặc Tăng sự, được gọi là học giới được xác định dù không nói ra. Cần phải biết rằng cả sáu loại này không xứng đáng được tụng đọc vì sáu lý do, nên được gọi là học giới không tụng đọc. Đó là – vì các tội Trọng Tội và tội nói lời không hay không đồng bản chất với năm phần tụng đọc theo khả năng. Dù tội Tác Ác và tội Trọng Tội có cùng một sự việc, nhưng chúng không đồng tội. Vì các học giới tội phụ và học giới chế định có nhiều sự việc và tội khác nhau. Vì một số học giới bác bỏ và học giới chế định về sự việc đã được quyết định không trình bày tội. Vì tội Trọng Tội theo kẻ ly khai không trình bày sự việc. Vì các học giới được xác định dù không nói ra không trình bày tội và sự việc. Bằng chừng ấy, điều đã được nói “việc chế định học giới có hai loại: có tụng đọc và không tụng đọc” đã được trình bày một cách tóm tắt.

Tattha apaññatte sikkhāpadeti sauddesasikkhāpadaṃ sandhāya vuttanti veditabbaṃ. Ekacce ācariyā evaṃ kira vaṇṇayanti ‘‘cattāro pārājikā kativassābhisambuddhena bhagavatā paññattātiādinā pucchaṃ katvā tesu paṭhamapārājiko vesāliyaṃ paññatto pañcavassābhisambuddhena hemantānaṃ paṭhame māse dutiye pakkhe dasame divase aḍḍhateyyaporisāya chāyāya puratthābhimukhena nisinnena aḍḍhaterasānaṃ bhikkhusatānaṃ majjhe sudinnaṃ kalandaputtaṃ ārabbha paññatto’’ti, taṃ na yujjati, kasmā? –
Ở đó, trong câu khi học giới chưa được chế định, cần phải biết rằng đã được nói đến để chỉ học giới có tụng đọc. Một số vị Giáo thọ sư đã diễn giải như sau: “sau khi hỏi ‘bốn tội Bất Cộng Trụ đã được Thế Tôn chế định sau khi thành Phật bao nhiêu năm?’ thì trong số đó, tội Bất Cộng Trụ đầu tiên đã được chế định tại Vesālī, sau khi thành Phật được năm năm, vào tháng đầu tiên của mùa đông, vào tuần thứ hai, vào ngày thứ mười, khi bóng nắng dài hai rưỡi sải tay, khi Ngài ngồi quay mặt về hướng đông, giữa một trăm hai mươi lăm Tỳ-khưu, liên quan đến Sudinna, con trai của Kalanda,” điều đó không hợp lý. Tại sao? –

Yasmā dvādasamaṃ vassaṃ, verañjāyaṃ vasi jino;
Tasmiñca suddho saṅghoti, neva pārājikaṃ tadā.
Bởi vì vào năm thứ mười hai, Đấng Chinh Phục đã an cư tại Verañjā;
Và trong năm đó, Tăng chúng trong sạch, nên không có tội Bất Cộng Trụ vào lúc đó.

Therassa sāriputtassa, sikkhāpaññattiyācanā;
Tasmiṃ siddhāti siddhāva, garukāpatti no tadā.
Lời thỉnh cầu chế định học giới của Trưởng lão Sāriputta;
Khi đã được xác định trong năm đó, thì tội nặng không có vào lúc đó.

Ovādapātimokkhañca, kiṃ satthā catuvassiko;
Paṭikkhipi kimāṇañca, samattaṃ anujāni so.
Và Giới Bổn khuyên bảo, chẳng phải Bậc Đạo Sư, khi mới bốn tuổi đạo;
Đã bác bỏ, và chẳng phải Ngài đã cho phép toàn bộ mệnh lệnh.

Ajātasattuṃ nissāya, saṅghabhedamakāsi yaṃ;
Devadatto tato saṅgha-bhedo pacchimabodhiyaṃ.
Sự chia rẽ Tăng chúng mà Devadatta đã làm,
Nương tựa vào Ajātasattu, do đó, sự chia rẽ Tăng chúng xảy ra vào cuối thời kỳ Bồ-đề.

Ārādhayiṃsu maṃ pubbe, bhikkhūti munibhāsitaṃ;
Suttameva pamāṇaṃ no, sova kālo anappakoti.
“Trước đây các Tỳ-khưu đã làm Ta hài lòng,” lời nói của Bậc Mâu-ni;
Chính Kinh điển là tiêu chuẩn của chúng ta, và thời điểm đó không phải là ngắn.

Yaṃ pana vuttaṃ ‘‘atha bhagavā ajjhācāraṃ apassanto pārājikaṃ vā saṅghādisesaṃ vā na paññapesī’’ti, taṃ sakalasikkhāpadaṃ sandhāyāha. Na kevalaṃ sauddesasikkhāpadamattaṃ, tena sauddesānuddesapaññattibhedaṃ sakalaṃ pārājikaṃ sandhāyāhāti vuttaṃ hoti. Kiñcāpi nābhiparāmasanampi kāyasaṃsaggo, tathāpi etaṃ visesaniyamanato, acchandarāgādhippāyato ca visuṃ vuttaṃ. Chandarāgarattasseva hi kāyasaṃsaggo idhādhippeto. Asucipāne pana hatthiniyā tāpasapassāvapānena vālakābyo nāma uppajjati, vālakābyassa vatthu vattabbaṃ. Maṇḍabyassa nābhiyā parāmasaneneva kira. Rūpadassane pana vejjakā āhu –
Còn điều đã được nói “bấy giờ Thế Tôn, khi không thấy có sự vi phạm, đã không chế định tội Bất Cộng Trụ hay tội Tăng Tàn,” Ngài đã nói đến để chỉ toàn bộ học giới. Không chỉ có học giới có tụng đọc. Do đó, đã được nói rằng Ngài đã nói đến để chỉ toàn bộ tội Bất Cộng Trụ, bao gồm cả chế định có tụng đọc và không tụng đọc. Mặc dù việc chạm vào cũng là sự tiếp xúc thân thể, nhưng điều này đã được nói riêng vì sự xác định đặc biệt, và vì ý định không có dục tham. Bởi vì ở đây, chỉ có sự tiếp xúc thân thể của người có dục tham mới được hàm ý. Còn trong việc uống chất bất tịnh, do con voi cái uống nước tiểu của vị ẩn sĩ, một loại bệnh gọi là vālakābyo đã phát sinh. Cần phải nói về sự việc của vālakābyo. Người ta nói rằng đối với Maṇḍabya, chỉ bằng việc chạm vào rốn. Còn trong việc thấy hình sắc, các thầy thuốc nói –

‘‘Thīnaṃ sandassanā sukkaṃ, kadāci calitovare;
Taṃ gāmadhammakaraṇaṃ, dvayasamaṃ saṅgamiya;
Gabbhādīti ayaṃ nayo, thīnaṃ purisadassanāsītyūpaneyya’’.
“Do thấy phụ nữ, tinh dịch đôi khi xuất ra;
Đó là việc giao hợp, bằng sự kết hợp của cả hai;
Thai nhi và các thứ khác, cách này, đối với phụ nữ, cũng có thể áp dụng cho việc thấy đàn ông.”

Tathāpyāhu –
Họ cũng nói –

‘‘Pupphike edhiyya suddhe, passaṃ narañca itthi taṃ;
Gabbhañca nayetyutta-miti tasmā kāso itī’’ti.
“Khi thấy người đàn ông và người phụ nữ đang trong thời kỳ kinh nguyệt và đã sạch sẽ;
Và thai nhi, đã được nói rằng, do đó là trường hợp.”

Rājorodho viyāti sīhaḷadīpe ekissā itthiyā tathā ahosi, tasmā kira evaṃ vuttaṃ. Kiñcāpi yāva brahmalokā saddo abbhuggacchi, na taṃ manussānaṃ visayo ahosi tesaṃ rūpaṃ viya. Teneva bhikkhū pucchiṃsu ‘‘kacci no tvaṃ āvuso sudinna anabhirato’’ti.
Giống như hậu cung của vua, ở đảo Sīhaḷa, một người phụ nữ đã như vậy, do đó người ta nói rằng đã được nói như vậy. Mặc dù tiếng tăm đã vang đến tận cõi Phạm thiên, nhưng đó không phải là đối tượng của loài người, giống như hình sắc của họ. Chính vì vậy, các Tỳ-khưu đã hỏi: “Này Tôn giả Sudinna, chẳng phải ngài không hoan hỷ sao?”

39. Kalīti kodho, tassa sāsanaṃ kalisāsanaṃ, kalaho. Gāmadhammanti ettha janapadadhammaṃ janapadavāsīnaṃ siddhiṃ. Attāti cittaṃ, sarīrañca. Asuttantavinibaddhanti vinayasutte anāgataṃ, suttābhidhammesupi anāgataṃ, pāḷivinimuttanti attho. Kusumamālanti nānāguṇaṃ sandhāyāha. Ratanadāmanti atthasampattiṃ sandhāya vadati. Paṭikkhipanādhippāyā bhaddāli viya. Padaniruttibyañjanāni nāmavevacanāneva ‘‘nāmaṃ nāmakammaṃ nāmadheyyaṃ niruttī’’tiādīsu (dha. sa. 1315) viya. Nippariyāyena virati sikkhāpadaṃ nāma. Akusalapakkhe dussīlyaṃ nāma cetanā. Kusalapakkhepi cetanāpariyāyato vibhaṅge ‘‘sikkhāpada’’nti vuttaṃ. Saṅghasuṭṭhutāyāti ettha lokavajjassa paññāpane saṅghasuṭṭhutā hoti pākaṭādīnavato. Paññattivajjassa paññāpane saṅghaphāsutā hoti pākaṭānisaṃsattā. Tattha paṭhamena dummaṅkūnaṃ niggaho, dutiyena pesalānaṃ phāsuvihāro. Paṭhamena samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighāto, dutiyena diṭṭhadhammikānaṃ. Tathā paṭhamena appasannānaṃ pasādo, dutiyena pasannānaṃ bhiyyobhāvo. ‘‘Pubbe katapuññatāya codiyamānassa bhabbakulaputtassā’’ti vuttattā ‘‘sudinno taṃ kukkuccaṃ vinodetvā arahattaṃ sacchākāsi, teneva pabbajjā anuññātā’’ti vadanti, upaparikkhitabbaṃ. Tathā paṭhamena saddhammaṭṭhiti, dutiyena vinayānuggaho hotīti veditabbo.
39. Kalī là sân, giáo huấn của nó là kalisāsanaṃ, sự cãi vã. Trong câu pháp của làng, pháp của xứ sở, sự thành tựu của những người sống ở xứ sở. Tự thân là tâm, và thân thể. Không được ràng buộc trong Kinh điển là không có trong Kinh Luật, cũng không có trong Kinh và Vi Diệu Pháp, có nghĩa là thoát khỏi Pāḷi. Vòng hoa, Ngài nói đến để chỉ các phẩm chất khác nhau. Chuỗi ngọc, Ngài nói đến để chỉ sự thành tựu về ý nghĩa. Với ý định bác bỏ, giống như Bhaddāli. Các từ, định nghĩa và văn tự chính là các danh từ đồng nghĩa, giống như trong câu “tên, hành động đặt tên, danh xưng, định nghĩa” và các câu tương tự (dha. sa. 1315). Sự tiết chế một cách tuyệt đối được gọi là học giới. Về phía bất thiện, sự không có giới là ý định. Về phía thiện, cũng theo cách gián tiếp của ý định, trong Vibhaṅga, đã được nói là “học giới.” Trong câu để Tăng chúng được tốt đẹp, ở đây, trong việc chế định tội lỗi thế gian, Tăng chúng được tốt đẹp vì sự nguy hại rõ ràng. Trong việc chế định tội lỗi chế định, Tăng chúng được thoải mái vì lợi ích rõ ràng. Ở đó, bằng điều thứ nhất, những kẻ xấu xa bị trừng phạt. Bằng điều thứ hai, những người khả kính được an trú thoải mái. Bằng điều thứ nhất, các lậu hoặc trong tương lai bị ngăn chặn. Bằng điều thứ hai, các lậu hoặc trong hiện tại bị ngăn chặn. Cũng vậy, bằng điều thứ nhất, những người chưa có lòng tin sẽ có lòng tin. Bằng điều thứ hai, những người đã có lòng tin sẽ có lòng tin hơn nữa. Vì đã được nói “của người con trai của gia đình tốt, người có khả năng, được thúc đẩy bởi công đức đã làm trong quá khứ,” người ta nói rằng “Sudinna, sau khi đã xua tan sự hối hận đó, đã chứng ngộ quả A-la-hán, chính vì vậy việc xuất gia đã được cho phép,” điều đó cần được xem xét. Cũng vậy, cần phải biết rằng bằng điều thứ nhất, diệu pháp được duy trì. Bằng điều thứ hai, Luật được hỗ trợ.

Apicettha vatthuvītikkame yattha ekantākusalabhāvena, taṃ saṅghasuṭṭhubhāvāya paññattaṃ lokavajjato, yattha paññattijānane eva atthāpatti, na aññadā, taṃ saddhammaṭṭhitiyā vāpi pasāduppādabuddhiyā dhammadesanāpaṭisaṃyuttaṃ, itarañca sekhiyaṃ, idaṃ lokavajjaṃ nāma. Vatthuno paññattiyā vā vītikkamacetanāyābhāvepi paṭikkhittassa karaṇe, kattabbassa akaraṇe vā sati yattha āpattippasaṅgo, taṃ sabbaṃ ṭhapetvā surāpānaṃ paṇṇattivajjanti veditabbaṃ. Āgantukavattaṃ, āvāsika, gamika, anumodana, bhattagga, piṇḍacārika, āraññaka, senāsana , jantāghara, vaccakuṭi, saddhivihārika, upajjhāya, antevāsika, ācariyavattanti etāni aggahitaggahaṇanayena gaṇiyamānāni cuddasa, etāni pana vitthārato dveasīti mahāvattāni nāma honti. Sattahi āpattikkhandhehi saṃvaro saṃvaravinayo paññattisikkhāpadameva. Tattha paññattivinayo samathavinayatthāya samathavinayo saṃvaravinayatthāya saṃvaravinayo pahānavinayatthāyāti yojanā veditabbā. Yaṃ saṅghasuṭṭhu, taṃ saṅghaphāsūti ekamiva vuttaṃ saṅghasuṭṭhutāya sati saṅghaphāsu bhavissatīti dīpanatthaṃ. Pakarīyanti ettha te te payojanavisesasaṅkhātā atthavasāti atthavasaṃ ‘‘pakaraṇa’’nti vuccati. Dasasu padesu ekekaṃ mūlaṃ katvā dasakkhattuṃ yojanāya padasataṃ vuttaṃ. Tattha pacchimassa padassa vasena atthasataṃ purimassa vasena dhammasataṃ atthajotikānaṃ niruttīnaṃ vasena niruttisataṃ, dhammabhūtānaṃ niruttīnaṃ vasena niruttisatanti dve niruttisatāni, atthasate ñāṇasataṃ, dhammasate ñāṇasataṃ dvīsu niruttisatesu dve ñāṇasatānīti cattāri ñāṇasatāni veditabbāni. Ettha saṅghasuṭṭhutāti dhammasaṅghassa suṭṭhubhāvoti attho. ‘‘Atthapadānīti aṭṭhakathā. Dhammapadānīti pāḷī’’ti vuttaṃ kira.
Hơn nữa, ở đây, trong sự vi phạm sự việc, ở đâu có bản chất hoàn toàn bất thiện, thì đó được chế định để Tăng chúng được tốt đẹp, do tội lỗi thế gian. Ở đâu chỉ có tội khi biết chế định, không phải lúc khác, thì đó là để duy trì diệu pháp hoặc để phát sinh lòng tin. Lời thuyết pháp liên quan đến trí tuệ, còn các pháp cần học khác, đây được gọi là tội lỗi thế gian. Ngay cả khi không có ý định vi phạm sự việc hoặc chế định, nếu làm điều đã bị cấm, hoặc không làm điều cần phải làm, mà có khả năng phạm tội, thì tất cả những điều đó, trừ việc uống rượu, cần được biết là tội lỗi chế định. Bổn phận đối với khách, người ở chùa, người đi đường, người tán thán, người ở nhà ăn, người khất thực, người ở rừng, người ở chỗ ở, người ở nhà tắm hơi, người ở nhà vệ sinh, người sống cùng, thầy Giáo Thọ Sư, đệ tử, thầy hướng dẫn, mười bốn bổn phận này, khi được đếm theo cách bao gồm cả những gì chưa được bao gồm, được gọi là tám mươi hai đại bổn phận. Sự thu thúc bằng bảy uẩn tội lỗi là Luật thu thúc, chính là học giới chế định. Ở đó, cần phải biết sự kết hợp: Luật chế định để có Luật lắng dịu, Luật lắng dịu để có Luật thu thúc, Luật thu thúc để có Luật đoạn trừ. Cái gì làm Tăng chúng tốt đẹp, cái đó làm Tăng chúng thoải mái, đã được nói như một, để làm sáng tỏ rằng khi có sự tốt đẹp của Tăng chúng, sẽ có sự thoải mái của Tăng chúng. Các lợi ích đặc biệt được gọi là các lợi ích được thực hiện ở đây, nên lợi ích được gọi là “pakaraṇa” (sự thực hiện). Một trăm từ đã được nói bằng cách lấy mỗi trong mười từ làm gốc và kết hợp mười lần. Ở đó, cần phải biết rằng, theo từ cuối cùng, có một trăm ý nghĩa, theo từ đầu tiên, có một trăm pháp, theo các định nghĩa làm sáng tỏ ý nghĩa, có một trăm định nghĩa, theo các định nghĩa là pháp, có một trăm định nghĩa, như vậy có hai trăm định nghĩa. Trong một trăm ý nghĩa, có một trăm trí, trong một trăm pháp, có một trăm trí, trong hai trăm định nghĩa, có hai trăm trí, như vậy có bốn trăm trí. Ở đây, sự tốt đẹp của Tăng chúng có nghĩa là sự tốt đẹp của Tăng chúng Pháp. Người ta nói rằng: “các từ có ý nghĩa là Chú giải, các từ có pháp là Pāḷi.”

Methunaṃ dhammanti evaṃ bahulanayena laddhanāmakaṃ sakasampayogena, parasampayogena vā attano nimittassa sakamagge vā paramagge vā paranimittassa sakamagge eva pavesapaviṭṭhaṭhituddharaṇesu yaṃ kiñci ekaṃ paṭisādiyanavasena seveyya pārājiko hoti asaṃvāsoti. Keci pana ‘‘pavesādīni cattāri vā tīṇi vā dve vā ekaṃ vā paṭiseveyya, pārājiko hoti. Vuttañhetaṃ ‘so ce pavesanaṃ sādiyati, paviṭṭhaṃ, ṭhitaṃ, uddharaṇaṃ sādiyati, āpatti pārājikassā’tiādī’’ti (pārā. 59) vadanti, tesaṃ matena catūsupi catasso pārājikāpattiyo āpajjati. Teyeva evaṃ vadanti ‘‘āpajjatu methunadhammapārājikāpatti methunadhammapārājikāpattiyā tabbhāgiyā’’ti, ‘‘attano vītikkame pārājikāpattiṃ, saṅghādisesāpattiñca āpajjitvā sikkhaṃ paccakkhāya gahaṭṭhakāle methunādipārājikaṃ āpajjitvā puna pabbajitvā upasampajjitvā ekaṃ saṅghādisesāpattiṃ ekamanekaṃ vā paṭikaritvāva so puggalo yasmā nirāpattiko hoti, tasmā so gahaṭṭhakāle sāpattikovāti antimavatthuṃ ajjhāpannassāpi attheva āpattivuṭṭhānaṃ. Vuṭṭhānadesanāhi pana asujjhanato ‘payoge payoge āpatti pārājikassā’ti na vuttaṃ gaṇanapayojanābhāvato. Kiñcāpi na vuttaṃ, atha kho padabhājane ‘āpatti pārājikassā’ti vacanenāyamattho siddho’’ti yuttiñca vadanti. Yadi evaṃ mātikāyampi ‘‘yo pana bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyya pārājika’’nti vattabbaṃ bhaveyya, pārājikassa anavasesavacanampi na yujjeyya. Sabbepi hi āpattikkhandhe bhikkhugaṇanañca anavasesetvā tiṭṭhatīti anavasesavacananti katvā paveseva āpatti, na paviṭṭhādīsu, tamevekaṃ sandhāya ‘‘yassa siyā āpattī’’ti pārājikāpattimpi anto katvā nidānuddese vacanaṃ veditabbaṃ. Tasmā mātikāyaṃ ‘‘pārājika’’nti avatvā ‘‘pārājiko hotī’’ti puggalaniddesavacanaṃ tena sarīrabandhanena upasampadāya abhabbabhāvadīpanatthaṃ. ‘‘Āpatti pārājikassā’’ti padabhājane vacanaṃ antimavatthuṃ ajjhāpannassāpi pārājikassa asaṃvāsassa sato puggalassa atheyyasaṃvāsakabhāvadīpanatthaṃ. Na hi so saṃvāsaṃ sādiyantopi theyyasaṃvāsako hoti, tasmā ‘‘upasampanno bhikkhu’’tveva vuccati. Tenevāha ‘‘asuddho hoti puggalo aññataraṃ pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpanno, tañce suddhadiṭṭhi samāno anokāsaṃ kārāpetvā akkosādhippāyo vadeti, āpatti omasavādena dukkaṭassā’’ti (pārā. 389). Anupasampannassa tadabhāvato siddho so ‘‘upasampanno bhikkhu’’tveva vuccatīti. Tena padasodhammaṃ sahaseyyañca na janeti, bhikkhupesuññādiñca janetīti veditabbaṃ. Bhikkhunīnaṃ saṅghādisesesu pana bhikkhusaṅghādisesato vuṭṭhānavidhivisesadassanatthaṃ ‘‘ayampi bhikkhunī…pe… āpannā’’ti (pāci. 679) puggalaniddesaṃ katvāpi pārājikato adhippāyantaradassanatthaṃ ‘‘nissāraṇīyaṃ saṅghādisesa’’nti (pāci. 679) āpattināmaggahaṇañca kataṃ. Ettāvatā sapuggalaniddese dassitādassitāpattidukaṃ vitthāritaṃ hoti. Apuggalaniddesesu sekhiyesu āpattiyā dassanakāraṇaṃ sekhiyānaṃ aṭṭhakathāyameva vuttaṃ. Tadabhāvato itaresu āpattidassanaṃ kataṃ. Apuggalaniddesesupi dassitādassitāpattidukañca vitthāritaṃ hotīti.
Pháp dâm dục, là tên gọi được biết đến rộng rãi, nếu thực hành bất kỳ một trong các hành động đưa vào, đã đưa vào, giữ yên, hoặc rút ra của bộ phận sinh dục của mình vào đường sinh dục của mình hoặc của người khác, hoặc của bộ phận sinh dục của người khác vào đường sinh dục của mình, bằng cách đồng ý, thì là tội Bất Cộng Trụ, không được sống chung. Một số người nói: “nếu thực hành bốn, ba, hai, hoặc một trong các hành động đưa vào và các hành động khác, thì là tội Bất Cộng Trụ. Điều này đã được nói: ‘nếu vị ấy đồng ý với việc đưa vào, đã đưa vào, giữ yên, rút ra, thì phạm tội Bất Cộng Trụ’” và các đoạn tương tự (pārā. 59). Theo quan điểm của họ, trong cả bốn hành động, sẽ phạm bốn tội Bất Cộng Trụ. Chính họ cũng nói như vậy: “hãy phạm tội Bất Cộng Trụ về pháp dâm dục, tội Bất Cộng Trụ về pháp dâm dục có cùng bản chất với nó.” Họ cũng đưa ra lý lẽ: “sau khi đã phạm tội Bất Cộng Trụ và tội Tăng Tàn trong khi vi phạm của mình, và sau khi đã từ bỏ học giới và trở thành cư sĩ, sau khi đã phạm tội Bất Cộng Trụ về dâm dục và các tội khác, và sau khi đã xuất gia và thọ cụ túc giới lại, và sau khi đã sám hối một hoặc nhiều tội Tăng Tàn, thì cá nhân đó mới trở thành không có tội, do đó, trong khi là cư sĩ, vị ấy là người có tội, và ngay cả đối với người đã phạm tội cuối cùng, vẫn có sự xuất tội. Nhưng vì không thể trong sạch bằng việc sám hối, nên không nói ‘trong mỗi lần thực hành, phạm tội Bất Cộng Trụ’ vì không có mục đích đếm. Mặc dù không nói, nhưng trong phần phân tích từ, ý nghĩa này đã được xác định bằng lời nói ‘phạm tội Bất Cộng Trụ’.” Nếu vậy, trong đề mục, lẽ ra phải nói “Tỳ-khưu nào thực hành pháp dâm dục, phạm tội Bất Cộng Trụ,” và lời nói không bỏ sót của tội Bất Cộng Trụ cũng sẽ không hợp lý. Vì cho rằng nó bao gồm tất cả các uẩn tội lỗi và số lượng Tỳ-khưu mà không bỏ sót, nên chỉ có tội khi đưa vào, không phải khi đã đưa vào và các hành động khác. Cần phải biết rằng lời nói trong phần Duyên khởi “ai có thể phạm tội,” bao gồm cả tội Bất Cộng Trụ, là để chỉ một hành động đó. Do đó, trong đề mục, thay vì nói “tội Bất Cộng Trụ,” lại nói “là tội Bất Cộng Trụ” là lời nói chỉ định cá nhân, để làm sáng tỏ rằng người đó không có khả năng thọ cụ túc giới do sự ràng buộc của thân xác đó. Lời nói “phạm tội Bất Cộng Trụ” trong phần phân tích từ là để làm sáng tỏ rằng cá nhân, dù đã phạm tội cuối cùng và là tội Bất Cộng Trụ không được sống chung, vẫn không phải là kẻ sống chung lén lút. Bởi vì dù vị ấy có đồng ý sống chung, cũng không phải là kẻ sống chung lén lút, do đó, chỉ được gọi là “Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới.” Chính vì vậy, Ngài đã nói: “cá nhân không trong sạch là người đã phạm một trong các pháp Bất Cộng Trụ, nếu một người có chánh kiến, sau khi đã làm cho người đó không có cơ hội, nói với ý định mắng nhiếc, thì phạm tội Tác Ác do nói lời mắng nhiếc” (pārā. 389). Vì người chưa thọ cụ túc giới không có điều đó, nên đã được xác định rằng người đó chỉ được gọi là “Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới.” Cần phải biết rằng do đó, vị ấy không gây ra sự kiểm tra giới và việc nằm chung, nhưng gây ra sự chia rẽ Tỳ-khưu và các tội khác. Còn trong các tội Tăng Tàn của Tỳ-khưu-ni, để thấy được sự khác biệt về phương pháp xuất tội so với tội Tăng Tàn của Tỳ-khưu, sau khi đã chỉ định cá nhân “Tỳ-khưu-ni này… cho đến… đã phạm” (pāci. 679), để thấy được ý định khác so với tội Bất Cộng Trụ, đã nêu tên tội “tội Tăng Tàn cần phải bị trục xuất” (pāci. 679). Bằng chừng ấy, hai loại có trình bày tội và không có trình bày tội trong chỉ định cá nhân đã được giải thích chi tiết. Trong các chỉ định không có cá nhân, lý do trình bày tội trong các pháp cần học đã được nói chính trong Chú giải về các pháp cần học. Do không có điều đó, nên trong các pháp khác, tội đã được trình bày. Trong các chỉ định không có cá nhân, hai loại có trình bày tội và không có trình bày tội cũng đã được giải thích chi tiết.

Paṭhamapaññattikathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về đề tài chế định đầu tiên đã kết thúc.

Sudinnabhāṇavāraṃ niṭṭhitaṃ.
Đoạn kể về Sudinna đã kết thúc.

Makkaṭīvatthukathāvaṇṇanā

Diễn giải câu chuyện về con khỉ cái

40-1. Dutiyapaññattiyaṃ ‘‘idha mallā yujjhantī’’tiādīsu viya paṭisevatīti vattamānavacanaṃ pacurapaṭisevanavasena vuttaṃ, ‘‘tañca kho manussitthiyā, no tiracchānagatāyā’’ti paripuṇṇatthampi paṭhamaṃ paññattiṃ attano micchāgāhena vā lesaoḍḍanatthāya vā evamāha. Paripuṇṇatthataṃyeva niyametuṃ ‘‘nanu āvuso tatheva taṃ hotī’’ti vuttaṃ, teneva makkaṭīvatthu vinītavatthūsu pakkhittaṃ avisesattā, tathā vajjiputtakavatthu. Vicāraṇā panettha tatiyapaññattiyaṃ āvi bhavissati. ‘‘Nanu, āvuso, bhagavatā anekapariyāyenā’’tiādi na kevalaṃ sauddesasikkhāpadeneva siddhaṃ, ‘‘tiracchānagatādīsupi pārājika’’nti anuddesasikkhāpadenapi siddhanti dassanatthaṃ vuttaṃ. Atha vā yadi sauddesasikkhāpadaṃ sāvasesanti paññapesi, iminā anuddesasikkhāpadenāpi kiṃ na siddhanti dassanatthaṃ vuttaṃ. ‘‘Tena hi, bhikkhave, bhikkhūnaṃ sikkhāpadaṃ paññapessāmī’’ti tadeva sikkhāpadaṃ paṭhamapaññattameva lesatthikānaṃ alesokāsaṃ katvā āmeḍitatthaṃ katvā paññapessāmīti attho. Aññathā ‘‘aññavādake vihesake pācittiya’’ntiādīsu (pāci. 101) viya vatthudvayena āpattidvayaṃ āpajjati, na cāpajjati, so evattho aññenāpi vacanena suppakāsito, suparibyattakaraṇatthena daḷhataro katoti adhippāyo. Tatiyapaññattiyampi aññesu ca evaṃ visuddho.
40-1. Trong chế định thứ hai, lời nói ở hiện tại “thực hành” giống như trong câu “ở đây các đô vật đang đấu vật” và các câu tương tự, đã được nói theo cách thực hành nhiều lần. Vị ấy đã nói như vậy, hoặc là do sự nắm bắt sai lầm của mình đối với chế định đầu tiên, vốn đã đầy đủ ý nghĩa “và đó là với người phụ nữ, không phải với con vật,” hoặc là để tìm cách lách luật. Để xác định chính sự đầy đủ ý nghĩa đó, đã được nói: “chẳng phải, này Tôn giả, nó là như vậy sao?” Chính vì vậy, sự việc về con khỉ cái đã được đưa vào trong các sự việc được quyết định vì không có sự khác biệt, cũng như sự việc về Tỳ-khưu Vajjiputta. Sự xem xét ở đây sẽ trở nên rõ ràng trong chế định thứ ba. “Chẳng phải, này Tôn giả, Thế Tôn đã nói bằng nhiều cách…” và các đoạn tiếp theo đã được nói để trình bày rằng nó không chỉ được xác định bằng học giới có tụng đọc, mà còn được xác định bằng học giới không tụng đọc “ngay cả với con vật cũng là tội Bất Cộng Trụ.” Hoặc là, đã được nói để trình bày rằng nếu Ngài đã chế định học giới có tụng đọc là có bỏ sót, thì tại sao nó không được xác định bằng học giới không tụng đọc này. “Do đó, này các Tỳ-khưu, Ta sẽ chế định học giới cho các Tỳ-khưu,” có nghĩa là Ta sẽ chế định lại chính học giới đó, chính chế định đầu tiên đó, bằng cách làm cho nó không có kẽ hở cho những kẻ tìm cách lách luật, và làm cho ý nghĩa của nó được lặp lại. Nếu không, giống như trong câu “đối với người nói lời hai lưỡi và gây tổn hại, phạm tội Ưng Đối Trị” và các câu tương tự (pāci. 101), sẽ có hai tội do hai sự việc, nhưng không phải vậy. Ý định là, chính ý nghĩa đó đã được làm cho sáng tỏ hơn bằng lời nói khác, và được làm cho vững chắc hơn bằng cách làm cho nó được giải thích rõ ràng. Trong chế định thứ ba và các chế định khác cũng vậy.

Yassa sacittakapakkhetiādimhi pana gaṇṭhipadanayo tāva paṭhamaṃ vuccati, sacittakapakkheti surāpānādiacittake sandhāya vuttaṃ. Sacittakesu pana yaṃ ekantamakusaleneva samuṭṭhāpitañca. Ubhayaṃ lokavajjaṃ nāma. Surāpānasmiñhi ‘‘surā’’ti vā ‘‘pātuṃ na vaṭṭatī’’ti vā jānitvā pivane akusalameva, tathā bhikkhunīnaṃ gandhavaṇṇakatthāya lepane, bhesajjatthāya lepane adosattā ‘‘avicāraṇīya’’nti ettakaṃ vuttaṃ. Tattha na vaṭṭatīti ‘‘jānitvā’’ti vuttavacanaṃ na yujjati paṇṇattivajjassāpi lokavajjabhāvappasaṅgato. Imaṃ aniṭṭhappasaṅgaṃ pariharitukāmatāya Trí Tuệ Kim Cươngttherassa gaṇṭhipade vuttaṃ ‘‘idha sacittakanti ca acittakanti ca vicāraṇā vatthuvijānaneyeva hoti, na paññattivijānane. Yadi paññattivijānane hoti, sabbasikkhāpadāni lokavajjāneva siyuṃ, na ca sabbasikkhāpadāni lokavajjāni , tasmā vatthuvijānaneyeva hotī’’ti, idaṃ yujjati. Kasmā? Yasmā sekhiyesu paññattijānanameva pamāṇaṃ, na vatthumattajānananti, yaṃ pana tattheva vuttaṃ ‘‘pasuttassa mukhe koci suraṃ pakkhipeyya, anto ce paviseyya, āpatti, tattha yathā bhikkhuniyā adhakkhakaṃ ubbhajāṇumaṇḍalaṃ parassa āmasanādikāle kāyaṃ acāletvā citteneva sādiyantiyā āpatti ‘kiriyāva hotī’ti vuttā yebhuyyena kiriyasambhavato, tathā ayampi tadā kiriyāva hotī’’ti, taṃ suvicāritaṃ anekantākusalabhāvasādhanato. Surāpānāpattiyā ekantākusalatā pana majjasaññinopi sakiṃ payogena pivato hotīti katvā vuttā.
Trong câu đối với bên có tâm và các câu tương tự, trước hết là nói theo cách của sách giải thích từ khó. Đối với bên có tâm, đã được nói đến để chỉ những thứ không có tâm như uống rượu và các hành động khác. Còn trong những thứ có tâm, cái nào được sinh khởi hoàn toàn do bất thiện, thì cả hai đều được gọi là tội lỗi thế gian. Bởi vì trong việc uống rượu, nếu biết là “rượu” hoặc “không được phép uống” mà vẫn uống, thì đó là bất thiện. Cũng vậy, đối với Tỳ-khưu-ni, trong việc bôi thuốc thơm để làm đẹp, vì không có lỗi khi bôi để chữa bệnh, nên chỉ nói “không cần xem xét.” Ở đó, lời nói “biết rằng” không được phép, không hợp lý vì sẽ dẫn đến việc tội lỗi chế định cũng trở thành tội lỗi thế gian. Vì muốn tránh sự việc không mong muốn này, trong sách giải thích từ khó của Trưởng lão Trí Tuệ Kim Cương đã được nói: “ở đây, sự xem xét có tâm và không có tâm chỉ xảy ra trong việc biết sự việc, không phải trong việc biết chế định. Nếu xảy ra trong việc biết chế định, thì tất cả các học giới sẽ đều là tội lỗi thế gian, nhưng không phải tất cả các học giới đều là tội lỗi thế gian, do đó, nó chỉ xảy ra trong việc biết sự việc,” điều này hợp lý. Tại sao? Bởi vì trong các pháp cần học, việc biết chế định là tiêu chuẩn, không phải chỉ biết sự việc. Còn điều đã được nói ở chính đó: “nếu ai đó đổ rượu vào miệng người đang ngủ, và nếu nó vào trong, thì phạm tội. Ở đó, giống như Tỳ-khưu-ni, khi người khác chạm vào và các hành động khác ở phần trên đầu gối, dưới nách, nếu không cử động thân mà chỉ đồng ý bằng tâm, thì tội được nói là ‘chính là hành động’ vì hành động xảy ra phần lớn, cũng vậy, đây cũng chính là hành động lúc đó,” điều đó đã được xem xét kỹ lưỡng vì nó chứng minh cho bản chất không hoàn toàn bất thiện. Còn tính chất hoàn toàn bất thiện của tội uống rượu đã được nói đến vì nó xảy ra ngay cả đối với người có ý thức về rượu, uống chỉ một lần.

Ayaṃ panettha attho – sikkhāpadasīsena āpattiṃ gahetvā yassa sikkhāpadassa sacittakassa cittaṃ akusalameva hoti, taṃ lokavajjaṃ. Sacittakācittakasaṅkhātassa acittakassa ca sacittakapakkhe cittaṃ akusalameva hoti, tampi surāpānādi lokavajjanti imamatthaṃ sampiṇḍetvā ‘‘yassa sacittakapakkhe cittaṃ akusalameva hoti, taṃ lokavajja’’nti vuttaṃ. Sacittakapakkheti hi idaṃ vacanaṃ acittakaṃ sandhāyāha. Na hi ekaṃsato sacittakassa sacittakapakkheti visesane payojanaṃ atthi. Yasmā panettha paṇṇattivajjassa paññattijānanacittena sacittakapakkhe cittaṃ akusalameva, vatthujānanacittena sacittakapakkhe cittaṃ siyā kusalaṃ siyā akusalaṃ siyā abyākataṃ, tasmā ‘‘tassa sacittakapakkhe cittaṃ akusalamevā’’ti na vuccatīti ‘‘sesaṃ paṇṇattivajja’’nti vuttaṃ. Adhimāne vītikkamābhāvā, supinante abbohārikattā supinante vijjamānāpi vītikkamachāyā abbohārikbhāvenāti vuttaṃ hoti. Idaṃ pana vacanaṃ daḷhīkammasithilakaraṇappayojanattā ca vuttaṃ, tena yaṃ vuttaṃ bāhiranidānakathādhikāre ‘‘daḷhīkammasithilakaraṇappayojanāti yebhuyyatāya vutta’’ntiādi, taṃ suvuttamevāti veditabbaṃ.
Ở đây, ý nghĩa là – lấy tội theo đầu đề học giới, học giới nào có tâm, mà tâm chỉ là bất thiện, thì đó là tội lỗi thế gian. Đối với cái không có tâm, được gọi là có tâm và không có tâm, và đối với cái có tâm, tâm chỉ là bất thiện, thì đó cũng là tội lỗi thế gian, như uống rượu và các hành động khác. Gộp chung ý nghĩa này, đã được nói: “cái nào, đối với bên có tâm, tâm chỉ là bất thiện, thì đó là tội lỗi thế gian.” Bởi vì lời nói “đối với bên có tâm” là để chỉ cái không có tâm. Bởi vì không có mục đích gì trong việc đặc tả “đối với bên có tâm” của một thứ hoàn toàn có tâm. Bởi vì ở đây, đối với tội lỗi chế định, tâm đối với bên có tâm, do tâm biết chế định, chỉ là bất thiện. Đối với bên có tâm, do tâm biết sự việc, tâm có thể là thiện, có thể là bất thiện, có thể là vô ký, do đó, không nói “tâm đối với bên có tâm của nó chỉ là bất thiện,” nên đã được nói “còn lại là tội lỗi chế định.” Vì không có sự vi phạm trong việc tự cho mình là thánh, vì không có giá trị pháp lý trong giấc mơ, nên đã được nói rằng ngay cả khi có bóng dáng của sự vi phạm trong giấc mơ, nó cũng không có giá trị pháp lý. Lời nói này cũng đã được nói vì mục đích củng cố và nới lỏng. Do đó, điều đã được nói trong phần về đề tài duyên khởi bên ngoài: “vì mục đích củng cố và nới lỏng, đã được nói theo đa số” và các đoạn tương tự, cần phải biết rằng đó đã được nói rất hay.

Makkaṭīvatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải câu chuyện về con khỉ cái đã kết thúc.

Vajjiputtakavatthuvaṇṇanā

Diễn giải câu chuyện về Tỳ-khưu Vajjiputta

43-4. Vajjīsu janapadesu vasantā vajjino nāma, tesaṃ puttā. Yāvadatthanti yāvatā attho adhippāyoti vuttaṃ hoti, tattha yaṃ vuttaṃ ‘‘sikkhaṃ appaccakkhāya dubbalyaṃanāvikatvā’’ti, taṃ kāmaṃ sikkhāpaccakkhāne, tadekaṭṭhe ca dubbalyāvikaraṇe paññatte sati yujjati, na aññathā. Tathāpi idāni paññapetabbaṃ upādāya vuttaṃ, kathañhi nāma chabbaggiyā bhikkhū atirekacīvaraṃ dhāressanti (pārā. 459), āḷavakā bhikkhū kuṭiyo kārāpenti appamāṇikāyo (pārā. 342), bhikkhuniyo dve vassāni chasu dhammesu asikkhitasikkhaṃ sikkhamānaṃ vuṭṭhāpenti (pāci. 1077), saṅghena asammataṃ vuṭṭhāpentītiādi (pāci. 1084) viya daṭṭhabbaṃ. Na hi tato pubbe adhiṭṭhānaṃ vikappanaṃ vā anuññātaṃ. Yadabhāvā atirekacīvaranti vadeyya, pamāṇaṃ vā na paññattaṃ, yadabhāvā appamāṇikāyoti vadeyya, evaṃsampadamidaṃ daṭṭhabbaṃ. ‘‘Ullumpatu maṃ, bhante, saṅgho anukampaṃ upādāyā’’ti (mahāva. 71, 126) upasampadaṃ yācitvā upasampannena upasampannasamanantarameva ‘‘upasampannena bhikkhunā methuno dhammo na paṭisevitabbo, asakyaputtiyo’’ti (mahāva. 129) ca paññattena assamaṇādibhāvaṃ upagantukāmena nanu paṭhamaṃ ajjhupagatā sikkhā paccakkhātabbā, tattha dubbalyaṃ vā āvikātabbaṃ siyā, te pana ‘‘sikkhaṃ appaccakkhāya dubbalyaṃ anāvikatvā methunaṃ dhammaṃ paṭiseviṃsū’’ti anupaññattiyā okāsakaraṇatthaṃ vā taṃ vuttanti veditabbaṃ. ‘‘So āgato na upasampādetabbo’’ti kiñcāpi ettheva vuttaṃ, tathāpi itaresupi pārājikesu yathāsambhavaṃ veditabbaṃ. Na hi sikkhaṃ appaccakkhāya dubbalyaṃ anāvikatvā yo pārājikavatthuṃ adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyati, manussaviggahaṃ vā jīvitā voropeti, paṭivijānantassa uttarimanussadhammaṃ vā ullapati, so āgato na upasampādetabbo. Anupaññatti hi daḷhīkammasithilakammakaraṇappayojanā. Sā hi yassa pārājikaṃ hoti aññā vā āpatti, tassa niyamadassanappayojanātilakkhaṇānupaññattikattā. Evañhi ante avatvā ādimhi vuttā ‘‘gāmā vā araññā vā’’ti (pārā. 91) anupaññatti viya. Paripuṇṇe panetasmiṃ sikkhāpade –
43-4. Những người sống ở các xứ sở Vajji được gọi là người Vajji, con trai của họ. Theo ý muốn, đã được nói rằng ý định là chừng nào có mục đích. Ở đó, điều đã được nói “không từ bỏ học giới, không tỏ bày sự yếu kém,” điều đó, dù sao đi nữa, hợp lý khi việc từ bỏ học giới và việc tỏ bày sự yếu kém, có cùng một ý nghĩa, đã được chế định, không phải cách khác. Tuy nhiên, đã được nói đến để chỉ những gì sẽ được chế định bây giờ. Làm sao mà các Tỳ-khưu thuộc nhóm sáu vị lại có thể giữ y thừa (pārā. 459), các Tỳ-khưu Āḷavaka lại cho xây những cái am không có kích thước (pārā. 342), các Tỳ-khưu-ni lại cho cô ni tu tập sự, người chưa học sáu pháp trong hai năm, thọ cụ túc giới (pāci. 1077), cho thọ cụ túc giới mà không được Tăng chúng chấp thuận (pāci. 1084) và các trường hợp khác. Bởi vì trước đó, việc xác quyết hoặc việc định đoạt chưa được cho phép. Do không có điều đó, người ta có thể nói là y thừa. Hoặc là, kích thước chưa được chế định. Do không có điều đó, người ta có thể nói là không có kích thước. Cần phải hiểu điều này như vậy. “Bạch Thế Tôn, xin Tăng chúng hãy cứu vớt con, vì lòng thương xót” (mahāva. 71, 126), sau khi đã xin thọ cụ túc giới và đã được thọ, chẳng phải người muốn trở thành người không phải Sa-môn và các trạng thái khác, do đã được chế định ngay sau khi thọ cụ túc giới “Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới không được thực hành pháp dâm dục, là điều không phải của con trai dòng họ Sakya” (mahāva. 129), trước hết phải từ bỏ học giới đã chấp nhận, và ở đó, phải tỏ bày sự yếu kém sao? Cần phải biết rằng họ đã được nói như vậy, “không từ bỏ học giới, không tỏ bày sự yếu kém, đã thực hành pháp dâm dục,” hoặc là để tạo cơ hội cho việc chế định bổ sung. “Người đó, sau khi trở về, không được thọ cụ túc giới,” mặc dù đã được nói chính ở đây, nhưng cần phải biết là cũng áp dụng cho các tội Bất Cộng Trụ khác theo khả năng. Bởi vì người nào không từ bỏ học giới, không tỏ bày sự yếu kém, mà lấy trộm vật không được cho, giết người, hoặc nói dối về pháp thượng nhân mà mình biết, thì người đó, sau khi trở về, không được thọ cụ túc giới. Bởi vì chế định bổ sung có mục đích củng cố và nới lỏng. Bởi vì nó có mục đích trình bày quy luật cho người phạm tội Bất Cộng Trụ hoặc tội khác, nên là chế định bổ sung có đặc tính trình bày quy luật. Bởi vì nếu không nói ở cuối mà nói ở đầu, giống như chế định bổ sung “từ làng hay từ rừng” (pārā. 91). Nhưng khi học giới này đã hoàn chỉnh –

‘‘Nidānā mātikābhedo, vibhaṅgo taṃniyāmako;
Tato āpattiyā bhedo, anāpatti tadaññathā’’ti. –
“Duyên khởi, sự phân loại đề mục, phần phân tích là cái xác định nó;
Từ đó, có sự phân loại của tội, không có tội là ngược lại.” –

Ayaṃ nayo veditabbo. Tattha sudinnavatthu makkaṭivatthu vajjiputtakavatthu cāti tippabhedaṃ vatthu imassa sikkhāpadassa nidānaṃ nāma, tato nidānā ‘‘yo pana, bhikkhu, bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno…pe… asaṃvāso’’ti imissā mātikāya bhedo jāto. Tattha hi ‘‘antamaso tiracchānagatāyā’’ti itthiliṅgavacanena ‘‘saccaṃ, āvuso, bhagavatā sikkhāpadaṃ paññattaṃ, tañca kho itthiyā no purise no paṇḍake no ubhatobyañjanake cā’’ti makkaṭipārājiko viya aññopi lesaṃ oḍḍetuṃ sakkoti, tasmā tādisassa alesokāsassa dassanatthaṃ idaṃ vuccati. Makkaṭivatthusaṅkhātā nidānā ‘‘antamaso tiracchānagatāyapī’’ti mātikāvacanabhedo na itthiyā eva methunasiddhidinato kato, tasmā vibhaṅgo taṃniyāmako tassā mātikāya adhippetatthaniyāmako vibhaṅgo. Vibhaṅge hi ‘‘tisso itthiyo. Tayo ubhatobyañjanakā. Tayo paṇḍakā. Tayo purisā. Manussitthiyā tayo magge…pe… tiracchānagatapurisassa dve magge’’tiādinā (pārā. 56) nayena sabbalesokāsaṃ pidahitvā niyamo kato.
Cần phải biết cách này. Ở đó, sự việc có ba loại: sự việc của Sudinna, sự việc của con khỉ cái và sự việc của Tỳ-khưu Vajjiputta, được gọi là duyên khởi của học giới này. Từ duyên khởi đó, đã có sự phân loại của đề mục này: “Tỳ-khưu nào, đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng của các Tỳ-khưu… cho đến… không được sống chung.” Bởi vì ở đó, bằng lời nói ở giống cái “ngay cả với con vật,” giống như Tỳ-khưu Bất Cộng Trụ về con khỉ cái, người khác cũng có thể tìm cách lách luật: “sự thật, này Tôn giả, học giới đã được Thế Tôn chế định, và đó là với người phụ nữ, không phải với đàn ông, không phải với người ái nam ái nữ, không phải với người có cả hai giới tính.” Do đó, để trình bày rằng không có kẽ hở cho những kẻ như vậy, điều này đã được nói. Sự phân loại của lời nói trong đề mục “ngay cả với con vật” từ duyên khởi được gọi là sự việc của con khỉ cái không được thực hiện chỉ do việc giao hợp với người phụ nữ. Do đó, phần phân tích là cái xác định nó, phần phân tích xác định ý nghĩa được hàm ý của đề mục đó. Bởi vì trong phần phân tích, bằng cách “ba người phụ nữ, ba người có cả hai giới tính, ba người ái nam ái nữ, ba người đàn ông, với người phụ nữ, trong ba đường… cho đến… với con vật đực, trong hai đường” và các cách khác (pārā. 56), quy luật đã được thực hiện, bịt kín mọi kẽ hở.

Etthāha – yadi evaṃ sādhāraṇasikkhāpadavasena vā liṅgaparivattanavasena vā na kevalaṃ bhikkhūnaṃ, bhikkhunīnampi ‘‘sikkhāsājīvasamāpanno’’ti vibhaṅge vattabbaṃ siyā. Tadavacanena bhikkhunī purisaliṅgapātubhāvena bhikkhubhāve ṭhitā evaṃ vadeyya ‘‘nāhaṃ upasampadakāle bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpannā, tasmā na appaccakkhātasikkhāpi methunadhammena pārājikā homī’’ti? Vuccate – tathā na vattabbaṃ aniṭṭhappasaṅgato. Bhikkhunīnampi ‘‘sikkhāsājīvasamāpanno’’ti vutte bhikkhunīnampi sikkhāpaccakkhānaṃ atthīti āpajjati, tañcāniṭṭhaṃ. Idaṃ aparaṃ aniṭṭhappasaṅgoti ‘‘sabbasikkhāpadāni sādhāraṇāneva, nāsādhāraṇānī’’ti. Apicāyaṃ bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpannovāti dassanatthaṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, taṃyeva upajjha’’ntiādi (pārā. 69) vuttaṃ, apica yo tathā lesaṃ oḍḍetvā methunaṃ dhammaṃ paṭisevanto vajjiputtakā viya pārājiko hoti. Te hi ‘‘bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno’’ti vacanābhāve sati ‘‘āpattiṃ tumhe, bhikkhave, āpannā pārājika’’nti vuttā bhagavatā. Ettha pana ‘‘bhikkhave’’ti vuttattā keci bhikkhuliṅge ṭhitā, ‘‘idāni cepi mayaṃ, bhante ānanda, labheyyāma bhagavato santike pabbajjaṃ labheyyāma upasampada’’nti vuttattā keci vibbhantāti veditabbā. Tato āpattiyā bhedoti tato vibhaṅgato ‘‘akkhāyite sarīre pārājikaṃ, yebhuyyena khāyite thullaccaya’’ntiādi āpattiyā bhedo hoti. Anāpatti tadaññathāti tato eva vibhaṅgato yenākārena āpatti vuttā, tato aññenākārena anāpattibhedova hoti. ‘‘Sādiyati āpatti pārājikassa, na sādiyati anāpattī’’ti hi vibhaṅge asati na paññāyati. Ettāvatā samāsato gāthāttho vutto hoti. Ettha ca pana –
Vị ấy nói ở đây – nếu vậy, theo học giới chung hoặc theo sự thay đổi giới tính, không chỉ đối với Tỳ-khưu, mà cả đối với Tỳ-khưu-ni, cũng phải được nói trong phần phân tích là “người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng.” Do không nói như vậy, Tỳ-khưu-ni, sau khi có giới tính nam và trở thành Tỳ-khưu, có thể nói rằng: “vào lúc thọ cụ túc giới, tôi không chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng của các Tỳ-khưu, do đó, dù không từ bỏ học giới, tôi cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ do pháp dâm dục”? Xin thưa – không nên nói như vậy vì sẽ dẫn đến sự việc không mong muốn. Nếu nói “người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng” cả đối với Tỳ-khưu-ni, thì sẽ dẫn đến việc Tỳ-khưu-ni cũng có thể từ bỏ học giới, và điều đó là không mong muốn. Đây là một sự việc không mong muốn khác: “tất cả các học giới đều là chung, không có học giới nào là không chung.” Hơn nữa, để trình bày rằng vị này là người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng của các Tỳ-khưu, đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép, chính vị thầy Giáo Thọ Sư đó…” và các đoạn tiếp theo (pārā. 69). Hơn nữa, người nào tìm cách lách luật như vậy và thực hành pháp dâm dục, giống như các Tỳ-khưu Vajjiputta, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Bởi vì nếu không có lời nói “người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng của các Tỳ-khưu,” họ đã được Thế Tôn nói: “Này các Tỳ-khưu, các ngươi đã phạm tội Bất Cộng Trụ.” Ở đây, vì đã nói “này các Tỳ-khưu,” cần phải biết rằng một số người vẫn là Tỳ-khưu, và vì đã được nói “bạch ngài Ānanda, nếu bây giờ chúng con được xuất gia với Thế Tôn, được thọ cụ túc giới,” một số người đã hoàn tục. Từ đó, có sự phân loại của tội, từ phần phân tích đó, có sự phân loại của tội: “trong thân thể đã bị ăn, phạm tội Bất Cộng Trụ, ăn phần lớn, phạm tội Trọng Tội” và các tội khác. Không có tội là ngược lại, từ chính phần phân tích đó, theo cách nào mà tội đã được nói, thì theo cách khác, có sự phân loại không có tội. Bởi vì nếu không có phần phân tích, không thể biết được: “đồng ý, phạm tội Bất Cộng Trụ, không đồng ý, không phạm tội.” Bằng chừng ấy, ý nghĩa của bài kệ đã được nói một cách tóm tắt. Và ở đây –

‘‘Nidānamātikābhedo, vibhaṅgassa payojanaṃ;
Anāpattipakāro ca, paṭhamo nippayojano’’ti. –
“Duyên khởi, sự phân loại đề mục, mục đích của phần phân tích;
Và cách không phạm tội, cách đầu tiên là vô ích.” –

Imaṃ nayaṃ dassetvāva sabbasikkhāpadānaṃ attho pakāsitabbo. Kathaṃ? Bhagavatā pana yenākārena yaṃ sikkhāpadaṃ paññāpitaṃ, tassa ākārassa samatthaṃ vā asamatthaṃ vāti duvidhaṃ nidānaṃ, ayaṃ nidānabhedo. Mātikāpi nidānāpekkhā nidānānapekkhāti duvidhā. Tattha catutthapārājikādisikkhāpadāni nidānāpekkhāni. Na hi vaggumudātīriyā bhikkhū sayameva attano attano asantaṃ uttarimanussadhammaṃ musāvādalakkhaṇaṃ pāpetvā bhāsiṃsu. Aññamaññassa hi te uttarimanussadhammassa gihīnaṃ vaṇṇaṃ bhāsiṃsu, na ca tāvatā pārājikavatthu hoti. Tattha tena lesena bhagavā taṃ vatthuṃ nidānaṃ katvā pārājikaṃ paññapesi, tena vuttaṃ ‘‘nidānāpekkha’’nti. Iminā nayena nidānāpekkhāni ñatvā tabbiparītāni sikkhāpadāni nidānānapekkhānīti veditabbāni, ayaṃ mātikābhedo.
Sau khi đã trình bày cách này, ý nghĩa của tất cả các học giới phải được làm sáng tỏ. Như thế nào? Thế Tôn đã chế định học giới nào theo cách nào, thì duyên khởi của cách đó có hai loại: có khả năng hoặc không có khả năng. Đây là sự phân loại của duyên khởi. Đề mục cũng có hai loại: phụ thuộc vào duyên khởi và không phụ thuộc vào duyên khởi. Ở đó, các học giới như tội Bất Cộng Trụ thứ tư và các học giới khác là phụ thuộc vào duyên khởi. Bởi vì các Tỳ-khưu ở bờ sông Vaggumudā không tự mình nói dối về pháp thượng nhân không có của mình. Họ đã nói về pháp thượng nhân của nhau cho các cư sĩ, nhưng chừng đó chưa phải là sự việc của tội Bất Cộng Trụ. Ở đó, bằng cách lách luật đó, Thế Tôn đã lấy sự việc đó làm duyên khởi và chế định tội Bất Cộng Trụ, do đó đã được nói là “phụ thuộc vào duyên khởi.” Bằng cách này, sau khi đã biết những học giới phụ thuộc vào duyên khởi, cần phải biết rằng các học giới ngược lại là không phụ thuộc vào duyên khởi. Đây là sự phân loại của đề mục.

Nānappakārato mūlāpattippahonakavatthupayogacittaniyāmadassanavasena mātikāya vibhajanabhāvadīpanatthaṃ tesaṃ appahonakatāya vā tadaññataravekallatāya vā vītikkame sati āpattibhedadassanatthaṃ, asati anāpattidassanatthañcāti sabbattha tayo atthavase paṭicca mātikāya vibhajanaṃ vibhaṅgo ārabhīyatīti veditabbo. Ettha pana ‘‘bhikkhakoti bhikkhu, bhikkhācariyaṃ ajjhupagatoti bhikkhu, bhinnapaṭadharoti bhikkhū’’ti kevalaṃ byañjanatthadīpanavasena pavatto vā, ‘‘samaññāya bhikkhū’’ti bhikkhubhāvasambhavaṃ anapekkhitvāpi kevalaṃ bhikkhu nāma pavattiṭṭhānadīpanavasena pavatto vā, ‘‘ehi bhikkhūti bhikkhu, saraṇagamanehi upasampannoti bhikkhu, ñatticatutthena kammena upasampannoti bhikkhū’’ti upasampadānantarenāpi bhikkhubhāvasiddhidīpanavasena pavatto vā, ‘‘bhadro bhikkhu, sāro bhikkhu, sekkho bhikkhu, asekkho bhikkhū’’ti bhikkhukaraṇehi dhammehi samannāgatabhikkhudīpanavasena pavatto vā vibhaṅgo ajjhupekkhito sabbasāmaññapadattā, tathā aññabhāgiyasikkhāpadādīsu sadvāravasena, adhikaraṇadassanādivasena pavatto ca ajjhupekkhito itarattha tadabhāvatoti veditabbo.
Cần phải biết rằng phần phân tích được bắt đầu để phân chia đề mục, dựa vào ba lợi ích ở khắp mọi nơi: để trình bày bản chất của việc phân chia đề mục bằng cách trình bày quy luật về sự việc, cách thực hành và tâm, là những yếu tố có khả năng dẫn đến tội gốc, theo nhiều cách khác nhau; để trình bày sự phân loại của tội khi có sự vi phạm do chúng không có khả năng hoặc do thiếu một trong số chúng; và để trình bày sự không có tội khi không có sự vi phạm. Ở đây, phần phân tích đã bỏ qua những phần chỉ trình bày ý nghĩa của văn tự, như “Tỳ-khưu là Tỳ-khưu, là người đã chấp nhận việc khất thực là Tỳ-khưu, là người mặc y vá là Tỳ-khưu”; hoặc những phần chỉ trình bày nơi chốn của tên gọi Tỳ-khưu mà không cần đến sự tồn tại của bản chất Tỳ-khưu, như “theo danh xưng là Tỳ-khưu”; hoặc những phần trình bày sự thành tựu bản chất Tỳ-khưu ngay cả sau khi thọ cụ túc giới, như “hãy đến, này Tỳ-khưu, là Tỳ-khưu, là người đã thọ cụ túc giới bằng cách quy y là Tỳ-khưu, là người đã thọ cụ túc giới bằng Tăng sự tứ phần là Tỳ-khưu”; hoặc những phần trình bày Tỳ-khưu có đủ các pháp làm cho trở thành Tỳ-khưu, như “Tỳ-khưu tốt, Tỳ-khưu cốt lõi, Tỳ-khưu hữu học, Tỳ-khưu vô học,” vì đó là các từ chung chung. Cần phải biết rằng cũng đã bỏ qua những phần được trình bày theo các căn, theo sự trình bày về các vụ tranh chấp và các cách khác trong các học giới thuộc các phần khác, vì không có chúng ở những nơi khác.

Tattha tisso itthiyotiādi vatthuniyamadassanavasena pavatto, manussitthiyā tayo magge methunaṃ dhammaṃ paṭisevantassa āpatti pārājikassātiādi payoganiyamadassanavasena pavatto, bhikkhussa sevanacittaṃ upaṭṭhitetiādi cittaniyamadassanavasena pavatto, sādiyati āpatti pārājikassa, na sādiyati anāpattītiādi vatthupayoganiyame sati cittaniyamabhāvābhāvavasena āpattānāpattidassanatthaṃ pavatto, mataṃ yebhuyyena khāyitaṃ āpatti thullaccayassātiādi vatthussa appahonakatāya vītikkame āpattibhedadassanatthaṃ pavatto, na sādiyati anāpattīti cittaniyamavekalyena vītikkamābhāvā anāpattidassanatthaṃ pavattoti. Evaṃ itaresupi sikkhāpadesu yathāsambhavanayo ayanti payojano vibhaṅgo.
Ở đó, phần trình bày theo cách xác định quy luật về sự việc, như “ba người phụ nữ” và các trường hợp khác; phần trình bày theo cách xác định quy luật về cách thực hành, như “với người phụ nữ, thực hành pháp dâm dục trong ba đường, phạm tội Bất Cộng Trụ” và các trường hợp khác; phần trình bày theo cách xác định quy luật về tâm, như “tâm thực hành của Tỳ-khưu đã khởi lên” và các trường hợp khác; phần trình bày để trình bày tội và không có tội theo sự có hay không có quy luật về tâm khi có quy luật về sự việc và cách thực hành, như “đồng ý, phạm tội Bất Cộng Trụ, không đồng ý, không phạm tội”; phần trình bày để trình bày sự phân loại của tội khi vi phạm do sự việc không có khả năng, như “ăn thịt người chết phần lớn, phạm tội Trọng Tội” và các trường hợp khác; phần trình bày để trình bày sự không có tội do không có sự vi phạm vì thiếu quy luật về tâm, như “không đồng ý, không phạm tội.” Như vậy, đây là cách áp dụng theo khả năng trong các học giới khác, nên phần phân tích là có mục đích.

Anāpattivāro pana mūlāpattito, tadaññekadesato, sabbāpattito ca anāpattidīpanavasena tividho. Tattha yo paṭhamo, so vibhaṅgo viya tayo atthavase paṭicca pavatto. Katame tayo? Mātikāpadānaṃ sātthakaniratthakānaṃ tadaññathā uddharaṇānuddharaṇavasena sappayojananippayojanabhāvadīpanatthaṃ, tadaññathā paṭipattikkamadassanatthaṃ, āpattippahonakaṭṭhānepi vissajjanatthañcāti. Kathaṃ? Eḷakalomasikkhāpade ‘‘bhikkhuno paneva addhānamaggappaṭipannassa eḷakalomāni uppajjeyyuṃ, ākaṅkhamānena bhikkhunā paṭiggahetabbānī’’ti (pārā. 572) etāni kevalaṃ vatthumattadīpanapadānīti niratthakāni nāma, tesaṃ anāpatti. ‘‘Addhānamaggaṃ appaṭipannassa uppanne eḷakalome anāpatti, ākaṅkhamānena paṭiggahite’’tiādinā nayena tadaññathā anuddharaṇena nippayojanabhāvo dīpito hoti, yadidaṃ mātikāyaṃ ‘‘methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyyā’’ti, idaṃ sātthakaṃ. Tassa sappayojanabhāvadīpanatthaṃ ‘‘anāpatti ajānantassa asādiyantassā’’ti vuttaṃ. Yasmā jānanasādiyanabhāvena āpatti, asevantassa anāpatti, tasmā vuttaṃ mātikāyaṃ ‘‘yo pana bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyya, pārājiko hoti asaṃvāso’’ti adhippāyo. ‘‘Parapariggahitaṃ parapariggahitasaññitā garuparikkhāro theyyacittaṃ avaharaṇa’’nti vuttānaṃ pañcannampi aṅgānaṃ pāripūriyā petatiracchānagatapariggahite āpattippahonakaṭṭhānepi vissajjanatthaṃ ‘‘anāpatti petapariggahite’’tiādi (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyapārājikavaṇṇanā) vuttaṃ. Anāpatti imaṃ jāna, imaṃ dehi, imaṃ āhara, iminā attho, imaṃ kappiyaṃ karohīti bhaṇatītiādi pana tadaññathā paṭipattikkamadassanatthaṃ vuttanti veditabbaṃ. Ettāvatā ‘‘nidānamātikābhedo’’tiādinā vuttagāthāya attho pakāsito hoti.
Phần không có tội có ba loại: trình bày sự không có tội so với tội gốc, so với một phần của nó, và so với tất cả các tội. Ở đó, phần đầu tiên, giống như phần phân tích, được trình bày dựa vào ba lợi ích. Ba lợi ích đó là gì? Để trình bày bản chất có mục đích và không có mục đích của các từ trong đề mục, có ý nghĩa và không có ý nghĩa, bằng cách trích dẫn hoặc không trích dẫn chúng theo cách khác; để trình bày trình tự thực hành theo cách khác; và để giải thích ngay cả ở những nơi có khả năng phạm tội. Như thế nào? Trong học giới về lông cừu, “đối với Tỳ-khưu đang đi đường, nếu có lông cừu sinh ra, nếu Tỳ-khưu muốn, thì có thể nhận” (pārā. 572), những từ này chỉ là những từ trình bày sự việc, nên được gọi là không có ý nghĩa, không phạm tội. Bằng cách không trích dẫn chúng theo cách khác, như “đối với người không đi đường, nếu có lông cừu sinh ra, không phạm tội, nếu muốn mà nhận” và các cách khác, bản chất không có mục đích đã được làm sáng tỏ. Điều này trong đề mục “thực hành pháp dâm dục,” là có ý nghĩa. Để trình bày bản chất có mục đích của nó, đã được nói: “không phạm tội đối với người không biết, không đồng ý.” Bởi vì có tội do biết và đồng ý, không có tội đối với người không thực hành. Do đó, ý định là, đã được nói trong đề mục “Tỳ-khưu nào thực hành pháp dâm dục, là tội Bất Cộng Trụ, không được sống chung.” Để giải thích ngay cả ở những nơi có khả năng phạm tội đối với vật thuộc sở hữu của ngạ quỷ và súc sinh, do sự đầy đủ của cả năm yếu tố đã được nói: “vật thuộc sở hữu của người khác, có ý thức là vật thuộc sở hữu của người khác, là vật dụng nặng, có tâm trộm cắp, lấy đi,” đã được nói: “không phạm tội đối với vật thuộc sở hữu của ngạ quỷ” và các trường hợp khác (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyapārājikavaṇṇanā). Cần phải biết rằng các câu như “không phạm tội, hãy biết điều này, hãy cho điều này, hãy mang điều này đến, có ích với điều này, hãy làm cho điều này hợp lệ” và các câu tương tự đã được nói để trình bày trình tự thực hành theo cách khác. Bằng chừng ấy, ý nghĩa của bài kệ đã được nói, bắt đầu bằng “duyên khởi, sự phân loại đề mục” và các câu tương tự, đã được làm sáng tỏ.

Ettha paṭhamapaññatti tāva paṭhamabodhiṃ atikkamitvā paññattattā, āyasmato sudinnassa aṭṭhavassikakāle paññattattā ca rattaññumahattaṃ pattakāle paññattā. Dutiyaanupaññatti bāhusaccamahattaṃ pattakāle uppannā. So hāyasmā makkaṭipārājiko yathā mātugāmapaṭisaṃyuttesu sikkhāpadesu tiracchānagatitthī anadhippetā, tathā idhāpīti saññāya ‘‘saccaṃ, āvuso, bhagavatā sikkhāpadaṃ paññattaṃ, tañca kho manussitthiyā, no tiracchānagatitthiyā’’ti āha. Tatiyānupaññatti lābhaggamahattaṃ pattakāle uppannā. Te hi vajjiputtakā lābhaggamahattaṃ pattā hutvā yāvadatthaṃ bhuñjitvā nhāyitvā varasayanesu sayitvā tatiyānupaññattiyā vatthuṃ uppādesuṃ, te ca vepullamahattaṃ patte saṅghe uppannā, sayañca vepullamahattaṃ pattāti ‘‘vepullamahattampettha labbhatī’’ti vuttaṃ. Idaṃ paṭhamapārājikasikkhāpadaṃ tividhampi vatthuṃ upādāya catubbidhampi taṃ kālaṃ patvā paññattanti veditabbaṃ.
Ở đây, chế định đầu tiên được chế định vào thời điểm đã đạt được sự trưởng thành về tuổi hạ, vì nó được chế định sau khi đã vượt qua thời kỳ Bồ-đề đầu tiên, và vì nó được chế định vào lúc Tôn giả Sudinna đã xuất gia được tám năm. Chế định bổ sung thứ hai phát sinh vào thời điểm đã đạt được sự đa văn. Bởi vì Tôn giả Tỳ-khưu Bất Cộng Trụ về con khỉ cái, với ý nghĩ rằng giống như trong các học giới liên quan đến phụ nữ, người phụ nữ súc sinh không được hàm ý, cũng vậy ở đây, đã nói: “sự thật, này Tôn giả, học giới đã được Thế Tôn chế định, và đó là với người phụ nữ, không phải với người phụ nữ súc sinh.” Chế định bổ sung thứ ba phát sinh vào thời điểm đã đạt được sự đệ nhất về lợi lộc. Bởi vì các Tỳ-khưu Vajjiputta, sau khi đã đạt được sự đệ nhất về lợi lộc, đã ăn uống theo ý muốn, tắm rửa, nằm trên những chiếc giường tốt nhất, và đã gây ra sự việc cho chế định bổ sung thứ ba. Họ đã phát sinh trong Tăng chúng đã đạt được sự đông đảo, và chính họ cũng đã đạt được sự đông đảo, nên đã được nói “sự đông đảo cũng được bao gồm ở đây.” Cần phải biết rằng học giới Bất Cộng Trụ đầu tiên này, dựa vào cả ba loại sự việc, đã được chế định sau khi đã đạt đến cả bốn loại thời điểm đó.

Tattha yo panāti anavasesapariyādānapadaṃ. Bhikkhūti tassa atippasaṅganiyamapadaṃ. Bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpannoti tassa visesanavacanaṃ. Na hi sabbopi bhikkhunāmako yā bhagavatā yāya kāyaci upasampadāya upasampannabhikkhūnaṃ heṭṭhimaparicchedena sikkhitabbasikkhā vihitā, ‘‘ettha saha jīvantī’’ti yo ca ājīvo vutto, taṃ ubhayaṃ samāpannova hoti. Kadā pana samāpanno ahosi? Yāya kāyaci upasampadāya upasampannasamanantarameva tadubhayaṃ jānantopi ajānantopi tadajjhupagatattā samāpanno nāma hoti. Saha jīvantīti yāva sikkhaṃ na paccakkhāti, pārājikabhāvañca na pāpuṇāti, yaṃ pana vuttaṃ andhakaṭṭhakathāyaṃ ‘‘sikkhaṃ paripūrento sikkhāsamāpanno sājīvaṃ avītikkamanto sājīvasamāpanno hotī’’ti, taṃ ukkaṭṭhaparicchedavasena vuttaṃ. Na hi sikkhaṃ aparipūrento kāmavitakkādibahulo vā ekaccaṃ sāvasesaṃ sājīvaṃ vītikkamanto vā sikkhāsājīvasamāpanno nāma na hoti. Ukkaṭṭhaparicchedena pana catukkaṃ labbhati atthi bhikkhu sikkhāsamāpanno sīlāni paccavekkhanto na sājīvasamāpanno acittakaṃ sikkhāpadaṃ vītikkamanto, atthi na sikkhāsamāpanno kāmavitakkādibahulo sājīvasamāpanno nirāpattiko, atthi na sikkhāsamāpanno na ca sājīvasamāpanno anavasesaṃ āpattiṃ āpanno, atthi sikkhāsamāpanno ca sājīvasamāpanno ca sikkhaṃ paripūrento sājīvañca avītikkamanto, ayameva catuttho bhikkhu ukkaṭṭho idha adhippeto siyā. Na hi bhagavā anukkaṭṭhaṃ vattuṃ yuttoti ce? Na, ‘‘tatra yāyaṃ adhisīlasikkhā, ayaṃ imasmiṃ atthe adhippetā sikkhā’’tivacanavirodhato. Ukkaṭṭhaggahaṇādhippāye sati ‘‘sikkhāti tisso sikkhā’’ti ettakameva vattabbanti adhippāyo. Sikkhattayasamāpanno hi sabbukkaṭṭhoti.
Ở đó, bất kỳ ai là từ bao gồm không bỏ sót. Tỳ-khưu là từ xác định để không bị áp dụng quá rộng. Người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng của các Tỳ-khưu là lời nói đặc tả của từ đó. Bởi vì không phải bất kỳ ai có tên là Tỳ-khưu cũng là người đã chấp nhận cả hai điều: học giới cần phải học theo sự phân định thấp nhất đối với các Tỳ-khưu đã được thọ cụ túc giới bằng bất kỳ phương pháp thọ cụ túc giới nào do Thế Tôn quy định, và đời sống được gọi là “sống cùng ở đây.” Khi nào thì đã chấp nhận? Ngay sau khi thọ cụ túc giới bằng bất kỳ phương pháp nào, dù biết hay không biết cả hai điều đó, cũng được gọi là đã chấp nhận vì đã chấp nhận nó. Sống cùng là cho đến khi không từ bỏ học giới, và không đạt đến trạng thái Bất Cộng Trụ. Còn điều đã được nói trong Andhakaṭṭhakathā: “người hoàn thành học giới là người đã chấp nhận học giới, người không vi phạm đời sống đồng đẳng là người đã chấp nhận đời sống đồng đẳng,” điều đó đã được nói theo sự phân định cao nhất. Bởi vì không phải người không hoàn thành học giới, có nhiều ý nghĩ về dục và các ý nghĩ khác, hoặc vi phạm một phần đời sống đồng đẳng, lại không được gọi là người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng. Còn theo sự phân định cao nhất, có bốn loại: có Tỳ-khưu đã chấp nhận học giới, quán xét các giới, không chấp nhận đời sống đồng đẳng, vi phạm học giới không có tâm; có Tỳ-khưu không chấp nhận học giới, có nhiều ý nghĩ về dục và các ý nghĩ khác, chấp nhận đời sống đồng đẳng, không có tội; có Tỳ-khưu không chấp nhận học giới và không chấp nhận đời sống đồng đẳng, phạm tội không bỏ sót; có Tỳ-khưu vừa chấp nhận học giới vừa chấp nhận đời sống đồng đẳng, hoàn thành học giới và không vi phạm đời sống đồng đẳng. Chính Tỳ-khưu thứ tư này, là bậc cao nhất, có thể được hàm ý ở đây. Chẳng phải Thế Tôn không nên nói về người không cao nhất sao? Không, vì mâu thuẫn với lời nói “ở đó, học giới về giới cao hơn này, là học giới được hàm ý trong ý nghĩa này.” Ý định là, nếu có ý định nắm bắt bậc cao nhất, thì chỉ cần nói chừng ấy “học giới là ba học.” Bởi vì người đã chấp nhận ba học là bậc cao nhất.

‘‘Methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyyā’’ti parato vacanaṃ apekkhitvā adhisīlasikkhāva vuttāti ce? Na, tassāpi abhabbattā. Na hi adhisīlasikkhaṃ paripūrento sājīvañca avītikkamanto methunaṃ dhammaṃ paṭisevituṃ bhabbo, taṃ sikkhaṃ aparipūrento sājīvañca vītikkamanto eva hi paṭiseveyyāti adhippāyo, tasmā evamettha attho gahetabbo. Yasmā sikkhāpadasaṅkhāto sājīvo adhisīlasikkhameva saṅgaṇhāti, netaraṃ adhicittasikkhaṃ adhipaññāsikkhaṃ vā, tasmā ‘‘tatra yāyaṃ adhisīlasikkhā, ayaṃ imasmiṃ atthe adhippetā sikkhā’’ti vuttaṃ, tasmā adhisīlasikkhāya saṅgāhako sājīvo sikkhāsājīvoti vutto. Iti sājīvavisesanatthaṃ sikkhāggahaṇaṃ kataṃ. Tadatthadīpanatthameva vibhaṅge sikkhaṃ aparāmasitvā ‘‘tasmiṃ sikkhati, tena vuccati sājīvasamāpanno’’ti vuttaṃ , tena ekamevidaṃ atthapadanti dīpitaṃ hoti. Tañca upasampadūpagamanantarato paṭṭhāya sikkhanādhikārattā ‘‘sikkhatī’’ti ca ‘‘samāpanno’’ti ca vuccati. Yo evaṃ ‘‘sikkhāsājīvasamāpanno’’ti saṅkhyaṃ gato, tādisaṃ paccayaṃ paṭicca aparabhāge sājīvasaṅkhātameva sikkhaṃ appaccakkhāya, tasmiṃyeva ca dubbalyaṃ anāvikatvā methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyyāti ayamattho yujjati. Kintu aṭṭhakathānayo paṭikkhitto hoti. So ca na paṭikkhepārahoti tena tadanusārena bhavitabbaṃ.
Nếu nói rằng học giới về giới cao hơn đã được nói đến để chỉ lời nói ở phần sau “thực hành pháp dâm dục”? Không, vì người đó cũng không có khả năng. Bởi vì người hoàn thành học giới về giới cao hơn và không vi phạm đời sống đồng đẳng không có khả năng thực hành pháp dâm dục. Ý định là, chỉ người không hoàn thành học giới đó và vi phạm đời sống đồng đẳng mới thực hành. Do đó, ở đây cần phải hiểu ý nghĩa như sau: Bởi vì đời sống đồng đẳng, được gọi là học giới, chỉ bao gồm học giới về giới cao hơn, không phải học giới về tâm cao hơn hay học giới về tuệ cao hơn khác, do đó đã được nói: “ở đó, học giới về giới cao hơn này, là học giới được hàm ý trong ý nghĩa này.” Do đó, đời sống đồng đẳng, là cái bao gồm học giới về giới cao hơn, được gọi là học giới và đời sống đồng đẳng. Như vậy, việc nắm bắt học giới đã được thực hiện để đặc tả đời sống đồng đẳng. Chính để làm sáng tỏ ý nghĩa đó, trong phần phân tích, không đề cập đến học giới, đã được nói: “học trong đó, do đó được gọi là người đã chấp nhận đời sống đồng đẳng.” Bằng điều đó, đã được làm sáng tỏ rằng đây là một từ có một ý nghĩa. Và nó, vì có quyền học từ sau khi thọ cụ túc giới, nên được gọi là “học” và “đã chấp nhận.” Người nào được gọi là “người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng,” ý nghĩa này hợp lý rằng người đó, dựa vào duyên như vậy, ở phần sau, không từ bỏ học giới được gọi là đời sống đồng đẳng, và không tỏ bày sự yếu kém trong đó, mà thực hành pháp dâm dục. Nhưng cách của Chú giải đã bị bác bỏ. Và nó không đáng bị bác bỏ, nên phải theo đó.

Adhippāyo panettha pariyesitabbo, so dāni vuccati – sabbesupi sikkhāpadesu idameva bhikkhulakkhaṇaṃ sādhāraṇaṃ, yadidaṃ ‘‘bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno’’ti. Khīṇāsavopi sāvako āpattiṃ āpajjati acittakaṃ, tathā sekkho. Puthujjano pana sacittakampi, tasmā sekkhāsekkhaputhujjanabhikkhūnaṃ sāmaññamidaṃ bhikkhulakkhaṇanti katvā kevalaṃ sikkhāsamāpanno, kevalaṃ sājīvasamāpanno ca ubhayasamāpanno cāti sarūpekadesekasesanayena ‘‘sikkhāsājīvasamaāpanno’’tveva sampiṇḍetvā ukkaṭṭhaggahaṇena anukkaṭṭhānaṃ gahaṇasiddhito aṭṭhakathāyaṃ ukkaṭṭhova vutto. Tameva sampādetuṃ ‘‘tasmiṃ sikkhati, tena vuccati sājīvasamāpanno’’ti ettha sikkhāpadassa avacane parihāraṃ vatvā yasmā pana so asikkhampi samāpanno, tasmā sikkhāsamāpannotipi atthato veditabboti ca vatvā ‘‘yaṃ sikkhaṃ samāpanno taṃ appaccakkhāya yañca sājīvaṃ samāpanno tattha dubbalyaṃ anāvikatvā’’ti vuttanti ayamaṭṭhakathāyaṃ adhippāyo veditabbo. Etasmiṃ pana adhippāye adhisīlasikkhāya eva gahaṇaṃ sabbatthikattā, sīlādhikārato ca vinayassāti veditabbaṃ. Yathā ca sikkhāpadaṃ samādiyanto sīlaṃ samādiyatīti vuccati, evaṃ sikkhāpadaṃ paccakkhanto sīlasaṅkhātaṃ sikkhaṃ paccakkhātīti vattuṃ yujjati, tasmā tattha vuttaṃ ‘‘yaṃ sikkhaṃ samāpanno, taṃ appaccakkhāyā’’ti. Sikkhaṃ paccakkhāya paṭisevitamethunassa upasampadaṃ anujānanto na samūhanati nāma. Na hi so bhikkhu hutvā paṭisevi, ‘‘yo pana bhikkhū’’ti ca paññattaṃ. Ettāvatā samāsato ‘‘sikkhāsājīvasamānno’’ti ettha vattabbaṃ vuttaṃ.
Ở đây cần phải tìm kiếm ý định, bây giờ sẽ được nói – trong tất cả các học giới, chính đặc điểm này của Tỳ-khưu là chung, đó là “người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng của các Tỳ-khưu.” Ngay cả đệ tử A-la-hán cũng phạm tội không có tâm, cũng như bậc hữu học. Còn phàm phu thì phạm cả tội có tâm. Do đó, cho rằng đây là đặc điểm chung của Tỳ-khưu hữu học, vô học và phàm phu, chỉ cần chấp nhận học giới, chỉ cần chấp nhận đời sống đồng đẳng, và chấp nhận cả hai, theo cách toàn bộ, một phần và một phần còn lại, đã được gộp chung lại là “người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng.” Do việc nắm bắt bậc cao nhất đã xác định việc nắm bắt những người không cao nhất, nên trong Chú giải, chỉ nói về bậc cao nhất. Chính để hoàn thành điều đó, trong câu “học trong đó, do đó được gọi là người đã chấp nhận đời sống đồng đẳng,” sau khi đã giải thích về sự không nói đến học giới, và sau khi đã nói rằng vì người đó, dù không học, cũng đã chấp nhận, nên về mặt ý nghĩa, cần phải biết là cũng là người đã chấp nhận học giới, và sau khi đã nói rằng đã được nói “không từ bỏ học giới mà mình đã chấp nhận, và không tỏ bày sự yếu kém trong đời sống đồng đẳng mà mình đã chấp nhận,” đây là ý định cần phải biết trong Chú giải. Trong ý định này, cần phải biết rằng việc chỉ nắm bắt học giới về giới cao hơn là vì nó có trong tất cả, và vì Luật có quyền hạn về giới. Và giống như người thọ trì học giới được gọi là thọ trì giới, cũng vậy, người từ bỏ học giới hợp lý được gọi là từ bỏ học giới được gọi là giới, do đó, ở đó đã được nói “không từ bỏ học giới mà mình đã chấp nhận.” Việc cho phép thọ cụ túc giới cho người đã thực hành pháp dâm dục sau khi đã từ bỏ học giới không phải là sự xóa bỏ. Bởi vì người đó không thực hành khi là Tỳ-khưu, và đã được chế định “Tỳ-khưu nào.” Bằng chừng ấy, điều cần phải nói trong câu “người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng” đã được nói một cách tóm tắt.

Kiṃ iminā visesavacanena payojanaṃ, nanu ‘‘yo pana bhikkhu sikkhaṃ appaccakkhāya dubbalyaṃ anāvikatvā…pe… asaṃvāso’’ti ettakameva vattabbanti ce ? Na vattabbaṃ aniṭṭhappasaṅgato. Yo pana sikkhāsājīvasamāpanno theyyasaṃvāsādiko kevalena samaññāmattena, paṭiññāmattena vā bhikkhu, tassāpi sikkhāpaccakkhānaṃ atthi. Sikkhaṃ appaccakkhāya ca methunaṃ dhammaṃ paṭisevantassa pārājikāpatti. Yo vā pacchā pārājikaṃ āpattiṃ āpajjitvā na sikkhāsājīvasamāpanno tassa ca, yo vā pakkhapaṇḍakattā paṇḍakabhāvūpagamanena na sikkhāsājīvasamāpanno tassa ca tadubhayaṃ atthīti āpajjati. ‘‘Paṇḍakabhāvapakkhe ca pakkhapaṇḍako upasampadāya na vatthū’’ti vuttaṃ, tasmā itarasmiṃ pakkhe vatthūti siddhaṃ, tasmiṃ pakkhe upasampanno paṇḍakabhāvapakkhe paṇḍakattā na sikkhāsājīvasamāpanno, so pariccajitabbasikkhāya abhāvena sikkhaṃ appaccakkhāya mukhena parassa aṅgajātaggahaṇādayo methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyya, tassa kuto pārājikāpattīti adhippāyo. Ayaṃ nayo apaṇḍakapakkhaṃ alabhamānasseva parato yujjati, labhantassa pana arūpasattānaṃ kusalānaṃ samāpattikkhaṇe bhavaṅgavicchede satipi amaraṇaṃ viya paṇḍakabhāvapakkhepi bhikkhubhāvo atthi. Saṃvāsaṃ vā sādiyantassa na theyyasaṃvāsakabhāvo atthi antimavatthuṃ ajjhāpannassa viya. Na ca sahaseyyādikaṃ janeti. Gaṇapūrako pana na hoti antimavatthuṃ ajjhāpanno viya, na so sikkhāsājīvasamāpanno, itarasmiṃ pana pakkhe hoti, ayaṃ imassa tato viseso. Kimayaṃ sahetuko, udāhu ahetukoti? Na ahetuko. Yato upasampadā tassa apaṇḍakapakkhe anuññātā sahetukapaṭisandhikattā. Paṇḍakabhāvapakkhepi kissa nānuññātāti ce? Paṇḍakabhūtattā opakkamikapaṇḍakassa viya.
Có mục đích gì trong lời nói đặc tả này, chẳng phải chỉ cần nói chừng ấy “Tỳ-khưu nào không từ bỏ học giới, không tỏ bày sự yếu kém… cho đến… không được sống chung” sao? Không nên nói như vậy vì sẽ dẫn đến sự việc không mong muốn. Tỳ-khưu nào đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng, là kẻ sống chung lén lút và các loại khác, chỉ là Tỳ-khưu theo danh xưng, theo sự tự nhận, thì người đó cũng có thể từ bỏ học giới. Và khi thực hành pháp dâm dục mà không từ bỏ học giới, phạm tội Bất Cộng Trụ. Hoặc là người sau này phạm tội Bất Cộng Trụ và không phải là người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng, và người nào, do là người ái nam ái nữ theo mùa, và không phải là người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng do đã trở thành người ái nam ái nữ, thì cả hai điều đó cũng có thể xảy ra. Đã được nói rằng “trong mùa là người ái nam ái nữ, người ái nam ái nữ theo mùa không phải là đối tượng để thọ cụ túc giới,” do đó, đã được xác định rằng trong mùa khác, người đó là đối tượng. Người đã thọ cụ túc giới trong mùa đó, trong mùa là người ái nam ái nữ, do là người ái nam ái nữ, không phải là người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng, người đó, do không có học giới để từ bỏ, nếu thực hành pháp dâm dục như dùng miệng để nắm lấy bộ phận sinh dục của người khác, thì từ đâu mà phạm tội Bất Cộng Trụ? Ý định là vậy. Cách này chỉ hợp lý đối với người không có mùa không phải là người ái nam ái nữ sau này. Còn đối với người có, giống như chúng sinh vô sắc, dù có sự gián đoạn của tâm hữu phần trong khoảnh khắc nhập định của các thiện pháp, cũng không chết, thì trong mùa là người ái nam ái nữ, cũng có bản chất Tỳ-khưu. Hoặc là đối với người đồng ý sống chung, không có bản chất của kẻ sống chung lén lút, giống như người đã phạm tội cuối cùng. Và không gây ra việc nằm chung và các tội khác. Nhưng không phải là người đủ số, giống như người đã phạm tội cuối cùng. Người đó không phải là người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng, còn trong mùa khác thì có. Đây là sự khác biệt của người này so với người kia. Điều này có nguyên nhân hay không có nguyên nhân? Không phải không có nguyên nhân. Bởi vì việc thọ cụ túc giới đã được cho phép cho người đó trong mùa không phải là người ái nam ái nữ, do có sự tái sinh có nguyên nhân. Nếu hỏi tại sao không được cho phép trong mùa là người ái nam ái nữ? Vì là người ái nam ái nữ, giống như người ái nam ái nữ bị hoạn.

Apica sikkhāsājīvasamāpannoti iminā tassa sikkhāsamādānaṃ dīpetvā taṃ samādinnasikkhaṃ appaccakkhāya tattha ca dubbalyaṃ anāvikatvāti vattuṃ yujjati, na aññathāti iminā kāraṇena yathāvuttāniṭṭhappasaṅgato ‘‘yo pana bhikkhu bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno sikkhaṃ appaccakkhāyā’’tiādi vuttaṃ. Yathā cettha, tathā ‘‘yo pana bhikkhu bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno sikkhaṃ appaccakkhāya dubbalyaṃ anāvikatvā gāmā vā araññā vā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyeyya (pārā. 89), sugatacīvarappamāṇaṃ cīvaraṃ kārāpeyya atirekaṃ vā, chedanakaṃ pācittiya’’ntiādinā (pāci. 548) nayena sabbattha yojetabbaṃ . Antamaso tiracchānagatāyapīti manussitthiṃ upādāya vuttaṃ. Na hi ‘‘pageva paṇḍake purise vā’’ti vattuṃ yujjati. Sesaṃ tattha tattha vuttanayameva.
Hơn nữa, bằng câu “người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng,” sau khi đã làm sáng tỏ việc thọ trì học giới của người đó, hợp lý để nói “không từ bỏ học giới đã thọ trì đó, và không tỏ bày sự yếu kém trong đó,” không phải cách khác. Do nguyên nhân này, do sự việc không mong muốn đã được nói, đã được nói: “Tỳ-khưu nào, người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng của các Tỳ-khưu, không từ bỏ học giới…” và các đoạn tiếp theo. Và giống như ở đây, cũng vậy, cần phải kết hợp ở khắp mọi nơi theo cách “Tỳ-khưu nào, người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng của các Tỳ-khưu, không từ bỏ học giới, không tỏ bày sự yếu kém, lấy trộm vật không được cho từ làng hay từ rừng (pārā. 89), cho làm y có kích thước của y Thiện Thệ hoặc lớn hơn, phạm tội Ưng Đối Trị cần phải cắt bỏ” và các cách khác (pāci. 548). Ngay cả với con vật, đã được nói đến để chỉ người phụ nữ. Bởi vì không hợp lý để nói “huống chi là với người ái nam ái nữ hoặc đàn ông.” Phần còn lại theo cách đã được nói ở mỗi nơi.

Ayaṃ paṭhamapārājikassa mātikāya tāva vinicchayo.
Đây là sự phân tích đề mục của tội Bất Cộng Trụ thứ nhất.

Catubbidhavinayakathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài bốn loại Luật

45. Nīharitvāti ettha sāsanato nīharitvāti attho. ‘‘Pañcahupāli, aṅgehi samannāgatena bhikkhunā nānuyuñjitabbaṃ. Katamehi pañcahi? Suttaṃ na jānāti, suttānulomaṃ na jānātī’’ti (pari. 442) evamādito hi pariyattisāsanato suttaṃ, suttānulomañca nīharitvā pakāsesuṃ. ‘‘Anāpatti evaṃ amhākaṃ ācariyānaṃ uggaho paripucchāti bhaṇatī’’ti evamādito pariyattisāsanato ācariyavādaṃ nīharitvā pakāsesuṃ. Bhārukacchakavatthusmiṃ ‘‘āyasmā upāli evamāha – anāpatti, āvuso, supinantenā’’ti (pārā. 78) evamādito pariyattisāsanato eva attanomatiṃ nīharitvā pakāsesuṃ. Tāya hi attanomatiyā thero etadaggaṭṭhānaṃ labhi. Api ca vuttañhetaṃ bhagavatā ‘‘anupasampannena paññattena vā apaññattena vā vuccamāno…pe… anādariyaṃ karoti, āpatti dukkaṭassā’’ti (pāci. 343). Tattha hi paññattaṃ nāma suttaṃ. Sesattayaṃ apaññattaṃ nāma. Tenāyaṃ ‘‘catubbidhañhi vinayaṃ, mahātherā’’ti gāthā suvuttā. Yaṃ sandhāya vuttaṃ nāgasenattherena. Āhaccapadenāti aṭṭha vaṇṇaṭṭhānāni āhacca vuttena padanikāyenāti attho, udāhaṭena kaṇṭhokkantena padasamūhenāti adhippāyo. Rasenāti tassa āhaccabhāsitassa rasena, tato uddhaṭena vinicchayenāti attho. Suttacchāyā viya hi suttānulomaṃ. Ācariyavādo ‘‘ācariyavaṃso’’ti vutto pāḷiyaṃ vuttānaṃ ācariyānaṃ paramparāya ābhatova pamāṇanti dassanatthaṃ. Adhippāyoti kāraṇopapattisiddho uhāpohanayappavatto paccakkhādipamāṇapatirūpako. Adhippāyoti ettha ‘‘attanomatī’’ti keci atthaṃ vadanti.
45. Sau khi lấy ra, ở đây, có nghĩa là sau khi lấy ra từ giáo pháp. Bởi vì từ câu “Này Upāli, Tỳ-khưu có đủ năm yếu tố không nên bị chất vấn. Năm yếu tố nào? Không biết kinh, không biết những gì phù hợp với kinh” (pari. 442) và các câu tương tự, họ đã lấy kinh và những gì phù hợp với kinh ra từ giáo pháp kinh điển và làm sáng tỏ. Từ câu “không phạm tội, đó là sự học hỏi và hỏi han của các vị thầy của chúng tôi” và các câu tương tự, họ đã lấy quan điểm của các vị thầy ra từ giáo pháp kinh điển và làm sáng tỏ. Trong sự việc ở Bhārukacchaka, từ câu “Tôn giả Upāli đã nói như vầy: không phạm tội, này Tôn giả, trong giấc mơ” (pārā. 78) và các câu tương tự, họ đã lấy chính ý kiến cá nhân của mình ra từ giáo pháp kinh điển và làm sáng tỏ. Bởi vì chính bằng ý kiến cá nhân đó mà trưởng lão đã đạt được vị trí cao nhất. Hơn nữa, điều này đã được Thế Tôn nói: “bị người chưa thọ cụ túc giới nói, dù đã được chế định hay chưa được chế định… cho đến… không kính trọng, phạm tội Tác Ác” (pāci. 343). Ở đó, điều đã được chế định là kinh. Ba điều còn lại là chưa được chế định. Do đó, bài kệ này “bốn loại Luật, các vị Đại Trưởng lão” đã được nói rất hay. Điều mà Trưởng lão Nāgasena đã nói đến. Bằng từ được nói trực tiếp, có nghĩa là bằng nhóm từ được nói trực tiếp đến tám nơi phát âm, ý định là bằng nhóm từ đã được trích dẫn, đã được phát ra từ cổ họng. Bằng vị, có nghĩa là bằng vị của lời nói trực tiếp đó, bằng sự phân xử đã được rút ra từ đó. Bởi vì những gì phù hợp với kinh giống như bóng của kinh. Quan điểm của các vị thầy được gọi là “dòng dõi của các vị thầy,” để trình bày rằng chỉ những gì được truyền lại từ dòng dõi của các vị thầy đã được nói trong Pāḷi mới là tiêu chuẩn. Ý định là sự suy luận hợp lý, được xác định bằng lý lẽ, dựa trên các tiêu chuẩn như sự trực tiếp và các tiêu chuẩn khác. Trong câu ý định, một số người nói ý nghĩa là “ý kiến cá nhân.”

Parivāraṭṭhakathāyaṃ, idha ca kiñcāpi ‘‘suttānulomaṃ nāma cattāro mahāpadesā’’ti vuttaṃ, atha kho mahāpadesanayasiddhaṃ paṭikkhittāpaṭikkhittaṃ anuññātānanuññātaṃ kappiyākappiyanti atthato vuttaṃ hoti. Tattha yasmā ṭhānaṃ okāso padesoti kāraṇavevacanāni ‘‘aṭṭhānametaṃ, ānanda, anavakāso’’tiādi (pārā. 43) sāsanato, ‘‘niggahaṭṭhāna’’nti ca ‘‘asandiṭṭhiṭṭhāna’’nti ca ‘‘asandiṭṭhi ca pana padeso’’ti ca lokato, tasmā mahāpadesāti mahākāraṇānīti attho. Kāraṇaṃ nāma ñāpako hetu idhādhippetaṃ. Mahantabhāvo pana tesaṃ mahāvisayattā mahābhūtānaṃ viya. Te duvidhā vinayamahāpadesā suttantikamahāpadesā cāti. Tattha vinayamahāpadesā vinaye payogaṃ gacchanti, itare ubhayatthāpi, teneva parivāre anuyogavatte ‘‘dhammaṃ na jānāti, dhammānulomaṃ na jānātī’’ti (pari. 442) vuttaṃ. Tattha dhammanti ṭhapetvā vinayapiṭakaṃ avasesapiṭakadvayaṃ. Dhammānulomanti suttantike cattāro mahāpadese. Tattha yo dhammaṃ dhammānulomañceva jānāti, na vinayaṃ vinayānulomañca, so ‘‘dhammaṃ rakkhāmī’’ti vinayaṃ ubbinayaṃ karoti, itaro ‘‘vinayaṃ rakkhāmī’’ti dhammaṃ uddhammaṃ karoti, ubhayaṃ jānanto ubhayampi sampādeti.
Trong Parivāraṭṭhakathā, và ở đây, mặc dù đã được nói “những gì phù hợp với kinh là bốn đại đối chiếu,” nhưng về mặt ý nghĩa, đã được nói là những gì đã được bác bỏ và chưa được bác bỏ, đã được cho phép và chưa được cho phép, hợp lệ và không hợp lệ, được xác định theo cách của các đại đối chiếu. Ở đó, vì các từ nơi chốn, cơ hội và địa điểm là đồng nghĩa với nguyên nhân, từ giáo pháp, như “đây là nơi không thể, này Ānanda, là cơ hội không thể” và các câu tương tự (pārā. 43), và từ thế gian, như “nơi bị khiển trách” và “nơi không được chỉ định” và “và địa điểm không được chỉ định,” do đó, đại đối chiếu có nghĩa là các nguyên nhân lớn. Nguyên nhân, ở đây, được hàm ý là nguyên nhân làm cho biết. Còn tính chất lớn lao của chúng là do có đối tượng lớn, giống như các đại địa. Chúng có hai loại: đại đối chiếu của Luật và đại đối chiếu của Kinh điển. Ở đó, đại đối chiếu của Luật được áp dụng trong Luật, còn loại kia được áp dụng trong cả hai. Chính vì vậy, trong Parivāra, trong bổn phận chất vấn, đã được nói: “không biết Pháp, không biết những gì phù hợp với Pháp” (pari. 442). Ở đó, Pháp là hai tạng còn lại, trừ Tạng Luật. Những gì phù hợp với Pháp là bốn đại đối chiếu của Kinh điển. Ở đó, người nào biết Pháp và những gì phù hợp với Pháp, nhưng không biết Luật và những gì phù hợp với Luật, thì người đó, khi nói “tôi bảo vệ Pháp,” lại làm cho Luật trở thành phi Luật. Người kia, khi nói “tôi bảo vệ Luật,” lại làm cho Pháp trở thành phi Pháp. Người biết cả hai thì hoàn thành cả hai.

Tatridaṃ mukhamattaṃ – tattha paṭhamo ‘‘so ce pavesanaṃ sādiyati, paviṭṭhaṃ, ṭhitaṃ, uddharaṇaṃ sādiyati āpatti, na sādiyati anāpattī’’ti ettha vippaṭipajjati. So hāyasmā sukhavedanīyassa upādinnaphoṭṭhabbassa, kāyindriyassa ca samāyoge sati paṭivijānanto kāyikasukhavedanuppattimattena sādiyati nāmāti paricchinditvā tassa āpatti pārājikassāti asevanādhippāyassapi āpattippasaṅgaṃ karoti, tathā yassa santhatattā vā yonidosavasena vā dukkhā asātā vedanā, vātopahaṭagattatāya vā neva kāyikavedanā, tassa jānato ajānatopi ‘‘anāpatti asādiyantassā’’ti (pārā. 76) suttantaṃ dassetvā sevanādhippāyassāpi anāpattippasaṅgaṃ karoti, tathā yadi mocanarāgena upakkamato mutte saṅghādiseso, pageva methunarāgenāti dukkaṭaṭṭhānaṃ gahetvā saṅghādisesaṭṭhānaṃ karoti, evaṃ vinayaṃ ubbinayaṃ karoti nāma. Itaro ‘‘anāpatti ajānantassāti vuttattā jānato jānaneneva sukhavedanā hotu vā mā vā sādiyanā hotī’’ti vatvā asevanādhippāyassapi jānato anāpattiṭṭhāne āpattiṃ karoti, anavajjaṃ sāvajjaṃ karotīti evaṃ dhammaṃ uddhammaṃ karoti. Ubhayaṃ pana jānanto ‘‘bhikkhussa sevanacittaṃ upaṭṭhiteti (pārā. 57) Nino sevanacittamevettha pamāṇaṃ, tassa bhāvena āpatti pārājikassa, abhāvena anāpattī’’ti vatvā ubhayampi rakkhati sampādeti. Iminā nayena sabbasikkhāpadesu yathāsambhavaṃ sappayojanā kātabbā.
Đây là phần mở đầu – ở đó, người đầu tiên bất đồng trong câu “nếu vị ấy đồng ý với việc đưa vào, đã đưa vào, giữ yên, rút ra, thì phạm tội, không đồng ý, không phạm tội.” Bởi vì vị ấy, khi có sự kết hợp của đối tượng xúc khả ái và nhục thân, đã phân định rằng chỉ bằng sự sinh khởi của lạc thọ thân thể khi biết, thì được gọi là đồng ý, và đã cho rằng người đó phạm tội Bất Cộng Trụ, ngay cả đối với người không có ý định thực hành. Cũng vậy, đối với người có khổ thọ, không có lạc thọ, do sự căng thẳng hoặc do lỗi của đường sinh dục, hoặc do thân bị gió thổi, dù biết hay không biết, vị ấy đã trình bày kinh điển “không phạm tội đối với người không đồng ý” (pārā. 76) và cho rằng không phạm tội ngay cả đối với người có ý định thực hành. Cũng vậy, nếu do tham ái giải thoát mà xuất tinh khi bắt đầu, phạm tội Tăng Tàn, huống chi là do tham ái dâm dục. Vị ấy đã lấy nơi Tác Ác và làm thành nơi Tăng Tàn. Như vậy, được gọi là làm cho Luật trở thành phi Luật. Người kia, vì đã được nói “không phạm tội đối với người không biết,” đã nói “đối với người biết, chỉ cần biết là có sự đồng ý, dù có lạc thọ hay không,” và đã cho rằng có tội ở nơi không có tội ngay cả đối với người không có ý định thực hành, nhưng có biết. Vị ấy làm cho cái không có tội thành có tội. Như vậy, được gọi là làm cho Pháp trở thành phi Pháp. Còn người biết cả hai, vì đã nói “tâm thực hành của Tỳ-khưu đã khởi lên” (pārā. 57), đã nói “chính tâm thực hành là tiêu chuẩn ở đây, do có nó, phạm tội Bất Cộng Trụ, do không có nó, không phạm tội,” và đã bảo vệ và hoàn thành cả hai. Bằng cách này, cần phải thực hiện việc có mục đích theo khả năng trong tất cả các học giới.

Saṅgītiṃ āropetvā ṭhapitapāḷito vinimuttaṃ katvā ṭhapitattā pāḷivinimuttā atthato, nayato, anulomato ca pāḷiokkantavinicchayappavattā anupaviṭṭhavinicchayavasena pavattāti attho. ‘‘Na samūhanissatī’’ti jānantopi bhagavā kevalaṃ ‘‘tesaṃ mataṃ pacchimā janatā mama vacanaṃ viya pamāṇaṃ karotū’’ti dassanatthañca parinibbānakāle evamāha ‘‘ākaṅkhamāno, ānanda, saṅgho mamaccayena khuddānukhuddakāni sikkhāpadāni samūhanatū’’ti (dī. ni. 2.216), tenetaṃ siddhaṃ ‘‘paññattampi ce sikkhāpadaṃ samūhanituṃ yassa saṅghassa anuññātaṃ bhagavatā, tassa paññattānulomaṃ atirekatthadīpanaṃ, pagevānuññātaṃ bhagavatā’’ti. Kiñca bhiyyo ūnātirittasikkhāpadesu ācariyakulesu vivādo aññamaññaṃ na kātabboti dassanatthañca. Kasmā saṅgho na samūhanīti? Aññamaññaṃ vivādappasaṅgadanto. Bhagavatā ca ‘‘sabbeheva samaggehi sammodamānehi avivadamānehi sikkhitabba’’nti vuttaṃ. Tattha ca ekacce therā evamāhaṃsūti ca aññavādadanto vivadamānehi sikkhitabbaṃ jātaṃ, tadabhāvattampi ñattidutiyakammavācaṃ sāvetvā avivadamāneheva sikkhitabbaṃ akāsi.
Thoát khỏi Pāḷi vì đã được đặt sang một bên, tách khỏi Pāḷi đã được đưa vào và đặt trong kỳ kết tập, về mặt ý nghĩa, về mặt phương pháp, và về mặt phù hợp, tiến triển theo sự phân xử đã đi vào Pāḷi, có nghĩa là tiến triển theo cách phân xử đã được đưa vào. Dù biết rằng họ sẽ không xóa bỏ, Thế Tôn, chỉ để trình bày rằng “thế hệ sau này hãy coi ý kiến của họ là tiêu chuẩn như lời nói của Ta,” đã nói như vầy vào lúc sắp nhập Niết-bàn: “Này Ānanda, nếu Tăng chúng muốn, sau khi Ta qua đời, hãy xóa bỏ các học giới nhỏ nhặt” (dī. ni. 2.216). Do đó, điều này đã được xác định: “nếu ngay cả học giới đã được chế định cũng được Thế Tôn cho phép Tăng chúng xóa bỏ, thì việc trình bày ý nghĩa bổ sung phù hợp với chế định, huống chi đã được Thế Tôn cho phép.” Hơn nữa, cũng để trình bày rằng không nên có sự tranh cãi với nhau trong các trường phái về các học giới thiếu hoặc thừa. Tại sao Tăng chúng không xóa bỏ? Do khả năng có sự tranh cãi với nhau. Và Thế Tôn đã nói: “tất cả hãy học tập trong sự hòa hợp, vui vẻ, không tranh cãi.” Và ở đó, vì một số trưởng lão đã nói như vầy, và vì sự tranh cãi do quan điểm khác, việc học tập trong sự tranh cãi đã xảy ra. Do không có điều đó, Ngài đã thực hiện việc học tập trong sự không tranh cãi sau khi đã tuyên đọc Tăng sự nhị phần.

Apicāti attano matiyā pākaṭakaraṇatthaṃ ārambho. Tattha ‘‘suttantābhidhammavinayaṭṭhakathāsū’’ti Nino piṭakattayassapi sādhāraṇā esā kathāti veditabbā, ‘‘atha panāyaṃ kappiya’’ntiādi vinayasseva. Kārakasaṅghasadisanti saṅgītikārakasaṅghasadisaṃ. ‘‘Suttādicatukkaṃ appaccakkhāya tena aviruddhassa kammassa kārakasaṅghasadisa’’nti dhammasirittherassa gaṇṭhipade vuttaṃ, taṃ ayuttaṃ, ‘‘suttameva balavataraṃ. Suttañhi appaṭivattiyaṃ kārakasaṅghasadisa’’nti etehi padehi ayuttattā. Pākatike pana gaṇṭhipade ‘‘tamatthaṃ vinicchinitvā tassa kārakasaṅghasadisa’’nti vuttaṃ. Paravādīti amhākaṃ samayavijānanako aññanikāyikoti vuttaṃ. Paravādī suttānulomanti kathaṃ? ‘‘Aññatra udakadantaponā’’ti (pāci. 266) suttaṃ sakavādissa, tadanulomato nāḷikeraphalassa udakampi udakameva hotīti paravādī ca.
Hơn nữa là sự bắt đầu để làm rõ ý kiến của mình. Ở đó, vì đã nói “trong các Chú giải về Kinh điển, Vi Diệu Pháp và Luật,” cần phải biết rằng đây là đề tài chung cho cả ba tạng. Còn “nhưng điều này là hợp lệ” và các đoạn tiếp theo chỉ thuộc về Luật. Giống như Tăng chúng thực hiện là giống như Tăng chúng kết tập kinh điển. Trong sách giải thích từ khó của Trưởng lão Dhammasiri, đã được nói: “giống như Tăng chúng thực hiện hành động không trái ngược với nó, không bác bỏ bốn điều như kinh và các điều khác,” điều đó không hợp lý, vì không hợp lý với các từ này: “chính kinh là mạnh hơn. Bởi vì kinh không thể bị bác bỏ, giống như Tăng chúng thực hiện.” Còn trong sách giải thích từ khó thông thường, đã được nói: “sau khi đã phân xử ý nghĩa đó, giống như Tăng chúng thực hiện của nó.” Người theo quan điểm khác, đã được nói là người theo trường phái khác, người biết về giáo lý của chúng ta. Người theo quan điểm khác, những gì phù hợp với kinh, như thế nào? Kinh “trừ nước và tăm xỉa răng” (pāci. 266) là của người theo quan điểm của mình. Phù hợp với đó, người theo quan điểm khác cũng cho rằng nước của quả dừa cũng là nước.

‘‘Nāḷikerassa yaṃ toyaṃ, purāṇaṃ pittabandhanaṃ;
Tameva taruṇaṃ toyaṃ, pittaghaṃ balabandhana’’nti. –
“Nước của quả dừa già, gây ra bệnh mật;
Chính nước của quả dừa non, chữa bệnh mật, tăng cường sức mạnh.” –

Evaṃ paravādinā vutte sakavādī dhaññaphalassa gatikattā, āhāratthassa ca pharaṇato ‘‘yāvakālikameva ta’’nti vadanto paṭikkhipati. Paro ācariyavādanti ‘‘suṅkaṃ pariharatīti ettha upacāraṃ okkamitvā kiñcāpi pariharati, avahāro evā’’ti aṭṭhakathāvacanato ‘‘tathā karonto pārājikamāpajjatī’’ti paravādinā vutte sakavādī ‘‘suṅkaṃ pariharati, āpatti dukkaṭassā’’ti suttaṃ tattheva āgatamahāaṭṭhakathāvacanena saddhiṃ dassetvā paṭisedheti, tathā karontassa dukkaṭamevāti. Paro attanomatīti ettha ‘‘purebhattaṃ parasantakaṃ avaharāti purebhattameva harissāmīti vāyamantassa pacchābhattaṃ hoti, purebhattapayogova so, tasmā mūlaṭṭho na muccatīti tumhākaṃ theravādattā mūlaṭṭhassa pārājikamevā’’ti paravādinā vutte sakavādī ‘‘taṃ saṅketaṃ pure vā pacchā vā taṃ bhaṇḍaṃ avaharati, mūlaṭṭhassa anāpattī’’ti (pārā. 119) suttaṃ dassetvā paṭikkhipati.
Khi người theo quan điểm khác nói như vậy, người theo quan điểm của mình, do nó có tính chất của hạt giống, và do nó lan tỏa đến mục đích dinh dưỡng, đã bác bỏ, nói rằng “nó chỉ là vật thực trong một thời gian.” Người theo quan điểm khác, quan điểm của các vị thầy, khi người theo quan điểm khác, từ lời nói trong Chú giải “trong câu ‘trốn thuế,’ dù có trốn sau khi đã vào khu vực, đó vẫn là sự lấy trộm,” nói rằng “người làm như vậy phạm tội Bất Cộng Trụ,” người theo quan điểm của mình đã trình bày kinh “trốn thuế, phạm tội Tác Ác” cùng với lời nói trong Đại Chú giải đã có ở chính đó và bác bỏ, rằng người làm như vậy chỉ phạm tội Tác Ác. Người theo quan điểm khác, ý kiến cá nhân, ở đây, khi người theo quan điểm khác nói rằng: “trong câu ‘lấy trộm vật của người khác trước bữa ăn,’ người cố gắng ‘tôi sẽ chỉ lấy trước bữa ăn,’ nhưng lại trở thành sau bữa ăn, đó vẫn là hành động trước bữa ăn, do đó, không thoát khỏi giá trị gốc, và vì theo Thera-vāda của các ngài, giá trị gốc là tội Bất Cộng Trụ,” người theo quan điểm của mình đã trình bày kinh “người đó, dù trước hay sau thời gian đã hẹn, lấy vật đó, thì không phạm tội đối với giá trị gốc” (pārā. 119) và bác bỏ.

Paro suttanti ‘‘aniyatahetudhammo sammattaniyatahetudhammassa ārammaṇapaccayena paccayo’’ti suttaṃ paṭṭhāne likhitaṃ dassetvā ‘‘ariyamaggassa na nibbānamevārammaṇa’’nti paravādinā vutte sakavādī ‘‘ārammaṇattikādisuttānulome na otaratī’’ti paṭikkhipati. Suttānulome otarantaṃyeva hi suttaṃ nāma, netaraṃ. Tena vuttaṃ pāḷiāgataṃ paññāyatīti ettakenapi siddhe tisso saṅgītiyo āruḷhapāḷiāgataṃ paññāyatī’’tiādi. Tādisañhi pamādalekhanti ācariyo. ‘‘Appamādo amataṃ padaṃ, pamādo maccuno pada’’nti (dha. pa. 21; netti. 26) Nino dinnabhojane bhuñjitvā parissayāni parivajjitvā satiṃ paccupaṭṭhapetvā viharanto nicco hotīti. Evarūpassa atthassa vasena āruḷhampi suttaṃ na gahetabbaṃ, tena vuttaṃ no ce tathā paññāyatīti siddhepi ‘‘no ce tathā paññāyati, na otarati na sametī’’ti. ‘‘Bāhirakasuttaṃ vā’’ti vuttattā attano suttampi atthena asamentaṃ na gahetabbaṃ. Paro ācariyavādantiādīsu dvīsu nayesu pamādalekhavasena tattha tattha āgataṭṭhakathāvacanaṃ theravādehi saddhiṃ yojetvā veditabbaṃ.
Người theo quan điểm khác, kinh, khi người theo quan điểm khác trình bày kinh đã được viết trong Paṭṭhāna: “pháp có nguyên nhân không xác định là duyên cho pháp có nguyên nhân hoàn toàn xác định theo cách đối tượng duyên,” và nói rằng “đối tượng của thánh đạo không chỉ là Niết-bàn,” người theo quan điểm của mình đã bác bỏ, nói rằng “không đi vào những gì phù hợp với kinh như ba loại đối tượng và các loại khác.” Bởi vì chỉ có kinh nào đi vào những gì phù hợp với kinh mới được gọi là kinh, không phải loại khác. Do đó, đã được nói rằng, dù đã được xác định chỉ bằng chừng ấy “đã được biết là có trong Pāḷi,” lại nói “đã được biết là có trong Pāḷi đã được đưa vào ba kỳ kết tập kinh điển” và các đoạn tương tự. Vị Giáo thọ sư cho rằng những điều như vậy là lỗi sao chép. “Không phóng dật là con đường bất tử, phóng dật là con đường của thần chết” (dha. pa. 21; netti. 26), sau khi đã ăn bữa ăn đã được cho, tránh xa những nguy hiểm, thiết lập niệm và an trú, thì trở thành thường hằng. Kinh, dù đã được đưa vào theo ý nghĩa như vậy, cũng không nên được chấp nhận. Do đó, đã được nói rằng, dù đã được xác định “nếu không được biết như vậy,” lại nói “nếu không được biết như vậy, không đi vào, không phù hợp.” Vì đã được nói “hoặc là kinh bên ngoài,” nên ngay cả kinh của mình, nếu không phù hợp về ý nghĩa, cũng không nên được chấp nhận. Trong hai cách người theo quan điểm khác, quan điểm của các vị thầy và các cách khác, cần phải biết rằng lời nói trong Chú giải đã có ở mỗi nơi do lỗi sao chép, cần phải kết hợp với Thera-vāda.

Atha panāyaṃ ācariyavādaṃ. Paro suttanti paravādinā ‘‘mūlabījaṃ nāma haliddi siṅgiveraṃ vacā…pe… bīje bījasaññī chindati vā chedāpeti vā bhindati vā…pe… āpatti pācittiyassāti (pāci. 91) tumhākaṃ pāṭhattā haliddigaṇṭhiṃ chindantassa pācittiya’’nti vutte sakavādī ‘‘yāni vā panaññāni atthi mūle sañjāyantī’’tiādiṃ dassetvā tassa aṭṭhakathāsaṅkhātena ācariyavādena paṭikkhipati. Na hi gaṇṭhimhi gaṇṭhi jāyatīti. Paro suttānulomanti paravādinā ‘‘anāpatti evaṃ amhākaṃ ācariyānaṃ uggahoti vacanassānulomato ‘amhākaṃ porāṇabhikkhū ekapāsāde gabbhaṃ thaketvā anupasampannena sayituṃ vaṭṭatīti tathā katvā āgatā, tasmā amhākaṃ vaṭṭatī’ti tumhesu eva ekaccesu vadantesu tumhākaṃ na kiñci vattuṃ sakkā’’ti vutte sakavādī ‘‘suttaṃ suttānulomañca uggahitakānaṃyeva ācariyānaṃ uggaho pamāṇa’’ntiādiaṭṭhakathāvacanaṃ dassetvā paṭisedheti. Paro attanomatinti ‘‘dvāraṃ vivaritvā anāpucchā sayitesu ke muccantī’’ti ettha pana dvepi janā muccanti yo ca yakkhagahitako, yo ca bandhitvā nipajjāpitoti tumhākaṃ theravādattā aññe sabbepi yathā tathā vā nipannādayopi muccantīti paṭisedheti.
Nhưng quan điểm của các vị thầy này. Người theo quan điểm khác, kinh, khi người theo quan điểm khác, vì Pāḷi của các ngài có câu “hạt giống gốc là nghệ, gừng, riềng… cho đến… người có ý thức là hạt giống, cắt hoặc cho người khác cắt, phá hoặc cho người khác phá… cho đến… phạm tội Ưng Đối Trị” (pāci. 91), nói rằng “người cắt củ nghệ phạm tội Ưng Đối Trị,” người theo quan điểm của mình đã trình bày đoạn “hoặc là những thứ khác sinh ra từ gốc” và các đoạn tương tự, và bác bỏ bằng quan điểm của các vị thầy, được gọi là Chú giải của nó. Bởi vì củ không sinh ra từ củ. Người theo quan điểm khác, những gì phù hợp với kinh, khi người theo quan điểm khác nói rằng “phù hợp với lời nói ‘không phạm tội, đó là sự học hỏi của các vị thầy của chúng tôi,’ vì một số người trong các ngài nói rằng ‘các Tỳ-khưu xưa của chúng tôi, sau khi đã xây một căn phòng trong cùng một tòa nhà, đã nói rằng được phép ngủ với người chưa thọ cụ túc giới, và đã làm như vậy, do đó, đối với chúng tôi là được phép,’ thì không thể nói gì với các ngài,” người theo quan điểm của mình đã trình bày lời nói trong Chú giải “chỉ có sự học hỏi của các vị thầy đã học kinh và những gì phù hợp với kinh mới là tiêu chuẩn” và các lời nói tương tự, và bác bỏ. Người theo quan điểm khác, ý kiến cá nhân, trong câu “khi cửa đã được mở và nằm ngủ mà không xin phép, ai được thoát tội,” thì cả hai người đều được thoát tội, người bị ma ám, và người bị trói và bắt nằm xuống. Vì theo Thera-vāda của các ngài, tất cả những người khác, dù nằm như thế nào, cũng được thoát tội, và bác bỏ.

Atha panāyaṃ attanomatiṃ. Paro suttanti ‘‘āpattiṃ āpajjantī’’ti paravādinā gutte sakavādī ‘‘divā kilantarūpo mañce nisinno pāde bhūmito amocetvāva niddāvasena nipajjati, tassa anāpattī’’tiādiaṭṭhakathāvacanaṃ (pārā. aṭṭha. 1.77) dassetvā ekabhaṅgena nipannādayopi muccantīti paṭisedheti. Athāyaṃ attanomatiṃ. Paro suttānulomanti ‘‘domanassaṃ pāhaṃ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi asevitabbampītiādivacanehi (dī. ni. 2.360) saṃsandanato sadārapose doso tumhākaṃ natthi, tena vuttaṃ ‘puttadārassa saṅgaho’’’ti (khu. pā. 5.6; su. ni. 265) paravādinā vutte kiñcāpi sakavādī bahussuto na hoti, atha kho rāgasahiteneva akusalena bhavitabbanti paṭikkhipati. Sesesupi iminā nayena aññathāpi anurūpato yojetabbaṃ. Idaṃ sabbaṃ upatissattherādayo āhu. Dhammasiritthero pana ‘‘ettha paroti vutto aññanikāyiko, so pana attano suttādīniyeva āharati. Tāni sakavādī attano suttādimhi otāretvā sace sameti gaṇhāti, no ce paṭikkhipatī’’ti vadati.
Nhưng ý kiến cá nhân này. Người theo quan điểm khác, kinh, khi người theo quan điểm khác nói “phạm tội,” người theo quan điểm của mình đã trình bày lời nói trong Chú giải (pārā. aṭṭha. 1.77) “người mệt mỏi ban ngày, ngồi trên giường, dù chưa nhấc chân khỏi mặt đất, nếu ngủ gật và nằm xuống, thì không phạm tội” và các lời nói tương tự, và bác bỏ rằng ngay cả những người nằm theo một cách và các trường hợp khác cũng được thoát tội. Và ý kiến cá nhân này. Người theo quan điểm khác, những gì phù hợp với kinh, khi người theo quan điểm khác, từ những lời nói như “Này vua trời, Ta nói rằng ưu phiền có hai loại, loại nên thực hành và loại không nên thực hành” và các lời nói khác (dī. ni. 2.360), và từ sự so sánh, nói rằng “đối với các ngài, không có lỗi trong việc chăm sóc vợ con, do đó đã được nói ‘sự duy trì mối quan hệ tốt với vợ con’” (khu. pā. 5.6; su. ni. 265), dù người theo quan điểm của mình không phải là người đa văn, nhưng đã bác bỏ, nói rằng “phải là bất thiện đi kèm với tham ái.” Trong các trường hợp còn lại, cũng cần phải kết hợp theo cách này, theo cách khác, một cách phù hợp. Tất cả những điều này đã được Trưởng lão Upatissa và các vị khác nói. Còn Trưởng lão Dhammasiri nói: “ở đây, người được gọi là ‘người theo quan điểm khác’ là người theo trường phái khác, và người đó chỉ đưa ra kinh và các nguồn khác của mình. Người theo quan điểm của mình, sau khi đã đưa chúng vào kinh và các nguồn khác của mình, nếu phù hợp thì chấp nhận, nếu không thì bác bỏ.”

Catubbidhavinayakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về đề tài bốn loại Luật đã kết thúc.

Padabhājanīyavaṇṇanā

Diễn giải về phân tích từ

Sikkhāpadavibhaṅge pana kiñcāpi yo panāti anavasesapariyādānapadaṃ, tathāpi bhikkhūti iminā parapadena samānādhikaraṇattā tadanurūpānevassa vibhaṅgapadāni vuttāni. Bhikkhunibbacanapadāni tīṇi kiñcāpi sabhikkhubhāvassa, abhikkhubhāvassa cāti yassa kassaci pabbajitassa sādhāraṇāni, tathāpi ‘‘asuddho hoti puggalo aññataraṃ pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpanno, tañce suddhadiṭṭhi samāno anokāsaṃ kārāpetvā cāvanādhippāyo vadeti, āpatti saṅghādisesena dukkaṭassā’’ti evamādisuttaṃ Ninoatthayuttova puggalo ‘‘āpatti saṅghādisesena dukkaṭassā’’ti (pārā. 389) ettha vatthu, na itaro gihibhūtoti dassanatthaṃ vuttaṃ. Sabbassapi vinayapiṭakassa sādhāraṇaṃ bhikkhulakkhaṇaṃ vatthuñhi bhagavā ārabhi. Yo pana suddho eva samāno kenaci kāraṇena gihiliṅge ṭhito, so attano sabhikkhubhāvattā eva vatthu hoti, asuddhopi bhikkhuliṅge ṭhitattāti ayamattho dassito hoti. Asuddhopi ñātakehi, paccatthikehi vā rājabhayādikāraṇena vā kāsāvesu saussāhova apanītakāsāvo vatthu eva puna kāsāvaggahaṇena theyyasaṃvāsakabhāvānupagamanato, bhikkhunibbacanatthe anikkhittadhurattāti vuttaṃ hoti. Yo pana liṅgatthenako bhikkhunibbacanatthaṃ sayañca ajjhupagato, saṃvāsaṃ thenento, tañce suddhadiṭṭhi samāno anokāsaṃ kārāpetvā cāvanādhippāyo vadeti, āpatti saṅghādisesena dukkaṭassāti ayampi attho dassito hoti.
Trong phần phân tích học giới, mặc dù bất kỳ ai là từ bao gồm không bỏ sót, tuy nhiên, vì nó có cùng vị trí ngữ pháp với từ theo sau là Tỳ-khưu, nên các từ phân tích của nó đã được nói phù hợp với điều đó. Ba từ định nghĩa Tỳ-khưu, mặc dù là chung cho bất kỳ người xuất gia nào, dù có hay không có bản chất Tỳ-khưu, tuy nhiên, đã được nói để trình bày rằng, theo kinh như “cá nhân không trong sạch là người đã phạm một trong các pháp Bất Cộng Trụ, nếu một người có chánh kiến, sau khi đã làm cho người đó không có cơ hội, nói với ý định làm cho dao động, thì phạm tội Tăng Tàn và Tác Ác,” thì chính cá nhân có tội mới là đối tượng ở đây “phạm tội Tăng Tàn và Tác Ác” (pārā. 389), không phải người khác đã trở thành cư sĩ. Bởi vì Thế Tôn đã bắt đầu với đối tượng là đặc điểm chung của Tỳ-khưu trong toàn bộ Tạng Luật. Người nào, dù trong sạch, nhưng vì một lý do nào đó mà ở trong hình tướng cư sĩ, thì người đó, do chính bản chất Tỳ-khưu của mình, là đối tượng. Và người không trong sạch, do ở trong hình tướng Tỳ-khưu, ý nghĩa này đã được trình bày. Ngay cả người không trong sạch, dù bị quyến thuộc, kẻ thù, hoặc do sợ vua chúa và các lý do khác mà bị tước đoạt y cà sa, nhưng nếu vẫn còn tha thiết với y cà sa, thì vẫn là đối tượng, vì không trở thành kẻ sống chung lén lút bằng việc nhận lại y cà sa, và vì không từ bỏ trách nhiệm trong ý nghĩa định nghĩa Tỳ-khưu. Người nào, là kẻ trộm hình tướng, đã tự mình chấp nhận ý nghĩa định nghĩa Tỳ-khưu, và sống chung một cách lén lút, nếu một người có chánh kiến, sau khi đã làm cho người đó không có cơ hội, nói với ý định làm cho dao động, thì phạm tội Tăng Tàn và Tác Ác, ý nghĩa này cũng đã được trình bày.

‘‘Samaññāya bhikkhu paṭiññāya bhikkhū’’ti vacanadvayaṃ yathāvuttañca atthaṃ upabrūheti, antarā uppannāya niyatāya micchādiṭṭhiyā upacchinnakusalamūlo kevalāya samaññāya, paṭiññāya ca ‘‘bhikkhū’’ti vuccati, na paramatthatoti imaṃ atirekatthaṃ dīpeti. Kiṃ vuttaṃ hoti? ‘‘Nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekadhammampi samanupassāmi, yaṃ evaṃ mahāsāvajjaṃ yathayidaṃ, bhikkhave, micchādiṭṭhi. Micchādiṭṭhiparamāni, bhikkhave, mahāvajjānī’’ti āhaccabhāsitaṃ saṅgītittayāruḷhaṃ suttaṃ, aṭṭhakathāyampissa ‘‘micchādiṭṭhiparamā etesanti micchādiṭṭhiparamānī’’ti (a. ni. 1.310) vuttaṃ. Pañca ānantariyakammāni mahāsāvajjāni, micchādiṭṭhi pana mahāsāvajjatarāti adhippāyoti. Kasmā? Tesañhi paricchedo atthi, sabbabalavampi kappaṭṭhitikameva hoti, niyatamicchādiṭṭhiyā pana paricchedo natthi, tāya samannāgatassa bhavato vuṭṭhānaṃ natthi, tasmā ‘‘imassa bhikkhukaraṇā kusalā dhammā saṃvijjantī’’ti vā ‘‘suddhovāya’’nti vā na sakkā vattuṃ. ‘‘Diṭṭhivipattipaccayā dve āpattiyo āpajjatī’’ti vuttattā na sakkā ‘‘asuddho’’ti vā ‘‘aññataraṃ pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpanno’’ti vā vattuṃ. Esa hi ubhopi pakkhe na bhajati, tena vuttaṃ ‘‘samaññāya, paṭiññāya ca bhikkhu, na paramatthato’’ti.
Hai lời nói “Tỳ-khưu theo danh xưng, Tỳ-khưu theo sự tự nhận” củng cố ý nghĩa đã được nói, và làm sáng tỏ ý nghĩa bổ sung này: người có thiện căn bị cắt đứt bởi tà kiến cố định đã phát sinh ở giữa, chỉ được gọi là “Tỳ-khưu” theo danh xưng và sự tự nhận, không phải theo ý nghĩa tối hậu. Điều gì đã được nói? Thế Tôn đã nói trực tiếp, được đưa vào ba kỳ kết tập kinh điển: “Này các Tỳ-khưu, Ta không thấy có một pháp nào khác có tội nặng như vậy, đó là tà kiến. Này các Tỳ-khưu, các tội lỗi có tà kiến làm đầu là nặng nhất.” Trong Chú giải của nó cũng đã được nói: “những tội lỗi có tà kiến làm đầu là những tội lỗi có tà kiến làm tối thượng” (a. ni. 1.310). Năm tội vô gián là những tội nặng, nhưng tà kiến thì còn nặng hơn, đó là ý định. Tại sao? Bởi vì chúng có giới hạn, ngay cả tội mạnh nhất cũng chỉ tồn tại trong một kiếp. Còn tà kiến cố định thì không có giới hạn, người có nó không thể thoát ra khỏi sự tồn tại. Do đó, không thể nói rằng “các pháp thiện làm cho trở thành Tỳ-khưu của người này có tồn tại” hoặc “người này trong sạch.” Vì đã được nói “do duyên tà kiến mà phạm hai tội,” nên không thể nói là “không trong sạch” hoặc “đã phạm một trong các pháp Bất Cộng Trụ.” Người này không thuộc về cả hai phía. Do đó, đã được nói “Tỳ-khưu theo danh xưng và sự tự nhận, không phải theo ý nghĩa tối hậu.”

Kimatthaṃ panevaṃ mahāsāvajjāya niyatamicchādiṭṭhiyā pārājikaṃ bhagavā na paññapesīti? Dubbijānattā. Pakatiyāpesā diṭṭhi nāma ‘‘sammā’’ti vā ‘‘micchā’’ti vā duviññeyyā, pageva ‘‘niyatā’’ti vā ‘‘aniyatā’’ti vāti. Tattha pārājikāpattiyā paññattāya bhikkhū aññamaññaṃ asamadiṭṭhikaṃ pārājikaṃ maññamānā uposathādīni akatvā acireneva sāsanaṃ vināseyyuṃ, sayañca apuññaṃ pasaveyyuṃ suddhesupi bhikkhūsu vippaṭipattiyā paṭipajjanena. Tasmā upāyakusalatāya pārājikaṃ apaññāpetvā tassa ukkhepanīyakammaṃ, sammāvattañca paññāpetvā taṃ saṅghena asambhogaṃ, asaṃvāsañca akāsi. Bhagavā hi tassa ce esā diṭṭhi aniyatā, sammāvattaṃ pūretvā osāraṇaṃ labhitvā pakatatto bhaveyya. Niyatā ce, aṭṭhānametaṃ anavakāso, yaṃ so niyatamicchādiṭṭhiko sammāvattaṃ pūretvā osāraṇaṃ labhitvā pakatatto bhaveyya. Kevalaṃ ‘‘samaññāyabhikkhu paṭiññāyabhikkhū’’ti nāmamattadhārako hutvā paraṃ maraṇā ariṭṭho viya saṃsārakhāṇukova bhavissatīti imaṃ nayaṃ addasa.
Tại sao Thế Tôn không chế định tội Bất Cộng Trụ cho tà kiến cố định, một tội nặng như vậy? Vì khó biết. Về bản chất, kiến này, dù là “chánh” hay “tà,” cũng khó biết, huống chi là “cố định” hay “không cố định.” Ở đó, nếu chế định tội Bất Cộng Trụ, các Tỳ-khưu, khi cho rằng người khác có quan điểm không giống mình là phạm tội Bất Cộng Trụ, sẽ không làm lễ Bố-tát và các nghi lễ khác, và sẽ nhanh chóng phá hoại giáo pháp, và chính họ cũng sẽ gieo rắc điều không công đức bằng cách hành xử sai trái ngay cả với các Tỳ-khưu trong sạch. Do đó, bằng sự khéo léo, Ngài đã không chế định tội Bất Cộng Trụ, mà đã chế định hành vi treo giò và sự hành xử đúng đắn, và đã làm cho người đó không được hưởng chung, không được sống chung với Tăng chúng. Bởi vì nếu kiến này của người đó là không cố định, sau khi đã hoàn thành sự hành xử đúng đắn và được phục hồi, người đó sẽ trở lại bình thường. Còn nếu là cố định, thì không có nơi nào, không có cơ hội nào để người có tà kiến cố định, sau khi đã hoàn thành sự hành xử đúng đắn và được phục hồi, lại trở lại bình thường. Người đó sẽ chỉ là người mang danh “Tỳ-khưu theo danh xưng, Tỳ-khưu theo sự tự nhận,” và sau khi chết, giống như Ariṭṭha, sẽ trở thành một cây cọc trong vòng luân hồi. Ngài đã thấy được cách này.

Aṭṭhasu upasampadāsu tissovettha vuttā, na itarā pāṭipuggalattā, bhikkhūnaṃ asantakattā ca. Tattha hi ovādapaṭiggahaṇapañhabyākaraṇūpasampadā dvinnaṃ therānaṃ eva, sesā tisso bhikkhunīnaṃ santakāti idha nādhippetā, tissannampi upasampadānaṃ majjhe ‘‘bhadro bhikkhū’’tiādīni cattāri padāni vuttāni tissannaṃ sādhāraṇattā. Ehibhikkhubhāvena vā saraṇagamanañatticatutthena vā upasampanno hi bhadro ca sāro ca sekkho ca asekkho ca hoti, upasampadavacanaṃ pana nesaṃ sāvakabhāvadīpanatthaṃ. Ime eva hi āpattiṃ āpajjanti, na sammāsambuddhā, paccekabuddhā ca.
Trong tám loại thọ cụ túc giới, chỉ có ba loại được nói ở đây, không phải các loại khác, vì chúng thuộc về cá nhân và không phải của các Tỳ-khưu. Ở đó, việc thọ cụ túc giới bằng cách chấp nhận lời khuyên và trả lời câu hỏi chỉ thuộc về hai vị trưởng lão. Ba loại còn lại thuộc về các Tỳ-khưu-ni, nên không được hàm ý ở đây. Giữa ba loại thọ cụ túc giới, bốn từ “Tỳ-khưu tốt” và các từ khác đã được nói vì chúng là chung cho cả ba. Bởi vì người đã thọ cụ túc giới bằng cách “hãy đến, này Tỳ-khưu,” bằng cách quy y, hoặc bằng Tăng sự tứ phần, đều là người tốt, người cốt lõi, người hữu học và người vô học. Còn lời nói về thọ cụ túc giới là để trình bày tư cách đệ tử của họ. Bởi vì chỉ những vị này mới phạm tội, không phải các vị Phật Toàn Giác và Phật Độc Giác.

Ayaṃ imasmiṃ atthe adhippetoti ettha ca āpattiṃ āpajjituṃ bhabbā ñatticatuttheneva kammena upasampannā. Na hi aññe ehibhikkhusaraṇagamanaovādapaṭiggahaṇapañhabyākaraṇāhi upasampannā āpattiṃ āpajjituṃ bhabbā, tenete paṭikkhipitvā ‘‘ayaṃ imasmiṃ atthe adhippeto bhikkhū’’ti antimova vuttoti kira dhammasiritthero, taṃ ayuttaṃ. ‘‘Dve puggalā abhabbā āpattiṃ āpajjituṃ buddhā ca paccekabuddhā cā’’ti (pari. 322) ettakameva vuttanti. Aññathā ehibhikkhuādayopi vattabbā siyuṃ. Kiñca bhiyyo ‘‘dve puggalā bhabbā āpattiṃ āpajjituṃ bhikkhū ca bhikkhuniyo cā’’ti sāmaññena vuttattā ca, apica āpattibhayaṭṭhānadanto ca. Kathaṃ? Āyasmā sāriputto āvasathapiṇḍaṃ kukkuccāyanto na paṭiggahesi, cīvaravippavāsabhayā ca sabbaṃ ticīvaraṃ gahetvā nadiṃ taranto manaṃ vuḷho ahosi mahākassapo. Kiñca saraṇagamanūpasampadāya upasampanne ārabbha saddhivihārikavattādīni asammāvattantānaṃ nesaṃ dukkaṭāni ca paññattāni dissanti, tasmā dubbicāritametaṃ. Ayaṃ imasmiṃ atthe adhippeto bhikkhūti paṭikkhittāya saraṇagamanūpasampadāya anuññātappasaṅgabhayāti upatissatthero, āpattiyā bhabbataṃ sandhāya tasmimpi vutte pubbe paṭikkhittāpi sā puna evaṃ vadantena anuññātāti bhikkhūnaṃ micchāgāho vā vimati vā uppajjati , tasmā na vuttāti vuttaṃ hoti, taṃ ‘‘bhikkhunī nāma ubhatosaṅghe upasampannā’’ti (pāci. 161) iminā sameti. Idañhi sākiyādīnaṃ anuññātaupasampadāya anuppabandhabhayā vuttaṃ.
Trong câu người này được hàm ý trong ý nghĩa này, ở đây, những người có khả năng phạm tội là những người đã thọ cụ túc giới chỉ bằng Tăng sự tứ phần. Bởi vì những người khác, đã thọ cụ túc giới bằng cách “hãy đến, này Tỳ-khưu,” quy y, chấp nhận lời khuyên, trả lời câu hỏi, không có khả năng phạm tội. Do đó, sau khi đã loại trừ họ, chỉ có người cuối cùng mới được nói là “Tỳ-khưu được hàm ý trong ý nghĩa này,” theo Trưởng lão Dhammasiri, điều đó không hợp lý. Bởi vì chỉ có chừng ấy được nói: “hai cá nhân không có khả năng phạm tội, đó là chư Phật và chư Phật Độc Giác” (pari. 322). Nếu không, những người như “hãy đến, này Tỳ-khưu” và các vị khác cũng phải được nói. Hơn nữa, vì đã được nói một cách chung chung “hai cá nhân có khả năng phạm tội, đó là Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni,” và cũng vì nơi chốn của sự sợ hãi phạm tội. Như thế nào? Tôn giả Sāriputta, vì e ngại, đã không nhận vật thực cúng dường tại nhà khách. Và vì sợ bị mất y, Mahākassapa, khi mang cả ba y qua sông, đã bị chìm. Hơn nữa, liên quan đến những người đã thọ cụ túc giới bằng quy y, có thể thấy các tội Tác Ác đã được chế định cho những người không hành xử đúng đắn theo bổn phận của người sống cùng và các bổn phận khác. Do đó, điều này đã được xem xét sai lầm. Tỳ-khưu được hàm ý trong ý nghĩa này, do sợ có khả năng cho phép việc thọ cụ túc giới bằng quy y đã bị bác bỏ, theo Trưởng lão Upatissa. Đã được nói rằng, dù đã nói về người đó, vì có khả năng phạm tội, các Tỳ-khưu có thể nảy sinh tà kiến hoặc nghi ngờ rằng việc thọ cụ túc giới đã bị bác bỏ trước đây, nay lại được cho phép bởi người nói như vậy, do đó không được nói. Điều đó phù hợp với câu “Tỳ-khưu-ni là người đã thọ cụ túc giới trong cả hai Tăng chúng” (pāci. 161). Bởi vì điều này đã được nói do sợ làm gián đoạn việc thọ cụ túc giới đã được cho phép cho dòng họ Sakya và các dòng họ khác.

Ayaṃ penam amhākaṃ khanti – bhikkhu-padaniddesattā yattakāni tena padena saṅgahaṃ gacchanti, ye ca vinayapiṭake tattha tattha sandissanti sayaṃ āpattāpajjanaṭṭhena vā duṭṭhullārocanapaṭicchādanādīsu paresaṃ āpattikaraṇaṭṭhena vā, te sabbepi dassetvā idāni yadidaṃ tassa bhikkhu-padassa visesanatthaṃ vuttaṃ parapadaṃ ‘‘sikkhāsājīvasamāpanno’’ti, tassa vasena idaṃ vuttaṃ ‘‘ayaṃ imasmiṃ atthe adhippeto bhikkhū’’ti. So eva hi kammavācānantarameva sikkhāsājīvasamāpanno hoti tato paṭṭhāya sauddesasikkhāpadānaṃ uppattidanto, tasseva ca sikkhāpaccakkhānaṃ dissati, netarassa. Tasseva ca sikkhāpaccakkhānaṃ sambhavati ‘‘ullumpatu maṃ, bhante, saṅgho anukampaṃ upādāyā’’ti (mahāva. 71, 126) vatvā samādinnattā, tasseva ca upasampannasamanantarameva akaraṇīyanissayācikkhanadanto, vinayaṃ pātimokkhaṃ uddesaṃ paccakkhāmītiādisikkhāpaccakkhānalakkhaṇapāripūrito cāti sikkhāpaccakkhānaṃ upādāya so eva idhādhippetoti vuttaṃ hoti.
Còn đây là quan điểm của chúng tôi – vì là phần trình bày về từ Tỳ-khưu, nên sau khi đã trình bày tất cả những gì được bao gồm bởi từ đó, và những gì được thấy ở mỗi nơi trong Tạng Luật, hoặc là do tự mình phạm tội, hoặc là do làm cho người khác phạm tội trong việc tố cáo và che giấu tội Trọng Tội và các tội khác, bây giờ, do từ theo sau “người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng” được nói để đặc tả cho từ Tỳ-khưu đó, nên đã được nói: “Tỳ-khưu được hàm ý trong ý nghĩa này.” Bởi vì chính người đó, ngay sau khi có Tăng sự, đã trở thành người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng, do sự phát sinh của các học giới có tụng đọc từ đó trở đi, và chỉ có người đó mới có thể từ bỏ học giới, không phải người khác. Và chỉ có người đó mới có thể từ bỏ học giới, vì đã thọ trì sau khi nói “bạch Thế Tôn, xin Tăng chúng hãy cứu vớt con, vì lòng thương xót” (mahāva. 71, 126), và cũng vì việc chỉ dạy những điều không được làm và những nơi nương tựa ngay sau khi thọ cụ túc giới, và cũng vì đã hoàn thành các đặc điểm của việc từ bỏ học giới như “tôi từ bỏ Luật, Giới Bổn, việc tụng đọc,” nên đã được nói rằng chỉ có người đó mới được hàm ý ở đây, liên quan đến việc từ bỏ học giới.

Yasmā panassa sikkhāpaccakkhānaṃ sabbathā yujjati, tasmā ‘‘sikkhaṃ paccakkhāya taṃ taṃ vatthuṃ vītikkamantassa tato tato āpattito anāpatti, itarassa āpattī’’ti vattuṃ yujjati, tasmā ‘‘yattha yattha sāvajjapaññatti, anavajjapaññatti vā, ayaṃ imasmiṃ atthe adhippeto bhikkhūti vuccati, tattha tattha tadajjhācāratthenāyameva ñatticatutthena upasampanno adhippeto nāmā’’ti vattuṃ yujjatīti veditabbaṃ. Evaṃ sante yaṃ vuttaṃ ‘‘yāya kāyaci upasampadāya ayaṃ imasmiṃ ‘methunaṃ dhammaṃ paṭisevitvā pārājiko hotī’ti atthe bhikkhūti adhippeto’’ti, tampi na vattabbameva. Kathaṃ hoti? Virodhadosopi parihato hoti. Kathaṃ? Sace ñatticatutthena upasampanno eva idhādhippeto ‘‘bhikkhū’’ti ca ‘‘upasampanno’’ti ca, tena na upasampanno anupasampanno nāmāti katvā ñatticatutthakammato aññathā upasampannā nāma mahākassapattherādayo itaresaṃ anupasampannaṭṭhāne ṭhatvā sahaseyyapadasodhammāpattiṃ janeyyuṃ, omasanādikāle ca dukkaṭameva janeyyunti evamādiko virodhadoso parihato hotīti sabbaṃ ācariyo vadati. Maṅguracchavi nāma sāmo.
Và vì việc từ bỏ học giới của người này là hợp lý theo mọi cách, nên hợp lý để nói rằng “đối với người từ bỏ học giới và vi phạm sự việc này hay sự việc khác, thì không phạm tội do các tội lỗi đó, còn đối với người khác thì phạm tội.” Do đó, cần phải biết rằng hợp lý để nói rằng “ở đâu có chế định có tội hoặc chế định không có tội, và được nói là ‘Tỳ-khưu được hàm ý trong ý nghĩa này,’ thì ở đó, chính người đã thọ cụ túc giới bằng Tăng sự tứ phần này, do là người vi phạm, mới được hàm ý.” Như vậy, điều đã được nói “bằng bất kỳ phương pháp thọ cụ túc giới nào, người này được hàm ý là ‘Tỳ-khưu’ trong ý nghĩa ‘sau khi thực hành pháp dâm dục, là tội Bất Cộng Trụ’” cũng không cần phải nói. Như thế nào? Lỗi mâu thuẫn cũng được loại bỏ. Như thế nào? Nếu chỉ có người đã thọ cụ túc giới bằng Tăng sự tứ phần mới được hàm ý ở đây là “Tỳ-khưu” và “người đã thọ cụ túc giới,” thì do đó, người không thọ cụ túc giới được gọi là người chưa thọ cụ túc giới, nên những người đã thọ cụ túc giới theo cách khác ngoài Tăng sự tứ phần, như Trưởng lão Mahākassapa và các vị khác, khi ở trong vị trí của những người chưa thọ cụ túc giới, sẽ gây ra tội nằm chung và tội kiểm tra giới, và trong khi mắng nhiếc và các hành động khác, sẽ chỉ gây ra tội Tác Ác. Lỗi mâu thuẫn như vậy được loại bỏ, vị Giáo thọ sư nói tất cả. Màu da cá trê là màu sẫm.

Yasmā te atimahanto jātimado cittaṃ pariyuṭṭhāti, tasmā tumhehi mama sāsane evaṃ sikkhitabbaṃ . ‘‘Sātasahagatā paṭhamajjhānasukhasahagatā asubhe ca ānāpāne cā’’ti gaṇṭhipade vuttaṃ. Uddhumātakasaññāti uddhumātakanimitte paṭiladdhapaṭhamajjhānasaññā. Rūpasaññāti pathavīkasiṇādirūpāvacarajjhānasaññā. So taṃ byākāsi ‘‘avibhūtā, bhante, uddhumātakasaññā avaḍḍhitabbattā asubhānaṃ, vibhūtā, bhante, rūpasaññā vaḍḍhitabbattā kasiṇāna’’nti. Pañcaupasampadakkamo mahāvaggā gahito. Ñatticatutthenāti ettha kiñcāpi ñatti sabbapaṭhamaṃ vuccati, tissannaṃ pana anussāvanānaṃ atthabyañjanabhedābhāvato atthabyañjanabhinnā ñattitāsaṃ catutthāti katvā ‘‘ñatticatuttha’’nti vuccati. Byañjanānurūpameva aṭṭhakathāya ‘‘tīhi anussāvanāhi ekāya ca ñattiyā’’ti vuttaṃ, atthapavattikkamena padena pana ‘‘ekāya ñattiyā tīhi anussāvanāhī’’ti vattabbaṃ. Yasmā panettha ‘‘cattārimāni, bhikkhave, kammāni (mahāva. 384), cha imāni, bhikkhave, kammāni adhammakammaṃ vaggakamma’’nti (mahāva. 387) Nino kuppakammampi katthaci ‘‘kamma’’nti vuccati tasmā ‘‘akuppenā’’ti vuttaṃ.
Bởi vì lòng kiêu hãnh về dòng dõi rất lớn chiếm hữu tâm trí của các con, do đó, các con phải học tập như vầy trong giáo pháp của Ta. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “Đi kèm với sự hài lòng là đi kèm với lạc của sơ thiền, trong cả pháp bất tịnh và pháp hơi thở.” Tưởng về sự trương phình là tưởng về sơ thiền đã đạt được trong tướng trương phình. Tưởng về sắc là tưởng về thiền thuộc cõi Sắc như thiền đất và các thiền khác. Vị ấy đã giải thích rằng: “Bạch Thế Tôn, tưởng về sự trương phình không rõ ràng, vì các pháp bất tịnh không cần phải phát triển. Bạch Thế Tôn, tưởng về sắc rõ ràng, vì các đề mục thiền cần phải được phát triển.” Trình tự của năm loại thọ cụ túc giới đã được lấy từ Mahāvagga. Trong câu bằng Tăng sự tứ phần, ở đây, mặc dù việc tuyên bố được nói đầu tiên, nhưng vì ba lần tuyên đọc không có sự khác biệt về ý nghĩa và văn tự, nên việc tuyên bố, có sự khác biệt về ý nghĩa và văn tự so với chúng, là thứ tư, do đó được gọi là “Tăng sự tứ phần.” Trong Chú giải, đã được nói phù hợp với văn tự: “bằng ba lần tuyên đọc và một lần tuyên bố.” Còn theo trình tự tiến triển của ý nghĩa, lẽ ra phải nói: “bằng một lần tuyên bố và ba lần tuyên đọc.” Bởi vì ở đây, “này các Tỳ-khưu, có bốn loại Tăng sự này (mahāva. 384), này các Tỳ-khưu, có sáu loại Tăng sự này là Tăng sự phi pháp, Tăng sự của nhóm” (mahāva. 387), ngay cả Tăng sự không hợp lệ cũng đôi khi được gọi là “Tăng sự,” do đó đã được nói “bằng Tăng sự không thể hủy bỏ.”

Yasmā akuppampi ekaccaṃ na ṭhānārahaṃ, yena appatto osāraṇaṃ ‘‘sosārito’’ti campeyyakkhandhake (mahāva. 395 ādayo) vuccati, tasmā ‘‘ṭhānārahenā’’ti vuttaṃ. Yadi evaṃ ‘‘ṭhānārahenā’’ti idameva padaṃ vattabbaṃ, na pubbapadaṃ iminā akuppasiddhitoti ce? Taṃ na, aṭṭhānārahena akuppena upasampanno imasmiṃ atthe anadhippetoti aniṭṭhappasaṅgato. Dvīhi panetehi ekato vuttehi ayamattho paññāyati ‘‘kevalaṃ tena akuppena upasampanno ayampi imasmiṃ atthe adhippeto ‘bhikkhū’ti, ṭhānārahena ca upasampanno ayampi imasmiṃ atthe adhippeto ‘bhikkhū’ti, kuppena upasampanno nādhippeto’’ti. Tenāyampi attho sādhito hoti ‘‘yo pana, bhikkhu, jānaṃ ūnavīsativassaṃ puggalaṃ upasampādeyya, so ca puggalo anupasampanno’’ti (pāci. 403) Nino yāva na ñāyati, tāva samaññāyabhikkhupaṭiññāyabhikkhubhāvaṃ upagatopi na pubbe dassitasamaññāyabhikkhupaṭiññāyabhikkhu viya aññesaṃ bhikkhūnaṃ upasampannaṭṭhāne ṭhatvā omasanapācittiyādivatthu hoti, kevalaṃ anupasampannaṭṭhāne ṭhatvā ‘‘anupasampanne upasampannasaññī padaso dhammaṃ vāceti, āpatti pācittiyassā’’tiādi (pāci. 47) āpattivatthumeva hutvā tiṭṭhati. Akuppena upasampanno pana pacchā pārājikopi jātito upasampannaṭṭhāne tiṭṭhatīti ‘‘paṇḍako, bhikkhave, anupasampanno na upasampādetabbo, upasampanno nāsetabbo’’tiādinā (mahāva. 109) nayena vuttesu pana vajjanīyapuggalesu koci puggalo ‘‘upasampanno’’ti vuccati, nopi upasampannaṭṭhāne tiṭṭhati, koci tiṭṭhatīti veditabbaṃ.
Bởi vì ngay cả Tăng sự không thể hủy bỏ, một số cũng không xứng đáng, mà người chưa được phục hồi lại được phục hồi, như đã được nói trong Phẩm Campeyya (mahāva. 395 trở đi), do đó đã được nói “bằng Tăng sự xứng đáng.” Nếu vậy, chỉ cần nói chính từ này “bằng Tăng sự xứng đáng,” không cần nói từ trước, vì bằng từ này, sự không thể hủy bỏ đã được xác định, phải không? Không phải vậy, vì sẽ dẫn đến sự việc không mong muốn rằng người đã thọ cụ túc giới bằng Tăng sự không xứng đáng nhưng không thể hủy bỏ lại không được hàm ý trong ý nghĩa này. Nhưng khi cả hai được nói cùng nhau, ý nghĩa này được biết đến: “chỉ có người đã thọ cụ túc giới bằng Tăng sự không thể hủy bỏ đó mới được hàm ý là ‘Tỳ-khưu’ trong ý nghĩa này, và người đã thọ cụ túc giới bằng Tăng sự xứng đáng cũng được hàm ý là ‘Tỳ-khưu’ trong ý nghĩa này, còn người đã thọ cụ túc giới bằng Tăng sự không hợp lệ thì không được hàm ý.” Do đó, ý nghĩa này cũng được chứng minh: “Tỳ-khưu nào, biết mà cho người chưa đủ hai mươi tuổi thọ cụ túc giới, thì người đó chưa thọ cụ túc giới” (pāci. 403), cho đến khi chưa được biết, dù đã đạt đến trạng thái Tỳ-khưu theo danh xưng, Tỳ-khưu theo sự tự nhận, cũng không giống như Tỳ-khưu theo danh xưng, Tỳ-khưu theo sự tự nhận đã được trình bày trước đây, khi ở trong vị trí của các Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới, không phải là đối tượng của tội Ưng Đối Trị do mắng nhiếc và các tội khác. Người đó chỉ ở trong vị trí của người chưa thọ cụ túc giới và trở thành đối tượng của tội lỗi như “dạy Pháp từng từ cho người chưa thọ cụ túc giới mà có ý thức là đã thọ, phạm tội Ưng Đối Trị” và các tội khác (pāci. 47). Còn người đã thọ cụ túc giới bằng Tăng sự không thể hủy bỏ, dù sau này phạm tội Bất Cộng Trụ, vẫn ở trong vị trí của người đã thọ cụ túc giới do dòng dõi. Còn trong số những cá nhân cần phải tránh xa đã được nói theo cách “này các Tỳ-khưu, người ái nam ái nữ chưa thọ cụ túc giới không được cho thọ, nếu đã thọ thì phải bị trục xuất” và các cách khác (mahāva. 109), cần phải biết rằng có cá nhân được gọi là “người đã thọ cụ túc giới,” nhưng không ở trong vị trí của người đã thọ cụ túc giới, có cá nhân thì ở.

Ettha pana atthi kammaṃ akuppaṃ ṭhānārahaṃ, atthi ṭhānārahaṃ nākuppaṃ, atthi akuppañceva na ṭhānārahañca, atthi nākuppaṃ na ca ṭhānārahanti idaṃ catukkaṃ veditabbaṃ. Tattha paṭhamaṃ tāva vuttaṃ, tatiyacatutthāni pākaṭāni. Dutiyaṃ pariyāyena bhikkhunisaṅghato ekatoupasampannāya liṅgaparivatte sati labbhati. Tassa hi puggalassa pubbe sikkhamānakāle laddhaṃ ñatticatutthaupasampadākammaṃ kiñcāpi akuppañceva ṭhānārahañca, purisaliṅge pana pātubhūte ‘‘anujānāmi, bhikkhave, taṃyeva upajjhaṃ tameva upasampada’’nti (pārā. 69) ettha apariyāpannattā tassa puggalassa kevalaṃ sāmaṇerabhāvāpattito kammaṃ dāni kuppaṃ jātanti vuccati. Liṅgaparivattena cīvarassa adhiṭṭhānavijahanaṃ viya tassa puggalassa bhikkhunisaṅghena katāya upasampadāya vijahanaṃ hotīti veditabbaṃ, aññathā so puggalo upasampanno bhikkhūti āpajjati. Atha vā liṅgaparivatte asatipitaṃ ekatoupasampadākammaṃ kuppati, yathāṭhāne na tiṭṭhati. Tasmā na tāva sā ‘‘bhikkhunī’’ti saṅkhyaṃ gacchati. Yasmā aññataraṃ pārājikaṃ dhammaṃ āpajjitvāpi anāpajjitvāpi uppabbajitukāmatāya gihiliṅgaṃ sādiyantiyā punapi upasampadā ubhatosaṅghe labbhati, tasmā tena pariyāyena ‘‘kuppatīti kuppa’’nti vuccati, yathāvuttakammadosābhāvato pana ‘‘ṭhānāraha’’nti. Bhikkhunī pana gihiliṅgaṃ sādiyantikāle na purisaliṅgapātubhāve sati bhikkhūsu upasampadaṃ labbhatīti sādhakaṃ kāraṇaṃ na dissati, sikkhaṃ paccakkhāya uppabbajitā ce, labhatīti eke, taṃ panāyuttaṃ bhikkhuniyā sikkhāpaccakkhanābhāvatoti amhākaṃ khantīti ācariyo. ‘‘Yathā ‘kattabba’nti vuttaṃ, tathā akate kuppatīti katvā karaṇaṃ satthusāsana’’nti gaṇṭhipade vuttaṃ. Yattha yattha ‘‘gaṇṭhipade’’ti vuccati, tattha tattha ‘‘dhammasirittherassa gaṇṭhipade’’ti gahetabbaṃ.
Ở đây, cần phải biết bốn loại này: có Tăng sự không thể hủy bỏ và xứng đáng, có Tăng sự xứng đáng nhưng không thể hủy bỏ, có Tăng sự không thể hủy bỏ nhưng không xứng đáng, và có Tăng sự không thể hủy bỏ và không xứng đáng. Ở đó, loại đầu tiên đã được nói, loại thứ ba và thứ tư là rõ ràng. Loại thứ hai được chấp nhận theo cách gián tiếp khi có sự thay đổi giới tính của người đã thọ cụ túc giới trong cả hai Tăng chúng. Bởi vì Tăng sự thọ cụ túc giới tứ phần mà cá nhân đó đã nhận được trong khi là cô ni tu tập sự trước đây, mặc dù là không thể hủy bỏ và xứng đáng, nhưng khi giới tính nam xuất hiện, vì không thuộc về câu “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép, chính vị thầy Giáo Thọ Sư đó, chính sự thọ cụ túc giới đó” (pārā. 69), nên Tăng sự của cá nhân đó, do chỉ đạt được trạng thái Sa-di, bây giờ được gọi là đã trở nên không hợp lệ. Cần phải biết rằng giống như y bị mất sự xác quyết do sự thay đổi giới tính, sự thọ cụ túc giới đã được Tăng chúng Tỳ-khưu-ni thực hiện cho cá nhân đó cũng bị mất. Nếu không, cá nhân đó sẽ trở thành Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới. Hoặc là, ngay cả khi không có sự thay đổi giới tính, Tăng sự thọ cụ túc giới trong cả hai Tăng chúng đó cũng không hợp lệ, không đứng vững ở vị trí của nó. Do đó, người đó chưa được gọi là “Tỳ-khưu-ni.” Bởi vì dù đã phạm hay chưa phạm một trong các pháp Bất Cộng Trụ, nếu muốn hoàn tục và đồng ý với hình tướng cư sĩ, người đó vẫn được thọ cụ túc giới lại trong cả hai Tăng chúng, do đó, theo cách gián tiếp đó, được gọi là “không hợp lệ.” Còn vì không có lỗi Tăng sự như đã nói, nên được gọi là “xứng đáng.” Còn Tỳ-khưu-ni, khi đồng ý với hình tướng cư sĩ, không có lý do chứng minh nào được thấy rằng người đó có thể được thọ cụ túc giới trong Tăng chúng Tỳ-khưu khi có sự xuất hiện của giới tính nam. Một số người nói rằng nếu đã từ bỏ học giới và hoàn tục thì được. Nhưng theo quan điểm của chúng tôi, điều đó không hợp lý vì Tỳ-khưu-ni không thể từ bỏ học giới, vị Giáo thọ sư nói vậy. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “Bởi vì đã được nói ‘cần phải làm,’ nếu không làm như vậy thì không hợp lệ, nên việc làm là giáo huấn của Bậc Đạo Sư.” Ở đâu có nói “trong sách giải thích từ khó,” ở đó cần phải hiểu là “trong sách giải thích từ khó của Trưởng lão Dhammasiri.”

Sājīvapadabhājanīyavaṇṇanā

Diễn giải về phân tích từ “Sājīva”

‘‘Mahābodhisattā niyatā’’ti vuttaṃ anugaṇṭhipade. Yattha ‘‘anugaṇṭhipade’’ti, tattha ‘‘Trí Tuệ Kim Cươngttherassā’’ti gahetabbaṃ. Sāvakabodhipaccekabodhisammāsambodhīti vā tīsu bodhīsu sammāsambodhiyaṃ sattā bodhisattā mahābodhisattā nāma. Pātimokkhasīlabahukattā, bhikkhusīlattā, kilesapidahanavasena vattanato, uttamena bhagavatā paññattattā ca adhikaṃ, buddhuppādeyeva pavattanato uttamanti aññatarasmiṃ gaṇṭhipade. Kiñcāpi paccekabuddhāpi dhammatāvasena pātimokkhasaṃvarasīlena samannāgatāva honti, tathāpi ‘‘buddhuppādeyeva pavattatī’’ti niyamitaṃ tena pariyāyenāti. Tenāha ‘‘na hi taṃ paññattiṃ uddharitvā’’tiādi. Pātimokkhasaṃvaratopi ca maggaphalasampayuttameva sīlaṃ adhisīlaṃ, taṃ pana idha anadhippetaṃ. Na hi taṃ pātimokkhuddesena saṅgahitanti. Samantabhadrakaṃ kāraṇavacanaṃ sabbasikkhāpadānaṃ sādhāraṇalakkhaṇattā imissā anupaññattiyā ariyapuggalā ca ekaccaṃ āpattiṃ āpajjantīti sādhitametaṃ, tasmā ‘‘na hi taṃ samāpanno methunaṃ dhammaṃ paṭisevatī’’ti aṭṭhakathāvacanaṃ asamatthaṃ viya dissatīti? Nāsamatthaṃ, samatthameva yasmiṃ yasmiṃ sikkhāpade sāsā vicāraṇā, tassa tasseva vasena aṭṭhakathāya pavattito. Tathā hi kaṅkhāvitaraṇiyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. nidānavaṇṇanā) udakukkhepasīmādhikāre ‘‘timaṇḍalaṃ paṭicchādetvā antaravāsakaṃ anukkhipitvā uttarantiyā bhikkhuniyā’’ti vuttaṃ bhikkhunivibhaṅge āgatattā. Eseva nayo aññepi evarūpesu. Kimatthanti ce taṃ? Pāḷikkamānuvattanena pāḷikkamadassanatthaṃ. Tatridaṃ samāsato adhippāyadīpanaṃ – padasodhammasikkhāpadassa tikaparicchede upasampanne upasampannasaññī, anāpatti, akaṭānudhammasikkhāpadavasena upasampanne ukkhittake siyā āpatti, tathā sahaseyyasikkhāpadeti evamādi. Attho panettha parato āvi bhavissati.
Trong Anugaṇṭhipada, đã được nói “các vị Đại Bồ-tát là những người đã được xác định.” Ở đâu có nói “trong Anugaṇṭhipada,” ở đó cần phải hiểu là “của Trưởng lão Trí Tuệ Kim Cương.” Trong ba loại Bồ-đề: Thanh Văn Bồ-đề, Độc Giác Bồ-đề và Toàn Giác Bồ-đề, các chúng sinh trong Toàn Giác Bồ-đề được gọi là Đại Bồ-tát. Trong một sách giải thích từ khó khác, đã được nói: vì có nhiều giới trong Giới Bổn, vì là giới của Tỳ-khưu, vì được thực hành để che giấu phiền não, và vì được Thế Tôn, bậc tối thượng, chế định, nên là cao hơn. Vì chỉ có trong thời kỳ có Phật xuất hiện, nên là tối thượng. Mặc dù các vị Phật Độc Giác cũng có giới thu thúc trong Giới Bổn theo lẽ tự nhiên, nhưng đã được xác định là “chỉ có trong thời kỳ có Phật xuất hiện” theo cách gián tiếp đó. Do đó, Ngài đã nói “bởi vì không thể trích dẫn chế định đó” và các đoạn tiếp theo. Và giới tương ưng với đạo và quả là giới cao hơn so với giới thu thúc trong Giới Bổn, nhưng nó không được hàm ý ở đây. Bởi vì nó không được bao gồm trong việc tụng Giới Bổn. Lời nói phổ quát là một nguyên nhân, vì là đặc điểm chung của tất cả các học giới, và vì chế định bổ sung này, ngay cả các bậc thánh cũng phạm một số tội, điều này đã được chứng minh. Do đó, lời nói trong Chú giải “bởi vì người đã chấp nhận nó không thực hành pháp dâm dục” có vẻ như không có khả năng, phải không? Không phải không có khả năng, mà là có khả năng. Bởi vì trong bất kỳ học giới nào có sự xem xét đó, thì Chú giải cũng được trình bày theo chính học giới đó. Thật vậy, trong Kaṅkhāvitaraṇī (kaṅkhā. aṭṭha. nidānavaṇṇanā), trong phần về ranh giới nước, đã được nói “của Tỳ-khưu-ni, sau khi đã che ba vòng, và vén nội y lên, đi qua,” vì đã có trong phần phân tích của Tỳ-khưu-ni. Cách này cũng áp dụng cho các trường hợp tương tự khác. Nếu hỏi để làm gì? Để trình bày trình tự Pāḷi bằng cách tuân theo trình tự Pāḷi. Ở đó, đây là sự trình bày ý định một cách tóm tắt – trong sự phân định ba loại của học giới kiểm tra giới, đối với người đã thọ cụ túc giới mà có ý thức là đã thọ, không phạm tội. Theo học giới không tuân thủ, có thể có tội đối với người bị treo giò khi đã thọ cụ túc giới. Cũng vậy trong học giới nằm chung và các học giới khác. Ý nghĩa ở đây sẽ trở nên rõ ràng ở phần sau.

Yaṃ vuttaṃ aṭṭhakathāyaṃ ‘‘tatopi ca maggaphalacittameva adhicittaṃ, taṃ pana idha anadhippeta’’nti ca, ‘‘tatopi ca maggaphalapaññāva adhipaññā, sā pana idha anadhippetā. Na hi taṃsamāpanno bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭisevatī’’ti. ‘‘Tatra yāyaṃ adhisīlasikkhā, ayaṃ imasmiṃ atthe adhippetā sikkhā’’ti imāya pāḷiyā virujjhati. Ayañhi pāḷi adhisīlasikkhāva idha adhippetā, na itarāti dīpeti. Aṭṭhakathāvacanaṃ tāsampi tiṇṇaṃ lokiyānaṃ adhippetataṃ dīpeti. Ayaṃ panettha aṭṭhakathādhippāyo – tissopi lokiyā sikkhā imasmiṃ paṭhamapārājike sambhavanti, kālenāpi adhicittapaññālābhī bhikkhu tathārūpaṃ asappāyaṃ paccayaṃ paṭicca tato tato adhicittato, adhipaññāto ca āvattitvā sīlabhedaṃ pāpuṇeyyāti ṭhānametaṃ vijjati, na lokuttaracittapaññālābhī, ayaṃ nayo itaresupi sabbesu adinnādānādīsu sacittakesu labbhati, acittakesu pana itaropi. Tathāpi kevalaṃ vinayapiṭakassa, pātimokkhasīlassa ca saṅgāhakattā ‘‘sikkhaṃ appaccakkhāyā’’ti imasmiṃ uttarapade paccakkhānārahā adhisīlasikkhāva lokiyāti dassanatthaṃ pāḷiyaṃ ‘‘tatra yāyaṃ adhisīlasikkhā, ayaṃ imasmiṃ atthe adhippetā sikkhā’’ti vuttanti veditabbaṃ.
Điều đã được nói trong Chú giải: “và từ đó trở đi, chỉ có tâm đạo và quả mới là tâm cao hơn, nhưng nó không được hàm ý ở đây,” và “và từ đó trở đi, chỉ có tuệ đạo và quả mới là tuệ cao hơn, nhưng nó không được hàm ý ở đây. Bởi vì Tỳ-khưu đã chấp nhận nó không thực hành pháp dâm dục.” Điều này mâu thuẫn với Pāḷi này: “Ở đó, học giới về giới cao hơn này, là học giới được hàm ý trong ý nghĩa này.” Pāḷi này làm sáng tỏ rằng chỉ có học giới về giới cao hơn mới được hàm ý ở đây, không phải loại khác. Lời nói trong Chú giải làm sáng tỏ rằng cả ba loại thế gian cũng được hàm ý. Đây là ý định của Chú giải ở đây – cả ba học giới thế gian đều có thể có trong tội Bất Cộng Trụ đầu tiên này. Có thể xảy ra rằng một Tỳ-khưu, dù đã đạt được tâm và tuệ cao hơn, nhưng do duyên không thích hợp như vậy, có thể quay trở lại từ tâm và tuệ cao hơn đó và phạm giới. Điều này không xảy ra với người đã đạt được tâm và tuệ siêu thế. Cách này cũng được chấp nhận trong tất cả các tội có tâm khác như lấy trộm và các tội khác. Còn trong các tội không có tâm, thì cả loại khác cũng được chấp nhận. Tuy nhiên, cần phải biết rằng, vì Tạng Luật và giới trong Giới Bổn chỉ bao gồm những điều này, nên để trình bày rằng học giới về giới cao hơn, thuộc thế gian, là thứ có thể bị từ bỏ trong từ theo sau “không từ bỏ học giới,” đã được nói trong Pāḷi: “Ở đó, học giới về giới cao hơn này, là học giới được hàm ý trong ý nghĩa này.”

Ettha sikkhāti kāyavacīduccaritato viratī ca cetanā ca, aññatra cetanāyeva veditabbā. Sikkhāpadanti sauddesasikkhāpadaṃ, ekaccaṃ anuddesasikkhāpadañca labbhati. Cittassa adhikaraṇaṃ katvāti tasmiṃ sikkhatīti adhikaraṇatthe bhummanti dassanatthaṃ vuttaṃ. Yathāsikkhāpadanti paccavekkhaṇavasena vuttaṃ. Sīlapaccavekkhaṇāpi hi sīlameva, tasmā suppaṭicchannādicārittesu virativippayuttacetanaṃ pavattentopi sikkhaṃ paripūrentotveva saṅkhyaṃ gacchati. ‘‘Sampajānamusāvāde pācittiya’’nti (pāci. 2) vuttamariyādaṃ avītikkamanto ‘‘tasmiñca sikkhāpade sikkhatī’’ti vuccati. Aññatarasmiṃ pana gaṇṭhipade vuttaṃ ‘‘sikkhāti taṃ sikkhāpadaṃ sikkhanabhāvena pavattacittuppādo. Sājīvanti paññatti. Tadatthadassanatthaṃ pubbe methunasaṃvarassetaṃ adhivacana’’nti. Yasmā sikkhāya guṇasammatāya puññasammatāya tantiyā abhāvato lokassa dubbalyāvikammaṃ tattha na sambhavati. Patthanīyā hi sā, tasmā ‘‘yañca sājīvaṃ samāpanno, tattha dubbalyaṃ anāvikatvā’’ti vuttaṃ. Āṇāya hi dubbalyaṃ sambhavatīti āyasmā upatisso.
Ở đây, học giới cần phải biết là ý định tiết chế khỏi thân và khẩu ác hạnh, và là ý định, trừ khi chỉ là ý định. Học giới được chấp nhận là học giới có tụng đọc và một số học giới không tụng đọc. Làm cho tâm trở thành vị trí, đã được nói để trình bày rằng đó là vị trí cách trong ý nghĩa “học trong đó.” Theo học giới, đã được nói theo cách quán xét. Bởi vì việc quán xét giới cũng chính là giới. Do đó, ngay cả khi thực hiện ý định không tương ưng với sự tiết chế trong các hạnh kiểm như che đậy kỹ càng và các hạnh kiểm khác, cũng được gọi là hoàn thành học giới. Người không vi phạm giới hạn đã được nói “trong việc cố ý nói dối, phạm tội Ưng Đối Trị” (pāci. 2), được gọi là “học trong học giới đó.” Còn trong một sách giải thích từ khó khác, đã được nói: “học giới là tâm sinh khởi do học học giới đó. Đời sống đồng đẳng là chế định. Để trình bày ý nghĩa đó, trước đây, đây là tên gọi khác của sự thu thúc trong pháp dâm dục.” Bởi vì do không có truyền thống, không được coi là công đức, không được coi là tốt đẹp của học giới, nên việc tỏ bày sự yếu kém không thể có ở đó. Bởi vì nó đáng được mong muốn, do đó đã được nói “và đời sống đồng đẳng mà mình đã chấp nhận, không tỏ bày sự yếu kém trong đó.” Bởi vì sự yếu kém có thể có đối với mệnh lệnh, theo Tôn giả Upatissa.

Sikkhāpaccakkhānakathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài từ bỏ học giới

Etthayāmīti amukasmiṃ titthāyatane, gharādimhi vā. Bhāvavikappākārenāti ‘‘ahaṃ assa’’nti āgatattā yaṃ yaṃ bhavitukāmo, tassa tassa bhāvassa vikappākārena, bhikkhubhāvato aññabhāvavikappākārenāti adhippāyo.
Ở đây, tôi đi là đến nơi thờ cúng của ngoại đạo nào đó, hoặc đến nhà và các nơi khác. Theo cách lựa chọn trạng thái, vì đã có câu “tôi sẽ là,” nên ý định là theo cách lựa chọn trạng thái của bất cứ thứ gì mình muốn trở thành, theo cách lựa chọn trạng thái khác với trạng thái Tỳ-khưu.

46. Handāti vacasāyeva. Gihibhāvaṃ patthayamānotiādipadehi cittaniyamaṃ dasseti. Ekeneva cittena sikkhāpaccakkhānaṃ hoti, na tadabhāvenāti.
46. Này là chỉ bằng lời nói. Bằng các từ mong muốn trạng thái cư sĩ và các từ khác, Ngài trình bày quy luật về tâm. Việc từ bỏ học giới xảy ra chỉ bằng một tâm, không phải khi không có nó.

51. Buddhaṃ dhammantiādipadehi khettaniyamaṃ dasseti. Tattha ādito cuddasahi padehi sabhāvapariccāgo, pacchimehi aṭṭhahi bhāvantarādānañca dassitaṃ hoti. Paccakkhāmi dhārehīti etehi kālaniyamaṃ dasseti. Vadatīti iminā padena payoganiyamaṃ dasseti. Viññāpetīti iminā vijānananiyamaṃ dasseti. Ummattako sikkhaṃ paccakkhāti, ummattakassa santike sikkhaṃ paccakkhātītiādīhi puggalaniyamaṃ dasseti. Ariyakena milakkhassa santike sikkhaṃ paccakkhātītiādīhi pana puggalādiniyamepi sati vijānananiyamāsambhavaṃ dasseti. Tattha ‘‘yāya milakkhabhāsāya kālaniyamo natthi, tāyapi bhāsāya kālaniyamatthadīpane sati sikkhāpaccakkhānaṃ ruhatīti no matī’’ti ācariyo. Davāyātiādīhi khettādiniyame satipi cittaniyamābhāvena na ruhatīti dasseti. Sāvetukāmo na sāvetīti cittaniyamepi sati payoganiyamābhāvena na ruhatīti dasseti. Aviññussasāveti, viññussa na sāvetīti cittakhettakālapayogapuggalavijānananiyamepi sati yaṃ puggalaṃ uddissa sāveti, tasseva savane na ruhati, na aññassāti dassanatthaṃ vuttaṃ, tena vuttaṃ aṭṭhakathāyaṃ ‘‘yadi ayameva jānātūti ekaṃ niyametvā āroceti, tañce so eva jānāti, paccakkhātā hoti sikkhā. Atha so na jānāti…pe… appaccakkhātā hoti sikkhā’’ti. Sabbaso vā pana na sāveti, appaccakkhā hoti sikkhāti cittādiniyameneva sikkhā paccakkhātā hoti, na aññathāti dassanatthaṃ vuttaṃ. Ettāvatā ‘‘sikkhā…pe… dubbalyaṃ anāvikatvā’’ti padassa padabhājanaṃ tīhi ākārehi dassitaṃ hoti. Tattha dve amissā, pacchimo eko missoti veditabbo. Teneva vacībhedenāti tadatthadīpanamattaṃ vacanaṃ sutvāva teneva vacībhedena jānāpetīti attho. Cittasampayuttanti paccakkhātukāmatācittasampayuttaṃ. Samayaññū nāma tadadhippāyajānanamattena hoti.
51. Phật, Pháp và các từ khác, Ngài trình bày quy luật về đối tượng. Ở đó, bằng mười bốn từ đầu, sự từ bỏ bản chất được trình bày, và bằng tám từ cuối, sự chấp nhận trạng thái khác được trình bày. Tôi từ bỏ, hãy ghi nhớ, bằng những từ này, Ngài trình bày quy luật về thời gian. Nói, bằng từ này, Ngài trình bày quy luật về cách thực hành. Làm cho biết, bằng từ này, Ngài trình bày quy luật về sự biết. Người điên từ bỏ học giới, từ bỏ học giới với người điên và các trường hợp khác, Ngài trình bày quy luật về cá nhân. Còn bằng các câu như người thuộc dòng dõi cao quý từ bỏ học giới với người thuộc dòng dõi thấp và các câu tương tự, Ngài trình bày sự không thể có của quy luật về sự biết ngay cả khi có quy luật về cá nhân và các quy luật khác. Ở đó, vị Giáo thọ sư nói: “theo quan điểm của chúng tôi, ngay cả với ngôn ngữ của người thuộc dòng dõi thấp, nếu không có quy luật về thời gian, nhưng nếu có sự trình bày ý nghĩa của quy luật về thời gian, thì việc từ bỏ học giới vẫn có hiệu lực.” Bằng các câu như do đùa giỡn và các câu tương tự, Ngài trình bày rằng ngay cả khi có quy luật về đối tượng và các quy luật khác, nhưng do không có quy luật về tâm, nên không có hiệu lực. Muốn cho nghe nhưng không cho nghe, Ngài trình bày rằng ngay cả khi có quy luật về tâm, nhưng do không có quy luật về cách thực hành, nên không có hiệu lực. Cho người không hiểu nghe, không cho người hiểu nghe, đã được nói để trình bày rằng ngay cả khi có quy luật về tâm, đối tượng, thời gian, cách thực hành, cá nhân và sự biết, nhưng nếu hướng đến cá nhân nào và cho người đó nghe, thì chỉ có hiệu lực khi chính người đó nghe, không phải người khác. Do đó, đã được nói trong Chú giải: “nếu xác định một người ‘chỉ người này hãy biết’ và thông báo, và nếu chính người đó biết, thì học giới đã được từ bỏ. Còn nếu người đó không biết… cho đến… học giới chưa được từ bỏ.” Hoặc là không cho nghe chút nào, học giới chưa được từ bỏ, đã được nói để trình bày rằng học giới chỉ được từ bỏ bằng quy luật về tâm và các quy luật khác, không phải cách khác. Bằng chừng ấy, phần phân tích từ của từ “học giới… cho đến… không tỏ bày sự yếu kém” đã được trình bày theo ba cách. Ở đó, cần phải biết rằng hai cách đầu là không hỗn hợp, cách cuối cùng là hỗn hợp. Bằng chính sự phân loại lời nói đó, có nghĩa là sau khi đã nghe lời nói chỉ trình bày ý nghĩa đó, vị ấy làm cho biết bằng chính sự phân loại lời nói đó. Tương ưng với tâm là tương ưng với tâm muốn từ bỏ. Người biết thời điểm là chỉ bằng việc biết được ý định đó.

53. Vaṇṇapaṭṭhānaṃ buddhaguṇadīpakaṃ suttaṃ. Upāligahapatinā vuttā kira upāligāthā. Paññāṇaṃ saññāṇanti atthato ekaṃ, tasmā bodhipaññāṇanti bodhisaññāṇaṃ, bodhibījanti vuttaṃ hoti.
53. Nền tảng của sự ca ngợi là kinh trình bày các phẩm chất của Phật. Người ta nói rằng bài kệ của Upāli đã được cư sĩ Upāli nói. Trí tuệ và nhận thức, về mặt ý nghĩa là một, do đó trí tuệ Bồ-đề là nhận thức Bồ-đề, có nghĩa là hạt giống Bồ-đề.

Dvinnampi niyametvāti ettha ‘‘dvīsupi jānantesu eva paccakkhāmīti adhippāyena vutte tesu eko ce jānāti, na paccakkhātā hotī’’ti aññatarasmimpi gaṇṭhipade vuttaṃ, taṃ aṭṭhakathāya na sameti. ‘‘Gihī homī’’ti vā ‘‘gihimhī’’ti vā vutte kiñcāpi vattamānavacanaṃ hoti. ‘‘Dhārehī’’ti atthābhāvā ca ‘‘dhārehī’’ti vutte ca parassupari gacchati, tasmā na hoti. Sandiṭṭhikaṃ dhammanti sabbattha dhammavacanaṃ vuttaṃ yaṃ sandhāya ‘‘sandiṭṭhika’’nti vadati, taṃ pakāsetuṃ. Aññathā ‘‘vijitavijayaṃ paccakkhāmī’’ti vutte cakkavattiādīsupi tappasaṅgato buddhasaddopi avasāne vattabbo bhaveyya. Ācariyavevacanesu pana yo maṃ pabbājesītiādi upajjhaṃ aggahetvā, paraṃ vā uddissa pabbajitaṃ sandhāya vuttanti. Okallakoti kapaṇādhivacanaṃ. Moḷibaddhoti sikhābaddho, omukkamakuṭo vā. Cellako athero. Ceṭako majjhimo. Moḷigallo mahāsāmaṇero. Manussaviggahanāgādīnaṃ nāgarūpādīnaṃ vā santike, bhāsājānanakinnarādīnaṃ vā. ‘‘Devatā nāma mahāpaññā’’ti kira pāṭho. Davāyāti sahasā. Ravābhaññenāti khalitabhaññena. Akkharasamayānañhi nābhiññātāya vā karaṇānaṃ avisadatāya vā hoti ravābhaññaṃ. Avidheyyindriyatāya ‘‘potthakarūpasadisassā’’ti vuttaṃ, garumedhassa mandapaññassa. Kittāvatā pana garumedho hotīti ce? Samaye akovidatāya.
Trong câu sau khi đã xác định cả hai, ở đây, trong một sách giải thích từ khó khác, đã được nói: “nếu được nói với ý định ‘tôi sẽ chỉ từ bỏ khi cả hai đều biết,’ thì nếu một trong hai biết, học giới chưa được từ bỏ,” điều đó không phù hợp với Chú giải. Nếu nói “tôi sẽ là cư sĩ” hoặc “tôi là cư sĩ,” mặc dù là lời nói ở hiện tại. Vì không có ý nghĩa “hãy ghi nhớ,” và khi nói “hãy ghi nhớ,” nó hướng đến người khác, do đó không có hiệu lực. Pháp hiện tại, ở khắp mọi nơi, lời nói về Pháp đã được nói, để làm sáng tỏ điều mà Ngài nói đến khi nói “hiện tại.” Nếu không, khi nói “tôi từ bỏ chiến thắng đã được chinh phục,” sẽ có khả năng áp dụng cho cả Chuyển Luân Vương và các vị khác, và từ “Phật” cũng phải được nói ở cuối. Còn trong các danh từ đồng nghĩa của vị thầy, các câu như người đã cho tôi xuất gia và các câu tương tự đã được nói đến để chỉ người xuất gia hướng đến người khác, không phải thầy Giáo Thọ Sư. Okallako là tên gọi khác của người nghèo khổ. Moḷibaddho là người búi tóc, hoặc người đội vương miện. Cellako là người không phải trưởng lão. Ceṭako là người trung bình. Moḷigallo là đại Sa-di. Với người có hình dạng con người, con rồng và các loài khác, hoặc với hình dạng con rồng và các hình dạng khác, hoặc với loài kim-na-la biết tiếng nói và các loài khác. Người ta nói rằng có đoạn văn “chư Thiên là những người có trí tuệ lớn.” Do đùa giỡn là đột ngột. Bằng lời nói lắp bắp là bằng lời nói vấp váp. Lời nói lắp bắp xảy ra do không biết rõ các âm và thời gian, hoặc do các cơ quan không rõ ràng. Do các giác quan không thể kiểm soát, đã được nói “giống như hình người trong sách,” của người có trí tuệ nặng nề, người có trí tuệ kém cỏi. Nếu hỏi, đến mức nào thì là người có trí tuệ nặng nề? Do không thông thạo về thời điểm.

Sikkhāpaccakkhānakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về đề tài từ bỏ học giới đã kết thúc.

Mūlapaññattikathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài chế định gốc

55. ‘‘Paṭisevatināmā’’ti padaṃ mātikāyaṃ natthi, tasmā ‘‘paṭiseveyyāti etthā’’tiādimāha. ‘‘Eso methunadhammo nāmā’’ti sabbapāḷipotthakesu, aṭṭhakathāyaṃ ‘‘eso vuccati methunadhammo nāmā’’ti uddhaṭā. Itthiyā nimittena attano nimittanti duviññeyyametaṃ dassitaṃ. Attano nimittena itthiyā nimittaṃ suviññeyyattā na dassitaṃ. Cattāri ṭhānāni muñcitvāti ettha abbhantaratalaṃ chupantaṃyeva sandhāya vuttaṃ, acchupantaṃ nīharantassa anāpatti. Majjhanti aggappadesaṃ. Uparibhāgamajjhanti uparibhāgassa aggappadesaṃ. Naṭṭhakāyappasādanti ettha upahatindriyassa āpattisambhavato idhāpi āpattīti ce? Neti dassanatthaṃ ‘‘matacammaṃ vā’’tiādi vuttaṃ. Matacammañhi anupādinnaṃ, upādinne eva pārājikāpatti. Apidhāya appaṭicchādetvā. Yathā dantā na dissanti, tathā pidhāyeva nisīditabbanti adhippāyo.
55. Từ “thực hành” không có trong đề mục, do đó, Ngài đã nói “trong câu ‘nếu thực hành’” và các đoạn tiếp theo. “Đó là pháp dâm dục” có trong tất cả các sách Pāḷi. Trong Chú giải, đã được trích dẫn “đó được gọi là pháp dâm dục.” Bộ phận sinh dục của mình với bộ phận sinh dục của người phụ nữ, điều này đã được trình bày một cách khó hiểu. Bộ phận sinh dục của mình với bộ phận sinh dục của người phụ nữ, vì dễ hiểu nên không được trình bày. Trừ bốn nơi, ở đây, đã được nói đến để chỉ việc chạm vào lòng bên trong, đối với người rút ra mà không chạm thì không phạm tội. Giữa là phần đầu. Giữa phần trên là phần đầu của phần trên. Trong câu tế bào thần kinh của thân đã bị hủy hoại, ở đây, nếu nói rằng có tội đối với người có giác quan bị tổn thương, thì ở đây cũng có tội? Để trình bày rằng không phải vậy, đã được nói “hoặc là da chết” và các đoạn tiếp theo. Bởi vì da chết không phải là vật hữu chấp. Tội Bất Cộng Trụ chỉ có đối với vật hữu chấp. Không che đậy, không che giấu. Ý định là phải ngồi che đậy sao cho không thấy răng.

Gonasoti goṇapiṭṭhiko maṇḍalasappo, yassa piṭṭhe lohitakāni maṇḍalāni dissanti. Kalalaparicayavāricāramacchaggahaṇena kiñcāpi samudde mahāmukhā hatthisarīrampi ekappahārena gilituṃ samatthā tato mahantatarā ca gahitā honti, tesaṃ mukhādīsu methunadhammo na sambhavatīti tattha ṭhānaparicchedo natthīti eke, vicāretvā gahetabbaṃ. Etameva hīti anantaraṃ sandhāya. Saddhiṃ yojanāya akkharayojanāya. ‘‘Paññattaṃ pana sikkhāpadaṃ sabbehipi lajjīpuggalehi samaṃ sikkhitabbabhāvato samasikkhatā nāmāti vuttattā sabbasikkhāpadaṃ sabbabhikkhūhi sikkhitabbaṃ. Na hi kassaci ūnamadhikaṃ vā atthī’’ti tassa gaṇṭhipade vuttaṃ. Parivāre pana –
Gonaso là con rắn vòng, có lưng giống lưng bò, trên lưng có những vòng màu đỏ. Mặc dù bằng việc bắt cá sống ở bùn, nước, đã bao gồm cả những con cá ở biển có miệng lớn, có khả năng nuốt cả thân voi trong một lần, và cả những con lớn hơn nữa, nhưng một số người cho rằng vì pháp dâm dục không thể có ở miệng và các bộ phận khác của chúng, nên không có sự phân định nơi chốn ở đó. Điều này cần được xem xét và chấp nhận. Chính điều này là để chỉ điều ngay trước đó. Cùng với sự kết hợp, với sự kết hợp của các chữ. Trong sách giải thích từ khó của vị ấy, đã được nói: “Bởi vì học giới đã được chế định phải được tất cả những người có lòng tàm quý học tập một cách bình đẳng, nên được gọi là học tập bình đẳng, do đó, tất cả các học giới phải được tất cả các Tỳ-khưu học tập. Bởi vì không có ai thiếu hay thừa.” Còn trong Parivāra

‘‘Na ukkhittako na ca pana pārivāsiko,
Na saṅghabhinno na ca pana pakkhasaṅkanto;
Samānasaṃvāsakabhūmiyā ṭhito,
Kathaṃ nu sikkhāya asādhāraṇo siyā’’ti. (pari. 479) –
“Không phải người bị treo giò, không phải người đang chịu phạt;
Không phải người chia rẽ Tăng chúng, không phải người theo phe khác;
Đứng trên nền tảng sống chung bình đẳng,
Làm sao có thể không đồng đẳng trong học giới?” (pari. 479) –

Vuttaṃ. ‘‘Tadaṭṭhakathāya ca ‘‘ayaṃ pañhā nahāpitapubbakaṃ sandhāya vuttā. Ayañhi khurabhaṇḍaṃ pariharituṃ na labhati, aññe labhanti. Tasmā sikkhāya asādhāraṇo’’ti vuttaṃ. Taṃ sabbaṃ yathā saṃsandati sameti, tathā veditabbaṃ . Bhikkhunīnaṃyeva sādhāraṇāni sikkhāpadānipi bhikkhu sikkhati, evamaññopi anhāpitapubbako bhikkhu taṃ sikkhāpadaṃ sikkhati eva tadatthakosallatthanti katvā sabbampi sikkhāpadaṃ samasikkhatā nāmāti. Yaṃ taṃ vuttanti sambandho. ‘‘Tisso itthiyo’’tiādivibhaṅgotaṃniyāmakotilakkhaṇattā vatthuniyamanatthaṃ vuttaṃ. Tena amanussitthippasaṅgena kate suvaṇṇarajatādimaye paṭikkhipati. Ito paṭṭhāya ye ca ‘‘tayo atthavase paṭicca vibhaṅgo pavattatī’’ti pubbe vuttā, te yathāsambhavaṃ yojetvā veditabbā.
Đã được nói. Trong Chú giải của nó, đã được nói: “câu hỏi này đã được nói đến để chỉ người trước đây là thợ cạo. Bởi vì người này không được phép mang theo đồ nghề cạo, còn những người khác thì được. Do đó, không đồng đẳng trong học giới.” Tất cả những điều đó cần phải được biết theo cách phù hợp và nhất quán. Các Tỳ-khưu cũng học các học giới chung chỉ cho Tỳ-khưu-ni. Cũng vậy, Tỳ-khưu khác, không phải là người trước đây là thợ cạo, cũng học học giới đó để thông thạo ý nghĩa của nó, do đó, tất cả các học giới đều được gọi là học tập bình đẳng. Có sự liên kết với điều đã được nói. Phần phân tích “ba người phụ nữ” và các phần khác, vì có đặc tính xác định quy luật, nên đã được nói để xác định quy luật về sự việc. Do đó, Ngài đã bác bỏ các vật được làm bằng vàng, bạc và các vật liệu khác, được tạo ra do khả năng có người phụ nữ phi nhân. Từ đây trở đi, những điều đã được nói trước đây “phần phân tích được trình bày dựa vào ba lợi ích,” cần phải được kết hợp và hiểu theo khả năng.

Paṭhamacatukkakathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài tứ pháp thứ nhất

57. Āpatti pārājikā assa hotīti ettha yasmā sā akusalā āpatti tassa bhikkhuno sīlasambhavaṃ abhibhavati, rāgābhibhave tasmiṃ pārājikāti laddhanāmā pubbabhāge āpannā dukkaṭathullaccayādayo āpattiyo abhibhavitvā vināsetvā sayamevekā assa. Vatthunā sabhāgāhi vā asabhāgāhi vā aññāhi pārājikattena samānajātikāhi āpattīhi sayaṃ nābhibhavīyatīti eke. Taṃ taṃ pubbe vicāritameva. Yadā pana catassopi pārājikāpattiyo ekato honti, tadā tā tassa bhikkhuno bhikkhubhāvaṃ abhibhavanti, abhikkhuṃ karonti, anupasampannaṃ karonti, samaññāyapi bhikkhu na hoti. Omasavādapācittiyaṃ na janetīti eke. Dutiyena atthavikappena pārājikassa dhammassa patti sampatti āpattīti attho saṅgahito hotīti katvā āpattisampattivādīnaṃ saṅgahito hoti, yujjati cesā parasāpekkhā. Sāpattiko nāma so bhikkhu hoti, aññathā tassa khaṇabhaṅgena anāpattiko bhaveyya, na ca hotīti. Kadā pana hotīti? Yadā kālaṃ karoti, yadā ca sikkhaṃ paccakkhāya sāmaṇerādibhūmiyaṃ tiṭṭhati. Yadi evaṃ sikkhāya paccakkhātāya pārājikāpatti paccakkhātā hoti sikkhā cāti ubhayaṃ tassa ekato atthi, saṅghādisesādiāpatti sikkhāpaccakkhānena kiṃ na paccakkhātā, puna upasampannena desāpetabbā. Sikkhāpaccakkhānaṃ āpattivuṭṭhānaṃ jātaṃ, abhikkhu āpattito vuṭṭhāti, gahaṭṭho vuṭṭhāti, sāmaṇero vuṭṭhāti, tato vinayavirodhā na vuṭṭhāti. Hañci pana vuṭṭhāti gahaṭṭho, sāmaṇero vā sīlasampannova jhānalābhī assa, sotāpattiphalassa vā arahattaphalassa vā lābhī assa, pārājikāpattiyā sāpattiko arahā assa. Ukkhittako uppabbajito vā parivāsāraho mānattāraho uppabbajito vā sīlasampanno jhānalābhī assa, sotāpattiphalassa, arahattaphalassa vā lābhī assa, sāpattiko santarāyiko arahā assa, so puna upasampanno parivāsaṃ, mānattaṃ vā datvā abbhetabbo ukkhittako osāretabboti samāno ayaṃ upalabbhoti.
57. Tội Bất Cộng Trụ sẽ là của vị ấy, ở đây, bởi vì tội bất thiện đó lấn át sự tồn tại của giới của Tỳ-khưu đó, trong sự lấn át của tham ái, tội đã có tên là Bất Cộng Trụ, sau khi đã lấn át và tiêu diệt các tội đã phạm trong phần trước như Tác Ác, Trọng Tội và các tội khác, chỉ còn lại một mình nó. Một số người cho rằng nó không bị lấn át bởi các tội khác, cùng loại với tội Bất Cộng Trụ, dù có cùng hay không cùng sự việc. Điều đó đã được xem xét trước đây. Nhưng khi cả bốn tội Bất Cộng Trụ xảy ra cùng một lúc, thì chúng lấn át bản chất Tỳ-khưu của Tỳ-khưu đó, làm cho vị ấy trở thành không phải Tỳ-khưu, làm cho vị ấy trở thành người chưa thọ cụ túc giới, ngay cả theo danh xưng cũng không phải là Tỳ-khưu. Một số người cho rằng nó không gây ra tội Ưng Đối Trị do mắng nhiếc. Bằng cách giải thích ý nghĩa thứ hai, ý nghĩa “sự đạt được, sự thành tựu của pháp Bất Cộng Trụ là tội” đã được bao gồm, do đó đã được bao gồm bởi những người theo quan điểm về sự thành tựu tội, và điều đó hợp lý vì nó phụ thuộc vào người khác. Tỳ-khưu đó được gọi là người có tội. Nếu không, vị ấy sẽ trở thành người không có tội do sự tan rã trong khoảnh khắc, nhưng không phải vậy. Khi nào thì có? Khi vị ấy chết, và khi vị ấy từ bỏ học giới và ở trong địa vị Sa-di và các địa vị khác. Nếu vậy, khi học giới đã được từ bỏ, tội Bất Cộng Trụ đã được từ bỏ và học giới cũng vậy, cả hai điều đó đều có đối với vị ấy cùng một lúc. Tại sao các tội Tăng Tàn và các tội khác không được từ bỏ bằng việc từ bỏ học giới, mà phải được sám hối sau khi đã thọ cụ túc giới lại? Việc từ bỏ học giới đã trở thành sự xuất tội, người không phải Tỳ-khưu xuất khỏi tội, cư sĩ xuất khỏi tội, Sa-di xuất khỏi tội, do đó, do mâu thuẫn với Luật, không xuất khỏi tội. Nếu cư sĩ hoặc Sa-di xuất khỏi tội, thì người có giới sẽ là người chứng thiền, hoặc là người chứng quả Dự lưu hoặc quả A-la-hán, A-la-hán có tội Bất Cộng Trụ sẽ có. Người bị treo giò hoặc người đã hoàn tục, người đáng được chịu phạt, người đáng được phạt tự hối, người đã hoàn tục, nếu là người có giới và chứng thiền, hoặc là người chứng quả Dự lưu hoặc quả A-la-hán, A-la-hán có tội, có trở ngại sẽ có, người đó, sau khi đã thọ cụ túc giới lại, sau khi đã cho chịu phạt, phạt tự hối, phải được phục hồi, người bị treo giò phải được phục hồi, sự bình đẳng này được tìm thấy.

Ayaṃ panettha vinicchayo – pārājikaṃ dhammaṃ āpanno yāva bhikkhubhāvaṃ paṭijānāti sādiyati saṃvāsaṃ, santarāyikattā uposathadivasādīsu gahaṭṭhassa viya sayameva sīlaṃ samādiyantassapi na sīlasamādānaṃ ruhati, pageva jhānādīni. So ce bhikkhubhāvaṃ na sādiyati na paṭijānāti saṃvāsaṃ na sādiyati, kevalaṃ bhikkhūnaṃ āvikatvā rājavericorādibhayena kāsāvaṃ na pariccajati, anupasampannova hoti sahaseyyādiṃ janeti, sīlassa ca jhānādīnañca bhāgī hoti. Vuttañhetaṃ bhagavatā –
Ở đây, đây là sự phân xử – người đã phạm pháp Bất Cộng Trụ, chừng nào còn tự nhận là Tỳ-khưu, đồng ý sống chung, vì có trở ngại, ngay cả khi tự mình thọ giới vào ngày Bố-tát và các ngày khác như cư sĩ, việc thọ giới cũng không có hiệu lực, huống chi là thiền và các pháp khác. Nếu người đó không đồng ý với bản chất Tỳ-khưu, không tự nhận, không đồng ý sống chung, chỉ không từ bỏ y cà sa vì sợ vua chúa, trộm cướp và các nỗi sợ khác, sau khi đã tỏ bày với các Tỳ-khưu, thì người đó là người chưa thọ cụ túc giới, gây ra tội nằm chung và các tội khác, và có phần trong giới, thiền và các pháp khác. Điều này đã được Thế Tôn nói –

‘‘Āpannena visuddhāpekkhena santī āpatti āvikātabbā, āvikatā hissa phāsu hoti, paṭhamassa jhānassa adhigamāyā’’tiādi (mahāva. 134-135).
“Người đã phạm, mong muốn trong sạch, phải tỏ bày tội lỗi đang có. Bởi vì khi đã tỏ bày, vị ấy sẽ được thoải mái, để chứng đắc sơ thiền” và các đoạn tiếp theo (mahāva. 134-135).

Tattha santī āpattīti sāvasesānavasesappabhedā sabbāpi āpatti āpannā adhippetā. Evaṃ santepi pageva gahaṭṭhādibhūmiyaṃ ṭhito jhānādīnaṃ bhāgī assa suddhante ṭhitattā, yo pana ukkhittako anosārito, garudhammaṃ vā āpajjitvā avuṭṭhito sikkhaṃ paccakkhāya gahaṭṭhādibhūmiyaṃ ṭhito, na so jhānādīnaṃ bhāgīyeva bhavati na suddhante ṭhitattā, sakaraṇīyattā ca, teneva bhagavatā ‘‘so puna upasampanno osāretabbo’’ti vuttaṃ, tasmā tassa puggalassa te bhikkhukāle āpannā antarāyikā dhammā vippaṭisāraṃ janayitvā avippaṭisāramūlakānaṃ pāmojjādīnaṃ sambhavaṃ nivārenti, no sakāsāvesuyeva. No ce nivārenti, sambhavati. Garukaṃ āpajjitvā bhikkhūnaṃ āvikatvā ce uppabbajito, pakatatto hutvā uppabbajitoti katvā jhānādīnaṃ bhāgī assa ‘‘āvikatā hissa phāsu hotī’’ti vuttattā. Pageva bhikkhukāle, na tveva ukkhittako sakaraṇīyattāti eke. Tadanuvattanako pana taṃ laddhiṃ pahāya bhāgī assa. Na, bhikkhave, sagahaṭṭhāya parisāya (mahāva. 154) sikkhāpaccakkhātakassa antimavatthuṃ ajjhāpannakassa nisinnaparisāyāti (mahāva. 183) ettha gahaṭṭho nāma pakatiyā gihiliṅge ṭhito. Sikkhaṃ paccakkhāya bhikkhuliṅge ṭhito sikkhāpaccakkhātako. So sakāsāvesu sāpekkhattā sāmaṇerabhāvaṃ patthayamāno teneva liṅgena tīhi saraṇagamanehi sāmaṇero hoti. Antimavatthuṃ ajjhāpanno saṃvāsaṃ sādiyantopi pacchā pubbe vuttakkamena asādiyitvā sāmaṇerabhāvaṃ patthayamāno sikkhāpaccakkhātako viya tīhi saraṇagamanehi sāmaṇero hoti, na puna kāsāvaṃ paṭiggāhāpetabbo bhikkhūhi paṭhamaṃ dinnaliṅgeyeva ṭhitattā. Yo pana pārājiko codiyamāno parājitvā ‘‘handa, bhante, sāmaṇero bhavāmi, saraṇāni dethā’’ti vadati, ‘‘sādhu gaṇhāhī’’ti na vattabbo, gihiliṅge ṭhapetvā puna kāsāyāni paṭiggāhāpetvā pabbājetabbo. ‘‘Idaṃ pana sabbaṃ attano matiyā vuttattā vicāretvā gahetabba’’nti ācariyo vadati. Pavesanaṃ nāma aṅgajātaṃ pavesentassa aṅgajātena samphusanaṃ. Paviṭṭhaṃ nāma yāva mūlā pavesentassa vippakatakāle vāyāmakālo. Sukkavissaṭṭhisamaye aṅgajātaṃ ṭhitaṃ nāma. Uddharaṇaṃ nāma nīharaṇakālo. Gaṇṭhipade pana ‘‘vāyāmato oramitvā ṭhānaṃ ṭhitaṃ nāmā’’ti vuttaṃ, taṃ asaṅkarato dassanatthaṃ vuttaṃ. Pavesanapaviṭṭhauddharaṇakālesupi sukkavissaṭṭhi hotiyeva.
Ở đó, tội lỗi đang có được hàm ý là tất cả các tội đã phạm, bao gồm cả loại có thể sám hối và không thể sám hối. Dù vậy, huống chi là người ở trong địa vị cư sĩ và các địa vị khác, sẽ có phần trong thiền và các pháp khác, vì ở trong sự trong sạch. Còn người bị treo giò mà chưa được phục hồi, hoặc người đã phạm tội nặng mà chưa xuất tội, sau khi từ bỏ học giới và ở trong địa vị cư sĩ và các địa vị khác, thì người đó không có phần trong thiền và các pháp khác, vì không ở trong sự trong sạch, và vì còn có việc phải làm. Chính vì vậy, Thế Tôn đã nói “người đó, sau khi đã thọ cụ túc giới lại, phải được phục hồi.” Do đó, các pháp gây trở ngại mà cá nhân đó đã phạm trong khi là Tỳ-khưu, đã gây ra sự hối hận và ngăn chặn sự phát sinh của niềm vui và các pháp khác có nguồn gốc từ sự không hối hận, không chỉ trong khi mặc y cà sa. Nếu không ngăn chặn, thì có thể phát sinh. Một số người cho rằng nếu đã phạm tội nặng và đã tỏ bày với các Tỳ-khưu rồi hoàn tục, thì người đó đã hoàn tục trong tình trạng bình thường, nên sẽ có phần trong thiền và các pháp khác, vì đã được nói “bởi vì khi đã tỏ bày, vị ấy sẽ được thoải mái.” Huống chi là trong khi là Tỳ-khưu, nhưng không phải là người bị treo giò, vì còn có việc phải làm. Còn người theo quan điểm đó, sau khi từ bỏ quan điểm đó, sẽ có phần. Này các Tỳ-khưu, không phải trong Tăng chúng có cư sĩ (mahāva. 154), trong Tăng chúng có người đã từ bỏ học giới, người đã phạm tội cuối cùng ngồi (mahāva. 183). Ở đây, cư sĩ là người ở trong hình tướng cư sĩ một cách tự nhiên. Người đã từ bỏ học giới là người ở trong hình tướng Tỳ-khưu sau khi đã từ bỏ học giới. Người đó, vì còn quyến luyến với y cà sa, nếu mong muốn trạng thái Sa-di, thì bằng chính hình tướng đó, sẽ trở thành Sa-di bằng ba lần quy y. Người đã phạm tội cuối cùng, dù đồng ý sống chung, nhưng sau đó, theo trình tự đã nói trước đây, không đồng ý và mong muốn trạng thái Sa-di, giống như người đã từ bỏ học giới, sẽ trở thành Sa-di bằng ba lần quy y, không cần phải được các Tỳ-khưu cho nhận lại y cà sa, vì vẫn ở trong hình tướng đã được cho lúc đầu. Còn người phạm tội Bất Cộng Trụ, khi bị chất vấn và thua cuộc, nói rằng “bạch các ngài, con sẽ là Sa-di, xin hãy cho con các nơi nương tựa,” thì không nên nói “tốt lắm, hãy nhận lấy,” mà phải cho ở trong hình tướng cư sĩ rồi cho nhận lại y cà sa và cho xuất gia. Vị Giáo thọ sư nói rằng: “tất cả những điều này, vì đã được nói theo ý kiến của mình, nên cần phải xem xét và chấp nhận.” Việc đưa vào là sự tiếp xúc của bộ phận sinh dục với bộ phận sinh dục khi đang đưa vào. Đã đưa vào là thời gian cố gắng trong khi đang đưa vào đến gốc, trong thời gian chưa hoàn thành. Vào thời điểm xuất tinh, bộ phận sinh dục được gọi là đã giữ yên. Việc rút ra là thời gian rút ra. Còn trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “việc dừng lại sau khi đã cố gắng được gọi là đã giữ yên,” điều đó đã được nói để trình bày sự không lẫn lộn. Bởi vì ngay cả trong thời gian đưa vào, đã đưa vào và rút ra, việc xuất tinh cũng xảy ra.

Paṭhamacatukkakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Diễn giải về đề tài tứ pháp thứ nhất đã kết thúc.

Ekūnasattatidvisatacatukkakathāvaṇṇanā

Diễn giải về tứ pháp thứ hai trăm bảy mươi chín

59-60. ‘‘Mataṃ yebhuyyena akkhāyita’’nti vaccanā amataṃ yebhuyyena khāyitampi pārājikavatthumevāti dasseti. Sabbaso khāyitaṃ, uppāṭitaṃ vā thullaccayavatthumevāti dasseti, tathā ‘‘yebhuyyena khāyita’’nti vacanā mataṃ sabbakhāyitaṃ, uppāṭitaṃ vā dukkaṭavatthūti dasseti. Na ca sāvasesaṃ paññapenti. Kiṃ kāraṇā? Idañhi sikkhāpadaṃ lokavajjaṃ, na paṇṇattivajjaṃ. Tattha sikkhāpadanti pārājikaṃ adhippetaṃ. Tattha thullaccayampi hi lokavajjaṃ, na paṇṇattivajjaṃ. Atha vā ubhayampi anavasesaṃ paññattaṃ. Pārājikakhette hi heṭṭhimakoṭiṃ pāpetvā ṭhapite tato paraṃ thullaccayanti paññattameva hoti. Tattha thullaccayakhettampi pārājikakhettaṃ viya heṭṭhimaparicchedena vuttanti veditabbaṃ. Upaḍḍhakkhāyite thullaccayanti yattha nimittaṃ khāyitaṃ, taṃ dukkaṭavatthūti veditabbaṃ. Etthāha – paṇṇattivajjaṃ kiṃ sāvasesameva bhagavā paññāpetīti? Na. Ekaṃsato pana yathāsambhavaṃ tattha tattha pakāsayissāma, kimatthaṃ pana bhagavā upaḍḍhakkhāyite pārājikaṃ na paññāpesīti ayaṃ tāva apucchā buddhavisayattā vinayapaññattiyā. Idaṃ panettha kāraṇapatirūpakaṃ ‘‘upaḍḍhabhāvassa dubbinicchayattā’’ti. Yebhuyyena khāyitaṃ nāma vaccamaggapassāvamaggamukhānaṃ catūsu koṭṭhāsesu dve koṭṭhāse atikkamma yāva tatiyakoṭṭhāsapariyosānā khāditaṃ, tatiyakoṭṭhāsaṃ atikkamma yāva catutthakoṭṭhāsapariyosānā dukkaṭavatthu.
59-60. Từ câu “chết phần lớn không bị ăn,” Ngài trình bày rằng ngay cả khi người sống bị ăn phần lớn cũng chính là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ. Ngài trình bày rằng bị ăn hoàn toàn hoặc bị moi ruột chính là đối tượng của tội Trọng Tội. Cũng vậy, từ câu “bị ăn phần lớn,” Ngài trình bày rằng người chết bị ăn hoàn toàn hoặc bị moi ruột là đối tượng của tội Tác Ác. Và họ không chế định có phần còn lại. Vì lý do gì? Bởi vì học giới này là tội lỗi thế gian, không phải là tội lỗi chế định. Ở đó, học giới được hàm ý là tội Bất Cộng Trụ. Ở đó, tội Trọng Tội cũng là tội lỗi thế gian, không phải là tội lỗi chế định. Hoặc là cả hai đều được chế định không có phần còn lại. Bởi vì trong phạm vi của tội Bất Cộng Trụ, sau khi đã đưa đến giới hạn thấp nhất và dừng lại, thì sau đó được chế định là tội Trọng Tội. Ở đó, cần phải biết rằng phạm vi của tội Trọng Tội cũng được nói theo sự phân định thấp nhất giống như phạm vi của tội Bất Cộng Trụ. Trong câu ăn một nửa, phạm tội Trọng Tội, ở đâu mà bộ phận sinh dục bị ăn, cần phải biết rằng đó là đối tượng của tội Tác Ác. Vị ấy nói ở đây – chẳng phải Thế Tôn chỉ chế định tội lỗi chế định là có phần còn lại sao? Không. Nhưng chúng tôi sẽ làm sáng tỏ ở mỗi nơi theo khả năng một cách dứt khoát. Nhưng tại sao Thế Tôn không chế định tội Bất Cộng Trụ khi bị ăn một nửa? Đây là câu hỏi không nên hỏi, vì việc chế định Luật là đối tượng của chư Phật. Ở đây, điều giống như nguyên nhân là “vì trạng thái một nửa khó phân xử.” Bị ăn phần lớn là bị ăn vượt quá hai phần trong bốn phần của đường đại tiện, đường tiểu tiện và miệng, cho đến cuối phần thứ ba. Vượt quá phần thứ ba cho đến cuối phần thứ tư là đối tượng của tội Tác Ác.

Yadipi nimittaṃ sabbaso khāyitanti ‘‘jīvamānakasarīraṃyeva sandhāya vutta’’nti vadanti, taṃ vīmaṃsitvā gahetabbaṃ. Allasarīreti abhinave, akuthite vā manussānaṃ jīvamānasarīre akkhināsādīsu thullaccayameva. Tiracchānagatānaṃ hatthiassādīnaṃ nāsāya vatthikose ca thullaccayanti ‘‘amaggena amaggaṃ paveseti, āpatti thullaccayassā’’ti imāya pāḷiyā atthavisesenettha vuttaṃ. Upakacchakādīsu dukkaṭaṃ, sabbesampi tiracchānagatānaṃ akkhikaṇṇavaṇesu dukkaṭaṃ, avasesasarīrepi dukkaṭamevāti idaṃ vinītavatthusmiṃ ‘‘ehi, bhante, methunaṃ dhammaṃ paṭisevā’’ti . ‘‘Alaṃ bhagini netaṃ kappatī’’ti (pārā. 79) iminā tāva methunarāgābhāvo dassito hoti. ‘‘Ehi, bhante, ūruntarikāya ghaṭṭehi…pe… so bhikkhu tathā akāsī’’ti iminā tāva mocanassādo dassito hoti, tenevāha bhagavā ‘‘āpatti saṅghādisesassā’’ti. ‘‘Yo pana methunarāgena ūruntarikāya ghaṭṭeti, tassa dukkaṭa’’nti siddhanti katvā vuttaṃ.
Trong câu dù bộ phận sinh dục bị ăn hoàn toàn, người ta nói rằng “đã được nói đến để chỉ chính thân thể đang sống,” điều đó cần được xem xét và chấp nhận. Trong thân thể còn tươi là thân thể mới, hoặc chưa bị thối rữa của con người, trong mắt, mũi và các bộ phận khác, chính là tội Trọng Tội. Trong câu đối với các loài súc sinh như voi, ngựa và các loài khác, trong mũi và bàng quang, phạm tội Trọng Tội, ý nghĩa đặc biệt ở đây đã được nói bằng Pāḷi này: “đưa vào đường không phải là đường, phạm tội Trọng Tội.” Trong câu trong nách và các bộ phận khác, phạm tội Tác Ác, đối với tất cả các loài súc sinh, trong các vết thương ở mắt, tai, cũng phạm tội Tác Ác, ngay cả trong phần còn lại của thân thể cũng chính là tội Tác Ác, điều này trong sự việc được quyết định, đã nói: “bạch ngài, hãy đến, thực hành pháp dâm dục.” Bằng câu “thôi đi, chị, điều này không hợp lệ” (pārā. 79), đã trình bày sự không có tham ái dâm dục. Bằng câu “bạch ngài, hãy đến, hãy cọ xát vào giữa hai đùi… cho đến… Tỳ-khưu đó đã làm như vậy,” đã trình bày sự khoái cảm của việc xuất tinh. Chính vì vậy, Thế Tôn đã nói: “phạm tội Tăng Tàn.” Đã được nói vì cho rằng đã được xác định: “người nào cọ xát vào giữa hai đùi với tham ái dâm dục, thì phạm tội Tác Ác.”

Manussānaṃ akkhikaṇṇavaṇādi thullaccayavatthu, tiracchānagatānaṃ dukkaṭavatthūti ettha duviññeyyo pāḷileso, tasmā ‘‘na ca, bhikkhave, rattacittena aṅgajātaṃ chupitabbaṃ, yo chupeyya, āpatti thullaccayassā’’ti vaccanā rattacittena akkhikaṇṇavaṇaṃ chupantassa dukkaṭanti siddhanti ayaṃ cammakkhandhake pāḷilesoti veditabbo. ‘‘Jīvamānakapurisassāti jīvamānakasaddo mate vattabbameva natthīti ñāpanatthaṃ vutto’’ti vadanti. Mahāaṭṭhakathāyaṃ panāti idaṃ kiñcāpi ‘‘katvā mahāaṭṭhakathaṃ sarīra’’nti vuttaṃ, atha kho sesaaṭṭhakathāsu ‘‘methunarāgena mukhenā’’ti vacanābhāvato tattheva bhāvato taṃ vacanaṃ pāḷivacanena saṃsanditvā dassanatthaṃ vuttaṃ. Anugaṇṭhipade pana ‘‘taṃ sabbampīti mahāaṭṭhakathāyameva methunarāgena itthiyā nimittaṃ appavesento chupati, thullaccaya’’nti ca vuttaṃ. ‘‘Methunarāgena mukhenā’’tipi katthaci, pāḷiyaṃ avisesena ‘‘na ca, bhikkhave, rattacittena aṅgajātaṃ chupitabba’’nti vuttaṃ, tasmā ‘‘taṃ sabba’’nti vuttaṃ. Purimaṃ pasaṃsantīti tiracchānagati…pe… vuttanayeneva thullaccayaṃ, kāyasaṃsaggarāgena dukkaṭantiādiaṭṭhakathāvacanehi saṃsandanato. ‘‘Taṃ sabbampi…pe… purimaṃ pasaṃsantī’’ti idaṃ saṅgītito pacchā sīhaḷadīpakehi ācāriehi pāḷiyā, aṭṭhakathāyañca vuttavacanaṃ saṃsanditvā vuttavinicchayoti vuttaṃ. Ettha itarathā hīti pakatimukhena. Kasmā dukkaṭanti ce? ‘‘Aṅgulibījādīni pavesentassa dukkaṭa’’nti vuttattā yuttaṃ. Tiracchānagatitthiyā passāvamagganti ettha mahāaṭṭhakathāyampi pubbe ‘‘nimitta’’nti vatvā ettha ‘‘passāvamagga’’nti vuttattā avasesanimitte dukkaṭanti yuttaṃ viya dissati. Vuttanayenevāti methunarāgena. Thullaccayanti ca khandhake passāvanimittavasenevāgatattā upaparikkhitvā gahetabbaṃ.
Ở đây, đối với con người, các vết thương ở mắt, tai và các bộ phận khác là đối tượng của tội Trọng Tội, còn đối với các loài súc sinh là đối tượng của tội Tác Ác, có một kẽ hở Pāḷi khó hiểu. Do đó, từ lời nói “Này các Tỳ-khưu, không được chạm vào bộ phận sinh dục với tâm tham ái, ai chạm vào, phạm tội Trọng Tội,” cần phải biết rằng đã được xác định là phạm tội Tác Ác đối với người chạm vào vết thương ở mắt, tai với tâm tham ái, đây là kẽ hở Pāḷi trong Phẩm Da. Người ta nói rằng “của người đàn ông đang sống, từ ‘đang sống’ đã được nói để cho biết rằng không cần phải nói đối với người chết.” Trong Đại Chú giải, mặc dù đã được nói “sau khi đã làm cho Đại Chú giải trở thành thân thể,” nhưng vì trong các Chú giải khác không có lời nói “với tham ái dâm dục bằng miệng,” và chỉ có ở đó, nên lời nói đó đã được nói để so sánh và trình bày với lời nói trong Pāḷi. Còn trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “tất cả những điều đó, chính trong Đại Chú giải, nếu chạm vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ với tham ái dâm dục mà không đưa vào, thì phạm tội Trọng Tội.” Ở một số nơi cũng có câu “với tham ái dâm dục bằng miệng.” Trong Pāḷi, đã được nói một cách không phân biệt: “Này các Tỳ-khưu, không được chạm vào bộ phận sinh dục với tâm tham ái.” Do đó, đã được nói “tất cả những điều đó.” Họ tán thành quan điểm trước, do sự so sánh với các lời nói trong Chú giải như “đối với súc sinh… cho đến… phạm tội Trọng Tội theo cách đã nói, với tham ái tiếp xúc thân thể, phạm tội Tác Ác.” Câu “tất cả những điều đó… cho đến… họ tán thành quan điểm trước” đã được nói là sự phân xử đã được nói bởi các vị Giáo thọ sư ở đảo Sīhaḷa sau kỳ kết tập kinh điển, sau khi đã so sánh các lời nói trong Pāḷi và Chú giải. Ở đây, nếu không là bằng miệng tự nhiên. Nếu hỏi tại sao lại phạm tội Tác Ác? Hợp lý vì đã được nói “đối với người đưa vào các hạt giống như ngón tay và các vật khác, phạm tội Tác Ác.” Trong câu đường tiểu tiện của con vật cái, ở đây, ngay cả trong Đại Chú giải, sau khi đã nói “bộ phận sinh dục” trước đây, lại nói “đường tiểu tiện” ở đây, do đó, có vẻ như hợp lý là phạm tội Tác Ác đối với các bộ phận sinh dục còn lại. Theo cách đã nói là với tham ái dâm dục. Và trong Phẩm Luật, vì đã có theo cách của bộ phận sinh dục, nên cần phải xem xét và chấp nhận là Trọng Tội.

Ekūnasattatidvisatacatukkakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Diễn giải về tứ pháp thứ hai trăm bảy mươi chín đã kết thúc.

Santhatacatukkabhedakakathāvaṇṇanā

Diễn giải về sự phân loại của tứ pháp Santhata

61-2.Itthinimittaṃ khāṇuṃ katvāti itthinimittassa anto khāṇuṃ pavesetvā samatalaṃ vā katvā atirittaṃ vā khāṇuṃ ghaṭṭentassa dukkaṭaṃ pavesābhāvā. Īsakaṃ anto pavesetvā ṭhitaṃ khāṇumeva ce aṅgajātena chupati, pārājikaṃ. ‘‘Uppalagandhā uppalabhāvā’’tipi dīpavāsino paṭhanti kira. Suttaṃ bhikkhumhīti sevanacittaṃ upaṭṭhiteti (pārā. 57) ettha viya. ‘‘Suttabhikkhumhī’’ti ca paṭhanti, taṃ ujukameva.
61-62. Làm cho bộ phận sinh dục của người phụ nữ trở thành một cái cọc, đối với người đưa một cái cọc vào trong bộ phận sinh dục của người phụ nữ và làm cho nó bằng phẳng hoặc làm cho cái cọc thừa ra và cọ xát, phạm tội Tác Ác vì không có sự đưa vào. Nếu chỉ chạm vào cái cọc đã được đưa vào một chút bằng bộ phận sinh dục, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Người ta nói rằng những người sống ở đảo cũng đọc “mùi của hoa sen, bản chất của hoa sen.” Trong kinh về Tỳ-khưu, giống như trong câu “tâm thực hành đã khởi lên” (pārā. 57). Người ta cũng đọc “trong Tỳ-khưu của kinh,” điều đó là đúng.

Santhatacatukkabhedakakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Diễn giải về sự phân loại của tứ pháp Santhata đã kết thúc.

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.

Diễn giải về phân tích từ đã kết thúc.

Pakiṇṇakakathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài linh tinh

Pakiṇṇake yāni sikkhāpadāni ‘‘kiriyānī’’ti vuccanti, tesaṃ vasena kāyo, vācā ca saha viññattiyā veditabbā. Akiriyānaṃ vasena vinā viññattiyā veditabbā, cittaṃ panettha appamāṇaṃ bhūtārocanasamuṭṭhānassa kiriyattā, acittakattā ca. Tattha kiriyā āpattiyā anantaracittasamuṭṭhānā veditabbā. Aviññattijanakampi ekaccaṃ bāhullanayena ‘‘kiriya’’nti vuccati, yathayidaṃ paṭhamapārājikaṃ viññattiyā abhāvepi ‘‘so ce sādiyati, āpatti pārājikassā’’ti hi vuttaṃ ‘‘na sādiyati anāpattī’’ti ca. Viññattisaṅkhātāpi kiriyā vinā sevanacittena na hoti cittajattā, vikārarūpattā, cittānuparivattikattā ca. Tasmā kiriyāsaṅkhātamidaṃ viññattirūpaṃ itaraṃ cittajarūpaṃ viya janakacittena vinā na tiṭṭhati, itaraṃ saddāyatanaṃ tiṭṭhati, tasmā kiriyāya sati ekantato tajjanakaṃ sevanacittaṃ atthiyevāti katvā na sādiyati anāpattīti na yujjati. Yasmā viññattijanakampi samānaṃ sevanacittaṃ na sabbakālaṃ viññattiṃ janeti, tasmā vināpi viññattiyā sayaṃ uppajjatīti katvā ‘‘sādiyati, āpatti pārājikassā’’ti vuttaṃ. Nuppajjati ce, na sādiyati nāma, tassa anāpatti, teneva bhagavā ‘‘kiṃcitto tvaṃ bhikkhū’’ti citteneva āpattiṃ paricchindati, na kiriyāyāti veditabbaṃ. Ettāvatā cha āpattisamuṭṭhānāni, tāni eva āpattikarā dhammā nāmāti ca, catūhākārehi āpattiṃ āpajjati kāyena vācāya kāyavācāhi kammavācāya āpajjatīti ca etāni suttapadāni avirodhitāni honti, aññathā virodhitāni. Kathaṃ? Yañhi āpattiṃ kammavācāya āpajjati, na tattha kāyādayoti āpannaṃ, tato kammavācāya saddhiṃ āpattikarā dhammā sattāti āpajjati, atha tatthāpi kāyādayo ekato vā nānāto vā labbhanti. ‘‘Catūhi ākārehī’’ti na yujjati, ‘‘tīhākārehi āpattiṃ āpajjatī’’ti vattabbaṃ siyāti evaṃ virodhitāni honti. Kathaṃ avirodhitānīti? Saviññattikāviññattikabhedabhinnattā kāyādīnaṃ. Yā kiriyā āpatti, taṃ ekaccaṃ kāyena saviññattikena āpajjati , ekaccaṃ saviññattiyā vācāya, ekaccaṃ saviññattikāhi kāyavācāhi āpajjati. Yā pana akiriyā āpatti, taṃ ekaccaṃ kammavācāya āpajjati, tañca kho avasiṭṭhāhi aviññattikāhi kāyavācāhiyeva, na vinā ‘‘no ce kāyena vācāya paṭinissajjati, kammavācāpariyosāne āpatti saṅghādisesassā’’ti (pārā. 414, 421) vaccanā. Avisesena vā ekaccaṃ āpattiṃ kāyena āpajjati, ekaccaṃ vācāya, ekaccaṃ kāyavācāhi. Yaṃ panettha kāyavācāhi, taṃ ekaccaṃ kevalāhi kāyavācāhi āpajjati, ekaccaṃ kammavācāya āpajjatīti ayamattho veditabboti evaṃ avirodhitāni honti.
Trong phần linh tinh, đối với các học giới được gọi là “hành động,” cần phải biết thân và khẩu cùng với sự biểu lộ. Đối với những học giới không phải là hành động, cần phải biết là không có sự biểu lộ. Tâm ở đây là vô lượng, vì nguồn gốc của việc nói ra sự thật là hành động và không có tâm. Ở đó, hành động cần phải biết là nguồn gốc của tâm ngay sau tội lỗi. Ngay cả cái sinh ra sự không biểu lộ, đôi khi cũng được gọi là “hành động” theo đa số, như tội Bất Cộng Trụ đầu tiên này, dù không có sự biểu lộ, cũng đã được nói “nếu vị ấy đồng ý, phạm tội Bất Cộng Trụ” và “không đồng ý, không phạm tội.” Ngay cả hành động, được gọi là sự biểu lộ, cũng không xảy ra nếu không có tâm thực hành, vì nó do tâm sinh ra, là sắc biến đổi, và theo sau tâm. Do đó, sắc biểu lộ này, được gọi là hành động, không tồn tại nếu không có tâm sinh ra nó, giống như sắc do tâm sinh khác. Thanh xứ khác thì tồn tại. Do đó, cho rằng khi có hành động, thì chắc chắn có tâm thực hành sinh ra nó, nên nói “không đồng ý, không phạm tội” là không hợp lý. Bởi vì ngay cả tâm sinh ra sự biểu lộ cũng không phải lúc nào cũng sinh ra sự biểu lộ, do đó, đã được nói “đồng ý, phạm tội Bất Cộng Trụ,” vì nó tự sinh ra ngay cả khi không có sự biểu lộ. Nếu không sinh ra, thì được gọi là không đồng ý, không phạm tội đối với người đó. Chính vì vậy, cần phải biết rằng Thế Tôn đã phân định tội lỗi chỉ bằng tâm, bằng câu “ngươi có tâm gì, này Tỳ-khưu,” không phải bằng hành động. Bằng chừng ấy, sáu nguồn gốc của tội lỗi, và chính chúng được gọi là các pháp gây ra tội lỗi, và phạm tội theo bốn cách: bằng thân, bằng khẩu, bằng thân và khẩu, bằng Tăng sự, những từ trong kinh này trở nên không mâu thuẫn. Nếu không, chúng sẽ mâu thuẫn. Như thế nào? Tội lỗi nào mà phạm bằng Tăng sự, thì ở đó không có thân và các yếu tố khác. Do đó, sẽ dẫn đến việc các pháp gây ra tội lỗi cùng với Tăng sự là bảy. Nếu ở đó, thân và các yếu tố khác cũng có thể có, hoặc là cùng nhau hoặc là riêng biệt. “Bằng bốn cách” không hợp lý, lẽ ra phải nói “phạm tội bằng ba cách,” như vậy chúng sẽ trở nên mâu thuẫn. Làm thế nào để chúng không mâu thuẫn? Do sự khác biệt giữa có biểu lộ và không có biểu lộ của thân và các yếu tố khác. Tội lỗi nào là hành động, thì một số được phạm bằng thân có biểu lộ, một số bằng khẩu có biểu lộ, một số bằng thân và khẩu có biểu lộ. Còn tội lỗi nào không phải là hành động, thì một số được phạm bằng Tăng sự, và đó là bằng chính thân và khẩu không có biểu lộ còn lại, không phải là không có. Bởi vì lời nói “nếu không từ bỏ bằng thân hoặc khẩu, thì vào cuối Tăng sự, phạm tội Tăng Tàn” (pārā. 414, 421). Hoặc là một cách không phân biệt, một số tội được phạm bằng thân, một số bằng khẩu, một số bằng thân và khẩu. Ở đây, cái nào bằng thân và khẩu, thì một số được phạm chỉ bằng thân và khẩu, một số được phạm bằng Tăng sự. Cần phải biết ý nghĩa này, như vậy chúng sẽ trở nên không mâu thuẫn.

Tatrāyaṃ samāsato atthavibhāvanā – kāyena āpajjatīti kāyena saviññattikena akattabbaṃ katvā ekaccaṃ āpajjati, aviññattikena kattabbaṃ akatvā āpajjati, tadubhayampi kāyakammaṃ nāma. Akatampi hi loke ‘‘kata’’nti vuccati ‘‘idaṃ dukkaṭaṃ mayā, yaṃ mayā puññaṃ na kata’’nti evamādīsu, sāsane ca ‘‘idaṃ te, āvuso ānanda, dukkaṭaṃ, yaṃ tvaṃ bhagavantaṃ na pucchī’’tiādīsu (cūḷava. 443), evamidha vinayapariyāye kāyena akaraṇīyampi ‘‘kāyakamma’’nti vuccati, ayameva nayo vācāya āpajjatītiādīsu. Tattha samuṭṭhānaggahaṇaṃ kattabbato vā akattabbato vā kāyādibhedāpekkhameva āpattiṃ āpajjati, na aññathāti dassanatthaṃ. Kiriyāggahaṇaṃ kāyādīnaṃ saviññattikāviññattikabhedadassanatthaṃ. Saññāggahaṇaṃ āpattiyā aṅgānaṅgacittavisesadassanatthaṃ, tena yaṃ cittaṃ kiriyālakkhaṇe, akiriyālakkhaṇe vā sannihitaṃ, yato vā kiriyā vā akiriyā vā hoti, na taṃ avisesena āpattiyā aṅgaṃ vā anaṅgaṃ vā hoti, kintu yāya saññāya ‘‘saññāvimokkha’’nti vuccati, tāya sampayuttaṃ cittaṃ aṅgaṃ, itaraṃ anaṅganti dassitaṃ hoti. Idāni yena cittena sikkhāpadaṃ sacittakaṃ hoti, yadabhāvā acittakaṃ, tena tassa avisesena sāvajjattā lokavajjabhāvova vuccati, kintu sāvajjaṃyeva samānaṃ ekaccaṃ lokavajjaṃ ekaccaṃ paṇṇattivajjanti dassanatthaṃ lokavajjaggahaṇaṃ. Cittameva yasmā ‘‘lokavajja’’nti vuccati, tasmā manokammampi siyā āpattīti aniṭṭhappasaṅganivāraṇatthaṃ kammaggahaṇaṃ. Yaṃ panettha akiriyālakkhaṇaṃ kammaṃ, taṃ kusalattikavinimuttaṃ siyāti aniṭṭhappasaṅganivāraṇatthaṃ kusalattikaggahaṇaṃ. Yā panettha abyākatā āpatti, taṃ ekaccaṃ avedanampi saññāvedayitanirodhasamāpanno āpajjatīti katvā vedanāttikaṃ ettha na labbhatīti aniṭṭhappasaṅganivāraṇatthaṃ vedanāttikaggahaṇaṃ katanti veditabbaṃ. Sikkhāpadañhi sacittakapuggalavasena ‘‘ticittaṃ tivedana’’nti laddhavohāraṃ acittakenāpannampi ‘‘ticittaṃ tivedana’’micceva vuccati. Tatridaṃ suttaṃ ‘‘atthāpatti acittako āpajjati acittako vuṭṭhāti (pari. 324). Atthāpatti kusalacitto āpajjati kusalacitto vuṭṭhātī’’tiādi (pari. 470). Anugaṇṭhipade pana ‘‘saññā sadā anāpattimeva karoti, cittaṃ āpattimeva, acittakaṃ nāma vatthuavijānanaṃ, nosaññāvimokkhaṃ vītikkamajānanaṃ, idametesaṃ nānatta’’nti vuttaṃ.
Ở đó, đây là sự giải thích ý nghĩa một cách tóm tắt – phạm bằng thân, phạm một số tội bằng cách làm điều không nên làm bằng thân có biểu lộ, phạm tội bằng cách không làm điều nên làm bằng thân không có biểu lộ. Cả hai đều được gọi là thân nghiệp. Bởi vì ngay cả điều không làm cũng được gọi là “đã làm” trong thế gian, như trong câu “đây là điều Tác Ác của tôi, rằng tôi đã không làm công đức,” và trong giáo pháp, như trong câu “này Tôn giả Ānanda, đây là điều Tác Ác của ngươi, rằng ngươi đã không hỏi Thế Tôn” và các câu tương tự (cūḷava. 443). Cũng vậy, ở đây, trong Luật, việc không làm bằng thân cũng được gọi là “thân nghiệp.” Cách này cũng áp dụng cho các câu như phạm bằng khẩu và các câu tương tự. Ở đó, việc nắm bắt nguồn gốc là để trình bày rằng phạm tội chỉ phụ thuộc vào sự khác biệt của thân và các yếu tố khác, từ việc nên làm hoặc không nên làm, không phải cách khác. Việc nắm bắt hành động là để trình bày sự khác biệt giữa có biểu lộ và không có biểu lộ của thân và các yếu tố khác. Việc nắm bắt ý thức là để trình bày sự khác biệt về tâm, là yếu tố và không phải là yếu tố của tội lỗi. Do đó, đã được trình bày rằng tâm nào hiện hữu trong đặc điểm của hành động hoặc đặc điểm của không hành động, hoặc từ đó có hành động hoặc không hành động, thì nó không phải là yếu tố hoặc không phải là yếu tố của tội lỗi một cách không phân biệt, mà là tâm tương ưng với ý thức mà được gọi là “giải thoát do ý thức” là yếu tố, còn tâm khác là không phải là yếu tố. Bây giờ, bằng tâm nào mà học giới trở nên có tâm, do không có nó mà trở thành không có tâm, thì do tính chất có tội một cách không phân biệt của nó, chỉ có bản chất tội lỗi thế gian mới được nói đến. Nhưng để trình bày rằng dù có tội, một số là tội lỗi thế gian, một số là tội lỗi chế định, nên đã nắm bắt tội lỗi thế gian. Bởi vì chính tâm được gọi là “tội lỗi thế gian,” do đó, để ngăn chặn sự việc không mong muốn rằng ý nghiệp cũng có thể là tội lỗi, đã nắm bắt nghiệp. Ở đây, nghiệp nào có đặc điểm không phải là hành động, để ngăn chặn sự việc không mong muốn rằng nó có thể thoát khỏi ba loại thiện, đã nắm bắt ba loại thiện. Ở đây, tội lỗi nào là vô ký, để ngăn chặn sự việc không mong muốn rằng một số tội không có thọ cũng được người nhập diệt thọ tưởng định phạm, và do đó, ba loại thọ không được chấp nhận ở đây, cần phải biết rằng đã nắm bắt ba loại thọ. Bởi vì học giới, theo cá nhân có tâm, đã có tên gọi “ba tâm, ba thọ,” thì dù được phạm bởi người không có tâm, cũng được gọi là “ba tâm, ba thọ.” Ở đó, đây là kinh: “có tội mà người không có tâm phạm, người không có tâm xuất khỏi (pari. 324). Có tội mà người có tâm thiện phạm, người có tâm thiện xuất khỏi” và các câu tương tự (pari. 470). Còn trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “ý thức luôn luôn làm cho không phạm tội, tâm luôn luôn làm cho phạm tội. Không có tâm là không biết sự việc, không phải là giải thoát do ý thức, là biết sự vi phạm. Đây là sự khác biệt của chúng.”

Sabbasaṅgāhakavasenāti sabbasikkhāpadānaṃ saṅgahavasena. Bhikkhuniyā cīvaradānādi kiriyākiriyato. Jātarūparajatapaṭiggahaṇādi siyā kiriyato. Upanikkhittāpaṭikkhepe siyā akiriyato. Desitavatthukapamāṇātikkantakuṭikaraṇe siyā kiriyato, adesitavatthukapamāṇātikkantakaraṇe siyā kiriyākiriyato. Yaṃ cittaṅgaṃ labhatiyevāti kāyacittaṃ vācācittanti evaṃ. Vināpi cittenāti ettha vināpi cittena sahāpi cittenāti adhippāyo. Yo so saviññattiko, aviññattiko ca vutto kāyo, tassa kammaṃ kāyakammaṃ, tathā vacīkammaṃ. Tattha saviññattiko kāyo uppattiyā kammaṃ sādheti, itaro anuppattiyā. Tathā vācāti veditabbaṃ, sikkhāpadanti ‘‘yo tattha nāmakāyo padakāyo’’ti vaccanā vītikkame yujjatīti vuttaṃ. ‘‘Hasituppādavoṭṭhabbanānipi āpattisamuṭṭhāpakacittāni. Idampi na mayā paricchinnanti hasamāno passati yadā, tadā voṭṭhabbanaṃ javanagatika’’nti anugaṇṭhipade vuttaṃ. Abhiññācittāni paññattiṃ ajānitvā iddhivikubbanādikāle gahetabbāni.
Theo cách bao gồm tất cả là theo cách bao gồm tất cả các học giới. Việc cho y cho Tỳ-khưu-ni và các việc khác là do hành động và không hành động. Việc nhận vàng bạc và các vật khác là có thể do hành động. Trong việc không bác bỏ vật đã được gửi gắm là có thể do không hành động. Trong việc làm một cái am vượt quá kích thước với sự việc đã được trình bày là có thể do hành động. Trong việc làm vượt quá kích thước với sự việc chưa được trình bày là có thể do hành động và không hành động. Cái nào chắc chắn có yếu tố tâm là tâm của thân hoặc tâm của khẩu. Trong câu ngay cả không có tâm, ở đây, ý định là ngay cả không có tâm và cả có tâm. Thân nào đã được nói là có biểu lộ và không có biểu lộ, thì nghiệp của nó là thân nghiệp, cũng vậy, khẩu nghiệp. Ở đó, thân có biểu lộ hoàn thành nghiệp bằng sự phát sinh, còn thân kia bằng sự không phát sinh. Cần phải biết rằng khẩu cũng vậy. Học giới, đã được nói là hợp lệ trong sự vi phạm, vì lời nói “ở đó, danh thân, cú thân.” Trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “ngay cả các ý định cười, phát sinh, quyết định cũng là các tâm làm phát sinh tội lỗi. Khi người đang cười thấy rằng ‘điều này cũng không phải do tôi phân định,’ thì ý định quyết định có tính chất khởi đầu.” Các tâm thắng trí cần phải được nắm bắt trong khi thực hiện các phép thần thông và các hành động khác mà không biết chế định.

Ettha pana yo pana bhikkhu bhikkhūnaṃ sikkhāsājīvasamāpanno…pe… methunaṃ dhammaṃ paṭisevanto atthi koci pārājiko hoti asaṃvāso, atthi koci na pārājiko hoti asaṃvāso. Dukkaṭathullaccayavatthūsu paṭisevanto atthi koci na pārājiko. Pakkhapaṇḍako apaṇḍakapakkhe upasampanno paṇḍakapakkhe methunaṃ dhammaṃ paṭisevanto so pārājikaṃ āpattiṃ nāpajjatīti na pārājiko nāma. Na hi abhikkhuno āpatti nāma atthi. So anāpattikattā apaṇḍakapakkhe āgato kiṃ asaṃvāso hoti na hotīti? Hoti, ‘‘abhabbo tena sarīrabandhanenā’’ti (pārā. 55; mahāva. 129) hi vuttaṃ. ‘‘Yo pana, bhikkhu, bhikkhūnaṃ…pe… asaṃvāso’’ti (pārā. 44) vuttattā yo pana bhikkhubhāvena methunaṃ dhammaṃ paṭisevati, so eva abhabbo. Nāyaṃ apārājikattāti ce? Na, ‘‘byattena bhikkhunā paṭibalena saṅgho ñāpetabbo’’ti (mahāva. 86) vuttaṭṭhāne yathā abhikkhunā kammavācāya sāvitāyapi kammaṃ ruhati kammavipattiyā asambhavato, evaṃsampadamidaṃ daṭṭhabbaṃ. Tatridaṃ yutti – upasampannapubbo eva ce kammavācaṃ sāveti, saṅgho ca tasmiṃ upasampannasaññī, evañce kammaṃ ruhati, na aññathāti no khantīti ācariyo. Gahaṭṭho vā titthiyo vā paṇḍako vā anupasampannasaññī kammavācaṃ sāveti, saṅghena kammavācā na vuttā hoti, ‘‘saṅgho upasampādeyya, saṅgho upasampādeti, upasampanno saṅghenā’’ti (mahāva. 127) hi vaccanā saṅghena kammavācāya vattabbāya saṅghapariyāpannena, saṅghapariyāpannasaññitena vā ekena vuttā saṅghena vuttāva hotīti veditabbo, ayameva sabbakammesu yutti. Tathā atthi methunaṃ dhammaṃ paṭisevanto koci nāsetabbo ‘‘yo bhikkhunīdūsako, ayaṃ nāsetabbo’’ti vuttattā eva, so anupasampannova, sahaseyyāpattiādiṃ janeti, tassa omasane ca dukkaṭaṃ hoti. Abhikkhuniyā methunaṃ dhammaṃ paṭisevanto na nāsetabbo ‘‘antimavatthuṃ ajjhāpanno, bhikkhave, anupasampanno…pe… nāsetabbo’’ti pāḷiyā abhāvato. Teneva so upasampannasaṅkhyaṃ gacchati, na sahaseyyāpattādiṃ janeti, kevalaṃ asaṃvāsoti katvā gaṇapūrako na hoti, ekakammaṃ ekuddesopi hi saṃvāsoti vutto. Samasikkhatāpi saṃvāsoti katvā so tena saddhiṃ natthīti padasodhammāpattiṃ pana janetīti kāraṇacchāyā dissati. Yathā bhikkhuniyā saddhiṃ bhikkhusaṅghassa ekakammādino saṃvāsassa abhāvā bhikkhunī asaṃvāsā bhikkhussa, tathā bhikkhu ca bhikkhuniyā, padasodhammāpattiṃ pana janeti. Tathā ‘‘antimavatthuṃ ajjhāpannopi ekacco yo nāsetabbo’’ti avuttoti iminā nidassanena sā kāraṇacchāyā gahaṇaṃ na gacchati.
Ở đây, Tỳ-khưu nào, người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng của các Tỳ-khưu… cho đến… khi thực hành pháp dâm dục, có người là tội Bất Cộng Trụ, không được sống chung, có người không phải là tội Bất Cộng Trụ, không được sống chung. Khi thực hành trong các đối tượng của tội Tác Ác và Trọng Tội, có người không phạm tội Bất Cộng Trụ. Người ái nam ái nữ theo mùa, đã thọ cụ túc giới trong mùa không phải là người ái nam ái nữ, nếu thực hành pháp dâm dục trong mùa là người ái nam ái nữ, thì người đó không phạm tội Bất Cộng Trụ, nên được gọi là không phạm tội Bất Cộng Trụ. Bởi vì không có tội lỗi đối với người không phải Tỳ-khưu. Người đó, vì không có tội, khi trở lại mùa không phải là người ái nam ái nữ, có được sống chung hay không? Có. Bởi vì đã được nói: “người đó không có khả năng với sự ràng buộc của thân xác đó” (pārā. 55; mahāva. 129). Nếu nói rằng vì đã được nói “Tỳ-khưu nào, của các Tỳ-khưu… cho đến… không được sống chung” (pārā. 44), nên chỉ có người nào thực hành pháp dâm dục với bản chất Tỳ-khưu mới không có khả năng. Điều này không phải vì không phạm tội Bất Cộng Trụ? Không. Cần phải hiểu điều này giống như trong trường hợp đã được nói “Tăng chúng phải được thông báo bởi một Tỳ-khưu có năng lực, có khả năng” (mahāva. 86), Tăng sự vẫn có hiệu lực ngay cả khi được tuyên đọc bởi một người không phải Tỳ-khưu, vì không có sự thất bại của Tăng sự. Ở đó, đây là lý lẽ – vị Giáo thọ sư nói rằng: theo quan điểm của chúng tôi, nếu chính người đã từng thọ cụ túc giới tuyên đọc Tăng sự, và Tăng chúng cũng có ý thức rằng người đó đã thọ cụ túc giới, thì Tăng sự mới có hiệu lực, không phải cách khác. Nếu một cư sĩ, một người ngoại đạo, hoặc một người ái nam ái nữ, với ý thức là người chưa thọ cụ túc giới, tuyên đọc Tăng sự, thì Tăng sự chưa được Tăng chúng tuyên đọc. Bởi vì lời nói “Tăng chúng sẽ cho thọ cụ túc giới, Tăng chúng đang cho thọ cụ túc giới, đã được Tăng chúng cho thọ cụ túc giới” (mahāva. 127), cần phải biết rằng Tăng sự phải được Tăng chúng tuyên đọc, đã được một người thuộc Tăng chúng, hoặc được coi là thuộc Tăng chúng, tuyên đọc, thì chính là đã được Tăng chúng tuyên đọc. Đây chính là lý lẽ trong tất cả các Tăng sự. Cũng vậy, có người thực hành pháp dâm dục phải bị trục xuất, chính là vì đã được nói “người nào làm hại Tỳ-khưu-ni, người đó phải bị trục xuất.” Người đó chưa thọ cụ túc giới, gây ra tội nằm chung và các tội khác, và khi mắng nhiếc người đó thì phạm tội Tác Ác. Người thực hành pháp dâm dục với người không phải Tỳ-khưu-ni không phải bị trục xuất, vì không có Pāḷi “này các Tỳ-khưu, người đã phạm tội cuối cùng, chưa thọ cụ túc giới… cho đến… phải bị trục xuất.” Chính vì vậy, người đó được kể vào số những người đã thọ cụ túc giới, không gây ra tội nằm chung và các tội khác. Chỉ vì không được sống chung, nên không phải là người đủ số. Bởi vì ngay cả một Tăng sự, một lần tụng đọc cũng được gọi là sống chung. Vì học tập bình đẳng cũng được gọi là sống chung, nên không có điều đó với người đó, nhưng có một bóng dáng của lý do cho rằng người đó gây ra tội kiểm tra giới. Giống như Tỳ-khưu-ni không được sống chung với Tăng chúng Tỳ-khưu vì không có sự sống chung như một Tăng sự và các yếu tố khác, cũng vậy, Tỳ-khưu cũng không được sống chung với Tỳ-khưu-ni, nhưng lại gây ra tội kiểm tra giới. Cũng vậy, bóng dáng của lý do đó không được chấp nhận, do ví dụ này “ngay cả một số người đã phạm tội cuối cùng cũng không được nói là ‘phải bị trục xuất’.”

Api ca ‘‘bhikkhu suttabhikkhumhi vippaṭipajjati, paṭibuddho sādiyati, ubho nāsetabbā’’ti (pārā. 66) ca, ‘‘tena hi, bhikkhave, mettiyaṃ bhikkhuniṃ nāsethā’’ti (pārā. 384) ca vaccanā yo saṅghamajjhaṃ pavisitvā anuvijjakena anuvijjiyamāno parājāpito, sopi anupasampannova, na omasavādapācittiyaṃ janetīti veditabbaṃ. Kiñcāpi ‘‘upasampannaṃ upasampannasaññī khuṃsetukāmo’’ti pāḷi natthi, kiñcāpi kaṅkhāvitaraṇiyaṃ ‘‘yaṃ akkosati, tassa upasampannatā, anaññāpadesena jātiādīhi akkosanaṃ, ‘maṃ akkosatī’ti jānanā, atthapurekkhāratādīnaṃ abhāvoti imānettha cattāri aṅgānī’’ti (kaṅkhā. aṭṭha. omasavādasikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ, tathāpi duṭṭhadosasikkhāpade ‘‘asuddho hoti puggalo aññataraṃ pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpanno, tañce suddhadiṭṭhi samāno okāsaṃ kārāpetvā akkosādhippāyo vadeti, āpatti omasavādassā’’ti (pārā. 389) vaccanā asuddhe upasampannasaññāya eva omasantassa pācittiyaṃ. Asuddhadiṭṭhissa dukkaṭaṃ. ‘‘Suddho hoti puggalo, aññataraṃ pārājikaṃ dhammaṃ anajjhāpanno, tañce suddhadiṭṭhi samāno okāsaṃ kārāpetvā akkosādhippāyo vadeti, āpatti omasavādassā’’ti (pārā. 389) vaccanā pana kaṅkhāvitaraṇiyaṃ ‘‘tassa upasampannatā upasampannasaññitā’’ti na vuttaṃ anekaṃsikattā tassa aṅgassāti veditabbaṃ.
Hơn nữa, từ những lời nói “Tỳ-khưu quan hệ bất chính với Tỳ-khưu đang ngủ, người tỉnh dậy đồng ý, cả hai đều phải bị trục xuất” (pārā. 66) và “Này các Tỳ-khưu, hãy trục xuất Tỳ-khưu-ni Mettiyā” (pārā. 384), cần phải biết rằng người nào, sau khi đã vào giữa Tăng chúng và bị người điều tra điều tra và bị thua kiện, thì người đó cũng chưa thọ cụ túc giới, và không gây ra tội Ưng Đối Trị do mắng nhiếc. Mặc dù không có Pāḷi “muốn mắng nhiếc người đã thọ cụ túc giới với ý thức là đã thọ,” mặc dù trong Kaṅkhāvitaraṇī, đã được nói: “đối với người mà mình mắng nhiếc, người đó đã thọ cụ túc giới, mắng nhiếc bằng dòng dõi và các yếu tố khác mà không có lý do khác, biết rằng ‘người đó đang mắng nhiếc tôi,’ không có sự ưu tiên về lợi ích và các yếu tố khác, đây là bốn yếu tố ở đây” (kaṅkhā. aṭṭha. omasavādasikkhāpadavaṇṇanā), tuy nhiên, trong học giới về tội lỗi xấu xa, từ lời nói “cá nhân không trong sạch là người đã phạm một trong các pháp Bất Cộng Trụ, nếu một người có chánh kiến, sau khi đã làm cho người đó có cơ hội, nói với ý định mắng nhiếc, thì phạm tội Ưng Đối Trị do mắng nhiếc” (pārā. 389), đối với người mắng nhiếc người không trong sạch với ý thức là đã thọ cụ túc giới, thì phạm tội Ưng Đối Trị. Đối với người có tà kiến thì phạm tội Tác Ác. Còn từ lời nói “cá nhân trong sạch là người chưa phạm một trong các pháp Bất Cộng Trụ, nếu một người có chánh kiến, sau khi đã làm cho người đó có cơ hội, nói với ý định mắng nhiếc, thì phạm tội Ưng Đối Trị do mắng nhiếc” (pārā. 389), cần phải biết rằng trong Kaṅkhāvitaraṇī, không nói “người đó đã thọ cụ túc giới, có ý thức là đã thọ,” vì yếu tố đó không chắc chắn.

Api cettha sikkhāpaccakkhātakacatukkaṃ veditabbaṃ, atthi puggalo sikkhāpaccakkhātako na sikkhāsājīvasamāpanno, atthi sikkhāsājīvasamāpanno na sikkhāpaccakkhātako, atthi sikkhāpaccakkhātako ceva sikkhāsājīvasamāpanno ca, atthi neva sikkhāpaccakkhātako na sikkhāsājīvasamāpanno. Tattha tatiyo bhikkhunīsikkhāpaccakkhātako veditabbo. Sā hi yāva na liṅgaṃ pariccajati, kāsāve saussāhāva samānā sāmaññā cavitukāmā sikkhaṃ paccakkhantīpi bhikkhunī eva sikkhāsājīvasamāpannāva. Vuttañhi bhagavatā ‘‘na, bhikkhave, bhikkhuniyā sikkhāpaccakkhāna’’nti (cūḷava. 434). Kadā ca pana sā abhikkhunī hotīti? Yadā sāmaññā cavitukāmā gihinivāsanaṃ nivāseti, sā ‘‘vibbhantā’’ti saṅkhyaṃ gacchati. Vuttañhi bhagavatā ‘‘yadeva sā vibbhantā, tadeva abhikkhunī’’ti (cūḷava. 434). Kittāvatā pana vibbhantā hotīti? Sāmaññā cavitukāmā kāsāvesu anālayā kāsāvaṃ vā apaneti, naggā vā gacchati, tiṇapaṇṇādinā vā paṭicchādetvā gacchati, kāsāvaṃyeva vā gihinivāsanākārena nivāseti, odātaṃ vā vatthaṃ nivāseti, saliṅgeneva vā saddhiṃ titthiyesu pavisitvā kesaluñcanādivataṃ samādiyati, titthiyaliṅgaṃ vā samādiyati, tadā vibbhantā nāma hoti. Tattha yā bhikkhuniliṅge ṭhitāva titthiyavataṃ samādiyati, sā titthiyapakkantako bhikkhu viya pacchā pabbajjampi na labhati, sesā pabbajjamevekaṃ labhanti, na upasampadaṃ. Pāḷiyaṃ kiñcāpi ‘‘yā sā, bhikkhave, bhikkhunī sakāsāvā titthāyatanaṃ saṅkantā, sā āgatā na upasampādetabbā’’ti vaccanā yā paṭhamaṃ vibbhamitvā pacchā titthāyatanaṃ saṅkantā, sā āgatā upasampādetabbāti anuññātaṃ viya dissati. Saṅgītiācāriehi pana ‘‘catuvīsati pārājikānī’’ti vuttattā na puna sā upasampādetabbā, tasmā eva sikkhāpaccakkhānaṃ nānuññātaṃ bhagavatā. Antimavatthuajjhāpannā pana bhikkhunī eva. Pakkhapaṇḍakīpi bhikkhunī eva. Kinti pucchā.
Hơn nữa, ở đây cần phải biết bốn loại người từ bỏ học giới: có người từ bỏ học giới nhưng không phải là người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng, có người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng nhưng không từ bỏ học giới, có người vừa từ bỏ học giới vừa là người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng, và có người không từ bỏ học giới cũng không phải là người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng. Ở đó, người thứ ba cần phải biết là người từ bỏ học giới của Tỳ-khưu-ni. Bởi vì người đó, chừng nào chưa từ bỏ hình tướng, vẫn còn tha thiết với y cà sa, dù muốn từ bỏ đời sống Sa-môn và từ bỏ học giới, vẫn là Tỳ-khưu-ni, vẫn là người đã chấp nhận học giới và đời sống đồng đẳng. Đã được Thế Tôn nói: “Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni không thể từ bỏ học giới” (cūḷava. 434). Khi nào thì người đó trở thành không phải Tỳ-khưu-ni? Khi muốn từ bỏ đời sống Sa-môn và mặc trang phục của cư sĩ, thì người đó được gọi là “đã hoàn tục.” Đã được Thế Tôn nói: “ngay khi người đó hoàn tục, thì người đó không còn là Tỳ-khưu-ni nữa” (cūḷava. 434). Đến mức nào thì được gọi là đã hoàn tục? Khi muốn từ bỏ đời sống Sa-môn, không còn quyến luyến với y cà sa, hoặc là cởi bỏ y cà sa, hoặc là đi trần truồng, hoặc là đi sau khi đã che thân bằng cỏ lá và các vật khác, hoặc là mặc chính y cà sa theo kiểu của cư sĩ, hoặc là mặc vải trắng, hoặc là cùng với chính hình tướng của mình đi vào các nơi của ngoại đạo và thọ trì các hạnh như nhổ tóc và các hạnh khác, hoặc là thọ trì hình tướng của ngoại đạo, thì lúc đó được gọi là đã hoàn tục. Ở đó, người nào vẫn ở trong hình tướng Tỳ-khưu-ni mà thọ trì hạnh của ngoại đạo, thì người đó, giống như Tỳ-khưu theo ngoại đạo, sau này cũng không được xuất gia. Những người còn lại chỉ được xuất gia, không được thọ cụ túc giới. Trong Pāḷi, mặc dù từ lời nói “Này các Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni nào, vẫn mặc y cà sa mà đi theo ngoại đạo, thì người đó, sau khi trở về, không được cho thọ cụ túc giới,” có vẻ như đã cho phép rằng người nào, sau khi đã hoàn tục trước rồi sau đó đi theo ngoại đạo, thì người đó, sau khi trở về, được cho thọ cụ túc giới. Nhưng vì các vị Giáo thọ sư kết tập kinh điển đã nói “có hai mươi bốn tội Bất Cộng Trụ,” nên người đó không được thọ cụ túc giới lại. Do đó, chính việc từ bỏ học giới đã không được Thế Tôn cho phép. Còn người đã phạm tội cuối cùng chính là Tỳ-khưu-ni. Người ái nam ái nữ theo mùa cũng chính là Tỳ-khưu-ni. Cái gì là câu hỏi.

Vinītavatthuvaṇṇanā

Diễn giải về sự việc được quyết định

67. Vinītāni vinicchitāni vatthūni vinītavatthūni. Tesaṃ tesaṃ ‘‘tena kho pana samayena aññataro bhikkhū’’tiādīnaṃ vatthūnaṃ pāṭekkaṃ nāmagaṇanaṃ uddharitvā uddharitvā ūnādhikadosasodhanaṭṭhena uddānā ca tā matrādisiddhigāthāhi chandovicitilakkhaṇena gāthā cāti ‘‘uddānagāthānāmā’’ti vuttaṃ, de, sodhane iti dhātussa rūpaṃ uddānāti veditabbaṃ. Imā pana uddānagāthā dhammasaṅgāhakattherehi saṅgītikāle ṭhapitā, katthāti ce? Padabhājanīyāvasāne. ‘‘Vatthugāthā nāma ‘tena kho pana samayena aññataro bhikkhū’tiādīnaṃ imesaṃ vinītavatthūnaṃ nidānānī’’ti gaṇṭhipade vuttaṃ, tasmā tattha vuttanayena vinītavatthūni eva ‘‘vatthugāthā’’ti vuttāti veditabbaṃ. Idamettha samāsato adhippāyanidassanaṃ – ‘‘āpattiṃ tvaṃ, bhikkhu, āpanno pārājika’’nti mūlāpattidassanavasena vā, ‘‘anāpatti, bhikkhu, pārājikassa, āpatti saṅghādisesassa, dukkaṭassā’’ti āpattibhedadassanavasena vā, ‘‘anāpatti, bhikkhu, asādiyantassā’’ti anāpattidassanavasena vā yāni vatthūni vinītāni vinicchitāni, tāni vinītavatthūni nāma. Tesaṃ vinītavatthūnaṃ nidānavatthudīpikā tanti vatthugāthā nāma. Uddānagāthāva ‘‘vatthugāthā’’ti vuttāti eke. Tesaṃ ‘‘iminā lakkhaṇena āyatiṃ vinayadharā vinayaṃ vinicchinissantī’’ti vacanena virujjhati. Na hi uddānagāthāyaṃ kiñcipi vinicchayalakkhaṇaṃ dissati, uddānagāthānaṃ visuṃ payojanaṃ vuttaṃ ‘‘sukhaṃ vinayadharā uggaṇhissantī’’ti, tasmā payojananānattatopetaṃ nānattaṃ veditabbaṃ. Tatthāyaṃ viggaho – vatthūni eva gāthā vatthugāthā. Vinītavatthuto visesanatthamettha gāthāggahaṇaṃ. Uddānagāthāto visesanatthaṃ vatthuggahaṇanti veditabbaṃ. Keci pana ‘‘gāthānaṃ vatthūnīti vattabbe vatthugāthāti vutta’’nti vadanti. Makkaṭivatthuṃ aññe tattha bhikkhū ārocesuṃ, idha sayaṃeva. Tattha kāraṇassa ‘‘bhagavatā sikkhāpadaṃ paññatta’’nti vuttattā vajjiputtakāpi aññe eva. ‘‘Tattha ānandatthero, idha te evā’’ti aññatarasmiṃ gaṇṭhipade vuttaṃ. Ācariyassa adhippāyo pubbe vutto, tasmā upaparikkhitabbaṃ.
67. Các sự việc đã được quyết định, đã được phân xử là các sự việc được quyết định. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “của những sự việc đó ‘vào lúc bấy giờ, một Tỳ-khưu nào đó’ và các sự việc khác, sau khi đã trích dẫn và đếm tên riêng của từng sự việc để sửa chữa lỗi thiếu thừa, và những bài kệ tóm tắt đó, bằng các bài kệ đã được xác định theo mẫu tự và các yếu tố khác, và bằng đặc điểm của thi luật, là những bài kệ, nên được gọi là ‘các bài kệ tóm tắt’.” Cần phải biết rằng dạng của động từ de, trong sự thanh lọc là tóm tắt. Còn các bài kệ tóm tắt này đã được các vị trưởng lão kết tập Pháp đặt vào trong khi kết tập kinh điển. Nếu hỏi ở đâu? Ở cuối phần phân tích từ. Đã được nói: “các bài kệ về sự việc là các duyên khởi của các sự việc được quyết định này ‘vào lúc bấy giờ, một Tỳ-khưu nào đó’ và các sự việc khác.” Do đó, cần phải biết rằng theo cách đã được nói ở đó, chính các sự việc được quyết định đã được gọi là “các bài kệ về sự việc.” Ở đây, đây là sự trình bày ý định một cách tóm tắt – những sự việc nào đã được quyết định, đã được phân xử, hoặc là theo cách trình bày tội gốc “này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Bất Cộng Trụ,” hoặc là theo cách trình bày sự phân loại của tội “không phạm tội, này Tỳ-khưu, tội Bất Cộng Trụ, phạm tội Tăng Tàn, Tác Ác,” hoặc là theo cách trình bày sự không có tội “không phạm tội, này Tỳ-khưu, đối với người không đồng ý,” thì những sự việc đó được gọi là các sự việc được quyết định. Kinh điển, là cái làm sáng tỏ sự việc duyên khởi của các sự việc được quyết định đó, được gọi là các bài kệ về sự việc. Một số người cho rằng chính các bài kệ tóm tắt đã được gọi là “các bài kệ về sự việc.” Điều đó mâu thuẫn với lời nói “bằng đặc điểm này, các vị trì Luật trong tương lai sẽ phân xử Luật.” Bởi vì trong bài kệ tóm tắt, không có đặc điểm phân xử nào được thấy. Mục đích riêng của các bài kệ tóm tắt đã được nói: “các vị trì Luật sẽ dễ dàng học thuộc.” Do đó, cần phải biết rằng sự khác biệt này cũng là do sự khác biệt về mục đích. Ở đó, đây là cách phân tích – chính các sự việc là các bài kệ, các bài kệ về sự việc. Ở đây, việc nắm bắt các bài kệ là để phân biệt với sự việc được quyết định. Cần phải biết rằng việc nắm bắt sự việc là để phân biệt với bài kệ tóm tắt. Một số người lại nói rằng: “khi lẽ ra phải nói ‘các sự việc của các bài kệ,’ lại nói là các bài kệ về sự việc.” Sự việc về con khỉ cái, các Tỳ-khưu khác đã báo cáo ở đó, còn ở đây là chính mình. Ở đó, vì nguyên nhân đã được nói “học giới đã được Thế Tôn chế định,” nên các Tỳ-khưu Vajjiputta cũng là những người khác. Trong một sách giải thích từ khó khác, đã được nói: “ở đó là Trưởng lão Ānanda, ở đây là chính họ.” Ý định của vị Giáo thọ sư đã được nói trước đây, do đó cần phải xem xét.

67-8.Ñatvāti apucchitvā sayaṃeva ñatvā. Pokkharanti sarīraṃ bheripokkharaṃ viya. Lokiyā avikalaṃ ‘‘sundara’’nti vadanti, tasmā vaṇṇapokkharatāyāti paṭhamenatthena visiṭṭhakāyacchavitāyāti attho, dutiyena vaṇṇasundaratāyāti. ‘‘Uppalagabbhavaṇṇattā suvaṇṇavaṇṇā, tasmā uppalavaṇṇāti nāmaṃ labhī’’ti gaṇṭhipade vuttaṃ. Nīluppalavaṇṇā kāyacchavīti vacanaṃ pana sāmacchaviṃ dīpeti. Loke pana ‘‘uppalasamā pasatthasāmā’’ti vaccanā ‘‘yā sāmā sāmavaṇṇā sāmatanumajjhā, sā pāricariyā sagge mama vāso’’ti vaccanā sāmacchavikā itthīnaṃ pasatthā. ‘‘Yāvassā naṃ andhakāra’’ntipi pāṭho. Kilesakāmehi vatthukāmesu yo na limpati.
67-8. Sau khi đã biết là sau khi đã tự mình biết mà không cần hỏi. Cái ao là thân thể, giống như cái ao trống. Người thế gian nói một cách không thiếu sót là “đẹp,” do đó, bằng ý nghĩa đầu tiên “do vẻ đẹp của cái ao,” có nghĩa là do vẻ đẹp của da thịt. Bằng ý nghĩa thứ hai, là do vẻ đẹp của màu sắc. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “do có màu của lòng hoa sen, có màu vàng, do đó đã có tên là Uppalavaṇṇā.” Còn lời nói màu da của hoa sen xanh thì làm sáng tỏ màu da ngăm đen. Còn trong thế gian, từ lời nói “màu ngăm đen giống như hoa sen là được ca ngợi,” và từ lời nói “người nào có màu ngăm đen, da ngăm đen, eo thon, người đó là người hầu hạ của ta ở cõi trời,” thì người phụ nữ có da ngăm đen là được ca ngợi. Cũng có đoạn văn “cho đến khi trời tối.” Người nào không bị dính mắc trong các dục vọng do các dục trần.

69.Itthiliṅgaṃ pātubhūtanti itthisaṇṭhānaṃ pātubhūtaṃ, tañca kho purisindriyassa antaradhānena itthindriyassa pātubhāvena. Evaṃ purisindriyapātubhāvepi. Etena yathā brahmānaṃ purisindriyaṃ nuppajjati, kevalaṃ purisasaṇṭhānameva uppajjati, yathā ca kassaci paṇḍakassa vināpi purisindriyena purisasaṇṭhānaṃ uppajjati, na tathā tesanti dassitaṃ hoti, taṃ pana itthindriyaṃ, purisindriyaṃ vā antaradhāyantaṃ marantānaṃ viya paṭilomakkamena sattarasamacittakkhaṇato paṭṭhāya antaradhāyati. Paccuppanne indriye niruddhe itaraṃ visabhāgindriyaṃ pātubhavati. Yasmā mahāniddaṃ okkantasseva kirassa visabhāgindriyaṃ pātubhavati, tasmā ‘‘rattibhāge niddaṃ okkantassā’’ti vuttaṃ. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, taṃyeva upajjhaṃ tameva upasampada’’nti vaccanā pavattinīyeva upajjhāyā, upasampadācariyā bhikkhunīyeva ācariyāti katvā tāsaṃ upajjhāyavattaṃ, ācariyavattañca iminā bhikkhunāsadāsāyaṃ pātaṃ bhikkhunupassayaṃ gantvā kātabbaṃ, tāhi ca imassa vihāraṃ āgamma saddhivihārikavattādi kātabbaṃ nu khoti ce? ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, bhikkhunīhi saṅgamitu’’nti vacanena vinābhāvadīpanato kevalaṃ na puna upajjhā gahetabbā, na ca upasampadā kātabbāti dassanatthameva ‘‘anujānāmi, bhikkhave, taṃyeva upajjha’’ntiādi vuttanti veditabbaṃ. Tattha bhikkhunīhi saṅgamitunti bhikkhūhi vinā hutvā bhikkhunīhi eva saddhiṃ samaṅgī bhavituṃ anujānāmīti attho, tasmā iminā pāḷilesena ‘‘tassā eva gāmantarādīhi anāpattī’’ti aṭṭhakathāvacanaṃ siddhaṃ hoti, āgantvā saṅgamituṃ sakkā, yañca bhagavatā gamanaṃ anuññātaṃ, taṃ nissāya kuto gāmantarādipaccayā āpatti. Na hi bhagavā āpattiyaṃ niyojetīti yuttameva taṃ, aññathā ‘‘yā āpattiyo bhikkhūnaṃ bhikkhunīhi asādhāraṇā, tāhi āpattīhi anāpattī’’ti pāḷivacanato na gāmantarādīhi anāpattīti āpajjati. Sādhāraṇatā āpattiyeva ‘‘yā āpattiyo bhikkhūnaṃ bhikkhunīhi asādhāraṇā, yā ca bhikkhunīhi saṅgamantiyā gāmantaranadīpārarattivippavāsagaṇaohīyanāpattiyo, tāhi āpattīhi anāpattī’’ti na vuttattāti ce? Na vuttaṃ aniṭṭhappasaṅgato. Bhikkhunīhi saddhiṃ saṅkantāyapi tassā tā pahāya aññāhi saṅgamantiyā gāmantarādīhi anāpatti eva sabbakālanti imassa aniṭṭhappasaṅgato tathā na vuttanti attho. Tattha gāmantarāpattādivatthuṃ sañcicca tasmiṃ kāle ajjhācarantīpi sā liṅgapātubhāvena kāraṇena anāpajjanato anāpatti. Anāpajjanaṭṭheneva vuṭṭhāti nāmāti veditabbā. Tathā yogī anuppanne eva kilese nirodheti. Abandhanopi patto ‘‘ūnapañcabandhano’’ti vuccati, sabbaso vā pana na sāveti appaccakkhātā hoti sikkhā, evamidha anāpannāpi āpatti vuṭṭhitā nāma hotīti veditabbā.
69. Giới tính nữ xuất hiện là hình dạng nữ xuất hiện, và đó là do sự biến mất của cơ quan sinh dục nam và sự xuất hiện của cơ quan sinh dục nữ. Cũng vậy trong sự xuất hiện của cơ quan sinh dục nam. Bằng điều này, đã được trình bày rằng không giống như Phạm thiên, cơ quan sinh dục nam không sinh ra, chỉ có hình dạng nam sinh ra, và không giống như một số người ái nam ái nữ, hình dạng nam sinh ra mà không có cơ quan sinh dục nam. Nhưng cơ quan sinh dục nữ hoặc cơ quan sinh dục nam đó, khi biến mất, giống như của những người đang chết, biến mất theo trình tự ngược lại từ khoảnh khắc tâm thứ mười bảy. Khi cơ quan sinh dục hiện tại đã diệt, cơ quan sinh dục khác loại xuất hiện. Bởi vì người ta nói rằng cơ quan sinh dục khác loại chỉ xuất hiện đối với người đã ngủ say, do đó đã được nói “đã ngủ vào ban đêm.” Từ lời nói “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép, chính vị thầy Giáo Thọ Sư đó, chính sự thọ cụ túc giới đó,” cần phải biết rằng đã được nói chỉ để trình bày rằng không cần phải nhận lại thầy Giáo Thọ Sư, và không cần phải thọ cụ túc giới lại. Bởi vì người hướng dẫn xuất gia chính là thầy Giáo Thọ Sư, thầy hướng dẫn thọ cụ túc giới chính là Tỳ-khưu-ni, nên bổn phận của thầy Giáo Thọ Sư và bổn phận của thầy hướng dẫn của họ phải được Tỳ-khưu-ni giống như nam này thực hiện bằng cách đến tu viện Tỳ-khưu-ni vào buổi sáng, và họ cũng phải thực hiện bổn phận của người sống cùng và các bổn phận khác bằng cách đến tu viện của người này, phải không? Do việc trình bày sự chia lìa bằng lời nói “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép gặp gỡ với các Tỳ-khưu-ni.” Ở đó, gặp gỡ với các Tỳ-khưu-ni có nghĩa là Ta cho phép được ở cùng với chính các Tỳ-khưu-ni, không có các Tỳ-khưu. Do đó, bằng kẽ hở Pāḷi này, lời nói trong Chú giải “đối với người đó, không phạm tội do đi đến làng khác và các lý do khác” đã được xác định. Có thể đến gặp. Và việc đi lại đã được Thế Tôn cho phép, dựa vào đó, từ đâu mà có tội do duyên đi đến làng khác và các duyên khác. Bởi vì Thế Tôn không đưa vào tội lỗi, điều đó là hợp lý. Nếu không, từ lời nói trong Pāḷi “những tội lỗi nào không chung của Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni, thì đối với những tội lỗi đó, không phạm tội,” sẽ dẫn đến việc không có tội do đi đến làng khác và các lý do khác. Nếu nói rằng chính tội lỗi chung là “những tội lỗi nào không chung của Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni, và những tội lỗi mà Tỳ-khưu-ni không phạm khi đi cùng Tăng chúng, như đi đến làng khác, qua sông, qua đêm ở nơi khác, đi theo nhóm, đi sau,” thì đối với những tội lỗi đó, không phạm tội, vì không được nói? Ý nghĩa là, không được nói như vậy vì sẽ dẫn đến sự việc không mong muốn. Ngay cả khi đi cùng với các Tỳ-khưu-ni, nếu từ bỏ họ và đi cùng với những người khác, thì người đó vẫn không phạm tội do đi đến làng khác và các lý do khác trong mọi thời điểm. Ở đó, ngay cả khi cố ý vi phạm đối tượng của tội đi đến làng khác và các tội khác vào thời điểm đó, người đó cũng không phạm tội do lý do giới tính xuất hiện. Cần phải biết rằng người đó được gọi là xuất tội chính vì không phạm tội. Cũng vậy, hành giả diệt trừ các phiền não ngay cả khi chúng chưa sinh khởi. Người chưa bị trói buộc cũng được gọi là “người có năm trói buộc chưa đủ.” Hoặc là không cho nghe chút nào, học giới chưa được từ bỏ. Cũng vậy, ở đây, cần phải biết rằng ngay cả tội chưa phạm cũng được gọi là đã xuất tội.

Yasmā pana sā purisena sahaseyyāpattiṃ anāpajjantīpi sakkoti bhikkhunīhi saṅgamituṃ , tasmā anāpattīti katvā aṭṭhakathāyaṃ ‘‘ubhinnampi sahaseyyāpatti hotī’’ti vuttaṃ. Vuttañhetaṃ parivāre ‘‘aparehipi catūhākārehi āpattiṃ āpajjati saṅghamajjhe gaṇamajjhe puggalassa santike liṅgapātubhāvenā’’ti (pari. 324). Yaṃ pana vuttaṃ parivāre ‘‘atthāpatti āpajjanto vuṭṭhāti vuṭṭhahanto āpajjatī’’ti (pari. 324), tassa sahaseyyādiṃ āpajjati asādhāraṇāpattīhi vuṭṭhāti, tadubhayampi sandhāya vuttanti veditabbaṃ. Dūre vihāro hoti pañcadhanusatikaṃ pacchimaṃ, vihārato paṭṭhāya gāmaṃ pavisantiyā gāmantaraṃ hotīti attho. Saṃvidahanaṃ parimocetvāti addhānagamanasaṃvidahanaṃ akatvāti attho. Tā kopetvāti pariccajitvāti attho. ‘‘Paripuṇṇavassasāmaṇerenāpī’’ti vaccanā aparipuṇṇavassassa upajjhāyaggahaṇaṃ natthīti viya dissati. Vinayakammaṃ katvā ṭhapitoti vikappetvā ṭhapito. Avikappitānaṃ dasāhātikkame nissaggiyatā veditabbā. Puna paṭiggahetvā sattāhaṃ vaṭṭatīti pana ‘‘anujānāmi, bhikkhave, bhikkhūnaṃ sannidhiṃ bhikkhunīhi paṭiggāhāpetvā paribhuñjitu’’nti (cūḷava. 421) vaccanā vuttaṃ. Anapekkhavissajjanenāti vatthuṃ anapekkhavissajjanena vā paṭiggahaṇena vā puna paṭiggahetvā paribhuñjissāmīti. Pakkhamānattakāle punadeva liṅgaṃ parivattati chārattaṃ mānattameva dātabbanti sace, bhikkhukāle appaṭicchannāya āpattiyā, no paṭicchannāyāti no laddhīti ācariyo.
Và vì người đó, dù không phạm tội nằm chung với đàn ông, vẫn có thể gặp gỡ với các Tỳ-khưu-ni, do đó, cho rằng không phạm tội, trong Chú giải đã được nói “cả hai đều phạm tội nằm chung.” Điều này đã được nói trong Parivāra: “bằng bốn cách khác, phạm tội: ở giữa Tăng chúng, ở giữa nhóm, với cá nhân, do giới tính xuất hiện” (pari. 324). Còn điều đã được nói trong Parivāra: “có tội mà người phạm lại xuất khỏi, người xuất khỏi lại phạm” (pari. 324), cần phải biết rằng đã được nói đến để chỉ cả hai điều: phạm tội nằm chung và các tội khác, và xuất khỏi các tội không chung. Vihāra ở xa là khoảng cách cuối cùng là năm trăm cây cung, có nghĩa là từ vihāra trở đi, khi đi vào làng, thì là đi đến làng khác. Sau khi đã giải quyết việc sắp xếp có nghĩa là sau khi đã không sắp xếp việc đi đường. Làm cho họ tức giận có nghĩa là sau khi đã từ bỏ. Từ lời nói “ngay cả bởi Sa-di đã đủ tuổi,” có vẻ như người chưa đủ tuổi không được nhận thầy Giáo Thọ Sư. Sau khi đã làm Tăng sự Luật và để đó là sau khi đã định đoạt và để đó. Cần phải biết rằng nếu không định đoạt, thì sau mười ngày sẽ trở thành vật phải từ bỏ. Còn sau khi nhận lại, được phép dùng trong bảy ngày, đã được nói từ lời nói “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép, vật dự trữ của các Tỳ-khưu, sau khi đã cho các Tỳ-khưu-ni nhận, được phép dùng” (cūḷava. 421). Bằng sự từ bỏ không quyến luyến là bằng sự từ bỏ không quyến luyến vật hoặc bằng sự nhận lại, “tôi sẽ nhận lại và dùng.” Trong khi đang chịu phạt tự hối, nếu giới tính lại thay đổi, thì chỉ cần cho phạt tự hối, nếu là do tội chưa được che giấu trong khi là Tỳ-khưu, không phải là do tội đã được che giấu, đó không phải là quan điểm của chúng tôi, vị Giáo thọ sư nói vậy.

Parivāsadānaṃ pana natthīti bhikkhuniyā chādanāsambhavato vuttanti veditabbaṃ. Sace bhikkhunī asādhāraṇaṃ pārājikāpattiṃ āpajjitvā purisaliṅgaṃ paṭilabhati, bhikkhūsu upasampadaṃ na labhati, pabbajjaṃ labhati, anupabbajitvā bhikkhubhāve ṭhito sahaseyyāpattiṃ na janeti. Vibbhantāya bhikkhuniyā purisaliṅge pātubhūte bhikkhūsu upasampadaṃ na labhati, pārājikaṃ. Avibbhantamānassa gahaṭṭhasseva sato bhikkhunīdūsakassa sace itthiliṅgaṃ pātubhavati, neva bhikkhunīsu upasampadaṃ labhati, na puna liṅgaparivatte jāte bhikkhūsu vāti. Bhikkhuniyā liṅgaparivatte sati bhikkhu hoti, so ce sikkhaṃ paccakkhāya vibbhamitvā itthiliṅgaṃ paṭilabheyya, bhikkhunīsu upasampadaṃ paṭilabhati ubhayattha pubbe pārājikabhāvaṃ appattattā. Yā pana bhikkhunī paripuṇṇadvādasavassā purisaliṅgaṃ paṭilabheyya, upasampanno bhikkhu eva. Puna sikkhaṃ paccakkhāya āgato na upasampādetabbo aparipuṇṇavīsativassattā. Puna liṅgaparivatte sati bhikkhunīsu upasampadaṃ labhati. Evaṃ ce katadvādasasaṅgahassa dārakassa liṅgaparivatte sati gihigatā itthī hoti, paripuṇṇadvādasavassā upasampādetabbā kira. Bhikkhuniyā itthiliṅgantaradhānena, bhikkhussa vā purisaliṅgantaradhānena pakkhapaṇḍakabhāvo bhaveyya, na sā bhikkhunī bhikkhunīhi nāsetabbā bhikkhu vā bhikkhūhi puna pakatibhāvāpattisambhavā . Pakatipaṇḍakaṃ pana sandhāya ‘‘paṇḍako nāsetabbo’’ti vuttaṃ. Pakkhapaṇḍako hi saṃvāsanāsanāya nāsetabbo, itaro ubhayanāsanāyāti attho. Yadi tesaṃ puna pakatibhāvo bhaveyya, ‘‘anujānāmi, bhikkhave, taṃyeva upajjhaṃ tameva upasampadaṃ tāniyeva vassāni bhikkhunīhi saṅgamitu’’nti ayaṃ vidhi sambhavati. Sace nesaṃ liṅgantaraṃ pātubhaveyya, so ca vidhi, yā āpattiyo bhikkhūnaṃ bhikkhunīhi sādhāraṇā, tā āpattiyo bhikkhunīnaṃ santike vuṭṭhātuṃ asādhāraṇāhi anāpattīti ayampi vidhi sambhavati. Yaṃ vuttaṃ parivāre ‘‘saha paṭilābhena purimaṃ jahati, pacchime patiṭṭhāti, viññattiyo paṭippassambhanti, paññattiyo nirujjhanti, saha paṭilābhena pacchimaṃ jahati, purime patiṭṭhāti, viññattiyo’’tiādi, taṃ yathāvuttavidhiṃ sandhāya vuttanti amhākaṃ khantīti ācariyo. Itthiliṅgaṃ, purisaliṅgaṃ vā antaradhāyantaṃ kiṃ sakalampi sarīraṃ gahetvā antaradhāyati, udāhu sayaṃeva. Kiñcettha – yadi tāva sakalaṃ sarīraṃ gahetvā antaradhāyati, ayaṃ puggalo cuto bhaveyya. Tasmā sāmaññā cuto bhaveyya, puna upasampajjanto opapātiko bhaveyya. Atha sayaṃeva antaradhāyati, sopi bhāvo tassa virujjhati. Itthindriyādīni hi sakalampi sarīraṃ byāpetvā ṭhitānīti khaṇanirodho viya tesaṃ antaradhānaṃ veditabbaṃ, tasmā yathāvuttadosappasaṅgābhāvo veditabbo. Aññamaññaṃ saṃsaṭṭhappabhānaṃ dīpānaṃ ekappabhānirodhepi itarissā ṭhānaṃ viya sesasarīraṭṭhānaṃ tattha hotīti veditabbaṃ.
Nhưng không có việc cho chịu phạt, cần phải biết rằng đã được nói vì Tỳ-khưu-ni không thể che giấu. Nếu Tỳ-khưu-ni, sau khi phạm tội Bất Cộng Trụ không chung, và có được giới tính nam, thì không được thọ cụ túc giới trong Tăng chúng Tỳ-khưu, nhưng được xuất gia. Nếu không hoàn tục mà ở trong bản chất Tỳ-khưu, thì không gây ra tội nằm chung. Nếu Tỳ-khưu-ni đã hoàn tục và có giới tính nam, thì không được thọ cụ túc giới trong Tăng chúng Tỳ-khưu, là tội Bất Cộng Trụ. Nếu người đang hoàn tục, là cư sĩ, làm hại Tỳ-khưu-ni, và nếu có giới tính nữ xuất hiện, thì không được thọ cụ túc giới trong Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, và cũng không được thọ lại trong Tăng chúng Tỳ-khưu khi giới tính thay đổi. Nếu Tỳ-khưu-ni có sự thay đổi giới tính và trở thành Tỳ-khưu, nếu người đó từ bỏ học giới và hoàn tục, rồi lại có được giới tính nữ, thì được thọ cụ túc giới trong Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, vì trước đây chưa đạt đến trạng thái Bất Cộng Trụ trong cả hai giới. Tỳ-khưu-ni nào, sau khi đã đủ mười hai tuổi hạ, và có được giới tính nam, thì chính là Tỳ-khưu đã thọ cụ túc giới. Sau khi từ bỏ học giới và trở về, không được cho thọ cụ túc giới vì chưa đủ hai mươi tuổi hạ. Nếu giới tính lại thay đổi, thì được thọ cụ túc giới trong Tăng chúng Tỳ-khưu-ni. Người ta nói rằng nếu một đứa trẻ đã được thu nhận trong mười hai năm và có sự thay đổi giới tính, thì trở thành người phụ nữ tại gia, và sau khi đã đủ mười hai tuổi, phải được cho thọ cụ túc giới. Nếu Tỳ-khưu-ni, do sự biến mất của giới tính nữ, hoặc Tỳ-khưu, do sự biến mất của giới tính nam, trở thành người ái nam ái nữ theo mùa, thì Tỳ-khưu-ni đó không phải bị Tỳ-khưu-ni trục xuất, hoặc Tỳ-khưu không phải bị Tỳ-khưu trục xuất, vì có khả năng trở lại trạng thái tự nhiên. Còn đã được nói “người ái nam ái nữ phải bị trục xuất” để chỉ người ái nam ái nữ tự nhiên. Ý nghĩa là, người ái nam ái nữ theo mùa phải bị trục xuất khỏi việc sống chung, còn người kia phải bị trục xuất khỏi cả hai. Nếu họ có thể trở lại trạng thái tự nhiên, thì phương pháp này có thể có: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép, chính vị thầy Giáo Thọ Sư đó, chính sự thọ cụ túc giới đó, chính những năm hạ đó, được gặp gỡ với các Tỳ-khưu-ni.” Nếu họ có giới tính khác xuất hiện, thì phương pháp đó, và phương pháp này cũng có thể có: “những tội lỗi nào chung của Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni, thì những tội lỗi đó, khi xuất khỏi với Tỳ-khưu-ni, là không phạm tội đối với những tội không chung.” Điều đã được nói trong Parivāra: “cùng với sự chứng đắc, từ bỏ cái trước, đứng vững trong cái sau, các biểu lộ lắng dịu, các chế định diệt mất, cùng với sự chứng đắc, từ bỏ cái sau, đứng vững trong cái trước, các biểu lộ” và các đoạn tương tự, vị Giáo thọ sư nói rằng theo quan điểm của chúng tôi, đã được nói đến để chỉ phương pháp đã được nói. Khi giới tính nữ hoặc giới tính nam biến mất, nó biến mất cùng với toàn bộ thân thể, hay là chỉ tự nó? Ở đây, nếu nó biến mất cùng với toàn bộ thân thể, thì cá nhân này sẽ chết. Do đó, người đó sẽ chết khỏi đời sống Sa-môn, và khi thọ cụ túc giới lại, sẽ là người hóa sinh. Còn nếu chỉ tự nó biến mất, thì trạng thái đó cũng mâu thuẫn với nó. Bởi vì các cơ quan sinh dục nữ và các cơ quan khác đã lan tỏa và tồn tại trong toàn bộ thân thể, nên cần phải biết rằng sự biến mất của chúng giống như sự diệt trong khoảnh khắc. Do đó, cần phải biết rằng không có khả năng có lỗi đã được nói. Cần phải biết rằng giống như khi một ngọn đèn trong số các ngọn đèn có ánh sáng hòa lẫn vào nhau bị dập tắt, thì nơi ở của các ngọn đèn còn lại vẫn còn, cũng vậy, nơi ở của phần còn lại của thân thể cũng còn ở đó.

71-2.Muccatu vā mā vā dukkaṭamevāti mocanarāgābhāvato. Avisayoti asādiyanaṃ nāma evarūpe ṭhāne dukkaranti attho. Methunadhammo nāma ubhinnaṃ vāyāmena nipajjati ‘‘tassa dvayaṃdvayasamāpattī’’ti vuttattā, tasmā tvaṃ mā vāyāma, evaṃ te anāpatti bhavissati, kiriyañhetaṃ sikkhāpadanti vuttaṃ hoti, ‘‘āpattiṃ tvaṃ bhikkhu āpanno pārājika’’nti vaccanā akiriyampetaṃ sikkhāpadaṃ yebhuyyena ‘‘kiriya’’nti vuccatīti siddhaṃ hoti.
71-72. Dù xuất hay không, vẫn là tội Tác Ác, do không có tham ái xuất tinh. Không phải là đối tượng, có nghĩa là việc không đồng ý ở một nơi như vậy là khó. Bởi vì pháp dâm dục xảy ra do sự cố gắng của cả hai, nên đã được nói “sự kết hợp của cả hai.” Do đó, ngươi đừng cố gắng, như vậy ngươi sẽ không phạm tội. Đã được nói rằng đây là học giới hành động. Từ lời nói “này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội Bất Cộng Trụ,” đã được xác định rằng ngay cả học giới không phải là hành động này cũng được gọi là “hành động” theo đa số.

73-4. ‘‘Pārājikabhayena ākāsagatameva katvā pavesanādīni karontassa sahasā tālukaṃ vā passaṃ vā aṅgajātaṃ chupati ce, dukkaṭamevā’’ti vadanti. Kasmā? Na methunarāgattāti, vīmaṃsitabbaṃ. Dantānaṃ bāhirabhāvo oṭṭhānaṃ bāhirabhāvo viya thullaccayavatthu hotīti vuttaṃ ‘‘bahi nikkhantadante jivhāya ca thullaccaya’’nti. Taṃ puggalaṃ visaññiṃ katvāti vacanena so puggalo khittacitto nāma hotīti dassitaṃ hoti. Yo pana puggalo na visaññīkato, so ce attano aṅgajātassa dhātughaṭṭanacariṇijjhiṇikādisaññāya sādiyati, methunasaññāya abhāvato visaññīpakkhameva bhajatīti tassa anāpatticchāyā dissati. ‘‘Methunametaṃ maññe kassaci amanussassā’’ti ñatvā sādiyantassa āpatti eva. Paṇḍakassa methunadhammanti paṇḍakassa vaccamagge vā mukhe vā, bhummatthe vā sāmivacanaṃ. Avedayantassapi sevanacittavasena āpatti santhateneva sevane viya.
73-74. Người ta nói rằng “do sợ tội Bất Cộng Trụ, đối với người làm cho nó chỉ ở trong không trung và thực hiện việc đưa vào và các hành động khác, nếu bộ phận sinh dục đột nhiên chạm vào vòm miệng hoặc bên hông, thì chính là tội Tác Ác.” Tại sao? Không phải do tham ái dâm dục. Điều này cần được xem xét. Đã được nói rằng phần bên ngoài của răng, giống như phần bên ngoài của môi, là đối tượng của tội Trọng Tội, trong câu “đối với răng nhô ra ngoài và lưỡi, phạm tội Trọng Tội.” Bằng lời nói làm cho người đó bất tỉnh, đã được trình bày rằng người đó trở thành người có tâm rối loạn. Còn người nào không bị làm cho bất tỉnh, nếu người đó đồng ý với ý thức là sự cọ xát của kim loại, sự chơi đùa, sự nô đùa của bộ phận sinh dục của mình, thì do không có ý thức về dâm dục, người đó thuộc về phía bất tỉnh, nên có bóng dáng của sự không có tội. Đối với người biết “tôi nghĩ đây là dâm dục của một phi nhân nào đó” và đồng ý, thì chính là có tội. Pháp dâm dục của người ái nam ái nữ, trong đường đại tiện hoặc trong miệng của người ái nam ái nữ, hoặc là sở hữu cách trong ý nghĩa vị trí. Ngay cả đối với người không có thọ, cũng có tội do tâm thực hành, giống như khi thực hành với người đã được xác định.

Upahatindriyavatthusmiṃ ‘‘etamatthaṃ ārocesuṃ, so ārocesī’’ti duvidho pāṭho atthi. Tattha ‘‘ārocesu’’nti vuttapāṭho ‘‘vediyi vā so bhikkhave’’ti vuttattā sundaraṃ, aññathā ‘‘āpattiṃ tvaṃ bhikkhū’’ti vattabbaṃ siyā. ‘‘Vediyā vā’’ti dīpavāsino paṭhanti kira, methunadhammassa pubbapayogā hatthaggāhādayo, tasmā ‘‘dukkaṭamevassa hotī’’ti iminā purimapadena sambandho. Yasmā pana dukkaṭamevassa hoti, tasmā yāva sīsaṃ na pāpuṇāti puggalo, tāva dukkaṭe tiṭṭhatīti sambandho veditabbo. Sīsaṃ nāma maggapaṭipādanaṃ. ‘‘Sīsaṃ na pāpuṇātīti pārājikaṃ na hoti tāva pubbapayogadukkaṭe tiṭṭhatī’’ti aññatarasmiṃ gaṇṭhipade likhitaṃ . Uccāliṅgapāṇakadaṭṭhenāti ettha bhāvaniṭṭhāpaccayo veditabbo. Daṭṭhena daṃsena khādanenāti hi atthato ekaṃ.
Trong sự việc về người có giác quan bị tổn thương, có hai đoạn văn: “họ đã báo cáo việc đó, vị ấy đã báo cáo.” Ở đó, đoạn văn đã được nói “họ đã báo cáo” là hay, vì đã được nói “có phải vị ấy đã cảm thấy không, này các Tỳ-khưu.” Nếu không, lẽ ra phải nói “này Tỳ-khưu, ngươi đã phạm tội.” Người ta nói rằng những người sống ở đảo đọc “có phải đã cảm thấy không.” Các hành động trước của pháp dâm dục là nắm tay và các hành động khác, do đó có sự liên kết với từ trước “chính là tội Tác Ác của vị ấy.” Và vì chính là tội Tác Ác của vị ấy, nên cần phải biết sự liên kết rằng chừng nào cá nhân chưa đạt đến đỉnh điểm, thì chừng đó vẫn còn trong tội Tác Ác. Đỉnh điểm là sự hoàn thành đạo. Trong một sách giải thích từ khó khác, đã được viết: “chưa đạt đến đỉnh điểm, là chưa phạm tội Bất Cộng Trụ, chừng đó vẫn còn trong tội Tác Ác do hành động trước.” Trong câu bị con côn trùng Uccāliṅga cắn, ở đây cần phải biết là hậu tố chỉ bản chất. Bởi vì bị cắn, vết cắn, và việc cắn, về mặt ý nghĩa là một.

76-7. Saṅgāmasīse yuddhamukhe yodhapuriso viyāyaṃ bhikkhūti ‘‘saṅgāmasīsayodho bhikkhū’’ti vuccati. Rukkhasūcidvāraṃ upilavāya, ekena vā bahūhi vā kaṇṭakehi thakitabbaṃ kaṇṭakadvāraṃ. Dussadvāraṃ sāṇidvārañca dussasāṇidvāraṃ. ‘‘Kilañjasāṇī’’tiādinā vuttaṃ sabbampi dussasāṇiyameva saṅgahetvā vuttaṃ. Ekasadisattā ‘‘eka’’nti vuttaṃ. Ākāsataleti hammiyataleti attho. Ayañhettha saṅkhepoti idāni vattabbaṃ sandhāya vuttaṃ. ‘‘Kiñci karontā nisinnā hontīti vuttattā nipannānaṃ āpucchanaṃ na vaṭṭatī’’ti vadanti. ‘‘Yathāparicchedameva ca na uṭṭhāti, tassa āpattiyevā’’ti kiñcāpi avisesena vuttaṃ, anādariyadukkaṭāpatti eva tattha adhippetā. Kathaṃ paññāyatīti? ‘‘Rattiṃ dvāraṃ vivaritvā nipanno aruṇe uggate uṭṭhahati, anāpattī’’ti vuttattā, mahāpaccariyaṃ visesetvā ‘‘anādariyadukkaṭāpi na muccatī’’ti vuttattā ca, tena itarasmā dukkaṭā muccatīti adhippāyo. Yathāparicchedameva ca na uṭṭhāti, tassa āpattiyevāti ettha na anādariyadukkaṭaṃ sandhāya vuttaṃ. Yathāparicchedamevāti avadhāraṇattā paricchedato abbhantare na hotīti vuttaṃ hoti. Puna ‘‘supatī’’ti vuttaṭṭhāne viya sanniṭṭhānaṃ gahetvā vuttaṃ. Evaṃ nipajjantoti nipajjanakāle āpajjitabbadukkaṭameva sandhāya vuttaṃ, tasmā yathāparicchedena uṭṭhahantassa dve dukkaṭānīti vuttaṃ hotīti. Andhakaṭṭhakathāyampi ‘‘yadi rattiṃ dvāraṃ asaṃvaritvā nipanno ‘divā vuṭṭhahissāmī’ti, anādariye āpatti dukkaṭassā’’ti vuttaṃ, etthāpi ‘‘nipanno’’ti vuttattā ‘‘aruṇe uṭṭhite uṭṭhāhī’’ti na vuttattā ca jānitabbaṃ. ‘‘Mahāpaccariyaṃ anādariyadukkaṭameva sandhāya vuttaṃ, na aṭṭhakathāyaṃ vuttadukkaṭa’’nti eke vadanti. Tassa anāpattīti atthato anipannattā vuttaṃ. ‘‘Sace pana rattiṃ saṃvaritvā nipanno, aruṇuṭṭhānasamaye koci vivarati, dvārajagganādīni akatvā nipannassa āpattiyeva. Kasmā? Āpattikhettattā’’ti vadanti.
76-77. Giống như người lính ở đầu trận chiến, ở mặt trận, Tỳ-khưu này được gọi là “Tỳ-khưu, người lính ở đầu trận chiến.” Cửa bằng gai của cây, phải được đóng lại bằng một hoặc nhiều gai, cửa bằng gai. Cửa bằng vải, cửa bằng vải gai, và cửa bằng vải và vải gai. Tất cả những gì đã được nói bằng câu “vải gai làm bằng cỏ” và các câu tương tự đều đã được bao gồm và nói là vải và vải gai. Vì giống nhau, nên đã được nói “một.” Trên sân thượng có nghĩa là trên sân thượng của tòa nhà. Ở đây, đây là tóm tắt, đã được nói đến để chỉ điều sẽ được nói bây giờ. Người ta nói rằng “vì đã được nói ‘họ ngồi làm gì đó,’ nên không được phép hỏi khi đang nằm.” “Và không đứng dậy đúng theo quy định, thì chính là có tội,” mặc dù đã được nói một cách không phân biệt, nhưng ở đó chỉ hàm ý tội Tác Ác do không kính trọng. Làm thế nào để biết? Vì đã được nói “nằm ngủ mà không mở cửa vào ban đêm, đứng dậy khi trời sáng, không phạm tội.” Vì trong Mahāpaccarī, đã được đặc tả “ngay cả tội Tác Ác do không kính trọng cũng không thoát khỏi.” Do đó, ý định là thoát khỏi tội Tác Ác khác. Trong câu và không đứng dậy đúng theo quy định, thì chính là có tội, ở đây không được nói đến để chỉ tội Tác Ác do không kính trọng. Vì đã nhấn mạnh “đúng theo quy định,” nên đã được nói rằng không xảy ra bên trong quy định. Lại được nói sau khi đã đi đến kết luận, giống như ở nơi đã được nói “ngủ.” Khi nằm như vậy, đã được nói đến để chỉ chính tội Tác Ác cần phải phạm trong khi nằm. Do đó, đã được nói rằng đối với người đứng dậy đúng theo quy định, có hai tội Tác Ác. Trong Andhakaṭṭhakathā cũng đã được nói: “nếu nằm ngủ mà không đóng cửa vào ban đêm, với ý nghĩ ‘tôi sẽ đứng dậy vào ban ngày,’ thì phạm tội Tác Ác do không kính trọng.” Ở đây cũng vậy, vì đã được nói “nằm ngủ,” và vì không được nói “hãy đứng dậy khi trời sáng,” nên cần phải biết. Một số người nói rằng “trong Mahāpaccarī, đã được nói đến để chỉ chính tội Tác Ác do không kính trọng, không phải tội Tác Ác đã được nói trong Chú giải.” Không phạm tội đối với người đó, đã được nói vì về mặt ý nghĩa, không nằm. Người ta nói rằng “nhưng nếu nằm ngủ sau khi đã đóng cửa vào ban đêm, và vào lúc trời sáng, ai đó mở cửa, thì đối với người nằm ngủ mà không canh cửa và các việc khác, chính là có tội. Tại sao? Vì là phạm vi của tội.”

Yasmā yakkhagahitakopi visaññībhūto viya khittacitto nāma hoti, assa pārājikāpattito anāpatti, pageva aññato, tasmā ‘‘yakkhagahitako viya visaññībhūtopi na muccatī’’ti yaṃ mahāpaccariyaṃ vuttaṃ, taṃ pubbe sañcicca divā nipanno pacchā yakkhagahitakopi visaññībhūtopi na muccati nipajjanapayogakkhaṇe eva āpannattāti adhippāyena vuttaṃ. Bandhitvā nipajjāpitova muccatīti na yakkhagahitakādīsveva, sopi yāva sayaṃeva sayanādhippāyo na hoti, tāva muccati. Yadā kilanto hutvā niddāyitukāmatāya sayanādhippāyo hoti, tadā saṃvarāpetvā, jaggāpetvā vā ābhogaṃ vā katvā niddāyitabbaṃ, aññathā āpatti. Sabhāgo ce natthi, na passati vā, na gantuṃ vā sakkoti. Cirampi adhivāsetvā pacchā vedanāṭṭo hutvā anābhogeneva sayati, tassa ‘‘anāpatti vedanāṭṭassā’’ti vacanena anāpatti, tassāpi avisayattā āpatti na dissatīti visaññībhāveneva supantassa ‘‘anāpatti khittacittassā’’ti vacanena na dissati. Ācariyā pana evaṃ na kathayantīti avisesena ‘‘na dissatī’’ti na kathayanti, yadi saññaṃ appaṭilabhitvā sayati, avasavattattā āpatti na dissati, sace saññaṃ paṭilabhitvāpi kilantakāyattā sayanaṃ sādiyanto supati, tassa yasmā avasavattattaṃ na dissati, tasmā āpatti evāti kathayantīti adhippāyo.
Bởi vì ngay cả người bị ma ám cũng trở thành người có tâm rối loạn giống như người bất tỉnh, nên không phạm tội Bất Cộng Trụ, huống chi là tội khác. Do đó, điều đã được nói trong Mahāpaccarī: “ngay cả người bị ma ám, ngay cả người bất tỉnh cũng không thoát tội,” đã được nói với ý định rằng người nào cố ý nằm ngủ vào ban ngày, dù sau đó bị ma ám hay bất tỉnh, cũng không thoát tội, vì đã phạm tội ngay trong khoảnh khắc thực hiện việc nằm. Chỉ có người bị trói và bắt nằm xuống mới thoát tội, không chỉ trong các trường hợp bị ma ám và các trường hợp khác. Người đó cũng thoát tội chừng nào chưa tự mình có ý định nằm. Khi đã mệt mỏi và muốn ngủ, thì phải cho người khác đóng cửa, canh gác, hoặc phải chú ý rồi mới ngủ. Nếu không, phạm tội. Nếu không có người đồng loại, hoặc không thấy, hoặc không thể đi. Dù đã chịu đựng lâu, nhưng sau đó vì đau đớn mà nằm xuống mà không chú ý, thì người đó không phạm tội, bằng lời nói “không phạm tội đối với người đau đớn.” Đối với người đó cũng không thấy có tội vì không phải là đối tượng, đối với người ngủ trong tình trạng bất tỉnh, không thấy có tội bằng lời nói “không phạm tội đối với người có tâm rối loạn.” Nhưng các vị Giáo thọ sư không nói như vậy, họ không nói một cách không phân biệt là “không thấy.” Ý định là, nếu nằm ngủ mà không lấy lại được ý thức, thì không thấy có tội vì không tự chủ. Nếu sau khi đã lấy lại được ý thức mà vẫn đồng ý nằm vì thân thể mệt mỏi và ngủ, thì đối với người đó, vì không thấy có sự không tự chủ, nên họ nói rằng chính là có tội.

Mahāpadumattheravāde yakkhagahitako khittacittako muccati. Bandhitvā nipajjāpito asayanādhippāyattā, vedanāṭṭattā ca muccatīti adhippāyo. Evaṃ sante pāḷiaṭṭhakathā, theravādo ca sameti, tasmā tesaṃ tesaṃ vinicchayānaṃ ayameva adhippāyoti no khantīti ācariyo, anugaṇṭhipade pana yakkhagahitakopi visaññībhūtopi na muccati nāma, pārājikaṃ āpajjituṃ bhabbo so antarantarā saññāpaṭilābhatoti adhippāyo. ‘‘Bandhitvā nipajjāpito vā’’ti kurundīvacanena ekabhaṅgena nipannopi na muccatīti ce? Muccatiyeva. Kasmā? Atthato anipannattā. Kurundīvādena mahāaṭṭhakathāvādo sameti. Kasmā? Avasavattasāmaññato. Kiñcāpi sameti, ācariyā pana evaṃ na kathayanti. Na kevalaṃ teyeva, mahāpadumattheropīti dassanatthaṃ ‘‘mahāpadumattherenā’’ti vuttaṃ. Mahāpadumattheravāde ‘‘pārājikaṃ āpajjituṃ abhabbo yakkhagahitako nāmā’’ti ca vuttaṃ, tattha ācariyā pana evaṃ vadanti ‘‘sace okkantaniddo ajānantopi pāde mañcakaṃ āropeti, āpattiyevāti vuttattā yo pana patitvā tattheva sayati na vuṭṭhāti, tassa āpatti antarantarā jānantassāpi ajānantassāpi hotī’’ti . Sabbaṭṭhakathāsu vuttavacanāni sampiṇḍetvā dassetuṃ ‘‘idha ko muccati ko na muccatī’’ti vuttaṃ. Yakkhagahitako vā visaññībhūto vā na kevalaṃ pārājikaṃ āpajjituṃ bhabbo eva, sabbopi āpajjati. Evaṃ ‘‘bandhitvā nipajjāpitova muccatī’’ti vacanena tassapi avasavattattā ‘‘āpatti na dissatī’’ti evaṃ na kathayanti. Yasmā ummattakakhittacittavedanāṭṭesu aññataro na hoti, tasmā ‘‘āpattiyevā’’ti kathayanti. Idaṃ kira sabbaṃ na saṅgītiṃ āruḷhaṃ. ‘‘Pavesanaṃ sādiyatītiādinā vuttattā akiriyāpi hotīti vadanti, taṃ na gahetabbaṃ, yadā pana sādiyati, tadā sukhumāpi viññatti hoti evāti idha kiriyā evā’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ.
Trong quan điểm của Trưởng lão Mahāpaduma, ý định là người bị ma ám, người có tâm rối loạn thoát tội. Người bị trói và bắt nằm xuống thoát tội vì không có ý định nằm và vì đau đớn. Như vậy, Pāḷi, Chú giải và quan điểm của trưởng lão đều phù hợp. Do đó, vị Giáo thọ sư nói rằng theo quan điểm của chúng tôi, đây chính là ý định của các sự phân xử đó. Còn trong Anugaṇṭhipada, ý định là ngay cả người bị ma ám, ngay cả người bất tỉnh cũng không thoát tội, bởi vì người đó có khả năng phạm tội Bất Cộng Trụ do lấy lại được ý thức ở giữa chừng. Nếu nói rằng “bằng lời nói trong Kurundī ‘hoặc là người bị trói và bắt nằm xuống,’ ngay cả người nằm theo một cách cũng không thoát tội”? Vẫn thoát tội. Tại sao? Vì về mặt ý nghĩa, không nằm. Quan điểm của Mahāaṭṭhakathā phù hợp với quan điểm của Kurundī. Tại sao? Do tính phổ biến của sự không tự chủ. Mặc dù phù hợp, nhưng các vị Giáo thọ sư không nói như vậy. Đã được nói “bởi Trưởng lão Mahāpaduma” để trình bày rằng không chỉ có họ, mà cả Trưởng lão Mahāpaduma cũng vậy. Trong quan điểm của Trưởng lão Mahāpaduma, cũng đã được nói: “người bị ma ám không có khả năng phạm tội Bất Cộng Trụ.” Ở đó, các vị Giáo thọ sư lại nói như vầy: “vì đã được nói ‘nếu người đang ngủ say, dù không biết, mà đặt chân lên giường, thì chính là có tội,’ do đó, người nào, sau khi ngã xuống và nằm ngay tại đó mà không đứng dậy, thì đối với người đó, có tội, dù có biết hay không biết ở giữa chừng.” Đã được nói “ở đây, ai thoát tội, ai không thoát tội” để gộp chung và trình bày các lời nói đã được nói trong tất cả các Chú giải. Người bị ma ám hoặc người bất tỉnh không chỉ có khả năng phạm tội Bất Cộng Trụ, mà tất cả đều phạm. Như vậy, bằng lời nói “chỉ có người bị trói và bắt nằm xuống mới thoát tội,” họ không nói như vậy “không thấy có tội” đối với người đó vì không tự chủ. Bởi vì người đó không phải là một trong số những người điên, có tâm rối loạn, đau đớn, do đó, họ nói rằng “chính là có tội.” Người ta nói rằng tất cả những điều này chưa được đưa vào kỳ kết tập kinh điển. Trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “người ta nói rằng vì đã được nói ‘đồng ý với việc đưa vào’ và các câu tương tự, nên cũng có thể không phải là hành động. Điều đó không nên được chấp nhận. Bởi vì khi đồng ý, thì ngay cả sự biểu lộ vi tế cũng có, do đó, ở đây chính là hành động.”

Paṭhamapārājikavaṇṇanā niṭṭhitā.

Diễn giải về tội Bất Cộng Trụ thứ nhất đã kết thúc.

2. Dutiyapārājikaṃ

2. Tội Bất Cộng Trụ thứ hai

Dhaniyavatthuvaṇṇanā

Diễn giải câu chuyện về Dhaniya

84. Dutiye rājūhi eva pariggahitattā ‘‘rājagaha’’nti laddhanāmake samīpatthena, adhikaraṇatthena ca paṭiladdhabhummavibhattike gijjhakūṭe pabbate catūhi vihārehi viharantoti adhippāyo. Tassa ‘‘vassaṃ upagacchiṃsū’’ti iminā sambandho veditabbo. Tayo eva hi ñattiṃ ṭhapetvā gaṇakammaṃ karonti, na tato ūnā adhikā vā akiriyattā. Tattha vinayapariyāyena saṅghagaṇapuggalakammakosallatthaṃ idaṃ pakiṇṇakaṃ veditabbaṃ – atthi saṅghakammaṃ saṅgho eva karoti, na gaṇo na puggalo, taṃ apalokanakammassa kammalakkhaṇekadesaṃ ṭhapetvā itaraṃ catubbidhampi kammaṃ veditabbaṃ. Atthi saṅghakammaṃ saṅgho ca karoti, gaṇo ca karoti, puggalo ca karoti. Kiñcāti? Yaṃ pubbe ṭhapitaṃ. Vuttañhetaṃ parivāraṭṭhakathāyaṃ ‘‘yasmiṃ vihāre dve tayo janā vasanti , tehi nisīditvā katampi saṅghena katasadisameva. Yasmiṃ pana vihāre eko bhikkhu hoti, tena bhikkhunā uposathadivase pubbakaraṇapubbakiccaṃ katvā nisinnena katampi katikavattaṃ saṅghena katasadisameva hotī’’ti (pari. aṭṭha. 495-496). Punapi vuttaṃ ‘‘ekabhikkhuke pana vihāre ekena sāvitepi purimakatikā paṭippassambhati evā’’ti. Atthi gaṇakammaṃ saṅgho karoti, gaṇo karoti, puggalo karoti, taṃ tayo pārisuddhiuposathā aññesaṃ santike karīyanti, tassa vasena veditabbaṃ. Atthi gaṇakammaṃ gaṇova karoti, na saṅgho na puggalo, taṃ pārisuddhiuposatho aññamaññaṃ ārocanavasena karīyati, tassa vasena veditabbaṃ. Atthi puggalakammaṃ puggalova karoti, na saṅgho na gaṇo, taṃ adhiṭṭhānuposathavasena veditabbaṃ. Atthi gaṇakammaṃ ekaccova gaṇo karoti, ekacco na karoti, tattha añattikaṃ dve eva karonti, na tayo. Sañattikaṃ tayova karonti, na tato ūnā adhikā vā, tena vuttaṃ ‘‘tayo eva hi ñattiṃ ṭhapetvā gaṇakammaṃ karonti, na tato ūnā adhikā vā akiriyattā’’ti. Tasmā tayova vinayapariyāyena sampahulā, na tato uddhanti veditabbaṃ. Anugaṇṭhipade pana ‘‘kiñcāpi kammalakkhaṇaṃ tayova karonti, atha kho tehi kataṃ saṅghena katasadisanti vuttattā ekena pariyāyena tayo janā vinayapariyāyenapi saṅgho’’ti vuttaṃ, idaṃ sabbampi vinayakammaṃ upādāya vuttaṃ, lābhaṃ pana upādāya antamaso ekopi anupasampannopi ‘‘saṅgho’’ti saṅkhyaṃ gacchati kira. Pavāraṇādivasassa aruṇuggamanasamanantarameva ‘‘vutthagassā’’ti vuccanti, ukkaṃsanayena ‘‘pāṭipadadivasato paṭṭhāyā’’ti vuttaṃ, teneva ‘‘mahāpavāraṇāya pavāritā’’ti vuttaṃ. Aññathā antarāyena apavāritā ‘‘vutthavassā’’ti na vuccantīti āpajjati. Thambhādi kaṭṭhakammanti veditabbaṃ. Keci tanukaṃ dārutthambhaṃ antokatvā mattikāmayaṃ thambhaṃ karonti, ayaṃ pana tathā na akāsi, tena vuttaṃ ‘‘sabbamattikāmayaṃ kuṭikaṃ karitvā’’ti. Telamissāya tambamattikāya.
84. Trong tội thứ hai, ý định là các Ngài đang ngự tại núi Gijjhakūṭa, là nơi có tên gọi “Rājagaha” vì đã được chính các vị vua chiếm giữ, với vị trí cách có được do ý nghĩa gần gũi và ý nghĩa vị trí, bằng bốn tu viện. Cần phải biết sự liên kết của nó với câu “đã an cư mùa mưa.” Bởi vì chỉ có ba người mới thực hiện Tăng sự sau khi đã đặt việc tuyên bố, không ít hơn hay nhiều hơn, vì sẽ không thành hành động. Ở đây, cần phải biết phần linh tinh này để thông thạo về Tăng sự của Tăng chúng, của nhóm, và của cá nhân theo cách của Luật – có Tăng sự mà chỉ có Tăng chúng thực hiện, không phải nhóm, không phải cá nhân. Cần phải biết đó là bốn loại Tăng sự khác, trừ một phần đặc điểm Tăng sự của Tăng sự biểu quyết. Có Tăng sự mà cả Tăng chúng, cả nhóm, và cả cá nhân đều thực hiện. Đó là gì? Là điều đã được đặt ra trước đây. Điều này đã được nói trong Chú giải Parivāra: “trong tu viện nào có hai, ba người ở, thì Tăng sự được thực hiện sau khi họ đã ngồi xuống cũng giống như đã được Tăng chúng thực hiện. Còn trong tu viện nào có một Tỳ-khưu, thì Tăng sự quy ước đã được thực hiện sau khi Tỳ-khưu đó đã làm các việc cần làm trước và ngồi xuống vào ngày Bố-tát cũng giống như đã được Tăng chúng thực hiện” (pari. aṭṭha. 495-496). Lại được nói: “còn trong tu viện có một Tỳ-khưu, ngay cả khi được một người tuyên đọc, quy ước trước đó cũng bị hủy bỏ.” Có Tăng sự của nhóm mà Tăng chúng thực hiện, nhóm thực hiện, cá nhân thực hiện. Cần phải biết điều đó theo cách ba lễ Bố-tát thanh tịnh được thực hiện với những người khác. Có Tăng sự của nhóm mà chỉ có nhóm thực hiện, không phải Tăng chúng, không phải cá nhân. Cần phải biết điều đó theo cách lễ Bố-tát thanh tịnh được thực hiện bằng cách thông báo cho nhau. Có Tăng sự của cá nhân mà chỉ có cá nhân thực hiện, không phải Tăng chúng, không phải nhóm. Cần phải biết điều đó theo cách lễ Bố-tát xác quyết. Có Tăng sự của nhóm mà chỉ một số nhóm thực hiện, một số không thực hiện. Ở đó, Tăng sự không có tuyên bố thì chỉ có hai người thực hiện, không phải ba người. Tăng sự có tuyên bố thì chính ba người thực hiện, không ít hơn hay nhiều hơn. Do đó, đã được nói: “chỉ có ba người mới thực hiện Tăng sự sau khi đã đặt việc tuyên bố, không ít hơn hay nhiều hơn, vì sẽ không thành hành động.” Do đó, cần phải biết rằng chỉ có ba người là đông đủ theo cách của Luật, không nhiều hơn. Còn trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “mặc dù chỉ có ba người thực hiện đặc điểm của Tăng sự, nhưng vì đã được nói rằng Tăng sự do họ thực hiện giống như đã được Tăng chúng thực hiện, nên theo một cách gián tiếp, ba người cũng là Tăng chúng theo cách của Luật.” Tất cả những điều này đã được nói đến để chỉ Tăng sự Luật. Còn để chỉ lợi lộc, người ta nói rằng ngay cả một người, ngay cả người chưa thọ cụ túc giới, cũng được kể là “Tăng chúng.” Ngay sau khi trời sáng của ngày Tự tứ và các ngày khác, họ được gọi là “đã ra hạ.” Đã được nói theo cách cao nhất: “từ ngày mồng một trở đi.” Chính vì vậy, đã được nói: “đã Tự tứ trong lễ Đại Tự tứ.” Nếu không, sẽ dẫn đến việc những người chưa Tự tứ do có trở ngại sẽ không được gọi là “đã ra hạ.” Cần phải biết rằng cột và các vật khác là công việc bằng gỗ. Một số người làm cột bằng đất sét, bao gồm cả một cây cột gỗ mỏng. Nhưng vị này đã không làm như vậy, do đó đã được nói: “sau khi đã làm một cái am hoàn toàn bằng đất sét.” Bằng đất sét màu đồng có trộn dầu.

85. ‘‘Mā pacchimā janatā pāṇesu pātabyataṃ āpajjī’’ti iminā anuddesasikkhāpadena yattha iṭṭhakapacana pattapacana kuṭikaraṇa vihārakārāpana navakammakaraṇa khaṇḍaphullapaṭisaṅkharaṇa vihārasammajjana paṭaggidāna kūpapokkharaṇīkhaṇāpanādīsu pātabyataṃ jānantena bhikkhunā kappiyavacanampi na vattabbanti dasseti, teneva pariyāyaṃ avatvā tesaṃ sikkhāpadānaṃ anāpattivāresu ‘‘anāpatti asatiyā ajānantassā’’ti vuttaṃ. ‘‘Antarāpattisikkhāpada’’ntipi etassa nāmameva. ‘‘Gacchathetaṃ, bhikkhave, kuṭikaṃ bhindathā’’ti iminā kataṃ labhitvā tattha vasantānampi dukkaṭamevāti ca siddhaṃ. Aññathā hi bhagavā na bhindāpeyya. Esa nayo bhedanakaṃ chedanakaṃ uddālanakanti etthāpi, āpattibhedāva. Tato eva hi bhedanakasikkhāpadādīsu viya ‘‘aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjati, āpatti dukkaṭassā’’ti na vuttaṃ, tathā aññassatthāya karoti, cetiyādīnaṃ atthāya karoti, dukkaṭamevāti ca siddhaṃ, aññathā kuṭikārasikkhāpadādīsu viya ‘‘aññassatthāya vāsāgāraṃ ṭhapetvā sabbattha, anāpattī’’ti nayameva vadeyya, na bhindāpeyya. Sabbamattikāmayabhāvaṃ pana mocetvā kaṭṭhapāsāṇādimissaṃ katvā paribhuñjati, anāpatti. Tathā hi chedanakasikkhāpadādīsu bhagavatā nayo dinno ‘‘aññena kataṃ pamāṇātikkantaṃ paṭilabhitvā chinditvā paribhuñjatī’’tiādīsu. Keci pana ‘‘vayakammampīti etena mūlaṃ datvā kārāpitampi atthi, tena taṃ aññena katampi na vaṭṭatīti siddha’’nti vadanti, taṃ na sundaraṃ. Kasmā? Sambhāre kiṇitvā sayaṃeva karontassāpi vayakammasambhavato. Kiṃ vā pāḷilese sati aṭṭhakathālesanayo. Iṭṭhakāhi giñjakāvasathasaṅkhepena katā vaṭṭatīti ettha pakatiiṭṭhakāhi cinitvā kattabbāvasatho giñjakāvasatho nāma. Sā hi ‘‘mattikāmayā’’ti na vuccati, ‘‘iṭṭhakakuṭikā’’tveva vuccati, tasmā thusagomayatiṇapalālamissā mattikāmayāpi apakkiṭṭhakamayāpi ‘‘sabbamattikāmayā’’tveva vuccatīti no khantīti ācariyo, bhasmādayo hi mattikāya daḷhibhāvatthameva ādīyanti, apakkiṭṭhakamayāpi giñjakāvasathasaṅkhyaṃ na gacchati, na ca āyasmā dhaniyo ekappahāreneva kumbhakāro viya kumbhaṃ taṃ kuṭikaṃ niṭṭhāpesi, anukkamena pana sukkhāpetvā sukkhāpetvā mattikāpiṇḍehi cinitvā niṭṭhāpesi, apakkiṭṭhakamayā kuṭi viya sabbamattikāmayā kuṭi ekābaddhā hoti, na tathā pakkiṭṭhakamayā, tasmā sā kappatīti eke. Sabbamattikāmayāya kuṭiyā bahi ce tiṇakuṭikādiṃ katvā anto vasati, dukkaṭameva. Sace tattha tattha chiddaṃ katvā bandhitvā ekābaddhaṃ karoti, vaṭṭati. Anto ce tiṇakuṭikādiṃ katvā anto vasati, vaṭṭati. Kārako eva ce vasati, karaṇapaccayā dukkaṭaṃ āpajjati, na vasanapaccayā. Sace anto vā bahi vā ubhayattha vā sudhāya limpati, vaṭṭati. Yasmā sabbamattikāmayā kuṭi sukarā bhindituṃ, tasmā tattha ṭhapitaṃ pattacīvarādi aguttaṃ hoti, corādīhi avaharituṃ sakkā, tena vuttaṃ ‘‘pattacīvaraguttatthāyā’’ti.
85. Bằng học giới không tụng đọc này “đừng để thế hệ sau này phạm vào việc làm hại các sinh vật,” Ngài trình bày rằng ở đâu, trong việc nung gạch, nung bát, làm am, xây tu viện, làm công việc mới, sửa chữa những chỗ hư hỏng, quét dọn tu viện, cho lửa vào lò, đào giếng, ao và các công việc khác, Tỳ-khưu, khi biết có sự làm hại, cũng không nên nói lời hợp lệ. Chính vì vậy, không nói cách gián tiếp, trong phần không có tội của các học giới đó, đã được nói: “không phạm tội đối với người không có niệm, không biết.” “Học giới tội phụ” cũng chính là tên của nó. Bằng câu “này các Tỳ-khưu, hãy đi phá cái am đó,” cũng đã được xác định rằng ngay cả những người, sau khi đã nhận cái đã được làm và ở trong đó, cũng chính là phạm tội Tác Ác. Bởi vì nếu không, Thế Tôn đã không cho phá. Cách này cũng áp dụng cho các tội cần phải phá, cần phải cắt, cần phải nhổ, chỉ là sự khác biệt về tội lỗi. Chính vì vậy, giống như trong các học giới cần phải phá và các học giới khác, không được nói: “nhận cái đã được người khác làm và dùng, phạm tội Tác Ác.” Cũng vậy, làm vì lợi ích của người khác, làm vì lợi ích của tháp và các công trình khác, cũng chính là phạm tội Tác Ác. Nếu không, giống như trong các học giới về việc làm am và các học giới khác, Ngài sẽ nói theo cách “trừ nơi ở, ở khắp mọi nơi, làm vì lợi ích của người khác, không phạm tội,” chứ không cho phá. Nhưng nếu loại bỏ bản chất hoàn toàn bằng đất sét và làm hỗn hợp với gỗ, đá và các vật liệu khác rồi dùng, thì không phạm tội. Thật vậy, trong các học giới cần phải cắt và các học giới khác, Thế Tôn đã cho một cách: “nhận cái đã được người khác làm vượt quá kích thước, sau khi đã cắt và dùng” và các trường hợp khác. Một số người lại nói rằng: “bằng câu ‘cũng là công việc trả tiền,’ đã được xác định rằng cũng có trường hợp cho tiền và cho làm, do đó, ngay cả cái đã được người khác làm cũng không được phép,” điều đó không hay. Tại sao? Vì ngay cả đối với người tự mình làm sau khi đã mua vật liệu, cũng có thể có công việc trả tiền. Hoặc là, khi đã có kẽ hở Pāḷi, thì cách của kẽ hở Chú giải là gì? Trong câu nhà làm bằng gạch, được làm một cách tóm tắt như nhà gạch, là được phép, ở đây, nơi ở cần phải được xây bằng gạch tự nhiên được gọi là nhà gạch. Bởi vì nó không được gọi là “bằng đất sét,” mà chỉ được gọi là “am gạch.” Do đó, vị Giáo thọ sư nói rằng theo quan điểm của chúng tôi, ngay cả am làm bằng đất sét có trộn trấu, phân bò, cỏ, lá cây, và cả am làm bằng gạch chưa nung, cũng chỉ được gọi là “hoàn toàn bằng đất sét.” Bởi vì tro và các vật liệu khác chỉ được thêm vào để làm cho đất sét cứng hơn. Ngay cả am làm bằng gạch chưa nung cũng không được kể vào số nhà gạch. Và Tôn giả Dhaniya đã không hoàn thành cái am đó trong một lần như thợ gốm làm cái nồi, mà đã hoàn thành bằng cách xây bằng những viên đất sét sau khi đã phơi khô từng chút một. Am hoàn toàn bằng đất sét, giống như am bằng gạch chưa nung, là một khối liền, không giống như am bằng gạch đã nung. Do đó, một số người cho rằng nó hợp lệ. Nếu ở bên ngoài cái am hoàn toàn bằng đất sét, làm một cái am bằng cỏ và các vật liệu khác rồi ở bên trong, thì chính là tội Tác Ác. Nếu ở mỗi nơi, làm một cái lỗ rồi buộc lại và làm thành một khối liền, thì được phép. Nếu ở bên trong, làm một cái am bằng cỏ và các vật liệu khác rồi ở bên trong, thì được phép. Nếu chính người làm ở, thì phạm tội Tác Ác do duyên làm, không phải do duyên ở. Nếu quét vôi ở bên trong hoặc bên ngoài, hoặc cả hai nơi, thì được phép. Bởi vì cái am hoàn toàn bằng đất sét dễ phá, do đó, bát y và các vật dụng khác được đặt ở đó không được an toàn, có thể bị trộm cướp và những kẻ khác lấy đi. Do đó, đã được nói “để bảo vệ bát y.”

Pāḷimuttakavinicchayavaṇṇanā

Diễn giải về sự phân xử ngoài Tam Tạng Pāḷi

Tena kho pana samayena chabbaggiyā bhikkhū uccāvace patte dhārenti, uccāvacāni pattamaṇḍalāni dhārentī’’ti (cuḷava. 253) evamādīni vatthūni nissāya ‘‘na, bhikkhave, uccāvacā pattā dhāretabbā, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’tiādinā nayena akappiyaparikkhāresu ca dukkaṭaṃ paññattaṃ. Kasmā? Tadanulomattā. Yatthāpi na paññattaṃ, tattha ‘‘na, bhikkhave, uccāvacāni chattāni dhāretabbāni, yo dhāreyya, āpatti dukkaṭassā’’tiādinā (cūḷava. 269-270) nayena dukkaṭaṃ sambhavati, tasmā ‘‘tatrāyaṃ pāḷimuttako’’ti ārabhitvā sabbaparikkhāresu vaṇṇamaṭṭhaṃ, savikāraṃ vā karontassa āpatti dukkaṭanti dīpentena ‘‘na vaṭṭatī’’ti vuttanti veditabbaṃ. Etthāha – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, ṭhapetvā paharaṇiṃ sabbaṃ lohabhaṇḍaṃ, ṭhapetvā āsandiṃ pallaṅkaṃ dārupattaṃ dārupādukaṃ sabbaṃ dārubhaṇḍaṃ, ṭhapetvā katakañca kumbhakārikañca sabbaṃ mattikābhaṇḍa’’nti (cūḷava. 293) vuttattā yathāṭhapitaṃ vajjetvā itaraṃ sabbaṃ vaṇṇamaṭṭhampi savikārampi avisesena vaṭṭatīti? Vuccate – taṃ na yuttaṃ yathādassitapāḷivirodhato, tasmā ‘‘ṭhapetvā paharaṇi’’nti evaṃ jātivasena ayaṃ pāḷi pavattā, yathādassitā pāḷi vaṇṇamaṭṭhādivikārapaṭisedhanavasena pavattāti evaṃ ubhayampi na virujjhati, tasmā yathāvuttameva. Āraggena nikhādanaggena, ‘‘āraggeriva sāsapo’’ti (ma. ni. 2.458; dha. pa. 401; su. ni. 630) ettha vuttanayato āraggena.
Bởi vì những sự việc như “vào lúc bấy giờ, các Tỳ-khưu thuộc nhóm sáu vị mang những cái bát cao thấp khác nhau, mang những cái vòng bát cao thấp khác nhau” (cuḷava. 253), nên tội Tác Ác đã được chế định trong các vật dụng không hợp lệ theo cách “Này các Tỳ-khưu, không được mang những cái bát cao thấp khác nhau. Ai mang, phạm tội Tác Ác” và các cách tương tự. Tại sao? Vì phù hợp với điều đó. Ngay cả ở đâu chưa được chế định, ở đó tội Tác Ác cũng có thể có theo cách “Này các Tỳ-khưu, không được mang những cái dù cao thấp khác nhau. Ai mang, phạm tội Tác Ác” và các cách tương tự (cūḷava. 269-270). Do đó, cần phải biết rằng, sau khi đã bắt đầu “ở đó, đây là sự phân xử ngoài Tam Tạng Pāḷi,” đã được nói “không được phép” để trình bày rằng đối với người làm cho tất cả các vật dụng được tô màu hoặc có hình dạng khác, thì phạm tội Tác Ác. Vị ấy nói ở đây – vì đã được nói “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép tất cả các vật dụng bằng kim loại, trừ vũ khí; tất cả các vật dụng bằng gỗ, trừ ghế dài, giường, bát gỗ, guốc gỗ; tất cả các vật dụng bằng đất sét, trừ bình lọc nước và đồ gốm” (cūḷava. 293), nên trừ những gì đã được loại trừ, tất cả những gì còn lại, dù được tô màu hay có hình dạng khác, đều được phép một cách không phân biệt, phải không? Xin thưa – điều đó không hợp lý vì mâu thuẫn với Pāḷi đã được trình bày. Do đó, Pāḷi này “trừ vũ khí” đã được trình bày theo chủng loại. Pāḷi đã được trình bày đã được trình bày theo cách cấm tô màu và các hình dạng khác. Như vậy, cả hai đều không mâu thuẫn. Do đó, chính là như đã nói. Bằng đầu nhọn, bằng đầu nhọn để khắc. Bằng đầu nhọn theo cách đã được nói trong câu “như hạt cải trên đầu nhọn” (ma. ni. 2.458; dha. pa. 401; su. ni. 630).

Paṭṭamukhe vāti paṭṭakoṭiyaṃ. Pariyanteti cīvarapariyante. Veṇiuhumuniyupeññāma. Agghiyanti cetiyaṃ. Gayamuggaranti tulādaṇḍasaṇṭhānaṃ, gayā sīse sūcikā hoti, mukhapattā ladrā. Ukkiranti nīharanti karonti ṭhapenti. Koṇasuttapiḷakā nāma gaṇṭhikapaṭṭādikoṇesu suttamayapiḷakā. Yaṃ ettha cīvaraṃ vā patto vā ‘‘na vaṭṭatī’’ti vutto, tattha adhiṭṭhānaṃ ruhati, vikappanāpi ruhatīti veditabbaṃ. Deḍḍubhoti udakasappo. Acchīti kuñjarakkhi. Gomuttakanti gomuttasaṇṭhānā rājiyo. Kuñcikāya senāsanaparikkhārattā suvaṇṇarūpiyamayāpi vaṭṭatīti chāyā dissati, ‘‘kuñcikāya vaṇṇamaṭṭhakammaṃ na vaṭṭatī’’ti vaccanā aññe kappiyalohādimayāva kuñcikā kappanti pariharaṇīyaparikkhārattā. Ārakaṇṭako potthakādikaraṇasatthakajāti. ‘‘Āmaṇḍakasārako āmalakaphalamayo’’ti vadanti . Tālapaṇṇabījanīādīsu ‘‘vaṇṇamaṭṭhakammaṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Kiñcāpi tāni kuñcikā viya pariharaṇīyāni, atha kho ‘‘uccāvacāni na dhāretabbānī’’ti paṭikkhepābhāvato vuttaṃ. Kevalañhi tāni ‘‘anujānāmi, bhikkhave, vidhūpanañca tālavaṇṭañcā’’tiādinā (cūḷava. 269) vuttāni. Gaṇṭhipade pana ‘‘telabhājanesu vaṇṇamaṭṭhakammaṃ vaṭṭatīti senāsanaparikkhārattā’’ti vuttaṃ. Rājavallabhāti rājakulūpakā. Sīmāti idhādhippetā bhūmi, baddhasīmā ca. ‘‘Yesaṃ santakā tesaṃ sīmā, tattha parehi na kattabba’’nti anugaṇṭhipade vuttaṃ. ‘‘Bhūmi ca sīmā ca yesaṃ santakā, tehi eva vāretabbā. Yesaṃ pana aññesaṃ bhūmiyaṃ sīmā katā, te vāretuṃ na issarā’’ti vadanti . ‘‘Saṅghabhedādīnaṃ kāraṇattā ‘mā karothā’ti paṭisedhetabbā evā’’ti andhakaṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ kira.
Hoặc là ở miệng tấm vải là ở mép tấm vải. Ở mép là ở mép y. Chúng tôi biết về bím tóc, cây uhumu và cây upeññāma. Agghiyaṃ là tháp. Gayamuggaraṃ có hình dạng giống như cây đòn cân, ở đầu có một cái kim, miệng được bọc da. Họ lấy ra, họ làm, họ đặt. Koṇasuttapiḷakā là những miếng vải bằng sợi ở các góc của dây lưng và các vật dụng khác. Ở đây, y hoặc bát nào được nói là “không được phép,” cần phải biết rằng việc xác quyết có hiệu lực và việc định đoạt cũng có hiệu lực. Deḍḍubho là rắn nước. Acchī là mắt voi. Gomuttakaṃ là các đường vân có hình dạng giống như nước tiểu bò. Vì chìa khóa là vật dụng của chỗ ở, nên có bóng dáng cho rằng ngay cả chìa khóa làm bằng vàng bạc cũng được phép. Từ lời nói “không được phép làm việc tô màu cho chìa khóa,” chỉ có chìa khóa làm bằng kim loại hợp lệ và các vật liệu khác mới hợp lệ, vì là vật dụng mang theo. Ārakaṇṭako là một loại dao để làm sách và các vật dụng khác. Người ta nói rằng “āmaṇḍakasārako là làm bằng quả āmalaka.” Trong quạt lá cọ và các vật dụng khác, đã được nói “được phép làm việc tô màu.” Mặc dù chúng cũng là vật dụng mang theo giống như chìa khóa, nhưng đã được nói vì không có sự cấm “không được mang những thứ cao thấp khác nhau.” Bởi vì chúng chỉ được nói bằng câu “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép quạt và quạt lá cọ” và các câu tương tự (cūḷava. 269). Còn trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “được phép làm việc tô màu cho các vật dụng đựng dầu, vì là vật dụng của chỗ ở.” Rājavallabhā là những người gần gũi với hoàng gia. Ranh giới, ở đây, được hàm ý là đất và ranh giới đã được kết. Trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “ranh giới của ai, thì ở đó, người khác không được làm.” Người ta nói rằng: “đất và ranh giới của ai, thì chỉ người đó mới được ngăn cản. Còn những người đã làm ranh giới trên đất của người khác thì không có quyền ngăn cản.” Người ta nói rằng trong Andhakaṭṭhakathā, đã được nói: “vì là nguyên nhân của sự chia rẽ Tăng chúng và các việc khác, nên chính là phải bị cấm ‘đừng làm’.”

86-7. Dārukuṭikaṃ kātuṃ, kattunti ca atthi. Khaṇḍākhaṇḍikanti phalāphalaṃ viya daṭṭhabbaṃ. Āṇāpehīti vacanaṃ aniṭṭhe eva vuccatīti katvā bandhaṃ āṇāpesi. Issariyamattāyāti samiddhiyaṃ mattāsaddoti ñāpeti.
86-7. Có các từ làm, và để làm, một cái am bằng gỗ. Từng mảnh, cần phải biết giống như quả và không phải quả. Hãy ra lệnh, vì lời nói này chỉ được nói trong trường hợp không mong muốn, nên đã ra lệnh trói. Do sự giàu có, Ngài cho biết rằng từ “mattā” ở đây có ý nghĩa là sự giàu có.

88. ‘‘Evarūpaṃ vācaṃ bhāsitvā’’ti ca pāṭho. Lomena tvaṃ mutto, mā punapi evarūpamakāsīti idaṃ kiṃ byāpādadīpakaṃ, dārūsupi lobhakkhandhadīpakaṃ vacanaṃ sotāpannassa sato tassa rājassa patirūpaṃ. Nanu nāma ‘‘pubbe kataṃ sukataṃ bhante, vadeyyātha punapi yenattho’’ti pavāretvā atīva pītipāmojjaṃ uppādetabbaṃ tena siyāti? Saccametaṃ sotāpannattā atīva buddhamāmako dhammamāmako saṅghamāmako ca, tasmā bhikkhūnaṃ akappiyaṃ asahanto, sikkhāpadapaññattiyā ca okāsaṃ kattukāmo ‘‘supayuttāni me dārūnī’’ti tuṭṭhacittopi evamāhāti veditabbaṃ. Imehi nāma evarūpe ṭhāne. ‘‘Āgatapadānurūpenāti aññehi vā padehi, ito thokatarehi vā āgatakāle tadanurūpā yojanā kātabbā’’ti gaṇṭhipade vuttaṃ. ‘‘Na kevalaṃ imasmiṃyeva sikkhāpade, aññesupi āgacchanti, tasmā tattha tattha āgatapadānurūpena yojanā veditabbā’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ. Ujjhāyanattho adinnassādinnattāva, te ujjhāyiṃsu.
88. Cũng có đoạn văn “sau khi đã nói lời như vậy.” Ngươi đã được tha nhờ một sợi lông, đừng làm điều như vậy nữa, lời nói này, có phải là lời nói trình bày sự ác ý, và lời nói trình bày uẩn tham ái ngay cả đối với gỗ, có phù hợp với vị vua đó, người đã là bậc Dự lưu không? Chẳng phải vị ấy, sau khi đã thỉnh mời “bạch ngài, điều thiện đã làm trước đây, xin hãy nói lại những gì có lợi,” lẽ ra phải làm phát sinh niềm vui và sự hoan hỷ vô cùng sao? Sự thật là như vậy. Vì là bậc Dự lưu, nên vị ấy vô cùng kính mến Phật, kính mến Pháp, và kính mến Tăng. Do đó, cần phải biết rằng, vì không chịu đựng được những điều không hợp lệ của các Tỳ-khưu, và vì muốn tạo cơ hội cho việc chế định học giới, nên dù có tâm vui mừng “gỗ của ta đã được dùng rất hợp lý,” vị ấy vẫn nói như vậy. Với những người này, ở một nơi như vậy. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “phù hợp với các từ đã đến, là khi đến bằng các từ khác, hoặc ít hơn, thì phải thực hiện sự kết hợp phù hợp.” Trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “không chỉ trong học giới này, mà còn có trong các học giới khác, do đó, ở mỗi nơi, cần phải biết sự kết hợp phù hợp với các từ đã đến.” Với ý định chỉ trích, vì đã không cho mà lại lấy, nên họ đã chỉ trích.

Rudradāmako nāma rudradāmakādīhi uppādito. Bārāṇasinagarādīsu tehi tehi rājūhi porāṇasatthānurūpaṃ lakkhaṇasampannā uppāditā nīlakahāpaṇā. Tesaṃ kira tibhāgaṃ agghati rudradāmako, tasmā tassa pādo thullaccayavatthu hoti. Māsako pana idha appamāṇaṃ. Kahāpaṇo kiñcikāle ūnavīsatimāsako hoti, kiñci kāle atirekavīsatimāsako. Tasmā tassa kahāpaṇassa catutthabhāgo pañcamāsako viya atirekapañcamāsako vā ūnapañcamāsako vā pādoti veditabbaṃ. Imassatthassa dīpanatthaṃ ‘‘tadā rājagahe vīsatimāsako kahāpaṇo hotī’’tiādi vuttaṃ. Tattha rajatamayo suvaṇṇamayo tambamayo ca kahāpaṇo hoti. Suvaṇṇabhūmiyaṃ viya pādopi yattha tambamayova kato hoti, tattha sova pādoti ācariyo. Yasmā pādo ekanīlakahāpaṇagghanako, tasmā tassa pādassa catutthabhāgova siyā pādoti eke. Idaṃ na yujjati. Yo ca tattha pādāraho bhaṇḍo, tassa catutthabhāgasseva pārājikavatthubhāvappasaṅgato. Yadi pādārahaṃ bhaṇḍaṃ pārājikavatthu, siddhaṃ ‘‘sova pādo pacchimaṃ pārājikavatthū’’ti . Na hi sabbattha bhaṇḍaṃ gahetvā nīlakahāpaṇagghena agghāpenti. Yasmā tassa tasseva kahāpaṇagghena agghāpenti, tasmā tassa tassa janapadassa pādova pādoti tadagghanakameva pādagghanakanti siddhaṃ, ‘‘so ca kho porāṇassa nīlakahāpaṇassa vasena, na itaresanti yattha pana nīlakahāpaṇā vaḷañjaṃ gacchanti, tatthevā’’ti keci vadanti, upaparikkhitvā gahetabbaṃ.
Rudradāmako là được tạo ra bởi Rudradāma và các vị khác. Ở các thành phố như Bārāṇasī, các vị vua đó đã tạo ra các đồng tiền xanh có đủ các đặc điểm phù hợp với kinh điển xưa. Người ta nói rằng rudradāmako có giá trị bằng một phần ba của chúng, do đó, một phần tư của nó là đối tượng của tội Trọng Tội. Còn māsako ở đây là không có giới hạn. Kahāpaṇo đôi khi là dưới hai mươi māsako, đôi khi là trên hai mươi māsako. Do đó, cần phải biết rằng một phần tư của kahāpaṇo đó, là năm māsako, hoặc là trên năm māsako, hoặc là dưới năm māsako, là một phần tư. Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, đã được nói: “vào lúc đó, ở Rājagaha, một kahāpaṇo là hai mươi māsako” và các đoạn tiếp theo. Ở đó, kahāpaṇo làm bằng bạc, vàng, và đồng. Vị Giáo thọ sư nói rằng ngay cả một phần tư, ở đâu được làm bằng đồng giống như ở xứ sở vàng, thì ở đó chính nó là một phần tư. Một số người nói rằng vì một phần tư có giá trị bằng một đồng tiền xanh, do đó, một phần tư của nó sẽ là một phần tư. Điều này không hợp lý. Vì sẽ dẫn đến việc chỉ có một phần tư của vật dụng đáng giá một phần tư mới là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ. Nếu vật dụng đáng giá một phần tư là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ, thì đã được xác định “chính nó là một phần tư, là đối tượng cuối cùng của tội Bất Cộng Trụ.” Bởi vì không phải ở khắp mọi nơi, người ta lấy vật dụng và định giá bằng giá của đồng tiền xanh. Bởi vì họ định giá bằng giá của kahāpaṇo của chính xứ sở đó, do đó, đã được xác định rằng một phần tư của chính xứ sở đó là một phần tư, và giá trị của nó chính là giá trị của một phần tư. “Và đó là theo đồng tiền xanh xưa, không phải các loại khác, một số người nói rằng chỉ ở đâu mà đồng tiền xanh được lưu hành,” cần phải xem xét và chấp nhận.

Padabhājanīyavaṇṇanā

Diễn giải về phân tích từ

92.Gāmā vā araññā vāti lakkhaṇānupaññattikattā paṭhamapaññattiyā ādimhi vuttā. Yato vā apakkantā, so amanusso nāma. ‘‘Amanussagāmaṃ apārupitvā, gāmappavesanañca anāpucchā pavisituṃ vaṭṭatī’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ. ‘‘Yato gāmato āgantukāmā eva apakkantā, taṃ gāmaṃ evaṃ pavisituṃ na vaṭṭatī’’ti vadanti eke. Keci pana ‘‘yakkhapariggahabhūtopi āpaṇādīsu dissamānesu eva ‘gāmo’ti saṅkhyaṃ gacchati, adissamānesu pavesane anāpattī’’ti vadanti. ‘‘Gāmo eva upacāro gāmūpacāroti evaṃ kammadhārayavasena gahite kurundaṭṭhakathādīsu vuttampi suvuttameva hotī’’ti vadanti. ‘‘Tassa gharūpacāro gāmoti āpajjatī’’ti vacanaṃ paṭikkhipati. ‘‘Gāmassupacāro ca gāmo ca gāmūpacāro cā’’ti vadanti, taṃ virujjhati, na. ‘‘Imesaṃ lābhādīsu lakkhaṇaṃ sandhāya mahāaṭṭhakathāyaṃ ‘gharaṃ gharūpacāro’tiādi vuttaṃ, taṃ na mayaṃ paṭikkhipāmā’’ti ca vadanti. ‘‘Kataparikkhepo cāti gharassa samantato tattako upacāro nāmā’’ti gaṇṭhipade likhitaṃ. Anugaṇṭhipade pana ‘‘yo yo aṭṭhakathāvādo vā theravādo vā pacchā vuccatīti ito anāgataṃ sandhāya vuttaṃ, nātītaṃ. Yadi atītampi sandhāya vuttaṃ, mahāpadumatheravādova pamāṇaṃ jātanti āpajjati, tasmā anāgatameva sandhāya vuttanti ācariyā kathayantī’’ti vuttaṃ. Sesampīti gāmūpacāralakkhaṇampi.
92. Từ làng hay từ rừng, vì có đặc tính của chế định bổ sung có đặc điểm, nên đã được nói ở đầu chế định đầu tiên. Nơi nào mà họ đã rời đi, đó được gọi là phi nhân. Trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “không cần che đậy khi vào làng của phi nhân, và được phép vào mà không cần xin phép.” Một số người nói: “làng nào mà họ đã rời đi với ý định sẽ trở lại, thì không được phép vào làng đó như vậy.” Một số người lại nói: “ngay cả đất bị ma chiếm hữu cũng chỉ được kể là ‘làng’ khi có các cửa hàng và các cơ sở khác được thấy, nếu không thấy, thì không phạm tội khi vào.” Một số người nói: “nếu được hiểu theo cách của hợp từ đẳng lập ‘khu vực ngoại ô của làng chính là làng,’ thì những gì đã được nói trong Kurundaṭṭhakathā và các Chú giải khác cũng trở nên được nói rất hay.” Ngài bác bỏ lời nói “khu vực ngoại ô của nhà nó sẽ trở thành làng.” Một số người nói: “khu vực ngoại ô của làng và làng là khu vực ngoại ô của làng,” điều đó có mâu thuẫn không? Không. Họ cũng nói: “để chỉ đặc điểm trong việc nhận lợi lộc và các việc khác, trong Đại Chú giải, đã được nói ‘nhà là khu vực ngoại ô của nhà’ và các câu tương tự, chúng tôi không bác bỏ điều đó.” Trong sách giải thích từ khó, đã được viết: “và có hàng rào, là khu vực ngoại ô chừng ấy xung quanh nhà.” Còn trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “bất kỳ quan điểm nào của Chú giải hay quan điểm của các trưởng lão được nói sau này, đã được nói đến để chỉ tương lai, không phải quá khứ. Nếu cũng được nói đến để chỉ quá khứ, sẽ dẫn đến việc chỉ có quan điểm của Trưởng lão Mahāpaduma là tiêu chuẩn. Do đó, các vị Giáo thọ sư nói rằng đã được nói đến để chỉ chính tương lai.” Cả phần còn lại là cả đặc điểm của khu vực ngoại ô của làng.

Tatrāyaṃ nayoti tassa gāmūpacārassa gahaṇe ayaṃ nayo. Vikālegāmappavesanādīsūti ettha ‘‘gāmappavesanañhi bahi eva āpucchitabba’’nti gaṇṭhipade vuttaṃ. ‘‘Taṃ aṭṭhakathāya na sametī’’ti vadanti. ‘‘Gāmasaṅkhātūpacāraṃ sandhāya vutta’’nti gahite sametīti mama takko. ‘‘Ādi-saddato ghare ṭhitānaṃ dinnalābhabhājanādīnī’’ti gaṇṭhipade vuttaṃ. ‘‘Gāmūpacāre ṭhitānaṃ pāpuṇitabbalābhaṃ sañcicca adentānaṃ pārājika’’nti anugaṇṭhipade vuttaṃ. Kiñcāpi kurundiādīsu pāḷiyaṃ vuttavacanānulomavasena vuttattā ‘‘pamādalekhā’’ti na vattabbaṃ, mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttavinicchayo saṅgītito paṭṭhāya āgato. ‘‘Yañcetaṃ mahāaṭṭhakathāya’’ntiādi sīhaḷadīpe aṭṭhakathācāriehi vuttaṃ ‘‘vinicchayanayo’’ti ca. Leḍḍupāteneva paricchinditabboti parikkhepārahaṭṭhānaṃ, na upacāraṃ. So hi tato aparena leḍḍupātena paracchinno. Imasmiṃ adinnādānasikkhāpadeti niyamena aññattha aññathāti atthato vuttaṃ hoti. Tena vā niyamena yathārutavasenāpi attho idha yujjati. Abhidhamme panātiādinā aññathāpi atthāpattisiddhaṃ dasseti.
Ở đó, đây là cách là trong việc nắm bắt khu vực ngoại ô của làng đó, đây là cách. Trong câu trong việc vào làng trái thời và các trường hợp khác, ở đây, trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “việc vào làng chính là phải được xin phép ở bên ngoài.” Một số người nói rằng “điều đó không phù hợp với Chú giải.” Theo suy đoán của tôi, nếu được hiểu là “đã nói đến để chỉ khu vực ngoại ô được gọi là làng,” thì phù hợp. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “từ từ và các trường hợp khác, là các vật dụng chia lợi lộc đã được cho những người ở trong nhà.” Trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “đối với những người cố ý không cho lợi lộc đến tay những người ở trong khu vực ngoại ô của làng, phạm tội Bất Cộng Trụ.” Mặc dù trong Kurundi và các Chú giải khác, không nên nói là “lỗi sao chép” vì đã được nói phù hợp với lời nói trong Pāḷi, nhưng sự phân xử đã được nói trong Đại Chú giải đã có từ khi kết tập kinh điển. “Và điều này trong Đại Chú giải” và các câu tương tự đã được các vị Chú giải sư ở đảo Sīhaḷa nói là “cách phân xử.” Phải được phân định chỉ bằng một lần ném đất, là nơi đáng được rào lại, không phải khu vực ngoại ô. Bởi vì nó đã được phân định bằng một lần ném đất khác sau đó. Trong học giới về việc lấy của không cho này, về mặt ý nghĩa, đã được nói là có quy định, còn ở nơi khác thì khác. Do đó, hoặc là bằng quy định, ý nghĩa cũng hợp lý theo cách đã được nghe ở đây. Bằng câu còn trong Vi Diệu Pháp và các câu tương tự, Ngài trình bày điều đã được xác định bằng sự suy luận theo cách khác.

‘‘Pariccāgādimhi akate ‘idaṃ mama santaka’nti aviditampi parapariggahitameva puttakānaṃ pitu accayena santakaṃ viya, taṃ atthato apariccatte saṅgahaṃ gacchatī’’ti gaṇṭhipade vuttaṃ. ‘‘Thenassa kammaṃ theyyaṃ, thenena gahetabbabhūtaṃ bhaṇḍaṃ. Theyyanti saṅkhātanti theyyasaṅkhāta’’nti porāṇagaṇṭhipade vuttaṃ. Taṃ theyyaṃ yassa thenassa kammaṃ, so yasmā theyyacitto avaharaṇacitto hoti, tasmā ‘‘theyyasaṅkhāta’’nti padaṃ uddharitvā ‘‘theyyacitto avaharaṇacitto’’ti padabhājanampi tesaṃ porāṇānaṃ yujjateva, tathāpi aṭṭhakathāyaṃ vuttanayeneva gahetabbaṃ. ‘‘Yañca pubbabhāge ‘avaharissāmī’ti pavattaṃ cittaṃ, yañca gamanādisādhakaṃ, parāmasanādisādhakaṃ vā majjhe pavattaṃ, yañca ṭhānācāvanapayogasādhakaṃ , tesu ayameveko pacchimo cittakoṭṭhāso idha adhippeto ‘theno’ti apare’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ. Ūnamāsakamāsapādādīsu ‘‘avaharaṇacittesu ekacittakoṭṭhāsoti ācariyā vadantī’’ti vuttaṃ.
Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “ngay cả khi chưa được từ bỏ và các hành động khác, dù không biết là ‘đây là của tôi,’ vẫn chính là vật thuộc sở hữu của người khác, giống như của cải của người cha sau khi chết là của con cái. Nó được bao gồm trong sự chưa từ bỏ về mặt ý nghĩa.” Trong sách giải thích từ khó xưa, đã được nói: “hành động của kẻ trộm là sự trộm cắp, vật dụng đáng được kẻ trộm lấy. Được gọi là trộm cắp nên là được gọi là trộm cắp.” Sự trộm cắp đó, là hành động của kẻ trộm nào, thì vì người đó có tâm trộm cắp, tâm lấy đi, nên sau khi đã trích dẫn từ “được gọi là trộm cắp,” phần phân tích từ “có tâm trộm cắp, có tâm lấy đi” của các vị xưa cũng hợp lý. Tuy nhiên, cần phải được hiểu theo cách đã được nói trong Chú giải. Trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “tâm đã phát sinh ở phần trước ‘tôi sẽ lấy đi,’ và tâm hỗ trợ cho việc đi và các hành động khác, hoặc hỗ trợ cho việc chạm và các hành động khác, đã phát sinh ở giữa, và tâm hỗ trợ cho hành động di chuyển khỏi nơi chốn, trong số đó, chính phần tâm cuối cùng này được hàm ý ở đây là ‘kẻ trộm,’ theo những người khác.” Đã được nói: “trong các tâm lấy đi dưới một māsaka, một māsaka, một phần tư và các giá trị khác, các vị Giáo thọ sư nói rằng đó là một phần của tâm.”

Pañcavīsatiavahārakathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài hai mươi lăm cách lấy trộm

Pañcavīsati avahārā nāma vacanabhedeneva bhinnā, atthato pana abhinnā. Ākulā duviññeyyavinicchayāti ācariyānaṃ mukhe santike sabbākārena aggahitavinicchayānaṃ duviññeyyā. Dukatikapaṭṭhānapāḷi (paṭṭhā. 5.1.1 ādayo, dukatikapaṭṭhānapāḷi) viya ākulā duviññeyyvinicchayā, kevalaṃ taṃ ācariyā pubbāparavirodhamakatvā saṅgītito paṭṭhāya āgatanayamavināsetvā vaṇṇayantīti ‘‘paṭṭhānapāḷimivāti apare vadantī’’ti ca vuttā. Porāṇāti saṅgītiācariyā. Ayamettha sāmīci eva, sace na deti, āpatti natthi, pārājikabhayā pana yathā sikkhākāmo deti, evaṃ dātabbameva. Yāni panettha vatthūni, tāni sīhaḷadīpe ācāriehi saṅghādīnamanumatiyā aṭṭhakathāsu pakkhittāni, ‘‘anāgate brahmacārīnaṃ hitatthāya potthakāruḷhakālato pacchāpī’’ti vuttaṃ. Āṇattikaṃ āṇattikkhaṇepi gaṇhāti, kālantarenāpi atthasādhako, kālantaraṃ sandhāyāti idametesaṃ nānattaṃ. Bhaṭṭheti apagate. Antarasamudde aturumuhude. Pharati sādheti. Navadhototi navakato. Pāsāṇasakkharanti pāsāṇañca sakkharañca.
Hai mươi lăm cách lấy trộm chỉ khác nhau về cách nói, còn về mặt ý nghĩa thì không khác nhau. Rối rắm, có sự phân xử khó hiểu, khó hiểu đối với những người chưa nắm bắt được sự phân xử một cách toàn diện từ các vị Giáo thọ sư. Rối rắm, có sự phân xử khó hiểu giống như Pāḷi của Dukatikapaṭṭhāna (paṭṭhā. 5.1.1 ādayo, dukatikapaṭṭhānapāḷi). Chỉ có điều, các vị Giáo thọ sư, không làm cho nó mâu thuẫn trước sau, và không phá hủy cách đã có từ khi kết tập kinh điển, đã diễn giải nó, nên đã được nói “những người khác nói rằng giống như Pāḷi của Paṭṭhāna.” Các vị xưa là các vị Giáo thọ sư kết tập kinh điển. Ở đây, đây là điều đúng đắn, nếu không cho, thì không có tội. Nhưng vì sợ tội Bất Cộng Trụ, nên phải cho giống như người muốn học giới cho. Ở đây, các sự việc đã được các vị Giáo thọ sư ở đảo Sīhaḷa đưa vào các Chú giải với sự đồng ý của Tăng chúng và các vị khác, đã được nói “vì lợi ích của các vị Phạm hạnh trong tương lai, ngay cả sau thời kỳ ghi chép vào sách.” Người được ra lệnh nhận ngay cả trong khoảnh khắc được ra lệnh, và là người hoàn thành mục đích vào một thời điểm khác. Để chỉ một thời điểm khác, đây là sự khác biệt của chúng. Khi đã mất là khi đã đi mất. Giữa biển là ở giữa biển. Hoàn thành, thực hiện. Mới được rửa là mới được làm. Đá và sỏi là đá và sỏi.

Bhūmaṭṭhakathādivaṇṇanā

Diễn giải về đề tài trên mặt đất và các đề tài khác

94.Mahāaṭṭhakathāyaṃ pana saccepi alikepi dukkaṭameva vuttaṃ, taṃ pamādalikhitanti veditabbanti yathetarahi yuttiyā gahetabbā. Tattha ‘‘catuvaggena ṭhapetvā upasampadapavāraṇaabbhānādisabbaṃ saṅghakammaṃ kātuṃ vaṭṭati’’cceva vattabbe ‘‘upasampadapavāraṇakathinabbhānādīnī’’ti likhantīti veditabbaṃ. Taṃ ācariyā ‘‘pamādalekhā’’tveva vaṇṇayanti, tena vuttaṃ ‘‘pamādalikhita’’nti. Yaṃ yaṃ vacanaṃ musā, tattha tattha pācittiyanti vuttaṃ. Dukkaṭassa vacane payojanābhāvā ‘‘adinnādānassa pubbapayoge’’ti vuttaṃ. Aññesampi pubbapayoge pācittiyaṭṭhāne pācittiyameva. Pamādalikhitanti ettha idha adhippetameva gahetvā aṭṭhakathāyaṃ vuttanti gahite sameti viya. Ācariyā pana ‘‘pācittiyaṭṭhāne pācittiya’’nti vatvā dukkaṭe visuṃ vattabbe ‘‘saccālike’’ti sāmaññato vuttattā ‘‘pamādalekhā’’ti vadantīti veditabbāti. ‘‘Kusalacittena gamane anāpattī’’ti vuttattā ‘‘dānañca dassāmī’’ti vacanena anāpatti viya.
94. Còn trong Đại Chú giải, đã được nói là chỉ phạm tội Tác Ác trong cả trường hợp thật và không thật, cần phải biết rằng đó là do viết nhầm, bây giờ cần phải được hiểu một cách hợp lý. Ở đó, khi lẽ ra phải nói “bằng nhóm bốn người, trừ việc thọ cụ túc giới, Tự tứ, phục hồi và các việc khác, được phép làm tất cả các Tăng sự,” lại viết là “việc thọ cụ túc giới, Tự tứ, Kathina, phục hồi và các việc khác.” Các vị Giáo thọ sư diễn giải rằng đó chính là “lỗi sao chép,” do đó đã được nói “do viết nhầm.” Đã được nói rằng ở đâu có lời nói dối, thì ở đó có tội Ưng Đối Trị. Vì không có mục đích trong lời nói về tội Tác Ác, nên đã được nói “trong hành động trước của việc lấy của không cho.” Ngay cả trong hành động trước của các tội khác, ở đâu là tội Ưng Đối Trị, thì chính là tội Ưng Đối Trị. Do viết nhầm, ở đây, nếu được hiểu là đã được nói trong Chú giải sau khi đã lấy chính điều được hàm ý, thì có vẻ như phù hợp. Nhưng cần phải biết rằng các vị Giáo thọ sư, sau khi đã nói “ở đâu là tội Ưng Đối Trị, thì là tội Ưng Đối Trị,” và lẽ ra phải nói riêng về tội Tác Ác, lại nói một cách chung chung “trong cả trường hợp thật và không thật,” nên nói rằng đó là “lỗi sao chép.” Vì đã được nói “không phạm tội khi đi với tâm thiện,” nên có vẻ như không phạm tội bằng lời nói “tôi sẽ bố thí.”

Pācittiyaṭṭhāne dukkaṭā na muccatīti pācittiyena saddhiṃ dukkaṭamāpajjati. Bahukāpi āpattiyo hontūti khaṇanabyūhanuddharaṇesu dasa dasa katvā āpattiyo āpanno, tesu uddharaṇe dasa pācittiyo desetvā muccati, jātivasena ‘‘ekameva desetvā muccatī’’ti kurundiyaṃ vuttaṃ, tasmā purimena sameti. ‘‘Samodhānetvā dassitapayoge ‘‘dukkaṭa’’nti vuttattā samānapayogā bahudukkaṭattaṃ ñāpeti. Khaṇane bahukānīti samānapayogattā na paṭippassambhati. Aṭṭhakathācariyappamāṇenāti yathā panettha, evaṃ aññesupi evarūpāni aṭṭhakathāya āgatavacanāni saṅgītito paṭṭhāya āgatattā gahetabbānīti attho. ‘‘Idha dutiyapārājike gahetabbā, na aññesū’’ti dhammasiritthero kirāha. Gaṇṭhipade pana ‘‘purimakhaṇanaṃ pacchimaṃ patvā paṭippassambhati, teneva ekameva desetvā muccatī’’ti vuttaṃ, ‘‘visabhāgakiriyaṃ vā patvā purimaṃ paṭippassambhatī’’ti ca vuttaṃ.
Ở đâu là tội Ưng Đối Trị, không thoát khỏi tội Tác Ác, phạm tội Tác Ác cùng với tội Ưng Đối Trị. Dù có nhiều tội đi nữa, người đã phạm các tội trong khi đào, vun, và lấy đi, mỗi loại mười tội, trong số đó, sau khi đã sám hối mười tội Ưng Đối Trị trong khi lấy đi, thì thoát tội. Trong Kurundī, đã được nói “chỉ sám hối một lần là thoát tội,” theo chủng loại. Do đó, phù hợp với điều trước. Vì đã được nói “Tác Ác” trong hành động đã được trình bày sau khi đã gộp lại, nên nhiều tội Tác Ác có cùng một hành động được biết đến. Nhiều tội trong khi đào, không bị hủy bỏ vì có cùng một hành động. Theo tiêu chuẩn của các vị Chú giải sư, có nghĩa là giống như ở đây, cũng vậy, trong các trường hợp tương tự khác, các lời nói đã có trong Chú giải, vì đã có từ khi kết tập kinh điển, nên cần phải được chấp nhận. Người ta nói rằng Trưởng lão Dhammasiri đã nói: “ở đây, cần phải được chấp nhận trong tội Bất Cộng Trụ thứ hai, không phải trong các tội khác.” Còn trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “việc đào trước đó, sau khi đã đến việc đào sau, bị hủy bỏ, do đó chỉ sám hối một lần là thoát tội,” và cũng đã được nói: “hoặc là sau khi đã đến một hành động khác loại, việc trước đó bị hủy bỏ.”

Evaṃ ekaṭṭhāne ṭhitāya kumbhiyā ṭhānācāvanañcettha chahākārehi veditabbanti sambandho. Kumbhiyāti bhummavacanaṃ. Uddhaṃ ukkhipanto kesaggamattampi bhūmito moceti, pārājikanti ettha mukhavaṭṭiyā phuṭṭhokāsaṃ bundena mocite ‘‘ṭhānācāvanañcettha chahākārehi veditabba’’nti iminā sameti, tathā avatvā ‘‘bhūmito mutte kesaggamattampi atikkante bhūmito mocitaṃ nāma hotī’’ti daḷhaṃ katvā vadanti, upaparikkhitvā gahetabbaṃ. Ettha ekacce evaṃ atthaṃ vadanti ‘‘pubbe khaṇantena avasesaṭṭhānāni viyojitāni, tasmiṃ vimutte pārājika’’nti. Saṅkhepamahāpaccariyādīsu vuttavacanassa pamādalekhabhāvo ‘‘attano bhājanagataṃ vā karoti, muṭṭhiṃ vā chindatī’’ti vacanena dīpito.
Như vậy, có sự liên kết rằng sự di chuyển khỏi nơi chốn của một cái nồi đặt ở một nơi cần phải được biết theo sáu cách. Của cái nồi là vị trí cách. Khi nhấc lên trên, dù chỉ di chuyển khỏi mặt đất một sợi tóc, cũng phạm tội Bất Cộng Trụ, ở đây, khi đã di chuyển bằng đáy khỏi nơi đã được chạm bởi miệng nồi, thì phù hợp với câu “sự di chuyển khỏi nơi chốn ở đây cần phải được biết theo sáu cách.” Thay vì nói như vậy, họ nói một cách chắc chắn: “khi đã thoát khỏi mặt đất, dù chỉ vượt qua một sợi tóc, cũng được gọi là đã di chuyển khỏi mặt đất.” Điều này cần được xem xét và chấp nhận. Ở đây, một số người giải thích ý nghĩa như vầy: “trước đó, khi đào, các nơi còn lại đã được tách ra, khi nó được di chuyển, thì phạm tội Bất Cộng Trụ.” Bản chất lỗi sao chép của lời nói đã được nói trong Saṅkhepamahāpaccarī và các sách khác được làm sáng tỏ bằng lời nói “hoặc là làm cho nó vào trong bát của mình, hoặc là cắt một nắm.”

Yaṃ pana ‘‘pītamatte pārājika’’nti vuttaṃ, taṃ yathetarahi ‘‘pañcaviññāṇā uppannavatthukā uppannārammaṇā’’ti padassa ‘‘uppannavatthukāhi anāgatapaṭikkhepo’’ti aṭṭhakathāvacanaṃ ‘‘asambhinnavatthukā asambhinnārammaṇā purejātavatthukā purejātārammaṇā’’ti vacanamapekkhitvā atītānāgatapaṭikkhepoti parivatteti, tathā tādisehi parivatta’nti veditabbaṃ. Na hi aṭṭhakathācariyā pubbāparaviruddhaṃ vadanti. Yaṃ pana ācariyā ‘‘idaṃ pamādalikhita’’nti apanetvā paṭikkhipitvā vacanakāle vācenti, uddisanti, tameva ca imināpi ācariyena ‘‘pamādalikhita’’nti paṭikkhittaṃ. Yañca suttaṃ dassetvā te paṭikkhipanti, tameva ca dassentena iminā paṭikkhittaṃ, tena vuttaṃ ‘‘taṃ pana tatthevā’’tiādi.
Còn điều đã được nói “ngay khi uống, phạm tội Bất Cộng Trụ,” cần phải biết rằng điều đó, giống như bây giờ, lời nói trong Chú giải “đối với câu ‘năm thức có đối tượng đã phát sinh, có vật đã phát sinh,’ thì câu ‘bằng vật đã phát sinh, bác bỏ tương lai’” đã được thay đổi thành “bác bỏ quá khứ và tương lai,” sau khi đã xem xét lời nói “có vật không lẫn lộn, có đối tượng không lẫn lộn, có vật sinh trước, có đối tượng sinh trước.” Bởi vì các vị Chú giải sư không nói những điều mâu thuẫn trước sau. Còn điều mà các vị Giáo thọ sư, sau khi đã loại bỏ và bác bỏ “đây là do viết nhầm,” đã đọc và tụng đọc trong khi nói, thì chính điều đó cũng đã bị vị Giáo thọ sư này bác bỏ là “do viết nhầm.” Và kinh nào mà họ trình bày và bác bỏ, thì chính kinh đó cũng đã bị vị này bác bỏ sau khi đã trình bày. Do đó, đã được nói “nhưng chính ở đó” và các đoạn tiếp theo.

Anāpattimattameva vuttanti neva avahāro na gīvā anāpattīti byañjanatova bhedo, na atthatoti dassanatthaṃ. Taṃ pamādalikhitaṃ katarehīti ce? Pubbe vuttappakārehi, lekhakehi vā, esa nayo sabbattha. ‘‘Na hi tadeva bahūsu ṭhānesu yuttato pārājikamahutvā katthaci hotī’’ti sabbaṃ anugaṇṭhipade vuttaṃ. Duṭṭhapitaṃ vā ṭhapetīti ettha tato paggharissatīti ṭhānācāvanaṃ sandhāya katattā pārājikaṃ taṃ pana gaṇhatu vā mā vā tattheva ‘‘bhindatī’’tiādivacanato veditabbaṃ. ‘‘Tatthevāti ṭhānācāvanaṃ akarontova ṭhānā acāvetukāmova kevalaṃ ‘bhindatī’ti aṭṭhakathāvacanato ca ñāpetabba’’nti aññatarasmiṃ gaṇṭhipade vuttaṃ. Tathā ‘‘paggharitehi tintapaṃsuṃ gahetvā udake pakkhipitvā pacitvā gahetuṃ sakkā, tasmā gahaṇameva sandhāya vutta’’nti apare. ‘‘Rittakumbhiyā upari karoti, bhaṇḍadeyya’’nti vuttaṃ, taṃ āṇattiyā virujjhati, ‘‘yadā sakkosi, tadā taṃ bhaṇḍaṃ avaharā’’ti atthasādhako āṇattikāle eva pārājikaṃ. Apica āvāṭakādīni thāvarapayogāni ca ettha sādhakāni. Natthi kālakatapayogāni pārājikavatthūnīti tasmā upaparikkhitabbanti eke. Yattha yattha ‘‘apare’’ti vā ‘‘eke’’ti vā vuccati, tattha tattha suṭṭhu upaparikkhitvā yuttaṃ gahetabbaṃ, itaraṃ chaḍḍetabbaṃ. Vadantīti ācariyā vadanti. Na, aññathā gahetabbatthatoti pāḷipariharaṇatthaṃ vuttaṃ. Evameke vadantīti taṃ na gahetabbaṃ. Kasmā? ‘‘Passāvaṃ vā chaḍḍetī’’ti ca ‘‘aparibhogaṃ vā karotī’’ti ca atthato ekattā, aṭṭhakathāya ‘‘muggarena pothetvā bhindatī’’ti vuttattāpi.
Chỉ có sự không có tội được nói, để trình bày rằng không phải là lấy trộm, không phải là cổ họng, là không có tội, chỉ là sự khác biệt về văn tự, không phải về ý nghĩa. Đó là do viết nhầm, nếu hỏi bởi ai? Bởi những người đã được nói trước đây, hoặc là bởi những người sao chép. Cách này áp dụng ở khắp mọi nơi. Tất cả những điều này đã được nói trong Anugaṇṭhipada: “bởi vì chính điều đó, sau khi đã không phải là tội Bất Cộng Trụ một cách hợp lý ở nhiều nơi, lại trở thành tội ở một nơi nào đó.” Hoặc là đặt cái đã được làm hỏng, ở đây, vì đã được làm với ý định di chuyển khỏi nơi chốn “nó sẽ chảy ra từ đó,” nên là tội Bất Cộng Trụ. Nhưng người đó có thể lấy hoặc không, cần phải biết ngay tại đó từ lời nói “phá” và các lời nói khác. Trong một sách giải thích từ khó khác, đã được nói: “ngay tại đó, cần phải được biết từ lời nói trong Chú giải ‘chỉ phá,’ không làm cho di chuyển khỏi nơi chốn, không có ý định di chuyển khỏi nơi chốn.” Cũng vậy, những người khác nói: “sau khi đã chảy ra, có thể lấy đất đã bị ướt, cho vào nước, nấu và lấy đi, do đó, đã được nói đến để chỉ chính việc lấy.” Đã được nói: “làm trên một cái nồi rỗng, phải bồi thường vật.” Điều đó mâu thuẫn với việc ra lệnh. “Khi nào có thể, hãy lấy vật đó,” người hoàn thành mục đích phạm tội Bất Cộng Trụ ngay trong khi ra lệnh. Hơn nữa, các hành động cố định như đào hố và các hành động khác cũng là bằng chứng ở đây. Một số người nói rằng không có hành động đã được thực hiện vào một thời điểm nào đó là đối tượng của tội Bất Cộng Trụ, do đó cần phải xem xét. Ở đâu có nói “những người khác” hoặc “một số người,” ở đó cần phải xem xét kỹ lưỡng và chấp nhận điều hợp lý, loại bỏ điều khác. Họ nói là các vị Giáo thọ sư nói. Không, do ý nghĩa cần phải được hiểu theo cách khác, đã được nói để bảo vệ Pāḷi. Một số người nói như vậy, điều đó không nên được chấp nhận. Tại sao? Bởi vì “hoặc là tiểu tiện” và “hoặc là làm cho không thể dùng được,” về mặt ý nghĩa là một. Và cũng vì trong Chú giải đã được nói “dùng chày đập và phá.”

Ayaṃ panettha sārotiādikathāya ‘‘amhākaṃ ācariyassa vacana’’nti dhammasiritthero āha. Saṅgahācariyānaṃ vādoti eke. Pubbe vuttāpi te eva, tasmā vohāravasenāti achaḍḍetukāmampi tathā karontaṃ ‘‘chaḍḍetī’’ti voharanti. Evametesaṃ padānaṃ attho gahetabboti evaṃ sante ‘‘ṭhānācāvanassa natthitāya dukkaṭa’’nti aṭṭhakathāvacanena ativiya sameti, tattha ṭhānācāvanacittassa natthitāya ṭhānā cutampi na ‘‘ṭhānā cuta’’nti vuccatīti attho gahetabbo. Itarathāpīti theyyacittābhāvā ṭhānā cāvetukāmassapi dukkaṭaṃ yujjati.
Ở đây, đây là cốt lõi, vị Trưởng lão Dhammasiri đã nói về đề tài này: “lời nói của vị thầy của chúng tôi.” Một số người cho rằng đó là quan điểm của các vị Chú giải sư. Những người đã được nói trước đây cũng chính là họ. Do đó, theo cách dùng thông thường, ngay cả người không có ý định vứt bỏ mà làm như vậy, người ta vẫn dùng từ “vứt bỏ.” Ý nghĩa của các từ này cần phải được hiểu như vậy, như vậy, rất phù hợp với lời nói trong Chú giải “Tác Ác do không có sự di chuyển khỏi nơi chốn.” Ở đó, cần phải hiểu rằng do không có tâm di chuyển khỏi nơi chốn, nên ngay cả khi đã di chuyển khỏi nơi chốn, cũng không được gọi là “đã di chuyển khỏi nơi chốn.” Theo cách khác, dù có ý định di chuyển khỏi nơi chốn nhưng không có tâm trộm cắp, tội Tác Ác vẫn hợp lý.

96. Sayameva patitamorasseva ito cito ca karoto thullaccayaṃ. Ākāsaṭṭhavinicchaye tappasaṅgena tasmiṃ vehāsādigatepi asammohatthaṃ evaṃ gahetabbanti vuttaṃ. ‘‘Evamaññatrāpi sāmise’’ti gaṇṭhipade vuttaṃ. ‘‘Ṭhānācāvanaṃ akaronto cāletī’’ti vaccanā ṭhānācāvane thullaccayaṃ natthīti vuttaṃ hoti. Keci aphandāpetvā ṭhānācāvanācāvanehipi dukkaṭathullaccaye vadanti. ‘‘Te ṭhānācāvanaṃ akarontoti imaṃ aṭṭhakathāvacanaṃ dassetvā paṭisedhetabbā’’ti keci vadanti, vīmaṃsitabbaṃ.
96. Đối với người di chuyển con công đã tự rơi xuống từ nơi này sang nơi khác, phạm tội Trọng Tội. Trong sự phân xử về vật ở trên không, đã được nói rằng cần phải được hiểu như vậy để không bị nhầm lẫn ngay cả khi nó đã ở trên không và các nơi khác do có liên quan. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “cũng vậy ở những nơi khác, đối với vật có thịt.” Từ lời nói “di chuyển mà không làm cho di chuyển khỏi nơi chốn,” đã được nói rằng không có tội Trọng Tội trong việc di chuyển khỏi nơi chốn. Một số người nói rằng phạm tội Tác Ác và Trọng Tội ngay cả khi không làm cho rung động và di chuyển khỏi nơi chốn. Một số người nói rằng “họ phải bị bác bỏ bằng cách trình bày lời nói trong Chú giải này ‘không làm cho di chuyển khỏi nơi chốn’,” điều này cần được xem xét.

97. Chedanamocanādi uparibhāgaṃ sandhāya vuttaṃ. Avassaṃ ṭhānato ākāsagataṃ karoti. Ettha ‘‘ekakoṭiṃ nīharitvā ṭhapite vaṃse ṭhitassa ākāsakaraṇaṃ sandhāyā’’ti keci vadanti. Te pana atha ‘‘mūlaṃ acchetvā valayaṃ ito cito ca sāreti, rakkhati. Sace pana mūlato anīharitvāpi hatthena gahetvā ākāsagataṃ karoti, pārājika’’nti aṭṭhakathāvacanaṃ dassetvā paṭisedhetabbā. Bhittinissitanti bhittiyā upatthambhitaṃ sandhāya vuttanti eke. Bhittiṃ nissāya ṭhapitanti nāgadantādīsu ṭhitaṃ sandhāya vuttaṃ. Chinnamatteti upari uggantvā ṭhitaṃ sandhāya vuttaṃ.
97. Việc cắt, giải thoát và các hành động khác đã được nói đến để chỉ phần trên. Chắc chắn làm cho nó ở trên không khỏi nơi chốn. Ở đây, một số người nói rằng “đã nói đến để chỉ việc làm cho nó ở trên không đối với người đứng trên cây tre sau khi đã lấy ra một đầu và đặt xuống.” Nhưng họ phải bị bác bỏ bằng cách trình bày lời nói trong Chú giải: “sau khi đã cắt gốc và di chuyển vòng tre từ nơi này sang nơi khác, thì bảo vệ. Nhưng nếu không lấy ra khỏi gốc mà dùng tay cầm và làm cho nó ở trên không, thì phạm tội Bất Cộng Trụ.” Dựa vào tường, một số người cho rằng đã được nói đến để chỉ việc được chống đỡ bởi tường. Đặt dựa vào tường, đã được nói đến để chỉ việc đặt trên các ngà voi và các vật khác. Ngay khi cắt, đã được nói đến để chỉ việc đã mọc lên trên.

98.Upari ṭhitassa piṭṭhiyāti ettha adho osāraṇaṃ sandhāya vuttaṃ. Heṭṭhā osārentassa uparimassa piṭṭhiyā heṭṭhimena ṭhitokāsaṃ atikkantamatte pārājikaṃ, uddhaṃ ukkhipantassa udakato muttamatte. ‘‘Evaṃ gahite bhūmaṭṭhe vuttena sametī’’ti vadanti. Matamacchānaṃ ṭhitaṭṭhānameva ṭhānaṃ kira. Theyyacittena māretvā gaṇhato ūnapādagghanake dukkaṭaṃ, sahapayogattā pācittiyaṃ natthīti eke. Madanaphalavasādīnīti ettha sīhaḷabhāsā kira vasa iti visanti attho, garuḷākārena katuppeyitaṃ vā.
98. Bằng lưng của người đứng trên, ở đây, đã được nói đến để chỉ việc hạ xuống dưới. Đối với người hạ xuống dưới, phạm tội Bất Cộng Trụ ngay khi vượt qua nơi đã được đặt bởi người đứng dưới bằng lưng của người đứng trên. Đối với người nhấc lên trên, ngay khi thoát khỏi mặt nước. Người ta nói rằng “nếu được hiểu như vậy, thì phù hợp với điều đã được nói đối với vật ở trên mặt đất.” Người ta nói rằng nơi ở của cá chết chính là nơi chốn. Một số người cho rằng đối với người lấy đi sau khi đã giết với tâm trộm cắp, phạm tội Tác Ác đối với vật có giá trị dưới một phần tư, không có tội Ưng Đối Trị vì có cùng một hành động. Quả madana và các loại khác, ở đây, người ta nói rằng trong tiếng Sīhaḷa, vasa có nghĩa là chất độc, hoặc là được chế biến theo hình dạng của chim garuḷa.

99.Pubbe pāse baddhasūkaraupamāya vuttā eva. ‘‘Thale ṭhapitāya nāvāya na phuṭṭhokāsamattamevā’’ti pāṭho. ‘‘Vāto āgammāti vaccanā vātassa natthikāle payogassa katattā avahāro natthi, atthikāle ce kato, avahārovā’’ti vadanti. ‘‘Bhaṇḍadeyyaṃ pana kesanti ce? Yesaṃ hatthe kahāpaṇāni gahitāni, tesaṃ vā, nāvāsāminā nāvāya aggahitāya nāvāsāmikassa vā’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ.
99. Trước đây, đã được nói bằng ví dụ về con lợn bị trói bằng dây. Có đoạn văn “đối với chiếc thuyền đặt trên cạn, không phải chỉ là nơi đã được chạm.” Một số người nói rằng: “từ lời nói ‘gió đến,’ vì hành động đã được thực hiện khi không có gió, nên không có sự lấy trộm. Còn nếu được thực hiện khi có gió, thì chính là sự lấy trộm.” Trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “nhưng vật phải bồi thường là của ai? Hoặc là của những người đã nhận kahāpaṇa, hoặc là của chủ thuyền nếu chủ thuyền chưa nhận thuyền.”

104.Nirambitvā upari. Akataṃ vā pana patiṭṭhapetīti apubbaṃ vā paṭṭhapetīti attho.
104. Sau khi đã treo lên trên. Hoặc là đặt cái chưa được làm, có nghĩa là đặt một cái mới.

106. Gāmaṭṭhe vā ‘‘gāmo nāmā’’ti na vuttaṃ paṭhamaṃ gāmalakkhaṇassa sabbaso vuttattā.
106. Ở phần về làng, không được nói “là làng,” vì đặc điểm của làng đã được nói một cách toàn diện ở đầu.

107. Araññaṭṭhe araññaṃ nāmāti puna na kevalaṃ pubbe vuttalakkhaṇaññeva araññanti idhādhippetaṃ, kintu parapariggahitameva cetaṃ hoti, taṃ idhādhippetanti dassanatthaṃ vuttaṃ. Teneva atthepi araññaggahaṇaṃ kataṃ. Aggepi mūlepi chinnāti ettha ‘‘na veṭhetvā ṭhitā, chinnamatte patanakaṃ sandhāya vutta’’nti vadanti. Tacchetvā ṭhapitoti araññasāmikehi parehi laddhehi tacchetvā ṭhapito. Addhagatopīti cirakālikopi. ‘‘Na gahetabboti araññasāmikehi anuññātenapī’’ti gaṇṭhipade vuttaṃ. Challiyā pariyonaddhaṃ hotīti iminā sāmikānaṃ nirapekkhataṃ dīpeti. Tena vuttaṃ ‘‘gahetuṃ vaṭṭatī’’ti. Yadi sāmikānaṃ sāpekkhatā atthi, na vaṭṭati.
107. Ở phần về rừng, là rừng, đã được nói lại để trình bày rằng không chỉ có đặc điểm đã được nói trước đây mới được hàm ý là rừng ở đây, mà còn là vật thuộc sở hữu của người khác. Nó được hàm ý ở đây. Chính vì vậy, ngay cả trong ý nghĩa, cũng đã có sự nắm bắt rừng. Cắt ở cả ngọn và gốc, ở đây, một số người nói rằng “đã được nói đến để chỉ việc rơi xuống ngay khi cắt, không phải là đứng quấn vào nhau.” Sau khi đã đẽo và đặt là sau khi đã được đẽo bởi những người đã nhận từ các chủ rừng khác và đặt xuống. Dù đã lâu là dù đã lâu năm. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “không được lấy, ngay cả khi đã được các chủ rừng cho phép.” Được bọc bằng vỏ cây, bằng điều này, Ngài làm sáng tỏ sự không quyến luyến của các chủ nhân. Do đó, đã được nói “được phép lấy.” Nếu các chủ nhân có sự quyến luyến, thì không được phép.

108. Tattha ‘‘bhājanesu pokkharaṇītaḷākesu ca gāvo pakkosatīti ito paṭṭhāya tayo dasa vārā ādimeva dassetvā saṃkhittā’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ. Nibbahanaudakaṃ nāma taḷākarakkhaṇatthāya adhikodakanikkhamanadvārena nikkhamanaudakaṃ. ‘‘Gahetuṃ na labhatīti sāmīcikammaṃ na hotī’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ. Ito paṭṭhāya ‘‘vutta’’nti vutte anugaṇṭhipadeti gahetabbaṃ. Anikkhante udaketi pāṭhaseso, sukkhamātikāpayogattā bhaṇḍadeyyampi na hotīti adhippāyo. Taḷākaṃ nissāya khettassa katattāti ‘‘sabbasādhāraṇaṃ taḷākaṃ hotī’’ti paṭhamaṃ vuttattā taṃ sandhāya vuttaṃ. ‘‘Yasmā taḷākagataṃ udakaṃ sabbasādhāraṇampi mātikāya sati taṃ atikkamitvā gahetuṃ na vaṭṭati, tasmā taṃ sandhāya kurundiyādīsu avahāroti vutta’’nti apare āhūti. Iminā lakkhaṇena na sametīti yasmā sabbasādhāraṇadeso nāma tañca taḷākaṃ sabbasādhāraṇaṃ, katikābhāvā ca mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttameva yuttanti āhācariyo.
108. Ở đó, trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “từ câu ‘gọi bò đến các vật dụng, ao, hồ,’ ba mươi lượt, sau khi đã trình bày phần đầu, đã được tóm tắt.” Nước thoát ra là nước thoát ra qua cửa thoát nước thừa để bảo vệ hồ. Trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “không được phép lấy, không phải là hành động đúng đắn.” Từ đây trở đi, khi được nói “đã được nói,” cần phải hiểu là trong Anugaṇṭhipada. Có phần còn lại của câu là “trong nước chưa thoát ra,” ý định là cũng không phải bồi thường vật vì hành động làm cho mương khô. Vì đã làm ruộng dựa vào hồ, đã được nói đến để chỉ điều đó, vì trước đó đã được nói “hồ là của chung.” Một số người khác lại nói: “bởi vì nước trong hồ, dù là của chung, nhưng khi có mương, không được phép lấy đi vượt quá nó, do đó, để chỉ điều đó, trong Kurundī và các Chú giải khác, đã được nói là sự lấy trộm.” Vị Giáo thọ sư đã nói: không phù hợp với đặc điểm này, bởi vì nơi của chung là chính hồ đó, và hồ đó là của chung, và vì không có quy ước, nên chính điều đã được nói trong Đại Chú giải là hợp lý.

109.‘‘Tato paṭṭhāya avahāro natthīti theyyāyapi gaṇhato, tasmā yathāmuṇḍamahājetabbattā, arakkhitabbattā, sabbasādhāraṇattā ca aññampi saṅghasantakaṃ idaṃ na hotī’’ti gaṇṭhipade vuttaṃ.
109. Trong sách giải thích từ khó, đã được nói: “từ đó trở đi, không có sự lấy trộm, ngay cả đối với người lấy đi để trộm cắp. Do đó, vì phải bị đánh thuế theo đầu người, vì không cần phải bảo vệ, và vì là của chung, nên đây cũng không phải là của Tăng chúng.”

110.Ujukameva tiṭṭhatīti ettha ‘‘samīpe rukkhasākhādīhi sandhāritattā īsakaṃ khalitvā ujukameva tiṭṭhati ce, avahāro. Chinnaveṇu viya tiṭṭhati ce, anāpattī’’ti vuttaṃ, taṃ suvuttaṃ, tassa vinicchaye ‘‘sace tāni rakkhantī’’ti vuttattā. No aññathāti sampatte ce vāte vātamukhasodhanaṃ karoti, pārājikanti attho.
110. Đứng thẳng, ở đây, đã được nói: “nếu đứng thẳng sau khi đã hơi nghiêng, do được chống đỡ bởi các cành cây gần đó và các vật khác, thì là sự lấy trộm. Nếu đứng giống như cây tre đã bị cắt, thì không phạm tội.” Điều đó đã được nói rất hay, vì trong sự phân xử của nó, đã được nói “nếu họ bảo vệ chúng.” Không phải cách khác, có nghĩa là nếu khi gió đến, làm sạch miệng gió, thì phạm tội Bất Cộng Trụ.

111.Aññesu pana vicāraṇā eva natthīti tesu appaṭikkhipitattā ayameva vinicchayoti vuttaṃ hoti. ‘‘Etena dhuranikkhepaṃ katvāpi corehi āhaṭaṃ codetvā gaṇhato anāpattīti dīpitaṃ hotī’’ti vuttaṃ.
111. Còn trong các trường hợp khác, không có sự xem xét, đã được nói rằng vì không bị bác bỏ trong các trường hợp đó, nên đây chính là sự phân xử. Đã được nói: “bằng điều này, đã được làm sáng tỏ rằng đối với người, sau khi đã từ bỏ trách nhiệm, lấy lại vật đã bị trộm cướp sau khi đã chất vấn, thì không phạm tội.”

112.Eseva nayoti uddhāreyeva pārājikaṃ, kasmā? Aññehi pattehi sādhāraṇassa saññāṇassa vuttattā. Padavārenāti corena nīharitvā dinnaṃ gahetvā gacchato. Gāmadvāranti vohāramattameva, gāmanti attho āṇattiyā daṭṭhabbattā, dvinnampi uddhāre eva pārājikaṃ. Asukaṃ nāma gāmaṃ gantvāti vacanena yāva tassa gāmassa parato upacāro, sabbametaṃ āṇattameva hoti. ‘‘Ṭhatvā vā nisīditvā vā vissamitvā purimatheyyacittaṃ vūpasamitvā gamanatthañce bhaṇḍaṃ na nikkhittaṃ, yathāgahitameva, padavārena kāretabboti, nikkhittañce, uddhārenā’’ti ca likhitaṃ. Kevalaṃ ‘‘likhita’’nti vutte gaṇṭhipade gahetabbaṃ. Theyyacittena paribhuñjantoti ṭhānācāvanaṃ akatvā nivatthapārutanīhārena ‘‘pubbevedaṃ mayā gahita’’nti theyyacittena paribhuñjanto. ‘‘Naṭṭhe bhaṇḍadeyyaṃ kirā’’ti likhitaṃ. ‘‘Añño vā’’ti vacanena yena ṭhapitaṃ, tena dinne anāpattīti dīpitaṃ hoti gopakassa dāne viya, ‘‘kevalaṃ idha bhaṇḍadeyyanti apare’’ti vuttaṃ. ‘‘Añño vā’’ti vaccanā yena ṭhapitaṃ. So vātipi labbhatīti vicāretvā gahetabbo. Vā-saddena yassa hatthe ṭhapitaṃ, so vā deti rājagahe gaṇako viya dhaniyassa, tasmā pārājikaṃ yuttaṃ viya.
112. Cách này cũng vậy, phạm tội Bất Cộng Trụ ngay khi nhấc lên. Tại sao? Vì đã được nói về dấu hiệu chung với các cái bát khác. Bằng cách đi bộ là đối với người đi sau khi đã nhận vật đã được kẻ trộm lấy ra và đưa cho. Cổng làng chỉ là cách nói thông thường, có nghĩa là làng, cần phải được hiểu theo sự ra lệnh. Đối với cả hai, phạm tội Bất Cộng Trụ ngay khi nhấc lên. Bằng lời nói sau khi đã đi đến một làng tên là Asuka, cho đến khu vực ngoại ô bên kia của làng đó, tất cả những điều này đều là đã được ra lệnh. Cũng đã được viết: “sau khi đã đứng hoặc ngồi, nghỉ ngơi, nếu tâm trộm cắp trước đó đã lắng dịu và vật chưa được đặt xuống để đi, thì chính là như đã lấy, phải được thực hiện bằng cách đi bộ. Còn nếu đã được đặt xuống, thì bằng cách nhấc lên.” Ở đâu chỉ được viết “đã được viết,” ở đó cần phải hiểu là trong sách giải thích từ khó. Dùng với tâm trộm cắp, không làm cho di chuyển khỏi nơi chốn, bằng cách mặc vào hoặc khoác lên và lấy ra, dùng với tâm trộm cắp “trước đây, chính tôi đã lấy cái này.” Đã được viết: “khi bị mất, phải bồi thường vật.” Bằng lời nói “hoặc là người khác,” đã được làm sáng tỏ rằng nếu được cho bởi người đã đặt, thì không phạm tội, giống như trong trường hợp cho của người chăn bò. Đã được nói: “những người khác nói rằng ở đây chỉ có việc bồi thường vật.” Từ lời nói “hoặc là người khác,” người đã đặt. Cũng có thể hiểu là “hoặc là người đó,” cần phải xem xét và chấp nhận. Bằng từ “hoặc,” người mà vật đã được đặt trong tay, hoặc là người đó cho, giống như người kế toán ở Rājagaha cho Dhaniya, do đó, có vẻ như hợp lý là phạm tội Bất Cộng Trụ.

Tava thūlasāṭako laddhoti vuttakkhaṇe musāvāde dukkaṭaṃ. Tassa nāmaṃ likhitvāti ettha ‘‘tena ‘gahetvā ṭhapeyyāsī’ti āṇattattā nāmalekhanakāle anāpatti kusasaṅkamanasadisaṃ na hotī’’ti vuttaṃ. Na jānantīti na suṇantīti attho. Sace jānitvāpi cittena na sampaṭicchanti eseva nayo. Jānantena pana rakkhituṃ anicchante paṭikkhipitabbameva etanti vattaṃ jānitabbaṃ. Ummaggenāti purāpāṇaṃ khaṇitvā katamaggenāti attho.
Ngay trong khoảnh khắc được nói đã nhận được tấm vải thô của ngươi, phạm tội Tác Ác do nói dối. Ở đây, trong câu sau khi đã viết tên của người đó, đã được nói: “vì đã được ra lệnh ‘hãy lấy và giữ,’ nên không phạm tội trong khi viết tên, không giống như việc chuyển cỏ kusa.” Họ không biết, có nghĩa là họ không nghe. Nếu sau khi đã biết mà không đồng ý bằng tâm, thì cách này cũng vậy. Cần phải biết bổn phận rằng đối với người biết mà không muốn giữ, thì chính là phải bác bỏ. Bằng đường hầm, có nghĩa là bằng con đường đã được làm sau khi đã đào một cái hang xưa.

Nissitavārikassa pana sabhāgā bhattaṃ denti, tasmā yathā vihāre panti, tatheva kātabbanti sampattavāraṃ aggahetuṃ na labhanti, ‘‘tassa vā sabhāgā adātuṃ na labhantī’’ti vuttaṃ. Attadutiyassāti na hi ekenānītaṃ dvinnaṃ pahoti, sace pahoti pāpetabboti dassetuṃ ‘‘yassa vā’’tiādi vuttaṃ. ‘‘Paripucchaṃ detīti pucchitapañhassa vissajjanaṃ karotī’’ti likhitaṃ. Saṅghassa bhāraṃ nāma ‘‘saddhammavācanā evā’’ti vuttaṃ, ‘‘navakammikopi vuccatī’’ti ca, ‘‘ito bhaṇḍato vaṭṭantaṃ puna anto pavisatīti mahāaṭṭhakathāpadassa kurundīsaṅkhepaṭṭhakathāhi adhippāyo vivarito’’ti likhitaṃ.
Còn đối với người giữ lượt, họ cho thức ăn theo phần. Do đó, đã được nói: không được phép không nhận lượt đã đến, “hoặc là những người theo phần của người đó không được phép không cho,” cần phải được thực hiện giống như thứ tự trong tu viện. Của người có người thứ hai là chính mình, bởi vì vật do một người mang đến không đủ cho hai người. Đã được nói “hoặc là của ai” và các câu tương tự để trình bày rằng nếu đủ thì phải được mang đến. Đã được viết: “trả lời câu hỏi, là trả lời câu hỏi đã được hỏi.” Đã được nói rằng gánh nặng của Tăng chúng chính là “việc đọc tụng diệu pháp,” và cũng được gọi là “người làm công việc mới.” Đã được viết: “vật còn lại từ đây lại đi vào trong, ý định của đoạn trong Đại Chú giải đã được làm sáng tỏ bởi các Chú giải tóm tắt của Kurundī.”

113.Gacchante yāne vāti ettha ‘‘suṅkaṭṭhānassa bahi ṭhitaṃ sandhāya vutta’’nti upatissatthero vadati kira. ‘‘Gacchante yāne vātiādi suṅkaṭṭhānabbhantare gahetabba’’nti vuttaṃ. Bahi ṭhitassa vattabbameva natthi, ‘‘anto ṭhatvā’’ti adhikāre vuttattā ceti yuttaṃ – yānādīsu ṭhapite tassa payogaṃ vināyeva gatesu pārājiko na hoti. Kasmā na bhaṇḍadeyyanti ce? Suṅkaṭṭhānassa bahi ṭhitattā. Araññaṭṭhe ‘‘assatiyā atikkamantassapi bhaṇḍadeyyamevā’’ti (pārā. aṭṭha. 1.107) vuttaṃ tesaṃ sapariggahitattā. Idha pana ‘‘atra paviṭṭhassā’’ti vaccanā na bahi ṭhitassa, taṃ kira suṅkasaṅketaṃ. Aññaṃ harāpetīti tattha ‘‘sahatthā’’ti vaccanā anāpatti. Nissaggiyāni hontīti aṭṭhakathāto pācittiyaṃ, upacāraṃ okkamitvā pariharaṇe sādīnavattā dukkaṭaṃ.
113. Trên xe đang đi hoặc, ở đây, người ta nói rằng Trưởng lão Upatissa nói rằng “đã được nói đến để chỉ việc đứng bên ngoài trạm thu thuế.” Đã được nói: “trên xe đang đi hoặc và các trường hợp khác cần phải được hiểu là bên trong trạm thu thuế.” Không cần phải nói đối với người đứng bên ngoài, và vì đã được nói trong quyền hạn “sau khi đã vào trong,” nên hợp lý – khi được đặt trên xe và các phương tiện khác, nếu chúng đi mà không có hành động của người đó, thì không phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu hỏi tại sao không phải bồi thường vật? Vì đứng bên ngoài trạm thu thuế. Ở phần về rừng, đã được nói: “ngay cả đối với người đi qua do vô ý, cũng chính là phải bồi thường vật” (pārā. aṭṭha. 1.107), vì chúng thuộc sở hữu của họ. Còn ở đây, từ lời nói “đối với người đã vào đây,” không phải đối với người đứng bên ngoài. Người ta nói rằng đó là quy ước về thuế. Cho người khác mang đi, ở đây, từ lời nói “bằng chính tay mình,” không phạm tội. Trở thành vật phải từ bỏ, từ Chú giải là Ưng Đối Trị, tội Tác Ác vì có sự nguy hiểm trong việc trốn thuế sau khi đã vào khu vực.

Suṅkaṭṭhāne suṅkaṃ datvāva gantuṃ vaṭṭatīti idaṃ dāni vattabbānaṃ mātikāti dhammasiritthero. ‘‘Anurādhapurassa catūsu dvāresu suṅkaṃ gaṇhanti, tesu dakkhiṇadvārassa purato maggo thūpārāmato ānandacetiyaṃ padakkhiṇaṃ katvā jetavanavihārassantarapākārassāsanne niviṭṭho, yo na gāmaṃ pavisanto upacāraṃ okkanto hoti. Thūpārāmato ca mahācetiyaṃ padakkhiṇaṃ katvā rājavihāraṃ gacchanto na okkamatī’’ti kira mahāaṭṭhakathāyaṃ āgataṃ. Ettha cāti suṅkaghāte ‘‘dvīhi leḍḍupātehīti ācariyaparamparābhatā’’ti likhitaṃ. Dvīhi leḍḍupātehīti suṅkaghātassa paricchede aṭṭhapite yujjati, ṭhapite pana atirekayojanampi suṅkaghātaṃ hotīti tato paraṃ dve leḍḍupātā upacāroti gahetabbo. So panetthāpi duvidho bāhirabbhantarabhedato. Tattha dutiyaleḍḍupātasaṅkhātaṃ bāhiropacāraṃ sandhāya pāḷiyaṃ, mahāaṭṭhakathāyañca dukkaṭaṃ vuttaṃ. Abbhantaraṃ sandhāya kurundiyanti no khanti. ‘‘Atra paviṭṭhassa suṅkaṃ gaṇhantūti hi niyamitaṭṭhānaṃ ekantato pārājikakhettaṃ hoti, tañca parikkhittaṃ, eko leḍḍupāto dukkaṭakhettaṃ, aparikkhittañce, dutiyo leḍḍupātoti no adhippāyo’’ti ācariyo vadati.
Ở trạm thu thuế, sau khi đã trả thuế mới được phép đi, đây là đề mục của những điều sẽ được nói bây giờ, theo Trưởng lão Dhammasiri. Người ta nói rằng trong Đại Chú giải đã có: “ở Anurādhapura, họ thu thuế ở bốn cổng. Trong số đó, con đường trước cổng phía nam, sau khi đã đi vòng quanh Thūpārāma và Ānandacetiya, đã được xây dựng gần bức tường bên trong của Jetavanavihāra. Người nào không vào làng thì đã vào khu vực ngoại ô. Và người đi đến Rājavihāra sau khi đã đi vòng quanh Mahācetiya từ Thūpārāma thì không vào.” Và ở đây, đã được viết: trong trạm thu thuế, “bằng hai lần ném đất, đã được truyền lại từ dòng dõi các vị thầy.” Bằng hai lần ném đất, hợp lý nếu được đặt trong sự phân định của trạm thu thuế. Còn nếu đã được đặt, thì cần phải hiểu rằng ngay cả một yojana thừa ra cũng là trạm thu thuế, và sau đó hai lần ném đất là khu vực ngoại ô. Và nó ở đây cũng có hai loại: bên ngoài và bên trong. Ở đó, đã được nói tội Tác Ác trong Pāḷi và Đại Chú giải để chỉ khu vực ngoại ô bên ngoài, được gọi là lần ném đất thứ hai. Theo quan điểm của chúng tôi, là để chỉ khu vực bên trong, trong Kurundī. Vị Giáo thọ sư nói rằng: “bởi vì nơi đã được quy định ‘họ hãy thu thuế của người đã vào đây’ chắc chắn là phạm vi của tội Bất Cộng Trụ, và nó đã được rào lại, một lần ném đất là phạm vi của tội Tác Ác, còn nếu chưa được rào lại, thì lần ném đất thứ hai, đó là ý định của chúng tôi.”

114.Dhanaṃ pana gataṭṭhāne vaḍḍhatīti ettha ‘‘vaḍḍhiyā saha avahārakassa bhaṇḍadeyya’’nti likhitaṃ. ‘‘Taṃ vaḍḍhiṃ dassāmī’’ti aggahesi, tattha kammaṃ akarontassa vaḍḍhatīti katvā vuttaṃ. Kevalaṃ āṭhapitakhettassa na vaḍḍhati. ‘‘Yaṃ dhanaṃ vaḍḍhi, taṃ dentassa avahārakassa vaḍḍhiyā adāne pārājikaṃ hotī’’ti vadanti.
114. Tiền bạc lại sinh lời ở nơi đã đến, ở đây, đã được viết: “phải bồi thường vật của người lấy trộm cùng với tiền lời.” Đã được nói vì đã nhận “tôi sẽ cho tiền lời đó,” và vì nó sinh lời đối với người không làm việc ở đó. Nó không sinh lời đối với ruộng đã được thế chấp. Người ta nói rằng “đối với người cho tiền lời, nếu người lấy trộm không cho tiền lời, thì phạm tội Bất Cộng Trụ.”

Nāmenāti sappanāmena vā sāmikena katena vā.
Bằng tên là bằng tên rắn hoặc bằng tên do chủ nhân đặt.

116. Rājagharassa antovatthumhi, parikkhittarājaṅgaṇaṃ vā antovatthu. Aparikkhitte rājaṅgaṇe ṭhitassa sakalanagaraṃ ṭhānaṃ. Goṇassa ‘‘aparikkhitte ṭhitassa akkantaṭṭhānameva ṭhāna’’nti vuttattā khaṇḍadvāranti attanā khaṇḍitacchiddaṃ. Tattheva ghātetīti ‘‘jīvitindriyārammaṇattā vadhakacittassa pācittiyaṃ hotīti? Na hoti. Kasmā? Adinnādānapayogattā. Tampi theyyacittaṃ saṅkhārārammaṇaṃva hoti. Idha tadubhayaṃ labhati saddhiṃ pubbabhāgāparabhāgehī’’ti vuttaṃ.
116. Trong khuôn viên bên trong của nhà vua, hoặc là sân vua có hàng rào là khuôn viên bên trong. Đối với người đứng trong sân vua không có hàng rào, toàn bộ thành phố là nơi chốn. Vì đã được nói đối với con bò “đối với người đứng ở nơi không có hàng rào, chính nơi đã dẫm lên là nơi chốn,” cửa bị phá là cái lỗ đã bị chính mình phá. Giết ngay tại đó, có phải là phạm tội Ưng Đối Trị vì đối tượng là mạng căn của tâm giết người không? Không phải. Tại sao? Vì là hành động trước của việc lấy của không cho. Tâm trộm cắp đó cũng chính là đối tượng của hành. Ở đây, cả hai đều có, cùng với phần trước và phần sau.

118.Tassuddhāre sabbesaṃ pārājikanti yadi yo āṇatto avassaṃ taṃ bhaṇḍaṃ harati, āṇattikkhaṇe eva pārājikaṃ. ‘‘Idha tiṇṇaṃ kasmā pārājikaṃ, nanu ‘tumhe, bhante, tayo harathā’ti vuttattā thullaccayaṃ, itaresañca paṭipāṭiyā ekekassāṇattattā ekekena ca dukkaṭena bhavitabbaṃ. Kathaṃ, eko kira māsagghanakaṃ parissāvanaṃ thenetvā desetvā nirussāho eva vā hutvā puna māsagghanakaṃ sūciṃ tatheva katvā puna māsagghanakanti evaṃ siyāti? Na evaṃ, taṃ yathā uppalathenako yena vatthu pūrati tāva saussāhattā pārājiko āsi, evamime saussāhāva na desayiṃsu vā’’ti likhitaṃ, pāḷiyaṃ, aṭṭhakathāyañca saṃvidahitvā gatesu ekassuddhāre sabbesaṃ pārājikaṃ vinā viya āṇattiyā kiñcāpi vuttaṃ, atha kho ‘‘tassāyaṃ attho’’ti vatvā pacchā vuttavinicchayesu ca ekabhaṇḍaekaṭṭhānādīsu ca sambahulā ekaṃ āṇāpentīti āṇattimeva niyametvā vuttaṃ, tasmā āṇatti icchitabbā viya, vīmaṃsitabbaṃ. ‘‘‘Ekabhaṇḍaṃ ekaṭṭhāna’nti ca pāṭho ‘ekakulassa bhaṇḍa’nti vaccanā’’ti vadanti.
118. Khi nhấc nó lên, tất cả đều phạm tội Bất Cộng Trụ, nếu người được ra lệnh chắc chắn sẽ mang vật đó đi, thì phạm tội Bất Cộng Trụ ngay trong khi ra lệnh. Đã được viết: “ở đây, tại sao cả ba đều phạm tội Bất Cộng Trụ? Chẳng phải vì đã được nói ‘bạch các ngài, ba vị hãy mang đi,’ nên là tội Trọng Tội, và vì đã ra lệnh cho những người còn lại theo thứ tự, và vì mỗi người chỉ phạm tội Tác Ác? Như thế nào, một người đã trộm một cái lọc nước trị giá một māsaka, sau khi đã sám hối, hoặc là đã trở nên không còn tha thiết, lại làm như vậy với một cây kim trị giá một māsaka, rồi lại một māsaka, như vậy có thể xảy ra không? Không phải vậy. Giống như người trộm hoa sen, vì có lòng tha thiết cho đến khi vật được đầy, nên đã phạm tội Bất Cộng Trụ, cũng vậy, những người này, vì có lòng tha thiết, đã không sám hối.” Trong Pāḷi và Chú giải, mặc dù đã được nói rằng khi họ đi sau khi đã bàn bạc, nếu một người nhấc lên, thì tất cả đều phạm tội Bất Cộng Trụ, giống như không có sự ra lệnh, nhưng sau khi đã nói “đây là ý nghĩa của nó,” và trong các sự phân xử đã được nói sau này, và trong các trường hợp như một vật, một nơi chốn và các trường hợp khác, nhiều người ra lệnh cho một người, nên đã được nói bằng cách xác định chính sự ra lệnh. Do đó, có vẻ như cần phải có sự ra lệnh, cần phải xem xét. Một số người nói rằng “có đoạn văn ‘một vật, một nơi chốn,’ vì lời nói ‘vật của một gia đình’.”

119-120.Ocarake vuttanayenevāti avassaṃhāriye bhaṇḍe. Taṃ saṅketanti tassa saṅketassa. Atha vā taṃ saṅketaṃ atikkamitvā pacchā vā. Apatvā pure vā. Esa nayo taṃ nimittanti etthāpi. Akkhinikhaṇanādikammaṃ lahukaṃ ittarakālaṃ, taṅkhaṇe eva bhaṇḍaṃ avaharituṃ na sakkā, kiñci bhaṇḍaṃ dūraṃ hoti, kiñci bhāriyaṃ, taṃ gahetuṃ yāva gacchati yāva ukkhipati, tāva nimittassa pacchā hoti. Sace taṃ bhaṇḍaṃ adhigataṃ viya āsannaṃ, lahukañca, sakkā nimittakkhaṇe avaharituṃ, tameva sandhāya vuttaṃ kinti? Na, pubbe vuttampi ‘‘tato paṭṭhāya teneva nimittena avaharatī’’ti vuccati āraddhattā. Yadi evaṃ ‘‘purebhattapayogo eso’’ti vāro pamāṇaṃ hoti, na ca taṃ pamāṇaṃ mahāpadumattheravādassa pacchā vuttattā, na saṅketakammaṃ viya nimittakammaṃ daṭṭhabbaṃ. Tattha hi kālaparicchedo atthi, idha natthi, idameva tesaṃ nānattaṃ.
119-120. Theo cách đã được nói trong phần về người dò la là đối với vật chắc chắn sẽ bị mang đi. Sự hẹn đó là của sự hẹn đó. Hoặc là sau khi đã vượt quá sự hẹn đó. Hoặc là trước khi đến. Cách này cũng áp dụng cho câu dấu hiệu đó. Hành động khoét mắt và các hành động khác là nhẹ, trong thời gian ngắn, không thể lấy vật ngay trong khoảnh khắc đó. Một số vật ở xa, một số vật nặng, cho đến khi đi lấy, cho đến khi nhấc lên, thì đã là sau dấu hiệu. Nếu vật đó đã được lấy, hoặc ở gần, và nhẹ, có thể lấy ngay trong khoảnh khắc có dấu hiệu, có phải đã được nói đến để chỉ chính điều đó không? Không, ngay cả điều đã được nói trước đây cũng được gọi là “lấy đi bằng chính dấu hiệu đó” vì đã được bắt đầu. Nếu vậy, đoạn “đó là hành động trước bữa ăn” sẽ là tiêu chuẩn, nhưng đó không phải là tiêu chuẩn vì quan điểm của Trưởng lão Mahāpaduma đã được nói sau này. Không nên hiểu hành động theo dấu hiệu giống như hành động theo sự hẹn. Bởi vì ở đó có sự phân định thời gian, còn ở đây không có. Đây chính là sự khác biệt của chúng.

121.Tañca asammohatthanti eko ‘‘purebhattādīsu vā, akkhinikhaṇanādīni vā disvā gaṇhā’’ti, eko gahetabbaṃ bhaṇḍanissitaṃ katvā ‘‘purebhattaṃ evaṃ vaṇṇasaṇṭhānaṃ bhaṇḍaṃ gaṇhā’’ti vadati, evaṃvidhesu asammohatthaṃ evaṃvidhaṃ saṅketaṃ nimittañca dassetunti ca, yathādhippāyanti dutiyo tatiyassa tatiyo catutthassāti evaṃ paṭipāṭiyā ce vadantīti attho. Sace dutiyo catutthassa vadeti, na yathādhippāyoti ca. ‘‘Paṭiggahitamatteti avassaṃ ce paṭiggaṇhāti, pubbeva thullaccaya’’nti ca likhitaṃ. Paṭiggaṇhakānaṃ dukkaṭaṃ sabbatthokāsābhāvato na vuttaṃ. Pārājikāpajjanenetaṃ dukkaṭaṃ āpajjitvā āpajjanti kira. Atthasādhakāṇatticetanākhaṇe eva pārājiko hotīti adhippāyo. Tattha maggaṭṭhāniyaṃ kataraṃ, kataraṃ phalaṭṭhāniyanti ‘‘atthasādhakacetanā nāma maggānantaraphalasadisā’’ti vuttattā phalaṭṭhāniyā cetanāti siddhaṃ. Āṇatti ce maggaṭṭhāniyā siyā, cetanāsahajattā na sambhavati, tathā bhaṇḍassa avassaṃhāritā ca na sambhavati. Āṇattikkhaṇe eva hi taṃ avassaṃhāritaṃ jātanti avahārakassa paṭiggaṇhañce, tampi na sambhavati anāgatattā. Cetanā ce maggaṭṭhāniyā hoti, āṇattiādīsu aññataraṃ, bhaṇḍassa avassaṃhāritā eva vā phalaṭṭhāniyā ce, attho na sambhavati. Pārājikāpatti eva hi phalaṭṭhāniyā bhavitumarahati, na aññanti evaṃ tāva idha opammasaṃsandanaṃ sambhavati cetanā maggaṭṭhāniyā, tassā pārājikāpattibhāvo phalaṭṭhāniyo. Yathā kiṃ? Yathā paṭisambhidāmagge ‘‘saddhāya ñāṇaṃ dhammapaṭisambhidā. Saddhāya saddatthe ñāṇaṃ atthapaṭisambhidā’’ti ettha añño saddho, añño saddhāya saddatthoti siddhaṃ, yathā ca ‘‘eko amohasaṅkhāto dhammo sampayuttakānaṃ dhammānaṃ hetupaccayena paccayo adhipatisahajātaaññamaññanissayaindriyamaggasampayuttaatthiavigatapaccayena paccayo’’ti ettha amoho dhammo añño, aññe tassa hetupaccayatādayoti siddhaṃ. Yathā ca vinayapiṭake yāni cha āpattisamuṭṭhānāni, evaṃ yathāsambhavaṃ ‘‘satta āpattikkhandhā’’ti vuccanti, tesaṃ aññā āpattisamuṭṭhānatā, añño āpattikkhandhabhāvoti siddhaṃ. Iminā āpattikkhandhanayena āpattādhikaraṇassa kati ṭhānānīti? Satta āpattikkhandhā ṭhānānīti. Kati vatthūnīti? Satta āpattikkhandhā vatthūnīti. Kati bhūmiyoti? Satta āpattikkhandhā bhūmiyoti evamādayopi dassetabbā. Tathā hi tassā evaṃ maggaṭṭhāniyāya atthasādhikāya cetanāya yasmā aññā pārājikāpattitā anatthantarabhūtā ākāravisesasaṅkhātā phalaṭṭhāniyā atthi, tasmā ‘‘atthasādhakacetanā nāma maggānantaraphalasadisā’’ti vuttāti veditabbaṃ. Atha vā kevalaṃ dhammaniyāmattaṃyeva upamattena ācariyena evaṃ vuttantipi sambhavatīti na tattha opammasaṃsandanaṃ pariyesitabbaṃ, ‘‘idaṃ sabbaṃ kevalaṃ takkavasena vuttattā vicāretvā gahetabba’’nti ācariyo.
121. Và đó là để không bị nhầm lẫn, một người nói “hãy lấy sau khi đã thấy bữa ăn trước và các sự kiện khác, hoặc việc khoét mắt và các việc khác.” Một người, sau khi đã làm cho nó gắn liền với vật cần phải lấy, nói “hãy lấy vật có màu sắc và hình dạng như vầy trước bữa ăn.” Trong những trường hợp như vậy, để không bị nhầm lẫn, họ trình bày sự hẹn và dấu hiệu như vậy. Và theo ý định, có nghĩa là nếu người thứ hai nói với người thứ ba, người thứ ba nói với người thứ tư, theo thứ tự như vậy. Và nếu người thứ hai nói với người thứ tư, thì không phải là theo ý định. Và đã được viết: “ngay khi nhận, nếu chắc chắn nhận, thì đã phạm tội Trọng Tội từ trước.” Tội Tác Ác của những người nhận không được nói vì không có cơ hội ở khắp mọi nơi. Người ta nói rằng họ phạm tội Tác Ác này sau khi đã phạm tội Bất Cộng Trụ. Ý định là phạm tội Bất Cộng Trụ ngay trong khoảnh khắc có ý định ra lệnh hoàn thành mục đích. Ở đó, cái nào là thuộc về đạo, cái nào là thuộc về quả? Vì đã được nói “ý định hoàn thành mục đích giống như quả ngay sau đạo,” nên đã được xác định rằng ý định là thuộc về quả. Nếu sự ra lệnh là thuộc về đạo, thì không thể có vì nó cùng sinh với ý định. Cũng vậy, sự chắc chắn sẽ bị mang đi của vật cũng không thể có. Bởi vì ngay trong khoảnh khắc ra lệnh, nó đã trở thành chắc chắn sẽ bị mang đi. Và việc nhận của người lấy trộm cũng không thể có vì chưa đến. Nếu ý định là thuộc về đạo, và nếu một trong số sự ra lệnh và các yếu tố khác, hoặc chính sự chắc chắn sẽ bị mang đi của vật là thuộc về quả, thì ý nghĩa không thể có. Bởi vì chỉ có tội Bất Cộng Trụ mới có thể là thuộc về quả, không phải cái khác. Như vậy, ở đây, sự so sánh bằng ví dụ có thể có: ý định là thuộc về đạo, việc nó trở thành tội Bất Cộng Trụ là thuộc về quả. Như thế nào? Giống như trong Paṭisambhidāmagga, đã được xác định: “trí về đức tin là pháp phân tích. Trí về ý nghĩa của đức tin là nghĩa phân tích,” ở đây, đức tin là khác, và ý nghĩa của đức tin là khác. Và giống như đã được xác định: “một pháp, được gọi là vô si, là duyên cho các pháp tương ưng theo cách nhân duyên, theo cách chủ tể, cùng sinh, tương hỗ, nương tựa, năng lực, đạo, tương ưng, hiện hữu, không vắng mặt,” ở đây, pháp vô si là khác, và tính chất nhân duyên và các tính chất khác của nó là khác. Và giống như đã được xác định trong Tạng Luật, sáu nguồn gốc của tội lỗi, cũng vậy, theo khả năng, được gọi là “bảy uẩn tội lỗi,” tính chất nguồn gốc của tội lỗi của chúng là khác, và bản chất uẩn tội lỗi là khác. Theo cách của uẩn tội lỗi này, vụ tranh chấp về tội lỗi có bao nhiêu nơi chốn? Bảy uẩn tội lỗi là nơi chốn. Có bao nhiêu sự việc? Bảy uẩn tội lỗi là sự việc. Có bao nhiêu cảnh giới? Bảy uẩn tội lỗi là cảnh giới. Các câu tương tự cũng phải được trình bày. Thật vậy, vì ý định hoàn thành mục đích, thuộc về đạo như vậy, có tính chất tội Bất Cộng Trụ khác, là một đặc điểm không phải là ý nghĩa khác, là thuộc về quả, do đó, cần phải biết rằng đã được nói: “ý định hoàn thành mục đích giống như quả ngay sau đạo.” Hoặc là, cũng có thể có rằng vị Giáo thọ sư đã nói như vậy chỉ bằng cách ví von chính quy luật của Pháp, do đó, không cần phải tìm kiếm sự so sánh bằng ví dụ ở đó. Vị Giáo thọ sư nói rằng: “tất cả những điều này, vì đã được nói chỉ bằng sự suy đoán, nên cần phải xem xét và chấp nhận.”

Bhūmaṭṭhakathādivaṇṇanā niṭṭhitā.

Diễn giải về đề tài trên mặt đất và các đề tài khác đã kết thúc.

Āpattibhedavaṇṇanā

Diễn giải về sự phân loại của tội lỗi

122. ‘‘Vibhaṅganayadassanato’’ti vuttattā taṃ sampādetuṃ ‘‘idāni tattha tatthā’’tiādi āraddhaṃ. Tattha aṅgavatthubhedena cāti avahāraṅgajānanabhedena vatthussa haritabbabhaṇḍassa garukalahukabhāvabhedenāti attho. Atha vā aṅgañca vatthubhedena āpattibhedañca dassentoti attho. Atirekamāsako ūnapañcamāsakoti ettha -saddo na vutto, tīhipi eko eva paricchedo vuttoti. Anajjhāvuṭṭhakaṃ nāma araññapālakādinā na kenaci mamāyitaṃ. Chaḍḍitaṃ nāma anatthikabhāvena atirekamattādinā sāmikena chaḍḍitaṃ. Naṭṭhaṃ pariyesitvā chinnālayattā chinnamūlakaṃ. Assāmikavatthūti acchinnamūlakampi yassa sāmiko koci no hoti, nirapekkhā vā pariccajanti, yaṃ vā pariccattaṃ devatādīnaṃ, idaṃ sabbaṃ assāmikavatthu nāma. Devatādīnaṃ vā buddhadhammānaṃ vā pariccattaṃ parehi ce ārakkhakehi pariggahitaṃ, parapariggahitameva. Tathārūpe hi adinnādāne rājāno coraṃ gahetvā hananādikaṃ kareyyuṃ, anārakkhake pana āvāse, abhikkhuke anārāmikādike ca yaṃ buddhadhammassa santakaṃ, taṃ ‘‘āgatāgatehi bhikkhūhi rakkhitabbaṃ gopetabbaṃ mamāyitabba’’nti vaccanā abhikkhukāvāsasaṅghasantakaṃ viya parapariggahitasaṅkhyameva gacchatīti chāyā dissati. Issaro hi yo koci bhikkhu tādise parikkhāre corehipi gayhamāne vāretuṃ paṭibalo ce, balakkārena acchinditvā yathāṭhāne ṭhapetunti. Apariggahite parasantakasaññissa chasu ākāresu vijjamānesupi anāpatti viya dissati , ‘‘yaṃ parapariggahitañca hotī’’ti aṅgabhāvo kiñcāpi dissati, parasantake tathā paṭipannake sandhāya vuttanti gahetabbaṃ. Attano santakaṃ corehi haṭaṃ, corapariggahitattā parapariggahitaṃ hoti, tasmā paro cetaṃ theyyacitto gaṇhati, pārājikaṃ. Sāmiko eva ce gaṇhati, na pārājikaṃ, yasmā codetvā, acchinditvā ca so ‘‘mama santakaṃ gaṇhāmī’’ti gahetuṃ labhati. Paṭhamaṃ dhuraṃ nikkhipitvā ce pacchā theyyacitto gaṇhati, esa nayo. Sāmikena dhuraṃ nikkhittakāle so ce coro kālaṃ karoti, añño theyyacittena gaṇhati, na pārājiko. Anikkhittakāle eva ce kālaṃ karoti, taṃ theyyacittena gaṇhantassa bhikkhuno pārājikaṃ mūlabhikkhussa santakabhāve ṭhitattā. Corabhikkhumhi mate ‘‘matakaparikkhāra’’nti saṅgho vibhajitvā ce taṃ gaṇhati, mūlasāmiko ‘‘mama santakamida’’nti gahetuṃ labhati.
122. Vì đã được nói “do sự trình bày cách phân tích,” để hoàn thành điều đó, đã được bắt đầu “bây giờ ở mỗi nơi” và các đoạn tiếp theo. Ở đó, bằng sự khác biệt về yếu tố và sự việc, có nghĩa là bằng sự khác biệt về sự biết các yếu tố của việc lấy trộm, bằng sự khác biệt về tính chất nặng nhẹ của sự việc, là vật dụng cần phải được mang đi. Hoặc là, có nghĩa là trình bày sự phân loại của tội lỗi bằng sự khác biệt về yếu tố và sự việc. Trong câu trên một māsaka, dưới năm māsaka, ở đây, từ hoặc không được nói, bằng cả ba, chỉ một sự phân định đã được nói. Không có người ở là không được ai coi là của mình, như người giữ rừng và các người khác. Đã được vứt bỏ là đã được chủ nhân vứt bỏ vì không cần đến, vì thừa và các lý do khác. Sau khi đã tìm kiếm vật đã mất và hết lòng quyến luyến, là đã bị cắt gốc. Vật không có chủ, ngay cả khi chưa bị cắt gốc, mà không có ai là chủ nhân, hoặc họ từ bỏ mà không quyến luyến, hoặc là vật đã được từ bỏ cho chư Thiên và các vị khác, tất cả những điều này được gọi là vật không có chủ. Vật đã được từ bỏ cho chư Thiên và các vị khác, hoặc cho Phật và Pháp, nếu được những người bảo vệ khác chiếm giữ, thì chính là vật thuộc sở hữu của người khác. Bởi vì trong việc lấy của không cho như vậy, các vị vua, sau khi đã bắt được kẻ trộm, sẽ thực hiện việc giết và các hình phạt khác. Còn ở nơi ở không có người bảo vệ, và ở nơi không có Tỳ-khưu, không có người trông coi chùa và các nơi khác, những gì thuộc về Phật và Pháp, vì lời nói “phải được các Tỳ-khưu đến và đi bảo vệ, giữ gìn, coi là của mình,” nên có bóng dáng cho rằng nó được kể vào số vật thuộc sở hữu của người khác, giống như của Tăng chúng ở tu viện không có Tỳ-khưu. Bởi vì bất kỳ Tỳ-khưu nào là người có quyền, nếu có khả năng ngăn cản khi các vật dụng đó bị trộm cướp lấy đi, thì sau khi đã lấy lại bằng vũ lực, hãy đặt lại vào nơi cũ. Đối với vật không được chiếm giữ, dù có ý thức là của người khác, có vẻ như không phạm tội ngay cả khi có sáu cách. Mặc dù có vẻ như là yếu tố “và là vật thuộc sở hữu của người khác,” nhưng cần phải hiểu là đã được nói đến để chỉ người đã hành xử như vậy đối với vật của người khác. Của cải của mình bị trộm cướp lấy đi, vì đã bị trộm cướp chiếm giữ, nên trở thành vật thuộc sở hữu của người khác. Do đó, nếu người khác lấy nó với tâm trộm cắp, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu chính chủ nhân lấy, thì không phạm tội Bất Cộng Trụ. Bởi vì sau khi đã chất vấn và lấy lại, người đó được phép lấy, nói rằng “tôi lấy của của tôi.” Nếu trước hết từ bỏ trách nhiệm rồi sau đó lấy với tâm trộm cắp, thì cách này cũng vậy. Nếu vào lúc chủ nhân từ bỏ trách nhiệm, kẻ trộm đó chết, và người khác lấy với tâm trộm cắp, thì không phạm tội Bất Cộng Trụ. Còn nếu chết ngay trong khi chưa từ bỏ trách nhiệm, thì Tỳ-khưu lấy nó với tâm trộm cắp phạm tội Bất Cộng Trụ, vì nó vẫn thuộc sở hữu của Tỳ-khưu gốc. Nếu sau khi Tỳ-khưu trộm cắp chết, Tăng chúng chia và lấy nó, nói rằng “vật dụng của người chết,” thì chủ nhân gốc được phép lấy, nói rằng “đây là của của tôi.”

Etthāha – bhūmaṭṭhādinimittakammapariyosānā eva avahārabhedā, udāhu aññepi santīti. Kiñcettha yadi aññepi santi, tepi vattabbā. Na hi bhagavā sāvasesaṃ pārājikaṃ paññapeti. No ce santi, ye ime tulākūṭakaṃsakūṭamānakūṭaukkoṭanavañcananikatisāciyogaviparāmosaālopasāhasākārā ca suttaṅgesu sandissamānā, te idha āgatesu ettha samodhānaṃ gacchantīti ca lakkhaṇato vā tesaṃ samodhānagatabhāvo vattabboti? Vuccate – lakkhaṇato siddhova. Kathaṃ? ‘‘Pañcahi ākārehī’’tiādinā nayena aṅgavatthubhedena. Āpattibhedo hi pāḷiyaṃ (pārā. 128-130) vutto eva, aṭṭhakathāyañca ‘‘kūṭamānakūṭakahāpaṇādīhi vā vañcetvā gaṇhati, tassevaṃ gaṇhato avahāro theyyāvahāro’’ti (pārā. aṭṭha. 1.138; kaṅkhā. aṭṭha. dutiyapārājikavaṇṇanā) āgatattā tulākūṭagahaṇādayo theyyāvahāre samodhānaṃ gatāti siddhaṃ. Viparāmosaālopasāhasākārā ca aṭṭhakathāyāgate pasayhāvahāre samodhānaṃ gacchanti. Imaṃyeva vā pasayhāvahāraṃ dassetuṃ ‘‘gāmaṭṭhaṃ araññaṭṭha’’nti mātikaṃ nikkhipitvā ‘‘gāmaṭṭhaṃ nāma bhaṇḍaṃ catūhi ṭhānehi nikkhittaṃ hotī’’tiādinā nayena vibhāgo vutto. Tenedaṃ vuttaṃ hoti – gahaṇākārabhedasandassanatthaṃ visuṃ kataṃ. Na hi bhūmitalādīhi gāmāraññaṭṭhaṃ yaṃ kiñcīti. Tattha yaṃ tulākūṭaṃ, taṃ rūpakūṭaṅgagahaṇapaṭicchannakūṭavasena catubbidhampi vehāsaṭṭhe samodhānaṃ gacchati. Hadayabhedasikhābhedarajjubhedavasena tividhe mānakūṭe ‘‘svāyaṃ hadayabhedo mariyādaṃ chindatī’’ti ettha samodhānaṃ gacchati. Hadayabhedo hi sappitelādiminanakāle labbhati. ‘‘Phandāpeti attano bhājanagataṃ karotī’’ti ettha sikhābhedopi labbhati. So ‘‘tilataṇḍulādiminanakāle labbhatī’’ti vuttaṃ. Khettaminanakāle rajjubhedo samodhānaṃ gacchati. ‘‘Dhammaṃ caranto sāmikaṃ parājetī’’ti ettha ukkoṭanaṃ samodhānaṃ gacchatīti te ca tathā vañcananikatiyopi.
Vị ấy nói ở đây – các sự phân loại của việc lấy trộm chỉ có ở các trường hợp như trên mặt đất và các trường hợp khác, hay là còn có những trường hợp khác? Ở đây, nếu còn có những trường hợp khác, thì chúng cũng phải được nói đến. Bởi vì Thế Tôn không chế định tội Bất Cộng Trụ có phần còn lại. Còn nếu không có, thì những cách như dùng cân gian, đấu gian, thước gian, tống tiền, lừa đảo, gian lận, mưu mô, cướp giật, cướp bóc, hành hung, được thấy trong các phần của kinh điển, chúng có được gộp chung vào những gì đã có ở đây không, và sự gộp chung của chúng theo đặc điểm có phải được nói đến không? Xin thưa – đã được xác định theo đặc điểm. Như thế nào? Bằng cách phân loại tội lỗi theo sự khác biệt về yếu tố và sự việc, theo cách “bằng năm cách” và các cách khác, đã được nói trong Pāḷi (pārā. 128-130). Và vì trong Chú giải đã có câu “hoặc là lấy bằng cách lừa đảo bằng thước gian, cân gian, kahāpaṇa gian và các cách khác, thì việc lấy như vậy của người đó là sự lấy trộm, là sự lấy trộm của kẻ trộm” (pārā. aṭṭha. 1.138; kaṅkhā. aṭṭha. dutiyapārājikavaṇṇanā), nên đã được xác định rằng việc lấy bằng cân gian và các cách khác được gộp chung vào sự lấy trộm của kẻ trộm. Còn các cách cướp giật, cướp bóc, hành hung thì được gộp chung vào sự lấy trộm bằng vũ lực đã có trong Chú giải. Chính để trình bày sự lấy trộm bằng vũ lực này, sau khi đã đặt đề mục “ở làng, ở rừng,” phần phân tích đã được nói theo cách “vật ở làng được đặt ở bốn nơi” và các cách khác. Do đó, đã được nói rằng – đã được làm riêng để trình bày sự khác biệt về cách lấy. Không phải bất cứ thứ gì ở làng, ở rừng, từ mặt đất và các nơi khác. Ở đó, cái gì là cân gian, thì cả bốn loại: dùng hình dạng gian, che giấu và gian lận, đều được gộp chung vào việc lấy ở trên không. Trong ba loại thước gian: phá vỡ tim, phá vỡ đỉnh, phá vỡ dây, “việc phá vỡ tim này đã phá vỡ ranh giới,” ở đây được gộp chung. Bởi vì việc phá vỡ tim được chấp nhận trong khi đo dầu, bơ và các chất lỏng khác. “Làm cho rung động, làm cho vào trong bát của mình,” ở đây, việc phá vỡ đỉnh cũng được chấp nhận. Đã được nói rằng nó được chấp nhận trong khi đo vừng, gạo và các loại hạt khác. Trong khi đo ruộng, việc phá vỡ dây được gộp chung. “Hành xử đúng pháp nhưng làm cho chủ nhân thua kiện,” ở đây, việc tống tiền được gộp chung. Và cũng vậy, các cách lừa đảo và gian lận.

Āpattibhedavaṇṇanā niṭṭhitā.

Diễn giải về sự phân loại của tội lỗi đã kết thúc.

Anāpattibhedavaṇṇanā

Diễn giải về sự phân loại của sự không có tội

131.Na ca gahite attamano hoti, tassa santakaṃ vissāsagāhena gahitampi puna dātabbanti idaṃ ‘‘tena kho pana samayena dve bhikkhū sahāyakā honti. Eko gāmaṃ piṇḍāya pāvisi…pe… anāpatti, bhikkhu, vissāsaggāhe’’ti (pārā. 146) iminā asamentaṃ viya dissati. Ettha hi ‘‘so jānitvā taṃ codesi assamaṇosi tva’’nti vacanena anattamanatā dīpitā. Puna ‘‘anāpatti, bhikkhu, vissāsaggāhe’’ti vacanena attamanatāyapi sati vissāsaggāho ruhatīti dīpitanti ce? Taṃ na, aññathā gahetabbatthato. Ayañhettha attho – pārājikāpattiyā anāpatti vissāsasaññāya gāhe sati, sopi bhikkhu sahāyakattā na kuddho codesi, piyo eva samāno ‘‘kacci assamaṇosi tvaṃ, gaccha, vinicchayaṃ katvā suddhante tiṭṭhāhī’’ti codesi. Sacepi so kuddho eva codeyya, ‘‘anāpattī’’ti idaṃ kevalaṃ pārājikābhāvaṃ dīpeti, na vissāsaggāhasiddhaṃ. Yo pana parisamajjhe lajjāya adhivāseti, na kiñci vadatīti attho. ‘‘Punavattukāmatādhippāye pana sopi paccāharāpetuṃ labhatī’’ti vuttaṃ. Sace coro pasayha gahetukāmopi ‘‘adhivāsetha, bhante, idha me cīvarānī’’ti vatvā cīvarāni therena dinnāni, adinnāni vā sayaṃ gahetvā gacchati, thero puna pakkhaṃ labhitvā codetuṃ labhati, pubbe adhivāsanā adhivāsanasaṅkhyaṃ na gacchati bhayena tuṇhībhūtattā, ‘‘yaṃ cīvaraṃ idha sāmiko paccāharāpetuṃ labhatī’’ti vuttaṃ. Sāmikassa pākatikaṃ kātabbaṃ, ‘‘idaṃ kira vatta’’nti vuttaṃ. Sace saṅghassa santakaṃ kenaci bhikkhunā gahitaṃ, tassa tena saṅghassa vā dhammassa vā upakāritā atthi, gahitappamāṇaṃ apaloketvā dātabbaṃ. ‘‘So tena yathāgahitaṃ pākatikaṃ katvā anaṇo hoti, gilānādīnampi eseva nayo’’ti vuttaṃ.
131. Và không vui mừng khi đã lấy, vật của người đó, dù đã được lấy bằng cách tin tưởng, cũng phải được trả lại, điều này có vẻ như không phù hợp với câu “vào lúc bấy giờ, có hai Tỳ-khưu là bạn. Một người vào làng để khất thực… cho đến… không phạm tội, này Tỳ-khưu, trong việc lấy bằng cách tin tưởng” (pārā. 146). Bởi vì ở đây, bằng lời nói “sau khi đã biết, vị ấy đã chất vấn người đó ‘ngươi không phải là Sa-môn’,” sự không vui mừng đã được trình bày. Nếu nói rằng lại bằng lời nói “không phạm tội, này Tỳ-khưu, trong việc lấy bằng cách tin tưởng,” đã được trình bày rằng ngay cả khi có sự vui mừng, việc lấy bằng cách tin tưởng vẫn có hiệu lực? Không phải vậy, do ý nghĩa cần phải được hiểu theo cách khác. Ở đây, đây là ý nghĩa – không phạm tội Bất Cộng Trụ khi có sự lấy với ý thức là tin tưởng. Tỳ-khưu đó, vì là bạn, đã không chất vấn một cách giận dữ, mà vẫn là bạn, đã chất vấn “có phải ngươi không phải là Sa-môn không, hãy đi, sau khi đã phân xử, hãy đứng trong sự trong sạch.” Ngay cả nếu vị ấy chất vấn một cách giận dữ, câu “không phạm tội” chỉ trình bày sự không có tội Bất Cộng Trụ, không phải là sự xác định của việc lấy bằng cách tin tưởng. Còn người nào, vì xấu hổ ở giữa Tăng chúng, đã chịu đựng, có nghĩa là không nói gì. Đã được nói: “nhưng với ý định muốn nói lại, người đó cũng được phép đòi lại.” Nếu kẻ trộm, dù muốn lấy bằng vũ lực, nhưng sau khi đã nói “bạch ngài, xin hãy giữ y của tôi ở đây,” và đi sau khi đã lấy y đã được trưởng lão cho, hoặc chưa cho mà tự mình lấy, thì trưởng lão, sau khi đã có được sự ủng hộ, được phép chất vấn. Sự chịu đựng trước đó không được kể là sự chịu đựng, vì đã im lặng do sợ hãi. Đã được nói: “y nào mà ở đây, chủ nhân được phép đòi lại.” Phải làm cho nó trở lại bình thường đối với chủ nhân. Đã được nói: “người ta nói rằng đây là bổn phận.” Nếu vật của Tăng chúng bị một Tỳ-khưu nào đó lấy đi, nếu người đó có lợi ích cho Tăng chúng hoặc cho Pháp, thì phải cho sau khi đã biểu quyết số lượng đã được lấy. Đã được nói: “người đó, sau khi đã làm cho nó trở lại bình thường như đã lấy, thì không còn nợ nữa. Đối với người bệnh và các trường hợp khác, cách này cũng vậy.”

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.

Diễn giải về phân tích từ đã kết thúc.

Pakiṇṇakakathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài linh tinh

Sāhatthikāṇattikanti ekabhaṇḍaṃ eva. ‘‘Bhāriyañhidaṃ tvampi ekapassaṃ gaṇha, ahampi ekapassaṃ gaṇhāmīti saṃvidahitvā ubhayesaṃ payogena ṭhānācāvane kate kāyavācācittehi hoti . Aññathā ‘sāhatthikaṃ vā āṇattikassa aṅgaṃ na hoti, āṇattikaṃ vā sāhatthikassā’ti iminā virujjhatī’’ti likhitaṃ. Dhammasiritthero pana ‘‘na kevalaṃ bhāriye eva vatthumhi ayaṃ nayo labbhati, pañcamāsakamattampi dve ce janā saṃvidahitvā gaṇhanti, dvinnampi pāṭekkaṃ, sāhatthikaṃ nāma taṃ kammaṃ, sāhatthikapayogattā ekasmiṃyeva bhaṇḍe, tasmā ‘sāhatthikaṃ āṇattikassa aṅgaṃ na hotī’ti vacanamimaṃ nayaṃ na paṭibāhati. ‘Sāhatthikavatthuaṅganti sāhatthikassa vatthussa aṅgaṃ na hotī’ti tattha vuttaṃ. Idha pana payogaṃ sandhāya vuttattā yujjatī’’ti āha kira, taṃ ayuttaṃ kāyavacīkammanti vacanābhāvā, tasmā sāhatthikāṇattikesu payogesu aññatarena vāyamāpatti samuṭṭhāti , tathāpi turitaturitā hutvā vilopanādīsu gahaṇagāhāpanavasenetaṃ vuttaṃ. Yathā kālena attano kālena parassa dhammaṃ ārabbha sīghaṃ sīghaṃ uppattiṃ sandhāya ‘‘ajjhattabahiddhārammaṇā dhammā’’ti (dha. sa. tikamātikā 21) vuttā, evaṃsampadamidanti daṭṭhabbaṃ.
Hành động bằng tay và ra lệnh là cùng một sự việc. Đã được viết: “Đây là vật nặng, ngươi hãy cầm một bên, ta cũng sẽ cầm một bên,’ sau khi đã bàn bạc và thực hiện việc di chuyển khỏi nơi chốn bằng hành động của cả hai, thì xảy ra bằng thân, khẩu và tâm. Nếu không, sẽ mâu thuẫn với câu ‘hành động bằng tay không phải là một phần của việc ra lệnh, hoặc việc ra lệnh không phải là một phần của hành động bằng tay’.” Còn Trưởng lão Dhammasiri đã nói: “không chỉ trong trường hợp vật nặng mới có cách này, ngay cả vật chỉ trị giá năm māsaka, nếu hai người bàn bạc và lấy đi, thì cả hai đều phạm tội riêng biệt. Hành động đó được gọi là hành động bằng tay, do hành động bằng tay trong cùng một sự việc. Do đó, lời nói ‘hành động bằng tay không phải là một phần của việc ra lệnh’ không cản trở cách này. Ở đó đã được nói ‘phần của sự việc hành động bằng tay là không phải là phần của sự việc của hành động bằng tay.’ Còn ở đây, vì đã được nói đến để chỉ hành động, nên hợp lý,” điều đó không hợp lý vì không có lời nói “thân và khẩu nghiệp.” Do đó, tội lỗi này phát sinh do một trong hai hành động, bằng tay hoặc ra lệnh. Tuy nhiên, điều đó đã được nói theo cách lấy đi và ra lệnh trong khi cướp bóc và các hành động khác một cách vội vã. Cần phải biết rằng điều này giống như đã được nói “các pháp có đối tượng bên trong và bên ngoài” (dha. sa. tikamātikā 21) để chỉ sự sinh khởi nhanh chóng liên quan đến pháp của mình và của người khác theo thời gian.

Tatthapi ye anuttarādayo ekantabahiddhārammaṇā viññāṇañcāyatanādayo ekantaajjhattārammaṇā, itare aniyatārammaṇattā ‘‘ajjhattabahiddhārammaṇā’’ti vuccanti, na ekakkhaṇe ubhayārammaṇattā. Ayaṃ pana āpatti yathāvuttanayena sāhatthikā āṇattikāpi hotiyeva, tasmā anidassanametanti ayuttaṃ. ‘‘Yathā aniyatārammaṇattā ‘ajjhattabahiddhārammaṇā’ti vuttā, tathā aniyatapayogattā ayampi āpatti ‘sāhatthikāṇattikā’ti vuttāti nidassanameveta’’nti ekacce ācariyā āhu. ‘‘Ime panācariyā ubhinnaṃ ekato ārammaṇakaraṇaṃ natthi. Atthi ce, ‘ajjhattabahiddhārammaṇaṃ dhammaṃ paṭicca ajjhattabahiddhārammaṇo dhammo uppajjati hetupaccayā’tiādinā (paṭṭhā. 2.21.1 ajjhattārammaṇatika) paṭṭhānapāṭhena bhavitabbanti saññāya āhaṃsu, tesaṃ matena ‘siyā ajjhattabahiddhārammaṇā’ti vacanaṃ niratthakaṃ siyā, na ca niratthakaṃ, tasmā attheva ekato ajjhattabahiddhārammaṇo dhammo. Puna ‘ayaṃ so’ti niyamena ajjhattabahiddhārammaṇā dhammā viya niddisitabbābhāvato na uddhaṭo siyā. Tattha anuddhaṭattā eva dhammasaṅgahaṭṭhakathāyaṃ ubhinnampi ajjhattabahiddhādhammānaṃ ekato ārammaṇakaraṇadhammavasena ‘ajjhattabahiddhārammaṇā’ti avatvā ‘kālena ajjhattabahiddhā pavattiyaṃ ajjhattabahiddhārammaṇa’nti vuttaṃ, tasmā gaṇṭhipade vuttanayova sāroti no takko’’ti ācariyo. Tattha ‘‘kāyavacīkamma’’nti avacanaṃ panassa sāhatthikapayogattā ekapayogassa anekakammattāva, yadi bhaveyya, manokammampi vattabbaṃ bhaveyya, yathā tattha manokammaṃ vijjamānampi abbohārikaṃ jātaṃ, evaṃ tasmiṃ sāhatthikāṇattike vacīkammaṃ abbohārikanti veditabbaṃ, taṃ pana kevalaṃ kāyakammassa upanissayaṃ jātaṃ, cittaṃ viya tattha aṅgameva jātaṃ, tasmā vuttaṃ ‘‘sāhatthikapayogattā’’ti, ‘‘aṅgabhāvamattameva hi sandhāya ‘sāhatthikāṇattika’nti vuttanti no takko’’ti ca, vicāretvā gahetabbaṃ.
Ở đó, những pháp nào như siêu thế và các pháp khác, hoàn toàn có đối tượng bên ngoài, và các pháp như không vô biên xứ và các pháp khác, hoàn toàn có đối tượng bên trong, còn các pháp khác, vì có đối tượng không xác định, nên được gọi là “có đối tượng bên trong và bên ngoài,” không phải vì có cả hai đối tượng trong một khoảnh khắc. Còn tội lỗi này, theo cách đã nói, cũng chính là hành động bằng tay và ra lệnh. Do đó, nói rằng đây không phải là ví dụ là không hợp lý. Một số vị Giáo thọ sư đã nói: “Giống như vì có đối tượng không xác định mà được gọi là ‘có đối tượng bên trong và bên ngoài,’ cũng vậy, vì có hành động không xác định, nên tội lỗi này cũng được gọi là ‘hành động bằng tay và ra lệnh,’ do đó, đây chính là ví dụ.” Vị Giáo thọ sư nói: “Các vị Giáo thọ sư này đã nói với ý nghĩ rằng không có việc lấy cả hai làm đối tượng cùng một lúc. Nếu có, thì phải có Pāḷi của Paṭṭhāna: ‘do duyên pháp có đối tượng bên trong và bên ngoài mà pháp có đối tượng bên trong và bên ngoài sinh khởi theo nhân duyên’” và các đoạn tiếp theo (paṭṭhāna. 2.21.1 ajjhattārammaṇatika). Theo quan điểm của họ, lời nói ‘có thể có đối tượng bên trong và bên ngoài’ sẽ trở nên vô ích. Nhưng không phải là vô ích. Do đó, chắc chắn có pháp có đối tượng bên trong và bên ngoài cùng một lúc. Lại có thể không được trích dẫn vì không có khả năng được chỉ định bằng cách xác định ‘đây là nó,’ giống như các pháp có đối tượng bên trong và bên ngoài. Chính vì không được trích dẫn, nên trong Chú giải Dhammasaṅgaha, thay vì nói ‘có đối tượng bên trong và bên ngoài’ theo cách của pháp lấy cả hai pháp bên trong và bên ngoài làm đối tượng cùng một lúc, lại được nói ‘có đối tượng bên trong và bên ngoài do sự tiến triển bên trong và bên ngoài theo thời gian.’ Do đó, theo suy đoán của chúng tôi, cách đã được nói trong sách giải thích từ khó là cốt lõi.” Ở đó, việc không nói “thân và khẩu nghiệp” là vì một hành động có nhiều nghiệp do hành động bằng tay. Nếu có, thì ý nghiệp cũng phải được nói. Giống như ở đó, ý nghiệp, dù có tồn tại, cũng đã trở thành không có giá trị pháp lý, cũng vậy, cần phải biết rằng trong hành động bằng tay và ra lệnh đó, khẩu nghiệp không có giá trị pháp lý. Nó chỉ trở thành nền tảng cho thân nghiệp, giống như tâm, nó đã trở thành một phần ở đó. Do đó, đã được nói “do hành động bằng tay.” Và cũng theo suy đoán của chúng tôi: “đã được nói ‘hành động bằng tay và ra lệnh’ chỉ để chỉ bản chất là một phần,” cần phải xem xét và chấp nhận.

Kāyavācā samuṭṭhānā, yassā āpattiyā siyuṃ;
Tattha kammaṃ na taṃ cittaṃ, kammaṃ nassati khīyati.
Kiriyākiriyādikaṃ yañca, kammākammādikaṃ bhave;
Na yuttaṃ taṃ viruddhattā, kammamekaṃva yujjati.
Tội lỗi nào có nguồn gốc từ thân và khẩu;
Ở đó, hành động đó không phải là tâm, hành động mất đi, tiêu tan.
Điều gì là hành động, không hành động, và các điều khác, là nghiệp, không phải nghiệp, và các điều khác;
Điều đó không hợp lý vì mâu thuẫn, chỉ có một nghiệp là hợp lý.

Vinītavatthuvaṇṇanā

Diễn giải về sự việc được quyết định

132.Anāpatti, bhikkhu, cittuppādeti ettha kevalaṃ cittaṃ, tasseva uppādetabbāpattīhi anāpattīti attho. Etthāha – upanikkhittasādiyanādīsu, sabbesu ca akiriyasikkhāpadesu na kāyaṅgacopanaṃ vā vācaṅgacopanaṃ vā, apicāpatti, kasmā imasmiṃyeva sikkhāpade anāpatti, na sabbāpattīhīti? Na, kasmā.
132. Không phạm tội, này Tỳ-khưu, trong việc khởi tâm, ở đây, ý nghĩa là chỉ có tâm, không phạm tội do các tội lỗi cần phải được khởi lên bởi chính nó. Vị ấy nói ở đây – trong việc đồng ý với vật đã được gửi gắm và các trường hợp khác, và trong tất cả các học giới không phải là hành động, không có sự cử động của thân thể hay sự cử động của lời nói, nhưng lại có tội. Tại sao trong chính học giới này lại không phạm tội, không phải là không phạm tất cả các tội? Không phải vậy. Tại sao?

Kattabbā sādhikaṃ sikkhā, viññattiṃ kāyavācikaṃ;
Akatvā kāyavācāhi, aviññattīhi taṃ phuse.
Học giới cần phải được thực hành nhiều hơn, sự biểu lộ của thân và khẩu;
Không làm bằng thân và khẩu, bằng sự không biểu lộ, chạm vào nó.

Na lesabhāvattā. Sappāye ārammaṇe aṭṭhatvā paṭiladdhāsevanaṃ hutvā tato paraṃ suṭṭhu dhāvatīti sandhāvati. Tato abhijjhāya sahagataṃ, byāpādasahagataṃ vā hutvā visesato dhāvatīti vidhāvati.
Không phải vì bản chất lách luật. Sau khi đã có được sự thực hành bằng cách đứng vững trong đối tượng thích hợp, sau đó chạy nhanh được gọi là chạy theo. Sau đó, đi kèm với tham ái hoặc sân hận, chạy một cách đặc biệt được gọi là chạy tán loạn.

137.Vaṇaṃ katvā gahetunti ettha kiñcāpi iminā sikkhāpadena anāpatti, itthirūpassa nāma yattha āmasantassa dukkaṭanti keci. ‘‘Kāyapaṭibaddhaggahaṇaṃ yuttaṃ, taṃ sandhāya vaṭṭatīti vutta’’nti vadanti. Ubhayaṃ vicāretvā gahetabbaṃ.
137. Sau khi đã làm một vết thương và lấy đi, ở đây, mặc dù không phạm tội theo học giới này, nhưng một số người cho rằng đối với hình dạng của người phụ nữ, ở đâu mà chạm vào, thì phạm tội Tác Ác. Một số người nói rằng “việc nắm bắt vật gắn liền với thân là hợp lý, đã được nói là được phép để chỉ điều đó.” Cả hai điều cần được xem xét và chấp nhận.

Kusasaṅkāmanavatthukathāvaṇṇanā

Diễn giải câu chuyện về việc chuyển cỏ Kusa

138.Mahāpaccariyādīsu yaṃ vuttaṃ ‘‘paduddhāreneva kāretabbo’’ti, taṃ suvuttaṃ. Kintu tassa parikappāvahārakamattaṃ na dissatīti dassanatthaṃ idaṃ vuttaṃ. Uddhāre vāyaṃ āpanno, tasmā disvā gacchanto ‘‘paduddhāreneva kāretabbo’’ti idaṃ tattha duvuttanti vuttaṃ hoti. Kathaṃ? ‘‘Sāṭakatthiko sāṭakapasibbakameva gahetvā bahi nikkhamitvā sāṭakabhāvaṃ ñatvā ‘pacchā gaṇhissāmī’ti evaṃ parikappetvā gaṇhati, na uddhāre evāpajjati. Yadā bahi ṭhatvā ‘sāṭako aya’nti disvā gacchati, tadā paduddhāreneva kāretabbo’’ti na vuttametaṃ, kintu kiñcāpi parikappo dissati, pubbabhāge avahārakkhaṇe na dissatīti na so parikappāvahāro, ayamattho mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttova, tasmā ‘‘ñāyamevā’’ti vadanti. Kammantasālā nāma kassakānaṃ vanacchedakānaṃ gehāni. Ayaṃ tāvāti sace upacārasīmantiādi yāva theravādo mahāaṭṭhakathānayo, tattha keci panātiādi na gahetabbaṃ theravādattā yuttiabhāvato, na hi sāhatthike evaṃvidhā atthasādhakacetanā hoti. Āṇattike eva atthasādhakacetanā. ‘‘Sesaṃ mahāpaccariyaṃ vuttenatthena sametī’’ti vuttaṃ.
138. Điều đã được nói trong Mahāpaccarī và các sách khác: “phải được thực hiện chỉ bằng việc nhấc chân lên,” điều đó đã được nói rất hay. Nhưng điều này đã được nói để trình bày rằng không thấy có hành động lấy trộm bằng cách lập kế hoạch. Người này đã phạm tội khi nhấc lên, do đó, đã được nói rằng điều “phải được thực hiện chỉ bằng việc nhấc chân lên” đối với người đi sau khi đã thấy, là nói sai ở đó. Như thế nào? Người ta không nói rằng: “người cần tấm vải, sau khi đã lấy chính cái túi vải và đi ra ngoài, và sau khi đã biết là tấm vải, đã lập kế hoạch ‘tôi sẽ lấy sau’ và lấy đi, không phạm tội ngay khi nhấc lên. Khi đứng ở ngoài và thấy ‘đây là tấm vải’ và đi, thì phải được thực hiện chỉ bằng việc nhấc chân lên.” Nhưng mặc dù có vẻ như có sự lập kế hoạch, nhưng không thấy có trong khi lấy trộm ở phần trước. Do đó, đó không phải là sự lấy trộm bằng cách lập kế hoạch. Ý nghĩa này đã được nói trong Đại Chú giải, do đó, một số người nói rằng “chính là cách.” Nhà làm việc là nhà của những người nông dân, những người đốn cây trong rừng. Đây là, nếu khu vực ngoại ô là ranh giới và các điều khác, cho đến khi quan điểm của các trưởng lão là cách của Đại Chú giải. Ở đó, nhưng một số người và các điều khác không nên được chấp nhận, vì là quan điểm của các trưởng lão và không có lý lẽ. Bởi vì trong hành động bằng tay, không có ý định hoàn thành mục đích như vậy. Chỉ trong việc ra lệnh mới có ý định hoàn thành mục đích. Đã được nói: “phần còn lại phù hợp với ý nghĩa đã được nói trong Mahāpaccarī.”

Kusasaṅkāmanakaraṇe sace paro ‘‘nāyaṃ mama santako’’ti jānāti, itarassa hatthato muttamatte pārājikāpatti khīlasaṅkāmane viya. ‘‘Attano santakaṃ sace jānāti, na hotī’’ti vadanti. Evaṃ sante pañcakāni saṅkarāni hontīti upaparikkhitabbaṃ.
Trong việc thực hiện việc chuyển cỏ kusa, nếu người kia biết “đây không phải là của tôi,” thì phạm tội Bất Cộng Trụ ngay khi thoát khỏi tay người kia, giống như trong việc chuyển cọc. Một số người nói rằng “nếu biết là của mình, thì không có.” Nếu vậy, cần phải xem xét rằng năm loại sẽ bị lẫn lộn.

140.Parānuddayatāyāti ettha parānuddayatāya koṭippattena bhagavatā kasmā ‘‘anāpatti petapariggahe tiracchānagatapariggahe’’ti (pārā. 131) vuttanti ce? Parānuddayatāya eva. Yassa hi parikkhārassa ādāne rājāno coraṃ gahetvā na hananādīni kareyyuṃ, tasmimpi nāma samaṇo gotamo pārājikaṃ paññapetvā bhikkhuṃ abhikkhuṃ karotīti mahājano bhagavati pasādaññathattaṃ āpajjitvā apāyupago hoti. Apetapariggahitā rukkhādī ca dullabhā, na ca sakkā ñātunti rukkhādīhi pāpabhīruko upāsakajano paṭimāgharacetiyabodhigharavihārādīni akatvā mahato puññakkhandhato parihāyeyya. ‘‘Rukkhamūlasenāsanaṃ paṃsukūlacīvaraṃ nissāya pabbajjā’’ti (mahāva. 128) vuttanissayā ca anissayā honti. Parapariggahitasaññino hi bhikkhū rukkhamūlapaṃsukūlāni na sādiyissantīti, pabbajjā ca na sambhaveyyuṃ, sappadaṭṭhakāle chārikatthāya rukkhaṃ aggahetvā maraṇaṃ vā nigaccheyyuṃ, acchinnacīvarādikāle sākhābhaṅgādiṃ aggahetvā naggā hutvā titthiyaladdhimeva suladdhi viya dīpentā vicareyyuṃ, tato titthiyesveva loko pasīditvā diṭṭhiggahaṇaṃ patvā saṃsārakhāṇuko bhaveyya, tasmā bhagavā parānuddayatāya eva ‘‘anāpatti petapariggahe’’tiādimāhāti veditabbaṃ.
140. Do lòng thương xót người khác, ở đây, nếu hỏi tại sao Thế Tôn, người đã đạt đến đỉnh điểm của lòng thương xót người khác, lại nói “không phạm tội đối với vật thuộc sở hữu của ngạ quỷ, vật thuộc sở hữu của súc sinh” (pārā. 131)? Chính là do lòng thương xót người khác. Bởi vì nếu đối với vật dụng nào mà khi lấy đi, các vị vua, sau khi đã bắt được kẻ trộm, không thực hiện việc giết và các hình phạt khác, mà Sa-môn Gotama lại chế định tội Bất Cộng Trụ và làm cho Tỳ-khưu trở thành không phải Tỳ-khưu, thì nhiều người, sau khi đã có quan điểm khác về lòng tin đối với Thế Tôn, sẽ đi đến cảnh giới xấu. Và các cây và các vật khác không thuộc sở hữu của ngạ quỷ thì hiếm, và không thể biết được. Do đó, các cận sự nam, những người sợ tội lỗi, sẽ không làm các công trình như nhà tượng, tháp, nhà cây Bồ-đề, tu viện và các công trình khác bằng cây và các vật liệu khác, và sẽ bị mất đi một khối công đức lớn. Và các nơi nương tựa đã được nói “xuất gia dựa vào chỗ ở dưới gốc cây, y phấn tảo” (mahāva. 128) sẽ trở thành không phải là nơi nương tựa. Bởi vì các Tỳ-khưu, với ý thức là vật thuộc sở hữu của người khác, sẽ không đồng ý với gốc cây và y phấn tảo. Và việc xuất gia cũng sẽ không thể có. Trong khi bị rắn cắn, họ có thể chết vì không lấy cây để làm thuốc. Trong khi y bị rách và các trường hợp khác, vì không lấy cành cây và các vật khác, họ có thể đi trần truồng, trình bày chính quan điểm của ngoại đạo như là quan điểm đúng đắn. Sau đó, thế gian, chỉ tin tưởng vào các ngoại đạo, sau khi đã đi đến tà kiến, sẽ trở thành một cây cọc trong vòng luân hồi. Do đó, cần phải biết rằng Thế Tôn, chính vì lòng thương xót người khác, đã nói “không phạm tội đối với vật thuộc sở hữu của ngạ quỷ” và các câu tương tự.

141.Aparampi bhāgaṃ dehīti ‘‘gahitaṃ viññattisadisattā neva bhaṇḍadeyyaṃ na pārājika’’nti likhitaṃ, idaṃ pakatijane yujjati. ‘‘Sace pana sāmiko vā tena āṇatto vā ‘aparassa sahāyabhikkhussa bhāgaṃ esa gaṇhāti yācati vā’ti yaṃ aparabhāgaṃ deti, taṃ bhaṇḍadeyya’’nti vadanti.
141. Hãy cho một phần khác, đã được viết: “vì giống như việc xin, nên không phải bồi thường vật, cũng không phải tội Bất Cộng Trụ,” điều này hợp lý đối với người bình thường. Một số người nói rằng “nhưng nếu chủ nhân hoặc người được người đó ra lệnh cho một phần khác, nói rằng ‘người này lấy hoặc xin phần của Tỳ-khưu bạn khác,’ thì đó là phải bồi thường vật.”

148-9.Khādantassa bhaṇḍadeyyanti corassa vā sāmikassa vā sampattassa dinnaṃ sudinnameva kira. Avisesenāti ‘‘ussāhagatānaṃ vā’’ti avatvā vuttaṃ, na hi katipayānaṃ anussāhatāya saṅghikamasaṅghikaṃ hoti. Mahāaṭṭhakathāyampi ‘‘yadi saussāhāva gacchanti, theyyacittena paribhuñjato avahāro hotī’’ti vuttattā tadubhayamekaṃ. Chaḍḍitavihāre upacārasīmāya pamāṇaṃ jānituṃ na sakkā, ayaṃ pana bhikkhu upacārasīmāya bahi ṭhatvā ghaṇṭipaharaṇādiṃ katvā paribhuñjati khādati, tena evaṃ khāditaṃ sukhāditanti attho. ‘‘Itaravihāre tattha dittavidhināva paṭipajjitabba’’nti vuttaṃ. ‘‘Sukhāditaṃ antovihārattā’’ti likhitaṃ, āgatānāgatānaṃ santakattāti ‘‘cātuddisassa saṅghassa demī’’ti dinnattā vuttaṃ. Evaṃ avatvā ‘‘saṅghassa demī’’ti dinnampi tādisameva. Tathā hi bahi ṭhito lābhaṃ na labhati bhagavato vacanenāti veditabbaṃ.
148-9. Phải bồi thường vật của người đang ăn, người ta nói rằng vật đã được cho người đã đến, dù là kẻ trộm hay chủ nhân, chính là đã được cho. Một cách không phân biệt, đã được nói mà không nói “hoặc là của những người có lòng tha thiết.” Bởi vì của Tăng chúng không trở thành không phải của Tăng chúng do sự không tha thiết của một số người. Trong Đại Chú giải cũng vậy, vì đã được nói “nếu họ đi với lòng tha thiết, thì đối với người dùng với tâm trộm cắp, là sự lấy trộm,” nên cả hai điều đó là một. Ở tu viện đã bị bỏ hoang, không thể biết được kích thước của khu vực ngoại ô và ranh giới. Nhưng Tỳ-khưu này, sau khi đã đứng bên ngoài khu vực ngoại ô và làm các hành động như đánh chuông và các hành động khác, đã dùng và ăn. Ý nghĩa là, đã được ăn như vậy là đã được ăn ngon. Đã được nói: “ở tu viện khác, phải thực hành theo chính phương pháp đã được chỉ định ở đó.” Đã được viết: “đã được ăn ngon vì ở trong tu viện.” Vì là của những người đã đến và chưa đến, đã được nói vì đã được cho “tôi cho Tăng chúng bốn phương.” Ngay cả khi được cho mà không nói như vậy, chỉ nói “tôi cho Tăng chúng,” cũng là như vậy. Cần phải biết rằng thật vậy, người đứng bên ngoài không nhận được lợi lộc, theo lời của Thế Tôn.

153.‘‘Matasūkaro’’ti vaccanā tameva jīvantaṃ bhaṇḍadeyyanti katvā dātuṃ na labhati. Vajjhaṃ vaṭṭatīti dīpitaṃ hoti. Maddanto gacchati, bhaṇḍadeyyanti ettha kittakaṃ bhaṇḍadeyyaṃ, na hi sakkā ‘‘ettakā sūkarā madditvā gatā gamissantī’’ti jānitunti? Yattake sāmikānaṃ dinne te ‘‘dinnaṃ mama bhaṇḍa’’nti tussanti, tattakaṃ dātabbaṃ. No ce tussanti, atikkantasūkaramūlaṃ datvā kiṃ opāto khaṇitvā dātabboti? Na dātabbo. Atha kiṃ codiyamānassa ubhinnaṃ dhuranikkhepena pārājikaṃ hotīti? Na hoti, kevalaṃ kappiyaparikkhāraṃ datvā tosetabbova sāmiko, eseva nayo aññesupi evarūpesūti no takkoti ācariyo. ‘‘Tadaheva vā dutiyadivase vā maddanto gacchatī’’ti vuttaṃ. Gumbe khipati, bhaṇḍadeyyamevāti avassaṃ pavisanake sandhāya vuttaṃ. Ettha ekasmiṃ vihāre paracakkādibhayaṃ āgataṃ. Mūlavatthucchedanti ‘‘sabbasenāsanaṃ ete issarā’’ti vaccanā itare anissarāti dīpitaṃ hoti.
153. Từ lời nói “con lợn chết,” không được phép cho chính con lợn đang sống đó, vì đã làm cho nó phải bị bồi thường. Đã được trình bày rằng con vật sắp bị giết là được phép. Đi và giẫm đạp, phải bồi thường vật, ở đây, phải bồi thường bao nhiêu vật? Bởi vì không thể biết được “chừng ấy con lợn đã bị giẫm đạp và đi, sẽ đi.” Phải cho chừng nào mà các chủ nhân, khi được cho, hài lòng “vật của tôi đã được cho.” Nếu họ không hài lòng, sau khi đã cho giá trị của con lợn đã qua, có phải đào hố và cho không? Không phải cho. Vậy có phải người bị chất vấn, do từ bỏ trách nhiệm của cả hai, sẽ phạm tội Bất Cộng Trụ không? Không phải. Chỉ cần cho vật dụng hợp lệ và làm cho chủ nhân hài lòng. Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, cách này cũng áp dụng cho các trường hợp tương tự khác. Đã được nói: “đi và giẫm đạp ngay trong ngày đó hoặc vào ngày thứ hai.” Ném vào bụi rậm, chính là phải bồi thường vật, đã được nói đến để chỉ những người chắc chắn sẽ vào. Ở đây, một tu viện nào đó đã bị giặc ngoại xâm và các mối nguy hiểm khác tấn công. Sự hủy diệt của sự việc gốc, từ lời nói “họ là chủ của tất cả các chỗ ở,” đã được trình bày rằng những người khác không phải là chủ.

156.Ārāmarakkhakāti vissaṭṭhavasena gahetabbaṃ. Adhippāyaṃ ñatvāti ettha yassa dānaṃ paṭiggaṇhantaṃ bhikkhuṃ, bhāgaṃ vā sāmikā na rakkhanti na daṇḍenti, tassa dānaṃ appaṭicchādetvā gahetuṃ vaṭṭatīti idha sanniṭṭhānaṃ. Tampi ‘‘na vaṭṭati saṅghike’’ti vuttaṃ. Ayameva bhikkhu issaroti yattha so icchati, tattha attañātahetuṃ labhati kira attho. Apica ‘‘daharo’’ti vadanti. Savatthukanti saha bhūmiyāti vuttaṃ hoti. ‘‘Garubhaṇḍaṃ hotī’’ti vatvā ‘‘tiṇamattaṃ pana na dātabba’’nti vuttaṃ, taṃ kintu garubhaṇḍanti ce, arakkhiyaagopiyaṭṭhāne, vinassanakabhāve ca ṭhitaṃ sandhāya vuttaṃ. Kappiyepi cāti vatvā, avatvā vā gahaṇayutte mātādisantakepi theyyacittuppādena. Idaṃ pana sikkhāpadaṃ ‘‘rājāpimesaṃ abhippasanno’’ti (pārā. 86) vaccanā lābhaggamahattaṃ, vepullamahattañca pattakāle paññattanti siddhaṃ.
156. Những người bảo vệ chùa, cần phải được hiểu theo cách đã được giao phó. Sau khi đã biết ý định, ở đây, kết luận là, đối với người nào mà khi Tỳ-khưu nhận sự cúng dường, hoặc phần, mà các chủ nhân không bảo vệ, không trừng phạt, thì được phép nhận sự cúng dường đó mà không cần che giấu. Điều đó cũng đã được nói “không được phép trong tài sản của Tăng chúng.” Chính Tỳ-khưu này là chủ, có nghĩa là ở đâu mà vị ấy muốn, thì ở đó vị ấy có được lý do quen biết. Hơn nữa, một số người nói là “người trẻ.” Cùng với sự việc, có nghĩa là cùng với đất. Sau khi đã nói “là vật nặng,” lại nói “nhưng không được cho dù chỉ một cọng cỏ,” nếu hỏi đó là vật nặng gì? Đã được nói đến để chỉ vật ở nơi không được bảo vệ, không được trông coi, và ở trong tình trạng bị hư hỏng. Ngay cả trong vật hợp lệ, bằng cách phát sinh tâm trộm cắp đối với vật của mẹ và những người khác, là những vật hợp lệ để nhận, dù đã nói hay chưa nói. Học giới này, từ lời nói “ngay cả các vị vua cũng tin tưởng vào họ” (pārā. 86), đã được xác định là được chế định vào thời điểm đã đạt được sự đệ nhất về lợi lộc và sự đông đảo.

Dutiyapārājikavaṇṇanā niṭṭhitā.

Diễn giải về tội Bất Cộng Trụ thứ hai đã kết thúc.

3. Tatiyapārājikaṃ

3. Tội Bất Cộng Trụ thứ ba

Paṭhamapaññattinidānavaṇṇanā

Diễn giải về duyên khởi của chế định đầu tiên

162.Tīhi suddhenāti ettha tīhīti nissakkavacanaṃ vā hoti, karaṇavacanaṃ vā. Nissakkapakkhe kāyavacīmanodvārehi suddhena. Tathā duccaritamalehi visamehi papañcehītiādinā nayena sabbakilesattikehi bodhimaṇḍe eva suddhenāti yojetabbaṃ. Karaṇapakkhe tīhīti kāyavacīmanodvārehi suddhena. Tathā tīhi sucaritehi, tīhi vimokkhehi, tīhi bhāvanāhi, tīhi sīlasamādhipaññāhi suddhenāti sabbaguṇattikehi yojetabbaṃ. Vibhāvitanti desanāya vitthāritaṃ, vibhūtaṃ vā kataṃ vihitaṃ, paññattaṃ vā hoti. Saṃvaṇṇanāti vattamānasamīpe vattamānavacanaṃ.
162. Bằng ba sự trong sạch, ở đây, bằng ba có thể là lời nói chỉ sự rời bỏ, hoặc là lời nói chỉ công cụ. Về phía rời bỏ, cần phải kết hợp là trong sạch bằng ba cửa thân, khẩu, ý. Cũng vậy, cần phải kết hợp là đã trong sạch ngay tại cội Bồ-đề khỏi ba loại phiền não theo cách: khỏi các ác hạnh, các bất bình đẳng, các hý luận và các cách khác. Về phía công cụ, bằng ba là trong sạch bằng ba cửa thân, khẩu, ý. Cũng vậy, cần phải kết hợp với ba loại phẩm chất: bằng ba thiện hạnh, ba giải thoát, ba sự tu tập, ba giới, định, tuệ. Đã được làm sáng tỏ là đã được giải thích chi tiết bằng sự thuyết giảng, hoặc đã được làm cho rõ ràng, đã được quy định, hoặc đã được chế định. Sự ca ngợi là lời nói ở hiện tại trong ý nghĩa gần với hiện tại.

Na kevalaṃ rājagahameva, idampi nagaraṃ. Saparicchedanti sapariyantanti attho. Saparikkhepanti eke. ‘‘Haṃsavaṭṭakacchadanenāti haṃsaparikkhepasaṇṭhānenā’’ti likhitaṃ. Kāyavicchindaniyakathanti attano attabhāve, parassa vā attabhāve chandarāgappahānakaraṃ vicchindanakaraṃ dhammakathaṃ katheti. Asubhā ceva subhākāravirahitattā. Asucino ca dosanissandanapabhavattā. Paṭikūlā ca jigucchanīyattā pittasemhādīsu āsayato. Asubhāya vaṇṇanti asubhākārassa, asubhakammaṭṭhānassa vā vitthāraṃ bhāsati. Sāmiatthe hetaṃ sampadānavacanaṃ. Asubhanti asubhanimittassa āvibhāvāya paccupaṭṭhānāya vitthārakathāsaṅkhātaṃ vaṇṇaṃ bhāsabhīti attho. Tesaṃyeva ādimajjhapariyosānānaṃ dasahi lakkhaṇehi sampannaṃ kilesacorehi anabhibhavanīyattā jhānacittaṃ mañjūsaṃ nāma.
Không chỉ có Rājagaha, mà cả thành phố này nữa. Có sự phân định có nghĩa là có giới hạn. Một số người cho rằng có hàng rào. Đã được viết: “bằng mái che có hình vòng của con ngỗng, là bằng hình dạng của hàng rào của con ngỗng.” Đề tài làm cho thân thể bị cắt đứt, Ngài nói một bài pháp thoại làm cho tham ái trong tự thân của mình hoặc trong tự thân của người khác bị đoạn trừ, bị cắt đứt. Và là bất tịnh, vì không có hình dạng đẹp. Và là không trong sạch, vì là nguồn gốc của sự tuôn chảy của lỗi lầm. Và là đáng ghê tởm, vì đáng được ghê tởm do có đờm, dãi và các chất khác. Sự ca ngợi về sự bất tịnh, Ngài nói về sự mở rộng của hình dạng bất tịnh, hoặc của đề mục bất tịnh. Ở đây, đây là lời nói chỉ sự cúng dường trong ý nghĩa của chủ nhân. Bất tịnh, có nghĩa là Ngài nói về sự ca ngợi, được gọi là bài pháp thoại chi tiết, để làm cho tướng bất tịnh được tỏ bày, được hiện hữu. Tâm thiền, có đủ mười đặc điểm của chính ba giai đoạn đầu, giữa và cuối, và không bị các tên trộm phiền não lấn át, được gọi là cái hộp.

Tatrimānīti etthāyaṃ piṇḍattho – yasmiṃ vāre paṭhamaṃ jhānaṃ ekacittakkhaṇikaṃ uppajjati, taṃ sakalampi javanavāraṃ anulomaparikammaupacāragotrabhuappanāppabhedaṃ ekattanayena ‘‘paṭhamaṃ jhāna’’nti gahetvā tassa paṭhamajjhānassa appanāpaṭipādikāya khippādibhedāya abhiññāya adhigatāya kiccanipphattiṃ upādāya āgamanavasena paṭipadāvisuddhi ādīti veditabbā. Tatramajjhattupekkhāya kiccanipphattivasena upekkhānubrūhanā majjheti veditabbā. Pariyodāpakañāṇassa kiccanipphattivasena sampahaṃsanā pariyosānanti veditabbaṃ. Tattha ādicittato paṭṭhāya yāva paṭhamajjhānassa uppādakkhaṇaṃ, etasmiṃ antare paṭipadāvisuddhīti veditabbā. Uppādaṭhitikkhaṇesu upekkhānubrūhanā, ṭhitibhaṅgakkhaṇesu sampahaṃsanāti veditabbā. Lakkhīyati etenāti lakkhaṇanti katvā ‘‘visuddhipaṭipattipakkhandane’’tiādinā pubbabhāgo lakkhīyati, tividhena ajjhupekkhanena majjhaṃ lakkhīyati, catubbidhāya sampahaṃsanāya pariyosānaṃ lakkhīyatīti. Tena vuttaṃ ‘‘dasa lakkhaṇānī’’ti.
Ở đây, những điều này, ở đây, đây là ý nghĩa tóm tắt – khi sơ thiền sinh khởi trong một khoảnh khắc tâm, cần phải biết rằng toàn bộ lộ trình khởi đầu đó, bao gồm cả thuận thứ, chuẩn bị, cận hành, chuyển tộc và nhập định, theo một cách, được gọi là “sơ thiền,” và cần phải biết rằng, dựa vào sự hoàn thành nhiệm vụ đã được chứng đắc bằng thắng trí, có sự khác biệt nhanh chậm, là nền tảng cho sự nhập định của sơ thiền đó, sự trong sạch của hành trình là đầu tiên. Cần phải biết rằng, do sự hoàn thành nhiệm vụ của xả trung lập, sự tăng cường của xả là ở giữa. Cần phải biết rằng, do sự hoàn thành nhiệm vụ của trí tuệ làm cho trong sạch, sự phấn chấn là ở cuối. Ở đó, từ tâm đầu tiên cho đến khoảnh khắc sinh khởi của sơ thiền, trong khoảng thời gian này, cần phải biết là sự trong sạch của hành trình. Cần phải biết rằng trong các khoảnh khắc sinh và trụ, có sự tăng cường của xả, và trong các khoảnh khắc trụ và diệt, có sự phấn chấn. Vì được nhận biết bằng nó, nên là đặc điểm, do đó, bằng các câu như “trong sự tiến vào của sự trong sạch và hành trình” và các câu tương tự, phần trước được nhận biết. Bằng ba loại xả, phần giữa được nhận biết. Bằng bốn loại phấn chấn, phần cuối được nhận biết. Do đó, đã được nói “mười đặc điểm.”

Pāribandhakatoti nīvaraṇasaṅkhātapāribandhakato visuddhattā gotrabhupariyosānaṃ pubbabhāgajavanacittaṃ ‘‘cittavisuddhī’’ti vuccati. Tathā visuddhattā taṃ cittaṃ majjhimaṃ samādhinimittasaṅkhātaṃ appanāsamādhiṃ tadatthāya upagacchamānaṃ ekasantativasena pariṇāmentaṃ paṭipajjati nāma. Evaṃ paṭipannassa tassa tattha samathanimitte pakkhandanaṃ tabbhāvūpagamanaṃ hotīti katvā ‘‘tattha cittapakkhandana’’nti vuccati. Evaṃ tāva paṭhamajjhānuppādakkhaṇe eva āgamanavasena paṭipadāvisuddhi veditabbā. Evaṃ visuddhassa appanāppattassa puna visodhane byāpārābhāvā ajjhupekkhanaṃ hoti. Samathappaṭipannattā puna samādhāne byāpārābhāvā ca samathappaṭipannassa ajjhupekkhanaṃ hoti. Kilesasaṃsaggaṃ pahāya ekantena upaṭṭhitattā puna ekattupaṭṭhāne byāpārāsambhavato ekattupaṭṭhānassa ajjhupekkhanaṃ hoti. Tattha jātānanti tasmiṃ citte jātānaṃ samādhipaññānaṃ yuganaddhabhāvena anativattanaṭṭhena nānākilesehi vimuttattā. Saddhādīnaṃ indriyānaṃ vimuttirasenekarasaṭṭhena anativattanekasabhāvānaṃ tesaṃ dvinnaṃ upagataṃ tajjaṃ tassāruppaṃ tadanurūpaṃ vīriyaṃ tathā cittaṃ yogī vāheti pavattetīti katvā tadupagavīriyavāhanaṭṭhena ca visesabhāgiyabhāvattā āsevanaṭṭhena ca sampahaṃsanā hotīti attho veditabbo. Apicettha ‘‘anantarātītaṃ gotrabhucittaṃ ekasantativasena pariṇāmentaṃ paṭipajjati nāmā’’ti likhitaṃ. Tattha hi pariṇāmentaṃ paṭipajjatīti etāni vacanāni atītassa na sambhavanti, yañca tadanantaraṃ likhitaṃ ‘‘appanāsamādhicittaṃ upagacchamānaṃ gotrabhucittaṃ tattha pakkhandati nāmā’’ti. Imināpi taṃ na yujjati, ‘‘paṭipattikkhaṇe eva atīta’’nti vuttattā ‘‘gotrabhucittaṃ tattha pakkhandatī’’ti vacanameva virujjhatīti ācariyo. ‘‘Ekacittakkhaṇikampi lokuttaracittaṃ āsevati bhāveti bahulīkarotī’’ti vuttattā ‘‘ekacittakkhaṇikassāpi jhānassa etāni dasa lakkhaṇānī’’ti vuttaṃ. ‘‘Tato paṭṭhāya āsevanā bhāvanā evā’’tipi vuttaṃ. ‘‘Adhiṭṭhānasampannanti adhiṭṭhānena sahagata’’nti likhitaṃ. Tassattho – yañca ‘‘ādimajjhapariyosānasaṅkhāta’’nti vuttaṃ, taṃ tesaṃ tiṇṇampi kalyāṇakatāya samannāgatattā tividhakalyāṇakatañca. Evaṃ tividhacittaṃ tadadhigamamūlakānaṃ guṇānaṃ, uparijhānādhigamassa vā padaṭṭhānaṭṭhena adhiṭṭhānaṃ hoti, tasmā cittassa adhiṭṭhānabhāvena sampannattā adhiṭṭhānasampannaṃ nāmāti.
Do sự cản trở, tâm khởi đầu trong phần trước, là tâm cuối cùng của chuyển tộc, được gọi là “sự trong sạch của tâm” vì đã trong sạch khỏi sự cản trở được gọi là triền cái. Tâm đó, vì đã trong sạch như vậy, được gọi là thực hành, khi nó đi đến sự nhập định được gọi là tướng định ở giữa, và chuyển biến nó theo một dòng liên tục để đạt được mục đích đó. Đối với người đã thực hành như vậy, việc tiến vào tướng định đó là sự đi đến trạng thái đó, do đó được gọi là “sự tiến vào của tâm ở đó.” Như vậy, cần phải biết rằng sự trong sạch của hành trình là do sự đến trong chính khoảnh khắc sinh khởi của sơ thiền. Như vậy, đối với người đã trong sạch, đã đạt được sự nhập định, vì không có sự nỗ lực trong việc làm trong sạch lại, nên có sự xả. Và vì đã thực hành định, nên không có sự nỗ lực trong việc định tâm lại, nên có sự xả của người đã thực hành định. Vì đã hiện hữu một cách hoàn toàn, sau khi đã từ bỏ sự kết hợp của phiền não, nên không có khả năng có sự nỗ lực trong việc hiện hữu một cách duy nhất lại, nên có sự xả của sự hiện hữu một cách duy nhất. Cần phải biết ý nghĩa rằng sự phấn chấn xảy ra do việc không vượt qua bằng sự hợp nhất của định và tuệ, của những gì đã sinh ra ở đó, trong tâm đó, vì đã giải thoát khỏi các phiền não khác nhau. Do việc không vượt quatính chất đồng nhất của các năng lực như tín và các năng lực khác, có cùng một vị là vị giải thoát. Do việc thúc đẩy tinh tấn phù hợp, vì hành giả thúc đẩy, làm cho tiến triển tinh tấn, và tâm như vậy, phù hợp, thích hợp với hai điều đó, có cùng một bản chất không vượt qua. Và do việc thực hành vì là trạng thái đặc biệt. Hơn nữa, ở đây đã được viết: “tâm chuyển tộc ngay trước đó, được gọi là thực hành, khi nó chuyển biến theo một dòng liên tục.” Ở đó, các lời nói “chuyển biến, thực hành” không thể có đối với cái đã qua. Và điều đã được viết ngay sau đó: “tâm chuyển tộc, khi đi đến tâm nhập định, được gọi là tiến vào đó.” Bằng điều này, điều đó cũng không hợp lý. Vị Giáo thọ sư nói rằng vì đã được nói “đã qua ngay trong khoảnh khắc thực hành,” nên chính lời nói “tâm chuyển tộc tiến vào đó” là mâu thuẫn. Vì đã được nói “ngay cả tâm siêu thế, dù chỉ trong một khoảnh khắc tâm, cũng thực hành, tu tập, làm cho nhiều lên,” nên đã được nói “ngay cả thiền, dù chỉ trong một khoảnh khắc tâm, cũng có mười đặc điểm này.” Cũng đã được nói: “từ đó trở đi, việc thực hành chính là sự tu tập.” Đã được viết: “có sự xác quyết, là đi kèm với sự xác quyết.” Ý nghĩa của nó là – điều đã được nói “được gọi là đầu, giữa và cuối,” là do sự tốt đẹp của cả ba điều đó, và do đó là sự tốt đẹp ba lần. Tâm ba lần như vậy là sự xác quyết vì là nền tảng cho các phẩm chất là gốc rễ của sự chứng đắc đó, hoặc là của sự chứng đắc thiền cao hơn. Do đó, vì có sự xác quyết do trạng thái xác quyết của tâm, nên được gọi là có sự xác quyết.

Addhamāsaṃ paṭisallīyitunti ettha ācariyā evamāhu ‘‘bhikkhūnaṃ aññamaññavadhadassanasavanasambhave satthuno sati tassa upaddavassa abhāve upāyājānanato ‘ayaṃ asabbaññū’ti hetupatirūpakamahetuṃ vatvā dhammissarassāpi tathāgatassa kammesvanissariyaṃ asambujjhamānā asabbadassitamadhiccamohā bahujanā avīciparāyanā bhaveyyuṃ, tasmā so bhagavā pageva tesaṃ bhikkhūnaṃ aññamaññaṃ vadhamānabhāvaṃ ñatvā tadabhāvopāyābhāvaṃ pana suvinicchinitvā tattha puthujjanānaṃ sugatilābhahetumevekaṃ katvā asubhadesanāya vā rūpasaddadassanasavanehi nippayojanehi viramitvā pageva tato viramaṇato, sugatilābhahetukaraṇato, avassaṃ paññāpitabbāya tatiyapārājikapaññattiyā vatthāgamadassanato ca attano sabbadassitaṃ parikkhakānaṃ pakāsento viya tamaddhamāsaṃ veneyyahitanipphattiyā phalasamāpattiyā avakāsaṃ katvā viharitukāmo ‘icchāmahaṃ, bhikkhave, addhamāsaṃ paṭisallīyitu’ntiādimāhā’’ti. Ācariyā nāma buddhamittattheradhammasirittheraupatissattherādayo gaṇapāmokkhā, aṭṭhakathācariyassa ca santike sutapubbā. Tato aññe eketi veditabbā. ‘‘Sakena kāyena aṭṭīyanti…pe… bhavissantī’’ti idaṃ parato ‘‘ye te bhikkhū avītarāgā, tesaṃ tasmiṃ samaye hoti eva bhayaṃ, hoti lomahaṃso, hoti chambhitatta’’nti iminā na yujjati, idañca bhagavato asubhakathārammaṇappayojanena na sametīti ce? Na, tadatthājānanato. Sakena kāyena aṭṭīyantānampi tesaṃ ariyamaggena appahīnasinehattā khīṇāsavānaṃ viya maraṇaṃ paṭicca abhayaṃ na hoti, bhayañca pana asubhabhāvanānuyogānubhāvena mandībhūtaṃ anaṭṭīyantānaṃ viya na mahantaṃ hutvā cittaṃ mohesi. Apāyupage te satte nākāsīti evamattho veditabbo. Atha vā idaṃ purimassa kāraṇavacanaṃ, yasmā tesaṃ tasmiṃ samaye hoti eva bhayaṃ, chambhitattaṃ, lomahaṃso ca, tasmā ‘‘tena kho pana samayena bhagavā asubhakathaṃ kathetī’’tiādi vuttanti.
Nhập thất trong nửa tháng, ở đây, các vị Giáo thọ sư đã nói như vầy: “khi có khả năng thấy và nghe các Tỳ-khưu giết nhau, và khi Bậc Đạo Sư có mặt mà không có tai họa đó, do không biết phương pháp, nhiều người, sau khi đã nói một lý do giống như lý do ‘vị này không phải là bậc toàn giác,’ và không hiểu được sự không có quyền lực của Như Lai, dù là bậc Pháp chủ, đối với nghiệp, và do sự si mê không thấy được tất cả, sẽ trở thành những người đi đến địa ngục Vô gián. Do đó, Thế Tôn đó, sau khi đã biết trước trạng thái các Tỳ-khưu đó sẽ giết nhau, và sau khi đã phân xử kỹ lưỡng về sự không có phương pháp để không có điều đó, và sau khi đã làm một điều duy nhất là nguyên nhân cho sự tái sinh vào cõi lành cho các phàm phu ở đó, và sau khi đã từ bỏ các việc vô ích như thấy hình sắc và nghe âm thanh bằng cách thuyết giảng về sự bất tịnh, và sau khi đã từ bỏ chúng từ trước, và do việc làm nguyên nhân cho sự tái sinh vào cõi lành, và do việc thấy sự đến của sự việc của chế định tội Bất Cộng Trụ thứ ba, là điều chắc chắn phải được chế định, và giống như để trình bày sự thấy được tất cả của mình cho những người xem xét, Ngài, muốn an trú trong nửa tháng đó, sau khi đã tạo cơ hội cho sự chứng đắc quả, để hoàn thành lợi ích cho các chúng sinh có thể được giáo hóa, đã nói: ‘Này các Tỳ-khưu, Ta muốn nhập thất trong nửa tháng’” và các đoạn tiếp theo. Các vị Giáo thọ sư là các vị Trưởng lão đứng đầu nhóm như Buddhamittatthera, Dhammasiritthera, Upatissatthera, và những vị đã được nghe từ chính vị Chú giải sư. Cần phải biết rằng những vị khác là một số người. “Họ ghê tởm thân thể của mình… cho đến… sẽ có,” điều này, nếu nói rằng không phù hợp với câu ở phần sau: “những Tỳ-khưu nào chưa dứt bỏ tham ái, thì vào lúc đó, chắc chắn có sự sợ hãi, có sự rùng mình, có sự kinh hãi,” và điều này cũng không phù hợp với mục đích của bài pháp thoại về sự bất tịnh của Thế Tôn? Không phải vậy, do không biết ý nghĩa của nó. Ngay cả đối với những người ghê tởm thân thể của mình, vì lòng yêu mến chưa được đoạn trừ bằng thánh đạo, nên họ không có sự không sợ hãi đối với cái chết giống như các bậc A-la-hán. Và sự sợ hãi, đã bị làm cho yếu đi do năng lực của việc tu tập bất tịnh, đã không làm cho tâm bị mê mờ bằng cách trở nên lớn lao giống như của những người không ghê tởm. Cần phải biết ý nghĩa rằng Ngài đã không làm cho các chúng sinh đó đi đến cảnh giới xấu. Hoặc là, đây là lời nói về nguyên nhân của điều trước. Bởi vì vào lúc đó, họ chắc chắn có sự sợ hãi, kinh hãi, và rùng mình, do đó đã được nói: “vào lúc đó, Thế Tôn đã nói về sự bất tịnh” và các đoạn tiếp theo.

Atha vā sakena kāyena aṭṭīyantānampi tesaṃ hoti eva bhayaṃ, mahānubhāvā vītarāgāti khīṇāsavānaṃ mahantaṃ visesaṃ dasseti, atiduppasaheyyamidaṃ maraṇabhayaṃ, yato evaṃvidhānampi avītarāgattā bhayaṃ hotītipi dasseti. Tadaññe tesaṃ bhikkhūnaṃ pañcasatānaṃ aññatarā. Tenedaṃ dīpeti ‘‘taṃ tathā āgataṃ asihatthaṃ vadhakaṃ passitvā tadaññesampi hoti eva bhayaṃ, pageva tesanti katvā bhagavā paṭhamameva tesaṃ asubhakathaṃ kathesi, parato tesaṃ nāhosi. Evaṃ mahānisaṃsā nesaṃ asubhakathā āsī’’ti. Yo panettha pacchimo nayo , so ‘‘tesu kira bhikkhūsu kenacipi kāyavikāro vā vacīvikāro vā na kato, sabbe satā sampajānā dakkhiṇena passena nipajjiṃsū’’ti iminā aṭṭhakathāvacanena sameti.
Hoặc là, ngay cả đối với những người ghê tởm thân thể của mình, họ chắc chắn có sự sợ hãi. Ngài trình bày sự khác biệt lớn lao của các bậc A-la-hán, những người có năng lực vĩ đại, đã dứt bỏ tham ái. Ngài cũng trình bày rằng nỗi sợ chết này thật khó chịu đựng, đến nỗi ngay cả những người như vậy, vì chưa dứt bỏ tham ái, cũng có sự sợ hãi. Một trong số năm trăm Tỳ-khưu đó. Bằng điều đó, Ngài làm sáng tỏ: “sau khi đã thấy kẻ sát nhân đến như vậy mà không do dự, những người khác cũng chắc chắn có sự sợ hãi, huống chi là họ. Do đó, Thế Tôn đã nói về sự bất tịnh cho họ ngay từ đầu. Sau đó, họ đã không có. Bài pháp thoại về sự bất tịnh của họ đã có lợi ích lớn lao như vậy.” Ở đây, cách cuối cùng phù hợp với lời nói trong Chú giải này: “người ta nói rằng trong số các Tỳ-khưu đó, không có ai có sự biến đổi của thân hay sự biến đổi của lời nói, tất cả đều có niệm, có tỉnh giác, và đã nằm nghiêng về bên phải.”

Apare panāhūti kuladdhipaṭisedhanatthaṃ vuttaṃ. ‘‘Ayaṃ kira laddhī’’ti vacanaṃ ‘‘māradheyyaṃnātikkamissatī’’ti vacanena virujjhatīti ce? Na virujjhati. Kathaṃ? Ayaṃ bhikkhū aghātento māravisayaṃ atikkamissati akusalakaraṇato ca. Ghātento pana māradheyyaṃ nātikkamissati balavattā kammassāti sayaṃ mārapakkhikattā evaṃ cintetvā pana ‘‘ye na matā, te saṃsārato na muttā’’ti attano ca laddhi, tasmā taṃ tattha ubhayesaṃ magge niyojentī evamāha, teneva ‘‘mārapakkhikā mārena samānaladdhikā’’ti avatvā ‘‘mārassā nuvattikā’’ti vuttā. ‘‘Iminā kiṃ vuttaṃ hoti? Yasmā mārassa anuvatti, tasmā evaṃ cintetvāpi attano laddhivasena evamāhā’’ti keci likhanti. Mama santike ekato upaṭṭhānamāgacchanti, attano attano ācariyupajjhāyānaṃ santike uddesādiṃ gaṇhāti.
Những người khác lại nói, đã được nói để bác bỏ sự kiêu hãnh về dòng dõi. Nếu nói rằng lời nói “người ta nói rằng đây là quan điểm” mâu thuẫn với lời nói “sẽ không vượt qua được cõi của Ma”? Không mâu thuẫn. Như thế nào? Tỳ-khưu này, khi không giết, sẽ vượt qua cõi của Ma và khỏi việc làm điều bất thiện. Còn khi giết, sẽ không vượt qua được cõi của Ma vì nghiệp có sức mạnh. Sau khi đã suy nghĩ như vậy vì chính mình thuộc về phe của Ma, và vì quan điểm của mình là “những người chưa chết thì chưa được giải thoát khỏi vòng luân hồi,” do đó, người đó, khi hướng cả hai đến đạo ở đó, đã nói như vậy. Chính vì vậy, đã được nói “là những người theo sau Ma,” không phải là “thuộc về phe của Ma, có cùng quan điểm với Ma.” “Bằng điều này, điều gì đã được nói? Bởi vì là người theo sau Ma, do đó, sau khi đã suy nghĩ như vậy, cũng đã nói như vậy theo quan điểm của mình,” một số người viết như vậy. Họ đến hầu hạ cùng nhau với tôi, và nhận sự tụng đọc và các việc khác từ chính các vị thầy hướng dẫn và thầy Giáo Thọ Sư của mình.

Ānāpānassatisamādhikathāvaṇṇanā

Diễn giải về đề tài định niệm hơi thở

165.Ayampi kho, bhikkhaveti iminā kiṃ dasseti? Yesaṃ evamassa ‘‘bhagavatā ācikkhitakammaṭṭhānānuyogapaccayā tesaṃ bhikkhūnaṃ jīvitakkhayo āsī’’ti, tesaṃ taṃ micchāgāhaṃ nisedheti. Kevalaṃ tesaṃ bhikkhūnaṃ pubbe katakammapaccayāva jīvitakkhayo āsi, idaṃ pana kammaṭṭhānaṃ tesaṃ kesañci arahattappattiyā, kesañci anāgāmisakadāgāmisotāpattiphalappattiyā , kesañci paṭhamajjhānādhigamāya, kesañci vikkhambhanatadaṅgappahānena attasinehapaayādānāya upanissayo hutvā, kesañci sugatiyaṃ uppattiyā upanissayo ahosīti sātthikāva me asubhakathā, kintu ‘‘sādhu, bhante bhagavā, aññaṃ pariyāyaṃ ācikkhatū’’ti ānandena yācitattā aññaṃ pariyāyaṃ ācikkhāmi, yathā vo pubbe ācikkhitaasubhakammaṭṭhānānuyogā, evaṃ ayampi kho bhikkhaveti yojanā veditabbā. ‘‘Assāsavasena upaṭṭhānaṃ satī’’ti vuttaṃ. Sā hi taṃ assāsaṃ, passāsaṃ vā ārammaṇaṃ katvā pubbabhāge, aparabhāge pana assāsapassāsapabhavanimittaṃ ārammaṇaṃ katvā upaṭṭhātīti ca tathā vuttā.
165. Và cái này nữa, này các Tỳ-khưu, bằng điều này, Ngài trình bày điều gì? Đối với những người có ý nghĩ “sự mất mạng của các Tỳ-khưu đó là do duyên thực hành đề mục đã được Thế Tôn chỉ dạy,” Ngài bác bỏ tà kiến đó của họ. Cần phải biết rằng sự mất mạng của các Tỳ-khưu đó chỉ là do duyên của nghiệp đã làm trong quá khứ. Còn đề mục này đã trở thành nền tảng cho một số người trong số họ đạt được quả A-la-hán, một số đạt được quả Bất lai, Nhất lai, Dự lưu, một số chứng đắc sơ thiền, một số đoạn trừ lòng yêu mến bản thân bằng cách trấn áp và đoạn trừ từng phần, và một số tái sinh vào cõi lành. Do đó, bài pháp thoại về sự bất tịnh của Ta là có ích. Nhưng vì đã được Ānanda thỉnh cầu “bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy chỉ dạy một phương pháp khác,” nên Ta chỉ dạy một phương pháp khác. Cần phải biết sự kết hợp rằng giống như việc các con thực hành đề mục bất tịnh đã được chỉ dạy trước đây, cũng vậy, cái này nữa, này các Tỳ-khưu. Đã được nói: “sự hiện hữu là niệm, theo cách của hơi thở vào.” Bởi vì niệm đó, sau khi đã lấy hơi thở vào hoặc hơi thở ra đó làm đối tượng ở phần trước, và ở phần sau, sau khi đã lấy tướng phát sinh từ hơi thở vào và hơi thở ra làm đối tượng, hiện hữu.

Asubhe pavattaṃ asubhanti vā pavattaṃ bhāvanākammaṃ asubhakammaṃ, tadeva aññassa punappunaṃ uppajjanakassa kāraṇaṭṭhena ṭhānattā asubhakammaṭṭhānaṃ, ārammaṇaṃ vā asubhakammassa padaṭṭhānaṭṭhena ṭhānanti asubhakammaṭṭhānanti idha asubhajjhānaṃ, teneva ‘‘oḷārikārammaṇattā’’ti vuttaṃ. Paṭivedhavasenāti vitakkādiaṅgapaṭilābhavasena. Ārammaṇasantatāyāti anukkamena santakālaṃ upādāya vuttakāyadarathappaṭipassaddhivasena nibbuto. Parikammaṃ vāti kasiṇaparikammaṃ kira nimittuppādapariyosānaṃ. Tadā hi nirassādattā asantaṃ, appaṇihitañca. Yathā upacāre nīvaraṇavigamena, aṅgapātubhāvena ca santatā hoti, na tathā idha, idaṃ pana ‘‘ādisamannāhārato’’ti vuttaṃ. Dutiyavikappe asecanakoti atittikaro, tena vuttaṃ ‘‘ojavanto’’ti. Cetasikasukhaṃ jhānakkhaṇepi atthi, evaṃ santepi ‘‘ubhopi jhānā vuṭṭhitasseva gahetabbā’’ti vuttaṃ. Samathena sakasantāne avikkhambhite. Itarathā pāpakānaṃ jhānena sahuppatti siyā. Khandhādīnaṃ lokuttarapādakattā nibbedhabhāgiyaṃ, visesena yassa nibbedhabhāgiyaṃ hoti, taṃ sandhāya vā. ‘‘Aniccānupassītiādicatukkavasena anupubbena ariyamaggavuḍḍhippatto samucchindati, sesānametaṃ natthī’’ti likhitaṃ.
Hành động tu tập diễn ra trong sự bất tịnh, hoặc được gọi là bất tịnh, là đề mục bất tịnh. Chính nó, vì là nơi chốn do là nguyên nhân cho sự sinh khởi lặp đi lặp lại của cái khác, nên là đề mục bất tịnh. Hoặc là đối tượng, vì là nơi chốn do là nền tảng của đề mục bất tịnh, nên là đề mục bất tịnh. Ở đây, là thiền bất tịnh. Chính vì vậy, đã được nói “vì có đối tượng thô thiển.” Theo cách thấu triệt là theo cách chứng đắc các chi thiền như tầm và các chi khác. Do sự liên tục của đối tượng, là đã được dập tắt do sự lắng dịu của sự mệt mỏi của thân đã được nói, dựa vào thời gian liên tục theo thứ tự. Hoặc là sự chuẩn bị, người ta nói rằng sự chuẩn bị của đề mục thiền là kết thúc ở sự sinh khởi của tướng. Bởi vì lúc đó, nó không có vị, không có sự yên tĩnh và không có sự mong muốn. Giống như trong cận hành, do sự vắng mặt của các triền cái và sự xuất hiện của các chi thiền, nó trở nên liên tục, nhưng không phải như vậy ở đây. Còn điều này đã được nói “từ sự chú ý ban đầu.” Trong giả thuyết thứ hai, không làm cho chán là không làm cho mệt mỏi. Do đó, đã được nói “có tinh chất.” Lạc của tâm có ngay cả trong khoảnh khắc thiền. Dù vậy, đã được nói “cả hai thiền đều phải được nắm bắt chỉ đối với người đã xuất khỏi thiền.” Khi chưa được trấn áp trong tự thân bằng định. Nếu không, các pháp xấu ác có thể sinh khởi cùng với thiền. Vì các uẩn và các pháp khác là nền tảng của siêu thế, nên là phần dẫn đến sự thấu triệt, hoặc là để chỉ cái nào có phần dẫn đến sự thấu triệt một cách đặc biệt. Đã được viết: “người quán vô thường và các pháp khác theo bốn loại, sau khi đã đạt được sự tăng trưởng của thánh đạo theo thứ tự, tận diệt. Những người còn lại không có điều này.”

Tathābhāvapaṭisedhano cāti soḷasavatthukassa titthiyānaṃ natthitāya vuttaṃ. Sabbapaṭhamānaṃ pana catunnaṃ padānaṃ vasena lokiyajjhānameva tesaṃ atthi, tasmiṃ lokuttarapadaṭṭhānaṃ natthi eva. ‘‘Phalamuttamanti phale uttama’’nti vuttaṃ. Ututtayānukūlanti gimhe araññe, hemante rukkhamūle, vasantakāle suññāgāre gato. Semhadhātukassa araññaṃ, pittadhātukassa rukkhamūlaṃ, vātadhātukassa suññāgāraṃ anukūlaṃ. Mohacaritassa araññaṃ anukūlaṃ mahāaraññe cittaṃ na saṅkuṭati, dosacaritassa rukkhamūlaṃ, rāgacaritassa suññāgāraṃ. Ṭhānacaṅkamāni uddhaccapakkhikāni, sayanaṃ līnapakkhikaṃ, pallaṅkābhujanena nisajjāya daḷhabhāvaṃ, ujukāyaṃ paṇidhānena assāsapassāsānaṃ pavattanasukhaṃ ‘‘parimukhaṃ sati’’nti iminā ārammaṇapariggahūpāyaṃ dasseti. Kārīti karaṇasīlo . Etassa vibhaṅge ‘‘assasati passasatī’’ti avatvā ‘‘sato kārī’’ti vuttaṃ. Tasmā ‘‘assasati passasatī’’ti vutte ‘‘paṭhamacatukkaṃ eva labbhati, na sesānī’’ti ca ‘‘dīghaṃassāsavasenāti alopasamāsaṃ katvā’’iti ca ‘‘ekatthatāya avikkhepa’’nti ca ‘‘asambhogavasena pajānato’’ti ca ‘‘tena ñāṇenā’’ti ca ‘‘pajānatoti vuttañāṇenā’’ti ca ‘‘satokārīti satisampajaññāhikārī’’ti ca ‘‘paṭinissaggānupassino assāsāva paṭinissaggānupassiassāsā’’ti ca likhitaṃ. Uppaṭipāṭiyā āgatampi yujjateva, tena ṭhānena paṭisiddhaṃ. Tāluṃ āhacca nibbāyanato kira potako sampatijātova khipitasaddaṃ karoti, chandapāmojjavasena cha purimā tayoti nava. Ekenākārenāti assāsavasena vā passāsavasena vā evaṃ ānāpānassatiṃ bhāvayato kāye kāyānupassanāsatikammaṭṭhānabhāvanā sampajjati.
Và bác bỏ trạng thái như vậy, đã được nói vì ngoại đạo không có mười sáu sự việc. Còn đối với bốn từ đầu tiên, họ chỉ có thiền thế gian. Ở đó, chắc chắn không có nền tảng của siêu thế. Đã được nói: “quả tối thượng, là tối thượng trong các quả.” Phù hợp với ba mùa, là đi vào rừng vào mùa hè, dưới gốc cây vào mùa đông, và vào nhà trống vào mùa mưa. Đối với người có đờm, rừng là phù hợp. Đối với người có mật, gốc cây là phù hợp. Đối với người có gió, nhà trống là phù hợp. Đối với người có si, rừng là phù hợp, vì tâm không bị co rút trong rừng lớn. Đối với người có sân, gốc cây là phù hợp. Đối với người có tham, nhà trống là phù hợp. Tư thế đứng và đi thuộc về phía trạo cử, tư thế nằm thuộc về phía hôn trầm. Bằng việc ngồi kiết già, có sự vững chắc của tư thế ngồi. Bằng việc giữ thân thẳng, có sự thoải mái trong việc tiến triển của hơi thở vào và hơi thở ra. Bằng câu “niệm trước mặt,” Ngài trình bày phương pháp nắm bắt đối tượng. Là người làm là người có thói quen làm. Trong phần phân tích của nó, thay vì nói “thở vào, thở ra,” lại được nói “là người làm có niệm.” Do đó, đã được viết: khi nói “thở vào, thở ra,” “chỉ có bốn pháp đầu tiên mới được chấp nhận, không phải các pháp còn lại,” và “theo cách thở vào dài, sau khi đã làm thành hợp từ không mất nguyên âm,” và “không phân tán do có cùng một ý nghĩa,” và “do biết một cách không chung đụng,” và “bằng trí tuệ đó,” và “do biết, là bằng trí tuệ đã được nói,” và “là người làm có niệm, là người làm với niệm và tỉnh giác,” và “hơi thở vào của người quán sự từ bỏ chính là hơi thở vào quán sự từ bỏ.” Đã đến theo thứ tự ngược lại cũng hợp lý, đã bị bác bỏ bằng nơi chốn đó. Người ta nói rằng con cá heo, ngay khi mới sinh, đã phát ra tiếng kêu do va chạm với vòm miệng. Do có ý muốn và niềm vui, sáu cái trước và ba cái sau là chín. Bằng một cách, là bằng cách thở vào hoặc thở ra, đối với người tu tập định niệm hơi thở như vậy, sự tu tập đề mục niệm quán thân trong thân được thành tựu.

Kāyoti assāsapassāsā. Upaṭṭhānaṃ sati. Dīghanti sīghaṃ gataṃ assāsapassāsaṃ. Addhānasaṅkhāteti kālasaṅkhāte viya kālakoṭṭhāseti attho, dīghakāle vāti attho. Eko hi assāsamevūpalakkheti, eko passāsaṃ, eko ubhayaṃ, tasmā ‘‘vibhāgaṃ akatvā’’ti vā vuttaṃ, chandoti evaṃ assāsato, passāsato ca assādo uppajjati, tassa vasena kattukamyatāchando uppajjati. Tato pāmojjanti. Assāsapassāsānaṃ duviññeyyavisayattā cittaṃ vivattati, gaṇanaṃ pahāya phuṭṭhaṭṭhānameva manasi karontassa kevalaṃ upekkhāva saṇṭhāti. Cattāro vaṇṇāti ‘‘pattassa tayo vaṇṇā’’tiādīsu viya cattāro saṇṭhānāti attho.
Thân là hơi thở vào và hơi thở ra. Sự hiện hữu là niệm. Dài là hơi thở vào và hơi thở ra đi nhanh. Trong câu trong khoảng thời gian, có nghĩa là trong khoảng thời gian, giống như trong khoảng thời gian. Hoặc là trong thời gian dài. Bởi vì một người chỉ nhận biết hơi thở vào, một người chỉ nhận biết hơi thở ra, một người nhận biết cả hai, do đó đã được nói “không phân chia,” hoặc là ý muốn, là từ việc thở vào và thở ra như vậy, sự thích thú sinh ra. Do đó, ý muốn muốn làm sinh ra. Sau đó là niềm vui. Vì hơi thở vào và hơi thở ra là đối tượng khó biết, nên tâm quay trở lại. Đối với người, sau khi đã từ bỏ việc đếm, chỉ tác ý đến nơi tiếp xúc, thì chỉ có sự xả mới đứng vững. Bốn màu, có nghĩa là bốn hình dạng, giống như trong câu “ba màu của cái bát” và các câu tương tự.

Tathābhūtassāti ānāpānassatiṃ bhāvayato. Saṃvaroti satisaṃvaro. Atha vā paṭhamena jhānena nīvaraṇānaṃ, dutiyena vitakkavicārānaṃ, tatiyena pītiyā, catutthena sukhadukkhānaṃ, ākāsānañcāyatanasamāpattiyā rūpasaññāya, paṭighasaññāya, nānattasaññāya vā pahānaṃ. ‘‘Sīlanti veramaṇi sīlaṃ, cetanā sīlaṃ, saṃvaro sīlaṃ, avītikkamo sīla’’nti (paṭi. ma. 1.39 thokaṃ visadisaṃ) vuttavidhināpettha attho daṭṭhabbo. ‘‘Atthato tathā tathā pavattadhammā upadhāraṇasamādhānasaṅkhātena sīlanaṭṭhena sīlanti vuccantī’’ti vuttaṃ. Tathā ‘‘ayaṃ imasmiṃ atthe adhippetā sikkhā’’ti etthāpi cetanāsīlameva, katthaci viratisīlampīti attho daṭṭhabbo. Aññathā paṇṇattivajjesupi sikkhāpadesu viratippasaṅgo ahosi , pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharatīti katvā tassāpi viratippasaṅgo. Tasmiṃ ārammaṇeti ānāpānārammaṇe. Tāya satiyāti tattha uppannasatiyā. ‘‘Tena manasikārenāti āvajjanenā’’ti likhitaṃ. Etena nānāvajjanappavattidīpanato nānājavanavārehipi sikkhati nāmāti dīpitaṃ hoti, yena pana manasikārena vā. Ñāṇuppādanādīsūti ettha ādisaddena yāva pariyosānaṃ veditabbaṃ. ‘‘Tatrāti tasmiṃ ānāpānārammaṇe. Evanti idāni vattabbanayenā’’ti likhitaṃ. Tatrāti tesaṃ assāsapassāsānaṃ vā. Tañhi ‘‘pubbe apariggahitakāle’’ti iminā suṭṭhu sameti. ‘‘Paṭhamavādo dīghabhāṇakānaṃ. Te hi ‘paṭhamajjhānaṃ labhitvā nānāsane nisīditvā dutiyatthāya vāyāmato upacāre vitakkavicāravasena oḷārikacittappavattikāle pavattaassāsapassāsavasena oḷārikā’ti vadanti. ‘Majjhimabhāṇakā jhānalābhissa samāpajjanakāle, ekāsanapaṭilābhe ca uparūpari cittappavattiyā santabhāvato paṭhamato dutiyassupacāre sukhumataṃ vadantī’’’ti likhitaṃ.
Đối với người như vậy là đối với người tu tập định niệm hơi thở. Sự thu thúc là sự thu thúc bằng niệm. Hoặc là, bằng sơ thiền, đoạn trừ các triền cái. Bằng nhị thiền, đoạn trừ tầm và tứ. Bằng tam thiền, đoạn trừ hỷ. Bằng tứ thiền, đoạn trừ lạc và khổ. Bằng không vô biên xứ định, đoạn trừ sắc tưởng, đối ngại tưởng, hoặc các tưởng khác nhau. Cần phải biết ý nghĩa ở đây cũng theo phương pháp đã được nói: “giới là giới kiêng cữ, giới ý định, giới thu thúc, giới không vi phạm” (paṭi. ma. 1.39 thokaṃ visadisaṃ). Đã được nói: “các pháp tiến triển theo cách này hay cách khác, về mặt ý nghĩa, được gọi là giới do ý nghĩa thu thúc, được gọi là sự xác định và sự định tâm.” Cũng vậy, cần phải biết rằng ngay cả trong câu “học giới này được hàm ý trong ý nghĩa này,” cũng chính là giới ý định, và ở một số nơi cũng là giới kiêng cữ. Nếu không, sẽ có khả năng có sự kiêng cữ ngay cả trong các học giới thuộc tội lỗi chế định. Và cũng có khả năng có sự kiêng cữ đó vì sống thu thúc trong Giới Bổn. Trong đối tượng đó là trong đối tượng hơi thở. Bằng niệm đó là bằng niệm đã sinh ra ở đó. Đã được viết: “bằng sự tác ý đó, là bằng sự hướng tâm.” Bằng điều này, đã được trình bày rằng người đó học bằng các lộ trình khởi đầu khác nhau do việc trình bày sự tiến triển của các sự hướng tâm khác nhau. Hoặc là bằng sự tác ý nào. Trong câu trong việc phát sinh trí tuệ và các việc khác, ở đây, bằng từ “và các việc khác,” cần phải biết là cho đến cuối. Đã được viết: “ở đó, là trong đối tượng hơi thở đó. Như vầy, là theo cách sẽ được nói bây giờ.” Ở đó, là của các hơi thở vào và hơi thở ra đó. Bởi vì điều đó rất phù hợp với câu “trong khi chưa được nắm bắt trước đây.” Đã được viết: “quan điểm đầu tiên là của các vị tụng kinh dài. Bởi vì họ nói rằng ‘sau khi đã đạt được sơ thiền và ngồi ở các tư thế khác nhau, trong khi cố gắng để đạt được nhị thiền, trong cận hành, do sự tiến triển của tâm thô thiển do tầm và tứ, hơi thở trở nên thô thiển do hơi thở vào và hơi thở ra tiến triển.’ Các vị tụng kinh trung bình nói rằng ‘đối với người đã đạt được thiền, trong khi nhập định và khi đạt được một tư thế, do sự tiến triển của tâm ngày càng cao, và do trạng thái yên tĩnh, thì trong cận hành của nhị thiền từ sơ thiền, có sự vi tế’.”

Vipassanāyaṃ panāti catudhātuvavatthānamukhena abhiniviṭṭhassa ayaṃ kamo, aññassa cāti veditabbaṃ. Ettakaṃ rūpaṃ, na ito aññanti dassanaṃ sandhāya ‘‘sakalarūpapariggahe’’ti vuttaṃ. Rūpārūpapariggaheti ettha aniccatādilakkhaṇārammaṇikabhaṅgānupassanato pabhuti balavatī vipassanā. Pubbe vuttanayenāti sabbesaṃyeva pana matena apariggahitakāletiādinā. Sodhanā nāma vissajjanaṃ. Assāti ‘‘passambhayaṃ kāyasaṅkhāra’’nti padassa.
Còn trong tuệ quán, cần phải biết rằng đây là trình tự của người đã quyết tâm theo cách phân tích bốn đại, và cũng là của người khác. Đã được nói “trong việc nắm bắt toàn bộ sắc” để chỉ sự thấy rằng chừng này là sắc, không có gì khác ngoài đây. Trong câu trong việc nắm bắt sắc và vô sắc, ở đây, tuệ quán trở nên mạnh mẽ từ khi quán sự tan rã, có đối tượng là đặc tính vô thường và các đặc tính khác. Theo cách đã được nói trước đây là theo ý kiến của tất cả mọi người, bằng cách “trong khi chưa được nắm bắt” và các cách khác. Sự thanh lọc là sự buông bỏ. Của nó là của câu “làm cho thân hành lắng dịu.”

Purato namanā ānamanā. Tiriyaṃ namanā vinamanā. Suṭṭhu namanā sannamanā. Pacchā namanā paṇamanā. Jāṇuke gahetvā ṭhānaṃ viya iñjanāti ānamanādīnaṃ āvibhāvatthamuttanti veditabbaṃ. Yathārūpehi ānamanādi vā kampanādi vā hoti, tathārūpe passambhayanti sambandho. Iti kirāti iti ce. Evaṃ santeti santasukhumampi ce passambhati. Pabhāvanāti uppādanaṃ. Assāsapassāsānaṃ vūpasantattā ānāpānassatisamādhissa bhāvanā na hoti. Yasmā taṃ natthi, tasmā na samāpajjati, samāpattiyā abhāvena na vuṭṭhahanti. Iti kirāti evametaṃ tāva vacananti tadetaṃ . Saddova saddanimittaṃ, ‘‘sato assasati sato passasatī’’ti padāni patiṭṭhapetvā dvattiṃsapadāni cattāri catukkāni veditabbāni.
Sự cúi về phía trước là sự cúi xuống. Sự cúi sang một bên là sự nghiêng mình. Sự cúi xuống hoàn toàn là sự khom mình. Sự cúi về phía sau là sự gập mình. Cần phải biết rằng sự rung động, giống như tư thế đứng nắm lấy đầu gối, đã được nói để làm cho sự cúi xuống và các hành động khác được tỏ bày. Có sự liên kết rằng họ làm cho những thứ như sự cúi xuống hoặc sự rung động, xảy ra theo hình dạng nào, lắng dịu. Người ta nói rằng là nếu như vậy. Nếu như vậy, là nếu làm cho cả cái yên tĩnh và vi tế lắng dịu. Sự tạo ra là sự sinh khởi. Do sự lắng dịu của hơi thở vào và hơi thở ra, sự tu tập định niệm hơi thở không xảy ra. Bởi vì không có điều đó, nên không nhập định. Do không có sự nhập định, nên không xuất định. Người ta nói rằng, đó là lời nói. Chính âm thanh là tướng âm thanh. Sau khi đã thiết lập các từ “thở vào có niệm, thở ra có niệm,” cần phải biết ba mươi hai từ, bốn bộ bốn.

Appaṭipīḷananti tesaṃ kilesānaṃ anuppādanaṃ kiñcāpi cetiyaṅgaṇavattādīnipi atthato pātimokkhasaṃvarasīle saṅgahaṃ gacchanti ‘‘yassa siyā āpattī’’ti (mahāva. 134) vacanato. Tathāpi ‘‘na tāva, sāriputta, satthā sāvakānaṃ sikkhāpadaṃ paññapeti uddisati pātimokkhaṃ, yāva na idhekacce āsavaṭṭhānīyā dhammā saṅghe pātubhavantī’’ti ettha anadhippetattā ‘‘ābhisamācārika’’nti vuttaṃ. ‘‘Yaṃ panettha āpattiṭṭhāniyaṃ na hoti, taṃ amissamevā’’ti vuttaṃ.
Không bức bách, mặc dù việc không làm phát sinh các phiền não đó, và ngay cả các bổn phận như bổn phận ở sân tháp và các bổn phận khác, về mặt ý nghĩa, cũng được bao gồm trong giới thu thúc trong Giới Bổn, theo câu “ai có thể phạm tội” (mahāva. 134). Tuy nhiên, vì không được hàm ý trong câu “chưa đến lúc, Sāriputta, Bậc Đạo Sư chế định học giới cho các đệ tử, tụng Giới Bổn, cho đến khi một số pháp là nơi nương náu của lậu hoặc chưa xuất hiện trong Tăng chúng ở đây,” nên đã được nói “thuộc về hành vi tốt đẹp.” Đã được nói: “ở đây, cái nào không phải là nơi phạm tội, thì đó là không hỗn hợp.”

Yathāvuttenāti yogānuyogakammassa padaṭṭhānattā. Sallahukavutti aṭṭhaparikkhāriko. Pañcasandhikaṃ kammaṭṭhānanti ettha jhānampi nimittampi tadatthajotikāpi pariyatti idha kammaṭṭhānaṃ nāma. Gamanāgamanasampannatādi senāsanaṃ. Saṃkiliṭṭhacīvaradhovanādayo khuddakapalibodhā. ‘‘Antarā patitaṃ nu kho’’ti vikampati.
Bằng điều đã được nói là vì là nền tảng của hành động thực hành. Người có đời sống nhẹ nhàng là người có tám vật dụng. Đề mục có năm phần, ở đây, cả thiền, cả tướng, và cả kinh điển làm sáng tỏ ý nghĩa đó, đều được gọi là đề mục. Chỗ ở là sự thành tựu về việc đi lại và các yếu tố khác. Các trở ngại nhỏ là việc giặt y bị bẩn và các việc khác. Bị dao động “có phải đã rơi ở giữa không.”

Ajjhattaṃ vikkhepagatenāti niyakajjhatte vikkhepagatena. Sāraddhā asamāhitattā. Upanibandhanathambhamūlaṃ nāma nāsikaggaṃ, mukhanimittaṃ vā. Tatthevāti nāsikaggādinimitte. ‘‘Dolāphalakassa ekapasse eva ubho koṭiyo majjhañca passatī’’ti vadanti.
Do bị phân tán ở bên trong là do bị phân tán trong chính nội tâm của mình. Căng thẳng, do không định tâm. Gốc cột để buộc là đầu mũi, hoặc là tướng miệng. Ngay tại đó là trong tướng đầu mũi và các tướng khác. Người ta nói rằng “của cái ván đu, ở một bên, thấy cả hai đầu và phần giữa.”

Idha panāti kakacūpame. Desatoti phusanakaṭṭhānato. ‘‘Nimittaṃ paṭṭhapetabbanti nimitte sati paṭṭhapetabbā’’ti vuttaṃ. Garūhi bhāvetabbattā garukabhāvanaṃ. Ekacce āhūti ekacce jhāyino āhu.
Còn ở đây là trong ví dụ về cái cưa. Từ nơi chốn là từ nơi tiếp xúc. Đã được nói: “phải thiết lập tướng, là khi có tướng, phải thiết lập niệm.” Vì phải được tu tập bởi những người nghiêm túc, nên là sự tu tập nghiêm túc. Một số người nói là một số hành giả nói.

‘‘Saññānānatāyā’’ti vacanato ekaccehi vuttampi pamāṇameva, saṅgītito paṭṭhāya aṭṭhakathāya anāgatattā tathā vuttaṃ. ‘‘Mayhaṃ tārakarūpaṃ nu kho upaṭṭhātī’’tiādiparikappe asatipi dhātunānattena etāsaṃ dhātūnaṃ uppatti viya kevalaṃ bhāvayato tathā tathā upaṭṭhāti. ‘‘Na nimitta’nti vattuṃ na vaṭṭati sampajānamusāvādattā’’ti vuttaṃ. Kammaṭṭhānanti idha vuttapaṭibhāganimittameva.
Theo câu “do sự khác biệt của tưởng,” ngay cả điều đã được nói bởi một số người cũng là tiêu chuẩn. Đã được nói như vậy vì chưa có trong Chú giải từ khi kết tập kinh điển. Ngay cả khi không có sự lập kế hoạch “có phải hình dạng ngôi sao đang hiện hữu với tôi không” và các kế hoạch khác, do sự khác biệt của các đại, giống như sự sinh khởi của các đại đó, nó cũng hiện hữu theo cách đó đối với người chỉ tu tập. Đã được nói: “không được phép nói ‘không phải là tướng,’ vì là cố ý nói dối.” Đề mục, ở đây, chính là tướng tương tự đã được nói.

Nimitte paṭibhāge. Nānākāranti ‘‘cattāro vaṇṇā vattantī’’ti vuttanānāvidhataṃ. Vibhāvayanti jānaṃ pakāsayaṃ. Assāsapassāseti tato sambhūte nimitte, assāsapassāse vā nānākāraṃ. Nimitte hi cittaṃ ṭhapentova nānākāratañca vibhāveti, assāsapassāse vā sakaṃ cittaṃ nibandhatīti vuccati. Tārakarūpādivaṇṇato. Kakkhaḷattādilakkhaṇato.
Trong tướng, trong tướng tương tự. Nhiều cách là sự đa dạng đã được nói “bốn màu sắc diễn ra.” Làm cho sáng tỏ, là biết, làm cho sáng tỏ. Trong hơi thở vào và hơi thở ra, trong tướng đã sinh ra từ đó, hoặc trong hơi thở vào và hơi thở ra, có nhiều cách. Bởi vì khi đặt tâm vào tướng, vị ấy cũng làm cho sự đa dạng được sáng tỏ, và được gọi là buộc tâm của mình vào hơi thở vào và hơi thở ra. Từ màu sắc của hình dạng ngôi sao và các hình dạng khác. Từ đặc tính cứng rắn và các đặc tính khác.

Aṭṭhakathāsu paṭikkhittanti āsannabhavaṅgattāti kāraṇaṃ vatvā sīhaḷaṭṭhakathāsu paṭikkhittaṃ. Kasmā? Yasmā chaṭṭhe, sattame vā appanāya sati maggavīthiyaṃ phalassa okāso na hoti, tasmā. Idha hotūti ce? Na, lokiyappanāpi hi appanāvīthimhi lokuttarena samānagatikāvāti paṭiladdhajjhānopi bhikkhu diṭṭhadhammasukhavihāratthāya jhānaṃ samāpajjitvā sattāhaṃ nisīditukāmo catutthe, pañcame vā appetvā nisīdati, na chaṭṭhe, sattame vā. Tattha hi appanā. Tato paraṃ appanāya ādhārabhāvaṃ na gacchati. Āsannabhavaṅgattā catutthaṃ, pañcamaṃ vā gacchati thale ṭhitaghaṭo viya javanānamantare ṭhitattāti kira ācariyo.
Đã bị bác bỏ trong các Chú giải, sau khi đã nói lý do “vì gần với tâm hữu phần,” đã bị bác bỏ trong các Chú giải của Sīhaḷa. Tại sao? Bởi vì nếu nhập định ở lần thứ sáu hoặc thứ bảy, thì không có cơ hội cho quả trong lộ trình đạo. Nếu nói rằng có ở đây? Không, vì ngay cả nhập định thế gian cũng có cùng bản chất với siêu thế trong lộ trình nhập định. Do đó, ngay cả Tỳ-khưu đã chứng đắc thiền, sau khi đã nhập thiền để an trú trong lạc hiện tại, và muốn ngồi trong bảy ngày, cũng nhập định ở lần thứ tư hoặc thứ năm và ngồi, không phải ở lần thứ sáu hoặc thứ bảy. Ở đó là nhập định. Sau đó, nó không còn là nền tảng cho sự nhập định nữa. Người ta nói rằng vị Giáo thọ sư cho rằng vì gần với tâm hữu phần, nên nó đi đến lần thứ tư hoặc thứ năm, giống như cái nồi đặt trên cạn, vì ở giữa các lần khởi đầu.

Puthuttārammaṇāni anāvajjitvā jhānaṅgāneva āvajjanaṃ āvajjanavasī nāma. Tato paraṃ catunnaṃ, pañcannaṃ vā paccavekkhaṇacittānaṃ uppajjanaṃ, taṃ paccavekkhaṇavasī nāma. Teneva ‘‘paccavekkhaṇavasī pana āvajjanavasiyā eva vuttā’’ti vuttaṃ. Samāpajjanavasī nāma yattakaṃ kālaṃ icchati tattakaṃ samāpajjanaṃ, taṃ pana icchitakālaparicchedaṃ patiṭṭhāpetuṃ samatthatāti. ‘‘Adhiṭṭhānavasiyā vuṭṭhānavasino ayaṃ nānattaṃ adhiṭṭhānānubhāvena javanaṃ javati, vuṭṭhānānubhāvena pana adhippetato adhikaṃ javatī’’tipi vadanti. Apica pathavīkasiṇādiārammaṇaṃ āvajjitvā javanañca javitvā puna āvajjitvā tato pañcamaṃ jhānaṃ cittaṃ hoti, ayaṃ kira ukkaṭṭhaparicchedo. Bhagavato pana āvajjanasamanantarameva jhānaṃ hotīti sabbaṃ anugaṇṭhipade vuttaṃ.
Việc hướng tâm chỉ đến các chi thiền mà không hướng tâm đến các đối tượng khác là sự tự tại trong việc hướng tâm. Sau đó, sự sinh khởi của bốn hoặc năm tâm quán xét, đó được gọi là sự tự tại trong việc quán xét. Chính vì vậy, đã được nói: “sự tự tại trong việc quán xét đã được nói chính trong sự tự tại trong việc hướng tâm.” Sự tự tại trong việc nhập định là nhập định trong bao lâu tùy ý. Và nó có khả năng xác định khoảng thời gian mong muốn. Một số người cũng nói rằng: “sự khác biệt này của người tự tại trong việc xuất định so với người tự tại trong việc xác quyết là: do năng lực của sự xác quyết, sự khởi đầu khởi đầu. Còn do năng lực của sự xuất định, nó khởi đầu nhiều hơn mong muốn.” Hơn nữa, sau khi đã hướng tâm đến đối tượng như thiền đất và các đối tượng khác, và sau khi đã khởi đầu, và sau khi đã hướng tâm lại, thì sau đó tâm thiền thứ năm sinh ra. Người ta nói rằng đây là sự phân định cao nhất. Còn đối với Thế Tôn, ngay sau khi hướng tâm, thiền sinh ra. Tất cả những điều này đã được nói trong Anugaṇṭhipada.

‘‘Vatthunti hadayavatthuṃ. Dvāranti cakkhādi. Ārammaṇanti rūpādī’’ti likhitaṃ. Yathāpariggahitarūpārammaṇaṃ vā viññāṇaṃ passati, aññathāpi passati. Kathaṃ? ‘‘Yathāpariggahitarūpavatthudvārārammaṇaṃ vā’’ti vuttaṃ. Yathāpariggahitarūpesu vatthudvārārammaṇāni yassa viññāṇassa, taṃ viññāṇaṃ yathāpariggahitarūpavatthudvārārammaṇaṃ tampi passati, ekassa vā ārammaṇapadassa lopo daṭṭhabboti ca mama takko vicāretvāva gahetabbo.
Đã được viết: “vật là tâm vật. Cửa là mắt và các căn khác. Đối tượng là sắc và các đối tượng khác.” Vị ấy thấy thức, hoặc là đối tượng sắc đã được nắm bắt, hoặc là thấy theo cách khác. Như thế nào? Đã được nói: “hoặc là vật, cửa, đối tượng sắc đã được nắm bắt.” Thức nào có vật, cửa, đối tượng trong các sắc đã được nắm bắt, thì thức đó là vật, cửa, đối tượng sắc đã được nắm bắt, vị ấy cũng thấy điều đó. Hoặc là cần phải hiểu có sự lược bỏ của một từ đối tượng. Theo suy đoán của tôi, cần phải xem xét rồi mới chấp nhận.

Tato paraṃ tīsu catukkesu dve dve padāni ekamekaṃ katvā gaṇetabbaṃ. Samathena ārammaṇato vipassanāvasena asammohato pītipaṭisaṃvedanamettha veditabbaṃ. ‘‘Dukkhametaṃ ñāṇa’’ntiādīsu pana ‘‘ārammaṇato asammohato’’ti yaṃ vuttaṃ, idha tato vuttanayato uppaṭipāṭiyā vuttaṃ. Tattha hi yena mohena taṃ dukkhaṃ paṭicchannaṃ, na upaṭṭhāti, tassa vihatattā vā evaṃ pavatte ñāṇe yathāruci paccavekkhituṃ icchiticchitakāle samatthabhāvato vā dukkhādīsu tīsu asammohato ñāṇaṃ vuttaṃ. Nirodhe ārammaṇato taṃsampayuttā pītipaṭisaṃvedanā asammohato na sambhavati mohappahānābhāvā, paṭisambhidāpāḷivirodhato ca. Tattha ‘‘dīghaṃ assāsavasenā’’tiādi ārammaṇato dassetuṃ vuttaṃ. Tāya satiyā tena ñāṇena sā pīti paṭisaṃviditā hoti tadārammaṇassa paṭisaṃviditattāti ettha adhippāyo. ‘‘Āvajjato’’tiādi asammohato pītipaṭisaṃvedanaṃ dassetuṃ vuttaṃ. Aniccādivasena jānato, passato, paccavekkhato ca. Tadadhimuttatāvasena adhiṭṭhahato, adhimuccato, tathā vīriyādiṃ samādahato khaṇikasamādhinā.
Sau đó, trong ba bộ bốn, cần phải đếm hai hai từ thành một. Cần phải biết ở đây là sự cảm nhận hỷ từ đối tượng bằng định, do không bị mê lầm bằng tuệ quán. Còn trong các câu như “đây là trí khổ” và các câu tương tự, điều đã được nói “từ đối tượng, do không bị mê lầm,” ở đây đã được nói theo thứ tự ngược lại so với cách đã được nói ở đó. Ở đó, vì si mê, mà khổ đó đã bị che giấu, không hiện hữu, đã bị phá tan, hoặc là vì có khả năng quán xét theo ý muốn vào lúc muốn, trong trí đã tiến triển như vậy, nên trí đã được nói là do không bị mê lầm trong ba pháp khổ và các pháp khác. Trong diệt, sự cảm nhận hỷ tương ưng với nó từ đối tượng, không thể có do không bị mê lầm, vì chưa đoạn trừ si mê, và vì mâu thuẫn với Pāḷi của Paṭisambhidā. Ở đó, đã được nói “bằng cách thở vào dài” và các câu tương tự để trình bày từ đối tượng. Hỷ đó đã được cảm nhận bằng niệm đó, bằng trí đó, ở đây ý định là vì đối tượng của nó đã được cảm nhận. Đã được nói “do hướng tâm” và các câu tương tự để trình bày sự cảm nhận hỷ do không bị mê lầm. Do biết, thấy, và quán xét theo vô thường và các đặc tính khác. Do có sự quyết tâm đó, do xác quyết, do tin tưởng, cũng vậy, do định tâm vào tinh tấn và các pháp khác bằng định trong khoảnh khắc.

Abhiññeyyanti ñātapariññāya. Pariññeyyanti tīraṇapariññāya. Sabbañhi dukkhasaccaṃ abhiññeyyaṃ, pariññeyyañca. Tatra cāyaṃ pītīti likhitaṃ. Abhiññeyyantiādi maggakkhaṇaṃ sandhāyāhāti vuttaṃ. Maggena asammohasaṅkhātavipassanākiccanipphattito maggopi abhiññeyyādiārammaṇaṃ karonto viya vutto. Vipassanābhūmidassanatthanti samathe kāyikasukhābhāvā vuttaṃ. Dvīsu cittasaṅkhārapadesūti cittasaṅkhārapaṭisaṃvedī…pe… sikkhati passambhayaṃ cittasaṅkhārapaṭisaṃvedī…pe… sikkhatīti etesu. Modanādi sabbaṃ pītivevacanaṃ. Aniccānupassanādi kilese, tammūlake khandhābhisaṅkhāre. Evaṃ bhāvitoti na catukkapañcakajjhānanibbattanena bhāvito. Evaṃ sabbākāraparipuṇṇaṃ katvā bhāvito. Vipassanāmaggapaccavekkhaṇakālesupi pavattaassāsamukheneva sabbaṃ dassitaṃ upāyakusalena bhagavatā.
Điều cần được biết rõ là bằng trí biết rõ. Điều cần được biết rõ là bằng trí phân tích. Tất cả khổ đế đều cần được biết rõ và cần được biết rõ. Ở đó, đây là hỷ, đã được viết. Đã được nói rằng điều cần được biết rõ và các câu tương tự là để chỉ khoảnh khắc đạo. Vì đạo đã hoàn thành nhiệm vụ của tuệ quán, được gọi là sự không mê lầm, nên đạo cũng được gọi là giống như lấy điều cần được biết rõ và các điều khác làm đối tượng. Để trình bày nền tảng của tuệ quán, đã được nói vì không có lạc của thân trong định. Trong hai từ về hành của tâm, là trong các câu “cảm nhận hành của tâm… cho đến… học, làm cho hành của tâm lắng dịu, cảm nhận hành của tâm… cho đến… học.” Tất cả các từ vui mừng và các từ khác đều là tên gọi khác của hỷ. Trong các phiền não và các uẩn hành có nguồn gốc từ chúng, như quán vô thường và các pháp khác. Đã được tu tập như vậy, không phải là đã được tu tập bằng cách tạo ra thiền thứ tư và thứ năm. Đã được tu tập bằng cách làm cho nó hoàn chỉnh theo mọi phương diện. Ngay cả trong các thời điểm tuệ quán, đạo và quán xét, tất cả đều đã được Thế Tôn, bậc khéo léo trong phương tiện, trình bày chính qua hơi thở tiến triển.

168.Kasmā idaṃ vuccati amhehīti adhippāyo.
168. Tại sao điều này được nói, ý định là bởi chúng tôi.

Padabhājanīyavaṇṇanā
Diễn giải về phân tích từ

172.Ussukkavacananti pākaṭasaddasaññā kira, samānakapadanti vuttaṃ hoti. ‘‘Sutvā bhuñjantī’’ti ettha viya sañcicca voropetukāmassa sañciccapadaṃ voropanapadassa ussukkaṃ, sañcetanā ca jīvitā voropanañca ekassevāti vuttaṃ hoti. Na kevalaṃ cetasikamatteneva hoti, payogopi icchitabbo evāti dassetuṃ vuttānīti kira upatissatthero. ‘‘Jānitvā sañjānitvā cecca abhivitaritvā’’ti vattabbe ‘‘jānanto…pe… vītikkamo’’ti voropanampi dassitaṃ, tasmā byañjane ādaraṃ akatvā attho dassito. Vītikkamasaṅkhātatthasiddhiyā hi purimacetanā atthasādhikā hoti. Sabbasukhumaattabhāvanti rūpaṃ sandhāya vuttaṃ, na arūpaṃ. Attasaṅkhātānañhi arūpānaṃ khandhavibhaṅge (vibha. 1 ādayo) viya idha oḷārikasukhumatā anadhippetā. Mātukucchisminti yebhuyyavacanaṃ, opapātikamanussepi pārājikameva, arūpakāye upakkamābhāvā taggahaṇaṃ kasmāti ce? Arūpakkhandhena saddhiṃ tasseva rūpakāyassa jīvitindriyasambhavato. Tena sajīvakova manussaviggahopi nāma hotīti siddhaṃ. Ettha mātukucchisminti manussamātuyā vā tiracchānamātuyā vā. Vuttañhi parivāre (pari. 480) –
172. Người ta nói rằng lời nói thúc giục là ý thức về âm thanh rõ ràng, có nghĩa là từ đồng nghĩa. Giống như trong câu “sau khi đã nghe, họ ăn,” ý định là đối với người muốn cố ý giết, từ “cố ý” thúc giục từ “giết,” và ý định và việc giết là của cùng một người. Đã được nói để trình bày rằng không phải chỉ bằng ý định mà còn phải có hành động. Người ta nói rằng Trưởng lão Upatissa đã nói như vậy. Khi lẽ ra phải nói “sau khi đã biết, đã nhận biết, đã cố ý, đã suy nghĩ,” lại nói “người biết… cho đến… sự vi phạm,” việc giết cũng đã được trình bày. Do đó, đã trình bày ý nghĩa mà không quan tâm đến văn tự. Bởi vì ý định trước đó hoàn thành ý nghĩa để xác định ý nghĩa được gọi là sự vi phạm. Tự thân vi tế nhất, đã được nói đến để chỉ sắc, không phải vô sắc. Bởi vì ở đây, sự thô thiển và vi tế của các pháp vô sắc được gọi là tự thân không được hàm ý, giống như trong phần phân tích uẩn (vibha. 1 ādayo). Trong bụng mẹ, là lời nói theo đa số, ngay cả đối với người hóa sinh cũng chính là tội Bất Cộng Trụ. Nếu hỏi tại sao lại nắm bắt nó, vì không có sự tấn công đối với thân vô sắc? Vì có sự tồn tại của mạng căn của chính thân sắc đó cùng với uẩn vô sắc. Do đó, đã được xác định rằng ngay cả con người có sự sống cũng được gọi là con người. Ở đây, trong bụng mẹ là trong bụng của người mẹ là người hoặc là súc sinh. Đã được nói trong Parivāra (pari. 480) –

‘‘Itthiṃ hane ca mātaraṃ, purisañca pitaraṃ hane;
Mātaraṃ pitaraṃ hantvā, na tenānantaraṃ phuse;
Pañhā mesā kusalehi cintitā’’ti.
“Giết người nữ là mẹ, giết người nam là cha;
Sau khi đã giết mẹ và cha, không phạm tội vô gián do điều đó;
Đây là câu hỏi đã được những người tài giỏi suy nghĩ.”

Paṭhamanti paṭisandhicittameva. Ekabhavapariyāpannāya hi cittasantatiyā paṭisandhicittaṃ paṭhamacittaṃ nāma. Cuticittaṃ pacchimaṃ nāma. Aññathā anamatagge saṃsāre paṭhamacittaṃ nāma natthi vinā anantarasamanantaranatthivigatapaccayehi cittuppattiyā abhāvato. Bhāve vā navasattapātubhāvadosappasaṅgo. Ayaṃ sabbapaṭhamo manussaviggahoti kiñcāpi imaṃ jīvitā voropetuṃ na sakkā, taṃ ādiṃ katvā santatiyā yāva maraṇā uppajjanakamanussaviggahesu aparimāṇesu ‘‘sabbapaṭhamo’’ti dissati. Yadā pana yo manussaviggaho pubbāpariyavasena santatippatto hoti, tadā taṃ jīvitā voropetuṃ sakkā. Santatiṃ vikopento hi jīvitā voropeti nāma. Ettha ca nānattanaye adhippete sati ‘‘sabbapaṭhamo’’ti vacanaṃ yujjati, na pana ekattanaye santatiyā ekattā. Ekattanayo ca idhādhippeto ‘‘santatiṃ vikopetī’’ti vacanato, tasmā ‘‘sabbapaṭhamo’’ti vacanaṃ na yujjatīti ce? Na, santatipaccuppannabahuttā. Yasmā pana santati nāma anekesaṃ pubbāpariyuppatti vuccati, tasmā ‘‘ayaṃ sabbapaṭhamo’’ti vutto, evamettha dvepi nayā saṅgahaṃ gacchanti, aññathā ‘‘santatiṃ vikopetī’’ti idaṃ vacanaṃ na sijjhati. Kiñcāpi ettha ‘‘santatiṃ vikopetī’’ti vacanato santatipaccuppannameva adhippetaṃ, na addhāpaccuppannaṃ viya dissati, tathāpi yasmā santatipaccuppanne vikopite addhāpaccuppannaṃ vikopitameva hoti, addhāpaccuppanne pana vikopite santatipaccuppannaṃ vikopitaṃ hotīti ettha vattabbaṃ natthi. Tasmā aṭṭhakathāyaṃ ‘‘tadubhayampi voropetuṃ sakkā, tasmā tadeva sandhāya ‘santatiṃ vikopetī’ti idaṃ vuttanti veditabba’’nti āha. ‘‘Santatiṃ vikopetī’’ti vacanato pakatiyā āyupariyantaṃ patvā maraṇakasatte vītikkame sati anāpatti vītikkamapaccayā santatiyā akopitattā. Vītikkamapaccayā ce āyupariyantaṃ appatvā antarāva maraṇakasatte vītikkamapaccayā āpatti, kammabaddho cāti no takkoti ācariyo. ‘‘Maraṇavaṇṇaṃ vā saṃvaṇṇeyya, maraṇāya vā samādapeyya, ayampi pārājiko hoti asaṃvāso’’ti Yamakato vā cetanākkhaṇe eva pārājikāpatti ekantākusalattā, dukkhavedanattā, kāyakammattā, vacīkammattā, kiriyattā cāti veditabbaṃ.
Đầu tiên là chính tâm tái sinh. Bởi vì trong dòng tâm thuộc về một kiếp, tâm tái sinh được gọi là tâm đầu tiên. Tâm chết được gọi là tâm cuối cùng. Nếu không, trong vòng luân hồi vô thủy, không có cái gọi là tâm đầu tiên, vì không có sự sinh khởi của tâm do các duyên vô gián, liên tục, không có và đã qua. Hoặc là nếu có, sẽ có lỗi về sự xuất hiện của chúng sinh mới. Đây là con người đầu tiên nhất, mặc dù không thể giết con người này, nhưng sau khi đã lấy đó làm đầu, trong vô số con người sinh ra trong dòng liên tục cho đến khi chết, nó có vẻ như là “đầu tiên nhất.” Nhưng khi con người nào đã đạt đến dòng liên tục theo cách trước sau, thì lúc đó có thể giết con người đó. Bởi vì người nào làm gián đoạn dòng liên tục thì được gọi là giết. Ở đây, khi có nhiều cách khác nhau được hàm ý, thì lời nói “đầu tiên nhất” là hợp lý, không phải là trong một cách, vì dòng liên tục là một. Và một cách được hàm ý ở đây, theo câu “làm gián đoạn dòng liên tục,” do đó, nếu nói rằng lời nói “đầu tiên nhất” không hợp lý? Không phải vậy, vì có nhiều sự hiện hữu trong dòng liên tục. Và vì dòng liên tục được gọi là sự sinh khởi trước sau của nhiều thứ, do đó đã được nói “đây là đầu tiên nhất.” Như vậy, ở đây cả hai cách đều được bao gồm. Nếu không, lời nói “làm gián đoạn dòng liên tục” này sẽ không được xác định. Mặc dù ở đây, theo câu “làm gián đoạn dòng liên tục,” có vẻ như chỉ có sự hiện hữu trong dòng liên tục được hàm ý, không phải là sự hiện hữu trong thời gian. Tuy nhiên, vì khi sự hiện hữu trong dòng liên tục bị gián đoạn, thì sự hiện hữu trong thời gian cũng chính là bị gián đoạn, còn khi sự hiện hữu trong thời gian bị gián đoạn, thì không cần phải nói rằng sự hiện hữu trong dòng liên tục cũng bị gián đoạn. Do đó, trong Chú giải, Ngài đã nói: “cả hai điều đó đều có thể bị giết. Do đó, cần phải biết rằng đã được nói ‘làm gián đoạn dòng liên tục’ để chỉ chính điều đó.” Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, theo câu “làm gián đoạn dòng liên tục,” nếu có sự vi phạm đối với chúng sinh chết sau khi đã sống đến hết tuổi thọ một cách tự nhiên, thì không phạm tội, vì dòng liên tục không bị gián đoạn do duyên vi phạm. Nếu có tội do duyên vi phạm đối với chúng sinh chết ở giữa chừng, trước khi sống đến hết tuổi thọ, do duyên vi phạm, thì cũng bị ràng buộc bởi nghiệp. “Hoặc là ca ngợi cái chết, hoặc là khuyến khích chết, người này cũng là tội Bất Cộng Trụ, không được sống chung.” Cần phải biết rằng, từ Yamaka, hoặc là phạm tội Bất Cộng Trụ ngay trong khoảnh khắc có ý định, vì là hoàn toàn bất thiện, là khổ thọ, là thân nghiệp, là khẩu nghiệp, và là hành động.

Sattaṭṭhajavanavāramattanti sabhāgārammaṇavasena vuttaṃ, teneva ‘‘sabhāgasantativasenā’’tiādi vuttaṃ . Attano paṭipakkhena samannāgatattā samanantarassa paccayaṃ hontaṃ yathā pure viya ahutvā dubbalassa. Tanti jīvitindriyavikopanaṃ.
Chỉ bằng bảy, tám lộ trình khởi đầu, đã được nói theo cách của đối tượng đồng loại. Chính vì vậy, đã được nói: “theo dòng liên tục đồng loại” và các đoạn tiếp theo. Của cái yếu, trở thành duyên cho cái ngay sau đó, không giống như trước đây, vì đã đi kèm với sự đối lập của chính nó. Đó là sự gián đoạn mạng căn.

Ītinti sattavidhavicchikādīni yuddhe ḍaṃsitvā māraṇatthaṃ vissajjenti. Pajjarakanti sarīraḍāhaṃ. Sūcikanti sūlaṃ. Visūcikanti sukkhamātisāraṃvasayaṃ. Pakkhandiyanti rattātisāraṃ. Dvattibyāmasatappamāṇe mahākāye nimminitvā ṭhitanāguddharaṇaṃ, kujjhitvā olokite paresaṃ kāye visamaraṇaṃ vā ḍāhuppādanaṃ vā payogasamāpattiyo nāma.
Tai họa, họ thả ra bảy loại bọ cạp và các loài khác trong chiến tranh để cắn và giết. Sự thiêu đốt là sự thiêu đốt của thân thể. Cái kim là cái cọc. Bệnh tả là bệnh tả nhẹ. Bệnh lỵ là bệnh lỵ ra máu. Việc hóa hiện ra con rồng có thân thể lớn bằng hai trăm ba mươi thước và đứng đó, hoặc là làm cho người khác bị ngộ độc và chết, hoặc là làm cho thân thể bị thiêu đốt khi nhìn một cách giận dữ, được gọi là các định hành động.

Kecīti mahāsaṅghikā. Ayaṃ itthī. Kulumbassāti gabbhassa. Kathaṃ sā itarassāti ce? Tassa duṭṭhena manasānupakkhite so ca gabbho sā ca iddhīti ubhayampi saheva nassati, ghaṭaggīnaṃ bhedanibbāyanaṃ viya ekakkhaṇe hoti. ‘‘Tesaṃ suttantikesu ocariyamānaṃ na sametī’’ti likhitaṃ, ‘‘tesaṃ mataṃ gahetvā ‘thāvarīnampi ayaṃ yujjatī’ti vutte tikavasena paṭisedhitabbanti apare’’ti vuttaṃ. Sāhatthikanissaggiyapayogesu sanniṭṭhāpakacetanāya sattamāya sahuppannakāyaviññattiyā sāhatthikatā veditabbā. Āṇattike pana sattahipi cetanāhi saha vacīviññattisambhavato sattasatta saddā ekato hutvā ekekakkharabhāvaṃ gantvā yattakehi akkharehi attano adhippāyaṃ viññāpeti, tadavasānakkharasamuṭṭhāpikāya sattamacetanāya sahajātavacīviññattiyā āṇattikatā veditabbā. Tathā vijjāmayapayoge. Kāyenāṇattiyaṃ pana sāhatthike vuttanayova. Thāvarapayoge yāvatā parassa maraṇaṃ hoti, tāvatā kammabaddho, āpatti ca. Tato paraṃ atisañcaraṇe kammabaddhātibahuttaṃ veditabbaṃ sati paraṃ maraṇe. Pārājikāpatti panettha ekā. Atthasādhakacetanā yasmā ettha ca dutiyapārājike ca labbhati, na aññattha, tasmā dvinnampi sādhāraṇā imā gāthāyo –
Một số người là Mahāsaṅghika. Người phụ nữ này. Của bào thai. Nếu hỏi làm sao nó là của người khác? Khi người đó bị tấn công với tâm ác ý, thì cả bào thai đó và người phụ nữ đó, cả hai đều chết cùng nhau, giống như việc phá vỡ và dập tắt ngọn lửa trong nồi, xảy ra trong một khoảnh khắc. Đã được viết: “điều đang được chỉ trích trong các Kinh điển của họ không phù hợp.” Đã được nói: “những người khác nói rằng sau khi đã lấy quan điểm của họ và nói ‘cách này cũng hợp lý đối với những người cố định,’ thì bị bác bỏ theo ba cách.” Trong các hành động bằng tay và phải từ bỏ, cần phải biết tính chất hành động bằng tay của biểu lộ thân cùng sinh với ý định thứ bảy, là ý định quyết định. Còn trong việc ra lệnh, vì có khả năng có biểu lộ khẩu cùng với cả bảy ý định, nên bảy bảy âm thanh, sau khi đã hợp lại và trở thành một âm, cần phải biết tính chất ra lệnh của biểu lộ khẩu cùng sinh với ý định thứ bảy, là ý định làm phát sinh âm cuối cùng, mà người đó làm cho biết ý định của mình bằng bao nhiêu âm. Cũng vậy trong hành động do trí tuệ. Còn trong việc ra lệnh bằng thân, thì chính là cách đã được nói trong hành động bằng tay. Trong hành động cố định, chừng nào người kia còn chưa chết, thì chừng đó còn bị ràng buộc bởi nghiệp, và có tội. Sau đó, cần phải biết rằng có rất nhiều sự ràng buộc bởi nghiệp trong việc đi qua lại, nếu người kia chết. Tội Bất Cộng Trụ ở đây là một. Bởi vì ý định hoàn thành mục đích được chấp nhận ở đây và trong tội Bất Cộng Trụ thứ hai, không phải ở nơi khác, do đó, các bài kệ này là chung cho cả hai –

‘‘Bhūtadhammaniyāmā ye, te dhammā niyatā matā;
Bhāvidhammaniyāmā ye, teva aniyatā idha.
“Những pháp nào là quy luật của những gì đã tồn tại, những pháp đó được coi là đã được xác định;
Những pháp nào là quy luật của những gì sẽ tồn tại, những pháp đó ở đây là không được xác định.

‘‘Bhūtadhammaniyāmānaṃ, ṭhitāva sā paccayaṭṭhiti;
Bhāvidhammaniyāmānaṃ, sāpekkhā paccayaṭṭhiti.
“Đối với những quy luật của những gì đã tồn tại, trạng thái duyên đó đã tồn tại;
Đối với những quy luật của những gì sẽ tồn tại, trạng thái duyên đó còn phụ thuộc.

‘‘Tenaññā hetuyā atthi, sāpi dhammaniyāmatā;
Tassā phalaṃ aniyataṃ, phalāpekkhā niyāmatā.
“Do đó, có một quy luật của Pháp khác, do một nguyên nhân khác;
Quả của nó không được xác định, quy luật phụ thuộc vào quả.

‘‘Evañhi sabbadhammānaṃ, ṭhitā dhammaniyāmatā;
Laddhadhammaniyāmā yā, sātthasādhakacetanā.
“Như vậy, đối với tất cả các pháp, quy luật của Pháp đã tồn tại;
Ý định hoàn thành mục đích nào đã có được quy luật của Pháp.

‘‘Cetanāsiddhito pubbe, pacchā tassātthasiddhito;
Avisesena sabbāpi, chabbidhā atthasādhikā.
“Từ trước khi ý định được xác định, và sau khi mục đích của nó được xác định;
Một cách không phân biệt, tất cả sáu loại đều hoàn thành mục đích.

‘‘Āṇattiyaṃ yato sakkā, vibhāvetuṃ vibhāgato;
Tasmā āṇattiyaṃyeva, vuttā sā atthasādhikā.
“Vì trong sự ra lệnh có thể được làm sáng tỏ theo sự phân loại;
Do đó, chính trong sự ra lệnh đã được nói là hoàn thành mục đích.

‘‘Micchatte vāpi sammatte, niyatāniyatā matā;
Abhidhamme na sabbatthi, tattha sā niyatā siyā.
“Trong tà kiến hoặc chánh kiến, đã được coi là đã được xác định và không được xác định;
Trong Vi Diệu Pháp không có ở khắp mọi nơi, ở đó nó sẽ được xác định.

‘‘Yā theyyacetanā sabbā, sahatthāṇattikāpi vā;
Abhidhammanayenāyaṃ, ekantaniyatā siyā.
“Tất cả các ý định trộm cắp nào, dù là bằng tay hay ra lệnh;
Theo cách của Vi Diệu Pháp, nó sẽ là hoàn toàn được xác định.

‘‘Pāṇātipātaṃ nissāya, sahatthāṇattikādikā;
Abhidhammavasenesā, paccekaṃ taṃ dukaṃ bhaje.
“Dựa vào việc sát sinh, các hành động bằng tay, ra lệnh và các hành động khác;
Theo cách của Vi Diệu Pháp, mỗi loại sẽ được chia thành hai.

‘‘Jīvitindriyupacchedo, cetanā ceti taṃ dvayaṃ;
Na sāhatthikakammena, pagevāṇattikāsamaṃ.
“Sự cắt đứt mạng căn, và ý định, cả hai điều đó;
Không giống như hành động bằng tay, huống chi là hành động ra lệnh.

‘‘Jīvitindriyupacchedo, cetanā ceti taṃ dvayaṃ;
Na sāhatthikakammena, pagevāṇattikāsamaṃ.
“Sự cắt đứt mạng căn, và ý định, cả hai điều đó;
Không giống như hành động bằng tay, huống chi là hành động ra lệnh.

‘‘Jīvitindriyupacchedakkhaṇe vadhakacetanā;
Cirāṭhitāti ko dhammo, niyāmeti āpattikaṃ.
“Vào khoảnh khắc cắt đứt mạng căn, ý định giết người;
Đã tồn tại từ lâu, pháp nào quy định là có tội.

‘‘Jīvitindriyupacchedakkhaṇe ce vadhako siyā;
Mato sutto pabuddho vā, kusalo vadhako siyā.
“Nếu vào khoảnh khắc cắt đứt mạng căn, có người giết người;
Người đã chết, đang ngủ, hoặc đã thức, người thiện có thể là người giết người.

‘‘Kusalattikabhedo ca, vedanāttikabhedopi;
Siyā tathā gato siddho, sahatthā vadhakacetanā’’ti.
“Và sự khác biệt của ba loại thiện, và cả sự khác biệt của ba loại thọ;
Có thể được xác định như vậy, ý định giết người bằng chính tay mình.”

Yāni pana bījautukammadhammacittaniyāmāni pañca aṭṭhakathāya ānetvā nidassitāni, tesu ayamatthasādhakacetanā yogaṃ gacchatīti maññe ‘‘ayaṃ atthasādhakacetanāniyamo natthī’’ti cetanānaṃ micchattasammattaniyatānampi natthibhāvappasaṅgato. Bhajāpiyamānā yena, tena sabbepi yathāsambhavaṃ kammacittaniyāme bhajanti gacchantīti veditabbaṃ. Jīvite ādīnavo maraṇavaṇṇadassane na vibhattova, idha pana saṅkappapade atthato ‘‘maraṇasaññī maraṇacetano maraṇādhippāyo’’ti evaṃ avibhūtattā vibhatto, apākaṭattā, anoḷārikattā vā avibhāgā kāritā vā. Nayidaṃ vitakkassa nāmanti na vitakkasseva nāmaṃ, kintu saññācetanānampi nāmanti gahetabbaṃ. Kaṅkhāvitaraṇiyampi evameva vuttaṃ.
Còn năm quy luật về hạt giống, thời tiết, nghiệp, pháp và tâm đã được đưa ra và trình bày trong Chú giải, tôi nghĩ rằng ý định hoàn thành mục đích này phù hợp với chúng. Nếu nói “không có quy luật về ý định hoàn thành mục đích này,” sẽ dẫn đến việc không có cả các ý định cố định về tà kiến và chánh kiến. Cần phải biết rằng bằng cái nào mà chúng được chia, thì bằng cái đó, tất cả chúng, theo khả năng, đều được chia theo quy luật về nghiệp và tâm. Sự nguy hại trong sự sống, trong việc thấy sự ca ngợi cái chết, không được phân chia. Còn ở đây, trong từ về ý định, về mặt ý nghĩa, đã được phân chia vì không rõ ràng, như “có ý thức về cái chết, có ý định chết, có mục đích chết.” Vì không rõ ràng, vì không thô thiển, hoặc là do sự không phân chia, hoặc là do được thực hiện. Đây không phải là tên của ý định, cần phải hiểu rằng không phải chỉ là tên của ý định, mà còn là tên của ý thức và ý định. Trong Kaṅkhāvitaraṇī cũng đã được nói như vậy.

174.Kāyatoti vuttattā ‘‘sattiñasū’’ti vattabbe vacanasiliṭṭhatthaṃ ‘‘ususattiādinā’’ti vuttaṃ. Anuddesike kammassārammaṇaṃ so vā hoti, añño vā. Ubhayehīti kiñcāpi paṭhamappahāro na sayameva sakkoti, dutiyaṃ labhitvā pana sakkonto jīvitavināsanahetu ahosi, tadatthameva hi vadhakena so dinno, dutiyo pana aññena cittena dinno, tena suṭṭhu vuttaṃ ‘‘paṭhamappahārenevā’’ti, ‘‘cetanā nāma dāruṇāti garuṃ vatthuṃ ārabbha pavattapubbabhāgacetanā pakatisabhāvavadhakacetanā, no dāruṇā hotī’’ti ācariyena likhitaṃ. ‘‘Pubbabhāgacetanā parivārā, vadhakacetanāva dāruṇā hotī’’ti vuttaṃ. Yathādhippāyanti ubhopi paṭivijjhati, sāhatthikopi saṅketattā na muccati kira.
174. Từ thân, vì đã được nói, lẽ ra phải nói “trong các cây giáo,” nhưng đã được nói “bằng tên và giáo và các vũ khí khác” để cho lời nói được trôi chảy. Trong không được chỉ định, đối tượng của nghiệp là chính người đó, hoặc là người khác. Bằng cả hai, mặc dù cú đánh đầu tiên không thể tự mình thực hiện, nhưng sau khi đã nhận được cú đánh thứ hai, vì có khả năng, nên đã trở thành nguyên nhân cho sự hủy hoại mạng sống. Bởi vì chính vì mục đích đó mà nó đã được người giết người cho. Còn cú đánh thứ hai đã được cho với một tâm khác. Do đó, đã được nói rất hay “chính bằng cú đánh đầu tiên.” Vị Giáo thọ sư đã viết: “ý định là tàn nhẫn, ý định ở phần trước, liên quan đến một sự việc nặng, là ý định giết người có bản chất tự nhiên, không phải là tàn nhẫn.” Đã được nói: “ý định ở phần trước là phụ thuộc, chính ý định giết người mới là tàn nhẫn.” Theo ý định, cả hai đều bị đâm. Người ta nói rằng ngay cả người hành động bằng tay cũng không thoát khỏi vì đã được hẹn.

Kiriyāviseso aṭṭhakathāsu anāgato. ‘‘Evaṃ vijjha, evaṃ pahara, evaṃ ghāhehī’ti pāḷiyā sametīti ācariyena gahito’’ti vadanti. Purato paharitvātiādi vatthuvisaṅketameva kira. Etaṃ gāme ṭhitanti puggalova niyamito. Yo pana liṅgavasena ‘‘dīghaṃ…pe… mārehī’’ti āṇāpeti aniyametvā. Yadi niyametvā vadati, ‘‘etaṃ dīgha’’nti vadeyyāti apare. Ācariyā pana ‘‘dīghanti vutte niyamitaṃ hoti, evaṃ aniyametvā vadati, na pana āṇāpako dīghādīsu aññataraṃ mārehīti adhippāyo’’ti vadanti kira. ‘‘Attho pana cittena ekaṃ sandhāyapi aniyametvā āṇāpetī’’ti likhitaṃ. ‘‘Itaro aññaṃ tādisaṃ māreti, āṇāpako muccatī’’ti vuttaṃ yathādhippāyaṃ na gatattā. ‘‘Evaṃ dīghādivasenāpi cittena aniyamitassevāti yuttaṃ viya dissatī’’ti aññatarasmiṃ gaṇṭhipade likhitaṃ, suṭṭhu vīmaṃsitvā sabbaṃ gahetabbaṃ, okāsassa niyamitattāti ettha okāsaniyamaṃ katvā niddisanto tasmiṃ okāse nisinnaṃ māretukāmova hoti, sayaṃ pana tadā tattha natthi. Tasmā okāsena saha attano jīvitindriyaṃ ārammaṇaṃ na hoti, tena attanā mārāpito paro eva mārāpito. Kathaṃ? Sayaṃ rasso ca tanuko ca hutvā pubbabhāge attānaṃ sandhāya āṇattikkhaṇe ‘‘dīghaṃ rassaṃ thūlaṃ balavantaṃ mārehī’’ti āṇāpentassa cittaṃ attani tassākārassa natthitāya aññassa tādisassa jīvitindriyaṃ ārammaṇaṃ katvā pavattati, tena mūlaṭṭhassa kammabaddho. Evaṃsampadamidanti daṭṭhabbaṃ.
Sự khác biệt của hành động, không có trong các Chú giải. Một số người nói rằng “đã được vị Giáo thọ sư chấp nhận vì phù hợp với Pāḷi ‘đâm như vầy, đánh như vầy, giết như vầy’.” Người ta nói rằng sau khi đã đánh ở phía trước và các câu tương tự chính là sự không hẹn trước về sự việc. Người đó ở trong làng, chính cá nhân đã được xác định. Người nào, do giới tính, ra lệnh “hãy giết… dài… cho đến…” mà không xác định. Những người khác cho rằng nếu xác định và nói, thì sẽ nói “cái dài này.” Còn các vị Giáo thọ sư lại nói rằng “khi nói ‘dài,’ thì đã được xác định. Như vậy, người đó nói mà không xác định. Không phải là người ra lệnh có ý định ‘hãy giết một trong số những cái dài và các cái khác’.” Đã được viết: “nhưng ý nghĩa là ngay cả khi không xác định bằng tâm, cũng đã ra lệnh sau khi đã nhắm đến một cái.” Đã được nói “người kia giết một cái khác tương tự, người ra lệnh thoát tội” vì không đi theo ý định. Trong một sách giải thích từ khó khác, đã được viết: “có vẻ như hợp lý là ngay cả theo cách dài và các cách khác, cũng chính là của cái không được xác định bằng tâm.” Tất cả cần phải được xem xét kỹ lưỡng và chấp nhận. Vì nơi chốn đã được xác định, ở đây, người chỉ định sau khi đã xác định nơi chốn, chính là muốn giết người ngồi ở nơi chốn đó. Nhưng chính người đó lúc đó không có ở đó. Do đó, mạng căn của chính mình cùng với nơi chốn không phải là đối tượng. Do đó, người khác đã bị mình cho giết chính là đã bị cho giết. Như thế nào? Cần phải biết điều này giống như sau: người nào, dù thấp và gầy, nhưng ở phần trước, khi ra lệnh, với ý định về chính mình, nói rằng “hãy giết người dài, thấp, to, khỏe,” thì tâm của người đó, vì không có hình dạng đó ở mình, đã lấy mạng căn của người khác có hình dạng đó làm đối tượng và tiến triển. Do đó, người gốc bị ràng buộc bởi nghiệp.

Dūtaparamparāniddese āṇāpeti, āpatti dukkaṭassa. Itarassa āroceti, āpatti dukkaṭassāti ācariyantevāsīnaṃ yathāsambhavaṃ ārocane, paṭiggaṇhane dukkaṭaṃ sandhāya vuttaṃ. Na vadhako paṭiggaṇhāti, tassa dukkaṭanti siddhaṃ hoti. Taṃ pana okāsābhāvato na vuttaṃ. Mūlaṭṭhena āpajjitabbāpattiyā hi tassa okāso aparicchinno, tenassa tasmiṃ okāse thullaccayaṃ vuttaṃ. Vadhako ce paṭiggaṇhāti, mūlaṭṭho ācariyo pubbe āpannadukkaṭena saha thullaccayampi āpajjati. Kasmā? Mahājano hi tena pāpe niyojitoti. Idaṃ pana dukkaṭathullaccayaṃ vadhako ce tamatthaṃ na sāveti āpajjati. Yadi sāveti, pārājikamevāpajjati. Kasmā? Atthasādhakacetanāya abhāvā. Anugaṇṭhipade pana ‘‘paṭiggaṇhati, taṃ dukkaṭaṃ hoti. Yadi evaṃ kasmā pāṭhe na vuttanti ce? Vadhako pana ‘sādhu karomī’ti paṭiggaṇhitvā taṃ na karoti. Evañhi niyame ‘mūlaṭṭhassa kiṃ nāma hoti, kimassa dukkaṭāpattī’ti sañjātakaṅkhānaṃ tadatthadīpanatthaṃ ‘mūlaṭṭhassa āpatti thullaccayassā’’’ti vuttaṃ. ‘‘Vadhako paṭiggaṇhāti āpatti dukkaṭassa, mūlaṭṭhassa ca āpatti thullaccayassā’’ti vuttaṃ na silissati, mūlaṭṭhena āpajjitabbāpattidassanādhikārattā vadhako paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassāti vuttaṃ.
Trong phần trình bày về chuỗi sứ giả, ra lệnh, phạm tội Tác Ác. Thông báo cho người khác, phạm tội Tác Ác, đã được nói đến để chỉ tội Tác Ác trong việc thông báo và nhận, theo khả năng, của thầy và trò. Không phải là người giết người nhận, đã được xác định là phạm tội Tác Ác đối với người đó. Nhưng điều đó không được nói vì không có cơ hội. Bởi vì cơ hội của tội lỗi mà người gốc phải phạm là không có giới hạn, do đó đã được nói là tội Trọng Tội đối với người đó trong cơ hội đó. Nếu người giết người nhận, thì người gốc, là thầy, cùng với tội Tác Ác đã phạm trước đó, cũng phạm tội Trọng Tội. Tại sao? Bởi vì nhiều người đã bị người đó xúi giục làm điều ác. Nhưng tội Tác Ác và Trọng Tội này được phạm nếu người giết người không hoàn thành mục đích đó. Nếu hoàn thành, thì chính là phạm tội Bất Cộng Trụ. Tại sao? Vì không có ý định hoàn thành mục đích. Còn trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “nhận, thì đó là tội Tác Ác. Nếu vậy, tại sao không được nói trong bài học? Bởi vì người giết người, sau khi đã nhận ‘tốt lắm, tôi sẽ làm,’ lại không làm điều đó. Trong quy định như vậy, đã được nói ‘đối với người gốc, là tội Trọng Tội’ để trình bày ý nghĩa đó cho những người có nghi ngờ ‘đối với người gốc, là gì, có phải là tội Tác Ác của người đó không’.” Lời nói “người giết người nhận, phạm tội Tác Ác, và đối với người gốc, cũng phạm tội Trọng Tội” không phù hợp. Vì là quyền hạn trình bày tội lỗi mà người gốc phải phạm, nên đã được nói “người giết người nhận, phạm tội Tác Ác.”

Visakkiyadūtapadaniddese ‘‘vattukāmatāya ca kicchenettha vatvā payojanaṃ natthīti bhagavatā na vutta’’nti vuttaṃ. Yaṃ pana ‘‘mūlaṭṭhasseva dukkaṭa’’nti aṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Tatrāyaṃ vicāraṇā – ācariyena āṇattena buddharakkhitena tadatthe saṅgharakkhitasseva ārocite kiñcāpi yo ‘‘sādhū’’ti paṭiggaṇhāti, atha kho ācariyassevetaṃ dukkaṭaṃ visaṅketattā, na buddharakkhitassa, kasmā? Atthasādhakacetanāya āpannattā. Teneva ‘‘āṇāpakassa ca vadhakassa ca āpatti pārājikassā’’ti pāḷiyaṃ vuttaṃ, taṃ pana mūlaṭṭhena āpajjitabbadukkaṭaṃ ‘‘mūlaṭṭhassa anāpattī’’ti iminā aparicchinnokāsattā na vuttaṃ.
Trong phần trình bày về sứ giả không được hẹn trước, đã được nói: “vì nói ở đây một cách khó khăn do có ý muốn nói, và không có mục đích, nên không được Thế Tôn nói.” Còn điều đã được nói trong Chú giải: “chỉ có tội Tác Ác của người gốc.” Ở đó, đây là sự xem xét – khi Saṅgharakkhita được Buddharakkhita, người được thầy ra lệnh, thông báo về mục đích đó, mặc dù người nào nhận “tốt lắm,” nhưng đó chính là tội Tác Ác của thầy vì không được hẹn trước, không phải của Buddharakkhita. Tại sao? Vì đã phạm do ý định hoàn thành mục đích. Chính vì vậy, trong Pāḷi, đã được nói: “đối với người ra lệnh và người giết người, phạm tội Bất Cộng Trụ.” Nhưng tội Tác Ác mà người gốc phải phạm, vì không có giới hạn, nên không được nói cùng với câu “không phạm tội đối với người gốc.”

Avisaṅkete ‘‘mūlaṭṭhassa āpatti thullaccayassā’’ti vuttattā visaṅkete āpatti dukkaṭassāti siddhanti veditabbaṃ. ‘‘Vadhako paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassā’’ti idaṃ pana dukkaṭaṃ vadhakasseva. So hi paṭhamaṃ āṇāpakaṃ buddharakkhitaṃ pārājikāpattiṃ pāpetvā sayaṃ jīvitā voropetvā āpajjissatīti kiñcāpi pāḷiyaṃ ‘‘so taṃ jīvitā voropeti, āṇāpakassa ca vadhakassa ca āpatti pārājikassā’’ti na vuttaṃ, tathāpi taṃ atthato vuttameva, ‘‘yato pārājikaṃ paññatta’’nti pubbe vuttanayattā ca taṃ na vuttaṃ. ‘‘So taṃ jīvitā voropeti, āpatti sabbesaṃ pārājikassā’’ti hi pubbe vuttaṃ. Ettha pubbe ācariyantevāsikānaṃ vuttadukkaṭathullaccayāpattiyo paṭhamameva anāpannā pārājikāpattiyā āpannattā. Tathāpi vadhakassa pārājikāpattiyā tesaṃ pārājikabhāvo pākaṭo jātoti katvā ‘‘āpatti sabbesaṃ pārājikassā’’ti ekato vuttaṃ, na tathā ‘‘āṇāpakassa, vadhakassa ca āpatti pārājikassā’’ti ettha. Kasmā? Vadhakassa dukkaṭāpattiyā āpannattā. So hi paṭhamaṃ dukkaṭāpattiṃ āpajjitvā pacchā pārājikaṃ āpajjati. Yadi pana antevāsikā kevalaṃ ācariyassa garukatāya sāsanaṃ ārocenti sayaṃ amaraṇādhippāyā samānā pārājikena anāpatti. Akappiyasāsanaharaṇapaccayā dukkaṭāpatti hoti eva, imassatthassa sādhanatthaṃ dhammapadavatthūhi migaluddakassa bhariyāya sotāpannāya dhanuususūlādidānaṃ nidassanaṃ vadanti eke. Taṃ tittirajātakena (jā. 1.4.73 ādayo) sameti, tasmā suttañca aṭṭhakathañca anulometīti no takkoti ācariyo. Idha pana dūtaparamparāya ca ‘‘itthannāmassa pāvada, itthannāmo itthannāmaṃ pāvadatū’’ti ettha avisesetvā vuttattā vācāya vā ārocetu, hatthamuddāya vā, paṇṇena vā, dūtena vā ārocetu, visaṅketo natthi. Sace visesetvā mūlaṭṭho, antarādūto vā vadati, tadatikkame visaṅketoti veditabbaṃ.
Vì đã được nói “đối với người gốc, phạm tội Trọng Tội” trong trường hợp không hẹn trước, cần phải biết rằng đã được xác định là phạm tội Tác Ác trong trường hợp hẹn trước. Còn “người giết người nhận, phạm tội Tác Ác,” tội Tác Ác này chính là của người giết người. Bởi vì người đó, sau khi đã làm cho người ra lệnh đầu tiên là Buddharakkhita phạm tội Bất Cộng Trụ, và chính mình sau khi đã giết, sẽ phạm. Mặc dù trong Pāḷi, không được nói: “người đó giết người đó, đối với người ra lệnh và người giết người, phạm tội Bất Cộng Trụ,” nhưng về mặt ý nghĩa, chính là đã được nói. Và vì cách đã được nói trước đây “từ đâu mà tội Bất Cộng Trụ được chế định,” nên không được nói. Bởi vì trước đây đã được nói: “người đó giết người đó, tất cả đều phạm tội Bất Cộng Trụ.” Ở đây, các tội Tác Ác và Trọng Tội đã được nói trước đây của thầy và trò, đã không được phạm ngay từ đầu, vì đã phạm tội Bất Cộng Trụ. Tuy nhiên, vì trạng thái Bất Cộng Trụ của họ đã trở nên rõ ràng do tội Bất Cộng Trụ của người giết người, nên đã được nói gộp lại “tất cả đều phạm tội Bất Cộng Trụ.” Không phải như vậy trong câu “đối với người ra lệnh và người giết người, phạm tội Bất Cộng Trụ.” Tại sao? Vì đã phạm tội Tác Ác của người giết người. Bởi vì người đó, sau khi đã phạm tội Tác Ác trước, rồi sau đó phạm tội Bất Cộng Trụ. Nhưng nếu các đệ tử, chỉ vì kính trọng thầy mà thông báo mệnh lệnh, và chính họ không có ý định giết, thì không phạm tội Bất Cộng Trụ. Chính là phạm tội Tác Ác do duyên mang mệnh lệnh không hợp lệ. Để chứng minh ý nghĩa này, một số người đã đưa ra ví dụ về việc vợ của người thợ săn, là một bậc Dự lưu, cho cung, tên, giáo và các vũ khí khác từ các câu chuyện trong Dhammapada. Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, điều đó phù hợp với Tittirajātaka (jā. 1.4.73 ādayo), do đó, nó phù hợp với cả kinh và Chú giải. Còn ở đây, trong chuỗi sứ giả và trong câu “hãy nói với người tên là Itthannāma, Itthannāma hãy nói với Itthannāma,” vì đã được nói một cách không phân biệt, nên dù thông báo bằng lời nói, bằng tay, bằng thư, hay bằng sứ giả, cũng không có sự không hẹn trước. Cần phải biết rằng nếu người gốc hoặc sứ giả ở giữa nói một cách phân biệt, thì khi vượt qua điều đó, là không hẹn trước.

Idāni imasmiṃyeva adhikāradvaye anugaṇṭhipade vuttanayo vuccati – ‘‘vadhako paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassā’’ti vadhakasseva āpatti, na āṇāpakassa buddharakkhitassa. Yadi pana so vajjhamaraṇāmaraṇesu avassamaññataraṃ karoti, buddharakkhitassāṇattikkhaṇe eva pārājikadukkaṭesu aññataraṃ siyā. ‘‘Iti cittamano’’ti adhikārato ‘‘cittasaṅkappo’’ti etthāpi iti-saddo viya ‘‘vadhako paṭiggaṇhāti, mūlaṭṭhassa āpatti thullaccayassā’’ti adhikārato ‘‘mūlaṭṭhassa āpatti dukkaṭassā’’ti vuttameva hoti. Kasmā sarūpena na vuttanti ce? Tato cuttari nayadānatthaṃ. ‘‘Mūlaṭṭhassa āpatti dukkaṭassā’’ti hi vutte mūlaṭṭhasseva vasena niyamitattā ‘‘paṭiggaṇhantassa dukkaṭaṃ hotī’’ti na ñāyati. ‘‘Vadhako paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassā’’ti hi aniyametvā vutte sakkā ubhayesaṃ vasena dukkaṭe yojetuṃ. Tasmā eva hi aṭṭhakathācapetiti adhikāraṃ gahetvā ‘‘saṅgharakkhitena sampaṭicchite mūlaṭṭhasseva dukkaṭanti veditabba’’nti vuttaṃ. Paṭiggaṇhantassa neva anuññātaṃ, na paṭikkhittaṃ, kevalantu buddharakkhitassa aniyamitattā paṭikkhittaṃ, tassa pana pārājikadukkaṭesu aññataraṃ bhaveyyāti ayamattho dīpito, tasmā tampi suvuttaṃ. Yasmā ubhayesaṃ vasena yojetuṃ sakkā, tasmā ācapetiti ‘‘paṭiggaṇhantassevetaṃ dukkaṭa’’nti vuttaṃ. Tattha mūlaṭṭho neva anuññāto ‘‘mūlaṭṭhassā’’ti vacanābhāvato, na ca paṭikkhitto ‘‘paṭiggaṇhantassa āpatti dukkaṭassā’’ti pāḷiyā abhāvato, paṭiggaṇhanapaccayā vadhakassa dukkaṭaṃ siyāti nayaṃ dātuṃ ‘‘mūlaṭṭhassā’’ti pāḷiyaṃ avuttattā ‘‘taṃ paṭiggaṇhantassevetaṃ dukkaṭa’’nti yaṃ vuttaṃ, tampi suvuttaṃ. Tatra hi buddharakkhitassa paṭikkhittaṃ, vuttanayena pana tassa āpatti aniyatāti. Kasmā pana aṭṭhakathāyaṃ anuttānaṃ paṭiggaṇhanapaccayā vadhakassa dukkaṭaṃ avatvā mūlaṭṭhasseva vasena dukkaṭaṃ vuttanti ce? Aniṭṭhanivāraṇatthaṃ. ‘‘Saṅgharakkhitena sampaṭicchite paṭiggaṇhanapaccayā tassa dukkaṭa’’nti hi vutte anantaranayena sarūpena vuttattā idhāpi mūlaṭṭhassa thullaccayaṃ aṭṭhakathāyaṃ vuttameva hotīti āpajjati. Iti taṃ evaṃ āpannaṃ thullaccayaṃ uttānanti taṃ avatvā paṭiggaṇhantassa dukkaṭaṃ vuttaṃ. Anuttānattā aṭṭhakathāyanti imaṃ aniṭṭhaggahaṇaṃ nivāretuṃ ‘‘mūlaṭṭhassevetaṃ dukkaṭa’’nti vuttaṃ. Ācariyena hi vuttanayena paṭiggaṇhantassa dukkaṭampi uttānameva. Uttānañca kasmā amhākaṃ khantīti vuttanti ce? Paṭipattidīpanatthaṃ. ‘‘Piṭakattayādīsu appaṭihatabuddhiyopi ācariyā sarūpena pāḷiyaṃ aṭṭhakathāyañca avuttattā evarūpesu nāma ṭhānesu evaṃ paṭipajjanti, kimaṅgaṃ pana mādisoti suhadayā kulaputtā anāgate vuttanayamanatikkamitvā saṅkaradosaṃ vivajjetvā vaṇṇanāvelañca anatikkamma paṭipajjantī’’ti ca aparehi vuttaṃ. Ayaṃ pana aṭṭhakathāya vā avuttattā evarūpesu nāma pāṭho ācariyena pacchā nikkhittattā kesuci potthakesu na dissatīti katvā sabbaṃ likhissāma. Evaṃ sante paṭiggahaṇe āpattiyeva na siyā, sañcarittapaṭiggahaṇamaraṇābhinandanesupi ca āpatti hoti, māraṇapaṭiggahaṇe kathaṃ na siyā, tasmā paṭiggaṇhantassevetaṃ dukkaṭaṃ, tenevettha ‘‘mūlaṭṭhassā’’ti na vuttaṃ. Purimanayepi cetaṃ paṭiggaṇhantassa veditabbameva, okāsābhāvena pana na vuttaṃ. Tasmā yo yo paṭiggaṇhāti, tassa tassa tappaccayā āpattiyevāti ayamettha amhākaṃ khanti. Yathā cettha, evaṃ adinnādānepīti.
Bây giờ, trong chính hai quyền hạn này, cách đã được nói trong Anugaṇṭhipada được nói – “người giết người nhận, phạm tội Tác Ác,” tội lỗi chính là của người giết người, không phải của người ra lệnh là Buddharakkhita. Nhưng nếu người đó chắc chắn sẽ làm một trong hai việc, giết hoặc không giết người bị giết, thì trong khi ra lệnh của Buddharakkhita, sẽ có một trong hai tội Bất Cộng Trụ và Tác Ác. Giống như từ “iti” trong câu “ý định và ý nghĩ” từ quyền hạn “tâm và ý nghĩ,” thì từ quyền hạn “người giết người nhận, đối với người gốc, là tội Trọng Tội,” cũng chính là đã được nói “đối với người gốc, là tội Tác Ác.” Nếu hỏi tại sao không được nói về bản chất? Để cho một cách khác sau đó. Bởi vì nếu được nói “đối với người gốc, là tội Tác Ác,” vì đã được xác định theo chính người gốc, nên không biết được rằng “đối với người nhận, là tội Tác Ác.” Bởi vì nếu được nói một cách không xác định “người giết người nhận, phạm tội Tác Ác,” thì có thể được kết hợp theo cả hai. Chính vì vậy, sau khi đã lấy quyền hạn “Chú giải,” đã được nói: “cần phải biết rằng khi Saṅgharakkhita đã chấp nhận, thì chính là tội Tác Ác của người gốc.” Đối với người nhận, không được cho phép cũng không bị cấm. Nhưng đối với Buddharakkhita, đã bị cấm vì không được xác định. Đã được trình bày ý nghĩa rằng đối với người đó, có thể có một trong hai tội Bất Cộng Trụ và Tác Ác. Do đó, điều đó cũng đã được nói rất hay. Bởi vì có thể được kết hợp theo cả hai, nên đã được nói “đó chính là tội Tác Ác của người nhận.” Ở đó, người gốc không được cho phép, vì không có lời nói “của người gốc,” và cũng không bị cấm, vì không có Pāḷi “đối với người nhận, phạm tội Tác Ác.” Để cho một cách rằng tội Tác Ác của người giết người có thể có do duyên nhận, vì không được nói trong Pāḷi “của người gốc,” nên điều đã được nói “đó chính là tội Tác Ác của người nhận” cũng đã được nói rất hay. Ở đó, đã bị cấm đối với Buddharakkhita, nhưng theo cách đã được nói, tội của người đó là không xác định. Nhưng tại sao trong Chú giải, thay vì nói về tội Tác Ác của người giết người do duyên nhận, là điều không rõ ràng, lại được nói về tội Tác Ác theo chính người gốc? Để ngăn chặn điều không mong muốn. Bởi vì nếu được nói “khi Saṅgharakkhita đã chấp nhận, thì tội Tác Ác của người đó do duyên nhận,” vì đã được nói về bản chất theo cách ngay sau đó, sẽ dẫn đến việc ngay cả ở đây, tội Trọng Tội của người gốc cũng chính là đã được nói trong Chú giải. Như vậy, tội Trọng Tội đã phạm như vậy là rõ ràng. Để không nói điều đó, đã được nói về tội Tác Ác của người nhận. Để ngăn chặn sự chấp nhận không mong muốn này “trong Chú giải vì không rõ ràng,” đã được nói “đó chính là tội Tác Ác của người gốc.” Bởi vì theo cách đã được nói bởi vị Giáo thọ sư, tội Tác Ác của người nhận cũng là rõ ràng. Và tại sao điều rõ ràng lại được nói là theo quan điểm của chúng tôi? Để trình bày sự thực hành. “Ngay cả các vị Giáo thọ sư, có trí tuệ không bị cản trở trong ba tạng và các kinh điển khác, cũng thực hành như vầy ở những nơi như vầy vì không được nói về bản chất trong Pāḷi và Chú giải, huống chi là người như tôi. Do đó, những người con trai của gia đình tốt, có lòng tốt, trong tương lai, không vượt qua cách đã được nói, tránh xa lỗi lẫn lộn, và không vượt qua thời gian diễn giải, sẽ thực hành,” đã được những người khác nói. Nhưng vì đoạn văn này, do không được nói trong Chú giải, hoặc do đã được vị Giáo thọ sư đưa vào sau này, không được thấy trong một số sách, nên chúng tôi sẽ viết tất cả. Như vậy, trong việc nhận, có thể không có tội. Trong việc nhận môi giới và việc hoan hỷ với cái chết cũng có tội, làm sao trong việc nhận giết người lại không có? Do đó, đó chính là tội Tác Ác của người nhận. Chính vì vậy, ở đây không được nói “của người gốc.” Ngay cả trong cách trước, điều này cũng chính là cần phải biết của người nhận, nhưng không được nói vì không có cơ hội. Do đó, ở đây, theo quan điểm của chúng tôi, bất kỳ ai nhận, thì đối với người đó, chính là có tội do duyên đó. Và giống như ở đây, cũng vậy trong việc lấy của không cho.

175.Araho rahosaññīniddesādīsu kiñcāpi pāḷiyaṃ, aṭṭhakathāyañca dukkaṭameva vuttaṃ, tathāpi tattha paramparāya sutvā maratūti adhippāyena ullapantassa uddese sati uddiṭṭhassa maraṇena āpatti pārājikassa, asati yassa kassaci maraṇena āpatti pārājikassa. ‘‘Itthannāmo sutvā me vajjhassa ārocetū’’ti uddisitvā ullapantassa visaṅketatā dūtaparamparāya vuttattā veditabbā. Sace ‘‘yo koci sutvā vadatū’’ti ullapati, vajjho sayameva sutvā marati, visaṅketattā na pārājikaṃ. Yo koci sutvā vadati, so ce marati, pārājikaṃ. ‘‘Yo koci mama vacanaṃ sutvā taṃ māretū’’ti ullapati, yo koci sutvā māreti, pārājikaṃ, sayameva sutvā māreti, visaṅketattā na pārājikanti evaṃ yathāsambhavo veditabbo.
175. Trong phần trình bày về người ở nơi kín đáo, có ý thức là nơi kín đáo và các phần khác, mặc dù trong Pāḷi và Chú giải, chỉ có tội Tác Ác được nói, tuy nhiên, ở đó, đối với người ca ngợi với ý định “mong rằng người đó sẽ chết sau khi đã nghe từ người khác,” nếu có sự chỉ định, thì phạm tội Bất Cộng Trụ do cái chết của người được chỉ định. Nếu không có, thì phạm tội Bất Cộng Trụ do cái chết của bất kỳ ai. Đối với người ca ngợi sau khi đã chỉ định “Itthannāma, sau khi đã nghe, hãy thông báo cho người bị kết án của tôi,” sự không hẹn trước cần phải biết là đã được nói trong chuỗi sứ giả. Nếu ca ngợi “bất kỳ ai nghe, hãy nói,” và chính người bị kết án, sau khi đã nghe, chết, thì không phạm tội Bất Cộng Trụ vì không được hẹn trước. Nếu bất kỳ ai nghe và nói, và nếu người đó chết, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu ca ngợi “bất kỳ ai nghe lời nói của tôi, hãy giết người đó,” và bất kỳ ai nghe và giết, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu chính mình nghe và giết, thì không phạm tội Bất Cộng Trụ vì không được hẹn trước. Cần phải biết khả năng xảy ra như vậy.

176.Mūlaṃ datvā muccatīti ettha bhinditvā, bhañjitvā, cavitvā, cuṇṇetvā, aggimhi pakkhipitvā vā pageva muccatīti atthato vuttameva hoti. Yesaṃ hatthato mūlaṃ gahitanti yesaṃ ñātakaparivāritānaṃ hatthato mūlaṃ tena bhikkhunā gahitaṃ, potthakasāmikahatthato pubbe dinnamūlaṃ puna gahetvā tesaññeva ñātakādīnaṃ datvā muccati, evaṃ potthakasāmikasseva santakaṃ jātaṃ hoti. Anugaṇṭhipade pana ‘‘sacepi so vippaṭisārī hutvā sīghaṃ tesaṃ mūlaṃ datvā muccatī’’ti vuttaṃ, taṃ yena dhanena potthako kīto, tañca dhanaṃ sandhāya vuttaṃ. Kasmā? Potthakasāmikahatthato dhane gahite potthake adinnepi muccanato. Sace aññaṃ dhanaṃ sandhāya vuttaṃ, na yuttaṃ potthakassa attaniyabhāvato amocitattā. Sace potthakaṃ sāmikānaṃ datvā mūlaṃ na gaṇhāti, na muccati attaniyabhāvato amocitattā. Sace potthakaṃ mūlaṭṭhena diyyamānaṃ ‘‘taveva hotū’’ti appeti, muccati attaniyabhāvato mocitattā. Etthāyaṃ vicāraṇā – yathā cetiyaṃ vā paṭimaṃ pokkharaṇiṃ setuṃ vā kiṇitvā gahitampi kārakassevetaṃ puññaṃ, na kiṇitvā gahitassa, tathā pāpampi yena potthako likhito, tasseva yujjati, na itarassāti ce? Na, ‘‘satthahārakaṃ vāssa pariyeseyyā’’ti Yamakato. Parena hi katasatthaṃ labhitvā upanikkhipantassa pārājikanti siddhaṃ. Evaṃ parena likhitampi potthakaṃ labhitvā yathā vajjho taṃ passitvā marati, tathā upanikkhipeyya pārājikanti siddhaṃ hotīti. Cetiyādīti etamanidassanaṃ karaṇapaccayaṃ hi taṃ kammaṃ idaṃmaraṇapaccayanti evaṃ ācariyena vicāritaṃ. Mama pana cetiyādinidassaneneva sopi attho sādhetabbo viya paṭibhāti.
176. Trong câu trả lại giá trị gốc và thoát tội, ở đây, về mặt ý nghĩa, đã được nói rằng thoát tội ngay cả sau khi đã phá, làm vỡ, làm rơi, nghiền nát, hoặc ném vào lửa. Của những người mà giá trị gốc đã được nhận từ tay họ, là Tỳ-khưu đó, sau khi đã nhận lại giá trị gốc đã được cho trước đây từ tay của chủ sở hữu sách, và cho lại cho chính các quyến thuộc và những người khác của họ, thì thoát tội. Như vậy, nó đã trở thành của của chính chủ sở hữu sách. Còn trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “nếu người đó, sau khi đã hối hận, nhanh chóng trả lại giá trị gốc cho họ và thoát tội,” điều đó đã được nói đến để chỉ chính tiền bạc mà sách đã được mua bằng. Tại sao? Vì sau khi đã nhận tiền bạc từ tay của chủ sở hữu sách, dù chưa cho sách, cũng thoát tội. Nếu được nói đến để chỉ tiền bạc khác, thì không hợp lý, vì chưa được giải thoát khỏi tính chất là của mình của sách. Nếu cho sách cho các chủ nhân mà không nhận lại giá trị gốc, thì không thoát tội, vì chưa được giải thoát khỏi tính chất là của mình. Nếu người gốc cho sách và người đó nói “của ngài cả,” thì thoát tội, vì đã được giải thoát khỏi tính chất là của mình. Ở đây, đây là sự xem xét – giống như khi mua một ngôi tháp, một bức tượng, một cái ao, hoặc một cây cầu và nhận lấy, thì công đức đó chính là của người làm, không phải của người đã mua và nhận. Nếu nói rằng tội lỗi cũng vậy, chỉ thuộc về người đã viết sách, không phải người khác? Không phải vậy, từ Yamaka “hoặc là tìm kiếm người mang vũ khí cho mình.” Bởi vì đã được xác định rằng đối với người, sau khi đã nhận được vũ khí đã được người khác làm và đặt xuống, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Như vậy, đã được xác định rằng ngay cả khi nhận được sách đã được người khác viết và đặt xuống sao cho người bị kết án, sau khi đã thấy nó, sẽ chết, thì cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Tháp và các công trình khác, vị Giáo thọ sư đã xem xét rằng đây không phải là ví dụ, vì nghiệp đó có duyên làm, còn nghiệp này có duyên chết. Nhưng đối với tôi, có vẻ như ý nghĩa đó cũng phải được chứng minh chính bằng ví dụ về tháp và các công trình khác.

Tattakā pāṇātipātāti ‘‘ekāpi cetanā kiccavasena ‘tattakā’ti vuttā satipaṭṭhānasammappadhānānaṃ catukkatā viyā’’ti likhitaṃ. Pamāṇe ṭhapetvāti attanā adhippetappamāṇe. ‘‘Kataṃ mayā evarūpe āvāṭe khaṇite tasmiṃ patitvā maratū’’ti adhippāyena vadhako āvāṭappamāṇaṃ niyametvā sace khaṇi, taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘imasmiṃ āvāṭe’’ti. Idāni khaṇitabbaṃ sandhāya ettakappamāṇassa aniyamitattā ‘‘ekasmimpi kudālappahāre’’tiādi vuttaṃ, suttantikattherehi kiñcāpi upaṭhataṃ, tathāpi sanniṭṭhāpakacetanā ubhayattha atthevāti ācariyā. Bahūnaṃ maraṇe ārammaṇaniyame kathanti ce? Vajjhesu ekassa jīvitindriye ālambite sabbesamālambitameva hoti. Ekassa maraṇepi na tassa sakalaṃ jīvitaṃ sakkā ālambituṃ na uppajjamānaṃ, uppannaṃ, nirujjhamānaṃ, atthitāyapāṇātipātacetanāva paccuppannārammaṇā, purejātārammaṇā ca hoti, tasmā tampi yujjati. Pacchimakoṭiyā ekacittakkhaṇe purejātaṃ hutvā ṭhitaṃ taṃ jīvitamālambaṇaṃ katvā sattamajavanapariyāpannacetanāya opakkame kate atthato tassa sattassa sabbaṃ jīvitindriyamālambitaṃ, voropitañca hoti, ito panaññathā na sakkā; evameva pubbabhāge ‘‘bahūpisatte māremī’’ti cintetvā sanniṭṭhānakāle visapakkhipanādīsu ekaṃ payogaṃ sādhayamānā vuttappakāracetanā tesu ekassa vuttappakāraṃ jīvitindriyaṃ ālambaṇaṃ katvā uppajjati, evaṃ uppannāya panekāya sabbepi te māritā honti tāya eva sabbesaṃ maraṇasiddhito, aññathā na sakkā voropetuṃ, ālambituṃ vā. Tattha ekāya cetanāya bahūnaṃ maraṇe akusalarāsi kathanti ce? Visuṃ visuṃ maraṇe pavattacetanānaṃ kiccakaraṇato. Kathaṃ? Tā pana sabbā upapajjavedanīyāva honti, tasmā tāsu yāya kāyaci dinnāya paṭisandhiyā itarā sabbāpi ‘‘tato balavatarakusalapaṭibāhitā ahosikamma’’ntiādikoṭṭhāsaṃ bhajanti, punapi vipākaṃ janituṃ na sakkonti. Aparāpariyavedanīyāpi viya taṃ paṭibāhitvā kusalacetanā paṭisandhiṃ deti, tathā ayampi cetanā anantarabhave eva paṭisandhidānādivasena tāsaṃ kiccalesakaraṇato ekāpi samānā ‘‘rāsī’’ti vuttā. Tāya pana dinnāya paṭisandhiyā atitikkho vipāko hoti. Ayamettha visesotiādi anugaṇṭhipade papañcitaṃ.
Chừng ấy sự sát sinh, đã được viết: “ngay cả một ý định, do hành động, cũng được gọi là ‘chừng ấy,’ giống như tính chất bốn của các niệm xứ và các chánh cần.” Sau khi đã đặt trong một giới hạn là trong giới hạn mà mình đã dự định. Đã được nói đến để chỉ điều đó: “trong hố này,” nếu người giết người, với ý định “sau khi đã đào một cái hố như vầy, mong rằng người đó sẽ rơi vào đó và chết,” đã xác định giới hạn của cái hố và đào. Bây giờ, đã được nói: “ngay cả trong một nhát cuốc” và các câu tương tự, vì giới hạn của chừng ấy chưa được xác định đối với cái cần phải được đào. Mặc dù đã được các vị trưởng lão theo kinh điển tham dự, nhưng các vị Giáo thọ sư cho rằng ý định quyết định có ở cả hai. Nếu hỏi, trong việc giết nhiều người, quy luật về đối tượng như thế nào? Khi mạng căn của một người trong số những người bị giết được lấy làm đối tượng, thì tất cả đều chính là đã được lấy làm đối tượng. Ngay cả khi một người chết, cũng không thể lấy toàn bộ sự sống của người đó làm đối tượng, không phải là đang sinh ra, đã sinh ra, đang diệt đi. Chỉ có ý định sát sinh ở hiện tại mới có đối tượng là hiện tại và sinh trước. Do đó, điều đó cũng hợp lý. Ý định, thuộc về lần khởi đầu thứ bảy, sau khi đã lấy sự sống đó, đã tồn tại như một vật sinh trước trong một khoảnh khắc tâm ở giới hạn cuối cùng, làm đối tượng, và sau khi đã thực hiện sự tấn công, thì về mặt ý nghĩa, toàn bộ mạng căn của chúng sinh đó đã được lấy làm đối tượng và đã bị giết. Ngoài ra, không thể khác được. Cũng vậy, ở phần trước, sau khi đã suy nghĩ “tôi sẽ giết cả nhiều chúng sinh,” và trong khi quyết định, ý định, được nói theo cách đã nói, khi thực hiện một hành động như bỏ thuốc độc và các hành động khác, đã sinh ra, lấy mạng căn, được nói theo cách đã nói, của một người trong số họ làm đối tượng. Và bằng một ý định đã sinh ra như vậy, tất cả họ đều bị giết, vì cái chết của tất cả họ đã được xác định chính bằng ý định đó. Nếu không, không thể giết, hoặc lấy làm đối tượng. Ở đó, nếu hỏi, trong cái chết của nhiều người do một ý định, khối bất thiện như thế nào? Do việc thực hiện hành động của các ý định tiến triển trong mỗi cái chết riêng biệt. Như thế nào? Tất cả chúng đều là nghiệp phải chịu quả báo ngay trong kiếp sau. Do đó, trong số đó, khi tái sinh được cho bởi bất kỳ ý định nào, thì tất cả các ý định còn lại đều thuộc về phần “nghiệp đã bị vô hiệu hóa bởi thiện pháp mạnh hơn,” và không thể sinh ra quả báo lại nữa. Giống như nghiệp phải chịu quả báo trong các kiếp sau, sau khi đã vô hiệu hóa nó, ý định thiện cho tái sinh. Cũng vậy, ý định này, do thực hiện một phần hành động của chúng ngay trong kiếp sau bằng cách cho tái sinh và các cách khác, dù chỉ là một, cũng được gọi là “khối.” Và quả báo được cho bởi tái sinh đó là vô cùng khắc nghiệt. Tất cả những điều này và sự khác biệt ở đây đã được giải thích chi tiết trong Anugaṇṭhipada.

Amaritukāmā vāti adhippāyattā opapātikamaraṇepi āpatti. ‘‘‘Nibbattitvā’ti vuttattā patanaṃ na dissatīti ce? Opapātikattaṃ, patanañca ekamevā’’ti likhitaṃ. Atha vā ‘‘sabbathāpi anuddissevā’’ti Yamakato ettha maratūti adhippāyasambhavato ‘‘uttarituṃ asakkonto marati pārājikamevā’’ti suvuttaṃ. Sace ‘‘patitvā maratū’’ti niyametvā khaṇito hoti, opapātikamanusso ca nibbattitvā ṭhitaniyameneva ‘‘uttarituṃ na sakkā’’ti cintetvā maratīti pārājikacchāyā na dissati, tena vuttaṃ ‘‘uttarituṃ asakkonto’’ti. So hi uttarituṃ asakkonto punappunaṃ patitvā marati, tena pātopi tassa siddho hotīti adhippāyo. Tattha siyā – yo pana ‘‘uttarituṃ asakkonto maratī’’ti vutto, so opātakhaṇanakkhaṇe arūpaloke jīvati. Vadhakacetanā ca ‘‘aniyato dhammo micchattaniyatassa dhammassa ārammaṇapaccayena paccayo, rūpajīvitindriyaṃ mātughātikammassa pitughātikammassa arahantaghātikammassa ruhiruppādakammassa ārammaṇapaccayena paccayo’’ti (paṭṭhā. 2.15.38 micchattaniyatattika) Yamakato rūpajīvitindriyārammaṇaṃ hoti, na ca taṃ arūpāvacarasattassatthi, na ca sā cetanā ‘‘aniyato dhammo micchattaniyatassa dhammassa purejātapaccayena paccayo, ārammaṇapurejātaṃ vatthupurejātaṃ ārammaṇapurejātaṃ. Rūpajīvitindriyaṃ mātughātikammassa purejātapaccayena paccayo’’ti (paṭṭhā. 2.15.48 micchattaniyatattika) Yamakato anāgatārammaṇā hoti. Añño idha patitvā maraṇakasatto natthi, evaṃ sante vadhakacetanāya kiṃ ārammaṇanti ce? Yassa kassaci idha jīvanakasattassa paccuppannaṃ jīvitindriyaṃ ārammaṇaṃ. Kiñcāpi so na marati, atha kho pāṇātipāto hoti eva. Yathā kiṃ ‘‘yathākkamena ṭhite satta jane ekena kaṇḍena vijjhitvā māremī’’ti pubbabhāge cintetvā sanniṭṭhānakāle tesu ekassa jīvitamārammaṇaṃ katvā kaṇḍaṃ vissajjeti, kaṇḍo taṃ virajjhitvā itare cha jane māreti, evaṃ santepi ayaṃ pāṇātipātī eva hoti, evamidhāpi ‘‘yo kocī’’ti vikappentassa vadhakacetanā yassa kassaci jīvitārammaṇaṃ katvā pavattati, tasmiṃ amatepi itarassa vasena pāṇātipātī. Sace arahā hutvā parinibbāyati, arahantaghātakova hoti. Esa nayo sabbattha evarūpesu. Ayameva hettha ācariyaparamparāgatā yutti vinicchayakathāti vuttaṃ.
Hoặc là không muốn chết, do ý định, phạm tội ngay cả trong cái chết hóa sinh. Nếu nói rằng “vì đã được nói ‘sau khi đã sinh ra,’ nên không thấy có sự rơi xuống”? Đã được viết: “sự hóa sinh và sự rơi xuống là một.” Hoặc là, từ Yamaka “theo mọi cách, không chỉ định,” vì có khả năng có ý định “mong rằng người đó sẽ chết ở đây,” nên đã được nói rất hay: “không thể vượt qua và chết, chính là tội Bất Cộng Trụ.” Nếu đã được đào sau khi đã xác định “mong rằng người đó sẽ rơi xuống và chết,” và người hóa sinh, sau khi đã sinh ra, đã suy nghĩ “không thể vượt qua” theo chính quy luật đã được đặt ra và chết, thì không thấy có bóng dáng của tội Bất Cộng Trụ. Do đó, đã được nói “không thể vượt qua.” Bởi vì người đó, vì không thể vượt qua, đã rơi xuống nhiều lần và chết. Do đó, ý định là việc rơi xuống của người đó cũng đã được xác định. Ở đó, có thể có – người nào đã được nói “không thể vượt qua và chết,” thì người đó, trong khi đào hố, đang sống ở cõi vô sắc. Và ý định giết người, từ Yamaka “pháp không xác định là duyên cho pháp cố định về tà kiến theo cách đối tượng duyên, mạng căn sắc là duyên cho nghiệp giết mẹ, nghiệp giết cha, nghiệp giết A-la-hán, nghiệp làm chảy máu theo cách đối tượng duyên” (paṭṭhā. 2.15.38 micchattaniyatattika), có đối tượng là mạng căn sắc. Và chúng sinh ở cõi vô sắc không có điều đó. Và ý định đó, từ Yamaka “pháp không xác định là duyên cho pháp cố định về tà kiến theo cách sinh trước, đối tượng sinh trước, vật sinh trước, đối tượng sinh trước. Mạng căn sắc là duyên cho nghiệp giết mẹ theo cách sinh trước” (paṭṭhā. 2.15.48 micchattaniyatattika), không có đối tượng là tương lai. Không có chúng sinh nào khác rơi xuống và chết ở đây. Nếu như vậy, ý định giết người có đối tượng là gì? Đối tượng là mạng căn hiện tại của bất kỳ chúng sinh nào đang sống ở đây. Mặc dù người đó không chết, nhưng vẫn là tội sát sinh. Giống như thế nào, “tôi sẽ giết bảy người đứng theo thứ tự bằng một mũi tên,” sau khi đã suy nghĩ ở phần trước, và trong khi quyết định, đã lấy mạng sống của một người trong số họ làm đối tượng và bắn mũi tên. Mũi tên, sau khi đã trượt người đó, đã giết sáu người còn lại. Dù vậy, người này vẫn là người sát sinh. Cũng vậy ở đây, ý định giết người của người lựa chọn “bất kỳ ai” đã tiến triển sau khi đã lấy mạng sống của bất kỳ ai làm đối tượng. Dù người đó không chết, người đó vẫn là người sát sinh do người khác. Nếu sau khi đã trở thành A-la-hán và nhập Niết-bàn, thì chính là người giết A-la-hán. Cách này áp dụng ở khắp mọi nơi trong các trường hợp tương tự. Đã được nói rằng đây chính là lý lẽ, là đề tài phân xử, đã được truyền lại từ dòng dõi các vị thầy ở đây.

Patanarūpaṃ pamāṇanti ettha yathā mātuyā patitvā parivattaliṅgāya matāya so mātughātako hoti, na kevalaṃ purisaghātako, tasmā patanasseva vasena āpatti. Kasmā? Patanarūpamaraṇarūpānaṃ ekasantānattā, tadeva hissa jīvitindriyaṃ, tassa hi parivattanaṃ natthi, itthipurisindriyāneva pavattiyaṃ nirujjhanuppajjanakāni, itthipurisoti ca tattha vohāramattameva, tasmā mātughātakova, na purisaghātakoti, yathā tassa patanarūpavasenāpatti, tathā idhāpi patanarūpavasena thullaccayaṃ ekasantānattāti ayaṃ paṭhamatheravāde yutti. Dutiye kiñcāpi peto patito, yakkho ca, atha kho ahetukapaṭisandhikattā akusalavipākassa ‘‘vāmena sūkaro hotī’’ti (dī. ni. aṭṭha. 2.296; mahāni. aṭṭha. 166) ettha vuttayakkhānaṃ paṭisandhi viya sabbarūpānaṃ sādhāraṇattā, amanussajātikattā ca tiracchānarūpena mate maraṇarūpavasena pācittiyaṃ, vatthuvasena lahukāpattiyā parivattanā hoti eva tatthajātakarukkhādichedanapācittiyaparivattanaṃ viya. Ayameva yuttataro, tasmā pacchā vutto. Pārājikassa pana manussajātiko yathā tathā vā patitvā yathā tathā vā maratu, pārājikameva garukattā. Garukāpattiyā hi viparivattanā natthīti vuttaṃ.
Hình dạng khi rơi là tiêu chuẩn, ở đây, giống như khi người mẹ, sau khi đã rơi xuống và thay đổi giới tính, chết đi, thì người đó là người giết mẹ, không chỉ là người giết đàn ông. Do đó, có tội theo cách của việc rơi xuống. Tại sao? Vì hình dạng khi rơi và hình dạng khi chết có cùng một dòng liên tục. Bởi vì chính mạng căn của người đó, nó không có sự thay đổi. Chỉ có các cơ quan sinh dục nữ và nam, trong khi tiến triển, mới diệt và sinh. Và ở đó, “người phụ nữ” và “người đàn ông” chỉ là cách nói thông thường. Do đó, chính là người giết mẹ, không phải là người giết đàn ông. Giống như đối với người đó, có tội theo cách của hình dạng khi rơi, cũng vậy, ở đây có tội Trọng Tội theo cách của hình dạng khi rơi, vì có cùng một dòng liên tục. Đây là lý lẽ trong quan điểm của các trưởng lão đầu tiên. Trong quan điểm thứ hai, mặc dù ngạ quỷ đã rơi xuống, và cả dạ xoa nữa, nhưng vì có sự tái sinh không có nhân, và vì quả báo của bất thiện, giống như sự tái sinh của các dạ xoa đã được nói trong câu “bằng bên trái, là con lợn” (dī. ni. aṭṭha. 2.296; mahāni. aṭṭha. 166), do tính phổ biến của tất cả các sắc, và vì là loài phi nhân, nên có tội Ưng Đối Trị theo cách của hình dạng khi chết, khi chết với hình dạng của súc sinh. Có sự thay đổi của tội nhẹ do sự việc, giống như sự thay đổi của tội Ưng Đối Trị do cắt cây và các vật khác đã mọc ở đó. Chính điều này hợp lý hơn, do đó đã được nói sau. Còn đối với tội Bất Cộng Trụ, người thuộc loài người, dù rơi xuống như thế nào, và dù chết như thế nào, cũng chính là tội Bất Cộng Trụ vì nặng. Bởi vì đã được nói rằng không có sự thay đổi đối với tội nặng.

Thullaccayaṃ tiracchāne, mate bhedassa kāraṇaṃ;
Sarūpamaraṇaṃ tisso, phusso maññeti aññathā.
Trọng Tội đối với súc sinh, khi chết, là nguyên nhân của sự khác biệt;
Hình dạng khi chết, ba loại, Phusso lại nghĩ khác.

Gaṇṭhipade pana ‘‘dutiyavāde puthujjanassa patitvā arahattaṃ patvā marantassa vasena vutto’’ti likhitaṃ. ‘‘Tiracchāne’’ti ettha keci vadanti ‘‘devā adhippetā’’ti. ‘‘Sakasakarūpeneva maraṇaṃ bhavati nāññathā’’ti ca vadanti. Yakkhapetarūpena matepi eseva nayoti thullaccayanti attho. ‘‘Tiracchānagatamanussaviggahamaraṇe viyā’’ti likhitaṃ. Pahāraṃ laddhāti sattānaṃ māraṇatthāya katattā vuttaṃ.
Còn trong sách giải thích từ khó, đã được viết: “trong quan điểm thứ hai, đã được nói theo cách của phàm phu, sau khi đã rơi xuống và đạt được quả A-la-hán và chết.” Trong câu “đối với súc sinh,” một số người nói rằng “chư Thiên được hàm ý.” Và họ cũng nói rằng “cái chết xảy ra với chính hình dạng của mình, không phải cách khác.” Ngay cả khi chết với hình dạng của dạ xoa và ngạ quỷ, cách này cũng vậy, có nghĩa là phạm tội Trọng Tội. Đã được viết: “giống như trong cái chết của con người và súc sinh.” Sau khi đã nhận một cú đánh, đã được nói vì đã được làm để giết các chúng sinh.

177.Sādhu suṭṭhu maratūti vacībhedaṃ karoti. Visabhāgarogoti sarīraṭṭho gaṇḍapīḷakādi.
177. Hãy chết một cách tốt đẹp, là thực hiện sự phân loại lời nói. Bệnh khác loại là mụn nhọt và các bệnh khác ở trên thân thể.

178.Kāḷānusārīti ekissā latāya mūlaṃ kira. Mahākacchapena katapupphaṃ vā. Haṃsapupphanti haṃsānaṃ pakkhapattaṃ. Heṭṭhā vuttanayena sāhatthikāṇattikanayañhettha yojetvā kāyavācācittato samuṭṭhānavidhi dassetabbo.
178. Kāḷānusārī, người ta nói rằng đó là rễ của một loại dây leo. Hoặc là hoa do con rùa lớn làm ra. Hoa ngỗng là lông cánh của con ngỗng. Ở đây, cần phải kết hợp cách của hành động bằng tay và ra lệnh theo cách đã được nói ở dưới, và trình bày phương pháp phát sinh từ thân, khẩu, và tâm.

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về phân tích từ đã kết thúc.

Vinītavatthuvaṇṇanā
Diễn giải về sự việc được quyết định

180.Maraṇatthikāva hutvāti imassa kāyassa bhedena saggapāpanādhippāyattā atthato maraṇatthikāva hutvā evaṃadhippāyino maraṇatthikā nāma hontīti attano maraṇatthikabhāvaṃ ajānantā āpannā pārājikaṃ. Na hi te ‘‘attano cittappavattiṃ na jānantī’’ti vuccanti. Vohāravasenāti pubbabhāgavohāravasena. Sanniṭṭhāne panetaṃ natthi. Pāse baddhasūkaramocane viya na hoti. Yathānusandhināti antarā amaritvāti attho. Appaṭivekkhitvāti avicāretvā. Heṭṭhimabhāge hi kismiñci vijjamāne vali paññāyati. Dassiteti uddharitvā ṭhapite. Paṭibandhanti tayā paṭibandhaṃ, paribhogantarāyaṃ saṅghassa mā akāsīti attho.
180. Sau khi đã muốn chết, vì có ý định đạt đến cõi trời bằng cách phá hủy thân này, nên về mặt ý nghĩa, sau khi đã muốn chết, những người có ý định như vậy được gọi là người muốn chết, họ đã phạm tội Bất Cộng Trụ mà không biết bản chất muốn chết của mình. Bởi vì họ không được gọi là “không biết sự tiến triển của tâm mình.” Theo cách dùng thông thường là theo cách dùng thông thường ở phần trước. Còn trong phần quyết định thì không có điều này. Không giống như trong việc giải thoát con lợn bị trói bằng dây. Theo trình tự, có nghĩa là không chết ở giữa chừng. Không xem xét là không suy xét. Bởi vì nếu có cái gì đó ở phần dưới, thì nếp nhăn mới hiện ra. Khi đã được trình bày là khi đã được lấy ra và đặt xuống. Sự ràng buộc, có nghĩa là đừng làm cho Tăng chúng bị cản trở trong việc hưởng dụng, là sự ràng buộc của ngươi.

181-2. Yasmā kiriyaṃ dātuṃ na sakkā, tasmā ‘‘paṭhamaṃ laddha’’nti vuttaṃ. Pubbepi attanā laddhapiṇḍapātato paṇītapaṇītaṃ dento tatthapi attakāriyaṃ adāsi. Asañciccāti ettha aññaṃ ākaḍḍhantassa aññassa patane sabbena sabbaṃ abhisandhi natthi. Na maraṇādhippāyassāti paṭigho ca payogasamāpattiyo ca atthi, vadhakacetanā natthi. Ajānantassāti ettha ‘‘vatthuajānanavasena ajānantassa doso natthi, idaṃ kira tesaṃ nānattaṃ. ‘Asañcicco aha’nti pāḷiyaṃ na dissati. Aṭṭhakathāyaṃ vuttattā tathārūpāya pāḷiyā bhavitabba’’nti vadanti. No ce, thullaccayanti ettha ‘‘dukkhavedanā ce nuppajjati, dukkaṭamevā’’ti vadanti, vīmaṃsitabbaṃ. ‘‘Muggarā nāma khādanadaṇḍakā. Vemā nāma tesaṃ khādanadaṇḍakānaṃ heṭṭhā ca upari ca tiriyaṃ bandhitabbadaṇḍā’’ti likhitaṃ. Heṭṭhāva duvidhāpi paṭhanti. Hatthappatto viya dissati ‘‘tassa vikkhepo mā hotū’’ti upacchindati. Visesādhigamaṃ byākaritvā tappabhavaṃ sakkāraṃ lajjīyanto āhāraṃ upacchindati sabhāgānaṃ byākatattā. Te hi kappiyakhettaṃ ārocenti.
181-2. Bởi vì không thể cho hành động, do đó đã được nói “đã nhận được đầu tiên.” Ngay cả trước đây, khi cho những món ăn tinh túy từ vật thực đã nhận được của mình, vị ấy cũng đã cho đi công sức của mình ở đó. Không cố ý, ở đây, khi kéo một vật khác mà vật khác lại rơi xuống, thì hoàn toàn không có ý định. Đối với người không có ý định giết, có sự tức giận và các định hành động, nhưng không có ý định giết người. Đối với người không biết, ở đây, “không có lỗi đối với người không biết do không biết sự việc,” người ta nói rằng đây là sự khác biệt của họ. “Tôi không cố ý” không thấy có trong Pāḷi. Một số người nói rằng “vì đã được nói trong Chú giải, nên phải có Pāḷi như vậy.” Nếu không, thì phạm tội Trọng Tội, ở đây, một số người nói rằng “nếu không có khổ thọ sinh khởi, thì chính là tội Tác Ác,” điều này cần được xem xét. Đã được viết: “muggarā là những cây gậy để ăn. Vemā là những cây gậy cần phải được buộc ngang ở dưới và trên những cây gậy ăn đó.” Ở dưới, họ đọc cả hai loại. Có vẻ như đã đến tay, “đừng để nó bị phân tán,” nên cắt đứt. Sau khi đã tuyên bố chứng đắc đặc biệt, vì xấu hổ với sự cúng dường phát sinh từ đó, nên cắt đứt thức ăn, vì đã tuyên bố cho những người đồng loại. Bởi vì họ trình bày ruộng đất hợp lệ.

186.Akataviññattiyāti na viññattiyā. Sā hi anuññātattā katāpi akatā viyāti akataviññatti. ‘‘‘Vadeyyātha, bhante yenattho’ti evaṃ akataṭṭhāne viññatti akataviññattī’’ti likhitaṃ. Titthiyabhūtānaṃ mātāpitūnaṃ sahatthā dātuṃ na vaṭṭatīti. Pitucchā nāma pitubhaginī. Sacepi na yācanti ‘‘yācituṃ dukkha’’nti, sayaṃ vā evaṃ vattumasakkontā. ‘‘Yadā tesaṃ attho bhavissatī’’ti ābhogaṃ katvā vā. ‘‘‘Vejjakammaṃ vā na hotī’ti Yamakato yāva sattamo kulaparivaṭṭo, tāva bhesajjaṃ kātuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. Sabbapadesūti mahāmātuyācūḷamātuyātiādīnaṃ.
186. Bằng sự xin không được làm là không phải bằng sự xin. Bởi vì nó, dù đã được làm, cũng giống như chưa được làm vì đã được cho phép, nên là sự xin không được làm. Đã được viết: “‘bạch các ngài, xin hãy nói những gì có lợi,’ ở nơi chưa được làm như vậy, sự xin là sự xin không được làm.” Không được phép cho cha mẹ là người ngoại đạo bằng chính tay mình. Pitucchā là chị em gái của cha. Ngay cả nếu họ không xin, “vì xin là khổ,” hoặc là chính họ không thể nói như vậy. Hoặc là sau khi đã chú ý “khi nào họ có nhu cầu.” Một số người nói rằng: “‘hoặc là không phải là việc chữa bệnh,’ từ Yamaka, cho đến bảy đời trong gia đình, được phép làm thuốc.” Trong tất cả các trường hợp là của mẹ lớn, mẹ nhỏ và các trường hợp khác.

Vuttanayena pariyesitvāti ‘‘sāmaṇerehi vā’’tiādinā. ‘‘Na akataviññattiyā’’ti vadanti. ‘‘Paccāsīsati sace, dukkaṭa’’nti vadanti. Kappiyavasenāti pupphaṃ ānethātiādinā. ‘‘Pūjaṃ akāsī’ti vuttattā sayaṃ gahetuṃ na vaṭṭatī’’ti vadanti.
Sau khi đã tìm kiếm theo cách đã được nói là “bằng các Sa-di hoặc” và các cách khác. Một số người nói: “không phải bằng sự xin không được làm.” Một số người nói: “nếu mong đợi, thì phạm tội Tác Ác.” Theo cách hợp lệ là bằng cách “hãy mang hoa đến” và các cách khác. Một số người nói rằng “vì đã được nói ‘đã cúng dường,’ nên không được phép tự mình lấy.”

‘‘Bhaṇathā’’ti vutte pana kātabbaṃ. Dhammañhi vattuṃ vaṭṭati. No ce jānanti, na pādā apanetabbā. Avamaṅgalanti hi gaṇhanti.
Nhưng khi được nói “hãy nói,” thì phải làm. Bởi vì được phép nói Pháp. Nếu họ không biết, thì không nên dời chân đi. Bởi vì họ coi đó là điềm xấu.

Coranāgassa hi āmaṭṭhaṃ dinne kujjhissati, anāmaṭṭhaṃ na vaṭṭatīti aṅgulantare thokaṃ bhattaṃ gahetvā patte bhattaṃ sabbaṃ adāsi, so tena tussi. Varapotthakacittattharaṇanti sibbitvā kātabbattharaṇavikati. Piturājā damiḷassa parājito rohaṇe soḷasavassāni vasitvā mittāmaccaparivuto ‘‘rajjaṃ gaṇhāmī’’ti āgantvā antarāmagge appamattakassa kāraṇā ekaṃ amaccaṃ ghātāpesi. Sesā bhayena palāyantā araññe antarāmagge corehi viluttā hambugallakavihāraṃ gantvā tattha cātunikāyikatissatthero tesaṃ saṅgahaṃ katvā puna ānetvā rañño dassesi, tehi saddhiṃ rajjaṃ gahetvā rājā hambugallakatissattherassa abhayagirivihāraṃ akāsi. Sesāpi ekekavihāraṃ kārāpesuṃ kira.
Bởi vì nếu cho con rắn hổ mang của kẻ trộm vật đã được chạm vào, nó sẽ tức giận, còn vật chưa được chạm vào thì không được phép. Sau khi đã lấy một ít cơm ở giữa các ngón tay, vị ấy đã cho tất cả cơm trong bát. Nó đã hài lòng với điều đó. Tấm trải có hình vẽ và sách quý là một loại tấm trải cần phải được may. Vua cha, sau khi đã bị người Damiḷa đánh bại, đã sống ở Rohaṇa trong mười sáu năm, và sau khi đã cùng với các bạn bè và quan lại, nói rằng “tôi sẽ lấy lại vương quốc” và trở về, đã cho giết một vị quan ở giữa đường vì một lý do nhỏ. Những người còn lại, vì sợ hãi, đã chạy trốn, và đã bị trộm cướp cướp bóc ở giữa đường trong rừng. Sau khi đã đến Hambugallakavihāra, Trưởng lão Cātunikāyikatissa ở đó đã giúp đỡ họ và mang họ trở lại và trình diện với vua. Cùng với họ, vua đã lấy lại vương quốc và đã xây dựng tu viện Abhayagiri cho Trưởng lão Hambugallakatissa. Người ta nói rằng những người còn lại cũng đã cho xây mỗi người một tu viện.

187. Corasamīpaṃ pesento ‘‘vāḷayakkhavihāraṃ pesetī’’ti iminā sadiso. Kasmā? Maraṇādhippāyattā. Taḷākādīsu macchādiggahaṇatthaṃ kevaṭṭaṃ aññāpadesena ‘‘taḷākatīraṃ gacchā’’ti pahiṇantassa pāṇātipātena bhavitabbaṃ, ‘‘vāḷayakkhavihāraṃ pāhesī’’ti imassa sadiso. Kasmā? ‘‘Maraṇādhippāyattā’’ti vacanassānulomato, aṭṭhakathāyampi ‘‘evaṃ vāḷayakkhampī’’ti vuttattā.
187. Người gửi đến gần kẻ trộm, giống như người “gửi đến tu viện của dạ xoa hung dữ.” Tại sao? Vì có ý định giết. Đối với người, để bắt cá và các loài khác trong ao và các nơi khác, đã sai một người đánh cá bằng cách nói khác “hãy đi đến bờ ao,” thì phải có tội sát sinh, giống như người “đã sai đến tu viện của dạ xoa hung dữ.” Tại sao? Vì phù hợp với lời nói “vì có ý định giết.” Trong Chú giải cũng đã được nói: “cũng vậy đối với dạ xoa hung dữ.”

189.Taṃ tatraṭṭhitaṃ chindantanti taṃ-saddo ekaccesu natthi. Itaresu pārājikathullaccayaṃ āpannāti attho. ‘‘Imaṃ chinditvā sīghaṃ gantvā saṅghassa pattacīvaraṃ dassāmī’’ti kusalacittenapi chindituṃ na vaṭṭati ananuññātattā. Aññassa pana bhikkhuno vaṭṭati anuññātattā.
189. Người cắt vật đó ở đó, ở một số nơi không có từ đó. Ở những nơi khác, ý nghĩa là đã phạm tội Bất Cộng Trụ và Trọng Tội. Ngay cả với tâm thiện “sau khi đã cắt cái này, tôi sẽ nhanh chóng đi và cho bát y cho Tăng chúng,” cũng không được phép cắt, vì chưa được cho phép. Nhưng đối với Tỳ-khưu khác thì được phép, vì đã được cho phép.

190. Kathaṃ? Kuṭirakkhaṇatthañhi bhagavatā paṭaggidānādi anuññātaṃ, kuṭi nāmesā bhikkhūnaṃ atthāya. Tasmā ‘‘bhikkhurakkhaṇatthaṃ aññassa bhikkhussa vaṭṭatī’ti vattabbamettha natthī’’ti vuttaṃ. Yadi evaṃ acchinnacīvarassa naggabhāvappaṭicchādanatthaṃ bhūtagāmapātabyatā bhagavatā anuññātā, jīvitarakkhaṇatthañca sappadaṭṭhakāle anuññātaṃ, tasmā ‘‘api jīvitaṃ pariccajitabbaṃ, na ca rukkho vā chinditabbo’’tiādi na vattabbaṃ siyā, tasmā taṃ nidassanaṃ appamāṇaṃ, aṭṭhakathācariyo evettha pamāṇaṃ. Ettha panāyaṃ ācariyassa takko – ariyapuggalesupi sattā naggiyaṃ passitvā appasādaṃ katvā nirayūpagā bhavissanti , tathā sappā ca ḍaṃsitvā, tesaṃ pāpavimocanatthaṃ bhūtagāmapātabyatā anuññātā. Dānapatīnaṃ cittarakkhaṇatthaṃ paṭaggidānādi. Aññathā lokassa puññantarāyo, saṅghassa ca lābhantarāyo hoti. Vadhakassa pana cittahitakaraṇaṃ natthi, taṃ pana avītikkamaṃ, jīvitapariccajanaṃ passitvā vā ‘‘aho dukkaraṃ kata’’nti pasādameva labheyyunti attano na vaṭṭati, aññassa vaṭṭati. Aññathā titthiyānaṃ asaddhammasiddhiyāti. Gaṇṭhipade pana ‘‘jīvitatthāya rukkhaṃ chindantassa attasinehavasena chindanato akusalattā na vaṭṭati, aññassa vaṭṭatī’’ti likhitaṃ. Anekesu rukkhena otthatesu, opāte vā patitesu aññena aññassatthāya rukkhachedanādi kātuṃ vaṭṭati, kasmā? Paraparittāṇādhippāyatoti. Parittanti rakkhaṇaṃ, taṃ dassetuṃ ‘‘samantā bhūmitacchana’’ntiādi vuttaṃ.
190. Như thế nào? Bởi vì Thế Tôn đã cho phép cho lửa vào lò và các việc khác để bảo vệ am. Am này là vì lợi ích của các Tỳ-khưu. Do đó, đã được nói: “không cần phải nói ở đây ‘được phép cho Tỳ-khưu khác để bảo vệ Tỳ-khưu’.” Nếu vậy, Thế Tôn đã cho phép làm hại cây cỏ để che đậy sự trần truồng của người bị rách y, và đã cho phép trong khi bị rắn cắn để bảo vệ mạng sống. Do đó, lẽ ra không nên nói: “dù phải từ bỏ mạng sống, cũng không được cắt cây hoặc” và các câu tương tự. Do đó, ví dụ đó không phải là tiêu chuẩn, chính vị Chú giải sư mới là tiêu chuẩn ở đây. Ở đây, đây là suy luận của vị Giáo thọ sư – ngay cả trong các bậc thánh, chúng sinh, sau khi đã thấy sự trần truồng và có lòng không tin, sẽ trở thành những người đi đến địa ngục. Cũng vậy, các con rắn, sau khi đã cắn. Để giải thoát họ khỏi tội lỗi, việc làm hại cây cỏ đã được cho phép. Việc cho lửa vào lò và các việc khác là để bảo vệ tâm của các thí chủ. Nếu không, sẽ có sự cản trở công đức của thế gian, và sự cản trở lợi lộc của Tăng chúng. Nhưng không có việc làm lợi cho tâm của kẻ sát nhân. Nhưng sau khi đã thấy sự không vi phạm đó, và sự từ bỏ mạng sống, họ có thể có được lòng tin “ồ, đã làm được việc khó làm.” Do đó, không được phép đối với chính mình, được phép đối với người khác. Nếu không, sẽ là sự xác định của các giáo lý sai lầm của ngoại đạo. Còn trong sách giải thích từ khó, đã được viết: “đối với người cắt cây vì mạng sống, vì cắt do lòng yêu mến bản thân, nên là bất thiện, do đó không được phép. Đối với người khác thì được phép.” Khi nhiều người bị cây đè, hoặc rơi xuống hố, được phép cho người khác thực hiện việc cắt cây và các hành động khác vì lợi ích của người khác. Tại sao? Vì có ý định cứu thoát người khác. Sự bảo vệ là sự che chở. Để trình bày điều đó, đã được nói “sự đẽo đất xung quanh” và các câu tương tự.

191.Tīhi mārite pana visaṅketanti ettha tīsu ekena māritepi ‘‘khettameva otiṇṇattā pārājika’’nti vuttattā tayopi ekato hutvā mārenti ce, āpajjati, teneva vuttaṃ ‘‘paricchedabbhantare vā avisaṅketa’’nti. ‘‘Paricchedātikkame pana sabbattha visaṅketaṃ hotī’’ti vuttattā dvinnaṃ balaṃ gahetvā tatiyo ce māreti āpajjati viya dissati, vīmaṃsitabbaṃ. ‘‘Dve mārentū’’ti vutte ekena vā dvīhi vā mārite pārājikanti ‘‘dvinnaṃ pahārānaṃ maraṇe sati dve māritā nāma honti, asati ekova hoti, tasmā vijānitabba’’nti vadanti.
191. Nhưng khi bị giết bởi ba người, là không hẹn trước, ở đây, vì đã được nói “phạm tội Bất Cộng Trụ vì đã vào trong phạm vi,” ngay cả khi bị giết bởi một người trong ba người. Nếu cả ba người cùng nhau giết, thì phạm tội. Chính vì vậy, đã được nói “hoặc là không hẹn trước trong phạm vi đã được phân định.” Vì đã được nói “nhưng khi vượt qua sự phân định, thì ở khắp mọi nơi đều là không hẹn trước,” nên có vẻ như phạm tội nếu người thứ ba, sau khi đã nhận được sức mạnh của hai người, giết. Điều này cần được xem xét. Khi được nói “hãy giết hai người,” nếu bị giết bởi một người hoặc hai người, thì phạm tội Bất Cộng Trụ, một số người nói rằng: “khi có cái chết do hai cú đánh, thì được gọi là đã giết hai người. Nếu không, thì chỉ là một người. Do đó, cần phải biết.”

Tatiyapārājikavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về tội Bất Cộng Trụ thứ ba đã kết thúc.

4. Catutthapārājikaṃ

4. Tội Bất Cộng Trụ thứ tư

Vaggumudātīriyabhikkhuvatthuvaṇṇanā
Diễn giải câu chuyện về các Tỳ-khưu ở bờ sông Vaggumudā

193. Catutthe vaggu ca sā modayati ca satteti vaggumudā. ‘‘Vaggumadā’’tipi pāṭho, tassa vaggu ca sā pasannasuddhataraṅgasamiddhattā sukhumā cāti attho jīvitavaggutthanitā jīvitatthanti nīluppalantiādīsu viya. Madassāti ca bahukhajjabhojjapānādisamiddhā nadī chaṇadivasesūti nirutti veditabbā. Vaggu parisuddhāti lokena sammatāti kira attho. Bhāsito bhavissatīti pāṭhaseso.
193. Trong tội thứ tư, vì nó tốt và làm cho chúng sinh vui mừng, nên là Vaggumudā. Cũng có đoạn văn “Vaggumadā.” Ý nghĩa của nó là nó tốt và trong lành vì có nhiều sóng trong và sạch, giống như trong các câu “tiếng sấm của sự sống tốt đẹp, vì lợi ích của sự sống, hoa sen xanh” và các câu tương tự. Và vì là một con sông có nhiều thức ăn, thức uống và các thứ khác trong những ngày lễ hội, nên cần phải biết định nghĩa. Người ta nói rằng ý nghĩa là được thế gian công nhận là tốt và trong sạch. Có phần còn lại của câu là “sẽ được nói.”

194-5. Vaṇṇavā vaṇṇavanto vaṇṇavantānītipi sijjhati kira bahuvacanena. Yasmā indriyānaṃ ūnattaṃ, pūrattaṃ vā natthi, tasmā ‘‘abhiniviṭṭhokāsassa paripuṇṇattā’’ti vuttaṃ. Chaṭṭhassa abhiniviṭṭhokāso hadayavatthu. Catuiriyāpathacakke pākatindriye. Attano dahatīti attanā dahati, attanā paṭividdhaṃ katvā pavedetīti adhippāyo. Santanti vattamānaṃ. Gotrabhunoti gottamattaṃ anubhavattā nāmamattakamevāti attho.
194-5. Người ta nói rằng cũng có thể có bằng số nhiều: người có sắc đẹp, những người có sắc đẹp, những thứ có sắc đẹp. Bởi vì các giác quan không có sự thiếu hụt hay đầy đủ, do đó đã được nói “vì sự đầy đủ của nơi đã quyết tâm.” Nơi đã quyết tâm của giác quan thứ sáu là tâm vật. Trong bốn tư thế, các giác quan tự nhiên. Tự mình đốt cháy, có nghĩa là tự mình đốt cháy, ý định là sau khi đã tự mình thấu triệt và tuyên bố. Hiện tại là đang có. Của người chỉ có dòng dõi, có nghĩa là vì chỉ trải nghiệm dòng dõi, nên chỉ là tên gọi.

Savibhaṅgasikkhāpadavaṇṇanā
Diễn giải về học giới có phân tích

197.Padabhājane ‘‘tisso vijjā’’ti vuttattā arūpāvacarajjhānāni paṭikkhittānīti ce? Na, tattheva ‘‘yaṃ ñāṇaṃ, taṃ dassanaṃ, yaṃ dassanaṃ, taṃ ñāṇa’’nti dassanapadena visesetvā vuttattā, tasmā eva aṭṭhakathāyaṃ ‘‘vijjāsīsena padabhājanaṃ vutta’’nti vuttaṃ. Dhuraṃ katvāti purimaṃ katvā.
197. Nếu nói rằng vì đã được nói “ba minh” trong phần phân tích từ, nên các thiền thuộc cõi Vô sắc đã bị bác bỏ? Không phải vậy. Vì ở chính đó đã được nói bằng cách đặc tả bằng từ thấy: “cái gì là trí, cái đó là thấy, cái gì là thấy, cái đó là trí.” Do đó, chính trong Chú giải, đã được nói: “phần phân tích từ đã được nói theo đầu đề minh.” Làm cho trở thành trách nhiệm là làm cho trở thành điều trước tiên.

Padabhājanīyavaṇṇanā
Diễn giải về phân tích từ

199. Anāgate uppajjanakarāgādīnaṃ kāraṇattā rāgādayova nimittaṃ nāma. Tissannañca vijjānaṃ aññataraṃ sandhāya ‘‘vijjānaṃ lābhīmhī’’ti bhaṇati, pārājikaṃ, na vatthuvijjādīnaṃ kilesanahānameva vuttaṃ, taṃkhaṇattā uttarimanussadhammappavatti na hotīti ce? Na, maggakiccadīpanato. Teneva ‘‘maggena vinā natthī’’tiādi vuttaṃ. Cittanti cittassa vigatanīvaraṇatāti attho. ‘‘Yāvañca vijjā anāgatā, tāva vipassanāñāṇassa lābhīmhī’ti vadanto yadi lokuttaraṃ sandhāya vadati, sopi ca tathā jānāti, pārājikameva lokuttarassapi taṃnāmattā’’ti vadanti. ‘‘Avisesenāpi vadato pārājikaṃ vuttanti lokuttaraṃ sandhāya vadato ‘pārājika’nti vattuṃ yujjati. Yathā kiṃ ‘vijjānaṃ lābhīmhī’ti bhaṇantopi pārājikamevā’ti vuttaṭṭhāne vatthuvijjādīnaṃ sambhavepi tāsaṃ anadhippetattā pārājikaṃ hoti, evamidhāpi. Na sakkā aññaṃ pamāṇaṃ kātunti attano guṇamārocetukāmo lokiyena sammissaṃ atthapaṭisambhidaṃ vadato pārājikanti pamāṇaṃ kātuṃ na sakkā, itarathā hotī’’ti aparehi vuttaṃ, ‘‘taṃ pubbāparaviruddhaṃ, tasmā vijjānidassanaṃ idha anidassanaṃ sāsane vatthuvijjādīnaṃ vijjāvidhānābhāvā. Bhagavatā vibhattakhettapade vā tesaṃ pariyāyavacanānaṃ anāmaṭṭhattā na sakkā aññaṃ pamāṇaṃ kātu’’nti likhitaṃ. ‘‘Paṭisambhidānaṃ lābhīmhī’ti vutte pariyāyena vuttattā thullaccayaṃ yutta’’nti vadanti, vicāretabbaṃ. Vīmaṃsitvā gahetabbanti ‘‘yo te vihāre vasatī’’tiādīhi saṃsandanato pariyāyavacanattā thullaccayaṃ vuttaṃ. ‘‘Nirodhasamāpattiṃ samāpajjāmī’ti vā ‘lābhīmhāhaṃ tassā’ti vā vadatopī’’ti vuttavacanampi ‘‘sace panassevaṃ hotī’’tiādivacanampi atthato ekameva, sopi hi attano visesaṃ ārocetumeva vadati. ‘‘Yo te vihāre vasatī’tiādīsu ahaṃ-vacanābhāvā pariyāyo yujjati, idha pana ‘lābhīmhāhaṃ tassā’ti attānaṃ niddisati, tasmā pārājikaṃ āpajjituṃ yuttaṃ viyā’’ti vadanti. ‘‘Mahāpaccariyādivacanaṃ uttarimanussadhammesu ekopi na hoti, tasmā pariyāyena vuttattā na hotī’’ti vadanti, suṭṭhu upaparikkhitabbaṃ. Phalasacchikiriyā-padato paṭṭhāya eva pāṭho Flexstr, phalasacchikiriyāyapi ekekampi ekekaphalavasena pārājikaṃ veditabbaṃ.
199. Vì là nguyên nhân của tham ái và các phiền não sẽ sinh ra trong tương lai, nên chính tham ái và các phiền não được gọi là tướng. Và nếu nói “tôi là người đã đạt được các minh” để chỉ một trong ba minh, thì phạm tội Bất Cộng Trụ, không phải là đối với các minh về vật và các minh khác. Nếu nói rằng đã được nói chỉ là sự đoạn trừ phiền não, và sự tiến triển của pháp thượng nhân không xảy ra trong khoảnh khắc đó? Không phải vậy, do việc trình bày hành động của đạo. Chính vì vậy, đã được nói “không có nếu không có đạo” và các câu tương tự. Tâm, có nghĩa là sự không có triền cái của tâm. Một số người nói rằng “ngay cả người nói ‘cho đến khi minh chưa đến, tôi là người đã đạt được trí tuệ quán’ nếu nói đến để chỉ siêu thế, và nếu người đó cũng biết như vậy, thì chính là tội Bất Cộng Trụ, vì siêu thế cũng có tên đó.” “Đã được nói là tội Bất Cộng Trụ ngay cả đối với người nói một cách không phân biệt, hợp lý để nói ‘là tội Bất Cộng Trụ’ đối với người nói đến để chỉ siêu thế. Giống như thế nào, ở nơi đã được nói ‘ngay cả người nói ‘tôi là người đã đạt được các minh’ cũng chính là tội Bất Cộng Trụ,’ dù có các minh về vật và các minh khác, nhưng vì chúng không được hàm ý, nên phạm tội Bất Cộng Trụ. Cũng vậy ở đây. Những người khác đã nói: “không thể lấy làm tiêu chuẩn khác, không thể lấy làm tiêu chuẩn rằng người nào, muốn trình bày phẩm chất của mình, và nói về nghĩa phân tích có pha trộn với thế gian, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Nếu không, thì có.” Đã được viết: “điều đó mâu thuẫn trước sau. Do đó, việc trình bày minh ở đây không phải là ví dụ, vì trong giáo pháp, không có sự quy định về các minh như minh về vật và các minh khác. Hoặc là vì các từ gián tiếp của chúng không được đề cập đến trong các từ đã được Thế Tôn phân định, nên không thể lấy làm tiêu chuẩn khác.” Một số người nói rằng “nếu được nói ‘tôi là người đã đạt được các phân tích,’ thì hợp lý là phạm tội Trọng Tội vì đã được nói một cách gián tiếp,” điều đó cần được xem xét. Cần phải xem xét và chấp nhận, đã được nói là tội Trọng Tội vì là lời nói gián tiếp, do sự so sánh với các câu như “ai ở trong tu viện của ngài” và các câu tương tự. Lời nói đã được nói “ngay cả đối với người nói ‘tôi nhập diệt định’ hoặc ‘tôi là người đã đạt được nó’” và lời nói “nhưng nếu người đó có ý nghĩ như vầy” và các lời nói khác, về mặt ý nghĩa là một. Bởi vì người đó cũng nói chỉ để trình bày sự đặc biệt của mình. Một số người nói rằng “trong các câu như ‘ai ở trong tu viện của ngài’ và các câu tương tự, vì không có từ ‘tôi,’ nên hợp lý là cách nói gián tiếp. Còn ở đây, người đó chỉ định chính mình ‘tôi là người đã đạt được nó,’ do đó, có vẻ như hợp lý là phạm tội Bất Cộng Trụ.” Một số người nói rằng “lời nói trong Mahāpaccarī và các sách khác, không có một pháp nào là pháp thượng nhân, do đó, vì đã được nói một cách gián tiếp, nên không có.” Điều này cần phải được xem xét kỹ lưỡng. Cần phải biết rằng từ từ chứng ngộ quả trở đi, mỗi loại cũng là tội Bất Cộng Trụ theo từng quả riêng biệt.

Rāgassa pahānantiādittike kilesappahānameva vuttaṃ, taṃ pana yasmā maggena vinā natthi. Tatiyamaggena hi rāgadosānaṃ pahānaṃ, catutthena mohassa, tasmā ‘‘rāgo me pahīno’’tiādīni vadatopi pārājikaṃ. Rāgā cittaṃ vinīvaraṇatātiādittike lokuttarameva vuttaṃ, tasmā ‘‘rāgā me cittaṃ vinīvaraṇa’’ntiādīni vadato pārājikamevāti. Akuppadhammattāti keci uttaravihāravāsino. Kasmā na hotīti ce? ‘‘Iti jānāmi, iti passāmī’’ti vattamānavacaneneva mātikāyaṃ vuttattā. Yadi evaṃ padabhājane ‘‘samāpajjiṃ, samāpanno’’tiādinā vuttattā ‘‘atītattabhāve sotāpannomhī’’ti vadatopi hotūti ce? Na, aññathā atthasambhavato. Kathaṃ? Addhāpaccuppannavasena vattamānatā gahetabbāti ñāpanatthaṃ vuttaṃ, na atītattabhāvaṃ. Atītattabhāvo hi pariyāyena vuttattā ‘‘thullaccaya’’nti vuttanti ācariyā.
Trong ba bộ ba như đoạn trừ tham ái và các bộ ba khác, chỉ có sự đoạn trừ phiền não được nói. Nhưng vì điều đó không có nếu không có đạo. Bởi vì bằng tam đạo, tham ái và sân hận được đoạn trừ. Bằng tứ đạo, si mê được đoạn trừ. Do đó, ngay cả người nói “tham ái của tôi đã được đoạn trừ” và các câu tương tự cũng phạm tội Bất Cộng Trụ. Trong ba bộ ba như tâm không bị tham ái che lấp và các bộ ba khác, chỉ có siêu thế được nói. Do đó, người nói “tâm của tôi không bị tham ái che lấp” và các câu tương tự cũng chính là phạm tội Bất Cộng Trụ. Vì là pháp không thể hủy hoại, một số người ở Uttara vihāra. Nếu hỏi tại sao không có? Vì đã được nói trong đề mục chính bằng lời nói ở hiện tại “tôi biết như vầy, tôi thấy như vầy.” Nếu vậy, nếu nói rằng vì đã được nói trong phần phân tích từ bằng các từ như “đã nhập, đang nhập,” nên ngay cả người nói “trong kiếp quá khứ, chúng tôi là bậc Dự lưu” cũng có? Không phải vậy, vì có thể có ý nghĩa khác. Như thế nào? Đã được nói để cho biết rằng phải được hiểu là hiện tại theo cách của thời gian hiện tại, không phải là kiếp quá khứ. Các vị Giáo thọ sư cho rằng vì kiếp quá khứ đã được nói một cách gián tiếp, nên đã được nói là “Trọng Tội.”

200.‘‘Sacepi na hoti, pārājikamevā’’ti aṭṭhānaparikappavasena vuttaṃ kira. ‘‘Iti vācā tivaṅgikā’’ti vakkhati. Natthetanti purime sati pacchimassābhāvā samāpajjiṃ, samāpannoti imesaṃ kiñcāpi atthato kālaviseso natthi, vacanaviseso pana atthi eva.
200. “Ngay cả nếu không có, cũng chính là tội Bất Cộng Trụ,” người ta nói rằng đã được nói theo cách lập kế hoạch ở nơi không thể. Sẽ được nói “lời nói như vậy có ba phần.” Không có ở đó, vì khi có cái trước thì không có cái sau. “Đã nhập, đang nhập,” mặc dù không có sự khác biệt về thời gian về mặt ý nghĩa, nhưng có sự khác biệt về lời nói.

207.Ukkheṭitoti uttāsito. Khiṭa utrāsane.
207. Bị dọa dẫm là bị làm cho sợ hãi. Động từ khiṭa trong ý nghĩa làm cho sợ hãi.

Suddhikavārakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về đề tài trong sạch đã kết thúc.

Vattukāmavārakathāvaṇṇanā
Diễn giải về đề tài muốn nói

Viññattipatheti vijānanaṭṭhāne, tena ‘‘viññattipathamatikkamitvā ṭhito bhikkhu dibbāya sotadhātuyā sutvā jānāti, na pārājikanti dīpetī’’ti vuttaṃ. Jhānaṃ kira samāpajjinti ettha so ce ‘‘esa bhikkhu attano guṇadīpanādhippāyena evaṃ vadatī’’ti jānāti, pārājikameva. Aññathā jānātīti ce? Pārājikacchāyā na dissatīti ācariyo.
Trong phạm vi của sự biểu lộ, ở nơi biết. Do đó, đã được nói: “Tỳ-khưu, sau khi đã đứng vượt qua phạm vi của sự biểu lộ, và biết sau khi đã nghe bằng thiên nhĩ, thì không phạm tội Bất Cộng Trụ.” Người ta nói rằng đã nhập thiền, ở đây, nếu người đó biết “Tỳ-khưu này nói như vậy với ý định trình bày phẩm chất của mình,” thì chính là tội Bất Cộng Trụ. Nếu biết theo cách khác? Vị Giáo thọ sư nói rằng không thấy có bóng dáng của tội Bất Cộng Trụ.

Vattukāmavārakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về đề tài muốn nói đã kết thúc.

Anāpattibhedakathāvaṇṇanā
Diễn giải về đề tài phân loại sự không có tội

Anullapanādhippāyoti yadi ullapanādhippāyo bhaveyya, dukkaṭamevāti apare. ‘‘Taṃ parato ‘nāvuso, sakkā puthujjanena adhivāsetu’nti vatthunā saṃsanditvā gahetabba’’nti vuttaṃ.
Không có ý định ca ngợi, những người khác cho rằng nếu có ý định ca ngợi, thì chính là tội Tác Ác. Đã được nói: “điều đó cần phải được hiểu sau khi đã so sánh với sự việc ở phần sau ‘này Tôn giả, phàm phu không thể chịu đựng được’.”

Padabhājanīyavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về phân tích từ đã kết thúc.

Vinītavatthuvaṇṇanā
Diễn giải về sự việc được quyết định

225-6. Dukkara āgāra āvaṭakāma abhirativatthūsu ‘‘yadi ullapanādhippāyo bhaveyya, pārājika’’nti vadanti, kāraṇaṃ pana duddasaṃ, thullaccayaṃ vuttaṃ viya, vīmaṃsitabbaṃ. Yānena vā iddhiyā vā gacchantopi pārājikaṃ nāpajjatīti padasā gamanavaseneva katikāya katāya yujjati. ‘‘Apubbaṃacarimaṃ gacchantoti hatthapāsaṃ avijahitvā aññamaññassa hatthaṃ gaṇhanto viya gacchanto’’ti vuttaṃ. Uṭṭhetha etha gacchāmāti evaṃ sahagamane pubbāparā gacchantopi nāpajjatīti ācariyassa takko. Vasantassāti tathā vasanto ce upāsakena dissati, pārājiko hoti. ‘‘Rattiṃ vasitvā gacchanto na pārājiko’’ti vuttaṃ. Nānāverajjakāti nānājanapadavāsino. Saṅghalābhoti yathāvuḍḍhaṃ attano pāpuṇanakoṭṭhāso.
225-6. Trong các sự việc về sự khó khăn, nhà cửa, ao tù, ham muốn, hoan hỷ, một số người nói rằng “nếu có ý định ca ngợi, thì phạm tội Bất Cộng Trụ,” nhưng lý do thì khó thấy, giống như đã được nói là tội Trọng Tội, cần phải xem xét. Ngay cả khi đi bằng xe hoặc bằng thần thông cũng không phạm tội Bất Cộng Trụ, hợp lý nếu quy ước đã được thực hiện chỉ theo cách đi bộ. Đã được nói: “đi không trước không sau, là đi giống như nắm tay nhau mà không buông tay.” Theo suy luận của vị Giáo thọ sư, ngay cả khi đi trước sau trong việc đi cùng nhau “hãy đứng dậy, hãy đến, chúng ta hãy đi,” cũng không phạm tội. Của người đang ở, là nếu người đang ở như vậy bị cận sự nam thấy, thì phạm tội Bất Cộng Trụ. Đã được nói: “người đi sau khi đã ở qua đêm không phạm tội Bất Cộng Trụ.” Những người ở các xứ sở khác nhau là những người sống ở các xứ sở khác nhau. Lợi lộc của Tăng chúng là phần mà mình được nhận theo tuổi hạ.

228.Idhāti ‘‘ko nu kho’’tiādinā vutte pañhākamme. Dhammadhātu sabbaññutaññāṇaṃ.
228. Ở đây, là trong Tăng sự câu hỏi đã được nói bằng câu “ai vậy” và các câu tương tự. Pháp giới là toàn giác trí.

232.Nauppaṭipāṭiyāti na sīhokkantavasena anussari. Tasmā antarābhavabhūtā ekā eva jātīti paṭivijjhatīti attho.
232. Không phải theo thứ tự ngược lại, là không nhớ lại theo cách nhảy của sư tử. Do đó, ý nghĩa là thấu triệt rằng chỉ có một kiếp là trạng thái trung gian.

Nigamanavaṇṇanā
Diễn giải về phần kết luận

233.Catuvīsatīti ettha mātughātakapitughātakaarahantaghātakā tatiyapārājikaṃ āpannā. Bhikkhunidūsako, lambiādayo ca cattāro paṭhamapārājikaṃ āpannā evāti katvā kuto catuvīsatīti ce? Na, adhippāyājānanato. Mātughātakādayo hi cattāro idhānupasampannā eva adhippetā, lambiādayo cattāro kiñcāpi paṭhamapārājikena saṅgahitā, yasmā ekena pariyāyena methunadhammapaṭisevino na honti, tasmā visuṃ vuttā. ‘‘Ekakammaṃ ekuddeso samasikkhatā’’ti evaṃ vuttasaṃvāsassa abhabbatāmattaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘yathā pure tathā pacchā’’ti. Aññathā nesaṃ samaññāyapaṭiññāyabhikkhubhāvopi natthīti āpajjati.
233. Hai mươi bốn, ở đây, người giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán đã phạm tội Bất Cộng Trụ thứ ba. Người làm hại Tỳ-khưu-ni, và bốn người như Lambi và các người khác đã phạm tội Bất Cộng Trụ thứ nhất. Nếu vậy, từ đâu mà có hai mươi bốn? Không phải vậy, do không biết ý định. Bởi vì bốn người như người giết mẹ và các người khác ở đây được hàm ý là những người chưa thọ cụ túc giới. Bốn người như Lambi và các người khác, mặc dù đã được bao gồm trong tội Bất Cộng Trụ thứ nhất, nhưng vì theo một cách gián tiếp, họ không phải là người thực hành pháp dâm dục, do đó đã được nói riêng. Đã được nói “giống như trước, giống như sau” để chỉ chính bản chất không có khả năng sống chung đã được nói “một Tăng sự, một lần tụng đọc, học tập bình đẳng.” Nếu không, sẽ dẫn đến việc họ cũng không có bản chất Tỳ-khưu theo danh xưng và sự tự nhận.

Catutthapārājikavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về tội Bất Cộng Trụ thứ tư đã kết thúc.

Pārājikakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải phẩm Bất Cộng Trụ đã kết thúc.

2. Saṅghādisesakaṇḍo
2. Phẩm Tăng Tàn

1. Sukkavissaṭṭhisikkhāpadavaṇṇanā
1. Diễn giải học giới về việc cố ý xuất tinh

235. ‘‘Okkamantāna’’nti pāṭho. Etthāha – ‘‘yo pana bhikkhū’’ti kārako idha kasmā na niddiṭṭhoti? Abhi-niddesena imassa sāpekkhābhāvadassanatthaṃ. Kathaṃ? Kaṇḍuvanādiadhippāyacetanāvasena cetentassa kaṇḍuvanādiupakkamena upakkamantassa, methunarāgavasena ūruādīsu dukkaṭavatthūsu, vaṇādīsu thullaccayavatthūsu ca upakkamantassa sukkavissaṭṭhiyā satipi na saṅghādiseso. Mocanassādasaṅkhātādhippāyāpekkhāva sukkavissaṭṭhi sati upakkame, na aññathā ‘‘anāpatti na mocanādhippāyassā’’ti Yamakato. Tasmā tadatthadassanatthaṃ idha kārako na niddiṭṭho, aññathā ‘‘yo pana bhikkhu sañcetanikaṃ sukkavissaṭṭhiṃ āpajjeyyā’’ti kārake niddiṭṭhe ‘‘ceteti na upakkamati muccati, anāpattī’’ti vuttavacanavirodho. ‘‘Sañcetanikāya sukkavissaṭṭhiyā aññatra supinantā’’ti bhumme niddiṭṭhepi sova virodho āpajjati, tasmā tadubhayavacanakkamaṃ avatvā ‘‘sañcetanikā sukkavissaṭṭhi aññatra supinantā’’ti vuttaṃ. Tattha nimittatthe bhummavacanābhāvato hetutthaniyamo na kato hoti. Tasmiṃ akate sañcetanikā sukkavissaṭṭhi aññatra supinantā saṅghādisesāpatti, upakkame asati anāpattīti ayamattho dīpitoti veditabbaṃ.
235. Có đoạn văn “của những người đang đi vào.” Vị ấy nói ở đây – tại sao ở đây, người thực hiện “Tỳ-khưu nào” không được chỉ định? Để trình bày tính chất phụ thuộc của nó bằng cách chỉ định Abhi. Như thế nào? Đối với người có ý định theo cách của ý định gãi và các ý định khác, khi tấn công bằng hành động gãi và các hành động khác, và khi tấn công trong các đối tượng của tội Tác Ác ở đùi và các bộ phận khác, và trong các đối tượng của tội Trọng Tội ở các vết thương và các nơi khác, ngay cả khi có sự xuất tinh, cũng không phải là tội Tăng Tàn. Sự xuất tinh chỉ phụ thuộc vào ý định được gọi là khoái cảm xuất tinh khi có sự tấn công, không phải cách khác, từ Yamaka “không phạm tội đối với người không có ý định xuất tinh.” Do đó, để trình bày ý nghĩa đó, người thực hiện không được chỉ định ở đây. Nếu không, nếu người thực hiện được chỉ định “Tỳ-khưu nào phạm tội xuất tinh có ý định,” thì sẽ mâu thuẫn với lời nói đã được nói “có ý định nhưng không tấn công và xuất tinh, không phạm tội.” Ngay cả khi được chỉ định ở vị trí cách “trong sự xuất tinh có ý định, ngoài giấc mơ,” cũng sẽ có mâu thuẫn đó. Do đó, thay vì nói theo cả hai cách đó, đã được nói “sự xuất tinh có ý định, ngoài giấc mơ.” Ở đó, vì không có vị trí cách trong ý nghĩa mục đích, nên quy luật về ý nghĩa nguyên nhân không được thực hiện. Khi không có điều đó, cần phải biết rằng đã được trình bày ý nghĩa này: sự xuất tinh có ý định, ngoài giấc mơ, là tội Tăng Tàn, nếu không có sự tấn công, thì không phạm tội.

236-7.Sañcetanikāti ettha paṭhamaviggahena upasaggassa sātthakatā dassitā, dutiyena ikapaccayassa. Vātapittasemharuhirādiāsayabhedatoti attho. Dhātūti ettha ‘‘pathavīdhātuādayo catasso, cakkhudhātuādayo vā aṭṭhārasā’’ti gaṇṭhipade likhitaṃ. Vatthisīsanti vatthipuṭassa sīsaṃ. ‘‘Aṅgajātassa mūlaṃ adhippetaṃ, na aggasīsa’’nti vadanti. Tathevāti ‘‘nimitte upakkamato’’tiādiṃ gaṇhāti. Tato muccitvāti ‘‘na sakalakāyato, tasmā pana ṭhānā cutamatte hotū’’ti gaṇṭhipade likhitaṃ. ‘‘Dakasotaṃ otiṇṇamatte’’ti iminā na sametīti ce ? Tato dakasotorohaṇañcetthātiādi vuccati. Tassattho – nimitte upakkamaṃ katvā sukkaṃ ṭhānā cāvetvā puna vippaṭisāravasena dakasotorohaṇaṃ nivāretuṃ adhivāsemīti. Tato bahi nikkhamante adhivāsetuṃ na sakkā, tathāpi adhivāsanādhippāyena adhivāsetvā antarā dakasotato uddhaṃ nivāretuṃ asakkuṇeyyatāya ‘‘anikkhante vā’’ti vuttaṃ. Kasmā? Ṭhānā cutañhi avassaṃ dakasotaṃ otaratīti aṭṭhakathādhippāyo gaṇṭhipadādhippāyena sameti. Tato muccitvāti sakaṭṭhānato. Sakasarīrato hi bahi nikkhantameva hoti, tato ‘‘bahi nikkhante vā anikkhante vā’’ti vacanaṃ virujjheyya. Yasmā pana tamhā tamhā sarīrapadesā cutaṃ avassaṃ dakasotaṃ otarati, tasmā vuttaṃ ‘‘dakasotaṃ otiṇṇamatte’’ti, iminā ca āpattiyā pākaṭakālaṃ dasseti, kiṃ vuttaṃ hoti? Mocanassādena nimitte upakkamato sukkaṃ bahutarampi sarīrapadesā cutaṃ tattha tattha laggāvasesaṃ yattakaṃ ekā khuddakamakkhikā piveyya, tattake dakasotaṃ otiṇṇamatte saṅghādisesāpatti. Vuttañhi kaṅkhāvitaraṇiyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. sukkavissaṭṭhisikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘dakasotaṃ anotiṇṇepi saṅghādiseso’’tiādi. Tattakassa bahi nikkhamanaṃ asallakkhento ‘‘ceteti upakkamati na muccati, āpatti thullaccayassā’’ti Yamakato thullaccayanti saññāya desentopi na muccati, passāvampi vaṇṇataṃ passitvā vatthikosagatassa picchilatāya vā ñatvā saṅghādisesato vuṭṭhātabbaṃ. Ayamettha tatiyattheravāde yutti. Sabbācariyā ime eva tayo therā, tesampi dakasotorohaṇaṃ nimitte upakkamananti ayaṃ dutiyo vinicchayo sādhāraṇato ettha, evaṃ upatissatthero vadati kira.
236-7. Có ý định, ở đây, bằng cách phân tích đầu tiên, tính chất có ý nghĩa của tiền tố được trình bày. Bằng cách phân tích thứ hai, của hậu tố ika. Ý nghĩa là do sự khác biệt của các túi chứa như gió, mật, đờm, máu và các chất khác. Trong câu các giới, đã được viết trong sách giải thích từ khó: “bốn đại như địa đại và các đại khác, hoặc là mười tám giới như nhãn giới và các giới khác.” Đầu của bàng quang là đầu của túi bàng quang. Một số người nói rằng “đầu gốc của bộ phận sinh dục được hàm ý, không phải là đầu ngọn.” Cũng vậy, là nắm bắt “từ sự tấn công vào bộ phận sinh dục” và các câu tương tự. Sau khi đã thoát ra khỏi đó, đã được viết trong sách giải thích từ khó: “không phải từ toàn bộ thân thể, do đó, hãy có ngay khi đã di chuyển khỏi nơi chốn đó.” Nếu nói rằng không phù hợp với câu “ngay khi đã đi xuống dòng nước”? Sau đó, được nói rằng sự đi xuống dòng nước từ đó và các điều khác. Ý nghĩa của nó là – sau khi đã thực hiện sự tấn công vào bộ phận sinh dục và làm cho tinh dịch di chuyển khỏi nơi chốn, rồi lại bằng sự hối hận, tôi chịu đựng để ngăn chặn sự đi xuống dòng nước. Sau đó, khi đi ra ngoài, không thể chịu đựng được. Tuy nhiên, đã được nói “hoặc là khi chưa ra ngoài” vì không thể ngăn chặn nó lên trên khỏi dòng nước ở giữa, sau khi đã chịu đựng với ý định chịu đựng. Tại sao? Bởi vì ý định của Chú giải phù hợp với ý định của sách giải thích từ khó rằng cái đã di chuyển khỏi nơi chốn chắc chắn sẽ đi xuống dòng nước. Sau khi đã thoát ra khỏi đó là từ nơi của mình. Bởi vì nó chính là đã ra ngoài khỏi thân thể của mình. Sau đó, lời nói “hoặc là khi đã ra ngoài, hoặc là khi chưa ra ngoài” sẽ mâu thuẫn. Nhưng vì cái đã di chuyển từ mỗi bộ phận của thân thể chắc chắn sẽ đi xuống dòng nước, do đó đã được nói “ngay khi đã đi xuống dòng nước.” Và bằng điều này, Ngài trình bày thời điểm rõ ràng của tội lỗi. Điều gì đã được nói? Do khoái cảm xuất tinh, khi tấn công vào bộ phận sinh dục, ngay cả khi có nhiều tinh dịch đã di chuyển khỏi các bộ phận của thân thể và còn dính lại ở mỗi nơi, thì ngay khi một lượng bằng một con ruồi nhỏ có thể uống, đi xuống dòng nước, thì phạm tội Tăng Tàn. Đã được nói trong Kaṅkhāvitaraṇī (kaṅkhā. aṭṭha. sukkavissaṭṭhisikkhāpadavaṇṇanā): “ngay cả khi chưa đi xuống dòng nước, cũng là tội Tăng Tàn” và các câu tương tự. Người nào, không nhận thấy việc ra ngoài của chừng ấy, dù sám hối với ý thức là tội Trọng Tội, từ Yamaka “có ý định, tấn công nhưng không xuất tinh, phạm tội Trọng Tội,” cũng không thoát tội. Sau khi đã thấy ngay cả nước tiểu cũng có màu, và sau khi đã biết do tính chất dính của cái đã đi đến túi bàng quang, thì phải xuất khỏi tội Tăng Tàn. Ở đây, đây là lý lẽ trong quan điểm của các trưởng lão thứ ba. Tất cả các vị Giáo thọ sư đều là ba vị trưởng lão này. Và ngay cả đối với họ, sự đi xuống dòng nước là sự tấn công vào bộ phận sinh dục. Đây là sự phân xử thứ hai, một cách chung chung, ở đây. Người ta nói rằng Trưởng lão Upatissa đã nói như vậy.

Ṭhānā cutañhi avassaṃ dakasotaṃ otaratīti katvā ‘‘ṭhānā cāvanamattenevettha āpatti veditabbā’’ti vuttaṃ. Dakasotaṃ otiṇṇe eva āpatti. Sukkassa hi sakalaṃ sarīraṃ ṭhānaṃ, anotiṇṇe ṭhānā cutaṃ nāma na hotīti vīmaṃsitabbaṃ. Ābhidhammikattā therassa ‘‘sukkavissaṭṭhi nāma rāgasamuṭṭhānā hotī’’ti (kathā. aṭṭha. 307) kathāvatthuṭṭhakathāyaṃ vuttattā sambhavo cittasamuṭṭhāno, ‘‘taṃ asuciṃ ekadesaṃ mukhena aggahesi, ekadesaṃ aṅgajāte pakkhipī’’ti (pārā. 503) Yamakato utusamuṭṭhāno ca dissati, so ca kho avītarāgasseva ‘‘aṭṭhānametaṃ, bhikkhave, anavakāso yaṃ arahato asuci mucceyyā’’ti (mahāva. 353; kathā. 313) Yamakato. Parūpāhāraṭṭhakathāyaṃ ‘‘atthi tassa āsayoti tassa sukkassa uccārapassāvānaṃ viya patiṭṭhānokāso atthī’’ti (kathā. aṭṭha. 309) canato tassa āsayoti siddhaṃ. Pākatikacittasamuṭṭhānarūpaṃ viya asaṃsaṭṭhattā, nikkhamanato ca ‘‘vatthisīsaṃ, kaṭi, kāyo’’ti tidhā sukkassa ṭhānaṃ pakappenti ācariyā. Sappavisaṃ viya taṃ daṭṭhabbaṃ, na ca visassa ṭhānaniyamo, kodhavasena phusantassa hoti, evamassa na ca ṭhānaniyamo, rāgavasena upakkamantassa hotīti takko.
Vì cho rằng cái đã di chuyển khỏi nơi chốn chắc chắn sẽ đi xuống dòng nước, nên đã được nói “cần phải biết rằng có tội ngay khi di chuyển khỏi nơi chốn.” Có tội ngay khi đã đi xuống dòng nước. Bởi vì toàn bộ thân thể là nơi chốn của tinh dịch. Cần phải xem xét rằng khi chưa đi xuống, không có cái gọi là đã di chuyển khỏi nơi chốn. Vì là người thuộc Vi Diệu Pháp, nên trưởng lão, vì đã được nói trong Kathāvatthuṭṭhakathā: “sự xuất tinh là do tham ái sinh khởi” (kathā. aṭṭha. 307), nên sự tồn tại là do tâm sinh khởi. Từ Yamaka “vị ấy đã lấy một phần chất bất tịnh đó bằng miệng, và đặt một phần vào bộ phận sinh dục” (pārā. 503), cũng thấy có do thời tiết sinh khởi. Và đó là chỉ đối với người chưa dứt bỏ tham ái, từ Yamaka “này các Tỳ-khưu, không có nơi nào, không có cơ hội nào để chất bất tịnh xuất ra đối với bậc A-la-hán” (mahāva. 353; kathā. 313). Trong Parūpāhāraṭṭhakathā, từ câu “có túi chứa của nó, là có nơi trú ngụ của tinh dịch đó, giống như của phân và nước tiểu” (kathā. aṭṭha. 309), đã được xác định là có túi chứa của nó. Vì không bị pha trộn giống như sắc do tâm sinh tự nhiên, và vì sự xuất ra, các vị Giáo thọ sư đã phân chia nơi chốn của tinh dịch thành ba loại: “đầu bàng quang, hông, thân.” Cần phải biết nó giống như nọc độc của rắn. Và không có sự xác định nơi chốn của nọc độc. Nó xảy ra đối với người chạm vào với sân hận. Cũng vậy đối với người này, không có sự xác định nơi chốn. Suy luận là nó xảy ra đối với người tấn công với tham ái.

Khobhakaraṇapaccayo nāma bhesajjasenāsanāhārādipaccayo. Saṃsaggabhedatopīti etesu dvīhipi tīhipi. Pahīnavipallāsattāti ettha yaṃ kiñci supinantena sekkhaputhujjanā passanti, taṃ sabbaṃ vipallatthaṃ abhūtamevāti āpajjati. Tato ‘‘yaṃ pana pubbanimittato passati. Taṃ ekantasaccameva hotī’’ti idaṃ virujjhati, tasmā na visayaṃ sandhāya vuttaṃ. So hi sacco vā hoti, aliko vāti katvā tañce sandhāya vuttaṃ siyā, ‘‘asekkhā pahīnavipallāsattā saccameva passanti, nāsacca’’nti vattabbaṃ siyā. Kintu dassanaṃ sandhāya vuttaṃ. Tañhi abhūtaṃ, apassantopi hi passanto viya asuṇantopi suṇanto viya amunantopi munanto viya hoti. Saccampi vipassatīti no takkoti ācariyo. Taṃ rūpanimittādiārammaṇaṃ na hoti, āgantukapaccuppannaṃ rūpanimittādiārammaṇaṃ sandhāya vuttaṃ. Kammanimittagatinimittabhūtāni hi rūpanimittādīni bhavaṅgassa ārammaṇāni honti eva. Tattha kammanimittamatītameva, gatinimittaṃ thokaṃ kālaṃ paccuppannaṃ siyā.
Duyên làm cho dao động là duyên như thuốc men, chỗ ở, thức ăn và các duyên khác. Cũng do sự khác biệt của sự tiếp xúc, là bằng cả hai hoặc ba trong số chúng. Do đã đoạn trừ sự sai lầm, ở đây, sẽ dẫn đến việc tất cả những gì mà các bậc hữu học và phàm phu thấy trong giấc mơ đều là sai lầm, không có thật. Sau đó, điều này sẽ mâu thuẫn: “còn điều mà người đó thấy từ tướng trước, thì đó chắc chắn là sự thật.” Do đó, không được nói đến để chỉ đối tượng. Bởi vì đã được cho rằng nó có thể là thật hoặc không thật. Nếu được nói đến để chỉ điều đó, thì lẽ ra phải nói: “các bậc vô học, do đã đoạn trừ sự sai lầm, chỉ thấy sự thật, không phải không thật.” Nhưng đã được nói đến để chỉ sự thấy. Bởi vì nó không có thật. Ngay cả người không thấy cũng giống như đang thấy, người không nghe cũng giống như đang nghe, người không biết cũng giống như đang biết. Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, vị ấy cũng thấy được sự thật. Nó không phải là đối tượng như tướng sắc và các đối tượng khác, đã được nói đến để chỉ đối tượng như tướng sắc và các đối tượng khác, là khách lai, hiện tại. Bởi vì các đối tượng như tướng sắc và các đối tượng khác, là tướng nghiệp và tướng cảnh giới, chắc chắn là đối tượng của tâm hữu phần. Ở đó, tướng nghiệp chỉ là quá khứ. Tướng cảnh giới có thể là hiện tại trong một thời gian ngắn.

Īdisānīti paccakkhato anubhūtapubbaparikappitāgantukapaccuppannarūpanimittādiārammaṇāni, rāgādisampayuttāni cāti attho. Makkaṭassa niddā lahuparivattā hoti. So hi rukkhasākhato patanabhayā abhikkhaṇaṃ ummīlati ca supati ca. Manussā kiñcāpi punappunaṃ ummīlanti subyattataraṃ paṭibuddhā viya passanti, atha kho paṭibuddhānaṃ punappunaṃ bhavaṅgotaraṇaṃ viya supinakālepi tesaṃ bhavaṅgotaraṇaṃ hoti, yena ‘‘supatī’’ti vuccati. ‘‘Bhavaṅgacittena hi supatī’’ti Yamakato bhavaṅgotaraṇaṃ karajakāyassa nirussāhasantabhāvūpanissayattā ‘‘niddā’’ti vuccati. Sā karajakāyassa dubbalabhāvena supinadassanakāle bhavaṅgato uttaraṇe satipi nirussāhasantabhāvappattiyā ‘‘pavattatī’’ti ca vuccati, yato sattā ‘‘paṭibuddhā’’ti na vuccanti, karajakāyassa nirussāhasantasabhāvappattito ca tannissitaṃ hadayavatthu na suppasannaṃ hoti, tato tannissitāpi cittappavatti asuppasannavaṭṭinissitadīpappabhā viya. Teneva aṭṭhakathāyaṃ ‘‘svāyaṃ dubbalavatthukattā cetanāya paṭisandhiṃ ākaḍḍhituṃ asamattho’’tiādi vuttaṃ.
Những thứ như vậy, có nghĩa là các đối tượng như tướng sắc và các đối tượng khác, đã được trải nghiệm trực tiếp, đã được lập kế hoạch trước đây, là khách lai, hiện tại, và tương ưng với tham ái và các phiền não khác. Giấc ngủ của con khỉ là hay thay đổi. Bởi vì nó, do sợ rơi từ cành cây, thường xuyên mở mắt và ngủ. Con người, mặc dù thường xuyên mở mắt và thấy một cách rõ ràng hơn giống như người đã thức, nhưng giống như việc đi xuống tâm hữu phần nhiều lần của những người đã thức, trong khi ngủ, họ cũng có sự đi xuống tâm hữu phần, mà do đó được gọi là “ngủ.” Bởi vì từ Yamaka “ngủ bằng tâm hữu phần,” việc đi xuống tâm hữu phần, vì là nền tảng cho trạng thái yên tĩnh, không nỗ lực của thân thể vật chất, nên được gọi là “giấc ngủ.” Nó, do trạng thái yếu đuối của thân thể vật chất, dù có sự đi lên khỏi tâm hữu phần trong khi thấy giấc mơ, cũng được gọi là “tiến triển” do đã đạt được trạng thái yên tĩnh, không nỗ lực. Do đó, các chúng sinh không được gọi là “đã thức.” Và do đã đạt được trạng thái yên tĩnh, không nỗ lực của thân thể vật chất, nên tâm vật dựa vào nó không được trong sạch hoàn toàn. Do đó, sự tiến triển của tâm dựa vào nó cũng giống như ánh sáng của ngọn đèn dựa vào một vật không trong sạch hoàn toàn. Chính vì vậy, trong Chú giải, đã được nói: “ý định đó, do có vật yếu đuối, không có khả năng kéo theo sự tái sinh” và các câu tương tự.

Gaṇṭhipade pana ‘‘dubbalavatthukattāti supine upaṭṭhitaṃ nimittampi dubbala’’nti likhitaṃ. Taṃ anekatthaṃ sabbampi nimittaṃ hoti, na ca dubbalārammaṇavatthukattā cetanā, tāya cittappavatti dubbalā atītānāgatārammaṇāya, paññattārammaṇāya vā adubbalattā, avatthukāya dubbalabhāvo na yujjati cetanāya avatthukāya bhāvanāpabhāvāyātirekabalasabbhāvato. Bhāvanābalasamappitañhi cittaṃ arūpampi samānaṃ atibhāriyampi karajakāyaṃ gahetvā ekacittakkhaṇeneva brahmalokaṃ pāpetvā ṭhapeti. Tappaṭibhāgaṃ anappitampi kāmāvacaracittaṃ karajakāyaṃ ākāse laṅghanasamatthaṃ karoti, pagevetaraṃ. Kiṃ panettha taṃ anumānakāraṇaṃ, yena cittasseva ānubhāvoti paññāyeyya cittānubhāvena vā laddhāsevanādikiriyāvisesanibbattidassanato, tasmā dubbalavatthukattāti dubbalahadayavatthukattāti ācariyassa takko. Attano mandatikkhākārena tannissitassa cittassa mandatikkhabhāvanipphādanasamatthañce, hadayavatthu cakkhusotādivatthu viya indriyaṃ bhaveyya, na cetaṃ indriyaṃ. Yato dhammasaṅgahe upādāyarūpapāḷiyaṃ uddesārahaṃ na jātaṃ. Anindriyattā hi taṃ kāyindriyassa anantaraṃ na uddiṭṭhaṃ, vatthurūpattā ca avatthurūpassa jīvitindriyassa anantarampi na uddiṭṭhaṃ, tasmā yaṃ vuttaṃ ‘‘tassa asuppasannattā tannissitā ca cittappavatti asuppasannā hotī’’ti, taṃ na siddhanti ce? Siddhameva anindriyānampi sappāyāsappāyautuāhārādīnaṃ paccayānaṃ samāyogato, cittappavattiyā vikāradassanato, paccakkhattā ca. Yasmā appaṭibuddhopi paṭibuddhaṃ viya attānaṃ maññatīti. Ettāvatā karajakāyassa nirussāhasantabhāvākāraviseso niddā nāma. Sā cittassa bhavaṅgotaraṇākāravisesena hoti, tāya samannāgato satto bhavaṅgato uttiṇṇo supinaṃ passati, so ‘‘kapimiddhapareto’’ti vuccati, so sutto appaṭibuddho hotīti ayamattho sādhito hoti.
Còn trong sách giải thích từ khó, đã được viết: “do có vật yếu đuối, là ngay cả tướng hiện hữu trong giấc mơ cũng yếu đuối.” Điều đó có nhiều ý nghĩa. Tất cả các tướng đều có, và không phải là ý định, do có đối tượng và vật yếu đuối. Sự tiến triển của tâm đó là yếu đuối, do có đối tượng là quá khứ và tương lai, hoặc là đối tượng khái niệm, không phải là yếu đuối. Không hợp lý là trạng thái yếu đuối của cái không có vật, vì ý định, dù không có vật, cũng có sức mạnh vượt trội do năng lực của sự tu tập. Bởi vì tâm, được cung cấp bởi sức mạnh của sự tu tập, dù là vô sắc, cũng có thể mang theo thân thể vật chất rất nặng và đưa đến cõi Phạm thiên chỉ trong một khoảnh khắc tâm. Tâm thuộc cõi Dục, dù chưa được nhập định, tương tự như nó, cũng có khả năng làm cho thân thể vật chất nhảy lên không trung, huống chi là cái kia. Ở đây, nguyên nhân suy luận nào, mà do đó có thể biết được là năng lực của tâm, hoặc là do thấy được sự sinh khởi của các đặc điểm hành động như đã được thực hành do năng lực của tâm. Do đó, suy luận của vị Giáo thọ sư là: do có vật yếu đuối là do có tâm vật yếu đuối. Nếu tâm vật, do trạng thái yếu và mạnh của mình, có khả năng tạo ra trạng thái yếu và mạnh của tâm dựa vào nó, thì nó sẽ là một năng lực, giống như vật của mắt, tai và các căn khác. Nhưng nó không phải là một năng lực. Do đó, trong Dhammasaṅgaha, nó đã không xứng đáng được tụng đọc trong Pāḷi về sắc phụ thuộc. Bởi vì không phải là năng lực, nên nó không được trình bày ngay sau năng lực của thân. Và vì là sắc vật, nên nó cũng không được trình bày ngay sau mạng căn, là sắc không phải vật. Do đó, nếu nói rằng điều đã được nói “vì nó không trong sạch hoàn toàn, nên sự tiến triển của tâm dựa vào nó cũng không trong sạch hoàn toàn” không được xác định? Chính là đã được xác định, do sự kết hợp của các duyên như thời tiết, thức ăn và các duyên khác, dù không phải là năng lực, thích hợp và không thích hợp, và do thấy được sự biến đổi của sự tiến triển của tâm, và do sự trực tiếp. Bởi vì ngay cả người chưa thức cũng cho rằng mình đã thức. Bằng chừng ấy, đặc điểm của trạng thái yên tĩnh, không nỗ lực của thân thể vật chất được gọi là giấc ngủ. Nó xảy ra do đặc điểm của sự đi xuống tâm hữu phần của tâm. Chúng sinh có nó, sau khi đã đi lên khỏi tâm hữu phần, thấy giấc mơ. Người đó được gọi là “bị sự buồn ngủ của con khỉ chi phối.” Người đó đang ngủ, chưa thức. Ý nghĩa này đã được chứng minh.

Yasmā bhavaṅgavāranirantaratāya accantasutto nāma hoti, tasmā ‘‘yadi tāva sutto passati, abhidhammavirodho āpajjatī’’tiādi vuttaṃ. Yasmā pana niddākkhaṇe na paṭibuddho nāma hoti, tasmā ‘‘atha paṭibuddho passati, vinayavirodho’’tiādi vuttaṃ, yasmā ca akhīṇaniddo, anotiṇṇabhavaṅgo ca atthi, tasmā ‘‘kapimiddhapareto passatī’’ti vuttaṃ. Aññathā ayaṃ neva sutto na paṭibuddho, attanā taṃ niddaṃ anokkanto āpajjeyya. Ettāvatā ca abhidhammo, vinayo, nāgasenattheravacanaṃ yutti cāti sabbaṃ aññamaññasaṃsanditaṃ hoti. Tattha kapimiddhaparetoti bhavaṅgato uttiṇṇaniddāpareto. Sā hi idha kapimiddhaṃ nāma. ‘‘Tattha katamaṃ middhaṃ? Yā kāyassa akalyatā akammaññatā…pe… supanaṃ, idaṃ vuccati middha’’nti (dha. sa. 1163) evamāgataṃ. Idañhi arūpaṃ, imassa phalabhūto karajakāyassa akalyatā’pacalāyikāsupi niddāviseso kāraṇopacārena ‘‘kapimiddha’’nti pavuccati. Yañceva ‘‘kapimiddhapareto kho, mahārāja, supinaṃ passatī’’ti (mi. pa. 5.3.5 thokaṃ visadisaṃ) vuttanti.
Bởi vì do sự liên tục của lộ trình tâm hữu phần, được gọi là ngủ say, do đó đã được nói: “nếu thấy trong khi ngủ, thì sẽ có sự mâu thuẫn với Vi Diệu Pháp” và các đoạn tương tự. Và vì trong khoảnh khắc ngủ, không được gọi là đã thức, do đó đã được nói: “còn nếu thấy khi đã thức, thì mâu thuẫn với Luật” và các đoạn tương tự. Và vì có người chưa hết buồn ngủ và chưa đi xuống tâm hữu phần, do đó đã được nói: “người bị sự buồn ngủ của con khỉ chi phối thấy.” Nếu không, người này sẽ không ngủ cũng không thức, và sẽ phạm tội mà không tự mình đi vào giấc ngủ đó. Bằng chừng ấy, cả Vi Diệu Pháp, Luật, lời nói của Trưởng lão Nāgasena và lý lẽ, tất cả đều phù hợp với nhau. Ở đó, người bị sự buồn ngủ của con khỉ chi phối là người bị sự buồn ngủ chi phối sau khi đã đi lên khỏi tâm hữu phần. Bởi vì nó ở đây được gọi là sự buồn ngủ của con khỉ. Đã có trong câu “Ở đó, sự buồn ngủ là gì? Bất cứ sự không khỏe mạnh, không dễ sử dụng của thân… cho đến… sự ngủ, đây được gọi là sự buồn ngủ” (dha. sa. 1163). Bởi vì đây là vô sắc, và đặc điểm của giấc ngủ trong các trạng thái buồn ngủ, là quả của nó, là sự không khỏe mạnh của thân thể vật chất, được gọi là “sự buồn ngủ của con khỉ” theo cách ẩn dụ về nguyên nhân. Và chính điều đó đã được nói: “Này Đại vương, người bị sự buồn ngủ của con khỉ chi phối thấy giấc mơ” (mi. pa. 5.3.5 thokaṃ visadisaṃ).

Yaṃtaṃ āpattivuṭṭhānanti ettha yena vinayakammena tato vuṭṭhānaṃ hoti, taṃ idha āpattivuṭṭhānaṃ nāma. Avayave samūhavohārena vāti ettha sākhacchedako rukkhacchedakoti vuccatītiādi nidassanaṃ, vedanākkhandhādi ruḷhīsaddassa nidassanaṃ. Na ca mayāti vīmaṃsanapadassa tassa kiriyaṃ sandhāya, mocane ca sanniṭṭhānaṃ sandhāya muccanapakatiyā cāti vuttaṃ.
Sự xuất khỏi tội đó, ở đây, Tăng sự Luật nào mà do đó có sự xuất khỏi tội, thì ở đây được gọi là sự xuất khỏi tội. Hoặc là do cách dùng từ tập hợp cho một phần, ở đây, ví dụ là “người cắt cành được gọi là người cắt cây,” ví dụ về từ ruḷhī là uẩn thọ và các uẩn khác. Đã được nói: và không phải do tôi, để chỉ hành động của từ xem xét, và để chỉ sự quyết định trong việc xuất tinh, và cũng để chỉ bản chất của sự xuất tinh.

240.Gehanti pañcakāmaguṇā. Vanabhaṅgiyanti pābhatikaṃ. Sampayuttasukhavedanāmukhena rāgova ‘‘assādo’’ti vutto. Supantassa cāti idaṃ kapimiddhapareto viya bhavaṅgasantatiṃ avicchinditvā supantaṃ sandhāya vuttanti, vīmaṃsitabbaṃ. Jagganatthāyāti sodhanatthāya.
240. Nhà là năm dục trần. Vanabhaṅgiyaṃ là quà biếu. Chính tham ái, qua lạc thọ tương ưng, đã được gọi là “sự thích thú.” Và của người đang ngủ, đã được nói đến để chỉ người đang ngủ mà không làm gián đoạn dòng tâm hữu phần, giống như người bị sự buồn ngủ của con khỉ chi phối, cần phải xem xét. Để thức tỉnh là để thanh lọc.

266. ‘‘Dārudhītalikalepacittānaṃ aṅgajātapaṭinijjhānepi dukkaṭa’’nti vadanti. ‘‘Uppanne pariḷāhe mocanarāgajo’’ti likhanti. Vālikāya vā ‘‘hatthikāmaṃ nassatī’’ti ettha viya ‘‘āpatti tva’’nti sabbattha pāṭho. ‘‘Ehi me tvaṃ, āvuso sāmaṇera, aṅgajātaṃ gaṇhāhī’’ti āgatattā ‘‘vacīkamma’’ntipi vattuṃ yuttaṃ viya dissati. Evaṃ sante aññaṃ ‘‘evaṃ karohī’’ti āṇattiyāpi āpatti siyāti saṅkaraṃ hoti. Tasmā na vuttanti gahetabbanti keci.
266. Một số người nói rằng “ngay cả trong việc chăm chú nhìn vào các hình vẽ trên vải và tranh, cũng phạm tội Tác Ác.” Họ viết: “khi sự thiêu đốt phát sinh, là do tham ái xuất tinh.” Hoặc là của cát, giống như trong câu “ham muốn voi biến mất,” ở khắp mọi nơi có đoạn văn “ngươi đã phạm tội.” Vì đã có câu “này Tôn giả Sa-di, hãy đến, hãy cầm lấy bộ phận sinh dục của ta,” nên có vẻ như hợp lý để nói là “khẩu nghiệp.” Nếu như vậy, sẽ có sự lẫn lộn rằng ngay cả khi ra lệnh cho người khác “hãy làm như vầy” cũng sẽ có tội. Một số người cho rằng vì vậy nên không được nói.

267. ‘‘Pupphāvaliyaṃ sāsavaḷiya’’nti duvidho kira.
267. Người ta nói rằng có hai loại: “trong vòng hoa, trong dải băng.”

Sukkavissaṭṭhisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc cố ý xuất tinh đã kết thúc.

2. Kāyasaṃsaggasikkhāpadavaṇṇanā
2. Diễn giải học giới về sự tiếp xúc thân thể

270. ‘‘Otiṇṇo’’ti imināssa sevanādhippāyatā dassitā. ‘‘Vipariṇatena cittena mātugāmena saddhi’’nti imināssa vāyāmo dassito. ‘‘Saddhi’’nti hi padaṃ saṃyogaṃ dīpeti, so ca payogasamāpattiyo samāgamo allīyanaṃ. Kena cittena? Vipariṇatena cittena, na pattapaṭiggahaṇādhippāyādināti adhippāyo. ‘‘Kāyasaṃsaggaṃ samāpajjeyyā’’ti imināssa vāyamato phassapaṭivijānanā dassitā hoti. Vāyamitvā phassaṃ paṭivijānanto hi samāpajjati nāma. Evamassa tivaṅgasampatti dassitā hoti. Atha vā otiṇṇo. Kena? Vipariṇatena cittena yakkhādinā satto viya. Upayogatthe vā etaṃ karaṇavacanaṃ. Otiṇṇo vipariṇataṃ cittaṃ kūpādiṃ viya satto. Atha vā ‘‘rāgato uttiṇṇo bhavissāmī’’ti bhikkhubhāvaṃ upagato, tato uttiṇṇādhippāyato vipariṇatena cittena hetubhūtena tameva rāgaṃ otiṇṇo. Mātugāmena attano samīpaṃ āgatena, attanā upagatena vā. Etena mātugāmassa sārattatā vā hotu virattatā vā, sā idha appamāṇā, na bhikkhunīnaṃ kāyasaṃsagge viya ubhinnaṃ sārattatāya payojanaṃ atthi.
270. Bằng câu “đã đi vào,” đã trình bày ý định thực hành của vị ấy. Bằng câu “với người phụ nữ với tâm đã biến đổi,” đã trình bày sự cố gắng của vị ấy. Bởi vì từ “với” trình bày sự kết hợp, và đó là các định hành động, sự gặp gỡ, sự ôm ấp. Bằng tâm nào? Bằng tâm đã biến đổi, ý định là không phải bằng ý định nhận bát và các ý định khác. Bằng câu “thực hiện sự tiếp xúc thân thể,” đã trình bày sự nhận biết sự tiếp xúc do sự cố gắng của vị ấy. Bởi vì người nào, sau khi đã cố gắng và nhận biết sự tiếp xúc, thì được gọi là thực hiện. Như vậy, đã trình bày sự thành tựu ba yếu tố của vị ấy. Hoặc là đã đi vào. Bằng cái gì? Bằng tâm đã biến đổi, giống như chúng sinh bị ma và các loài khác ám. Hoặc là công cụ cách này trong ý nghĩa sử dụng. Đã đi vào tâm đã biến đổi, giống như chúng sinh đi vào giếng và các nơi khác. Hoặc là, đã đi vào bản chất Tỳ-khưu “tôi sẽ thoát khỏi tham ái,” sau đó, do ý định thoát khỏi đó, bằng tâm đã biến đổi là nguyên nhân, đã đi vào chính tham ái đó. Với người phụ nữ, đã đến gần mình, hoặc là do chính mình đã đến gần. Bằng điều này, dù người phụ nữ có tham ái hay không có tham ái, thì điều đó ở đây không phải là tiêu chuẩn. Không có mục đích trong việc cả hai đều có tham ái giống như trong sự tiếp xúc thân thể của các Tỳ-khưu-ni.

Kāyasaṃsagganti ubhinnaṃ kāyānaṃ sampayogaṃ. Padabhājane pana ‘‘samāpajjeyyāti ajjhācāro vuccatī’’ti vuttaṃ, taṃ samāpajjanaṃ sandhāya, na kāyasaṃsaggaṃ. Kāyasaṃsaggassa samāpajjanā hi ‘‘ajjhācāro’’ti vuccati. Aṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘yo so kāyasaṃsaggo nāma, so atthato ajjhācāro hotī’’ti vuttaṃ, taṃ parato pāḷiyaṃ ‘‘sevanādhippāyo, na ca kāyena vāyamati, phassaṃ paṭivijānāti, anāpattī’’ti (pārā. 279) vuttalakkhaṇena virujjhatīti. Phassapaṭivijānanāya hi saṃsaggo dīpito. So ce ajjhācāro hoti, kathaṃ anāpatti hotīti. Suvuttametaṃ, kintu ‘‘kāyasaṃsaggaṃ samāpajjeyyā’’ti padaṃ uddharitvā ‘‘ajjhācāro vuccatī’’ti ubhinnampi padānaṃ sāmaññabhājanīyattā, samāpajjitabbābhāve samāpajjanābhāvena ‘‘so atthato ajjhācāro hotī’’ti vuttaṃ siyā.
Sự tiếp xúc thân thể là sự kết hợp của hai thân thể. Còn trong phần phân tích từ, đã được nói: “thực hiện được gọi là sự vi phạm,” điều đó đã được nói đến để chỉ việc thực hiện, không phải sự tiếp xúc thân thể. Bởi vì việc thực hiện sự tiếp xúc thân thể được gọi là “sự vi phạm.” Còn trong Chú giải, đã được nói: “sự tiếp xúc thân thể đó, về mặt ý nghĩa, là sự vi phạm,” điều đó mâu thuẫn với đặc điểm đã được nói ở phần sau trong Pāḷi: “có ý định thực hành, nhưng không cố gắng bằng thân, và nhận biết sự tiếp xúc, không phạm tội” (pārā. 279). Bởi vì sự tiếp xúc đã được trình bày bằng sự nhận biết sự tiếp xúc. Nếu đó là sự vi phạm, làm sao lại không phạm tội? Điều này đã được nói rất hay, nhưng vì từ “thực hiện sự tiếp xúc thân thể” đã được trích dẫn và nói “được gọi là sự vi phạm” là phần phân tích chung cho cả hai từ, nên có thể đã được nói “về mặt ý nghĩa, đó là sự vi phạm” do không có sự thực hiện khi không có cái để thực hiện.

‘‘Hatthaggāhaṃ vā’’ti ettha hatthena sabbopi upādinnako kāyo saṅgahito, na bhinnasantāno tappaṭibaddho hatthālaṅkārādi. Veṇiggahaṇena anupādinnako abhinnasantāno kesalomanakhadantādiko kammapaccayautusamuṭṭhāno gahitoti veditabbaṃ. Tenevāha aṭṭhakathāyaṃ ‘‘anupādinnakenapi kenaci kesādinā upādinnakaṃ vā anupādinnakaṃ vā phusantopi saṅghādisesaṃ āpajjatiyevā’’ti (pārā. aṭṭha. 2.274). Tena anupādinnakānampi kesalomādīnaṃ aṅgabhāvo veditabbo. Evaṃ santepi ‘‘phassaṃ paṭijānātīti tivaṅgasampattiyā saṅghādiseso. Phassassa appaṭivijānanato duvaṅgasampattiyā dukkaṭa’’nti iminā pāḷiaṭṭhakathānayena virujjhatīti ce? Na, tadatthajānanato. Phuṭṭhabhāvañhi paṭivijānantopi phassaṃ paṭivijānāti nāma, ayameko attho, tasmā mātugāmassa, attano ca kāyapariyāpannānaṃ kesādīnaṃ aññamaññaṃ phuṭṭhabhāvaṃ phusitvā taṃ sādiyanaṃ phassaṃ paṭivijānāti nāma, na kāyaviññāṇuppattiyā eva. Anekantikañhettha kāyaviññāṇaṃ. Mātugāmassa upādinnakena kāyena, anupādinnakena vā kāyena bhikkhuno upādinnakakāye phuṭṭhe pasannakāyindriyo ce hoti, tassa kāyaviññāṇaṃ uppajjati, teneva phassaṃ paṭivijānāti nāma so hoti. Anupādinnakakāyo, loluppo appasannakāyindriyo vā hoti, timiravātena upahatakāyo vā tassa kāyaviññāṇaṃ nuppajjati. Na ca tena phassaṃ paṭivijānāti nāma, kevalaṃ sevanādhippāyena vāyamitvā kāyasaṃsaggaṃ samāpajjanto phassaṃ paṭivijānāti nāma manoviññāṇena, tena vuttaṃ ‘‘kāyasaṃsaggaṃ samāpajjeyyāti imināssa vāyamato phassapaṭivijānanā dassitā’’ti. Aparopi bhikkhu mātugāmassa kāyapaṭibaddhena vā nissaggiyena vā phuṭṭho kāyaviññāṇaṃ uppādentena phassaṃ paṭivijānāti nāma, tasmā vuttaṃ ‘‘anekantikañhettha kāyaviññāṇa’’nti. Aparo vatthaṃ pārupitvā niddāyantaṃ mātugāmaṃ kāyasaṃsaggarāgena vatthassa uparibhāge saṇikaṃ phusanto vatthantarena nikkhantalomasamphassaṃ appaṭivijānantopi sevanādhippāyo kāyena vāyamitvā phassaṃ paṭivijānāti nāma, saṅghādisesaṃ āpajjati. ‘‘Nīlaṃ ghaṭṭessāmīti kāyaṃ ghaṭṭeti, saṅghādiseso’’ti hi vuttaṃ. Ayaṃ dutiyo attho. Evaṃ anekatthattā, evaṃ duviññeyyādhippāyato ca mātikāṭṭhakathāyaṃ phassapaṭivijānanaṃ aṅgantveva na vuttaṃ. Tasmiñhi vutte ṭhānametaṃ vijjati, yaṃ bhikkhu saṅghādisesaṃ āpajjitvāpi nakhena lomena saṃsaggo diṭṭho, na ca me lomaghaṭṭanena kāyaviññāṇaṃ uppannaṃ, timiravātathaddhagatto cāhaṃ na phassaṃ paṭivijānāmīti anāpannasaññī siyāti na vuttaṃ, apica ‘‘phassaṃ paṭivijānāti, na ca phassaṃ paṭivijānātī’’ti ca etesaṃ padānaṃ aṭṭhakathāyaṃ vuttanayaṃ dassetvā so paññāpetabbo. Ettāvatā na tadatthajānanatoti kāraṇaṃ vitthāritaṃ hoti.
Hoặc là việc nắm tay, ở đây, bằng tay, toàn bộ thân thể hữu chấp đã được bao gồm, không phải là vật không có dòng liên tục, gắn liền với nó, như đồ trang sức tay và các vật khác. Cần phải biết rằng bằng việc nắm bím tóc, vật không hữu chấp, không có dòng liên tục, như tóc, lông, móng, răng và các vật khác, do nghiệp và thời tiết sinh khởi, đã được bao gồm. Chính vì vậy, Ngài đã nói trong Chú giải: “ngay cả khi chạm vào vật hữu chấp hoặc không hữu chấp bằng bất kỳ vật không hữu chấp nào như tóc và các vật khác, cũng chính là phạm tội Tăng Tàn” (pārā. aṭṭha. 2.274). Do đó, cần phải biết rằng ngay cả các vật không hữu chấp như tóc, lông và các vật khác cũng là một phần. Nếu vậy, nếu nói rằng mâu thuẫn với cách của Pāḷi và Chú giải này: “phạm tội Tăng Tàn do sự thành tựu ba yếu tố ‘nhận biết sự tiếp xúc.’ Phạm tội Tác Ác do sự thành tựu hai yếu tố do không nhận biết sự tiếp xúc”? Không phải vậy, do biết ý nghĩa của nó. Bởi vì ngay cả người nhận biết trạng thái đã được chạm cũng được gọi là nhận biết sự tiếp xúc. Đây là một ý nghĩa. Do đó, sau khi đã chạm vào trạng thái đã được chạm của tóc và các bộ phận khác, thuộc về thân thể của người phụ nữ và của chính mình, và đồng ý với điều đó, được gọi là nhận biết sự tiếp xúc, không phải chỉ bằng sự sinh khởi của thân thức. Bởi vì thân thức ở đây không chắc chắn. Nếu được chạm vào thân thể hữu chấp của Tỳ-khưu bằng thân thể hữu chấp hoặc không hữu chấp của người phụ nữ, nếu người đó có thân căn trong sạch, thì thân thức của người đó sinh khởi. Do đó, người đó được gọi là nhận biết sự tiếp xúc. Nếu là thân thể không hữu chấp, hoặc là người tham lam, có thân căn không trong sạch, hoặc là thân thể bị gió độc tấn công, thì thân thức của người đó không sinh khởi. Và người đó không được gọi là nhận biết sự tiếp xúc. Chỉ là người nào, sau khi đã cố gắng với ý định thực hành và thực hiện sự tiếp xúc thân thể, thì được gọi là nhận biết sự tiếp xúc bằng ý thức. Do đó, đã được nói: “bằng câu ‘thực hiện sự tiếp xúc thân thể,’ đã trình bày sự nhận biết sự tiếp xúc do sự cố gắng của vị ấy.” Tỳ-khưu khác, khi bị chạm bởi vật gắn liền với thân thể hoặc vật phải từ bỏ của người phụ nữ, và làm phát sinh thân thức, được gọi là nhận biết sự tiếp xúc. Do đó, đã được nói “thân thức ở đây không chắc chắn.” Tỳ-khưu khác, sau khi đã mặc y và chạm nhẹ vào phần trên của y của người phụ nữ đang ngủ với tham ái tiếp xúc thân thể, dù không nhận biết sự tiếp xúc của lông thoát ra qua lớp y, cũng được gọi là nhận biết sự tiếp xúc sau khi đã cố gắng bằng thân với ý định thực hành, và phạm tội Tăng Tàn. Bởi vì đã được nói: “muốn chạm vào màu xanh mà chạm vào thân thể, phạm tội Tăng Tàn.” Đây là ý nghĩa thứ hai. Vì có nhiều ý nghĩa như vậy, và vì có ý định khó hiểu như vậy, nên trong Chú giải đề mục, việc nhận biết sự tiếp xúc không được nói là một yếu tố. Bởi vì nếu được nói, có thể xảy ra trường hợp Tỳ-khưu, dù đã phạm tội Tăng Tàn, nhưng vì đã thấy có sự tiếp xúc bằng móng, bằng lông, và vì thân thức của mình không sinh khởi do sự cọ xát của lông, và vì mình có thân thể cứng đờ do gió độc, nên có ý thức là không phạm tội, do đó không được nói. Hơn nữa, sau khi đã trình bày cách đã được nói trong Chú giải của các từ “nhận biết sự tiếp xúc” và “không nhận biết sự tiếp xúc,” người đó phải được chế định. Bằng chừng ấy, lý do “do không biết ý nghĩa đó” đã được giải thích chi tiết.

Padabhājanīyavaṇṇanā
Diễn giải về phân tích từ

271.‘‘Rattaṃ cittaṃ imasmiṃ atthe adhippetaṃ vipariṇata’’nti kiñcāpi sāmaññena vuttaṃ, vinītavatthūsu ‘‘mātuyā mātupemena āmasati…pe… āpatti dukkaṭassā’’ti vuttattā kāyasaṃsaggarāgeneva rattanti veditabbaṃ. Tathā ‘‘mātugāmo nāma manussitthī’’ti kiñcāpi avisesena vuttaṃ, atha kho avinaṭṭhindriyāva manussitthī idhādhippetā ‘‘matitthiyā kāyasaṃsaggaṃ samāpajji…pe… āpatti thullaccayassā’’ti vuttattā. ‘‘Manussitthī’’ti ettāvatā siddhe ‘‘na yakkhī na petī na tiracchānagatā’’ti vacanaṃ avinaṭṭhindriyāpi na sabbā manussaviggahā itthī idha manussitthī nāma. Yakkhiādayo hi attano jātisiddhena iddhivisesena ijjhantiyo manussaviggahāpi hontīti dassanatthaṃ vuttaṃ. Tāsu yakkhī thullaccayavatthu hoti vinītavatthūsu yakkhiyā kāyasaṃsaggena thullaccayassa vuttattā. Tadanulomattā petitthī, devitthī ca thullaccayavatthu. Tiracchānagatitthī dukkaṭavatthu. Tiracchānagatamanussaviggahitthī ca thullaccayavatthumevāti eke. Vibhaṅge pana ‘‘manussitthī ca hoti manussitthisaññī’’ti pāḷiyā abhāvena ‘‘itthī ca hoti yakkhisaññī’’tiādivacane sati yakkhiādīnaṃ anitthitāpasaṅgato, ‘‘itthī ca hoti itthisaññī’’tiādimhi yakkhiādīnaṃ antokaraṇe sati tāsaṃ saṅghādisesavatthubhāvappasaṅgato ca yakkhiādayo na vuttāti veditabbā. Eke pana ‘‘vinītavatthumhi ‘aññataro bhikkhu tiracchānagatitthiyā kāya…pe… dukkaṭassā’ti ettha amanussaviggahā pākatikatiracchānagatitthī adhippetā, tasmā dukkaṭaṃ vuttaṃ. ‘Itthī ca hoti tiracchānagatasaññīti tiracchānagatā ca hoti itthisaññī’tiādivāresupi pākatikatiracchānagatova adhippeto, so ca tiracchānagatapurisova. Teneva duṭṭhullavācāattakaāmapāricariyasikkhāpadesu manussapurisapaṭisaṃyuttavārā viya tiracchānapaṭisaṃyuttavārāpi nāgatā’’ti vadanti. Tathā paṇḍakoti idha manussapaṇḍakova, purisoti ca idha manussapurisova āgato, tasmā amanussitthī amanussapaṇḍako amanussapuriso tiracchānagatitthī tiracchānagatapaṇḍako manussāmanussatiracchānagataubhatobyañjanakā cāti aṭṭha janā idha nāgatā, tesaṃ vasena vatthusaññāvimatibhedavasena āpattibhedābhedavinicchayo, anāgatavāragaṇanā ca asammuyhantena veditabbā, tathā tesaṃ dukamissakādivārā, āpattianāpattibhedavinicchayo ca. ‘‘Tattha amanussapaṇḍakaamanussapurisatiracchānagatitthitiracchānagatapaṇḍakāti cattāro dukkaṭavatthukā, amanussitthimanussaubhatobyañjanakā thullaccayavatthukā, amanussaubhatobyañjanakā tiracchānagataubhatobyañjanakā dukkaṭavatthukā, pāḷiyaṃ pana amanussitthiyā anāgatattā amanussapaṇḍakā, ubhatobyañjanakā purisā ca nāgatā. Tiracchānagatitthipaṇḍakaubhatobyañjanakā tiracchānagatapurisena samānagatikattā nāgatā, manussaubhatobyañjanako manussapaṇḍakena samānagatikattā anāgato’’ti vadanti. Aṭṭhakathāyaṃ (pārā. aṭṭha. 2.281) pana ‘‘nāgamāṇavikāyapi supaṇṇamāṇavikāyapi kinnariyāpi gāviyāpi dukkaṭamevā’’ti vuttattā tadeva pamāṇato gahetabbaṃ.
271. “Tâm tham ái được hàm ý trong ý nghĩa này là đã biến đổi,” mặc dù đã được nói một cách chung chung, nhưng vì trong các sự việc được quyết định, đã được nói “chạm vào mẹ với tình yêu của mẹ… cho đến… phạm tội Tác Ác,” nên cần phải biết là tham ái chính bằng tham ái tiếp xúc thân thể. Cũng vậy, “người phụ nữ là người phụ nữ,” mặc dù đã được nói một cách không phân biệt, nhưng ở đây chỉ hàm ý người phụ nữ chưa bị hư hỏng các giác quan, vì đã được nói “đã thực hiện sự tiếp xúc thân thể với người phụ nữ đã chết… cho đến… phạm tội Trọng Tội.” Mặc dù đã được xác định chỉ bằng chừng ấy “người phụ nữ,” nhưng lời nói “không phải là dạ xoa nữ, không phải là ngạ quỷ nữ, không phải là súc sinh nữ” đã được nói để trình bày rằng không phải tất cả những người phụ nữ có hình dạng con người đều là người phụ nữ ở đây. Bởi vì các dạ xoa nữ và các loài khác, do có năng lực thần thông tự nhiên của loài mình, cũng có thể có hình dạng con người. Trong số đó, dạ xoa nữ là đối tượng của tội Trọng Tội, vì trong các sự việc được quyết định, đã được nói là phạm tội Trọng Tội do sự tiếp xúc thân thể với dạ xoa nữ. Phù hợp với đó, ngạ quỷ nữ và thiên nữ cũng là đối tượng của tội Trọng Tội. Súc sinh nữ là đối tượng của tội Tác Ác. Một số người cho rằng súc sinh nữ có hình dạng con người cũng chính là đối tượng của tội Trọng Tội. Còn trong phần phân tích, cần phải biết rằng các dạ xoa nữ và các loài khác không được nói đến, vì không có Pāḷi “là người phụ nữ và có ý thức là người phụ nữ,” và nếu có lời nói “là người phụ nữ và có ý thức là dạ xoa nữ” và các lời nói khác, sẽ dẫn đến việc các dạ xoa nữ và các loài khác không phải là người phụ nữ, và nếu bao gồm các dạ xoa nữ và các loài khác trong câu “là người phụ nữ và có ý thức là người phụ nữ” và các câu tương tự, sẽ dẫn đến việc chúng trở thành đối tượng của tội Tăng Tàn. Một số người lại nói rằng “trong sự việc được quyết định, trong câu ‘một Tỳ-khưu nào đó, với súc sinh nữ, thân… cho đến… của tội Tác Ác,’ ở đây, súc sinh nữ tự nhiên, không có hình dạng con người, được hàm ý, do đó đã được nói là tội Tác Ác. Ngay cả trong các lượt ‘là người phụ nữ và có ý thức là súc sinh, là súc sinh và có ý thức là người phụ nữ’ và các lượt khác, cũng chính là súc sinh tự nhiên được hàm ý, và đó chính là súc sinh đực. Chính vì vậy, trong các học giới về lời nói xấu xa, sự phục vụ theo ý muốn, và sự hầu hạ, các lượt liên quan đến súc sinh đã không có, giống như các lượt liên quan đến người đàn ông.” Cũng vậy, ở đây, người ái nam ái nữ là chính người ái nam ái nữ, và người đàn ông cũng là chính người đàn ông đã đến. Do đó, tám người này đã không đến ở đây: người phụ nữ phi nhân, người ái nam ái nữ phi nhân, người đàn ông phi nhân, người phụ nữ súc sinh, người ái nam ái nữ súc sinh, và người có cả hai giới tính là người, phi nhân, và súc sinh. Cần phải biết sự phân xử về sự khác biệt và không khác biệt của tội lỗi theo sự khác biệt của sự việc, ý thức, và sự nghi ngờ theo họ, và việc đếm các lượt chưa đến, mà không bị nhầm lẫn. Cũng vậy, các lượt hỗn hợp hai loại và các lượt khác của họ, và sự phân xử về sự khác biệt của tội lỗi và sự không có tội. “Ở đó, bốn người: người ái nam ái nữ phi nhân, người đàn ông phi nhân, người phụ nữ súc sinh, người ái nam ái nữ súc sinh, là đối tượng của tội Tác Ác. Người phụ nữ phi nhân, người có cả hai giới tính là người, là đối tượng của tội Trọng Tội. Người có cả hai giới tính là phi nhân, người có cả hai giới tính là súc sinh, là đối tượng của tội Tác Ác. Còn trong Pāḷi, vì người phụ nữ phi nhân chưa đến, nên người ái nam ái nữ, người có cả hai giới tính, và người đàn ông phi nhân cũng chưa đến. Người phụ nữ, người ái nam ái nữ, và người có cả hai giới tính là súc sinh, vì có cùng bản chất với người đàn ông súc sinh, nên chưa đến. Người có cả hai giới tính là người, vì có cùng bản chất với người ái nam ái nữ, nên chưa đến,” một số người nói vậy. Còn trong Chú giải (pārā. aṭṭha. 2.281), vì đã được nói “ngay cả với thiếu nữ rồng, thiếu nữ supaṇṇa, thiếu nữ kinnarī, và con bò cái, cũng chính là tội Tác Ác,” nên chính điều đó phải được coi là tiêu chuẩn.

Tatrāyaṃ vicāraṇā – ‘‘na, bhikkhave, tiracchānagatassa nisinnaparisāya pātimokkhaṃ uddisitabba’’nti (mahāva. 183) ettha ‘‘tiracchānagatoti yassa upasampadā paṭikkhittā’’ti (kaṅkhā. aṭṭha. nidānavaṇṇanā) aṭṭhakathāyaṃ vuttattā tiracchānagatamanussaviggaho pākatikatiracchānagatato visiṭṭho, tathā yakkhapetatiracchānagatamanussaviggahānaṃ ‘‘tiracchānagatassa ca dukkhuppattiyaṃ apica dukkaṭamevā’’ti ettha visesetvā vuttattā ca ‘‘patanarūpaṃ pamāṇaṃ, na maraṇarūpa’’nti ettha āpattivisesavacanato ca ‘‘ubhato avassute yakkhassa vā petassa vā paṇḍakassa vā tiracchānagatamanussaviggahassa vā adhakkhakaṃ ubbhajāṇumaṇḍalaṃ kāyena kāyaṃ āmasati, āpatti thullaccayassā’’ti (pāci. 661) sāmaññena Yamakato ca so visiṭṭhoti siddhaṃ. Visiṭṭhattā ca tiracchānagatamanussaviggahitthiyā kāyasaṃsaggaṃ samāpajjantassāti viseso hoti, tasmā tattha āpattivisesena bhavitabbaṃ. Yadi kāyasaṃsaggasikkhāpade tiracchānagatamanussaviggahitthīpi adhippetā, rūpasāmaññena saññāvirāgattāsambhavato duṭṭhullavācāattakāmapāricariyasikkhāpadesupi sā vattabbā bhaveyya, sā cānāgatā. Sarūpena saṃkhittavārattā nāgatāti ce? Itthī ca hoti tiracchānagato ca ubhinnaṃ itthisaññīti idha āgatattā purisaliṅganiddeso na yujjati, tasmā tiracchānagatapuriso ca idha āgato, tiracchānagatamanussaviggahitthiyā pāḷiyaṃ anāgatāyapi dukkaṭameva aṭṭhakathāyaṃ vuttattāti imassa vacanassa kāraṇacchāyā pariyesitabbāti adhippāyo. Idaṃ na yujjati. Kasmā? Itthīnaṃ, purisānañca ekato vacane purisaliṅgasabbhāvato. Idha tiracchānagatapurisapaṇḍakitthiyo tissopi ekato sampiṇḍetvā ‘‘tiracchānagato’’ti vuttaṃ.
Ở đó, đây là sự xem xét – trong câu “này các Tỳ-khưu, không được tụng Giới Bổn trong Tăng chúng có súc sinh ngồi” (mahāva. 183), vì trong Chú giải đã được nói “súc sinh là người có sự thọ cụ túc giới đã bị bác bỏ” (kaṅkhā. aṭṭha. nidānavaṇṇanā), nên súc sinh có hình dạng con người khác với súc sinh tự nhiên. Cũng vậy, vì đã được nói một cách đặc biệt ở đây “và đối với sự phát sinh của khổ đối với súc sinh, cũng chính là tội Tác Ác” của các dạ xoa, ngạ quỷ, và súc sinh có hình dạng con người, và vì lời nói đặc biệt về tội lỗi ở đây “hình dạng khi rơi là tiêu chuẩn, không phải hình dạng khi chết,” và vì từ Yamaka một cách chung chung “đối với dạ xoa hoặc ngạ quỷ hoặc người ái nam ái nữ hoặc súc sinh có hình dạng con người, nếu cả hai đều bị kích thích, và chạm vào thân thể bằng thân thể ở phần dưới nách, trên đầu gối, thì phạm tội Trọng Tội” (pāci. 661), nên đã được xác định rằng người đó là đặc biệt. Và vì là đặc biệt, nên có sự khác biệt “đối với người thực hiện sự tiếp xúc thân thể với người phụ nữ súc sinh có hình dạng con người.” Do đó, ở đó phải có sự khác biệt về tội lỗi. Nếu trong học giới về sự tiếp xúc thân thể, ngay cả người phụ nữ súc sinh có hình dạng con người cũng được hàm ý, thì do sự giống nhau về hình dạng, và vì không có khả năng có sự sai lầm về ý thức, nên trong các học giới về lời nói xấu xa, sự phục vụ theo ý muốn, và sự hầu hạ, lẽ ra cũng phải được nói về người đó. Nhưng người đó lại chưa đến. Nếu nói rằng vì là lượt tóm tắt về bản chất, nên chưa đến? Vì đã đến ở đây “là người phụ nữ và là súc sinh, và có ý thức là người phụ nữ đối với cả hai,” nên việc chỉ định giới tính nam không hợp lý. Do đó, ngay cả người đàn ông súc sinh cũng đã đến ở đây. Và ý định là cần phải tìm kiếm bóng dáng của lý do cho lời nói này “ngay cả đối với người phụ nữ súc sinh có hình dạng con người, dù chưa có trong Pāḷi, cũng chính là tội Tác Ác vì đã được nói trong Chú giải.” Điều này không hợp lý. Tại sao? Vì khi nói về cả người phụ nữ và người đàn ông cùng nhau, có sự tồn tại của giới tính nam. Ở đây, cả ba: người đàn ông, người ái nam ái nữ, và người phụ nữ là súc sinh, đã được gộp chung lại và nói là “súc sinh.”

Tattha ca manussaviggahāmanussaviggahesu itthipaṇḍakapurisasaññitā yathāsambhavaṃ veditabbā. Duṭṭhullavācādisikkhāpadadvaye vārānaṃ saṃkhittattā purisatiracchānagatādayo nāgatā. Yathāvuttesu āpatti, tathā tatthāpi. Aññathā purisaṃ obhāsantassa ca anāpattīti paṇḍakaṃ obhāsantassa ca thullaccayanti mātikāṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Tasmā te vārā saṃkhittāti paññāyantīti. Viseso ca paṇḍake, purise, tiracchānagate ca itthisaññissa atthi, tathāpi tattha dukkaṭaṃ vuttaṃ, tasmā aṭṭhakathāyaṃ vuttameva pamāṇanti dvinnametesaṃ vādānaṃ yattha yutti vā kāraṇaṃ vā atirekaṃ dissati, taṃ vicāretvā gahetabbanti āricayo. Evarūpesu ṭhānesu suṭṭhu vicāretvā kathetabbaṃ.
Và ở đó, cần phải biết theo khả năng, những người được gọi là người phụ nữ, người ái nam ái nữ, và người đàn ông, trong số những người có hình dạng con người và không có hình dạng con người. Trong hai học giới về lời nói xấu xa và các học giới khác, vì các lượt đã được tóm tắt, nên người đàn ông súc sinh và các loài khác chưa đến. Giống như có tội trong những gì đã được nói, cũng vậy ở đó. Nếu không, đã được nói trong Chú giải đề mục: “đối với người chê bai người đàn ông thì không phạm tội, còn đối với người chê bai người ái nam ái nữ thì phạm tội Trọng Tội.” Do đó, có thể thấy rằng các lượt đó đã được tóm tắt. Và có sự khác biệt đối với người có ý thức là người phụ nữ đối với người ái nam ái nữ, người đàn ông, và súc sinh. Tuy nhiên, ở đó đã được nói là tội Tác Ác. Do đó, vị Giáo thọ sư nói rằng ở đâu có lý lẽ hoặc nguyên nhân vượt trội trong hai quan điểm này, thì cần phải xem xét và chấp nhận điều đó. Ở những nơi như vầy, cần phải xem xét kỹ lưỡng và nói.

Tattha pāḷiyaṃ āgatavāragaṇanā tāva evaṃ saṅkhepato veditabbā – itthimūlakā pañca vārā paṇḍakapurisatiracchānagatamūlakā ca pañca pañcāti vīsati vārā ekamūlakā, tathā dumūlakā vīsati, missakamūlakā vīsatīti saṭṭhi vārā, tāni tīṇi vīsatikāni honti. Ekekasmiṃ vīsatike ekekamūlavāraṃ gahetvā kāyena kāyapaṭibaddhavārā tayo vuttā. Sesā sattapaññāsa vārā saṃkhittā, tathā kāyapaṭibaddhena kāyavārā tayo vuttā, sesā saṃkhittā, evaṃ kāyapaṭibaddhena kāyapaṭibaddhavārepi nissaggiyena kāyavārepi nissaggiyena kāyapaṭibaddhavārepi nissaggiyena nissaggiyavārepi tayo tayo vārā vuttā, sesā saṃkhittā. Evaṃ channaṃ tikānaṃ vasena aṭṭhārasa vārā āgatāti sarūpato vuttā, sesā dvecattālīsādhikāni tīṇi vārasatāni saṃkhittāni. Tato paraṃ mātugāmassa sārattapakkhe kāyena kāyanti ekamekaṃ vaḍḍhetvā pubbe vuttā aṭṭhārasa vārā āgatāti ekavīsati vārā sarūpena āgatā, navanavutādhikāni tīṇi vārasatāni saṃkhittāni. Tato paraṃ āpattānāpattidīpakā cattāro sevanādhippāyamūlakā cattāro mokkhādhippāyamūlakāti dve catukkā āgatā.
Ở đó, việc đếm các lượt đã có trong Pāḷi, cần phải được biết một cách tóm tắt như sau – có năm lượt có người phụ nữ làm gốc, và năm năm lượt có người ái nam ái nữ, người đàn ông, và súc sinh làm gốc, như vậy có hai mươi lượt có một gốc. Cũng vậy, có hai mươi lượt có hai gốc, hai mươi lượt có gốc hỗn hợp, như vậy có sáu mươi lượt. Ba bộ hai mươi đó. Trong mỗi bộ hai mươi, sau khi đã lấy một lượt có một gốc, ba lượt về thân thể và vật gắn liền với thân thể đã được nói. Năm mươi bảy lượt còn lại đã được tóm tắt. Cũng vậy, ba lượt về thân thể và vật gắn liền với thân thể đã được nói, còn lại đã được tóm tắt. Như vậy, trong các lượt về vật gắn liền với thân thể và vật gắn liền với thân thể, các lượt về vật phải từ bỏ và thân thể, các lượt về vật phải từ bỏ và vật gắn liền với thân thể, và các lượt về vật phải từ bỏ và vật phải từ bỏ, cũng đã được nói ba ba lượt, còn lại đã được tóm tắt. Như vậy, mười tám lượt đã đến theo sáu bộ ba, đã được nói về bản chất. Ba trăm bốn mươi hai lượt còn lại đã được tóm tắt. Sau đó, về phía người phụ nữ có tham ái, sau khi đã thêm một một lượt “bằng thân thể và thân thể,” mười tám lượt đã được nói trước đây đã đến, như vậy, hai mươi mốt lượt đã đến về bản chất. Ba trăm chín mươi chín lượt còn lại đã được tóm tắt. Sau đó, đã có hai bộ bốn: bốn bộ có ý định thực hành làm gốc và bốn bộ có ý định xuất tinh làm gốc, trình bày tội lỗi và sự không có tội.

Tatthāyaṃ viseso – yadidaṃ mātikāya parāmasanapadaṃ, tena yasmā āmasanādīni chupanapariyosānāni dvādasapi padāni gahitāni, tasmā paduddhāraṃ akatvā ‘‘āmasanā parāmasanaṃ chupana’’nti āha. Parāmasanaṃ nāma āmasanā. ‘‘Chupana’’nti hi vutte parāmasanampi visuṃ ekattaṃ bhaveyyāti veditabbaṃ. Itthī ca hoti itthisaññī cāti imasmiṃ paṭhamavāre eva dvādasapi āmasanādīni yojetvā dassitāni. Tato paraṃ ādimhi dve padānīti cattāri padāni āgatāni, itarāni saṃkhittānīti veditabbāni. Nissaggiyena kāyavārādīsu pana sabbākārena alābhato āmasanamevekaṃ āgataṃ, netarāni. ‘‘Sañcopeti haratī’’ti pāṭho, sañcopeti ca. Gaṇṭhipadesu pana ‘‘purimanayenevāti rajjuvatthādīhi parikkhipane’’ti ca pacchā ‘‘purimanayenevāti sammasanā hotī’’ti ca ‘‘veṇiggāhe āpattiyā paññattattā lomaphusanepi saṅghādiseso’’ti ca ‘‘taṃ pakāsetuṃ upādinnakena hītiādi vutta’’nti ca likhitaṃ.
Ở đó, đây là sự khác biệt – điều này, trong đề mục là từ chạm vào, vì bằng nó, cả mười hai từ, từ chạm vào cho đến tiếp xúc, đã được bao gồm, do đó, không trích dẫn từ, Ngài đã nói “chạm vào, sờ mó, tiếp xúc.” Sờ mó là chạm vào. Cần phải biết rằng nếu được nói “tiếp xúc,” thì sờ mó cũng sẽ trở thành một loại riêng biệt. Chính trong lượt đầu tiên “là người phụ nữ và có ý thức là người phụ nữ,” cả mười hai hành động như chạm vào và các hành động khác đã được kết hợp và trình bày. Sau đó, ở đầu có hai từ, như vậy bốn từ đã đến. Cần phải biết rằng các từ còn lại đã được tóm tắt. Còn trong các lượt về vật phải từ bỏ và thân thể và các lượt khác, vì không thể có theo mọi cách, nên chỉ có một hành động chạm vào đã đến, không phải các hành động khác. Có đoạn văn “gấp lại, mang đi,” và gấp lại. Còn trong các sách giải thích từ khó, đã được viết: “theo cách trước, là trong việc quấn bằng dây, vải và các vật khác,” và sau đó “theo cách trước, là có sự vuốt ve,” và “vì đã được chế định có tội trong việc nắm bím tóc, nên ngay cả trong việc chạm vào lông cũng là tội Tăng Tàn,” và “để làm sáng tỏ điều đó, đã được nói bởi vì bằng vật hữu chấp” và các câu tương tự.

Yathāniddiṭṭhaniddeseti imasmiṃyeva yathāniddiṭṭhe niddese. ‘‘Sadisaṃ aggahesī’’ti vutte tādisaṃ aggahesīti garukaṃ tattha kārayeti attho, kāyasaṃsaggavibhaṅge vāti attho. Itaropi kāyapaṭibaddhachupanako. Gahaṇe cāti gahaṇaṃ vā. Virāgiteti viraddhe. Sārattanti kāyasaṃsaggarāgena rattaṃ, attanā adhippetanti attho. ‘‘Mātubhaginiādivirattaṃ gaṇhissāmī’’ti virattaṃ ñātipemavasena gaṇhi, ettha dukkaṭaṃ yuttaṃ. ‘‘Kāyasaṃsaggarāgaṃ vā sārattaṃ gaṇhissāmī’’ti virattaṃ mātaraṃ gaṇhi, anadhippetaṃ gaṇhi. Ettha mahāsumattheravādena thullaccayaṃ ‘‘kāyaṃ gaṇhissāmī’’ti kāyappaṭibaddhaṃ gaṇhāti, thullaccayanti laddhikattā. ‘‘Itthī ca hoti itthisaññī sāratto ca, bhikkhu ca naṃ itthiyā kāyena kāyaṃ āmasati, āpatti saṅghādisesassā’’ti (pārā. 273) Yamakato saṅghādisesopi khāyati. ‘‘Virattaṃ gaṇhissāmī’’ti sārattaṃ gaṇhāti, etthapi saṅghādisesova khāyati ‘‘nīlaṃ ghaṭṭessāmī’ti kāyaṃ ghaṭṭeti, saṅghādiseso’’ti Yamakato. Ettha pana ‘‘na pubbabhāge kāyasaṃsaggarāgattā’’ti anugaṇṭhipade kāraṇaṃ vuttaṃ. Keci pana ‘‘garukāpattibhayena ‘nīlameva ghaṭṭessāmī’ti vāyāmanto kāyaṃ ghaṭṭeti, pubbabhāge tassa ‘kāyapaṭibaddhaṃ ghaṭṭessāmī’ti pavattattā dukkaṭena bhavitabba’’nti vadanti. Dhammasiritthero ‘‘evarūpe saṅghādiseso’’ti vadati kira. ‘‘Itthiubhatobyañjanakaitthiyā purisaubhatobyañjanakapurise vuttanayena āpattibhedo, itthiliṅgassa paṭicchannakālepi itthivaseneva āpattī’’ti vadanti.
Trong phần trình bày đã được chỉ định là trong chính phần trình bày đã được chỉ định này. Khi được nói “đã lấy cái tương tự,” ý nghĩa là đã lấy cái tương tự, và làm cho nó trở nên nặng hơn. Hoặc là trong phần phân tích về sự tiếp xúc thân thể. Người kia cũng là người chạm vào vật gắn liền với thân thể. Và trong việc lấy là hoặc là việc lấy. Khi đã sai là khi đã nhầm. Có tham ái, có nghĩa là tham ái bằng tham ái tiếp xúc thân thể, là điều mà mình đã dự định. “Tôi sẽ lấy người mẹ, chị em gái và những người khác không có tham ái,” đã lấy người không có tham ái do tình thân. Ở đây, tội Tác Ác là hợp lý. “Tôi sẽ lấy người có tham ái hoặc có tham ái tiếp xúc thân thể,” đã lấy người mẹ không có tham ái, đã lấy cái không dự định. Ở đây, theo quan điểm của Trưởng lão Mahāsuma, tội Trọng Tội là vì có quan điểm “tôi sẽ lấy thân thể,” đã lấy vật gắn liền với thân thể, phạm tội Trọng Tội. Từ Yamaka “là người phụ nữ và có ý thức là người phụ nữ và có tham ái, và Tỳ-khưu chạm vào thân thể của người phụ nữ đó bằng thân thể của mình, phạm tội Tăng Tàn” (pārā. 273), cũng có vẻ như là tội Tăng Tàn. “Tôi sẽ lấy người không có tham ái,” đã lấy người có tham ái. Ở đây cũng có vẻ như là tội Tăng Tàn, từ Yamaka “muốn chạm vào màu xanh mà chạm vào thân thể, phạm tội Tăng Tàn.” Còn ở đây, trong Anugaṇṭhipada, lý do đã được nói: “không phải do tham ái tiếp xúc thân thể ở phần trước.” Một số người lại nói rằng “do sợ tội nặng, khi cố gắng ‘tôi sẽ chỉ chạm vào màu xanh’ mà lại chạm vào thân thể, thì lẽ ra phải phạm tội Tác Ác, vì ở phần trước, đã có hành động ‘tôi sẽ chạm vào vật gắn liền với thân thể’.” Trưởng lão Dhammasiri nói rằng “trong trường hợp như vậy, là tội Tăng Tàn.” Một số người nói rằng “sự khác biệt về tội lỗi theo cách đã được nói đối với người phụ nữ có cả hai giới tính và người phụ nữ, và đối với người đàn ông có cả hai giới tính và người đàn ông. Ngay cả khi giới tính nữ bị che giấu, cũng có tội theo cách của người phụ nữ.”

Vinītavatthuvaṇṇanā
Diễn giải về sự việc được quyết định

281.Tiṇaṇḍupakanti hiriverādimūlāni gahetvā kattabbaṃ. Tālapaṇṇamuddikanti tālapaṇṇamayaṃ aṅgulimuddikaṃ, tena tālapaṇṇamayaṃ kaṭaṃ, kaṭisuttakaṃ, kaṇṇapiḷandhanādi sabbaṃ na vaṭṭatīti siddhaṃ. Tambapaṇṇivāsino itthirūpaṃ likhitaṃ, kaṭikapaṭañca na chupanti kira. Ākarato muttamatto. Ratanamissoti alaṅkāratthaṃ kato kañcanalatādivinaddho. Suvaṇṇena saddhiṃ yojetvā pacitvāti suvaṇṇarasaṃ pakkhipitvā pacitvā. Bījato dhātupāsāṇato paṭṭhāya. Thero na kappatīti ‘‘tumhākaṃ pesita’’nti vuttattā. ‘‘Cetiyassa pūjaṃ karothā’’ti vutte vaṭṭati kira. Bubbuḷakaṃ tārakaṃ. Ārakūṭalohampi jātarūpagatikameva.
281. Tiṇaṇḍupakaṃ là vật cần phải được làm sau khi đã lấy rễ của cây hirivera và các loại cây khác. Tālapaṇṇamuddikaṃ là chiếc nhẫn bằng lá cọ. Do đó, đã được xác định rằng tất cả những gì làm bằng lá cọ, như giỏ, dây lưng, đồ trang sức tai và các vật khác, đều không được phép. Người ta nói rằng những người sống ở Tambapaṇṇi không chạm vào hình vẽ người phụ nữ và tấm vải che. Ngay khi thoát khỏi mỏ. Có pha trộn với ngọc là được trang trí bằng dây leo bằng vàng và các vật khác để làm đồ trang sức. Sau khi đã trộn với vàng và nấu là sau khi đã cho nước vàng vào và nấu. Từ hạt giống, từ quặng đá trở đi. Trưởng lão không hợp lệ, vì đã được nói “đã được gửi cho các ngài.” Người ta nói rằng nếu được nói “hãy cúng dường cho tháp,” thì được phép. Bubbuḷakaṃ là ngôi sao. Đồng thau cũng có tính chất giống như vàng.

Vuttañhetaṃ andhakaṭṭhakathāyaṃ
Điều này đã được nói trong Andhakaṭṭhakathāyaṃ

‘‘Ārakūṭalohaṃ suvaṇṇasadisameva, suvaṇṇaṃ anulometi, anāmāsa’’nti.
“Đồng thau giống như vàng, nó giống như vàng, không được chạm vào.”

‘‘Bhesajjatthāya pana vaṭṭatī’’ti Yamakato mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttanayekadesopi anuññāto hotīti tattha tattha adhippāyaṃ ñatvā vibhāvetabbaṃ.
Cần phải biết rằng một phần của cách đã được nói trong Đại Chú giải, từ Yamaka “nhưng được phép vì lợi ích chữa bệnh,” cũng đã được cho phép. Do đó, cần phải làm sáng tỏ sau khi đã biết ý định ở mỗi nơi.

Kāyasaṃsaggasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về sự tiếp xúc thân thể đã kết thúc.

3. Duṭṭhullavācāsikkhāpadavaṇṇanā
3. Diễn giải học giới về lời nói xấu xa

283. Tatiye tayo saṅghādisesavārā tayo thullaccayavārā tayo dukkaṭavārā tayo kāyapaṭibaddhavārāti dvādasa vārā sarūpena āgatā. Tattha tayo saṅghādisesavārā dutiyasikkhāpade vuttāti tiṇṇaṃ vīsatikānaṃ ekekamūlā vārāti veditabbā, tasmā idha visesāti paṇṇāsa vārā saṃkhittā honti, aññathā itthī ca hoti vematiko sāratto ca, bhikkhu ca naṃ itthiyā vaccamaggaṃ passāvamaggaṃ ādissa vaṇṇampi bhaṇati…pe… āpatti thullaccayassa. Itthī ca hoti paṇḍakapurisasaññī tiracchānagatasaññī sāratto ca, bhikkhu ca naṃ itthiyā vaccamaggaṃ passāvamaggaṃ ādissa vaṇṇampi bhaṇati akkosatipi, āpatti thullaccayassa. Paṇḍako ca hoti paṇḍakasaññī sāratto ca, bhikkhu ca naṃ paṇḍakassa vaccamaggaṃ ādissa vaṇṇampi bhaṇati, āpatti thullaccayassāti evamādīnaṃ āpattiṭṭhānānaṃ anāpattiṭṭhānatā āpajjeyya, na cāpajjati, paṇḍake itthisaññissa dukkaṭanti dīpetuṃ ‘‘itthī ca paṇḍako ca ubhinnaṃ itthisaññī āpatti saṅghādisesena dukkaṭassā’’ti vuttattā ‘‘paṇḍake paṇḍakasaññissa thullaccaya’’nti vuttameva hoti, tasmā sabbattha saṃkhittavāresu thullaccayaṭṭhāne thullaccayaṃ, dukkaṭaṭṭhāne dukkaṭampi vuttameva hotīti veditabbaṃ. Tathā ‘‘itthī ca hoti vematiko sāratto ca, bhikkhu ca naṃ itthiyā vaccamaggaṃ passāvamaggaṃ ṭhapetvā adhakkhakaṃ ubbhajāṇumaṇḍalaṃ ādissa vaṇṇampi bhaṇati…pe… thullaccayassā’’tiādinā nayena thullaccayakhettepi yathāsambhavaṃ uddharitabbā. Tathā ‘‘itthī ca hoti vematiko sāratto ca, bhikkhu ca naṃ itthiyā kāyapaṭibaddhaṃ ādissa vaṇṇampi bhaṇati…pe… dukkaṭassā’’tiādinā nayena kāyapaṭibaddhavārāpi yathāsambhavaṃ uddharitabbā. Kāyappaṭibaddhavārattikaṃ viya nissaggiyavārattikaṃ labbhamānampi āpattivisesābhāvato na uddhaṭaṃ. Kāyappaṭibaddhavārattike pana dinnanayattā tampi tadanulomā vārā ca uddharitabbā. Sabbattha na-viññū taruṇadārikā, mahallikā ummattikādikā ca anadhippetā, pageva pākatikā tiracchānagatitthīnaṃ, tathā paṇḍakādayopīti veditabbā. Sesaṃ dutiye vuttanayeneva veditabbaṃ.
283. Trong tội thứ ba, mười hai lượt đã đến về bản chất: ba lượt Tăng Tàn, ba lượt Trọng Tội, ba lượt Tác Ác, và ba lượt về vật gắn liền với thân thể. Ở đó, ba lượt Tăng Tàn đã được nói trong học giới thứ hai, cần phải biết là các lượt có một gốc của ba bộ hai mươi. Do đó, ở đây có năm mươi lượt đặc biệt đã được tóm tắt. Nếu không, “là người phụ nữ và nghi ngờ và có tham ái, và Tỳ-khưu, chỉ vào đường đại tiện, đường tiểu tiện của người phụ nữ đó, vừa ca ngợi… cho đến… phạm tội Trọng Tội.” “Là người phụ nữ và có ý thức là người ái nam ái nữ, người đàn ông, súc sinh, và có tham ái, và Tỳ-khưu, chỉ vào đường đại tiện, đường tiểu tiện của người phụ nữ đó, vừa ca ngợi vừa mắng nhiếc, phạm tội Trọng Tội.” “Là người ái nam ái nữ và có ý thức là người ái nam ái nữ và có tham ái, và Tỳ-khưu, chỉ vào đường đại tiện của người ái nam ái nữ đó, vừa ca ngợi, phạm tội Trọng Tội,” và các nơi phạm tội tương tự sẽ trở thành nơi không phạm tội, nhưng không phải vậy. Để trình bày rằng đối với người có ý thức là người phụ nữ đối với người ái nam ái nữ, phạm tội Tác Ác, vì đã được nói “là người phụ nữ và người ái nam ái nữ, có ý thức là người phụ nữ đối với cả hai, phạm tội Tăng Tàn và Tác Ác,” nên cũng chính là đã được nói “đối với người ái nam ái nữ, có ý thức là người ái nam ái nữ, phạm tội Trọng Tội.” Do đó, cần phải biết rằng ở khắp mọi nơi trong các lượt đã được tóm tắt, ở đâu là tội Trọng Tội, thì cũng chính là đã được nói là tội Trọng Tội, ở đâu là tội Tác Ác, thì cũng chính là đã được nói là tội Tác Ác. Cũng vậy, các lượt cần phải được trích dẫn theo khả năng trong phạm vi của tội Trọng Tội theo cách “là người phụ nữ và nghi ngờ và có tham ái, và Tỳ-khưu, trừ đường đại tiện, đường tiểu tiện, chỉ vào phần dưới nách, trên đầu gối của người phụ nữ đó, vừa ca ngợi… cho đến… của tội Trọng Tội” và các cách tương tự. Cũng vậy, các lượt về vật gắn liền với thân thể cũng phải được trích dẫn theo khả năng theo cách “là người phụ nữ và nghi ngờ và có tham ái, và Tỳ-khưu, chỉ vào vật gắn liền với thân thể của người phụ nữ đó, vừa ca ngợi… cho đến… của tội Tác Ác” và các cách tương tự. Ba lượt về vật phải từ bỏ, dù có thể có giống như ba lượt về vật gắn liền với thân thể, nhưng không được trích dẫn vì không có sự khác biệt về tội lỗi. Nhưng trong ba lượt về vật gắn liền với thân thể, vì đã cho một cách, nên nó và các lượt phù hợp với nó cũng phải được trích dẫn. Ở khắp mọi nơi, các bé gái chưa hiểu biết, các bà già điên và các trường hợp khác không được hàm ý, huống chi là các súc sinh nữ tự nhiên. Cần phải biết rằng các người ái nam ái nữ và các trường hợp khác cũng vậy. Phần còn lại cần phải được biết theo chính cách đã được nói trong tội thứ hai.

Padabhājanīyavaṇṇanā
Diễn giải về phân tích từ

285.Vuttanayamevāti ‘‘kāyasaṃsagge itthilakkhaṇenā’’ti likhitaṃ. ‘‘Itthilakkhaṇenā’’ti kira mahāaṭṭhakathāpāṭho. Sīsaṃ na etīti akkosanaṃ na hoti, ghaṭite pana hoti. Tatrāyaṃ viseso – imehi tīhi ghaṭite eva saṅghādiseso vaccamaggapassāvamaggānaṃ niyatavacanattā, accoḷārikattā vā, na aññehi animittāsītiādīhi aṭṭhahi. Tattha alohitāsi, dhuvalohitāsi, dhuvacoḷāsi, paggharaṇīsi, itthipaṇḍakāsi, vepurisikāsīti etāni cha maggānaṃ aniyatavacanāni, animittāsi, nimittamattāsīti dve padāni anaccoḷārikāni ca, yato aṭṭhapadāni ‘‘saṅghādisesaṃ na janentī’’ti vuttāni, tasmā tāni thullaccayavatthūni. Paribbājakavatthumhi viya akkosamattattā dukkaṭavatthūnīti eke. Itthipaṇḍakāsi, vepurisikāsīti etāneva padāni sakalasarīrasaṇṭhānabhedadīpakāni suddhāni saṅghādisesaṃ na janenti sakalasarīrasāmaññattā, itarāni janenti asāmaññattā. Tāni hi passāvamaggameva dīpenti sikharaṇī-padaṃ viya. Ubhatobyañjanāsīti vacanaṃ pana purisanimittena asaṅghādisesavatthunā missavacanaṃ. Purisaubhatobyañjanakassa ca itthinimittaṃ paṭicchannaṃ, purisanimittaṃ pākaṭaṃ hoti. Yadi tampi janeti, kathaṃ animittāsītiādipadāni na saṅghādisesaṃ janentīti eke, taṃ na yuttaṃ. Purisassapi nimittādhivacanato, ‘‘methunupasaṃhitāhi saṅghādiseso’’ti mātikāya lakkhaṇassa vuttattā ca methunupasaṃhitāhipi obhāsane paṭivijānantiyā saṅghādiseso, appaṭivijānantiyā thullaccayaṃ, itarehi obhāsane paṭivijānantiyā thullaccayaṃ, appaṭivijānantiyā dukkaṭanti eke, sabbaṃ suṭṭhu vicāretvā gahetabbaṃ.
285. Chính là cách đã được nói, đã được viết: “trong sự tiếp xúc thân thể, bằng đặc điểm của người phụ nữ.” Người ta nói rằng “bằng đặc điểm của người phụ nữ” là đoạn Pāḷi trong Đại Chú giải. Không đến đỉnh điểm, là không phải là sự mắng nhiếc. Còn khi đã kết hợp thì có. Ở đó, đây là sự khác biệt – trong ba loại này, chỉ khi đã kết hợp mới là tội Tăng Tàn, vì là lời nói xác định về đường đại tiện và đường tiểu tiện, hoặc là vì quá thô thiển, không phải bằng tám loại khác như “ngươi không có bộ phận sinh dục” và các loại khác. Ở đó, sáu câu: “ngươi không có máu, ngươi luôn có máu, ngươi luôn có vải, ngươi đang chảy nước, ngươi là người ái nam ái nữ, ngươi là người đàn ông bất lực,” là những lời nói không xác định về các đường. Và hai từ “ngươi không có bộ phận sinh dục, ngươi chỉ có bộ phận sinh dục” là không quá thô thiển. Do đó, đã được nói “tám từ không gây ra tội Tăng Tàn,” nên chúng là đối tượng của tội Trọng Tội. Một số người cho rằng chúng là đối tượng của tội Tác Ác, vì chỉ là sự mắng nhiếc, giống như trong sự việc của người tu hành khổ hạnh. Chỉ có các từ này: “ngươi là người ái nam ái nữ, ngươi là người đàn ông bất lực,” là những từ trình bày sự khác biệt về hình dạng của toàn bộ thân thể, và khi trong sạch, không gây ra tội Tăng Tàn, vì là sự chung chung của toàn bộ thân thể. Các từ khác thì gây ra, vì không phải là sự chung chung. Bởi vì chúng chỉ trình bày chính đường tiểu tiện, giống như từ “sikharaṇī.” Còn lời nói “ngươi là người có cả hai giới tính” là lời nói hỗn hợp với đối tượng không phải là tội Tăng Tàn, là bộ phận sinh dục nam. Và đối với người có cả hai giới tính là nam, bộ phận sinh dục nữ bị che giấu, còn bộ phận sinh dục nam thì rõ ràng. Một số người cho rằng nếu nó cũng gây ra tội, thì làm sao các từ như “ngươi không có bộ phận sinh dục” và các từ khác lại không gây ra tội Tăng Tàn. Điều đó không hợp lý. Vì là tên gọi khác của bộ phận sinh dục của người đàn ông, và vì đã được nói về đặc điểm của đề mục “tội Tăng Tàn do các lời nói liên quan đến dâm dục,” nên một số người cho rằng tội Tăng Tàn đối với người nhận biết khi được chê bai bằng các lời nói liên quan đến dâm dục, tội Trọng Tội đối với người không nhận biết. Tội Trọng Tội đối với người nhận biết khi được chê bai bằng các lời nói khác, tội Tác Ác đối với người không nhận biết. Tất cả cần phải được xem xét kỹ lưỡng và chấp nhận.

287.Hasantoti yaṃ uddissa bhaṇati, sā ce paṭivijānāti, saṅghādiseso.
287. Khi đang cười, nếu người mà mình nói đến nhận biết, thì phạm tội Tăng Tàn.

Vinītavatthuvaṇṇanā
Diễn giải về sự việc được quyết định

289. ‘‘Paṭivuttaṃ nāmā’’ti pāṭho. No-saddo adhiko. ‘‘Akkharalikhanenapi hotī’’ti vadanti, taṃ āvajjanasamanantaravidhinā sameti ce, gahetabbaṃ.
289. Có đoạn văn “được gọi là đã được nói lại.” Từ không là thừa. Một số người nói rằng “cũng có bằng cách viết chữ,” điều đó, nếu phù hợp với phương pháp ngay sau khi hướng tâm, thì nên được chấp nhận.

Duṭṭhullavācāsikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về lời nói xấu xa đã kết thúc.

4. Attakāmapāricariyasikkhāpadavaṇṇanā
4. Diễn giải học giới về sự hầu hạ theo ý muốn của mình

290. Catutthe tayo saṅghādisesavārā āgatā, sesā sattapaññāsa vārā thullaccayadukkaṭāpattikāya saṃkhittāti veditabbā, tato aññataro asambhavato idha na uddhaṭo. Sesayojanakkamo vuttanayena veditabbo. Nagaraparikkhārehīti pākāraparikhādīhi nagaraparivārehi. Setaparikkhāroti setālaṅkāro, sīlālaṅkāroti attho (saṃ. ni. aṭṭha. 3.5.4). Cakkavīriyoti vīriyacakko. Vasalaṃ duggandhanti nimittaṃ sandhāyāha, tadeva sandhāya ‘‘kiṃ me pāpakaṃ, kiṃ me duggandha’’nti vuttaṃ.
290. Trong tội thứ tư, ba lượt Tăng Tàn đã đến. Cần phải biết rằng năm mươi bảy lượt còn lại, có tội Trọng Tội và Tác Ác, đã được tóm tắt. Do đó, một loại khác, vì không thể có, nên không được trích dẫn ở đây. Trình tự kết hợp còn lại cần phải được biết theo cách đã được nói. Bằng các công sự của thành phố là bằng các vật phụ thuộc của thành phố như tường thành, hào và các công sự khác. Trang sức trắng là trang sức bằng lụa trắng, có nghĩa là trang sức bằng giới (saṃ. ni. aṭṭha. 3.5.4). Người có tinh tấn như bánh xe là người có bánh xe tinh tấn. Vật thấp hèn, có mùi hôi, Ngài nói đến để chỉ bộ phận sinh dục. Chính để chỉ điều đó, đã được nói “cái gì của tôi là xấu xa, cái gì của tôi là có mùi hôi.”

291.Santiketi yattha ṭhito viññāpeti. ‘‘Paṭhamaviggahe sace pāḷivasena yojetīti kāmahetupāricariyāattho. Sesanti ‘adhippāyo’ti padaṃ byañjanaṃ atthābhāvato. Dutiye pāḷivasena kāmahetu-padāni byañjanāni tesaṃ tattha atthābhāvato. Evaṃ cattāri padāni dvinnaṃ viggahānaṃ vasena yojitānīti apare vadantī’’ti vuttaṃ.
291. Ở gần là ở nơi mà người đó đứng và làm cho biết. “Trong cách phân tích đầu tiên, nếu kết hợp theo Pāḷi, thì có ý nghĩa là sự hầu hạ do ham muốn. Phần còn lại, từ ‘ý định’ là văn tự, vì không có ý nghĩa. Trong cách thứ hai, theo Pāḷi, các từ ‘do ham muốn’ là văn tự, vì chúng không có ý nghĩa ở đó. Như vậy, bốn từ đã được kết hợp theo hai cách phân tích, những người khác nói vậy,” đã được nói.

295. Etesu sikkhāpadesu methunarāgena vītikkame sati saṅghādisesena anāpatti. Tasmā ‘‘kiṃ bhante aggadānanti. Methunadhamma’’nti idaṃ kevalaṃ methunadhammassa vaṇṇabhaṇanatthaṃ vuttaṃ, na methunadhammādhippāyena tadatthiyā vuttanti veditabbaṃ, parassa bhikkhuno kāmapāricariyāya vaṇṇabhaṇane dukkaṭaṃ. ‘‘Yo te vihāre vasati, tassa aggadānaṃ dehī’’ti pariyāyavacanenapi dukkaṭaṃ. ‘‘Attakāmapāricariyāya vaṇṇaṃ bhāseyya. Yā mādisaṃ sīlavanta’’nti ca vuttattāti eke. Pañcasu aṅgesu sabbhāvā saṅghādisesovāti eke. Vicāretvā gahetabbaṃ. Gaṇṭhipade pana ‘‘imasmiṃ sikkhāpadadvaye kāyasaṃsagge viya yakkhipetīsu duṭṭhullattakāmavacane thullaccaya’nti vadanti. Aṭṭhakathāsu pana nāgata’’nti likhitaṃ. ‘‘Ubhatobyañjanako pana paṇḍakagatikovā’’ti vadanti.
295. Trong các học giới này, nếu có sự vi phạm do tham ái dâm dục, thì không phạm tội Tăng Tàn. Do đó, cần phải biết rằng câu “bạch ngài, sự cúng dường cao nhất là gì? Là pháp dâm dục” này chỉ được nói để ca ngợi pháp dâm dục, không phải được nói cho người muốn nó với ý định về pháp dâm dục. Phạm tội Tác Ác trong việc ca ngợi sự hầu hạ theo ham muốn của Tỳ-khưu khác. Ngay cả bằng lời nói gián tiếp “hãy cho sự cúng dường cao nhất cho người ở trong tu viện của ngài,” cũng phạm tội Tác Ác. Một số người cho rằng vì đã được nói “sẽ nói về sự ca ngợi sự hầu hạ theo ý muốn của mình. Người nào giống như tôi, có giới hạnh.” Một số người cho rằng chính là tội Tăng Tàn vì có đủ năm yếu tố. Điều này cần được xem xét và chấp nhận. Còn trong sách giải thích từ khó, đã được viết: “trong hai học giới này, giống như trong sự tiếp xúc thân thể, một số người nói rằng phạm tội Trọng Tội trong lời nói xấu xa và lời nói theo ý muốn đối với dạ xoa và ngạ quỷ. Còn trong các Chú giải, không có.” Một số người nói rằng “còn người có cả hai giới tính thì có cùng bản chất với người ái nam ái nữ.”

Attakāmapāricariyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về sự hầu hạ theo ý muốn của mình đã kết thúc.

5. Sañcarittasikkhāpadavaṇṇanā
5. Diễn giải học giới về việc môi giới

297.Ahamhi duggatāti ahaṃ amhi duggatā. Ahaṃ khvayyoti ettha ayyoti bahuvacanaṃ hoti.
297. Tôi là người nghèo khó là tôi là người nghèo khó. Trong câu tôi, thưa các ngài, ở đây, từ “ayyoti” là số nhiều.

298.Oyācantīti nīcaṃ katvā deve yācanti. Āyācantīti uccaṃ katvā ādarena yācanti. Alaṅkārādīhi maṇḍito kesasaṃvidhānādīhi pasādhito. ‘‘Maṇḍitakaraṇe dukkaṭa’’nti vadanti.
298. Họ cầu xin một cách thấp hèn là họ cầu xin chư Thiên một cách hạ mình. Họ cầu xin một cách cao thượng là họ cầu xin một cách tôn kính. Được trang điểm bằng đồ trang sức và các vật khác, được trang hoàng bằng cách làm tóc và các việc khác. Một số người nói rằng “phạm tội Tác Ác trong việc trang điểm.”

Padabhājanīyavaṇṇanā
Diễn giải về phân tích từ

303. Saha paridaṇḍena vattamānāti attho. Chandavāsinī nāma ‘‘piyā piyaṃ vasetī’’ti pāḷi, purisaṃ vāsetīti adhippāyo. ‘‘Piyo piyaṃ vāsetī’’ti aṭṭhakathā.
303. Có nghĩa là có sự trừng phạt đi kèm. Chandavāsinī, có Pāḷi là “người yêu làm cho người yêu ở lại,” ý định là làm cho người đàn ông ở lại. Chú giải là “người yêu làm cho người yêu ở lại.”

Taṃ kiriyaṃ sampādessatīti avassaṃ ārocentiyā ce ārocetīti attho. Dvinnaṃ mātāpitūnaṃ ce āroceti, saṅghādisesoti vinayavinicchaye ‘‘vatthu oloketabba’’nti vuttaṃ. Vatthumhi ca ‘‘udāyitthero gaṇikāya ārocesī’’ti vuttaṃ. Taṃ ‘‘mātādīnampi vadato visaṅketo natthī’’ti aṭṭhakathāvacanato nippayojanaṃ. Taṃ panetanti ācariyassa vacanaṃ. Māturakkhitaṃ brūhīti pesitassa gantvā mātāpiturakkhitaṃ vadato tassa tassā māturakkhitabhāvepi sati visaṅketameva, kasmā? ‘‘Piturakkhitādīsu aññataraṃ vadantassa visaṅketa’’nti vuttattā itarathā ādi-saddo niratthako siyā. Ekaṃ dasakaṃ itarena dasakena yojetvā pubbe sukkavissaṭṭhiyaṃ vuttanayattā māturakkhitāya mātā attano dhītusantikaṃ pahiṇatīti gahetabbaṃ.
Sẽ hoàn thành hành động đó, có nghĩa là nếu người chắc chắn sẽ thông báo thì mới thông báo. Nếu thông báo cho cả hai cha mẹ, thì trong sự phân xử Luật đã được nói “phải xem xét sự việc,” là tội Tăng Tàn. Và trong sự việc, đã được nói: “Trưởng lão Udāyi đã thông báo cho một người kỹ nữ.” Điều đó, từ lời nói trong Chú giải “ngay cả khi nói với mẹ và những người khác cũng không có sự không hẹn trước,” là vô ích. Nhưng điều này là lời nói của vị Giáo thọ sư. Hãy nói với người được mẹ bảo vệ, đối với người được sai đi và nói với người được cha mẹ bảo vệ, dù người đó có bản chất được mẹ bảo vệ, cũng chính là không hẹn trước. Tại sao? Vì đã được nói “đối với người nói một trong số những người được cha bảo vệ và các trường hợp khác, là không hẹn trước,” nếu không, từ và các trường hợp khác sẽ trở nên vô ích. Cần phải hiểu rằng người mẹ của người được mẹ bảo vệ sai đi đến chỗ con gái của mình, theo cách đã được nói trong việc cố ý xuất tinh trước đây, bằng cách kết hợp một bộ mười với bộ mười khác.

338.Anabhinanditvāti vacanamattameva, yadipi abhinandati, yāva sāsanaṃ nāroceti, tāva ‘‘vīmaṃsito’’ti na vuccati. Sāsanārocanakāleti āṇāpakassa sāsanavacanakkhaṇe. Tatiyapade vuttanayenāti ekaṅgasampattiyā dukkaṭanti attho. Vatthugaṇanāya saṅghādisesoti ubhayavatthugaṇanāya kira.
338. Không hoan hỷ, chỉ là lời nói. Dù có hoan hỷ, chừng nào chưa thông báo mệnh lệnh, thì chừng đó chưa được gọi là “đã xem xét.” Trong khi thông báo mệnh lệnh là trong khoảnh khắc nói mệnh lệnh của người ra lệnh. Theo cách đã được nói trong từ thứ ba, có nghĩa là tội Tác Ác do sự thành tựu một yếu tố. Tội Tăng Tàn do việc đếm sự việc, người ta nói rằng là do việc đếm sự việc của cả hai.

339.Catutthe anāpattīti ettha pana ‘‘paṭiggaṇhāti na vīmaṃsati na paccāharati, anāpattīti ettha viya ‘gacchanto na sampādeti, āgacchanto visaṃvādetī’ti anāpattipāḷiyāpi bhavitabbanti dassanatthaṃ vutta’’nti vadanti, ekaccesu potthakesu ‘‘atthī’’tipi.
339. Trong trường hợp thứ tư, không phạm tội, ở đây, một số người nói rằng “đã được nói để trình bày rằng lẽ ra cũng phải có Pāḷi về việc không có tội ‘khi đi không hoàn thành, khi đến lại lừa dối,’ giống như trong trường hợp ‘nhận nhưng không xem xét, không trả lại, không phạm tội’.” Và trong một số sách cũng có “có.”

Vinītavatthuvaṇṇanā
Diễn giải về sự việc được quyết định

341.Alaṃvacanīyāti na vacanīyā, nivāraṇe alaṃ-saddo. Therapitā vadatīti jiṇṇapitā vadatīti attho. Kiñcāpi ettha ‘‘itthī nāma manussitthī na yakkhī na petī na tiracchānagatā, puriso nāma manussapuriso na yakkho’’tiādi natthi, tathāpi kāyasaṃsaggādīsu ‘‘manussitthī’’ti itthīvavatthānassa katattā idhāpi manussitthī evāti paññāyati. Methunapubbabhāgattā manussaubhatobyañjanako ca thullaccayavatthukova hoti, sesā manussapaṇḍakaubhatobyañjanakatiracchānagatapurisādayo dukkaṭavatthukāva micchācārasāsanaṅgasambhavatoti veditabbaṃ. Yathāsambhavaṃ pana vārā uddharitabbā. Paññattiajānane viya alaṃvacanīyabhāvājānanepi acittakatā veditabbā. Duṭṭhullādīsupīti ‘‘imasmimpī’’ti vuttameva hoti. ‘‘Lekhaṃ netvā paṭilekhaṃ ārocitassāpi sañcarittaṃ natthi sañcarittabhāvamajānantassā’’ti vadanti, vīmaṃsitvā gahetabbaṃ.
341. Alaṃvacanīyā là không nên nói. Từ alaṃ trong ý nghĩa ngăn cấm. Cha của trưởng lão nói, có nghĩa là người cha già nói. Mặc dù ở đây không có câu “người phụ nữ là người phụ nữ, không phải là dạ xoa nữ, không phải là ngạ quỷ nữ, không phải là súc sinh nữ. Người đàn ông là người đàn ông, không phải là dạ xoa” và các câu tương tự, nhưng vì trong sự tiếp xúc thân thể và các trường hợp khác, đã được xác định “người phụ nữ,” nên ở đây cũng có thể thấy là chính người phụ nữ. Người có cả hai giới tính là người cũng chính là đối tượng của tội Trọng Tội, vì là phần trước của dâm dục. Cần phải biết rằng các trường hợp còn lại như người ái nam ái nữ, người có cả hai giới tính là người, và người đàn ông súc sinh và các trường hợp khác, chính là đối tượng của tội Tác Ác, vì có thể có phần của mệnh lệnh tà dâm. Nhưng các lượt cần phải được trích dẫn theo khả năng. Cần phải biết tính chất không có tâm ngay cả khi không biết bản chất không nên nói, giống như khi không biết chế định. Ngay cả trong lời nói xấu xa và các tội khác, cũng chính là đã được nói “ngay cả trong tội này.” Một số người nói rằng “ngay cả đối với người, sau khi đã mang thư đi và thông báo lại thư trả lời, cũng không có tội môi giới, vì không biết bản chất môi giới,” điều này cần được xem xét và chấp nhận.

Sañcarittasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc môi giới đã kết thúc.

6. Kuṭikārasikkhāpadavaṇṇanā
6. Diễn giải học giới về việc làm am

342.Yācanāti ‘‘detha dethā’’ti codanā. Viññattīti iminā no atthoti viññāpanā. ‘‘Hatthakammaṃ yācito upakaraṇaṃ, mūlaṃ vā dassatī’’ti yācati, na vaṭṭatīti. Vaṭṭati senāsane obhāsaparikathādīnaṃ laddhattāti eke. Anajjhāvutthakanti assāmikaṃ. Na āhaṭaṃparibhuñjitabbanti ‘‘sūpodanaviññattidukkaṭaṃ hotī’’ti vuttaṃ. ‘‘Kiñcāpi garubhaṇḍappahonakesūti vuttaṃ, tathāpi yaṃ vatthuvasena appaṃ hutvā agghavasena mahā haritālahiṅgulikādi, taṃ yācituṃ na vaṭṭatī’’ti vadanti.
342. Sự xin là sự thúc giục “hãy cho, hãy cho.” Sự yêu cầu là sự làm cho biết “chúng tôi có nhu cầu về cái này.” Xin là “người được xin công việc tay chân sẽ cho dụng cụ hoặc tiền bạc,” không được phép. Một số người cho rằng được phép, vì đã được phép nói bóng gió về chỗ ở và các việc khác. Không có người ở là không có chủ. Không được dùng vật đã được mang đến, đã được nói: “phạm tội Tác Ác do xin canh và cơm.” Một số người nói rằng “mặc dù đã được nói ‘đối với những gì có thể trở thành vật nặng,’ nhưng những gì, về mặt sự việc, là ít nhưng về mặt giá trị là lớn, như hùng hoàng và chu sa, thì không được phép xin.”

344.So kirāti isi. Tadā ajjhagamā tadajjhagamā.
344. Người đó là vị ẩn sĩ. Đã chứng đắc vào lúc đó là tadajjhagamā.

348-9. Na hi sakkā yācanāya kātuṃ, tasmā sayaṃ yācitakehi upakaraṇehīti adhippāyo. Byañjanaṃ sameti, na attho. Kasmā? Idha ubhayesaṃ adhippetattā, taṃ dassento ‘‘yasmā panā’’tiādimāha. Idha vuttanayenāti imasmiṃ sikkhāpadavibhaṅge vuttanayena. ‘‘Saññācikāyā’’ti Yamakato karontenāpi, ‘‘parehi pariyosāpetī’’ti Yamakato kārāpentenāpi paṭipajjitabbaṃ. Ubhopete kārakakārāpakā. Byañjanaṃ vilomitaṃ bhaveyya, ‘‘kārayamānenā’’ti hi byañjanaṃ ‘‘karontenā’’ti vutte vilomitaṃ hoti atadatthattā. Na hi kārāpento nāma hoti. ‘‘Idha vuttanayenāti desitavatthukapamāṇikanayena. Evaṃ sante ‘karontena vā kārāpentena vā’ti Yamakato karontenāpi parehi vippakataṃ vattabbanti ce, tadatthavissajjanatthaṃ ‘yadi panātiādimāhā’’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ. ‘‘Saññācikāya kuṭiṃ karonto’’ti vacanavasena vuttaṃ. ‘‘Āyāmato ca vitthārato cā’’ti avatvā vikappatthassa -saddassa gahitattā ekatobhāgepi vaḍḍhite āpatti eva. Pamāṇayuttamañco kira navavidatthi. ‘‘‘Catuhatthavitthārā’ti vacanena ‘tiriyaṃ tihatthā vā’ti vacanampi sameti ‘yattha pamāṇayutto’tiādisanniṭṭhānavacanāsambhavato’’ti vuttaṃ. Pamāṇato ūnatarampīti vitthārato catupañcahatthampi dīghato anatikkamitvā vuttapamāṇameva desitavatthu. Adesitavatthuñhi karoto āpatti. Pamāṇātikkantā kuṭi eva pamāṇātikkantaṃ kuṭiṃ kareyyāti vuttattā. ‘‘Thambhatulā’’ti pāṭho. Anussāvanānayenāti ettha ‘‘damiḷabhāsāyapi vaṭṭatī’’ti vadanti.
348-9. Bởi vì không thể làm bằng cách xin, do đó, ý định là bằng các dụng cụ đã được chính mình xin. Văn tự phù hợp, không phải ý nghĩa. Tại sao? Vì ở đây, cả hai đều được hàm ý. Để trình bày điều đó, Ngài đã nói “bởi vì” và các đoạn tiếp theo. Theo cách đã được nói ở đây là theo cách đã được nói trong phần phân tích học giới này. Cần phải thực hành, hoặc là bởi người đang làm, theo Yamaka “bằng cách xin,” hoặc là bởi người cho làm, theo Yamaka “cho người khác hoàn thành.” Cả hai người này là người làm và người cho làm. Văn tự sẽ bị đảo ngược, bởi vì văn tự “bởi người cho làm,” nếu được nói là “bởi người đang làm,” thì sẽ bị đảo ngược, vì không có ý nghĩa đó. Bởi vì người cho làm không được gọi là người đang làm. Trong Anugaṇṭhipade, đã được nói: “theo cách đã được nói ở đây, là theo cách có sự việc đã được trình bày và có kích thước. Nếu như vậy, nếu nói rằng ‘bởi người đang làm hoặc bởi người cho làm,’ thì theo Yamaka, ngay cả người đang làm cũng phải nói về cái đã bị người khác làm dở dang. Để trả lời ý nghĩa đó, Ngài đã nói ‘nhưng nếu’” và các đoạn tiếp theo. Đã được nói theo lời nói “người đang làm một cái am bằng cách xin.” Vì đã nắm bắt từ hoặc có ý nghĩa lựa chọn, không nói “về chiều dài và chiều rộng,” nên ngay cả khi tăng thêm ở một phía, cũng chính là có tội. Người ta nói rằng giường có kích thước hợp lệ có chín loại. Đã được nói: “bằng lời nói ‘rộng bốn tay,’ lời nói ‘ngang ba tay hoặc’ cũng phù hợp, vì không có khả năng có lời nói quyết định ‘ở đâu có kích thước hợp lệ’” và các câu tương tự. Ngay cả khi nhỏ hơn kích thước, là rộng bốn, năm tay, nhưng không vượt quá chiều dài, thì chính là sự việc đã được trình bày có kích thước đã được nói. Bởi vì đối với người làm sự việc chưa được trình bày, thì có tội. Chính cái am vượt quá kích thước, vì đã được nói “sẽ làm một cái am vượt quá kích thước.” Có đoạn văn “cột và xà.” Theo cách tuyên đọc, ở đây, một số người nói rằng “ngay cả bằng tiếng Damiḷa cũng được phép.”

353.Cārabhūmi gocarabhūmi. Na gahitāti na vāritā. Aṭṭhakathāyaṃ ‘‘kāraṇāya guttibandhanāgāraṃ, akaraṇaṭṭhānaṃ vā dhammagandhikā hatthapādacchindanakā gandhikā’’ti likhitaṃ. Dvīhi balibaddehīti heṭṭhimakoṭiyā kira vuttato āvijjituṃ na sakkā chinnāvaṭattā, nigamanassāpi atthappakāsanatthaṃ vuttanti veditabbaṃ. Pācinanti vatthu adhiṭṭhānaṃ. Tadatthāyāti tacchanatthāya. Paṇṇasālampīti ullittāvalittakuṭimeva paṇṇacchadanaṃ. Teneva ‘‘sabhitticchadana’’nti vuttaṃ, alittaṃ kira sabbaṃ vaṭṭati. Pubbe thokaṃ ṭhapitaṃ puna vaḍḍhetvā. Tasminti dvārabandhane vā vātapāne vā ṭhapite. Paṭhamamevāti ettha pattakāle evāti kira dhammasiritthero. Upatissatthero ṭhapitakālevāti kira. Purimena lepassa aghaṭitattā dutiyena vattasīsena katattā ubhinnampi anāpatti. Sace āṇattena kataṃ, ‘‘karoti vā kārāpeti vā’’ti Yamakato āpatti ubhinnaṃ sati attuddesikatāya, asati mūlaṭṭhasseva. Heṭṭhimappamāṇasambhave sati sabbamattikāmayaṃ kuṭiṃ karoto āpatti dukkaṭena saṅghādisesoti ācariyassa takko.
353. Vùng đất đi lại là vùng đất chăn thả. Không được lấy là không được ngăn cản. Trong Chú giải, đã được viết: “nhà tù để giam giữ, hoặc nơi không được làm, là nơi tra tấn, là nơi cắt tay chân.” Bằng hai con bò đực, người ta nói rằng từ giới hạn thấp nhất đã được nói, không thể cày được, vì đã bị cắt đứt. Cần phải biết rằng ngay cả phần kết luận cũng đã được nói để làm sáng tỏ ý nghĩa. Hướng đông là sự việc, sự xác quyết. Vì lợi ích đó là vì lợi ích đẽo. Ngay cả nhà lá, là chính cái am đã được trát vữa và lợp bằng lá. Chính vì vậy, đã được nói “có tường và mái che.” Người ta nói rằng tất cả những gì chưa được trát vữa đều được phép. Sau khi đã đặt một ít trước đây, lại tăng thêm. Trong đó, là khi được đặt ở khung cửa hoặc cửa sổ. Ngay từ đầu, ở đây, người ta nói rằng Trưởng lão Dhammasiri cho rằng ngay trong khi đạt được. Người ta nói rằng Trưởng lão Upatissa cho rằng ngay trong khi đặt. Đối với người trước, không phạm tội vì vữa chưa dính. Đối với người sau, không phạm tội vì đã được làm theo đầu đề bổn phận. Nếu được làm do ra lệnh, “làm hoặc cho làm,” theo Yamaka, có tội đối với cả hai nếu có ý định cho chính mình, nếu không, chỉ có người gốc. Theo suy luận của vị Giáo thọ sư, đối với người làm một cái am hoàn toàn bằng đất sét khi có thể có kích thước thấp hơn, thì phạm tội Tăng Tàn với tội Tác Ác.

354. Chattiṃsa catukkāni nāma adesitavatthukacatukkaṃ desitavatthukacatukkaṃ pamāṇātikkantacatukkaṃ pamāṇikacatukkaṃ adesitavatthukapamāṇātikkantacatukkaṃ desitavatthukapamāṇikacatukkanti cha catukkāni, evaṃ samādisativārādīsupi pañcasūti chattiṃsa. Āpattibhedadassanatthanti ettha yasmā ‘‘sārambhe ce, bhikkhu, vatthusmiṃ aparikkamane…pe… saṅghādiseso’’ti mātikāyaṃ avisesena vuttattā sārambhaaparikkamanepi saṅghādisesovāti micchāgāhavivajjanatthaṃ āpattibhedo dassito, tasmā vuttānīti adhippāyo. Vibhaṅge evaṃ avatvā kimatthaṃ mātikāyaṃ dukkaṭavatthu vuttanti ce? Bhikkhū abhinetabbā vatthudesanāya, tehi bhikkhūhi vatthu desetabbaṃ. Kīdisaṃ? Anārambhaṃ saparikkamanaṃ, netaraṃ, itarasmiṃ ‘‘sārambhe ce bhikkhu vatthusmiṃ aparikkamane’’ti evaṃ ānisaṃsavasena āgatattā vuttaṃ. Yasmā vatthu nāma atthi sārambhaṃ, atthi anārambhaṃ, atthi saparikkamanaṃ, atthi aparikkamanaṃ, atthi sārambhaṃ saparikkamanaṃ, atthi sārambhaṃ aparikkamanaṃ, atthi anārambhaṃ saparikkamanaṃ, atthi anārambhaṃ aparikkamananti bahuvidhattā vatthu desetabbaṃ anārambhaṃ saparikkamanaṃ, netaranti vuttaṃ hoti. Kimatthikā panesā desanāti ce? Garukāpattipaññāpanahetuparivajjanupāyatthā. Vatthudesanāya hi garukāpattipaññāpanahetuttā akataviññatti gihīnaṃ pīḷājananena attadukkhaparadukkhahetubhūto ca sārambhabhāvoti ete vatthudesanāpadesena upāyena parivajjitā honti. Na hi bhikkhu akappiyakuṭikaraṇatthaṃ gihīnaṃ vā pīḷānimittaṃ sārambhavatthu. Kuṭikaraṇatthaṃ vā vatthuṃ desentīti paṭhamameva sādhitametaṃ. Vomissakāpattiyoti dukkaṭasaṅghādisesamissakāpattiyo.
354. Ba mươi sáu bộ bốn là sáu bộ bốn: bộ bốn về sự việc chưa được trình bày, bộ bốn về sự việc đã được trình bày, bộ bốn vượt quá kích thước, bộ bốn có kích thước, bộ bốn về sự việc chưa được trình bày và vượt quá kích thước, bộ bốn về sự việc đã được trình bày và có kích thước. Cũng vậy trong năm loại như ra lệnh đồng thời và các loại khác, là ba mươi sáu. Để trình bày sự khác biệt của tội lỗi, ở đây, ý định là, vì đã được nói một cách không phân biệt trong đề mục “nếu, này Tỳ-khưu, trong sự việc có tranh chấp, không đi xem,” thì ngay cả trong sự việc có tranh chấp và không đi xem, cũng chính là tội Tăng Tàn. Để tránh tà kiến đó, sự khác biệt của tội lỗi đã được trình bày, do đó đã được nói. Nếu hỏi tại sao trong phần phân tích, không nói như vậy mà lại nói về đối tượng của tội Tác Ác trong đề mục? Các Tỳ-khưu phải được hướng dẫn bằng việc trình bày sự việc. Họ phải trình bày sự việc. Sự việc như thế nào? Không có tranh chấp, có đi xem, không phải loại khác. Đối với loại khác, đã được nói vì đã đến theo cách của lợi ích: “nếu, này Tỳ-khưu, trong sự việc có tranh chấp, không đi xem.” Bởi vì sự việc, có loại có tranh chấp, có loại không có tranh chấp, có loại có đi xem, có loại không đi xem, có loại có tranh chấp và có đi xem, có loại có tranh chấp và không đi xem, có loại không có tranh chấp và có đi xem, có loại không có tranh chấp và không đi xem, do có nhiều loại như vậy, nên đã được nói rằng sự việc phải được trình bày là không có tranh chấp, có đi xem, không phải loại khác. Nếu hỏi sự trình bày này để làm gì? Để có phương pháp tránh xa nguyên nhân chế định tội nặng. Bởi vì việc trình bày sự việc là nguyên nhân chế định tội nặng, nên việc xin không được làm, và trạng thái có tranh chấp, là nguyên nhân gây ra khổ cho chính mình và người khác bằng cách gây ra sự phiền nhiễu cho các cư sĩ, đã được tránh xa một cách khéo léo bằng từ trình bày sự việc. Bởi vì đã được chứng minh ngay từ đầu rằng Tỳ-khưu không trình bày sự việc có tranh chấp, là dấu hiệu của sự phiền nhiễu đối với các cư sĩ, để làm một cái am không hợp lệ, hoặc là để làm một cái am. Các tội lỗi hỗn hợp là các tội lỗi hỗn hợp giữa Tác Ác và Tăng Tàn.

355. Tattha ‘‘dvīhi saṅghādisesehī’’ti vattabbe ‘‘dvinnaṃ saṅghādisesenā’’ti vibhattibyattayena, vacanabyattayena ca vuttaṃ. ‘‘Āpatti dvinnaṃ saṅghādisesāna’’ntipi pāṭho.
355. Ở đó, khi lẽ ra phải nói “bằng hai tội Tăng Tàn,” lại được nói “của hai tội Tăng Tàn” do sự thay đổi của biến cách và sự thay đổi của số. Cũng có đoạn văn “tội của hai tội Tăng Tàn.”

364.Na ghaṭayati chadanalepābhāvato, anāpatti, taṃ parato sādhiyati. Chadanameva sandhāya ullittāvalittatā vuttāti. ‘‘Kukkuṭacchikagehaṃ vaṭṭatīti vatvā puna chadanaṃ daṇḍakehītiādinā nayena taṃ dassentehi tiṇapaṇṇacchadanākuṭikāva vuttā. Tattha chadanaṃ daṇḍakehi dīghato tiriyañca jālaṃ viya bandhitvā tiṇehi vā paṇṇehi vā chādetuṃ ullittādibhāvo chadanameva sandhāya vuttoti yuttamidaṃ. Tasmā mattikāmayaṃ bhittiṃ vaḍḍhāpetvā upari ullittaṃ vā avalittaṃ vā ubhayaṃ vā bhittiyā ghaṭitaṃ karontassa āpatti eva vināpi bhittilepenā’’ti likhitaṃ. ‘‘‘So ca chadanameva sandhāyā’ti padhānavasena vuttaṃ, na heṭṭhābhāgaṃ paṭikkhitta’’nti vadanti, vīmaṃsitabbaṃ. Etthāti tiṇakuṭikāya. Yathāsamādiṭṭhāyāti yathāvuttappakāranti adhippāyo. ‘‘Āpatti kārukānaṃ tiṇṇaṃ dukkaṭāna’’ntiādimhi so suṇātichakkampi labbhati. Ubhayattha samādiṭṭhattā āṇāpakassa anāpatti. Āṇattassa yathā samādiṭṭhaṃ āṇāpakena, tathā akaraṇapaccayā dukkaṭaṃ. Sace ‘‘ahampettha vasāmī’’ti attuddesampi karoti, saṅghādisesova. ‘‘Kuṭiṃ karothā’’ti avisesena vuttaṭṭhāne pana āṇāpakassāpi saṅghādiseso acittakattā sikkhāpadassa.
364. Không dính, do không có mái che và vữa, không phạm tội. Điều đó sẽ được chứng minh ở phần sau. Đã được nói rằng tính chất trát vữa chỉ để chỉ mái che. “Sau khi đã nói ‘được phép làm nhà có hình dạng gà con,’ lại trình bày điều đó theo cách ‘mái che bằng các cây gậy’ và các cách khác, chỉ có cái am lợp bằng cỏ và lá được nói. Ở đó, để lợp mái che bằng các cây gậy, sau khi đã buộc thành hình lưới theo chiều dài và chiều ngang, và lợp bằng cỏ hoặc lá, thì trạng thái trát vữa và các trạng thái khác chỉ được nói đến để chỉ mái che, điều này là hợp lý. Do đó, đã được viết rằng đối với người, sau khi đã xây tường bằng đất sét và trát vữa ở trên, hoặc là trát vữa ở dưới, hoặc là cả hai, và làm cho nó dính vào tường, thì chính là có tội, ngay cả khi không trát vữa tường.” Một số người nói rằng “‘và đó là chỉ để chỉ mái che’, đã được nói theo phần chính, không phải là bác bỏ phần dưới,” điều này cần được xem xét. Ở đây là trong cái am bằng cỏ. Theo như đã được chỉ định, ý định là theo cách đã được nói. Trong câu “tội của ba tội Tác Ác của những người thợ” và các câu tương tự, ngay cả người nghe cũng được chấp nhận. Vì đã được chỉ định ở cả hai nơi, nên không phạm tội đối với người ra lệnh. Đối với người được ra lệnh, phạm tội Tác Ác do duyên không làm theo như đã được người ra lệnh chỉ định. Nếu cũng làm với ý định cho chính mình “tôi cũng sẽ ở đây,” thì chính là tội Tăng Tàn. Còn ở nơi đã được nói một cách không phân biệt “hãy làm một cái am,” thì ngay cả người ra lệnh cũng phạm tội Tăng Tàn, vì học giới không có tâm.

Ahañca vasissāmīti ettha parassa yassa kassaci uddiṭṭhassa abhāvā āpatti eva ‘‘karontassa vā’’ti niyamitattā, anāpatti avibhattattā. ‘‘Idha paññattijānanamattameva citta’’nti ca likhitaṃ. Anugaṇṭhipade pana ahañca vasissāmīti ettha yo ‘‘mayhaṃ vāsāgārañca bhavissatī’’ti icchati, tassāpatti. Yo pana uposathāgāraṃ icchati, tassa anāpatti, tasmā ‘‘ubhayaṃ sametī’’ti vatvā ca ‘‘vinayavinicchaye āgate garuke ṭhātabba’’nti Yamakato mahāpaccarivādato itaro pacchā vattabboti ce? Na, balavattā . ‘‘Vāsāgāraṃ ṭhapetvā sabbattha, anāpattī’’ti Yamakato, bhojanasālādīnampi atthāya iminā katattā saṅkarā jātā. Yathā – dve tayo ‘‘ekato vasissāmā’’ti karonti, rakkhati tāvāti ettha viya. ‘‘Idaṃ ṭhānaṃ vāsāgāraṃ bhavissati, idaṃ uposathāgāra’’nti vibhajitvā katepi āpatti eva. Dvīsu mahāpaccarivādo balavā, tasmā ‘‘pacchā vutto’’tiādinā atīva papañcitaṃ. Kiṃ tena. ‘‘Attanā vippakataṃ attanā ca parehi ca pariyosāpetī’’tiādinā nayena aparānipi catukkāni yathāsambhavaṃ yojetvā dassetabbāni, leṇādīsu kiñcāpi saṅghādisesena anāpatti, akataviññattiyā sati tappaccayā āpatti eva.
Và tôi sẽ ở, ở đây, vì không có sự chỉ định cho bất kỳ người nào khác, nên chính là có tội, vì đã được xác định “hoặc là của người đang làm.” Không phạm tội vì chưa được phân chia. Cũng đã được viết: “ở đây, tâm chỉ là việc biết chế định.” Còn trong Anugaṇṭhipade, trong câu và tôi sẽ ở, ở đây, người nào muốn “nó sẽ là nơi ở của tôi,” thì người đó phạm tội. Còn người nào muốn một nhà Bố-tát, thì không phạm tội. Do đó, sau khi đã nói “cả hai đều phù hợp,” và nếu nói rằng, từ Yamaka “trong các vụ tranh chấp đã đến, phải đứng về phía nặng,” thì quan điểm khác ngoài quan điểm của Mahāpaccari phải được nói sau? Không phải vậy, vì có sức mạnh hơn. Từ Yamaka “trừ nơi ở, ở khắp mọi nơi, không phạm tội,” và vì đã được làm vì lợi ích của nhà ăn và các công trình khác, nên đã có sự lẫn lộn. Giống như – hai, ba người làm “chúng ta sẽ ở cùng nhau,” điều đó bảo vệ, giống như ở đây. Ngay cả khi đã làm sau khi đã phân chia “nơi này sẽ là nơi ở, nơi này là nhà Bố-tát,” cũng chính là có tội. Trong hai quan điểm, quan điểm của Mahāpaccarivāda là mạnh hơn. Do đó, đã được giải thích rất chi tiết bằng câu “đã được nói sau” và các câu tương tự. Có ích gì trong đó. Cần phải trình bày các bộ bốn khác cũng được kết hợp theo khả năng theo cách “cái đã được chính mình làm dở dang, được chính mình và người khác hoàn thành” và các cách khác. Trong các hang động và các nơi khác, mặc dù không phạm tội Tăng Tàn, nhưng nếu có sự xin không được làm, thì chính là có tội do duyên đó.

Kuṭikārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc làm am đã kết thúc.

7. Vihārakārasikkhāpadavaṇṇanā
7. Diễn giải học giới về việc làm tu viện

366. Sattame -saddo avadhāraṇatthoti veditabbo.
366. Trong tội thứ bảy, cần phải biết rằng từ hoặc có ý nghĩa nhấn mạnh.

Vihārakārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc làm tu viện đã kết thúc.

8. Paṭhamaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā
8. Diễn giải học giới về tội lỗi xấu xa thứ nhất

380.Sāvakena pattabbanti pakatisāvakaṃ sandhāya vuttaṃ, na aggasāvakaṃ. Yathūpanissayayathāpuggalavasena ‘‘tisso vijjā’’tiādi vuttaṃ. Kenaci sāvakena tisso vijjā, kenaci catasso paṭisambhidā, kenaci cha abhiññā, kenaci kevalo navalokuttaradhammoti evaṃ visuṃ visuṃ yathāsambhavaṃ vuttanti veditabbaṃ.
380. Điều mà đệ tử phải đạt được, đã được nói đến để chỉ đệ tử thông thường, không phải là thượng thủ đệ tử. Đã được nói “ba minh” và các câu tương tự theo nền tảng và theo cá nhân. Cần phải biết rằng đã được nói riêng biệt theo khả năng: bởi một số đệ tử là ba minh, bởi một số là bốn phân tích, bởi một số là sáu thắng trí, bởi một số chỉ là chín pháp siêu thế.

382.‘‘Ye te bhikkhū suttantikā’’tiādivacanato dharamānepi bhagavati piṭakattayaparicchedo atthīti siddhaṃ. Dhammakathikāti ābhidhammikā ratiyā acchissantītiādi āyasmato dabbassa nesaṃ tiracchānakathāya ratiniyojanaṃ viya dissati, na tathā daṭṭhabbaṃ. Suttantikādisaṃsaggato tesaṃ suttantikādīnaṃ phāsuvihārantarāyaṃ, tesampi tiracchānakathāratiyā abhāvena anabhirativāsaṃ, tato nesaṃ sāmaññā cāvanañca parivajjanto evaṃ cintesīti daṭṭhabbaṃ. ‘‘Nimmitānaṃ dhammatāti sāvakehi nimmitānaṃyeva, na buddhehī’’ti vadanti. ‘‘Sādhakatamaṃ karaṇa’’nti evaṃ vutte karaṇattheyeva tatiyāvibhattīti attho.
382. Từ lời nói “những Tỳ-khưu nào là người thuộc Kinh điển” và các lời nói tương tự, đã được xác định rằng ngay cả khi Thế Tôn còn tại thế, cũng có sự phân định ba tạng. Những người thuyết pháp là những người thuộc Vi Diệu Pháp, họ sẽ thức khuya và các câu tương tự, có vẻ như Tôn giả Dabba đã hướng họ đến sự thích thú trong các câu chuyện tầm thường. Không nên hiểu như vậy. Cần phải hiểu rằng vị ấy đã suy nghĩ như vậy để tránh gây trở ngại cho sự an trú thoải mái của các vị thuộc Kinh điển và các vị khác do sự giao tiếp với họ, và để tránh cho chính họ phải sống trong sự không hoan hỷ do không có sự thích thú trong các câu chuyện tầm thường, và sau đó là sự từ bỏ đời sống Sa-môn của họ. Một số người nói rằng: “bản chất của những gì đã được hóa hiện, là của những gì đã được các đệ tử hóa hiện, không phải của chư Phật.” Khi được nói “công cụ hiệu quả nhất,” ý nghĩa là tam cách chỉ có trong ý nghĩa công cụ.

383-4.Yanti yena. ‘‘Kattāti kattā, na kattā’’ti likhitaṃ. ‘‘Bhariyaṃ viya maṃ ajjhācaratī’’ti vadantiyā balavatī codanā. Tena hīti ettha yathā chupanamatte vippaṭisārīvatthusmiṃ kāyasaṃsaggarāgasambhavā apucchitvā eva saṅghādisesaṃ paññāpesi, tatheva pubbevassā dussīlabhāvaṃ ñatvā vuttanti veditabbaṃ. Yadi tāva bhūtāya paṭiññāya nāsitā, thero kārako hoti. Atha abhūtāya, bhagavatā ‘‘nāsethā’’ti na vattabbaṃ, vuttañca, tasmā vuttaṃ ‘‘yadi tāva paṭiññāya nāsitā, thero kārako hotī’’ti.
383-4. Cái nào, là bằng cái nào. Đã được viết: “người thực hiện, là người thực hiện, không phải là người thực hiện.” Lời tố cáo của người nói “vị ấy đã đối xử với tôi như vợ” là mạnh mẽ. Do đó, ở đây, giống như trong sự việc hối hận chỉ do chạm vào, Ngài đã chế định tội Tăng Tàn mà không cần hỏi vì có khả năng có tham ái tiếp xúc thân thể, cũng vậy, cần phải biết rằng đã được nói sau khi đã biết trước bản chất không có giới của vị ấy. Nếu bị trục xuất do sự thú nhận có thật, thì trưởng lão là người thực hiện. Còn nếu là không có thật, thì lẽ ra Thế Tôn không nên nói “hãy trục xuất.” Nhưng đã được nói. Do đó, đã được nói “nếu bị trục xuất do sự thú nhận, thì trưởng lão là người thực hiện.”

Atha appaṭiññāyāti ‘‘ayyenamhi dūsitā’’ti imaṃ paṭiññaṃ vinā eva tassā pakatidussīlabhāvaṃ sandhāya nāsitā, thero akārako hoti. Abhayagirivāsinopi attano suttaṃ vatvā ‘‘tumhākaṃ vāde thero kārako’’ti vadanti, kasmā? Dukkaṭaṃ musāvādapaccayā liṅganāsanāya anāsetabbattā. Pārājikasseva hi liṅganāsanāya nāsetabbā. ‘‘Nāsethā’’ti ca vuttattā pārājikāva jātā, sā kiṃ sandhāya, tato thero kārako āpajjati. ‘‘Sakāya paṭiññāya nāsethā’’ti vutte pana apārājikāpi attano vacanena nāsetabbā jātāti adhippāyo. Mahāvihāravāsinopi attano suttaṃ vatvā ‘‘tumhākaṃ vāde thero kārako’’ti ca vadanti. Kasmā? ‘‘Sakāya paṭiññāya nāsethā’’ti hi vutte paṭiññāya bhūtatā āpajjati ‘‘nāsethā’’ti Yamakato. Bhūtāyeva hi paṭiññāya nāsetabbā hoti, nābhūtāyāti adhippāyo. Purimanayeti dukkaṭavāde. Purimo yuttivasena pavatto, pacchimo pāḷivacanavasena pavattoti veditabbo.
Còn nếu không có sự thú nhận, là đã được trục xuất để chỉ bản chất không có giới tự nhiên của vị ấy, không có sự thú nhận “tôi đã bị ngài làm hại,” thì trưởng lão không phải là người thực hiện. Các vị ở Abhayagirivāsin cũng nói kinh của mình và nói “theo quan điểm của các ngài, trưởng lão là người thực hiện.” Tại sao? Phạm tội Tác Ác do duyên nói dối, vì không phải bị trục xuất do việc trục xuất. Bởi vì chỉ có người phạm tội Bất Cộng Trụ mới phải bị trục xuất do việc trục xuất. Và vì đã được nói “hãy trục xuất,” nên đã trở thành tội Bất Cộng Trụ. Đó là để chỉ điều gì? Do đó, trưởng lão trở thành người thực hiện. Còn khi được nói “hãy trục xuất do sự thú nhận của chính mình,” thì ý định là ngay cả người không phạm tội Bất Cộng Trợ cũng đã trở thành người phải bị trục xuất do lời nói của mình. Các vị ở Mahāvihāravāsin cũng nói kinh của mình và nói “theo quan điểm của các ngài, trưởng lão là người thực hiện.” Tại sao? Bởi vì khi được nói “hãy trục xuất do sự thú nhận của chính mình,” thì tính chất có thật của sự thú nhận trở nên rõ ràng, từ Yamaka “hãy trục xuất.” Ý định là chỉ có người phải bị trục xuất do sự thú nhận có thật, không phải là không có thật. Theo cách trước là theo quan điểm về tội Tác Ác. Cần phải biết rằng cách trước tiến triển theo lý lẽ, cách sau tiến triển theo lời nói trong Pāḷi.

385-6.Pītisukhehīti ettha ‘‘sukhenā’’ti vattabbe pītiggahaṇaṃ tatiyajjhānasukhaṃ, kāyikañca apanetuṃ sampayuttapītiyā vuttaṃ. Sace cuditakavasena kataṃ amūlakaṃ nāma, ‘‘anajjhāpannaṃ akata’’nti vadeyya, ime karissanti, tasmā ‘‘tādisaṃ diṭṭhasaññī hutvā codetī’’ti pāṭho . ‘‘Etena nayena sutamutaparisaṅkitānipi vitthārato veditabbānī’’ti pāṭho. ‘‘Catunnaṃ aññatarenā’’ti pātimokkhuddese eva āgate gahetvā vuttaṃ, itaresaṃ aññatarenāpi anuddhaṃsentassa saṅghādisesovāti no takkoti ācariyo. Bhikkhubhāvā hi cāvanasamatthato. ‘‘Samīpe ṭhatvā’’ti Yamakato parammukhā codentassa, codāpentassa vā sīsaṃ na eti. Diṭṭhañce sutena parisaṅkitena codeti codāpeti, sutaparisaṅkitaṃ vā diṭṭhādīhi codite vā codāpite vā sīsaṃ eti eva amūlakena coditattā. Vuttañhetaṃ ‘‘diṭṭhassa hoti pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpajjanto, tañce codeti ‘suto mayā…pe… saṅghādisesassā’’ti (pārā. 387). ‘‘Asuddho hoti puggalo aññataraṃ pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpanno, tañce asuddhadiṭṭhi samāno anokāsaṃ kārāpetvā cāvanādhippāyo vadeti, āpatti dukkaṭassa. Okāsaṃ kārāpetvā cāvanādhippāyo vadeti, anāpattī’’ti (pārā. 389) iminā na-samentaṃ viya khāyati, kathaṃ? Diṭṭhassa hoti pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpajjanto nāma asuddho puggalo hoti, ‘‘aññatarasmiṃ asuddhadiṭṭhi samāno tañce codeti ‘suto mayā pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpannosī’ti, āpatti vācāya vācāya saṅghādisesassā’’ti Yamakato purimanayenāpatti. ‘‘Cāvanādhippāyo vadeti, āpatti dukkaṭassā’’ti Yamakato pacchimanayena saṅghādisesena āpattīti dve pāḷinayā aññamaññaṃ viruddhā viya dissanti, na ca viruddhaṃ buddhā kathayanti, tasmā ettha yutti pariyesitabbā. Aṭṭhakathācariyā tāvāhu ‘‘samūlakena vā saññāsamūlakena vā codentassa anāpatti, amūlakena vā pana saññāamūlakena vā codentassa āpattī’’ti. Tassattho – dassanasavanaparisaṅkanamūlena samūlakena vā tadabhāvena amūlakenāpi saññāsamūlakena vā codentassa anāpatti, dassanādimūlābhāvena amūlakena vā tabbhāvena samūlakenāpi saññāamūlakena vā codentassa āpatti, tasmā diṭṭhassa hoti.
385-6. Do những niềm vui và hạnh phúc, ở đây, khi lẽ ra phải nói “bằng hạnh phúc,” việc nắm bắt hỷ đã được nói để loại trừ hạnh phúc của tam thiền và hạnh phúc của thân, là hỷ tương ưng. Nếu đã làm theo cách của người bị tố cáo, thì được gọi là không có gốc. “Người không phạm, đã không làm,” họ sẽ làm những điều này. Do đó, có đoạn văn “tố cáo sau khi đã có ý thức là đã thấy một điều như vậy.” Có đoạn văn: “bằng cách này, cần phải biết một cách chi tiết cả những gì đã được nghe, nghi ngờ, và biết rõ.” “Bằng một trong bốn”, đã được nói sau khi đã lấy những gì đã có chính trong việc tụng Giới Bổn. Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, ngay cả khi không vu khống bằng một trong những cái còn lại, cũng chính là tội Tăng Tàn. Bởi vì có khả năng làm cho dao động khỏi bản chất Tỳ-khưu. Từ Yamaka “sau khi đã đứng ở gần,” đối với người tố cáo hoặc cho người khác tố cáo sau lưng, không đến đỉnh điểm. Nếu tố cáo hoặc cho người khác tố cáo điều đã thấy bằng điều đã được nghe, nghi ngờ, hoặc tố cáo hoặc cho người khác tố cáo điều đã được nghe, nghi ngờ bằng điều đã thấy và các điều khác, thì chính là đến đỉnh điểm, vì đã tố cáo mà không có gốc. Điều này đã được nói: “đối với người đã thấy rằng người đó đang phạm một pháp Bất Cộng Trợ, nếu người đó tố cáo ‘tôi đã nghe… cho đến… của tội Tăng Tàn’” (pārā. 387). Có vẻ như không phù hợp với câu “là người không trong sạch, đã phạm một trong các pháp Bất Cộng Trợ, nếu một người có tà kiến, sau khi đã làm cho người đó không có cơ hội, nói với ý định làm cho dao động, thì phạm tội Tác Ác. Nếu sau khi đã làm cho có cơ hội và nói với ý định làm cho dao động, thì không phạm tội” (pārā. 389). Như thế nào? Người đã thấy rằng người đó đang phạm một pháp Bất Cộng Trợ là người không trong sạch. “Nếu một người có tà kiến đối với một người nào đó và tố cáo người đó ‘tôi đã nghe ngươi đã phạm một pháp Bất Cộng Trợ,’ thì phạm tội Tăng Tàn trong mỗi lời nói,” từ Yamaka, có tội theo cách trước. “Nói với ý định làm cho dao động, phạm tội Tác Ác,” từ Yamaka, có tội Tăng Tàn theo cách sau. Hai cách Pāḷi này có vẻ như mâu thuẫn với nhau. Nhưng chư Phật không nói những điều mâu thuẫn. Do đó, ở đây cần phải tìm kiếm lý lẽ. Các vị Chú giải sư đã nói: “đối với người tố cáo có gốc hoặc có gốc về ý thức, thì không phạm tội. Còn đối với người tố cáo không có gốc hoặc không có gốc về ý thức, thì phạm tội.” Ý nghĩa của nó là – không phạm tội đối với người tố cáo có gốc là do thấy, nghe, nghi ngờ, hoặc không có điều đó nhưng có gốc về ý thức. Phạm tội đối với người tố cáo không có gốc là do không có gốc là do thấy và các yếu tố khác, hoặc dù có điều đó nhưng không có gốc về ý thức. Do đó, đối với người đã thấy.

Pārājikaṃ dhammaṃ ajjhāpajjantotiādimhi dassanamūlena samūlakenāpi ‘‘suto mayā’’ti Yamakato saññāamūlakena vā codeti, āpatti saṅghādisesassa. Tadatthassa āvibhāvatthaṃ ‘‘diṭṭhe vematiko’’tiādi vārā vuttāti veditabbā.
Trong câu “đang phạm một pháp Bất Cộng Trợ” và các câu tương tự, dù có gốc là do thấy, nhưng vì tố cáo không có gốc về ý thức, từ Yamaka “tôi đã nghe,” nên phạm tội Tăng Tàn. Cần phải biết rằng các lượt “nghi ngờ trong điều đã thấy” và các lượt khác đã được nói để làm cho ý nghĩa đó được tỏ bày.

Asuddho hoti puggalobhiādimhi pana samūlakena, saññāsamūlakena vā coditattā anāpattīti. Evamevaṃ pana tadatthadīpanatthaṃ te vārā vuttā. Tattha hi ‘‘adiṭṭhassa hotī’’tiādivārā amūlakena codentassa āpatti hotīti dassanatthaṃ vuttā. ‘‘Diṭṭhe vematiko’’tiādinā saññāamūlakena codentassa āpatti hotīti dassanatthaṃ vuttā. Aññathā ‘‘diṭṭhassa hoti, diṭṭhe vematiko’’tiādivārā nibbisesā bhaveyyuṃ. Idaṃ panettha sanniṭṭhānaṃ-yathā asuddhaṃ puggalaṃ anokāsaṃ kārāpetvā codentassa dukkaṭaṃ, akkosādhippāyassa ca omasavādena dukkaṭassa, tathā asuddhadiṭṭhikopi asuddhaṃ asuddhadiṭṭhi amūlakena codeti, āpatti. Samūlakena vā codeti, anāpattīti taṃ sanniṭṭhānaṃ yathā ‘‘anāpatti suddhe asuddhadiṭṭhissa asuddhe asuddhadiṭṭhissā’’ti iminā saṃsandati, tathā gahetabbaṃ. Aññathā yutti pariyesitabbā.
Còn trong câu “là người không trong sạch” và các câu tương tự, thì không phạm tội vì đã tố cáo có gốc và có gốc về ý thức. Chính để trình bày ý nghĩa đó, các lượt đó đã được nói. Ở đó, các lượt “đối với người chưa thấy” và các lượt khác đã được nói để trình bày rằng có tội đối với người tố cáo không có gốc. Bằng các câu “nghi ngờ trong điều đã thấy” và các câu tương tự, đã được nói để trình bày rằng có tội đối với người tố cáo không có gốc về ý thức. Nếu không, các lượt “đối với người đã thấy, nghi ngờ trong điều đã thấy” và các lượt khác sẽ không có sự khác biệt. Ở đây, đây là kết luận – giống như đối với người tố cáo một người không trong sạch mà không cho cơ hội, phạm tội Tác Ác, và đối với người có ý định mắng nhiếc, phạm tội Tác Ác do mắng nhiếc. Cũng vậy, người có tà kiến, tố cáo một người không trong sạch mà không có gốc, thì phạm tội. Còn nếu tố cáo có gốc, thì không phạm tội. Kết luận đó, cần phải được hiểu theo cách phù hợp với câu “không phạm tội đối với người có tà kiến đối với người trong sạch, và đối với người có tà kiến đối với người không trong sạch.” Nếu không, cần phải tìm kiếm lý lẽ.

Sīlasampannoti ettha ‘‘dussīlassa vacanaṃ appamāṇaṃ. Bhikkhunī hi bhikkhumhi anissarā, tasmā ukkaṭṭhanaye vidhiṃ sandhāya therena vuttaṃ. Dutiyattherena bhikkhunī ajānitvāpi codeti, sikkhamānādayo vā codenti, tesaṃ sutvā bhikkhū eva vicāretvā tassa paṭiññāya kārenti. Ko ettha dosoti idaṃ sandhāya vuttaṃ. Tatiyena titthiyānaṃ vacanaṃ sutvāpi bhikkhū eva vicārenti, tasmā na koci na labhatīti evaṃ sabbaṃ sametīti apare’’ti vuttaṃ. Tiṃsāni tiṃsavantāni. Anuyogoti paṭivacanaṃ. Ehitīti āgamissati. Diṭṭhasantānenāti diṭṭhanayena, diṭṭhavidhānenāti adhippāyo. Patiṭṭhāyāti patiṭṭhaṃ labhitvā. Ṭhāneti lajjiṭṭhāne.
Người có giới hạnh, ở đây, “lời nói của người không có giới không phải là tiêu chuẩn. Bởi vì Tỳ-khưu-ni không có quyền lực đối với Tỳ-khưu, do đó, trưởng lão đã nói để chỉ phương pháp theo cách cao nhất. Với trưởng lão thứ hai, Tỳ-khưu-ni tố cáo dù không biết, hoặc là cô ni tu tập sự và các vị khác tố cáo, và các Tỳ-khưu, sau khi đã nghe họ, đã xem xét và thực hiện theo sự thú nhận của người đó. Có lỗi gì ở đây, đã được nói để chỉ điều này. Với người thứ ba, ngay cả khi đã nghe lời nói của ngoại đạo, cũng chính các Tỳ-khưu xem xét. Do đó, không có ai không được phép. Như vậy, tất cả đều phù hợp, những người khác đã nói,” đã được nói. Ba mươi là có ba mươi. Sự chất vấn là câu trả lời. Sẽ đến. Bằng dòng liên tục đã thấy, ý định là bằng cách đã thấy, bằng phương pháp đã thấy. Sau khi đã đứng vững là sau khi đã có được chỗ đứng. Trong nơi chốn là trong nơi chốn của người có lòng tàm.

Gāhanti ‘‘ahaṃ codessāmī’’ti attādānaggahaṇaṃ. Cetanāti attādānaggahaṇacetanā. Vohāroti ito, etto ca ñatvā pakāsanaṃ. Paṇṇattīti nāmapaññatti. Yā vacīghosārammaṇassa sotadvārappavattaviññāṇasantānassa anantaraṃ uppannena upaladdhapubbasaṅketena manodvāraviññāṇena viññāyati, yassā viññātattā tadattho paramattho vā aparamattho vā tatiyavāraṃ uppannena manoviññāṇena viññāyatīti nāmādīhi chahi byañjanehi pāḷiyā pakāsitā, sā ‘‘vijjamānapaññatti avijjamānapaññattī’’tiādinā chadhā āc参数向量中 dassitā. Tabbhāgiyabhāvo atabbhāgiyabhāvo ca nipphannadhammasseva yujjati, na paññattiyā adhikaraṇīyavatthuttā , adhikaraṇe pavattattā ca adhikaraṇo mañcaṭṭhe mañcopacāro viyāti ca. ‘‘Pariyāyenāti amūlakā nāmapaññatti natthi. Pariyāyamattaṃ, sabhāvato natthi. Abhidhānamattameva, abhidheyyaṃ natthī’’ti ca likhitaṃ. Idhevāti imasmiṃ eva sikkhāpade. Na sabbatthāti vivādādhikaraṇādīsu. Kasmā? Na hītiādi. Vivādādhikaraṇādīnamatthitā viya amūlakaṃ adhikaraṇaṃ natthīti. Pubbe vuttasamathehīti ‘‘yaṃ adhikicca samathā vattantī’’ti vuttasamathehīti adhippāyo. Apica sabhāvato natthīti appaṭiladdhasabhāvattā vuttaṃ. Anuppannaṃ viya viññāṇādi. Na hi vivādādīnaṃ paṇṇatti adhikaraṇaṭṭhoti paṇṇattiṃ adhikicca samathā na pavattanti, tasmā na tassā adhikaraṇīyatāti na vivādādīnaṃ paṇṇatti adhikaraṇaṭṭhoti adhippāyo. Hoti cettha –
Sự nắm bắt là sự nắm bắt tự mình “tôi sẽ tố cáo.” Ý định là ý định nắm bắt tự mình. Sự giao tiếp là sau khi đã biết từ đây và từ đó, và công bố. Chế định là chế định về tên. Cái nào được biết bởi thức của môn ý, đã sinh ra ngay sau dòng thức của môn nhĩ, có đối tượng là âm thanh của lời nói, và đã nhận biết được quy ước trước đó, và vì đã được biết, nên ý nghĩa của nó, dù là tối hậu hay không phải là tối hậu, được biết bởi thức của ý sinh ra lần thứ ba, thì cái đó đã được trình bày trong Pāḷi bằng sáu văn tự như tên và các văn tự khác. Nó đã được trình bày trong ý kiến của các vị thầy là sáu loại: “chế định có tồn tại, chế định không tồn tại” và các loại khác. Bản chất cùng loại và không cùng loại chỉ hợp lý đối với pháp đã được tạo ra, không phải đối với chế định, vì là đối tượng của vụ tranh chấp, và vì tiến triển trong vụ tranh chấp. Giống như việc dùng từ giường cho các bộ phận của giường, vụ tranh chấp. Và đã được viết: “một cách gián tiếp, không có chế định về tên là không có gốc. Chỉ là cách gián tiếp, về bản chất thì không có. Chỉ là tên gọi, không có cái được gọi.” Chính ở đây là trong chính học giới này. Không phải ở khắp mọi nơi là trong các vụ tranh chấp và các vụ khác. Tại sao? Bởi vì và các câu tương tự. Giống như sự tồn tại của các vụ tranh chấp và các vụ khác, không có vụ tranh chấp nào là không có gốc. Bằng các sự lắng dịu đã được nói trước đây, ý định là bằng các sự lắng dịu đã được nói “các sự lắng dịu tiến triển dựa vào cái nào.” Hơn nữa, đã được nói về bản chất thì không có, vì chưa có được bản chất. Giống như thức và các pháp khác chưa sinh ra. Bởi vì chế định của các vụ tranh chấp và các vụ khác không phải là đối tượng của vụ tranh chấp, các sự lắng dịu không tiến triển dựa vào chế định, do đó, nó không có tính chất là đối tượng của vụ tranh chấp. Ý định là chế định của các vụ tranh chấp và các vụ khác không phải là đối tượng của vụ tranh chấp. Và ở đây có câu –

‘‘Pārājikāpatti amūlikā ce,
Paṇṇattimattā phalamaggadhammā;
Catutthapārājikavatthubhūtā,
Paṇṇattimattāva siyuṃ tatheva.
“Nếu tội Bất Cộng Trụ là không có gốc,
Chỉ là chế định, thì các pháp đạo và quả;
Là đối tượng của tội Bất Cộng Trợ thứ tư,
Cũng sẽ chỉ là chế định như vậy.

‘‘Tato dvidhā maggaphalādidhammā,
Siyuṃ tathātītamanāgatañca;
Paṇṇattichakkaṃ na siyā tato vā,
Pariyāyato sammutivādamāhā’’ti.
“Do đó, các pháp đạo, quả và các pháp khác sẽ có hai loại;
Cũng vậy, quá khứ và tương lai;
Sáu loại chế định sẽ không có, hoặc là từ đó,
Ngài đã nói về quan điểm quy ước một cách gián tiếp.”

Anuvadantīti akkosanti. Kiccayatāti karaṇīyatā. Taṃ katamanti ce? Apalokanakammantiādi. Kiccanti viññattisamuṭṭhāpakacittaṃ kira adhippetaṃ.
Họ nói theo là họ mắng nhiếc. Sự cần thiết là sự cần phải làm. Nếu hỏi đó là gì? Tăng sự biểu quyết và các Tăng sự khác. Người ta nói rằng hành động được hàm ý là tâm làm phát sinh sự biểu lộ.

387.Sutādīnaṃ abhāvena amūlakattanti ettha yo disvāpi ‘‘diṭṭhosi mayā’’ti vattuṃ asakkonto attano diṭṭhaniyāmeneva ‘‘sutosi mayā’’ti vadati. Tassa tasmiṃ asuddhadiṭṭhittā āpatti, idha pana yo pubbe sutvā anāpatti, pacchā taṃ vissaritvā suddhadiṭṭhi eva samāno vadati, taṃ sandhāya vuttaṃ. ‘‘Esa nayo sabbatthāti apare’’ti vuttaṃ. Jeṭṭhabbatiko kākekappaṭivattā . Yadaggenāti yāvatā, yadā vā. No kappetītiādi vematikābhāvadīpanatthameva vuttanti dasseti. Tena vematikova nassarati sammuṭṭho nāmāti āpajjati, taṃ na yuttaṃ tadanantarabhāvato, tasmā dutiyattheravādo pacchā vutto.
387. Do không có sự nghe và các yếu tố khác, nên không có gốc, ở đây, người nào, dù đã thấy, nhưng không thể nói “tôi đã thấy ngươi,” lại nói “tôi đã nghe ngươi” theo chính quy luật của sự thấy của mình. Đối với người đó, có tội vì có tà kiến trong đó. Còn ở đây, đã được nói đến để chỉ người nào, sau khi đã nghe trước đây và không phạm tội, nhưng sau đó đã quên điều đó và nói khi chính mình có chánh kiến. Đã được nói: “những người khác nói rằng cách này áp dụng ở khắp mọi nơi.” Người có bổn phận với người lớn tuổi là người hay thay đổi như con quạ. Từ đâu là chừng nào, hoặc là khi nào. Không tin và các câu tương tự, đã được nói chính để trình bày sự không có sự nghi ngờ. Do đó, sẽ dẫn đến việc chính người nghi ngờ bị mất trí, người đã quên. Điều đó không hợp lý vì là trạng thái ngay sau đó. Do đó, quan điểm của các trưởng lão thứ hai đã được nói sau.

389.Sabbatthāti sabbaaṭṭhakathāsu. Okāsakammanti okāsakaraṇaṃ. ‘‘Okāsena kammaṃ okāsakamma’’nti likhitaṃ. Asūriyaṃ passati kaññāti ettha yathā kaññā sūriyaṃ na passatīti bhavati, evaṃ ‘‘anokāsaṃ kāretvā’’ti vutte okāsaṃ na kāretvāti hoti.
389. Ở khắp mọi nơi là trong tất cả các Chú giải. Tăng sự cho cơ hội là việc cho cơ hội. Đã được viết: “Tăng sự bằng cơ hội là Tăng sự cho cơ hội.” Giống như trong câu “cô gái thấy mặt trời không,” có nghĩa là cô gái không thấy mặt trời, cũng vậy, khi được nói “sau khi đã làm cho không có cơ hội,” có nghĩa là sau khi đã không cho cơ hội.

Paṭhamaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về tội lỗi xấu xa thứ nhất đã kết thúc.

9. Dutiyaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā
9. Diễn giải học giới về tội lỗi xấu xa thứ hai

391.Veḷuvaneyevāti idaṃ tehi vuttavelaṃ sandhāya vuttaṃ. ‘‘Pubbe mayaṃ āvuso sutena avocumhā’’ti ‘‘amhehi sā ussāhitā kupitehi anattamanehī’’tiādivacanaṃ sandhāya vuttaṃ, aññabhāgassa idanti manussabhikkhubhāvato aññabhāgassa tiracchānachagalakabhāgassa idaṃ chagalakajātaṃ adhikaraṇaṃ. Aññabhāgo vā assa atthīti so tiracchānachagalakabhāvasaṅkhāto aññabhāgo assa chagalakassa atthīti svāyaṃ chagalako aññabhāgiyaṃ adhikaraṇaṃ nāma.
391. Chính ở Veḷuvana, đã được nói đến để chỉ thời gian đã được họ nói. Đã được nói đến để chỉ lời nói “trước đây, chúng tôi, này Tôn giả, đã nói do đã được nghe” và “chúng tôi đã xúi giục cô ấy khi đang tức giận, không vui lòng.” Đây là của phần khác, là vụ tranh chấp này là của phần con dê, là phần khác so với bản chất Tỳ-khưu con người. Hoặc là có phần khác của nó, phần khác đó, được gọi là phần con dê, là của con dê đó. Do đó, con dê đó được gọi là vụ tranh chấp thuộc phần khác.

Tattha paṭimāya sarīraṃ, silāputtakassa sarīranti nidassanaṃ, paṭhamaṃ panettha nibbacanaṃ jātipadatthotivādīnaṃ matena vuttaṃ. Sā hi sāmibhāvena, niccabhāvena ca padhānattā sattisabhāve ṭhitā. Tabbiparītakattā byattākati jātiyo tu padattho iti imassa suttassa vasena dutiyaṃ nibbacanaṃ vuttanti veditabbaṃ. Nāmakaraṇasaññāya ādhāroti ettha nāmameva nāmakaraṇaṃ. Nāmaṃ karontānaṃ saññā nāmakaraṇasaññā, tassā. Manussajātiko chagalakajātiādhāro nāma. Na hi taṃ nāmaṃ kacchapalomaṃ viya anādhāranti adhippāyo. Taṃ pana chagalakassa dabboti dinnanāmaṃ ‘‘deso’’ti vuccati. Tasmā theraṃ amūlakenātiādinā aññampi vatthuṃ therassa lissati silissati vohāramatteneva, na atthato, īsakaṃ allīyatīti lesoti adhippāyo. Yasmā desalesā atthato ninnānākaraṇā, tasmā ‘‘kañcidesaṃ lesamattaṃ upādāyā’’ti uddharitvā ‘‘dasa lesā jātileso’’tiādi vuttanti veditabbaṃ. Yathā nidāne , evaṃ sikkhāpadapaññattiyampi mātikāyampi ayamevattho. Yasmā aññabhāgiyassa adhikaraṇassāti chagalakassa. Kañcidesaṃ lesamattaṃ upādāyāti dabboti nāmaṃ upādāyāti ayamattho aṭṭhuppattivaseneva āvibhūto, tasmā na vibhatto. Kiñca bhiyyo aniyamattā. Na hi mettiyabhūmajakānaṃ viya sabbesampi chagalakameva aññabhāgiyaṃ adhikaraṇaṃ hoti. Aññaṃ gomahiṃ sādikampi hoti, na ca mettiyabhūmajakā viya sabbepi nāmalesamattameva upādiyanti. Aññampi jātilesādiṃ upādiyanti, tasmā aniyamattā ca yathāvuttanayena na vibhattaṃ. Kiñca bhiyyo tathā vutte chagalakasseva aññabhāgiyatā sambhavati, na aññassa, yena sova dassito. Leso ca nāma lesova, na jātiādi, yena sova dassitoti evaṃ micchāgāhappasaṅgato ca tathā na vibhatto.
Ở đó, thân thể của bức tượng, thân thể của con rối bằng đá, là ví dụ. Ở đây, định nghĩa đầu tiên đã được nói theo quan điểm của những người cho rằng từ “jāti” có ý nghĩa là “pada”. Bởi vì nó, do là chủ và là thường hằng, là chính, nên ở trong bản chất của năng lực. Cần phải biết rằng định nghĩa thứ hai đã được nói theo kinh này, rằng các hình dạng, do là ngược lại, là “jāti” và “pada”. Là nền tảng của ý thức đặt tên, ở đây, chính tên là việc đặt tên. Ý thức của những người đặt tên là ý thức đặt tên, của nó. Con người là nền tảng của loài dê. Ý định là tên đó không phải là không có nền tảng, giống như lông rùa. Nhưng tên đã được đặt cho con dê đó là “dabba” được gọi là “deso”. Do đó, ý định là, bằng các câu như “đối với trưởng lão, bằng sự không có gốc” và các câu tương tự, một sự việc khác cũng dính vào, dính vào trưởng lão chỉ bằng cách nói thông thường, không phải về mặt ý nghĩa, dính vào một chút, nên là “leso”. Bởi vì “deso” và “leso”, về mặt ý nghĩa, không khác nhau, do đó, cần phải biết rằng sau khi đã trích dẫn “dựa vào một phần nhỏ, một chút,” đã được nói “mười chút, chút về dòng dõi” và các câu tương tự. Giống như trong duyên khởi, cũng vậy trong việc chế định học giới, trong đề mục cũng có cùng một ý nghĩa. Bởi vì của vụ tranh chấp thuộc phần khác là của con dê. Dựa vào một phần nhỏ, một chút, là dựa vào tên “dabba”. Ý nghĩa này đã được tỏ bày chính do sự phát sinh của sự việc, do đó không được phân chia. Hơn nữa, vì không xác định. Bởi vì không phải đối với tất cả mọi người, vụ tranh chấp thuộc phần khác cũng là con dê, giống như đối với Mettiyabhūmajaka. Cũng có thể là con bò, con trâu và các con vật khác. Và không phải tất cả mọi người đều dựa vào chỉ một chút tên, giống như Mettiyabhūmajaka. Họ cũng dựa vào chút về dòng dõi và các chút khác. Do đó, vì không xác định, nên không được phân chia theo cách đã được nói. Hơn nữa, nếu được nói như vậy, chỉ có con dê mới có thể có tính chất thuộc phần khác, không phải con vật khác, mà do đó nó đã được trình bày. Và chút cũng chỉ là chút tên, không phải là dòng dõi và các yếu toos khác, mà do đó nó đã được trình bày. Do đó, vì có khả năng có tà kiến như vậy, nên không được phân chia như vậy.

393.Aññabhāgiyassāti cuditakato aññassa. Adhikaraṇassāti manussassa vā amanussassa vā tiracchānagatassa vāti evaṃ vattabbaṃ. Evañhi vutte manussādīnaṃyeva jātilesādayo vuttā honti, aññathā catunnaṃ adhikaraṇānaṃ te āpajjanti ‘‘adhikaraṇassa kañci desaṃ lesamatta’’nti sāmivacanaṃ pubbaṅgamaṃ uddiṭṭhattāti ce? Na, nāmassa viya jātiādīnaṃ manussādīnaṃ ādhārabhāvaniyamasambhavato, adhikaraṇabhāvāniyamatoti vuttaṃ hoti. Niyame ca sati jātiyā ādhāro jāti, liṅgassa ca liṅgaṃ, āpattiyā ca āpanno ādhāro, viruddhānampi asamādinnānampi pattacīvarānaṃ sāmiko ādhāro, yena adhikaraṇasaṅkhyaṃ gaccheyyāti āpajjatīti adhikaraṇassāti padaṃ abhājetabbameva bhaveyyāti na uddharitabbaṃ siyā, uddharitabbaṃ. Tasmā ‘‘adhikaraṇanti vacanasāmaññato’’tiādi sabbaṃ vattabbaṃ. Apākaṭā ito aññatra dassitaṭṭhānābhāvato. Jānitabbā ca vinayadharehi yasmā aññathā parivāre ‘‘vivādādhikaraṇaṃ catunnaṃ adhikaraṇānaṃ vivādādhikaraṇaṃ bhajatī’’tiādinā nayena anāgataṭṭhāne ‘‘kasmā’’ti vutte kāraṇaṃ na paññāyeyya, tasmā tesaṃ tabbhāgiyatā ca aññabhāgiyatā ca jānitabbā vinayadharehi. Tāsu hi viññātāsu vivādādhikaraṇaṃ vivādādhikaraṇaṃ bhajati. Kasmā? Tabbhāgiyattā. Itaraṃ na bhajati aññabhāgiyattāti sukhakāraṇato paññāyanti, tasmā vacanasāmaññato laddhaṃ adhikaraṇaṃ nissāyātiādi. Tattha yasmā āpattaññabhāgiyaṃ mahāvisayaṃ, itarehi asadisaniddesañca, tasmā taṃ adhikaraṇapariyāpannampi samānaṃ visuṃ vuttaṃ ‘‘āpattaññabhāgiyaṃ vā hotī’’ti. Adhikaraṇapariyāpannattā ca ‘‘adhikaraṇaññabhāgiyaṃ vā’’ti ettha vuttanti veditabbaṃ. Tatthāpi mahāvisayattā, mātikāyaṃ āgatattā ca paṭhamaṃ aññabhāgiyatā vuttā, pacchā tabbhāgiyatāti veditabbā. Tattha yasmā adhikaraṇaññabhāgiyavacanena atthāpattinayena siddhaṃ. Adhikaraṇaṃ tabbhāgiyaṃ, tasmā ‘‘adhikaraṇaṃ tabbhāgiyaṃ hotī’’ti evaṃ uddesaṃ akatvā ‘‘kathaṃ adhikaraṇaṃ adhikaraṇassa tabbhāgiyaṃ hotī’’ti pucchāpubbaṅgamaniddeso kato. Tatthāpi āpattādhikaraṇassa aññabhāgiyatā kiñcāpi pārājikena anuddhaṃsibhādhikārattā pārājikānaṃyeva vasena vuttā, atha kho sesāpattikkhandhavasenāpi veditabbā. Yā ca sā codanā ‘‘asuko nāma bhikkhu saṅghādisesaṃ ajjhāpajjanto diṭṭho hotī’’tiādikā, tattha ‘‘saṅghādisese thullaccayadiṭṭhi hoti, dubbhāsite saṅghādisesadiṭṭhi hotī’’ti evamādikā vinaye apakataññutāya, taṃtaṃvatthusarikkhatāya vā vuttāti veditabbā. Sabbatthāpi ‘‘pārājikadiṭṭhi hotī’’ti na vuttaṃ. Tathāsaññino anāpattito. ‘‘Tabbhāgiyavicāraṇāya’’nti tabbhāgiyapadaniddese aññabhāgiyatāyapi niddiṭṭhattā vuttaṃ.
393. Của phần khác là của người khác so với người bị tố cáo. Của vụ tranh chấp, lẽ ra phải nói là “của con người, hoặc của phi nhân, hoặc của súc sinh.” Bởi vì nếu được nói như vậy, thì chính các chút về dòng dõi và các chút khác của con người và các loài khác mới được nói đến. Nếu không, chúng sẽ thuộc về bốn vụ tranh chấp, vì sở hữu cách “một phần nhỏ, một chút của vụ tranh chấp” đã được chỉ định trước. Không phải vậy, vì không có khả năng có sự xác định về bản chất nền tảng của dòng dõi và các yếu tố khác đối với con người và các loài khác, giống như đối với tên, và đã được nói là do không có sự xác định về bản chất vụ tranh chấp. Và nếu có sự xác định, thì nền tảng của dòng dõi là dòng dõi, và của giới tính là giới tính, và của tội lỗi là người đã phạm, và chủ nhân của các bát y đã bị vi phạm và không được thọ trì là nền tảng, mà do đó nó sẽ được kể vào số vụ tranh chấp. Do đó, từ “của vụ tranh chấp” sẽ trở thành từ không thể được phân chia, và lẽ ra không nên được trích dẫn. Nhưng nó phải được trích dẫn. Do đó, tất cả những gì như “do sự chung chung của lời nói ‘vụ tranh chấp’” và các câu tương tự phải được nói. Không rõ ràng, vì không có nơi trình bày nào khác ngoài đây. Và phải được các vị trì Luật biết, bởi vì nếu không, ở nơi chưa có trong Parivāra theo cách “vụ tranh chấp về tranh cãi thuộc về vụ tranh chấp về tranh cãi trong bốn vụ tranh chấp” và các cách khác, khi được hỏi “tại sao,” thì lý do sẽ không được biết đến. Do đó, tính chất cùng loại và không cùng loại của chúng phải được các vị trì Luật biết. Bởi vì khi chúng đã được biết, thì vụ tranh chấp về tranh cãi thuộc về vụ tranh chấp về tranh cãi. Tại sao? Vì có cùng loại. Loại khác thì không thuộc về, vì không cùng loại. Do đó, được biết đến một cách dễ dàng vì có lý do. Do đó, “dựa vào vụ tranh chấp đã có được do sự chung chung của lời nói” và các câu tương tự. Ở đó, vì vụ tranh chấp không cùng loại về tội lỗi có đối tượng lớn, và có sự trình bày không giống với các loại khác, do đó, dù nó thuộc về vụ tranh chấp, cũng đã được nói riêng “hoặc là không cùng loại về tội lỗi.” Và vì thuộc về vụ tranh chấp, nên cần phải biết rằng đã được nói ở đây “hoặc là không cùng loại về vụ tranh chấp.” Ở đó cũng vậy, vì có đối tượng lớn, và vì đã có trong đề mục, nên trước hết là nói về tính chất không cùng loại, sau đó là tính chất cùng loại. Ở đó, vì bằng lời nói không cùng loại về vụ tranh chấp, đã được xác định bằng sự suy luận. Vụ tranh chấp là cùng loại. Do đó, thay vì đặt đầu đề “vụ tranh chấp là cùng loại,” lại đặt sự trình bày có câu hỏi trước “làm thế nào mà vụ tranh chấp lại cùng loại với vụ tranh chấp.” Ở đó cũng vậy, mặc dù tính chất không cùng loại của vụ tranh chấp về tội lỗi đã được nói theo cách của chính các tội Bất Cộng Trợ, vì là quyền hạn không vu khống bằng tội Bất Cộng Trợ, nhưng cần phải biết là cũng theo cách của các uẩn tội lỗi còn lại. Và sự tố cáo đó “Tỳ-khưu tên là Asuka đã được thấy đang phạm tội Tăng Tàn” và các sự tố cáo khác, ở đó, cần phải biết rằng đã được nói do không thông thạo Luật, hoặc do sự giống nhau của các sự việc đó, như “đối với tội Tăng Tàn, có kiến là Trọng Tội, đối với tội nói lời không hay, có kiến là Tăng Tàn” và các kiến khác. Ở khắp mọi nơi, không được nói “có kiến là Bất Cộng Trợ.” Vì không phạm tội đối với người có ý thức như vậy. “Trong sự xem xét về tính chất cùng loại,” đã được nói vì đã được chỉ định cả tính chất không cùng loại trong phần trình bày về từ cùng loại.

Vatthusabhāgatāyāti anuvādavatthusabhāgatāyāti attho. Aññathā ‘‘catasso vipattiyo’’ti vacanaṃ virujjheyya. Sabhāvasarikkhāsarikkhato cāti sabhāvena sadisāsadisato. Tattha jhānādivatthuvisabhāgatāyapi sabhāvasarikkhatāya uttarimanussadhammapārājikāpatti tasseva tabbhāgiyāva hoti. Tathā vatthuvasena anuvādādhikaraṇaṃ, kiccādhikaraṇañca pāṭekkaṃ catubbidhampi vuttaññabhāgiyaṃ na jātaṃ, tasmā tadaññabhāgiyatāya viditāya tabbhāgiyatā pāriyesayuttiyā avuttāpi sijjhatīti katvā ‘‘aññabhāgiyameva paṭhamaṃ niddiṭṭha’’ntipi vattuṃ yujjati. Ekaṃsena tabbhāgiyaṃ na hotīti sarikkhavasena arahattaṃ āpatti anāpattīti vivādasabbhāvato abyākatabhāvena vivādādhikaraṇassapi aññabhāgiyaṃ siyā, pāḷiyaṃ āpattādhikaraṇassa vuttattā evaṃ vuttaṃ, ādito paṭṭhāyāti ‘‘aññabhāgiyassa adhikaraṇassā’’ti ito paṭṭhāya. ‘‘Methunarāgena manussaviggaho dosenātiādinā sarikkhato cā’’ti likhitaṃ. Taṃ vatthuvisabhāgatāya eva siddhaṃ. Ayaṃ pana vatthusabhāgatāyapi sati āpattisabhāgatā sarikkhatoti no takkoti ca, ekasmimpi hi vatthusmiṃ āpattibhedo hotīti ācariyo. Parato vuttanayena veditabbanti sambandho.
Do sự đồng loại của sự việc, có nghĩa là do sự đồng loại của sự việc vu khống. Nếu không, lời nói “bốn sự vi phạm” sẽ mâu thuẫn. Và do sự giống và không giống về bản chất, là do sự giống và không giống về bản chất. Ở đó, ngay cả khi có sự không đồng loại về sự việc như thiền và các sự việc khác, tội Bất Cộng Trợ về pháp thượng nhân, do sự giống nhau về bản chất, cũng chính là cùng loại với nó. Cũng vậy, vụ tranh chấp về vu khống, và vụ tranh chấp về hành động, mỗi loại trong bốn loại đã được nói, đã không trở thành không cùng loại. Do đó, khi đã biết được tính chất không cùng loại của chúng, thì tính chất cùng loại, dù không được nói, cũng được xác định bằng lý lẽ tìm kiếm. Do đó, cũng hợp lý để nói rằng “chính tính chất không cùng loại đã được chỉ định đầu tiên.” Không hoàn toàn cùng loại, theo cách giống nhau, tội và không phải tội có thể có sự tranh cãi về quả A-la-hán, và vụ tranh chấp cũng có thể không cùng loại do trạng thái vô ký. Trong Pāḷi, vì đã được nói về vụ tranh chấp về tội lỗi, nên đã được nói như vậy. Từ đầu là từ câu “của vụ tranh chấp thuộc phần khác.” Đã được viết: “cũng do sự giống nhau, như ‘con người có tham ái, có sân hận’ và các câu tương tự.” Điều đó đã được xác định chính do sự không đồng loại về sự việc. Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, ngay cả khi có sự đồng loại về sự việc, sự đồng loại của tội lỗi cũng là sự giống nhau. Bởi vì ngay cả trong một sự việc, cũng có sự khác biệt về tội lỗi. Có sự liên kết rằng cần phải được biết theo cách đã được nói ở phần sau.

‘‘Kiccameva kiccādhikaraṇa’’nti vuttattā saṅghakammānametaṃ adhivacanaṃ. Kammalakkhaṇanti kammānaṃ sabhāvaṃ. Taṃ nissāyāti pubbeva hi saṃvidhāya saṅgho kammaṃ karoti. Atha vā purimaṃ purimanti parivāsaukkhepaniyādīni saṅghakammāni nissāya abbhānaosāraṇādi uppannanti katvā vuttaṃ. Tasmā kiñcāpi saṅghakammameva kiccādhikaraṇaṃ, tathāpi sesaviseso labbhatīti dasseti.
Vì đã được nói “chính hành động là vụ tranh chấp về hành động,” nên đây là tên gọi khác của các Tăng sự. Đặc điểm của Tăng sự là bản chất của các Tăng sự. Dựa vào đó, bởi vì Tăng chúng thực hiện Tăng sự sau khi đã bàn bạc trước. Hoặc là đã được nói vì cái trước, cái trước, các Tăng sự như phạt biệt trú, treo giò và các Tăng sự khác, dựa vào đó mà sự phục hồi và các Tăng sự khác đã phát sinh. Do đó, Ngài trình bày rằng mặc dù chính Tăng sự là vụ tranh chấp về hành động, nhưng vẫn có được sự khác biệt còn lại.

394. Atthato ekaṃ, tasmā desassa atthamavatvā ‘‘leso’’tiādi vuttaṃ kira.
394. Về mặt ý nghĩa là một, do đó, thay vì nói về ý nghĩa của “deso,” người ta nói rằng đã được nói “leso” và các từ khác.

395.Savatthukaṃ katvāti puggalassa upari āropetvā khattiyādibhāvena ekajātikopi dīgharassakāḷakodātādīnaṃ diṭṭhasutaparisaṅkitānaṃ vasena aññabhāgiyatā, dīghaṃ khattiyaṃ ajjhācarantaṃ disvā rassādikhattiyapaññattiyā ādhārabhāvato jātilesena codeti, ekaṃ vā khattiyaṃ ajjhācarantaṃ disvā tato visiṭṭhaññabhāgabhūtaṃ khattiyaṃ jātilesaṃ gahetvā ‘‘khattiyo diṭṭho tvaṃ khattiyosī’’ti codeti diṭṭhādiaññabhāgena. Ettha ca ‘‘dīghādayo, diṭṭhādayo ca jātināmādīnaṃ vatthubhūtattā adhikaraṇa’’nti likhitaṃ. Taṃ ‘‘adhikaraṇabhāvāniyamato’’ti vuttadosaṃ nātikkamati, aṭṭhakathāyaṃ ‘‘khattiyajātipaññattiyā ādhāravasena adhikaraṇatā ca veditabbā’’ti vuttaṃ. Tampi nāmagottato aññissā nāmagottapaññattiyā nāma kassaci abhāvato na sabbasādhāraṇaṃ, tasmā ‘‘adhikaraṇassā’’ti paduddhāraṇaṃ adhikaraṇacatukkadassanatthaṃ, taṃ samānavacanadassanatthanti no takkoti. Tattha dīghādino vā diṭṭhādino vāti ettha dīghāditā, diṭṭhāditā ca aññabhāgo, yo cuditako itarassa viseso yato aññoti vuccati.
395. Sau khi đã làm thành sự việc, là sau khi đã gán cho cá nhân. Ngay cả khi cùng một dòng dõi theo cách là Sát-đế-lợi và các dòng dõi khác, cũng có tính chất không cùng loại theo cách là dài, thấp, đen, trắng và các đặc điểm khác, đã được thấy, nghe, nghi ngờ. Sau khi đã thấy một người Sát-đế-lợi dài vi phạm, người đó tố cáo bằng chút về dòng dõi, vì là nền tảng của chế định về người Sát-đế-lợi thấp và các loại khác. Hoặc là sau khi đã thấy một người Sát-đế-lợi vi phạm, người đó, sau khi đã lấy chút về dòng dõi của một người Sát-đế-lợi khác, là người có phần khác, và tố cáo “ngươi đã được thấy là Sát-đế-lợi, ngươi là Sát-đế-lợi” bằng phần khác đã được thấy và các phần khác. Ở đây, đã được viết: “các đặc điểm như dài và các đặc điểm khác, và các đặc điểm như đã thấy và các đặc điểm khác, là vụ tranh chấp, vì là đối tượng của tên, dòng dõi và các yếu tố khác.” Điều đó không vượt qua được lỗi đã được nói “do không có sự xác định về bản chất vụ tranh chấp.” Trong Chú giải, đã được nói: “cần phải biết rằng cũng có tính chất là vụ tranh chấp theo cách là nền tảng của chế định về dòng dõi Sát-đế-lợi.” Điều đó cũng không phải là chung cho tất cả, vì không có ai có chế định về tên và họ khác với tên và họ. Do đó, theo suy đoán của chúng tôi, việc trích dẫn từ “của vụ tranh chấp” là để trình bày bốn vụ tranh chấp, để trình bày lời nói đồng nghĩa đó. Ở đó, trong câu hoặc là của người dài và các người khác, hoặc là của người đã được thấy và các người khác, ở đây, tính chất dài và các tính chất khác, và tính chất đã được thấy và các tính chất khác là phần khác. Người bị tố cáo là sự khác biệt của người kia, mà do đó được gọi là khác.

399.Lahukaṃ āpattinti pārājikato lahukāpatti saṅghādisesādi. Teneva ante taṃ dassentena ‘‘bhikkhu saṅghādisesaṃ ajjhāpajjanto diṭṭho hotī’’tiādi vuttaṃ. Āpattilesopi kimatthaṃ jātilesādayo viya na vitthāritoti ce? Tathā asambhavatoti veditabbaṃ.
399. Tội nhẹ là tội nhẹ hơn tội Bất Cộng Trợ, như Tăng Tàn và các tội khác. Chính vì vậy, ở cuối, khi trình bày điều đó, Ngài đã nói “Tỳ-khưu đã được thấy đang phạm tội Tăng Tàn” và các câu tương tự. Nếu hỏi tại sao chút về tội lỗi cũng không được giải thích chi tiết giống như chút về dòng dõi và các chút khác? Cần phải biết là vì không thể có như vậy.

400.Sāṭakapatto sarīraṭṭhapatto. Āpattiyāti pārājikāpattiyā aññabhāgiyaṃ saṅghādisesādi, adhikaraṇañca āpattipaññattiyā. ‘‘Leso nāma āpattibhāgo’’ti vuttattā āpattibhāvaleso vuttoti veditabbo, tasmā pārājikāpattito aññabhāgiyassa āpattipaññattiyā ādhāraṇaṭṭhena ‘‘adhikaraṇa’’nti saṅkhyaṃ gatassa saṅghādisesādino āpattinikāyassa āpattibhāvalesaṃ gahetvā codanā āpattilesacodanāti veditabbā.
400. Vải và bát, bát ở trên thân thể. Của tội lỗi, là Tăng Tàn và các tội khác, là phần khác của tội Bất Cộng Trợ. Và vụ tranh chấp là của chế định về tội lỗi. Vì đã được nói “chút là phần của tội lỗi,” cần phải biết rằng chút về bản chất tội lỗi đã được nói. Do đó, cần phải biết rằng sự tố cáo bằng cách lấy chút về phần tội lỗi của các nhóm tội như Tăng Tàn và các nhóm khác, đã được gọi là “vụ tranh chấp” do là nơi chứa đựng của chế định về tội lỗi, là phần khác của tội Bất Cộng Trợ, là sự tố cáo bằng chút về tội lỗi.

408.Anāpatti tathāsaññī codeti vā codāpeti vāti āpattaññabhāgiyacodanāyameva, na aññattha. Ettāvatā paṭhamaduṭṭhadose vuttavicaraṇāya saṃsanditaṃ hoti, taṃ idha kathaṃ paññāyatīti ce? Kaṅkhāvitaraṇiyā Yamakato. Vuttañhi ‘‘tattha idha ca āpattaññabhāgiyacodanāya tathāsaññinopi anāpattī’’ti.
408. Không phạm tội, người có ý thức như vậy tố cáo hoặc cho người khác tố cáo, chỉ trong sự tố cáo không cùng loại về tội lỗi, không phải ở nơi khác. Bằng chừng ấy, đã phù hợp với sự xem xét đã được nói trong tội lỗi xấu xa thứ nhất. Nếu hỏi làm thế nào để biết được điều đó ở đây? Từ Yamaka của Kaṅkhāvitaraṇī. Đã được nói: “ở đó và ở đây, trong sự tố cáo không cùng loại về tội lỗi, ngay cả đối với người có ý thức như vậy cũng không phạm tội.”

Aññābhāgiyasikkhaṃ yo, neva sikkhati yuttito. Gacche vinayaviññūhi, aññabhāgiyatañca
Người nào không học học giới không cùng loại một cách hợp lý. Sẽ đi đến chỗ không cùng loại với các vị thông thạo Luật.

Soti.
Vị ấy nghe.

Dutiyaduṭṭhadosasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về tội lỗi xấu xa thứ hai đã kết thúc.

10. Paṭhamasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā
10. Diễn giải học giới về sự chia rẽ Tăng chúng thứ nhất

409. ‘‘Vajjaṃ na phuseyyā’’ti ca pāṭho.
409. Cũng có đoạn văn “đừng chạm vào tội lỗi.”

410.Tesaṃ anurūpājānanato asabbaññū assa. ‘‘Na, bhikkhave, asenāsanikena vassaṃ upagantabba’’nti (mahāva. 204) vuttattā paṭikkhittameva. Tikoṭiparisuddhanti parassa pāpapasaṅganivāraṇatthaṃ vuttaṃ, na paṭiccakammanivāraṇatthaṃ koṭīhīti ākārehi. Parisuddhanti vimuttaṃ. Dasahi lesehi uddissa kataṃ samaṇā paribhuñjanti, assamaṇā imeti sāsanassa garahabhāvo āgaccheyya , garahapaccayā loko vā apuññaṃ ariyūpavādaṃ pasaveyya, tehi vimuttanti attho. Vāguranti migajālaṃ. Attano atthāya vātiādinā paresaṃ atthāya kate kappiyabhāvaṃ dassetvā bhikkhūnañca aññesañca atthāya kate taṃ dassetuṃ ‘‘matānaṃ petakiccatthāyā’’tiādimāha.
410. Do không biết điều phù hợp với họ, nên vị ấy sẽ là người không biết tất cả. Đã bị bác bỏ vì đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, không được an cư mùa mưa khi không có chỗ ở” (mahāva. 204). Trong sạch theo ba phương diện, đã được nói để ngăn chặn khả năng có tội lỗi của người khác, không phải để ngăn chặn hành động liên quan. Bằng các phương diện là bằng các cách. Trong sạch là đã được giải thoát. Các Sa-môn dùng vật đã được làm với ý định theo mười cách lách luật, có thể có sự chỉ trích đối với giáo pháp “họ là những người không phải Sa-môn,” và do duyên chỉ trích, thế gian có thể gieo rắc điều không công đức, là sự phỉ báng các bậc thánh. Ý nghĩa là đã được giải thoát khỏi những điều đó. Lưới là lưới bắt thú. Bằng câu hoặc là vì lợi ích của chính mình và các câu tương tự, sau khi đã trình bày tính chất hợp lệ của vật đã được làm vì lợi ích của người khác, để trình bày điều đó đối với vật đã được làm vì lợi ích của cả các Tỳ-khưu và những người khác, Ngài đã nói “vì lợi ích của việc cúng dường cho người đã chết” và các câu tương tự.

Yaṃ yaṃtiādi tassa kāraṇassa dassanatthaṃ vuttaṃ. Puna pañcannaṃ sahadhammikānaṃ atthāya kataṃ na kappatīti vuttanti kira dhammasiritthero. Gaṇṭhipade ‘‘bhikkhūnameva suddhānaṃ atthāya kataṃ na vaṭṭatī’’ti likhitaṃ. Aparehi pana ‘‘matānaṃ petakiccatthāyātiādinā vuttepi kappati, bhikkhūnaṃyeva atthāyāti iminā ‘bhikkhūnampi datvā mayaṃ bhuñjissāmā’ti katampi vuttaṃ. Puna ‘pañcasu ekaṃ uddissakataṃ itaresaṃ na kappatī’ti dassanatthaṃ ‘pañcasu hi sahadhammikesūtiādi vutta’nti vadantī’’ti vuttaṃ. Aññatarasmiṃ pana gaṇṭhipade ‘‘amhākanti ca rājayuttādīnanti ca vutte vaṭṭatīti vatvā ‘tumhāka’nti avatvā ‘petakiccatthāyāti vuttepi vaṭṭatī’ti ca dassetvā sabbattha vuttānaṃ, ādisaddena saṅgahitānañca lakkhaṇaṃ ṭhapentena ‘bhikkhūnaṃyevā’tiādi vuttaṃ. Tattha ‘bhikkhūnaṃ uddiṭṭhe evāti adhippāyenā’ti vuttaṃ. Na ‘tumhākaṃ, amhākañcāti vutte anāpattī’ti dassanatthaṃ. Kasmā? Missakavārassa abhāvā. Lakkhaṇaṃ nāma vuttānaṃ, vuttasadisānañca hoti. ‘Sace petakiccatthāyāti vuttaṭṭhāne bhikkhūnaṃ bhojanaṃ sandhāya karontī’ti vadanti mahāaṭṭhakathāyañca ‘tasmiṃ vāre ca na tumhākanti vutte vaṭṭatī’ti vuttattā. Teneva idhāpi ‘petakiccatthāya, maṅgalādīnaṃ vā atthāya katepi eseva nayo’ti pubbe vuttatthavasena vuttaṃ. ‘Avadhāraṇatthena missake vaṭṭatī’ti ce? ‘Kappiyamaṃsassa hi paṭiggahaṇe āpatti natthī’ti vacanena akappiyapaṭiggahaṇe āpattīti āpannaṃ, ‘tañca gahetabbaṃ siyā’ti paṭikkhipitabbā’’ti vuttaṃ, taṃ sundaraṃ viya dissati, vicāretvā gahetabbaṃ. Yattha cāti bhikkhūnaṃ atthāya katepi. Tamatthaṃ āvi kātuṃ ‘‘sace panā’’tiādi vuttaṃ . Ettha pana ‘‘bhikkhunīnaṃ dukkaṭaṃ, itaresaṃ daṇḍakammavatthū’’ti vadanti. Kappaṃ nirayamhīti asaṅkhyeyyakappaṃ. Vivaṭṭaṭṭhāyikāleyeva saṅghabhedo hotīti. Kappanti āyukappaṃ.
Câu bởi vì bất cứ điều gì và các câu tương tự đã được nói để trình bày nguyên nhân của nó. Người ta nói rằng Trưởng lão Dhammasiri cho rằng đã được nói rằng vật đã được làm vì lợi ích của năm người đồng pháp thì không hợp lệ. Trong sách giải thích từ khó, đã được viết: “vật đã được làm vì lợi ích của chính các Tỳ-khưu trong sạch thì không được phép.” Còn những người khác đã nói: “đã được nói rằng ngay cả khi đã được nói ‘vì lợi ích của việc cúng dường cho người đã chết’ và các câu tương tự, cũng hợp lệ. Bằng câu ‘chính vì lợi ích của các Tỳ-khưu,’ cũng đã được nói về vật đã được làm với ý nghĩ ‘sau khi đã cho cả các Tỳ-khưu, chúng tôi sẽ dùng.’ Lại được nói ‘trong năm người đồng pháp và các câu tương tự’ để trình bày rằng vật đã được làm với ý định cho một người trong năm người thì không hợp lệ đối với những người còn lại.” Còn trong một sách giải thích từ khó khác, đã được nói: “sau khi đã nói rằng được phép khi được nói ‘của chúng tôi’ và ‘của các quan chức nhà vua’ và các câu tương tự, và sau khi đã trình bày rằng ngay cả khi được nói ‘vì lợi ích của việc cúng dường cho người đã chết’ mà không nói ‘của các ngài,’ cũng được phép, và trong khi đặt ra đặc điểm của những gì đã được nói ở khắp mọi nơi và những gì đã được bao gồm bằng từ ‘và các trường hợp khác,’ đã được nói ‘chính của các Tỳ-khưu’ và các câu tương tự. Ở đó, đã được nói ‘với ý định là chỉ trong trường hợp đã được chỉ định cho các Tỳ-khưu.’ Không phải để trình bày rằng ‘không phạm tội khi được nói ‘của các ngài và của chúng tôi’.’ Tại sao? Vì không có lượt hỗn hợp. Đặc điểm là của những gì đã được nói và những gì tương tự như đã được nói. Một số người nói rằng ‘nếu họ làm với ý định cúng dường cho các Tỳ-khưu ở nơi đã được nói ‘vì lợi ích của việc cúng dường cho người đã chết’.’ Và trong Đại Chú giải cũng vậy, vì đã được nói ‘và trong lượt đó, được phép khi được nói ‘không phải của các ngài’.’ Chính vì vậy, ở đây cũng đã được nói theo ý nghĩa đã được nói trước đây ‘ngay cả khi được làm vì lợi ích của việc cúng dường cho người đã chết, hoặc vì lợi ích của các lễ hội và các việc khác, cách này cũng vậy.’ Nếu nói ‘được phép trong trường hợp hỗn hợp do ý nghĩa nhấn mạnh’? Sẽ có tội trong việc nhận vật không hợp lệ bằng lời nói ‘vì không có tội trong việc nhận thịt hợp lệ,’ và ‘điều đó lẽ ra phải được chấp nhận,’ nên phải bị bác bỏ,” điều đó có vẻ hay, cần phải xem xét và chấp nhận. Và ở đâu, là ngay cả khi được làm vì lợi ích của các Tỳ-khưu. Để làm cho ý nghĩa đó được tỏ bày, đã được nói “nhưng nếu” và các câu tương tự. Ở đây, một số người nói rằng “đối với các Tỳ-khưu-ni là tội Tác Ác, đối với những người còn lại là đối tượng của hình phạt.” Một kiếp trong địa ngục là một kiếp không thể đếm được. Bởi vì sự chia rẽ Tăng chúng chỉ xảy ra trong thời kỳ có sự tiến hóa. Kiếp là tuổi thọ của kiếp.

411.Kusalanti khemaṃ. Āpattibhayā katā lajjīhīti ettha āpattibhayena avassaṃ ārocentīti dassanatthaṃ ‘‘lajjī rakkhissatī’’ti (visuddhi. 1.42; pārā. aṭṭha. 1.45) porāṇavacanassānurūpato ‘‘aññehi lajjīhī’’ti vuttaṃ. Alajjissapi anārocentassa āpattiyeva ‘‘ye passanti ye suṇantī’’ti Yamakato.
411. An toàn là không có nguy hiểm. Được những người có lòng tàm làm do sợ tội lỗi, ở đây, đã được nói “bởi những người có lòng tàm khác” phù hợp với lời nói xưa “người có lòng tàm sẽ bảo vệ” (visuddhi. 1.42; pārā. aṭṭha. 1.45) để trình bày rằng họ chắc chắn sẽ thông báo do sợ tội lỗi. Ngay cả đối với người không có lòng tàm, nếu không thông báo, cũng chính là có tội, từ Yamaka “những người thấy, những người nghe.”

416.Asamanubhāsantassāti kammakārake kattuniddeso, samanubhāsanakammaṃ akariyamānassāti attho. Odissa anuññāto nāma ummattakakhittacittavedanaṭṭādiko ‘‘anāpatti ādikammikassā’’ti ariṭṭhasikkhāpade āgatattā atthīti ce? Yampītiādi. Sā panesā anāpatti. So vuccatīti tattha āgatopispecialmealabyāvaṭopi evaṃ vuccati. Etenupāyenāti asamanubhāsantassa ca ādikammikassa ca vuttatthavasena. Ṭhapetvā ariṭṭhasikkhāpadanti tattha ādikammikapadābhāvā.
416. Đối với người không được khiển trách, là chỉ định chủ từ trong tác động cách, có nghĩa là đối với người mà hành động khiển trách không được thực hiện. Nếu nói rằng có người được cho phép một cách đặc biệt, là người điên, người có tâm rối loạn, người đau đớn và các trường hợp khác, vì đã có trong học giới về Ariṭṭha “không phạm tội đối với người phạm tội đầu tiên”? Và ngay cả và các câu tương tự. Nhưng sự không có tội đó. Người đó được gọi là, ngay cả người đã đến ở đó, dù không bận rộn, cũng được gọi như vậy. Bằng phương pháp này, là theo ý nghĩa đã được nói đối với người không được khiển trách và người phạm tội đầu tiên. Trừ học giới về Ariṭṭha, vì ở đó không có từ “người phạm tội đầu tiên.”

Tivaṅgikanti ettha vācāya eva paṭinissajjantassa oṭṭhacalanādikāyaviññatti hoti, tasmā duvidhampi viññattiṃ kathentassa hoti. Vacībhedaṃ kātuṃ asakkontassa kāyavikāraṃ karontassa anāpattiyā bhavitabbaṃ. Kasmā? Tivaṅgesu ekassa parihīnattā, tasmā tivaṅgabhāvo āpattiyā, aṅgahānibhāvo anāpattiyāti gahetabbaṃ. Ettha siyā – yadi aṅgahānibhāvena anāpatti, evaṃ santepi vikāraṃ akatvā citteneva vissajjentassa anāpattiyā bhavitabbanti? Taṃ na, kasmā? Aṭṭhakathāyaṃ ‘‘kāyavikāraṃ vā vacībhedaṃ vā akarontasseva pana āpajjanato akiriya’’nti hi vuttaṃ, ‘‘cittaṃ vā anuppādentassa vā’’ti na vuttaṃ, tasmā cittañca nāma viññattipaṭibaddhaṃ evāti visuṃ aṅgabhāveneva vuttattā jānitabbanti ce? Taṃ na, dvinnaṃyeva akiriyāti, tasmā cittena vissajjentassāpi āpatti viya dissati, upaparikkhitvā gahetabbaṃ. Tattha ‘‘akusalacitta’’nti vuttanti ce? ‘‘Cittabāhullato vutta’’nti vadanti. Tepi kira bāhullato vadanti.
Có ba phần, ở đây, đối với người chỉ từ bỏ bằng lời nói, có biểu lộ thân như cử động môi và các cử động khác, do đó, có đối với người nói cả hai loại biểu lộ. Đối với người không thể thực hiện sự phân loại lời nói mà thực hiện sự biến đổi của thân, thì lẽ ra phải không có tội. Tại sao? Vì thiếu một trong ba phần. Do đó, cần phải hiểu rằng trạng thái ba phần là có tội, còn trạng thái thiếu phần là không có tội. Ở đây, có thể có – nếu không có tội do trạng thái thiếu phần, thì ngay cả đối với người từ bỏ chỉ bằng tâm mà không làm biến đổi, cũng lẽ ra phải không có tội? Không phải vậy. Tại sao? Bởi vì trong Chú giải, đã được nói: “chính là không phải hành động, do phạm tội chính khi không làm biến đổi thân hoặc phân loại lời nói,” và không được nói “hoặc là do không làm phát sinh tâm.” Do đó, nếu nói rằng cần phải biết rằng tâm và tên chỉ gắn liền với sự biểu lộ, và vì đã được nói chính bằng bản chất là một phần? Không phải vậy, vì cả hai đều là không phải hành động. Do đó, có vẻ như có tội ngay cả đối với người từ bỏ bằng tâm, cần phải xem xét và chấp nhận. Nếu nói rằng ở đó đã được nói “tâm bất thiện”? Một số người nói rằng “đã được nói theo đa số tâm.” Người ta nói rằng họ cũng nói theo đa số.

Paṭhamasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về sự chia rẽ Tăng chúng thứ nhất đã kết thúc.

11. Dutiyasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā
11. Diễn giải học giới về sự chia rẽ Tăng chúng thứ hai

422.Saññīti saññino.
422. Có ý thức là những người có ý thức.

Dutiyasaṅghabhedasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về sự chia rẽ Tăng chúng thứ hai đã kết thúc.

12. Dubbacasikkhāpadavaṇṇanā
12. Diễn giải học giới về sự khó dạy

424.Pataṃ patitaṃ vivari vivaṭṭayi. Ekato ussāreti ca giḷitato ṭhapeti ca. Ekapaṃsuthupakanadīsaṅkhaṃ dīghamūlakapaṇṇasevālaṃ sevālaṃ daṇḍisipippariṃ paṇakaṃ pesiṭṭhiṃ nissāreti. Tilabījakanti sukhumamūlapaṇṇakaṃ hutvā udakapiṭṭhe pattharikaṃ udakapappaṭakaṃ nissāreti.
424. Cái đã rơi, đã rơi, đã mở ra, đã lật lại. Cùng nhau nhấc lên và đặt xuống khỏi chỗ đã nuốt. Lấy ra con ốc sông, rong rêu có rễ dài, rong rêu, cây tiêu nước, rêu, bánh. Lấy ra hạt vừng, là cây có rễ nhỏ, lá mỏng, và bánh nước, là thứ trải rộng trên mặt nước.

425-6. ‘‘Dubbaccajātiko’’tipi paṭhanti. Apadānenāti purāṇakammena. ‘‘Kiṃ pubbepi mayaṃ evarūpaṃ karomātiādinā ekūnavīsatī’’ti mahāpaccariyaṃ kira vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathāyañca anumānasuttaṭṭhakathāyañca ‘‘soḷasavatthukā’’ti vuttaṃ, taṃ sameti.
425-6. Người ta cũng đọc “người có bản chất khó dạy.” Do hành động xưa là do nghiệp xưa. Người ta nói rằng trong Mahāpaccarī, đã được nói: “mười chín, bằng câu ‘trước đây chúng tôi cũng làm điều như vậy sao’” và các câu tương tự. Trong Đại Chú giải và Chú giải Kinh Anumāna, đã được nói “có mười sáu sự việc,” điều đó phù hợp.

Dubbacasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về sự khó dạy đã kết thúc.

13. Kuladūsakasikkhāpadavaṇṇanā
13. Diễn giải học giới về việc làm hại gia đình

431. Na kevalaṃ vihāro eva kīṭāgiri, sopi gāmo ‘‘kīṭāgiri’’cceva vuccati. Gāmañhi sandhāya parato ‘‘na assajipunabbasukehi bhikkhūhi kīṭāgirismiṃ vatthabba’’nti vuttaṃ. Ekasaṃvacchare dvikkhattuṃ vassati kira, taṃ sandhāya ‘‘dvīhi meghehī’’ti vuttaṃ. Samadhikanti cha jane sandhāya. Akatavatthunti navaṃ aṭṭhuppattiṃ. ‘‘Jābhisumanādigacchaṃ allānaṃ haritānaṃ evā’’ti likhitaṃ. Bhūtagāmabījagāmabhedato panesa bhedo. Vatatthāyāti vatiatthāya. Yaṃkiñcīti sodakaṃ vā nirudakaṃ vā. Ārāmādiatthāyāti vanarājikādiatthāya. Mālāvaccharopanaṃ kuladūsakaṃyeva sandhāya, ganthanādisabbaṃ na sandhāya vuttanti. Kathaṃ paññāyatīti ce? Taṃ dassetuṃ ‘‘buddhena dhammo’’tiādi. ‘‘Āveḷaṃ ābiḷa’’ntipi pāṭho.
431. Không chỉ có tu viện là Kīṭāgiri, mà ngay cả ngôi làng đó cũng được gọi là “Kīṭāgiri.” Bởi vì để chỉ ngôi làng, ở phần sau đã được nói “các Tỳ-khưu Assajipunabbasuka không được ở tại Kīṭāgiri.” Người ta nói rằng trong một năm, trời mưa hai lần. Để chỉ điều đó, đã được nói “bằng hai trận mưa.” Hơn, là để chỉ sáu người. Sự việc chưa được làm là một sự việc mới. Đã được viết: “cây jābhisumana và các cây khác, chỉ những cây còn tươi, còn xanh.” Nhưng sự khác biệt này là do sự khác biệt giữa hạt giống cây và hạt giống thân. Vì lợi ích của hàng rào là vì lợi ích của hàng rào. Bất cứ thứ gì là có nước hoặc không có nước. Vì lợi ích của chùa và các công trình khác là vì lợi ích của rừng cây nhỏ và các công trình khác. Việc trồng hoa và cây cảnh, đã được nói đến chỉ để chỉ việc làm hại gia đình, không phải tất cả các hành động như kết hoa và các hành động khác. Nếu hỏi làm thế nào để biết? Để trình bày điều đó, “Pháp bởi Phật” và các câu tương tự. Cũng có đoạn văn “āveḷaṃ ābiḷaṃ.”

Gopphananti ganthanaṃ. Veṭhimanti taggatikameva. Vedhimaṃ aññena kenaci pupphaṃ vedhetvā kataṃ. Kaṇṭakampi bandhitunti ettha ‘‘sayaṃ vijjhanatthaṃ na vaṭṭati. Aññassatthāya vaṭṭatī’’ti vadanti. Jālamayaṃ vitānaṃ jālavitānaṃ. Pupphapaṭicchakaṃ gavakkhaṃ viya sachiddaṃ karonti. Tālapaṇṇaguḷakanti tālapaṇṇamayaṃ puna katampi paṭichijjakameva. Dhammarajju cetiyaṃ vā bodhiṃ vā pupphappavesanatthaṃ āvijjhitvā baddharajju. ‘‘Kāsāvena baddhampi suttavākādīhi baddhaṃ bhaṇḍitasadisa’’nti likhitaṃ. Aṃsabhaṇḍikaṃ pasibbake pakkhittasadisattā vedhimaṃ na jātaṃ, tasmā ‘‘sithilabaddhassa antarantarā pakkhipituṃ na vaṭṭatī’’ti vadanti. ‘‘Aññamaññaṃ aphusāpetvā anekakkhattumpi parikkhipituṃ vaṭṭatī’’ti vadanti. Pūritanti dīghato pasāretvā pūritaṃ. Ghaṭikadāmaolambakoti ‘‘yamakadāmaolambako’’ti likhitaṃ. ‘‘Geṇḍukharapattadāmānaṃ paṭikkhittattā celādīhi katadāmampi na vaṭṭati akappiyānulomattā’’ti vadanti.
Sự kết lại là sự thắt lại. Veṭhimaṃ cũng có cùng bản chất. Vedhimaṃ là được làm bằng cách xỏ hoa bằng một vật gì đó khác. Trong câu ngay cả gai cũng được buộc, ở đây, một số người nói rằng “không được phép để tự mình xỏ. Được phép vì lợi ích của người khác.” Lưới bằng sợi là lưới. Vật che hoa, họ làm có lỗ giống như cửa sổ. Quả cầu bằng lá cọ, là ngay cả cái đã được làm lại bằng lá cọ cũng chính là cái phải bị cắt. Dây Pháp là dây đã được buộc sau khi đã quấn quanh một ngôi tháp hoặc cây Bồ-đề để dâng hoa. Đã được viết: “ngay cả khi được buộc bằng y cà sa, cũng giống như đã được trang trí, đã được buộc bằng chỉ và các vật liệu khác.” Túi đeo vai, vì giống như đã được cho vào túi, nên đã không trở thành vedhimaṃ. Do đó, một số người nói rằng “không được phép cho vào giữa những cái đã được buộc lỏng lẻo.” Một số người nói rằng “được phép quấn nhiều lần mà không làm cho chúng chạm vào nhau.” Đã được lấp đầy là đã được lấp đầy sau khi đã trải dài ra. Dây treo có chuông, đã được viết: “dây treo có chuông đôi.” Một số người nói rằng “vì đã cấm dây treo có quả cầu và lá sắc, nên ngay cả dây treo làm bằng vải và các vật liệu khác cũng không được phép, vì phù hợp với vật không hợp lệ.”

‘‘Recakaṃ nāma tathālāsiyanāṭanaṭānaṃ nacca’’nti likhitaṃ. Taṃ ‘‘parivattantī’’ti vuttaṃ. ‘‘Sāriyo nāma rutasunakhā siṅgālakammakuruṅgakeḷipane ṭhitā’’ti kira pāṭho. ‘‘Nibujjhantī’’ti pāḷi.
Đã được viết: “recakaṃ là điệu múa của các vũ công lasiya.” Điều đó đã được nói “họ quay tròn.” Người ta nói rằng có đoạn văn: “sāriyo là những con chó rừng, những con nai và những con hươu đang chơi đùa, có tiếng kêu hay.” Pāḷi là “họ thức tỉnh.”

432.Abalabalādi-padānaṃ uppaṭipāṭiyā. Yathā pāmokkhānaṃ vasena sabbepi ‘‘assajipunabbasukā’’ti vuttā, tathā pāmokkhappattasāvakassa vasena tadāyattavuttine sabbepi ‘‘sāriputtā’’ti. Tena vuttaṃ ‘‘gacchatha tumhe sāriputtā’’ti.
432. Sự đảo lộn của các từ abalabalā và các từ khác. Giống như tất cả đều được gọi là “Assajipunabbasuka” theo các vị đứng đầu, cũng vậy, tất cả đều được gọi là “Sāriputtā” theo vị đệ tử đã đạt được vị trí đứng đầu, có đời sống phụ thuộc vào đó. Do đó, đã được nói “các ngươi hãy đi, này các Sāriputta.”

433. ‘‘Gāme vā na vasitabba’’nti imināva tasmiṃ gāme aññattha na vasitabbanti siddhaṃ. ‘‘Tasmiṃ vihāre vā’’ti kasmā vuttanti ce? Atthasabbhāvato. Yasmiñhi gāme kuladūsakakammaṃ kataṃ, tasmiṃ gāme, yasmiṃ vihāre vasantena kuladūsanaṃ kataṃ, taṃ vihāraṃ ṭhapetvā aññasmiṃ vasituṃ na vaṭṭatīti dassanatthaṃ. Taṃ kathanti ce? ‘‘Gāme vā na vasitabba’’nti vacanena yasmiṃ gāme kuladūsanakammaṃ kataṃ, tasmiṃ vihārepi vasituṃ na labbhatīti āpannaṃ, taṃ disvā ‘‘tasmiṃ vihāre’’ti vuttaṃ, tena tasmiṃ gāme aññasmiṃ vasituṃ labbhatīti siddhaṃ. ‘‘Tasmiṃ vihāre vasantenā’’ti iminā tasmiṃ gāme aññattha vasantena sāmantagāme piṇḍāya carituṃ vaṭṭatīti dīpitaṃ hoti. Sāmantavihārepīti sāmantavihāro nāma tasmiṃyeva gāme tassa vihārassa sāmantavihāro ca tassa gāmassa sāmantavihāro cāti ubhayaṃ vuccati, etena tasmiṃ gāme aññattha vasantena tasmiṃ gāme piṇḍāya na caritabbaṃ. Sāmantagāmepi piṇḍāya carituṃ vaṭṭati, puna yasmiṃ gāme kuladūsanakammaṃ kataṃ, tassa sāmantagāme kuladūsakavihārassa sāmantavatthuvihāre vasantena tasmiṃ gāmepi carituṃ vaṭṭati. Yasmiṃ sāmantagāme kuladūsakaṃ na kataṃ, tasmimpi carituṃ vaṭṭati, neva vihāreti adhippāyo. ‘‘Nanagare caritu’’nti vuttattā aññasmiṃ vihāre tasmiṃ gāme vasituṃ vaṭṭatīti dīpitaṃ hotīti eke. Gaṇṭhipadesu pana vicāraṇā eva natthi, tasmā suṭṭhu vicāretvā kathetabbaṃ.
433. Bằng chính câu “hoặc là không được ở trong làng,” đã được xác định rằng không được ở nơi khác trong làng đó. Nếu hỏi tại sao lại được nói “hoặc là trong tu viện đó”? Vì có sự tồn tại của ý nghĩa. Bởi vì trong làng nào đã có hành động làm hại gia đình, thì trong làng đó, không được phép ở một nơi khác, trừ tu viện mà khi ở đó đã làm hại gia đình. Để trình bày điều đó. Nếu hỏi đó là như thế nào? Bằng lời nói “hoặc là không được ở trong làng,” sẽ dẫn đến việc không được phép ở ngay cả trong tu viện ở làng nào đã có hành động làm hại gia đình. Sau khi đã thấy điều đó, đã được nói “trong tu viện đó.” Do đó, đã được xác định rằng được phép ở một nơi khác trong làng đó. Bằng câu “bởi người đang ở trong tu viện đó,” đã được trình bày rằng người ở nơi khác trong làng đó được phép đi khất thực ở làng bên cạnh. Ngay cả trong tu viện bên cạnh, tu viện bên cạnh được gọi là cả tu viện bên cạnh của tu viện đó trong chính làng đó, và tu viện bên cạnh của làng đó. Bằng điều này, ý định là người ở nơi khác trong làng đó không được đi khất thực trong làng đó. Được phép đi khất thực ngay cả ở làng bên cạnh. Lại nữa, người nào ở trong tu viện có sự việc bên cạnh của tu viện làm hại gia đình ở làng bên cạnh của làng nào đã có hành động làm hại gia đình, thì được phép đi ngay cả trong làng đó. Ngay cả trong làng bên cạnh nào chưa có hành động làm hại gia đình, cũng được phép đi, không phải là tu viện. Một số người cho rằng “vì đã được nói ‘không được đi trong thành phố,’ nên đã được trình bày rằng được phép ở một tu viện khác trong làng đó.” Còn trong các sách giải thích từ khó, không có sự xem xét. Do đó, cần phải xem xét kỹ lưỡng và nói.

436-7.Dāpetuṃ na labhanti, pupphadānañhi siyā. Tasseva na kappatīti ettha yāguādīni ānetvā ‘‘dadantū’’ti icchāvasena vadati ce, sabbesaṃ na kappati, kevalaṃ pana suddhacittena attānaṃ vā paresaṃ vā anuddisitvā ‘‘ime manussā dānaṃ datvā puññaṃ pasavantū’’ti vadantassa tasseva na kappati yāguādīnaṃ paccayapaṭisaṃyuttakathāya uppannattā. Mahāaṭṭhakathāyampi ‘‘pañcannampi sahadhammikāna’’nti visesetvā avuttattā atthato sayamevāti apare. Ācariyā pana ‘‘yathā mahāpaccariyaṃ, kurundiyañca ‘tassevā’ti visesetvā vuttaṃ, evaṃ mahāaṭṭhakathāyaṃ visesetvā na vuttaṃ, tasmā sabbesaṃ na kappatī’’ti vadanti.
436-7. Họ không được phép cho, có thể là việc cho hoa. Không hợp lệ đối với chính người đó, ở đây, nếu nói với ý muốn “hãy cho” sau khi đã mang cháo và các món khác đến, thì không hợp lệ đối với tất cả mọi người. Nhưng nếu chỉ nói với tâm trong sạch, không chỉ định cho chính mình hay cho người khác, “mong rằng những người này, sau khi đã bố thí, sẽ gieo rắc công đức,” thì không hợp lệ đối với chính người đó, vì đã phát sinh từ bài pháp thoại liên quan đến các duyên như cháo và các món khác. Còn những người khác, vì trong Đại Chú giải, không được nói một cách đặc biệt “của năm người đồng pháp,” nên về mặt ý nghĩa, chính là của chính mình. Còn các vị Giáo thọ sư nói rằng “giống như trong Mahāpaccarī và Kurundī, đã được nói một cách đặc biệt ‘chính của người đó,’ cũng vậy, trong Đại Chú giải, không được nói một cách đặc biệt. Do đó, không hợp lệ đối với tất cả mọi người.”

Kuladūsakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc làm hại gia đình đã kết thúc.

Terasakakaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải phẩm Mười Ba đã kết thúc.

3. Aniyatakaṇḍo
3. Phẩm Bất Định

1. Paṭhamaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā
1. Diễn giải học giới Bất Định thứ nhất

444-5.Uddesanti uddisanaṃ, āsāḷhinakkhattaṃ nāma vassūpagamapūjā. Sotassa rahoti ettha raho-vacanasāmaññato vuttaṃ duṭṭhullasāmaññato duṭṭhullārocanappaṭicchādanasikkhāpadesu pārājikavacanaṃ viya. Tasmā ‘‘cakkhussa raheneva pana paricchedo kātabbo’’ti vuttaṃ. Kathaṃ paññāyatīti ce? ‘‘Mātugāmo nāma tadahujātāpi dārikā’’ti Yamakato, ‘‘alaṃkammaniyeti sakkā hoti methunaṃ dhammaṃ paṭisevitu’’nti Yamakato ca rahonisajjassādo cettha methunasannissitakileso, na dutiye viya duṭṭhullavācassādakileso, tasmā ca paññāyati ‘‘sotassa raho nādhippeto’’ti. Keci pana ‘‘tañca labbhatīti vacanassa dassanatthaṃ vuttaṃ, tena dutiye vuttā viññū paṭibalā gahitā hotī’’ti vadanti. Yena vā sāti ettha -saddo ‘‘tena so bhikkhu kāretabbo vā’’ti yojetabbo, so ca vikappattho, tasmā kāretabbo vā paṭijānamāno, na vā kāretabbo appaṭijānamānoti attho. Tena vuttaṃ aṭṭhakathāyaṃ ‘‘paṭijānamānova tena so bhikkhu kāretabbo…pe… na kāretabbo’’ti. Tasmā eva pāḷiyaṃ tadatthadvayadassanatthaṃ ‘‘sā ce evaṃ vadeyyā’’tiādi vuttaṃ. ‘‘Saddheyyavacasā’’ti iminā sotāpannā atthabhañjanakaṃ na bhaṇanti, sesaṃ bhaṇantīti vādīnaṃ vādo paṭisedhito hoti. ‘‘Diṭṭha’’nti vuttattā ‘‘olokesī’’ti sundaraṃ. Rakkheyyāsīti mama visesaṃ kassaci nāroceyyāsīti adhippāyo.
444-5. Sự tụng đọc là việc tụng đọc. Lễ hội sao Āsāḷhī là lễ cúng dường an cư mùa mưa. Trong câu nơi kín đáo của tai, ở đây, đã được nói theo sự chung chung của lời nói kín đáo, giống như lời nói về tội Bất Cộng Trợ trong các học giới về việc tố cáo và che giấu tội Trọng Tội, do sự chung chung của tội Trọng Tội. Do đó, đã được nói “nhưng sự phân định phải được thực hiện chính bằng nơi kín đáo của mắt.” Nếu hỏi làm thế nào để biết? Từ Yamaka “người phụ nữ là ngay cả bé gái mới sinh,” và từ Yamaka “có thể làm được, là có thể thực hành pháp dâm dục.” Và ở đây, khoái cảm của việc ngồi ở nơi kín đáo là phiền não liên quan đến dâm dục, không phải là phiền não khoái cảm của lời nói xấu xa giống như trong tội thứ hai. Do đó, có thể biết được rằng “nơi kín đáo của tai không được hàm ý.” Một số người lại nói rằng “đã được nói để trình bày lời nói ‘và điều đó được chấp nhận,’ do đó, người hiểu biết, có khả năng, đã được nói trong tội thứ hai, đã được bao gồm.” Hoặc là bằng cái nào mà người đó, ở đây, từ hoặc phải được kết hợp “hoặc là Tỳ-khưu đó phải được làm cho thực hiện.” Và đó có ý nghĩa lựa chọn. Do đó, ý nghĩa là hoặc là phải được làm cho thực hiện đối với người thú nhận, hoặc là không phải được làm cho thực hiện đối với người không thú nhận. Do đó, đã được nói trong Chú giải: “chỉ có người thú nhận mới phải được Tỳ-khưu đó làm cho thực hiện… cho đến… không phải được làm cho thực hiện.” Chính vì vậy, trong Pāḷi, để trình bày hai ý nghĩa đó, đã được nói “nếu người đó nói như vầy” và các câu tương tự. Bằng câu “người có lời nói đáng tin cậy,” quan điểm của những người cho rằng bậc Dự lưu không nói lời phá hoại lợi ích, nhưng nói những lời còn lại, đã bị bác bỏ. Vì đã được nói “đã được thấy,” nên “đã nhìn” là hay. Ngươi hãy giữ gìn, ý định là ngươi đừng thông báo sự đặc biệt của ta cho bất kỳ ai.

446. ‘‘Sā ce evaṃ vadeyya ‘ayyassa mayā sutaṃ nisinnassa mātugāmaṃ duṭṭhullāhi vācāhi obhāsentassā’’’ti, idaṃ kimatthamettha vuttaṃ, na adhippetañhetaṃ idha sotassa raho nādhippetoti katvāti ce? Alaṃkammaniyaṭṭhāne duṭṭhullavācāpi labbhati, na pana nālaṃkammaniyaṭṭhāne methunanti dassanatthaṃ vuttanti veditabbanti. Yathā etaṃ, tathā ‘‘sā ce evaṃ vadeyya ‘ayyassa mayā sutaṃ mātugāmassa santike attakāmapāricariyāya vaṇṇaṃ bhāsantassā’’’ti etampi idha labbhati, na dutiye nālaṃkammaniyaṭṭhānattāti eke. Kaṅkhāvitaraṇiyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyāniyatasikkhāpadavaṇṇanā) idhāpi dutiyāniyatādhikāre pārājikāpattiñca parihāpetvā duṭṭhullavācāpattiyā vuttattā paṭhamāniyate duṭṭhullavācāpatti na vuttāti ce? ‘‘Sā ce’’ti tassā pāḷiyā potthakā sodhetabbā. Gaṇṭhipade ca ‘‘idha sikkhāpade methunakāyasaṃsaggarahonisajjānamevāgatattā cakkhussarahova pamāṇa’’nti likhitaṃ, dutiyāniyatādhikāre ca ‘‘anandho kāyasaṃsaggaṃ passati, abadhiro duṭṭhullaṃ suṇāti, kāyacittato kāyasaṃsaggo, vācācittato duṭṭhullaṃ, ubhayehi ubhaya’’nti ca likhitaṃ. Aṭṭhakathāyaṃ ‘‘samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisānevā’’ti vuttattāpi duṭṭhullavādo na sundaro ‘‘tadahujātā’’ti vuttattāti.
446. “Nếu người đó nói như vầy ‘tôi đã nghe ngài ngồi và chê bai người phụ nữ bằng những lời nói xấu xa’,” tại sao điều này lại được nói ở đây? Chẳng phải nó không được hàm ý ở đây vì đã cho rằng nơi kín đáo của tai không được hàm ý sao? Một số người cho rằng đã được nói để trình bày rằng ở nơi có thể làm được, lời nói xấu xa cũng được chấp nhận, nhưng không phải là dâm dục ở nơi không thể làm được. Và giống như điều này, cũng vậy, “nếu người đó nói như vầy ‘tôi đã nghe ngài nói về sự ca ngợi sự hầu hạ theo ý muốn của mình ở gần người phụ nữ’,” điều này cũng được chấp nhận ở đây. Không phải ở tội thứ hai, vì là nơi không thể làm được. Nếu nói rằng trong Kaṅkhāvitaraṇī (kaṅkhā. aṭṭha. dutiyāniyatasikkhāpadavaṇṇanā), ngay cả ở đây, trong quyền hạn của tội Bất Định thứ hai, sau khi đã loại trừ tội Bất Cộng Trợ, đã được nói về tội nói lời xấu xa, nên trong tội Bất Định thứ nhất, không được nói về tội nói lời xấu xa? “Nếu người đó,” các sách Pāḷi đó phải được thanh lọc. Và trong sách giải thích từ khó, đã được viết: “trong học giới này, vì chỉ có dâm dục, tiếp xúc thân thể, và ngồi ở nơi kín đáo, nên chỉ có nơi kín đáo của mắt là tiêu chuẩn.” Và trong quyền hạn của tội Bất Định thứ hai, cũng đã được viết: “người không mù thấy sự tiếp xúc thân thể, người không điếc nghe lời nói xấu xa. Từ thân và tâm là sự tiếp xúc thân thể, từ khẩu và tâm là lời nói xấu xa, từ cả hai là cả hai.” Và vì đã được nói trong Chú giải: “các nguồn gốc và các yếu tố khác giống như của tội Bất Cộng Trợ thứ nhất,” nên quan điểm về lời nói xấu xa không hay, vì đã được nói “bé gái mới sinh.”

Paṭhamaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới Bất Định thứ nhất đã kết thúc.

2. Dutiyaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā
2. Diễn giải học giới Bất Định thứ hai

453. Dutiye kesuci potthakesu ‘‘na heva kho pana paṭicchannaṃ āsanaṃ hoti āsana’’nti likhitaṃ. ‘‘Āsananti adhikaṃ, uddharitānurūpa’’nti likhitaṃ. Dvepi rahā idha adhippetā kāyasaṃsaggaduṭṭhullavācārahonisajjaggahaṇato. Yadi evaṃ ‘‘mātugāmo nāma viññū paṭibalā’’ti kimatthaṃ vuttanti? Ayameva hi mātugāmo dvinnampi kāyasaṃsaggaduṭṭhullavācānaṃ ekato vatthubhūto, tasmā vuttaṃ. Kāyasaṃsaggassa vatthubhūto dassito, na itarassāti katvā duṭṭhullavācameva sandhāya tassā vatthuṃ dassento evamāha.
453. Trong tội thứ hai, ở một số sách, đã được viết: “không phải là chỗ ngồi bị che giấu, là chỗ ngồi.” Đã được viết: “chỗ ngồi là thừa, phù hợp với sự trích dẫn.” Cả hai nơi kín đáo đều được hàm ý ở đây, do việc nắm bắt sự tiếp xúc thân thể, lời nói xấu xa, và việc ngồi ở nơi kín đáo. Nếu vậy, tại sao lại được nói “người phụ nữ là người hiểu biết, có khả năng”? Bởi vì chính người phụ nữ này là đối tượng chung cho cả hai, sự tiếp xúc thân thể và lời nói xấu xa. Do đó, đã được nói. Sau khi đã trình bày đối tượng của sự tiếp xúc thân thể, và không phải của cái kia, Ngài đã nói như vậy để trình bày chính đối tượng của nó, để chỉ lời nói xấu xa.

Etthāha – yathā paṭhame anadhippetāpi duṭṭhullavācā sambhavavisesadassanatthaṃ vuttā, idhāpi kāyasaṃsaggo, kasmā na tassa vasena cakkhussa raho gahetabboti? Āma naasaddo, na ca gahito, gahito eva pana nisajjavasena, na hi aṅgassa nisajjā visesoti. Appaṭicchanne sati kathaṃ cakkhussa rahoti ce? Dūrattā. Paṭhame kasmā itthisatampi anāpattiṃ na karoti, idha kasmā ekāpi karotīti ce? No vuccati siddhattā. Siddhaṃ hoti, yadidaṃ aññataro bhikkhu vesāliyaṃ mahāvane…pe… dvāraṃ vivaritvā nipanno hoti…pe… sambahulā itthiyo yāvadatthaṃ katvā pakkamiṃsūti (pārā. 77). Tasmā na methunassa mātugāmo dutiyo hoti. Itthiyo hi aññamaññissā vajjaṃ paṭicchādenti, teneva bhikkhunīnaṃ vajjapaṭicchādane pārājikaṃ paññattaṃ. Tathā ‘‘āyasmā udāyī tā itthiyo vihāraṃ pekkhāpetvā tāsaṃ itthīnaṃ vaccamagga’’nti (pārā. 283) ettha ‘‘yā pana tā itthiyo hirimanā, tā nikkhamitvā bhikkhū ujjhāpentī’’ti (pārā. 283) Yamakato duṭṭhullassa mātugāmo dutiyo hotīti siddhanti adhippāyo. Ubhayatthāpi ummattakādikammikānaṃ anāpattīti tesaṃ pāṭekkaṃ nidāne āgataṃ, ādikammikānaṃ anāpattīti attho. Anugaṇṭhipade pana ‘‘acelakavagge rahopaṭicchannāsanasikkhāpade ‘viññū puriso dutiyo hotī’ti (pāci. 288) imassa anurūpato ‘itthīnaṃ satampi anāpattiṃ na karotī’ti vutta’’nti ca, ‘‘dutiyāniyate ‘itthīpi purisopī’ti idaṃ bhikkhunīvagge osānasikkhāpadassa, acelakavagge appaṭicchannāsanasikkhāpadassa ca anāpattivāreyo koci viññū puriso dutiyo’ti vuttaṃ. Imesaṃ anurūpato vuttanti veditabba’’nti ca vuttaṃ.
Vị ấy nói ở đây – giống như trong tội thứ nhất, ngay cả lời nói xấu xa không được hàm ý cũng đã được nói để trình bày sự khác biệt có thể có. Ở đây cũng vậy, sự tiếp xúc thân thể, tại sao lại không lấy nơi kín đáo của mắt theo đó? Vâng, không phải là âm thanh, và cũng không được lấy. Nhưng chính là đã được lấy theo cách ngồi. Bởi vì việc ngồi không phải là sự khác biệt của yếu tố. Nếu không bị che giấu, làm sao lại là nơi kín đáo của mắt? Do ở xa. Tại sao trong tội thứ nhất, ngay cả một trăm người phụ nữ cũng không làm cho không phạm tội? Tại sao ở đây, ngay cả một người cũng làm cho có tội? Không được nói vì đã được xác định. Đã được xác định. Điều này, một Tỳ-khưu nào đó ở Vesālī, trong Đại Lâm… cho đến… đã nằm ngủ sau khi đã mở cửa… cho đến… nhiều người phụ nữ, sau khi đã làm theo ý muốn, đã ra đi (pārā. 77). Do đó, người phụ nữ không phải là người thứ hai của dâm dục. Bởi vì các người phụ nữ che giấu tội lỗi của nhau. Chính vì vậy, đã được chế định tội Bất Cộng Trợ trong việc che giấu tội lỗi của các Tỳ-khưu-ni. Cũng vậy, ý định là đã được xác định rằng người phụ nữ là người thứ hai của lời nói xấu xa, từ Yamaka “Tôn giả Udāyī, sau khi đã cho các người phụ nữ đó xem tu viện, và đường đại tiện của các người phụ nữ đó” (pārā. 283), và từ Yamaka “những người phụ nữ nào có lòng tàm, thì sau khi đã ra đi, đã chỉ trích các Tỳ-khưu” (pārā. 283). Ở cả hai nơi, không phạm tội đối với những người điên và người phạm tội đầu tiên, đã có trong duyên khởi riêng của họ. Ý nghĩa là không phạm tội đối với người phạm tội đầu tiên. Còn trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “trong phẩm Acelaka, trong học giới về chỗ ngồi kín đáo và bị che giấu, đã được nói ‘có một người đàn ông hiểu biết là người thứ hai’ (pāci. 288), phù hợp với điều này, đã được nói ‘một trăm người phụ nữ cũng không làm cho không phạm tội’.” Và đã được nói: “trong tội Bất Định thứ hai, ‘cả người phụ nữ và người đàn ông,’ điều này, trong phẩm Tỳ-khưu-ni, trong học giới cuối cùng, và trong phẩm Acelaka, trong học giới về chỗ ngồi không bị che giấu, trong phần không có tội, đã được nói ‘bất kỳ người đàn ông hiểu biết nào là người thứ hai.’ Cần phải biết rằng đã được nói phù hợp với những điều này.”

Dutiyaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới Bất Định thứ hai đã kết thúc.

Pakiṇṇakavaṇṇanā
Diễn giải về đề tài linh tinh

Apicettha idaṃ pakiṇṇakaṃ, seyyathidaṃ – idaṃ aniyatakaṇḍaṃ nippayojanaṃ apubbābhāvatoti ce? Na, garukalahukabhedabhinnāpattiropanāropanakkamalakkhaṇadīpanappayojanato. Ettha hi ‘‘sā ce evaṃ vadeyya ‘ayyo mayā diṭṭho nisinno mātugāmassa methunaṃ dhammaṃ paṭisevanto’ti, so ca taṃ paṭijānāti, āpattiyā kāretabbo…pe… nisajjāya kāretabbo’’tiādinā (pārā. 446) āpattiyā garukāya lahukāya ca ropanakkamalakkhaṇaṃ, kāretabboti iminā anāropanakkamalakkhaṇañca dassitaṃ. Lakkhaṇadīpanato ādimhi, ante vā uddisitabbanti ce? Na, asambhavato. Kathaṃ? Na tāva ādimhi sambhavati, yesamidaṃ lakkhaṇaṃ, tesaṃ sikkhāpadānaṃ adassitattā. Na ante, garukamissakattā, tasmā garukalahukānaṃ majjhe eva uddisitabbanti arahati ubhayāmissakattā. Yā tattha lahukāpatti dassitā , sāpi garukādikā. Tenevāha ‘‘methunadhammasannissitakilesasaṅkhātena rahassādenā’’tiādi, tasmā garukānaṃ eva anantaraṃ uddiṭṭhātipi eke. Evaṃ sante paṭhamamevālaṃ tāvatā lakkhaṇadīpanasiddhito, kiṃ dutiyenāti ce? Na, okāsaniyamapaccayamicchāgāhanivāraṇappayojanato. ‘‘Paṭicchanne āsane alaṃkammaniye’’ti okāsaniyamato hi tabbiparīte okāse idaṃ lakkhaṇaṃ na vikappitanti micchāgāho hoti, tannivāraṇato dutiyampi sātthakamevāti adhippāyo. Kasmā? Okāsabhedato, rahobhedadīpanato, rahonisajjassādabhedadīpanato . Okāsaniyamabhāve ca rahonisajjassādabhedo jāto. Dvinnaṃ rahonisajjasikkhāpadānaṃ nānatājānanañca siyā, tathā kāyasaṃsaggabhedadīpanato. Nālaṃkammaniyepi hi okāse appaṭicchanne, paṭicchannepi vā nisinnāya vātapānakavāṭachiddādīhi nikkhantakesādiggahaṇena kāyasaṃsaggo labbhatīti evamādayopi nayā vitthārato veditabbā. ‘‘Bhikkhupātimokkhe āgatanayattā bhikkhunīpātimokkhe idaṃ kaṇḍaṃ parihīnanti veditabba’’nti vadanti. Atthuppattiyā tattha anupannattāti eke. Taṃ anekatthabhāvadīpanato ayuttaṃ. Sabbabuddhakāle hi bhikkhūnaṃ pañcannaṃ, bhikkhunīnaṃ cattāro ca uddesā santi. Pātimokkhuddesapaññattiyā asādhāraṇattā tattha niddiṭṭhasaṅghādisesapācittiyānanti eke. Tāsaṃ bhikkhunīnaṃ ubbhajāṇumaṇḍalikaaṭṭhavatthukavasena kāyasaṃsaggaviseso pārājikavatthu, ‘‘hatthaggahaṇaṃ vā sādiyeyya, kāyaṃ vā tadatthāya upasaṃhareyyā’’ti (pāci. 674-675) Yamakato sādiyanampi, ‘‘santiṭṭheyya vā’’ti (pāci. 675) Yamakato ṭhānampi, ‘‘saṅketaṃ vā gaccheyyā’’ti (pāci. 675) Yamakato gamanampi, ‘‘channaṃ vā anupaviseyyā’’ti (pāci. 675) Yamakato paṭicchannaṭṭhānapavesopi, tathā ‘‘rattandhakāre appadīpe paṭicchanne okāse ekenekā santiṭṭheyya vā sallapeyya vā’’ti (pāci. 838) Yamakato duṭṭhullavācāpi pācittiyavatthukanti katvā tāsaṃ aññathā aniyatakaṇḍassa avattabbatāpattitopi na vuttanti tesaṃ adhippāyo.
Hơn nữa, ở đây, đây là phần linh tinh, đó là – nếu nói rằng phẩm Bất Định này là vô ích, vì không có gì mới? Không phải vậy, vì có mục đích trình bày đặc điểm của hành động gán và không gán tội lỗi, có sự khác biệt nặng nhẹ. Bởi vì ở đây, bằng các câu như “nếu người đó nói như vầy ‘tôi đã thấy ngài ngồi và thực hành pháp dâm dục với người phụ nữ,’ và nếu người đó thú nhận điều đó, thì phải bị xử theo tội… cho đến… phải bị xử theo tội ngồi” và các câu tương tự (pārā. 446), đã được trình bày đặc điểm của hành động gán tội nặng và nhẹ, và bằng câu “phải được làm cho thực hiện,” đã được trình bày đặc điểm của hành động không gán. Nếu nói rằng vì trình bày đặc điểm, nên phải được tụng đọc ở đầu hoặc ở cuối? Không phải vậy, vì không thể có. Như thế nào? Không thể có ở đầu, vì các học giới mà đây là đặc điểm của chúng chưa được trình bày. Không thể ở cuối, vì có sự pha trộn với tội nặng. Do đó, xứng đáng được tụng đọc chính ở giữa các tội nặng và nhẹ, vì không pha trộn với cả hai. Tội nhẹ nào đã được trình bày ở đó, thì đó cũng là có tội nặng và các tội khác. Chính vì vậy, Ngài đã nói “bằng khoái cảm kín đáo, được gọi là phiền não liên quan đến dâm dục” và các câu tương tự. Do đó, một số người cho rằng cũng đã được tụng đọc ngay sau các tội nặng. Nếu như vậy, chỉ cần chừng đó là đủ để xác định việc trình bày đặc điểm, cần gì đến tội thứ hai? Không phải vậy, vì có mục đích ngăn chặn tà kiến về duyên xác định nơi chốn. Bởi vì do sự xác định nơi chốn “ở chỗ ngồi bị che giấu, có thể làm được,” nên có tà kiến rằng đặc điểm này không được lựa chọn ở nơi chốn ngược lại. Do ngăn chặn điều đó, tội thứ hai cũng chính là có ích, đó là ý định. Tại sao? Do sự khác biệt về nơi chốn, do việc trình bày sự khác biệt về nơi kín đáo, do việc trình bày sự khác biệt về khoái cảm của việc ngồi ở nơi kín đáo. Và khi không có sự xác định nơi chốn, đã có sự khác biệt về khoái cảm của việc ngồi ở nơi kín đáo. Và cũng có thể biết được sự khác nhau của hai học giới về việc ngồi ở nơi kín đáo. Cũng vậy, do việc trình bày sự khác biệt về sự tiếp xúc thân thể. Bởi vì ngay cả ở nơi không thể làm được, không bị che giấu, hoặc ngay cả khi bị che giấu, khi ngồi, cũng có thể có sự tiếp xúc thân thể bằng cách nắm lấy tóc và các bộ phận khác thò ra qua các khe hở của cửa sổ và cửa ra vào. Các cách như vậy cũng cần phải được biết một cách chi tiết. Một số người nói rằng “cần phải biết rằng phẩm này đã bị loại bỏ trong Giới Bổn của Tỳ-khưu-ni, vì là cách đã có trong Giới Bổn của Tỳ-khưu.” Một số người cho rằng vì chưa phát sinh trong sự việc ở đó. Điều đó không hợp lý, do trình bày bản chất có nhiều ý nghĩa. Bởi vì trong thời kỳ của tất cả các vị Phật, có năm lần tụng đọc của các Tỳ-khưu, và bốn lần của các Tỳ-khưu-ni. Một số người cho rằng vì các tội Tăng Tàn và Ưng Đối Trị đã được chỉ định ở đó, do sự không chung của việc chế định tụng đọc Giới Bổn. Đối với các Tỳ-khưu-ni đó, sự khác biệt của sự tiếp xúc thân thể theo cách của tám sự việc ở phần trên đầu gối là đối tượng của tội Bất Cộng Trợ. Từ Yamaka “hoặc là đồng ý với việc nắm tay, hoặc là đưa thân đến vì mục đích đó” (pāci. 674-675), ngay cả việc đồng ý. Từ Yamaka “hoặc là đứng yên” (pāci. 675), ngay cả việc đứng. Từ Yamaka “hoặc là đi đến nơi hẹn” (pāci. 675), ngay cả việc đi. Từ Yamaka “hoặc là vào nơi che giấu” (pāci. 675), ngay cả việc vào nơi bị che giấu. Cũng vậy, từ Yamaka “ở nơi bị che giấu, trong bóng tối không có đèn, một mình với một người, hoặc là đứng yên hoặc là nói chuyện” (pāci. 838), ngay cả lời nói xấu xa cũng là đối tượng của tội Ưng Đối Trị. Do đó, ý định của họ là không được nói, vì nếu không, phẩm Bất Định sẽ không có tội.

Pakiṇṇakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về đề tài linh tinh đã kết thúc.

Aniyatakaṇḍaṃ niṭṭhitaṃ.
Phẩm Bất Định đã kết thúc.

4. Nissaggiyakaṇḍo
4. Phẩm Ưng Xả

1. Cīvaravaggo

1. Phẩm Y

1. Paṭhamakathinasikkhāpadavaṇṇanā
1. Diễn giải học giới về Kathina thứ nhất

459.Samitāvināti samitā’nena kilesāti samitāvī, tena samitāvinā. ‘‘Tīṇi cīvarānī’’ti vattabbe ‘‘ticīvara’’nti vuttaṃ. Saṅkhyāpubbo digunekavacananti ettha lakkhaṇaṃ veditabbaṃ. Taṃ pana adhiṭṭhitassapi anadhiṭṭhitassapi nāmaṃ ‘‘ekarattampi ce bhikkhu ticīvarena vippavaseyyā’’tiādīsu ticīvarādhiṭṭhānena adhiṭṭhitassa nāmaṃ. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ticīvaraṃ adhiṭṭhātu’’nti (mahāva. 358) ettha anadhiṭṭhitassa nāmaṃ, idha tadubhayampi sambhavati. ‘‘Bhagavatā bhikkhūnaṃ ticīvaraṃ anuññātaṃ hotī’’ti ettha adhiṭṭhitameva. ‘‘Aññeneva ticīvarena gāmaṃ pavisantī’’ti ettha anadhiṭṭhitameva. Ekasmiṃyeva hi cīvare ticīvarādhiṭṭhānaṃ ruhati, na itarasmiṃ pattādhiṭṭhānaṃ viya, tasmā itaraṃ atirekaṭṭhāne tiṭṭhati. Tena vuttaṃ ‘‘kathañhi nāma chabbaggiyā bhikkhū atirekacīvaraṃ dhāressantī’’tiādi.
459. Bởi người đã dập tắt, là người đã dập tắt phiền não bằng nó, là người đã dập tắt, bởi người đó. Khi lẽ ra phải nói “ba y,” lại được nói “ba y.” Cần phải biết đặc điểm ở đây là hợp từ có số từ ở đầu, là một loại hợp từ chỉ số lượng, ở số ít. Và đó là tên của cả y đã được xác quyết và chưa được xác quyết. Trong các câu như “nếu Tỳ-khưu xa lìa ba y dù chỉ một đêm” và các câu tương tự, là tên của y đã được xác quyết bằng việc xác quyết ba y. Trong câu “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xác quyết ba y” (mahāva. 358), là tên của y chưa được xác quyết. Ở đây, cả hai đều có thể có. Trong câu “Thế Tôn đã cho phép ba y cho các Tỳ-khưu,” chính là y đã được xác quyết. Trong câu “họ vào làng với ba y khác,” chính là y chưa được xác quyết. Bởi vì việc xác quyết ba y chỉ có hiệu lực đối với một y, không phải đối với cái khác, giống như việc xác quyết bát. Do đó, cái khác ở trong tình trạng thừa. Do đó, đã được nói “làm sao mà các Tỳ-khưu thuộc nhóm sáu vị lại có thể giữ y thừa” và các câu tương tự.

460-1. Paṭhamapaññattiyā panettha ekarattampi atirekacīvaraṃ dhāreyya, nissaggiyaṃ vuttaṃ hoti, tato paraṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāretuṃ. Evañca pana, bhikkhave, imaṃ sikkhāpadaṃ uddiseyyātha ‘dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāretabbaṃ, taṃ atikkāmayato nissaggiyaṃ pācittiya’’’nti evaṃ bhagavā paripuṇṇaṃ sikkhāpadaṃ paññāpesi. Atha pacchimabodhiyaṃ ajātasattukāle kathinaṃ anuññātaṃ, tato paṭṭhāya bhikkhū idaṃ sikkhāpadaṃ ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine dasāha…pe… pācittiya’’nti uddisanti, esa nayo dutiyatatiyakathinesupi. Tathāpi kaṅkhāvitaraṇiyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. kathinasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘dasāhaparamanti ayamettha anupaññattī’’ti ettakaṃyeva vuttaṃ, tasmā ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine’’ti vacanaṃ na paññatti, na ca anupaññattīti siddhaṃ. Na hi paññattivatthusmiṃ, anupaññattivatthumhi vā kathinādhikāro dissatīti yathāvuttanayova sāroti niṭṭhamettha gantabbaṃ. Athāpi siyā ‘‘kathinassuppattikālato paṭṭhāya bhagavato vacanaṃ anupaññattibhāvena vutta’’nti. Yadi evaṃ dve anupaññattiyo siyuṃ, tato parivāre (pari. 24) ‘‘ekā anupaññattī’’tivacanavirodho. Apica yathāvuttanayadīpanatthaṃ idha taṃ vacanaṃ paṭhamapaññattikāle avatvā pacchā vuttaṃ. Ettha sādhitattā dutiyatatiyesu pacchā vuttapaṭhamapaññattīsu evaṃ vuttaṃ. Aññathā tatthapi taṃ vacanaṃ pacchā vattabbaṃ siyā. Anugaṇṭhipade pana ‘‘pacchā vuttabhāvaṃ sandhāya niṭṭhitacīvarasmintiādīsu anupaññattī’’ti vuttaṃ. Sekkhaputhujjanānaṃ pemaṃ, arahantānaṃ gāravo. Dasamaṃ vā navamaṃ vāti ettha bhummatthe upayogavacanaṃ.
460-1. Trong chế định đầu tiên ở đây, đã được nói rằng nếu giữ y thừa dù chỉ một đêm, thì phải từ bỏ. Sau đó, Thế Tôn đã chế định một học giới hoàn chỉnh như vầy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép giữ y thừa tối đa mười ngày. Và này các Tỳ-khưu, các con hãy tụng đọc học giới này như vầy ‘phải giữ y thừa tối đa mười ngày, người nào vượt quá thời gian đó, thì phạm tội Ưng Đối Trị cần phải từ bỏ’.” Sau đó, vào cuối thời kỳ Bồ-đề, vào thời của Ajātasattu, Kathina đã được cho phép. Từ đó trở đi, các Tỳ-khưu tụng đọc học giới này: “khi Tỳ-khưu đã xong việc may y, và sau khi đã xả Kathina, mười ngày… cho đến… tội Ưng Đối Trị.” Cách này cũng áp dụng cho các học giới Kathina thứ hai và thứ ba. Tuy nhiên, trong Kaṅkhāvitaraṇī (kaṅkhā. aṭṭha. kathinasikkhāpadavaṇṇanā), chỉ có chừng ấy được nói: “tối đa mười ngày, đây là chế định bổ sung ở đây.” Do đó, đã được xác định rằng lời nói “khi Tỳ-khưu đã xong việc may y, và sau khi đã xả Kathina” không phải là chế định, cũng không phải là chế định bổ sung. Bởi vì trong sự việc của chế định hoặc sự việc của chế định bổ sung, không thấy có quyền hạn về Kathina. Do đó, cần phải đi đến kết luận rằng chính cách đã được nói là cốt lõi. Và cũng có thể có rằng “lời nói của Thế Tôn, từ khi Kathina phát sinh, đã được nói theo cách của chế định bổ sung.” Nếu vậy, sẽ có hai chế định bổ sung. Sau đó, sẽ có sự mâu thuẫn với lời nói trong Parivāra (pari. 24): “có một chế định bổ sung.” Hơn nữa, để trình bày cách đã được nói, lời nói đó ở đây, thay vì được nói trong khi chế định đầu tiên, lại được nói sau. Ở đây, vì đã được chứng minh, nên đã được nói như vậy trong các chế định đầu tiên đã được nói sau, trong tội thứ hai và thứ ba. Nếu không, ở đó cũng lẽ ra phải nói lời nói đó sau. Còn trong Anugaṇṭhipade, đã được nói: “để chỉ trạng thái đã được nói sau, trong các câu như ‘khi đã xong việc may y’ và các câu tương tự, là chế định bổ sung.” Đối với các bậc hữu học và phàm phu là tình yêu. Đối với các bậc A-la-hán là sự kính trọng. Trong câu hoặc là thứ mười hoặc là thứ chín, ở đây, là lời nói chỉ sự sử dụng trong ý nghĩa vị trí.

462-3.Niṭṭhitacīvarasminti idaṃ kevalaṃ cīvarapalibodhābhāvamattadīpanatthaṃ vuttaṃ, tasmā ‘‘naṭṭhaṃ vā vinaṭṭhaṃ vā daḍḍhaṃ vā cīvarāsā vā upacchinnā’’ti vuttaṃ. Yadi dasāhaparamaṃ dhāretabbacīvaradassanatthaṃ vuttaṃ siyā, naṭṭhādikaṃ so dhāreyya. Dhāraṇañcettha ṭhapanaṃ, paribhogo vā. Taṃ dvayaṃ katepi yujjati, akatepi yujjati, tasmā ‘‘kataṃ vā hotī’’tipi na vattabbaṃ. Na hi katameva atikkāmayato nissaggiyanti, tasmā yaṃ cīvaraṃ upādāya ‘‘niṭṭhitacīvarasmi’’nti vuttaṃ. Tampi ubbhatasmiṃ kathine dasāhaparamaṃ kālaṃ dhāretabbanti attho nalabeltree. Tañhi cīvaraṃ santañce, ubbhatasmiṃ kathine ekadivasampi parihāraṃ na labbhati. Apica ‘‘cīvaraṃ nāma vikappanupagaṃ pacchima’’nti vuttaṃ. Tattha ca kataṃ nāma hoti, tasmāpi na taṃ sandhāya dhāretabbanti vuttanti veditabbaṃ asambhavato.
462-3. Khi đã xong việc may y, điều này chỉ được nói để trình bày sự không còn vướng bận về y. Do đó, đã được nói “hoặc là đã bị mất, hoặc là đã bị hư hỏng, hoặc là đã bị cháy, hoặc là hy vọng về y đã bị cắt đứt.” Nếu được nói để trình bày y cần phải được giữ tối đa mười ngày, thì người đó sẽ giữ y đã bị mất và các trường hợp khác. Và ở đây, việc giữ là cất giữ hoặc là dùng. Cả hai điều đó, dù đã làm hay chưa làm, cũng đều hợp lý. Do đó, cũng không cần phải nói “hoặc là đã được làm.” Bởi vì không phải chỉ đối với người vượt quá thời gian của y đã được làm mới là phải từ bỏ. Do đó, ý nghĩa là, y nào, mà dựa vào đó đã được nói “khi đã xong việc may y,” thì sau khi đã xả Kathina, cũng phải được giữ trong thời gian tối đa mười ngày. Bởi vì y đó, nếu có, thì sau khi đã xả Kathina, không được hưởng sự miễn trừ dù chỉ một ngày. Hơn nữa, đã được nói “y là vật cuối cùng có thể được định đoạt.” Và ở đó, được gọi là đã được làm. Do đó, cần phải biết rằng không phải để chỉ điều đó mà đã được nói “phải được giữ,” vì không thể có.

Anugaṇṭhipade panetaṃ vuttaṃ ‘‘tattha siyā – tassa bhikkhuno cīvaraṃ naṭṭhādīsu aññataraṃ yadi bhaveyya, katamaṃ cīvaraṃ dasāhaparamaṃ dhāreyya. Yasmā dhāretabbacīvaraṃ natthi, tasmā atthuddhāravasena karaṇapalibodhadassanatthaṃ ‘naṭṭhaṃ vā’tiādipadāni vuttāni. Ayaṃ panattho ‘naṭṭhaṃ vā’tiādinā nayena vuttacīvarānaṃ aññatarasmiṃ cīvare asatio, sati taṃ dasāhaparamaṃ atikkāmayato nissaggiyaṃ. Esa nayo sabbattha. ‘Kataṃ vā hotī’ti vuttacīvaramevādhippetaṃ. Kasmā pana katacīvaraṃ imasmiṃ atthe adhippetanti na vuttanti ce? Pākaṭattā. Kathaṃ? Naṭṭhavinaṭṭhacīvarādīnaṃ dhāraṇassa abhāvato katacīvarameva idhādhippetanti pākaṭaṃ. Yathā kiṃ? Yathā paṭhamāniyate methunakāyasaṃsaggarahonisajjānamevāgatattā sotassa raho atthuddhāravasena vuttoti pākaṭo, tasmā ‘cakkhussa raho itarasmiṃ atthe adhippeto’ti na vutto. Evaṃsampadamidanti veditabbaṃ. ‘Kataṃ vā hotī’ti idaṃ na vattabbaṃ, kasmā? Akataṃ atikkāmayatopi nissaggiyattā, kiñcāpi nissaggiyaṃ hoti , idha pana ticīvarādhiṭṭhānamadhippetaṃ. Tasmiṃ ticīvarādhiṭṭhāne akataṃ, arajitaṃ, akappiyakatañca ‘imaṃ saṅghāṭiṃ adhiṭṭhāmī’tiādinā nayena adhiṭṭhātuṃ na vaṭṭati, tadatthadīpanatthaṃ ‘kataṃ vā hotī’ti vuttaṃ. Itarathā ‘niṭṭhitacīvarasmiṃ paṭiladdhe’ti vadeyya, evaṃ sante ticīvaraṃ dasāhaṃ atikkāmayato nissaggiyanti kathaṃ paññāyatīti ce? Vacanappamāṇato. ‘Anujānāmi, bhikkhave, ticīvaraṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetu’nti vuttattā idhāpi ‘atirekacīvaraṃ nāma anadhiṭṭhita’nti ettakameva vattabbaṃ siyā. Yasmā ‘kataṃ vā hotī’ti vacanena idhādhippetacīvarena saddhiṃ sesampi dasāhaparamato uttari dhāretuṃ na labbhatīti anujānanto ‘atirekacīvaraṃ nāma anadhiṭṭhitaṃ avikappita’nti āha. Tattha siyā – yathā ‘avikappita’nti atthuddhāravasena vuttaṃ, tathā ‘vikappanupagaṃ pacchima’ntipi. Kasmā? Yasmā ticīvarameva dasāhaparamaṃ dhāretabbaṃ ‘niṭṭhitacīvarasmi’ntiādianupaññattivasena. Itarathā ekāhātikkamepi nissaggiyaṃ hoti ‘yo pana, bhikkhu, atirekacīvaraṃ dhāreyya, nissaggiyaṃ pācittiya’nti Yamakato. Na ticīvarato aññampi cīvaraṃ dasāhaparamaṃ dhāretabbaṃ, tato paraṃ nissaggiyaṃ ‘antodasāha’nti vuttattā. Yathāha ‘anāpatti antodasāhaṃ adhiṭṭheti, vikappetī’ti, itarathā ‘antodasāhaṃ adhiṭṭhetī’ti vacanamattameva bhaveyya, tasmā aṭṭhakathāyaṃ vuttanayeneva atthoo. Idaṃ sabbaṃ apare vadantī’’ti. Ettha antokathine uppannacīvaraṃ katameva santañce, dasāhaparamaṃ dhāretabbanti idañcimassa sādhanatthaṃ vuttavacanañca parato idheva vuttavicāraṇāya yathāvuttayuttiyā ca virujjhatīti na gahetabbaṃ.
Còn trong Anugaṇṭhipade, điều này đã được nói: “ở đó, có thể có – nếu y của Tỳ-khưu đó bị mất và các trường hợp khác, thì y nào sẽ được giữ tối đa mười ngày? Bởi vì không có y để giữ, do đó, đã được nói các từ ‘hoặc là đã bị mất’ và các từ tương tự để trình bày sự vướng bận về việc làm, theo cách trích dẫn ý nghĩa. Và ý nghĩa này là, ngay cả khi không có y đã được nói theo cách ‘hoặc là đã bị mất’ và các cách khác, thì đối với người vượt quá thời gian tối đa mười ngày, là phải từ bỏ. Cách này áp dụng ở khắp mọi nơi. ‘Hoặc là đã được làm,’ chính là y đã được nói được hàm ý. Nhưng tại sao không được nói ‘y đã được làm được hàm ý trong ý nghĩa này’? Vì rõ ràng. Như thế nào? Vì không có việc giữ y đã bị mất, hư hỏng và các trường hợp khác, nên rõ ràng là chính y đã được làm được hàm ý ở đây. Giống như thế nào? Giống như trong tội Bất Định thứ nhất, vì chỉ có dâm dục, tiếp xúc thân thể, và ngồi ở nơi kín đáo, nên nơi kín đáo của tai được nói theo cách trích dẫn ý nghĩa là rõ ràng. Do đó, không được nói ‘nơi kín đáo của mắt được hàm ý trong ý nghĩa khác.’ Cần phải biết điều này như vậy. ‘Hoặc là đã được làm,’ điều này không cần phải nói. Tại sao? Vì ngay cả khi vượt quá thời gian của y chưa được làm cũng là phải từ bỏ. Mặc dù là phải từ bỏ, nhưng ở đây, việc xác quyết ba y được hàm ý. Trong việc xác quyết ba y đó, y chưa được làm, chưa được nhuộm, và chưa được làm hợp lệ, không được phép xác quyết theo cách ‘tôi xác quyết y tăng-già-lê này’ và các cách khác. Để trình bày ý nghĩa đó, đã được nói ‘hoặc là đã được làm.’ Nếu không, lẽ ra phải nói ‘khi đã nhận được sau khi đã xong việc may y.’ Nếu như vậy, làm thế nào để biết rằng đối với người vượt quá mười ngày đối với ba y, là phải từ bỏ? Do tiêu chuẩn của lời nói. Vì đã được nói ‘Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xác quyết ba y, không định đoạt,’ nên ở đây cũng lẽ ra chỉ cần nói chừng ấy ‘y thừa là y chưa được xác quyết.’ Bởi vì Ngài, sau khi đã cho phép rằng ngay cả y đã được nói ‘hoặc là đã được làm,’ cùng với các y khác, cũng không được phép giữ quá mười ngày, đã nói ‘y thừa là y chưa được xác quyết, chưa được định đoạt.’ Ở đó, có thể có – giống như ‘chưa được định đoạt’ đã được nói theo cách trích dẫn ý nghĩa, cũng vậy ‘vật cuối cùng có thể được định đoạt.’ Tại sao? Bởi vì chính ba y mới phải được giữ tối đa mười ngày, theo cách của chế định bổ sung ‘khi đã xong việc may y’ và các câu tương tự. Nếu không, ngay cả khi vượt quá một ngày cũng là phải từ bỏ, từ Yamaka ‘Tỳ-khưu nào giữ y thừa, thì phạm tội Ưng Đối Trị cần phải từ bỏ.’ Không có y nào khác ngoài ba y phải được giữ tối đa mười ngày, và sau đó là phải từ bỏ, vì đã được nói ‘trong vòng mười ngày.’ Như Ngài đã nói ‘không phạm tội, trong vòng mười ngày, xác quyết, định đoạt.’ Nếu không, sẽ chỉ là lời nói ‘trong vòng mười ngày, xác quyết.’ Do đó, ý nghĩa theo cách đã được nói trong Chú giải. Tất cả những điều này, những người khác đã nói.” Ở đây, không nên chấp nhận rằng y phát sinh trong thời gian Kathina, nếu đã được làm, phải được giữ tối đa mười ngày, và lời nói đã được nói để chứng minh điều này, vì nó mâu thuẫn với sự xem xét đã được nói chính ở đây ở phần sau, và với lý lẽ đã được nói.

Idheva vuttavicāraṇā nāma – ‘‘sve kathinuddhāro bhavissatī’’ti ajja uppannacīvaraṃ tadaheva anadhiṭṭhahantassa aruṇuggamane nissaggiyaṃ. Kasmā? ‘‘Niṭṭhitacīvarasmi’’ntiādinā sikkhāpadassa vuttattā. Antokathine atirekadasāhampi parihāraṃ labhati, kathinato uddhaṃ ekadivasampi na labhati. Yathā kiṃ? Yathā atthatakathino saṅgho atthatadivasato paṭṭhāya yāva ubbhārā ekadivasāvasesepi kathinubbhāre ānisaṃsaṃ labhati, punadivase na labhati. Sace satisammosā bhājanīyacīvaraṃ na bhājitaṃ, punadivase anatthatakathinānampi sādhāraṇaṃ hoti. Divasā ce sāvasesā, atthatakathinasseva saṅghassa pāpuṇāti, evameva atthatadivasato paṭṭhāya yāva ubbhārā anadhiṭṭhitaṃ avikappitaṃ vaṭṭati anuññātadivasabbhantarattā. Kathinadivaso gaṇanupago hoti, ubbhatadivasato paṭṭhāya dasāhaparamaṃ kālaṃ uppannacīvaraṃ parihāraṃ labhati, tato paraṃ na labhati. Kasmā? ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāretu’’nti Yamakato. Antokathinepi ekādase aruṇuggamane nissaggiyappasaṅgaṃ ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ ubbhatasmiṃ kathine’’ti ayaṃ anupaññatti vāretvā ṭhitā, na ca te divase adivase akāsīti. Tathā tatiyakathine ca vicāritaṃ ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine bhikkhuno paneva akālacīvaraṃ uppajjeyyā’ti vadantena bhagavatā yaṃ mayā heṭṭhā paṭhamasikkhāpade ‘dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāretabba’nti anuññātaṃ, tampi kathinamāsato bahi uppannameva, na antoti dīpitaṃ hotī’’ti ca, ‘‘‘kālepi ādissa dinnaṃ etaṃ akālacīvara’nti (pārā. 500) Yamakato kathinubbhārato uddhaṃ dasāhaparihāraṃ na labhatīti dīpitaṃ hoti, tehi saddhiṃ puna kathinubbhārato uddhaṃ pañca divasāni labhatīti pasaṅgopi ‘niṭṭhitacīvar…pe… khippameva kāretabba’nti akālacīvarassa uppattikālaṃ niyametvā vuttattā vārito hoti. Tadubhayena kathinabbhantare uppannacīvaraṃ kathinubbhārato uddhaṃ ekadivasampi parihāraṃ na labhatīti siddhaṃ hotī’’ti ca. Tasmā duvidhampetaṃ vicāraṇaṃ sandhāya amhehi ‘‘idheva vuttavicāraṇāya yathāvuttayuttiyā ca virujjhatīti na gahetabba’’nti vuttanti veditabbaṃ.
Sự xem xét đã được nói chính ở đây là – y phát sinh hôm nay, khi “ngày mai sẽ là ngày xả Kathina,” đối với người không xác quyết ngay trong ngày đó, thì vào lúc rạng đông, là phải từ bỏ. Tại sao? Vì học giới đã được nói bằng câu “khi đã xong việc may y” và các câu tương tự. Trong thời gian Kathina, được hưởng sự miễn trừ ngay cả khi quá mười ngày. Sau khi xả Kathina, không được hưởng dù chỉ một ngày. Giống như thế nào? Giống như Tăng chúng đã thọ Kathina, từ ngày đã thọ cho đến khi xả, ngay cả khi chỉ còn một ngày trước khi xả Kathina, cũng được hưởng lợi ích. Ngày hôm sau thì không được. Nếu do vô ý mà y cần phải được chia đã không được chia, thì ngày hôm sau nó sẽ trở thành của chung ngay cả đối với những người chưa thọ Kathina. Nếu còn ngày, thì thuộc về chính Tăng chúng đã thọ Kathina. Cũng vậy, từ ngày đã thọ cho đến khi xả, được phép có y chưa được xác quyết, chưa được định đoạt, vì ở trong những ngày đã được cho phép. Ngày Kathina được tính. Từ ngày đã xả trở đi, y phát sinh được hưởng sự miễn trừ trong thời gian tối đa mười ngày. Sau đó thì không được. Tại sao? Từ Yamaka “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép giữ y thừa tối đa mười ngày.” Khả năng phải từ bỏ vào lúc rạng đông của ngày thứ mười một ngay cả trong thời gian Kathina đã bị chế định bổ sung này “khi đã xong việc may y, sau khi đã xả Kathina” ngăn chặn, và Ngài đã không làm cho những ngày đó trở thành không phải là ngày. Cũng vậy, trong học giới Kathina thứ ba, cũng đã được xem xét: “Thế Tôn, khi nói ‘khi Tỳ-khưu đã xong việc may y, và sau khi đã xả Kathina, nếu Tỳ-khưu có y trái thời phát sinh,’ đã trình bày rằng điều mà Ta đã cho phép ở dưới, trong học giới đầu tiên ‘phải giữ y thừa tối đa mười ngày,’ cũng chính là y đã phát sinh ngoài tháng Kathina, không phải là trong.” Và “từ Yamaka ‘ngay cả y đã được cho với ý định trong thời gian, cũng là y trái thời này’ (pārā. 500), đã được trình bày rằng sau khi xả Kathina, không được hưởng sự miễn trừ mười ngày. Và khả năng có thể được hưởng năm ngày sau khi xả Kathina cùng với họ cũng đã bị ngăn chặn, vì đã được nói sau khi đã xác định thời gian phát sinh của y trái thời ‘khi đã xong việc may y… cho đến… phải được làm nhanh chóng.’ Bằng cả hai điều đó, đã được xác định rằng y phát sinh trong thời gian Kathina, sau khi xả Kathina, không được hưởng sự miễn trừ dù chỉ một ngày.” Do đó, cần phải biết rằng, để chỉ cả hai loại xem xét này, chúng tôi đã nói: “không nên chấp nhận vì nó mâu thuẫn với sự xem xét đã được nói chính ở đây, và với lý lẽ đã được nói.”

Etthāha – ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ ubbhatasmiṃ kathine’’ti idaṃ bhummaṃ kiṃ cīvarassa uppatti niyameti, udāhu dhāraṇaṃ, udāhu ubhayanti, kiñcettha, yadi uppattiṃ niyameti, pacchimakattikamāse eva ubbhatasmiṃ kathine uppannacīvaraṃ tato paṭṭhāya dasāhaṃ dhāretabbaṃ aniṭṭhitepi tasmiṃ māseti āpajjati. Atha dhāraṇaṃ niyameti, antokathine uppannacīvaraṃ ubbhatepi dasāhaparamaṃ dhāretabbanti āpajjati. Atha ubhayaṃ niyameti, tatiyakathine viya visesetvā vattabbanti? Vuccate – kāmaṃ ubhayaṃ niyameti, na pana visesane payojanaṃ atthi. Yaṃ antokathine uppannacīvaraṃ sandhāya ‘‘niṭṭhitacīvarasmi’’nti vuttaṃ, na taṃ sandhāya ‘‘dhāretabba’’nti vuttaṃ, sādhitañhetaṃ. ‘‘Kataṃ vā hotī’’tiādivacanato tadatthasiddhi, tena puna visesane payojanaṃ natthi, na hi katameva nissaggiyaṃ karoti, na ca naṭṭhādikaṃ dhāretuṃ sakkāti. Yena vā adhippāyena bhagavatā idaṃ sikkhāpadaṃ paññattaṃ, so adhippāyo tatiyakathine pakāsitoti veditabbo. Kasmā tattha pakāsitoti ce? Visesavidhānadassanādhippāyato. Visesavidhānañhi ‘‘no cassa pāripūrī’’tiādi. Tatthāpi ‘‘cīvaraṃ uppajjeyyā’’ti avatvā ‘‘akālacīvaraṃ uppajjeyyā’’ti visesanena ubbhatepi kathine kālacīvaraṃ atthīti dīpeti. Kiñcetaṃ? Pacchimakattikamāse uppannacīvaraṃ, teneva tattha ‘‘anatthate kathine ekādasamāse uppanna’’nti vuttaṃ, tasmā uppattiniyame vuttadosābhāvasiddhi. Yañca tattha ‘‘kālepi ādissa dinnaṃ etaṃ akālacīvaraṃ nāmā’’ti vuttaṃ, tassa dve atthavikappā. Ādesavasena ‘‘akālacīvara’’nti laddhasaṅkhyampi kāle uppannattā kālaparihāraṃ labhati, pagevānādesanti ayaṃ paṭhamo vikappo uppattiniyame vuttadosābhāvameva upatthambheti. Tathā ādesavasena akālacīvarasaṅkhyaṃ gataṃ cīvarakāle uppannattā cīvarakālato paraṃ dasāhaparihāraṃ na labhati, pagevānādesanti ayaṃ dutiyo dhāraṇaniyame vuttadosābhāvameva upatthambheti. Yadi evaṃ ādesavasena akālacīvarassa akālacīvaratā kimatthikāti ce? Saṅghuddesikassa tassa atthatakathinassapi bhikkhusaṅghassa sādhāraṇabhāvatthikāti veditabbā.
Vị ấy nói ở đây – vị trí cách này “khi đã xong việc may y, sau khi đã xả Kathina,” nó xác định sự phát sinh của y, hay là việc giữ, hay là cả hai? Ở đây, nếu nó xác định sự phát sinh, sẽ dẫn đến việc y phát sinh sau khi đã xả Kathina chính vào tháng Kattika cuối cùng, phải được giữ trong mười ngày từ đó trở đi, ngay cả khi tháng đó chưa kết thúc. Còn nếu nó xác định việc giữ, sẽ dẫn đến việc y phát sinh trong thời gian Kathina, ngay cả sau khi đã xả, cũng phải được giữ tối đa mười ngày. Còn nếu nó xác định cả hai, thì lẽ ra phải được nói một cách đặc biệt, giống như trong học giới Kathina thứ ba? Xin thưa – dù nó xác định cả hai, nhưng không có mục đích trong việc đặc tả. Bởi vì điều đã được nói “khi đã xong việc may y” để chỉ y phát sinh trong thời gian Kathina, thì không phải để chỉ điều đó mà đã được nói “phải được giữ.” Điều này đã được chứng minh. Ý nghĩa đó được xác định từ lời nói “hoặc là đã được làm” và các lời nói khác. Do đó, không có mục đích trong việc đặc tả lại. Bởi vì không phải chỉ y đã được làm mới làm cho phải từ bỏ, và cũng không thể giữ y đã bị mất và các trường hợp khác. Hoặc là cần phải biết rằng ý định nào mà Thế Tôn đã chế định học giới này, thì ý định đó đã được làm sáng tỏ trong học giới Kathina thứ ba. Nếu hỏi tại sao lại được làm sáng tỏ ở đó? Do ý định trình bày quy định đặc biệt. Bởi vì quy định đặc biệt là “nếu chưa đủ” và các quy định khác. Ở đó cũng vậy, bằng việc đặc tả “nếu y trái thời phát sinh,” không nói “nếu y phát sinh,” Ngài trình bày rằng ngay cả sau khi đã xả Kathina, cũng có y đúng thời. Đó là gì? Là y phát sinh vào tháng Kattika cuối cùng. Chính vì vậy, ở đó đã được nói “đã phát sinh trong mười một tháng khi chưa thọ Kathina.” Do đó, đã xác định được sự không có lỗi đã được nói trong quy luật về sự phát sinh. Và điều đã được nói ở đó “ngay cả y đã được cho với ý định trong thời gian, cũng chính là y trái thời,” có hai cách giải thích ý nghĩa. Cách đầu tiên, theo cách chỉ định, dù đã có tên gọi “y trái thời,” nhưng vì phát sinh trong thời gian, nên được hưởng sự miễn trừ về thời gian, huống chi là không chỉ định, củng cố chính sự không có lỗi đã được nói trong quy luật về sự phát sinh. Cũng vậy, cách thứ hai, y đã có tên gọi y trái thời theo cách chỉ định, vì phát sinh trong thời gian y, nên không được hưởng sự miễn trừ mười ngày sau thời gian y, huống chi là không chỉ định, củng cố chính sự không có lỗi đã được nói trong quy luật về việc giữ. Nếu vậy, nếu hỏi tính chất y trái thời của y trái thời theo cách chỉ định để làm gì? Cần phải biết là để cho y được cúng dường cho Tăng chúng đó có tính chất chung cho cả Tăng chúng Tỳ-khưu đã thọ Kathina.

Apica puggalassa kathinadivasāpi divasāva. Evaṃ gaṇanupagattā akālacīvarasaṅkhayāpaṭilābhānubhāvena ‘‘ubbhatasmiṃ kathine’’ti vacanāpekkhassa anissaggiyattā tadanulomattā ‘‘kālacīvarassapī’’ti evaṃ sabbathā catubbidhaṃ ettha vacananti veditabbaṃ. Apica atthi ekaccena kathinuddhārena ubbhate kathine uppannaṃ ekaccassa bhikkhuno kālacīvaraṃ hoti, ekaccassa akālacīvaraṃ, taṃ sīmātikkantassa, no ubbhāragataṃ. Taṃ dvinnaṃ vasena ubbhate uppannaṃ ṭhapetvā itaresaṃ aññatarena ubbhate uppannanti veditabbaṃ. Tañhi yassa ubbhataṃ, tassa akālacīvaraṃ, itarassa kālacīvaraṃ. Tathā atthi ekaccena kathinuddhārena ubbhate kathine uppannaṃ sabbassapi akālacīvarameva hoti. Taṃ yathāṭhapitaṃ veditabbaṃ. Tathā atthi ubbhatasmiṃ kathine uppannaṃ ṭhapetvā vassānassa pacchime māse uppannaṃ. Tathā atthi ubbhatasmiṃ kathine uppannaṃ akālacīvaraṃ, taṃ hemante, gimhe vā uppannanti veditabbaṃ. Evaṃ puggalakālabhedato bahuvidhattā uppannassa ‘‘ubbhatasmiṃ kathine uppanna’’nti na vuttanti veditabbaṃ. Anekaṃsikattā imampi atthavikappaṃ dassetuṃ ‘‘ubbhatasmiṃ kathineti bhikkhuno kathinaṃ ubbhataṃ hotī’’ti. Ettāvatā siddhepi ‘‘aṭṭhannaṃ mātikānaṃ aññatarāyā’’tiādi vuttaṃ. ‘‘Dhārayāmī’’ti bhikkhunīvibhaṅge āgatoti Yamakato. ‘‘Eva’’nti vacanena vacanabhedo tattha natthīti vuttaṃ hoti.
Hơn nữa, ngay cả các ngày Kathina của cá nhân cũng chính là ngày. Vì được tính như vậy, và do năng lực có được tên gọi y trái thời, và vì không phải từ bỏ do phụ thuộc vào lời nói “sau khi đã xả Kathina,” và vì phù hợp với đó “ngay cả y đúng thời,” nên cần phải biết rằng ở đây có bốn loại lời nói theo mọi cách. Hơn nữa, có y phát sinh khi Kathina đã được xả bằng một cách xả Kathina nào đó, đối với một số Tỳ-khưu là y đúng thời, đối với một số là y trái thời. Đó là đối với người đã vượt qua ranh giới, không phải là người đã đi đến việc xả. Cần phải biết rằng đã phát sinh khi đã được xả theo cách của hai người, trừ khi đã phát sinh khi đã được xả bởi một trong những người còn lại. Bởi vì đối với người nào đã được xả, thì đó là y trái thời. Đối với người khác, là y đúng thời. Cũng vậy, có y phát sinh khi Kathina đã được xả bằng một cách xả Kathina nào đó, đối với tất cả mọi người cũng chính là y trái thời. Cần phải biết điều đó như đã được đặt. Cũng vậy, có y phát sinh khi Kathina đã được xả, trừ y phát sinh vào tháng cuối cùng của mùa mưa. Cũng vậy, cần phải biết rằng có y phát sinh khi Kathina đã được xả, là y trái thời. Đó là y phát sinh vào mùa đông hoặc mùa hè. Cần phải biết rằng vì có nhiều loại do sự khác biệt về cá nhân và thời gian của y đã phát sinh, nên không được nói “đã phát sinh khi Kathina đã được xả.” Vì không chắc chắn, để trình bày cả cách giải thích ý nghĩa này, đã được nói: “khi Kathina đã được xả, là Kathina của Tỳ-khưu đã được xả.” Bằng chừng ấy, dù đã được xác định, cũng đã được nói “bằng một trong tám đề mục” và các câu tương tự. “Tôi giữ,” đã có trong phần phân tích của Tỳ-khưu-ni, từ Yamaka. Bằng từ “chính,” đã được nói rằng không có sự khác biệt về lời nói ở đó.

‘‘Vikappanupagaṃ pacchima’’nti idaṃ sabbasaṅgāhikattā vuttaṃ. ‘‘Adhiṭṭhānupagaṃ pacchima’’nti asabbasaṅgāhikaṃ. Na hi yattakaṃ saṅghāṭi adhiṭṭhānupagaṃ pacchimaṃ, tattakaṃ antaravāsakādi adhiṭṭhānupagaṃ pacchimaṃ hoti adhiṭṭhānassa bahuvidhattā. Na evaṃ vikappanāya bhedo tassā ekavidhattāti veditabbaṃ. ‘‘Ekādase aruṇuggamane nissaggiya’’nti antimaṃ ṭhapetvā tato purimatarasminti attho veditabbo. Antimaṃ nāma aparakattikāya paṭhamāruṇuggamanaṃ. Tañhi kālattā nissaggiyaṃ na karoti, tenevāha accekacīvarasikkhāpadaṭṭhakathāyaṃ ‘‘chaṭṭhito paṭṭhāya pana uppannaṃ anaccekacīvarampi paccuddharitvā ṭhapitacīvarampi etaṃ parihāraṃ labhatiyevā’’ti (pārā. aṭṭha. 2.646-9). Imaṃyeva nayaṃ sandhāya ‘‘accekacīvarassa anatthate kathine ekādasadivasādhiko māso, atthate kathine ekādasadivasādhikā pañca māsā, tato paraṃ ekadivasampi parihāro natthī’’ti tatthevāha. Imasmiṃ naye siddhe anaccekacīvaraṃ dvādasāhe na labhatīti siddhameva hoti. Tato ‘‘anaccekacīvare anaccekacīvarasaññī, anāpattī’’ti (pārā. 650) ettha accekacīvarasadise aññasmiṃ anadhiṭṭhiteti siddhaṃ hoti. Tattha pana ‘‘pañca māsā’’ti ukkaṭṭhaparicchedavacanaṃ. Vassikasāṭikañca avassikasāṭikabhāvaṃ patvā ekādasamāse parihāraṃ labhatīti veditabbaṃ.
Vật cuối cùng có thể được định đoạt, điều này đã được nói vì bao gồm tất cả. Vật cuối cùng có thể được xác quyết, là không bao gồm tất cả. Bởi vì không phải chừng nào y tăng-già-lê là vật cuối cùng có thể được xác quyết, thì chừng đó nội y và các y khác cũng là vật cuối cùng có thể được xác quyết, vì có nhiều loại xác quyết. Cần phải biết rằng không có sự khác biệt đối với việc định đoạt như vậy, vì nó chỉ có một loại. Vào lúc rạng đông của ngày thứ mười một, là phải từ bỏ, cần phải biết ý nghĩa là trước ngày cuối cùng. Ngày cuối cùng là rạng đông đầu tiên của tháng Kattika sau. Bởi vì nó, do là đúng thời, không làm cho phải từ bỏ. Chính vì vậy, Ngài đã nói trong Chú giải học giới về y gấp: “còn y phát sinh từ ngày thứ sáu trở đi, ngay cả y không phải là y gấp, và y đã được đặt xuống sau khi đã hủy bỏ, cũng chính là được hưởng sự miễn trừ này” (pārā. aṭṭha. 2.646-9). Chính để chỉ cách này, Ngài đã nói ở chính đó: “đối với y gấp, khi chưa thọ Kathina, là một tháng và mười một ngày. Khi đã thọ Kathina, là năm tháng và mười một ngày. Sau đó, không có sự miễn trừ dù chỉ một ngày.” Khi cách này đã được xác định, thì đã được xác định rằng y không phải là y gấp không được hưởng mười hai ngày. Sau đó, trong câu “đối với y không phải là y gấp, có ý thức là y không phải là y gấp, không phạm tội” (pārā. 650), đã được xác định rằng đã được xác quyết trong một y khác tương tự như y gấp. Còn ở đó, “năm tháng” là lời nói chỉ sự phân định cao nhất. Cần phải biết rằng y dùng trong mùa mưa, sau khi đã trở thành y không dùng trong mùa mưa, được hưởng sự miễn trừ trong mười một tháng.

Dasāhātikkantaṃ nissaggiyanti ettha āpattivuṭṭhāne ‘‘dasāhappaṭicchannaṃ pakkhaatirekapakkhamāsaatirekamāsapaṭicchanna’’ntiādivacanabhedo viya, na idha vacanabhedo, tasmā saṃvaccharātikkantampi dasāhātikkantameva nāma, tathā dutiyakathinepi saṃvaccharavippavutthampi rattivippavutthameva. Tatiye saṃvaccharātikkantampi māsātikkantameva nāmāti veditabbaṃ. ‘‘Anadhiṭṭhite adhiṭṭhitasaññī nissaggiyaṃ pācittiya’’nti idamekassa tikapācittiyassa ādipadadīpanaṃ. Esa nayo avikappitetiādīsupi, tasmā ettha aṭṭhasu tikacchedesu ekaṃ vitthāretvā itaresaṃ ekekamādipadaṃ vitthārehvā dve dve bhagavatāva saṅkhittattāti bahūsupi tikacchedesu sambhavantesu eko eva vuccati, ‘‘ayaṃ vinayassa dhammatā’’ti vadanti. Dukkaṭavāresu pana ekaṃ dukkaṭaṃ vitthāretvā sesāni satta tatheva saṅkhittāni. Tathā antimantimo ekeko anāpattikoṭṭhāsoti veditabbaṃ.
Quá mười ngày, là phải từ bỏ, ở đây, trong việc xuất tội, không có sự khác biệt về lời nói giống như “đã được che giấu trong mười ngày, đã được che giấu quá nửa tháng, quá nửa tháng, quá một tháng, quá một tháng.” Do đó, ngay cả khi đã quá một năm, cũng chính là đã quá mười ngày. Cũng vậy, trong học giới Kathina thứ hai, ngay cả khi đã xa lìa một năm, cũng chính là đã xa lìa một đêm. Trong tội thứ ba, cần phải biết rằng ngay cả khi đã quá một năm, cũng chính là đã quá một tháng. Đối với y chưa được xác quyết, có ý thức là đã được xác quyết, phạm tội Ưng Đối Trị cần phải từ bỏ, đây là sự trình bày từ đầu tiên của một tội Ưng Đối Trị ba loại. Cách này cũng áp dụng cho các trường hợp như chưa được định đoạt và các trường hợp khác. Do đó, ở đây, trong tám bộ ba, sau khi đã giải thích chi tiết một bộ, và sau khi đã giải thích chi tiết một từ đầu tiên của các bộ còn lại, hai hai từ đã được chính Thế Tôn tóm tắt. Do đó, dù có thể có trong nhiều bộ ba, cũng chỉ có một được nói. Một số người nói rằng “đây là bản chất của Luật.” Còn trong các lượt Tác Ác, sau khi đã giải thích chi tiết một tội Tác Ác, bảy tội còn lại đã được tóm tắt như vậy. Cũng vậy, cần phải biết rằng mỗi phần cuối cùng là một phần không có tội.

Anāpatti antodasāhanti ayaṃ saṅkhepattho – taṃ dasāhaparamaṃ dhāretabbaṃ. Taṃ atirekacīvaraṃ yathāsakaṃ adhiṭṭhānaṃ antodasāhaṃ adhiṭṭheti vā vikappeti vā vissajjeti vā attano dhammatāya nassati vā vinassati vā ḍayhati vā añño vā taṃ acchinditvā gaṇhāti vissāsanto vā gaṇhāti pācittiyato anāpatti. Dukkaṭato pana siyā āpatti siyā anāpatti saññābhedena. Antimānaṃ panettha dvinnaṃ padānaṃ vasena anacchinne acchinnasaññī nissaggiyaṃ pācittiyaṃ. Avissāsaggāhe vissāsaggāhasaññī nissaggiyaṃ pācittiyantiādikā dve tikapācittiyā, dve ca dukkaṭā saṅkhittāti veditabbā. Ettha hi yadi antodasāhaṃ adhiṭṭheti, dasāhaparamaṃ aruṇaṃ atikkamitvā tassa divasabhāge adhiṭṭhahatīti veditabbaṃ. Ayaṃ tāva pāḷivinicchayo.
Không phạm tội, trong vòng mười ngày, đây là ý nghĩa tóm tắt – phải được giữ tối đa mười ngày. Y thừa đó, hoặc là xác quyết theo sự xác quyết của mình trong vòng mười ngày, hoặc là định đoạt, hoặc là từ bỏ, hoặc là tự nó bị mất, hoặc là bị hư hỏng, hoặc là bị cháy, hoặc là người khác cướp lấy và mang đi, hoặc là lấy đi do tin tưởng, thì không phạm tội Ưng Đối Trị. Còn đối với tội Tác Ác, có thể có tội, có thể không có tội, do sự khác biệt về ý thức. Ở đây, cần phải biết rằng hai tội Ưng Đối Trị ba loại, như “đối với y không bị cướp, có ý thức là đã bị cướp, phạm tội Ưng Đối Trị cần phải từ bỏ. Đối với việc lấy không do tin tưởng, có ý thức là lấy do tin tưởng, phạm tội Ưng Đối Trị cần phải từ bỏ,” và hai tội Tác Ác đã được tóm tắt, do hai từ cuối cùng. Bởi vì ở đây, nếu xác quyết trong vòng mười ngày, cần phải biết rằng xác quyết vào ban ngày của ngày đó, sau khi đã vượt qua rạng đông của ngày thứ mười. Đây là sự phân xử của Pāḷi.

Aṭṭhakathāyaṃ pana ito garukatarānītiādimhi ayaṃ codanāpubbaṅgamo vinicchayo – gaṇṭhipade panassa ito nissaṭṭhacīvaradānato garukampi ñattidutiyakammaṃ yathā apalokanena karonti, evamidaṃ ñattiyā kattabbampi pakativacanena vaṭṭatīti. Yadi evaṃ parivāre kammavaggassa aṭṭhakathāyaṃ ‘‘ñattikammampi ekaṃ ñattiṃ ṭhapetvāva kātabbaṃ, apalokanekammādivasena na kātabba’’nti (pari. aṭṭha. 482) yaṃ vuttaṃ, tena virujjheyya. Tenetaṃ vuccati ‘‘tesaṃ etaṃ anuloma’’nti, tasmā anulomanayeneva taṃ vuttaṃ. Niyamaṃ pana yathā dvinnaṃ pārisuddhiuposatho vinā ñattiyā hoti, evaṃ dvinnaṃ nissaṭṭhacīvaradānampīti vadāma, tasmā ‘‘āyasmato demā’’ti vattuṃ vaṭṭati. Kathaṃ panetaṃ ñātabbanti? Tadanulomattāti. Ekadevedaṃ ñattikammaṃ apalokanenāpi kātuṃ vaṭṭatīti sādhananti veditabbanti ācariyo. Anugaṇṭhipade panettha codanaṃ katvā ‘‘etaṃ sādhitaṃ. Ñattikammaṃ ekaṃ ñattiṃ ṭhapetvāva kātabba’’nti pāḷiyā āgataṃ sandhāya vuttaṃ, idaṃ pana pāḷiyaṃ nāgataṃ, lesato āharitvā vuttanti katvā etaṃ apalokanenāpi vaṭṭatīti.
Còn trong Chú giải, trong câu nặng hơn những điều này và các câu tương tự, đây là sự phân xử có câu hỏi trước – trong sách giải thích từ khó, ngay cả Tăng sự nhị phần, nặng hơn việc cho y đã được từ bỏ này, cũng được phép làm bằng cách biểu quyết, cũng vậy, việc phải được làm bằng Tăng sự này cũng được phép bằng lời nói thông thường. Nếu vậy, sẽ mâu thuẫn với điều đã được nói trong Chú giải của phẩm Tăng sự trong Parivāra: “ngay cả Tăng sự có tuyên bố cũng phải được thực hiện sau khi đã đặt một tuyên bố, không được thực hiện theo cách của Tăng sự biểu quyết và các cách khác” (pari. aṭṭha. 482). Chính vì vậy, đã được nói “đó là phù hợp với họ.” Do đó, điều đó đã được nói theo cách phù hợp. Còn về quy định, chúng tôi nói rằng giống như lễ Bố-tát thanh tịnh của hai người xảy ra mà không có tuyên bố, cũng vậy, việc cho y đã được từ bỏ của hai người cũng vậy. Do đó, được phép nói “chúng tôi cho Tôn giả.” Nhưng làm thế nào để biết được điều này? Vì phù hợp với điều đó. Vị Giáo thọ sư nói rằng cần phải biết rằng đây chính là Tăng sự có tuyên bố, được phép làm ngay cả bằng cách biểu quyết, là sự chứng minh. Còn trong Anugaṇṭhipade, ở đây, sau khi đã đặt câu hỏi, đã được nói: “điều đó đã được chứng minh. Đã được nói đến để chỉ điều đã có trong Pāḷi: ‘Tăng sự có tuyên bố phải được thực hiện sau khi đã đặt một tuyên bố.’ Còn điều này không có trong Pāḷi, đã được nói bằng cách đưa ra một cách lách luật.” Do đó, điều đó được phép ngay cả bằng cách biểu quyết.

468.Esanayoti aññesaṃ cīvaresu upacikādīhi khāyitesu mamapi khāyitānītiādi. ‘‘Aññena kataṃ…pe… sādhaka’’nti Yamakato samānajātikaṃ, ekatthajātikañca tatiyakathinaṃ paṭhamasamānamevāti siddhaṃ hoti.
468. Cách này cũng vậy, là trong các y của những người khác, khi bị mọt và các loài khác ăn, “của tôi cũng đã bị ăn” và các trường hợp khác. Từ Yamaka “cái đã được người khác làm… cho đến… là bằng chứng,” đã được xác định rằng học giới Kathina thứ ba, có cùng loại và cùng một ý nghĩa, cũng giống như học giới đầu tiên.

469.Ticīvaraṃ adhiṭṭhātunti ettha ticīvaraṃ ticīvarādhiṭṭhānena adhiṭṭhātabbayuttakaṃ, yaṃ vā ticīvarādhiṭṭhānena adhiṭṭhātuṃ avikappetuṃ anujānāmi, tassa adhiṭṭhānakālaparicchedābhāvato sabbakālaṃ icchantassa adhiṭṭhātuṃyeva anujānāmi, taṃ kālaparicchedaṃ katvā vikappetuṃ nānujānāmi. Sati pana paccaye yadā tadā vā paccuddharitvā vikappetuṃ vaṭṭatīti ‘‘anāpatti antodasāhaṃ adhiṭṭheti, vikappetī’’ti Yamakato siddhaṃ hotīti vuttametaṃ. Vassikasāṭikaṃ tato paraṃ vikappetuṃyeva nādhiṭṭhātuṃ. Vatthañhi katapariyositaṃ antocatumāse vassānadivasaṃ ādiṃ katvā antodasāhe adhiṭṭhātuṃ anujānāmi, catumāsato uddhaṃ attano santakaṃ katvā ṭhapitukāmena vikappetuṃ anujānāmīti attho. Sugatacīvarato ūnakanti tiṇṇampi cīvarānaṃ ukkaṭṭhaparicchedo. ‘‘Ticīvaraṃ pana parikkhāracoḷaṃ adhiṭṭhātuṃ vaṭṭatī’’ti vāde pana sati tathārūpapaccaye vaṭṭati. Yathā sati paccaye vikappetuṃ vaṭṭatīti sādhitametaṃ, pageva aññena adhiṭṭhānena adhiṭṭhātuṃ. ‘‘Antodasāhaṃ adhiṭṭheti, vikappetī’’ti aniyamato vuttanti saṅghāṭi, uttarāsaṅgo, antaravāsakanti adhiṭṭhitānadhiṭṭhitānaṃ samānameva nāmaṃ. ‘‘Ayaṃ saṅghāṭī’’tiādīsu (mahāva. 126) hi anadhiṭṭhitā vuttā. ‘‘Ticīvarena vippavaseyyā’’ti ettha adhiṭṭhitā vuttā. Sāmantavihāre vāti gocaragāmato vihāreti dhammasiritthero. Dūratarepi labbhatevāti ācariyo. Anugaṇṭhipadepi ‘‘sāmantavihāre vāti desanāsīsamattaṃ, tasmā ṭhapitaṭṭhānaṃ sallakkhetvā dūre ṭhitampi adhiṭṭhātabba’’nti vuttaṃ. Sāmantavihāro nāma yattha tadaheva gantvā nivattituṃ sakkā. Rattivippavāsaṃ rakkhantena tato dūre ṭhitaṃ adhiṭṭhātuṃ na vaṭṭati, evaṃ kira mahāaṭṭhakathāyaṃ vuttanti. Keci ‘‘cīvaravaṃse ṭhapitaṃ añño parivattitvā nāgadante ṭhapeti, taṃ ajānitvā adhiṭṭhahantassapi ruhati cīvarassa sallakkhitattā’’ti vadanti. Adhiṭṭhahitvāti parikkhāracoḷādivasena. Mahantataramevātiādi sabbādhiṭṭhānasādhāraṇalakkhaṇaṃ . Tattha puna adhiṭṭhātabbamevāti adhiṭṭhitacīvarassa ekadesabhūtattā. Anadhiṭṭhitañce, adhiṭṭhitassa appabhāvena ekadesabhūtaṃ adhiṭṭhitasaṅkhyameva gacchati. Tathā adhiṭṭhitañce, anadhiṭṭhitassa ekadesabhūtaṃ anadhiṭṭhitasaṅkhyaṃ gacchatīti hi lakkhaṇaṃ, na kevalañcettha dutiyapaṭṭameva, tatiyapaṭṭādikampi. Yathāha ‘‘anujānāmi…pe… utuddhaṭānaṃ dussānaṃ catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ…pe… paṃsukūle yāvadattha’’nti (mahāva. 348).
469. Trong câu xác quyết ba y, ở đây, ba y là vật xứng đáng được xác quyết bằng việc xác quyết ba y. Hoặc là, cái nào, mà Ta cho phép xác quyết bằng việc xác quyết ba y, và không định đoạt, thì vì không có sự phân định thời gian xác quyết của nó, nên Ta cho phép xác quyết vào mọi lúc đối với người muốn. Ta không cho phép định đoạt nó bằng cách phân định thời gian. Nhưng nếu có duyên, thì được phép hủy bỏ và định đoạt vào bất cứ lúc nào. Điều này đã được xác định từ Yamaka “không phạm tội, trong vòng mười ngày, xác quyết, định đoạt.” Còn y dùng trong mùa mưa, sau đó chỉ được phép định đoạt, không được xác quyết. Bởi vì y, sau khi đã được làm xong, Ta cho phép xác quyết trong vòng bốn tháng mùa mưa, bắt đầu từ ngày an cư. Sau bốn tháng, Ta cho phép định đoạt đối với người muốn giữ làm của mình, đó là ý nghĩa. Nhỏ hơn y của Thiện Thệ, là sự phân định cao nhất của cả ba y. Còn trong quan điểm “được phép xác quyết ba y, và cả y vật dụng,” thì nếu có duyên như vậy, thì được phép. Giống như đã được chứng minh rằng nếu có duyên, thì được phép định đoạt, huống chi là xác quyết bằng một sự xác quyết khác. “Trong vòng mười ngày, xác quyết, định đoạt,” đã được nói một cách không xác định. Do đó, y tăng-già-lê, y vai trái, và nội y là tên chung cho cả y đã được xác quyết và chưa được xác quyết. Bởi vì trong các câu như “đây là y tăng-già-lê” và các câu tương tự (mahāva. 126), đã được nói về y chưa được xác quyết. Trong câu “xa lìa ba y,” đã được nói về y đã được xác quyết. Hoặc là trong tu viện bên cạnh, là từ làng khất thực đến tu viện, theo Trưởng lão Dhammasiri. Vị Giáo thọ sư nói rằng ngay cả ở nơi xa hơn cũng được phép. Trong Anugaṇṭhipade cũng đã được nói: “hoặc là trong tu viện bên cạnh, chỉ là đầu đề của bài thuyết giảng. Do đó, sau khi đã nhận biết nơi đã đặt, cũng phải được xác quyết ngay cả khi ở xa.” Tu viện bên cạnh là nơi có thể đi và trở về ngay trong ngày. Đối với người giữ gìn việc không xa lìa qua đêm, không được phép xác quyết vật ở nơi xa hơn đó. Người ta nói rằng trong Đại Chú giải đã được nói như vậy. Một số người nói rằng “y đã được đặt trên sào phơi y, người khác đổi và đặt trên ngà voi. Ngay cả đối với người xác quyết mà không biết, cũng có hiệu lực, vì y đã được nhận biết.” Sau khi đã xác quyết, là theo cách của y vật dụng. Chính là cái lớn hơn, và các câu tương tự là đặc điểm chung cho tất cả các sự xác quyết. Ở đó, chính là phải được xác quyết lại, vì là một phần của y đã được xác quyết. Nếu là y chưa được xác quyết, thì phần, do có ít hơn, đã đi vào số lượng của y đã được xác quyết. Cũng vậy, nếu là y đã được xác quyết, thì phần, do có ít hơn, đã đi vào số lượng của y chưa được xác quyết. Đặc điểm là như vậy. Không chỉ có tấm thứ hai ở đây, mà cả tấm thứ ba và các tấm khác. Như Ngài đã nói: “Ta cho phép… cho đến… y tăng-già-lê bốn lớp bằng vải đã được dệt… cho đến… trong y phấn tảo, tùy ý” (mahāva. 348).

Avasesā bhikkhūti vakkhamānakāle nisinnā bhikkhū. Tasmā vaṭṭatīti yathā ‘‘anujānāmi, bhikkhave, ticīvaraṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetu’’nti vuttaṃ, evaṃ parikkhāracoḷampi vuttaṃ, na tassa ukkaṭṭhaparicchedo vutto, na ca saṅkhyāparicchedo, tasmā tīṇipi cīvarāni paccuddharitvā ‘‘imāni cīvarāni parikkhāracoḷāni adhiṭṭhāmī’’ti adhiṭṭhahitvā paribhuñjituṃ vaṭṭatīti attho. ‘‘Nidhānamukhameta’’nti kathaṃ paññāyatīti ce? ‘‘Tena kho pana samayena bhikkhūnaṃ paripuṇṇaṃ hoti ticīvaraṃ, attho ca hoti parissāvanehipi thavikāhipī’’ti etasmiṃ vatthusmiṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, parikkhāracoḷa’’nti (mahāva. 358) anuññātattā. Bhikkhūnañca ekameva parissāvanaṃ, thavikā vā vaṭṭati, na dve vā tīṇi vāti paṭikkhepābhāvato vikappanupagapacchimappamāṇāni, atirekappamāṇāni vā parissāvanādīni parikkhārāni kappantīti siddhaṃ. Yadi evaṃ ‘‘yaṃnūnāhaṃ bhikkhūnaṃ cīvare sīmaṃ bandheyyaṃ mariyādaṃ ṭhapeyya’’nti (mahāva. 346) vacanavirodhoti ce? Na, anusandhiyā ajānanato, virodhato ca. Kiṃ vuttaṃ hoti? Cīvarakkhandhake (mahāva. 326 ādayo) paṭhamaṃ gahapaticīvaraṃ anuññātaṃ, tato pāvārakosiyakojavakambalādi. Tato ‘‘tena kho pana samayena saṅghassa uccāvacāni cīvarāni uppannāni honti. Atha kho bhikkhūnaṃ etadahosi ‘kiṃ nu kho bhagavatā cīvaraṃ anuññātaṃ, kiṃ ananuññāta’’’nti etasmiṃ vatthusmiṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, cha cīvarāni khoma’’ntiādinā (mahāva. 339) kappiyacīvarajāti anuññātā, na pana saṅkhyāpamāṇaṃ. Tato ‘‘addasa bhagavā…pe… sambahule bhikkhū cīvarehi ubbhaṇḍite sīsepi cīvarabhisiṃ karitvā khandhepi cīvarabhisiṃ karitvā kaṭiyāpi cīvarabhisiṃ karitvā āgacchante, disvāna bhagavato etadahosi…pe… yepi kho te kulaputtā imasmiṃ dhammavinaye sītālukā sītabhīrukā, tepi sakkonti ticīvarena yāpetuṃ, yaṃnūnāhaṃ bhikkhūnaṃ cīvare sīmaṃ bandheyyaṃ mariyādaṃ ṭhapeyyaṃ ticīvaraṃ anujāneyya’’nti (mahāva. 346) cīvaraṃ anuññātaṃ, tañca kho ekameva. Chabbaggiyā pana micchā gahetvā bahūni parihariṃsu. Tāni nesaṃ atirekaṭṭhāne ṭhitāni honti. Tato ‘‘anujānāmi, bhikkhave, dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāretu’’nti (mahāva. 347) anuññātaṃ, tenetaṃ paññāyati. Atirekāni bahūni cīvarāni te parihariṃsu, ‘‘tāni dasāhaparamameva dhāretuṃ anujānāmi, na tameveka’’nti vadantena yā pubbe ticīvarādhiṭṭhānasaṅkhātā cīvare sīmābaddhā, mariyādā ca ṭhapitā, tāya satipi ticīvarabāhullapariharaṇakkamo dassito divasaparicchedavasena. Tato paraṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, atirekacīvaraṃ vikappetu’’nti (mahāva. 347) anujānantena vināpi divasaparicchedena atirekacīvarapariharaṇakkamo dassitoti dvepi tāni nidhānamukhānīti siddhaṃ. Tathā parikkhāracoḷādhiṭṭhānampi siyā, aññathā itaracīvarādhiṭṭhānānujānanavirodho siyā sīmāmariyādaṭṭhapanavirodhato. Ticīvarādhiṭṭhānapaññattiyeva ticīvaramariyādā hoti. Tena vuttaṃ ‘‘pāṭekkaṃ nidhānamukhameta’’nti. ‘‘Paṭhamaṃ ticīvaraṃ ticīvarādhiṭṭhānena adhiṭṭhātabbaṃ, puna pariharituṃ asakkontena paccuddharitvā parikkhāracoḷaṃ adhiṭṭhātabbaṃ, na tveva āditova idaṃ vutta’’nti vuttaṃ. ‘‘Yathā ticīvaraṃ pariharituṃ asakkontassa gilānassa vippavāsasammuti anuññātā, agilānassapi sāsaṅkasikkhāpade (pārā. 652) tassa antaraghare nikkhepo ca, tatopi sati paccaye chārattavippavāso, tatopi asakkontassa paccuddhāro, paccuddhaṭampi antodasāhe adhiṭṭhātuṃ, asakkontassa vikappanā ca anuññātā. Tatheva dvinnampi sammukhāparammukhāvikappanānaṃ parasantakattā vikappanapaccaye asati ‘parikkhāracoḷa’nti adhiṭṭhahitvā paribhuñjituṃ bhagavatā anuññātaṃ siyā, yato tadadhippāyaññū evaṃ vadantī’’ti mahāpaccariyampi vuttaṃ. Pubbetiādi ‘‘pāṭekkaṃ nidhānamukha’’nti vuttassa payogadassanatthaṃ vuttaṃ. Abaddhasīmāyaṃ dupparihāranti vikappanādiatthāya upacāraṃ atikkamitvāpi gamanasambhavato.
Các Tỳ-khưu còn lại là các Tỳ-khưu đang ngồi trong khi được nói. Do đó, được phép, là giống như đã được nói “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xác quyết ba y, không định đoạt,” cũng vậy, đã được nói về y vật dụng. Không có sự phân định cao nhất, cũng không có sự phân định số lượng của nó. Do đó, ý nghĩa là được phép hủy bỏ cả ba y và xác quyết “tôi xác quyết các y này là y vật dụng” và dùng. “Đây là đầu mối”, nếu hỏi làm thế nào để biết? Vì đã được cho phép trong sự việc này: “vào lúc đó, ba y của các Tỳ-khưu đã đủ, và có nhu cầu về các cái lọc nước và các cái túi” “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép y vật dụng” (mahāva. 358). Và đối với các Tỳ-khưu, chỉ có một cái lọc nước hoặc một cái túi là được phép, không phải hai hoặc ba. Do không có sự cấm, nên đã được xác định rằng các vật dụng như cái lọc nước và các vật dụng khác, có kích thước cuối cùng có thể được định đoạt, hoặc là kích thước thừa, là hợp lệ. Nếu vậy, nếu nói rằng có sự mâu thuẫn với lời nói “vậy thì, Ta sẽ đặt một ranh giới, đặt một giới hạn cho y của các Tỳ-khưu” (mahāva. 346)? Không phải vậy, do không biết sự liên kết, và do mâu thuẫn. Điều gì đã được nói? Trong Phẩm Y (mahāva. 326 ādayo), trước hết là y của cư sĩ đã được cho phép. Sau đó là áo choàng, lụa, thảm, và len. Sau đó, trong sự việc này: “vào lúc đó, các y cao thấp khác nhau đã phát sinh cho Tăng chúng. Bấy giờ, các Tỳ-khưu đã có ý nghĩ này ‘vậy thì, y nào đã được Thế Tôn cho phép, y nào chưa được cho phép’,” đã được cho phép các loại y hợp lệ bằng câu “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép sáu loại y: vải gai” và các câu tương tự (mahāva. 339), không phải là số lượng và kích thước. Sau đó, “Thế Tôn đã thấy… cho đến… nhiều Tỳ-khưu, bị chất đầy y, đã làm một cái gối bằng y trên đầu, một cái gối bằng y trên vai, và một cái gối bằng y ở hông, đang đi đến. Sau khi đã thấy, Thế Tôn đã có ý nghĩ này… cho đến… ngay cả những người con trai của gia đình, những người yếu đuối, sợ lạnh trong Pháp và Luật này, cũng có thể sống qua ngày bằng ba y. Vậy thì, Ta sẽ đặt một ranh giới, đặt một giới hạn cho y của các Tỳ-khưu, và cho phép ba y” (mahāva. 346), y đã được cho phép, và đó là chỉ một y. Nhưng các vị thuộc nhóm sáu vị, vì đã hiểu sai, đã giữ nhiều y. Những y đó của họ ở trong tình trạng thừa. Sau đó, đã được cho phép “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép giữ y thừa tối đa mười ngày” (mahāva. 347). Do đó, có thể biết được điều này. Họ đã giữ nhiều y thừa. Đã được trình bày cách giữ nhiều ba y, dù có ranh giới và giới hạn đã được đặt cho y trước đây, bằng cách phân định ngày. Sau đó, bằng cách cho phép “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép định đoạt y thừa” (mahāva. 347), đã được trình bày cách giữ y thừa ngay cả khi không có sự phân định ngày. Do đó, đã được xác định rằng cả hai điều đó đều là đầu mối. Cũng vậy, có thể có sự xác quyết y vật dụng và các y khác. Nếu không, sẽ có sự mâu thuẫn với việc cho phép xác quyết y khác, do mâu thuẫn với việc đặt ranh giới và giới hạn. Chính chế định về việc xác quyết ba y là giới hạn của ba y. Do đó, đã được nói “đây là đầu mối riêng biệt.” Đã được nói: “trước hết, ba y phải được xác quyết bằng việc xác quyết ba y. Sau đó, đối với người không thể giữ, phải hủy bỏ và xác quyết y vật dụng. Không phải là đã được nói điều này ngay từ đầu.” Đã được nói trong Mahāpaccarī cũng vậy: “giống như đối với người không thể giữ ba y, đã cho phép sự đồng ý về việc xa lìa đối với người bệnh, và ngay cả đối với người không bệnh, trong học giới về sự nghi ngờ (pārā. 652), việc đặt nó trong nhà, và từ đó, nếu có duyên, việc xa lìa trong sáu đêm, và đối với người không thể làm được điều đó, việc hủy bỏ, và sau khi đã hủy bỏ, việc xác quyết trong vòng mười ngày, và đối với người không thể, việc định đoạt cũng đã được cho phép. Cũng vậy, vì việc định đoạt trước mặt và sau lưng cả hai đều là của người khác, nên khi không có duyên định đoạt, có thể Thế Tôn đã cho phép xác quyết ‘là y vật dụng’ và dùng, mà do đó, những người biết được ý định đó đã nói như vậy.” Trước đây và các câu tương tự, đã được nói để trình bày hành động của điều đã được nói “là đầu mối riêng biệt.” Ở ranh giới chưa được kết, khó giữ, vì có khả năng đi ngay cả khi vượt qua khu vực ngoại ô để định đoạt và các việc khác.

Vassikasāṭikā anatirittappamāṇāti tassā ukkaṭṭhaparicchedassa vuttattā vuttaṃ. Paccattharaṇampi adhiṭṭhātabbamevāti ‘‘idaṃ, bhante, amhākaṃ senāsanassa upari attharitabba’’ntiādinā dinnaṃ nādhiṭṭhātabbaṃ, ‘‘idaṃ tumhāka’’nti dinnaṃ sayaṃ adhippetaṃva adhiṭṭhātabbanti adhippāyo. ‘‘Sakiṃ adhiṭṭhitaṃ adhiṭṭhitameva hoti, na puna paccuddharīyati kālaparicchedābhāvato’’ti likhitaṃ. ‘‘Ekavacanenapi vaṭṭatīti apare’’ti vuttaṃ. Bhesajjanavakammamātāpituādīnaṃatthāyāti ettha ‘‘iminā bhesajjaṃ cetāpessāmi, idaṃ mātuyā dassāmī’’ti ṭhapentena adhiṭṭhātabbaṃ. ‘‘‘Idaṃ bhesajjassa, imaṃ mātuyā’ti vibhajantena adhiṭṭhānakiccaṃ natthīti apare’’ti vuttaṃ. ‘‘Sakabhāvaṃ mocetvā ṭhapanaṃ sandhāyāhā’’ti likhitaṃ.
Y dùng trong mùa mưa không có kích thước thừa, đã được nói vì đã được nói về sự phân định cao nhất của nó. Cả tấm trải cũng chính là phải được xác quyết, ý định là y đã được cho bằng các câu như “bạch ngài, đây là để trải trên chỗ ở của chúng tôi” và các câu tương tự, không phải được xác quyết. Y đã được cho “đây là của các ngài,” chính là phải được xác quyết theo ý muốn của mình. Đã được viết: “y đã được xác quyết một lần thì chính là đã được xác quyết, không được hủy bỏ lại, vì không có sự phân định thời gian.” Đã được nói: “những người khác nói rằng được phép ngay cả bằng số ít.” Vì lợi ích của thuốc men, công việc mới, cha mẹ và các người khác, ở đây, phải được xác quyết bởi người đặt xuống “tôi sẽ mua thuốc bằng cái này, tôi sẽ cho cái này cho mẹ.” Đã được nói: “những người khác nói rằng đối với người phân chia ‘cái này của thuốc, cái này của mẹ,’ thì không có việc xác quyết.” Đã được viết: “Ngài nói đến để chỉ việc đặt xuống sau khi đã từ bỏ bản chất của mình.”

‘‘Puna adhiṭṭhātabbanti ayaṃ saṅgītito paṭṭhāya āgataaṭṭhakathāvādo. Tato paraṃ ācariyānaṃ tattha tattha yuttivicāraṇā’’ti vuttaṃ. Pamāṇacīvarassāti pacchimappamāṇassa. Dve cīvarānīti saha uttarāsaṅgena. Esa nayoti pamāṇayuttesu yattha katthacītiādinayova. ‘‘Taṃ atikkāmayato chedanaka’’nti (pāci. 533) Yamakato uttari paṭisiddhaṃ, tato heṭṭhā appaṭisiddhattā vaṭṭati. Tattha siyā – ticīvarassa pacchimappamāṇaṃ visuṃ sutte natthīti, na vattabbaṃ, sikkhākaraṇīyehi siddhattā. Kiṃ vuttaṃ hoti? ‘‘‘Parimaṇḍalaṃ nivāsessāmi, pārupissāmi, suppaṭicchanno antaraghare gamissāmī’ti (pāci. 576-579) Yamakato yattakena pamāṇena parimaṇḍalatā, suppaṭicchannatā ca aṭṭhakathāyaṃ vuttakkamena sampajjatī’’ti vattabbaṃ. Tesaṃ vasena pacchimappamāṇanti siddhaṃ, tañca kho muṭṭhipañcakādi yathāvuttameva vuccate. Tenevāha lesaṃ ṭhapetvā ‘‘visuṃ sutte natthī’’ti.
Đã được nói: “phải được xác quyết lại, đây là quan điểm của Chú giải đã có từ khi kết tập kinh điển. Sau đó, là sự xem xét lý lẽ ở mỗi nơi của các vị Giáo thọ sư.” Của y có kích thước, là của kích thước cuối cùng. Hai y, là cùng với y vai trái. Cách này cũng vậy, là chính cách như “ở bất cứ đâu trong các y có kích thước hợp lệ” và các cách tương tự. Từ Yamaka “đối với người vượt quá đó, phạm tội Ưng Đối Trị cần phải cắt bỏ” (pāci. 533), đã bị cấm ở trên. Dưới đó, được phép vì chưa bị cấm. Ở đó, có thể có – kích thước cuối cùng của ba y không có riêng trong kinh. Không nên nói, vì đã được xác định bởi các điều cần phải học. Điều gì đã được nói? Cần phải nói: “từ Yamaka ‘tôi sẽ mặc y nội một cách tròn trịa, tôi sẽ khoác y một cách tròn trịa, tôi sẽ đi vào nhà một cách che đậy kỹ càng’ (pāci. 576-579), bằng bao nhiêu kích thước mà sự tròn trịa và sự che đậy kỹ càng được thành tựu theo trình tự đã được nói trong Chú giải.” Đã được xác định rằng kích thước cuối cùng theo chúng. Và đó chính là được nói là năm nắm tay và các kích thước khác như đã được nói. Chính vì vậy, Ngài đã nói, sau khi đã đặt một kẽ hở, “không có riêng trong kinh.”

Apicettha adhippetaṃ, tathāpi na sametiyevāti attho, tasmā ‘‘yadī’’tiādisambandho addhā vutto. Yasmā paricchinno sameti ca. Itaresu pana ekaccasmiṃ ācariyavāde neva paricchedo atthi. Ekaccasmiṃ na pubbāparaṃ sametīti sambandho. Adhiṭṭhānaṃ adhiṭṭhānameva, paribhogakāle pana arajitaṃ na vaṭṭati. Idaṃ sabbaṃ ticīvare eva. Imassa pana sikkhāpadassa ayaṃ saṅkhepavinicchayo – anatthate kathine hemantānaṃ paṭhamadivasato paṭṭhāya atthate kathine gimhānaṃ paṭhamadivasato paṭṭhāya uppannacīvaraṃ sandhāya ‘‘niṭṭhitacīvarasmi’’ntiādi vuttanti.
Hơn nữa, ở đây được hàm ý, ý nghĩa là, tuy nhiên, nó không hoàn toàn phù hợp. Do đó, có sự liên kết “nếu” và các câu tương tự đã được nói một cách chắc chắn. Bởi vì cái đã được phân định thì phù hợp. Còn trong các trường hợp khác, trong một số quan điểm của các vị thầy, không có sự phân định. Trong một số trường hợp, trước và sau không phù hợp, đó là sự liên kết. Sự xác quyết chính là sự xác quyết, nhưng trong khi dùng, y chưa được nhuộm không được phép. Tất cả những điều này chỉ có trong ba y. Còn đây là sự phân xử tóm tắt của học giới này – đã được nói “khi đã xong việc may y” và các câu tương tự để chỉ y phát sinh từ ngày đầu tiên của mùa đông khi chưa thọ Kathina, và từ ngày đầu tiên của mùa hè khi đã thọ Kathina.

Etthāha – ‘‘rajakehi dhovāpetvā setaṃ kārāpentassāpi adhiṭṭhānaṃ adhiṭṭhānamevā’’ti Yamakato arajitepi adhiṭṭhānaṃ ruhati, tena sūcikammaṃ katvā rajitvā kappabinduṃ datvā adhiṭṭhātabbanti niyamo na kātabboti? Vuccate, kātabbova patto viya adhiṭṭhito. Yathā puna setabhāvaṃ, tambabhāvaṃ vā patto adhiṭṭhānaṃ na vijahati, na ca pana tādiso adhiṭṭhānaṃ upagacchati, evametaṃ daṭṭhabbanti. ‘‘Yato paṭṭhāya paribhogādayo vaṭṭanti, tato paṭṭhāya antodasāhe adhiṭṭhātabba’’nti vadanti.
Vị ấy nói ở đây – từ Yamaka “ngay cả đối với người cho thợ nhuộm giặt và làm cho trắng, sự xác quyết cũng chính là sự xác quyết,” sự xác quyết cũng có hiệu lực đối với y chưa được nhuộm. Do đó, nếu nói rằng không nên đặt ra quy định “phải được xác quyết sau khi đã làm công việc may, nhuộm, và chấm điểm”? Xin thưa, chính là phải đặt ra, đã được xác quyết giống như cái bát. Giống như cái bát, sau khi đã trở lại trạng thái trắng hoặc trạng thái đồng, không mất đi sự xác quyết, nhưng cái bát như vậy không được xác quyết. Cũng vậy, điều này cần phải được hiểu như vậy. Một số người nói rằng “từ khi việc dùng và các việc khác được phép, thì từ đó, phải được xác quyết trong vòng mười ngày.”

Avisesenavuttavacananti adhiṭṭhātabbaṃ adhiṭṭheti, vikappetabbaṃ vikappetīti evaṃ savisesaṃ katvā avacanaṃ ‘‘na vikappetu’’nti (mahāva. 358) iminā viruddhaṃ viya dissati. Idāni idaṃ adhiṭṭhānavikappananayapaṭibaddhaṃ khandhakaṃ, parivārañca missetvā pakiṇṇakaṃ vuccati – khandhake tāva ‘‘anujānāmi, bhikkhave, ticīvaraṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetuṃ, vassikasāṭikaṃ vassānaṃ cātumāsaṃ adhiṭṭhātuṃ, tato paraṃ vikappetu’’ntiādi vuttaṃ. Parivāre ‘‘na nava cīvarāni adhiṭṭhātabbāni, na nava cīvarāni vikappetabbānī’’ti (pari. 329), ‘‘dasake dasa, ekādasake ekādasa cīvarāni adhiṭṭhātabbāni, na vikappetabbānī’’ti (pari. 331) ca anekakkhattuṃ vacanena suṭṭhu daḷhaṃ katvā ‘‘sabbāni cīvarāni adhiṭṭhātabbāni, na vikappetabbānī’’ti vuttaṃ, tasmā ubhopi te viruddhā viya dissanti, khandhake eva ca ‘‘vassikasāṭikaṃ vassānaṃ cātumāsaṃ adhiṭṭhātuṃ tato paraṃ vikappetu’’nti (mahāva. 358) vuttaṃ. Tadaṭṭhakathāyaṃ ‘‘vassikasāṭikā anatirittappamāṇā nāmaṃ gahetvā vuttanayeneva cattāro vassike māse adhiṭṭhātabbā, tato paraṃ paccuddharitvā vikappetabbā’’ti vuttaṃ. Idañca viruddhaṃ viya dissati aññamaññaṃ hemante paccuddhārasambhavato, vassāne vikappanāsambhavato ca. Tathā idha ‘‘anāpatti antodasāhaṃ adhiṭṭheti vikappetī’’ti vacanappamāṇato sabbattha vikappanāya appaṭisiddhabhāvo veditabboti (pārā. aṭṭha. 2.469) aṭṭhakathāvacanaṃ parivāravacanena viruddhaṃ viya dissati, na hi viruddhaṃ tathāgatā bhāsanti, tasmā aṭṭhakathānayovettha paṭisaraṇaṃ, yena sabbampi taṃ ekarasaṃ hoti. Parivāraṭṭhakathāyañca vuttaṃ ‘‘na vikappetabbānīti adhiṭṭhitakālato paṭṭhāya na vikappetabbānī’’ti (pari. aṭṭha. 329). Ticīvarāni adhiṭṭhitakālato paṭṭhāya, vassikasāṭikādīni ca attano attano adhiṭṭhānakhette na akāmā vikappetabbānīti attho, avasesapāḷi, attho ca idha aṭṭhakathāyaṃ vutto, tasmā sabbampetaṃ ekarasanti.
Lời nói đã được nói một cách không phân biệt, là lời nói không làm cho có sự khác biệt “cái phải được xác quyết thì xác quyết, cái phải được định đoạt thì định đoạt,” có vẻ như mâu thuẫn với câu “không định đoạt” (mahāva. 358). Bây giờ, phần linh tinh này được nói bằng cách trộn lẫn Phẩm Luật và Parivāra, gắn liền với cách xác quyết và định đoạt này – trong Phẩm Luật, đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xác quyết ba y, không định đoạt. Xác quyết y dùng trong mùa mưa trong bốn tháng mùa mưa, sau đó định đoạt” và các câu tương tự. Trong Parivāra, đã được nói: “không được xác quyết chín y, không được định đoạt chín y” (pari. 329), và “trong bộ mười, mười y, trong bộ mười một, mười một y phải được xác quyết, không được định đoạt” (pari. 331), và sau khi đã làm cho rất vững chắc bằng lời nói nhiều lần, đã được nói: “tất cả các y phải được xác quyết, không được định đoạt.” Do đó, cả hai điều đó có vẻ như mâu thuẫn. Và chính trong Phẩm Luật, đã được nói: “xác quyết y dùng trong mùa mưa trong bốn tháng mùa mưa, sau đó định đoạt” (mahāva. 358). Trong Chú giải của nó, đã được nói: “y dùng trong mùa mưa không có kích thước thừa, phải được xác quyết trong bốn tháng mùa mưa theo chính cách đã được nói sau khi đã nêu tên, sau đó phải hủy bỏ và định đoạt.” Và điều này có vẻ như mâu thuẫn với nhau, vì có khả năng hủy bỏ vào mùa đông, và không có khả năng định đoạt vào mùa mưa. Cũng vậy, ở đây, lời nói trong Chú giải “cần phải biết rằng không có sự cấm định đoạt ở khắp mọi nơi, do tiêu chuẩn của lời nói ‘không phạm tội, trong vòng mười ngày, xác quyết, định đoạt’” (pārā. aṭṭha. 2.469) có vẻ như mâu thuẫn với lời nói trong Parivāra. Bởi vì các Như Lai không nói những điều mâu thuẫn. Do đó, ở đây, cách của Chú giải là nơi nương tựa, mà do đó, tất cả những điều đó đều có cùng một vị. Và trong Chú giải Parivāra, đã được nói: “không được định đoạt, là không được định đoạt từ khi đã được xác quyết” (pari. aṭṭha. 329). Ý nghĩa là, ba y từ khi đã được xác quyết, và y dùng trong mùa mưa và các y khác, trong phạm vi xác quyết của chính mình, không được định đoạt nếu không muốn. Pāḷi còn lại và ý nghĩa đã được nói ở đây trong Chú giải. Do đó, tất cả những điều này đều có cùng một vị.

Etthāha – yadi evaṃ ‘‘nava cīvarāni nādhiṭṭhātabbānī’’ti ca vattabbaṃ. Vikappitakālato paṭṭhāya hi nādhiṭṭhātabbānīti? Ettha vuccate – ‘‘ticīvaraṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetuṃ…pe… parikkhāracoḷaṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetu’’nti ettha sabbattha adhiṭṭhāne paṭisedhādassanato, vikappanāya adassanato ca ‘‘tato para’’nti dvīsveva paricchedadassanato ca ‘‘nava cīvarāni adhiṭṭhātabbāni, na vikappetabbāni ceva vuttanti veditabbaṃ. Aparo nayo – anujānāmi, bhikkhave, ticīvaraṃ adhiṭṭhātuṃ akāmā. Kasmā? Kāle uppannaṃ anadhiṭṭhahantassa kālātikkame āpattisambhavato, akāle uppannaṃ anadhiṭṭhahantassa dasāhātikkame āpattisambhavato ca. Tattha yaṃ kāle uppannaṃ appahontepi dasāhe kālātikkame āpattikaraṃ, taṃ nissajjanakāle ‘‘idaṃ me, bhante, atirekacīvaraṃ dhāritaṃ nissaggiyaṃ, imāhaṃ saṅghassā’’tiādinā nissajjitabbaṃ, itaraṃ yathāpāḷimeva. Tattha paṭhamanayo ‘‘yo pana, bhikkhu, atirekacīvaraṃ dhāreyya nissaggiya’’nti imāya paṭhamapaññattiyā vasena vutto, dutiyo anupaññattiyā vasena vutto.
Vị ấy nói ở đây – nếu vậy, cũng phải nói “không được xác quyết chín y.” Bởi vì từ khi đã được định đoạt, không được xác quyết? Ở đây, xin thưa – trong các câu “xác quyết ba y, không định đoạt… cho đến… xác quyết y vật dụng, không định đoạt,” ở khắp mọi nơi, do việc trình bày sự cấm trong việc xác quyết, và do việc không trình bày sự định đoạt, và do việc trình bày sự phân định chỉ trong hai trường hợp “sau đó,” nên cần phải biết rằng đã được nói “chín y phải được xác quyết, và không được định đoạt.” Một cách khác – Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xác quyết ba y nếu không muốn. Tại sao? Vì có khả năng có tội khi hết thời gian đối với người không xác quyết y phát sinh trong thời gian. Và vì có khả năng có tội khi quá mười ngày đối với người không xác quyết y phát sinh ngoài thời gian. Ở đó, y nào phát sinh trong thời gian, và gây ra tội khi hết thời gian dù chưa đủ mười ngày, thì trong khi từ bỏ, phải được từ bỏ bằng cách “bạch ngài, y thừa này của con đã được giữ, là phải từ bỏ, con xin cúng dường y này cho Tăng chúng” và các cách khác. Y khác thì theo chính Pāḷi. Ở đó, cách đầu tiên đã được nói theo cách của chế định đầu tiên này “Tỳ-khưu nào giữ y thừa, thì phải từ bỏ.” Cách thứ hai đã được nói theo cách của chế định bổ sung.

Yathā ca nissajjitabbavatthumhi asati yathāpāḷiṃ avatvā kevalaṃ āpatti eva desetabbā, yathā ca vassikasāṭikanissajjane kevalaṃ pariyiṭṭhamatte yathāpāḷiṃ avatvā yathāsambhavaṃ nissajjitabbaṃ, tathā idampīti veditabbaṃ. Yathā saṃvaccharātikkantaṃ atirekacīvaraṃ ‘‘dasāhātikkanta’’micceva vuccati. Saṃvaccharavippavutthaticīvaraṃ, māsātikkantañca ‘‘rattivippavuttha’’nti ca ‘‘chārattavippavuttha’’nti ca vuccati, tathā idampi ‘‘dasāhātikkanta’’micceva vuccatīti eke, tasmā siddhamidaṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, ticīvaraṃ adhiṭṭhātuṃ akāmā’’ti, tathā akāmā na vikappetunti attho. Icchāya hi sati ‘‘paccuddharitvā vippavāsasukhatthaṃ vikappanāya okāso dinno hoti, dasāhātikkame ca anāpattī’’ti Yamakato vikappetuṃ anujānāmīti vuttaṃ hoti. Tathā vassikasāṭikā akāmā adhiṭṭhātuṃ dasāhātikkame āpattisambhavato. Kittakaṃ kālanti ce? Vassānaṃ cātumāsaṃ, icchāya pana sati uddhaṃyeva vikappetabbaṃ. ‘‘Sabbattha vikappanāya appaṭisiddhabhāvo veditabbo’’ti hi vuttaṃ. ‘‘Atthāpatti hemante āpajjati, no gimhe, no vasse’’ti (pari. 323) ca vuttaṃ, tena vuttaṃ aṭṭhakathāyaṃ ‘‘tato paraṃ paccuddharitvā vikappetabbā’’ti.
Và giống như khi không có vật phải từ bỏ, thay vì nói theo Pāḷi, chỉ cần sám hối tội lỗi. Và giống như trong việc từ bỏ y dùng trong mùa mưa, thay vì nói theo Pāḷi khi chỉ mới tìm kiếm, phải từ bỏ theo khả năng. Cũng vậy, cần phải biết điều này. Giống như y thừa đã quá một năm cũng chỉ được gọi là “đã quá mười ngày.” Ba y đã xa lìa một năm, và y đã quá một tháng, cũng được gọi là “đã xa lìa một đêm” và “đã xa lìa sáu đêm.” Cũng vậy, một số người cho rằng điều này cũng chỉ được gọi là “đã quá mười ngày.” Do đó, đã được xác định điều này: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xác quyết ba y nếu không muốn.” Cũng vậy, ý nghĩa là không định đoạt nếu không muốn. Bởi vì nếu có ý muốn, đã được nói rằng đã được cho phép định đoạt, từ Yamaka “đã được cho cơ hội định đoạt để có được sự thoải mái khi xa lìa sau khi đã hủy bỏ, và không phạm tội khi quá mười ngày.” Cũng vậy, y dùng trong mùa mưa, nếu không muốn, phải được xác quyết, vì có khả năng có tội khi quá mười ngày. Nếu hỏi trong bao lâu? Trong bốn tháng mùa mưa. Còn nếu có ý muốn, thì chính là phải được định đoạt ở trên. Bởi vì đã được nói “cần phải biết rằng không có sự cấm định đoạt ở khắp mọi nơi.” Và đã được nói “có tội mà phạm vào mùa đông, không phải mùa hè, không phải mùa mưa” (pari. 323). Do đó, đã được nói trong Chú giải: “sau đó, phải hủy bỏ và định đoạt.”

Tatrāyaṃ vicāraṇā – kadā paccuddharitabbā, kadā vikappetabbā, kiñcettha yasmā ‘‘tato para’’nti vuttaṃ. Hemantañca pattamatte sā adhiṭṭhānaṃ vijahati, tasmā ‘‘paccuddharitvā’’ti na vattabbaṃ adhiṭṭhānassa natthitāya, atha ‘‘antocātumāse vikappetabbā’’ti na vattabbaṃ. ‘‘Tato paraṃ vikappetu’’nti hi vuttanti? Ettha ekacce vadanti ‘‘vattabbameta’’nti. Yathā parivutthaparivāso, ciṇṇamānatto ca santo niṭṭhitesupi parivāsamānattadivasesu, tathā niṭṭhitesupi adhiṭṭhānadivasesu sādhiṭṭhānametanti eke. Aṭṭhakathācariyānaṃ idaṃ sanniṭṭhānaṃ ‘‘kattikapuṇṇamadivase paccuddharitvā pāṭipadadivase vikappetabbā’’ti. Vuttañhetaṃ parivāraṭṭhakathāyaṃ ‘‘kattikapuṇṇamāsiyā pacchime pāṭipadadivase vikappetvā ṭhapitaṃ vassikasāṭikaṃ nivāsento hemante āpajjati. Kurundiyaṃ pana ‘kattikapuṇṇamadivase apaccuddharitvā hemante āpajjatī’ti vuttaṃ, tampi suvuttaṃ. ‘Cātumāsaṃ adhiṭṭhātuṃ, tato paraṃ vikappetu’nti hi vutta’’nti (pari. aṭṭha. 323). Tattha kurundinayo pacchā vuttattā sārato daṭṭhabbo , na purimo. Nivāsento hi gimhepi orenaddhamāsaṃ āpajjati eva. Idha ca ‘‘atthāpatti hemante āpajjati, no gimheti vutta’’nti kurundivacanassāyamattho dissati.
Ở đó, đây là sự xem xét – khi nào phải được hủy bỏ, khi nào phải được định đoạt? Và ở đây, vì đã được nói “sau đó.” Ngay khi đến mùa đông, nó mất đi sự xác quyết. Do đó, không cần phải nói “sau khi đã hủy bỏ,” vì không có sự xác quyết. Còn nếu nói “phải được định đoạt trong vòng bốn tháng”? Không được nói. Bởi vì đã được nói “định đoạt sau đó.” Ở đây, một số người nói rằng “điều này phải được nói.” Giống như người đã ở xong biệt trú, đã xong phạt tự hối, dù đã hết các ngày biệt trú và phạt tự hối, cũng vậy, dù đã hết các ngày xác quyết, nó vẫn còn được xác quyết, một số người cho rằng như vậy. Đây là kết luận của các vị Chú giải sư: “vào ngày rằm tháng Kattika, phải hủy bỏ, và vào ngày mồng một, phải định đoạt.” Điều này đã được nói trong Chú giải Parivāra: “vào ngày mồng một sau ngày rằm tháng Kattika, nếu mặc y dùng trong mùa mưa đã được định đoạt và để đó, thì phạm tội vào mùa đông. Còn trong Kurundī, đã được nói: ‘nếu không hủy bỏ vào ngày rằm tháng Kattika, thì phạm tội vào mùa đông,’ điều đó cũng đã được nói rất hay. Bởi vì đã được nói ‘xác quyết trong bốn tháng, sau đó định đoạt’” (pari. aṭṭha. 323). Ở đó, cách của Kurundī, vì đã được nói sau, nên phải được coi là cốt lõi, không phải cách trước. Bởi vì người mặc y, ngay cả vào mùa hè, cũng chính là phạm tội trước nửa tháng. Và ở đây, vì đã được nói “có tội mà phạm vào mùa đông, không phải mùa hè,” nên ý nghĩa của lời nói trong Kurundī có vẻ như là như vầy.

‘‘Kattikapuṇṇamadivase apaccuddharitvā tasmiṃyeva divase avikappento pacchimapāṭipadadivase apaccuddhārapaccayā dukkaṭaṃ āpajjati, na, avikappanapaccayā dasāhaparihārasambhavato’’ti kāraṇameke vadanti. Evaṃ sati hemante pattamatte adhiṭṭhānaṃ vijahatīti āpajjati, tañca ayuttaṃ. Adhiṭṭhānañhi ‘‘aññassa dānena…pe… chiddabhāvenāti imehi navahi kāraṇehi vijahatī’’ti (pārā. aṭṭha. 2.469) vuttaṃ, na ‘‘adhiṭṭhānakhettātikkamena vā’’ti. Asādhāraṇattā na vuttanti ce? Na, ‘‘chiddabhāvenā’’ti na vattabbappasaṅgato, chiddabhāvena pana ticīvarasseva sabbaṭṭhakathāsu adhiṭṭhānavijahanassa vuttattā. Tasmā hemantassa paṭhamadivase apaccuddhārapaccayā dukkaṭaṃ āpajjati, na paccuddharitvā avikappanapaccayā. ‘‘Vikappetu’’nti Yamakato tato adhiṭṭhānaṃ na vijahatīti paññāyati. Na hi kattikapuṇṇamāsiyā pacchime pāṭipadadivase avikappetvā hemante āpajjatīti vuttanti adhippāyo, yasmā taṃ apaccuddhārapaccayā dukkaṭaṃ hemantassa paṭhamaaruṇakkhaṇe eva āpajjati, tasmā ‘‘kattikapuṇṇamadivase apaccuddharitvā’’ti vuttaṃ. Paccuddhaṭaṃ pana hemante dasāhaparihāraṃ labhati. ‘‘Dasāhe appahonte cīvarakālaṃ nātikkāmetabbā’’ti (pārā. aṭṭha. 2.630) hi vuttaṃ, tañca kho samaye uppannaṃ ce, nāsamaye. Tathā ca sādhitaṃ apaccuddhaṭaṃ na nissaggiyaṃ hoti, no ca taṃ paridahitaṃ, tasmā kattikapuṇṇamadivase eva paccuddharaṇañca vikappanañca kattabbanti siddhaṃ, ettha ca yathā atirekacīvaraṃ dasame divase vikappentena dasāhaparamaṃ dhāritaṃ hoti, antodasāhe ca vikappitaṃ hoti, tathā kattikapuṇṇamāya vikappentena vassānaṃ cātumāsaṃ adhiṭṭhitañca hoti, tato paraṃ anāpattikhette eva vikappanā ca hotīti veditabbaṃ. Ettāvatā atthi vikappanākhette adhiṭṭhānaṃ, adhiṭṭhānakhette ca vikappanāti dīpitaṃ hoti. Aññathā ‘‘atthāpatti adhiṭṭhānena āpajjati, anadhiṭṭhānena āpajjati. Atthāpatti vikappanāya āpajjati, avikappanāya āpajjatī’’ti dukesu dve dukāni vattabbāni siyuṃ. Tattha paṭhamaduke paṭhamapadaṃ sambhavati. Vikappanakhette hi vassikasāṭikādīnaṃ adhiṭṭhānena vinayātisāradukkaṭaṃ āpajjati. Eteneva dutiyadukkaṭassa dutiyapadaṃ vuttaṃ hoti. Anadhiṭṭhānena āpajjatīti natthi. Antodasāhe anāpajjanato, vikappanādisambhavato ca vikappanāya āpajjatīti natthi sabbattha vikappanāya appaṭisiddhattā, tasmā tāni dukāni ‘‘na labbhantī’’ti na vuttāni. Etthāha – yā sā ‘‘atthāpatti hemante āpajjatī’’ti (pari. 323) vacanappamāṇato dukkaṭāpatti sādhitā, sā sañcicca apaccuddharantassa yujjati, asatiyā ce, kañci, anāpatti. Kattikapuṇṇamāya paccuddhaṭaṃ sañcicca avikappayato dukkaṭena saha punadivase nissaggiyaṃ, asatiyā avikappayato nissaggiyameva idha paṭhamapaññattiyā. Yaṃ pana vuttaṃ mātikāṭṭhakathāyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. kathinasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘vassikasāṭikā vassānamāsātikkamenāpi, kaṇḍupaṭicchādi ābādhavūpasamenāpi adhiṭṭhānaṃ vijahati, tasmā sā tato paraṃ vikappetabbā’’ti, tenetaṃ virujjhati, na kevalaṃ idameva, ‘‘tato paraṃ paccuddharitvā vikappetabbā’’ti aṭṭhakathāvacanañca virujjhati. Tato paraṃ nāma hi hemantaṃ, tattha ce paccuddhāro, ‘‘vassikasāṭikā vassānamāsātikkamenāpī’’tiādi na yuttaṃ adhiṭṭhānābhāvena paccuddhārābhāvato. Avirodho ca icchitabbo, tasmā ‘‘paccuddharaṇaṃ vattamatta’’ntivādo etthāpi sambhavatīti ce? Na, kurundi vacanavirodhato. Tattha hi kattikapuṇṇamāya paccuddhāro vutto, tasmā vassānadivasattā sādhiṭṭhānāvasā paccuddharīyatīti na paccuddhāro vattamattaṃ, tasmā ‘‘tato para’’nti yāva puṇṇamā adhippetā siyā. Yathā cāyaṃ vikappo, tathā ‘‘vassānamāsātikkamenāpi ābādhavūpasamenāpī’’ti idampi avassaṃ paccuddharitabbatāya vuttaṃ siyā. Evañca sati idha samantapāsādikāya tadavacanena sameti. Aññathā idhapi taṃ vattabbaṃ siyāti yathāvuttova vidhi ettha sambhavati, kiñcāpi sambhavati, duviññāpayassa pana lokassa suviññāpanatthaṃ vuttā. Yasmā pana sā vassānātikkamena adhiṭṭhānaṃ vijahati, hemantapaṭhamāruṇe ca apaccuddhārapaccayā dukkaṭā sādhitā, tasmā kattikapuṇṇamāyameva paccuddharitvā vikappetabbā, avikappitāya ‘‘nissaggiyāpajjanamevā’’ti vattabbaṃ. Ettāvatāpi santosaṃ akatvā vinicchayo pariyesitabbo. Hoti cettha –
Một số người cho rằng lý do là: “nếu không hủy bỏ vào ngày rằm tháng Kattika, và không định đoạt ngay trong ngày đó, thì vào ngày mồng một sau đó, phạm tội Tác Ác do duyên không hủy bỏ, không phải là do duyên không định đoạt, vì có khả năng có sự miễn trừ mười ngày.” Nếu như vậy, sẽ dẫn đến việc ngay khi đến mùa đông, sự xác quyết mất đi, và điều đó không hợp lý. Bởi vì đã được nói: “sự xác quyết mất đi do chín lý do này: do cho người khác… cho đến… do có lỗ hổng” (pārā. aṭṭha. 2.469), không phải là “hoặc là do vượt quá phạm vi xác quyết.” Nếu nói rằng vì không chung, nên không được nói? Không phải vậy, vì sẽ dẫn đến việc không cần phải nói “do có lỗ hổng.” Bởi vì trong tất cả các Chú giải, việc mất đi sự xác quyết của chính ba y đã được nói do có lỗ hổng. Do đó, vào ngày đầu tiên của mùa đông, phạm tội Tác Ác do duyên không hủy bỏ, không phải do duyên không hủy bỏ và không định đoạt. Từ Yamaka “định đoạt,” có thể thấy rằng từ đó, sự xác quyết không mất đi. Ý định là, không phải là đã được nói “phạm tội vào mùa đông, sau khi đã không định đoạt vào ngày mồng một sau ngày rằm tháng Kattika.” Bởi vì tội Tác Ác do duyên không hủy bỏ đó được phạm chính vào khoảnh khắc rạng đông đầu tiên của mùa đông, do đó đã được nói “sau khi đã không hủy bỏ vào ngày rằm tháng Kattika.” Còn y đã được hủy bỏ, được hưởng sự miễn trừ mười ngày vào mùa đông. Bởi vì đã được nói: “không được vượt quá thời gian y khi chưa đủ mười ngày” (pārā. aṭṭha. 2.630). Và đó là nếu phát sinh trong thời gian, không phải ngoài thời gian. Và như vậy, đã được chứng minh rằng y chưa được hủy bỏ không phải là phải từ bỏ, nhưng y đó chưa được mặc. Do đó, đã được xác định rằng chính vào ngày rằm tháng Kattika, cả việc hủy bỏ và việc định đoạt đều phải được thực hiện. Và ở đây, giống như đối với người định đoạt y thừa vào ngày thứ mười, thì đã giữ tối đa mười ngày, và đã định đoạt trong vòng mười ngày. Cũng vậy, cần phải biết rằng đối với người định đoạt vào ngày rằm tháng Kattika, thì đã xác quyết trong bốn tháng mùa mưa, và việc định đoạt cũng xảy ra chính trong phạm vi không có tội. Bằng chừng ấy, đã được trình bày rằng có sự xác quyết trong phạm vi định đoạt, và có sự định đoạt trong phạm vi xác quyết. Nếu không, lẽ ra phải được nói hai bộ hai trong các bộ hai: “có tội mà phạm bằng sự xác quyết, phạm bằng sự không xác quyết. Có tội mà phạm bằng sự định đoạt, phạm bằng sự không định đoạt.” Ở đó, từ đầu tiên trong bộ hai đầu tiên có thể có. Bởi vì trong phạm vi định đoạt, phạm tội Tác Ác vi phạm Luật do việc xác quyết y dùng trong mùa mưa và các y khác. Bằng chính điều này, từ thứ hai của bộ hai thứ hai đã được nói. Không có “phạm bằng sự không xác quyết.” Vì không phạm trong vòng mười ngày, và vì có khả năng định đoạt và các việc khác, nên không có “phạm bằng sự định đoạt,” vì không có sự cấm định đoạt ở khắp mọi nơi. Do đó, không được nói vì các bộ hai đó “không được chấp nhận.” Vị ấy nói ở đây – tội Tác Ác đã được chứng minh, do tiêu chuẩn của lời nói “có tội mà phạm vào mùa đông” (pari. 323), hợp lý đối với người cố ý không hủy bỏ. Còn nếu do vô ý, thì là không phạm tội. Đối với người, sau khi đã hủy bỏ vào ngày rằm tháng Kattika, cố ý không định đoạt, thì cùng với tội Tác Ác, ngày hôm sau là phải từ bỏ. Đối với người không định đoạt do vô ý, thì chính là phải từ bỏ ở đây, theo chế định đầu tiên. Còn điều đã được nói trong Chú giải đề mục (kaṅkhā. aṭṭha. kathinasikkhāpadavaṇṇanā): “y dùng trong mùa mưa, ngay cả khi quá tháng mùa mưa, và y che ghẻ, ngay cả khi bệnh đã hết, cũng mất đi sự xác quyết. Do đó, sau đó phải được định đoạt,” điều đó mâu thuẫn với điều này. Không chỉ có điều này, mà cả lời nói trong Chú giải “sau đó, phải hủy bỏ và định đoạt” cũng mâu thuẫn. Bởi vì “sau đó” là mùa đông. Và nếu có sự hủy bỏ ở đó, thì “y dùng trong mùa mưa, ngay cả khi quá tháng mùa mưa” và các câu tương tự không hợp lý, vì không có sự hủy bỏ do không có sự xác quyết. Và sự không mâu thuẫn là điều mong muốn. Do đó, nếu nói rằng quan điểm “sự hủy bỏ chỉ là bổn phận” cũng có thể có ở đây? Không phải vậy, vì mâu thuẫn với lời nói trong Kurundī. Bởi vì ở đó, sự hủy bỏ vào ngày rằm tháng Kattika đã được nói. Do đó, không phải sự hủy bỏ chỉ là bổn phận, vì được hủy bỏ khi đã hết thời gian xác quyết, là ngày cuối cùng của mùa mưa. Do đó, có thể “sau đó” được hàm ý là cho đến ngày rằm. Và giống như sự lựa chọn này, cũng vậy, “ngay cả khi quá tháng mùa mưa, ngay cả khi bệnh đã hết,” có thể đã được nói vì phải được hủy bỏ. Và nếu như vậy, ở đây phù hợp với lời nói đó trong Samantapāsādikā. Nếu không, ở đây cũng lẽ ra phải nói điều đó. Do đó, chính phương pháp đã được nói là có thể có ở đây. Mặc dù có thể có, nhưng đã được nói để làm cho thế gian, là người khó hiểu, dễ hiểu. Và vì nó, khi quá mùa mưa, mất đi sự xác quyết, và tội Tác Ác đã được chứng minh do duyên không hủy bỏ vào rạng đông đầu tiên của mùa đông, do đó, phải được hủy bỏ và định đoạt chính vào ngày rằm tháng Kattika. Đối với y chưa được định đoạt, phải nói là “chính là việc phạm tội phải từ bỏ.” Sau khi đã không hài lòng ngay cả với chừng ấy, cần phải tìm kiếm sự phân xử. Và ở đây có câu –

‘‘Evaṃ abhāvaṃ vinayassa pāḷi,
Bhinnaṃ abhinnañca tadatthayuttiṃ;
Viññātukāmena tadatthaviññū,
Pariyesitabbā vinaye viññāyā’’ti.
“Như vậy, Pāḷi của Luật, không có và có;
Lý lẽ của ý nghĩa đó, khác và không khác;
Người muốn biết, sau khi đã biết trong Luật,
Phải tìm kiếm người thông thạo ý nghĩa đó.”

‘‘Tuyhaṃ gaṇhāhī’’ti vutte vināpi ‘‘mayhaṃ gaṇhāmī’’ti vacanena sudinnaṃ hoti. Itaro ce adhivāseti, tenāpi suggahitaṃ hoti, no ce adhivāseti, dentena sudinnaṃ. Taṃ pana vatthu na kassaci hoti. Tathā ‘‘mayhaṃ gaṇhāmī’’ti vadati, sāmiko ce adhivāseti, vināpi ‘‘gaṇhāhī’’ti vacanena suggahitaṃ. No ce adhivāseti, sāmikasseva taṃ, na hi tassetaṃ vinayakammanti ettha vinayakammassatthāya ce gaṇhāti, na vaṭṭati. Na kevalaṃ attano atthāya gahitaṃ , puna tassapi deti, vaṭṭatīti ca. Tathā anapekkho hutvā parassa vissajjetvā puna tena dinnaṃ vā tassa vissāsanto vā paribhuñjati, vaṭṭati. Tatthāpi vinayakammavasena na vaṭṭatīti eke. Te eva ‘‘mahantaṃ vā khuddakaṃ karotī’’ti ettha ‘‘ticīvare dīghato vidatthi anatikkamitvā chinditvā karoti, evaṃ sesesupī’’ti vadanti. Evarūpesu ṭhānesu porāṇācariyānaṃ kathāmaggaṃ suṭṭhu ācariyakulasevanāya sañjānitvā tena saṃsanditvā sato sampajāno hutvā sotūnañca cittaṃ avimohetvā kathetabbaṃ. Esā amhākaṃ āyācanā.
Khi được nói “hãy nhận của ngươi,” thì đã được cho rất tốt, ngay cả khi không có lời nói “tôi nhận của tôi.” Nếu người kia đồng ý, thì cũng đã được nhận rất tốt. Nếu không đồng ý, thì là đã được cho bởi người cho. Nhưng vật đó không phải của ai cả. Cũng vậy, nói “tôi nhận của tôi,” nếu chủ nhân đồng ý, thì đã được nhận rất tốt, ngay cả khi không có lời nói “hãy nhận.” Nếu không đồng ý, thì đó là của chính chủ nhân. Bởi vì đây không phải là Tăng sự Luật của người đó, ở đây, nếu nhận vì lợi ích của Tăng sự Luật, thì không được phép. Không chỉ là vật đã được nhận vì lợi ích của chính mình, mà còn cho lại cho chính người đó, cũng được phép. Cũng vậy, sau khi đã từ bỏ cho người khác mà không quyến luyến, rồi lại dùng vật đã được người đó cho, hoặc là do tin tưởng người đó, thì được phép. Một số người cho rằng ở đó cũng không được phép theo cách của Tăng sự Luật. Chính họ cũng nói rằng trong câu “hoặc là làm cái lớn thành cái nhỏ,” “trong ba y, sau khi đã cắt không quá một gang tay theo chiều dài và làm, cũng vậy trong các trường hợp còn lại.” Ở những nơi như vầy, sau khi đã biết rõ con đường của các vị Giáo thọ sư xưa bằng cách phụng sự các trường phái, và sau khi đã so sánh với nó, có niệm, có tỉnh giác, và không làm cho tâm của người nghe bị mê lầm, phải nói. Đây là lời thỉnh cầu của chúng tôi.

Paṭhamakathinasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về Kathina thứ nhất đã kết thúc.

2. Udositasikkhāpadavaṇṇanā
2. Diễn giải học giới Udosita

471. Santaruttarena janapadacārikaṃ pakkamanti. Kasmā? Kiñcāpi ‘‘na, bhikkhave, santaruttarena gāmo pavisitabbo, yo paviseyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 362) paṭhamaṃ vuttaṃ. Pacchā pana ‘‘pañcime, bhikkhave, paccayā saṅghāṭiyā nikkhepāya, uttarāsaṅgassa, antaravāsakassa nikkhepāya gilāno vā hoti, vassikasaṅketaṃ vā, nadīpāraṃ gantuṃ vā, aggaḷaguttivihāro vā, atthatakathinaṃ vā hotī’’ti vuttattā, aṭṭhakathāyampissa ‘‘pañcasu petesu aggaḷagutti eva pamāṇaṃ. Gutte eva hi vihāre nikkhipitvā bahi gantuṃ vaṭṭati, nāgutte’’ti vuttattā apaññattepi kathine ‘‘te bhikkhū aggaḷaguttivihāre ṭhapethā’’ti vatvā sabhāgānaṃ hatthe cīvaraṃ nikkhipitvā santaruttarena gāmappavese laddhakappiyā janapadacārikaṃ pakkāmiṃsūti veditabbaṃ.
471. Họ bắt đầu chuyến du hành đến các xứ sở với y nội và y vai. Tại sao? Mặc dù trước đó đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, không được vào làng với y nội và y vai. Ai vào, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 362). Nhưng sau đó, vì đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, có năm duyên này để cất y tăng-già-lê, để cất y vai trái, để cất nội y: hoặc là bị bệnh, hoặc là có hẹn ước mùa mưa, hoặc là muốn đi qua sông, hoặc là tu viện có cửa cài chắc chắn, hoặc là đã thọ Kathina,” và trong Chú giải của nó cũng đã được nói: “trong năm duyên đó, chỉ có cửa cài chắc chắn là tiêu chuẩn. Bởi vì chỉ khi ở trong tu viện chắc chắn mới được phép cất y và đi ra ngoài, không phải ở nơi không chắc chắn,” nên cần phải biết rằng ngay cả khi chưa chế định Kathina, sau khi đã nói “các Tỳ-khưu đó hãy đặt y ở tu viện có cửa cài chắc chắn,” và sau khi đã gửi y vào tay những người đồng loại, và sau khi đã được phép vào làng với y nội và y vai, họ đã bắt đầu chuyến du hành đến các xứ sở.

473.Avippavāsasammutinti avippavāsatthaṃ, vippavāsapaccayā yā āpatti, tadabhāvatthaṃ vā sammutiṃ dātunti attho. Tato paṭṭhāya vaṭṭati. Kittakaṃ kālaṃ vaṭṭatīti? Māsaṃ vā atirekaṃ vā yāva gamane saussāho, tāva vaṭṭati. Tena vuttaṃ ‘‘dhuranikkhepaṃ karontena paccuddharitabba’’nti. Puna sammutidānakiccaṃ natthīti sace dvādasannaṃ vassānaṃ accayena añño rogo hoti, vaṭṭati, upasampadakammaṃ viya yāvajīvaṃ ekāsammuti vaṭṭatīti ca.
473. Sự đồng ý về việc không xa lìa, có nghĩa là để không xa lìa, hoặc là để cho sự đồng ý để không có tội lỗi do duyên xa lìa. Từ đó trở đi, được phép. Được phép trong bao lâu? Được phép trong một tháng hoặc hơn, chừng nào còn tha thiết với việc đi. Do đó, đã được nói “phải hủy bỏ đối với người từ bỏ trách nhiệm.” Không cần phải cho sự đồng ý lại, là nếu sau mười hai năm, có một bệnh khác, thì được phép. Và giống như Tăng sự thọ cụ túc giới, một sự đồng ý được phép suốt đời.

‘‘Kataṃ vā hotī’’tiādi imasmiṃ sikkhāpade na vattabbaṃ, kasmā? Karaṇapalibodhe upacchinnepi anadhiṭṭhitacīvarato vippavāsapaccayā āpattiyā asambhavato, tasmā ‘‘niṭṭhitacīvarasminti bhikkhuno cīvaraṃ adhiṭṭhitaṃ hotī’’ti ettakameva vattabbanti ce? Na, tadāyattattā . Adhiṭṭhānañhi karaṇapalibodhassa niṭṭhāpanāyattaṃ, tasmā ‘‘kataṃ vātiādi vutta’’nti ca vuttaṃ. Tattha katanti pubbe vuttameva.
“Hoặc là đã được làm” và các câu tương tự không cần phải được nói trong học giới này. Tại sao? Vì ngay cả khi sự vướng bận về việc làm đã được cắt đứt, cũng không có khả năng có tội do duyên xa lìa khỏi y chưa được xác quyết. Do đó, nếu nói rằng chỉ cần nói chừng ấy “khi đã xong việc may y, là y của Tỳ-khưu đã được xác quyết”? Không phải vậy, vì phụ thuộc vào điều đó. Bởi vì sự xác quyết phụ thuộc vào việc hoàn thành sự vướng bận về việc làm. Do đó, đã được nói “hoặc là đã được làm” và các câu tương tự. Ở đó, đã được làm là chính điều đã được nói trước đây.

477-8.Avippavāsalakkhaṇavavatthāpanatthanti ettha ‘‘antogāme cīvaraṃ nikkhipitvā antogāme vatthabba’’ntiādivacanato avippavāsalakkhaṇaṃ vavatthāpitaṃ, tabbiparītanayena vippavāsalakkhaṇaṃ veditabbaṃ. Gāmo ekūpacārotiādimhi pana ṭhapetvā satthaṃ, rukkhamūlaṃ, ajjhokāsañca sesesu parikkhepāparikkhepavasena ekūpacāranānūpacāratā veditabbā. Yasmā pana satthaṃ duvidhaṃ niviṭṭhaṃ, aniviṭṭhañca, tesu aniviṭṭhaṃ ekakulassa vā nānākulassa vā aparikkhittameva hoti, niviṭṭhaṃ siyā parikkhittaṃ, siyā aparikkhittaṃ, tasmā tattha parikkhepādivasena adassetvā abbhantaravasena vutto. Tathā abbhokāse. Rukkhamūle chāyāvasena. Aññathā ‘‘sattho ekūpacāro nānūpacāro’’tiādi uddesavirodho siyā vibhaṅge adassitattā, tasmā satthassa purato ca pacchato ca sattabbhantarā, passato ca ekabbhantaranti ayamekūpacāro, tato paraṃ nānūpacāro. Tathā rukkhamūlassa yattha majjhanhike kāle chāyā pharati, ayaṃ ekūpacāro. Itaro nānūpacāro. Kasmā? Tattha hi parikkhepo appamāṇaṃ. Chāyāva pamāṇaṃ. Ajjhokāsassa pāḷiyaṃ vuttova. ‘‘Satthādīnaṃ ekakulasantakavasena ekūpacāratā’’ti likhitaṃ, tasmā nivesane, udosite ca vuttaparicchedova aṭṭādīsūti katvā saṃkhittaṃ. Tato paraṃ khettadhaññakaraṇaārāmavihāresu pana parikkhittāparikkhitta-padaṃ puna uddhaṭaṃ satthavibhaṅgena adhikārassa pacchinnattā. ‘‘Nānāgabbhā’’tiādivacanaṃ pana asambhavato khettadhaññakaraṇaārāmesu na uddhaṭaṃ. Vihāre sambhavantampi tattha pacchinnattā na uddhaṭaṃ. Kulaṃ vuccati sāmiko, tasmā ‘‘ekakulassa nānākulassā’’ti iminā gāmādīnaṃ cuddasannaṃ cīvaranikkhepaṭṭhānānaṃ sādhāraṇāsādhāraṇabhāvaṃ dīpeti. Ajjhokāsassa pana asambhavato na vuttaṃ. Yasmā panettha ekakulassa, nānākulassa ca aparikkhittesu gāmādīsu parihāraviseso kiñcāpi natthi, parikkhittesu pana atthi, tasmā ekanānākulaggahaṇaṃ, ekanānūpacāraggahaṇañca sātthakanti veditabbaṃ. Tatthapi ayaṃ viseso – satthe, rukkhamūle ca kulabhedatova bhedo, nopacārabhedato. Ajjhokāse upacārabhedato ca, so pana pāḷiyaṃ na dassitoti. ‘‘Taṃ pamāṇaṃ atikkamitvāti Yamakato ākāsepi aḍḍhateyyaratanappamāṇe doso natthī’’ti vadanti.
477-8. Để xác định đặc điểm của sự không xa lìa, ở đây, đặc điểm của sự không xa lìa đã được xác định từ các lời nói như “sau khi đã cất y trong làng, phải ở trong làng” và các lời nói khác. Cần phải biết đặc điểm của sự xa lìa theo cách ngược lại. Còn trong câu làng có cùng một khu vực ngoại ô và các câu tương tự, trừ đoàn lữ hành, gốc cây, và ngoài trời, cần phải biết tính chất có cùng một khu vực ngoại ô và có nhiều khu vực ngoại ô theo cách có hàng rào và không có hàng rào trong các trường hợp còn lại. Nhưng vì đoàn lữ hành có hai loại: đã định cư và chưa định cư. Trong số đó, loại chưa định cư, dù là của một gia đình hay của nhiều gia đình, đều là không có hàng rào. Loại đã định cư có thể có hàng rào, có thể không có hàng rào. Do đó, ở đó, không được trình bày theo cách có hàng rào và các cách khác, mà đã được nói theo cách bên trong. Cũng vậy, ở ngoài trời. Ở gốc cây, theo bóng râm. Nếu không, sẽ có sự mâu thuẫn với đầu đề “đoàn lữ hành có cùng một khu vực ngoại ô, có nhiều khu vực ngoại ô,” vì không được trình bày trong phần phân tích. Do đó, bảy khoảng cách ở phía trước và phía sau của đoàn lữ hành, và một khoảng cách ở hai bên, đây là cùng một khu vực ngoại ô. Ngoài đó là nhiều khu vực ngoại ô. Cũng vậy, nơi nào bóng râm của gốc cây che phủ vào giữa trưa, thì đây là cùng một khu vực ngoại ô. Phần còn lại là nhiều khu vực ngoại ô. Tại sao? Bởi vì ở đó, hàng rào là không có giới hạn. Chỉ có bóng râm là giới hạn. Đối với ngoài trời, chính là như đã được nói trong Pāḷi. Đã được viết: “tính chất có cùng một khu vực ngoại ô của đoàn lữ hành và các nơi khác là theo cách thuộc về một gia đình.” Do đó, đã được tóm tắt, vì cho rằng sự phân định đã được nói trong việc định cư và việc di dời cũng áp dụng cho tám trường hợp và các trường hợp khác. Sau đó, trong các ruộng, nơi đập lúa, chùa và tu viện, từ có hàng rào và không có hàng rào lại được trích dẫn, vì quyền hạn đã bị cắt đứt bởi phần phân tích về đoàn lữ hành. Còn lời nói “có nhiều phòng” và các lời nói khác, vì không thể có, nên không được trích dẫn trong các ruộng, nơi đập lúa, và chùa. Ngay cả khi có thể có trong tu viện, cũng không được trích dẫn vì đã bị cắt đứt ở đó. Gia đình được gọi là chủ nhân. Do đó, bằng câu “của một gia đình, của nhiều gia đình,” Ngài trình bày tính chất chung và không chung của mười bốn nơi cất y như làng và các nơi khác. Còn đối với ngoài trời, vì không thể có, nên không được nói. Bởi vì ở đây, dù không có sự khác biệt về sự miễn trừ trong các làng và các nơi khác không có hàng rào, của một gia đình và của nhiều gia đình, nhưng trong các nơi có hàng rào thì có. Do đó, cần phải biết rằng việc nắm bắt một và nhiều gia đình, và việc nắm bắt một và nhiều khu vực ngoại ô là có ý nghĩa. Ở đó cũng có sự khác biệt này – trong đoàn lữ hành và gốc cây, sự khác biệt chỉ là do sự khác biệt về gia đình, không phải do sự khác biệt về khu vực ngoại ô. Ở ngoài trời, là do sự khác biệt về khu vực ngoại ô. Nhưng điều đó không được trình bày trong Pāḷi. Một số người nói rằng “từ Yamaka ‘sau khi đã vượt quá giới hạn đó,’ ngay cả trên không, trong giới hạn hai rưỡi ratana, cũng không có lỗi.”

479. ‘‘Sabhā’’ti itthiliṅgaṃ. ‘‘Sabhāya’’nti napuṃsakaliṅgaṃ, tena vuttaṃ ‘‘liṅgabyattanayenā’’ti. Napuṃsakaliṅgadassanatthaṃ kira ‘‘sabhāya’’nti paccattavasena niddiṭṭhaṃ, tassa anupayogattā ‘‘dvāramūla’’ntipi. Attano nikkhittaṭṭhāne anikkhittattā vīthihatthapāso na rakkhati, yasmiṃ ghare cīvaraṃ nikkhittaṃ hoti, tasmiṃ ghare vatthabbaṃ. ‘‘Sabhāye vā vatthabbaṃ dvāramūle vā, hatthapāsā vā na vijahitabba’’nti hi vuttaṃ. ‘‘Hatthapāseyeva aruṇaṃ uṭṭhapetabba’’nti niyamitattā jānituṃ na sakkāti ce? Antoghare na sakkā, tathā tathā vuttattā, tasmā ‘‘yutti pamāṇa’’nti vuttaṃ. Ayamattho aṭṭhakathāyampi pakāsito, punapi khuddakagāme sabbasādhāraṇagāmadvāravasena. Sace tassa dvāradvayaṃ hoti, majjhe ca gharasabhāyaṃ, yatthicchati, tattha vasitabba’’nti.
479. “Sabhā” là giống cái. “Sabhāyaṃ” là giống trung. Do đó, đã được nói “theo cách thay đổi giống.” Người ta nói rằng “sabhāyaṃ” đã được chỉ định theo đối cách để trình bày giống trung. Vì không có sự sử dụng đó, nên cũng là “gốc cửa.” Vì không được cất ở nơi đã được cất của mình, nên khoảng cách một tầm tay của con đường không bảo vệ. Y phải được cất ở nhà nào, thì phải ở nhà đó. Bởi vì đã được nói “hoặc là phải ở trong nhà hội, hoặc là ở gốc cửa, hoặc là không được xa rời khoảng cách một tầm tay.” Nếu nói rằng không thể biết được vì đã được quy định “phải làm cho rạng đông mọc chính ở khoảng cách một tầm tay”? Ở trong nhà thì không thể. Vì đã được nói như vậy và như vậy. Do đó, đã được nói “lý lẽ là tiêu chuẩn.” Ý nghĩa này cũng đã được làm sáng tỏ trong Chú giải, lại nữa, trong một ngôi làng nhỏ, theo cách của cổng làng chung cho tất cả. Nếu nó có hai cổng, và ở giữa có nhà hội, thì phải ở nơi nào tùy ý.”

480-1. Yāni nivesanādīni gāmasaṅkhyaṃ na gacchanti, tāni nivesanādīnīti adhippetāni. Ajjhokāse aparisaṅkitampi cīvaraṃ atirekasattabbhantare nikkhittaṃ nissaggiyaṃ hoti, ettha antosīmatā na rakkhati, satthe pana rakkhati. ‘‘Nadīparihāro ca labbhatī’’ti Yamakato udakukkhepasīmāyaṃ parihāro labbhatīti siddhaṃ. Sāmantavihāro ce ekasīmo, cīvaraṃ na nissaggiyaṃ.
480-1. Những nơi ở và các nơi khác không được kể vào số làng, thì những nơi ở và các nơi khác đó được hàm ý. Ở ngoài trời, ngay cả y không bị nghi ngờ, được cất trong bảy khoảng cách, cũng trở thành phải từ bỏ. Ở đây, tính chất ở trong ranh giới không bảo vệ. Còn trong đoàn lữ hành thì bảo vệ. Đã được xác định rằng được hưởng sự miễn trừ trong ranh giới nước, từ Yamaka “sự miễn trừ của sông cũng được chấp nhận.” Nếu tu viện bên cạnh có cùng một ranh giới, thì y không phải từ bỏ.

Idāni –
Bây giờ –

‘‘Chinnaṃ dhutaṅgaṃ sāsaṅka-sammato santaruttaraṃ;
Acīvarassānāpatti, paccuddhārādisiddhito’’ti. –
“Đã cắt, hạnh đầu đà, sự đồng ý nghi ngờ, y nội và y vai;
Không có tội đối với người không có y, do sự xác định của việc hủy bỏ và các việc khác.” –

Idaṃ pakiṇṇakaṃ, tatthāyaṃ codanāpubbaṅgamo vinicchayo – keci ‘‘diguṇaṃ saṅghāṭi’’nti (mahāva. 348) Yamakato ‘‘ekaccikā saṅghāṭipi nādhiṭṭhātabbā. Sace adhiṭṭhāti na ruhatī’’ti vatvā upasampadāpekkhānampi diguṇameva saṅghāṭiṃ datvā upasampādenti, te iminā suttalesena saññāpetabbā. Bhagavatā hi ‘‘chinnakaṃ saṅghāṭiṃ chinnakaṃ uttarāsaṅgaṃ chinnakaṃ antaravāsaka’’nti paṭhamaṃ anuññātaṃ. Tato ‘‘aññatarassa bhikkhuno ticīvare kariyamāne sabbaṃ chinnakaṃ nappahoti. Dve chinnakāni ekaṃ acchinnakaṃ nappahoti. Dve acchinnakāni ekaṃ chinnakaṃ nappahotī’’ti imasmiṃ vatthusmiṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, anvādhikampi āropetu’’nti (mahāva. 360) anuññātaṃ, tasmā ekaccikāpi saṅghāṭi vaṭṭatīti siddhaṃ. Yā chijjamānā nappahoti, tassā kuto diguṇatāti. Aṭṭhakathāyampissa vuttaṃ ‘‘anvādhikampi āropetunti āgantukapattampi dātuṃ. Idaṃ pana appahonake āropetabbaṃ. Sace pahoti, āgantukapattaṃ na vaṭṭati, chinditabbamevā’’ti (mahāva. aṭṭha. 360). Kathinaṃ pana chinnakameva vaṭṭati āveṇikalakkhaṇattā , ‘‘chinnakaṃ diguṇaṃ nappahotī’’ti vacanābhāvato cāti sanniṭṭhānamettha gantabbaṃ.
Đây là phần linh tinh. Ở đó, đây là sự phân xử có câu hỏi trước – một số người, từ Yamaka “y tăng-già-lê hai lớp” (mahāva. 348), đã nói rằng “ngay cả y tăng-già-lê một lớp cũng không được xác quyết. Nếu xác quyết, thì không có hiệu lực,” và đã cho thọ cụ túc giới sau khi đã cho y tăng-già-lê chính là hai lớp ngay cả đối với những người mong muốn thọ cụ túc giới. Họ phải được làm cho hiểu bằng kẽ hở kinh này. Bởi vì Thế Tôn đã cho phép trước hết “y tăng-già-lê đã được cắt, y vai trái đã được cắt, nội y đã được cắt.” Sau đó, trong sự việc này: “đối với một Tỳ-khưu nào đó, khi đang làm ba y, tất cả đều đã được cắt thì không đủ. Hai cái đã được cắt, một cái chưa được cắt thì không đủ. Hai cái chưa được cắt, một cái đã được cắt thì không đủ,” đã được cho phép “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép thêm cả miếng vá” (mahāva. 360). Do đó, đã được xác định rằng ngay cả y tăng-già-lê một lớp cũng được phép. Đối với y nào, khi đang bị cắt mà không đủ, thì từ đâu mà có tính chất hai lớp. Trong Chú giải của nó cũng đã được nói: “thêm cả miếng vá, là cho cả miếng vá của khách. Nhưng điều này phải được thêm vào khi không đủ. Nếu đủ, thì không được phép có miếng vá của khách, chính là phải được cắt.” Còn Kathina, chính là y đã được cắt mới được phép, vì có đặc điểm riêng biệt, và vì không có lời nói “y đã được cắt, hai lớp không đủ.” Cần phải đi đến kết luận ở đây.

Dhutaṅganti anupasampannānaṃ tecīvarikadhutaṅgābhāvato ticīvareneva tecīvarikoti. Tesaṃ adhiṭṭhānābhāvato ‘‘adhiṭṭhitenevā’’ti vattabbaṃ hotūti ce? Na, dhutaṅgabhedena virodhappasaṅgato. Catutthacīvarasādiyanena hi dhutaṅgabhedo, na ticīvaravippavāsena, nāpi atirekacīvarasādiyanena, nāpi atirekacīvaradhāraṇena. Yasmā pana bhikkhūnaṃyeva bhagavatā adhiṭṭhānavasena nava cīvarāni anuññātāni, jātivasena ca vuttāni, na evaṃ anupasampannānaṃ. Tasmā tesaṃ cīvaraniyamābhāvā na taṃ dhutaṅgaṃ anuññātaṃ gahaṭṭhānaṃ viya, tasmā tassa samādānavidhāne avacanato ca sanniṭṭhānamettha gantabbaṃ.
Hạnh đầu đà, là người có ba y chính bằng ba y, vì những người chưa thọ cụ túc giới không có hạnh đầu đà về ba y. Nếu nói rằng vì họ không có sự xác quyết, nên lẽ ra phải nói “chính bằng y đã được xác quyết”? Không phải vậy, vì sẽ có sự mâu thuẫn với sự khác biệt của hạnh đầu đà. Bởi vì sự khác biệt của hạnh đầu đà là do việc đồng ý với y thứ tư, không phải do việc xa lìa ba y, cũng không phải do việc đồng ý với y thừa, cũng không phải do việc giữ y thừa. Và vì chính đối với các Tỳ-khưu, Thế Tôn đã cho phép chín y theo cách xác quyết, và đã được nói theo chủng loại, không phải như vậy đối với những người chưa thọ cụ túc giới. Do đó, vì họ không có quy định về y, nên hạnh đầu đà đó không được cho phép, giống như đối với các cư sĩ. Do đó, cần phải đi đến kết luận ở đây, vì không có lời nói trong phương pháp thọ trì của nó.

Sāsaṅkasammatoti kaṅkhāvitaraṇiyaṃ sāsaṅkasikkhāpade visuṃ aṅgāni na vuttāni, ‘‘sesamettha cīvaravaggassa dutiyasikkhāpade vuttanayena veditabba’’nti (kaṅkhā. aṭṭha. sāsaṅkasikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ, na ca panetaṃ vuttaṃ. Tattha rattivippavāso catutthaṃ aṅgaṃ, idha chārattavippavāso, ayamettha visesoti, tasmā aṅgasāmaññato, sammutisāmaññato ca sāsaṅkasikkhāpadameva vadanti. Idaṃ nippadesaṃ, taṃ sappadesaṃ māsaparamattā. Tattha bahigāmepi gāmasīmaṃ okkamitvā vasitvā pakkamantassa anāpatti, idha na tathā, idha anantare anantare aruṇuggamane nissaggiyaṃ, tattha sattameti ayaṃ imesaṃ dvinnaṃ viseso. Aṅgāni pana cīvaranikkhepaṅgasampattito vipariyāyena, idha vuttanayena ca siddhattā na vuttāni. Tāni kāmaṃ na vuttāni, tathāpi catutthamaṅgaṃ visesitabbaṃ, na pana visesitaṃ. Kiṃkāraṇā? Idha vuttanissajjanakkamena nissajjetvā āpattidesanato, tatthāpannāpattivimokkhadīpanatthaṃ. Saṃvaccharavippavutthampi rattivippavutthameva, pageva chārattaṃ vippavutthaṃ. Evaṃ santepi tattha yathāvuttaaṅgasampattiyā sati tattha vuttanayeneva nissajjitabbaṃ. Hemante vā gimhe vā nissajjati ce? Idha vuttanayenāpi nissajjituṃ vaṭṭatīti ñāpanatthaṃ catutthaṃ aṅgaṃ na visesitanti no takkoti ācariyo. Māsātikkantampi cīvaraṃ ‘‘dasāhātikkanta’’nti vatvā nissaṭṭhameva. Dvayena ūnamāsaṃ hutvā ‘‘dasāhātikkanta’’nti vatvā māsātikkantanti eke. Tathāpi sace paccāsācīvaraṃ hoti, nissaggiyaṃ ‘‘dasāhātikkanta’’nti vatvā, mūlacīvaraṃ pana ‘‘māsātikkanta’’nti vatvā nissajjitabbaṃ.
Được đồng ý trong sự nghi ngờ, trong Kaṅkhāvitaraṇī, các yếu tố riêng biệt không được nói trong học giới về sự nghi ngờ. Đã được nói: “phần còn lại ở đây cần phải được biết theo cách đã được nói trong học giới thứ hai của phẩm Y” (kaṅkhā. aṭṭha. sāsaṅkasikkhāpadavaṇṇanā). Nhưng điều này chưa được nói. Ở đó, việc xa lìa qua đêm là yếu tố thứ tư. Ở đây, việc xa lìa trong sáu đêm. Đây là sự khác biệt ở đây. Do đó, một số người nói chính là học giới về sự nghi ngờ, do sự chung chung của yếu tố và sự chung chung của sự đồng ý. Cái này không có giới hạn. Cái đó có giới hạn, tối đa một tháng. Ở đó, ngay cả khi ở ngoài làng, đối với người, sau khi đã vào ranh giới làng và ở, rồi ra đi, thì không phạm tội. Ở đây thì không như vậy. Ở đây, trong mỗi rạng đông liên tiếp, là phải từ bỏ. Ở đó, là thứ bảy. Đây là sự khác biệt của hai điều này. Còn các yếu tố, đã không được nói vì đã được xác định theo sự đảo ngược của sự thành tựu yếu tố cất y, và theo cách đã được nói ở đây. Dù chúng không được nói, nhưng yếu tố thứ tư phải được đặc tả. Nhưng chưa được đặc tả. Vì lý do gì? Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, để trình bày sự xuất tội đã phạm ở đó bằng cách sám hối sau khi đã từ bỏ theo trình tự từ bỏ đã được nói ở đây. Y đã xa lìa một năm cũng chính là đã xa lìa một đêm, huống chi là đã xa lìa trong sáu đêm. Dù vậy, ở đó, khi có sự thành tựu của yếu tố đã được nói, thì phải được từ bỏ theo chính cách đã được nói. Nếu từ bỏ vào mùa đông hoặc mùa hè? Đã được nói rằng yếu tố thứ tư không được đặc tả để cho biết rằng được phép từ bỏ ngay cả theo cách đã được nói ở đây. Y đã quá một tháng cũng được từ bỏ sau khi đã nói “đã quá mười ngày.” Một số người cho rằng y, sau khi đã trở thành thiếu một tháng và hai ngày, được từ bỏ sau khi đã nói “đã quá mười ngày,” là đã quá một tháng. Tuy nhiên, nếu là y có hy vọng, thì phải từ bỏ sau khi đã nói “đã quá mười ngày.” Còn y gốc, phải được từ bỏ sau khi đã nói “đã quá một tháng.”

‘‘Santaruttara’’nti vā ‘‘saṅghāṭi’’nti vā ‘‘cīvara’’nti vā kiṃ ticīvaraṃ, udāhu aññampīti . Kiñcettha – yadi ticīvarameva paṭisiddhaṃ, pariyāpannavasena acchinnacīvaracchindanadhovāpanaviññattiādivirodho. Atha aññampi, ‘‘niṭṭhitacīvarasmi’’nti evamādinā virodhoti? Vuccate – na niyamato veditabbaṃ yathāsambhavaṃ gahetabbato. Tathā hi ‘‘cīvaraṃ nikkhipitvā santaruttarena janapadacārikaṃ pakkamantī’’ti (pārā. 471) evamādīsu ticīvarameva. ‘‘Na, bhikkhave, santaruttarena gāmo pavisitabbo, santaruttaraparamaṃ tato cīvaraṃ sādhitabba’’nti evamādīsu yaṃkiñci, tathā saguṇaṃ katvā saṅghāṭiyo dātabbā, nivāsanaṃ dātabbaṃ, saṅghāṭi dātabbā, handa te, āvuso, saṅghāṭi, dehi me paṭantiādīsu. Vuttañhetaṃ ‘‘sabbañhi cīvaraṃ saṅghaṭitaṭṭhena ‘saṅghāṭī’ti vuccatī’’ti. Tathā ‘‘niṭṭhitacīvarasmi’’nti etthāpīti eke. Antosamaye hi yāvadatthaṃ cīvaraṃ anuññātaṃ, taṃ sabbaṃ kariyamānaṃ kadā niṭṭhānaṃ gacchissati, tasmā ticīvaramevāti eke. Acīvarassānāpatti paccuddhārādisiddhitoti kiṃ vuttaṃ hoti? Udositasikkhāpadassa nippayojanabhāvappasaṅgato ticīvaravippavāse tecīvarassa āpattīti eke. Tatthetaṃ vuccati na hoti āpatti paccuddhārādisiddhito. ‘‘Anāpatti antoaruṇe paccuddharati, vissajjetī’’ti hi vuttaṃ. Aññathā paccuddharantassa, antoaruṇe vissajjentassa ca yāva añño nādhiṭṭhāti, tāva āpattiṃ āpajjati yathāvuttanayena. Aññathā sattabbhantarena vippavāsassāti vippavāsato yathārutaṃyeva sati vippavāse vippavāsato avippavāse sati avippavāsatoti.
“Y nội và y vai” hoặc “y tăng-già-lê” hoặc “y,” là ba y, hay là cả y khác? Ở đây, nếu chỉ có ba y bị cấm, sẽ có sự mâu thuẫn với việc cắt, giặt, và xin y chưa được cắt theo cách bao gồm. Còn nếu cả y khác, thì có sự mâu thuẫn với câu “khi đã xong việc may y” và các câu tương tự? Xin thưa – cần phải biết là không có quy định, phải được hiểu theo khả năng. Thật vậy, trong các câu như “sau khi đã cất y, họ bắt đầu chuyến du hành đến các xứ sở với y nội và y vai” và các câu tương tự (pārā. 471), chính là ba y. Trong các câu như “Này các Tỳ-khưu, không được vào làng với y nội và y vai, y tối đa từ đó phải được làm là y nội và y vai,” là bất cứ y nào. Cũng vậy, trong các câu như “phải cho y tăng-già-lê sau khi đã làm cho tốt, phải cho nội y, phải cho y tăng-già-lê, này Tôn giả, đây là y tăng-già-lê của ngươi, hãy cho ta tấm vải.” Đã được nói: “tất cả các y, do ý nghĩa đã được may lại, đều được gọi là ‘y tăng-già-lê’.” Cũng vậy, một số người cho rằng ngay cả trong câu “khi đã xong việc may y.” Bởi vì trong thời gian, được phép có y tùy ý. Khi nào thì y đang được làm đó sẽ hoàn thành? Do đó, một số người cho rằng chính là ba y. Không có tội đối với người không có y, do sự xác định của việc hủy bỏ và các việc khác, điều gì đã được nói? Một số người cho rằng có tội đối với người có ba y trong việc xa lìa ba y, do khả năng học giới Udosita trở nên vô ích. Ở đó, đã được nói rằng không có tội, do sự xác định của việc hủy bỏ và các việc khác. Bởi vì đã được nói “không phạm tội, hủy bỏ, từ bỏ trong lúc rạng đông.” Nếu không, đối với người hủy bỏ, và đối với người từ bỏ trong lúc rạng đông, chừng nào chưa xác quyết y khác, thì chừng đó phạm tội theo cách đã được nói. Nếu không, bằng bảy khoảng cách và việc xa lìa. Từ việc xa lìa, chính theo như đã được nghe, khi có sự xa lìa, thì do sự xa lìa, khi có sự không xa lìa, thì do sự không xa lìa.

Udositasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới Udosita đã kết thúc.

3. Tatiyakathinasikkhāpadavaṇṇanā
3. Diễn giải học giới Kathina thứ ba

497.Nappahotīti lāmakaparicchedaṃ na pāpuṇāti, teneva ticīvarassa muṭṭhipañcakādilāmakaparicchedova tāva vutto. Cīvare paccāsā cīvarapaccāsā. Tenetaṃ dīpeti – taṃ cīvaraṃ pacchā labbhatu vā mā vā, yāva sā paccāsā chijjati, tāva idaṃ mūlacīvaraṃ ṭhapetuṃ anujānāmīti. ‘‘Cīvarapaccāsā’’ti mariyādatthe nissakkavacanaṃ, bhummatthe vā paccattavacanaṃ kataṃ.
497. Không đủ là không đạt đến sự phân định thấp kém. Chính vì vậy, chỉ có sự phân định thấp kém như năm nắm tay và các kích thước khác của ba y đã được nói. Hy vọng về y là hy vọng về y. Bằng điều đó, Ngài làm sáng tỏ điều này – dù y đó sau này có được hay không, chừng nào hy vọng đó chưa bị cắt đứt, chừng đó Ta cho phép giữ y gốc này. “Hy vọng về y,” đã được đặt là lời nói chỉ sự rời bỏ trong ý nghĩa giới hạn, hoặc là lời nói chỉ đối tượng trong ý nghĩa vị trí.

499-500.Niṭṭhitacīvarasmiṃ…pe… cīvarāsā vā upacchinnātiādimhi tīsu cīvaresu aññataraṃ kataṃ hoti, sesā atthi, rakkhati. Cīvarapalibodhassa upacchede, ubbhatasmiñca kathine samaye vā hemantassa samaye vā akālacīvaraṃ uppajjeyya, khippameva kāretabbaṃ . Sati pāripūriyā paccāsā na rakkhati, asati natthi ce paccāsā, na rakkhati. ‘‘Anatthate kathine ekādasamāse uppanna’’nti Yamakato aparakattikā atthate vā anatthate vā samayova. Hemanto siyā samayo atthate, siyā asamayo anatthate. Tato paraṃ ekaṃsato asamayo vāti. ‘‘Ādissa dinna’’nti idaṃ idha alabbhamānampi atthuddhāravasena vuttaṃ bhikkhunīnaṃ dutiyanissaggiye (pāci. 738 ādayo) sesaṃ akālacīvaraṃ viya. Tattha hi bhikkhunisaṅghassa ‘‘sampattā bhājentū’’ti evaṃ ādissa dinnameva ‘‘akālacīvaraṃ kālacīvara’’nti adhiṭṭhahitvā bhājentiyā nissaggiyaṃ. Tathā hi tattha yathā ‘‘akālacīvaraṃ nāma anatthate kathine ekādasamāse uppannaṃ, atthate kathine sattamāse uppanna’’nti idaṃ atthuddhāravasena vuttaṃ, evaṃsampadamidaṃ. Yadi evaṃ ‘‘ekapuggalassa idaṃ tuyhaṃ damhīti dinna’’nti idaṃ kimatthaṃ vuttaṃ, na hi taṃ bhājanīyanti ce? Abhājanīyasāmaññato vuttaṃ hoti. Yathā saṅghassa ādissa dinnaṃ atthatakathinehi eva bhikkhūhi abhājanīyattā akālacīvaraṃ nāma jātaṃ, evaṃ puggalikampi itarehīti attho. Evaṃ santepi kassaci siyā ‘‘ādissa dinnampi dasāhameva parihāraṃ labhatī’’ti. Tassetaṃ pāṭikaṅkhaṃ. Paṭhamakathine ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine’’ti idañhi niratthakanti. Anubbhatasmimpi hi kathine dasāhaparamameva dhāretabbanti viññātattā anādissa dinnameva sandhāyetaṃ vuttaṃ siyāti ce? Evaṃ santepi anādissa dinnampi anatthatakathinānaṃ aparakattikāya dasāhameva parihāraṃ labhati ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine’’ti vuttattā. Āmantāti ce? ‘‘Anatthate kathine ekādasamāse uppanna’’nti vacanena virujjhati, tasmā yathāvuttanayenevettha sanniṭṭhānaṃ gantabbaṃ.
499-500. Trong câu khi đã xong việc may y… cho đến… hoặc là hy vọng về y đã bị cắt đứt và các câu tương tự, nếu một trong ba y đã được làm, còn lại thì có, và giữ gìn. Khi sự vướng bận về y đã được cắt đứt, và sau khi đã xả Kathina, vào đúng thời điểm hoặc vào thời điểm của mùa đông, nếu y trái thời phát sinh, thì phải được làm nhanh chóng. Nếu có đủ, thì không giữ hy vọng. Nếu không có đủ và không có hy vọng, thì không giữ. Từ Yamaka “đã phát sinh trong mười một tháng khi chưa thọ Kathina,” tháng Kattika sau, dù đã thọ hay chưa thọ, cũng chính là thời điểm. Mùa đông có thể là thời điểm nếu đã thọ, có thể không phải là thời điểm nếu chưa thọ. Sau đó, chắc chắn là không phải thời điểm. “Đã được cho với ý định,” điều này, dù không được chấp nhận ở đây, cũng đã được nói theo cách trích dẫn ý nghĩa, giống như y trái thời còn lại trong tội Ưng Xả thứ hai của các Tỳ-khưu-ni (pāci. 738 ādayo). Bởi vì ở đó, đối với Tăng chúng Tỳ-khưu-ni, chính y đã được cho với ý định “những người đã đến hãy chia,” là phải từ bỏ đối với người chia sau khi đã xác quyết “y trái thời là y đúng thời.” Thật vậy, ở đó, giống như điều này đã được nói theo cách trích dẫn ý nghĩa “y trái thời là y đã phát sinh trong mười một tháng khi chưa thọ Kathina, và y đã phát sinh trong bảy tháng khi đã thọ Kathina,” cũng vậy, điều này. Nếu vậy, “y đã được cho một cá nhân ‘chúng tôi cho cái này cho ngài’,” tại sao lại được nói điều này? Chẳng phải nó không phải là vật để chia sao? Đã được nói do sự chung chung của việc không phải là vật để chia. Giống như y đã được cho với ý định cho Tăng chúng, đã trở thành y trái thời vì không phải là vật để chia bởi chính các Tỳ-khưu đã thọ Kathina, cũng vậy, y của cá nhân cũng vậy đối với những người khác. Dù vậy, một số người có thể nghĩ “ngay cả y đã được cho với ý định cũng chỉ được hưởng sự miễn trừ trong mười ngày.” Điều đó đáng được mong đợi. Trong học giới Kathina đầu tiên, “khi Tỳ-khưu đã xong việc may y, và sau khi đã xả Kathina,” điều này vô ích. Bởi vì ngay cả khi chưa xả Kathina, cũng chính là phải được giữ tối đa mười ngày. Nếu nói rằng vì đã được biết, nên có thể đã được nói đến để chỉ chính y đã được cho mà không có ý định? Dù vậy, ngay cả y đã được cho mà không có ý định, đối với những người chưa thọ Kathina, cũng chỉ được hưởng sự miễn trừ trong mười ngày vào tháng Kattika sau, vì đã được nói “khi Tỳ-khưu đã xong việc may y, và sau khi đã xả Kathina.” Nếu nói đúng vậy? Sẽ mâu thuẫn với lời nói “đã phát sinh trong mười một tháng khi chưa thọ Kathina.” Do đó, cần phải đi đến kết luận chính theo cách đã được nói ở đây.

Anugaṇṭhipade vuttaṃ ‘‘paṭhamasikkhāpade sabbacīvarānaṃ yāvadatthacīvaravasena kathinamāsabbhantare dasāhātikkamepi anāpatti parihārassa dinnattā. Yathā kathinamāsabbhantare ādissa dinnamakālacīvaraṃ kālacīvaraparihārameva labhati, tathā itaramāsepi labhatīti veditabbaṃ. Tasmā evaṃ ‘niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine bhikkhuno paneva cīvaraṃ uppajjeyyā’tiādinā sikkhāpade siddhepi anatthatakathinānaṃ pacchimakattikamāsaṃ anujānantena ‘akālacīvaraṃ uppajjeyyā’ti vuttaṃ. Evañhi avutte akālacīvaraṃ nāma ‘anatthate kathine ekādasamāse uppanna’nti na sakkā vattuṃ. Evañhi Yamakato anatthatakathinānaṃ atthatakathinānaṃ viya sabbacīvarānaṃ pacchimakattikamāse dasāhātikkame nissaggiyaṃ na hotī’’tiādi.
Đã được nói trong Anugaṇṭhipade: “trong học giới đầu tiên, đối với tất cả các y, không phạm tội ngay cả khi quá mười ngày trong tháng Kathina, theo cách của y tùy ý, vì đã được cho sự miễn trừ. Giống như y trái thời đã được cho với ý định trong tháng Kathina cũng được hưởng chính sự miễn trừ của y đúng thời, cũng vậy, cần phải biết rằng ngay cả trong các tháng khác cũng được hưởng. Do đó, sau khi đã có trong học giới bằng các câu như ‘khi Tỳ-khưu đã xong việc may y, và sau khi đã xả Kathina, nếu Tỳ-khưu có y phát sinh,’ đã được nói ‘nếu y trái thời phát sinh’ để cho phép tháng Kattika cuối cùng cho những người chưa thọ Kathina. Bởi vì nếu không được nói như vậy, không thể nói được rằng y trái thời là ‘y đã phát sinh trong mười một tháng khi chưa thọ Kathina.’ Vì như vậy, từ Yamaka, đối với những người chưa thọ Kathina, giống như những người đã thọ Kathina, đối với tất cả các y, không phải từ bỏ khi quá mười ngày vào tháng Kattika cuối cùng” và các câu tương tự.

Bhiyyopi evaṃ vuttaṃ – yaṃ pana mayā ‘‘paṭhamakathine dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāretabba’’nti anuññātaṃ, tampi kathinamāsato bahi uppannameva, na antoti ayamattho dīpito hoti. Kathaṃ? Atirekacīvarassa dasāhaparihārato uddhaṃ āpajjitabbāpattiṃ ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine’’ti anupaññattiyā kathinabbhantare vāretvā tato uddhaṃ uppannesu dasāhātikkame āpajjitabbāpattiṃ iminā sikkhāpadena vāretuṃ ‘‘akālacīvaraṃ uppajjeyyā’’tiādi vuttaṃ. Tena ‘‘kālepi ādissa dinnaṃ, etaṃ akālacīvaraṃ nāmā’’ti Yamakato kathinubbhārato uddhaṃ dasāhaparihāraṃ na labhatīti dīpitaṃ hoti, tehi saddhiṃ puna kathinubbhārato uddhaṃ pañca divasāni labhatīti pasaṅgopi ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine bhikkhuno paneva akālacīvaraṃ uppajjeyya…pe… khippameva kāretabba’’nti akālacīvarassa uppattikālaṃ niyametvā vuttattā nivārito hoti, tadubhayena kathinabbhantare uppannacīvaraṃ kathinubbhārato uddhaṃ ekadivasampi parihāraṃ na labhatīti siddhaṃ hoti. Evaṃ apare vadantīti.
Lại được nói như vầy – và ý nghĩa này đã được trình bày: điều mà Ta đã cho phép “phải giữ y thừa tối đa mười ngày” trong học giới Kathina đầu tiên, cũng chính là y đã phát sinh ngoài tháng Kathina, không phải là trong. Như thế nào? Tội lỗi phải phạm khi quá mười ngày đối với y thừa đã bị chế định bổ sung này “khi Tỳ-khưu đã xong việc may y, và sau khi đã xả Kathina” ngăn chặn trong thời gian Kathina. Và để ngăn chặn tội lỗi phải phạm khi quá mười ngày đối với những y phát sinh sau đó, đã được nói “nếu y trái thời phát sinh” và các câu tương tự. Do đó, từ Yamaka “ngay cả y đã được cho với ý định trong thời gian, cũng chính là y trái thời này,” đã được trình bày rằng sau khi xả Kathina, không được hưởng sự miễn trừ mười ngày. Và khả năng có thể được hưởng năm ngày sau khi xả Kathina cùng với họ cũng đã bị ngăn chặn, vì đã được nói sau khi đã xác định thời gian phát sinh của y trái thời “khi Tỳ-khưu đã xong việc may y, và sau khi đã xả Kathina, nếu Tỳ-khưu có y trái thời phát sinh… cho đến… phải được làm nhanh chóng.” Bằng cả hai điều đó, đã được xác định rằng y phát sinh trong thời gian Kathina, sau khi xả Kathina, không được hưởng sự miễn trừ dù chỉ một ngày. Những người khác đã nói như vậy.

Punapi vuttaṃ – ācariyā pana evaṃ vadeyyuṃ ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine bhikkhuno paneva akālacīvaraṃ uppajjeyyā’’ti ettha ‘‘niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatasmiṃ kathine’’ti vadanto evaṃ viññāpeti ‘‘etthantare tiṇṇannampi akālacīvarānaṃ uppatti abhāva’’nti. Kasmā pana padabhājane vitthāritānīti? Vuccate – idaṃ sikkhāpadaṃ adhiṭṭhānaṃ sandhāya vuttaṃ, kintu paṭhame dasāhaṃ anujānitvā tasmiṃ appahonte sace paccāsā atthi, tameva vaḍḍhetvā māsaṃ anujānanto imampi atthavisesaṃ dīpeti akālacīvaraṃ nāma sammukhībhūtena bhājetabbantipi dīpeti. Taṃ pana ‘‘ākaṅkhamānena bhikkhunā paṭiggahetabba’’nti iminā sikkhāpadena vaḍḍhetvā vuttanti, tasmā tīṇipi padabhājane vitthāritānīti.
Lại được nói – còn các vị Giáo thọ sư sẽ nói như vầy: “trong câu ‘khi Tỳ-khưu đã xong việc may y, và sau khi đã xả Kathina, nếu Tỳ-khưu có y trái thời phát sinh,’ người nói ‘khi Tỳ-khưu đã xong việc may y, và sau khi đã xả Kathina’ đã làm cho biết rằng ‘trong khoảng thời gian này, không có sự phát sinh của cả ba loại y trái thời’.” Nhưng tại sao lại được giải thích chi tiết trong phần phân tích từ? Xin thưa – học giới này đã được nói đến để chỉ sự xác quyết. Nhưng trong học giới đầu tiên, sau khi đã cho phép mười ngày, nếu chưa đủ, và nếu có hy vọng, thì sau khi đã kéo dài chính nó và cho phép một tháng, Ngài cũng trình bày ý nghĩa đặc biệt này, và cũng trình bày rằng y trái thời phải được chia bởi những người có mặt. Nhưng điều đó đã được nói bằng cách kéo dài học giới này “nếu Tỳ-khưu muốn, thì phải nhận.” Do đó, cả ba đều đã được giải thích chi tiết trong phần phân tích từ.

‘‘Khippameva kāretabbanti dasāhā kāretabba’’nti idaṃ pana pahonakabhāve purimasikkhāpadalakkhaṇenāti dīpetuṃ vuttaṃ, tasmā ‘‘evaṃ sīghanti vā lahunti vā’’tiādinā avatvā ‘‘dasāhā’’ti vuttaṃ. Atthatakathinassa evaṃ hotu, anatthate pana kathine kathanti vutte anatthatassa paṭikkhepataṃ dassetīti vutto apassanto vighātaṃ āpajjatīti. Ekatiṃse aruṇuggamane nissaggiyanti mahantenapi paccāsācīvarena saha ghaṭitampi tabbhāvaṃ anupatitvā nissaggiyaṃ hoti sati pacchimappamāṇasambhave, asati na hoti, puna ghaṭite hoti, aññena ghaṭite na hoti. Chinnaṃ aññavatthu hoti. Pubbaparicchedaṃ atikkantaṃ ghaṭitaṃ puna aññaparicchedaṃ labhatīti eke, upaparikkhitvā gahetabbaṃ. Aññatarasmiṃ gaṇṭhipade pana ‘‘saṅghassa vā idaṃ akālacīvaranti uddissa dinna’nti ettha saṅghassa dinne āpatti nāma natthi, ‘sotassa raho’tiādīsu viya paduddhārena vuttaṃ, tassa lābhaṃ sandhāyāti ce? Saṅghato vā uppajjeyyāti anena siddhattā adhikamevā’’ti ca ‘‘saṅgho cīvarāni labhissati gaṇo vā’tiādināpi pāṭho atthī’’ti ca vuttaṃ. Gaṇṭhipade kosallatthaṃ pana mayā sabbaṃ likhitaṃ, suṭṭhu vicāretvā kathetabbaṃ.
Phải được làm nhanh chóng, là phải được làm trong mười ngày, điều này đã được nói để trình bày bằng đặc điểm của học giới trước trong trường hợp đủ. Do đó, đã được nói “trong mười ngày,” thay vì nói “nhanh như vầy” hoặc “nhẹ như vầy.” Đối với người đã thọ Kathina, hãy như vậy. Còn đối với người chưa thọ Kathina, thì như thế nào? Đã được nói rằng người không thấy, sau khi đã trình bày sự bác bỏ đối với người chưa thọ, sẽ gặp phải sự cản trở. Vào lúc rạng đông của ngày thứ ba mươi mốt, là phải từ bỏ, y, dù đã được kết hợp với y có hy vọng lớn, cũng đi theo bản chất đó và trở thành phải từ bỏ, nếu có thể có kích thước cuối cùng. Nếu không có, thì không có. Nếu được kết hợp lại, thì có. Nếu được kết hợp bởi người khác, thì không có. Cái đã bị cắt trở thành một vật khác. Một số người cho rằng cái đã được kết hợp, sau khi đã vượt qua sự phân định trước đây, lại có được một sự phân định khác. Điều này cần được xem xét và chấp nhận. Còn trong một sách giải thích từ khó khác, đã được nói: “trong câu ‘hoặc là y trái thời này của Tăng chúng, đã được cho với ý định,’ ở đây, không có tội lỗi nào trong y đã được cho Tăng chúng. Đã được nói bằng cách trích dẫn từ, giống như trong câu ‘nơi kín đáo của tai’ và các câu tương tự. Nếu nói đến để chỉ lợi lộc của người đó? Đã được nói: ‘hoặc là phát sinh từ Tăng chúng,’ và ‘cũng có đoạn văn ‘Tăng chúng sẽ nhận được y, hoặc là nhóm’” và các câu tương tự, vì đã được xác định bằng điều này. Trong sách giải thích từ khó, nhưng tôi đã viết tất cả để có sự thông thạo. Cần phải xem xét kỹ lưỡng và nói.

Tatiyakathinasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới Kathina thứ ba đã kết thúc.

4. Purāṇacīvarasikkhāpadavaṇṇanā
4. Diễn giải học giới về y cũ

503-505.Bhattavissagganti bhattakiccādhiṭṭhānaṃ. Bhattakiccādhiṭṭhānavibhāganti porāṇā. Tattha nāma tvanti tattha tayā katakamme evaṃ akattabbe sati dhovāpissasi nāma. Atha vā so nāma tvanti attho. Ubhatosaṅghe upasampannāti bhikkhūnaṃ santike upasampadāya paṭikkhittattā tadanupasaṅgabhayā evaṃ vuttanti veditabbaṃ. ‘‘Purāṇacīvara’’nti ettha purāṇabhāvadīpanatthameva ‘‘sakiṃ nivatthampi sakiṃ pārutampī’’ti vuttaṃ, tasmā ‘‘cīvaraṃ nāma channaṃ cīvarānaṃ aññataraṃ cīvaraṃ vikappanupagaṃ pacchima’’nti vacanassa okāso na jātoti eke. Yasmā vikappanupagapacchimaṃ idha nādhippetaṃ, nivāsanapārupanupagamevādhippetaṃ, teneva nisīdanapaccattharaṇe dukkaṭaṃ vuttaṃ, tasmā na vuttanti eke. Jātippamāṇāvacanato yaṃ kiñci purāṇavatthaṃ dhovāpentassa nissaggiyameva, teneva ‘‘anāpatti cīvaraṃ ṭhapetvā aññaṃ parikkhāraṃ dhovāpetī’’ti vuttaṃ. Thavikampi hi asucimakkhitaṃ paribhuttaṃ dhovāpeti, nissaggiyameva oḷārikattā, appatirūpattā ca. Teneva kaṅkhāvitaraṇiyaṃ imasmiṃ ṭhāne cīvaraparicchedo na vuttoti eke, vicāretvā yuttataraṃ gahetabbaṃ. ‘‘Rajitvā kappaṃ katvāti kappiyaṃ katameva nivāsetuṃ, pārupituṃ vā vaṭṭati, netara’’nti vuttaṃ. Iminā ca majjhimattheravādo upatthambhito hoti, nopatthambhito. Rajitvātiādi pana vinayavidhidassanatthaṃ vuttanti mama takko. Yathā aññātikāya aññātikasaññīvāre tīṇi catukkāni, evaṃ vematikañātikavāresu cāti nava catukkāni honti. Etthāha – ekavāraṃ dhovitvā dhovanesu dhuraṃ nikkhipitvā puna ‘‘duddhota’’nti maññamānā dhovati, anāpattiyā bhavitabbaṃ, dutiyavāraṃ avuttā dhovati nāma hotīti? Vuccate – sace bhikkhu ‘‘alaṃ ettāvatā dhotenā’’ti paṭikkhipati, puna dhovantī avuttā dhovati nāmāti yujjati. No ce, vuttāva hotīti veditabbaṃ. Bhikkhussa liṅgaparivattane ekatoupasampannāya vasena āpatti sākiyānīnaṃ viya.
503-505. Sự từ bỏ bữa ăn là sự xác quyết về việc ăn uống. Các vị xưa là sự phân chia về sự xác quyết việc ăn uống. Ở đó, ngươi, là trong hành động đã được ngươi làm, khi không nên làm như vậy, ngươi lại cho giặt. Hoặc là, ý nghĩa là ngươi đó. Đã được thọ cụ túc giới trong cả hai Tăng chúng, cần phải biết rằng đã được nói như vậy do sợ không được thọ cụ túc giới, vì đã bị bác bỏ việc thọ cụ túc giới với các Tỳ-khưu. Trong câu “y cũ,” đã được nói “dù chỉ mặc một lần, dù chỉ khoác một lần” chính để trình bày bản chất cũ. Do đó, một số người cho rằng không có cơ hội cho lời nói “y là một trong sáu loại y, là vật cuối cùng có thể được định đoạt.” Bởi vì ở đây, vật cuối cùng có thể được định đoạt không được hàm ý, mà chỉ có vật có thể được mặc và khoác mới được hàm ý. Chính vì vậy, đã được nói là tội Tác Ác đối với tấm trải ngồi. Do đó, một số người cho rằng không được nói. Do không có lời nói về chủng loại và kích thước, nên đối với người cho giặt bất kỳ tấm vải cũ nào, cũng chính là phải từ bỏ. Chính vì vậy, đã được nói: “không phạm tội, trừ y, nếu cho giặt vật dụng khác.” Bởi vì ngay cả cái túi, nếu đã được dùng và bị bẩn, và cho giặt, cũng chính là phải từ bỏ, vì là thô thiển và không phù hợp. Chính vì vậy, một số người cho rằng trong Kaṅkhāvitaraṇī, ở nơi này, sự phân định y không được nói. Cần phải xem xét và chấp nhận điều hợp lý hơn. Đã được nói: “sau khi đã nhuộm và làm cho hợp lệ, là chỉ y đã được làm hợp lệ mới được phép mặc hoặc khoác, không phải y khác.” Và bằng điều này, quan điểm của các trưởng lão trung gian được củng cố, không phải là không được củng cố. Còn sau khi đã nhuộm và các câu tương tự, theo suy đoán của tôi, đã được nói để trình bày phương pháp của Luật. Giống như trong trường hợp của người không phải là quyến thuộc, có ý thức là không phải là quyến thuộc, có ba bộ bốn, cũng vậy, trong các trường hợp nghi ngờ và là quyến thuộc. Ở đây, có câu hỏi – sau khi đã giặt một lần và đã từ bỏ việc giặt, rồi lại giặt vì cho rằng “chưa được giặt sạch,” lẽ ra phải không có tội. Được gọi là giặt khi chưa được nói lần thứ hai? Xin thưa – nếu Tỳ-khưu bác bỏ “đủ rồi, đã giặt chừng này,” thì hợp lý là được gọi là giặt khi chưa được nói, đối với người giặt lại. Nếu không, cần phải biết rằng chính là đã được nói. Đối với người thay đổi giới tính, có tội theo cách của người đã thọ cụ túc giới trong cả hai Tăng chúng, giống như đối với các phụ nữ dòng họ Sakya.

506.Ekenavatthunāti yena kenaci paṭhamena. ‘‘Tiṇṇaṃ catukkānaṃ vasenā’’ti pāṭho. Bhikkhūnaṃ santike aṭṭhavācikāya upasampannāya pākaṭattā taṃ avatvā sākiyāniyova vuttā apākaṭattā.
506. Bằng một sự việc, là bằng bất kỳ sự việc đầu tiên nào. Có đoạn văn “theo cách của ba bộ bốn.” Vì đã rõ ràng đối với người đã được thọ cụ túc giới bằng tám lời nói với Tăng chúng, nên không nói về người đó, mà chỉ nói về người phụ nữ dòng họ Sakya, vì không rõ ràng.

Purāṇacīvarasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về y cũ đã kết thúc.

5. Cīvarapaṭiggahaṇasikkhāpadavaṇṇanā
5. Diễn giải học giới về việc nhận y

508-510.Apaññatte sikkhāpadeti ettha ‘‘gaṇamhā ohīyanasikkhāpade’’ti likhitaṃ. Araññavāsīnisedhanasikkhāpade apaññatteti eke, ‘‘taṃ na sundara’’nti vadanti. Vihatthatāyāti āyāsena.
508-510. Khi học giới chưa được chế định, ở đây, đã được viết: “trong học giới về việc đi sau nhóm.” Một số người cho rằng khi học giới về việc cấm những người sống trong rừng chưa được chế định. Một số người nói rằng “điều đó không hay.” Do sự vất vả là do sự mệt mỏi.

512.Upacāroti dvādasahattho. Mahāpaccariyaṃ, kurundiyañca vuttanti ettha rattibhāge dhammakathikassa bhikkhuno bahūsu cīvaresu mahājanena pasādadānavasena paṭikkhittesu punadivase ‘‘upāsakānaṃ pasādadānāni etānī’’ti suddhacittena gaṇhantassa doso natthi, ‘‘bhikkhunīhipi dinnāni idha santī’’ti ñatvā gaṇhato doso. Taṃ acittakabhāvenāti bhikkhunīhi dinnabhāvaṃ ñatvā bahūsu tassā cīvarassa ajānanenāti attho. Paṃsukūlaṃ adhiṭṭhahitvāti ‘‘bhikkhunīhi nu kho dinnaṃ siyā’’ti avikappetvā ‘‘paṃsukūlaṃ gaṇhāmī’’ti gaṇhantassa vaṭṭati. Kurundiādīsu vuttopi attho ayameva, ekaṃ, ‘‘acittakabhāvenā’’ti vacanena ‘‘yathā tathā gaṇhituṃ vaṭṭatī’’ti uppathova paṭisedhitoti apare. Evaṃ dhammasiritthero na vadati, ujukameva vadatīti papañcitaṃ. Tasseva visayo, tassāyaṃ adhippāyo – yathā ‘‘paṃsukūlaṃ gaṇhissatīti ṭhapitaṃ kāmaṃ bhikkhunisantakampi avikappetvā paṃsukūlaṃ adhiṭṭhahitvā gahetuṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ, tathā dhammakathikassa bhikkhuniyā dinnampi apaññāyamānaṃ vaṭṭatīti, tasmā taṃ vuttaṃ mahāpaccariyaṃ, kurundiyañca acittakabhāvena na sametīti. Paṭikkhepo pana vikappaggahaṇe eva ruhati. Aññathā pubbāparaṃ virujjhatīti. Taṃ na yuttaṃ paṃsukūlena asamānattā. Paṃsukūlabhāvena saṅkārakūṭādīsu ṭhapitaṃ bhikkhunīhi, na taṃ tassā santakaṃ hutvā ṭhitaṃ hoti. Assāmikañhi paṃsukūlaṃ sabbasādhāraṇañca, aññopi gahetuṃ labhati. Idaṃ pubbeva ‘‘bhikkhunīnaṃ cīvara’’nti jānitvāpi paṃsukūliko gahetuṃ labhati tadā tassā asantakattā. ‘‘Paṃsukūlaṃ adhiṭṭhahitvā’’ti sallekhakkamanidassanatthaṃ vuttaṃ. Maṃsaṃ dadantena tathāgatena sallekhato kappiyampi bhuttaṃ nissaggiyaṃ cīvaramāha yo maṃsaṃ kathanti sayamādiseyyāti.
512. Khu vực ngoại ô là mười hai tay. Ở đây, đã được nói trong Mahāpaccarī và Kurundī, vào ban đêm, khi nhiều y đã bị đại chúng bác bỏ do lòng tin cúng dường của một Tỳ-khưu thuyết pháp, thì ngày hôm sau, đối với người nhận với tâm trong sạch “đây là những sự cúng dường do lòng tin của các cận sự nam,” không có lỗi. Đối với người nhận sau khi đã biết “ở đây cũng có những y đã được các Tỳ-khưu-ni cho,” thì có lỗi. Điều đó, do không có tâm, có nghĩa là do không biết y của Tỳ-khưu-ni đó trong số nhiều y, sau khi đã biết bản chất đã được các Tỳ-khưu-ni cho. Sau khi đã xác quyết là y phấn tảo, là được phép đối với người, không phân định “có phải đã được các Tỳ-khưu-ni cho không,” mà nhận “tôi nhận y phấn tảo.” Kurundī và các sách khác, ý nghĩa đã được nói cũng chính là như vậy. Những người khác cho rằng “bằng lời nói ‘do không có tâm,’ đã bác bỏ con đường sai lầm ‘được phép nhận theo bất kỳ cách nào’.” Trưởng lão Dhammasiri không nói như vậy, mà nói một cách thẳng thắn. Đã được giải thích chi tiết. Đó là đối tượng của chính vị ấy. Đây là ý định của vị ấy – giống như đã được nói “y đã được đặt để ‘người đó sẽ nhận y phấn tảo,’ dù là của Tỳ-khưu-ni, cũng được phép nhận sau khi đã xác quyết là y phấn tảo mà không cần định đoạt,” cũng vậy, y đã được Tỳ-khưu-ni cho người thuyết pháp, nếu không được biết, thì được phép. Do đó, điều đã được nói trong Mahāpaccarī và Kurundī không phù hợp với việc không có tâm. Còn sự bác bỏ chỉ có hiệu lực trong việc nhận định đoạt. Nếu không, trước và sau sẽ mâu thuẫn. Điều đó không hợp lý, vì không giống với y phấn tảo. Y phấn tảo, đã được các Tỳ-khưu-ni đặt ở các đống rác và các nơi khác, không còn là của của họ nữa. Bởi vì y phấn tảo là không có chủ và là của chung, nên người khác cũng được phép lấy. Điều này, ngay cả khi đã biết trước “đây là y của các Tỳ-khưu-ni,” người mặc y phấn tảo cũng được phép lấy, vì lúc đó nó không phải là của của họ. Đã được nói “sau khi đã xác quyết là y phấn tảo” để trình bày cách thực hành khổ hạnh. Như Lai, người đã cho thịt, đã dùng ngay cả vật hợp lệ do khổ hạnh, và đã nói y phải từ bỏ nào mà người ta nói là thịt.

Acittakattā kathaṃ paṃsukūlaṃ vaṭṭatīti ce? Tāya tassa adinnattā, bhikkhunāpi tato bhikkhunito aggahitattā ca. Assāmikampi hi paṃsukūlaṃ aññissā hatthato gaṇhāti, na vaṭṭati ‘‘aññātikāya bhikkhuniyā cīvaraṃ paṭiggaṇheyyā’’ti vuttalakkhaṇasambhavato. Aññātikāya santakaṃ ñātikāya hatthato gaṇhāti, vaṭṭatīti eke. Yathā sikkhamānasāmaṇerādīnaṃ hatthato paṭiggaṇhantassa anāpatti, tathā kaṅkhāvitaraṇiyañca ‘‘aññātikāya hatthato gahaṇa’’nti (kaṅakhā. aṭṭha. cīvarappaṭiggahaṇasikkhāpadavaṇṇanā) aṅgaṃ vuttaṃ. Tathā ñātikāya santakaṃ sikkhamānāya, sāmaṇeriyā, upāsakassa, upāsikāya, bhikkhussa, sāmaṇerassa santakaṃ aññātikāya bhikkhuniyā hatthato gaṇhantassa ca anāpatti evaṃ yathāvuttalakkhaṇāsambhavatoti eke, teneva ‘‘ekatoupasampannāya cīvaraṃ paṭiggaṇhātī’ti avatvā ‘hatthato paṭiggaṇhāti aññatra pārivattakā, āpatti dukkaṭassā’ti (pārā. 513) vuttaṃ, tasmā aññātikāya santakampi ekatoupasampannāya hatthato paṭiggaṇhantassa dukkaṭa’’nti vadanti, ubhopete na sārato daṭṭhabbā, kāraṇaṃ pariyesitabbaṃ.
Nếu nói làm sao y phấn tảo lại được phép do không có tâm? Do người đó không cho, và Tỳ-khưu cũng không nhận từ Tỳ-khưu-ni đó. Bởi vì ngay cả y phấn tảo không có chủ, nếu nhận từ tay người khác, cũng không được phép, vì có thể có đặc điểm đã được nói “nếu nhận y của Tỳ-khưu-ni không phải là quyến thuộc.” Một số người cho rằng được phép nhận y của người không phải là quyến thuộc từ tay của người là quyến thuộc. Giống như không phạm tội đối với người nhận từ tay của cô ni tu tập sự, Sa-di và các vị khác, cũng vậy, trong Kaṅkhāvitaraṇī, yếu tố “nhận từ tay của người không phải là quyến thuộc” (kaṅakhā. aṭṭha. cīvarappaṭiggahaṇasikkhāpadavaṇṇanā) đã được nói. Cũng vậy, một số người cho rằng không phạm tội đối với người nhận y của người là quyến thuộc từ tay của cô ni tu tập sự, Sa-di-ni, cận sự nam, cận sự nữ, Tỳ-khưu, Sa-di, và Tỳ-khưu-ni không phải là quyến thuộc, vì không có đặc điểm đã được nói như vậy. Chính vì vậy, đã được nói: “nhận y của người đã thọ cụ túc giới trong cả hai Tăng chúng, không nói ‘nhận từ tay,’ trừ trường hợp đổi chác, phạm tội Tác Ác” (pārā. 513). Do đó, một số người nói rằng “ngay cả y của người không phải là quyến thuộc, đối với người nhận từ tay của người đã thọ cụ túc giới trong cả hai Tăng chúng, cũng phạm tội Tác Ác.” Cả hai quan điểm này đều không nên được coi là cốt lõi, cần phải tìm kiếm nguyên nhân.

514.Ko pana vādo pattatthavikādīsūti anadhiṭṭhātabbesu bahūsu paṭalesu. Tenevāha mātikāṭṭhakathāyaṃ ‘‘pattatthavikādimhi anadhiṭṭhātabbaparikkhāre’’ti. Adhiṭṭhānupagesu vā tesaṃ parikkhārattā bhisichaviyā viya anāpatti. Kiṃ paṭaparissāvanaṃ parikkhāraṃ na hotīti? Hoti, kintu taṃ kira nivāsanādicīvarasaṇṭhānattā na vaṭṭati. Tasmā idha nivāsanādicīvarasādhanaṃ vikappanupagapacchimaṃ cīvaraṃ nāma. Anantarātīte nivāsanapārupanupagamevāti sanniṭṭhānaṃ. Evaṃ sante kaṅkhāvitaraṇiyaṃ (kaṅkhā. aṭṭha. cīvarappaṭiggahaṇasikkhāpadavaṇṇanā) kappanupagapacchimatā, pārivattakābhāvo, aññātikāya hatthato gahaṇanti tīṇeva aṅgāni avatvā aparikkhāratāti catutthamaṅgaṃ vattabbanti ce? Na vattabbaṃ, imasmiṃ sikkhāpade pattatthavikādiparikkhārassa acīvarasaṅkhyattā. Paṭhamakathinādīsu vikappanupagatā pamāṇaṃ, idha kāyaparibhogupagatāti. ‘‘Aññaṃ parikkhāra’’nti uddharitvā ‘‘pattatthavikādiṃ yaṃkiñcī’’ti vuttattā vikappanupagampi pattatthavikādiṃ gaṇhituṃ vaṭṭati, ‘‘paṭaparissāvanampī’’ti vuttaṭṭhāne ca ‘‘cīvaraṃ nāma vikappanupagapacchima’’nti Yamakato paṭaparissāvanaṃ cīvarameva, na parikkhāraṃ. ‘‘Ko pana vādoti nigamanavacanampi sādhaka’’nti keci vadanti, paṇṇattiṃ ajānanato acittakaṃ, na vatthuṃ, ‘‘aññātikāya bhikkhuniyā santakabhāvājānanato, cīvarabhāvājānanato ca acittaka’’nti anugaṇṭhipade vuttaṃ.
514. Có ý kiến gì về túi đựng bát và các vật dụng khác, là trong nhiều tấm vải không được xác quyết. Chính vì vậy, Ngài đã nói trong Chú giải đề mục: “trong vật dụng không được xác quyết như túi đựng bát và các vật dụng khác.” Hoặc là không phạm tội đối với chúng, vì là vật dụng, giống như trong trường hợp của gối và đệm. Có phải cái lọc nước bằng vải không phải là vật dụng không? Có, nhưng người ta nói rằng nó không được phép vì có hình dạng giống như y mặc. Do đó, ở đây, y là vật cuối cùng có thể được định đoạt, là vật có thể dùng để làm y mặc. Kết luận là chỉ có vật có thể được mặc và khoác ở phần ngay trước đó. Nếu như vậy, trong Kaṅkhāvitaraṇī (kaṅkhā. aṭṭha. cīvarappaṭiggahaṇasikkhāpadavaṇṇanā), lẽ ra phải nói yếu tố thứ tư là không phải là vật dụng, thay vì không nói ba yếu tố: tính chất là vật cuối cùng có thể được định đoạt, sự không có sự đổi chác, và việc nhận từ tay của người không phải là quyến thuộc? Không cần phải nói, vì trong học giới này, các vật dụng như túi đựng bát và các vật dụng khác được kể vào số không phải là y. Trong các học giới Kathina đầu tiên và các học giới khác, tính chất có thể được định đoạt là tiêu chuẩn. Ở đây, là có thể được dùng cho thân thể. Một số người nói rằng “vì đã được trích dẫn ‘bất kỳ vật dụng nào khác’ và được nói ‘bất kỳ thứ gì như túi đựng bát và các vật dụng khác,’ nên ngay cả túi đựng bát và các vật dụng khác có thể được định đoạt cũng được phép nhận. Và ở nơi đã được nói ‘ngay cả cái lọc nước bằng vải,’ thì cái lọc nước bằng vải chính là y, không phải là vật dụng, từ Yamaka ‘y là vật cuối cùng có thể được định đoạt.’ Lời nói kết luận ‘có ý kiến gì’ cũng là bằng chứng.” Đã được nói trong Anugaṇṭhipade: “không có tâm do không biết chế định, không phải là không biết sự việc. Không có tâm do không biết bản chất là của Tỳ-khưu-ni không phải là quyến thuộc, và do không biết bản chất là y.”

Cīvarapaṭiggahaṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc nhận y đã kết thúc.

6. Aññātakaviññattisikkhāpadavaṇṇanā
6. Diễn giải học giới về việc xin từ người không phải là quyến thuộc

515.Parikkhārānanti upayogatthe sāmivacanaṃ. Ekasāṭakanti bhāvanapuṃsakaṃ, ‘‘aññātako moghapurisā’’ti vacanena pavāritopi adātukāmo aññātako appavāritaṭṭhāne tiṭṭhatīti dīpitaṃ hoti. Aññathā ‘‘anāpatti pavāritāna’’nti iminā virujjhati.
515. Của các vật dụng là sở hữu cách trong ý nghĩa sử dụng. Người có một tấm y là danh từ trung tính. Đã được trình bày rằng ngay cả người đã được thỉnh mời, nếu không muốn cho, cũng ở trong tình trạng chưa được thỉnh mời, do lời nói “người không phải là quyến thuộc, kẻ ngu si.” Nếu không, sẽ mâu thuẫn với câu “không phạm tội đối với những người đã được thỉnh mời.”

517.Neva tāva viññāpetabbaṃ, na bhañjitabbanti anacchinnānaṃ cīvarānaṃ attano santakānaṃ atthitāya, tattha paccāsāsabbhāvato ca. Paccāsā kittakaṃ kālaṃ rakkhatīti? Yāva gāmantarā, yāva addhayojanāti eke. Yāva dassanasavanūpacārāti eke. Yāva aññe na passantīti eke. Yāva paccāsā chijjatīti eke. Yāva sākhāpalāsapariyesanabhañjanasajjanakālaparicchedāti eke. Idaṃ sabbaṃ yathāsambhavaṃ yujjati. Kathaṃ paññāyatīti ce? ‘‘Sace pana etesaṃ vuttappakārānaṃ gihivatthādīnaṃ bhisichavipariyantānaṃ kiñci na labbhati, tena tiṇena vā paṇṇena vā paṭicchādetvā āgantabba’’nti aṭṭhakathāvacanato.
517. Chưa được xin, cũng chưa được phá, là do có y của mình chưa bị cướp, và do có hy vọng ở đó. Hy vọng giữ được trong bao lâu? Một số người cho rằng cho đến làng khác, cho đến nửa yojana. Một số người cho rằng cho đến khi còn trong tầm thấy và nghe. Một số người cho rằng cho đến khi những người khác không thấy. Một số người cho rằng cho đến khi hy vọng bị cắt đứt. Một số người cho rằng cho đến khi có sự phân định thời gian tìm kiếm, phá, và chuẩn bị cành cây và lá cây. Tất cả những điều này đều hợp lý theo khả năng. Nếu hỏi làm thế nào để biết? Từ lời nói trong Chú giải: “nhưng nếu không có được bất kỳ thứ gì trong số các vật của cư sĩ đã được nói, cho đến gối và đệm, thì phải đến sau khi đã che thân bằng cỏ hoặc lá.”

Na tāva therānaṃ dātabbānīti na tāva attano ruciyā dātabbāni, yadā therā ‘‘dethāvuso’’ti vadanti, tadā dātabbāni. ‘‘Evaṃ sati daharāpi acchinnacīvaraṭṭhāne tiṭṭhanti, sākhāpalāsaṃ bhañjituṃ vaṭṭati, na aññathā. ‘Yehi kehici vā acchinnaṃ hotī’ti hi vutta’’nti vuttaṃ. Ācariyo pana evaṃ vadati ‘‘attano ruciyāpi dātuṃ labhantī’’ti. Tathā hi aṭṭhakathāyaṃ ‘‘paribhogajiṇṇaṃ vā’ti ettha ca ‘acchinnacīvarānaṃ ācariyupajjhāyādīnaṃ attanā tiṇapaṇṇehi paṭicchādetvā dinnacīvarampi saṅgahaṃ gacchatī’ti vattuṃ yujjatī’’ti vuttaṃ. Athāpi siyā ācariyādīhi ‘‘āharāvuso’’ti vutteyeva, nāvutteti, na, ‘‘kehici vā acchinna’’nti ettha vuttalesato dutiyalesassa avisesabhāvappasaṅgatoti. Atha kimatthaṃ ‘‘na tāva therānaṃ dātabbānī’’ti vuttanti ce? Yāva therānaṃ atthāya sākhāpalāsāni bhañjati, tāva na dātabbāni, tato tāni theruddissakāni sākhāpalāsāni sayaṃ paridahitvā vināpi therāṇattiyā attano ruciyā dātabbāni, bhūtagāmapātabyatāya pācittiyaṃ na hoti satthunāpi anuññātattā. ‘‘Tiṇena vā paṇṇena vā’’ti hi vuttaṃ, taṃ kappiyameva sandhāya vuttanti ce? Na, ‘‘tadalābhe na tveva…pe… dukkaṭassā’’ti vacanavirodhato. Etthāha – dukkaṭabhayā pācittiyavatthu ce atikkamitabbaṃ, tadalābhe thullaccayavatthu saṅghikaṃ, tadalābhe pārājikavatthupi atikkamitabbaṃ siyāti? Na, pārājikassa lokavajjattā. Apica na sabbaṃ bhūtagāmaṃ pācittiyavatthumeva, tato dukkaṭādivatthupi atthi, anāpattivatthupi kālodisakaṃ, tasmā idaṃ tadā anāpattivatthukanti veditabbaṃ. Kittāvatā bhikkhu acchinnacīvaro naṭṭhacīvaro hotīti? Ettāvatā naggo hotīti eke. Vikappanupagapacchimabhāvena, vikappanupagapacchimamādiṃ katvā viññāpentassa āpattīti eke. Nivāsanapārupanupagābhāvenāti eke. Ticīvarābhāvenāti eke. Santaruttaraparamābhāvenāti eke. Ayaṃ ekevādo yutto ‘‘santaruttaraparamaṃ tato cīvaraṃ sāditabba’’nti hi Yamakato, tasmā santaruttare sati vikappanupagapacchimaṃ viññāpentassa paṭilābhena nissaggiyaṃ. Yadi evaṃ ‘‘viññāpetvā paṭilabheyya nissaggiya’’nti sikkhāpadena bhavitabbanti ce? Tanna, tadatthasiddhito nānatthattā dhātūnaṃ. Kiṃ vuttaṃ hoti? Yathā hi ‘‘tikkhattuṃ methunaṃ dhammaṃ abhiviññāpesī’’ti (pārā. 36) vutte pavattesīti attho, tathā idhāpi ‘‘cīvaraṃ viññāpeyyā’’ti viññattiyā pavatteyya uppādeyyāti attho.
Chưa được cho các trưởng lão, là chưa được cho theo ý thích của mình. Khi các trưởng lão nói “hãy cho, này các Tôn giả,” thì lúc đó mới được cho. Đã được nói: “nếu như vậy, ngay cả những người trẻ cũng ở trong tình trạng chưa bị cướp y, và được phép phá cành cây và lá cây, không phải cách khác. Bởi vì đã được nói ‘hoặc là đã bị cướp bởi bất kỳ ai’.” Còn vị Giáo thọ sư lại nói rằng “cũng được phép cho theo ý thích của mình.” Thật vậy, trong Chú giải, đã được nói: “hoặc là đã cũ do dùng,” ở đây, hợp lý để nói “ngay cả y đã được cho sau khi đã che thân bằng cỏ lá đối với các vị thầy hướng dẫn và thầy Giáo Thọ Sư chưa bị cướp y cũng được bao gồm.” Và cũng có thể có rằng chỉ khi được các vị thầy và các vị khác nói “hãy mang đến, này Tôn giả,” không phải khi chưa được nói. Không phải vậy, vì sẽ dẫn đến việc kẽ hở thứ hai không có sự khác biệt, từ kẽ hở đã được nói “hoặc là đã bị cướp bởi bất kỳ ai.” Nếu vậy, tại sao lại được nói “chưa được cho các trưởng lão”? Chừng nào còn phá cành cây và lá cây vì lợi ích của các trưởng lão, thì chừng đó chưa được cho. Sau đó, những cành cây và lá cây đó, đã được dành cho các trưởng lão, phải được cho theo ý thích của mình sau khi đã tự mình mặc, mà không cần sự ra lệnh của các trưởng lão. Không có tội Ưng Đối Trị do làm hại cây cỏ, vì đã được chính Bậc Đạo Sư cho phép. Bởi vì đã được nói “bằng cỏ hoặc bằng lá.” Nếu nói rằng đã được nói đến để chỉ chính vật hợp lệ? Không phải vậy, vì mâu thuẫn với lời nói “nếu không có được nó, thì không được… cho đến… của tội Tác Ác.” Vị ấy nói ở đây – nếu vì sợ tội Tác Ác mà phải vi phạm đối tượng của tội Ưng Đối Trị, thì nếu không có được nó, lẽ ra cũng phải vi phạm đối tượng của tội Trọng Tội là tài sản của Tăng chúng, và nếu không có được nó, lẽ ra cũng phải vi phạm đối tượng của tội Bất Cộng Trợ? Không phải vậy, vì tội Bất Cộng Trợ là tội lỗi thế gian. Hơn nữa, không phải tất cả các cây cỏ đều là đối tượng của tội Ưng Đối Trị. Từ đó, cũng có đối tượng của tội Tác Ác và các tội khác, và cũng có đối tượng không có tội, là thời điểm. Do đó, cần phải biết rằng đây, lúc đó, là đối tượng không có tội. Đến mức nào thì Tỳ-khưu là người chưa bị cướp y, là người đã mất y? Một số người cho rằng đến mức đó thì là người trần truồng. Một số người cho rằng có tội đối với người xin bằng cách lấy kích thước cuối cùng có thể được định đoạt làm đầu. Một số người cho rằng do không có vật để mặc và khoác. Một số người cho rằng do không có ba y. Một số người cho rằng do không có vật tối đa là y nội và y vai. Quan điểm duy nhất này là hợp lý, từ Yamaka “y tối đa từ đó phải được làm là y nội và y vai.” Do đó, đối với người, khi có y nội và y vai, và xin vật cuối cùng có thể được định đoạt, thì phải từ bỏ khi nhận được. Nếu vậy, lẽ ra phải có học giới “nếu xin và nhận được, thì phải từ bỏ”? Không phải vậy, do đã xác định được ý nghĩa đó, vì các động từ không có ý nghĩa khác. Điều gì đã được nói? Giống như khi được nói “đã thực hiện pháp dâm dục ba lần” (pārā. 36), ý nghĩa là đã tiến hành. Cũng vậy ở đây, “nếu xin y,” ý nghĩa là nếu tiến hành, nếu làm phát sinh sự xin.

Tena nivatthoti taṃnivattho. Aññassa alābhena tameva paribhuñjato jirati, na lesena. Attanāti sayameva vattuṃ yujjati, tasmā ayuttaparibhogena aparibhuñjitvā yuttaparibhogavasena paribhuñjato jiṇṇaṃ paribhogajiṇṇaṃ nāma. Tassa sabhāgānaṃ acchinnakāle dānampi yuttaparibhoge eva saṅgahaṃ gacchatīti adhippāyo. ‘‘Ime kira dve lesā aṭṭhakathāyo, vācentānaṃ ācariyānaṃ matanti dhammasiritthero āhā’’ti vuttaṃ.
Mặc bởi người đó là mặc bởi người đó. Đối với người, do không có y khác, mà dùng chính y đó, thì nó cũ đi, không phải do kẽ hở. Bởi chính mình là hợp lý để tự mình nói. Do đó, cái đã cũ do dùng theo cách hợp lý, sau khi đã không dùng theo cách không hợp lý, được gọi là đã cũ do dùng. Ý định là ngay cả việc cho đi trong khi những người đồng loại chưa bị cướp, cũng được bao gồm chính trong việc dùng hợp lý. Đã được nói: “người ta nói rằng Trưởng lão Dhammasiri đã nói ‘hai kẽ hở này là quan điểm của các vị Giáo thọ sư, những người đọc các Chú giải’.”

521.Nisīdituṃ vā nipajjituṃ vā na labhatīti yathāsukhaṃ na labhatīti adhippāyo. ‘‘Aññassatthāyā’’ti etthāpi ‘‘ñātakānaṃ pavāritāna’’nti anuvattati eva. Atthāya kassa? Tasseva aññassa. Yathā aññātake tikapācittiyaṃ, tathā appavāritepīti dassanatthaṃ ‘‘ñātakānaṃ pavāritāna’’nti vuttaṃ. Aññathā ‘‘ñātake ñātakasaññī’’ti iminā siddhattā na niccaṃ sesaṃ āpajjati. Apicettha aññātakaggahaṇena appavāritaggahaṇaṃ hoti , appavāritaggahaṇena aññātakaggahaṇaṃ, aññātakā hi appavāritā honti. Tathā ñātakaggahaṇena pavāritaggahaṇaṃ hoti, katthaci na hoti. Na pavāritaggahaṇena ñātakaggahaṇaṃ hotīti imassa atthavisesassa dassanatthaṃ ‘‘ñātakānaṃ pavāritāna’’nti vuttaṃ. Tathā hi aññātikāya bhikkhuniyā appavāritāya ca cīvaraṃ aññatra pārivattakā paṭiggaṇhantassa āpatti. Ñātikāya pana pavāritāya ca vissāsaṃ gaṇhāti, anāpatti. Tathā purāṇacīvaraṃ ñātikāya anāpatti, pavāritāya pana tikapācittiyameva. Ñātakānañca ekaccānaṃ purāṇacīvaraṃ nāma dātuṃ vaṭṭati, na pavāritānaṃ. Tikacchedo ca mātikāpadeneva hoti, na aññena. Tatthāpi ekeneva, na dutiyādīhīti ayaṃ vinaye dhammatā veditabbā.
521. Không được phép ngồi hoặc nằm, ý định là không được phép một cách thoải mái. Ngay cả trong câu “vì lợi ích của người khác,” câu “đối với những người là quyến thuộc, đã được thỉnh mời” cũng được áp dụng. Vì lợi ích của ai? Của chính người khác đó. Đã được nói “đối với những người là quyến thuộc, đã được thỉnh mời” để trình bày rằng giống như có tội Ưng Đối Trị ba loại đối với người không phải là quyến thuộc, cũng vậy đối với người chưa được thỉnh mời. Nếu không, vì đã được xác định bằng câu “đối với người là quyến thuộc, có ý thức là quyến thuộc,” nên không phải lúc nào cũng phạm tội còn lại. Hơn nữa, ở đây, việc nắm bắt người không phải là quyến thuộc cũng bao gồm việc nắm bắt người chưa được thỉnh mời. Việc nắm bắt người chưa được thỉnh mời cũng bao gồm việc nắm bắt người không phải là quyến thuộc. Bởi vì những người không phải là quyến thuộc là những người chưa được thỉnh mời. Cũng vậy, việc nắm bắt người là quyến thuộc cũng bao gồm việc nắm bắt người đã được thỉnh mời. Ở một số nơi thì không. Việc nắm bắt người đã được thỉnh mời không bao gồm việc nắm bắt người là quyến thuộc. Đã được nói “đối với những người là quyến thuộc, đã được thỉnh mời” để trình bày ý nghĩa đặc biệt này. Thật vậy, có tội đối với người nhận y của Tỳ-khưu-ni không phải là quyến thuộc và chưa được thỉnh mời, trừ trường hợp đổi chác. Còn đối với người là quyến thuộc và đã được thỉnh mời, nếu lấy do tin tưởng, thì không phạm tội. Cũng vậy, đối với y cũ, đối với người là quyến thuộc thì không phạm tội. Còn đối với người đã được thỉnh mời, thì chính là tội Ưng Đối Trị ba loại. Và đối với một số người là quyến thuộc, được phép cho y cũ, không phải đối với người đã được thỉnh mời. Và bộ ba chỉ có bằng từ trong đề mục, không phải bằng từ khác. Ở đó cũng vậy, chỉ bằng một từ, không phải bằng từ thứ hai và các từ khác. Cần phải biết đây là bản chất trong Luật.

Aññātakaviññattisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc xin từ người không phải là quyến thuộc đã kết thúc.

7. Tatuttarisikkhāpadavaṇṇanā
7. Diễn giải học giới Tatuttari

522-4.Paggāhikasālaṃti dussapasāraṃ vā. Hatthena paggahetvā ṭhatvā sālāyaṃ pasāretabbadussaṃ pasārentīti codanā. Ticīvarikenevāti vinayaticīvarikena. So hi adhiṭṭhahitvā ṭhapitaparikkhāracoḷādīsu santesupi ticīvare acchinne santaruttaraparamaṃ viññāpetvā gahetuṃ labhati. Aññathāpīti ‘‘pamāṇikaṃ ticīvaraṃ parikkhāracoḷavasena adhiṭṭhahitvā paribhuñjato tasmiṃ naṭṭhe bahūnipi gahetuṃ labhati, na santaruttaraparama’’nti ca, tasmā taṃ vibhāganti ‘‘ticīvarikassa taṃ vibhāganti attho, na parikkhāracoḷikassā’’ti ca keci vadanti. Ācariyo pana ‘‘aññenāti aticīvarikena, aññathāti ito vuttaggahaṇaparicchedato aññenā’’ti ettakameva vadati. Aññathāti pana sace tīṇipi naṭṭhāni, santaruttaraparamaṃ gaṇhitabbaṃ, sace dve vā ekaṃ vā naṭṭhaṃ, tena ‘‘aññathāpī’’ti dassanatthaṃ vuttanti eke. Gaṇṭhipadesu vicāraṇā eva natthi, tasmā upaparikkhitvā gahetabbaṃ. Pakatiyā santaruttarena carati, sāsaṅkasikkhāpadavasena vā taṃsammutivasena vā tatiyassa alābhena vā.
522-4. Hoặc là phòng trưng bày, hoặc là nơi trải vải. Lời tố cáo là họ trải tấm vải cần phải được cầm bằng tay và đứng trong phòng trưng bày. Chính bằng ba y, là bằng ba y theo Luật. Bởi vì người đó, ngay cả khi có các y vật dụng và các y khác đã được xác quyết và để đó, nếu ba y bị cướp, cũng được phép xin và nhận y tối đa là y nội và y vai. Theo cách khác, là “đối với người, sau khi đã xác quyết y có kích thước hợp lệ theo cách của y vật dụng, và dùng, nếu y đó bị mất, cũng được phép nhận nhiều y, không phải là y tối đa là y nội và y vai.” Do đó, một số người nói: “sự phân chia đó, là ý nghĩa là sự phân chia đó của người có ba y, không phải của người có y vật dụng.” Còn vị Giáo thọ sư chỉ nói chừng ấy: “bằng người khác, là bằng người không có ba y. Theo cách khác, là bằng cách khác so với sự phân định về việc nhận đã được nói ở đây.” Một số người cho rằng còn “theo cách khác,” nếu cả ba đều bị mất, thì phải nhận y tối đa là y nội và y vai. Nếu hai hoặc một bị mất, thì đã được nói để trình bày bằng câu “cũng theo cách khác.” Trong các sách giải thích từ khó, không có sự xem xét. Do đó, cần phải xem xét và chấp nhận. Đi với y nội và y vai một cách tự nhiên, hoặc là theo học giới về sự nghi ngờ, hoặc là theo sự đồng ý đó, hoặc là do không có được cái thứ ba.

526.‘‘Pamāṇamevavaṭṭatī’’ti sallekhadassanatthaṃ vuttaṃ. Taṃ micchā gahetvā ñātakādiṭṭhāne taduttari gaṇhantassa āpattīti ce? Taṃ pāḷiyā na sameti, ‘‘anāpatti ñātakānaṃ pavāritāna’’nti hi pāḷi. Ettha ca pavāritā nāma acchinnakālato pubbe eva pavāritā, na acchinnakāle. ‘‘Abhihaṭṭhuṃ pavāreyyā’’ti hi vuttaṃ, tasmā yo acchinnakālassatthāya pavāreti, ubhopi appavāritā evāti veditabbā. Te hi acchinnakāraṇā naṭṭhakāraṇāva denti nāma. Apica yathā piṭṭhisamaye satuppādaṃ katvā ñātakapavāritaṭṭhānato vassikasāṭikaṃ nipphādentassa tena sikkhāpadena nissaggiyaṃ, tathā idhāpi ñātakapavāritaṭṭhānepi acchinnanaṭṭhakāraṇā na vaṭṭati, tasmā ‘‘aṭṭhakathāsu pamāṇameva vaṭṭatī’ti vuttavacanameva pamāṇa’’nti dhammasiritthero āha, taṃ ayuttaṃ, kasmā? Yasmā idaṃ sikkhāpadaṃ taduttari viññāpentassa paññattaṃ, tasmiñca ‘‘aññātako gahapati vā gahapatānī vā’’ti mātikāya pāḷi, vibhaṅge ca ‘‘aññātako nāma mātito vā…pe… asambaddho’’ti pāḷi, anāpattivāre ca ‘‘ñātakānaṃ pavāritāna’’nti pāḷi, tasmā tividhāyapi pāḷiyā na sametīti ayuttameva, tasmā kevalaṃ sallekhameva sandhāya vuttanti apare. Upari kāṇamātāsikkhāpade aṭṭhakathāsu pana ‘‘tesampi pātheyyapaheṇakatthāya paṭiyattato pamāṇameva vaṭṭatī’’ti vuttaṃ, na pana ‘‘pāḷiyā na sametī’’ti vuttaṃ, na tattha ca idha ca nānākaraṇaṃ paññāyati , tasmā therassa laddhi sundarā viya mama khāyati, vīmaṃsitabbaṃ. Yasmā panidaṃ sikkhāpadaṃ aññassatthāya viññāpanavatthusmiṃyeva paññattaṃ, tasmā idha ‘‘aññassatthāyā’’ti na vuttaṃ. ‘‘Sesaṃ uttānatthamevā’’ti pāṭho. ‘‘Aññassatthāyā’’ti nidānavirodhato na vuttaṃ. Tathāpi anantare vuttanayena labbhatīti ācariyo. Evarūpesu gahapatipaṭisaṃyuttasikkhāpadesu kiñcāpi ‘‘gahapati nāma yo koci agāraṃ ajjhāvasatī’’ti vuttaṃ, tathāpi pañca sahadhammike ṭhapetvā avasesā ca sikkhāpaccakkhātako ca titthiyo ca veditabbo.
526. Đã được nói để trình bày sự khổ hạnh: “chỉ có kích thước hợp lệ mới được phép.” Nếu nói rằng có tội đối với người nhận nhiều hơn ở nơi của quyến thuộc và các nơi khác, sau khi đã hiểu sai điều đó? Điều đó không phù hợp với Pāḷi, bởi vì Pāḷi là “không phạm tội đối với những người là quyến thuộc, đã được thỉnh mời.” Và ở đây, những người đã được thỉnh mời là những người đã được thỉnh mời chính trước khi có thời gian bị cướp, không phải trong khi bị cướp. Bởi vì đã được nói “hãy thỉnh mời để mang đến.” Do đó, cần phải biết rằng người nào thỉnh mời vì lợi ích của thời gian bị cướp, thì cả hai đều chính là chưa được thỉnh mời. Bởi vì họ cho do lý do bị cướp, lý do bị mất. Hơn nữa, giống như đối với người, sau khi đã tạo ra nguyên nhân vào thời điểm cúng dường và làm ra y dùng trong mùa mưa từ nơi của quyến thuộc đã được thỉnh mời, thì phải từ bỏ theo học giới đó. Cũng vậy, ở đây, ngay cả ở nơi của quyến thuộc đã được thỉnh mời, cũng không được phép do lý do bị cướp và bị mất. Do đó, Trưởng lão Dhammasiri đã nói rằng chính lời nói đã được nói trong các Chú giải “chỉ có kích thước hợp lệ mới được phép” là tiêu chuẩn. Điều đó không hợp lý. Tại sao? Bởi vì học giới này đã được chế định đối với người xin nhiều hơn. Và trong đó, Pāḷi của đề mục là “người không phải là quyến thuộc, là cư sĩ hoặc vợ cư sĩ.” Và trong phần phân tích, Pāḷi là “người không phải là quyến thuộc là người không có quan hệ… cho đến… từ mẹ hoặc.” Và trong phần không có tội, Pāḷi là “đối với những người là quyến thuộc, đã được thỉnh mời.” Do đó, không hợp lý vì không phù hợp với cả ba loại Pāḷi. Do đó, những người khác cho rằng đã được nói chỉ để chỉ sự khổ hạnh. Ở trên, trong học giới về Kāṇamātā, trong các Chú giải, đã được nói: “ngay cả đối với họ, từ những gì đã được chuẩn bị để làm quà đi đường, chỉ có kích thước hợp lệ mới được phép.” Nhưng không được nói là “không phù hợp với Pāḷi.” Và không thấy có sự khác biệt giữa ở đó và ở đây. Do đó, đối với tôi, quan điểm của trưởng lão có vẻ hay. Cần phải xem xét. Và vì học giới này đã được chế định chính trong sự việc xin vì lợi ích của người khác, do đó, ở đây không được nói “vì lợi ích của người khác.” Có đoạn văn “phần còn lại có ý nghĩa rõ ràng.” “Vì lợi ích của người khác,” không được nói vì mâu thuẫn với duyên khởi. Tuy nhiên, vị Giáo thọ sư cho rằng có thể có theo cách đã được nói ngay trước đó. Cần phải biết rằng trong các học giới liên quan đến cư sĩ như vầy, mặc dù đã được nói “cư sĩ là bất kỳ ai sống trong nhà,” nhưng trừ năm người đồng pháp, những người còn lại và người đã từ bỏ học giới và người ngoại đạo.

Tatuttarisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới Tatuttari đã kết thúc.

8. Paṭhamaupakkhaṭasikkhāpadavaṇṇanā
8. Diễn giải học giới Upakkhaṭa thứ nhất

527-8. Api hoti cittanti attho. Meyyāti pāṭhassa mayhanti attho. Na ime sukarā, ‘‘na imesaṃ sukarā’’ti vā pāṭho. ‘‘Tassa na imesaṃ sukarā acchādetunti attho’’ti likhitaṃ. ‘‘Pubbe appavārito’’ti Yamakato tasmiṃ khaṇe pavāritopi appavāritova hotīti.
527-8. Ý nghĩa là cũng có tâm. Của tôi, là ý nghĩa của đoạn văn. Không phải là những điều này dễ dàng. Hoặc là đoạn văn “không dễ dàng đối với những người này.” Đã được viết: “ý nghĩa là không dễ dàng đối với người đó để che đậy.” Từ Yamaka “chưa được thỉnh mời trước đây,” ngay cả người đã được thỉnh mời vào khoảnh khắc đó cũng chính là chưa được thỉnh mời.

Paṭhamaupakkhaṭasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới Upakkhaṭa thứ nhất đã kết thúc.

9. Dutiyaupakkhaṭasikkhāpadavaṇṇanā
9. Diễn giải học giới Upakkhaṭa thứ hai

532. Dutiyaupakkhaṭena kiṃpayojananti? Natthi, kevalaṃ aṭṭhuppattivasena paññattaṃ bhikkhuniyā rahonisajjasikkhāpadaṃ viya. Evaṃ sante tanti anāropetabbaṃ bhaveyya vināpi tena tadatthasiddhito, anissarattā, anāropetuṃ anuññātattā ca. Vuttañhetaṃ ‘‘ākaṅkhamāno, ānanda, saṅgho…pe… samūhaneyyā’’ti (dī. ni. 2.216). Idaṃ sabbamakāraṇaṃ. Na hi buddhā appayojanaṃ vācaṃ nicchārenti, pageva sikkhāpadaṃ, tenevāha aṭṭhakathāyaṃ ‘‘tañhi imassa anupaññattisadisa’’ntiādi. Anupaññatti ca nippayojanā natthi, taṃsadisañcetaṃ, na nippayojananti dassitaṃ hoti, evaṃ sante ko panettha visesoti? Tato āha ‘‘paṭhamasikkhāpade ekassa pīḷā katā, dutiye dvinnaṃ, ayamettha viseso’’ti. Iminā atthavisesena ko panañño atirekattho dassitoti? Porāṇagaṇṭhipade tāva vuttaṃ ‘‘ekasmimpi vatthusmiṃ ubhinnaṃ pīḷā kātuṃ vaṭṭatīti ayamatirekattho dassito’’ti. Tenetaṃ dīpeti ‘‘na kevalaṃ paṭiladdhacīvaragaṇanāyeva āpattigaṇanā, pīḷitapuggalasaṅkhātavatthugaṇanāyapī’’ti.
532. Có mục đích gì trong học giới Upakkhaṭa thứ hai? Không có. Chỉ là đã được chế định theo sự phát sinh của sự việc, giống như học giới về việc ngồi ở nơi kín đáo của Tỳ-khưu-ni. Nếu như vậy, lẽ ra không nên được đưa vào kinh điển, vì đã xác định được ý nghĩa đó mà không cần đến nó, vì không có quyền lực, và vì đã được cho phép không đưa vào. Đã được nói: “Này Ānanda, nếu Tăng chúng muốn… cho đến… hãy xóa bỏ” (dī. ni. 2.216). Tất cả những điều này không phải là lý do. Bởi vì chư Phật không nói những lời vô ích, huống chi là học giới. Chính vì vậy, Ngài đã nói trong Chú giải: “nó giống như chế định bổ sung của học giới này” và các câu tương tự. Và chế định bổ sung không phải là vô ích. Và cái này giống như nó, đã được trình bày là không phải vô ích. Nếu như vậy, có sự khác biệt gì ở đây? Sau đó, Ngài đã nói: “trong học giới đầu tiên, đã làm phiền một người. Trong tội thứ hai, hai người. Đây là sự khác biệt ở đây.” Bằng ý nghĩa đặc biệt này, có ý nghĩa bổ sung nào khác được trình bày? Trong sách giải thích từ khó xưa, đã được nói: “đã được trình bày ý nghĩa bổ sung này rằng được phép làm phiền cả hai trong cùng một sự việc.” Bằng điều đó, Ngài làm sáng tỏ điều này: “không phải chỉ có việc đếm tội lỗi theo số lượng y đã nhận được, mà còn theo số lượng sự việc là số người đã bị làm phiền.”

Honti cettha –
Và ở đây có câu –

‘‘Vatthuto gaṇanāyāpi, siyā āpatti nekatā;
Iti sandassanatthañca, dutiyūpakkhaṭaṃ idha.
“Ngay cả do sự việc, cũng có thể có nhiều tội lỗi;
Và để trình bày điều này, Upakkhaṭa (sự chuẩn bị) lần thứ hai ở đây.

‘‘Kāyasaṃsaggasikkhāya, vibhaṅge viya kintetaṃ;
Ekitthiyāpi nekatā, āpattīnaṃ payogato’’ti.
“Giống như trong phần phân tích của học giới về sự tiếp xúc thân thể, đó là gì;
Ngay cả đối với một người phụ nữ, cũng có nhiều tội lỗi do hành động.”

Apicetaṃ sikkhāpadaṃ taṃjātikesu sikkhāpadesu sabbesupi gahetabbavinicchayassa nayadassanappayojananti veditabbaṃ. Āha ca –
Hơn nữa, cần phải biết rằng học giới này là mục đích trình bày cách của sự phân xử cần phải được chấp nhận trong tất cả các học giới cùng loại đó. Và Ngài đã nói –

‘‘Aññātikāya bahutāya vimissatāya,
Āpattiyāpi bahutā ca vimissatā ca;
Iccevamādividhisambhavadassanatthaṃ,
Satthā upakkhaṭamidaṃ dutiyaṃ avocā’’ti.
“Đối với nhiều người không phải là quyến thuộc, đã bị trộn lẫn;
Cũng có nhiều tội lỗi và sự trộn lẫn;
Để trình bày khả năng có phương pháp này và các phương pháp khác,
Bậc Đạo Sư đã nói Upakkhaṭa thứ hai này.”

Tassāyaṃ saṅkhepato adhippāyapubbaṅgamā vicāraṇā – purāṇacīvaraṃ ekameva bhikkhu bhikkhunīhi dvīhi, bahūhi vā dhovāpeti, bhikkhunigaṇanāya pācittiyagaṇanā, tathā dvinnaṃ, bahūnaṃ vā sādhāraṇaṃ ekameva cīvaraṃ aññatra pārivattakā paṭiggaṇhāti, idhāpi tathā dvinnaṃ, bahūnaṃ vā sādhāraṇamekaṃ viññāpeti, viññattapuggalagaṇanāya āpattigaṇanā. Tathā aññesupi evarūpesu sikkhāpadesu nayo netabbo. Ayaṃ tāva bahutāya nayo. Missatāya pana ñātikāya, aññātikāya ca ekaṃ dhovāpeti, ekato niṭṭhāpane ekaṃ pācittiyaṃ. Atha ñātikā paṭhamaṃ thokaṃ dhovitvā ṭhitā, puna aññātikā sudhotaṃ karoti, nissaggiyaṃ. Atha aññātikā paṭhamaṃ dhovati, pacchā ñātikā sudhotaṃ karoti, aññātikāya payogavasena bhikkhuno dukkaṭameva. Aññātikāya ca ñātikāya ca aññātikasaññī, vematiko, ñātikasaññī vā dhovāpeti, yathāvuttanayena nissaggiyadukkaṭādiāpattibhedagaṇanā veditabbā. Tathā aññātikāya ca ñātikāya ca santakaṃ cīvaraṃ ubhohi ekato diyyamānaṃ paṭiggaṇhantassa , aññātikāya eva hatthato paṭiggaṇhantassa ca nissaggiyameva. Atha ñātikāya anāpatti. Atha ubhosu aññātikādisaññī vuttanayeneva nissaggiyadukkaṭādiāpattibhedagaṇanā veditabbā. Tathā aññātakaviññattisikkhāpadesupi yathāsambhavaṃ nayo netabbo. Ayaṃ missatāya nayo. Ādi-saddena pana aneke aññātikā viññattāviññattapuggalagaṇanāya dukkaṭaṃ. Eko deti, eko na deti, nissaggiyaṃ. Atha aviññatto deti, na nissaggiyaṃ. Atha viññattāviññattānaṃ sādhāraṇaṃ viññatto deti, nissaggiyameva. Ubho denti, nissaggiyameva. Aviññatto deti, nissaggiyena anāpatti. Viññattassa vacanena aviññatto deti, anāpatti eva. Tathā upakkhaṭādīsupi yathāsambhavaṃ nayo netabbo.
Đây là sự xem xét, có ý định trước, một cách tóm tắt – một Tỳ-khưu cho hai hoặc nhiều Tỳ-khưu-ni giặt cùng một y. Việc đếm tội Ưng Đối Trị là theo số lượng Tỳ-khưu-ni. Cũng vậy, nhận cùng một y chung của hai hoặc nhiều người, trừ trường hợp đổi chác. Ở đây cũng vậy, xin cùng một y chung của hai hoặc nhiều người. Việc đếm tội lỗi là theo số lượng người đã xin. Cũng vậy, cần phải áp dụng cách này trong các học giới tương tự khác. Đây là cách về số nhiều. Còn về sự trộn lẫn, cho một người là quyến thuộc và một người không phải là quyến thuộc giặt cùng một y. Nếu hoàn thành cùng một lúc, thì là một tội Ưng Đối Trị. Nếu người là quyến thuộc, sau khi đã giặt một chút trước và dừng lại, rồi người không phải là quyến thuộc giặt cho sạch, thì phải từ bỏ. Nếu người không phải là quyến thuộc giặt trước, rồi sau đó người là quyến thuộc giặt cho sạch, thì đối với Tỳ-khưu, chỉ phạm tội Tác Ác theo hành động của người không phải là quyến thuộc. Nếu cho giặt với ý thức là không phải là quyến thuộc, nghi ngờ, hoặc là quyến thuộc, đối với cả hai, là người không phải là quyến thuộc và người là quyến thuộc, cần phải biết việc đếm sự khác biệt của tội lỗi phải từ bỏ, Tác Ác và các tội khác theo cách đã được nói. Cũng vậy, cần phải áp dụng cách này theo khả năng trong các học giới về việc xin từ người không phải là quyến thuộc. Đây là cách về sự trộn lẫn. Còn bằng từ “và các trường hợp khác,” tội Tác Ác theo số lượng người đã xin và chưa được xin, đối với nhiều người không phải là quyến thuộc. Một người cho, một người không cho, là phải từ bỏ. Nếu người chưa được xin cho, thì không phải từ bỏ. Nếu người đã được xin cho vật chung của những người đã được xin và chưa được xin, thì chính là phải từ bỏ. Nếu cả hai đều cho, thì chính là phải từ bỏ. Nếu người chưa được xin cho, thì không phạm tội với vật phải từ bỏ. Nếu người chưa được xin cho theo lời của người đã được xin, thì chính là không phạm tội. Cũng vậy, cần phải áp dụng cách này theo khả năng trong các học giới Upakkhaṭa và các học giới khác.

Dutiyaupakkhaṭasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới Upakkhaṭa thứ hai đã kết thúc.

10. Rājasikkhāpadavaṇṇanā
10. Diễn giải học giới Rāja

537.‘‘Nakho mayaṃ, āvuso, cīvaracetāpannaṃ paṭiggaṇhāma…pe… kālena kappiya’’nti ito pubbe eva rūpiyapaṭiggahaṇasikkhāpadassa paññattattā vuttaṃ. Aññathā āyasmā upanando maṃsassa cetāpannaṃ ekampi kahāpaṇaṃ hatthena paṭiggaṇhanto tato mahantataraṃ cīvaracetāpannaṃ kathaṃ na paṭiggaṇhissati, evaṃ santepi cīvarapaṭisaṃyuttattā cīvaravagge saṅgāyiṃsūti.
537. Đã được nói vì học giới về việc nhận tiền bạc đã được chế định chính trước câu này: “Này Tôn giả, chúng tôi không nhận tiền để mua y… cho đến… hợp lệ theo thời gian.” Nếu không, Tôn giả Upananda, khi nhận bằng tay dù chỉ một kahāpaṇa là tiền để mua thịt, làm sao lại không nhận tiền để mua y, là thứ lớn hơn nhiều? Dù vậy, vì liên quan đến y, nên họ đã kết tập trong phẩm Y.

538-9. ‘‘Āgatakāraṇaṃ bhañjatī’’ti vuttattā nanu puna codetuṃ na labhatīti eke. Āgamanassa sātthakaṃ na hoti, cīvaraṃ na labhissati paṭisanthārassa katattāti eke. Codanālakkhaṇaṃ na hotīti katvā vuttanti eke. ‘‘Ṭhatvā codemī’’ti āgato taṃ ṭhānaṃ bhañjati, karoti cekaṃ, tīṇipi ce karoti, ekameva, ekavacanattāti eke. Tīṇi ṭhānāni bhañjatīti eke. Upatissatthero ‘‘na codanādiṃ bhañjati, codetukāmo akattabbaṃ akāsi, tena vattabhede dukkaṭa’’nti vadati. Dhammasiritthero pana ‘‘āsane ce nisīdati, ekāya nisajjāya dve ṭhānāni bhañjati. Āmisaṃ ce paṭiggaṇhāti, ekena paṭiggahena dve ṭhānāni bhañjati. Dhammaṃ ce bhāsati, dhammadesanasikkhāpade vuttaparicchedāya ekāya vācāya dve ṭhānāni bhañjati, taṃ sandhāya vutta’’nti vadati. ‘‘Yatthā’’ti vutte attano eva santikaṃ gantabbanti vuttaṃ viya hoti. Tena vuttaṃ ‘‘byañjanaṃ pana na sametī’’ti. Upāsakehi āṇattā taṃ. Mūlaṃ asādiyantenāti mūlassa akappiyabhāve sati asādiyantena. Tañca kho cittena , na mukhena. Sace evaṃ vutte akappiyaṃ dassetīti katvā cittena akappiyaṃ icchantova mukhena kappiyaṃ niddisati ‘‘cīvaraṃ me dethā’’ti, na vaṭṭati. Paṭilābhe rūpiyapaṭiggahaṇasikkhāpadena āpatti.
538-9. Một số người cho rằng vì đã được nói “phá vỡ lý do đã đến,” nên lẽ ra không được phép chất vấn lại. Việc đến không có ích, sẽ không nhận được y, vì đã thực hiện sự tiếp đãi. Một số người cho rằng đã được nói vì không có đặc điểm của sự chất vấn. Một số người cho rằng người đã đến “tôi sẽ đứng và chất vấn,” đã phá vỡ nơi chốn đó. Dù làm một, hay làm cả ba, cũng chỉ là một, vì là số ít. Một số người cho rằng đã phá vỡ ba nơi chốn. Trưởng lão Upatissa nói rằng “không phải là phá vỡ sự chất vấn và các việc khác. Người muốn chất vấn đã làm điều không nên làm. Do đó, phạm tội Tác Ác do vi phạm bổn phận.” Còn Trưởng lão Dhammasiri nói rằng “nếu ngồi trên ghế, thì bằng một lần ngồi, đã phá vỡ hai nơi chốn. Nếu nhận vật thực, thì bằng một lần nhận, đã phá vỡ hai nơi chốn. Nếu nói Pháp, thì bằng một lời nói theo sự phân định đã được nói trong học giới về việc thuyết pháp, đã phá vỡ hai nơi chốn. Đã được nói để chỉ điều đó.” Khi được nói “ở đâu,” thì có vẻ như đã được nói là đi đến chính nơi của mình. Do đó, đã được nói “nhưng văn tự không phù hợp.” Điều đó đã được các cận sự nam ra lệnh. Đối với người không đồng ý với giá trị gốc, là đối với người không đồng ý khi giá trị gốc là vật không hợp lệ. Và đó là bằng tâm, không phải bằng miệng. Nếu sau khi đã nói như vậy và cho rằng sẽ cho vật không hợp lệ, và dù muốn vật không hợp lệ bằng tâm nhưng lại chỉ định vật hợp lệ bằng miệng “hãy cho tôi y,” thì không được phép. Khi nhận được, phạm tội theo học giới về việc nhận tiền bạc.

Tatrāyaṃ vicāraṇā – cittena sādiyantopi mukhena kappiyavohārena ce voharati ‘‘kahāpaṇārahena, pādārahena vā kappiyabhaṇḍena idañcidañca āharā’’ti. Kiñcāpi rūpiyaṃ sandhāya vadati, vaṭṭati eva. Kasmā? Kañci sassuṭṭhānakaṃ bhūmipadesaṃ sandhāya ‘‘sīmaṃ demāti vadanti, vaṭṭatī’’ti Yamakato, ‘‘vihārassa demā’’ti vutte ‘‘paṭikkhipituṃ na vaṭṭatī’’ti Yamakato ca. Anugaṇṭhipade pana vuttaṃ ‘‘saṅghaṃ sandhāya ‘vihārassa demā’ti dinnaṃ garubhaṇḍaṃ na hoti, dakkhiṇodakaṃ sampaṭicchituṃ, ‘sādhū’ti ca vattuṃ, anumodetuñca vaṭṭati. Kasmā? Saṅghassa ‘vihāro’ti nāmābhāvato, khettasseva ‘sīmā’ti nāmabhāvato ca, cittena ārammaṇaṃ kataṃ appamāṇaṃ, kappiyavohārova pamāṇaṃ. Kappiyamevācikkhitattā ‘na tvevāhaṃ, bhikkhave, kenaci pariyāyena jātarūparajataṃ sāditabbaṃ pariyesitabbanti vadāmī’ti (mahāva. 299) vacanenapi na virujjhati. Kappiyavacanapaccayā dāyako sayameva kattabbayuttakaṃ jānissatīti adhippāyato dāyakena etassa adhippāyaṃ ñatvā kappiyakārakassa hatthe ṭhapitaṃ bhikkhussa santakameva hotī’’ti. Idaṃ sabbamayuttaṃ, kasmā? Sīmāvihāravacanassa dāyakavacanattā. Idha ca bhikkhuno vacanaṃ pamāṇaṃ. Tenevāha ‘‘athāpi ‘mama taḷākaṃ vā pokkharaṇiṃ vā saṅghassa dammī’ti vutte ‘sādhu, upāsaka, saṅgho pānīyaṃ pivissatī’tiādīni vatvā paribhuñjituṃ vaṭṭati evā’’ti. Aññathā khettaṃ sandhāya bhikkhuno khettapaṭibaddhavacanāni sīmāvacanena kappantīti āpajjati. Avihārassa ca bhikkhussa rūpiyaṃ dassetvā ‘‘idaṃ vihārassa dammī’’ti vutte attano atthāya diyyamānaṃ jānantenāpi taṃ appaṭikkhipitabbaṃ. Tathā kahāpaṇārahādino akappiyabhaṇḍabhāvaṃ, kahāpaṇādibhāvameva vā jānantameva sandhāya tathāvoharantassa ca anāpattīti āpajjati. ‘‘Na tvevāhaṃ, bhikkhave, kenaci pariyāyenā’’ti nippadesato vuttattā na sakkā lesaṃ oḍḍetunti no takko, vicāretvā pana gahetabbaṃ. ‘‘No ce icchati, na kathetabba’’nti Yamakato yathāvuttasāmiciyā akaraṇe anāpatti dukkaṭassāti dasseti.
Ở đó, đây là sự xem xét – ngay cả đối với người đồng ý bằng tâm, nếu giao tiếp bằng lời nói hợp lệ “hãy mang cái này và cái kia bằng vật hợp lệ trị giá một kahāpaṇa hoặc một phần tư.” Mặc dù nói đến để chỉ tiền bạc, nhưng vẫn được phép. Tại sao? Từ Yamaka “một số người, để chỉ một khu đất có cây trồng, nói ‘chúng tôi cho ranh giới,’ và được phép.” Và từ Yamaka “khi được nói ‘chúng tôi cho tu viện,’ thì không được phép bác bỏ.” Còn trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “vật nặng đã được cho, nói rằng ‘chúng tôi cho tu viện’ để chỉ Tăng chúng, thì không phải là vật nặng. Được phép nhận nước cúng dường, và nói ‘tốt lắm,’ và tán thán. Tại sao? Vì Tăng chúng không có tên là ‘tu viện,’ và vì ruộng đất có tên là ‘ranh giới.’ Đối tượng đã được lấy làm đối tượng bằng tâm là không có giới hạn, chỉ có lời nói hợp lệ mới là tiêu chuẩn. Vì đã chỉ dạy chính vật hợp lệ, nên cũng không mâu thuẫn với lời nói ‘Này các Tỳ-khưu, Ta không nói rằng bằng bất kỳ cách nào, cũng nên đồng ý hoặc tìm kiếm vàng bạc’” (mahāva. 299). Do duyên của lời nói hợp lệ, ý định là chính người cho sẽ biết điều nên làm. Do đó, vật đã được người cho, sau khi đã biết ý định của người này, đặt vào tay của người làm vật hợp lệ, cũng chính là của của Tỳ-khưu.” Tất cả những điều này không hợp lý. Tại sao? Vì lời nói về ranh giới và tu viện là lời nói của người cho. Còn ở đây, lời nói của Tỳ-khưu là tiêu chuẩn. Chính vì vậy, Ngài đã nói: “và cũng vậy, khi được nói ‘tôi cho ao hoặc hồ của tôi cho Tăng chúng,’ thì sau khi đã nói ‘tốt lắm, này cận sự nam, Tăng chúng sẽ uống nước’ và các lời nói khác, cũng chính là được phép dùng.” Nếu không, sẽ dẫn đến việc các lời nói liên quan đến ruộng của Tỳ-khưu, để chỉ ruộng, sẽ trở nên hợp lệ bằng lời nói về ranh giới. Và đối với Tỳ-khưu không có tu viện, sau khi đã trình bày tiền bạc và được nói “tôi cho cái này cho tu viện,” cũng không nên bác bỏ điều đó, dù biết rằng nó được cho vì lợi ích của chính mình. Cũng vậy, sẽ dẫn đến việc không phạm tội ngay cả đối với người giao tiếp như vậy, dù biết rằng kahāpaṇa và các vật khác là vật không hợp lệ, hoặc chính là kahāpaṇa và các vật khác. Theo suy đoán của chúng tôi, vì đã được nói một cách không có giới hạn “Này các Tỳ-khưu, bằng bất kỳ cách nào,” nên không thể lách luật. Nhưng cần phải xem xét. Từ Yamaka “nếu không muốn, thì không nên nói,” Ngài trình bày rằng nếu không làm theo cách đúng đắn đã được nói, thì không phạm tội Tác Ác.

‘‘Aññātakaappavāritesu viya paṭipajjitabba’’nti Yamakato yathāvuttasāmicimpi na katvā ce nipphādeti, aññātakaviññattisikkhāpadena kāretabboti dasseti. Kappiyakārakā sayameva codetvā denti, vaṭṭati. ‘‘Sayaṃ karaṇameva paṭikkhitta’’nti ca vadanti. Piṇḍapātādīnaṃ…pe… eseva nayoti ettha ‘‘dukkaṭa’’nti vadanti, taṃ na sundaraṃ, dadantesupīti api-saddena saṅgahitattā nissaggiyapācittiyameva. Jātarūparajataṃ ‘‘saṅghe sādite dukkaṭa’’nti ca vikappenti. Taṃ visesetvā navuttattā pācittiyamevāti dasseti. ‘‘Nissaggiyamevāti yevāpanakasikkhāpadesu siyā’’ti vadanti, upaparikkhitabbaṃ. ‘‘Yassa kassaci hi aññassa…pe… mahāpaccariyaṃ vutta’’nti Yamakato apabbajitānaṃ antamaso mātāpitūnampi atthāya sampaṭicchantassa dukkaṭamevāti dasseti.
Từ Yamaka “phải thực hành giống như đối với những người không phải là quyến thuộc, chưa được thỉnh mời,” Ngài trình bày rằng nếu làm ra mà không làm theo cách đúng đắn đã được nói, thì phải bị xử theo học giới về việc xin từ người không phải là quyến thuộc. Nếu chính những người làm vật hợp lệ chất vấn và cho, thì được phép. Một số người nói rằng “chỉ có việc tự mình làm mới bị cấm.” Của vật thực và các vật khác… cho đến… cách này cũng vậy, ở đây, một số người nói là “Tác Ác.” Điều đó không hay. Chính là tội Ưng Đối Trị cần phải từ bỏ, vì đã được bao gồm bằng từ cũng “ngay cả khi đang cho.” Họ cũng phân loại “Tác Ác khi được đồng ý trong Tăng chúng” đối với vàng bạc. Điều đó trình bày rằng chính là tội Ưng Đối Trị, vì không được nói một cách đặc biệt. Một số người nói rằng “chính là phải từ bỏ, có thể có trong các học giới về vật dùng suốt đời,” cần phải xem xét. Từ Yamaka “của bất kỳ người nào khác… cho đến… đã được nói trong Mahāpaccarī,” Ngài trình bày rằng ngay cả đối với những người chưa xuất gia, dù chỉ là cha mẹ, đối với người đồng ý vì lợi ích của họ, cũng chính là phạm tội Tác Ác.

Sabbattha sampaṭicchanaṃ nāma ‘‘uggaṇheyya vā uggaṇhāpeyyavā upanikkhittaṃ vā sādiyeyyā’’ti evaṃ vuttalakkhaṇameva. Evaṃ santepi katthaci paṭikkhipitabbaṃ, katthaci na paṭikkhipitabbaṃ, katthaci paṭikkhittaṃ sādituṃ vaṭṭati, evaṃ appaṭikkhittaṃ kiñci vaṭṭati, idaṃ sabbampi dassetuṃ ‘‘sace panā’’ti vitthāro āraddho. Tattha ‘‘cetiyassa…pe… na vaṭṭatī’’ti Yamakato appaṭikkhittaṃ vihārassa dinnaṃ sādituṃ vaṭṭatīti siddhaṃ. Tathā therassa ‘‘mātuyā demā’’tiādinā vuttepi paṭiggahaṇe āpatti pācittiyameva. Sāpattiko hotīti ettha kāya āpattiyā sāpattiko hotīti? Dukkaṭāpattiyāti eke. Na yāya kāyaci, kevalaṃ aṭṭhāne codetīti katvā ‘‘sāpattiko’’ti vuttaṃ. Yathā kathanti? ‘‘Pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgato saddhivihāriko paṇāmetabbo…pe… paṇāmento anatisāro’’ti (mahāva. 68) ettha na sammāvattantaṃyeva apaṇāmentassa dukkaṭaṃ vuttaṃ. Yathāha – ‘‘na ca, bhikkhave, asammāvattanto na paṇāmetabbo, yo na paṇāmeyya, āpattidukkaṭassā’’ti (mahāva. 68), tasmā adhimattapemādiabhāvepi apaṇāmentassa anāpatti dissati. Apica ‘‘sātisāro hotī’’ti vuttaṃ. Evaṃsampadamidaṃ daṭṭhabbaṃ. Aṭṭhakathāya ‘‘sātisāro hotīti sadoso hoti, āpattiṃ āpajjatī’’ti (mahāva. aṭṭha. 68) vuttattā na yuttanti ce? Na, tadanantarameva taṃmicchāgāhanivattanatthaṃ, tasmā ‘‘na sammāvattanto paṇāmetabbo’’ti vuttattā anāpattikā katāti. Dukkaṭāpatti hotīti ācariyo, vīmaṃsitabbaṃ. ‘‘Kappiyabhaṇḍampi akappiyamevāti taḷākato nipphannadhaññena parivattetvā laddhaṃ gorasampi na vaṭṭatī’’ti vuttaṃ.
Ở khắp mọi nơi, sự đồng ý là chính đặc điểm đã được nói “hoặc là nhận, hoặc là cho người khác nhận, hoặc là đồng ý với vật đã được đặt xuống.” Dù vậy, ở một số nơi, phải bác bỏ. Ở một số nơi, không phải bác bỏ. Ở một số nơi, được phép đồng ý với vật đã được bác bỏ. Cũng vậy, một số vật chưa được bác bỏ lại được phép. Để trình bày tất cả những điều này, đã bắt đầu “nhưng nếu.” Ở đó, từ Yamaka “đối với tháp… cho đến… không được phép,” đã được xác định rằng được phép đồng ý với vật đã được cho tu viện mà chưa được bác bỏ. Cũng vậy, ngay cả khi được nói với trưởng lão “chúng tôi cho mẹ” và các câu tương tự, cũng chính là tội Ưng Đối Trị trong việc nhận. Là người có tội, ở đây, là người có tội với tội lỗi nào? Một số người cho rằng với tội Tác Ác. Không phải với bất kỳ tội lỗi nào. Chỉ là vì tố cáo ở nơi không đúng, nên đã được nói là “có tội.” Như thế nào? Trong câu “Này các Tỳ-khưu, người sống cùng, có đủ năm yếu tố, phải bị trục xuất… cho đến… người trục xuất không có lỗi” (mahāva. 68), ở đây đã được nói là tội Tác Ác đối với người không trục xuất chính người không hành xử đúng đắn. Như Ngài đã nói: “Và này các Tỳ-khưu, không được không trục xuất người không hành xử đúng đắn. Ai không trục xuất, phạm tội Tác Ác” (mahāva. 68). Do đó, có thể thấy không phạm tội đối với người không trục xuất ngay cả khi không có tình yêu thương quá mức và các yếu tố khác. Hơn nữa, đã được nói “là người có lỗi.” Cần phải hiểu điều này như vậy. Nếu nói rằng không hợp lý, vì trong Chú giải đã được nói “là người có lỗi, là có tội, phạm tội” (mahāva. aṭṭha. 68)? Không phải vậy. Ngay sau đó, để loại bỏ tà kiến đó, đã được nói “do đó, vì đã được nói ‘người không hành xử đúng đắn phải bị trục xuất,’ nên đã làm cho không có tội.” Vị Giáo thọ sư cho rằng là tội Tác Ác. Cần phải xem xét. Đã được nói: “ngay cả vật hợp lệ cũng chính là không hợp lệ, là ngay cả sữa đã nhận được sau khi đã đổi bằng lúa đã được thu hoạch từ ao cũng không được phép.”

Kappiyavohārepi vidhānaṃ vakkhāma, seyyathidaṃ – ‘‘udakavasenā’’tiādi. Dubbinibbhogaṃ hotīti idaṃ parato ‘‘tasseva akappiyaṃ. Kasmā? Dhaññassa vicāritattā’’ti iminā asadisaṃ, tasmā suvuttaṃ. Idañhi bhikkhussa payogavasena ādito paṭṭhāya uppannena missanti. Akatapubbaṃ navasassaṃ nāma. Khale vā ṭhatvā rakkhatīti ‘‘idaṃ vā ettakaṃ vā mā gaṇha, idaṃ gahetuṃ labbhatī’’ti vā ‘‘ito apanehi, idha puñjaṃ karohī’’ti evamādinā vā payogena ce rakkhati, taṃ akappiyaṃ. ‘‘Sace ‘mayiṭhite rakkhitaṃ hotī’ti rakkhati, gaṇhante vā passitvā ‘kiṃ karothā’ti, bhaṇati vaṭṭatī’’ti vuttaṃ, taṃ yuttaṃ. Rūpiyapaṭiggahaṇasikkhāpade ‘‘dvāraṃ pidahitvā rakkhantena vasitabba’’nti hi vuttaṃ. Tasseva taṃ akappiyaṃ. Kasmā? Apubbassa anuppāditattā. Heṭṭhā ‘‘sassaṃ katvā āharathā’’ti vattuṃ pana na vaṭṭatīti. Paṇṇepi eseva nayo. ‘‘Pakatiyā sayameva karontānaṃ ussāhajananato’’ti vuttaṃ. Kasmā? ‘‘Kahāpaṇānaṃ vicāritattā’’ti Yamakato, pageva uṭṭhāpitattāti siddhaṃ hoti. Sace dāyakā vā saṅghassa gāmakhettārāmādiṃ keṇiyā gahitamanussā vā tattha kuṭumbino ‘‘ime saṅghassa kahāpaṇā āhaṭā’’ti vadanti, ‘‘na kappatī’’ti ettakameva vattabbaṃ. Kappiyakārakāva ce vadanti, ‘‘saṅghassa kahāpaṇā na kappanti, sappiādīni vaṭṭantī’’ti vattabbaṃ, tasmā ‘‘saṅghassa kappiyakārake vā guttaṭṭhānaṃ vā ācikkhathā’’ti vatvā tehi sampāditaṃ kenaci akattabbatāya ‘‘iminā sappiṃ āharāhī’’ti vicāreti niṭṭhāpetvā itaresaṃ kappiyaṃ parato pattacatukke catutthapatto viya. Vuttañhi tattha ‘‘ime kahāpaṇe gahetvā imaṃ dehī’ti kahāpaṇe dāpetvā gahito, ayaṃ patto etasseva bhikkhuno na vaṭṭati, dubbicāritattā, aññesaṃ pana vaṭṭati, mūlassa asampaṭicchitattā’’tiādi. Yadi evaṃ sabbesaṃ akappiyaṃ. Kasmā? Kahāpaṇānaṃ vicāritattāti. Idaṃ duvuttanti ce? Na, mūlassa sampaṭicchitaṭṭhānaṃ sandhāya imassa vuttattā pattacatukke dutiyatatiyapattā viya, teneva vuttaṃ sayaṃkārivāre ‘‘na kappatī’’ti ettakameva vattabba’nti. Tato paraṃ mūlaṃ sampaṭicchati nāma.
Chúng tôi sẽ nói về quy định ngay cả trong lời nói hợp lệ, đó là – “theo cách của nước” và các cách khác. Trở nên khó phân chia, điều này không giống với câu ở phần sau “không hợp lệ đối với chính người đó. Tại sao? Vì lúa đã được xem xét.” Do đó, đã được nói rất hay. Bởi vì điều này, bằng hành động của Tỳ-khưu, đã trộn lẫn với những gì đã phát sinh từ đầu. Cái chưa được làm trước đây được gọi là lúa mới. Hoặc là đứng ở sân đập lúa và giữ gìn, nếu giữ gìn bằng hành động như “đừng lấy cái này hoặc chừng này, được phép lấy cái này” hoặc là “hãy dời khỏi đây, hãy làm một đống ở đây” và các hành động khác, thì đó là không hợp lệ. Đã được nói: “nếu giữ gìn ‘nó sẽ được giữ gìn khi tôi ở đây,’ hoặc là sau khi đã thấy những người đang lấy và nói ‘các ngươi đang làm gì,’ thì được phép,” điều đó là hợp lý. Bởi vì trong học giới về việc nhận tiền bạc, đã được nói “phải ở sau khi đã đóng cửa và giữ gìn.” Không hợp lệ đối với chính người đó. Tại sao? Vì chưa tạo ra cái mới. Ở dưới, không được phép nói “hãy làm lúa và mang đến.” Cách này cũng áp dụng cho lá cây. Đã được nói: “do việc tạo ra sự tha thiết đối với những người tự mình làm một cách tự nhiên.” Tại sao? Từ Yamaka “vì đã xem xét các kahāpaṇa,” đã được xác định là huống chi là đã được làm phát sinh. Nếu các thí chủ hoặc những người đã thuê làng, ruộng, chùa và các tài sản khác của Tăng chúng nói rằng “đây là các kahāpaṇa đã được mang đến cho Tăng chúng,” thì chỉ cần nói chừng ấy “không hợp lệ.” Nếu chính những người làm vật hợp lệ nói, thì phải nói “kahāpaṇa không hợp lệ đối với Tăng chúng, bơ sữa và các vật khác thì được phép.” Do đó, sau khi đã nói “hãy chỉ cho những người làm vật hợp lệ hoặc nơi cất giữ của Tăng chúng,” và sau khi đã được họ chuẩn bị, và vì không ai được làm, thì sau khi đã xem xét “hãy mang bơ sữa bằng cái này” và hoàn thành, vật hợp lệ của những người còn lại, giống như cái bát thứ tư trong bộ bốn về bát ở phần sau. Đã được nói ở đó: “đã được nhận sau khi đã cho kahāpaṇa ‘hãy lấy các kahāpaṇa này và cho cái này,’ cái bát này không được phép đối với chính Tỳ-khưu này, vì đã xem xét sai lầm. Nhưng đối với những người khác thì được phép, vì giá trị gốc chưa được đồng ý” và các câu tương tự. Nếu vậy, không hợp lệ đối với tất cả mọi người. Tại sao? Vì đã xem xét các kahāpaṇa. Nếu nói rằng điều này là nói sai? Không phải vậy. Vì đã được nói đến để chỉ nơi đã đồng ý với giá trị gốc, giống như cái bát thứ hai và thứ ba trong bộ bốn về bát. Chính vì vậy, đã được nói trong lượt tự mình làm: “chỉ cần nói chừng ấy ‘không hợp lệ’.” Sau đó, được gọi là đồng ý với giá trị gốc.

Mahāvisayasikkhattā, rājasikkhāpadaṃ idaṃ;
Rañño viya duviññeyyaṃ, cittādhippāyatopi vā.
Học giới này, do có đối tượng lớn, là học giới của vua;
Giống như của vua, khó hiểu, hoặc là do ý định của tâm.

Rājasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới Rāja đã kết thúc.

Niṭṭhito cīvaravaggo paṭhamo.
Phẩm Y thứ nhất đã kết thúc.

2. Kosiyavaggo

2. Phẩm Tơ lụa

1. Kosiyasikkhāpadavaṇṇanā
1. Diễn giải học giới về Tơ lụa

542.Kosiyakārakoti ettha kosaṃ karontīti ‘‘kosakārā’’ti laddhavohārānaṃ pāṇakānaṃ kosato nibbattaṃ kosiyaṃ nāma. Attanā kataṃ ce? Nissajjanakāle ‘‘sayaṃ kataṃ nissaggiya’’nti vattabbaṃ. Ubhohi ce kataṃ, yathāpāṭhameva vattabbaṃ. Attanā ca parehi ca vippakataṃ attanā pariyosāpetītiādicatukkampi sambhavantaṃ na dassitaṃ. Vinayadhammatā hesā, yadidaṃ ekasmiṃ tike vā catukke vā dassite itaraṃ sambhavantampi na vuccatīti.
542. Người làm tơ lụa, ở đây, vì chúng làm ra kén, nên được gọi là “người làm kén.” Tơ lụa phát sinh từ kén của các loài côn trùng đó được gọi là tơ lụa. Nếu là do chính mình làm? Trong khi từ bỏ, phải nói “đã được làm bởi chính mình, là phải từ bỏ.” Nếu là do cả hai làm, thì phải nói theo chính bài học. Bốn loại “cái đã được chính mình và người khác làm dở dang, được chính mình hoàn thành” và các loại khác, dù có thể có, cũng không được trình bày. Đây là bản chất của Luật, đó là, khi một bộ ba hoặc bộ bốn đã được trình bày, thì cái khác, dù có thể có, cũng không được nói.

Kosiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về Tơ lụa đã kết thúc.

2. Suddhakāḷakasikkhāpadavaṇṇanā

2. Diễn giải học giới về len đen tuyền

547.Suddhakāḷakānanti ettha yathā paṭhame ‘‘ekenapi kosiyaṃsunā’’ti vuttaṃ, tathā idha ‘‘ekenapi aññena amissetvā’’ti vacanābhāvato aññehi missabhāve satipi apaññāyamānarūpakaṃ ‘‘suddhakāḷaka’’micceva vuccatīti veditabbaṃ.
547. Của len đen tuyền, ở đây, giống như trong học giới đầu tiên, đã được nói “dù chỉ bằng một sợi tơ lụa,” cũng vậy, ở đây, vì không có lời nói “không pha trộn với một sợi nào khác,” nên cần phải biết rằng ngay cả khi có sự pha trộn với các sợi khác, nhưng có hình dạng không thể nhận biết, cũng chỉ được gọi là “len đen tuyền.”

Suddhakāḷakasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về len đen tuyền đã kết thúc.

3. Dvebhāgasikkhāpadavaṇṇanā

3. Diễn giải học giới về hai phần

552. ‘‘Dhārayitvā dve tulā ādātabbā’’ti Yamakato yathā tulādhāraṇāya kāḷakā adhikā na honti, tathā kāḷakānaṃ dve bhāvā gahetabbā ukkaṭṭhaparicchedena. Kathaṃ paññāyatīti? Suddhakāḷakapaṭisedhananidānena. Tatiyaṃ odātānaṃ catutthaṃ gocariyānanti heṭṭhimaparicchedo. Mātikāṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘ekassapi kāḷakalomassa atirekabhāve nissaggiya’’nti (kaṅkhā. aṭṭha. dvebhāgasikkhāpadavaṇṇanā) vuttaṃ, taṃ tulādhāraṇāya kiñcāpi na sameti, acittakattā pana sikkhāpadassa pubbe tulāya dhārayitvā ṭhapitesu ekampi lomaṃ tattha pateyya nissaggiyanti adhippāyoti no takko. Aññathā dve tulā nādātabbā, ūnakatarā ādātabbā siyuṃ. Na hi lomaṃ gaṇetvā tulādhāraṇā karīyati. Atha gaṇetvāva kātabbaṃ. Kiṃ tulādhāraṇāya payojananti keci. ‘‘Gocariyaodātesu ekameva diguṇaṃ katvā gahetuṃ vaṭṭatī’’ti vadanti, aṭṭhakathāyaṃ avicāritattā vīmaṃsitabbaṃ.
552. Từ Yamaka “sau khi đã cân, phải nhận hai cân,” giống như các sợi len đen không được nhiều hơn để cân được, cũng vậy, cần phải nhận hai phần len đen, theo sự phân định cao nhất. Làm thế nào để biết? Do duyên khởi của việc cấm len đen tuyền. Phần thứ ba là của len trắng, phần thứ tư là của len màu đất, là sự phân định thấp nhất. Còn trong Chú giải đề mục, đã được nói: “ngay cả khi chỉ có một sợi len đen thừa ra, cũng là phải từ bỏ” (kaṅkhā. aṭṭha. dvebhāgasikkhāpadavaṇṇanā). Điều đó, dù không phù hợp với việc cân, nhưng theo suy đoán của chúng tôi, ý định là, đối với học giới không có tâm, nếu dù chỉ một sợi lông rơi vào những gì đã được cân và để đó trước đây, thì cũng là phải từ bỏ. Nếu không, lẽ ra không nên nhận hai cân, mà nên nhận ít hơn. Bởi vì người ta không đếm lông rồi mới cân. Nếu phải đếm rồi mới làm, thì có mục đích gì trong việc cân, một số người nói vậy. Một số người nói rằng “được phép nhận một trong hai loại len màu đất hoặc len trắng sau khi đã làm cho nó gấp đôi.” Điều này cần được xem xét, vì không được xem xét trong Chú giải.

Dvebhāgasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về hai phần đã kết thúc.

4. Chabbassasikkhāpadavaṇṇanā

4. Diễn giải học giới về sáu năm

562.Navaṃnāma karaṇaṃ upādāyāti idaṃ ādikaraṇato paṭṭhāya vassagaṇanaṃ dīpeti. Karitvā vāti vacanaṃ niṭṭhānadivasato paṭṭhāyāti dīpeti. Dhāretabbanti vacanaṃ pana paribhogato paṭṭhāyāti dīpeti, yasmā laddhasammutikassa gatagataṭṭhāne channaṃ channaṃ vassānaṃ oratova katāni bahūnipi honti, tasmā aññaṃ navanti kiṃ katato aññaṃ, udāhu dhāritato aññanti? Kiñcettha yadi katato aññaṃ, tesu aññataraṃ dukkataṃ vā paribhogajiṇṇaṃ vā puna kātuṃ vaṭṭati, tañca kho vināpi purāṇasanthatassa sugatavidatthiṃ appaṭisiddhapariyāpannattā. Katato hi aññaṃ paṭisiddhaṃ, idañca pubbakatanti tato anantarasikkhāpadavirodho hoti. Atha dhāritato aññaṃ nāma, sammuti niratthikā āpajjati, paṭhamakataṃ ce aparibhuttaṃ, satiyāpi sammutiyā aññaṃ navaṃ na vaṭṭatīti adhippāyo? Tatridaṃ sanniṭṭhānanidassanaṃ – niṭṭhānadivasato paṭṭhāya channaṃ channaṃ vassānaṃ paricchedo veditabbo. Tattha ca sattame vasse sampatte chabbassāni paripuṇṇāni honti. Tañca kho māsaparicchedavasena, na vassaparicchedavasena. Sattame paripuṇṇañca ūnakañca vassaṃ nāma, tasmā vippakatasseva sace chabbassāni pūrenti, puna niṭṭhānadivasato paṭṭhāya chabbassāni labhanti. Tañca kho paribhuttaṃ vā hotu aparibhuttaṃ vā, dhāritameva nāma. Yasmā ‘‘navaṃ nāma karaṇaṃ upādāya vuccatī’’ti vuttaṃ, tasmā channaṃ vassānaṃ parato tameva pubbakataṃ dukkatabhāvena, paribhogajiṇṇatāya vā vijaṭetvā puna karoti, niṭṭhānadivasato paṭṭhāya chabbassaparamatā dhāretabbaṃ, atirekaṃ vā. Anto ce karoti, tadeva aññaṃ navaṃ nāma hoti karaṇaṃ upādāya, tasmā nissaggiyaṃ. Aññathā ‘‘navaṃ nāma karaṇaṃ upādāyā’’ti iminā na koci viseso atthi. Evaṃ sante kiṃ hoti? Aṭṭhuppattīti. ‘‘Yācanabahulā viññattibahulā viharantī’’ti hi tattha vuttaṃ, tañca aññassa karaṇaṃ dīpeti. Yadi evaṃ taṃ nibbisesameva āpajjatīti? Nāpajjati. Ayaṃ panassa viseso, yasmā ‘‘aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjati, anāpattī’’ti vuttattho visesoti. Kiṃ vuttaṃ hoti? ‘‘Navaṃ nāma karaṇaṃ upādāya vuccatī’’ti vutte atirekacīvarassa uppatti viya paṭilābhenassa uppatti navatā āpajjati. Tato paṭiladdhadivasato paṭṭhāya chabbassaparamatā dhāretabbaṃ. Orena ce channaṃ vassānaṃ…pe… kārāpeyya, nissaggiyanti āpajjati, tasmā navaṃ nāma karaṇameva upādāya vuccati, na paṭilābhaṃ. Orena channaṃ vassānaṃ attano anuppannattā ‘‘nava’’nti saṅkhyaṃ gataṃ, appaṭiladdhaṃ ce kārāpeyya, yathā lābho, tathā kareyya vā kārāpeyya vāti ca na hoti. Kasmā? Yasmā aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjati, anāpattīti visesoti.
562. Mới, được nói dựa vào việc làm, điều này trình bày việc đếm năm từ khi bắt đầu làm. Lời nói hoặc là sau khi đã làm trình bày là từ ngày hoàn thành. Còn lời nói phải được giữ thì trình bày là từ khi dùng. Bởi vì đối với người đã được đồng ý, ở mỗi nơi đã đi, cũng có nhiều cái đã được làm chỉ trong vòng sáu năm. Do đó, cái mới khác, là khác so với cái đã được làm, hay là khác so với cái đã được giữ? Ở đây, nếu là khác so với cái đã được làm, thì được phép làm lại một trong số chúng, dù đã bị hư hỏng hoặc đã cũ do dùng. Và đó là vì không thuộc về trường hợp bị cấm, mà không cần đến một gang tay của Phật đối với tấm trải cũ. Bởi vì cái khác so với cái đã được làm đã bị cấm, còn cái này là đã được làm trước đây, do đó, có sự mâu thuẫn với học giới ngay sau đó. Còn nếu là khác so với cái đã được giữ, thì sự đồng ý sẽ trở nên vô ích. Ý định là, nếu cái đã được làm đầu tiên chưa được dùng, thì dù có sự đồng ý, cũng không được phép có cái mới khác? Ở đó, đây là sự trình bày kết luận – cần phải biết sự phân định của sáu năm từ ngày hoàn thành. Và ở đó, khi đã đến năm thứ bảy, thì đã đủ sáu năm. Và đó là theo sự phân định của tháng, không phải theo sự phân định của năm. Năm thứ bảy là năm đã đủ và năm chưa đủ. Do đó, nếu chính cái đang được làm dở dang mà đã đủ sáu năm, thì lại có được sáu năm từ ngày hoàn thành. Và đó, dù đã được dùng hay chưa được dùng, cũng chính là đã được giữ. Bởi vì đã được nói “mới được gọi là dựa vào việc làm,” do đó, sau sáu năm, nếu làm lại chính cái đã được làm trước đây, do đã bị hư hỏng hoặc đã cũ do dùng, sau khi đã tháo ra, thì phải được giữ tối đa sáu năm từ ngày hoàn thành, hoặc là nhiều hơn. Nếu làm trong vòng, thì chính cái đó trở thành cái mới khác, dựa vào việc làm. Do đó, là phải từ bỏ. Nếu không, sẽ không có sự khác biệt nào với câu “mới được gọi là dựa vào việc làm.” Nếu như vậy, thì có gì? Là sự phát sinh của sự việc. Bởi vì ở đó đã được nói “họ sống xin xỏ nhiều, yêu cầu nhiều,” và điều đó trình bày việc làm của cái khác. Nếu vậy, điều đó sẽ trở nên không có sự khác biệt? Không phải vậy. Đây là sự khác biệt của nó. Bởi vì sự khác biệt là lời nói “nhận cái đã được người khác làm và dùng, không phạm tội.” Điều gì đã được nói? Khi được nói “mới được gọi là dựa vào việc làm,” giống như sự phát sinh của y thừa, sự phát sinh của nó bằng việc nhận được trở thành mới. Từ ngày đã nhận được đó, phải được giữ tối đa sáu năm. Nếu cho làm trong vòng sáu năm… cho đến… thì phải từ bỏ. Do đó, mới được gọi là chỉ dựa vào chính việc làm, không phải là việc nhận được. Nếu cho làm cái đã có tên là “mới” vì chưa phát sinh trong vòng sáu năm, và chưa nhận được, thì hoặc là sẽ làm hoặc là sẽ cho làm theo như đã nhận được. Không phải vậy. Tại sao? Bởi vì sự khác biệt là “nhận cái đã được người khác làm và dùng, không phạm tội.”

Chabbassasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về sáu năm đã kết thúc.

5. Nisīdanasanthatasikkhāpadavaṇṇanā

5. Diễn giải học giới về tấm trải ngồi

565.Nāssudha kocīti ettha assudha-iti avadhāraṇatthe nipāto. Tattha kiñcāpi ‘‘evaṃ bhanteti kho te bhikkhū’’ti bahuvacanaṃ vuttaṃ, tathāpi te bhikkhū bhagavato paṭissuṇitvā idha tesu bhikkhūsu koci bhagavantaṃ nāssudha upasaṅkamati aññatra ekenāti attho gahetabbo. Taṃ suggāhaṃ ekāhaṃ bhante bhagavantaṃ varantiādīsu (mahāva. 337) viya, anujānāmi…pe… yathāsukhaṃ maṃ dassanāya upasaṅkamantūti dassanatthāya upasaṅkamantu.
565. Trong câu không có ai ở đây, ở đây, từ assudha là một tiểu từ trong ý nghĩa nhấn mạnh. Ở đó, mặc dù đã được nói bằng số nhiều “các Tỳ-khưu đó đã nói ‘vâng, thưa ngài’,” nhưng cần phải hiểu ý nghĩa là: các Tỳ-khưu đó, sau khi đã vâng lời Thế Tôn, ở đây, trong số các Tỳ-khưu đó, không có ai đến gặp Thế Tôn, trừ một người. Điều đó, giống như trong các câu “tốt thay, một ngày, bạch Thế Tôn, xin hãy cho chúng con” và các câu tương tự (mahāva. 337), để trình bày “Ta cho phép… cho đến… hãy đến gặp Ta để thấy một cách thoải mái.”

566-7. ‘‘Mayaṃ āyasmantaṃ upasena’’nti tassa gaṇapāmokkhattā vuttaṃ. Āraññikapiṇḍapātikapaṃsukūlikavasena sabbāni vuttāni. Tenevāha aṭṭhakathāyaṃ ‘‘santhate catutthacīvarasaññitāyā’’ti. Kiṃ sabbepi te cīvaraṃ na bujjhantīti ce? Yathā hotu. Katamaṃ cīvaraṃ nāmāti? Channaṃ aññataraṃ vikappanupagaṃ pacchimanti. Kiñca vāyimaṃ avāyimanti? Vāyimamevāti. Katarasuttenāti? Addhā so suttameva na passati, siveyyakaṃ dussayugaṃ, iddhimayikañca devadattiyañca acīvaraṃ karoti. Yadi evaṃ avāyimampīti vadāmīti. Evaṃ sante siddhā santhate cīvarasaññitā kambalasīsena uṇṇāmayasāmaññato. Kiṃ pana te santhataṃ adhiṭṭhahiṃsūti? Duṭṭhu adhiṭṭhahiṃsu acīvarattā, na adhiṭṭhānupagattā ca santhatassa. Atha nādhiṭṭhahiṃsu, pubbeva tattha acīvarasaññino eteti katvā tattha cīvarasaññitāya tadubhayaṃ na yujjatīti. Kiṃ panetaṃ adhiṭṭhānupagaṃ natthīti? Tatthevāgataṃ, apicetaṃ avikappanupagaṃ ce, cīvaraṃ na hoti, aññathā ‘‘cīvaraṃ nāma channaṃ cīvarānaṃ aññatara’’nti ettāvatā siddhaṃ ‘‘vikappanupagaṃ pacchima’’nti na vattabbaṃ. Atha na vikappanupagampi cīvarameva siddhaṃ, anadhiṭṭhānupagaṃ, avikappanupagañca ekajjhaṃ ‘‘cīvara’’nti saṅkhyaṃ gacchati. Tenevāha ‘‘tecīvarikassa catutthacīvaraṃ vattamānaṃ aṃsakāsāvameva vaṭṭatī’’ti.
566-7. Đã được nói “chúng tôi, với Tôn giả Upasena,” vì vị ấy là người đứng đầu nhóm. Tất cả đã được nói theo cách của người sống trong rừng, người khất thực, và người mặc y phấn tảo. Chính vì vậy, Ngài đã nói trong Chú giải: “trong tấm trải có ý thức là y thứ tư.” Nếu hỏi có phải tất cả họ đều không biết về y không? Hãy như vậy. Y nào được gọi là y? Là một trong sáu loại, là vật cuối cùng có thể được định đoạt. Và cái nào là dệt, cái nào là không dệt? Chính là dệt. Bằng sợi nào? Chắc chắn vị ấy không thấy sợi. Ngài làm cho đôi vải siveyyaka, y do thần thông, và y của Devadatta trở thành không phải là y. Nếu vậy, tôi nói rằng ngay cả y không dệt. Nếu như vậy, đã xác định được ý thức là y trong tấm trải, do sự chung chung của chất liệu len, theo đầu đề về len. Nhưng có phải họ đã xác quyết tấm trải không? Họ đã xác quyết sai, vì là không phải là y, và vì tấm trải không phải là vật có thể được xác quyết. Còn nếu họ không xác quyết, thì trước đó, họ đã có ý thức là không phải là y. Do đó, ở đó, việc có ý thức là y không hợp lý đối với cả hai. Nhưng có phải cái này không phải là vật có thể được xác quyết không? Nó đã có ở chính đó. Hơn nữa, nếu nó không phải là vật có thể được định đoạt, thì nó không phải là y. Nếu không, lẽ ra không nên nói “vật cuối cùng có thể được định đoạt,” mà chỉ cần nói chừng ấy “y là một trong sáu loại y” là đủ. Còn nếu ngay cả vật không thể được định đoạt cũng chính là y đã được xác định, thì vật không thể được xác quyết và vật không thể được định đoạt cùng nhau được gọi là “y.” Chính vì vậy, Ngài đã nói “đối với người có ba y, y thứ tư đang có, chính là y cà sa trên vai mới được phép.”

Apica santhate cīvarasaññitā na kevalaṃ tesaṃyeva, aññesampi anubandhati eva ‘‘purāṇasanthataṃ nāma sakiṃ nivatthampi sakiṃ pārutampī’’ti Yamakato. Aṭṭhakathācariyo panassa acīvarataṃ sandhāyabhāsitatthadīpanena dīpeti. Nivatthapārutanti etesaṃ nisinnañceva nipannañcāti attho. Apica evaṃ santepi santhate cīvarasaññitā anubandhati eva. Khandhake (mahāva. 358) hi ‘‘nisīdanaṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetu’’nti ca, parivāre (pari. 329) ‘‘nava cīvarāni adhiṭṭhātabbānī’’ti ca nisīdanasikkhāpade ‘‘dasā vidatthī’’ti ca idha ‘‘nisīdanaṃ nāma sadasaṃ vuccatī’’ti ca vuttaṃ, aṭṭhakathāyañcassa ‘‘santhatasadisaṃ santharitvā ekasmiṃ ante sugatavidatthiyā vidatthimattapadese dvīsu ṭhānesu phāletvā tisso dasā karīyanti, tāhi dasāhi sadasaṃ nāma vuccatī’’ti ca ‘‘nisīdanaṃ vuttanayena adhiṭṭhātabbameva, tañca kho pamāṇayuttaṃ ekameva, dve na vaṭṭantī’’ti ca vuttaṃ, tasmā nisīdanaṃ nāma navannaṃ cīvarānaṃ aññataraṃ cīvaraṃ adhiṭṭhātabbaṃ, tañca santhatasadisaṃ eḷakalomamayasanthatavisesanti siddhaṃ, tathā nisīdanameva nisīdanasanthatañca siddhaṃ. Porāṇagaṇṭhipade ca ‘‘ekamevā’’ti vuttaṃ. Tasmiṃ siddhe siddhā santhate cīvarasaññitāti attho. Kasmā? Santhatasāmaññato.
Hơn nữa, ý thức là y trong tấm trải không chỉ đeo bám họ, mà còn cả những người khác, từ Yamaka “tấm trải cũ là dù chỉ mặc một lần, dù chỉ khoác một lần.” Còn vị Chú giải sư trình bày bằng cách trình bày ý nghĩa chưa được nói, để chỉ tính chất không phải là y của nó. Đã được mặc và khoác, ý nghĩa của những từ này là đã được ngồi và nằm. Hơn nữa, dù như vậy, ý thức là y trong tấm trải vẫn đeo bám. Bởi vì trong Phẩm Luật (mahāva. 358), đã được nói “xác quyết tấm trải ngồi, không định đoạt.” Và trong Parivāra (pari. 329), “phải xác quyết chín y.” Và trong học giới về tấm trải ngồi, “mười gang tay.” Và ở đây, “tấm trải ngồi được gọi là có mười.” Và trong Chú giải của nó, đã được nói “tấm trải, giống như tấm trải, sau khi đã trải ra, ở một đầu, ở một nơi có kích thước một gang tay của Phật, sau khi đã xé ở hai nơi, thì có ba mười. Bằng mười đó, được gọi là có mười.” Và “tấm trải ngồi chính là phải được xác quyết theo cách đã được nói. Và đó là chỉ một cái có kích thước hợp lệ, hai cái không được phép.” Do đó, đã được xác định rằng tấm trải ngồi là một trong chín loại y, phải được xác quyết. Và đó là một loại tấm trải đặc biệt làm bằng lông cừu, giống như tấm trải. Cũng vậy, đã được xác định rằng chính tấm trải ngồi là tấm trải ngồi. Và trong sách giải thích từ khó xưa, đã được nói “chỉ một.” Khi điều đó đã được xác định, thì ý nghĩa là đã xác định được ý thức là y trong tấm trải. Tại sao? Do sự chung chung của tấm trải.

Etthāha – kathaṃ adasameva santhataṃ cīvarasaṅkhyaṃ na gacchati. Anekampi anadhiṭṭhitampi mahantampi vaṭṭati, yato sadasameva santhataṃ cīvarasaṅkhyaṃ gacchati, tato adhiṭṭhānañca upagacchatīti. Asanthatapariyāpannattā orena ca channaṃ vassānaṃ vināpi sammutiṃ, tañca porāṇaṃ vissajjetvā eva, na avissajjetvā ‘‘tañca kho pamāṇayuttaṃ ekameva, dve na vaṭṭantī’’ti (pārā. aṭṭha. 2.469) vacanatoti. Athāpi siyā santhataṃ sayanatthameva karīyati, nisīdanaṃ asanthatamevāti. Tañca na niyamato ‘‘purāṇasanthataṃ nāma sakiṃ nivatthaṃ sakiṃ pārutampī’’ti vuttattāti. Ettha vuccati, na ettha kāraṇaṃ pariyesitabbaṃ vinayapaññattiyā anaññavisayattā.
Vị ấy nói ở đây – làm thế nào mà tấm trải không có mười lại không được kể vào số y? Dù nhiều, dù chưa được xác quyết, dù lớn, cũng được phép. Do đó, chính tấm trải có mười mới được kể vào số y, và từ đó mới có thể được xác quyết. Vì thuộc về loại không phải tấm trải, và vì không có sự đồng ý, trong vòng sáu năm, và đó là chỉ sau khi đã từ bỏ tấm trải cũ, không phải là không từ bỏ. Do lời nói “và đó là chỉ một cái có kích thước hợp lệ, hai cái không được phép” (pārā. aṭṭha. 2.469). Và cũng có thể có rằng tấm trải chỉ được làm để nằm, còn tấm trải ngồi thì không phải là tấm trải. Và điều đó không phải là quy định, vì đã được nói “tấm trải cũ là dù chỉ mặc một lần, dù chỉ khoác một lần.” Ở đây, đã được nói: không cần phải tìm kiếm nguyên nhân ở đây, vì việc chế định Luật không phải là đối tượng của người khác.

Santhatassa pana acīvarabhāve ayaṃ yutti – ādito ‘‘tīṇi santhatāni pana vinayakammaṃ katvā paṭilabhitvā paribhuñjituṃ na vaṭṭantī’’ti aṭṭhakathāvacanato tāni akappiyānīti siddhaṃ, bhagavatā ca khomādīni cha anuññātānīti koseyyaṃ kappiyanti siddhaṃ. Evaṃ sante vattabbakoseyyampi cīvaraṃ kappiyaṃ jātaṃ, pageva kosiyamissakasanthatacīvaranti āpajjati. Tathā kambalañca anuññātaṃ, tañca suddhikampi hoti jātikāḷakabhāvena, pageva odātagocariyamissakasanthatacīvaranti āpajjati. Tato ca aññamaññavirodho, tasmā na santhataṃ cīvaraṃ nāma hoti, nisīdanaṃ pana hoti tassa pamāṇasaṇṭhānaparicchedasambhavato. Etthāhu keci ācariyā ‘‘duvidhaṃ nisīdanaṃ santhataṃ, asanthatañca. Tattha santhataṃ santhatameva. Asanthataṃ khomādichabbidhaṃ, tadanulomaṃ vā hoti, ayametesaṃ viseso’’ti.
Còn về bản chất không phải là y của tấm trải, đây là lý lẽ – từ đầu, từ lời nói trong Chú giải “còn ba tấm trải, sau khi đã nhận và dùng sau khi đã làm Tăng sự Luật, thì không được phép,” đã được xác định rằng chúng là không hợp lệ. Và vì Thế Tôn đã cho phép sáu loại như vải gai và các loại khác, nên đã được xác định rằng tơ lụa là hợp lệ. Nếu như vậy, sẽ dẫn đến việc ngay cả y bằng tơ lụa được dệt cũng trở thành y hợp lệ, huống chi là y tấm trải có pha tơ lụa. Cũng vậy, len cũng đã được cho phép. Và nó, dù là đen tuyền do là màu tự nhiên, cũng là trong sạch. Huống chi là y tấm trải có pha len trắng và len màu đất. Và sau đó có sự mâu thuẫn với nhau. Do đó, tấm trải không được gọi là y. Còn tấm trải ngồi thì có, vì có thể có sự phân định về kích thước và hình dạng. Ở đây, một số vị Giáo thọ sư đã nói: “tấm trải ngồi có hai loại: tấm trải và không phải là tấm trải. Ở đó, tấm trải chính là tấm trải. Không phải là tấm trải là sáu loại như vải gai và các loại khác, hoặc là phù hợp với đó. Đây là sự khác biệt của chúng.”

Etthāha – kasmā panettha ‘‘santhataṃ pana bhikkhunā’’ti sikkhāpadaṃ apaññāpetvā ‘‘nisīdanasanthata’’nti paññattanti? Cīvarasaññitāya santhatānaṃ ujjhitattā tesaṃ acīvarabhāvadassanatthaṃ tathā paññattanti vuttaṃ hoti, tasmā te bhikkhū dhutaṅgabhedabhayā tāni ujjhitvā terasāpi dhutaṅgāni samādiyiṃsu, sīsadassanavasena tīṇeva vuttāni, bhagavā ca tesaṃ santhataṃ anujāni, tato nesaṃ evaṃ hoti ‘‘nisīdanacīvarasaṇṭhānampetaṃ nisīdanasanthataṃ no anuññātaṃ, catutthacīvarabhāvena pageva katasanthataṃ vā’’ti. Tato santhate nesaṃ cīvarasaññitā na bhavissatīti tadatthaṃ bhagavatā nisīdanasanthatanti paññattanti adhippāyo. ‘‘Pacchimāni dve vaṭṭantī’’ti kathaṃ paññāyatīti ce? ‘‘Anāpatti aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjatī’’ti vacanatoti.
Vị ấy nói ở đây – tại sao ở đây, không chế định học giới “Tỳ-khưu làm tấm trải,” mà lại chế định “tấm trải ngồi”? Đã được nói rằng đã được chế định như vậy để trình bày bản chất không phải là y của chúng, vì các tấm trải có ý thức là y đã bị vứt bỏ. Do đó, các Tỳ-khưu đó, vì sợ phá vỡ hạnh đầu đà, đã vứt bỏ chúng và đã thọ trì cả mười ba hạnh đầu đà. Chỉ có ba được nói theo cách trình bày phần chính. Và Thế Tôn đã cho phép tấm trải cho họ. Sau đó, họ có ý nghĩ như vầy: “tấm trải ngồi này, có hình dạng của y ngồi, chưa được cho phép cho chúng tôi, huống chi là tấm trải đã được làm theo cách của y thứ tư.” Sau đó, để cho họ không có ý thức là y trong tấm trải, Thế Tôn đã chế định tấm trải ngồi, đó là ý định. Nếu hỏi làm thế nào để biết “hai cái sau được phép”? Từ lời nói “không phạm tội, nhận cái đã được người khác làm và dùng.”

Nisīdanasanthatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về tấm trải ngồi đã kết thúc.

6. Eḷakalomasikkhāpadavaṇṇanā

6. Diễn giải học giới về lông cừu

572-3.Addhānamaggappaṭipannassāti iminā pakatiyā dīghamaggappaṭipannassa uppannānipi tiyojanaparamameva haritabbāni, pageva appaṭipannassāti dasseti. Addhānamaggappaṭipannassa nissaggiyanti vā sambandho. Teneva vāsādhippāyassa paṭippassaddhagamanussāhattā ‘‘appaṭipanno’’ti saṅkhyaṃ gatassa anāpattīti siddhā. Imasmiṃ atthavikappe hi bhikkhuno paneva eḷakalomāni uppajjeyyuṃ…pe… asantepi hārake addhānaṃ maggappaṭipannassa nissaggiyaṃ pācittiyanti yojanā veditabbā. Ākaṅkhamānena bhikkhunā paṭiggahetabbānīti attano santakānaṃyeva tiyojanātikkame āpattiṃ dasseti. Tena anākaṅkhamānena parasantakāni paṭiggahitāni atirekatiyojanaṃ harantassa anāpatti siddhā. Ayamattho ‘‘bhikkhuno uppajjeyyu’’nti iminā, ‘‘acchinnaṃ paṭilabhitvā’’ti iminā ca dīpitova hotīti. Porāṇagaṇṭhipade ca ‘‘aññaṃ bhikkhuṃ harāpento gacchati ce, dvinnaṃ anāpattīti vuttaṃ, tasmā dve bhikkhū tiyojanaparamaṃ patvā aññamaññassa bhaṇḍaṃ parivattetvā ce haranti, anāpattīti siddhaṃ, teneva anāpattivāre ‘‘aññaṃ harāpetī’’ti vuttaṃ. Kiṃ harāpeti? Jānantaṃ ajānantaṃ. Kiñcettha yadi jānantaṃ, ‘‘añño harissatīti ṭhapeti, tena haritepi āpattiyevā’’ti ekaṃsato na vattabbaṃ. Jānantopi hi ekacco haratīti. Tato aṭṭhakathāya virujjhati. Atha ajānantaṃ, ‘‘aññassa yāne vā bhaṇḍe vā ajānantassa pakkhipitvā tiyojanaṃ atikkāmeti, nissaggiyānī’’ti pāḷiyā virujjhati, atha ubhopi ekato ekaṃ bhaṇḍaṃ harāpenti, tampi nissaggiyaṃ siyā. Anissaggiyanti yuttiyā virujjhati ‘‘tiyojanaparamaṃ sahatthā haritabbāni asante hārake’’ti avisesena ca pāḷi vuttā. Hārakopi sacetano acetanoti duvidho. Sacetanopi eḷakalomabhāvaṃ vā ‘‘ahamidaṃ harāmī’’ti vā ‘‘maṃ esa idaṃ harāpetī’’ti vā jānanājānanavasena duvidho hoti. Tattha acetano nāma hārako nadīsoto vā nāvā vā assāmikayānaṃ vā hoti. Sacetano pākaṭova. Tattha ‘‘maṃ esa idaṃ harāpetī’’ti ettakaṃ jānantaṃ manussaṃ vā tiracchānagataṃ vā aññaṃ harāpeti, anāpattīti anugaṇṭhipadanayo. Ayaṃ pāḷiyā, aṭṭhakathāya ca ekaraso vinicchayo, ‘‘asante hārake’’ti kiñcāpi idaṃ avisesato vuttaṃ, ‘‘aññassa yāne vā bhaṇḍe vā ajānantassā’’ti Yamakato pana sacetanova hārako tattha adhippetoti paññāyati, so ca eḷakalomabhāvañca ‘‘idaṃ harāmī’’ti ca jānanto nādhippeto. Tena vuttaṃ ‘‘añño harissatīti ṭhapeti, tena haritepi āpattiyevā’’tiādi. Tattha niyyādetuṃ abhāvatova. Pāḷiyañhi ‘‘aññaṃ harāpetī’’ti hetukammaniyyatvā vuttā. Itare dve jānantā idha sambhavanti. ‘‘Ajānantassa pakkhipitvā’’ti pāḷiyaṃ ‘‘esa harāpetī’’ti vā ‘‘idaṃ ṭhānaṃ atikkamāpetī’’ti vā jānantassa yāne vā bhaṇḍe vā pakkhipitvā tiyojanaṃ atikkamāpeti, na nissaggiyā hontīti dīpeti.
572-3. Đối với người đang đi đường, bằng điều này, Ngài trình bày rằng ngay cả đối với người thường xuyên đi đường dài, nếu lông cừu phát sinh, cũng chỉ được mang đi tối đa ba yojana, huống chi là đối với người không đi. Hoặc là có sự liên kết rằng đối với người đang đi đường, là phải từ bỏ. Chính vì vậy, đã được xác định rằng không phạm tội đối với người, do có ý định ở lại, và đã hết lòng tha thiết với việc đi, đã được kể vào số “người không đi.” Bởi vì trong cách giải thích ý nghĩa này, cần phải biết sự kết hợp rằng ngay cả khi không có người mang, đối với người đang đi đường, phạm tội Ưng Đối Trị cần phải từ bỏ, nếu y của Tỳ-khưu phát sinh… cho đến… Nếu Tỳ-khưu muốn, thì phải nhận, Ngài trình bày tội lỗi trong việc vượt quá ba yojana đối với chính những y của mình. Do đó, đã được xác định rằng không phạm tội đối với người mang đi quá ba yojana những y của người khác đã được nhận mà không muốn. Ý nghĩa này đã được trình bày chính bằng câu “nếu phát sinh cho Tỳ-khưu” và “sau khi đã nhận được cái đã bị cướp.” Và trong sách giải thích từ khó xưa, đã được nói: “nếu đi và cho Tỳ-khưu khác mang, thì cả hai đều không phạm tội.” Do đó, đã được xác định rằng nếu hai Tỳ-khưu, sau khi đã đến giới hạn ba yojana, và đổi đồ của nhau và mang đi, thì không phạm tội. Chính vì vậy, trong phần không có tội, đã được nói “cho người khác mang.” Cho ai mang? Người biết và người không biết. Và ở đây, nếu là người biết, thì không nên nói một cách dứt khoát: “đặt xuống để người khác mang, ngay cả khi được người đó mang, cũng chính là có tội.” Bởi vì ngay cả người biết cũng có người mang. Sau đó, sẽ mâu thuẫn với Chú giải. Còn nếu là người không biết, thì sẽ mâu thuẫn với Pāḷi: “trong xe hoặc đồ của người khác, sau khi đã đặt vào mà người đó không biết và làm cho vượt quá ba yojana, thì là phải từ bỏ.” Nếu cả hai cùng cho một người mang một vật, thì vật đó cũng sẽ phải từ bỏ. Nếu nói rằng không phải từ bỏ, thì sẽ mâu thuẫn với lý lẽ, vì Pāḷi đã được nói một cách không phân biệt: “phải được mang đi bằng chính tay mình tối đa ba yojana, khi không có người mang.” Người mang cũng có hai loại: có tri giác và không có tri giác. Người có tri giác cũng có hai loại: biết và không biết về bản chất của lông cừu, hoặc là “tôi đang mang cái này,” hoặc là “người này đang cho tôi mang cái này.” Ở đó, người mang không có tri giác là dòng sông hoặc thuyền hoặc xe không có chủ. Người có tri giác thì rõ ràng. Ở đó, cách của Anugaṇṭhipada là không phạm tội đối với người cho người khác, dù là người hay súc sinh, mang đi, chỉ biết chừng ấy “người này đang cho tôi mang cái này.” Đây là sự phân xử có cùng một vị với Pāḷi và Chú giải. Mặc dù câu “khi không có người mang” này đã được nói một cách không phân biệt, nhưng từ Yamaka “trong xe hoặc đồ của người khác, mà người đó không biết,” có thể thấy rằng chính người mang có tri giác mới được hàm ý ở đó. Và người đó không được hàm ý là người biết cả bản chất của lông cừu và “tôi đang mang cái này.” Do đó, đã được nói: “đặt xuống để người khác mang, ngay cả khi được người đó mang, cũng chính là có tội” và các câu tương tự. Ở đó, chính là do không thể giao phó. Bởi vì trong Pāḷi, đã được nói bằng cách xác định hành động gây ra: “cho người khác mang.” Hai người biết còn lại có thể có ở đây. Trong Pāḷi, “sau khi đã đặt vào mà người đó không biết,” Ngài trình bày rằng không trở thành phải từ bỏ, nếu cho người biết “người này đang cho mang” hoặc “đang cho vượt qua nơi này” đặt vào xe hoặc đồ và làm cho vượt quá ba yojana.

‘‘Harāpetī’’ti idaṃ kammaniyyatuvacanataṃ sādheti, tasmā aṭṭhakathāyaṃ ‘‘sāmikassa ajānantassevā’’ti idaṃ ‘‘maṃ esa harāpetī’’ti evaṃ ajānantaṃ sandhāya vuttaṃ. ‘‘Sāreti codeti anubandhāpetī’’ti idaṃ ‘‘maṃ esa idaṃ ṭhānaṃ atikkamāpetī’’ti evaṃ jānantaṃ sandhāya vuttaṃ. Ajānantopi sāraṇādīhi ṭhitaṭṭhānaṃ nātikkamati, na vā anubandhati. Atha sāraṇādīhi anatikkamitvā attano ruciyā atikkamati āpatti eva bhikkhuno kammaniyyatubhāvāsambhavato.
“Cho mang,” điều này chứng minh cho lời nói xác định hành động. Do đó, trong Chú giải, “chính của chủ nhân không biết,” điều này đã được nói đến để chỉ người không biết như vầy “người này đang cho tôi mang.” “Thúc giục, ra lệnh, cho đi theo,” điều này đã được nói đến để chỉ người biết như vầy “người này đang cho tôi vượt qua nơi này.” Bởi vì ngay cả người không biết cũng không vượt qua nơi đã đứng, hoặc không đi theo, do sự thúc giục và các hành động khác. Nếu sau khi đã không vượt qua bằng sự thúc giục và các hành động khác, mà vượt qua theo ý thích của mình, thì chính là có tội đối với Tỳ-khưu, vì không có khả năng có bản chất của hành động gây ra.

Idāni yathāṭhitaṭṭhānato paṭṭhāya vakkhāma, ‘‘asantepi hārake’’ti hārakālābhapaccayāpi sayaṃ haraṇato nissaggiyameva, pageva sati hāraketi ayameko attho. Avadhāraṇatthaṃ api-saddaṃ gahetvā asante eva hārake nissaggiyaṃ, sati pana hārake na tena harāpentassa nissaggiyanti ayaṃ dutiyo attho. ‘‘Saṅghato vā…pe… attano vā dhanenā’’ti iminā kiñcāpi acittakamidaṃ sikkhāpadaṃ, saṅghādito pana attanā ākaṅkhamānena paṭiggahitasseva eḷakalomassa tiyojanātikkame āpatti, na ajānato appaṭiggahitassa cīvarādīsu kutoci laggassa atikkamaneti dīpeti. Anugaṇṭhipade pana ‘‘kambalassa upari nipajjitvā gacchantassa sace ekampi lomaṃ cīvare laggaṃ hoti, āpatti eva kambalato vijaṭitattā’’ti vuttaṃ, taṃ kambalassa paṭiggahitattā attano icchāya paṭiggahitameva hotīti yuttaṃ. Yasmā ‘‘anāpatti katabhaṇḍe’’ti vuttaṃ, tasmā taṃ anekampi katabhaṇḍaṭṭhāniyameva hoti. Tañhi anena paṭiggahitaṃ, na lomaṃ. Atha lomampi aggahitameva hoti, katabhaṇḍaṃ dupparihāriyalomavinibbhogakatabhaṇḍo niyamo. Evaṃ sante akatabhaṇḍe tikapācittiyaṃ, katabhaṇḍe tikadukkaṭañca nayato dassetabbaṃ bhaveyya, aññathā tikassa dassitattā. Saussāhattāti appaṭippassaddhagamanattā. Acittakattā cāti bhikkhuno ussāhānurūpaṃ lomānaṃ tiyojanātikkamanato vināpi payogacittena haraṇacittena āpajjati evāti adhippāyo. Sā anāpatti pāḷiyā na sametīti anto pana payogena tiyojanaparamaṃ atikkamitattā anāpatti. ‘‘Tiyojanaṃ haratī’’ti iminā tiyojanaṃ padasā netukāmopi antotiyojane pade pade dukkaṭaṃ nāpajjatīti dasseti, taṃ yuttaṃ ‘‘tiyojanaṃ vāsādhippāyo gantvā tato paraṃ haratī’ti vacanassatthitāyā’’ti vuttaṃ. Punapi vuttaṃ ‘‘aññaṃ harāpetīti ‘idaṃ harissāmī’ti saussāhameva aññaṃ harāpetīti attho. Itarathā gacchantassa sīse ṭhapesi, tasmiṃ ajānantepi anāpatti siyā’’ti. Sace pana ‘‘agacchante yāne vā’’tiādinā nayena vuttattā haraṇādīhi janitaussāhānaṃ hatthiādīnaṃ ‘idaṃ karissāmā’ti vā ‘harissāmā’ti vā ābhoge janite eva anāpatti, na ajaniteti upatissatthero āhā’’ti ca vuttaṃ. Parivattetvā ṭhapiteti dvinnampi bahi nikkhipitattāti upatissatthero. Bahisīmāya ṭhapitaṃ bhaṇḍikaṃ anto antosīmāyaṃ ṭhapitaṃ bahi karoto anāpattīti keci, na sundaraṃ viya.
Bây giờ, chúng tôi sẽ nói từ nơi đã đứng – “ngay cả khi không có người mang,” ngay cả do duyên không có người mang, cũng chính là phải từ bỏ do tự mình mang, huống chi là khi có người mang. Đây là một ý nghĩa. Sau khi đã lấy tiểu từ “api” trong ý nghĩa nhấn mạnh, chỉ phải từ bỏ khi không có người mang. Còn khi có, thì không phải từ bỏ đối với người cho người đó mang. Đây là ý nghĩa thứ hai. Bằng câu “hoặc là từ Tăng chúng… cho đến… hoặc là bằng tiền của chính mình,” Ngài trình bày rằng mặc dù học giới này là không có tâm, nhưng chỉ có tội trong việc vượt quá ba yojana đối với lông cừu đã được chính mình muốn và nhận từ Tăng chúng và các nguồn khác, không phải là việc vượt qua của lông cừu đã dính vào y và các vật dụng khác mà không biết, không nhận. Còn trong Anugaṇṭhipade, đã được nói: “đối với người đi sau khi đã nằm trên tấm len, nếu dù chỉ một sợi lông dính vào y, thì cũng chính là có tội, vì đã tách ra khỏi tấm len.” Điều đó hợp lý, vì tấm len đã được nhận, nên cũng chính là đã được nhận theo ý muốn của mình. Bởi vì đã được nói “không phạm tội đối với vật đã được làm,” nên ngay cả nhiều vật đó cũng chính là ở trong tình trạng của vật đã được làm. Bởi vì nó đã được người này nhận, không phải là lông. Sau đó, lông cũng chính là chưa được nhận. Vật đã được làm là quy định về vật đã được làm bằng cách tách ra khỏi lông khó giữ. Nếu như vậy, lẽ ra phải trình bày tội Ưng Đối Trị ba loại đối với vật chưa được làm, và tội Tác Ác ba loại đối với vật đã được làm, theo cách. Nếu không, vì đã trình bày bộ ba. Do sự tha thiết là do không ngừng nghỉ trong việc đi. Và do không có tâm, ý định là, vì phù hợp với sự tha thiết của Tỳ-khưu, từ việc vượt quá ba yojana của lông cừu, phạm tội ngay cả khi không có tâm hành động, tâm mang. Sự không có tội đó không phù hợp với Pāḷi, là không có tội vì đã vượt quá giới hạn ba yojana bằng hành động ở trong. Đã được nói: “người nào, với ý định đi ba yojana, và mang đi, cũng không phạm tội Tác Ác ở mỗi bước trong ba yojana,” điều đó trình bày rằng điều đó là hợp lý, vì có ý nghĩa của lời nói “có ý định ở lại ba yojana và đi, rồi sau đó mang đi.” Lại được nói: “cho người khác mang, ý nghĩa là cho chính người khác, người có lòng tha thiết ‘tôi sẽ mang cái này,’ mang đi. Nếu không, nếu đặt trên đầu người đang đi, thì ngay cả khi người đó không biết, cũng sẽ không phạm tội.” Và đã được nói: “nhưng nếu Trưởng lão Upatissa đã nói: “từ những gì đã được nói theo cách ‘trong xe không đi hoặc’ và các cách khác, đối với voi và các loài vật khác đã có lòng tha thiết do được mang và các hành động khác, thì chỉ không phạm tội khi có sự chú ý ‘chúng ta sẽ làm cái này’ hoặc ‘sẽ mang đi,’ không phải khi chưa có.” Sau khi đã đổi và đặt, là do đã đặt ra ngoài của cả hai, theo Trưởng lão Upatissa. Một số người cho rằng không phạm tội đối với người làm cho vật đã được đặt ở ranh giới bên ngoài vào trong, và làm cho vật đã được đặt ở ranh giới bên trong ra ngoài. Có vẻ như không hay.

575.Paṭilabhitvā haratīti paṭhamatiyojanato paraṃ harati, na dutiyāditoti attho. Katabhaṇḍe uppannokāsābhāvā anāpatti.
575. Nhận và mang đi, ý nghĩa là mang đi sau ba yojana đầu tiên, không phải là thứ hai và các yojana khác. Không phạm tội vì không có cơ hội phát sinh trong vật đã được làm.

Eḷakalomasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về lông cừu đã kết thúc.

7. Eḷakalomadhovāpanasikkhāpadavaṇṇanā

7. Diễn giải học giới về việc cho Tỳ-khưu-ni giặt lông cừu

581. Kiñcāpi purāṇacīvaradhovanasikkhāpade cīvaraṃ ṭhapetvā ‘‘aññaṃ parikkhāraṃ dhovāpetī’’ti (pārā. 507) anāpattivāre vuttaṃ. Imassa pana sikkhāpadassa uppannakālato paṭṭhāya eḷakalomadhovāpanādinā āpattīti eke. Sā vā anāpatti mūlāpattito eva, na imamhāti eke. Eḷakalomānaṃ aparikkhārattā bhaṭṭhaṃ aggahaṇamevāti eke. Imassa antimanayassa atthappakāsanatthaṃ idaṃ pañhākammaṃ – ‘‘dhovāpetī’’ti idaṃ rajāpanavijaṭāpanaggahaṇena nippadesavācipadaṃ, udāhu aggahaṇena sappadesavācipadaṃ. Kiñcettha yadi nippadesavācipadaṃ, sabbattha idameva vattabbaṃ, na itarāni. Atha sappadesavācipadaṃ, ‘‘avuttā dhovati, aparibhuttaṃ dhovāpetī’’ti ettha virodho. ‘‘Avuttā rajati vijaṭeti, nissaggiya’’nti aniṭṭhappasaṅgatoti? Desanāvilāsamattaṃ bhagavato vacanaṃ, katthaci tikapadavacanaṃ, katthaci ekapadavacanaṃ, nippadesapadameva te vadantīti. Sace ‘‘katabhaṇḍaṃ dhovāpetī’’ti ettha paṭivirodho, ‘‘katabhaṇḍaṃ vijaṭāpeti, anāpattī’’ti aniṭṭhappasaṅgato anāpatti evāti ce? Na, akatabhaṇḍassa suddhalomassa vijaṭāpanaṃ ito vā dātabbaṃ. Udakādidhovanavasena piṇḍetvā ṭhitānaṃ vijaṭāpanaṃ labbhatīti ce? Purāṇasanthatassa vijaṭāpane anāpattiyā bhavitabbaṃ, na ca taṃ yuttaṃ ‘‘aparibhuttaṃ dhovāpetī’’ti Yamakato. Tena paribhuttaṃ dhovāpeti rajāpeti vijaṭāpeti, nissaggiyamevāti siddhaṃ hoti, tañca paribhuttaṃ nāma katabhaṇḍameva hoti. Na hi sakkā eḷakalomāni paribhuñjituṃ, aññathā ‘‘paribhuttaṃ dhovāpetī’’ti vacanaṃ niratthakaṃ hoti. Na hi ettha ‘‘purāṇāni eḷakalomāni dhovāpeyya vā’’ti vacanaṃ atthi purāṇacīvarasikkhāpade viya. Tattha ādinnakappavasena, idha taṃ likhitaṃ. Lekhadosoti ce? Na, visesahetuno abhāvā, purāṇacīvarasikkhāpade aparibhuttaṃ katabhaṇḍaṃ nāma, ‘‘kambalakojavasanthatādi’’nti Yamakato ca. Kiñcāpi iminā saddena ayamattho siddho, ‘‘dhovāpetī’’ti idaṃ pana siyā nippadesaṃ. Siyā sappadesaṃ. Tañhi ‘‘avuttā dhovatī’’tiādīsu nippadesaṃ. ‘‘Katabhaṇḍaṃ dhovāpetī’’ti ettha sappadesaṃ. ‘‘Akatabhaṇḍaṃ dhovāpeti rajāpeti, anāpattī’’ti ‘‘vijaṭāpeti, anāpattī’’ti vacanappamāṇato anāpatti evāti ce? Na, vacanappamāṇato eva āpattīti āpajjanato. ‘‘Aparibhuttaṃ dhovāpetī’’ti vacanameva hi taṃ aparibhuttaṃ santhataṃ vijaṭāpentassa anāpattīti dīpeti ce? Siddhaṃ paribhuttaṃ vijaṭāpentassa āpatti evāti.
581. Mặc dù trong học giới về việc giặt y cũ, đã được nói trong phần không có tội: “trừ y, nếu cho giặt vật dụng khác” (pārā. 507). Một số người cho rằng từ khi học giới này phát sinh, có tội do việc cho Tỳ-khưu-ni giặt lông cừu và các việc khác. Một số người cho rằng sự không có tội đó chỉ là từ tội gốc, không phải từ tội này. Một số người cho rằng vì lông cừu không phải là vật dụng, nên chính là không nắm bắt vật đã mất. Để trình bày ý nghĩa của cách cuối cùng này, đây là Tăng sự câu hỏi – “cho giặt,” từ này, có phải là từ chỉ một cách không có giới hạn, bao gồm cả việc cho nhuộm và cho tháo ra, hay là từ chỉ một cách có giới hạn, không bao gồm chúng? Ở đây, nếu là từ chỉ một cách không có giới hạn, thì ở khắp mọi nơi, chỉ cần nói chính từ này, không phải các từ khác. Còn nếu là từ chỉ một cách có giới hạn, thì có sự mâu thuẫn trong câu “giặt khi chưa được nói, cho giặt vật chưa được dùng.” Sẽ có sự việc không mong muốn “nhuộm, tháo ra khi chưa được nói, là phải từ bỏ.” Họ nói rằng lời nói của Thế Tôn chỉ là sự tô điểm của bài thuyết giảng, ở một số nơi là lời nói có ba từ, ở một số nơi là lời nói có một từ, và họ nói rằng đó chính là từ không có giới hạn. Nếu có sự mâu thuẫn trong câu “cho giặt vật đã được làm,” thì có phải chính là không phạm tội, do sự việc không mong muốn “cho tháo vật đã được làm ra, không phạm tội”? Không phải vậy. Việc tháo lông chưa được làm phải được cho từ đây. Nếu nói rằng được phép tháo những gì đã bị vón cục do giặt bằng nước và các cách khác? Lẽ ra phải không có tội trong việc tháo tấm trải cũ, và điều đó không hợp lý, từ Yamaka “cho giặt vật chưa được dùng.” Do đó, đã được xác định rằng đối với người cho giặt, cho nhuộm, cho tháo vật đã được dùng, thì chính là phải từ bỏ. Và vật đã được dùng đó chính là vật đã được làm. Bởi vì không thể dùng lông cừu. Nếu không, lời nói “cho giặt vật đã được dùng” sẽ trở nên vô ích. Bởi vì ở đây không có lời nói “hoặc là cho giặt lông cừu cũ,” giống như trong học giới về y cũ. Ở đó, đã được viết theo cách của vật phẩm đã được cho. Nếu nói là lỗi viết? Không phải vậy, vì không có lý do đặc biệt. Trong học giới về y cũ, vật đã được làm chưa được dùng là “len, lụa, tấm trải và các vật khác,” từ Yamaka. Mặc dù ý nghĩa này đã được xác định bằng âm thanh này, nhưng “cho giặt” này có thể là không có giới hạn, có thể là có giới hạn. Bởi vì nó không có giới hạn trong các câu như “giặt khi chưa được nói” và các câu tương tự. Nó có giới hạn trong câu “cho giặt vật đã được làm.” Nếu nói rằng “cho giặt, cho nhuộm vật chưa được làm, không phạm tội,” và “cho tháo ra, không phạm tội,” thì chính là không phạm tội do tiêu chuẩn của lời nói? Không phải vậy, vì sẽ dẫn đến việc có tội chính do tiêu chuẩn của lời nói. Bởi vì chính lời nói “cho giặt vật chưa được dùng,” nếu nó trình bày rằng không phạm tội đối với người tháo tấm trải chưa được dùng đó? Đã được xác định rằng chính là có tội đối với người tháo vật đã được dùng.

Eḷakalomadhovāpanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc cho Tỳ-khưu-ni giặt lông cừu đã kết thúc.

8. Rūpiyasikkhāpadavaṇṇanā

8. Diễn giải học giới về tiền bạc

583-4.Sabbampīti tividhampi. ‘‘Muttā maṇi veḷuriyo saṅkho’tiādi pana kiñcāpi rājasikkhāpade ‘na vaṭṭatī’ti pasaṅgato vuttaṃ, sarūpato pana āpattidassanavasena sakaṭṭhānepi vattumāraddha’’nti vuttaṃ. Kathametaṃ? Muttādīnaṃ sakaṭṭhānaṃ jātaṃ, na hi tāni idha pāḷiyaṃ dissantīti imassa aṭṭhakathāyaṃ vuttāni, rājasikkhāpadassapi aṭṭhakathāyaṃ vuttānīti. Na kevalaṃ hiraññasuvaṇṇameva, aññampi khettavatthādikaṃ ‘‘akappiyaṃ na sampaṭicchitabba’’nti sāmaññena, na sarūpato. Pāḷiyaṃ pana sarūpato ‘‘cīvaracetāpannaṃ nāma hiraññaṃ vā suvaṇṇaṃ vā muttā vā maṇi vā’’ti ettakameva vuttaṃ, tasmā rājasikkhāpadamevassa sakaṭṭhānaṃ. Muttāmaṇiggahaṇena cettha tajjātiyaggahaṇaṃ siddhamevāti nāgato imassa paṭhamameva paññattattā. Yadi evaṃ idha anāgatattā kataraṃ nesaṃ sakaṭṭhānanti? Idameva atthato, no sarūpato.
583-4. Tất cả là cả ba loại. Đã được nói: “còn ‘ngọc trai, ngọc báu, lưu ly, vỏ ốc’ và các vật khác, mặc dù đã được nói trong học giới Rāja do có liên quan ‘không được phép,’ nhưng về bản chất, đã được bắt đầu nói ngay cả ở nơi của mình theo cách trình bày tội lỗi.” Làm thế nào vậy? Các vật như ngọc trai và các vật khác đã trở thành nơi của mình. Bởi vì chúng không được thấy trong Pāḷi ở đây, đã được nói trong Chú giải của nó, và cũng đã được nói trong Chú giải của học giới Rāja. Không chỉ có vàng bạc, mà cả các vật khác như ruộng, đất và các vật khác cũng là không hợp lệ “không được đồng ý,” một cách chung chung, không phải về bản chất. Còn trong Pāḷi, về bản chất, chỉ có chừng ấy được nói: “tiền để mua y là vàng hoặc bạc hoặc ngọc trai hoặc ngọc báu.” Do đó, chính học giới Rāja là nơi của nó. Và ở đây, bằng việc nắm bắt ngọc trai và ngọc báu, việc nắm bắt các loại đó đã được xác định, vì chưa đến, vì nó đã được chế định ngay từ đầu. Nếu vậy, ở đây, vì chưa đến, cái nào là nơi của chúng? Chính là ở đây, về mặt ý nghĩa, không phải về mặt bản chất.

Kathaṃ? Etāni hi ratanasikkhāpade nissaggiyavatthūni, dukkaṭavatthūni ca ekato ‘‘ratana’’nti āgatāni, ‘‘ratanasammata’’nti kappiyavatthu āgataṃ. Tesu ca dasasu ratanesu rajatajātarūpadvayaṃ idha nissaggiyavatthu, avasesaṃ dukkaṭavatthūti siddhaṃ. Idha ca siddhattā eva ratanasikkhāpadassa anāpattivāre ‘‘ratanasammataṃ vissāsaṃ gaṇhāti, tāvakālikaṃ gaṇhāti, paṃsukūlasaññissā’’ti vuttaṃ, na ratanaṃ vuttaṃ. Sattavidhadhaññadāsidāsakhettādi pana brahmajālādisuttavasena (dī. ni. 1.1 ādayo) akappiyanti siddhaṃ, tasmā idha dukkaṭavatthūti siddhaṃ, teneva anuyogavatte ‘‘dhammaṃ jānāti, dhammānulomaṃ, vinayaṃ, vinayānulomaṃ jānātī’’ti (pari. 442) vuttaṃ. Tathā āmakamaṃsampi dukkaṭavatthuṃ āpajjatīti? Na, idha vinaye anuññātattā ‘‘anujānāmi, bhikkhave, amanussikābādhe āmakamaṃsa’’ntiādinā (mahāva. 264), tasmā na āmakamaṃsaṃ sutte āgatampi dukkaṭavatthu hoti, tathāpi attano paribhogatthāya paṭiggahaṇe dukkaṭamevāti no takkoti ācariyo. ‘‘Idha nikkhipāhī’ti vutte upanikkhittasādiyanameva hotī’’ti vadanti. ‘‘Akappiyavicāraṇā eva na vaṭṭatīti ce? Kappiyañca akappiyañca nissāya ṭhitanti ettha taṃ sayaṃ aparibhogārahaṃ hutvā tadagghanakaṃ kappiyabhaṇḍaṃ paribhogārahaṃ hutvā ṭhitanti attho’’ti likhitaṃ, ‘‘paṃsukūlabhāvena ṭhitattā, guttaṭṭhānācikkhanassa kappiyattā ca kappiyaṃ nissāya ṭhitaṃ. ‘Idaṃ gaṇhā’tiādinā vadantassa akappiyattā akappiyaṃ nissāya ṭhita’’nti ca. Evampi kappiyañca akappiyañcāti ‘‘imasmiṃ okāse ṭhapitaṃ, kiṃ na passasīti chekatare imeva kahāpaṇe’’tiādivacanassa kappiyattā kappiyaṃ nissāya ṭhitaṃ. ‘‘Idaṃ gaṇhā’’ti vutte dubbicāritattā attano akappiyattā tato āgataṃ akappiyaṃ nissāya ṭhitameva hoti. ‘‘Idaṃ gaṇhā’ti vutte tena gahite ‘uggaṇhāpeyya vā’ti vuttavidhiṃ na pāpuṇāti, kevalaṃ dubbicāritattā tasseva taṃ akappiyaṃ hoti, mūlapaṭiggahaṇassa suddhattā parato pattacatukke tatiyapatto viyāti ca evaṃ upatissatthero vadatī’’ti anugaṇṭhipade vuttaṃ. Kiṃ bahunā, visuddhāgamattā kappiyaṃ. Dubbicāraṇāya sati akappiyaṃ nissāya ṭhitaṃ hotīti no takkoti ācariyo. ‘‘Evaṃ saṅghagaṇādīnampi atthāya pariccattepi tena samānagatikattā ṭhapetvā āpattivisesa’’nti vuttaṃ.
Như thế nào? Bởi vì trong học giới về bảo vật, các vật phải từ bỏ và các vật phạm tội Tác Ác đã cùng nhau được gọi là “bảo vật,” và vật hợp lệ đã được gọi là “được coi là bảo vật.” Trong số mười loại bảo vật đó, hai loại bạc và vàng ở đây là vật phải từ bỏ, còn lại là vật phạm tội Tác Ác, điều đó đã được xác định. Và ở đây, vì đã được xác định, nên trong phần không có tội của học giới về bảo vật, đã được nói: “nhận vật được coi là bảo vật do tin tưởng, nhận vật tạm thời, do có ý thức là y phấn tảo,” không được nói là bảo vật. Còn bảy loại lúa, tớ trai, tớ gái, ruộng đất và các vật khác, theo Kinh Phạm Võng và các kinh khác (dī. ni. 1.1 ādayo), đã được xác định là không hợp lệ. Do đó, ở đây đã được xác định là vật phạm tội Tác Ác. Chính vì vậy, trong bổn phận chất vấn, đã được nói: “biết Pháp, biết những gì phù hợp với Pháp, biết Luật, biết những gì phù hợp với Luật” (pari. 442). Cũng vậy, có phải thịt sống cũng là đối tượng của tội Tác Ác không? Không phải vậy. Vì đã được cho phép trong Luật này bằng các câu như “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép thịt sống trong bệnh do phi nhân gây ra” và các câu tương tự (mahāva. 264). Do đó, ngay cả thịt sống đã có trong kinh cũng không phải là đối tượng của tội Tác Ác. Tuy nhiên, vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, trong việc nhận để tự mình dùng, thì chính là tội Tác Ác. Một số người nói rằng: “khi được nói ‘hãy đặt ở đây,’ thì chính là sự đồng ý với việc gửi gắm.” Nếu nói rằng ngay cả việc xem xét vật không hợp lệ cũng không được phép? Trong câu dựa vào vật hợp lệ và không hợp lệ, ở đây, ý nghĩa là nó, dù tự thân không đáng được hưởng dụng, đã trở thành vật hợp lệ đáng được hưởng dụng, có giá trị tương đương với nó. Đã được viết: “dựa vào vật hợp lệ vì ở trong tình trạng y phấn tảo, và vì việc chỉ nơi cất giữ là hợp lệ. Dựa vào vật không hợp lệ vì không hợp lệ đối với người nói ‘hãy lấy cái này’ và các câu tương tự.” Ngay cả như vậy, vật hợp lệ và không hợp lệ, là dựa vào vật hợp lệ vì tính hợp lệ của lời nói “đã được đặt ở nơi này, sao không thấy, chính những đồng tiền này” và các lời nói khác của người khéo léo hơn. Khi được nói “hãy lấy cái này,” vì đã hành xử sai trái, và vì không hợp lệ đối với chính mình, nên nó chính là đã dựa vào vật không hợp lệ đến từ đó. Trong Anugaṇṭhipada, đã được nói: “khi được nói ‘hãy lấy cái này,’ nếu được người đó lấy, thì không đạt được phương pháp đã được nói ‘hoặc là cho người khác nhận.’ Chỉ vì đã hành xử sai trái, nên nó không hợp lệ đối với chính người đó. Vì việc nhận gốc là trong sạch, nên giống như cái bát thứ ba trong bốn cái bát ở phần sau. Như vậy, Trưởng lão Upatissa đã nói.” Nói nhiều làm gì? Vì là kinh điển trong sạch, nên là hợp lệ. Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, khi có sự hành xử sai trái, thì là đã dựa vào vật không hợp lệ. Đã được nói: “cũng vậy, ngay cả khi đã được từ bỏ vì lợi ích của Tăng chúng, nhóm và các đối tượng khác, vì có cùng bản chất với nó, trừ sự khác biệt về tội lỗi.”

Na kiñci kappiyabhaṇḍaṃ cetāpitanti cetāpitañce, upāyābhāvaṃ dasseti. ‘‘Upanikkhepaṃ ṭhapetvāti sace so upāsako ‘atibahuṃ etaṃ hiraññaṃ, idaṃ bhante ajjeva na vināsetabba’nti vatvā sayaṃ upanikkhepadese ṭhapeti, aññena vā ṭhapāpeti, etaṃ upanikkhepaṃ ṭhapetvā tato laddhaṃ udayaṃ paribhuñjanto saṅgho paccaye paribhuñjati nāmā’’ti vuttaṃ.
Không có vật hợp lệ nào đã được đổi, nếu đã được đổi, Ngài trình bày sự không có phương pháp. “Trừ việc gửi gắm, là nếu người cận sự nam đó, sau khi đã nói ‘vàng bạc này quá nhiều, bạch ngài, không nên tiêu hết ngay hôm nay,’ và tự mình đặt ở nơi gửi gắm, hoặc cho người khác đặt, thì trừ việc gửi gắm này, Tăng chúng, khi dùng tiền lời có được từ đó, được gọi là dùng các duyên,” đã được nói.

585. Ayaṃ kira itthaṃlakkhaṇasampanno ukkaṃsato. Evaṃ aṅgasampannopi aparabhāge lobhavasena vā aññena vā kāraṇena sace nimittaṃ katvā pāteti, āpatti dukkaṭassa. Senāsanampi paribhoge paribhogeti pavese pavese. So hi kāraṇantarena rukkhamūlikassa, abbhokāsikassapi vaṭṭati eva, ṭhānanisajjādivasena nivāsādhippāye sati paribhoge paribhoge paccavekkhitabbaṃ. Bhesajjassa satipaccayatā sabbakālampīti eke. Asannihitassa pacchābhattameva, sannihitassa purebhattampīti no takkoti ācariyo. ‘‘Yāmakālikaṃ sattāhakālikaṃ yāvajīvikaṃ āhāratthāya…pe… paṭiggaṇhāti, āpatti dukkaṭassa. Ajjhohāre ajjhohāre āpatti dukkaṭassā’’ti (pāci. 244) hi vuttaṃ. Dukkaṭañhi vikālabhojanasikkhāpade āgataṃ vikāle āpajjati, no kāle āhārakālattā, sannidhisikkhāpade āgataṃ pana kālepi sannidhijātattā, teneva tattha sattāhakālikayāvajīvikadvayameva vuttanti. ‘‘Sati paccaye’’ti Yamakato nāyaṃ viseso labbhatīti ce? Na, aniṭṭhappasaṅgato, vacanāniyamato ca. Sannidhisikkhāpade hi ‘‘anāpatti yāvakālikaṃ yāvakālaṃ nidahitvā bhuñjati. Yāmakālikaṃ yāme nidahitvā bhuñjatī’’ti (pāci. 256) ettha vacanappamāṇato yāmakālikaṃ na purebhatte, na pacchābhatte, na divase, na rattiyaṃ yāmameva nidahitvā bhuñjantassa anāpattīti aniṭṭhappasaṅgo. Tathā tattheva ‘‘yāmakālikaṃ yāmaṃ nidahitvā bhuñjati, sattāhakālikaṃ sattāhaṃ nidahitvā bhuñjatī’’ti ettakameva vuttaṃ, na vuttaṃ ‘‘sati paccaye’’ti, tasmā satipaccaya-vacanaṃ katthaci hoti, katthaci na hotīti vacanāniyamato āpattiyāpi aniyamo siyā. Evaṃ santepi yathāvuttadukkaṭaṃ āpajjati eva. Na anāhārappayojanattā yāmakālikādīnanti ce? Na, sappiādimissabhojanassa paṇītabhojanabhāvappattito. Apica sabbakālikesu yāvakālikaṃ oḷārikaṃ, taṃ āhāratthāya paṭiggaṇhantassa kāle anāpatti, pageva anoḷārikaṃ yāmakālikādiṃ, āhāratthāya eva anuññātattā. Yāvakālike eva anāpattīti ce? Na, anāhāratthāya gaṇhantassa āpattisambhavato itaraṃ āhāratthāya gaṇhantassa viya, tasmā yathāvuttamevettha sanniṭṭhānaṃ pāḷiṃ, yuttiñca anulometīti.
585. Người ta nói rằng người này, về mặt cao nhất, có đủ các đặc điểm như vậy. Ngay cả người có đủ các yếu tố như vậy, nếu ở phần sau, do tham ái hoặc do nguyên nhân khác, làm dấu hiệu và làm cho nó rơi xuống, thì phạm tội Tác Ác. Cả chỗ ở, trong mỗi lần dùng, là trong mỗi lần vào. Bởi vì nó, do một nguyên nhân khác, cũng chính là được phép đối với người ở dưới gốc cây và người ở ngoài trời. Nếu có ý định ở lại theo cách đứng, ngồi và các tư thế khác, thì phải được quán xét trong mỗi lần dùng. Một số người cho rằng tính chất duyên của niệm đối với thuốc men là trong mọi lúc. Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, đối với vật không có sẵn, chính là sau bữa ăn. Đối với vật có sẵn, chính là trước bữa ăn. Bởi vì đã được nói: “nhận vật đúng thời, vật trong bảy ngày, vật trọn đời để làm thức ăn… cho đến…, phạm tội Tác Ác. Trong mỗi lần ăn, phạm tội Tác Ác” (pāci. 244). Tội Tác Ác đã có trong học giới về việc ăn trái thời được phạm vào lúc trái thời, không phải lúc đúng thời, vì là thời gian ăn. Còn tội đã có trong học giới về việc cất giữ, thì ngay cả lúc đúng thời cũng có, vì đã trở thành vật cất giữ. Chính vì vậy, ở đó chỉ có hai loại, vật trong bảy ngày và vật trọn đời, được nói. Nếu nói rằng đặc biệt này không được chấp nhận, từ Yamaka “khi có duyên”? Không phải vậy, vì sẽ dẫn đến sự việc không mong muốn, và vì không có quy định về lời nói. Bởi vì trong học giới về việc cất giữ, trong câu “không phạm tội, cất giữ vật đúng thời trong thời gian đúng thời và dùng. Cất giữ vật trong một buổi trong một buổi và dùng” (pāci. 256), ở đây, theo tiêu chuẩn của lời nói, sẽ có sự việc không mong muốn rằng không phạm tội đối với người cất giữ vật trong một buổi chỉ trong một buổi và dùng, không phải trước bữa ăn, không phải sau bữa ăn, không phải ban ngày, không phải ban đêm. Cũng vậy, ở chính đó, chỉ có chừng ấy được nói: “cất giữ vật trong một buổi trong một buổi và dùng, cất giữ vật trong bảy ngày trong bảy ngày và dùng,” không được nói “khi có duyên.” Do đó, vì lời nói khi có duyên đôi khi có, đôi khi không có, nên có thể có sự không xác định của tội lỗi do không có quy định về lời nói. Dù vậy, vẫn chính là phạm tội Tác Ác đã được nói. Nếu nói rằng không phải vì mục đích không phải là thức ăn của các vật trong một buổi và các vật khác? Không phải vậy, vì thức ăn có trộn bơ sữa và các chất khác đã đạt được trạng thái thức ăn tinh túy. Hơn nữa, trong các vật dùng trong mọi lúc, vật dùng đúng thời là thô thiển. Đối với người nhận nó để làm thức ăn, thì không phạm tội vào lúc đúng thời, huống chi là các vật không thô thiển như vật dùng trong một buổi và các vật khác, vì đã được cho phép chính để làm thức ăn. Nếu nói rằng chỉ không phạm tội đối với vật dùng đúng thời? Không phải vậy, vì có khả năng có tội đối với người nhận để không làm thức ăn, giống như người nhận cái kia để làm thức ăn. Do đó, chính kết luận đã được nói ở đây là phù hợp với Pāḷi và lý lẽ.

Desanāsuddhīti ettha desanā nāma vinayakammaṃ, tena vuṭṭhānampi desanā eva nāma hotīti. ‘‘Paṭiggaṇhātī’’ti avatvā ‘‘paṭisevatī’’ti vuttattā paṭiggahaṇe pana satiṃ akatvā paribhoge karontassa anāpatti. Khīṇāsavā katakiccattā vibhattadāyādā viya honti, tena tesaṃ sāmiparibhogā honti. Aññathā yāvakālikabhāvaṃ anatikkantattā virujjhati. Iṇaparibhogo na vaṭṭati, bhesajje āpattito, itarasmiṃ ayuttaparibhogato, iṇaṃ viya ananuññātabhuttattā ca. ‘‘Ādito paṭṭhāya hi alajjī nāma natthi, tasmā na koci saṅkitabbo’’ti likhitaṃ. Bhārabhūtā saddhivihārikādayo. Yathādānameva gahitattāti ettha ‘‘attano hatthena ce deti, na vaṭṭatī’’ti vuttaṃ, ‘‘atirekabhāgaṃ gahetvā punadivase attano atthāya uddhaṭabhāgaṃ tattheva dāpeti, vaṭṭatī’’ti ca. Parivattakaṃ deti, dhammiyañce, vaṭṭati. No adhammiyaṃ. ‘‘Taṃ dhammānuggahena uggaṇhituṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Kena lesenāti ce? ‘‘Alabbhamānāya sāmaggiyā anāpatti sambhoge saṃvāse’’ti (mahāva. 130) iminā upasampadakkhandhakavacanalesena.
Sự trong sạch do sám hối, ở đây, sự sám hối là Tăng sự Luật. Do đó, ngay cả sự xuất tội cũng chính là được gọi là sự sám hối. Vì đã được nói “thực hành” không phải là “nhận,” nên không phạm tội đối với người dùng mà không có niệm trong khi nhận. Các bậc A-la-hán, vì đã làm xong việc cần làm, giống như những người thừa kế đã được phân chia. Do đó, họ có sự hưởng dụng của chủ nhân. Nếu không, sẽ mâu thuẫn vì chưa vượt qua được trạng thái đúng thời. Việc hưởng dụng nợ không được phép, vì có tội trong thuốc men, vì hưởng dụng không hợp lý trong các trường hợp khác, và vì đã dùng mà chưa được cho phép giống như nợ. Đã được viết: “bởi vì từ đầu, không có người nào là người không có lòng tàm, do đó, không có ai phải bị nghi ngờ.” Những người là gánh nặng, là những người sống cùng và các người khác. Vì đã được nhận đúng như đã được cho, ở đây, đã được nói: “nếu cho bằng chính tay mình, thì không được phép.” Và “sau khi đã nhận phần thừa, ngày hôm sau, cho lại phần đã được trích ra vì lợi ích của chính mình, thì được phép.” Cho vật đổi, nếu hợp pháp, thì được phép. Không phải là không hợp pháp. Đã được nói: “được phép nhận nó bằng sự hỗ trợ của Pháp.” Nếu hỏi bằng cách lách luật nào? Bằng cách lách luật của lời nói trong Phẩm Thọ Cụ Túc Giới này: “khi không có được sự hòa hợp, không phạm tội trong việc hưởng chung, sống chung” (mahāva. 130).

586.Assatiyā dinnanti ettha ‘‘assatiyā dinnaṃ nāma apariccattaṃ hoti, tasmā dussante baddhakahāpaṇādīni satiṃ paṭilabhitvā dāyakā ce puna gaṇhanti, nissaggiyameva desetabbaṃ. Tena akappiyabhaṇḍena te ce dāyakā sappiādīni kiṇitvā saṅghassa denti, tassapi bhikkhuno kappati dāyakānaṃyeva santakattā. Bhikkhunā hi ‘vatthaṃ gaṇhāmī’ti vatthasaññāya eva gahitaṃ, na rūpiyasaññāya. Idañca sikkhāpadaṃ attano atthāya uggahaṇaṃ sandhāya vuttaṃ, na ca tena taṃ attano atthāya paresaṃ vā atthāya gahitaṃ. Atha te dāyakā no ce āgantvā gaṇhanti, dāyake pucchitvā attano atthāya ce pariccattaṃ, saṅghe nissajjitvā āpatti desetabbā. No ce, āpatti eva desetabbā’’ti vuttaṃ, taṃ pubbāparaviruddhaṃ. Āpattidesanāya hi sati rūpiyaṃ paṭiggahitanti siddhaṃ, tasmiṃ siddhe ‘‘tato uppannaṃ tassapi kappatī’’ti idaṃ na yujjatīti. Kappati evāti ce? Na, vatthuṃ anissajjitvā āpatti desetabbāti na yujjati. Acittakattā sikkhāpadassa yujjatīti ce? Na, sabbattha ‘‘rūpiyaṃ paṭiggaṇhātī’’ti Yamakato. ‘‘Rūpiyaṃ paṭiggaṇhātī’’ti hi vuttaṃ, aññathā sabbattha ‘‘rūpiya’’nti padaṃ niratthakaṃ hoti vināpi tena tadatthasiddhito. Anena ca vatthaṃ paṭiggahitaṃ, dāyakena ca vatthameva dinnaṃ, vatthagatampi rūpiyaṃ theyyacittena gaṇhanto padavārena kāretabbo. Aṭṭhakathāyañca ‘‘rūpiye arūpiyasaññīti suvaṇṇādīsu kharapattādisaññī’’ti vuttaṃ ‘‘rūpiyaṃ paṭiggaṇhātī’’ti vacanavasena.
586. Đã được cho do vô ý, ở đây, “đã được cho do vô ý được gọi là chưa được từ bỏ. Do đó, các đồng tiền và các vật khác được buộc ở mép vải, sau khi đã lấy lại được niệm, nếu các thí chủ lấy lại, thì chính là phải sám hối tội phải từ bỏ. Nếu các thí chủ đó, bằng vật không hợp lệ đó, mua bơ sữa và các vật khác và cúng dường cho Tăng chúng, thì cũng hợp lệ đối với Tỳ-khưu đó, vì là của của chính các thí chủ. Bởi vì Tỳ-khưu đã nhận nó với chính ý thức về vải ‘tôi nhận vải,’ không phải là ý thức về tiền bạc. Và học giới này đã được nói đến để chỉ việc nhận vì lợi ích của chính mình, và người đó đã không nhận nó vì lợi ích của chính mình hay của người khác. Còn nếu các thí chủ đó không đến và lấy lại, thì sau khi đã hỏi các thí chủ, nếu đã được từ bỏ vì lợi ích của chính mình, thì phải từ bỏ trong Tăng chúng và sám hối tội lỗi. Nếu không, thì chính là phải sám hối tội lỗi,” điều đó mâu thuẫn trước sau. Bởi vì nếu có sự sám hối tội lỗi, thì đã được xác định là đã nhận tiền bạc. Khi đã được xác định như vậy, thì điều này không hợp lý: “vật phát sinh từ đó cũng hợp lệ đối với người đó.” Nếu nói rằng chính là hợp lệ? Không phải vậy. Không hợp lý là phải sám hối tội lỗi mà không từ bỏ vật. Nếu nói rằng hợp lý vì học giới không có tâm? Không phải vậy, ở khắp mọi nơi, từ Yamaka “nhận tiền bạc.” Bởi vì đã được nói “nhận tiền bạc.” Nếu không, ở khắp mọi nơi, từ “tiền bạc” sẽ trở nên vô ích, vì ý nghĩa đó đã được xác định ngay cả khi không có nó. Và người này đã nhận vải, và thí chủ cũng đã cho chính vải. Ngay cả tiền bạc trong vải, người nhận với tâm trộm cắp cũng phải bị xử theo cách đi bộ. Và trong Chú giải, đã được nói “có ý thức là không phải tiền bạc đối với tiền bạc, là có ý thức là bát sắc và các vật khác đối với vàng và các kim loại khác,” theo lời nói “nhận tiền bạc.”

‘‘Apica puññakāmā’’tiādi pana vidhānantaradassanatthaṃ vuttaṃ, teneva hi ‘‘imasmiṃ gehe idaṃ laddhanti sallakkhetabba’’nti vuttaṃ. Aññathā sallakkhaṇe vimativasena, vimatiyā ca sati nissaggiyameva ‘‘rūpiye vematiko’’tiādi vacanatoti. Idaṃ vidhānaṃ niratthakameva āpajjati, na ca niratthakaṃ. Kasmā? Dussante baddhakahāpaṇādi assatiyā dinnaṃ vatthasaññāya paṭiggahitañca, tato na rūpiyaṃ dinnañca hoti paṭiggahitañcāti. Ettha āpattidesanākiccaṃ natthi, taṃ pana dāyakānameva paṭidātabbaṃ. Tato uppannaṃ kappiyabhaṇḍañca sabbesaṃ kappatīti imassa vidhānantaradassanatthaṃ ‘‘apica puññakāmā’’tiādīti no takkoti ācariyo.
“Hơn nữa, những người muốn làm công đức” và các câu tương tự, đã được nói để trình bày một phương pháp khác. Chính vì vậy, đã được nói: “phải ghi nhớ ‘đã nhận được cái này trong nhà này’.” Nếu không, do nghi ngờ trong việc ghi nhớ, và khi có sự nghi ngờ, chính là phải từ bỏ, từ lời nói “nghi ngờ đối với tiền bạc” và các lời nói khác. Phương pháp này sẽ trở nên hoàn toàn vô ích. Nhưng không phải là vô ích. Tại sao? Bởi vì các đồng tiền và các vật khác được buộc ở mép vải, đã được cho do vô ý, và đã được nhận với ý thức về vải. Do đó, không phải là tiền bạc đã được cho và đã được nhận. Ở đây, không có việc sám hối tội lỗi. Nhưng nó phải được trả lại cho chính các thí chủ. Và vật hợp lệ phát sinh từ đó hợp lệ cho tất cả mọi người. Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, đã được nói “hơn nữa, những người muốn làm công đức” và các câu tương tự để trình bày phương pháp khác này.

Rūpiyasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về tiền bạc đã kết thúc.

9. Rūpiyasaṃvohārasikkhāpadavaṇṇanā

9. Diễn giải học giới về việc trao đổi bằng tiền bạc

587.‘‘Jātarūparajataparivattana’’nti ukkaṭṭhaparicchedena vuttaṃ, tathā ‘‘rūpiyaṃ nāma satthuvaṇṇo kahāpaṇo’’tiādi pāḷivacanañca. ‘‘Arūpiye rūpiyasaññī rūpiyaṃ cetāpetī’’tiādi tikavacanato, ‘‘dukkaṭavatthunā pana nissaggiyavatthuṃ cetāpentassa…pe… nissaggiyaṃ pācittiyaṃ garukassa cetāpitattā’’ti aṭṭhakathāvacanato ca pana anukkaṭṭhaparicchedopettha labbhatīti siddhaṃ. Satthuvaṇṇo ca kahāpaṇo ca tato ye caññe vohāraṃ gacchantīti evamettha samuccayo veditabbo. Imasmiṃ pana sikkhāpade ‘‘nānappakārakaṃ nāma katampi akatampi katākatampī’’ti ettha vibhattānaṃ tiṇṇaṃ rūpiyārūpiyānañca dvinnaṃ vasena pañca tikā vuttā, aṭṭhakathāc vattabbatadānulomato eko tiko dassitoti sabbe cha honti.
587. “Việc trao đổi vàng bạc,” đã được nói theo sự phân định cao nhất. Cũng vậy, lời nói trong Pāḷi “tiền bạc là đồng tiền có màu sắc của Bậc Đạo Sư” và các lời nói khác. Từ lời nói ba loại “đối với vật không phải tiền bạc, có ý thức là tiền bạc, cho đổi tiền bạc” và các lời nói khác, và từ lời nói trong Chú giải “còn đối với người cho đổi vật phải từ bỏ bằng vật phạm tội Tác Ác… cho đến… phạm tội Ưng Đối Trị cần phải từ bỏ, vì đã cho đổi vật nặng,” đã được xác định rằng ngay cả sự phân định không cao nhất cũng được chấp nhận ở đây. Cần phải biết sự gộp chung ở đây như vầy: màu sắc của Bậc Đạo Sư và đồng tiền, và những thứ khác được lưu hành. Còn trong học giới này, trong câu “nhiều loại, là đã được làm, chưa được làm, và vừa làm vừa chưa làm,” đã được nói năm bộ ba theo hai loại tiền bạc và không phải tiền bạc của ba loại đã được phân chia. Và Chú giải, để phù hợp với những gì cần phải nói, đã trình bày một bộ ba, như vậy tất cả là sáu.

Etthāha – aññasmiṃ sikkhāpade ekasmiṃ tikacchede dassite satipi sambhave itare na dassīyanti, idheva kasmā dassitoti? ‘‘Nānappakāraka’’nti mātikāyaṃ vuttattā idheva nānappakārabhāvadassanatthanti. Na kayavikkayasikkhāpadepi vattabbappasaṅgatoti ce? Na, idha dassitanayattā. Atha ca rūpiyassa vibhaṅge ‘‘ye vohāraṃ gacchantī’’ti ante vuttattā satthuvaṇṇādayo vaḷañjanupagā evāti siddhaṃ. Tato avaḷañjanupagehi jātarūparajatehi vohārena na nissaggiyanti āpajjati, tasmā taṃ āpajjanatthanti dassentena ‘‘katena kataṃ cetāpetī’’tiādayo tikā vuttāti, evaṃ sante rūpiyavibhaṅge ‘‘ye ca vohāraṃ gacchantī’’ti na vattabbaṃ, tasmiṃ pade avutte avaḷañjanupagāpi saṅgahaṃ gatāva hontīti katādīhi tikattayassa vattabbapayojanaṃ na bhavissatīti ce? Na, kappiyabhaṇḍena kappiyabhaṇḍapaavattanassāpi rūpiyasaṃvohārabhāvappasaṅgato. ‘‘Ye vohāraṃ gacchantī’’ti vacanenapi kamuka kathala kaṃsabhājana sāṭakādiparivattanassapi rūpiyasaṃvohārabhāvappasaṅgo evāti ce? Na, katādivacanena jātarūpādiakappiyavatthūnaññeva adhippetabhāvadīpanato, tasmā ubhayenapi yadetaṃ katākatādibhedaṃ pākatikarūpiyaṃ yañca kahāpaṇamāsakasaṅkhepaṃ, yañca kahāpaṇādivohārūpagaṃ, ubhayampetaṃ idha ca anantarātītasikkhāpade ca rūpiyaṃ nāmāti adhippetatthasiddhi hoti, na taṇḍulādīni, tattha katādivohārāsambhavato. Ettāvatā katāditikattayappayojanaṃ vuttaṃ.
Vị ấy nói ở đây – trong học giới khác, ngay cả khi có khả năng có, các loại khác cũng không được trình bày khi một bộ ba đã được trình bày. Tại sao ở đây lại được trình bày? Vì đã được nói trong đề mục “nhiều loại,” nên ở đây chính là để trình bày bản chất nhiều loại. Nếu nói rằng sẽ có khả năng phải được nói ngay cả trong học giới về việc mua bán? Không phải vậy, do cách đã được trình bày ở đây. Hơn nữa, trong phần phân tích về tiền bạc, vì đã được nói ở cuối “những gì được lưu hành,” nên đã được xác định rằng màu sắc của Bậc Đạo Sư và các loại khác chính là những gì được lưu hành. Sau đó, sẽ dẫn đến việc không phải từ bỏ khi trao đổi bằng vàng bạc không được lưu hành. Do đó, để dẫn đến điều đó, đã được nói các bộ ba “cho đổi cái đã được làm bằng cái đã được làm” và các bộ ba khác. Nếu như vậy, trong phần phân tích về tiền bạc, không nên nói “và những gì được lưu hành.” Khi từ đó không được nói, ngay cả những gì không được lưu hành cũng đã được bao gồm, nên sẽ không có mục đích phải nói ba bộ ba bằng các từ như đã được làm và các từ khác? Không phải vậy. Vì sẽ có khả năng có bản chất trao đổi bằng tiền bạc ngay cả đối với việc trao đổi vật hợp lệ bằng vật hợp lệ. Nếu nói rằng ngay cả bằng lời nói “những gì được lưu hành,” cũng chính là có khả năng có bản chất trao đổi bằng tiền bạc ngay cả đối với việc trao đổi cau, đất sét, bát đồng, vải và các vật khác? Không phải vậy. Do lời nói như đã được làm và các lời khác trình bày rằng chỉ có các vật không hợp lệ như vàng bạc và các vật khác mới được hàm ý. Do đó, bằng cả hai, đã được xác định ý nghĩa được hàm ý rằng cả tiền bạc tự nhiên, có sự khác biệt như đã được làm và chưa được làm, và sự tóm tắt như đồng tiền và māsaka, và cái có hình dạng trao đổi như đồng tiền và các loại khác, cả hai điều này, ở đây và trong học giới ngay trước đó, được gọi là tiền bạc, không phải là gạo và các thứ khác, vì ở đó không có khả năng có sự trao đổi như đã được làm và các cách khác. Bằng chừng ấy, mục đích của ba bộ ba như đã được làm và các bộ ba khác đã được nói.

Idāni sesattikāni vuccati – ettha hi yathāvuttappabhedaṃ nissaggiyavatthu rūpiyaṃ nāma, sesaṃ dukkaṭavatthupi kappiyavatthupi na rūpiyanti arūpiyaṃ nāma hotīti katvā ‘‘arūpiye arūpiyasaññī pañcannaṃ sahadhammikānaṃ anāpattī’’ti idaṃ na ekaṃsikaṃ āpajjati dukkaṭavatthumhi dukkaṭāpajjanato. Idha vacanappamāṇato nissaggiyavatthuto aññaṃ antamaso muttādipi arūpiyameva nāma. Tattha pañcannaṃ sahadhammikānaṃ anāpattīti ce? Na, rājasikkhāpadavirodhato. Tattha hi ‘‘muttā vā maṇi vā’’ti vuttaṃ, tasmā muttādi akappiyaṃ dukkaṭavatthūti ca siddhaṃ nissaggiyavatthūsu abhāvā. Evaṃ sante ‘‘arūpiye arūpiyasaññī pañcannaṃ sahadhammikānaṃ anāpattī’’ti vattabbakappiyabhaṇḍaṃ sandhāya vuttaṃ, na sabbaṃ arūpiyaṃ. Tato aññattha pana ‘‘arūpiye rūpiyasaññī’’tiāditikadukkaṭe ca aṭṭhakathāyaṃ dassitatike ca sabbaṃ arūpiyaṃ nāmāti veditabbaṃ, tasmā arūpiyabhāvadīpanatthaṃ dutiyo tiko vutto. Tadatthameva aṭṭhakathāyaṃ dassito eko tiko. Kasmā na pāḷiyaṃ so vuttoti ce? Tattha cetāpitaarūpiye rūpiyachaḍḍanakasammutikiccābhāvato. Tasmiñhi tike vutte kappiyavatthunopi arūpiyachaḍḍanakasammuti dātabbāti āpajjati, tassa vasena rūpiyachaḍḍanakasammuti eva na vattabbāti? Na, rūpiyassapi sammutikiccābhāvappasaṅgato, tasmā rūpiye rūpiyasaññī kappiyavatthuṃ cetāpeti pattacatukke tatiyapattaṃ viya, taṃ saṅghādīnaṃ nissajjitabbaṃ, nissaṭṭhaṃ pana aññesaṃ kappati tatiyapatto viya. Atha sampaṭicchitarūpiyena cetāpitaṃ hoti dutiyapatto viya, taṃ vināpi sammutiyā yo koci bhikkhu chaḍḍeti, vaṭṭati. Tato paraṃ ‘‘sace tattha āgacchati ārāmiko vā’’tiādinā vuttanayeneva paṭipajjitabbaṃ. Tattha ‘‘rūpiye’’ti vā ‘‘arūpiye’’ti vā sabbattha bhummappatte attano santakaṃ, upayogappatte parasantakanti veditabbaṃ. Etthāha – upatissatthero purimasikkhāpadena rūpiyapaṭiggahaṇaṃ vāritaṃ, iminā suddhāgamena kappiyakārakassa hatthe kappiyaṃ nissāya ṭhitena saṃvohāro vāritoti.
Bây giờ, các bộ ba còn lại được nói – ở đây, vì vật phải từ bỏ, có sự khác biệt như đã được nói, được gọi là tiền bạc, còn lại, cả vật phạm tội Tác Ác và vật hợp lệ, không phải là tiền bạc, nên được gọi là không phải tiền bạc, do đó, câu “đối với vật không phải tiền bạc, có ý thức là không phải tiền bạc, không phạm tội đối với năm người đồng pháp” này không phải là tuyệt đối, do phạm tội Tác Ác đối với vật phạm tội Tác Ác. Ở đây, theo tiêu chuẩn của lời nói, ngoài vật phải từ bỏ, ngay cả ngọc trai và các vật khác cũng chính là không phải tiền bạc. Ở đó, nếu nói rằng không phạm tội đối với năm người đồng pháp? Không phải vậy, do mâu thuẫn với học giới của vua. Bởi vì ở đó đã được nói “hoặc là ngọc trai, hoặc là ngọc.” Do đó, đã được xác định rằng ngọc trai và các vật khác là vật không hợp lệ, là đối tượng của tội Tác Ác, vì không có trong các vật phải từ bỏ. Nếu như vậy, đã được nói “đối với vật không phải tiền bạc, có ý thức là không phải tiền bạc, không phạm tội đối với năm người đồng pháp” để chỉ vật hợp lệ cần phải được nói, không phải tất cả những gì không phải là tiền bạc. Còn ở nơi khác, cần phải biết rằng trong các tội Tác Ác của bộ ba “đối với vật không phải tiền bạc, có ý thức là tiền bạc” và các bộ ba khác, và trong bộ ba đã được trình bày trong Chú giải, tất cả đều được gọi là không phải tiền bạc. Do đó, bộ ba thứ hai đã được nói để trình bày bản chất không phải là tiền bạc. Chính vì mục đích đó, một bộ ba đã được trình bày trong Chú giải. Nếu hỏi tại sao nó không được nói trong Pāḷi? Vì không có việc đồng ý từ bỏ tiền bạc đối với vật không phải tiền bạc đã được đổi. Bởi vì nếu bộ ba đó được nói, sẽ dẫn đến việc ngay cả đối với vật hợp lệ cũng phải được đồng ý từ bỏ vật không phải tiền bạc. Nếu vậy, lẽ ra không nên nói về sự đồng ý từ bỏ tiền bạc? Không phải vậy, vì sẽ dẫn đến việc không có việc đồng ý ngay cả đối với tiền bạc. Do đó, người có ý thức là tiền bạc đối với tiền bạc, cho đổi vật hợp lệ, giống như cái bát thứ ba trong bốn cái bát, nó phải được từ bỏ cho Tăng chúng và các đối tượng khác. Còn vật đã được từ bỏ thì hợp lệ cho những người khác, giống như cái bát thứ ba. Còn nếu đã được đổi bằng tiền bạc đã được nhận, thì giống như cái bát thứ hai. Nó, ngay cả khi không có sự đồng ý, nếu một Tỳ-khưu nào đó từ bỏ, thì được phép. Sau đó, phải được thực hành theo chính cách đã được nói bằng câu “nếu ở đó, có người trông coi chùa đến hoặc” và các câu tương tự. Ở đó, cần phải biết rằng ở khắp mọi nơi, trong câu “đối với tiền bạc” hoặc “đối với không phải tiền bạc,” khi đến tay, là của mình, khi dùng, là của người khác. Vị ấy nói ở đây – Trưởng lão Upatissa nói rằng bằng học giới trước, việc nhận tiền bạc đã bị cấm. Bằng học giới này, sự trao đổi bằng vật hợp lệ, dựa vào vật hợp lệ trong tay của người làm vật hợp lệ, đã bị cấm.

589.Nissaggiyavatthunā nissaggiyavatthuṃ…pe… aparāparaparivattane imināti ettha ekasmiṃ eva vatthusmiṃ dvinnaṃ sikkhāpadānaṃ vasena ekato āpatti vuttā, taṃ pana pacchimassa vasena nissajjitabbaṃ. Etena nissaggiyaṃ āpannampi āpajjatīti eke. Parassa rūpiyaggahaṇaṃ parivattananti rūpiye aggahite tassa abhāvato imināva āpatti, na purimena omasavādo viya. Musāvādena musā vadantassāpi hi omasavādeneva āpatti. Nissaggiyavatthunā dukkaṭa…pe… eseva nayoti etassa yuttiṃ dassento ‘‘yo hi aya’’nti āha.
589. Bằng vật phải từ bỏ, vật phải từ bỏ… cho đến… trong việc trao đổi nhiều lần, bằng cái này, ở đây, trong chính một sự việc, đã được nói có tội cùng một lúc theo cách của hai học giới. Nhưng nó phải được từ bỏ theo cách của cái sau. Bằng điều này, một số người cho rằng ngay cả người đã phạm tội phải từ bỏ cũng phạm tội. Việc nhận tiền bạc của người khác là sự trao đổi. Khi chưa nhận tiền bạc, vì không có điều đó, nên có tội chỉ bằng cái này, không phải bằng cái trước, giống như lời nói mắng nhiếc. Bởi vì ngay cả đối với người nói dối bằng lời nói dối, cũng có tội chỉ bằng lời nói mắng nhiếc. Bằng vật phải từ bỏ, Tác Ác… cho đến… cách này cũng vậy, để trình bày lý lẽ của nó, Ngài đã nói “bởi vì cái này.”

Vaḍḍhiṃ payojentassāti ettha idaṃ gahetvā sati māse, sati saṃvacchare ‘‘ettakaṃ dehī’’ti ce vadati. Rūpiyasaṃvohāro hoti. Vinā kappiyakārakena ‘‘ettakā vuḍḍhi hotu, ettakaṃ gaṇhā’’ti vadato dukkaṭaṃ kayavikkayalakkhaṇābhāvato. ‘‘Mūle mūlasāmikāna’’ntiādi kappiyakaraṇūpāyadassanatthaṃ vuttaṃ, na kevalaṃ nissaṭṭhaṃ aparibhogaṃ hoti, puna evaṃ kate paribhuñjituṃ vaṭṭati. Tassapi paribhoge mūlassa kappiyakaraṇūpāyo ce na hoti, kappiyaṃ ācikkhitabbanti yathā pāḷiyā cettha kappiyakaraṇūpāyo, so ca tatiyapattepi, ‘‘yathā ca attano atthāya gahite evarūpupāyo, tathā saṅghādiatthāya gahitepi eso vā’’ti vuttaṃ. Ime kira paṭhamadutiyapatte yāva gahaṭṭhena parivatteti, tāva na kappiyakaraṇūpāyo, anekapurisayugampi ‘‘akappiyā evā’’ti aṭṭhakathāyaṃ vuttaṃ. Anugaṇṭhipade pana ‘‘saṅghasantakaṃ kappiyabhaṇḍaṃ vikkiṇitvā āgatakahāpaṇānipi paṭiggahaṇaṃ mocetvāva sampaṭicchitabbāni, tasmā kappiyakārako ce imāni tāni kahāpaṇānīti vadati, na vaṭṭatiyeva, paṭikkhipitabbaṃ, na vicāretabbaṃ, vicāreti ce? Sabbesaṃ na kappati. Paṭiggahaṇaṃ mocetvā sampaṭicchitāni ce vicāreti, tasseva na vaṭṭatī’’ti abhikkhaṇaṃ vuttaṃ.
Đối với người cho vay lấy lãi, ở đây, nếu nói “sau khi đã lấy cái này, sau một tháng, sau một năm, hãy cho chừng này.” Thì là sự trao đổi bằng tiền bạc. Nếu không có người làm vật hợp lệ, mà nói “hãy có chừng này tiền lời, hãy nhận chừng này,” thì phạm tội Tác Ác, vì không có đặc điểm của việc mua bán. “Đối với tiền gốc, của các chủ nợ” và các câu tương tự, đã được nói để trình bày phương pháp làm vật hợp lệ. Không chỉ là vật đã được từ bỏ không được hưởng dụng, mà sau khi đã làm như vậy lại, được phép hưởng dụng. Ngay cả trong việc hưởng dụng đó, nếu không có phương pháp làm vật hợp lệ cho tiền gốc, thì phải được chỉ dạy là hợp lệ. Giống như trong Pāḷi, ở đây có phương pháp làm vật hợp lệ. Và nó cũng có trong cái bát thứ ba. Đã được nói: “và giống như có phương pháp như vậy đối với vật đã được nhận vì lợi ích của chính mình, cũng vậy, đối với vật đã được nhận vì lợi ích của Tăng chúng và các đối tượng khác, cũng là nó hoặc.” Người ta nói rằng hai cái bát đầu tiên này, chừng nào còn được người tại gia trao đổi, thì chừng đó chưa có phương pháp làm vật hợp lệ. Trong Chú giải, đã được nói: “ngay cả trong nhiều thế hệ người, cũng chính là không hợp lệ.” Còn trong Anugaṇṭhipade, đã được nói nhiều lần: “ngay cả các đồng tiền có được sau khi đã bán vật hợp lệ của Tăng chúng cũng phải được nhận sau khi đã giải trừ việc nhận. Do đó, nếu người làm vật hợp lệ nói ‘đây là những đồng tiền đó,’ thì không được phép. Phải bác bỏ, không được xem xét. Nếu xem xét? Thì không hợp lệ đối với tất cả mọi người. Nếu xem xét sau khi đã nhận sau khi đã giải trừ việc nhận, thì không hợp lệ đối với chính người đó.”

Rūpiyasaṃvohārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc trao đổi bằng tiền bạc đã kết thúc.

10. Kayavikkayasikkhāpadavaṇṇanā

10. Diễn giải học giới về việc mua bán

593.Paṭapilotikānanti paṭapilotikehi. ‘‘Ajjhācarati, āpatti dukkaṭassā’’ti idaṃ purimasikkhāpadepi veditabbaṃ. ‘‘Kayitañca hoti vikkayitañcā’’ti etesaṃ padānaṃ viparītato ‘‘attano bhaṇḍa’’ntiādi vuttaṃ. Kasmā? ‘‘Iminā ima’’nti vacanānurūpato. Saddhādeyyavinipātanaṃ panettha aṭṭhānapadānaṃ vasena veditabbaṃ.
593. Của những mảnh vải là bằng những mảnh vải. “Vi phạm, phạm tội Tác Ác,” điều này cần phải được biết ngay cả trong học giới trước. Các từ “đã được mua và đã được bán” này, ngược lại, đã được nói “vật của mình” và các từ tương tự. Tại sao? Phù hợp với lời nói “bằng cái này, cái này.” Cần phải biết rằng sự lãng phí tín thí ở đây là theo các từ không đúng chỗ.

Kayavikkayasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc mua bán đã kết thúc.

Niṭṭhito kosiyavaggo dutiyo.
Phẩm Lụa thứ hai đã kết thúc.

3. Pattavaggo

3. Phẩm Bát

1. Pattasikkhāpadavaṇṇanā

1. Diễn giải học giới về bát

598.Bahūpatte sannicayanti ettha sannicayanti bhāvanapuṃsakaṃ, bahū patte vā gahetvā sannicayaṃ karissantīti attho. ‘‘Aḍḍhaterasapalamāsānaṃ gāhikā’’ti likhitaṃ. Ettha –
598. Tích trữ nhiều bát, ở đây, sự tích trữ là danh từ chỉ hành động. Hoặc là ý nghĩa là sau khi đã nhận nhiều bát, họ sẽ tích trữ. Đã được viết: “có khả năng chứa mười hai rưỡi pala.” Ở đây –

‘‘Kuḍuvo catupaleyyo, kuḍuvānaṃ catugguṇaṃ;
Patthaṃ catugguṇo māsā-ti kamāhu catugguṇa’’nti. –
“Một kuḍuva là bốn pala, bốn kuḍuva;
Là một pattha, bốn pattha là một māsā, họ nói như vậy.” –

Ādiṃ lokavohāraṃ dassetvāva keci papañcenti.
Một số người, sau khi đã trình bày cách dùng thông thường trong thế gian, đã giải thích chi tiết.

602.Khādananti khādanīyaṃ sūpādi. ‘‘Byañjanassa mattā nāma odanato catuttho bhāgo’’ti (ma. ni. aṭṭha. 2.387) brahmāyusuttaṭṭhakathāyaṃ vuttattā ālopassa catutthabhāgaṃ byañjanaṃ anurūpanti gahetabbaṃ. ‘‘Bhikkhuniyā pattasannicayassa vāritattā tadanulomato bhikkhūnampi dutiyo vārito’’ti vuttaṃ, taṃ na yuttaṃ, pāḷiyañhi ‘‘sannicayaṃ kareyyāti anadhiṭṭhito avikappito’’ti (pāci. 735) vuttaṃ. So hi kathinakkhandhake (mahāva. 306 ādayo) nicayasannidhi viya ekopi punadivase ‘‘sannicayo’’ti vuccati. Anantarasikkhāpade pana ‘‘dutiyo vāritoti adhiṭṭhānaṃ niyataṃ, tasmā dve patte adhiṭṭhātuṃ na labhati. Sace ekato adhiṭṭhāti, dvepi na adhiṭṭhitā honti. Visuṃ visuṃ adhiṭṭhāti, dutiyo anadhiṭṭhito’’ti vadanti. Vikappetuṃ pana bahūpi labhati. Idāni vattabbaṃ sandhāya ‘‘nāmamatte viseso’’ti vuttaṃ. Tattha nāmanti majjhimo majjhimomako majjhimukkaṭṭhotiādi.
602. Thức ăn là thức ăn cần phải được nhai như canh và các món khác. Vì đã được nói trong Chú giải Kinh Brahmāyu: “lượng của thức ăn kèm là một phần tư của cơm” (ma. ni. aṭṭha. 2.387), nên cần phải hiểu rằng thức ăn kèm phù hợp là một phần tư của miếng cơm. Đã được nói: “vì đã cấm việc tích trữ bát của Tỳ-khưu-ni, nên phù hợp với đó, cái thứ hai cũng bị cấm đối với các Tỳ-khưu,” điều đó không hợp lý. Bởi vì trong Pāḷi, đã được nói: “sẽ tích trữ, là chưa được xác quyết, chưa được định đoạt” (pāci. 735). Bởi vì nó, giống như việc cất giữ trong Phẩm Kathina (mahāva. 306 ādayo), ngay cả một cái cũng được gọi là “sự tích trữ” vào ngày hôm sau. Còn trong học giới ngay sau đó, một số người nói rằng “cái thứ hai bị cấm, là sự xác quyết đã được xác định. Do đó, không được phép xác quyết hai cái bát. Nếu xác quyết cùng một lúc, thì cả hai đều chưa được xác quyết. Nếu xác quyết riêng biệt, thì cái thứ hai chưa được xác quyết.” Còn việc định đoạt thì được phép nhiều cái. Bây giờ, để chỉ điều cần phải nói, đã được nói “có sự khác biệt chỉ về tên.” Ở đó, tên là trung bình, hơi trung bình, rất trung bình và các loại khác.

608. ‘‘Pākassa hi ūnattā pattasaṅkhyaṃ na gacchatī’’ti Yamakato adhiṭṭhitapattopi kharapākena setattā adhiṭṭhānaṃ vijahatīti ce? Na, adhiṭṭhānavijahanesu navasu anāgatattā, tasmā paṭhamapākānaṃ eva ūnattā pattasaṅkhyaṃ na gacchati, tasmiṃ sati aññaṃ viññāpetuṃ na vaṭṭati. ‘‘Ūnapañcabandhanenā’’ti hi vuttaṃ. Chidde, rājiyā vā hi sati tehi adhiṭṭhānaṃ vijahatīti vijahite nāyaṃ paṭisedho, tasmā paccuddharitvā, vikappetvāpi aññaṃ viññāpetuṃ na labhati.
608. Từ Yamaka “vì do việc nung chưa đủ, nên không được kể vào số bát,” nếu nói rằng ngay cả bát đã được xác quyết, do bị trắng vì nung quá lửa, cũng mất đi sự xác quyết? Không phải vậy. Vì không có trong chín trường hợp mất đi sự xác quyết. Do đó, chính các bát nung lần đầu, do chưa đủ, không được kể vào số bát. Khi có điều đó, không được phép xin một cái khác. Bởi vì đã được nói “bằng năm mối hàn chưa đủ.” Bởi vì nếu có lỗ hổng hoặc vết nứt, thì sự xác quyết mất đi do chúng. Khi đã mất, thì không có sự cấm này. Do đó, ngay cả sau khi đã hủy bỏ và định đoạt, cũng không được phép xin một cái khác.

Evaṃ pattakārako mūlaṃ labhitvāti ettha pacitvā ṭhapitadivasato paṭṭhāya. Dātukāmo hutvāti ettha dinnadivasato, sutadivasato vā paṭṭhāya dasāhaṃ veditabbaṃ. Liṅgaparivattena pana dasāhātikkame pattasāmikassa bhikkhussa, bhikkhuniyā pana rattātikkame nissaggiyaṃ.
Như vậy, người làm bát, sau khi đã nhận được giá trị gốc, ở đây, là từ ngày đã nung và để đó. Sau khi đã muốn cho, ở đây, cần phải biết là mười ngày, từ ngày đã cho hoặc từ ngày đã được nghe. Còn do sự thay đổi giới tính, nếu quá mười ngày, thì là của Tỳ-khưu là chủ bát. Còn đối với Tỳ-khưu-ni, nếu quá một đêm, thì phải từ bỏ.

Pattasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về bát đã kết thúc.

2. Ūnapañcabandhanasikkhāpadavaṇṇanā

2. Diễn giải học giới về năm mối hàn chưa đủ

612-3.Bahū patte viññāpentīti ekamekaṃ viññāpentā bahū bhikkhū bahū patte viññāpenti, bahū vā bhikkhū patte viññāpentīti attho. ‘‘Na, bhikkhave, patto viññāpetabbo, yo viññāpeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti idaṃ sikkhāpadaṃ ūnapañcabandhanena samūhataṃ hoti na hotīti? Na hoti tameva gahetvā ‘‘viññāpeti, payoge dukkaṭa’’nti vuttattāti eke. Paṭilābhampi pariyādiyitvā taṃ dukkaṭaṃ vuttaṃ, tasmā taṃ ‘‘paṭilābhena nissaggiyo hotī’’ti iminā samūhataṃ hoti. Aññathā sadukkaṭaṃ nissaggiyaṃ āpajjati anāpattivāravirodho ca. Yā kāci pana akataviññatti ananuññātakāle dukkaṭameva. Bhinnenāti itthambhūtalakkhaṇe, bhedenāti vā attho, hetvatthe karaṇavacanaṃ.
612-3. Họ xin nhiều bát, là nhiều Tỳ-khưu, khi xin từng cái một, đã xin nhiều bát. Hoặc là ý nghĩa là nhiều Tỳ-khưu đã xin các bát. Có phải học giới này “Này các Tỳ-khưu, không được xin bát. Ai xin, phạm tội Tác Ác” đã bị hủy bỏ bởi năm mối hàn chưa đủ hay không? Một số người cho rằng không phải vậy, vì đã được nói “xin, phạm tội Tác Ác trong khi thực hiện,” sau khi đã lấy chính điều đó. Tội Tác Ác đó đã được nói sau khi đã bao gồm cả việc nhận. Do đó, nó đã bị hủy bỏ bởi câu “trở thành vật phải từ bỏ do việc nhận.” Nếu không, sẽ có tội phải từ bỏ cùng với tội Tác Ác, và cũng mâu thuẫn với phần không có tội. Còn bất kỳ sự xin không được làm nào, vào lúc chưa được cho phép, chính là tội Tác Ác. Bằng cái đã bị vỡ, trong đặc điểm của trạng thái. Hoặc là ý nghĩa bằng sự vỡ, công cụ cách trong ý nghĩa nguyên nhân.

Ūnapañcabandhanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về năm mối hàn chưa đủ đã kết thúc.

3. Bhesajjasikkhāpadavaṇṇanā

3. Diễn giải học giới về thuốc men

620. ‘‘Sā ahosi suvaṇṇamālā’’ti Yamakato ṭhapetvā sahadhammike aññesaṃ yathāsukhaṃ rūpiyaṃ dātuṃ vaṭṭati uggaṇhāpetuṃ, sabyohārāpebhuñcāti ācariyo, vīmaṃsitabbaṃ iddhimassa iddhivisayattā.
620. Từ Yamaka “cô ấy đã là một vòng hoa vàng,” trừ những người đồng pháp, được phép cho tiền bạc cho những người khác theo ý muốn, cho người khác nhận, và trao đổi. Vị Giáo thọ sư nói vậy, cần phải xem xét, vì thần thông của vị ấy là đối tượng của thần thông.

622. ‘‘Yesaṃ maṃsaṃ kappatī’’ti vacanena yesaṃ maṃsaṃ na kappati, tesaṃ sappiādi kiñcāpi na kappati, na pana nissaggiyavatthūti veditabbaṃ. Tathā na paṇītabhojanavatthūti. Uggahitakaṃ katvā nikkhittanti ajjhoharaṇatthaṃ nikkhittaṃ. Itarañhi paṭiggahetvā ajjhoharituṃ vaṭṭati. Ubhayesampīti pacchābhattaṃ paṭiggahitehi, purebhattaṃ paṭiggahitehi ca katānaṃ. ‘‘Maṃsassa akappiyattā’’ti kāraṇapatirūpakaṃ vatvā. Khādiṃsūti ‘‘vikāle kevalaṃ navanītameva khāditukāmena dadhitakkagatāni apanetabbāni, pacitukāmassa sāmaṃpākaṃ na hotīti therassa adhippāyo’’ti vuttaṃ. ‘‘Khayaṃ gamissatī’’ti Yamakato khīraṃ pakkhipitvā pakkasappi vikāle kappatīti siddhaṃ. Bhesajjehīti yāvajīvikabhesajjehi. Katatelaṃ purebhattanti apacitvā kataṃ eva. Uṇhodakenāti tāpanabhāvaṃ dīpetīti keci, taṃ na sundaraṃ. Nibbaṭṭitattāti piññākādito. ‘‘Telatthāya paṭiggahita…pe… dukkaṭamevā’’ti Yamakato atelatthāya paṭiggahitehi, sattāhātikkantehipi katatelaṃ katadivasato paṭṭhāya sattāhaṃ vaṭṭatīti chāyā dissati, karamandaṃ rukkhasāroti keci.
622. Bằng lời nói “thịt của loài nào hợp lệ,” cần phải biết rằng thịt của loài nào không hợp lệ, thì bơ sữa và các sản phẩm khác của chúng, dù không hợp lệ, cũng không phải là vật phải từ bỏ. Cũng vậy, không phải là đối tượng của thức ăn tinh túy. Đã được nhận và cất giữ là đã được cất giữ để dùng. Còn cái khác, được phép nhận và dùng. Của cả hai là của những thứ đã được làm bằng những gì đã được nhận sau bữa ăn và trước bữa ăn. Sau khi đã nói lý do giống như “vì thịt không hợp lệ.” Họ đã ăn, đã được nói: “ý định của trưởng lão là vào lúc trái thời, đối với người chỉ muốn ăn bơ tươi, thì những gì đã đi vào sữa chua và sữa bơ phải được loại bỏ. Đối với người muốn nấu, thì không phải là tự mình nấu.” Từ Yamaka “sẽ bị tiêu hao,” đã được xác định rằng bơ đã được nấu sau khi đã cho sữa vào thì hợp lệ vào lúc trái thời. Bằng các loại thuốc là bằng các loại thuốc trọn đời. Dầu đã được làm trước bữa ăn, là chính cái đã được làm mà không cần nấu. Bằng nước nóng, một số người cho rằng trình bày trạng thái làm nóng, điều đó không hay. Do đã được chiết xuất là từ bã và các thứ khác. Từ Yamaka “đã được nhận vì lợi ích của dầu… cho đến… chính là tội Tác Ác,” có bóng dáng cho rằng dầu đã được làm bằng những gì đã được nhận không vì lợi ích của dầu, và ngay cả khi đã quá bảy ngày, cũng được phép dùng trong bảy ngày từ ngày đã được làm. Một số người cho rằng karamandaṃ là lõi cây.

623. Avasakasaṭe yasmā khīrādīni pakkhipitvā telaṃ pacanti, tasmā kasaṭaṃ na vaṭṭati, telameva vaṭṭati, tena vuttaṃ ‘‘pakkatelakasaṭe viya kukkuccāyatī’’ti. Vasāya saddhiṃ pakkattā na vaṭṭatīti ce? Vadatha, bhante, navanīte dadhiguḷikātiādisambandho. Madhumhi cattāro kālikā yathāsambhavaṃ yojetabbā, ucchumhi ca, kathaṃ? Samakkhikaṃ seḷakaṃ madhu yāvakālikaṃ. Anelakaṃ udakasambhinnaṃ yāmakālikaṃ, asambhinnaṃ sattāhakālikaṃ, madhusiṭṭhaṃ parisuddhaṃ yāvajīvikaṃ. Tathā ucchu vā raso vā sakasaṭo yāvakāliko, nikkasaṭo udakasambhinno yāmakāliko, asambhinno sattāhakāliko, sukkhakasaṭaṃ yāvajīvikanti veditabbaṃ. Kasmā? Udakasambhedavisesato.
623. Bởi vì họ cho sữa và các chất khác vào trong cặn bã và nấu dầu, do đó, cặn bã không được phép, chỉ có dầu được phép. Do đó, đã được nói “e ngại giống như trong cặn bã của dầu đã được nấu.” Nếu nói rằng không được phép vì đã được nấu cùng với mỡ? Xin hãy nói, bạch ngài, có sự liên kết như “trong bơ tươi, có các viên sữa chua” và các câu tương tự. Trong mật ong, bốn loại thời gian cần phải được kết hợp theo khả năng, và trong mía cũng vậy. Như thế nào? Mật ong nguyên tổ có ong là vật dùng đúng thời. Mật ong không nguyên chất, đã được pha với nước, là vật dùng trong một buổi. Mật ong không pha là vật dùng trong bảy ngày. Sáp ong đã được làm sạch là vật dùng trọn đời. Cũng vậy, mía hoặc nước mía còn bã là vật dùng đúng thời. Mía không còn bã, đã được pha với nước, là vật dùng trong một buổi. Mía không pha là vật dùng trong bảy ngày. Bã mía khô là vật dùng trọn đời, cần phải biết như vậy. Tại sao? Do sự khác biệt của việc pha với nước.

Kiṃ vuttaṃ hoti? Catūsu kālikesu pubbaṃ pubbaṃ garukaṃ, aparaṃ aparaṃ lahukaṃ. Tesu cāyaṃ udakasambhedo garukaṃ lahukaṃ karoti, lahukañca garukaṃ. Ambarasādīni hi yāvakālikattā garukāni, udakasambhedo pana tāni ambapānādisamaññaṃ datvā lahukāni yāmakālikāni karoti. ‘‘Phāṇitaṃ nāma ucchumhā nibbattanti ucchurasaṃ upādāyā’’ti aṭṭhakathāvacanato ucchuraso sattāhakālikoti siddhaṃ. Tattha ‘‘udakasambhedo taṃ yāmakālikaṃ karotī’’tiādiṃ bahuṃ vatvā yojitā.
Điều gì đã được nói? Trong bốn loại thời gian, cái trước nặng hơn, cái sau nhẹ hơn. Trong số đó, việc pha với nước này làm cho cái nặng trở nên nhẹ, và cái nhẹ trở nên nặng. Bởi vì nước xoài và các loại nước khác, do là vật dùng đúng thời, nên là nặng. Nhưng việc pha với nước làm cho chúng trở thành nhẹ, là vật dùng trong một buổi, bằng cách cho chúng tên gọi khác là nước uống xoài và các loại nước uống khác. Từ lời nói trong Chú giải “đường phèn là được làm từ mía, dựa vào nước mía,” đã được xác định rằng nước mía là vật dùng trong bảy ngày. Ở đó, đã được kết hợp sau khi đã nói nhiều điều như “việc pha với nước làm cho nó trở thành vật dùng trong một buổi” và các điều khác.

Apicettha ucchuraso ‘‘anujānāmi, bhikkhave, ucchurasa’’nti (mahāva. 300) anuññātattā guḷodakaṃ viya ucchurasasāmaññato udakena asambhinnopi agilānassa vaṭṭati, tenevāha aṭṭhakathāyaṃ ‘‘ucchuraso nikasaṭo pacchābhattaṃ vaṭṭatī’’ti (mahā. aṭṭha. 300). Ayaṃ sabbo no takkoti ācariyo. Keci panāhu ‘‘phāṇitaṃ nāma ucchumhā nibbatta’nti Yamakato, ‘ucchurasaṃ upādāyā’ti aṭṭhakathāvacanato ca ucchuraso phāṇitameva, tasmā guḷe viya paṭipajjitabba’’nti. Keci ‘‘vuttanayena sattāhakālikova samāno ‘anujānāmi, bhikkhave, ucchurasa’nti visuṃ anuññātattā asambhinnopi agilānassa vaṭṭatī’’ti vadanti. Keci ‘‘vuttanayena visuṃ anuññātattā eva sambhinno vā asambhinno vā yāmakālikova, guḷodakaṃ pana sattāhakālikamevā’’ti vadanti. Keci ‘‘guḷodakaṃ viya so duvidhopi sattāhakālikoyevā’’ti vadanti.
Hơn nữa, ở đây, nước mía, vì đã được cho phép “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép nước mía” (mahāva. 300), nên giống như nước đường, do tính chất chung của nước mía, ngay cả khi chưa được pha với nước, cũng được phép đối với người không bệnh. Chính vì vậy, Ngài đã nói trong Chú giải: “nước mía không còn bã được phép dùng sau bữa ăn” (mahā. aṭṭha. 300). Vị Giáo thọ sư nói rằng tất cả những điều này là theo suy đoán của chúng tôi. Một số người lại nói: “từ Yamaka ‘đường phèn là được làm từ mía,’ và từ lời nói trong Chú giải ‘dựa vào nước mía,’ thì nước mía chính là đường phèn. Do đó, phải được thực hành giống như trong trường hợp đường.” Một số người nói: “dù là vật dùng trong bảy ngày theo cách đã được nói, nhưng vì đã được cho phép riêng ‘Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép nước mía,’ nên ngay cả khi chưa được pha, cũng được phép đối với người không bệnh.” Một số người nói: “theo cách đã được nói, vì đã được cho phép riêng, nên dù đã được pha hay chưa được pha, cũng chính là vật dùng trong một buổi. Còn nước đường thì chính là vật dùng trong bảy ngày.” Một số người nói: “giống như nước đường, cả hai loại đó cũng chính là vật dùng trong bảy ngày.”

Tatthāyaṃ paṭhamācariyavāde vicāraṇā – phāṇitānumatiyāyeva ucchurasānumatiyā siddhito visuṃ ‘‘ucchurasa’’nti uddharitvā anumati niratthikāti āpajjati, tathā ‘‘ucchuraso nikasaṭo pacchābhattaṃ vaṭṭatī’’ti aṭṭhakathāpi niratthikā. ‘‘Sattāhaṃ vaṭṭatī’’ti vattabbaṃ siyāti, na ca tathā sakkā vattuṃ. Pacchābhattaṃ vaṭṭanakarasādhikārattāti ce? Na, tasmiṃ adhikāre sattāhakālikassa avattabbappasaṅgato. Kālabhedaṃ anapekkhitvā rasādhikāre otiṇṇattā vuttoti ce? Na sakkā ‘‘nikasaṭo sattāhaṃ vaṭṭatī’’ti vattuṃ. Pacchābhattaṃ vaṭṭanakarasādhikārattā na vattabbanti ce? Na, evañhi vutte tadaññaraso viya ayampi pacchābhattameva vaṭṭati, na tato paranti āpajjati. Tato paraṃ aparibhogattā ‘‘pacchābhattaṃ vaṭṭatī’’ti vuttanti ce? Na, yāvakālikabhāvappasaṅgato. Na so pasaṅgo ābhidosikassāpi ucchurasassa pākena phāṇitādibhāvappasaṅgato. Ayameva tatiyacatutthācariyavādesu vicāraṇā. Dutiyavāde vicāraṇā vuttā, vimaddo panettha bhesajjakkhandhake (mahāva. 300) āvi bhavissati. Phāṇitaṃ nāma ucchumhā nibbattanti madhukatālanāḷikeraphāṇitādito ukkaṭavatthuto nissaggiyavatthuphāṇitassa visesavacanaṃ, tenetaṃ paññāyati ‘‘nissaggiyavatthubhūtaṃ idha phāṇitaṃ nāma ucchumhā nibbattameva, na madhukādito nibbatta’’nti. Ettāvatā yaṃkiñci ucchumhā nibbattaṃ, na taṃ sabbaṃ phāṇitameva nāmāti sādhitaṃ hoti. Teneva khandhake phāṇitaṃ paṭhamaṃ anujānitvāva pacchā ucchuraso anuññāto, tathā tattheva guḷaṃ, guḷodakañca.
Ở đó, đây là sự xem xét trong quan điểm của các vị Giáo thọ sư đầu tiên – vì sự cho phép nước mía đã được xác định chính bằng sự cho phép đường phèn, nên việc trích dẫn và cho phép riêng “nước mía” sẽ trở nên vô ích. Cũng vậy, Chú giải “nước mía không còn bã được phép dùng sau bữa ăn” cũng vô ích. Lẽ ra phải nói “được phép dùng trong bảy ngày.” Nhưng không thể nói như vậy. Nếu nói rằng vì là quyền hạn của nước giải khát được phép dùng sau bữa ăn? Không phải vậy. Vì trong quyền hạn đó, sẽ có khả năng không cần phải nói về vật dùng trong bảy ngày. Nếu nói rằng đã được nói vì đã đi vào quyền hạn của nước giải khát mà không cần quan tâm đến sự khác biệt về thời gian? Không thể nói “nước không còn bã được phép dùng trong bảy ngày.” Nếu nói rằng không được nói vì là quyền hạn của nước giải khát được phép dùng sau bữa ăn? Không phải vậy. Bởi vì nếu được nói như vậy, sẽ dẫn đến việc ngay cả nước giải khát này, giống như các loại nước giải khát khác, cũng chỉ được phép dùng sau bữa ăn, không phải sau đó. Nếu nói rằng đã được nói “được phép dùng sau bữa ăn” vì không được hưởng dụng sau đó? Không phải vậy, vì sẽ dẫn đến trạng thái đúng thời. Khả năng đó không có, ngay cả đối với nước mía của ngày hôm sau, cũng có khả năng trở thành đường phèn và các loại khác do việc nấu. Đây chính là sự xem xét trong các quan điểm của các vị Giáo thọ sư thứ ba và thứ tư. Sự xem xét trong quan điểm thứ hai đã được nói. Sự tranh cãi ở đây sẽ trở nên rõ ràng trong Phẩm Thuốc Men (mahāva. 300). Đường phèn là được làm từ mía, là lời nói đặc biệt về đường phèn, là vật phải từ bỏ, so với các đối tượng cao nhất như đường phèn làm từ cây madhuka, cây tala, cây dừa và các loại khác. Do đó, có thể biết được điều này: “đường phèn, là vật phải từ bỏ ở đây, chính là được làm từ mía, không phải là được làm từ cây madhuka và các loại khác.” Bằng chừng ấy, đã được chứng minh rằng bất cứ thứ gì được làm từ mía, không phải tất cả đều được gọi là đường phèn. Chính vì vậy, trong Phẩm Luật, sau khi đã cho phép đường phèn trước, rồi sau đó nước mía mới được cho phép. Cũng vậy, ở chính đó, đường và nước đường.

Ucchurasaṃupādāya apakkā vātiādimhi pana yesaṃ laddhi ‘‘ucchuraso yāmakāliko’’ti. ‘‘Te apakkā vāti sāmaṃ bhikkhunā apakkā vā. Avatthukapakkā vāti vinā vatthunā pakkā vā’’ti atthaṃ vaṇṇayanti, taṃ na yuttaṃ ‘‘ucchurasaṃ upādāyā’’ti imassa vacanassa payojanābhāvappasaṅgato, bhikkhuno pacanādhikārābhāvā. Sāmapāko idhādhippetoti ce? Sāmaṃ apakkassa ucchurasassa tesaṃ attanomatiyā phāṇitabhāvasiddhito ca parato ‘‘purebhattaṃ paṭiggahitena aparissāvitaucchurasena kataphāṇita’’ntiādinayadassanato ca taṃ ayuttaṃ, tattha ‘‘aparissāvitaucchurasena sayaṃkataṃ nirāmisameva vaṭṭatī’’ti vacanaṃ yaṃ tattha kasaṭaṃ sāmapākaṃ na janeti, savatthukapaṭiggahitakataṃyeva taṃ karotīti dīpeti, tasmā paṭiggahetuṃ na vaṭṭati vikāleti porāṇā. ‘‘Koṭṭitaucchuphāṇitaṃ ‘rajanapākaṃ viya oḷārikaṃ savatthukapakkaṃ nāma hotī’ti saññāya purebhattameva vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Mahāaṭṭhakathācariyā ‘‘evaṃ phāṇitaggahaṇaṃ amadhuraṃ, tasmā pacchābhattaṃ na vaṭṭatī’’ti vadiṃsu. Kiṃ madhuratāya, amadhuratāya vāti? Atthameva dassetuṃ mahāpaccariyaṃ tathā vuttanti upatissatthero āha kira. Taṃ yuttanti ucchuto nibbattattā vuttaṃ, tenevāha ‘‘khaṇḍasakkharaṃ pana…pe… vaṭṭatī’’ti. ‘‘Taṃ khīraghaṭe pakkhipitvā pacantī’’ti likhitaṃ. Jallikā nāma pheṇādi.
Còn trong câu dựa vào nước mía, hoặc là chưa được nấu và các câu tương tự, quan điểm của những người cho rằng “nước mía là vật dùng trong một buổi.” “Họ diễn giải ý nghĩa hoặc là chưa được nấu, là hoặc là chưa được chính Tỳ-khưu nấu. Hoặc là được nấu mà không có vật, là hoặc là được nấu mà không có vật,” điều đó không hợp lý, vì sẽ dẫn đến việc lời nói “dựa vào nước mía” không có mục đích, và vì Tỳ-khưu không có quyền hạn nấu nướng. Nếu nói rằng việc tự mình nấu được hàm ý ở đây? Điều đó không hợp lý, vì theo ý kiến cá nhân của họ, nước mía chưa được tự mình nấu đã được xác định là có bản chất đường phèn, và vì ở phần sau, đã trình bày cách “đường phèn đã được làm bằng nước mía chưa được lọc, đã được nhận trước bữa ăn” và các cách khác. Ở đó, lời nói “đã được tự mình làm bằng nước mía chưa được lọc, chỉ có vật không có thức ăn là được phép” trình bày rằng bã ở đó không làm cho nó trở thành tự mình nấu, mà chính là làm cho nó trở thành vật đã được làm và đã được nhận có vật. Do đó, những người xưa cho rằng không được phép nhận vào lúc trái thời. Đã được nói: “đường phèn mía đã được giã, với ý thức ‘giống như việc nấu thuốc nhuộm, là thô thiển, được gọi là đã được nấu có vật,’ thì chỉ được phép dùng trước bữa ăn.” Các vị Chú giải sư của Đại Chú giải đã nói: “việc nhận đường phèn như vậy là không ngọt, do đó không được phép dùng sau bữa ăn.” Có phải là do ngọt hay không ngọt? Người ta nói rằng Trưởng lão Upatissa đã nói rằng trong Mahāpaccarī, đã được nói như vậy để trình bày chính ý nghĩa. Điều đó hợp lý, đã được nói vì được làm từ mía. Chính vì vậy, Ngài đã nói: “còn đường cát và đường phèn… cho đến… được phép.” Đã được viết: “họ cho vào nồi sữa và nấu.” Jallikā là bọt và các chất khác.

Bhesajjodisaṃ vadantena itare atthuddhāravasena vuttā. ‘‘Āhāratthaṃ pharituṃ samatthānī’’ti khandhake (mahāva. 260) ‘‘yaṃ bhesajjañceva assa bhesajjasammatañca lokassa, āhāratthañca phareyyā’’ti vuttattā vuttaṃ. Ettha vicāraṇā bhesajjakkhandhake āvi bhavissati.
Bằng cách nói chỉ định thuốc men, các loại khác đã được nói theo cách trích dẫn ý nghĩa. “Có khả năng lan tỏa để làm thức ăn,” đã được nói vì đã được nói trong Phẩm Luật (mahāva. 260): “cái nào vừa là thuốc men, vừa được thế gian coi là thuốc men, và cũng có thể lan tỏa để làm thức ăn.” Sự xem xét ở đây sẽ trở nên rõ ràng trong Phẩm Thuốc Men.

624.Dvāravātapānakavāṭānīti dvārassa ca vātapānānañca kavāṭāni. Kasāvapakkhepamattena hi tāni attano sabhāvaṃ pariccajitāni honti, tasmā ‘‘makkhetabbānī’’ti vuttaṃ. ‘‘Kasāvo nāma kanakalambādīnipī’’ti vadanti. Adhiṭṭhetīti ‘‘idāni ajjhoharaṇīyaṃ na bhavissati, bāhiraparibhogo bhavissatī’’ti cittaṃ uppādeti. Idha ‘‘vikappetī’’ti padaṃ natthi. Adhiṭṭhānampi mukhāruḷhiyā vuttaṃ ‘‘imaṃ navanītaṃ adhiṭṭhāmī’’ti avattabbato.
624. Cửa ra vào và cửa sổ là các cánh cửa của cửa ra vào và cửa sổ. Bởi vì chỉ bằng việc cho nước sắc vào, chúng đã từ bỏ bản chất của mình. Do đó, đã được nói “phải được bôi.” Một số người nói rằng “nước sắc cũng là kanakalamba và các loại khác.” Xác quyết là làm phát sinh tâm “bây giờ sẽ không phải là vật để ăn, sẽ là vật để dùng bên ngoài.” Ở đây không có từ “định đoạt.” Ngay cả việc xác quyết cũng đã được nói theo cách thông thường, vì không cần phải nói “tôi xác quyết bơ tươi này.”

625.Paribhuñjituṃpana na vaṭṭatīti vissāsābhāvaṃ sandhāya vuttaṃ. Sace savissāso, vaṭṭatīti ‘‘paribhuñja tva’’nti ettāvatā vissajjitaṃ hoti, tasmā ubhinnaṃ anāpattīti sambandho. Sace na vissajjitaṃ, āpatti hotīti siddhaṃ. Tasmā ubhinnaṃ santakaṃ cīvaraṃ aññatarena sammukhībhūtena adhiṭṭhātabbaṃ. No ce adhiṭṭhāti, nissaggiyaṃ hotītipi yujjati. Kākanikamattañce mūlaṃ adinnaṃ, ‘‘na adhiṭṭhānupagaṃ…pe… sakabhāvaṃ na upetī’’ti iminā etaṃ sadisaṃ na hoti, ābhidhammikagaṇānaṃ dinnaṃ viya ca na hoti. Kasmā? Ābhidhammikā hi anupasampannāpi honti, pacchā ābhidhammikabhūtānampi taṃ sādhāraṇaṃ hotīti. Ettha dvepi upasampannā eva, dvinnampi tattha yathākāmakaraṇīyatā atthi mamattañca, na evaṃ tadaññesaṃ sādhāraṇaṃ, na ca dve tayo bhikkhū ‘‘ekato vassissāmā’’ti karonti, rakkhati tāva. ‘‘Avibhattattā anāpattī’’ti iminā ca idaṃ sadisaṃ, yena mūlena paṭiggahitaṃ, tassa sace itaro deti, so vā taṃ itarassa deti, sati paṭiggahaṇe sattāhātikkame nissaggiyattā, tasmā taṃ cīvaraṃ dvīsu sammukhībhūtena ekena adhiṭṭhātabbaṃ. Kiñcāpi ettha payogasamāpattiyo na dissati samānaparikkhārānaṃ dvinnaṃ adhiṭṭhānapayogābhāvato, tathāpi samānasabbabhaṇḍakānaṃ dvinnaṃ telādi yena paṭiggahitaṃ, tassa kālātikkame āpattisambhavato, anadhiṭṭhāne dullabhavisesahetuttā ca ‘‘adhiṭṭhātabba’’nti vuttaṃ. Taṃ ayuttaṃ pattacīvarasattāhakālikānaṃ asadisavidhānattā. Ettha pattacīvarañhi attano santakabhāvaṃ upagatameva anadhiṭṭhahantassa kālātikkame āpatti, sattāhakālikaṃ pana parasantakasādhāraṇampi paṭiggahitaṃ paṭiggāhakassa kālātikkame āpattikaraṃ. Paṭiggahaṇañcettha pamāṇaṃ, na tattha sakasantakatā, sattāhakālikañca nissaggiyaṃ, sabbesampi anajjhoharaṇīyaṃ. Pattacīvaraṃ aññassa paribhuñjato anāpatti. Idañca kālātikkantampi nissajjitvā pacchā laddhaṃ kappati. Pattacīvaraṃ pana taṃ tassa vinayakammanti kappatīti. Avibhattassapi imassa dānaṃ ruhati, na pattacīvarassa. Vuttañhetaṃ aṭṭhakathāyaṃ ‘‘dvinnaṃ santakaṃ hoti…pe… sacepi avibhajitvā saddhivihārikādīnaṃ denti, adinnameva hotī’’ti. Yassa dānameva na ruhati, tassa kuto adhiṭṭhānaṃ. Eko ce pattacīvaraṃ dasame divase itarassa deti. Tato paṭṭhāya so dasa divase pariharituṃ labhati, na tathā sattāhakālikanti sabbathā upaparikkhiyamānaṃ sarikkhaṃ nakkhamatīti na taṃ sārato daṭṭhabbanti ācariyassa takko. ‘‘Vinayakammavasena pana anissajjitvā sahasā virujjhitvā kassaci pariccattampi puna paṭilabhitvā paribhuñjituṃ na vaṭṭatī’’ti vuttaṃ, sace desantaritaṃ, samuddantaritaṃ vā cīvaraṃ nissaggiyaṃ jātaṃ, taṃ idha ṭhitena bhikkhunā ekassa vantena cittena cattaṃ katvā anapekkhitvā āpattiṃ desetvā tassa vissāsena puna gahetvā adhiṭṭhātabbaṃ, ‘‘pattādīsu ca ayameva nayo’’ti ca vuttaṃ, ‘‘tālanāḷikeraphāṇitampi sattāhakālikaṃ evā’’ti ca. ‘‘Dvinnaṃ santakaṃ ekena paṭiggahitaṃ sattāhakālikaṃ sattāhātikkame āpattiṃ na karoti, paribhuñjituṃ pana dvinnampi na vaṭṭatī’’ti ca ‘‘parasantakaṃ paṭiggahetvā ṭhapitepi eseva nayo’’ti ca keci vadanti. Dukkaṭavatthubhūtaṃ sappiādi nissajjitabbaṃ puna paribhuñjituṃ vaṭṭatīti vidhānaṃ na dissatīti.
625. Nhưng không được phép dùng, đã được nói đến để chỉ sự không tin tưởng. Nếu có sự tin tưởng, thì được phép. Bằng chừng ấy “ngươi hãy dùng,” đã được từ bỏ. Do đó, có sự liên kết rằng không phạm tội đối với cả hai. Nếu chưa được từ bỏ, thì đã được xác định là có tội. Do đó, y của cả hai phải được xác quyết bởi một người trong hai người có mặt. Nếu không xác quyết, thì cũng hợp lý là phải từ bỏ. Ngay cả khi giá trị gốc không được cho chỉ bằng một kākanika, thì điều này không giống với câu “không phải là vật có thể được xác quyết… cho đến… không đi đến bản chất của mình,” và cũng không giống như vật đã được cho các nhóm thuộc Vi Diệu Pháp. Tại sao? Bởi vì các vị thuộc Vi Diệu Pháp cũng có thể là những người chưa thọ cụ túc giới, và sau đó nó cũng trở thành của chung cho cả những người đã trở thành người thuộc Vi Diệu Pháp. Ở đây, cả hai đều chính là những người đã thọ cụ túc giới. Cả hai đều có quyền làm theo ý muốn ở đó và có sự sở hữu. Không phải như vậy đối với những người khác. Và không phải là hai, ba Tỳ-khưu làm “chúng ta sẽ cùng nhau an cư,” điều đó bảo vệ. Và điều này giống với câu “không phạm tội vì chưa được phân chia.” Nếu người kia cho vật đã được nhận bằng giá trị gốc, hoặc nếu người đó cho vật đó cho người kia, thì vì là phải từ bỏ khi quá bảy ngày nếu có sự nhận, do đó, y đó phải được xác quyết bởi một người trong hai người có mặt. Mặc dù ở đây không thấy có các định hành động, vì không có hành động xác quyết của hai người có cùng một vật dụng, nhưng vì có khả năng có tội khi quá thời gian đối với người nhận dầu và các vật khác của hai người có cùng tất cả các vật dụng, và vì là nguyên nhân đặc biệt hiếm có trong việc không xác quyết, nên đã được nói “phải được xác quyết.” Điều đó không hợp lý, vì có sự quy định không giống nhau đối với bát y và vật dùng trong bảy ngày. Ở đây, chính bát y, sau khi đã đi đến trạng thái là của mình, mới có tội khi quá thời gian đối với người không xác quyết. Còn vật dùng trong bảy ngày, ngay cả khi là của chung của người khác, đã được nhận, cũng gây ra tội khi quá thời gian đối với người nhận. Và ở đây, việc nhận là tiêu chuẩn, không phải là tính chất là của mình ở đó. Và vật dùng trong bảy ngày là phải từ bỏ, không được ăn đối với tất cả mọi người. Không phạm tội đối với người dùng bát y của người khác. Và cái này, ngay cả khi đã quá thời gian, sau khi đã từ bỏ và nhận lại, cũng hợp lệ. Còn bát y, vì đó là Tăng sự Luật của người đó, nên hợp lệ. Việc cho của người chưa được phân chia này cũng có hiệu lực, không phải của bát y. Điều này đã được nói trong Chú giải: “là của của hai người… cho đến… ngay cả nếu cho những người sống cùng và các người khác mà không phân chia, thì cũng chính là chưa được cho.” Đối với người mà việc cho cũng không có hiệu lực, thì từ đâu mà có sự xác quyết. Nếu một người cho bát y cho người kia vào ngày thứ mười. Thì từ đó trở đi, người đó được phép giữ trong mười ngày. Không phải như vậy đối với vật dùng trong bảy ngày. Do đó, suy luận của vị Giáo thọ sư là, vì không thể so sánh được khi xem xét theo mọi cách, nên không nên coi đó là cốt lõi. Đã được nói: “nhưng theo cách của Tăng sự Luật, ngay cả vật đã được từ bỏ cho bất kỳ ai sau khi đã mâu thuẫn đột ngột mà không từ bỏ, cũng không được phép dùng sau khi đã nhận lại.” Nếu y đã trở thành vật phải từ bỏ, ở một xứ sở khác hoặc ở bên kia biển, thì Tỳ-khưu ở đây, sau khi đã từ bỏ bằng một tâm đã xả, không còn quyến luyến, và sau khi đã sám hối tội lỗi, phải nhận lại bằng sự tin tưởng của người đó và xác quyết. Và đã được nói: “đối với bát và các vật khác, cách này cũng vậy.” Và “đường phèn làm từ cây tala và cây dừa cũng chính là vật dùng trong bảy ngày.” Và “vật dùng trong bảy ngày, đã được một người nhận, là của của hai người, không gây ra tội khi quá bảy ngày, nhưng cả hai đều không được phép dùng.” Và một số người nói rằng “ngay cả trong trường hợp đã nhận và để đó vật của người khác, cách này cũng vậy.” Không thấy có quy định rằng bơ sữa và các vật khác, là đối tượng của tội Tác Ác, sau khi đã được từ bỏ, lại được phép dùng.

Bhesajjasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về thuốc men đã kết thúc.

4. Vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā

4. Diễn giải học giới về y dùng trong mùa mưa

627. ‘‘Ekameva katvā’’ti vacanena vassikasāṭikalakkhaṇena ñātakānampi satuppādaṃ karontena ekameva gahetabbanti dhammasiritthero. Catubbidhaṃ khettanti ettha kiñcāpi tividhaṃ dissati, taṃ pana evaṃ gahetabbaṃ, yasmiṃ khette pariyesituṃ labhati, taṃ pariyesanakhettaṃ nāma, ‘‘evaṃ karaṇanivāsanādhiṭṭhānakhettānipī’’ti vuttaṃ. Ettha pacchimena purimaggāho veditabbo, na purimena pacchimaggāho, yathālābhanti ācariyo. Tassattho – adhiṭṭhānakhettena pacchimena purimānaṃ tiṇṇaṃ gāho hoti, tathā nivāsanakhettena dvinnaṃ purimānaṃ. Karaṇakhettena pana ekasseva purimassa gāho hotīti. Ettha pana kiñcāpi karaṇakhettanivāsanakhettānaṃ kālato nānattaṃ natthi, kiriyato pana ‘‘aṭṭhiṃ katvā nivāsetabba’’nti pāḷivacanato, tasmā dvidhā katvā vuttaṃ aññatarābhāvena, tadatthasiddhito ca, kathaṃ panettha nānattaṃ natthīti paññāyatīti ce? Pāḷito, ‘‘aḍḍhamāso seso gimhānanti katvā nivāsetabba’’nti hi pāḷi, tathā mātikāṭṭhakathāto (kaṅkhā. aṭṭha. vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā) ca.
627. Trưởng lão Dhammasiri cho rằng bằng lời nói “chỉ làm một cái,” chỉ có một cái được nhận bởi người làm phát sinh ý nghĩ ngay cả đối với các quyến thuộc bằng đặc điểm của y dùng trong mùa mưa. Bốn loại ruộng, ở đây, mặc dù thấy có ba loại, nhưng cần phải được hiểu như vầy: ruộng nào mà được phép tìm kiếm, thì đó được gọi là ruộng tìm kiếm. Đã được nói: “cũng vậy, ruộng làm, ruộng mặc, và ruộng xác quyết.” Ở đây, cần phải biết rằng cái sau bao gồm cái trước, không phải cái trước bao gồm cái sau, tùy theo những gì đã nhận được, vị Giáo thọ sư nói vậy. Ý nghĩa của nó là – bằng ruộng xác quyết là cái sau, ba cái trước được bao gồm. Cũng vậy, bằng ruộng mặc, hai cái trước được bao gồm. Còn bằng ruộng làm, chỉ có một cái trước được bao gồm. Ở đây, mặc dù ruộng làm và ruộng mặc không có sự khác nhau về thời gian, nhưng về hành động, từ lời nói trong Pāḷi “sau khi đã làm xong, phải được mặc.” Do đó, đã được nói bằng cách làm thành hai loại, do không có một trong hai, và do ý nghĩa đó đã được xác định. Nếu hỏi làm thế nào để biết được rằng không có sự khác nhau ở đây? Từ Pāḷi, và từ Chú giải đề mục (kaṅkhā. aṭṭha. vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā): “còn lại nửa tháng của mùa hè, sau khi đã làm và mặc.”

Tathāha ‘‘pacchimo aḍḍhamāso karaṇanivāsanakhettampī’’ti, iminā nayena tividhameva khettantipi siddhaṃ. Samantapāsādikāyaṃ pana katthaci potthake ‘‘jeṭṭhamūlapuṇṇamāsiyā pacchimapāṭipadadivasato paṭṭhāya yāva kāḷapakkhuposatho, ayameko addhamāso pariyesanakhettañceva karaṇakhettañca. Etasmiñhi antare vassikasāṭikaṃ aladdhaṃ pariyesituṃ, laddhaṃ kātuñca vaṭṭati, nivāsetuṃ, adhiṭṭhātuñca na vaṭṭatī’’ti pāṭho dissati, so apāṭho yathāvuttapāḷimātikāṭṭhakathāvirodhato, tasmā tattha ‘‘aladdhaṃ pariyesituṃ vaṭṭati, kātuṃ, nivāsetuṃ, adhiṭṭhātuñca na vaṭṭatī’’ti pāṭho veditabbo. Evaṃ tāva pacchimena purimaggāhasiddhi veditabbā, na purimena karaṇakhettādīnaṃ gāho sambhavati. ‘‘Māso seso gimhānanti vassikasāṭikacīvaraṃ pariyesitabba’’nti ettakameva hi vuttaṃ, na, aṭṭhakathāyaṃ ‘‘ayameko addhamāso pariyesanakhettañceva karaṇakhettañcā’’ti vuttattāti ce? Na, tassa lekhanadosattā, tathā sādhitaṃ. Karaṇakhettena pana nivāsanakhettaggāho atthi kālanānattābhāvato, teneva pubbe yathālābhaggahaṇaṃ kataṃ, tathā ca sādhitameva, na bhedo panatthi, payojanaṃ vuttameva. Nivāsanakkhettena adhiṭṭhānakkhettaggāho natthi eva, na hi purimena pacchimaggāho veditabbo. Na pāḷivirodhatoti ce? Na, tadatthājānanato. ‘‘Māso seso gimhānanti addhamāso seso gimhāna’’nti ettha iti-saddassa hi ito paṭṭhāyāti attho. Parato āpattikhettadassanato itarassa anāpattikhettabhāvo dassitova hoti. Dinnapubbatopi ñātakapavāritaṭṭhānato nipphādentassa nissaggiyaṃ piṭṭhisamayattā, pakatiyā vassikasāṭikadāyakā nāma saṅghassa vā puggalassa vā apavāretvā anusaṃvaccharaṃ dentā, tattha satuppādova vaṭṭati. Vattabhede dukkaṭanti tadaññesu.
Ngài đã nói như vậy: “nửa tháng cuối cùng cũng là ruộng làm và ruộng mặc.” Bằng cách này, đã được xác định rằng chỉ có ba loại ruộng. Còn trong Samantapāsādikā, ở một số sách, có đoạn văn: “từ ngày mồng một sau ngày rằm tháng Jeṭṭhamūla cho đến ngày Bố-tát của tuần trăng tối, nửa tháng này chính là ruộng tìm kiếm và ruộng làm. Bởi vì trong khoảng thời gian này, được phép tìm kiếm y dùng trong mùa mưa chưa có, và làm y đã có. Không được phép mặc và xác quyết,” đoạn văn đó không phải là Pāḷi, do mâu thuẫn với Pāḷi và Chú giải đề mục đã được nói. Do đó, ở đó cần phải biết đoạn văn: “được phép tìm kiếm y chưa có. Không được phép làm, mặc, và xác quyết.” Như vậy, cần phải biết sự xác định của việc cái sau bao gồm cái trước. Không có khả năng có sự bao gồm của ruộng làm và các ruộng khác bởi cái trước. Nếu nói rằng chỉ có chừng ấy đã được nói: “còn lại một tháng của mùa hè, phải tìm kiếm y dùng trong mùa mưa,” không phải là, vì đã được nói trong Chú giải: “nửa tháng này chính là ruộng tìm kiếm và ruộng làm”? Không phải vậy, do lỗi sao chép của nó, đã được chứng minh như vậy. Còn bằng ruộng làm, có sự bao gồm của ruộng mặc, do không có sự khác nhau về thời gian. Chính vì vậy, trước đây đã thực hiện việc bao gồm tùy theo những gì đã nhận được, và đã được chứng minh như vậy. Nhưng không phải là không có sự khác biệt, mục đích đã được nói. Bằng ruộng mặc, chắc chắn không có sự bao gồm của ruộng xác quyết. Không phải là cần phải biết cái trước bao gồm cái sau. Nếu nói rằng không mâu thuẫn với Pāḷi? Không phải vậy, do không biết ý nghĩa của nó. Bởi vì trong câu “còn lại một tháng của mùa hè, còn lại nửa tháng của mùa hè,” từ iti ở đây có ý nghĩa là từ đây trở đi. Do việc trình bày phạm vi có tội ở phần sau, đã được trình bày rằng cái kia có phạm vi không có tội. Đối với người, ngay cả từ nơi đã được cho trước đây, từ nơi đã được các quyến thuộc thỉnh mời, tạo ra, là phải từ bỏ, vì là sau thời gian. Bởi vì những người cúng dường y dùng trong mùa mưa thường cúng dường hàng năm mà không cần thỉnh mời Tăng chúng hoặc cá nhân. Ở đó, chỉ có sự phát sinh ý nghĩ là được phép. Phạm tội Tác Ác trong sự khác biệt về bổn phận, là trong những trường hợp khác.

‘‘Sace kata…pe… vassūpanāyikadivase adhiṭṭhātabbā…pe… cha māse parihāraṃ labhatī’’ti Yamakato antovassepi yāva vassānassa pacchimadivasā akatā parihāraṃ labhatīti dīpitaṃ hoti. Kasmā na vicāritanti ce? Atthāpattisiddhattā. ‘‘Cha māse parihāraṃ labhatī’’ti vacanena akatā labhatīti siddhameva, taṃ kiñcāpi siddhaṃ, sarūpena pana anāgatattā sarūpena dassetuṃ, dussaddhāpayattā upapattito dassetuñca idamāraddhaṃ ācariyena, ‘‘yathā cettha, evaṃ kathinabbhantare uppannacīvarampi heṭṭhā vuttanayeneva paṭipajjitabba’’nti anugaṇṭhipade vuttaṃ, taṃ duvuttaṃ tattheva pubbāparavirodhato. Yañcettha aṭṭhakathāvacanaṃ sādhakattena vuttaṃ, taṃ tamatthaṃ na sādheti. ‘‘Yadi nappahoti yāva kattikapuṇṇamā parihāraṃ labhatī’’ti vacanaṃ appahontassa yāva kattikapuṇṇamā tāva parihārakhettaṃ, tato paraṃ ekadivasopi na hotīti dīpeti, tasmā appahonakabhāvena akatāva yāva kattikapuṇṇamā parihāraṃ labhati, tato paraṃ na labhatīti siddhaṃ. Tathā tadeva vacanaṃ kataparihāraṃ na labhatīti dīpeti, tasmā kattikapuṇṇamadivaseyeva adhiṭṭhātabbā. ‘‘Appahonte dasāhe antovasse karaṇapariyosānaṃyeva pamāṇa’’nti likhitaṃ.
Từ Yamaka “nếu đã được làm… cho đến… phải được xác quyết vào ngày an cư… cho đến… được hưởng sự miễn trừ trong sáu tháng,” đã được trình bày rằng ngay cả trong mùa mưa, cho đến ngày cuối cùng của mùa mưa, y chưa được làm cũng được hưởng sự miễn trừ. Nếu hỏi tại sao không được xem xét? Do đã được xác định bằng sự suy luận. Bằng lời nói “được hưởng sự miễn trừ trong sáu tháng,” đã được xác định rằng y chưa được làm cũng được hưởng. Điều đó, dù đã được xác định, nhưng vì chưa có về bản chất, nên vị Giáo thọ sư đã bắt đầu điều này để trình bày về bản chất, và để trình bày từ sự hợp lý, vì khó thuyết phục. Trong Anugaṇṭhipade, đã được nói: “giống như ở đây, cũng vậy, y phát sinh trong thời gian Kathina cũng phải được thực hành theo chính cách đã được nói ở dưới,” điều đó là nói sai, do mâu thuẫn trước sau ở chính đó. Và lời nói trong Chú giải đã được nói để chứng minh ở đây không chứng minh được ý nghĩa đó. Lời nói “nếu không đủ, được hưởng sự miễn trừ cho đến ngày rằm tháng Kattika” trình bày rằng đối với người không đủ, phạm vi miễn trừ là cho đến ngày rằm tháng Kattika. Sau đó, không có dù chỉ một ngày. Do đó, đã được xác định rằng y chưa được làm, do không đủ, được hưởng sự miễn trừ cho đến ngày rằm tháng Kattika. Sau đó thì không được. Cũng vậy, chính lời nói đó trình bày rằng y đã được làm không được hưởng sự miễn trừ. Do đó, phải được xác quyết chính vào ngày rằm tháng Kattika. Đã được viết: “khi chưa đủ mười ngày, việc hoàn thành công việc trong mùa mưa chính là tiêu chuẩn.”

Etthāha – ‘‘ekāhadvīhādivasenā’’tiādi na vattabbaṃ. Kasmā? Gimhadivasānaṃ anadhiṭṭhānakālattā, tasmā eva ‘‘antodasāhe vā tadaheyeva vā adhiṭṭhātabbā’ti ca sāmaññato na vattabbaṃ gimhadivasānaṃ adhiṭṭhānakhettabhāvappasaṅgato’’ti. Ettha vuccati – na, tadatthājānanato. Dasāhānāgatāya vassūpanāyikāya gimhadivasā dasāhā honti, paṭhamadivase ca laddhā niṭṭhitā vassikasāṭikā dasāhātikkantāpi vassūpanāyikadivasaṃ adhiṭṭhānakhettaṃ appattattā na ca tāva nissaggiyaṃ hoti, vuttañcetaṃ ‘‘vassūpanāyikato pubbe dasāhātikkamepi anāpattī’’ti.
Vị ấy nói ở đây – không nên nói “bằng một ngày, hai ngày và các cách khác.” Tại sao? Vì các ngày mùa hè là thời gian không xác quyết. Do đó, cũng không nên nói một cách chung chung “phải được xác quyết trong vòng mười ngày hoặc ngay trong ngày đó, vì sẽ dẫn đến việc các ngày mùa hè cũng trở thành phạm vi xác quyết.” Ở đây, xin thưa – không phải vậy, do không biết ý nghĩa của nó. Đối với ngày an cư chưa đến mười ngày, các ngày mùa hè trở thành mười ngày. Và y dùng trong mùa mưa đã nhận được và hoàn thành vào ngày đầu tiên, dù đã quá mười ngày, cũng chưa phải là phải từ bỏ, vì chưa đến phạm vi xác quyết là ngày an cư. Và điều này đã được nói: “ngay cả khi quá mười ngày trước ngày an cư, cũng không phạm tội.”

Antodasāhe adhiṭṭhātabbāti idaṃ na avisesena etasmiṃ antare gimhadivasepi adhiṭṭhātabbanti imamatthaṃ dīpetuṃ vuttaṃ, kintu gimhadivase ce uppannā, adhiṭṭhānakhette ca antodasāhaṃ hoti, antodasāhe khetteyeva adhiṭṭhātabbā, na khettanti katvā dasāhaṃ atikkamitabbanti dīpetuṃ vuttaṃ. Kasmā? Gimhadivasānampi gaṇanūpagattā, tasmā akhettadivasepi gaṇetvā khette eva ‘‘antodasāhe adhiṭṭhātabbā’’ti vuttaṃ hotīti.
Phải được xác quyết trong vòng mười ngày, điều này không được nói để trình bày ý nghĩa rằng phải được xác quyết ngay cả trong ngày mùa hè trong khoảng thời gian này một cách không phân biệt. Mà là đã được nói để trình bày rằng nếu phát sinh vào ngày mùa hè, và là trong vòng mười ngày trong phạm vi xác quyết, thì phải được xác quyết chính trong phạm vi trong vòng mười ngày, không phải là không phải là phạm vi, và không được vượt quá mười ngày. Tại sao? Vì ngay cả các ngày mùa hè cũng được tính. Do đó, đã được nói rằng ngay cả khi tính cả ngày không phải là phạm vi, cũng chính là “phải được xác quyết trong vòng mười ngày” trong phạm vi.

Vassikasāṭikasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về y dùng trong mùa mưa đã kết thúc.

5. Cīvaraacchindanasikkhāpadavaṇṇanā

5. Diễn giải học giới về việc cướp y

632.Sāmanti sakasaññitāniyamanatthaṃ vuttaṃ. Sakasaññitāyeva hi acchindāpanaacchindanesu nissaggiyaṃ, tasmā nissaggiyamūlaṅganidassanametaṃ. ‘‘Cīvara’’nti vuttattā ‘‘acīvaraṃ acchindantassa na nissaggiya’’nti vuttameva hoti. ‘‘Datvāti datvā vā dāpetvā vā’’ti kiñcāpi padabhājanaṃ yujjati, aññassa pana santakaṃ aññassa bhikkhuno dāpetvā taṃ sayaṃ vā acchindeyya, teneva vā acchindāpeyyāti aniṭṭhappasaṅgabhayā na vuttaṃ, atthato pana attano santakaṃ aññena saddhivihārikādinā dāpetvā, aññassa santakaṃ vā tassa vissāsā dāpetvā taṃ acchindeyya vā acchindāpeyya vā nissaggiyanti veditabbaṃ, tañca kho anapekkho datvā. Yadi evaṃ ‘‘cajitvā dinnaṃ acchinditvā gaṇhanto bhaṇḍagghena kāretabbo’’ti idaṃ kinti ce? Sakasaññāya aggahetvā aññāya theyyāya gaṇhantaṃ sandhāya vuttaṃ, teneva vuttaṃ ‘‘sakasaññāya gahitattā panassa pārājikaṃ natthī’’ti, apica ‘‘anāpatti so vā deti, tassa vā vissasanto gaṇhātī’’ti vacanatopi taṃ siddhameva. Ettāvatā tāvakālikaṃ katvā dinnaṃ acchindantassa anāpatti sādhitā hoti. ‘‘Amhākaṃ santike upajjhaṃ gaṇhissatī’’tiādivacanaṃ sāmaṇerassa dānaṃ dīpeti, tañca idha nādhippetaṃ. Pāḷiyaṃ (pārā. 633-634) upasampanne tikapācittiyaṃ viya anupasampanne tikadukkaṭampi āgatanti ce? Na, tadadhippāyājānanato. Anupasampannakāle evaṃ datvā aññassa santike upasampannaṃ disvā kupito ce acchindati, upasampannasseva vā ‘‘sikkhaṃ paccakkhāya tumhākaṃ santike upasampajjissāmī’’ti vadantassa datvā puna acchindati ce, nissaggiyanti ayamettha adhippāyo.
632. Chính mình, đã được nói để xác định ý thức là của mình. Bởi vì chính khi có ý thức là của mình mới là phải từ bỏ trong việc cho người khác cướp và cướp. Do đó, đây là sự trình bày yếu tố gốc của tội phải từ bỏ. Vì đã được nói “y,” nên cũng chính là đã được nói “đối với người cướp vật không phải là y, không phải là phải từ bỏ.” “Sau khi đã cho, là sau khi đã cho hoặc cho người khác cho,” mặc dù phần phân tích từ hợp lý, nhưng không được nói vì sợ có sự việc không mong muốn rằng cho người khác lấy của của người khác cho một Tỳ-khưu khác, rồi chính mình cướp lại, hoặc cho chính người đó cướp lại. Nhưng về mặt ý nghĩa, cần phải biết rằng sau khi đã cho của của chính mình bởi một người sống cùng khác và các người khác, hoặc sau khi đã cho của của người khác do sự tin tưởng của người đó, nếu cướp lại hoặc cho người khác cướp lại, thì là phải từ bỏ. Và đó là sau khi đã cho mà không quyến luyến. Nếu vậy, nếu nói rằng điều này là gì “người nào, sau khi đã lấy y đã được cho sau khi đã từ bỏ, phải bị xử theo giá trị của vật”? Đã được nói đến để chỉ người lấy đi một cách trộm cắp, không phải là lấy đi với ý thức là của mình. Chính vì vậy, đã được nói “nhưng đối với người đó, không có tội Bất Cộng Trợ, vì đã được lấy với ý thức là của mình.” Hơn nữa, điều đó cũng đã được xác định từ lời nói “không phạm tội, hoặc là chính người đó cho, hoặc là lấy đi do tin tưởng người đó.” Bằng chừng ấy, đã được chứng minh rằng không phạm tội đối với người cướp y đã được cho tạm thời. Lời nói “sẽ nhận thầy Giáo Thọ Sư với chúng tôi” và các lời nói khác trình bày sự cúng dường của Sa-di, và điều đó không được hàm ý ở đây. Nếu nói rằng trong Pāḷi (pārā. 633-634), giống như tội Ưng Đối Trị ba loại đối với người đã thọ cụ túc giới, cũng có tội Tác Ác ba loại đối với người chưa thọ cụ túc giới? Không phải vậy, do không biết ý định của nó. Ở đây, ý định là, sau khi đã cho như vậy trong khi chưa thọ cụ túc giới, và sau khi đã thấy người đó đã thọ cụ túc giới với người khác, nếu cướp lại khi tức giận, hoặc là sau khi đã cho người đã nói “sau khi đã từ bỏ học giới, tôi sẽ thọ cụ túc giới với các ngài,” rồi lại cướp lại, thì là phải từ bỏ.

633. Sakiṃ āṇatto bahukampi acchindati, nissaggiyanti ekabaddhattā ekaṃ pācittiyaṃ, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ ‘‘āṇatto bahūni gaṇhāti, ekaṃ pācittiya’’nti. Mātikāṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘vatthugaṇanāya āpattiyo’’ti vuttaṃ, taṃ āṇattiyā bahuttā ‘‘sabbāni gaṇhā’’ti vadantassa gāhaṃ sandhāya vuttaṃ, teneva tattha vuttaṃ ‘‘ekavācāya sambahulā āpattiyo’’ti. Evaṃ sante pāḷivacanaṃ, aṭṭhakathāvacanadvayañca aññamaññaṃ sameti, parasantakampi nissaggiyaṃ hoti paṃsukūlañca, tena ‘‘dussante baddharūpiyaṃ viyā’’ti vuttaṃ, taṃ tadatthaniyamadassanatthaṃ vuttaṃ, yathāvachāditaṃ acchindanacittena sacittakaṃ, vacīkammaṃ pana kevalaṃ acchindāpentasseva ‘‘dehī’’ti balakkārena gaṇhatopi veditabbaṃ, taṃ na yuttaṃ ‘‘anāpatti so vā detī’’ti Yamakato. ‘‘Tuṭṭho vā duṭṭho vā deti, anāpattiyevā’’ti mātikāṭṭhakathāvacanato vāti ce? Na, ubhayattha attano ruciyā dānaṃ sandhāya vuttattā, pasayhāvahāre anāpattippasaṅgato ca. ‘‘Bhikkhussa sāmaṃ cīvaraṃ datvā’ti pāḷivacanato ca mātikāṭṭhakathāya aṅgavavatthāne ‘upasampannatā’ti vuttattā ca ubhayattha dānaharaṇesu bhikkhubhāvo icchitabboti dīpetī’’ti vadanti, idamayuttanti no takkoti ācariyo. Kasmā? Anupasampannassa cīvaraṃ datvā taṃ upasampannakāle acchindantassa anāpattippasaṅgato. ‘‘Anupasampannassa cīvaraṃ vā aññaṃ vā parikkhāraṃ datvā…pe… āpatti dukkaṭassā’’ti Yamakato dukkaṭaṃ tattha hotīti ce? Nāsiddhattā, dānakāle eva upasampannatā pamāṇanti asiddhametaṃ aṭṭhakathāyapāḷiyā vā yuttito vā, tasmā taṃ na yuttanti attho. Anupasampannassa cīvaraṃ datvā tasseva anupasampannakāleyeva cīvaraṃ acchindantassa dukkaṭaṃ, upasampannakāle vā datvā anupasampannakāle acchindantassa dukkaṭanti tassa vacanassa idaṃ vikappantarañca sambhavati, tasmā (pārā. 631 ādayo) vikappantarassa sambhavato ca na yuttaṃ, yasmā anupasampannakāle datvā upasampannakāle acchindantassa visuṃ dukkaṭaṃ na paññattaṃ, tasmā purāṇacīvaradhovāpanādisikkhāpadesu viya aparabhāge upasampannatā cettha pamāṇaṃ, tasmā ‘‘upasampannatā’’ti aṅgesu vuttattā ca taṃ na yuttanti attho. Ettha ‘‘paccāsīsantasseva dānamadhippetaṃ, na nissaṭṭhadāna’’nti dhammasiritthero vadati kira, vīmaṃsitabbaṃ.
633. Sau khi đã được ra lệnh một lần, dù cướp nhiều y, cũng là phải từ bỏ. Vì là một khối, nên là một tội Ưng Đối Trị. Để chỉ điều đó, đã được nói “đã được ra lệnh, lấy nhiều y, một tội Ưng Đối Trị.” Còn trong Chú giải đề mục, đã được nói “các tội lỗi theo việc đếm sự việc,” điều đó đã được nói đến để chỉ việc lấy của người nói “hãy lấy tất cả” do có nhiều sự ra lệnh. Chính vì vậy, ở đó đã được nói “bằng một lời nói, có nhiều tội lỗi.” Nếu như vậy, lời nói trong Pāḷi và hai lời nói trong Chú giải đều phù hợp với nhau. Ngay cả vật của người khác cũng trở thành vật phải từ bỏ, và cả y phấn tảo nữa. Do đó, đã được nói “giống như tiền bạc được buộc ở mép vải,” điều đó đã được nói để trình bày sự xác định ý nghĩa đó. Hành động có tâm do tâm cướp y đã được che giấu như thế nào. Còn khẩu nghiệp, chỉ có đối với chính người cho cướp. Cần phải biết ngay cả đối với người lấy đi bằng vũ lực “hãy cho.” Điều đó không hợp lý, từ Yamaka “không phạm tội, hoặc là chính người đó cho.” Nếu nói rằng từ lời nói trong Chú giải đề mục “dù vui hay giận mà cho, cũng chính là không phạm tội”? Không phải vậy. Vì ở cả hai nơi, đã được nói đến để chỉ việc cho theo ý muốn của mình, và vì sẽ dẫn đến việc không phạm tội trong việc lấy trộm bằng vũ lực. Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, điều đó không hợp lý. Tại sao? Vì sẽ dẫn đến việc không phạm tội đối với người, sau khi đã cho y cho người chưa thọ cụ túc giới, lại cướp lại khi người đó đã thọ cụ túc giới. Nếu nói rằng ở đó phạm tội Tác Ác, từ Yamaka “sau khi đã cho y hoặc vật dụng khác cho người chưa thọ cụ túc giới… cho đến… phạm tội Tác Ác”? Vì chưa được xác định. Điều này chưa được xác định, rằng chỉ có việc đã thọ cụ túc giới trong khi cho mới là tiêu chuẩn, hoặc là từ Chú giải, hoặc là từ Pāḷi, hoặc là từ lý lẽ. Do đó, ý nghĩa là điều đó không hợp lý. Phạm tội Tác Ác đối với người, sau khi đã cho y cho người chưa thọ cụ túc giới, lại cướp lại chính trong khi người đó chưa thọ cụ túc giới. Hoặc là sau khi đã cho trong khi đã thọ cụ túc giới, lại cướp lại trong khi chưa thọ cụ túc giới. Sự lựa chọn khác này của lời nói đó cũng có thể có. Do đó (pārā. 631 ādayo), vì có khả năng có sự lựa chọn khác, nên không hợp lý. Bởi vì không có tội Tác Ác riêng được chế định đối với người, sau khi đã cho trong khi chưa thọ cụ túc giới, lại cướp lại trong khi đã thọ cụ túc giới. Do đó, giống như trong các học giới về việc cho giặt y cũ và các học giới khác, ở đây, việc đã thọ cụ túc giới ở phần sau là tiêu chuẩn. Do đó, ý nghĩa là điều đó không hợp lý, vì đã được nói trong các yếu tố “sự đã thọ cụ túc giới.” Ở đây, người ta nói rằng Trưởng lão Dhammasiri nói rằng “chỉ có sự cúng dường của người mong đợi mới được hàm ý, không phải là sự cúng dường đã được từ bỏ,” điều này cần được xem xét.

Cīvaraacchindanasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc cướp y đã kết thúc.

6. Suttaviññattisikkhāpadavaṇṇanā

6. Diễn giải học giới về việc xin chỉ

637. Chaṭṭhe kiñcāpi ‘‘sāmaṃ suttaṃ viññāpetvā’’ti vuttaṃ, mātikāṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘cīvaratthāya sāmaṃ viññattaṃ sutta’’nti avatvā kevalaṃ ‘‘cīvaratthāya viññāpitasutta’’nti aṅgesu vuttattā aññena cīvaratthāya viññattaṃ suttampi saṅgahaṃ gacchatīti veditabbaṃ. Sāmanti cettha kassaci niyamanaṃ. ‘‘Sāmaṃ viññāpetvā’’ti kiñcāpi vuttaṃ, tathāpi ‘‘sāmaṃ vāyāpeyyā’’ti attano atthāya vāyāpeyyāti evaṃ sambandho, attho ca veditabbo, pāḷiyaṃ pana āsannapadena yojanā katā, tasmā sāmaṃ viññattaṃ suttanti aññaviññattaṃ kappiyaṃ āpajjati, hatthakammayācanavasena laddhatantavāyopi kappiyo. Vikappanupagapacchimappamāṇaṃ ce, tante vītaṃyeva sakiṃ adhiṭṭhātabbaṃ, puna adhiṭṭhānakiccaṃ natthi adhiṭṭhitena ekībhāvūpagamanato. ‘‘Sace pana paricchedaṃ dassetvāva cinasāṭakaṃ viya, antarantarā adhiṭṭhitaṃ hoti, puna adhiṭṭhātabba’’nti vuttaṃ. ‘‘Paṭilābhenāti vacanena vāyāpetvā ṭhapessāmītiādi ekasmiṃ antogadhaṃ hotī’’ti vadanti.
637. Trong tội thứ sáu, mặc dù đã được nói “sau khi đã tự mình xin chỉ,” nhưng trong Chú giải đề mục, thay vì nói “chỉ đã được tự mình xin vì lợi ích của y,” lại chỉ nói “chỉ đã được xin vì lợi ích của y” trong các yếu tố. Do đó, cần phải biết rằng ngay cả chỉ đã được người khác xin vì lợi ích của y cũng được bao gồm. Và ở đây, chính mình là sự xác định của một người nào đó. Mặc dù đã được nói “sau khi đã tự mình xin,” nhưng cần phải biết sự liên kết và ý nghĩa rằng “sẽ cho dệt cho chính mình” là sẽ cho dệt vì lợi ích của chính mình. Còn trong Pāḷi, đã thực hiện sự kết hợp với từ gần nhất. Do đó, chỉ đã được tự mình xin sẽ trở thành vật hợp lệ do người khác xin. Ngay cả người thợ dệt đã có được do việc xin công việc tay chân cũng là hợp lệ. Nếu là kích thước cuối cùng có thể được định đoạt, thì chính chỉ đã được dệt vào khung cửi phải được xác quyết một lần. Không có việc xác quyết lại, do đã đi đến sự hợp nhất với vật đã được xác quyết. Đã được nói: “nhưng nếu đã được xác quyết ở giữa, giống như vải lụa Trung Quốc, sau khi đã trình bày sự phân định, thì phải được xác quyết lại.” Một số người nói rằng “bằng lời nói ‘do việc nhận,’ các việc như ‘tôi sẽ cho dệt và để đó’ và các việc khác đã được bao gồm trong một.”

Suttaviññattisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc xin chỉ đã kết thúc.

7. Mahāpesakārasikkhāpadavaṇṇanā

7. Diễn giải học giới về người thợ dệt lớn

642. Visiṭṭhaṃ kappañca tassa vacanena visiṭṭhaṃ katañca pamāṇaṃ, na āmisadānaṃ. Kesuci potthakesu ‘‘cīvara’’nti uddharitvā vibhāgo vutto, taṃ na sametīti.
642. Vật hợp lệ đặc biệt và kích thước đã được làm đặc biệt bằng lời nói của người đó, không phải là sự cúng dường vật chất. Ở một số sách, đã được nói về sự phân chia sau khi đã trích dẫn “y,” điều đó không phù hợp.

Mahāpesakārasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về người thợ dệt lớn đã kết thúc.

8. Accekacīvarasikkhāpadavaṇṇanā

8. Diễn giải học giới về y gấp

646. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, accekacīvaraṃ paṭiggahetvā nikkhipitu’’nti, ‘‘yāva pavāraṇā pavāritā’’ti ca yaṃ vuttaṃ, te pana bhikkhū tassa vacanassa atthaṃ micchā gahetvā accekacīvaraṃ nikkhipantā cīvarakālasamayaṃ atikkāmesuṃ. Kimidaṃ vibhattaṃ, udāhu avibhattanti? Vibhattaṃ, puggalikaṃ vā. Teneva parato ‘‘amhākaṃ, āvuso, accekacīvarānī’’ti vuttaṃ, avibhattaṃ pana saṅghikattā na kassaci nissaggiyaṃ karoti.
646. “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép, sau khi đã nhận y gấp, được cất giữ,” và “cho đến khi đã Tự tứ,” các Tỳ-khưu đó, vì đã hiểu sai ý nghĩa của lời nói đó, đã để quá thời gian y trong khi cất giữ y gấp. Cái này đã được phân chia hay chưa được phân chia? Đã được phân chia, hoặc là của cá nhân. Chính vì vậy, ở phần sau đã được nói “này Tôn giả, y gấp của chúng tôi.” Còn y chưa được phân chia, vì là của Tăng chúng, không làm cho ai phải từ bỏ.

Apica ‘‘accekacīvaraṃ paṭiggahetvā nikkhipitu’’nti iminā sāmaññavacanena vassūpanāyikadivasato paṭṭhāya, piṭṭhisamayato paṭṭhāya vā yāva pavāraṇā nikkhipituṃ vaṭṭati eva saṅghikattā, puggalikampi ‘‘vassaṃvutthakāle gaṇhathā’’ti dinnattā. Tādisañhi yāva vassaṃvuttho hoti, tāva na tasseva, dāyakassa santakaṃ hoti, tathā ito tatiyavasse, catutthavasse vā ‘‘pavāraṇāya gaṇhathā’’tiādinā dinnampi nikkhipitvā yathādānameva gahetabbaṃ. Ayamattho aṭṭhakathāyaṃ (pārā. aṭṭha. 2.646-9 ādayo) pākaṭo. Tāni cīvarakālasamayātikkame na nissaggiyānīti ce? Na, uddissa dinnattā. Yasmā ayaṃ samayo ‘‘kālepi ādissa dinna’’nti ettha ‘‘kālo’’ti āgato, gaṇabhojanasikkhāpadādīsu ‘‘samayo’’tveva āgato, tasmā idha tesaṃ ekatthatādassanatthaṃ ekato ‘‘cīvarakālasamayo’’ti vuttanti veditabbaṃ. Mātikāyaṃ panettha tādisaṃ cīvaraṃ attano santakabhāvaṃ upagataṃ puggalikaṃ sandhāya vuttaṃ, tenevāha ‘‘bhikkhuno paneva accekacīvaraṃ uppajjeyyā’’ti. Attano kuṭiyā vassaṃvutthassa bhikkhuno hi dātuṃ alabhanto antovasse eva dānakiccaṃ pariniṭṭhāpetvā gacchati, tathā saṅghassa. Tasmā idaṃ accekacīvaraṃ atthi uppannakālato paṭṭhāya saṅghassa vā puggalassa vā santakabhāvaṃ upagacchantaṃ, yaṃ na vassāvāsikabhāvena dinnaṃ, atthi uppannakālato paṭṭhāya anupagantvā vassaṃvutthakāleyeva puggalassa vā saṅghassa vā upagacchantaṃ, yaṃ vassāvāsikabhāvena uppajjitvā samaye dinnaṃ, atthi samaye dinnampi puggalassa santakabhāvaṃ anupagacchantaṃ, saṅghasantakabhāvaṃ vā dāyakasantakabhāvaṃ vā upagacchantaṃ, īdisaṃ sandhāya ‘‘saññāṇaṃ katvā nikkhipitabba’’nti vuttaṃ. Idaṃ atirekasaṃvaccharampi nikkhipituṃ labhati attano santakabhāvaṃ anupagatattā, tasmā ‘‘dasāhānāgata’’nti ito aññaṃ sandhāya vuttanti siddhametanti. Dasāhato puretaraṃ labhitvā yāva pavāraṇā nikkhipituṃ na labhati, tasmā sakabhāvūpagatameva adhiṭṭhātabbaṃ, taṃyeva sandhāya ‘‘dasāhānāgata’’nti vuttaṃ, yato ‘‘antosamaye adhiṭṭheti, vikappetī’’ti anāpattivāre vuttaṃ. Saññāṇaṃ katvā nikkhipitabbakaṃ pana parassa dātabbatāya sakabhāvaṃ anupagataṃ, na hi taṃ sandhāya ‘‘adhiṭṭheti, vikappetī’’ti sakkā vattuṃ, na ca taṃ imasmiṃ atthe nissaggiyaṃ hoti saṅghassa nissaggiyābhāvato, aṭṭhakathāyampi ayamattho suṭṭhu pākaṭova. Katamaṃ saññāṇaṃ katvā nikkhipitabbanti ce? Parasantakaṃ cīvaraṃ saṅghikameva hoti, tato ‘‘sallakkhetvā sukhaṃ dātuṃ bhavissatī’’ti iminā hi parassa santakabhāvo dassito.
Hơn nữa, bằng lời nói chung chung này “sau khi đã nhận y gấp, được cất giữ,” chính là được phép cất giữ từ ngày an cư, hoặc là từ sau thời gian, cho đến khi Tự tứ, vì là của Tăng chúng. Cả y của cá nhân nữa, vì đã được cho “hãy nhận vào lúc đã ra hạ.” Bởi vì y như vậy, chừng nào còn chưa ra hạ, thì chừng đó chưa phải là của người đó, mà là của của thí chủ. Cũng vậy, y đã được cho bằng cách “hãy nhận vào lúc Tự tứ” và các cách khác vào năm thứ ba, thứ tư sau đó, cũng phải được cất giữ và nhận đúng như đã được cho. Ý nghĩa này đã rõ ràng trong Chú giải (pārā. aṭṭha. 2.646-9 ādayo). Nếu nói rằng những y đó, khi quá thời gian y, không phải là phải từ bỏ? Không phải vậy, vì đã được cho với ý định. Bởi vì thời gian này, trong câu “ngay cả y đã được cho với ý định trong thời gian,” đã đến là “thời gian.” Trong học giới về việc ăn chung nhóm và các học giới khác, đã đến chính là “thời gian.” Do đó, cần phải biết rằng ở đây, đã được nói gộp lại “thời gian y” để trình bày tính chất đồng nhất của chúng. Ở đây, trong đề mục, đã được nói đến để chỉ y gấp của cá nhân, đã đi đến trạng thái là của mình. Chính vì vậy, Ngài đã nói “nếu Tỳ-khưu có y gấp phát sinh.” Bởi vì người nào, không thể cho Tỳ-khưu đã an cư trong am của mình, đã hoàn thành việc cúng dường ngay trong mùa mưa và ra đi. Cũng vậy đối với Tăng chúng. Do đó, y gấp này, có loại đi đến trạng thái là của của Tăng chúng hoặc của cá nhân từ khi phát sinh, là y không được cho theo cách của người an cư. Có loại, không đi đến từ khi phát sinh, mà chỉ đi đến của cá nhân hoặc của Tăng chúng vào lúc đã ra hạ, là y đã phát sinh theo cách của người an cư và đã được cho vào đúng thời điểm. Có loại, ngay cả khi đã được cho vào đúng thời điểm, cũng không đi đến trạng thái là của cá nhân, mà đi đến trạng thái là của Tăng chúng hoặc của thí chủ. Đã được nói “phải được cất giữ sau khi đã làm dấu hiệu” để chỉ y như vậy. Y này được phép cất giữ ngay cả khi quá một năm, vì chưa đi đến trạng thái là của mình. Do đó, đã được xác định rằng đã được nói “chưa đến mười ngày” để chỉ một y khác. Y đã nhận được trước mười ngày, không được phép cất giữ cho đến khi Tự tứ. Do đó, chính y đã đi đến trạng thái của mình phải được xác quyết. Chính để chỉ y đó, đã được nói “chưa đến mười ngày.” Do đó, đã được nói trong phần không có tội: “xác quyết, định đoạt trong thời gian.” Còn y cần phải được cất giữ sau khi đã làm dấu hiệu, vì phải được cho người khác, nên chưa đi đến trạng thái của mình. Bởi vì không thể nói “xác quyết, định đoạt” để chỉ y đó. Và y đó, trong ý nghĩa này, không phải là phải từ bỏ, vì Tăng chúng không có tội phải từ bỏ. Ngay cả trong Chú giải, ý nghĩa này cũng rất rõ ràng. Nếu hỏi làm dấu hiệu nào và cất giữ? Y của người khác chính là của Tăng chúng. Sau đó, bằng câu này, đã được trình bày rằng nó là của của người khác: “sau khi đã ghi nhớ, sẽ dễ dàng cho.”

‘‘Tato paraṃ ekadivasampi parihāro natthīti dasāhaparamato uddhaṃ anupagatattā’’ti likhitaṃ, ito samayato uddhameva dasāhassa anupagatattā samayato paraṃ dasāhaṃ na labhatīti kirassa adhippāyo. ‘‘Etaṃ parihāraṃ labhatiyevā’’ti ettha ‘‘ekādasamaṃ aruṇaṃ cīvaramāse uṭṭhetī’’ti kāraṇaṃ likhitaṃ. Anugaṇṭhipade pana ‘‘anadhiṭṭhahitvā ekādasadivase nikkhipituṃ labhatī’ti vadanto bhagavā itarampi anaccekacīvarādiṃ anujānāti, accekacīvaramukhenāti apare’’ti vuttaṃ. Ettha kataraṃ subhāsitaṃ? Ubhayampīti eke. Kathaṃ? Paṭhamaṃ ‘‘accekacīvarassa anatthate kathine dasadivasādhiko māso, atthate kathine dasadivasādhikā pañcamāsā’’ti iminā sameti, anugaṇṭhipadaladdhiyā hi ettha ‘‘ekādasadivasādhiko’’ti vattabbataṃ āpajjati, dutiyaṃ ‘‘dasāhānāgatanti…pe… dasāhena asampattāti attho’’ti iminā sameti. Imassa nayassa vasena ‘‘pañcamito paṭṭhāya uppannassa cīvarassa nidhānakālo dassito hotī’’ti pāṭho yujjati. Tathā gaṇṭhipadaladdhiyā ‘‘navāhānāgataṃ kattikatemāsikapuṇṇama’’nti vattabbataṃ āpajjati, tassa vasena ‘‘kāmañcesa dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāretabbanti imināva siddho, aṭṭhuppattivasena pana apubbaṃ viya atthaṃ dassetvā sikkhāpadaṃ ṭhapita’’nti ayaṃ pāṭho yujjati. Ko panettha sāroti? Yo pacchā vutto, sova sāro. Teneva aṭṭhakathācariyena ‘‘pañcamito paṭṭhāyā’’ti vuttaṃ. Porāṇagaṇṭhipadehi aṭṭhakathāya ca saddhiṃ saṃsandanato, ‘‘dasāhānāgata’’nti pāḷiyā saṃsandanato ca ettha gaṇṭhipadaladdhipi pāḷiyā sameti.
Đã được viết: “sau đó, không có sự miễn trừ dù chỉ một ngày, vì chưa đi đến sau mười ngày.” Ý định của người đó là, vì chưa đi đến sau mười ngày kể từ thời gian, nên không được hưởng mười ngày sau thời gian. Trong câu “chắc chắn được hưởng sự miễn trừ này,” ở đây, đã được viết lý do: “rạng đông thứ mười một mọc lên trong tháng y.” Còn trong Anugaṇṭhipade, đã được nói: “những người khác nói rằng Thế Tôn, khi nói ‘được phép cất giữ trong mười một ngày mà không cần xác quyết,’ cũng cho phép cả y không phải là y gấp và các y khác, qua y gấp.” Ở đây, cái nào là lời nói hay? Một số người cho rằng cả hai. Như thế nào? Cái đầu tiên phù hợp với câu “đối với y gấp, khi chưa thọ Kathina, là một tháng và mười ngày. Khi đã thọ Kathina, là năm tháng và mười ngày.” Bởi vì theo quan điểm của Anugaṇṭhipada, ở đây lẽ ra phải nói “quá mười một ngày.” Cái thứ hai phù hợp với câu “chưa đến mười ngày… cho đến… ý nghĩa là chưa đến mười ngày.” Theo cách này, đoạn văn “đã được trình bày thời gian cất giữ của y phát sinh từ ngày thứ năm trở đi” là hợp lý. Cũng vậy, theo quan điểm của sách giải thích từ khó, lẽ ra phải nói “chưa đến chín ngày là ngày rằm của ba tháng Kattika.” Theo đó, đoạn văn này là hợp lý: “dù đã được xác định bằng câu ‘và được phép giữ y thừa tối đa mười ngày,’ nhưng đã đặt học giới sau khi đã trình bày một ý nghĩa giống như mới, theo sự phát sinh của sự việc.” Cái nào là cốt lõi ở đây? Cái nào được nói sau, thì chính cái đó là cốt lõi. Chính vì vậy, vị Chú giải sư đã nói “từ ngày thứ năm trở đi.” Do sự so sánh với các sách giải thích từ khó xưa và với Chú giải, và do sự so sánh với Pāḷi “chưa đến mười ngày,” ở đây, quan điểm của sách giải thích từ khó cũng phù hợp với Pāḷi.

Kathaṃ? Yasmā pavāraṇādivase aruṇuggamane bhikkhu vassaṃvuttho hoti, tasmā iminā dasamena ahena saddhiṃ chaṭṭhito paṭṭhāya navadivasā dasa ahānīti dasāhaṃ, tena dasāhena, sahayogatthe karaṇavacanaṃ. Kattikatemāsikapuṇṇamā cīvarasamayaṃ asampattāti katvā ‘‘anāgatā’’ti vuccati. Yathā aparakattikapuṇṇamāya vassikasāṭikaṃ paccuddharitvā vikappento ‘‘cātumāsaṃ adhiṭṭhātuṃ tato paraṃ vikappetu’’nti vuccati, evaṃsampadamidanti. Ettha vuccatīti ce? Na, imassa nippayojanabhāvappasaṅgato. Accekacīvarapaṭiggahaṇakālaṃ niyamitanti ce? Na, ‘‘chaṭṭhito paṭṭhāya uppannacīvaraṃ accekameva na hoti. Paṭhamakathinena siddhattā’’ti porāṇaṭṭhakathāgaṇṭhipadesu vuttattā tato upari ‘‘accekacīvara’’nti vuccati, paṭiggaṇhantassa āpattisaṅgaho ca. Na ca sā āpatti pāḷiyā, aṭṭhakathāya, yuttito vā sambhavati. Aṭṭhuppattimattavasena vuttanti ce? Na, dasāhādhiccakārikā aṭṭhuppattipāyaṃ na dissati. ‘‘Bhikkhū accekacīvaraṃ paṭiggahetvā cīvarakālasamayaṃ atikkāmentī’’ti ettha ettikā eva hi aṭṭhuppatti. Tathā hi parivāre (pari. 47-53) ‘‘kismiṃ vatthusmi’’nti ārabhitvā ettakameva vuttanti veditabbaṃ. Accekacīvaraṃ cīvarakālaṃ nātikkāmetabbaṃ, itaraṃ atikkāmetabbanti dassanatthaṃ idaṃ paññattanti ce? Na, accekacīvarasseva aparādhadassanato, visesakāraṇābhāvā, ‘‘kāmañcesa dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāretabbanti imināva siddho’’tiādivacanavirodhato ca yathāvuttavacanāsambhavato ca.
Như thế nào? Bởi vì vào lúc rạng đông của ngày Tự tứ, Tỳ-khưu đã ra hạ. Do đó, cùng với ngày thứ mười này, chín ngày từ ngày thứ sáu trở đi là mười ngày. Bằng mười ngày đó, công cụ cách trong ý nghĩa cùng nhau. Ngày rằm của ba tháng Kattika được gọi là “chưa đến” vì chưa đến thời gian y. Giống như khi định đoạt y dùng trong mùa mưa sau khi đã hủy bỏ vào ngày rằm tháng Kattika sau, được gọi là “xác quyết trong bốn tháng, sau đó định đoạt.” Điều này cũng vậy. Nếu nói rằng được nói ở đây? Không phải vậy, vì sẽ dẫn đến việc điều này không có mục đích. Nếu nói rằng đã xác định thời gian nhận y gấp? Không phải vậy. Bởi vì từ các sách giải thích từ khó xưa, đã được nói rằng “y phát sinh từ ngày thứ sáu trở đi không phải là y gấp. Vì đã được xác định bằng Kathina đầu tiên,” nên ở trên được gọi là “y gấp,” và việc thu thập tội lỗi của người nhận. Và tội lỗi đó không thể có, hoặc là từ Pāḷi, hoặc là từ Chú giải, hoặc là từ lý lẽ. Nếu nói rằng đã được nói chỉ theo sự phát sinh của sự việc? Không phải vậy. Không thấy có sự phát sinh của sự việc quá mười ngày. Trong câu “các Tỳ-khưu, sau khi đã nhận y gấp, đã để quá thời gian y,” chỉ có chừng ấy là sự phát sinh của sự việc. Cần phải biết rằng thật vậy, trong Parivāra (pari. 47-53), sau khi đã bắt đầu “trong sự việc nào,” chỉ có chừng ấy đã được nói. Nếu nói rằng đã được chế định điều này để trình bày rằng y gấp không được để quá thời gian y, còn y khác thì được? Không phải vậy. Do trình bày lỗi của chính y gấp, do không có lý do đặc biệt, và do mâu thuẫn với lời nói “dù đã được xác định bằng câu ‘và được phép giữ y thừa tối đa mười ngày’” và các lời nói khác, và vì không có khả năng có lời nói như đã nói.

Kathaṃ? Dasāhena saha kattikapuṇṇamā ‘‘anāgatā’’ti hi vutte dasāhato aññā sā puṇṇamāti āpajjati. Anaññā ce, saha-saddo na sambhavati, na hi attanāva attano yogo sambhavati, anāgata-saddo ca na sambhavati. Āgatā sampattā eva hi sā puṇṇamā. Cīvarasamayassa anantarattā ekībhāvaṃ anāgatattā anāgatāyevāti ce? Na, tathāpi anāgata-saddassa sambhavato, āgamanasambhave satiyeva hi anāgata-saddo sambhavati, na hi nibbānaṃ, paññatti vā ‘‘anāgatā’’ti vuccati. Nibbānaṃ viya khaṇattayaṃ, sā ca puṇṇamā na kadāci samayabhāvaṃ pāpuṇātīti ayuttameva. ‘‘Tato paraṃ vikappetu’’nti pana vacanaṃ piṭṭhisamayaṃ gahetvā ṭhitattā sambhavati. Apica pavāraṇāyaṃ aruṇe ca uṭṭhite sā puṇṇamā cīvarasamayaṃ ekāhānāgatā evāpajjati pubbe sahayogapattattā. Evaṃ sante ekībhāvagatāpi sā cīvarasamayaṃ anāgatā eva jātāti sabbadā na tathāviggahakaraṇavacanatthaṃ kocideva Yamakato dīpetīti veditabbaṃ.
Như thế nào? Bởi vì nếu được nói “ngày rằm tháng Kattika cùng với mười ngày là ‘chưa đến’,” thì sẽ dẫn đến việc ngày rằm đó khác với mười ngày. Nếu không khác, thì từ cùng không thể có. Bởi vì không thể có sự kết hợp của một vật với chính nó. Và từ chưa đến cũng không thể có. Bởi vì ngày rằm đó chính là đã đến, đã đạt được. Nếu nói rằng vì là ngay sau thời gian y, nên chưa đến sự hợp nhất, nên chính là chưa đến? Không phải vậy. Dù vậy, vẫn có khả năng có từ chưa đến. Bởi vì chỉ khi có khả năng đến, thì từ chưa đến mới có thể có. Không phải là Niết-bàn hay chế định được gọi là “chưa đến.” Giống như Niết-bàn, ba khoảnh khắc. Và ngày rằm đó không bao giờ đạt được trạng thái thời gian, điều đó hoàn toàn không hợp lý. Còn lời nói “sau đó định đoạt,” có thể có vì đã đứng sau khi đã lấy thời gian sau. Hơn nữa, vào lúc rạng đông của ngày Tự tứ, ngày rằm đó chính là chưa đến một ngày so với thời gian y, vì đã đạt được sự kết hợp trước đó. Nếu như vậy, ngay cả khi đã đi đến sự hợp nhất, nó cũng đã trở thành chưa đến thời gian y. Do đó, cần phải biết rằng không phải lúc nào cũng có ai đó trình bày từ Yamaka để làm cho cách phân tích như vậy có ý nghĩa.

Kimatthaṃ panettha ‘‘dasadivasādhiko māso’’tiādi vuttanti? Taṃ pāripūrisambhavato. Pañcamiyañhi pure aruṇaṃ uppannaaccekacīvarassa dasadivasādhiko māsoyeva paripūroti katvā tathā vuttaṃ. Apica tassā pañcamiyā divasabhāgopi sampattāya rattiyā ‘‘hiyyo’’ti vuccati, pageva pure aruṇaṃ, tenevāha ‘‘hiyyo kho, āvuso, amhāka’’ntiādi. ‘‘Evaṃ sante ‘chaṭṭhito paṭṭhāyā’ti vuttapaṭhamapāṭhassa vasena ‘anaccekacīvarampi paccuddharitvā ṭhapitaṃ ticīvarampi etaṃ parihāraṃ labhatiyevā’’’ti ca ‘‘dasadivasādhiko māso’’tiādi ca yaṃ likhitaṃ. Taṃ na, ‘‘pañcamito paṭṭhāyā’’ti pāṭhe sajjiteva etena pariyāyena yathāvuttaatthasambhavato, na tāni ṭhānāni puna sajjitāni. Yathāṭhitavaseneva ajjhupekkhitabbānīti no takkoti ācariyo. Idaṃ sikkhāpadaṃ puṇṇamāyaṃ anissaggiyatthamevāti upatissatthero. ‘‘Pavāraṇāmāsassa juṇhapakkhapañcamito paṭṭhāyā’’ti pāṭhe sajjite etena pariyāyena yathāvutto uppannassa cīvarassa nidhānakālo dassito hoti, ‘‘accekacīvaranti accāyikacīvaraṃ vuccatī’’tiādi pāṭho. ‘‘Chaṭṭhito paṭṭhāyā’’ti ca ‘‘kāmañcesa dasāhaparama’’ntiādi ca yaṃ likhitaṃ, taṃ na pāṭho, tasmā ekādasadivasaṃ parihāraṃ labhatīti katvā ācariyena ‘‘pañcamito paṭṭhāyā’’ti likhāpito kira. ‘‘Pavāraṇāmāsassa juṇhapakkhachaṭṭhito paṭṭhāya pana uppannaṃ anaccekacīvarampi paccuddharitvā ṭhapitaṃ ticīvarampi etaṃ parihāraṃ labhatiyevāti pāṭho’’ti ca ‘‘accekacīvarassa anatthate kathine ekādasadivasādhiko māso, atthate kathine ekādasadivasādhikā pañcamāsāti pāṭho’’ti ca ettha papañcenti, tasmā suṭṭhu sallakkhetvā kathetabbaṃ, tuṇhībhūtena vā bhavitabbaṃ.
Tại sao ở đây lại được nói “một tháng và mười ngày” và các câu tương tự? Do có khả năng đủ. Bởi vì đối với y gấp phát sinh trước rạng đông của ngày mồng năm, thì chính một tháng và mười ngày là đủ. Do đó, đã được nói như vậy. Hơn nữa, phần ban ngày của ngày mồng năm đó, của đêm đã đến, được gọi là “hôm qua.” Huống chi là trước rạng đông. Chính vì vậy, Ngài đã nói “hôm qua, này Tôn giả, của chúng tôi” và các câu tương tự. Vị Giáo thọ sư nói rằng theo suy đoán của chúng tôi, nếu như vậy, thì điều đã được viết: “theo cách của đoạn Pāḷi đầu tiên đã được nói ‘từ ngày thứ sáu trở đi,’ thì ‘ngay cả y không phải là y gấp, và cả ba y đã được đặt xuống sau khi đã hủy bỏ, cũng chính là được hưởng sự miễn trừ này’” và “một tháng và mười ngày” và các câu tương tự, không phải vậy. Bởi vì khi đoạn Pāḷi “từ ngày thứ năm trở đi” đã được sửa, thì theo cách gián tiếp này, đã có khả năng có ý nghĩa như đã nói. Các nơi đó đã không được sửa lại. Cần phải được bỏ qua theo cách đã có. Học giới này, chỉ có ý nghĩa không phải từ bỏ vào ngày rằm, theo Trưởng lão Upatissa. Người ta nói rằng khi đoạn Pāḷi “từ ngày mồng năm của tuần trăng sáng của tháng Tự tứ” đã được sửa, thì theo cách gián tiếp này, đã được trình bày thời gian cất giữ của y đã phát sinh như đã nói. Đoạn Pāḷi “y gấp được gọi là y khẩn cấp” và các đoạn tương tự. “Từ ngày thứ sáu trở đi” và “dù đã được xác định bằng câu ‘và được phép giữ tối đa mười ngày’” và các câu tương tự, điều đã được viết, không phải là đoạn Pāḷi. Do đó, người ta nói rằng vì được hưởng sự miễn trừ trong mười một ngày, nên đã được vị Giáo thọ sư cho viết “từ ngày thứ năm trở đi.” “Đoạn Pāḷi là ‘còn y không phải là y gấp, và cả ba y đã được đặt xuống sau khi đã hủy bỏ, phát sinh từ ngày mồng sáu của tuần trăng sáng của tháng Tự tứ trở đi, cũng chính là được hưởng sự miễn trừ này’.” Và “đoạn Pāḷi là ‘đối với y gấp, khi chưa thọ Kathina, là một tháng và mười một ngày. Khi đã thọ Kathina, là năm tháng và mười một ngày’.” Ở đây, họ giải thích chi tiết. Do đó, cần phải ghi nhớ kỹ lưỡng và nói, hoặc là phải im lặng.

Accekacīvarasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về y gấp đã kết thúc.

9. Sāsaṅkasikkhāpadavaṇṇanā

9. Diễn giải học giới về sự nghi ngờ

652.‘‘Tiṇṇaṃ cīvarānaṃ aññataraṃ cīvaranti idaṃ ticīvare eva ayaṃ vidhi, itarasmiṃ yathāsukhanti dassanatthaṃ vutta’’nti vadanti. ‘‘Atirekachārattaṃ vippavasantī’’ti tasmiṃyeva senāsane vāso na vippavāsoti katvā vuttaṃ. Kasmā? Cīvarappavattijānanato. Ettha kiñcāpi ‘‘āraññakaṃ nāma senāsanaṃ pañcadhanusatikaṃ pacchima’’nti Yamakato atirekatopi vuttaṃ, āraññakameva pana senāsanaṃ hoti, dhutaṅgaṃ rakkhati cīvarappavattijānanapalibodhasambhavato.
652. “Một trong ba y,” một số người nói rằng đã được nói để trình bày rằng phương pháp này chỉ có trong ba y, còn trong các trường hợp khác thì tùy ý. “Họ xa lìa quá sáu đêm,” đã được nói vì cho rằng việc ở trong chính chỗ ở đó không phải là xa lìa. Tại sao? Do biết được sự tiến triển của y. Ở đây, mặc dù đã được nói từ Yamaka “chỗ ở trong rừng là tối thiểu năm trăm cây cung” nhiều hơn, nhưng chính chỗ ở trong rừng mới là chỗ ở. Giữ gìn hạnh đầu đà, do có khả năng có sự vướng bận trong việc biết sự tiến triển của y.

653. ‘‘Gāvutato atirekappamāṇena labhatī’’ti yaṃ vuttaṃ, taṃ kathaṃ paññāyatīti ce? ‘‘Siyā ca tassa bhikkhuno kocideva paccayo tena cīvarena vippavāsāyā’’ti Yamakato. Yojanappamāṇepi siyāti ce? Na, ‘‘puna gāmasīmaṃ okkamitvā vasitvā pakkamatī’’ti anāpattivāre anuññātattā. Yadi evaṃ ‘‘yojanappamāṇe na labhatī’’ti idaṃ kinti? Idaṃ nibaddhāvāsavaseneva vuttaṃ. Tattha dhutaṅgaṃ bhijjatīti? Na bhijjati, kintu na idha dhutaṅgādhikāro atthīti. Atha kasmā ‘‘ayaṃ dhutaṅgacoroti veditabbo’’ti vuttanti? Asambhavato. Kathaṃ paññāyatīti? Aṅgesu abhāvato. Dhutaṅgadharassa patirūpasenāsanadīpanato dhutaṅgadharatā tassa siddhā. Vacanappamāṇatoti ce? Na, vacanappamāṇato ca pāḷiyeva pamāṇaṃ. ‘‘Anāpatti puna gāmasīmaṃ okkamitvā vasitvā pakkamatī’’ti hi vuttaṃ. Gāmasīmā nikkhamitvā kittakaṃ kālaṃ vasitvā pakkamitabbanti ce? Punadivaseyeva, tasmā aṭṭhamo aruṇo nibaddhāvāse vā gantabbaṭṭhāne vā uṭṭhetabboti eke. Antochārattanti eke. Yāva nibaddhāvāsaṃ na kappetīti eke. Yāva maggaparissamavinodanāti eke. Sati antarāye antochārattaṃ vasati, anāpatti. Nibaddhāvāsakappane sati aruṇuggamane āpatti. Sace taṃsattamo divaso, tadaheva nikkhittacīvaraṃ gahetabbaṃ, paccuddharitabbaṃ vāti eke. Sace antarā navamaggapātubhāvena vā navagāmasannivesena vā, taṃ senāsanaṃ aṅgasampattito parihāyati. Tadaheva cīvaraṃ gahetabbaṃ vā paccuddharitabbaṃ vā. Chārattaṃ vippavasantassa ce parihāyati, anāpatti anuññātadivasattāti eke. Āpatti eva anaṅgasampattitoti eke. Yuttataraṃ panettha vicāretvā gahetabbaṃ. Sace dhutaṅgadharo hoti, gāmasīmāyaṃ avasitvā pacchimappamāṇayutte ṭhāne vasitvā pakkamitabbaṃ. Paṭhamaṃ baddhaavippavāsasīmo ce gāmo hoti, aññasmimpi māse antosīmāya vasato anāpatti. Porāṇagaṇṭhipade ‘‘yathāvuttasenāsane vasantenāpi chārattameva cīvaraṃ gāme nikkhipitabbanti adhippāyena aññaṃ antochārattampi aññampi vasato āpattiyevā’’ti vuttaṃ.
653. Điều đã được nói “được phép với kích thước quá một gāvuta,” nếu hỏi làm thế nào để biết được điều đó? Từ Yamaka “và có thể có một duyên nào đó cho Tỳ-khưu đó để xa lìa y đó.” Nếu nói rằng có thể có ngay cả ở kích thước một yojana? Không phải vậy. Vì đã được cho phép trong phần không có tội “sau khi đã vào lại ranh giới làng và ở rồi ra đi.” Nếu vậy, điều này là gì “không được phép ở kích thước một yojana”? Điều này đã được nói chính theo cách ở lại cố định. Ở đó, hạnh đầu đà có bị phá vỡ không? Không bị phá vỡ. Nhưng ở đây không có quyền hạn về hạnh đầu đà. Vậy tại sao lại được nói “cần phải biết rằng đây là kẻ trộm hạnh đầu đà”? Do không có khả năng. Làm thế nào để biết? Do không có trong các yếu tố. Đã được xác định tính chất là người giữ hạnh đầu đà của người đó do việc trình bày chỗ ở phù hợp cho người giữ hạnh đầu đà. Nếu nói rằng do tiêu chuẩn của lời nói? Không phải vậy. Và do tiêu chuẩn của lời nói, chính Pāḷi là tiêu chuẩn. Bởi vì đã được nói “không phạm tội, sau khi đã vào lại ranh giới làng và ở rồi ra đi.” Nếu hỏi, sau khi đã ra khỏi ranh giới làng, ở trong bao lâu rồi ra đi? Chính vào ngày hôm sau. Do đó, một số người cho rằng rạng đông thứ tám phải mọc lên ở nơi ở cố định hoặc ở nơi cần phải đến. Một số người cho rằng trong vòng sáu đêm. Một số người cho rằng cho đến khi chưa xác định nơi ở cố định. Một số người cho rằng cho đến khi hết mệt mỏi trên đường. Nếu có trở ngại ở giữa, ở trong vòng sáu đêm, không phạm tội. Nếu đã xác định nơi ở cố định, thì phạm tội vào lúc rạng đông. Một số người cho rằng nếu đó là ngày thứ bảy, thì phải lấy y đã được đặt xuống ngay trong ngày đó, hoặc là phải hủy bỏ. Nếu ở giữa, do sự xuất hiện của con đường mới hoặc do sự thành lập của ngôi làng mới, mà chỗ ở đó mất đi sự đầy đủ về yếu tố. Thì phải lấy y ngay trong ngày đó, hoặc là phải hủy bỏ. Một số người cho rằng nếu nó mất đi đối với người đang xa lìa trong sáu đêm, thì không phạm tội, vì là ngày đã được cho phép. Một số người cho rằng chính là có tội, vì không đủ yếu tố. Ở đây, cần phải xem xét và chấp nhận điều hợp lý hơn. Nếu là người giữ hạnh đầu đà, thì sau khi đã ở trong một nơi có kích thước tối thiểu, phù hợp, ở ranh giới làng, rồi ra đi. Nếu làng là ranh giới không xa lìa đã được kết trước đó, thì không phạm tội khi ở trong ranh giới ngay cả trong một tháng khác. Trong sách giải thích từ khó xưa, đã được nói: “ngay cả khi ở trong chỗ ở đã được nói, cũng chỉ được đặt y trong làng trong sáu đêm. Với ý định đó, ngay cả khi ở trong vòng sáu đêm khác, cũng chính là có tội.”

Sāsaṅkasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về sự nghi ngờ đã kết thúc.

10. Pariṇatasikkhāpadavaṇṇanā

10. Diễn giải học giới về việc chuyển hướng

657.Dethāvusoamhākanti ettha akataviññatti hoti na hotīti? Hoti, yadi evaṃ aññātakaviññattisikkhāpadassa ca imassa ca kiṃ nānākaraṇanti? Taṃ aññātakaappavāriteyeva viññāpentassa, idaṃ ñātakapavāritepi, taṃ anacchinnacīvarasseva, idaṃ tassapi, taṃ cīvaraṃyeva viññāpentassa, idaṃ acīvarampi. Evaṃ sante idaṃ taṃ antokatvā ṭhitaṃ hoti, tasmā dvinnampi aṅgasampattiyā sati kena bhavitabbanti? Iminā bhavitabbaṃ imassa nippadesatoti eke. Dvīhipi bhavitabbaṃ ubhinnampi aṅgasiddhitoti eke. Imāni tassa aṅgāni vikappanupagacīvaratā, samayābhāvo, aññātakaviññatti, tāya ca paṭilābhoti cattāri. Imassa pana saṅghe pariṇatabhāvo, ñatvā attano pariṇāmanaṃ, paṭilābhoti tīṇi. Ettha paṭhamo vādo ayutto katvāpi okāsaṃ aṭṭhakathāyaṃ, parivāre ca avicāritattā. Yadi evaṃ tattha aṅgesu ‘‘anaññapariṇatatā’’ti vattabbanti ce? Na vattabbaṃ, atthato siddhattā. Pariṇatasikkhāpadadvayasiddhito, pariṇatasaññito, āpattisambhavato ca ‘‘mayhampi dethā’’ti vadati, ‘‘vaṭṭatī’’ti anuddiṭṭhaṃ, ‘‘amhākampi atthī’’ti vuttattā vaṭṭati. ‘‘Saṅghassa pariṇataṃ…pe… āpatti dukkaṭassā’’ti ettha ‘‘puggalassā’’ti na vuttaṃ, yato suddhapācittiyavasena āgatattā. ‘‘Aññacetiyassā’’ti na vuttaṃ saṅghassa acetiyattā, tasmāyeva ‘‘cetiyassa pariṇataṃ…pe… āpatti dukkaṭassā’’ti etthāpi ‘‘aññasaṅghassa aññapuggalassā’’ti na vuttaṃ. ‘‘Yato tathā idha ca ‘puggalassa pariṇataṃ…pe… āpatti dukkaṭassā’ti ettha ca ‘attanopī’ti kiñcāpi na vuttaṃ, tathāpi sambhavatī’’ti vadanti. Taṃ pana idha attano pariṇāmanādhikārattā imassa sikkhāpadassa na vuttanti eke. Tatuttarisikkhāpade ‘‘aññassatthāyā’’ti (pārā. aṭṭha. 2.526) padaṃ viyāti eke. Taṃ na, ettha puggalapariṇāmanasikkhāpade avuttattā. Dhammasiritthero panāha –
657. Hãy cho chúng tôi, này Tôn giả, ở đây, có phải là sự xin không được làm hay không? Có. Nếu vậy, có sự khác biệt gì giữa học giới về việc xin người không quen và học giới này? Học giới đó là đối với người xin chỉ với người không quen, không được thỉnh mời. Học giới này là ngay cả với người quen, đã được thỉnh mời. Học giới đó là chỉ đối với y chưa bị rách. Học giới này là cả đối với y đó. Học giới đó là chỉ đối với người xin y. Học giới này là cả vật không phải là y. Nếu như vậy, học giới này đã bao gồm học giới đó. Do đó, khi có sự đầy đủ về yếu tố của cả hai, thì phải có bằng cái nào? Một số người cho rằng phải có bằng cái này, vì không có sự phân biệt của nó. Một số người cho rằng phải có bằng cả hai, vì cả hai đều có đủ yếu tố. Bốn yếu tố của học giới đó là: y có thể được định đoạt, không có thời gian, xin người không quen, và nhận được nó. Còn ba yếu tố của học giới này là: trạng thái đã được chuyển hướng trong Tăng chúng, biết và chuyển hướng cho chính mình, và nhận được. Ở đây, quan điểm đầu tiên không hợp lý, vì đã không được xem xét trong Chú giải và Parivāra, dù đã tạo cơ hội. Nếu vậy, nếu nói rằng ở đó trong các yếu tố, lẽ ra phải nói “tính chất không được chuyển hướng cho người khác”? Không cần phải nói, vì đã được xác định về mặt ý nghĩa. Từ sự xác định của hai học giới về việc chuyển hướng, người có ý thức là đã được chuyển hướng, và vì có khả năng có tội, nên nói “hãy cho cả tôi nữa,” “được phép” chưa được chỉ định, được phép vì đã được nói “cũng có cho chúng tôi.” “Vật đã được chuyển hướng cho Tăng chúng… cho đến… phạm tội Tác Ác,” ở đây không được nói “cho cá nhân,” do đã có theo cách của tội Ưng Đối Trị trong sạch. Không được nói “cho tháp khác,” vì Tăng chúng không phải là tháp. Chính vì vậy, ngay cả ở đây “vật đã được chuyển hướng cho tháp… cho đến… phạm tội Tác Ác,” cũng không được nói “cho Tăng chúng khác, cho cá nhân khác.” Một số người nói rằng “do đó, cũng vậy ở đây, và trong câu ‘vật đã được chuyển hướng cho cá nhân… cho đến… phạm tội Tác Ác,’ ở đây, ngay cả khi không được nói ‘cũng cho chính mình,’ nhưng vẫn có thể có.” Một số người cho rằng điều đó không được nói trong học giới này, vì là quyền hạn chuyển hướng cho chính mình. Một số người cho rằng giống như từ “vì lợi ích của người khác” (pārā. aṭṭha. 2.526) trong học giới tiếp theo. Không phải vậy, vì không được nói trong học giới chuyển hướng cho cá nhân ở đây. Còn Trưởng lão Dhammasiri đã nói –

‘‘Attano aññato lābhaṃ, saṅghassaññassa vā nataṃ;
Pariṇāmeyya nissaggi, pācittiyampi dukkaṭa’’nti.
“Lợi lộc của mình từ người khác, hoặc là của Tăng chúng và người khác,
Nếu chuyển hướng, thì là phải từ bỏ, cả Ưng Đối Trị và Tác Ác.”

Tassattho – saṅghassa pariṇataṃ attano pariṇāmeyya nissaggiyaṃ. Tadeva aññato pariṇāmeyya pācittiyaṃ. Aññassa pariṇataṃ attano vā parassa vā pariṇāmeyya dukkaṭanti, tasmā aññātakaviññattiādīsu vuttāpattisambhavato idha pariṇatadvaye ‘‘attano’’ti padaṃ na vuttaṃ. Tasmiñhi vutte dukkaṭamattappasaṅgo siyā, avutte panetesu vuttāpattīnaṃ yathāgamamaññatarā ca idha avuttasiddhi dukkaṭañcāti dve āpattiyo ekato hontīti vinayadharānaṃ anavasesañāṇassa okāso kato hotīti.
Ý nghĩa của nó là – vật đã được chuyển hướng cho Tăng chúng, nếu chuyển hướng cho chính mình, thì là phải từ bỏ. Chính vật đó, nếu chuyển hướng từ người khác, thì là Ưng Đối Trị. Vật đã được chuyển hướng cho người khác, nếu chuyển hướng cho chính mình hoặc cho người khác, thì là Tác Ác. Do đó, vì có khả năng có tội đã được nói trong việc xin người không quen và các trường hợp khác, nên ở đây, trong hai trường hợp chuyển hướng, từ “của chính mình” không được nói. Bởi vì nếu được nói, sẽ có khả năng chỉ có tội Tác Ác. Còn nếu không được nói, thì trong số các tội đã được nói, một trong số chúng theo như đã có, và tội Tác Ác được xác định dù không được nói ở đây, như vậy có hai tội cùng một lúc, và đã tạo cơ hội cho trí tuệ không bỏ sót của các vị trì Luật.

Iti tiṃsakakaṇḍaṃ sāramaṇḍaṃ,
Alametaṃ vinayassa sāramaṇḍe;
Idha niṭṭhitasabbasāramaṇḍaṃ,
Vinayavasena punāti sāramaṇḍanti.
Như vậy, phẩm ba mươi là cốt lõi,
Đủ rồi, trong cốt lõi của Luật;
Ở đây, đã kết thúc tất cả cốt lõi,
Theo cách của Luật, lại là cốt lõi.

Pariṇatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải học giới về việc chuyển hướng đã kết thúc.

Niṭṭhito pattavaggo tatiyo.
Phẩm Bát thứ ba đã kết thúc.

Nissaggiyavaṇṇanā niṭṭhitā.
Diễn giải về Ưng Xả đã kết thúc.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang