Xua Tan Hoài Nghi

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Xua Tan Hoài Nghi II – Đại Phẩm: 8. Chương Y Phục

8. Cīvarakkhandhako

8. Phẩm Y

Jīvakavatthukathādivaṇṇanā

Chú giải về câu chuyện liên quan đến Jīvaka v.v…

329. Cīvarakkhandhake kammavipākanti kammapaccayautucittāhārasamuṭṭhitaṃ appaṭibāhiyarogaṃ sandhāya vuttaṃ kammajassa rogassa abhāvā.
329. Ở phẩm Y, câu “dị thục của nghiệp” được nói đến nhằm ám chỉ chứng bệnh không thể chữa trị từ bên ngoài, được sanh khởi do nghiệp, tiết thời, tâm, và vật thực làm duyên; (được nói như thế) là do không có chứng bệnh sanh từ nghiệp.

330. Pāḷiyaṃ saṃyamassāti saṅgahaṇassa. Avisajjanassāti attho ‘‘yo saṃyamo so vināso’’tiādīsu (pe. va. 237) viya. Etassa saṃyamassa phalaṃ upajānāmāti yojanā. Tameva phalaṃ dassentī āha ‘‘varametaṃ…pe… āsitta’’nti. Keci pana ‘‘saṃyamassāti ānisaṃsassa, upayogatthe cetaṃ sāmivacana’’nti (sārattha. ṭī. mahāvagga 3.329-330) atthaṃ vadanti.
330. Trong Pāḷi, câu “của sự thu thúc” có nghĩa là của sự thâu giữ. Có nghĩa là không từ bỏ, giống như trong câu “sự thu thúc nào là sự hủy hoại ấy” v.v… (pe. va. 237). Cách nối kết câu là: “Chúng ta hãy biết quả của sự thu thúc này.” Vị ấy đã nói câu “điều này là tốt hơn …v.v… được rưới lên,” trong khi trình bày chính quả ấy. Tuy nhiên, một số vị nói ý nghĩa rằng: “câu ‘của sự thu thúc’ có nghĩa là ‘của sự lợi ích,’ và đây là sở thuộc cách với ý nghĩa là công dụng” (sārattha. ṭī. mahāvagga 3.329-330).

336. Ussannadosoti sañjātapittādidoso. Sabbatthāti sakalasarīre.
336. Câu “có chứng bệnh trầm trọng” có nghĩa là có chứng bệnh như mật v.v… đã sanh khởi. Câu “khắp nơi” có nghĩa là trong toàn thân.

337. Mahāpiṭṭhiyakojavanti hatthipiṭṭhiyaṃ attharitabbatāya ‘‘mahāpiṭṭhiya’’nti laddhasamaññaṃ uṇṇāmayattharaṇaṃ.
337. Câu “tấm trải lưng voi lớn” là tấm trải bằng lông cừu được mệnh danh là “tấm trải lưng lớn” do cần được trải trên lưng voi.

338-9. Upaḍḍhakāsinaṃ khamamānanti aḍḍhakāsiagghanakaṃ. Pāḷiyaṃ kiṃ nu khoti katamaṃ nu kho.
338-9. Câu “có thể chịu được nửa đồng tiền kāsi” có nghĩa là có giá trị nửa đồng tiền kāsi. Trong Pāḷi, câu “cái gì vậy?” có nghĩa là cái nào vậy?

340-342. Upacāreti susānassa āsanne padese. Chaḍḍetvā gatāti kiñci avatvā eva chaḍḍetvā gatā, etena ‘‘bhikkhū gaṇhantū’’ti chaḍḍite eva akāmā bhāgadānaṃ vihitaṃ, kevalaṃ chaḍḍite pana katikāya asati ekato bahūsu paviṭṭhesu yena gahitaṃ, tena akāmabhāgo na dātabboti dasseti. Samānā disā puratthimādibhedā etesanti sadisāti āha ‘‘ekadisāya vā okkamiṃsū’’ti. Dhuravihāraṭṭhāneti vihārassa sammukhaṭṭhāne.
340-342. Câu “trong vùng phụ cận” có nghĩa là ở nơi gần nghĩa địa. Câu “đã vứt bỏ rồi đi” có nghĩa là đã vứt bỏ rồi đi mà không nói gì cả. Bằng việc này, vị ấy trình bày rằng việc chia phần không mong muốn đã được quy định chỉ trong trường hợp đã vứt bỏ với ý nghĩ “mong các tỳ-khưu hãy nhận lấy.” Còn trong trường hợp chỉ vứt bỏ, khi không có sự thỏa thuận, trong khi nhiều người cùng đi vào, thì phần không mong muốn không nên được trao cho người nào đã nhận lấy. Vị ấy nói rằng câu “cùng hướng” có nghĩa là những người này có cùng một hướng khác nhau như hướng đông v.v…, là câu “hoặc họ đã đi vào từ một hướng.” Câu “tại nơi đầu tự viện” có nghĩa là tại nơi phía trước của tự viện.

Jīvakavatthukathādivaṇṇanā niṭṭhitā.

Chú giải về câu chuyện liên quan đến Jīvaka v.v… đã kết thúc.

Bhaṇḍāgārasammutiādikathāvaṇṇanā

Chú giải về câu chuyện liên quan đến sự đồng thuận về kho chứa đồ v.v…

343. Vihāramajjheti sabbesaṃ jānanatthāya vuttaṃ. Vaṇṇāvaṇṇaṃ katvāti paṭivīsappahonakatājānanatthaṃ haliddiyādīhi khuddakamahantavaṇṇehi yutte same koṭṭhāse katvā. Tenāha ‘‘same paṭivīse ṭhapetvā’’ti. Idanti sāmaṇerānaṃ upaḍḍhapaṭivīsadānaṃ. Phātikammanti pahonakakammaṃ. Yattakena vinayāgatena sammuñjanībandhanādihatthakammena vihārassa ūnakatā na hoti, tattakaṃ katvāti attho. Sabbesanti tatruppādavassāvāsikaṃ gaṇhantānaṃ sabbesaṃ bhikkhūnaṃ, sāmaṇerānañca. Bhaṇḍāgārikacīvarepīti akālacīvaraṃ sandhāya vuttaṃ. Etanti ukkuṭṭhiyā katāya samabhāgadānaṃ. Virajjhitvā karontīti kattabbakālesu akatvā yathārucitakkhaṇe karonti.
343. Câu “giữa tự viện” được nói đến nhằm mục đích cho tất cả được biết. Câu “đã thực hiện việc đánh dấu màu” có nghĩa là đã chia thành các phần bằng nhau được đánh dấu bằng các màu nhỏ và lớn với các loại thuốc nhuộm màu vàng v.v… nhằm mục đích biết được sự vừa đủ của từng phần. Do đó, vị ấy đã nói câu “sau khi đã đặt các phần bằng nhau.” Câu “việc này” có nghĩa là việc trao nửa phần cho các vị sa-di. Câu “công việc đền bù” có nghĩa là công việc vừa đủ. Có nghĩa là sau khi đã thực hiện công việc tay chân như quét dọn, buộc chổi v.v… đã được đề cập trong Luật ở mức độ mà không làm cho tự viện bị thiếu hụt. Câu “cho tất cả” có nghĩa là cho tất cả các vị tỳ-khưu và các vị sa-di, những vị đã nhận vật dụng an cư mùa mưa được phát sanh tại nơi ấy. Câu “cả đối với y của vị giữ kho” được nói đến nhằm ám chỉ y phi thời. Câu “điều này” có nghĩa là việc chia phần bằng nhau được thực hiện theo phương pháp rút thăm. Câu “thực hiện một cách sai lệch” có nghĩa là họ không thực hiện vào những lúc cần thực hiện mà thực hiện vào lúc tùy thích.

Ettakena mama cīvaraṃ pahotīti dvādasagghanakeneva mama cīvaraṃ paripuṇṇaṃ hoti, na tato ūnenāti sabbaṃ gahetukāmoti attho.
Câu “y của tôi chỉ đủ với chừng ấy” có nghĩa là “y của tôi được đầy đủ chỉ với (vật có) giá trị mười hai, không phải với (vật) ít hơn thế,” có nghĩa là vị ấy muốn lấy tất cả.

Bhaṇḍāgārasammutiādikathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Chú giải về câu chuyện liên quan đến sự đồng thuận về kho chứa đồ v.v… đã kết thúc.

Cīvararajanakathādivaṇṇanā

Chú giải về câu chuyện liên quan đến việc nhuộm y v.v…

344. Evañhi kateti vaṭṭādhārassa anto rajanodakaṃ, bahi challikañca katvā viyojane kate. Na uttaratīti kevalaṃ udakato pheṇuṭṭhānābhāvā na uttarati. Rajanakuṇḍanti pakkarajanaṭṭhapanakaṃ mahāghaṭaṃ.
344. Câu “khi đã thực hiện như vậy” có nghĩa là khi đã thực hiện việc tách rời bằng cách đặt nước nhuộm bên trong vật chứa hình tròn và đặt vỏ cây bên ngoài. Câu “không trào lên” có nghĩa là không trào lên chỉ do không có sự nổi bọt từ nước. Câu “chậu nhuộm” có nghĩa là cái ghè lớn dùng để đựng thuốc nhuộm đã nấu.

345. Anuvātādīnaṃ dīghapattānanti āyāmato, vitthārato ca anuvātaṃ. Ādi-saddena dvinnaṃ khandhānaṃ antarā mātikākārena ṭhapitapattañca ‘‘dīghapatta’’nti daṭṭhabbaṃ. Āgantukapattanti diguṇacīvarassa upari aññaṃ paṭṭaṃ appenti, taṃ sandhāya vuttaṃ. Taṃ kira idāni na karonti.
345. Câu “của những tấm lá dài xuôi chiều gió v.v…” có nghĩa là xuôi theo chiều dài và chiều rộng. Bằng từ “v.v…” cũng cần được hiểu “tấm lá dài” là tấm lá được đặt theo hình máng xối ở giữa hai vai. Câu “tấm lá thêm vào” được nói đến nhằm ám chỉ tấm lá khác mà họ đắp lên trên y hai lớp. Nghe nói rằng, hiện nay họ không làm điều ấy.

346. Pāḷiyaṃ nandimukhiyāti tuṭṭhimukhiyā, pasannadisāmukhāyāti attho.
346. Trong Pāḷi, câu “có bộ mặt vui tươi” có nghĩa là có bộ mặt hoan hỷ, có bộ mặt với vẻ trong sáng.

348. Acchupeyyanti patiṭṭhapeyyaṃ. Hatavatthakānanti purāṇavatthānaṃ. Anuddharitvāvāti aggaḷe viya dubbalaṭṭhānaṃ anapanetvāva.
348. Câu “tôi nên đặt vào” có nghĩa là tôi nên thiết lập. Câu “của những tấm vải cũ” có nghĩa là của những tấm vải xưa. Câu “sau khi chưa gỡ ra” có nghĩa là sau khi chưa loại bỏ chỗ yếu giống như cái chốt cửa.

349-351. Visākhavatthumhi kallakāyāti akilantakāyā. Gatīti ñāṇagati adhigamo. Abhisamparāyoti ‘‘sakideva imaṃ lokaṃ āgantvā dukkhassantaṃ karotī’’tiādinā (saṃ. ni. 5.1048) vutto ñāṇābhisamparāyo, maggañāṇayuttehi gantabbagativisesoti attho. Taṃ bhagavā byākarissati. ‘‘Dadāti dāna’’nti idaṃ annapānavirahitānaṃ sesapaccayānaṃ dānavasena vuttaṃ. Sovaggikanti saggasaṃvattanikaṃ.
349-351. Trong câu chuyện về Visākhā, câu “có thân khỏe mạnh” có nghĩa là có thân không mệt mỏi. Câu “cảnh giới” có nghĩa là sự chứng đắc, cảnh giới của trí tuệ. Câu “đời sau” có nghĩa là cảnh giới đặc biệt của trí tuệ được nói đến (trong câu) “chỉ một lần trở lại thế gian này rồi làm cho khổ đau được chấm dứt” v.v… (saṃ. ni. 5.1048), là cảnh giới cần đến bởi những vị có trí tuệ đạo. Đức Thế Tôn sẽ giải thích điều ấy. Câu “cô ấy bố thí vật cúng dường” này được nói theo trường hợp cúng dường các vật dụng còn lại, ngoại trừ đồ ăn thức uống. Câu “đưa đến cõi trời” có nghĩa là đưa đến cõi trời.

359. Aṭṭhapadakacchannenāti aṭṭhapadakasaṅkhātajūtaphalakalekhāsaṇṭhānena.
359. Câu “với tấm trải có hình tám ô vuông” có nghĩa là với hình dạng của đường kẻ trên bàn cờ được gọi là bàn cờ tám ô.

362. Pāḷiyaṃ nadīpāraṃ gantunti bhikkhuno nadīpāragamanaṃ hotīti attho. Aggaḷaguttiyeva pamāṇanti imehi catūhi nikkhepakāraṇehi ṭhapentenapi aggaḷaguttivihāre eva ṭhapetuṃ vaṭṭatīti adhippāyo. Nissīmāgatanti vassānasaṅkhātaṃ kālasīmaṃ atikkantaṃ, taṃ vassikasāṭikacīvaraṃ na hotīti attho.
362. Trong Pāḷi, câu “để đi sang bờ sông bên kia” có nghĩa là có việc đi sang bờ sông bên kia của tỳ-khưu. Câu “chỉ sự bảo vệ bằng then cài là tiêu chuẩn” có chủ ý rằng, ngay cả người đặt cất với bốn lý do ký thác này cũng được phép đặt cất chỉ trong tự viện có sự bảo vệ bằng then cài. Câu “đã đi ra ngoài ranh giới” có nghĩa là đã vượt qua ranh giới thời gian được gọi là mùa mưa, có nghĩa là y đó không phải là y tắm mưa.

Cīvararajanakathādivaṇṇanā niṭṭhitā.

Chú giải về câu chuyện liên quan đến việc nhuộm y v.v… đã kết thúc.

Saṅghikacīvaruppādakathāvaṇṇanā

Chú giải về câu chuyện phát sanh y của Tăng chúng

363. Pañca māseti accantasaṃyoge upayogavacanaṃ. Vaḍḍhiṃ payojetvā ṭhapitaupanikkhepatoti vassāvāsikassatthāya dāyakehi vaḍḍhiṃ payojetvā ṭhapitaupanikkhepato. ‘‘Idha vassaṃvutthasaṅghassā’’ti idaṃ abhilāpamattaṃ. Idha-saddaṃ pana vinā ‘‘vassaṃvutthasaṅghassa demā’’ti vuttepi so eva nayo. Anatthatakathinassāpi pañca māse pāpuṇātīti vassāvāsikalābhavasena uppannattā anatthatakathinassāpi vutthavassassa pañca māse pāpuṇāti. Vakkhati hi ‘‘cīvaramāsato paṭṭhāya yāva hemantassa pacchimo divaso, tāva vassāvāsikaṃ demāti vutte kathinaṃ atthataṃ vā hotu anatthataṃ vā, atītavassaṃvutthānameva pāpuṇātī’’ti (mahāva. aṭṭha. 379). Tato paranti pañcamāsato paraṃ, gimhānassa paṭhamadivasato paṭṭhāyāti attho. ‘‘Kasmā? Piṭṭhisamaye uppannattā’’ti idaṃ ‘‘udāhu anāgatavasse’’ti imassānantaraṃ daṭṭhabbaṃ. Potthakesu pana ‘‘anatthatakathinassāpi pañca māse pāpuṇātī’’ti imassānantaraṃ ‘‘kasmā piṭṭhisamaye uppannattā’’ti idaṃ likhanti, taṃ pamādalikhitaṃ piṭṭhisamaye uppannaṃ sandhāya ‘‘anatthatakathinassāpī’’ti vattabbato. Vutthavasse hi sandhāya ‘‘anatthatakathinassāpī’’ti vuttaṃ, na ca piṭṭhisamaye uppannaṃ vutthavassasseva pāpuṇātīti sammukhībhūtānaṃ sabbesampi pāpuṇanato. Teneva vakkhati ‘‘sace pana gimhānaṃ paṭhamadivasato paṭṭhāya evaṃ vadati, tatra sammukhībhūtānaṃ sabbesaṃ pāpuṇāti. Kasmā? Piṭṭhisamaye uppannattā’’ti (mahāva. aṭṭha. 179).
363. Câu “năm tháng” là cách nói chỉ công dụng trong sự liên kết tuyệt đối. Câu “từ vật ký thác đã được đặt bằng cách cho vay lấy lãi” có nghĩa là từ vật ký thác đã được các thí chủ đặt bằng cách cho vay lấy lãi vì lợi ích của người an cư mùa mưa. Câu “cho Tăng chúng đã an cư mùa mưa tại đây” này chỉ là lời nói suông. Ngay cả khi nói “chúng con xin dâng cho Tăng chúng đã an cư mùa mưa” mà không có từ “tại đây,” thì phương pháp cũng vẫn như thế. Câu “cũng thuộc về vị không thọ y kaṭhina trong năm tháng” có nghĩa là do đã phát sanh theo cách là vật lợi lộc an cư mùa mưa, nên cũng thuộc về vị đã an cư mùa mưa mà không thọ y kaṭhina trong năm tháng. Thật vậy, sẽ được nói rằng: “kể từ tháng y cho đến ngày cuối cùng của mùa đông, khi nói rằng ‘chúng con xin dâng vật dụng an cư mùa mưa,’ dù y kaṭhina đã được thọ hay chưa được thọ, cũng chỉ thuộc về những vị đã an cư mùa mưa vừa qua” (mahāva. aṭṭha. 379). Câu “sau đó” có nghĩa là sau năm tháng, có nghĩa là kể từ ngày đầu tiên của mùa hè. Câu “Tại sao? Vì đã phát sanh trong thời gian sau mùa mưa” này cần được hiểu là đi liền sau câu “hay trong mùa mưa sắp tới.” Tuy nhiên, trong các sách, họ viết câu “Tại sao? Vì đã phát sanh trong thời gian sau mùa mưa” này liền sau câu “cũng thuộc về vị không thọ y kaṭhina trong năm tháng,” điều đó là do sơ suất trong việc ghi chép, bởi vì lẽ ra phải nói câu “cũng thuộc về vị không thọ y kaṭhina” nhằm ám chỉ vật phát sanh trong thời gian sau mùa mưa. Thật vậy, câu “cũng thuộc về vị không thọ y kaṭhina” được nói nhằm ám chỉ mùa mưa đã an cư, và vật phát sanh trong thời gian sau mùa mưa không chỉ thuộc về vị đã an cư mùa mưa, bởi vì nó thuộc về tất cả những vị có mặt. Chính vì thế, sẽ được nói rằng: “Còn nếu, kể từ ngày đầu tiên của mùa hè mà người ấy nói như vậy, thì (vật ấy) thuộc về tất cả những vị có mặt tại đó. Tại sao? Vì đã phát sanh trong thời gian sau mùa mưa” (mahāva. aṭṭha. 179).

Duggahitānīti aggahitāni. Saṅghikānevāti attho. Itovāti therānaṃ dātabbatova, idānevāti vā attho.
Câu “những vật đã được nắm giữ sai” có nghĩa là những vật chưa được nắm giữ. Có nghĩa là chỉ những vật của Tăng chúng. Câu “từ đây” có nghĩa là chỉ từ những gì đáng được trao cho các trưởng lão, hoặc có nghĩa là ngay bây giờ.

Saṅghikacīvaruppādakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Chú giải về câu chuyện phát sanh y của Tăng chúng đã kết thúc.

Upanandasakyaputtavatthukathāvaṇṇanā

Chú giải về câu chuyện liên quan đến trưởng lão Upananda, người con trai của dòng họ Thích Ca

364. ‘‘Sattāhavārena aruṇameva uṭṭhāpetī’’ti idaṃ nānāsīmāvihāresu kattabbanayena ekasmimpi vihāre dvīsu senāsanesu nivutthabhāvadassanatthaṃ vuttaṃ, aruṇuṭṭhāpaneneva tattha vuttho hoti, na pana vassacchedaparihārāya. Antoupacārasīmāyapi yattha katthaci aruṇaṃ uṭṭhāpento attanā gahitasenāsanaṃ appaviṭṭhopi vutthavasso eva hoti, gahitasenāsane pana nivuttho nāma na hoti, tattha ca aruṇuṭṭhāpane pana sati hoti. Tenāha ‘‘purimasmiṃ bahutaraṃ nivasati nāmā’’ti, etena ca itarasmiṃ sattāhavārenāpi aruṇuṭṭhāpane sati eva appakataraṃ nivasati nāma hoti, nāsatīti dīpitaṃ hoti. Nānālābhehīti visuṃ visuṃ nibaddhavassāvāsikalābhehi. Nānūpacārehīti nānāparikkhepanānādvārehi. Ekasīmāvihārehīti dvinnaṃ vihārānaṃ ekena pākārena parikkhittattā ekāya upacārasīmāya antogatehi dvīhi vihārehi. Senāsanaggāho paṭippassambhatīti paṭhamaṃ gahito paṭippassambhati. Tatthāti yattha senāsanaggāho paṭippassaddho, tattha.
364. Câu “cứ mỗi bảy ngày, vị ấy chỉ làm cho rạng đông mọc lên” này được nói nhằm mục đích cho thấy tình trạng đã ngụ trong hai trú xứ tại một tự viện theo phương pháp cần được thực hiện trong các tự viện có ranh giới khác nhau; vị ấy được xem là đã an cư tại nơi ấy chỉ bằng việc làm cho rạng đông mọc lên, chứ không phải để tránh việc bị gián đoạn mùa mưa. Ngay cả trong ranh giới phụ cận bên trong, người làm cho rạng đông mọc lên ở bất cứ nơi nào cũng được xem là đã an cư mùa mưa, mặc dù chưa đi vào trú xứ mà mình đã nhận; tuy nhiên, vị ấy không được gọi là đã ngụ trong trú xứ đã nhận, nhưng khi có việc làm cho rạng đông mọc lên tại nơi ấy thì (mới) được gọi là đã ngụ. Do đó, vị ấy nói: “vị ấy được gọi là ngụ nhiều hơn ở trú xứ trước;” và bằng điều này, được làm sáng tỏ rằng, vị ấy được gọi là ngụ ít hơn ở trú xứ kia chỉ khi có việc làm cho rạng đông mọc lên, ngay cả chỉ với mỗi bảy ngày, chứ không phải khi không có. Câu “với các vật lợi lộc khác nhau” có nghĩa là với các vật lợi lộc an cư mùa mưa thường xuyên một cách riêng biệt. Câu “với các vùng phụ cận khác nhau” có nghĩa là với các tường rào khác nhau, các cổng khác nhau. Câu “với các tự viện có cùng một ranh giới” có nghĩa là với hai tự viện nằm trong một ranh giới phụ cận do được bao bọc bởi một bức tường rào của hai tự viện. Câu “việc nhận trú xứ được lắng dịu” có nghĩa là việc nhận (trú xứ) đầu tiên được lắng dịu. Câu “tại đó” có nghĩa là tại nơi mà việc nhận trú xứ đã được lắng dịu.

Upanandasakyaputtavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Chú giải về câu chuyện liên quan đến trưởng lão Upananda, người con trai của dòng họ Thích Ca đã kết thúc.

Gilānavatthukathāvaṇṇanā

Chú giải về câu chuyện liên quan đến bệnh nhân

365-6. Bhūmiyaṃ paribhaṇḍaṃ akāsīti gilānena nipannabhūmiyaṃ kiliṭṭhaṭṭhānaṃ dhovitvā haritūpalittaṃ kāresīti attho. Bhesajjaṃ yojetuṃ asamatthoti parehi vuttavidhimpi kātuṃ asamattho. Pāḷiyaṃ gilānupaṭṭhākānaṃ cīvaradāne sāmaṇerānaṃ ticīvarādhiṭṭhānābhāvā ‘‘cīvarañca pattañcā’’tiādi sabbattha vuttaṃ. Sacepi sahassaṃ agghati, gilānupaṭṭhākānaññeva dātabbanti sambandho.
365-6. Câu “đã thực hiện việc dọn dẹp trên nền đất” có nghĩa là đã cho người rửa sạch và trét lại bằng đất sét xanh nơi bị dơ bẩn trên nền đất mà bệnh nhân đã nằm. Câu “không có khả năng pha chế thuốc” có nghĩa là không có khả năng thực hiện cả phương pháp đã được những người khác nói đến. Trong Pāḷi, về việc cúng dường y cho những người chăm sóc bệnh nhân, do các vị sa-di không có sự chú nguyện tam y, nên câu “cả y và bình bát” v.v… đã được nói ở khắp mọi nơi. Mối liên hệ là: “dù có giá trị một ngàn, cũng chỉ nên được trao cho những người chăm sóc bệnh nhân.”

Gilānavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Chú giải về câu chuyện liên quan đến bệnh nhân đã kết thúc.

Matasantakakathādivaṇṇanā

Chú giải về câu chuyện liên quan đến tài sản của người đã qua đời v.v…

369. Aññanti cīvarapattato aññaṃ. Appagghanti atijiṇṇādibhāvena nihīnaṃ. Tatoti avasesaparikkhārato. Sabbanti pattaṃ, ticīvarañca.
369. Câu “vật khác” có nghĩa là vật khác với y và bình bát. Câu “ít giá trị” có nghĩa là thấp kém do tình trạng quá cũ kỹ v.v… Câu “từ đó” có nghĩa là từ các vật dụng còn lại. Câu “tất cả” có nghĩa là bình bát và tam y.

Tattha tattha saṅghassevāti tasmiṃ tasmiṃ vihāre saṅghasseva. Pāḷiyaṃ avissajjikaṃ avebhaṅgikanti āgatānāgatassa cātuddisassa saṅghasseva santakaṃ hutvā kassaci avissajjikaṃ avebhaṅgikaṃ bhavituṃ anujānāmīti attho.
Câu “chỉ của Tăng chúng tại mỗi nơi ấy” có nghĩa là chỉ của Tăng chúng trong mỗi tự viện ấy. Trong Pāḷi, câu “không thể cho đi, không thể phân chia” có nghĩa là Ta cho phép được trở thành tài sản của Tăng chúng bốn phương đến và chưa đến, không thể cho đi, không thể phân chia cho bất cứ ai.

371-2. Akkanāḷamayanti akkadaṇḍamayaṃ. Akkadussānīti akkavākena katadussāni, potthakagatikāni dukkaṭavatthukānīti attho. Dupaṭṭacīvarassa vā majjheti yaṃ niṭṭhite tipaṭṭacīvaraṃ hoti, tassa majjhe paṭalaṃ katvā dātabbānīti attho.
371-2. Câu “được làm bằng thân cây lá trắng” có nghĩa là được làm bằng thân cây bồng bồng. Câu “những tấm vải từ cây lá trắng” có nghĩa là những tấm vải được làm bằng vỏ cây bồng bồng, có nghĩa là những vật dụng phạm tội tác ác được ghi trong sách. Câu “hoặc ở giữa tấm y hai lớp” có nghĩa là nên được trao bằng cách làm thành một lớp ở giữa của tấm y ba lớp đã được hoàn thành.

374. ‘‘Sante patirūpe gāhake’’ti vuttattā gāhake asati adatvā bhājitepi subhājitamevāti daṭṭhabbaṃ.
374. Do đã được nói “khi có người nhận thích hợp,” nên cần được hiểu rằng, khi không có người nhận, ngay cả khi đã được phân chia mà không trao, cũng là đã được phân chia đúng cách.

376. Dakkhiṇodakaṃ pamāṇanti ‘‘ettakāni cīvarāni dassāmī’’ti paṭhamaṃ udakaṃ pātetvā pacchā denti. Taṃ yehi gahitaṃ, te bhāginova hontīti adhippāyo. Parasamuddeti jambudīpe. Tambapaṇṇidīpañhi upādāyesa evaṃ vutto.
376. Câu “nước chú nguyện là tiêu chuẩn” có chủ ý rằng: “họ rưới nước trước rồi mới trao sau, (với ý nghĩ) ‘chúng tôi sẽ trao chừng này y.’” Những người nào đã nhận vật ấy, họ chính là người được chia phần. Câu “ở biển bên kia” được nói như vậy là căn cứ vào đảo Tambapaṇṇi ở cõi Diêm-phù-đề.

Matasantakakathādivaṇṇanā niṭṭhitā.

Chú giải về câu chuyện liên quan đến tài sản của người đã qua đời v.v… đã kết thúc.

Aṭṭhacīvaramātikākathāvaṇṇanā

Chú giải về câu chuyện liên quan đến tám mẫu đề về y

379. Puggalādhiṭṭhānanayena vuttanti ‘‘sīmāya dāna’’ntiādinā vattabbe ‘‘sīmāya detī’’tiādi puggalādhiṭṭhānena vuttaṃ. ‘‘Apicā’’tiādinā paṭhamaleḍḍupātabhūtaparikkhepārahaṭṭhānato bahi dutiyaleḍḍupātopi upacārasīmā evāti dasseti. Dhuvasannipātaṭṭhānādikampi pariyante ṭhitameva gahetabbaṃ. Loke gāmasīmādayo viya lābhasīmā nāma visuṃ pasiddhā nāma natthi, kenāyaṃ anuññātāti āha ‘‘neva sammāsambuddhenā’’tiādi. Etena nāyaṃ sāsanavohārasiddhā, lokavohārasiddhā evāti dasseti. ‘‘Janapadaparicchedo’’ti idaṃ lokapasiddhasīmāsaddatthavasena vuttaṃ. Paricchedabbhantaraṃ pana sabbaṃ janapadasīmāti gahetabbaṃ, janapado eva janapadasīmā. Evaṃ raṭṭhasīmādīsupi. Tenāha ‘‘āṇāpavattiṭṭhāna’’ntiādi.
379. Câu “được nói theo phương pháp chú nguyện cá nhân” có nghĩa là lẽ ra phải nói “sự cúng dường trong ranh giới” v.v… nhưng lại được nói bằng cách chú nguyện cá nhân là “vị ấy cúng dường trong ranh giới” v.v… Bằng câu “Hơn nữa” v.v…, vị ấy trình bày rằng, ngay cả lần ném cục đất thứ hai ở bên ngoài nơi thích hợp để làm tường rào, vốn là lần ném cục đất đầu tiên, cũng chính là ranh giới phụ cận. Cả nơi hội họp thường xuyên v.v… cũng cần được xem là đã nằm ở cuối cùng. Vị ấy nói câu “chắc chắn không phải do đức Chánh Đẳng Giác” v.v… để trả lời câu hỏi: “Trên đời, không có gì được biết đến riêng biệt gọi là ranh giới lợi lộc giống như ranh giới làng mạc v.v…, vậy điều này do ai cho phép?” Bằng điều này, vị ấy trình bày rằng, đây không phải là điều được xác định theo quy ước của giáo pháp, mà chỉ là điều được xác định theo quy ước của thế gian. Câu “sự phân định xứ sở” này được nói theo ý nghĩa của từ “ranh giới” được thế gian biết đến. Tuy nhiên, tất cả những gì bên trong sự phân định cần được xem là ranh giới xứ sở; xứ sở chính là ranh giới xứ sở. Tương tự như vậy đối với ranh giới quốc độ v.v… Do đó, vị ấy nói câu “nơi thi hành mệnh lệnh” v.v…

Pathavīvemajjhe gatassāti yāva udakapariyantā khaṇḍasīmattā vuttaṃ, upacārasīmādīsu pana abaddhasīmāsu heṭṭhāpathaviyaṃ sabbattha ṭhitānaṃ na pāpuṇāti, kūpādipavesārahaṭṭhāne ṭhitānaññeva pāpuṇātīti heṭṭhā sīmākathāyaṃ vuttanayena taṃtaṃsīmaṭṭhabhāvo veditabbo. Cakkavāḷasīmāya pana dinnaṃ pathavīsandhārakaudakaṭṭhānepi ṭhitānaṃ pāpuṇāti sabbattha cakkavāḷavohārattā.
Câu “của người đã đi vào giữa lòng đất” được nói đến do là ranh giới từng phần cho đến tận mép nước. Tuy nhiên, trong các ranh giới không cố định như ranh giới phụ cận v.v…, những vị đứng ở khắp nơi dưới lòng đất không được hưởng, chỉ những vị đứng ở nơi thích hợp để đi vào giếng v.v… mới được hưởng. Tình trạng thuộc về ranh giới đó cần được biết theo phương pháp đã được nói trong phần nói về ranh giới ở bên dưới. Tuy nhiên, đối với vật được cúng dường trong ranh giới thế giới, những vị đứng ở nơi có nước nâng đỡ trái đất cũng được hưởng, bởi vì quy ước về thế giới có ở khắp mọi nơi.

Buddhādhivutthoti buddhena bhagavatā nivuttho. Pākavaṭṭanti nibaddhadānaṃ. Vattatīti pavattati. Tehīti yesaṃ sammukhe esa deti, tehi bhikkhūhi. Dutiyabhāge pana therāsanaṃ āruḷheti yāva saṅghanavakā ekavāraṃ sabbesaṃ bhāgaṃ datvā cīvare aparikkhīṇe puna sabbesaṃ dātuṃ dutiyabhāge therassa dinneti attho. Paṃsukūlikānampi vaṭṭatīti ettha ‘‘tuyhaṃ demā’’ti avuttattāti kāraṇaṃ vadanti. Yadi evaṃ ‘‘saṅghassa demā’’ti vuttepi vaṭṭeyya, ‘‘bhikkhūnaṃ dema, therānaṃ dema, saṅghassa demā’’ti (mahāva. aṭṭha. 379) vacanato bhedo na dissati. Vīmaṃsitabbamettha kāraṇaṃ.
Câu “được đức Phật ngụ” có nghĩa là được đức Thế Tôn ngụ. Câu “sự cúng dường liên tục” có nghĩa là sự cúng dường thường xuyên. Câu “diễn tiến” có nghĩa là tiếp diễn. Câu “bởi các vị ấy” có nghĩa là bởi các vị tỳ-khưu mà người này cúng dường trước mặt họ. Câu “còn trong phần thứ hai, khi đã lên đến ghế trưởng lão” có nghĩa là sau khi đã trao phần cho tất cả mọi người, kể cả vị tỳ-khưu hạ腊 nhất, một lần, nếu y vẫn chưa hết, thì trong phần thứ hai để trao cho tất cả một lần nữa, (vật) đã được trao cho trưởng lão. Câu “cũng được phép đối với các vị hành hạnh phấn tảo y” ở đây, họ nói lý do là: “vì không nói rằng ‘chúng con xin dâng cho ngài.’” Nếu vậy, ngay cả khi nói “chúng con xin dâng cho Tăng chúng,” cũng sẽ được phép. Dựa theo câu “chúng con xin dâng cho các tỳ-khưu, chúng con xin dâng cho các trưởng lão, chúng con xin dâng cho Tăng chúng” (mahāva. aṭṭha. 379), thì không thấy có sự khác biệt. Cần phải xem xét lý do ở đây.

Pārupituṃ vaṭṭatīti paṃsukūlikānaṃ vaṭṭati. Bhikkhusaṅghassa ca bhikkhunīnañca dammīti vutte pana na majjhe bhinditvā dātabbanti ettha yasmā bhikkhunipakkhe saṅghassa paccekaṃ aparāmaṭṭhattā bhikkhunīnaṃ gaṇanāya bhāgo dātabboti dāyakassa adhippāyoti sijjhati, tathā dānañca bhikkhūpi gaṇetvā dinne eva yujjati. Itarathā hi kittakaṃ bhikkhūnaṃ dātabbaṃ, kittakaṃ bhikkhunīnanti na viññāyati, tasmā ‘‘bhikkhusaṅghassā’’ti vuttavacanampi ‘‘bhikkhūna’’nti vuttavacanasadisamevāti āha ‘‘bhikkhū ca bhikkhuniyo ca gaṇetvā dātabba’’nti. Tenāha ‘‘puggalo …pe… bhikkhusaṅghaggahaṇena aggahitattā’’ti. Bhikkhusaṅgha-saddena bhikkhūnaññeva gahitattā, puggalassa pana ‘‘tuyhañcā’’ti visuṃ gahitattā ca tatthassa aggahitatā daṭṭhabbā, ‘‘bhikkhūnañca bhikkhunīnañca tuyhañcā’’ti vuttaṭṭhānasadisattāti adhippāyo. Puggalappadhāno hettha saṅgha-saddo daṭṭhabbo. Keci pana ‘‘bhikkhusaṅghaggahaṇena gahitattā’’ti (sārattha. ṭī. mahāvagga 3.379) pāṭhaṃ likhanti, taṃ na sundaraṃ tassa visuṃ lābhaggahaṇe kāraṇavacanattā. Tathā hi visuṃ saṅghaggahaṇena gahitattāti visuṃ puggalassapi bhāgaggahaṇe kāraṇaṃ vuttaṃ. Yathā cettha puggalassa aggahaṇaṃ, evaṃ upari ‘‘bhikkhusaṅghassa ca tuyhañcā’’tiādīsupi saṅghādi-saddehi puggalassa aggahaṇaṃ daṭṭhabbaṃ. Yadi hi gahaṇaṃ siyā, saṅghatopi, visumpīti bhāgadvayaṃ labheyya ubhayattha gahitattā.
Câu “được phép đắp” có nghĩa là được phép đối với các vị hành hạnh phấn tảo y. Còn câu “tuy nhiên, khi nói ‘tôi xin dâng cho Tăng chúng tỳ-khưu và cho các tỳ-khưu ni,’ thì không nên chia ở giữa rồi trao,” ở đây, bởi vì ở phía tỳ-khưu ni, Tăng chúng không được đề cập đến một cách riêng lẻ, nên ý định của thí chủ được thành tựu rằng phần nên được trao theo số lượng các tỳ-khưu ni. Và việc cúng dường như vậy cũng chỉ hợp lý khi các tỳ-khưu cũng được đếm rồi trao. Nếu không, sẽ không biết được nên trao bao nhiêu cho các tỳ-khưu và bao nhiêu cho các tỳ-khưu ni. Do đó, vị ấy nói câu “nên đếm các tỳ-khưu và các tỳ-khưu ni rồi trao,” vì ngay cả lời nói “cho Tăng chúng tỳ-khưu” cũng giống như lời nói “cho các tỳ-khưu.” Do đó, vị ấy nói: “cá nhân …v.v… do không được bao gồm bởi sự đề cập đến Tăng chúng tỳ-khưu.” Cần phải hiểu rằng, sự không bao gồm ở đây là do từ “Tăng chúng tỳ-khưu” chỉ bao gồm các tỳ-khưu, còn cá nhân thì được đề cập riêng là “và cho ngài;” có chủ ý rằng, điều này giống như trường hợp đã nói “cho các tỳ-khưu, cho các tỳ-khưu ni, và cho ngài.” Ở đây, cần hiểu từ “Tăng chúng” là có cá nhân làm chủ đạo. Tuy nhiên, một số vị viết đoạn văn là “do được bao gồm bởi sự đề cập đến Tăng chúng tỳ-khưu” (sārattha. ṭī. mahāvagga 3.379), điều đó không hay, vì đó là lời nói về lý do trong việc nhận lợi lộc riêng của vị ấy. Thật vậy, lời nói về lý do trong việc nhận phần riêng của cá nhân đã được nói là “do được bao gồm bởi sự đề cập riêng đến Tăng chúng.” Giống như ở đây có sự không bao gồm của cá nhân, tương tự như vậy, ở trên, trong các câu “cho Tăng chúng và cho ngài” v.v…, cũng cần hiểu là có sự không bao gồm của cá nhân bởi các từ “Tăng chúng” v.v… Nếu có sự bao gồm, vị ấy sẽ nhận được hai phần, từ Tăng chúng và từ riêng mình, do được bao gồm ở cả hai nơi.

Pūjetabbantiādi gihikammaṃ na hotīti dassanatthaṃ vuttaṃ. ‘‘Bhikkhusaṅghassa harā’’ti idaṃ piṇḍapātaharaṇaṃ sandhāya vuttaṃ. Tenāha ‘‘bhuñjituṃ vaṭṭatī’’ti. ‘‘Antohemante’’ti iminā anatthate kathine vassānaṃ pacchime māse dinnaṃ purimavassaṃvutthānaññeva pāpuṇāti, tato paraṃ hemante dinnaṃ pacchimavassaṃvutthānampi vutthavassattā pāpuṇāti. Hemantato pana paraṃ piṭṭhisamaye ‘‘vassaṃvutthasaṅghassā’’ti evaṃ vatvā dinnaṃ anantare vasse vā tato paresu vā yattha katthaci tasmiṃ vutthavassānaṃ sabbesaṃ pāpuṇāti. Ye pana sabbathā avutthavassā, tesaṃ na pāpuṇātīti dasseti. Sabbesampīti hi tasmiṃ bhikkhubhāve vutthavassānaṃ sabbesampīti attho daṭṭhabbo. ‘‘Vassaṃvutthsaṅghassā’’ti vuttattā sammukhībhūtānaṃ sabbesanti etthāpi eseva nayo. Atītavassanti anantarātītavassaṃ.
Câu “cần phải tôn kính” v.v… được nói để cho thấy rằng đó không phải là công việc của người tại gia. Câu “hãy mang đến cho Tăng chúng tỳ-khưu” này được nói nhằm ám chỉ việc mang vật thực khất thực. Do đó, vị ấy nói câu “được phép thọ dụng.” Bằng câu “trong mùa đông,” vị ấy trình bày rằng, khi y kaṭhina chưa được thọ, vật được cúng dường vào tháng cuối của mùa mưa chỉ thuộc về những vị đã an cư mùa mưa trước đó; sau đó, vật được cúng dường trong mùa đông cũng thuộc về những vị đã an cư mùa mưa sau đó, vì họ đã an cư mùa mưa. Tuy nhiên, sau mùa đông, trong thời gian sau mùa mưa, vật được cúng dường với lời nói “cho Tăng chúng đã an cư mùa mưa” thuộc về tất cả những vị đã an cư mùa mưa trong năm đó hoặc trong những năm sau đó ở bất cứ đâu. Còn những vị hoàn toàn chưa an cư mùa mưa thì không được hưởng. Cần hiểu ý nghĩa của câu “cũng cho tất cả” là cũng cho tất cả những vị đã an cư mùa mưa trong đời tỳ-khưu ấy. Do đã nói “cho Tăng chúng đã an cư mùa mưa,” nên trong câu “cho tất cả những vị có mặt” cũng có cùng một phương pháp này. Câu “mùa mưa đã qua” có nghĩa là mùa mưa vừa mới trôi qua.

Uddesaṃ gahetuṃ āgatoti uddese aggahitepi antevāsikovāti vuttaṃ. Gahetvā gacchantoti pariniṭṭhitauddeso hutvā gacchanto. ‘‘Vattaṃ katvā uddesaparipucchādīni gahetvā vicarantāna’’nti idaṃ ‘‘uddesantevāsikāna’’nti imasseva visesanaṃ, tena uddesakāle āgantvā uddesaṃ gahetvā gantvā aññattha nivasante anibaddhacārike nivatteti.
Câu “đã đến để học thuộc lòng” được nói là “hoặc là đệ tử,” ngay cả khi chưa học thuộc lòng. Câu “học xong rồi đi” có nghĩa là đã trở thành người hoàn tất việc học thuộc lòng rồi đi. Câu “những người đi đây đó sau khi đã làm phận sự, học thuộc lòng và hỏi han v.v…” này chỉ là phần bổ nghĩa cho câu “các đệ tử học thuộc lòng,” qua đó, nó loại trừ những người du hành không cố định, những người đến vào thời điểm học thuộc lòng, học xong rồi đi và sống ở nơi khác.

Aṭṭhacīvaramātikākathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Chú giải về câu chuyện liên quan đến tám mẫu đề về y đã kết thúc.

Cīvarakkhandhakavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Phương pháp chú giải Phẩm Y đã kết thúc.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang