Xua Tan Hoài Nghi

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Xua Tan Hoài Nghi II – Tiểu Phẩm: 1. Chương Tác Pháp

1. Kammakkhandhako

1. Phẩm Về Các Tăng Sự

Tajjanīyakammakathāvaṇṇanā

Phần Giải Thích Về Khiển Trách Sự

1. Cūḷavaggassa paṭhame kammakkhandhake tāva ‘‘balavābalava’’nti idaṃ ekapadaṃ. ‘‘Balavabalava’’nti vattabbe ākāraṃ katvā ‘‘balavābalava’’nti vuttaṃ. Tañca ‘‘dukkhadukkha’’ntiādīsu viya atisayatthe vattatīti āha ‘‘suṭṭhu balavaṃ paṭivadathā’’ti, ati viya balavaṃ katvā paṭivacanaṃ dethāti attho.
1. Trong phẩm đầu tiên về các Tăng sự của Tiểu Phẩm, trước hết, cụm từ “balavābalava” này là một từ. Khi đáng lẽ phải nói là “balavabalava” thì đã được nói thành “balavābalava” bằng cách thêm vào âm ‘ā’. Và điều ấy được nói với ý nghĩa nhấn mạnh, giống như trong các trường hợp “dukkhadukkha” (khổ ơi là khổ), v.v., nên ngài đã nói “hãy trả lời một cách thật mạnh mẽ,” có nghĩa là hãy trả lời một cách hết sức mạnh mẽ.

2. Pāḷiyaṃ āpatti āropetabbāti ettha kiñcāpi ‘‘mā kho tumhe āyasmanto eso ajesī’’tiādike bhaṇḍanādijanake vacane paññattā kāci āpatti nāma natthi musāpesuññādīsu etassa appaviṭṭhattā, tathāpi bhikkhūhi visuṃ, saṅghamajjhe ca ‘‘mā, āvuso, bhikkhū aññamaññaṃ payojetvā bhaṇḍanādiṃ akāsi, nedaṃ appicchatādīnaṃ atthāya vattatī’’ti evaṃ apaññattena vuccamānassa bhikkhuno anādariyena anoramanapaccayā vā aññavādavihesādikaraṇapaccayā vā yā āpatti hoti, sā āpatti āropetabbā diṭṭhivipannassa viyāti evamattho daṭṭhabbo.
2. Trong Pāḷi, ở câu tội cần được gán cho, mặc dù không có tội nào được chế định cho những lời nói gây ra tranh cãi, v.v., như “này các hiền giả, chớ để người ấy thắng,” vì điều này không nằm trong các tội nói dối, nói hai lưỡi, v.v., tuy nhiên, do vị Tỳ-khưu được các Tỳ-khưu nói riêng lẻ và ở giữa Tăng chúng rằng: “Này các hiền hữu, các Tỳ-khưu chớ nên xúi giục nhau gây ra tranh cãi, v.v., điều này không đưa đến sự thiểu dục, v.v.” mà vẫn không tôn trọng, không từ bỏ, hoặc do nói lời khác gây phiền não, v.v., tội nào phát sinh, tội ấy cần được gán cho, giống như trường hợp của người có tri kiến sai lệch. Đây là ý nghĩa cần được hiểu.

Yassa pana idaṃ vacanaṃ vināva kāyavācāhi āpannā lahukāpatti atthi, tassapi āropetabbāva. Yaṃ pana kammavācāya ‘‘attanā bhaṇḍanakārakā’’ti attanā-saddaggahaṇaṃ, ‘‘yepi caññe bhikkhū bhaṇḍanakārakā…pe… te upasaṅkamitvā’’tiādivacanañca, taṃ vatthuvasena gahitaṃ. Yo pana sayameva bhaṇḍanakārako hoti, aññe pana bhaṇḍanakārake upasaṅkamitvā ‘‘mā kho tumhe’’tiādivacanaṃ na vadati, tassāpetaṃ kammaṃ kātabbameva. Karontehi ca ‘‘suṇātu me, bhante, saṅgho, ayaṃ itthannāmo bhikkhu bhaṇḍanakārako…pe… saṅghe adhikaraṇakārako. Yadi saṅghassa pattakalla’’ntiādināva kammavācā kātabbā. Yo ca aññepi bhikkhū kalahāya samādapeti, tassāpi evameva kammavācaṃ kātuṃ vaṭṭati aññesaṃ samādāpanassapi bhaṇḍanakārakatte eva pavisanato. Aññesaṃ samādāpanākārampi vatvāva, kammavācaṃ kātukāmenapi ca tehi vuttavacanatthameva gahetvā tadanuguṇaṃ yojetvāva kātabbaṃ, na idhāgatavaseneva sabbesampi idhāgatavaseneva vacanāsambhavā. Bhūtena vatthunā katameva hi avipannaṃ hoti, nāññanti gahetabbaṃ. Esa nayo niyassakammādīsupi.
Đối với người nào, không cần đến lời nói này, mà đã phạm tội nhẹ qua thân và khẩu, tội ấy cũng cần được gán cho. Còn việc trong tuyên ngôn Tăng sự có dùng từ “bản thân” như trong câu “bản thân là người gây tranh cãi” và câu “và những Tỳ-khưu khác là người gây tranh cãi… sau khi đến gần họ…” v.v., điều đó được dùng tùy theo trường hợp. Vị nào tự mình gây ra tranh cãi, nhưng không đến gần những người gây tranh cãi khác và nói lời “chớ nên…” v.v., Tăng sự này vẫn phải được thực hiện đối với vị ấy. Và khi thực hiện, tuyên ngôn Tăng sự phải được tiến hành bằng cách nói: “Kính bạch chư Tăng, xin Tăng chúng lắng nghe, Tỳ-khưu tên soundso này là người gây tranh cãi… là người gây ra tranh chấp trong Tăng chúng. Nếu Tăng chúng xét thấy đúng thời…” v.v. Vị nào xúi giục các Tỳ-khưu khác cãi vã, đối với vị ấy cũng nên thực hiện tuyên ngôn Tăng sự như vậy, vì việc xúi giục người khác cũng được bao gồm trong hành vi gây tranh cãi. Và người muốn thực hiện tuyên ngôn Tăng sự, sau khi đã nói ra cách thức xúi giục của người khác, cũng phải nắm lấy ý nghĩa của những lời nói đã được họ nói ra và soạn thảo cho phù hợp, chứ không phải tất cả đều phải theo cách đã được trình bày ở đây, vì lời nói không thể giống hệt như cách đã được trình bày ở đây cho tất cả mọi người. Cần phải hiểu rằng, chỉ khi được thực hiện với sự việc có thật thì mới không sai sót, ngoài ra thì không. Phương pháp này cũng áp dụng cho Y Chỉ Sự, v.v.

Tajjanīyakammakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt phần giải thích về Khiển Trách Sự.

Adhammakammadvādasakakathādivaṇṇanā

Phần Giải Thích Về Mười Hai Phi Pháp Sự, v.v.

4.Appaṭiññāya katanti vatthuṃ vā āpattiṃ vā asampaṭicchāpetvā kataṃ. Yo pana sabbesaṃ passantānaṃ eva vatthuvītikkamaṃ katvā pacchā kammakaraṇabhayena ‘‘na karomī’’ti musā vadati, tassa bhikkhūnaṃ sammukhe vītikkamakaraṇameva paṭiññā. Tathato jānanatthameva paṭiññāya karaṇaṃ anuññātaṃ. Yattha pana sandeho hoti, tattha sampaṭicchāpetvāva kattabbanti gahetabbaṃ.
4.Thực hiện mà không có sự thừa nhận có nghĩa là thực hiện mà không làm cho (đương sự) chấp nhận sự việc hoặc tội trạng. Còn người nào vi phạm sự việc ngay trước mắt mọi người, sau đó vì sợ bị thi hành Tăng sự mà nói dối “tôi không làm,” thì chính hành vi vi phạm trước mặt các Tỳ-khưu đã là sự thừa nhận. Việc thực hiện với sự thừa nhận được cho phép chính là để biết rõ sự thật. Cần phải hiểu rằng, ở đâu có sự nghi ngờ, ở đó phải thực hiện sau khi đã làm cho (đương sự) chấp nhận.

‘‘Pārājikāpattiyā vā’’ti idaṃ liṅganāsananimittatāya pārājikassa kammena atikicchanīyato vuttaṃ. ‘‘Saṅghādisesāpattiyā vā’’ti idaṃ pana parivāsādinissāraṇakammassa āveṇikassa vijjamānattā vuttaṃ. Yaṃ pana parato ‘‘adhisīle sīlavipanno hoti…pe… tajjanīyakammaṃ kareyyā’’ti (cūḷava. 6) vuttaṃ, taṃ ‘‘āyatiṃ saṃvare ṭhatvā vuṭṭhānaṃ karohī’’ti ovadiyamānassa anādariyādipaccayalahukāpattiṃ sandhāya vuttaṃ. Sīlavipattimūlakañhi lahukāpattiṃ āpanno idha abhedūpacārena ‘‘adhisīle sīlavipanno’’ti vutto ‘‘atidiṭṭhiyā diṭṭhivipanno’’ti ettha viya.
Câu “hoặc do tội Bất Cộng Trụ” được nói ra vì tội Bất Cộng Trụ là dấu hiệu của việc mất đi tướng xuất gia nên rất khó để xử lý bằng Tăng sự. Còn câu “hoặc do tội Tăng Tàn” được nói ra vì có Tăng sự đặc biệt là biệt trú, v.v., để giải quyết tội này. Còn điều được nói ở sau “có giới bị hư hỏng về tăng thượng giới… nên thực hiện Khiển Trách Sự” (cūḷava. 6), điều đó được nói liên quan đến tội nhẹ do không tôn trọng, v.v., khi được khuyên bảo rằng “trong tương lai, hãy đứng vững trong sự thu thúc và đứng dậy (khỏi tội).” Thật vậy, người phạm tội nhẹ có nguồn gốc từ giới bị hư hỏng, ở đây được gọi là “có giới bị hư hỏng về tăng thượng giới” bằng cách dùng ẩn dụ không phân biệt, giống như trong trường hợp “có tri kiến bị hư hỏng về tăng thượng kiến.”

Yathā ca diṭṭhiṃ gahetvā voharantassa ‘‘ito diṭṭhito oramāhī’’ti avatvā katakammaṃ kevalāya diṭṭhivipattiyā katattā anāpattiyā kataṃ nāma adhammakammaṃ hoti, evaṃ sīlavipattiṃ āpajjitvā lajjidhamme okkante yathādhammaṃ vuṭṭhāya saṃvare ṭhātukāmassa kataṃ tajjanīyādikammaṃ kevalāya sīlavipattiyā katattā adesanāgāminiyā kataṃ nāma adhammakammaṃ hoti. Teneva niyassakammepi ‘‘apissu bhikkhū pakatā parivāsaṃ dentā’’tiādinā saṃvare aṭṭhānameva kammanimittabhāvena vuttaṃ. Adantaṃ damanatthameva hi tajjanīyādikammāni anuññātānīti. Keci pana ‘‘adesanāgāminiyāti idaṃ pārājikāpattiṃyeva sandhāya vuttaṃ, na saṅghādisesa’’nti (sārattha. ṭī. cūḷavagga 3.4) vadanti, taṃ sukkapakkhe ‘‘desanāgāminiyā āpattiyā kataṃ hotī’’ti iminā vacanena virujjhati. Saṅghādisesassāpi ca pariyāyato desanāgāminivohāre gayhamāne ‘‘āpattiyā kataṃ hotī’’ti vuttavārato imassa vārassa viseso na siyā, aṭṭhakathāyampettha visesabhāvo na dassito. Tasmā vuttanayenevettha adhippāyo gahetabbo.
Và cũng như Tăng sự được thực hiện đối với người đang hành xử theo tri kiến sai lệch mà không nói “hãy từ bỏ tri kiến này,” Tăng sự đó được gọi là thực hiện khi không có tội và là phi pháp sự, vì được thực hiện chỉ do tri kiến bị hư hỏng. Tương tự như vậy, Khiển Trách Sự, v.v., được thực hiện đối với người đã phạm tội làm hư hỏng giới, đã vi phạm pháp của người biết tàm quý, và muốn đứng dậy khỏi tội đúng pháp và đứng vững trong sự thu thúc, Tăng sự đó được gọi là thực hiện đối với tội không thể sám hối và là phi pháp sự, vì được thực hiện chỉ do giới bị hư hỏng. Do đó, ngay cả trong Y Chỉ Sự, chính việc không đứng vững trong sự thu thúc đã được nói là dấu hiệu của Tăng sự qua câu “hơn nữa, các Tỳ-khưu thường cho biệt trú…” v.v. Thật vậy, các Tăng sự như Khiển Trách Sự, v.v., được cho phép chính là để điều phục người chưa được điều phục. Tuy nhiên, một số vị nói rằng “câu ‘đối với tội không thể sám hối’ này chỉ nói đến tội Bất Cộng Trụ, chứ không phải tội Tăng Tàn” (sārattha. ṭī. cūḷavagga 3.4), điều đó mâu thuẫn với lời nói trong phần thiện pháp là “được thực hiện đối với tội có thể sám hối.” Và nếu tội Tăng Tàn cũng được hiểu một cách gián tiếp trong cách nói “tội có thể sám hối,” thì sẽ không có sự khác biệt giữa trường hợp này và trường hợp được nói là “được thực hiện đối với tội,” và trong Chú giải cũng không chỉ ra sự khác biệt ở đây. Vì vậy, ý nghĩa ở đây cần được hiểu theo phương pháp đã được nói đến.

6.Sabbānipīti tajjanīyaniyassapabbājanīyakammāni tīṇipi. Aññakammassa vatthunāti tajjanīyato aññassa kammassa vatthunā aññakammakaraṇaṃ nāma koci dosopi na hotīti adhippāyo. Kāraṇamāha ‘‘kasmā’’tiādinā.
6.Tất cả, tức là cả ba Tăng sự: Khiển Trách Sự, Y Chỉ Sự, và Khu Trục Sự. Với sự việc của Tăng sự khác, ý muốn nói rằng việc thực hiện một Tăng sự khác với sự việc của một Tăng sự khác Khiển Trách Sự không phải là một lỗi lầm nào cả. Ngài nói ra lý do bằng câu “tại sao” v.v.

8.Pannalomāti patitamānalomā.
8.Lông đã rụng, tức là lòng kiêu mạn đã rơi rụng.

Adhammakammadvādasakakathādivaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt phần giải thích về mười hai phi pháp sự, v.v.

Niyassakammakathādivaṇṇanā

Phần Giải Thích Về Y Chỉ Sự, v.v.

11. Niyassakamme pāḷiyaṃ apissūti apicāti imasmiṃ atthe nipātasamudāyo. Nissāyate vatthabbanti ettha keci kalyāṇamittāyattavuttitaṃ sandhāya vuttanti vadanti, aññe pana nissayaggahaṇamevāti, ubhayenapissa serivihāro na vaṭṭatīti dīpitanti daṭṭhabbaṃ.
11. Trong Y Chỉ Sự, trong Pāḷi, apissū là một tập hợp các bất biến từ có nghĩa là “hơn nữa.” Ở đây, về câu phải sống nương tựa, một số vị nói rằng điều này được nói đến liên quan đến việc sống phụ thuộc vào thiện hữu, còn những vị khác lại cho rằng đó chính là việc nhận sự y chỉ; cần phải hiểu rằng cả hai cách giải thích đều chỉ ra rằng việc sống độc lập không được phép đối với vị ấy.

21. Pabbājanīyakamme ‘‘pabbājanīyakammaṃ paṭippassambhetū’’ti idaṃ pakkamanādiṃ akatvā sammāvattantānaṃ vasena vuttaṃ.
21. Trong Khu Trục Sự, câu “hãy đình chỉ Khu Trục Sự” được nói tùy theo trường hợp của những người đã không bỏ đi, v.v., và đang hành xử đúng đắn.

33. Paṭisāraṇīyakamme neva bhikkhuvacanaṃ, na gihivacananti ettha pariyāyatopi bhikkhū parakhuṃsanaṃ na vadanti, gahaṭṭhā pana sarūpeneva akkosituṃ samatthāpi upakārīsu akāraṇaṃ evarūpaṃ na vadanti, tvaṃ gihiguṇatopi parihīnoti adhippāyo.
33. Trong Sám Hối Sự, về câu không phải là lời của Tỳ-khưu, cũng không phải là lời của người tại gia, ý muốn nói rằng, các Tỳ-khưu ngay cả một cách gián tiếp cũng không nói lời mắng nhiếc người khác; còn những người tại gia, mặc dù có khả năng chửi mắng một cách trực tiếp, nhưng họ cũng không nói những lời như vậy một cách vô cớ đối với những người đã giúp đỡ họ; ý muốn nói rằng, ông còn thua kém cả đức hạnh của người tại gia.

39.‘‘Aṅgasamannāgamo purimehi asadiso’’ti iminā tajjanīyādīnaṃ vuttakāraṇamattena idaṃ kātuṃ na vaṭṭatīti dīpeti. Idha vuttena pana gihīnaṃ alābhāya parisakkanādinā aṅgena tānipi kātuṃ vaṭṭatīti gahetabbaṃ. Ettha ca ‘‘saddhaṃ pasannaṃ dāyakaṃ kārakaṃ saṅghupaṭṭhākaṃ hīnena khuṃsetī’’ti vuttattā tādisesu gihīsu khuṃsanādīhi gihipaṭisaṃyuttehi eva aṅgehi kammārahatā, na ārāmikaceṭakādīsu khuṃsanādīhi. Tatthāpi dāyakādīsu khamāpitesu kammārahatā natthi, āpatti ca yattha katthaci desetuṃ vaṭṭati. Yo ce tikkhattuṃ khamāpiyamānopi na khamati, akatakammenapi dassanūpacāre āpatti desetabbā. So ce kālakato hoti, desantaraṃ vā gato, gatadisā na ñāyati, antarāmagge vā jīvitantarāyo hoti, katakammenapi akatakammenapi saṅghamajjhe yathābhūtaṃ viññāpetvā khamāpetvā āpatti desetabbāti vadanti. Dhammikapaṭissavassa asaccāpane pana tesaṃ santikaṃ gantvā ‘‘mayā asamavekkhitvā paṭissavaṃ katvā so na saccāpito, taṃ me khamathā’’tiādinā khamāpane vacanakkamo ñāpetabbo.
39.Câu “sự hội đủ các chi phần không giống như những (Tăng sự) trước” chỉ ra rằng không được thực hiện Tăng sự này chỉ với lý do đã được nói cho Khiển Trách Sự, v.v. Cần phải hiểu rằng, với chi phần được nói ở đây là cố gắng làm cho các cư sĩ không có được lợi lộc, v.v., thì những Tăng sự kia cũng có thể được thực hiện. Và ở đây, vì đã nói “mắng nhiếc một cách hạ tiện người thí chủ, người hộ trì, người phục vụ Tăng chúng, có đức tin, có lòng trong sạch,” nên chỉ có thể thực hiện Tăng sự với các chi phần liên quan đến cư sĩ như mắng nhiếc, v.v., đối với những cư sĩ như vậy, chứ không phải với việc mắng nhiếc những người phục vụ trong chùa, những người làm công quả, v.v. Ở đó, nếu đã được các thí chủ, v.v., tha thứ thì không còn đáng bị Tăng sự nữa, và tội thì có thể sám hối ở bất cứ đâu. Nếu vị nào dù được xin lỗi ba lần mà vẫn không tha thứ, tội cần phải được sám hối trong tầm thấy dù Tăng sự chưa được thực hiện. Các vị nói rằng, nếu người ấy đã qua đời, hoặc đã đi đến một nơi khác, không biết đã đi về hướng nào, hoặc có nguy hiểm đến tính mạng trên đường đi, thì tội cần phải được sám hối bằng cách trình bày sự thật giữa Tăng chúng, xin lỗi và sám hối, dù Tăng sự đã được thực hiện hay chưa. Còn trong trường hợp không thực hiện lời hứa hợp pháp, cần phải cho biết trình tự lời nói khi xin lỗi bằng cách đến gần họ và nói: “Do tôi đã hứa mà không xem xét kỹ, nên đã không thực hiện được, xin quý vị hãy tha lỗi cho tôi,” v.v.

41. Pāḷiyaṃ maṅkubhūto nāsakkhi cittaṃ gahapatiṃ khamāpetunti tiṃsayojanamaggaṃ puna gantvāpi mānathaddhatāya yathābhūtaṃ dosaṃ āvikatvā akhamāpanena ‘‘nāhaṃ khamāmī’’ti tena paṭikkhitto maṅkubhūto khamāpetuṃ na sakkhi, so punadeva sāvatthiṃ paccāgantvāpi mānaniggahatthāyeva punapi satthārā pesito purimanayeneva khamāpetuṃ asakkonto punāgacchi. Athassa bhagavā ‘‘asantaṃ bhāvanamiccheyyā’’tiādināva (dha. pa. 73) dhammaṃ desetvā mānanimmathanaṃ katvā anudūtadānaṃ anuññāsīti daṭṭhabbaṃ.
41. Trong Pāḷi, câu bị bối rối, đã không thể xin lỗi được gia chủ Citta, có nghĩa là: Mặc dù đã đi lại con đường ba mươi do tuần, nhưng do lòng kiêu căng cứng đầu, không thổ lộ lỗi lầm đúng như thật, nên bị ông ấy từ chối bằng câu “tôi không tha thứ,” vị ấy đã trở nên bối rối và không thể xin lỗi được. Vị ấy lại trở về Sāvatthi, và lại được Đức Thế Tôn phái đi một lần nữa chính là để dẹp bỏ lòng kiêu mạn, nhưng vẫn không thể xin lỗi được theo cách trước đó, nên lại quay về. Cần phải hiểu rằng, sau đó, Đức Thế Tôn đã thuyết pháp cho vị ấy bằng câu “mong muốn sự hiện hữu không có thực…” v.v. (Pháp Cú 73), đã dẹp tan lòng kiêu mạn và đã cho phép việc cử người đi thay.

42.‘‘Noce khamati…pe… āpattiṃ desāpetabbo’’ti vuttattā pageva gahaṭṭho khamati ce, dassanūpacāre āpattidesanākiccaṃ natthīti gahetabbaṃ.
42.Vì đã nói “nếu ông ấy không tha thứ… nên làm cho sám hối tội,” cần phải hiểu rằng, nếu người tại gia đã tha thứ trước đó, thì không cần phải sám hối tội trong tầm thấy nữa.

46. Ukkhepanīyakammesu tīsu ariṭṭhavatthusmiṃ āpattiṃ āropetvāti visuṃ saṅghamajjheva pāpikāya diṭṭhiyā appaṭinissajjanapaccayā dukkaṭaṃ, samanubhāsanapariyosāne pācittiyaṃ vā āpattiṃ āropetvā. Etthāpi kammavācāya ‘‘tathāhaṃ bhagavatā’’tiādi vatthuvasena vuttaṃ. Yena yena pakārena diṭṭhigatikā vohariṃsu, tena tena pakārena yojetvā kammavācā kātabbā. Gahaṇākāraṃ pana vināpi ‘‘suṇātu me, bhante, saṅgho, itthannāmassa bhikkhuno pāpikaṃ diṭṭhigataṃ uppannaṃ, so taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissajjati, yadi saṅghassa pattakalla’’nti evaṃ sāmaññatopi kammavācaṃ kātuṃ vaṭṭati.
46. Trong ba Tăng sự Tẩn Xuất, trong trường hợp của Ariṭṭha, câu gán cho tội có nghĩa là: gán cho tội Tác Ác do không từ bỏ tà kiến ngay giữa Tăng chúng một cách riêng biệt, hoặc gán cho tội Ưng Đối Trị vào cuối buổi cảnh cáo. Ở đây cũng vậy, trong tuyên ngôn Tăng sự, câu “như tôi (hiểu)… của Đức Thế Tôn” v.v., được nói tùy theo trường hợp. Các vị có tà kiến đã hành xử theo cách nào, thì tuyên ngôn Tăng sự phải được soạn thảo và thực hiện theo cách đó. Tuy nhiên, ngay cả khi không có cách thức chấp thủ (tà kiến), cũng có thể thực hiện tuyên ngôn Tăng sự một cách chung chung như sau: “Kính bạch chư Tăng, xin Tăng chúng lắng nghe, tà kiến xấu xa đã khởi lên nơi Tỳ-khưu tên soundso, vị ấy không từ bỏ tà kiến đó, nếu Tăng chúng xét thấy đúng thời…”.

65.‘‘Yaṃ diṭṭhiṃ nissāya bhaṇḍanādīni karotī’’ti iminā diṭṭhiṃ nissāya uppannāni eva bhaṇḍanādīni idha adhippetāni, na kevalānīti dasseti. Yo pana ‘‘bhaṇḍanādīnaṃ karaṇe doso natthī’’ti diṭṭhiko hutvā bhaṇḍanādiṃ karoti, sāpissa diṭṭhi eva hoti, tassapi appaṭinissagge kammaṃ kātuṃ vaṭṭati.
65.Câu “nương vào tri kiến nào mà gây ra tranh cãi, v.v.” chỉ ra rằng, ở đây chỉ muốn nói đến những tranh cãi, v.v., phát sinh do nương vào tri kiến, chứ không phải chỉ là những tranh cãi đơn thuần. Còn người nào có tà kiến rằng “không có lỗi trong việc gây ra tranh cãi, v.v.” và gây ra tranh cãi, v.v., đó cũng chính là tà kiến của vị ấy, và nếu không từ bỏ, Tăng sự cũng có thể được thực hiện đối với vị ấy.

Niyassakammakathādivaṇṇanā niṭṭhitā.

Dứt phần giải thích về Y Chỉ Sự, v.v.

Kammakkhandhakavaṇṇanānayo niṭṭhito.

Dứt phương pháp giải thích Phẩm Về Các Tăng Sự.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang