Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi III – Phẩm Nói Về Cách Giải Quyết Tranh Chấp

4. Samathakkhandhakaṃ
4. Chương Dàn Xếp

Sammukhāvinayakathāvaṇṇanā
Chú Giải Lời Về Dàn Xếp Trực Diện

187. Samathakkhandhake saññāpetīti ettha saṃ-saddūpapado ñā-saddo tosanavisiṭṭhe avabodhane vattatīti āha ‘‘paritosetvā jānāpetī’’ti.
187. Trong chương Dàn Xếp, ở đây (trong câu) saññāpeti, đã nói rằng “làm cho biết sau khi đã làm cho hài lòng” bởi vì từ ñā với tiếp đầu ngữ là từ saṃ có nghĩa là sự thấu hiểu chuyên biệt về sự làm cho hài lòng.

Sativinayādikathāvaṇṇanā
Chú Giải Lời Về Dàn Xếp Bằng Chánh Niệm v.v…

195-200.Desanāmattamevetanti ‘‘pañcimānī’’ti etaṃ desanāmattaṃ. Sativepullappattassa khīṇāsavassa dātabbo vinayo sativinayo. Amūḷhassa dātabbo vinayo amūḷhavinayo. Paṭiññātena karaṇaṃ paṭiññātakaraṇaṃ.
195-200. Đây chỉ là lời thuyết giảng có nghĩa là (câu) “có năm điều này” chỉ là lời thuyết giảng. Pháp luật nên được ban cho vị lậu tận đã đạt đến sự sung mãn về chánh niệm là dàn xếp bằng chánh niệm. Pháp luật nên được ban cho người không mê mờ là dàn xếp cho người không mê mờ. Sự thực hiện theo điều đã thú nhận là thực hiện theo sự thú nhận.

212.Tiṇavatthārakasadisattāti taṃsadisatāya tabbohāroti dasseti yathā ‘‘esa brahmadatto’’ti.
212. Do tương tự như việc phủ cỏ là chỉ ra rằng đó là cách nói về điều ấy do sự tương tự với điều ấy, giống như (câu) “đây là Brahmadatta.”

Adhikaraṇakathāvaṇṇanā
Chú Giải Lời Về Tranh Tụng

216.Vivādādhikaraṇassa kiṃ mūlantiādīsu vivādamūlānīti vivādassa mūlāni. Kodhanoti kujjhanalakkhaṇena kodhena samannāgato. Upanāhīti veraappaṭinissaggalakkhaṇena upanāhena samannāgato. Agāravoti (dī. ni. aṭṭha. 3.323; ma. ni. aṭṭha. 3.44) gāravavirahito. Appatissoti appatissayo anīcavutti. Ettha pana yo bhikkhu satthari dharamāne tīsu kālesu upaṭṭhānaṃ na yāti, satthari anupāhane caṅkamante saupāhano caṅkamati, nīce caṅkame caṅkamante ucce caṅkamati, heṭṭhā vasante upari vasati, satthu dassanaṭṭhāne ubho aṃse pārupati, chattaṃ dhāreti, upāhanaṃ dhāreti, nahāyati, uccāraṃ vā passāvaṃ vā karoti, parinibbute vā pana cetiyaṃ vandituṃ na gacchati, cetiyassa paññāyanaṭṭhāne satthudassanaṭṭhāne vuttaṃ sabbaṃ karoti, aññehi ca bhikkhūhi ‘‘kasmā evaṃ karosi, na idaṃ vaṭṭati, sammāsambuddhassa nāma lajjituṃ vaṭṭatī’’ti vutte ‘‘tuṇhī hohi, buddho buddhoti vadasi, kiṃ buddho nāmā’’ti bhaṇati, ayaṃ satthari agāravo nāma.
216. Trong các câu bắt đầu bằng “Tranh tụng về tranh chấp có gì là nguồn gốc?”, các nguồn gốc của tranh chấp là các nguồn gốc của sự tranh chấp. Người hay phẫn nộ là người có tâm phẫn nộ với đặc tính nóng giận. Người hayผูก oán là người có tâmผูก oán với đặc tính không từ bỏ sự hằn học. Người không kính trọng (dī. ni. aṭṭha. 3.323; ma. ni. aṭṭha. 3.44) là người thiếu sự kính trọng. Người không vâng lời là người không có sự nương tựa, không có hạnh khiêm tốn. Hơn nữa, ở đây, Tỳ-khưu nào khi bậc Đạo Sư còn tại thế mà không đi đến hầu hạ trong ba thời, khi bậc Đạo Sư đi kinh hành không mang dép thì mình lại mang dép đi kinh hành, khi (bậc Đạo Sư) đi kinh hành ở nơi kinh hành thấp thì mình lại đi ở nơi kinh hành cao, khi (bậc Đạo Sư) ở nơi thấp thì mình lại ở trên cao, ở nơi nhìn thấy bậc Đạo Sư lại choàng y cả hai vai, lại mang dù, mang dép, lại tắm, lại đi đại tiện hoặc tiểu tiện; hoặc khi (bậc Đạo Sư) đã nhập Niết-bàn rồi mà không đi đến đảnh lễ bảo tháp, ở nơi thấy được bảo tháp lại làm tất cả những điều đã nói ở nơi nhìn thấy bậc Đạo Sư; và khi được các Tỳ-khưu khác nói rằng: “Tại sao thầy lại làm như vậy? Điều này không được phép. Đối với bậc Chánh Đẳng Giác thì phải biết hổ thẹn,” lại nói rằng: “Hãy im đi, ông cứ nói Phật, Phật, Phật là gì chứ?” — đây được gọi là sự không kính trọng đối với bậc Đạo Sư.

Yo pana dhammasavane saṅghuṭṭhe sakkaccaṃ na gacchati, sakkaccaṃ dhammaṃ na suṇāti, niddāyati vā sallapanto vā nisīdati, sakkaccaṃ na gaṇhāti na vāceti, ‘‘kiṃ dhamme agāravaṃ karosī’’ti vutte ‘‘tuṇhī hohi, dhammo dhammoti vadasi, kiṃ dhammo nāmā’’ti vadati, ayaṃ dhamme agāravo nāma. Yo pana therena bhikkhunā anajjhiṭṭho dhammaṃ deseti uddisati pañhaṃ katheti, vuḍḍhe bhikkhū ghaṭṭento gacchati tiṭṭhati nisīdati, dussapallatthikaṃ vā hatthapallatthikaṃ vā karoti, saṅghamajjhe ubho aṃse pārupati, chattupāhanaṃ dhāreti, ‘‘bhikkhusaṅghassa lajjituṃ vaṭṭatī’’ti vuttepi ‘‘tuṇhī hohi, saṅgho saṅghoti vadasi, kiṃ saṅgho, migasaṅgho ajasaṅgho’’tiādīni vadati, ayaṃ saṅghe agāravo nāma. Ekabhikkhusmimpi hi agārave kate saṅghe katoyeva hoti. Tisso sikkhā pana apūrayamāno sikkhāya na paripūrakārī nāma.
Còn người nào khi được gọi đi nghe pháp mà không sốt sắng đi, không sốt sắng nghe pháp, hoặc ngủ gật hoặc ngồi nói chuyện, không sốt sắng ghi nhận, không đọc tụng; khi được nói: “Tại sao lại không kính trọng đối với Pháp?” lại nói: “Hãy im đi, ông cứ nói Pháp, Pháp, Pháp là gì chứ?” — đây được gọi là sự không kính trọng đối với Pháp. Còn người nào khi chưa được Tỳ-khưu trưởng lão yêu cầu mà lại thuyết pháp, đọc lên, đặt câu hỏi; đi, đứng, ngồi xô đẩy các Tỳ-khưu lớn tuổi; hoặc ngồi vắt chéo chân bằng vải hoặc vắt chéo tay; ở giữa Tăng chúng lại choàng y cả hai vai, mang dù và dép; dù được nói: “Phải biết hổ thẹn đối với Tăng chúng Tỳ-khưu,” vẫn nói: “Hãy im đi, ông cứ nói Tăng, Tăng, Tăng là gì? Đàn nai, đàn dê ư?” v.v… — đây được gọi là sự không kính trọng đối với Tăng chúng. Bởi vì, khi đã không kính trọng dù chỉ một Tỳ-khưu thì cũng là đã không kính trọng Tăng chúng. Còn người không hoàn thành ba học giới thì được gọi là người không thực hành trọn vẹn học giới.

Ahitāya dukkhāya devamanussānanti (dī. ni. aṭṭha. 3.325; ma. ni. aṭṭha. 3.42; a. ni. aṭṭha. 3.6.36) ekasmiṃ vihāre dvinnaṃ bhikkhūnaṃ uppannavivādo kathaṃ devamanussānaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattati? Kosambakakkhandhake viya hi dvīsu bhikkhūsu vivādaṃ āpannesu tasmiṃ vihāre tesaṃ antevāsikā vivadanti, tesaṃ ovādaṃ gaṇhanto bhikkhunisaṅgho vivadati, tato tesaṃ upaṭṭhākā vivadanti, atha manussānaṃ ārakkhadevatā dve koṭṭhāsā honti. Tattha dhammavādīnaṃ ārakkhadevatā dhammavādiniyo honti, adhammavādīnaṃ adhammavādiniyo. Tato ārakkhadevatānaṃ mittā bhummadevatā bhijjanti. Evaṃ paramparāya yāva brahmalokā ṭhapetvā ariyasāvake sabbe devamanussā dve koṭṭhāsā honti. Dhammavādīhi pana adhammavādinova bahutarā honti. Tato ‘‘yaṃ bahukehi gahitaṃ, taṃ taccha’’nti dhammaṃ vissajjetvā bahutarā adhammaṃ gaṇhanti. Te adhammaṃ purakkhatvā viharantā apāyesu nibbattanti. Evaṃ ekasmiṃ vihāre dvinnaṃ bhikkhūnaṃ uppanno vivādo bahūnaṃ ahitāya dukkhāya hoti. Ajjhattaṃ vāti attani vā attano parisāya vā. Bahiddhā vāti parasmiṃ vā parassa parisāya vā. Āyatiṃ anavassavāyāti āyatiṃ anuppādāya.
Vì sự không lợi ích, vì sự đau khổ cho chư Thiên và loài người (dī. ni. aṭṭha. 3.325; ma. ni. aṭṭha. 3.42; a. ni. aṭṭha. 3.6.36). Sự tranh chấp phát sinh giữa hai Tỳ-khưu trong một trú xứ, làm thế nào lại trở thành vì sự không lợi ích, vì sự đau khổ cho chư Thiên và loài người? Giống như trong chương Kosambaka, khi hai Tỳ-khưu đã sanh lòng tranh chấp, các đệ tử của họ trong trú xứ ấy cũng tranh chấp, Tỳ-khưu-ni Tăng chúng nhận lời giáo huấn của họ cũng tranh chấp, rồi các thí chủ của họ cũng tranh chấp. Khi ấy, các vị trời hộ trì loài người cũng chia làm hai phe. Ở đây, các vị trời hộ trì những người theo chánh pháp thì theo chánh pháp, các vị hộ trì những người theo phi pháp thì theo phi pháp. Từ đó, các vị địa thần là bạn của các vị trời hộ trì cũng chia rẽ. Cứ như thế tuần tự cho đến cõi Phạm thiên, ngoại trừ các bậc Thánh đệ tử, tất cả chư Thiên và loài người đều chia làm hai phe. Tuy nhiên, những người theo phi pháp lại đông hơn những người theo chánh pháp. Từ đó, cho rằng “điều gì được nhiều người chấp nhận, điều đó là thật,” họ từ bỏ chánh pháp và chấp nhận phi pháp. Họ sống với phi pháp làm đầu và tái sanh vào các cõi dữ. Như vậy, sự tranh chấp phát sinh giữa hai Tỳ-khưu trong một trú xứ trở thành vì sự không lợi ích, vì sự đau khổ cho nhiều người. Hoặc ở bên trong là ở trong chính mình hoặc trong chúng của mình. Hoặc ở bên ngoài là ở trong người khác hoặc trong chúng của người khác. Để không phát sinh trong tương lai là để không phát sinh trong tương lai.

Makkhīti paresaṃ guṇamakkhanalakkhaṇena makkhena samannāgato. Paḷāsīti yugaggāhalakkhaṇena paḷāsena samannāgato. Issukīti parasakkārādīnaṃ issāyanalakkhaṇāya issāya samannāgato. Maccharīti āvāsamacchariyādīhi samannāgato. Saṭhoti kerāṭiko. Māyāvīti katapāpapaṭicchādako. Pāpicchoti asantasambhāvanicchako dussīlo. Micchādiṭṭhīti natthikavādī ahetukavādī akiriyavādī. Sandiṭṭhiparāmāsīti sayaṃ diṭṭhameva parāmasati gaṇhāti. Ādhānaggāhīti daḷhaggāhī. Duppaṭinissaggīti na sakkā hoti gahitaṃ nissajjāpetuṃ. Ettha ca kodhano hoti upanāhītiādinā puggalādhiṭṭhānanayena kodhūpanāhādayo akusaladhammā vivādamūlānīti dassitāni, tathā duṭṭhacittā vivadantītiādinā lobhadosamohā. Aduṭṭhacittā vivadantītiādinā ca alobhādayo vivādamūlānīti dassitāni.
Người gièm pha là người có tính gièm pha với đặc tính che giấu đức hạnh của người khác. Người cạnh tranh là người có tính cạnh tranh với đặc tính tranh giành ảnh hưởng. Người ganh tỵ là người có lòng ganh tỵ với đặc tính đố kỵ với sự thành công của người khác. Người bỏn xẻn là người có tính bỏn xẻn về trú xứ v.v… Người xảo trá là kẻ lừa đảo. Người gian dối là người che giấu tội lỗi đã làm. Người có ác dục là người không có đức hạnh, mong muốn được công nhận những điều không có thật. Người có tà kiến là người theo thuyết hư vô, thuyết vô nhân, thuyết vô hành. Người cố chấp vào tri kiến của mình là người chỉ bám víu, chấp thủ vào những gì mình đã thấy. Người chấp chặt là người nắm giữ một cách kiên cố. Người khó từ bỏ là không thể làm cho từ bỏ được điều đã chấp thủ. Và ở đây, qua các câu bắt đầu bằng “là người hay phẫn nộ, hayผูก oán”, các pháp bất thiện như phẫn nộ,ผูก oán v.v… được chỉ ra là nguồn gốc của tranh chấp theo cách quy vào cá nhân; tương tự, qua các câu bắt đầu bằng “những người có tâm ác tranh chấp”, các pháp tham, sân, si; và qua các câu bắt đầu bằng “những người không có tâm ác tranh chấp”, các pháp vô tham v.v… được chỉ ra là nguồn gốc của tranh chấp.

217.Dubbaṇṇoti paṃsupisācako viya jhāmakhāṇuvaṇṇo. Duddassikoti vijātamātuyāpi amanāpadassano. Okoṭimakoti lakuṇḍako. Kāṇoti ekakkhikāṇo vā ubhayakkhikāṇo vā. Kuṇīti ekahatthakuṇī vā ubhayahatthakuṇī vā. Khañjoti ekapādakhañjo vā ubhayapādakhañjo vā. Pakkhahatoti hatapakkho pīṭhasappī.
217. Xấu xí là có màu da như khúc gỗ cháy, giống như quỷ đói. Khó nhìn là có vẻ ngoài khôngน่าพอใจ ngay cả với người mẹ đã sinh ra. Lùn tịt là người thấp lùn. Chột là chột một mắt hoặc chột cả hai mắt. Què tay là què một tay hoặc què cả hai tay. Thọt là thọt một chân hoặc thọt cả hai chân. Bại liệt là bị liệt một bên, phải lết đi bằng ghế.

220.Vivādādhikaraṇaṃ kusalaṃ akusalaṃ abyākatanti vivādādhikaraṇaṃ kiṃ kusalaṃ akusalaṃ udāhu abyākatanti pucchati. Vivādādhikaraṇaṃ siyā kusalantiādi vissajjanaṃ. Esa nayo sesesupi. Vivadanti etenāti vivādoti āha ‘‘yena vivadanti, so cittuppādo vivādo’’ti. Kathaṃ pana so cittuppādo adhikaraṇaṃ nāmāti āha ‘‘samathehi ca adhikaraṇīyatāya adhikaraṇa’’nti, samathehi sametabbatāya adhikaraṇanti attho. Vivādahetubhūtassa hi cittuppādassa vūpasamena tappabhavassa saddassapi vūpasamo hotīti cittuppādassa samathehi adhikaraṇīyatā pariyāyo sambhavati.
220. Tranh tụng về tranh chấp là thiện, bất thiện, hay vô ký? là hỏi rằng tranh tụng về tranh chấp là thiện, bất thiện, hay là vô ký. Tranh tụng về tranh chấp có thể là thiện v.v… là câu trả lời. Phương pháp này cũng tương tự trong các trường hợp còn lại. Người ta tranh chấp bằng cái đó, nên gọi là tranh chấp, do đó đã nói rằng “tâm sanh khởi nào mà người ta tranh chấp bằng nó, đó là tranh chấp.” Nhưng làm thế nào tâm sanh khởi đó lại được gọi là tranh tụng? Đã nói rằng: “và là tranh tụng do phải được giải quyết bằng các pháp dàn xếp,” nghĩa là là tranh tụng do phải được dàn xếp bằng các pháp dàn xếp. Bởi vì, khi tâm sanh khởi là nguyên nhân của tranh chấp được dập tắt, thì lời nói phát sinh từ đó cũng được dập tắt. Do đó, có thể có cách nói rằng tâm sanh khởi là đối tượng phải được giải quyết bằng các pháp dàn xếp.

222.Āpattādhikaraṇaṃ siyā akusalaṃ siyā abyākatanti ayaṃ vikappo paññattivajjaṃyeva sandhāya vutto, na lokavajjanti dassetuṃ ‘‘sandhāyabhāsitavasenā’’tiādimāha. Kasmā panettha sandhāyabhāsitavasena attho veditabboti āha ‘‘yasmiṃ hī’’tiādi. Pathavīkhaṇanādiketi ettha ādi-saddena bhūtagāmapātabyatādipaññattivajjaṃ sikkhāpadaṃ saṅgaṇhāti. Yo vinaye apakataññutāya vattasīsena sammuñjaniādinā pathavīkhaṇanādīni karoti, tadā tassuppannacittaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘kusalacittaṃ aṅgaṃ hotī’’ti. Aṅgaṃ hotīti ca vattasīsena karontassapi ‘‘imaṃ pathaviṃ khaṇāmī’’tiādinā vītikkamajānanavasena pavattattā taṃ kusalacittaṃ āpattādhikaraṇaṃ, kusalacittaṃ āpattiyā kāraṇaṃ hotīti attho. Na hi vītikkamaṃ ajānantassa pathavīkhaṇanādīsu āpatti sambhavati. Tasmiṃ satīti tasmiṃ kusalacitte āpattibhāvena gahite satīti adhippāyo. Tasmāti yasmā kusalacitte āpattibhāvena gahite sati ‘‘natthi āpattādhikaraṇaṃ kusala’’nti na sakkā vattuṃ, tasmā. Nayidaṃ aṅgappahonakacittaṃ sandhāya vuttanti ‘‘āpattādhikaraṇaṃ siyā akusalaṃ siyā abyākataṃ, natthi āpattādhikaraṇaṃ kusala’’nti idaṃ āpattisamuṭṭhāpakabhāvena aṅgappahonakaṃ āpattiyā kāraṇabhūtaṃ cittaṃ sandhāya na vuttaṃ. Kiṃ pana sandhāya vuttanti āha ‘‘idaṃ panā’’tiādi. Bhikkhumhi kammaṭṭhānagatacittena nipanne niddāyante vā mātugāmo ce seyyaṃ kappeti, tasmiṃ khaṇe seyyākārena vattamānarūpameva āpatti, na kusalādivasappavattaṃ cittanti āha ‘‘asañcicca…pe… sahaseyyādivasena āpajjato (pari. 323 atthato samānaṃ) abyākataṃ hotī’’ti. Tasmiñhi khaṇe uṭṭhātabbe jāte anuṭṭhānato tadākārapavatto rūpakkhandhova āpatti.
222. Tranh tụng về tội có thể là bất thiện, có thể là vô ký, sự phân biệt này được nói ra chỉ nhằm ám chỉ tội do chế định, không phải tội do thế gian, để chỉ ra điều đó, đã nói bắt đầu bằng “theo cách nói ám chỉ.” Tại sao ở đây ý nghĩa phải được hiểu theo cách nói ám chỉ? Đã nói bắt đầu bằng “Bởi vì trong trường hợp nào.” Trong việc đào đất v.v…, ở đây bằng từ v.v… bao gồm các học giới là tội do chế định như làm hại các loại cây cỏ. Người nào do không hiểu rõ về luật mà thực hiện việc đào đất v.v… bằng chổi v.v… với ý nghĩ là phận sự, khi đó, nhằm ám chỉ tâm sanh khởi của người ấy, đã nói rằng “tâm thiện là một yếu tố.”là một yếu tố có nghĩa là, ngay cả đối với người làm với ý nghĩ là phận sự, do nó diễn ra với sự biết về sự vi phạm qua (ý nghĩ) “tôi đang đào đất này” v.v…, nên tâm thiện đó là tranh tụng về tội, tâm thiện là nguyên nhân của tội. Quả vậy, đối với người không biết về sự vi phạm thì không thể có tội trong việc đào đất v.v… Khi có điều đó có chủ ý là khi tâm thiện đó được xem là một tội. Do đó, bởi vì khi tâm thiện được xem là một tội, không thể nói rằng “không có tranh tụng về tội nào là thiện,” do đó. Điều này không được nói ra nhằm ám chỉ tâm có khả năng cấu thành, (câu) “tranh tụng về tội có thể là bất thiện, có thể là vô ký, không có tranh tụng về tội nào là thiện” này không được nói ra nhằm ám chỉ tâm có khả năng cấu thành, là nguyên nhân của tội. Nhưng được nói ra nhằm ám chỉ điều gì? Đã nói bắt đầu bằng “Nhưng điều này.” Khi một Tỳ-khưu đang nằm với tâm hướng về đề mục thiền định hoặc đang ngủ, nếu một người nữ đến sắp đặt chỗ nằm, vào khoảnh khắc đó, chính sắc pháp đang diễn ra theo hình thức nằm chung là tội, chứ không phải tâm đang diễn ra theo trạng thái thiện v.v…, do đó đã nói rằng “không cố ý… v.v… đối với người phạm tội do việc nằm chung v.v… (pari. 323 tương tự về ý nghĩa) là vô ký.” Bởi vì vào khoảnh khắc đó, khi phải đứng dậy mà không đứng dậy, chính sắc uẩn đang diễn ra theo cách đó là tội.

‘‘Āpattiṃ āpajjanto kusalacitto vā āpajjati akusalābyākatacitto vā’’ti vacanato kusalampi āpattādhikaraṇaṃ siyāti ce? Na. Yo hi āpattiṃ āpajjatīti vuccati, so tīsu cittesu aññataracittasamaṅgī hutvā āpajjati, na aññathāti dassanatthaṃ ‘‘kusalacitto vā’’tiādi vuttaṃ. Ayañhettha attho – pathavīkhaṇanādīsu kusalacittakkhaṇe vītikkamādivasena pavattarūpasambhavato kusalacitto vā tathāpavattarūpasaṅkhātaṃ abyākatāpattiṃ āpajjati, tathā abyākatacitto vā abyākatarūpasaṅkhātaṃ abyākatāpattiṃ āpajjati. Pāṇātipātādiṃ akusalacitto vā akusalāpattiṃ āpajjati, rūpaṃ panettha abbohārikaṃ. Supinante ca pāṇātipātādiṃ karonto sahaseyyādivasena āpajjitabbāpattiṃ āpajjanto akusalacitto abyākatāpattiṃ āpajjatīti.
Nếu hỏi rằng: “Người đang phạm tội, phạm với tâm thiện, hay phạm với tâm bất thiện, vô ký?” theo đó, tranh tụng về tội cũng có thể là thiện? Không. Bởi vì người được gọi là đang phạm tội, vị ấy phạm trong khi đang có một trong ba loại tâm, chứ không phải khác, để chỉ ra điều đó, đã nói bắt đầu bằng “hoặc với tâm thiện.” Và ý nghĩa ở đây là: trong việc đào đất v.v…, vào khoảnh khắc của tâm thiện, do có sắc pháp diễn ra qua sự vi phạm v.v…, người có tâm thiện phạm tội vô ký được gọi là sắc pháp diễn ra như vậy, hoặc người có tâm vô ký phạm tội vô ký được gọi là sắc pháp vô ký. Còn người có tâm bất thiện phạm tội bất thiện như sát sanh v.v…, ở đây sắc pháp không được bàn đến. Và người làm việc sát sanh v.v… trong giấc mơ, hoặc người đang phạm tội phải phạm do việc nằm chung v.v…, người có tâm bất thiện đang phạm một tội vô ký.

Kusalacittaṃāpajjeyyāti eḷakalomaṃ gahetvā kammaṭṭhānamanasikārena tiyojanaṃ atikkamantassa paññattiṃ ajānitvā padaso dhammaṃ vācentassa ca āpajjitabbāpattiyā kusalacittaṃ āpajjeyya. Na ca tattha vijjamānampi kusalacittaṃ āpattiyā aṅganti tasmiṃ vijjamānampi kusalacittaṃ āpattiyā aṅgaṃ na hoti, sayaṃ āpatti na hotīti attho. Calitappavattānanti calitānaṃ pavattānañca. Calito kāyo, pavattā vācā. Aññatarameva aṅganti kāyavācānaṃ aññatarameva āpattīti attho. Tañca rūpakkhandhapariyāpannattā abyākatanti iminā abyākatamāpattādhikaraṇaṃ, nāññanti dasseti.
Có thể phạm với tâm thiện, đối với người cầm lông cừu đi quá ba do-tuần với sự tác ý đến đề mục thiền định, và đối với người đọc từng chữ của pháp mà không biết về giới điều, tội phải phạm có thể được phạm với tâm thiện. Và mặc dù tâm thiện có hiện hữu ở đó, nó không phải là yếu tố của tội, mặc dù tâm thiện có hiện hữu ở đó, nó không phải là yếu tố của tội, nghĩa là tự nó không phải là tội. Của những hành động đã được thực hiện là của những hành động đã được thực hiện và những lời đã được nói ra. Thân hành động, lời nói ra. Chỉ một trong hai là yếu tố, có nghĩa là chỉ một trong hai, thân hoặc khẩu, là tội. Và điều đó, do thuộc về sắc uẩn, nên là vô ký, bằng câu này, (vị ấy) chỉ ra rằng tranh tụng về tội là vô ký, không phải khác.

Yadi evaṃ ‘‘sāpattikassa, bhikkhave, nirayaṃ vā vadāmi tiracchānayoniṃ vā’’ti vacanato abyākatassapi vipākadhammatā āpajjeyyāti? Nāpajjeyya. Asañcicca āpannā hi āpattiyo yāva so na jānāti, tāva anantarāyakarā, jānitvā chādento pana chādanappaccayā aññaṃ dukkaṭasaṅkhātaṃ akusalamāpattādhikaraṇamāpajjati, tañca akusalasabhāvattā saggamokkhānaṃ antarāyakaraṇanti sāpattikassa apāyagāmitā vuttā. Abyākataṃ pana āpattādhikaraṇaṃ avipākadhammamevāti niṭṭhamettha gantabbaṃ. Teneva porāṇagaṇṭhipadesupi ‘‘puthujjano kalyāṇaputhujjano sekkho arahāti cattāro puggale dassetvā tesu arahato āpattādhikaraṇaṃ abyākatameva, tathā sekkhānaṃ, tathā kalyāṇaputhujjanassa asañcicca vītikkamakāle abyākatameva. Itarassa akusalampi hoti abyākatampi. Yasmā cassa sañcicca vītikkamakāle akusalameva hoti, tasmā vuttaṃ ‘natthi āpattādhikaraṇaṃ kusala’nti. Sabbattha evaṃ abyākatanti vipākābhāvamattaṃ sandhāya vutta’’nti likhitaṃ. Yañca āpattādhikaraṇaṃ akusalaṃ, tampi desitaṃ vuṭṭhitaṃ vā anantarāyakaraṃ. Yathā hi ariyūpavādakammaṃ akusalampi samānaṃ accayaṃ desetvā khamāpanena payogasampattipaṭibāhitattā avipākadhammataṃ āpannaṃ ahosikammaṃ hoti, evamidampi desitaṃ vuṭṭhitaṃ vā payogasampattipaṭibāhitattā avipākadhammatāya ahosikammabhāvena anantarāyakaraṃ jātaṃ. Teneva ‘‘sāpattikassa, bhikkhave, nirayaṃ vā vadāmi tiracchānayoniṃ vā’’ti sāpattikasseva apāyagāmitā vuttā.
Nếu vậy, theo câu “Này các Tỳ-khưu, đối với người có tội, Ta nói rằng sẽ đến địa ngục hoặc loài súc sanh,” thì ngay cả pháp vô ký cũng có thể có quả báo? Không thể có. Các tội phạm không cố ý, chừng nào người đó chưa biết, chừng đó chúng không gây trở ngại. Nhưng khi biết rồi mà che giấu, do duyên che giấu, người đó phạm một tranh tụng về tội bất thiện khác được gọi là tội tác ác, và điều đó, do bản chất là bất thiện, nên gây trở ngại cho cõi trời và Niết-bàn, do đó đã nói rằng người có tội sẽ đi đến cõi dữ. Nhưng nên đi đến kết luận rằng tranh tụng về tội vô ký là pháp không có quả báo. Chính vì vậy, ngay cả trong các sách chú giải cổ cũng viết rằng: “sau khi chỉ ra bốn hạng người là phàm phu, phàm phu hiền thiện, bậc hữu học, và bậc A-la-hán, trong số đó, tranh tụng về tội của bậc A-la-hán chỉ là vô ký, tương tự đối với các bậc hữu học, tương tự đối với phàm phu hiền thiện vào lúc vi phạm không cố ý cũng chỉ là vô ký. Đối với người còn lại, cũng có thể là bất thiện và cũng có thể là vô ký. Và bởi vì đối với người này, vào lúc vi phạm có cố ý, nó chỉ là bất thiện, do đó đã nói ‘không có tranh tụng về tội nào là thiện.’ Ở khắp mọi nơi, (từ) vô ký như vậy được nói ra chỉ nhằm ám chỉ việc không có quả báo.” Và tranh tụng về tội nào là bất thiện, khi đã được sám hối hoặc đã ra khỏi, nó cũng không gây trở ngại. Giống như nghiệp phỉ báng bậc Thánh, mặc dù là bất thiện, sau khi đã sám hối và được tha thứ, do sự thành tựu của phương tiện đã ngăn cản, nó trở thành pháp không có quả báo, trở thành nghiệp vô hiệu. Tương tự như vậy, điều này, khi đã được sám hối hoặc đã ra khỏi, do sự thành tựu của phương tiện đã ngăn cản, nó trở thành không gây trở ngại do tính chất không có quả báo, do trạng thái là nghiệp vô hiệu. Chính vì vậy, (Đức Phật) đã nói rằng chính người có tội sẽ đi đến cõi dữ: “Này các Tỳ-khưu, đối với người có tội, Ta nói rằng sẽ đến địa ngục hoặc loài súc sanh.”

Adhikaraṇavūpasamanasamathakathāvaṇṇanā
Chú Giải Lời Về Các Pháp Dàn Xếp Chấm Dứt Tranh Tụng

228. Vivādasaṅkhāte atthe paccatthikā atthapaccatthikā.
228. Các đối phương trong sự việc được gọi là tranh chấp là những người đối phương trong sự việc.

229.Sammukhāvinayasminti sammukhāvinayabhāve.
229. Trong pháp dàn xếp trực diện là trong trạng thái dàn xếp trực diện.

230.Antarenāti kāraṇena.
230. Do là do duyên cớ.

231. Ubbāhikāya khīyanake pācitti na vuttā tattha chandadānassa natthitāya.
231. Trong trường hợp Tăng sự bị hủy bỏ, tội Ưng Đối Trị không được nói đến đối với người khuyết tịch vì ở đó không có sự trao quyền biểu quyết.

236.Tassa kho tanti ettha kho tanti nipātamattaṃ.
236. Trong câu tassa kho ta, kho ta ở đây chỉ là hư từ.

238. ‘‘Kā ca tattha tassapāpiyasikāyā’’ti potthakesu likhanti. ‘‘Kā ca tassapāpiyasikā’’ti evaṃ panettha pāṭho veditabbo.
238. Trong các sách, người ta viết là: “Và ở đó, việc xử tội theo số đông là gì?” Ở đây, nên hiểu bài đọc là: “Và việc xử tội theo số đông là gì?”

242.Kiccādhikaraṇaṃ ekena samathena sammatīti ettha ‘‘kiccameva kiccādhikaraṇa’’nti (pārā. aṭṭha. 2.385-86) vacanato apalokanakammādīnametaṃ adhivacanaṃ. Taṃ vivādādhikaraṇādīni viya samathehi sametabbaṃ na hoti, kintu sammukhāvinayena sampajjati, tasmā sammatīti ettha sampajjatīti attho gahetabbo. Sesamettha suviññeyyameva.
242. Tranh tụng về phận sự được giải quyết bằng một pháp dàn xếp, ở đây, theo câu “phận sự chính là tranh tụng về phận sự” (pārā. aṭṭha. 2.385-86), đây là tên gọi của các tăng sự như tăng sự biểu quyết v.v… Điều đó không được giải quyết bằng các pháp dàn xếp như tranh tụng về tranh chấp v.v…, mà được thành tựu bằng pháp dàn xếp trực diện. Do đó, ở đây, sammatī nên được hiểu theo nghĩa là được thành tựu. Phần còn lại ở đây nên được hiểu rõ.

Samathakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú giải chương Dàn Xếp chấm dứt.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang