Phụ Chú Giải Tập Yếu Luật Tạng – 23. Luận giải giới luật liên quan đến mối quan hệ y chỉ của Tỳ-khưu
23. Nissayavinicchayakathā
23. Câu chuyện về sự thẩm định việc nương tựa
151. Nissayoti ettha pana ayaṃ nissayo nāma kena dātabbo, kena na dātabbo, kassa dātabbo, kassa na dātabbo, kathaṃ gahito hoti, kathaṃ paṭippassambhati, nissāya kena vasitabbaṃ, kena ca na vasitabbanti? Tattha kena dātabbo, kena na dātabboti ettha tāva ‘‘anujānāmi, bhikkhave, byattena bhikkhunā paṭibalena dasavassena vā atirekadasavassena vā upasampādetuṃ, nissayaṃ dātu’’nti (mahāva. 76, 82) ca anuyāya yo byatto hoti paṭibalo upasampadāya dasavasso vā atirekadasavasso vā, tena dātabbo, itarena na dātabbo. Sace deti, dukkaṭaṃ āpajjati.
151. Nương tựa: Ở đây, về việc nương tựa này, ai là người nên cho nương tựa, ai không nên? Ai là người được cho nương tựa, ai không được? Việc nương tựa được thọ nhận như thế nào, và chấm dứt như thế nào? Ai là người phải sống nương tựa, và ai không phải? Trong đó, về câu hỏi ai là người nên cho nương tựa, ai không nên, trước hết, theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép một vị Tỳ-khưu thông thạo, có khả năng, đã đủ mười tuổi hạ hoặc hơn mười tuổi hạ được cho thọ cụ túc giới, cho nương tựa.” (mahāva. 76, 82), vị nào thông thạo, có khả năng, đã đủ mười tuổi hạ hoặc hơn mười tuổi hạ trong việc cho thọ cụ túc giới, thì vị đó nên cho nương tựa; vị khác thì không nên. Nếu cho, vị ấy phạm tội Tác Ác.
Ettha (pāci. aṭṭha. 145-147) ca ‘‘byatto’’ti iminā parisupaṭṭhāpakabahussuto veditabbo. Parisupaṭṭhāpakena hi sabbantimena paricchedena parisaṃ abhivinaye vinetuṃ dve vibhaṅgā paguṇā vācuggatā kātabbā, asakkontena tīhi janehi saddhiṃ parivattanakkhamā kātabbā, kammākammañca khandhakavattañca uggahetabbaṃ, parisāya pana abhidhamme vinayanatthaṃ sace majjhimabhāṇako hoti, mūlapaṇṇāsako uggahetabbo, dīghabhāṇakena mahāvaggo, saṃyuttabhāṇakena heṭṭhimā vā tayo vaggā mahāvaggo vā, aṅguttarabhāṇakena heṭṭhā vā upari vā upaḍḍhanikāyo uggahetabbo, asakkontena tikanipātato paṭṭhāya uggahetumpi vaṭṭati. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘ekaṃ gaṇhantena catukkanipātaṃ vā pañcakanipātaṃ vā uggahetuṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Jātakabhāṇakena sāṭṭhakathaṃ jātakaṃ uggahetabbaṃ, tato oraṃ na vaṭṭati. ‘‘Dhammapadampi saha vatthunā uggahetuṃ vaṭṭatī’’ti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Tato tato samuccayaṃ katvā mūlapaṇṇāsakamattaṃ vaṭṭati, ‘‘na vaṭṭatī’’ti kurundaṭṭhakathāyaṃ paṭikkhittaṃ, itarāsu vicāraṇāyeva natthi. Abhidhamme kiñci gahetabbanti na vuttaṃ. Yassa pana sāṭṭhakathampi vinayapiṭakaṃ abhidhammapiṭakañca paguṇaṃ, suttante ca vuttappakāro gantho natthi, parisaṃ upaṭṭhāpetuṃ na labhati. Yena pana suttantato ca vinayato ca vuttappamāṇo gantho uggahito, ayaṃ parisupaṭṭhāko bahussutova hoti, disāpāmokkho yenakāmaṃgamo parisaṃ upaṭṭhāpetuṃ labhati, ayaṃ imasmiṃ atthe ‘‘byatto’’ti adhippeto.
Ở đây (pāci. aṭṭha. 145-147), “thông thạo” được hiểu là người có học thức rộng, có thể hướng dẫn đại chúng. Người hướng dẫn đại chúng, với tiêu chuẩn thấp nhất, phải thông thạo và thuộc lòng hai bộ Phân Tích để có thể rèn luyện đại chúng trong luật; nếu không thể, phải có khả năng đọc tụng cùng với ba người khác; phải học thuộc về các tăng sự hợp và không hợp, và các bổn phận trong các thiên. Về việc hướng dẫn đại chúng trong tạng Vi Diệu Pháp, nếu là người tụng trung bộ, phải học thuộc 50 kinh đầu; nếu là người tụng trường bộ, phải học thuộc Đại Phẩm; nếu là người tụng tương ưng bộ, phải học thuộc ba phẩm đầu hoặc Đại Phẩm; nếu là người tụng tăng chi bộ, phải học thuộc nửa bộ kinh trên hoặc dưới; nếu không thể, cũng được phép học từ chương Ba Pháp trở đi. Tuy nhiên, trong sách Mahāpaccariyaṃ có nói: “Người nào học một bộ, có thể học chương Bốn Pháp hoặc chương Năm Pháp.” Người tụng Bổn Sanh phải học thuộc bộ Bổn Sanh cùng với chú giải, ít hơn thì không được. Sách Mahāpaccariyaṃ có nói: “Cũng được phép học thuộc Pháp Cú cùng với tích truyện.” Việc tổng hợp từ nhiều nơi cho đủ bằng 50 kinh đầu thì được phép, nhưng trong sách Kurundaṭṭhakathāyaṃ đã bác bỏ, nói rằng “không được phép”; trong các sách khác thì không có sự bàn luận. Về tạng Vi Diệu Pháp, không có quy định phải học một phần nào. Vị nào thông thạo cả tạng Luật và tạng Vi Diệu Pháp cùng với chú giải, nhưng không có phần kinh văn đã quy định trong tạng Kinh, thì không được phép hướng dẫn đại chúng. Vị nào đã học thuộc phần kinh văn theo quy định từ tạng Kinh và tạng Luật, vị đó là người có học thức rộng, là bậc thầy lỗi lạc, có thể đi đến bất cứ đâu, được phép hướng dẫn đại chúng; vị đó trong ý nghĩa này được xem là “thông thạo”.
Yo pana antevāsino vā saddhivihārikassa vā gilānassa sakkoti upaṭṭhānādīni kātuṃ, ayaṃ idha ‘‘paṭibalo’’ti adhippeto. Yaṃ pana vuttaṃ –
Còn vị nào có thể chăm sóc đệ tử hoặc bạn đồng tu khi bị bệnh, vị đó ở đây được xem là “có khả năng”. Như đã được nói:
‘‘Pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo. Na asekkhena sīlakkhandhena samannāgato hoti, na asekkhena samādhikkhandhena samannāgato hoti, na asekkhena paññākkhandhena samannāgato hoti, na asekkhena vimuttikkhandhena samannāgato hoti, na asekkhena vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgato hoti. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo.
“Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều sau đây thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di. Không có giới uẩn của bậc vô học, không có định uẩn của bậc vô học, không có tuệ uẩn của bậc vô học, không có giải thoát uẩn của bậc vô học, không có giải thoát tri kiến uẩn của bậc vô học. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di.
‘‘Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo. Attanā na asekkhena sīlakkhandhena samannāgato hoti, na paraṃ asekkhe sīlakkhandhe samādapetā. Attanā na asekkhena samādhikkhandhena samannāgato hoti, na paraṃ asekkhe samādhikkhandhe samādapetā. Attanā na asekkhena paññākkhandhena samannāgato hoti, na paraṃ asekkhe paññākkhandhe samādapetā. Attanā na asekkhena vimuttikkhandhena samannāgato hoti, na paraṃ asekkhe vimuttikkhandhe samādapetā. Attanā na asekkhena vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgato hoti, na paraṃ asekkhe vimuttiñāṇadassanakkhandhe samādapetā. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều khác nữa thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di. Tự mình không có giới uẩn của bậc vô học, không thể khuyên dạy người khác về giới uẩn của bậc vô học. Tự mình không có định uẩn của bậc vô học, không thể khuyên dạy người khác về định uẩn của bậc vô học. Tự mình không có tuệ uẩn của bậc vô học, không thể khuyên dạy người khác về tuệ uẩn của bậc vô học. Tự mình không có giải thoát uẩn của bậc vô học, không thể khuyên dạy người khác về giải thoát uẩn của bậc vô học. Tự mình không có giải thoát tri kiến uẩn của bậc vô học, không thể khuyên dạy người khác về giải thoát tri kiến uẩn của bậc vô học. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di.
‘‘Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo. Assaddho hoti, ahiriko hoti, anottappī hoti, kusīto hoti, muṭṭhassati hoti. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều khác nữa thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di. Không có tín, không có tàm, không có quý, lười biếng, thất niệm. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di.
‘‘Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo. Adhisīle sīlavipanno hoti, ajjhācāre ācāravipanno hoti, atidiṭṭhiyā diṭṭhivipanno hoti, appassuto hoti, duppañño hoti. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều khác nữa thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di. Hư hỏng về tăng thượng giới, hư hỏng về tác phong, hư hỏng về tri kiến, ít học, trí tuệ kém. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di.
‘‘Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo. Na paṭibalo hoti antevāsiṃ vā saddhivihāriṃ vā gilānaṃ upaṭṭhātuṃ vā upaṭṭhāpetuṃ vā, anabhirataṃ vūpakāsetuṃ vā vūpakāsāpetuṃ vā, uppannaṃ kukkuccaṃ dhammato vinodetuṃ, āpattiṃ na jānāti, āpattiyā vuṭṭhānaṃ na jānāti. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều khác nữa thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di. Không có khả năng chăm sóc hoặc nhờ người chăm sóc đệ tử hay bạn đồng tu khi bị bệnh, không thể khuyên giải hoặc nhờ người khuyên giải khi họ không vui, không thể dùng chánh pháp để giải trừ sự hối hận đã phát sinh, không biết tội, không biết cách ra khỏi tội. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di.
‘‘Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo. Na paṭibalo hoti antevāsiṃ vā saddhivihāriṃ vā ābhisamācārikāya sikkhāya sikkhāpetuṃ, ādibrahmacariyakāya sikkhāya vinetuṃ, abhidhamme vinetuṃ, abhivinaye vinetuṃ, uppannaṃ diṭṭhigataṃ dhammato vivecetuṃ. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều khác nữa thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di. Không có khả năng dạy đệ tử hay bạn đồng tu về học giới liên quan đến tác phong, rèn luyện trong học giới về phạm hạnh căn bản, rèn luyện trong tạng Vi Diệu Pháp, rèn luyện trong tạng Luật, không thể dùng chánh pháp để phân tích tri kiến đã phát sinh. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di.
‘‘Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo. Āpattiṃ na jānāti, anāpattiṃ na jānāti, lahukaṃ āpattiṃ na jānāti, garukaṃ āpattiṃ na jānāti, ubhayāni kho panassa pātimokkhāni vitthārena na svāgatāni honti na suvibhattāni na suppavattīni na suvinicchitāni suttaso anubyañjanaso. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều khác nữa thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di. Không biết tội, không biết không phải tội, không biết tội nhẹ, không biết tội nặng, cả hai bộ Giới Bổn không được thông suốt, không được phân tích rõ ràng, không được thực hành nhuần nhuyễn, không được thẩm định kỹ càng theo từng kinh và từng chữ. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di.
‘‘Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo. Āpattiṃ na jānāti, anāpattiṃ na jānāti, lahukaṃ āpattiṃ na jānāti, garukaṃ āpattiṃ na jānāti, ūnadasavasso hoti. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo’’tiādi (mahāva. 84). Tampi –
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều khác nữa thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di. Không biết tội, không biết không phải tội, không biết tội nhẹ, không biết tội nặng, chưa đủ mười tuổi hạ. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không nên cho thọ cụ túc giới, không nên cho nương tựa, không nên nhận sa-di.” v.v… (mahāva. 84). Điều đó cũng được nói để làm rõ hơn về các đặc điểm của một vị hòa thượng và giáo thọ sư, vốn đã được nói một cách tóm tắt như sau:
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, byattena bhikkhunā paṭibalena dasavassena vā atirekadasavassena vā upasampādetuṃ, nissayaṃ dātu’’nti (mahāva. 76, 82) ca evaṃ saṅkhepato vuttasseva upajjhāyācariyalakkhaṇassa vitthāradassanatthaṃ vuttaṃ.
“Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép một vị Tỳ-khưu thông thạo, có khả năng, đã đủ mười tuổi hạ hoặc hơn mười tuổi hạ được cho thọ cụ túc giới, cho nương tựa.” (mahāva. 76, 82).
Tattha (mahāva. aṭṭha. 84) kiñci ayuttavasena paṭikkhittaṃ, kiñci āpattiaṅgavasena. Tathā hi ‘‘na asekkhena sīlakkhandhenā’’ti ca ‘‘attanā na asekkhenā’’ti ca ‘‘assaddho’’ti ca ādīsu tīsu pañcakesu ayuttavasena paṭikkhepo kato, na āpattiaṅgavasena. Yo hi asekkhehi sīlakkhandhādīhi asamannāgato pare ca tattha samādapetuṃ asakkonto assaddhiyādidosayuttova hutvā parisaṃ pariharati, tassa parisā sīlādīhi pariyāyatiyeva na vaḍḍhati, tasmā ‘‘tena na upasampādetabba’’ntiādi ayuttavasena vuttaṃ, na āpattiaṅgavasena. Na hi khīṇāsavasseva upajjhācariyabhāvo bhagavatā anuññāto, yadi tasseva anuññāto abhavissa, ‘‘sace upajjhāyassa anabhirati uppannā hotī’’tiādiṃ na vadeyya, yasmā pana khīṇāsavassa parisā sīlādīhi na parihāyati, tasmā ‘‘pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgatena bhikkhunā upasampādetabba’’ntiādi vuttaṃ.
Ở đây (mahāva. aṭṭha. 84), một số điều bị từ chối vì không phù hợp, một số vì là yếu tố cấu thành tội. Chẳng hạn, trong ba nhóm năm điều bắt đầu bằng “không có giới uẩn của bậc vô học”, “tự mình không có” và “không có tín”, sự từ chối được đưa ra vì không phù hợp, chứ không phải vì là yếu tố cấu thành tội. Vị nào không có các giới uẩn của bậc vô học, không thể khuyên dạy người khác, lại có các khuyết điểm như không có tín, mà vẫn dẫn dắt đại chúng, thì đại chúng của vị đó chỉ có thể suy giảm về giới đức chứ không thể tăng trưởng. Do đó, lời dạy “vị đó không nên cho thọ cụ túc giới” v.v… được nói vì không phù hợp, chứ không phải vì là yếu tố cấu thành tội. Vì Đức Thế Tôn không chỉ cho phép bậc đã tận trừ lậu hoặc mới được làm hòa thượng và giáo thọ sư; nếu Ngài chỉ cho phép như vậy, Ngài đã không nói những câu như “nếu vị hòa thượng không còn vui thích” v.v… Nhưng vì đại chúng của một vị đã tận trừ lậu hoặc thì không bị suy giảm về giới đức, do đó mới có lời dạy “Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều sau đây thì nên cho thọ cụ túc giới” v.v…
Adhisīle sīlavipannotiādīsu pārājikañca saṅghādisesañca āpanno adhisīle sīlavipanno nāma. Itare pañcāpattikkhandhe āpanno ajjhācāre ācāravipanno nāma. Sammādiṭṭhiṃ pahāya antaggāhikāya diṭṭhiyā samannāgato atidiṭṭhiyā diṭṭhivipanno nāma. Yattakaṃ sutaṃ parisaṃ pariharantassa icchitabbaṃ, tena virahitattā appassuto. Yaṃ tena jānitabbaṃ āpattādi, tassa ajānanato duppañño. Imasmiṃ pañcake purimāni tīṇi padāni ayuttavasena vuttāni, pacchimāni dve āpattiaṅgavasena.
Trong các câu như hư hỏng về tăng thượng giới, người phạm tội Bất Cộng Trụ và Tăng Tàn được gọi là người hư hỏng về tăng thượng giới. Người phạm năm nhóm tội còn lại được gọi là người hư hỏng về tác phong. Người từ bỏ chánh kiến, có tà kiến cố chấp được gọi là người hư hỏng về tri kiến. Người thiếu kiến thức cần thiết để dẫn dắt đại chúng là người ít học. Người không biết những điều cần biết như tội v.v… là người trí tuệ kém. Trong nhóm năm điều này, ba điều đầu được nói vì không phù hợp, hai điều sau vì là yếu tố cấu thành tội.
Āpattiṃ na jānātīti ‘‘idaṃ nāma mayā kata’’nti vutte ‘‘imaṃ nāma āpattiṃ ayaṃ āpanno’’ti na jānāti. Vuṭṭhānaṃ na jānātīti ‘‘vuṭṭhānagāminito vā desanāgāminito vā āpattito evaṃ nāma vuṭṭhānaṃ hotī’’ti na jānāti. Imasmiñhi pañcake purimāni dve padāni ayuttavasena vuttāni, pacchimāni tīṇi āpattiaṅgavasena.
Không biết tội nghĩa là khi có người nói “tôi đã làm việc này”, vị đó không biết “người này đã phạm tội này”. Không biết cách ra khỏi tội nghĩa là không biết cách ra khỏi tội như thế nào, bằng cách xuất tội hay bằng cách sám hối. Trong nhóm năm điều này, hai điều đầu được nói vì không phù hợp, ba điều sau vì là yếu tố cấu thành tội.
Ābhisamācārikāya sikkhāyāti khandhakavatte vinetuṃ na paṭibalo hotīti attho. Ādibrahmacariyakāyāti sekkhapaṇṇattiyaṃ vinetuṃ na paṭibaloti attho. Abhidhammeti nāmarūpaparicchede vinetuṃ na paṭibaloti attho. Abhivinayeti sakale vinayapiṭake vinetuṃ na paṭibaloti attho. Vinetuṃ na paṭibaloti ca sabbattha sikkhāpetuṃ na sakkotīti attho. Dhammato vivecetunti dhammena kāraṇena vissajjāpetuṃ. Imasmiṃ pañcake sabbapadesu āpatti.
Học giới liên quan đến tác phong nghĩa là không có khả năng rèn luyện trong các bổn phận thuộc các thiên. Phạm hạnh căn bản nghĩa là không có khả năng rèn luyện trong các học giới của bậc hữu học. Trong tạng Vi Diệu Pháp nghĩa là không có khả năng rèn luyện trong việc phân biệt danh và sắc. Trong tạng Luật nghĩa là không có khả năng rèn luyện trong toàn bộ tạng Luật. Không có khả năng rèn luyện ở mọi nơi đều có nghĩa là không thể dạy dỗ. Dùng chánh pháp để phân tích nghĩa là dùng chánh pháp, dùng lý lẽ để làm cho họ từ bỏ. Trong nhóm năm điều này, tất cả các điều đều cấu thành tội.
‘‘Āpattiṃ na jānātī’’tiādipañcakasmiṃ vitthārenāti ubhatovibhaṅgena saddhiṃ. Na svāgatānīti na suṭṭhu āgatāni. Suvibhattānīti suṭṭhu vibhattāni padapaccābhaṭṭhasaṅkaradosaraatāni. Suppavattīnīti paguṇāni vācuggatāni suvinicchitāni. Suttasoti khandhakaparivārato āharitabbasuttavasena suṭṭhu vinicchitāni. Anubyañjanasoti akkharapadapāripūriyā ca suvinicchitāni akhaṇḍāni aviparītakkharāni. Etena aṭṭhakathā dīpitā. Aṭṭhakathāto hi esa vinicchayo hotīti. Imasmiṃ pañcakepi sabbapadesu āpatti. Ūnadasavassapariyosānapañcakepi eseva nayo. Iti ādito tayo pañcakā, catutthe tīṇi padāni, pañcame dve padānīti sabbepi cattāro pañcakā ayuttavasena vuttā, catutthe pañcake dve padāni, pañcame tīṇi, chaṭṭhasattamaṭṭhamā tayo pañcakāti sabbepi cattāro pañcakā āpattiaṅgavasena vuttā.
Trong nhóm năm điều bắt đầu bằng “không biết tội”, chi tiết nghĩa là cùng với hai bộ Phân Tích. Không thông suốt nghĩa là không học hỏi kỹ càng. Phân tích rõ ràng nghĩa là được phân tích kỹ càng, không có các lỗi về từ ngữ, cú pháp và sự nhầm lẫn. Thực hành nhuần nhuyễn nghĩa là thông thạo, thuộc lòng, được thẩm định kỹ càng. Theo từng kinh nghĩa là được thẩm định kỹ càng theo các kinh được trích dẫn từ các thiên và chương. Theo từng chữ nghĩa là được thẩm định kỹ càng về sự đầy đủ của chữ và từ, các chữ không bị thiếu sót, không bị sai lệch. Bằng điều này, chú giải đã được làm sáng tỏ. Vì sự thẩm định này đến từ chú giải. Trong nhóm năm điều này, tất cả các điều đều cấu thành tội. Trong nhóm năm điều cuối cùng về việc chưa đủ mười tuổi hạ cũng áp dụng cách thức này. Như vậy, ba nhóm năm điều đầu tiên, ba điều trong nhóm thứ tư, hai điều trong nhóm thứ năm, tất cả bốn nhóm năm điều này được nói vì không phù hợp. Hai điều trong nhóm thứ tư, ba điều trong nhóm thứ năm, và ba nhóm thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, tất cả bốn nhóm năm điều này được nói vì là yếu tố cấu thành tội.
Sukkapakkhe pana vuttavipariyāyena ‘‘pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgatena bhikkhunā upasampādetabbaṃ, nissayo dātabbo, sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo. Asekkhena sīlakkhandhena samannāgato hotī’’tiādinā (mahāva. 84) aṭṭha pañcakā āgatāyeva. Tattha sabbattheva anāpatti.
Về phần tích cực, theo cách ngược lại với những gì đã nói, có tám nhóm năm điều đã được đề cập, bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều sau đây thì nên cho thọ cụ túc giới, cho nương tựa, nhận sa-di. Có giới uẩn của bậc vô học” v.v… (mahāva. 84). Trong tất cả các trường hợp đó, đều không có tội.
152. Kassa dātabbo, kassa na dātabboti ettha pana yo lajjī hoti, tassa dātabbo. Itarassa na dātabbo ‘‘na, bhikkhave, alajjīnaṃ nissayo dātabbo, yo dadeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 120) anuyāya. Nissāya vasantenapi alajjī nissāya na vasitabbaṃ. Vuttañhetaṃ ‘‘na, bhikkhave, alajjīnaṃ nissāya vatthabbaṃ, yo vaseyya, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 120). Ettha (mahāva. aṭṭha. 120) ca alajjīnanti upayogatthe sāmivacanaṃ, alajjipuggale nissāya na vasitabbanti vuttaṃ hoti. Tasmā navaṃ ṭhānaṃ gatena ‘‘ehi, bhikkhu, nissayaṃ gaṇhāhī’’ti vuccamānenapi catūhapañcāhaṃ nissayadāyakassa lajjibhāvaṃ upaparikkhitvā nissayoo. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, catūhapañcāhaṃ āgametuṃ yāva bhikkhusabhāgataṃ jānāmī’’ti (mahāva. 120) hi vuttaṃ. Sace ‘‘thero lajjī’’ti bhikkhūnaṃ santike sutvā āgatadivaseyeva gahetukāmo hoti, thero pana ‘‘āgamehi tāva, vasanto jānissasī’’ti katipāhaṃ ācāraṃ upaparikkhitvā nissayaṃ deti, vaṭṭati, pakatiyā nissayagahaṇaṭṭhānaṃ gatena pana tadahevao, ekadivasampi parihāro natthi. Sace paṭhamayāme ācariyassa okāso natthi, okāsaṃ alabhanto ‘‘paccūsasamaye gahessāmī’’ti sayati, aruṇaṃ uggatampi na jānāti, anāpatti. Sace pana ‘‘gaṇhissāmī’’ti ābhogaṃ akatvā sayati, aruṇuggamane dukkaṭaṃ. Agatapubbaṃ ṭhānaṃ gatena dve tīṇi divasāni vasitvā gantukāmena anissitena vasitabbaṃ. ‘‘Sattāhaṃ vasissāmī’’ti ālayaṃ karontena pana nissayoo. Sace thero ‘‘kiṃ sattāhaṃ vasantassa nissayenā’’ti vadati, paṭikkhittakālato paṭṭhāya laddhaparihāro hoti.
152. Về câu hỏi ai là người được cho nương tựa, ai không được, ở đây, người nào biết hổ thẹn thì được cho nương tựa. Người khác thì không, theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, không được cho những người không biết hổ thẹn nương tựa; vị nào cho, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 120). Người sống nương tựa cũng không được sống nương tựa vào người không biết hổ thẹn. Có lời dạy rằng: “Này các Tỳ-khưu, không được sống nương tựa vào những người không biết hổ thẹn; vị nào sống, phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 120). Ở đây (mahāva. aṭṭha. 120), “những người không biết hổ thẹn” là cách dùng sở hữu cách với ý nghĩa công cụ, nghĩa là không được sống nương tựa vào những người không biết hổ thẹn. Do đó, người mới đến một nơi, dù được bảo “hãy đến đây, Tỳ-khưu, hãy thọ nhận sự nương tựa”, cũng phải xem xét tư cách biết hổ thẹn của vị cho nương tựa trong bốn năm ngày rồi mới thọ nhận sự nương tựa. Vì có lời dạy rằng: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép chờ đợi bốn năm ngày để biết được tư cách của vị Tỳ-khưu.” (mahāva. 120). Nếu đã nghe các Tỳ-khưu nói “vị trưởng lão là người biết hổ thẹn” và muốn thọ nhận ngay ngày đến, nhưng vị trưởng lão lại nói “hãy cứ chờ đã, sống ở đây rồi con sẽ biết”, và sau khi xem xét tư cách trong vài ngày mới cho nương tựa, thì được phép. Nhưng người đến một nơi để thọ nhận sự nương tựa theo thông lệ thì phải thọ nhận ngay ngày đó, không được trì hoãn dù chỉ một ngày. Nếu trong canh đầu, vị giáo thọ sư không có thời gian, và người đó không có cơ hội nên đi ngủ với ý định “sáng mai ta sẽ thọ nhận”, rồi ngủ quên cho đến khi trời sáng, thì không có tội. Nhưng nếu đi ngủ mà không có ý định “ta sẽ thọ nhận”, thì khi trời sáng sẽ phạm tội Tác Ác. Người đến một nơi chưa từng đến, nếu muốn ở lại hai ba ngày rồi đi, thì có thể ở mà không cần nương tựa. Nhưng người có ý định “ta sẽ ở lại bảy ngày” thì phải thọ nhận sự nương tựa. Nếu vị trưởng lão nói “ở lại bảy ngày thì cần gì phải nương tựa”, thì người đó được miễn trừ từ lúc bị từ chối.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, addhānamaggappaṭipannena bhikkhunā nissayaṃ alabhamānena anissitena vatthu’’nti anuyāya pana addhānamaggappaṭipanno sace attanā saddhiṃ addhānamaggappaṭipannaṃ nissayadāyakaṃ na labhati, evaṃ nissayaṃ alabhamānena anissitena bahūnipi divasāni gantuṃ vaṭṭati. Sace pubbe nissayaṃ gahetvā vutthapubbaṃ kiñci āvāsaṃ pavisati, ekarattaṃ vasantenapi nissayoo. Antarāmagge vissamanto vā satthaṃ vā pariyesanto katipāhaṃ vasati, anāpatti. Antovasse pana nibaddhavāsaṃ vasitabbaṃ, nissayo cao. Nāvāya gacchantassa pana vassāne āgatepi nissayaṃ alabhantassa anāpatti. Sace antarāmagge gilāno hoti, nissayaṃ alabhamānena anissitena vasituṃ vaṭṭati.
Theo lời dạy “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép một Tỳ-khưu đang đi đường, nếu không tìm được người cho nương tựa, được phép ở mà không cần nương tựa”, người đang đi đường nếu không tìm được một vị cho nương tựa cũng đang đi đường cùng mình, thì trong trường hợp không tìm được người cho nương tựa như vậy, có thể đi nhiều ngày mà không cần nương tựa. Nếu vào một trú xứ nào đó mà trước đây đã từng ở sau khi thọ nhận sự nương tựa, dù chỉ ở một đêm cũng phải thọ nhận sự nương tựa. Nếu nghỉ chân giữa đường hoặc tìm kiếm đoàn lữ hành và ở lại vài ngày, thì không có tội. Nhưng trong mùa an cư thì phải ở lại một nơi cố định, và phải có sự nương tựa. Tuy nhiên, người đi trên thuyền, nếu mùa mưa đến mà không tìm được người cho nương tựa, thì không có tội. Nếu bị bệnh giữa đường, và không tìm được người cho nương tựa, thì được phép ở mà không cần nương tựa.
Gilānupaṭṭhākopi gilānena yāciyamāno anissito eva vasituṃ labhati. Vuttañhetaṃ ‘‘anujānāmi, bhikkhave, gilānena bhikkhunā nissayaṃ alabhamānena anissitena vatthuṃ, anujānāmi, bhikkhave, gilānupaṭṭhākena bhikkhunā nissayaṃ alabhamānena yāciyamānena anissitena vatthu’’nti (mahāva. 121). Sace pana ‘‘yācāhi ma’’nti vuccamānopi gilāno mānena na yācati, gantabbaṃ.
Người chăm sóc bệnh nhân, nếu được bệnh nhân yêu cầu, cũng được phép ở mà không cần nương tựa. Có lời dạy rằng: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép một Tỳ-khưu bị bệnh, nếu không tìm được người cho nương tựa, được phép ở mà không cần nương tựa. Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép một Tỳ-khưu chăm sóc bệnh nhân, nếu không tìm được người cho nương tựa và được yêu cầu, được phép ở mà không cần nương tựa.” (mahāva. 121). Nhưng nếu dù được bảo “hãy yêu cầu ta đi”, mà người bệnh vì tự ái không yêu cầu, thì nên rời đi.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, āraññikena bhikkhunā phāsuvihāraṃ sallakkhentena nissayaṃ alabhamānena anissitena vatthuṃ ‘yadā patirūpo nissayadāyako āgacchissati, tadā tassa nissāya vasissāmī’’’ti anuyāya pana yattha vasantassa samathavipassanānaṃ paṭilābhavasena phāsu hoti, tādisaṃ phāsuvihāraṃ sallakkhentena nissayaṃ alabhamānena anissitena vatthabbaṃ. Imañca pana parihāraṃ neva sotāpanno, na sakadāgāmianāgāmiarahanto labhanti, na thāmagatassa samādhino vā vipassanāya vā lābhī, vissaṭṭhakammaṭṭhāne pana bālaputhujjane kathāva natthi. Yassa kho pana samatho vā vipassanā vā taruṇā hoti, ayaṃ imaṃ parihāraṃ labhati, pavāraṇāsaṅgahopi etasseva anuññāto. Tasmā iminā puggalena ācariye pavāretvā gatepi ‘‘yadā patirūponissayadāyako āgacchissati, taṃ nissāya vasissāmī’’ti ābhogaṃ katvā puna yāva āsāḷhīpuṇṇamā, tāva anissitena vatthuṃ vaṭṭati. Sace pana āsāḷhīmāse ācariyo nāgacchati, yattha nissayo labbhati, tattha gantabbaṃ.
Theo lời dạy “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép một Tỳ-khưu sống trong rừng, nếu nhận thấy một nơi ở thuận lợi và không tìm được người cho nương tựa, được phép ở mà không cần nương tựa với ý nghĩ ‘khi nào có một vị cho nương tựa thích hợp đến, ta sẽ sống nương tựa vào vị đó’”, người nào nhận thấy một nơi ở thuận lợi cho việc đắc được thiền chỉ và thiền quán, và không tìm được người cho nương tựa, thì được phép ở mà không cần nương tựa. Tuy nhiên, sự miễn trừ này không dành cho bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất lai và A-la-hán, cũng không dành cho người đã đắc định hoặc thiền quán vững chắc; còn đối với phàm phu đã từ bỏ đề mục thiền thì không cần phải bàn. Người nào có thiền chỉ hoặc thiền quán còn non yếu, người đó được hưởng sự miễn trừ này; việc gởi gắm tự tứ cũng chỉ được cho phép đối với người này. Do đó, người này, dù giáo thọ sư đã đi sau khi tự tứ, cũng có thể ở mà không cần nương tựa cho đến rằm tháng bảy với ý nghĩ “khi nào có một vị cho nương tựa thích hợp đến, ta sẽ sống nương tựa vào vị đó”. Nhưng nếu trong tháng bảy mà giáo thọ sư không đến, thì phải đi đến nơi có thể tìm được sự nương tựa.
153. Kathaṃ gahito hotīti ettha upajjhāyassa santike tāva upajjhaṃ gaṇhantena ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā pāde vanditvā ukkuṭikaṃ nisīditvā añjaliṃ paggahetvā ‘‘upajjhāyo me, bhante, hohī’’ti tikkhattuṃ vattabbaṃ. Evaṃ saddhivihārikena vutte sace upajjhāyo ‘‘sāhū’’ti vā ‘‘lahū’’ti vā ‘‘opāyika’’nti vā ‘‘patirūpa’’nti vā ‘‘pāsādikena sampādehī’’ti vā kāyena viññāpeti, vācāya viññāpeti, kāyena vācāya viññāpeti, gahito hoti upajjhāyo. Idameva hettha upajjhāyaggahaṇaṃ, yadidaṃ upajjhāyassa imesu pañcasu padesu yassa kassaci padassa vācāya sāvanaṃ kāyena vā atthaviññāpananti. Keci pana ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchanaṃ sandhāya vadanti, na taṃ pamāṇaṃ. Āyācanadānamattena hi gahito hoti upajjhāyo, na ettha sampaṭicchanaṃ aṅgaṃ. Saddhivihārikenapi na kevalaṃ ‘‘iminā me padena upajjhāyo gahito’’ti ñātuṃ vaṭṭati, ‘‘ajjatagge dāni thero mayhaṃ bhāro, ahampi therassa bhāro’’ti idampi ñātuṃ vaṭṭati (mahāva. aṭṭha. 64). Vuttañhetaṃ –
153. Về câu hỏi việc nương tựa được thọ nhận như thế nào, ở đây, khi thọ nhận hòa thượng, trước hết, phải khoác thượng y lệch một bên, đảnh lễ chân, ngồi chồm hổm, chắp tay và nói ba lần: “Thưa ngài, xin hãy là hòa thượng của con”. Khi người bạn đồng tu đã nói như vậy, nếu vị hòa thượng nói “tốt”, “được”, “thích hợp”, “đúng lúc”, “hãy làm cho viên mãn với tư thế trang nghiêm”, hoặc ra dấu bằng thân, bằng lời, hoặc bằng cả thân và lời, thì hòa thượng đã được thọ nhận. Đây chính là việc thọ nhận hòa thượng, đó là việc nghe bằng lời một trong năm câu này từ vị hòa thượng, hoặc việc hiểu ý nghĩa qua cử chỉ của thân. Một số người lại cho rằng phải dựa vào sự chấp thuận bằng câu “tốt”, điều đó không phải là tiêu chuẩn. Vì hòa thượng đã được thọ nhận ngay khi có sự xin và cho, sự chấp thuận không phải là một yếu tố ở đây. Người bạn đồng tu cũng không chỉ cần biết rằng “hòa thượng của ta đã được thọ nhận bằng câu này”, mà còn phải biết rằng “từ hôm nay trở đi, vị trưởng lão là gánh nặng của ta, và ta cũng là gánh nặng của vị trưởng lão”. (mahāva. aṭṭha. 64). Có lời dạy rằng:
‘‘Upajjhāyo, bhikkhave, saddhivihārikamhi puttacittaṃ upaṭṭhapessati, saddhivihāriko upajjhāyamhi pitucittaṃ upaṭṭhapessati, evaṃ te aññamaññaṃ sagāravā sappatissā sabhāgavuttino viharantā imasmiṃ dhammavinaye vuḍḍhiṃ virūḷhiṃ vepullaṃ āpajjissantī’’ti (mahāva. 65).
“Này các Tỳ-khưu, vị hòa thượng sẽ coi người bạn đồng tu như con, người bạn đồng tu sẽ coi vị hòa thượng như cha. Như vậy, họ sống với nhau trong sự kính trọng, nể vì, và cùng chung một bổn phận, sẽ đạt được sự tăng trưởng, phát triển, và tiến bộ trong giáo pháp và giới luật này.” (mahāva. 65).
Ācariyassa santike nissayaggahaṇepi ayameva vinicchayo. Ayaṃ panettha viseso – ācariyassa santike nissayaṃ gaṇhantena ukkuṭikaṃ nisīditvā ‘‘ācariyo me, bhante, hohi, āyasmato nissāya vacchāmī’’ti (mahāva. 77) tikkhattuṃ vattabbaṃ, sesaṃ vuttanayameva.
Trong việc thọ nhận sự nương tựa nơi một vị giáo thọ sư cũng có sự thẩm định tương tự. Đây là điểm khác biệt: khi thọ nhận sự nương tựa nơi một vị giáo thọ sư, phải ngồi chồm hổm và nói ba lần: “Thưa ngài, xin hãy là giáo thọ sư của con, con sẽ sống nương tựa vào tôn giả.” (mahāva. 77), phần còn lại thì giống như đã nói.
154. Kathaṃ paṭippassambhatīti ettha tāva upajjhāyamhā pañcahākārehi nissayapaṭippassaddhi veditabbā, ācariyamhā chahi ākārehi. Vuttañhetaṃ –
154. Về câu hỏi việc nương tựa chấm dứt như thế nào, ở đây, cần biết rằng sự nương tựa nơi hòa thượng chấm dứt theo năm cách, nơi giáo thọ sư theo sáu cách. Có lời dạy rằng:
‘‘Pañcimā, bhikkhave, nissayapaṭippassaddhiyo upajjhāyamhā. Upajjhāyo pakkanto vā hoti, vibbhanto vā, kālakato vā, pakkhasaṅkanto vā, āṇattiyeva pañcamī. Imā kho, bhikkhave, pañca nissayapaṭippassaddhiyo upajjhāyamhā.
“Này các Tỳ-khưu, có năm cách chấm dứt sự nương tựa nơi hòa thượng. Vị hòa thượng đã đi xa, hoặc đã hoàn tục, hoặc đã qua đời, hoặc đã theo phe khác, và thứ năm là do lệnh. Này các Tỳ-khưu, đó là năm cách chấm dứt sự nương tựa nơi hòa thượng.
‘‘Chayimā, bhikkhave, nissayapaṭippassaddhiyo ācariyamhā. Ācariyo pakkanto vā hoti, vibbhanto vā, kālakato vā, pakkhasaṅkanto vā, āṇattiyeva pañcamī, upajjhāyena vā samodhānagato hoti. Imā kho, bhikkhave, cha nissayapaṭippassaddhiyo ācariyamhā’’ti (mahāva. 83).
Này các Tỳ-khưu, có sáu cách chấm dứt sự nương tựa nơi giáo thọ sư. Vị giáo thọ sư đã đi xa, hoặc đã hoàn tục, hoặc đã qua đời, hoặc đã theo phe khác, thứ năm là do lệnh, và hoặc đã gặp lại hòa thượng. Này các Tỳ-khưu, đó là sáu cách chấm dứt sự nương tựa nơi giáo thọ sư.” (mahāva. 83).
Tatrāyaṃ vinicchayo (mahāva. aṭṭha. 83) – pakkantoti disaṃ gato. Evaṃ gate ca pana tasmiṃ sace vihāre nissayadāyako atthi, yassa santike aññadāpi nissayo vā gahitapubbo hoti, yo vā ekasambhogaparibhogo, tassa santike nissayoo, ekadivasampi parihāro natthi. Sace tādiso natthi, añño lajjī pesalo atthi, tassa pesalabhāvaṃ jānantena tadaheva nissayo yācitabbo. Sace deti, iccetaṃ kusalaṃ. Atha pana ‘‘tumhākaṃ upajjhāyo lahuṃ āgamissatī’’ti pucchati, upajjhāyena ce tathā vuttaṃ, ‘‘āma, bhante’’ti vattabbaṃ. Sace vadati ‘‘tena hi upajjhāyassa āgamanaṃ āgamethā’’ti, vaṭṭati. Atha panassa pakatiyā pesalabhāvaṃ na jānāti, cattāri pañca divasāni tassa bhikkhussa sabhāgataṃ oloketvā okāsaṃ kāretvā nissayoo. Sace pana vihāre nissayadāyako natthi, upajjhāyo ca ‘‘ahaṃ katipāhena āgamissāmi, mā ukkaṇṭhitthā’’ti vatvā gato, yāva āgamanā parihāro labbhati, athāpi naṃ tattha manussā paricchinnakālato uttaripi pañca vā dasa vā divasāni vāsentiyeva, tena vihāraṃ pavatti pesetabbā ‘‘daharā mā ukkaṇṭhantu, ahaṃ asukadivasaṃ nāma āgamissāmī’’ti, evampi parihāro labbhati. Atha āgacchato antarāmagge nadīpūrena vā corādīhi vā upaddavo hoti, thero udakosakkanaṃ vā āgameti, sahāye vā pariyesati, taṃ ce pavattiṃ daharā suṇanti, yāva āgamanā parihāro labbhati. Sace pana so ‘‘idhevāhaṃ vasissāmī’’ti pahiṇati, parihāro natthi. Yattha nissayo labbhati, tattha gantabbaṃ. Vibbhante pana kālakate pakkhasaṅkante vā ekadivasampi parihāro natthi, yattha nissayo labbhati, tattha gantabbaṃ.
Đây là sự thẩm định (mahāva. aṭṭha. 83): Đã đi xa là đã đi đến một nơi khác. Khi vị đó đã đi như vậy, nếu trong tu viện có một vị cho nương tựa khác, người mà trước đây mình đã từng thọ nhận sự nương tựa, hoặc là người cùng chung hưởng dụng, thì phải thọ nhận sự nương tựa nơi vị đó, không được trì hoãn dù chỉ một ngày. Nếu không có người như vậy, nhưng có một vị khác biết hổ thẹn và tốt bụng, và mình biết vị đó là người tốt, thì phải xin nương tựa ngay ngày đó. Nếu vị đó cho, đó là điều tốt. Nhưng nếu vị đó hỏi “hòa thượng của con sẽ sớm trở về chứ?”, và nếu hòa thượng đã nói như vậy, thì nên trả lời “thưa ngài, vâng”. Nếu vị đó nói “vậy thì hãy đợi hòa thượng của con về”, thì được phép. Nhưng nếu mình không biết tư cách tốt bụng của vị đó từ trước, thì phải quan sát tư cách của vị Tỳ-khưu đó trong bốn năm ngày, rồi xin cơ hội và thọ nhận sự nương tựa. Nhưng nếu trong tu viện không có người cho nương tựa, và hòa thượng đã nói “ta sẽ trở về sau vài ngày, đừng lo lắng” rồi mới đi, thì được miễn trừ cho đến khi vị đó trở về. Hoặc nếu người ta giữ vị đó ở lại năm hoặc mười ngày sau thời gian đã định, vị đó phải gửi tin về tu viện rằng “các vị trẻ đừng lo lắng, ta sẽ trở về vào ngày X”, như vậy cũng được miễn trừ. Hoặc nếu trên đường trở về, vị đó gặp trở ngại do lũ lụt, cướp bóc v.v…, và vị trưởng lão phải đợi nước rút hoặc tìm bạn đồng hành, nếu các vị trẻ nghe được tin đó, thì được miễn trừ cho đến khi vị đó trở về. Nhưng nếu vị đó gửi tin rằng “ta sẽ ở lại đây”, thì không còn được miễn trừ nữa. Phải đi đến nơi có thể tìm được sự nương tựa. Trong trường hợp vị đó đã hoàn tục, qua đời, hoặc theo phe khác, thì không được miễn trừ dù chỉ một ngày, phải đi đến nơi có thể tìm được sự nương tựa.
Āṇattīti pana nissayapaṇāmanā vuccati, tasmā ‘‘paṇāmemi ta’’nti vā ‘‘mā idha paṭikkamī’’ti vā ‘‘nīhara te pattacīvara’’nti vā ‘‘nāhaṃ tayā upaṭṭhāpetabbo’’ti vāti iminā pāḷinayena ‘‘mā maṃ gāmappavesanaṃ āpucchī’’tiādinā pāḷimuttakanayena vā yo nissayapaṇāmanāya paṇāmito hoti, tena upajjhāyo khamāpetabbo. Sace āditova na khamati, daṇḍakammaṃ āharitvā tikkhattuṃ tāvao khamāpetabbo. No ce khamati, tasmiṃ vihāre mahāthere gahetvā khamāpetabbo. No ce khamati, sāmantavihāre bhikkhū gahetvā khamāpetabbo. Sace evampi na khamati, aññattha gantvā upajjhāyassa sabhāgānaṃ santike vasitabbaṃ ‘‘appeva nāma ‘sabhāgānaṃ me santike vasatī’ti ñatvāpi khameyyā’’ti. Sace evampi na khamati, tatreva vasitabbaṃ. Tatra ce dubbhikkhādidosena na sakkā hoti vasituṃ, taṃyeva vihāraṃ āgantvā aññassa santike nissayaṃ gahetvā vasituṃ vaṭṭati. Ayamāṇattiyaṃ vinicchayo.
Do lệnh được gọi là việc đình chỉ sự nương tựa. Do đó, người nào bị đình chỉ sự nương tựa bằng lời nói theo kinh văn như “ta đình chỉ ngươi”, “đừng đến đây nữa”, “hãy mang y bát của ngươi đi”, “ta không cần ngươi chăm sóc nữa”, hoặc bằng lời nói ngoài kinh văn như “đừng xin phép ta vào làng nữa” v.v…, thì phải xin lỗi hòa thượng. Nếu ngay từ đầu vị đó không tha thứ, thì phải chịu hình phạt và xin lỗi đến ba lần. Nếu vẫn không tha thứ, thì phải nhờ các vị trưởng lão trong tu viện đó xin lỗi giúp. Nếu vẫn không tha thứ, thì phải nhờ các Tỳ-khưu ở các tu viện lân cận xin lỗi giúp. Nếu như vậy vẫn không tha thứ, thì nên đến ở gần những người cùng phe với hòa thượng với hy vọng “biết đâu khi biết mình ở gần những người cùng phe, vị đó sẽ tha thứ”. Nếu như vậy vẫn không tha thứ, thì cứ ở lại đó. Nếu ở đó không thể ở được do nạn đói v.v…, thì có thể trở về tu viện đó và thọ nhận sự nương tựa nơi một vị khác để ở. Đây là sự thẩm định trong trường hợp do lệnh.
Ācariyamhā nissayapaṭippassaddhīsu ācariyo pakkanto vā hotīti ettha koci ācariyo āpucchitvā pakkamati, koci anāpucchitvā, antevāsikopi evameva. Tatra sace antevāsiko ācariyaṃ āpucchati ‘‘asukaṃ nāma, bhante, ṭhānaṃ gantuṃ icchāmi kenacideva karaṇīyenā’’ti, ācariyena ca ‘‘kadā gamissasī’’ti vutto ‘‘sāyanhe vā rattiṃ vā uṭṭhahitvā gamissāmī’’ti vadati, ācariyopi ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchati, taṃ khaṇaṃyeva nissayo paṭippassambhati. Sace pana ‘‘bhante, asukaṃ nāma ṭhānaṃ gantukāmomhī’’ti vutte ācariyo ‘‘asukasmiṃ nāma gāme piṇḍāya caritvā pacchā jānissasī’’ti vadati, so ca ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchati, tato ce gato sugato. Sace pana na gacchati, nissayo na paṭippassambhati. Athāpi ‘‘gacchāmī’’ti vutte ācariyena ‘‘mā tāva gaccha, rattiṃ mantetvā jānissāmā’’ti vutto mantetvā gacchati, sugato. No ce gacchati, nissayo na paṭippassambhati. Ācariyaṃ anāpucchā pakkamantassa pana upacārasīmātikkame nissayo paṭippassambhati, antoupacārasīmato paṭinivattantassa na paṭippassambhati. Sace pana ācariyo antevāsikaṃ āpucchati ‘‘āvuso, asukaṃ nāma ṭhānaṃ gamissāmī’’ti, antevāsikena ca ‘‘kadā’’ti vutte ‘‘sāyanhe vā rattibhāge vā’’ti vadati, antevāsikopi ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchati, taṃ khaṇaṃyeva nissayo paṭippassambhati, sace pana ācariyo ‘‘sve piṇḍāya caritvā gamissāmī’’ti vadati, itaro ca ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchati, ekadivasaṃ tāva nissayo na paṭippassambhati, punadivase paṭippassaddho hoti. ‘‘Asukasmiṃ nāma gāme piṇḍāya caritvā jānissāmi mama gamanaṃ vā agamanaṃ vā’’ti vatvā pana sace na gacchati, nissayo na paṭippassambhati. Athāpi ‘‘gacchāmī’’ti vutte antevāsikena ‘‘mā tāva gacchatha, rattiṃ mantetvā jānissathā’’ti vutto mantetvāpi na gacchati, nissayo na paṭippassambhati. Sace ubhopi ācariyantevāsikā kenacideva karaṇīyena bahisīmaṃ gacchanti, tato ce ācariyo gamiyacitte uppanne anāpucchāva gantvā dvinnaṃ leḍḍupātānaṃ antoyeva nivattati, nissayo na paṭippassambhati. Sace dve leḍḍupāte atikkamitvā nivattati, paṭippassaddho hoti. Ācariyupajjhāyā dve leḍḍupāte atikkamma aññasmiṃ vihāre vasanti, nissayo paṭippassambhati. Ācariye vibbhante kālakate pakkhasaṅkante ca taṃ khaṇaṃyeva paṭippassambhati.
Trong các cách chấm dứt sự nương tựa nơi giáo thọ sư, về trường hợp vị giáo thọ sư đã đi xa, có khi vị giáo thọ sư xin phép rồi mới đi, có khi không xin phép; đệ tử cũng vậy. Trong đó, nếu đệ tử xin phép giáo thọ sư “Thưa ngài, con muốn đi đến nơi X vì một lý do nào đó”, và khi được giáo thọ sư hỏi “khi nào con đi?”, đệ tử trả lời “chiều nay hoặc đêm nay con sẽ thức dậy và đi”, và giáo thọ sư cũng đồng ý “tốt”, thì ngay lúc đó sự nương tựa chấm dứt. Nhưng nếu khi nói “Thưa ngài, chúng con muốn đi đến nơi X”, giáo thọ sư nói “sau khi đi khất thực ở làng X rồi hãy tính”, và người đó đồng ý “tốt”, rồi đi thì tốt. Nhưng nếu không đi, sự nương tựa không chấm dứt. Hoặc khi nói “con đi đây”, và được giáo thọ sư bảo “đừng đi vội, đêm nay bàn bạc rồi hãy tính”, sau khi bàn bạc rồi đi, thì tốt. Nếu không đi, sự nương tựa không chấm dứt. Còn đối với người đi mà không xin phép giáo thọ sư, sự nương tựa chấm dứt khi vượt qua ranh giới của trú xứ; nếu quay trở lại từ trong ranh giới của trú xứ, sự nương tựa không chấm dứt. Nếu giáo thọ sư hỏi đệ tử “Này hiền giả, ta sẽ đi đến nơi X”, và khi được đệ tử hỏi “khi nào ạ?”, vị đó trả lời “chiều nay hoặc trong đêm”, và đệ tử cũng đồng ý “tốt”, thì ngay lúc đó sự nương tựa chấm dứt. Nhưng nếu giáo thọ sư nói “ngày mai sau khi đi khất thực ta sẽ đi”, và người kia đồng ý “tốt”, thì sự nương tựa không chấm dứt trong một ngày, đến ngày hôm sau mới chấm dứt. Nhưng nếu nói “sau khi đi khất thực ở làng X ta sẽ quyết định đi hay không đi”, rồi nếu không đi, sự nương tựa không chấm dứt. Hoặc khi nói “ta đi đây”, và được đệ tử bảo “đừng đi vội, đêm nay bàn bạc rồi hãy quyết định”, sau khi bàn bạc rồi cũng không đi, sự nương tựa không chấm dứt. Nếu cả giáo thọ sư và đệ tử cùng đi ra ngoài giới trường vì một lý do nào đó, rồi giáo thọ sư nảy sinh ý định đi và đi mà không xin phép, nhưng quay trở lại trong phạm vi hai lần ném đất, sự nương tựa không chấm dứt. Nếu vượt qua hai lần ném đất rồi mới quay lại, thì đã chấm dứt. Nếu giáo thọ sư và hòa thượng vượt qua hai lần ném đất và ở lại một tu viện khác, sự nương tựa chấm dứt. Khi giáo thọ sư hoàn tục, qua đời, hoặc theo phe khác, sự nương tựa chấm dứt ngay lúc đó.
Āṇattiyaṃ pana ācariyo muñcitukāmova hutvā nissayapaṇāmanāya paṇāmeti, antevāsiko ca ‘‘kiñcāpi maṃ ācariyo paṇāmeti, atha kho hadayena muduko’’ti sālayo hoti, nissayo na paṭippassambhati. Sacepi āriyo sālayo, antevāsiko nirālayo ‘‘na dāni imaṃ nissāya vasissāmī’’ti dhuraṃ nikkhipati, evampi na paṭippassambhati. Ubhinnaṃ sālayabhāve pana na paṭippassambhatiyeva, ubhinnaṃ dhuranikkhepena paṭippassambhati, paṇāmitena daṇḍakammaṃ āharitvā tikkhattuṃ khamāpetabbo. No ce khamati, upajjhāye vuttanayena paṭipajjitabbaṃ. Yathāpaññattaṃ pana ācariyupajjhāyavattaṃ paripūrentaṃ adhimattapemādipañcaṅgasamannāgataṃ antevāsikaṃ saddhivihārikaṃ vā paṇāmentassa dukkaṭaṃ, itaraṃ apaṇāmentassapi dukkaṭameva. Vuttañhetaṃ –
Về việc do lệnh, nếu giáo thọ sư muốn từ bỏ và đình chỉ sự nương tựa, nhưng đệ tử vẫn còn quyến luyến và nghĩ “dù giáo thọ sư đình chỉ ta, nhưng trong lòng vị ấy vẫn mềm mỏng”, sự nương tựa không chấm dứt. Dù vị giáo thọ sư còn quyến luyến, nhưng đệ tử không còn quyến luyến và từ bỏ rằng “từ nay ta sẽ không sống nương tựa vào vị này nữa”, như vậy sự nương tựa cũng không chấm dứt. Nếu cả hai đều còn quyến luyến thì không chấm dứt; sự nương tựa chấm dứt khi cả hai cùng từ bỏ. Người bị đình chỉ phải chịu hình phạt và xin lỗi đến ba lần. Nếu không được tha thứ, phải thực hiện theo cách đã nói trong trường hợp của hòa thượng. Tuy nhiên, vị nào đình chỉ một đệ tử hay bạn đồng tu tuân thủ đúng bổn phận của giáo thọ sư và hòa thượng, có đủ năm yếu tố như lòng yêu thương vô bờ bến, thì phạm tội Tác Ác; vị nào không đình chỉ người khác, cũng phạm tội Tác Ác. Có lời dạy rằng:
‘‘Na, bhikkhave, sammāvattanto paṇāmetabbo, yo paṇāmeyya, āpatti dukkaṭassa. Na ca, bhikkhave, asammāvattanto na paṇāmetabbo, yo na paṇāmeyya, āpatti dukkaṭassa (mahāva. 80).
“Này các Tỳ-khưu, không được đình chỉ người tuân thủ đúng đắn; vị nào đình chỉ, phạm tội Tác Ác. Và này các Tỳ-khưu, không được không đình chỉ người không tuân thủ đúng đắn; vị nào không đình chỉ, phạm tội Tác Ác. (mahāva. 80).
‘‘Pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgataṃ antevāsikaṃ apaṇāmento ācariyo sātisāro hoti, paṇāmento anatisāro hoti. Ācariyamhi nādhimattaṃ pemaṃ hoti, nādhimatto pasādo hoti, nādhimattā hirī hoti, nādhimatto gāravo hoti, nādhimattā bhāvanā hoti. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgataṃ antevāsikaṃ apaṇāmento ācariyo sātisāro hoti, paṇāmento anatisāro hoti (mahāva. 81).
Này các Tỳ-khưu, một vị giáo thọ sư không đình chỉ một đệ tử có năm điều sau đây thì có lỗi, đình chỉ thì không có lỗi. Đối với vị giáo thọ sư, không có lòng yêu thương vô bờ bến, không có lòng tin tưởng vô bờ bến, không có lòng hổ thẹn vô bờ bến, không có lòng kính trọng vô bờ bến, không có sự tu tập vô bờ bến. Này các Tỳ-khưu, một vị giáo thọ sư không đình chỉ một đệ tử có năm điều này thì có lỗi, đình chỉ thì không có lỗi. (mahāva. 81).
‘‘Pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgataṃ saddhivihārikaṃ apaṇāmento upajjhāyo sātisāro hoti, paṇāmento anatisāro hoti. Upajjhāyamhi nādhimattaṃ pemaṃ hoti, nādhimatto pasādo hoti, nādhimattā hirī hoti, nādhimatto gāravo hoti, nādhimattā bhāvanā hoti. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgataṃ saddhivihārikaṃ apaṇāmento upajjhāyo sātisāro hoti, paṇāmento anatisāro hotī’’tiādi (mahāva. 68).
Này các Tỳ-khưu, một vị hòa thượng không đình chỉ một người bạn đồng tu có năm điều sau đây thì có lỗi, đình chỉ thì không có lỗi. Đối với vị hòa thượng, không có lòng yêu thương vô bờ bến, không có lòng tin tưởng vô bờ bến, không có lòng hổ thẹn vô bờ bến, không có lòng kính trọng vô bờ bến, không có sự tu tập vô bờ bến. Này các Tỳ-khưu, một vị hòa thượng không đình chỉ một người bạn đồng tu có năm điều này thì có lỗi, đình chỉ thì không có lỗi.” v.v… (mahāva. 68).
Tattha (mahāva. aṭṭha. 68) nādhimattaṃ pemaṃ hotīti upajjhāyamhi adhimattaṃ gehassitapemaṃ na hoti. Nādhimattā bhāvanā hotīti adhimattā mettābhāvanā na hotīti attho.
Ở đây (mahāva. aṭṭha. 68), không có lòng yêu thương vô bờ bến nghĩa là không có lòng yêu thương quyến luyến như người thế tục đối với hòa thượng. Không có sự tu tập vô bờ bến nghĩa là không có sự tu tập tâm từ vô bờ bến.
Upajjhāyena vā samodhānagatoti ettha (mahāva. aṭṭha. 83) dassanasavanavasena samodhānaṃ veditabbaṃ. Sace hi ācariyaṃ nissāya vasanto saddhivihāriko ekavihāre cetiyaṃ vā vandantaṃ, ekagāme vā piṇḍāya carantaṃ upajjhāyaṃ passati, nissayo paṭippassambhati. Upajjhāyo passati, saddhivihāriko na passati, na paṭippassambhati. Maggappaṭipannaṃ vā ākāsena vā gacchantaṃ upajjhāyaṃ disvā dūrattā ‘‘bhikkhū’’ti jānāti, ‘‘upajjhāyo’’ti na jānāti, na paṭippassambhati. Sace jānāti, paṭippassambhati. Uparipāsāde upajjhāyo vasati, heṭṭhā saddhivihāriko, taṃ adisvāva yāguṃ pivitvā paṭikkamati, āsanasālāya vā nisinnaṃ adisvāva ekamante bhuñjitvā pakkamati, dhammassavanamaṇḍape vā nisinnampi taṃ adisvāva dhammaṃ sutvā pakkamati, nissayo na paṭippassambhati. Evaṃ tāva dassanavasena samodhānaṃ veditabbaṃ. Savanavasena pana sace upajjhāyassa vihāre vā antaraghare vā dhammaṃ vā kathentassa anumodanaṃ vā karontassa saddaṃ sutvā ‘‘upajjhāyassa me saddo’’ti sañjānāti, nissayo paṭippassambhati, asañjānantassa na paṭippassambhati. Ayaṃ samodhāne vinicchayo.
Về việc đã gặp lại hòa thượng, ở đây (mahāva. aṭṭha. 83), việc gặp lại được hiểu qua việc thấy và nghe. Nếu một người bạn đồng tu đang sống nương tựa vào một vị giáo thọ sư, thấy vị hòa thượng của mình đang đảnh lễ bảo tháp trong cùng một tu viện, hoặc đang đi khất thực trong cùng một làng, thì sự nương tựa chấm dứt. Nếu vị hòa thượng thấy, nhưng người bạn đồng tu không thấy, thì không chấm dứt. Nếu thấy vị hòa thượng đang đi trên đường hoặc bay trên không, nhưng vì quá xa chỉ biết đó là một Tỳ-khưu, không biết đó là hòa thượng của mình, thì không chấm dứt. Nếu biết, thì chấm dứt. Vị hòa thượng ở trên lầu, người bạn đồng tu ở dưới, không thấy vị đó mà đã uống cháo rồi trở về; hoặc không thấy vị đó đang ngồi trong nhà ăn mà đã dùng bữa ở một góc rồi đi; hoặc không thấy vị đó đang ngồi trong pháp đường mà đã nghe pháp rồi đi, sự nương tựa không chấm dứt. Như vậy, cần hiểu việc gặp lại qua việc thấy. Về việc nghe, nếu nghe tiếng vị hòa thượng đang giảng pháp hoặc tùy hỷ trong tu viện hoặc trong làng và nhận ra “đó là tiếng của hòa thượng ta”, thì sự nương tựa chấm dứt; nếu không nhận ra, thì không chấm dứt. Đây là sự thẩm định trong việc gặp lại.
155. Nissāya kena vasitabbaṃ, kena na vasitabbanti ettha pana ‘‘anujānāmi, bhikkhave, byattena bhikkhunā paṭibalena pañca vassāni nissāya vatthuṃ, abyattena yāvajīva’’nti (mahāva. 103) anuyāya yo abyatto hoti, tena yāvajīvaṃ nissāyeva vasitabbaṃ. Sacāyaṃ (mahāva. aṭṭha. 103) vuḍḍhataraṃ ācariyaṃ na labhati, upasampadāya saṭṭhivasso vā sattativasso vā hoti, navakatarassapi byattassa santike ukkuṭikaṃ nisīditvā añjaliṃ paggahetvā ‘‘ācariyo me, āvuso, hoti, āyasmato nissāya vacchāmī’’ti evaṃ tikkhattuṃ vatvā nissayo gahetabbova. Gāmappavesanaṃ āpucchantenapi ukkuṭikaṃ nisīditvā añjaliṃ paggahetvā ‘‘gāmappavesanaṃ āpucchāmi ācariyā’’ti vattabbaṃ. Esa nayo sabbaāpucchanesu.
155. Về câu hỏi ai là người phải sống nương tựa, và ai không phải, ở đây, theo lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép một Tỳ-khưu thông thạo sống không nương tựa sau năm tuổi hạ, và người không thông thạo thì phải sống nương tựa suốt đời.” (mahāva. 103), vị nào không thông thạo, vị đó phải sống nương tựa suốt đời. Nếu vị này (mahāva. aṭṭha. 103) không tìm được một vị giáo thọ sư lớn tuổi hơn, dù đã sáu mươi hay bảy mươi tuổi hạ, cũng phải thọ nhận sự nương tựa ngay cả nơi một vị trẻ tuổi hơn nhưng thông thạo, bằng cách ngồi chồm hổm, chắp tay và nói ba lần: “Thưa hiền giả, xin hãy là giáo thọ sư của tôi, tôi sẽ sống nương tựa vào tôn giả.” Khi xin phép vào làng, cũng phải ngồi chồm hổm, chắp tay và nói: “Thưa giáo thọ sư, con xin phép vào làng.” Cách thức này áp dụng cho tất cả các việc xin phép.
Yo pana byatto hoti upasampadāya pañcavasso, tena anissitena vatthuṃ vaṭṭati. Tasmā nissayamuccanakena (pāci. aṭṭha. 145-147) upasampadāya pañcavassena sabbantimena paricchedena dve mātikā paguṇā vācuggatā kattabbā, pakkhadivasesu dhammassavanatthāya suttantato cattāro bhāṇavārā, sampattānaṃ parisānaṃ parikathanatthāya andhakavinda(a. ni. 5.114) mahārāhulovāda(ma. ni. 2.113 ādayo) ambaṭṭha(daī. ni. 1.254 ādayo) sadiso eko kathāmaggo, saṅghabhattamaṅgalāmaṅgalesu anumodanatthāya tisso anumodanā, uposathapavāraṇādijānanatthaṃ kammākammavinicchayo, samaṇadhammakaraṇatthaṃ samādhivasena vā vipassanāvasena vā arahattapariyosānamekaṃ kammaṭṭhānaṃ, ettakaṃ uggahetabbaṃ. Ettāvatā hi ayaṃ bahussuto hoti cātuddiso, yattha katthaci attano issariyena vasituṃ labhati. Yaṃ pana vuttaṃ –
Còn vị nào thông thạo, đã được năm tuổi hạ, thì được phép sống không cần nương tựa. Do đó, người muốn thoát khỏi sự nương tựa (pāci. aṭṭha. 145-147), đã được năm tuổi hạ, với tiêu chuẩn thấp nhất, phải thông thạo và thuộc lòng hai bộ đề mục; bốn phẩm kinh từ tạng Kinh để thuyết pháp vào các ngày trong tháng; một bài giảng mẫu giống như kinh Andhakavinda (a. ni. 5.114), Mahārāhulovāda (ma. ni. 2.113 v.v…), Ambaṭṭha (daī. ni. 1.254 v.v…) để thuyết giảng cho các hội chúng đã đến; ba bài tùy hỷ để tùy hỷ trong các bữa ăn của Tăng chúng và các dịp lễ; sự phân định về tăng sự hợp lệ và không hợp lệ để biết về các lễ bố-sát, tự tứ v.v…; một đề mục thiền định cho đến quả vị A-la-hán theo phương pháp thiền chỉ hoặc thiền quán để thực hành pháp của Sa-môn; phải học thuộc chừng đó. Với chừng đó, vị này trở thành người có học thức rộng, là bậc thầy bốn phương, được phép sống tự do ở bất cứ đâu. Như đã được nói:
‘‘Pañcahi, bhikkhave, aṅgehi samannāgatena bhikkhunā na anissitena vatthabbaṃ. Na asekkhena sīlakkhandhena samannāgato hoti, na asekkhena samādhikkhandhena… na asekkhena paññākkhandhena… na asekkhena vimuttikkhandhena… na asekkhena vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgato hoti. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na anissitena vatthabbaṃ.
“Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều sau đây thì không được sống không nương tựa. Không có giới uẩn của bậc vô học, không có định uẩn của bậc vô học… không có tuệ uẩn của bậc vô học… không có giải thoát uẩn của bậc vô học… không có giải thoát tri kiến uẩn của bậc vô học. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không được sống không nương tựa.
‘‘Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na anissitena vatthabbaṃ. Assaddho hoti, ahiriko hoti, anottappī hoti, kusīto hoti, muṭṭhassati hoti. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na anissitena vatthabbaṃ.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều khác nữa thì không được sống không nương tựa. Không có tín, không có tàm, không có quý, lười biếng, thất niệm. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không được sống không nương tựa.
‘‘Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na anissitena vatthabbaṃ. Adhisīle sīlavipanno hoti, ajjhācāre ācāravipanno hoti, atidiṭṭhiyā diṭṭhivipanno hoti, appassuto hoti, duppañño hoti. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na anissitena vatthabbaṃ.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều khác nữa thì không được sống không nương tựa. Hư hỏng về tăng thượng giới, hư hỏng về tác phong, hư hỏng về tri kiến, ít học, trí tuệ kém. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không được sống không nương tựa.
‘‘Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na anissitena vatthabbaṃ. Āpattiṃ na jānāti, anāpattiṃ na jānāti, lahukaṃ āpattiṃ na jānāti, garukaṃ āpattiṃ na jānāti, ubhayāni kho panassa pātimokkhāni vitthārena na svāgatāni honti na suvibhattāni na suppavattīni na suvinicchitāni suttaso anubyañjanaso. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na anissitena vatthabbaṃ.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều khác nữa thì không được sống không nương tựa. Không biết tội, không biết không phải tội, không biết tội nhẹ, không biết tội nặng, cả hai bộ Giới Bổn không được thông suốt, không được phân tích rõ ràng, không được thực hành nhuần nhuyễn, không được thẩm định kỹ càng theo từng kinh và từng chữ. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không được sống không nương tựa.
‘‘Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na anissitena vatthabbaṃ. Āpattiṃ na jānāti, anāpattiṃ na jānāti, lahukaṃ āpattiṃ na jānāti, garukaṃ āpattiṃ na jānāti, ūnapañcavasso hoti. Imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na anissitena vatthabba’’nti (mahāva. 103). Etthāpi purimanayeneva ayuttavasena āpattiaṅgavasena ca paṭikkhepo katoti daṭṭhabbaṃ.
Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều khác nữa thì không được sống không nương tựa. Không biết tội, không biết không phải tội, không biết tội nhẹ, không biết tội nặng, chưa đủ năm tuổi hạ. Này các Tỳ-khưu, một Tỳ-khưu có năm điều này thì không được sống không nương tựa.” (mahāva. 103). Ở đây cũng cần phải thấy rằng sự từ chối được đưa ra vì không phù hợp và vì là yếu tố cấu thành tội, theo cách đã nói trước đó.
Bālānaṃ pana abyattānaṃ disaṃgamikānaṃ antevāsikasaddhivihārikānaṃ anuññā na dātabbā. Sace denti, ācariyupajjhāyānaṃ dukkaṭaṃ. Te ce ananuññātā gacchanti, tesampi dukkaṭaṃ. Vuttañhetaṃ –
Đối với các đệ tử và bạn đồng tu ngu dốt, không có học thức, muốn đi xa, thì không nên cho phép. Nếu cho, các vị giáo thọ sư và hòa thượng phạm tội Tác Ác. Nếu họ đi mà không được phép, họ cũng phạm tội Tác Ác. Có lời dạy rằng:
‘‘Idha pana, bhikkhave, sambahulā bhikkhū bālālexemeTableā disaṃgamikā ācariyupajjhāye āpucchanti. Te, bhikkhave, ācariyupajjhāyehi pucchitabbā ‘‘kahaṃ gamissatha, kena saddhiṃ gamissathā’’ti. Te ce, bhikkhave, bālāꗨā aññe bāle abyatte apadiseyyuṃ. Na, bhikkhave, ācariyupajjhāyehi anujānitabbā, anujāneyyuṃ ce, āpatti dukkaṭassa. Te ce, bhikkhave, bālā Piedmontese ananuññātā ācariyupajjhāyehi gaccheyyuṃ ce, āpatti dukkaṭassā’’ti (mahāva. 163).
“Ở đây, này các Tỳ-khưu, có nhiều Tỳ-khưu ngu dốt, không có học thức, muốn đi xa, đến xin phép các vị giáo thọ sư và hòa thượng. Này các Tỳ-khưu, các vị giáo thọ sư và hòa thượng phải hỏi họ rằng: ‘Các con sẽ đi đâu, đi cùng với ai?’. Này các Tỳ-khưu, nếu những người ngu dốt đó chỉ đến những người ngu dốt, không thông thạo khác. Này các Tỳ-khưu, các vị giáo thọ sư và hòa thượng không nên cho phép; nếu cho phép, phạm tội Tác Ác. Này các Tỳ-khưu, nếu những người ngu dốt đó đi mà không được các vị giáo thọ sư và hòa thượng cho phép, họ phạm tội Tác Ác.” (mahāva. 163).
Iti pāḷimuttakavinayavinicchayasaṅgahe
Như vậy, trong Tập hợp phân tích giới luật ngoài Tam Tạng Pāḷi,
Nissayavinicchayakathā samattā.
Câu chuyện về sự thẩm định việc nương tựa đã kết thúc.