Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi III – Phẩm Về Da Thú
5. Cammakkhandhakaṃ
5. Thiên Da
Soṇakoḷivisavatthukathāvaṇṇanā
Giải Thích về Câu Chuyện của Soṇa Koḷivisa
242. Cammakkhandhake uṇṇapāvāraṇanti uṇṇāmayaṃ pāvāraṇaṃ. Vihārapacchāyāyanti vihārapaccante chāyāyaṃ. Vihārassa vaḍḍhamānacchāyāyantipi vadanti.
242. Trong thiên Da, áo choàng bằng len là áo choàng được làm bằng len. Trong bóng râm ở cuối tu viện là trong bóng râm ở phần cuối của tu viện. Cũng có người nói là trong bóng râm đang lớn dần của tu viện.
Soṇassa pabbajjākathāvaṇṇanā
Giải Thích về Sự Xuất Gia của Soṇa
243. Suttattho pana suttavaṇṇanātoyeva gahetabboti etthāyaṃ suttavaṇṇanā. Sītavaneti (a. ni. aṭṭha. 3.6.55) evaṃnāmake vane. Tasmiṃ kira paṭipāṭiyā pañca caṅkamanasatāni māpitāni, tesu thero attano sappāyaṃ caṅkamanaṃ gahetvā samaṇadhammaṃ karoti. Tassa āraddhavīriyassa hutvā caṅkamato pādatalāni bhijjiṃsu, jāṇūhi caṅkamato jāṇukānipi hatthatalānipi bhijjiṃsu, chiddāni ahesuṃ. Evaṃ āraddhavīriyo viharanto obhāsanimittamattakampi dassetuṃ nāsakkhi. Tassa vīriyena kilamitakāyassa caṅkamanakoṭiyaṃ pāsāṇaphalake nisinnassa yo vitakko udapādi, taṃ dassetuṃ ‘‘atha kho āyasmato’’tiādi vuttaṃ. Tattha āraddhavīriyāti paripuṇṇapaggahitavīriyā. Na anupādāya āsavehi cittaṃ vimuccatīti ‘‘sace ahaṃ ugghaṭitaññū vā vipañcitaññū vā neyyo vā, na me cittaṃ na vimucceyya, addhā pana padaparamo, yena me cittaṃ na muccatī’’ti sanniṭṭhānaṃ katvā ‘‘saṃvijjanti kho panā’’tiādīni cintesi. Tattha bhogāti upayogatthe paccattaṃ.
243. Ý nghĩa của kinh nên được lấy từ chú giải kinh, ở đây, đây là phần chú giải kinh. Trong khu rừng Sītavana (A. Ni. Aṭṭha. 3.6.55) là trong khu rừng có tên như vậy. Tương truyền rằng, ở đó, năm trăm đường kinh hành đã được xây dựng theo thứ tự, trong số đó, vị Trưởng lão đã chọn lấy một đường kinh hành phù hợp với mình và thực hành sa-môn pháp. Khi vị ấy kinh hành với nỗ lực đã được khởi xướng, lòng bàn chân bị nứt nẻ, khi kinh hành bằng đầu gối, cả đầu gối và lòng bàn tay cũng bị nứt nẻ, trở nên có những lỗ hổng. Sống với nỗ lực đã được khởi xướng như vậy, vị ấy không thể cho thấy dù chỉ một chút tướng ánh sáng. Để chỉ ra tư duy đã khởi lên nơi vị ấy khi đang ngồi trên một phiến đá ở cuối đường kinh hành, với thân thể mệt mỏi do nỗ lực, đã có câu nói bắt đầu bằng “Bấy giờ, Tôn giả…” Ở đây, đã tinh tấn là đã nỗ lực một cách trọn vẹn. Tâm không giải thoát khỏi các lậu hoặc không do chấp thủ, sau khi đã kết luận rằng: “Nếu ta là người có trí tuệ sắc bén, hoặc có trí tuệ phân tích, hoặc là người có thể được dẫn dắt, thì tâm của ta sẽ không thể không giải thoát, chắc chắn ta chỉ là người lấy văn tự làm đầu, do đó tâm ta không giải thoát,” vị ấy đã suy nghĩ các điều bắt đầu bằng “nhưng quả thật có…” Ở đây, của cải là cách dùng ở sở hữu cách với ý nghĩa thụ hưởng.
Pāturahosīti therassa cittācāraṃ ñatvā ‘‘ayaṃ soṇo ajja sītavane padhānabhūmiyaṃ nisinno imaṃ vitakkaṃ vitakketi, gantvāssa vitakkaṃ sahoḍḍhaṃ gaṇhitvā vīṇopamakammaṭṭhānaṃ kathessāmī’’ti sītavane pāturahosi. Paññatte āsaneti padhānikabhikkhū attano vasanaṭṭhāne ovadituṃ āgatassa buddhassa bhagavato nisīdanatthaṃ yathālābhena āsanampi paññapetvāva padhānaṃ karonti , aññaṃ alabhamānā purāṇapaṇṇāni saṅgharitvā upari saṅghāṭiṃ paññapenti. Theropi āsanaṃ paññapetvāva padhānaṃ akāsi, taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘paññatte āsane’’ti.
Đã hiện ra, sau khi biết được diễn biến tâm của vị Trưởng lão, đức Thế Tôn đã hiện ra ở Sītavana với ý nghĩ: “Hôm nay, Soṇa này đang ngồi ở nơi chuyên cần tu tập trong Sītavana và đang suy nghĩ tư duy này, ta sẽ đến đó, nắm bắt tư duy của vị ấy tại trận và nói về đề mục thiền ví như cây đàn tỳ bà.” Trên chỗ ngồi đã được soạn sẵn, các vị Tỳ-khưu chuyên cần tu tập, tại nơi ở của mình, thường soạn sẵn một chỗ ngồi tùy theo khả năng để đức Phật, bậc Thế Tôn, đến dạy bảo, rồi mới chuyên cần tu tập, nếu không có được gì khác, họ thu gom những chiếc lá cũ và trải y tăng-già-lê lên trên. Vị Trưởng lão cũng đã soạn sẵn chỗ ngồi rồi mới chuyên cần tu tập, chính điều đó được nói đến trong câu “trên chỗ ngồi đã được soạn sẵn.”
Taṃkiṃ maññasīti satthā ‘‘imassa bhikkhuno avasesakammaṭṭhānena attho natthi, ayaṃ gandhabbasippe cheko ciṇṇavasī, attano visaye kathiyamāne khippameva sallakkhessatī’’ti vīṇopamaṃ kathetuṃ ‘‘taṃ kiṃ maññasī’’tiādimāha. Vīṇāya tantissare kusalatā nāma vīṇāya vādanakusalatā, so ca tattha kusalo. Mātāpitaro hissa ‘‘amhākaṃ putto aññaṃ sippaṃ sikkhanto kāyena kilamissati, idaṃ pana āsane nisinneneva sakkā uggaṇhitu’’nti gandhabbasippameva uggaṇhāpesuṃ. Tassa –
Con nghĩ thế nào, bậc Đạo Sư, với ý nghĩ: “Vị Tỳ-khưu này không cần đến đề mục thiền nào khác, vị này khéo léo và thuần thục trong nghệ thuật âm nhạc, khi được nói về lĩnh vực của mình, vị ấy sẽ nhanh chóng nhận ra,” đã nói những câu bắt đầu bằng “Con nghĩ thế nào” để nói về ví dụ cây đàn tỳ bà. Sự khéo léo về âm thanh dây đàn của cây đàn tỳ bà là sự khéo léo trong việc chơi đàn tỳ bà, và vị ấy rất giỏi về điều đó. Thật vậy, cha mẹ của vị ấy đã cho vị ấy học nghệ thuật âm nhạc với ý nghĩ: “Con trai của chúng ta nếu học nghề khác sẽ bị mệt mỏi về thân xác, còn nghề này thì có thể học ngay cả khi đang ngồi trên ghế.” Đối với vị ấy:
‘‘Satta sarā tayo gāmā, mucchanā ekavīsati;
Ṭhānā ekūnapaññāsa, iccete saramaṇḍalā’’ti. –
“Bảy nốt nhạc, ba cung bậc, hai mươi mốt âm chuyển;
Bốn mươi chín vị trí, đó là các vòng nốt nhạc.” –
Ādikaṃ gandhabbasippaṃ sabbameva paguṇaṃ ahosi. Accāyatāti atiāyatā kharamucchanā. Saravatīti sarasampannā. Kammaññāti kammakkhamā kammayoggā. Atisithilāti mandamucchanā. Same guṇe patiṭṭhitāti majjhime sare ṭhapetvā mucchitā.
Toàn bộ nghệ thuật âm nhạc bắt đầu như vậy đều đã trở nên thuần thục. Quá căng là quá căng, âm chuyển chói tai. Có âm thanh hay là có âm thanh tốt. Thích hợp cho công việc là chịu đựng được công việc, phù hợp với công việc. Quá chùng là âm chuyển yếu ớt. Được thiết lập trên các dây đàn cân bằng là được điều chỉnh sau khi đã đặt ở các nốt nhạc trung bình.
Accāraddhanti atigāḷhaṃ. Uddhaccāya saṃvattatīti uddhatabhāvāya saṃvattati. Atilīnanti atisithilaṃ. Kosajjāyāti kusītabhāvatthāya. Vīriyasamathaṃ adhiṭṭhāhīti vīriyasampayuttaṃ samathaṃ adhiṭṭhāhi, vīriyaṃ samathena yojehīti attho. Indriyānañca samataṃ adhiṭṭhāhīti saddhādīnaṃ indriyānaṃ samataṃ samabhāvaṃ adhiṭṭhāhi. Tattha saddhaṃ paññāya, paññañca saddhāya, vīriyaṃ samādhinā, samādhiñca vīriyena yojayatā indriyānaṃ samatā adhiṭṭhitā nāma hoti. Sati pana sabbatthikā, sā sadāpi balavatīyeva vaṭṭati. Tañca pana nesaṃ yojanāvidhānaṃ visuddhimagge (visuddhi. 1.60-62) āgatanayena veditabbaṃ. Tattha ca nimittaṃ gaṇhāhīti tasmiñca samabhāve sati yena ādāse mukhabimbeneva nimittena uppajjitabbaṃ, taṃ samathanimittaṃ vipassanānimittaṃ magganimittaṃ phalanimittañca gaṇha nibbattehīti evamassa satthā arahatte pakkhipitvā kammaṭṭhānaṃ kathesi.
Quá tinh tấn là quá mạnh mẽ. Đưa đến trạo cử là đưa đến tình trạng trạo cử. Quá thụ động là quá chùng. Đưa đến sự biếng nhác là vì tình trạng biếng nhác. Hãy quyết tâm đến sự quân bình giữa tinh tấn và định tĩnh, có nghĩa là hãy quyết tâm đến sự định tĩnh có liên hệ với tinh tấn, hãy kết hợp tinh tấn với định tĩnh. Và hãy quyết tâm đến sự quân bình của các căn là hãy quyết tâm đến sự quân bình, sự đồng đều của các căn như tín, v.v. Ở đây, sự quân bình của các căn được gọi là đã được quyết tâm bởi người kết hợp tín với tuệ, tuệ với tín, tinh tấn với định, và định với tinh tấn. Còn niệm thì cần thiết ở mọi nơi, nó luôn cần phải mạnh mẽ. Và phương pháp kết hợp chúng cần được hiểu theo cách đã được trình bày trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi. 1.60-62). Và ở đó, hãy nắm bắt tướng, và khi có sự quân bình đó, hãy nắm bắt, hãy tạo ra tướng định, tướng quán, tướng đạo và tướng quả, là tướng phải được khởi lên bằng tướng đó giống như ảnh mặt trong gương, như vậy bậc Đạo Sư đã nói về đề mục thiền bằng cách đặt nó vào trong A-la-hán quả cho vị ấy.
Tattha ca nimittaṃ aggahesīti samathanimittañca vipassanānimittañca aggahesi. Ekoti asahāyo. Vūpakaṭṭhoti vatthukāmehi ca kilesakāmehi ca kāyena ceva cittena ca vūpakaṭṭho. Appamattoti kammaṭṭhāne satiṃ avijahanto. Ātāpīti kāyikacetasikavīriyātāpena ātāpo. Ātappati kilesehīti ātāpo, vīriyaṃ. Pahitattoti kāye ca jīvite ca anapekkhatāya pesitatto vissaṭṭhaattabhāvo, nibbāne vā pesitacitto. Na cirassevāti kammaṭṭhānārambhato na cireneva. Aññataroti eko. Arahatanti bhagavato sāvakānaṃ arahantānaṃ abbhantaro eko mahāsāvako ahosīti attho.
Và ở đó, đã nắm bắt tướng là đã nắm bắt tướng định và tướng quán. Một mình là không có bạn đồng hành. Sống viễn ly là sống viễn ly khỏi các dục về đối tượng và các dục về phiền não, cả về thân và tâm. Không dể duôi là không rời bỏ niệm trong đề mục thiền. Nhiệt tâm là có sự nhiệt tâm bằng nỗ lực về thân và tâm. Nhiệt tâm là nỗ lực, vì nó thiêu đốt các phiền não. Có tâm được sai đi là có tâm được phái đi, có thân mạng được buông bỏ do không luyến tiếc thân và mạng, hoặc có tâm được hướng đến Niết-bàn. Không bao lâu sau là không bao lâu sau khi bắt đầu đề mục thiền. Một trong là một vị. Các vị A-la-hán, có nghĩa là vị ấy đã trở thành một vị đại đệ tử trong số các vị A-la-hán, đệ tử của Thế Tôn.
244.Vusitavāti vutthabrahmacariyavāso. Katakaraṇīyoti catūhi maggehi kattabbaṃ katvā ṭhito. Ohitabhāroti khandhabhāraṃ kilesabhāraṃ abhisaṅkhārabhārañca otāretvā ṭhito. Anuppattasadatthoti sadattho vuccati arahattaṃ, taṃ pattoti attho. Parikkhīṇabhavasaṃyojanoti khīṇabhavabandhano. Sammadaññā vimuttoti sammā hetunā kāraṇena jānitvā vimutto. Cha ṭhānānīti cha kāraṇāni. Adhimutto hotīti paṭivijjhitvā paccakkhaṃ katvā ṭhito hoti. Nekkhammādhimuttotiādi sabbaṃ arahattavasena vuttaṃ. Arahattañhi sabbakilesehi nikkhantattā nekkhammaṃ, teheva pavivittattā paviveko, byāpajjābhāvato abyāpajjaṃ, upādānassa khayante uppannattā upādānakkhayo, taṇhāya khayante uppannattā taṇhakkhayo, sammohābhāvato asammohoti ca vuccati.
244.Đã sống đời phạm hạnh là đã sống xong đời sống phạm hạnh. Đã làm những việc cần làm là đã làm xong việc cần làm bằng bốn đạo. Đã đặt gánh nặng xuống là đã đặt xuống gánh nặng uẩn, gánh nặng phiền não, và gánh nặng hành. Đã đạt được mục đích của mình, mục đích của mình được gọi là A-la-hán quả, có nghĩa là đã đạt được điều đó. Đã đoạn tận hữu kiết sử là đã đoạn tận sự ràng buộc trong các cõi. Đã giải thoát nhờ chánh trí là đã giải thoát sau khi đã biết một cách đúng đắn, có nguyên nhân, có lý do. Sáu trạng thái là sáu lý do. Đã giải thoát hướng về là đã chứng ngộ và thể nhập. Giải thoát hướng về sự xuất ly, v.v., tất cả đều được nói theo khía cạnh của A-la-hán quả. Thật vậy, A-la-hán quả được gọi là sự xuất ly vì đã thoát khỏi mọi phiền não, là sự độc cư vì đã xa lìa chúng, là sự vô sân vì không có sân, là sự đoạn tận chấp thủ vì đã phát sinh khi chấp thủ chấm dứt, là sự đoạn tận ái vì đã phát sinh khi ái diệt, và là sự không si mê vì không có si mê.
Kevalaṃ saddhāmattakanti paṭivedharahitaṃ kevalaṃ paṭivedhapaññāya asammissaṃ saddhāmattakaṃ. Paṭicayanti punappunaṃ karaṇena vaḍḍhiṃ. Vītarāgattāti maggapaṭivedhena rāgassa vihatattāyeva nekkhammasaṅkhātaṃ arahattaṃ paṭivijjhitvā sacchikatvā ṭhito hoti, phalasamāpattivihārena viharati, tanninnamānasoyeva hotīti attho. Sesapadesupi eseva nayo.
Chỉ đơn thuần là đức tin là đức tin không có sự chứng ngộ, chỉ đơn thuần không pha trộn với trí tuệ chứng ngộ. Sự gia tăng là sự tăng trưởng do làm đi làm lại nhiều lần. Do đã đoạn trừ tham ái, chính do đã diệt trừ tham ái bằng sự chứng ngộ đạo, vị ấy đã chứng ngộ và thể nhập A-la-hán quả được gọi là sự xuất ly, sống trong sự nhập quả định, có tâm hướng về đó. Trong các câu khác, phương pháp cũng tương tự.
Lābhasakkārasilokanti catupaccayalābhañca tesaṃyeva sukatabhāvañca vaṇṇabhaṇanañca. Nikāmayamānoti icchamāno patthayamāno. Pavivekādhimuttoti ‘‘paviveke adhimutto aha’’nti evaṃ arahattaṃ byākarotīti attho.
Lợi dưỡng, cung kính, và danh tiếng là lợi dưỡng bốn vật dụng, tình trạng tốt đẹp của chúng, và lời tán thán. Mong muốn là ước muốn, khao khát. Giải thoát hướng về sự độc cư có nghĩa là vị ấy tuyên bố A-la-hán quả bằng cách nói: “Tôi giải thoát hướng về sự độc cư.”
Sīlabbataparāmāsanti sīlañca vatañca parāmasitvā gahitaggahaṇamattaṃ. Sārato paccāgacchantoti sārabhāvena jānanto. Abyāpajjādhimuttoti abyāpajjaṃ arahattaṃ byākaroti. Imināva nayena sabbavāresu attho daṭṭhabbo. Apicettha ‘‘nekkhammādhimuttoti imasmiṃyeva arahattaṃ kathitaṃ, sesesu pañcasu nibbāna’’nti eke vadanti. Apare ‘‘asammohādhimuttoti ettheva nibbānaṃ kathitaṃ, sesesu arahatta’’nti vadanti. Ayaṃ panettha sāro – ‘‘sabbesvevetesu arahattampi nibbānampi kathitamevāti.
Giới cấm thủ là chỉ sự chấp thủ vào giới và hạnh bằng cách nắm giữ một cách sai lầm. Nhận biết là cốt lõi là biết với bản chất cốt lõi. Giải thoát hướng về sự vô sân là tuyên bố A-la-hán quả là sự vô sân. Ý nghĩa trong tất cả các trường hợp cần được hiểu theo phương pháp này. Hơn nữa, ở đây một số người nói: “Trong câu ‘giải thoát hướng về sự xuất ly,’ chỉ có A-la-hán quả được nói đến, trong năm câu còn lại là Niết-bàn.” Những người khác nói: “Chỉ trong câu ‘giải thoát hướng về sự không si mê,’ Niết-bàn mới được nói đến, trong các câu còn lại là A-la-hán quả.” Đây là cốt lõi ở đây – “Trong tất cả những câu này, cả A-la-hán quả và Niết-bàn đều được nói đến.”
Bhusāti balavanto dibbarūpasadisā. Nevassa cittaṃ pariyādiyantīti etassa khīṇāsavassa cittaṃ gahetvā ṭhātuṃ na sakkonti. Kilesā hi uppajjamānā cittaṃ gaṇhanti nāma. Amissīkatanti amissakataṃ. Kilesā hi ārammaṇena saddhiṃ cittaṃ missaṃ karonti, tesaṃ abhāvā amissīkataṃ. Ṭhitanti patiṭṭhitaṃ. Āneñjappattanti acalanappattaṃ. Vayañcassānupassatīti tassa cesa cittassa uppādampi vayampi passati. Bhusā vātavuṭṭhīti balavā vātakkhandho. Neva naṃ saṅkampeyyāti ekabhāgena cāletuṃ na sakkuṇeyya. Na sampakampeyyāti thūṇaṃ viya sabbabhāgato kampetuṃ na sakkuṇeyya. Na sampavedheyyāti vedhetvā pavedhetvā pātetuṃ na sakkuṇeyya.
Mạnh mẽ là mạnh mẽ, giống như các sắc cõi trời. Chúng không thể chiếm hữu tâm của vị ấy là chúng không thể nắm giữ được tâm của vị lậu hoặc đã tận này. Thật vậy, các phiền não khi khởi lên được gọi là chiếm hữu tâm. Không bị trộn lẫn là tình trạng không bị trộn lẫn. Thật vậy, các phiền não làm cho tâm bị trộn lẫn với đối tượng, do không có chúng nên là không bị trộn lẫn. Vững chắc là đã được thiết lập. Đã đạt đến sự bất động là đã đạt đến sự không lay chuyển. Và vị ấy thấy được sự hoại diệt của nó là vị ấy thấy được cả sự sinh và sự diệt của tâm đó. Cơn gió mạnh là một khối gió mạnh. Không thể làm nó lay động là không thể làm nó lay động một phần. Không thể làm nó rung chuyển là không thể làm nó rung chuyển từ mọi phía như một cây cột. Không thể làm nó chao đảo là không thể làm nó chao đảo, lung lay và ngã đổ.
Nekkhammaṃ adhimuttassāti arahattaṃ paṭivijjhitvā ṭhitassa. Sesapadesupi arahattameva kathitaṃ. Upādānakkhayassa cāti upayogatthe sāmivacanaṃ. Asammohañca cetasoti cittassa ca asammohaṃ adhimuttassa. Disvā āyatanuppādanti āyatanānaṃ uppādañca vayañca disvā. Sammā cittaṃ vimuccatīti sammā hetunā nayena imāya vipassanāya paṭipattiyā phalasamāpattivasena cittaṃ vimuccati, nibbānārammaṇe adhimuccati. Atha vā iminā khīṇāsavassa pubbabhāgapaṭipadā kathitā. Tassa hi āyatanuppādaṃ disvā imāya vipassanāya adhigatassa ariyamaggassa ānubhāvena sabbakilesehi sammā cittaṃ vimuccati. Evaṃ tassa sammā vimuttassa…pe… na vijjati. Tattha santacittassāti nibbutacittassa. Sesamettha uttānatthameva.
Của người giải thoát hướng về sự xuất ly là của người đã chứng ngộ và an trú trong A-la-hán quả. Trong các câu khác, cũng chỉ nói về A-la-hán quả. Và của sự đoạn tận chấp thủ là cách dùng ở sở hữu cách với ý nghĩa thụ hưởng. Và sự không si mê của tâm là của người giải thoát hướng về sự không si mê của tâm. Sau khi thấy sự sinh khởi của các xứ là sau khi thấy sự sinh và diệt của các xứ. Tâm được giải thoát một cách đúng đắn là tâm được giải thoát bằng cách nhập quả định, hướng về đối tượng Niết-bàn, một cách đúng đắn, có nguyên nhân, có phương pháp, bằng sự thực hành tuệ quán này. Hoặc, bằng câu này, con đường thực hành trong giai đoạn đầu của vị lậu hoặc đã tận được nói đến. Thật vậy, đối với vị ấy, sau khi thấy sự sinh khởi của các xứ, nhờ vào sức mạnh của thánh đạo đã được chứng đắc bằng tuệ quán này, tâm được giải thoát một cách đúng đắn khỏi mọi phiền não. Như vậy, của người đã giải thoát một cách đúng đắn đó… tóm lại… không có. Ở đây, của người có tâm tịch tịnh là của người có tâm đã được dập tắt. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.
Soṇassa pabbajjākathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về sự xuất gia của Soṇa.
Sabbanīlikādipaṭikkhepakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Ngăn Cấm (Y) Toàn Màu Xanh Thẫm, v.v.
246.Addāriṭṭhakavaṇṇāti abhinavāriṭṭhaphalavaṇṇā. Udakena tintakākapattavaṇṇātipi vadanti.
246.Có màu như trái ariṭṭhaka tươi là có màu như trái ariṭṭhaka vừa mới hái. Cũng có người nói là có màu như lông quạ đã được nhúng nước.
Ajjhārāme upāhanapaṭikkhepakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Ngăn Cấm Mang Giày Dép trong Tu Viện
248. Abhijīvanti etenāti abhijīvanikaṃ. Kintaṃ? Sippaṃ. Tenāha ‘‘yena sippenā’’tiādi.
248. Cái mà người ta sống nhờ vào là nghề sinh sống. Đó là gì? Là nghề thủ công. Do đó, ngài nói “bằng nghề thủ công nào,” v.v.
Kaṭṭhapādukādipaṭikkhepakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Ngăn Cấm Giày Gỗ, v.v.
251.Uṇṇāhi katapādukāti uṇṇālomamayakambalehi, uṇṇālomehi eva vā katapādukā. Na, bhikkhave, gāvīnaṃ visāṇesu gahetabbantiādīsu ‘‘mokkhādhippāyena visāṇādīsu gahetuṃ vaṭṭatī’’ti gaṇṭhipadesu vuttaṃ.
251.Giày được làm bằng len là giày được làm bằng vải len dệt từ lông cừu, hoặc chỉ bằng lông cừu. Này các Tỳ-khưu, không được nắm lấy sừng bò, v.v., trong Gaṇṭhipadā có nói rằng: “được phép nắm lấy sừng, v.v., với mục đích giải thoát.”
Yānādipaṭikkhepakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Ngăn Cấm Xe Cộ, v.v.
253.Anujānāmi, bhikkhave, purisayuttaṃ hatthavaṭṭakanti ettha ‘‘anujānāmi, bhikkhave, purisayuttaṃ, anujānāmi, bhikkhave, hatthavaṭṭaka’’nti evaṃ paccekavākyaparisamāpanaṃ adhippetanti āha ‘‘purisayuttaṃ itthisārathi vā…pe… purisā vā, vaṭṭatiyevā’’ti. Pīṭhakasivikanti pīṭhakayānaṃ. Pāṭaṅkinti andolikāyetaṃ adhivacanaṃ.
253.Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xe do người kéo, xe lăn tay, ở đây, ý muốn nói là việc kết thúc từng câu riêng biệt như: “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xe do người kéo,” “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép xe lăn tay,” do đó nói: “xe do người kéo, dù là phụ nữ hay… tóm lại… hay nam giới, đều được phép.” Kiệu ghế là xe ghế. Võng là tên gọi khác của kiệu võng.
Uccāsayanamahāsayanapaṭikkhepakathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Ngăn Cấm Giường Cao và Giường Lớn
254.Vāḷarūpānīti āharimāni vāḷarūpāni. ‘‘Akappiyarūpākulo akappiyamañco pallaṅko’’ti sārasamāse vuttaṃ. ‘‘Dīghalomako mahākojavoti caturaṅgulādhikalomo kāḷakojavo. ‘‘Caturaṅgulādhikāni kira tassa lomānī’’ti vacanato caturaṅgulato heṭṭhā vaṭṭatīti vadanti. Vānacitro uṇṇāmayattharaṇoti bhitticchedādivasena vicitro uṇṇāmayattharaṇo. Ghanapupphako uṇṇāmayattharaṇoti uṇṇāmayalohitattharaṇo. Pakatitūlikāti rukkhatūlalatātūlapoṭakītūlasaṅkhātānaṃ tiṇṇaṃ tūlānaṃ aññatarapuṇṇā tūlikā. ‘‘Uddalomīti ubhatodasaṃ uṇṇāmayattharaṇaṃ. Ekantalomīti ekatodasaṃ uṇṇāmayattharaṇa’’nti dīghanikāyaṭṭhakathāyaṃ (dī. ni. aṭṭha. 1.15) vuttaṃ, sārasamāse pana ‘‘uddalomīti ekato uggatapupphaṃ. Ekantalomīti ubhato uggatapuppha’’nti vuttaṃ. ‘‘Koseyyakaṭṭissamayanti koseyyakasaṭamaya’’nti ācariyadhammapālattherena vuttaṃ. Suddhakoseyyanti ratanaparisibbanarahitaṃ. Dīghanikāyaṭṭhakathāyaṃ panettha ‘‘ṭhapetvā tūlikaṃ sabbāneva gonakādīni ratanaparisibbitāni vaṭṭantī’’ti vuttaṃ. Tattha ‘‘ṭhapetvā tūlika’’nti etena ratanaparisibbanarahitāpi tūlikā na vaṭṭatīti dīpeti. ‘‘Ratanaparisibbitāni vaṭṭantī’’ti iminā pana yāni ratanaparisibbitāni, tāni bhūmattharaṇavasena yathānurūpaṃ mañcādīsu ca upanetuṃ vaṭṭatīti dīpitanti veditabbaṃ. Ettha ca vinayapariyāyaṃ patvā garuke ṭhātabbattā idha vuttanayenevettha vinicchayo veditabbo. Suttantikadesanāyaṃ pana gahaṭṭhānampi vasena vuttattā tesaṃ saṅgaṇhanatthaṃ ‘‘ṭhapetvā tūlikaṃ…pe… vaṭṭantī’’ti vuttanti apare.
254.Hình các con thú là hình các con thú được thêm vào. Trong Sārasamāsa có nói: “Giường và ghế dài không hợp lệ là loại giường và ghế dài có các hình thù không hợp lệ.” “Tấm thảm lớn bằng lông cừu đen có lông dài là tấm thảm bằng lông cừu đen có lông dài hơn bốn ngón tay. Do câu nói “Tương truyền rằng lông của nó dài hơn bốn ngón tay,” nên người ta nói rằng loại có lông ngắn hơn bốn ngón tay thì được phép. Tấm trải bằng len được thêu dệt đa dạng là tấm trải bằng len được trang trí đa dạng bằng cách cắt may trên tường, v.v. Tấm trải bằng len có hoa văn dày đặc là tấm trải bằng len màu đỏ có hoa văn dày đặc. Nệm bông thông thường là nệm được nhồi bằng một trong ba loại bông: bông gòn, bông dây leo, và bông cỏ. “Tấm trải bằng len có lông ở hai mặt là tấm trải bằng len có lông ở cả hai mặt. Tấm trải bằng len có lông ở một mặt là tấm trải bằng len có lông ở một mặt,” đã được nói trong Chú giải Trường Bộ Kinh (Dī. ni. aṭṭha. 1.15), nhưng trong Sārasamāsa lại nói: “uddalomī là loại có hoa nổi lên ở một mặt. Ekantalomī là loại có hoa nổi lên ở cả hai mặt.” “Làm bằng vải lụa là làm bằng tấm vải lụa,” đã được nói bởi Trưởng lão Giáo Thọ Sư Dhammapāla. Lụa thuần túy là loại không được may viền bằng đá quý. Ở đây, trong Chú giải Trường Bộ Kinh có nói: “ngoại trừ nệm bông, tất cả các loại như thảm lông cừu, v.v., được may viền bằng đá quý đều được phép.” Ở đây, bằng câu “ngoại trừ nệm bông,” ngài chỉ ra rằng ngay cả nệm bông không được may viền bằng đá quý cũng không được phép. Còn bằng câu “được may viền bằng đá quý đều được phép,” cần phải hiểu rằng ngài chỉ ra những loại được may viền bằng đá quý thì được phép dùng làm vật trải sàn và cũng được phép đặt trên giường, v.v., một cách thích hợp. Và ở đây, do phải đứng trên lập trường nghiêm ngặt khi xét đến giới luật, nên sự quyết định ở đây phải được hiểu theo cách đã nói ở đây. Nhưng những người khác cho rằng, trong phần thuyết giảng thuộc kinh tạng, do cũng được nói theo trường hợp của người tại gia, nên để bao gồm cả họ, đã có nói: “ngoại trừ nệm bông… tóm lại… đều được phép.”
Ajinacammehīti ajinamigacammehi. Tāni kira cammāni sukhumatarāni, tasmā dupaṭṭatipaṭṭāni katvā sibbanti. Tena vuttaṃ ‘‘ajinapaveṇī’’ti. Uttaraṃ uparibhāgaṃ chādetīti uttaracchado, vitānaṃ, tañca lohitavitānaṃ idhādhippetanti āha ‘‘uparibaddhena rattavitānenā’’ti. ‘‘Rattavitānesu ca kāsāvaṃ vaṭṭati, kusumbhādirattameva na vaṭṭatī’’ti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Mahāupadhānanti pamāṇātikkantaṃ upadhānaṃ. Ettha ca kiñcāpi dīghanikāyaṭṭhakathāyaṃ (dī. ni aṭṭha. 1.15) ‘‘alohitakāni dvepi vaṭṭantiyeva, tato uttari labhitvā aññesaṃ dātabbāni, dātuṃ asakkonto mañce tiriyaṃ attharitvā upari paccattharaṇaṃ datvā nipajjitumpi labhatī’’ti avisesena vuttaṃ, senāsanakkhandhakavaṇṇanāyaṃ (cūḷava. aṭṭha. 297) pana ‘‘agilānassa sīsupadhānañca pādupadhānañcāti dvayameva vaṭṭati, gilānassa bimbohanāni santharitvā upari paccattharaṇaṃ datvā nipajjitumpi vaṭṭatī’’ti vuttattā gilānoyeva mañce tiriyaṃ attharitvā nipajjituṃ labhatīti veditabbaṃ.
Bằng da của loài linh dương là bằng da của loài linh dương. Tương truyền rằng các loại da đó rất mềm mại, do đó người ta may chúng thành hai hoặc ba lớp. Do đó đã nói là “tấm da linh dương.” Cái che phủ phần trên là tấm trải phủ bên trên, tức là màn che, và ở đây ý muốn nói đến màn che màu đỏ, do đó nói: “bằng màn che màu đỏ được giăng ở trên.” Trong Gaṇṭhipadā có nói: “Trong các loại màn che màu đỏ, màu cà-sa thì được phép, chỉ có màu nhuộm từ hoa rum, v.v., là không được phép.” Gối lớn là gối vượt quá kích thước quy định. Ở đây, mặc dù trong Chú giải Trường Bộ Kinh (Dī. ni aṭṭha. 1.15) đã nói một cách không phân biệt rằng: “cả hai loại không phải màu đỏ đều được phép, nếu nhận được nhiều hơn thì phải cho người khác, nếu không thể cho đi, cũng được phép trải ngang trên giường, đặt tấm trải khác lên trên rồi nằm,” nhưng trong phần giải thích về thiên Chỗ Ở (Cūḷava. aṭṭha. 297) lại nói rằng: “đối với người không bệnh, chỉ được phép dùng gối đầu và gối chân, tức là hai cái; đối với người bệnh, được phép trải các loại gối ôm rồi đặt tấm trải khác lên trên và nằm,” do đó cần phải hiểu rằng chỉ người bệnh mới được phép trải ngang trên giường rồi nằm.
Uccāsayanamahāsayanapaṭikkhepakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về việc ngăn cấm giường cao và giường lớn.
Gihivikatānuññātādikathāvaṇṇanā
Giải Thích về Việc Cho Phép (Dùng) Đồ Vật đã được Người Tại Gia Chuyển Dạng, v.v.
256.Abhinissāyanisīditunti apassāya nisīdituṃ.
256.Để ngồi dựa vào là để ngồi tựa vào.
Soṇakuṭikaṇṇavatthukathāvaṇṇanā
Giải Thích về Câu Chuyện của Soṇa Kuṭikaṇṇa
257.Papatake pabbateti ettha ‘‘pavatte pabbate’’tipi paṭhanti, pavattanāmake pabbateti attho. Soṇo upāsakotiādīsu (udā. aṭṭha. 46) nāmena soṇo nāma, tīhi saraṇagamanehi upāsakattapaṭivedanena upāsako, koṭiagghanakassa kaṇṇapiḷandhanassa dhāraṇena ‘‘koṭikaṇṇo’’ti ca vattabbe ‘‘kuṭikaṇṇo’’ti evaṃ abhiññāto, na sukumārasoṇoti adhippāyo. Ayañhi āyasmato mahākaccānassa santike dhammaṃ sutvā sāsane abhippasanno saraṇesu ca sīlesu ca patiṭṭhito papatake pabbate chāyūdakasampanne ṭhāne vihāraṃ kāretvā theraṃ tattha vasāpetvā catūhi paccayehi upaṭṭhāti. Tena vuttaṃ ‘‘āyasmato mahākaccānassa upaṭṭhāko hotī’’ti.
257.Trên ngọn núi Papataka, ở đây cũng có người đọc là “trên ngọn núi Pavatta,” có nghĩa là trên ngọn núi tên là Pavatta. Nam cư sĩ Soṇa, v.v. (Udā. aṭṭha. 46), ý muốn nói rằng, vị ấy có tên là Soṇa, là một nam cư sĩ do đã tuyên bố là nam cư sĩ bằng ba lần quy y, và được biết đến với tên gọi “Kuṭikaṇṇa” đáng lẽ phải là “Koṭikaṇṇa” do đeo đôi bông tai trị giá một koṭi, chứ không phải là Soṇa Sukumāla. Vị này, sau khi nghe pháp từ Tôn giả Mahākaccāna, đã có lòng tin trong sạch vào giáo pháp, an trú trong ba pháp quy y và các giới, đã cho xây một tu viện ở một nơi có bóng mát và nước trên ngọn núi Papataka, đã thỉnh vị Trưởng lão ở đó và hộ độ bằng bốn vật dụng. Do đó đã nói: “là người hộ độ của Tôn giả Mahākaccāna.”
So kālena kālaṃ therassa upaṭṭhānaṃ gacchati, thero cassa dhammaṃ deseti, tena saṃvegabahulo dhammacariyāyaṃ ussāhajāto viharati. So ekadā satthena saddhiṃ vāṇijjatthāya ujjeniṃ gacchanto antarāmagge aṭaviyaṃ satthe niviṭṭhe rattiyaṃ janasambādhabhayena ekamantaṃ apakkamma niddaṃ upagañchi. Sattho paccūsavelāyaṃ uṭṭhāya gato, na ekopi soṇaṃ pabodhesi, sabbe vissaritvā agamiṃsu. So pabhātāya rattiyā pabujjhitvā uṭṭhāya kañci apassanto satthena gatamaggaṃ gahetvā sīghaṃ sīghaṃ gacchanto ekaṃ vaṭarukkhaṃ upagañchi. Tattha addasa ekaṃ mahākāyaṃ virūpadassanaṃ bībhacchaṃ purisaṃ aṭṭhito muttāni attano maṃsāni sayameva khādantaṃ, disvāna ‘‘kosi tva’’nti pucchi. Petosmi, bhanteti. Kasmā evaṃ karosīti? Attano pubbakammenāti. Kiṃ pana taṃ kammanti? Ahaṃ pubbe bhārukacchanagaravāsī kūṭavāṇijo hutvā paresaṃ santakaṃ vañcetvā khādiṃ, samaṇe ca bhikkhāya upagate ‘‘tumhākaṃ maṃsaṃ khādathā’’ti akkosiṃ, tena kammena etarahi imaṃ dukkhaṃ anubhavāmīti. Taṃ sutvā soṇo ativiya saṃvegaṃ paṭilabhi.
Vị ấy thỉnh thoảng đến hầu hạ vị Trưởng lão, và vị Trưởng lão thuyết pháp cho vị ấy, do đó vị ấy sống với nhiều niềm xúc động và lòng hăng hái trong việc thực hành chánh pháp. Một lần nọ, khi đang đi đến Ujjenī để buôn bán cùng với một đoàn lữ hành, trong khi đoàn lữ hành hạ trại trong rừng trên đường đi, vị ấy đã đi ra một nơi vắng vẻ để ngủ do sợ sự ồn ào của đám đông vào ban đêm. Đoàn lữ hành đã thức dậy và lên đường vào lúc rạng đông, không một ai đánh thức Soṇa, tất cả đều quên và đã đi mất. Khi đêm đã tàn, vị ấy thức dậy, không thấy ai, đã đi theo con đường mà đoàn lữ hành đã đi, đi một cách nhanh chóng và đến một cây đa. Ở đó, vị ấy thấy một người đàn ông thân hình to lớn, tướng mạo kỳ dị,น่าเกลียด, đang tự xé thịt của mình và ăn, thấy vậy, vị ấy hỏi: “Ông là ai?” Tôi là ngạ quỷ, thưa ngài. Tại sao ông lại làm như vậy? Do nghiệp quá khứ của tôi. Nghiệp đó là gì? Trước đây, tôi là một thương nhân gian xảo sống ở thành phố Bhārukaccha, đã lừa gạt và ăn của người khác, và khi các vị sa-môn đến khất thực, tôi đã mắng chửi rằng: “Hãy ăn thịt của các người đi,” do nghiệp đó mà bây giờ tôi phải chịu khổ này. Nghe vậy, Soṇa vô cùng xúc động.
Tato paraṃ gacchanto mukhato paggharitakāḷalohite dve petadārake passitvā tatheva pucchi, tepissa attano kammaṃ kathesuṃ. Te kira bhārukacchanagare dārakakāle gandhavāṇijjāya jīvikaṃ kappentā attano mātari khīṇāsave nimantetvā bhojentiyā gehaṃ gantvā ‘‘amhākaṃ santakaṃ kasmā samaṇānaṃ desi, tayā dinnaṃ bhojanaṃ bhuñjanakasamaṇānaṃ mukhato kāḷalohitaṃ paggharatū’’ti akkosiṃsu. Te tena kammena niraye paccitvā tassa vipākāvasesena petayoniyaṃ nibbattitvā tadā imaṃ dukkhaṃ anubhavanti. Tampi sutvā soṇo ativiya saṃvegajāto ahosi.
Đi xa hơn, vị ấy thấy hai đứa trẻ ngạ quỷ với máu đen chảy ra từ miệng, cũng hỏi như vậy, chúng cũng đã kể lại nghiệp của mình. Tương truyền rằng, khi còn là những đứa trẻ ở thành phố Bhārukaccha, trong khi đang sinh sống bằng nghề buôn nước hoa, chúng đã đến nhà người mẹ đã chứng quả A-la-hán của mình, người đang thỉnh mời và cúng dường, và đã mắng chửi rằng: “Tại sao mẹ lại cho của cải của chúng tôi cho các vị sa-môn, mong rằng máu đen sẽ chảy ra từ miệng của các vị sa-môn ăn món ăn do mẹ cho.” Do nghiệp đó, chúng đã bị đọa trong địa ngục, và do quả báo còn sót lại, chúng đã tái sinh vào loài ngạ quỷ và đang phải chịu khổ này vào lúc đó. Nghe vậy, Soṇa cũng vô cùng xúc động.
So ujjeniṃ gantvā taṃ karaṇīyaṃ tīretvā kuraragharaṃ paccāgato theraṃ upasaṅkamitvā katapaṭisanthāro tamatthaṃ ārocesi. Theropissa pavattinivattīsu ādīnavānisaṃse vibhāvento dhammaṃ desesi. So theraṃ vanditvā gehaṃ gato sāyamāsaṃ bhuñjitvā sayanaṃ upagato thokaṃyeva niddāyitvā pabujjhitvā sayanatale nisajja yathāsutaṃ dhammaṃ paccavekkhituṃ āraddho. Tassa taṃ dhammaṃ paccavekkhato te ca petattabhāve anussarato saṃsāradukkhaṃ ativiya bhayānakaṃ hutvā upaṭṭhāsi, pabbajjāya cittaṃ nami. So vibhātāya rattiyā sarīrapaṭijagganaṃ katvā theraṃ upagantvā attano ajjhāsayaṃ ārocetvā pabbajjaṃ yāci. Tena vuttaṃ ‘‘atha kho soṇo upāsako…pe… pabbājetu maṃ, bhante, ayyo mahākaccāno’’ti.
Vị ấy đi đến Ujjenī, giải quyết xong công việc đó và trở về Kuraraghara, đến gặp vị Trưởng lão, sau khi chào hỏi, đã kể lại câu chuyện đó. Vị Trưởng lão cũng đã thuyết pháp cho vị ấy, phân tích về sự nguy hại và lợi ích trong các diễn biến và sự chấm dứt. Vị ấy đảnh lễ vị Trưởng lão rồi về nhà, sau khi ăn bữa tối, đã đi ngủ, chỉ ngủ một chút rồi thức dậy, ngồi trên giường và bắt đầu suy ngẫm về pháp đã được nghe. Khi vị ấy suy ngẫm về pháp đó và nhớ lại các kiếp ngạ quỷ kia, nỗi khổ trong luân hồi hiện lên vô cùngน่ากลัว, tâm của vị ấy hướng về sự xuất gia. Khi đêm đã tàn, sau khi vệ sinh cá nhân, vị ấy đến gặp vị Trưởng lão, trình bày ý định của mình và xin xuất gia. Do đó đã nói: “Bấy giờ, nam cư sĩ Soṇa… tóm lại… xin Tôn giả Mahākaccāna hãy cho con xuất gia, bạch ngài.”
Tattha yathā yathātiādipadānaṃ ayaṃ saṅkhepattho – yena yena ākārena ayyo mahākaccāno dhammaṃ deseti ācikkhati paññapeti paṭṭhapeti vivarati vibhajati uttāniṃ karoti pakāseti, tena tena me upaparikkhato evaṃ hoti ‘‘yadetaṃ sikkhattayabrahmacariyaṃ ekampi divasaṃ akhaṇḍaṃ katvā carimakacittaṃ pāpetabbatāya ekantaparipuṇṇaṃ, ekadivasampi kilesamalena amalīnaṃ katvā carimakacittaṃ pāpetabbatāya ekantaparisuddhaṃ, saṅkhalikhitaṃ likhitasaṅkhasadisaṃ dhotasaṅkhasappaṭibhāgaṃ caritabbaṃ, idaṃ na sukaraṃ agāraṃ ajjhāvasatā agāramajjhe vasantena ekantaparipuṇṇaṃ…pe… caritu’’nti.
Ở đây, ý nghĩa tóm tắt của các từ như “y theo cách nào,” v.v., là – y theo cách nào mà Tôn giả Mahākaccāna thuyết pháp, chỉ dạy, chế định, thiết lập, khai thị, phân tích, làm cho rõ ràng, làm cho sáng tỏ, y theo cách đó, khi con suy xét, con thấy rằng: “Đời sống phạm hạnh ba học này, phải được thực hành không gián đoạn dù chỉ một ngày để đạt đến tâm cuối cùng, nên nó là hoàn toàn viên mãn, phải được thực hành không bị ô uế bởi cấu uế phiền não dù chỉ một ngày để đạt đến tâm cuối cùng, nên nó là hoàn toàn trong sạch, phải được thực hành như một vỏ ốc đã được mài giũa, tương tự như một vỏ ốc đã được rửa sạch, điều này không dễ cho người sống tại gia, người đang sống giữa gia đình, để thực hành một cách hoàn toàn viên mãn… tóm lại….”
Evaṃ attano parivitakkitaṃ soṇo upāsako therassa ārocetvā taṃ paṭipajjitukāmo ‘‘icchāmahaṃ bhante’’tiādimāha. Thero pana ‘‘na tāvassa ñāṇaṃ paripākaṃ gata’’nti upadhāretvā ñāṇaparipākaṃ āgamayamāno ‘‘dukkaraṃ kho’’tiādinā pabbajjāchandaṃ nivāresi. Tattha ekaseyyanti adutiyaseyyaṃ. Ettha ca seyyāsīsena ‘‘eko tiṭṭhati, eko gacchati, eko nisīdatī’’tiādinā nayena vuttaṃ catūsu iriyāpathesu kāyavivekaṃ dīpeti, na ekikā hutvā sayanamattaṃ. Ekabhattanti ‘‘ekabhattiko hoti rattūparato virato vikālabhojanā’’ti (dī. ni. 1.10, 194; ma. ni. 1.293 a. ni. 3.71) evaṃ vuttaṃ vikālabhojanā viratiṃ sandhāya vadati. Brahmacariyanti methunaviratibrahmacariyaṃ, sikkhattayānuyogasaṅkhātaṃ sāsanabrahmacariyaṃ vā. Iṅghāti codanatthe nipāto. Tatthevāti geheyeva. Buddhānaṃ sāsanaṃ anuyuñjāti niccasīlauposathasīlaniyamādibhedaṃ pañcaṅgaṃ aṭṭhaṅgaṃ dasaṅgañca sīlaṃ tadanurūpañca samādhipaññābhāvanaṃ anuyuñja. Etañhi upāsakena pubbabhāge anuyuñjitabbaṃ buddhasāsanaṃ nāma. Tenāha ‘‘kālayuttaṃ ekaseyyaṃ ekabhattaṃ brahmacariya’’nti.
Sau khi trình bày tư duy của mình cho vị Trưởng lão như vậy, nam cư sĩ Soṇa, muốn thực hành điều đó, đã nói: “Bạch ngài, con muốn,” v.v. Nhưng vị Trưởng lão, nhận thấy rằng “trí tuệ của vị này chưa chín muồi,” đã chờ đợi cho trí tuệ chín muồi và đã ngăn cản ý muốn xuất gia bằng câu nói bắt đầu bằng “Quả là khó,” v.v. Ở đây, việc ngủ một mình là ngủ không có người thứ hai. Ở đây, qua từ ‘ngủ,’ ngài chỉ ra sự viễn ly về thân trong bốn oai nghi, được nói theo cách “đứng một mình, đi một mình, ngồi một mình,” v.v., chứ không chỉ đơn thuần là việc ngủ một mình. Việc ăn một bữa là nói về sự từ bỏ việc ăn vào buổi tối, được nói đến trong các câu như: “là người ăn một bữa, từ bỏ buổi tối, tránh xa việc ăn phi thời” (Dī. ni. 1.10, 194; Ma. ni. 1.293; A. ni. 3.71). Đời sống phạm hạnh là đời sống phạm hạnh từ bỏ việc giao hợp, hoặc đời sống phạm hạnh được gọi là sự thực hành ba học. Thôi nào là một tiểu từ có ý nghĩa thúc giục. Ngay tại đó là ngay tại nhà. Hãy thực hành giáo pháp của các đức Phật là hãy thực hành giới năm phần, tám phần và mười phần, bao gồm cả giới thường và giới Bố-tát, và sự tu tập định và tuệ tương ứng. Thật vậy, đây được gọi là giáo pháp của đức Phật mà người nam cư sĩ phải thực hành trong giai đoạn đầu. Do đó, ngài đã nói: “việc ngủ một mình, việc ăn một bữa, đời sống phạm hạnh phù hợp với thời gian.”
Tattha kālayuttanti cātuddasīpañcaddasīaṭṭhamīpāṭihārikapakkhasaṅkhātena kālena yuttaṃ, yathāvuttakāle vā tuyhaṃ anuyuñjantassa yuttaṃ patirūpaṃ sakkuṇeyyaṃ, na sabbakālaṃ sabbanti adhippāyo . Sabbametaṃ ñāṇassa aparipakkattā tassa kāmānaṃ duppahānatāya sammā paṭipattiyaṃ yogyaṃ kārāpetuṃ vadati, na pabbajjāchandaṃ nivāretuṃ. Pabbajjābhisaṅkhāroti pabbajituṃ ārambho ussāho. Paṭippassambhīti indriyānaṃ aparipakkattā saṃvegassa ca nātitikkhabhāvato vūpasami. Kiñcāpi paṭippassambhi, therena vuttavidhiṃ pana anutiṭṭhanto kālena kālaṃ theraṃ upasaṅkamitvā payirupāsanto dhammaṃ suṇāti. Tassa vuttanayeneva dutiyampi pabbajjāya cittaṃ uppajji, therassa ca ārocesi, dutiyampi thero paṭikkhipi. Tatiyavāre pana ñāṇassa paripakkabhāvaṃ ñatvā ‘‘idāni naṃ pabbājetuṃ kālo’’ti thero pabbājesi, pabbajitañca taṃ tīṇi saṃvaccharāni atikkamitvā gaṇaṃ pariyesitvā upasampādesi. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘dutiyampi kho soṇo…pe… upasampādesī’’ti.
Ở đây, phù hợp với thời gian có nghĩa là phù hợp với thời gian được gọi là ngày 14, ngày rằm, ngày mồng 8 và các ngày đặc biệt trong tuần, hoặc là điều phù hợp, xứng đáng, có thể thực hiện được đối với con khi đang thực hành vào thời gian đã nói, chứ không phải mọi lúc, đó là ý nghĩa. Tất cả những điều này, do trí tuệ chưa chín muồi, do khó từ bỏ các dục, ngài nói để khiến vị ấy có khả năng thực hành đúng đắn, chứ không phải để ngăn cản ý muốn xuất gia. Ý muốn xuất gia là sự khởi xướng, sự hăng hái để xuất gia. Đã lắng xuống là đã dịu đi do các căn chưa chín muồi và sự xúc động chưa quá mãnh liệt. Mặc dù đã lắng xuống, nhưng vị ấy vẫn thực hành theo phương pháp mà vị Trưởng lão đã nói, thỉnh thoảng đến gặp vị Trưởng lão, hầu hạ và nghe pháp. Đối với vị ấy, lần thứ hai tâm hướng về sự xuất gia lại khởi lên theo cách đã nói, và vị ấy đã trình bày với vị Trưởng lão, lần thứ hai vị Trưởng lão lại từ chối. Nhưng vào lần thứ ba, nhận thấy trí tuệ đã chín muồi, vị Trưởng lão nghĩ: “Bây giờ là lúc để cho vị này xuất gia,” và đã cho vị ấy xuất gia, và sau khi đã xuất gia, đã trải qua ba năm, đã tìm kiếm một nhóm Tăng và cho thọ cụ túc giới. Chính điều đó được nói đến trong câu: “Lần thứ hai, Soṇa… tóm lại… đã cho thọ cụ túc giới.”
Tattha appabhikkhukoti katipayabhikkhuko. Tadā kira bhikkhū yebhuyyena majjhimadeseyeva vasiṃsu, tasmā tattha katipayā eva ahesuṃ . Te ca ekasmiṃ gāme eko, ekasmiṃ nigame dveti evaṃ visuṃ visuṃ vasiṃsu. Kicchenāti dukkhena. Kasirenāti āyāsena. Tato tatoti tasmā tasmā gāmanigamādito. Therena hi katipaye bhikkhū ānetvā aññesu ānīyamānesu pubbe ānītā kenacideva karaṇīyena pakkamiṃsu, kañci kālaṃ āgametvā puna tesu ānīyamānesu itare pakkamiṃsu. Evaṃ punappunaṃ ānayanena sannipāto cireneva ahosi. Theropi tadā ekavihārī ahosi. Tena vuttaṃ ‘‘tiṇṇaṃ vassānaṃ…pe… sannipātāpetvā’’ti.
Ở đây, có ít Tỳ-khưu là có một vài vị Tỳ-khưu. Tương truyền rằng, vào thời đó, các vị Tỳ-khưu chủ yếu sống ở trung quốc, do đó ở đó chỉ có một vài vị. Và họ sống riêng rẽ, một vị ở một làng, hai vị ở một thị trấn. Một cách khó khăn là với sự khổ cực. Một cách vất vả là với sự mệt nhọc. Từ nơi này nơi kia là từ các làng, thị trấn, v.v. Thật vậy, khi vị Trưởng lão đã mời một vài vị Tỳ-khưu đến, trong khi đang mời những vị khác, những vị đã được mời trước đó đã ra đi vì một công việc nào đó, sau khi chờ đợi một thời gian, trong khi đang mời lại những vị đó, những vị khác lại ra đi. Như vậy, do việc mời đi mời lại nhiều lần, việc tụ họp đã diễn ra sau một thời gian dài. Vị Trưởng lão lúc đó cũng sống một mình. Do đó đã nói: “Sau ba năm… tóm lại… đã triệu tập.”
Vassaṃvutthassāti vassaṃ upagantvā vusitavato. Ediso ca ediso cāti evarūpo ca evarūpo ca. ‘‘Evarūpāya nāma rūpakāyasampattiyā samannāgato, evarūpāya dhammakāyasampattiyā samannāgato’’ti sutoyeva me so bhagavā. Na ca mayā sammukhā diṭṭhoti ettha pana puthujjanasaddhāya eva āyasmā soṇo bhagavantaṃ daṭṭhukāmo ahosi. Aparabhāge pana satthārā saddhiṃ ekagandhakuṭiyaṃ vasitvā paccūsasamayaṃ ajjhiṭṭho soḷasa aṭṭhakavaggiyāni satthu sammukhā aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbaṃ cetasā samannāharitvā atthadhammapaṭisaṃvedī hutvā bhaṇanto dhammupasañhitapāmojjādimukhena samāhito sarabhaññapariyosāne vipassanaṃ paṭṭhapetvā saṅkhāre sammasanto anupubbena arahattaṃ pāpuṇi. Etadatthameva hissa bhagavatā attanā saddhiṃ ekagandhakuṭiyaṃ vāso āṇattoti vadanti.
Của người đã an cư mùa mưa là của người đã nhập hạ và đã sống xong. Như thế này và như thế này là có hình dáng như thế này và như thế này. “Có được thân tướng hoàn hảo như thế này, có được pháp thân hoàn hảo như thế này.” Con chỉ nghe về bậc Thế Tôn ấy. Chứ con chưa từng diện kiến Ngài, ở đây, Tôn giả Soṇa muốn diện kiến đức Thế Tôn chỉ bằng đức tin của một người phàm. Nhưng ở phần sau, sau khi đã ở cùng với bậc Đạo Sư trong cùng một hương thất, khi được thỉnh mời vào lúc rạng đông, sau khi đã chú tâm và quán xét, đã tổng hợp tất cả trong tâm, đã trở thành người cảm nhận được ý nghĩa và pháp, đã tụng đọc mười sáu bài kinh trong Phẩm Tám, đã nhập định qua niềm hân hoan có liên hệ đến pháp, và vào cuối buổi tụng đọc, đã thiết lập tuệ quán, quán xét các pháp hữu vi, đã tuần tự đạt đến A-la-hán quả. Người ta nói rằng chính vì mục đích này mà đức Thế Tôn đã ra lệnh cho vị ấy ở cùng với mình trong cùng một hương thất.
Keci panāhu ‘‘na ca mayā sammukhā diṭṭhoti idaṃ rūpakāyadassanameva sandhāya vuttaṃ. Āyasmā hi soṇo pabbajitvā therassa santike kammaṭṭhānaṃ gahetvā ghaṭento vāyamanto anupasampannova sotāpanno hutvā upasampajjitvā ‘upāsakāpi sotāpannā honti, ahampi sotāpanno, kimettha citta’nti uparimaggatthāya vipassanaṃ vaḍḍhetvā antovasseyeva chaḷabhiñño hutvā visuddhipavāraṇāya pavāresi. Ariyasaccadassanena bhagavato dhammakāyo diṭṭho nāma hoti. Vuttañhetaṃ ‘yo kho, vakkali, dhammaṃ passati, so maṃ passatī’ti (saṃ. ni. 3.87). Tasmāssa dhammakāyadassanaṃ pageva siddhaṃ, pavāretvā pana rūpakāyaṃ daṭṭhukāmo ahosī’’ti.
Nhưng một số người nói: “Câu ‘chứ con chưa từng diện kiến Ngài’ này chỉ nói về việc thấy thân xác. Thật vậy, Tôn giả Soṇa, sau khi đã xuất gia, đã nhận đề mục thiền từ vị Trưởng lão, đã nỗ lực, cố gắng, và đã trở thành bậc Dự lưu ngay cả khi chưa thọ cụ túc giới, và sau khi thọ cụ túc giới, đã nghĩ: ‘Các vị nam cư sĩ cũng là bậc Dự lưu, ta cũng là bậc Dự lưu, có gì lạ ở đây,’ và đã phát triển tuệ quán để đạt đến các đạo quả cao hơn, và đã trở thành bậc có sáu thắng trí ngay trong mùa an cư, và đã tự tứ bằng lễ tự tứ trong sạch. Bằng việc thấy các Thánh đế, được gọi là đã thấy pháp thân của Thế Tôn. Điều này đã được nói: ‘Này Vakkali, ai thấy pháp, người đó thấy Ta’ (Saṃ. ni. 3.87). Do đó, việc thấy pháp thân của vị ấy đã thành tựu từ trước, nhưng sau khi tự tứ, vị ấy muốn thấy thân xác.”
Pāsādikantiādipadānaṃ attho aṭṭhakathāyameva vutto. Tattha visūkāyikavipphanditānanti paṭipakkhabhūtānaṃ diṭṭhicittavipphanditānanti attho. Pāsādikanti (udā. aṭṭha. 10) vā dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇaasītianubyañjanabyāmappabhāketumālālaṅkatāya samantapāsādikāya attano sarīrappabhāya sampattiyā rūpakāyadassanabyāvaṭassa janassa sabbabhāgato pasādāvahaṃ. Pasādanīyanti dasabalacatuvesārajjachaasādhāraṇañāṇaaṭṭhārasaāveṇikabuddhadhammappabhutiaparimāṇaguṇagaṇasamannāgatāya dhammakāyasampattiyā parikkhakajanassa pasādanīyaṃ pasīditabbayuttaṃ pasādakaṃ vā. Santindriyanti cakkhādipañcindriyalolatāvigamena vūpasantapañcindriyaṃ. Santamānasanti chaṭṭhassa manindriyassa nibbisevanabhāvūpagamanena vūpasantamānasaṃ. Uttamadamathasamathaṃ anuppattanti lokuttarapaññāvimutticetovimuttisaṅkhātaṃ uttamaṃ damathaṃ samathañca anuppatvā adhigantvā ṭhitaṃ. Dantanti suparisuddhakāyasamācāratāya hatthapādakukkuccābhāvato davādiabhāvato ca kāyena dantaṃ. Guttanti suparisuddhavacīsamācāratāya niratthakavācābhāvato ravādiabhāvato ca vācāya guttaṃ. Yatindriyanti suparisuddhamanosamācāratāya ariyiddhiyogena abyāvaṭaappaṭisaṅkhupekkhābhāvato ca manindriyavasena yatindriyaṃ. Nāganti chandādivasena agamanato, pahīnānaṃ rāgādikilesānaṃ apunāgamanato apaccāgamanato kassacipi āgussa sabbathāpi akaraṇato, punabbhavassa ca agamanatoti imehi kāraṇehi nāgaṃ. Ettha ca ‘‘pāsādika’’nti iminā rūpakāyena bhagavato pamāṇabhūtataṃ dīpeti, ‘‘pasādanīya’’nti iminā dhammakāyena. ‘‘Santindriya’’ntiādinā sesehi pamāṇabhūtataṃ dīpeti, tena catuppamāṇike lokasannivāse anavasesato sattānaṃ bhagavato pamāṇabhāvo pakāsitoti veditabbo. Ekavihāreti ekagandhakuṭiyaṃ. Gandhakuṭi hi idha ‘‘vihāro’’ti adhippeto. Vatthunti vasituṃ.
Ý nghĩa của các từ như khiến cho phát sinh niềm tịnh tín, v.v., đã được nói trong chính chú giải. Ở đây, những sự rung động của thân thể có nghĩa là những sự rung động của kiến và tâm đối lập. Khiến cho phát sinh niềm tịnh tín (Udā. aṭṭha. 10) là mang lại niềm tịnh tín từ mọi phía cho những người đang bận rộn với việc ngắm nhìn thân xác, nhờ vào sự hoàn hảo của hào quang thân thể, được trang hoàng bằng ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân, tám mươi vẻ đẹp phụ, hào quang một tầm, và chùm tia sáng trên đỉnh đầu, một cách hoàn toàn tịnh tín. Đáng để tịnh tín là đáng để có lòng tin trong sạch đối với những người xem xét, hoặc là điều mang lại niềm tịnh tín, nhờ vào sự hoàn hảo của pháp thân, có được vô số phẩm chất như mười lực, bốn sự vô sở úy, sáu trí tuệ bất cộng, và mười tám pháp bất cộng của Phật. Có các căn tịch tịnh là có năm căn đã được lắng dịu do đã từ bỏ sự buông thả của năm căn như mắt, v.v. Có ý tịch tịnh là có tâm đã được lắng dịu do ý căn thứ sáu đã đạt đến trạng thái không ham muốn. Đã đạt đến sự điều phục và tịch tịnh tối thượng là đã đạt đến và an trú trong sự điều phục và tịch tịnh tối thượng, được gọi là tuệ giải thoát và tâm giải thoát siêu thế. Được điều phục là được điều phục về thân do có thân hành hoàn toàn trong sạch, không có sự bồn chồn của tay chân, và không có sự đùa giỡn, v.v. Được hộ trì là được hộ trì về lời nói do có khẩu hành hoàn toàn trong sạch, không có lời nói vô ích, và không có sự ồn ào, v.v. Có các căn được chế ngự là có các căn được chế ngự về ý căn do có ý hành hoàn toàn trong sạch, không có sự xao lãng và không có sự xả ly không suy xét nhờ vào việc thực hành thần thông của bậc Thánh. Bậc Long Tượng là bậc Long Tượng do những lý do này: không đi đến do ái dục, v.v., không quay trở lại của các phiền não như tham ái, v.v., đã được đoạn trừ, không làm bất kỳ điều ác nào dù nhỏ nhất, và không đi đến các cõi tái sinh. Ở đây, bằng từ “khiến cho phát sinh niềm tịnh tín,” ngài chỉ ra sự chuẩn mực của Thế Tôn về thân xác, bằng từ “đáng để tịnh tín,” ngài chỉ ra về pháp thân. Bằng các từ “có các căn tịch tịnh,” v.v., ngài chỉ ra sự chuẩn mực bằng các đức tính còn lại, do đó cần phải hiểu rằng sự chuẩn mực của Thế Tôn đối với chúng sanh trong thế gian không còn sót lại đã được tuyên bố một cách trọn vẹn bằng bốn sự chuẩn mực. Trong một tu viện là trong một hương thất. Thật vậy, hương thất ở đây được hiểu là “tu viện.” Để ở là để cư ngụ.
258.Ajjhokāse vītināmetvāti (udā. aṭṭha. 46) ajjhokāse nisajjāya vītināmetvā. ‘‘Yasmā bhagavā āyasmato soṇassa samāpattisamāpajjanena paṭisanthāraṃ karonto sāvakasādhāraṇā sabbā samāpattiyo anulomapaṭilomaṃ samāpajjanto bahudeva rattiṃ ajjhokāse nisajjāya vītināmetvā pāde pakkhāletvā vihāraṃ pāvisi, tasmā āyasmāpi soṇo bhagavato adhippāyaṃ ñatvā tadanurūpaṃ sabbā tā samāpattiyo samāpajjanto bahudeva rattiṃ ajjhokāse nisajjāya vītināmetvā pāde pakkhāletvā vihāraṃ pāvisī’’ti keci vadanti. Pavisitvā ca bhagavatā anuññāto cīvaraṃ tirokaraṇīyaṃ katvāpi bhagavato pādapasse nisajjāya vītināmesi. Ajjhesīti āṇāpesi. Paṭibhātu taṃ bhikkhu dhammo bhāsitunti bhikkhu tuyhaṃ dhammo bhāsituṃ upaṭṭhātu ñāṇamukhaṃ āgacchatu, yathāsutaṃ yathāpariyattaṃ dhammaṃ bhaṇāhīti attho.
258.Sau khi đã trải qua ở ngoài trời (Udā. aṭṭha. 46) là sau khi đã trải qua bằng cách ngồi ở ngoài trời. Một số người nói: “Bởi vì đức Thế Tôn, trong khi chào hỏi Tôn giả Soṇa bằng cách nhập định, đã nhập các định thuận và nghịch, là tất cả các định thông thường của các vị đệ tử, và đã trải qua phần lớn đêm bằng cách ngồi ở ngoài trời, rồi đã rửa chân và đi vào tu viện, do đó, Tôn giả Soṇa cũng, sau khi biết được ý định của Thế Tôn, đã nhập tất cả các định đó một cách tương ứng, và đã trải qua phần lớn đêm bằng cách ngồi ở ngoài trời, rồi đã rửa chân và đi vào tu viện.” Và sau khi đã vào, khi được Thế Tôn cho phép, dù đã dùng y làm vật che khuất, vị ấy vẫn trải qua bằng cách ngồi ở gần chân của Thế Tôn. Đã thỉnh mời là đã ra lệnh. Này Tỳ-khưu, hãy để pháp khởi lên trong con để thuyết giảng, có nghĩa là, này Tỳ-khưu, hãy để pháp hiện lên, đi vào cửa trí tuệ của con để thuyết giảng, hãy tụng đọc pháp mà con đã nghe, đã học.
Sabbāneva aṭṭhakavaggikānīti aṭṭhakavaggabhūtāni kāmasuttādīni (mahāni. 1) soḷasa suttāni. Sarena abhāsīti suttussāraṇasarena abhāsi, sarabhaññavasena kathesīti attho. Sarabhaññapariyosāneti ussāraṇāvasāne. Suggahitānīti sammā uggahitāni. Sumanasikatānīti suṭṭhu manasi katāni. Ekacco uggahaṇakāle sammā uggahetvāpi pacchā sajjhāyādivasena manasikaraṇakāle byañjanāni vā micchā ropeti, padapaccābhaṭṭhaṃ vā karoti, na evamayaṃ. Iminā pana sammadeva yathuggahitaṃ manasi katāni. Tena vuttaṃ ‘‘sumanasikatānīti suṭṭhu manasi katānī’’ti. Sūpadhāritānīti atthatopi suṭṭhu upadhāritāni. Atthe hi suṭṭhu upadhārite sakkā pāḷi sammā ussāretuṃ. Kalyāṇiyāpi vācāya samannāgatoti sithiladhanitādīnaṃ yathāvidhānaṃ vacanena parimaṇḍalapadabyañjanāya poriyā vācāya samannāgato. Vissaṭṭhāyāti vimuttāya. Etenassa vimuttavāditaṃ dasseti. Anelagalāyāti elaṃ vuccati doso, taṃ na paggharatīti anelagalā, tāya niddosāyāti attho. Atha vā anelagalāyāti anelāya ca agalāya ca, niddosāya agalitapadabyañjanāya aparihīnapadabyañjanāyāti attho. Tathā hi naṃ bhagavā ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ kalyāṇavākkaraṇānaṃ yadidaṃ soṇo kuṭikaṇṇo’’ti (a. ni. 1.198, 206) etadagge ṭhapesi. Atthassa viññāpaniyāti yathādhippetaṃ atthaṃ ñāpetuṃ samatthāya.
Toàn bộ Phẩm Tám là mười sáu bài kinh thuộc Phẩm Tám, bắt đầu bằng Kāmasutta (Mahāni. 1). Đã tụng đọc với âm điệu là đã tụng đọc với âm điệu trình bày kinh, có nghĩa là đã thuyết giảng theo lối tụng đọc có âm điệu. Vào cuối buổi tụng đọc có âm điệu là vào lúc kết thúc việc trình bày. Đã được học thuộc lòng tốt là đã được học thuộc lòng một cách đúng đắn. Đã được tác ý tốt là đã được tác ý một cách kỹ lưỡng. Một người, dù đã học thuộc lòng đúng đắn vào lúc học, nhưng sau đó, vào lúc đọc tụng, v.v., lại sắp xếp các chữ sai, hoặc làm cho các từ bị đảo lộn, nhưng vị này thì không như vậy. Bằng câu này, ngài muốn nói rằng các từ đã được tác ý một cách đúng đắn như đã được học. Do đó đã nói: “đã được tác ý tốt là đã được tác ý một cách kỹ lưỡng.” Đã được thẩm xét kỹ là đã được thẩm xét kỹ cả về ý nghĩa. Thật vậy, khi ý nghĩa đã được thẩm xét kỹ, người ta mới có thể trình bày Pāḷi một cách đúng đắn. Sở hữu một giọng nói trong trẻo là sở hữu một giọng nói tròn vành rõ chữ, bằng cách phát âm các âm nhẹ, nặng, v.v., theo đúng quy định. Rõ ràng là đã được giải thoát. Bằng câu này, ngài chỉ ra sự giải thoát trong lời nói của vị ấy. Không có lỗi, ela được gọi là lỗi, giọng nói đó không phát ra lỗi nên là anelagalā, có nghĩa là không có lỗi. Hoặc, không có lỗi là anelā và agalā, có nghĩa là không có lỗi, không có từ ngữ bị nuốt, không có từ ngữ bị thiếu. Thật vậy, đức Thế Tôn đã đặt vị ấy vào vị trí hàng đầu: “Này các Tỳ-khưu, trong số các vị Tỳ-khưu, đệ tử của Ta, những người có giọng nói trong trẻo, người đứng đầu là Soṇa Kuṭikaṇṇa” (A. ni. 1.198, 206). Làm cho ý nghĩa được tỏ tường là có khả năng làm cho ý nghĩa được hiểu đúng như ý muốn.
Kativassoti so kira majjhimavayassa tatiye koṭṭhāse ṭhito ākappasampanno ca paresaṃ ciratarapabbajito viya khāyati. Taṃ sandhāya bhagavā pucchīti keci, taṃ akāraṇaṃ. Evaṃ santaṃ samādhisukhaṃ anubhavituṃ yutto, ettakaṃ kālaṃ kasmā pamādaṃ āpannosīti pana anuyuñjituṃ satthā ‘‘kativassosī’’ti taṃ pucchi. Tenevāha ‘‘kissa pana tvaṃ bhikkhu evaṃ ciraṃ akāsī’’ti. Tattha kissāti kiṃkāraṇā. Evaṃ ciraṃ akāsīti evaṃ cirāyi, kena kāraṇena evaṃ cirakālaṃ pabbajjaṃ anupagantvā agāramajjhe vasīti attho. Ciraṃ diṭṭho meti cirena cirakālena mayā diṭṭho. Kāmesūti vatthukāmesu kilesakāmesu ca. Ādīnavoti doso. Apicāti kāmesu ādīnave kenaci pakārena diṭṭhepi na tāvāhaṃ gharāvāsato nikkhamituṃ asakkhiṃ. Kasmā? Sambādho gharāvāso, uccāvacehi kiccakaraṇīyehi samupabyūḷho agāriyabhāvo. Tenevāha ‘‘bahukicco bahukaraṇīyo’’ti.
Bao nhiêu tuổi, tương truyền rằng vị ấy đang ở vào phần thứ ba của tuổi trung niên và có ngoại hình trang nghiêm, nên đối với người khác, vị ấy trông giống như một người đã xuất gia từ lâu. Một số người nói rằng đức Thế Tôn đã hỏi với ý đó, nhưng điều đó không có lý. Nếu vậy, đáng lẽ phải hưởng thụ niềm vui của định, tại sao lại dể duôi lâu như vậy, để khiển trách, bậc Đạo Sư đã hỏi vị ấy: “Bao nhiêu tuổi?” Chính vì thế, ngài đã nói: “Nhưng này Tỳ-khưu, tại sao con lại làm như vậy quá lâu?” Ở đây, tại sao là vì lý do gì. Con lại làm như vậy quá lâu có nghĩa là con đã trì hoãn như vậy, vì lý do gì mà con đã sống trong gia đình một thời gian dài như vậy mà không xuất gia. Ta đã thấy từ lâu là Ta đã thấy từ lâu, từ một thời gian dài. Trong các dục là trong các dục về đối tượng và các dục về phiền não. Sự nguy hại là lỗi lầm. Và hơn nữa là mặc dù đã thấy sự nguy hại trong các dục bằng một cách nào đó, con vẫn chưa thể thoát khỏi đời sống gia đình. Tại sao? Đời sống gia đình là chật hẹp, đời sống tại gia bị ràng buộc bởi nhiều công việc lớn nhỏ. Chính vì thế, ngài đã nói: “nhiều công việc, nhiều bổn phận.”
Etamatthaṃ viditvāti kāmesu yathābhūtaṃ ādīnavadassino cittaṃ cirāyitvāpi gharāvāse na pakkhandati, aññadatthu padumapalāse udakabindu viya vinivattatiyevāti etamatthaṃ sabbākārato viditvā. Imaṃ udānanti pavattiṃ nivattiñca sammadeva jānanto pavattiyaṃ taṃnimitte ca na kadācipi ramatīti idamatthadīpakaṃ imaṃ udānaṃ udānesi.
Sau khi biết được ý nghĩa này là sau khi đã biết được ý nghĩa này từ mọi phương diện rằng tâm của người thấy sự nguy hại trong các dục như thật, dù có trì hoãn, cũng không bao giờ chìm đắm trong đời sống gia đình, mà trái lại, nó sẽ quay đi giống như giọt nước trên lá sen. Lời cảm hứng này, sau khi biết rõ về sự diễn tiến và sự chấm dứt, và không bao giờ vui thích trong sự diễn tiến và các dấu hiệu của nó, ngài đã thốt lên lời cảm hứng này để làm sáng tỏ ý nghĩa đó.
Tattha disvā ādīnavaṃ loketi sabbasmimpi saṅkhāraloke ‘‘anicco dukkho vipariṇāmadhammo’’tiādīnavaṃ dosaṃ paññācakkhunā passitvā. Etena vipassanācāro kathito. Ñatvā dhammaṃ nirūpadhinti sabbūpadhipaṭinissaggattā nirupadhiṃ nibbānadhammaṃ yathābhūtaṃ ñatvā, nissaraṇavivekāsaṅkhatāmatasabhāvato maggañāṇena paṭivijjhitvā. ‘‘Disvā ñatvā’’ti imesaṃ padānaṃ ‘‘ghataṃ pivitvā balaṃ hoti, sīhaṃ disvā bhayaṃ hoti, paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā hontī’’tiādīsu (ma. ni. 1.271) viya hetuatthatā daṭṭhabbā. Ariyo na ramatī pāpeti kilesehi ārakattā ariyo sappuriso aṇumattepi pāpe na ramati. Kasmā? Pāpe na ramatī sucīti suvisuddhakāyasamācārāditāya suci suddhapuggalo rājahaṃso viya uccāraṭṭhāne pāpe saṃkiliṭṭhadhamme na ramati nābhinandati. ‘‘Pāpo na ramatī suci’’ntipi pāṭho, tassattho – pāpo puggalo suciṃ anavajjaṃ vodānadhammaṃ na ramati, aññadatthu gāmasūkarādayo viya uccāraṭṭhānaṃ asuciṃ saṃkilesadhammaṃyeva ramatīti paṭipakkhato desanaṃ parivatteti.
Ở đây, sau khi thấy sự nguy hại trong đời là sau khi đã thấy sự nguy hại, lỗi lầm “là vô thường, là khổ, có tính chất biến đổi” trong toàn bộ thế giới các pháp hữu vi bằng con mắt trí tuệ. Bằng câu này, sự thực hành tuệ quán được nói đến. Sau khi biết pháp không còn sanh y là sau khi đã biết như thật pháp Niết-bàn, là pháp không còn sanh y do đã từ bỏ mọi sanh y, sau khi đã chứng ngộ bằng trí tuệ đạo do bản chất là sự thoát ly, sự viễn ly, sự bất tử, vô vi. Cần phải hiểu ý nghĩa nguyên nhân của các từ “sau khi thấy, sau khi biết” này giống như trong các câu: “sau khi uống bơ sữa, trở nên có sức mạnh,” “sau khi thấy sư tử, trở nên sợ hãi,” “và sau khi đã thấy bằng trí tuệ, các lậu hoặc của vị ấy đã được đoạn tận” (Ma. ni. 1.271). Bậc Thánh không vui thích trong điều ác là bậc Thánh, bậc thiện nhân, do đã xa lìa các phiền não, không vui thích trong điều ác dù chỉ nhỏ nhất. Tại sao? Bậc thanh tịnh không vui thích trong điều ác là bậc thanh tịnh, người trong sạch do có thân hành, v.v., hoàn toàn trong sạch, không vui thích, không hoan hỷ trong điều ác, trong các pháp ô uế, giống như con thiên nga không vui thích trong nơi dơ bẩn. Cũng có bản đọc là “kẻ ác không vui thích trong sự trong sạch,” ý nghĩa của nó là – kẻ ác không vui thích trong pháp trong sạch, không có tội, trong sáng, mà trái lại, giống như heo trong làng, v.v., chỉ vui thích trong nơi dơ bẩn, trong pháp ô uế, như vậy là ngài xoay chuyển lời thuyết giảng từ phía đối lập.
Soṇakuṭikaṇṇavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích về câu chuyện của Soṇa Kuṭikaṇṇa.
259.Kāḷasīhoti kāḷamukhavānarajāti. Sesamettha pāḷito aṭṭhakathāto ca suviññeyyamevāti.
259.Sư tử đen là loài vượn mặt đen. Phần còn lại ở đây có thể được hiểu rõ từ Pāḷi và chú giải.
Cammakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Dứt phần giải thích thiên Da.