Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi

Phụ Chú Giải Tạng Luật – Ngọn Đèn Soi Sáng Ý Nghĩa Cốt Lõi III – Đại Phẩm: Chương Lớn

Mahāvagga-ṭīkā
Phụ Chú Giải Đại Phẩm

1. Mahākhandhakaṃ
1. Đại Thiên

Bodhikathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Giác Ngộ

Idāni ubhatovibhaṅgānantaraṃ saṅgahamāropitassa mahāvaggacūḷavaggasaṅgahitassa khandhakassa atthasaṃvaṇṇanaṃ ārabhitukāmo ‘‘ubhinnaṃ pātimokkhāna’’ntiādimāha. Tattha ubhinnaṃ pātimokkhānanti ubhinnaṃ pātimokkhavibhaṅgānaṃ. Pātimokkhaggahaṇena hettha tesaṃ vibhaṅgo abhedena gahito. Yaṃ khandhakaṃ saṅgāyiṃsūti sambandho. Khandhānaṃ samūho khandhako, khandhānaṃ vā pakāsanato dīpanato khandhako. ‘‘Khandhā’’ti cettha pabbajjupasampadādivinayakammasaṅkhātā cārittavārittasikkhāpadasaṅkhātā ca paññattiyo adhippetā. Pabbajjādīni hi bhagavatā paññattattā ‘‘paññattiyo’’ti vuccanti. Paññattiyañca khandhasaddo dissati ‘‘dārukkhandho aggikkhandho’’tiādīsu viya. Apica bhāgarāsaṭṭhatāpettha yujjatiyeva tāsaṃ paññattīnaṃ bhāgato rāsito ca vibhattattā. Khandhakovidāti paññattibhāgarāsaṭṭhavasena khandhaṭṭhe kovidā.
Bây giờ, sau hai bộ Phân Tích, với mong muốn bắt đầu bài diễn giải ý nghĩa của thiên đã được tổng hợp, được thu thập trong Đại Phẩm và Tiểu Phẩm, (ngài Chú Giải) đã nói câu bắt đầu bằng ‘‘của hai bộ Pātimokkha.’’ Trong ấy, (cụm từ) “của hai bộ Pātimokkha” có nghĩa là của hai bộ Phân Tích về Pātimokkha. Ở đây, do bởi việc đề cập đến Pātimokkha nên bộ Phân Tích về các điều ấy đã được hiểu theo nghĩa không khác biệt. (Cần được) liên kết là: “(Các ngài) đã kết tập thiên nào.” Sự tập hợp của các uẩn là thiên, hoặc do bởi sự trình bày, do bởi sự soi sáng các uẩn nên (được gọi là) thiên. Và ở đây, “các uẩn” được hiểu là các điều chế định được gọi là các hành sự về luật như xuất gia, cụ túc và các học giới được gọi là điều nên làm và điều nên tránh. Thật vậy, các (hành sự) bắt đầu bằng việc xuất gia được gọi là “các điều chế định” do bởi đã được đức Thế Tôn chế định. Và thuật ngữ “uẩn” được thấy trong (ý nghĩa) sự chế định giống như trong các (trường hợp) bắt đầu bằng “khối gỗ,” “khối lửa.” Hơn nữa, ở đây, ý nghĩa về phần và về đống cũng thích hợp do bởi các điều chế định ấy đã được phân chia theo từng phần và theo từng đống. (Cụm từ) “bậc thông hiểu các thiên” có nghĩa là bậc thông hiểu về ý nghĩa của uẩn theo nghĩa là sự chế định, là phần, và là đống.

Padabhājanīye yesaṃ padānaṃ atthā yehi aṭṭhakathānayehi pakāsitāti yojetabbaṃ. Te ce puna vadeyyāmāti te ce aṭṭhakathānaye punapi vadeyyāma. Atha vā padabhājanīye yesaṃ padānaṃ ye atthā heṭṭhā pakāsitā, te ce atthe puna vadeyyāmāti yojetabbaṃ. Imasmiṃ pakkhe hi-saddo padapūraṇe daṭṭhabbo. Pariyosānanti saṃvaṇṇanāpariyosānaṃ. Uttānā ceva ye atthāti ye atthā pubbe apakāsitāpi uttānā agambhīrā.
(Cần được) liên kết là: “Trong phần Phân Tích Cú Pháp, ý nghĩa của các từ ngữ nào đã được trình bày theo các phương pháp Chú Giải nào.” (Cụm từ) “nếu chúng tôi lại nói đến các điều ấy” có nghĩa là nếu chúng tôi lại nói đến các phương pháp Chú Giải ấy. Hoặc nên liên kết là: “Trong phần Phân Tích Cú Pháp, các ý nghĩa nào của các từ ngữ nào đã được trình bày ở dưới, nếu chúng tôi lại nói đến các ý nghĩa ấy.” Trong trường hợp này, từ “hi” cần được xem là từ đệm. (Từ) “sự kết thúc” có nghĩa là sự kết thúc của bài diễn giải. (Cụm từ) “và các ý nghĩa nông cạn nào” có nghĩa là các ý nghĩa nào dù chưa được trình bày trước đây (nhưng) vẫn nông cạn, không sâu sắc.

1.Visesakāraṇaṃ natthīti ‘‘yena samayena āyasmato sāriputtattherassa sikkhāpadapaññattiyācanahetubhūto parivitakko udapādi, tena samayenā’’tiādinā vuttakāraṇaṃ viya idha visesakāraṇaṃ natthi. Ayamabhilāpoti ‘‘tena samayenā’’ti ayamabhilāpo. Kiṃ panetassa vacane payojananti yadi visesakāraṇaṃ natthi, etassa vacane kiṃ payojananti adhippāyo. Nidānadassanaṃ payojananti yojetabbaṃ. Tameva vibhāvetuṃ ‘‘yā hi bhagavatā’’tiādi vuttaṃ.
1.(Cụm từ) “không có nguyên nhân đặc biệt” có nghĩa là ở đây không có nguyên nhân đặc biệt giống như nguyên nhân đã được nói đến bắt đầu bằng: “Vào lúc mà sự suy tư vốn là nhân duyên cho việc thỉnh cầu chế định học giới đã sanh lên cho trưởng lão Sāriputta, vào lúc ấy.” (Cụm từ) “cách nói này” có nghĩa là cách nói này: “vào lúc ấy.” (Câu hỏi) “Vậy, có lợi ích gì trong lời nói này?” có ý nghĩa là: “Nếu không có nguyên nhân đặc biệt thì có lợi ích gì trong lời nói này?” Nên được liên kết là: “Việc trình bày duyên khởi là lợi ích.” Để làm sáng tỏ chính điều ấy, (câu) bắt đầu bằng “Thật vậy, điều nào đã được đức Thế Tôn” đã được nói đến.

Mahāvelā viya mahāvelā, vipulavālukapuñjatāya mahanto velātaṭo viyāti attho. Tenāha ‘‘mahante vālikarāsimhīti attho’’ti. Uru maru sikatā vālukā vaṇṇu vālikāti ime saddā samānatthā, byañjanameva nānaṃ. Tenāha ‘‘urūti vālikā vuccatī’’ti.
Giống như bờ biển lớn là bờ biển lớn, ý nghĩa là giống như một bờ biển vĩ đại do có đống cát rộng lớn. Do đó, (ngài Chú Giải) đã nói: “ý nghĩa là trong một đống cát vĩ đại.” Các từ này: uru, maru, sikatā, vālukā, vaṇṇu, vālikā có cùng ý nghĩa, chỉ có phụ âm là khác nhau. Do đó, (ngài Chú Giải) đã nói: “‘uru’ được gọi là cát.”

Ito paṭṭhāya ca –
Và kể từ đây –

Yasmā suttantapāḷīnaṃ, attho saṅkhepavaṇṇito;
Tasmā mayaṃ karissāma, tāsaṃ atthassa dīpanaṃ.
Bởi vì ý nghĩa của các bản kinh Pāḷi, đã được diễn giải một cách tóm tắt;
Cho nên chúng tôi sẽ thực hiện, việc soi sáng ý nghĩa của các kinh ấy.

Najjāti (udā. aṭṭha. 1) nadati sandatīti nadī, tassā najjā, nadiyā ninnagāyāti attho. Nerañjarāyāti ‘‘nelañjalāyā’’ti vattabbe la-kārassa ra-kāraṃ katvā ‘‘nerañjarāyā’’ti vuttaṃ, kaddamasevālapaṇakādidosarahitasalilāyāti attho. Keci ‘‘nīlaṃjalāyāti vattabbe nerañjarāyāti vutta’’nti vadanti, nāmameva vā etaṃ tassā nadiyāti veditabbaṃ. Tassā nadiyā tīre yattha bhagavā vihāsi, taṃ dassetuṃ ‘‘bodhirukkhamūle’’ti vuttaṃ. ‘‘Bodhi vuccati catūsu maggesu ñāṇa’’nti (cūḷava. khaggavisāṇasuttaniddesa 121) ettha maggañāṇaṃ bodhīti vuttaṃ, ‘‘pappoti bodhiṃ varabhūrimedhaso’’ti (dī. ni. 3.217) ettha sabbaññutaññāṇaṃ. Tadubhayampi bodhiṃ bhagavā ettha pattoti rukkhopi ‘‘bodhirukkho’’tveva nāmaṃ labhi. Atha vā satta bojjhaṅge bujjhatīti bhagavā bodhi. Tena bujjhantena sannissitattā so rukkho ‘‘bodhirukkho’’ti nāmaṃ labhi. Aṭṭhakathāyaṃ pana ekadeseneva atthaṃ dassetuṃ ‘‘bodhi vuccati catūsu maggesu ñāṇa’’ntiādi vuttaṃ. Mūleti samīpe. Paṭhamābhisambuddhoti anunāsikalopenāyaṃ niddesoti āha ‘‘paṭhamaṃ abhisambuddho’’ti. Paṭhamanti ca bhāvanapuṃsakaniddeso, tasmā abhisambuddho hutvā sabbapaṭhamaṃ bodhirukkhamūle viharatīti evamettha sambandho veditabbo.
(Từ) “của sông” (udā. aṭṭha. 1) có nghĩa là: cái chảy, cái trôi đi là sông; của con sông ấy, của dòng sông, của con suối. (Từ) “của sông Nerañjarā”: trong khi nên nói là “nelañjalāyā” thì đã được nói là “nerañjarāyā” bằng cách đổi phụ âm “la” thành phụ âm “ra”; ý nghĩa là (con sông) có dòng nước không có các lỗi như bùn, rong, rêu. Một số vị nói rằng: “trong khi nên nói là ‘nīlaṃjalāyā’ thì đã được nói là ‘nerañjarāyā,’” hoặc nên được hiểu rằng đây chính là tên của con sông ấy. Để trình bày nơi mà đức Thế Tôn đã an trú ở trên bờ của con sông ấy, (câu) “tại gốc cây bồ đề” đã được nói đến. “Bồ-đề được gọi là trí tuệ trong bốn đạo” (cūḷava. khaggavisāṇasuttaniddesa 121), ở đây, đạo tuệ được gọi là bồ-đề. “Bậc trí tuệ uyên thâm đạt được bồ-đề thù thắng” (dī. ni. 3.217), ở đây là toàn giác tuệ. Do đức Thế Tôn đã chứng đắc cả hai loại bồ-đề này ở đây nên cội cây cũng đã được tên gọi là “cây bồ đề.” Hoặc, đức Thế Tôn là bồ-đề vì ngài giác ngộ bảy giác chi. Do có liên quan đến bậc giác ngộ ấy nên cội cây ấy đã được tên gọi là “cây bồ đề.” Tuy nhiên, trong sách Chú Giải, để trình bày ý nghĩa theo một khía cạnh, (câu) bắt đầu bằng “Bồ-đề được gọi là trí tuệ trong bốn đạo” đã được nói đến. (Từ) “tại gốc” có nghĩa là ở gần. (Về cụm từ) “người đầu tiên giác ngộ”, (ngài Phụ Chú Giải) nói rằng cách trình bày này là do sự lược bỏ âm mũi, (có nghĩa là) “sự giác ngộ đầu tiên.”(từ) “đầu tiên” là cách trình bày trung tính về hành động, do đó, ở đây cần được hiểu sự liên kết như sau: sau khi đã giác ngộ, ngài an trú tại gốc cây bồ đề trước tiên hết.

Athakho bhagavāti ettha athāti tasmiṃ samayeti evamattho gahetabbo anekatthattā nipātānaṃ, yasmiṃ samaye abhisambuddho hutvā bodhirukkhamūle viharati, tasmiṃ samayeti attho. Teneva udānapāḷiyaṃ (udā. 2) ‘‘tena kho pana samayena bhagavā sattāhaṃ ekapallaṅkena nisinno hoti vimuttisukhapaṭisaṃvedī’’ti vuttaṃ. Athāti vā pacchāti imasmiṃ atthe nipāto, tasmā abhisambodhito pacchāti evamattho gahetabbo. Khoti padapūraṇe nipāto. Satta ahāni sattāhaṃ. Accantasaṃyoge cetaṃ upayogavacanaṃ. Yasmā bhagavā taṃ sattāhaṃ nirantaratāya accantameva phalasamāpattisukhena vihāsi, tasmā ‘‘sattāha’’nti accantasaṃyogavasena upayogavacanaṃ vuttaṃ. Ekapallaṅkenāti visākhapuṇṇamāya anatthaṅgateyeva sūriye aparājitapallaṅkavasena vajirāsane nisinnakālato paṭṭhāya sakimpi anuṭṭhahitvā yathābhujitena ekeneva pallaṅkena.
(Về cụm từ) “Khi ấy, đức Thế Tôn,” ở đây, bất biến từ “athā” nên được hiểu theo ý nghĩa là “vào lúc ấy” do các bất biến từ có nhiều ý nghĩa; ý nghĩa là: vào lúc mà sau khi đã giác ngộ, ngài an trú tại gốc cây bồ đề, vào lúc ấy. Chính vì thế, trong Kinh Phật Tự Thuyết (udā. 2) đã được nói rằng: “Và rồi, vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngồi kiết-già trong bảy ngày, cảm thọ lạc giải thoát.” Hoặc, bất biến từ “athā” có ý nghĩa là “sau khi;” do đó, nên được hiểu theo ý nghĩa là: sau khi giác ngộ. (Từ) “kho” là bất biến từ dùng để điền vào chỗ trống. Bảy ngày là bảy ngày. Và đây là cách nói chỉ sự áp dụng trong (trường hợp) liên tục hoàn toàn. Bởi vì đức Thế Tôn đã an trú với lạc của quả định trong bảy ngày ấy một cách không gián đoạn và hoàn toàn, do đó cách nói chỉ sự áp dụng theo nghĩa liên tục hoàn toàn “bảy ngày” đã được nói đến. (Cụm từ) “với một thế ngồi kiết-già” có nghĩa là: kể từ lúc ngồi trên bảo tọa kim cương bằng thế ngồi bất bại vào ngày rằm tháng Vesākha khi mặt trời chưa lặn, (ngài) đã không đứng dậy dù chỉ một lần, với chỉ một thế ngồi kiết-già không thay đổi.

Vimuttisukhapaṭisaṃvedīti ettha tadaṅgavikkhambhanasamucchedapaṭippassaddhinissaraṇavimuttīsu pañcasu paṭippassaddhivimuttisaṅkhātā bhagavato phalavimutti adhippetāti āha ‘‘vimuttisukhaṃ phalasamāpattisukhaṃ paṭisaṃvedayamāno’’ti. Vimuttīti ca upakkilesehi paṭippassaddhivasena cittassa vimuttabhāvo, cittameva vā tathā vimuttaṃ veditabbaṃ. Tāya vimuttiyā jātaṃ, sampayuttaṃ vā sukhaṃ vimuttisukhaṃ. ‘‘Yāyaṃ, bhante, upekkhā sante sukhe vuttā bhagavatā’’ti (ma. ni. 2.88) vacanato upekkhāpi cettha sukhamicceva veditabbā. Tathā hi vuttaṃ sammohavinodaniyaṃ (vibha. aṭṭha. 232) ‘‘upekkhā pana santattā, sukhamicceva bhāsitā’’ti. Bhagavā hi catutthajjhānikaṃ arahattaphalasamāpattiṃ samāpajjati, na itaraṃ. Atha vā ‘‘tesaṃ vūpasamo sukho’’tiādīsu (dī. ni. 2.221, 272) yathā saṅkhāradukkhavūpasamo ‘‘sukho’’ti vuccati, evaṃ sakalakilesadukkhūpasamabhāvato aggaphale labbhamānā paṭippassaddhivimutti eva idha ‘‘sukha’’nti veditabbā.
(Về cụm từ) “cảm thọ lạc giải thoát,” ở đây, trong năm loại giải thoát là chi phần giải thoát, trấn phục giải thoát, đoạn diệt giải thoát, an tịnh giải thoát, và xuất ly giải thoát, quả giải thoát của đức Thế Tôn được gọi là an tịnh giải thoát được chủ đích, (ngài Phụ Chú Giải) đã nói: “đang cảm nhận lạc giải thoát, tức là lạc của quả định.”(từ) “giải thoát” nên được hiểu là trạng thái giải thoát của tâm do bởi sự an tịnh khỏi các phiền não, hoặc chính tâm được giải thoát như vậy. Lạc được sanh ra từ sự giải thoát ấy, hoặc tương ưng (với sự giải thoát ấy) là lạc giải thoát. Theo câu “Bạch ngài, xả này đã được đức Thế Tôn nói là ở trong lạc an tịnh” (ma. ni. 2.88), ở đây, xả cũng nên được hiểu chính là lạc. Thật vậy, trong sách Sammohavinodanī (vibha. aṭṭha. 232) đã được nói rằng: “Còn xả, do vì an tịnh, nên được gọi chính là lạc.” Thật vậy, đức Thế Tôn nhập quả định A-la-hán thuộc thiền thứ tư, chứ không phải (loại) khác. Hoặc, giống như trong các (kinh) bắt đầu bằng “sự an tịnh các hành ấy là lạc” (dī. ni. 2.221, 272), sự an tịnh khổ của các hành được gọi là “lạc,” cũng vậy, ở đây, chính sự an tịnh giải thoát có được trong Thánh quả cao nhất do bởi trạng thái an tịnh khổ của tất cả phiền não nên được hiểu là “lạc.”

Athāti adhikāratthe nipāto, khoti padapūraṇe. Tesu adhikāratthena ‘‘athā’’ti iminā vimuttisukhapaṭisaṃvedanato aññaṃ adhikāraṃ dasseti. Ko panesoti? Paṭiccasamauppādamanasikāro. Rattiyāti avayavasambandhe sāmivacanaṃ. Paṭhamanti accantasaṃyogatthe upayogavacanaṃ . Bhagavā hi tassā rattiyā sakalampi paṭhamaṃ yāmaṃ teneva manasikārena yutto ahosīti.
Bất biến từ “athā” có ý nghĩa chỉ một đề mục, (bất biến từ) “kho” dùng để điền vào chỗ trống. Trong đó, do ý nghĩa chỉ một đề mục, bằng (từ) “athā” này, (đức Thế Tôn) trình bày một đề mục khác với việc cảm thọ lạc giải thoát. Vậy, đó là gì? Là sự tác ý về Duyên Khởi. (Từ) “của đêm” là sở hữu cách trong mối liên hệ về bộ phận. (Từ) “thứ nhất” là cách nói chỉ sự áp dụng trong ý nghĩa liên tục hoàn toàn. Thật vậy, đức Thế Tôn đã hợp với sự tác ý ấy trong suốt canh đầu của đêm ấy.

Paccayākāranti avijjādipaccayadhammaṃ. Paṭiccāti paṭimukhaṃ gantvā, kāraṇasāmaggiṃ apaṭikkhipitvāti attho. Paṭimukhagamanañca paccayassa kāraṇasāmaggiyā aṅgabhāvena phalassa uppādanameva. Apaṭikkhipitvāti pana vinā tāya kāraṇasāmaggiyā aṅgabhāvaṃ agantvā sayameva na uppādetīti attho. Etena kāraṇabahutā dassitā. Avijjādiekekahetusīsena hi hetusamūho niddiṭṭho. Sahiteti samudite, avinibbhutteti attho. Avijjādiko hi paccayadhammo sahiteyeva aññamaññaṃ avinibbhogavuttidhamme uppādeti. Iminā paccayuppannadhammabahutā dassitā. Ubhayenapi ‘‘ekaṃ na ekato’’tiādinayo (vibha. aṭṭha. 226 saṅkhārapadaniddesa; visuddhi. 2.617) dīpito hoti. Ekato hi kāraṇato na idha kiñci ekaṃ phalamatthi, na anekaṃ, nāpi anekehi kāraṇehi ekaṃ, anekehi pana kāraṇehi anekameva hoti. Tathā hi anekehi utupathavībījasalilasaṅkhātehi kāraṇehi anekameva rūpagandharasādiaṅkurasaṅkhātaṃ phalamuppajjamānaṃ dissati. Yaṃ panetaṃ ‘‘avijjāpaccayā saṅkhārā, saṅkhārapaccayā viññāṇa’’nti ekekahetuphaladīpanaṃ kataṃ, tattha payojanaṃ na vijjati.
(Từ) “cách thức của duyên” có nghĩa là pháp duyên bắt đầu bằng vô minh. (Từ) “do duyên” có nghĩa là đi đến đối diện, không bác bỏ toàn bộ nguyên nhân. Và việc đi đến đối diện chính là sự sanh khởi của quả do duyên là một thành phần của toàn bộ nguyên nhân. Còn (từ) “không bác bỏ” có nghĩa là không tự mình sanh khởi mà không trở thành một thành phần của toàn bộ nguyên nhân ấy. Bằng điều này, sự đa dạng của nguyên nhân đã được trình bày. Thật vậy, tập hợp các nhân đã được chỉ định với mỗi một nhân đứng đầu là vô minh v.v… (Từ) “cùng nhau” có nghĩa là được tập hợp, không tách rời. Thật vậy, pháp duyên bắt đầu bằng vô minh chỉ sanh khởi các pháp có phận sự không thể tách rời khỏi nhau khi chúng cùng nhau. Bằng điều này, sự đa dạng của các pháp do duyên sanh đã được trình bày. Bằng cả hai (cách), phương pháp bắt đầu bằng “một (quả) không từ một (nhân)” (vibha. aṭṭha. 226 saṅkhārapadaniddesa; visuddhi. 2.617) được soi sáng. Thật vậy, ở đây không có một quả nào từ một nguyên nhân, cũng không có nhiều (quả), cũng không có một (quả) từ nhiều nguyên nhân, mà chỉ có nhiều (quả) từ nhiều nguyên nhân. Thật vậy, có thể thấy rằng từ nhiều nguyên nhân được gọi là thời tiết, đất, hạt giống, nước, nhiều quả được gọi là mầm cây có sắc, hương, vị v.v. được sanh ra. Về việc đã thực hiện sự soi sáng từng nhân và quả như: ‘vô minh làm duyên cho các hành, các hành làm duyên cho thức,’ (dường như) ở đó không có lợi ích gì.

Bhagavā hi katthaci padhānattā katthaci pākaṭattā katthaci asādhāraṇattā desanāvilāsassa ca veneyyānañca anurūpato ekameva hetuṃ vā phalaṃ vā dīpeti. ‘‘Phassapaccayā vedanā’’ti hi ekameva hetuṃ phalañcāha. Phasso hi vedanāya padhānahetu yathāphassaṃ vedanāvavatthānato. Vedanā ca phassassa padhānaphalaṃ yathāvedanaṃ phassavavatthānato. ‘‘Semhasamuṭṭhānā ābādhā’’ti (mahāni. 5) pākaṭattā ekaṃ hetuṃ āha. Pākaṭo hi ettha semho, na kammādayo. ‘‘Ye keci, bhikkhave, akusalā dhammā, sabbete ayonisomanasikāramūlakā’’ti asādhāraṇattā ekaṃ hetuṃ āha. Asādhāraṇo hi ayonisomanasikāro akusalānaṃ, sādhāraṇāni vatthārammaṇādīnīti. Tasmā avijjā tāvettha vijjamānesupi aññesu vatthārammaṇasahajātadhammādīsu saṅkhārakāraṇesu ‘‘assādānupassino taṇhā pavaḍḍhatī’’ti (saṃ. ni. 2.52) ca ‘‘avijjāsamudayā āsavasamudayo’’ti (ma. ni. 1.104) ca vacanato aññesampi taṇhādīnaṃ saṅkhārahetūnaṃ hetūti padhānattā, ‘‘avidvā, bhikkhave, avijjāgato puññābhisaṅkhārampi abhisaṅkharotī’’ti pākaṭattā asādhāraṇattā ca saṅkhārānaṃ hetubhāvena dīpitāti veditabbā. Evaṃ sabbattha ekekahetuphaladīpane yathāsambhavaṃ nayo netabbo. Tenāhu porāṇā –
Thật vậy, đức Thế Tôn, đôi khi do tính chất chính yếu, đôi khi do tính chất rõ ràng, đôi khi do tính chất không phổ thông, và tùy theo vẻ mỹ cảm của bài thuyết giảng và (tùy theo) các chúng sanh cần được giáo hóa, đã soi sáng chỉ một nhân hoặc một quả. Thật vậy, (trong câu) “xúc làm duyên cho thọ,” Ngài đã nói chỉ một nhân và quả. Vì xúc là nhân chính yếu của thọ, do sự xác định của thọ tùy theo xúc. Và thọ là quả chính yếu của xúc, do sự xác định của xúc tùy theo thọ. (Trong câu) “các bệnh tật phát sanh từ đàm” (mahāni. 5), Ngài đã nói một nhân do tính chất rõ ràng. Vì ở đây, đàm là rõ ràng, còn nghiệp v.v. thì không. (Trong câu) “Này các Tỳ-khưu, bất cứ pháp bất thiện nào, tất cả chúng đều có tác ý không như lý làm gốc rễ,” Ngài đã nói một nhân do tính chất không phổ thông. Vì tác ý không như lý là không phổ thông đối với các (pháp) bất thiện, còn các đối tượng cảnh v.v. là phổ thông. Do đó, ở đây, mặc dù có sự hiện hữu của các nguyên nhân khác của các hành như đối tượng, đối tượng cảnh, các pháp đồng sanh v.v., vô minh nên được hiểu là đã được soi sáng với vai trò là nhân của các hành do vì là chính yếu—bởi vì theo câu “tham ái của người luôn thấy vị ngọt thì tăng trưởng” (saṃ. ni. 2.52) và “do vô minh sanh khởi nên lậu hoặc sanh khởi” (ma. ni. 1.104), (vô minh) là nhân của cả các nhân khác của hành như tham ái v.v.; do vì là rõ ràng và không phổ thông, theo câu “Này các Tỳ-khưu, người vô minh, bị vô minh chi phối, cũng tạo tác phước hành.” Như vậy, ở khắp mọi nơi trong việc soi sáng từng nhân quả, phương pháp nên được áp dụng tùy theo khả năng. Do đó, các bậc cổ nhân đã nói –

‘‘Ekaṃ na ekato idha, nānekamanekatopi no ekaṃ;
Phalamatthi atthi pana eka-hetuphaladīpane attho’’ti.
“Ở đây, một (quả) không từ một (nhân), cũng không nhiều (quả) từ một, cũng không một (quả) từ nhiều;
có quả, nhưng có lợi ích trong việc soi sáng một nhân-một quả.”

Paccetumarahatīti paṭicco. Yo hi naṃ pacceti abhisameti, tassa accantameva dukkhavūpasamāya saṃvattati. Sammā saha ca uppādetīti samuppādo. Paccayadhammo hi attano phalaṃ uppādento sampuṇṇameva uppādeti, na vikalaṃ. Ye ca dhamme uppādeti, te sabbe saheva uppādeti, na ekekaṃ. Iti paṭicco ca so samuppādo cāti paṭiccasamuppādoti evampettha attho daṭṭhabbo. Vitthāroti paṭiccasamuppādapadavaṇṇanāpapañco. Mayampi taṃ atipapañcabhayā idha na dassayissāma, evaṃ parato vakkhamānampi vitthāraṃ. Anulomapaṭilomanti bhāvanapuṃsakaniddeso ‘‘visamaṃ candimasūriyā parivattantī’’tiādīsu (a. ni. 4.70) viya. Svevāti so eva paccayākāro. Purimanayena vā vuttoti ‘‘avijjāpaccayā saṅkhārā’’tiādinā nayena vutto paccayākāro. Pavattiyāti saṃsārappavattiyā. Manasi akāsīti yo yo paccayadhammo yassa yassa paccayuppannadhammassa yathā yathā hetupaccayādinā paccayabhāvena paccayo hoti, taṃ sabbaṃ aviparītaṃ aparihāpetvā anavasesato paccavekkhaṇavasena citte akāsīti attho.
Điều xứng đáng để đạt đến là duyên. Thật vậy, ai đạt đến, chứng ngộ nó, đối với người ấy, (nó) đưa đến sự an tịnh khổ hoàn toàn. Sanh khởi một cách chân chánh và cùng nhau là khởi. Thật vậy, pháp duyên khi sanh ra quả của mình thì sanh ra một cách trọn vẹn, không khiếm khuyết. Và những pháp mà nó sanh ra, nó sanh ra tất cả chúng cùng nhau, không phải từng cái một. Như vậy, ở đây, ý nghĩa cần được xem là: nó là duyên và nó là khởi, nên là Duyên Khởi. (Từ) “sự chi tiết” có nghĩa là sự trình bày chi tiết về các từ của Duyên Khởi. Chúng tôi cũng sẽ không trình bày điều đó ở đây vì sợ quá chi tiết, tương tự như vậy đối với sự chi tiết sẽ được nói đến sau này. (Từ) “chiều thuận và chiều nghịch” là cách trình bày trung tính về hành động, giống như trong các (câu) bắt đầu bằng “mặt trăng và mặt trời quay không đều” (a. ni. 4.70). (Từ) “svevā” có nghĩa là chính cách thức của duyên ấy. Hoặc (từ) “đã được nói theo phương pháp trước” có nghĩa là cách thức của duyên đã được nói theo phương pháp bắt đầu bằng “vô minh làm duyên cho các hành.” (Từ) “của sự diễn tiến” có nghĩa là của sự diễn tiến trong luân hồi. (Cụm từ) “đã tác ý” có nghĩa là: pháp duyên nào là duyên cho pháp do duyên sanh nào bằng vai trò duyên như nhân duyên v.v. theo cách nào, ngài đã tác ý trong tâm bằng cách quán xét tất cả những điều đó một cách không sai lạc, không bỏ sót, và không chừa lại gì.

Avijjāpaccayātiādīsu (vibha. aṭṭha. 225; visuddhi. 2.586-587; udā. aṭṭha. 1) avindiyaṃ kāyaduccaritādiṃ vindatīti avijjā, vindiyaṃ kāyasucaritādiṃ na vindatīti avijjā, dhammānaṃ aviparītasabhāvaṃ aviditaṃ karotīti avijjā, antavirahite saṃsāre bhavādīsu satte javāpetīti avijjā, avijjamānesu javati, vijjamānesu na javatīti avijjā, vijjāpaṭipakkhāti vā avijjā. Sā ‘‘dukkhe aññāṇa’’ntiādinā catubbidhā veditabbā. Paṭicca naṃ na vinā phalaṃ eti uppajjati ceva pavattati cāti paccayo, upakāraṭṭho vā paccayo. Avijjā ca sā paccayo cāti avijjāpaccayo , tasmā avijjāpaccayā. Saṅkharontīti saṅkhārā, lokiyā kusalākusalacetanā. Te puññāpuññāneñcābhisaṅkhāravasena tividhā veditabbā. Vijānātīti viññāṇaṃ, taṃ lokiyavipākaviññāṇavasena bāttiṃsavidhaṃ. Namatīti nāmaṃ, vedanādikkhandhattayaṃ. Ruppatīti rūpaṃ, bhūtarūpaṃ cakkhādiupādārūpañca. Āyatanti, āyatañca saṃsāradukkhaṃ nayatīti āyatanaṃ. Phusatīti phasso. Vedayatīti vedanā. Idampi dvayaṃ dvāravasena chabbidhaṃ, vipākavasena gahaṇe bāttiṃsavidhaṃ. Tassati paritassatīti taṇhā, sā kāmataṇhādivasena saṅkhepato tividhā, vitthārato aṭṭhasatavidhā ca. Upādiyatīti upādānaṃ, taṃ kāmupādānādivasaena catubbidhaṃ.
Trong (các từ) bắt đầu bằng “do vô minh làm duyên” (vibha. aṭṭha. 225; visuddhi. 2.586-587; udā. aṭṭha. 1), biết điều không nên biết là thân ác hạnh v.v. là vô minh; không biết điều nên biết là thân thiện hạnh v.v. là vô minh; làm cho tự tánh không sai lạc của các pháp trở thành không được biết là vô minh; thúc đẩy chúng sanh trong các cõi v.v. trong vòng luân hồi không có hồi kết là vô minh; hướng đến những gì không hiện hữu, không hướng đến những gì hiện hữu là vô minh; hoặc đối nghịch với minh là vô minh. Vô minh ấy nên được hiểu có bốn loại, bắt đầu bằng “không biết về khổ.” Do duyên vào nó mà không có nó thì quả không đến, tức là không sanh khởi và không diễn tiến, nên (gọi là) duyên; hoặc duyên có ý nghĩa là sự hỗ trợ. Nó là vô minh và nó là duyên, nên là vô minh-duyên, do đó (là) do vô minh làm duyên. Cái tạo tác là các hành, là các tư thiện và bất thiện thuộc hiệp thế. Chúng nên được hiểu có ba loại theo phước hành, phi phước hành, và bất động hành. Cái nhận biết là thức, nó có ba mươi hai loại theo thức quả hiệp thế. Cái hướng đến là danh, là ba uẩn bắt đầu bằng thọ. Cái bị biến hoại là sắc, là sắc tứ đại và sắc y sinh bắt đầu bằng mắt. Chúng phát triển, và đưa đến khổ luân hồi kéo dài, nên là xứ. Cái xúc chạm là xúc. Cái cảm nhận là thọ. Hai điều này cũng có sáu loại theo căn môn, và ba mươi hai loại khi xét theo quả. Cái khao khát, thèm muốn là tham ái; nó tóm tắt có ba loại theo dục ái v.v., và chi tiết có một trăm tám loại. Cái bám víu là thủ, nó có bốn loại theo dục thủ v.v.

Bhavati bhāvayati cāti bhavo, so kammopapattibhedato duvidho. Jananaṃ jāti. Jīraṇaṃ jarā. Maranti tenāti maraṇaṃ. Socanaṃ soko. Paridevanaṃ paridevo. Dukkhayatīti dukkhaṃ. Uppādaṭṭhitivasena dvedhā khanatīti vā dukkhaṃ. Dummanassa bhāvo domanassaṃ. Bhuso āyāso upāyāso. Sambhavantīti nibbattanti. Na kevalañca sokādīheva, atha kho sabbapadehi ‘‘sambhavantī’’ti padassa yojanā kātabbā. Evañhi avijjāpaccayā saṅkhārā sambhavantīti paccayapaccayuppannavavatthānaṃ dassitaṃ hoti. Tenevāha ‘‘avijjāpaccayā saṅkhārā sambhavantīti iminā nayena sabbapadesu attho veditabbo’’ti. Evametassa…pe… samudayo hotīti ettha pana ayamattho. Evanti niddiṭṭhanayanidassanaṃ. Tena avijjādīheva kāraṇehi, na issaranimmānādīhīti dasseti. Etassāti yathāvuttassa. Kevalassāti asammissassa, sakalassa vā. Dukkhakkhandhassāti dukkhasamūhassa, na sattassa nāpi subhasukhādīnaṃ. Samudayo hotīti nibbatti sambhavati.
Cái hiện hữu và cái tạo ra sự hiện hữu là hữu; nó có hai loại theo sự phân biệt nghiệp hữu và tái sanh hữu. Sự sanh ra là sanh. Sự già đi là già. Họ chết do cái đó nên là chết. Sự sầu muộn là sầu. Sự than khóc là bi. Cái làm cho khổ là khổ. Hoặc cái đào xới theo hai cách, qua sự sanh và sự trụ, là khổ. Trạng thái của ý không vui là ưu. Sự mệt mỏi quá mức là não. (Từ) “sanh khởi” có nghĩa là phát sanh. Và sự liên kết của từ “sanh khởi” cần được thực hiện không chỉ với các từ bắt đầu bằng sầu, mà còn với tất cả các từ. Thật vậy, như thế, sự xác định về duyên và pháp do duyên sanh được trình bày là: do vô minh làm duyên, các hành sanh khởi. Chính vì thế, (ngài Phụ Chú Giải) đã nói: “ý nghĩa trong tất cả các từ cần được hiểu theo phương pháp này: ‘do vô minh làm duyên, các hành sanh khởi.’” Còn ở đây, trong (câu) “Như vậy…này… có sự sanh khởi,” ý nghĩa là như vầy. (Từ) “Như vậy” là sự chỉ ra phương pháp đã được nêu. Bằng từ đó, (ngài) trình bày rằng (sự sanh khởi là) do chính các nguyên nhân bắt đầu bằng vô minh, chứ không phải do sự sáng tạo của Thượng Đế v.v… (Từ) “của cái này” có nghĩa là của cái đã được nói như trên. (Từ) “toàn bộ” có nghĩa là không pha trộn, hoặc là tất cả. (Từ) “của khối khổ” có nghĩa là của tập hợp khổ, không phải của chúng sanh, cũng không phải của các thứ như tốt đẹp, an lạc v.v… (Cụm từ) “có sự sanh khởi” có nghĩa là sự phát sanh, sự hiện hữu.

Accantameva saṅkhārehi virajjati etenāti virāgo, ariyamaggoti āha ‘‘virāgasaṅkhātena maggenā’’ti. Asesaṃ nirodhā asesanirodhā, asesetvā nissesetvā nirodhā samucchindanā anusayappahānavasena aggamaggena avijjāya accantasamugghātatoti attho. Yadipi heṭṭhimamaggehipi pahīyamānā avijjā accantasamugghātavaseneva pahīyati, tathāpi na anavasesato pahīyati. Apāyagamanīyā hi avijjā paṭhamamaggena pahīyati, tathā sakideva imasmiṃ loke sabbattha ca anariyabhūmiyaṃ upapattiyā paccayabhūtā avijjā yathākkamaṃ dutiyatatiyamaggehi pahīyati, na itarāti, arahattamaggeneva pana sā anavasesaṃ pahīyatīti. Anuppādanirodho hotīti sabbesaṃ saṅkhārānaṃ anavasesaṃ anuppādanirodho hoti. Heṭṭhimena hi maggattayena keci saṅkhārā nirujjhanti, keci na nirujjhanti avijjāya sāvasesanirodhā, aggamaggena panassā anavasesanirodhā na keci saṅkhārā na nirujjhantīti. Evaṃ niruddhānanti evaṃ anuppādanirodhena niruddhānaṃ. Kevala-saddo niravasesavācako ca hoti ‘‘kevalā aṅgamagadhā’’tiādīsu. Asammissavācako ca ‘‘kevalā sālayo’’tiādīsu. Tasmā ubhayathāpi atthaṃ vadati ‘‘sakalassa, suddhassa vā’’ti. Tattha sakalassāti anavasesassa sabbabhavādigatassa. Sattavirahitassāti paraparikappitajīvarahitassa.
Ly tham khỏi các hành một cách hoàn toàn bằng cái này nên (gọi là) ly tham, tức là Thánh đạo; (ngài Phụ Chú Giải) nói: “bằng con đường được gọi là ly tham.” Do sự đoạn diệt không còn dư sót nên là sự đoạn diệt không còn dư sót; ý nghĩa là do sự nhổ bật gốc hoàn toàn vô minh bằng Thánh đạo cao nhất qua cách đoạn diệt không còn dư sót, không để lại gì, tức là từ bỏ các tùy miên. Mặc dù vô minh, khi được từ bỏ bằng các đạo thấp hơn, cũng được từ bỏ bằng cách nhổ bật gốc hoàn toàn, tuy nhiên nó không được từ bỏ không còn dư sót. Thật vậy, vô minh dẫn đến các cõi khổ được từ bỏ bằng đạo đầu tiên; tương tự, vô minh là nhân duyên cho sự tái sanh ở cõi này chỉ một lần nữa và ở khắp nơi trong các cõi của phàm nhân được từ bỏ tuần tự bằng đạo thứ hai và thứ ba, chứ không phải (vô minh) khác. Nhưng chỉ bằng đạo A-la-hán thì nó mới được từ bỏ không còn dư sót. (Câu) “có sự đoạn diệt không sanh khởi” có nghĩa là có sự đoạn diệt không sanh khởi không còn dư sót của tất cả các hành. Thật vậy, bằng ba đạo thấp hơn, một số hành được đoạn diệt, một số hành không được đoạn diệt do sự đoạn diệt còn dư sót của vô minh; nhưng do sự đoạn diệt không còn dư sót của nó bằng đạo cao nhất, không có hành nào không được đoạn diệt. (Cụm từ) “của những thứ đã được đoạn diệt như vậy” có nghĩa là của những thứ đã được đoạn diệt bằng sự đoạn diệt không sanh khởi như vậy. Từ “kevala” (toàn bộ) có nghĩa là không còn dư sót, như trong (câu) bắt đầu bằng “toàn bộ xứ Aṅga và Magadha.” Nó cũng có nghĩa là không pha trộn, như trong (câu) bắt đầu bằng “chỉ có gạo sāli.” Do đó, (ngài Phụ Chú Giải) nói ý nghĩa theo cả hai cách: “của toàn thể, hoặc của cái thuần túy.” Trong đó, (từ) “của toàn thể” có nghĩa là của tất cả những gì thuộc về mọi cõi hữu v.v., không còn dư sót. (Từ) “không có chúng sanh” có nghĩa là không có cái gọi là sinh mạng do người khác tưởng tượng ra.

Apicettha kiñcāpi ‘‘avijjānirodhā saṅkhāranirodho, saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho’’ti ettāvatāpi sakalassa dukkhakkhandhassa anavasesato nirodho vutto hoti, tathāpi yathā anulome yassa yassa paccayadhammassa atthitāya yo yo paccayuppannadhammo na nirujjhati pavattati evāti imassa atthassa dassanatthaṃ ‘‘avijjāpaccayā saṅkhārā…pe… samudayo hotī’’ti vuttaṃ. Evaṃ tappaṭipakkhato tassa tassa paccayassa abhāve so so paccayuppannadhammo nirujjhati na pavattatīti dassanatthaṃ idha ‘‘avijjānirodhā saṅkhāranirodho, saṅkhāranirodhā viññāṇanirodho, viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho…pe… dukkhakkhandhassa nirodho hotī’’ti vuttaṃ, na pana anulome viya kālattayapariyāpannassa dukkhakkhandhassa nirodhadassanatthaṃ. Anāgatasseva hi ariyamaggabhāvanāya asati uppajjanārahassa dukkhakkhandhassa ariyamaggabhāvanāya nirodho icchitoti ayampi viseso veditabbo.
Hơn nữa, ở đây, mặc dù chỉ với câu “do vô minh diệt nên hành diệt, do hành diệt nên thức diệt,” sự đoạn diệt không còn dư sót của toàn bộ khối khổ đã được nói đến, tuy nhiên, để trình bày ý nghĩa này rằng: giống như trong chiều thuận, do sự hiện hữu của pháp duyên này hay pháp duyên khác mà pháp do duyên sanh này hay pháp do duyên sanh khác không bị đoạn diệt mà tiếp tục diễn tiến, nên (câu) “do vô minh làm duyên, các hành… này… có sự sanh khởi” đã được nói đến. Tương tự, để trình bày rằng, ngược lại, khi không có duyên này hay duyên khác thì pháp do duyên sanh này hay pháp do duyên sanh khác bị đoạn diệt, không diễn tiến, ở đây (câu) “do vô minh diệt nên hành diệt, do hành diệt nên thức diệt, do thức diệt nên danh sắc diệt… này… khối khổ diệt” đã được nói đến, chứ không phải để trình bày sự đoạn diệt của khối khổ thuộc ba thời như trong chiều thuận. Thật vậy, sự khác biệt này cũng cần được hiểu là: sự đoạn diệt được mong muốn ở đây là sự đoạn diệt, nhờ tu tập Thánh đạo, của khối khổ vốn có khả năng sanh khởi trong tương lai khi (các điều kiện) không có.

Yadā haveti ettha haveti byattanti imasmiṃ atthe nipāto. Keci pana ‘‘haveti āhave yuddhe’’ti atthaṃ vadanti, ‘‘yodhetha māraṃ paññāvudhenā’’ti (dha. pa. 40) hi vacanato kilesamārena yujjhanasamayeti tesaṃ adhippāyo. Ārammaṇūpanijjhānalakkhaṇenāti ārammaṇūpanijjhānasabhāvena. Lakkhaṇūpanijjhānalakkhaṇenāti etthāpi eseva nayo. Tattha ārammaṇūpanijjhānaṃ nāma aṭṭha samāpattiyo kasiṇārammaṇassa upanijjhāyanato. Lakkhaṇūpanijjhānaṃ nāma vipassanāmaggaphalāni. Vipassanā hi tīṇi lakkhaṇāni upanijjhāyatīti lakkhaṇūpanijjhānaṃ, maggo vipassanāya āgatakiccaṃ sādhetīti lakkhaṇūpanijjhānaṃ, phalaṃ tathalakkhaṇaṃ nirodhasaccaṃ upanijjhāyatīti lakkhaṇūpanijjhānaṃ. No kallo pañhoti ayutto pañho, duppañho esoti attho. Ādisaddena –
(Về cụm từ) “khi mà,” ở đây, bất biến từ “have” có ý nghĩa là “rõ ràng.” Tuy nhiên, một số vị nói ý nghĩa là “‘have’ là trong trận chiến, trong cuộc chiến,” ý của họ là vào lúc chiến đấu với ác ma phiền não, theo câu “hãy chiến đấu với Māra bằng vũ khí trí tuệ” (dha. pa. 40). (Với) “đặc tính quán chiếu đối tượng” có nghĩa là với tự tánh quán chiếu đối tượng. Ở (cụm từ) “(với) đặc tính quán chiếu tướng” cũng có cùng phương pháp này. Trong đó, quán chiếu đối tượng là tên gọi của tám định chứng do sự quán chiếu đối tượng kasiṇa. Quán chiếu tướng là tên gọi của tuệ quán, đạo và quả. Vì tuệ quán quán chiếu ba tướng nên là quán chiếu tướng; đạo hoàn thành phận sự đã đến từ tuệ quán nên là quán chiếu tướng; quả quán chiếu Thánh đế diệt có tướng như vậy nên là quán chiếu tướng. (Câu) “Câu hỏi không thích hợp” có nghĩa là câu hỏi không đúng, đây là một câu hỏi tồi. Bằng từ “v.v.”

‘‘Phusatīti ahaṃ na vadāmi. Phusatīti cāhaṃ vadeyyaṃ, tatrassa kallo pañho ‘ko nu kho, bhante, phusatī’ti? Evañcāhaṃ na vadāmi, evaṃ maṃ avadantaṃ yo evaṃ puccheyya ‘kiṃpaccayā nu kho, bhante, phasso’ti, esa kallo pañho. Tatra kallaṃ veyyākaraṇaṃ ‘saḷāyatanapaccayā phasso, phassapaccayā vedanā’ti. Ko nu kho, bhante, vedayatīti? No kallo pañhoti bhagavā avoca, vedayatīti ahaṃ na vadāmi, vedayatīti cāhaṃ vadeyyaṃ, tatrassa kallo pañho ‘ko nu kho, bhante, vedayatī’ti? Evañcāhaṃ na vadāmi. Evaṃ maṃ avadantaṃ yo evaṃ puccheyya ‘kiṃpaccayā nu kho, bhante, vedanā’ti, esa kallo pañho. Tatra kallaṃ veyyākaraṇaṃ ‘phassapaccayā vedanā, vedanāpaccayā taṇhā’’’ti (saṃ. ni. 2.12) –
“Ta không nói ‘người ấy xúc chạm.’ Nếu ta nói ‘người ấy xúc chạm,’ khi ấy câu hỏi ‘Bạch ngài, vậy ai xúc chạm?’ mới là thích hợp. Nhưng ta không nói như vậy. Khi ta không nói như vậy, người nào hỏi ta như thế này: ‘Bạch ngài, vậy do duyên gì có xúc?,’ đó là câu hỏi thích hợp. Ở đó, câu trả lời thích hợp là: ‘do sáu xứ làm duyên nên có xúc, do xúc làm duyên nên có thọ.’ ‘Bạch ngài, vậy ai cảm thọ?’ Đức Thế Tôn đã nói: ‘Câu hỏi không thích hợp.’ Ta không nói ‘người ấy cảm thọ.’ Nếu ta nói ‘người ấy cảm thọ,’ khi ấy câu hỏi ‘Bạch ngài, vậy ai cảm thọ?’ mới là thích hợp. Nhưng ta không nói như vậy. Khi ta không nói như vậy, người nào hỏi ta như thế này: ‘Bạch ngài, vậy do duyên gì có thọ?,’ đó là câu hỏi thích hợp. Ở đó, câu trả lời thích hợp là: ‘do xúc làm duyên nên có thọ, do thọ làm duyên nên có tham ái.’” (saṃ. ni. 2.12) –

Evamādiṃ pāḷisesaṃ saṅgaṇhāti.
(Từ “v.v.”) thu tóm phần Pāḷi còn lại bắt đầu như vậy.

Ādinā ca nayenāti ettha ādi-saddena pana ‘‘katamā nu kho, bhante, jāti, kassa ca panāyaṃ jātīti. ‘No kallo pañho’ti bhagavā avocā’’ti evamādiṃ saṅgaṇhāti. Nanu cettha ‘‘katamaṃ nu kho, bhante, jarāmaraṇa’’nti (saṃ. ni. 2.35) idaṃ supucchitanti? Kiñcāpi supucchitaṃ, yathā pana satasahassagghanake suvaṇṇathālake vaḍḍhitassa subhojanassa matthake āmalakamatte gūthapiṇḍe ṭhapite sabbaṃ bhojanaṃ dubbhojanaṃ hoti chaḍḍetabbaṃ, evameva ‘‘kassa ca panidaṃ jarāmaraṇa’’nti iminā sattūpaladdhivādapadena gūthapiṇḍena taṃ bhojanaṃ dubbhojanaṃ viya ayampi sabbo duppañho jātoti.
(Cụm từ) “Và theo phương pháp bắt đầu bằng,” ở đây, bằng từ “v.v.” (ngài Phụ Chú Giải) thu tóm phần bắt đầu như sau: “Bạch ngài, vậy sanh là gì, và sanh này là của ai? Đức Thế Tôn đã nói: ‘Câu hỏi không thích hợp.’” Nhưng chẳng phải ở đây, câu hỏi “Bạch ngài, vậy già và chết là gì?” (saṃ. ni. 2.35) là một câu hỏi hay sao? Mặc dù là một câu hỏi hay, nhưng giống như khi một cục phân bằng quả chóc được đặt lên trên một bữa ăn ngon được dọn trong một cái đĩa vàng trị giá một trăm ngàn, toàn bộ bữa ăn trở thành bữa ăn dở và phải vứt đi, cũng vậy, do bởi cục phân là từ ngữ của tà kiến chấp có chúng sanh này: “và già-chết này là của ai,” nên toàn bộ câu hỏi này cũng trở thành một câu hỏi tồi giống như bữa ăn dở ấy.

Soḷasa kaṅkhāti ‘‘ahosiṃ nu kho ahaṃ atītamaddhānaṃ, na nu kho ahosiṃ, kiṃ nu kho ahosiṃ, kathaṃ nu kho ahosiṃ, kiṃ hutvā kiṃ ahosiṃ nu kho ahaṃ atītamaddhānaṃ, bhavissāmi nu kho ahaṃ anāgatamaddhānaṃ, na nu kho bhavissāmi, kiṃ nu kho bhavissāmi, kathaṃ nu kho bhavissāmi, kiṃ hutvā kiṃ bhavissāmi nu kho ahaṃ anāgatamaddhānaṃ, ahaṃ nu khosmi, no nu khosmi, kiṃ nu khosmi, kathaṃ nu khosmi, ayaṃ nu kho satto kuto āgato, so kuhiṃ gāmī bhavissatī’’ti (saṃ. ni. 2.20; ma. ni. 1.18) evamāgatā atītānāgatapaccuppannavisayā soḷasavidhā kaṅkhā.
Mười sáu hoài nghi là mười sáu loại hoài nghi liên quan đến quá khứ, tương lai, và hiện tại, đã được đề cập như sau: “Ta có thật sự đã có mặt trong quá khứ không? Ta có thật sự đã không có mặt không? Ta đã là gì? Ta đã như thế nào? Ta đã là gì rồi trở thành gì trong quá khứ? Ta có thật sự sẽ có mặt trong tương lai không? Ta có thật sự sẽ không có mặt không? Ta sẽ là gì? Ta sẽ như thế nào? Ta sẽ là gì rồi trở thành gì trong tương lai? Có phải ta đang hiện hữu không? Có phải ta không hiện hữu không? Ta là gì? Ta như thế nào? Chúng sanh này từ đâu đến? Nó sẽ đi về đâu?” (saṃ. ni. 2.20; ma. ni. 1.18).

Tattha (ma. ni. aṭṭha. 1.18; saṃ. ni. aṭṭha. 2.2.20) ahosiṃ nu kho, na nu khoti sassatākārañca adhiccasamuppattiākārañca nissāya atīte attano vijjamānatañca avijjamānatañca kaṅkhati, kiṃ kāraṇanti na vattabbaṃ. Ummattako viya hi bālaputhujjano yathā tathā vā pavattati. Apica ayonisomanasikāroyevettha kāraṇaṃ. Evaṃ ayonisomanasikārassa pana kiṃ kāraṇanti? Sveva puthujjanabhāvo ariyānaṃ adassanādīni vā. Nanu ca puthujjanopi yoniso manasi karotīti. Ko vā evamāha ‘‘na manasi karotī’’ti. Na pana tattha puthujjanabhāvo kāraṇaṃ, saddhammasavanakalyāṇamittādīni tattha kāraṇāni . Na hi macchamaṃsādīni attano pakatiyā sugandhāni, abhisaṅkhārapaccayā pana sugandhānipi honti.
Trong đó (ma. ni. aṭṭha. 1.18; saṃ. ni. aṭṭha. 2.2.20), (câu) “có thật sự đã có mặt không, có thật sự đã không có mặt không”: người ấy hoài nghi về sự hiện hữu và không hiện hữu của chính mình trong quá khứ, dựa vào quan điểm thường hằng và quan điểm ngẫu nhiên sanh, không cần phải hỏi tại sao. Vì kẻ phàm phu ngu dại hành động thế này hay thế khác giống như người điên. Hơn nữa, chính tác ý không như lý là nguyên nhân ở đây. Vậy, nguyên nhân của tác ý không như lý ấy là gì? Chính là tình trạng phàm phu hoặc việc không thấy các bậc Thánh v.v… Nhưng chẳng phải phàm phu cũng có tác ý như lý sao? Ai nói là “không có tác ý”? Nhưng tình trạng phàm phu không phải là nguyên nhân ở đó, mà việc lắng nghe Chánh Pháp, bạn lành v.v. là các nguyên nhân ở đó. Thật vậy, cá, thịt v.v. tự bản chất không có mùi thơm, nhưng do duyên chế biến, chúng cũng có thể trở nên thơm.

Kiṃ nu kho ahosinti jātiliṅgupapattiyo nissāya ‘‘khattiyo nu kho ahosiṃ, brāhmaṇavessasuddagahaṭṭhapabbajitadevamanussānaṃ aññataro’’ti kaṅkhati.
(Câu) “đã là gì”: người ấy hoài nghi dựa vào giai cấp, giới tính, và cảnh giới sanh: “Ta đã là Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà, gia chủ, người xuất gia, chư thiên, hay con người chăng?”

Kathaṃ nu khoti saṇṭhānākāraṃ nissāya ‘‘dīgho nu kho ahosiṃ, rassaodātakaṇhappamāṇikaappamāṇikādīnaṃ aññataro’’ti kaṅkhati. Keci pana ‘‘issaranimmānādiṃ nissāya ‘kena nu kho kāraṇena ahosi’nti hetuto kaṅkhatī’’ti vadanti.
(Câu) “đã như thế nào”: người ấy hoài nghi dựa vào hình dáng, tướng mạo: “Ta đã là người cao, thấp, trắng, đen, tầm thước, không tầm thước, hay một trong các loại khác chăng?” Tuy nhiên, một số vị nói rằng: “Người ấy hoài nghi từ phương diện nhân, dựa vào sự sáng tạo của Thượng Đế v.v.: ‘Ta đã có mặt do nguyên nhân gì?’”

Kiṃ hutvā kiṃ ahosinti jātiādīni nissāya ‘‘khattiyo hutvā nu kho brāhmaṇo ahosiṃ…pe… devo hutvā manusso’’ti attano paramparaṃ kaṅkhati. Sabbattheva pana addhānanti kālādhivacanametaṃ, tañca bhummatthe upayogavacanaṃ daṭṭhabbaṃ.
(Câu) “đã là gì rồi trở thành gì”: người ấy hoài nghi về chuỗi đời của mình, dựa vào giai cấp v.v.: “Ta đã là Sát-đế-lỵ rồi trở thành Bà-la-môn… này… đã là chư thiên rồi trở thành người chăng?” Ở khắp mọi nơi, (từ) “addhāna” (thời) là một từ chỉ thời gian, và nó cần được xem là cách nói chỉ sự áp dụng trong ý nghĩa của vị trí cách (thời gian cách).

Bhavissāmi nu kho, na nu khoti sassatākārañca ucchedākārañca nissāya anāgate attano vijjamānatañca avijjamānatañca kaṅkhati. Sesamettha vuttanayameva.
(Câu) “có thật sự sẽ có mặt không, có thật sự sẽ không có mặt không”: người ấy hoài nghi về sự hiện hữu và không hiện hữu của chính mình trong tương lai, dựa vào quan điểm thường hằng và quan điểm đoạn diệt. Phần còn lại ở đây có phương pháp đã được nói.

Ahaṃnu khosmīti attano atthibhāvaṃ kaṅkhati. Yuttaṃ panetanti? Yuttaṃ ayuttanti kā ettha cintā. Apicettha idaṃ vatthumpi udāharanti, cūḷamātāya kira putto muṇḍo, mahāmātāya putto amuṇḍo. Taṃ suttaṃ muṇḍesuṃ. So uṭṭhāya ‘‘ahaṃ nu kho cūḷamātāya putto’’ti cintesi. Evaṃ ‘‘ahaṃ nu khosmī’’ti kaṅkhā hoti.
(Câu) “có phải ta đang hiện hữu không”: người ấy hoài nghi về sự tồn tại của chính mình. Nhưng điều này có hợp lý không? Việc suy xét ở đây là gì, hợp lý hay không hợp lý? Hơn nữa, ở đây người ta cũng kể câu chuyện này: con trai của bà mẹ nhỏ thì trọc đầu, con trai của bà mẹ lớn thì không trọc. Người ta đã cạo đầu cậu bé ấy (con trai bà mẹ lớn). Cậu bé thức dậy và suy nghĩ: “Ta có phải là con của bà mẹ nhỏ không?” Như vậy, hoài nghi “có phải ta đang hiện hữu không” phát sanh.

No nu khosmīti attano natthibhāvaṃ kaṅkhati. Tatrāpi idaṃ vatthu – eko kira macche gaṇhanto udake ciraṭṭhānena sītibhūtaṃ attano ūruṃ ‘‘maccho’’ti cintetvā pahari. Aparo susānapasse khettaṃ rakkhanto bhīto saṅkuṭito sayi. So paṭibujjhitvā attano jaṇṇukāni ‘‘dve yakkhā’’ti cintetvā pahari, evaṃ ‘‘no nu khosmī’’ti kaṅkhati.
(Câu) “có phải ta không hiện hữu không”: người ấy hoài nghi về sự không tồn tại của chính mình. Về điều đó cũng có câu chuyện này – Một người đang bắt cá, do đứng lâu trong nước, đùi của anh ta bị lạnh, anh ta nghĩ đó là “con cá” rồi đập vào đó. Một người khác đang canh ruộng gần nghĩa địa, vì sợ hãi nên nằm co ro. Khi tỉnh dậy, anh ta nghĩ hai đầu gối của mình là “hai con quỷ dạ-xoa” rồi đập vào chúng, như vậy người ấy hoài nghi “có phải ta không hiện hữu không.”

Kiṃ nu khosmīti khattiyova samāno attano khattiyabhāvaṃ kaṅkhati kaṇṇo viya sūtaputtasaññī. Esa nayo sesesu. Devo pana samāno devabhāvaṃ ajānanto nāma natthi. Sopi pana ‘‘ahaṃ rūpī nu kho arūpī nu kho’’tiādinā nayena kaṅkhati. Khattiyādayo kasmā na jānantīti ce? Appaccakkhā tesaṃ tattha tattha kule uppatti. Gahaṭṭhāpi ca pātalikādayo pabbajitasaññino. Pabbajitāpi ‘‘kuppaṃ nu kho me kamma’’ntiādinā nayena gahaṭṭhasaññino. Manussāpi ca ekacce rājāno viya attani devasaññino honti.
(Câu) “ta là gì”: người đang là Sát-đế-lỵ lại hoài nghi về thân phận Sát-đế-lỵ của mình, giống như Kaṇṇa có nhận thức mình là con của người đánh xe. Phương pháp này cũng áp dụng cho các trường hợp còn lại. Nhưng không có chuyện một vị trời đang là trời lại không biết thân phận trời của mình. Tuy nhiên, vị ấy cũng hoài nghi theo phương pháp bắt đầu bằng: “Ta là hữu sắc hay vô sắc chăng?” Nếu hỏi tại sao các vị Sát-đế-lỵ v.v. lại không biết? Vì sự sanh của họ trong các gia tộc đó không phải là điều họ trực tiếp chứng kiến. Và một số gia chủ như Pātalika lại có nhận thức mình là người xuất gia. Một số người xuất gia lại có nhận thức mình là gia chủ theo phương pháp bắt đầu bằng: “Nghiệp của ta có thể bị hỏng chăng?” Và một số người lại có nhận thức mình là chư thiên, giống như các vị vua.

Kathaṃ nu khosmīti vuttanayameva. Kevalañhettha abbhantare jīvo nāma atthīti gahetvā tassa saṇṭhānākāraṃ nissāya ‘‘dīgho nu khosmi, rassacaturassachaḷaṃsaaṭṭhaṃsasoḷasaṃsādīnaṃ aññatarappakāro’’ti kaṅkhanto ‘‘kathaṃ nu khosmī’’ti kaṅkhatīti veditabbo. Sarīrasaṇṭhānaṃ pana paccuppannaṃ ajānanto nāma natthi.
(Câu) “ta như thế nào” có phương pháp đã được nói. Chỉ cần hiểu rằng ở đây, do chấp rằng có một thứ gọi là sinh mạng ở bên trong, người ấy hoài nghi dựa vào hình dáng, tướng mạo của nó: “Ta là loại nào trong số các loại dài, ngắn, vuông, sáu cạnh, tám cạnh, mười sáu cạnh v.v.?” và hoài nghi rằng “ta như thế nào.” Nhưng không có ai không biết hình dáng cơ thể trong hiện tại.

Kuto āgato, so kuhiṃ gāmī bhavissatīti attabhāvassa āgatigatiṭṭhānaṃ kaṅkhati.
(Câu) “từ đâu đến, nó sẽ đi về đâu”: người ấy hoài nghi về nơi đến và nơi đi của tự thể.

Vapayantīti viapayanti, ikāralopenāyaṃ niddeso. Byapayantīti vuttaṃ hoti. Tenāha ‘‘vapayanti apagacchantī’’ti. Apagamanañca anuppattinirodhavasenāti āha ‘‘nirujjhantī’’ti.
(Từ) “loại bỏ” (vapayanti) có nghĩa là làm cho rời đi (viapayanti), cách trình bày này là do sự lược bỏ mẫu tự “i”. Được nói là “làm cho rời đi” (byapayanti). Do đó, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “‘vapayanti’ là rời đi.” Và sự rời đi là theo cách đoạn diệt không sanh khởi, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “là đoạn diệt.”

3. Kadā panassa bodhipakkhiyadhammā catusaccadhammā vā pātubhavanti uppajjanti pakāsantīti? Vipassanāmaggañāṇesu pavattamānesu. Tattha vipassanāñāṇe tāva vipassanāñāṇasampayuttā satiādayo vipassanāñāṇañca yathārahaṃ attano attano visayesu tadaṅgappahānavasena subhasaññādike pajahantā kāyānupassanādivasena visuṃ visuṃ uppajjanti. Maggakkhaṇe pana te nibbānamālambitvā samucchedavasena paṭipakkhe pajahantā catūsupi ariyasaccesu asammohapaṭivedhasādhanavasena sakideva uppajjanti. Evaṃ tāvettha bodhipakkhiyadhammānaṃ uppajjanaṭṭhena pātubhāvo veditabbo. Ariyasaccadhammānaṃ pana lokiyānaṃ vipassanākkhaṇe vipassanāya ārammaṇakaraṇavasena lokuttarānaṃ tadadhimuttatāvasena maggakkhaṇe nirodhasaccassa ārammaṇābhisamayavasena sabbesampi kiccābhisamayavasena pākaṭabhāvato pakāsanaṭṭhena pātubhāvo veditabbo.
3. Vậy khi nào các bồ-đề phần pháp hoặc các pháp của Tứ Thánh Đế hiện khởi, sanh khởi, và biểu hiện? (Chúng) sanh khởi và biểu hiện khi các tuệ quán và tuệ đạo đang diễn tiến. Trong đó, trước tiên, trong tuệ quán, các pháp như niệm v.v. tương ưng với tuệ quán và chính tuệ quán, tùy theo mức độ, từ bỏ các pháp như tưởng về sự tốt đẹp v.v. bằng cách đoạn trừ theo từng phần trong các đối tượng tương ứng của chúng, và sanh khởi riêng biệt theo các pháp như quán thân v.v… Nhưng trong sát-na của đạo, chúng lấy Niết-bàn làm đối tượng, từ bỏ các pháp đối nghịch bằng cách đoạn diệt tận gốc, và sanh khởi chỉ một lần duy nhất bằng cách thực hiện sự thâm nhập không lầm lẫn trong cả bốn Thánh Đế. Như vậy, ở đây, sự hiện khởi của các bồ-đề phần pháp cần được hiểu theo ý nghĩa là sự sanh khởi. Còn sự hiện khởi của các pháp Thánh Đế, đối với các pháp hiệp thế, trong sát-na của tuệ quán, cần được hiểu theo ý nghĩa là sự biểu hiện do việc trở thành đối tượng của tuệ quán; đối với các pháp siêu thế, do sự hướng đến chúng, trong sát-na của đạo, cần được hiểu theo ý nghĩa là sự biểu hiện do việc lấy đế diệt làm đối tượng để chứng ngộ và do việc hoàn thành phận sự của tất cả chúng.

Iti bhagavā satipi sabbākārena sabbadhammānaṃ attano ñāṇassa pākaṭabhāve paṭiccasamuppādamukhena vipassanābhinivesassa katattā nipuṇagambhīrasududdasatāya paccayākārassa taṃ paccavekkhitvā uppannabalavasomanasso paṭipakkhasamucchedavibhāvanena saddhiṃ attano tadabhisamayānubhāvadīpakamevettha udānaṃ udānesi.
Như vậy, đức Thế Tôn, mặc dù tất cả các pháp đã biểu hiện rõ ràng trong trí tuệ của ngài về mọi phương diện, nhưng do ngài đã chuyên chú vào tuệ quán qua cánh cửa Duyên Khởi, nên sau khi quán xét cách thức của duyên vốn tinh tế, sâu sắc, và rất khó thấy, ngài đã thốt lên lời cảm hứng ở đây để thể hiện oai lực của sự chứng ngộ của mình, cùng với việc làm sáng tỏ sự đoạn diệt tận gốc các pháp đối nghịch, với tâm hoan hỷ mạnh mẽ đã sanh khởi.

‘‘Kāmāte paṭhamā senā’’tiādinā nayena vuttappakāraṃ mārasenanti –
(Đạo quân Māra có các loại đã được nói theo phương pháp bắt đầu bằng) “Dục vọng là đạo quân thứ nhất của ngươi”

‘‘Kāmā te paṭhamā senā, dutiyā arati vuccati;
Tatiyā khuppipāsā te, catutthī taṇhā pavuccati.
“Dục vọng là đạo quân thứ nhất của ngươi, chán nản được gọi là đạo quân thứ hai;
Đói và khát là đạo quân thứ ba của ngươi, tham ái được gọi là đạo quân thứ tư.

‘‘Pañcamī thinamiddhaṃ te, chaṭṭhā bhīrū pavuccati;
Sattamī vicikicchā te, makkho thambho ca aṭṭhamā.
“Hôn trầm và thụy miên là đạo quân thứ năm của ngươi, sợ hãi được gọi là đạo quân thứ sáu;
Hoài nghi là đạo quân thứ bảy của ngươi, giả dối và ngoan cố là đạo quân thứ tám.

‘‘Lābho siloko sakkāro, micchāladdho ca yo yaso;
Yo cattānaṃ samukkaṃse, pare ca avajānati.
“Lợi dưỡng, tiếng tăm, sự tôn kính, và danh vọng nào có được một cách sai lầm;
Kẻ nào tự tán dương mình và khinh miệt người khác.

‘‘Esā namuci te senā, kaṇhassābhippahārinī;
Na naṃ asūro jināti, jetvā ca labhate sukha’’nti. (su. ni. 438-441; mahāni. 28) –
“Này Namuci, đó là đạo quân của ngươi, đạo quân tấn công của Kẻ Đen;
Người không phải là anh hùng không thể chiến thắng nó, nhưng khi chiến thắng thì đạt được an lạc.” (su. ni. 438-441; mahāni. 28) –

Iminā nayena vuttappakāraṃ mārasenaṃ.
(Tức là) đạo quân Māra có các loại đã được nói theo phương pháp này.

Tattha (su. ni. aṭṭha. 2.439-41; mahāni. aṭṭha. 28) yasmā āditova agāriyabhūte satte vatthukāmesu kilesakāmā mohayanti, te abhibhuyya anagāriyabhāvaṃ upagatānaṃ pantesu vā senāsanesu aññataraññataresu vā adhikusalesu dhammesu arati uppajjati. Vuttampi cetaṃ ‘‘pabbajitena kho, āvuso, abhirati dukkarā’’ti (saṃ. ni. 4.331). Tato te parapaṭibaddhajīvikattā khuppipāsā bādhati, tāya bādhitānaṃ pariyesana taṇhā cittaṃ kilamayati, atha nesaṃ kilantacittānaṃ thinamiddhaṃ okkamati, tato visesamanadhigacchantānaṃ durabhisambhavesu araññavanapatthesu senāsanesu viharataṃ utrāsasaññitā bhīru jāyati, tesaṃ ussaṅkitaparisaṅkitānaṃ dīgharattaṃ vivekarasamanassādayamānānaṃ viharataṃ ‘‘na siyā nu kho esa maggo’’ti paṭipattiyaṃ vicikicchā uppajjati, taṃ vinodetvā viharataṃ appamattakena visesādhigamena mānamakkhathambhā jāyanti, tepi vinodetvā viharataṃ tato adhikataraṃ visesādhigamaṃ nissāya lābhasakkārasilokā uppajjanti, lābhādimucchitā dhammapatirūpakāni pakāsentā micchāyasaṃ adhigantvā tattha ṭhitā jātiādīhi attānaṃ ukkaṃsenti paraṃ vambhenti, tasmā kāmādīnaṃ paṭhamasenādibhāvo veditabbo.
Trong đó (su. ni. aṭṭha. 2.439-41; mahāni. aṭṭha. 28), bởi vì ngay từ đầu, các phiền não dục làm mê mờ chúng sanh còn là người tại gia trong các đối tượng dục, nên đối với những người đã vượt qua chúng để đến với đời sống không gia đình, sự chán nản sanh khởi trong các trú xứ vắng vẻ hoặc trong các pháp thiện cao tột nào đó. Điều này cũng đã được nói: “Này hiền giả, đối với người đã xuất gia, sự hoan hỷ là điều khó làm” (saṃ. ni. 4.331). Sau đó, do đời sống phụ thuộc vào người khác, họ bị đói và khát hành hạ. Khi bị chúng hành hạ, sự tham ái tìm cầu làm cho tâm mệt mỏi. Kế đó, hôn trầm và thụy miên xâm chiếm tâm trí mệt mỏi của họ. Sau đó, đối với những người không đạt được sự thù thắng nào, đang sống trong các trú xứ nơi rừng rậm hoang vu khó ở, sự sợ hãi được gọi là kinh hoàng sanh ra. Đối với họ, những người sống trong nghi ngờ và lo sợ, không hưởng được vị của sự vắng lặng trong một thời gian dài, hoài nghi về con đường tu tập sanh khởi: “Phải chăng đây không phải là con đường?” Khi họ sống sau khi đã loại bỏ được hoài nghi ấy, do đạt được một sự thù thắng nhỏ, kiêu mạn, giả dối, và ngoan cố sanh ra. Khi họ sống sau khi đã loại bỏ được cả những điều đó, lợi dưỡng, sự tôn kính, và tiếng tăm sanh khởi dựa vào việc đạt được sự thù thắng cao hơn. Khi bị say đắm trong lợi dưỡng v.v., họ trình bày các pháp tựa như chánh pháp, đạt được danh vọng sai lầm, và khi ở trong đó, họ tự tán dương mình và chê bai người khác bằng giai cấp v.v. Do đó, cần phải hiểu thứ tự của dục vọng v.v. là đạo quân thứ nhất.

Evametaṃ dasavidhaṃ senaṃ uddisitvā yasmā sā kaṇhadhammasamannāgatattā kaṇhassa namucino upakārāya saṃvattati, tasmā naṃ ‘‘tava senā’’ti niddisantena ‘‘esā namuci te senā, kaṇhassābhippahārinī’’ti vuttaṃ. Tattha abhippahārinīti samaṇabrāhmaṇānaṃ ghātanī nippothanī, antarāyakarīti attho. Na naṃ asūro jināti, jetvā ca labhate sukhanti evaṃ tava senaṃ asūro kāye ca jīvite ca sāpekkho puriso na jināti, sūro pana jināti, jetvā ca maggasukhaṃ phalasukhañca adhigacchatīti attho. Sopi brāhmaṇoti sopi khīṇāsavabrāhmaṇo.
Như vậy, sau khi đã chỉ ra mười loại quân này, bởi vì nó bao gồm các pháp đen tối và có lợi cho Namuci đen tối, do đó, khi chỉ định nó là “đạo quân của ngươi,” (câu) “Này Namuci, đó là đạo quân của ngươi, đạo quân tấn công của Kẻ Đen” đã được nói đến. Trong đó, (từ) “đạo quân tấn công” có nghĩa là đạo quân giết hại, đè bẹp, gây trở ngại cho các vị sa-môn và bà-la-môn. (Câu) “Người không phải là anh hùng không thể chiến thắng nó, nhưng khi chiến thắng thì đạt được an lạc” có nghĩa là: đạo quân của ngươi như vậy, một người không phải là anh hùng, một người còn luyến tiếc thân và mạng, không thể chiến thắng; nhưng một người anh hùng thì chiến thắng, và sau khi chiến thắng thì đạt được lạc của đạo và lạc của quả. (Cụm từ) “Vị bà-la-môn ấy” có nghĩa là vị bà-la-môn lậu tận ấy.

Idāni ‘‘tena kho pana samayena bhagavā sattāhaṃ ekapallaṅkena nisinno hoti vimuttisukhapaṭisaṃvedī. Atha kho bhagavā tassa sattāhassa accayena tamhā samādhimhā vuṭṭhahitvā rattiyā paṭhamaṃ yāmaṃ paṭiccasamuppādaṃ anulomaṃ sādhukaṃ manasākāsi. Rattiyā majjhimaṃ yāmaṃ paṭiccasamuppādaṃ paṭilomaṃ sādhukaṃ manasākāsi. Rattiyā pacchimaṃ yāmaṃ paṭiccasamuppādaṃ anulomapaṭilomaṃ sādhukaṃ manasākāsī’’ti evaṃ vuttāya udānapāḷiyā (udā. 1) imissā ca khandhakapāḷiyā avirodhaṃ dassetuṃ ‘‘udāne panā’’tiādi āraddhaṃ. Ettha tassa vasenāti tassa paccayākārapajānanassa paccayakkhayādhigamassa ca vasena. Ekekameva koṭṭhāsanti anulomapaṭilomesu ekekameva koṭṭhāsaṃ. Pāṭipadarattiyā evaṃ manasākāsīti rattiyā tīsupi yāmesu anulomapaṭilomaṃyeva manasākāsi. Bhagavā kira ṭhapetvā ratanagharasattāhaṃ sesesu chasu sattāhesu antarantarā dhammaṃ paccavekkhitvā yebhuyyena vimuttisukhapaṭisaṃvedī vihāsi, ratanagharasattāhe pana abhidhammapavicayavaseneva vihāsi. Tasmā antarantarā dhammapaccavekkhaṇavasena uppāditamanasikāresu pāṭipadarattiyā uppāditaṃ manasikāraṃ sandhāya imissaṃ khandhakapāḷiyaṃ evaṃ vuttanti adhippāyo.
Bây giờ, để trình bày sự không mâu thuẫn giữa bản Pāḷi của Kinh Phật Tự Thuyết (udā. 1) đã được nói như sau: “Và rồi, vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngồi kiết-già trong bảy ngày, cảm thọ lạc giải thoát. Khi ấy, sau bảy ngày đó, đức Thế Tôn xuất khỏi định ấy và đã tác ý kỹ lưỡng về Duyên Khởi theo chiều thuận trong canh đầu của đêm. Ngài đã tác ý kỹ lưỡng về Duyên Khởi theo chiều nghịch trong canh giữa của đêm. Ngài đã tác ý kỹ lưỡng về Duyên Khởi theo chiều thuận và chiều nghịch trong canh cuối của đêm,” và bản Pāḷi của thiên này, (đoạn) bắt đầu bằng “Nhưng trong Kinh Phật Tự Thuyết” đã được bắt đầu. Ở đây, (cụm từ) “nhờ vào điều đó” có nghĩa là nhờ vào sự hiểu biết về cách thức của duyên và sự chứng ngộ về sự đoạn diệt của duyên. (Cụm từ) “chỉ từng phần một” có nghĩa là chỉ từng phần một trong chiều thuận và chiều nghịch. (Câu) “đã tác ý như vậy trong đêm đầu tiên” có nghĩa là ngài đã tác ý theo cả chiều thuận và chiều nghịch trong cả ba canh của đêm. Tương truyền, đức Thế Tôn, ngoại trừ bảy ngày ở nhà châu báu, trong sáu tuần lễ còn lại, ngài đã an trú phần lớn trong việc cảm thọ lạc giải thoát, thỉnh thoảng quán xét giáo pháp. Nhưng trong bảy ngày ở nhà châu báu, ngài đã an trú chỉ bằng cách khảo sát Vi Diệu Pháp. Do đó, ý nghĩa là: trong số các sự tác ý đã được phát sinh do việc quán xét giáo pháp thỉnh thoảng, bản Pāḷi của thiên này đã nói như vậy là nhắm đến sự tác ý đã được phát sinh trong đêm đầu tiên.

Bodhikathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Giác Ngộ đã kết thúc.

Ajapālakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Cây Bàng Của Người Chăn Dê

4.Tassa sattāhassa accayenāti pallaṅkasattāhassa apagamanena. Tamhā samādhimhā vuṭṭhahitvāti tato arahattaphalasamāpattisamādhito yathākālaparicchedaṃ vuṭṭhahitvā. Aññepi buddhattakarāti visākhapuṇṇamito paṭṭhāya rattindivaṃ evaṃ niccasamāhitabhāvahetubhūtānaṃ buddhaguṇānaṃ upari aññepi buddhattasādhakā. ‘‘Ayaṃ buddho’’ti buddhabhāvassa paresaṃ vibhāvanā dhammā kiṃ nu kho santīti yojanā. Ekaccānaṃ devatānanti yā adhigatamaggā sacchikatanirodhā ekapadesena buddhaguṇe jānanti, tā ṭhapetvā tadaññāsaṃ devatānaṃ. Animisehīti dhammapītivipphāravasena pasādavibhāvaniccaladalatāya nimesarahitehi. Ratanacaṅkameti devatāhi māpite ratanamayacaṅkame. ‘‘Ratanabhūtānaṃ sattannaṃ pakaraṇānaṃ tattha ca anuttarassa dhammaratanassa sammasanena taṃ ṭhānaṃ ratanagharacetiyaṃ nāma jāta’’ntipi vadanti. Teneva aṭṭhasāliniyaṃ (dha. sa. aṭṭha. nidānakathā) ‘‘ratanagharaṃ nāma na ratanamayaṃ gehaṃ, sattannaṃ pana pakaraṇānaṃ sammasitaṭṭhānaṃ ratanagharanti veditabba’’nti vuttaṃ.
4. (Cụm từ) “Sau khi bảy ngày ấy trôi qua” có nghĩa là sau khi bảy ngày ngồi kiết-già trôi qua. (Cụm từ) “sau khi xuất khỏi định ấy” có nghĩa là sau khi xuất khỏi định quả A-la-hán ấy theo thời gian đã được xác định. (Câu hỏi) “các pháp tạo nên Phật quả khác”: ngoài các Phật đức vốn là nhân cho trạng thái nhập định liên tục như vậy cả ngày lẫn đêm kể từ ngày rằm tháng Vesākha, liệu có các pháp nào khác tạo nên Phật quả, tức là các pháp làm sáng tỏ trạng thái Phật cho người khác, chăng? (Cần được) liên kết như vậy. (Cụm từ) “của một số chư thiên”: ngoại trừ các vị đã chứng đắc đạo quả, đã thể nhập Niết-bàn, và biết được các Phật đức ở một mức độ nào đó, (đây là nói về) các vị chư thiên khác. (Với đôi mắt) “không chớp”: với đôi mắt không chớp do lòng thành kính biểu hiện sự vững chãi, do sự lan tỏa của niềm vui trong giáo pháp. (Trên) “lối đi kinh hành bằng châu báu”: trên lối đi kinh hành bằng châu báu do chư thiên tạo ra. Người ta cũng nói rằng: “Nơi ấy được gọi là điện thờ nhà châu báu do việc quán xét bảy bộ sách vốn là châu báu và pháp bảo vô thượng ở đó.” Chính vì thế, trong sách Aṭṭhasālinī (dha. sa. aṭṭha. nidānakathā) đã nói rằng: “‘nhà châu báu’ không phải là một ngôi nhà bằng châu báu, mà nên được hiểu rằng nhà châu báu là nơi đã quán xét bảy bộ sách.”

Kasmā panāyaṃ ajapālanigrodho nāma jātoti āha ‘‘tassa kirā’’tiādi. Keci pana ‘‘yasmā tattha vede sajjhāyituṃ asamatthā mahallakabrāhmaṇā pākāraparikkhepayuttāni nivesanāni katvā sabbe vasiṃsu, tasmāssa ‘ajapālanigrodho’ti nāmaṃ jāta’’nti vadanti. Tatrāyaṃ vacanattho – na japantīti ajapā, mantānaṃ anajjhāyakāti attho. Ajapā lanti ādiyanti nivāsaṃ etthāti ajapāloti. Apare pana vadanti ‘‘yasmā majjhanhike samaye anto paviṭṭhe aje attano chāyāya pāleti rakkhati, tasmā ‘ajapālo’tissa nāmaṃ ruḷha’’nti. Sabbathāpi nāmametaṃ tassa rukkhassa.
Vậy tại sao cây bàng này lại có tên là Ajapāla? (Ngài Phụ Chú Giải) nói (câu) bắt đầu bằng “Tương truyền rằng của cây ấy.” Tuy nhiên, một số vị nói rằng: “Bởi vì các vị bà-la-môn già không có khả năng tụng đọc kinh Vệ-đà đã xây dựng các nơi ở có hàng rào bao quanh và tất cả đều sống ở đó, do đó nó có tên là ‘cây bàng Ajapāla.’” Ở đây, cách giải thích từ ngữ là như vầy – những người không tụng đọc là ajapā, có nghĩa là những người không học thuộc các câu thần chú. Ajapā la, tức là họ lấy (lanti), chọn (ādiyanti) nơi này làm nơi ở, nên là Ajapālo. Lại có những vị khác nói rằng: “Bởi vì vào lúc giữa trưa, nó bảo vệ, che chở những con dê đã đi vào bên trong bằng bóng của mình, do đó tên gọi ‘Ajapālo’ của nó đã trở nên phổ biến.” Dù thế nào đi nữa, đây cũng là tên của cây ấy.

Vimuttisukhaṃ paṭisaṃvedentoti dhammaṃ vicinantoyeva antarantarā vimuttisukhañca paṭisaṃvedento. ‘‘Dhammaṃ vicinanto vimuttisukhañca paṭisaṃvedento’’ti evaṃ vā ettha pāṭho gahetabbo. Udānaṭṭhakathāyampi (udā. aṭṭha. 4) hi ayameva pāṭho. Dhammaṃ vicinanto cettha evaṃ abhidhamme nayamaggaṃ sammasi paṭhamaṃ dhammasaṅgaṇīpakaraṇaṃ nāma, tato vibhaṅgappakaraṇaṃ, dhātukathāpakaraṇaṃ, puggalapaññattippakaraṇaṃ, kathāvatthuṃ nāma, yamakaṃ nāma, tato mahāpakaraṇaṃ paṭṭhānaṃ nāmāti. Tatthassa saṇhasukhumaṭṭhānamhi citte otiṇṇe pīti uppajji, pītiyā uppannāya lohitaṃ pasīdi, lohite pasanne chavi pasīdi, chaviyā pasannāya puratthimakāyato kūṭāgārādippamāṇā rasmiyo uṭṭhahitvā ākāse pakkhandaṃ chaddantanāgakulaṃ viya pācīnadisāya anantāni cakkavāḷāni pakkhandā. Pacchimakāyato uṭṭhahitvā pacchimadisāya, dakkhiṇaṃsakūṭato uṭṭhahitvā dakkhiṇadisāya, vāmaṃsakūṭato uṭṭhahitvā uttaradisāya anantāni cakkavāḷāni pakkhandā. Pādatalehi pavāḷaṅkuravaṇṇā rasmiyo nikkhamitvā mahāpathaviṃ vinibbijjha udakaṃ dvidhā bhinditvā vātakkhandhaṃ padāletvā ajaṭākāsaṃ pakkhandā. Sīsato saṃparivattiyamānaṃ maṇidāmaṃ viya nīlavaṇṇarasmivaṭṭi uṭṭhahitvā cha devaloke vinivijjhitvā nava brahmaloke atikkamma ajaṭākāsaṃ pakkhandā. Tasmiṃ divase aparimāṇesu cakkavāḷesu aparimāṇā sattā sabbe suvaṇṇavaṇṇāva ahesuṃ. Taṃ divasañca pana bhagavato sarīrā nikkhantā yāvajjadivasāpi kira tā rasmiyo anantalokadhātuyo gacchantiyeva. Na kevalañca imasmiṃyeva sattāhe dhammaṃ vicinantassa sarīrato rasmiyo nikkhamiṃsu, atha kho ratanagharasattāhepi paṭṭhānaṃ sammasantassa evameva sarīrato rasmiyo nikkhantā evāti veditabbaṃ.
(Vừa) “cảm thọ lạc giải thoát”: vừa khảo sát giáo pháp, vừa thỉnh thoảng cảm nhận lạc giải thoát. Hoặc ở đây nên lấy cách đọc là: “Vừa khảo sát giáo pháp, vừa cảm thọ lạc giải thoát.” Thật vậy, trong Chú Giải Kinh Phật Tự Thuyết (udā. aṭṭha. 4) cũng có cách đọc này. Ở đây, khi khảo sát giáo pháp, ngài đã quán xét con đường phương pháp trong tạng Vi Diệu Pháp như sau: đầu tiên là bộ Pháp Tụ, sau đó là bộ Phân Tích, bộ Chất Ngữ, bộ Nhân Chế Định, sách có tên là Cứu Cánh Luận, sách có tên là Song Đối, sau đó là bộ sách vĩ đại có tên là Vị Trí. Ở đó, khi tâm ngài đi vào trạng thái vi tế, hỷ đã sanh khởi. Khi hỷ sanh khởi, huyết trở nên trong sáng. Khi huyết trong sáng, da trở nên trong sáng. Khi da trong sáng, các luồng ánh sáng có kích thước bằng một tòa nhà có chóp nhọn v.v. phát ra từ phần trước của thân, bay vào không trung giống như một đàn voi Chaddanta, đi đến vô số thế giới trong vũ trụ ở phương đông. (Các luồng ánh sáng) phát ra từ phần sau của thân, đi đến phương tây. (Các luồng ánh sáng) phát ra từ chóp vai phải, đi đến phương nam. (Các luồng ánh sáng) phát ra từ chóp vai trái, đi đến phương bắc, đến vô số thế giới trong vũ trụ. Từ lòng bàn chân, các luồng ánh sáng có màu như chồi san hô phóng ra, xuyên qua đại địa, rẽ nước làm đôi, làm tan khối không khí, và đi vào không gian vô tận. Từ đầu, một vòng ánh sáng màu xanh biếc như một chuỗi ngọc đang xoay tròn phát ra, xuyên qua sáu cõi trời, vượt qua chín cõi Phạm thiên, và đi vào không gian vô tận. Vào ngày hôm đó, trong vô số thế giới trong vũ trụ, vô số chúng sanh tất cả đều có màu vàng óng. Và tương truyền rằng, các luồng ánh sáng phát ra từ thân của đức Thế Tôn vào ngày hôm đó cho đến tận ngày nay vẫn đang đi đến vô số cõi thế giới. Không chỉ trong bảy ngày này, các luồng ánh sáng mới phóng ra từ thân khi ngài khảo sát giáo pháp, mà cần phải hiểu rằng trong bảy ngày ở nhà châu báu, khi ngài quán xét bộ Vị Trí, các luồng ánh sáng cũng đã phóng ra từ thân như vậy.

Vuttañhetaṃ aṭṭhasāliniyaṃ (dha. sa. aṭṭha. nidānakathā) –
Điều này đã được nói trong sách Aṭṭhasālinī (dha. sa. aṭṭha. nidānakathā) –

‘‘Imesu ca ekavīsatiyā divasesu ekadivasepi satthu sarīrato rasmiyo na nikkhantā, catutthe pana sattāhe pacchimuttarāya disāya ratanaghare nisīdi. Tattha dhammasaṅgaṇiṃ sammasantassapi sarīrato rasmiyo na nikkhantā. Vibhaṅgappakaraṇaṃ, dhātukathaṃ, puggalapaññattiṃ, kathāvatthuppakaraṇaṃ, yamakappakaraṇaṃ sammasantassapi rasmiyo na nikkhantā. Yadā pana mahāpakaraṇaṃ oruyha ‘hetupaccayo ārammaṇapaccayo…pe… avigatapaccayo’ti sammasanaṃ ārabhi, athassa catuvīsatisamantapaṭṭhānaṃ sammasantassa ekantato sabbaññutaññāṇaṃ mahāpakaraṇe okāsaṃ labhi. Yathā hi timirapiṅgalamahāmaccho caturāsītiyojanasahassagambhīre mahāsamuddeyeva okāsaṃ labhati, evameva sabbaññutaññāṇaṃ ekantato mahāpakaraṇeyeva okāsaṃ labhi.
“Trong hai mươi mốt ngày này, không một ngày nào có các luồng ánh sáng phóng ra từ thân của bậc Đạo Sư. Nhưng trong tuần lễ thứ tư, ngài ngồi trong nhà châu báu ở phía tây bắc. Ở đó, ngay cả khi ngài quán xét bộ Pháp Tụ, các luồng ánh sáng cũng không phóng ra từ thân. Ngay cả khi ngài quán xét bộ Phân Tích, Chất Ngữ, Nhân Chế Định, Cứu Cánh Luận, và bộ Song Đối, các luồng ánh sáng cũng không phóng ra. Nhưng khi ngài đi xuống bộ sách vĩ đại và bắt đầu quán xét ‘nhân duyên, sở duyên duyên… này… bất ly khứ duyên,’ khi ấy, trong lúc quán xét hai mươi bốn duyên toàn diện, toàn giác tuệ của ngài đã có được cơ hội trong bộ sách vĩ đại. Giống như con cá lớn Timirapiṅgala chỉ có được cơ hội trong đại dương sâu tám mươi bốn ngàn do-tuần, cũng vậy, toàn giác tuệ chỉ có được cơ hội một cách trọn vẹn trong bộ sách vĩ đại.”

‘‘Satthu evaṃ laddhokāsena sabbaññutaññāṇena yathāsukhaṃ saṇhasukhumadhammaṃ sammasantassa sarīrato nīlapītalohitodātamañjiṭṭhapabhassaravasena chabbaṇṇarasmiyo nikkhamiṃsu. Kesamassūhi ceva akkhīnañca nīlaṭṭhānehi nīlarasmiyo nikkhamiṃsu, yāsaṃ vasena gaganatalaṃ añjanacuṇṇasamokiṇṇaṃ viya umāpupphanīluppaladalasañchannaṃ viya vītipatantamaṇitālavaṇṭaṃ viya sampasāritamecakapaṭaṃ viya ca ahosi. Chavito ceva akkhīnañca pītaṭṭhānehi pītarasmiyo nikkhamiṃsu, yāsaṃ vasena disābhāgā suvaṇṇarasanisiñcamānā viya suvaṇṇapaṭapasāritā viya kuṅkumacuṇṇakaṇikārapupphasamparikiṇṇā viya ca virociṃsu. Maṃsalohitehi ceva akkhīnañca rattaṭṭhānehi lohitarasmiyo nikkhamiṃsu, yāsaṃ vasena disābhāgā cīnapiṭṭhacuṇṇarañjitā viya supakkalākhārasanisiñcamānā viya rattakambalaparikkhittā viya jayasumanapāribaddhakabandhujīvakakusumasamparikiṇṇā viya ca virociṃsu. Aṭṭhīhi ceva dantehi ca akkhīnañca setaṭṭhānehi odātarasmiyo nikkhamiṃsu, yāsaṃ vasena disābhāgā rajatakuṭehi āsiñcamānakhīradhārāsamparikiṇṇā viya pasāritarajatapaṭavitānā viya vītipatantarajatatālavaṇṭā viya kundakumudasindhuvārasumanamallikādikusumasañchannā viya ca virociṃsu. Mañjiṭṭhapabhassarā pana tamhā tamhā sarīrappadesā nikkhamiṃsu. Iti tā chabbaṇṇarasmiyo nikkhamitvā ghanamahāpathaviṃ gaṇhiṃsu.
“Với toàn giác tuệ của bậc Đạo Sư đã có được cơ hội như vậy, khi ngài đang quán xét giáo pháp vi tế một cách tùy thích, sáu loại ánh sáng đã phóng ra từ thân ngài theo các màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đỏ thẫm, và rực rỡ. Từ tóc, râu, và phần màu xanh của mắt, các luồng ánh sáng màu xanh đã phóng ra; nhờ chúng, bầu trời trở nên như được rắc bột hoa sim, như được bao phủ bởi những cánh hoa lanh và hoa sen xanh, như một chiếc quạt bằng ngọc bích đang chuyển động, và như một tấm vải đen được trải rộng. Từ da và phần màu vàng của mắt, các luồng ánh sáng màu vàng đã phóng ra; nhờ chúng, các phương trời tỏa sáng như đang được tưới bằng vàng lỏng, như được trải bằng những tấm lụa vàng, và như được rải đầy bột nghệ tây và hoa kaṇikāra. Từ thịt, máu, và phần màu đỏ của mắt, các luồng ánh sáng màu đỏ đã phóng ra; nhờ chúng, các phương trời tỏa sáng như được tô bằng bột chu sa, như được tưới bằng nước cánh kiến đã được nấu kỹ, như được bao bọc bởi những tấm thảm len đỏ, và như được rải đầy các loại hoa jayasumana, pāribaddhaka, và bandhujīvaka. Từ xương, răng, và phần màu trắng của mắt, các luồng ánh sáng màu trắng đã phóng ra; nhờ chúng, các phương trời tỏa sáng như được rải đầy những dòng sữa đang được rót từ những chiếc bình bạc, như những tấm màn lụa bạc được giăng ra, như những chiếc quạt lá cọ bằng bạc đang chuyển động, và như được bao phủ bởi các loại hoa như kunda, kumuda, sindhuvāra, sumana, và mallikā. Các luồng ánh sáng màu đỏ thẫm và rực rỡ thì phóng ra từ các phần khác nhau của cơ thể. Như vậy, sáu loại ánh sáng ấy sau khi phóng ra đã bao trùm cả đại địa dày đặc.

‘‘Catunahutādhikadviyojanasatasahassabahalā mahāpathavī niddhantasuvaṇṇapiṇḍi viya ahosi. Pathaviṃ bhinditvā heṭṭhā udakaṃ gaṇhiṃsu. Pathavīsandhārakaṃ aṭṭhanahutādhikacatuyojanasatasahassabahalaṃ udakaṃ suvaṇṇakalasehi āsiñcamānavilīnasuvaṇṇaṃ viya ahosi. Udakaṃ vinivijjhitvā vātaṃ aggahesuṃ. Channavutādhikanavayojanasatasahassabahalo vāto samussitasuvaṇṇakkhandho viya ahosi. Vātaṃ vinivijjhitvā heṭṭhā ajaṭākāsaṃ pakkhandiṃsu. Uparibhāgena uggantvāpi catumahārājike gaṇhiṃsu. Te vinivijjhitvā tāvatiṃse, tato yāme, tato tusite, tato nimmānaratī, tato paranimmitavasavattī, tato nava brahmaloke, tato vehapphale, tato pañca suddhāvāse vinivijjhitvā cattāro āruppe gaṇhiṃsu. Cattāro ca āruppe vinivijjhitvā ajaṭākāsaṃ pakkhandiṃsu.
“Đại địa, dày hai trăm ngàn bốn vạn do-tuần, trở nên như một khối vàng đã được tinh luyện. Sau khi xuyên qua đất, chúng bao trùm nước ở bên dưới. Nước, dày bốn trăm ngàn tám vạn do-tuần, vốn nâng đỡ mặt đất, trở nên như vàng đã được nấu chảy đang được rót từ những chiếc bình vàng. Sau khi xuyên qua nước, chúng bao trùm không khí. Không khí, dày chín trăm ngàn chín mươi sáu do-tuần, trở nên như một khối vàng được dựng đứng. Sau khi xuyên qua không khí, chúng đi vào không gian vô tận ở bên dưới. Sau khi đi lên phía trên, chúng bao trùm cõi trời Tứ Đại Thiên Vương. Sau khi xuyên qua chúng, (chúng đến) cõi trời Ba Mươi Ba, rồi cõi trời Dạ-ma, rồi cõi trời Đâu-suất, rồi cõi trời Hóa Lạc Thiên, rồi cõi trời Tha Hóa Tự Tại, rồi chín cõi Phạm thiên, rồi cõi trời Quảng Quả, rồi sau khi xuyên qua năm cõi Tịnh Cư, chúng bao trùm bốn cõi vô sắc. Và sau khi xuyên qua bốn cõi vô sắc, chúng đi vào không gian vô tận.

‘‘Tiriyabhāgehi anantā lokadhātuyo pakkhandiṃsu, ettake ṭhāne candamhi candappabhā natthi, sūriye sūriyappabhā natthi, tārakarūpesu tārakarūpappabhā natthi, devatānaṃ uyyānavimānakapparukkhesu sarīre ābharaṇesūti sabbattha pabhā natthi. Tisahassimahāsahassilokadhātuyā ālokapharaṇasamattho mahābrahmāpi sūriyuggamane khajjopanako viya ahosi, candasūriyatārakarūpadevatuyyānavimānakapparukkhānaṃ paricchedamattakameva paññāyittha. Ettakaṃ ṭhānaṃ buddharasmīhiyeva ajjhotthaṭaṃ ahosi. Ayañca neva buddhānaṃ adhiṭṭhāniddhi, na bhāvanāmayiddhi. Saṇhasukhumadhammaṃ pana sammasato lokanāthassa lohitaṃ pasīdi, vatthurūpaṃ pasīdi, chavivaṇṇo pasīdi. Cittasamuṭṭhānā vaṇṇadhātu samantā asītihatthamatte padese niccalā aṭṭhāsī’’ti.
“Theo chiều ngang, chúng đi vào vô số cõi thế giới. Trong những nơi ấy, ánh sáng của mặt trăng không còn, ánh sáng của mặt trời không còn, ánh sáng của các vì sao không còn, ánh sáng trong các khu vườn, cung điện, cây như ý, trên cơ thể và đồ trang sức của các vị chư thiên, nói chung là không còn ánh sáng ở đâu cả. Vị Đại Phạm Thiên có khả năng chiếu sáng ba nghìn đại thiên thế giới cũng trở nên như con đom đóm lúc mặt trời mọc; người ta chỉ nhận ra được ranh giới của mặt trăng, mặt trời, các vì sao, các vị chư thiên, các khu vườn, cung điện, và cây như ý. Một vùng không gian rộng lớn như vậy chỉ bị bao trùm bởi các luồng ánh sáng của đức Phật. Và đây không phải là thần thông do sự chú nguyện của các đức Phật, cũng không phải là thần thông do tu tập. Mà là khi vị Chúa Tể của thế gian quán xét giáo pháp vi tế, huyết của ngài trở nên trong sáng, sắc vật chất trở nên trong sáng, màu da trở nên trong sáng. Sắc do tâm sanh đã đứng yên không lay động trong một khu vực rộng khoảng tám mươi khuỷu tay xung quanh.”

Evaṃ nisinneti tamhā samādhimhā vuṭṭhahitvā nisinne. Eko brāhmaṇoti nāmagottavasena anabhiññāto apākaṭo eko brāhmaṇo. ‘‘Huṃ hu’’nti karonto vicaratīti sabbaṃ acokkhajātikaṃ passitvā jigucchanto ‘‘huṃ hu’’nti karonto vicarati. Etadavocāti (udā. aṭṭha. 4) etaṃ idāni vattabbaṃ ‘‘kittāvatā nu kho’’tiādivacanaṃ avoca. Tattha kittāvatāti kittakena pamāṇena. Nu-ti saṃsayatthe nipāto, kho-ti padapūraṇe. Bho-ti brāhmaṇānaṃ jātisamudāgataṃ ālapanaṃ. Tathā hi vuttaṃ ‘‘bhovādi nāma so hoti, sace hoti sakiñcano’’ti (dha. pa. 396; su. ni. 625). Gotamāti bhagavantaṃ gottena ālapati. Kathaṃ panāyaṃ brāhmaṇo sampati samāgato bhagavato gottaṃ jānātīti? Nāyaṃ sampati samāgato, chabbassāni padhānakaraṇakāle upaṭṭhahantehi pañcavaggiyehi saddhiṃ caramāno aparabhāge taṃ vataṃ chaḍḍetvā uruvelāyaṃ senanigame eko adutiyo hutvā piṇḍāya caramānopi tena brāhmaṇena diṭṭhapubbo ceva sallapitapubbo ca, tena so pubbe pañcavaggiyehi gayhamānaṃ bhagavato gottaṃ anussaranto ‘‘bho gotamā’’ti bhagavantaṃ gottena ālapati. Yato paṭṭhāya vā bhagavā mahābhinikkhamanaṃ nikkhanto anomānadītīre pabbaji, tato pabhuti ‘‘samaṇo gotamo’’ti cando viya sūriyo viya pākaṭo paññāto hoti, na ca tassa gottajānane kāraṇaṃ gavesitabbaṃ. Brāhmaṇakaraṇāti brāhmaṇaṃ karontīti brāhmaṇakaraṇā, brāhmaṇabhāvakarāti attho. Ettha ca ‘‘kittāvatā’’ti etena yehi dhammehi brāhmaṇo hoti, tesaṃ dhammānaṃ parimāṇaṃ pucchati. ‘‘Katame’’ti pana iminā tesaṃ sarūpaṃ pucchati.
(Khi ngài) “ngồi như vậy” có nghĩa là khi ngài ngồi sau khi đã xuất khỏi định ấy. “Một vị bà-la-môn” là một vị bà-la-môn không được biết đến, không nổi tiếng về tên và dòng họ. “Đi lại và làu bàu ‘huṃ huṃ’”: ông ta đi lại và làu bàu ‘huṃ huṃ’ vì khinh miệt khi thấy tất cả những người thuộc giai cấp không trong sạch. “Đã nói lời này” (udā. aṭṭha. 4): ông ta đã nói lời này sẽ được trích dẫn, bắt đầu bằng “Do mức độ nào…” Trong đó, (từ) “do mức độ nào” có nghĩa là do bao nhiêu. Bất biến từ nu có nghĩa là nghi ngờ, kho là để điền vào chỗ trống. (Từ) “Này ông” là cách gọi theo dòng dõi của các vị bà-la-môn. Thật vậy, đã được nói rằng: “Người ấy được gọi là người nói ‘bho’, nếu người ấy có chút tài sản” (dha. pa. 396; su. ni. 625). (Từ) “Gotama”: ông ta gọi đức Thế Tôn bằng họ. Nhưng làm thế nào mà vị bà-la-môn vừa mới đến này lại biết họ của đức Thế Tôn? Ông ta không phải là người vừa mới đến. Ông ta đã từng thấy và nói chuyện với (đức Thế Tôn) trước đây, khi (đức Thế Tôn) đang đi cùng với nhóm năm vị (kiều-trần-nhu) là những người đã hầu hạ ngài trong sáu năm khổ hạnh; sau này, khi (đức Thế Tôn) từ bỏ khổ hạnh đó và đi khất thực một mình không có người thứ hai ở làng Senānigāma tại Uruvelā, ông ta đã thấy và nói chuyện. Do đó, ông ta nhớ lại họ của đức Thế Tôn mà nhóm năm vị đã dùng trước đây và gọi đức Thế Tôn bằng họ: “Này ông Gotama.” Hoặc kể từ khi đức Thế Tôn thực hiện cuộc đại xuất gia và xuất gia bên bờ sông Anomā, ngài đã trở nên nổi tiếng và được biết đến như mặt trăng, mặt trời với tên gọi “Sa-môn Gotama,” nên không cần phải tìm kiếm lý do tại sao (ông ta) biết họ của ngài. (Các pháp) “làm nên người bà-la-môn” có nghĩa là các pháp làm nên một người bà-la-môn, có nghĩa là các pháp tạo nên trạng thái bà-la-môn. Ở đây, bằng (câu hỏi) “do mức độ nào,” ông ta hỏi về số lượng của các pháp mà nhờ đó một người trở thành bà-la-môn. Còn bằng (câu hỏi) “những pháp nào,” ông ta hỏi về bản chất của chúng.

Udānaṃ udānesīti ‘‘yo brāhmaṇo’’tiādikaṃ udānaṃ udānesi, na pana tassa brāhmaṇassa dhammaṃ desesi. Kasmā? Dhammadesanāya abhājanabhāvato. Tathā hi tassa brāhmaṇassa imaṃ gāthaṃ sutvā na saccābhisamayo ahosi. Yathā ca imassa, evaṃ upakassa ājīvakassa buddhaguṇappakāsanaṃ sutvā. Dhammacakkappavattanato hi pubbabhāge bhagavatā bhāsitaṃ paresaṃ suṇantānampi tapussabhallikānaṃ saraṇadānaṃ viya vāsanābhāgiyameva jātaṃ, na asekkhabhāgiyaṃ vā nibbedhabhāgiyaṃ vā. Esā hi dhammatāti. Vedehi vā antanti ettha antaṃ nāma sabbasaṅkhārapariyosānaṃ nibbānaṃ. Ime ussadā natthīti sabbaso ime pahīnattā na santi.
“Đã thốt lên lời cảm hứng”: ngài đã thốt lên lời cảm hứng bắt đầu bằng “Vị bà-la-môn nào,” chứ không thuyết pháp cho vị bà-la-môn ấy. Tại sao? Vì ông ta không phải là đối tượng thích hợp để thuyết pháp. Thật vậy, sau khi nghe bài kệ này, vị bà-la-môn ấy đã không chứng ngộ chân lý. Giống như trường hợp của ông ta, trường hợp của Upaka, một tu sĩ Ājīvaka, sau khi nghe việc trình bày về các Phật đức cũng vậy. Thật vậy, trước khi chuyển pháp luân, những lời đức Thế Tôn nói cho người khác nghe chỉ mang tính gieo duyên, giống như việc ban quy y cho Tapussa và Bhallika, chứ không mang tính đưa đến trạng thái vô học hay mang tính thâm nhập. Đây chính là pháp tánh. (Câu) “hay sự kết thúc của các kinh Vệ-đà”, ở đây, (từ) “sự kết thúc” là Niết-bàn, sự chấm dứt của tất cả các pháp hữu vi. (Câu) “các sự kiêu mạn này không còn” có nghĩa là chúng không còn tồn tại do đã được từ bỏ hoàn toàn.

Ajapālakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Cây Bàng Của Người Chăn Dê đã kết thúc.

Mucalindakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Rắn Thần Mucalinda

5.Mucalindamūleti (udā. aṭṭha. 11) ettha mucalindo vuccati nīparukkho, yo ‘‘niculo’’tipi vuccati, tassa samīpeti attho. Keci pana ‘‘mucaloti tassa rukkhassa nāmaṃ, vanajeṭṭhakatāya pana mucalindoti vutta’’nti vadanti. Udapādīti sakalacakkavāḷagabbhaṃ pūrento mahāmegho udapādi. Evarūpo kira megho dvīsuyeva kālesu vassati cakkavattimhi vā uppanne buddhe vā, idha buddhuppādakāle udapādi. Pokkharaṇiyā nibbattoti pokkharaṇiyā heṭṭhā nāgabhavanaṃ atthi, tattha nibbatto. Sakabhavanāti attano nāgabhavanato. Evaṃ bhogehi parikkhipitvāti satta vāre attano sarīrabhogehi bhagavato kāyaṃ parivāretvā. Uparimuddhani mahantaṃ phaṇaṃvihaccāti bhagavato muddhappadesassa upari attano mahantaṃ phaṇaṃ pasāretvā. ‘‘Phaṇaṃ karitvā’’tipi pāṭho, soyevattho.
5. (Tại) “gốc cây Mucalinda” (udā. aṭṭha. 11), ở đây, (từ) “mucalindo” được gọi là cây nipa, cũng được gọi là “niculo,” ý nghĩa là ở gần cây ấy. Tuy nhiên, một số vị nói rằng: “‘mucalo’ là tên của cây ấy, nhưng được gọi là ‘mucalindo’ do là cây lớn nhất trong rừng.” (Từ) “đã khởi lên”: một đám mây lớn đã khởi lên, bao trùm toàn bộ không gian của thế giới trong vũ trụ. Tương truyền rằng, một đám mây như vậy chỉ mưa trong hai trường hợp: khi một vị Chuyển Luân Vương xuất hiện hoặc khi một vị Phật xuất hiện; ở đây, nó đã khởi lên vào lúc đức Phật xuất hiện. (Con rắn thần) “sinh ra từ hồ sen”: có một cung điện của loài rắn thần ở bên dưới hồ sen, (nó) đã sinh ra ở đó. (Từ) “cung điện của mình”: từ cung điện của loài rắn thần của mình. “Đã quấn (đức Phật) bằng các khoanh của mình như vậy”: đã bao bọc thân của đức Thế Tôn bằng các khoanh thân của mình bảy lần. “Và đã xòe chiếc mang lớn của mình trên đầu (đức Phật)”: đã giương chiếc mang lớn của mình ở trên vùng đầu của đức Thế Tôn. Cũng có cách đọc là “phaṇaṃ karitvā” (đã làm thành chiếc mang), ý nghĩa cũng như vậy.

Tassa kira nāgarājassa etadahosi ‘‘bhagavā ca mayhaṃ bhavanasamīpe rukkhamūle nisinno, ayañca sattāhavaddalikā vattati, vāsāgāramassa laddhuṃ vaṭṭatī’’ti. So sattaratanamayaṃ pāsādaṃ nimminituṃ sakkontopi ‘‘evaṃ kate kāyasāro gahito na bhavissati, dasabalassa kāyaveyyāvaccaṃ karissāmī’’ti mahantaṃ attabhāvaṃ katvā satthāraṃ sattakkhattuṃ bhogehi parikkhipitvā upari phaṇaṃ dhāresi. ‘‘Tassa parikkhepabbhantaraṃ lohapāsāde bhaṇḍāgāragabbhappamāṇaṃ ahosī’’ti idha vuttaṃ. Majjhimaṭṭhakathāyaṃ (ma. ni. aṭṭha. 1.284) pana –
Tương truyền rằng, vị long vương ấy đã nghĩ như sau: “Đức Thế Tôn đang ngồi ở gốc cây gần cung điện của ta, và cơn mưa bão bảy ngày này đang diễn ra. Ngài nên có một nơi trú ngụ.” Mặc dù có thể tạo ra một cung điện bằng bảy loại châu báu, nhưng vị ấy đã nghĩ: “Nếu làm như vậy, sự phục vụ về thân sẽ không được thực hiện. Ta sẽ hầu hạ về thân cho bậc Thập Lực.” và đã hóa thành một thân hình to lớn, quấn quanh bậc Đạo Sư bảy vòng bằng các khoanh của mình và che chiếc mang ở phía trên. Ở đây, đã được nói rằng: “Không gian bên trong vòng quấn của nó có kích thước bằng một kho tàng trong điện Lâu Đài Đồng.” Nhưng trong sách Chú Giải Trung Bộ (ma. ni. aṭṭha. 1.284) thì nói rằng –

‘‘Parikkhepassa anto okāso heṭṭhā lohapāsādappamāṇo ahosi, ‘icchiticchitena iriyāpathena satthā viharissatī’ti nāgarājassa ajjhāsayo ahosi, tasmā evaṃ mahantaṃ okāsaṃ parikkhipi, majjhe ratanapallaṅko paññatto hoti, upari suvaṇṇatārakavicittaṃ samosaritagandhadāmakusumacelavitānaṃ ahosi, catūsu koṇesu gandhatelena dīpā jalitā, catūsu disāsu vivaritvā candanakaraṇḍakā ṭhapitā’’ti –
“Không gian bên trong vòng quấn ở phía dưới có kích thước bằng điện Lâu Đài Đồng. Ý định của vị long vương là: ‘Bậc Đạo Sư sẽ an trú với oai nghi theo ý muốn.’ Do đó, vị ấy đã quấn một không gian lớn như vậy. Ở giữa, một chiếc giường bằng châu báu đã được chuẩn bị sẵn. Ở phía trên, có một tấm màn che bằng vải được trang trí bằng các ngôi sao vàng và các vòng hoa thơm, hoa, và vải đã được sắp xếp. Ở bốn góc, các ngọn đèn dầu thơm được thắp sáng. Ở bốn phương, các hộp đựng gỗ đàn hương được mở ra và đặt sẵn.” –

Vuttaṃ. Icchiticchitena iriyāpathena viharissatīti ca nāgarājassa ajjhāsayamattametaṃ, bhagavā pana yathānisinnova sattāhaṃ vītināmesi.
Đã được nói như vậy. Và (câu) “sẽ an trú với oai nghi theo ý muốn” chỉ là ý định của vị long vương, còn đức Thế Tôn đã trải qua bảy ngày trong tư thế ngồi như cũ.

Kiñcāpi…pe… cintetuṃ yuttanti ettha keci vadanti ‘‘uṇhaggahaṇaṃ bhogaparikkhepassa vipulabhāvakaraṇe kāraṇakittanaṃ. Khuddake hi tasmiṃ bhagavantaṃ nāgarājassa sarīrasambhūtā usmā bādheyya, vipulabhāvakaraṇena pana tādisaṃ mā uṇhaṃ bādhayitthā’’ti. Saupasaggapadassa attho upasaggena vināpi viññāyatīti āha ‘‘viddhanti ubbiddha’’nti, sā cassa ubbiddhatā upakkilesavigamena dūrabhāvena upaṭṭhānanti āha ‘‘meghavigamena dūrībhūta’’nti. Indanīlamaṇi viya dibbati jotatīti devo, ākāso. Viditvāti ‘‘idāni vigatavalāhako ākāso, natthi bhagavato sītādiupaddavo’’ti ñatvā. Viniveṭhetvāti apanetvā. Attanorūpanti attano nāgarūpaṃ. Paṭisaṃharitvāti antaradhāpetvā. Māṇavakavaṇṇanti kumārakarūpaṃ.
(Về câu) “Mặc dù… này… là hợp lý để suy xét,” ở đây, một số vị nói rằng: “việc đề cập đến hơi nóng là để nêu lý do cho việc làm cho vòng quấn trở nên rộng lớn. Vì nếu nó nhỏ, hơi nóng từ thân của vị long vương có thể làm phiền đức Thế Tôn, nhưng do việc làm cho nó rộng lớn, hơi nóng như vậy sẽ không làm phiền.” (Ngài Phụ Chú Giải) nói rằng ý nghĩa của một từ có tiếp đầu ngữ cũng có thể được hiểu khi không có tiếp đầu ngữ: “‘viddha’ là ‘ubbiddha’ (quang đãng),” và (ngài Phụ Chú Giải) nói rằng sự quang đãng của nó là do sự xa lìa các phiền não, ở đây là do sự tan đi của mây: “đã trở nên xa xôi do sự tan đi của mây.” Tỏa sáng, chiếu rọi như một viên ngọc indanīla là devo, tức là bầu trời. (Từ) “sau khi biết”: sau khi biết rằng “bây giờ bầu trời đã tan mây, không còn sự nguy hại nào như lạnh giá v.v. đối với đức Thế Tôn.” (Từ) “sau khi tháo ra”: sau khi cởi bỏ. (Hình dạng) “của chính mình”: hình dạng rắn thần của mình. (Từ) “sau khi thu lại”: sau khi làm cho biến mất. (Hình dạng) “của một chàng thanh niên”: hình dạng của một cậu bé.

Etamatthaṃviditvāti ‘‘vivekasukhapaṭisaṃvedino yattha katthaci sukhameva hotī’’ti etaṃ atthaṃ sabbākārena jānitvā. Imaṃ udānanti imaṃ vivekasukhānubhāvadīpakaṃ udānaṃ udānesi. Sutadhammassāti vissutadhammassa. Tenāha ‘‘pakāsitadhammassā’’ti. Akuppanabhāvoti akuppanasabhāvo.
“Sau khi biết được ý nghĩa này”: sau khi biết được ý nghĩa này về mọi phương diện rằng “đối với người cảm nhận được lạc của sự vắng lặng, ở bất cứ đâu cũng chỉ có an lạc.” (Lời cảm hứng) “này”: ngài đã thốt lên lời cảm hứng này để thể hiện kinh nghiệm về lạc của sự vắng lặng. (Của người) “có giáo pháp đã được nghe”: của người có giáo pháp đã được nổi tiếng. Do đó, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “của người có giáo pháp đã được trình bày.” (Trạng thái) “không bị lay chuyển”: bản chất không bị lay chuyển.

Mucalindakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Rắn Thần Mucalinda đã kết thúc.

Rājāyatanakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Cây Rājāyatana

6.Osadhaharītakaṃ upanesīti na kevalaṃ osadhaharītakameva, dantakaṭṭhampi upanesi. Paccaggheti ettha purimaṃ atthavikappaṃ keci na icchanti, teneva ācariyadhammapālattherena vuttaṃ ‘‘paccaggheti abhinave. Paccekaṃ mahagghatāya paccaggheti keci, taṃ na sundaraṃ. Na hi buddhā bhagavanto mahagghaṃ paṭiggaṇhanti paribhuñjanti vā’’ti.
6. (Sakka) “đã dâng quả harītaka làm thuốc”: không chỉ dâng quả harītaka làm thuốc, mà còn cả que tăm xỉa răng. Về (từ) “paccagghe” (tươi mới/đắt tiền), một số vị không chấp nhận cách giải thích ý nghĩa đầu tiên; chính vì thế, trưởng lão Giáo Thọ Sư Dhammapāla đã nói: “‘paccagghe’ có nghĩa là tươi mới. Một số vị nói rằng ‘paccagghe’ có nghĩa là mỗi thứ đều có giá trị lớn, điều đó không hay. Vì các đức Phật, các đấng Thế Tôn, không nhận hoặc không sử dụng những thứ có giá trị lớn.”

Rājāyatanakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Cây Rājāyatana đã kết thúc.

Brahmayācanakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Phạm Thiên Thỉnh Cầu

7.Āciṇṇasamāciṇṇoti ācarito ceva ācarantehi ca sammadeva ācaritoti attho. Etena ayaṃ parivitakko sabbabuddhānaṃ paṭhamābhisambodhiyaṃ uppajjatevāti ayamettha dhammatāti dasseti. Gambhīropi dhammo paṭipakkhavidhamanena supākaṭo bhaveyya, paṭipakkhavidhamanaṃ pana sammāpaṭipattipaṭibaddhaṃ, sā saddhammasavanādhīnā, taṃ satthari dhamme ca pasādāyattaṃ. So visesato loke sambhāvanīyassa garukātabbassa abhipatthanāhetukoti paramparāya sattānaṃ dhammasampaṭipattiyā brahmuno yācanānimittanti taṃ dassento ‘‘brahmunā yācite desetukāmatāyā’’tiādimāha.
7. (Từ) “Āciṇṇasamāciṇṇo” có nghĩa là đã được thực hành và đã được thực hành một cách đúng đắn bởi những người thực hành. Bằng điều này, (ngài Phụ Chú Giải) trình bày rằng sự suy tư này chắc chắn sanh khởi trong lần giác ngộ đầu tiên của tất cả các đức Phật; đây là pháp tánh ở đây. Giáo pháp dù sâu sắc cũng có thể trở nên rõ ràng bằng cách loại bỏ các pháp đối nghịch, nhưng việc loại bỏ các pháp đối nghịch lại phụ thuộc vào sự thực hành đúng đắn, điều đó lại tùy thuộc vào việc lắng nghe chánh pháp, điều đó lại tùy thuộc vào lòng tin đối với bậc đạo sư và giáo pháp. Lòng tin đó đặc biệt là do sự thỉnh cầu của một bậc đáng được tôn kính trong thế gian, do đó, một cách gián tiếp, sự thỉnh cầu của Phạm thiên là điều kiện tiên quyết cho sự thực hành đúng đắn giáo pháp của chúng sanh. Để trình bày điều đó, (ngài Chú Giải) đã nói câu bắt đầu bằng “do có ý muốn thuyết giảng khi được Phạm thiên thỉnh cầu.”

Adhigatoti paṭividdho, sayambhūñāṇena ‘‘idaṃ dukkha’’ntiādinā yathābhūtaṃ avabuddhoti attho. Dhammoti catusaccadhammo tabbinimuttassa paṭivijjhitabbadhammassa abhāvato. Gambhīroti mahāsamuddo viya makasatuṇḍasūciyā aññatra samupacitaparipakkañāṇasambhārehi aññesaṃ ñāṇena alabbhaneyyapatiṭṭho. Gambhīrattāva duddaso dukkhena daṭṭhabbo, na sakkā sukhena daṭṭhuṃ. Yo hi alabbhaneyyapatiṭṭho, so ogāhituṃ asakkuṇeyyatāya sarūpato ca visesato ca sukhena passituṃ na sakkā, atha kho kicchena kenaci kadācideva daṭṭhabbo. Duddasattāva duranubodho dukkhena avabujjhitabbo, na sakkā sukhena avabujjhituṃ. Yañhi daṭṭhumeva na sakkā, tassa ogāhetvā anubujjhane kathā eva natthi avabodhassa dukkarabhāvato. Imasmiṃ ṭhāne ‘‘taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, katamaṃ nu kho dukkarataraṃ vā durabhisambhavataraṃ vā’’ti (saṃ. ni. 5.1115) suttapadaṃ vattabbaṃ.
(Giáo pháp) “đã được chứng ngộ” có nghĩa là đã được thâm nhập, đã được hiểu biết như thật bằng tự giác tuệ theo cách “đây là khổ” v.v… (Từ) “Giáo pháp” là giáo pháp về bốn chân lý, do không có giáo pháp nào khác ngoài đó cần được thâm nhập. (Từ) “sâu sắc”: giống như đại dương, nền tảng của nó không thể đạt tới bằng trí tuệ của người khác, ngoại trừ những người có các yếu tố trí tuệ đã được tích lũy và chín muồi, giống như (đáy đại dương) không thể đạt tới bằng vòi của con muỗi hay mũi kim. Chính vì sâu sắc nên (từ) “khó thấy”, khó có thể thấy được, không thể thấy một cách dễ dàng. Thật vậy, điều gì mà nền tảng không thể đạt tới thì không thể thấy một cách dễ dàng cả về bản chất lẫn chi tiết do không thể lặn sâu vào được, mà chỉ có thể được thấy một cách khó khăn bởi một người nào đó vào một lúc nào đó. Chính vì khó thấy nên (từ) “khó hiểu”, khó có thể hiểu được, không thể hiểu một cách dễ dàng. Vì điều gì mà ngay cả thấy cũng không thể thì không cần phải bàn đến việc thâm nhập và hiểu biết, do sự hiểu biết là điều khó làm. Ở đây, nên trích dẫn câu kinh này: “Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao, điều nào là khó làm hơn, hay khó đạt được hơn?” (saṃ. ni. 2.1115).

Santoti anupasantasabhāvānaṃ kilesānaṃ saṅkhārānañca abhāvato vūpasantasabbapariḷāhatāya santo nibbuto, santārammaṇatāya vā santo. Ettha ca nirodhasaccaṃ santaṃ ārammaṇanti santārammaṇaṃ, maggasaccaṃ santaṃ santārammaṇañcāti santārammaṇaṃ. Padhānabhāvaṃ nītoti paṇīto. Atha vā paṇītoti atittikaraṇaṭṭhena atappako sādurasabhojanaṃ viya. Santapaṇītabhāveneva cettha asecanakatāya atappakatā daṭṭhabbā. Idañhi dvayaṃ lokuttarameva sandhāya vuttaṃ. Atakkāvacaroti uttamañāṇavisayattā takkena avacaritabbo ogāhitabbo na hoti, ñāṇeneva avacaritabbo. Tato eva nipuṇañāṇagocaratāya saṇhasukhumasabhāvattā ca nipuṇo saṇho. Paṇḍitavedanīyoti bālānaṃ avisayattā sammāpaṭipadaṃ paṭipannehi paṇḍitehi eva veditabbo.
(Từ) “tịch tịnh”: do không có các phiền não và các hành vốn có bản chất không tịch tịnh, và do tất cả các nhiệt não đã được lắng dịu nên là tịch tịnh, đã được dập tắt; hoặc là tịch tịnh do có đối tượng tịch tịnh. Ở đây, đế diệt là đối tượng tịch tịnh, nên (kinh gọi là) đối tượng tịch tịnh. Đế đạo vừa tịch tịnh vừa có đối tượng tịch tịnh, nên (kinh gọi là) đối tượng tịch tịnh. Đã được đưa đến trạng thái cao tột nên (từ) “cao siêu”. Hoặc (từ) “cao siêu” giống như một bữa ăn có vị ngon không gây nhàm chán theo nghĩa không làm cho thỏa mãn. Ở đây, cần được hiểu rằng trạng thái không nhàm chán, không thỏa mãn là do tính chất tịch tịnh và cao siêu. Hai điều này được nói đến nhắm vào pháp siêu thế. (Từ) “vượt ngoài tầm lý luận”: do là đối tượng của trí tuệ tối thượng nên không thể được thâm nhập, lặn sâu vào bằng lý luận, mà chỉ có thể được thâm nhập bằng trí tuệ. Chính vì thế, do là đối tượng của trí tuệ tinh tế và do có bản chất vi tế, (nên kinh gọi là) (từ) “tinh tế, vi tế”. (Từ) “chỉ người trí mới biết”: do không phải là đối tượng của kẻ ngu nên chỉ có thể được biết bởi những người trí đã thực hành con đường đúng đắn.

Allīyanti abhiramitabbaṭṭhena seviyantīti ālayā, pañca kāmaguṇāti āha ‘‘sattā pañcakāmaguṇe allīyanti, tasmā te ālayāti vuccantī’’ti. Tattha pañcakāmaguṇe allīyantīti pañcakāmaguṇe sevantīti attho. Teti pañca kāmaguṇā. Ramantīti ratiṃ vindanti kīḷanti laḷanti. Ālīyanti abhiramaṇavasena sevantīti ālayā, aṭṭhasataṃ taṇhāvicaritāni, tehi ālayehi ramantīti ālayarāmāti evampettha attho daṭṭhabbo. Ime hi sattā yathā kāmaguṇe, evaṃ rāgampi assādenti abhinandantiyeva. Yatheva hi susajjitapupphaphalabharitarukkhādisampannaṃ uyyānaṃ paviṭṭho rājā tāya tāya sampattiyā ramati, sammudito āmoditapamodito hoti, na ukkaṇṭhati, sāyampi nikkhamituṃ na icchati, evamimehi kāmālayataṇhālayehi sattā ramanti, saṃsāravaṭṭe sammoditā anukkaṇṭhitā vasanti. Tena nesaṃ bhagavā duvidhampi ālayaṃ uyyānabhūmiṃ viya dassento ‘‘ālayarāmā’’tiādimāha. Ratāti niratā. Suṭṭhu muditāti ativiya muditā anukkaṇṭhanato.
Chúng được bám víu, được ưa thích theo nghĩa đáng được hoan hỷ, nên là ái luyến, tức là năm dục; (ngài Phụ Chú Giải) nói: “Chúng sanh bám víu vào năm dục, do đó chúng được gọi là ái luyến.” Trong đó, (câu) “bám víu vào năm dục” có nghĩa là ưa thích năm dục. (Từ) “chúng” là năm dục. (Từ) “vui thích”: họ tìm thấy sự vui thích, họ chơi đùa, họ ham mê. Họ bám víu, ưa thích theo nghĩa hoan hỷ, nên là ái luyến, tức là một trăm tám cách biểu hiện của tham ái; họ vui thích trong những ái luyến ấy nên là (người) “vui trong ái luyến”. Ở đây, ý nghĩa cần được hiểu như vậy. Thật vậy, những chúng sanh này, giống như đối với các dục, họ cũng nếm trải và hoan hỷ trong ái luyến. Giống như một vị vua đi vào một khu vườn đầy những cây cối được trang trí đẹp đẽ, trĩu nặng hoa trái, vui thích với những cảnh vật đó, hoan hỷ, vui mừng, thích thú, không chán nản, và ngay cả đến chiều cũng không muốn rời đi, cũng vậy, những chúng sanh này vui thích với các ái luyến về dục và ái luyến về tham ái, họ sống hoan hỷ, không chán nản trong vòng luân hồi. Do đó, để trình bày cả hai loại ái luyến của họ giống như một khu vườn, đức Thế Tôn đã nói câu bắt đầu bằng “vui trong ái luyến.” (Từ) “say mê”: đắm chìm. (Từ) “vui mừng khôn xiết”: vui mừng quá mức do không chán nản.

Ṭhānaṃ sandhāyāti ṭhānasaddaṃ sandhāya. Atthato pana ṭhānanti ca paṭiccasamuppādo eva adhippeto . Tiṭṭhati ettha phalaṃ tadāyattavuttitāyāti ṭhānaṃ, saṅkhārādīnaṃ paccayabhūtā avijjādayo. Imesaṃ saṅkhārādīnaṃ paccayāti idappaccayā, avijjādayova. Idappaccayā eva idappaccayatā yathā devo eva devatā. Idappaccayānaṃ vā avijjādīnaṃ attano phalaṃ paṭicca paccayabhāvo uppādanasamatthatā idappaccayatā. Tena samatthapaccayalakkhaṇo paṭiccasamuppādo dassito hoti. Paṭicca samuppajjati phalaṃ etasmāti paṭiccasamuppādo. Padadvayenapi dhammānaṃ paccayaṭṭho eva vibhāvito. Saṅkhārādipaccayānañhi avijjādīnaṃ etaṃ adhivacanaṃ idappaccayatāpaṭiccasamuppādoti. Sabbasaṅkhārasamathotiādi sabbaṃ atthato nibbānameva. Yasmā hi taṃ āgamma paṭicca ariyamaggassa ārammaṇapaccayabhāvahetu sabbasaṅkhāravipphanditāni sammanti vūpasammanti, tasmā ‘‘sabbasaṅkhārasamatho’’ti vuccati. Sabbasaṅkhatavisaṃyutte hi nibbāne saṅkhāravūpasamapariyāyo ñāyāgatoyevāti. Idaṃ panettha nibbacanaṃ – sabbe saṅkhārā sammanti etthāti sabbasaṅkhārasamathoti.
“Nhắm đến từ ‘nền tảng’”: nhắm đến từ nền tảng. Nhưng về mặt ý nghĩa, (từ) “nền tảng” được hiểu chính là Duyên Khởi. Quả đứng vững ở đây do sự tồn tại của nó phụ thuộc vào đó, nên là nền tảng, tức là vô minh v.v. vốn là duyên cho các hành v.v… Duyên của các hành v.v. này là các duyên này, tức chính là vô minh v.v… Các duyên này chính là duyên tánh này, giống như deva chính là devatā. Hoặc trạng thái làm duyên, tức là khả năng sanh khởi, của các duyên này là vô minh v.v. đối với quả của chúng là duyên tánh này. Bằng điều đó, Duyên Khởi có đặc tính là các duyên có năng lực được trình bày. Quả sanh khởi do duyên vào cái này nên là Duyên Khởi. Bằng cả hai từ, ý nghĩa làm duyên của các pháp đã được làm sáng tỏ. Duyên tánh này, Duyên Khởi là tên gọi của vô minh v.v. vốn là duyên của các hành v.v… (Cụm từ) “sự tịch tịnh của tất cả các hành” v.v. tất cả về mặt ý nghĩa đều chính là Niết-bàn. Bởi vì, do nương vào nó, do nó là nhân duyên làm đối tượng cho Thánh đạo, tất cả các sự dao động của các hành đều được an tịnh, lắng dịu, do đó nó được gọi là “sự tịch tịnh của tất cả các hành.” Thật vậy, trong Niết-bàn vốn không liên quan đến các pháp hữu vi, cách gọi “sự lắng dịu của các hành” là hợp lý. Đây là cách giải thích từ ngữ ở đây – tất cả các hành được an tịnh ở đây nên là sự tịch tịnh của tất cả các hành.

Yasmā ca taṃ āgamma sabbe upadhayo paṭinissaṭṭhā samucchedavasena pariccattā honti, aṭṭhasatappabhedā sabbāpi taṇhā khīyanti, sabbe kilesarāgā virajjanti, jarāmaraṇādibhedaṃ sabbaṃ vaṭṭadukkhaṃ nirujjhati, tasmā ‘‘sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodho’’ti vuccati, yā panesā taṇhā tena tena bhavena bhavantaraṃ bhavanikantibhāvena vinati saṃsibbati, phalena vā saddhiṃ kammaṃ vinati saṃsibbatīti katvā vānanti vuccati, tato nikkhantaṃ vānatoti nibbānaṃ. Kilamathoti kāyakilamatho. Vihesāpi kāyavihesāyeva, citte pana ubhayampetaṃ buddhānaṃ natthi bodhimūleyeva samucchinnattā. Ettha ca ciranisajjācirabhāsanehi piṭṭhiāgilāyanatālugalasosādivasena kāyakilamatho ceva kāyavihesā ca veditabbā, sā ca kho desanāya atthaṃ ajānantānañca appaṭipajjantānañca vasena. Jānantānaṃ pana paṭipajjantānañca desanāya kāyaparissamopi satthu aparissamova, tenāha bhagavā ‘‘na ca maṃ dhammādhikaraṇaṃ vihesetī’’ti. Teneva vuttaṃ ‘‘yā ajānantānaṃ desanā nāma, so mama kilamatho assā’’ti.
Và bởi vì, do nương vào nó, tất cả các chấp thủ được từ bỏ, được đoạn tuyệt bằng cách đoạn diệt tận gốc; tất cả một trăm tám loại tham ái đều được tiêu diệt; tất cả các ái nhiễm phiền não đều được ly tan; tất cả các khổ trong vòng luân hồi như già, chết v.v. đều được đoạn diệt, do đó nó được gọi là “sự từ bỏ tất cả các chấp thủ, sự tiêu diệt của tham ái, sự ly tham, sự đoạn diệt.” Còn tham ái được gọi là vāna (rừng rậm, sự ràng buộc) vì nó dệt (vinati), khâu vá (saṃsibbati) từ kiếp này sang kiếp khác bằng trạng thái ham muốn trong các cõi, hoặc vì nó dệt nghiệp cùng với quả; trạng thái thoát ra khỏi vāna đó là Niết-bàn. (Từ) “sự mệt mỏi” là sự mệt mỏi về thân. Sự phiền muộn cũng chỉ là sự phiền muộn về thân, còn về tâm, cả hai điều này đều không có ở các đức Phật vì đã được đoạn diệt tận gốc tại cội bồ đề. Ở đây, sự mệt mỏi về thân và sự phiền muộn về thân cần được hiểu là sự đau lưng, khô cổ họng v.v. do ngồi lâu, nói nhiều, và điều đó là do những người không hiểu ý nghĩa và không thực hành lời dạy. Còn đối với những người hiểu và thực hành, ngay cả sự mệt nhọc về thân khi thuyết giảng cũng không phải là sự mệt nhọc đối với bậc Đạo Sư. Do đó, đức Thế Tôn đã nói: “Việc liên quan đến giáo pháp không làm ta mệt mỏi.” Chính vì thế đã được nói rằng: “Việc thuyết giảng cho những người không hiểu biết, đó sẽ là sự mệt mỏi của ta.”

Apissūti sampiṇḍanatthe nipāto. So na kevalaṃ etadahosi, imāpi gāthā paṭibhaṃsūti dīpeti. Bhagavantanti paṭisaddayogena sāmiatthe upayogavacananti āha ‘‘bhagavato’’ti. Vuddhippattā acchariyā vā anacchariyā. Vuddhiatthopi hi a-kāro hoti yathā ‘‘asekkhā dhammā’’ti. Kappānaṃ cattāri asaṅkhyeyyāni satasahassañca sadevakassa lokassa dhammasaṃvibhāgakaraṇatthameva pāramiyo pūretvā idāni samadhigatadhammarajjassa tattha appossukkatāpattidīpanattā gāthātthassa anuacchariyatā tassa vuddhippatti ca veditabbā. Atthadvārena hi gāthānaṃ anacchariyatā. Gocarā ahesunti upaṭṭhahaṃsu, upaṭṭhānañca vitakkayitabbatāti āha ‘‘parivitakkayitabbabhāvaṃ pāpuṇiṃsū’’ti.
(Từ) “Apissū” là một bất biến từ có nghĩa là tổng hợp. Nó cho thấy rằng không chỉ có suy nghĩ ấy, mà cả những bài kệ này cũng đã hiện lên. (Từ) “đức Thế Tôn” là cách nói chỉ sự áp dụng trong ý nghĩa sở hữu chủ do liên quan đến động từ (hiện lên), (ngài Phụ Chú Giải) nói: “của đức Thế Tôn.” (Các bài kệ) đã đạt đến sự vĩ đại hoặc đáng kinh ngạc là (các bài kệ) “không kinh ngạc”. Thật vậy, mẫu tự a- cũng có nghĩa là sự vĩ đại, như trong “các pháp vô học.” Cần phải hiểu rằng ý nghĩa của các bài kệ là không kinh ngạc và sự vĩ đại của chúng là do chúng cho thấy sự thiếu nhiệt tâm đối với việc đó (thuyết pháp) của một người đã đạt được vương quốc giáo pháp sau khi đã hoàn thiện các ba-la-mật trong bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp chỉ để chia sẻ giáo pháp cho thế gian cùng với chư thiên. Sự không kinh ngạc của các bài kệ là thông qua ý nghĩa. (Cụm từ) “đã trở thành đối tượng” có nghĩa là đã hiện khởi, và sự hiện khởi là điều cần được suy tư, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “đã đạt đến trạng thái cần được suy tư.”

Kicchenāti na dukkhappaṭipadāya. Buddhānañhi cattāropi maggā sukhappaṭipadāva honti. Pāramīpūraṇakāle pana sarāgasadosasamohasseva sato āgatāgatānaṃ yācakānaṃ alaṅkatappaṭiyattaṃ sīsaṃ kantitvā galalohitaṃ nīharitvā suañjitāni akkhīni uppāṭetvā kulavaṃsappadīpaṃ puttaṃ manāpacāriniṃ bhariyanti evamādīni dentassa aññāni ca khantivādisadisesu attabhāvesu chejjabhejjādīni pāpuṇantassa āgamanīyapaṭipadaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ. Ha-iti vā byattanti etasmiṃ atthe nipāto. Ekaṃsattheti keci. Ha byattaṃ ekaṃsena vā alaṃ nippayojanaṃ evaṃ kicchena adhigataṃ dhammaṃ desetunti yojanā. Halanti vā alanti iminā samānatthaṃ padaṃ ‘‘halanti vadāmī’’tiādīsu viya. ‘‘Pakāsita’’ntipi paṭhanti, desitanti attho. Evaṃ kicchena adhigatassa dhammassa alaṃ desitaṃ pariyattaṃ desitaṃ, ko attho desitenāti vuttaṃ hoti. Rāgadosaparetehīti rāgadosaphuṭṭhehi, phuṭṭhavisena viya sappena rāgena dosena ca samphuṭṭhehi abhibhūtehīti attho. Atha vā rāgadosaparetehīti rāgadosānugatehi, rāgena ca dosena ca anubandhehīti attho.
(Với) “khó khăn”: không phải là do con đường thực hành khổ hạnh. Đối với các đức Phật, cả bốn đạo đều là con đường thực hành an lạc. Nhưng điều này được nói đến nhắm vào con đường cần phải đi trong thời gian hoàn thiện các ba-la-mật, khi còn là người có tham, sân, si, đã cắt đầu được trang trí sẵn, đã lấy máu từ cổ, đã khoét mắt được trang điểm đẹp, đã cho đi con trai là ngọn đèn của dòng họ, và người vợ hiền thảo cho những người đến xin, và đã phải chịu đựng việc bị cắt, xẻo v.v. trong các kiếp như Khantivādi. Bất biến từ ha có nghĩa là rõ ràng. Một số vị nói là chắc chắn. Ha rõ ràng hoặc chắc chắn alaṃ là vô ích, (ý là) thuyết giảng giáo pháp đã được chứng ngộ một cách khó khăn như vậy. (Cần được) liên kết như vậy. Hoặc halanti là một từ có cùng ý nghĩa với alaṃ (đủ rồi), giống như trong “halanti vadāmī” (tôi nói đủ rồi) v.v… Người ta cũng đọc là “pakāsita” (đã được trình bày), có nghĩa là đã được thuyết giảng. Ý nói rằng: việc thuyết giảng giáo pháp đã được chứng ngộ một cách khó khăn như vậy là đủ rồi, đã thuyết giảng đủ rồi, có ích gì khi thuyết giảng nữa. (Cho những người) “bị tham và sân chi phối”: cho những người bị tham và sân tác động, bị tham và sân tác động, chi phối giống như con rắn bị nọc độc của nó tác động. Hoặc (cho những người) “bị tham và sân chi phối”: cho những người bị tham và sân theo sau, bị tham và sân bám riết.

Paṭisotagāminti (dī. ni. aṭṭha. 2.65; ma. ni. aṭṭha. 1.281; saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.172) niccagāhādīnaṃ paṭisotaṃ aniccaṃ dukkhamanattā asubhanti evaṃ gataṃ pavattaṃ catusaccadhammanti attho. Rāgarattāti kāmarāgena bhavarāgena diṭṭhirāgena ca rattā. Na dakkhantīti aniccaṃ dukkhamanattā asubhanti iminā sabhāvena na passissanti, te apassante ko sakkhissati aniccantiādinā sabhāvena yāthāvato dhammaṃ jānāpetunti adhippāyo. Rāgadosaparetatāpi nesaṃ sammuḷhabhāvenevāti āha ‘‘tamokhandhena āvuṭā’’ti, avijjārāsinā ajjhotthaṭāti attho.
(Giáo pháp) “đi ngược dòng” (dī. ni. aṭṭha. 2.65; ma. ni. aṭṭha. 1.281; saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.172): có nghĩa là giáo pháp về bốn chân lý đi ngược lại với sự chấp thủ thường hằng v.v., tức là đã đi đến, đã diễn tiến theo hướng vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. (Những người) “say đắm trong ái dục”: say đắm trong dục ái, hữu ái, và kiến ái. “Sẽ không thấy được”: họ sẽ không thấy được bằng bản chất vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh này; đối với những người không thấy ấy, ai có thể làm cho họ biết được giáo pháp như thật bằng bản chất vô thường v.v.? Đó là ý nghĩa. Việc họ bị tham và sân chi phối cũng chính là do trạng thái si mê của họ, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “bị khối u minh bao phủ,” có nghĩa là bị khối vô minh che lấp.

Appossukkatāya cittaṃ namatīti kasmā panassa evaṃ cittaṃ nami, nanu esa ‘‘muttohaṃ mocessāmi, tiṇṇohaṃ tāressāmi,
“Tâm hướng đến sự thiếu nhiệt tâm”: tại sao tâm của ngài lại hướng đến như vậy, chẳng phải ngài đã (nghĩ): “Ta đã giải thoát, ta sẽ giải thoát (cho chúng sanh), ta đã vượt qua, ta sẽ giúp (chúng sanh) vượt qua,”

Kiṃ me aññātavesena, dhammaṃ sacchikatenidha;
Sabbaññutaṃ pāpuṇitvā, tārayissaṃ sadevaka’’nti. (bu. vaṃ. 2.55) –
“Có ích gì cho ta khi chỉ biết một mình, khi đã chứng ngộ giáo pháp này;
Sau khi đạt được toàn giác tuệ, ta sẽ giúp thế gian cùng với chư thiên vượt qua.” (bu. vaṃ. 2.55) –

Patthanaṃ katvā pāramiyo pūretvā sabbaññutaṃ pattoti? Saccameva, tadeva paccavekkhaṇānubhāvena panassa evaṃ cittaṃ nami. Tassa hi sabbaññutaṃ patvā sattānaṃ kilesagahanataṃ dhammassa ca gambhīrataṃ paccavekkhantassa sattānaṃ kilesagahanatā ca dhammagambhīratā ca sabbākārena pākaṭā jātā. Athassa ‘‘ime sattā kañjiyapuṇṇalābu viya takkabharitacāṭi viya vasātelapītapilotikā viya añjanamakkhitahattho viya ca kilesabharitā atisaṃkiliṭṭhā rāgarattā dosaduṭṭhā mohamuḷhā, te kiṃ nāma paṭivijjhissantī’’ti cintayato kilesagahanapaccavekkhaṇānubhāvenapi evaṃ cittaṃ nami.
(Ngài đã) làm một lời nguyện, đã hoàn thiện các ba-la-mật, và đã đạt được toàn giác tuệ phải không? Hoàn toàn đúng, nhưng tâm của ngài đã hướng đến như vậy chính là do oai lực của sự quán xét. Thật vậy, đối với ngài, sau khi đã đạt được toàn giác tuệ, khi quán xét sự dày đặc của phiền não của chúng sanh và sự sâu sắc của giáo pháp, cả hai điều này đã trở nên rõ ràng về mọi phương diện. Khi ấy, ngài đã suy nghĩ: “Những chúng sanh này chứa đầy phiền não như một quả bầu đầy cháo loãng, như một cái vại đầy sữa chua, như một miếng vải thấm mỡ và dầu, và như một bàn tay dính đầy mực; họ vô cùng ô uế, say đắm trong ái dục, bại hoại vì sân hận, mê muội vì si mê, làm sao họ có thể thâm nhập được (giáo pháp)?” và tâm của ngài đã hướng đến như vậy cũng là do oai lực của việc quán xét sự dày đặc của phiền não.

‘‘Ayaṃ dhammo pathavīsandhārakaudakakkhandho viya gambhīro, pabbatena paṭicchādetvā ṭhapito sāsapo viya duddaso, satadhā bhinnassa vālassa koṭi viya aṇu. Mayā hi imaṃ dhammaṃ paṭivijjhituṃ vāyamantena adinnaṃ dānaṃ nāma natthi, arakkhitaṃ sīlaṃ nāma natthi, aparipūritā kāci pāramī nāma natthi, tassa me nirussāhaṃ viya mārabalaṃ vidhamantassapi pathavī na kampittha, paṭhamayāme pubbenivāsaṃ anussarantassapi na kampittha, majjhimayāme dibbacakkhuṃ visodhentassapi na kampittha, pacchimayāme pana paṭiccasamuppādaṃ paṭivijjhantasseva me dasasahassilokadhātu kampittha. Iti mādisenapi tikkhañāṇena kicchenevāyaṃ dhammo paṭividdho, taṃ lokiyamahājanā kathaṃ paṭivijjhissantī’’ti dhammagambhīratāya paccavekkhaṇānubhāvenapi evaṃ cittaṃ namīti veditabbaṃ.
Cần phải hiểu rằng tâm của ngài đã hướng đến như vậy cũng là do oai lực của việc quán xét sự sâu sắc của giáo pháp: “Giáo pháp này sâu sắc như khối nước nâng đỡ mặt đất, khó thấy như một hạt cải được che phủ bởi một ngọn núi, vi tế như đầu của một sợi tóc được chẻ ra một trăm lần. Ta đây, khi cố gắng để thâm nhập giáo pháp này, không có sự bố thí nào mà ta chưa cho, không có giới luật nào mà ta chưa giữ, không có ba-la-mật nào mà ta chưa hoàn thiện. Đối với ta, ngay cả khi đang đánh tan đạo quân của Māra một cách không do dự, mặt đất cũng không rung chuyển; trong canh đầu, ngay cả khi đang nhớ lại các kiếp trước, mặt đất cũng không rung chuyển; trong canh giữa, ngay cả khi đang thanh lọc thiên nhãn, mặt đất cũng không rung chuyển. Nhưng trong canh cuối, chính khi đang thâm nhập Duyên Khởi, mười nghìn thế giới trong vũ trụ đã rung chuyển. Như vậy, giáo pháp này đã được thâm nhập một cách khó khăn ngay cả bởi một người có trí tuệ sắc bén như ta, làm sao quần chúng thế gian có thể thâm nhập được?”

Apica brahmunā yācite desetukāmatāyapissa evaṃ cittaṃ nami. Jānāti hi bhagavā ‘‘mama appossukkatāya citte namamāne mahābrahmā dhammadesanaṃ yācissati, ime ca sattā brahmagarukā, te ‘satthā kira dhammaṃ na desetukāmo ahosi, atha naṃ mahābrahmā yācitvā desāpeti, santo vata bho dhammo paṇīto’ti maññamānā sussūsissantī’’ti. Idampissa kāraṇaṃ paṭicca appossukkatāya cittaṃ nami, no dhammadesanāyāti veditabbaṃ.
Hơn nữa, tâm của ngài đã hướng đến như vậy cũng là do ý muốn thuyết giảng khi được Phạm thiên thỉnh cầu. Thật vậy, đức Thế Tôn biết rằng: “Khi tâm ta hướng đến sự thiếu nhiệt tâm, Đại Phạm Thiên sẽ thỉnh cầu thuyết pháp. Và những chúng sanh này tôn kính Phạm thiên. Họ sẽ nghĩ rằng: ‘Bậc Đạo Sư dường như đã không muốn thuyết pháp, nhưng rồi Đại Phạm Thiên đã thỉnh cầu và khiến ngài thuyết giảng. Ôi, giáo pháp thật là tịch tịnh, thật là cao siêu!’ và khi nghĩ như vậy, họ sẽ muốn lắng nghe.” Cần phải hiểu rằng chính do duyên vào lý do này mà tâm của ngài đã hướng đến sự thiếu nhiệt tâm, chứ không phải do (thật sự) không muốn thuyết pháp.

8.Sahampatissāti so kira kassapassa bhagavato sāsane sahako nāma thero paṭhamajjhānaṃ nibbattetvā paṭhamajjhānabhūmiyaṃ kappāyukabrahmā hutvā nibbatto, tatra naṃ sahampati brahmāti sañjānanti. Taṃ sandhāyāha ‘‘brahmuno sahampatissā’’ti. Nassati vatāti so kira imaṃ saddaṃ tathā nicchāreti, yathā dasasahassilokadhātubrahmāno sutvā sabbe sannipatiṃsu. Apparajakkhajātikāti paññāmaye akkhimhi appaṃ parittaṃ rāgadosamoharajaṃ etesaṃ evaṃsabhāvāti apparajakkhajātikā. Appaṃ rāgādirajaṃ yesaṃ te sabhāvā apparajakkhajātikāti evamettha attho daṭṭhabbo. Assavanatāti ‘‘sayaṃ abhiññā’’tiādīsu viya karaṇatthe paccattavacanaṃ, assavanatāyāti attho. Bhavissantīti purimabuddhesu dasapuññakiriyavasena katādhikārā paripākagatapadumāni viya sūriyarasmisamphassaṃ dhammadesanaṃyeva ākaṅkhamānā catuppadikagāthāvasāne ariyabhūmiṃ okkamanārahā na eko, na dve, anekasatasahassā dhammassa aññātāro bhavissantīti dasseti.
8. (Của vị) “Sahampati”: Tương truyền rằng, trong giáo pháp của đức Thế Tôn Kassapa, vị ấy là một trưởng lão tên là Sahaka, đã đắc được sơ thiền và tái sanh thành một vị Phạm thiên có tuổi thọ một đại kiếp ở cõi sơ thiền. Ở đó, người ta biết đến vị ấy là Phạm thiên Sahampati. Nhắm đến điều đó, (ngài Chú Giải) nói: “của Phạm thiên Sahampati.” (Câu) “Than ôi, (thế gian) đang bị hủy diệt”: Tương truyền rằng vị ấy đã phát ra âm thanh này theo cách mà các vị Phạm thiên ở mười nghìn thế giới trong vũ trụ nghe thấy và tất cả đều tụ tập lại. (Chúng sanh) “có ít bụi trong mắt”: những người có ít bụi, tức là bụi tham, sân, si, trong con mắt trí tuệ của họ; bản chất của họ là như vậy nên (gọi là) người có ít bụi trong mắt. Ở đây, ý nghĩa cần được hiểu là: những người có ít bụi tham ái v.v. là những người có bản chất như vậy. (Từ) “do không được nghe”: giống như trong câu “tự mình chứng ngộ” v.v., đây là cách nói chỉ sự đối cách trong ý nghĩa nguyên nhân, có nghĩa là “do bởi không được nghe.” (Câu) “sẽ có”: (ngài) trình bày rằng những người đã tạo các căn lành bằng mười phước sự dưới thời các đức Phật trong quá khứ, giống như những đóa sen đã đến lúc nở rộ đang mong chờ sự tiếp xúc của ánh nắng mặt trời, tức là bài thuyết pháp, sẽ có những người có khả năng tiến vào cõi Thánh sau khi nghe một bài kệ bốn câu, không phải một, không phải hai, mà là hàng trăm, hàng nghìn người sẽ trở thành những người hiểu biết giáo pháp.

Pāturahosīti pātubhavi. Samalehi cintitoti samalehi pūraṇakassapādīhi chahi satthārehi cintito. Te hi puretaraṃ uppajjitvā sakalajambudīpe kaṇṭake pattharamānā viya visaṃ siñcamānā viya ca samalaṃ micchādiṭṭhidhammaṃ desayiṃsu. Te kira buddhakolāhalānussavena sañjātakutūhalā lokaṃ vañcetvā kohaññe ṭhatvā sabbaññutaṃ paṭijānantā yaṃ kiñci adhammaṃyeva dhammoti dīpesuṃ. Apāpuretanti vivara etaṃ. Amatassa dvāranti amatassa nibbānassa dvārabhūtaṃ ariyamaggaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – etaṃ kassapassa bhagavato sāsanantaradhānato pabhuti pihitaṃ nibbānanagarassa mahādvāraṃ ariyamaggaṃ saddhammadesanāhatthena apāpura vivara ugghāṭehīti. Suṇantu dhammaṃ vimalenānubuddhanti ime sattā rāgādimalānaṃ abhāvato vimalena sammāsambuddhena anubuddhaṃ catusaccadhammaṃ suṇantu tāva bhagavāti yācati.
(Từ) “đã xuất hiện”: đã hiện ra. (Giáo pháp) “được nghĩ ra bởi những người ô uế”: được nghĩ ra bởi sáu vị đạo sư ô uế như Pūraṇa Kassapa v.v… Thật vậy, họ đã sanh ra trước đó và đã thuyết giảng một giáo pháp tà kiến ô uế, giống như rải gai hay tưới thuốc độc khắp cõi Diêm-phù-đề. Tương truyền rằng, do tò mò khi nghe tin về sự xuất hiện của một vị Phật, họ đã lừa dối thế gian, đứng trên sự giả dối và tự nhận là bậc toàn giác, đã trình bày bất cứ điều gì phi pháp là chánh pháp. (Từ) “xin hãy mở ra”: xin hãy mở ra cánh cửa này. (Cánh cửa) “của sự bất tử”: Thánh đạo vốn là cánh cửa của Niết-bàn bất tử. Ý nói là: xin ngài hãy dùng bàn tay thuyết giảng chánh pháp mà mở ra, vén lên, khai mở cánh cửa lớn dẫn đến thành trì Niết-bàn này, vốn đã bị đóng lại kể từ khi giáo pháp của đức Thế Tôn Kassapa biến mất. (Câu) “xin hãy để (chúng sanh) lắng nghe giáo pháp được bậc Vô Nhiễm chứng ngộ”: ngài thỉnh cầu rằng: “Bạch Thế Tôn, xin hãy để những chúng sanh này được lắng nghe giáo pháp về bốn chân lý đã được bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, người không còn các cấu uế như tham ái v.v., chứng ngộ.”

Selapabbato ucco hoti thiro ca, na paṃsupabbato missakapabbato vāti āha ‘‘sele yathā pabbatamuddhaniṭṭhito’’ti. Tassattho ‘‘selamaye ekagghane pabbatamuddhani yathāṭhitova. Na hi tattha ṭhitassa dassanatthaṃ gīvukkhipanapasāraṇādikiccaṃ atthī’’ti. Tathūpamanti tappaṭibhāgaṃ selapabbatūpamaṃ. Dhammamayaṃ pāsādanti lokuttaradhammamāha. So hi sabbaso pasādāvaho sabbadhamme atikkamma abbhuggataṭṭhena pāsādasadiso ca, paññāpariyāyo vā idha dhamma-saddo. Paññā hi abbhuggataṭṭhena pāsādoti abhidhamme niddiṭṭhā. Tathā cāha –
Núi đá thì cao và vững chắc, không phải là núi đất hay núi pha tạp, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “Như người đứng trên đỉnh núi đá.” Ý nghĩa của câu đó là “giống như người đứng trên đỉnh của một ngọn núi đá nguyên khối. Vì người đứng ở đó không cần phải làm các việc như ngẩng cổ, duỗi cổ v.v. để nhìn thấy.” (Từ) “tương tự như vậy”: có thể so sánh được, tương tự như núi đá. (Lâu đài) “bằng giáo pháp”: nói đến giáo pháp siêu thế. Thật vậy, nó hoàn toàn mang lại sự trong sáng và giống như một lâu đài do đã vượt lên trên tất cả các pháp khác; hoặc ở đây, từ “giáo pháp” là một cách gọi khác của trí tuệ. Thật vậy, trong tạng Vi Diệu Pháp, trí tuệ được chỉ định là một lâu đài do có ý nghĩa là sự vượt lên. Và ngài đã nói như vậy:

‘‘Paññāpāsādamāruyha, asoko sokiniṃ pajaṃ;
Pabbataṭṭhova bhūmaṭṭhe, dhīro bāle avekkhatī’’ti. (dha. pa. 28);
“Leo lên lâu đài trí tuệ, bậc trí, không còn sầu muộn, nhìn chúng sanh sầu muộn;
Như người trên đỉnh núi nhìn những kẻ dưới đất, bậc hiền trí nhìn những kẻ ngu si.” (dha. pa. 28);

Ayaṃ panettha saṅkhepattho – yathā selapabbatamuddhani yathāṭhitova cakkhumā puriso samantato janataṃ passeyya, tathā tvampi sumedha sundarapañña sabbaññutaññāṇena samantacakkhu bhagavā dhammamayaṃ paññāmayaṃ pāsādamāruyha sayaṃ apetasoko sokāvatiṇṇaṃ jātijarābhibhūtaṃ janataṃ avekkhassu upadhāraya upaparikkhāti. Ayaṃ panettha adhippāyo – yathā hi pabbatapāde samantā mahantaṃ khettaṃ katvā tattha kedārapāḷīsu kuṭikāyo katvā rattiṃ aggiṃ jāleyyuṃ, caturaṅgasamannāgatañca andhakāraṃ assa, atha tassa pabbatassa matthake ṭhatvā cakkhumato purisassa bhūmiṃ olokayato neva khettaṃ, na kedārapāḷiyo, na kuṭiyo, na tattha sayitamanussā paññāyeyyuṃ anujjalabhāvato, kuṭikāsu pana aggijālāmattameva paññāyeyya ujjalabhāvato, evaṃ dhammapāsādaṃ āruyha sattanikāyaṃ olokayato tathāgatassa ye te akatakalyāṇā sattā, te ekavihāre dakkhiṇajāṇupasse nisinnāpi buddhacakkhussa āpāthaṃ nāgacchanti ñāṇagginā anujjalabhāvato anuḷārabhāvato ca, rattiṃ khittā sarā viya honti. Ye pana katakalyāṇā veneyyapuggalā, te evassa dūrepi ṭhitā āpāthamāgacchanti paripakkañāṇaggitāya samujjalabhāvato uḷārasantānatāya ca, so aggi viya himavantapabbato viya ca. Vuttampi cetaṃ –
Đây là ý nghĩa tóm tắt ở đây – giống như một người có mắt sáng đứng trên đỉnh núi đá có thể nhìn thấy dân chúng ở khắp mọi nơi, cũng vậy, xin ngài, bậc Sumedha, bậc có trí tuệ tốt đẹp, bậc Thế Tôn có con mắt toàn diện bằng toàn giác tuệ, sau khi đã leo lên lâu đài bằng giáo pháp, bằng trí tuệ, tự mình đã thoát khỏi sầu muộn, xin hãy nhìn đến, hãy quan sát, hãy xem xét chúng sanh đang chìm trong sầu muộn, bị sanh và già chế ngự. Đây là chủ ý ở đây – giống như khi người ta làm một cánh đồng lớn ở xung quanh chân núi, rồi làm những túp lều trên các bờ ruộng và đốt lửa vào ban đêm, và có một bóng tối bao trùm bốn phía, khi ấy, đối với một người có mắt sáng đứng trên đỉnh núi nhìn xuống mặt đất, sẽ không thấy được cánh đồng, không thấy các bờ ruộng, không thấy các túp lều, không thấy những người đang ngủ trong đó vì chúng không sáng. Nhưng trong các túp lều, chỉ có ngọn lửa là thấy được vì nó sáng. Cũng vậy, khi bậc Như Lai leo lên lâu đài giáo pháp và nhìn vào thế giới chúng sanh, những chúng sanh nào không làm điều lành, dù họ đang ngồi trong cùng một tu viện ở phía đầu gối phải, cũng không lọt vào tầm nhìn của Phật nhãn vì họ không sáng bởi ngọn lửa trí tuệ và vì họ không vĩ đại. Họ giống như những mũi tên được bắn vào ban đêm. Nhưng những người có thể giáo hóa, những người đã làm điều lành, dù họ ở xa cũng lọt vào tầm nhìn của ngài vì họ sáng rực bởi ngọn lửa trí tuệ đã chín muồi và vì họ có tâm tánh vĩ đại, giống như ngọn lửa hay như núi Himālaya. Điều này cũng đã được nói:

‘‘Dūre santo pakāsenti, himavantova pabbato;
Asantettha na dissanti, rattiṃ khittā yathā sarā’’ti. (dha. pa. 304);
“Người hiền ở xa vẫn sáng, như núi Himālaya;
Kẻ ác ở đây không thấy, như tên bắn trong đêm.” (dha. pa. 304);

Uṭṭhehīti bhagavato dhammadesanatthaṃ cārikacaraṇaṃ yācanto bhaṇati. Uṭṭhehīti vā dhammadesanāya appossukkatāsaṅkhātasaṅkocāpattito kilāsubhāvato uṭṭhaha. Vīrātiādīsu bhagavā sātisayacatubbidhasammappadhānavīriyavantatāya vīro, devaputtamaccukilesābhisaṅkhārānaṃ vijitattā vijitasaṅgāmo, jātikantārādito veneyyasatthaṃ vāhanasamatthatāya nibbānasaṅkhātaṃ khemappadesaṃ sampāpanasamatthatāya satthavāho, kāmacchandaiṇassa abhāvato aṇaṇoti veditabbo. Yo hi paresaṃ iṇaṃ gahetvā vināseti, so tehi ‘‘iṇaṃ dehī’’ti tajjamānopi pharusaṃ vuccamānopi vambhamānopi vadhiyamānopi kiñci paṭippaharituṃ na sakkoti, sabbaṃ titikkhati. Titikkhakāraṇañhissa taṃ iṇaṃ hoti, evameva yo yamhi kāmacchandena rajjati, taṇhāgahaṇena taṃ vatthuṃ gaṇhāti, so tena pharusaṃ vuccamānopi vambhamānopi vadhiyamānopi kiñci paṭippaharituṃ na sakkoti, sabbaṃ titikkhati. Titikkhakāraṇañhissa so kāmacchando hoti gharasāmikehi viheṭhiyamānānaṃ itthīnaṃ viya. Kasmā? Iṇasadisattā kāmacchandassa.
“Xin hãy đứng lên”: khi thỉnh cầu đức Thế Tôn đi du hành để thuyết pháp, (Phạm thiên) đã nói. Hoặc “Xin hãy đứng lên”: xin hãy đứng lên khỏi trạng thái mệt mỏi, khỏi sự co rút được gọi là sự thiếu nhiệt tâm trong việc thuyết pháp. (Trong các từ bắt đầu bằng) “hỡi bậc Anh Hùng”, cần phải hiểu rằng đức Thế Tôn là bậc Anh Hùng do có bốn loại tinh tấn chánh cần siêu việt; là bậc Chiến Thắng do đã chiến thắng các loại ma là thiên tử, tử thần, phiền não, và hành; là bậc Trưởng đoàn do có khả năng dẫn dắt đoàn người có thể giáo hóa ra khỏi khu rừng sanh tử v.v. và đưa họ đến vùng đất an ổn là Niết-bàn; là bậc Vô Nợ do không có món nợ dục tham. Thật vậy, người nào vay nợ của người khác rồi tiêu xài hết, khi bị họ đòi “hãy trả nợ,” dù bị mắng nhiếc, bị chê bai, bị đánh đập, cũng không thể chống cự lại được, phải chịu đựng tất cả. Món nợ đó là nguyên nhân cho sự chịu đựng của người ấy. Cũng vậy, người nào say đắm trong một đối tượng nào đó bằng dục tham, nắm giữ đối tượng đó bằng sự chấp thủ của tham ái, khi bị nó mắng nhiếc, chê bai, đánh đập, cũng không thể chống cự lại được, phải chịu đựng tất cả. Dục tham đó là nguyên nhân cho sự chịu đựng của người ấy, giống như những người phụ nữ bị các ông chủ nhà hành hạ. Tại sao? Vì dục tham giống như một món nợ.

9.Ajjhesananti garuṭṭhānīyaṃ payirupāsitvā garutaraṃ payojanaṃ uddissa abhipatthanā ajjhesanā, sāpi atthato yācanā eva. Buddhacakkhunāti indriyaparopariyattañāṇena ca āsayānusayañāṇena ca. Imesañhi dvinnaṃ ñāṇānaṃ buddhacakkhūti nāmaṃ, sabbaññutaññāṇassa samantacakkhūti . Heṭṭhimānaṃ tiṇṇaṃ maggañāṇānaṃ dhammacakkhūti. Apparajakkhetiādīsu yesaṃ vuttanayeneva paññācakkhumhi rāgādirajaṃ appaṃ, te apparajakkhā. Yesaṃ taṃ mahantaṃ, te mahārajakkhā. Yesaṃ saddhādīni indriyāni tikkhāni, te tikkhindriyā. Yesaṃ tāni mudūni, te mudindriyā. Yesaṃ teyeva saddhādayo ākārā sundarā, te svākārā. Ye kathitakāraṇaṃ sallakkhenti, sukhena sakkā honti viññāpetuṃ, te suviññāpayā. Ye paralokañceva vajjañca bhayato passanti, te paralokavajjabhayadassāvino nāma.
9. (Lời) “thỉnh cầu”: lời thỉnh cầu là sự cầu xin khẩn thiết hướng đến một mục đích cao cả hơn sau khi đã phụng sự một bậc đáng kính. Về mặt ý nghĩa, nó cũng chính là sự cầu xin. (Bằng) “Phật nhãn”: bằng trí tuệ biết rõ các căn của chúng sanh và trí tuệ biết rõ các khuynh hướng và tùy miên. Hai loại trí tuệ này có tên là Phật nhãn. Toàn giác tuệ có tên là toàn nhãn. Ba tuệ đạo thấp hơn có tên là pháp nhãn. (Trong các từ bắt đầu bằng) “những người có ít bụi”, những người có ít bụi tham ái v.v. trong con mắt trí tuệ theo cách đã nói, họ là những người có ít bụi. Những người có nhiều bụi đó, họ là những người có nhiều bụi. Những người có các căn như tín v.v. sắc bén, họ là những người có căn sắc bén. Những người có các căn đó yếu ớt, họ là những người có căn yếu ớt. Những người có chính các tướng trạng như tín v.v. tốt đẹp, họ là những người có tướng trạng tốt. Những người nhận ra được lý do đã được nói, có thể được chỉ dạy một cách dễ dàng, họ là những người dễ được chỉ dạy. Những người thấy được thế giới bên kia và tội lỗi là điều đáng sợ, họ được gọi là những người thấy sự đáng sợ của thế giới bên kia và tội lỗi.

Uppalāni ettha santīti uppalinī, gacchopi jalāsayopi, idha pana jalāsayo adhippeto, tasmā uppaliniyanti uppalavaneti evamattho gahetabbo. Ito paresupi eseva nayo. Antonimuggaposīnīti yāni udakassa anto nimuggāneva hutvā pussanti vaḍḍhanti, tāni antonimuggaposīni. Udakaṃ accuggamma tiṭṭhantīti udakaṃ atikkamitvā tiṭṭhanti. Tattha yāni accuggamma ṭhitāni sūriyarasmisamphassaṃ āgamayamānāni, tāni ajja pupphanakāni. Yāni samodakaṃ ṭhitāni, tāni sve pupphanakāni. Yāni udakā anuggatāni antonimuggaposīni, tāni tatiyadivase pupphanakāni. Udakā pana anuggatāni aññānipi sarogauppalādīni nāma atthi, yāni neva pupphissanti macchakacchapabhakkhāneva bhavissanti, tāni pāḷiṃ nāruḷhāni, āharitvā pana dīpetabbānīti aṭṭhakathāyaṃ pakāsitāni. Yatheva hi tāni catubbidhāni pupphāni, evameva ugghaṭitaññū vipañcitaññū neyyo padaparamoti cattāro puggalā.
Nơi có các hoa sen ở đây là uppalinī, có thể là một cụm cây hoặc một hồ nước, nhưng ở đây được hiểu là một hồ nước, do đó (từ) “uppaliniya” nên được hiểu theo nghĩa là trong một rừng sen. Trong các từ sau đó cũng có cùng phương pháp này. (Các hoa sen) “được nuôi dưỡng khi còn ngập trong nước”: những hoa sen nào phát triển và lớn lên khi còn ngập trong nước, chúng là những hoa sen được nuôi dưỡng khi còn ngập trong nước. (Các hoa sen) “vươn lên khỏi mặt nước và đứng vững”: chúng vượt qua mặt nước và đứng vững. Trong đó, những hoa sen nào đã vươn lên và đứng vững, đang chờ đợi sự tiếp xúc của ánh nắng mặt trời, chúng là những hoa sẽ nở hôm nay. Những hoa sen nào đứng ngang mặt nước, chúng là những hoa sẽ nở ngày mai. Những hoa sen nào chưa vươn lên khỏi mặt nước, được nuôi dưỡng khi còn ngập trong nước, chúng là những hoa sẽ nở vào ngày thứ ba. Nhưng ngoài ra, còn có những hoa sen khác chưa vươn lên khỏi mặt nước, như hoa sen bị bệnh v.v., chúng sẽ không bao giờ nở và sẽ trở thành thức ăn cho cá và rùa; chúng không được đưa vào bản Pāḷi, nhưng cần được mang ra để trình bày, và đã được giải thích trong sách Chú Giải. Giống như có bốn loại hoa đó, cũng vậy, có bốn hạng người là ugghaṭitaññū, vipañcitaññū, neyyo, và padaparamo.

Tattha yassa puggalassa saha udāhaṭavelāya dhammābhisamayo hoti, ayaṃ ‘‘cattāro satipaṭṭhānā’’tiādinā nayena saṅkhittena mātikāya ṭhapiyamānāya desanānusārena ñāṇaṃ pesetvā arahattaṃ gaṇhituṃ samattho puggalo ugghaṭitaññūti vuccati. Yassa puggalassa saṅkhittena bhāsitassa vitthārena atthe vibhajiyamāne dhammābhisamayo hoti, ayaṃ vuccati puggalo vipañcitaññū. Yassa puggalassa uddesato paripucchato yoniso manasikaroto kalyāṇamitte sevato bhajato payirupāsato anupubbena dhammābhisamayo hoti, ayaṃ vuccati puggalo neyyo. Yassa puggalassa bahumpi suṇato bahumpi bhaṇato bahumpi dhārayato bahumpi vācayato na tāya jātiyā dhammābhisamayo hoti, tena attabhāvena maggaṃ vā phalaṃ vā antamaso jhānaṃ vā vipassanaṃ vā nibbattetuṃ na sakkoti, ayaṃ vuccati puggalo padaparamo. Tattha bhagavā uppalavanādisadisaṃ dasasahassilokadhātuṃ olokento ajja pupphanakāni viya ugghaṭitaññū, sve pupphanakāni viya vipañcitaññū, tatiyadivase pupphanakāni viya neyye, macchakacchapabhakkhapupphāni viya padaparame ca addasa, passanto ca ‘‘ettakā apparajakkhā, ettakā mahārajakkhā, tatrāpi ettakā ugghaṭitaññū’’ti evaṃ sabbākāratova addasa.
Trong đó, người nào có sự chứng ngộ giáo pháp ngay khi ví dụ được đưa ra, người có khả năng vận dụng trí tuệ theo bài thuyết pháp được trình bày tóm tắt trong đề mục theo phương pháp bắt đầu bằng “bốn niệm xứ” và đạt được quả A-la-hán, người đó được gọi là ugghaṭitaññū (người lĩnh hội nhanh). Người nào có sự chứng ngộ giáo pháp khi ý nghĩa của điều được nói tóm tắt được giải thích chi tiết, người đó được gọi là vipañcitaññū (người lĩnh hội nhờ giải rộng). Người nào có sự chứng ngộ giáo pháp một cách tuần tự do học hỏi, hỏi han, tác ý như lý, gần gũi, thân cận, và phụng sự các bạn lành, người đó được gọi là neyyo (người có thể hướng dẫn). Người nào dù có nghe nhiều, nói nhiều, ghi nhớ nhiều, đọc tụng nhiều cũng không có sự chứng ngộ giáo pháp trong kiếp đó, không thể đắc được đạo, quả, hay ít nhất là thiền hoặc tuệ quán bằng thân đó, người đó được gọi là padaparamo (người chỉ biết đến văn tự). Trong đó, khi đức Thế Tôn nhìn vào mười nghìn thế giới trong vũ trụ giống như một rừng sen, ngài đã thấy những người lĩnh hội nhanh giống như những hoa sẽ nở hôm nay, những người lĩnh hội nhờ giải rộng giống như những hoa sẽ nở ngày mai, những người có thể hướng dẫn giống như những hoa sẽ nở vào ngày thứ ba, và những người chỉ biết đến văn tự giống như những hoa làm mồi cho cá và rùa. Và khi thấy, ngài đã thấy về mọi phương diện rằng: “có bao nhiêu đây người có ít bụi, bao nhiêu đây người có nhiều bụi, trong đó lại có bao nhiêu đây người lĩnh hội nhanh.”

Tattha tiṇṇaṃ puggalānaṃ imasmiññeva attabhāve bhagavato dhammadesanā atthaṃ sādheti. Padaparamānaṃ anāgatatthāya vāsanā hoti. Atha bhagavā imesaṃ catunnaṃ puggalānaṃ atthāvahaṃ dhammadesanaṃ viditvā desetukamyataṃ uppādetvā puna sabbepi tīsu bhavesu satte bhabbābhabbavasena dve koṭṭhāse akāsi. Ye sandhāya vuttaṃ ‘‘ye te sattā kammāvaraṇena samannāgatā vipākāvaraṇena samannāgatā kilesāvaraṇena samannāgatā assaddhā acchandikā duppaññā abhabbā niyāmaṃ okkamituṃ kusalesu dhammesu sammattaṃ, ime te sattā abhabbā. Katame te sattā bhabbā? Ye te sattā na kammāvaraṇena…pe… ime te sattā bhabbā’’ti (vibha. 826-827). Tattha sabbepi abhabbapuggale pahāya bhabbapuggaleyeva ñāṇena pariggahetvā ‘‘ettakā rāgacaritā, ettakā dosa, moha, vitakka, saddhā, buddhicaritā’’ti cha koṭṭhāse akāsi, evaṃ katvā dhammaṃ desessāmīti cintesi. Ettha ca apparajakkhādibhabbādivasena āvajjentassa bhagavato te sattā puñjapuñjāva hutvā upaṭṭhahanti, na ekekāti daṭṭhabbaṃ.
Trong đó, bài thuyết pháp của đức Thế Tôn mang lại lợi ích cho ba hạng người đầu tiên ngay trong kiếp này. Đối với những người chỉ biết đến văn tự, nó tạo ra duyên lành cho tương lai. Khi ấy, đức Thế Tôn, sau khi biết rằng bài thuyết pháp sẽ mang lại lợi ích cho bốn hạng người này, đã khởi lên ý muốn thuyết giảng và lại chia tất cả chúng sanh trong ba cõi thành hai nhóm theo khả năng và không có khả năng. Nhắm đến họ, đã được nói rằng: “Những chúng sanh nào có nghiệp chướng, có dị thục chướng, có phiền não chướng, không có đức tin, không có ý muốn, có trí tuệ kém, không có khả năng tiến vào con đường chắc chắn trong các pháp thiện, những chúng sanh này là những người không có khả năng. Những chúng sanh nào là những người có khả năng? Những chúng sanh nào không có nghiệp chướng… này… những chúng sanh này là những người có khả năng” (vibha. 826-827). Trong đó, sau khi loại bỏ tất cả những người không có khả năng, ngài đã dùng trí tuệ để nắm bắt chỉ những người có khả năng và chia họ thành sáu nhóm: “có bao nhiêu đây người có tính tham, bao nhiêu đây người có tính sân, si, tầm, tín, giác,” và sau khi làm như vậy, ngài đã nghĩ rằng: “Ta sẽ thuyết pháp.” Và ở đây, cần được hiểu rằng, khi đức Thế Tôn quán xét theo các hạng người như có ít bụi, có khả năng v.v., những chúng sanh đó đã hiện ra thành từng nhóm, chứ không phải từng người một.

Paccabhāsīti patiabhāsi. Apārutāti vivaṭā. Amatassa dvārāti ariyamaggo. So hi amatasaṅkhātassa nibbānassa dvāraṃ, so mayā vivaritvā ṭhapito mahākaruṇūpanissayena sayambhūñāṇena adhigatattāti dasseti. ‘‘Apārutaṃ tesaṃ amatassa dvāra’’nti keci paṭhanti. Pamuñcantu saddhanti sabbe attano saddhaṃ muñcantu vissajjentu pavedentu, mayā desite dhamme mayi ca attano saddahanākāraṃ uṭṭhāpentūti attho. Pacchimapadadvaye ayamattho – ahañhi attano paguṇaṃ suppavattitampi imaṃ paṇītaṃ uttamaṃ dhammaṃ kāyavācākilamathasaññī hutvā na bhāsiṃ, na bhāsissāmīti cintesiṃ, idāni pana sabbo jano saddhābhājanaṃ upanetu, pūressāmi nesaṃ saṅkappanti. Antaradhāyīti satthāraṃ gandhamālādīhi pūjetvā antarahito, sakaṭṭhānameva gatoti attho. Satthusantikañhi upagatānaṃ devānaṃ brahmānañca tassa purato antaradhānaṃ nāma sakaṭṭhānagamanameva.
(Từ) “đã trả lời”: đã đáp lại. (Cánh cửa) “đã được mở”: đã được mở ra. (Cánh cửa) “của sự bất tử”: Thánh đạo. Thật vậy, nó là cánh cửa của Niết-bàn được gọi là bất tử; ngài trình bày rằng nó đã được ngài mở ra và giữ vững, do đã được chứng ngộ bằng tự giác tuệ với lòng đại bi làm nền tảng. Một số vị đọc là “Apārutaṃ tesaṃ amatassa dvāra” (Cánh cửa bất tử đã được mở cho họ). (Câu) “xin hãy để (họ) giải phóng đức tin”: xin hãy để tất cả mọi người giải phóng, bày tỏ, thể hiện đức tin của mình, tức là khởi lên cách thức tin tưởng vào ta và vào giáo pháp do ta thuyết giảng. Trong hai câu cuối, ý nghĩa là như vầy – Ta đây, dù giáo pháp này cao siêu và tối thượng, đã được ta vận hành tốt đẹp, nhưng do nghĩ đến sự mệt mỏi về thân và khẩu, đã nghĩ rằng ta đã không nói và sẽ không nói. Nhưng bây giờ, xin hãy để tất cả mọi người mang đến chiếc bình đức tin, ta sẽ làm tròn tâm nguyện của họ. (Từ) “đã biến mất”: sau khi đã cúng dường bậc Đạo Sư bằng hương, hoa v.v., (Phạm thiên) đã biến mất, có nghĩa là đã trở về nơi ở của mình. Thật vậy, đối với các vị chư thiên và Phạm thiên đã đến gần bậc Đạo Sư, việc biến mất trước mặt ngài chính là việc trở về nơi ở của mình.

Brahmayācanakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Phạm Thiên Thỉnh Cầu đã kết thúc.

Pañcavaggiyakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Của Nhóm Năm Vị

10.Etadahosīti etaṃ ahosi, ‘‘kassa nu kho ahaṃ paṭhamaṃ dhammaṃ deseyya’’nti ayaṃ dhammadesanāpaṭisaṃyutto vitakko udapādīti attho. Āḷāroti tassa nāmaṃ. Dīghapiṅgalo kiresa. So hi tuṅgasarīratāya dīgho, piṅgalacakkhutāya piṅgalo, tenassa ‘‘āḷāro’’ti nāmaṃ ahosi. Kālāmoti gottaṃ. Paṇḍitoti (ma. ni. aṭṭha. 1.284) paṇḍiccena samannāgato, samāpattipaṭilābhasaṃsiddhena adhigamabāhusaccasaṅkhātena paṇḍitabhāvena samannāgatoti attho. Byattoti veyyattiyena samannāgato, samāpattipaṭilābhapaccayena pārihārikapaññāsaṅkhātena byattabhāvena samannāgatoti attho. Medhāvīti ṭhānuppattiyā paññāya samannāgato. Atha vā medhāvīti tihetukapaṭisandhipaññāsaṅkhātāya taṃtaṃitikattabbatāpaññāsaṅkhātāya ca medhāya samannāgatoti evamettha attho daṭṭhabbo. Apparajakkhajātikoti samāpattiyā vikkhambhitattā nikkilesajātiko visuddhasatto. Ājānissatīti sallakkhessati paṭivijjhissati.
10. (Suy nghĩ) “này đã khởi lên”: suy nghĩ này đã khởi lên, ý nghĩa là sự suy tư liên quan đến việc thuyết pháp này đã sanh khởi: “Ta nên thuyết pháp cho ai trước tiên?” (Tên) “Āḷāro”: đó là tên của ông ấy. Tương truyền rằng ông ấy cao và có mắt màu hung. Thật vậy, do có thân hình cao lớn nên ông ấy là người cao (dīgha), do có mắt màu hung nên ông ấy là người có mắt màu hung (piṅgalo), do đó ông ấy có tên là “Āḷāro.” (Họ) “Kālāmo”: đó là họ. (Từ) “bậc trí” (ma. ni. aṭṭha. 1.284): người có trí tuệ, ý nghĩa là người có trạng thái bậc trí được gọi là sự chứng đắc và sự đa văn đã được hoàn thiện nhờ việc đắc các tầng thiền. (Từ) “người tài giỏi”: người có tài năng, ý nghĩa là người có trạng thái tài giỏi được gọi là trí tuệ thực hành vốn là duyên để đắc các tầng thiền. (Từ) “người thông minh”: người có trí tuệ ứng biến. Hoặc ở đây, ý nghĩa cần được hiểu là: (từ) “người thông minh” có nghĩa là người có trí thông minh được gọi là trí tuệ của sự tái sanh với ba nhân và trí tuệ về những điều nên làm trong từng trường hợp. (Người) “có ít bụi trong mắt”: người có bản chất không phiền não, chúng sanh trong sạch, do các phiền não đã được trấn phục bằng các tầng thiền. (Từ) “sẽ hiểu được”: sẽ nhận ra, sẽ thâm nhập được.

Bhagavatopi kho ñāṇaṃ udapādīti bhagavatopi sabbaññutaññāṇaṃ uppajji. Bhagavā kira devatāya kathiteneva niṭṭhaṃ agantvā sayampi sabbaññutaññāṇena olokento ito sattamadivasamatthake kālaṃ katvā ākiñcaññāyatane nibbattoti addasa. Taṃ sandhāyāha ‘‘bhagavatopi kho ñāṇaṃ udapādī’’ti. Mahājāniyoti sattadivasabbhantare pattabbamaggaphalato parihīnattā mahatī jāni parihāni assāti mahājāniyo. Akkhaṇe nibbattatthā idha dhammadesanaṭṭhānaṃ āgamanapādāpi natthi, athāhaṃ tattha gaccheyyaṃ, gantvā desiyamānaṃ dhammampissa sotuṃ sotapasādopi natthi, evaṃ mahājāniyo jātoti dasseti. Kiṃ pana bhagavatā taṃ attano buddhānubhāvena dhammaṃ ñāpetuṃ na sakkāti? Āma na sakkā, na hi paratoghosamantarena sāvakānaṃ dhammābhisamayo sambhavati, aññathā itarapaccayarahitassapi dhammābhisamayena bhavitabbaṃ, na ca taṃ atthi. Vuttañhetaṃ – ‘‘dveme, bhikkhave, paccayā sammādiṭṭhiyā uppādāya parato ca ghoso ajjhattañca yonisomanasikāro’’ti (a. ni. 2.127).
“Trí tuệ cũng đã khởi lên nơi đức Thế Tôn”: toàn giác tuệ cũng đã sanh khởi nơi đức Thế Tôn. Tương truyền rằng, đức Thế Tôn đã không đi đến kết luận chỉ bằng lời nói của vị chư thiên, mà chính ngài cũng đã nhìn bằng toàn giác tuệ và đã thấy rằng (Āḷāra) đã qua đời cách đây bảy ngày và đã tái sanh vào cõi Vô Sở Hữu. Nhắm đến điều đó, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “trí tuệ cũng đã khởi lên nơi đức Thế Tôn.” (Người) “chịu một tổn thất lớn”: người có một sự tổn thất lớn do đã vuột mất đạo và quả có thể đạt được trong vòng bảy ngày. (Ngài) trình bày rằng (Āḷāra) đã chịu một tổn thất lớn như sau: do đã tái sanh vào một cảnh giới không thích hợp, ngay cả bước chân để đến nơi thuyết pháp này cũng không có; nếu ta đến đó, ngay cả tịnh tín của tai để nghe giáo pháp được thuyết giảng, ông ấy cũng không có. Lại có câu hỏi rằng: chẳng phải đức Thế Tôn không thể làm cho ông ấy biết được giáo pháp bằng Phật lực của mình sao? Đúng vậy, không thể. Thật vậy, sự chứng ngộ giáo pháp của các vị thinh văn không thể xảy ra nếu không có tiếng nói từ bên ngoài; nếu không, sự chứng ngộ giáo pháp phải có thể xảy ra ngay cả khi không có các duyên khác, nhưng điều đó không có. Điều này đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, có hai duyên này cho sự sanh khởi của chánh kiến: tiếng nói từ bên ngoài và sự tác ý như lý ở bên trong” (a. ni. 2.127).

Udakoti tassa nāmaṃ, rāmassa pana puttatāya rāmaputto. Abhidosakālakatoti aḍḍharatte kālakato. Bhagavatopi kho ñāṇaṃ udapādīti idhāpi kira bhagavā devatāya kathitavacanena sanniṭṭhānaṃ akatvā sabbaññutaññāṇena olokento ‘‘hiyyo aḍḍharatte kālaṃ katvā udako rāmaputto nevasaññānāsaññāyatane nibbatto’’ti addasa, tasmā evaṃ vuttaṃ. Sesaṃ purimasadisameva.
(Tên) “Udako”: đó là tên của ông ấy, nhưng do là con của Rāma nên (gọi là) Rāmaputta. (Người) “vừa qua đời đêm qua”: đã qua đời vào lúc nửa đêm. “Trí tuệ cũng đã khởi lên nơi đức Thế Tôn”: ở đây cũng vậy, tương truyền rằng đức Thế Tôn đã không đưa ra kết luận bằng lời nói của vị chư thiên, mà đã nhìn bằng toàn giác tuệ và đã thấy rằng: “Udako Rāmaputta đã qua đời vào lúc nửa đêm hôm qua và đã tái sanh vào cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng,” do đó đã được nói như vậy. Phần còn lại tương tự như trước.

Bahūpakārāti bahuupakārā. Padhānapahitattaṃ upaṭṭhahiṃsūti padhānatthāya pesitattabhāvaṃ vasanaṭṭhāne pariveṇasammajjanena pattacīvaraṃ gahetvā anubandhanena mukhodakadantakaṭṭhadānādinā ca upaṭṭhahiṃsu. Ke panete pañcavaggiyā nāma? Ye te –
(Những người) “đã giúp đỡ nhiều”: những người đã có nhiều sự giúp đỡ. “Họ đã hầu hạ khi (ngài) đang nỗ lực tinh tấn”: họ đã hầu hạ thân thể đã được dấn thân cho sự tinh tấn bằng cách quét dọn nơi ở, lấy bát và y, đi theo sau, và dâng nước rửa mặt, que tăm xỉa răng v.v… Vậy nhóm năm vị này là ai? Họ là những người mà –

Rāmo dhajo lakkhaṇo cāpi mantī;
Koṇḍañño ca bhojo suyāmo sudatto;
Ete tadā aṭṭha ahesuṃ brāhmaṇā;
Rāma, Dhaja, và cả Lakkhaṇa, Mantī;
Koṇḍañña và Bhoja, Suyāma, Sudatta;
Khi ấy có tám vị bà-la-môn này;

Chaḷaṅgavā mantaṃ viyākariṃsūti. (ma. ni. aṭṭha. 1.284; jā. aṭṭha. 1.nidānakathā; apa. aṭṭha. 1.avidūrenidānakathā);
Là những người thông thạo sáu chi phần và đã giải đoán các câu thần chú. (ma. ni. aṭṭha. 1.284; jā. aṭṭha. 1.nidānakathā; apa. aṭṭha. 1.avidūrenidānakathā);

Bodhisattassa jātakāle supinapaṭiggāhakā ceva lakkhaṇapaṭiggāhakā ca aṭṭha brāhmaṇā. Tesu tayo dvedhā byākariṃsu ‘‘imehi lakkhaṇehi samannāgato agāraṃ ajjhāvasamāno rājā hohiti cakkavattī, pabbajamāno buddho’’ti. Pañca brāhmaṇā ekaṃsabyākaraṇā ahesuṃ ‘‘imehi lakkhaṇehi samannāgato agāre na tiṭṭhati, buddhova hotī’’ti. Tesu purimā tayo yathāmantapadaṃ gatā. Ete hi lakkhaṇamantasaṅkhātavedavacanānurūpaṃ paṭipannā dve gatiyo bhavanti anaññāti vuttaniyāmena nicchinituṃ asakkontā vuttameva paṭipajjiṃsu, na mahāpurisassa buddhabhāvappattiṃ paccāsīsiṃsu. Ime pana koṇḍaññādayo pañca ‘‘ekaṃsato buddho bhavissatī’’ti jātanicchayattā mantapadaṃ atikkantā. Te attanā laddhaṃ tuṭṭhidānaṃ ñātakānaṃ vissajjetvā ‘‘ayaṃ mahāpuriso agāre na ajjhāvasissati, ekantena buddho bhavissatī’’ti nibbematikā bodhisattaṃ uddissa samaṇapabbajjaṃ pabbajitā, tesaṃ puttātipi vadanti, taṃ aṭṭhakathāyaṃ paṭikkhittaṃ. Ete kira daharakāleva bahū mante jāniṃsu, tasmā ne brāhmaṇā ācariyaṭṭhāne ṭhapayiṃsu. Te ‘‘pacchā amhehi puttadārajaṭaṃ chinditvā na sakkā bhavissati pabbajitu’’nti daharakāleyeva pabbajitvā ramaṇīyāni senāsanāni paribhuñjantā vicariṃsu. Kālena kālaṃ pana ‘‘kiṃ bho mahāpuriso mahābhinikkhamanaṃ nikkhanto’’ti pucchanti. Manussā ‘‘kuhiṃ tumhe mahāpurisaṃ passissatha, tīsu pāsādesu vividhanāṭakamajjhe devo viya sampattiṃ anubhotī’’ti vadanti. Te sutvā ‘‘na tāva mahāpurisassa ñāṇaṃ paripākaṃ gacchatī’’ti appossukkā vihariṃsuyeva.
Tức là tám vị bà-la-môn đã giải đoán giấc mộng và xem tướng vào lúc đức Bồ-tát đản sanh. Trong số họ, ba vị đã giải đoán theo hai hướng: “người có những tướng này, nếu sống tại gia sẽ trở thành vua Chuyển Luân, nếu xuất gia sẽ trở thành Phật.” Năm vị bà-la-môn đã giải đoán một cách chắc chắn rằng: “người có những tướng này sẽ không ở lại trong nhà, chắc chắn sẽ trở thành Phật.” Trong số đó, ba vị đầu tiên đã đi theo lời của các câu thần chú. Thật vậy, họ đã thực hành theo những lời dạy của kinh Vệ-đà được gọi là các câu thần chú về tướng tốt, và đã không thể quyết định được nên đã chấp nhận cả hai khả năng như đã nói, chứ không hy vọng vào việc vị Đại Sĩ sẽ đắc thành Phật quả. Còn năm vị này, gồm Koṇḍañña v.v., đã vượt qua lời của các câu thần chú do đã có quyết định chắc chắn rằng: “ngài chắc chắn sẽ trở thành Phật.” Họ đã cho các quyến thuộc những món quà hỷ lạc mà mình đã nhận được, và đã xuất gia theo đời sống sa-môn vì đức Bồ-tát, với niềm tin không lay chuyển rằng: “vị Đại Sĩ này sẽ không sống tại gia, chắc chắn sẽ trở thành Phật.” Người ta cũng nói rằng đó là con của họ, nhưng điều đó đã bị bác bỏ trong sách Chú Giải. Tương truyền rằng, những vị này đã biết nhiều câu thần chú từ khi còn trẻ, do đó các vị bà-la-môn đã đặt họ vào vị trí của các vị thầy. Họ đã nghĩ rằng: “Sau này, khi đã vướng bận con cái, vợ con, chúng ta sẽ không thể xuất gia được,” và đã xuất gia ngay từ khi còn trẻ, đi ngao du và hưởng thụ các trú xứ yên tĩnh. Thỉnh thoảng, họ lại hỏi: “Này, vị Đại Sĩ đã thực hiện cuộc đại xuất gia chưa?” Người ta trả lời: “Các ông làm sao thấy được vị Đại Sĩ, ngài đang hưởng thụ tài sản như một vị trời giữa các điệu múa đa dạng trong ba cung điện.” Khi nghe vậy, họ đã nghĩ rằng: “trí tuệ của vị Đại Sĩ vẫn chưa chín muồi,” và đã sống không mấy nhiệt tâm.

Kasmā panettha bhagavā ‘‘bahukārā kho me pañcavaggiyā’’ti āha. Kiṃ upakārakānaṃyeva esa dhammaṃ deseti, anupakārakānaṃ na desetīti? No na deseti. Paricayavasena hesa āḷārañceva kālāmaṃ udakañca rāmaputtaṃ olokesi. Etasmiṃ pana buddhakkhette ṭhapetvā aññāsikoṇḍaññaṃ añño paṭhamaṃ dhammaṃ sacchikātuṃ samattho nāma natthi. Kasmā? Tathāvidhaupanissayattā. Pubbe kira puññakaraṇakāle dve bhātaro ahesuṃ. Te ca ekato sassaṃ akaṃsu. Tattha jeṭṭhassa ‘‘ekasmiṃ sasse nava vāre aggasassadānaṃ mayā dātabba’’nti ahosi. So vappakāle bījaggaṃ nāma datvā gabbhakāle kaniṭṭhena saddhiṃ mantesi ‘‘gabbhakāle gabbhaṃ phāletvā dassāmī’’ti. Kaniṭṭho ‘‘taruṇasassaṃ nāsetukāmosī’’ti āha. Jeṭṭho kaniṭṭhassa ananuvattanabhāvaṃ ñatvā khettaṃ vibhajitvā attano koṭṭhāsato gabbhaṃ phāletvā khīraṃ nīharitvā sappiphāṇitena yojetvā adāsi, puthukakāle puthukaṃ kāretvā adāsi , lāyane lāyanaggaṃ, veṇikaraṇe veṇaggaṃ, veṇiyo purisabhāravasena bandhitvā kalāpakaraṇe kalāpaggaṃ, khale kalāpānaṃ ṭhapanadivase khalaggaṃ, madditvā vīhīnaṃ rāsikaraṇadivase khalabhaṇḍaggaṃ, koṭṭhāgāre dhaññassa pakkhipanadivase koṭṭhagganti evaṃ ekasmiṃ sasse nava vāre aggadānaṃ adāsi. Kaniṭṭho pana khalato dhaññaṃ uddharitvā gahaṇadivase adāsi. Tesu jeṭṭho aññāsikoṇḍaññatthero jāto, kaniṭṭho subhaddaparibbājako. Iti ekasmiṃ sasse navannaṃ aggadānānaṃ dinnattā ṭhapetvā theraṃ añño paṭhamaṃ dhammaṃ sacchikātuṃ samattho nāma natthi. ‘‘Navannaṃ aggadānānaṃ dinnattā’’ti idañca tassa rattaññūnaṃ aggabhāvatthāya katābhinīhārānurūpaṃ pavattitasāvakapāramiyā ciṇṇante pavattitattā vuttaṃ. Tiṇṇampi hi bodhisattānaṃ taṃtaṃpāramiyā sikhāppattakāle pavattitaṃ puññaṃ apuññaṃ vā garutaravipākameva hoti, dhammassa ca sabbapaṭhamaṃ sacchikiriyāya vinā kathaṃ rattaññūnaṃ aggabhāvasiddhīti? ‘‘Bahukārā kho me pañcavaggiyā’’ti idaṃ pana upakārānussaraṇamattakeneva vuttaṃ.
Tại sao ở đây đức Thế Tôn lại nói: “nhóm năm vị đã có nhiều sự giúp đỡ đối với ta.” Chẳng phải ngài chỉ thuyết pháp cho những người có sự giúp đỡ, và không thuyết pháp cho những người không có sự giúp đỡ sao? Không phải là không thuyết pháp. Ngài đã nhìn đến Āḷāra Kālāma và Udaka Rāmaputta là do sự quen biết. Nhưng trong cõi Phật này, ngoài ngài Aññāsikoṇḍañña, không có ai khác có khả năng chứng ngộ giáo pháp trước tiên. Tại sao? Do có những duyên hỗ trợ như vậy. Tương truyền rằng, trong một thời làm phước trong quá khứ, có hai anh em. Họ đã cùng nhau trồng lúa. Trong đó, người anh đã nghĩ rằng: “trong một mùa lúa, ta phải dâng cúng phần lúa đầu mùa chín lần.” Vào lúc gieo mạ, ông đã dâng cúng phần hạt giống đầu mùa. Vào lúc lúa làm đòng, ông đã bàn với người em: “chúng ta hãy tách đòng ra để dâng cúng.” Người em nói: “anh định phá hoại lúa non sao.” Người anh biết người em không thuận theo, đã chia ruộng ra và từ phần của mình, đã tách đòng lúa, lấy sữa gạo, hòa với bơ và mật đường để dâng cúng. Vào lúc làm cốm, ông đã cho làm cốm để dâng cúng. Khi gặt, ông dâng cúng phần gặt đầu mùa. Khi bó lúa, ông dâng cúng phần bó đầu mùa. Khi bó thành các bó lớn bằng sức người, ông dâng cúng phần bó lớn đầu mùa. Tại sân đập lúa, vào ngày xếp các bó lúa, ông dâng cúng phần sân đập đầu mùa. Sau khi đập và gom lúa thành đống vào ngày đó, ông dâng cúng phần lúa trên sân. Vào ngày cho thóc vào kho, ông dâng cúng phần kho. Như vậy, trong một mùa lúa, ông đã dâng cúng phần đầu mùa chín lần. Còn người em thì chỉ dâng cúng vào ngày lấy thóc từ sân đập lúa. Trong hai người, người anh đã tái sanh thành trưởng lão Aññāsikoṇḍañña, người em là du sĩ Subhadda. Như vậy, do đã dâng cúng phần đầu mùa chín lần trong một mùa lúa, nên ngoài vị trưởng lão, không có ai khác có khả năng chứng ngộ giáo pháp trước tiên. Và câu “do đã dâng cúng phần đầu mùa chín lần” được nói đến do nó đã xảy ra ở cuối giai đoạn thực hành các ba-la-mật của thinh văn, phù hợp với lời nguyện đã được thực hiện để đạt đến vị trí cao nhất trong số những người biết sớm. Thật vậy, đối với cả ba loại Bồ-tát, phước hay bất phước được thực hiện vào lúc các ba-la-mật tương ứng đạt đến đỉnh cao đều có quả báo rất nặng. Và làm sao có thể đạt được vị trí cao nhất trong số những người biết sớm nếu không có sự chứng ngộ giáo pháp trước tiên hết? Còn câu “nhóm năm vị đã có nhiều sự giúp đỡ đối với ta” chỉ được nói đến đơn thuần là để nhớ lại sự giúp đỡ.

Isipatane migadāyeti tasmiṃ kira padese anuppanne buddhe paccekasambuddhā gandhamādanapabbate sattāhaṃ nirodhasamāpattiyā vītināmetvā nirodhā vuṭṭhāya nāgalatādantakaṭṭhaṃ khāditvā anotattadahe mukhaṃ dhovitvā pattacīvaramādāya ākāsena āgantvā nipatanti. Tattha cīvaraṃ pārupitvā nagare piṇḍāya caritvā katabhattakiccā gamanakālepi tatoyeva uppatitvā gacchanti. Iti isayo ettha nipatanti uppatanti cāti taṃ ṭhānaṃ ‘‘isipatana’’nti saṅkhaṃ gataṃ, migānaṃ pana abhayatthāya dinnattā ‘‘migadāyo’’ti vuccati. Tena vuttaṃ ‘‘isipatane migadāye’’ti. Aññe buddhā paṭhamaṃ dhammadesanatthāya gacchantā ākāsena gantvā tattheva otaranti, amhākaṃ pana bhagavā upakassa ājīvakassa upanissayaṃ disvā ‘‘upako imaṃ addhānaṃ paṭipanno, so maṃ disvā sallapitvā gamissati, atha puna nibbinno āgamma arahattaṃ sacchikarissatī’’ti ñatvā aṭṭhārasayojanaṃ maggaṃ padasāva agamāsi. Tena vuttaṃ ‘‘yena bārāṇasī, tena cārikaṃ pakkāmī’’ti.
(Tại) “Isipatana, trong vườn Lộc Uyển”: Tương truyền rằng, tại vùng đất ấy, khi không có đức Phật xuất hiện, các vị Phật Độc Giác, sau khi trải qua bảy ngày trong định diệt thọ tưởng ở núi Gandhamādana, đã xuất khỏi định, dùng tăm xỉa răng bằng cây nāgalatā, rửa mặt ở hồ Anotatta, lấy y bát và đến đây bằng đường không rồi đáp xuống. Ở đó, sau khi đắp y và đi khất thực trong thành, khi đã thọ thực xong, lúc ra về, các vị ấy cũng từ đó bay lên và đi. Như vậy, các vị ẩn sĩ (isayo) đáp xuống (nipatanti) và bay lên (uppatanti) ở đây, nên nơi đó có tên là “Isipatana” (nơi các vị ẩn sĩ đáp xuống). Còn được gọi là “vườn Lộc Uyển” (migadāyo) do được ban cho để các loài hươu nai được an toàn. Do đó đã được nói là “tại Isipatana, trong vườn Lộc Uyển.” Các đức Phật khác, khi đi để thuyết pháp lần đầu tiên, đã đi bằng đường không và hạ xuống chính nơi đó. Nhưng đức Thế Tôn của chúng ta, do thấy được duyên lành của du sĩ Upaka, đã biết rằng: “Upaka đang đi trên con đường này, ông ta sẽ thấy ta, nói chuyện rồi ra đi. Sau đó, khi đã chán ngán, ông ta sẽ trở lại và chứng ngộ quả A-la-hán,” nên đã đi bộ trên con đường dài mười tám do-tuần. Do đó đã được nói là “đã bắt đầu chuyến du hành đến Bārāṇasī.”

11.Antarā ca gayaṃ antarā ca bodhinti gayāya ca bodhissa ca vivare tigāvutantare ṭhāne. Bodhimaṇḍato hi gayā tīṇi gāvutāni, bārāṇasī aṭṭhārasa yojanāni. Upako bodhimaṇḍassa ca gayāya ca antare bhagavantaṃ addasa. Antarā-saddena pana yuttattā upayogavacanaṃ kataṃ. Īdisesu ca ṭhānesu akkharacintakā ‘‘antarā gāmañca nadiñca yātī’’ti evaṃ ekameva antarā-saddaṃ payujjanti, so dutiyapadenapi yojetabbo hoti, ayojiyamāne upayogavacanaṃ na pāpuṇāti sāmivacanassa pasaṅge antarā-saddayogena upayogavacanassa icchitattā. Idha pana yojetvā eva vutto. Addhānamagganti addhānasaṅkhātaṃ maggaṃ, dīghamagganti attho. Addhānagamanasamayassa vibhaṅge ‘‘addhayojanaṃ gacchissāmīti bhuñjitabba’’ntiādivacanato (pāci. 218) addhayojanampi addhānamaggo hoti. Bodhimaṇḍato pana gayā tigāvutaṃ. Vippasannānīti suṭṭhu pasannāni. Indriyānīti manacchaṭṭhāni indriyāni. Parisuddhoti niddoso. Pariyodātoti tasseva vevacanaṃ. Nirupakkilesatāyeva hi esa ‘‘pariyodāto’’ti vutto, na setabhāvena. Etassa pariyodātataṃ disvāva indriyānaṃ vippasannataṃ aññāsi, nayaggāhīpaññā kiresā tassa ājīvakassa.
11. (Giữa) “Gayā và cội bồ đề”: tại một nơi trong khoảng ba gāvuta giữa Gayā và cội bồ đề. Thật vậy, từ cội bồ đề đến Gayā là ba gāvuta, đến Bārāṇasī là mười tám do-tuần. Upaka đã thấy đức Thế Tôn ở giữa cội bồ đề và Gayā. Do được kết hợp với từ antarā (giữa), nên đã dùng cách nói chỉ sự áp dụng. Và trong những trường hợp như thế này, các nhà ngữ pháp học sử dụng chỉ một từ antarā, ví dụ như: “antarā gāmañca nadiñca yātī” (đi giữa làng và sông), và nó cần được liên kết với cả từ thứ hai; nếu không được liên kết, cách nói chỉ sự áp dụng sẽ không đạt được, vì trong trường hợp của sở hữu cách, cách nói chỉ sự áp dụng được mong muốn do sự kết hợp với từ antarā. Nhưng ở đây, nó đã được nói sau khi đã liên kết. (Con đường) “dài”: con đường được gọi là dài, có nghĩa là một con đường dài. Do trong phần phân tích về việc đi đường dài có câu nói như: “sau khi nghĩ ‘tôi sẽ đi nửa do-tuần,’ nên ăn” (pāci. 218), nên ngay cả nửa do-tuần cũng là một con đường dài. Nhưng từ cội bồ đề đến Gayā là ba gāvuta. (Các căn) “vô cùng trong sáng”: vô cùng thanh tịnh. (Từ) “các căn”: sáu căn, với ý căn là thứ sáu. (Nước da) “thanh tịnh”: không tỳ vết. (Từ) “trong sạch”: là một từ đồng nghĩa với từ đó. Thật vậy, ngài được gọi là “trong sạch” chính là do không có phiền não, chứ không phải do có màu trắng. Chính vì thấy được sự trong sạch này mà (Upaka) đã biết được sự trong sáng của các căn. Tương truyền rằng, trí tuệ của du sĩ ấy có khả năng nắm bắt được mấu chốt.

Sabbābhibhūti sabbaṃ tebhūmakadhammaṃ abhibhavitvā ṭhito. Sabbavidūti sabbaṃ catubhūmakadhammaṃ avediṃ aññāsiṃ sabbaso ñeyyāvaraṇassa pahīnattā. Sabbesu dhammesu anūpalittoti sabbesu tebhūmakadhammesu rajjanadussanamuyhanādinā kilesalepena alitto. Sabbañjahoti sabbaṃ tebhūmakadhammaṃ jahitvā ṭhito. Appahātabbampi hi kusalābyākataṃ tappaṭibaddhakilesappahānena pahīnattā na hotīti jahitameva hoti. Taṇhakkhaye vimuttoti taṇhakkhaye nibbāne ārammaṇakaraṇavasena vimutto. Sayaṃ abhiññāyāti sabbaṃ catubhūmakadhammaṃ attanāva jānitvā. Kamuddiseyyanti kaṃ aññaṃ ‘‘ayaṃ me ācariyo’’ti uddiseyyaṃ.
(Ta là bậc) “Toàn Thắng”: ta là người đã chiến thắng tất cả các pháp trong ba cõi. (Ta là bậc) “Toàn Giác”: ta đã biết, đã hiểu tất cả các pháp trong bốn cõi, do đã từ bỏ được hoàn toàn chướng ngại đối với các pháp cần được biết. (Ta) “không bị ô nhiễm trong tất cả các pháp”: ta không bị dính mắc bởi sự ô nhiễm của phiền não như tham luyến, sân hận, si mê v.v. trong tất cả các pháp thuộc ba cõi. (Ta là bậc) “Từ Bỏ Tất Cả”: ta là người đã từ bỏ tất cả các pháp trong ba cõi. Thật vậy, ngay cả các pháp thiện và vô ký không cần phải từ bỏ, do đã từ bỏ các phiền não liên quan đến chúng, nên chúng không còn tồn tại và do đó cũng được xem là đã từ bỏ. (Ta) “đã giải thoát trong sự đoạn diệt của tham ái”: ta đã giải thoát bằng cách lấy Niết-bàn, tức là sự đoạn diệt của tham ái, làm đối tượng. “Tự mình chứng ngộ”: tự mình biết được tất cả các pháp trong bốn cõi. “Ta nên chỉ ai?”: ta nên chỉ ai khác là “đây là thầy của ta”?

Na me ācariyo atthīti lokuttaradhamme mayhaṃ ācariyo nāma natthi. Kiñcāpi hi lokiyadhammānampi yādiso lokanāthassa adhigamo, na tādiso adhigamo parūpadeso atthi, lokuttaradhamme panassa lesopi natthi. Natthi me paṭipuggaloti mayhaṃ sīlādīhi guṇehi paṭinidhibhūto puggalo nāma natthi. Sammāsambuddhoti hetunā nayena cattāri saccāni sayaṃ buddho . Sītibhūtoti sabbakilesagginibbāpanena sītibhūto, kilesānaṃ yeva nibbutattā nibbuto.
“Ta không có thầy”: trong các pháp siêu thế, ta không có ai là thầy. Mặc dù sự chứng ngộ của đức Thế Tôn ngay cả đối với các pháp thế gian cũng không có sự chỉ dạy nào của người khác có thể sánh bằng, nhưng trong các pháp siêu thế thì không có một chút nào (sự chỉ dạy của người khác). “Không có ai ngang bằng ta”: không có người nào có thể là đối thủ của ta về các đức hạnh như giới v.v… (Ta là bậc) “Chánh Đẳng Chánh Giác”: ta đã tự mình giác ngộ bốn chân lý bằng nguyên nhân và phương pháp. (Ta) “đã trở nên thanh lương”: ta đã trở nên thanh lương do đã dập tắt ngọn lửa của tất cả các phiền não. Do chính các phiền não đã được dập tắt, nên (ta) “đã tịch tịnh”.

Kāsinaṃpuranti kāsiraṭṭhe nagaraṃ. Āhañchanti āhanissāmi. Amatadundubhinti veneyyānaṃ amatādhigamāya ugghosanādiṃ katvā satthu dhammadesanā ‘‘amatadundubhī’’ti vuttā, dhammacakkapaṭilābhāya taṃ amatabheriṃ paharissāmīti gacchāmīti vuttaṃ hoti.
(Thành phố) “của xứ Kāsī”: thành phố trong xứ Kāsī. (Từ) “Āhañchaṃ”: ta sẽ đánh. (Cái trống) “bất tử”: bài thuyết pháp của bậc Đạo Sư được gọi là “cái trống bất tử” do đã thực hiện việc tuyên bố v.v. để các chúng sanh có thể giáo hóa đạt được sự bất tử. Ý nói là: ta đi để đánh cái trống bất tử đó nhằm đạt được sự chuyển pháp luân.

Arahasi anantajinoti anantajinopi bhavituṃ yuttoti attho. Anantañāṇo jitakilesoti anantajino. Hupeyyapāvusoti āvuso evampi nāma bhaveyya, evaṃvidhe nāma rūparatane īdisena ñāṇena bhavitabbanti adhippāyo. Ayañhissa pabbajjāya paccayo jāto. Katādhikāro hesa. Tathā hi bhagavā tena samāgamanatthaṃ padasāva taṃ maggaṃ paṭipajji. Pakkāmīti vaṅkahārajanapadaṃ nāma agamāsi.
“Ngài xứng đáng là bậc Toàn Thắng vô biên”: có nghĩa là ngài cũng xứng đáng là bậc Toàn Thắng vô biên. Người đã chiến thắng các phiền não bằng trí tuệ vô biên là bậc Toàn Thắng vô biên. (Từ) “Hupeyyapāvuso”: Này hiền hữu, có thể là như vậy. Ý là: một viên ngọc hình tướng như thế này quả thật có thể có được một trí tuệ như vậy. Đây chính là duyên cho sự xuất gia của ông ấy. Thật vậy, ông ấy là người đã tạo các căn lành. Do đó, đức Thế Tôn đã đi bộ trên con đường đó để gặp ông ấy. (Từ) “đã ra đi”: đã đi đến một xứ sở tên là Vaṅkahāra.

Tatthekaṃ migaluddakagāmakaṃ nissāya vāsaṃ kappesi, jeṭṭhakaluddako taṃ upaṭṭhāsi. Tasmiñca janapade caṇḍā makkhikā honti. Atha naṃ ekāya cāṭiyā vasāpesuṃ. Migaluddako dūraṃ migavaṃ gacchanto ‘‘amhākaṃ arahante mā pamajjī’’ti cāpaṃ nāma dhītaraṃ āṇāpetvā agamāsi saddhiṃ puttabhātukehi. Sā cassa dhītā dassanīyā hoti koṭṭhāsasampannā. Dutiyadivase upako gharaṃ āgato taṃ dārikaṃ sabbaṃ upacāraṃ katvā parivisituṃ upagataṃ disvā rāgena abhibhūto bhuñjitumpi asakkonto bhājanena bhattaṃ ādāya vasanaṭṭhānaṃ gantvā bhattaṃ ekamantaṃ nikkhipitvā ‘‘sace cāpaṃ labhāmi, jīvāmi. No ce, marāmī’’ti nirāhāro sayi. Sattame divase māgaviko āgantvā dhītaraṃ upakassa pavattiṃ pucchi. Sā ‘‘ekadivasameva āgantvā puna nāgatapubbo’’ti āha.
Ở đó, ông đã chọn một nơi ở gần một làng nhỏ của những người săn hươu. Người thợ săn trưởng đã hầu hạ ông. Trong xứ sở đó có những con ruồi hung dữ. Do đó, họ đã cho ông ở trong một cái chum. Người thợ săn hươu, khi đi săn xa, đã dặn con gái tên là Cāpā rằng: “đừng lơ là với vị A-la-hán của chúng ta,” rồi cùng với con trai và em trai ra đi. Con gái của ông ta rất xinh đẹp và có tướng tốt. Vào ngày thứ hai, Upaka đến nhà và thấy cô gái đó đã làm tất cả các việc phục vụ và đến gần để hầu hạ, ông bị ái dục chi phối, không thể ăn được, đã cầm bát cơm và đi về nơi ở, đặt bát cơm sang một bên và nằm xuống không ăn, nghĩ rằng: “Nếu ta lấy được Cāpā, ta sẽ sống. Nếu không, ta chết còn hơn.” Vào ngày thứ bảy, người thợ săn trở về và hỏi con gái về tình hình của Upaka. Cô ta nói: “ông ấy chỉ đến một ngày rồi không đến nữa.”

Māgaviko āgataveseneva naṃ upasaṅkamitvā pucchissāmīti taṅkhaṇaṃyeva gantvā ‘‘kiṃ, bhante, aphāsuka’’nti pāde parāmasanto pucchi. Upako nitthunanto parivattatiyeva. So ‘‘vada bhante, yaṃ mayā sakkā kātuṃ, sabbaṃ karissāmī’’ti āha. Upako ‘‘sace cāpaṃ labhāmi, jīvāmi, no ce, mayhameva maraṇaṃ seyyo’’ti āha. Jānāsi kira, bhante, kiñci sippanti? Na jānāmīti. Na, bhante, kiñci sippaṃ ajānantena sakkā gharāvāsaṃ adhiṭṭhātunti. So āha ‘‘nāhaṃ kiñci sippaṃ jānāmi, apica tumhākaṃ maṃsahārako bhavissāmi, maṃsañca vikkiṇissāmī’’ti. Māgaviko ‘‘amhākampi etadeva ruccatī’’ti uttarasāṭakaṃ datvā gharaṃ ānetvā dhītaraṃ adāsi. Tesaṃ saṃvāsamanvāya putto vijāyi, ‘‘subhaddo’’tissa nāmaṃ akaṃsu. Cāpā tassa rodanakāle ‘‘maṃsahārakassa putta migaluddakassa putta mā rodi mā rodī’’tiādīni vadamānā puttatosanagītena upakaṃ uppaṇḍesi. ‘‘Bhadde tvaṃ maṃ anāthoti maññasi, atthi me anantajino nāma sahāyo, tassāhaṃ santikaṃ gamissāmī’’ti āha. Cāpā ‘‘evamayaṃ aṭṭīyatī’’ti ñatvā punappunaṃ kathesi. So ekadivasaṃ anārocetvāva majjhimadesābhimukho pakkāmi.
Người thợ săn nghĩ: “Ta sẽ đến gặp và hỏi ông ấy ngay khi vừa về đến,” và ngay lập tức đi đến, vừa xoa bóp chân vừa hỏi: “Bạch ngài, có điều gì không khỏe ạ?” Upaka chỉ rên rỉ và quay người đi. Ông ta nói: “Xin ngài hãy nói, điều gì tôi có thể làm được, tôi sẽ làm tất cả.” Upaka nói: “Nếu tôi lấy được Cāpā, tôi sẽ sống, nếu không, cái chết của tôi sẽ tốt hơn.” Ngài có biết nghề gì không, bạch ngài? Không biết. Thưa ngài, người không biết nghề gì thì không thể đảm đương được cuộc sống gia đình đâu. Ông ta nói: “Tôi không biết nghề gì cả, nhưng tôi sẽ là người mang thịt cho các vị, và sẽ bán thịt.” Người thợ săn nói: “chúng tôi cũng thích điều đó,” và đã cho ông một chiếc áo choàng, đưa về nhà và gả con gái cho. Họ sống chung với nhau và sinh được một người con trai, đặt tên là “Subhadda.” Khi cậu bé khóc, Cāpā đã chế nhạo Upaka bằng một bài hát ru con: “Này con của người mang thịt, con của người săn hươu, đừng khóc, đừng khóc” v.v… Ông nói: “Này em, em nghĩ anh là người không có nơi nương tựa, nhưng anh có một người bạn tên là bậc Toàn Thắng vô biên, anh sẽ đến gặp vị ấy.” Cāpā biết rằng điều này làm ông khó chịu, nên đã nói đi nói lại nhiều lần. Một ngày nọ, ông đã không nói gì và ra đi về hướng trung thổ.

Bhagavā ca tena samayena sāvatthiyaṃ viharati jetavane, atha kho bhagavā paṭikacceva bhikkhū āṇāpesi ‘‘yo, bhikkhave, anantajinoti pucchamāno āgacchati, tassa maṃ dasseyyāthā’’ti. Upakopi kho ‘‘kuhiṃ anantajino vasatī’’ti pucchanto anupubbena sāvatthiṃ āgantvā vihāramajjhe ṭhatvā ‘‘kuhiṃ anantajino’’ti pucchi. Taṃ bhikkhū bhagavato santikaṃ nayiṃsu. So ca bhagavantaṃ disvā ‘‘sañjānātha maṃ bhagavā’’ti āha. Āma upaka sañjānāmi, kuhiṃ pana tvaṃ vasitthāti. Vaṅkahārajanapade, bhanteti. Upaka mahallakosi jāto, pabbajituṃ sakkhissasīti. Pabbajissāmi, bhanteti. Bhagavā pabbājetvā tassa kammaṭṭhānaṃ adāsi. So kammaṭṭhāne kammaṃ karonto anāgāmiphale patiṭṭhāya kālaṃ katvā avihesu nibbatto, nibbattikkhaṇeyeva ca arahattaṃ pāpuṇi. Avihe nibbattamattā hi satta janā arahattaṃ pāpuṇiṃsu, tesaṃ so aññataro. Vuttañhetaṃ –
Vào lúc đó, đức Thế Tôn đang trú tại Jetavana ở Sāvatthī. Khi ấy, đức Thế Tôn đã dặn các vị Tỳ-khưu từ trước: “Này các Tỳ-khưu, ai đến hỏi về bậc Toàn Thắng vô biên, hãy chỉ người đó đến gặp ta.” Upaka cũng đã hỏi: “Bậc Toàn Thắng vô biên ở đâu?” và đã đi tuần tự đến Sāvatthī, đứng giữa tu viện và hỏi: “Bậc Toàn Thắng vô biên ở đâu?” Các vị Tỳ-khưu đã dẫn ông đến gặp đức Thế Tôn. Ông ta thấy đức Thế Tôn và nói: “Đức Thế Tôn có nhận ra con không?” Này Upaka, ta có nhận ra, nhưng con đã ở đâu? Thưa ngài, ở xứ Vaṅkahāra. Này Upaka, con đã già rồi, có thể xuất gia được không? Con sẽ xuất gia, thưa ngài. Đức Thế Tôn đã cho ông xuất gia và ban cho một đề mục thiền định. Ông đã thực hành đề mục thiền định đó và đã đắc quả Bất Lai, sau khi qua đời, đã tái sanh vào cõi Avihā, và ngay trong khoảnh khắc tái sanh, đã đắc quả A-la-hán. Thật vậy, có bảy vị đã đắc quả A-la-hán ngay khi vừa tái sanh vào cõi Avihā, ông là một trong số họ. Điều này đã được nói:

‘‘Avihaṃ upapannāse, vimuttā satta bhikkhavo;
Rāgadosaparikkhīṇā, tiṇṇā loke visattikaṃ.
‘‘Upako palagaṇḍo ca, pukkusāti ca te tayo;
Bhaddiyo khaṇḍadevo ca, bāhuraggi ca saṅgiyo;
Te hitvā mānusaṃ dehaṃ, dibbayogaṃ upaccagu’’nti. (saṃ. ni. 1.50, 105);
“Đã tái sanh vào cõi Avihā, bảy vị Tỳ-khưu đã giải thoát;
Đã đoạn tận tham và sân, đã vượt qua ái luyến trong thế gian.
“Upaka, Palagaṇḍa, và Pukkusāti là ba vị đó;
Bhaddiya, Khaṇḍadeva, và Bāhuraggi cùng với Saṅgiya;
Họ đã từ bỏ thân người, đã đạt đến sự liên kết với cõi trời.” (saṃ. ni. 1.50, 105);

12.Saṇṭhapesunti ‘‘neva abhivādetabbo’’tiādinā katikaṃ akaṃsu. Bāhullikoti cīvarabāhullādīnaṃ atthāya paṭipanno. Padhānavibbhantoti padhānato pubbe anuṭṭhitadukkaracaraṇato vibbhanto bhaṭṭho parihīno. Āvatto bāhullāyāti cīvarādibahubhāvatthāya āvatto. Apica kho āsanaṃ ṭhapetabbanti apica kho panassa uccakule nibbattassa āsanamattaṃ ṭhapetabbanti vadiṃsu. Asaṇṭhahantāti buddhānubhāvena buddhatejena abhibhūtā attano katikāya ṭhātuṃ asakkontā. Nāmena ca āvusovādena ca samudācarantīti ‘‘gotamā’’ti ca ‘‘āvuso’’ti ca vadanti, ‘‘āvuso gotama, mayaṃ uruvelāyaṃ padhānakāle tuyhaṃ pattacīvaraṃ gahetvā vicarimha, mukhodakaṃ dantakaṭṭhaṃ adamha, vutthapariveṇaṃ sammajjimha, pacchā te ko vattapaṭipattiṃ akāsi, kacci amhesu pakkantesu na cintayitthā’’ti evarūpaṃ kathaṃ kathentīti attho.
12. (Họ) “đã thỏa thuận với nhau”: họ đã lập một giao ước rằng: “không được đảnh lễ” v.v… (Người) “sống trong sự sung túc”: người đã quay lại với việc mưu cầu sự sung túc về y phục v.v… (Người) “đã từ bỏ sự tinh tấn”: người đã lạc lối, đã thất bại, đã suy thoái khỏi sự khổ hạnh mà trước đây đã thực hành. “Đã quay về với sự sung túc”: đã quay về để có được nhiều y phục v.v… “Tuy nhiên, một chỗ ngồi nên được soạn sẵn”: tuy nhiên, họ đã nói rằng chỉ một chỗ ngồi nên được soạn sẵn cho người đã sanh ra trong một gia đình cao quý. (Họ) “đã không thể giữ được (giao ước)”: do bị chi phối bởi oai lực và तेज của đức Phật, họ đã không thể giữ được giao ước của mình. “Họ đã xưng hô bằng tên và bằng từ ‘hiền giả’”: họ đã gọi là “Gotama” và “hiền giả,” ý nghĩa là họ đã nói những lời như sau: “Này hiền giả Gotama, khi ngài đang khổ hạnh ở Uruvelā, chúng tôi đã cầm y bát của ngài và đi theo, đã dâng nước rửa mặt và tăm xỉa răng, đã quét dọn tu viện sau khi ngài đã ở. Sau này, ai đã làm các phận sự cho ngài, có phải khi chúng tôi đã đi, ngài đã không nghĩ đến (chúng tôi) không?”

Na cirassevāti acireneva. Kulaputtāti duvidhā kulaputtā jātikulaputtā ācārakulaputtā ca, ete pana ubhayathāpi kulaputtāyeva. Agārasmāti gharā. Agārāya hitaṃ agāriyaṃ, kasigorakkhādi kuṭumbaposanakammaṃ vuccati. Natthi ettha agāriyanti anagāriyaṃ. Pabbajjāyetaṃ adhivacanaṃ. Pabbajantīti upagacchanti upasaṅkamanti. Tadanuttaranti taṃ anuttaraṃ. Brahmacariyapariyosānanti maggabrahmacariyassa pariyosānaṃ, arahattaphalanti vuttaṃ hoti. Tassa hi atthāya kulaputtā pabbajanti. Diṭṭheva dhammeti tasmiṃyeva attabhāve. Sayaṃ abhiññā sacchikatvāti attanoyeva paññāya paccakkhaṃ katvā, aparappaccayaṃ katvāti attho. Upasampajja viharissathāti pāpuṇitvā sampādetvā viharissatha.
“Chẳng bao lâu”: không lâu sau đó. (Từ) “thiện gia nam tử”: có hai loại thiện gia nam tử là thiện gia nam tử do dòng dõi và thiện gia nam tử do phẩm hạnh; nhưng những vị này đều là thiện gia nam tử theo cả hai cách. (Từ) “nhà”: gia đình. Điều lợi ích cho gia đình là agāriyaṃ, được gọi là công việc nuôi sống gia đình như nông nghiệp, chăn nuôi v.v… Nơi không có agāriyaṃ là anagāriyaṃ (đời sống không gia đình). Đây là một từ đồng nghĩa với sự xuất gia. (Họ) “xuất gia”: họ đến gần, họ tiếp cận. “Điều vô thượng ấy”: điều vô thượng đó. “Sự kết thúc của phạm hạnh”: sự kết thúc của phạm hạnh trong đạo, ý nói là quả A-la-hán. Thật vậy, các thiện gia nam tử xuất gia là vì mục đích đó. “Ngay trong hiện tại”: ngay trong kiếp sống đó. “Tự mình chứng ngộ bằng thắng trí”: tự mình chứng thực bằng trí tuệ của chính mình, ý nghĩa là không cần dựa vào người khác. “Các ông sẽ an trú sau khi đã đạt được”: các ông sẽ an trú sau khi đã đạt đến, đã thành tựu.

Iriyāyāti dukkarairiyāya. Paṭipadāyāti dukkarapaṭipattiyā. Dukkarakārikāyāti pasatapasatamuggayūsādiāharaṇādinā dukkarakaraṇena. Uttari manussadhammāti manussadhammato upari. Alaṃ ariyaṃ kātunti alamariyo, ariyabhāvāya samatthoti vuttaṃ hoti, ñāṇadassanameva ñāṇadassanaviseso, alamariyo ca so ñāṇadassanaviseso cāti alamariyañāṇadassanaviseso. Ñāṇadassananti ca dibbacakkhupi vipassanāpi maggopi phalampi paccavekkhaṇañāṇampi sabbaññutaññāṇampi vuccati. ‘‘Appamatto samāno ñāṇadassanaṃ ārādhetī’’ti (ma. ni. 1.311) hi ettha dibbacakkhu ñāṇadassanaṃ nāma. ‘‘Ñāṇadassanāya cittaṃ abhinīharati abhininnāmetī’’ti (dī. ni. 1.235) ettha vipassanāñāṇaṃ. ‘‘Abhabbā te ñāṇadassanāya anuttarāya sambodhāyā’’ti (a. ni. 4.196) ettha maggo. ‘‘Ayamañño uttarimanussadhammā alamariyañāṇadassanaviseso adhigato phāsuvihāro’’ti (ma. ni. 1.328) ettha phalaṃ. ‘‘Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi ‘akuppā me cetovimutti, ayamantimā jāti, natthi dāni punabbhavo’’’ti (saṃ. ni. 5.1081; mahāva. 16) ettha paccavekkhaṇañāṇaṃ. ‘‘Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi ‘sattāhakālakato āḷāro kālāmo’’’ti (ma. ni. 1.284; 2.340; mahāva. 10) ettha sabbaññutaññāṇaṃ. Idha pana sabbaññutaññāṇapadaṭṭhāno ariyamaggo sabbaññutaññāṇameva vā adhippetaṃ.
(Bằng) “oai nghi”: bằng oai nghi khổ hạnh. (Bằng) “sự thực hành”: bằng sự tu tập khổ hạnh. (Bằng) “sự khổ hạnh”: bằng việc làm khổ hạnh như ăn một nắm súp đậu v.v… (Pháp) “siêu nhân”: pháp cao hơn pháp của con người. Có khả năng làm cho trở thành bậc Thánh là alamariyo, ý nói là có khả năng đạt đến trạng thái bậc Thánh. Chính trí kiến là sự thù thắng của trí kiến, và nó vừa có khả năng làm cho trở thành bậc Thánh vừa là sự thù thắng của trí kiến, nên là alamariyañāṇadassanaviseso (sự thù thắng của trí kiến có khả năng làm cho trở thành bậc Thánh). Và (từ) “trí kiến” được gọi là thiên nhãn, là tuệ quán, là đạo, là quả, là phản khán trí, và là toàn giác tuệ. Thật vậy, trong câu “người không dể duôi, tinh cần, thành tựu được trí kiến” (ma. ni. 1.311), ở đây thiên nhãn được gọi là trí kiến. Trong câu “hướng tâm, nghiêng tâm đến trí kiến” (dī. ni. 1.235), ở đây tuệ quán (được gọi là trí kiến). Trong câu “họ không có khả năng đối với trí kiến, đối với sự giác ngộ vô thượng” (a. ni. 4.196), ở đây đạo (được gọi là trí kiến). Trong câu “sự thù thắng của trí kiến có khả năng làm cho trở thành bậc Thánh siêu nhân này, một sự an trú an lạc, đã được chứng đắc” (ma. ni. 1.328), ở đây quả (được gọi là trí kiến). Trong câu “Và trí và kiến đã sanh khởi nơi ta rằng: ‘tâm giải thoát của ta là bất động, đây là kiếp cuối cùng, không còn tái sanh nữa’” (saṃ. ni. 5.1081; mahāva. 16), ở đây phản khán trí (được gọi là trí kiến). Trong câu “Và trí và kiến đã sanh khởi nơi ta rằng: ‘Āḷāra Kālāma đã qua đời được bảy ngày’” (ma. ni. 1.284; 2.340; mahāva. 10), ở đây toàn giác tuệ (được gọi là trí kiến). Nhưng ở đây, được hiểu là Thánh đạo vốn là nền tảng của toàn giác tuệ, hoặc chính là toàn giác tuệ.

Abhijānātha me noti abhijānātha nu me. Evarūpaṃ pabhāvitametanti ettha evarūpaṃ vākyabhedanti attho, api nu ahaṃ uruvelāyaṃ padhāne tumhākaṃ saṅgaṇhanatthaṃ anukkaṇṭhanatthaṃ rattiṃ vā divā vā āgantvā ‘‘āvuso, mayaṃ yattha katthaci gamissāmāti mā vitakkayittha, mayhaṃ obhāso vā kammaṭṭhānanimittaṃ vā paññāyatī’’ti evarūpaṃ kañci vacanabhedaṃ akāsinti adhippāyo. Te ekapadeneva satiṃ labhitvā uppannagāravā ‘‘addhā esa buddho jāto’’ti saddahitvā ‘‘no hetaṃ bhante’’ti āhaṃsu. Asakkhi kho bhagavā pañcavaggiye bhikkhū saññāpetunti bhagavā pañcavaggiye bhikkhū ‘‘buddho aha’’nti jānāpetuṃ asakkhi. Aññā cittaṃ upaṭṭhāpesunti aññāya arahattappattiyā cittaṃ upaṭṭhapesuṃ abhinīhariṃsu.
“Các ông có nhận ra nơi ta không”: các ông có nhận ra nơi ta chăng. “Lời nói như vậy đã từng được nói ra”: ở đây có nghĩa là một câu nói khác như vậy. Ý là: có phải khi ở Uruvelā trong lúc khổ hạnh, để an ủi và khích lệ các ông, ta đã từng đến vào ban đêm hay ban ngày và nói một lời nào khác như: “Này các hiền giả, các ông đừng nghĩ sẽ đi đâu cả, ánh sáng của ta hay tướng của đề mục thiền của ta đang hiện ra” không? Chỉ bằng một câu nói đó, họ đã có được chánh niệm và sanh lòng kính trọng, đã tin rằng: “chắc chắn vị này đã thành Phật,” và đã thưa rằng: “Thưa ngài, không có điều đó.” “Đức Thế Tôn đã có thể thuyết phục được nhóm năm vị Tỳ-khưu”: đức Thế Tôn đã có thể làm cho nhóm năm vị Tỳ-khưu biết rằng: “Ta là Phật.” “Họ đã hướng tâm đến tuệ”: họ đã hướng tâm, đã nghiêng tâm đến tuệ, tức là sự chứng đắc quả A-la-hán.

Dhammacakkappavattanasuttavaṇṇanā
Diễn Giải Về Kinh Chuyển Pháp Luân

13.Dveme, bhikkhave, antāti dve ime, bhikkhave, koṭṭhāsā, dve bhāgāti attho. Bhāgavacano hettha anta-saddo ‘‘pubbante ñāṇaṃ aparante ñāṇa’’ntiādīsu (dha. sa. 1063) viya. Imassa pana padassa uccāraṇasamakālaṃ pavattanigghoso buddhānubhāvena heṭṭhā avīciṃ upari bhavaggaṃ patvā dasasahassilokadhātuṃ pharitvā aṭṭhāsi. Tasmiṃyeva samaye paripakkakusalamūlā saccābhisambodhāya katādhikārā aṭṭhārasakoṭisaṅkhā brahmāno samāgacchiṃsu. Pacchimadisāya sūriyo atthameti, pācīnadisāya āsāḷhanakkhattena yutto puṇṇacando uggacchati. Tasmiṃ samaye bhagavā dhammacakkappavattanasuttaṃ ārabhanto ‘‘dveme, bhikkhave, antā’’tiādimāha.
13. “Này các Tỳ-khưu, có hai cực đoan này”: Này các Tỳ-khưu, có hai phần này, có hai phe này. Ở đây, từ anta (cực đoan) có nghĩa là phần, giống như trong câu “trí tuệ về phần quá khứ, trí tuệ về phần tương lai” (dha. sa. 1063) v.v… Ngay khi từ này được thốt ra, tiếng vang của sự chuyển vận, do oai lực của đức Phật, đã đi xuống đến địa ngục A-tỳ ở bên dưới, đi lên đến cõi trời cao nhất ở bên trên, bao trùm mười nghìn thế giới trong vũ trụ và dừng lại. Ngay trong lúc đó, mười tám ức vị Phạm thiên có căn lành đã chín muồi, đã tạo các căn lành để chứng ngộ chân lý, đã tụ tập lại. Ở phương tây, mặt trời đang lặn; ở phương đông, mặt trăng tròn, đi cùng với sao Āsāḷha, đang mọc lên. Vào lúc đó, khi bắt đầu bài kinh Chuyển Pháp Luân, đức Thế Tôn đã nói câu bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, có hai cực đoan này.”

Tattha pabbajitenāti gihibandhanaṃ chetvā pabbajjupagatena. Na sevitabbāti na vaḷañjetabbā nānuyuñjitabbā. Yo cāyaṃ kāmesu kāmasukhallikānuyogoti yo ca ayaṃ vatthukāmesu kilesakāmasukhassa anuyogo, kilesakāmasaṃyuttassa sukhassa anugatoti attho. Hīnoti lāmako. Gammoti gāmavāsīnaṃ santako tehi sevitabbatāya. Pothujjanikoti puthujjanena andhabālajanena āciṇṇo. Anariyoti na ariyo na visuddho na uttamo, na vā ariyānaṃ santako. Anatthasaṃhitoti na atthasaṃhito, hitasukhāvahakāraṇaṃ anissitoti attho. Attakilamathānuyogoti attano kilamathassa anuyogo, dukkhakaraṇaṃ dukkhuppādananti attho. Dukkhoti kaṇṭakāpassayaseyyādīhi attabādhanehi dukkhāvaho. Majjhimā paṭipadāti ariyamaggaṃ sandhāya vuttaṃ. Maggo hi kāmasukhallikānuyogo eko anto, attakilamathānuyogo eko anto, ete dve ante na upeti na upagacchati, vimutto etehi antehi, tasmā ‘‘majjhimā paṭipadā’’ti vuccati. Etesaṃ majjhe bhavattā majjhimā, vaṭṭadukkhanissaraṇatthikehi paṭipajjitabbato ca paṭipadāti, tathā lobho eko anto, doso eko anto. Sassataṃ ekaṃ antaṃ, ucchedo eko antoti purimanayeneva vitthāretabbaṃ.
Trong đó, (từ) “người xuất gia”: người đã cắt đứt các ràng buộc của người tại gia và đã đi đến đời sống xuất gia. (Từ) “không nên thực hành”: không nên theo đuổi, không nên chuyên tâm. “Sự chuyên tâm vào việc hưởng thụ các dục lạc trong các dục”: sự chuyên tâm vào lạc thú của các phiền não dục trong các đối tượng dục, ý nghĩa là sự theo đuổi lạc thú đi liền với các phiền não dục. (Từ) “hèn hạ”: thấp kém. (Từ) “thô tục”: thuộc về những người ở làng, do được họ thực hành. (Từ) “của kẻ phàm phu”: được thực hành bởi những kẻ phàm phu, những người mù quáng. (Từ) “không phải của bậc Thánh”: không phải là bậc Thánh, không trong sạch, không cao thượng, hoặc không phải là của các bậc Thánh. (Từ) “không đi liền với lợi ích”: không đi liền với lợi ích, ý nghĩa là không dựa vào nguyên nhân mang lại lợi ích và an lạc. “Sự chuyên tâm vào việc tự hành hạ bản thân”: sự chuyên tâm vào việc làm cho mình mệt mỏi, ý nghĩa là sự gây ra đau khổ, sự tạo ra đau khổ. (Từ) “đau khổ”: mang lại đau khổ do việc hành hạ bản thân bằng cách nằm trên gai v.v… “Con đường trung đạo”: được nói đến nhắm vào Thánh đạo. Thật vậy, đạo không đi đến, không tiếp cận hai cực đoan này: sự chuyên tâm vào việc hưởng thụ các dục lạc là một cực đoan, sự chuyên tâm vào việc tự hành hạ bản thân là một cực đoan; nó đã giải thoát khỏi các cực đoan này, do đó được gọi là “con đường trung đạo.” Do ở giữa chúng nên là trung đạo, và do được những người tìm cầu sự thoát khỏi khổ trong vòng luân hồi thực hành nên là con đường. Tương tự, tham là một cực đoan, sân là một cực đoan. Thường kiến là một cực đoan, đoạn kiến là một cực đoan, (những điều này) cần được giải thích rộng ra theo phương pháp trước.

Cakkhukaraṇītiādīhi tameva paṭipadaṃ thometi. Paññācakkhuṃ karotīti cakkhukaraṇī. Sā hi catunnaṃ saccānaṃ dassanāya saṃvattati pariññābhisamayādibhedassa dassanassa pavattanaṭṭhenāti ‘‘cakkhukaraṇī’’ti vuccati. Tayidaṃ satipi paṭipadāya anaññatte avayavavasena sijjhamāno attho samudāyena kato nāma hotīti upacāravasena vuttanti daṭṭhabbaṃ. Dutiyapadaṃ tasseva vevacanaṃ. Upasamāyāti kilesupasamatthāya. Abhiññāyāti catunnaṃ saccānaṃ abhijānanatthāya. Sambodhāyāti tesaṃyeva sambujjhanatthāya. Nibbānāyāti nibbānasacchikiriyāya. Atha vā nibbānāyāti anupādisesanibbānāya. ‘‘Upasamāyā’’ti hi iminā saupādisesanibbānaṃ gahitaṃ.
Bằng (các từ) bắt đầu bằng “tạo ra con mắt,” (đức Thế Tôn) ca ngợi chính con đường đó. Nó tạo ra con mắt trí tuệ nên là tạo ra con mắt. Thật vậy, nó đưa đến sự thấy được bốn chân lý theo nghĩa là làm cho sự thấy được các khía cạnh như sự liễu tri, sự chứng ngộ v.v. diễn ra, nên được gọi là “tạo ra con mắt.” Cần được hiểu rằng điều này, mặc dù không khác với con đường, nhưng được nói theo nghĩa bóng, vì ý nghĩa được thành tựu theo từng phần được xem là đã được thực hiện bởi toàn thể. Từ thứ hai là một từ đồng nghĩa với từ đó. (Để) “an tịnh”: để an tịnh các phiền não. (Để) “thắng trí”: để biết rõ bốn chân lý. (Để) “giác ngộ”: để giác ngộ chính chúng. (Để) “Niết-bàn”: để chứng ngộ Niết-bàn. Hoặc (để) “Niết-bàn”: để đạt đến vô dư y Niết-bàn. Vì bằng (từ) “để an tịnh,” hữu dư y Niết-bàn đã được bao hàm.

Idāni taṃ majjhimappaṭipadaṃ sarūpato dassetukāmo ‘‘katamā ca sā’’ti pucchitvā ‘‘ayamevā’’tiādinā nayena vissajjesi. Tattha ayamevāti avadhāraṇavacanaṃ aññassa nibbānagāmimaggassa atthibhāvapaṭisedhanatthaṃ. Sattāpaṭikkhepo hi idha paṭisedhanaṃ alabbhamānattā aññassa maggassa. Ariyoti kilesānaṃ ārakattā ariyo niruttinayena. Aripahānāya saṃvattatītipi ariyo arayo pāpadhammā yanti apagacchanti etenāti katvā. Ariyena bhagavatā desitattā ariyassa ayantipi ariyo, ariyabhāvappaṭilābhāya saṃvattatītipi ariyo. Ettha pana ariyakaro ariyotipi uttarapadalopena ariya-saddasiddhi veditabbā. Aṭṭhahi aṅgehi upetattā aṭṭhaṅgiko. Maggaṅgasamudāye hi maggavohāro, samudāyo ca samudāyīhi samannāgato nāma hoti. Ayaṃ panettha vacanattho – attano avayavabhūtāni aṭṭhaṅgāni etassa santīti aṭṭhaṅgikoti. Paramatthato pana aṅgāniyeva maggo pañcaṅgikatūriyādīni viya, na ca aṅgavinimutto chaḷaṅgo vedo viya. Kilese mārento gacchatīti maggo niruttinayena, nibbānaṃ maggati gavesatīti vā maggo. Ariyamaggo hi nibbānaṃ ārammaṇaṃ karonto gavesanto viya hoti. Nibbānatthikehi maggīyatīti vā maggo vivaṭṭūpanissayapuññakaraṇato paṭṭhāya tadatthapaṭipattito. Gammati vā tehi paṭipajjīyatīti maggo. Ettha pana ādiantavipariyāyena saddasiddhi veditabbā.
Bây giờ, với ý muốn trình bày con đường trung đạo đó về mặt bản chất, sau khi đã hỏi “Và đó là gì,” ngài đã trả lời theo phương pháp bắt đầu bằng “chính là.” Trong đó, (từ) “chính là” là một từ xác định nhằm phủ định sự tồn tại của một con đường nào khác dẫn đến Niết-bàn. Thật vậy, ở đây, sự phủ định là đối với một con đường khác, vì không thể có sự phủ định đối với chúng sanh. (Từ) “Thánh”: do xa lìa các phiền não nên là Thánh theo cách giải thích từ ngữ. Cũng là Thánh vì nó đưa đến sự đoạn trừ các kẻ thù; hoặc các pháp ác, tức là các kẻ thù, đi mất, rời xa do con đường này. Cũng là Thánh vì nó là của bậc Thánh, do được bậc Thánh là đức Thế Tôn thuyết giảng; cũng là Thánh vì nó đưa đến sự chứng đắc trạng thái bậc Thánh. Nhưng ở đây, cần được hiểu rằng từ ariya được thành lập do sự lược bỏ từ cuối (trong cụm từ “ariyakaro ariyo” – bậc Thánh làm cho trở thành Thánh). Do được hợp thành bởi tám chi phần nên là (đạo) “Tám Ngành”. Thật vậy, khái niệm về đạo là nói về sự tập hợp của các chi phần của đạo, và một tập hợp được gọi là có các yếu tố hợp thành. Đây là cách giải thích từ ngữ ở đây – nó có tám chi phần là các thành phần của nó, nên là đạo Tám Ngành. Nhưng về mặt chân đế, chính các chi phần là đạo, giống như dàn nhạc có năm nhạc cụ v.v., chứ không phải như kinh Vệ-đà có sáu chi phần mà lại không có các chi phần đó. Vừa đi vừa diệt trừ các phiền não nên là đạo theo cách giải thích từ ngữ; hoặc tìm kiếm Niết-bàn nên là đạo. Thật vậy, Thánh đạo, khi lấy Niết-bàn làm đối tượng, giống như đang tìm kiếm. Hoặc được những người tìm cầu Niết-bàn tìm kiếm nên là đạo, kể từ khi làm các phước có duyên hỗ trợ cho sự giải thoát cho đến khi thực hành để đạt được mục đích đó. Hoặc được họ đi trên, được thực hành, nên là đạo. Nhưng ở đây, cần được hiểu rằng từ (maggo) được thành lập do sự đảo ngược âm đầu và âm cuối (của động từ gacchati).

Seyyathidanti nipāto, tassa katamo so iti ceti attho, katamāni vā tāni aṭṭhaṅgānīti. Sabbaliṅgavibhattivacanasādhāraṇo hi ayaṃ nipāto. Ekamekampi aṅgaṃ maggoyeva. Yathāha ‘‘sammādiṭṭhi maggo ceva hetu cā’’ti (dha. sa. 1039). Porāṇāpi bhaṇanti ‘‘dassanamaggo sammādiṭṭhi, abhiniropanamaggo sammāsaṅkappo…pe… avikkhepamaggo sammāsamādhī’’ti. Nanu ca aṅgāni samuditāni maggo antamaso sattaṅgavikalassa ariyamaggassa abhāvatoti? Saccametaṃ saccasampaṭivedhe, maggappaccayatāya pana yathāsakaṃ kiccakaraṇena paccekampi tāni maggoyeva, aññathā samuditānampi tesaṃ maggakiccaṃ na sambhaveyyāti. Sammādiṭṭhiādīsu sammā passatīti sammādiṭṭhi, sammā saṅkappeti sampayuttadhamme nibbānasaṅkhāte ārammaṇe abhiniropetīti sammāsaṅkappo, sammā vadati etāyāti sammāvācā, sammā karoti etenāti sammākammaṃ, tadeva sammākammanto, sammā ājīvati etenāti sammāājīvo, sammā vāyamati ussahatīti sammāvāyāmo, sammā sarati anussaratīti sammāsati, sammā samādhiyati cittaṃ etenāti sammāsamādhīti evaṃ nibbacanaṃ veditabbaṃ. Idāni ayaṃ kho sā bhikkhaveti tameva paṭipadaṃ nigamento āha. Tassattho – yvāyaṃ cattāropi lokuttaramagge ekato katvā kathito aṭṭhaṅgiko maggo, ayaṃ kho sā bhikkhave…pe… nibbānāya saṃvattatīti.
(Từ) “Seyyathidaṃ” là một bất biến từ, có nghĩa là: đó là gì, hoặc tám chi phần đó là những gì. Thật vậy, bất biến từ này có thể dùng chung cho mọi giống, cách, và số. Mỗi một chi phần cũng chính là đạo. Như đã nói: “chánh kiến vừa là đạo vừa là nhân” (dha. sa. 1039). Các bậc cổ nhân cũng nói rằng: “chánh kiến là đạo thấy, chánh tư duy là đạo hướng đến… này… chánh định là đạo không tán loạn.” Nhưng chẳng phải các chi phần hợp lại mới là đạo, vì không có Thánh đạo nào thiếu dù chỉ một trong bảy chi phần sao? Điều đó đúng trong sự thâm nhập chân lý, nhưng về mặt làm duyên cho đạo, mỗi một chi phần đó cũng chính là đạo do thực hiện phận sự của mình; nếu không, ngay cả khi chúng hợp lại, phận sự của đạo cũng không thể có được. Trong các từ chánh kiến v.v., thấy một cách đúng đắn là chánh kiến; tư duy một cách đúng đắn, hướng các pháp tương ưng đến đối tượng là Niết-bàn, là chánh tư duy; người ta nói một cách đúng đắn bằng cái này là chánh ngữ; người ta làm một cách đúng đắn bằng cái này là chánh nghiệp, đó chính là chánh nghiệp; người ta nuôi mạng một cách đúng đắn bằng cái này là chánh mạng; cố gắng, nỗ lực một cách đúng đắn là chánh tinh tấn; nhớ, ghi nhớ một cách đúng đắn là chánh niệm; tâm được định một cách đúng đắn bằng cái này là chánh định. Cần phải hiểu cách giải thích từ ngữ như vậy. Bây giờ, (câu) “Này các Tỳ-khưu, đây chính là”, ngài đã nói để kết luận về chính con đường đó. Ý nghĩa của câu đó là – đạo Tám Ngành này, đã được nói bằng cách gộp chung cả bốn đạo siêu thế, này các Tỳ-khưu, chính là con đường… này… đưa đến Niết-bàn.

14. Evaṃ majjhimapaṭipadaṃ sarūpato dassetvā idāni cattāri ariyasaccāni dassetuṃ ‘‘idaṃ kho pana, bhikkhave’’tiādimāha. Tattha (visuddhi. 2.530) dukkhanti ettha du-iti ayaṃ saddo kucchite dissati. Kucchitañhi puttaṃ ‘‘duputto’’ti vadanti, khaṃ-saddo pana tucche. Tucchañhi ākāsaṃ ‘‘kha’’nti vuccati. Idañca paṭhamasaccaṃ kucchitaṃ anekaupaddavādhiṭṭhānato, tucchaṃ bālajanaparikappitadhuvasubhasukhattabhāvavirahitato, tasmā kucchitattā tucchattā ca ‘‘dukkha’’nti vuccati. Yasmā panetaṃ buddhādayo ariyā paṭivijjhanti, tasmā ‘‘ariyasacca’’nti vuccati. Ariyapaṭivijjhitabbañhi saccaṃ purimapade uttarapadalopena ‘‘ariyasacca’’nti vuttaṃ. Ariyassa tathāgatassa saccantipi ariyasaccaṃ. Tathāgatena hi sayaṃ adhigatattā paveditattā tato eva ca aññehi adhigamanīyattā taṃ tassa hotīti. Atha vā etassa abhisambuddhattā ariyabhāvasiddhito ariyasādhakaṃ saccantipi ariyasaccaṃ pubbe viya uttarapadalopena . Avitathabhāvena vā araṇīyattā adhigantabbattā ariyaṃ saccantipi ariyasaccaṃ. Saccatthaṃ pana catunnampi saccānaṃ parato ekajjhaṃ dassayissāma.
14. Sau khi đã trình bày con đường trung đạo về mặt bản chất như vậy, bây giờ, để trình bày bốn chân lý của bậc Thánh, ngài đã nói câu bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, đây chính là.” Trong đó (visuddhi. 2.530), về (từ) “khổ,” ở đây, âm du– được thấy trong ý nghĩa đáng khinh. Một người con đáng khinh được gọi là “duputto” (người con xấu). Còn âm khaṃ– có nghĩa là trống rỗng. Không gian trống rỗng được gọi là “khaṃ.” Và chân lý đầu tiên này là đáng khinh do là nền tảng của nhiều tai họa, và là trống rỗng do không có các trạng thái thường, lạc, tịnh, ngã mà kẻ phàm phu tưởng tượng ra. Do đó, do đáng khinh và trống rỗng, nó được gọi là “khổ.” Và bởi vì nó được các bậc Thánh như các đức Phật v.v. thâm nhập, do đó nó được gọi là “Thánh đế.” Thật vậy, chân lý cần được các bậc Thánh thâm nhập được gọi là “Thánh đế” do sự lược bỏ từ cuối trong từ đầu (của cụm từ Ariyapaṭivijjhitabbaṃ saccaṃ). Nó cũng là Thánh đế vì là chân lý của bậc Thánh là Như Lai. Thật vậy, do đã được Như Lai tự mình chứng ngộ và tuyên thuyết, và do đó cũng cần được những người khác chứng ngộ, nên nó là của ngài. Hoặc, do việc chứng ngộ điều này mà trạng thái bậc Thánh được thành tựu, nên nó cũng là chân lý tạo ra bậc Thánh (ariyasādhakaṃ saccaṃ), (gọi là) Thánh đế do sự lược bỏ từ cuối như trước. Hoặc do không sai lạc và do cần phải được đạt đến, nên nó là chân lý cao thượng (ariyaṃ saccaṃ), (gọi là) Thánh đế. Còn về ý nghĩa của chân lý, chúng tôi sẽ trình bày chung cho cả bốn chân lý ở phần sau.

Idāni taṃ dukkhaṃ ariyasaccaṃ sarūpato dassetuṃ ‘‘jātipi dukkhā’’tiādimāha. Tatrāyaṃ jāti-saddo anekattho. Tathā hesa ‘‘ekampi jātiṃ dvepi jātiyo’’ti (dī. ni. 1.31; ma. ni. 1.148) ettha bhave āgato. ‘‘Atthi, visākhe, nigaṇṭhā nāma samaṇajātī’’ti (a. ni. 3.71) ettha nikāye. ‘‘Jāti dvīhi khandhehi saṅgahitā’’ti (dhātu. 71) ettha saṅkhatalakkhaṇe. ‘‘Yaṃ mātukucchismiṃ paṭhamaṃ cittaṃ uppannaṃ paṭhamaṃ viññāṇaṃ pātubhūtaṃ, tadupādāya sāvassa jātī’’ti (mahāva. 124) ettha paṭisandhiyaṃ. ‘‘Sampatijāto, ānanda, bodhisatto’’ti (dī. ni. 2.31; ma. ni. 3.207) ettha pasūtiyaṃ. ‘‘Akkhitto anupakuṭṭho jātivādenā’’ti (dī. ni. 1.303) ettha kule. Svāyamidha gabbhaseyyakānaṃ paṭisandhito paṭṭhāya yāva mātukucchimhā nikkhamanaṃ, tāva pavattesu khandhesu, itaresaṃ paṭisandhikkhaṇesvevāti daṭṭhabbo. Ayampi ca pariyāyakathāva, nippariyāyato pana tattha tattha nibbattamānānaṃ sattānaṃ ye khandhā pātubhavanti, tesaṃ paṭhamapātubhāvo jāti nāma.
Bây giờ, để trình bày Thánh đế về khổ đó về mặt bản chất, ngài đã nói câu bắt đầu bằng “sanh cũng là khổ.” Ở đó, từ jāti (sanh) này có nhiều ý nghĩa. Thật vậy, nó đã được dùng trong ý nghĩa là kiếp sống trong câu “một kiếp, hai kiếp” (dī. ni. 1.31; ma. ni. 1.148). Trong ý nghĩa là nhóm trong câu “Này Visākhā, có một nhóm sa-môn tên là Nigaṇṭha” (a. ni. 3.71). Trong ý nghĩa là tướng trạng hữu vi trong câu “Sanh được bao gồm trong hai uẩn” (dhātu. 71). Trong ý nghĩa là sự tái sanh trong câu “tâm đầu tiên sanh khởi, thức đầu tiên xuất hiện trong bụng mẹ, kể từ đó, đó là sự sanh của người ấy” (mahāva. 124). Trong ý nghĩa là sự sinh ra trong câu “Này Ānanda, Bồ-tát vừa mới sinh ra” (dī. ni. 2.31; ma. ni. 3.207). Trong ý nghĩa là dòng dõi trong câu “không bị chỉ trích, không bị khinh miệt bằng lời nói về dòng dõi” (dī. ni. 1.303). Cần được hiểu rằng từ này ở đây, đối với các loài thai sanh, là chỉ các uẩn diễn ra kể từ lúc tái sanh cho đến khi ra khỏi bụng mẹ; đối với các loài khác, là chỉ ngay trong khoảnh khắc tái sanh. Và đây cũng chỉ là cách nói theo quy ước; còn theo nghĩa tuyệt đối, sự xuất hiện đầu tiên của các uẩn của chúng sanh đang sanh ra ở nơi này hay nơi khác được gọi là sanh.

Kasmā panesā dukkhāti ce? Anekesaṃ dukkhānaṃ vatthubhāvato. Anekāni hi dukkhāni. Seyyathidaṃ – dukkhadukkhaṃ vipariṇāmadukkhaṃ saṅkhāradukkhaṃ paṭicchannadukkhaṃ appaṭicchannadukkhaṃ pariyāyadukkhaṃ nippariyāyadukkhanti. Tattha kāyikacetasikā dukkhā vedanā sabhāvato ca nāmato ca dukkhattā dukkhadukkhanti vuccati. Sukhā vedanā vipariṇāmadukkhuppattihetuto vipariṇāmadukkhaṃ. Upekkhā vedanā ceva sesā ca tebhūmakā saṅkhārā udayabbayapīḷitattā saṅkhāradukkhaṃ. Kaṇṇasūladantasūlarāgajapariḷāhadosajapariḷāhādikāyikacetasikā ābādhā pucchitvā jānitabbato upakkamassa ca apākaṭabhāvato paṭicchannadukkhaṃ. Dvattiṃsakammakāraṇādisamuṭṭhāno ābādho apucchitvāva jānitabbato upakkamassa ca pākaṭabhāvato appaṭicchannadukkhaṃ. Ṭhapetvā dukkhadukkhaṃ sesadukkhaṃ saccavibhaṅge āgataṃ jātiādi sabbampi tassa tassa dukkhassa vatthubhāvato pariyāyadukkhaṃ. Dukkhadukkhaṃ pana nippariyāyadukkhanti vuccati. Tatrāyaṃ jāti yaṃ taṃ bālapaṇḍitasuttādīsu (ma. ni. 3.246 ādayo) bhagavatāpi upamāvasena pakāsitaṃ āpāyikaṃ dukkhaṃ, yañca sugatiyampi manussaloke gabbhokkantimūlakādibhedaṃ dukkhaṃ uppajjati, tassa vatthubhāvato dukkhā. Tenāhu porāṇā –
Vậy tại sao nó lại là khổ? Do là nền tảng của nhiều loại khổ. Thật vậy, có nhiều loại khổ. Đó là: khổ khổ, hoại khổ, hành khổ, khổ che giấu, khổ không che giấu, khổ gián tiếp, khổ trực tiếp. Trong đó, các thọ khổ về thân và tâm được gọi là khổ khổ do khổ cả về bản chất lẫn tên gọi. Các thọ lạc là hoại khổ do là nhân cho sự sanh khởi của khổ do sự biến đổi. Các thọ xả và các hành còn lại trong ba cõi là hành khổ do bị sự sanh diệt bức bách. Các bệnh về thân và tâm như đau tai, đau răng, nhiệt não do tham, nhiệt não do sân v.v. là khổ che giấu do phải hỏi mới biết và do nguyên nhân không rõ ràng. Các bệnh phát sanh từ ba mươi hai loại nghiệp v.v. là khổ không che giấu do không cần hỏi cũng biết và do nguyên nhân rõ ràng. Ngoại trừ khổ khổ, các loại khổ còn lại được đề cập trong phần phân tích về chân lý, như sanh v.v., tất cả đều là khổ gián tiếp do là nền tảng của các loại khổ tương ứng. Còn khổ khổ được gọi là khổ trực tiếp. Ở đó, sanh này là khổ do là nền tảng của khổ ở các cõi dữ đã được đức Thế Tôn trình bày bằng các ví dụ trong các kinh như kinh Kẻ Ngu và Người Trí v.v. (ma. ni. 3.246 ādayo), và của khổ có nhiều loại như khổ bắt nguồn từ việc nhập thai v.v. ngay cả trong các cõi lành ở thế giới loài người. Do đó, các bậc cổ nhân đã nói:

‘‘Jāyetha no ce narakesu satto;
Tatthaggidāhādikamappasayhaṃ;
Labhetha dukkhaṃ na kuhiṃ patiṭṭhaṃ;
Iccāha dukkhāti munīdha jātiṃ.
“Nếu chúng sanh không sanh trong các địa ngục;
Sẽ không phải chịu đựng khổ không thể kham nổi như bị lửa thiêu đốt ở đó;
Sẽ không gặp phải khổ đau không nơi nương tựa;
Vì vậy, ở đây bậc ẩn sĩ nói sanh là khổ.

‘‘Dukkhaṃ tiracchesu kasāpatoda-
Daṇḍābhighātādibhavaṃ anekaṃ;
Yaṃ taṃ kathaṃ tattha bhaveyya jātiṃ;
Vinā tahiṃ jāti tatopi dukkhā.
“Vô số khổ trong loài súc sanh do bị roi vọt, gậy gộc đánh đập v.v.;
Làm sao có được những điều đó nếu không có sự sanh ở đó;
Vì vậy, sanh cũng là khổ.

‘‘Petesu dukkhaṃ pana khuppipāsā-
Vātātapādippabhavaṃ vicittaṃ;
Yasmā ajātassa na tattha atthi;
Tasmāpi dukkhaṃ muni jātimāha.
“Còn khổ trong loài ngạ quỷ do đói khát, gió nắng v.v. có nhiều loại;
Bởi vì người không sanh thì không có những điều đó ở đó;
Do đó, bậc ẩn sĩ cũng nói sanh là khổ.

‘‘Tibbandhakāre ca asayha sīte;
Lokantare yaṃ asuresu dukkhaṃ;
Na taṃ bhave tattha na cassa jāti;
Yato ayaṃ jāti tatopi dukkhā.
“Và khổ trong các cõi Atula ở thế giới Lokantara trong bóng tối dày đặc và giá lạnh không thể chịu đựng;
Sẽ không có những điều đó nếu không có sự sanh ở đó;
Vì vậy, sanh này cũng là khổ.

‘‘Yañcāpi gūthanarake viya mātu gabbhe;
Satto vasaṃ ciramato bahi nikkhamañca;
Pappoti dukkhamatighoramidampi natthi;
Jātiṃ vinā itipi jāti ayañhi dukkhā.
“Và cả khổ đau vô cùng khủng khiếp mà chúng sanh phải chịu khi sống lâu trong bụng mẹ như trong hầm phân và khi ra khỏi đó;
Cũng không có nếu không có sanh, vì vậy sanh này là khổ.

‘‘Kiṃ bhāsitena bahunā nanu yaṃ kuhiñci;
Atthīdha kiñcidapi dukkhamidaṃ kadāci;
Nevatthi jātivirahena yato mahesi;
Dukkhāti sabbapaṭhamaṃ imamāha jāti’’nti. (visuddhi. 2.541; vibha. aṭṭha. 191; mahāni. aṭṭha. 5; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.32-33);
“Cần gì phải nói nhiều, chẳng phải bất cứ khổ đau nào có ở đây, ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc nào;
Cũng đều không có nếu không có sự sanh, do đó bậc Đại Sĩ đã nói sanh này là khổ trước tiên hết.” (visuddhi. 2.541; vibha. aṭṭha. 191; mahāni. aṭṭha. 5; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.32-33);

Jarāpidukkhāti ettha pana duvidhā jarā saṅkhatalakkhaṇañca khaṇḍiccādisammato santatiyaṃ ekabhavapariyāpannakkhandhapurāṇabhāvo ca, sā idha adhippetā. Sā panesā jarā saṅkhāradukkhabhāvato ceva dukkhavatthuto ca dukkhā. Yañhi aṅgapaccaṅgasithilabhāvaindriyavikāravirūpatāyobbanavināsavīriyāvisādasatimativippavāsaparaparibhavādianekapaccayaṃ kāyikacetasikaṃ dukkhamuppajjati, jarā tassa vatthu. Tenāhu porāṇā –
(Câu) “Già cũng là khổ”: ở đây, có hai loại già là tướng trạng của pháp hữu vi và trạng thái cũ đi của các uẩn trong một kiếp sống, được biết đến qua sự gãy rụng răng v.v.; và loại sau được chủ đích ở đây. Và sự già đó là khổ do là trạng thái của hành khổ và do là nền tảng của khổ. Thật vậy, khổ về thân và tâm sanh khởi do nhiều nguyên nhân như sự lỏng lẻo của các chi phần, sự suy yếu của các căn, sự tàn phai của tuổi trẻ, sự suy giảm của năng lực, sự phai nhạt của trí nhớ và trí tuệ, sự khinh miệt của người khác v.v., và sự già là nền tảng của nó. Do đó, các bậc cổ nhân đã nói –

‘‘Aṅgānaṃ sithilībhāvā, indriyānaṃ vikārato;
Yobbanassa vināsena, balassa upaghātato.
“Do sự lỏng lẻo của các chi phần, do sự suy yếu của các căn;
Do sự tàn phai của tuổi trẻ, do sự suy giảm của sức lực.

‘‘Vippavāsā satādīnaṃ, puttadārehi attano;
Appasādanīyato ceva, bhiyyo bālattapattiyā.
“Do sự phai nhạt của trí nhớ v.v., do sự (khinh miệt của) con cháu mình;
Do không còn được yêu mến và trở nên như trẻ con.

‘‘Pappoti dukkhaṃ yaṃ macco, kāyikaṃ mānasaṃ tathā;
Sabbametaṃ jarāhetu, yasmā tasmā jarā dukhā’’ti. (visuddhi. 2.542; vibha. aṭṭha. 192; mahāni. aṭṭha. 5; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.32-33);
“Khổ đau mà con người phải chịu, cả về thân lẫn về tâm;
Tất cả những điều này đều do già làm nhân, do đó già là khổ.” (visuddhi. 2.542; vibha. aṭṭha. 192; mahāni. aṭṭha. 5; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.32-33);

Byādhipi dukkhoti idaṃ padaṃ vibhaṅge dukkhasaccaniddesapāḷiyaṃ na āgataṃ, teneva visuddhimaggepi dukkhasaccaniddese taṃ na uddhaṭaṃ, dhammacakkapavattanasuttantapāḷiyaṃyeva pana upalabbhati, tasmā tatthevimassa vacane aññattha ca avacane kāraṇaṃ vīmaṃsitabbaṃ.
(Câu) “Bệnh cũng là khổ”: từ này không có trong bản Pāḷi của phần giải về Thánh Đế Khổ trong sách Phân Tích, chính vì thế, trong sách Thanh Tịnh Đạo, trong phần giải về Thánh Đế Khổ, nó cũng không được trích dẫn. Nhưng nó lại có trong bản Pāḷi của kinh Chuyển Pháp Luân, do đó, cần phải xem xét lý do tại sao nó có trong lời dạy ở đó mà lại không có ở nơi khác.

Maraṇampi dukkhanti etthāpi duvidhaṃ maraṇaṃ saṅkhatalakkhaṇañca. Yaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘jarāmaraṇaṃ dvīhi khandhehi saṅgahita’’nti (dhātu. 71). Ekabhavapariyāpannajīvitindriyappabandhavicchedo ca. Yaṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘niccaṃ maraṇato bhaya’’nti (su. ni. 581; jā. 1.11.88), taṃ idha adhippetaṃ. Jātipaccayamaraṇaṃ upakkamamaraṇaṃ sarasamaraṇaṃ āyukkhayamaraṇaṃ puññakkhayamaraṇantipi tasseva nāmaṃ. Tayidaṃ dukkhassa vatthubhāvato dukkhanti veditabbaṃ. Tenāhu porāṇā –
(Câu) “Chết cũng là khổ”: ở đây cũng có hai loại chết là tướng trạng của pháp hữu vi. Nhắm đến điều đó đã được nói: “già và chết được bao gồm trong hai uẩn” (dhātu. 71). Và sự chấm dứt của chuỗi mạng căn trong một kiếp sống. Nhắm đến điều đó đã được nói: “luôn có nỗi sợ hãi từ cái chết” (su. ni. 581; jā. 1.11.88), và điều đó được chủ đích ở đây. Cái chết do sanh làm duyên, cái chết do ngoại lực, cái chết đúng lúc, cái chết do hết tuổi thọ, cái chết do hết phước cũng là tên gọi của nó. Cần được hiểu rằng điều đó là khổ do là nền tảng của khổ. Do đó, các bậc cổ nhân đã nói –

‘‘Pāpassa pāpakammādi-nimittamanupassato;
Bhaddassāpasahantassa, viyogaṃ piyavatthukaṃ;
Mīyamānassa yaṃ dukkhaṃ, mānasaṃ avisesato.
“Đối với người ác, khi thấy các tướng của nghiệp ác v.v.;
Đối với người hiền, khi không thể chịu đựng được sự chia ly với những vật thân yêu;
Khi đang hấp hối, có nỗi khổ về tâm không phân biệt.

‘‘Sabbesañcāpi yaṃ sandhi-bandhanacchedanādikaṃ;
Vitujjamānamammānaṃ, hoti dukkhaṃ sarīrajaṃ.
“Và đối với tất cả chúng sanh, có nỗi khổ thuộc về thân do sự đứt lìa các khớp xương, dây chằng v.v.;
Và do các huyệt đạo bị đau nhói.

‘‘Asayhamappaṭikāraṃ, dukkhassetassidaṃ yato;
Maraṇaṃ vatthu tenetaṃ, dukkhamicceva bhāsita’’nti. (visuddhi. 2.543; vibha. aṭṭha. 193; mahāni. aṭṭha. 5; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.32-33);
“Bởi vì cái chết là nền tảng của nỗi khổ không thể chịu đựng, không thể cứu chữa này;
Do đó, nó được gọi chính là khổ.” (visuddhi. 2.543; vibha. aṭṭha. 193; mahāni. aṭṭha. 5; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.32-33);

Imasmiñca ṭhāne ‘‘sokaparidevadukkhadomanassupāyāsāpi dukkhā’’ti vibhaṅge dukkhasaccaniddese āgataṃ, idha pana taṃ natthi, tatthāpi kāraṇaṃ pariyesitabbaṃ.
Và ở đây, (câu) “sầu, bi, khổ, ưu, não cũng là khổ” có trong phần giải về Thánh Đế Khổ trong sách Phân Tích, nhưng ở đây thì không có. Về điều đó cũng cần phải tìm hiểu lý do.

Appiyehi sampayogo dukkhoti ettha appiyasampayogo nāma amanāpehi sattasaṅkhārehi samodhānaṃ. Sopi dukkhavatthuto dukkho. Tenāhu porāṇā –
(Câu) “Hội ngộ với người không ưa thích là khổ”: ở đây, hội ngộ với người không ưa thích là sự gặp gỡ với chúng sanh và các pháp hữu vi không vừa ý. Điều đó cũng là khổ do là nền tảng của khổ. Do đó, các bậc cổ nhân đã nói –

‘‘Disvāva appiye dukkhaṃ, paṭhamaṃ hoti cetasi;
Tadupakkamasambhūta-matha kāye yato idha.
“Vừa thấy người không ưa, khổ đã có trong tâm;
Rồi khổ thuộc về thân, do hành động sanh ra.

‘‘Tato dukkhadvayassāpi, vatthuto so mahesinā;
Dukkho vuttoti viññeyyo, appiyehi samāgamo’’ti.
“Vì là nền tảng của, cả hai loại khổ đau;
Nên bậc Đại Sĩ đã dạy, hội ngộ người không ưa là khổ.”

Piyehi vippayogo dukkhoti ettha pana piyavippayogo nāma manāpehi sattasaṅkhārehi vinābhāvo. Sopi sokadukkhassa vatthuto dukkho. Tenāhu porāṇā –
(Câu) “Biệt ly với người ưa thích là khổ”: ở đây, biệt ly với người ưa thích là sự xa cách với chúng sanh và các pháp hữu vi vừa ý. Điều đó cũng là khổ do là nền tảng của sầu khổ. Do đó, các bậc cổ nhân đã nói –

‘‘Ñātidhanādiviyogā;
Sokasarasamappitā vitujjanti;
Bālā yato tatoyaṃ;
Dukkhoti mato piyavippayogo’’ti.
“Do biệt ly với quyến thuộc, tài sản v.v.;
Kẻ ngu bị mũi tên sầu muộn đâm phải, đau đớn;
Vì vậy, biệt ly với người ưa thích;
Được xem là khổ.”

Yampicchaṃ na labhatīti ettha ‘‘aho vata mayaṃ na jātidhammā assāmā’’tiādīsu alabbhaneyyavatthūsu icchāva ‘‘yampicchaṃ na labhati, tampi dukkha’’nti vuttā, sāpi dukkhavatthuto dukkhā. Tenāhu porāṇā –
(Câu) “Mong cầu mà không được”: ở đây, chính sự mong muốn đối với những điều không thể đạt được như: “mong sao chúng ta không phải chịu sanh” v.v. đã được gọi là “mong cầu mà không được, đó cũng là khổ.” Điều đó cũng là khổ do là nền tảng của khổ. Do đó, các bậc cổ nhân đã nói –

‘‘Taṃ taṃ patthayamānānaṃ, tassa tassa alābhato;
Yaṃ vighātamayaṃ dukkhaṃ, sattānaṃ idha jāyati.
“Đối với những chúng sanh luôn mong cầu điều này điều nọ;
Do không đạt được điều đó;
Nỗi khổ do sự thất vọng sanh khởi ở thế gian này.

‘‘Alabbhaneyyavatthūnaṃ, patthanā tassa kāraṇaṃ;
Yasmā tasmā jino dukkhaṃ, icchitālābhamabravī’’ti.
“Sự mong cầu những điều không thể đạt được là nguyên nhân của nó;
Do đó, bậc Chinh Phục đã nói sự mong cầu mà không được là khổ.”

Saṃkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhāti ettha pana yasmā indhanamiva pāvako, lakkhamiva paharaṇāni, gorūpaṃ viya ḍaṃsamakasādayo, khettamiva lāyakā, gāmaṃ viya gāmaghātakā, upādānakkhandhapañcakameva jātiādayo nānappakārehi vibādhentā tiṇalatādīni viya bhūmiyaṃ, pupphaphalapallavāni viya rukkhesu upādānakkhandhesuyeva nibbattanti, upādānakkhandhānañca ādidukkhaṃ jāti, majjhedukkhaṃ jarā, pariyosānadukkhaṃ maraṇaṃ, manorathavighātappattānañca icchāvighātadukkhaṃ icchitālābhoti evaṃ nānappakārato upaparikkhiyamānā upādānakkhandhāva dukkhāti yadetaṃ ekamekaṃ dassetvā vuccamānaṃ anekehipi kappehi na sakkā anavasesato vattuṃ, tasmā taṃ sabbampi dukkhaṃ ekajalabindumhi sakalasamuddajalarasaṃ viya yesu kesuci pañcupādānakkhandhesu saṅkhipitvā dassetuṃ ‘‘saṃkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā’’ti bhagavā avoca. Tenāhu porāṇā –
(Câu) “Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ”: ở đây, bởi vì sanh v.v. hành hạ năm thủ uẩn theo nhiều cách khác nhau giống như lửa đối với nhiên liệu, như các đòn đánh đối với mục tiêu, như ruồi muỗi v.v. đối với con bò, như những người thợ gặt trong ruộng, như những kẻ cướp làng trong làng; và giống như cỏ cây v.v. sanh khởi trên mặt đất, như hoa, quả, lá non sanh khởi trên cây, (các khổ đó) cũng sanh khởi chính trong các thủ uẩn; và sanh là khổ ban đầu của các thủ uẩn, già là khổ ở giữa, chết là khổ cuối cùng; và mong cầu mà không được là khổ do sự thất vọng của những người có nguyện vọng không thành. Như vậy, khi được xem xét kỹ lưỡng theo nhiều cách, chính các thủ uẩn là khổ. Điều này, nếu được trình bày từng cái một, cũng không thể nói hết được dù trong nhiều đại kiếp. Do đó, để tóm tắt và trình bày tất cả khổ đau đó trong năm thủ uẩn, giống như vị của toàn thể đại dương trong một giọt nước, đức Thế Tôn đã nói: “tóm lại, năm thủ uẩn là khổ.” Do đó, các bậc cổ nhân đã nói –

‘‘Jātippabhutikaṃ dukkhaṃ, yaṃ vuttamidha tādinā;
Avuttaṃ yañca taṃ sabbaṃ, vinā ete na vijjati.
“Khổ đau bắt đầu bằng sanh, đã được bậc Như Nhiên nói ở đây;
Và cả những khổ chưa nói, tất cả đều không tồn tại nếu không có các uẩn này.

‘‘Yasmā tasmā upādāna-kkhandhā saṅkhepato ime;
Dukkhāti vuttā dukkhanta-desakena mahesinā’’ti.
“Do đó, các thủ uẩn này, một cách tóm tắt;
Được bậc Đại Sĩ, người chỉ ra sự chấm dứt của khổ, nói là khổ.”

Evaṃ sarūpato dukkhasaccaṃ dassetvā idāni samudayasaccaṃ dassetuṃ ‘‘idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhasamudaya’’ntiādimāha. Tattha saṃ-iti ayaṃ saddo ‘‘samāgamo sameta’’ntiādīsu saṃyogaṃ dīpeti, u-iti ayaṃ ‘‘uppannaṃ udita’’ntiādīsu uppattiṃ. Aya-saddo pana kāraṇaṃ dīpeti. Idañcāpi dutiyasaccaṃ avasesapaccayasamāyoge sati dukkhassuppattikāraṇanti dukkhassa saṃyoge uppattikāraṇattā ‘‘dukkhasamudaya’’nti vuccati. Yāyaṃ taṇhāti yā ayaṃ taṇhā. Ponobbhavikāti punabbhavakaraṇaṃ punabbhavo uttarapadalopena, punabbhavo sīlametissāti ponobbhavikā. Nandīrāgena sahagatāti nandīrāgasahagatā. Idaṃ vuttaṃ hoti ‘‘nandanato rajjanato ca nandīrāgabhāvaṃ sabbāsu avatthāsu appaccakkhāya vuttiyā nandīrāgasahagatā’’ti. Tatratatrābhinandinīti yatra yatra attabhāvo nibbattati, tatratatrābhinandinī.
Sau khi đã trình bày Thánh đế về khổ về mặt bản chất như vậy, bây giờ, để trình bày Thánh đế về sự tập khởi, ngài đã nói câu bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, đây chính là sự tập khởi của khổ.” Trong đó, âm saṃ– chỉ sự kết hợp, như trong “samāgamo” (sự hội ngộ), “sameta” (cùng nhau). Âm u– chỉ sự sanh khởi, như trong “uppannaṃ” (đã sanh khởi), “uditaṃ” (đã mọc lên). Còn âm aya– chỉ nguyên nhân. Và chân lý thứ hai này, khi có sự hội đủ của các duyên còn lại, là nguyên nhân cho sự sanh khởi của khổ. Do là nguyên nhân cho sự sanh khởi trong sự kết hợp của khổ, nên nó được gọi là “sự tập khởi của khổ.” (Câu) “chính là tham ái này”: chính là tham ái này. (Từ) “dẫn đến tái sanh”: sự tạo ra một kiếp sống mới là punabbhavo, do sự lược bỏ từ cuối (của cụm từ punabbhavakaraṇaṃ). Cái có bản chất là một kiếp sống mới là ponobbhavikā. Đi cùng với hỷ và tham là (từ) “đi cùng với hỷ và tham.” Ý nói là: “đi cùng với hỷ và tham do chức năng của nó không từ bỏ trạng thái hoan hỷ và tham luyến trong mọi hoàn cảnh.” (Từ) “vui thích nơi này nơi kia”: nơi nào có một kiếp sống sanh khởi, nó vui thích ở nơi đó.

Seyyathidanti nipāto, tassa sā katamāti ceti ayamattho. Rūpataṇhādibhedena chabbidhāyeva taṇhā pavattiākārabhedato kāmataṇhādivasena tividhā vuttā. Rūpataṇhāyeva hi yadā cakkhussa āpāthamāgataṃ rūpārammaṇaṃ kāmassādavasena assādayamānā pavattati, tadā kāmataṇhā nāma hoti. Yadā tadevārammaṇaṃ dhuvaṃ sassatanti pavattāya sassatadiṭṭhiyā saddhiṃ pavattati, tadā bhavataṇhā nāma hoti. Sassatadiṭṭhisahagato hi rāgo ‘‘bhavataṇhā’’ti vuccati. Yadā pana tadevārammaṇaṃ ucchijjati vinassatīti pavattāya ucchedadiṭṭhiyā saddhiṃ pavattati, tadā vibhavataṇhā nāma hoti. Ucchedadiṭṭhisahagato hi rāgo ‘‘vibhavataṇhā’’ti vuccati. Esa nayo saddataṇhādīsupi.
(Từ) “Seyyathidaṃ” là một bất biến từ, có nghĩa là: đó là gì. Tham ái, vốn có sáu loại theo sự phân biệt như sắc ái v.v., đã được nói là có ba loại theo cách thức biểu hiện, tức là dục ái v.v… Thật vậy, chính sắc ái, khi nó biểu hiện bằng cách hưởng thụ đối tượng sắc đã đi vào tầm nhìn của mắt theo cách thưởng thức dục lạc, khi đó được gọi là dục ái. Khi chính đối tượng đó biểu hiện cùng với thường kiến cho rằng nó là thường hằng, vĩnh cửu, khi đó được gọi là hữu ái. Thật vậy, ái đi cùng với thường kiến được gọi là “hữu ái.” Còn khi chính đối tượng đó biểu hiện cùng với đoạn kiến cho rằng nó sẽ bị đoạn diệt, sẽ bị hủy hoại, khi đó được gọi là vô hữu ái. Thật vậy, ái đi cùng với đoạn kiến được gọi là “vô hữu ái.” Phương pháp này cũng áp dụng cho thanh ái v.v…

Kasmā panettha taṇhāva samudayasaccaṃ vuttāti? Visesahetubhāvato. Avijjā hi bhavesu ādīnavaṃ paṭicchādentī diṭṭhiādiupādānañca tattha tattha abhinivisamānaṃ taṇhaṃ abhivaḍḍheti, dosādayopi kammassa kāraṇaṃ honti, taṇhā pana taṃtaṃbhavayonigativiññāṇaṭṭhitisattāāvāsasattanikāyakulabhogissariyādivicittataṃ abhipatthentī kammavicittatāya upanissayataṃ kammassa ca sahāyabhāvaṃ upagacchantī bhavādivicittataṃ niyameti, tasmā dukkhassa visesahetubhāvato aññesupi avijjāupādānakammādīsu sutte abhidhamme ca avasesakilesākusalamūlādīsu vuttesu dukkhahetūsu vijjamānesu taṇhāva ‘‘samudayasacca’’nti vuttāti veditabbaṃ.
Tại sao ở đây chỉ có tham ái được gọi là Thánh đế về sự tập khởi? Do là nhân đặc biệt. Thật vậy, vô minh che lấp sự nguy hiểm trong các cõi và làm cho tham ái tăng trưởng, trong khi thủ về tà kiến v.v. bám víu vào các cõi đó. Các pháp như sân hận v.v. cũng là nhân của nghiệp. Nhưng tham ái, do mong muốn sự đa dạng của các cõi, các loại thai sanh, các cảnh giới, các trú xứ của thức, các nơi ở của chúng sanh, các loài chúng sanh, các gia đình, tài sản, quyền lực v.v., đã trở thành duyên hỗ trợ cho sự đa dạng của nghiệp và trở thành bạn đồng hành của nghiệp, và nó quy định sự đa dạng của các cõi v.v… Do đó, do là nhân đặc biệt của khổ, mặc dù có những nhân của khổ khác đã được nói đến trong kinh và trong tạng Vi Diệu Pháp như vô minh, thủ, nghiệp v.v., và các phiền não, các căn bản bất thiện còn lại, cần phải hiểu rằng chỉ có tham ái được gọi là “Thánh đế về sự tập khởi.”

Idāni dukkhanirodhaṃ ariyasaccaṃ dassetuṃ ‘‘idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhanirodha’’ntiādimāha. Tattha yasmā ni-saddo abhāvaṃ, rodha-saddo ca cārakaṃ dīpeti, tasmā abhāvo ettha saṃsāracārakasaṅkhātassa dukkharodhassa sabbagatisuññattā, samadhigate vā tasmiṃ saṃsāracārakasaṅkhātassa dukkharodhassa abhāvo hoti tappaṭipakkhattātipi ‘‘dukkhanirodha’’nti vuccati. Dukkhassa vā anuppādanirodhapaccayattā dukkhanirodhaṃ. Dukkhanirodhaṃ dassentena cettha ‘‘yo tassāyeva taṇhāyā’’tiādinā nayena samudayanirodho vutto, so kasmā vuttoti ce? Samudayanirodhena dukkhanirodho. Byādhinimittavūpasamena byādhivūpasamo viya hi hetunirodhena phalanirodho, tasmā samudayanirodheneva dukkhaṃ nirujjhati, na aññathā. Tenāha –
Bây giờ, để trình bày Thánh đế về sự đoạn diệt của khổ, ngài đã nói câu bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, đây chính là sự đoạn diệt của khổ.” Trong đó, bởi vì âm ni– chỉ sự không có, và từ rodha– chỉ nhà tù, do đó, ở đây, do sự trống rỗng của tất cả các cảnh giới đối với nhà tù khổ được gọi là nhà tù luân hồi, hoặc khi đã đạt được (Niết-bàn), có sự không có của nhà tù khổ được gọi là nhà tù luân hồi do đối nghịch với nó, nên (Niết-bàn) được gọi là “sự đoạn diệt của khổ.” Hoặc do là duyên cho sự không sanh khởi và sự đoạn diệt của khổ nên là sự đoạn diệt của khổ. Và ở đây, khi trình bày sự đoạn diệt của khổ, sự đoạn diệt của sự tập khởi đã được nói đến theo phương pháp bắt đầu bằng “chính là sự đoạn diệt của tham ái ấy.” Nếu hỏi tại sao lại nói như vậy? Sự đoạn diệt của khổ là do sự đoạn diệt của sự tập khởi. Thật vậy, sự đoạn diệt của quả là do sự đoạn diệt của nhân, giống như sự chấm dứt của bệnh tật là do sự lắng dịu của các triệu chứng bệnh. Do đó, khổ chỉ đoạn diệt do sự đoạn diệt của sự tập khởi, không phải cách nào khác. Do đó ngài đã nói:

‘‘Yathāpi mūle anupaddave daḷhe;
Chinnopi rukkho punareva rūhati;
Evampi taṇhānusaye anūhate;
Nibbattatī dukkhamidaṃ punappuna’’nti. (dha. pa. 338);
“Như cây dù bị chặt, vẫn mọc lại;
Nếu gốc còn không hại, vẫn vững bền;
Cũng vậy, nếu tùy miên tham ái chưa được nhổ bật gốc;
Khổ đau này vẫn sanh khởi mãi không ngừng.” (dha. pa. 338);

Iti yasmā samudayanirodheneva dukkhaṃ nirujjhati, tasmā bhagavā dukkhanirodhaṃ dassento samudayanirodhena desesi. Sīhasamānavuttino hi tathāgatā. Te dukkhaṃ nirodhentā dukkhanirodhañca desentā hetumhi paṭipajjanti, na phale. Yathā hi sīho yenattani saro khitto, tattheva attano balaṃ dasseti, na sare, tathā buddhānaṃ kāraṇe paṭipatti, na phale. Titthiyā pana suvānavuttino. Te dukkhaṃ nirodhentā dukkhanirodhañca desentā attakilamathānuyogadesanādīhi phale paṭipajjanti, na hetumhi. Yathā hi sunakhā kenaci leḍḍuppahāre dinne bhussantā leḍḍuṃ khādanti, na pahāradāyake uṭṭhahanti, evaṃ aññatitthiyā dukkhaṃ nirodhetukāmā kāyakhedamanuyujjanti, na kilesanirodhanaṃ, evaṃ tāva dukkhanirodhassa samudayanirodhavasena desanāya payojanaṃ veditabbaṃ.
Như vậy, bởi vì khổ chỉ đoạn diệt do sự đoạn diệt của sự tập khởi, do đó đức Thế Tôn, khi trình bày sự đoạn diệt của khổ, đã thuyết giảng bằng sự đoạn diệt của sự tập khởi. Thật vậy, các đấng Như Lai có cách hành xử giống như loài sư tử. Khi các ngài đoạn diệt khổ và thuyết giảng về sự đoạn diệt của khổ, các ngài thực hành đối với nhân, không phải đối với quả. Giống như con sư tử, khi bị mũi tên bắn vào mình, nó thể hiện sức mạnh của mình đối với chính kẻ đã bắn nó, không phải đối với mũi tên. Cũng vậy, sự thực hành của các đức Phật là đối với nguyên nhân, không phải đối với kết quả. Còn các người theo ngoại đạo có cách hành xử giống như loài chó. Khi họ đoạn diệt khổ và thuyết giảng về sự đoạn diệt của khổ, họ thực hành đối với quả bằng cách thuyết giảng về sự tự hành hạ bản thân v.v., không phải đối với nhân. Giống như những con chó, khi bị ai đó ném một cục đất, chúng sủa và cắn cục đất đó, chứ không tấn công người ném. Cũng vậy, những người theo ngoại đạo khác, khi muốn đoạn diệt khổ, họ chuyên tâm vào việc hành hạ thân xác, chứ không phải vào việc đoạn diệt phiền não. Như vậy, cần phải hiểu lợi ích của việc thuyết giảng về sự đoạn diệt của khổ bằng cách thuyết giảng về sự đoạn diệt của sự tập khởi.

Ayaṃ panettha attho. Tassāyeva taṇhāyāti tassā ‘‘ponobbhavikā’’ti vatvā kāmataṇhādivasena vibhattataṇhāya. Virāgo vuccati maggo. ‘‘Virāgā vimuccatī’’ti (ma. ni. 1.245; saṃ. ni. 3.12, 59) hi vuttaṃ. Virāgena nirodho virāganirodho, anusayasamugghātato aseso virāganirodho asesavirāganirodho. Atha vā virāgoti pahānaṃ vuccati, tasmā anusayasamugghātato aseso virāgo aseso nirodhoti evampettha yojanā daṭṭhabbā, atthato pana sabbāneva etāni nibbānassa vevacanāni. Paramatthato hi dukkhanirodho ariyasaccanti nibbānaṃ vuccati. Yasmā pana taṃ āgamma taṇhā virajjati ceva nirujjhati ca, tasmā ‘‘virāgo’’ti ca ‘‘nirodho’’ti ca vuccati. Yasmā ca tadeva āgamma tassā cāgādayo honti, kāmaguṇālayādīsu cettha ekopi ālayo natthi, tasmā cāgo paṭinissaggo mutti anālayoti vuccati.
Đây là ý nghĩa ở đây. (Sự đoạn diệt) “của chính tham ái ấy”: của tham ái đã được phân chia thành dục ái v.v., sau khi đã nói là “dẫn đến tái sanh.” Ly tham được gọi là đạo. Thật vậy, đã được nói: “do ly tham nên giải thoát” (ma. ni. 1.245; saṃ. ni. 3.12, 59). Sự đoạn diệt do ly tham là virāganirodho. Sự đoạn diệt và ly tham không còn dư sót do đã nhổ bật gốc các tùy miên là asesavirāganirodho (sự đoạn diệt và ly tham không còn dư sót). Hoặc, virāgo được gọi là sự từ bỏ, do đó, ở đây cần được liên kết là: sự ly tham không còn dư sót do đã nhổ bật gốc các tùy miên là sự đoạn diệt không còn dư sót. Nhưng về mặt ý nghĩa, tất cả những từ này đều là các từ đồng nghĩa của Niết-bàn. Thật vậy, về mặt chân đế, Thánh đế về sự đoạn diệt của khổ được gọi là Niết-bàn. Nhưng bởi vì, do nương vào nó, tham ái vừa ly tham vừa đoạn diệt, do đó nó được gọi là “ly tham” và “đoạn diệt.” Và bởi vì, chính do nương vào nó, có sự từ bỏ v.v. đối với tham ái đó, và ở đây không có một ái luyến nào như ái luyến trong các dục, do đó nó được gọi là sự từ bỏ, sự xả ly, sự giải thoát, sự không ái luyến.

Idāni dukkhanirodhagāminipaṭipadāariyasaccaṃ dassetuṃ ‘‘idaṃ kho pana, bhikkhave, dukkhanirodhagāminī’’tiādimāha. Yasmā panetaṃ ariyasaccaṃ dukkhanirodhaṃ gacchati ārammaṇavasaena tadabhimukhabhūtattā, paṭipadā ca hoti dukkhanirodhappattiyā, tasmā ‘‘dukkhanirodhagāminī paṭipadā’’ti vuccati. Sesamettha vuttanayameva. Ko pana nesaṃ dukkhādīnaṃ saccaṭṭhoti? Yo paññācakkhunā upaparikkhiyamānānaṃ māyāva viparīto, marīciva visaṃvādako, titthiyānaṃ attā viya anupalabbhasabhāvo ca na hoti, atha kho bādhanappabhavasantiniyyānappakārena tacchāviparītabhūtabhāvena ariyañāṇassa gocaro hotiyeva, esa aggilakkhaṇaṃ viya lokapakati viya ca tacchāviparītabhūtabhāvo saccaṭṭhoti veditabbo. Ettha ca aggilakkhaṇaṃ nāma uṇhattaṃ. Tañhi katthaci kaṭṭhādiupādānabhede visaṃvādakaṃ viparītaṃ abhūtaṃ vā kadācipi na hoti, ‘‘jātidhammā jarādhammā, atho maraṇadhammino’’ti (a. ni. 5.57) evaṃ vuttajātiādikā lokapakatīti veditabbā. ‘‘Ekaccānaṃ tiracchānānaṃ tiriyaṃ dīghatā, manussādīnaṃ uddhaṃ dīghatā, vuddhiniṭṭhappattānaṃ puna avaḍḍhananti evamādikā ca lokapakatī’’ti vadanti.
Bây giờ, để trình bày Thánh đế về con đường đưa đến sự đoạn diệt của khổ, ngài đã nói câu bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, đây chính là con đường đưa đến sự đoạn diệt của khổ.” Và bởi vì Thánh đế này đi đến sự đoạn diệt của khổ do hướng đến nó bằng cách lấy nó làm đối tượng, và nó là con đường để đạt đến sự đoạn diệt của khổ, do đó nó được gọi là “con đường đưa đến sự đoạn diệt của khổ.” Phần còn lại ở đây có phương pháp đã được nói. Vậy, ý nghĩa chân thật của các pháp như khổ v.v. là gì? Là điều khi được xem xét kỹ lưỡng bằng con mắt trí tuệ, nó không phải là sai lầm như ảo ảnh, không lừa dối như ảo giác, và không có bản chất không thể tìm thấy như tự ngã của các người theo ngoại đạo. Mà nó chính là đối tượng của trí tuệ của bậc Thánh bằng một trạng thái chân thật, không sai lầm, hiện thực, theo các phương diện là sự bức bách, sự phát sanh, sự an tịnh, và sự giải thoát. Cần được hiểu rằng trạng thái chân thật, không sai lầm, hiện thực này, giống như đặc tính của lửa hay như quy luật của thế gian, là ý nghĩa của chân thật. Ở đây, đặc tính của lửa là sự nóng. Điều đó không bao giờ là lừa dối, sai lầm, hay không có thật trong bất cứ loại nhiên liệu nào như củi v.v… Cần được hiểu rằng quy luật của thế gian là những điều đã được nói như: “những chúng sanh phải chịu sanh thì phải chịu già, và cũng phải chịu chết” (a. ni. 5.57). Người ta cũng nói rằng: “quy luật của thế gian cũng là những điều như: một số loài súc sanh thì dài theo chiều ngang, loài người v.v. thì dài theo chiều dọc; những chúng sanh đã đạt đến sự phát triển tối đa thì không phát triển nữa.”

Apica –
Hơn nữa –

Nābādhakaṃ yato dukkhaṃ, dukkhā aññaṃ na bādhakaṃ;
Bādhakattaniyāmena, tato saccamidaṃ mataṃ.
Bởi vì khổ không bức bách, điều gì khác ngoài khổ không bức bách;
Do quy luật về sự bức bách, do đó điều này được xem là chân thật.

Taṃ vinā nāññato dukkhaṃ, na hoti na ca taṃ tato;
Dukkhahetuniyāmena, iti saccaṃ visattikā.
Không có khổ từ điều gì khác ngoài nó, và nó cũng không từ điều gì khác;
Do quy luật về nhân của khổ, vì vậy, hỡi ái, đây là chân thật.

Nāññā nibbānato santi, santaṃ na ca na taṃ yato;
Santabhāvaniyāmena, tato saccamidaṃ mataṃ.
Không có sự an tịnh nào khác ngoài Niết-bàn, và sự an tịnh cũng không phải là không có nó;
Do quy luật về trạng thái an tịnh, do đó điều này được xem là chân thật.

Maggā aññaṃ na niyyānaṃ, aniyyāno na cāpi so;
Tacchaniyyānabhāvattā, iti so saccasammato.
Không có sự giải thoát nào khác ngoài đạo, và đạo cũng không phải là không giải thoát;
Do có bản chất là sự giải thoát chân thật, vì vậy nó được xem là chân thật.

Iti tacchāvipallāsa-bhūtabhāvaṃ catūsupi;
Dukkhādīsvavisesena, saccaṭṭhaṃ āhu paṇḍitāti. (vibha. aṭṭha. 189);
Như vậy, các bậc hiền trí đã nói rằng ý nghĩa của chân thật trong cả bốn pháp;
Như khổ v.v. một cách không khác biệt, là trạng thái chân thật, không sai lầm, hiện thực. (vibha. aṭṭha. 189);

15.Pubbe ananussutesūti ito pubbe ‘‘idaṃ dukkha’’ntiādinā na anussutesu assutapubbesu catusaccadhammesu. Cakkhuntiādīni ñāṇavevacanāneva. Ñāṇameva hettha paccakkhato dassanaṭṭhena cakkhu viyāti cakkhu, ñāṇaṭṭhena ñāṇaṃ, pakārato jānanaṭṭhena paññā, paṭivijjhanaṭṭhena vijjā, saccappaṭicchādakassa mohandhakārassa vidhamanato obhāsanaṭṭhena ālokoti vuttaṃ. Taṃ panetaṃ catūsu saccesu lokiyalokuttaramissakaṃ niddiṭṭhanti veditabbaṃ.
15. (Trong) “các pháp chưa từng được nghe trước đây”: trong các pháp về bốn chân lý chưa từng được nghe trước đây theo cách “đây là khổ” v.v… (Các từ) “con mắt” v.v. đều là các từ đồng nghĩa của trí tuệ. Ở đây, chính trí tuệ, do có chức năng thấy một cách trực tiếp như con mắt, nên được gọi là con mắt; do có chức năng biết nên là trí; do có chức năng biết một cách chi tiết nên là tuệ; do có chức năng thâm nhập nên là minh; do có chức năng soi sáng, xua tan bóng tối của si mê che lấp các chân lý, nên được gọi là ánh sáng. Cần được hiểu rằng điều đó đã được chỉ định là sự pha trộn giữa pháp thế gian và siêu thế trong bốn chân lý.

16.Yāvakīvañcāti yattakaṃ kālaṃTiparivaṭṭanti saccañāṇakiccañāṇakatañāṇasaṅkhātānaṃ tiṇṇaṃ parivaṭṭānaṃ vasena tiparivaṭṭaṃ. Saccañāṇādivasena hi tayo parivaṭṭā etassāti tiparivaṭṭanti vuccati ñāṇadassanaṃ. Ettha ca ‘‘idaṃ dukkhaṃ ariyasaccaṃ, idaṃ dukkhasamudaya’’nti evaṃ catūsu saccesu yathābhūtañāṇaṃ saccañāṇaṃ nāma. Tesuyeva ‘‘pariññeyyaṃ pahātabbaṃ sacchikātabbaṃ bhāvetabba’’nti evaṃ kattabbakiccajānanañāṇaṃ kiccañāṇaṃ nāma. ‘‘Pariññātaṃ pahīnaṃ sacchikataṃ bhāvita’’nti evaṃ tassa katabhāvajānanañāṇaṃ katañāṇaṃ nāma. Dvādasākāranti tesaṃyeva ekekasmiṃ sacce tiṇṇaṃ tiṇṇaṃ ākārānaṃ vasena dvādasākāraṃ. Ñāṇadassananti etesaṃ tiparivaṭṭānaṃ dvādasannaṃ ākārānaṃ vasena uppannañāṇasaṅkhātaṃ dassanaṃ.
16. (Từ) “Yāvakīvañcā”: trong một thời gian bao lâu. (Trí kiến) “có ba chuyển”: có ba chuyển do có ba sự chuyển vận được gọi là trí về chân lý, trí về phận sự, và trí về sự đã làm. Trí kiến được gọi là có ba chuyển vì nó có ba sự chuyển vận theo trí về chân lý v.v… Ở đây, trí tuệ như thật về bốn chân lý theo cách “đây là Thánh đế về khổ, đây là sự tập khởi của khổ” được gọi là trí về chân lý. Trí tuệ biết về phận sự phải làm đối với chính chúng: “cần được liễu tri, cần được từ bỏ, cần được chứng ngộ, cần được tu tập” được gọi là trí về phận sự. Trí tuệ biết về trạng thái đã làm của phận sự đó: “đã được liễu tri, đã được từ bỏ, đã được chứng ngộ, đã được tu tập” được gọi là trí về sự đã làm. (Trí kiến) “có mười hai hành tướng”: có mười hai hành tướng do có ba hành tướng trong mỗi một chân lý. (Từ) “trí kiến”: cái thấy được gọi là trí tuệ đã sanh khởi theo ba sự chuyển vận và mười hai hành tướng này.

Anuttaraṃ sammāsambodhinti uttaravirahitaṃ sabbaseṭṭhaṃ sammā sāmañca bodhiṃ. Atha vā pasatthaṃ sundarañca bodhiṃ. Bodhīti ca bhagavato arahattamaggo idhādhippeto. Sāvakānaṃ arahattamaggo anuttarā bodhi hoti, na hotīti? Na hoti. Kasmā? Asabbaguṇadāyakattā. Tesañhi kassaci arahattamaggo arahattaphalameva deti, kassaci tisso vijjā, kassaci cha abhiññā, kassaci catasso paṭisambhidā, kassaci sāvakapāramīñāṇaṃ. Paccekabuddhānampi paccekabodhiñāṇameva deti, buddhānaṃ pana sabbaguṇasampattiṃ deti abhiseko viya rañño sabbalokissariyabhāvaṃ. Tasmā aññassa kassacipi anuttarā bodhi na hotīti. Abhisambuddhoti paccaññāsinti abhisambuddho ahaṃ patto paṭivijjhitvā ṭhitoti evaṃ paṭijāniṃ. Ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādīti adhigataguṇānaṃ yāthāvato dassanasamatthaṃ paccavekkhaṇañāṇañca pana me udapādi. Akuppā me vimuttīti ayaṃ mayhaṃ arahattaphalavimutti akuppā paṭipakkhehi na kopetabbāti evaṃ ñāṇaṃ udapādi. Tattha dvīhākārehi akuppatā veditabbā maggasaṅkhātakāraṇato ca ārammaṇato ca. Sā hi catūhi maggehi samucchinnakilesānaṃ puna anivattanatāya kāraṇatopi akuppā, akuppadhammaṃ nibbānaṃ ārammaṇaṃ katvā pavattatāya ārammaṇatopi akuppā anākuppārammaṇānaṃ lokiyasamāpattīnaṃ tadabhāvato. Antimāti pacchimā. Natthi dāni punabbhavoti idāni puna añño bhavo nāma natthīti.
“Sự giác ngộ vô thượng, chánh đẳng”: sự giác ngộ không có gì cao hơn, tối thượng nhất, một cách đúng đắn và tự mình. Hoặc là sự giác ngộ đáng tán thán và tốt đẹp. Và ở đây, (từ) “sự giác ngộ” được hiểu là đạo A-la-hán của đức Thế Tôn. Đạo A-la-hán của các vị thinh văn có phải là sự giác ngộ vô thượng không? Không phải. Tại sao? Vì không ban cho tất cả các đức hạnh. Thật vậy, đạo A-la-hán của họ, đối với một số vị chỉ cho quả A-la-hán, đối với một số vị cho ba minh, đối với một số vị cho sáu thắng trí, đối với một số vị cho bốn tuệ phân tích, đối với một số vị cho trí tuệ về các ba-la-mật của thinh văn. Đối với các vị Phật Độc Giác cũng chỉ cho trí tuệ về sự giác ngộ của Phật Độc Giác. Nhưng đối với các đức Phật thì nó ban cho sự thành tựu của tất cả các đức hạnh, giống như lễ đăng quang của một vị vua ban cho quyền lực đối với toàn thế giới. Do đó, không có ai khác có được sự giác ngộ vô thượng. “Ta đã xác nhận là đã giác ngộ”: ta đã tuyên bố rằng “ta là người đã giác ngộ, đã đạt đến, đã thâm nhập và an trú (trong chân lý).” “Và trí và kiến đã sanh khởi nơi ta”: và phản khán trí có khả năng thấy các đức hạnh đã đạt được như thật đã sanh khởi nơi ta. “Sự giải thoát của ta là bất động”: trí tuệ đã sanh khởi nơi ta rằng sự giải thoát bằng quả A-la-hán này của ta là bất động, không thể bị lay chuyển bởi các pháp đối nghịch. Ở đây, cần được hiểu rằng sự bất động có theo hai cách: từ nguyên nhân là đạo và từ đối tượng. Thật vậy, nó là bất động từ nguyên nhân do các phiền não đã được đoạn diệt bằng bốn đạo không bao giờ quay trở lại. Nó là bất động từ đối tượng do đã diễn ra bằng cách lấy Niết-bàn, một pháp bất động, làm đối tượng; điều đó không có ở các tầng thiền thế gian có các đối tượng có thể bị lay động. (Từ) “cuối cùng”: sau cùng. “Không còn tái sanh nữa”: bây giờ không còn một kiếp sống nào khác nữa.

Imasmiñca pana veyyākaraṇasminti imasmiṃ niggāthake sutte. Niggāthakañhi suttaṃ pucchāvissajjanasahitaṃ ‘‘veyyākaraṇa’’nti vuccati. Bhaññamāneti bhaṇiyamāne, desiyamāneti attho. Virajanti apāyagamanīyarāgarajādīnaṃ vigamena virajaṃ. Vītamalanti anavasesadiṭṭhivicikicchāmalāpagamena vītamalaṃ . Paṭhamamaggavajjhakilesarajābhāvena vā virajaṃ, pañcavidhadussīlyamalāpagamena vītamalaṃ. Dhammacakkhunti brahmāyusutte (ma. ni. 2.383 ādayo) heṭṭhimā tayo maggā vuttā, cūḷarāhulovāde (ma. ni. 3.416 ādayo) āsavakkhayo, idha pana sotāpattimaggo adhippeto. Catusaccasaṅkhātesu dhammesu tesaṃ dassanaṭṭhena cakkhūti dhammacakkhu, heṭṭhimesu vā tīsu maggadhammesu ekaṃ sotāpattimaggasaṅkhātaṃ cakkhūti dhammacakkhu, samathavipassanādhammanibbattatāya sīlāditividhadhammakkhandhabhūtatāya vā dhammamayaṃ cakkhūtipi dhammacakkhu, tassa uppattiākāradassanatthaṃ ‘‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ, sabbaṃ taṃ nirodhadhamma’’nti āha. Nanu ca maggañāṇaṃ asaṅkhatadhammārammaṇaṃ, na saṅkhatadhammārammaṇanti? Saccametaṃ, yasmā taṃ nirodhaṃ ārammaṇaṃ katvā kiccavasena sabbasaṅkhataṃ asammohappaṭivedhavasena paṭivijjhantaṃ uppajjati, tasmā tathā vuttaṃ.
“Và trong khi bài giải thích này”: trong bài kinh không có kệ này. Thật vậy, một bài kinh không có kệ mà có cả câu hỏi và câu trả lời được gọi là “bài giải thích.” (Từ) “đang được nói”: đang được thuyết giảng. (Từ) “không còn bụi bặm”: không còn bụi bặm do đã xả ly được các bụi bặm như ái dục v.v. dẫn đến các cõi dữ. (Từ) “không còn cấu uế”: không còn cấu uế do đã xả ly được hoàn toàn cấu uế của tà kiến và hoài nghi. Hoặc “không còn bụi bặm” do không có bụi phiền não ngăn cản đạo đầu tiên, “không còn cấu uế” do đã xả ly được năm loại cấu uế của sự không có giới. (Từ) “pháp nhãn”: trong kinh Brahmāyu (ma. ni. 2.383 ādayo), ba đạo thấp hơn đã được nói đến; trong kinh Cūḷarāhulovāda (ma. ni. 3.416 ādayo) là sự đoạn tận các lậu hoặc; nhưng ở đây, được hiểu là đạo Tu-đà-hoàn. Con mắt đối với các pháp được gọi là bốn chân lý theo nghĩa là thấy chúng, nên là pháp nhãn; hoặc trong ba pháp đạo ở dưới, một pháp được gọi là con mắt, tức là đạo Tu-đà-hoàn, nên là pháp nhãn; hoặc do được tạo ra bởi các pháp chỉ và quán, do là nền tảng của ba loại pháp uẩn là giới v.v., nên cũng là con mắt bằng pháp, (gọi là) pháp nhãn. Để trình bày cách thức sanh khởi của nó, ngài đã nói: “Phàm pháp gì có sanh khởi, tất cả pháp ấy đều có đoạn diệt.” Nhưng chẳng phải tuệ đạo có đối tượng là pháp vô vi, không phải là pháp hữu vi sao? Điều đó đúng. Bởi vì nó, sau khi lấy sự đoạn diệt làm đối tượng, đã sanh khởi và bằng chức năng của mình đã thâm nhập tất cả các pháp hữu vi bằng sự thâm nhập không lầm lẫn, do đó đã được nói như vậy.

17.Dhammacakketi paṭivedhañāṇañceva desanāñāṇañca pavattanaṭṭhena cakkanti dhammacakkaṃ. Bodhipallaṅke nisinnassa hi catūsu saccesu uppannaṃ dvādasākāraṃ paṭivedhañāṇampi, isipatane nisinnassa dvādasākārāya saccadesanāya pavattakaṃ desanāñāṇampi dhammacakkaṃ nāma. Ubhayampi hetaṃ dasabalassa ure pavattañāṇameva. Tadubhayaṃ imāya desanāya pakāsentena bhagavatā dhammacakkaṃ pavattitaṃ nāma. Taṃ panetaṃ dhammacakkaṃ yāva aññāsikoṇḍaññatthero aṭṭhārasahi brahmakoṭīhi saddhiṃ sotāpattiphale patiṭṭhāti, tāva bhagavā pavatteti nāma pavattanakiccassa aniṭṭhitattā. Patiṭṭhite pavattitaṃ nāma kassapasammāsambuddhassa sāsanantaradhānato paṭṭhāya yāva buddhuppādo, ettakaṃ kālaṃ appavattapubbassa pavattitattā. Taṃ sandhāya ‘‘pavattite ca pana bhagavatā dhammacakke bhummā devā saddamanussāvesu’’ntiādi vuttaṃ. Tattha bhummāti bhūmaṭṭhakadevatā. Saddamanussāvesunti ekappahāreneva sādhukāraṃ datvā ‘‘etaṃ bhagavatā’’tiādīni vadantā anussāvayiṃsu. Obhāsoti sabbaññutaññāṇānubhāvena pavatto cittapaccayautusamuṭṭhāno obhāso. So hi tadā devānaṃ devānubhāvaṃ atikkamitvā virocittha. Aññāsi vata bho koṇḍaññoti imassapi udānassa udāharaṇaghoso dasasahassilokadhātuṃ pharitvā aṭṭhāsi. Bhagavato hi dhammacakkappavattanassa ārambhe viya parisamāpanepi ativiya uḷāratamaṃ pītisomanassaṃ udapādi.
17. (Pháp) “luân”: pháp luân là bánh xe theo nghĩa là sự vận hành của cả trí tuệ thâm nhập và trí tuệ thuyết giảng. Thật vậy, cả trí tuệ thâm nhập có mười hai hành tướng về bốn chân lý đã sanh khởi khi ngài ngồi trên bảo tọa bồ đề, và cả trí tuệ thuyết giảng vận hành bài thuyết giảng về mười hai hành tướng của các chân lý khi ngài ngồi ở Isipatana, đều được gọi là pháp luân. Thật vậy, cả hai đều chính là trí tuệ đã sanh khởi trong lòng của bậc Thập Lực. Do trình bày cả hai điều đó bằng bài thuyết giảng này, đức Thế Tôn được gọi là đã chuyển pháp luân. Và pháp luân đó, cho đến khi trưởng lão Aññāsikoṇḍañña cùng với mười tám ức vị Phạm thiên được an trú trong quả Tu-đà-hoàn, thì đức Thế Tôn được gọi là đang chuyển, do phận sự chuyển vận chưa được hoàn tất. Khi họ đã được an trú, thì được gọi là đã được chuyển, do đã vận hành điều chưa từng được vận hành trong một thời gian dài kể từ khi giáo pháp của đức Chánh Đẳng Chánh Giác Kassapa biến mất cho đến khi đức Phật xuất hiện. Nhắm đến điều đó, đã được nói rằng: “Và khi pháp luân đã được đức Thế Tôn chuyển vận, các vị trời ở cõi đất đã loan báo tin mừng” v.v… Trong đó, (từ) “trời ở cõi đất”: các vị chư thiên ở trên mặt đất. “Đã loan báo tin mừng”: ngay lập tức cùng nhau tung hô “lành thay” và đã loan báo bằng cách nói những lời bắt đầu bằng “Điều này đã được đức Thế Tôn.” (Từ) “ánh sáng”: ánh sáng phát sanh do tâm và thời tiết, do oai lực của toàn giác tuệ. Thật vậy, khi đó, nó đã tỏa sáng vượt qua cả oai lực của các vị chư thiên. “Than ôi, Koṇḍañña đã hiểu”: tiếng vang của việc thốt lên lời cảm hứng này cũng đã bao trùm mười nghìn thế giới trong vũ trụ và dừng lại. Thật vậy, niềm hỷ và lạc vô cùng vĩ đại đã sanh khởi nơi đức Thế Tôn khi kết thúc việc chuyển pháp luân, cũng giống như khi bắt đầu.

18. Diṭṭho ariyasaccadhammo etenāti diṭṭhadhammo. Esa nayo sesapadesupi. Ettha ca dassanaṃ nāma ñāṇadassanato aññampi atthīti taṃnivattanatthaṃ ‘‘pattadhammo’’ti vuttaṃ. Patti ca ñāṇasampattito aññāpi vijjatīti tato visesanatthaṃ ‘‘viditadhammo’’ti vuttaṃ. Sā panesā viditadhammatā ekadesatopi hotīti nippadesato viditabhāvaṃ dassetuṃ ‘‘pariyogāḷhadhammo’’ti vuttaṃ. Tenassa saccābhisambodhiṃyeva dīpeti. Maggañāṇañhi ekābhisamayavasena pariññādikiccaṃ sādhentaṃ nippadesena catusaccadhammaṃ samantato ogāḷhaṃ nāma hoti. Sappaṭibhayakantārasadisā soḷasavatthukā aṭṭhavatthukā ca tiṇṇā vicikicchā anenāti tiṇṇavicikiccho. Pavattiādīsu ‘‘evaṃ nukho na nukho’’ti evaṃ pavattikā vigatā samucchinnā kathaṃkathā assāti vigatakathaṃkatho. Vesārajjappattoti sārajjakarānaṃ pāpadhammānaṃ pahīnattā tappaṭipakkhesu ca sīlādīsu guṇesu suppatiṭṭhitattā visāradabhāvaṃ veyyattiyaṃ patto adhigato. Svāyaṃ vesārajjappattisuppatiṭṭhitabhāvo katthāti āha ‘‘satthusāsane’’ti. Attanā paccakkhato adhigatattā na paraṃ pacceti, parassa saddhāya ettha nappavattati, na tassa paro paccetabbo atthīti aparappaccayo.
18. Người đã thấy được pháp của các Thánh đế là người đã thấy pháp. Phương pháp này cũng áp dụng cho các từ còn lại. Ở đây, bởi vì sự thấy cũng có thể có loại khác ngoài sự thấy bằng trí tuệ, để loại bỏ điều đó, đã được nói là “người đã đạt được pháp.” Và sự đạt được cũng có thể có loại khác ngoài sự thành tựu về trí tuệ, để phân biệt với điều đó, đã được nói là “người đã biết pháp.” Và sự biết pháp đó cũng có thể chỉ là một phần, để trình bày trạng thái đã biết một cách không có phần sót lại, đã được nói là “người đã thâm nhập pháp.” Bằng điều đó, (kinh) cho thấy chính sự chứng ngộ chân lý của ông. Thật vậy, tuệ đạo, khi hoàn thành các phận sự như liễu tri v.v. bằng một lần chứng ngộ, được gọi là đã thâm nhập toàn diện bốn chân lý một cách không có phần sót lại. Người đã vượt qua được hoài nghi có mười sáu vấn đề và tám vấn đề, vốn giống như một khu rừng hoang đáng sợ, là người đã vượt qua hoài nghi. Người có sự do dự theo kiểu “có phải như vậy không, có phải không như vậy không” về sự diễn tiến v.v. đã biến mất, đã được đoạn diệt, là người không còn do dự. (Người) “đã đạt được sự vô úy”: đã đạt được, đã chứng đắc trạng thái tự tin, sự thành thạo, do đã từ bỏ các pháp ác gây ra sự rụt rè và đã được an trú vững chắc trong các đức hạnh đối nghịch như giới v.v… Và sự đạt được sự vô úy, trạng thái an trú vững chắc đó là ở đâu? (Kinh) nói: “trong giáo pháp của bậc Đạo Sư.” Do đã tự mình chứng ngộ một cách trực tiếp nên không tin theo người khác, không hành động theo đức tin đối với người khác ở đây, không có người khác nào mà vị ấy phải tin theo, nên là người không còn duyên vào người khác.

Labheyyāhanti labheyyaṃ ahaṃ, āyācanavacanametaṃ. Ehīti āyācitānaṃ pabbajjūpasampadānaṃ anumatabhāvappakāsanavacanaṃ, tasmā ehi sampaṭicchāhi yathāyācitaṃ pabbajjūpasampadavisesanti attho. Iti-saddo tassa ehibhikkhūpasampadāpaṭilābhanimittavacanapariyosānadassano. Tadavasāno hi tassa bhikkhubhāvo. Tenevāha ‘‘ehi bhikkhūti bhagavato vacanena abhinipphannā sāva tassa āyasmato ehibhikkhūpasampadā ahosī’’ti. Cara brahmacariyanti uparimaggattayasaṅkhātaṃ brahmacariyaṃ samadhigaccha. Kimatthaṃ? Sammā dukkhassa antakiriyāya. Idhāpi ‘‘avocā’’ti sambandhitabbaṃ. ‘‘Nava koṭisahassānī’’tiādinā (visuddhi. 1.20; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.37) vuttappabhedānaṃ anekasahassānaṃ saṃvaravinayānaṃ samādiyitvā vattanena uparibhūtā aggabhūtā sampadāti upasampadā.
(Từ) “Labheyyāhaṃ”: con xin được nhận. Đây là lời thỉnh cầu. (Từ) “Ehi” (hãy đến): là lời nói thể hiện sự chấp thuận đối với việc xuất gia và cụ túc giới đã được thỉnh cầu, do đó có nghĩa là: hãy đến (này Thiện Lai Tỳ-khưu), hãy nhận lấy sự thù thắng của việc xuất gia và cụ túc giới như đã được thỉnh cầu. Từ iti (như vậy) cho thấy sự kết thúc của lời nói làm dấu hiệu cho việc nhận được cụ túc giới bằng cách gọi “hãy đến, Tỳ-khưu.” Thật vậy, trạng thái Tỳ-khưu của vị ấy được hoàn tất ở đó. Chính vì thế, (kinh) nói: “chỉ bằng lời nói ‘hãy đến, Tỳ-khưu’ của đức Thế Tôn, cụ túc giới bằng cách gọi ‘hãy đến, Tỳ-khưu’ đó của vị tôn giả ấy đã được thành tựu.” (Câu) “hãy thực hành phạm hạnh”: hãy chứng đắc phạm hạnh được gọi là ba đạo ở trên. Để làm gì? Vì sự chấm dứt hoàn toàn khổ đau. Ở đây cũng cần được liên kết với (từ) “đã nói.” Sự thành tựu ở bậc cao, bậc tối thượng, do việc thực hành sau khi đã thọ trì hàng nghìn loại luật nghi phòng hộ có các sự phân biệt đã được nói đến trong (câu) bắt đầu bằng “chín ức” (visuddhi. 1.20; paṭi. ma. aṭṭha. 1.1.37) là cụ túc giới.

19.Nīhārabhattoti nīhaṭabhatto, gāmato bhikkhaṃ nīharitvā bhikkhūhi dinnabhattoti attho . Bhagavā hi daharakumārake viya te bhikkhū pariharanto pāṭipadadivasato paṭṭhāya piṇḍapātatthāyapi gāmaṃ apavisitvā antovihāreyeva vasi.
19. (Người) “có vật thực được mang ra”: người có vật thực đã được mang ra, ý nghĩa là vật thực do các vị Tỳ-khưu mang ra từ làng và dâng cúng. Thật vậy, đức Thế Tôn, do chăm sóc các vị Tỳ-khưu đó như những cậu bé, đã ở lại trong tu viện kể từ ngày đầu tiên và đã không vào làng ngay cả để khất thực.

Dhammacakkappavattanasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Kinh Chuyển Pháp Luân đã kết thúc.

Anattalakkhaṇasuttavaṇṇanā
Diễn Giải Về Kinh Vô Ngã Tướng

20.Āmantesīti āsāḷhīpuṇṇamadivase dhammacakkappavattanato paṭṭhāya anukkamena sotāpattiphale patiṭṭhite aññāsikoṇḍaññappamukhe pañcavaggiye ‘‘idāni tesaṃ āsavakkhayāya dhammaṃ desessāmī’’ti pañcamiyā pakkhassa āmantesi. Anattāti avasavattanaṭṭhena asāmikaṭṭhena suññataṭṭhena attapaṭikkhepaṭṭhenāti evaṃ catūhi kāraṇehi anattā. Tattha ‘‘uppannaṃ rūpaṃ ṭhitiṃ mā pāpuṇātu, ṭhānappattaṃ mā jīratu, jarappattaṃ mā bhijjatu, udayabbayehi mā kilamayatū’’ti na ettha kassaci vasībhāvo atthi, svāyamassa avasavattanaṭṭho. Sāmibhūtassa kassaci abhāvo asāmikaṭṭho. Nivāsīkārakavedakaadhiṭṭhāyakavirahena tato suññatā suññataṭṭho. Paraparikappitaattasabhāvābhāvo eva attapaṭikkhepaṭṭho. Idāni anattataṃyeva vibhāvetuṃ ‘‘rūpañca hidaṃ bhikkhave’’tiādimāha. Tattha attā abhavissāti kārako vedako sayaṃvasīti evaṃbhūto attā abhavissāti adhippāyo. Evañhi sati rūpassa ābādhāya saṃvattanaṃ ayujjamānakaṃ siyā. Kāmañcettha ‘‘yasmā ca kho, bhikkhave, rūpaṃ anattā, tasmā rūpaṃ ābādhāya saṃvattatī’’ti rūpassa anattatāya dukkhatā vibhāvitā viya dissati, tathāpi ‘‘yasmā rūpaṃ ābādhāya saṃvattati, tasmā anattā’’ti pākaṭāya sābādhatāya rūpassa attasārābhāvo vibhāvito, tato eva ca ‘‘na ca labbhati rūpe ‘evaṃ me rūpaṃ hotu, evaṃ me rūpaṃ mā ahosī’ti’’ rūpe kassaci anissaratā tassa ca avasavattanākāro dassito. Vedanādīsupi eseva nayo.
20. (Ngài) “đã gọi”: kể từ khi chuyển pháp luân vào ngày rằm tháng Āsāḷha, sau khi nhóm năm vị do ngài Aññāsikoṇḍañña đứng đầu đã tuần tự an trú trong quả Tu-đà-hoàn, vào ngày mồng năm của tháng, ngài đã gọi họ với ý định: “bây giờ ta sẽ thuyết pháp để họ đoạn tận các lậu hoặc.” (Từ) “vô ngã”: là vô ngã do bốn lý do: theo nghĩa không thể làm chủ, theo nghĩa không có chủ nhân, theo nghĩa trống rỗng, và theo nghĩa phủ định tự ngã. Trong đó, không có ai có thể làm chủ được ở đây theo kiểu: “sắc đã sanh khởi, mong rằng đừng đạt đến sự đứng lại; đã đạt đến sự đứng lại, mong rằng đừng già đi; đã đạt đến sự già, mong rằng đừng tan rã; mong rằng đừng bị sự sanh diệt làm cho mệt mỏi.” Đây là ý nghĩa không thể làm chủ của nó. Sự không có một chủ nhân nào là ý nghĩa không có chủ nhân. Sự trống rỗng do không có người ở, người làm, người cảm thọ, người điều khiển là ý nghĩa trống rỗng. Sự không có một bản chất tự ngã do người khác tưởng tượng ra chính là ý nghĩa phủ định tự ngã. Bây giờ, để làm sáng tỏ chính tính chất vô ngã, ngài đã nói câu bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, và sắc này.” Trong đó, (câu) “là một tự ngã” có ý nghĩa là: nếu đã là một tự ngã như vậy, tức là người làm, người cảm thọ, người tự chủ. Vì nếu như vậy, việc sắc đưa đến sự phiền não sẽ là điều không hợp lý. Mặc dù ở đây, câu “Này các Tỳ-khưu, bởi vì sắc là vô ngã, do đó sắc đưa đến sự phiền não” dường như trình bày tính chất khổ của sắc do tính chất vô ngã của nó, tuy nhiên, (ý nghĩa là) “bởi vì sắc đưa đến sự phiền não, do đó nó là vô ngã,” (như vậy) sự không có một bản chất tự ngã của sắc đã được trình bày qua tính chất phiền não rõ ràng của nó. Và chính từ đó, (câu) “và người ta không thể có được đối với sắc rằng: ‘mong rằng sắc của ta hãy như thế này, mong rằng sắc của ta đừng như thế này’” đã trình bày sự không có quyền làm chủ của bất cứ ai đối với sắc và cách thức không thể làm chủ của nó. Trong các pháp bắt đầu bằng thọ cũng có cùng phương pháp này.

21.Taṃ kiṃmaññatha bhikkhaveti idaṃ kasmā āraddhaṃ? Ettakena ṭhānena anattalakkhaṇameva kathitaṃ, na aniccadukkhalakkhaṇāni, idāni tāni dassetvā samodhānetvā tīṇipi lakkhaṇāni dassetuṃ idamāraddhanti veditabbaṃ. Aniccaṃ bhanteti bhante yasmā hutvā na hoti, tasmā aniccaṃ. Yasmā pubbe asantaṃ paccayasamavāyena hutvā uppajjitvā puna bhaṅgupagamanena na hoti, tasmā na niccanti aniccaṃ, addhuvanti adhippāyo. Atha vā uppādavayavantatāya tāvakālikatāya vipariṇāmakoṭiyā niccappaṭikkhepatoti imehipi kāraṇehi aniccaṃ. Ettha khaṇe khaṇe uppajjanavasena nirujjhanavasena ca pavattanato uppādavayavantatā. Taṅkhaṇikatāya tāvakālikatā. Vipariṇāmavantatāya vipariṇāmakoṭi. Rūpañhi uppādādivikārāpajjanena vipariṇāmantaṃ vināsaṃ pāpuṇāti. Niccasabhāvābhāvo eva niccapaṭikkhepo. Aniccā hi dhammā, teneva attano aniccabhāvena atthato niccataṃ paṭikkhipanti nāma.
21. “Này các Tỳ-khưu, các ông nghĩ sao”: tại sao lại bắt đầu điều này? Vì đến đây, chỉ có tướng vô ngã được nói đến, chứ không phải các tướng vô thường và khổ. Cần được hiểu rằng điều này được bắt đầu để trình bày các tướng đó, rồi tổng hợp lại và trình bày cả ba tướng. “Là vô thường, bạch ngài”: bạch ngài, bởi vì sau khi đã có rồi lại không còn, do đó là vô thường. Bởi vì, sau khi đã sanh khởi do sự hội đủ của các duyên trong khi trước đó không có, rồi lại không còn do sự tan rã, do đó là không thường hằng, tức là vô thường; ý là không bền vững. Hoặc, do các lý do này: do có sự sanh và diệt, do chỉ là tạm thời, do có sự biến đổi làm kết cục, do phủ định sự thường hằng, nên là vô thường. Ở đây, do diễn tiến bằng cách sanh và diệt trong từng khoảnh khắc nên là có sự sanh và diệt. Do chỉ có trong khoảnh khắc đó nên là chỉ là tạm thời. Do có sự biến đổi nên là có sự biến đổi làm kết cục. Thật vậy, sắc, do phải chịu các sự biến đổi như sanh v.v., đã đi đến sự biến đổi, tức là sự hoại diệt. Sự không có một bản chất thường hằng chính là sự phủ định sự thường hằng. Thật vậy, các pháp là vô thường, chính do bản chất vô thường của mình mà chúng được gọi là phủ định sự thường hằng về mặt ý nghĩa.

Dukkhaṃ bhanteti bhante paṭipīḷanākārena dukkhaṃ. Uppādajarābhaṅgavasena hi rūpassa nirantaraṃ bādhati, paṭipīḷanākārenassa dukkhatā. Atha vā santāpaṭṭhena dukkhamaṭṭhena dukkhavatthukaṭṭhena sukhapaṭikkhepaṭṭhena cāti catūhi kāraṇehi dukkhaṃ. Ettha ca santāpo nāma dukkhadukkhatādivasena santāpanaṃ paridahanaṃ. Tato evassa dussahatāya dukkhamatā. Tissannaṃ dukkhatānaṃ saṃsāradukkhassa ca adhiṭṭhānatāya dukkhavatthukatā. Sukhasabhāvābhāvo eva sukhapaṭikkhepo. Vipariṇāmadhammanti jarāya maraṇena ca vipariṇāmasabhāvaṃ. Kallaṃ nūti yuttaṃ nu. Tanti evaṃ aniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhammaṃ rūpaṃ. Etaṃ mamāti taṇhāgāho mamaṅkārabhāvato. Esohamasmīti mānagāho ahaṅkārabhāvato. Eso me attāti diṭṭhigāho attabhāvavipallāsaggāhato. Taṇhāgāho cettha aṭṭhasatataṇhāvicaritavasena, mānagāho navavidhamānavasena, diṭṭhigāho dvāsaṭṭhidiṭṭhivasena veditabbo. Imesaṃ tiṇṇaṃ taṇhāmānadiṭṭhigāhānaṃ vasena yuttaṃ nu taṃ samanupassitunti vuttaṃ hoti.
“Là khổ, bạch ngài”: bạch ngài, là khổ theo cách bức bách. Thật vậy, do sự sanh, già, và tan rã, sắc liên tục bị bức bách; tính chất khổ của nó là do cách thức bức bách. Hoặc, do bốn lý do: theo nghĩa là sự thiêu đốt, theo nghĩa là trạng thái đau đớn, theo nghĩa là nền tảng của khổ, và theo nghĩa là sự phủ định của lạc, nên là khổ. Ở đây, sự thiêu đốt là sự thiêu đốt, sự đốt cháy theo các cách như khổ khổ v.v… Chính từ đó, do khó có thể chịu đựng được, nên là trạng thái đau đớn. Do là nền tảng của ba loại khổ và của khổ trong luân hồi nên là nền tảng của khổ. Sự không có một bản chất an lạc chính là sự phủ định của lạc. (Vật) “có tính biến đổi”: có bản chất biến đổi do già và chết. “Có hợp lý không”: có đúng không. (Thấy) “nó”: thấy sắc vốn vô thường, khổ, và có tính biến đổi như vậy. “Cái này là của tôi”: là sự chấp thủ của tham ái do trạng thái coi là của mình. “Cái này là tôi”: là sự chấp thủ của kiêu mạn do trạng thái coi là ta. “Cái này là tự ngã của tôi”: là sự chấp thủ của tà kiến do sự chấp thủ sai lầm về trạng thái tự ngã. Ở đây, sự chấp thủ của tham ái cần được hiểu theo một trăm tám cách biểu hiện của tham ái; sự chấp thủ của kiêu mạn theo chín loại kiêu mạn; sự chấp thủ của tà kiến theo sáu mươi hai loại tà kiến. Ý nói là: có hợp lý không khi nhìn nhận nó theo ba loại chấp thủ là tham ái, kiêu mạn, và tà kiến này.

Iti bhagavā aniccadukkhavasena anattalakkhaṇaṃyeva dassesi. Bhagavā hi katthaci aniccavasena anattataṃ dasseti, katthaci dukkhavasena, katthaci ubhayavasena. Tathā hi ‘‘cakkhu attāti yo vadeyya, taṃ na upapajjati, cakkhussa uppādopi vayopi paññāyati. Yassa kho pana uppādopi vayopi paññāyati, ‘attā me uppajjati ceva veti cā’ti iccassa evamāgataṃ hoti, tasmā taṃ na upapajjati. ‘Cakkhu attā’ti yo vadeyya, iti cakkhu anattā’’ti imasmiñca chachakkasutte (ma. ni. 3.422) aniccavasena anattataṃ dassesi. ‘‘Rūpañca hidaṃ, bhikkhave, attā abhavissa…pe… evaṃ me rūpaṃ mā ahosī’’ti imasmiṃyeva anattalakkhaṇasutte dukkhavasena anattataṃ dassesi. ‘‘Rūpaṃ, bhikkhave, aniccaṃ, yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ, yaṃ dukkhaṃ tadanattā, yadanattā, taṃ ‘netaṃ mama, nesohamasmi, na me so attā’ti evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabba’’nti imasmiṃ arahantasutte (saṃ. ni. 3.76-77) ubhayavasena anattataṃ dassesi. Kasmā? Aniccaṃ dukkhañca pākaṭaṃ, anattā apākaṭaṃ. Paribhogabhājanādīsu hi bhinnesu ‘‘aho anicca’’nti vadanti, ‘‘aho anattā’’ti pana vattā nāma natthi. Sarīre gaṇḍapiḷakāsu vā uṭṭhitāsu kaṇṭakena vā viddhā ‘‘aho dukkha’’nti vadanti, ‘‘aho anattā’’ti pana vattā nāma natthi. Kasmā? Idañhi anattalakkhaṇaṃ nāma avibhūtaṃ duddasaṃ duppaññāpanaṃ. Tathā hi sarabhaṅgādayopi satthāro nāddasaṃsu, kuto paññāpanā, tena naṃ bhagavā aniccavasena vā dukkhavasena vā ubhayavasena vā dassesi. Tayidaṃ imasmimpi teparivaṭṭe aniccadukkhavaseneva dassitaṃ. Vedanādīsupi eseva nayo.
Như vậy, đức Thế Tôn đã trình bày chính tướng vô ngã thông qua vô thường và khổ. Thật vậy, đức Thế Tôn có khi trình bày tính vô ngã thông qua tính vô thường, có khi thông qua tính khổ, có khi thông qua cả hai. Thật vậy, trong kinh Sáu Sáu (ma. ni. 3.422), ngài đã trình bày tính vô ngã thông qua tính vô thường: “Ai nói rằng mắt là tự ngã, điều đó không hợp lý. Sự sanh và cả sự diệt của mắt đều được nhận thấy. Và đối với cái gì mà sự sanh và cả sự diệt đều được nhận thấy, thì đối với người ấy sẽ dẫn đến kết luận rằng: ‘tự ngã của ta vừa sanh khởi vừa hoại diệt.’ Do đó, điều đó không hợp lý. Ai nói rằng ‘mắt là tự ngã,’ như vậy mắt là vô ngã.” Và trong chính kinh Vô Ngã Tướng này, ngài đã trình bày tính vô ngã thông qua tính khổ: “Này các Tỳ-khưu, và nếu sắc này là một tự ngã… này… mong rằng sắc của ta đừng như thế này.” Trong kinh A-la-hán này (saṃ. ni. 3.76-77), ngài đã trình bày tính vô ngã thông qua cả hai: “Này các Tỳ-khưu, sắc là vô thường, cái gì vô thường thì là khổ, cái gì khổ thì là vô ngã. Cái gì là vô ngã, điều đó cần được thấy bằng chánh tuệ như thật rằng: ‘cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi.’” Tại sao? Vô thường và khổ là điều rõ ràng, còn vô ngã thì không rõ ràng. Thật vậy, khi các đồ dùng như bát v.v. bị vỡ, người ta nói: “ôi, vô thường,” nhưng không có ai nói: “ôi, vô ngã.” Hoặc khi các mụn nhọt nổi lên trên cơ thể, hoặc khi bị gai đâm, người ta nói: “ôi, khổ,” nhưng không có ai nói: “ôi, vô ngã.” Tại sao? Vì tướng vô ngã này không hiện rõ, khó thấy, khó trình bày. Thật vậy, ngay cả các vị đạo sư như Sarabhaṅga v.v. cũng không thấy được, nói gì đến việc trình bày. Do đó, ngài đã trình bày nó thông qua tính vô thường hoặc tính khổ, hoặc thông qua cả hai. Và điều đó, trong ba chuyển này, cũng đã được trình bày thông qua vô thường và khổ. Trong các pháp bắt đầu bằng thọ cũng có cùng phương pháp này.

22.Tasmātihāti tasmā icceva vuttaṃ. Ti-kāra ha-kārā nipātā, yasmā ime pañcakkhandhā aniccā dukkhā anattā, tasmāti attho. Yaṃ kiñcīti anavasesapariyādānametaṃ. Yanti hi sāmaññena aniyamadassanaṃ, kiñcīti pakārato bhedaṃ āmasitvā aniyamadassanaṃ. Ubhayenapi atītaṃ vā…pe… santike vā appaṃ vā bahuṃ vā yādisaṃ vā tādisaṃ vā napuṃsakaniddesārahaṃ sabbaṃ byāpetvā saṅgaṇhāti, tasmā anavasesapariyādānametaṃ ‘‘yaṃ kiñcī’’ti. Evañca sati aññesupi napuṃsakaniddesārahesu pasaṅgaṃ disvā tattha adhippetatthaṃ adhicca pavattanato atippasaṅgassa niyamanatthaṃ ‘‘rūpa’’nti vuttaṃ. Evaṃ padadvayenapi rūpassa asesapariggaho kato hoti. Athassa atītādivibhāgaṃ ārabhati ‘‘atītānāgatapaccuppanna’’ntiādinā. Tañhi kiñci atītaṃ kiñci anāgatādibhedanti. Esa nayo vedanādīsupi.
22. (Từ) “Tasmātiha”: do đó, chính là như vậy đã được nói. Các mẫu tự ti– và ha– là các bất biến từ, có nghĩa là: bởi vì năm uẩn này là vô thường, khổ, vô ngã, do đó. (Từ) “Yaṃ kiñci” (bất cứ cái gì): đây là sự bao hàm không còn sót lại. Thật vậy, yaṃ là sự chỉ định không xác định một cách chung chung, kiñci là sự chỉ định không xác định sau khi đã đề cập đến sự phân chia theo loại. Bằng cả hai, (kinh) bao hàm và thu tóm tất cả những gì thuộc về quá khứ v.v… gần hay xa, ít hay nhiều, loại này hay loại khác, xứng đáng được chỉ định bằng trung tính. Do đó, “yaṃ kiñci” là sự bao hàm không còn sót lại. Và như vậy, khi thấy có khả năng áp dụng cho cả những pháp khác xứng đáng được chỉ định bằng trung tính, để giới hạn sự áp dụng quá rộng do dựa vào ý nghĩa được chủ đích ở đó, đã được nói là “sắc.” Như vậy, bằng cả hai từ, sự bao hàm toàn bộ sắc đã được thực hiện. Sau đó, ngài bắt đầu sự phân chia của nó thành quá khứ v.v. bằng (câu) bắt đầu bằng “quá khứ, vị lai, hiện tại.” Thật vậy, một số là quá khứ, một số có sự phân biệt là vị lai v.v… Phương pháp này cũng áp dụng cho các pháp bắt đầu bằng thọ.

Tattha rūpaṃ tāva addhāsantatisamayakhaṇavasena catudhā atītaṃ nāma hoti, tathā anāgatapaccuppannaṃ. Tattha addhāvasena tāva ekassa ekasmiṃ bhave paṭisandhito pubbe atītaṃ, cutito uddhamanāgataṃ, ubhinnamantare paccuppannaṃ. Santativasena sabhāgekautusamuṭṭhānaekāhārasamauṭṭhānañca pubbāpariyavasena vattamānampi paccuppannaṃ, tato pubbe visabhāgautuāhārasamuṭṭhānaṃ atītaṃ, pacchā anāgataṃ. Cittajaṃ ekavīthiekajavanaekasamāpattisamuṭṭhānaṃ paccuppannaṃ, tato pubbe atītaṃ, pacchā anāgataṃ. Kammasamuṭṭhānassa pāṭiyekkaṃ santativasena atītādibhedo natthi. Tesaṃyeva pana utuāhāracittasamuṭṭhānānaṃ upatthambhakavasena tassa atītādibhāvo veditabbo. Samayavasena ekamuhuttapubbaṇhasāyanharattidivādīsu samayesu santānavasena pavattamānaṃ taṃtaṃsamayavantaṃ rūpaṃ paccuppannaṃ nāma, tato pubbe atītaṃ, pacchā anāgataṃ. Khaṇavasena uppādādikkhaṇattayapariyāpannaṃ paccuppannaṃ, tato pubbe atītaṃ, pacchā anāgataṃ, idamevettha nippariyāyaṃ, sesā pariyāyakathā.
Trong đó, trước tiên, sắc được gọi là quá khứ theo bốn cách: theo thời gian, theo sự liên tục, theo thời điểm, và theo khoảnh khắc; tương tự đối với vị lai và hiện tại. Ở đó, theo thời gian, đối với một người trong một kiếp, trước khi tái sanh là quá khứ, sau khi chết là vị lai, giữa hai khoảng đó là hiện tại. Theo sự liên tục, vật chất do cùng một loại thời tiết sanh, do cùng một loại vật thực sanh, khi đang diễn ra theo thứ tự trước sau cũng là hiện tại; vật chất do các loại thời tiết, vật thực khác nhau sanh trước đó là quá khứ, sau đó là vị lai. Vật chất do tâm sanh trong một lộ trình, một tốc hành tâm, một định chứng là hiện tại; trước đó là quá khứ, sau đó là vị lai. Đối với vật chất do nghiệp sanh, không có sự phân biệt quá khứ v.v. theo sự liên tục riêng biệt. Nhưng cần được hiểu rằng trạng thái quá khứ v.v. của nó là theo cách hỗ trợ cho các vật chất do thời tiết, vật thực, và tâm sanh. Theo thời điểm, vật chất đang diễn ra theo sự liên tục trong các thời điểm như một khoảnh khắc, buổi sáng, buổi chiều, ban đêm, ban ngày v.v., thuộc về các thời điểm đó được gọi là hiện tại; trước đó là quá khứ, sau đó là vị lai. Theo khoảnh khắc, vật chất nằm trong ba khoảnh khắc là sanh, trụ, diệt là hiện tại; trước đó là quá khứ, sau đó là vị lai. Chỉ có điều này ở đây là theo nghĩa tuyệt đối, các điều còn lại là cách nói theo quy ước.

Ajjhattaṃvā bahiddhā vāti cakkhādipañcavidhaṃ rūpaṃ attabhāvaṃ adhikicca pavattattā ajjhattaṃ, sesaṃ tato bāhirattā bahiddhā. Apica niyakajjhattampi idha ajjhattaṃ, parapuggalikampi ca bahiddhāti veditabbaṃ. Oḷārikaṃ vā sukhumaṃ vāti cakkhādīni nava, āpodhātuvajjā tisso dhātuyo cāti dvādasavidhaṃ rūpaṃ ghaṭṭanavasena gahetabbato oḷārikaṃ, sesaṃ tato viparītattā sukhumaṃ. Hīnaṃ vā paṇītaṃ vāti ettha hīnapaṇītabhāvo pariyāyato nippariyāyato ca. Tattha akaniṭṭhānaṃ rūpato sudassīnaṃ rūpaṃ hīnaṃ, tadeva sudassānaṃ rūpato paṇītaṃ. Evaṃ yāva narakasattānaṃ rūpaṃ, tāva pariyāyato hīnapaṇītatā veditabbā. Nippariyāyato pana yaṃ ārammaṇaṃ katvā akusalavipākaviññāṇaṃ uppajjati, taṃ hīnaṃ aniṭṭhabhāvato. Yaṃ pana ārammaṇaṃ katvā kusalavipākaviññāṇaṃ uppajjati, taṃ paṇītaṃ iṭṭhabhāvato. Yathā hi akusalavipāko sayaṃ aniṭṭho aniṭṭhe eva uppajjati, na iṭṭhe, evaṃ kusalavipākopi sayaṃ iṭṭho iṭṭheyeva uppajjati, na aniṭṭhe. Yaṃ dūre santike vāti yaṃ sukhumaṃ, tadeva duppaṭivijjhasabhāvattā dūre, itaraṃ suppaṭivijjhasabhāvattā santike. Apicettha okāsatopi upādāyupādāya dūrasantikatā veditabbā. Taṃ sabbanti taṃ atītādīhi padehi visuṃ niddiṭṭhaṃ sabbaṃ rūpaṃ. Sammappaññāya daṭṭhabbanti sahavipassanāya maggapaññāya daṭṭhabbaṃ.
“Bên trong hay bên ngoài”: năm loại sắc như mắt v.v. là bên trong do diễn ra dựa vào tự thể; phần còn lại là bên ngoài do ở ngoài đó. Hơn nữa, ở đây cần được hiểu rằng chính cái bên trong của mình là bên trong, và cái thuộc về người khác là bên ngoài. “Thô hay tế”: mười hai loại sắc là chín (sắc) như mắt v.v. và ba đại ngoại trừ thủy đại, là thô do có thể được nhận biết bằng sự va chạm; phần còn lại là tế do ngược lại với điều đó. “Hèn hạ hay cao thượng”: ở đây, trạng thái hèn hạ và cao thượng là theo quy ước và theo nghĩa tuyệt đối. Ở đó, sắc của các vị trời Sudassī là hèn hạ so với sắc của các vị trời Akaniṭṭha; chính sắc đó lại là cao thượng so với sắc của các vị trời Sudassa. Như vậy, cho đến sắc của chúng sanh trong địa ngục, cần được hiểu sự hèn hạ và cao thượng là theo quy ước. Còn theo nghĩa tuyệt đối, đối tượng nào mà khi lấy nó làm cảnh, thức quả bất thiện sanh khởi, đối tượng đó là hèn hạ do có bản chất không mong muốn. Còn đối tượng nào mà khi lấy nó làm cảnh, thức quả thiện sanh khởi, đối tượng đó là cao thượng do có bản chất mong muốn. Giống như quả bất thiện tự nó là không mong muốn và chỉ sanh khởi trong đối tượng không mong muốn, không phải trong đối tượng mong muốn; cũng vậy, quả thiện tự nó là mong muốn và chỉ sanh khởi trong đối tượng mong muốn, không phải trong đối tượng không mong muốn. “Xa hay gần”: cái gì là tế, chính cái đó là xa do có bản chất khó thâm nhập; cái còn lại là gần do có bản chất dễ thâm nhập. Hơn nữa, ở đây cần được hiểu sự xa và gần cũng là tùy theo vị trí. “Tất cả đó”: tất cả sắc đó đã được chỉ định riêng biệt bằng các từ quá khứ v.v… “Cần được thấy bằng chánh tuệ”: cần được thấy bằng tuệ đạo cùng với tuệ quán.

Yākāci vedanātiādīsu pana santativasena ca khaṇavasena ca vedanāya atītānāgatapaccuppannabhāvo veditabbo. Tattha (visuddhi. 2.497 ādayo) santativasena ekavīthiekajavanaekasamāpattipariyāpannā ekavidhavisayasamāyogappavattā ca divasampi buddharūpaṃ passantassa dhammaṃ suṇantassa pavattasaddhādisahitavedanā paccuppannā, tato pubbe atītā, pacchā anāgatā. Khaṇavasena khaṇattayapariyāpannā paccuppannā, tato pubbe atītā, pacchā anāgatā. Ajjhattabahiddhābhedo niyakajjhattavasena veditabbo. Oḷārikasukhumabhedo ‘‘akusalā vedanā oḷārikā, kusalābyākatā vedanā sukhumā’’tiādinā nayena vibhaṅge (vibha. 11) vuttena jātisabhāvapuggalalokiyalokuttaravasena veditabbo. Jātivasena tāva akusalavedanā sāvajjakiriyahetuto kilesasantāpasabhāvato ca avūpasantavuttīti kusalavedanāya oḷārikā, sabyāpārato saussāhato savipākato kilesasantāpasabhāvato sāvajjato ca vipākābyākatāya oḷārikā, savipākato kilesasantāpasabhāvato sabyāpajjato sāvajjato ca kiriyābyākatāya oḷārikā, kusalābyākatā pana vuttavipariyāyato akusalāya sukhumā. Dvepi kusalākusalavedanā sabyāpārato saussāhato savipākato ca yathāyogaṃ duvidhāyapi abyākatāya oḷārikā, vuttavipariyāyena duvidhāpi abyākatā tāhi sukhumā. Evaṃ tāva jātivasena oḷārikasukhumatā veditabbā.
Còn trong các câu bắt đầu bằng “bất cứ thọ nào,” cần được hiểu trạng thái quá khứ, vị lai, và hiện tại của thọ là theo sự liên tục và theo khoảnh khắc. Ở đó (visuddhi. 2.497 ādayo), theo sự liên tục, thọ nằm trong một lộ trình, một tốc hành tâm, một định chứng; và thọ đi cùng với tín v.v. diễn ra khi nhìn thấy sắc của đức Phật, khi nghe giáo pháp trong một ngày, cũng là hiện tại. Trước đó là quá khứ, sau đó là vị lai. Theo khoảnh khắc, thọ nằm trong ba khoảnh khắc là hiện tại. Trước đó là quá khứ, sau đó là vị lai. Sự phân biệt bên trong và bên ngoài cần được hiểu theo chính tự thể của mình. Sự phân biệt thô và tế cần được hiểu theo loại, bản chất, cá nhân, và thế gian/siêu thế theo phương pháp đã được nói trong sách Phân Tích (vibha. 11) rằng: “thọ bất thiện là thô, thọ thiện và vô ký là tế” v.v… Trước tiên, theo loại, thọ bất thiện có hành động không lắng dịu do là nhân cho việc làm có tội và do có bản chất là sự thiêu đốt của phiền não, nên là thô so với thọ thiện. Do có sự cố gắng, có sự nỗ lực, có quả báo, có bản chất là sự thiêu đốt của phiền não, và có tội, nên là thô so với thọ quả vô ký. Do có quả báo, có bản chất là sự thiêu đốt của phiền não, có sự tổn hại, và có tội, nên là thô so với thọ duy tác vô ký. Còn thọ thiện và vô ký thì tế so với thọ bất thiện do ngược lại với điều đã nói. Cả hai thọ thiện và bất thiện đều thô so với cả hai loại thọ vô ký, tùy theo trường hợp, do có sự cố gắng, có sự nỗ lực, và có quả báo. Cả hai loại thọ vô ký thì tế so với chúng do ngược lại với điều đã nói. Như vậy, trước tiên, cần được hiểu sự thô và tế theo loại.

Sabhāvavasena pana dukkhavedanā nirassādato savipphārato ubbejanīyato abhibhavanato ca itarāhi dvīhi oḷārikā, itarā pana dve sātato santato paṇītato manāpato majjhattato ca yathāyogaṃ dukkhāya sukhumā. Ubho pana sukhadukkhā savipphārato khobhakaraṇato pākaṭato ca adukkhamasukhāya oḷārikā, sā vuttavipariyāyena tadubhayato sukhumā. Evaṃ sabhāvavasena oḷārikasukhumatā veditabbā. Puggalavasena pana asamāpannassa vedanā nānārammaṇavikkhittabhāvato samāpannassa vedanāya oḷārikā, vipariyāyena itarā sukhumā. Evaṃ puggalavasena oḷārikasukhumatā veditabbā. Lokiyalokuttaravasena pana sāsavā vedanā lokiyā. Sā āsavuppattihetuto oghaniyato yoganiyato ganthaniyato nīvaraṇiyato upādāniyato saṃkilesikato puthujjanasādhāraṇato ca anāsavāya oḷārikā, sā vipariyāyena sāsavāya sukhumā. Evaṃ lokiyalokuttaravasena oḷārikasukhumatā veditabbā.
Còn theo bản chất, thọ khổ là thô so với hai thọ còn lại do không có vị ngọt, có sự lan tỏa, gây khó chịu, và có sự áp đảo. Hai thọ còn lại thì tế so với thọ khổ, tùy theo trường hợp, do có sự dễ chịu, có sự an tịnh, có sự cao siêu, có sự vừa ý, và có sự trung tính. Cả hai thọ lạc và khổ đều thô so với thọ bất khổ bất lạc do có sự lan tỏa, có sự gây xáo trộn, và có sự rõ ràng. Thọ đó thì tế so với cả hai thọ kia do ngược lại với điều đã nói. Như vậy, cần được hiểu sự thô và tế theo bản chất. Còn theo cá nhân, thọ của người không nhập định là thô so với thọ của người nhập định do có trạng thái phân tán trong nhiều đối tượng. Ngược lại, thọ kia là tế. Như vậy, cần được hiểu sự thô và tế theo cá nhân. Còn theo thế gian/siêu thế, thọ có lậu hoặc là thế gian. Nó là thô so với thọ không có lậu hoặc do là nhân cho sự sanh khởi của lậu hoặc, do có xu hướng chìm trong bộc lưu, trong ách縛, trong triền phược, trong các triền cái, trong các thủ, do có tính ô nhiễm, và do là chung cho phàm phu. Thọ đó thì tế so với thọ có lậu hoặc do ngược lại. Như vậy, cần được hiểu sự thô và tế theo thế gian/siêu thế.

Tattha jātiādivasena sambhedo pariharitabbo. Akusalavipākakāyaviññāṇasampayuttā hi vedanā jātivasena abyākatattā sukhumāpi samānā sabhāvādivasena oḷārikā hoti. Vuttañhetaṃ ‘‘abyākatā vedanā sukhumā, dukkhā vedanā oḷārikā. Asamāpannassa vedanā oḷārikā, sāsavā vedanā oḷārikā’’ti (vibha. 11). Yathā ca dukkhavedanā, evaṃ sukhādayopi jātivasena oḷārikā, sabhāvādivasena sukhumā honti. Tasmā yathā jātiādivasena sambhedo na hoti, tathā vedanānaṃ oḷārikasukhumatā veditabbā. Seyyathidaṃ – abyākatā jātivasena kusalākusalāhi sukhumā. Na tattha ‘‘katamā abyākatā, kiṃ dukkhā, kiṃ sukhā, kiṃ samāpannassa, kiṃ asamāpannassa, kiṃ sāsavā, kiṃ anāsavā’’ti evaṃ sabhāvādibhedo parāmasitabbo. Esa nayo sabbattha.
Ở đó, cần tránh sự pha trộn theo loại v.v… Thật vậy, thọ tương ưng với thức thân quả bất thiện, dù là tế theo loại do là vô ký, nhưng lại là thô theo bản chất v.v… Điều này đã được nói: “thọ vô ký là tế, thọ khổ là thô. Thọ của người không nhập định là thô, thọ có lậu hoặc là thô” (vibha. 11). Và giống như thọ khổ, các thọ lạc v.v. cũng là thô theo loại, nhưng lại là tế theo bản chất v.v… Do đó, cần được hiểu sự thô và tế của các thọ theo cách mà không có sự pha trộn theo loại v.v… Đó là: thọ vô ký là tế so với thọ thiện và bất thiện theo loại. Ở đó, không cần phải xem xét sự phân biệt theo bản chất v.v. như: “thọ vô ký nào, là khổ hay là lạc, là của người nhập định hay không nhập định, là có lậu hoặc hay không có lậu hoặc?” Phương pháp này áp dụng cho tất cả các trường hợp.

Apica ‘‘taṃ taṃ vā pana vedanaṃ upādāyupādāya vedanā oḷārikā sukhumā daṭṭhabbā’’ti vacanato akusalādīsupi lobhasahagatāya dosasahagatavedanā aggi viya attano nissayadahanato oḷārikā, lobhasahagatā sukhumā. Dosasahagatāpi niyatā oḷārikā, aniyatā sukhumā. Niyatāpi kappaṭṭhitikā oḷārikā, itarā sukhumā. Kappaṭṭhitikāsupi asaṅkhārikā oḷārikā, itarā sukhumā. Lobhasahagatā pana diṭṭhisampayuttā oḷārikā, itarā sukhumā. Sāpi niyatā kappaṭṭhitikā asaṅkhārikā oḷārikā, itarā sukhumā, avisesena akusalā bahuvipākā oḷārikā, appavipākā sukhumā. Kusalā pana appavipākā oḷārikā, bahuvipākā sukhumā.
Hơn nữa, theo câu “hoặc cần được thấy rằng các thọ là thô và tế tùy thuộc vào từng loại thọ đó,” ngay cả trong các thọ bất thiện v.v., thọ đi cùng với sân là thô so với thọ đi cùng với tham do nó thiêu đốt chính nền tảng của mình như lửa; thọ đi cùng với tham là tế. Thọ đi cùng với sân cũng vậy, loại cố định là thô, loại không cố định là tế. Loại cố định cũng vậy, loại tồn tại một đại kiếp là thô, loại khác là tế. Trong các loại tồn tại một đại kiếp cũng vậy, loại không cần sự xúi giục là thô, loại khác là tế. Còn thọ đi cùng với tham, loại tương ưng với tà kiến là thô, loại khác là tế. Loại đó cũng vậy, loại cố định, tồn tại một đại kiếp, không cần sự xúi giục là thô, loại khác là tế. Một cách không phân biệt, thọ bất thiện có nhiều quả báo là thô, có ít quả báo là tế. Còn thọ thiện, loại có ít quả báo là thô, có nhiều quả báo là tế.

Apica kāmāvacarakusalā oḷārikā, rūpāvacarā sukhumā, tato arūpāvacarā, tato lokuttarā. Kāmāvacarā ca dānamayā oḷārikā, sīlamayā sukhumā, tato bhāvanāmayā. Bhāvanāmayāpi duhetukā oḷārikā , tihetukā sukhumā. Tihetukāpi sasaṅkhārikā oḷārikā, asaṅkhārikā sukhumā. Rūpāvacarā paṭhamajjhānikā oḷārikā…pe… pañcamajjhānikā sukhumāva. Arūpāvacarā ākāsānañcāyatanasampayuttā oḷārikā…pe… nevasaññānāsaññāyatanasampayuttā sukhumāva. Lokuttarā ca sotāpattimaggasampayuttā oḷārikā…pe… arahattamaggasampayuttā sukhumāva. Esa nayo taṃtaṃbhūmivipākakiriyavedanāsu dukkhādiasamāpannādisāsavādivasena vuttavedanāsu ca.
Hơn nữa, thọ thiện thuộc dục giới là thô, thuộc sắc giới là tế, rồi đến vô sắc giới, rồi đến siêu thế. Trong dục giới, thọ thuộc về bố thí là thô, thuộc về trì giới là tế, rồi đến tu tập. Trong tu tập cũng vậy, loại có hai nhân là thô, có ba nhân là tế. Trong loại có ba nhân cũng vậy, loại có sự xúi giục là thọ, không có sự xúi giục là tế. Trong sắc giới, thọ thuộc sơ thiền là thọ… này… thọ thuộc ngũ thiền là tế. Trong vô sắc giới, thọ tương ưng với không vô biên xứ là thọ… này… thọ tương ưng với phi tưởng phi phi tưởng xứ là tế. Trong siêu thế, thọ tương ưng với đạo Tu-đà-hoàn là thọ… này… thọ tương ưng với đạo A-la-hán là tế. Phương pháp này cũng áp dụng cho các thọ quả và duy tác trong các cõi tương ứng, và cho các thọ đã được nói theo các cách như khổ v.v., không nhập định v.v., có lậu hoặc v.v…

Okāsavasena cāpi niraye dukkhā oḷārikā, tiracchānayoniyaṃ sukhumā…pe… paranimmitavasavattī sukhumāva. Yathā ca dukkhā, evaṃ sukhāpi sabbattha yathānurūpaṃ yojetabbā. Vatthuvasena cāpi hīnavatthukā yā kāci vedanā oḷārikā, paṇītavatthukā sukhumā. Hīnappaṇītabhede yā oḷārikā, sā hīnā. Yā ca sukhumā, sā paṇītāti veditabbā. Dūrapadaṃ pana akusalā vedanā kusalābyākatāhi vedanāhi dūre, santikapadaṃ akusalā vedanā akusalāya vedanāya santiketiādinā nayena vibhattaṃ. Tasmā akusalā vedanā visabhāgato asaṃsaṭṭhato asarikkhato ca kusalābyākatāhi dūre, tathā kusalābyākatā akusalāya. Esa nayo sabbavāresu. Akusalā pana vedanā sabhāgato ca saṃsaṭṭhato ca sarikkhato ca akusalāya santiketi. Taṃtaṃvedanāsampayuttānaṃ pana saññādīnampi evameva veditabbaṃ.
Và cả theo vị trí, thọ khổ trong địa ngục là thô, trong loài súc sanh là tế… này… ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại là tế. Và giống như thọ khổ, các thọ lạc cũng cần được liên kết tương ứng ở khắp mọi nơi. Và cả theo nền tảng, bất cứ thọ nào có nền tảng hèn hạ là thô, có nền tảng cao thượng là tế. Trong sự phân biệt hèn hạ và cao thượng, cái gì là thô, cái đó là hèn hạ. Và cái gì là tế, cái đó cần được hiểu là cao thượng. Còn từ “xa” được phân biệt theo phương pháp rằng: thọ bất thiện thì xa so với các thọ thiện và vô ký; từ “gần” thì thọ bất thiện thì gần với thọ bất thiện v.v… Do đó, thọ bất thiện thì xa so với các thọ thiện và vô ký do khác loại, không pha trộn, và không giống nhau; tương tự, các thọ thiện và vô ký thì xa so với thọ bất thiện. Phương pháp này áp dụng cho tất cả các trường hợp. Còn thọ bất thiện thì gần với thọ bất thiện do cùng loại, có pha trộn, và giống nhau. Và đối với các pháp như tưởng v.v. tương ưng với từng loại thọ đó, cũng cần được hiểu tương tự như vậy.

23.Sutavāti āgamādhigamasaṅkhātena bāhusaccena samannāgatattā sutavā. Nibbindatīti ukkaṇṭhati. Ettha ca nibbidāti vuṭṭhānagāminīvipassanā adhippetā. Nibbindaṃ virajjatīti ettha virāgavasena cattāro maggā kathitā. Virāgā vimuccatīti virāgena maggeneva hetubhūtena paṭippassaddhivimuttivasena vimuccati. Iminā cattāri sāmaññaphalāni kathitāni. Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hotīti iminā pana paccavekkhaṇañāṇaṃ kathitaṃ. Khīṇā jātītiādīhi tassa bhūmi. Tena hi ñāṇena ariyasāvako paccavekkhanto ‘‘khīṇā jātī’’tiādīni pajānāti. Katamā panassa jāti khīṇā, kathañca naṃ pajānātīti? Na tāvassa atītā jāti khīṇā pubbeva khīṇattā, na anāgatā anāgate vāyāmābhāvato, na paccuppannā. Yā pana maggassa abhāvitattā uppajjeyya ekacatupañcavokārabhavesu ekacatupañcakkhandhappabhedā jāti, sā maggassa bhāvitattā anuppādadhammataṃ āpajjanena khīṇā, taṃ so maggabhāvanāya pahīnakilese paccavekkhitvā kilesābhāve vijjamānampi kammaṃ āyatiṃ appaṭisandhikaṃ hotīti jānanto pajānāti.
23. (Người) “có nghe nhiều”: là người có nghe nhiều do được trang bị bằng sự học rộng về văn học và chứng ngộ. (Từ) “nhàm chán”: chán ngán. Ở đây, (từ) “sự nhàm chán” được hiểu là tuệ quán dẫn đến sự xuất khởi. (Câu) “do nhàm chán nên ly tham”: ở đây, bốn đạo được nói đến bằng sự ly tham. (Câu) “do ly tham nên giải thoát”: giải thoát bằng sự giải thoát của sự an tịnh, với chính đạo ly tham làm nhân. Bằng điều này, bốn quả sa-môn đã được nói đến. (Câu) “khi đã giải thoát, có trí tuệ rằng đã giải thoát”: bằng câu này, phản khán trí đã được nói đến. (Bằng các câu) “sanh đã tận” v.v., là cảnh giới của vị ấy. Thật vậy, bằng trí tuệ đó, vị Thánh thinh văn khi quán xét, đã biết rõ “sanh đã tận” v.v… Vậy, sanh nào của vị ấy đã tận, và làm sao vị ấy biết được điều đó? Sanh trong quá khứ của vị ấy không phải là đã tận (bây giờ), vì nó đã tận từ trước. Sanh trong tương lai cũng không phải, vì không có sự cố gắng trong tương lai. Sanh trong hiện tại cũng không phải. Nhưng sanh có nhiều loại là một, bốn, năm uẩn trong các cõi một, bốn, năm uẩn, vốn sẽ sanh khởi do đạo chưa được tu tập, nay đã tận do đã đạt đến trạng thái không sanh khởi vì đạo đã được tu tập. Vị ấy, sau khi quán xét các phiền não đã được từ bỏ do sự tu tập đạo, đã biết rõ rằng khi không còn phiền não, ngay cả nghiệp còn tồn tại cũng sẽ không có sự tái sanh trong tương lai.

Vusitanti vutthaṃ parivutthaṃ, kataṃ caritaṃ niṭṭhitanti attho. Brahmacariyanti maggabrahmacariyaṃ. Puthujjanakalyāṇakena hi saddhiṃ satta sekkhā maggabrahmacariyaṃ vasanti nāma, khīṇāsavo vutthavāso, tasmā ariyasāvako attano brahmacariyavāsaṃ paccavekkhanto ‘‘vusitaṃ brahmacariya’’nti pajānāti. Kataṃ karaṇīyanti catūsu saccesu catūhi maggehi pariññāpahānasacchikiriyābhāvanāvasena soḷasavidhampi kiccaṃ niṭṭhāpitanti attho. Puthujjanakalyāṇakādayo hi taṃ kiccaṃ karonti, khīṇāsavo katakaraṇīyo. Tasmā ariyasāvako attano karaṇīyaṃ paccavekkhanto ‘‘kataṃ karaṇīya’’nti pajānāti. Nāparaṃ itthattāyāti idāni puna itthabhāvāya evaṃsoḷasakiccabhāvāya, kilesakkhayāya vā maggabhāvanākiccaṃ me natthīti pajānāti. Atha vā itthattāyāti itthabhāvā imasmā evaṃpakārā idāni vattamānakkhandhasantānā aparaṃ khandhasantānaṃ mayhaṃ natthi, ime pana pañcakkhandhā pariññātā tiṭṭhanti chinnamūlakā rukkhā viya. Te carimakaviññāṇanirodhena anupādāno viya jātavedo nibbāyissantīti pajānāti.
(Từ) “đã sống xong”: đã sống, đã sống trọn vẹn, có nghĩa là đã làm, đã thực hành, đã hoàn tất. (Phạm hạnh) “brahmacariyaṃ”: phạm hạnh trong đạo. Thật vậy, bảy bậc hữu học cùng với bậc phàm phu thiện được gọi là đang sống phạm hạnh trong đạo, còn bậc lậu tận là người đã sống xong phạm hạnh. Do đó, vị Thánh thinh văn, khi quán xét đời sống phạm hạnh của mình, đã biết rõ: “phạm hạnh đã được sống xong.” (Việc) “cần làm đã làm xong”: có nghĩa là mười sáu loại phận sự trong bốn chân lý theo cách liễu tri, từ bỏ, chứng ngộ, và tu tập bằng bốn đạo đã được hoàn tất. Thật vậy, các bậc phàm phu thiện v.v. đang làm phận sự đó, còn bậc lậu tận là người đã làm xong việc cần làm. Do đó, vị Thánh thinh văn, khi quán xét phận sự của mình, đã biết rõ: “việc cần làm đã được làm xong.” “Không còn trở lại trạng thái này nữa”: vị ấy biết rõ rằng: bây giờ ta không còn phận sự tu tập đạo để đạt đến trạng thái này, tức là trạng thái của mười sáu phận sự đó, hoặc để đoạn tận các phiền não nữa. Hoặc, (từ) “trạng thái này”: từ trạng thái này, từ dòng tương tục của các uẩn đang có mặt như thế này, ta không còn một dòng tương tục nào khác của các uẩn nữa. Năm uẩn này thì đang tồn tại sau khi đã được liễu tri, giống như những cây đã bị chặt đứt gốc rễ. Chúng sẽ bị dập tắt giống như ngọn lửa không còn nhiên liệu, cùng với sự đoạn diệt của thức cuối cùng.

24.Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti te bhikkhū sakamanā tuṭṭhamanā, pītisomanassehi vā samattamanā hutvā karavīkarutamañjunā kaṇṇasukhena paṇḍitajanahadayānaṃ amatābhisekasadisena brahmassarena bhāsato bhagavato vacanaṃ sukathitaṃ sulapitaṃ ‘‘evametaṃ bhagavā, evametaṃ sugatā’’ti matthakena sampaṭicchantā anumodiṃsu ceva sampaṭicchiṃsu cāti attho. Ayañhi abhinanda-saddo ‘‘abhinandati abhivadatī’’tiādīsu (saṃ. ni. 3.5; 4.114, 118) taṇhāyapi āgato. ‘‘Annamevābhinandanti, ubhaye devamānusā’’tiādīsu (saṃ. ni. 1.43) upagamanepi.
24. “Các vị Tỳ-khưu đó hoan hỷ, tín thọ lời đức Thế Tôn dạy”: các vị Tỳ-khưu đó, với tâm của chính mình, với tâm hài lòng, hoặc với tâm được trang bị bằng hỷ và lạc, đã tán thán và đã đón nhận lời dạy của đức Thế Tôn, người đang nói bằng một giọng nói phạm thiên giống như một sự ban rưới bất tử cho trái tim của những người hiền trí, ngọt ngào như tiếng chim karavīka, êm tai, bằng cách đón nhận với đầu cúi chào rằng: “Thưa Thế Tôn, đúng là như vậy; thưa Thiện Thệ, đúng là như vậy.” Thật vậy, từ abhinanda (tín thọ) này, trong các câu như “hoan hỷ, nói lên” (saṃ. ni. 3.5; 4.114, 118) v.v., cũng đã được dùng trong ý nghĩa là tham ái. Trong các câu như “cả hai, trời và người, đều hoan hỷ trong thức ăn” (saṃ. ni. 1.43) v.v., là trong ý nghĩa tiếp cận.

‘‘Cirappavāsiṃ purisaṃ, dūrato sotthimāgataṃ;
Ñātimittā suhajjā ca, abhinandanti āgata’’nti. (dha. pa. 219; vi. va. 861) –
“Một người đi vắng lâu ngày, từ xa trở về bình an;
Bà con, bạn bè, và người thân, hoan hỷ đón chào người đã về.” (dha. pa. 219; vi. va. 861) –

Ādīsu sampaṭicchanepi. ‘‘Abhinanditvā anumoditvā’’tiādīsu (ma. ni. 1.205) anumodanepi. Svāyamidha anumodanasampaṭicchanesu yujjati. Tena vuttaṃ ‘‘anumodiṃsu ceva sampaṭicchiṃsu cā’’ti. Anupādāya āsavehi cittāni vimucciṃsūti anuppādanirodhena nirujjhamānehi āsavehi anupādāya aggahetvā kañci dhammaṃ ‘‘ahaṃ mamā’’ti anādiyitvāva cittāni vimucciṃsu. Cha arahantoti bhagavatā saddhiṃ cha janā arahanto. Aññesaṃ pana devabrahmānampi arahattappattisambhavato idaṃ manussaarahanteyeva sandhāya vuttanti āha ‘‘cha manussā arahanto hontī’’ti.
(Trong các câu) bắt đầu bằng câu này, là trong ý nghĩa đón nhận. Trong các câu như “sau khi hoan hỷ và tán thán” (ma. ni. 1.205) v.v., là trong ý nghĩa tán thán. Và từ này ở đây phù hợp trong ý nghĩa tán thán và đón nhận. Do đó đã được nói: “đã tán thán và đã đón nhận.” “Tâm của các vị ấy đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc do không còn chấp thủ”: tâm của các vị ấy đã được giải thoát mà không còn chấp thủ, không còn nắm giữ bất cứ pháp nào là “tôi, của tôi,” do các lậu hoặc đang bị đoạn diệt bằng sự đoạn diệt không sanh khởi. “Sáu vị A-la-hán”: sáu người là A-la-hán, cùng với đức Thế Tôn. Nhưng bởi vì ngay cả các vị chư thiên và Phạm thiên cũng có khả năng đắc quả A-la-hán, (ngài Phụ Chú Giải) nói rằng điều này được nói đến chỉ nhắm vào các vị A-la-hán là con người: “có sáu vị A-la-hán là con người.”

Anattalakkhaṇasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Kinh Vô Ngã Tướng đã kết thúc.

Pañcavaggiyakathā niṭṭhitā.
Phần Câu Chuyện Về Nhóm Năm Vị đã kết thúc.

Yasassa pabbajjākathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Xuất Gia Của Yasa

25. Idāni yasassa pabbajjaṃ dassetuṃ ‘‘tena kho pana samayenā’’tiādi āraddhaṃ. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā – hemantikotiādīsu (dī. ni. aṭṭha. 2.42; a. ni. aṭṭha. 2.3.39) yattha sukhaṃ hoti hemantakāle vasituṃ, ayaṃ hemantiko. Itaresupi eseva nayo. Ayaṃ panettha vacanattho – hemante vāso hemantaṃ uttarapadalopena, hemantaṃ arahatīti hemantiko. Itaresupi eseva nayo. Tattha vassiko pāsādo nātiucco hoti nātinīco, dvāravātapānānipissa nātibahūni nātitanūni, bhūmattharaṇapaccattharaṇakhajjabhojjānipettha missakāneva vaṭṭanti. Hemantike thambhāpi bhittiyopi nīcā honti, dvāravātapānāni tanukāni sukhumachiddāni, uṇhappavesanatthāya bhittiniyyūhāni hariyanti, bhūmattharaṇapaccattharaṇanivāsanapārupanāni panettha uṇhavikiriyāni kambalādīni vaṭṭanti, khajjabhojjaṃ siniddhaṃ kaṭukasannissitañca. Gimhike thambhāpi bhittiyopi uccā honti, dvāravātapānāni panettha bahūni vipulajātāni honti, bhūmattharaṇāni sītavikiriyāni dukūlamayāni vaṭṭanti, khajjabhojjāni madhurarasasītavikiriyāni, vātapānasamīpesu cettha navā cāṭiyo ṭhapetvā udakassa pūretvā nīluppalādīhi sañchādenti, tesu tesu padesesu udakayantāni karonti, yehi deve vassante viya udakadhārā nikkhamanti.
25. Bây giờ, để trình bày sự xuất gia của Yasa, (kinh) đã được bắt đầu bằng (câu) “Và rồi, vào lúc bấy giờ.” Trong đó, đây là phần diễn giải các từ không rõ ràng – trong các câu bắt đầu bằng (từ) “hemantiko” (thuộc về mùa đông) (dī. ni. aṭṭha. 2.42; a. ni. aṭṭha. 2.3.39), nơi mà việc ở trong mùa đông là thoải mái, đó là thuộc về mùa đông. Trong các trường hợp khác cũng có cùng phương pháp này. Đây là cách giải thích từ ngữ ở đây – nơi ở trong mùa đông là hemantaṃ, do sự lược bỏ từ cuối; cái gì phù hợp với hemantaṃ là hemantiko. Trong các trường hợp khác cũng có cùng phương pháp này. Trong đó, lâu đài mùa mưa không quá cao, không quá thấp; cửa ra vào và cửa sổ cũng không quá nhiều, không quá ít; các loại thảm trải sàn, thảm lót, và đồ ăn thức uống ở đây cũng chỉ là loại hỗn hợp là phù hợp. Trong lâu đài mùa đông, cả cột và tường đều thấp; cửa ra vào và cửa sổ thì nhỏ, có các khe hở hẹp; các phần nhô ra của tường được làm để cho hơi ấm vào; các loại thảm trải sàn, thảm lót, quần áo mặc và đắp ở đây là những thứ có tác dụng giữ ấm như len v.v. là phù hợp; đồ ăn thức uống thì béo và có vị cay. Trong lâu đài mùa hè, cả cột và tường đều cao; cửa ra vào và cửa sổ ở đây thì nhiều và rộng rãi; thảm trải sàn là những thứ có tác dụng làm mát, làm bằng vải mịn là phù hợp; đồ ăn thức uống có vị ngọt và có tác dụng làm mát. Và ở gần các cửa sổ, người ta đặt những chiếc chum mới, đổ đầy nước và che bằng hoa sen xanh v.v… Ở những nơi đó, họ làm các vòi phun nước, từ đó các dòng nước chảy ra như thể trời đang mưa.

Nippurisehīti purisavirahitehi. Na kevalañcettha tūriyāneva nippurisāni, sabbaṭṭhānānipi nippurisāneva. Dovārikāpi itthiyova, nahāpanādiparikammakarāpi itthiyova. Pitā kira ‘‘tathārūpaṃ issariyasukhasampattiṃ anubhavamānassa purisaṃ disvā parisaṅkā uppajjati, sā me puttassa mā ahosī’’ti sabbakiccesu itthiyova ṭhapāpesi. Pañcahi kāmaguṇehīti rūpasaddādīhi pañcahi kāmakoṭṭhāsehi. Samappitassāti sammā appitassa, upetassāti attho. Samaṅgībhūtassāti tasseva vevacanaṃ. Paricārayamānassāti parito cārayamānassa, tasmiṃ tasmiṃ kāmaguṇe indriyāni cārayamānassāti attho. Āḷambaranti paṇavaṃ. Vikesikanti muttakesaṃ, vippakiṇṇakesanti attho. Vikkheḷikanti vissandamānalālaṃ. Vippalapantiyoti viruddhaṃ palapantiyo vā rudantiyo vā. Susānaṃ maññeti āmakasusānaṃ viya addasa sakaṃ parijananti sambandho. Udānaṃ udānesīti saṃvegavasena udānaṃ udānesi, saṃvegavasappavattaṃ vācaṃ nicchāresīti attho.
(Với các nhạc cụ) “không có người nam”: không có người nam. Ở đây không chỉ các nhạc cụ là không có người nam, mà tất cả các nơi cũng đều không có người nam. Ngay cả những người gác cửa cũng là phụ nữ, những người làm các công việc như tắm rửa v.v. cũng là phụ nữ. Tương truyền rằng, người cha đã nghĩ: “khi thấy một người đàn ông khác đang hưởng thụ sự giàu sang và hạnh phúc như vậy, sự nghi ngờ sẽ sanh khởi; mong rằng điều đó đừng xảy ra với con trai của ta,” và đã cho sắp đặt chỉ toàn phụ nữ trong tất cả các công việc. (Với) “năm loại dục”: với năm phần của dục là sắc, thanh v.v… (Của người) “được cung phụng”: được cung phụng một cách đầy đủ, có nghĩa là được trang bị. (Của người) “được trang bị”: là một từ đồng nghĩa với từ đó. (Của người) “đang được giải trí”: đang được giải trí xung quanh, có nghĩa là đang để các căn đi lang thang trong từng loại dục đó. (Trống) “āḷambaraṃ”: trống paṇava. (Tóc) “vikesikaṃ”: tóc xõa, có nghĩa là tóc rối bù. (Nước dãi) “vikkheḷikaṃ”: nước dãi chảy ra. (Những người) “đang nói lảm nhảm”: đang nói những lời trái ngược hoặc đang khóc. “Ta ngỡ như một bãi tha ma”: chàng đã thấy đoàn tùy tùng của mình giống như một bãi tha ma cho những xác chết chưa được thiêu. Cần được liên kết như vậy. “Đã thốt lên lời cảm hứng”: đã thốt lên lời cảm hứng do sự cảm động, có nghĩa là đã phát ra lời nói do sự cảm động thúc đẩy.

26.Idaṃ kho yasāti bhagavā nibbānaṃ sandhāyāha. Tañhi taṇhādīhi kilesehi anupaddutaṃ anupassaṭṭhañca. Anupubbiṃ kathanti (dī. ni. aṭṭha. 2.75; ma. ni. aṭṭha. 2.69) dānānantaraṃ sīlaṃ, sīlānantaraṃ saggaṃ, saggānantaraṃ magganti evamanupaṭipāṭikathaṃ. Tattha dānakathā nāma ‘‘idaṃ dānaṃ nāma sukhānaṃ nidānaṃ, sampattīnaṃ mūlaṃ, bhogānaṃ patiṭṭhā, visamagatassa tāṇaṃ leṇaṃ gati parāyaṇaṃ, idhalokaparalokesu dānasadiso avassayo patiṭṭhā ārammaṇaṃ tāṇaṃ leṇaṃ gati parāyaṇaṃ natthi. Idañhi avassayaṭṭhena ratanamayasīhāsanasadisaṃ, patiṭṭhānaṭṭhena mahāpathavīsadisaṃ, ārammaṇaṭṭhena ālambanarajjusadisaṃ, idañhi dukkhanittharaṇaṭṭhena nāvā, samassāsanaṭṭhena saṅgāmasūro, bhayaparittāṇaṭṭhena susaṅkhatanagaraṃ, maccheramalādīhi anupalittaṭṭhena padumaṃ, tesaṃ nidahanaṭṭhena aggi, durāsadaṭṭhena āsīviso, asantāsanaṭṭhena sīho, balavantaṭṭhena hatthī, abhimaṅgalasammataṭṭhena setausabho, khemantabhūmisampāpanaṭṭhena valāhako assarājā. Dānaṃ nāmetaṃ mayā gatamaggo, mayheveso vaṃso, mayā dasa pāramiyo pūrentena velāmamahāyaññā mahāgovindamahāyaññā mahāsudassanamahāyaññā vessantaramahāyaññāti aneke mahāyaññā pavattitā, sasabhūtena jalite aggikkhandhe attānaṃ niyyātentena sampattayācakānaṃ cittaṃ gahitaṃ. Dānañhi loke sakkasampattiṃ deti, mārasampattiṃ brahmasampattiṃ cakkavattisampattiṃ sāvakapāramiñāṇaṃ paccekabodhiñāṇaṃ abhisambodhiñāṇaṃ detī’’ti evamādinā dānaguṇappaṭisaṃyuttakathā.
26. “Này Yasa, nơi này”: đức Thế Tôn đã nói nhắm đến Niết-bàn. Thật vậy, nơi đó không bị các phiền não như tham ái v.v. quấy nhiễu và áp bức. (Bài thuyết pháp) “tuần tự” (dī. ni. aṭṭha. 2.75; ma. ni. aṭṭha. 2.69): bài thuyết pháp theo thứ tự như sau: sau khi nói về bố thí là nói về trì giới, sau khi nói về trì giới là nói về các cõi trời, sau khi nói về các cõi trời là nói về đạo. Trong đó, thuyết giảng về bố thí là bài thuyết giảng liên quan đến các đức tính của sự bố thí như sau: “Bố thí này là nguồn gốc của các sự an lạc, là cội rễ của các tài sản, là nền tảng của của cải, là nơi nương tựa, là nơi ẩn náu, là nơi đến, là nơi quy y cho người gặp khó khăn. Trong đời này và đời sau, không có nơi nương tựa, nền tảng, đối tượng, nơi nương tựa, nơi ẩn náu, nơi đến, nơi quy y nào giống như sự bố thí. Thật vậy, về mặt là nơi nương tựa, nó giống như một chiếc ngai vàng bằng châu báu; về mặt là nền tảng, nó giống như đại địa; về mặt là đối tượng, nó giống như một sợi dây để bám víu. Thật vậy, về mặt là phương tiện để vượt qua khổ đau, nó là chiếc thuyền; về mặt là sự an ủi, nó là một vị tướng dũng mãnh; về mặt là sự bảo vệ khỏi nguy hiểm, nó là một thành phố được xây dựng kiên cố; về mặt không bị các cấu uế như keo kiệt v.v. làm ô uế, nó là hoa sen; về mặt thiêu đốt chúng, nó là lửa; về mặt khó có thể tiếp cận, nó là một con rắn độc; về mặt không gây sợ hãi, nó là một con sư tử; về mặt có sức mạnh, nó là một con voi; về mặt được xem là điềm lành tối thượng, nó là một con bò mộng trắng; về mặt đưa đến một vùng đất an ổn, nó là một con ngựa hay như mây. Bố thí này là con đường ta đã đi, chính là dòng dõi của ta. Ta, khi đang hoàn thiện mười ba-la-mật, đã thực hiện nhiều cuộc đại thí như đại thí Velāma, đại thí Mahāgovinda, đại thí Mahāsudassana, đại thí Vessantara; khi là một con thỏ, ta đã hiến dâng thân mình trong đống lửa đang cháy và đã chiếm được cảm tình của những người đến xin. Thật vậy, sự bố thí ở thế gian mang lại tài sản của Sakka, tài sản của Māra, tài sản của Brahmā, tài sản của Chuyển Luân Vương, mang lại trí tuệ về các ba-la-mật của thinh văn, trí tuệ về sự giác ngộ của Phật Độc Giác, và trí tuệ về sự chánh đẳng chánh giác.”

Yasmā pana dānaṃ dadanto sīlaṃ samādātuṃ sakkoti, tasmā tadanantaraṃ sīlakathaṃ kathesi. Dānañhi nāma dakkhiṇeyyesu hitajjhāsayena pūjanajjhāsayena vā attano santakassa paresaṃ pariccajanaṃ, tasmā dāyako sattesu ekantahitajjhāsayo purisapuggalo, paresaṃ vā santakaṃ haratīti aṭṭhānametaṃ. Tasmā dānaṃ dadanto sīlaṃ samādātuṃ sakkotīti dānānantaraṃ sīlaṃ vuttaṃ. Apica dānakathā tāva pacurajanesupi pavattiyā sabbasādhāraṇattā sukarattā sīle patiṭṭhānassa upāyabhāvato ca ādito kathitā. Pariccāgasīlo hi puggalo pariggahavatthūsu nissaṅgabhāvato sukheneva sīlāni samādiyati, tattha ca suppatiṭṭhito hoti. Sīlena dāyakapaṭiggāhakavisuddhito parānuggahaṃ vatvā parapīḷānivattivacanato kiriyadhammaṃ vatvā akiriyadhammavacanato bhogayasasampattihetuṃ vatvā bhavasampattihetuvacanato ca dānakathānantaraṃ sīlakathā kathitā.
Và bởi vì người cho đi bố thí có thể thọ trì giới luật, do đó sau đó ngài đã thuyết giảng về giới luật. Thật vậy, bố thí là sự từ bỏ của cải của mình cho người khác đối với những người đáng được cúng dường, với ý định làm lợi ích hoặc với ý định tôn kính. Do đó, người thí chủ là một người có ý định hoàn toàn làm lợi ích cho chúng sanh, không thể có chuyện người đó lại đi lấy của cải của người khác. Do đó, người cho đi bố thí có thể thọ trì giới luật, nên sau khi nói về bố thí, giới luật đã được nói đến. Hơn nữa, thuyết giảng về bố thí được nói đến trước tiên là do nó phổ biến ngay cả trong quần chúng đông đảo, là chung cho tất cả, là điều dễ làm, và là phương tiện để được an trú trong giới luật. Thật vậy, một người có lòng từ bỏ, do không có sự dính mắc trong các tài sản, có thể thọ trì các giới luật một cách dễ dàng, và được an trú vững chắc trong đó. Sau khi đã nói về sự giúp đỡ người khác bằng sự trong sạch của người thí chủ và người nhận của bố thí, rồi nói về sự không làm hại người khác; sau khi đã nói về pháp hành động, rồi nói về pháp không hành động; sau khi đã nói về nhân của tài sản và danh vọng, rồi nói về nhân của tài sản trên các cõi trời, nên sau khi thuyết giảng về bố thí, thuyết giảng về giới luật đã được nói đến.

Sīlakathā nāma ‘‘sīlaṃ nāmetaṃ avassayo patiṭṭhā ārammaṇaṃ tāṇaṃ leṇaṃ gati parāyaṇaṃ. Sīlaṃ nāmetaṃ mama vaṃso, ahaṃ saṅkhapālanāgarājakāle bhūridattanāgarājakāle campeyyanāgarājakāle sīlavarājakāle mātuposakahatthirājakāle chaddantahatthirājakāleti anantesu attabhāvesu sīlaṃ paripūresiṃ. Idhalokaparalokasampattīnañhi sīlasadiso avassayo sīlasadisā patiṭṭhā ārammaṇaṃ tāṇaṃ leṇaṃ gati parāyaṇaṃ natthi, sīlālaṅkārasadiso alaṅkāro natthi, sīlapupphasadisaṃ pupphaṃ natthi, sīlagandhasadiso gandho natthi. Sīlālaṅkārena hi alaṅkataṃ sīlakusumapiḷandhanaṃ sīlagandhānulittaṃ sadevakopi loko olokento tittiṃ na gacchatī’’ti evamādisīlaguṇappaṭisaṃyuttakathā.
Thuyết giảng về giới luật là bài thuyết giảng liên quan đến các đức tính của giới luật như sau: “Giới luật này là nơi nương tựa, là nền tảng, là đối tượng, là nơi nương tựa, là nơi ẩn náu, là nơi đến, là nơi quy y. Giới luật này là dòng dõi của ta. Ta, trong các kiếp là vua rắn Saṅkhapāla, vua rắn Bhūridatta, vua rắn Campeyya, vua Sīlava, vua voi Mātuposaka, vua voi Chaddanta, và trong vô số kiếp, đã hoàn thiện giới luật. Thật vậy, đối với các tài sản trong đời này và đời sau, không có nơi nương tựa nào giống như giới luật, không có nền tảng, đối tượng, nơi nương tựa, nơi ẩn náu, nơi đến, nơi quy y nào giống như giới luật. Không có đồ trang sức nào giống như đồ trang sức giới luật, không có hoa nào giống như hoa giới luật, không có hương thơm nào giống như hương thơm giới luật. Thật vậy, thế gian cùng với chư thiên, khi nhìn một người được trang điểm bằng đồ trang sức giới luật, được trang hoàng bằng hoa giới luật, được thoa ướp bằng hương thơm giới luật, cũng không bao giờ biết chán.”

Idaṃ pana sīlaṃ nissāya ayaṃ saggo labbhatīti dassanatthaṃ sīlānantaraṃ saggakathaṃ kathesi. Saggakathā nāma ‘‘ayaṃ saggo nāma iṭṭho kanto manāpo , niccamettha kīḷā, niccaṃ sampattiyo labbhanti, cātumahārājikā devā navutivassasatasahassāni dibbasukhaṃ dibbasampattiṃ paṭilabhanti, tāvatiṃsā tisso ca vassakoṭiyo saṭṭhi ca vassasatasahassānī’’ti evamādisaggaguṇapaṭisaṃyuttakathā. Saggasampattiṃ kathayantānañhi buddhānaṃ mukhaṃ nappahoti. Vuttampi cetaṃ ‘‘anekapariyāyena kho ahaṃ, bhikkhave, saggakathaṃ katheyya’’ntiādi.
Để trình bày rằng do nương vào giới luật này mà cõi trời này có thể đạt được, sau khi nói về giới luật, ngài đã thuyết giảng về cõi trời. Thuyết giảng về cõi trời là bài thuyết giảng liên quan đến các đức tính của cõi trời như sau: “Cõi trời này là nơi đáng mong muốn, đáng yêu, vừa ý. Ở đây luôn có sự vui chơi, luôn có được các tài sản. Các vị trời ở cõi Tứ Đại Thiên Vương hưởng thụ lạc thú và tài sản của cõi trời trong chín triệu năm. Các vị trời ở cõi Ba Mươi Ba thì ba mươi sáu triệu năm.” Các đức Phật, khi nói về tài sản của cõi trời, cũng không thể nói hết được. Điều này cũng đã được nói: “Này các Tỳ-khưu, ta có thể thuyết giảng về cõi trời bằng nhiều cách” v.v…

Evaṃ saggakathāya palobhetvā puna hatthiṃ alaṅkaritvā tassa soṇḍaṃ chindanto viya ayampi saggo anicco addhuvo, na ettha chandarāgo kātabboti dassanatthaṃ ‘‘appassādā kāmā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo’’tiādinā (ma. ni. 1.177; pāci. 417) nayena kāmānaṃ ādīnavaṃ okāraṃ saṃkilesaṃ kathesi. Tattha ādīnavoti doso, aniccatādinā appassādatādinā ca dūsitabhāvoti attho. Atha vā ādīnaṃ vāti pavattatīti ādīnavo, paramakapaṇatā. Tathā ca kāmā yathābhūtaṃ paccavekkhantānaṃ paccupatiṭṭhanti. Okāroti lāmakabhāvo nihīnabhāvo aseṭṭhehi sevitabbatā seṭṭhehi na sevitabbatā ca. Saṃkilesoti tehi sattānaṃ saṃkilissanaṃ, vibādhetabbatā upatāpetabbatāti attho.
Sau khi đã lôi cuốn bằng bài thuyết giảng về cõi trời như vậy, rồi lại để trình bày rằng cõi trời này cũng là vô thường, không bền vững, không nên có lòng tham ái đối với nó, giống như trang hoàng một con voi rồi lại cắt vòi của nó, ngài đã thuyết giảng về sự nguy hiểm, sự thấp kém, và sự ô uế của các dục theo phương pháp bắt đầu bằng: “các dục có ít vị ngọt, có nhiều khổ đau, nhiều phiền não; ở đây, sự nguy hiểm là nhiều hơn” (ma. ni. 1.177; pāci. 417). Trong đó, (từ) “sự nguy hiểm” là sự lỗi lầm, ý nghĩa là trạng thái bị lỗi lầm do tính vô thường v.v. và do có ít vị ngọt v.v… Hoặc, nó diễn ra như là sự khốn cùng, nên là sự nguy hiểm, tức là sự nghèo khổ tột cùng. Và các dục, đối với những người quán xét như thật, hiện ra như vậy. (Từ) “sự thấp kém”: trạng thái thấp kém, trạng thái hèn hạ, việc được những người không cao thượng thực hành và không được những người cao thượng thực hành. (Từ) “sự ô uế”: sự ô uế của chúng sanh do chúng, ý nghĩa là trạng thái bị chúng hành hạ, bị thiêu đốt.

Evaṃ kāmādīnavena tajjetvā nekkhamme ānisaṃsaṃ pakāsesi. Yattakā ca kāmesu ādīnavā, paṭipakkhato tattakāva nekkhamme ānisaṃsā. Apica ‘‘nekkhammaṃ nāmetaṃ asambādhaṃ asaṃkiliṭṭhaṃ, nikkhantaṃ kāmehi, nikkhantaṃ kāmasaññāya, nikkhantaṃ kāmavitakkehi, nikkhantaṃ kāmapariḷāhehi, nikkhantaṃ byāpārato’’tiādinā nayena nekkhamme ānisaṃsaṃ pakāsesi, pabbajjāya jhānādīsu ca guṇe vibhāvesi vaṇṇesi. Ettha ca saggaṃ kathetvā svāyaṃ saggo rāgādīhi upakkiliṭṭho, sabbathāpi anupakkiliṭṭho ariyamaggoti dassanatthaṃ saggānantaraṃ maggo kathetabbo. Maggañca kathentena tadadhigamupāyasandassanatthaṃ saggapariyāpannāpi pageva itare sabbepi kāmā nāma bahvādīnavā aniccā addhuvā vipariṇāmadhammāti kāmānaṃ ādīnavo, hīnā gammā pothujjanikā anariyā anatthasañhitāti tesaṃ okāro lāmakabhāvo, sabbepi bhavā kilesānaṃ vatthubhūtāti tattha saṃkileso, sabbasaṃkilesavippamuttaṃ nibbānanti nekkhamme ānisaṃso ca kathetabboti kāmesu ādīnavo okāro saṃkileso nekkhamme ca ānisaṃso pakāsitoti daṭṭhabbaṃ.
Sau khi đã làm cho sợ hãi bằng sự nguy hiểm của các dục như vậy, ngài đã trình bày lợi ích của sự xuất ly. Bao nhiêu sự nguy hiểm trong các dục, thì đối nghịch lại, có bấy nhiêu lợi ích trong sự xuất ly. Hơn nữa, ngài đã trình bày lợi ích của sự xuất ly theo phương pháp bắt đầu bằng: “sự xuất ly này không chật hẹp, không ô uế, đã thoát khỏi các dục, đã thoát khỏi các tưởng về dục, đã thoát khỏi các tầm về dục, đã thoát khỏi các nhiệt não của dục, đã thoát khỏi sự bận rộn” v.v., và đã trình bày, đã ca ngợi các đức tính trong sự xuất gia, trong các tầng thiền v.v… Ở đây, sau khi đã nói về cõi trời, để trình bày rằng cõi trời đó bị các pháp như ái dục v.v. làm ô uế, còn Thánh đạo thì hoàn toàn không bị ô uế, nên sau khi nói về cõi trời, đạo cần được nói đến. Và khi nói về đạo, để trình bày phương tiện để chứng đắc nó, cần phải nói rằng tất cả các dục, ngay cả những dục thuộc về cõi trời, chứ đừng nói đến các dục khác, đều có nhiều nguy hiểm, là vô thường, không bền vững, có tính biến đổi, đó là sự nguy hiểm của các dục; là hèn hạ, thô tục, của kẻ phàm phu, không phải của bậc Thánh, không đi liền với lợi ích, đó là sự thấp kém, trạng thái thấp kém của chúng; tất cả các cõi đều là nền tảng của các phiền não, đó là sự ô uế ở đó; và Niết-bàn là sự giải thoát khỏi tất cả các sự ô uế, đó là lợi ích của sự xuất ly. Cần được hiểu rằng sự nguy hiểm, sự thấp kém, sự ô uế trong các dục và lợi ích của sự xuất ly đã được trình bày như vậy.

Kallacittanti kammaniyacittaṃ, heṭṭhā pavattitadesanāya assaddhiyādīnaṃ cittadosānaṃ vigatattā uparidesanāya bhājanabhāvūpagamanena kammakkhamacittanti attho. Assaddhiyādayo vā yasmā cittassa rogabhūtā tadā tassa vigatā, tasmā kallacittaṃ arogacittanti attho. Diṭṭhimānādikilesavigamena muducittaṃ, kāmacchandādivigamena vinīvaraṇacittaṃ, sammāpaṭipattiyaṃ uḷārapītipāmojjayogena udaggacittaṃ. Tattha saddhāsampattiyā pasannacittaṃ yadā bhagavā aññāsīti sambandho. Atha vā kallacittanti kāmacchandavigamena arogacittaṃ. Muducittanti byāpādavigamena mettāvasena akaṭhinacittaṃ. Vinīvaraṇacittanti uddhaccakukkuccavigamena vikkhepassa vigatattā tena apihitacittaṃ. Udaggacittanti thinamiddhavigamena sampaggahavasena alīnacittaṃ. Pasannacittanti vicikicchāvigamena sammāpaṭipattiyaṃ adhimuttacittanti evampettha attho veditabbo. Sāmukkaṃsikāti sāmaṃ ukkaṃsikā, attanāyeva uddharitvā gahitā, sayambhūñāṇena diṭṭhā asādhāraṇā aññesanti attho. Kā ca pana sāti? Ariyasaccadesanā. Tenevāha ‘‘dukkhaṃ samudayaṃ nirodhaṃ magga’’nti.
(Tâm) “thuận theo”: tâm dễ uốn nắn. Do các lỗi lầm của tâm như sự không có đức tin v.v. đã được xả ly nhờ bài thuyết pháp đã diễn ra trước đó, nên là một cái tâm có khả năng chịu đựng được công việc bằng cách đi đến trạng thái là một bình chứa cho bài thuyết pháp ở trên. Hoặc bởi vì các pháp như sự không có đức tin v.v. vốn là bệnh của tâm, khi đó đã được xả ly khỏi người ấy, do đó là tâm thuận theo, tức là tâm không có bệnh. Do đã xả ly được các phiền não như tà kiến, kiêu mạn v.v. nên là tâm nhu nhuyến; do đã xả ly được các triền cái như dục tham v.v. nên là tâm không có triền cái; do có được hỷ và lạc lớn lao trong sự thực hành đúng đắn nên là tâm hân hoan. Ở đây, khi đức Thế Tôn biết được tâm trong sáng do đã thành tựu đức tin. Cần được liên kết như vậy. Hoặc, tâm thuận theo là tâm không có bệnh do đã xả ly được dục tham. Tâm nhu nhuyến là tâm không cứng cỏi do lòng từ ái, do đã xả ly được sân hận. Tâm không có triền cái là tâm không bị che lấp do sự xả ly của sự phân tán, do đã xả ly được trạo cử và hối quá. Tâm hân hoan là tâm không chán nản do sự sách tấn, do đã xả ly được hôn trầm và thụy miên. Tâm trong sáng là tâm tin tưởng vào sự thực hành đúng đắn do đã xả ly được hoài nghi. Ở đây, ý nghĩa cần được hiểu như vậy. (Bài thuyết pháp) “tự mình khám phá”: tự mình khám phá, tự mình lấy ra, tức là đã được thấy bằng tự giác tuệ, là pháp không chung với những người khác. Và đó là gì? Là bài thuyết giảng về các Thánh đế. Chính vì thế, ngài đã nói: “khổ, sự tập khởi, sự đoạn diệt, và con đường.”

Seyyathāpītiādinā upamāvasena tassa kilesappahānaṃ ariyamagguppādañca dasseti. Apagatakāḷakanti vigatakāḷakaṃ. Sammadevāti suṭṭhu eva. Rajananti nīlapītādiraṅgajātaṃ. Paṭiggaṇheyyāti gaṇheyya, pabhassaraṃ bhaveyya. Tasmiṃyeva āsaneti tassaṃyeva nisajjāyaṃ. Etenassa lahuvipassakatā tikkhapaññatā sukhapaṭipadakhippābhiññatā ca dassitā hoti. Virajantiādi vuttanayameva. Tatridaṃ upamāsaṃsandanaṃ – vatthaṃ viya cittaṃ, vatthassa āgantukamalehi kiliṭṭhabhāvo viya cittassa rāgādimalehi saṃkiliṭṭhabhāvo, dhovanasilā viya anupubbikathā, udakaṃ viya saddhā, udakena temetvā temetvā ūsagomayachārikakhārakehi kāḷakapadese sammadditvā vatthassa dhovanapayogo viya saddhāsinehena temetvā temetvā satisamādhipaññāhi dose sithile katvā sīlasutādividhinā cittassa sodhane vīriyārambho, tena payogena vatthe kāḷakāpagamo viya vīriyārambhena kilesavikkhambhanaṃ, raṅgajātaṃ viya ariyamaggo, tena suddhassa vatthassa pabhassarabhāvo viya vikkhambhitakilesassa cittassa maggena pariyodapananti.
Bằng (câu) bắt đầu bằng “Giống như,” ngài trình bày sự từ bỏ phiền não và sự sanh khởi của Thánh đạo của người ấy bằng một ví dụ. (Tấm vải) “đã được giặt sạch vết bẩn”: đã được loại bỏ vết bẩn. “Một cách hoàn hảo”: một cách rất tốt. (Thuốc) “nhuộm”: các loại màu như xanh, vàng v.v… “Sẽ bắt màu”: sẽ nhận lấy, sẽ trở nên rực rỡ. “Ngay trên chỗ ngồi đó”: ngay trong lần ngồi đó. Bằng điều này, sự nhanh chóng của tuệ quán, sự sắc bén của trí tuệ, và sự thực hành an lạc với sự chứng ngộ nhanh chóng của người ấy đã được trình bày. (Từ) “không còn bụi bặm” v.v. có phương pháp đã được nói. Đây là sự so sánh của ví dụ đó – tấm vải giống như tâm, trạng thái bị dơ bẩn của tấm vải do các vết bẩn từ bên ngoài giống như trạng thái bị ô uế của tâm do các cấu uế như ái dục v.v.; tảng đá giặt đồ giống như bài thuyết pháp tuần tự; nước giống như đức tin; sự nỗ lực giặt tấm vải bằng cách dùng nước làm ướt đi ướt lại, rồi dùng tro, phân bò, đất sét, và các chất kiềm chà xát vào những chỗ có vết bẩn giống như sự khởi đầu của sự tinh tấn trong việc thanh lọc tâm bằng các phương pháp như giới, văn v.v., sau khi đã làm cho các lỗi lầm mềm đi bằng sự hài lòng, định, và tuệ, sau khi đã làm cho chúng ướt đẫm bằng sự ẩm ướt của đức tin; sự loại bỏ vết bẩn trên tấm vải bằng sự nỗ lực đó giống như sự trấn phục các phiền não bằng sự khởi đầu của sự tinh tấn; các loại màu nhuộm giống như Thánh đạo; trạng thái trở nên rực rỡ của tấm vải đã được làm sạch bằng các loại màu đó giống như sự thanh lọc của tâm đã được trấn phục các phiền não bằng đạo.

27.Assadūteti āruḷhaasse dūte. Iddhābhisaṅkhāranti iddhikiriyaṃ. Abhisaṅkharesīti abhisaṅkhari, akāsīti attho. Kimatthanti ce? Ubhinnaṃ paṭilabhitabbavisesantarāyanisedhanatthaṃ. Yadi hi so puttaṃ passeyya, puttassapi arahattappatti seṭṭhissapi dhammacakkhupaṭilābho na siyā. Adiṭṭhasaccopi hi ‘‘dehi te mātuyā jīvita’’nti yācanto kathañhi nāma vikkhepaṃ paṭibāhitvā bhagavato dhammadesanānusārena ñāṇaṃ pesetvā dhammacakkhuṃ paṭilabheyya, yaso ca evaṃ tena yāciyamāno kathaṃ taṃ vikkhepaṃ paṭibāhitvā arahatte patiṭṭhaheyya.
27. (Các sứ giả) “trên lưng ngựa”: các sứ giả cưỡi ngựa. (Một) “hành động thần thông”: một việc làm của thần thông. “Đã thực hiện”: đã làm. Nếu hỏi để làm gì? Để ngăn chặn sự trở ngại đối với sự thù thắng có thể đạt được của cả hai. Thật vậy, nếu ông ta thấy được con trai, sự đắc quả A-la-hán của con trai và sự chứng đắc pháp nhãn của người trưởng giả sẽ không có. Vì dù chưa thấy được chân lý, khi đang cầu xin: “xin hãy trả lại sự sống cho mẹ của con,” làm sao có thể ngăn chặn được sự phân tán, vận dụng trí tuệ theo bài thuyết pháp của đức Thế Tôn và chứng đắc pháp nhãn? Và Yasa, khi bị cầu xin như vậy, làm sao có thể ngăn chặn được sự phân tán đó và an trú trong quả A-la-hán?

Etadavocāti bhagavato dhammadesanaṃ abbhanumodamāno etaṃ ‘‘abhikkantaṃ bhante’’tiādivacanaṃ avoca. Abhikkanta-saddo cāyamidha abbhanumodane, tasmā sādhu sādhu bhanteti vuttaṃ hoti.
“Đã nói lời này”: trong khi tán thán bài thuyết pháp của đức Thế Tôn, ông ta đã nói lời này bắt đầu bằng “Bạch ngài, thật vi diệu.” Từ abhikkanta (vi diệu) ở đây là trong ý nghĩa tán thán, do đó ý nói là: lành thay, lành thay, bạch ngài.

‘‘Bhaye kodhe pasaṃsāyaṃ, turite kotūhalacchare;
Hāse soke pasāde ca, kare āmeḍitaṃ budho’’ti. –
“Trong sợ hãi, giận dữ, khen ngợi, vội vã, tò mò, kinh ngạc;
Trong vui vẻ, sầu muộn, và thành kính, người trí lặp lại lời nói.” –

Imināva lakkhaṇena idha pasādavasena pasaṃsāvasena cāyaṃ dvikkhattuṃ vuttoti veditabbo. Seyyathāpītiādinā catūhi upamāhi bhagavato desanaṃ thometi. Tattha nikkujjitanti adhomukhaṭhapitaṃ, heṭṭhāmukhajātaṃ vā. Ukkujjeyyāti uparimukhaṃ kareyya. Paṭicchannanti tiṇapaṇṇādichāditaṃ. Vivareyyāti ugghāṭeyya. Mūḷhassāti disāmūḷhassa. Maggaṃ ācikkheyyāti hatthe gahetvā ‘‘esa maggo’’ti vadeyya. Andhakāreti kāḷapakkhacātuddasī aḍḍharatti ghanavanasaṇḍameghapaṭalehi caturaṅgatame.
Bằng chính đặc điểm này, cần được hiểu rằng ở đây, từ này đã được nói hai lần theo nghĩa là sự thành kính và theo nghĩa là sự tán thán. Bằng (các câu) bắt đầu bằng “Giống như,” ông ta ca ngợi bài thuyết pháp của đức Thế Tôn bằng bốn ví dụ. Trong đó, (từ) “nikkujjitaṃ” (vật bị úp xuống): vật được đặt úp xuống, hoặc vật có mặt úp xuống dưới. (Từ) “ukkujjeyyā” (lật ngửa lên): làm cho mặt hướng lên trên. (Vật) “paṭicchannaṃ” (bị che đậy): vật bị che đậy bởi cỏ, lá v.v… (Từ) “vivareyyā” (mở ra): vén lên, phơi bày. (Cho) “người bị lạc đường”: cho người bị lạc phương hướng. “Chỉ đường”: cầm tay và nói: “đây là con đường.” (Trong) “bóng tối”: bóng tối có bốn yếu tố là đêm mười bốn của tháng tối, lúc nửa đêm, trong một lùm cây rậm rạp, và dưới một tầng mây.

Evaṃ desanaṃ thometvā imāya desanāya ratanattaye pasannacitto pasannākāraṃ karonto ‘‘esāha’’ntiādimāha. Tattha esāhanti eso ahaṃ. Upāsakaṃ maṃ bhagavā dhāretūti maṃ bhagavā ‘‘upāsako aya’’nti evaṃ dhāretu, jānātūti attho. Ajjataggeti etthāyaṃ agga-saddo ādiatthe, tasmā ajjataggeti ajjataṃ ādiṃ katvāti evamattho veditabbo. Ajjatanti ajjabhāvaṃ. ‘‘Ajjadagge’’ti vā pāṭho, da-kāro padasandhikaro, ajja aggaṃ katvāti attho. Pāṇupetanti pāṇehi upetaṃ. Yāva me jīvitaṃ pavattati, tāva upetaṃ, anaññasatthukaṃ tīhi saraṇagamanehi saraṇaṃ gataṃ upāsakaṃ kappiyakārakaṃ maṃ bhagavā dhāretu jānātu. Ahañhi sacepi me tikhiṇena asinā sīsaṃ chindeyya, neva buddhaṃ ‘‘na buddho’’ti vā, dhammaṃ ‘‘na dhammo’’ti vā, saṅghaṃ ‘‘na saṅgho’’ti vā vadeyyanti evaṃ attasanniyyātanena saraṇaṃ agamāsi. Evaṃ ‘‘abhikkanta’’ntiādīnaṃ anuttānapadattho veditabbo, vitthāro pana heṭṭhā verañjakaṇḍavaṇṇanāyaṃ āgatoyevāti idha na dassito.
Sau khi đã ca ngợi bài thuyết pháp như vậy, với tâm trong sáng đối với Tam Bảo nhờ bài thuyết pháp này, trong khi đang thể hiện thái độ trong sáng, ông ta đã nói câu bắt đầu bằng “Con nay.” Trong đó, (từ) “esāhaṃ” là eso ahaṃ (con nay). “Xin đức Thế Tôn hãy ghi nhận con là một người cận sự nam”: xin đức Thế Tôn hãy ghi nhận, hãy biết con rằng: “đây là một người cận sự nam.” Ở đây, trong (từ) “ajjatagge” (kể từ hôm nay), từ agga– có nghĩa là bắt đầu, do đó ajjatagge cần được hiểu theo nghĩa là: lấy hôm nay làm khởi đầu. Ajjataṃ là trạng thái của ngày hôm nay. Hoặc cũng có cách đọc là “ajjadagge,” mẫu tự da– là để nối từ, có nghĩa là lấy hôm nay làm khởi đầu. (Trọn) “đời”: đi cùng với mạng sống. Xin đức Thế Tôn hãy ghi nhận, hãy biết con là một người cận sự nam, một người hộ trì, đã quy y bằng ba phép quy y, không có một vị thầy nào khác, cho đến khi mạng sống của con còn tồn tại. Thật vậy, dù cho có ai đó dùng một thanh gươm sắc bén chặt đầu con, con cũng sẽ không bao giờ nói rằng Phật “không phải là Phật,” hoặc pháp “không phải là pháp,” hoặc Tăng “không phải là Tăng.” Ông ta đã quy y bằng sự hiến dâng bản thân như vậy. Như vậy, cần được hiểu ý nghĩa của các từ không rõ ràng bắt đầu bằng “vi diệu.” Còn phần chi tiết thì đã có trong phần diễn giải về đoạn Verañja ở trước, nên không được trình bày ở đây.

28.Bhūmiṃ paccavekkhantassāti attanā diṭṭhamatthaṃ paccavekkhantassa. Iddhābhisaṅkhāraṃ paṭippassambhesīti yathā taṃ seṭṭhi gahapati tattha nisinnova yasaṃ kulaputtaṃ passati, tathā adhiṭṭhāsīti attho. Adhivāsetūti sampaṭicchatu. Ajjatanāyāti yaṃ me tumhesu sakkāraṃ karoto ajja bhavissati puññañca pītipāmojjañca, tadatthāya. Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvenāti bhagavā kāyaṅgaṃ vā vācaṅgaṃ vā acopetvā abbhantareyeva khantiṃ karonto tuṇhībhāvena adhivāsesi, seṭṭhissa anuggahatthaṃ manasāva sampaṭicchīti vuttaṃ hoti. ‘‘Ehi bhikkhū’’ti bhagavā avocāti tassa kira iddhimayapattacīvarassa upanissayaṃ olokento anekāsu jātīsu cīvarādiaṭṭhaparikkhāradānaṃ disvā ‘‘ehi bhikkhū’’ti avoca. So tāvadeva bhaṇḍu kāsāvavasano aṭṭhahi bhikkhuparikkhārehi sarīre paṭimukkeheva vassasaṭṭhikatthero viya bhagavantaṃ namassamānova nisīdi. Yo hi cīvarādike aṭṭha parikkhāre pattacīvarameva vā sotāpannādiariyassa puthujjanasseva vā sīlasampannassa datvā ‘‘idaṃ parikkhāradānaṃ anāgate ehibhikkhubhāvāya paccayo hotū’’ti patthanaṃ paṭṭhapeti, tassa taṃ sati adhikārasampattiyaṃ buddhānaṃ sammukhībhāve iddhimayaparikkhāralābhāya saṃvattatīti veditabbaṃ.
28. “Khi vị ấy đang quán xét cảnh giới (đã chứng ngộ)”: khi Yasa đang quán xét ý nghĩa mà mình đã thấy. “Đã thu nhiếp lại hành động thần thông”: có nghĩa là đã chú nguyện theo cách mà người trưởng giả, gia chủ đó, trong khi vẫn ngồi ở đó, có thể thấy được thiện gia nam tử Yasa. “Xin ngài hãy nhận lời”: xin hãy chấp nhận. “Cho ngày hôm nay”: vì phước báu và niềm hỷ lạc sẽ có được cho con hôm nay do việc tỏ lòng tôn kính đối với các ngài. “Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng sự im lặng”: đức Thế Tôn, không cử động thân hay nói một lời, đã nhận lời bằng sự im lặng, bằng cách chấp thuận ở bên trong; ý nói là ngài đã chấp nhận bằng ý để thể hiện lòng bi mẫn đối với người trưởng giả. “Đức Thế Tôn đã nói: ‘hãy đến, Tỳ-khưu’”: tương truyền rằng, sau khi nhìn thấy duyên hỗ trợ cho việc có được y bát do thần thông của vị ấy, và thấy được việc dâng cúng tám vật dụng như y v.v. trong nhiều kiếp, ngài đã nói: “hãy đến, Tỳ-khưu.” Ngay khi đó, vị ấy đã trở thành người có đầu cạo, mặc y cà-sa, với tám vật dụng của Tỳ-khưu đã được trang bị sẵn trên người, giống như một vị trưởng lão đã có sáu mươi tuổi hạ, và đã ngồi xuống trong khi đang đảnh lễ đức Thế Tôn. Cần được hiểu rằng, người nào dâng cúng tám vật dụng như y v.v., hoặc chỉ là y bát, cho một vị Thánh như Tu-đà-hoàn v.v. hoặc ngay cả cho một vị phàm phu có giới hạnh, rồi thiết lập lời nguyện rằng: “việc dâng cúng vật dụng này mong rằng sẽ là duyên cho việc trở thành Tỳ-khưu bằng cách gọi ‘hãy đến’ trong tương lai,” thì điều đó, khi có sự thành tựu của các duyên hỗ trợ, sẽ đưa đến việc nhận được các vật dụng do thần thông khi được diện kiến các đức Phật.

29.Paṇītenāti uttamena. Sahatthāti sahatthena. Santappetvāti suṭṭhu tappetvā, paripuṇṇaṃ suhitaṃ yāvadatthaṃ katvā. Sampavāretvāti suṭṭhu pavāretvā, alaṃ alanti hatthasaññāya paṭikkhipāpetvā. Bhuttāvinti bhuttavantaṃ . Onītapattapāṇinti pattato onītapāṇiṃ, apanītahatthanti vuttaṃ hoti. ‘‘Onittapattapāṇi’’ntipi pāṭho, tassattho – onittaṃ nānābhūtaṃ vinābhūtaṃ pattaṃ pāṇito assāti onittapattapāṇi, taṃ onittapattapāṇiṃ, hatthe ca pattañca dhovitvā ekamantaṃ pattaṃ nikkhipitvā nisinnanti attho. Ekamantaṃ nisīdiṃsūti bhagavantaṃ evaṃbhūtaṃ ñatvā ekasmiṃ okāse nisīdiṃsūti attho. Dhammiyā kathāyātiādīsu taṅkhaṇānurūpāya dhammiyā kathāya diṭṭhadhammikasamparāyikaatthaṃ sandassetvā kusale ca dhamme samādapetvā tattha ca naṃ samuttejetvā saussāhaṃ katvā tāya ca saussāhatāya aññehi ca vijjamānaguṇehi sampahaṃsetvā dhammaratanavassaṃ vassitvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
29. (Với các món) “thượng vị”: cao cấp. (Bằng) “chính tay mình”: bằng tay của chính mình. “Sau khi đã làm cho các vị ấy hài lòng”: sau khi đã làm cho các vị ấy hài lòng một cách tốt đẹp, đã làm cho các vị ấy no đủ, thỏa thích. “Sau khi đã thỉnh mời”: sau khi đã thỉnh mời một cách tốt đẹp, sau khi đã làm cho các vị ấy từ chối bằng dấu hiệu của tay rằng “đủ rồi, đủ rồi.” (Khi đức Thế Tôn) “đã thọ thực xong”: người đã ăn. “Khi tay đã rời khỏi bát”: khi tay đã được lấy ra khỏi bát, ý nói là đã rời tay. Cũng có cách đọc là “onittapattapāṇiṃ,” ý nghĩa của nó là – onittaṃ, tức là đã trở nên khác, đã tách rời; bát đã tách rời khỏi tay, (vị đó là) onittapattapāṇi. (Khi) “vị ấy,” có nghĩa là sau khi đã rửa tay và bát, đã đặt bát sang một bên và ngồi xuống. “Đã ngồi xuống một bên”: sau khi biết đức Thế Tôn đã như vậy, họ đã ngồi xuống ở một nơi thích hợp. (Bằng) “bài pháp thoại” v.v., bằng bài pháp thoại phù hợp với khoảnh khắc đó, sau khi đã trình bày lợi ích trong hiện tại và tương lai, sau khi đã khuyến khích trong các pháp thiện, sau khi đã sách tấn, làm cho vị ấy trở nên hăng hái ở đó, và sau khi đã làm cho hoan hỷ bằng sự hăng hái đó và bằng các đức tính khác đang có, ngài đã ban một cơn mưa pháp bảo rồi đã đứng dậy khỏi chỗ ngồi và ra đi.

Yasassa pabbajjākathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Xuất Gia Của Yasa đã kết thúc.

Catugihisahāyapabbajjākathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Xuất Gia Của Bốn Người Bạn Tại Gia

30. Idāni tassa sahāyānaṃ pabbajjaṃ dassento ‘‘assosuṃ kho’’tiādimāha. Tatrāyaṃ anuttānapadavaṇṇanā – seṭṭhino ca anuseṭṭhino ca yesaṃ kulānaṃ tāni seṭṭhānuseṭṭhīni kulāni, tesaṃ seṭṭhānuseṭṭhīnaṃ kulānaṃ, paveṇivasena āgatehi seṭṭhīhi ca anuseṭṭhīhi ca samannāgatānaṃ kulānanti attho. Vimalotiādīni tesaṃ puttānaṃ nāmāni. Kesamassuṃ ohāretvāti kesañca massuñca oropetvā. Kāsāyāni vatthānīti kasāyarasapītāni brahmacariyaṃ carantānaṃ anucchavikāni vatthāni. Orakoti ūnako lāmako. Sesamettha vuttanayameva.
30. Bây giờ, để trình bày sự xuất gia của các người bạn của chàng, (kinh) đã được bắt đầu bằng (câu) “Đã nghe.” Trong đó, đây là phần diễn giải các từ không rõ ràng – những gia đình nào là của các vị trưởng giả và á trưởng giả, đó là các gia đình của các vị trưởng giả và á trưởng giả; (của) “các gia đình của các vị trưởng giả và á trưởng giả,” có nghĩa là của các gia đình có các vị trưởng giả và á trưởng giả theo dòng dõi truyền lại. Vimala v.v. là tên của các người con trai của họ. “Sau khi đã cạo bỏ râu tóc”: sau khi đã cạo bỏ tóc và râu. (Các tấm y) “màu cà-sa”: các tấm y được nhuộm bằng nước chát, phù hợp với những người đang thực hành phạm hạnh. (Từ) “thấp kém hơn”: kém hơn, hạ liệt. Phần còn lại ở đây có phương pháp đã được nói.

Catugihisahāyapabbajjākathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Xuất Gia Của Bốn Người Bạn Tại Gia đã kết thúc.

Paññāsagihisahāyapabbajjākathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Xuất Gia Của Năm Mươi Người Bạn Tại Gia

31. Paññāsamattānaṃ gihisahāyānaṃ pabbajjāyapi yaṃ vattabbaṃ, taṃ vuttameva. Imesaṃ pana sabbesaṃ pubbayogo vattabboti taṃ dassetuṃ ‘‘yasaādīnaṃkulaputtānaṃ ayaṃ pubbayogo’’tiādimāha. Tattha vaggabandhanenāti gaṇabandhanena, ekībhūtāti vuttaṃ hoti. Anāthasarīrānīti anāthāni matakaḷevarāni. Paṭijaggantāti bahi nīharitvā jhāpentā.
31. Về sự xuất gia của năm mươi người bạn tại gia, những gì cần nói cũng đã được nói. Nhưng mối liên hệ trong quá khứ của tất cả những người này cần được nói đến, để trình bày điều đó, (kinh) đã được bắt đầu bằng (câu) “Đây là mối liên hệ trong quá khứ của các thiện gia nam tử Yasa v.v…” Trong đó, (bằng cách) “lập thành nhóm”: bằng cách lập thành một hội, ý nói là đã hợp nhất lại. “Các thi thể vô thừa nhận”: các xác chết không có người thân. (Họ) “chăm lo”: bằng cách mang ra ngoài và hỏa táng.

Paññāsagihisahāyapabbajjākathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Xuất Gia Của Năm Mươi Người Bạn Tại Gia đã kết thúc.

Mārakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Māra

32. Idāni saraṇagamanūpasampadaṃ dassetuṃ ‘‘atha kho bhagavā’’tiādi āraddhaṃ. Tatrāyaṃ anupubbapadavaṇṇanā (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.141) – muttāhanti mutto ahaṃ. Cārikanti anupubbagamanacārikaṃ, gāmanigamarājadhānīsu anukkamena gamanasaṅkhātaṃ cārikanti attho. Carathāti divasaṃ yojanaparamaṃ gacchantā caratha. Mā ekena dve agamitthāti ekena maggena dvīsu gatesu ekasmiṃ dhammaṃ desente ekena tuṇhībhūtena ṭhātabbaṃ hoti, tasmā evamāha. Ādikalyāṇanti ādimhi kalyāṇaṃ sundaraṃ bhaddakaṃ, tathā majjhapariyosānesu. Ādimajjhapariyosānañca nāmetaṃ sāsanassa ca desanāya ca vasena dubbidhaṃ. Tattha sāsanassa sīlaṃ ādi, samathavipassanāmaggā majjhaṃ, phalanibbānāni pariyosānaṃ. Sīlasamādhayo vā ādi, vipassanāmaggā majjhaṃ, phalanibbānāni pariyosānaṃ. Sīlasamādhivipassanā vā ādi, maggo majjhaṃ, phalanibbānāni pariyosānaṃ. Desanāya pana catuppadikagāthāya tāva paṭhamapādo ādi, dutiyatatiyā majjhaṃ, catuttho pariyosānaṃ. Pañcapadachappadānaṃ paṭhamapādo ādi, avasānapādo pariyosānaṃ, sesā majjhaṃ. Ekānusandhikassa suttassa nidānaṃ ādi, idamavocāti pariyosānaṃ, sesaṃ majjhaṃ. Anekānusandhikassa suttassa majjhe bahukampi anusandhi majjhameva, nidānaṃ ādi, idamavocāti pariyosānaṃ. Sātthanti sātthakaṃ katvā desetha. Sabyañjananti byañjanehi ceva padehi ca paripūraṃ katvā desetha. Kevalaparipuṇṇanti sakalaparipuṇṇaṃ. Parisuddhanti nirupakkilesaṃ. Brahmacariyanti sikkhattayasaṅgahaṃ sāsanabrahmacariyaṃ. Pakāsethāti āvi karotha.
32. Bây giờ, để trình bày về việc quy y và cụ túc giới, (kinh) đã được bắt đầu bằng (câu) “Khi ấy, đức Thế Tôn.” Trong đó, đây là phần diễn giải các từ theo thứ tự (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.141) – (câu) “Ta đã giải thoát”: ta đã được giải thoát. (Từ) “du hành”: chuyến du hành đi tuần tự, có nghĩa là chuyến du hành được gọi là sự đi lại theo thứ tự trong các làng, các thị trấn, và các kinh thành. (Từ) “hãy ra đi”: hãy đi, mỗi ngày đi tối đa một do-tuần. “Không nên hai người đi chung một con đường”: khi hai người đi chung một con đường, trong khi một người đang thuyết pháp, người kia phải im lặng, do đó ngài đã nói như vậy. (Pháp) “toàn thiện ở phần đầu”: tốt đẹp, tốt lành ở phần đầu; tương tự, ở phần giữa và phần cuối. Và phần đầu, phần giữa, và phần cuối này có hai loại, theo giáo pháp và theo bài thuyết giảng. Ở đây, đối với giáo pháp, giới là phần đầu, chỉ, quán, và đạo là phần giữa, quả và Niết-bàn là phần cuối. Hoặc, giới và định là phần đầu, quán và đạo là phần giữa, quả và Niết-bàn là phần cuối. Hoặc, giới, định, và tuệ là phần đầu, đạo là phần giữa, quả và Niết-bàn là phần cuối. Còn đối với bài thuyết giảng, đối với một bài kệ bốn câu, câu đầu tiên là phần đầu, câu thứ hai và thứ ba là phần giữa, câu thứ tư là phần cuối. Đối với bài kệ năm câu, sáu câu, câu đầu tiên là phần đầu, câu cuối cùng là phần cuối, các câu còn lại là phần giữa. Đối với một bài kinh có một mối liên kết, phần duyên khởi là phần đầu, câu “ngài đã nói điều này” là phần cuối, phần còn lại là phần giữa. Đối với một bài kinh có nhiều mối liên kết, ngay cả nhiều mối liên kết ở giữa cũng chỉ là phần giữa, phần duyên khởi là phần đầu, câu “ngài đã nói điều này” là phần cuối. “Có ý nghĩa”: hãy thuyết giảng một cách có ý nghĩa. “Có văn cú”: hãy thuyết giảng một cách đầy đủ cả về văn cú và từ ngữ. “Hoàn toàn trọn vẹn”: trọn vẹn toàn bộ. “Hoàn toàn trong sạch”: không có phiền não. (Phạm hạnh) “brahmacariyaṃ”: phạm hạnh trong giáo pháp, bao gồm ba học. “Hãy tuyên thuyết”: hãy làm cho hiển lộ.

Apparajakkhajātikāti paññācakkhumhi appakilesarajasabhāvā, dukūlasāṇiyā paṭicchannā viya catuppadikagāthāpariyosāne arahattaṃ pattuṃ samatthā sattā santīti attho. Parihāyantīti alābhaparihāniyā dhammato parihāyanti. Tenevāha ‘‘anadhigataṃ nādhigacchantā visesādhigamato parihāyantī’’ti. Senānigamoti senāya nigamo. Paṭhamakappikānaṃ kira tasmiṃ ṭhāne senāniveso ahosi, tasmā so padeso ‘‘senānigamo’’ti vuccati. ‘‘Senānigāmo’’tipi pāṭho, senāni nāma sujātāya pitā, tassa gāmoti attho. Tenupasaṅkamissāmīti nāhaṃ tumhe uyyojetvā pariveṇādīni kāretvā upaṭṭhākādīhi paricariyamāno viharissāmi, tiṇṇaṃ pana jaṭilānaṃ aḍḍhuḍḍhāni pāṭihāriyasahassāni dassetvā dhammameva desetuṃ upasaṅkamissāmi.
(Chúng sanh) “có ít bụi trong mắt”: có bản chất ít bụi phiền não trong con mắt trí tuệ, ý nghĩa là có những chúng sanh có khả năng đắc quả A-la-hán sau khi nghe một bài kệ bốn câu, giống như một tấm vải mịn được che phủ. (Họ) “bị thiệt thòi”: họ bị thiệt thòi về giáo pháp do sự mất mát của những gì chưa đạt được. Chính vì thế, ngài đã nói: “họ không đạt được những gì chưa đạt được, họ bị thiệt thòi về sự chứng đắc thù thắng.” (Thị trấn) “Senānigama”: thị trấn của quân đội. Tương truyền rằng, vào thời kiếp đầu tiên, nơi đó là nơi đóng quân của một đội quân, do đó vùng đất đó được gọi là “Senānigama.” Cũng có cách đọc là “Senānigāma,” có nghĩa là làng của Senāni, là cha của Sujātā. “Ta sẽ đến đó”: ta sẽ không cử các ông đi rồi cho xây dựng các tu viện v.v. và sống được những người hầu hạ chăm sóc, mà ta sẽ đến đó để thuyết pháp cho ba vị tu sĩ khổ hạnh tóc bện sau khi đã thể hiện hàng nghìn phép thần thông.

33.Māro pāpimāti attano visayaṃ atikkamituṃ paṭipanne satte māretīti māro, pare pāpe niyojeti, sayaṃ vā pāpe niyuttoti pāpimā. Aññānipissa kaṇho adhipati vasavattī antako namuci pamattabandhūtiādīni bahūni nāmāni, idha pana nāmadvayameva gahitaṃ. Upasaṅkamīti ‘‘ayaṃ samaṇo gotamo mahāyuddhaṃ vicārento viya ‘mā ekena dve agamittha, dhammaṃ desethā’ti saṭṭhi jane uyyojeti, imasmiṃ pana ekasmimpi dhammaṃ desente mayhaṃ cittassa sātaṃ natthi, evaṃ bahūsu desentesu kuto bhavissati, paṭibāhāmi na’’nti cintetvā upasaṅkami.
33. “Māra, kẻ ác”: nó giết hại những chúng sanh đã thực hành để vượt qua khỏi phạm vi của nó, nên là Māra (kẻ giết hại). Nó xúi giục người khác làm điều ác, hoặc chính nó cũng chìm đắm trong điều ác, nên là Pāpimā (kẻ ác). Nó còn có nhiều tên gọi khác như Kaṇha (kẻ đen tối), Adhipati (chúa tể), Vasavattī (kẻ điều khiển), Antako (kẻ kết liễu), Namuci, Pamattabandhu (bạn của người dể duôi) v.v., nhưng ở đây chỉ đề cập đến hai tên. “Đã đến gần”: nó đã nghĩ rằng: “Sa-môn Gotama này, như thể đang sắp đặt một cuộc đại chiến, đã cử sáu mươi người đi và nói rằng: ‘không nên hai người đi chung một con đường, hãy thuyết pháp.’ Ta còn không có được sự an lòng khi chỉ một người trong số họ thuyết pháp, làm sao có được khi nhiều người thuyết giảng? Ta sẽ ngăn cản họ,” và đã đến gần.

Sabbapāsehīti sabbehi kilesapāsehi. Ye dibbā ye ca mānusāti ye dibbakāmaguṇasaṅkhātā mānusakakāmaguṇasaṅkhātā ca kilesapāsā nāma atthi, sabbehi tehi tvaṃ baddhoti vadati. Mahābandhanabaddhoti mahatā kilesabandhanena baddho, mahati vā bandhane baddho, kilesabandhanassa ṭhānabhūte bhavacārake baddhoti attho. Na me samaṇa mokkhasīti samaṇa tvaṃ mama visayato na muccissasi. ‘‘Na me samaṇa mokkhasī’’ti ca idaṃ māro ‘‘muttāhaṃ, bhikkhave, sabbapāsehī’’ti bhagavato vacanaṃ asaddahanto vadati, saddahantopi vā ‘‘evamayaṃ paresaṃ sattānaṃ mokkhāya ussāhaṃ na kareyyā’’ti santajjento kohaññe ṭhatvā vadati.
(Bởi) “tất cả các tròng”: bởi tất cả các tròng phiền não. “Cả ở cõi trời và cõi người”: có những tròng phiền não được gọi là các dục ở cõi trời và các dục ở cõi người, ngươi bị trói buộc bởi tất cả chúng. Nó đã nói như vậy. “Ngươi đã bị trói bởi một sự trói buộc lớn”: ngươi đã bị trói bởi sự trói buộc lớn của phiền não, hoặc đã bị trói trong một nhà tù lớn; ý nghĩa là đã bị trói trong nhà tù của các cõi, vốn là nền tảng cho sự trói buộc của phiền não. “Hỡi sa-môn, ngươi sẽ không thoát khỏi ta”: hỡi sa-môn, ngươi sẽ không thoát khỏi phạm vi của ta. Và Māra đã nói câu “Hỡi sa-môn, ngươi sẽ không thoát khỏi ta” này do không tin vào lời của đức Thế Tôn: “Này các Tỳ-khưu, ta đã được giải thoát khỏi tất cả các tròng.” Hoặc, dù có tin, nó cũng đã nói một cách giả dối để đe dọa rằng: “mong rằng người này sẽ không nỗ lực vì sự giải thoát của các chúng sanh khác.”

Nihatoti tvaṃ mayā nihato, nibbisevanabhāvaṃ gamito parājitoti attho. Antalikkhe carante pañcābhiññepi bandhatīti antalikkhacaro. Rāgapāso hi antalikkhacaresupi kiccasādhanato ‘‘antalikkhacaro’’ti vuccati, teneva naṃ māropi antalikkhacaroti maññati. Manasi jātoti mānaso, manasampayuttoti attho. Sesamettha uttānatthameva.
(Từ) “bị đánh bại”: ngươi đã bị ta đánh bại, đã bị làm cho bất lực, đã bị thất bại. Nó trói buộc ngay cả những người có năm thắng trí đang đi lại trong không trung, nên là (kẻ) “đi trong không trung.” Thật vậy, tròng ái dục được gọi là “đi trong không trung” do nó có thể thực hiện được chức năng của mình ngay cả đối với những người đi trong không trung. Chính vì thế, Māra cũng tự cho mình là kẻ đi trong không trung. Sanh khởi trong tâm nên là (tròng) “thuộc về tâm,” ý nghĩa là tương ưng với tâm. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Mārakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Māra đã kết thúc.

Pabbajjūpasampadākathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Xuất Gia Và Cụ Túc Giới

34. ‘‘Anujānāmi bhikkhave’’tiādikāya pana pāḷiyā yo pabbajjūpasampadāvinicchayo vattabbo, taṃ vitthārato dassetuṃ ‘‘pabbajjāpekkhaṃ kulaputtaṃ pabbājentenā’’tiādimāha. Tattha ye puggalā paṭikkhittāti sambandho. Sayaṃ pabbājetabboti kesacchedanādīni sayaṃ karontena pabbājetabbo. Kesacchedanaṃ kāsāyacchādanaṃ saraṇadānanti hi imāni tīṇi karonto ‘‘pabbājetī’’ti vuccati. Etesu ekaṃ dve vāpi karonto tathā voharīyatiyeva, tasmā etaṃ pabbājehīti kesacchedanaṃ kāsāyacchādanañca sandhāya vuttaṃ. Upajjhāyaṃuddissa pabbājetīti etthāpi eseva nayo. Khaṇḍasīmaṃ netvāti bhaṇḍukammārocanapariharaṇatthaṃ vuttaṃ. Tena sabhikkhuke vihāre aññampi ‘‘etassa kese chindā’’ti vattuṃ na vaṭṭati. Pabbājetvāti kesacchedanaṃ sandhāya vadati. Bhikkhuto añño pabbājetuṃ na labhatīti saraṇadānaṃ sandhāya vuttaṃ. Tenevāha ‘‘sāmaṇero panā’’tiādi. Bhabbarūpoti bhabbasabhāvo. Tamevatthaṃ pariyāyantarena vibhāveti ‘‘sahetuko’’ti. Ñātoti pākaṭo. Yasassīti parivārasampattiyā samannāgato.
34. Bây giờ, để trình bày một cách chi tiết quyết định về việc xuất gia và cụ túc giới đã được đề cập trong bản Pāḷi bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép,” (kinh) đã được bắt đầu bằng (câu) “bởi người cho một thiện gia nam tử đang xin xuất gia.” Ở đó, cần được liên kết là: những người đã bị từ chối. “Nên tự mình cho xuất gia”: nên cho xuất gia bằng cách tự mình làm các việc như cạo tóc v.v… Thật vậy, người làm ba việc này: cạo tóc, choàng y cà-sa, và cho quy y, được gọi là “cho xuất gia.” Người làm một hoặc hai trong số đó cũng được gọi như vậy. Do đó, (câu) “hãy cho người này xuất gia” được nói đến nhắm vào việc cạo tóc và choàng y cà-sa. Trong (câu) “cho xuất gia bằng cách chỉ định một vị thầy tế độ,” cũng có cùng phương pháp này. “Sau khi đã dẫn đến một giới trường không trọn vẹn”: được nói đến để tránh việc làm của người đầu trọc và việc thông báo. Do đó, trong một tu viện có các vị Tỳ-khưu, không được phép nói với một vị khác rằng: “hãy cạo tóc cho người này.” (Từ) “sau khi đã cho xuất gia”, là nói nhắm vào việc cạo tóc. “Ngoài Tỳ-khưu ra, không ai được phép cho xuất gia”: được nói đến nhắm vào việc cho quy y. Chính vì thế, (kinh) đã nói câu bắt đầu bằng “Nhưng một vị sa-di.” (Người) “thích hợp”: người có bản chất thích hợp. (Kinh) làm sáng tỏ chính ý nghĩa đó bằng một cách nói khác: “có nhân duyên.” (Người) “nổi tiếng”: người được biết đến. (Người) “có danh tiếng”: người có được đoàn tùy tùng.

Vaṇṇasaṇṭhānagandhāsayokāsavasena asucijegucchapaṭikūlabhāvaṃ pākaṭaṃ karontenāti sambandho. Tattha kesā nāmete vaṇṇatopi paṭikūlā, saṇṭhānatopi gandhatopi āsayatopi okāsatopi paṭikūlā. Manuññepi (visuddhi. 1.183; vibha. aṭṭha. 356; sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.162) hi yāgupatte vā bhattapatte vā kesavaṇṇaṃ kiñci disvā ‘‘kesamissakamidaṃ, haratha na’’nti jigucchanti, evaṃ kesā vaṇṇato paṭikūlā. Rattiṃ bhuñjantāpi kesasaṇṭhānaṃ akkavākaṃ vā makacivākaṃ vā chupitvā tatheva jigucchanti, evaṃ saṇṭhānato paṭikūlā. Telamakkhanapupphadhūmādisaṅkhāravirahitānañca kesānaṃ gandho paramajeguccho hoti, tato jegucchataro aggimhi pakkhittānaṃ. Kesā hi vaṇṇasaṇṭhānato appaṭikūlāpi siyuṃ, gandhena pana paṭikūlāyeva. Yathā hi daharassa kumārakassa vaccaṃ vaṇṇato haliddivaṇṇaṃ, saṇṭhānatopi haliddipiṇḍisaṇṭhānaṃ. Saṅkāraṭṭhāne chaḍḍitañca uddhumātakakāḷasunakhasarīraṃ vaṇṇato tālapakkavaṇṇaṃ, saṇṭhānato vaṭṭetvā vissaṭṭhamudiṅgasaṇṭhānaṃ, dāṭhāpissa sumanamakuḷasadisā, taṃ ubhayampi vaṇṇasaṇṭhānato siyā appaṭikūlaṃ, gandhena pana paṭikūlameva, evaṃ kesāpi siyuṃ vaṇṇasaṇṭhānato appaṭikūlā, gandhena pana paṭikūlāyevāti. Yathā pana asuciṭṭhāne gāmanissandena jātāni sūpeyyapaṇṇāni nāgarikamanussānaṃ jegucchāni honti aparibhogāni, evaṃ kesāpi pubbalohitamuttakarīsapittasemhādinissandena jātattā paramajegucchāti evaṃ āsayato paṭikūlā. Ime ca kesā nāma gūtharāsimhi uṭṭhitakaṇṇakaṃ viya ekatiṃsakoṭṭhāsarāsimhi jātā, te susānasaṅkāraṭṭhānādīsu jātasākaṃ viya parikhādīsu jātakamalakuvalayādipupphaṃ viya ca asuciṭṭhāne jātattā paramajegucchāti evaṃ okāsato paṭikūlātiādinā nayena tacapañcakassa vaṇṇādivasena paṭikūlabhāvaṃ pakāsentenāti attho.
Cần được liên kết là: bởi người làm cho rõ ràng trạng thái không trong sạch, đáng ghê tởm, đáng kinh tởm theo các phương diện là màu sắc, hình dạng, mùi, nguồn gốc, và vị trí. Ở đó, tóc này là đáng kinh tởm cả về màu sắc, hình dạng, mùi, nguồn gốc, và vị trí. Thật vậy, ngay cả những người dễ tính (visuddhi. 1.183; vibha. aṭṭha. 356; sārattha. ṭī. pārājikakaṇḍa 2.162), khi thấy một vật gì có màu tóc trong bát cháo hay bát cơm, cũng ghê tởm và nói: “cái này có lẫn tóc, hãy mang đi.” Như vậy, tóc là đáng kinh tởm về màu sắc. Ngay cả khi đang ăn trong đêm, khi chạm phải một vật có hình dạng của tóc, dù là một sợi cỏ hay một sợi mạng nhện, họ cũng ghê tởm như vậy. Như vậy, (tóc) là đáng kinh tởm về hình dạng. Và mùi của tóc khi không có các sự tô điểm như dầu, hoa, và khói hương, là vô cùng đáng ghê tởm; và còn đáng ghê tởm hơn khi bị ném vào lửa. Thật vậy, tóc có thể không đáng kinh tởm về màu sắc và hình dạng, nhưng về mùi thì chắc chắn là đáng kinh tởm. Giống như phân của một đứa trẻ nhỏ, về màu sắc thì có màu nghệ, về hình dạng thì cũng có hình dạng của một củ nghệ. Và xác của một con chó đen bị trương phình vứt ở bãi rác, về màu sắc thì có màu của quả thốt nốt, về hình dạng thì có hình dạng của một chiếc trống mudiṅga được quấn lại và vứt đi, và răng của nó cũng giống như những nụ hoa nhài; cả hai thứ đó có thể không đáng kinh tởm về màu sắc và hình dạng, nhưng về mùi thì chắc chắn là đáng kinh tởm. Tóc cũng vậy, có thể không đáng kinh tởm về màu sắc và hình dạng, nhưng về mùi thì chắc chắn là đáng kinh tởm. Và giống như các loại rau ăn được mọc lên từ cống rãnh ở nơi không trong sạch là đáng ghê tởm đối với những người dân thành thị và không thể dùng được, cũng vậy, tóc cũng vô cùng đáng ghê tởm do được sanh ra từ sự chảy ra của máu mủ, nước tiểu, phân, mật, đờm dãi v.v., như vậy là đáng kinh tởm về nguồn gốc. Và tóc này được sanh ra trong một đống gồm ba mươi mốt thể trược, giống như một loại nấm mọc lên trên một đống phân. Chúng, do được sanh ra ở một nơi không trong sạch giống như các loại rau mọc ở những nơi như bãi tha ma và bãi rác, hoặc như các loại hoa như sen, súng v.v. mọc trong các ao hồ, là vô cùng đáng ghê tởm. Như vậy là đáng kinh tởm về vị trí. Ý nghĩa là: bởi người trình bày trạng thái đáng kinh tởm của năm thể trược tận cùng bằng da theo các phương diện là màu sắc v.v…

Nijjīvanissattabhāvaṃ vā pākaṭaṃ karontenāti ime kesā nāma sīsakaṭāhapaliveṭhanacamme jātā. Tattha yathā vammikamatthake jātesu kunthatiṇesu na vammikamatthako jānāti ‘‘mayi kunthatiṇāni jātānī’’ti, nāpi kunthatiṇāni jānanti ‘‘mayaṃ vammikamatthake jātānī’’ti, evameva na sīsakaṭāhapaliveṭhanacammaṃ jānāti ‘‘mayi kesā jātā’’ti, nāpi kesā jānanti ‘‘mayaṃ sīsakaṭāhapaliveṭhanacamme jātā’’ti. Aññamaññaṃ ābhogapaccavekkhaṇarahitā ete dhammā. Iti kesā nāma imasmiṃ sarīre pāṭiyekko koṭṭhāso acetano abyākato suñño nissatto thaddho pathavīdhātūtiādinā nayena nijjīvanissattabhāvaṃ pakāsentena. Pubbeti purimabuddhānaṃ santike. Madditasaṅkhāroti nāmarūpavavatthānena ceva paccayapariggahavasena ca ñāṇena parimadditasaṅkhāro. Bhāvitabhāvanoti kalāpasammasanādinā sabbaso kusalabhāvanāya pūraṇena bhāvitabhāvano.
“Hoặc bởi người làm cho rõ ràng trạng thái không có sự sống, không có chúng sanh”: tóc này được mọc trên lớp da bao bọc cái sọ. Ở đó, giống như đối với các ngọn cỏ kuntha mọc trên đỉnh của một cái gò mối, đỉnh gò mối không biết rằng: “các ngọn cỏ kuntha đang mọc trên ta,” và các ngọn cỏ kuntha cũng không biết rằng: “chúng ta đang mọc trên đỉnh gò mối.” Cũng vậy, lớp da bao bọc cái sọ không biết rằng: “tóc đang mọc trên ta,” và tóc cũng không biết rằng: “chúng ta đang mọc trên lớp da bao bọc cái sọ.” Các pháp này không có sự nhận biết lẫn nhau. Như vậy, (ý nghĩa là) bởi người trình bày trạng thái không có sự sống, không có chúng sanh theo phương pháp rằng: tóc này là một phần riêng biệt trong cơ thể này, không có tri giác, là pháp vô ký, trống rỗng, không có chúng sanh, cứng đơ, là địa đại v.v… (Từ) “trước đây”: ở gần các đức Phật trong quá khứ. (Người) “có các hành đã được chế ngự”: người có các hành đã được chế ngự một cách tốt đẹp bằng trí tuệ theo cách phân tích danh và sắc và theo cách nắm bắt các duyên. (Người) “có sự tu tập đã được tu tập”: người có sự tu tập đã được tu tập bằng cách hoàn thiện sự tu tập các pháp thiện một cách toàn diện bằng các phương pháp như quán xét theo nhóm v.v…

Adinnaṃna vaṭṭatīti ettha pabbajjā na ruhatīti vadanti. Anuññātaupasampadāti ñatticatutthakammena anuññātaupasampadā. Ṭhānakaraṇasampadanti ettha urādīni ṭhānāni, saṃvutādīni karaṇānīti veditabbāni. Anunāsikantaṃ katvā dānakāle antarā vicchedaṃ akatvā dātabbānīti dassetuṃ ‘‘ekasambandhānī’’ti vuttaṃ. Vicchinditvāti ma-kārantaṃ katvā dānasamaye vicchedaṃ katvā. Sabbamassa kappiyākappiyaṃ ācikkhitabbanti dasasikkhāpadavinimuttaṃ parāmāsāparāmāsādibhedaṃ kappiyākappiyaṃ ācikkhitabbaṃ. Ābhisamācārikesu vinetabboti iminā sekhiyaupajjhāyavattādiābhisamācārikasīlamanena pūretabbaṃ, tattha ca kattabbassa akaraṇe akattabbassa ca karaṇe daṇḍakammāraho hotīti dīpeti.
“Không được phép (cho xuất gia) nếu không được cho phép”: ở đây, người ta nói rằng sự xuất gia không thành tựu. “Cụ túc giới đã được cho phép”: cụ túc giới đã được cho phép bằng tăng sự một lần bạch và ba lần yết-ma. “Sự thành tựu về các vị trí và cách phát âm”: ở đây, cần được hiểu rằng các vị trí là ngực v.v., và các cách phát âm là sự khép lại v.v… Để trình bày rằng cần phải đọc thành một âm mũi và không được ngắt quãng ở giữa trong khi đọc, đã được nói là “thành một chuỗi liên tục.” “Bằng cách ngắt quãng”: bằng cách đọc thành một âm m và ngắt quãng trong khi đọc. “Tất cả những điều được phép và không được phép của vị ấy cần được chỉ dạy”: những điều được phép và không được phép có sự phân biệt như được chạm vào, không được chạm vào v.v., ngoài mười học giới, cần được chỉ dạy. “Cần được rèn luyện trong các giới hạnh cho người mới tu”: bằng điều này, (kinh) cho thấy rằng giới hạnh cho người mới tu, bao gồm các học giới và các phận sự đối với thầy tế độ, cần được người này hoàn thiện, và ở đó, nếu không làm điều cần làm và làm điều không được làm, người ấy sẽ đáng bị phạt.

Pabbajjūpasampadākathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Xuất Gia Và Cụ Túc Giới đã kết thúc.

Dutiyamārakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Thứ Hai Về Māra

35.Atha kho bhagavā vassaṃvuṭṭhotiādikāya pana pāḷiyā ayaṃ apubbapadavaṇṇanā. Yonisomanasikārāti upāyamanasikārena, aniccādīsu aniccādito manasikaraṇenāti attho. Yoniso sammappadhānāti upāyavīriyena, anuppannākusalānuppādanādividhinā pavattavīriyenāti attho. Vimuttīti ukkaṭṭhaniddesena arahattaphalavimutti vuttā. Ajjhabhāsīti ‘‘ayaṃ attanā vīriyaṃ katvā arahattaṃ patvāpi na tussati, idāni aññesampi ‘pāpuṇāthā’ti ussāhaṃ karoti, paṭibāhessāmi na’’nti cintetvā abhāsi. Mārapāsenāti kilesapāsena. Sesamettha vuttanayameva.
35. Bây giờ, đây là phần diễn giải các từ chưa được giải thích trong bản Pāḷi bắt đầu bằng “Khi ấy, đức Thế Tôn, sau khi đã an cư mùa mưa.” (Do) “tác ý như lý”: do tác ý bằng phương pháp, ý nghĩa là do sự tác ý đối với các pháp vô thường v.v. theo cách là vô thường v.v… “Chánh tinh tấn một cách như lý”: do sự tinh tấn bằng phương pháp, ý nghĩa là do sự tinh tấn đã được vận dụng theo phương pháp không cho các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi v.v… (Sự) “giải thoát”: bằng cách chỉ định điều cao nhất, sự giải thoát bằng quả A-la-hán đã được nói đến. (Māra) “đã nói”: nó đã nghĩ rằng: “người này, sau khi đã tự mình nỗ lực và đắc quả A-la-hán, vẫn không hài lòng; bây giờ lại còn khuyến khích những người khác rằng: ‘các ông hãy đạt được.’ Ta sẽ ngăn cản ông ta,” và đã nói. (Bởi) “tròng của Māra”: bởi tròng của phiền não. Phần còn lại ở đây có phương pháp đã được nói.

Dutiyamārakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Thứ Hai Về Māra đã kết thúc.

Bhaddavaggiyakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Của Nhóm Bhaddavaggiya

36. Tiṃsabhaddavaggiyavatthumhi yathābhirantaṃ viharitvāti yathāajjhāsayaṃ viharitvā. Buddhānañhi ekasmiṃ ṭhāne vasantānaṃ chāyūdakādīnaṃ vipattiṃ vā aphāsukasenāsanaṃ vā manussānaṃ assaddhādibhāvaṃ vā āgamma anabhirati nāma natthi, tesaṃ sampattiyā ‘‘idha phāsuṃ viharāmā’’ti abhiramitvā ciravihāropi natthi. Yattha pana tathāgate viharante sattā saraṇesu vā tīsu patiṭṭhahanti, sīlāni vā samādiyanti, pabbajanti vā, sotāpattimaggādīnaṃ vā paresaṃ upanissayo hoti, tattha buddhā satte tāsu sampattīsu patiṭṭhāpanaajjhāsayena vasanti, tāsaṃ abhāve pakkamanti. Tena vuttaṃ ‘‘yathāajjhāsayaṃ viharitvā’’ti. Ajjhogāhetvāti pavisitvā. Tiṃsamattāti tiṃsapamāṇā. Sesamettha vuttanayameva.
36. Trong câu chuyện về ba mươi vị thuộc nhóm Bhaddavaggiya, (câu) “sau khi đã an trú theo ý thích” có nghĩa là sau khi đã an trú theo ý định. Thật vậy, đối với các đức Phật khi đang ở một nơi nào đó, không có chuyện không hoan hỷ do sự thiếu thốn về bóng mát, nước uống v.v., hoặc do trú xứ không thoải mái, hoặc do sự không có đức tin v.v. của con người. Và cũng không có chuyện ở lại lâu do hoan hỷ rằng: “chúng ta hãy ở đây một cách thoải mái” vì có được những điều đó. Nhưng ở nơi nào mà khi đức Như Lai đang an trú, chúng sanh được an trú trong ba nơi quy y, hoặc thọ trì các giới luật, hoặc xuất gia, hoặc có duyên hỗ trợ cho việc đắc các quả như Tu-đà-hoàn v.v., ở đó các đức Phật sẽ ở lại với ý định thiết lập chúng sanh trong các sự thành tựu đó. Khi không còn những điều đó, các ngài sẽ ra đi. Do đó đã được nói: “sau khi đã an trú theo ý định.” (Từ) “sau khi đã đi vào”: sau khi đã bước vào. (Khoảng) “ba mươi người”: có số lượng là ba mươi. Phần còn lại ở đây có phương pháp đã được nói.

Bhaddavaggiyakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Của Nhóm Bhaddavaggiya đã kết thúc.

Uruvelapāṭihāriyakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Các Phép Thần Thông ở Uruvelā

37-38. Uruvelakassapavatthumhi jaṭiloti jaṭādharo. Jaṭā assa atthīti hi jaṭilo. Netīti nāyako, sāmaṃ vineti attano laddhiṃ sikkhāpetīti vināyako. Sace te kassapa agarūti kassapa sace tuyhaṃ bhāriyaṃ aphāsukaṃ kiñci natthi. Agyāgāreti aggisālāyaṃ. Ubhinnaṃ sajotibhūtānanti ubhosu sajotibhūtesu pajjalitesu. Yatra hi nāmāti yo nāma.
37-38. Trong câu chuyện về Uruvelā Kassapa, (từ) “jaṭilo”: người có tóc bện. Thật vậy, người có tóc bện (jaṭā) là jaṭilo. Người dẫn dắt là nāyako (nhà lãnh đạo); người tự mình rèn luyện, dạy dỗ học thuyết của mình là vināyako (nhà giáo huấn). “Này Kassapa, nếu điều đó không phiền cho ông”: này Kassapa, nếu ông không có điều gì nặng nhọc hay khó chịu. (Trong) “nhà lửa”: trong am lửa. “Khi cả hai đều đang cháy sáng”: khi cả hai đều đang cháy sáng, đang rực lửa. “Người nào mà”: người nào.

39.Ajjaṇhoti ajja ekadivasaṃ. Aggisālamhīti agyāgāre. Sumanamanasoti sundaracittasaṅkhātamano. Tejodhātūsu kusaloti tejokasiṇasamāpattīsu kusalo. Udicchareti ullokesuṃ, parivāresunti vā attho. Pattamhi odahitvāti patte pakkhipitvā. Dhuvabhattenāti niccabhattena.
39. (Từ) “Ajjaṇho”: hôm nay một ngày. (Trong) “am lửa”: trong nhà lửa. (Với) “tâm hoan hỷ”: tâm được gọi là một cái tâm tốt đẹp. (Người) “tài giỏi về hỏa đại”: người tài giỏi về các định chứng kasina lửa. (Họ) “nhìn lên”: họ đã nhìn lên, hoặc có nghĩa là họ đã vây quanh. “Sau khi đã đặt vào trong bát”: sau khi đã bỏ vào trong bát. (Với) “vật thực thường xuyên”: với vật thực hằng ngày.

40.Abhikkantāya rattiyāti ettha abhikkanta-saddo khaye vattati, tena parikkhīṇāyarattiyāti attho. Ete hi cattāro mahārājāno majjhimayāmasamanantare āgatā. Niyāmo kiresa devatānaṃ, yadidaṃ buddhānaṃ vā buddhasāvakānaṃ vā upaṭṭhānaṃ āgacchantā majjhimayāmasamanantare āgacchanti. Abhikkantavaṇṇāti abhirūpachavivaṇṇā, iṭṭhavaṇṇā manāpavaṇṇāti vuttaṃ hoti. Devatā hi manussalokaṃ āgacchamānā pakativaṇṇaṃ pakatiiddhiṃ jahitvā oḷārikaṃ attabhāvaṃ katvā atirekavaṇṇavatthālaṅkārakāyādīhi obhāsaṃ muñcamānādivasena ca dibbaṃ iddhānubhāvañca nimminitvā naṭasamajjādīni gacchantā manussā viya abhisaṅkhatena kāyena āgacchanti. Tattha kāmāvacarā anabhisaṅkhatenapi āgantuṃ sakkonti oḷārikarūpattā. Tathā hi te kabaḷīkārāhārabhakkhā, rūpāvacarā pana anabhisaṅkhatena kāyena āgantuṃ na sakkonti sukhumatararūpattā. Tesañhi atisukhumova attabhāvo, na tena iriyāpathakappanaṃ hoti. Tasmā brahmalokepi brahmāno yebhuyyena nimmitarūpeneva pavattanti. Mūlapaṭisandhirūpañhi nesaṃ ativiya sukhumamahārūpaṃ, kevalaṃ taṃ cittuppādassa nissayādhiṭṭhānabhūtaṃ saṇṭhānavantaṃ hutvā tiṭṭhati.
40. “Khi đêm đã tàn”: ở đây, từ abhikkanta– được dùng trong ý nghĩa là đã hao mòn, do đó có nghĩa là khi đêm đã gần hết. Thật vậy, bốn vị Đại Vương này đã đến ngay sau canh giữa. Tương truyền rằng, đây là quy luật của các vị chư thiên, đó là khi đến để hầu hạ các đức Phật hoặc các vị thinh văn của đức Phật, họ sẽ đến ngay sau canh giữa. (Với) “sắc đẹp tuyệt vời”: có màu da xinh đẹp, ý nói là có màu sắc đáng ưa, vừa ý. Thật vậy, các vị chư thiên, khi đến thế giới loài người, đã từ bỏ màu sắc tự nhiên và thần thông tự nhiên, đã tạo ra một thân hình thô hơn, và đã đến bằng một thân hình đã được tô điểm, giống như những người đi xem các buổi biểu diễn của các vũ công v.v., bằng cách tỏa ra ánh sáng từ thân hình có màu sắc, trang phục, và đồ trang sức vượt trội v.v., và bằng cách tạo ra oai lực thần thông của cõi trời. Ở đây, các vị trời ở cõi dục có thể đến ngay cả khi không cần tô điểm, do có sắc pháp thô hơn. Thật vậy, họ ăn các loại vật thực đoàn thực. Nhưng các vị trời ở cõi sắc thì không thể đến bằng một thân hình không được tô điểm, do có sắc pháp vi tế hơn. Thật vậy, thân hình của họ vô cùng vi tế, không thể dùng nó để tạo ra các oai nghi được. Do đó, ngay cả ở cõi Phạm thiên, các vị Phạm thiên phần lớn cũng hoạt động bằng một sắc pháp được tạo ra. Thật vậy, sắc pháp tái sanh ban đầu của họ là một sắc pháp vĩ đại vô cùng vi tế, nó chỉ tồn tại dưới một hình dạng làm nền tảng, làm chỗ dựa cho sự sanh khởi của tâm.

Kevalakappanti ettha kevala-saddassa anavasesattaṃ attho, kappa-saddassa samantabhāvo, tasmā kevalakappaṃ vanasaṇḍanti anavasesaṃ samantato vanasaṇḍanti attho. Anavasesaṃ pharituṃ samatthassapi hi obhāsassa kenaci kāraṇena ekadesapharaṇampi siyā, ayaṃ pana sabbaso pharatīti dassetuṃ samantattho kappa-saddo gahito. Atha vā īsaṃ asamatthaṃ kevalakappaṃ. Bhagavato pabhāya anobhāsitameva hi padesaṃ devatā attano pabhāya obhāsenti. Na hi bhagavato pabhā kāyaci pabhāya abhibhūyati, sūriyādīnampi pana pabhaṃ sā abhibhuyya tiṭṭhatīti. Obhāsetvāti vatthālaṅkārasarīrasamuṭṭhitāya ābhāya pharitvā, cando viya sūriyo viya ca ekobhāsaṃ ekapajjotaṃ karitvāti attho. Devatānañhi sarīrābhā dasadvādasayojanamattaṭṭhānaṃ tato bhiyyopi pharitvā tiṭṭhati, tathā vatthābharaṇādīsu samuṭṭhitā pabhā. Catuddisāti catūsu disāsu. Yatra hi nāmāti yaṃ nāma.
“Toàn bộ”: ở đây, từ kevala– có nghĩa là không còn sót lại, từ kappa– có nghĩa là khắp mọi nơi. Do đó, (câu) “toàn bộ lùm cây” có nghĩa là toàn bộ lùm cây ở khắp mọi nơi. Thật vậy, ngay cả ánh sáng có khả năng bao trùm toàn bộ cũng có thể chỉ bao trùm một phần do một lý do nào đó; nhưng để trình bày rằng ánh sáng này bao trùm tất cả, từ kappa- có nghĩa là khắp mọi nơi đã được dùng đến. Hoặc, kevalakappaṃ có nghĩa là hơi không có khả năng. Thật vậy, các vị chư thiên chỉ chiếu sáng một vùng không được chiếu sáng bởi ánh sáng của đức Thế Tôn bằng ánh sáng của mình. Vì không có ánh sáng nào có thể vượt qua được ánh sáng của đức Thế Tôn, mà chính ánh sáng của ngài còn đứng vững sau khi đã vượt qua cả ánh sáng của mặt trời v.v… (Từ) “sau khi đã chiếu sáng”: sau khi đã bao trùm bằng ánh sáng phát ra từ thân, trang phục, và đồ trang sức, có nghĩa là đã làm thành một vùng sáng, một vùng rực rỡ như mặt trăng hay như mặt trời. Thật vậy, ánh sáng từ thân của các vị chư thiên đứng vững và bao trùm một khu vực rộng khoảng mười đến mười hai do-tuần hoặc hơn thế nữa, tương tự như ánh sáng phát ra từ trang phục và đồ trang sức. (Ở) “bốn phương”: trong bốn phương. “Người nào mà”: người nào.

43.Aṅgamagadhāti ubho aṅgamagadharaṭṭhavāsino. Iddhipāṭihāriyanti iddhibhūtaṃ pāṭihāriyaṃ, na ādesanānusāsanīpāṭihāriyanti attho. Tividhañhi pāṭihāriyaṃ iddhipāṭihāriyaṃ ādesanāpāṭihāriyaṃ anusāsanīpāṭihāriyanti. Tattha ‘‘idha bhikkhu ekopi hutvā bahudhā hoti, bahudhāpi hutvā eko hoti āvibhāvaṃ tirobhāva’’ntiādinayappavattaṃ (dī. ni. 1.238-239; ma. ni. 1.147; saṃ. ni. 2.70; 5.834) iddhividhameva iddhipāṭihāriyaṃ. ‘‘Idha bhikkhu parasattānaṃ parapuggalānaṃ cittampi ādisati, cetasikampi ādisati, vitakkitampi ādisati, vicāritampi ādisati ‘evampi te mano, itthampi te mano’’’tiādinayappavattaṃ (paṭi. ma. 3.30) parassa cittaṃ ñatvā kathanaṃ ādesanāpāṭihāriyaṃ. ‘‘Idha bhikkhu evamanusāsati ‘evaṃ vitakketha, mā evaṃ vitakkayittha, evaṃ manasi karotha, mā evaṃ mānasā karittha, idaṃ pajahatha, idaṃ upasampajja viharathā’’’ti (paṭi. ma. 3.30) evamādinayappavattā sāvakānaṃ buddhānañca sabbakālaṃ desetabbadhammadesanā anusāsanīpāṭihāriyaṃ.
43. “Xứ Aṅga và Magadha”: những người sống ở cả hai xứ Aṅga và Magadha. “Thần thông”: phép lạ thuộc về thần thông, ý nghĩa là không phải phép lạ về sự đoán biết và sự giáo huấn. Thật vậy, có ba loại phép lạ là thần thông, phép lạ về sự đoán biết, và phép lạ về sự giáo huấn. Trong đó, thần thông có nhiều loại được vận dụng theo phương pháp bắt đầu bằng: “ở đây, Tỳ-khưu từ một người trở thành nhiều người, từ nhiều người trở thành một người, hiện ra, biến mất” (dī. ni. 1.238-239; ma. ni. 1.147; saṃ. ni. 2.70; 5.834) chính là thần thông. Việc biết và nói về tâm của người khác được vận dụng theo phương pháp bắt đầu bằng: “ở đây, Tỳ-khưu nói về tâm của các chúng sanh khác, của các người khác, nói về tâm sở, nói về tầm, nói về tứ: ‘tâm của ông là như thế này, tâm của ông là như thế kia’” (paṭi. ma. 3.30) là phép lạ về sự đoán biết. Bài thuyết pháp cần được thuyết giảng vào mọi lúc của các vị thinh văn và các đức Phật được vận dụng theo phương pháp bắt đầu bằng: “ở đây, Tỳ-khưu giáo huấn như sau: ‘hãy suy nghĩ như thế này, đừng suy nghĩ như thế kia; hãy tác ý như thế này, đừng tác ý như thế kia; hãy từ bỏ điều này, hãy đạt đến và an trú trong điều này’” (paṭi. ma. 3.30) là phép lạ về sự giáo huấn.

Tattha (udā. aṭṭha. 1) pāṭihāriyapadassa vacanatthaṃ paṭipakkhaharaṇato rāgādikilesāpanayanato pāṭihāriyanti vadanti. Bhagavato pana paṭipakkhā rāgādayo na santi ye haritabbā, puthujjanānampi vigatūpakkilese aṭṭhaguṇasamannāgate citte hatapaṭipakkhe iddhividhaṃ vattati, tasmā tattha pavattavohārena ca na sakkā idha pāṭihāriyanti vattuṃ. Sace pana mahākāruṇikassa bhagavato veneyyagatā ca kilesā paṭipakkhā, tesaṃ haraṇato pāṭihāriyanti vuttaṃ, evaṃ sati yuttametaṃ. Atha vā bhagavato ca sāsanassa ca paṭipakkhā titthiyā, tesaṃ haraṇato pāṭihāriyaṃ. Te hi diṭṭhiharaṇavasena diṭṭhippakāsane asamatthabhāvena ca iddhiādesanānusāsanīhi haritā apanītā hontīti. Paṭīti vā ayaṃ saddo pacchāti etassa atthaṃ bodheti ‘‘tasmiṃ paṭipaviṭṭhamhi, añño āgañchi brāhmaṇo’’tiādīsu (cūḷani. vatthugāthā 4) viya, tasmā samāhite citte vigatūpakkilesena katakiccena pacchā haritabbaṃ pavattetabbanti paṭihāriyaṃ, attano vā upakkilesesu catutthajjhānamaggehi haritesu pacchā haraṇaṃ paṭihāriyaṃ, iddhiādesanānusāsaniyo ca vigatūpakkilesena katakiccena sattahitatthaṃ puna pavattetabbā, haritesu ca attano upakkilesesu parasattānaṃ upakkilesaharaṇāni hontīti paṭihāriyāni bhavanti, paṭihāriyameva pāṭihāriyaṃ. Paṭihāriye vā iddhiādesanānusāsanīsamudāye bhavaṃ ekekaṃ pāṭihāriyanti vuccati. Paṭihāriyaṃ vā catutthajjhānaṃ maggo ca paṭipakkhaharaṇato, tattha jātaṃ nimittabhūte, tato vā āgatanti pāṭihāriyaṃ. Svātanāyāti sve dātabbassa atthāya.
Trong đó (udā. aṭṭha. 1), người ta nói rằng cách giải thích từ ngữ của từ pāṭihāriya là pāṭihāriya (phép lạ) do nó loại bỏ những điều đối nghịch, tức là loại bỏ các phiền não như ái dục v.v… Nhưng đức Thế Tôn không có các pháp đối nghịch như ái dục v.v. cần phải được loại bỏ. Ngay cả đối với các vị phàm phu, các loại thần thông cũng hoạt động trong một cái tâm đã được loại bỏ các phiền não, có được tám đức tính, và đã đánh bại các pháp đối nghịch. Do đó, không thể nói ở đây là phép lạ bằng cách dùng cách nói thông thường ở đó. Nhưng nếu nói rằng các phiền não thuộc về các chúng sanh có thể giáo hóa là các pháp đối nghịch của đức Thế Tôn đại bi, và do loại bỏ chúng nên được gọi là pāṭihāriya, thì nếu như vậy, điều này là hợp lý. Hoặc, các người theo ngoại đạo là những kẻ đối nghịch với đức Thế Tôn và giáo pháp, do loại bỏ họ nên là pāṭihāriya. Thật vậy, họ bị loại bỏ, bị đánh bại bằng thần thông, sự đoán biết, và sự giáo huấn, do sự loại bỏ tà kiến và do sự không có khả năng trình bày tà kiến. Hoặc, âm paṭī– này chỉ ý nghĩa là sau khi, giống như trong câu: “sau khi vị đó đã vào trong, một vị bà-la-môn khác đã đến” (cūḷani. vatthugāthā 4) v.v… Do đó, sau khi tâm đã được định, sau khi đã làm xong việc cần làm bằng cách loại bỏ các phiền não, việc cần được vận dụng, được thực hiện sau đó là phép lạ. Hoặc, sau khi các phiền não của chính mình đã được loại bỏ bằng đạo tứ thiền, việc loại bỏ sau đó là phép lạ. Và thần thông, sự đoán biết, và sự giáo huấn cần được vận dụng lại để làm lợi ích cho chúng sanh sau khi đã làm xong việc cần làm bằng cách loại bỏ các phiền não. Và sau khi các phiền não của chính mình đã được loại bỏ, chúng trở thành sự loại bỏ các phiền não của các chúng sanh khác, nên trở thành các phép lạ. Chính phép lạ là pāṭihāriya. Hoặc, mỗi một pháp trong tập hợp thần thông, sự đoán biết, và sự giáo huấn thuộc về phép lạ được gọi là pāṭihāriya. Hoặc, phép lạ là tứ thiền và đạo, do loại bỏ các pháp đối nghịch; phép lạ được sanh ra ở đó, là dấu hiệu, hoặc đến từ đó. (Để) “ngày mai”: vì mục đích của việc sẽ được cho vào ngày mai.

44.Paṃsukūlaṃuppannaṃ hotīti pariyesamānassa paṭilābhavasena uppannaṃ hoti. Vicittapāṭihāriyadassanatthāva sā pariyesanā. Yasmā pāṇinā phuṭṭhamatte sā pokkharaṇī nimmitā ahosi, tasmā vuttaṃ ‘‘pāṇinā pokkharaṇiṃ khaṇitvā’’ti.
44. “Một tấm y phấn tảo đã sanh khởi”: đã sanh khởi theo cách là có được do sự tìm kiếm. Và sự tìm kiếm đó chỉ là để cho thấy một phép thần thông kỳ diệu. Bởi vì ngay khi ngài chạm tay vào, hồ sen đó đã được tạo ra, do đó đã được nói: “sau khi đã đào một hồ sen bằng tay.”

46-49.Jaṭilāti tāpasā. Te hi jaṭādhāritāya idha ‘‘jaṭilā’’ti vuttā. Antaraṭṭhakāsu himapātasamayeti hemantassa utuno abbhantarabhūte māghamāsassa avasāne catasso, phagguṇamāsassa ādimhi catassoti evaṃ ubhinnamantare aṭṭharattīsu himapatanakāle. Nerañjarāya ummujjantīti keci tasmiṃ titthasammate udake paṭhamaṃ nimuggasakalasarīrā tato ummujjantā vuṭṭhahanti uppilavanti. Nimujjantīti sasīsaṃ udake osīdanti. Ummujjananimujjanampi karontīti punappunaṃ ummujjananimujjanānipi karonti. Tattha hi keci ‘‘ekummujjaneneva pāpasuddhi hotī’’ti evaṃdiṭṭhikā, te ummujjanameva katvā gacchanti. Ummujjanaṃ pana nimujjanamantarena natthīti avinābhāvato nimujjanampi te karontiyeva. Yepi ‘‘ekanimujjaneneva pāpasuddhi hotī’’ti evaṃdiṭṭhikā, tepi ekavārameva nimujjitvā vuttanayeneva avinābhāvato ummujjanampi katvā pakkamanti. Apare ‘‘punappunaṃ ummujjananimujjanāni katvā nahāte pāpasuddhi hotī’’ti evaṃdiṭṭhikā, te kālena kālaṃ ummujjananimujjanāni karonti. Te sabbepi sandhāya vuttaṃ ‘‘ummujjantipi nimujjantipi ummujjananimujjanampi karontī’’ti. Ettha ca kiñcāpi nimujjanapubbakaṃ ummujjanaṃ, nimujjanameva pana karontā katipayā, ummujjanaṃ tadubhayañca karontā bahūti tesaṃ yebhuyyabhāvadassanatthaṃ ummujjanaṃ paṭhamaṃ vuttaṃ.
46-49. (Các vị) “jaṭilā”: các vị tu sĩ khổ hạnh. Thật vậy, do họ có tóc bện nên ở đây được gọi là “jaṭilā.” “Trong khoảng thời gian tám ngày giữa mùa, vào lúc tuyết rơi”: vào lúc tuyết rơi trong tám đêm giữa hai tháng, tức là bốn đêm cuối của tháng Māgha và bốn đêm đầu của tháng Phagguṇa, là khoảng thời gian bên trong mùa đông. “Trồi lên ở sông Nerañjarā”: một số người, tại bến nước được xem là linh thiêng đó, trước tiên lặn toàn thân xuống rồi trồi lên, đứng dậy, nổi lên. “Lặn xuống”: họ chìm xuống nước cả đầu. “Cũng làm cả việc trồi lên và lặn xuống”: họ cũng làm cả việc trồi lên và lặn xuống nhiều lần. Thật vậy, ở đó, một số người có tà kiến rằng: “chỉ cần trồi lên một lần là tội lỗi được trong sạch,” họ chỉ làm việc trồi lên rồi ra đi. Nhưng việc trồi lên không thể có nếu không có việc lặn xuống, do đó họ cũng làm cả việc lặn xuống do sự không thể tách rời. Và những người có tà kiến rằng: “chỉ cần lặn xuống một lần là tội lỗi được trong sạch,” họ cũng chỉ lặn xuống một lần rồi ra đi sau khi đã làm cả việc trồi lên do sự không thể tách rời theo cách đã nói. Những người khác có tà kiến rằng: “sau khi đã làm cả việc trồi lên và lặn xuống nhiều lần rồi tắm, tội lỗi sẽ được trong sạch,” họ thỉnh thoảng làm cả việc trồi lên và lặn xuống. Nhắm đến tất cả họ, đã được nói: “cũng có những người trồi lên, cũng có những người lặn xuống, cũng có những người làm cả việc trồi lên và lặn xuống.” Và ở đây, mặc dù việc trồi lên có việc lặn xuống trước đó, nhưng những người chỉ làm việc lặn xuống thì có một số, còn những người làm việc trồi lên và cả hai thì có nhiều, để trình bày số lượng đông đảo của họ, việc trồi lên đã được nói đến trước tiên.

50-51.Udakavāhakoti udakogho. Reṇuhatāyāti rajogatāya, rajokiṇṇāyāti vuttaṃ hoti. Neva ca kho tvaṃ kassapa arahāti etena tadā kassapassa asekkhabhāvaṃ paṭikkhipati, nāpi arahattamaggasamāpannoti etena sekkhabhāvaṃ. Ubhayenapissa anariyabhāvameva dīpeti. Sāpi te paṭipadā natthi, yāya tvaṃ arahā vā assasi arahattamaggaṃ vā samāpannoti iminā panassa kalyāṇaputhujjanabhāvampi paṭikkhipati. Tattha paṭipadāti sīlavisuddhiādayo cha visuddhiyo. Paṭipajjati etāya ariyamaggoti paṭipadā. Assasīti bhaveyyāsi. Cirapaṭikāti cirakālato paṭṭhāya, nāgadamanato paṭṭhāyāti attho. Khārikājamissanti ettha khārīti araṇīkamaṇḍalusūciādayo tāpasaparikkhārā, taṃ haraṇakājaṃ khārikājaṃ. Aggihutamissanti dabbiādiaggipūjopakaraṇaṃ.
50-51. “Một dòng nước”: một trận lụt. (Bởi) “bụi”: bởi đất bụi, ý nói là bị bụi bao phủ. “Này Kassapa, ông chắc chắn không phải là một vị A-la-hán”: bằng điều này, ngài phủ nhận trạng thái vô học của Kassapa. “Cũng không phải là người đã nhập vào đạo A-la-hán”: bằng điều này, ngài phủ nhận trạng thái hữu học. Bằng cả hai, ngài cho thấy trạng thái không phải là bậc Thánh của ông ta. “Ông cũng không có con đường thực hành đó, mà nhờ nó ông có thể là một vị A-la-hán hoặc là người đã nhập vào đạo A-la-hán”: bằng điều này, ngài phủ nhận ngay cả trạng thái là một vị phàm phu thiện của ông ta. Ở đây, (từ) “con đường thực hành” là sáu loại thanh tịnh bắt đầu bằng giới thanh tịnh. Người ta thực hành trên nó để đến được Thánh đạo, nên là con đường thực hành. (Từ) “Assasi”: ông sẽ là. (Từ) “lâu nay”: kể từ một thời gian dài, ý nghĩa là kể từ khi khuất phục con rồng. “Của cây gậy và bó”: ở đây, khārī là các vật dụng của tu sĩ khổ hạnh như que đánh lửa, bình nước, kim v.v.; cây gậy để mang nó là khārikājaṃ. “Của việc cúng dường lửa”: các dụng cụ cúng dường lửa như muỗng v.v…

52-53.Upasaggoti upaddavo. Idāni aḍḍhuḍḍhāni pāṭihāriyasahassāni ekato gaṇetvā dassetuṃ ‘‘bhagavato adhiṭṭhānena pañca kaṭṭhasatāni na phāliyiṃsū’’tiādi āraddhaṃ. Nāgadamanādīni pana soḷasa pāṭihāriyāni idha na gaṇitāni, tehi saddhiṃ soḷasātirekaaḍḍhuḍḍhapāṭihāriyasahassānīti veditabbaṃ.
52-53. (Từ) “tai ương”: sự nguy hại. Bây giờ, để trình bày bằng cách gộp chung hai nghìn rưỡi phép thần thông lại, (kinh) đã được bắt đầu bằng (câu) “do sự chú nguyện của đức Thế Tôn, năm trăm khúc củi đã không bị chẻ ra.” Nhưng mười sáu phép thần thông như việc khuất phục con rồng v.v. không được tính ở đây. Cần được hiểu rằng cùng với chúng là hai nghìn rưỡi và mười sáu phép thần thông.

Ādittapariyāyasuttavaṇṇanā
Diễn Giải Về Kinh Bảy Lửa

54. Idāni tassa bhikkhusahassassa ādittapariyāyadesanāya arahattappattiṃ dassetuṃ ‘‘atha khobhagavā’’tiādi āraddhaṃ. Tattha gayāyaṃ viharati gayāsīseti gayānāmikāya nadiyā avidūre bhavattā gāmo gayā nāma, tassaṃ gayāyaṃ viharati. Samīpatthe cetaṃ bhummavacanaṃ. Gayāgāmassa hi avidūre gayāti ekā pokkharaṇīpi atthi nadīpi gayāsīsanāmako hatthikumbhasadiso piṭṭhipāsāṇopi. Yattha bhikkhusahassassa okāso pahoti, bhagavā tattha viharati. Tena vuttaṃ ‘‘gayāsīse’’ti, gayāgāmassa āsanne gayāsīsanāmake piṭṭhipāsāṇe viharatīti vuttaṃ hoti. Bhikkhū āmantesīti tesaṃ sappāyadhammadesanaṃ vicinitvā taṃ desessāmīti āmantesi. Bhagavā hi taṃ iddhimayapattacīvaradharaṃ samaṇasahassaṃ ādāya gayāsīsaṃ gantvā tena parivārito nisīditvā ‘‘katarā nu kho etesaṃ dhammakathā sappāyā’’ti cintento ‘‘ime sāyaṃ pātaṃ aggiṃ paricaranti, imesaṃ dvādasāyatanāni ādittāni sampajjalitāni viya katvā dassessāmi, evaṃ ime arahattaṃ pāpuṇituṃ sakkhissantī’’ti sanniṭṭhānamakāsi. Atha nesaṃ tathā desetuṃ ‘‘sabbaṃ, bhikkhave, āditta’’ntiādinā imaṃ ādittapariyāyaṃ abhāsi.
54. Bây giờ, để trình bày sự đắc quả A-la-hán của một nghìn vị Tỳ-khưu đó qua bài thuyết giảng về bảy ngọn lửa, (kinh) đã được bắt đầu bằng (câu) “Khi ấy, đức Thế Tôn.” Trong đó, (câu) “ngài an trú tại Gayā, ở Gayāsīsa”: do ở không xa con sông tên là Gayā, nên ngôi làng có tên là Gayā; ngài an trú tại Gayā đó. Và đây là cách dùng địa phương cách trong ý nghĩa ở gần. Thật vậy, không xa làng Gayā, có một hồ sen cũng tên là Gayā, một con sông, và một tảng đá phẳng tên là Gayāsīsa giống như cái bướu của con voi. Nơi mà có đủ chỗ cho một nghìn vị Tỳ-khưu, đức Thế Tôn đã an trú ở đó. Do đó đã được nói: “tại Gayāsīsa,” ý nói là ngài an trú trên tảng đá phẳng tên là Gayāsīsa, gần làng Gayā. (Ngài) “đã gọi các vị Tỳ-khưu”: sau khi đã suy xét về một bài pháp thoại thích hợp cho họ, ngài đã gọi họ với ý định: “ta sẽ thuyết giảng bài pháp đó.” Thật vậy, đức Thế Tôn, sau khi đã dẫn một nghìn vị sa-môn có y bát do thần thông đó đến Gayāsīsa, đã ngồi xuống và được họ vây quanh, rồi đã suy nghĩ rằng: “bài pháp thoại nào là thích hợp cho những người này?” và đã quyết định rằng: “những người này sớm tối đều cúng dường lửa, ta sẽ trình bày cho họ thấy mười hai xứ giống như đang bốc cháy, đang rực lửa; như vậy, họ sẽ có thể đạt được quả A-la-hán.” Khi ấy, để thuyết giảng cho họ như vậy, ngài đã nói bài thuyết giảng về bảy ngọn lửa này, bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, tất cả đều đang bốc cháy.”

Tattha (saṃ. ni. aṭṭha. 3.4.23) sabbaṃ nāma catubbidhaṃ sabbasabbaṃ āyatanasabbaṃ sakkāyasabbaṃ padesasabbanti. Tattha –
Trong đó (saṃ. ni. aṭṭha. 3.4.23), từ “tất cả” có bốn loại là tất cả tuyệt đối, tất cả các xứ, tất cả tự thân, và tất cả một phần. Trong đó –

‘‘Na tassa addiṭṭhamidhatthi kiñci;
Atho aviññātamajānitabbaṃ;
Sabbaṃ abhiññāsi yadatthi neyyaṃ;
Tathāgato tena samantacakkhū’’ti (mahāni. 156; cūḷani. dhotakamāṇavapucchāniddesa 32; paṭi. ma. 1.121) –
“Không có gì ở đây mà ngài chưa thấy;
Cũng không có gì không được biết, không thể biết;
Ngài đã biết rõ tất cả những gì cần biết;
Do đó, Như Lai là bậc có mắt toàn diện.” (mahāni. 156; cūḷani. dhotakamāṇavapucchāniddesa 32; paṭi. ma. 1.121) –

Idaṃ sabbasabbaṃ nāma. ‘‘Sabbaṃ vo, bhikkhave, desessāmi, taṃ suṇāthā’’ti (saṃ. ni. 4.23) idaṃ āyatanasabbaṃ nāma. ‘‘Sabbadhammamūlapariyāyaṃ vo, bhikkhave, desessāmī’’ti (ma. ni. 1.1) idaṃ sakkāyasabbaṃ nāma. ‘‘Sabbadhammesu vā paṭhamasamannāhāro uppajjati cittaṃ mano mānasaṃ tajjā manoviññāṇadhātū’’ti idaṃ padesasabbaṃ nāma. Iti pañcārammaṇamattaṃ padesasabbaṃ, tebhūmakā dhammā sakkāyasabbaṃ, catubhūmakā dhammā āyatanasabbaṃ, yaṃ kiñci neyyaṃ sabbasabbaṃ. Padesasabbaṃ sakkāyasabbaṃ na pāpuṇāti tassa tebhūmakadhammesupi ekadesassa asaṅgaṇhanato. Sakkāyasabbaṃ āyatanasabbaṃ na pāpuṇāti lokuttaradhammānaṃ asaṅgaṇhanato. Āyatanasabbaṃ sabbasabbaṃ na pāpuṇāti. Kasmā? Yasmā āyatanasabbena catubhūmakadhammāva pariggahitā , na lakkhaṇapaññattiyoti. Imasmiṃ pana sutte āyatanasabbaṃ adhippetaṃ, tatthāpi idha vipassanupagadhammāva gahetabbā.
Đây được gọi là tất cả tuyệt đối. “Này các Tỳ-khưu, ta sẽ thuyết giảng cho các ông về tất cả, các ông hãy lắng nghe” (saṃ. ni. 4.23), đây được gọi là tất cả các xứ. “Này các Tỳ-khưu, ta sẽ thuyết giảng cho các ông về bài kinh cội rễ của tất cả các pháp” (ma. ni. 1.1), đây được gọi là tất cả tự thân. “Hoặc trong tất cả các pháp, sự tác ý đầu tiên sanh khởi là tâm, là ý, là thức, và từ đó là ý thức giới,” đây được gọi là tất cả một phần. Như vậy, chỉ năm đối tượng là tất cả một phần; các pháp trong ba cõi là tất cả tự thân; các pháp trong bốn cõi là tất cả các xứ; bất cứ điều gì cần biết là tất cả tuyệt đối. Tất cả một phần không đạt đến tất cả tự thân, do nó không bao hàm cả một phần trong các pháp thuộc ba cõi. Tất cả tự thân không đạt đến tất cả các xứ, do không bao hàm các pháp siêu thế. Tất cả các xứ không đạt đến tất cả tuyệt đối. Tại sao? Bởi vì tất cả các xứ chỉ bao gồm các pháp trong bốn cõi, không phải là các tướng trạng và các khái niệm. Nhưng trong bài kinh này, được hiểu là tất cả các xứ, và trong đó cũng chỉ nên lấy các pháp thuộc về tuệ quán.

Cakkhūti (dha. sa. aṭṭha. 596; saṃ. ni. aṭṭha. 3.4.1) dve cakkhūni ñāṇacakkhu ceva maṃsacakkhu ca. Tattha ñāṇacakkhu pañcavidhaṃ buddhacakkhu dhammacakkhu samantacakkhu dibbacakkhu paññācakkhūti. Tesu buddhacakkhu nāma āsayānusayañāṇañceva indriyaparopariyattañāṇañca, yaṃ ‘‘buddhacakkhunā lokaṃ volokento’’ti (dī. ni. 2.69; ma. ni. 1.283) āgataṃ. Dhammacakkhu nāma heṭṭhimā tayo maggā tīṇi ca phalāni, yaṃ ‘‘virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādī’’ti (dī. ni. 1.355; saṃ. ni. 5.1081) āgataṃ. Samantacakkhu nāma sabbaññutaññāṇaṃ, yaṃ ‘‘pāsādamāruyha samantacakkhū’’ti (dī. ni. 2.70; ma. ni. 1.282) āgataṃ. Dibbacakkhu nāma ālokavaḍḍhanena uppannañāṇaṃ, yaṃ ‘‘dibbena cakkhunā visuddhenā’’ti (ma. ni. 1.148, 284) āgataṃ. Paññācakkhu nāma catusaccaparicchedakañāṇaṃ, yaṃ ‘‘cakkhuṃ udapādī’’ti (saṃ. ni. 5.1081; mahāva. 15) āgataṃ. Maṃsacakkhupi duvidhaṃ sasambhāracakkhu pasādacakkhūti. Tesu yvāyaṃ akkhikūpake akkhipaṭalehi parivārito maṃsapiṇḍo, yattha catasso dhātuyo vaṇṇagandharasojā sambhavo jīvitaṃ bhāvo cakkhuppasādo kāyappasādoti saṅkhepato terasa sambhārā honti, vitthārato pana catasso dhātuyo vaṇṇagandharasojā sambhavoti ime nava catusamuṭṭhānavasena chattiṃsa, jīvitaṃ bhāvo cakkhuppasādo kāyappasādoti ime kammasamuṭṭhānā tāva cattāroti cattālīsa sambhārā honti, idaṃ sasambhāracakkhu nāma. Yaṃ panettha setamaṇḍalaparicchinnena kaṇhamaṇḍalena parivārite diṭṭhimaṇḍale sanniviṭṭhaṃ rūpadassanasamatthaṃ pasādamattaṃ, idaṃ pasādacakkhu nāma. Tassa tato paresañca sotādīnaṃ vitthārakathā visuddhimagge (visuddhi. 2.436) vuttāva.
(Từ) “con mắt” (dha. sa. aṭṭha. 596; saṃ. ni. aṭṭha. 3.4.1): có hai loại mắt là mắt trí tuệ và mắt thịt. Trong đó, mắt trí tuệ có năm loại là Phật nhãn, pháp nhãn, toàn nhãn, thiên nhãn, và tuệ nhãn. Trong số đó, Phật nhãn là trí tuệ về khuynh hướng và tùy miên và trí tuệ về các căn của chúng sanh, đã được đề cập trong câu “nhìn thế gian bằng Phật nhãn” (dī. ni. 2.69; ma. ni. 1.283). Pháp nhãn là ba đạo thấp hơn và ba quả, đã được đề cập trong câu “pháp nhãn không còn bụi bặm, không còn cấu uế đã sanh khởi” (dī. ni. 1.355; saṃ. ni. 5.1081). Toàn nhãn là toàn giác tuệ, đã được đề cập trong câu “leo lên lâu đài, hỡi bậc có mắt toàn diện” (dī. ni. 2.70; ma. ni. 1.282). Thiên nhãn là trí tuệ sanh khởi do sự phát triển của ánh sáng, đã được đề cập trong câu “bằng thiên nhãn thanh tịnh” (ma. ni. 1.148, 284). Tuệ nhãn là trí tuệ phân định bốn chân lý, đã được đề cập trong câu “con mắt đã sanh khởi” (saṃ. ni. 5.1081; mahāva. 15). Mắt thịt cũng có hai loại là mắt có các thành phần và mắt tịnh sắc. Trong đó, khối thịt được bao bọc bởi các mí mắt trong hốc mắt, nơi có bốn đại, màu sắc, mùi, vị, dưỡng chất, sự sống, tính, nhãn tịnh sắc, và thân tịnh sắc, tóm lại là có mười ba thành phần; còn chi tiết thì có chín (pháp) là bốn đại, màu sắc, mùi, vị, dưỡng chất, và sự sống, theo bốn nguồn gốc là ba mươi sáu; và bốn (pháp) là sự sống, tính, nhãn tịnh sắc, và thân tịnh sắc, là do nghiệp sanh, như vậy là có bốn mươi thành phần. Đây được gọi là mắt có các thành phần. Ở đây, phần tịnh sắc có khả năng thấy được sắc, nằm trong con ngươi, được bao bọc bởi tròng đen, và được giới hạn bởi tròng trắng, đây được gọi là mắt tịnh sắc. Phần giải thích chi tiết về nó và về các căn còn lại như tai v.v. đã được nói trong sách Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 2.436).

Tattha yadidaṃ pasādacakkhu, tañca gahetvā bhagavā ‘‘cakkhu āditta’’ntiādimāha. Tattha ādittanti padittaṃ, sampajjalitaṃ ekādasahi aggīhi ekajālībhūtanti attho. Cakkhusannissitaṃ viññāṇaṃ cakkhuviññāṇaṃ, cakkhussa vā kāraṇabhūtassa viññāṇaṃ cakkhuviññāṇaṃ. Kāmaṃ rūpālokamanasikārādayopi tassa viññāṇassa kāraṇaṃ, te pana sādhāraṇakāraṇaṃ, cakkhu asādhāraṇanti asādhāraṇakāraṇenāyaṃ niddeso yathā ‘‘yavaṅkuro’’ti. Sotaviññāṇādīsupi eseva nayo. Cakkhusannissito phasso cakkhusamphasso, cakkhuviññāṇasampayuttaphassassetaṃ adhivacanaṃ. Sotasamphassādīsupi eseva nayo. Cakkhusamphassapaccayā uppajjativedayitanti cakkhusamphassaṃ mūlapaccayaṃ katvā uppannā sampaṭicchanasantīraṇavoṭṭhabbanajavanavedanā. Cakkhuviññāṇasampayuttāya pana vedanāya cakkhusamphassassa paccayabhāve vattabbameva natthi. Cakkhusamphasso hi sahajātāya vedanāya sahajātādivasena, asahajātāya upanissayādivasena paccayo hoti. Teneva ‘‘cakkhusamphassapaccayā uppajjati vedayitaṃ sukhaṃ vā dukkhaṃ vā adukkhamasukhaṃ vā’’ti vuttaṃ. Sotadvāravedanādīsupi eseva nayo. Ettha pana manoti bhavaṅgacittaṃ manodvārassa adhippetattā. Dhammāti dhammārammaṇaṃ. Manoviññāṇanti sahāvajjanakaṃ javanaṃ. Manosamphassoti bhavaṅgasahajāto phasso. Vedayitanti āvajjanavedanāya saddhiṃ javanavedanā. Bhavaṅgasampayuttāya pana vedanāya gahaṇe vattabbameva natthi. Āvajjanaṃ vā bhavaṅgato amocetvā manoti sāvajjanaṃ bhavaṅgaṃ daṭṭhabbaṃ. Dhammāti dhammārammaṇameva. Manoviññāṇanti javanaviññāṇaṃ. Manosamphassoti bhavaṅgāvajjanasahajāto phasso. Vedayitanti javanasahajātā vedanā, bhavaṅgāvajjanasahajātāpi vaṭṭatiyeva.
Ở đây, chính mắt tịnh sắc đó, sau khi đã lấy nó, đức Thế Tôn đã nói câu bắt đầu bằng “mắt đang bốc cháy.” Trong đó, (từ) “đang bốc cháy” có nghĩa là đang cháy, đang rực lửa, đã trở thành một ngọn lửa duy nhất với mười một ngọn lửa. Thức nương vào mắt là nhãn thức; hoặc thức của mắt vốn là nhân là nhãn thức. Mặc dù sắc, ánh sáng, sự tác ý v.v. cũng là nhân của thức đó, nhưng chúng là nhân chung; còn mắt là nhân không chung, nên đây là cách chỉ định theo nhân không chung, giống như “mầm lúa mạch.” Trong các pháp bắt đầu bằng nhĩ thức cũng có cùng phương pháp này. Xúc nương vào mắt là nhãn xúc; đây là tên gọi của xúc tương ưng với nhãn thức. Trong các pháp bắt đầu bằng nhĩ xúc cũng có cùng phương pháp này. (Cảm thọ) “sanh khởi do nhãn xúc làm duyên”: các thọ tiếp nhận, suy đạc, quyết định, và tốc hành tâm đã sanh khởi do lấy nhãn xúc làm nhân căn bản. Nhưng không cần phải nói đến trạng thái làm duyên của nhãn xúc đối với thọ tương ưng với nhãn thức. Thật vậy, nhãn xúc là duyên cho thọ đồng sanh theo các cách như đồng sanh v.v., và là duyên cho thọ không đồng sanh theo các cách như y chỉ v.v… Chính vì thế đã được nói: “do nhãn xúc làm duyên, sanh khởi cảm thọ hoặc lạc, hoặc khổ, hoặc bất khổ bất lạc.” Trong các pháp bắt đầu bằng thọ ở nhĩ môn cũng có cùng phương pháp này. Nhưng ở đây, (từ) “ý” được hiểu là tâm hữu phần do ý môn được chủ đích. (Từ) “các pháp” là đối tượng pháp. (Từ) “ý thức” là tốc hành tâm cùng với sự hướng tâm. (Từ) “ý xúc” là xúc đồng sanh với tâm hữu phần. (Từ) “cảm thọ” là thọ tốc hành tâm cùng với thọ hướng tâm. Nhưng không cần phải nói đến việc bao hàm cả thọ tương ưng với tâm hữu phần. Hoặc, không tách sự hướng tâm ra khỏi tâm hữu phần, (từ) “ý” cần được xem là tâm hữu phần cùng với sự hướng tâm. (Từ) “các pháp” chính là đối tượng pháp. (Từ) “ý thức” là thức tốc hành tâm. (Từ) “ý xúc” là xúc đồng sanh với tâm hữu phần và sự hướng tâm. (Từ) “cảm thọ” là thọ đồng sanh với tốc hành tâm, và thọ đồng sanh với tâm hữu phần và sự hướng tâm cũng được.

Rāgagginātiādīsu rāgova anudahanaṭṭhena aggīti rāgaggi. Rāgo hi tikhiṇaṃ hutvā uppajjamāno satte anudahati jhāpeti, tasmā ‘‘aggī’’ti vuccati. Itaresupi dvīsu eseva nayo. Tatrimāni vatthūni (dī. ni. aṭṭha. 3.305; vibha. aṭṭha. 924) – ekā daharabhikkhunī cittalapabbatavihāre uposathāgāraṃ gantvā dvārapālarūpaṃ olokayamānā ṭhitā. Athassā anto rāgo tikhiṇataro hutvā uppanno, tasmā taṃsamuṭṭhānā tejodhātu ativiya tikhiṇabhāvena saddhiṃ attanā sahajātadhammehi hadayapadesaṃ jhāpesi yathā taṃ bāhirā tejodhātu sannissayaṃ, tena sā bhikkhunī jhāyitvā kālamakāsi. Bhikkhuniyo gacchamānā ‘‘ayaṃ daharā ṭhitā, pakkosatha na’’nti āhaṃsu. Ekā gantvā ‘‘kasmā ṭhitāsī’’ti hatthe gaṇhi. Gahitamattā parivattitvā papatā. Idaṃ tāva rāgassa anudahanatāya vatthu.
(Bởi) “lửa tham” v.v., chính tham ái là lửa do có tính thiêu đốt, nên là lửa tham. Thật vậy, tham ái, khi sanh khởi một cách mãnh liệt, đã thiêu đốt, đã đốt cháy chúng sanh, do đó được gọi là “lửa.” Trong hai trường hợp còn lại cũng có cùng phương pháp này. Đây là các câu chuyện về điều đó (dī. ni. aṭṭha. 3.305; vibha. aṭṭha. 924) – một vị Tỳ-khưu ni trẻ tuổi, khi đến nhà bố-tát ở tu viện trên núi Cittala, đã đứng nhìn bức tượng người gác cửa. Khi ấy, tham ái đã sanh khởi một cách mãnh liệt hơn ở bên trong vị ấy. Do đó, hỏa đại phát sanh từ đó, cùng với các pháp đồng sanh với nó, đã thiêu đốt vùng tim một cách vô cùng mãnh liệt, giống như hỏa đại bên ngoài thiêu đốt nơi nương tựa của nó. Do đó, vị Tỳ-khưu ni đó đã bị thiêu cháy và qua đời. Các vị Tỳ-khưu ni khác, khi đang đi, đã nói: “vị trẻ tuổi này đang đứng, hãy gọi vị ấy.” Một vị đã đến và nắm tay hỏi: “tại sao lại đứng đây?” Ngay khi vừa nắm lấy, vị ấy đã quay lại và ngã xuống. Đây là câu chuyện về tính thiêu đốt của tham ái.

Dosassa pana anudahanatāya manopadosikā devā daṭṭhabbā. Tesu (dī. ni. aṭṭha. 1.47-48) kira eko devaputto ‘‘nakkhattaṃ kīḷissāmī’’ti saparivāro rathena vīthiṃ paṭipajjati. Athañño nikkhamanto taṃ purato gacchantaṃ disvā ‘‘bho ayaṃ kapaṇo adiṭṭhapubbaṃ viya etaṃ disvā pītiyā uddhumāto viya bhijjamāno viya ca gacchatī’’ti kujjhati. Purato gacchantopi nivattitvā taṃ kuddhaṃ disvā kuddhā nāma suvijānā hontīti kuddhabhāvamassa ñatvā ‘‘tvaṃ kuddho mayhaṃ kiṃ karissasi, ayaṃ sampatti mayā dānasīlādīnaṃ vasena laddhā, na tuyhaṃ vasenā’’ti paṭikujjhati. Ekasmiñhi kuddhe itaro akuddho rakkhati. Kuddhassa hi so kodho itarasmiṃ akujjhante anupādāno ekavārameva uppattiyā anāsevano cāvetuṃ na sakkoti, udakaṃ patvā aggi viya nibbāyati, tasmā akuddho taṃ cavanato rakkhati. Ubhosu pana kuddhesu ekassa kodho itarassa paccayo hoti, tassapi kodho itarassa paccayo hotīti ubho kandantānaṃyeva orodhānaṃ cavanti. Ubhosu hi kuddhesu bhiyyo bhiyyo aññamaññamhi parivaḍḍhanavasena tikhiṇasamudācāro nissayadahanaraso kodho uppajjamāno hadayavatthuṃ niddahanto accantasukhumālaṃ karajakāyaṃ vināseti, tato sakalopi attabhāvo antaradhāyati. Idaṃ dosassa anudahanatāya vatthu.
Còn về tính thiêu đốt của sân hận, cần xem xét các vị trời Manopadosikā. Tương truyền rằng (dī. ni. aṭṭha. 1.47-48), trong số họ, một vị thiên tử cùng với đoàn tùy tùng đi xe ngựa trên đường để vui chơi trong lễ hội. Khi ấy, một vị khác đi ra, thấy vị đó đi trước, đã nổi giận và nghĩ: “kẻ khốn khổ này, như thể chưa từng thấy điều này, đi đứng như thể đang phồng lên, như thể đang vỡ ra vì vui sướng.” Vị đi trước cũng quay lại, thấy vị kia nổi giận, và biết được trạng thái nổi giận của vị ấy vì những người nổi giận thì rất dễ nhận biết, đã nổi giận lại và nghĩ: “ngươi nổi giận thì làm gì được ta, tài sản này là do ta có được bằng bố thí, trì giới v.v., không phải do ngươi.” Thật vậy, khi một người nổi giận, người kia không nổi giận thì bảo vệ được. Vì sự tức giận của người nổi giận đó, khi người kia không nổi giận lại, sẽ không có nhiên liệu, và do chỉ sanh khởi một lần, không được nuôi dưỡng, nên không thể làm cho (người kia) chết được, nó sẽ bị dập tắt như lửa gặp nước. Do đó, người không nổi giận bảo vệ người kia khỏi cái chết. Nhưng khi cả hai cùng nổi giận, sự tức giận của người này trở thành duyên cho người kia, và sự tức giận của người kia cũng trở thành duyên cho người này, nên cả hai đều chết trong khi các thị nữ đang than khóc. Thật vậy, khi cả hai cùng nổi giận, sự tức giận có vị thiêu đốt nơi nương tựa, có hành động mãnh liệt do sự tăng trưởng lẫn nhau ngày càng nhiều, khi sanh khởi, đã thiêu rụi tâm vật chất và làm hoại diệt thân thể vô cùng mỏng manh, từ đó toàn bộ thân thể cũng biến mất. Đây là câu chuyện về tính thiêu đốt của sân hận.

Mohassa pana anudahanatāya khiḍḍāpadosikā devā daṭṭhabbā. Mohavasena hi tesaṃ satisammoso hoti, tasmā khiḍḍāvasena āhārakālaṃ ativattetvā kālaṃ karonti. Te (dī. ni. aṭṭha. 1.45-46) kira puññavisesādhigatena mahantena attano sirivibhavena nakkhattaṃ kīḷantā tāya sampattimahantatāya ‘‘āhāraṃ paribhuñjimha, na paribhuñjimhā’’tipi na jānanti. Atha ekāhārātikkamanato paṭṭhāya nirantaraṃ khādantāpi pivantāpi cavantiyeva na tiṭṭhanti. Kasmā? Kammajatejassa balavatāya. Manussānañhi kammajatejo mando, karajakāyo balavā. Tesaṃ tejassa mandatāya karajakāyassa balavatāya sattāhampi atikkamitvā uṇhodakaacchayāguādīhi sakkā vatthuṃ upatthambhetuṃ. Devānaṃ pana tejo balavā hoti uḷārapuññanibbattattā uḷāragarusiniddhasudhāhārajiraṇato ca, karajaṃ mandaṃ mudusukhumālabhāvato. Teneva hi bhagavā indasālaguhāyaṃ pakatipathaviyaṃ patiṭṭhātuṃ asakkontaṃ sakkaṃ devarājānaṃ ‘‘oḷārikakāyaṃ adhiṭṭhāhī’’ti āha, tasmā te ekaṃ āhāravelaṃ atikkamitvā saṇṭhātuṃ na sakkonti. Yathā nāma gimhānaṃ majjhanhike tattapāsāṇe ṭhapitaṃ padumaṃ vā uppalaṃ vā sāyanhasamaye ghaṭasatenapi siñciyamānaṃ pākatikaṃ na hoti vinassatiyeva, evameva pacchā nirantaraṃ khādantāpi pivantāpi cavantiyeva na tiṭṭhanti.
Còn về tính thiêu đốt của si mê, cần xem xét các vị trời Khiḍḍāpadosikā. Thật vậy, do si mê, họ bị mất trí nhớ, do đó họ bỏ qua giờ ăn do mải mê vui chơi và qua đời. Tương truyền rằng (dī. ni. aṭṭha. 1.45-46), họ, khi đang vui chơi trong lễ hội với sự giàu sang vĩ đại đã có được do phước báu đặc biệt, do sự vĩ đại của tài sản đó, đã không biết cả việc: “chúng ta đã ăn hay chưa ăn.” Khi ấy, kể từ khi bỏ lỡ một bữa ăn, dù có ăn uống liên tục, họ cũng chết chứ không sống được. Tại sao? Do sức mạnh của hỏa đại do nghiệp sanh. Thật vậy, hỏa đại do nghiệp sanh của loài người thì yếu, còn thân thể thì mạnh. Do hỏa đại của họ yếu và thân thể mạnh, nên dù có bỏ lỡ bảy ngày, cũng có thể duy trì được mạng sống bằng cháo loãng nóng v.v… Nhưng hỏa đại của các vị trời thì mạnh do được sanh ra từ phước báu lớn lao và do sự tiêu hóa của thức ăn ambrosia bổ dưỡng, béo ngậy; còn thân thể thì yếu do có trạng thái mềm mại, vi tế. Chính vì thế, đức Thế Tôn, tại hang Indasāla, đã nói với vua trời Sakka, người không thể đứng vững trên mặt đất thông thường, rằng: “hãy chú nguyện một thân hình thô hơn.” Do đó, họ không thể sống được sau khi đã bỏ lỡ một bữa ăn. Giống như một bông sen hay một bông súng được đặt trên một tảng đá nóng vào lúc giữa trưa mùa hè, đến chiều tối dù có được tưới bằng một trăm bình nước cũng không thể trở lại bình thường mà chắc chắn sẽ héo tàn. Cũng vậy, sau đó dù có ăn uống liên tục, họ cũng chết chứ không sống được.

Ko pana tesaṃ āhāro, kā āhāravelāti? Sabbesampi kāmāvacaradevānaṃ sudhā āhāro, so heṭṭhimehi heṭṭhimehi uparimānaṃ uparimānaṃ paṇītatamo hoti. Taṃ yathāsakaṃ divasavasena divase divase bhuñjanti. Keci pana ‘‘biḷārapadappamāṇaṃ sudhāhāraṃ bhuñjanti. So jivhāya ṭhapitamatto yāva kesagganakhaggā kāyaṃ pharati, tesaṃyeva divasavasena sattadivasaṃ yāpanasamatthova hotī’’ti vadanti.
Vậy, thức ăn của họ là gì, và giờ ăn là khi nào? Đối với tất cả các vị trời ở cõi dục, ambrosia là thức ăn; và thức ăn của các vị ở cõi trên thì cao cấp hơn của các vị ở cõi dưới. Họ ăn mỗi ngày theo ngày của mình. Nhưng một số vị nói rằng: “họ ăn một lượng ambrosia bằng dấu chân của một con mèo. Ngay khi được đặt trên lưỡi, nó lan tỏa khắp cơ thể cho đến ngọn tóc và đầu móng, và có thể duy trì sự sống trong bảy ngày theo ngày của họ.”

Ke pana te khiḍḍāpadosikā nāma devāti? Ime nāmāti aṭṭhakathāyaṃ vicāraṇā natthi, ‘‘kammajatejo balavā hoti, karajaṃ manda’’nti avisesena vuttattā pana ye keci kabaḷīkārāhārūpajīvino evaṃ karonti, te evaṃ cavantīti veditabbā. Keci panāhu ‘‘nimmānaratiparanimmitavasavattino te devā. Khiḍḍāya padussanamatteneva hete khiḍḍāpadosikāti vuttā’’ti. Manopadosikā pana cātumahārājikāti aṭṭhakathāyameva vuttaṃ. Keci pana ‘‘khiḍḍāpadosikāpi cātumahārājikāyevā’’ti vadanti. Evaṃ tāva rāgādayo tayo anudahanaṭṭhena ‘‘aggī’’ti veditabbā. Jātiādittayaṃ pana nānappakāradukkhavatthubhāvena anudahanato aggi. Sokādīnaṃ anudahanatā pākaṭāyeva. Sesamettha vuttanayameva. Iti imasmiṃ sutte dukkhalakkhaṇaṃ kathitaṃ cakkhādīnaṃ ekādasahi aggīhi ādittabhāvena dukkhamatāya dukkhabhāvassa kathitattā.
Vậy, các vị trời Khiḍḍāpadosikā đó là ai? Trong sách Chú Giải không có sự xem xét rằng: “họ là những người này.” Nhưng do đã được nói một cách không phân biệt rằng: “hỏa đại do nghiệp sanh thì mạnh, thân thể thì yếu,” nên cần được hiểu rằng bất cứ ai sống bằng đoàn thực mà làm như vậy, họ sẽ chết như vậy. Nhưng một số vị đã nói: “họ là các vị trời ở cõi Hóa Lạc Thiên và Tha Hóa Tự Tại. Họ được gọi là Khiḍḍāpadosikā chỉ do sự suy thoái do vui chơi.” Còn các vị trời Manopadosikā thì đã được nói ngay trong sách Chú Giải là ở cõi Tứ Đại Thiên Vương. Nhưng một số vị nói rằng: “các vị trời Khiḍḍāpadosikā cũng ở cõi Tứ Đại Thiên Vương.” Như vậy, trước tiên, cần được hiểu rằng ba pháp như tham ái v.v. là “lửa” do có tính thiêu đốt. Còn ba pháp là sanh v.v. là lửa do thiêu đốt bằng cách là nền tảng của nhiều loại khổ. Tính thiêu đốt của các pháp như sầu v.v. thì đã rõ ràng. Phần còn lại ở đây có phương pháp đã được nói. Như vậy, trong bài kinh này, tướng khổ đã được nói đến, do đã nói về trạng thái khổ, về tính chất khổ của các pháp như mắt v.v. do trạng thái bốc cháy bởi mười một ngọn lửa.

Ādittapariyāyasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Kinh Bảy Lửa đã kết thúc.

Uruvelapāṭihāriyakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Các Phép Thần Thông ở Uruvelā đã kết thúc.

Bimbisārasamāgamakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Gặp Gỡ Vua Bimbisāra

55. Idāni ‘‘atha kho bhagavā gayāsīse yathābhirantaṃ viharitvā’’tiādīsu yā sā anuttānapadavaṇṇanā, taṃ dassetuṃ ‘‘laṭṭhivaneti tāluyyāne’’tiādi āraddhaṃ. Tattha tāluyyāneti tālarukkhānaṃ bahubhāvato evaṃladdhanāme uyyāne. Appekacce yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvātiādīsu añjaliṃ paṇāmetvāti ye ubhatopakkhikā, te sandhāyetaṃ vuttaṃ. Te kira evaṃ cintayiṃsu ‘‘sace no micchādiṭṭhikā codessanti ‘kasmā tumhe samaṇaṃ gotamaṃ vanditthā’ti, tesaṃ ‘kiṃ añjalimattakaraṇenapi vanditaṃ hotī’ti vakkhāma. Sace no sammādiṭṭhikā codessanti ‘kasmā bhagavantaṃ na vanditthā’ti, ‘kiṃ sīsena bhūmiṃ paharanteneva vanditaṃ hoti, nanu añjalikammampi vandanā evā’ti vakkhāmā’’ti. Nāmagottaṃ sāvetvāti ‘‘bho gotama, ahaṃ asukassa putto datto nāma mitto nāma idha āgato’’ti vadantā nāmaṃ sāventi nāma, ‘‘bho gotama, ahaṃ vāseṭṭho nāma kaccāno nāma idhāgato’’ti vadantā gottaṃ sāventi nāma. Ete kira daliddā jiṇṇakulaputtā parisamajjhe nāmagottavasena pākaṭā bhavissāmāti evaṃ akaṃsu. Ye pana tuṇhībhūtā nisīdiṃsu, te kerāṭikā ceva andhabālā ca. Tattha kerāṭikā ‘‘ekaṃ dve kathāsallāpe karonte vissāsiko hoti, atha vissāse sati ekaṃ dve bhikkhā adātuṃ na yutta’’nti tato attānaṃ mocentā tuṇhī nisīdanti. Andhabālā aññāṇatāyeva avakkhittā mattikāpiṇḍo viya yattha katthaci tuṇhībhūtā nisīdanti.
55. Bây giờ, trong các câu bắt đầu bằng “Khi ấy, đức Thế Tôn, sau khi đã an trú theo ý thích ở Gayāsīsa,” để trình bày phần diễn giải các từ không rõ ràng, (kinh) đã được bắt đầu bằng (câu) “trong khu rừng Laṭṭhivana, trong vườn thốt nốt.” Ở đó, (từ) “trong vườn thốt nốt”: trong khu vườn có tên gọi như vậy do có nhiều cây thốt nốt. Trong các câu bắt đầu bằng “một số người, sau khi đã chắp tay hướng về phía đức Thế Tôn,” (câu) “sau khi đã chắp tay” được nói đến nhắm vào những người đứng ở giữa hai phe. Tương truyền rằng họ đã suy nghĩ như sau: “nếu những người theo tà kiến khiển trách chúng ta rằng: ‘tại sao các ông lại đảnh lễ sa-môn Gotama?’, chúng ta sẽ nói với họ rằng: ‘chẳng lẽ chỉ cần chắp tay mà cũng gọi là đã đảnh lễ sao?’. Nếu những người theo chánh kiến khiển trách chúng ta rằng: ‘tại sao các ông không đảnh lễ đức Thế Tôn?’, (chúng ta sẽ nói): ‘chẳng lẽ chỉ có việc đập đầu xuống đất mới gọi là đã đảnh lễ sao? Chẳng phải việc chắp tay cũng chính là một sự đảnh lễ sao?’” “Sau khi đã cho biết tên và họ”: những người nói: “thưa ngài Gotama, tôi là Datta, con của ông này, là một người bạn, đã đến đây,” được gọi là đang cho biết tên; những người nói: “thưa ngài Gotama, tôi là Vāseṭṭha, là Kaccāna, đã đến đây,” được gọi là đang cho biết họ. Tương truyền rằng, những vị thiện gia nam tử già nua, nghèo khó này đã làm như vậy để được biết đến bằng tên và họ giữa đám đông. Còn những người ngồi im lặng là những kẻ xảo quyệt và những kẻ ngu si mù quáng. Ở đó, những kẻ xảo quyệt ngồi im lặng để tránh né việc đó, vì họ nghĩ: “khi có một, hai cuộc nói chuyện, sẽ trở nên thân mật; khi đã có sự thân mật, sẽ không hợp lý nếu không cho một, hai món भिक्षा.” Những kẻ ngu si mù quáng thì chỉ ngồi im lặng ở bất cứ đâu như một cục đất bị vứt đi do sự ngu dốt.

Kisakovadānoti ettha kisakānaṃ ovadāno kisakovadānoti imaṃ tāva atthavikappaṃ dassetuṃ ‘‘tāpasacariyāya kisasarīrattā’’tiādi vuttaṃ. Aggihuttanti aggiparicaraṇaṃ. Rūpādayova idha kāmanīyaṭṭhena ‘‘kāmā’’ti vuttāti āha ‘‘ete rūpādayo kāme’’ti. Yaññā abhivadantīti yāgahetu ijjhantīti vadanti. Upadhīsūti ettha cattāro upadhī kāmupadhi khandhupadhi kilesupadhi abhisaṅkhārupadhīti. Kāmāpi hi ‘‘yaṃ pañca kāmaguṇe paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ kāmānaṃ assādo’’ti (ma. ni. 1.167) evaṃ vuttassa sukhassa adhiṭṭhānabhāvato upadhīyati ettha sukhanti iminā vacanatthena ‘‘upadhī’’ti vuccanti. Khandhāpi khandhamūlakassa dukkhassa adhiṭṭhānabhāvato, kilesāpi apāyadukkhassa adhiṭṭhānabhāvato, abhisaṅkhārāpi bhavadukkhassa adhiṭṭhānabhāvato ‘‘upadhī’’ti vuccanti, tesu khandhupadhi idhādhippetoti āha ‘‘khandhupadhīsu malanti ñatvā’’ti. Yaññā malameva vadantīti yāgahetu malameva ijjhatīti vadanti. Yiṭṭheti mahāyāge. Huteti divase divase kattabbaaggiparicaraṇe. Kāmabhave asattanti kāmabhave alaggaṃ, tabbinimuttanti vuttaṃ hoti.
(Người) “gầy gò và xanh xao”: ở đây, để trình bày cách giải thích ý nghĩa này trước tiên rằng: người xanh xao của những người gầy gò là kisakovadāno, (kinh) đã được nói bắt đầu bằng “do có thân hình gầy gò vì sự khổ hạnh.” (Sự) “cúng dường lửa”: sự thờ cúng lửa. Chính các pháp như sắc v.v. ở đây, do có tính chất đáng được ham muốn, đã được gọi là “các dục,” (ngài Phụ Chú Giải) nói: “các dục như sắc v.v. này.” “Các cuộc tế tự phát triển”: họ nói rằng do nhân là sự tế tự mà chúng được thịnh vượng. (Trong) “các chấp thủ”: ở đây, có bốn loại chấp thủ là dục thủ, uẩn thủ, phiền não thủ, và hành thủ. Thật vậy, các dục cũng được gọi là “chấp thủ” theo cách giải thích từ ngữ rằng: lạc được chấp thủ ở đây, do là nền tảng của lạc đã được nói đến như sau: “việc nương vào năm dục mà có được lạc và hỷ, đây là vị ngọt của các dục” (ma. ni. 1.167). Các uẩn cũng được gọi là “chấp thủ” do là nền tảng của khổ bắt nguồn từ các uẩn. Các phiền não cũng được gọi là “chấp thủ” do là nền tảng của khổ ở các cõi dữ. Các hành cũng được gọi là “chấp thủ” do là nền tảng của khổ trong các cõi. Trong số đó, uẩn thủ được chủ đích ở đây, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “sau khi đã biết rằng đó là cấu uế trong các uẩn thủ.” “Các cuộc tế tự chỉ làm tăng trưởng cấu uế”: họ nói rằng do nhân là sự tế tự mà chỉ có cấu uế được thịnh vượng. (Trong) “việc đã tế tự”: trong các cuộc đại tế tự. (Trong) “việc đã cúng dường”: trong việc thờ cúng lửa cần được làm hằng ngày. “Không dính mắc trong cõi dục”: không dính mắc trong cõi dục, ý nói là đã thoát khỏi nó.

57-58.Āsīsanāti patthanā. Dibbasuvaṇṇesupi siṅgīsuvaṇṇassa sabbaseṭṭhattā ‘‘siṅgīnikkhasavaṇṇo’’ti vuttaṃ. Yatheva hi manussaparibhoge suvaṇṇe yuttikataṃ hīnaṃ, tato rasaviddhaṃ seṭṭhaṃ, rasaviddhato ākaruppannaṃ, tato yaṃ kiñci dibbaṃ seṭṭhaṃ, evaṃ dibbasuvaṇṇesupi cāmīkarato sātakumbhaṃ, sātakumbhato jambunadaṃ, jambunadato siṅgīsuvaṇṇaṃ, tasmā taṃ sabbaseṭṭhaṃ. Siṅgīnikkhanti ca nikkhaparimāṇena siṅgīsuvaṇṇena kataṃ suvaṇṇapaṭṭaṃ. Ūnakanikkhena katañhi ghaṭṭanamajjanakkhamaṃ na hoti, atirekena kataṃ ghaṭṭanamajjanaṃ khamati, vaṇṇavantaṃ pana na hoti, pharusadhātukaṃ khāyati, nikkhena kataṃ ghaṭṭanamajjanañceva khamati vaṇṇavantañca hoti. Nikkhaṃ pana vīsatisuvaṇṇanti keci . Pañcavīsatisuvaṇṇanti apare. Majjhimanikāyaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘nikkhaṃ nāma pañcasuvaṇṇā’’ti vuttaṃ. Suvaṇṇo nāma catudharaṇanti vadanti.
57-58. (Từ) “Āsīsanā”: sự mong cầu. Do vàng siṅgī là loại tốt nhất ngay cả trong các loại vàng của cõi trời, nên đã được nói là “có màu vàng siṅgīnikkha.” Giống như trong các loại vàng được con người sử dụng, loại được làm theo kỹ thuật là hèn hạ, loại được pha chế bằng thủy ngân thì tốt hơn, loại được lấy từ mỏ thì tốt hơn nữa, và bất cứ loại vàng nào của cõi trời cũng đều tốt hơn. Cũng vậy, trong các loại vàng của cõi trời, vàng sātakumbha tốt hơn vàng cāmīkara, vàng jambunada tốt hơn vàng sātakumbha, và vàng siṅgī tốt hơn vàng jambunada, do đó nó là loại tốt nhất. Và siṅgīnikkha là một tấm vàng được làm bằng vàng siṅgī có khối lượng một nikkha. Thật vậy, nếu được làm bằng ít hơn một nikkha thì sẽ không chịu được sự chà xát và đánh bóng; nếu được làm bằng nhiều hơn thì chịu được sự chà xát và đánh bóng, nhưng lại không có màu sắc đẹp, và trông thô cứng. Nếu được làm bằng đúng một nikkha thì vừa chịu được sự chà xát và đánh bóng, vừa có màu sắc đẹp. Một số vị nói rằng một nikkha là hai mươi suvaṇṇa. Những vị khác nói là hai mươi lăm suvaṇṇa. Nhưng trong Chú Giải Trung Bộ đã nói rằng: “một nikkha là năm suvaṇṇa.” Người ta nói rằng một suvaṇṇa là bốn dharaṇa.

Dasasu ariyavāsesu vutthavāsoti –
(Người) “đã sống xong trong mười nơi ở của bậc Thánh” là –

‘‘Idha, (dī. ni. 3.348; a. ni. 10.20) bhikkhave, bhikkhu pañcaṅgavippahīno hoti chaḷaṅgasamannāgato ekārakkho caturāpasseno panuṇṇapaccekasacco samavayasaṭṭhesano anāvilasaṅkappo passaddhakāyasaṅkhāro suvimuttacitto suvimuttapañño.
“Ở đây, (dī. ni. 3.348; a. ni. 10.20) này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu đã từ bỏ năm chi phần, có được sáu chi phần, có một sự bảo vệ, có bốn nơi nương tựa, đã loại bỏ các chân lý riêng lẻ, đã làm lắng dịu sự tìm cầu, có các tư duy không vẩn đục, có các hành thuộc về thân đã được an tịnh, có tâm được giải thoát tốt đẹp, có trí tuệ được giải thoát tốt đẹp.

‘‘Kathañca , bhikkhave, bhikkhu pañcaṅgavippahīno hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhuno kāmacchando pahīno hoti, byāpādo pahīno hoti, thinamiddhaṃ pahīnaṃ hoti, uddhaccakukkuccaṃ pahīnaṃ hoti, vicikicchā pahīnā hoti. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu pañcaṅgavippahīno hoti.
“Và này các Tỳ-khưu, thế nào là vị Tỳ-khưu đã từ bỏ năm chi phần? Ở đây, này các Tỳ-khưu, dục tham của vị Tỳ-khưu đã được từ bỏ, sân hận đã được từ bỏ, hôn trầm và thụy miên đã được từ bỏ, trạo cử và hối quá đã được từ bỏ, hoài nghi đã được từ bỏ. Này các Tỳ-khưu, như vậy là vị Tỳ-khưu đã từ bỏ năm chi phần.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu chaḷaṅgasamannāgato hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhu cakkhunā rūpaṃ disvā neva sumano hoti na dummano, upekkhako viharati sato sampajāno. Sotena saddaṃ sutvā…pe… ghānena gandhaṃ ghāyitvā… jivhāya rasaṃ sāyitvā… kāyena phoṭṭhabbaṃ phusitvā… manasā dhammaṃ viññāya neva sumano hoti na dummano, upekkhako viharati sato sampajāno. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu chaḷaṅgasamannāgato hoti.
“Và này các Tỳ-khưu, thế nào là vị Tỳ-khưu có được sáu chi phần? Ở đây, này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu sau khi thấy sắc bằng mắt, không vui cũng không buồn, an trú trong xả, có chánh niệm và tỉnh giác. Sau khi nghe tiếng bằng tai… này… sau khi ngửi mùi bằng mũi… sau khi nếm vị bằng lưỡi… sau khi xúc chạm vật xúc chạm bằng thân… sau khi nhận biết pháp bằng ý, không vui cũng không buồn, an trú trong xả, có chánh niệm và tỉnh giác. Này các Tỳ-khưu, như vậy là vị Tỳ-khưu có được sáu chi phần.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu ekārakkho hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhu satārakkhena cetasā samannāgato hoti. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu ekārakkho hoti.
“Và này các Tỳ-khưu, thế nào là vị Tỳ-khưu có một sự bảo vệ? Ở đây, này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu có được tâm được bảo vệ bằng chánh niệm. Này các Tỳ-khưu, như vậy là vị Tỳ-khưu có một sự bảo vệ.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu caturāpasseno hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhu saṅkhāyekaṃ paṭisevati, saṅkhāyekaṃ adhivāseti, saṅkhāyekaṃ parivajjeti, saṅkhāyekaṃ vinodeti. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu caturāpasseno hoti.
“Và này các Tỳ-khưu, thế nào là vị Tỳ-khưu có bốn nơi nương tựa? Ở đây, này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu sau khi suy xét, thực hành một pháp; sau khi suy xét, chịu đựng một pháp; sau khi suy xét, tránh né một pháp; sau khi suy xét, loại bỏ một pháp. Này các Tỳ-khưu, như vậy là vị Tỳ-khưu có bốn nơi nương tựa.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu panuṇṇapaccekasacco hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhu yāni tāni puthusamaṇabrāhmaṇānaṃ puthupaccekasaccāni , sabbāni tāni nuṇṇāni honti panuṇṇāni cattāni vantāni muttāni pahīnāni paṭinissaṭṭhāni. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu panuṇṇapaccekasacco hoti.
“Và này các Tỳ-khưu, thế nào là vị Tỳ-khưu đã loại bỏ các chân lý riêng lẻ? Ở đây, này các Tỳ-khưu, những chân lý riêng lẻ của nhiều vị sa-môn và bà-la-môn, tất cả chúng đều đã bị loại bỏ, đã bị xua tan, đã bị từ bỏ, đã được nhổ ra, đã được giải thoát, đã được đoạn trừ, đã được xả ly. Này các Tỳ-khưu, như vậy là vị Tỳ-khưu đã loại bỏ các chân lý riêng lẻ.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu samavayasaṭṭhesano hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhuno kāmesanā pahīnā hoti, bhavesanā pahīnā hoti, brahmacariyesanā paṭippassaddhā. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu samavayasaṭṭhesano hoti.
“Và này các Tỳ-khưu, thế nào là vị Tỳ-khưu đã làm lắng dịu sự tìm cầu? Ở đây, này các Tỳ-khưu, sự tìm cầu các dục của vị Tỳ-khưu đã được từ bỏ, sự tìm cầu các cõi đã được từ bỏ, sự tìm cầu phạm hạnh đã được an tịnh. Này các Tỳ-khưu, như vậy là vị Tỳ-khưu đã làm lắng dịu sự tìm cầu.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu anāvilasaṅkappo hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhuno kāmasaṅkappo pahīno hoti, byāpādasaṅkappo pahīno hoti, vihiṃsāsaṅkappo pahīno hoti. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu anāvilasaṅkappo hoti.
“Và này các Tỳ-khưu, thế nào là vị Tỳ-khưu có các tư duy không vẩn đục? Ở đây, này các Tỳ-khưu, tư duy về dục của vị Tỳ-khưu đã được từ bỏ, tư duy về sân hận đã được từ bỏ, tư duy về sự hãm hại đã được từ bỏ. Này các Tỳ-khưu, như vậy là vị Tỳ-khưu có các tư duy không vẩn đục.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu passaddhakāyasaṅkhāro hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhu sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu passaddhakāyasaṅkhāro hoti.
“Và này các Tỳ-khưu, thế nào là vị Tỳ-khưu có các hành thuộc về thân đã được an tịnh? Ở đây, này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu, do đã từ bỏ lạc và từ bỏ khổ, do các hỷ và ưu đã chấm dứt từ trước, đã đạt đến và an trú trong thiền thứ tư, không khổ không lạc, có sự trong sạch của niệm do xả. Này các Tỳ-khưu, như vậy là vị Tỳ-khưu có các hành thuộc về thân đã được an tịnh.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu suvimuttacitto hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhuno rāgācittaṃ vimuttaṃ hoti, dosā cittaṃ vimuttaṃ hoti, mohā cittaṃ vimuttaṃ hoti. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu suvimuttacitto hoti.
“Và này các Tỳ-khưu, thế nào là vị Tỳ-khưu có tâm được giải thoát tốt đẹp? Ở đây, này các Tỳ-khưu, tâm của vị Tỳ-khưu đã được giải thoát khỏi ái dục, tâm đã được giải thoát khỏi sân hận, tâm đã được giải thoát khỏi si mê. Này các Tỳ-khưu, như vậy là vị Tỳ-khưu có tâm được giải thoát tốt đẹp.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu suvimuttapañño hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhu ‘rāgo me pahīno ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṃkato āyatiṃ anuppādadhammo’ti pajānāti, ‘doso me pahīno…pe… moho me pahīno ucchinnamūlo tālāvatthukato anabhāvaṃkato āyatiṃ anuppādadhammo’ti pajānāti. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu suvimuttapañño hotī’’ti (dī. ni. 3.348; a. ni. 10.20) –
“Và này các Tỳ-khưu, thế nào là vị Tỳ-khưu có trí tuệ được giải thoát tốt đẹp? Ở đây, này các Tỳ-khưu, vị Tỳ-khưu biết rõ rằng: ‘ái dục của ta đã được từ bỏ, đã được nhổ bật gốc, đã được làm như một cây thốt nốt bị chặt ngọn, đã được làm cho không thể hiện hữu, là pháp không sanh khởi trong tương lai;’ biết rõ rằng: ‘sân hận của ta đã được từ bỏ… này… si mê của ta đã được từ bỏ, đã được nhổ bật gốc, đã được làm như một cây thốt nốt bị chặt ngọn, đã được làm cho không thể hiện hữu, là pháp không sanh khởi trong tương lai.’ Này các Tỳ-khưu, như vậy là vị Tỳ-khưu có trí tuệ được giải thoát tốt đẹp.” (dī. ni. 3.348; a. ni. 10.20) –

Evamāgatesu dasasu ariyavāsesu vutthavāso.
(Người) đã sống xong trong mười nơi ở của bậc Thánh đã được đề cập như vậy.

Tattha vasanti etthāti vāsā, ariyānaṃ eva vāsāti ariyavāsā anariyānaṃ tādisānaṃ vāsānaṃ asambhavato. Ariyāti cettha ukkaṭṭhaniddesena khīṇāsavā gahitā. Ekārakkhoti ekā satisaṅkhātā ārakkhā etassāti ekārakkho. Khīṇāsavassa (dī. ni. aṭṭha. 3.348; a. ni. aṭṭha. 3.10.20) hi tīsu dvāresu sabbakāle sati ārakkhakiccaṃ sādheti. Tenevassa carato ca tiṭṭhato ca suttassa ca jāgarassa ca satataṃ samitaṃ ñāṇadassanaṃ paccupaṭṭhitaṃ hotīti vuccati.
Ở đây, nơi ở là vāsā; chính là nơi ở của các bậc Thánh nên là ariyavāsā (nơi ở của bậc Thánh), do những nơi ở như vậy không thể có được đối với những người không phải là bậc Thánh. Và ở đây, các bậc Thánh được hiểu là các bậc lậu tận theo cách chỉ định điều cao nhất. (Người) “có một sự bảo vệ”: người có một sự bảo vệ là chánh niệm. Thật vậy, đối với bậc lậu tận (dī. ni. aṭṭha. 3.348; a. ni. aṭṭha. 3.10.20), chánh niệm luôn hoàn thành phận sự bảo vệ ở ba cửa. Chính vì thế, được nói rằng trí và kiến luôn luôn hiện hữu một cách liên tục và đều đặn đối với vị ấy, dù đang đi, đang đứng, đang ngủ, hay đang thức.

Caturāpassenoti cattāri apassenāni apassayā etassāti caturāpasseno. Saṅkhāyāti ñāṇena (dī. ni. aṭṭha. 3.308). Paṭisevatīti ñāṇena ñatvā sevitabbayuttakameva sevati. Tassa vitthāro ‘‘paṭisaṅkhā yoniso cīvaraṃ paribhuñjatī’’tiādinā (ma. ni. 1.23; a. ni. 6.58) nayena veditabbo. Saṅkhāyekaṃ adhivāsetīti ñāṇena ñatvā adhivāsetabbayuttakameva adhivāseti. Vitthāro panettha ‘‘paṭisaṅkhā yoniso khamo hoti sītassā’’tiādinā (ma. ni. 1.24) nayena veditabbo. Parivajjetīti ñāṇena ñatvā parivajjetabbayuttakameva parivajjeti. Tassa vitthāro ‘‘paṭisaṅkhā yoniso caṇḍaṃ hatthiṃ parivajjetī’’tiādinā nayena veditabbo. Vinodetīti ñāṇena ñatvā vinodetabbameva vinodeti nudati nīharati anto vasituṃ na deti. Tassa vitthāro ‘‘uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāsetī’’tiādinā nayena veditabbo.
(Người) “có bốn nơi nương tựa”: người có bốn nơi nương tựa, bốn nơi dựa dẫm. (Bằng) “sự suy xét”: bằng trí tuệ (dī. ni. aṭṭha. 3.308). “Thực hành”: sau khi đã biết bằng trí tuệ, vị ấy chỉ thực hành những gì đáng được thực hành. Phần chi tiết về điều đó cần được hiểu theo phương pháp bắt đầu bằng: “sau khi suy xét một cách như lý, vị ấy dùng y phục” (ma. ni. 1.23; a. ni. 6.58) v.v… “Sau khi suy xét, chịu đựng một pháp”: sau khi đã biết bằng trí tuệ, vị ấy chỉ chịu đựng những gì đáng được chịu đựng. Phần chi tiết ở đây cần được hiểu theo phương pháp bắt đầu bằng: “sau khi suy xét một cách như lý, vị ấy chịu đựng được sự lạnh giá” (ma. ni. 1.24) v.v… “Tránh né”: sau khi đã biết bằng trí tuệ, vị ấy chỉ tránh né những gì đáng được tránh né. Phần chi tiết về điều đó cần được hiểu theo phương pháp bắt đầu bằng: “sau khi suy xét một cách như lý, vị ấy tránh né một con voi hung dữ” v.v… “Loại bỏ”: sau khi đã biết bằng trí tuệ, vị ấy chỉ loại bỏ những gì đáng được loại bỏ, xua đuổi, trừ khử, không cho ở lại bên trong. Phần chi tiết về điều đó cần được hiểu theo phương pháp bắt đầu bằng: “vị ấy không dung chứa một tư duy về dục đã sanh khởi” v.v…

Panuṇṇapaccekasaccoti (a. ni. aṭṭha. 2.4.38; dī. ni. aṭṭha. 3.348) ‘‘idameva dassanaṃ saccaṃ, idameva sacca’’nti evaṃ pāṭiyekkaṃ gahitattā paccekasaṅkhātāni diṭṭhisaccāni panuṇṇāni nīhaṭāni pahīnāni assāti panuṇṇapaccekasacco. Puthusamaṇabrāhmaṇānanti bahūnaṃ samaṇabrāhmaṇānaṃ. Ettha ca samaṇāti pabbajjupagatā. Brāhmaṇāti bhovādino. Puthupaccekasaccānīti bahūni pāṭekkasaccāni, ‘‘idameva dassanaṃ saccaṃ, idameva sacca’’nti pāṭiyekkaṃ gahitāni bahūni saccānīti attho. Nuṇṇānīti nīhaṭāni. Panuṇṇānīti suṭṭhu nīhatāni. Cattānīti vissaṭṭhāni. Vantānīti vamitāni. Muttānīti chinnabandhanāni katāni. Pahīnānīti pajahitāni. Paṭinissaṭṭhānīti yathā na puna cittaṃ ārohanti, evaṃ paṭivissajjitāni. Sabbāneva cetāni ariyamaggādhigamato pubbe gahitassa diṭṭhiggāhassa vissaṭṭhabhāvavevacanāni.
(Người) “đã loại bỏ các chân lý riêng lẻ”: (a. ni. aṭṭha. 2.4.38; dī. ni. aṭṭha. 3.348) người đã loại bỏ, đã trừ khử, đã từ bỏ các chân lý thuộc về tà kiến, vốn được gọi là chân lý riêng lẻ do được chấp thủ một cách riêng lẻ rằng: “chỉ có quan điểm này là chân thật, chỉ có điều này là chân thật.” (Của) “nhiều vị sa-môn và bà-la-môn”: của nhiều vị sa-môn và bà-la-môn. Ở đây, sa-môn là những người đã xuất gia. Bà-la-môn là những người dùng từ “bho” để xưng hô. “Các chân lý riêng lẻ của nhiều người”: nhiều chân lý riêng lẻ, ý nghĩa là nhiều chân lý được chấp thủ một cách riêng lẻ rằng: “chỉ có quan điểm này là chân thật, chỉ có điều này là chân thật.” (Từ) “Nuṇṇāni”: đã được trừ khử. (Từ) “Panuṇṇāni”: đã được trừ khử một cách tốt đẹp. (Từ) “Cattānī”: đã được xả ly. (Từ) “Vantānī”: đã được nôn ra. (Từ) “Muttānī”: đã được làm cho không còn sự trói buộc. (Từ) “Pahīnānī”: đã được từ bỏ. (Từ) “Paṭinissaṭṭhānī”: đã được xả ly theo cách mà chúng không còn sanh khởi trong tâm nữa. Tất cả những từ này đều là các từ đồng nghĩa của trạng thái đã xả ly sự chấp thủ tà kiến đã được nắm giữ trước khi chứng đắc Thánh đạo.

Samavayasaṭṭhesanoti (dī. ni. aṭṭha. 3.348; a. ni. aṭṭha. 3.10.20) ettha avayāti anūnā. Saṭṭhāti nissaṭṭhā. Sammā avayā saṭṭhā esanā assāti samavayasaṭṭhesano, sammā vissaṭṭhasabbaesanoti attho. ‘‘Rāgā cittaṃ vimutta’’ntiādīhi maggassa kiccanipphatti kathitā rāgādīnaṃ pahīnabhāvadīpanato. ‘‘Rāgo me pahīno’’tiādīhi paccavekkhaṇāmukhena ariyaphalaṃ kathitaṃ. Adhigate hi aggaphale sabbaso rāgādīnaṃ anuppādadhammataṃ pajānāti, tañca pajānanaṃ paccavekkhaṇañāṇanti. Tattha pañcaṅgavippahānapaccekasaccāpanodanaesanāsamavayasajjanāni ‘‘saṅkhāyekaṃ paṭisevati adhivāseti parivajjeti vinodetī’’ti vuttesu apassenesu vinodanā ca maggakiccāneva, itare ca maggeneva samijjhanti.
(Người) “đã làm lắng dịu sự tìm cầu”: (dī. ni. aṭṭha. 3.348; a. ni. aṭṭha. 3.10.20) ở đây, avayā là không thiếu sót. Saṭṭhā là đã xả ly. Người có sự tìm cầu đã được xả ly một cách đúng đắn, không thiếu sót là samavayasaṭṭhesano, ý nghĩa là người đã xả ly tất cả các sự tìm cầu một cách đúng đắn. (Bằng các câu) “tâm đã được giải thoát khỏi ái dục” v.v., sự hoàn thành phận sự của đạo đã được nói đến, do cho thấy trạng thái đã từ bỏ của ái dục v.v… (Bằng các câu) “ái dục của ta đã được từ bỏ” v.v., Thánh quả đã được nói đến thông qua sự quán xét. Thật vậy, khi đã chứng đắc Thánh quả cao nhất, vị ấy biết rõ trạng thái không sanh khởi của ái dục v.v. một cách toàn diện, và sự biết rõ đó là phản khán trí. Ở đây, việc từ bỏ năm chi phần, việc loại bỏ các chân lý riêng lẻ, và việc làm lắng dịu sự tìm cầu, và cả việc loại bỏ trong các nơi nương tựa đã được nói đến là “sau khi suy xét, thực hành, chịu đựng, tránh né, và loại bỏ một pháp,” đều là các phận sự của đạo. Các điều còn lại cũng được thành tựu chính bằng đạo.

Dasabaloti kāyabalasaṅkhātāni ñāṇabalasaṅkhātāni ca dasa balāni etassāti dasabalo. Duvidhañhi tathāgatassa balaṃ kāyabalaṃ ñāṇabalañca. Tesu kāyabalaṃ hatthikulānusārena veditabbaṃ. Vuttañhetaṃ porāṇehi –
(Bậc) “Thập Lực”: vị có mười lực này, tức là các lực thuộc về thân và các lực thuộc về trí tuệ, là bậc Thập Lực. Thật vậy, lực của Như Lai có hai loại là lực của thân và lực của trí tuệ. Trong đó, lực của thân cần được hiểu theo các dòng dõi của loài voi. Điều này đã được các bậc cổ nhân nói:

‘‘Kāḷāvakañca gaṅgeyyaṃ, paṇḍaraṃ tambapiṅgalaṃ;
“Kāḷāvaka và Gaṅgeyya, Paṇḍara, Tamba, Piṅgala;

Gandhamaṅgalahemañca, uposathachaddantime dasā’’ti. (ma. ni. aṭṭha. 1.148; saṃ. ni. aṭṭha. 2.2.22; a. ni. aṭṭha. 3.10.21; vibha. aṭṭha 76; udā. aṭṭha. 75; bu. vaṃ. aṭṭha. 1.39; paṭi. ma. aṭṭha. 2.2.44; cūḷani. aṭṭha. 81);
Gandha, Maṅgala, Hema, Uposatha, và Chaddanta, đó là mười loài.” (ma. ni. aṭṭha. 1.148; saṃ. ni. aṭṭha. 2.2.22; a. ni. aṭṭha. 3.10.21; vibha. aṭṭha 76; udā. aṭṭha. 75; bu. vaṃ. aṭṭha. 1.39; paṭi. ma. aṭṭha. 2.2.44; cūḷani. aṭṭha. 81);

Imāni hi dasa hatthikulāni. Tattha kāḷāvakanti pakatihatthikulaṃ daṭṭhabbaṃ. Yaṃ dasannaṃ purisānaṃ kāyabalaṃ, taṃ ekassa kāḷāvakassa hatthino. Yaṃ dasannaṃ kāḷāvakānaṃ balaṃ, taṃ ekassa gaṅgeyyassa. Yaṃ dasannaṃ gaṅgeyyānaṃ, taṃ ekassa paṇḍarassa. Yaṃ dasannaṃ paṇḍarānaṃ, taṃ ekassa tambassa. Yaṃ dasannaṃ tambānaṃ, taṃ ekassa piṅgalassa. Yaṃ dasannaṃ piṅgalānaṃ, taṃ ekassa gandhahatthino. Yaṃ dasannaṃ gandhahatthīnaṃ, taṃ ekassa maṅgalassa. Yaṃ dasannaṃ maṅgalānaṃ, taṃ ekassa hemavatassa. Yaṃ dasannaṃ hemavatānaṃ, taṃ ekassa uposathassa. Yaṃ dasannaṃ uposathānaṃ, taṃ ekassa chaddantassa. Yaṃ dasannaṃ chaddantānaṃ, taṃ ekassa tathāgatassa kāyabalaṃ. Nārāyanasaṅghātabalantipi idameva vuccati. Tattha nārā vuccanti rasmiyo, tā bahū nānāvidhā tato uppajjantīti nārāyanaṃ, vajiraṃ, tasmā vajirasaṅghātabalanti attho. Tadetaṃ pakatihatthigaṇanāya hatthīnaṃ koṭisahassānaṃ, purisagaṇanāya dasannaṃ purisakoṭisahassānaṃ balaṃ hoti. Idaṃ tāva tathāgatassa kāyabalaṃ.
Đây là mười dòng dõi của loài voi. Trong đó, Kāḷāvaka cần được xem là dòng dõi voi thông thường. Sức mạnh của thân của mười người đàn ông bằng sức mạnh của một con voi Kāḷāvaka. Sức mạnh của mười con voi Kāḷāvaka bằng sức mạnh của một con voi Gaṅgeyya. Sức mạnh của mười con voi Gaṅgeyya bằng sức mạnh của một con voi Paṇḍara. Sức mạnh của mười con voi Paṇḍara bằng sức mạnh của một con voi Tamba. Sức mạnh của mười con voi Tamba bằng sức mạnh của một con voi Piṅgala. Sức mạnh của mười con voi Piṅgala bằng sức mạnh của một con voi Gandha. Sức mạnh của mười con voi Gandha bằng sức mạnh của một con voi Maṅgala. Sức mạnh của mười con voi Maṅgala bằng sức mạnh của một con voi Hemavata. Sức mạnh của mười con voi Hemavata bằng sức mạnh của một con voi Uposatha. Sức mạnh của mười con voi Uposatha bằng sức mạnh của một con voi Chaddanta. Sức mạnh của thân của một vị Như Lai bằng sức mạnh của mười con voi Chaddanta. Đây cũng được gọi là sức mạnh của sự kết hợp của Nārāyana. Ở đây, nārā được gọi là các tia sáng, nhiều loại tia sáng khác nhau sanh khởi từ đó, nên là nārāyanaṃ, tức là kim cương. Do đó, có nghĩa là sức mạnh của sự kết hợp của kim cương. Và sức mạnh đó, theo cách tính của loài voi thông thường, bằng sức mạnh của một tỷ con voi; theo cách tính của người, bằng sức mạnh của mười tỷ người. Đây là lực của thân của Như Lai.

Ñāṇabalaṃ pana pāḷiyaṃ āgatameva. Tatrāyaṃ pāḷi (ma. ni. 1.148; a. ni. 10.21) –
Còn lực của trí tuệ thì đã có trong bản Pāḷi. Đây là bản Pāḷi đó (ma. ni. 1.148; a. ni. 10.21) –

‘‘Dasa kho panimāni, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalāni, yehi balehi samannāgato tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti. Katamāni dasa? Idha, sāriputta, tathāgato ṭhānañca ṭhānato aṭṭhānañca aṭṭhānato yathābhūtaṃ pajānāti, yampi, sāriputta, tathāgato ṭhānañca ṭhānato aṭṭhānañca aṭṭhānato yathābhūtaṃ pajānāti. Idampi, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalaṃ hoti, yaṃ balaṃ āgamma tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti. (1)
“Này Sāriputta, có mười lực này của Như Lai, mà khi có được các lực đó, Như Lai tự nhận là ở vị trí của bậc trượng phu, rống lên tiếng rống của sư tử trong các hội chúng, và chuyển vận bánh xe Phạm thiên. Mười lực đó là gì? Ở đây, này Sāriputta, Như Lai biết rõ như thật điều có thể là điều có thể và điều không thể là điều không thể. Này Sāriputta, việc Như Lai biết rõ như thật điều có thể là điều có thể và điều không thể là điều không thể, đây cũng là lực của Như Lai của Như Lai, mà khi nương vào lực đó, Như Lai tự nhận là ở vị trí của bậc trượng phu, rống lên tiếng rống của sư tử trong các hội chúng, và chuyển vận bánh xe Phạm thiên. (1)

‘‘Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato atītānāgatapaccuppannānaṃ kammasamādānānaṃ ṭhānaso hetuso vipākaṃ yathābhūtaṃ pajānāti…pe…. (2)
“Và hơn nữa, này Sāriputta, Như Lai biết rõ như thật quả báo của các nghiệp đã được thực hiện trong quá khứ, vị lai, và hiện tại, theo vị trí và theo nguyên nhân… này…. (2)

‘‘Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato sabbatthagāminiṃ paṭipadaṃ yathābhūtaṃ pajānāti…pe…. (3)
“Và hơn nữa, này Sāriputta, Như Lai biết rõ như thật con đường đưa đến tất cả các cảnh giới… này…. (3)

‘‘Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato anekadhātuṃ nānādhātuṃ lokaṃ yathābhūtaṃ pajānāti…pe…. (4)
“Và hơn nữa, này Sāriputta, Như Lai biết rõ như thật thế giới có nhiều giới và nhiều loại giới… này…. (4)

‘‘Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato sattānaṃ nānādhimuttikataṃ yathābhūtaṃ pajānāti…pe…. (5)
“Và hơn nữa, này Sāriputta, Như Lai biết rõ như thật sự đa dạng về khuynh hướng của chúng sanh… này…. (5)

‘‘Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato parasattānaṃ parapuggalānaṃ indriyaparopariyattaṃ yathābhūtaṃ pajānāti…pe…. (6)
“Và hơn nữa, này Sāriputta, Như Lai biết rõ như thật sự hơn kém về các căn của các chúng sanh khác, của các người khác… này…. (6)

‘‘Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato jhānavimokkhasamādhisamāpattīnaṃ saṃkilesaṃ vodānaṃ vuṭṭhānaṃ yathābhūtaṃ pajānāti…pe…. (7)
“Và hơn nữa, này Sāriputta, Như Lai biết rõ như thật sự ô uế, sự trong sạch, và sự xuất khởi của các thiền, các sự giải thoát, các định, và các định chứng… này…. (7)

‘‘Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati. Seyyathidaṃ? Ekampi jātiṃ dvepi jātiyo…pe… iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati…pe…. (8)
“Và hơn nữa, này Sāriputta, Như Lai nhớ lại nhiều kiếp sống trước đây. Đó là: một kiếp, hai kiếp… này… ngài nhớ lại nhiều kiếp sống trước đây với các tướng trạng và các chi tiết của chúng… này…. (8)

‘‘Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate, yathākammūpage satte pajānāti…pe…. (9)
“Và hơn nữa, này Sāriputta, Như Lai, bằng thiên nhãn thanh tịnh, vượt qua tầm mắt của người thường, thấy các chúng sanh đang chết đi, đang sanh ra, hèn hạ, cao sang, xinh đẹp, xấu xí, được đến nơi tốt, bị đến nơi xấu, ngài biết rõ các chúng sanh tùy theo nghiệp của họ… này…. (9)

‘‘Puna caparaṃ, sāriputta, tathāgato āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati…pe… idampi, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalaṃ hoti, yaṃ balaṃ āgamma tathāgato āsabhaṃ ṭhānaṃ paṭijānāti, parisāsu sīhanādaṃ nadati, brahmacakkaṃ pavatteti. Imāni kho, sāriputta, dasa tathāgatassa tathāgatabalānī’’ti. (10)
“Và hơn nữa, này Sāriputta, Như Lai, do sự đoạn tận các lậu hoặc, đã đạt đến và an trú trong tâm giải thoát, tuệ giải thoát không còn lậu hoặc, ngay trong hiện tại, sau khi đã tự mình chứng ngộ bằng thắng trí… này… đây cũng là lực của Như Lai của Như Lai, mà khi nương vào lực đó, Như Lai tự nhận là ở vị trí của bậc trượng phu, rống lên tiếng rống của sư tử trong các hội chúng, và chuyển vận bánh xe Phạm thiên. Này Sāriputta, đây là mười lực của Như Lai của Như Lai.” (10)

Tattha (ma. ni. aṭṭha. 1.148; a. ni. aṭṭha. 3.10.21; vibha. aṭṭha. 760) ṭhānañca ṭhānatoti kāraṇañca kāraṇato. ‘‘Ye ye dhammā yesaṃ yesaṃ dhammānaṃ hetū paccayā uppādāya, taṃ taṃ ṭhānaṃ. Ye ye dhammā yesaṃ yesaṃ dhammānaṃ na hetū na paccayā uppādāya, taṃ taṃ aṭṭhāna’’nti pajānanto ṭhānañca ṭhānato aṭṭhānañca aṭṭhānato yathābhūtaṃ pajānāti. Yampīti yena ñāṇena.
Ở đây (ma. ni. aṭṭha. 1.148; a. ni. aṭṭha. 3.10.21; vibha. aṭṭha. 760), (câu) “điều có thể là điều có thể”: nguyên nhân là nguyên nhân. Vị ấy biết rõ như thật rằng: “những pháp nào là nhân, là duyên cho sự sanh khởi của những pháp nào, đó là điều có thể. Những pháp nào không phải là nhân, không phải là duyên cho sự sanh khởi của những pháp nào, đó là điều không thể,” và do đó vị ấy biết rõ như thật điều có thể là điều có thể và điều không thể là điều không thể. (Từ) “Yampī”: bằng trí tuệ nào.

Kammasamādānānanti samādiyitvā katānaṃ kusalākusalakammānaṃ, kammameva vā kammasamādānaṃ. Ṭhānaso hetusoti paccayato ceva hetuto ca. Tattha gatiupadhikālapayogā vipākassa ṭhānaṃ, kammaṃ hetu.
(Của) “các nghiệp đã được thực hiện”: của các nghiệp thiện và bất thiện đã được thực hiện sau khi đã thọ trì; hoặc chính nghiệp là kammasamādānaṃ. “Theo vị trí và theo nguyên nhân”: theo duyên và theo nhân. Ở đây, cảnh giới, nền tảng, thời gian, và sự nỗ lực là vị trí của quả báo; còn nghiệp là nhân.

Sabbatthagāmininti sabbagatigāminiñca agatigāminiñca. Paṭipadanti maggaṃ. Yathābhūtaṃ pajānātīti bahūsupi manussesu ekameva pāṇaṃ ghātentesu kāmaṃ sabbesampi cetanā tassevekassa jīvitindriyārammaṇā, taṃ pana kammaṃ tesaṃ nānākāraṃ. Tesu hi eko ādarena chandajāto karoti, eko ‘‘ehi tvampi karohī’’ti parehi nippīḷito karoti, eko samānacchando viya hutvā appaṭibāhiyamāno vicarati, tasmā tesu eko teneva kammena niraye nibbattati, eko tiracchānayoniyaṃ, eko pettivisaye. Taṃ tathāgato āyūhanakkhaṇeyeva ‘‘iminā nīhārena āyūhitattā esa niraye nibbattissati, esa tiracchānayoniyaṃ, esa pettivisaye’’ti jānāti. Niraye nibbattamānampi ‘‘esa mahāniraye nibbattissati, esa ussadaniraye’’ti jānāti. Tiracchānayoniyaṃ nibbattamānampi ‘‘esa apādako bhavissati, esa dvipādako, esa catuppādo, esa bahuppādo’’ti jānāti. Pettivisaye nibbattamānampi ‘‘esa nijjhāmataṇhiko bhavissati, esa khuppipāsiko, esa paradattūpajīvī’’ti jānāti. Tesu ca kammesu ‘‘idaṃ kammaṃ paṭisandhiṃ ākaḍḍhissati, etaṃ aññena dinnāya paṭisandhiyā upadhivepakkaṃ bhavissatī’’ti jānāti.
(Con đường) “đưa đến tất cả các cảnh giới”: con đường đưa đến tất cả các cảnh giới và con đường không đưa đến các cảnh giới. (Từ) “con đường”: đạo. “Biết rõ như thật”: dù trong nhiều người cùng giết một sinh mạng, mặc dù ý của tất cả họ đều có cùng một đối tượng là mạng căn của sinh vật đó, nhưng nghiệp đó của họ lại khác nhau. Thật vậy, trong số họ, một người làm một cách tôn trọng và có ý muốn, một người làm do bị người khác ép buộc rằng: “anh cũng hãy làm đi,” một người đi lại như thể có cùng ý muốn nhưng không bị ngăn cản. Do đó, trong số họ, một người do chính nghiệp đó mà tái sanh vào địa ngục, một người vào loài súc sanh, một người vào cảnh giới ngạ quỷ. Như Lai biết điều đó ngay trong khoảnh khắc tạo tác rằng: “do đã tạo tác theo cách này, người này sẽ tái sanh vào địa ngục, người này vào loài súc sanh, người này vào cảnh giới ngạ quỷ.” Ngay cả khi tái sanh vào địa ngục, ngài cũng biết rằng: “người này sẽ tái sanh vào đại địa ngục, người này vào địa ngục phụ.” Ngay cả khi tái sanh vào loài súc sanh, ngài cũng biết rằng: “người này sẽ là loài không chân, người này là loài hai chân, người này là loài bốn chân, người này là loài nhiều chân.” Ngay cả khi tái sanh vào cảnh giới ngạ quỷ, ngài cũng biết rằng: “người này sẽ là loài bị đói khát thiêu đốt, người này là loài bị đói và khát, người này là loài sống nhờ của bố thí của người khác.” Và trong các nghiệp đó, ngài biết rằng: “nghiệp này sẽ kéo theo sự tái sanh, nghiệp này sẽ là nghiệp cho quả trong đời sống sau khi sự tái sanh đã được một nghiệp khác cho.”

Tathā sakalagāmavāsikesu ekato piṇḍapātaṃ dadamānesu kāmaṃ sabbesampi cetanā piṇḍapātārammaṇāva, taṃ pana kammaṃ tesaṃ nānākāraṃ. Tesu hi eko ādarena karotīti sabbaṃ purimasadisaṃ. Tasmā tesu ca keci devaloke nibbattanti, keci manussaloke. Taṃ tathāgato āyūhanakkhaṇeyeva jānāti. ‘‘Iminā nīhārena āyūhitattā esa manussaloke nibbattissati, esa devaloke, tatthāpi esa khattiyakule, esa brāhmaṇakule, esa vessakule, esa suddakule, esa paranimmitavasavattīsu, esa nimmānaratīsu, esa tusitesu, esa yāmesu, esa tāvatiṃsesu, esa cātumahārājikesu, esa bhummadevesū’’tiādinā tattha tattha hīnapaṇītasuvaṇṇadubbaṇṇaappaparivāramahāparivāratādibhedaṃ taṃ taṃ visesaṃ āyūhanakkhaṇeyeva jānāti.
Tương tự, khi tất cả dân làng cùng nhau dâng cúng vật thực, mặc dù ý của tất cả họ đều có cùng một đối tượng là vật thực, nhưng nghiệp đó của họ lại khác nhau. Thật vậy, trong số họ, một người làm một cách tôn trọng, tất cả đều giống như trường hợp trước. Do đó, trong số họ, một số người tái sanh vào cõi trời, một số người vào cõi người. Như Lai biết điều đó ngay trong khoảnh khắc tạo tác. Ngài biết ngay trong khoảnh khắc tạo tác rằng: “do đã tạo tác theo cách này, người này sẽ tái sanh vào cõi người, người này vào cõi trời; và trong đó, người này vào dòng dõi Sát-đế-lỵ, người này vào dòng dõi Bà-la-môn, người này vào dòng dõi Phệ-xá, người này vào dòng dõi Thủ-đà; người này vào cõi trời Tha Hóa Tự Tại, người này vào cõi Hóa Lạc Thiên, người này vào cõi Đâu-suất, người này vào cõi Dạ-ma, người này vào cõi Ba Mươi Ba, người này vào cõi Tứ Đại Thiên Vương, người này vào các cõi trời ở cõi đất,” và ngài biết rõ các sự khác biệt đó như hèn hạ, cao sang, xinh đẹp, xấu xí, ít hay nhiều tùy tùng v.v. ngay trong khoảnh khắc tạo tác.

Tathā vipassanaṃ paṭṭhapentesuyeva ‘‘iminā nīhārena esa kiñci sallakkhetuṃ na sakkhissati, esa mahābhūtamattameva vavatthapessati, esa rūpapariggahe eva ṭhassati, esa arūpapariggaheyeva, esa nāmarūpapariggaheyeva, esa paccayapariggaheyeva, esa lakkhaṇārammaṇikavipassanāyameva, esa paṭhamaphaleyeva, esa dutiyaphale eva, esa tatiyaphale eva, esa arahattaṃ pāpuṇissatī’’ti jānāti. Kasiṇaparikammaṃ karontesupi ‘‘imassa parikammamattameva bhavissati, esa nimittaṃ uppādessati, esa appanaṃ eva pāpuṇissati, esa jhānaṃ pādakaṃ katvā vipassanaṃ paṭṭhapetvā arahattaṃ gaṇhissatī’’ti jānāti.
Tương tự, ngay cả đối với những người đang bắt đầu tu tập tuệ quán, ngài cũng biết rằng: “do cách này, người này sẽ không thể nhận ra được điều gì; người này sẽ chỉ xác định được các đại; người này sẽ chỉ dừng lại ở việc nắm bắt sắc; người này sẽ chỉ dừng lại ở việc nắm bắt vô sắc; người này sẽ chỉ dừng lại ở việc nắm bắt danh và sắc; người này sẽ chỉ dừng lại ở việc nắm bắt các duyên; người này sẽ chỉ dừng lại ở tuệ quán có các tướng làm đối tượng; người này sẽ chỉ đắc quả đầu tiên; người này sẽ đắc quả thứ hai; người này sẽ đắc quả thứ ba; người này sẽ đắc quả A-la-hán.” Ngay cả đối với những người đang thực hành kasina, ngài cũng biết rằng: “người này sẽ chỉ thực hành được phần chuẩn bị; người này sẽ làm sanh khởi được tướng; người này sẽ chỉ đạt đến sự an chỉ; người này sẽ lấy thiền làm nền tảng, bắt đầu tu tập tuệ quán và sẽ đắc quả A-la-hán.”

Anekadhātunti cakkhudhātuādīhi, kāmadhātuādīhi vā dhātūhi bahudhātuṃ. Nānādhātunti tāsaṃyeva dhātūnaṃ vilakkhaṇattā nānappakāradhātuṃ. Lokanti khandhāyatanadhātulokaṃ. Yathābhūtaṃ pajānātīti tāsaṃ dhātūnaṃ aviparītato sabhāvaṃ paṭivijjhati.
(Thế giới) “có nhiều giới”: có nhiều giới do có các giới như nhãn giới v.v., hoặc do có các giới như dục giới v.v… (Thế giới) “có nhiều loại giới”: có nhiều loại giới do các giới đó có các đặc tính khác nhau. (Từ) “thế giới”: thế giới của các uẩn, các xứ, và các giới. “Biết rõ như thật”: ngài thâm nhập được bản chất không sai lạc của các giới đó.

Nānādhimuttikatanti hīnādīhi adhimuttīhi nānādhimuttikabhāvaṃ. Parasattānanti padhānasattānaṃ. Parapuggalānanti tato paresaṃ hīnasattānaṃ. Ekatthameva vā etaṃ padadvayaṃ, veneyyavasena pana dvedhā vuttaṃ. Indriyaparopariyattanti saddhādīnaṃ indriyānaṃ parabhāvañca aparabhāvañca, vuddhiñca hāniñcāti attho.
“Sự đa dạng về khuynh hướng”: trạng thái có nhiều khuynh hướng khác nhau do có các khuynh hướng hèn hạ v.v… “Của các chúng sanh khác”: của các chúng sanh chính. “Của các người khác”: của các chúng sanh hèn hạ hơn. Hoặc hai từ này chỉ có một ý nghĩa, nhưng được nói thành hai do tùy theo đối tượng có thể giáo hóa. “Sự hơn kém về các căn”: sự hơn và kém, sự tăng trưởng và suy giảm của các căn như tín v.v…

Jhānavimokkhasamādhisamāpattīnanti paṭhamādīnaṃ catunnaṃ jhānānaṃ, ‘‘rūpī rūpāni passatī’’tiādīnaṃ aṭṭhannaṃ vimokkhānaṃ, savitakkasavicārādīnaṃ tiṇṇaṃ samādhīnaṃ, paṭhamajjhānasamāpattiādīnañca navannaṃ anupubbasamāpattīnaṃ. Saṃkilesanti hānabhāgiyadhammaṃ. Vodānanti visesabhāgiyadhammaṃ. Vuṭṭhānanti ‘‘vodānampi vuṭṭhānaṃ, tamhā tamhā samādhimhā vuṭṭhānampi vuṭṭhāna’’nti (vibha. 828) evaṃ vuttaṃ paguṇajjhānañceva bhavaṅgaphalasamāpattiyo ca. Heṭṭhimaṃ heṭṭhimañhi paguṇajjhānaṃ uparimassa uparimassa padaṭṭhānaṃ hoti, tasmā ‘‘vodānampi vuṭṭhāna’’nti vuttaṃ. Bhavaṅgena sabbajhānehi vuṭṭhānaṃ hoti, phalasamāpattiyā nirodhasamāpattito vuṭṭhānaṃ hoti. Tametaṃ sandhāya ‘‘tamhā tamhā samādhimhā vuṭṭhānampi vuṭṭhāna’’nti vuttaṃ. Sabbañāṇānañca vitthārakathāya vinicchayo sammohavinodaniyaṃ vibhaṅgaṭṭhakathāyaṃ (vibha. aṭṭha. 760) vutto. Pubbenivāsānussatidibbacakkhuāsavakkhayañāṇakathā pana verañjakaṇḍe (pārā. 12) vitthāritāyeva.
“Của các thiền, các sự giải thoát, các định, và các định chứng”: của bốn thiền bắt đầu bằng sơ thiền; của tám sự giải thoát bắt đầu bằng “người có sắc thấy các sắc;” của ba định là có tầm có tứ v.v.; và của chín định chứng tuần tự bắt đầu bằng định chứng sơ thiền. (Sự) “ô uế”: pháp thuộc về sự suy thoái. (Sự) “trong sạch”: pháp thuộc về sự thù thắng. (Sự) “xuất khởi”: thiền đã được thuần thục và cả tâm hữu phần và quả định chứng đã được nói đến là “sự trong sạch cũng là sự xuất khởi, và sự xuất khởi khỏi các định đó cũng là sự xuất khởi” (vibha. 828). Thật vậy, thiền đã được thuần thục ở dưới trở thành nền tảng cho thiền ở trên, do đó đã được nói: “sự trong sạch cũng là sự xuất khởi.” Sự xuất khởi khỏi tất cả các thiền là do tâm hữu phần. Sự xuất khởi khỏi định diệt thọ tưởng là do quả định chứng. Nhắm đến điều đó đã được nói: “sự xuất khởi khỏi các định đó cũng là sự xuất khởi.” Và phần giải thích chi tiết và quyết định về tất cả các trí tuệ đã được nói trong sách Sammohavinodanī, Chú Giải Phân Tích (vibha. aṭṭha. 760). Còn câu chuyện về túc mạng minh, thiên nhãn minh, và lậu tận minh thì đã được giải thích chi tiết trong đoạn Verañja (pārā. 12).

Imāni kho sāriputtāti yāni pubbe ‘‘dasa kho panimāni, sāriputta, tathāgatassa tathāgatabalānī’’ti avocaṃ, imāni tānīti appanaṃ karoti. Tattha paravādikathā hoti ‘‘dasabalañāṇaṃ nāma pāṭiyekkaṃ natthi, sabbaññutaññāṇassevāyaṃ pabhedo’’ti, taṃ na tathā daṭṭhabbaṃ. Aññameva hi dasabalañāṇaṃ, aññaṃ sabbaññutaññāṇaṃ. Dasabalañāṇaṃ sakasakakiccameva jānāti, sabbaññutaññāṇaṃ tampi tato avasesampi pajānāti. Dasabalañāṇesu hi paṭhamaṃ kāraṇākāraṇameva jānāti, dutiyaṃ kammantaravipākantarameva, tatiyaṃ kammaparicchedameva, catutthaṃ dhātunānattakāraṇameva , pañcamaṃ sattānaṃ ajjhāsayādhimuttimeva, chaṭṭhaṃ indriyānaṃ tikkhamudubhāvameva, sattamaṃ jhānādīhi saddhiṃ tesaṃ saṃkilesādimeva, aṭṭhamaṃ pubbenivutthakkhandhasantatimeva, navamaṃ sattānaṃ cutipaṭisandhimeva, dasamaṃ saccaparicchedameva. Sabbaññutaññāṇaṃ pana etehi jānitabbañca tato uttariñca pajānāti, etesaṃ pana kiccaṃ na sabbaṃ karoti. Tañhi jhānaṃ hutvā appetuṃ na sakkoti, iddhi hutvā vikubbituṃ na sakkoti, maggo hutvā kilese khepetuṃ na sakkoti. Iti yathāvuttakāyabalena ceva ñāṇabalena ca samannāgatattā bhagavā ‘‘dasabalo’’ti vuccati.
“Này Sāriputta, đây là”: những gì ta đã nói trước đây rằng: “Này Sāriputta, có mười lực này của Như Lai,” đây chính là những điều đó. Ngài đã khẳng định như vậy. Ở đây, có lời của những người theo phái khác rằng: “trí tuệ về mười lực không phải là riêng biệt, đây chỉ là một sự phân chia của toàn giác tuệ,” điều đó không nên được xem như vậy. Thật vậy, trí tuệ về mười lực là khác, toàn giác tuệ là khác. Trí tuệ về mười lực chỉ biết phận sự của riêng mình, còn toàn giác tuệ thì biết cả điều đó và cả những điều còn lại. Thật vậy, trong các trí tuệ về mười lực, trí tuệ đầu tiên chỉ biết nguyên nhân và không phải nguyên nhân; trí tuệ thứ hai chỉ biết các quả báo khác nhau của nghiệp; trí tuệ thứ ba chỉ biết sự phân định của nghiệp; trí tuệ thứ tư chỉ biết nguyên nhân của sự đa dạng của các giới; trí tuệ thứ năm chỉ biết các khuynh hướng và thiên hướng của chúng sanh; trí tuệ thứ sáu chỉ biết sự sắc bén và yếu ớt của các căn; trí tuệ thứ bảy chỉ biết sự ô uế v.v. của các thiền v.v. cùng với chúng; trí tuệ thứ tám chỉ biết dòng tương tục của các uẩn đã sống trong quá khứ; trí tuệ thứ chín chỉ biết sự chết và sự tái sanh của chúng sanh; trí tuệ thứ mười chỉ biết sự phân định các chân lý. Còn toàn giác tuệ thì biết cả những điều cần được biết bởi các trí tuệ này và cả những điều cao hơn nữa, nhưng nó không làm tất cả phận sự của chúng. Thật vậy, nó không thể trở thành thiền để an chỉ, không thể trở thành thần thông để biến hóa, không thể trở thành đạo để tiêu diệt các phiền não. Như vậy, do được trang bị bằng lực của thân và lực của trí tuệ đã được nói như trên, đức Thế Tôn được gọi là “bậc Thập Lực.”

Dasahi asekkhehi aṅgehi upetoti ‘‘asekkhā sammādiṭṭhi, asekkho sammāsaṅkappo, asekkhā sammāvācā, asekkho sammākammanto, asekkho sammāājīvo, asekkho sammāvāyāmo, asekkhā sammāsati, asekkho sammāsamādhi, asekkhaṃ sammāñāṇaṃ, asekkhā sammāvimuttī’’ti (dī. ni. 3.348, 360) evaṃ vuttehi dasahi asekkhadhammehi samannāgato. Asekkhā sammādiṭṭhiādayo ca sabbe phalasampayuttadhammā eva. Ettha ca sammādiṭṭhi sammāñāṇanti dvīsu ṭhānesu paññāva kathitā ‘‘sammā dassanaṭṭhena sammādiṭṭhi, sammā pajānanaṭṭhena sammāñāṇa’’nti. Atthi hi dassanajānanānaṃ visaye pavattiākāraviseso. Sammāvimuttīti iminā pana padena vuttāvasesā phalasamāpattisahagatadhammā saṅgahitāti veditabbā . Ariyaphalasampayuttadhammāpi hi sabbaso paṭipakkhato vimuttataṃ upādāya vimuttīti vattabbataṃ labhanti.
(Người) “có được mười chi phần của bậc vô học”: người có được mười pháp của bậc vô học đã được nói đến như sau: “chánh kiến của bậc vô học, chánh tư duy của bậc vô học, chánh ngữ của bậc vô học, chánh nghiệp của bậc vô học, chánh mạng của bậc vô học, chánh tinh tấn của bậc vô học, chánh niệm của bậc vô học, chánh định của bậc vô học, chánh trí của bậc vô học, và chánh giải thoát của bậc vô học” (dī. ni. 3.348, 360). Và tất cả các pháp bắt đầu bằng chánh kiến của bậc vô học đều chính là các pháp tương ưng với quả. Ở đây, chánh kiến và chánh trí, trong hai trường hợp, chính trí tuệ đã được nói đến là: “chánh kiến do có ý nghĩa là thấy một cách đúng đắn, chánh trí do có ý nghĩa là biết một cách đúng đắn.” Thật vậy, có sự khác biệt về cách thức hoạt động trong đối tượng của sự thấy và sự biết. Cần được hiểu rằng bằng từ chánh giải thoát này, các pháp còn lại đi cùng với quả định chứng đã được bao hàm. Thật vậy, các pháp tương ưng với Thánh quả cũng được gọi là giải thoát do đã được giải thoát hoàn toàn khỏi các pháp đối nghịch.

59.Vacanasaddena appasaddanti ārāmupacārena gacchato addhikajanassapi vacanasaddena appasaddaṃ. Nagaranigghosasaddenāti avibhāvitatthena nagare manussānaṃ nigghosasaddena. Manussehi samāgamma ekajjhaṃ pavattitasaddo hi nigghoso. Anusañcaraṇajanassāti antosañcārino janassa. Manussānaṃ rahassakiriyaṭṭhāniyanti manussānaṃ rahassakaraṇassa yuttaṃ anucchavikaṃ. Vivekānurūpanti ekībhāvassa anurūpaṃ. Sesamettha uttānameva.
59. (Nơi) “ít tiếng nói”: ít tiếng nói của những người đi đường qua lại trong phạm vi tu viện. (Bởi) “tiếng ồn của thành phố”: bởi tiếng ồn của những người trong thành phố với ý nghĩa không được phân biệt. Thật vậy, tiếng ồn là âm thanh được phát ra cùng lúc khi con người tụ tập lại. “Của những người đi lại”: của những người đi lại ở bên trong. “Là nơi thích hợp để con người làm những việc kín đáo”: là nơi phù hợp, thích hợp cho việc làm những việc kín đáo của con người. “Phù hợp với sự vắng lặng”: phù hợp với trạng thái một mình. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Bimbisārasamāgamakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Gặp Gỡ Vua Bimbisāra đã kết thúc.

Sāriputtamoggallānapabbajjākathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Xuất Gia Của Sāriputta và Moggallāna

60. Idāni ‘‘tena kho pana samayena sañcayo paribbājako’’tiādīsu apubbapadavaṇṇanaṃ dassento ‘‘sāriputtamoggallānā’’tiādimāha. Tattha sārībrāhmaṇiyā putto sāriputto, moggallībrāhmaṇiyā putto moggallāno. Amhākaṃ kira (a. ni. aṭṭha. 1.1.189-190; dha. pa. aṭṭha. 1.10 sāriputtattheravatthu) bhagavato nibbattito puretarameva sāriputto rājagahanagarassa avidūre upatissagāme sārībrāhmaṇiyā nāma kucchiyaṃ paṭisandhiṃ gaṇhi. Taṃdivasamevassa sahāyopi rājagahasseva avidūre kolitagāme moggallībrāhmaṇiyā kucchiyaṃ paṭisandhiṃ gaṇhi. Tāni kira dvepi kulāni yāva sattamā kulaparivaṭṭā ābaddhapaṭibaddhasahāyāneva. Tesaṃ dvinnaṃ ekadivasameva gabbhaparihāraṃ adaṃsu. Dasamāsaccayena jātānampi tesaṃ chasaṭṭhi dhātiyo upanayiṃsu. Nāmaggahaṇadivase sārībrāhmaṇiyā puttassa upatissagāme jeṭṭhakulassa puttattā ‘‘upatisso’’ti nāmaṃ akaṃsu, itarassa kolitagāme jeṭṭhakulassa puttattā ‘‘kolito’’ti nāmaṃ akaṃsu. Tena vuttaṃ ‘‘gihikāle upatisso kolitoti evaṃ paññāyamānanāmā’’ti.
60. Bây giờ, để trình bày phần diễn giải các từ chưa được giải thích trong các câu bắt đầu bằng “Khi ấy, du sĩ Sañjaya,” (kinh) đã được bắt đầu bằng (câu) “Sāriputta và Moggallāna.” Ở đó, con trai của bà-la-môn-nữ Sārī là Sāriputta; con trai của bà-la-môn-nữ Moggallī là Moggallāna. Tương truyền rằng (a. ni. aṭṭha. 1.1.189-190; dha. pa. aṭṭha. 1.10 sāriputtattheravatthu), ngay cả trước khi đức Thế Tôn của chúng ta ra đời, Sāriputta đã thọ sanh trong bụng của một bà-la-môn-nữ tên là Sārī ở làng Upatissa, không xa thành Rājagaha. Ngay trong ngày đó, người bạn của ngài cũng đã thọ sanh trong bụng của một bà-la-môn-nữ Moggallī ở làng Kolita, không xa thành Rājagaha. Tương truyền rằng cả hai gia đình đó đã là bạn bè thân thiết với nhau cho đến bảy đời. Họ đã cùng nhau mang thai trong cùng một ngày. Khi các ngài được sinh ra sau mười tháng, sáu mươi sáu vị nhũ mẫu đã được sắp đặt. Vào ngày đặt tên, con trai của bà-la-môn-nữ Sārī, do là con của một gia đình đứng đầu ở làng Upatissa, đã được đặt tên là “Upatissa.” Người còn lại, do là con của một gia đình đứng đầu ở làng Kolita, đã được đặt tên là “Kolita.” Do đó đã được nói: “vào thời tại gia, các ngài có tên được biết đến là Upatissa và Kolita.”

Aḍḍhateyyasatamāṇavakaparivārāti ettha pañcapañcasatamāṇavakaparivārātipi vadanti. Vuttañhetaṃ aṅguttaranikāyaṭṭhakathāyaṃ (a. ni. aṭṭha. 1.1.189-190) –
(Với) “đoàn tùy tùng gồm hai trăm năm mươi thanh niên”: ở đây, người ta cũng nói là với đoàn tùy tùng gồm năm trăm thanh niên mỗi vị. Điều này đã được nói trong Chú Giải Tăng Chi Bộ (a. ni. aṭṭha. 1.1.189-190) –

‘‘Upatissamāṇavakassa kīḷanatthāya nadiṃ vā uyyānaṃ vā gamanakāle pañca suvaṇṇasivikāsatāni parivārāni honti, kolitamāṇavakassa pañca ājaññarathasatāni. Dvepi janā pañcapañcamāṇavakasataparivārā hontī’’ti.
“Khi thanh niên Upatissa đi đến sông hoặc vườn để vui chơi, có năm trăm chiếc kiệu vàng làm đoàn tùy tùng. Đối với thanh niên Kolita, có năm trăm cỗ xe ngựa quý. Cả hai người đều có đoàn tùy tùng gồm năm trăm thanh niên mỗi vị.”

Rājagahe ca anusaṃvaccharaṃ giraggasamajjaṃ nāma hoti. Tesaṃ dvinnampi ekaṭṭhāneyeva mañcakaṃ bandhanti. Dvepi ekatova nisīditvā samajjaṃ passitvā hasitabbaṭṭhāne hasanti, saṃvegaṭṭhāne saṃvijjanti, dāyaṃ dātuṃ yuttaṭṭhāne dāyaṃ denti. Tesaṃ imināva niyāmena ekadivasaṃ samajjaṃ passantānaṃ paripākagatattā ñāṇassa purimadivasesu viya hasitabbaṭṭhāne hāso vā saṃvegaṭṭhāne saṃvijjanaṃ vā dāyaṃ dātuṃ yuttaṭṭhāne dāyadānaṃ vā nāhosi. Dvepi pana janā evaṃ cintayiṃsu ‘‘kiṃ ettha oloketabbaṃ atthi, sabbepime appatte vassasate apaṇṇattikabhāvaṃ gamissanti, amhehi pana ekaṃ mokkhadhammaṃ gavesituṃ vaṭṭatī’’ti ārammaṇaṃ gahetvā nisīdiṃsu. Tato kolito upatissaṃ āha ‘‘samma upatissa, na tvaṃ aññadivasesu viya haṭṭhapahaṭṭho, anattamanadhātukosi, kiṃ te sallakkhita’’nti. ‘‘Samma kolita, etesaṃ olokane sāro natthi, niratthakametaṃ, attano mokkhadhammaṃ gavesituṃ vaṭṭatī’’ti idaṃ cintayanto nisinnomhīti. Tvaṃ pana kasmā anattamanoti. Sopi tatheva āha. Athassa attanā saddhiṃ ekajjhāsayataṃ ñatvā upatisso evamāha ‘‘amhākaṃ ubhinnaṃ sucintitaṃ, mokkhadhammaṃ pana gavesantehi ekā pabbajjā laddhuṃ vaṭṭati, kassa santike pabbajāmā’’ti.
Và ở Rājagaha, hằng năm đều có một lễ hội trên đỉnh núi. Người ta cũng dựng một khán đài ở cùng một nơi cho cả hai người. Cả hai cùng ngồi xem lễ hội, cười ở những chỗ đáng cười, cảm động ở những chỗ đáng cảm động, và cho quà ở những chỗ đáng cho. Khi họ đang xem lễ hội theo cách này vào một ngày nọ, do trí tuệ đã đến lúc chín muồi, đã không có sự cười ở những chỗ đáng cười, hay sự cảm động ở những chỗ đáng cảm động, hay sự cho quà ở những chỗ đáng cho như những ngày trước. Cả hai người đều suy nghĩ như sau: “có gì đáng xem ở đây? Tất cả những người này, chưa đến một trăm tuổi, đều sẽ đi đến chỗ không còn được biết đến. Chúng ta thì nên tìm kiếm một giáo pháp giải thoát,” và đã ngồi xuống với ý định đó. Khi ấy, Kolita đã nói với Upatissa: “Này bạn Upatissa, bạn không vui vẻ, hân hoan như những ngày khác, bạn có vẻ không vui, bạn đã nhận thấy điều gì?” “Này bạn Kolita, việc xem những thứ này không có gì là cốt lõi, nó thật vô nghĩa, chúng ta nên tìm kiếm giáo pháp giải thoát cho chính mình,” tôi đã ngồi đây suy nghĩ điều này. “Còn bạn, tại sao lại không vui?” Vị kia cũng nói như vậy. Khi ấy, sau khi biết được rằng người kia có cùng ý định với mình, Upatissa đã nói như sau: “chúng ta cả hai đều đã suy nghĩ rất đúng đắn. Nhưng những người tìm kiếm giáo pháp giải thoát thì nên có một sự xuất gia. Chúng ta nên xuất gia ở gần ai?”

Tena kho pana samayena sañcayo paribbājako rājagahe paṭivasati mahatiyā paribbājakaparisāya saddhiṃ. Te ‘‘tassa santike pabbajissāmā’’ti pañcahi māṇavakasatehi saddhiṃ sañcayassa santike pabbajiṃsu. Tesaṃ pabbajitakālato paṭṭhāya sañcayo atirekalābhaggayasaggappatto ahosi. Te katipāheneva sabbaṃ sañcayassa samayaṃ parimadditvā ‘‘ācariya, tumhākaṃ jānanasamayo ettakova, udāhu uttaripi atthī’’ti pucchiṃsu. Sañcayo ‘‘ettakova, sabbaṃ tumhehi ñāta’’nti āha. Tassa kathaṃ sutvā cintayiṃsu ‘‘evaṃ sati imassa santike brahmacariyavāso niratthako, mayaṃ mokkhadhammaṃ gavesituṃ nikkhantā, so imassa santike uppādetuṃ na sakkā, mahā kho pana jambudīpo, gāmanigamarājadhāniyo carantā avassaṃ mokkhadhammadesakaṃ ācariyaṃ labhissāmā’’ti. Te tato paṭṭhāya ‘‘yattha yattha paṇḍitā samaṇabrāhmaṇā atthī’’ti suṇanti, tattha tattha gantvā pañhasākacchaṃ karonti, tehi puṭṭhaṃ pañhaṃ añño kathetuṃ samattho nāma natthi, te pana tesaṃ pañhaṃ vissajjenti. Evaṃ sakalajambudīpaṃ pariggaṇhitvā nivattitvā sakaṭṭhānameva āgantvā ‘‘samma kolita, yo paṭhamaṃ amataṃ adhigacchati , so ārocetū’’ti katikaṃ akaṃsu. Imameva vatthuṃ saṅkhipitvā dassento ‘‘tatra nesaṃ mahājanaṃ disvā…pe… katikaṃ akaṃsū’’ti āha.
Vào lúc đó, du sĩ Sañjaya đang sống ở Rājagaha cùng với một đoàn du sĩ đông đảo. Họ đã nghĩ rằng: “chúng ta sẽ xuất gia ở gần vị ấy,” và đã cùng với năm trăm thanh niên xuất gia ở gần Sañjaya. Kể từ khi họ xuất gia, Sañjaya đã đạt được lợi dưỡng và danh vọng tột bậc. Chỉ trong vài ngày, họ đã thông thạo toàn bộ học thuyết của Sañjaya và đã hỏi: “Thưa thầy, học thuyết mà thầy biết chỉ có bấy nhiêu thôi, hay còn có điều gì cao hơn nữa?” Sañjaya đã nói: “Chỉ có bấy nhiêu thôi, tất cả các ông đều đã biết.” Khi nghe lời nói của ông ta, họ đã suy nghĩ: “nếu vậy, việc sống phạm hạnh ở gần vị này là vô ích. Chúng ta đã ra đi để tìm kiếm giáo pháp giải thoát, điều đó không thể được tạo ra ở gần vị này. Nhưng cõi Diêm-phù-đề thì rộng lớn, khi đi qua các làng, thị trấn, kinh thành, chắc chắn chúng ta sẽ tìm được một vị thầy thuyết giảng giáo pháp giải thoát.” Kể từ đó, bất cứ nơi nào họ nghe nói: “có các vị sa-môn, bà-la-môn hiền trí,” họ đều đến đó và thảo luận các câu hỏi. Không có ai có thể trả lời được câu hỏi do họ đặt ra, nhưng họ lại trả lời được câu hỏi của những người đó. Sau khi đã đi khắp cõi Diêm-phù-đề như vậy, họ đã quay trở lại và đến chính nơi ở của mình và đã giao ước rằng: “Này bạn Kolita, ai chứng ngộ được sự bất tử trước, người đó hãy cho người kia biết.” Để trình bày tóm tắt câu chuyện này, (kinh) đã nói: “ở đó, sau khi đã thấy đám đông… này… đã giao ước với nhau.”

Tattha channaparibbājakassāti setapaṭadharassa paribbājakassa. Tena nāyaṃ naggaparibbājakoti dasseti. Pāsādikena abhikkantenātiādīsu pāsādikenāti pasādāvahena sāruppena samaṇānucchavikena. Abhikkantenāti gamanena. Paṭikkantenāti nivattanena. Ālokitenāti purato dassanena. Vilokitenāti ito cito dassanena. Samiñjitenāti pabbasaṅkocanena. Pasāritenāti tesaṃyeva pasāraṇena. Sabbattha itthambhūtalakkhaṇe karaṇavacanaṃ, tasmā satisampajaññakehi vabhisaṅkhatattā pāsādikaabhikkantapaṭikkantaālokitavilokitasamiñjitapasārito hutvāti vuttaṃ hoti. Okkhittacakkhūti heṭṭhākhittacakkhu. Iriyāpathasampannoti tāya pāsādikaabhikkantāditāya sampannairiyāpatho. Atthikehi upaññātanti ‘‘maraṇe sati amatenapi bhavitabba’’nti evaṃ anumānañāṇena ‘‘atthī’’ti upagataṃ nibbānaṃ nāma, taṃ magganto pariyesanto yannūnāhaṃ imaṃ bhikkhuṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandheyyanti sambandho. Sudinnakaṇḍe vuttappakāranti ‘‘dānapatīnaṃ gharesu sālā honti, āsanāni cettha paññattāni honti, upaṭṭhāpitaṃ udakakañjiyaṃ, tattha pabbajitā piṇḍāya caritvā nisīditvā bhuñjanti. Sace icchanti, dānapatīnampi santakaṃ gaṇhanti, tasmā tampi aññatarassa kulassa īdisāya sālāya aññataraṃ kuṭṭamūlanti veditabba’’nti evaṃ vuttappakāraṃ.
Ở đây, (của) “vị du sĩ mặc y trắng”: của vị du sĩ mặc vải trắng. Bằng điều này, (kinh) cho thấy đây không phải là một vị du sĩ lõa thể. (Với) “dáng đi trang nghiêm” v.v., (từ) “pāsādikena” (trang nghiêm): làm phát sanh lòng tin, phù hợp, thích hợp với một vị sa-môn. (Với) “sự đi tới”: với sự đi. (Với) “sự quay về”: với sự trở lại. (Với) “sự nhìn thẳng”: với sự nhìn về phía trước. (Với) “sự liếc nhìn”: với sự nhìn qua lại. (Với) “sự co lại”: với sự co các khớp lại. (Với) “sự duỗi ra”: với sự duỗi chính chúng ra. Ở khắp mọi nơi, đây là cách dùng công cụ cách trong ý nghĩa là đặc điểm của hành động, do đó ý nói là: đã trở thành người có dáng đi, quay về, nhìn thẳng, liếc nhìn, co lại, và duỗi ra trang nghiêm do được thực hiện với chánh niệm và tỉnh giác. (Người) “có mắt nhìn xuống”: có mắt nhìn xuống dưới. (Người) “có oai nghi hoàn hảo”: người có oai nghi hoàn hảo do có dáng đi trang nghiêm đó v.v… (Sự bất tử) “được biết đến bởi những người tìm cầu”: Niết-bàn được biết đến là “có” bằng trí tuệ suy luận rằng: “khi có sự chết, cũng phải có sự bất tử.” Trong khi đang tìm kiếm, đang truy tầm nó, (tôi nên làm gì), có lẽ ta nên đi theo sau vị Tỳ-khưu này. Cần được liên kết như vậy. “Cách thức đã được nói trong đoạn Sudinna”: cách thức đã được nói như sau: “trong nhà của các thí chủ, có các sảnh đường, và ở đó có các chỗ ngồi đã được soạn sẵn, nước cháo đã được chuẩn bị. Ở đó, các vị Tỳ-khưu sau khi đi khất thực, đã ngồi xuống và ăn. Nếu muốn, họ cũng nhận của cải của các thí chủ. Do đó, cần được hiểu rằng đó cũng là một gốc tường nào đó của một sảnh đường như vậy của một gia đình nào đó.”

Appaṃ vā bahuṃ vā bhāsassūti paribbājako ‘‘ahaṃ upatisso nāma, tvaṃ yathāsattiyā appaṃ vā bahuṃ vā pāvada, etaṃ nayasatena nayasahassena paṭivijjhituṃ mayhaṃ bhāro’’ti cintetvā evamāha. Nirodho ca nirodhupāyo ca ekadesasarūpekasesanayena ‘‘nirodho’’ti vuttoti dassento ‘‘atha vā’’tiādimāha. Paṭipādentoti nigamento. Imaṃ dhammapariyāyaṃ sutvā virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādīti ettha paribbājako paṭhamapadadvayameva sutvā sahassanayasampanne sotāpattiphale patiṭṭhahi. Itarapadadvayaṃ sotāpannakāle niṭṭhāsīti veditabbaṃ.
“Xin hãy nói ít hay nhiều”: vị du sĩ đã nghĩ rằng: “ta là Upatissa, ngài cứ tùy sức mà nói ít hay nhiều, việc thâm nhập điều đó bằng một trăm, một nghìn phương pháp là trách nhiệm của ta,” và đã nói như vậy. Để trình bày rằng sự đoạn diệt và phương pháp đoạn diệt đã được nói là “sự đoạn diệt” theo phương pháp nói một phần về bản chất và một phần về kết quả, (kinh) đã nói câu bắt đầu bằng “Hoặc là.” (Từ) “khi đang kết luận”: khi đang kết thúc. “Sau khi đã nghe bài pháp thoại này, pháp nhãn không còn bụi bặm, không còn cấu uế đã sanh khởi”: ở đây, vị du sĩ, sau khi chỉ nghe hai câu đầu tiên, đã an trú trong quả Tu-đà-hoàn có được một nghìn phương pháp. Cần được hiểu rằng hai câu còn lại đã được hoàn tất vào lúc là một vị Tu-đà-hoàn.

Bahukehi kappanahutehīti ettha dasa dasakāni sataṃ, dasa satāni sahassaṃ, sahassānaṃ sataṃ satasahassaṃ, satasahassānaṃ sataṃ koṭi, koṭisatasahassānaṃ sataṃ pakoṭi, pakoṭisatasahassānaṃ sataṃ koṭipakoṭi, koṭipakoṭisatasahassānaṃ sataṃ ekanahutanti veditabbaṃ.
“Bởi nhiều nahuta kiếp”: ở đây, cần được hiểu rằng mười lần mười là một trăm; mười lần một trăm là một nghìn; một trăm lần một nghìn là một trăm nghìn; một trăm lần một trăm nghìn là một ức (koṭi); một trăm lần một trăm nghìn ức là một pakoṭi; một trăm lần một trăm nghìn pakoṭi là một koṭipakoṭi; một trăm lần một trăm nghìn koṭipakoṭi là một nahuta.

61.Athakho sāriputto paribbājako yena moggallāno paribbājako tenupasaṅkamīti (a. ni. aṭṭha. 1.1.189-190; dha. pa. aṭṭha. 1.10 sāriputtattheravatthu) sotāpanno hutvā uparivisese appavattante ‘‘bhavissati ettha kāraṇa’’nti sallakkhetvā theraṃ āha ‘‘bhante, mā upari dhammadesanaṃ vaḍḍhayittha, ettakameva hotu, kahaṃ amhākaṃ satthā vasatī’’ti. Veḷuvane paribbājakāti. ‘‘Bhante, tumhe purato yātha, mayhaṃ eko sahāyako atthi, amhehi ca aññamaññaṃ katikā katā ‘yo paṭhamaṃ amataṃ adhigacchati, so ārocetū’ti, ahaṃ taṃ paṭiññaṃ mocetvā sahāyakaṃ gahetvā tumhākaṃ gatamaggeneva satthu santikaṃ āgamissāmī’’ti pañcapatiṭṭhitena therassa pādesu nipatitvā tikkhattuṃ padakkhiṇaṃ katvā theraṃ uyyojetvā paribbājakārāmābhimukho agamāsi.
61. “Khi ấy, du sĩ Sāriputta đã đến gần du sĩ Moggallāna”: (a. ni. aṭṭha. 1.1.189-190; dha. pa. aṭṭha. 1.10 sāriputtattheravatthu) sau khi đã trở thành một vị Tu-đà-hoàn, khi không có sự tiến triển ở các tầng bậc cao hơn, đã nhận ra rằng: “chắc hẳn có một lý do nào đó ở đây,” và đã nói với vị trưởng lão: “Bạch ngài, xin ngài đừng thuyết giảng thêm nữa, chỉ bấy nhiêu thôi là đủ rồi. Bậc Đạo Sư của chúng ta đang ở đâu?” Vị du sĩ ở Veḷuvana. “Bạch ngài, xin ngài hãy đi trước. Con có một người bạn, và chúng con đã giao ước với nhau rằng: ‘ai chứng ngộ được sự bất tử trước, người đó hãy cho người kia biết.’ Con sẽ giải thoát khỏi lời hứa đó, dẫn người bạn đi và sẽ đến gần bậc Đạo Sư theo chính con đường ngài đã đi.” Sau khi đã cúi mình dưới chân vị trưởng lão bằng năm điểm chạm đất, đã đi nhiễu quanh ba vòng, và đã tiễn vị trưởng lão đi, chàng đã đi về hướng tu viện của các du sĩ.

62.Sāriputtaṃ paribbājakaṃ etadavocāti ‘‘ajja mayhaṃ sahāyassa mukhavaṇṇo na aññadivasesu viya, addhā anena amataṃ adhigataṃ bhavissatī’’ti amatādhigamaṃ pucchanto etadavoca. Sopissa ‘‘āmāvuso, amataṃ adhigata’’nti paṭijānitvā sabbaṃ pavattiṃ ārocetvā tameva gāthaṃ abhāsi. Gāthāpariyosāne moggallāno paribbājako sotāpattiphale patiṭṭhahi. Tena vuttaṃ ‘‘atha kho moggallānassa paribbājakassa…pe… dhammacakkhuṃ udapādī’’ti. Gacchāma mayaṃ, āvuso, bhagavato santiketi ‘‘kahaṃ samma satthā vasatī’’ti pucchitvā ‘‘veḷuvane kira samma, evaṃ no ācariyena assajittherena kathita’’nti vutte evamāha.
62. “Đã nói lời này với du sĩ Sāriputta”: “hôm nay, sắc mặt của bạn tôi không giống như những ngày khác, chắc chắn bạn ấy đã chứng ngộ được sự bất tử,” trong khi đang hỏi về sự chứng ngộ bất tử, đã nói lời này. Vị kia cũng đã thừa nhận: “đúng vậy, thưa hiền hữu, sự bất tử đã được chứng ngộ,” và đã kể lại toàn bộ sự việc, rồi đã nói lại chính bài kệ đó. Khi bài kệ kết thúc, du sĩ Moggallāna đã an trú trong quả Tu-đà-hoàn. Do đó đã được nói: “Khi ấy, đối với du sĩ Moggallāna… này… pháp nhãn đã sanh khởi.” “Chúng ta hãy đi, thưa hiền hữu, đến gần đức Thế Tôn”: sau khi đã hỏi: “này bạn, bậc Đạo Sư đang ở đâu?” và được trả lời rằng: “tương truyền rằng ở Veḷuvana, này bạn; thầy của chúng ta là trưởng lão Assaji đã nói như vậy,” đã nói như thế.

Sāriputtatthero ca nāmesa sadāpi ācariyapūjakova, tasmā sahāyaṃ moggallānaṃ paribbājakaṃ evamāha ‘‘amhehi adhigataṃ amataṃ amhākaṃ ācariyassa sañcayaparibbājakassapi kathessāma, bujjhamāno paṭivijjhissati, appaṭivijjhanto amhākaṃ saddahitvā satthu santikaṃ gamissati, buddhānaṃ desanaṃ sutvā maggaphalappaṭivedhaṃ karissatī’’ti. Tato dvepi janā sañcayassa santikaṃ agamaṃsu. Tena vuttaṃ ‘‘atha kho sāriputtamoggallānā yena sañcayo paribbājako tenupasaṅkamiṃsū’’ti. Upasaṅkamitvā ca ‘‘ācariya, tvaṃ kiṃ karosi, loke buddho uppanno, svākkhāto dhammo, suppaṭipanno saṅgho, āyāma dasabalaṃ passissāmā’’ti. So ‘‘kiṃ vadatha tātā’’ti tepi vāretvā lābhaggayasaggappavattimeva nesaṃ dīpeti. Te ‘‘amhākaṃ evarūpo antevāsikavāso niccameva hotu, tumhākaṃ pana gamanaṃ vā agamanaṃ vā jānāthā’’ti āhaṃsu. Sañcayo ‘‘ime ettakaṃ jānantā mama vacanaṃ na karissantī’’ti ñatvā ‘‘gacchatha tumhe tātā, ahaṃ mahallakakāle antevāsikavāsaṃ vasituṃ na sakkomī’’ti āha. Te anekehipi kāraṇasatehi taṃ bodhetuṃ asakkontā attano ovāde vattamānaṃ janaṃ ādāya veḷuvanaṃ agamaṃsu. Pañcasu antevāsikasatesu aḍḍhateyyasatā nivattiṃsu, aḍḍhateyyasatā tehi saddhiṃ agamaṃsu. Tena vuttaṃ ‘‘atha kho sāriputtamoggallānā tāni aḍḍhateyyāni paribbājakasatāni ādāya yena veḷuvanaṃ tenupasaṅkamiṃsū’’ti.
Và trưởng lão Sāriputta, vốn luôn luôn là người tôn kính thầy, do đó đã nói với người bạn là du sĩ Moggallāna như sau: “chúng ta hãy nói về sự bất tử mà chúng ta đã chứng ngộ cho thầy của chúng ta là du sĩ Sañjaya, nếu hiểu được, ông ấy sẽ thâm nhập; nếu không thâm nhập, ông ấy sẽ tin chúng ta và đến gần bậc Đạo Sư; sau khi nghe bài thuyết pháp của các đức Phật, ông ấy sẽ thực hiện sự thâm nhập đạo và quả.” Khi ấy, cả hai người đã đến gần Sañjaya. Do đó đã được nói: “Khi ấy, Sāriputta và Moggallāna đã đến gần du sĩ Sañjaya.” Và sau khi đã đến gần, họ đã nói: “Thưa thầy, thầy đang làm gì? Phật đã xuất hiện trên thế gian, giáo pháp đã được khéo thuyết, Tăng chúng đã thực hành tốt đẹp. Chúng ta hãy đi đến để gặp bậc Thập Lực.” Ông ta nói: “các con nói gì vậy,” và đã ngăn cản họ, chỉ trình bày cho họ về sự phát triển của lợi dưỡng và danh vọng. Họ đã nói: “mong rằng sự sống của hàng đệ tử như chúng con sẽ luôn luôn như vậy đối với thầy. Còn việc đi hay không đi của thầy, xin thầy hãy tự biết.” Sañjaya, sau khi biết rằng: “những người này, khi đã biết nhiều như vậy, sẽ không làm theo lời của ta,” đã nói: “các con hãy đi đi, ta lúc già cả không thể sống cuộc đời của hàng đệ tử được.” Họ, sau khi đã không thể làm cho ông ta giác ngộ bằng hàng trăm lý do, đã dẫn theo những người nghe theo lời khuyên của mình và đi đến Veḷuvana. Trong số năm trăm vị đệ tử, hai trăm năm mươi vị đã quay trở lại, hai trăm năm mươi vị đã đi cùng với họ. Do đó đã được nói: “Khi ấy, Sāriputta và Moggallāna đã dẫn theo hai trăm năm mươi vị du sĩ đó và đến gần Veḷuvana.”

Vimutteti yathāvuttalakkhaṇe nibbāne tadārammaṇāya phalavimuttiyā adhimutte ne sāriputtamoggallāne byākāsīti sambandho.
(Trong những vị) “đã được giải thoát”: cần được liên kết là: ngài đã tuyên bố về Sāriputta và Moggallāna, những người đã được giải thoát trong sự giải thoát bằng quả có đối tượng là Niết-bàn có các đặc điểm đã được nói.

Evaṃ byākaritvā ca satthā catuparisamajjhe dhammaṃ desento nesaṃ parisāya cariyavasena dhammadesanaṃ vaḍḍhesi, ṭhapetvā dve aggasāvake sabbepi aḍḍhateyyasatā paribbājakā arahattaṃ pāpuṇiṃsu. Satthā ‘‘etha bhikkhavo’’ti hatthaṃ pasāresi, sabbesaṃ kesamassu antaradhāyi, iddhimayapattacīvaraṃ kāyapaṭibaddhaṃ ahosi. Aggasāvakānampi iddhimayapattacīvaraṃ āgataṃ, uparimaggattayakiccaṃ pana na niṭṭhāti. Kasmā? Sāvakapāramīñāṇassa mahantatāya. Athāyasmā mahāmoggallāno pabbajitadivasato sattame divase magadharaṭṭhe kallavāḷagāmakaṃ upanissāya samaṇadhammaṃ karonto thinamiddhaṃ okkamanto satthārā saṃvejito thinamiddhaṃ vinodetvā tathāgatena dinnaṃ dhātukammaṭṭhānaṃ suṇantova uparimaggattayakiccaṃ niṭṭhāpetvā sāvakapāramīñāṇassa matthakaṃ patto. Sāriputtattheropi pabbajitadivasato addhamāsaṃ atikkamitvā satthārā saddhiṃ tameva rājagahaṃ upanissāya sūkarakhataleṇe viharanto attano bhāgineyyassa dīghanakhaparibbājakassa vedanāpariggahasuttante desiyamāne suttānusārena ñāṇaṃ pesetvā parassa vaḍḍhitabhattaṃ bhuñjanto viya sāvakapāramīñāṇassa matthakaṃ patto. Tenevāha ‘‘mahāmoggallānatthero sattahi divasehi arahatte patiṭṭhito, sāriputtatthero addhamāsenā’’ti.
Và sau khi đã tuyên bố như vậy, bậc Đạo Sư, trong khi đang thuyết pháp giữa bốn hội chúng, đã phát triển bài thuyết pháp theo hạnh của hội chúng đó. Ngoại trừ hai vị đại thinh văn, tất cả hai trăm năm mươi vị du sĩ đều đã đắc quả A-la-hán. Bậc Đạo Sư đã duỗi tay ra và nói: “hãy đến, các Tỳ-khưu,” râu tóc của tất cả họ đều biến mất, y bát do thần thông đã được khoác lên người. Y bát do thần thông cũng đã đến với hai vị đại thinh văn, nhưng phận sự của ba đạo ở trên thì chưa được hoàn tất. Tại sao? Do sự vĩ đại của trí tuệ về các ba-la-mật của thinh văn. Khi ấy, tôn giả Mahāmoggallāna, vào ngày thứ bảy kể từ ngày xuất gia, trong khi đang thực hành phận sự sa-môn ở gần làng Kallavāḷa trong xứ Magadha, khi đang bị hôn trầm và thụy miên xâm chiếm, đã được bậc Đạo Sư cảnh tỉnh, đã xua tan hôn trầm và thụy miên, và ngay khi đang nghe đề mục thiền về giới do Như Lai ban cho, đã hoàn tất phận sự của ba đạo ở trên và đã đạt đến đỉnh cao của trí tuệ về các ba-la-mật của thinh văn. Còn trưởng lão Sāriputta, sau khi đã trải qua nửa tháng kể từ ngày xuất gia, trong khi đang cùng với bậc Đạo Sư an trú tại chính Rājagaha, trong hang Sūkarakhata, khi bài kinh Vedanāpariggaha đang được thuyết giảng cho cháu của ngài là du sĩ Dīghanakha, đã vận dụng trí tuệ theo bài kinh và đã đạt đến đỉnh cao của trí tuệ về các ba-la-mật của thinh văn, giống như đang ăn một bữa cơm đã được người khác dọn sẵn. Chính vì thế đã được nói: “trưởng lão Mahāmoggallāna đã an trú trong quả A-la-hán trong bảy ngày, trưởng lão Sāriputta trong nửa tháng.”

Yadipi mahāmoggallānatthero na cirasseva arahattaṃ patto, dhammasenāpati tato cirena, evaṃ santepi sāriputtattherova mahāpaññataro. Mahāmoggallānatthero hi sāvakānaṃ sammasanacāraṃ yaṭṭhikoṭiyā uppīḷento viya ekadesameva sammasanto satta divase vāyamitvā arahattaṃ patto. Sāriputtatthero ṭhapetvā buddhānaṃ paccekabuddhānañca sammasanacāraṃ sāvakānaṃ sammasanacāraṃ nippadesaṃ sammasi, evaṃ sammasanto addhamāsaṃ vāyami. Ukkaṃsagatassa sāvakānaṃ sammasanacārassa nippadesena pavattiyamānattā sāvakapāramīñāṇassa ca tathā paripācetabbattā. Yathā hi puriso ‘‘veṇuyaṭṭhiṃ gaṇhissāmī’’ti mahājaṭaṃ veṇuṃ disvā ‘‘jaṭaṃ chindantassa papañco bhavissatī’’ti antarena hatthaṃ pavesetvā sampattameva yaṭṭhiṃ mūle ca agge ca chinditvā ādāya pakkameyya, so kiñcāpi paṭhamataraṃ gacchati, yaṭṭhiṃ pana sāraṃ vā ujuṃ vā na labhati. Aparo tathārūpameva veṇuṃ disvā sace sampattayaṭṭhiṃ gaṇhissāmi, sāraṃ vā ujuṃ vā na labhissāmīti kacchaṃ bandhitvā mahantena satthena veṇujaṭaṃ chinditvā sārā ceva ujū ca yaṭṭhiyo uccinitvā ādāya pakkameyya, ayaṃ kiñcāpi pacchā gacchati, yaṭṭhiyo pana sārā ceva ujū ca labhati, evaṃsampadamidaṃ imesaṃ dvinnaṃ therānaṃ padhānaṃ.
Mặc dù trưởng lão Mahāmoggallāna đã đắc quả A-la-hán không lâu, còn vị tướng quân chánh pháp thì lâu hơn, dù vậy, chính trưởng lão Sāriputta lại là người có trí tuệ vĩ đại hơn. Thật vậy, trưởng lão Mahāmoggallāna, khi quán xét phạm vi quán xét của các vị thinh văn, đã chỉ quán xét một phần giống như đang dùng đầu gậy để dò dẫm, và đã nỗ lực trong bảy ngày rồi đắc quả A-la-hán. Còn trưởng lão Sāriputta, ngoại trừ phạm vi quán xét của các đức Phật và các vị Phật Độc Giác, đã quán xét toàn bộ phạm vi quán xét của các vị thinh văn một cách không còn sót lại. Khi quán xét như vậy, ngài đã nỗ lực trong nửa tháng. Do phạm vi quán xét của các vị thinh văn ở mức cao nhất được vận dụng một cách không còn sót lại, và do trí tuệ về các ba-la-mật của thinh văn cần được làm cho chín muồi như vậy. Giống như một người, khi nghĩ: “ta sẽ lấy một cây tre,” đã thấy một bụi tre rậm rạp và nghĩ: “việc chặt bụi tre sẽ rất phức tạp,” đã đưa tay vào giữa và chỉ chặt lấy cây tre đã có sẵn ở gốc và ngọn rồi mang đi. Người đó, mặc dù đi trước, nhưng lại không có được một cây tre tốt hay thẳng. Một người khác, khi thấy một bụi tre như vậy, đã nghĩ: “nếu ta lấy cây tre đã có sẵn, ta sẽ không có được cây tre tốt hay thẳng,” đã thắt lưng lại, dùng một con dao lớn chặt bụi tre, chọn lấy những cây tre vừa tốt vừa thẳng rồi mang đi. Người này, mặc dù đi sau, nhưng lại có được những cây tre vừa tốt vừa thẳng. Sự tinh tấn của hai vị trưởng lão này cũng có sự thành tựu tương tự như vậy.

Sammasanacāro ca nāmettha vipassanābhūmi veditabbā sammasanaṃ carati etthāti sammasanacāroti katvā. Tattha buddhānaṃ sammasanacāro dasasahassalokadhātuyaṃ sattasantānagatā anindriyabaddhā ca saṅkhārāti vadanti. Koṭisatasahassacakkavāḷesūti apare. Tathā hi attaniyavasena paṭiccasamuppādanayaṃ otaritvā chattiṃsakoṭisatasahassamukhena buddhānaṃ mahāvajirañāṇaṃ pavattaṃ. Paccekabuddhānaṃ sasantānagatehi saddhiṃ majjhimadesavāsīsattasantānagatā anindriyabaddhā ca saṅkhārā sammasanacāroti vadanti. Jambudīpavāsīsantānagatāti keci. Sasantānagate sabbadhamme parasantānagate ca santānavibhāgaṃ akatvā bahiddhābhāvasāmaññato sammasanaṃ, ayaṃ sāvakānaṃ sammasanacāro. Moggallānatthero pana bahiddhā dhammepi sasantānavibhāgena keci keci uddharitvā sammasi, tañca kho ñāṇena phuṭṭhamattaṃ katvā. Tena vuttaṃ ‘‘yaṭṭhikoṭiyā uppīḷento viya ekadesameva sammasanto’’ti. Tattha ñāṇena nāma yāvatā neyyaṃ vattitabbaṃ, tāvatā avattanato ‘‘yaṭṭhikoṭiyā uppīḷento viyā’’ti vuttaṃ, anupadadhammavipassanāya abhāvato ‘‘ekadesameva sammasanto’’ti vuttaṃ. Dhammasenāpatinopi yathāvuttasāvakānaṃ vipassanāya bhūmiyeva sammasanacāro. Tattha pana thero sātisayaṃ niravasesaṃ anupadañca sammā vipassi. Tena vuttaṃ ‘‘sāvakānaṃ sammasanacāraṃ nippadesaṃ sammasī’’ti.
Và ở đây, phạm vi quán xét cần được hiểu là nền tảng của tuệ quán, do người ta đi lại trong đó để quán xét. Ở đó, người ta nói rằng phạm vi quán xét của các đức Phật là các hành thuộc về dòng tương tục của chúng sanh và các hành không liên quan đến các căn trong mười nghìn thế giới trong vũ trụ. Những vị khác nói là trong một trăm nghìn ức thế giới trong vũ trụ. Thật vậy, trí tuệ kim cương vĩ đại của các đức Phật đã vận dụng theo sáu mươi ức cách, sau khi đã đi vào phương pháp Duyên Khởi theo tự thể của mình. Người ta nói rằng phạm vi quán xét của các vị Phật Độc Giác là các hành thuộc về dòng tương tục của các chúng sanh sống ở trung thổ cùng với các hành thuộc về dòng tương tục của chính các vị ấy và các hành không liên quan đến các căn. Một số vị nói là các hành thuộc về dòng tương tục của những người sống ở cõi Diêm-phù-đề. Sự quán xét tất cả các pháp trong dòng tương tục của mình và trong dòng tương tục của người khác một cách không phân chia dòng tương tục, theo sự chung chung của trạng thái bên ngoài, đây là phạm vi quán xét của các vị thinh văn. Nhưng trưởng lão Moggallāna, ngay cả đối với các pháp bên ngoài, cũng đã chỉ lấy ra một số pháp theo sự phân chia dòng tương tục của mình để quán xét, và cũng chỉ làm cho chúng được trí tuệ chạm đến. Do đó đã được nói: “đã chỉ quán xét một phần giống như đang dùng đầu gậy để dò dẫm.” Ở đây, được nói là “giống như đang dùng đầu gậy để dò dẫm” do không có sự vận dụng của trí tuệ đến mức cần phải vận dụng đối với những điều cần được biết. Được nói là “đã chỉ quán xét một phần” do không có tuệ quán theo từng pháp. Đối với vị tướng quân chánh pháp cũng vậy, phạm vi quán xét chính là nền tảng của tuệ quán của các vị thinh văn đã được nói. Nhưng ở đó, vị trưởng lão đã quán xét một cách đúng đắn, siêu việt, không còn sót lại, và theo từng pháp. Do đó đã được nói: “đã quán xét toàn bộ phạm vi quán xét của các vị thinh văn một cách không còn sót lại.”

Ettha ca sukkhavipassakā lokiyābhiññappattā pakatisāvakā mahāsāvakā aggasāvakā paccekabuddhā sammāsambuddhāti chasu janesu sukkhavipassakānaṃ jhānābhiññāhi anadhigatapaññānepuññattā andhānaṃ viya icchitapadesokkamanaṃ vipassanākāle icchiticchitadhammabhāvanā natthi, te yathāpariggahitadhammamatteyeva vipassanaṃ vaḍḍhenti. Lokiyābhiññappattā pana pakatisāvakā yena mukhena vipassanaṃ ārabhanti, tato aññenapi vipassanaṃ vitthārikaṃ kātuṃ sakkonti vipulañāṇattā. Mahāsāvakā abhinīhārasampannattā tato sātisayaṃ vipassanaṃ vitthārikaṃ kātuṃ sakkonti. Aggasāvakesu dutiyo abhinīhārasampattiyā samādhānassa sātisayattā vipassanaṃ tatopi vitthārikaṃ karoti. Paṭhamo pana tatopi mahāpaññatāya sāvakehi asādhāraṇaṃ katvā vipassanaṃ vitthārikaṃ karoti. Paccekabuddhā tehipi mahābhinīhāratāya attano abhinīhārānurūpaṃ tatopi vitthārikaṃ vipassanaṃ karonti. Buddhānaṃ sammadeva paripūritapaññāpāramīpabhāvitā sabbaññutaññāṇādhigamassa anurūpā yathā nāma katavālavedhaparicayena sarabhaṅgasadisena dhanuggahena khitto saro antarā rukkhalatādīsu asajjamāno lakkheyeva patati, na sajjati na virajjati, evaṃ antarā asajjamānā avirajjamānā vipassanā sammasanīyadhammesu yāthāvato nānānayehi pavattati, yaṃ ‘‘mahāvajirañāṇa’’nti vuccati.
Và trong số những vị này: người thuần tuệ quán, người đã đắc các thần thông thế gian, các vị thinh văn thông thường, các vị đại thinh văn, các vị đại thinh văn, các vị Phật Độc Giác, và các vị Chánh Đẳng Chánh Giác, trong sáu hạng người này, đối với những người thuần tuệ quán, do không có sự tinh tế của trí tuệ đã được chứng đắc bằng các thiền và các thần thông, nên việc đi đến một nơi mong muốn giống như của người mù, không có sự tu tập các pháp theo ý muốn trong lúc tuệ quán. Họ chỉ phát triển tuệ quán trên chính các pháp đã được nắm bắt. Còn các vị thinh văn thông thường đã đắc các thần thông thế gian, do có trí tuệ rộng lớn, khi bắt đầu tuệ quán bằng một phương pháp nào, họ cũng có thể mở rộng tuệ quán bằng một phương pháp khác. Các vị đại thinh văn, do đã thành tựu các lời nguyện, có thể mở rộng tuệ quán một cách siêu việt hơn nữa. Trong các vị đại thinh văn, vị thứ hai, do sự thành tựu của các lời nguyện và do sự siêu việt của định, đã mở rộng tuệ quán một cách rộng lớn hơn nữa. Còn vị đầu tiên, do có trí tuệ vĩ đại hơn nữa, đã mở rộng tuệ quán một cách không chung với các vị thinh văn. Các vị Phật Độc Giác, do có các lời nguyện vĩ đại hơn, đã thực hành tuệ quán một cách rộng lớn hơn nữa, phù hợp với các lời nguyện của mình. Đối với các đức Phật, do các ba-la-mật về trí tuệ đã được hoàn thiện một cách đúng đắn, tuệ quán phù hợp với sự chứng đắc toàn giác tuệ, giống như một mũi tên được bắn bởi một người bắn cung như Sarabhaṅga, có kinh nghiệm bắn trúng các mục tiêu bằng sợi lông, đã không bị vướng vào cây cối, dây leo v.v. ở giữa mà chỉ trúng vào mục tiêu, không vướng, không sai lệch. Cũng vậy, tuệ quán không bị vướng, không bị sai lệch ở giữa, đã vận dụng theo nhiều phương pháp khác nhau một cách như thật đối với các pháp cần được quán xét, đó được gọi là “trí tuệ kim cương vĩ đại.”

Etesu ca sukkhavipassakānaṃ vipassanācāro khajjotappabhāsadiso, abhiññappattapakatisāvakānaṃ dīpappabhāsadiso, mahāsāvakānaṃ ukkāppabhāsadiso, aggasāvakānaṃ osadhitārakappabhāsadiso, paccekabuddhānaṃ candappabhāsadiso, sammāsambuddhānaṃ rasmisahassapaṭimaṇḍitasaradasūriyamaṇḍalasadiso hutvā upaṭṭhāti. Tathā sukkhavipassakānaṃ vipassanācāro andhānaṃ yaṭṭhikoṭiyā gamanasadiso, lokiyābhiññappattapakatisāvakānaṃ daṇḍakasetugamanasadiso, mahāsāvakānaṃ jaṅghasetugamanasadiso, aggasāvakānaṃ sakaṭasetugamanasadiso, paccekabuddhānaṃ mahājaṅghamaggagamanasadiso, sammāsambuddhānaṃ mahāsakaṭamaggagamanasadiso. Tathā buddhānaṃ paccekabuddhānañca vipassanā cintāmayañāṇasaṃvaḍḍhitattā sayambhūñāṇabhūtā, itaresaṃ sutamayañāṇasaṃvaḍḍhitattā paropadesasambhūtāti veditabbā.
Và trong số những vị này, phạm vi tuệ quán của những người thuần tuệ quán hiện ra giống như ánh sáng của con đom đóm; của các vị thinh văn thông thường đã đắc các thần thông giống như ánh sáng của ngọn đèn; của các vị đại thinh văn giống như ánh sáng của ngọn đuốc; của các vị đại thinh văn giống như ánh sáng của sao mai; của các vị Phật Độc Giác giống như ánh sáng của mặt trăng; của các vị Chánh Đẳng Chánh Giác hiện ra giống như vầng mặt trời mùa thu được trang điểm bằng một nghìn tia sáng. Tương tự, phạm vi tuệ quán của những người thuần tuệ quán giống như sự đi lại bằng đầu gậy của người mù; của các vị thinh văn thông thường đã đắc các thần thông thế gian giống như sự đi trên một cây cầu bằng gậy; của các vị đại thinh văn giống như sự đi trên một cây cầu bằng thân cây; của các vị đại thinh văn giống như sự đi trên một cây cầu cho xe; của các vị Phật Độc Giác giống như sự đi trên một con đường lớn; của các vị Chánh Đẳng Chánh Giác giống như sự đi trên một con đường lớn cho xe. Tương tự, cần được hiểu rằng tuệ quán của các đức Phật và các vị Phật Độc Giác là tự giác tuệ, do được phát triển bằng trí tuệ do suy tư sanh; còn của những vị khác là do được sanh ra từ sự chỉ dạy của người khác, do được phát triển bằng trí tuệ do văn sanh.

Idāni ubhinnampi therānaṃ pubbayogaṃ dassetuṃ ‘‘atīte kirā’’tiādimāha. Taṃ sabbaṃ uttānatthameva.
Bây giờ, để trình bày mối liên hệ trong quá khứ của cả hai vị trưởng lão, (kinh) đã được bắt đầu bằng (câu) “Tương truyền rằng trong quá khứ.” Tất cả những điều đó đều có ý nghĩa rõ ràng.

63.Giribbajanagaranti samantā pabbataparikkhittaṃ vajasadisaṃ hutvā tiṭṭhatīti giribbajanti evaṃladdhanāmaṃ rājagahanagaraṃ. Usūyanakiriyāya kammabhāvaṃ sandhāya ‘‘upayogatthe vā’’ti vuttaṃ.
63. (Thành phố) “Giribbaja”: thành phố Rājagaha có tên gọi như vậy là Giribbaja do nó đứng vững giống như một cái chuồng gia súc được bao bọc bởi các ngọn núi xung quanh. “Hoặc trong ý nghĩa là đối tượng của hành động” được nói đến nhắm vào việc là đối tượng của hành động ganh tị.

Sāriputtamoggallānapabbajjākathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Xuất Gia Của Sāriputta và Moggallāna đã kết thúc.

Upajjhāyavattakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Các Phận Sự Đối Với Thầy Tế Độ

64. Vajjāvajjaṃ upanijjhāyatīti upajjhāyo, natthi upajjhāyo etesanti anupajjhāyakā. Tenāha ‘‘vajjāvajjaṃ upanijjhāyakena garunā virahitā’’ti. Tattha vajjāvajjanti khuddakaṃ mahantañca vajjaṃ. Vuddhiattho hi ayamakāro ‘‘phalāphala’’ntiādīsu viya. Uttiṭṭhapattanti ettha ucchiṭṭha-saddasamānattho uttiṭṭha-saddo. Tenevāha ‘‘tasmiñhi manussā ucchiṭṭhasaññino, tasmā uttiṭṭhapattanti vutta’’nti. Piṇḍāya caraṇakapattanti iminā pana pattassa sarūpadassanamukhena ucchiṭṭhakappanāya kāraṇaṃ vibhāvitaṃ. Tasminti tasmiṃ piṇḍāya caraṇakapatte.
64. Người xem xét kỹ lưỡng tội và không phải tội là upajjhāyo (thầy tế độ); những người không có thầy tế độ là anupajjhāyakā. Do đó, (kinh) đã nói: “không có một vị trưởng thượng xem xét kỹ lưỡng tội và không phải tội.” Ở đây, vajjāvajjaṃ là tội nhỏ và tội lớn. Thật vậy, mẫu tự a- này có nghĩa là sự tăng trưởng, giống như trong “phalāphala” (trái cây lớn nhỏ) v.v… (Bát) “uttiṭṭhapattam”: ở đây, từ uttiṭṭha– có cùng ý nghĩa với từ ucchiṭṭha- (đồ thừa). Chính vì thế, (kinh) đã nói: “thật vậy, con người có nhận thức đó là đồ thừa, do đó đã được gọi là bát đựng đồ thừa.” Nhưng bằng (câu) “bát để đi khất thực,” nguyên nhân của việc cho là đồ thừa đã được làm sáng tỏ qua việc trình bày bản chất của cái bát. (Trong) “cái đó”: trong cái bát để đi khất thực đó.

65.Sagāravā sappatissāti ettha garubhāvo gāravaṃ, pāsāṇacchattaṃ viya garukaraṇīyatā. Saha gāravenāti sagāravā. Garunā kismiñci vutte gāravavasena patissavanaṃ patisso, patissavabhūtaṃ taṃsabhāgañca yaṃkiñci gāravanti attho. Saha patissenāti sappatissā, ovādaṃ sampaṭicchantāti attho . Patissīyatīti vā patisso, garukātabbo. Tena saha patissenāti sappatissā. Aṭṭhakathāyaṃ pana byañjanavicāraṃ akatvā atthamattameva dassetuṃ ‘‘garukabhāvañceva jeṭṭhakabhāvañca upaṭṭhapetvā’’ti vuttaṃ. Sāhūti sādhu. Lahūti agaru, mama tuyhaṃ upajjhāyabhāve bhāriyaṃ nāma natthīti attho. Opāyikanti upāyapaṭisaṃyuttaṃ te upajjhāyaggahaṇaṃ iminā upāyena tvaṃ me ito paṭṭhāya bhāro jātosīti vuttaṃ hoti. Patirūpanti anurūpaṃ tava upajjhāyaggahaṇanti attho. Pāsādikenāti pasādāvahena kāyavacīpayogena. Sampādehīti tividhasikkhaṃ nipphādehīti attho. Kāyena vāti hatthamuddādiṃ dassento kāyena vā viññāpeti. Gahito tayā…pe… viññāpetīti ‘‘sāhū’’tiādīsu ekaṃ vadantoyeva imamatthaṃ viññāpetīti vuccati. Tenevāha ‘‘idameva hī’’tiādi. Sādhūti sampaṭicchanaṃ sandhāyāti upajjhāyena ‘‘sāhū’’ti vutte saddhivihārikassa ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchanavacanaṃ sandhāya. Kasmā nappamāṇanti āha ‘‘āyācanadānamattena hī’’tiādi, saddhivihārikassa ‘‘upajjhāyo me, bhante, hohī’’ti āyācanamattena, upajjhāyassa ca ‘‘sāhū’’tiādinā dānavacanamattenāti attho. Na ettha sampaṭicchanaṃ aṅganti saddhivihārikassa sampaṭicchanavacanaṃ ettha upajjhāyaggahaṇe aṅgaṃ na hoti.
65. “Có lòng tôn kính và sự vâng lời”: ở đây, trạng thái tôn trọng là gāravaṃ, sự cần phải kính trọng giống như một chiếc lọng bằng đá. Có lòng tôn kính là sagāravā. Sự vâng lời một cách tôn kính khi một vị trưởng thượng nói điều gì đó là patisso; có nghĩa là bất cứ sự tôn kính nào là sự vâng lời và có cùng bản chất với nó. Có sự vâng lời là sappatissā, có nghĩa là những người chấp nhận lời khuyên dạy. Hoặc, người đáng được vâng lời là patisso. Do đó, có cùng với người đó là sappatissā. Nhưng trong sách Chú Giải, do không xem xét về từ ngữ, chỉ trình bày ý nghĩa, đã được nói: “sau khi đã thiết lập trạng thái tôn kính và trạng thái của bậc trưởng thượng.” (Từ) “Sāhū”: lành thay. (Từ) “Lahū”: nhẹ nhàng, không nặng nề; ý nghĩa là: việc ta là thầy tế độ của ông không có gì là gánh nặng. (Từ) “Opāyikaṃ” (thích hợp): việc ông nhận ta làm thầy tế độ là có phương pháp. Ý nói là: bằng phương pháp này, kể từ đây, ông đã trở thành gánh nặng của ta. (Từ) “Patirūpaṃ” (xứng đáng): ý nghĩa là việc ông nhận ta làm thầy tế độ là xứng đáng. (Bằng) “sự trang nghiêm”: bằng sự vận dụng thân và khẩu làm phát sanh lòng tin. (Từ) “hãy hoàn thành”: ý nghĩa là hãy hoàn thành ba học. “Bằng thân hoặc”: trong khi đang chỉ ra dấu hiệu của tay v.v., vị ấy làm cho biết bằng thân. “Ông đã nhận… này… làm cho biết”: được nói rằng, trong khi đang nói một trong các từ như “lành thay” v.v., vị ấy làm cho biết ý nghĩa này. Chính vì thế, (kinh) đã nói câu bắt đầu bằng “Thật vậy, chính điều này.” “Nhắm đến sự chấp nhận ‘lành thay’”: nhắm đến lời nói chấp nhận “lành thay” của người đệ tử khi vị thầy tế độ đã nói “lành thay.” Nếu hỏi tại sao lại không phải là tiêu chuẩn? (Kinh) đã nói câu bắt đầu bằng “Thật vậy, chỉ bằng sự thỉnh cầu và sự cho phép,” ý nghĩa là chỉ bằng sự thỉnh cầu của người đệ tử: “Bạch ngài, xin hãy là thầy tế độ của con,” và chỉ bằng lời nói cho phép như “lành thay” v.v. của vị thầy tế độ. “Ở đây, sự chấp nhận không phải là một yếu tố”: lời nói chấp nhận của người đệ tử ở đây không phải là một yếu tố trong việc nhận thầy tế độ.

66.Sammāvattanāti sammāpavatti. Assāti saddhivihārikassa. Tādisameva mukhadhovanodakaṃ dātabbanti utumhi sarīrasabhāve ca ekākāre tādisameva dātabbaṃ. Dve cīvarānīti pārupanaṃ saṅghāṭiñca sandhāya vadati. Yadi evaṃ ‘‘saṅghāṭiyo’’ti kasmā vuttanti āha ‘‘sabbañhi cīvaraṃ saṅghaṭitattā saṅghāṭīti vuccatī’’ti. Padavītihārehīti ettha padaṃ vītiharati etthāti padavītihāro, padavītiharaṇaṭṭhānaṃ dūtavilambitaṃ akatvā samagamane dvinnaṃ padānaṃ antare muṭṭhiratanamattaṃ. Padānaṃ vā vītiharaṇaṃ abhimukhaṃ haritvā nikkhepo padavītihāroti evamettha attho daṭṭhabbo. Ito paṭṭhāyāti ‘‘na upajjhāyassa bhaṇamānassā’’ti ettha vutta na-kārato paṭṭhāya. Sabbattha dukkaṭāpatti veditabbāti ‘‘īdisesu gilānopi na muccatī’’ti dassanatthaṃ vuttaṃ. Aññampi hi yathāvuttaṃ upajjhāyavattaṃ anādariyena akarontassa agilānassa vattabhede sabbattha dukkaṭameva. Teneva vakkhati ‘‘agilānena hi saddhivihārikena saṭṭhivassenapi sabbaṃ upajjhāyavattaṃ kātabbaṃ, anādarena akarontassa vattabhede dukkaṭaṃ. Na-kārapaṭisaṃyuttesu pana padesu gilānassapi paṭikkhittakiriyaṃ karontassa dukkaṭamevā’’ti (mahāva. aṭṭha. 64). Āpattiyā āsannavācanti āpattijanakameva vacanaṃ sandhāya vadati. Yāya hi vācāya āpattiṃ āpajjati, sā vācā tassā āpattiyā āsannāti vuccati.
66. “Sự thực hành đúng đắn”: sự cư xử đúng đắn. “Của vị ấy”: của người đệ tử. “Cần phải dâng nước rửa mặt tương tự như vậy”: trong một mùa và trong một trạng thái cơ thể giống nhau, cần phải dâng nước tương tự như vậy. “Hai tấm y”: là nói nhắm vào y mặc và y tăng-già-lê. Nếu vậy, tại sao lại được nói là “các y tăng-già-lê”? (Kinh) đã nói: “thật vậy, tất cả các tấm y, do được may lại với nhau, nên được gọi là y tăng-già-lê.” (Bởi) “các bước chân”: ở đây, nơi mà bước chân được đặt qua là padavītihāro; khoảng cách giữa hai bước chân khi đi đều, không làm chậm trễ như một người đưa tin, là bằng một nắm tay và một viên ngọc. Hoặc, việc đặt bước chân qua, tức là mang về phía trước và đặt xuống, là padavītihāro. Ở đây, ý nghĩa cần được hiểu như vậy. “Kể từ đây”: kể từ mẫu tự na– đã được nói trong câu “không được (làm) khi thầy tế độ đang nói.” “Ở khắp mọi nơi, cần được hiểu là phạm tội Tác Ác”: được nói để trình bày rằng: “trong những trường hợp như thế này, ngay cả người bệnh cũng không được miễn trừ.” Thật vậy, ngay cả đối với các phận sự khác đối với thầy tế độ đã được nói, nếu một người không bệnh không làm do không tôn trọng, thì ở khắp mọi nơi đều phạm tội Tác Ác do vi phạm phận sự. Chính vì thế, sẽ được nói rằng: “thật vậy, một người đệ tử không bệnh, dù đã sáu mươi tuổi hạ, cũng phải làm tất cả các phận sự đối với thầy tế độ. Nếu không làm do không tôn trọng, sẽ phạm tội Tác Ác do vi phạm phận sự. Nhưng trong các trường hợp có đi cùng với mẫu tự na-, ngay cả người bệnh, khi làm một hành động đã bị cấm, cũng chắc chắn phạm tội Tác Ác” (mahāva. aṭṭha. 64). “Lời nói gần với tội”: là nói nhắm vào chính lời nói gây ra tội. Thật vậy, lời nói nào mà do đó người ta phạm tội, lời nói đó được gọi là gần với tội đó.

Cīvarena pattaṃ veṭhetvāti ettha ‘‘uttarāsaṅgassa ekena kaṇṇena veṭhetvā’’ti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Gāmeti gāmapariyāpanne tādise kismiñci padese. Antaraghareti antogehe. Paṭikkamaneti āsanasālāyaṃ. Tikkhattuṃ pānīyena pucchitabboti sambandho, ādimhi majjhe anteti evaṃ tikkhattuṃ pucchitabboti attho. Upakaṭṭhoti āsanno. Dhotavālikāyāti nirajāya parisuddhavālikāya. Sace pahotīti vuttamevatthaṃ vibhāveti ‘‘na kenaci gelaññena abhibhūto hotī’’ti. Pariveṇaṃ gantvāti upajjhāyassa pariveṇaṃ gantvā.
“Sau khi đã dùng y để quấn bát”: ở đây, trong các quyển sách ghi chú đã được nói: “sau khi đã dùng một góc của y thượng để quấn.” (Trong) “làng”: trong một nơi nào đó như vậy thuộc về làng. “Trong nhà”: trong nhà. “Khi trở về”: tại sảnh đường. Cần được liên kết là: cần được hỏi về nước uống ba lần, có nghĩa là cần được hỏi ba lần: ở đầu, ở giữa, và ở cuối. (Gần) “upakaṭṭho”: gần. (Với) “cát đã được rửa sạch”: với cát trong sạch, không có bụi. “Nếu có thể”: làm sáng tỏ chính ý nghĩa đã được nói: “nếu không bị một bệnh tật nào chi phối.” “Sau khi đã đến tu phòng”: sau khi đã đến tu phòng của vị thầy tế độ.

Upajjhāyavattakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Các Phận Sự Đối Với Thầy Tế Độ đã kết thúc.

67. Saddhivihārikavattakathā uttānatthāyeva.
67. Câu chuyện về các phận sự của người đệ tử có ý nghĩa rõ ràng.

Nasammāvattanādikathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Không Thực Hành Đúng Đắn v.v…

68. Nasammāvattanādikathāyaṃ gehassitapemanti ‘‘pitā me aya’’nti evaṃ uppannapemaṃ. Upajjhāyamhi pitucittupaṭṭhānameva hi idha gehassitapemaṃ nāma. Na hi idaṃ akusalapakkhiyaṃ gehassitapemaṃ sandhāya vuttaṃ paṭividdhasaccānaṃ pahīnānugedhānaṃ tadasambhavato, na ca bhagavā bhikkhū saṃkilese niyojeti, gehassitapemasadisattā pana pemamukhena mettāsineho idha vuttoti veditabbaṃ. ‘‘Tesu eko vattasampanno bhikkhu…pe… tesaṃ anāpattī’’ti vacanato sace eko vattasampanno bhikkhu ‘‘bhante, tumhe appossukkā hotha, ahaṃ tumhākaṃ saddhivihārikaṃ antevāsikaṃ vā gilānaṃ upaṭṭhahissāmi, ovaditabbaṃ ovadissāmi, iti karaṇīyesu ussukkaṃ āpajjissāmī’’ti vadati, te eva vā saddhivihārikādayo ‘‘bhante, tumhe kevalaṃ appossukkā hothā’’ti vadanti, vattaṃ vā na sādiyanti , tato paṭṭhāya ācariyupajjhāyānaṃ anāpattīti vadanti. Sesamettha uttānameva.
68. Trong câu chuyện về việc không thực hành đúng đắn v.v., (tình thương) “dựa vào gia đình”: tình thương sanh khởi theo kiểu: “đây là cha của ta.” Thật vậy, ở đây, chính sự thiết lập tâm của người cha đối với vị thầy tế độ được gọi là tình thương dựa vào gia đình. Vì điều này không được nói đến nhắm vào tình thương dựa vào gia đình thuộc về phe bất thiện, do điều đó không thể có được đối với những người đã thâm nhập chân lý, đã từ bỏ sự luyến ái. Và đức Thế Tôn cũng không xúi giục các vị Tỳ-khưu vào các pháp ô nhiễm. Nhưng cần được hiểu rằng ở đây, lòng thương mến bằng tâm từ đã được nói đến qua tình thương, do nó giống như tình thương dựa vào gia đình. Theo câu: “trong số họ, một vị Tỳ-khưu có phẩm hạnh… này… họ không phạm tội,” người ta nói rằng nếu một vị Tỳ-khưu có phẩm hạnh nói rằng: “Bạch ngài, xin các ngài đừng bận tâm, con sẽ hầu hạ người đệ tử hay người học trò bị bệnh của các ngài, con sẽ khuyên bảo những điều cần được khuyên bảo, con sẽ nỗ lực trong các việc cần làm,” hoặc chính những người đệ tử v.v. đó nói rằng: “Bạch ngài, xin các ngài cứ đừng bận tâm,” hoặc họ không vui vẻ làm phận sự, thì kể từ đó, các vị thầy và thầy tế độ không phạm tội. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Nasammāvattanādikathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Không Thực Hành Đúng Đắn v.v. đã kết thúc.

Rādhabrāhmaṇavatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Bà-la-môn Rādha

69. Rādhabrāhmaṇavatthumhi kiso ahosīti khādituṃ vā bhuñjituṃ vā asakkonto tanuko ahosi appamaṃsalohito. Uppaṇḍuppaṇḍukajātoti sañjātuppaṇḍuppaṇḍukabhāvo paṇḍupalāsappaṭibhāgo. Dhamanisanthatagattoti pariyādinnamaṃsalohitattā sirājāleneva santharitagatto. Adhikāranti adhikiriyaṃ, sakkāranti vuttaṃ hoti. Kataṃ jānantīti kataññuno, kataṃ pākaṭaṃ katvā jānantīti katavedino. Kiṃ pana thero bhagavatā bārāṇasiyaṃ tīhi saraṇagamanehi anuññātaṃ pabbajjaṃ upasampadañca na jānātīti? No na jānāti. Yadi evaṃ ‘‘kathāhaṃ, bhante, taṃ brāhmaṇaṃ pabbājemi upasampādemī’’ti kasmā āhāti imaṃ anuyogaṃ sandhāyāha ‘‘kiñcāpi āyasmā sāriputto’’tiādi. Parimaṇḍalehīti paripuṇṇehi. Aññathā vā vattabbaṃ aññathā vadatīti ‘‘bhante’’ti vattabbaṃ ‘‘bandhe’’ti vadati.
69. Trong câu chuyện về bà-la-môn Rādha, (ông ta) “đã trở nên gầy gò”: do không thể ăn hay nhai được, ông ta đã trở nên gầy gò, ít thịt và máu. “Đã trở nên xanh xao vàng vọt”: đã có được trạng thái xanh xao vàng vọt, giống như một chiếc lá úa. “Thân thể nổi đầy gân”: do thịt và máu đã tiêu hết, thân thể được bao phủ bởi một mạng lưới gân. (Một) “sự giúp đỡ”: một việc làm đặc biệt, ý nói là một sự tôn kính. Những người biết ơn những gì đã được làm là kataññuno; những người biết bằng cách làm cho những gì đã được làm trở nên rõ ràng là katavedino. Nhưng chẳng phải vị trưởng lão không biết về sự xuất gia và cụ túc giới đã được đức Thế Tôn cho phép ở Bārāṇasī sao? Không phải là không biết. Nếu vậy, tại sao lại nói: “Bạch ngài, làm thế nào con có thể cho vị bà-la-môn đó xuất gia và làm lễ cụ túc?” Nhắm đến câu hỏi này, (kinh) đã được nói bắt đầu bằng “Mặc dù tôn giả Sāriputta.” (Với các từ) “tròn vành”: đầy đủ. “Nói một cách khác khi cần phải nói một cách khác”: khi cần phải nói “bhante,” lại nói “bandhe.”

71-73.Samanantarāti anantaraṃ. Paṇṇattivītikkamaṃ karotīti sikkhāpadavītikkamaṃ karoti. Attabhāvapariharaṇatthaṃ nissīyantīti nissayā, piṇḍiyālopabhojanādikā cattāro paccayā. Tattha piṇḍiyālopabhojananti jaṅghapiṇḍiyabalena caritvā ālopamattaṃ laddhabhojanaṃ. Atirekalābhoti ‘‘piṇḍiyālopabhojanaṃ nissāyā’’ti evaṃ vuttabhikkhāhāralābhato adhikalābho saṅghabhattādi. Tattha sakalassa saṅghassa dātabbabhattaṃ saṅghabhattaṃ. Katipaye bhikkhū uddisitvā dātabbabhattaṃ uddesabhattaṃ. Nimantetvā dātabbabhattaṃ nimantanaṃ. Salākaṃ gāhāpetvā dātabbabhattaṃ salākabhattaṃ. Ekasmiṃ pakkhe ekadivasaṃ dātabbabhattaṃ pakkhikaṃ. Uposathe dātabbabhattaṃ uposathikaṃ. Pāṭipadadivase dātabbabhattaṃ pāṭipadikaṃ. Vitthārakathā nesaṃ senāsanakkhandhakavaṇṇanāyaṃ āvi bhavissati.
71-73. (Từ) “Samanantarā”: ngay sau đó. “Vi phạm một quy định”: vi phạm một học giới. Những thứ được nương tựa để duy trì thân thể là nissayā (các vật nương tựa), tức là bốn vật dụng như thức ăn khất thực v.v… Ở đây, thức ăn khất thực là thức ăn có được từng vắt bằng cách đi lại bằng sức mạnh của đôi chân. “Phần lợi dưỡng thêm”: phần lợi dưỡng nhiều hơn phần lợi dưỡng từ thức ăn khất thực đã được nói đến là “nương vào thức ăn khất thực,” như vật thực của Tăng v.v… Ở đây, vật thực cần được dâng cúng cho toàn thể Tăng chúng là saṅghabhattaṃ (vật thực của Tăng). Vật thực cần được dâng cúng sau khi đã chỉ định một số vị Tỳ-khưu là uddesabhattaṃ (vật thực chỉ định). Vật thực cần được dâng cúng sau khi đã thỉnh mời là nimantanaṃ (vật thực thỉnh mời). Vật thực cần được dâng cúng sau khi đã cho rút thăm là salākabhattaṃ (vật thực theo thăm). Vật thực cần được dâng cúng một ngày trong một tháng là pakkhikaṃ (vật thực nửa tháng). Vật thực cần được dâng cúng vào ngày bố-tát là uposathikaṃ (vật thực ngày bố-tát). Vật thực cần được dâng cúng vào ngày đầu tháng là pāṭipadikaṃ (vật thực ngày đầu tháng). Phần giải thích chi tiết về chúng sẽ được trình bày trong phần diễn giải về thiên về trú xứ.

Vihāroti pākāraparicchinno sakalo āvāso. Aḍḍhayogoti
Dīghapāsādo. Garuḷasaṇṭhānapāsādotipi vadanti. Pāsādoti caturassapāsādo. Hammiyanti muṇḍacchadanapāsādo. Apare pana bhaṇanti ‘‘vihāro nāma dīghamukhapāsādo, aḍḍhayogo ekapassacchadanakasenāsanaṃ , tassa kira ekapasse bhitti uccatarā hoti, itarapasse nīcā, tena taṃ ekapassacchadanakaṃ hoti, pāsādo āyatacaturassapāsādo, hammiyaṃ muṇḍacchadanaṃ candikaṅgaṇayutta’’nti. Guhāti pabbataguhā. Pūtimuttanti yaṃ kiñci muttaṃ. Yathā suvaṇṇavaṇṇopi kāyo ‘‘pūtikāyo’’ti vuccati, evaṃ abhinavampi muttaṃ pūtimuttameva. Sesamettha uttānatthameva.
“Vihāro” (tu viện): toàn bộ một tu viện được bao bọc bởi một bức tường. “Aḍḍhayogo”:
một lâu đài dài. Người ta cũng nói là một lâu đài có hình dạng của con chim garuḷa. “Pāsādo” (lâu đài): một lâu đài hình vuông. “Hammiyaṃ”: một lâu đài có mái bằng. Nhưng những vị khác nói rằng: “vihāro là một lâu đài có mặt tiền dài; aḍḍhayogo là một trú xứ có mái che một bên; tương truyền rằng một bên tường của nó cao hơn, bên kia thấp hơn, do đó nó có mái che một bên; pāsādo là một lâu đài hình chữ nhật dài; hammiyaṃ là một lâu đài có mái bằng và có một khoảng sân thượng.” “Guhā” (hang động): một hang động trên núi. “Nước tiểu hôi thối”: bất cứ loại nước tiểu nào. Giống như một thân hình có màu vàng óng cũng được gọi là “thân hôi thối,” cũng vậy, ngay cả nước tiểu mới cũng chính là nước tiểu hôi thối. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Rādhabrāhmaṇavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Bà-la-môn Rādha đã kết thúc.

Ācariyavattakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Các Phận Sự Đối Với Thầy Dạy Bảo

75. Upasenavatthumhi āciṇṇanti caritaṃ vattaṃ anudhammatā. Kacci bhikkhu khamanīyanti bhikkhu kacci tuyhaṃ idaṃ catucakkaṃ navadvāraṃ sarīrayantaṃ khamanīyaṃ sakkā khamituṃ sahituṃ pariharituṃ, na kiñci dukkhaṃ uppādetīti. Kacci yāpanīyanti kacci sabbakiccesu yāpetuṃ sakkā, na kiñci antarāyaṃ dassetīti. Jānantāpi tathāgatātievamādi yaṃ parato ‘‘kati vassosi tvaṃ bhikkhū’’tiādinā pucchi, tassa parihāradassanatthaṃ vuttaṃ. Tatrāyaṃ saṅkhepattho – tathāgatā nāma jānantāpi sace tādisaṃ pucchākāraṇaṃ hoti, pucchanti. Sace pana tādisaṃ pucchākāraṇaṃ natthi, jānantāpi na pucchanti. Yasmā pana buddhānaṃ ajānanaṃ nāma natthi, tasmā ‘‘ajānantāpī’’ti na vuttaṃ. Kālaṃ viditvā pucchantīti sace tassā pucchāya so kālo hoti, evaṃ taṃ kālaṃ viditvā pucchanti. Sace na hoti, evampi kālaṃ viditvāva na pucchanti. Evaṃ pucchantāpi ca atthasaṃhitaṃ tathāgatā pucchanti, yaṃ atthanissitaṃ kāraṇanissitaṃ, tadeva pucchanti, no anatthasaṃhitaṃ. Kasmā? Yasmā anatthasaṃhite setughāto tathāgatānaṃ. Setu vuccati maggo, maggeneva tādisassa vacanassa ghāto samucchedoti vuttaṃ hoti.
75. Trong câu chuyện về Upasena, (từ) “āciṇṇaṃ”: phận sự đã được thực hành, bản chất của quy luật. “Này Tỳ-khưu, có kham nhẫn được không”: này Tỳ-khưu, cỗ máy thân thể có bốn bánh xe và chín cửa này của ông có kham nhẫn được không, có thể chịu đựng, kham nhẫn, duy trì được không, có gây ra khổ đau nào không? “Có duy trì được không”: có thể duy trì được trong mọi công việc không, có cho thấy sự trở ngại nào không? “Các đấng Như Lai dù biết” v.v., điều này được nói để giải thích cho việc ngài hỏi ở phần sau rằng: “Này Tỳ-khưu, ông bao nhiêu tuổi hạ?” v.v… Đây là ý nghĩa tóm tắt ở đó – các đấng Như Lai, dù biết, nhưng nếu có lý do để hỏi như vậy, các ngài vẫn hỏi. Nhưng nếu không có lý do để hỏi như vậy, dù biết các ngài cũng không hỏi. Và bởi vì đối với các đức Phật, không có việc không biết, do đó không được nói là “dù không biết.” “Các ngài hỏi sau khi đã biết thời điểm”: nếu đó là thời điểm cho câu hỏi đó, các ngài sẽ hỏi sau khi đã biết thời điểm đó. Nếu không phải, các ngài cũng không hỏi sau khi đã biết thời điểm. Và ngay cả khi hỏi, các đấng Như Lai cũng chỉ hỏi những điều đi liền với lợi ích; những gì dựa vào lợi ích, dựa vào nguyên nhân, các ngài chỉ hỏi điều đó, chứ không hỏi những điều không đi liền với lợi ích. Tại sao? Bởi vì đối với các đấng Như Lai, cầu nối đối với những điều không đi liền với lợi ích đã bị phá hủy. (Từ) “cầu nối” được gọi là đạo; ý nói là sự phá hủy, sự đoạn diệt của một lời nói như vậy chính là bằng đạo.

Idāni atthasaṃhitanti ettha yaṃ atthanissitaṃ vacanaṃ tathāgatā pucchanti, taṃ dassento ‘‘dvīhi ākārehī’’tiādimāha. Tattha ākārehīti kāraṇehi . Dhammaṃ vā desessāmāti aṭṭhuppattiyuttaṃ suttaṃ vā pubbacaritakāraṇayuttaṃ jātakaṃ vā kathayissāma. Sāvakānaṃ vā sikkhāpadaṃ paññapessāmāti sāvakānaṃ vā tāya pucchāya vītikkamaṃ pākaṭaṃ katvā garukaṃ vā lahukaṃ vā sikkhāpadaṃ paññapessāma āṇaṃ ṭhapessāma. Atilahunti atisīghaṃ.
Bây giờ, trong (câu) “đi liền với lợi ích,” để trình bày lời nói dựa vào lợi ích mà các đấng Như Lai hỏi, (kinh) đã được nói bắt đầu bằng “bằng hai cách.” Ở đây, (từ) “ākārehī”: bằng các lý do. “Hoặc Ta sẽ thuyết pháp”: Ta sẽ kể một bài kinh có duyên sự, hoặc một câu chuyện tiền thân có nguyên nhân từ các hành động trong quá khứ. “Hoặc Ta sẽ chế định một học giới cho các vị thinh văn”: hoặc Ta sẽ làm cho sự vi phạm trở nên rõ ràng bằng câu hỏi đó, rồi sẽ chế định một học giới nặng hay nhẹ cho các vị thinh văn, sẽ đặt ra một mệnh lệnh. (Từ) “rất nhanh”: rất mau lẹ.

76. Aññatitthiyavatthumhi aññatitthiyapubboti pubbe aññatitthiyo bhūtoti aññatitthiyapubbo. Ettha (a. ni. aṭṭha. 2.3.62) ca titthaṃ jānitabbaṃ, titthakaro jānitabbo , titthiyā jānitabbā, titthiyasāvakā jānitabbā. Tattha titthaṃ nāma dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo. Ettha hi sattā taranti uppilavanti ummujjanimujjaṃ karonti, tasmā ‘‘tittha’’nti vuccanti. Tāsaṃ diṭṭhīnaṃ uppādetā titthakaro nāma pūraṇakassapādiko. Tassa laddhiṃ gahetvā pabbajitā titthiyā nāma. Te hi titthe jātāti titthiyā, yathāvuttaṃ vā diṭṭhigatasaṅkhātaṃ titthaṃ etesaṃ atthīti titthikā, titthikā eva titthiyā. Tesaṃ paccayadāyakā titthiyasāvakāti veditabbā. Sahadhammikaṃ vuccamānoti sahadhammikena vuccamāno, karaṇatthe upayogavacanaṃ. Pañcahi sahadhammikehi sikkhitabbattā, tesaṃ vā santakattā ‘‘sahadhammika’’nti laddhanāmena buddhapaññattena sikkhāpadena vuccamānoti attho. Pasūroti tassa nāmaṃ. Paribbājakoti gihibandhanaṃ pahāya pabbajjupagato.
76. Trong câu chuyện về người theo ngoại đạo, (từ) “aññatitthiyapubbo” (người trước đây theo ngoại đạo): người trước đây đã là một người theo ngoại đạo. Ở đây (a. ni. aṭṭha. 2.3.62), cần phải biết về giáo phái, về người sáng lập giáo phái, về những người theo giáo phái, và về các đệ tử của những người theo giáo phái. Ở đây, giáo phái là sáu mươi hai loại tà kiến. Ở đây, chúng sanh trôi nổi, nổi lên, lặn xuống, nên chúng được gọi là “giáo phái.” Người tạo ra các tà kiến đó được gọi là người sáng lập giáo phái, như Pūraṇa Kassapa v.v… Những người đã xuất gia sau khi đã chấp nhận học thuyết của vị đó được gọi là những người theo giáo phái. Thật vậy, họ được sanh ra trong giáo phái nên là titthiyā; hoặc giáo phái được gọi là tà kiến đã được nói như trên là của họ, nên là titthikā; titthikā chính là titthiyā. Những người dâng cúng các vật dụng cho họ cần được hiểu là các đệ tử của những người theo giáo phái. “Khi được nói một cách hợp pháp”: khi được nói bởi một người hợp pháp, đây là cách dùng công cụ cách trong ý nghĩa đối tượng. Có nghĩa là: khi được nói bằng một học giới do đức Phật chế định, có tên gọi là “sahadhammika” (hợp pháp) do cần được năm hạng người hợp pháp học hỏi, hoặc do là của họ. (Tên) “Pasūro”: đó là tên của ông ta. (Từ) “du sĩ”: người đã đi đến đời sống xuất gia sau khi đã từ bỏ các ràng buộc của người tại gia.

Taṃyeva titthāyatananti ettha dvāsaṭṭhidiṭṭhisaṅkhātaṃ titthameva āyatananti titthāyatanaṃ, titthaṃ vā etesaṃ atthīti titthino, titthiyā, tesaṃ āyatanantipi titthāyatanaṃ. Āyatananti ca ‘‘assānaṃ kambojo āyatanaṃ, gunnaṃ dakkhiṇapatho āyatana’’nti ettha sañjātiṭṭhānaṃ āyatanaṃ nāma.
“Chính nơi nương tựa của giáo phái đó”: ở đây, chính giáo phái được gọi là sáu mươi hai loại tà kiến là nơi nương tựa, nên là titthāyatanaṃ; hoặc giáo phái là của họ, nên họ là titthino, tức là titthiyā; nơi nương tựa của họ cũng là titthāyatanaṃ. Và (từ) “nơi nương tựa”: trong câu “Kamboja là nơi nương tựa của các loài ngựa, phương nam là nơi nương tựa của các loài bò,” ở đây nơi sanh sản là nơi nương tựa.

‘‘Manorame āyatane, sevanti naṃ vihaṅgamā;
Chāyaṃ chāyatthino yanti, phalatthaṃ phalabhojino’’ti. (a. ni. 5.38) –
“Trong một nơi nương tựa đẹp đẽ, các loài chim thường lui tới;
Những người cần bóng mát tìm đến bóng mát, những người ăn trái cây tìm đến trái cây.” (a. ni. 5.38) –

Ettha samosaraṇaṭṭhānaṃ. ‘‘Pañcimāni, bhikkhave, vimuttāyatanānī’’ti (a. ni. 5.26) ettha kāraṇaṃ, taṃ idha sabbampi labbhati. Sabbepi hi diṭṭhigatikā sañjāyamānā imāsuyeva dvāsaṭṭhiyā diṭṭhīsu sañjāyanti, samosaramānāpi etāsuyeva samosaranti sannipatanti, diṭṭhigatikabhāve ca nesaṃ imāyeva dvāsaṭṭhi diṭṭhiyo kāraṇaṃ, tasmā yathāvuttaṃ titthameva sañjātiādinā atthena āyatananti titthāyatanaṃ, tenevatthena titthīnaṃ āyatanantipi titthāyatanaṃ.
Ở đây, nơi tụ họp (là nơi nương tựa). “Này các Tỳ-khưu, có năm nơi nương tựa này của sự giải thoát” (a. ni. 5.26), ở đây nguyên nhân (là nơi nương tựa). Và ở đây, tất cả đều có thể có được. Thật vậy, tất cả những người theo tà kiến, khi sanh ra, đều sanh ra trong chính sáu mươi hai loại tà kiến này; khi tụ họp, cũng tụ họp trong chính chúng; và trong việc họ trở thành người theo tà kiến, chính sáu mươi hai loại tà kiến này là nguyên nhân. Do đó, chính giáo phái đã được nói là nơi nương tựa theo ý nghĩa là nơi sanh sản v.v., nên là titthāyatanaṃ; và cũng theo ý nghĩa đó, nơi nương tựa của những người theo giáo phái cũng là titthāyatanaṃ.

Āyasmato nissāya vacchāmīti ettha āyasmatoti upayogatthe sāmivacanaṃ, āyasmantaṃ nissāya vasissāmīti attho. Byatto…pe… vuttalakkhaṇoyevāti parisupaṭṭhāpakabahussutaṃ sandhāya vadati. Pañcahupāli aṅgehītiādīsu yaṃ vattabbaṃ, taṃ parato āvi bhavissati.
“Con sẽ sống nương tựa vào tôn giả”: ở đây, (từ) “āyasmato” là sở hữu cách trong ý nghĩa đối tượng, có nghĩa là: con sẽ sống nương tựa vào tôn giả. “Người tài giỏi… này… chính là người có các đặc điểm đã được nói”: là nói nhắm đến người đa văn, có khả năng phục vụ hội chúng. Những gì cần nói trong các câu bắt đầu bằng “Này Upāli, do năm chi phần,” sẽ được trình bày rõ ở phần sau.

Ācariyavattakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Các Phận Sự Đối Với Thầy Dạy Bảo đã kết thúc.

Paṇāmanākhamāpanākathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Trục Xuất Và Sự Sám Hối

80. Yaṃ pubbe lakkhaṇaṃ vuttanti sambandho, ‘‘teneva lakkhaṇena nissayantevāsikassa āpatti veditabbā’’ti potthakesu pāṭho dissati, ‘‘na teneva lakkhaṇena nissayantevāsikassa āpatti veditabbā’’ti evaṃ panettha pāṭho veditabbo. Saddhivihārikassa vuttalakkhaṇena nissayantevāsikassa āpatti na veditabbāti evaṃ panettha atthopi veditabbo. Aññathā ‘‘nissayantevāsikena hi yāva ācariyaṃ nissāya vasati, tāva sabbaṃ ācariyavattaṃ kātabba’’nti idaṃ virujjheyya. Idañhi vacanaṃ nissayantevāsikassa amuttanissayasseva vattaṃ akarontassa āpattīti dīpeti. Tasmā saddhivihārikassa yathāvuttavattaṃ akarontassa nissayamuttakassa amuttakassapi āpatti, nissayantevāsikassa pana amuttanissayasseva āpattīti gahetabbaṃ. Teneva visuddhimaggepi (visuddhi. 1.41) ñātipalibodhakathāyaṃ –
80. Cần được liên kết là: đặc điểm nào đã được nói trước đây. Trong các sách chép tay, có thể thấy cách đọc là: “tội của người học trò nương nhờ cần được hiểu theo chính đặc điểm đó,” nhưng ở đây, cách đọc cần được hiểu là: “tội của người học trò nương nhờ không nên được hiểu theo chính đặc điểm đó.” Và ở đây, ý nghĩa cũng cần được hiểu là: tội của người học trò nương nhờ không nên được hiểu theo đặc điểm đã được nói đối với người đệ tử. Nếu không, điều này sẽ mâu thuẫn với câu: “thật vậy, người học trò nương nhờ, cho đến khi còn sống nương nhờ vị thầy, thì phải làm tất cả các phận sự đối với thầy.” Thật vậy, lời nói này cho thấy rằng người học trò nương nhờ, khi chưa được miễn trừ sự nương nhờ, nếu không làm phận sự, sẽ phạm tội. Do đó, cần được hiểu rằng: đối với người đệ tử, khi không làm phận sự đã được nói, dù đã được miễn trừ sự nương nhờ hay chưa, cũng phạm tội; còn đối với người học trò nương nhờ, chỉ phạm tội khi chưa được miễn trừ sự nương nhờ. Chính vì thế, trong sách Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 1.41), trong phần nói về sự ràng buộc bởi quyến thuộc, đã được nói một cách phân biệt rằng –

‘‘Ñātīti vihāre ācariyupajjhāyasaddhivihārikaantevāsikasamānupajjhāyakasamānācariyakā, ghare mātā pitā bhaginī bhātāti evamādikā. Te gilānā imassa palibodhā honti, tasmā so palibodho upaṭṭhahitvā tesaṃ pākatikakaraṇena upacchinditabbo. Tattha upajjhāyo tāva gilāno sace lahuṃ na vuṭṭhāti, yāvajīvaṃ paṭijaggitabbo. Tathā pabbajjācariyo upasampadācariyo saddhivihāriko upasampāditapabbājitaantevāsikasamānupajjhāyakā ca. Nissayācariya uddesācariya nissayantevāsika uddesantevāsikasamānācariyakā pana yāva nissayauddesā anupacchinnā, tāva paṭijaggitabbā’’ti –
“Quyến thuộc là: trong tu viện, là thầy tế độ, thầy dạy bảo, người sống chung, người học trò, người cùng thầy tế độ, người cùng thầy dạy bảo; ở nhà, là mẹ, cha, chị, em gái, anh, em trai v.v… Khi họ bị bệnh, họ trở thành sự ràng buộc của vị này. Do đó, sự ràng buộc đó cần được cắt đứt bằng cách hầu hạ và làm cho họ trở lại bình thường. Ở đây, trước tiên, nếu thầy tế độ bị bệnh mà không nhanh chóng bình phục, cần phải chăm sóc suốt đời. Tương tự đối với thầy dạy khi xuất gia, thầy dạy khi thọ cụ túc giới, người sống chung, người học trò đã được cho xuất gia và thọ cụ túc giới, và người cùng thầy tế độ. Còn đối với thầy dạy nương nhờ, thầy dạy học, người học trò nương nhờ, người học trò học, và người cùng thầy dạy bảo, thì cần phải chăm sóc cho đến khi sự nương nhờ và sự học chưa bị chấm dứt.” –

Vibhāgena vuttaṃ. Ayañca vibhāgo ‘‘teneva lakkhaṇena nissayantevāsikassa āpatti veditabbā’’ti evaṃ pāṭhe sati na yujjeyya. Ayañhi pāṭho saddhivihārikassa viya nissayantevāsikassapi yathāvuttavattaṃ akarontassa nissayamuttakassa amuttakassapi āpattīti imamatthaṃ dīpeti, tasmā vuttanayenevettha pāṭho gahetabbo.
Điều này sẽ không hợp lý nếu có cách đọc là: “tội của người học trò nương nhờ cần được hiểu theo chính đặc điểm đó.” Thật vậy, cách đọc này cho thấy rằng người học trò nương nhờ, cũng giống như người đệ tử, khi không làm phận sự đã được nói, dù đã được miễn trừ sự nương nhờ hay chưa, cũng phạm tội. Do đó, ở đây, cần phải lấy cách đọc theo phương pháp đã được nói.

Pabbajjaupasampadadhammantevāsikehi pana…pe… tāva vattaṃ kātabbanti pabbajjācariyaupasampadācariyadhammācariyānaṃ
Nhưng đối với các người học trò về pháp xuất gia và cụ túc giới… này… cần phải làm phận sự cho đến khi: đối với các vị thầy dạy khi xuất gia, thầy dạy khi thọ cụ túc giới, và thầy dạy pháp.

Etehi yathāvuttavattaṃ kātabbaṃ. Tattha yena sikkhāpadāni dinnāni, ayaṃ pabbajjācariyo. Yena upasampadakammavācā vuttā, ayaṃ upasampadācariyo. Yo uddesaṃ paripucchaṃ vā deti, ayaṃ dhammācariyoti veditabbaṃ. Sesamettha uttānameva.
Cần phải làm các phận sự đã được nói đối với những vị này. Ở đây, người đã ban các học giới, vị này là thầy dạy khi xuất gia. Người đã đọc lời tác pháp cụ túc giới, vị này là thầy dạy khi thọ cụ túc giới. Người dạy đọc tụng hoặc hỏi đáp, vị này cần được hiểu là thầy dạy pháp. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Paṇāmanākhamāpanākathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Trục Xuất Và Sự Sám Hối đã kết thúc.

Nissayapaṭippassaddhikathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Chấm Dứt Sự Nương Nhờ

83. Nissayapaṭippassaddhikathāyaṃ disaṃ gatoti puna āgantukāmo anāgantukāmo vā hutvā vāsatthāya kañci disaṃ gato. Bhikkhuno sabhāgatanti pesalabhāvaṃ. Oloketvāti upaparikkhitvā. Vibbhante…pe… tattha gantabbanti ettha sace kenaci karaṇīyena tadaheva gantuṃ asakkonto katipāhena gamissāmīti gamane saussāho hoti, rakkhatīti vadanti. Mā idha paṭikkamīti mā idha pavisi. Tatreva vasitabbanti tattheva nissayaṃ gahetvā vasitabbaṃ. Taṃyeva vihāraṃ…pe… vasituṃ vaṭṭatīti ettha upajjhāyena pariccattattā upajjhāyasamodhānaparihāro natthi, tasmā upajjhāyena samodhānagatassapi ācariyassa santike gahitanissayo na paṭippassambhati.
83. Trong câu chuyện về việc chấm dứt sự nương nhờ, (từ) “đã đi đến một phương”: đã đi đến một phương nào đó để ở, dù có ý định trở lại hay không. “Bản chất tốt của vị Tỳ-khưu”: trạng thái đức hạnh. “Sau khi đã xem xét”: sau khi đã quan sát kỹ lưỡng. “Khi vị ấy đã hoàn tục… này… cần phải đến đó”: ở đây, nếu do một công việc nào đó mà không thể đến ngay trong ngày đó, nhưng có ý muốn đi trong vài ngày nữa, người ta nói rằng (sự nương nhờ) được bảo vệ. “Đừng trở lại đây”: đừng vào đây. “Cần phải ở lại chính nơi đó”: cần phải nhận sự nương nhờ và ở lại chính nơi đó. “Được phép ở lại… này… trong chính tu viện đó”: ở đây, do đã bị vị thầy tế độ từ bỏ, nên không có việc tránh né sự gặp gỡ với vị thầy tế độ. Do đó, sự nương nhờ đã nhận ở gần một vị thầy dạy bảo, ngay cả khi đã gặp gỡ vị thầy tế độ, cũng không bị chấm dứt.

Ācariyamhānissayapaṭippassaddhīsu ācariyo pakkanto vā hotīti ettha ‘‘pakkantoti disaṃ gato’’tiādinā upajjhāyassa pakkamane yo vinicchayo vutto, so tattha vuttanayeneva idhāpi sakkā viññātunti taṃ avatvā ‘‘koci ācariyo āpucchitvā pakkamatī’’tiādinā aññoyeva nayo āraddho, ayañca nayo upajjhāyapakkamanepi veditabboyeva. Īdisesu hi ṭhānesu ekattha vuttalakkhaṇaṃ aññatthāpi daṭṭhabbaṃ. Sace dve leḍḍupāte atikkamitvā nivattati, paṭippassaddho hotīti ettha ettāvatā disāpakkanto nāma hotīti antevāsike anikkhittadhurepi nissayo paṭippassambhati. Ācariyupajjhāyā dve leḍḍupāte atikkamma aññasmiṃ vihāre vasantīti bahiupacārasīmāyaṃ antevāsikasaddhivihārikānaṃ vasanaṭṭhānato dve leḍḍupāte atikkamma aññasmiṃ senāsane vasanti, antoupacārasīmāyaṃ pana dve leḍḍupāte atikkamitvāpi vasato nissayo na paṭippassambhati. ‘‘Sacepi ācariyo muñcitukāmova hutvā nissayapaṇāmanāya paṇāmetī’’tiādi sabbaṃ upajjhāyassa āṇattiyampi veditabbaṃ. Sesamettha uttānameva.
“Trong các trường hợp chấm dứt sự nương nhờ đối với vị thầy dạy bảo, vị thầy dạy bảo đã ra đi hoặc”: ở đây, quyết định nào đã được nói trong trường hợp vị thầy tế độ ra đi, bắt đầu bằng “ra đi là đi đến một phương,” quyết định đó cũng có thể được hiểu ở đây theo chính phương pháp đã được nói. Do không nói điều đó, một phương pháp khác đã được bắt đầu bằng: “một vị thầy dạy bảo nào đó, sau khi đã xin phép, đã ra đi.” Và phương pháp này cũng cần được hiểu trong trường hợp vị thầy tế độ ra đi. Thật vậy, trong những trường hợp như thế này, đặc điểm đã được nói ở một nơi cũng cần được xem xét ở nơi khác. “Nếu vị ấy quay trở lại sau khi đã đi qua hai lần ném đất, (sự nương nhờ) đã được chấm dứt”: ở đây, khi đã đi xa đến mức đó, được gọi là đã ra đi đến một phương, nên sự nương nhờ bị chấm dứt ngay cả khi người học trò chưa từ bỏ trách nhiệm. “Các vị thầy dạy bảo và thầy tế độ, sau khi đã đi qua hai lần ném đất, ở trong một tu viện khác”: họ ở trong một trú xứ khác, cách nơi ở của người học trò và người đệ tử hai lần ném đất, ở ngoài giới trường. Nhưng nếu ở lại dù đã đi qua hai lần ném đất ở trong giới trường, sự nương nhờ không bị chấm dứt. Tất cả những điều như “nếu vị thầy dạy bảo, do muốn trục xuất, đã trục xuất bằng cách chấm dứt sự nương nhờ” v.v. cũng cần được hiểu trong cả mệnh lệnh của vị thầy tế độ. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Nissayapaṭippassaddhikathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Chấm Dứt Sự Nương Nhờ đã kết thúc.

Upasampādetabbapañcakakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Năm Hạng Người Được Thọ Cụ Túc Giới

84.Pañcahibhikkhave, aṅgehi samannāgatenātiādīsu na sāmaṇero upaṭṭhāpetabboti upajjhāyena hutvā sāmaṇero na gahetabbo. Ayamattho aṅguttaranikāyaṭṭhakathāyaṃ (a. ni. aṭṭha. 3.5.251-253) vuttoyeva.
84. Trong các câu bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, bởi người có được năm chi phần,” (câu) “không nên nhận một vị sa-di”: không nên nhận một vị sa-di bằng cách trở thành thầy tế độ. Ý nghĩa này đã được nói trong Chú Giải Tăng Chi Bộ (a. ni. aṭṭha. 3.5.251-253).

‘‘Attānameva paṭhamaṃ, patirūpe nivesaye;
Athaññamanusāseyya, na kilisseyya paṇḍito’’ti. (dha. pa. 158) –
“Trước tiên, hãy tự mình an trú trong điều thích hợp;
Sau đó hãy khuyên dạy người khác, người trí sẽ không bị ô uế.” (dha. pa. 158) –

Imassa anurūpavasena paṭhamaṃ tāva attasampattiyaṃ niyojetuṃ ‘‘na asekkhena sīlakkhandhenā’’tiādi vuttaṃ, na āpattiaṅgavasena. Tattha asekkhena sīlakkhandhenāti asekkhassa sīlakkhandho asekkho sīlakkhandho nāma. Asekkhassa ayanti hi asekkho, sīlakkhandho. Evaṃ sabbattha. Evañca katvā vimuttiñāṇadassanasaṅkhātassa paccavekkhaṇañāṇassapi asekkhatā upapannā. Asekkhasīlanti ca na maggaphalameva adhippetaṃ, atha kho yaṃkiñci asekkhasantāne pavattasīlaṃ lokiyalokuttaramissakassa sīlassa idhādhippetattā. Samādhikkhandhādīsupi vimuttikkhandhapariyosānesu ayameva nayo. Tasmā yathā sīlasamādhipaññakkhandhā missakā adhippetā, evaṃ vimuttikkhandhopīti tadaṅgavimuttiādayopi veditabbā, na paṭippassaddhivimutti eva. Vimuttiñāṇadassanaṃ pana lokiyameva. Teneva saṃyuttanikāyaṭṭhakathāyaṃ (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.135) vuttaṃ ‘‘purimehi catūhi padehi lokiyalokuttarasīlasamādhipaññāvimuttiyo kathitā, vimuttiñāṇadassanaṃ paccavekkhaṇañāṇaṃ hoti, taṃ lokiyamevā’’ti.
Để tự mình thực hiện sự thành tựu trước tiên, phù hợp với câu này, đã được nói bắt đầu bằng “không phải bằng giới uẩn của bậc vô học,” chứ không phải theo các chi phần của tội. Ở đây, (cụm từ) “bằng giới uẩn của bậc vô học”: giới uẩn của bậc vô học được gọi là giới uẩn của bậc vô học. Thật vậy, của bậc vô học nên là asekkho, tức là giới uẩn. Ở khắp mọi nơi cũng như vậy. Và khi làm như vậy, trạng thái vô học của cả phản khán trí, được gọi là trí và kiến về sự giải thoát, cũng được thành lập. Và giới của bậc vô học không chỉ được hiểu là đạo và quả, mà còn là bất cứ giới nào diễn ra trong dòng tương tục của bậc vô học, do ở đây, giới được hiểu là sự pha trộn giữa thế gian và siêu thế. Trong các uẩn bắt đầu bằng định uẩn cho đến uẩn giải thoát cũng có cùng phương pháp này. Do đó, giống như các uẩn giới, định, và tuệ được hiểu là sự pha trộn, thì uẩn giải thoát cũng vậy. Do đó, cần được hiểu cả sự giải thoát theo từng phần v.v., chứ không chỉ là sự giải thoát bằng sự an tịnh. Nhưng trí và kiến về sự giải thoát thì chỉ là thế gian. Chính vì thế, trong Chú Giải Tương Ưng Bộ (saṃ. ni. aṭṭha. 1.1.135) đã được nói: “bằng bốn từ đầu tiên, các pháp giới, định, tuệ, và giải thoát thuộc thế gian và siêu thế đã được nói đến. Trí và kiến về sự giải thoát là phản khán trí, và nó chỉ là thế gian.”

Assaddhotiādīsu tīsu vatthūsu saddhā etassa natthīti assaddho. Sukkapakkhe saddahatīti saddho, saddhā vā etassa atthītipi saddho. Natthi etassa hirīti ahiriko, akusalasamāpattiyā ajigucchamānassetaṃ adhivacanaṃ. Hirī etassa atthīti hirimā. Na ottappatīti anottappī, akusalasamāpattiyā na bhāyatīti vuttaṃ hoti. Tabbiparīto ottappī. Kucchitaṃ sīdatīti kusīto, hīnavīriyassetaṃ adhivacanaṃ. Āraddhaṃ vīriyaṃ etassāti āraddhavīriyo, sammappadhānayuttassetaṃ adhivacanaṃ. Muṭṭhā sati etassāti muṭṭhassati, naṭṭhassatīti vuttaṃ hoti. Upaṭṭhitā sati etassāti upaṭṭhitassati, niccaṃ ārammaṇābhimukhappavattasatissetaṃ adhivacanaṃ.
(Người) “không có đức tin” v.v., trong ba đối tượng, người này không có đức tin, nên là assaddho. Người tin vào phe trong sạch là saddho; hoặc người này có đức tin cũng là saddho. Người này không có lòng tàm là ahiriko; đây là tên gọi của người không ghê tởm việc phạm vào các pháp bất thiện. Người này có lòng tàm là hirimā. Người không biết ghê sợ là anottappī, ý nói là không sợ hãi việc phạm vào các pháp bất thiện. Người ngược lại là ottappī. Người chìm đắm trong sự hèn hạ là kusīto; đây là tên gọi của người có ít tinh tấn. Người có tinh tấn đã được khởi xướng là āraddhavīriyo; đây là tên gọi của người có được chánh tinh tấn. Người có niệm bị quên lãng là muṭṭhassati, ý nói là người đã mất niệm. Người có niệm được thiết lập là upaṭṭhitassati; đây là tên gọi của người có niệm luôn luôn diễn ra hướng đến đối tượng.

Adhisīlesīlavipanno ca ajjhācāre ācāravipanno ca āpajjitvā avuṭṭhito. Sassatucchedasaṅkhātaṃ antaṃ gaṇhāti gāhayatīti vā antaggāhikā, micchādiṭṭhi. Purimāni dve padānīti ‘‘na paṭibalo hoti antevāsiṃ vā saddhivihāriṃ vā gilānaṃ upaṭṭhātuṃ vā upaṭṭhāpetuṃ vā, anabhirataṃ vūpakāsetuṃ vā vūpakāsāpetuṃ vā’’ti imāni dve padāni.
(Người) “bị hư hỏng về giới trong các giới cao hơn”“bị hư hỏng về phẩm hạnh trong các hạnh kiểm” là người đã phạm tội và chưa được phục hồi. Người chấp nhận hoặc làm cho người khác chấp nhận cực đoan được gọi là thường kiến và đoạn kiến là antaggāhikā, tức là tà kiến. “Hai điều đầu tiên” là hai điều này: “không có khả năng hầu hạ hoặc cho người khác hầu hạ người học trò hay người đệ tử bị bệnh; không có khả năng khuyên giải hoặc cho người khác khuyên giải người không hoan hỷ.”

Abhivisiṭṭho uttamo samācāroti abhisamācāro, abhisamācārova sikkhitabbato sikkhāti ābhisamācārikā sikkhā, abhisamācāraṃ vā ārabbha paññattā sikkhā ābhisamācārikā. Maggabrahmacariyassa ādibhūtāti ādibrahmacariyakā, ubhatovibhaṅgapariyāpannasikkhāyetaṃ adhivacanaṃ. Teneva ‘‘ubhatovibhaṅgapariyāpannaṃ ādibrahmacariyakaṃ, khandhakavattapariyāpannaṃ ābhisamācārika’’nti visuddhimagge (visuddhi. 1.11) vuttaṃ. Tasmā sekkhapaṇṇattiyanti ettha sikkhitabbato sabbāpi ubhatovibhaṅgapariyāpannā paṇṇattīti gahetabbā. Teneva gaṇṭhipadepi vuttaṃ ‘‘sekkhapaṇṇattiyanti pārājikamādiṃ katvā sikkhitabbasikkhāpadapaññattiya’’nti. Sesamettha uttānatthameva.
Hạnh kiểm siêu việt, cao thượng là abhisamācāro; chính hạnh kiểm đó, do cần được học hỏi, là sikkhā, nên là ābhisamācārikā sikkhā (học giới về hạnh kiểm cho người mới tu); hoặc học giới được chế định liên quan đến hạnh kiểm là ābhisamācārikā. Là nền tảng ban đầu của phạm hạnh trong đạo nên là ādibrahmacariyakā (thuộc về phạm hạnh ban đầu); đây là tên gọi của học giới nằm trong cả hai bộ Phân Tích. Chính vì thế, trong sách Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 1.11) đã được nói: “pháp nằm trong cả hai bộ Phân Tích là thuộc về phạm hạnh ban đầu, pháp nằm trong các thiên và các phận sự là thuộc về hạnh kiểm cho người mới tu.” Do đó, trong (từ) “sekkhapaṇṇattiya” (quy định về học giới), ở đây cần được hiểu là tất cả các quy định nằm trong cả hai bộ Phân Tích, do cần được học hỏi. Chính vì thế, trong sách ghi chú cũng đã được nói: “‘sekkhapaṇṇattiyanti’ là trong quy định về các học giới cần được học hỏi, bắt đầu từ tội Bất Cộng Trụ.” Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Upasampādetabbapañcakakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Năm Hạng Người Được Thọ Cụ Túc Giới đã kết thúc.

Aññatitthiyapubbavatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Trước Đây Theo Ngoại Đạo

86. Aññatitthiyavatthumhi ājīvako acelakoti duvidho naggaparibbājakoti āha ‘‘naggaparibbājakasseva ājīvakassa vā’’tiādi. Tattha ājīvako upari ekameva vatthaṃ upakacchake pavesetvā paridahati, heṭṭhā naggo. Acelako sabbena sabbaṃ naggoyeva.
86. Trong câu chuyện về người theo ngoại đạo, để chỉ hai loại du sĩ lõa thể là ājīvaka và acelaka, (kinh) đã được nói bắt đầu bằng “của du sĩ lõa thể hoặc của ājīvaka.” Ở đây, ājīvaka mặc chỉ một tấm y ở phía trên bằng cách nhét vào thắt lưng, còn phía dưới thì lõa thể. Acelaka thì hoàn toàn lõa thể.

87.Āmisakiñcikkhasampadānaṃ nāma appamattakasseva deyyadhammassa anuppadānaṃ. Rūpūpajīvikāti attano rūpaṃyeva nissāya jīvantiyo. Vesiyā gocaro mittasanthavavasena upasaṅkamitabbaṭṭhānaṃ assāti vesiyāgocaro. Esa nayo sabbattha. Yobbanappattā yobbanātītā vāti ubhayenapi mahallikā anividdhakumāriyova vadati. Bhikkhuniyo nāma ussannabrahmacariyā, tathā bhikkhūpi. Tesaṃ aññamaññavisabhāgavatthubhāvato santhavavasena upasaṅkamane katipāheneva brahmacariyantarāyo siyāti āha ‘‘tāhi saddhiṃ khippameva vissāso hoti, tato sīlaṃ bhijjatī’’ti. Sesamettha uttānameva.
87. (Sự) “dâng cúng dù chỉ một vật nhỏ” là sự dâng cúng dù chỉ một vật dụng nhỏ bé. (Những người) “sống bằng sắc đẹp”: những người sống nương tựa vào chính sắc đẹp của mình. Nơi lui tới của một cô kỹ nữ, do là nơi cần được đến gần bằng mối quan hệ bạn bè, nên là vesiyāgocaro (người hay lui tới chốn kỹ nữ). Phương pháp này cũng áp dụng cho tất cả các trường hợp. “Đã đến tuổi thanh xuân hoặc đã qua tuổi thanh xuân”: bằng cả hai, (kinh) chỉ nói đến những cô gái chưa chồng đã lớn tuổi. Các vị Tỳ-khưu ni là những người có phạm hạnh phát triển, tương tự cũng là các vị Tỳ-khưu. Do bản chất của họ đối với nhau là khác biệt, nên khi đến gần nhau bằng mối quan hệ thân thiết, sự trở ngại cho phạm hạnh có thể sanh khởi chỉ trong vài ngày. (Ngài Phụ Chú Giải) nói: “sự thân mật với họ nhanh chóng có được, từ đó giới luật bị phá vỡ.” Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Aññatitthiyapubbavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Trước Đây Theo Ngoại Đạo đã kết thúc.

Pañcābādhavatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Năm Căn Bệnh

88. Pañcābādhavatthumhi nakhapiṭṭhippamāṇanti ettha ‘‘kaniṭṭhaṅgulinakhapiṭṭhi adhippetā’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. ‘‘Tañce nakhapiṭṭhippamāṇampi vaḍḍhanakapakkhe ṭhitaṃhoti, na pabbājetabbo’’ti iminā sāmaññato lakkhaṇaṃ dassitaṃ, tasmā yattha katthaci sarīrāvayavesu nakhapiṭṭhippamāṇaṃ vaḍḍhanakapakkhe ṭhitañce, na vaṭṭatīti siddhaṃ. Evañca sati nakhapiṭṭhippamāṇampi avaḍḍhanakapakkhe ṭhitañce, sabbattha vaṭṭatīti āpannaṃ, tañca na sāmaññato adhippetanti padesaviseseyeva niyametvā dassento ‘‘sace panā’’tiādimāha. Sace hi avisesena nakhapiṭṭhippamāṇaṃ avaḍḍhanakapakkhe ṭhitaṃ vaṭṭeyya, ‘‘nivāsanapārupanehi pakatipaacchanne ṭhāne’’ti padesaniyamaṃ na kareyya, tasmā nivāsanapārupanehi pakatipaṭicchannaṭṭhānato aññattha nakhapiṭṭhippamāṇaṃ avaḍḍhanakapakkhe ṭhitampi na vaṭṭatīti siddhaṃ, nakhapiṭṭhippamāṇato khuddakataraṃ pana avaḍḍhanakapakkhe vaḍḍhanakapakkhe vā ṭhitaṃ hotu, vaṭṭati nakhapiṭṭhippamāṇato khuddakatarassa vaḍḍhanakapakkhe avaḍḍhanakapakkhe vā ṭhitassa mukhādīsuyeva paṭikkhittattā.
88. Trong câu chuyện về năm căn bệnh, (từ) “bằng móng tay”: ở đây, trong cả ba quyển sách ghi chú, đã được nói rằng: “được hiểu là móng của ngón tay út.” “Và nếu nó, dù chỉ bằng móng tay, đang trong giai đoạn phát triển, không nên cho xuất gia”: bằng điều này, một đặc điểm chung đã được trình bày. Do đó, đã được xác định rằng nếu ở bất cứ nơi nào trên các bộ phận của cơ thể, (vết bệnh) bằng móng tay đang trong giai đoạn phát triển, thì không được phép. Và nếu như vậy, sẽ dẫn đến kết luận rằng nếu (vết bệnh) dù chỉ bằng móng tay đang trong giai đoạn không phát triển, thì ở khắp mọi nơi đều được phép. Và để trình bày rằng điều đó không được hiểu một cách chung chung, và để giới hạn chỉ trong một số vùng đặc biệt, (kinh) đã được nói bắt đầu bằng “Nhưng nếu.” Thật vậy, nếu (vết bệnh) bằng móng tay đang trong giai đoạn không phát triển được phép một cách không phân biệt, thì ngài đã không giới hạn vùng rằng: “ở nơi thường được che đậy bởi y mặc và y khoác.” Do đó, đã được xác định rằng ở ngoài nơi thường được che đậy bởi y mặc và y khoác, (vết bệnh) dù chỉ bằng móng tay đang trong giai đoạn không phát triển cũng không được phép. Còn nhỏ hơn móng tay, dù đang trong giai đoạn phát triển hay không phát triển, thì được phép, do đã bị cấm chỉ ở những nơi như mặt v.v. đối với (vết bệnh) nhỏ hơn móng tay dù đang trong giai đoạn phát triển hay không phát triển.

Gaṇḍepi imināva nayena vinicchayo veditabbo. Tattha pana mukhādīsu kolaṭṭhimattato khuddakataropi gaṇḍo na vaṭṭatīti visuṃ na dassito. ‘‘Mukhādike appaṭicchannaṭṭhāne avaḍḍhanakapakkhe ṭhitopi na vaṭṭatī’’ti ettakameva hi tattha vuttaṃ, tathāpi kuṭṭhe vuttanayena mukhādīsu kolaṭṭhippamāṇato khuddakataropi gaṇḍo na vaṭṭatīti viññāyati, tasmā avaḍḍhanakapakkhe ṭhitopīti ettha pi-saddo avuttasampiṇḍanattho. Tena kolaṭṭhimattato khuddakataropi na vaṭṭatīti ayamattho dassitoyevāti ayamamhākaṃ khanti. Pakativaṇṇe jāteti rogahetukassa vikāravaṇṇassa abhāvaṃ sandhāya vuttaṃ. Kolaṭṭhimattakoti badaraṭṭhippamāṇo. Suchaviṃ kāretvāti sañjātachaviṃ kāretvā. ‘‘Sañchaviṃ kāretvā’’tipi pāṭho, vijjamānachaviṃ kāretvāti attho. Padumapuṇḍarīkapattavaṇṇanti rattapadumasetapadumavasena padumapattavaṇṇaṃ. Sosabyādhīti khayarogo.
(Đối với) “các mụn nhọt cũng vậy,” quyết định cần được hiểu theo chính phương pháp này. Nhưng ở đó, không được trình bày riêng rằng ngay cả một mụn nhọt nhỏ hơn hột táo ta ở những nơi như mặt v.v. cũng không được phép. Thật vậy, ở đó chỉ được nói rằng: “ngay cả khi đang trong giai đoạn không phát triển ở nơi không được che đậy như mặt v.v. cũng không được phép.” Tuy nhiên, có thể hiểu rằng ngay cả một mụn nhọt nhỏ hơn hột táo ta ở những nơi như mặt v.v. cũng không được phép, theo phương pháp đã được nói đối với bệnh cùi. Do đó, trong (câu) “ngay cả khi đang trong giai đoạn không phát triển,” ở đây, từ pi– có nghĩa là bao hàm cả những điều chưa được nói. Do đó, ý nghĩa rằng ngay cả nhỏ hơn hột táo ta cũng không được phép đã được trình bày. Đây là sự chấp nhận của chúng tôi. “Khi màu sắc tự nhiên đã sanh khởi”: được nói đến nhắm vào sự không có của màu sắc biến dạng do bệnh tật. “Bằng hột táo ta”: bằng hột của quả táo ta. “Sau khi đã làm cho da trở nên tốt”: sau khi đã làm cho da được sinh ra. Cũng có cách đọc là “sañchaviṃ kāretvā,” có nghĩa là làm cho lớp da đang có được (lành lại). “Có màu của cánh sen và hoa súng”: có màu của cánh sen, theo loại sen đỏ và sen trắng. (Bệnh) “Sosabyādhī”: bệnh lao.

Pañcābādhavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Năm Căn Bệnh đã kết thúc.

Rājabhaṭādivatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Lính Của Vua v.v…

90-96. Rājabhaṭādivatthūsu āhaṃsūti manussā vadiṃsu. Tasmā…pe… evamāhāti yasmā sayaṃ dhammassāmī, tasmā bhikkhūhi apabbājitabbaṃ coraṃ aṅgulimālaṃ pabbājetvā āyatiṃ akaraṇatthāya bhikkhūnaṃ sikkhāpadaṃ paññapento ‘‘na, bhikkhave, dhajabandho coro pabbājetabbo, yo pabbājeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti āha. Uparamantīti viramanti nivattanti. Bhinditvāti andubandhanaṃ bhinditvā. Chinditvāti saṅkhalikabandhanaṃ chinditvā. Muñcitvāti rajjubandhanaṃ muñcitvā. Vivaritvāti gāmabandhanādīsu gāmadvārādīni vivaritvā. Apassamānānaṃ vā palāyatīti purisaguttiyaṃ purisānaṃ apassamānānaṃ palāyati. Upaḍḍhupaḍḍhanti thokaṃ thokaṃ.
90-96. Trong các câu chuyện về lính của vua v.v., (từ) “āhaṃsū”: con người đã nói. “Do đó… này… đã nói như vậy”: bởi vì chính ngài là chủ nhân của giáo pháp, do đó, để ngăn chặn việc làm đó trong tương lai, sau khi đã cho tên cướp Aṅgulimāla, người không nên được các vị Tỳ-khưu cho xuất gia, xuất gia, ngài đã chế định một học giới cho các vị Tỳ-khưu và nói rằng: “Này các Tỳ-khưu, không nên cho tên cướp đã bị đóng dấu xuất gia. Ai cho xuất gia, phạm tội Tác Ác.” (Họ) “dừng lại”: họ ngưng lại, họ thôi. “Sau khi đã phá”: sau khi đã phá xiềng. “Sau khi đã cắt”: sau khi đã cắt xích. “Sau khi đã cởi”: sau khi đã cởi trói bằng dây thừng. “Sau khi đã mở”: sau khi đã mở các cổng làng v.v. trong các nhà tù của làng v.v… “Hoặc trốn đi khi không ai thấy”: trong một nhà giam có người canh gác, anh ta trốn đi khi những người đó không thấy. “Từng chút một”: từng ít một.

97. Abhisekādīsu bandhanāgārādīni sodhenti, taṃ sandhāyāha ‘‘sabbasādhāraṇena vā nayenā’’ti. Sace sayameva paṇṇaṃ āropenti, na vaṭṭatīti tā bhujissitthiyo ‘‘mayampi dāsiyo homā’’ti sayameva dāsipaṇṇaṃ likhāpenti, na vaṭṭati. Takkaṃ sīse āsittakasadisāva hontīti yathā adāse karontā takkena sīsaṃ dhovitvā adāsaṃ karonti, evaṃ ārāmikavacanena dinnattā adāsāva teti adhippāyo. Takkāsiñcanaṃ pana sīhaḷadīpe cārittanti vadanti. Neva pabbājetabboti vuttanti kappiyavacanena dinnepi saṅghassa ārāmikadāsattā evaṃ vuttaṃ. Nissāmikadāso nāma yassa sāmikā saputtadārādayo matā honti, na koci tassa pariggāhako, sopi pabbājetuṃ na vaṭṭati, taṃ pana attanāpi bhujissaṃ kātuṃ vaṭṭati. Ye vā pana tasmiṃ raṭṭhe sāmino, tehipi kārāpetuṃ vaṭṭati. ‘‘Devadāsiputtaṃ pabbājetuṃ vaṭṭatī’’ti tīsu gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Dāsassa pabbajitvā attano sāmike disvā palāyantassa āpatti natthīti vadanti. Sesaṃ sabbattha uttānameva.
97. Trong các lễ đăng quang v.v., người ta dọn dẹp các nhà tù v.v., nhắm đến điều đó, (kinh) đã nói: “hoặc theo một quy luật chung.” “Nếu họ tự mình đăng ký, không được phép”: những người phụ nữ nô lệ tự do đó, nếu họ tự mình viết giấy làm nô lệ rằng: “chúng tôi cũng xin làm nô lệ,” thì không được phép. “Họ chỉ giống như những người đã được tưới sữa chua lên đầu”: giống như những người đang làm cho người khác không còn là nô lệ, họ gội đầu bằng sữa chua và làm cho người đó không còn là nô lệ. Cũng vậy, ý là: do đã được cho đi bằng lời nói của người phục vụ tu viện, họ không còn là nô lệ nữa. Người ta nói rằng việc tưới sữa chua là một phong tục ở đảo Sīhaḷa. “Đã được nói là không nên cho xuất gia”: đã được nói như vậy vì họ là nô lệ phục vụ tu viện của Tăng chúng, dù đã được cho đi bằng một lời nói hợp lệ. (Người) “nô lệ không có chủ” là người mà các chủ nhân như con cái, vợ chồng v.v. đã chết, không có ai là người bảo hộ của người đó. Người đó cũng không được phép cho xuất gia. Nhưng người đó cũng được phép tự mình trở thành người tự do. Hoặc cũng được phép nhờ các vị vua trong xứ đó làm cho. Trong ba quyển sách ghi chú đã được nói: “được phép cho con của một nữ tỳ trong đền thờ xuất gia.” Người ta nói rằng một người nô lệ, sau khi đã xuất gia, nếu thấy các chủ nhân của mình và trốn đi, thì không phạm tội. Phần còn lại ở khắp mọi nơi có ý nghĩa rõ ràng.

Rājabhaṭādivatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Lính Của Vua v.v. đã kết thúc.

Nissayamuccanakakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Sự Miễn Trừ Sự Nương Nhờ

103. Nissayamuccanakassa vattesu pañcakachakkesu pana ubhayāni kho pana…pe… anubyañjanasoti ettha ‘‘sabbopi cāyaṃ pabhedo mātikāṭṭhakathāyaṃ ñātāyaṃ ñāto hotī’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Āpattiṃ jānātītiādīsu ca ‘‘pāṭhe avattamānepi ‘idaṃ nāma katvā idaṃ āpajjatī’ti jānāti ce, vaṭṭatī’’ti tattheva vuttaṃ. Tañca kho pubbe pāṭhe paguṇe kateti gahetabbanti ca ācariyupajjhāyānampi eseva nayoti ca keci vadanti. Sesamettha uttānameva.
103. Trong các phận sự của việc miễn trừ sự nương nhờ, trong các nhóm năm và sáu, (câu) “cả hai… này… theo từng chi tiết nhỏ”: ở đây, trong cả ba quyển sách ghi chú đã được nói rằng: “tất cả sự phân chia này, khi đã biết trong chú giải về đề mục, sẽ được biết.” Và trong các câu bắt đầu bằng “biết được tội,” ở đó cũng đã được nói rằng: “dù không có trong bài đọc, nhưng nếu biết rằng: ‘làm việc này sẽ phạm tội này,’ thì được phép.” Và một số vị nói rằng điều đó cần được hiểu là sau khi đã làm cho bài đọc trở nên thuần thục trước đây, và phương pháp này cũng áp dụng cho cả các vị thầy dạy bảo và thầy tế độ. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Nissayamuccanakakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Sự Miễn Trừ Sự Nương Nhờ đã kết thúc.

Rāhulavatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Rāhula

105. Rāhulavatthumhi tattheva vihariṃsūti sabbepi te arahattaṃ pattakālato paṭṭhāya ariyā nāma majjhattāva hontīti rañño pahitasāsanaṃ dasabalassa anārocetvāva tattha vihariṃsu. Ekadivasaṃ jātaṃ kāḷudāyiṃ nāma amaccanti ayaṃ kira (a. ni. aṭṭha. 1.1.225) padumuttarabuddhakāle haṃsavatīnagare kulagehe nibbatto satthu dhammadesanaṃ suṇanto satthāraṃ ekaṃ bhikkhuṃ kulappasādakānaṃ aggaṭṭhāne ṭhapentaṃ disvā adhikārakammaṃ katvā taṃ ṭhānantaraṃ patthesi. So yāvajīvaṃ kusalaṃ katvā devamanussesu saṃsaranto amhākaṃ bodhisattassa mātukucchiyaṃ paṭisandhiggahaṇadivase kapilavatthusmiṃyeva amaccagehe paṭisandhiṃ gaṇhi. Jātadivase bodhisattena saddhiṃyeva jātoti taṃ divasaṃyeva dukūlacumbaṭake nipajjāpetvā bodhisattassa upaṭṭhānatthāya nayiṃsu. Bodhisattena hi saddhiṃ bodhirukkho rāhulamātā catasso nidhikumbhiyo ārohaniyahatthī kaṇḍako channo kāḷudāyīti ime satta ekadivase jātattā sahajātā nāma ahesuṃ. Athassa nāmaggahaṇadivase sakalanagarassa udaggacittadivase jātoti udāyītveva nāmaṃ akaṃsu. Thokaṃ kāḷadhātukattā pana kāḷudāyī nāma jāto. So bodhisattena saddhiṃ kumārakīḷaṃ kīḷanto vuddhiṃ agamāsi.
105. Trong câu chuyện về Rāhula, (họ) “đã an trú tại chính nơi đó”: tất cả các vị ấy, kể từ khi đắc quả A-la-hán, đã trở thành bậc Thánh, tức là những người có tâm trung dung, do đó đã không báo lại lời nhắn của vua cho đức Thập Lực mà đã an trú tại chính nơi đó. (Vị đại thần) “tên là Kāḷudāyī, người được sanh ra trong cùng một ngày”: tương truyền rằng (a. ni. aṭṭha. 1.1.225), vào thời đức Phật Padumuttara, vị này đã sanh ra trong một gia đình ở thành phố Haṃsavatī. Khi đang nghe đức Thế Tôn thuyết pháp, thấy ngài đặt một vị Tỳ-khưu vào vị trí cao nhất trong số những người làm cho các gia đình có lòng tin, vị ấy đã làm một việc làm có năng lực và đã nguyện cầu vị trí đó. Vị ấy, sau khi đã làm các việc thiện cho đến trọn đời, đã luân hồi trong các cõi trời và người, và đã thọ sanh trong một gia đình đại thần ở chính Kapilavatthu vào ngày đức Bồ-tát của chúng ta thọ thai trong bụng mẹ. Vào ngày đản sanh, do được sanh ra cùng với đức Bồ-tát, ngay trong ngày đó, ngài đã được đặt nằm trong một chiếc tã lụa và được mang đến để hầu hạ đức Bồ-tát. Thật vậy, cùng với đức Bồ-tát, có bảy pháp được gọi là đồng sanh do được sanh ra trong cùng một ngày: cây bồ đề, mẹ của Rāhula, bốn hũ châu báu, con voi có thể cưỡi, ngựa Kaṇṭhaka, Channa, và Kāḷudāyī. Khi ấy, vào ngày đặt tên, do được sanh ra vào ngày mà toàn thể thành phố có tâm hân hoan, ngài đã được đặt tên là Udāyī. Nhưng do có màu da hơi đen, ngài đã có tên là Kāḷudāyī. Ngài đã lớn lên trong khi đang chơi đùa cùng với đức Bồ-tát.

Saṭṭhimattāhigāthāhīti –
‘‘Aṅgārino dāni dumā bhadante;
Phalesino chadanaṃ vippahāya;
Te accimantova pabhāsayanti;
Samayo mahāvīra bhāgīrasānaṃ. (theragā. 527)
“Bạch ngài, cây cối nay như những hòn than;
Mong chờ kết trái, đã trút bỏ lá;
Chúng tỏa sáng như những ngọn lửa;
Hỡi bậc Đại Hùng, đã đến lúc của những người con của mặt trời. (theragā. 527)

‘‘Nātisītaṃ nātiuṇhaṃ, nātidubbhikkhachātakaṃ;
Saddalā haritā bhūmi, esa kālo mahāmunī’’ti. –
“Không quá lạnh, không quá nóng, không đói khát vì thiếu thốn;
Mặt đất xanh mướt cỏ non, hỡi bậc Đại Ẩn Sĩ, đây là thời điểm.” –

Ādikāhi saṭṭhimattāhi gāthāhi. ‘‘Pokkharavassanti pokkharapattavaṇṇamudaka’’nti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Pokkharapattappamāṇaṃ majjhe uṭṭhahitvā anukkamena satapaṭalaṃ sahassapaṭalaṃ hutvā vassanakavassantipi vadanti. Tasmiṃ kira vassante temetukāmāva tementi, na itare. Ekopi rājā vā…pe… gato natthīti dhammadesanaṃ sutvā pakkantesu ñātīsu ekopi rājā vā rājamahāmatto vā ‘‘sve amhākaṃ bhikkhaṃ gaṇhathā’’ti nimantetvā gato natthi. Pitāpissa suddhodanamahārājā ‘‘mayhaṃ putto mama gehaṃ anāgantvā kahaṃ gamissatī’’ti animantetvāva agamāsi, gantvā pana gehe vīsatiyā bhikkhusahassānaṃ yāguādīni paṭiyādāpetvā āsanāni paññāpesi.
(Bằng) khoảng sáu mươi bài kệ bắt đầu như vậy. (Cơn mưa) “pokkharavassa”: trong các quyển sách ghi chú đã được nói: “nước có màu của lá sen.” Người ta cũng nói là một cơn mưa mà khi rơi xuống, ở giữa có một giọt nổi lên bằng kích thước của một chiếc lá sen, rồi tuần tự trở thành một trăm lớp, một nghìn lớp. Tương truyền rằng, khi cơn mưa đó rơi xuống, chỉ những người muốn được ướt mới bị ướt, những người khác thì không. “Không một vị vua nào… này… đã ra đi”: trong số các quyến thuộc đã ra về sau khi nghe pháp thoại, không một vị vua nào hay một vị đại thần nào của vua đã thỉnh mời rằng: “ngày mai xin các ngài hãy nhận vật thực của chúng con,” rồi mới ra đi. Ngay cả vua cha Suddhodana của ngài cũng đã không thỉnh mời mà đã ra về, vì nghĩ rằng: “con trai của ta, nếu không đến nhà của ta, thì sẽ đi đâu?” Nhưng sau khi đã về, ngài đã cho chuẩn bị cháo v.v. và soạn chỗ ngồi trong nhà cho hai mươi nghìn vị Tỳ-khưu.

Kulanagareti ñātikulassa nagare. Uṇhīsato paṭṭhāyāti sīsato paṭṭhāya. Uṇhīsanti hi uṇhīsasadisattā bhagavato paripuṇṇanalāṭassa paripuṇṇasīsassa ca etaṃ adhivacanaṃ. Bhagavato hi dakkhiṇakaṇṇacūḷikato paṭṭhāya maṃsapaṭalaṃ uṭṭhahitvā sakalanalāṭaṃ chādayamānaṃ pūrayamānaṃ gantvā vāmakaṇṇacūḷikāya patiṭṭhitaṃ saṇhatamatāya suvaṇṇavaṇṇatāya pabhassaratāya paripuṇṇatāya ca rañño baddhauṇhīsapaṭṭo viya virocati. Bhagavato kira imaṃ lakkhaṇaṃ disvā rājūnaṃ uṇhīsapaṭṭaṃ akaṃsu. Aññe pana janā aparipuṇṇasīsā honti, keci kappasīsā, keci phalasīsā, keci aṭṭhisīsā, keci tumbasīsā, keci kumbhasīsā, keci pabbhārasīsā, bhagavato pana āraggena vaṭṭetvā ṭhapitaṃ viya suparipuṇṇaṃ udakapubbuḷasadisampi hoti. Teneva uṇhīsaveṭhitasīsasadisattā uṇhīsaṃ viya sabbattha parimaṇḍalasīsattā ca uṇhīsasīsoti bhagavā vuccati.
(Trong) “thành phố của dòng dõi”: trong thành phố của dòng dõi quyến thuộc. “Kể từ uṇhīsa”: kể từ đầu. Thật vậy, uṇhīsa (vật đội đầu) là tên gọi của vầng trán đầy đặn và cái đầu đầy đặn của đức Thế Tôn, do sự giống nhau với một cái uṇhīsa. Thật vậy, từ chỏm tai phải của đức Thế Tôn, một lớp thịt đã nổi lên, bao phủ và làm đầy toàn bộ vầng trán, rồi đi đến và dừng lại ở chỏm tai trái. Do có sự mịn màng, màu vàng óng, sự rực rỡ, và sự đầy đặn, nó tỏa sáng như một dải lụa đội đầu đã được vua thắt lại. Tương truyền rằng, sau khi đã thấy tướng này của đức Thế Tôn, các vị vua đã làm ra dải lụa đội đầu. Còn những người khác thì có cái đầu không đầy đặn; một số người có đầu hình cái bát, một số người có đầu hình quả cây, một số người có đầu hình xương, một số người có đầu hình quả bầu, một số người có đầu hình cái chum, một số người có đầu hình dốc núi. Nhưng đầu của đức Thế Tôn thì vô cùng đầy đặn, giống như đã được tiện bằng một cái compa, và cũng giống như một bong bóng nước. Chính vì thế, do giống như một cái đầu được quấn khăn và do có cái đầu tròn đều ở khắp mọi nơi, đức Thế Tôn được gọi là người có đầu uṇhīsa.

Narasīhagāthāhināma aṭṭhahi gāthāhīti –
‘‘Siniddhanīlamudukuñcitakeso;
Sūriyanimmalatalābhinalāṭo;
Yuttatuṅgamudukāyatanāso;
Raṃsijālavitato narasīho’’ti. (jā. aṭṭha. 1.santikenidānakathā; apa. aṭṭha. 1.santikenidānakathā) –
(Bằng) “tám bài kệ được gọi là các bài kệ về Nhân Sư” là –
“Người có mái tóc mềm mại, xanh biếc, và xoăn;
Có vầng trán trong sạch như bề mặt của mặt trời;
Có chiếc mũi cao, thẳng, và mềm mại;
Là bậc Nhân Sư với mạng lưới hào quang tỏa ra.” (jā. aṭṭha. 1.santikenidānakathā; apa. aṭṭha. 1.santikenidānakathā) –

Evamādikāhi aṭṭhahi gāthāhi. Gaṇṭhipadesu pana –
(Bằng) tám bài kệ bắt đầu như vậy. Nhưng trong các quyển sách ghi chú thì –

‘‘Cakkavaraṅkitarattasupādo;
Lakkhaṇamaṇḍitaāyatapaṇhi;
Cāmarachattavibhūsitapādo;
Esa hi tuyha pitā narasīho.
“Người có đôi chân son được ghi dấu bằng bánh xe tuyệt hảo;
Có gót chân dài được trang điểm bằng các tướng tốt;
Có đôi chân được tô điểm bằng lọng và phất trần;
Đây chính là cha của con, bậc Nhân Sư.

‘‘Sakyakumāravaro sukhumālo;
Lakkhaṇacittikapuṇṇasarīro;
Lokahitāya gato naravīro;
Esa hi tuyha pitā narasīho.
“Vị hoàng tử dòng Sakya tuyệt vời, thanh tú;
Có thân hình đầy đủ, được điểm tô bằng các tướng tốt;
Đã ra đi vì lợi ích của thế gian, bậc Anh Hùng;
Đây chính là cha của con, bậc Nhân Sư.

‘‘Puṇṇasasaṅkanibho mukhavaṇṇo;
Devanarāna piyo naranāgo;
Mattagajindavilāsitagāmī;
Esa hi tuyha pitā narasīho.
“Sắc mặt như vầng trăng tròn;
Là người được trời và người yêu mến, bậc Long Tượng;
Có dáng đi uyển chuyển như một con voi đầu đàn say;
Đây chính là cha của con, bậc Nhân Sư.

‘‘Khattiyasambhavaaggakulīno;
Devamanussanamassitapādo;
Sīlasamādhipatiṭṭhitacitto;
Esa hi tuyha pitā narasīho.
“Là người thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ cao quý;
Có đôi chân được trời và người đảnh lễ;
Có tâm an trú trong giới và định;
Đây chính là cha của con, bậc Nhân Sư.

‘‘Āyatayuttasusaṇṭhitanāso;
Gopakhumo abhinīlasunetto;
Indadhanūabhinīlabhamūko;
Esa hi tuyha pitā narasīho.
“Có chiếc mũi cao, thẳng, và cân đối;
Có đôi mắt xanh biếc như lông mi của con bò;
Có đôi lông mày cong và xanh biếc như cầu vồng của trời Indra;
Đây chính là cha của con, bậc Nhân Sư.

‘‘Vaṭṭasuvaṭṭasusaṇṭhitagīvo ;
Sīhahanū migarājasarīro;
Kañcanasucchaviuttamavaṇṇo;
Esa hi tuyha pitā narasīho.
“Có chiếc cổ tròn, đều, và cân đối;
Có hàm như của sư tử, thân hình như của vua loài thú;
Có nước da tuyệt hảo, màu vàng óng;
Đây chính là cha của con, bậc Nhân Sư.

‘‘Siniddhasugambhiramañjusaghoso;
Hiṅgulabandhukarattasujivho;
Vīsativīsatisetasudanto;
Esa hi tuyha pitā narasīho.
“Có giọng nói ngọt ngào, sâu lắng, và êm dịu;
Có chiếc lưỡi son như được tô bằng chu sa và hoa bandhuka;
Có hàm răng trắng đều, bốn mươi chiếc;
Đây chính là cha của con, bậc Nhân Sư.

‘‘Añjanavaṇṇasunīlasukeso ;
Kañcanapaṭṭavisuddhanalāṭo;
Osadhipaṇḍarasuddhasuuṇṇo;
Esa hi tuyha pitā narasīho.
“Có mái tóc đen tuyền, xanh biếc như thuốc vẽ mắt;
Có vầng trán trong sạch như một tấm vàng;
Có sợi lông trắng giữa hai mày, trong sạch như sao mai;
Đây chính là cha của con, bậc Nhân Sư.

‘‘Gacchatinilapathe viya cando;
Tāragaṇāpariveṭhitarūpo;
Sāvakamajjhagato samaṇindo;
Esa hi tuyha pitā narasīho’’ti. (jā. aṭṭha. 1.santikenidānakathā) –
“Đi giữa các vị thinh văn như mặt trăng trên bầu trời xanh;
Có hình dáng được các vì sao vây quanh;
Là vị vua của các sa-môn;
Đây chính là cha của con, bậc Nhân Sư.” (jā. aṭṭha. 1.santikenidānakathā) –

Imā nava gāthāyopi ettha dassitā, tā pana ‘‘aṭṭhahi gāthāhī’’ti vacanena na samenti. Uṇhīsato paṭṭhāya yāva pādatalāti vuttānukkamopi tattha na dissati. Bhikkhāya caratīti bhikkhācāro.
Chín bài kệ này cũng đã được trình bày ở đây, nhưng chúng không khớp với lời nói “bằng tám bài kệ.” Thứ tự đã được nói là từ uṇhīsa cho đến lòng bàn chân cũng không được thấy ở đó. Người đi khất thực là bhikkhācāro.

Uttiṭṭheti uttiṭṭhitvā paresaṃ gharadvāre ṭhatvā gahetabbapiṇḍe. Nappamajjheyyāti piṇḍacārikavattaṃ hāpetvā paṇītabhojanāni pariyesanto uttiṭṭhe pamajjati nāma, sapadānaṃ piṇḍāya caranto pana nappamajjati nāma, evaṃ karonto uttiṭṭhe nappamajjeyya. Dhammanti anesanaṃ pahāya sapadānaṃ caranto tameva bhikkhācariyadhammaṃ sucaritaṃ care. Sukhaṃ setīti desanāmattametaṃ, evaṃ panetaṃ bhikkhāya cariyadhammaṃ caranto dhammacārī idhaloke ca paraloke ca catūhipi iriyāpathehi sukhaṃ viharatīti attho.
(Đối với) “vật thực có được khi đứng (chờ)”: đối với vật thực khất thực có được khi đứng chờ ở cửa nhà của người khác. “Không nên dể duôi”: người nào từ bỏ phận sự đi khất thực và tìm kiếm các món ăn ngon, người đó được gọi là dể duôi đối với vật thực có được khi đứng chờ. Nhưng người nào đi khất thực theo thứ tự từng nhà thì được gọi là không dể duôi. Khi làm như vậy, vị ấy sẽ không dể duôi đối với vật thực có được khi đứng chờ. (Pháp) “Dhammaṃ”: sau khi đã từ bỏ việc tìm cầu không đúng đắn, trong khi đang đi khất thực theo thứ tự từng nhà, hãy thực hành tốt đẹp chính pháp khất thực đó. “Ngủ một cách an lạc”: đây chỉ là một phần của lời dạy, ý nghĩa là: người thực hành pháp khất thực như vậy, người sống theo pháp, sẽ an trú một cách an lạc bằng cả bốn oai nghi, trong đời này và cả đời sau.

Dutiyagāthāya na naṃ duccaritanti vesiyādibhede agocare caranto naṃ bhikkhācariyadhammaṃ duccaritaṃ carati nāma, evaṃ acaritvā taṃ dhammaṃ care sucaritaṃ, na naṃ duccaritaṃ care. Sesamettha vuttatthameva. Imaṃ pana dutiyagāthaṃ pitu nivesanaṃ gantvā abhāsīti veditabbaṃ. Teneva theragāthāsaṃvaṇṇanāyaṃ (theragā. aṭṭha. 1.156 nandattheragāthāvaṇṇanā) ācariyadhammapālattherena vuttaṃ ‘‘dutiyadivase piṇḍāya paviṭṭho ‘uttiṭṭhe nappamajjeyyā’ti gāthāya pitaraṃ sotāpattiphale patiṭṭhāpetvā nivesanaṃ gantvā ‘dhammaṃ care sucarita’nti gāthāya mahāpajāpatiṃ sotāpattiphale rājānañca sakadāgāmiphale patiṭṭhāpesī’’ti. Dhammapadaṭṭhakathāyampi (dha. pa. aṭṭha. 1.12 nandattheravatthu) vuttaṃ ‘‘punadivase piṇḍāya paviṭṭho ‘uttiṭṭhe nappamajjeyyā’ti gāthāya pitaraṃ sotāpattiphale patiṭṭhāpetvā ‘dhammaṃ care’ti gāthāya mahāpajāpatiṃ sotāpattiphale rājānañca sakadāgāmiphale patiṭṭhāpesī’’ti.
Trong bài kệ thứ hai, (câu) “không thực hành sai pháp đó”: người nào đi vào những nơi không nên đến như chốn kỹ nữ v.v., người đó được gọi là thực hành sai pháp khất thực đó. Không làm như vậy, hãy thực hành pháp đó một cách tốt đẹp, đừng thực hành sai pháp đó. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa đã được nói. Cần được hiểu rằng bài kệ thứ hai này đã được ngài nói sau khi đã đến cung điện của vua cha. Chính vì thế, trong Chú Giải Trưởng Lão Kệ (theragā. aṭṭha. 1.156 nandattheragāthāvaṇṇanā), trưởng lão Giáo Thọ Sư Dhammapāla đã nói: “vào ngày thứ hai, khi vào thành để khất thực, ngài đã thiết lập vua cha trong quả Tu-đà-hoàn bằng bài kệ ‘Uttiṭṭhe nappamajjeyyā;’ sau đó, khi đến cung điện, ngài đã thiết lập bà Mahāpajāpatī trong quả Tu-đà-hoàn và nhà vua trong quả Tư-đà-hàm bằng bài kệ ‘Dhammaṃ care sucaritaṃ.’” Trong Chú Giải Pháp Cú (dha. pa. aṭṭha. 1.12 nandattheravatthu) cũng đã được nói: “vào ngày hôm sau, khi vào thành để khất thực, ngài đã thiết lập vua cha trong quả Tu-đà-hoàn bằng bài kệ ‘Uttiṭṭhe nappamajjeyyā;’ và bằng bài kệ ‘Dhammaṃ care,’ ngài đã thiết lập bà Mahāpajāpatī trong quả Tu-đà-hoàn và nhà vua trong quả Tư-đà-hàm.”

Dhammapālajātakaṃ sutvā anāgāmiphale patiṭṭhāsīti punekadivasaṃ rājanivesane katapātarāso ekamantaṃ nisinnena raññā ‘‘bhante, tumhākaṃ dukkarakārikakāle ekā devatā maṃ upasaṅkamitvā ‘putto te kālakato’ti āha. Ahaṃ tassā vacanaṃ asaddahanto ‘na mayhaṃ putto bodhiṃ appatvā kālaṃ karotī’ti paṭikkhipinti vutte idāni kathaṃ saddahissatha, pubbepi aṭṭhikāni dassetvā ‘putto te mato’ti vutte na saddahitthā’’ti imissā aṭṭhuppattiyā mahādhammapālajātakaṃ kathesi. Taṃ sutvā rājā anāgāmiphale patiṭṭhahi.
“Sau khi đã nghe chuyện tiền thân Dhammapāla, đã an trú trong quả A-na-hàm”: vào một ngày khác, sau khi đã dùng bữa sáng tại cung điện của vua, trong khi nhà vua đang ngồi một bên, ngài đã nói: “Bạch ngài, vào lúc ngài đang khổ hạnh, có một vị chư thiên đã đến gần con và nói: ‘con trai của ngài đã qua đời.’ Con đã không tin lời của vị ấy và đã bác bỏ rằng: ‘con trai của ta không thể qua đời trước khi chứng đắc đạo quả.’” Khi được nói như vậy, (đức Phật đã hỏi): “bây giờ làm sao ngài có thể tin được, khi trước đây, ngay cả khi được cho xem các khúc xương và được nói: ‘con trai của ngài đã chết,’ ngài cũng đã không tin?” Do duyên sự này, ngài đã kể chuyện tiền thân Mahādhammapāla. Sau khi nghe xong, nhà vua đã an trú trong quả A-na-hàm.

Kesavissajjananti kulamariyādavasena kesoropanaṃ. Paṭṭabandhoti yuvarājapaṭṭabandho. Abhinavagharappavesanamaho gharamaṅgalaṃ, vivāhakaraṇamaho āvāhamaṅgalaṃ. Chattamaṅgalanti yuvarājachattamaṅgalaṃ. Janapadakalyāṇīti (udā. aṭṭha. 22) janapadamhi kalyāṇī uttamā chasarīradosarahitā pañcakalyāṇasamannāgatā. Sā hi yasmā nātidīghā nātirassā nātikisā nātithūlā nātikāḷā nāccodātāti atikkantā mānusaṃ vaṇṇaṃ, appattā dibbaṃ vaṇṇaṃ, tasmā chasarīradosarahitā. Chavikalyāṇaṃ maṃsakalyāṇaṃ nahārukalyāṇaṃ aṭṭhikalyāṇaṃ vayakalyāṇanti imehi pana pañcahi kalyāṇehi samannāgatattā pañcakalyāṇasamannāgatā nāma. Tassā hi āgantukobhāsakiccaṃ natthi. Attano sarīrobhāseneva dvādasahatthaṭṭhāne ālokaṃ karoti, piyaṅgusāmā vā hoti suvaṇṇasāmā vā, ayamassā chavikalyāṇatā. Cattāro panassā hatthapādā mukhapariyosānañca lākhārasaparikammakataṃ viya rattapavāḷarattakambalasadisaṃ hoti, ayamassā maṃsakalyāṇatā. Vīsati pana nakhapattāni maṃsato amuttaṭṭhāne lākhārasapūritāni viya muttaṭṭhāne khīradhārāsadisāni honti, ayamassā nahārukalyāṇatā. Dvattiṃsa dantā suphusitā sudhotavajirapanti viya khāyanti, ayamassā aṭṭhikalyāṇatā. Vīsativassasatikāpi samānā soḷasavassuddesikā viya hoti nivalipalitā, ayamassā vayakalyāṇatā. Iti imehi pañcahi kalyāṇehi samannāgatattā janapadakalyāṇīti vuccati.
“Việc cạo tóc”: việc cạo tóc theo phong tục của dòng dõi. “Lễ buộc dải lụa”: lễ buộc dải lụa của vị thái tử. Lễ trọng thể vào nhà mới là gharamaṅgalaṃ (lễ vào nhà mới); lễ trọng thể kết hôn là āvāhamaṅgalaṃ (lễ cưới). Lễ lọng: lễ lọng của vị thái tử. (Nàng) “Janapadakalyāṇī” (người đẹp của xứ sở) (udā. aṭṭha. 22): người đẹp, người tuyệt vời trong xứ sở, người không có sáu lỗi lầm của cơ thể và có được năm vẻ đẹp. Thật vậy, bởi vì nàng không quá cao, không quá thấp, không quá gầy, không quá mập, không quá đen, không quá trắng, đã vượt qua sắc đẹp của con người, nhưng chưa đạt đến sắc đẹp của cõi trời, do đó nàng không có sáu lỗi lầm của cơ thể. Nàng được gọi là người có được năm vẻ đẹp do có được năm vẻ đẹp này: vẻ đẹp của làn da, vẻ đẹp của da thịt, vẻ đẹp của gân, vẻ đẹp của xương, và vẻ đẹp của tuổi tác. Thật vậy, nàng không cần đến ánh sáng từ bên ngoài. Chỉ bằng ánh sáng của cơ thể mình, nàng đã làm sáng một khu vực rộng mười hai hắc tay. Nàng có màu da như hoa hòe hoặc màu vàng óng. Đây là vẻ đẹp của làn da của nàng. Bốn chi và phần cuối của khuôn mặt của nàng có màu đỏ như được tô bằng nước sơn mài, giống như san hô đỏ và tấm thảm len đỏ. Đây là vẻ đẹp của da thịt của nàng. Hai mươi móng tay, ở phần chưa tách khỏi da thịt, giống như được tô đầy nước sơn mài; ở phần đã tách ra, giống như những dòng sữa. Đây là vẻ đẹp của gân của nàng. Ba mươi hai chiếc răng trắng đều, trông như một hàng kim cương đã được rửa sạch. Đây là vẻ đẹp của xương của nàng. Dù đã một trăm hai mươi tuổi, nàng vẫn trông như một cô gái mười sáu tuổi, không có nếp nhăn và tóc bạc. Đây là vẻ đẹp của tuổi tác của nàng. Như vậy, do có được năm vẻ đẹp này, nàng được gọi là Janapadakalyāṇī.

Tuvaṭanti sīghaṃ. Sopi bhagavantaṃ ‘‘pattaṃ gaṇhathā’’ti vattuṃ avisahamāno vihāraṃyeva agamāsīti. So kira tathāgate gāravena ‘‘pattaṃ vo bhante gaṇhathā’’ti vattuṃ nāsakkhi. Evaṃ pana cintesi ‘‘sopānasīse pattaṃ gaṇhissatī’’ti. Satthā tasmimpi ṭhāne na gaṇhi. Itaro ‘‘sopānapādamūle gaṇhissatī’’ti cintesi. Satthā tatthāpi na gaṇhi. Itaro ‘‘rājaṅgaṇe gaṇhissatī’’ti cintesi. Satthā tatthāpi na gaṇhi. Kumāro nivattitukāmo aruciyā gacchanto satthu gāravena ‘‘pattaṃ gaṇhathā’’ti vattumpi asakkonto ‘‘idha gaṇhissati, ettha gaṇhissatī’’ti cintento gacchati. Janapadakalyāṇiyā ca vuttavacanaṃ tassa hadaye tiriyaṃ patitvā viya ṭhitaṃ. Nandakumārañhi abhisekamaṅgalaṃ na tathā pīḷesi, yathā janapadakalyāṇiyā vuttavacanaṃ, tenassa cittasantāpo balavā ahosi. Atha naṃ ‘‘imasmiṃ ṭhāne nivattissati, imasmiṃ ṭhāne nivattissatī’’ti cintentameva satthā vihāraṃ netvā ‘‘pabbajissasi nandā’’ti āha. So buddhagāravena ‘‘na pabbajissāmī’’ti avatvā ‘‘āma pabbajissāmī’’ti āha. Satthā ‘‘tena hi nandaṃ pabbājethā’’ti vatvā pabbājesi. Tena vuttaṃ ‘‘anicchamānaṃyeva bhagavā pabbājesī’’ti. ‘‘Satthā kapilapuraṃ gantvā tatiyadivase nandaṃ pabbājesī’’ti dhammapadaṭṭhakathāyaṃ (dha. pa. aṭṭha. 1.12 nandattheravatthu) vuttaṃ, aṅguttaranikāyaṭṭhakathāyaṃ (a. ni. aṭṭha. 1.1.230) pana –
(Từ) “Tuvaṭaṃ”: nhanh chóng. Vị ấy cũng đã không thể nói với đức Thế Tôn rằng: “xin hãy nhận lấy bát,” mà đã đi đến chính tu viện. Tương truyền rằng, do lòng tôn kính đối với Như Lai, vị ấy đã không thể nói: “Bạch ngài, xin hãy nhận lấy bát của ngài.” Nhưng đã nghĩ như sau: “ngài sẽ nhận bát ở đầu cầu thang.” Bậc Đạo Sư cũng đã không nhận ở nơi đó. Vị kia đã nghĩ: “ngài sẽ nhận ở chân cầu thang.” Bậc Đạo Sư cũng đã không nhận ở đó. Vị kia đã nghĩ: “ngài sẽ nhận ở sân của vua.” Bậc Đạo Sư cũng đã không nhận ở đó. Vị hoàng tử, muốn quay trở lại, trong khi đang đi một cách không vui, do lòng tôn kính đối với bậc Đạo Sư, cũng đã không thể nói: “xin hãy nhận lấy bát,” mà cứ đi và nghĩ rằng: “ngài sẽ nhận ở đây, ngài sẽ nhận ở kia.” Và lời nói của nàng Janapadakalyāṇī như đang nằm ngang trong tim của chàng. Lễ đăng quang của hoàng tử Nanda đã không làm chàng đau khổ bằng lời nói của nàng Janapadakalyāṇī, do đó sự dằn vặt trong tâm của chàng rất mãnh liệt. Khi ấy, bậc Đạo Sư, trong khi chàng đang nghĩ rằng: “ngài sẽ quay lại ở nơi này, ngài sẽ quay lại ở nơi này,” đã dẫn chàng đến tu viện và nói: “Này Nanda, con có xuất gia không?” Chàng, do lòng tôn kính đối với đức Phật, đã không nói: “con không xuất gia,” mà đã nói: “vâng, con sẽ xuất gia.” Bậc Đạo Sư đã nói: “vậy thì hãy cho Nanda xuất gia,” và đã cho xuất gia. Do đó đã được nói: “đức Thế Tôn đã cho xuất gia ngay cả khi chàng không muốn.” Trong Chú Giải Pháp Cú (dha. pa. aṭṭha. 1.12 nandattheravatthu) đã được nói rằng: “bậc Đạo Sư, sau khi đã đến thành Kapilapura, vào ngày thứ ba đã cho Nanda xuất gia.” Nhưng trong Chú Giải Tăng Chi Bộ (a. ni. aṭṭha. 1.1.230) thì –

‘‘Mahāsattopi sabbaññutaṃ patvā pavattitavaradhammacakko lokānuggahaṃ karonto rājagahato kapilavatthuṃ gantvā paṭhamadassaneneva pitaraṃ sotāpattiphale patiṭṭhāpesi, punadivase pitu nivesanaṃ gantvā rāhulamātāya ovādaṃ katvā sesajanassapi dhammaṃ kathesi, punadivase nandakumārassa abhisekagehappavesanaāvāhamaṅgalesu vattamānesu tassa nivesanaṃ gantvā kumāraṃ pattaṃ gāhāpetvā pabbājetuṃ vihārābhimukho pāyāsī’’ti –
“Đấng Đại Sĩ, sau khi đã đạt được toàn giác tuệ, sau khi đã chuyển vận bánh xe pháp tối thượng, trong khi đang làm lợi ích cho thế gian, đã từ Rājagaha đến Kapilavatthu, và ngay trong lần gặp đầu tiên, đã thiết lập vua cha trong quả Tu-đà-hoàn. Vào ngày hôm sau, sau khi đến cung điện của vua cha, đã khuyên dạy mẹ của Rāhula và đã thuyết pháp cho cả những người khác. Vào ngày hôm sau, trong khi các lễ đăng quang, vào nhà mới, và lễ cưới của hoàng tử Nanda đang diễn ra, ngài đã đến cung điện của chàng, cho hoàng tử cầm bát và đã đi về hướng tu viện để cho xuất gia.” –

Vuttaṃ, idha pana ‘‘bhagavā kapilapuraṃ āgantvā dutiyadivase nandaṃ pabbājesī’’ti vuttaṃ, sabbampetaṃ ācariyena taṃtaṃbhāṇakānaṃ tathā tathā anussavavasena pariharitvā āgatabhāvato tattha tattha tathā tathā vuttanti natthettha ācariyavacane pubbāparavirodho.
Đã được nói. Nhưng ở đây lại được nói rằng: “đức Thế Tôn, sau khi đã đến thành Kapilapura, vào ngày thứ hai đã cho Nanda xuất gia.” Tất cả những điều này, do được vị thầy truyền lại theo cách nghe được của các vị đọc tụng tương ứng, nên ở những nơi đó đã được nói như vậy, không có sự mâu thuẫn trước sau trong lời nói của vị thầy.

Brahmarūpavaṇṇanti brahmarūpasamānarūpaṃ. Tyassāti te assa. Vaṭṭānugatanti vaṭṭapariyāpannaṃ. Savighātanti dukkhasahitattā savighātaṃ, sadukkhanti attho. Sattavidhaṃ ariyadhananti –
(Sắc đẹp) “như hình dạng của một vị Phạm thiên”: hình dạng giống như hình dạng của một vị Phạm thiên. (Từ) “Tyassā”: te assa (của người ấy). (Điều) “liên quan đến vòng luân hồi”: nằm trong vòng luân hồi. (Sự an lạc) “có sự phiền não”: có sự phiền não do đi cùng với khổ, ý nghĩa là có khổ. “Bảy loại tài sản của bậc Thánh” là –

‘‘Saddhādhanaṃ sīladhanaṃ, hiriottappiyaṃ dhanaṃ;
Sutadhanañca cāgo ca, paññā ve sattamaṃ dhana’’nti. (a. ni. 7.5-6) –
“Tín là tài sản, giới là tài sản, tàm và quý là tài sản;
Văn là tài sản, và thí, trí tuệ là tài sản thứ bảy.” (a. ni. 7.5-6) –

Evaṃ vuttaṃ sattavidhaṃ ariyadhanaṃ. Uñchācariyāyāti bhikkhācariyāya. Puttasineho uppajjamāno sakalasarīraṃ khobhetvā aṭṭhimiñjaṃ āhacca tiṭṭhatīti āha ‘‘puttapemaṃ bhante…pe… aṭṭhimiñjaṃ āhacca tiṭṭhatī’’ti. Puttasineho hi balavabhāvato sahajātapītivegassa savipphāratāya taṃsamuṭṭhānarūpadhammehi pharaṇavasena sakalasarīraṃ āloḷetvā aṭṭhimiñjaṃ āhacca tiṭṭhati. Yatra hi nāmāti yo nāma. Sesamettha uttānameva.
Bảy loại tài sản của bậc Thánh đã được nói như vậy. (Để) “thực hành việc khất thực”: để thực hành việc đi khất thực. Tình thương con, khi sanh khởi, đã làm rung chuyển toàn bộ cơ thể và chạm đến tủy xương, (nhà vua) nói: “Bạch ngài, tình thương con… này… đã chạm đến tủy xương.” Thật vậy, tình thương con, do có sức mạnh, đã làm xáo trộn toàn bộ cơ thể bằng cách lan tỏa cùng với các pháp sắc do nó sanh ra, do sự mãnh liệt của niềm vui đồng sanh, và đã đứng vững sau khi đã chạm đến tủy xương. “Người nào mà”: người nào. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Rāhulavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Rāhula đã kết thúc.

Sikkhāpadadaṇḍakammavatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Các Học Giới Và Các Hình Phạt

106.Anujānāmi, bhikkhave, sāmaṇerānaṃ dasa sikkhāpadānītiādīsu sikkhitabbāni padāni sikkhāpadāni, sikkhākoṭṭhāsāti attho. Sikkhāya vā padāni sikkhāpadāni, adhisīlaadhicittaadhipaññāsikkhāya adhigamupāyāti attho. Atthato pana kāmāvacarakusalacittasampayuttā viratiyo, taṃsampayuttadhammā panettha taggahaṇeneva gahetabbā. Saraseneva patanasabhāvassa antarā eva atipātanaṃ atipāto, saṇikaṃ patituṃ adatvā sīghaṃ pātananti attho. Atikkamma vā satthādīhi abhibhavitvā pātanaṃ atipāto, pāṇassa atipāto pāṇātipāto, pāṇavadho pāṇaghātoti vuttaṃ hoti. Pāṇoti cettha vohārato satto, paramatthato jīvitindriyaṃ. Tasmiṃ pana pāṇe pāṇasaññino jīvitindriyupacchedakaupakkamasamuṭṭhāpikā kāyavacīdvārānaṃ aññatarappavattā vadhakacetanā pāṇātipāto, tato pāṇātipātā.
106. Trong các câu bắt đầu bằng “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép mười học giới cho các vị sa-di,” các điều cần được học hỏi là sikkhāpadāni (các học giới), ý nghĩa là các phần của sự học hỏi. Hoặc các nền tảng của sự học hỏi là sikkhāpadāni, ý nghĩa là các phương tiện để chứng đắc ba học là tăng thượng giới, tăng thượng tâm, và tăng thượng tuệ. Nhưng về mặt ý nghĩa, ở đây là các sự kiêng cữ tương ưng với tâm thiện thuộc dục giới; các pháp tương ưng với nó cần được bao hàm bằng chính sự bao hàm đó. Sự làm cho rơi xuống ngay ở giữa của một vật có bản chất là rơi từ từ là atipāto (sự sát hại), ý nghĩa là không cho rơi từ từ mà làm cho rơi nhanh. Hoặc sự sát hại là việc làm cho rơi xuống sau khi đã dùng vũ khí v.v. để chế ngự; sự sát hại sinh mạng là pāṇātipāto (sự sát sanh), ý nói là sự giết hại sinh mạng, sự sát hại sinh vật. Và ở đây, (từ) “pāṇo” (sinh mạng), theo cách nói thông thường, là một chúng sanh; theo nghĩa chân đế, là mạng căn. Nhưng ở đây, ý muốn giết hại, sanh khởi từ một trong hai cửa thân và khẩu, là sự khởi xướng cho một hành động nhằm cắt đứt mạng căn, khi có nhận thức rằng đó là một sinh mạng, đối với sinh mạng đó, là sự sát sanh. Do đó, (giới cấm) “từ sự sát sanh.”

Veramaṇīti verahetutāya verasaññitaṃ pāṇātipātādipāpadhammaṃ maṇati, ‘‘mayi idha ṭhitāya kathamāgacchasī’’ti vā tajjentī viya nīharatīti veramaṇī. Viramati etāyāti vā viramaṇīti vattabbe niruttinayena ‘‘veramaṇī’’ti vuttaṃ. Atthato pana veramaṇīti kāmāvacarakusalacittasampayuttā viratiyo. Sā ‘‘pāṇātipātādiṃ viramantassa yā tasmiṃ samaye pāṇātipātā ārati virati paṭivirati veramaṇī akiriyā akaraṇaṃ anajjhāpatti velānatikkamo setughāto’’ti evamādinā nayena vibhaṅge (vibha. 704) vuttā. Kāmañcesā veramaṇī nāma lokuttarāpi atthi, idha pana samādānavasappavattā virati adhippetāti lokuttarāya viratiyā samādānavasena pavattiasambhavato kāmāvacarakusalacittasampayuttā viratiyo gahetabbā.
(Từ) “Veramaṇī” (sự kiêng cữ): nó khinh miệt pháp ác như sát sanh v.v., được gọi là vera (sự hận thù) do là nhân của sự hận thù; hoặc nó xua đuổi như thể đang đe dọa rằng: “khi ta đang ở đây, làm sao ngươi có thể đến được,” nên là veramaṇī. Hoặc, trong khi nên nói là viramaṇī, do người ta kiêng cữ bằng nó, thì đã được nói là “veramaṇī” theo cách giải thích từ ngữ. Nhưng về mặt ý nghĩa, veramaṇī là các sự kiêng cữ tương ưng với tâm thiện thuộc dục giới. Nó đã được nói trong sách Phân Tích (vibha. 704) theo phương pháp bắt đầu bằng: “đối với người đang kiêng cữ việc sát sanh v.v., vào lúc đó, sự không làm, sự kiêng cữ, sự tránh xa, sự từ bỏ, sự không hành động, sự không làm, sự không phạm vào, sự không vượt qua giới hạn, sự phá vỡ cầu nối đối với việc sát sanh.” Mặc dù sự kiêng cữ này cũng có loại siêu thế, nhưng ở đây, do sự kiêng cữ diễn ra do sự thọ trì được chủ đích, và do sự kiêng cữ siêu thế không thể có sự diễn ra do sự thọ trì, nên cần được hiểu là các sự kiêng cữ tương ưng với tâm thiện thuộc dục giới.

Adinnādānā veramaṇītiādīsu adinnassa ādānaṃ adinnādānaṃ, parassaharaṇaṃ, theyyaṃ corikāti vuttaṃ hoti. Tattha adinnanti parapariggahitaṃ. Yattha paro yathākāmakāritaṃ āpajjanto adaṇḍāraho anupavajjo ca hoti, tasmiṃ pana parapariggahite parapariggahitasaañano tadādāyakaupakkamasamuṭṭhāpikā theyyacetanā adinnādānaṃ.
“Sự kiêng cữ việc lấy của không cho” v.v., việc lấy của không cho là adinnādānaṃ (sự trộm cắp), ý nói là sự lấy của người khác, sự ăn cắp, sự trộm cắp. Ở đây, (của) “không cho” là của đã được người khác sở hữu. Đối với của đã được người khác sở hữu đó, khi có nhận thức rằng đó là của đã được người khác sở hữu, và có ý muốn trộm cắp là sự khởi xướng cho một hành động nhằm lấy nó đi, trong khi người khác, nếu có thể làm theo ý muốn, sẽ không bị phạt và không bị khiển trách, đó là sự trộm cắp.

Abrahmacariyaṃ nāma aseṭṭhacariyaṃ dvayaṃdvayasamāpatti. Sā hi ‘‘appassādā kāmā bahudukkhā bahupāyāsā, ādīnavo ettha bhiyyo’’tiādinā (ma. ni. 1.177; 2.42) hīḷitattā aseṭṭhā appasatthā cariyāti vā aseṭṭhānaṃ nihīnānaṃ itthipurisānaṃ cariyāti vā aseṭṭhacariyaṃ, aseṭṭhacariyattā abrahmacariyanti ca vuccati , atthato pana asaddhammasevanādhippāyena kāyadvārappavattā maggenamaggappaṭipattisamuṭṭhāpikā cetanā abrahmacariyaṃ.
(Sự) “Abrahmacariyaṃ” (không phạm hạnh) là sự thực hành không cao thượng, tức là sự giao hợp của hai người. Thật vậy, do đã bị chê bai bằng (các câu) bắt đầu bằng: “các dục có ít vị ngọt, có nhiều khổ đau, nhiều phiền não; ở đây, sự nguy hiểm là nhiều hơn” (ma. ni. 1.177; 2.42), nên nó là sự thực hành không cao thượng, không đáng tán thán; hoặc do là sự thực hành của những người không cao thượng, những người nam và nữ hèn hạ, nên là sự thực hành không cao thượng; và do là sự thực hành không cao thượng, nên được gọi là không phạm hạnh. Về mặt ý nghĩa, ý muốn khởi xướng cho sự thực hành sai lầm là đường và không phải đường, diễn ra qua cửa thân, với ý định thực hành điều bất chính, là sự không phạm hạnh.

Musāti abhūtaṃ atacchaṃ vatthu, vādoti tassa bhūtato tacchato viññāpanaṃ. Lakkhaṇato pana atathaṃ vatthuṃ tathato paraṃ viññāpetukāmassa tathāviññattisamuṭṭhāpikā cetanā musāvādo musā vadīyati vuccati etāyāti katvā.
(Lời nói) “Musā” (dối): một sự việc không có thật, không đúng sự thật. (Từ) “vādo” (nói): sự làm cho biết về điều đó một cách như là có thật, như là đúng sự thật. Nhưng về mặt đặc tính, ý muốn khởi xướng cho sự làm cho biết như vậy, đối với người muốn làm cho người khác biết một sự việc không đúng sự thật như là đúng sự thật, là musāvādo (lời nói dối), do người ta nói dối bằng nó.

Surāmerayamajjappamādaṭṭhānāti ettha surāti pūvasurā piṭṭhasurā odanasurā kiṇṇapakkhittā sambhārasaṃyuttāti pañca surā. Merayanti pupphāsavo phalāsavo madhvāsavo guḷāsavo sambhārasaṃyuttoti pañca āsavā. Tattha pūve bhājane pakkhipitvā tajjaṃ udakaṃ datvā madditvā katā pūvasurā. Evaṃ sesasurāpi. Kiṇṇāti pana tassā surāya bījaṃ vuccati, ye surāmodakāti vuccanti, te pakkhipitvā katā kiṇṇapakkhittā. Harītakīsāsapādinānāsambhārehi saṃyojitā sambhārasaṃyuttā. Madhukatālanāḷikerādipuppharaso ciraparivāsito pupphāsavo. Panasādiphalaraso phalāsavo. Muddikāraso madhvāsavo. Ucchuraso guḷāsavo. Harītakaāmalakakaṭukabhaṇḍādinānāsambhārānaṃ raso ciraparivāsito sambhārasaṃyutto. Taṃ sabbampi madakaraṇavasena majjaṃ pivantaṃ madayatīti katvā. Pamādaṭṭhānanti pamādakāraṇaṃ. Yāya cetanāya taṃ majjaṃ pivanti, tassā etaṃ adhivacanaṃ. Surāmerayamajje pamādaṭṭhānaṃ surāmerayamajjappamādaṭṭhānaṃ, tasmā surāmerayamajjappamādaṭṭhānā.
(Nơi chốn của) “rượu surā, rượu meraya, và các chất say là cơ sở của sự dể duôi”: ở đây, surā là năm loại rượu: rượu bánh, rượu bột, rượu gạo, rượu có men, và rượu có các nguyên liệu pha chế. Meraya là năm loại rượu ngâm: rượu ngâm hoa, rượu ngâm trái cây, rượu ngâm mật ong, rượu ngâm đường, và rượu ngâm có các nguyên liệu pha chế. Ở đây, rượu được làm bằng cách bỏ bánh vào trong một cái bình, cho nước tương ứng vào, rồi nhào trộn là rượu bánh. Các loại rượu còn lại cũng tương tự như vậy. Men là hạt giống của loại rượu đó, được gọi là các viên men rượu; rượu được làm bằng cách bỏ chúng vào là rượu có men. Rượu được pha chế với các nguyên liệu khác nhau như harītakī, hạt cải v.v. là rượu có các nguyên liệu pha chế. Nước cốt của các loại hoa như madhuka, thốt nốt, dừa v.v. được ngâm lâu ngày là rượu ngâm hoa. Nước cốt của các loại trái cây như mít v.v. là rượu ngâm trái cây. Nước cốt nho là rượu ngâm mật ong. Nước cốt mía là rượu ngâm đường. Nước cốt của các nguyên liệu khác nhau như harītakī, āmalaka, các loại gia vị cay v.v. được ngâm lâu ngày là rượu ngâm có các nguyên liệu pha chế. Tất cả những thứ đó, do có tác dụng gây say, là chất say, vì nó làm cho người uống say. (Từ) “cơ sở của sự dể duôi”: nguyên nhân của sự dể duôi. Đây là tên gọi của ý muốn mà do đó người ta uống chất say đó. Cơ sở của sự dể duôi trong rượu surā, rượu meraya, và các chất say là surāmerayamajjappamādaṭṭhānaṃ, do đó (giới cấm) là từ cơ sở của sự dể duôi là rượu surā, rượu meraya, và các chất say.

Vikālabhojanāti aruṇuggamanato paṭṭhāya yāva majjhanhikā. Ayaṃ buddhādīnaṃ ariyānaṃ āciṇṇasamāciṇṇo bhojanassa kālo nāma, tadañño vikālo. Bhuñjitabbaṭṭhena bhojanaṃ, yāgubhattādi sabbaṃ yāvakālikavatthu. Yathā ca ‘‘rattūparato’’ti (dī. 1.10, 194; ma. ni. 1.293; 3.14) ettha rattiyā bhojanaṃ rattīti uttarapadalopena vuccati, evamettha bhojanajjhoharaṇaṃ bhojananti. Vikāle bhojanaṃ vikālabhojanaṃ, tato vikālabhojanā, vikāle yāvakālikavatthussa ajjhoharaṇāti attho. Atha vā na ettha kammasādhano bhuñjitabbatthavācako bhojanasaddo, atha kho bhāvasādhano ajjhoharaṇatthavācako gahetabbo , tasmā vikāle bhojanaṃ ajjhoharaṇaṃ vikālabhojanaṃ. Kassa pana ajjhoharaṇanti? Yāmakālikādīnaṃ anuññātattā vikālabhojana-saddassa vā yāvakālikajjhoharaṇe niruḷhattā yāvakālikassāti viññāyati, atthato pana kāyadvārappavattā vikāle yāvakālikajjhoharaṇacetanā ‘‘vikālabhojana’’nti veditabbā.
“Việc ăn trong lúc phi thời”: kể từ khi rạng đông cho đến giữa trưa. Đây được gọi là thời điểm ăn uống đã được các bậc Thánh như các đức Phật v.v. thực hành và quen thuộc; ngoài thời điểm đó là phi thời. Vật dụng cần được ăn là bhojanaṃ, tức là tất cả các vật dụng có thể dùng trong một buổi như cháo, cơm v.v… Và giống như trong câu “kiêng ăn ban đêm” (dī. 1.10, 194; ma. ni. 1.293; 3.14), việc ăn vào ban đêm được gọi là đêm do sự lược bỏ từ cuối. Cũng vậy, ở đây, sự ăn uống được gọi là bhojanaṃ. Việc ăn trong lúc phi thời là vikālabhojanaṃ, do đó (giới cấm) là từ việc ăn trong lúc phi thời, có nghĩa là sự ăn các vật dụng có thể dùng trong một buổi trong lúc phi thời. Hoặc ở đây, không nên lấy từ bhojanaṃ là một từ chỉ hành động có ý nghĩa là vật cần được ăn, mà nên lấy là một từ chỉ trạng thái có ý nghĩa là sự ăn uống. Do đó, việc ăn uống trong lúc phi thời là vikālabhojanaṃ. Vậy, ăn uống cái gì? Do các vật dụng có thể dùng trong một canh v.v. đã được cho phép, và do từ vikālabhojanaṃ đã trở nên thông dụng trong việc ăn uống các vật dụng có thể dùng trong một buổi, nên có thể hiểu là của các vật dụng có thể dùng trong một buổi. Nhưng về mặt ý nghĩa, cần được hiểu rằng ý muốn ăn các vật dụng có thể dùng trong một buổi trong lúc phi thời, diễn ra qua cửa thân, được gọi là “vikālabhojanaṃ.”

Naccagītavāditavisūkadassanāti ettha sāsanassa ananulomattā visūkaṃ paṭāṇībhūtaṃ dassananti visūkadassanaṃ. Naccādīnañhi dassanaṃ sachandarāgappavattito saṅkhepato ‘‘sabbapāpassa akaraṇa’’ntiādinayappavattaṃ (dī. ni. 2.90; dha. pa. 183) bhagavato sāsanaṃ na anulometi. Naccañca gītañca vāditañca visūkadassanañca naccagītavāditavisūkadassanaṃ. Attanā payojiyamānaṃ parehi payojāpiyamānañcettha naccaṃ naccabhāvasāmaññato pāḷiyaṃ ekeneva nacca-saddena gahitaṃ, tathā gītavādita-saddehi gāyanagāyāpanavādanavādāpanāni, tasmā attanā naccananaccāpanādivasena naccā ca gītā ca vāditā ca antamaso mayūranaccādivasenapi pavattānaṃ naccādīnaṃ visūkabhūtā dassanā ca veramaṇīti evamettha attho daṭṭhabbo. Naccādīni attanā payojetuṃ vā parehi payojāpetuṃ vā payuttāni passituṃ vā neva bhikkhūnaṃ na bhikkhunīnaṃ vaṭṭati. Dassanena cettha savanampi saṅgahitaṃ virūpekasesanayena. Yathā sakaṃ visayaālocanasabhāvatāya vā pañcannaṃ viññāṇānaṃ savanakiriyāyapi dassanasaṅkhepasambhavato ‘‘dassanā’’ icceva vuttaṃ. Teneva vuttaṃ ‘‘pañcahi viññāṇehi na kañci dhammaṃ paṭivijānāti aññatra abhinipātamattā’’ti. Dassanakamyatāya upasaṅkamitvā passato eva cettha vītikkamo hoti, ṭhitanisinnasayanokāse pana āgataṃ gacchantassa vā āpāthagataṃ passato siyā saṃkileso, na vītikkamo.
“Việc xem múa, hát, nhạc, và các trò trình diễn không thích hợp”: ở đây, do không phù hợp với giáo pháp, nên việc xem không thích hợp, trở thành đối nghịch, là visūkadassanaṃ. Thật vậy, việc xem múa v.v., do diễn ra cùng với lòng tham ái, đã không thuận theo giáo pháp của đức Thế Tôn, vốn được tóm tắt theo phương pháp bắt đầu bằng: “không làm tất cả các điều ác” (dī. ni. 2.90; dha. pa. 183). Múa, hát, nhạc, và việc xem các trò trình diễn không thích hợp là naccagītavāditavisūkadassanaṃ. Ở đây, việc múa do chính mình thực hiện và việc cho người khác thực hiện, do có cùng bản chất là múa, đã được bao hàm trong bản Pāḷi chỉ bằng một từ múa. Tương tự, bằng các từ hát và nhạc, việc hát, cho hát, chơi nhạc, và cho chơi nhạc cũng đã được bao hàm. Do đó, ở đây, ý nghĩa cần được hiểu là: sự kiêng cữ việc xem múa, hát, nhạc, và các trò trình diễn không thích hợp, diễn ra theo các cách như tự mình múa, cho múa v.v., ngay cả theo cách như múa công v.v… Các vị Tỳ-khưu và Tỳ-khưu ni không được phép tự mình thực hiện múa v.v., hoặc cho người khác thực hiện, hoặc xem. Và ở đây, bằng việc xem, việc nghe cũng đã được bao hàm theo phương pháp virūpekasesa. Hoặc do bản chất nhận biết đối tượng của chính mình, ngay cả trong hành động nghe của năm thức, cũng có thể có sự bao hàm của sự thấy, nên đã được nói chỉ là “việc xem.” Chính vì thế đã được nói: “bằng năm thức, không biết rõ một pháp nào khác ngoài sự tiếp xúc đơn thuần.” Ở đây, chỉ có sự vi phạm khi đến gần với ý muốn xem. Nhưng khi đang đứng, ngồi, nằm, nếu có một buổi trình diễn đến, hoặc khi đang đi, nếu có một buổi trình diễn lọt vào tầm mắt, có thể có sự ô nhiễm, nhưng không có sự vi phạm.

Mālāgandhavilepanadhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānāti ettha mālāti yaṃ kiñci pupphaṃ. Kiñcāpi hi mālā-saddo loke baddhamālavācako, sāsane pana ruḷhiyā pupphesupi vutto, tasmā yaṃ kiñci pupphaṃ baddhamabaddhaṃ vā, taṃ sabbaṃ ‘‘mālā’’ti daṭṭhabbaṃ. Gandhanti vāsacuṇṇadhūmādikaṃ vilepanato aññaṃ yaṃ kiñci gandhajātaṃ. Vilepananti vilepanatthaṃ pisitvā paṭiyattaṃ yaṃ kiñci chavirāgakaraṇaṃ. Piḷandhanaṃ dhāraṇaṃ, ūnaṭṭhānapūraṇaṃ maṇḍanaṃ, gandhavasena chavirāgavasena ca sādiyanaṃ vibhūsanaṃ. Teneva dīghanikāyaṭṭhakathāyaṃ (dī. ni. aṭṭha. 1.10) majjhimanikāyaṭṭhakathāyañca (ma. ni. aṭṭha. 1.293) ‘‘piḷandhanto dhāreti nāma, ūnaṭṭhānaṃ pūrento maṇḍeti nāma, gandhavasena chavirāgavasena ca sādiyanto vibhūseti nāmā’’ti vuttaṃ. Paramatthajotikāyaṃ pana khuddakaṭṭhakathāyaṃ (khu. pā. aṭṭha. 2.pacchimapañcasikkhāpadavaṇṇanā) ‘‘mālādīsu dhāraṇādīni yathāsaṅkhyaṃ yojetabbānī’’ti ettakameva vuttaṃ. Ṭhānaṃ vuccati kāraṇaṃ, tasmā yāya dussīlyacetanāya tāni mālādhāraṇādīni mahājano karoti, sā dhāraṇamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānaṃ.
“Nơi chốn của việc đeo vòng hoa, dùng hương thơm, vật thoa, trang điểm, và trang sức”: ở đây, mālā (vòng hoa) là bất cứ loại hoa nào. Mặc dù từ mālā trong thế gian là từ chỉ vòng hoa đã được kết lại, nhưng trong giáo pháp, do thói quen, nó cũng được dùng cho cả các loại hoa. Do đó, cần được hiểu rằng bất cứ loại hoa nào, dù đã được kết hay chưa, tất cả đều là “mālā.” Gandhaṃ (hương thơm) là bất cứ loại hương thơm nào khác ngoài vật thoa, như bột thơm, khói hương v.v… Vilepanaṃ (vật thoa) là bất cứ vật dụng nào làm cho da có màu sắc, đã được chuẩn bị bằng cách nghiền nát để thoa. Đồ trang sức là dhāraṇaṃ (việc đeo); việc làm đầy những chỗ thiếu sót là maṇḍanaṃ (việc trang điểm); việc làm đẹp bằng hương thơm và màu sắc là vibhūsanaṃ (việc trang sức). Chính vì thế, trong Chú Giải Trường Bộ (dī. ni. aṭṭha. 1.10) và trong Chú Giải Trung Bộ (ma. ni. aṭṭha. 1.293) đã được nói: “khi đeo đồ trang sức, được gọi là đeo; khi làm đầy những chỗ thiếu sót, được gọi là trang điểm; khi làm đẹp bằng hương thơm và màu sắc, được gọi là trang sức.” Nhưng trong sách Paramatthajotikā, Chú Giải Tiểu Bộ (khu. pā. aṭṭha. 2.pacchimapañcasikkhāpadavaṇṇanā), chỉ được nói rằng: “trong các pháp như vòng hoa v.v., việc đeo v.v. cần được liên kết theo thứ tự.” Ṭhānaṃ (nơi chốn) được gọi là nguyên nhân, do đó ý muốn làm điều bất thiện mà do đó quần chúng làm các việc như đeo vòng hoa v.v., ý muốn đó là nơi chốn của việc đeo, trang điểm, và trang sức.

Uccāsayanamahāsayanāti ettha uccāti ucca-saddena samānatthaṃ ekaṃ saddantaraṃ. Seti etthāti sayanaṃ, uccāsayanañca mahāsayanañca uccāsayanamahāsayanaṃ. Uccāsayanaṃ vuccati pamāṇātikkantaṃ mañcādi. Mahāsayanaṃ akappiyattharaṇehi atthataṃ āsandādi. Āsanañcettha sayaneneva saṅgahitanti daṭṭhabbaṃ. Yasmā pana ādhāre paṭikkhitte tadādhārā kiriyā paṭikkhittāva hoti, tasmā ‘‘uccāsayanamahāsayanā’’ icceva vuttaṃ, atthato pana tadupabhogabhūtanisajjānipajjanehi virati dassitāti daṭṭhabbā. Atha vā uccāsayanamahāsayanasayanāti etasmiṃ atthe ekasesanayena ayaṃ niddeso kato yathā ‘‘nāmarūpapaccayā saḷāyatana’’nti, āsanakiriyāpubbakattā sayanakiriyāya sayanaggahaṇeneva āsanampi gahitanti veditabbaṃ.
(Giường) “cao và giường lớn”: ở đây, uccā là một từ khác có cùng ý nghĩa với từ ucca-. Nơi người ta ngủ là sayanaṃ; giường cao và giường lớn là uccāsayanamahāsayanaṃ. Giường cao được gọi là giường v.v. vượt quá kích thước cho phép. Giường lớn là ghế v.v. được trải bằng các loại thảm lót không được phép. Ở đây, cần được hiểu rằng chỗ ngồi cũng đã được bao hàm trong giường. Nhưng bởi vì khi nền tảng bị cấm, hành động trên nền tảng đó cũng chắc chắn bị cấm, do đó đã được nói chỉ là “giường cao và giường lớn.” Nhưng về mặt ý nghĩa, cần được hiểu rằng sự kiêng cữ các việc nằm và ngồi sử dụng chúng đã được trình bày. Hoặc, trong ý nghĩa là việc ngủ trên giường cao và giường lớn, cách chỉ định này đã được thực hiện theo phương pháp ekasesa, giống như trong câu “do danh và sắc làm duyên, có sáu xứ;” cần được hiểu rằng do hành động ngồi có trước hành động ngủ, nên bằng việc bao hàm sự ngủ, sự ngồi cũng đã được bao hàm.

Jātarūparajatapaṭiggahaṇāti ettha jātarūpanti suvaṇṇaṃ. Rajatanti kahāpaṇo lohamāsako jatumāsako dārumāsakoti ye vohāraṃ gacchanti, tassa ubhayassapi paṭiggahaṇaṃ jātarūparajatapaṭiggahaṇaṃ. Tividhañcettha paṭiggahaṇaṃ kāyena vācāya manasāti. Tattha kāyena paṭiggahaṇaṃ uggaṇhanaṃ, vācāya paṭiggahaṇaṃ uggahāpanaṃ, manasā paṭiggahaṇaṃ sādiyanaṃ. Tividhampi paṭiggahaṇaṃ sāmaññaniddesena ekasesanayena vā gahetvā ‘‘paṭiggahaṇā’’ti vuttaṃ, tasmā neva uggahetuṃ na uggahāpetuṃ na upanikkhittaṃ vā sādituṃ vaṭṭati. Imāni pana dasa sikkhāpadāni gahaṭṭhānampi sādhāraṇāni. Vuttañhetaṃ visuddhimagge (visuddhi. 13) ‘‘upāsakaupāsikānaṃ niccasīlavasena pañca sikkhāpadāni, sati vā ussāhe dasa, uposathaṅgavasena aṭṭhāti idaṃ gahaṭṭhasīla’’nti. Ettha hi dasāti sāmaṇerehi rakkhitabbasīlamāha ghaṭikārādīnaṃ viya. Paramatthajotikāyaṃ pana khuddakaṭṭhakathāyaṃ (khu. pā. aṭṭha. 2.sādhāraṇavisesavavatthāna) ‘‘ādito dve catutthapañcamāni upāsakānaṃ sāmaṇerānañca sādhāraṇāni niccasīlavasena, uposathasīlavasena pana upāsakānaṃ sattamaṭṭhamaṃ cekaṃ aṅgaṃ katvā sabbapacchimavajjāni sabbānipi sāmaṇerehi sādhāraṇāni, pacchimaṃ pana sāmaṇerānameva visesabhūta’’nti vuttaṃ, taṃ ‘‘sati vā ussāhe dasā’’ti iminā na sameti. Nāsanavatthūti liṅganāsanāya vatthu, adhiṭṭhānaṃ kāraṇanti vuttaṃ hoti.
“Việc nhận vàng và bạc”: ở đây, jātarūpaṃ là vàng. Rajataṃ là tiền kahāpaṇa, tiền māsaka bằng kim loại, tiền māsaka bằng nhựa cây, tiền māsaka bằng gỗ, những thứ được lưu hành. Việc nhận cả hai thứ đó là jātarūparajatapaṭiggahaṇaṃ. Và ở đây có ba loại nhận: bằng thân, bằng lời, và bằng ý. Ở đây, nhận bằng thân là cầm lấy; nhận bằng lời là cho người khác cầm lấy; nhận bằng ý là sự vui vẻ chấp nhận. Cả ba loại nhận, sau khi đã được bao hàm bằng cách chỉ định chung hoặc bằng phương pháp ekasesa, đã được nói là “việc nhận.” Do đó, không được phép cầm lấy, không được phép cho người khác cầm lấy, hoặc không được phép vui vẻ chấp nhận vật đã được đặt xuống. Nhưng mười học giới này cũng là chung cho cả những người tại gia. Điều này đã được nói trong sách Thanh Tịnh Đạo (visuddhi. 13): “đối với các vị cận sự nam và cận sự nữ, năm học giới là giới thường xuyên; hoặc mười giới nếu có sự nỗ lực; tám giới là giới của ngày bố-tát. Đây là giới của người tại gia.” Ở đây, mười giới là nói về giới cần được các vị sa-di giữ gìn, giống như của các vị như Ghaṭikāra v.v… Nhưng trong sách Paramatthajotikā, Chú Giải Tiểu Bộ (khu. pā. aṭṭha. 2.sādhāraṇavisesavavatthāna), đã được nói rằng: “hai giới đầu tiên, giới thứ tư và thứ năm là chung cho các vị cận sự nam và các vị sa-di, theo cách là giới thường xuyên. Nhưng theo cách là giới của ngày bố-tát, đối với các vị cận sự nam, giới thứ bảy và thứ tám được gộp thành một chi phần, và tất cả các giới trừ giới cuối cùng đều là chung với các vị sa-di. Nhưng giới cuối cùng thì là riêng biệt của các vị sa-di.” Điều đó không khớp với câu “hoặc mười giới nếu có sự nỗ lực.” (Nền tảng) “của sự trục xuất”: nền tảng cho việc trục xuất khỏi đời sống sa-môn, ý nói là sự thành lập, là nguyên nhân.

107.Kintīti kena nu kho upāyena. ‘‘Attano pariveṇanti idaṃ puggalikaṃ sandhāya vutta’’nti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Ayamettha gaṇṭhipadakārānaṃ adhippāyo – ‘‘vassaggena pattasenāsana’’nti iminā tassa vassaggena pattaṃ saṅghikasenāsanaṃ vuttaṃ, ‘‘attano pariveṇa’’nti imināpi tasseva puggalikasenāsanaṃ vuttanti. Ayaṃ panettha amhākaṃ khanti – ‘‘yattha vā vasatī’’ti iminā saṅghikaṃ vā hotu puggalikaṃ vā, tassa nibaddhavasanakasenāsanaṃ vuttaṃ. ‘‘Yattha vā paṭikkamatī’’ti iminā pana yaṃ ācariyassa upajjhāyassa vā vasanaṭṭhānaṃ upaṭṭhānādinimittaṃ nibaddhaṃ pavisati, taṃ ācariyupajjhāyānaṃ vasanaṭṭhānaṃ vuttaṃ. Tasmā tadubhayaṃ dassetuṃ ‘‘ubhayenapi attano pariveṇañca vassaggena pattasenāsanañca vutta’’nti āha. Tattha attano pariveṇanti iminā ācariyupajjhāyānaṃ vasanaṭṭhānaṃ dassitaṃ, vassaggena pattasenāsananti iminā pana tassa vasanaṭṭhānaṃ. Tadubhayampi saṅghikaṃ vā hotu puggalikaṃ vā, āvaraṇaṃ kātabbamevāti. Mukhadvārikanti mukhadvārena bhuñjitabbaṃ. Daṇḍakammaṃ katvāti daṇḍakammaṃ yojetvā. Daṇḍenti vinenti etenāti daṇḍo, soyeva kātabbattā kammanti daṇḍakammaṃ, āvaraṇādi.
107. (Từ) “Kintī”: bằng phương tiện nào. “Tu phòng riêng của mình: điều này được nói đến nhắm vào tài sản cá nhân,” trong các quyển sách ghi chú đã được nói như vậy. Đây là chủ ý của các tác giả của các quyển sách ghi chú – bằng (câu) “trú xứ đã nhận được theo tuổi hạ,” trú xứ thuộc về Tăng chúng đã nhận được theo tuổi hạ của vị đó đã được nói đến. Bằng (câu) “tu phòng riêng của mình,” trú xứ cá nhân của chính vị đó cũng đã được nói đến. Đây là sự chấp nhận của chúng tôi – bằng (câu) “hoặc nơi vị ấy ở,” trú xứ ở thường xuyên của vị đó đã được nói đến, dù là của Tăng chúng hay là cá nhân. Nhưng bằng (câu) “hoặc nơi vị ấy lui tới,” nơi ở của vị thầy dạy bảo hoặc thầy tế độ mà vị ấy thường lui tới để hầu hạ v.v. đã được nói đến. Do đó, để trình bày cả hai điều đó, (kinh) đã nói: “bằng cả hai, tu phòng riêng của mình và trú xứ đã nhận được theo tuổi hạ đã được nói đến.” Ở đây, bằng “tu phòng riêng của mình,” nơi ở của vị thầy dạy bảo và thầy tế độ đã được trình bày. Nhưng bằng “trú xứ đã nhận được theo tuổi hạ,” nơi ở của vị đó đã được trình bày. Cả hai điều đó, dù là của Tăng chúng hay là cá nhân, cũng chắc chắn phải được rào lại. (Vật thực) “qua cửa miệng”: vật thực cần được ăn bằng cửa miệng. “Sau khi đã áp dụng hình phạt”: sau khi đã áp dụng hình phạt. Người ta răn dạy, rèn luyện bằng cái này nên là daṇḍo (hình phạt); chính nó, do cần được làm, là kammaṃ (hành động), nên là daṇḍakammaṃ (sự trừng phạt), tức là việc rào lại v.v…

Sikkhāpadadaṇḍakammavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Các Học Giới Và Các Hình Phạt đã kết thúc.

Anāpucchāvaraṇavatthuādikathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Rào Lại Khi Chưa Hỏi v.v…

108.Daṇḍakammamassa karothāti assa daṇḍakammaṃ yojetha āṇāpetha. Daṇḍakammanti vā niggahakammaṃ, tasmā niggahamassa karothāti vuttaṃ hoti. Esa nayo sabbattha īdisesu ṭhānesu. Senāsanaggāho ca paṭippassambhatīti iminā ca chinnavasso ca hotīti dīpeti. Sace ākiṇṇadosova hoti, āyatiṃ saṃvare na tiṭṭhati, nikkaḍḍhitabboti ettha sace yāvatatiyaṃ vuccamāno na oramati, saṅghaṃ apaloketvā nāsetabbo. Puna pabbajjaṃ yācamānopi apaloketvā pabbājetabboti vadanti. Pacchimikāya vassāvāsikaṃ lacchatīti pacchimikāya puna vassaṃ upagatattā lacchati. Apaloketvā lābho dātabboti chinnavassatāya vuttaṃ. Itarāni pañca sikkhāpadānīti vikālabhojanādīni pañca. Accayaṃ desāpetabboti ‘‘accayo maṃ, bhante, accagamā’’tiādinā nayena desāpetabbo.
108. “Hãy áp dụng hình phạt đối với vị ấy”: hãy áp dụng, hãy ra lệnh một hình phạt đối với vị ấy. Hoặc, Daṇḍakammaṃ (hình phạt) là một hành động khiển trách, do đó ý nói là: hãy khiển trách vị ấy. Phương pháp này cũng áp dụng cho tất cả các trường hợp như thế này. “Và việc nhận trú xứ bị đình chỉ”: và bằng điều này, (kinh) cho thấy rằng vị ấy cũng bị mất tuổi hạ. “Nếu vị ấy đầy lỗi lầm… này… cần phải bị trục xuất”: ở đây, nếu khi được nói đến lần thứ ba mà không dừng lại, cần phải trục xuất sau khi đã thông báo cho Tăng chúng. Người ta nói rằng, ngay cả khi xin xuất gia trở lại, cũng cần phải cho xuất gia sau khi đã thông báo. “Vị ấy sẽ nhận được vật dụng an cư mùa mưa vào ngày cuối cùng”: vị ấy sẽ nhận được do đã vào lại mùa mưa vào ngày cuối cùng. “Cần phải cho lợi dưỡng sau khi đã thông báo”: được nói đến do đã bị mất tuổi hạ. “Năm học giới còn lại”: năm học giới bắt đầu từ việc ăn trong lúc phi thời. “Cần phải cho sám hối tội”: cần phải cho sám hối theo phương pháp bắt đầu bằng: “Bạch ngài, tội đã phạm đến con.”

Anāpucchāvaraṇavatthuādikathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Rào Lại Khi Chưa Hỏi v.v. đã kết thúc.

Paṇḍakavatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Lưỡng Tính

109. Paṇḍakavatthumhi ‘‘yo kāḷapakkhe itthī hoti, juṇhapakkhe puriso, ayaṃ pakkhapaṇḍako’’ti keci vadanti, aṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘kāḷapakkhe paṇḍako hoti, juṇhapakkhe panassa pariḷāho vūpasammatī’’ti apaṇḍakapakkhe pariḷāhavūpasamasseva vuttattā paṇḍakapakkhe ussannapariḷāhatā paṇḍakabhāvāpattīti viññāyati, tasmā idamevettha sārato paccetabbaṃ. Itthibhāvo pumbhāvo vā natthi etassāti abhāvako. Tasmiṃ yevassa pakkhe pabbajjā vāritāti ettha ‘‘apaṇḍakapakkhe pabbājetvā paṇḍakapakkhe nāsetabbo’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Keci pana ‘‘apaṇḍakapakkhe pabbajito sace kilesakkhayaṃ pāpuṇāti, na nāsetabbo’’ti vadanti, taṃ tesaṃ matimattaṃ paṇḍakassa kilesakkhayāsambhavato khīṇakilesassa ca paṇḍakabhāvānupapattito. Ahetukapaṭisandhikathāyañhi avisesena paṇḍakassa ahetukapaṭisandhitā vuttā. Āsittausūyapakkhapaṇḍakānañca paṭisandhito paṭṭhāyeva paṇḍakasabhāvo, na pavattiyaṃyevāti vadanti. Teneva ahetukapaṭisandhiniddese jaccandhabadhirādayo viya paṇḍako jātisaddena visesetvā na niddiṭṭho. Idhāpi catutthapārājikasaṃvaṇṇanāyaṃ (pārā. aṭṭha. 2.233) ‘‘abhabbapuggale dassentena paṇḍakatiracchānagataubhatobyañjanakā tayo vatthuvipannā ahetukapaṭisandhikā, tesaṃ saggo avārito, maggo pana vārito’’ti avisesena vuttaṃ.
109. Trong câu chuyện về người lưỡng tính, một số vị nói rằng: “người nào trong tháng tối là phụ nữ, trong tháng sáng là đàn ông, người đó là pakkhapaṇḍako (người lưỡng tính theo tháng).” Nhưng trong sách Chú Giải, do chỉ được nói rằng: “trong tháng tối là người lưỡng tính, còn trong tháng sáng thì sự phiền não của người ấy lắng dịu,” và do chỉ nói về sự lắng dịu của sự phiền não trong tháng không phải là lưỡng tính, nên có thể hiểu rằng sự phiền não gia tăng trong tháng là lưỡng tính là sự rơi vào trạng thái lưỡng tính. Do đó, chỉ có điều này ở đây là cần được chấp nhận một cách cốt lõi. Người không có trạng thái phụ nữ hay trạng thái đàn ông là abhāvako. “Việc xuất gia bị cấm trong chính tháng đó của người ấy”: ở đây, trong cả ba quyển sách ghi chú đã được nói: “cho xuất gia trong tháng không phải là lưỡng tính, và trục xuất trong tháng là lưỡng tính.” Nhưng một số vị nói rằng: “người đã xuất gia trong tháng không phải là lưỡng tính, nếu đắc được sự đoạn tận các phiền não, thì không nên bị trục xuất.” Điều đó chỉ là ý kiến riêng của họ, do người lưỡng tính không thể có được sự đoạn tận các phiền não, và người đã đoạn tận các phiền não không thể rơi vào trạng thái lưỡng tính. Thật vậy, trong phần nói về sự tái sanh không có nhân, đã được nói một cách không phân biệt rằng người lưỡng tính có sự tái sanh không có nhân. Và người ta nói rằng trạng thái lưỡng tính của những người lưỡng tính do bị tưới, do ghen tị, và theo tháng là có từ lúc tái sanh, không phải chỉ trong đời sống. Chính vì thế, trong phần giải về sự tái sanh không có nhân, người lưỡng tính đã không được chỉ định riêng bằng từ “sanh ra” như những người mù, điếc bẩm sinh v.v… Ở đây cũng vậy, trong phần diễn giải về tội Bất Cộng Trụ thứ tư (pārā. aṭṭha. 2.233), đã được nói một cách không phân biệt rằng: “khi trình bày những người không có khả năng, ba người có nền tảng bị hư hỏng là người lưỡng tính, loài súc sanh, và người có hai giới tính, là những người có sự tái sanh không có nhân; đối với họ, cõi trời không bị ngăn cản, nhưng đạo quả thì bị ngăn cản.”

Paṇḍakavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Lưỡng Tính đã kết thúc.

Theyyasaṃvāsakavatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Sống Chung Một Cách Lén Lút

110. Theyyasaṃvāsakavatthumhi kolaññāti mātuvaṃse pituvaṃse ca jātā mātāpituppabhutisabbañātayo. Theyyāya saṃvāso etassāti theyyasaṃvāsako. So ca na saṃvāsamattasseva thenako idhādhippeto, atha kho liṅgassa tadubhayassa ca thenakopīti āha ‘‘tayo theyyasaṃvāsakā’’tiādi. Na yathāvuḍḍhaṃ vandanaṃ sādiyatīti yathāvuḍḍhaṃ bhikkhūnaṃ vā sāmaṇerānaṃ vā vandanaṃ na sādiyati. Yathāvuḍḍhaṃ vandanaṃ sādiyatīti attanā musāvādaṃ katvā dassitavassānurūpaṃ yathāvuḍḍhaṃ vandanaṃ sādiyati. Bhikkhuvassagaṇanādikoti iminā na ekakammādikova idha saṃvāso nāmāti dasseti.
110. Trong câu chuyện về người sống chung một cách lén lút, (từ) “kolaññā”: tất cả các quyến thuộc bắt đầu từ cha mẹ, những người được sanh ra trong dòng họ của mẹ và dòng họ của cha. Người có sự sống chung do sự lén lút là theyyasaṃvāsako (người sống chung một cách lén lút). Và ở đây, không chỉ được hiểu là người lén lút chỉ về sự sống chung, mà còn là người lén lút cả về hình tướng và cả hai điều đó, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “có ba loại người sống chung một cách lén lút.” “Không chấp nhận sự đảnh lễ theo tuổi hạ”: không chấp nhận sự đảnh lễ của các vị Tỳ-khưu hay sa-di theo tuổi hạ. “Chấp nhận sự đảnh lễ theo tuổi hạ”: chấp nhận sự đảnh lễ theo tuổi hạ phù hợp với số năm đã được trình bày sau khi đã tự mình nói dối. “Việc đếm số năm của Tỳ-khưu v.v…”: bằng điều này, (kinh) cho thấy rằng ở đây, sự sống chung không chỉ là một hành động chung v.v…

Rāja…pe… bhayenāti ettha bhaya-saddo paccekaṃ yojetabbo ‘‘rājabhayena dubbhikkhabhayenā’’tiādinā . Saṃvāsaṃ nādhivāseti, yāva so suddhamānasoti rājabhayādīhi gahitaliṅgatāya so suddhamānaso yāva saṃvāsaṃ nādhivāsetīti attho. Yo hi rājabhayādiṃ vinā kevalaṃ bhikkhū vañcetvā tehi saddhiṃ saṃvasitukāmatāya liṅgaṃ gaṇhāti, so asuddhacittatāya liṅgaggahaṇeneva theyyasaṃvāsako nāma hoti. Ayaṃ pana tādisena asuddhacittena bhikkhū vañcetukāmatāya abhāvato yāva saṃvāsaṃ nādhivāseti, tāva theyyasaṃvāsako nāma na hoti. Teneva ‘‘rājabhayādīhi gahitaliṅgānaṃ ‘gihī maṃ samaṇoti jānantū’ti vañcanācitte satipi bhikkhūnaṃ vañcetukāmatāya abhāvā doso na jāto’’ti tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Keci pana ‘‘vūpasantabhayatā idha suddhacittatā’’ti vadanti, evañca sati so vūpasantabhayo yāva saṃvāsaṃ nādhivāseti, tāva theyyasaṃvāsako na hotīti ayamattho viññāyati. Imasmiñca atthe viññāyamāne avūpasantabhayassa saṃvāsasādiyanepi theyyasaṃvāsakatā na hotīti āpajjeyya, na ca aṭṭhakathāyaṃ avūpasantabhayassa saṃvāsasādiyanepi atheyyasaṃvāsakatā dassitā. Sabbapāsaṇḍiyabhattāni bhuñjantoti ca iminā avūpasantatayenapi saṃvāsaṃ asādiyanteneva vasitabbanti dīpeti. Teneva tīsupi gaṇṭhipadesu vuttaṃ ‘‘yasmā vihāraṃ āgantvā saṅghikaṃ gaṇhantassa saṃvāsaṃ pariharituṃ dukkaraṃ, tasmā sabbapāsaṇḍiyabhattāni bhuñjantoti idaṃ vutta’’nti, tasmā rājabhayādīhi gahitaliṅgatāyevettha suddhacittatāti gahetabbaṃ.
“Do sợ… này… vua”: ở đây, từ bhaya– (sự sợ hãi) cần được liên kết với mỗi từ theo cách: “do sợ vua, do sợ đói kém” v.v… “Không chấp nhận sự sống chung, cho đến khi người đó có tâm trong sạch”: có nghĩa là do đã lấy hình tướng vì sợ vua v.v., cho đến khi người đó không chấp nhận sự sống chung, người đó có tâm trong sạch. Thật vậy, người nào, không vì sợ vua v.v., mà chỉ vì muốn lừa dối các vị Tỳ-khưu và sống chung với họ mà lấy hình tướng, người đó, do có tâm không trong sạch, đã trở thành người sống chung một cách lén lút ngay khi vừa lấy hình tướng. Còn người này, do không có ý muốn lừa dối các vị Tỳ-khưu bằng một cái tâm không trong sạch như vậy, nên cho đến khi chưa chấp nhận sự sống chung, thì chưa được gọi là người sống chung một cách lén lút. Chính vì thế, trong cả ba quyển sách ghi chú đã được nói: “đối với những người đã lấy hình tướng do sợ vua v.v., dù có ý muốn lừa dối rằng: ‘mong rằng các vị sa-môn sẽ biết ta là người tại gia,’ nhưng do không có ý muốn lừa dối các vị Tỳ-khưu, nên không có tội.” Nhưng một số vị nói rằng: “ở đây, trạng thái tâm trong sạch là trạng thái sợ hãi đã được lắng dịu.” Và nếu như vậy, có thể hiểu rằng người đó, khi sự sợ hãi đã được lắng dịu, cho đến khi chưa chấp nhận sự sống chung, thì chưa trở thành người sống chung một cách lén lút. Và khi hiểu theo ý nghĩa này, sẽ dẫn đến kết luận rằng người có sự sợ hãi chưa được lắng dịu, ngay cả khi chấp nhận sự sống chung, cũng không trở thành người sống chung một cách lén lút. Nhưng trong sách Chú Giải, không có trình bày rằng người có sự sợ hãi chưa được lắng dịu, ngay cả khi chấp nhận sự sống chung, cũng không phải là người sống chung một cách lén lút. Và bằng (câu) “trong khi đang ăn vật thực của tất cả các giáo phái,” (kinh) cho thấy rằng cần phải sống mà không chấp nhận sự sống chung, ngay cả khi chưa được lắng dịu. Chính vì thế, trong cả ba quyển sách ghi chú đã được nói: “bởi vì đối với người đã đến tu viện và nhận của Tăng chúng, rất khó để tránh né sự sống chung, do đó đã được nói đến điều này: ‘trong khi đang ăn vật thực của tất cả các giáo phái.’” Do đó, ở đây, cần được hiểu rằng trạng thái tâm trong sạch chính là trạng thái đã lấy hình tướng do sợ vua v.v…

Sabbapāsaṇḍiyabhattānīti sabbasāmayikānaṃ sādhāraṇaṃ katvā vīthicatukkādīsu ṭhapetvā dātabbabhattāni. Kāyaparihāriyānīti kāyena pariharitabbāni. Abbhuggacchantīti abhimukhaṃ gacchanti. Kammantānuṭṭhānenāti kasigorakkhādikammakaraṇena. Tadeva pattacīvaraṃ ādāya vihāraṃ gacchatīti cīvarāni nivāsanapārupanavasena ādāya pattañca aṃsakūṭe laggetvā vihāraṃ gacchatiNāpi sayaṃ jānātīti ‘‘yo evaṃ pabbajati, so theyyasaṃvāsako nāma hotī’’ti vā ‘‘evaṃ kātuṃ na labhatī’’ti vā ‘‘evaṃ pabbajito samaṇo na hotī’’ti vā na jānāti. Yo evaṃ pabbajati, so theyyasaṃvāsako nāma hotīti idaṃ pana nidassanamattaṃ. Anupasampannakāleyevāti iminā upasampannakāle sutvā sacepi nāroceti, theyyasaṃvāsako na hotīti dīpeti.
“Vật thực của tất cả các giáo phái”: vật thực cần được dâng cúng sau khi đã làm cho chung cho tất cả các tôn giáo và được đặt ở những nơi như ngã tư đường v.v… “Những thứ được mặc trên người”: những thứ cần được mặc trên người. (Họ) “đi đến”: họ đi về phía trước. “Bằng việc làm việc”: bằng việc làm các công việc như nông nghiệp, chăn nuôi v.v… “Lấy chính y bát đó và đi đến tu viện”: lấy các tấm y theo cách là y mặc và y khoác, và treo bát ở một bên vai rồi đi đến tu viện. “Ngay cả chính mình cũng không biết”: không biết rằng: “người xuất gia như vậy được gọi là người sống chung một cách lén lút,” hoặc “không được phép làm như vậy,” hoặc “người xuất gia như vậy không phải là sa-môn.” “Người nào xuất gia như vậy, người đó được gọi là người sống chung một cách lén lút”: đây chỉ là một ví dụ. “Ngay cả trong thời gian chưa thọ cụ túc giới”: bằng điều này, (kinh) cho thấy rằng nếu sau khi đã nghe vào lúc đã thọ cụ túc giới mà không hài lòng, thì không trở thành người sống chung một cách lén lút.

Sikkhaṃ appaccakkhāya…pe… theyyasaṃvāsako na hotīti idaṃ bhikkhūhi dinnaliṅgassa apariccattattā na liṅgathenako hoti, liṅgānurūpassa saṃvāsassa sāditattā nāpi saṃvāsathenako hotīti vuttaṃ. Eko bhikkhu kāsāye saussāhova odātaṃ nivāsetvāti etthāpi idameva kāraṇaṃ daṭṭhabbaṃ. Parato sāmaṇero saliṅge ṭhitotiādinā sāmaṇerassa vuttavidhānesupi atheyyasaṃvāsakapakkhe ayameva nayo. Bhikkhuniyāpi eseva nayoti vuttamevatthaṃ ‘‘sāpi hi gihibhāvaṃ patthayamānā’’tiādinā vibhāveti. Yo koci vuḍḍhapabbajitoti sāmaṇeraṃ sandhāya vuttaṃ. Mahāpeḷādīsūti etena gihisantakaṃ dassitaṃ. Sayaṃ sāmaṇerova…pe… theyyasaṃvāsako na hotīti ettha kiñcāpi theyyasaṃvāsako na hoti, pārājikaṃ pana āpajjatiyeva. Sesamettha uttānameva.
“Sau khi chưa từ bỏ học giới… này… không trở thành người sống chung một cách lén lút”: điều này được nói là: do không từ bỏ hình tướng đã được các vị Tỳ-khưu cho, nên không trở thành người lén lút về hình tướng; do đã chấp nhận sự sống chung phù hợp với hình tướng, nên cũng không trở thành người lén lút về sự sống chung. “Một vị Tỳ-khưu, trong khi vẫn ham muốn y cà-sa, lại mặc y trắng”: ở đây cũng cần được xem xét chính lý do này. Ở phần sau, trong các quy định đã được nói cho vị sa-di, bắt đầu bằng: “vị sa-di, trong khi vẫn giữ hình tướng của mình,” trong phe không phải là người sống chung một cách lén lút, cũng có cùng phương pháp này. “Đối với một vị Tỳ-khưu ni cũng có cùng phương pháp này”: ngài làm sáng tỏ chính ý nghĩa đã được nói bằng (câu) bắt đầu bằng: “Thật vậy, vị ấy, trong khi đang mong muốn đời sống tại gia.” “Bất cứ một người lớn tuổi nào đã xuất gia”: được nói đến nhắm vào một vị sa-di. “Trong các giỏ lớn v.v…”: bằng điều này, (kinh) cho thấy đó là của cải của người tại gia. “Chính vị sa-di… này… không trở thành người sống chung một cách lén lút”: ở đây, mặc dù không trở thành người sống chung một cách lén lút, nhưng chắc chắn phạm tội Bất Cộng Trụ. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Theyyasaṃvāsakavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Sống Chung Một Cách Lén Lút đã kết thúc.

Titthiyapakkantakakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Miễn Trừ Sự Nương Nhờ

Titthiyapakkantakakathāyaṃ tesaṃ liṅge ādinnamatte titthiyapakkantako hotīti ‘‘titthiyo bhavissāmī’’ti gatassa liṅgaggahaṇeneva tesaṃ laddhipi gahitāyeva hotīti katvā vuttaṃ. Kenaci pana ‘‘tesaṃ liṅge ādinnamatte laddhiyā gahitāyapi aggahitāyapi titthiyapakkantako hotī’’ti vuttaṃ, taṃ na gahetabbaṃ. Na hi ‘‘titthiyo bhavissāmī’’ti gatassa liṅgasampaṭicchanato aññaṃ laddhiggahaṇaṃ nāma atthi. Liṅgasampaṭicchaneneva hi so gahitaladdhiko hoti. Teneva ‘‘vīmaṃsanatthaṃ kusacīrādīni…pe… yāva na sampaṭicchati, tāva taṃ laddhi rakkhati. Sampaṭicchitamatte titthiyapakkantako hotī’’ti vuttaṃ. Naggova ājīvakānaṃ upassayaṃ gacchati, padavāre padavāre dukkaṭanti ‘‘ājīvako bhavissa’’nti asuddhacittena gamanapaccayā dukkaṭaṃ vuttaṃ. Naggena hutvā gamanapaccayāpi dukkaṭā na muccatiyeva. Kūṭavassaṃ gaṇentoti kūṭavassaṃ gaṇetvā saṃvāsaṃ sādiyantoti adhippāyo.
103. Trong các phận sự của việc miễn trừ sự nương nhờ, trong các nhóm năm và sáu, (câu) “cả hai… này… theo từng chi tiết nhỏ”: ở đây, trong cả ba quyển sách ghi chú đã được nói rằng: “tất cả sự phân chia này, khi đã biết trong chú giải về đề mục, sẽ được biết.” Và trong các câu bắt đầu bằng “biết được tội,” ở đó cũng đã được nói rằng: “dù không có trong bài đọc, nhưng nếu biết rằng: ‘làm việc này sẽ phạm tội này,’ thì được phép.” Và một số vị nói rằng điều đó cần được hiểu là sau khi đã làm cho bài đọc trở nên thuần thục trước đây, và phương pháp này cũng áp dụng cho cả các vị thầy dạy bảo và thầy tế độ. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Titthiyapakkantakakathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Miễn Trừ Sự Nương Nhờ đã kết thúc.

111. Tiracchānagatavatthu uttānameva.
111. Câu chuyện về loài súc sanh có ý nghĩa rõ ràng.

Mātughātakādivatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Giết Mẹ v.v…

112. Mātughātakādivatthūsu apavāhananti apagamanaṃ, patikaraṇanti attho. Yathā samānajātikassa vikopane kammaṃ garutaraṃ, na tathā vijātikassāti āha ‘‘manussitthibhūtā’’ti . Puttasambandhena mātupitusamaññā , dattakittimādivasenapi puttavohāro loke dissati, so ca kho pariyāyatoti nippariyāyasiddhataṃ dassetuṃ ‘‘janikā mātā’’ti vuttaṃ. Yathā manussattabhāve ṭhitasseva kusaladhammānaṃ tikkhavisadasūrabhāvāpatti yathā taṃ tiṇṇampi bodhisattānaṃ bodhittayanibbattiyaṃ, evaṃ manussattabhāve ṭhitasseva akusaladhammānampi tikkhavisadasūrabhāvāpattīti āha ‘‘sayampi manussajātikenevā’’ti. Cutianantaraṃ phalaṃ anantaraṃ nāma, tasmiṃ anantare niyuttaṃ, taṃnibbattanena anantarakaraṇasīlaṃ, anantarapayojanaṃ vā ānantariyaṃ, tena ānantariyena mātughātakakammena. Pitughātakepi yena manussabhūto janako pitā sayampi manussajātikeneva satā sañcicca jīvitā voropito, ayaṃ ānantariyena pitughātakakammena pitughātakotiādinā sabbaṃ veditabbanti āha ‘‘pitughātakepi eseva nayo’’ti.
112. Trong các câu chuyện về người giết mẹ v.v., (từ) “apavāhanaṃ”: sự loại bỏ, có nghĩa là sự sửa chữa. Giống như việc làm hại một người cùng loài thì nghiệp nặng hơn so với người khác loài, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “người đã là một phụ nữ.” Sự gọi là mẹ và cha là do mối quan hệ với con cái. Trong thế gian, cũng có thể thấy cách gọi là con theo cách là con nuôi, con nhận v.v., và điều đó chỉ là theo quy ước. Để trình bày sự thành tựu không theo quy ước, đã được nói là “người mẹ đã sanh ra.” Giống như sự đạt đến trạng thái sắc bén, trong sạch, và dũng mãnh của các pháp thiện chỉ có khi đang ở trong trạng thái là người, như trong sự thành tựu ba loại giác ngộ của cả ba vị Bồ-tát. Cũng vậy, sự đạt đến trạng thái sắc bén, trong sạch, và dũng mãnh của các pháp bất thiện cũng chỉ có khi đang ở trong trạng thái là người, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “chính người đó cũng phải là người.” Quả báo ngay sau khi chết được gọi là tức thì; được quy định trong sự tức thì đó, có bản chất là làm cho có quả báo tức thì do sự tạo ra nó, hoặc có lợi ích là tức thì, là ānantariyaṃ (vô gián); do đó (bởi) “nghiệp giết mẹ có quả báo vô gián.” Cần phải hiểu rằng: trong trường hợp giết cha cũng vậy, người cha đã sanh ra, vốn là người, đã bị chính người con cũng là người cố ý tước đoạt mạng sống; người này là người giết cha do nghiệp giết cha có quả báo vô gián v.v., tất cả đều cần được hiểu như vậy, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “trong trường hợp giết cha cũng có cùng phương pháp này.”

Parivattitaliṅgampi (ma. ni. aṭṭha. 3.128; a. ni. aṭṭha. 1.1.275; vibha. aṭṭha. 809) mātaraṃ pitaraṃ vā jīvitā voropentassa ānantariyakammaṃ hotiyeva. Satipi hi liṅgaparivatte so eva ekakammanibbatto bhavaṅgappabandho jīvitindriyappabandho ca, nāññoti. Yo pana sayaṃ manusso tiracchānabhūtaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā, sayaṃ vā tiracchānabhūto manussabhūtaṃ, tiracchānabhūtoyeva vā tiracchānabhūtaṃ jīvitā voropeti, tassa kammaṃ ānantariyaṃ na hoti, bhāriyaṃ pana hoti, ānantariyaṃ āhacceva tiṭṭhati. Eḷakacatukkaṃ saṅgāmacatukkaṃ coracatukkañcettha kathetabbaṃ. ‘‘Eḷakaṃ māremī’’ti abhisandhināpi hi eḷakaṭṭhāne ṭhitaṃ manusso manussabhūtaṃ mātaraṃ vā pitaraṃ vā mārento ānantariyaṃ phusati maraṇādhippāyeneva ānantariyavatthuno vikopitattā. Eḷakābhisandhinā pana mātāpitiaasandhinā vā eḷakaṃ mārento ānantariyaṃ na phusati ānantariyavatthuabhāvato. Mātāpitiabhisandhinā mātāpitaro mārento phusateva. Esa nayo itarasmimpi catukkadvaye. Yathā ca mātāpitūsu, evaṃ arahantepi etāni catukkāni veditabbāni. Sabbattha hi purimaṃ abhisandhicittaṃ appamāṇaṃ, vadhakacittaṃ pana tadārammaṇaṃ jīvitindriyañca ānantariyānānantarabhāve pamāṇaṃ. Katānantariyakammo ca ‘‘tassa kammassa vipākaṃ paṭibāhissāmī’’ti sakalacakkavāḷaṃ mahācetiyappamāṇehi kañcanathūpehi pūretvāpi sakalacakkavāḷaṃ pūretvā nisinnassa bhikkhusaṅghassa mahādānaṃ datvāpi buddhassa bhagavato saṅghāṭikaṇṇaṃ amuñcanto vicaritvāpi kāyassa bhedā nirayameva upapajjati, pabbajjañca na labhati.
Ngay cả người đã thay đổi giới tính (ma. ni. aṭṭha. 3.128; a. ni. aṭṭha. 1.1.275; vibha. aṭṭha. 809), khi tước đoạt mạng sống của mẹ hoặc cha, cũng chắc chắn phạm tội vô gián. Thật vậy, dù có sự thay đổi giới tính, dòng tương tục của tâm hữu phần và dòng tương tục của mạng căn do cùng một nghiệp tạo ra vẫn là một, không phải là khác. Nhưng người nào, tự mình là người, tước đoạt mạng sống của mẹ hoặc cha vốn là loài súc sanh; hoặc tự mình là loài súc sanh, (tước đoạt mạng sống) của (cha mẹ) vốn là người; hoặc chính mình là loài súc sanh, (tước đoạt mạng sống) của (cha mẹ) cũng là loài súc sanh; nghiệp của người đó không phải là tội vô gián, nhưng là nặng, và gần như là tội vô gián. Ở đây, cần phải nói về bốn trường hợp của con cừu, bốn trường hợp của trận chiến, và bốn trường hợp của tên cướp. Thật vậy, ngay cả với ý định: “ta sẽ giết con cừu,” một người, khi giết mẹ hoặc cha vốn là người đang đứng ở vị trí của con cừu, cũng phạm tội vô gián, do đã làm hại đối tượng của tội vô gián với ý định giết. Nhưng với ý định giết con cừu, hoặc với ý định không phải là cha mẹ, khi giết con cừu, thì không phạm tội vô gián do không có đối tượng của tội vô gián. Với ý định là cha mẹ, khi giết cha mẹ, thì chắc chắn phạm tội. Phương pháp này cũng áp dụng cho hai bộ bốn trường hợp còn lại. Và giống như đối với cha mẹ, cũng cần được hiểu các bộ bốn trường hợp này đối với một vị A-la-hán. Thật vậy, ở khắp mọi nơi, tâm ý định ban đầu không phải là tiêu chuẩn; nhưng tâm giết, đối tượng của nó, và mạng căn là tiêu chuẩn trong việc có phải là tội vô gián hay không. Và người đã làm tội vô gián, dù có lấp đầy toàn bộ thế giới trong vũ trụ bằng các bảo tháp bằng vàng có kích thước bằng một đại bảo tháp để nghĩ rằng: “ta sẽ ngăn chặn quả báo của nghiệp đó;” dù có dâng cúng một cuộc đại thí cho Tăng chúng ngồi đầy khắp toàn bộ thế giới trong vũ trụ; dù có đi lại mà không rời khỏi góc y tăng-già-lê của đức Phật, sau khi thân hoại mạng chung, cũng chắc chắn sanh vào địa ngục, và không thể nhận được sự xuất gia.

115.Icchamānanti odātavatthavasanaṃ icchamānaṃ. Tenevāha ‘‘gihibhāve sampaṭicchitamatteyevā’’ti. Saṅghabhedakakathāvitthāro parato āvi bhavissati. Catunnaṃ kammānanti apalokanādīnaṃ catunnaṃ kammānaṃ. Duṭṭhacittenāti vuttamevatthaṃ vibhāveti ‘‘vadhakacittenā’’ti. Vadhakacetanāya hi dūsitacittaṃ idha duṭṭhacittaṃ nāma. Lohitaṃ uppādetīti ettha tathāgatassa abhejjakāyatāya parūpakkamena cammacchedaṃ katvā lohitapaggharaṇaṃ nāma natthi, sarīrassa pana antoyeva ekasmiṃ ṭhāne lohitaṃ samosarati, āghātena pakuppamānaṃ sañcitaṃ hoti. Devadattena paviddhasilato bhijjitvā gatasakkhalikāpi tathāgatassa pādantaṃ pahari, pharasunā pahaṭo viya pādo antolohitoyeva ahosi. Jīvako pana tathāgatassa ruciyā satthakena cammaṃ chinditvā tamhā ṭhānā duṭṭhalohitaṃ nīharitvā phāsumakāsi, tenassa puññakammameva ahosi. Tenāha ‘‘jīvako viyā’’tiādi.
115. (Người) “muốn”: người muốn mặc y trắng. Chính vì thế, (kinh) đã nói: “ngay khi vừa chấp nhận đời sống tại gia.” Phần giải thích chi tiết về câu chuyện chia rẽ Tăng chúng sẽ được trình bày rõ ở phần sau. (Của) “bốn loại tăng sự”: của bốn loại tăng sự là biểu quyết v.v… (Với) “tâm ác độc”: ngài làm sáng tỏ chính ý nghĩa đã được nói: “với tâm muốn giết.” Thật vậy, ở đây, tâm bị làm cho hư hỏng bởi ý muốn giết được gọi là tâm ác độc. “Làm cho máu chảy ra”: ở đây, đối với thân thể không thể bị tổn hại của Như Lai, không có chuyện làm cho máu chảy ra bằng cách cắt da do sự tác động từ bên ngoài. Nhưng ở bên trong cơ thể, máu tụ lại ở một nơi, do bị một cú đánh làm cho kích động và dồn lại. Ngay cả mảnh đá vỡ ra từ tảng đá do Devadatta lăn xuống cũng đã đập vào chân của Như Lai, và chân của ngài đã bị bầm tím ở bên trong như bị một cây rìu sắc bén đập vào. Nhưng Jīvako, do sự đồng ý của Như Lai, đã dùng dao mổ cắt da và lấy máu độc ra từ nơi đó, rồi làm cho ngài được thoải mái. Do đó, đó chính là một hành động phước thiện của ông. (Ngài Phụ Chú Giải) nói: “giống như Jīvako” v.v…

Atha ye parinibbute tathāgate cetiyaṃ bhindanti, bodhiṃ chindanti, dhātumhi upakkamanti, tesaṃ kiṃ hotīti? Bhāriyaṃ kammaṃ hoti ānantariyasadisaṃ. Sadhātukaṃ pana thūpaṃ vā paṭimaṃ vā bādhamānaṃ bodhisākhaṃ chindituṃ vaṭṭati. Sacepi tattha nilīnā sakuṇā cetiye vaccaṃ pātenti, chindituṃ vaṭṭatiyeva. Paribhogacetiyato hi sarīracetiyaṃ garutaraṃ. Cetiyavatthuṃ bhinditvā gacchante bodhimūlepi chinditvā harituṃ vaṭṭati. Yā pana bodhisākhā bodhigharaṃ bādhati, taṃ geharakkhaṇatthaṃ chindituṃ na labhati. Bodhiatthañhi gehaṃ, na gehatthāya bodhi. Āsanagharepi eseva nayo. Yasmiṃ pana āsanaghare dhātu nihitā hoti, tassa rakkhaṇatthāya bodhisākhaṃ chindituṃ vaṭṭati. Bodhijagganatthaṃ ojoharaṇasākhaṃ vā pūtiṭṭhānaṃ vā chindituṃ vaṭṭatiyeva, satthu rūpakāyapaṭijaggane viya puññampi hoti.
Vậy, những người phá hoại bảo tháp, chặt cây bồ đề, làm hại xá-lợi của Như Lai đã nhập diệt thì sẽ ra sao? Là một nghiệp nặng, giống như tội vô gián. Nhưng được phép chặt một cành cây bồ đề đang làm hại một bảo tháp có xá-lợi hoặc một pho tượng. Ngay cả khi các con chim làm tổ ở đó và phóng uế lên bảo tháp, cũng được phép chặt. Vì bảo tháp xá-lợi thì quan trọng hơn bảo tháp tiêu dùng. Ngay cả khi đang phá hoại nền móng của bảo tháp, cũng được phép chặt và mang đi cả gốc cây bồ đề. Nhưng cành cây bồ đề nào đang làm hại nhà thờ cây bồ đề thì không được phép chặt để bảo vệ ngôi nhà. Vì ngôi nhà là để cho cây bồ đề, không phải cây bồ đề là để cho ngôi nhà. Trong nhà có pháp tọa cũng có cùng phương pháp này. Nhưng trong nhà có pháp tọa nào có xá-lợi được đặt, thì được phép chặt cành cây bồ đề để bảo vệ nó. Để chăm sóc cây bồ đề, được phép chặt cành để lấy nhựa hoặc chỗ bị mục, và cũng có được phước báu như việc chăm sóc sắc thân của bậc Đạo Sư.

Mātughātakādivatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Giết Mẹ v.v. đã kết thúc.

Ubhatobyañjanakavatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Có Hai Giới Tính

116.Ubhatobyañjanamassa atthīti ubhatobyañjanakoti iminā asamānādhikaraṇavisayo bāhiratthasamāsoyaṃ, purimapade ca vibhattialopoti dasseti. Byañjananti cettha itthinimittaṃ purisanimittañca adhippetaṃ. Atha ubhatobyañjanakassa ekameva indriyaṃ, udāhu dveti? Ekameva ‘‘yassa itthindriyaṃ uppajjati, tassa purisindriyaṃ uppajjatīti? No. Yassa vā pana purisindriyaṃ uppajjati, tassa itthindriyaṃ uppajjatīti? No’’ti (yama. 3.indriyayamaka.188) ekasmiṃ santāne indriyadvayassa paṭisiddhattā, tañca kho itthiubhatobyañjanakassa itthindriyaṃ, purisaubhatobyañjanakassa purisindriyaṃ. Yadi evaṃ dutiyabyañjanakassa abhāvo āpajjati. Indriyañhi byañjanakāraṇaṃ vuttaṃ, tañca tassa natthīti? Vuccate – na tassa indriyaṃ dutiyabyañjanakāraṇaṃ. Kasmā? Sadā abhāvato. Itthiubhatobyañjanakassa hi yadā itthiyā rāgacittaṃ uppajjati, tadā purisabyañjanaṃ pākaṭaṃ hoti, itthibyañjanaṃ paṭicchannaṃ guḷhaṃ hoti, tathā itarassa itaraṃ. Yadi ca tesaṃ indriyaṃ dutiyabyañjanakāraṇaṃ bhaveyya, sadāpi byañjanadvayaṃ tiṭṭheyya, na pana tiṭṭhati, tasmā veditabbametaṃ ‘‘na tassa taṃ byañjanakāraṇaṃ, kammasahāyaṃ pana rāgacittamevettha kāraṇa’’nti.
116. “Người có cả hai giới tính là người có hai giới tính”: bằng điều này, (kinh) cho thấy rằng đây là một từ ghép có ý nghĩa bên ngoài, không có sự đồng nhất về đối tượng, và có sự không lược bỏ biến cách trong từ đầu tiên. Và ở đây, (từ) “giới tính” được hiểu là cơ quan sinh dục nữ và cơ quan sinh dục nam. Vậy, người có hai giới tính có một hay hai căn? Chỉ có một, vì trong sách Song Đối (yama. 3.indriyayamaka.188) đã phủ định sự có mặt của hai căn trong một dòng tương tục rằng: “Đối với người nào nữ căn sanh khởi, nam căn có sanh khởi không? Không. Hoặc đối với người nào nam căn sanh khởi, nữ căn có sanh khởi không? Không.” Và trong đó, người có hai giới tính nữ có nữ căn, người có hai giới tính nam có nam căn. Nếu vậy, sẽ dẫn đến sự không có của giới tính thứ hai. Vì căn đã được nói là nguyên nhân của giới tính, và người đó không có căn đó? Xin thưa – căn của người đó không phải là nguyên nhân của giới tính thứ hai. Tại sao? Vì nó không có thường xuyên. Thật vậy, đối với người có hai giới tính nữ, khi tâm tham ái đối với phụ nữ sanh khởi, khi đó cơ quan sinh dục nam hiện ra, còn cơ quan sinh dục nữ thì bị che khuất, ẩn đi. Tương tự đối với người kia thì ngược lại. Và nếu căn của họ là nguyên nhân của giới tính thứ hai, thì cả hai giới tính sẽ luôn luôn tồn tại, nhưng chúng không tồn tại. Do đó, cần được hiểu rằng: căn đó không phải là nguyên nhân của giới tính đó, mà chính tâm tham ái có nghiệp làm bạn đồng hành là nguyên nhân ở đây.

Yasmā cassa ekameva indriyaṃ hoti, tasmā itthiubhatobyañjanako sayampi gabbhaṃ gaṇhāti, parampi gaṇhāpeti. Purisaubhatobyañjanako paraṃ gaṇhāpeti, sayaṃ pana na gaṇhāti. Yadi paṭisandhiyaṃ purisaliṅgaṃ, yadi paṭisandhiyaṃ itthiliṅganti ca paṭisandhiyaṃ liṅgasabbhāvo kurundiyaṃvutto, so ca ayutto. Pavattiyaṃyeva hi itthiliṅgādīni samuṭṭhahanti, na paṭisandhiyaṃ. Paṭisandhiyaṃ pana indriyameva samuṭṭhāti, na liṅgādīni. Na ca indriyameva liṅganti sakkā vattuṃ indriyaliṅgānaṃ bhinnasabhāvattā. Vuttañhetaṃ aṭṭhasāliniyaṃ (dha. sa. aṭṭha. 632) –
Và bởi vì người đó chỉ có một căn, do đó người có hai giới tính nữ vừa có thể tự mình mang thai, vừa có thể làm cho người khác mang thai. Người có hai giới tính nam có thể làm cho người khác mang thai, nhưng tự mình thì không thể mang thai. Và sự có mặt của giới tính nam, giới tính nữ trong lúc tái sanh đã được nói trong sách Kurundī, và điều đó là không hợp lý. Thật vậy, các pháp như giới tính nữ v.v. chỉ sanh khởi trong đời sống, không phải trong lúc tái sanh. Nhưng trong lúc tái sanh, chỉ có căn sanh khởi, không phải là giới tính v.v… Và không thể nói rằng chính căn là giới tính, do căn và giới tính có bản chất khác nhau. Điều này đã được nói trong sách Aṭṭhasālinī (dha. sa. aṭṭha. 632) –

‘‘Itthattaṃ itthibhāvoti ubhayaṃ ekatthaṃ, itthisabhāvoti attho. Ayaṃ kammajo paṭisandhisamuṭṭhito. Itthiliṅgādi pana itthindriyaṃ paṭicca pavatte samuṭṭhitaṃ. Yathā bīje sati bījaṃ paṭicca bījapaccayā rukkho vaḍḍhitvā sākhāviṭapasampanno hutvā ākāsaṃ pūretvā tiṭṭhati, evameva itthibhāvasaṅkhāte itthindriye sati itthiliṅgādīni honti. Bījaṃ viya hi itthindriyaṃ, bījaṃ paṭicca vaḍḍhitvā ākāsaṃ pūretvā ṭhitarukkho viya itthindriyaṃ paṭicca itthiliṅgādīni pavatte samuṭṭhahanti. Tattha itthindriyaṃ na cakkhuviññeyyaṃ, manoviññeyyameva. Itthiliṅgādīni cakkhuviññeyyānipi manoviññeyyānipī’’ti.
“Trạng thái nữ và bản chất nữ, cả hai đều có cùng một ý nghĩa, có nghĩa là bản chất của phụ nữ. Điều này là do nghiệp sanh, sanh khởi cùng lúc với sự tái sanh. Nhưng giới tính nữ v.v. thì sanh khởi trong đời sống, nương vào nữ căn. Giống như khi có hạt giống, nương vào hạt giống, do duyên là hạt giống, cây lớn lên, có cành và nhánh sum suê, rồi đứng vững và chiếm đầy không gian. Cũng vậy, khi có nữ căn được gọi là bản chất nữ, các pháp như giới tính nữ v.v. mới có. Thật vậy, nữ căn giống như hạt giống; giống như cây lớn lên nương vào hạt giống và đứng vững chiếm đầy không gian, các pháp như giới tính nữ v.v. cũng sanh khởi trong đời sống, nương vào nữ căn. Ở đây, nữ căn không thể được biết bằng mắt, mà chỉ có thể được biết bằng ý. Các pháp như giới tính nữ v.v. thì vừa có thể được biết bằng mắt, vừa có thể được biết bằng ý.”

Tenevāha ‘‘tattha vicāraṇakkamo vitthārato aṭṭhasāliniyā dhammasaṅgahaṭṭhakathāya veditabbo’’ti.
Chính vì thế, ngài đã nói: “ở đây, cách thức xem xét cần được hiểu một cách chi tiết trong sách Aṭṭhasālinī, tức là Chú Giải Pháp Tụ.”

Ubhatobyañjanakavatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Có Hai Giới Tính đã kết thúc.

Anupajjhāyakādivatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Không Có Thầy Tế Độ v.v…

117.Sikkhāpadaṃapaññattaṃ hotīti idheva paññattaṃ sikkhāpadaṃ sandhāya vuttaṃ. Upajjhaṃ aggāhāpetvāti ‘‘upajjhāyo me, bhante, hohī’’ti evaṃ upajjhaṃ aggāhāpetvā. Kammavācāya pana upajjhāyakittanaṃ kataṃyevāti daṭṭhabbaṃ. Aññathā ‘‘puggalaṃ na parāmasatī’’ti vuttakammavipattisambhavato kammaṃ kuppeyya, teneva ‘‘upajjhāyaṃ akittetvā’’ti avatvā ‘‘upajjhaṃ aggāhāpetvā’’icceva vuttaṃ. Yathā ca aparipuṇṇapattacīvarassa upasampādanakāle kammavācāya ‘‘paripuṇṇassa pattacīvara’’nti asantavatthuṃ kittetvā kammavācāya katāyapi upasampadā ruhati, evaṃ ‘‘ayaṃ buddharakkhito āyasmato dhammarakkhitassa upasampadāpekkho’’ti asantaṃ puggalaṃ kittetvā kevalaṃ santapadanīhārena kammavācāya katāya upasampadā ruhatiyevāti daṭṭhabbaṃ. Tenevāha ‘‘kammaṃ pana na kuppatī’’ti. ‘‘Na, bhikkhave, anupajjhāyako upasampādetabbo, yo upasampādeyya, āpatti dukkaṭassā’’ti ettakameva vatvā ‘‘so ca puggalo anupasampanno’’ti avuttattā kammavipattilakkhaṇassa ca asambhavato ‘‘taṃ na gahetabba’’nti vuttaṃ. ‘‘Pañcavaggakaraṇañce, bhikkhave, kammaṃ paṇḍakapañcamo kammaṃ kareyya, akammaṃ na ca karaṇīya’’ntiādivacanato (mahāva. 390) paṇḍakādīnampi ubhatobyañjanakapariyantānaṃ gaṇapūrakabhāveyeva kammaṃ kuppati, na aññathāti āha ‘‘ubhatobyañjanakupajjhāyapariyosānesupi eseva nayo’’ti.
117. “Học giới chưa được chế định”: được nói đến nhắm vào học giới đã được chế định ngay ở đây. “Sau khi chưa cho nhận thầy tế độ”: sau khi chưa cho nhận một vị thầy tế độ theo cách: “Bạch ngài, xin hãy là thầy tế độ của con.” Nhưng cần được hiểu rằng việc nêu tên vị thầy tế độ trong lời tác pháp thì đã được làm. Nếu không, do có thể có sự sai sót trong tăng sự đã được nói là “không đề cập đến người,” tăng sự sẽ bị hỏng. Chính vì thế, thay vì nói: “sau khi chưa nêu tên vị thầy tế độ,” chỉ được nói là “sau khi chưa cho nhận thầy tế độ.” Và giống như trong lúc làm lễ cụ túc giới cho người không có đủ y bát, dù trong lời tác pháp có nêu một sự việc không có thật rằng: “có đủ y bát,” nhưng lễ cụ túc giới sau khi lời tác pháp đã được thực hiện vẫn thành tựu. Cũng vậy, sau khi đã nêu tên một người không có thật rằng: “vị Buddharakkhita này là người xin thọ cụ túc giới của tôn giả Dhammarakkhita,” cần được hiểu rằng lễ cụ túc giới sau khi lời tác pháp đã được thực hiện bằng cách chỉ đọc các từ có thật, vẫn chắc chắn thành tựu. Chính vì thế, ngài đã nói: “nhưng tăng sự không bị hỏng.” Do chỉ nói rằng: “Này các Tỳ-khưu, không nên cho người không có thầy tế độ thọ cụ túc giới. Ai cho thọ, phạm tội Tác Ác,” mà không nói rằng: “và người đó không phải là người đã thọ cụ túc giới,” và do không có đặc điểm của một tăng sự sai sót, nên đã được nói: “điều đó không nên được chấp nhận.” Do lời nói rằng: “và nếu, này các Tỳ-khưu, một tăng sự cần năm người, mà người thứ năm là một người lưỡng tính thực hiện tăng sự, đó không phải là tăng sự và không nên được làm” (mahāva. 390) v.v., nên tăng sự chỉ bị hỏng khi những người như người lưỡng tính v.v. cho đến người có hai giới tính chỉ ở trong vai trò làm đủ số lượng. Không phải cách nào khác, (ngài Phụ Chú Giải) nói: “trong các trường hợp cuối cùng là người có hai giới tính làm thầy tế độ cũng có cùng phương pháp này.”

Anupajjhāyakādivatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Không Có Thầy Tế Độ v.v. đã kết thúc.

Apattakādivatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Không Có Bát v.v…

118. Aññe vā bhikkhū dātukāmā hontīti sambandho. Anāmaṭṭhapiṇḍapātanti aggahitaaggaṃ piṇḍapātaṃ. Sāmaṇerabhāgasamako āmisabhāgoti ettha kiñcāpi sāmaṇerānaṃ āmisabhāgassa samakameva diyyamānattā visuṃ sāmaṇerabhāgo nāma natthi, heṭṭhā gacchantaṃ pana bhattaṃ kadāci mandaṃ bhaveyya, tasmā upari aggahetvā sāmaṇerapāḷiyāva gahetvā dātabboti adhippāyo. Niyatapabbajjasseva cāyaṃ bhāgo dīyati. Teneva ‘‘apakkaṃ patta’’ntiādi vuttaṃ.
118. Cần được liên kết là: hoặc các vị Tỳ-khưu khác muốn cho. “Vật thực chưa được lấy phần đầu”: vật thực chưa được lấy phần đầu tiên. “Phần vật thực bằng với phần của vị sa-di”: ở đây, mặc dù do được cho bằng với phần vật thực của các vị sa-di, nên không có một phần riêng biệt nào được gọi là phần của vị sa-di. Nhưng vật thực đi xuống dưới đôi khi có thể ít, do đó ý là: không lấy phần đầu ở trên mà lấy từ hàng của các vị sa-di và cho. Và phần này chỉ được cho đối với người có sự xuất gia chắc chắn. Chính vì thế đã được nói bắt đầu bằng “bát đã bị nứt.”

Apattakādivatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Không Có Bát v.v. đã kết thúc.

Hatthacchinnādivatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Bị Cắt Tay v.v…

119.Ajapadaketi ajapadasaṇṭhāne padese. Brahmujugattoti brahmā viya ujugatto. Avaseso sattoti iminā lakkhaṇena rahitasatto. Etena ṭhapetvā mahāpurisaṃ cakkavattiñca itare sattā khujjapakkhikāti dasseti. Yebhuyyena hi sattā khandhe kaṭiyaṃ jāṇūsūti tīsu ṭhānesu namanti. Te kaṭiyaṃ namantā pacchato namanti, itaresu dvīsu ṭhānesu namantā purato namanti. Dīghasarīrā pana ekena passena vaṅkā honti, eke mukhaṃ unnāmetvā nakkhattāni gaṇayantā viya caranti, eke appamaṃsalohitā sūlasadisā honti, eke purato pabbhārā honti, pavedhamānā gacchanti. Parivaṭumoti samantato vaṭṭalo.
119. (Ở) “những nơi có hình dạng như chân dê.” (Người) “có thân hình thẳng như một vị Phạm thiên.” “Chúng sanh còn lại”: chúng sanh không có đặc điểm này. Bằng điều này, (kinh) cho thấy rằng ngoại trừ một vị Đại Sĩ và một vị Chuyển Luân Vương, các chúng sanh khác đều có dáng đi khòm. Thật vậy, chúng sanh phần lớn đều cong ở ba nơi: vai, eo, và đầu gối. Khi họ cong ở eo, họ cong về phía sau; khi họ cong ở hai nơi còn lại, họ cong về phía trước. Còn những người có thân hình dài thì bị vẹo sang một bên; một số người đi lại như thể đang ngẩng mặt lên để đếm các vì sao; một số người ít thịt và máu, gầy như một cây cọc; một số người gù về phía trước; họ đi trong khi đang run rẩy. (Từ) “Parivaṭumo”: người tròn trịa xung quanh.

Aṭṭhisirācammasarīroti aṭṭhisirācammamattasarīro. Kappasīsoti dvidhābhūtasīso. Kekaroti tiriyaṃ passanto. ‘‘Udakatārakā nāma udakapubbuḷa’’nti gaṇṭhipadesu vuttaṃ. Akkhitārakāti akkhibhaṇḍakā. Nippakhumakkhīti akkhidalalomehi virahitaakkhiko. Pakhuma-saddo hi loke akkhidalalomesu niruḷho. Paṭaṅgamaṇḍūko nāma mahāmukhamaṇḍūko. Eḷamukhoti niccapaggharaṇakalālamukho. Sabbañcetanti ‘‘kacchugatto vā’’tiādiṃ sandhāya vadati. Vātaṇḍikoti aṇḍakesu vuddhirogena samannāgato. Vikaṭoti tiriyaṃ gamanapādehi samannāgato, yassa ca caṅkamato jāṇukā bahi gacchanti. Paṇhoti pacchato parivattapādehi samannāgato, yassa caṅkamato jāṇukā anto pavisanti.
(Người) “có thân thể chỉ có xương, gân, và da.” (Người) “có đầu bị chẻ”: người có đầu bị chẻ làm đôi. (Người) “mắt lác”: người nhìn xéo. “Udakatārakā (sao trong nước) là bong bóng nước,” trong các quyển sách ghi chú đã được nói như vậy. “Akkhitārakā”: các con ngươi của mắt. (Người) “có mắt không có lông mi”: người có mắt không có lông mi và lông mày. Thật vậy, từ pakhuma- trong thế gian đã trở nên thông dụng trong ý nghĩa là lông mi và lông mày. “Paṭaṅgamaṇḍūko” là một con ếch có miệng lớn. (Người) “có miệng chảy nước dãi”: người có miệng luôn luôn chảy nước dãi. “Và tất cả những điều này”: là nói nhắm đến (các câu) bắt đầu bằng “hoặc người có thân bị ghẻ lở.” (Người) “bị bệnh sa ruột”: người có bệnh phát triển ở tinh hoàn. (Người) “dị dạng”: người có các bàn chân đi ngang, và khi đi, đầu gối của người đó hướng ra ngoài. (Người) “chân vòng kiềng”: người có các bàn chân quay về phía sau, và khi đi, đầu gối của người đó hướng vào trong.

Kudaṇḍapādatāya kāraṇaṃ vibhāveti ‘‘majjhe saṅkuṭitapādattā’’ti. Agge saṅkuṭitapādattāti kuṇḍapādatāya kāraṇanidassanaṃ. Kuṇḍapādasseva gamanasabhāvaṃ vibhāveti ‘‘piṭṭhipādaggena caṅkamanto’’ti. Mammananti khalitavacanaṃ. Yo ekameva akkharaṃ catupañcakkhattuṃ vadati, tassetaṃ adhivacanaṃ.
(Kinh) làm sáng tỏ nguyên nhân của việc có bàn chân cong: “do có các bàn chân bị co rút ở giữa.” “Do có các bàn chân bị co rút ở phía trước”: là sự chỉ ra nguyên nhân của việc có bàn chân khoèo. (Kinh) làm sáng tỏ bản chất của việc đi lại của người có bàn chân khoèo: “trong khi đang đi bằng phần trước của mu bàn chân.” (Từ) “Mammanaṃ” (nói lắp): lời nói ngọng nghịu. Đây là tên gọi của người nói một âm tiết đến bốn, năm lần.

Hatthacchinnādivatthukathāvaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Người Bị Cắt Tay v.v. đã kết thúc.

Alajjīnissayavatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Nương Nhờ Người Vô Tàm

120. Nissayapaṭisaṃyuttavatthūsu bhikkhūhi samāno sīlādiguṇabhāgo assāti bhikkhusabhāgo, tassa bhāvo bhikkhusabhāgatā. Dve tīṇi divasāni vasitvā gantukāmena anissitenavasitabbanti ettha ‘‘yāva bhikkhusabhāgataṃ jānāmī’’ti ābhogaṃ vināpi anissitena vasituṃ vaṭṭatīti adhippāyo. Bhikkhusabhāgataṃ pana jānanto ‘‘sve gamissāmi, kiṃ me nissayenā’’ti aruṇaṃ uṭṭhapetuṃ na labhati. ‘‘Purāruṇā uṭṭhahitvāva gamissāmī’’ti ābhogena sayantassa sace aruṇo uggacchati, vaṭṭati. ‘‘Sattāhaṃ vasissāmī’’ti ālayaṃ karontena pana nissayo gahetabboti ‘‘sattāhamattaṃ vasissāmi, kiṃ bhikkhusabhāgatājānanenā’’ti jānane dhuraṃ nikkhipitvā vasituṃ na labhati, bhikkhusabhāgataṃ upaparikkhitvā nissayo gahetabboti attho.
120. Trong các câu chuyện liên quan đến sự nương nhờ, trạng thái có chung các đức hạnh như giới v.v. với các vị Tỳ-khưu là bhikkhusabhāgo; trạng thái của nó là bhikkhusabhāgatā (trạng thái đồng đẳng Tỳ-khưu). “Người có ý định đi sau khi đã ở hai, ba ngày, cần phải ở mà không cần nương nhờ”: ở đây, ý là được phép ở mà không cần nương nhờ, ngay cả khi không có ý nghĩ rằng: “ta sẽ ở cho đến khi biết được trạng thái đồng đẳng Tỳ-khưu.” Nhưng người đã biết được trạng thái đồng đẳng Tỳ-khưu thì không được phép cho rạng đông mọc lên với ý nghĩ rằng: “ngày mai ta sẽ đi, cần gì phải nương nhờ.” Đối với người ngủ với ý nghĩ rằng: “ta sẽ đứng dậy và đi trước khi rạng đông,” nếu rạng đông mọc lên, thì được phép. “Nhưng người có lòng luyến ái rằng: ‘ta sẽ ở bảy ngày,’ thì phải nhận sự nương nhờ”: không được phép ở lại mà từ bỏ trách nhiệm tìm hiểu rằng: “ta sẽ chỉ ở lại khoảng bảy ngày, cần gì phải biết trạng thái đồng đẳng Tỳ-khưu,” ý nghĩa là cần phải xem xét kỹ lưỡng trạng thái đồng đẳng Tỳ-khưu rồi mới nhận sự nương nhờ.

Gamikādinissayavatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Sự Nương Nhờ Của Người Đi Đường v.v…

121.Antarāmagge vissamanto vā…pe… anāpattīti asati nissayadāyake anāpatti. Tassa nissāyāti pāḷianurūpato vuttaṃ, taṃ nissāyāti attho. Sace pana āsāḷhīmāse…pe… tattha gantabbanti ettha sace so vassūpanāyikāya āsannāya gantukāmo suṇāti ‘‘asuko mahāthero āgamissatī’’ti, tañce āgameti, vaṭṭati. Āgamentasseva ce vassūpanāyikadivaso hoti, hotu, gantabbaṃ tattha, yattha nissayadāyakaṃ labhati. Keci pana ‘‘sace so gacchanto jīvitantarāyaṃ brahmacariyantarāyaṃ vā passati, tattheva vasitabba’’nti vadanti.
121. “Khi đang nghỉ ngơi giữa đường… này… không phạm tội”: khi không có người cho nương nhờ, thì không phạm tội. “Nương nhờ vào vị ấy”: được nói theo bản Pāḷi, có nghĩa là nương nhờ vào vị đó. “Nhưng nếu trong tháng āsāḷhī… này… cần phải đến đó”: ở đây, nếu người đó, khi sắp đến kỳ an cư mùa mưa, có ý định đi và nghe rằng: “một vị đại trưởng lão nào đó sẽ đến,” nếu vị ấy chờ đợi, thì được phép. Và nếu ngày an cư mùa mưa đến trong khi đang chờ đợi, cũng không sao; cần phải đến nơi mà có thể nhận được người cho nương nhờ. Nhưng một số vị nói rằng: “nếu người đó, trong khi đang đi, thấy có sự nguy hiểm đến tính mạng hoặc đến phạm hạnh, thì cần phải ở lại chính nơi đó.”

Gottena anussāvanānujānanakathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Việc Cho Phép Xướng Tên Bằng Họ

122. ‘‘Itthannāmo itthannāmassa āyasmato’’ti nāmakittanassa anussāvanāya āgatattā ‘‘nāhaṃ ussahāmi therassa nāmaṃ gahetu’’nti vuttaṃ, ‘‘āyasmato pippalissa upasampadāpekkho’’ti evaṃ nāmaṃ gahetuṃ na ussahāmīti attho. ‘‘Gottenapi anussāvetu’’nti vacanato yena vohārena voharati, tena vaṭṭatīti siddhaṃ. ‘‘Konāmo te upajjhāyo’’ti puṭṭhenapi gottameva nāmaṃ katvā vattabbanti siddhaṃ hoti, tasmā catubbidhesu nāmesu yena kenaci nāmena anussāvanā kātabbāti vadanti. Ekassa bahūni nāmāni honti, tattha ekaṃ nāmaṃ ñattiyā, ekaṃ anussāvanāya kātuṃ na vaṭṭati, atthato byañjanato ca abhinnāhi anussāvanāhi bhavitabbanti. Kiñcāpi ‘‘itthannāmo itthannāmassa āyasmato’’ti pāḷiyaṃ ‘‘āyasmato’’ti padaṃ pacchā vuttaṃ, kammavācāpāḷiyaṃ pana ‘‘ayaṃ buddharakkhito āyasmato dhammarakkhitassā’’ti paṭhamaṃ likhitanti taṃ uppaṭipāṭiyā vuttanti na paccetabbaṃ. Pāḷiyañhi ‘‘itthannāmo itthannāmassa āyasmato’’ti atthamattaṃ dassitaṃ, tasmā pāḷiyaṃ avuttopi ‘‘ayaṃ buddharakkhito āyasmato dhammarakkhitassā’’ti kammavācāpāḷiyaṃ payogo dassito. ‘‘Na me diṭṭho ito pubbe iccāyasmā sāriputto’’ti ca ‘‘āyasmā sāriputto atthakusalo’’ti ca paṭhamaṃ ‘‘āyasmā’’ti payogassa dassanatoti vadanti. Katthaci ‘‘āyasmato buddharakkhitattherassā’’ti vatvā katthaci kevalaṃ ‘‘buddharakkhitassā’’ti sāveti, sāvanaṃ hāpetīti na vuccati nāmassa ahāpitattāti eke. Sace katthaci ‘‘āyasmato buddharakkhitassā’’ti vatvā katthaci ‘‘buddharaakhatassāyasmato’’ti sāveti, pāṭhānurūpattā khettameva otiṇṇantipi eke. Byañjanabhedappasaṅgato anussāvanānaṃ taṃ na vaṭṭatīti vadanti. Sace pana sabbaṭṭhānepi eteneva pakārena vadati, vaṭṭati.
122. Do đã có sự xướng tên rằng: “vị có tên này của tôn giả có tên này,” nên đã được nói: “con không dám gọi tên của vị trưởng lão,” có nghĩa là: con không dám gọi tên theo cách: “người xin thọ cụ túc giới của tôn giả Pippali.” Theo câu: “cũng được xướng tên bằng họ,” đã được xác định rằng được phép dùng bất cứ cách xưng hô nào mà người ta thường dùng. Khi được hỏi: “thầy tế độ của ông tên gì?” cũng đã được xác định rằng được phép lấy chính họ làm tên để nói. Do đó, người ta nói rằng cần phải thực hiện sự xướng tên bằng bất cứ tên nào trong bốn loại tên. Một người có thể có nhiều tên, ở đó, không được phép dùng một tên trong lời bạch, một tên trong lời yết-ma; các lời yết-ma phải không khác nhau cả về ý nghĩa và văn cú. Mặc dù trong bản Pāḷi, từ “āyasmato” (của tôn giả) đã được nói ở phía sau câu “itthannāmo itthannāmassa āyasmato,” nhưng trong bản Pāḷi của lời tác pháp, đã được viết trước là “ayaṃ buddharakkhito āyasmato dhammarakkhitassā,” không nên cho rằng điều đó đã được nói theo thứ tự ngược lại. Thật vậy, trong bản Pāḷi “itthannāmo itthannāmassa āyasmato,” chỉ có ý nghĩa được trình bày. Do đó, dù không được nói trong bản Pāḷi, cách dùng trong bản Pāḷi của lời tác pháp “ayaṃ buddharakkhito āyasmato dhammarakkhitassā” đã được trình bày. Người ta nói rằng do đã thấy được cách dùng “āyasmā” ở trước trong câu “chưa từng thấy trước đây, đó là tôn giả Sāriputta” và “tôn giả Sāriputta là người thông thạo về ý nghĩa.” Một số người cho rằng: nếu ở một nơi nào đó nói: “của tôn giả Buddharakkhitatthera,” và ở một nơi nào đó chỉ xướng tên là “của Buddharakkhita,” thì không được gọi là đã bỏ sót việc xướng tên, do tên đã không bị bỏ sót. Một số người khác lại cho rằng: nếu ở một nơi nào đó nói: “của tôn giả Buddharakkhita,” và ở một nơi nào đó xướng tên là “của Buddharakkhita, vị tôn giả,” thì cũng đã đi vào đúng phạm vi, do phù hợp với bài đọc. Người ta nói rằng điều đó không được phép do có thể có sự khác biệt về văn cú của các lời yết-ma. Nhưng nếu ở tất cả các nơi đều nói theo cùng một cách này, thì được phép.

Dveupasampadāpekkhādivatthukathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Hai Người Xin Thọ Cụ Túc Giới v.v…

123.Ekānussāvaneti ettha ekato anussāvanaṃ etesanti ekānussāvanāti asamānādhikaraṇavisayo bāhiratthasamāsoti daṭṭhabbaṃ. Tenevāha ‘‘dve ekatoanussāvane’’ti. Tattha ekatoti ekakkhaṇeti attho, vibhattialopena cāyaṃ niddeso. Purimanayeneva ekatoanussāvane kātunti ‘‘ekena ekassa, aññena itarassā’’tiādinā pubbe vuttanayena dvīhi vā tīhi vā ācariyehi ekena vā ekatoanussāvane kātuṃ.
123. (Trong) “một lần yết-ma”: ở đây, cần được hiểu rằng: sự yết-ma chung cho họ là ekānussāvanā; đây là một từ ghép có ý nghĩa bên ngoài, không có sự đồng nhất về đối tượng. Chính vì thế, ngài đã nói: “hai lần yết-ma chung.” Ở đây, (từ) “chung” có nghĩa là trong cùng một khoảnh khắc; và cách chỉ định này có sự không lược bỏ biến cách. “Thực hiện các lần yết-ma chung theo chính phương pháp trước”: thực hiện các lần yết-ma chung bởi hai hoặc ba vị thầy dạy bảo, hoặc bởi một người, theo phương pháp đã được nói trước đây bắt đầu bằng: “bởi một người cho một người, bởi một người khác cho người còn lại.”

Upasampadāvidhikathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Phương Pháp Thọ Cụ Túc Giới

126.Vajjāvajjaṃ upanijjhāyatīti upajjhāti iminā upajjhāyasaddasamānattho upajjhāsaddopīti dasseti.
126. “Người xem xét kỹ lưỡng tội và không phải tội là upajjhā”: bằng điều này, (kinh) cho thấy rằng từ upajjhā cũng có cùng ý nghĩa với từ upajjhāyo (thầy tế độ).

Cattāronissayādikathāvaṇṇanā
Diễn Giải Về Câu Chuyện Về Bốn Vật Nương Tựa v.v…

130.Sambhogeti dhammasambhoge āmisasambhoge ca. Anāpatti sambhoge saṃvāseti ettha ca ayamadhippāyo – yasmā ayaṃ osāraṇakammassa katattā pakatattaṭṭhāne ṭhito, tasmā na ukkhittakena saddhiṃ sambhogādipaccayā pācittiyaṃ, nāpi alajjinā saddhiṃ paribhogapaccayā dukkaṭaṃ alajjīlakkhaṇānupapattito. Yo hi ucchurasakasaṭānaṃ sattāhakālikayāvajīvikattā vaṭṭati vikāle ucchu khāditunti saññaṃ uppādetvā taṃ khāditvā tappaccayā pācittiyaṃ na passati ‘‘vaṭṭatī’’ti tathāsaññitāya, yo vā pana āpattimāpannabhāvaṃ paṭijānitvā ‘‘na paṭikaromī’’ti abhinivisati, ayaṃ –
130. (Trong) “sự chung đụng”: trong sự chung đụng về pháp và trong sự chung đụng về vật thực. “Không phạm tội trong sự chung đụng, trong sự sống chung”: và ở đây, chủ ý là như vầy – bởi vì người này, do đã được thực hiện tăng sự phục hồi, đã đứng ở vị trí của một người bình thường, do đó không phạm tội ba-dật-đề do các yếu tố như sự chung đụng v.v. với một người đã bị treo y, và cũng không phạm tội tác ác do các yếu tố như sự sử dụng (chung) với một người vô tàm, do không có đặc điểm của một người vô tàm. Thật vậy, người nào, sau khi đã sanh khởi nhận thức rằng: “nước mía và các loại đường có thể dùng trong bảy ngày và suốt đời, nên được phép ăn mía trong lúc phi thời,” và đã ăn nó, rồi không thấy tội ba-dật-đề do yếu tố đó, do có nhận thức như vậy là “được phép;” hoặc người nào, sau khi đã thừa nhận trạng thái đã phạm tội, lại cố chấp rằng: “tôi sẽ không sửa chữa,” người này –

‘‘Sañcicca āpattiṃ āpajjati, āpattiṃ parigūhati;
Agatigamanañca gacchati, ediso vuccati alajjīpuggalo’’ti. (pari. 359) –
“Cố ý phạm tội, che giấu tội;
Và đi đến nơi không nên đến, người như vậy được gọi là người vô tàm.” (pari. 359) –

Vuttalakkhaṇe apatanato alajjī nāma na hoti. Tasmā yathā pubbe yāva ukkhepanīyakammaṃ kataṃ, tāva tena saddhiṃ sambhoge saṃvāse ca anāpatti, evamidhāpīti sabbathā anāpattiṭṭhāneyeva anāpatti vuttāti veditabbaṃ . Na hi bhagavā alajjinā saddhiṃ sambhogapaccayā āpattisambhave sati ‘‘anāpatti sambhoge saṃvāse’’ti vadati. Tato yamettha kenaci ‘‘anāpatti sambhoge saṃvāse’’ti iminā pācittiyena anāpatti vuttā, ‘‘alajjīparibhogapaccayā dukkaṭaṃ pana āpajjatiyevā’’ti vatvā bahudhā papañcitaṃ, na taṃ sārato paccetabbaṃ. Sesamettha uttānameva.
Không được gọi là người vô tàm do không rơi vào các đặc điểm đã được nói. Do đó, giống như trước đây, cho đến khi tăng sự treo y chưa được thực hiện, trong sự chung đụng và sự sống chung với người đó không phạm tội; cũng vậy ở đây, cần được hiểu rằng sự không phạm tội đã được nói đến trong chính trường hợp hoàn toàn không phạm tội. Vì đức Thế Tôn sẽ không nói: “không phạm tội trong sự chung đụng, trong sự sống chung,” nếu có thể có tội do các yếu tố như sự chung đụng với một người vô tàm. Do đó, những gì đã được một số người nói rằng: “bằng câu ‘không phạm tội trong sự chung đụng, trong sự sống chung,’ sự không phạm tội ba-dật-đề đã được nói đến; nhưng chắc chắn vẫn phạm tội tác ác do các yếu tố như sự sử dụng chung với người vô tàm,” và đã giải thích dài dòng theo nhiều cách, điều đó không nên được xem là cốt lõi. Phần còn lại ở đây có ý nghĩa rõ ràng.

Iti samantapāsādikāya vinayaṭṭhakathāya sāratthadīpaniyaṃ
Như vậy, trong sách Sāratthadīpanī, tức Chú Giải Luật Tạng Samantapāsādikā,

Mahākhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Diễn Giải Về Đại Thiên đã kết thúc.

Soṇa Thiện Kim

Panha.vn là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Truyền). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.vn mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.
0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Nút quay lại đầu trang